Lời Chúa tuần 9 thường niên - câu truyện minh họa

LỜI CHÚA TUẦN 9 THƯỜNG NIÊN
GIA VỊ CHO BÀI GIẢNG

LỄ CHÚA BA NGÔI NĂM A - TÌNH YÊU BA NGÔI

LỄ CHÚA BA NGÔI NĂM B

LỄ CHÚA BA NGÔI NĂM C

CNTN 9A -

CNTN 9B -

CNTN 9C -

THỨ HAI - DỤ NGÔN TÁ ĐIỀN SÁT NHÂN

THỨ BA - BỔN PHẬN TÍN HỮU VÀ CÔNG DÂN

THỨ TƯ - NGƯỜI CHẾT SỐNG LẠI

THỨ NĂM - GIỚI RĂN TRỌNG NHẤT

THỨ SÁU - CON VUA ÐAVÍT?

THỨ BẢY - ÐỒNG XU BÀ GÓA NGHÈO

 

LỄ CHÚA BA NGÔI NĂM A - TÌNH YÊU BA NGÔI

Lời Chúa: Ga 3, 16-18

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ.

Ai tin Người Con ấy, thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa."

TRUYỆN KỂ

1. Thiên Chúa tình yêu--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Một bạn trẻ hỏi tôi: “Thưa Cha, tại sao đạo Phật khi xây chùa thì chọn những nơi rừng núi thâm u, xa hẳn thị thành, còn đạo Công Giáo khi xây nhà thờ lại chọn những nơi dân cư đông đúc, phồn hoa đô hội?” Tôi trả lời: “Bạn quả là có con mắt nhận xét. Việc xây cất chùa chiền, nhà thờ như vậy, thực ra, phát xuất từ quan niệm nền tảng của đạo. Đạo Phật là đạo xuất thế. Đức Phật vì thấy những cảnh khổ ở đời trong sinh, lão, bệnh, tử nên đã tìm môt con đường mong giải thoát chính mình và nhân loại khỏi cảnh khổ não ở đời. Vì thế Ngài đã từ giã cung đình, rũ sạch bụi trần, xa lánh phồn hoa. Trái lại đạo Công Giáo là đạo nhập thế. Thiên Chúa thấy con người trầm luân khổ ải nên chạnh lòng thương, đã sai Con Một là Chúa Giêsu xuống trần để cứu độ chúng sinh. Chúa Giêsu xuống trần không chỉ là nhập thế, mà còn hoá thân một người nghèo sống giữa người nghèo, người tội lỗi để đưa mọi người về với Chúa, đó là nhập thể. Có thể nói đạo Công Giáo diễn tả việc Thiên Chúa đi tìm con người.

Thiên Chúa đi tìm con người vì Thiên Chúa yêu thương con người. Không yêu thương thì chẳng việc gì phải đi tìm. Đi tìm tức là có quan tâm. Xa vắng thì nhớ. Thấy khổ vì thương. Vì thương, vì yêu nên phải cất bước đi tìm.

Không phải Thiên Chúa chỉ yêu thương khi con người gặp đau khổ. Thực ra Thiên Chúa đã yêu thương con người từ trước, từ khi chưa có con người. Vì Thiên Chúa là tình yêu thương.

2. Dấu thánh giá

Khi suy tư về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, chúng ta không quên nói đến việc làm dấu thánh giá. Chúng ta làm dấu thánh giá nhiều lần trong ngày: khi thức dậy, trước khi ra khỏi nhà, trước khi lái xe, trước khi ăn cơm, trước và sau khi cầu nguyện, buổi tối trước khi đi ngủ…Dấu thánh giá đơn sơ là thế, nhưng lại là một nghi thức quan trọng. Tuy vậy, không ít người vẫn chưa hiểu ý nghĩa của nghi thức làm dấu thánh giá: Đây là lời tuyên xưng Đức tin vào Chúa Ba Ngôi, là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần. Đây cũng là cầu nguyện để xin Chúa ban cho chúng ta những ơn lành, nhất là biết sống ơn gọi của người Kitô hữu. Dấu thánh giá được phác họa trên thân mình, nhắc cho chúng ta niềm xác tín vào tình thương của Chúa, thể hiện qua cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Đây cũng là lời kinh của lòng trông cậy, với niềm xác tín Chúa Ba Ngôi là nguồn suối yêu thương sẽ đổ chan hòa ơn thánh cho những ai yêu mến Ngài. Sau cùng, dấu thánh giá cũng nhắc nhở chúng ta: người Kitô hữu bất kể làm điều gì, bất cứ ở đâu, phải luôn luôn nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa. Nói cách khác, trong mọi hoàn cảnh, chúng ta phải hướng về Chúa, ý thức về những lời mình nói, những việc mình làm, để những lời nói và việc làm ấy không còn là nhân danh cá nhân, nhưng là nhân danh Chúa Ba Ngôi. Hiểu và sống như thế, chúng ta sẽ thấm đượm chất men Tin Mừng trong mọi hành vi cử chỉ và lời nói của chúng ta.

Xin Chúa cho chúng ta được sống trong dòng sông ân sủng của Ba Ngôi Thiên Chúa, nhờ vậy, đời sống chúng ta sẽ luôn tìm thấy an bình. Sống trong dòng sông này, chúng ta sẽ “như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con, hồn lặng lẽ an vui” (Tv 131,2).

3. Mầu nhiệm Ba Ngôi

Augustinô thuộc khuynh hướng của những người cho rằng với kiến thức và nỗ lực tìm kiếm, con người có thể múc cạn chân lý về Thiên Chúa. Một hôm, đi dọc theo bờ biển, đầu óc miên man nghĩ đến những bí ẩn về Thiên Chúa, tình cờ Ngài gặp một cậu bé đang ngồi chơi trên cát. Nó dùng một mảnh sò để đào một lỗ nhỏ trên cát, rồi dùng vỏ sò# ấy múc nước biển đổ vào.

Nhưng dã tràng xe cát Biển đông, nó cứ đổ nước vào cái lỗ mà vẫn không bao giờ đầy. Ngạc nhiên về cử chỉ của đứa bé, thánh nhân nấn ná gợi chuyện. Ngài hỏi nó đang làm gì, đứa bé trả lời không chút do dự:

- Thưa ông, cháu đang dùng vỏ sò này để tát cho cạn nước bể đại dương.

Thánh nhân lắc đầu bảo nó:

- Cháu không thể làm được chuyện đó đâu.

Đứa bé ngước lên và mỉm cười nói:

- Múc cạn nước đại dương để đổ đầy cái lỗ này còn dễ hơn múc cạn mầu nhiệm về Thiên Chúa.

Thánh Augustinô chợt hiểu được một chân lý: Thiên Chúa là một mầu nhiệm mà con người không thể nào thấu hiểu được.

(D.Wahrheit, Tìm về cõi phúc, tr 68).

4. Hình ảnh về Ba Ngôi

Đây quả là một mầu nhiệm thẳm sâu, chúng ta không thể nào diễn tả được mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, nhưng trong vũ trụ thiên nhiên chúng ta có thể lấy được nhiều hình ảnh cụ thể dùng lối loại suy để hiểu về Chúa Ba Ngôi: Khi thuyết giảng tại công viên Hyde Park, Frank Sheed đã dùng mưa rơi để cố gắng giúp người ta hiểu được sự vừa đơn nhất vừa đa dạng của Ba Ngôi. Ông thường nói:”Nước đang rơi đây thực là nuớc nhưng nó có thể hiện hữu dưới ba dạng: thể hơi, thể rắn và thể lỏng – nghĩa là dạng hơi nước, dạng băng và dạng nước mưa đang rơi đây."

Dĩ nhiên tất cả mọi cách loại suy đều không thể nói lên tất cả thực tại, tuy nhiên chúng ta có thể thấy được chủ ý của Frank muốn nói là không phải có ba loại nước, mà chỉ có một loại nước nhưng nó hiện hữu trong ba dạng khác nhau. Chúng ta có thể nghĩ về Thiên Chúa một cách tương tự như thế.

Một phương pháp khác giúp ta hiểu được sự vừa đơn nhất vừa đa dạng của Ba Ngôi là ví dụ mà thánh Ignatiô Loyola thường dùng. Có lần trong lúc cầu nguyện, Ngài bỗng nhận ra Ba Ngôi dưới hình dạng ba nốt nhạc tạo nên một hợp âm duy nhất.

Và cuối cùng, chúng ta cũng thấy thánh Patrick thường dùng ba lá của loại xa trục thảo (3 lá ghép thành một) để diễn tả ý niệm Ba Ngôi.

Làm thế nào chúng ta có thể áp dụng tất cả những điều nói trên vào hành động cụ thể? Chúng ta có thể làm gì để Ba Ngôi sống động hơn trong cuộc sống riêng tư của chúng ta? Có phương pháp mà một số người cho là hữu ích đó là cầu nguyện mỗi tối trước khi đi ngủ. Họ dùng ba phút để hồi tâm về một ngày vừa chấm dứt...

5. Tình yêu hiến thân.

Ngày 20.06.1980, chị Brown, một người mẹ trẻ vừa từ trần vì chứng bệnh ung thư khi mới 25 tuổi. Các bác sĩ đề nghị chữa trị bằng quang tuyến, nhưng vì chị muốn cho bào thai đang mang trong bụng không bị nhiễm chất phóng xạ, nên chị từ chối, thà chết còn hơn để cho bác sĩ chữa trị ung thư bằng quang tuyến.

Cuối cùng, chỉ 5 giờ trước khi chết, chị đã sinh được một cháu trai mạnh khỏe, kháu khỉnh. Bản tin của hãng AP nói rằng:”Vào mấy ngày cuối cùng của cuộc đời, chị Brown biết mình bị tử thần đánh bại, nhưng chị vẫn tin tưởng thế nào chị cũng thành công và sinh được một đứa con không bị nhiễm phóng xạ."

Bác sĩ Ronald Lapin gọi cái chết của chị Brown là “Cái chết của tình mẫu tử, dám hy sinh mạng sống cho đứa con chưa một lần thấy mặt."

6. Bài học từ loài ngỗng.

Vào mùa thu, khi bạn thấy bầy ngỗng bay về phương Nam để tránh đông theo hình chữ V, bạn có tự hỏi những lý lẽ khoa học nào có thể rút ra từ đó. Mỗi khi một con ngỗng vỗ đôi cánh của mình, nó tạo ra một lực đẩy cho con ngỗng bay ngay sau nó. Bằng cách bay theo hình chữ V, đàn ngỗng tiết kiệm được 71% sức lực so với khi chúng bay từng con một.

Mỗi khi một con ngỗng bay lạc khỏi hình chữ V của đàn, nó nhanh chóng cảm thấy sức trì kéo và những khó khăn của việc bay một mình. Nó sẽ nhanh chóng trở lại đàn để bay theo hình chữ V như cũ, và được hưởng những ưu thế của sức mạnh từ bầy.

Khi con ngỗng đầu đàn mỏi mệt, nó sẽ chuyển sang vị trí bên cạnh và một con ngỗng khác sẽ dẫn đầu.

Tiếng kêu của bầy ngỗng từ đàng sau sẽ động viên những con đi đầu giữ được tốc độ của chúng.

Cuối cùng, khi một con ngỗng bị bệnh hay bị thương và rơi xuống, hai con ngỗng khác sẽ rời khỏi bầy để cùng xuống với con ngỗng bị thương và bảo vệ nó. Chúng sẽ ở lại cho đến chừng nào con bị thương lại có thể bay hoặc là chết, và khi đó chúng sẽ nhập vào một đàn khác để tiếp tục bay về phương nam (Lấy từ internet theo Thùy Trang forward)

7. Tình yêu của Thiên Chúa

Một bà kia không biết đến sự yêu thương của đồng lọai. Bà là một người không tôn giáo, nghèo khổ bị bỏ quên, bị ngược đãi, bị đối xử bất công lâu ngày đến nỗi bà thù ghét tất cả mọi người mà mọi người dường như nghịch cùng bà. Một lần kia, cha sở đến gặp bà để nói về tình yêu thương của Thiên Chúa, song bà chẳng hiểu tình yêu là gì cả. Bà bảo:

- Tôi không hiểu ông nói gì. Chưa hề có ai yêu thương tôi và đối với tôi, tôi cũng không hiểu yêu thương là gì cả.

Cha sở về lại nhà xứ mà lòng vẫn canh cánh ray rứt về câu chuyện với người phụ nữ nọ. Ngài cầu nguyện liền mấy ngày rồi chợt nảy ra một ý, ngài cho mời nhóm bạn trẻ Tông đồ trong xứ lại và kể cho các bạn ấy nghe đầu đuôi sự thể. Rồi ngài đề nghị mọi người hãy giúp cho bà ấy biết được tình yêu của Chúa bằng cách mỗi người trong nhóm sẽ lần lượt từng người đến thăm bà, chân thành tỏ cho bà biết trên đời này vẫn có người yêu thương, thăm viếng, an ủi và giúp đỡ bà.

Mấy tháng trôi qua, một ngày kia, khi cha sở lại thăm bà, bà xúc động đến rướm nước mắt: - Thưa cha, bây giờ thì tôi đã hiểu, đã biết yêu thương là gì rồi, và bây giờ tôi đã có thể xin cha cho tôi được đón nhận tình yêu của Thiên Chúa.

8. Để biết Chúa

Một người nông dân đi lên thành phố. Đang di trên một đường phố đông đúc ồn ào, bổng dưng người nông dân dừng lại và nói với người bạn. “Tôi nghe có tiếng dế kêu.” Người bạn ngạc nhiên và hỏi: “Làm sao anh có thể nghe được tiếng dế kêu giữa những ồn ào của đường phố như thế này?” Người nông dân trả lời: “Tôi có thể nhận ra được tiếng dế kêu bởi vì tai tôi rất nhạy cảm với tiếng dế.”

Rồi ông ta lắng nghe một cách chăm chú hơn, và đi theo tiếng dế, tìm thấy chú dế ở dưới phiến đá cạnh cửa sổ của một ngôi nhà. Người bạn vẫn không hề nghe thấy tiếng dế đó. Người nông dân vẫn không lấy gì làm lạ. Như để giải thích cho người bạn hiểu, ông móc túi ra mấy đồng bạc cắc và thảy nó lên vỉa hè. Nghe tiếng bạc kêu lẻng kẻng, tất cả khách qua đường đều dừng lại và nhìn. Người nông dân mới nói với người bạn: “Ông hiểu tôi muốn nói gì chứ. Không ai trong họ có thể nghe được tiếng dế kêu, nhưng tất cả họ lại nghe được tiếng đồng bạc kêu. Người ta nghe thấy những tiếng mà tai họ mong mõi nghe, còn những cái khác họ không nghe thấy.

Điều tốt nhất mà một Kitô hữu có thể làm, đó là mong muốn được lắng nghe và suy niệm Tin Mừng về Chúa Giêsu. Nói cách khác, chúng ta muốn biết Chúa bằng cách nhìn vào lời nói việc làm, cuộc sống của Chúa Giêsu.

9. Thiên Chúa tình yêu --“Như Thầy Đã Yêu” --Thiên Phúc

Một người cha hứa cho đứa con gái 12 tuổi một số tiền nếu cô bé xén sạch đám cỏ trước nhà.

Cô bé vui vẻ mang máy cắt cỏ ra làm việc. Đến chiều, cả đám cỏ đã được cắt xén gọn gang – ngoại trừ một mảng có tí tẹo còn sót trong góc sân.

Ông bố nói rằng ông không thể trả số tiền đã thỏa thuận, bởi vì đám cỏ chưa được cắt xong. Cô bé cho biết cô sẵn sàng chịu mất số tiền đó và cô nhất định không cắt nốt mảng cỏ còn sót kia.

Tò mò muốn biết lý do tại sao, ông bố kiểm tra chỗ cỏ chừa lại. Hóa ra, ở giữa chòm cỏ ấy, một chú cóc đang ung dung ngồi ngắm cảnh hoàng hôn! Cô bé quá thương con cóc, đã không đành đưa lưỡi dao của máy cắt vào chòm cỏ ấy.

Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,8). Người đã dựng nên con người cao trọng hơn các loài thụ tạo. Nhưng con người lại bất trung phản bội. Vì yêu thương Thiên Chúa đã không nỡ hủy diệt, lại sai con Một là Đức Giêsu Kitô xuống thế để cứu chuộc con người. Người lại gởi Thánh Thần đến để thánh hóa cho nên tạo vật mới, dẫn đưa họ về hưởng vinh quang Nước Trời. Đó là mầu nhiệm Tình yêu mà Ba Ngôi Thiên Chúa đã thương dành cho con người. Vì thế, lễ Chúa Ba Ngôi cũng là lễ của tình yêu.

Chỉ những ai sống yêu thương mới được ở trong Thiên Chúa Ba Ngôi.

Chỉ những ai thực thi đức ái mới sống trọng ơn gọi làm con Thiên Chúa.

Chỉ những ai biết sống trao ban mới tìm được nguồn vui đích thực trong Thiên Chúa tình yêu.

10 Tình yêu trao tặng

Ngày kia, tại một ngôi làng nhỏ ở Miền Nam Trung Quốc, một em bé gái tiều tụy, đói rách và mang bệnh phong hủi bị dân làng dùng gậy gộc và gạch đá xua đuổi ra khỏi nơi chôn nhau cắt rốn của em.

Giữa cảnh hỗn loạn ấy, một nhà truyền giáo xông ra ẵm em bé trên tay để bảo vệ em khỏi những trận đòn và những viên gạch đá ném bừa bãi vào tấm thân bé bỏng của em.

Thấy có người mang em bé đi, dân làng mới chịu rút lui, nhưng miệng vẫn còn gào thét: "Phong hủi! Phong hủi!"

Với những giọt nước mắt lăn tròn trên đôi má, lần này là những giọt nước mắt vui mừng chứ không phải là những giọt lệ sầu đau, em bé hỏi vị cứu tinh của mình:

- Tại sao ông lại lo lắng cho con?

Nhà truyền giáo đáp:

- Vì Ông Trời đã tạo dựng nên cả hai chúng ta. Và cũng vì thế em sẽ là em bé gái của ta và ta sẽ là người anh lớn của em bé.

Suy nghĩ hồi lâu, em bé cất tiếng hỏi:

- Con có thể làm gì để tỏ lòng biết ơn sự cứu giúp của ông?

Nhà truyền giáo mỉm cười đáp:

- Con hãy trao tặng cho những người khác tình yêu của con, càng nhiều càng tốt.

Kể từ ngày ấy cho đến ba năm sau, khi em bé gái tắt hơi thở cuối cùng, em đã vui vẻ băng bó các vết thương cho những bệnh nhân khác, ân cần đút cơm cho họ, nhất là em luôn tỏ ra dễ thương và yêu mến tất cả mọi người trong trại.

Lúc từ giã cõi đời, em bé chỉ mới tròn mười một tuổi. Các bệnh nhân đã từng chung sống với em kháo láo với nhau rằng:

- "Bầu trời nhỏ bé của chúng ta đã về trời!"

Vâng, con hãy trao tặng cho người khác tình yêu của con phải chăng cũng là sứ điệp mà lễ Chúa Ba Ngôi mời gọi chúng ta?

11. Con búp bê và biển cả--‘Niềm Vui Chia Sẻ’

Trong quyển sách tựa đề: “Sức thu hút của Thiên Chúa”, tác giả người Italia, ông A-léc-xan-drô Phong-xa-tô đã kể lại câu chuyện vui sau đây về con búp bê bằng muối:

Muốn tìm hiểu thế nào là biển cả để thỏa mãn tính tò mò của mình, con búp bê một mình tiến ra bờ biển và hỏi:

- “Biển cả ơi, bản chất của biển cả là như thế nào?”

Và biển cả đã trả lời:

- “Biển cả là biển cả. Nếu ngươi muốn biết ta là như thế nào thì hãy xuống đây, hãy để cho toàn thân ngươi thấm nhập vào biển cả."

Con búp bê bằng muối do dự. Nhưng rồi vì tính tò mò thúc đẩy, nó tiến gần ra mặt nước rồi đưa hai chân thấm vào nước biển. Trong nháy mắt sóng biển đánh mạnh vào đôi chân bằng muối của nó làm cho đôi chân tan thành nước biển. Con búp bê kinh hãi lùi lại, nhưng đôi chân đã mất. Tiếng biển cả dịu dàng mời gọi:

- “Này con búp bê nhỏ kia ơi, biển cả là biển cả. Ngươi muốn biết biển cả như thế nào thì đừng sợ. Hãy tiến vào đây với ta. Ta sẽ bảo vệ ngươi. Ngươi sẽ được hòa nhịp với ta và hiểu ta như thế nào. Hãy can đảm lên! Nếu bỏ cuộc nửa chừng thì không bao giờ ngươi sẽ hiểu biển cả như thế nào đâu, và phải sống những năm tháng còn lại với đôi chân đã mất."

Tính tò mò thúc đẩy, con búp bê ngâm mình xuống biển. Chỉ một lát sau con búp bê bằng muối đã hòa tan trong nước biển và hiểu được thế nào là biển cả.

Anh chị em thân mến, giữa con búp bê bằng muối và biển cả có một căn bản giống nhau. Cũng thế, giữa con người và Thiên Chúa cũng có một sự giống nhau. Con người đã được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh của Ngài. Tâm hồn con người hướng về Thiên Chúa, muốn hiểu biết Thiên Chúa, muốn được kết hợp với Ngài ngày càng khăng khít hơn, giống như con búp bê bằng muối kia muốn hiểu biển cả là thế nào.

12. Hình ảnh của Thiên Chúa

Tại vùng Texas Hoa Kỳ, không ai lại không nghe lòng hào hùng của anh Biên, chủ một nông trại nuôi bò to lớn. Người ta gọi anh bằng một tên riêng đầy lòng kính trọng là ông Biên quảng đại, đến nỗi nhiều người không còn nhớ tên thật của anh là gì, mà chỉ biết tên anh là ông Biên quảng đại. Dù là người giàu có nhất vùng nhưng nếp sống của ông lại rất gần gũi với mọi người, từ người giúp việc cho tới những người láng giềng chung quanh.

Ông có một người con duy nhất, nhưng rủi thay trong một chuyến đi nghỉ cuối tuần, ông bị một tai nạn xe hơi làm cho vợ và người con duy nhất bị chết. Sau những ngày u buồn, một hôm đi dạo chơi gần nông trại, ông chợt gặp một đứa trẻ rách rưới và có vẻ đang bơ vơ. Ông gọi lại và hỏi thăm về gia đình, đứa bé không trả lời chi được về những câu hỏi của ông. Bé mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Mới sinh ra đã bị cha mẹ bỏ rơi, nên từ đó em bé nay sống với người này, mai sống với người khác, lang thang đây đó. Em chỉ còn biết một điều là tên gọi của em: ai ai cũng gọi em là Jimmi, nên em biết tên mình là Jimmi. Ông Biên liền nhận đứa trẻ về nhà làm con nuôi và làm chúc thư, nếu ông qua đời thì tài sản ông sẽ dành cho Jimmi, người con nuôi mới nhận được.

Nhiều người bạn thân ngạc nhiên hỏi, tại sao ông làm như vậy?

Ông Biên trả lời: với một lý do duy nhất, là Jimmi giống hệt đứa con của tôi đã chết. Tôi thương nó vì nó giống con tôi, tôi nhìn thấy con tôi nơi nó.

Anh chị em thân mến,

"Tôi thương nó, vì nó giống hệt con tôi, tôi nhìn thấy con tôi nơi nó." Câu nói này của ông Biên gợi lại cho chúng ta mối tương quan giữa tình thương của Thiên Chúa Cha với mỗi người chúng ta là đồ đệ của Chúa Giêsu Kitô. Thiên Chúa Cha đã yêu thương mỗi người, vì chúng ta đã lãnh nhận ơn cứu rỗi, được tái tạo giống hệt như Chúa Kitô, Con Một Ngài. Thiên Chúa Cha yêu chúng ta, vì Ngài thấy Con Một Ngài nơi mỗi người chúng ta.

13. Yêu thương nhau vì là con Thiên Chúa

Ngày xưa, có một người nhà giàu, sinh được năm người con. Vì giàu có nên những người con của ông có một đời sống sung sướng thừa thãi về vật chất. Nhưng chuyện đời thường vốn vô cùng. Vì thế, có một, các con ông muốn có hai và cứ thế tánh đua đòi lâu dần thành thói quen, đến lúc không tự chủ được thì đã trở thành lòng tham vọng. Càng ngày, lòng tham vọng của con người càng nhiều và lan ra trên mọi bình diện. Do đó, họ không biết thế nào là đủ nên lúc nào cũng khổ tâm vì luôn nghĩ đến sự hơn thua và ganh tỵ lẫn nhau. Đến khi khôn lớn, cả năm người con nhờ tiền của cha mẹ nên đều giàu có. Tuy mỗi người một cơ ngơi, nhưng vẫn giữ thói ganh ghét tị hiềm cãi cọ nhau về những của cải mà họ có. Nhìn cảnh các con không hòa thuận, người cha buồn lắm. Ông cố gắng khuyên bảo nhưng dù ông có cố gắng thế nào, các con ông cũng không bỏ được lòng hiềm kỵ lẫn nhau làm ông rất đau lòng.

Sau một thời gian ngã bịnh, ông biết rằng mình không còn sống được bao lâu nữa. Ông cho gọi các con đến bên giường và bảo gia nhân đem đến cho ông hai bó đũạ Các con ông còn đang nhìn nhau ngơ ngác không hiểu người cha có ý định gì thì ông lấy một bó đũa, đưa cho mỗi người một chiếc và bảo:

- Các con mỗi đứa lần lượt bẻ chiếc đũa này và cho cha biết kinh nghiệm về việc các con làm dễ hay là khó.

Ông vừa dứt lời, trong chớp mắt, năm người con bẻ năm chiếc đũa thật dễ dàng.

Nhìn những chiếc đũa gãy đôi, gãy ba, ông im lặng và các con ông cũng yên lặng đợi chờ. Một lát sau, ông đưa nguyên bó đũa cho người con cả và dịu dàng nói:

Tốt. Các con đã thành công trong việc bẻ một chiếc đũa. Bây giờ, các con lại thay phiên nhau bẻ nguyên cả bó đũa này cho cha xem.

- Người con trưởng cầm bó đũa ra sức bẻ. Anh vận dụng sức mạnh đến nỗi mặt mũi đỏ gay nhưng không làm cho bó đũa gẫy được dễ dàng. Chờ đến lúc anh chịu thua, người cha bảo người con thứ hai tiếp tục. Cũng như người con lớn, người con thứ hai không bẻ được và chịu thua. Ông kiên nhẫn chờ đến khi người con thứ năm bỏ cuộc mới ôn tồn nói:

- Đó, các con xem, thế nào là sức mạnh của sự đoàn kết. Nếu các con cứ tiếp tục hiềm tị chia rẽ nhau thì các con cũng lẻ loi và yếu đuối không khác gì một chiếc đũa và các con sẽ bị kẻ thù bẻ gãy dễ dàng. Nhưng nếu các con biết thương yêu đoàn kết lại với nhau như bó đũa thì không một sức mạnh nào bẻ gãy được các con.

Năm người con ông hiểu ý cha và bài học ông vừa dạy. Cảm động và hối hận vì ăn ở với nhau không phải rồi còn làm cha buồn, các con ông ôm lấy ông vừa khóc, vừa hứa là từ nay về sau sẽ bỏ thói tị hiềm ích kỷ để yêu thương đoàn kết với nhau.

Sau đó người cha mất đi. Năm người con vâng lời cha dạy. Họ rất đoàn kết và thương mến lẫn nhau. Đời sống gia đình họ rất hoà thuận và không một ai có thể cạnh tranh được với sự giàu mạnh trong việc làm ăn buôn bán của gia đình họ.

14. Trí khôn và ý muốn

Cách đây hàng ngàn năm, có một nhà hiền triết tài giỏi tên là Simonide. Ngày kia, nhà vua cho vời ông ta đến và hỏi:

- Thượng đế là gì?

Ông ta xin nhà vua cho mình một ngày để suy nghĩ. Sáng hôm sau, khi nhà vua gọi tới, thì ông ta lại xin thêm hai ngày nữa để suy nghĩ.

Và khi hai ngày đã trôi qua, ông ta lại xin thêm bốn ngày nữa. Rồi sau đó, ông ta lại xin thêm tám ngày nữa. Cứ mỗi lần nhà vua truyền cho ông ta đến, thì ông ta lại xin hoãn với số ngày gấp đôi. Sau cùng, nhà vua bực bội, cho triệu ông ta đến và giận dữ hỏi:

- Cho tới bao giờ, nhà ngươi mới trả lời câu hỏi của ta? Thượng đế là gì?

Bấy giờ ông ta mới ôn tồn trả lời:

- Xin nhà vua đừng hối thúc tôi. Vấn đề thật khó khăn và tôi nghĩ rằng sẽ chẳng bao giờ tìm thấy được câu trả lời. Bởi vì càng suy nghĩ, tôi lại càng cảm thấy bối rối. Vấn đề dường như đã vượt ra ngoài khả năng của tôi.

15. Mặt trời ban sự sống

Một vị linh mục đang chờ máy bay ở phi trường Tân Sơn Nhất, thì một người đàn ông đến ngồi bên cạnh và bắt đầu đề cập tới vấn đề tôn giáo, ông nói:

- Tôi không thể nào chấp nhận được những điều tôi không hiểu, chẳng hạn như vấn đề Chúa Ba Ngôi hay bất cứ vấn đề nào giống như thế. Chẳng ai có thể cắt nghĩa cho tôi, nên tôi sẽ không bao giờ tin.

Chỉ vào một luồng ánh sáng chiếu qua khung cửa kính, vị linh mục hỏi:

- Ông có tin mặt trời không nhỉ?

Ông ta trả lời:

- Dĩ nhiên là có.

Vị linh mục nói tiếp:

- Phải, ánh sáng ông thấy qua cửa sổ, xuất phát từ mặt trời cách đây 150 triệu cây số. Sức nóng chúng ta cảm nhận được cũng xuất phát từ mặt trời. Đối với Chúa Ba Ngôi, một phần nào cũng tương tự như thế. Mặt trời là Chúa Cha. Từ mặt trời mà có ánh sáng, cũng như từ Chúa Cha mà có Chúa Con. Rồi từ Chúa Cha, Chúa Con mà có Chúa Thánh Thần, cũng như từ mặt trời, từ ánh sáng mà có sức nóng. Ông hiểu thế nào về mặt trời, ánh sáng và sức nóng. Thì một phần nào tương tự như thế, ông hiểu về Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

16. Đủ ánh sáng chưa?

Bà Rose đã viết thư cho bà Abby như sau, "Chào bà Abby, năm nay tôi đã 40 tuổi và tôi mong muốn tìm được một người đàn ông chạc tuổi của tôi, nhưng ông ấy không được có những tất xấu." Sau đó, bà Abby đã trả lời cho bà Rose như sau, "Kính thưa bà Rose, đó là người đàn ông mà tôi cũng mong muốn để tìm." Một điều hiển nhiên là cả hai bà Rose và Abby sẽ không bao giờ tìm được người đàn ông hoàn hảo mà họ hằng luôn mong muốn bởi vì người đàn ông hoàn hảo đó không hiện hữu trên thế gian này. Tất cả loài người chúng ta đều có những khuyết điểm. Nói theo tiếng của Thánh Kinh là chúng ta là kẻ có tội

Vậy thì chúng ta đi đâu để mà tìm được một con người hoàn hảo? Hôm nay Giáo Hội giới thiệu cho chúng ta một Đấng hoàn hảo mà tất cả chúng ta có thể tin tưởng, cậy trông, và phó thác trót cả cuộc đời chúng ta cho Ngài. Đó là Thiên Chúa Ba Ngôi.

17. Ba ngọn nến lung linh--Huệ Minh

Làm việc mệt, tôi thường nghe nhạc cho thư giãn tâm hồn. Thi thoảng mở lên và nghe: Ba ngọn nến lung linh.

Ba là cây nến vàng

Mẹ là cây nến xanh

Con là cây nến hồng

Ba ngọn nến lung linh

A à á a a

Thắp sáng một gia đình

Gia đình, gia đình

Ôm ấp ta những ngày thơ

Cho ta bao nhiêu niềm thương mến

Gia đình, gia đình

Vương vấn bước chân ra đi

Ấm áp trái tim quay về

Gia đình, gia đình

Ôm ấp ta những ngày thơ

Cho ta bao nhiêu niềm thương mến

Gia đình, gia đình

Bên nhau mỗi khi đơn độc

Bên nhau đến suốt cuộc đời

Lung linh, lung linh tình mẹ, tình cha

Lung linh, lung linh cùng một mái nhà

Lung linh, lung linh cùng buồn cùng vui

Lung linh, lung linh hai tiếng gia đình

LỄ CHÚA BA NGÔI NĂM B

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1. truyện

LỄ CHÚA BA NGÔI NĂM C

Lời Chúa: Ga 16, 12-15

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ các con không thể lĩnh hội được.

Khi Thần Chân lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật, vì Người không tự mình mà nói, nhưng Người nghe gì thì sẽ nói vậy, và Người sẽ bảo cho các con biết những việc tương lai. Người sẽ làm vinh danh Thầy, vì Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con.

Tất cả những gì Cha có đều là của Thầy, vì thế Thầy đã nói: Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con.”

TRUYỆN KỂ

1. Đó là tình yêu

Trong phòng xử án Toà án nhân dân Thành phố Hồ chí Minh sáng ngày 16-8-1996, ngay ở hàng ghế đầu, suốt những giờ xét xử của Hội đồng xử án, một người đàn bà với đôi mắt ướt đẫm nước mắt, cứ nhìn đăm đăm vào chiếc lưng của bị cáo đang đứng trước vành móng ngựa. Đó là chiếc lưng của đứa con đầu lòng của bà trong chiếc áo tù, và có in ký hiệu "AB.” Cho đến khi công tố viên đọc xong lời buộc tội và đề nghị mức án "hai mươi năm tù vì tội giết người" bà bỗng nấc lên một tiếng rồi ngất xỉu. Bà ngất xỉu có lẽ vì bà chịu đựng không nổi mức án dành cho con bà: 20 năm tù vì cái tội giết người; mà người nó định giết không ai khác hơn là chính bà. Bà là mẹ của bị cáo và cũng chính là người bị hại!

Hơn một năm trước đây, vào ngày 16 tháng 7, 1995, chính nó đã cầm một thanh gỗ tròn dài nửa mét đánh vào đầu bà, rồi cầm một con dao đâm vào ngực bà. Người đầm đìa máu bà ngã xuống ngất xỉu - vì con. Hôm nay bà lại ngã xuống, ngất xỉu... cũng vì con.

Con bà - Lương Quốc Tuấn, sinh năm 1976, ở quận 11, làm thợ cửa sắt. Từ khi lên 5 tuổi, cha của Tuấn đã bỏ mẹ con Tuấn đi sống với người khác. Mẹ của Tuấn lặn lội nuôi hai đứa con thơ lớn lên. Thế mà... Sáng hôm đó, chúa nhật, Tuấn dậy trễ. Tuấn hỏi xin mẹ mấy ngàn ăn hủ tiếu. Mẹ Tuấn không cho, bảo lấy mì ăn liền nấu ăn. Tuấn khai trước toà: "Mẹ nói từ ngày quen con nhỏ đó thân ốm nhom ốm nhách, không tiền không bạc... mẹ không cho tiền còn nói nọ nói kia..." Thế là Tuấn đã làm cái điều mà có lẽ nghe đến, ai cũng phải thấy rợn cả người: đánh, giết mẹ! Với 10 vết thương, chỉ có hai vết ở tay, còn lại toàn ở đầu và ngực nhưng khi từ bệnh viện sau sáu ngày điều trị trở về, bà lại ráng sức để xách đồ ăn vào thăm con đang bị giam trong tù! Sợ con bị đưa ra toà, bà đã viết giấy bãi nại xin xóa tội cho con. Và trước toà, bà cứ khóc nói: "Từ nhỏ đến khi lớn nó ngoan lắm. Nó không uống rượu, không hút thuốc, xin toà giảm tội!" Rồi bà nức nở tỏ ra ray rứt, ân hận, trách mình: "Tôi không nuôi nó ăn học đến nơi đến chốn. Nó phải đi làm sớm, lúc học xong lớp 8." Hoàn toàn bà không hề nhắc gì đến cái tội tày trời mà đứa con của mình đã mắc phải.

Bên trong phòng xử án, khi bà tỉnh lại, phóng viên Hoàng Chức Nguyên đến xin hỏi chuyện bà, bà lại khóc nói: "Tôi không nói được gì đâu, đau đớn quá." Khi có các phóng viên đến chụp ảnh con bà đang bị một tay còng vào ghế, bà van nài: "Xin đừng chụp ảnh con tôi..." Khi những người công an còng hai tay con bà giải đi, bà đã lao người với theo, bà ngã trong vòng tay của người quen. Lúc ấy phóng viên lại thấy rất rõ một vết thẹo trên trán bà. Vết thẹo do chính tay con bà cầm một thanh gỗ đập vào để lại... (theo Tuổi Trẻ 17-8-1996, trang 2).

Mọi người trong gia đình phạm nhân Lương Quốc Tuấn trong câu chuyện, đều cần được vén màn cho thấy Thiên Chúa là hạnh phúc trường cửu, sự sống bất diệt, ánh sáng không tàn lụi. Thiên Chúa là tình thương tràn lan giữa Ba Ngôi vị tựa như sức nóng và ánh sáng tràn lan từ mặt trời. Thiên Chúa tự ý muốn thông chia vinh quang sự sống hạnh phúc của Người. Đó là "kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa từ thuở đời đời" (x.Ep 1,9).

2. Hình ảnh về Chúa Ba ngôi

Thánh Augustin, một hôm đi bách bộ dọc bờ biển Địa Trung Hải, vừa đi vừa suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Bỗng nhiên Thánh nhân gặp một em nhỏ lấy vỏ sò múc nước đổ vào một cái lỗ. Đang còn ngạc nhiên về công việc luống công vô ích này, em bé đã trả lời: việc em múc hết nước biển đổ vào lỗ nhỏ, còn dễ hơn điều mà Thánh nhân suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Rồi em bé biến đi.

Nhớ lại lớp giáo lý xa xưa, ở đó, Chúa Ba Ngôi được ví như một hình tam giác đều, có ba góc bằng nhau. Hay chúng ta cũng được nghe so sánh Chúa Ba Ngôi với nước ở ba thể: khí, lỏng và rắn... Tuy nhiên, tất cả những lối so sánh ấy dường như quá khô khan, vì không phản ánh một cách trung thực và sống động hình ảnh thật sự của Ba Ngôi Thiên Chúa.

Cách đây vài năm, vào ngày cuối của khoá học về Chúa Ba Ngôi, cha giáo sư hỏi chúng tôi:

- Bây giờ các anh chị đã hiểu mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi chưa?

Gần như cả lớp đồng thanh:

- Thưa cha hiểu.

Cha bật cười:

- Vậy thì các anh chị giỏi hơn tôi rồi!

Dĩ nhiên, con người giới hạn của chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm quá siêu vượt này, nhưng để sống, lại là điều hoàn toàn có thể. Mầu nhiệm Ba Ngôi chính là hình ảnh rất thân quen, rất gần gũi nếu nhìn Ba Ngôi dưới khía cạnh tình yêu. Vâng, Ba Ngôi Thiên Chúa chính là một cộng đoàn hiệp nhất yêu thương. Tình yêu ấy đã không giữ lại cho mình, nhưng đổ tràn vào trần gian.

3. Nhìn thấy Chúa

Một vị vua kia đến cuối cuộc đời cảm thấy buồn chán. Ông nói: "Suốt đời ta, ta đã cảm thụ được tất cả những gì mà một con người có thể cảm thụ được bằng các giác quan. Nhưng vẫn còn một điều ta chưa được thấy, đó là ta chưa thấy Chúa. Bây giờ nếu ta chỉ được nhìn thấy Chúa một thoáng thôi thì ta cũng sẽ mãn nguyện mà chết.” Nhà vua tham khảo ý kiến những bậc khôn ngoan, hứa cho họ đủ thứ phần thưởng nếu họ giúp ông thực hiện điều mơ ước ấy. Nhưng chẳng ai giúp được.

Thế rồi có một chàng chăn cừu nghe chuyện trên và tìm đến gặp nhà vua. Chàng nói: "Có lẽ hạ thần có thể giúp Bệ Hạ được.” Nhà vua rất sung sướng theo người chăn cừu leo lên nhiều ngọn đồi. Khi đến đỉnh một ngọn đồi nọ, người chăn cừu đưa tay chỉ mặt trời và bảo: "Hãy xem kìa.” Nhà vua ngước mắt nhìn lên nhưng liền nhắm lại ngay vì chói quá. Ông bảo: "Nhà ngươi muốn cho ta mù sao!" Người chăn cừu đáp: "Tâu Bệ Hạ, đây chỉ mới là một phần nhỏ của vinh quang Thiên Chúa mà Bệ Hạ còn nhìn không nổi. Thế thì làm sao Bệ Hạ có thể nhìn được Thiên Chúa bằng cặp mắt bất toàn của Bệ Hạ? Bệ Hạ phải tìm cách nhìn Ngài bằng cặp mắt khác.”

Nhà vua rất thích ý tưởng ấy, nói: "Ta cám ơn ngươi đã mở cắp mắt trí khôn của ta. Bây giờ hãy trả lời cho câu hỏi khác của Ta: Thiên Chúa sống ở đâu?" Người chăn cừu lại đưa tay chỉ lên trời: "Bệ Hạ hãy nhìn những con chim đang bay kia. Chúng sống trong bầu không khí bao quanh. Chúng ta cũng thế, chúng ta sống trong sự bảo bọc của Thiên Chúa. Xin Bệ Hạ đừng tìm kiếm nữa, mà hãy mở rộng mắt ra để nhìn, mở tai ra để nghe. Thế nào Bệ Hạ cũng thấy được Ngài. Thiên đàng ở ngay dưới chân chúng ta cũng như ở ngay trên đầu chúng ta.”

Nhà vua dừng bước, cố gắng nhìn, cố gắng lắng nghe. Thế là một cảm giác bình an lộ rõ trên khuôn mặt buồn thảm của ông. Người chăn cừu nói tiếp: "Tâu Bệ Hạ, còn một điều nữa.” Rồi chàng dẫn nhà vua đến một cái giếng. Nhà vua nhìn xuống mặt nước bằng phẳng, hỏi: "Ai sống dưới đó thế?" Người chăn cừu đáp: "Thiên Chúa.” "Ta có thể nhìn thấy Ngài không?" "Được chứ, Bệ Hạ chỉ cần nhìn.” Nhà vua chăm chú nhìn xuống giếng, nhưng chỉ thấy gương mặt của mình phản chiếu trên mặt nước. Ông nói: "Ta chỉ thấy mặt Ta thôi.” Người chăn cừu giải thích: "Bây giờ thì Bệ Hạ đã biết Thiên Chúa sống ở đâu rồi. Ngài sống trong Bệ Hạ đó.”

Nhà vua nhận ra rằng người chăn cừu khôn ngoan và giàu có hơn ông. Ông cám ơn chàng và trở về hoàng cung. Chẳng ai biết ông có nhìn thấy Thiên Chúa không, nhưng ai cũng nói rằng có một điều gì đó đã biến đổi trái tim ông, bởi vì từ đó trở đi ông đối xử rất nhân hậu với mọi người, kể cả người đầy tớ hèn hạ nhất của ông.

Thiên Chúa ở khắp chung quanh chúng ta. Nhưng chừng nào chúng ta chưa khám phá Ngài ở ngay trong lòng chúng ta thì Ngài như vẫn còn ở xa, vẫn như một người lạ thờ ơ vô tình. Còn khi chúng ta cảm nhận Ngài ở trong chúng ta thì không bao giờ chúng ta còn cảm thấy cô đơn nữa, và khi đó chúng ta sẽ nhìn thấy thiên nhiên là một công trình của một Đấng Nghệ Sĩ thân thiết của chúng ta.

Thiên Chúa Ba Ngôi vừa ở trong chúng ta vừa siêu vượt chúng ta. Đúng là một mầu nhiệm, nhưng là một mầu nhiệm tình yêu. (FM).

4. Những hình ảnh của Thiên Chúa

Người Châu Phi có một câu chuyện sau đây về Thiên Chúa:

Một hôm Thiên Chúa đi thăm châu lục rộng lớn này và Ngài thấy có một bộ lạc bị mất đức tin. Thế là Ngài hiện ra giữa một mảnh ruộng đang có 4 người làm việc, mỗi người một góc. 4 người này thấy Chúa hiện ra giữa mảnh ruộng. Họ chăm chú nhìn Ngài rồi phục mình thờ lạy.

Sau đó Thiên Chúa biến hình rồi xem sự việc sau dó diễn tiến thế nào. 4 người kia chạy vào làng và nói rằng: đúng là có Thiên Chúa vì họ đã thấy Ngài hiện ra. Từ này về sau chúng ta đừng sống vô thần nữa mà phải lo thờ phượng Chúa. Mọi người nghe đều tin là Thiên Chúa đã hiện ra thật. Nhưng một người hỏi: "Thế thì Thiên Chúa mặc áo màu gì?"

- Ngài mặc áo đỏ. Người thứ nhất trả lời.

- Không, Ngài mặc áo xanh. Người thứ hai cãi lại.

- Hai đứa bây sai cả. Ngài mặc áo màu lục. Người thứ ba nói thế.

- Tất cả đều điên hết rồi. Người thứ tư la to. Ngài mặc áo vàng.

Thế là mọi người cãi nhau chí choé, rồi ấu đả nhau. Cuối cùng bộ lạc chia thành 4 phe.

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy mọi người dân bộ lạc ấy đều sai lầm. Thực ra mỗi người chỉ thấy một thoáng về Thiên Chúa. Lẽ ra mỗi người phải biết rằng mình chỉ thấy được một phần thì họ cho rằng họ thấy toàn vẹn. Nếu như họ biết lấy cái nhìn của người khác để bổ sung cho cái nhìn của mình thì họ sẽ có một hình ảnh đầy đủ và phong phú hơn về Thiên Chúa.

Thiên Chúa lớn hơn tất cả chúng ta. Chúng ta không bao giờ hiểu biết trọn vẹn về Ngài. Để hiểu biết những sự dưới thế chúng ta còn phải cố gắng rất nhiều, thế thì làm sao chúng ta nắm bắt được những sự trên trời. Chỉ có ơn ban khôn ngoan mới giúp chúng ta hiểu được đường lối của Thiên Chúa. Con người có thể biết những chân lý đức tin, nhưng không thể hiểu biết chính Thiên Chúa.

5. Augustinô và mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi

Thánh Augustinô một hôm đi bách bộ trên bãi biển và tâm trí thì luôn suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi:  Làm sao chỉ có một Thiên Chúa và Ngài lại có Ba Ngôi khác nhau: Ngôi thứ nhất là Cha, Ngôi thứ Hai là Con và Ngôi thứ Ba là Thánh Thần.  Như vậy lẽ ra phải có Ba thay vì chỉ có Một Thiên Chúa mới hợp lý?  Augustinô không sao lý giải được mầu nhiệm này: Một mà lại là Ba, và Ba chỉ ở trong Một?

Bấy giờ Augustinô trông thấy em bé trai đang ngồi trên bãi biển, tay cầm một cái vỏ sò múc nước biển rồi đổ vào một cái lỗ nhỏ hang còng ở trên bãi cát. Vị Giám mục hỏi cậu bé:

- Này em, em đang làm gì vậy?

Cậu bé trả lời:

- Cháu đang cố gắng múc tất cả nước của đại dương này để đổ vào lỗ hang của con còng này

Vị Giám mục nói:

- Sao em lại làm một điều vô lý như thế? Em hãy nhìn xem: nước biển bao la như vậy thì làm sao cái lỗ hang còng nhỏ bé kia có thể chứa hết nước của nó được?

Nhưng Augustinô thật bất ngờ, khi nghe cậu bé đáp:

- Việc cháu làm đây cũng không vô lý bằng việc Ngài đang làm: làm sao ngài có thể dùng trí khôn nhỏ bé của ngài mà hiểu thấu được mầu nhiệm lớn lao vô cùng của Thiên Chúa?

Nói xong cậu bé biến mất.

Bấy giờ Giám mục Augustinô hiểu rằng Chúa đã sai thiên thần đến để giúp mình ý thức về sự giới hạn và bất lực khi phải đối diện với  những mầu nhiệm cao cả vô cùng của Thiên Chúa.

6. Thiên Chúa là tình yêu

Một bà kia không biết đến sự yêu thương của đồng lọai. Bà là một người không tôn giáo, nghèo khổ bị bỏ quên, bị ngược đãi, bị đối xử bất công lâu ngày đến nỗi bà thù ghét tất cả mọi người mà mọi người dường như nghịch cùng bà. Một lần kia, cha sở đến gặp bà để nói về tình yêu thương của Thiên Chúa, song bà chẳng hiểu tình yêu là gì cả. Bà bảo:

- Tôi không hiểu ông nói gì. Chưa hề có ai yêu thương tôi và đối với tôi, tôi cũng không hiểu yêu thương là gì cả.

Cha sở về lại nhà xứ mà lòng vẫn canh cánh ray rứt về câu chuyện với người phụ nữ nọ. Ngài cầu nguyện liền mấy ngày rồi chợt nảy ra một ý, ngài cho mời nhóm bạn trẻ Tông đồ trong xứ lại và kể cho các bạn ấy nghe đầu đuôi sự thể. Rồi ngài đề nghị mọi người hãy giúp cho bà ấy biết được tình yêu của Chúa bằng cách mỗi người trong nhóm sẽ lần lượt từng người đến thăm bà, chân thành tỏ cho bà biết trên đời này vẫn có người yêu thương, thăm viếng, an ủi và giúp đỡ bà.

Mấy tháng trôi qua, một ngày kia, khi cha sở lại thăm bà, bà xúc động đến rướm nước mắt:

- Thưa cha, bây giờ thì tôi đã hiểu, đã biết yêu thương là gì rồi, và bây giờ tôi đã có thể xin cha cho tôi được đón nhận tình yêu của Thiên Chúa.

7. Từ ngữ “ba ngôi”

Trong Kinh Thánh, không có từ ngữ “ba ngôi.” Từ ngữ “ba ngôi” là từ ngữ do các nhà thần học sáng tạo để diễn tả Thiên Chúa là Đấng “nguồn” của mọi sự, Đức Giêsu như Đấng luôn kết hiệp với Thiên Chúa, đến độ đồng nhất với Thiên Chúa, và được diễn tả là “Thiên Chúa nhập thể”, Thánh Thần như Đấng từ Cha và Con. Ba Ngôi Thiên Chúa không phải là ba thực tại (nếu là ba thực tại, nghĩa là, ba Chúa), nhưng chỉ là một thực tại, và là ba ngôi vị phân biệt rõ ràng: Cha không phải là Con hoặc Thánh Thần, Con không phải là Cha hoặc Thánh Thần, Thánh Thần không phải là Cha và Con. Tuy vậy Ba Ngôi là một với nhau, là một trong mọi sự, là một trong bản tính, là một trong ý muốn, là một trong quyền năng, là một trong hiện hữu.

Thiên Chúa Đấng là nguyên uỷ mọi loài, là nguồn của tất cả, là “Cha”, là Thiên Chúa Cha. Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, là Thiên Chúa nhập thể, là “Con”, là ngôi hai Thiên Chúa, là Lời Thiên Chúa. Thánh Thần là Thiên Chúa đang hiện diện nơi cung lòng con người, hướng dẫn con người trong mọi sự, dạy dỗ con người mọi điều, là Ngôi Ba Thiên Chúa.

Thiên Chúa Đấng Siêu Việt, Đấng vượt trên tất cả, Đấng “ngự trên trời”, đang hiện diện trong cung lòng mỗi người (Ga.14, 16.23). Ngay cả từ ngữ “ngự trên trời”, cũng là cách nói để chỉ Thiên Chúa là Đấng siêu việt mà con người không thể thấu đáo được. Đức Giêsu “lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa” nhưng Ngài đang “ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”

Ngôn từ là phương tiện để diễn tả về Thiên Chúa, phaỉ cố gắng để hiểu, và xin ơn Thánh Thần để hiểu Thiên Chúa hơn. Nói như vậy, không phải là phủ nhận giá trị của từ ngữ. Cũng phải dựa vào từ ngữ để hiểu điều Kinh Thánh, Giáo Hội, và các nhà thần học muốn diễn tả.

8. Chúa Ba ngôi như mặt trời

Một linh mục ngồi trong phi trường đợi chuyến bay. Một người đàn ông đến ngồi bên cạnh và đề cập về tôn giáo. Ông khoe rằng:

"Tôi không chấp nhận điều gì tôi không hiểu, vấn đề "Ba Chúa trong một Chúa" hay bất cứ điều gì tương tự, không ai có thể giảng nghĩa cho tôi, nên tôi không tin.”

Chỉ vào luồng sáng qua cửa sổ, linh mục hỏi: "Bạn có tin mặt trời không?" Kẻ hoài nghi trả lời: "Dĩ nhiên có chứ.” Linh mục nói tiếp: "Được, ánh sáng bạn thấy qua cửa sổ, là từ mặt trời cách đây 150 triệu km chiếu tới, sức nóng chúng ta cảm thấy phát xuất từ mặt trời và ánh sáng.

Chúa Ba Ngôi có phần tương tự như vậy: Mặt trời là Thiên Chúa Cha. Mặt trời chiếu sáng: Ánh sáng là Thiên Chúa Con. Từ mặt trời và ánh sáng tỏa ra sức nóng: Từ Chúa Cha và Chúa Con phát xuất Chúa Thánh Thần. Bạn có thể giải thích được mặt trời, ánh sáng và sức nóng được không?" Người hoài nghi im lặng.

9. Colombus sùng kính Chúa Ba Ngôi

Người ta kể rằng Christophe Colombus, người đã khám phá ra châu Mỹ vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ 15, có lòng sùng kính Chúa Ba Ngôi cách rất đặc biệt. Trước mọi hoạt động, ông đều kêu cầu Chúa Ba Ngôi, cũng như ông luôn khởi đầu những gì mình viết bằng dòng chữ: "Nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh.” Trong cuộc khởi hành thứ 3 của ông năm 1498, Christophe Colombus đã thề hứa sẽ dâng Chúa Ba Ngôi phần đất nào ông khám phá đầu tiên. Vì thế hòn đảo ông đặt chân đến đầu tiên trong cuộc hành trình thám hiểm tân thế giới ấy cho đến nay vẫn được gọi là "Trinidad", tức là Chúa Ba Ngôi.

Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta khi mừng lễ trọng kính Chúa Ba Ngôi, hay mỗi khi tuyên xưng mầu mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi cũng biết đưa mầu nhiệm ấy vào trong cuộc hằng ngày, bằng việc hết lòng yêu mến Chúa Ba Ngôi như Christophe Colombus đã từng yêu mến. Đồng thời biết hết tình hiệp nhất yêu thương và hết mình hy sinh phục vụ anh chị đồng loại ngay trong gia đình, gia tộc và trong cộng đoàn mà mình đang sống. Amen.

10. Tình yêu kỳ diệu

Ngày 22-5-2013, Nick Vujicic, chàng trai không chân không tay tới Việt Nam. Từ ngày 22 đến 26 tháng 5, Nick sẽ có 8 buổi diễn thuyết (45 phút/buổi) với các đối tượng khác nhau. Anh sẽ trình bày trước 25.000 sinh viên tại sân vận động Mỹ Đình (Hà Nội) từ 18g30 – 21g30 và ngày 23-5 trước 15.000 người tại sân vận động Thống Nhất, Sài Gòn từ 18g – 21g ngày 25-5. Anh đến Việt Nam để truyền cảm hứng cho các bạn trẻ về niềm tin tình yêu và nghị lực.

Nick Vujicic sinh ngày 4-12-1982 tại Melbourne, Australia và hiện đang sống tại Mỹ. Không may mắn như những đứa trẻ khác, Nick đã ra đời với cơ thể không lành lặn, thiếu chân, thiếu tay. Bố mẹ Nick gần như ngất đi sau khi nhìn thấy đứa con bé bỏng đáng thương của mình chào đời. Thế nhưng, họ luôn cố gắng giúp con trai có một cuộc sống bình thường như bao đứa trẻ khác.

Bằng nghị lực phi thường cùng phương châm sống: "Tật nguyền lớn nhất trong đời là khi mất hy vọng. Hãy tin tôi đi, mất hy vọng còn tồi tệ hơn nhiều so với chỉ mất chân tay", Nick Vujicic đã vươn lên để trở thành nhà diễn thuyết nổi tiếng thế giới. Anh là người "kỳ diệu nhất hành tinh.” Qua những bài diễn thuyết, Nick Vujicic luôn nói về niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa Tình Yêu đã cho anh nghị lực vươn lên để trở thành người có ích, sống vui tươi hạnh phúc.

11. Tình yêu nên một và chưa nên một

Có người môn đệ của nhà đạo sĩ kia muốn từ bỏ thế gian, nhưng anh ta quyến luyến gia đình và bảo rằng: "Vợ con tôi quá thương yêu tôi, nên họ không bằng lòng cho tôi thoát tục.”

Nghe nói thế, vị đạo sĩ muốn cho anh ta biết sự thật nên đã dạy cho anh một kỹ thuật giả chết. Sau một thời gian học thuần thục, vị đạo sĩ bảo anh hãy áp dụng kỹ thuật này khi về đến nhà. Và quả thật, anh ta đã thực hành bài học cách tuyệt hảo để nhắm mắt xuôi tay, nhưng vẫn còn nghe được mọi tiếng khóc than của vợ con và thân nhân, bạn bè.

Ngày hôm sau, vị đạo sĩ đến để phân ưu cùng thân quyến. Sau những giây phút tưởng niệm người quá cố, ông nghiêm nghị bảo thân nhân đang khóc thương người đã từ biệt cõi đời rằng: "Tôi có bí quyết để cứu sống anh ta, nếu có ai sẵn lòng chết thay cho anh.”

Anh chàng giả chết ngạc nhiên khi nghe mọi người trong gia đình nêu ra mọi lý do để biện minh là mình cần phải sống. Càng ngạc nhiên hơn khi anh nghe người vợ nghĩa thiết của mình tóm lược mọi lý lẽ trên bằng một lời quả quyết: "Tôi nghĩ không ai cần chết thay cho chồng tôi. Không có anh ta, chúng tôi vẫn có thể làm lụng để sống.”

12. Chính tôi đã gặp thấy Người.

Hồi ấy André Foissard là một sinh viên thuộc một gia đình vô tín ngưỡng. Thân phụ ông là người vô thần, cố tình để trên bàn học của con các sách báo có nội dung bài bác đạo Công giáo để con cũng đi heo sự vô tín của mình. Nhưng dù sống trong môi trường vô tín như thế, Foissard vẫn đạt tới đức tin nhờ ơn Chúa Thánh Thần.

Một hôm, anh đi vào nhà thờ Đức Bà ở Pa-ri để tìm một người bạn. Cặp mắt của anh tình cờ nhìn thấy tượng Chúa Giê su đang chịu đóng đanh trên cây thập giá. Lập tức anh đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa. Anh đã đứng dưới chân cây thập giá ấy một hồi lâu và những giọt nứơc mắt cứ tự nhiện lăn dài trên má. Bấy giờ anh cảm thấy mình như một đứa con đi lạc trong một thời gian dài, vừa tìm thấy người cha thân yêu.

Sau này anh đã thuật lại biến cố ấy trong một tác phẩm thời danh là "Quả thật có Thiên Chúa. Chính tôi đã gặp Ngài.”

13. Biết Chúa bằng đức tin

Nhà văn Nga, Tolstoy kể lại câu chuyện một đêm kia, ông đang cầu nguyện Thiên Chúa trong giường ngủ của ông trước một ảnh Đức Bà Đồng Trinh của Hy Lạp. Ngọn đèn đêm đang cháy. Kế đó ông ra ngoài ban công. Đêm tối đen như mực, và bầu trời đầy sao – sao mờ, sao sáng, một đám sao hỗn độn. Có một vẻ lóng lánh trên bầu trời, và trên địa cầu có những bóng đêm và hình dáng những cây khô. Ông nói: “Đó là một đêm kỳ diệu. Làm thế nào mà người ta không tin vào linh hồn bất tử khi người ta cảm thấy sự vĩ đại vô biên như thế trong bản thân mình? Tôi có thể chết. Và tôi nghe một tiếng trong nội tâm nói với tôi: Người đấy, ông hãy bái quì Người và thinh lặng.”

Người nào có cảm giác về Thiên Chúa và về sự hiện diện của Người trong đời sống, người ấy thật hạnh phúc. Đó là tài sản duy nhất đang có. Như một người đã nói: “Tôi không cần tin Ngài. Vấn đề đức tin không còn quan trọng nữa. Tôi biết chính điều ấy.”

Khi người ta biết một điều gì, thật sự biết một cách thâm sâu trong tâm hồn họ. Người ta không cần biện luận hoặc chứng minh điều đó. Họ biết đúng điều đó và như thế là đủ. Đức tin thật sự là một ơn của Thiên Chúa. Người ta tin với tâm hồn dù không biết tại sao hoặc cũng không tìm kiếm sự hiểu biết. Một sự chắc chắn thân thiết đổ đầy tâm hồn người ta cũng đủ.

14. Hình ảnh của Thiên Chúa

Công chúa Luise ngày kia bị một nữ tỳ trách móc. Không cầm nổi tức giận, công chúa bảo: Ngươi hãy nhớ, ta là con của đức vua. Nhưng người nữ tỳ trả lời: Còn tôi, tôi là con Thiên Chúa. Công chúa hiểu và về sau đã trở thành một vị nữ tu dòng Kín.

Qua bí tích Rửa Tội mọi người chúng ta đều được đóng ấn hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa đến cư ngụ trong linh hồn chúng ta. Hình anh đó phải lớn lên, lớn lên mãi, để mỗi ngày chúng ta càng trở nên giống Thiên Chúa trong tình yêu và trong sự thánh thiện. Yêu Chúa là tuân giữ những điều Chúa dạy. Ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong người ấy.

15. Bắt đầu biết Chúa

Isaac Newton là một nhà toán học và khoa học vĩ đại của mọi thời. Tuy nhiên về cuối đời ông, ông nói về những thành tựu của mình:

“Tôi không biết tôi xuất hiện với thế giới như thế nào, nhưng đối với tôi, tôi giống như một cậu bé chơi đàn trên bãi biển và thỉnh thoảng thích thú vì tìm thấy một viên sỏi bóng loáng hơn hoặc một vỏ sò xinh đẹp hơn thường gặp, trong khi đại dương bao la của chân lý chưa khám phá vẫn còn trải ra trước mắt tôi.”

Cả khi chúng ta nghĩ rằng chúng ta hiểu được mầu nhiệm Thiên Chúa, thì chúng ta chỉ mới bắt đầu. Chúng ta vẫn chỉ là những đứa bé chơi đùa trên bãi biển. Mầu nhiệm tăng lên thay vì giảm bớt với mỗi khám phá mới.

16. Con người tìm Chúa

Đức Hồng y Henri de Lubac đã nói:

“Con người tìm Chúa là một người bơi lội giữa đại dương. Mỗi lần tiến tới là đẩy lui một đợt sóng. Bơi lội giữa đại dương làm cho con người khiếp đảm lo sợ không tới bến.

“Nhưng Thiên Chúa vừa là bên bờ vừa là đại dương. Ai bơi lội trong đại dương là bơi lội trong Thiên Chúa. Hướng tới Chúa đã là ở trong Chúa, tìm Chúa gặp Chúa là hướng về Chúa. Không có sự tìm kiếm nào mà không phải phấn đấu, không gặp mâu thuẫn đau khổ. Nhưng chúng ta tin vào Thiên Chúa đang ở với chúng ta trong Đức Kitô và lôi kéo chúng ta  với sức mạnh Chúa Thánh Thần.”

17. Chúa Ba Ngôi ngự trong ta

Dù ta sống lẻ loi cô độc, dù mọi người bỏ ta, dù ta phải gian nan cơ cực, điều an ủi ta là hãy nhớ Chúa Ba Ngôi đang sống với ta, đang ngự trong tâm hồn ta.

Sau khi được trả tự do, mục sư Wurmbrand, người Roumanie, cho xuất bản cuốn “Mes prisons avec Dieu” (bản dịch sang Pháp văn). Mục sư, trong cuốn sách này, đã tả một số chi tiết:

Trong thời gian bị cầm tù, mục sư phải ở dưới một căn hầm tối tăm, lạnh lẽo. Cực hơn nữa là phải ăn uống và làm vệ sinh tại chỗ!

Các bạn tù với ông la lết trong đó, cuối tuần mới được phép quét dọn. Ông đã chịu nhiều cực hình. Có lần lính gác bắt ông ăn phân, ông xin phép được ăn phân của mình nhưng họ không chịu, bắt phải ăn phân người khác.

Suốt mười năm tù ngục như thế, mục sư vẫn kiên trì dũng cảm. Ông luôn luôn hăng hái phục vụ các bạn tù, động viên tinh thần họ, cư xử với mọi người trong tâm tình bác ái yêu thương.

Bí quyết của ông: “Tôi đang ngồi tù với Chúa.”

Ước gì trong cuộc sống chúng ta, mỗi khi gặp rủi ro, buồn khổ, bị bỏ rơi, bị hất hủi, bị dị nghị, bị hiểu lầm… hãy can đảm nói: “Tôi đang sống với Chúa. Có Chúa Ba Ngôi đang sống trong tôi. Thế là đủ cho tôi rồi.”

18. Con người là hình ảnh Thiên Chúa

Nhà văn Robert Louis Stevenson kể chuyện về một con tàu chở khách bị bão đánh giạt gần bờ, có nguy cơ bể tan vì lao vào bờ đá.

Giữa cảnh kinh hoàng đó, một hành khách băng qua con tàu. Dò dẫm trên boong, ông tìm đến phòng thuyền trưởng, và thấy một cảnh tượng đáng nhớ: Thuyền trưởng nắm chặt bánh lái, xoay con tàu từng chút một ra biển

... và mỉm cười với ông.

Người hành khách đó quay lại phòng của hành khách, và động viên mọi người đang co quắp vì sợ hãi: “Tôi đã thấy mặt thuyền trưởng, và ông ấy mỉm cười với tôi. Mọi sự đều tốt đẹp.”

Chỉ một nụ cười mà làm yên bão tố! Sức mạnh của nụ cười nằm ở tình yêu mà nó muốn diễn tả, một tình yêu liên kết mọi người nên một trong giông tố, thử thách. Đó chính là nét đẹp của con người được dựng nên theo hình ảnh Chúa, được chia sẻ hạnh phúc của chính Ngài.

Vâng, sự sống và hạnh phúc của Thiên Chúa nằm ngay trong bản tính yêu thương của Ngài.

19. Nhận biết nhờ đức tin

Năm 1945, tại nhà ga Verona, Italia, dân chúng đang chờ đợi các binh sĩ trở về từ các trại tập trung của Đức Quốc Xã. Chuyến xe lửa đầu tiên xuất hiện làm vang lên những tiếng reo vui tưởng chừng như không bao giờ chấm dứt.

Từ trên xe lửa những tấm thân tiều tuỵ bước xuống sân ga giữa những tiếng cười pha lẫn tiếng khóc của người thân. Cuối cùng một anh lính trẻ mò mẫm bước đi từng bước. Anh từ từ tiến về phía một người đàn bà già yếu, và chỉ đủ sức thốt lên tiếng ‘Mẹ’.

Hai mẹ con ôm chầm lấy nhau… Người mẹ xót xa:

- Làm sao một người mù như con lại có thể tìm đến mẹ?

- Thưa mẹ, con không nhìn thấy mẹ bằng đôi mắt, anh lính mù trả lời, nhưng trái tim con đã hướng dẫn con.

Sự khôn ngoan của Thiên Chúa đã nhập thể, sống giữa nhân loại để nên ánh sáng cho tôi: “Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối”, và ánh sáng đó đã nên hoàn hảo trong Thánh Thần được ban cho tôi: “Khi Thần Chân lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật.”

Còn gì vui hơn khi tôi cũng có thể thốt lên, cùng với thầy tiểu đệ Carlo Carretto: “Ba Ngôi trở nên một thực tại trong ta như vị khách của tâm hồn. Tại sao lại đi tìm Thiên Chúa ở bên ngoài các vì sao đang khi Ngài ở rất gần ta, bên trong ta?”         

20. Chúa ở bên ta

Khi Kathryn Koob bị bắt làm con tin ở Iran, đám đông giận dữ la hét bên ngoài phòng của cô hầu như suốt ngày. Một đêm nọ, cô giật mình thức giấc. Cô nói: “Tôi quay lại mong gặp một trong những người bảo vệ, nhưng không có ai ở đó cả.” Kathryn thêm rằng vì một lý do nào đó, cô chợt nhớ đến Chúa Thánh Thần. Từ lúc đó, dường như Chúa Thánh Thần hiện diện bên cô trong lao tù một cách đặc biệt. Cô nói: “Ngài dạy tôi biết yêu thương... và nhận ra những điều mới mẻ.”

Hiện tại, tôi ước ao Chúa Thánh Thần ban tặng cho tôi tình yêu và sự hiểu biết mới mẻ trong lĩnh vực nào của đời tôi?

Lạy Chúa Thánh Thần, Đấng Bào Chữa, xin hoàn thiện trong chúng con công trình Chúa Giêsu đã khởi sự. (ĐGH Gioan 23).

CNTN 9A -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1. truyện

CNTN 9B -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1. truyện

CNTN 9C -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1. truyện

THỨ HAI - DỤ NGÔN TÁ ĐIỀN SÁT NHÂN

Lời Chúa: Mc 12, 1-12

Khi ấy, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà nói với các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão rằng: "Có người trồng một vườn nho, rào dậu xung quanh, đào bồn đạp nho và xây một tháp, đoạn cho tá điền thuê vườn nho và trẩy đi phương xa.

"Ðến kỳ hạn, ông sai đầy tớ đến với tá điền thu phần hoa lợi vườn nho. Nhưng những người này bắt tên đầy tớ đánh đập và đuổi về tay không. Ông lại sai đầy tớ khác đến với họ. Người này cũng bị chúng đánh vào đầu và làm sỉ nhục. Nhưng người thứ ba thì bị chúng giết. Ông còn sai nhiều người khác nữa, nhưng kẻ thì bị chúng đánh đập, người thì bị chúng giết chết.

"Ông chỉ còn lại một cậu con trai yêu quý cuối cùng, ông cũng sai đến với họ, (vì) ông nghĩ rằng: "Chúng sẽ kiêng nể con trai ta." Nhưng những tá điền nói với nhau rằng: "Người thừa tự đây rồi, nào ta hãy giết nó và cơ nghiệp sẽ về ta." Ðoạn chúng bắt cậu giết đi và quăng xác ra ngoài vườn nho. Chủ vườn nho sẽ xử thế nào? Ông sẽ đến tiêu diệt bọn tá điền và giao vườn nho cho người khác. Các ông đã chẳng đọc đoạn Thánh Kinh này sao: "Tảng đá những người thợ xây loại ra, trở thành đá góc tường. Ðó là việc Chúa làm, thật lạ lùng trước mắt chúng ta."

Họ tìm bắt Người, nhưng họ lại sợ dân chúng. Vì họ đã quá hiểu Người nói dụ ngôn đó ám chỉ họ. Rồi họ bỏ Người mà đi.

TRUYỆN KỂ

1. Việc nhỏ lòng lớn

Một thầy dòng là thợ may cho cộng đoàn. Ngày kia, ông đau nặng và chờ chết. Ông nói với anh em: “Đưa cho tôi chìa khóa vào thiên đàng!"

Anh em nhìn nhau bối rối. Họ không biết ông muốn nói gì. Nhưng ông chỉ lặp lại lời đề nghị: “Đưa cho tôi chìa khóa vào thiên đàng." Cuối cùng, họ đưa cho ông chiếc kim may. Một nụ cười mãn nguyện làm gương mặt thầy già sáng lên khi liếc nhìn chiếc kim trong tay và nói: “Tôi làm việc mỗi ngày với chiếc kim này vì vinh quang Chúa. Bây giờ nó là chìa khóa mở cửa cho tôi vào thiên đàng."

2. Vua Julianus

Vua Julianus, hoàng đế cai trị nước Rôma từ năm 361 đến 363. Nhà vua là cháu hoàng đế Constantinô. Nhà vua là người Công giáo, nhưng lại không muốn sống đời hy sinh theo Chúa, không muốn cầu nguyện, không muốn tránh xa tội lỗi, nhưng chỉ muốn sống đời sống dâm đãng, bất công và không có lòng bác ái. Chính vì thế mà nhà vua đã bỏ đạo rồi lại còn quay sang bắt bớ Giáo Hội. Sau khi đã lên án xử tử cho Đức Giáo Hoàng, nhà vua còn hỏi nhạo báng rằng:

- Ông Giêsu thợ mộc đang làm gì ở xưởng thợ Nazareth?

Đức Giáo Hoàng đã khiêm tốn thưa:

- Tâu đức vua, Chúa Giêsu của tôi ở trên trời, Ngài đang đóng quan tài cho đức vua.

Chẳng bao lâu sau đó, vua Julianus đem quân đi giao chiến với quân Ba-Tư, nhà vua bị một mũi tên của quân thù ghim thẳng vào trái tim. Nhà vua đã tức giận kéo mũi tên đó ra, lao lên trời mà kêu rằng: “Hỡi ông Giêsu người xứ Nazareth, ông đã thắng tôi rồi." Đoạn nhà vua tắt thở.

3. Cho có phúc hơn nhận

Cặp vợ chồng nọ trúng số độc đắc. Bà con thân thuộc kéo đến nhận họ hàng, xin xỏ, vay mượn. Cuộc sống gia đình luôn bị xáo trộn. Ông chồng bàn với vợ dọn đi chỗ khác, đổi tên đổi họ không cho ai biết. Nhưng người vợ nói: dù đã đổi tên đổi họ nhưng nếu người ta biết mình có tiền thì người ta vẫn tìm đến quấy rầy. Người chồng bảo hãy dấu luôn số tiền và sống đạm bạc y như những người nghèo thực thụ. Hai người nhất trí làm y như vậy. Họ đến một nơi khác cất một túp lều tranh nghèo nàn, chôn dấu số tiền sống đạm bạc. Dần dần họ quên luôn mình có số tiền đó. Khi chết họ quên cả chối lại cho con cháu số tiền ấy. Thành ra trúng số mà cũng như không.

Nhận lãnh là để trao ban, có là để chia sẻ. Không trao ban, không chia sẻ thì ơn Chúa ban cũng giống như nén bạc bị chôn xuống đất. Nó không đem lại niềm vui mà chỉ gây nên lo lắng buồn phiền.

Lạy Chúa, xin cho con luôn nhớ rằng: “Cho thì có phúc hơn nhận lãnh." Xin cho con hưởng được niềm vui khi trao ban và tiêu hao bản thân con mỗi ngày.

4. Chống Thiên Chúa mua lấy thảm bại

Hoàng tử của vua Hieroboam nước Israel bị đau nặng, vua liền nói với hoàng hậu rằng:

- Bà hãy cải trang giả dạng, đừng để người ta nhận ra bà là hoàng hậu, rồi đem theo mười ổ bánh mì, với bánh sữa và bình mật ong, đi gấp lên Silô, gặp tiên tri Abia, để hỏi cho biết số phận hoàng tử con chúng ta thế nào, sống hay chết.

Lúc ấy tiên tri Abia chẳng còn trông thấy gì, hai mắt đã lòa vì quá già. Nhưng Chúa phán dạy tiên tri Abia rằng:

- Này hoàng hậu Hieroboam sẽ tới hỏi han về đứa con trai đang bị đau nặng; lúc đến, nàng sẽ cải trang thành một người khác.

Do đó, khi tiên tri Abia vừa nghe có tiếng người bước qua cửa, liền hỏi ngay:

- Hoàng hậu Hieroboam đó phải không? Xin mời vào, cớ sao phải giả dạng làm người khác làm gì? Tôi có trách nhiệm báo hung tin cho bà hôm nay. Bà cứ về thưa cùng vua Hieroboam, Thiên Chúa là Chúa dân 1srael phán như sau: “Ta đã tôn ngươi lên giữa dân chúng. Ta đã đặt ngươi làm thủ lãnh Israel dân Ta. Ta đã xẻ đôi nước của gia đình Đavid mà trao cho ngươi. Nhưng ngươi đã không bắt chước Đavid tôi tớ, là tuân theo các mệnh lệnh của Ta. Trái lại, ngươi đã gây ra nhiều tội ác, lại còn thờ các thần ngoại bang mà bỏ Ta. Vì thế, nay Ta giáng họa trên gia đình Hieroboam, Ta sẽ trừ diệt nhà Hieroboam. Các người thuộc gia đình Hieroboam, nếu chết trong thành sẽ bị chó ăn thịt; nếu chết ngoài đồng, sẽ bị chim trời rúc rỉa. Thôi bà đứng dậy đi về đi, và khi về, bà vừa đặt chân tới cửa thị trấn, thì con trai của bà sẽ chết.

Và quả đúng như thế. Hoàng hậu Hieroboam về đến Thesa, vừa bước qua ngưỡng cửa, thì hoàng tử con bà chết liền, đúng như lời tiên tri Abia đã nói (1Cv 14,1).

5. Trong nghịch cảnh mới thấy trung kiên

Sau khi vua Salomon chết vào năm 922 trước Công nguyên, một cuộc nội chiến đã chia 12 chi tộc Israel thành những quốc gia đối nghịch: Bắc và Nam. Năm 722 trước Công nguyên, quân Assyria và chiếm phương Bắc và bắt dân chúng đi đầy ở Assyria. Nhiều người Do thái bị phát lưu nhưng vẫn trung kiên với đức tin của họ. Gia đình Tôbia vẫn tin tưởng, ngay cả lúc họ bị những người lân cận chế giễu.

Tôi để người khác ảnh hưởng trong việc thực hành đức tin như thế nào? Bằng cách nào tôi vẫn trung kiên với đức tin?

“Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32).

6. Cái lợi trước mắt

Vào thời của Benjamin Franklin, những cái đinh hình móng ngựa rất phổ biến. Chẳng hạn, bạn có thể tìm thấy chúng nơi đám bụi cây bên đường. Hầu như mọi người đều nghĩ rằng những cái đinh này không có hoặc có rất ít giá trị. Để kịch tính hóa điều trái ngược đôi khi cũng có thực, Franklin đã viết bài thơ sau đây:

Vì muốn cái ốc mà mất cái móng.

Vì muốn cái móng mà mất con ngựa.

Vì muốn con ngựa mà mất kỵ sĩ.

Vì muốn kỵ sĩ mà phải thua cuộc.”

Bài thơ của Franklin và lời dạy của Chúa Giêsu mời gọi tôi tự hỏi: Có phải đôi khi tôi đã đối xử với những người xung quanh như những kẻ không có hoặc có ít giá trị? Ai là người trong số đó? Người ấy có giá trị nào không?

Người phàm chỉ trông thấy điều đó trước mắt, còn Thiên Chúa trông thấy điều ẩn đáy lòng (1Sm 16,7).

7. Bắt đầu từ điều nhỏ bé

Ý tưởng Kinh thánh về hòa bình không chỉ là vắng bóng chiến tranh, mà còn là sự hiện diện của mối liên hệ đúng đắn với Thiên Chúa. Đôi khi ta quên rằng hòa bình bắt đầu từ tâm hồn con người. Một câu ngạn ngữ Trung Quốc đã giải thích lý do tại sao: “Nếu có bình an trong tâm hồn, sẽ có vẻ đẹp nơi con người. Nếu có vẻ đẹp nơi con người, sẽ có hòa bình trong gia đình. Nếu gia đình thuận hòa, quốc gia sẽ trật tự. Nếu quốc gia trật tự, thế giới sẽ bình an.”

Mối quan hệ giữa tôi và Chúa đã thay đổi ra sao trong năm qua? Đâu là nhân tố đứa đến tình trạng này? Vì sao?

Đạt được bình an trong tâm hồn và quy tụ được nhiều người quanh bạn, bạn sẽ tìm gặp được ơn cứu độ (Thánh Seraphim).

THỨ BA - BỔN PHẬN TÍN HỮU VÀ CÔNG DÂN

Lời Chúa: Mc. 12, 13-17

Khi ấy, người ta sai mấy người thuộc nhóm biệt phái và đảng Hêrôđê đến Chúa Giêsu để lập mưu bắt lỗi Người trong lời nói. Họ đến thưa Người rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật không vị nể ai, vì Thầy chẳng xem diện mạo, một giảng dạy đường lối Thiên Chúa cách rất ngay thẳng. Vậy chúng tôi có nên nộp thuế cho Cêsarê không? Chúng tôi phải nộp hay là không?"

Nhưng Người biết họ giả hình, nên bảo rằng: "Sao các ông lại thử Ta? Hãy đưa Ta xem một đồng tiền." Họ đưa cho Người một đồng tiền và Người hỏi: "Hình và ký hiệu này là của ai?" Họ thưa: "Của Cêsarê."

Người liền bảo họ: "Vậy thì của Cêsarê, hãy trả cho Cêsarê; của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa." Và họ rất đỗi kinh ngạc về Người.

TRUYỆN KỂ

1. Công dân và tín hữu

Vua Henry VIII nước Anh đã kết hôn hợp thức với bà Catherine d’Aragon, nhưng ông xin Tòa Thánh Rôma hủy bỏ cuộc hôn nhân đó. Tòa Thánh đã từ chối. Henry liền tự mình giải quyết vấn đề và tái kết hôn. Thế là ông ta ra lệnh cho bạn bè và các chức sắc ký vào một văn bản tuyên bố đồng ý nhìn nhận hành động của ông là đứng đắn. Nhiều bạn bè của More đã ký vào, nhưng More thì từ chối. Henry yêu cầu More ký vào, nếu không sẽ bị bắt giam và xử tội tạo phản theo luật nhà nước. More vẫn khăng khăng từ chối. Ngài bị giằng co giữa hai bổn phận: Một đối với Chúa, một đối với Tổ quốc. Khi chúng xung đột nhau, thì More không còn chọn lựa nào ngoài sự trung tín với luật Chúa. (M. Link, Giảng lễ Chúa Nhật, năm A, tr. 305).

2. Có trả đủ không?

Ông Sam Jones là một nhà truyền đạo trứ danh bên Mỹ kể:

Ngày kia, có tín đồ than thở với ông rằng:

- Thưa ông, tôi đóng góp cho Hội thánh nặng quá!

- Bao nhiêu một năm? Ông Jones hỏi.

- Năm đồng một năm.

- Thế ông tin Chúa đã bao lâu?

- Đã bốn năm nay.

- Trước khi tin Chúa ông làm gì?

- Tôi nghiện rượu.

- Mỗi năm ông uống rượu hết bao nhiêu tiền?

- Chừng 250 đồng Mỹ kim.

- Khi ấy ông có đất ruộng gì không?

- Tôi phải mướn đất, cày bừa với một con bò.

- Bây giờ ông có gì không?

- Tôi có một khu ruộng tốt và một đôi ngựa cày.

Bấy giờ, ông Jones mới nghiêm nghị trách rằng:

- Trước đây, ông cho ma quỉ mỗi năm 250 đồng, để được cày ruộng thuê với một con bò, mà nay Đức Chúa Trời đã cứu ông, nay ông chỉ dâng cho Ngài năm đồng mỗi năm, để được cày ruộng riêng của mình với một đôi ngựa. Đúng ông là người bội bạc từ đầu đến bàn chân!

Vâng! Tất cả là hồng ân Chúa ban và phải trả lẽ với Chúa về những hồng ân Người uỷ thác.

3. Không thích nghe sự thật

Một hôm, vua Vũ Đế nhà Hán nói với các quan rằng:

- Ta xem trong sách tướng có nói, người ta nhân trung dài một tấc thì sống lâu một trăm tuổi.

Đông Phương Sóc đứng bên phì cười. Các quan bắt lỗi là vô phép.

Đông Phương Sóc cất mũ, tạ rằng:

- Muôn tâu bệ hạ, kẻ hạ thần không dám cười bệ hạ, chỉ cười ông Bành Tổ mặt dài mà thôi.

 Vua hỏi:

- Sao lại cười ông Bành Tổ?

 Đông Phương Sóc nói:

- Tục truyền ông Bành Tổ sống tám trăm tuổi. Nếu quả thực như câu trong sách tướng bệ hạ nói thì nhân trung ông dài tám tấc, mà nhân trung dài tám tẩc thì cái mặt ông ta dễ phải dài đến một trượng.

Vua Vũ Đế nghe nói bật cười tha tội cho.

Hãy coi chừng kẻo chúng ta cũng vấp phải chứng giả dối, đối xử với nhau theo kiểu những lời nói đầu môi chóp lưỡi, những lời khen ngợi không thành thực, những câu nói gài bẫy hại người.

4. Thuế đền thờ

Việc nộp thuế hằng năm cho Đền thờ Jêrusalem là một luật buộc cho tất cả những người Do Thái, phái nam từ hai mươi tuổi trở lên phải nộp thuế, cả khi người đó sinh sống ngoài lãnh thổ Israel và số tiền phải trả tương đương với số lương của hai ngày làm việc.

Thói quen đóng thuế là vào tháng ba trước khi mừng lễ Vượt Qua. Chúa Giêsu, với tư cách là con Thiên Chúa, thì Ngài phải được miễn nộp thuế Đền thờ. Vì theo luật Rôma đang có hiệu lực thời đó thì những thành phần của gia đình nhà vua, không phải nộp thuế. Tuy nhiên, để khỏi gây ra gương mù gương xấu, để khỏi làm gai mắt họ thì Chúa Giêsu đã nộp thuế. Cách hành xử của Chúa có thể là một bài học thiết thực cho mỗi người. Chúa Giêsu hành xử không theo tiêu chuẩn công bằng mà là bác ái, để khỏi gây ra gương mù gương xấu cho anh em. Chúa tuân giữ cả những điều nhỏ mà thật ra Chúa không buộc phải giữ.

5. Dám sống theo sự thật

Đạo diễn Trần Văn Thuỷ trong cuốn tự truyện “Chuyện nghề của Thủy”, nhận định: “Một xã hội gồm những con người vô đạo, không biết sợ cái gì, tin vào cái gì, là một xã hội cực kỳ nguy hiểm.” Nguy hiểm vì những con người vô đạo ấy dám làm mọi điều, kể cả giả dối, để thỏa mãn sự vô đạo của mình. Chính sự giả dối đã làm cho con người không còn tin vào bất cứ điều gì nữa, thậm chí không còn tin vào nhau. Họ không chỉ giả dối với nhau mà còn giả dối với Thiên Chúa, chối bỏ sự hiện diện của Ngài trong chính họ. Trong một xã hội như thế, sự giả dối vây quanh, chen vào tận ngõ ngách tâm hồn, sản sinh hết loại giả dối này đến loại giả dối khác. Đó là biểu hiện của sự sa sút đạo đức và sự thống trị của ma quỷ, vì ma quỷ là “cha của sự giả dối” (Ga 8,44). Chúa Giêsu muốn lột trần mặt nạ giả dối của con người: “Tại sao các ngươi lại thử tôi,” để mỗi người nhận rõ khuôn mặt thật của mình, khuôn mặt của con Thiên Chúa và tâm lòng giống “hình ảnh Thiên Chúa." Ai thuộc về sự thật thì thuộc về Chúa.

6. Sống trung thực

Câu hỏi mà những kẻ chống đối Chúa Giêsu đặt ra cốt là để gài bẫy Ngài. Nếu Ngài trả lời là nên nộp thuế, thì Ngài sẽ làm phật lòng dân chúng. Còn nếu Ngài trả lời là không nên, thì Ngài sẽ bị tố cáo với người Rôma. Chúa Giêsu trả lời cho ác ý của họ bằng cách xin một đồng tiền La mã. Có đồng tiền La mã tức là thừa nhận sự ràng buộc của Đế quốc. Điều này gây ra cho dân chúng cái ấn tượng rằng Chúa Giêsu không có một đồng tiền La mã nào.

Tôi đã trung thực và thẳng thắn như thế nào trong sự giao tiếp với người khác?

Một con người trung thực là một tác phẩm cao quý nhất của Thiên Chúa (ĐGH. Alexander).

THỨ TƯ - NGƯỜI CHẾT SỐNG LẠI

Lời Chúa: Mc 12, 18-27

Khi ấy, có ít người phái Sađốc đến cùng Chúa Giêsu; phái này không tin có sự sống lại và họ hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, luật Môsê đã truyền cho chúng tôi thế này: Nếu ai có anh em chết đi, để lại một người vợ không con, thì hãy cưới lấy người vợ goá đó để gây dòng dõi cho anh em mình. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ rồi chết không con. Người thứ hai lấy người vợ goá và cũng chết không con, và người thứ ba cũng vậy, và cả bảy người không ai có con. Sau cùng người đàn bà ấy cũng chết. Vậy ngày sống lại, khi họ cùng sống lại, thì người đàn bà đó sẽ là vợ của người nào? Vì cả bảy anh em đã cưới người đó làm vợ."

Giêsu trả lời rằng: "Các ông không hiểu biết Kinh Thánh, cũng chẳng hiểu biết quyền phép của Thiên Chúa, như vậy các ông chẳng lầm lắm sao? Bởi khi người chết sống lại, thì không lấy vợ lấy chồng, nhưng sống như các thiên thần ở trên trời.

Còn về sự kẻ chết sống lại, nào các ông đã chẳng đọc trong sách Môsê chỗ nói về bụi gai, lời Thiên Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ta là Chúa Abraham, Chúa Isaac và Chúa Giacóp." Người không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống. Vậy các ông thật lầm lạc."

TRUYỆN KỂ

1. Sự sống đời sau như thế nào?

Có hai luồng tư tưởng sai lầm. Không tin vào đời sau. Hoặc tin vào đời sau nhưng cho rằng đời sau cũng giống như đời này. Hôm nay Chúa Giê-su bài bác cả hai lập trường sai lầm ấy.

Có đời sau. Vì tại bụi gai cháy đỏ Thiên Chúa nói với Mô-sê: “Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, và Thiên Chúa của Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống." Thiên Chúa đang sống nên mới có thể truyện trò với Mô-sê. Và các tổ phụ cũng đang sống bên nên Thiên Chúa mới khẳng định Người là Thiên Chúa của họ.

Nhưng đời sau không còn giống như đời này. Chúa Giê-su minh định: “Quả vậy, khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời."

2. Thiên Chúa của kẻ sống

Đại tá David Marcus bị chết trong trận chiến ở Israel tháng 6 năm 1948. Trong bóp (ví) của ông, người ta thấy một tấm thẻ ghi lại những lời thi vị hóa cái chết như sau:

“Tôi đang đứng trên bờ biển. Bên cạnh tôi con tàu đang trương buồm trắng phất phơ trong gió sớm hướng về đại dương. Con tàu trông thật đẹp và mạnh mẽ. Tôi đứng nhìn theo nó cho đến khi nó chỉ còn là một dải mây trắng nơi trời và nước hòa lẫn với nhau. Lúc đó có người đứng cạnh tôi thốt lên: “Kìa, con tàu biến mất rồi!” - Biến đi đâu? - Biến khỏi tầm mắt tôi, thế thôi! Nó vẫn là cột buồm, là vỏ tàu rộng lớn như lúc nó rời cạnh tôi và cũng vẫn đủ khả năng mang hàng hóa tươi sống đến nơi đã định. Kích thước con tàu chỉ giảm đi trong ánh nhìn của tôi chứ không phải nơi chính nó. Và ngay lúc đó tiếng người cạnh tôi vang lên: “Kìa! Nó biến mất rồi” thì lại có nhiều tiếng khác ở chân trời đằng kia vang lên đầy hoan hỉ: “Kìa! Nó đến rồi” Và đó chính là lúc chết (M. Link).

Đối với Thiên Chúa mọi người đều luôn sống và sự chết trần gian chỉ là một sự chuyển tiếp… sang sự sống mới, tươi hơn, sáng hơn.

3. Suy nghĩ của một bào thai

Một bác sĩ sản khoa nọ đã viết nên một câu chuyện rất hay.

Chuyện kể rằng: một lần nọ, bác sĩ ấy đã thử nói chuyện với một bào thai. Bác sĩ nói:

- Bào thai ơi, thời gian trong bụng mẹ chỉ là giai đoạn sửa soạn, cuộc đời thực sự sẽ đến sau này trên trần thế. Đó là một cuộc đời mà ngươi chưa biết và không thể tưởng tượng ra được.

Nghe vậy, bào thai phản ứng:

- Thôi ông đừng có nói chuyện mê tín dị đoan. Cuộc đời trong bụng mẹ tôi là cuộc đời duy nhất mà tôi biết được lúc này, ngoài ra không còn cuộc đời nào khác. Một cuộc sống ở nơi nào khác chỉ là điều bịa đặt của những kẻ cuồng tín.

Nhưng, suy nghĩ một hồi, bào thai tự thắc mắc:

- À, nhưng mà tôi sẽ có mắt ở trên mặt. Để làm chi nhỉ? Ở đây đâu có gì để nhìn? Tôi sẽ có chân, nhưng tôi không có đủ chỗ để duỗi người ra, vậy có chân để làm gì đây? Và tại sao tôi lại phải có tay? Có tay để cứ khoanh mãi như thế này mãi ư? Tay sẽ làm phiền tôi và mẹ tôi. Sự tăng trưởng của tôi trong lòng mẹ sẽ thật vô nghĩa, nếu như sau này không có một cuộc đời với ánh sáng, màu sắc và nhiều điều khác nữa để tôi nhìn ngắm. Không gian mà cuộc đời khác của tôi sẽ sống, chắc là vĩ đại lắm nhỉ? Chắc là tôi phải đi thật nhiều, nên tôi mới cần có đôi chân? Chắc là tôi phải làm việc nhiều và chiến đấu cam go lắm, nên tôi mới cần có đôi tay? Bác sĩ nói đúng đấy! Chắc chắn phải có một cuộc đời khác nữa trên trần thế ở bên ngoài bụng mẹ tôi.

Chắc chắn phải có một cuộc đời khác nữa trên trần thế ở bên ngoài bụng mẹ tôi! Vâng, chúng ta đang sống trong trần gian và niềm tin Chúa muốn dạy ta hôm nay là: Chắc chắn có một cuộc đời khác nữa sau cuộc sống trên trần thế này.

4. Tại sao tôi sống?

Ngày nay, cũng chẳng khác gì ngày xưa. Cũng có một số người không tin vào sự tồn tại của chính mình ở đời sau. Họ đang sống như chỉ có đời này. Họ đang hưởng thụ không biết mệt mỏi. Họ sống như chỉ có một mình mình, không cần biết đến ai, không cần để ý xem tương lai mình sẽ ra sao… Thậm chí có lúc họ còn cho những người tin vào đời sống mai hậu là ngu dại.

Thế nhưng, thực tế có như vậy hay không thì mỗi người phải tự mình suy xét lại.

Người ta đã đọc thấy trên mộ của một người ở nghĩa trang: “Đây là nấm mồ của một người dại dột, đã sống mà không biết tại sao mình sống."

Nhà triết học Diogenes ngày xưa đã viết: “Trong tất cả mọi sự, hãy nhìn đến cùng đích cuộc đời của mình."

5. Giá trị của cuộc sống

Một giáo viên yêu cầu mỗi học sinh lấy kéo và cắt một mẫu từ bức tranh được che bằng một tờ giấy. Cô giáo nói: “Các em hãy đem về nhà nhưng không được nhìn trộm, và Chúa nhật tới hãy đem lại đây.” Tuần sau, các học sinh trở lại để ráp bức tranh lại. Mọi người đều bỡ ngỡ về có những khoảng trống nơi bức tranh. Thì ra, một cô bé đã quên mang mẩu tranh của mình.

Cô giáo ôm cô bé đang khóc vì quên mang mẩu tranh và nói: “Amy, cô rất mừng vì em đã quên, bởi vì điều đó dạy chúng ta một điều tốt hơn là cô đã dự định: đó là mỗi người chúng ta đều quan trọng như thế nào trong chương trình của Chúa. Mỗi người chúng ta được mời gọi trở thành nhân chứng cho Chúa theo cách của mình, và nếu chúng ta quên đi, chương trình của Chúa sẽ mất đẹp, như bức tranh này vậy.”

Chứng từ của tôi quan trọng đối với ai?

Mười thiên tài âm nhạc không thể trình diễn được một bản giao hưởng. Nó cần phải có cả một dàn nhạc.

6. Ngoài sự hiểu biết của con người

Bộ phim “The Heart in a lonely Hunter” có cảnh một người điếc hỏi một cô gái âm nhạc là như thế nào. Cô gái đứng trước mặt người này để anh ta có thể thấy được đôi môi cô cử động. Cô cũng sử dụng điệu bộ bằng đôi tay, nhưng chẳng có tác dụng gì. Cuối cùng, cả hai cùng cười và bỏ cuộc. Chúa Giêsu cũng gặp phải một vấn đề tương tự khi Ngài dạy cho con người về thiên đàng. Họ không thể tưởng thượng được nó như thế nào.

Tôi hình dung thiên đàng ra sao?

Điều mắt chẳng hề thấy. tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Ngài (1Cr 2,9).

7. Những sự trên trời

Báo Newsweek năm 96 có kể trường hợp các thiếu niên cảm tử thuộc một tổ chức khủng bố Hồi giáo ở Trung Đông được hứa hẹn: nếu ôm bom xông vào đám đông thì sẽ được lên thẳng thiên đàng, nơi chảy sữa và mật, có 70 cô trinh nữ xinh đẹp hầu hạ và có 72 vé vào cửa thiên đàng để phân phối cho thân nhân. Rõ ràng một thiên đàng như vậy xa lạ với Kitô giáo chúng ta. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói cho ta biết thế giới mai sau khác hẳn thế giới hiện tại; thật sai lầm khi dùng những hình ảnh của thế giới này để áp dụng cho thế giới mai sau. Đức Giêsu chỉ nói rằng: “Khi ấy người ta sẽ giống các thiên thần trên trời.”

Đích điểm của đời bạn là hạnh phúc vĩnh cửu, là sự sống đời đời cùng với Thiên Chúa. Để đạt được đích điểm cuộc đời ấy, bạn phải theo sự hướng dẫn của Đức Giêsu, Đấng từ trời xuống, Ngài vừa chỉ lối, vừa cầm tay dắt bạn đi đến đích.

THỨ NĂM - GIỚI RĂN TRỌNG NHẤT

Lời Chúa: Mc 12, 28b-34

Khi ấy, có người trong nhóm Luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng: "Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?"

Chúa Giêsu đáp: "Giới răn trọng nhất chính là: "Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi." Còn đây là giới răn thứ hai: "Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi." Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó."

Luật sĩ thưa Người: "Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất, và ngoài Người, chẳng có Chúa nào khác. Yêu mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh."

Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu." Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì nữa.

TRUYỆN KỂ

1. Yêu mến

Yêu mến là hạnh phúc. Ai cũng muốn. Cũng cần. Có rất nhiều. Nhưng sao cứ đau khổ. Đó là vì chưa biết yêu. Hôm nay Chúa dậy ta điều cơ bản nhất. Hãy yêu. Nhưng phải có thứ tự. Và có phương pháp.

Thứ tự. Phải yêu mến Thiên Chúa trên hết. Vì Thiên Chúa là tất cả. Là sự sống. Là tình yêu. Là hạnh phúc. Không có Thiên Chúa thì không có ta. Yêu sự sống của mình là điều rất tự nhiên. Và cần thiết. Chúa làm mọi cách cho ta được hạnh phúc. Yêu hạnh phúc của mình là quá chính xác. Thiên Chúa là Tình Yêu. Yêu trong Tình Yêu là đi đúng đường.

Phương pháp. Phải yêu mến “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực người." Yêu sự sống, tình yêu và hạnh phúc. Đương nhiên phải làm hết sức lực, hết linh hồn, hết trí khôn. Thì mới mong đạt đến mục đích.

Thứ tự tiếp theo. Yêu tha nhân. Phương pháp. Như chính mình. Ai thực hiện sẽ đạt tới hạnh phúc.

2. Mối quan tâm hàng đầu

Văn hào Léon Tolstoi có kể câu chuyện như sau:

Hai người đàn ông nọ quyết tâm hành hương về Yêrusalem để dự Ðại lễ Phục Sinh ở đó. Một người đặt mối quan tâm hàng đầu là đích điểm của cuộc hành trình, vì thế ông cương quyết không dừng lại bất cứ nơi đâu, và trong suốt cuộc hành trình, tâm trí ông chỉ nghĩ đến thành thánh. Còn người thứ hai, trên mọi nẻo đường, nhìn thấy nhiều người cần được giúp đỡ và ông đã tốn nhiều tiền bạc và thời giờ, đến nỗi ông không đến được đích điểm như đã dự định; thế nhưng, một cái gì đó từ Thiên Chúa đến với tâm hồn ông mà người hành hương kia không nhận được, cũng như một cái gì đó từ Thiên Chúa qua đôi tay ông, ảnh hưởng cuộc đời của nhiều người mà người kia không có được qua những nghi lễ ông tham dự tại thành thánh kéo dài suốt mùa Phục Sinh.

Mối quan tâm hàng đầu là một danh từ thời đại. Nhà nước đặt mối quan tâm hàng đầu vào chính sách kinh tế; một học sinh đặt mối quan tâm hàng đầu vào đèn sách để thi đậu vào đại học... Ðâu là mối quan tâm hàng đầu của tôi, đó là câu hỏi hợp lý có thể áp dụng vào mọi sinh hoạt cuộc sống, nhưng thiết nghĩ quan trọng hơn cả là câu hỏi: Ðâu là mối quan tâm hàng đầu của tôi đối với cuộc sống của một người Kitô hữu?

3. Cốt yếu của Luật Chúa

Mẹ Têrêsa Calcutta kể: “Hôm ấy, một người lạ mặt đến nhà dòng, ông thấy một sơ vừa đem về một người hấp hối, nằm bên ống cống, mình mẩy dòi bọ rất hôi thối. Thế mà, sơ rất nương nhẹ nhặt từng con bọ với vẻ mặt vui tươi, thanh thản đầy thương mến...

Rồi người lạ đến gặp tôi nói: “Thưa mẹ, khi con đến đây với lòng đầy căm hờn của một người vô tín ngưỡng. Nhưng bây giờ con ra về với một tâm hồn hoàn toàn đổi mới. Con bắt đầu tin Chúa, bởi vì con đã chứng kiến tình yêu của Chúa được diễn tả một cách cụ thể qua hành động và qua cách Sơ ấy đối xử với người hấp hối bẩn thỉu kia. Bây giờ con tin thật Chúa là tình yêu. Không có tình yêu Chúa trong tâm hồn, không khi nào có đủ nghị lực để yêu tha nhân được."

4. Yêu người bằng việc làm

 Một vị đạo sĩ kia kể rằng: ngày nọ, ông từ núi cao đầy băng tuyết đi xuống với một người Tây Tạng. Dọc đường ông gặp một người ngã quỵ trên băng tuyết, ông nói với người Tây Tạng đồng hành:

- Chúng ta mau lại kia giúp đỡ người gặp nạn đó!

Nhưng người Tây Tạng trả lời:

- Không ai bắt buộc chúng ta phải giúp đỡ kẻ khác, khi mà chính mạng sống của chính chúng ta cũng đang bị giá lạnh đe dọa.

Nhưng vị đạo sĩ trả lời:

- Dù chúng ta có phải chết vì lạnh đi nữa, thì chúng ta cũng chết vì đã giúp người khác, đó là điều vẫn tốt đẹp hơn.

Nói rồi vị đạo sĩ chạy lại vác người bị nạn lên vai và khệ nệ xuống núi, trong khi người Tây Tạng đã bỏ xuống trước từ nãy giờ. Đi được một quãng xa, vị đạo sĩ thấy người bạn đồng hành người Tây Tạng đang nằm dài trên tuyết bất động. Thì ra, anh ta mệt quá, ngồi nghỉ và bị lạnh cóng lúc nào không biết, còn vị đạo sĩ vì phải hết sức vác người bị nạn nên cơ thể nóng lên thêm, và do đó thoát chết lạnh.

Mẹ Têrêsa từng nói: “Hãy là hiện thân cho lòng nhân của Thượng Đế, bằng cách thể hiện trên nét mặt, trong ánh mắt, trong nụ cười và cả trong những lời chào nồng nhiệt của mình."

5. Yêu Chúa hết lòng

”Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa là Đức Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi” (Mc 12, 30)

Khi sinh thời Thánh Micae Hồ Đình Hy (1808-1858) là một giáo dân đạo đức có lòng bác ái, kính sợ Thiên Chúa và là một vị quan thanh liêm, chính trực, được thăng đến hàng Tam phẩm trông coi mọi việc trong đền vua.

Trong triều, những vị quan bị Ngài ngăn cản làm điều bất chính, đã tố cáo Ngài với vua Tự Đức về tội theo đạo Gia Tô. Vì thế, Ngài bị đày ải, đòn vọt đau đớn vì đức tin.

Có những vị quan quý mến đức độ của Ngài, khuyên Ngài giả vờ chối đạo rồi tiếp tục sống đạo; nhưng Hồ Đình Hy cương quyết từ chối. Ngài đã đổ máu đào chết vì Chúa tại An Hòa, Huế.

Chúa ơi, nhiều lần con đã tôn thờ sự sống trần gian hơn là tôn thờ một Chúa, Chúa của con. Xin cho con biết yêu mến Thiên Chúa và làm chứng cho Chúa trong mọi suy nghĩ, lời nói, việc làm của con.

6. Yêu người như chính mình

Một đôi vợ chồng nọ bán phở trên hè phố được một thời gian khá dài. Giá cả phải chăng cùng với nụ cười chân thành làm cho quán ăn của họ luôn tấp nập khách ra vào. Đến quán phở của họ nhiều lần, tôi phát hiện thấy sáng nào cũng có một cụ già ăn mặc rách rưới lặng lẽ đứng chờ ở một góc.

Nhìn thấy bà cụ đến, dù hai vợ chồng còn rất bận rộn với những việc đang dang dở, họ vẫn luôn mỉm cười nói với bà cụ:

- Bà chờ cháu một chút nhé, cháu sẽ làm ngay cho bà.

Một lát sau, vợ hoặc chồng họ nhanh nhẹn bỏ phở vào trong chiếc hộp giấy, múc nước phở bỏ vào trong túi “ny-lon”, buộc lại rồi đưa cho bà cụ, và luôn nhắc cụ cẩn thận kẻo bỏng tay. Bà cụ run rẩy đưa đôi tay gầy guộc ra nhận, rồi lặng lẽ quay người ra đi. Nhưng điều kỳ lạ là, dường như chưa lần nào tôi thấy bà cụ trả tiền.

Một hôm, vì không kìm nén nổi sự tò mò, tôi đã hỏi họ. Người vợ thở dài nói:

- Bà cụ ấy thật tội nghiệp, khó khăn lắm mới nuôi con cái khôn lớn. Vậy mà đến già lại không có chỗ nương tựa. Gia đình chúng tôi cũng không được dư giả gì. Giúp đỡ nhiều hơn thì chúng tôi không có khả năng, nhưng chỉ cần bà cụ đến là chúng tôi luôn đãi cụ một bát phở.

Trên nét mặt người phụ nữ trung niên ấy dường như lộ vẻ áy náy, dường như chị cảm thấy có lỗi khi chỉ giúp đỡ được bà cụ được như thế.

Tôi để ý và luôn nhận thấy vợ chồng họ đối xử lễ phép và tôn trọng bà cụ giống như những người khách hàng khác, không hề tỏ ra một chút coi thường hay ban ơn.

Sau này, trên phố xuất hiện khá nhiều quán phở, nhưng tôi chỉ thích đến quán phở của họ. Tôi thích ngồi trên chiếc ghế cũ kỹ, trong âm thanh náo nhiệt của đường phố, lặng lẽ nhìn hai vợ chồng họ chìa đôi bàn tay thô ráp, tặng cho một bà cụ còn nghèo túng hơn mình cả một tấm lòng yêu thương và nhân ái.

Bố thí cho người khác, có lẽ rất nhiều người dễ dàng làm được. Nhưng bố thí cho người khác với một thái độ chân thành và nhân ái, thì không phải ai cũng có thể làm được.

Mẹ Têrêsa từng nói: “Hãy là hiện thân cho lòng nhân ái của Thượng Đế bằng cách thể hiện trên nét mặt, trong ánh mắt, trong nụ cười và cả trong những lời chào nồng nhiệt của mình."

7. Maximilien Kolbe

Hồi Đệ nhị thế chiến, một trại tù của Đức Quốc xã có lệnh: “Các tù nhân có nhiệm vụ coi lẫn nhau. Nếu một tù nhân nào trốn trại, thì sẽ có 10 tù nhân khác thế mạng!”

Một buổi sáng kia, khi kiểm điểm các tù nhân, viên cai tù phát giác thiếu một người! Thế là tất cả các tù nhân hôm ấy phải đứng hàng giờ phơi nắng ngoài sân! Mãi đến chiều, người sĩ quan Đức có trách nhiệm nhà tù xuất hiện với bộ dạng giận dữ, tay chắp sau lưng, bước chân chậm rãi trên đôi giày bốt-đờ-xô nện trên nền đá nghe “cộp, cộp!” Mắt ông trừng trừng nhìn thẳng vào mặt từng người tù, thỉnh thoảng ông dừng lại chỉ vào một người và buông lời cộc lốc: “Mày phải thế mạng!” Cứ như thế ông đã chỉ đến người thứ 9, khi ông dừng lại người tù xấu số thứ 10, thì anh tù bật khóc nức nở! Trong số tù nhân có Linh mục Maximiliano Kolbe liền giơ tay xin phát biểu:

- Xin ông cho tôi được chết thay cho người này!

Viên sĩ quan quát:

- Con heo Ba Lan kia, mày có điên không?

Cha Maximiliano Kolbe ôn tồn đáp:

- Thưa không, tôi là Linh mục chỉ có một mình, anh này còn vợ con, cần được sống.

Trước sức mạnh của tình thương, viên sĩ quan đứng lặng người trong giây lát, rồi buông lời:

- Thuận.

Thế là cả 10 người “được chọn” bị đẩy vào hầm cho chết đói! Trong hầm, cha Maximiliano Kolbe luôn ca hát và cầu nguyện, cha đã cảm hóa được 9 người kia xin theo đạo. Sau một tháng người ta mở cửa ngục ra xem, thấy cha Maximiliano Kolbe vẫn sống bình an, và vui vẻ. Thấy vậy họ đã chích cho ngài mũi thuốc…!

Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã phong thánh cho ngài ngày 14-10-1982. Hôm đó gia đình anh tù được chết thay cũng hiện diện.

8. Trước hết hãy tìm kiếm

Trước lễ Giáng sinh, ĐGM Fénélon, một nhà giáo dục nổi danh, cho gọi ba người thợ đến làm cho xong việc sửa chữa trong lâu đài Cambrai. Một buổi chiều, khi phân phát quà Noel cho các gia nhân, ngài gọi ba người thợ đến phòng của ngài để có quà riêng cho họ. Ngài nói: “Trên bàn có ba đồng tiền vàng và ba cuốn sách đạo đức, mỗi người các anh có thể chọn một đồng tiền vàng hoặc một cuốn sách.”

Hai người đầu cầm lấy mỗi người một đồng tiền vàng và nói: “Tiền này giúp tôi trả tiền củi đốt cho lò sưởi mùa đông.” Người thứ ba ngập ngừng một chút rồi cầm lấy cuốn sách và nói: “Tôi có một bà mẹ già đã mù. Tôi sẽ đọc sách cho bà nghe trong những buổi chiều đông dài.”

Vị giám mục mỉm cười và nói với anh: “Anh hãy mở cuốn sách ra.”

Người thợ mở sách ra và thấy trong đó một bao thư chứa đựng đến ba đồng tiền vàng. Khi đó ĐGM Fénélon mới nói: “Các bạn, ai thích vàng hơn những gì có ích cho linh hồn mình thì đành phải bằng lòng với món quà nhỏ hơn, còn ai tìm kiếm của cải vĩnh cửu sẽ được hài lòng cả trong đời này nữa. Chúa Giêsu đã dạy điều đó khi nói: ‘Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho các ngươi” (Mt 6,33)

9. Hai thùng nước

Một người thường gánh nước từ giếng về nhà bằng hai cái thùng, một trong hai cái thùng bị thủng một lỗ nhỏ nên khi gánh về đến nhà thường chỉ còn một nửa. Cái thùng thủng cứ áy náy về điều đó.

Một hôm nó thưa với ông chủ: “Tôi hết sức xấu hổ mà nói lời xin lỗi ông!” Ông chủ ngạc nhiên hỏi nó: “Có gì mà xấu hổ?” Cái thùng buồn bã trả lời: “Cái lỗ thủng của tôi làm ông mất nhiều công vô ích”

Ông chủ ôn tồn nói: “Không đâu, cứ yên tâm đi. Khi mang nước về nhà, ngươi hãy chú ý xem luống hoa bên vệ đường nhé”

Dọc đường có luống hoa rực rỡ, chiếc thùng thấy vui hơn một lúc, nhưng về đến nhà thấy nước chỉ còn một nửa, nó lại áy náy: “Tôi xin lỗi ông!” Ông chủ mới nói: “Ơ hay, thế thì ngươi không thấy là hoa chỉ mọc ở một bên đường, phía của ngươi sao? Ta đã biết được cái lỗ thủng của ngươi và ta đã tận dụng nó. Ta đã gieo những hạt giống trên vệ đường phía bên ngươi. Nhiều năm qua ngươi không ngờ mình đã làm cho chúng tươi tốt. Ta đã hái những đoá hoa để trang hoàng cho căn nhà. Nếu không có ngươi, nhà của ta làm sao duyên dáng như thế này!”

Các thánh cũng là con người với nhiều yếu đuối và hèn mọn, nhưng giới luật yêu thương đã làm trổ sinh bao đoá hoa trên những con đường các ngài đi qua. Đâu là câu trả lời của tôi trước lời Chúa mời gọi?

10. Yêu mến là bằng chứng của lòng tin

Đức cha Luis A. Tagle, tổng giám mục Manila, ngay trước khi nhận tước vị hồng y vào tháng 11/2012, đã nhận định trong một cuộc phỏng vấn rằng một đức tin vững mạnh vào Thiên Chúa sẽ giúp củng cố những mối tương quan nhân loại được tốt đẹp; vì chỉ khi có niềm tin vào Thiên Chúa, người ta mới có thể thực sự tin tưởng lẫn nhau, và điều đó giúp xây dựng một xã hội lành mạnh. Nhận định trên chính là cách diễn giải lời Chúa Giêsu nói hôm nay: quy chiếu toàn thể lề luật vào giới răn trọng nhất là Mến Chúa Yêu Người. Quả thật, lòng nhân ái có đặt nền tảng trên niềm tin vào Thiên Chúa mới phong phú vững bền và không sợ bị biến chất thành một thứ tình yêu vụ lợi, thực dụng, giả dối.

Người ta nói nhiều về tình yêu, nhưng thực tế giữa người với người vẫn đầy những đố kỵ, ghen ghét, thế giới vẫn còn chiến tranh, hận thù. Phải chăng vì chúng ta vẫn mắc chứng phân liệt thiêng liêng: chia tách tình Chúa ra khỏi tình người? Có khi người ta cho rằng không cần có Thượng Đế, con người vẫn có thể tạo ra một xã hội tốt đẹp; nhưng kinh nghiệm cho thấy chưa bao giờ người ta thành công về điều đó. Tệ hại hơn có khi người ta nhân danh Thượng Đế để lìa bỏ nhau, thậm chí tiêu diệt nhau. Bạn nhớ Chúa dạy tình yêu chỉ có một, Mến Chúa Yêu Người chỉ là một giới răn, giới răn trọng nhất!

11. Cầu thang của lòng bác ái

Chúng ta sống trong một thời đại khuyến khích lòng ích kỷ. Trong các cuộc bầu cử, các ứng viên vào cơ quan công quyền thường gợi ý cho những người có quyền bỏ phiếu: “Ngày hôm nay, tôi có khá hơn bốn năm trước đây không?” Các ứng viên với câu hỏi chú tâm đến tính ích kỷ cá nhân này được sự ủng hộ nhiều hơn nơi những người có quyền bỏ phiếu: “Có phải xã hội hôm nay tốt hơn trước kia không?”

Trong Kinh Thánh, chúng ta thấy Thiên Chúa quan tâm sâu sắc về cách đối xử của chúng ta với nhau. Ơn gọi của chúng ta là yêu thương. Và, bất chấp mọi việc, chúng ta được tác động bởi lòng vị tha. Chúng ta đau nỗi đau của người khác. Chúng ta cảm thấy mình được triển nở khi làm điều tốt lành, hơn cả khi tạo ra nhiều vật chất và tiền bạc. Tính quảng đại đem lại phần thưởng của chính nó. Niềm vui tuôn trào từ bên trong chúng ta khi chúng ta làm một việc tốt lành vì người khác. Nhưng khi chúng ta từ chối làm một việc tốt lành cho người khác, thì một nỗi buồn xa lạ chụp xuống chúng ta.

Maimonides là một vị thầy Do thái nổi tiếng sống ở Tây Ban Nha vào thế kỷ thứ mười hai. Ông nhấn mạnh tám cấp độ, hay tám bước trong cái gọi là cầu thang của bác ái.

1. Cấp độ thứ nhất và thấp nhất là bố thí, nhưng với sự miễn cưỡng và hối tiếc. Đó là sự bố thí của bàn tay mà không phải là sự bố thí của tấm lòng.

2. Cấp độ thứ hai là sẵn lòng bố thí, nhưng không tương xứng với cảnh khốn cùng của nạn nhân.

3. Cấp độ thứ ba là sẵn lòng bố thí và tương xứng với nhu cầu, nhưng không đến mức mà chúng ta được yêu cầu.

4. Cấp độ thứ tư là sẵn lòng bố thí, cả khi không được yêu cầu, nhưng đặt nó vào tay của người nghèo, bằng cách ấy gợi ra trong lòng người ấy một cảm xúc đau đớn và hổ thẹn.

5. Cấp độ thứ năm là bố thí cách nào cho người nghèo khổ nhận của bố thí mà không biết đến người cho và người cho cũng không biết họ.

6. Cấp độ thứ sáu là biết người nhận của bố thí của chúng ta trong lúc không để cho họ biết chúng ta.

7. Cấp độ thứ bảy là cho của bố thí cách nào để người cho không biết người nhận, hoặc người nhận không biết người cho.

8. Cấp độ thứ tám và là cách đáng khen nhất. Đó là thực hiện trước việc bác ái bằng cách ngăn ngừa sự nghèo khổ. Điều này được thực hiện bằng cách cho một món quà hoặc cho vay một món tiền để người nghèo có khả năng tự lập, hoặc bằng cách dạy cho họ buôn bán hoặc dẫn dắt họ vào con đường kinh doanh, để họ có thể kiếm sống một cách lương thiện, và không bị bắt buộc phải dùng giải pháp đáng buồn là ngửa tay xin bố thí.

“Một trong những điều tốt nhất có thể xảy ra cho một người là làm điều tốt mà không ai biết và chỉ bị phát hiện bởi sự tình cờ." (Mark Twain)

12. Đạo yêu nhau

Trong cuốn “Tản Mạn Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam” (nxb Tôn Giáo, 2008), cha Đỗ Quang Chính ghi lại bức thư của linh mục thừa sai Gaspar d’Amaral viết ngày 31/12/1632, trong đó cho biết “lương dân gọi bổn đạo là những người theo đạo yêu nhau” (tr. 61). Thật tuyệt vời! Đạo Chúa dạy đúng là đạo yêu nhau. Chúa Giêsu cho biết mọi giới răn của Ngài được tóm lại trong giới răn “mến Chúa, yêu người.” Gần 400 năm trước đây, các Kitô hữu cha ông chúng ta, đã sống trọn vẹn giới răn yêu thương của Chúa và trở thành chứng nhân mạnh mẽ đầy thuyết phục trước anh em lương dân.

Tiếc thay, 400 năm sau, không còn nghe thấy “lương dân gọi bổn đạo là những người theo đạo yêu nhau” nữa. Vì sao và từ bao giờ danh xưng ấy bị mai một vậy?

13. Tình yêu và quà tặng

Một người mẹ nói với cô con gái nhỏ của bà về tình yêu Thiên Chúa.

Cô bé bối rối: “Mẹ ơi, làm sao con có thể yêu Chúa? Con chưa bao giờ thấy Người."

Ít ngày sau, cô bé nhận được một bưu kiện, trong đó có một cuốn sách hình rất đẹp, trên trang bìa cuốn sách đề hàng chữ: “Tặng Maria thân yêu, Dì Rosa."

Bé Maria chưa bao giờ gặp dì Rosa và họ sống xa nhau hàng ngàn cây số. Khi Maria nhìn những bức hình đẹp trong cuốn sách, em nói với mẹ: “Mẹ ơi, con yêu dì Rosa quá! Dì cho con cuốn sách đẹp này."

Người mẹ phản đối: “Nhưng con chưa bao giờ thấy dì Rosa mà."

Maria trả lời: “Con biết, nhưng con yêu dì, vì dì gởi cho con cuốn sách đẹp này."

Nhiều người trong chúng ta có thể thắc mắc: “Làm sao chúng ta có thể yêu Chúa nếu chưa bao giờ chúng ta thấy Người?" Tất cả chúng ta đã nhận quà của Chúa, những món quà này dẫn chúng ta yêu Đấng đã gởi tới.

14. Lời Chúa cho riêng tôi

Khi đang ở đỉnh cao của nghề nghiệp, ca sĩ Marjorie Lawrence đã bị đánh gục vì bệnh bại liệt và đã trở thành kẻ tàn tật vô dụng. Trước khi thảm kịch này xảy ra, Mary và chồng của cô đều vô tín ngưỡng. Nhưng giờ đây, cả hai tìm về Kinh thánh để múc lấy can đảm và sức mạnh. Lần đầu tiên trong đời, họ khám phá ra sức mạnh của Lời Chúa. Mary nói: “Có những đoạn Kinh thánh được viết cho riêng tôi.”

Đoạn Kinh Thánh hay câu truyện nào trong Kinh Thánh dường như được viết riêng cho tôi theo nghĩa nó bảo đảm với tôi rằng Kinh thánh là Lời Chúa?

Trái tim tôi luôn mách bảo với tôi rằng Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô là một thực tại thần linh. (Daniel Webster)

15. Điểm phân biệt giữa ngày và đêm

Một giáo trưởng Do thái hỏi môn đệ rằng “Con có thể nói cho ta biết khi nào đêm hết và ngày bắt đầu không?” Người môn đệ suy nghĩ một lát, rồi trả lời: “Có thể là khi ngài thấy một con thú từ xa và có thể nói đó là con cừu hay con chó?” Vị giáo trưởng nói: “Không phải, hãy suy nghĩ nữa đi.” Người môn đệ suy nghĩ nhưng đành chịu. Lúc đó, vị giáo trưởng nói: “Đó là khi con có thể nhìn vào mặt người khác và nhận ra người ấy là anh em hay chị em của con. Nếu con không thể thấy như thế, thì vẫn còn là đêm tối.”

Cái gì thường ngăn cản tôi nhận ra một người anh em hay chị em nơi khuôn mặt người khác?

Chúng ta phải học chung sống với nhau như anh em hoặc cùng chết với nhau như những kẻ khờ dại. (Martin Luther King)

16. Tình yêu và tha thứ

Một bệnh nhân cảm thấy bị sốc khi thấy quyển Kinh thánh trên bàn giấy của bác sĩ Smiley Blanton, và hỏi: “Ngài là một bác sĩ tâm lý mà cũng đọc Kinh Thánh sao?” Ông trả lời: “Tôi không những đọc mà còn nghiên cứu Kinh thánh nữa.” Ông nói thêm: “Nếu người ta chỉ nghiền ngẫm các sứ điệp của Kinh thánh, có lẽ nhiều bác sĩ tâm lý như chúng tôi phải đóng cửa và đi câu cá thôi.” Để làm sáng tỏ ý tưởng này, bác sĩ Blanton nói rằng nếu bệnh nhân bị dày vò bởi mặc cảm tội lỗi suy nghĩ về dụ ngôn người con hoang đàng, họ có thể được chữa lành trong vòng một đêm. Tại sao? Vì lòng tha thứ của Thiên Chúa lớn lao hơn bất cứ tội lỗi nào mà chúng ta đã phạm.

Điều gì tôi thấy khó tha thứ cho bản thân mình?

Ta sẽ làm cho tội các ngươi tan ra như là khói, lỗi của ngươi biến mất tựu áng mây. Hãy trở lại cùng Ta. (Is 44,22)

17. Tình yêu phải cụ thể và thực tế

Jeanne Jugan là một phụ nữ 47 tuổi được ưu chuộng ở Pháp năm 1839. Một hôm, bà quyết định đón về nhà mình một phụ nữ mù đứng tuổi. Jeanne hầu như không nghĩ rằng hành động yêu thương thực tế này thúc đẩy một cộng đoàn nữ tu, những người dâng hiến đời mình để noi theo điều bà đã làm. Ngày nay, Tu hội “Những nữ tu bé nhỏ của người nghèo” chia sẻ tình yêu và nhà cửa cho những người đứng tuổi ở 30 quốc gia. Tình yêu thương thực tế của họ hàng ngày đã ôm ấp hàng triệu người.

Bằng cách nào tình yêu hằng ngày của tôi có thể thành thực tế, đặc biệt đối với người già cả?

Thước đo tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa là tình yêu của chúng ta đối với nhau.

THỨ SÁU - CON VUA ÐAVÍT?

Lời Chúa: Mc 12, 35-37

Khi ấy, Chúa Giêsu cất tiếng giảng dạy trong đền thờ rằng: "Sao các luật sĩ lại nói Ðấng Cứu Thế là con vua Ðavít? Vì chính Ðavít được Chúa Thánh Thần soi sáng đã nói: Thiên Chúa đã phán cùng Chúa tôi rằng: "Con hãy ngồi bên hữu Cha, cho đến khi Cha đặt các kẻ thù con làm bệ dưới chân con." Chính Ðavít gọi Người là Chúa, thì sao Người lại có thể là Con Ðavít được?" Và đám dân chúng thích thú nghe Người nói.

TRUYỆN KỂ

1. Đức Giêsu thật là Con Thiên Chúa

Ngày quân đội Liên Xô vào chiếm thủ đô Hungary, một viên sĩ quan trẻ dáng vẻ hung hãn, đầy tự đắc của kẻ chiến thắng đã đến gặp vị linh mục. Viên sĩ quan chỉ cây thánh giá treo trên tường và nói: “Ông biết không? Cái đó là sự dối trá của các linh mục bầy ra, để làm mê hoặc đám dân nghèo, và giúp những kẻ giàu dễ dàng kìm hãm họ trong cảnh ngu dốt. Bây giờ chỉ có ông với tôi. Ông hãy thú nhận với tôi rằng ông không bao giờ tin ông Giêsu là Con Thiên Chúa."

Vị linh mục cười và từ tốn trả lời: “Ông bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật."

Viên sĩ quan quát lớn: “Ông đừng có lừa dối tôi, cũng đừng diễu cợt tôi!” Nói thế rồi anh ta rút súng ra, chĩa vào đầu linh mục và hăm dọa: “Nếu ông không nhận rằng đó chỉ là sự dối trá, thì tôi bắn ông chết."

Vị linh mục điềm tĩnh trả lời: “Tôi không thể nói như thế, vì không đúng. Đức Giêsu thật là Con Thiên Chúa."

Nghe thế, viên sĩ quan vất súng xuống nền nhà, chạy đến ôm chầm lấy vị linh mục. Anh ta vừa khóc vừa nói: “Đúng thế! Tôi cũng tin như vậy. Nhưng tôi không thể tin rằng có người dám chết vì đức tin, cho tới hôm nay. Tôi xin cám ơn ngài. Ngài đã củng cố lòng tin của tôi. Ngài đã chứng minh cho tôi thấy rằng vẫn có người dám chết cho Đức Kitô."

2. Đức Giêsu là ai?

Nằm nghỉ dưới bóng cây táo, hợt cơn gió thoảng đung đưa làm rơi quả táo chín đỏ. Newton tự hỏi: “Ồ sao quả táo không bay lên mà lại rơi xuống?” Khám phá thú vị này đã là tiền đề cho những suy nghĩ về luật trọng lực của Newton.

Đức Giêsu cũng làm đám đông thích thú khi mở ra cho họ khám phá một điều tưởng chừng tất quen thuộc. Đức Kitô không chỉ thuộc dòng dõi Đavid, nhưng Ngài còn là Thiên Chúa của Đavid nữa.

Lối đặt vấn đề của Chúa Giêsu thật hấp dẫn và đầy thuyết phục. Ngài làm tôi ngạc nhiên và thúc đẩy tôi phải khám phá. Một lần nữa, tôi thốt lên: “Đức Giêsu Ngài là ai?”

Lạy Chúa Giêsu, con đã nhận Ngài là Chúa của con. Con đã nghe biết nhiều về Ngài. Xin cho con đừng dừng ở lại những giáo thuyết, nhưng mỗi ngày biết khám phá ra khuôn mặt của Đức Kitô sống động, mới lạ qua Lời Ngài và trong cuộc sống” (Hosanna).

3. Chúa trời đất

Chua Giêsu không phủ nhận Đấng Mêsia là hậu duệ của vua Đavít. Đúng hơn, Ngài khẳng định Đấng Mêsia vượt qua nguồn gốc loài người. Từ ngữ có nghĩa là Chúa trong tiếng Hy Lạp mà Chúa Giêsu sử dụng là kurios. Người Hy Lạp dành từ này cho Thiên Chúa. Nói khác đi, Đấng Mêsia không chỉ là con vua Đavít, nhưng còn là con Thiên Chúa. Ngài không chỉ là hậu duệ của Đavít, nhưng còn là Chúa của Đavít.

Cái gì thuyết phục tôi rằng Chúa Giêsu là “Chúa” của trời và đất?

Tôi khao khát Chúa Kitô. Ngài là tất cả của tôi (Charles Spurgeon). 

4. Mầu nhiệm Thiên Chúa

Triết gia Gabriel Marcel đã nói: Con người là một huyền nhiệm; mỗi người đều có chiều sâu kín ẩn mà không ai có thể đạt thấu. Chúng ta vẫn hằng ngày ở gần bên nhau, nhìn thấy nhau nhưng chưa hẳn chúng ta có thể nói mình đã thấu hiểu về nhau. Người Do Thái ngày xưa chỉ nhìn thấy Chúa là một con người, con bác thợ ở Na-da-rét. Một người con cháu hoàng tộc lại được tổ phụ Đa-vít gọi là Đấng Ki-tô, là Chúa Thượng, đó quả là một mê cung cho những trí óc suy tư theo cái nhìn tự nhiên của nhân loại. Vua Đa-vít được Chúa Thánh Thần soi sáng mới có thể cảm nhận được mầu nhiệm Thiên Chúa, để nhận ra Đấng Ki-tô mà Dân Chúa mong đợi chính là Con Thiên Chúa sinh ra làm người trong dòng tộc mình.

Phần chúng ta, nhờ đức tin, chúng ta đã biết Chúa Giê-su là Thiên Chúa thật và là người thật. Nhưng Thiên Chúa còn mời gọi chúng ta khám phá và tin nhận Chúa nhiều hơn, để qua mọi biến cố trong dòng đời biến chuyển ta thấy được Chúa đang điều khiển mọi sự. Nhờ việc kính trọng thông cảm và lắng nghe nơi những con người bé nhỏ thấp hèn, ta gặp được Chúa.

Trong bổn phận âm thầm nhỏ bé hằng ngày như việc nhà, học hành, cầu nguyện, nghỉ ngơi, ta khám phá Chúa luôn đồng hành với ta.

THỨ BẢY - ÐỒNG XU BÀ GÓA NGHÈO

Lời Chúa: Mc 12, 38-44

Khi ấy, Chúa Giêsu nói cùng dân chúng trong khi giảng dạy rằng: "Các ngươi hãy coi chừng bọn luật sĩ. Họ thích đi lại trong bộ áo thụng, ưa được bái chào ngoài công trường, chiếm những ghế nhất trong hội đường và trong đám tiệc. Họ giả bộ đọc những kinh dài để nuốt hết tài sản của các bà goá: Họ sẽ bị kết án nghiêm nhặt hơn."

Chúa Giêsu ngồi đối diện với hòm tiền, quan sát dân chúng bỏ tiền vào hòm, và có lắm người giàu bỏ nhiều tiền.

Chợt có một bà goá nghèo đến bỏ hai đồng tiền là một phần tư xu. Người liền gọi các môn đệ và bảo: "Thầy nói thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bá goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống."

TRUYỆN KỂ

1. Tín thác vào Chúa

Một văn sĩ Mỹ kể lại giai thoại như sau:

Hôm đó là Chúa Nhật, ông đi tham dự buổi nói chuyện của một nhà truyền giáo. Nhà truyền giáo nói năng rất hùng hồn, những nỗi thống khổ của người dân bản xứ mà nhà truyền giáo kể lại đã khiến cử tọa cảm động sâu xa. Văn sĩ kể về mình thế này: Khi nhà truyền giáo kêu gọi sự giúp đỡ, tôi định bỏ vào giỏ một đôla; nhưng giọng nói của ông cảm động đến độ tôi định tăng lên năm đôla, và ngay cả ký một chi phiếu. Thế rồi, nhà truyền giáo tiếp tục phóng đại nỗi thống khổ của người bản xứ; ông cứ nói mãi, nói mãi, đến nỗi mọi người không còn muốn nghe nữa. Tự nhiên tôi có ý định rút lại việc ký ngân phiếu, rồi từ từ giảm xuống năm rồi còn một đôla, và cuối cùng khi nhà truyền giáo chấm dứt bài thuyết trình và cái giỏ tiền được chuyền đến tay tôi, thì tôi chỉ bỏ vào đó có mười xu.

Giai thoại trên đây có thể gợi cho chúng ta thái độ cầu nguyện của các luật sĩ và biệt phái mà Chúa Giêsu đã không ngừng lên án. Họ nới rộng thẻ kinh và làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ.

2. Trái tim biết trao tặng

Một tác giả nào đó đã nói: “Trái tim không phải là một món hàng để mua bán, mà là một món quà để trao tặng." Một trái tim không biết trao tặng là một trái tim chết.

Sự giàu có và nghèo nàn có thể phân biệt con người thành giai cấp thứ bậc. Có người tiền rừng bạc biển, có người nghèo rớt mồng tơi. Nhưng mỗi người chỉ có một quả tim, và quả tim đó lẽ ra phải giống nhau, bởi vì người ta không thể cần lường được quả tim. Do đó, quà tặng xuất phát từ quả tim đều vô giá. Giá trị của món quà không hệ tại ở số lượng tiền của, mà ở quả tim được gói ghém trong món quà. Chúa Giêsu hôm nay đã nhìn thấy quả tim mà bà goá đã gói ghém trong món quà ấy.

3. Vật khinh nhưng hình trọng

Tổng thống Wilson Hoa Kỳ người đã đưa nước Mỹ can thiệp vào thế chiến thứ nhất, và là người rất trân trọng đối với những kỷ niệm nhỏ bé của mình.

Một lần kia, ông và phu nhân cùng nhiều nhân vật cao cấp trong chính phủ dừng lại tại một thành phố tiểu bang Montana. Cảnh sát làm hàng rào không cho bất cứ ai đến gần vị tổng thống. Thế nhưng không hiểu thế nào mà có hai cậu bé đã chui lọt hàng rào, để đến gần chỗ ngồi của tổng thống. Hai cậu bé ngắm nhìn một cách say sưa vị nguyên thủ quốc gia.

Một cậu đã tặng cho ông lá cờ nhỏ bé của nước Mỹ đang cầm trong tay. Cảnh sát cố tình ngăn cản, nhưng bà Wilson, phu nhân của tổng thống đã đưa tay đón lấy lá cờ và nhiệt tình cám ơn em. Cậu bé kia cảm thấy buồn vì không có gì dâng tặng tổng thống. Em cố moi trong túi quần và cuối cùng lôi ra được một đồng xu nhỏ, em sung sướng vô cùng, vì chính tổng thống đã chìa tay đón nhận món quà của em.

Năm năm sau, tổng thống Wilson qua đời. Khi bà Wilson xếp lại các đồ quen thuộc của chồng, mở chiếc ví, bà nhận ra ngay đồng xu nhỏ mà cậu bé đã tặng chồng bà cách đây 5 năm. Ông Wilson quí đồng xu nhỏ ấy đến độ đi đâu ông cũng mang nó trong mình.

4. Giá trị của tấm lòng và quần áo

Một người được mời đến dự buổi tiệc lớn. Ông vui vẻ nhận lời và khoác bộ áo xấu nhất. Đến nơi, không ai thèm cười và để ý đến ông. Ông quay về khoác bộ áo đẹp có đính kim cương và các hạt nút bằng vàng. Trong khi ấy yến tiệc vẫn tiếp tục. Ông quay trở lại, lập tức bao lời mời đẹp nhất, danh dự nhất đều dành cho ông. Thịt béo rượu thơm lúc này được bày ra trước mắt ông và ông ngồi chỗ nhất.

Ông liền đứng lên, cởi áo khoác lên ghế, đoạn lấy thức ăn đưa cho cái  áo và nói: "Mày ăn uống đi, người ta mời mày đó!" Mọi người hết sức ngạc nhiên, nhưng đều hiểu ý ông này. Ông muốn nói với mọi người rằng giá trị của con người không ở bộ áo xúng xính hay cái mã bên ngoài nhưng đó là tấm lòng bên trong; không ở những cái mình có nhưng ở cái mình là. Vậy tôi là ai?

Lời Chúa hôm nay đối với tôi không chỉ là cảnh giác nhưng còn là lời tra vấn.

Lạy Chúa, xin giúp con biết con; xin giúp con biết nhìn nhận phẩm giá của những người quanh con. Nhờ đó, con yêu thương nhiều hơn. (Hosanna)

5. Mua bán ân xá

Tháng 10 năm 1517, theo lời mời của Đức cha Albert Brandenburg, cha J. Tetzel (1465-1519) dòng Đa Minh mở tuần giảng Ân xá tại Juterbog gần Wittenberg, nơi Linh mục Luther dạy học. Đức cha Albert là Tổng Giám mục thành Magdeburg, trước đã kiêm nhiệm địa phận Halberstadt, nay lại nhận thêm Giáo tỉnh Mainz. Để tổ chức Tòa Giám mục mới, Đức cha Albert đã xin Tòa Thánh cho giảng Ân xá trong ba địa phận của ngài để quyên tiền. Số tiền thu được một nửa dành cho Tòa Tổng Giám mục, còn một nửa sẽ dâng cúng vào việc kiến thiết Đền Thờ thánh Phêrô ở La Mã. Công việc được trao cho các cha dòng Đa Minh, đứng đầu là cha Tetzel. Lối trình bày của nhà giảng thuyết này đã làm cho nhiều người tưởng Ân xá có thể mua bằng tiền! (Trích Lịch Sử Hội Thánh Công Giáo tập II, tr 12, của LM Bùi Đức Sinh. )

Dĩ nhiên là còn nhiều nguyên nhân khác khiến phát sinh đạo Tin Lành, nhưng đó cũng là một lối sống Đạo đã làm cớ cho cha Luther chống đối Hội Thánh và đưa đến ly giáo, thì thật là quá đau lòng!

Chúng ta biết nay có nhiều giáo xứ được vị chủ chăn khuyến khích mua bằng Ân Nhân, để khi qua đời họ được đặc ân này, ân sủng nọ, thì cũng chẳng khác gì việc làm của Đức cha Albert như trên.

Có một bà cụ nọ, nghe cha bán Ân Nhân… bà về đòi đứa con gái hai cây vàng đã mượn của mẹ thời gian trước để làm ăn buôn bán nuôi con. Vì mẹ đòi gấp nên chị phải đi vay mượn để đưa mẹ mua bằng Ân Nhân, thời gian sau lãi mẹ đẻ lãi con ngày càng chồng chất suốt 10 năm …! Còn mẹ thì có bằng Ân Nhân khắc tên trên bảng vàng gắn cuối Nhà thờ!?

Liệu bà mẹ đó khi nhắm mắt xuôi tay có dám khoe với Chúa về bằng Ân Nhân đó không? Chắc Chúa sẽ bảo: Ngươi đã được danh đời này, thì mất phúc đời sau (x Mt 6,16t). Nếu bà ta thưa với Chúa: Cha xứ con dạy làm như vậy! … Nếu Chúa bảo: Gọi cha xứ của ngươi ra đây!…

6. Đồng tiền nhỏ bé

Trong một buổi xử tử, tên tử tội được dẫn đến trước mặt Đức vua trước khi bị treo cổ. Đức vua nói: “Ta cho ngươi một ân huệ cuối cùng. Vậy, trước khi chết ngươi ước muốn gì?” Tên tử tội rút trong túi ra 1 đồng tiền, trao cho nhà vua và nói: “Tâu Đức vua, khi tôi còn nhỏ, cha tôi đã cho tôi đồng tiền này và nói tôi hãy giữ lấy, vì nó sẽ đem lại may mắn cho tôi. Nhưng cho đến giờ phút cuối cùng của đời tôi đây, đồng tiền khốn khổ này cũng chưa giúp ích gì cho tôi. Xin Đức vua hãy cho người trao nó lại cho cha tôi và nói tôi vĩnh biệt ông ta.”

Vừa cầm lấy đồng tiền, nhà vua kêu lên mừng rỡ: “Ồ! đây chính là đồng tiền cổ quý giá mà Ta đã nhọc công tìm kiếm bấy lâu nay. Nó chính là đồng tiền cuối cùng trong bộ sưu tập tiền cổ quý giá của Ta. Vậy, ngươi có muốn dâng hiến đồng tiền này cho Ta để đổi lấy mạng sống của ngươi không?” Tên tử tội đồng ý và án tử hình được hủy bỏ.

Cũng vậy, có những đồng tiền nhỏ bé tầm thường trong cuộc sống, chẳng được ai quan tâm, nhưng lại được Thiên Chúa qúi trọng.

7. Mẹ lạnh cho con ấm

Một đêm Giáng sinh, một thiếu phụ mang thai lần bước đến nhà một người bạn để nhờ giúp đỡ. Con đường ngắn dẫn đến nhà người bạn có một mương sâu với cây cầu bắc ngang. Người thiếu phụ trẻ bỗng trượt chân chúi về phía trước, cơn đau đẻ quặn lên trong chị. Chị hiểu rằng mình không thể đi xa hơn được nữa. Chị bò người phía bên dưới cầu.

Giữa những chân cầu, chị đã đơn độc sinh ra một bé trai.

Không có gì ngoài những chiếc áo bông dày đang mặc, chị lần lượt gỡ bỏ áo quần và quấn quanh mình đứa con bé xíu, vòng từng vòng giống như một cái kén. Thế rồi tìm thấy được một miếng bao tải, chị trùm vào người và nằm lả bên cạnh con.

Sáng hôm sau, một phụ nữ lái xe đến gần chiếc cầu, chiếc xe bỗng chết máy. Bước ra khỏi xe và băng qua cầu, bà nghe một tiếng khóc yếu ớt bên dưới. Bà chui xuống cầu để tìm. Nơi đó bà thấy một đứa bé nhỏ xíu, đói lả nhưng vẫn còn ấm, còn người mẹ đã chết cóng.

Bà đem đưa bé về nuôi dưỡng. Khi lớn lên, cậu bé thường hay đòi bà kể lại câu chuyện đã tìm thấy mình. Vào sinh nhật lần thứ 12, dịp lễ Giáng sinh, cậu bé nhờ mẹ nuôi đưa đến mộ người mẹ tội nghiệp.

Khi đến nơi, cậu bé bảo mẹ nuôi đợi ở xa trong lúc cậu cầu nguyện. Cậu đứng cạnh ngôi mộ, cúi đầu và khóc. Thế rồi cậu bắt đầu cởi quần áo. Bà sững sờ thấy cậu lần lượt cởi bỏ tất cả và đặt lên mộ mẹ mình.

"Chắc là cậu sẽ không cởi bỏ tất cả - bà mẹ nuôi nghĩ - cậu sẽ lạnh cóng!" Song cậu bé đã tháo bỏ tất cả và đứng run rẩy.

Bà mẹ nuôi đi đến bên cạnh và bảo cậu bé mặc đồ trở lại. Bà nghe cậu gọi người mẹ mà cậu chưa bao giờ biết mặt: “Mẹ đã lạnh hơn con lúc này, phải không mẹ?” Và cậu bé oà khóc.

Giới hạn của tình yêu là yêu không giới hạn, yêu cho đến cùng.

8. Những đồng tiền vàng

Chuyện xảy ra ở Mỹ đã lâu: Một cô bé đang đứng thổn thức bên ngoài một ngôi nhà thờ nhỏ. “Con không vào được lớp học Chúa Nhật,” cô bé nức nở nói với vị linh mục vừa đi tới. Nhìn bộ dạng tiều tụy, nhếch nhác của cô bé, vị linh mục hiểu ngay ra nguyên do, và cầm tay cô bé dẫn vào trong, tìm cho cô một chỗ trong lớp học. Khoảng 2 năm sau đó, cô bé đã chết trong một chung cư tồi tàn. Cha mẹ của cô bé gọi điện cho vị linh mục - người đã trở nên rất thân thiết với cô bé - đến chủ trì lễ tang và trao cho ngài chiếc ví rách nát của cô bé, trong đó có 57 xu và một tờ giấy nhàu nát với dòng chữ nguệch ngoạc: “Để giúp đỡ cho nhiều đứa trẻ hơn có thể đến Lớp học ngày Chúa Nhật.” Đó là kết quả 2 năm trời dành dụm hy sinh vô vị lợi của cô bé: những đồng xu chứa đựng cả tấm lòng vàng; vì thế, cũng như “đồng tiền bà goá,” cô đã “bỏ vào thùng tiền nhiều hơn ai hết.”

9. Trại tâm thần Trọng Đức

Thật khó tưởng tượng Trại tâm thần Trọng Đức (Lâm Đồng) với hơn 260 bệnh nhân lại do ba gia đình giáo dân nhà họ Trần thành lập! Nhìn thấy cảnh những người tâm thần K’Hor, Lạch, Mạ, và cả người Kinh, bị bỏ rơi giữa rừng, các gia đình này đã quyết định đưa họ về nhà, nuôi dưỡng, giúp họ cầu nguyện, và lắng nghe Lời Chúa. Không ngờ liệu pháp này giúp họ giảm cơn điên và giúp hồi sinh nhiều cuộc đời, kể cả các trường hợp y khoa đã bó tay. Tựa như bà góa trong Tin Mừng, những tông đồ giáo dân này đã dâng cho Chúa tất cả những gì mình có trong tay: tài sản, thời giờ, công sức, và trọn con tim để Chúa sử dụng. Từ sự đóng góp quảng đại này, Thiên Chúa đã làm nhiều điều kỳ diệu vượt quá sức tưởng tượng của con người.

10. Nghèo mà giàu tình yêu

Trong bài diễn văn nhận giải Nô-ben Hòa Bình năm 1979, Mẹ Têrêxa kể câu chuyện cảm động như sau: “Một ông nọ đến nhà chúng tôi và bảo: ‘Mẹ Têrêxa à, có một gia đình 8 con; họ không có gì ăn lâu rồi; Mẹ làm điều gì đi!’ Thế là tôi lấy một ít gạo rồi lập tức đi đến đấy. Tôi thấy mấy em bé với cặp mắt ánh lên vì đói… Bà mẹ cầm lấy gạo, chia ra hai phần, rồi đi ra ngoài. Khi bà trở về, tôi hỏi bà: ‘Bà đi đâu vậy?’ Bà đơn sơ trả lời: ‘Họ cũng đói.’ Điều làm tôi ngạc nhiên thích thú nhất là bà ấy biết họ là ai - là một gia đình Hồi Giáo - bà ấy biết rõ. Tôi không đem thêm gạo tối hôm ấy vì tôi muốn để cho họ hưởng trọn niềm vui chia sẻ.”

Hành động của người mẹ trong câu chuyện trên thật đáng khâm phục. Tấm lòng của bà là loại tấm lòng của bà góa trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay. Đức Giêsu đã công khai đề cao tấm lòng quảng đại đến quên mình này.

11. Không phải óng ánh là vàng

Một hôm, hoàng tử gọi vào đền vua một người lái buôn chuyên nghề bán ngựa. Ông ta dẫn đến trước mặt hoàng tử hai con bạch mã đã được huấn luyện rất kỹ để hoàng tử kén chọn. Bề  ngoài, hai con ngựa trông giống hệt nhau, nhưng con này lại gấp đôi giá con kia. Hoàng tử liền gọi các quan cận thần đến mà bảo: “Ta có thể tặng hai con ngựa này cho ai giải thích cho ta biết tại sao con ngựa này gấp đôi giá con ngựa kia?”

Các quan cận thần đến gần hai con ngựa và quan sát thật kỹ, nhưng không một ai nhận ra có điều gì khác biệt. Thấy vậy, hoàng tử cho gọi hai người lính hầu đến và sai họ cưỡi trên hai con ngựa, hy vọng rằng các quan cận thần sẽ nhận ra giá trị của mỗi con. Sau mấy vòng phóng ngựa chung quanh sân, không ai trong các quan nhận ra sự khác biệt về giá trị của hai con ngựa. Cuối cùng, hoàng tử phải lên tiếng giải thích: “Chắc các người đã nhận ra rằng: trong khi ngựa chạy quanh sân, con ngựa thứ nhất không để lại dấu vết đằng sau, nó chạy nhẹ nhàng như bay. Trái lại con ngựa thứ hai để lại lớp bụi bay ngợp trời. Chính vì lý do đó mà con ngựa thứ nhất có giá gấp đôi con ngựa thứ hai.”

Chúng ta thường tán thưởng những người khua to nói lớn, người thành công trên đường đời, người nổi tiếng, người được dân chúng mến chuộng, vỗ tay khen ngợi, mà quên khám phá ra giá trị của những các hay, cái đẹp, được giấu kín trong thầm lặng, trong cái vỏ giản dị bên ngoài.

12. Món quà quý giá

Cha Mác Ca-thi (Mc Carthy) có kể câu chuyện mẹ Têrêxa lần kia được một người ăn xin tặng 30 xu là tất cả số tiền anh xin được trong ngày. Mẹ nói rằng: với 30 xu, có lẽ mẹ chẳng mua được gì, nhưng nó trở nên quý giá gấp ngàn lần vì đã được làm với lòng yêu thương; Thiên Chúa nhìn thấy không phải tầm cỡ vĩ đại của công việc, mà là tình yêu thương qua đó công việc được hoàn thành. Cũng như người ăn xin trên đây, bà goá trong bài Tin Mừng hôm nay không đóng góp nhiều lắm xét về số lượng, nhưng xét theo chất lượng, thì nhiều hơn ai hết. Vì sao vậy? Vì những món quà vật chất được định giá bằng tiền, nhưng những món quà của trái tim được định giá bằng tình mến, bằng lòng hy sinh, bằng tâm tình vui lòng chịu mất mát, miễn sao nói được tâm tình của mình. Và bà goá này có được tất cả những tâm tình quý giá ấy.

Hãy nhớ rằng càng dâng cho Chúa những món quà được gói bọc xinh xắn là hy sinh những gì bạn quý trọng như thời giờ, công sức... Chúa sẽ càng hài lòng về bạn. Bạn có tặng Chúa những món quà chất lượng cao không?

13. Hạt thóc vàng

Thi hào Tagore (Ấn Độ) viết một bài thơ kể về một người ăn xin gặp Đức Vua đi vi hành. Anh mừng thầm vì phen này chắc sẽ được Đức Vua ban tặng. Nào ngờ, chính Đức Vua lại chìa tay xin anh bố thí. Bối rối, ngỡ ngàng, người hành khất lấy ra một hạt thóc từ trong cái bị của mình và dâng cho Đức Vua. Buổi tối về đến nhà anh đổ bị thóc ra thì thấy một hạt vàng lấp lánh nằm giữa những hạt thóc… Anh đã khóc vì hối tiếc: “Phải chi lúc đó tôi dâng tất cả bị thóc này cho Đức Vua”!…

Bà góa nghèo trong Phúc Âm chỉ dâng cúng hai đồng xu nhỏ cho đền thờ, nhưng bà đã không phải hối tiếc. Chúa đã nhìn thấy bà, Ngài không đánh giá theo số lượng nhưng ở tấm lòng. Chúa đã ca ngợi bà là người dâng cúng nhiều nhất vì bà đã dâng tất cả.

14. Tiền bạc đáng sợ

Có một ông già giàu gặp một vị đạo sĩ ngồi ở gốc cây bên lề đường, liền hỏi: “Ông ngồi đây làm gì vậy? Nhà tôi đang cần người giúp việc, về làm cho tôi ông sẽ có tiền."

Vị đạo sĩ trả lời: “Cám ơn ông, tôi rất sợ tiền bạc, vì ở đâu có tiền bạc ở đó có tội ác."

Ông nhà giàu nói: “Ông rất lầm nên mới yếm thế bi quan. Thế gian có tiền là có tất cả. Có tiền mua tiên cũng được, khắp đông tây đều công nhận như vậy."

Vị đạo sĩ trả lời: “Ông càng lầm hơn tôi, tiền bạc mở được mọi cửa trừ cửa thiên đàng. Đó là câu nói của các nhà đạo đức phương tây. Còn đông phương thì cho rằng: tiền bạc mua được tất cả nhưng không thể mua được lương tâm của người quân tử."

Ông nhà giàu lại nói: “Ông biết chứ, lịch sử chứng tỏ tiền bạc đi tới đâu thì ở đấy phồn thịnh. Có phải tiền bạc đã biến đổi thế giới khổ cực thành xa hoa sung sướng không?"

Vị đạo sĩ trả lời: “Ông chỉ thấy tiền bạc có một mặt, ông không thấy mặt trái của nó, lịch sử cũng ghi rõ: tiền bạc đi tới đâu thì gieo chia rẽ giàu nghèo, gây nên cảnh bất công, ghen tương, tranh chấp và chết chóc."

Ông nhà giàu không nói thêm gì nữa.

15. Còn quý hơn viên ngọc  

Trong khi đi dọc theo bãi biển hoang vu, một người đạo đức Ấn độ tìm được một viên ngọc. Một phụ nữ nghèo thấy ông nhặt được viên ngọc và đã hỏi xin. Con người đạo đức này đã đưa viên ngọc cho chị ta một cách vui vẻ. Người phụ nữ đi khỏi và nghêu ngao hát vì sung sướng. Giờ đây bà đã được giàu có. Một tuần sau, người phụ nữ trở lại và trả viên ngọc quý cho người đàn ông nọ và nói: “Hãy cho tôi cái quý giá hơn cả viên ngọc. Hãy cho tôi cái đã làm cho ông có thể cho tôi viên ngọc một cách vui vẻ.”

Cái gì đã làm cho con người đạo đức này có thể cho đi một cách vui vẻ?

Điều bạn cho đi khi khỏe mạnh là vàng

Điều bạn cho đi lúc ốm đau là bạc

Điều bạn cho đi sau khi chết là đồng. (Ngạn ngữ Do thái)

16. Đồng tiền phải làm việc thiện

Có một chủ tiệm ở Utah bắt được một con đại bàng và để nó trong cửa hàng để thu hút khách. Một ngày nọ, một cụ già từ trên núi xuống. Cụ vào cửa hàng thấy con đại bàng và hỏi xem nó giá bao nhiêu. Ông chủ tiệm đưa ra một cái giá cắt cổ. Cụ già đến ngân hàng rút tiền để mua con đại bàng rồi thả nó ra. Khi một cô bé hỏi tại sao cụ lại bỏ một khoản tiền lớn như thế chỉ để giải thoát con đại bàng, thì cụ già trả lời: “Của cải không phải là những gì chúng ta có, mà là những gì chúng ta cho đi để làm việc thiện cần phải làm.”

Tôi sẵn sàng cho đi những gì để làm những việc thiện cần làm?

Tiền bạc là một ông chủ bất lương, nhưng lại là một đầy tớ tuyệt hảo (F. T. Barnum).

Lời Chúa Tuần 9 Thường Niên
Thường niên V - GS C - PS Ngoại lịch

EDIT