CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY B
MỤC LỤC
BÀI ĐỌC I: Xh 20, 1-17
Ngày ấy, trên núi Xi-nai 1 Thiên Chúa phán
tất cả những lời sau đây: 2"Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ.
3 Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch
với Ta. 4 Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật
gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất,
để mà thờ.
5 Ngươi không được phủ phục trước những thứ
đó mà phụng thờ: vì Ta, Đức Chúa , Thiên Chúa của ngươi, là một vị thần ghen
tương. Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của
cha ông. 6 Còn với những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh
của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời. 7 Ngươi
không được dùng danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất xứng, vì Đức
Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng.
8 Ngươi hãy nhớ ngày sa-bát, mà coi đó là
ngày thánh. 9 Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi
công việc của ngươi. 10 Còn ngày thứ bảy là ngày sa-bát kính
Đức Chúa , Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công việc nào, cả
ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong
thành của ngươi. 11 Vì trong sáu ngày, Đức Chúa đã dựng
nên trời đất, biển khơi, và muôn loài trong đó, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy.
Bởi vậy, Đức Chúa đã chúc phúc cho ngày sa-bát và coi đó là ngày thánh.
12 Ngươi hãy thờ cha
kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho
ngươi. 13 Ngươi không được giết người.
14 Ngươi không được
ngoại tình.
15 Ngươi không được trộm
cắp.
16 Ngươi không được
làm chứng gian hại người.
17 Ngươi không được
ham muốn nhà người ta, ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ,
con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta.”
ĐÁP CA: Tv 18B
Đ. Lạy
Chúa, Chúa mới có những Lời đem lại sự sống đời đời. (Ga 6, 68c)
8 Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức
cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn.
9 Huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng, làm
hoan hỷ cõi lòng. Mệnh lệnh Chúa xiết bao minh bạch, cho đôi mắt rạng ngời.
10 Lòng kính sợ Chúa
luôn trong trắng, tồn tại đến muôn đời. Quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy
đều công minh.
11 Thật quý báu hơn
vàng, hơn vàng y muôn lượng, ngọt ngào hơn mật ong, hơn mật ong nguyên chất.
BÀI ĐỌC II: 1Cr 1, 22-25
Thưa anh em 22 trong khi người Do-thái đòi
hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, 23 thì
chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi
là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. 24 Nhưng
đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do-thái hay Hy-lạp, Đấng ấy
chính là Đức Ki-tô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. 25 Vì
cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối
của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Ga 3, 16
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào
Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.
TIN MỪNG: Ga 2, 13-25
13 Gần đến lễ Vượt Qua
của người Do-thái, Đức Giê-su lên thành Giê-ru-sa-lem. 14 Người
thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi
đổi tiền. 15 Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả
bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người
đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. 16 Người nói với
những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà
Cha tôi thành nơi buôn bán.”17 Các môn đệ của Người nhớ lại lời
đã chép trong Kinh Thánh: Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt
thân.
18 Người Do-thái hỏi Đức
Giê-su: "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền
làm như thế? "19 Đức Giê-su đáp: "Các ông cứ phá huỷ
Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại.”20 Người
Do-thái nói: "Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội
trong ba ngày ông xây lại được sao? "21 Nhưng Đền Thờ Đức
Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người. 22 Vậy, khi
Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, Họ tin vào
Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói.
23 Trong lúc Đức
Giê-su ở Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều kẻ tin vào danh Người bởi
đã chứng kiến các dấu lạ Người làm. 24 Nhưng chính Đức
Giê-su không tin họ, vì Người biết họ hết thảy, 25 và
không cần ai làm chứng về con người. Quả thật, chính Người biết có gì trong
lòng con người.
PHẢI CHẤP NHẬN ĐỔ MÁU MỚI CANH TÂN ĐỜI SỐNG ĐẠO
Giáo huấn Chúa nhật II Mùa Chay năm B, Chúa Cha đòi buộc loài
người phải “nghe
Lời Con Yêu Dấu của Ta” (Mc 9, 7). Nhưng sau đó Đức Giêsu cấm các môn đệ
nói lời ấy với bất cứ ai cho đến khi Ngài từ cõi chết sống lại, và ta đã hiểu rằng: Nghe
Lời Con Chí Ái của Chúa Cha chính là
nghe lời Hội Thánh Công Giáo công bố Lời Chúa trong Phụng Vụ (x Dt 1,
1-2). Mà Đức Giêsu đã khẳng định: “Anh
em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không
phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5, 17). Như thế, Con Chí Ái của
Chúa Cha và Hội Thánh giảng dạy đều nhắm làm hoàn hảo Giao Ước Chúa đã lập với
dân Israel. Muốn làm cho giá trị giao ước cũ được hoàn hảo sinh ơn cứu độ, Đức
Giêsu phải trả giá đắt là đành mất mạng sống mới canh tân đổi mới được cả một
truyền thống cơ cấu quyền bính đã từng dạy và thực hành Luật bất toàn thời Cựu
Ước.
Thực vậy, đời sống của các tư tế thuộc tộc Lêvi đã được Luật
Môsê quy định: “Các
tư tế Lê-vi, toàn thể chi tộc Lê-vi, sẽ không được chung phần và hưởng gia nghiệp
với Ít-ra-en: họ sẽ sống nhờ các lễ hoả tế dâng ĐỨC CHÚA và nhờ gia nghiệp của
Người. Họ không có gia nghiệp giữa các chi tộc anh em: chính ĐỨC CHÚA là gia
nghiệp của họ, như Người đã phán với họ. Đây là quyền lợi các tư tế được hưởng
trên dân, trên những người dâng bò hay chiên dê làm lễ hy sinh: người ta sẽ biếu
tư tế một cái vai, hai cái hàm và cái dạ dày. Anh (em) phải biếu tư tế sản phẩm
đầu mùa lấy từ lúa mì, rượu mới, dầu tươi của anh (em), và từ lông chiên dê mới
xén” (Dnl 18, 1-4). Thế mà Đức Giêsu lại vô cùng phẫn nỗ chưa từng thấy
trong đời của Ngài, vì truyền thống sinh hoạt của hàng tư tế vào “dịp
lễ Vượt Qua là
một Đại Lễ quan trọng nhất của Phụng Vụ Do Thái giáo, Ngài vào thánh điện
Giêrusalem lấy dây làm roi đánh đuổi tất cả những bọn buôn bán chiên bò, bồ câu
ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Ngài đổ tung ra và lật nhào
bàn ghế của họ, Ngài nói: “Hãy
đem tất cả những thứ này ra khỏi đây đừng biến Nhà Ta thành nơi buôn bán”
(Ga 2, 13-16: Tin Mừng).
Sở dĩ Đức Giêsu bạo hành như thế vì ba lý do:
- Sứ mệnh của Ngài là làm hoàn hảo Luật.
- Đền Thờ là nơi cầu nguyện không ai được biến thành cái chợ.
- Nơi Đền Thờ vật chất, hàng tư tế phải làm cho các tín hữu trở
nên Đền Thờ đích thực để Chúa ngự.
I. ĐỨC GIÊSU ĐẾN ĐỂ LÀM HOÀN HẢO LUẬT.
Luật Phụng Vụ Do Thái giáo là trung tâm đời sống Đức Tin của dân
Chúa đã tuyển chọn. Sách Luật dạy vào dịp lễ Vượt Qua phải sát tế chiên cừu bò lừa
để dâng lên Chúa (x Dnl 16, 2). Nhưng đó chỉ là hình bóng báo trước Phụng Vụ Đức
Giêsu thiết lập. Tác giả thư Do Thái viết: “Máu
các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian, Đức
Ki-tô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể.
Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy
Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về
con. Trước hết, Đức Ki-tô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội,
Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến
theo Lề Luật truyền. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế
là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được
thánh hoá nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là
đủ” (Dt 10, 4-10). Đó là lý do Đức Giêsu đã nói với người phụ nữ Samari: “Này
chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên
núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. Các người thờ Đấng các người không biết; còn
chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do Thái. Nhưng
giờ đã đến -và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ
phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Sự Thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ
phượng Người như thế. Thiên Chúa là Thần Khí, và những kẻ thờ phượng Người phải
thờ phượng trong Thần Khí và Sự Thật” (Ga 4, 21-24).
Ai thờ phượng Thiên Chúa theo thể thức Đức Giêsu dạy như thế mới
chu toàn phần thứ I của Thập Giới về Luật Mến Chúa. Chúa phán: “Ngươi
không được có thần nào khác đối nghịch với Ta. Kẻ nào ghét Ta, Ta phạt con cháu
đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông. Còn những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh
lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời. Ngươi không được dùng
danh Chúa một cách bất xứng. Hãy nhớ ngày Sabbat mà coi đó là ngày thánh. Trong
sáu ngày ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy
ngươi không được làm công việc nào” (x Xh 20, 3-10: Bài đọc I).
Và quyền làm cho Luật trở nên hoàn hảo, Chúa Giêsu cũng trao cho
Hội Thánh, như Ngài đã nói với các môn đệ: “ Thầy
còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi.
Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ
không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại,
và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến” (Ga 16, 12-13). Vì vậy Hội
Thánh được Chúa Thánh Thần hướng dẫn đã thay đổi và canh tân Luật Phụng Vụ:
- Điều răn I: “Ngươi
không được tạc tượng thần” (Xh 20, 4: Bài đọc I). Thì trong Hiến Chế Phụng
Vụ số 125, Hội Thánh lại dạy: “Phải
cương quyết duy trì thói quen đặt ảnh tượng Thánh trong Nhà Thờ cho các tín hữu
tôn kính.” Và Quy Chế sách Lễ Roma số 278 viết: “Theo
truyền thống rất cổ kính trong Hội Thánh, được phép đặt các ảnh tượng Chúa, Đức
Trinh Nữ Maria và các Thánh trong các Thánh Đường để giáo dân tôn kính. Mỗi vị
Thánh chỉ nên có một ảnh tượng”. Bởi đó chắc chắn Hội Thánh không muốn
trong một Nhà Thờ có nhiều tượng ảnh Đức Mẹ. Rất tiếc Luật này nhiều nơi không
tôn trọng: cùng trong một Nhà Thờ nào là Mẹ Fatima, nào là Mẹ Lộ Đức, như thế
cũng chưa đủ nên phải đặt thêm tượng Mẹ LaVang, ảnh Mẹ Hằng Cứu Giúp v. v…
Sở dĩ ông Môsê cấm dân đúc ảnh tượng là vì dân Do Thái chỉ thờ một
Thiên Chúa vô hình, nên trong đền thờ Giêrusalem chỉ đặt hai bia đá ghi Lời
Chúa mà ông Môsê đã nhận nơi Chúa từ núi Sinai, khác với dân ngoại, thờ đủ mọi
hình tượng theo ý người ta họa dựa vào hình ảnh vạn vật trong vũ trụ (x Kn 13).
Tuy nhiên, có lúc ông Môsê bảo dân: “Đúc
con rắng đồng treo lên, ai bị rắn cắn cứ nhìn lên nó, thì được thoát chết!”
(x Ds 21, 4-9). Điều ấy không phải tự con rắn có phép mầu cứu người khỏi chết,
mà đó chỉ là dấu tiên báo vào thời Tân Ước, ai nhìn lên Đức Giêsu bị đóng đinh,
với lòng tin, lòng cậy, chắc chắn được ơn hơn những người nhìn lên con rắn đồng.
Thực vậy, đã có rất nhiều người tin Đức Giêsu là Thiên Chúa Cứu Độ, nên chỉ cần
đụng đến tua áo choàng của Đức Giêsu là được ơn (x Mc 6, 56).
- Điều răn III: “Ngày
thứ bảy, ngươi và mọi súc vật phải nghỉ việc” (x Xh 20, 8-11: Bài đọc
I).
Hội Thánh đã đổi Luật ngày thứ bảy sang ngày Chúa nhật và không
khắt khe buộc giữ như Luật Sabat người Do Thái phải tuân thủ. Sở dĩ Hội Thánh
thay đổi vì ba lý do:
* Xh 20, 8-11: Isarael phải nghỉ ngày
thứ bảy, để mừng công trình Chúa tạo dựng muôn loài trong vũ trụ vô cùng tốt đẹp,
và Ngài đã dùng làm quà tặng ban cho loài người. Đó
chỉ là dấu tiên báo vào ngày Chúa nhật, ngày thứ tám trong tuần, Chúa Giêsu từ
cõi chết sống lại, ai tin vào Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất (x Cv 4, 12), thì được
tái sinh làm con Thiên Chúa, là một tuyệt tác nhất trong muôn loài Chúa tạo dựng,
nên Luật Hội Thánh buộc mọi người phải dự Lễ ngày Chúa nhật trong niềm vui mừng
và biết ơn (x HCPV số 106).
* Dnl 5, 12-15: Israel phải nghỉ ngày
thứ bảy để tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài cứu dân Do Thái thoát ách nô lệ Ai Cập. Đó
cũng chỉ là biến cố tiên báo vào ngày Chúa nhật Chúa Giêsu sống lại, Ngài cứu
những kẻ tin vào Ngài thoát nô lệ Satan khởi đi từ lúc họ lãnh nhận Bí tích
Thánh Tẩy.
* Xh 24, 16-18 . 34, 28: Israel phải nghỉ
ngày thứ bảy để tạ ơn Chúa vì Ngài đã ban Luật cho dân Do Thái ở núi Sinai. Nhưng
đó là biến cố tiên báo vào ngày Chúa nhật, Đức Giêsu sai Thánh Thần đến với các
môn đệ vào ngày lễ Ngũ Tuần, để các ông loan báo Lời Chúa cho toàn thể các dân
tộc tuốn đến nghe Lời Chúa do các ngài công bố (x Cv 2).
Ta biết phạm trù về Thiên Chúa thì phong phú bất tận. Vì ý nghĩa
về một đối tượng rất đa dạng. Ví dụ: Nếu một người từ cung trăng xuống trái đất,
người ấy lượm cục đất sét:
- Hỏi nhà điêu khắc thì được biết nó dùng để nắn tượng.
- Hỏi người nhà nông thì biết thêm đất này trồng tỉa không tốt.
- Hỏi một nhà khoa học, thì được biết thêm đây là một kết cấu
các dương điện tử, âm điện tử quanh một trung hòa tử…
Tìm hiểu cục đất sét còn đem lại cho chúng ta nhiều kiến thức về
nó, huống hồ tìm hiểu về Thiên Chúa, thì còn phong phú biết mấy! Thánh Tông Đồ
nói: “Ôi
sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định
của Người ai dò cho thấu! Đường lối của Người, ai theo dõi được” (Rm 11,
33). Bởi đó Hội Thánh có sứ mệnh mỗi ngày làm cho con cái mình được thêm phong
phú về Đức Tin, hiểu biết thêm về Thiên Chúa.
II. ĐỀN THỜ LÀ NƠI CẦU NGUYỆN KHÔNG AI ĐƯỢC BIẾN THÀNH CÁI CHỢ.
Đỉnh cao và trọng tâm việc cầu nguyện nơi Đền Thờ mà Đức Giêsu
muốn phải là Thánh Lễ. Ngài đã mất mạng sống để thiết lập Hy Tế này và truyền
cho Hội Thánh cử hành theo thể thức Ngài dạy. Thánh Tông Đồ nói: “Điều
tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em: trong đêm bị nộp,
Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: “Đây là Mình Thầy,
hiến dâng vì anh em; anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy.” Cũng thế,
sau bữa ăn, Người cầm lấy chén rượu và nói: “Chén này là Giao Ước Mới, lập bằng
Máu Thầy; mỗi khi uống, anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy”. Thật
vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan
truyền Chúa đã chịu chết” (1Cr 11, 23-26).
Thể thức thi hành Hy Tế của Đức Giêsu không phải chỉ là làm đúng
nghi thức, mà tất cả những người hiệp dâng Thánh Lễ với Ngài phải sống như
thánh Phaolô nói: “Giờ
đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức
Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân
thể Người là Hội Thánh” (Cl 1, 24). Thế nên những kẻ đến Đền Thờ dâng tiền
của với mục đích xin ơn, ai được như ý mới tôn vinh Thiên Chúa là Đấng giàu
lòng thương xót, thì quả là người ấy đã biến Đền Thờ thành cái chợ, họ đổi của
hèn lấy của trọng. Đối với những kẻ đến Nhà Thờ để được thấy phép lạ Chúa làm mới
tin vào Ngài, thì Đức Giêsu không tín nhiệm những người như thế (Ga 2, 23-24:
Tin Mừng).
III. NƠI ĐỀN THỜ VẬT CHẤT, HÀNG TƯ TẾ PHẢI LÀM CHO CÁC TÍN HỮU
TRỞ NÊN ĐỀN THỜ ĐÍCH THỰC ĐỂ CHÚA NGỰ (x 1Cr 3, 16-17).
Thực vậy, nơi Đền Thờ, các tư tế phải làm cho các tín hữu trở
nên Đền Thờ của Thiên Chúa, bằng cách làm cho tín hữu thấm nhuần Lời Chúa.
Thánh Tông Đồ nói: “Anh
em là bức thư của Đức Kitô được giao cho chúng tôi viết, không phải viết bằng mực
đen, nhưng bằng Thần Khí của Thiên Chúa hằng sống, không phải ghi trên những tấm
bia bằng đá, nhưng trên những tấm bia bằng thịt, tức là lòng người” (2Cr 3,
3). Như thế, xưa kia Lời Chúa được ghi trên hai tấm bia đá trao cho ông Môsê,
hai bia đá đó đã được đặt trong nơi Cực Thánh của đền thờ Giêrusalem, thì vào
thời Tân Ước, ai được Lời Chúa khắc ghi trên tấm linh hồn và xương thịt, người ấy
mới đích thực là Đền Thờ của Thiên Chúa ngự (x 1Cr 3, 16-17). Chính vì vậy mà
ngôn sứ Giêrêmia nói: “Vừa
gặp Lời Chúa tôi nuốt chửng, Lời Chúa làm hoan lạc đời tôi, vì trên tôi danh
Chúa được kêu khấn” (Gr 15, 16 – Bản dịch NTT). Thế nên khi cử hành Phụng Vụ,
chủ tế phải làm cho các tín hữu trở thành Đền Thờ đích thực của Thiên Chúa, mới
chu toàn phần thứ hai của Thập Giới về Luật Yêu Người. Chúa phán: “Ngươi
hãy thờ cha kính mẹ, không được giết người. Không được ngoại tình. Không được
trộm cắp. Không được làm chứng gian hại người. Không được ham muốn nhà người
khác, cũng như không được ham muốn vợ người, tôi tớ nam nữ, con bò, con lừa,
hay bất cứ vật gì của người ta” (x Xh 20, 12-17: Bài đọc I).
Thế mà nhiều kẻ tự hào là thầy dạy và sống Luật Môsê lại không
làm như thế, khiến Đức Giêsu lên tiếng khiển trách: “Khốn
cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người nuốt hết
tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ, cho nên các
người sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn.”Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người
Pharisêu giả hình! Các người rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người
theo đạo; nhưng khi họ theo rồi, các người lại làm cho họ đáng xuống hoả ngục gấp
đôi các người” (Mt 23, 14-15).
Đức Giêsu vào Đền Thờ đánh đuổi bọn buôn bán, Ngài đã nhìn thấy
trước hàng giáo sĩ phục vụ Đền Thờ sẽ lấy cớ Ngài đánh đuổi bọn buôn bán ra khỏi
Đền Thờ, và còn nói “cứ
phá Đền Thờ nội ba ngày Ta sẽ xây dựng lại”, mà cáo tội trước tòa án Do
Thái nhằm giết Ngài: “Tên
này đã nói: “Ta có thể triệt hạ Đền Thờ Thiên Chúa, và trong vòng ba ngày sẽ
xây dựng lại” (x Ga 2, 19 = Mt 26, 61). Nhưng khi Đức Giêsu bị giết,
Ngài mới thực sự thay thế và làm hoàn hảo Phụng Vụ Do Thái giáo.
Đức Giêsu cũng răn đe những kẻ đã được Hội Thánh làm cho trở nên
Đền Thờ của Thiên Chúa, nhưng rồi người ấy vì muốn thỏa mãn các dục vọng, tạo cớ
cho Satan đến thế chỗ Thiên Chúa, vì ai phạm tội thì xua đuổi Chúa ra khỏi tâm
hồn. Đức Giêsu nói về tình trạng người này: “Khi
thần ô uế xuất khỏi một người, thì nó đi rảo qua những nơi khô cháy, tìm chốn
nghỉ ngơi mà tìm không ra. Bấy giờ nó nói: ‘Ta sẽ trở về nhà ta, nơi ta đã bỏ
ra đi. Khi đến nơi, nó thấy nhà để trống, lại được quét tước, trang hoàng hẳn
hoi. Nó liền đi kéo thêm bảy thần khác dữ hơn nó, và chúng vào ở đó. Rốt cuộc,
tình trạng của người ấy lại còn tệ hơn trước” (Mt 12, 43-45). Dựa vào Lời Đức
Giêsu nói thế, ta có quyền khẳng định: Muốn
tìm một người thánh thiện nhất trên thế gian, phải tìm nơi người tín hữu Công
Giáo; trái lại, muốn tìm một người độc ác nhất trên trái đất này, cũng phải tìm
nơi người Công Giáo.
Vậy để
thi hành Lệnh Chúa Cha truyền: “Hãy
nghe Lời Con Yêu Dấu của Ta”, người Công Giáo phải sống Đạo như kẻ điên; Đức
Giêsu đánh đuổi quân buôn bán khỏi Đền Thờ dưới con mắt người đời Ngài là kẻ
điên khùng. Nhưng vì “Thiên
Chúa yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi
phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16: Tung Hô Tin Mừng). Nên những
ai muốn được kết hợp với Chúa Giêsu để được cứu độ, thì cũng phải sống Đạo xem
ra như kẻ điên khùng. Vì thế thánh Tông Đồ nói: “Trong
khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ
khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người
Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối
với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính
là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên
Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn
hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1Cr 1, 22-25: Bài đọc II). Chính vì vậy mà
triết gia Kierkegaard nói: “Làm
một Kitô hữu mà không có chút điên khùng, thì chỉ là một Biệt phái giả hình”.
Bởi vì “Chúa
mới có những Lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6, 68c: Đáp ca).
THUỘC LÒNG.
Dân Chúa được đoàn tụ trước hết là nhờ Lời Chúa hằng sống, Lời ấy
đặc biệt phải tìm thấy nơi miệng lưỡi các linh mục. (Vat. II Chức Vụ Và Đời Sống Linh Mục số 4).