LỜI CHÚA TUẦN 9 THƯỜNG NIÊN
GIA VỊ CHO BÀI GIẢNG
LỄ CHÚA BA NGÔI NĂM A - TÌNH YÊU BA NGÔI
THỨ HAI - DỤ NGÔN TÁ ĐIỀN SÁT NHÂN
THỨ BA - BỔN PHẬN TÍN HỮU VÀ CÔNG DÂN
THỨ BẢY - ÐỒNG XU BÀ GÓA NGHÈO
LỄ CHÚA BA NGÔI NĂM A -
TÌNH YÊU BA NGÔI
Lời
Chúa: Ga 3, 16-18
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi
ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi
đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư
mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần
để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ.
Ai
tin Người Con ấy, thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi,
vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa."
TRUYỆN KỂ
1. Thiên Chúa tình yêu--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Một
bạn trẻ hỏi tôi: “Thưa Cha, tại sao đạo Phật khi xây chùa thì chọn những nơi rừng
núi thâm u, xa hẳn thị thành, còn đạo Công Giáo khi xây nhà thờ lại chọn những
nơi dân cư đông đúc, phồn hoa đô hội?” Tôi trả lời: “Bạn quả là có con mắt nhận
xét. Việc xây cất chùa chiền, nhà thờ như vậy, thực ra, phát xuất từ quan niệm
nền tảng của đạo. Đạo Phật là đạo xuất thế. Đức Phật vì thấy những cảnh khổ ở đời
trong sinh, lão, bệnh, tử nên đã tìm môt con đường mong giải thoát chính mình
và nhân loại khỏi cảnh khổ não ở đời. Vì thế Ngài đã từ giã cung đình, rũ sạch
bụi trần, xa lánh phồn hoa. Trái lại đạo Công Giáo là đạo nhập thế. Thiên Chúa
thấy con người trầm luân khổ ải nên chạnh lòng thương, đã sai Con Một là Chúa
Giêsu xuống trần để cứu độ chúng sinh. Chúa Giêsu xuống trần không chỉ là nhập
thế, mà còn hoá thân một người nghèo sống giữa người nghèo, người tội lỗi để
đưa mọi người về với Chúa, đó là nhập thể. Có thể nói đạo Công Giáo diễn tả việc
Thiên Chúa đi tìm con người.
Thiên
Chúa đi tìm con người vì Thiên Chúa yêu thương con người. Không yêu thương thì
chẳng việc gì phải đi tìm. Đi tìm tức là có quan tâm. Xa vắng thì nhớ. Thấy khổ
vì thương. Vì thương, vì yêu nên phải cất bước đi tìm.
Không
phải Thiên Chúa chỉ yêu thương khi con người gặp đau khổ. Thực ra Thiên Chúa đã
yêu thương con người từ trước, từ khi chưa có con người. Vì Thiên Chúa là tình
yêu thương.
2. Dấu thánh giá
Khi
suy tư về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, chúng ta không quên nói đến việc làm dấu
thánh giá. Chúng ta làm dấu thánh giá nhiều lần trong ngày: khi thức dậy, trước
khi ra khỏi nhà, trước khi lái xe, trước khi ăn cơm, trước và sau khi cầu nguyện,
buổi tối trước khi đi ngủ…Dấu thánh giá đơn sơ là thế, nhưng lại là một nghi thức
quan trọng. Tuy vậy, không ít người vẫn chưa hiểu ý nghĩa của nghi thức làm dấu
thánh giá: Đây là lời tuyên xưng Đức tin vào Chúa Ba Ngôi, là Chúa Cha, Chúa
Con và Chúa Thánh thần. Đây cũng là cầu nguyện để xin Chúa ban cho chúng ta những
ơn lành, nhất là biết sống ơn gọi của người Kitô hữu. Dấu thánh giá được phác họa
trên thân mình, nhắc cho chúng ta niềm xác tín vào tình thương của Chúa, thể hiện
qua cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Đây cũng là lời kinh của lòng trông cậy, với
niềm xác tín Chúa Ba Ngôi là nguồn suối yêu thương sẽ đổ chan hòa ơn thánh cho
những ai yêu mến Ngài. Sau cùng, dấu thánh giá cũng nhắc nhở chúng ta: người
Kitô hữu bất kể làm điều gì, bất cứ ở đâu, phải luôn luôn nhân danh Ba Ngôi
Thiên Chúa. Nói cách khác, trong mọi hoàn cảnh, chúng ta phải hướng về Chúa, ý
thức về những lời mình nói, những việc mình làm, để những lời nói và việc làm ấy
không còn là nhân danh cá nhân, nhưng là nhân danh Chúa Ba Ngôi. Hiểu và sống
như thế, chúng ta sẽ thấm đượm chất men Tin Mừng trong mọi hành vi cử chỉ và lời
nói của chúng ta.
Xin
Chúa cho chúng ta được sống trong dòng sông ân sủng của Ba Ngôi Thiên Chúa, nhờ
vậy, đời sống chúng ta sẽ luôn tìm thấy an bình. Sống trong dòng sông này,
chúng ta sẽ “như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con, hồn lặng lẽ an vui” (Tv
131,2).
3. Mầu nhiệm Ba Ngôi
Augustinô
thuộc khuynh hướng của những người cho rằng với kiến thức và nỗ lực tìm kiếm,
con người có thể múc cạn chân lý về Thiên Chúa. Một hôm, đi dọc theo bờ biển, đầu
óc miên man nghĩ đến những bí ẩn về Thiên Chúa, tình cờ Ngài gặp một cậu bé
đang ngồi chơi trên cát. Nó dùng một mảnh sò để đào một lỗ nhỏ trên cát, rồi
dùng vỏ sò# ấy múc nước biển đổ vào.
Nhưng
dã tràng xe cát Biển đông, nó cứ đổ nước vào cái lỗ mà vẫn không bao giờ đầy.
Ngạc nhiên về cử chỉ của đứa bé, thánh nhân nấn ná gợi chuyện. Ngài hỏi nó đang
làm gì, đứa bé trả lời không chút do dự:
-
Thưa ông, cháu đang dùng vỏ sò này để tát cho cạn nước bể đại dương.
Thánh
nhân lắc đầu bảo nó:
-
Cháu không thể làm được chuyện đó đâu.
Đứa
bé ngước lên và mỉm cười nói:
-
Múc cạn nước đại dương để đổ đầy cái lỗ này còn dễ hơn múc cạn mầu nhiệm về
Thiên Chúa.
Thánh
Augustinô chợt hiểu được một chân lý: Thiên Chúa là một mầu nhiệm mà con người
không thể nào thấu hiểu được.
(D.Wahrheit,
Tìm về cõi phúc, tr 68).
4. Hình ảnh về Ba Ngôi
Đây
quả là một mầu nhiệm thẳm sâu, chúng ta không thể nào diễn tả được mầu nhiệm
Chúa Ba Ngôi, nhưng trong vũ trụ thiên nhiên chúng ta có thể lấy được nhiều
hình ảnh cụ thể dùng lối loại suy để hiểu về Chúa Ba Ngôi: Khi thuyết giảng tại
công viên Hyde Park, Frank Sheed đã dùng mưa rơi để cố gắng giúp người ta hiểu
được sự vừa đơn nhất vừa đa dạng của Ba Ngôi. Ông thường nói:”Nước đang rơi đây
thực là nuớc nhưng nó có thể hiện hữu dưới ba dạng: thể hơi, thể rắn và thể lỏng
– nghĩa là dạng hơi nước, dạng băng và dạng nước mưa đang rơi đây."
Dĩ
nhiên tất cả mọi cách loại suy đều không thể nói lên tất cả thực tại, tuy nhiên
chúng ta có thể thấy được chủ ý của Frank muốn nói là không phải có ba loại nước,
mà chỉ có một loại nước nhưng nó hiện hữu trong ba dạng khác nhau. Chúng ta có
thể nghĩ về Thiên Chúa một cách tương tự như thế.
Một
phương pháp khác giúp ta hiểu được sự vừa đơn nhất vừa đa dạng của Ba Ngôi là
ví dụ mà thánh Ignatiô Loyola thường dùng. Có lần trong lúc cầu nguyện, Ngài bỗng
nhận ra Ba Ngôi dưới hình dạng ba nốt nhạc tạo nên một hợp âm duy nhất.
Và
cuối cùng, chúng ta cũng thấy thánh Patrick thường dùng ba lá của loại xa trục
thảo (3 lá ghép thành một) để diễn tả ý niệm Ba Ngôi.
Làm
thế nào chúng ta có thể áp dụng tất cả những điều nói trên vào hành động cụ thể?
Chúng ta có thể làm gì để Ba Ngôi sống động hơn trong cuộc sống riêng tư của
chúng ta? Có phương pháp mà một số người cho là hữu ích đó là cầu nguyện mỗi tối
trước khi đi ngủ. Họ dùng ba phút để hồi tâm về một ngày vừa chấm dứt...
5. Tình yêu hiến thân.
Ngày
20.06.1980, chị Brown, một người mẹ trẻ vừa từ trần vì chứng bệnh ung thư khi mới
25 tuổi. Các bác sĩ đề nghị chữa trị bằng quang tuyến, nhưng vì chị muốn cho
bào thai đang mang trong bụng không bị nhiễm chất phóng xạ, nên chị từ chối, thà
chết còn hơn để cho bác sĩ chữa trị ung thư bằng quang tuyến.
Cuối
cùng, chỉ 5 giờ trước khi chết, chị đã sinh được một cháu trai mạnh khỏe, kháu
khỉnh. Bản tin của hãng AP nói rằng:”Vào mấy ngày cuối cùng của cuộc đời, chị
Brown biết mình bị tử thần đánh bại, nhưng chị vẫn tin tưởng thế nào chị cũng
thành công và sinh được một đứa con không bị nhiễm phóng xạ."
Bác
sĩ Ronald Lapin gọi cái chết của chị Brown là “Cái chết của tình mẫu tử, dám hy
sinh mạng sống cho đứa con chưa một lần thấy mặt."
6. Bài học từ loài ngỗng.
Vào
mùa thu, khi bạn thấy bầy ngỗng bay về phương Nam để tránh đông theo hình chữ
V, bạn có tự hỏi những lý lẽ khoa học nào có thể rút ra từ đó. Mỗi khi một con
ngỗng vỗ đôi cánh của mình, nó tạo ra một lực đẩy cho con ngỗng bay ngay sau nó.
Bằng cách bay theo hình chữ V, đàn ngỗng tiết kiệm được 71% sức lực so với khi
chúng bay từng con một.
Mỗi
khi một con ngỗng bay lạc khỏi hình chữ V của đàn, nó nhanh chóng cảm thấy sức
trì kéo và những khó khăn của việc bay một mình. Nó sẽ nhanh chóng trở lại đàn
để bay theo hình chữ V như cũ, và được hưởng những ưu thế của sức mạnh từ bầy.
Khi
con ngỗng đầu đàn mỏi mệt, nó sẽ chuyển sang vị trí bên cạnh và một con ngỗng
khác sẽ dẫn đầu.
Tiếng
kêu của bầy ngỗng từ đàng sau sẽ động viên những con đi đầu giữ được tốc độ của
chúng.
Cuối
cùng, khi một con ngỗng bị bệnh hay bị thương và rơi xuống, hai con ngỗng khác
sẽ rời khỏi bầy để cùng xuống với con ngỗng bị thương và bảo vệ nó. Chúng sẽ ở
lại cho đến chừng nào con bị thương lại có thể bay hoặc là chết, và khi đó
chúng sẽ nhập vào một đàn khác để tiếp tục bay về phương nam (Lấy từ internet
theo Thùy Trang forward)
7. Tình yêu của Thiên Chúa
Một
bà kia không biết đến sự yêu thương của đồng lọai. Bà là một người không tôn
giáo, nghèo khổ bị bỏ quên, bị ngược đãi, bị đối xử bất công lâu ngày đến nỗi
bà thù ghét tất cả mọi người mà mọi người dường như nghịch cùng bà. Một lần
kia, cha sở đến gặp bà để nói về tình yêu thương của Thiên Chúa, song bà chẳng
hiểu tình yêu là gì cả. Bà bảo:
-
Tôi không hiểu ông nói gì. Chưa hề có ai yêu thương tôi và đối với tôi, tôi
cũng không hiểu yêu thương là gì cả.
Cha
sở về lại nhà xứ mà lòng vẫn canh cánh ray rứt về câu chuyện với người phụ nữ nọ.
Ngài cầu nguyện liền mấy ngày rồi chợt nảy ra một ý, ngài cho mời nhóm bạn trẻ
Tông đồ trong xứ lại và kể cho các bạn ấy nghe đầu đuôi sự thể. Rồi ngài đề nghị
mọi người hãy giúp cho bà ấy biết được tình yêu của Chúa bằng cách mỗi người
trong nhóm sẽ lần lượt từng người đến thăm bà, chân thành tỏ cho bà biết trên đời
này vẫn có người yêu thương, thăm viếng, an ủi và giúp đỡ bà.
Mấy
tháng trôi qua, một ngày kia, khi cha sở lại thăm bà, bà xúc động đến rướm nước
mắt: - Thưa cha, bây giờ thì tôi đã hiểu, đã biết yêu thương là gì rồi, và bây
giờ tôi đã có thể xin cha cho tôi được đón nhận tình yêu của Thiên Chúa.
8. Để biết Chúa
Một
người nông dân đi lên thành phố. Đang di trên một đường phố đông đúc ồn ào, bổng
dưng người nông dân dừng lại và nói với người bạn. “Tôi nghe có tiếng dế kêu.”
Người bạn ngạc nhiên và hỏi: “Làm sao anh có thể nghe được tiếng dế kêu giữa những
ồn ào của đường phố như thế này?” Người nông dân trả lời: “Tôi có thể nhận ra
được tiếng dế kêu bởi vì tai tôi rất nhạy cảm với tiếng dế.”
Rồi
ông ta lắng nghe một cách chăm chú hơn, và đi theo tiếng dế, tìm thấy chú dế ở
dưới phiến đá cạnh cửa sổ của một ngôi nhà. Người bạn vẫn không hề nghe thấy tiếng
dế đó. Người nông dân vẫn không lấy gì làm lạ. Như để giải thích cho người bạn
hiểu, ông móc túi ra mấy đồng bạc cắc và thảy nó lên vỉa hè. Nghe tiếng bạc kêu
lẻng kẻng, tất cả khách qua đường đều dừng lại và nhìn. Người nông dân mới nói
với người bạn: “Ông hiểu tôi muốn nói gì chứ. Không ai trong họ có thể nghe được
tiếng dế kêu, nhưng tất cả họ lại nghe được tiếng đồng bạc kêu. Người ta nghe
thấy những tiếng mà tai họ mong mõi nghe, còn những cái khác họ không nghe thấy.
Điều
tốt nhất mà một Kitô hữu có thể làm, đó là mong muốn được lắng nghe và suy niệm
Tin Mừng về Chúa Giêsu. Nói cách khác, chúng ta muốn biết Chúa bằng cách nhìn
vào lời nói việc làm, cuộc sống của Chúa Giêsu.
9. Thiên Chúa tình yêu --“Như Thầy Đã Yêu” --Thiên
Phúc
Một
người cha hứa cho đứa con gái 12 tuổi một số tiền nếu cô bé xén sạch đám cỏ trước
nhà.
Cô
bé vui vẻ mang máy cắt cỏ ra làm việc. Đến chiều, cả đám cỏ đã được cắt xén gọn
gang – ngoại trừ một mảng có tí tẹo còn sót trong góc sân.
Ông
bố nói rằng ông không thể trả số tiền đã thỏa thuận, bởi vì đám cỏ chưa được cắt
xong. Cô bé cho biết cô sẵn sàng chịu mất số tiền đó và cô nhất định không cắt
nốt mảng cỏ còn sót kia.
Tò
mò muốn biết lý do tại sao, ông bố kiểm tra chỗ cỏ chừa lại. Hóa ra, ở giữa
chòm cỏ ấy, một chú cóc đang ung dung ngồi ngắm cảnh hoàng hôn! Cô bé quá
thương con cóc, đã không đành đưa lưỡi dao của máy cắt vào chòm cỏ ấy.
Thiên
Chúa là tình yêu (1Ga 4,8). Người đã dựng nên con người cao trọng hơn các loài
thụ tạo. Nhưng con người lại bất trung phản bội. Vì yêu thương Thiên Chúa đã
không nỡ hủy diệt, lại sai con Một là Đức Giêsu Kitô xuống thế để cứu chuộc con
người. Người lại gởi Thánh Thần đến để thánh hóa cho nên tạo vật mới, dẫn đưa họ
về hưởng vinh quang Nước Trời. Đó là mầu nhiệm Tình yêu mà Ba Ngôi Thiên Chúa
đã thương dành cho con người. Vì thế, lễ Chúa Ba Ngôi cũng là lễ của tình yêu.
Chỉ
những ai sống yêu thương mới được ở trong Thiên Chúa Ba Ngôi.
Chỉ
những ai thực thi đức ái mới sống trọng ơn gọi làm con Thiên Chúa.
Chỉ
những ai biết sống trao ban mới tìm được nguồn vui đích thực trong Thiên Chúa
tình yêu.
10 Tình yêu trao tặng
Ngày
kia, tại một ngôi làng nhỏ ở Miền Nam Trung Quốc, một em bé gái tiều tụy, đói
rách và mang bệnh phong hủi bị dân làng dùng gậy gộc và gạch đá xua đuổi ra khỏi
nơi chôn nhau cắt rốn của em.
Giữa
cảnh hỗn loạn ấy, một nhà truyền giáo xông ra ẵm em bé trên tay để bảo vệ em khỏi
những trận đòn và những viên gạch đá ném bừa bãi vào tấm thân bé bỏng của em.
Thấy
có người mang em bé đi, dân làng mới chịu rút lui, nhưng miệng vẫn còn gào
thét: "Phong hủi! Phong hủi!"
Với
những giọt nước mắt lăn tròn trên đôi má, lần này là những giọt nước mắt vui mừng
chứ không phải là những giọt lệ sầu đau, em bé hỏi vị cứu tinh của mình:
- Tại
sao ông lại lo lắng cho con?
Nhà
truyền giáo đáp:
-
Vì Ông Trời đã tạo dựng nên cả hai chúng ta. Và cũng vì thế em sẽ là em bé gái
của ta và ta sẽ là người anh lớn của em bé.
Suy
nghĩ hồi lâu, em bé cất tiếng hỏi:
-
Con có thể làm gì để tỏ lòng biết ơn sự cứu giúp của ông?
Nhà
truyền giáo mỉm cười đáp:
-
Con hãy trao tặng cho những người khác tình yêu của con, càng nhiều càng tốt.
Kể
từ ngày ấy cho đến ba năm sau, khi em bé gái tắt hơi thở cuối cùng, em đã vui vẻ
băng bó các vết thương cho những bệnh nhân khác, ân cần đút cơm cho họ, nhất là
em luôn tỏ ra dễ thương và yêu mến tất cả mọi người trong trại.
Lúc
từ giã cõi đời, em bé chỉ mới tròn mười một tuổi. Các bệnh nhân đã từng chung sống
với em kháo láo với nhau rằng:
-
"Bầu trời nhỏ bé của chúng ta đã về trời!"
Vâng,
con hãy trao tặng cho người khác tình yêu của con phải chăng cũng là sứ điệp mà
lễ Chúa Ba Ngôi mời gọi chúng ta?
11. Con búp bê và biển cả--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Trong
quyển sách tựa đề: “Sức thu hút của Thiên Chúa”, tác giả người Italia, ông
A-léc-xan-drô Phong-xa-tô đã kể lại câu chuyện vui sau đây về con búp bê bằng
muối:
Muốn
tìm hiểu thế nào là biển cả để thỏa mãn tính tò mò của mình, con búp bê một
mình tiến ra bờ biển và hỏi:
-
“Biển cả ơi, bản chất của biển cả là như thế nào?”
Và
biển cả đã trả lời:
-
“Biển cả là biển cả. Nếu ngươi muốn biết ta là như thế nào thì hãy xuống đây,
hãy để cho toàn thân ngươi thấm nhập vào biển cả."
Con
búp bê bằng muối do dự. Nhưng rồi vì tính tò mò thúc đẩy, nó tiến gần ra mặt nước
rồi đưa hai chân thấm vào nước biển. Trong nháy mắt sóng biển đánh mạnh vào đôi
chân bằng muối của nó làm cho đôi chân tan thành nước biển. Con búp bê kinh hãi
lùi lại, nhưng đôi chân đã mất. Tiếng biển cả dịu dàng mời gọi:
-
“Này con búp bê nhỏ kia ơi, biển cả là biển cả. Ngươi muốn biết biển cả như thế
nào thì đừng sợ. Hãy tiến vào đây với ta. Ta sẽ bảo vệ ngươi. Ngươi sẽ được hòa
nhịp với ta và hiểu ta như thế nào. Hãy can đảm lên! Nếu bỏ cuộc nửa chừng thì
không bao giờ ngươi sẽ hiểu biển cả như thế nào đâu, và phải sống những năm
tháng còn lại với đôi chân đã mất."
Tính
tò mò thúc đẩy, con búp bê ngâm mình xuống biển. Chỉ một lát sau con búp bê bằng
muối đã hòa tan trong nước biển và hiểu được thế nào là biển cả.
Anh
chị em thân mến, giữa con búp bê bằng muối và biển cả có một căn bản giống
nhau. Cũng thế, giữa con người và Thiên Chúa cũng có một sự giống nhau. Con người
đã được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh của Ngài. Tâm hồn con người hướng về
Thiên Chúa, muốn hiểu biết Thiên Chúa, muốn được kết hợp với Ngài ngày càng
khăng khít hơn, giống như con búp bê bằng muối kia muốn hiểu biển cả là thế
nào.
12. Hình ảnh của Thiên Chúa
Tại
vùng Texas Hoa Kỳ, không ai lại không nghe lòng hào hùng của anh Biên, chủ một
nông trại nuôi bò to lớn. Người ta gọi anh bằng một tên riêng đầy lòng kính trọng
là ông Biên quảng đại, đến nỗi nhiều người không còn nhớ tên thật của anh là
gì, mà chỉ biết tên anh là ông Biên quảng đại. Dù là người giàu có nhất vùng
nhưng nếp sống của ông lại rất gần gũi với mọi người, từ người giúp việc cho tới
những người láng giềng chung quanh.
Ông
có một người con duy nhất, nhưng rủi thay trong một chuyến đi nghỉ cuối tuần,
ông bị một tai nạn xe hơi làm cho vợ và người con duy nhất bị chết. Sau những
ngày u buồn, một hôm đi dạo chơi gần nông trại, ông chợt gặp một đứa trẻ rách
rưới và có vẻ đang bơ vơ. Ông gọi lại và hỏi thăm về gia đình, đứa bé không trả
lời chi được về những câu hỏi của ông. Bé mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Mới sinh ra đã
bị cha mẹ bỏ rơi, nên từ đó em bé nay sống với người này, mai sống với người
khác, lang thang đây đó. Em chỉ còn biết một điều là tên gọi của em: ai ai cũng
gọi em là Jimmi, nên em biết tên mình là Jimmi. Ông Biên liền nhận đứa trẻ về
nhà làm con nuôi và làm chúc thư, nếu ông qua đời thì tài sản ông sẽ dành cho
Jimmi, người con nuôi mới nhận được.
Nhiều
người bạn thân ngạc nhiên hỏi, tại sao ông làm như vậy?
Ông
Biên trả lời: với một lý do duy nhất, là Jimmi giống hệt đứa con của tôi đã chết.
Tôi thương nó vì nó giống con tôi, tôi nhìn thấy con tôi nơi nó.
Anh
chị em thân mến,
"Tôi
thương nó, vì nó giống hệt con tôi, tôi nhìn thấy con tôi nơi nó." Câu nói
này của ông Biên gợi lại cho chúng ta mối tương quan giữa tình thương của Thiên
Chúa Cha với mỗi người chúng ta là đồ đệ của Chúa Giêsu Kitô. Thiên Chúa Cha đã
yêu thương mỗi người, vì chúng ta đã lãnh nhận ơn cứu rỗi, được tái tạo giống hệt
như Chúa Kitô, Con Một Ngài. Thiên Chúa Cha yêu chúng ta, vì Ngài thấy Con Một
Ngài nơi mỗi người chúng ta.
13. Yêu thương nhau vì là con Thiên Chúa
Ngày
xưa, có một người nhà giàu, sinh được năm người con. Vì giàu có nên những người
con của ông có một đời sống sung sướng thừa thãi về vật chất. Nhưng chuyện đời
thường vốn vô cùng. Vì thế, có một, các con ông muốn có hai và cứ thế tánh đua
đòi lâu dần thành thói quen, đến lúc không tự chủ được thì đã trở thành lòng
tham vọng. Càng ngày, lòng tham vọng của con người càng nhiều và lan ra trên mọi
bình diện. Do đó, họ không biết thế nào là đủ nên lúc nào cũng khổ tâm vì luôn
nghĩ đến sự hơn thua và ganh tỵ lẫn nhau. Đến khi khôn lớn, cả năm người con nhờ
tiền của cha mẹ nên đều giàu có. Tuy mỗi người một cơ ngơi, nhưng vẫn giữ thói
ganh ghét tị hiềm cãi cọ nhau về những của cải mà họ có. Nhìn cảnh các con
không hòa thuận, người cha buồn lắm. Ông cố gắng khuyên bảo nhưng dù ông có cố
gắng thế nào, các con ông cũng không bỏ được lòng hiềm kỵ lẫn nhau làm ông rất
đau lòng.
Sau
một thời gian ngã bịnh, ông biết rằng mình không còn sống được bao lâu nữa. Ông
cho gọi các con đến bên giường và bảo gia nhân đem đến cho ông hai bó đũạ Các
con ông còn đang nhìn nhau ngơ ngác không hiểu người cha có ý định gì thì ông lấy
một bó đũa, đưa cho mỗi người một chiếc và bảo:
-
Các con mỗi đứa lần lượt bẻ chiếc đũa này và cho cha biết kinh nghiệm về việc
các con làm dễ hay là khó.
Ông
vừa dứt lời, trong chớp mắt, năm người con bẻ năm chiếc đũa thật dễ dàng.
Nhìn
những chiếc đũa gãy đôi, gãy ba, ông im lặng và các con ông cũng yên lặng đợi
chờ. Một lát sau, ông đưa nguyên bó đũa cho người con cả và dịu dàng nói:
Tốt.
Các con đã thành công trong việc bẻ một chiếc đũa. Bây giờ, các con lại thay
phiên nhau bẻ nguyên cả bó đũa này cho cha xem.
-
Người con trưởng cầm bó đũa ra sức bẻ. Anh vận dụng sức mạnh đến nỗi mặt mũi đỏ
gay nhưng không làm cho bó đũa gẫy được dễ dàng. Chờ đến lúc anh chịu thua, người
cha bảo người con thứ hai tiếp tục. Cũng như người con lớn, người con thứ hai
không bẻ được và chịu thua. Ông kiên nhẫn chờ đến khi người con thứ năm bỏ cuộc
mới ôn tồn nói:
-
Đó, các con xem, thế nào là sức mạnh của sự đoàn kết. Nếu các con cứ tiếp tục
hiềm tị chia rẽ nhau thì các con cũng lẻ loi và yếu đuối không khác gì một chiếc
đũa và các con sẽ bị kẻ thù bẻ gãy dễ dàng. Nhưng nếu các con biết thương yêu
đoàn kết lại với nhau như bó đũa thì không một sức mạnh nào bẻ gãy được các
con.
Năm
người con ông hiểu ý cha và bài học ông vừa dạy. Cảm động và hối hận vì ăn ở với
nhau không phải rồi còn làm cha buồn, các con ông ôm lấy ông vừa khóc, vừa hứa
là từ nay về sau sẽ bỏ thói tị hiềm ích kỷ để yêu thương đoàn kết với nhau.
Sau
đó người cha mất đi. Năm người con vâng lời cha dạy. Họ rất đoàn kết và thương
mến lẫn nhau. Đời sống gia đình họ rất hoà thuận và không một ai có thể cạnh
tranh được với sự giàu mạnh trong việc làm ăn buôn bán của gia đình họ.
14. Trí khôn và ý muốn
Cách
đây hàng ngàn năm, có một nhà hiền triết tài giỏi tên là Simonide. Ngày kia,
nhà vua cho vời ông ta đến và hỏi:
-
Thượng đế là gì?
Ông
ta xin nhà vua cho mình một ngày để suy nghĩ. Sáng hôm sau, khi nhà vua gọi tới,
thì ông ta lại xin thêm hai ngày nữa để suy nghĩ.
Và
khi hai ngày đã trôi qua, ông ta lại xin thêm bốn ngày nữa. Rồi sau đó, ông ta
lại xin thêm tám ngày nữa. Cứ mỗi lần nhà vua truyền cho ông ta đến, thì ông ta
lại xin hoãn với số ngày gấp đôi. Sau cùng, nhà vua bực bội, cho triệu ông ta đến
và giận dữ hỏi:
-
Cho tới bao giờ, nhà ngươi mới trả lời câu hỏi của ta? Thượng đế là gì?
Bấy
giờ ông ta mới ôn tồn trả lời:
-
Xin nhà vua đừng hối thúc tôi. Vấn đề thật khó khăn và tôi nghĩ rằng sẽ chẳng
bao giờ tìm thấy được câu trả lời. Bởi vì càng suy nghĩ, tôi lại càng cảm thấy
bối rối. Vấn đề dường như đã vượt ra ngoài khả năng của tôi.
15. Mặt trời ban sự sống
Một
vị linh mục đang chờ máy bay ở phi trường Tân Sơn Nhất, thì một người đàn ông đến
ngồi bên cạnh và bắt đầu đề cập tới vấn đề tôn giáo, ông nói:
-
Tôi không thể nào chấp nhận được những điều tôi không hiểu, chẳng hạn như vấn đề
Chúa Ba Ngôi hay bất cứ vấn đề nào giống như thế. Chẳng ai có thể cắt nghĩa cho
tôi, nên tôi sẽ không bao giờ tin.
Chỉ
vào một luồng ánh sáng chiếu qua khung cửa kính, vị linh mục hỏi:
-
Ông có tin mặt trời không nhỉ?
Ông
ta trả lời:
-
Dĩ nhiên là có.
Vị
linh mục nói tiếp:
-
Phải, ánh sáng ông thấy qua cửa sổ, xuất phát từ mặt trời cách đây 150 triệu
cây số. Sức nóng chúng ta cảm nhận được cũng xuất phát từ mặt trời. Đối với
Chúa Ba Ngôi, một phần nào cũng tương tự như thế. Mặt trời là Chúa Cha. Từ mặt
trời mà có ánh sáng, cũng như từ Chúa Cha mà có Chúa Con. Rồi từ Chúa Cha, Chúa
Con mà có Chúa Thánh Thần, cũng như từ mặt trời, từ ánh sáng mà có sức nóng.
Ông hiểu thế nào về mặt trời, ánh sáng và sức nóng. Thì một phần nào tương tự
như thế, ông hiểu về Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
16. Đủ ánh sáng chưa?
Bà
Rose đã viết thư cho bà Abby như sau, "Chào bà Abby, năm nay tôi đã 40 tuổi
và tôi mong muốn tìm được một người đàn ông chạc tuổi của tôi, nhưng ông ấy
không được có những tất xấu." Sau đó, bà Abby đã trả lời cho bà Rose như
sau, "Kính thưa bà Rose, đó là người đàn ông mà tôi cũng mong muốn để
tìm." Một điều hiển nhiên là cả hai bà Rose và Abby sẽ không bao giờ tìm
được người đàn ông hoàn hảo mà họ hằng luôn mong muốn bởi vì người đàn ông hoàn
hảo đó không hiện hữu trên thế gian này. Tất cả loài người chúng ta đều có những
khuyết điểm. Nói theo tiếng của Thánh Kinh là chúng ta là kẻ có tội
Vậy
thì chúng ta đi đâu để mà tìm được một con người hoàn hảo? Hôm nay Giáo Hội giới
thiệu cho chúng ta một Đấng hoàn hảo mà tất cả chúng ta có thể tin tưởng, cậy
trông, và phó thác trót cả cuộc đời chúng ta cho Ngài. Đó là Thiên Chúa Ba
Ngôi.
17. Ba ngọn nến lung linh--Huệ Minh
Làm
việc mệt, tôi thường nghe nhạc cho thư giãn tâm hồn. Thi thoảng mở lên và nghe:
Ba ngọn nến lung linh.
Ba
là cây nến vàng
Mẹ
là cây nến xanh
Con
là cây nến hồng
Ba
ngọn nến lung linh
A à
á a a
Thắp
sáng một gia đình
Gia
đình, gia đình
Ôm ấp
ta những ngày thơ
Cho
ta bao nhiêu niềm thương mến
Gia
đình, gia đình
Vương
vấn bước chân ra đi
Ấm
áp trái tim quay về
Gia
đình, gia đình
Ôm ấp
ta những ngày thơ
Cho
ta bao nhiêu niềm thương mến
Gia
đình, gia đình
Bên
nhau mỗi khi đơn độc
Bên
nhau đến suốt cuộc đời
Lung
linh, lung linh tình mẹ, tình cha
Lung
linh, lung linh cùng một mái nhà
Lung
linh, lung linh cùng buồn cùng vui
Lung
linh, lung linh hai tiếng gia đình
LỄ CHÚA BA NGÔI NĂM B
Lời Chúa
TRUYỆN
KỂ
1. truyện
LỄ CHÚA BA NGÔI NĂM C
Lời Chúa: Ga 16, 12-15
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: "Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ các
con không thể lĩnh hội được.
Khi Thần Chân lý đến, Người sẽ dạy
các con biết tất cả sự thật, vì Người không tự mình mà nói, nhưng Người nghe gì
thì sẽ nói vậy, và Người sẽ bảo cho các con biết những việc tương lai. Người sẽ
làm vinh danh Thầy, vì Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các
con.
Tất cả những gì Cha có đều là của
Thầy, vì thế Thầy đã nói: Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các
con.”
TRUYỆN
KỂ
1. Đó
là tình yêu
Trong phòng xử án Toà án nhân
dân Thành phố Hồ chí Minh sáng ngày 16-8-1996, ngay ở hàng ghế đầu, suốt những
giờ xét xử của Hội đồng xử án, một người đàn bà với đôi mắt ướt đẫm nước mắt, cứ
nhìn đăm đăm vào chiếc lưng của bị cáo đang đứng trước vành móng ngựa. Đó là
chiếc lưng của đứa con đầu lòng của bà trong chiếc áo tù, và có in ký hiệu
"AB.” Cho đến khi công tố viên đọc xong lời buộc tội và đề nghị mức án
"hai mươi năm tù vì tội giết người" bà bỗng nấc lên một tiếng rồi ngất
xỉu. Bà ngất xỉu có lẽ vì bà chịu đựng không nổi mức án dành cho con bà: 20 năm
tù vì cái tội giết người; mà người nó định giết không ai khác hơn là chính bà.
Bà là mẹ của bị cáo và cũng chính là người bị hại!
Hơn một năm trước đây, vào ngày
16 tháng 7, 1995, chính nó đã cầm một thanh gỗ tròn dài nửa mét đánh vào đầu
bà, rồi cầm một con dao đâm vào ngực bà. Người đầm đìa máu bà ngã xuống ngất xỉu
- vì con. Hôm nay bà lại ngã xuống, ngất xỉu... cũng vì con.
Con bà - Lương Quốc Tuấn, sinh
năm 1976, ở quận 11, làm thợ cửa sắt. Từ khi lên 5 tuổi, cha của Tuấn đã bỏ mẹ
con Tuấn đi sống với người khác. Mẹ của Tuấn lặn lội nuôi hai đứa con thơ lớn
lên. Thế mà... Sáng hôm đó, chúa nhật, Tuấn dậy trễ. Tuấn hỏi xin mẹ mấy ngàn
ăn hủ tiếu. Mẹ Tuấn không cho, bảo lấy mì ăn liền nấu ăn. Tuấn khai trước toà:
"Mẹ nói từ ngày quen con nhỏ đó thân ốm nhom ốm nhách, không tiền không bạc...
mẹ không cho tiền còn nói nọ nói kia..." Thế là Tuấn đã làm cái điều mà có
lẽ nghe đến, ai cũng phải thấy rợn cả người: đánh, giết mẹ! Với 10 vết thương,
chỉ có hai vết ở tay, còn lại toàn ở đầu và ngực nhưng khi từ bệnh viện sau sáu
ngày điều trị trở về, bà lại ráng sức để xách đồ ăn vào thăm con đang bị giam
trong tù! Sợ con bị đưa ra toà, bà đã viết giấy bãi nại xin xóa tội cho con. Và
trước toà, bà cứ khóc nói: "Từ nhỏ đến khi lớn nó ngoan lắm. Nó không uống
rượu, không hút thuốc, xin toà giảm tội!" Rồi bà nức nở tỏ ra ray rứt, ân
hận, trách mình: "Tôi không nuôi nó ăn học đến nơi đến chốn. Nó phải đi
làm sớm, lúc học xong lớp 8." Hoàn toàn bà không hề nhắc gì đến cái tội
tày trời mà đứa con của mình đã mắc phải.
Bên trong phòng xử án, khi bà tỉnh
lại, phóng viên Hoàng Chức Nguyên đến xin hỏi chuyện bà, bà lại khóc nói:
"Tôi không nói được gì đâu, đau đớn quá." Khi có các phóng viên đến
chụp ảnh con bà đang bị một tay còng vào ghế, bà van nài: "Xin đừng chụp ảnh
con tôi..." Khi những người công an còng hai tay con bà giải đi, bà đã lao
người với theo, bà ngã trong vòng tay của người quen. Lúc ấy phóng viên lại thấy
rất rõ một vết thẹo trên trán bà. Vết thẹo do chính tay con bà cầm một thanh gỗ
đập vào để lại... (theo Tuổi Trẻ 17-8-1996, trang 2).
Mọi người trong gia đình phạm
nhân Lương Quốc Tuấn trong câu chuyện, đều cần được vén màn cho thấy Thiên Chúa
là hạnh phúc trường cửu, sự sống bất diệt, ánh sáng không tàn lụi. Thiên Chúa
là tình thương tràn lan giữa Ba Ngôi vị tựa như sức nóng và ánh sáng tràn lan từ
mặt trời. Thiên Chúa tự ý muốn thông chia vinh quang sự sống hạnh phúc của Người.
Đó là "kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa từ thuở đời đời" (x.Ep
1,9).
2. Hình
ảnh về Chúa Ba ngôi
Thánh Augustin, một hôm đi bách
bộ dọc bờ biển Địa Trung Hải, vừa đi vừa suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Bỗng
nhiên Thánh nhân gặp một em nhỏ lấy vỏ sò múc nước đổ vào một cái lỗ. Đang còn
ngạc nhiên về công việc luống công vô ích này, em bé đã trả lời: việc em múc hết
nước biển đổ vào lỗ nhỏ, còn dễ hơn điều mà Thánh nhân suy nghĩ về mầu nhiệm
Chúa Ba Ngôi. Rồi em bé biến đi.
Nhớ lại lớp giáo lý xa xưa, ở
đó, Chúa Ba Ngôi được ví như một hình tam giác đều, có ba góc bằng nhau. Hay
chúng ta cũng được nghe so sánh Chúa Ba Ngôi với nước ở ba thể: khí, lỏng và rắn...
Tuy nhiên, tất cả những lối so sánh ấy dường như quá khô khan, vì không phản
ánh một cách trung thực và sống động hình ảnh thật sự của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Cách đây vài năm, vào ngày cuối
của khoá học về Chúa Ba Ngôi, cha giáo sư hỏi chúng tôi:
- Bây giờ các anh chị đã hiểu mầu
nhiệm một Chúa Ba Ngôi chưa?
Gần như cả lớp đồng thanh:
- Thưa cha hiểu.
Cha bật cười:
- Vậy thì các anh chị giỏi hơn
tôi rồi!
Dĩ nhiên, con người giới hạn của
chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm quá siêu vượt này, nhưng để sống, lại là
điều hoàn toàn có thể. Mầu nhiệm Ba Ngôi chính là hình ảnh rất thân quen, rất gần
gũi nếu nhìn Ba Ngôi dưới khía cạnh tình yêu. Vâng, Ba Ngôi Thiên Chúa chính là
một cộng đoàn hiệp nhất yêu thương. Tình yêu ấy đã không giữ lại cho mình,
nhưng đổ tràn vào trần gian.
3. Nhìn
thấy Chúa
Một vị vua kia đến cuối cuộc đời
cảm thấy buồn chán. Ông nói: "Suốt đời ta, ta đã cảm thụ được tất cả những
gì mà một con người có thể cảm thụ được bằng các giác quan. Nhưng vẫn còn một
điều ta chưa được thấy, đó là ta chưa thấy Chúa. Bây giờ nếu ta chỉ được nhìn
thấy Chúa một thoáng thôi thì ta cũng sẽ mãn nguyện mà chết.” Nhà vua tham khảo
ý kiến những bậc khôn ngoan, hứa cho họ đủ thứ phần thưởng nếu họ giúp ông thực
hiện điều mơ ước ấy. Nhưng chẳng ai giúp được.
Thế rồi có một chàng chăn cừu
nghe chuyện trên và tìm đến gặp nhà vua. Chàng nói: "Có lẽ hạ thần có thể
giúp Bệ Hạ được.” Nhà vua rất sung sướng theo người chăn cừu leo lên nhiều ngọn
đồi. Khi đến đỉnh một ngọn đồi nọ, người chăn cừu đưa tay chỉ mặt trời và bảo:
"Hãy xem kìa.” Nhà vua ngước mắt nhìn lên nhưng liền nhắm lại ngay vì chói
quá. Ông bảo: "Nhà ngươi muốn cho ta mù sao!" Người chăn cừu đáp:
"Tâu Bệ Hạ, đây chỉ mới là một phần nhỏ của vinh quang Thiên Chúa mà Bệ Hạ
còn nhìn không nổi. Thế thì làm sao Bệ Hạ có thể nhìn được Thiên Chúa bằng cặp
mắt bất toàn của Bệ Hạ? Bệ Hạ phải tìm cách nhìn Ngài bằng cặp mắt khác.”
Nhà vua rất thích ý tưởng ấy,
nói: "Ta cám ơn ngươi đã mở cắp mắt trí khôn của ta. Bây giờ hãy trả lời
cho câu hỏi khác của Ta: Thiên Chúa sống ở đâu?" Người chăn cừu lại đưa
tay chỉ lên trời: "Bệ Hạ hãy nhìn những con chim đang bay kia. Chúng sống
trong bầu không khí bao quanh. Chúng ta cũng thế, chúng ta sống trong sự bảo bọc
của Thiên Chúa. Xin Bệ Hạ đừng tìm kiếm nữa, mà hãy mở rộng mắt ra để nhìn, mở
tai ra để nghe. Thế nào Bệ Hạ cũng thấy được Ngài. Thiên đàng ở ngay dưới chân
chúng ta cũng như ở ngay trên đầu chúng ta.”
Nhà vua dừng bước, cố gắng nhìn,
cố gắng lắng nghe. Thế là một cảm giác bình an lộ rõ trên khuôn mặt buồn thảm của
ông. Người chăn cừu nói tiếp: "Tâu Bệ Hạ, còn một điều nữa.” Rồi chàng dẫn
nhà vua đến một cái giếng. Nhà vua nhìn xuống mặt nước bằng phẳng, hỏi:
"Ai sống dưới đó thế?" Người chăn cừu đáp: "Thiên Chúa.”
"Ta có thể nhìn thấy Ngài không?" "Được chứ, Bệ Hạ chỉ cần nhìn.”
Nhà vua chăm chú nhìn xuống giếng, nhưng chỉ thấy gương mặt của mình phản chiếu
trên mặt nước. Ông nói: "Ta chỉ thấy mặt Ta thôi.” Người chăn cừu giải
thích: "Bây giờ thì Bệ Hạ đã biết Thiên Chúa sống ở đâu rồi. Ngài sống
trong Bệ Hạ đó.”
Nhà vua nhận ra rằng người chăn
cừu khôn ngoan và giàu có hơn ông. Ông cám ơn chàng và trở về hoàng cung. Chẳng
ai biết ông có nhìn thấy Thiên Chúa không, nhưng ai cũng nói rằng có một điều
gì đó đã biến đổi trái tim ông, bởi vì từ đó trở đi ông đối xử rất nhân hậu với
mọi người, kể cả người đầy tớ hèn hạ nhất của ông.
Thiên Chúa ở khắp chung quanh
chúng ta. Nhưng chừng nào chúng ta chưa khám phá Ngài ở ngay trong lòng chúng
ta thì Ngài như vẫn còn ở xa, vẫn như một người lạ thờ ơ vô tình. Còn khi chúng
ta cảm nhận Ngài ở trong chúng ta thì không bao giờ chúng ta còn cảm thấy cô
đơn nữa, và khi đó chúng ta sẽ nhìn thấy thiên nhiên là một công trình của một
Đấng Nghệ Sĩ thân thiết của chúng ta.
Thiên Chúa Ba Ngôi vừa ở trong
chúng ta vừa siêu vượt chúng ta. Đúng là một mầu nhiệm, nhưng là một mầu nhiệm
tình yêu. (FM).
4. Những
hình ảnh của Thiên Chúa
Người Châu Phi có một câu chuyện
sau đây về Thiên Chúa:
Một hôm Thiên Chúa đi thăm châu
lục rộng lớn này và Ngài thấy có một bộ lạc bị mất đức tin. Thế là Ngài hiện ra
giữa một mảnh ruộng đang có 4 người làm việc, mỗi người một góc. 4 người này thấy
Chúa hiện ra giữa mảnh ruộng. Họ chăm chú nhìn Ngài rồi phục mình thờ lạy.
Sau đó Thiên Chúa biến hình rồi
xem sự việc sau dó diễn tiến thế nào. 4 người kia chạy vào làng và nói rằng:
đúng là có Thiên Chúa vì họ đã thấy Ngài hiện ra. Từ này về sau chúng ta đừng sống
vô thần nữa mà phải lo thờ phượng Chúa. Mọi người nghe đều tin là Thiên Chúa đã
hiện ra thật. Nhưng một người hỏi: "Thế thì Thiên Chúa mặc áo màu
gì?"
- Ngài mặc áo đỏ. Người thứ nhất
trả lời.
- Không, Ngài mặc áo xanh. Người
thứ hai cãi lại.
- Hai đứa bây sai cả. Ngài mặc
áo màu lục. Người thứ ba nói thế.
- Tất cả đều điên hết rồi. Người
thứ tư la to. Ngài mặc áo vàng.
Thế là mọi người cãi nhau chí
choé, rồi ấu đả nhau. Cuối cùng bộ lạc chia thành 4 phe.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy
mọi người dân bộ lạc ấy đều sai lầm. Thực ra mỗi người chỉ thấy một thoáng về
Thiên Chúa. Lẽ ra mỗi người phải biết rằng mình chỉ thấy được một phần thì họ
cho rằng họ thấy toàn vẹn. Nếu như họ biết lấy cái nhìn của người khác để bổ
sung cho cái nhìn của mình thì họ sẽ có một hình ảnh đầy đủ và phong phú hơn về
Thiên Chúa.
Thiên Chúa lớn hơn tất cả chúng
ta. Chúng ta không bao giờ hiểu biết trọn vẹn về Ngài. Để hiểu biết những sự dưới
thế chúng ta còn phải cố gắng rất nhiều, thế thì làm sao chúng ta nắm bắt được
những sự trên trời. Chỉ có ơn ban khôn ngoan mới giúp chúng ta hiểu được đường
lối của Thiên Chúa. Con người có thể biết những chân lý đức tin, nhưng không thể
hiểu biết chính Thiên Chúa.
5. Augustinô
và mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi
Thánh Augustinô một hôm đi bách
bộ trên bãi biển và tâm trí thì luôn suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi: Làm sao chỉ có một Thiên Chúa và Ngài lại có
Ba Ngôi khác nhau: Ngôi thứ nhất là Cha, Ngôi thứ Hai là Con và Ngôi thứ Ba là
Thánh Thần. Như vậy lẽ ra phải có Ba
thay vì chỉ có Một Thiên Chúa mới hợp lý?
Augustinô không sao lý giải được mầu nhiệm này: Một mà lại là Ba, và Ba
chỉ ở trong Một?
Bấy giờ Augustinô trông thấy em
bé trai đang ngồi trên bãi biển, tay cầm một cái vỏ sò múc nước biển rồi đổ vào
một cái lỗ nhỏ hang còng ở trên bãi cát. Vị Giám mục hỏi cậu bé:
- Này em, em đang làm gì vậy?
Cậu bé trả lời:
- Cháu đang cố gắng múc tất cả
nước của đại dương này để đổ vào lỗ hang của con còng này
Vị Giám mục nói:
- Sao em lại làm một điều vô lý
như thế? Em hãy nhìn xem: nước biển bao la như vậy thì làm sao cái lỗ hang còng
nhỏ bé kia có thể chứa hết nước của nó được?
Nhưng Augustinô thật bất ngờ,
khi nghe cậu bé đáp:
- Việc cháu làm đây cũng không
vô lý bằng việc Ngài đang làm: làm sao ngài có thể dùng trí khôn nhỏ bé của
ngài mà hiểu thấu được mầu nhiệm lớn lao vô cùng của Thiên Chúa?
Nói xong cậu bé biến mất.
Bấy giờ Giám mục Augustinô hiểu
rằng Chúa đã sai thiên thần đến để giúp mình ý thức về sự giới hạn và bất lực
khi phải đối diện với những mầu nhiệm
cao cả vô cùng của Thiên Chúa.
6. Thiên
Chúa là tình yêu
Một bà kia không biết đến sự yêu
thương của đồng lọai. Bà là một người không tôn giáo, nghèo khổ bị bỏ quên, bị
ngược đãi, bị đối xử bất công lâu ngày đến nỗi bà thù ghét tất cả mọi người mà
mọi người dường như nghịch cùng bà. Một lần kia, cha sở đến gặp bà để nói về
tình yêu thương của Thiên Chúa, song bà chẳng hiểu tình yêu là gì cả. Bà bảo:
- Tôi không hiểu ông nói gì.
Chưa hề có ai yêu thương tôi và đối với tôi, tôi cũng không hiểu yêu thương là
gì cả.
Cha sở về lại nhà xứ mà lòng vẫn
canh cánh ray rứt về câu chuyện với người phụ nữ nọ. Ngài cầu nguyện liền mấy
ngày rồi chợt nảy ra một ý, ngài cho mời nhóm bạn trẻ Tông đồ trong xứ lại và kể
cho các bạn ấy nghe đầu đuôi sự thể. Rồi ngài đề nghị mọi người hãy giúp cho bà
ấy biết được tình yêu của Chúa bằng cách mỗi người trong nhóm sẽ lần lượt từng
người đến thăm bà, chân thành tỏ cho bà biết trên đời này vẫn có người yêu
thương, thăm viếng, an ủi và giúp đỡ bà.
Mấy tháng trôi qua, một ngày
kia, khi cha sở lại thăm bà, bà xúc động đến rướm nước mắt:
- Thưa cha, bây giờ thì tôi đã
hiểu, đã biết yêu thương là gì rồi, và bây giờ tôi đã có thể xin cha cho tôi được
đón nhận tình yêu của Thiên Chúa.
7.
Từ ngữ “ba ngôi”
Trong Kinh Thánh, không có từ ngữ
“ba ngôi.” Từ ngữ “ba ngôi” là từ ngữ do các nhà thần học sáng tạo để diễn tả
Thiên Chúa là Đấng “nguồn” của mọi sự, Đức Giêsu như Đấng luôn kết hiệp với
Thiên Chúa, đến độ đồng nhất với Thiên Chúa, và được diễn tả là “Thiên Chúa nhập
thể”, Thánh Thần như Đấng từ Cha và Con. Ba Ngôi Thiên Chúa không phải là ba thực
tại (nếu là ba thực tại, nghĩa là, ba Chúa), nhưng chỉ là một thực tại, và là
ba ngôi vị phân biệt rõ ràng: Cha không phải là Con hoặc Thánh Thần, Con không
phải là Cha hoặc Thánh Thần, Thánh Thần không phải là Cha và Con. Tuy vậy Ba
Ngôi là một với nhau, là một trong mọi sự, là một trong bản tính, là một trong
ý muốn, là một trong quyền năng, là một trong hiện hữu.
Thiên Chúa Đấng là nguyên uỷ mọi
loài, là nguồn của tất cả, là “Cha”, là Thiên Chúa Cha. Thiên Chúa nơi Đức
Giêsu, là Thiên Chúa nhập thể, là “Con”, là ngôi hai Thiên Chúa, là Lời Thiên
Chúa. Thánh Thần là Thiên Chúa đang hiện diện nơi cung lòng con người, hướng dẫn
con người trong mọi sự, dạy dỗ con người mọi điều, là Ngôi Ba Thiên Chúa.
Thiên Chúa Đấng Siêu Việt, Đấng
vượt trên tất cả, Đấng “ngự trên trời”, đang hiện diện trong cung lòng mỗi người
(Ga.14, 16.23). Ngay cả từ ngữ “ngự trên trời”, cũng là cách nói để chỉ Thiên
Chúa là Đấng siêu việt mà con người không thể thấu đáo được. Đức Giêsu “lên trời
ngự bên hữu Thiên Chúa” nhưng Ngài đang “ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”
Ngôn từ là phương tiện để diễn tả
về Thiên Chúa, phaỉ cố gắng để hiểu, và xin ơn Thánh Thần để hiểu Thiên Chúa
hơn. Nói như vậy, không phải là phủ nhận giá trị của từ ngữ. Cũng phải dựa vào
từ ngữ để hiểu điều Kinh Thánh, Giáo Hội, và các nhà thần học muốn diễn tả.
8.
Chúa Ba ngôi như mặt trời
Một linh mục ngồi trong phi trường
đợi chuyến bay. Một người đàn ông đến ngồi bên cạnh và đề cập về tôn giáo. Ông
khoe rằng:
"Tôi không chấp nhận điều
gì tôi không hiểu, vấn đề "Ba Chúa trong một Chúa" hay bất cứ điều gì
tương tự, không ai có thể giảng nghĩa cho tôi, nên tôi không tin.”
Chỉ vào luồng sáng qua cửa sổ,
linh mục hỏi: "Bạn có tin mặt trời không?" Kẻ hoài nghi trả lời:
"Dĩ nhiên có chứ.” Linh mục nói tiếp: "Được, ánh sáng bạn thấy qua cửa
sổ, là từ mặt trời cách đây 150 triệu km chiếu tới, sức nóng chúng ta cảm thấy
phát xuất từ mặt trời và ánh sáng.
Chúa Ba Ngôi có phần tương tự
như vậy: Mặt trời là Thiên Chúa Cha. Mặt trời chiếu sáng: Ánh sáng là Thiên
Chúa Con. Từ mặt trời và ánh sáng tỏa ra sức nóng: Từ Chúa Cha và Chúa Con phát
xuất Chúa Thánh Thần. Bạn có thể giải thích được mặt trời, ánh sáng và sức nóng
được không?" Người hoài nghi im lặng.
9. Colombus
sùng kính Chúa Ba Ngôi
Người ta kể rằng Christophe
Colombus, người đã khám phá ra châu Mỹ vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ
15, có lòng sùng kính Chúa Ba Ngôi cách rất đặc biệt. Trước mọi hoạt động, ông
đều kêu cầu Chúa Ba Ngôi, cũng như ông luôn khởi đầu những gì mình viết bằng
dòng chữ: "Nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh.” Trong cuộc khởi hành thứ 3 của
ông năm 1498, Christophe Colombus đã thề hứa sẽ dâng Chúa Ba Ngôi phần đất nào
ông khám phá đầu tiên. Vì thế hòn đảo ông đặt chân đến đầu tiên trong cuộc hành
trình thám hiểm tân thế giới ấy cho đến nay vẫn được gọi là
"Trinidad", tức là Chúa Ba Ngôi.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta
khi mừng lễ trọng kính Chúa Ba Ngôi, hay mỗi khi tuyên xưng mầu mầu nhiệm Chúa
Ba Ngôi cũng biết đưa mầu nhiệm ấy vào trong cuộc hằng ngày, bằng việc hết lòng
yêu mến Chúa Ba Ngôi như Christophe Colombus đã từng yêu mến. Đồng thời biết hết
tình hiệp nhất yêu thương và hết mình hy sinh phục vụ anh chị đồng loại ngay
trong gia đình, gia tộc và trong cộng đoàn mà mình đang sống. Amen.
10.
Tình yêu kỳ diệu
Ngày 22-5-2013, Nick Vujicic,
chàng trai không chân không tay tới Việt Nam. Từ ngày 22 đến 26 tháng 5, Nick sẽ
có 8 buổi diễn thuyết (45 phút/buổi) với các đối tượng khác nhau. Anh sẽ trình
bày trước 25.000 sinh viên tại sân vận động Mỹ Đình (Hà Nội) từ 18g30 – 21g30
và ngày 23-5 trước 15.000 người tại sân vận động Thống Nhất, Sài Gòn từ 18g –
21g ngày 25-5. Anh đến Việt Nam để truyền cảm hứng cho các bạn trẻ về niềm tin
tình yêu và nghị lực.
Nick Vujicic sinh ngày 4-12-1982
tại Melbourne, Australia và hiện đang sống tại Mỹ. Không may mắn như những đứa
trẻ khác, Nick đã ra đời với cơ thể không lành lặn, thiếu chân, thiếu tay. Bố mẹ
Nick gần như ngất đi sau khi nhìn thấy đứa con bé bỏng đáng thương của mình
chào đời. Thế nhưng, họ luôn cố gắng giúp con trai có một cuộc sống bình thường
như bao đứa trẻ khác.
Bằng nghị lực phi thường cùng
phương châm sống: "Tật nguyền lớn nhất trong đời là khi mất hy vọng. Hãy
tin tôi đi, mất hy vọng còn tồi tệ hơn nhiều so với chỉ mất chân tay",
Nick Vujicic đã vươn lên để trở thành nhà diễn thuyết nổi tiếng thế giới. Anh
là người "kỳ diệu nhất hành tinh.” Qua những bài diễn thuyết, Nick Vujicic
luôn nói về niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa Tình Yêu đã cho anh nghị lực
vươn lên để trở thành người có ích, sống vui tươi hạnh phúc.
11.
Tình yêu nên một và chưa nên một
Có người môn đệ của nhà đạo sĩ
kia muốn từ bỏ thế gian, nhưng anh ta quyến luyến gia đình và bảo rằng: "Vợ
con tôi quá thương yêu tôi, nên họ không bằng lòng cho tôi thoát tục.”
Nghe nói thế, vị đạo sĩ muốn cho
anh ta biết sự thật nên đã dạy cho anh một kỹ thuật giả chết. Sau một thời gian
học thuần thục, vị đạo sĩ bảo anh hãy áp dụng kỹ thuật này khi về đến nhà. Và
quả thật, anh ta đã thực hành bài học cách tuyệt hảo để nhắm mắt xuôi tay,
nhưng vẫn còn nghe được mọi tiếng khóc than của vợ con và thân nhân, bạn bè.
Ngày hôm sau, vị đạo sĩ đến để
phân ưu cùng thân quyến. Sau những giây phút tưởng niệm người quá cố, ông
nghiêm nghị bảo thân nhân đang khóc thương người đã từ biệt cõi đời rằng:
"Tôi có bí quyết để cứu sống anh ta, nếu có ai sẵn lòng chết thay cho anh.”
Anh chàng giả chết ngạc nhiên
khi nghe mọi người trong gia đình nêu ra mọi lý do để biện minh là mình cần phải
sống. Càng ngạc nhiên hơn khi anh nghe người vợ nghĩa thiết của mình tóm lược mọi
lý lẽ trên bằng một lời quả quyết: "Tôi nghĩ không ai cần chết thay cho chồng
tôi. Không có anh ta, chúng tôi vẫn có thể làm lụng để sống.”
12.
Chính tôi đã gặp thấy Người.
Hồi ấy André Foissard là
một sinh viên thuộc một gia đình vô tín ngưỡng. Thân phụ ông là người
vô thần, cố tình để trên bàn học của con các sách báo có nội dung
bài bác đạo Công giáo để con cũng đi heo sự vô tín của mình. Nhưng
dù sống trong môi trường vô tín như thế, Foissard vẫn đạt tới đức tin
nhờ ơn Chúa Thánh Thần.
Một hôm, anh đi vào nhà thờ
Đức Bà ở Pa-ri để tìm một người bạn. Cặp mắt của anh tình cờ nhìn
thấy tượng Chúa Giê su đang chịu đóng đanh trên cây thập giá. Lập tức
anh đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa. Anh đã đứng dưới chân
cây thập giá ấy một hồi lâu và những giọt nứơc mắt cứ tự nhiện lăn
dài trên má. Bấy giờ anh cảm thấy mình như một đứa con đi lạc trong
một thời gian dài, vừa tìm thấy người cha thân yêu.
Sau này anh đã thuật lại
biến cố ấy trong một tác phẩm thời danh là "Quả thật có Thiên
Chúa. Chính tôi đã gặp Ngài.”
13.
Biết Chúa bằng đức tin
Nhà văn Nga, Tolstoy kể lại câu
chuyện một đêm kia, ông đang cầu nguyện Thiên Chúa trong giường ngủ của ông trước
một ảnh Đức Bà Đồng Trinh của Hy Lạp. Ngọn đèn đêm đang cháy. Kế đó ông ra
ngoài ban công. Đêm tối đen như mực, và bầu trời đầy sao – sao mờ, sao sáng, một
đám sao hỗn độn. Có một vẻ lóng lánh trên bầu trời, và trên địa cầu có những
bóng đêm và hình dáng những cây khô. Ông nói: “Đó là một đêm kỳ diệu. Làm thế
nào mà người ta không tin vào linh hồn bất tử khi người ta cảm thấy sự vĩ đại
vô biên như thế trong bản thân mình? Tôi có thể chết. Và tôi nghe một tiếng
trong nội tâm nói với tôi: Người đấy, ông hãy bái quì Người và thinh lặng.”
Người nào có cảm giác về Thiên
Chúa và về sự hiện diện của Người trong đời sống, người ấy thật hạnh phúc. Đó
là tài sản duy nhất đang có. Như một người đã nói: “Tôi không cần tin Ngài. Vấn
đề đức tin không còn quan trọng nữa. Tôi biết chính điều ấy.”
Khi người ta biết một điều gì,
thật sự biết một cách thâm sâu trong tâm hồn họ. Người ta không cần biện luận
hoặc chứng minh điều đó. Họ biết đúng điều đó và như thế là đủ. Đức tin thật sự
là một ơn của Thiên Chúa. Người ta tin với tâm hồn dù không biết tại sao hoặc
cũng không tìm kiếm sự hiểu biết. Một sự chắc chắn thân thiết đổ đầy tâm hồn
người ta cũng đủ.
14.
Hình ảnh của Thiên Chúa
Công chúa Luise ngày kia bị một
nữ tỳ trách móc. Không cầm nổi tức giận, công chúa bảo: Ngươi hãy nhớ, ta là
con của đức vua. Nhưng người nữ tỳ trả lời: Còn tôi, tôi là con Thiên Chúa.
Công chúa hiểu và về sau đã trở thành một vị nữ tu dòng Kín.
Qua bí tích Rửa Tội mọi người
chúng ta đều được đóng ấn hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa đến cư ngụ
trong linh hồn chúng ta. Hình anh đó phải lớn lên, lớn lên mãi, để mỗi ngày
chúng ta càng trở nên giống Thiên Chúa trong tình yêu và trong sự thánh thiện.
Yêu Chúa là tuân giữ những điều Chúa dạy. Ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên
Chúa và Thiên Chúa ở trong người ấy.
15.
Bắt đầu biết Chúa
Isaac Newton là một nhà toán học
và khoa học vĩ đại của mọi thời. Tuy nhiên về cuối đời ông, ông nói về những
thành tựu của mình:
“Tôi không biết tôi xuất hiện với
thế giới như thế nào, nhưng đối với tôi, tôi giống như một cậu bé chơi đàn trên
bãi biển và thỉnh thoảng thích thú vì tìm thấy một viên sỏi bóng loáng hơn hoặc
một vỏ sò xinh đẹp hơn thường gặp, trong khi đại dương bao la của chân lý chưa
khám phá vẫn còn trải ra trước mắt tôi.”
Cả khi chúng ta nghĩ rằng chúng
ta hiểu được mầu nhiệm Thiên Chúa, thì chúng ta chỉ mới bắt đầu. Chúng ta vẫn
chỉ là những đứa bé chơi đùa trên bãi biển. Mầu nhiệm tăng lên thay vì giảm bớt
với mỗi khám phá mới.
16.
Con người tìm Chúa
Đức Hồng y Henri de Lubac đã nói:
“Con người tìm Chúa là một người
bơi lội giữa đại dương. Mỗi lần tiến tới là đẩy lui một đợt sóng. Bơi lội giữa
đại dương làm cho con người khiếp đảm lo sợ không tới bến.
“Nhưng Thiên Chúa vừa là bên bờ
vừa là đại dương. Ai bơi lội trong đại dương là bơi lội trong Thiên Chúa. Hướng
tới Chúa đã là ở trong Chúa, tìm Chúa gặp Chúa là hướng về Chúa. Không có sự
tìm kiếm nào mà không phải phấn đấu, không gặp mâu thuẫn đau khổ. Nhưng chúng
ta tin vào Thiên Chúa đang ở với chúng ta trong Đức Kitô và lôi kéo chúng
ta với sức mạnh Chúa Thánh Thần.”
17.
Chúa Ba Ngôi ngự trong ta
Dù ta sống lẻ loi cô độc, dù mọi
người bỏ ta, dù ta phải gian nan cơ cực, điều an ủi ta là hãy nhớ Chúa Ba Ngôi
đang sống với ta, đang ngự trong tâm hồn ta.
Sau khi được trả tự do, mục sư
Wurmbrand, người Roumanie, cho xuất bản cuốn “Mes prisons avec Dieu” (bản dịch
sang Pháp văn). Mục sư, trong cuốn sách này, đã tả một số chi tiết:
Trong thời gian bị cầm tù, mục
sư phải ở dưới một căn hầm tối tăm, lạnh lẽo. Cực hơn nữa là phải ăn uống và
làm vệ sinh tại chỗ!
Các bạn tù với ông la lết trong
đó, cuối tuần mới được phép quét dọn. Ông đã chịu nhiều cực hình. Có lần lính
gác bắt ông ăn phân, ông xin phép được ăn phân của mình nhưng họ không chịu, bắt
phải ăn phân người khác.
Suốt mười năm tù ngục như thế, mục
sư vẫn kiên trì dũng cảm. Ông luôn luôn hăng hái phục vụ các bạn tù, động viên
tinh thần họ, cư xử với mọi người trong tâm tình bác ái yêu thương.
Bí quyết của ông: “Tôi đang ngồi
tù với Chúa.”
Ước gì trong cuộc sống chúng ta,
mỗi khi gặp rủi ro, buồn khổ, bị bỏ rơi, bị hất hủi, bị dị nghị, bị hiểu lầm…
hãy can đảm nói: “Tôi đang sống với Chúa. Có Chúa Ba Ngôi đang sống trong tôi.
Thế là đủ cho tôi rồi.”
18.
Con người là hình ảnh Thiên Chúa
Nhà văn Robert Louis Stevenson kể
chuyện về một con tàu chở khách bị bão đánh giạt gần bờ, có nguy cơ bể tan vì
lao vào bờ đá.
Giữa cảnh kinh hoàng đó, một
hành khách băng qua con tàu. Dò dẫm trên boong, ông tìm đến phòng thuyền trưởng,
và thấy một cảnh tượng đáng nhớ: Thuyền trưởng nắm chặt bánh lái, xoay con tàu
từng chút một ra biển
... và mỉm cười với ông.
Người hành khách đó quay lại
phòng của hành khách, và động viên mọi người đang co quắp vì sợ hãi: “Tôi đã thấy
mặt thuyền trưởng, và ông ấy mỉm cười với tôi. Mọi sự đều tốt đẹp.”
Chỉ một nụ cười mà làm yên bão tố!
Sức mạnh của nụ cười nằm ở tình yêu mà nó muốn diễn tả, một tình yêu liên kết mọi
người nên một trong giông tố, thử thách. Đó chính là nét đẹp của con người được
dựng nên theo hình ảnh Chúa, được chia sẻ hạnh phúc của chính Ngài.
Vâng, sự sống và hạnh phúc của
Thiên Chúa nằm ngay trong bản tính yêu thương của Ngài.
19.
Nhận biết nhờ đức tin
Năm 1945, tại nhà ga Verona,
Italia, dân chúng đang chờ đợi các binh sĩ trở về từ các trại tập trung của Đức
Quốc Xã. Chuyến xe lửa đầu tiên xuất hiện làm vang lên những tiếng reo vui tưởng
chừng như không bao giờ chấm dứt.
Từ trên xe lửa những tấm thân tiều
tuỵ bước xuống sân ga giữa những tiếng cười pha lẫn tiếng khóc của người thân.
Cuối cùng một anh lính trẻ mò mẫm bước đi từng bước. Anh từ từ tiến về phía một
người đàn bà già yếu, và chỉ đủ sức thốt lên tiếng ‘Mẹ’.
Hai mẹ con ôm chầm lấy nhau… Người
mẹ xót xa:
- Làm sao một người mù như con lại
có thể tìm đến mẹ?
- Thưa mẹ, con không nhìn thấy mẹ
bằng đôi mắt, anh lính mù trả lời, nhưng trái tim con đã hướng dẫn con.
Sự khôn ngoan của Thiên Chúa đã
nhập thể, sống giữa nhân loại để nên ánh sáng cho tôi: “Thiên Chúa ta đầy lòng
trắc ẩn, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi
nơi tăm tối”, và ánh sáng đó đã nên hoàn hảo trong Thánh Thần được ban cho tôi:
“Khi Thần Chân lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật.”
Còn gì vui hơn khi tôi cũng có
thể thốt lên, cùng với thầy tiểu đệ Carlo Carretto: “Ba Ngôi trở nên một thực tại
trong ta như vị khách của tâm hồn. Tại sao lại đi tìm Thiên Chúa ở bên ngoài
các vì sao đang khi Ngài ở rất gần ta, bên trong ta?”
20.
Chúa ở bên ta
Khi Kathryn Koob bị bắt làm con
tin ở Iran, đám đông giận dữ la hét bên ngoài phòng của cô hầu như suốt ngày. Một
đêm nọ, cô giật mình thức giấc. Cô nói: “Tôi quay lại mong gặp một trong những
người bảo vệ, nhưng không có ai ở đó cả.” Kathryn thêm rằng vì một lý do nào
đó, cô chợt nhớ đến Chúa Thánh Thần. Từ lúc đó, dường như Chúa Thánh Thần hiện
diện bên cô trong lao tù một cách đặc biệt. Cô nói: “Ngài dạy tôi biết yêu
thương... và nhận ra những điều mới mẻ.”
Hiện tại, tôi ước ao Chúa Thánh
Thần ban tặng cho tôi tình yêu và sự hiểu biết mới mẻ trong lĩnh vực nào của đời
tôi?
Lạy Chúa Thánh Thần, Đấng Bào Chữa,
xin hoàn thiện trong chúng con công trình Chúa Giêsu đã khởi sự. (ĐGH Gioan 23).
CNTN 9A -
Lời Chúa
TRUYỆN
KỂ
1. truyện
CNTN 9B -
Lời Chúa
TRUYỆN
KỂ
1. truyện
CNTN 9C -
TRUYỆN KỂ
1. truyện
THỨ HAI - DỤ NGÔN TÁ ĐIỀN SÁT NHÂN
Lời
Chúa: Mc 12, 1-12
Khi
ấy, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà nói với các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão rằng:
"Có người trồng một vườn nho, rào dậu xung quanh, đào bồn đạp nho và xây một
tháp, đoạn cho tá điền thuê vườn nho và trẩy đi phương xa.
"Ðến
kỳ hạn, ông sai đầy tớ đến với tá điền thu phần hoa lợi vườn nho. Nhưng những
người này bắt tên đầy tớ đánh đập và đuổi về tay không. Ông lại sai đầy tớ khác
đến với họ. Người này cũng bị chúng đánh vào đầu và làm sỉ nhục. Nhưng người thứ
ba thì bị chúng giết. Ông còn sai nhiều người khác nữa, nhưng kẻ thì bị chúng
đánh đập, người thì bị chúng giết chết.
"Ông
chỉ còn lại một cậu con trai yêu quý cuối cùng, ông cũng sai đến với họ, (vì)
ông nghĩ rằng: "Chúng sẽ kiêng nể con trai ta." Nhưng những tá điền
nói với nhau rằng: "Người thừa tự đây rồi, nào ta hãy giết nó và cơ nghiệp
sẽ về ta." Ðoạn chúng bắt cậu giết đi và quăng xác ra ngoài vườn nho. Chủ
vườn nho sẽ xử thế nào? Ông sẽ đến tiêu diệt bọn tá điền và giao vườn nho cho
người khác. Các ông đã chẳng đọc đoạn Thánh Kinh này sao: "Tảng đá những
người thợ xây loại ra, trở thành đá góc tường. Ðó là việc Chúa làm, thật lạ
lùng trước mắt chúng ta."
Họ
tìm bắt Người, nhưng họ lại sợ dân chúng. Vì họ đã quá hiểu Người nói dụ ngôn
đó ám chỉ họ. Rồi họ bỏ Người mà đi.
TRUYỆN KỂ
1. Việc nhỏ lòng lớn
Một
thầy dòng là thợ may cho cộng đoàn. Ngày kia, ông đau nặng và chờ chết. Ông nói
với anh em: “Đưa cho tôi chìa khóa vào thiên đàng!"
Anh
em nhìn nhau bối rối. Họ không biết ông muốn nói gì. Nhưng ông chỉ lặp lại lời
đề nghị: “Đưa cho tôi chìa khóa vào thiên đàng." Cuối cùng, họ đưa cho ông
chiếc kim may. Một nụ cười mãn nguyện làm gương mặt thầy già sáng lên khi liếc
nhìn chiếc kim trong tay và nói: “Tôi làm việc mỗi ngày với chiếc kim này vì
vinh quang Chúa. Bây giờ nó là chìa khóa mở cửa cho tôi vào thiên đàng."
2. Vua Julianus
Vua
Julianus, hoàng đế cai trị nước Rôma từ năm 361 đến 363. Nhà vua là cháu hoàng
đế Constantinô. Nhà vua là người Công giáo, nhưng lại không muốn sống đời hy
sinh theo Chúa, không muốn cầu nguyện, không muốn tránh xa tội lỗi, nhưng chỉ
muốn sống đời sống dâm đãng, bất công và không có lòng bác ái. Chính vì thế mà
nhà vua đã bỏ đạo rồi lại còn quay sang bắt bớ Giáo Hội. Sau khi đã lên án xử tử
cho Đức Giáo Hoàng, nhà vua còn hỏi nhạo báng rằng:
-
Ông Giêsu thợ mộc đang làm gì ở xưởng thợ Nazareth?
Đức
Giáo Hoàng đã khiêm tốn thưa:
-
Tâu đức vua, Chúa Giêsu của tôi ở trên trời, Ngài đang đóng quan tài cho đức
vua.
Chẳng
bao lâu sau đó, vua Julianus đem quân đi giao chiến với quân Ba-Tư, nhà vua bị
một mũi tên của quân thù ghim thẳng vào trái tim. Nhà vua đã tức giận kéo mũi
tên đó ra, lao lên trời mà kêu rằng: “Hỡi ông Giêsu người xứ Nazareth, ông đã
thắng tôi rồi." Đoạn nhà vua tắt thở.
3. Cho có phúc hơn nhận
Cặp
vợ chồng nọ trúng số độc đắc. Bà con thân thuộc kéo đến nhận họ hàng, xin xỏ,
vay mượn. Cuộc sống gia đình luôn bị xáo trộn. Ông chồng bàn với vợ dọn đi chỗ
khác, đổi tên đổi họ không cho ai biết. Nhưng người vợ nói: dù đã đổi tên đổi họ
nhưng nếu người ta biết mình có tiền thì người ta vẫn tìm đến quấy rầy. Người
chồng bảo hãy dấu luôn số tiền và sống đạm bạc y như những người nghèo thực thụ.
Hai người nhất trí làm y như vậy. Họ đến một nơi khác cất một túp lều tranh
nghèo nàn, chôn dấu số tiền sống đạm bạc. Dần dần họ quên luôn mình có số tiền
đó. Khi chết họ quên cả chối lại cho con cháu số tiền ấy. Thành ra trúng số mà
cũng như không.
Nhận
lãnh là để trao ban, có là để chia sẻ. Không trao ban, không chia sẻ thì ơn
Chúa ban cũng giống như nén bạc bị chôn xuống đất. Nó không đem lại niềm vui mà
chỉ gây nên lo lắng buồn phiền.
Lạy
Chúa, xin cho con luôn nhớ rằng: “Cho thì có phúc hơn nhận lãnh." Xin cho
con hưởng được niềm vui khi trao ban và tiêu hao bản thân con mỗi ngày.
4. Chống Thiên Chúa mua lấy thảm bại
Hoàng
tử của vua Hieroboam nước Israel bị đau nặng, vua liền nói với hoàng hậu rằng:
-
Bà hãy cải trang giả dạng, đừng để người ta nhận ra bà là hoàng hậu, rồi đem
theo mười ổ bánh mì, với bánh sữa và bình mật ong, đi gấp lên Silô, gặp tiên
tri Abia, để hỏi cho biết số phận hoàng tử con chúng ta thế nào, sống hay chết.
Lúc
ấy tiên tri Abia chẳng còn trông thấy gì, hai mắt đã lòa vì quá già. Nhưng Chúa
phán dạy tiên tri Abia rằng:
-
Này hoàng hậu Hieroboam sẽ tới hỏi han về đứa con trai đang bị đau nặng; lúc đến,
nàng sẽ cải trang thành một người khác.
Do
đó, khi tiên tri Abia vừa nghe có tiếng người bước qua cửa, liền hỏi ngay:
-
Hoàng hậu Hieroboam đó phải không? Xin mời vào, cớ sao phải giả dạng làm người
khác làm gì? Tôi có trách nhiệm báo hung tin cho bà hôm nay. Bà cứ về thưa cùng
vua Hieroboam, Thiên Chúa là Chúa dân 1srael phán như sau: “Ta đã tôn ngươi lên
giữa dân chúng. Ta đã đặt ngươi làm thủ lãnh Israel dân Ta. Ta đã xẻ đôi nước của
gia đình Đavid mà trao cho ngươi. Nhưng ngươi đã không bắt chước Đavid tôi tớ,
là tuân theo các mệnh lệnh của Ta. Trái lại, ngươi đã gây ra nhiều tội ác, lại
còn thờ các thần ngoại bang mà bỏ Ta. Vì thế, nay Ta giáng họa trên gia đình
Hieroboam, Ta sẽ trừ diệt nhà Hieroboam. Các người thuộc gia đình Hieroboam, nếu
chết trong thành sẽ bị chó ăn thịt; nếu chết ngoài đồng, sẽ bị chim trời rúc rỉa.
Thôi bà đứng dậy đi về đi, và khi về, bà vừa đặt chân tới cửa thị trấn, thì con
trai của bà sẽ chết.
Và
quả đúng như thế. Hoàng hậu Hieroboam về đến Thesa, vừa bước qua ngưỡng cửa,
thì hoàng tử con bà chết liền, đúng như lời tiên tri Abia đã nói (1Cv 14,1).
5. Trong nghịch cảnh mới thấy trung kiên
Sau
khi vua Salomon chết vào năm 922 trước Công nguyên, một cuộc nội chiến đã chia
12 chi tộc Israel thành những quốc gia đối nghịch: Bắc và Nam. Năm 722 trước
Công nguyên, quân Assyria và chiếm phương Bắc và bắt dân chúng đi đầy ở
Assyria. Nhiều người Do thái bị phát lưu nhưng vẫn trung kiên với đức tin của họ.
Gia đình Tôbia vẫn tin tưởng, ngay cả lúc họ bị những người lân cận chế giễu.
Tôi
để người khác ảnh hưởng trong việc thực hành đức tin như thế nào? Bằng cách nào
tôi vẫn trung kiên với đức tin?
“Phàm
ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng tuyên bố nhận người ấy
trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32).
6. Cái lợi trước mắt
Vào
thời của Benjamin Franklin, những cái đinh hình móng ngựa rất phổ biến. Chẳng hạn,
bạn có thể tìm thấy chúng nơi đám bụi cây bên đường. Hầu như mọi người đều nghĩ
rằng những cái đinh này không có hoặc có rất ít giá trị. Để kịch tính hóa điều
trái ngược đôi khi cũng có thực, Franklin đã viết bài thơ sau đây:
Vì
muốn cái ốc mà mất cái móng.
Vì
muốn cái móng mà mất con ngựa.
Vì
muốn con ngựa mà mất kỵ sĩ.
Vì
muốn kỵ sĩ mà phải thua cuộc.”
Bài
thơ của Franklin và lời dạy của Chúa Giêsu mời gọi tôi tự hỏi: Có phải đôi khi
tôi đã đối xử với những người xung quanh như những kẻ không có hoặc có ít giá
trị? Ai là người trong số đó? Người ấy có giá trị nào không?
Người
phàm chỉ trông thấy điều đó trước mắt, còn Thiên Chúa trông thấy điều ẩn đáy
lòng (1Sm 16,7).
7. Bắt đầu từ điều nhỏ bé
Ý
tưởng Kinh thánh về hòa bình không chỉ là vắng bóng chiến tranh, mà còn là sự
hiện diện của mối liên hệ đúng đắn với Thiên Chúa. Đôi khi ta quên rằng hòa
bình bắt đầu từ tâm hồn con người. Một câu ngạn ngữ Trung Quốc đã giải thích lý
do tại sao: “Nếu có bình an trong tâm hồn, sẽ có vẻ đẹp nơi con người. Nếu có vẻ
đẹp nơi con người, sẽ có hòa bình trong gia đình. Nếu gia đình thuận hòa, quốc
gia sẽ trật tự. Nếu quốc gia trật tự, thế giới sẽ bình an.”
Mối
quan hệ giữa tôi và Chúa đã thay đổi ra sao trong năm qua? Đâu là nhân tố đứa đến
tình trạng này? Vì sao?
Đạt
được bình an trong tâm hồn và quy tụ được nhiều người quanh bạn, bạn sẽ tìm gặp
được ơn cứu độ (Thánh Seraphim).
THỨ BA - BỔN PHẬN TÍN HỮU VÀ CÔNG DÂN
Lời
Chúa: Mc. 12, 13-17
Khi
ấy, người ta sai mấy người thuộc nhóm biệt phái và đảng Hêrôđê đến Chúa Giêsu để
lập mưu bắt lỗi Người trong lời nói. Họ đến thưa Người rằng: "Thưa Thầy,
chúng tôi biết Thầy là người chân thật không vị nể ai, vì Thầy chẳng xem diện mạo,
một giảng dạy đường lối Thiên Chúa cách rất ngay thẳng. Vậy chúng tôi có nên nộp
thuế cho Cêsarê không? Chúng tôi phải nộp hay là không?"
Nhưng
Người biết họ giả hình, nên bảo rằng: "Sao các ông lại thử Ta? Hãy đưa Ta
xem một đồng tiền." Họ đưa cho Người một đồng tiền và Người hỏi:
"Hình và ký hiệu này là của ai?" Họ thưa: "Của Cêsarê."
Người
liền bảo họ: "Vậy thì của Cêsarê, hãy trả cho Cêsarê; của Thiên Chúa, hãy
trả cho Thiên Chúa." Và họ rất đỗi kinh ngạc về Người.
TRUYỆN KỂ
1. Công dân và tín hữu
Vua
Henry VIII nước Anh đã kết hôn hợp thức với bà Catherine d’Aragon, nhưng ông
xin Tòa Thánh Rôma hủy bỏ cuộc hôn nhân đó. Tòa Thánh đã từ chối. Henry liền tự
mình giải quyết vấn đề và tái kết hôn. Thế là ông ta ra lệnh cho bạn bè và các
chức sắc ký vào một văn bản tuyên bố đồng ý nhìn nhận hành động của ông là đứng
đắn. Nhiều bạn bè của More đã ký vào, nhưng More thì từ chối. Henry yêu cầu
More ký vào, nếu không sẽ bị bắt giam và xử tội tạo phản theo luật nhà nước.
More vẫn khăng khăng từ chối. Ngài bị giằng co giữa hai bổn phận: Một đối với
Chúa, một đối với Tổ quốc. Khi chúng xung đột nhau, thì More không còn chọn lựa
nào ngoài sự trung tín với luật Chúa. (M. Link, Giảng lễ Chúa Nhật, năm A, tr.
305).
2. Có trả đủ không?
Ông
Sam Jones là một nhà truyền đạo trứ danh bên Mỹ kể:
Ngày
kia, có tín đồ than thở với ông rằng:
-
Thưa ông, tôi đóng góp cho Hội thánh nặng quá!
-
Bao nhiêu một năm? Ông Jones hỏi.
-
Năm đồng một năm.
-
Thế ông tin Chúa đã bao lâu?
-
Đã bốn năm nay.
-
Trước khi tin Chúa ông làm gì?
-
Tôi nghiện rượu.
- Mỗi
năm ông uống rượu hết bao nhiêu tiền?
-
Chừng 250 đồng Mỹ kim.
-
Khi ấy ông có đất ruộng gì không?
-
Tôi phải mướn đất, cày bừa với một con bò.
-
Bây giờ ông có gì không?
-
Tôi có một khu ruộng tốt và một đôi ngựa cày.
Bấy
giờ, ông Jones mới nghiêm nghị trách rằng:
-
Trước đây, ông cho ma quỉ mỗi năm 250 đồng, để được cày ruộng thuê với một con
bò, mà nay Đức Chúa Trời đã cứu ông, nay ông chỉ dâng cho Ngài năm đồng mỗi
năm, để được cày ruộng riêng của mình với một đôi ngựa. Đúng ông là người bội bạc
từ đầu đến bàn chân!
Vâng!
Tất cả là hồng ân Chúa ban và phải trả lẽ với Chúa về những hồng ân Người uỷ
thác.
3. Không thích nghe sự thật
Một
hôm, vua Vũ Đế nhà Hán nói với các quan rằng:
-
Ta xem trong sách tướng có nói, người ta nhân trung dài một tấc thì sống lâu một
trăm tuổi.
Đông
Phương Sóc đứng bên phì cười. Các quan bắt lỗi là vô phép.
Đông
Phương Sóc cất mũ, tạ rằng:
-
Muôn tâu bệ hạ, kẻ hạ thần không dám cười bệ hạ, chỉ cười ông Bành Tổ mặt dài
mà thôi.
Vua hỏi:
-
Sao lại cười ông Bành Tổ?
Đông Phương Sóc nói:
- Tục
truyền ông Bành Tổ sống tám trăm tuổi. Nếu quả thực như câu trong sách tướng bệ
hạ nói thì nhân trung ông dài tám tấc, mà nhân trung dài tám tẩc thì cái mặt
ông ta dễ phải dài đến một trượng.
Vua
Vũ Đế nghe nói bật cười tha tội cho.
Hãy
coi chừng kẻo chúng ta cũng vấp phải chứng giả dối, đối xử với nhau theo kiểu
những lời nói đầu môi chóp lưỡi, những lời khen ngợi không thành thực, những
câu nói gài bẫy hại người.
4. Thuế đền thờ
Việc
nộp thuế hằng năm cho Đền thờ Jêrusalem là một luật buộc cho tất cả những người
Do Thái, phái nam từ hai mươi tuổi trở lên phải nộp thuế, cả khi người đó sinh
sống ngoài lãnh thổ Israel và số tiền phải trả tương đương với số lương của hai
ngày làm việc.
Thói
quen đóng thuế là vào tháng ba trước khi mừng lễ Vượt Qua. Chúa Giêsu, với tư
cách là con Thiên Chúa, thì Ngài phải được miễn nộp thuế Đền thờ. Vì theo luật
Rôma đang có hiệu lực thời đó thì những thành phần của gia đình nhà vua, không
phải nộp thuế. Tuy nhiên, để khỏi gây ra gương mù gương xấu, để khỏi làm gai mắt
họ thì Chúa Giêsu đã nộp thuế. Cách hành xử của Chúa có thể là một bài học thiết
thực cho mỗi người. Chúa Giêsu hành xử không theo tiêu chuẩn công bằng mà là
bác ái, để khỏi gây ra gương mù gương xấu cho anh em. Chúa tuân giữ cả những điều
nhỏ mà thật ra Chúa không buộc phải giữ.
5. Dám sống theo sự thật
Đạo
diễn Trần Văn Thuỷ trong cuốn tự truyện “Chuyện nghề của Thủy”, nhận định: “Một
xã hội gồm những con người vô đạo, không biết sợ cái gì, tin vào cái gì, là một
xã hội cực kỳ nguy hiểm.” Nguy hiểm vì những con người vô đạo ấy dám làm mọi điều,
kể cả giả dối, để thỏa mãn sự vô đạo của mình. Chính sự giả dối đã làm cho con
người không còn tin vào bất cứ điều gì nữa, thậm chí không còn tin vào nhau. Họ
không chỉ giả dối với nhau mà còn giả dối với Thiên Chúa, chối bỏ sự hiện diện
của Ngài trong chính họ. Trong một xã hội như thế, sự giả dối vây quanh, chen
vào tận ngõ ngách tâm hồn, sản sinh hết loại giả dối này đến loại giả dối khác.
Đó là biểu hiện của sự sa sút đạo đức và sự thống trị của ma quỷ, vì ma quỷ là
“cha của sự giả dối” (Ga 8,44). Chúa Giêsu muốn lột trần mặt nạ giả dối của con
người: “Tại sao các ngươi lại thử tôi,” để mỗi người nhận rõ khuôn mặt thật của
mình, khuôn mặt của con Thiên Chúa và tâm lòng giống “hình ảnh Thiên Chúa."
Ai thuộc về sự thật thì thuộc về Chúa.
6. Sống trung thực
Câu
hỏi mà những kẻ chống đối Chúa Giêsu đặt ra cốt là để gài bẫy Ngài. Nếu Ngài trả
lời là nên nộp thuế, thì Ngài sẽ làm phật lòng dân chúng. Còn nếu Ngài trả lời
là không nên, thì Ngài sẽ bị tố cáo với người Rôma. Chúa Giêsu trả lời cho ác ý
của họ bằng cách xin một đồng tiền La mã. Có đồng tiền La mã tức là thừa nhận sự
ràng buộc của Đế quốc. Điều này gây ra cho dân chúng cái ấn tượng rằng Chúa
Giêsu không có một đồng tiền La mã nào.
Tôi
đã trung thực và thẳng thắn như thế nào trong sự giao tiếp với người khác?
Một
con người trung thực là một tác phẩm cao quý nhất của Thiên Chúa (ĐGH.
Alexander).
THỨ TƯ - NGƯỜI CHẾT SỐNG LẠI
Lời
Chúa: Mc 12, 18-27
Khi
ấy, có ít người phái Sađốc đến cùng Chúa Giêsu; phái này không tin có sự sống lại
và họ hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, luật Môsê đã truyền cho chúng tôi thế
này: Nếu ai có anh em chết đi, để lại một người vợ không con, thì hãy cưới lấy người
vợ goá đó để gây dòng dõi cho anh em mình. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới
vợ rồi chết không con. Người thứ hai lấy người vợ goá và cũng chết không con,
và người thứ ba cũng vậy, và cả bảy người không ai có con. Sau cùng người đàn
bà ấy cũng chết. Vậy ngày sống lại, khi họ cùng sống lại, thì người đàn bà đó sẽ
là vợ của người nào? Vì cả bảy anh em đã cưới người đó làm vợ."
Giêsu
trả lời rằng: "Các ông không hiểu biết Kinh Thánh, cũng chẳng hiểu biết
quyền phép của Thiên Chúa, như vậy các ông chẳng lầm lắm sao? Bởi khi người chết
sống lại, thì không lấy vợ lấy chồng, nhưng sống như các thiên thần ở trên trời.
Còn
về sự kẻ chết sống lại, nào các ông đã chẳng đọc trong sách Môsê chỗ nói về bụi
gai, lời Thiên Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ta là Chúa Abraham, Chúa Isaac
và Chúa Giacóp." Người không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa
kẻ sống. Vậy các ông thật lầm lạc."
TRUYỆN KỂ
1. Sự sống đời sau như thế nào?
Có
hai luồng tư tưởng sai lầm. Không tin vào đời sau. Hoặc tin vào đời sau nhưng
cho rằng đời sau cũng giống như đời này. Hôm nay Chúa Giê-su bài bác cả hai lập
trường sai lầm ấy.
Có
đời sau. Vì tại bụi gai cháy đỏ Thiên Chúa nói với Mô-sê: “Ta là Thiên Chúa của
Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, và Thiên Chúa của Gia-cóp. Người không phải
là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống." Thiên Chúa đang sống nên
mới có thể truyện trò với Mô-sê. Và các tổ phụ cũng đang sống bên nên Thiên
Chúa mới khẳng định Người là Thiên Chúa của họ.
Nhưng
đời sau không còn giống như đời này. Chúa Giê-su minh định: “Quả vậy, khi người
ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các
thiên thần trên trời."
2. Thiên Chúa của kẻ sống
Đại
tá David Marcus bị chết trong trận chiến ở Israel tháng 6 năm 1948. Trong bóp
(ví) của ông, người ta thấy một tấm thẻ ghi lại những lời thi vị hóa cái chết
như sau:
“Tôi
đang đứng trên bờ biển. Bên cạnh tôi con tàu đang trương buồm trắng phất phơ
trong gió sớm hướng về đại dương. Con tàu trông thật đẹp và mạnh mẽ. Tôi đứng
nhìn theo nó cho đến khi nó chỉ còn là một dải mây trắng nơi trời và nước hòa lẫn
với nhau. Lúc đó có người đứng cạnh tôi thốt lên: “Kìa, con tàu biến mất rồi!”
- Biến đi đâu? - Biến khỏi tầm mắt tôi, thế thôi! Nó vẫn là cột buồm, là vỏ tàu
rộng lớn như lúc nó rời cạnh tôi và cũng vẫn đủ khả năng mang hàng hóa tươi sống
đến nơi đã định. Kích thước con tàu chỉ giảm đi trong ánh nhìn của tôi chứ
không phải nơi chính nó. Và ngay lúc đó tiếng người cạnh tôi vang lên: “Kìa! Nó
biến mất rồi” thì lại có nhiều tiếng khác ở chân trời đằng kia vang lên đầy
hoan hỉ: “Kìa! Nó đến rồi” Và đó chính là lúc chết (M. Link).
Đối
với Thiên Chúa mọi người đều luôn sống và sự chết trần gian chỉ là một sự chuyển
tiếp… sang sự sống mới, tươi hơn, sáng hơn.
3. Suy nghĩ của một bào thai
Một
bác sĩ sản khoa nọ đã viết nên một câu chuyện rất hay.
Chuyện
kể rằng: một lần nọ, bác sĩ ấy đã thử nói chuyện với một bào thai. Bác sĩ nói:
-
Bào thai ơi, thời gian trong bụng mẹ chỉ là giai đoạn sửa soạn, cuộc đời thực sự
sẽ đến sau này trên trần thế. Đó là một cuộc đời mà ngươi chưa biết và không thể
tưởng tượng ra được.
Nghe
vậy, bào thai phản ứng:
-
Thôi ông đừng có nói chuyện mê tín dị đoan. Cuộc đời trong bụng mẹ tôi là cuộc
đời duy nhất mà tôi biết được lúc này, ngoài ra không còn cuộc đời nào khác. Một
cuộc sống ở nơi nào khác chỉ là điều bịa đặt của những kẻ cuồng tín.
Nhưng,
suy nghĩ một hồi, bào thai tự thắc mắc:
-
À, nhưng mà tôi sẽ có mắt ở trên mặt. Để làm chi nhỉ? Ở đây đâu có gì để nhìn?
Tôi sẽ có chân, nhưng tôi không có đủ chỗ để duỗi người ra, vậy có chân để làm
gì đây? Và tại sao tôi lại phải có tay? Có tay để cứ khoanh mãi như thế này mãi
ư? Tay sẽ làm phiền tôi và mẹ tôi. Sự tăng trưởng của tôi trong lòng mẹ sẽ thật
vô nghĩa, nếu như sau này không có một cuộc đời với ánh sáng, màu sắc và nhiều điều
khác nữa để tôi nhìn ngắm. Không gian mà cuộc đời khác của tôi sẽ sống, chắc là
vĩ đại lắm nhỉ? Chắc là tôi phải đi thật nhiều, nên tôi mới cần có đôi chân? Chắc
là tôi phải làm việc nhiều và chiến đấu cam go lắm, nên tôi mới cần có đôi tay?
Bác sĩ nói đúng đấy! Chắc chắn phải có một cuộc đời khác nữa trên trần thế ở
bên ngoài bụng mẹ tôi.
Chắc
chắn phải có một cuộc đời khác nữa trên trần thế ở bên ngoài bụng mẹ tôi! Vâng,
chúng ta đang sống trong trần gian và niềm tin Chúa muốn dạy ta hôm nay là: Chắc
chắn có một cuộc đời khác nữa sau cuộc sống trên trần thế này.
4. Tại sao tôi sống?
Ngày
nay, cũng chẳng khác gì ngày xưa. Cũng có một số người không tin vào sự tồn tại
của chính mình ở đời sau. Họ đang sống như chỉ có đời này. Họ đang hưởng thụ
không biết mệt mỏi. Họ sống như chỉ có một mình mình, không cần biết đến ai,
không cần để ý xem tương lai mình sẽ ra sao… Thậm chí có lúc họ còn cho những
người tin vào đời sống mai hậu là ngu dại.
Thế
nhưng, thực tế có như vậy hay không thì mỗi người phải tự mình suy xét lại.
Người
ta đã đọc thấy trên mộ của một người ở nghĩa trang: “Đây là nấm mồ của một người
dại dột, đã sống mà không biết tại sao mình sống."
Nhà
triết học Diogenes ngày xưa đã viết: “Trong tất cả mọi sự, hãy nhìn đến cùng
đích cuộc đời của mình."
5. Giá trị của cuộc sống
Một
giáo viên yêu cầu mỗi học sinh lấy kéo và cắt một mẫu từ bức tranh được che bằng
một tờ giấy. Cô giáo nói: “Các em hãy đem về nhà nhưng không được nhìn trộm, và
Chúa nhật tới hãy đem lại đây.” Tuần sau, các học sinh trở lại để ráp bức tranh
lại. Mọi người đều bỡ ngỡ về có những khoảng trống nơi bức tranh. Thì ra, một
cô bé đã quên mang mẩu tranh của mình.
Cô
giáo ôm cô bé đang khóc vì quên mang mẩu tranh và nói: “Amy, cô rất mừng vì em
đã quên, bởi vì điều đó dạy chúng ta một điều tốt hơn là cô đã dự định: đó là mỗi
người chúng ta đều quan trọng như thế nào trong chương trình của Chúa. Mỗi người
chúng ta được mời gọi trở thành nhân chứng cho Chúa theo cách của mình, và nếu
chúng ta quên đi, chương trình của Chúa sẽ mất đẹp, như bức tranh này vậy.”
Chứng
từ của tôi quan trọng đối với ai?
Mười
thiên tài âm nhạc không thể trình diễn được một bản giao hưởng. Nó cần phải có
cả một dàn nhạc.
6. Ngoài sự hiểu biết của con người
Bộ
phim “The Heart in a lonely Hunter” có cảnh một người điếc hỏi một cô gái âm nhạc
là như thế nào. Cô gái đứng trước mặt người này để anh ta có thể thấy được đôi
môi cô cử động. Cô cũng sử dụng điệu bộ bằng đôi tay, nhưng chẳng có tác dụng
gì. Cuối cùng, cả hai cùng cười và bỏ cuộc. Chúa Giêsu cũng gặp phải một vấn đề
tương tự khi Ngài dạy cho con người về thiên đàng. Họ không thể tưởng thượng được
nó như thế nào.
Tôi
hình dung thiên đàng ra sao?
Điều
mắt chẳng hề thấy. tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là
điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Ngài (1Cr 2,9).
7. Những sự trên trời
Báo
Newsweek năm 96 có kể trường hợp các thiếu niên cảm tử thuộc một tổ chức khủng
bố Hồi giáo ở Trung Đông được hứa hẹn: nếu ôm bom xông vào đám đông thì sẽ được
lên thẳng thiên đàng, nơi chảy sữa và mật, có 70 cô trinh nữ xinh đẹp hầu hạ và
có 72 vé vào cửa thiên đàng để phân phối cho thân nhân. Rõ ràng một thiên đàng
như vậy xa lạ với Kitô giáo chúng ta. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói cho ta
biết thế giới mai sau khác hẳn thế giới hiện tại; thật sai lầm khi dùng những
hình ảnh của thế giới này để áp dụng cho thế giới mai sau. Đức Giêsu chỉ nói rằng:
“Khi ấy người ta sẽ giống các thiên thần trên trời.”
Đích
điểm của đời bạn là hạnh phúc vĩnh cửu, là sự sống đời đời cùng với Thiên Chúa.
Để đạt được đích điểm cuộc đời ấy, bạn phải theo sự hướng dẫn của Đức Giêsu, Đấng
từ trời xuống, Ngài vừa chỉ lối, vừa cầm tay dắt bạn đi đến đích.
THỨ NĂM - GIỚI RĂN TRỌNG NHẤT
Lời Chúa: Mc 12, 28b-34
Khi ấy, có người trong nhóm Luật
sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng: "Trong các giới răn, điều nào trọng
nhất?"
Chúa Giêsu đáp: "Giới răn
trọng nhất chính là: "Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta,
là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết
linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi." Còn đây là giới răn thứ hai:
"Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi." Không có giới răn
nào trọng hơn hai giới răn đó."
Luật sĩ thưa Người: "Thưa
Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất, và ngoài
Người, chẳng có Chúa nào khác. Yêu mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức
mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật
hy sinh."
Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn
ngoan, Chúa Giêsu bảo: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu."
Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì nữa.
TRUYỆN
KỂ
1. Yêu
mến
Yêu mến là hạnh phúc. Ai cũng muốn.
Cũng cần. Có rất nhiều. Nhưng sao cứ đau khổ. Đó là vì chưa biết yêu. Hôm nay
Chúa dậy ta điều cơ bản nhất. Hãy yêu. Nhưng phải có thứ tự. Và có phương pháp.
Thứ tự. Phải yêu mến Thiên Chúa
trên hết. Vì Thiên Chúa là tất cả. Là sự sống. Là tình yêu. Là hạnh phúc. Không
có Thiên Chúa thì không có ta. Yêu sự sống của mình là điều rất tự nhiên. Và cần
thiết. Chúa làm mọi cách cho ta được hạnh phúc. Yêu hạnh phúc của mình là quá
chính xác. Thiên Chúa là Tình Yêu. Yêu trong Tình Yêu là đi đúng đường.
Phương pháp. Phải yêu mến “hết
lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực người." Yêu sự sống, tình
yêu và hạnh phúc. Đương nhiên phải làm hết sức lực, hết linh hồn, hết trí khôn.
Thì mới mong đạt đến mục đích.
Thứ tự tiếp theo. Yêu tha nhân.
Phương pháp. Như chính mình. Ai thực hiện sẽ đạt tới hạnh phúc.
2.
Mối quan tâm hàng đầu
Văn hào Léon Tolstoi có kể câu
chuyện như sau:
Hai người đàn ông nọ quyết tâm
hành hương về Yêrusalem để dự Ðại lễ Phục Sinh ở đó. Một người đặt mối quan tâm
hàng đầu là đích điểm của cuộc hành trình, vì thế ông cương quyết không dừng lại
bất cứ nơi đâu, và trong suốt cuộc hành trình, tâm trí ông chỉ nghĩ đến thành
thánh. Còn người thứ hai, trên mọi nẻo đường, nhìn thấy nhiều người cần được
giúp đỡ và ông đã tốn nhiều tiền bạc và thời giờ, đến nỗi ông không đến được
đích điểm như đã dự định; thế nhưng, một cái gì đó từ Thiên Chúa đến với tâm hồn
ông mà người hành hương kia không nhận được, cũng như một cái gì đó từ Thiên
Chúa qua đôi tay ông, ảnh hưởng cuộc đời của nhiều người mà người kia không có
được qua những nghi lễ ông tham dự tại thành thánh kéo dài suốt mùa Phục Sinh.
Mối quan tâm hàng đầu là một
danh từ thời đại. Nhà nước đặt mối quan tâm hàng đầu vào chính sách kinh tế; một
học sinh đặt mối quan tâm hàng đầu vào đèn sách để thi đậu vào đại học... Ðâu
là mối quan tâm hàng đầu của tôi, đó là câu hỏi hợp lý có thể áp dụng vào mọi
sinh hoạt cuộc sống, nhưng thiết nghĩ quan trọng hơn cả là câu hỏi: Ðâu là mối
quan tâm hàng đầu của tôi đối với cuộc sống của một người Kitô hữu?
3.
Cốt yếu của Luật Chúa
Mẹ Têrêsa Calcutta kể: “Hôm ấy,
một người lạ mặt đến nhà dòng, ông thấy một sơ vừa đem về một người hấp hối, nằm
bên ống cống, mình mẩy dòi bọ rất hôi thối. Thế mà, sơ rất nương nhẹ nhặt từng
con bọ với vẻ mặt vui tươi, thanh thản đầy thương mến...
Rồi người lạ đến gặp tôi nói:
“Thưa mẹ, khi con đến đây với lòng đầy căm hờn của một người vô tín ngưỡng.
Nhưng bây giờ con ra về với một tâm hồn hoàn toàn đổi mới. Con bắt đầu tin
Chúa, bởi vì con đã chứng kiến tình yêu của Chúa được diễn tả một cách cụ thể
qua hành động và qua cách Sơ ấy đối xử với người hấp hối bẩn thỉu kia. Bây giờ
con tin thật Chúa là tình yêu. Không có tình yêu Chúa trong tâm hồn, không khi
nào có đủ nghị lực để yêu tha nhân được."
4. Yêu
người bằng việc làm
Một vị đạo sĩ kia kể rằng: ngày nọ, ông từ núi
cao đầy băng tuyết đi xuống với một người Tây Tạng. Dọc đường ông gặp một người
ngã quỵ trên băng tuyết, ông nói với người Tây Tạng đồng hành:
- Chúng ta mau lại kia giúp đỡ
người gặp nạn đó!
Nhưng người Tây Tạng trả lời:
- Không ai bắt buộc chúng ta phải
giúp đỡ kẻ khác, khi mà chính mạng sống của chính chúng ta cũng đang bị giá lạnh
đe dọa.
Nhưng vị đạo sĩ trả lời:
- Dù chúng ta có phải chết vì lạnh
đi nữa, thì chúng ta cũng chết vì đã giúp người khác, đó là điều vẫn tốt đẹp
hơn.
Nói rồi vị đạo sĩ chạy lại vác
người bị nạn lên vai và khệ nệ xuống núi, trong khi người Tây Tạng đã bỏ xuống
trước từ nãy giờ. Đi được một quãng xa, vị đạo sĩ thấy người bạn đồng hành người
Tây Tạng đang nằm dài trên tuyết bất động. Thì ra, anh ta mệt quá, ngồi nghỉ và
bị lạnh cóng lúc nào không biết, còn vị đạo sĩ vì phải hết sức vác người bị nạn
nên cơ thể nóng lên thêm, và do đó thoát chết lạnh.
Mẹ Têrêsa từng nói: “Hãy là hiện
thân cho lòng nhân của Thượng Đế, bằng cách thể hiện trên nét mặt, trong ánh mắt,
trong nụ cười và cả trong những lời chào nồng nhiệt của mình."
5.
Yêu Chúa hết lòng
”Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa
là Đức Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực
ngươi” (Mc 12, 30)
Khi sinh thời Thánh Micae Hồ
Đình Hy (1808-1858) là một giáo dân đạo đức có lòng bác ái, kính sợ Thiên Chúa
và là một vị quan thanh liêm, chính trực, được thăng đến hàng Tam phẩm trông
coi mọi việc trong đền vua.
Trong triều, những vị quan bị
Ngài ngăn cản làm điều bất chính, đã tố cáo Ngài với vua Tự Đức về tội theo đạo
Gia Tô. Vì thế, Ngài bị đày ải, đòn vọt đau đớn vì đức tin.
Có những vị quan quý mến đức độ
của Ngài, khuyên Ngài giả vờ chối đạo rồi tiếp tục sống đạo; nhưng Hồ Đình Hy
cương quyết từ chối. Ngài đã đổ máu đào chết vì Chúa tại An Hòa, Huế.
Chúa ơi, nhiều lần con đã tôn thờ
sự sống trần gian hơn là tôn thờ một Chúa, Chúa của con. Xin cho con biết yêu mến
Thiên Chúa và làm chứng cho Chúa trong mọi suy nghĩ, lời nói, việc làm của con.
6.
Yêu người như chính mình
Một đôi vợ chồng nọ bán phở trên
hè phố được một thời gian khá dài. Giá cả phải chăng cùng với nụ cười chân
thành làm cho quán ăn của họ luôn tấp nập khách ra vào. Đến quán phở của họ nhiều
lần, tôi phát hiện thấy sáng nào cũng có một cụ già ăn mặc rách rưới lặng lẽ đứng
chờ ở một góc.
Nhìn thấy bà cụ đến, dù hai vợ
chồng còn rất bận rộn với những việc đang dang dở, họ vẫn luôn mỉm cười nói với
bà cụ:
- Bà chờ cháu một chút nhé, cháu
sẽ làm ngay cho bà.
Một lát sau, vợ hoặc chồng họ
nhanh nhẹn bỏ phở vào trong chiếc hộp giấy, múc nước phở bỏ vào trong túi
“ny-lon”, buộc lại rồi đưa cho bà cụ, và luôn nhắc cụ cẩn thận kẻo bỏng tay. Bà
cụ run rẩy đưa đôi tay gầy guộc ra nhận, rồi lặng lẽ quay người ra đi. Nhưng điều
kỳ lạ là, dường như chưa lần nào tôi thấy bà cụ trả tiền.
Một hôm, vì không kìm nén nổi sự
tò mò, tôi đã hỏi họ. Người vợ thở dài nói:
- Bà cụ ấy thật tội nghiệp, khó
khăn lắm mới nuôi con cái khôn lớn. Vậy mà đến già lại không có chỗ nương tựa.
Gia đình chúng tôi cũng không được dư giả gì. Giúp đỡ nhiều hơn thì chúng tôi
không có khả năng, nhưng chỉ cần bà cụ đến là chúng tôi luôn đãi cụ một bát phở.
Trên nét mặt người phụ nữ trung
niên ấy dường như lộ vẻ áy náy, dường như chị cảm thấy có lỗi khi chỉ giúp đỡ
được bà cụ được như thế.
Tôi để ý và luôn nhận thấy vợ chồng
họ đối xử lễ phép và tôn trọng bà cụ giống như những người khách hàng khác,
không hề tỏ ra một chút coi thường hay ban ơn.
Sau này, trên phố xuất hiện khá
nhiều quán phở, nhưng tôi chỉ thích đến quán phở của họ. Tôi thích ngồi trên
chiếc ghế cũ kỹ, trong âm thanh náo nhiệt của đường phố, lặng lẽ nhìn hai vợ chồng
họ chìa đôi bàn tay thô ráp, tặng cho một bà cụ còn nghèo túng hơn mình cả một
tấm lòng yêu thương và nhân ái.
Bố thí cho người khác, có lẽ rất
nhiều người dễ dàng làm được. Nhưng bố thí cho người khác với một thái độ chân
thành và nhân ái, thì không phải ai cũng có thể làm được.
Mẹ Têrêsa từng nói: “Hãy là hiện
thân cho lòng nhân ái của Thượng Đế bằng cách thể hiện trên nét mặt, trong ánh
mắt, trong nụ cười và cả trong những lời chào nồng nhiệt của mình."
7.
Maximilien Kolbe
Hồi Đệ nhị thế chiến, một trại
tù của Đức Quốc xã có lệnh: “Các tù nhân có nhiệm vụ coi lẫn nhau. Nếu một tù
nhân nào trốn trại, thì sẽ có 10 tù nhân khác thế mạng!”
Một buổi sáng kia, khi kiểm điểm
các tù nhân, viên cai tù phát giác thiếu một người! Thế là tất cả các tù nhân
hôm ấy phải đứng hàng giờ phơi nắng ngoài sân! Mãi đến chiều, người sĩ quan Đức
có trách nhiệm nhà tù xuất hiện với bộ dạng giận dữ, tay chắp sau lưng, bước
chân chậm rãi trên đôi giày bốt-đờ-xô nện trên nền đá nghe “cộp, cộp!” Mắt ông
trừng trừng nhìn thẳng vào mặt từng người tù, thỉnh thoảng ông dừng lại chỉ vào
một người và buông lời cộc lốc: “Mày phải thế mạng!” Cứ như thế ông đã chỉ đến
người thứ 9, khi ông dừng lại người tù xấu số thứ 10, thì anh tù bật khóc nức nở!
Trong số tù nhân có Linh mục Maximiliano Kolbe liền giơ tay xin phát biểu:
- Xin ông cho tôi được chết thay
cho người này!
Viên sĩ quan quát:
- Con heo Ba Lan kia, mày có
điên không?
Cha Maximiliano Kolbe ôn tồn
đáp:
- Thưa không, tôi là Linh mục chỉ
có một mình, anh này còn vợ con, cần được sống.
Trước sức mạnh của tình thương,
viên sĩ quan đứng lặng người trong giây lát, rồi buông lời:
- Thuận.
Thế là cả 10 người “được chọn” bị
đẩy vào hầm cho chết đói! Trong hầm, cha Maximiliano Kolbe luôn ca hát và cầu
nguyện, cha đã cảm hóa được 9 người kia xin theo đạo. Sau một tháng người ta mở
cửa ngục ra xem, thấy cha Maximiliano Kolbe vẫn sống bình an, và vui vẻ. Thấy vậy
họ đã chích cho ngài mũi thuốc…!
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II
đã phong thánh cho ngài ngày 14-10-1982. Hôm đó gia đình anh tù được chết thay
cũng hiện diện.
8.
Trước hết hãy tìm kiếm
Trước lễ Giáng sinh, ĐGM
Fénélon, một nhà giáo dục nổi danh, cho gọi ba người thợ đến làm cho xong việc
sửa chữa trong lâu đài Cambrai. Một buổi chiều, khi phân phát quà Noel cho các
gia nhân, ngài gọi ba người thợ đến phòng của ngài để có quà riêng cho họ. Ngài
nói: “Trên bàn có ba đồng tiền vàng và ba cuốn sách đạo đức, mỗi người các anh
có thể chọn một đồng tiền vàng hoặc một cuốn sách.”
Hai người đầu cầm lấy mỗi người
một đồng tiền vàng và nói: “Tiền này giúp tôi trả tiền củi đốt cho lò sưởi mùa
đông.” Người thứ ba ngập ngừng một chút rồi cầm lấy cuốn sách và nói: “Tôi có một
bà mẹ già đã mù. Tôi sẽ đọc sách cho bà nghe trong những buổi chiều đông dài.”
Vị giám mục mỉm cười và nói với
anh: “Anh hãy mở cuốn sách ra.”
Người thợ mở sách ra và thấy
trong đó một bao thư chứa đựng đến ba đồng tiền vàng. Khi đó ĐGM Fénélon mới
nói: “Các bạn, ai thích vàng hơn những gì có ích cho linh hồn mình thì đành phải
bằng lòng với món quà nhỏ hơn, còn ai tìm kiếm của cải vĩnh cửu sẽ được hài
lòng cả trong đời này nữa. Chúa Giêsu đã dạy điều đó khi nói: ‘Trước hết hãy
tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia,
Người sẽ thêm cho các ngươi” (Mt 6,33)
9.
Hai thùng nước
Một người thường gánh nước từ giếng
về nhà bằng hai cái thùng, một trong hai cái thùng bị thủng một lỗ nhỏ nên khi
gánh về đến nhà thường chỉ còn một nửa. Cái thùng thủng cứ áy náy về điều đó.
Một hôm nó thưa với ông chủ:
“Tôi hết sức xấu hổ mà nói lời xin lỗi ông!” Ông chủ ngạc nhiên hỏi nó: “Có gì
mà xấu hổ?” Cái thùng buồn bã trả lời: “Cái lỗ thủng của tôi làm ông mất nhiều
công vô ích”
Ông chủ ôn tồn nói: “Không đâu,
cứ yên tâm đi. Khi mang nước về nhà, ngươi hãy chú ý xem luống hoa bên vệ đường
nhé”
Dọc đường có luống hoa rực rỡ,
chiếc thùng thấy vui hơn một lúc, nhưng về đến nhà thấy nước chỉ còn một nửa,
nó lại áy náy: “Tôi xin lỗi ông!” Ông chủ mới nói: “Ơ hay, thế thì ngươi không
thấy là hoa chỉ mọc ở một bên đường, phía của ngươi sao? Ta đã biết được cái lỗ
thủng của ngươi và ta đã tận dụng nó. Ta đã gieo những hạt giống trên vệ đường
phía bên ngươi. Nhiều năm qua ngươi không ngờ mình đã làm cho chúng tươi tốt.
Ta đã hái những đoá hoa để trang hoàng cho căn nhà. Nếu không có ngươi, nhà của
ta làm sao duyên dáng như thế này!”
Các thánh cũng là con người với
nhiều yếu đuối và hèn mọn, nhưng giới luật yêu thương đã làm trổ sinh bao đoá
hoa trên những con đường các ngài đi qua. Đâu là câu trả lời của tôi trước lời
Chúa mời gọi?
10.
Yêu mến là bằng chứng của lòng tin
Đức cha Luis A. Tagle, tổng giám
mục Manila, ngay trước khi nhận tước vị hồng y vào tháng 11/2012, đã nhận định
trong một cuộc phỏng vấn rằng một đức tin vững mạnh vào Thiên Chúa sẽ giúp củng
cố những mối tương quan nhân loại được tốt đẹp; vì chỉ khi có niềm tin vào
Thiên Chúa, người ta mới có thể thực sự tin tưởng lẫn nhau, và điều đó giúp xây
dựng một xã hội lành mạnh. Nhận định trên chính là cách diễn giải lời Chúa
Giêsu nói hôm nay: quy chiếu toàn thể lề luật vào giới răn trọng nhất là Mến
Chúa Yêu Người. Quả thật, lòng nhân ái có đặt nền tảng trên niềm tin vào Thiên
Chúa mới phong phú vững bền và không sợ bị biến chất thành một thứ tình yêu vụ
lợi, thực dụng, giả dối.
Người ta nói nhiều về tình yêu,
nhưng thực tế giữa người với người vẫn đầy những đố kỵ, ghen ghét, thế giới vẫn
còn chiến tranh, hận thù. Phải chăng vì chúng ta vẫn mắc chứng phân liệt thiêng
liêng: chia tách tình Chúa ra khỏi tình người? Có khi người ta cho rằng không cần
có Thượng Đế, con người vẫn có thể tạo ra một xã hội tốt đẹp; nhưng kinh nghiệm
cho thấy chưa bao giờ người ta thành công về điều đó. Tệ hại hơn có khi người
ta nhân danh Thượng Đế để lìa bỏ nhau, thậm chí tiêu diệt nhau. Bạn nhớ Chúa dạy
tình yêu chỉ có một, Mến Chúa Yêu Người chỉ là một giới răn, giới răn trọng nhất!
11.
Cầu thang của lòng bác ái
Chúng ta sống trong một thời đại
khuyến khích lòng ích kỷ. Trong các cuộc bầu cử, các ứng viên vào cơ quan công
quyền thường gợi ý cho những người có quyền bỏ phiếu: “Ngày hôm nay, tôi có khá
hơn bốn năm trước đây không?” Các ứng viên với câu hỏi chú tâm đến tính ích kỷ
cá nhân này được sự ủng hộ nhiều hơn nơi những người có quyền bỏ phiếu: “Có phải
xã hội hôm nay tốt hơn trước kia không?”
Trong Kinh Thánh, chúng ta thấy
Thiên Chúa quan tâm sâu sắc về cách đối xử của chúng ta với nhau. Ơn gọi của
chúng ta là yêu thương. Và, bất chấp mọi việc, chúng ta được tác động bởi lòng
vị tha. Chúng ta đau nỗi đau của người khác. Chúng ta cảm thấy mình được triển
nở khi làm điều tốt lành, hơn cả khi tạo ra nhiều vật chất và tiền bạc. Tính quảng
đại đem lại phần thưởng của chính nó. Niềm vui tuôn trào từ bên trong chúng ta
khi chúng ta làm một việc tốt lành vì người khác. Nhưng khi chúng ta từ chối
làm một việc tốt lành cho người khác, thì một nỗi buồn xa lạ chụp xuống chúng
ta.
Maimonides là một vị thầy Do
thái nổi tiếng sống ở Tây Ban Nha vào thế kỷ thứ mười hai. Ông nhấn mạnh tám cấp
độ, hay tám bước trong cái gọi là cầu thang của bác ái.
1.
Cấp độ thứ nhất và thấp nhất là bố thí, nhưng với sự miễn cưỡng và hối tiếc. Đó
là sự bố thí của bàn tay mà không phải là sự bố thí của tấm lòng.
2.
Cấp độ thứ hai là sẵn lòng bố thí, nhưng không tương xứng với cảnh khốn cùng của
nạn nhân.
3.
Cấp độ thứ ba là sẵn lòng bố thí và tương xứng với nhu cầu, nhưng không đến mức
mà chúng ta được yêu cầu.
4.
Cấp độ thứ tư là sẵn lòng bố thí, cả khi không được yêu cầu, nhưng đặt nó vào
tay của người nghèo, bằng cách ấy gợi ra trong lòng người ấy một cảm xúc đau đớn
và hổ thẹn.
5.
Cấp độ thứ năm là bố thí cách nào cho người nghèo khổ nhận của bố thí mà không
biết đến người cho và người cho cũng không biết họ.
6.
Cấp độ thứ sáu là biết người nhận của bố thí của chúng ta trong lúc không để
cho họ biết chúng ta.
7.
Cấp độ thứ bảy là cho của bố thí cách nào để người cho không biết người nhận,
hoặc người nhận không biết người cho.
8.
Cấp độ thứ tám và là cách đáng khen nhất. Đó là thực hiện trước việc bác ái bằng
cách ngăn ngừa sự nghèo khổ. Điều này được thực hiện bằng cách cho một món quà
hoặc cho vay một món tiền để người nghèo có khả năng tự lập, hoặc bằng cách dạy
cho họ buôn bán hoặc dẫn dắt họ vào con đường kinh doanh, để họ có thể kiếm sống
một cách lương thiện, và không bị bắt buộc phải dùng giải pháp đáng buồn là ngửa
tay xin bố thí.
“Một trong những điều tốt nhất
có thể xảy ra cho một người là làm điều tốt mà không ai biết và chỉ bị phát hiện
bởi sự tình cờ." (Mark Twain)
12.
Đạo yêu nhau
Trong cuốn “Tản Mạn Lịch Sử Giáo
Hội Công Giáo Việt Nam” (nxb Tôn Giáo, 2008), cha Đỗ Quang Chính ghi lại bức
thư của linh mục thừa sai Gaspar d’Amaral viết ngày 31/12/1632, trong đó cho biết
“lương dân gọi bổn đạo là những người theo đạo yêu nhau” (tr. 61). Thật tuyệt vời!
Đạo Chúa dạy đúng là đạo yêu nhau. Chúa Giêsu cho biết mọi giới răn của Ngài được
tóm lại trong giới răn “mến Chúa, yêu người.” Gần 400 năm trước đây, các Kitô hữu
cha ông chúng ta, đã sống trọn vẹn giới răn yêu thương của Chúa và trở thành chứng
nhân mạnh mẽ đầy thuyết phục trước anh em lương dân.
Tiếc thay, 400 năm sau, không
còn nghe thấy “lương dân gọi bổn đạo là những người theo đạo yêu nhau” nữa. Vì
sao và từ bao giờ danh xưng ấy bị mai một vậy?
13.
Tình yêu và quà tặng
Một người mẹ nói với cô con gái
nhỏ của bà về tình yêu Thiên Chúa.
Cô bé bối rối: “Mẹ ơi, làm sao
con có thể yêu Chúa? Con chưa bao giờ thấy Người."
Ít ngày sau, cô bé nhận được một
bưu kiện, trong đó có một cuốn sách hình rất đẹp, trên trang bìa cuốn sách đề
hàng chữ: “Tặng Maria thân yêu, Dì Rosa."
Bé Maria chưa bao giờ gặp dì
Rosa và họ sống xa nhau hàng ngàn cây số. Khi Maria nhìn những bức hình đẹp
trong cuốn sách, em nói với mẹ: “Mẹ ơi, con yêu dì Rosa quá! Dì cho con cuốn
sách đẹp này."
Người mẹ phản đối: “Nhưng con
chưa bao giờ thấy dì Rosa mà."
Maria trả lời: “Con biết, nhưng
con yêu dì, vì dì gởi cho con cuốn sách đẹp này."
Nhiều người trong chúng ta có thể
thắc mắc: “Làm sao chúng ta có thể yêu Chúa nếu chưa bao giờ chúng ta thấy Người?"
Tất cả chúng ta đã nhận quà của Chúa, những món quà này dẫn chúng ta yêu Đấng
đã gởi tới.
14.
Lời Chúa cho riêng tôi
Khi đang ở đỉnh cao của nghề
nghiệp, ca sĩ Marjorie Lawrence đã bị đánh gục vì bệnh bại liệt và đã trở thành
kẻ tàn tật vô dụng. Trước khi thảm kịch này xảy ra, Mary và chồng của cô đều vô
tín ngưỡng. Nhưng giờ đây, cả hai tìm về Kinh thánh để múc lấy can đảm và sức mạnh.
Lần đầu tiên trong đời, họ khám phá ra sức mạnh của Lời Chúa. Mary nói: “Có những
đoạn Kinh thánh được viết cho riêng tôi.”
Đoạn Kinh Thánh hay câu truyện
nào trong Kinh Thánh dường như được viết riêng cho tôi theo nghĩa nó bảo đảm với
tôi rằng Kinh thánh là Lời Chúa?
Trái tim tôi luôn mách bảo với
tôi rằng Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô là một thực tại thần linh. (Daniel
Webster)
15.
Điểm phân biệt giữa ngày và đêm
Một giáo trưởng Do thái hỏi môn
đệ rằng “Con có thể nói cho ta biết khi nào đêm hết và ngày bắt đầu không?” Người
môn đệ suy nghĩ một lát, rồi trả lời: “Có thể là khi ngài thấy một con thú từ
xa và có thể nói đó là con cừu hay con chó?” Vị giáo trưởng nói: “Không phải,
hãy suy nghĩ nữa đi.” Người môn đệ suy nghĩ nhưng đành chịu. Lúc đó, vị giáo
trưởng nói: “Đó là khi con có thể nhìn vào mặt người khác và nhận ra người ấy
là anh em hay chị em của con. Nếu con không thể thấy như thế, thì vẫn còn là
đêm tối.”
Cái gì thường ngăn cản tôi nhận
ra một người anh em hay chị em nơi khuôn mặt người khác?
Chúng ta phải học chung sống với
nhau như anh em hoặc cùng chết với nhau như những kẻ khờ dại. (Martin Luther
King)
16.
Tình yêu và tha thứ
Một bệnh nhân cảm thấy bị sốc
khi thấy quyển Kinh thánh trên bàn giấy của bác sĩ Smiley Blanton, và hỏi:
“Ngài là một bác sĩ tâm lý mà cũng đọc Kinh Thánh sao?” Ông trả lời: “Tôi không
những đọc mà còn nghiên cứu Kinh thánh nữa.” Ông nói thêm: “Nếu người ta chỉ
nghiền ngẫm các sứ điệp của Kinh thánh, có lẽ nhiều bác sĩ tâm lý như chúng tôi
phải đóng cửa và đi câu cá thôi.” Để làm sáng tỏ ý tưởng này, bác sĩ Blanton
nói rằng nếu bệnh nhân bị dày vò bởi mặc cảm tội lỗi suy nghĩ về dụ ngôn người
con hoang đàng, họ có thể được chữa lành trong vòng một đêm. Tại sao? Vì lòng
tha thứ của Thiên Chúa lớn lao hơn bất cứ tội lỗi nào mà chúng ta đã phạm.
Điều gì tôi thấy khó tha thứ cho
bản thân mình?
Ta sẽ làm cho tội các ngươi tan
ra như là khói, lỗi của ngươi biến mất tựu áng mây. Hãy trở lại cùng Ta. (Is
44,22)
17.
Tình yêu phải cụ thể và thực tế
Jeanne Jugan là một phụ nữ 47 tuổi
được ưu chuộng ở Pháp năm 1839. Một hôm, bà quyết định đón về nhà mình một phụ
nữ mù đứng tuổi. Jeanne hầu như không nghĩ rằng hành động yêu thương thực tế
này thúc đẩy một cộng đoàn nữ tu, những người dâng hiến đời mình để noi theo điều
bà đã làm. Ngày nay, Tu hội “Những nữ tu bé nhỏ của người nghèo” chia sẻ tình
yêu và nhà cửa cho những người đứng tuổi ở 30 quốc gia. Tình yêu thương thực tế
của họ hàng ngày đã ôm ấp hàng triệu người.
Bằng cách nào tình yêu hằng ngày
của tôi có thể thành thực tế, đặc biệt đối với người già cả?
Thước đo tình yêu của chúng ta đối
với Thiên Chúa là tình yêu của chúng ta đối với nhau.
THỨ SÁU - CON VUA ÐAVÍT?
Lời
Chúa: Mc 12, 35-37
Khi
ấy, Chúa Giêsu cất tiếng giảng dạy trong đền thờ rằng: "Sao các luật sĩ lại
nói Ðấng Cứu Thế là con vua Ðavít? Vì chính Ðavít được Chúa Thánh Thần soi sáng
đã nói: Thiên Chúa đã phán cùng Chúa tôi rằng: "Con hãy ngồi bên hữu Cha,
cho đến khi Cha đặt các kẻ thù con làm bệ dưới chân con." Chính Ðavít gọi
Người là Chúa, thì sao Người lại có thể là Con Ðavít được?" Và đám dân
chúng thích thú nghe Người nói.
TRUYỆN KỂ
1. Đức Giêsu thật là Con Thiên Chúa
Ngày
quân đội Liên Xô vào chiếm thủ đô Hungary, một viên sĩ quan trẻ dáng vẻ hung
hãn, đầy tự đắc của kẻ chiến thắng đã đến gặp vị linh mục. Viên sĩ quan chỉ cây
thánh giá treo trên tường và nói: “Ông biết không? Cái đó là sự dối trá của các
linh mục bầy ra, để làm mê hoặc đám dân nghèo, và giúp những kẻ giàu dễ dàng
kìm hãm họ trong cảnh ngu dốt. Bây giờ chỉ có ông với tôi. Ông hãy thú nhận với
tôi rằng ông không bao giờ tin ông Giêsu là Con Thiên Chúa."
Vị
linh mục cười và từ tốn trả lời: “Ông bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật."
Viên
sĩ quan quát lớn: “Ông đừng có lừa dối tôi, cũng đừng diễu cợt tôi!” Nói thế rồi
anh ta rút súng ra, chĩa vào đầu linh mục và hăm dọa: “Nếu ông không nhận rằng
đó chỉ là sự dối trá, thì tôi bắn ông chết."
Vị
linh mục điềm tĩnh trả lời: “Tôi không thể nói như thế, vì không đúng. Đức
Giêsu thật là Con Thiên Chúa."
Nghe
thế, viên sĩ quan vất súng xuống nền nhà, chạy đến ôm chầm lấy vị linh mục. Anh
ta vừa khóc vừa nói: “Đúng thế! Tôi cũng tin như vậy. Nhưng tôi không thể tin rằng
có người dám chết vì đức tin, cho tới hôm nay. Tôi xin cám ơn ngài. Ngài đã củng
cố lòng tin của tôi. Ngài đã chứng minh cho tôi thấy rằng vẫn có người dám chết
cho Đức Kitô."
2. Đức Giêsu là ai?
Nằm
nghỉ dưới bóng cây táo, hợt cơn gió thoảng đung đưa làm rơi quả táo chín đỏ.
Newton tự hỏi: “Ồ sao quả táo không bay lên mà lại rơi xuống?” Khám phá thú vị
này đã là tiền đề cho những suy nghĩ về luật trọng lực của Newton.
Đức
Giêsu cũng làm đám đông thích thú khi mở ra cho họ khám phá một điều tưởng chừng
tất quen thuộc. Đức Kitô không chỉ thuộc dòng dõi Đavid, nhưng Ngài còn là
Thiên Chúa của Đavid nữa.
Lối
đặt vấn đề của Chúa Giêsu thật hấp dẫn và đầy thuyết phục. Ngài làm tôi ngạc
nhiên và thúc đẩy tôi phải khám phá. Một lần nữa, tôi thốt lên: “Đức Giêsu Ngài
là ai?”
Lạy
Chúa Giêsu, con đã nhận Ngài là Chúa của con. Con đã nghe biết nhiều về Ngài.
Xin cho con đừng dừng ở lại những giáo thuyết, nhưng mỗi ngày biết khám phá ra
khuôn mặt của Đức Kitô sống động, mới lạ qua Lời Ngài và trong cuộc sống” (Hosanna).
3. Chúa trời đất
Chua
Giêsu không phủ nhận Đấng Mêsia là hậu duệ của vua Đavít. Đúng hơn, Ngài khẳng
định Đấng Mêsia vượt qua nguồn gốc loài người. Từ ngữ có nghĩa là Chúa trong tiếng
Hy Lạp mà Chúa Giêsu sử dụng là kurios. Người Hy Lạp dành từ này cho Thiên
Chúa. Nói khác đi, Đấng Mêsia không chỉ là con vua Đavít, nhưng còn là con
Thiên Chúa. Ngài không chỉ là hậu duệ của Đavít, nhưng còn là Chúa của Đavít.
Cái
gì thuyết phục tôi rằng Chúa Giêsu là “Chúa” của trời và đất?
Tôi
khao khát Chúa Kitô. Ngài là tất cả của tôi (Charles Spurgeon).
4. Mầu nhiệm Thiên Chúa
Triết
gia Gabriel Marcel đã nói: Con người là một huyền nhiệm; mỗi người đều có chiều
sâu kín ẩn mà không ai có thể đạt thấu. Chúng ta vẫn hằng ngày ở gần bên nhau,
nhìn thấy nhau nhưng chưa hẳn chúng ta có thể nói mình đã thấu hiểu về nhau.
Người Do Thái ngày xưa chỉ nhìn thấy Chúa là một con người, con bác thợ ở
Na-da-rét. Một người con cháu hoàng tộc lại được tổ phụ Đa-vít gọi là Đấng
Ki-tô, là Chúa Thượng, đó quả là một mê cung cho những trí óc suy tư theo cái
nhìn tự nhiên của nhân loại. Vua Đa-vít được Chúa Thánh Thần soi sáng mới có thể
cảm nhận được mầu nhiệm Thiên Chúa, để nhận ra Đấng Ki-tô mà Dân Chúa mong đợi
chính là Con Thiên Chúa sinh ra làm người trong dòng tộc mình.
Phần
chúng ta, nhờ đức tin, chúng ta đã biết Chúa Giê-su là Thiên Chúa thật và là
người thật. Nhưng Thiên Chúa còn mời gọi chúng ta khám phá và tin nhận Chúa nhiều
hơn, để qua mọi biến cố trong dòng đời biến chuyển ta thấy được Chúa đang điều
khiển mọi sự. Nhờ việc kính trọng thông cảm và lắng nghe nơi những con người bé
nhỏ thấp hèn, ta gặp được Chúa.
Trong
bổn phận âm thầm nhỏ bé hằng ngày như việc nhà, học hành, cầu nguyện, nghỉ
ngơi, ta khám phá Chúa luôn đồng hành với ta.
THỨ BẢY - ÐỒNG XU BÀ GÓA NGHÈO
Lời Chúa: Mc 12, 38-44
Khi ấy, Chúa Giêsu nói cùng dân
chúng trong khi giảng dạy rằng: "Các ngươi hãy coi chừng bọn luật sĩ. Họ
thích đi lại trong bộ áo thụng, ưa được bái chào ngoài công trường, chiếm những
ghế nhất trong hội đường và trong đám tiệc. Họ giả bộ đọc những kinh dài để nuốt
hết tài sản của các bà goá: Họ sẽ bị kết án nghiêm nhặt hơn."
Chúa Giêsu ngồi đối diện với hòm
tiền, quan sát dân chúng bỏ tiền vào hòm, và có lắm người giàu bỏ nhiều tiền.
Chợt có một bà goá nghèo đến bỏ
hai đồng tiền là một phần tư xu. Người liền gọi các môn đệ và bảo: "Thầy
nói thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bá goá nghèo này đã
bỏ nhiều hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này
đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống."
TRUYỆN
KỂ
1. Tín
thác vào Chúa
Một văn sĩ Mỹ kể lại giai thoại
như sau:
Hôm đó là Chúa Nhật, ông đi tham
dự buổi nói chuyện của một nhà truyền giáo. Nhà truyền giáo nói năng rất hùng hồn,
những nỗi thống khổ của người dân bản xứ mà nhà truyền giáo kể lại đã khiến cử
tọa cảm động sâu xa. Văn sĩ kể về mình thế này: Khi nhà truyền giáo kêu gọi sự
giúp đỡ, tôi định bỏ vào giỏ một đôla; nhưng giọng nói của ông cảm động đến độ
tôi định tăng lên năm đôla, và ngay cả ký một chi phiếu. Thế rồi, nhà truyền
giáo tiếp tục phóng đại nỗi thống khổ của người bản xứ; ông cứ nói mãi, nói
mãi, đến nỗi mọi người không còn muốn nghe nữa. Tự nhiên tôi có ý định rút lại
việc ký ngân phiếu, rồi từ từ giảm xuống năm rồi còn một đôla, và cuối cùng khi
nhà truyền giáo chấm dứt bài thuyết trình và cái giỏ tiền được chuyền đến tay
tôi, thì tôi chỉ bỏ vào đó có mười xu.
Giai thoại trên đây có thể gợi
cho chúng ta thái độ cầu nguyện của các luật sĩ và biệt phái mà Chúa Giêsu đã
không ngừng lên án. Họ nới rộng thẻ kinh và làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ.
2.
Trái tim biết trao tặng
Một tác giả nào đó đã nói: “Trái
tim không phải là một món hàng để mua bán, mà là một món quà để trao tặng."
Một trái tim không biết trao tặng là một trái tim chết.
Sự giàu có và nghèo nàn có thể
phân biệt con người thành giai cấp thứ bậc. Có người tiền rừng bạc biển, có người
nghèo rớt mồng tơi. Nhưng mỗi người chỉ có một quả tim, và quả tim đó lẽ ra phải
giống nhau, bởi vì người ta không thể cần lường được quả tim. Do đó, quà tặng xuất
phát từ quả tim đều vô giá. Giá trị của món quà không hệ tại ở số lượng tiền của,
mà ở quả tim được gói ghém trong món quà. Chúa Giêsu hôm nay đã nhìn thấy quả
tim mà bà goá đã gói ghém trong món quà ấy.
3.
Vật khinh nhưng hình trọng
Tổng thống Wilson Hoa Kỳ người
đã đưa nước Mỹ can thiệp vào thế chiến thứ nhất, và là người rất trân trọng đối
với những kỷ niệm nhỏ bé của mình.
Một lần kia, ông và phu nhân
cùng nhiều nhân vật cao cấp trong chính phủ dừng lại tại một thành phố tiểu
bang Montana. Cảnh sát làm hàng rào không cho bất cứ ai đến gần vị tổng thống.
Thế nhưng không hiểu thế nào mà có hai cậu bé đã chui lọt hàng rào, để đến gần
chỗ ngồi của tổng thống. Hai cậu bé ngắm nhìn một cách say sưa vị nguyên thủ quốc
gia.
Một cậu đã tặng cho ông lá cờ nhỏ
bé của nước Mỹ đang cầm trong tay. Cảnh sát cố tình ngăn cản, nhưng bà Wilson,
phu nhân của tổng thống đã đưa tay đón lấy lá cờ và nhiệt tình cám ơn em. Cậu
bé kia cảm thấy buồn vì không có gì dâng tặng tổng thống. Em cố moi trong túi
quần và cuối cùng lôi ra được một đồng xu nhỏ, em sung sướng vô cùng, vì chính
tổng thống đã chìa tay đón nhận món quà của em.
Năm năm sau, tổng thống Wilson
qua đời. Khi bà Wilson xếp lại các đồ quen thuộc của chồng, mở chiếc ví, bà nhận
ra ngay đồng xu nhỏ mà cậu bé đã tặng chồng bà cách đây 5 năm. Ông Wilson quí đồng
xu nhỏ ấy đến độ đi đâu ông cũng mang nó trong mình.
4.
Giá trị của tấm lòng và quần áo
Một người được mời đến dự buổi
tiệc lớn. Ông vui vẻ nhận lời và khoác bộ áo xấu nhất. Đến nơi, không ai thèm
cười và để ý đến ông. Ông quay về khoác bộ áo đẹp có đính kim cương và các hạt
nút bằng vàng. Trong khi ấy yến tiệc vẫn tiếp tục. Ông quay trở lại, lập tức
bao lời mời đẹp nhất, danh dự nhất đều dành cho ông. Thịt béo rượu thơm lúc này
được bày ra trước mắt ông và ông ngồi chỗ nhất.
Ông liền đứng lên, cởi áo khoác
lên ghế, đoạn lấy thức ăn đưa cho cái áo
và nói: "Mày ăn uống đi, người ta mời mày đó!" Mọi người hết sức ngạc
nhiên, nhưng đều hiểu ý ông này. Ông muốn nói với mọi người rằng giá trị của
con người không ở bộ áo xúng xính hay cái mã bên ngoài nhưng đó là tấm lòng bên
trong; không ở những cái mình có nhưng ở cái mình là. Vậy tôi là ai?
Lời Chúa hôm nay đối với tôi
không chỉ là cảnh giác nhưng còn là lời tra vấn.
Lạy Chúa, xin giúp con biết con;
xin giúp con biết nhìn nhận phẩm giá của những người quanh con. Nhờ đó, con yêu
thương nhiều hơn. (Hosanna)
5.
Mua bán ân xá
Tháng 10 năm 1517, theo lời mời
của Đức cha Albert Brandenburg, cha J. Tetzel (1465-1519) dòng Đa Minh mở tuần
giảng Ân xá tại Juterbog gần Wittenberg, nơi Linh mục Luther dạy học. Đức cha
Albert là Tổng Giám mục thành Magdeburg, trước đã kiêm nhiệm địa phận
Halberstadt, nay lại nhận thêm Giáo tỉnh Mainz. Để tổ chức Tòa Giám mục mới, Đức
cha Albert đã xin Tòa Thánh cho giảng Ân xá trong ba địa phận của ngài để quyên
tiền. Số tiền thu được một nửa dành cho Tòa Tổng Giám mục, còn một nửa sẽ dâng
cúng vào việc kiến thiết Đền Thờ thánh Phêrô ở La Mã. Công việc được trao cho
các cha dòng Đa Minh, đứng đầu là cha Tetzel. Lối trình bày của nhà giảng thuyết
này đã làm cho nhiều người tưởng Ân xá có thể mua bằng tiền! (Trích Lịch Sử Hội
Thánh Công Giáo tập II, tr 12, của LM Bùi Đức Sinh. )
Dĩ nhiên là còn nhiều nguyên
nhân khác khiến phát sinh đạo Tin Lành, nhưng đó cũng là một lối sống Đạo đã
làm cớ cho cha Luther chống đối Hội Thánh và đưa đến ly giáo, thì thật là quá
đau lòng!
Chúng ta biết nay có nhiều giáo
xứ được vị chủ chăn khuyến khích mua bằng Ân Nhân, để khi qua đời họ được đặc
ân này, ân sủng nọ, thì cũng chẳng khác gì việc làm của Đức cha Albert như
trên.
Có một bà cụ nọ, nghe cha bán Ân
Nhân… bà về đòi đứa con gái hai cây vàng đã mượn của mẹ thời gian trước để làm
ăn buôn bán nuôi con. Vì mẹ đòi gấp nên chị phải đi vay mượn để đưa mẹ mua bằng
Ân Nhân, thời gian sau lãi mẹ đẻ lãi con ngày càng chồng chất suốt 10 năm …!
Còn mẹ thì có bằng Ân Nhân khắc tên trên bảng vàng gắn cuối Nhà thờ!?
Liệu bà mẹ đó khi nhắm mắt xuôi
tay có dám khoe với Chúa về bằng Ân Nhân đó không? Chắc Chúa sẽ bảo: Ngươi đã
được danh đời này, thì mất phúc đời sau (x Mt 6,16t). Nếu bà ta thưa với Chúa:
Cha xứ con dạy làm như vậy! … Nếu Chúa bảo: Gọi cha xứ của ngươi ra đây!…
6.
Đồng tiền nhỏ bé
Trong một buổi xử tử, tên tử tội
được dẫn đến trước mặt Đức vua trước khi bị treo cổ. Đức vua nói: “Ta cho ngươi
một ân huệ cuối cùng. Vậy, trước khi chết ngươi ước muốn gì?” Tên tử tội rút
trong túi ra 1 đồng tiền, trao cho nhà vua và nói: “Tâu Đức vua, khi tôi còn nhỏ,
cha tôi đã cho tôi đồng tiền này và nói tôi hãy giữ lấy, vì nó sẽ đem lại may mắn
cho tôi. Nhưng cho đến giờ phút cuối cùng của đời tôi đây, đồng tiền khốn khổ
này cũng chưa giúp ích gì cho tôi. Xin Đức vua hãy cho người trao nó lại cho
cha tôi và nói tôi vĩnh biệt ông ta.”
Vừa cầm lấy đồng tiền, nhà vua
kêu lên mừng rỡ: “Ồ! đây chính là đồng tiền cổ quý giá mà Ta đã nhọc công tìm
kiếm bấy lâu nay. Nó chính là đồng tiền cuối cùng trong bộ sưu tập tiền cổ quý
giá của Ta. Vậy, ngươi có muốn dâng hiến đồng tiền này cho Ta để đổi lấy mạng sống
của ngươi không?” Tên tử tội đồng ý và án tử hình được hủy bỏ.
Cũng vậy, có những đồng tiền nhỏ
bé tầm thường trong cuộc sống, chẳng được ai quan tâm, nhưng lại được Thiên
Chúa qúi trọng.
7.
Mẹ lạnh cho con ấm
Một đêm Giáng sinh, một thiếu phụ
mang thai lần bước đến nhà một người bạn để nhờ giúp đỡ. Con đường ngắn dẫn đến
nhà người bạn có một mương sâu với cây cầu bắc ngang. Người thiếu phụ trẻ bỗng
trượt chân chúi về phía trước, cơn đau đẻ quặn lên trong chị. Chị hiểu rằng
mình không thể đi xa hơn được nữa. Chị bò người phía bên dưới cầu.
Giữa những chân cầu, chị đã đơn
độc sinh ra một bé trai.
Không có gì ngoài những chiếc áo
bông dày đang mặc, chị lần lượt gỡ bỏ áo quần và quấn quanh mình đứa con bé
xíu, vòng từng vòng giống như một cái kén. Thế rồi tìm thấy được một miếng bao
tải, chị trùm vào người và nằm lả bên cạnh con.
Sáng hôm sau, một phụ nữ lái xe
đến gần chiếc cầu, chiếc xe bỗng chết máy. Bước ra khỏi xe và băng qua cầu, bà
nghe một tiếng khóc yếu ớt bên dưới. Bà chui xuống cầu để tìm. Nơi đó bà thấy một
đứa bé nhỏ xíu, đói lả nhưng vẫn còn ấm, còn người mẹ đã chết cóng.
Bà đem đưa bé về nuôi dưỡng. Khi
lớn lên, cậu bé thường hay đòi bà kể lại câu chuyện đã tìm thấy mình. Vào sinh
nhật lần thứ 12, dịp lễ Giáng sinh, cậu bé nhờ mẹ nuôi đưa đến mộ người mẹ tội
nghiệp.
Khi đến nơi, cậu bé bảo mẹ nuôi
đợi ở xa trong lúc cậu cầu nguyện. Cậu đứng cạnh ngôi mộ, cúi đầu và khóc. Thế
rồi cậu bắt đầu cởi quần áo. Bà sững sờ thấy cậu lần lượt cởi bỏ tất cả và đặt
lên mộ mẹ mình.
"Chắc là cậu sẽ không cởi bỏ
tất cả - bà mẹ nuôi nghĩ - cậu sẽ lạnh cóng!" Song cậu bé đã tháo bỏ tất cả
và đứng run rẩy.
Bà mẹ nuôi đi đến bên cạnh và bảo
cậu bé mặc đồ trở lại. Bà nghe cậu gọi người mẹ mà cậu chưa bao giờ biết mặt:
“Mẹ đã lạnh hơn con lúc này, phải không mẹ?” Và cậu bé oà khóc.
Giới hạn của tình yêu là yêu
không giới hạn, yêu cho đến cùng.
8.
Những đồng tiền vàng
Chuyện xảy ra ở Mỹ đã lâu: Một
cô bé đang đứng thổn thức bên ngoài một ngôi nhà thờ nhỏ. “Con không vào được lớp
học Chúa Nhật,” cô bé nức nở nói với vị linh mục vừa đi tới. Nhìn bộ dạng tiều
tụy, nhếch nhác của cô bé, vị linh mục hiểu ngay ra nguyên do, và cầm tay cô bé
dẫn vào trong, tìm cho cô một chỗ trong lớp học. Khoảng 2 năm sau đó, cô bé đã
chết trong một chung cư tồi tàn. Cha mẹ của cô bé gọi điện cho vị linh mục -
người đã trở nên rất thân thiết với cô bé - đến chủ trì lễ tang và trao cho
ngài chiếc ví rách nát của cô bé, trong đó có 57 xu và một tờ giấy nhàu nát với
dòng chữ nguệch ngoạc: “Để giúp đỡ cho nhiều đứa trẻ hơn có thể đến Lớp học
ngày Chúa Nhật.” Đó là kết quả 2 năm trời dành dụm hy sinh vô vị lợi của cô bé:
những đồng xu chứa đựng cả tấm lòng vàng; vì thế, cũng như “đồng tiền bà goá,”
cô đã “bỏ vào thùng tiền nhiều hơn ai hết.”
9.
Trại tâm thần Trọng Đức
Thật khó tưởng tượng Trại tâm thần
Trọng Đức (Lâm Đồng) với hơn 260 bệnh nhân lại do ba gia đình giáo dân nhà họ Trần
thành lập! Nhìn thấy cảnh những người tâm thần K’Hor, Lạch, Mạ, và cả người
Kinh, bị bỏ rơi giữa rừng, các gia đình này đã quyết định đưa họ về nhà, nuôi
dưỡng, giúp họ cầu nguyện, và lắng nghe Lời Chúa. Không ngờ liệu pháp này giúp
họ giảm cơn điên và giúp hồi sinh nhiều cuộc đời, kể cả các trường hợp y khoa
đã bó tay. Tựa như bà góa trong Tin Mừng, những tông đồ giáo dân này đã dâng
cho Chúa tất cả những gì mình có trong tay: tài sản, thời giờ, công sức, và trọn
con tim để Chúa sử dụng. Từ sự đóng góp quảng đại này, Thiên Chúa đã làm nhiều
điều kỳ diệu vượt quá sức tưởng tượng của con người.
10.
Nghèo mà giàu tình yêu
Trong bài diễn văn nhận giải
Nô-ben Hòa Bình năm 1979, Mẹ Têrêxa kể câu chuyện cảm động như sau: “Một ông nọ
đến nhà chúng tôi và bảo: ‘Mẹ Têrêxa à, có một gia đình 8 con; họ không có gì
ăn lâu rồi; Mẹ làm điều gì đi!’ Thế là tôi lấy một ít gạo rồi lập tức đi đến đấy.
Tôi thấy mấy em bé với cặp mắt ánh lên vì đói… Bà mẹ cầm lấy gạo, chia ra hai
phần, rồi đi ra ngoài. Khi bà trở về, tôi hỏi bà: ‘Bà đi đâu vậy?’ Bà đơn sơ trả
lời: ‘Họ cũng đói.’ Điều làm tôi ngạc nhiên thích thú nhất là bà ấy biết họ là
ai - là một gia đình Hồi Giáo - bà ấy biết rõ. Tôi không đem thêm gạo tối hôm ấy
vì tôi muốn để cho họ hưởng trọn niềm vui chia sẻ.”
Hành động của người mẹ trong câu
chuyện trên thật đáng khâm phục. Tấm lòng của bà là loại tấm lòng của bà góa
trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay. Đức Giêsu đã công khai đề cao tấm lòng quảng
đại đến quên mình này.
11.
Không phải óng ánh là vàng
Một hôm, hoàng tử gọi vào đền
vua một người lái buôn chuyên nghề bán ngựa. Ông ta dẫn đến trước mặt hoàng tử
hai con bạch mã đã được huấn luyện rất kỹ để hoàng tử kén chọn. Bề ngoài, hai con ngựa trông giống hệt nhau,
nhưng con này lại gấp đôi giá con kia. Hoàng tử liền gọi các quan cận thần đến
mà bảo: “Ta có thể tặng hai con ngựa này cho ai giải thích cho ta biết tại sao
con ngựa này gấp đôi giá con ngựa kia?”
Các quan cận thần đến gần hai
con ngựa và quan sát thật kỹ, nhưng không một ai nhận ra có điều gì khác biệt.
Thấy vậy, hoàng tử cho gọi hai người lính hầu đến và sai họ cưỡi trên hai con
ngựa, hy vọng rằng các quan cận thần sẽ nhận ra giá trị của mỗi con. Sau mấy
vòng phóng ngựa chung quanh sân, không ai trong các quan nhận ra sự khác biệt về
giá trị của hai con ngựa. Cuối cùng, hoàng tử phải lên tiếng giải thích: “Chắc
các người đã nhận ra rằng: trong khi ngựa chạy quanh sân, con ngựa thứ nhất
không để lại dấu vết đằng sau, nó chạy nhẹ nhàng như bay. Trái lại con ngựa thứ
hai để lại lớp bụi bay ngợp trời. Chính vì lý do đó mà con ngựa thứ nhất có giá
gấp đôi con ngựa thứ hai.”
Chúng ta thường tán thưởng những
người khua to nói lớn, người thành công trên đường đời, người nổi tiếng, người
được dân chúng mến chuộng, vỗ tay khen ngợi, mà quên khám phá ra giá trị của những
các hay, cái đẹp, được giấu kín trong thầm lặng, trong cái vỏ giản dị bên
ngoài.
12.
Món quà quý giá
Cha Mác Ca-thi (Mc Carthy) có kể
câu chuyện mẹ Têrêxa lần kia được một người ăn xin tặng 30 xu là tất cả số tiền
anh xin được trong ngày. Mẹ nói rằng: với 30 xu, có lẽ mẹ chẳng mua được gì,
nhưng nó trở nên quý giá gấp ngàn lần vì đã được làm với lòng yêu thương; Thiên
Chúa nhìn thấy không phải tầm cỡ vĩ đại của công việc, mà là tình yêu thương
qua đó công việc được hoàn thành. Cũng như người ăn xin trên đây, bà goá trong
bài Tin Mừng hôm nay không đóng góp nhiều lắm xét về số lượng, nhưng xét theo
chất lượng, thì nhiều hơn ai hết. Vì sao vậy? Vì những món quà vật chất được định
giá bằng tiền, nhưng những món quà của trái tim được định giá bằng tình mến, bằng
lòng hy sinh, bằng tâm tình vui lòng chịu mất mát, miễn sao nói được tâm tình của
mình. Và bà goá này có được tất cả những tâm tình quý giá ấy.
Hãy nhớ rằng càng dâng cho Chúa
những món quà được gói bọc xinh xắn là hy sinh những gì bạn quý trọng như thời
giờ, công sức... Chúa sẽ càng hài lòng về bạn. Bạn có tặng Chúa những món quà
chất lượng cao không?
13.
Hạt thóc vàng
Thi hào Tagore (Ấn Độ) viết một
bài thơ kể về một người ăn xin gặp Đức Vua đi vi hành. Anh mừng thầm vì phen
này chắc sẽ được Đức Vua ban tặng. Nào ngờ, chính Đức Vua lại chìa tay xin anh
bố thí. Bối rối, ngỡ ngàng, người hành khất lấy ra một hạt thóc từ trong cái bị
của mình và dâng cho Đức Vua. Buổi tối về đến nhà anh đổ bị thóc ra thì thấy một
hạt vàng lấp lánh nằm giữa những hạt thóc… Anh đã khóc vì hối tiếc: “Phải chi
lúc đó tôi dâng tất cả bị thóc này cho Đức Vua”!…
Bà góa nghèo trong Phúc Âm chỉ
dâng cúng hai đồng xu nhỏ cho đền thờ, nhưng bà đã không phải hối tiếc. Chúa đã
nhìn thấy bà, Ngài không đánh giá theo số lượng nhưng ở tấm lòng. Chúa đã ca ngợi
bà là người dâng cúng nhiều nhất vì bà đã dâng tất cả.
14.
Tiền bạc đáng sợ
Có một ông già giàu gặp một vị đạo
sĩ ngồi ở gốc cây bên lề đường, liền hỏi: “Ông ngồi đây làm gì vậy? Nhà tôi
đang cần người giúp việc, về làm cho tôi ông sẽ có tiền."
Vị đạo sĩ trả lời: “Cám ơn ông,
tôi rất sợ tiền bạc, vì ở đâu có tiền bạc ở đó có tội ác."
Ông nhà giàu nói: “Ông rất lầm
nên mới yếm thế bi quan. Thế gian có tiền là có tất cả. Có tiền mua tiên cũng
được, khắp đông tây đều công nhận như vậy."
Vị đạo sĩ trả lời: “Ông càng lầm
hơn tôi, tiền bạc mở được mọi cửa trừ cửa thiên đàng. Đó là câu nói của các nhà
đạo đức phương tây. Còn đông phương thì cho rằng: tiền bạc mua được tất cả
nhưng không thể mua được lương tâm của người quân tử."
Ông nhà giàu lại nói: “Ông biết
chứ, lịch sử chứng tỏ tiền bạc đi tới đâu thì ở đấy phồn thịnh. Có phải tiền bạc
đã biến đổi thế giới khổ cực thành xa hoa sung sướng không?"
Vị đạo sĩ trả lời: “Ông chỉ thấy
tiền bạc có một mặt, ông không thấy mặt trái của nó, lịch sử cũng ghi rõ: tiền
bạc đi tới đâu thì gieo chia rẽ giàu nghèo, gây nên cảnh bất công, ghen tương,
tranh chấp và chết chóc."
Ông nhà giàu không nói thêm gì nữa.
15. Còn quý hơn viên ngọc
Trong
khi đi dọc theo bãi biển hoang vu, một người đạo đức Ấn độ tìm được một viên ngọc.
Một phụ nữ nghèo thấy ông nhặt được viên ngọc và đã hỏi xin. Con người đạo đức
này đã đưa viên ngọc cho chị ta một cách vui vẻ. Người phụ nữ đi khỏi và nghêu
ngao hát vì sung sướng. Giờ đây bà đã được giàu có. Một tuần sau, người phụ nữ
trở lại và trả viên ngọc quý cho người đàn ông nọ và nói: “Hãy cho tôi cái quý
giá hơn cả viên ngọc. Hãy cho tôi cái đã làm cho ông có thể cho tôi viên ngọc một
cách vui vẻ.”
Cái
gì đã làm cho con người đạo đức này có thể cho đi một cách vui vẻ?
Điều
bạn cho đi khi khỏe mạnh là vàng
Điều
bạn cho đi lúc ốm đau là bạc
Điều
bạn cho đi sau khi chết là đồng. (Ngạn ngữ Do thái)
16. Đồng tiền phải làm việc thiện
Có
một chủ tiệm ở Utah bắt được một con đại bàng và để nó trong cửa hàng để thu
hút khách. Một ngày nọ, một cụ già từ trên núi xuống. Cụ vào cửa hàng thấy con
đại bàng và hỏi xem nó giá bao nhiêu. Ông chủ tiệm đưa ra một cái giá cắt cổ. Cụ
già đến ngân hàng rút tiền để mua con đại bàng rồi thả nó ra. Khi một cô bé hỏi
tại sao cụ lại bỏ một khoản tiền lớn như thế chỉ để giải thoát con đại bàng,
thì cụ già trả lời: “Của cải không phải là những gì chúng ta có, mà là những gì
chúng ta cho đi để làm việc thiện cần phải làm.”
Tôi
sẵn sàng cho đi những gì để làm những việc thiện cần làm?
Tiền
bạc là một ông chủ bất lương, nhưng lại là một đầy tớ tuyệt hảo (F. T. Barnum).
Lời Chúa Tuần 9 Thường Niên
Thường niên V - GS C - PS Ngoại lịch