CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY B
MỤC LỤC
2. Thanh tẩy Đền Thờ--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
3. Canh tân cách thực hành Đức Tin--TGM Giuse Vũ
Văn Thiên
4. Nhà của Cha Tôi--GM. Arthur Tone
5. Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
6. Đền thờ của Thiên Chúa--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
7. Đền thờ là Nhà Cha Ta--‘Xây Nhà Trên
Đá’--ViKiNi--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
8. Đức Yêsu là chuẩn mực--Lm. Giuse Phạm Thanh
Liêm
9. Với Đức Giêsu: Thiên Chúa trên hết--Lm. Giuse
Phạm Thanh Liêm
10. Thanh tẩy đền thờ--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng,
OP
11. Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Đan Vinh
12. Nhà Chúa Cha và nơi buôn bán--Lm. Giuse Nguyễn
Văn Lộc
13. Nôi ba ngày Tôi sẽ xây dựng lại --Lm. Trầm
Phúc
14. Hãy thanh tẩy đền thờ Chúa--Lm. Antôn Nguyễn
Văn Độ
15. Nơi chốn và phương thức phụng thờ đích thực--Lm.
Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
16. Hãy xem lại lối sống đạo của chúng ta--Jos.
Vinc. Ngọc Biển, S. S. P.
17. Thanh tẩy đền thờ tâm hồn--Lm. Giuse Nguyễn
Thành Long
18. Làm mới đền thờ tâm hồn--Lm. Giuse Nguyễn
Thành Long
19. Thân xác chúng ta là đền thờ cần được thanh tẩy--Lm.
Ignatiô Trần Ngà
20. Sự lạm dụng thân xác--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
21. Thế giới tục hóa--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
22. Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
23. Nhà Cha là nhà cầu nguyện--Lm. Giuse Tạ Duy
Tuyền
24. Điên rồ cho Thiên Chúa--Peter Feldmeier--Lm.
GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ
25. Uy quyền Đấng Thiên Sai--Lm. Hồng Phúc
26. Cơn Giận Thánh--AM Trần Bình An
27. Điện Thờ Thân Thể của Người--Lm. Luigi
Gonzaga Đặng Quang Tiến
28. Chúa Giêsu, Đấng kiện toàn lề luật --Lm.
Giuse Phạm Ngọc Khuê
29. Đền Thờ Thiên Chúa--Lm. Minh Vận, CRM
30. Cứ phá hủy Đền Thờ này đi …--Lm. Giuse Tạ
Xuân Hòa
31. Thánh Đường, điểm hẹn--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
32. Giao ước mới--Lm. Đỗ Vân Lực
33. Thiên Chúa thanh tẩy người tình--Lm. Giuse Lê
Danh Tường
34. Thanh tẩy tâm hồn--Lm. Giuse Lê Danh Tường
35. Tẩy rửa--Lm. Vũ Đình Tường
36. Chăm lo đền thờ Giáo Xứ, tu bổ đền thờ tâm hồn--Lm.
Giuse Nguyễn Hữu An
37. Đền thờ tâm hồn--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
38. Đền Thờ sống động--Lm. Vũ Thái Hoà
39. Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Nguyễn Văn Phan,
CSsR.
40. Luật vĩnh hằng--Thom. Aq. Trầm Thiên Thu
41. Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
42. Luật Chúa truyền và luật trần gian--Lm. Xuân
Hy Vọng
43. Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Gioan Phan Tiến
Dũng
44. Thánh luật--Thom. Aq. Trầm Thiên Thu
45. Chúa Giêsu đánh đuổi con buôn trong hành lang
đền thờ--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
46. Nhà Ta là nhà cầu nguyện--Lm. Trần Bình Trọng
47. Nhà Ta là nhà cầu nguyện--Lm Trần Bình Trọng
49. Đền thờ Thiên Chúa--Lm Anphong Trần Đức
Phương
50. Chúa nhật 3 Mùa Chay--Jaime L. Waters--Chuyển
ngữ: ĐCV Sao Biển
51. Thanh tẩy “Nhà Thờ”--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
52. Phải bị thiệt thân--Lm. Giuse Nguyễn Văn
Nghĩa
53. Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Đaminh Trần Đình
Nhi
54. Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Alfonso
55. Đức Giêsu tẩy uế đền thờ--Lm Vũ Phan Long
56. Bắt đầu lại trong sự thật--Jean-Yves Garneau
57. Đền thờ đích thật của sự thờ phượng và tập hợp--‘Lương
Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
58. Dấu lạ của việc thanh tẩy đền thờ
(2,13-22)--Alain Marchabour
59. Giữ trong sạch nhà Cha--Noel Quesson
60. Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Noel Quesson
61. Tẩy uế đền thờ--Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
62. Đức Giêsu xua đuổi người buôn bán ra khỏi đền
thờ--Fiches Dominicales
63. Cơn giận của Chúa Giêsu (2,12-16)--William
Barclay
64. Thanh tẩy đền thờ--Lm. Giuse Nguyễn Quốc
Quang - Joshepus Quang Nguyễn
65. Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Anthony Trung Thành
72. Đền thờ vật chất, đền thờ tâm hồn
1.
Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây--‘Manna’
Suy Niệm
Trong sách Tin Mừng, hiếm
khi ta thấy Đức Giêsu nổi giận. Ngài bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của
Giuđa. Ngài lặng lẽ trước những lời cáo gian buộc tội. Chính Ngài đã mời ta học
nơi Ngài bài học hiền lành và khiêm nhượng.
Vậy mà ở đây ta lại thấy
Đức Giêsu dùng roi để đuổi những người buôn bán bồ câu, chiên bò, Ngài còn lật
nhào bàn ghế của những người đổi bạc!
Dù rằng những chuyện buôn
bán này chỉ diễn ra ở ngoài phạm vi Đền Thờ, nơi tiền đình dành cho dân ngoại, nhằm
phục vụ cho nhu cầu tế tự của những người đi hành hương vào dịp lễ Vượt qua, nhưng
Đức Giêsu vẫn thấy đó là một điều bất kính, vì chúng tạo ra một bầu khí ồn ào,
hỗn độn.
Đức Giêsu vốn qúy trọng
Đền Thờ Giêrusalem. Ngài gọi đó là nhà Cha của tôi, nhà cầu nguyện. Ngài không
muốn nơi Thánh này trở thành cái chợ. Ngài không chấp nhận nhà của Cha Ngài bị
xúc phạm.
Chính tình yêu đã khiến
Đức Giêsu nổi giận. Ngài thấy cần phải thanh tẩy Đền Thờ, dù điều đó sẽ đưa
Ngài đến chỗ thiệt thân.
"Cứ phá hủy Đền Thờ
này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại." Đức Giêsu ám chỉ đến cái chết
và sự phục sinh của Ngài. Đền thờ ở đây là chính thân thể Đức Giêsu. Thân thể
được phục sinh của Ngài sẽ là Đền Thờ mới, nơi nhân loại thờ phượng Thiên Chúa
cách đích thực Đức Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem.
Ngài cũng muốn thanh tẩy
các nhà thờ của chúng ta. Ngài muốn chúng thực sự là nơi thờ phượng, nơi lắng
đọng để con người gặp gỡ Thiên Chúa. Có khi thánh lễ của chúng ta trở nên máy
móc, buồn tẻ. Có khi lại ồn ào, nặng tính trình diễn.
Dù sao thánh lễ vẫn cần
một cái hồn, một sức sống lan tỏa từ Chúa Giêsu phục sinh.
Để tâm đến việc sửa nhà
thờ là cần, nhưng không đủ. Mỗi Kitô hữu cần để tâm xây dựng con người mình, bởi
lẽ đó là đền thờ của Cha và Con (x. Ga 14,23). Chính thân xác ta cũng là đền
thở của Thánh Thần (x. 1Cr 6,19).
Có những đền thờ thánh
thiêng đã trở nên phàm tục. Đam mê vô độ của thân xác đã trục xuất Thánh Thần. "Hãy
đem tất cả những thứ này ra khỏi đây!"
Chúa Giêsu hôm nay cũng
giận dữ như thế khi thấy con người của chúng ta bị vấy bẩn, đền thờ của Ba Ngôi
bị nhơ nhớp.
Tha nhân quanh ta cũng là
những đền thờ. Có nhiều đền thờ bị xuống cấp, tước đoạt và sụp đổ... Mùa chay
là mùa tu sửa các đền thờ, để mọi đền thờ đều dẫn đến Đền Thờ Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn nghĩ gì về bầu khí
nơi nhà thờ của bạn? Bạn nghĩ gì về bầu khí của Thánh Lễ? Bầu khí đó có giúp
bạn lắng đọng để gặp mình và gặp Chúa không?
Trong mùa Chay này, bạn
thấy có đền thờ nào cần sửa gấp không? Đền thờ lòng bạn có gì cần phải loại bỏ
để có chỗ cho Chúa không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, thế giới hôm nay
cũng như hôm qua vẫn có những người bơ vơ lạc hướng vì không tìm được một người
để tin; vẫn có những người đã chết từ lâu mà vẫn tưởng mình đang sống; vẫn có
những người bị ám ảnh bởi thần ô uế, ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng
tăm; vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn, bệnh hoạn trong lối nhìn, lối
nghĩ, lối sống; vẫn có những người bị sống bên lề xã hội, dù không phải là
người phong...
Xin Cha cho chúng con
nhìn thấy họ và biết chạnh lòng thương như Con Cha. Nhưng trước hết, xin cho
chúng con nhìn thấy chính bản thân chúng con.
2.
Thanh tẩy Đền Thờ--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Một trong những vấn đề
lớn của thế giới hiện nay là nạn ô nhiễm môi sinh. Các giòng sông đang bị ô
nhiễm vì biết bao chất thải dơ bẩn, độc hại. Không khí ta hít thở đang bị đe
dọa vì bụi bặm, vì khói xe, khói nhà máy. Nước biển bị ô nhiễm vì nạn dầu nhớt
rò rỉ, vì chất thải của những lò phản ứng nguyên tử. Tầng khí quyển bị những
chất khí độc chọc thủng đang làm thay đổi khí hậu và gây ra những căn bệnh nguy
hiểm. Để con người có thể sống và phát triển được, thế giới cần phải được thanh
tẩy khỏi các nguồn ô nhiễm.
Sự ô nhiễm không chỉ
trong môi trường vật lý. Nhiều môi trường khác như môi trường văn hóa, môi
trường đạo đức cũng đang bị ô nhiễm trầm trọng. Tôn giáo không tránh khỏi nạn ô
nhiễm. Muốn cho bầu khí đạo đức được trong sạch, muốn cho đời sống tâm linh tồn
tại và phát triển, tôn giáo cũng cần được thanh tẩy. Hôm nay Đức Giêsu vào Đền
thờ và đã thanh tẩy Đền thờ. Người đã làm 3 cuộc thanh tẩy
1) Người đã thanh tẩy Đền
thờ khỏi ô nhiễm vì súc vật. Trong nghi lễ của đạo Do Thái, cần có súc vật để dâng cho
Thiên Chúa. Khi dâng lễ hy sinh, người ta mổ một con thú, đặt trên bàn thờ rồi
đốt lửa thiêu con vật. Mùi mỡ cháy quyện khói xông lên nghi ngút. Người giầu
thì dâng một con bò hay một con chiên. Người nghèo có thể dâng một cặp chim bồ
câu hoặc một đôi chim gáy. Để đáp ứng nhu cầu của tín đồ,dịch vụ cung cấp lễ
vật mau chóng thành hình ngay trong khuôn viên Đền thờ. Ta hãy tưởng tượng một
chợ trâu bò ngay trong Đền thờ. Thật là dơ bẩn, ồn ào và chướng tai gai mắt.
Nhưng nhu cầu đã biện minh cho sự ô nhiễm. Và dân Do Thái mặc nhiên chấp nhận
để cho súc vật nghễu nghện ngự trị ngay trong khuôn viên Đền thờ rất nguy nga,
rất lộng lẫy, rất cao sang mà họ từng ca tụng là “đền vàng”, là “nơi
thánh." Thấy nhà Chúa bị xúc phạm, Đức Giêsu không kiềm chế được cơn giận,
đã lấy roi xua đuổi hết súc vật và cả đám con buôn ra khỏi Đền thờ.
2) Khi xua đuổi các con
buôn ra khỏi Đền thờ, Đức Giêsu đã thanh tẩy thói tôn thờ ngẫu tượng. Theo Đức Giêsu, ngẫu
tượng nguy hiểm nhất là tiền bạc, tức là thần “Mammon." Đã có lần Người
lên tiếng cảnh báo: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền của”, và
“Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào nước Thiên đàng."
Những con buôn đưa súc vật vào Đền thờ không do lòng yêu mến Thiên Chúa, nhưng
vì lợi nhuận. Đưa súc vật vào nơi tôn nghiêm, họ đã coi trọng tiền bạc hơn
Chúa. Để cho súc vật làm ô uế Đền thờ cao trọng, họ đã dùng Đền thờ làm phương
tiện phục vụ túi tiền của họ. Các tư tế coi sóc Đền thờ có lẽ cũng được chia
phần nên đã cho phép con buôn được tự do họp chợ trong Đền thờ. Họ cũng như con
buôn, coi tiền bạc trọng hơn Thiên Chúa. Họ đã rơi vào thói tôn thờ ngẫu tượng:
thờ tiền bạc, dùng Chúa và Đền thờ để phục vụ tư lợi.
3) Khi đuổi súc vật ra
khỏi Đền thờ, Đức Giêsu muốn thanh tẩy cung cách thờ phượng của ta. Trước kia người ta dâng
súc vật làm của lễ. Lòng đạo đức được đo lường bằng sức nặng của con vật. Dâng
con vật to sẽ được nhiều ơn phúc. Nay, Đức Giêsu cho thấy Chúa đã chán thịt bò,
mỡ dê. Chúa đã ghê sợ mùi khói mùi khét lẹt, mùi máu tanh tưởi (cf. Is 1,11).
Thánh vương Đavít đã hiểu: “Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến
lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận” (Tv 50,16). Chúa muốn ta đến với
Người bằng chính bản thân ta. Lễ dâng đẹp lòng Chúa là thái độ khiêm nhường
thống hối như lời Thánh vịnh: “Lễ dâng Chúa là tâm hồn thống hối. Một tấm lòng
tan nát dày vò, Chúa sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50). Lễ dâng đẹp lòng Chúa là phó
thác trót cả tâm hồn thân xác trong tay Chúa như Đức Giêsu đã làm trên Thánh
giá: “Lạy Cha, con dâng phó hồn con trong tay Cha." Lễ dâng được Chúa vui
lòng chấp nhận là sát tế chính bản thân mình để làm theo ý Chúa: “Máu chiên bò
Chúa không ưng. Của lễ toàn thiêu Chúa không nhận. Thì này con đến để làm theo
ý Chúa (Tv). Ta sát tế chính bản thân mỗi khi ta từ bỏ ý riêng, chiến đấu chống
lại những cơn cám dỗ của dục vọng, tiền bạc, thói gian tham, tính tự ái kiêu
căng, sự chia rẽ bất hòa.
Đức Giêsu đã thanh tẩy
Đền thờ. Người muốn ta hãy tiếp tục công việc của Người. Giữ gìn cho nhà thờ
luôn sạch đẹp, có bầu khí tôn nghiêm là điều cần thiết. Nhưng cần hơn vẫn là
giữ gìn ngôi Đền thờ thiêng liêng là chính bản thân ta. Tâm hồn chính là cung
thánh nơi Chúa ngự. Ta phải luôn luôn thanh tẩy tâm hồn để xứng đáng với Chúa.
Hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi thói tôn thờ tiền bạc, coi trọng tiền bạc hơn Chúa.
hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi những dục vọng đam mê làm ô uế cung thánh của Chúa.
Hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi thói gian tham, bất công. Hãy thanh tẩy tâm hồn ta
khỏi những kiêu căng đố kỵ. Thân xác ta là Đền thờ của Chúa. Hãy kính trọng
thân xác của mình và của người khác. Hãy tu bổ những Đền thờ thân xác đã xuống
cấp, suy tàn, bị xúc phạm, bị bán rẻ. Hãy sửa chữa những Đền thờ thân xác đang
bị bào mòn vì bệnh tật, vì đói khát, vì thương tích. Hãy kính trọng thân xác
của người khác vì đó là Đền thờ của Chúa.
Trong mùa Chay này, ta
hãy cố gắng thanh tẩy bản thân, để tâm hồn và thân xác ta trở thành một Đền thờ
xứng đáng cho Chúa ngự.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Khi tham dự thánh lễ,
bạn có giữ cho nhà thờ có bầu khí trang nghiêm, lắng đọng không?
2) Đền thờ tâm hồn và
thân xác bạn có những gì cần phải thanh tẩy không?
3) Mùa Chay này, bạn sẽ
làm gì để trở nên một Đền thờ xứng đáng cho Chúa ngự?
3.
Canh tân cách thực hành Đức Tin--TGM Giuse Vũ Văn Thiên
Cứ mỗi độ xuân về, người
dân Việt chúng ta, sau khi đón xuân mới, là khởi đầu chiến dịch đi lễ hội đầu
năm. Từ một hai thập kỷ trở lại đây, nhờ đời sống kinh tế được cải thiện, những
lễ hội truyền thống sau một giấc ngủ dài trong thời bao cấp, được khôi phục
khắp nơi, đua nhau nở rộ như nấm mọc sau mưa. Nhìn chung, những lễ hội này diễn
tả truyền thống văn hoá phong phú của người Việt, và đều góp phần tích cực giúp
con người hướng thiện. Tuy vậy, khá nhiều lễ hội bị nhuốm màu thương mại và mê
tín dị đoan, mang theo những hệ lụy không đẹp do cách hành xử thiếu văn hóa,
như cướp giật, đánh nhau đến đổ máu. Lễ hội đang bị lạm dụng nghiêm trọng và
làm mất đi ý nghĩa linh thiêng.
Vào thời Chúa Giêsu, Đền
thờ Giêrusalem là nơi thiêng thánh cũng bị lạm dụng. Người ta buôn bán chiên
bò, chim câu và đổi tiền. Tất cả những dịch vụ này cũng núp dưới danh nghĩa
phục vụ khách hành hương, nhất là vào dịp lễ trọng của người Do Thái là lễ Vượt
qua. Chúa Giêsu đã chứng kiến cảnh này. Người đã nghiêm khắc xua đuổi họ ra
khỏi Đền Thờ. Cả bốn thánh sử đều ghi lại sự kiện này, nhưng Thánh Gioan là
người diễn tả hành động của Chúa Giêsu một cách mạnh mẽ quyết liệt nhất: “Người
liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả chiên cũng như bò, ra khỏi Đền
Thờ." Tuy vậy, nếu ba tác giả của Tin Mừng nhất lãm đều nói đến việc Đức
Giêsu “đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi Đền Thờ”, thì thánh Gioan lại cho biết,
Chúa chỉ yêu cầu mang các loại hàng hóa trần tục xâm nhập Đền Thờ và làm cho
nơi thánh trở thành chốn thương mại. Phải chăng Thánh Gioan muốn nói với chúng
ta: Chúa Giêsu không xua đuổi con người tội nhân, nhưng xua đuổi những hành
động tội lỗi, và như thế, Người mời gọi chúng ta hãy canh tân cách thực hành
Đức Tin.
Từ đầu Mùa Chay, Phụng vụ
đã mời gọi chúng ta canh tân đổi mới cuộc đời. Canh tân để làm cho trái tim,
tâm hồn và cuộc đời của chúng ta được đổi mới. Chúa nhật thứ Ba của Mùa Chay,
Phụng vụ dạy chúng ta hãy xem xét lại cách tôn thờ Chúa của mình. Nói cách
khác, mỗi chúng ta là người tin vào Chúa. Đức tin ấy phải được thể hiện qua tâm
tình thờ phượng Chúa. Có nhiều người tin Chúa mà không thực hành các bổn phận
của đức thờ phượng. Thờ phượng Chúa là nhận ra quyền năng vô biên và tình yêu
của Ngài đối với chúng ta, đồng thời dâng lời tạ ơn, ca tụng và cầu nguyện với
Ngài. Đối với một số tín hữu, đức tin của họ mang tính vụ lợi, tức là chỉ chạy
đến nài van Chúa khi gặp hoạn nạn gian nan, còn những lúc khác thì không cần
biết Chúa là ai. Nhiều người khác coi Chúa như Bà Chúa Kho, đến để xin lộc và
vay tiền lúc đầu năm với hy vọng năm mới phát tài.
Hành động của Chúa Giêsu
khi xua đuổi chiên bò ra khỏi Đền thờ được gọi là “thanh tẩy Đền thờ." Quả
thật, Chúa muốn khôi phục tinh thần thờ phượng đích thực, không nhuốm màu
thương mại và cạnh tranh vật chất. Mùa Chay cũng giúp ta thanh tẩy đời sống đức
tin và tâm tình thờ phượng Chúa. Những thực hành đạo đức của cộng đoàn cũng như
cá nhân phải dẫn đưa người tín hữu đến gặp gỡ Đức Giêsu, Đấng đang sống và đang
hiện diện giữa chúng ta. Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết trong Tông huấn Đức
Kitô đang sống như sau: “Chúng ta có nguy cơ coi Chúa Giêsu Kitô chỉ như một
mẫu gương trong quá khứ, như một kỷ niệm, như một Đấng đã cứu chúng ta cách nay
hai ngàn năm. Điều này không ích gì cho chúng ta, vì nó sẽ để chúng ta cũ kỹ y
như trước, nó sẽ không giải thoát chúng ta. Đấng đổ đầy ân sủng của Người trên
chúng ta, Đấng giải thoát chúng ta, Đấng biến đổi chúng ta, Đấng chữa lành và
an ủi chúng ta đang sống. Người là Đức Kitô phục sinh, tràn đầy sức sống siêu
nhiên, mặc lấy ánh sáng vô hạn” (số 124). Những lời trên đây của Đức Thánh Cha
giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cuộc sống hiện
tại. Nhiều người tín hữu chỉ coi Người như một vĩ nhân đã lùi vào dĩ vãng.
Không phải như vậy. Người đang sống và hiện diện giữa chúng ta. Nếu ý thức được
điều ấy, lời nói, cử chỉ và cách sống của chúng ta sẽ thận trọng hơn. Lời cầu
nguyện và việc thờ phượng Chúa sẽ thấm đượm tâm tình mến yêu hơn. Xác tín điều
đó, người tín hữu cảm thấy như được chạm tới Chúa, được Người hướng dẫn và soi
sáng đường đi nước bước trong cuộc đời.
Gặp gỡ Chúa Giêsu, Đấng
đang sống, sẽ giúp chúng ta sống tốt hơn trong cuộc sống hằng ngày. Bài sách
thánh trích sách Xuất hành ghi lại luật Giao ước Thiên Chúa ban cho dân Israel
qua ông Môisen mà chúng ta vẫn gọi là Mười điều răn. Có thể nói Mười điều răn
trong sách Xuất hành là bộ luật đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Vì dân tộc Do
Thái là một dân được tuyển chọn, nên phải có một bộ luật làm tiêu chuẩn và để
duy trì trật tự trong việc điều hành cai quản, làm chuẩn mực chung cho mọi nền
văn hoá và mọi dân tộc. Rất tiếc, nhiều Kitô hữu, nhất là những bạn trẻ, không
thuộc kinh Mười Điều Răn, vì vậy, họ không định hướng được cuộc đời của mình.
Họ nói tin vào Chúa mà không biết Chúa là ai và phải làm gì để thực hành Đức
Tin.
Đức Giêsu đã thanh tẩy
Đền Thờ Giêrusalem. Người cũng dùng máu Người đổ ra trên thập giá để thanh tẩy
tội lỗi của nhân loại. Hai ngàn năm nay, Giáo Hội không ngừng rao giảng mầu
nhiệm thập giá, “điều mà người Do Thái coi là ô nhục và dân ngoại cho là điên
rồ” (Bài đọc II). Trái lại với sự xét đoán của thế gian, Đức Giêsu là sự khôn
ngoan của Thiên Chúa. Có những lúc, người tin vào Chúa bị coi như những người
điên rồ hoặc những người đi ngược dòng. Tuy vậy, cũng như sự điên rồ của thập
giá đã cứu vớt nhân loại, những ai theo Chúa Giêsu, dù có thể bị coi là ngu
dại, chắc chắn sẽ tìm được sự thanh thản trong tâm hồn và niềm vui của Đấng
phục sinh. Mùa Chay cũng là mùa suy niệm cuộc thương khó của Đức Giêsu. Thập
giá là một huyền nhiệm của tình thương Thiên Chúa. Thập giá không phải là câu
chuyện của quá khứ, nhưng là câu chuyện của hiện tại. Thập giá đang đi ngang
qua những mâu thuẫn gia đình, những khó khăn về tài chính tiền bạc, những xung
khắc trong mối tương quan với người xung quanh, những thất bại trong học vấn,
những bế tắc trong nghề nghiệp. Đó là những thập giá mà chúng ta đang phải vác
đi. Vác thập giá không phải là cam chịu, nhưng là đón nhận và hoá giải những
thất bại và khúc mắc thành kinh nghiệm, để rồi nhờ ơn Chúa, chúng ta sẽ vượt
lên những khó khăn, biến gian khổ thành niềm vui và biến nước mắt thành nụ
cười. Quả vậy, khi có lòng bao dung, sự kiên nhẫn và nhất là tình yêu quảng
đại, chúng ta sẽ có thể hoá giải mọi thương đau trong cuộc đời.
Đức tin của người Công
giáo không phụ thuộc vào mùa lễ hội và những cạnh tranh. Lòng yêu mến Chúa và
tâm tình thờ lạy tôn vinh Ngài như hơi thở, như cơm ăn nước uống đối với người
tín hữu. Con người cần có Chúa để hiện hữu, để hoạt động và để nên trọn lành. Ý
thức được sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời, dâng lên Chúa tâm tình yêu mến
và cầu xin Ngài trợ lực để vượt lên mọi khó khăn thử thách, những điều này làm
cho đức tin của chúng ta nên vững mạnh.
Mùa Chay là mùa canh tân
đổi mới. Canh tân cách thực hành Đức Tin là điều kiện thiết yếu để chúng ta đổi
mới cuộc đời. Bởi lẽ, nhờ Đức Tin tinh tuyền, chúng ta mới có thể sống Đạo chân
thành trước mặt Chúa và trước mặt mọi người.
4.
Nhà của Cha Tôi--GM. Arthur Tone
Người mẹ có 4 người con.
Bà khổ tâm biểu chúng dọn dẹp đồ chơi, nhất là vào lúc cha của chúng đi làm sắp
về. Dọa nạt, dụ ngọt đều vô ích. Đồ chơi ngổn ngang như thể cơn lốc vừa thổi
qua.
Một bữa nọ, bà tìm ra một
ý tưởng hiệu nghiệm, ít ra trong gia đình của các con bà: Bà chỉ nói đơn giản:
“Chúng con thử xem hết bao lâu để dọn nhà sạch sẽ để đón cha chúng con
về." Không đầy năm phút mọi đồ chơi được cất trong hộp.
Người mẹ này gợi cho
chúng ta cách thực hành ít nhất một ý tưởng được nêu ra trong bài Tin Mừng hôm
nay: Đức Giêsu nói về “Nhà Cha Tôi." Đức Giêsu yêu mến Đền thờ, nhà của
Cha Người trên trần gian. Thỉnh thoảng, đôi khi mỗi ngày, Người ở trong Đền
thờ. Người khích lệ những gì làm cho Đền thờ trở nên nơi cầu nguyện và phụng
thờ. Người lên án những gì làm cho nhà Cha Người mất vẻ thánh thiện. Đó là lý
do Chúa đuổi những người đổi tiền ra khỏi Đền thờ.
Cùng với Đức Giêsu, Người
anh cả, mỗi người chúng ta có thể nói: “Đây là nhà Cha tôi." Ngôi nhà thờ
này, nhà thờ của chúng ta, dù nhỏ bé, nó rất thanh lịch. Nó thật là nhà của Cha
chúng ta.
Như Chúa chúng ta, như
các em nhỏ trong câu chuyện. Chúng ta muốn làm hết sức cho nhà của Cha chúng ta
xứng đáng, đẹp và thánh thiện.
Khi chúng ta dâng cúng để
bảo quản nhà thờ, chúng ta phải coi đó như món quà dâng cho Cha chúng ta, không
có gì là quá đáng.
Quan trọng hơn bảo quản
phương tiện vật chất, là bảo quản giá trị và vẻ đẹp thiêng liêng: Ngôi nhà của
Chúa. Nơi đây, nhờ Bí tích Rửa Tội, chúng ta được nhận vào gia đình Chúa. Nơi
đây với việc Rước Lễ, chúng ta đoàn tụ quanh bàn tiệc của Cha chúng ta. Nơi
đây, nhờ Bí tích Thêm Sức, chúng ta được can đảm và sức mạnh để làm vui lòng
Người. Nơi đây, trong Bí tích Hôn Phối, Chúa đóng ấn sự kết hợp vợ chồng. Chúng
ta tới đây để hầu chuyện với Người và lắng nghe lời Người. Chúng ta đến đây để
xin Người trợ giúp và lời chỉ bảo.
Chúng ta tới đây để thổ
lộ với Người niềm vui, nỗi buồn của chúng ta, sự thành công, thất bại của chúng
ta.
Chúng ta tới đây để làm
lại điều mà Đức Kitô đã làm trong bữa tối sau hết. Chúng ta sẽ làm điều đó
trong chính giờ này.
Hãy đến nhà Cha của bạn,
chắc chắn Người yêu bạn, bất kể mọi chuyện, hơn những người cha tuyệt hảo ở
trên trời. Chúa sẵn sàng tha thứ, phù giúp, an ủi và khích lệ. Bạn hãy nhớ
trong kinh nguyện Thánh Thể, chúng ta thường gọi Người là Cha. Bạn hãy biết tại
sao chúng ta gọi Người là Cha trong kinh Lạy Cha. Bạn chú ý tới những lời trong
kinh Tiền xướng rước lễ hôm nay: “Ngay cả con chim se sẻ còn tìm được cái nhà.
Con chim nhạn tìm ra tổ ấm để ấp con. Cạnh bàn thờ Chúa, lạy Chúa các đạo binh.
Vua của con, Chúa của con – Hạnh phúc thay những ai cư ngụ trong nhà
Chúa."
Bạn tự nhiên trong nhà
của Cha bạn. Như người mẹ trong câu chuyện. Mẹ Giáo Hội bảo chúng ta: “Chúng ta
cố gắng hết sức làm cho nhà của Cha chúng ta đẹp và ấm cúng.
Xin Chúa chúc lành bạn.
5.
Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Ðề: Vì
thương, Thiên Chúa dạy chúng ta một cách sống khôn ngoan. (Ga 2,17)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Thế nào là khôn ngoan?
Phải chăng là khéo léo để được hơn người, để làm ăn thành đạt, để được người
đời khen ngợi? Thế nhưng "lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích
gì?" Sự khôn ngoan của thế gian chỉ là ngu dại trước mắt Thiên Chúa. Hôm
nay Lời Chúa sẽ dạy chúng ta một cách sống khôn ngoan thực sự sẽ mang hạnh phúc
đến cho ta chẳng những ở đời này mà còn cả đời sau. Xin Chúa thương ban cho
chúng ta sự khôn ngoan ấy.
II. Gợi ý sám hối
Người khôn ngoan là người
sống theo luật Chúa. Thế nhưng rất nhiều lần chúng ta đã vi phạm luật Ngài.
Thập giá Ðức Giêsu là sự
điên rồ đối với thế gian, nhưng là sự khôn ngoan vô cùng của Thiên Chúa. Nhưng
nhiều khi chúng ta trốn tránh thập giá, vất bỏ những thập giá Chúa gởi đến cho
chúng ta.
Thân xác và tâm hồn chúng
ta là đền thờ của Thiên Chúa. Nhưng chúng ta đã để đền thờ ấy ra dơ bẩn. Xin
Chúa thương thanh tẩy.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I: Xh 20,1-17
Sau khi dân Israel được
giải phóng khỏi ách nô lệ Ai cập, họ xuất hành qua sa mạc. Khi đến núi Sinai,
Thiên Chúa gọi Môsê lên với Ngài và Ngài ban cho dân 10 điều luật.
Thực ra khi mới ra khỏi
Ai cập, họ chỉ là một đám đông chưa biết cách sống chung với nhau, chưa có tinh
thần tập thể, cũng như chưa có một đức tin chung. Nhờ những điều luật này, họ
biết sống với nhau bằng tình thương (phần thứ hai của thập giới: yêu người) và
biết sống với Thiên Chúa bằng lòng kính mến (phần đầu của thập giới: mến Chúa).
2. Ðáp ca: Tv 18
Thánh vịnh này ca ngợi
luật pháp của Chúa: a/ đó là luật toàn thiện; b/ rất hữu ích cho cuộc sống; c/
vì thế nó đáng quý chuộng hơn mọi thứ quý giá nhất ở đời.
3. Tin Mừng: Ga 2,13-25
Tường thuật việc Ðức
Giêsu đánh đuổi những người buôn bán trong sân Ðền thờ Giêrusalem. Ðối với
Thánh Gioan, điều đáng chú ý nhất là sự nguy hiểm của việc làm này: nó sẽ dẫn
Ðức Giêsu tới chỗ chết (c 20: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi. Nội ba
ngày tôi sẽ xây dựng lại." c 21 "Ðền thờ Ðức Giêsu muốn nói ở đây là
chính thân thể Ngài"). Nhưng vì nhiệt thành với Thiên Chúa nên Ðức Giêsu
dám chấp nhận mọi nguy hiểm (c 17 "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi
đây sẽ phải thiệt thân").
4. Bài đọc II: 1 Cr
2,13-25
Thánh Phaolô so sánh sự
khôn ngoan của Thiên Chúa và sự khôn ngoan của thế gian. Sự khôn ngoan của
Thiên Chúa thể hiện rõ nhất nơi thập giá. Nhưng thập giá là cớ vấp phạm đối với
người Do Thái và là sự điên rồ đối với người Hy Lạp. Tuy nhiên sự khôn ngoan
Thiên Chúa trổi vượt mọi khôn ngoan của con người.
Vì thế Thánh Phaolô tự
hào về sự khôn ngoan của thập giá. Ngài hăng hái rao giảng sự khôn ngoan ấy và
kêu gọi tín hữu hãy tìm kiếm sự khôn ngoan ấy.
IV. Gợi ý giảng
* 1."Luật
pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh"
Người thời nay dị ứng với
từ "luật" vì cho rằng luật gò bó tự do. Họ ghét chủ trương "vị
luật."
Chính Ðức Giêsu cũng đả
phá chủ trương vị luật. Ngài kịch liệt công kích những người Pharisêu vì họ chủ
trương như thế.
Thế nhưng Chúa không phá
bỏ lề luật: "Ta đến không phải để huỷ bỏ lề luật mà để kiện toàn" (Mt
5,17).
Ngài kiện toàn luật thế
nào? Bằng cách chỉ cho thấy "trái tim" của lề luật là thương yêu.
Ngài tóm lược tất cả mọi lề luật vào 2 khoản là mến Chúa và yêu người. Thánh
Augustinô đã hiểu như thế nên đã nói: Ama et fac quod vis, Hãy yêu đi rồi muốn
làm gì thì làm.
Chính Ðức Giêsu nêu gương
giữ luật với tất cả tấm lòng yêu thương. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Ngài nổi
giận khi thấy người ta làm hại đến sự thánh thiện của Ðền thờ. Vì yêu mến lề
luật và nhiệt thành với Thiên Chúa, Ngài đã đánh đuổi những người buôn bán ra
khỏi đền thờ, một việc làm sẽ dẫn Ngài tới cái chết."Vì nhiệt tâm lo việc
nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân."
* 2. Sự khôn ngoan của
Thập giá
Một vài ý tưởng của Nino
Salvaneschi (trong quyển Savoir souffrir):
Không có tình yêu, ta
không thể sống
Không có đau khổ, ta
không thể yêu
Phải học yêu để sống tốt
hơn
Và phải học chịu khổ để
yêu nhiều hơn.
Tình yêu là nhung nhớ về
cõi trời; đau khổ là giải thoát khỏi cõi đất. Vì thế trong mọi đau khổ luôn có
một cái gì đó của trời, và trong mọi tình yêu luôn có một cái gì đó của đất.
Vui sướng làm cho tâm hồn
mềm yếu, đau khổ làm cho tâm hồn cứng cáp. Vui sướng làm thỏa mãn cho riêng
mình, đau khổ đi tìm một trái tim khác. Vui sướng làm hư (déformer), đau khổ
huấn luyện (former) nhân cách.
Tình yêu đến và đi, đôi
khi nó đem lại cho ta một cái gì đó, nhưng đôi khi nó cướp đi tất cả. Tình yêu
chỉ cất tiếng hát trong một mùa. Trái lại đau khổ đến thăm ta vào mọi lứa tuổi.
Nó đến thì biến đổi đời ta, và trước lúc ra đi nó luôn để lại một cái gì đó.
Dĩ nhiên bạn có thể chấp
nhận hoặc từ chối đau khổ. Nhưng nếu chấp nhận thì bạn sẽ bình an. Còn nếu từ
chối thì bạn vẫn còn phải chiến đấu mãi với chính mình.
Chịu đựng là dấu chỉ kẻ
bại trận. Chấp nhận là dấu chỉ của người đang cầm vũ khí để chiến đấu.
* 3. Bài học khôn ngoan
Một thiếu niên đi xem đấu
bóng với cha sở, nói với cha rằng anh không thích vâng phục. Anh nói:
"Thưa cha, con rất ghét ai bảo phải thế này, thế nọ. Không có tự do trong
việc này."
Cha sở không nói một lời.
Liền sau đó, họ gặp một biển chỉ đường chỉ hướng đi tới sân chơi. Cha sở làm
như không thấy. Cậu bé la lên: "Chúng ta đi sai đường! Thưa cha, cha không
thấy dấu đằng kia à!."
Cha sở bình tĩnh trả lời:
"Cha thấy chứ, nhưng cha nghĩ đường này xem ra tốt hơn, và cha ghét bị chỉ
bảo đi đường này đường kia bởi một biển chỉ đường cũ kỹ. Nó không cho cha tự do
hành động."
Cậu bé nhận ra bài học,
và họ vòng trở lại đi vào hướng sân chơi.
* 4. Tuân giữ lề luật
Một người Do Thái nọ muốn
sống thánh thiện nên đến tham khảo ý kiến của một vị Rabbi. Vị Rabbi hỏi:
- Từ trước tới nay anh
sống thế nào?
- Rất tốt, thưa ngài.
- Anh nói "rất
tốt" nghĩa là sao?
- Nghĩa là tôi không vi
phạm giới luật nào cả. Tôi không kêu tên Chúa vô cớ, tôi không tục hóa ngày
sabát, tôi không bất kính với cha mẹ, tôi không giết người, tôi không bất trung
với vợ tôi, tôi không trộm cắp, tôi không làm chứng dối, tôi không tham muốn
của cải và vợ người khác.
Vị Rabbi nói:
- Tôi hiểu. Anh đã không
vị phạm giới luật nào cả.
- Ðúng vậy, thưa ngài.
Nhưng vị Rabbi hỏi tiếp:
- Nhưng anh có tuân giữ
các giới luật không?
- Ngài hỏi vậy nghĩa là
sao ạ?
- Nghĩa là: anh có tôn
kính tên Chúa không? Anh có thánh hóa ngày sabát không? Anh có hiếu kính cha mẹ
không? Anh có tôn trọng và bảo vệ mạng sống của người khác không? Lần gần đây
nhất anh nói với vợ rằng anh yêu nàng là khi nào? Anh có chia sẻ của cải cho
người nghèo không? Anh có bảo vệ danh dự và tiếng tốt cho ai chưa? Anh có
thường giúp đỡ người khác không?
Người Do Thái ra đi và
suy nghĩ miên man. Từ trước tới nay anh chỉ nhìn các giới luật theo khía cạnh
tiêu cực nên mọi cố gắng của anh chỉ là làm sao khỏi vi phạm luật. Nhưng nay vị
Rabbi vừa chỉ cho anh một cách nhìn mới hẳn: không chỉ cố tránh vi phạm luật,
mà còn phải làm những việc tốt mà luật chỉ dạy.
Kitô hữu ngày nay cũng
cần lưu ý:
Chúng ta tuân giữ lề luật
không phải vì sợ Chúa phạt, mà vì yêu mến Chúa.
Chúng ta giữ luật không
phải để được Chúa yêu, mà chúng ta giữ luật bởi vì Chúa đã yêu ta.
* 5. Sự điên rồ khôn
ngoan
Ðức Giêsu quả là điên rồ
khi dám đụng tới Ðền Thánh Giêrusalem, vì đó chính là kết tinh của tình cảm,
đức tin và niềm kiêu hãnh của toàn dân do thái. Việc Ngài thanh tẩy Ðền thờ
mang tính cách trầm trọng chẳng khác gì ai đó dám xé cờ tổ quốc hoặc đập nát
tượng lãnh tụ một nước. Cho nên cái giá mà Ðức Giêsu phải trả cho việc này là
Ngài sẽ bị giết chết. Bài Tin Mừng hiểu được cái giá đó, nên có câu "Vì
nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân."
Còn ông Phaolô thì nói
với các tín hữu Côrintô: "Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm
thiêng dấu lạ, còn người hy lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao
giảng một Ðức Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể
chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ." Phaolô có đầy đủ mọi điều kiện để
làm một Rabbi đáng kính đối với người do thái, hoặc làm một triết gia đáng nể
đối với người hy lạp. Thế mà ông bỏ tất cả để đi làm một việc điên rồ là rao
giảng về thập giá.
Có nhiều điều trong cách
sống của kitô hữu cũng bị người không kitô coi là điên rồ. Do người ta coi thế
nên tôi không dám làm? hay dù người ta coi thế, tôi vẫn can đảm làm, theo gương
Ðức Giêsu và Thánh Phaolô?
6. Thanh tẩy đền thờ
Mahatma Gandhi, vị thánh
của dân tộc Ấn Ðộ, trong nhật ký tự thuật của mình, ông kể rằng khi còn theo
học ở Nam Phi, ông rất thích đọc Kinh Thánh, đặc biệt là "Bài giảng trên
núi." Ông xác tín rằng Kitô giáo chính là giải đáp cho hệ thống đẳng cấp
đã gây thương tổn cho đất nước Ấn Ðộ của ông từ bao thế kỷ. Ông thực sự nuôi ý
định trở thành Kitô hữu.
Ngày kia, ông vào một nhà
thờ để dự lễ và nghe giảng. Người ta chặn ông lại ở cửa nhà thờ và nhẹ nhàng
cho ông hay rằng nếu ông muốn dự lễ, xin mời ông đến một nhà thờ dành riêng cho
người da đen.
Ông ra đi và không bao
giờ trở lại.
***
Tin mừng hôm nay thuật
lại Ðức Giêsu xua đuổi những người bán chiên bò, chim câu và những người đổi
tiền ra khỏi Ðền Thờ. Chắc chắn Người không hề xua đuổi những con người thành
tâm thiện chí. Nhà thờ là nơi tôn nghiêm, qui tụ các tín hữu, cử hành phụng vụ
Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể, mọi người chung một niềm tin, một lời cầu tôn
vinh Thiên Chúa. Nhà thờ chính là Hội thánh thu nhỏ, không phải là ngôi nhà kín
rào luỹ cấm, trái lại phải mở rộng để đón tiếp mọi người.
Hôm nay Ðức Giêsu phải
xua đuổi người ta ra khỏi Ðền Thờ, vì Người không muốn nơi thánh thiêng trở
thành cái chợ. Người không muốn nhà Cha Người bị xúc phạm. Người thấy cần phải
thanh tẩy Ðền Thờ. Thái độ quyết liệt của Ðức Giêsu đòi chúng ta phải xét lại
chính mình.
Dường như không khí chợ
búa vẫn vương vấn đầu đây: Người ta hẹn hò vào các giờ lễ, họ đi nhà thờ nhưng
mắt trước mắt sau, họ lo trình diễn áo quần kiểu tóc.
Có kẻ đến nhà thờ để thắp
sáng hào quang cho chính mình hơn là cho Chúa.
Có những đám cưới yêu cầu
bật sáng mọi bóng đèn trong thánh đường.
Có những đám ma nhà thờ
phải treo cờ tang phướn rũ như một biển tím, một rừng tang. Ðồng tiền đã che mờ
nét tôn nghiêm nhà Chúa.
"Hãy đem tất cả
những thứ này ra khỏi đây" (Ga. 216). Lời bất bình đó của Ðức Giêsu vẫn
như còn đang nói với chúng ta hôm nay. Người muốn các nhà thờ phải là nơi thờ
phượng, nơi tĩnh lặng để con người gặp gỡ Thiên Chúa. Không cần ồn ào, nặng
phần trình diễn, cũng không nên máy móc, buồn tẻ khi cử hành các nghi thức
phụng vụ.
Nếu mỗi thánh lễ là tái
diễn Hy lễ thập giá của Ðức Giêsu, Ðấng đã yêu cho đến cùng, thì mỗi thánh lễ
cũng mang một sức sống mới của Ðấng Phục sinh. Người chính là Ðền Thờ mới, nơi
nhân loại sẽ thờ phượng Thiên Chúa Cha cách đích thực.
***
Lạy Cha, Mùa chay là mùa
thanh tẩy các đền thờ: đền thờ vật chất là những thánh đường và đền thờ thiêng
liêng là mỗi người chúng con. Xin giúp chúng con biết thanh tẩy những nhơ nhớp
trong tâm hồn, hầu xứng đáng đến thờ phượng Cha trong Ðền Thờ mới là Ðức Giêsu,
Con Cha. Amen.
(Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
7. Nhà của Chúa
Lời nguyện sau đây được
viết trên cửa một nhà thờ nọ:
Lạy Chúa, xin làm cho
cánh cửa này đủ rộng để có thể đón tiếp mọi người nào cần đến tình thương của
đồng loại, anh em,
nhưng cũng đủ hẹp để có
thể ngăn chận mọi kiêu căng, ganh tị, bất hòa.
Xin làm cho ngưỡng cửa
này đủ phẳng để những bước chân của trẻ thơ và những người lầm đường lạc lối
vào đây mà không bị vấp ngã.
Xin làm cho nhà này là
nhà cầu nguyện và là cổng dẫn vào Nước Chúa.
(Viết theo Flor McCarthy)
V. Lời nguyện cho mọi
người
Chủ tế: Anh chị em thân
mến, Ðức Giêsu là Ðền thờ, mỗi Kitô hữu chúng ta cũng là Ðền thờ sống động của
Thiên Chúa. Ðền thờ này cũng cần được thanh tẩy cho xứng đáng hơn. Trong mùa
Chay này, chúng ta xin Chúa giúp chúng ta:
1. Hội thánh là Ðền thờ của
Thiên Chúa nơi mọi người hiệp thông với Thiên Chúa và hiệp thông với nhau /.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mỗi thành phần trong Hội thánh / biết loại bỏ
những thái độ giả hình, kiêu căng, chia rẽ, kỳ thị / làm cản trở cho sự hiệp
thông đó.
2. Thế giới và các quốc
gia là đại gia đình của nhân loại, nhưng luôn trở thành chiến trường về kinh tế
và chính trị / Chúng ta cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền / biết loại trừ tất
cả mọi hình thức xâm lăng và bóc lột nhau / để các nước tôn trọng và giúp đỡ
nhau phát triển.
3. Con người được dựng
nên giống hình ảnh Thiên Chúa / nhưng nhiều người đã khiến nó trở thành hình
ảnh dễ sợ của ma quỉ /Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho họ ý thức sự ghê tởm đó /
để bắt tay vào việc sám hối và thanh tẩy.
4. Mỗi người Kitô hữu
chúng ta đã trở thành đền thờ sống động của Thiên Chúa / Chúng ta hãy cầu xin
Chúa cho anh chị em giáo hữu trong họ đạo chúng con / không ngừng thanh tẩy
mình khỏi mọi tội lỗi nhất là các tội nặng.
Chủ tế: Lạy Ðức Giêsu, vì
nhiệt tâm phục vụ Chúa Cha mà Chúa đã thanh tẩy đền thờ, xin ban cho chúng con
thêm nhiệt tâm yêu mến Chúa, để luôn thanh tẩy tâm hồn hầu xứng đáng đón nhận
dồi dào hồng ân cứu độ của Chúa. Chúa là Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha:
Thiên Chúa là cha chúng ta. Vì thương yêu, Ngài đã chỉ dạy cho chúng ta một con
đường khôn ngoan mà những kẻ thông thái nhất của thế gian cũng không thể nghĩ
ra. Trong tâm tình hiếu thảo, chúng ta hãy thân thưa với Ngài.
- Trước lúc rước lễ: Thân
xác chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa. Nhưng đền thờ này đã bị dơ bẩn vì tội
lỗi. Chúng ta hãy thành tâm sám hối, xin Chúa thanh tẩy để xứng đáng cho Chúa
ngự vào."Ðây Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xóa tội trần gian..."
VII. Giải tán
Chúa đã dạy cho chúng ta
biết rằng lề luật Chúa chính là con đường dẫn đến sự khôn ngoan và hạnh phúc
đích thực. Anh chị em hãy ra về và sống theo luật Chúa. Chúc anh chị em được
bình an.
6.
Đền thờ của Thiên Chúa--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Các bài đọc Chúa nhật hôm
nay nói về lề luật của Chúa và đền thờ của Ngài. Ngài ban bố lề luật qua ông
Maisen và dùng Con Ngài là Đức Giêsu Kitô để nói về đền thờ. Luật của Chúa là
đường lối dẫn con người đến hạnh phúc, còn đền thờ của Ngài là nơi chúng ta đến
gặp gỡ, tiếp xúc với Ngài, hầu chúng ta tìm được niềm tin và sức mạnh cho tâm
hồn.
Mỗi người có nhiều đền
thờ vật chất nhưng chỉ có một đền thờ thiêng liêng là thân xác mình theo lời
thánh Phaolô dạy: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa,
và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao”?(1Cr 3,16). Chúng ta có nhiệm vụ
phải tôn trọng và bảo vệ cả hai loại đền thờ đó bằng bất cứ giá nào dựa vào
Thánh kinh: “Lòng nhiệt thành lo việc nhà Chúa làm hao tổn thân tôi” (Tv 68.
10). Hãy tôn trọng thân xác mình và đừng biến nó thành hang trộm cướp. Đừng để
cho của cải vật chất chi phối tâm hồn mình. Hãy biến thần Mammon thành đầy tớ
trung thành phục vụ ta, và hãy cố gắng biến thân xác và linh hồn mình
thành”Ngôi Thánh Đường” của Thiên Chúa.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Xh 20,1-17
Thiên Chúa đã dùng ông
Maisen giải phóng dân Israel ra khỏi ách nộ lệ của Ai cập. Khi đến núi Sinai,
Thiên Chúa ban bố lề luật cho Maisen và ông đã truyền lại cho dân chúng. Luật
ấy được gọi là “Thập giới” hay “Mười điều răn." Đối với họ “mười điều răn”
là cách đọc được ý muốn của chính Thiên Chúa ngõ hầu sống hiệp thông với Ngài.
Đó chính là điểm cốt lõi, cho dầu phần lớn các điều răn còn được thấy ở những
nơi khác ngoài Israel.
Thập giới không phải là
xiềng xích nặng nề, kìm hãm tự do con người, nhưng là luật chỉ đạo của Thiên
Chúa để hướng dẫn và bảo đảm bước đường tiến tới tự do và hạnh phúc. Thiên Chúa
đòi Israel phải tuyệt đối trung thành và tuân giữ các điều răn của Ngài. Có như
vậy, Ngài mới là Chúa của Israel và Israel là dân riêng của Ngài. Ngày nay,
chúng ta là dân riêng của Ngài. Điều mà Ngài đòi hỏi Israel cũng là điều Ngài
đòi hỏi chúng ta ngày nay.
+ Bài đọc 2: 1Cr 1,22-25
Thánh Phaolô rao giảng
Đức Kitô bị đóng đinh. Theo Ngài, nhờ thập giá Đức Kitô, chúng ta đến được với
Chúa Cha, nhưng thập giá lại là điều ô nhục đối với người Do thái và là sự điên
rồ đối với người Hy lạp. Người Do thái mong đợi Đấng Cứu thế quyền năng chứ
không hèn yếu; người Hy lạp trông một sự can thiệp của Thiên Chúa phù hợp với
sự khôn ngoan của họ, và đối với Đấng ấy, cái chết không được phép chạm đến.
Nhưng thánh Phaolô lại
quả quyết rằng sự khôn ngoan của Thiên Chúa thể hiện rõ nhất nơi thập giá và sự
khôn ngoan của Thiên Chúa trổi vượt hơn sự khôn ngoan của con người. Do đó,
Ngài tự hào về sự khôn ngoan của thập giá bởi vì sức mạnh của Ngài tỏ lộ trong
sự yếu đuối: “Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh."
+ Bài Tin mừng: Ga
2,13-25
Thánh Gioan thuật lại
việc Đức Giêsu xua đuổi những kẻ buôn bán ở sân đền thở Giêrusalem. Đền thờ là
nơi dân Chúa thập phương tụ họp lại để tỏ lòng tôn thờ và dâng tiến lễ vật cho
Thiên Chúa. Đền thờ phải là nơi trang nghiêm dành cho việc thờ phượng. Nhưng
người ta vì ham lợi lộc đã biến Đền thờ thành nơi buôn bán, ồn ào nhộn nhịp.
Đức Giêsu vì nhiệt thành với Thiên Chúa đã dám chấp nhận nguy hiểm dẫn đến cái
chết khi nghĩ đến câu Thánh vịnh: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ
phải thiệt thân” (Tv 68,10).
Để trả lời cho những
thách thức của họ, Đức Giêsu nói: “Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi. Nội ba
ngày tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2,21). Đền thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính
thân thể Ngài. Và “Nhà Cha” thực sự từ nay sẽ là “đền thờ thân thể Ngài”, và
Ngài sẽ là vị tư tế duy nhất muôn đời. Nhưng nhân tính của Ngài sẽ chỉ giữ vai
trò trên sau khi bị phá hủy và trỗi dậy (Ga 2,20).
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Thanh tẩy đền thờ Thiên
Chúa
I. ĐỀN THỜ CỦA THIÊN CHÚA
Đền thờ là nơi qui tụ mọi
người thành cộng đồng tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý. Tôn thờ
Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý là ngợi khen, cảm tạ, cầu nguyện với tinh
thần đức tin, đức cậy và đức mến sâu sắc như Đức Maria đã thể hiện trong lời
kinh Magnificat (Sách Giáo lý số 2906-2907).
1. Đền thờ Giêrusalem
Đền thờ Giêrusalem là một
đền thờ nguy nga tráng lệ đã được vua Hêrôđê Cả ra lệnh trùng tu đại qui mô từ
năm 19 trước công nguyên và mãi đến năm 63 sau công nguyên mới hoàn thành. Sự
kiện Đức Giêsu xua đuổi kẻ buôn bán xẩy ra vào năm 27-28 sau Chúa Giêsu thì
việc trùng tu đó kéo dài 46 năm. Điều này rất phù hợp với thánh Luca 3,2 nói về
ngày Chúa chịu phép rửa năm 15 đời hoàng đế Tiberiô. Đây là một nêu mốc khá
chắc chắn để tính niên lịch của Chúa. Công việc trùng tu đền thờ đòi hỏi rất
nhiều nhân công. Flavius Joseph nói rằng khi xong việc người ta phải thải về
18. 000 thợ. Như thế mới thấy rằng Đền thờ Giêrusalem lớn lao và đẹp đẽ đến
chừng nào.
2. Đức Giêsu xua đuổi
người buôn bán
Vào dịp lễ Vượt qua của
người Do thái, Đức Giêsu lên Giêrusalem, thấy người ta đổi tiền, mua bán súc
vật làm ô uế Đền thờ, Ngài lấy làm khó chịu xua đuổi họ ra khỏi đền thờ: “Đem
tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn
bán." Cũng nên biết là những người ở xa đến khó có thể đem theo súc vật để
hiến dâng, cho nên việc mua bán súc vật trong Đền thờ là cần thiết hay ít ra
được dung thứ. Vậy nếu việc mua bán súc vật là tiện lợi cho người từ xa tới,
thì sao Đức Giêsu lại tỏ ra khó chịu, lên tiếng cảnh giác những người buôn bán
súc vật quanh Đền thờ? Thưa chúng ta thấy có một số lý do:
a) Những khách hành hương
Lễ Vượt qua của người Do
thái được tổ chức rất long trọng ở Giêsrusalem. Theo luật pháp, mọi người nam
Do thái sống cách xa Giêrusalem trong vòng 25 cây số bắt buộc phải đi dự lễ.
Trong các lễ của người Do thái, lễ Vượt qua là lễ trọng nhất. Không phải chỉ có
người Do thái trong xứ Palestine đến dự lễ mà các người Do thái ở khắp nơi cũng
hướng về quê hương và mong được mừng lễ Vượt qua tại Giêrusalem ít nhất một lần
trong đời, giống như người Hồi giáo muốn hành hương về thánh địa La Mecque.
Chuyện nghe thật đáng kinh ngạc, nhưng dường như cũng đã có đến 2. 200. 000
người Do thái đã tập họp về Xứ thánh dự lễ Vượt qua,
b) Việc dâng của lễ
Theo thói quen, mỗi khi
hành hương lên Giêrusalem mừng lễ người ta thường dâng của lễ bằng con vật
sống. Trong sân đền thờ có chỗ bán con vật sống là việc bình thường. Nhưng cái
không bình thường là sự lạm dụng. Luật qui định là bất cứ con vật nào dùng làm
lễ tế đều phải lành lặn, không tỳ vết. Các chức sắc quản trị đền thờ bổ dụng
những người kiểm tra để khám xét con vật, mỗi lần khám xét đều phải trả lệ phí
một phần mười hai siếc-lơ. Nếu khách hành hương mua một con vật ngoài đến thờ,
chắc chắn con vật ấy sẽ bị từ chối khi khám xét. Ngoài ra, mỗi con vật mua
trong đền thờ có khi phải trả đắt gấp 15 lần so với giá mua bên ngoài. Khách
hành hương nghèo bị bóc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Sự bất công xã hội
này càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo.
c) Việc đổi tiền
Luật buộc mỗi người Do
thái phải nộp thuế cho đền thờ từ 19 tuổi trở lên. Tiền thuế phải nộp là nửa
siếc-lơ, bằng hai ngày lương công nhật. Trong việc giao dịch bình thường, có đủ
mọi thứ tiền ở Palestine, nhưng thuế nộp cho đền thờ là một thứ tiền riêng của
người Do thái, khách hành hương phải đổi lấy thứ tiền này. Người ta lấy lý do
là các thứ tiền khác bị xem là ô uế không thể dùng để trả nợ cho Thiên Chúa.
Việc đổi tiền bạc có ăn
lời đôi chút là chuyện thường. Kinh Talmud qui định:”Mỗi người cần có đồng nửa
siếc-lơ, người ấy phải chi cho người đổi bạc chút ít tiền lời." Nhưng đàng
này khách hành hương phải chịu những tệ nạn bọn đổi bạc với giá cắt cổ. Nhìn
thấy những sự bóc lột quá đáng như thế, Đức Giêsu bừng bừng nổi giận. Thánh
Gioan cho biết là Chúa đã lấy dây bện thành một ngọn roi xua đuổi bọn họ và đạp
đổ tung thùng tiền.
3. Đức Giêsu bảo vệ đền
thờ
Đức Giêsu đã cảnh cáo bọn
họ: “Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). Đây cũng là lời quở
trách những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ đã đồng lõa trong việc trần tục
hóa và thương mại hóa Đền thờ. Tin Mừng thánh Matthêu (21,14), Marcô (11,17),và
Luca (19,36) còn trích sách ngôn sứ Isaia để cảnh giác họ: “Nhà Ta sẽ được gọi
là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp” (Is
56,7).
Khi xua đuổi những người
buôn bán trong Đền thờ, Đức Giêsu đã bộc lộ cho chúng ta thấy lòng tôn kính của
Ngài đối với nhà của Chúa, và để lại cho chúng ta một tấm gương sáng về cung
cách tôn kính những nơi thờ phượng như những thánh địa dành riêng cho việc cầu
nguyện mà thôi.
II. ĐỀN THỜ CỦA CHÚNG TA
1. Hai loại đền thờ
Khi Đức Giêsu nói với
người Do thái: “Hãy phá hủy Đền thờ này đi. Nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng
lại." Nếu hiểu chữ “Đền thờ” theo nghĩa vật chất thì làm sao xây dựng lại
được vì Đền thờ này lớn lao phải dựng lại mất 46 năm mới hoàn thành? Người Do
thái không thể hiểu câu nói của Đức Giêsu và cho đó là câu nói hồ đồ và có tính
cách phạm thượng. Nhưng ý Đức Giêsu muốn nói: Đền thờ ấy chính là thân thể
Ngài.
a) Đền thờ vật chất
Đền thờ vật chất đây là
những nhà thờ mà chúng ta xây dựng. Bất cứ một giáo xứ nào, họ giáo nào cũng có
một nhà thờ nhà nguyện để giáo dân qui tụ lại tôn vinh Thiên Chúa, nghe lời
Chúa và dâng Thánh lễ. Nhà thờ có thể to hay nhỏ, tráng lệ hay bình thường,
trang trí bằng mọi hình dạng nhưng luôn phải có vẻ trang nghiên đạo đức. Ngày
nay các nhà thờ đang mọc lên rất nhiều, đó là một điều tốt nhưng rồi người ta
lại lơ là với nhà Chúa, không chịu đi dự Thánh lễ, cầu nguyện, làm các việc đạo
đức khiến nhà thờ trở nên... hoang vắng như nhiều nhà thờ ở bên Tây phương !
b) Đền thờ thiêng liêng
Đền thờ thiêng liêng ở
đây được hiểu là thân xác chúng ta, con người chúng ta hay là Hội thánh. Chúng
ta không ngại tốn công, tốn của để sửa sang hay xây cất nhà thờ. Dù phải hy
sinh đến mấy, miễn là làm được nhà thờ là chúng ta không quản ngại. Nhưng còn
một đền thờ khác nữa, mà có khi chúng ta chưa lo sửa sang cho đủ, đó là con
người chúng ta, thân xác chúng ta. Thánh Phaolô nói: “Thân xác anh em là đền
thờ Thiên Chúa, nơi Thánh Thần ngự trị." Vì vậy, song song với việc lo xây
cất nhà thờ ở bên ngoài là xây cất nhà thờ nội tâm với một nền móng vững chắc
là đức tin và những sự hiểu biết cần thiết về đạo và những đồ trang trí là
những đức tính của một Kitô hữu trưởng thành như khoan dung, quảng đại, thông
cảm và tha thứ.
2. Tôn trọng đền thờ
chúng ta
a) Nhiệt thành với đền
thờ
Thánh kinh hôm nay nhắc
nhở ta: “Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa hun đúc tâm hồn tôi” (Tv 68. 10).
Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa phải nhắc nhở cho chúng ta biết tỏ ra tôn
kính nhà Chúa, biết giữ sạch sẽ cho nhà Chúa. Lòng nhiệt thành cho nhà Chúa
phải nhắc nhở ta dạy dỗ cho con cháu biết phân biệt đâu là nơi thờ phượng. Dạy
cho con cháu biết tôn trọng nhà thờ, nơi thờ phượng thì phải giữ nghiêm trang,
không la hét, trò chuyện, xả rác... Ta cũng nên xét theo phương diện tích cực
xem, ta có thể làm gì để tỏ ra tôn kính nhà Chúa như săn sóc, giữ gìn và bảo vệ
nhà Chúa.
Nhìn ra các tôn giáo bạn,
ta thấy người Hồi giáo khi vào nhà thờ của họ, phải để giầy ngoài sân. Ta có
thể tưởng tượng giả sử có một ngàn người để một ngàn đôi giầy, tức là hai ngàn
chiếc bên ngoài, ra khỏi đền thờ đi tìm chiếc giầy nào là của mình trong hai
ngàn chiếc giầy thì sẽ lộn xộn và khó khăn như thế nào. Tuy nhiên, để tỏ ra tôn
kính nơi thờ phượng, người Hồi giáo vẫn giữ điều lệ này cho tới ngày nay.
b) Bênh vực nhà Chúa
Nói tới việc bênh vực nhà
Chúa theo gương Đức Giêsu, chúng ta cũng cần phân biệt hai loại đền thờ, đó là
đền thờ vật chất mà mọi người qui tụ về đó để tôn vinh Thiên Chúa. Và còn một
đền thờ nữa là con người chúng ta, thân xác chúng ta.
* Bênh vực đền thờ vật
chất
Chúng ta đã có nhà thờ
dùng để thờ phượng Chúa, để tổ chức những sinh hoạt phụng vụ hay làm các việc
đạo đức. Ai cũng yêu mến nhà thờ của mình. Ai cũng bênh vực, không để cho người
khác phạm đến nhà thờ. Có khi chúng ta chịu đổ máu để bênh vực nhà thờ của
chúng ta. Nhưng chúng ta phải lưu ý: nhà thờ là nhà của muôn dân, nơi dành cho
mọi người đến cầu nguyện, không phân biệt tôn giáo, giai cấp, mầu da, chủng
tộc. Nhiều khi vô tình hay hữu ý, ai trong chúng ta cũng có lần thành chướng
ngại vật ngăn cản anh em tìm đến gặp Chúa: chỉ cần một lời nói cứng cỏi và thiếu
tế nhị, một thái độ lạnh nhạt thiếu nhã nhặn hay một cử chỉ khinh thường tha
nhân... là chúng ta đã có thể xua đuổi anh chị em lương dân ra khỏi nhà thờ và
sau này họ khó có cơ hội khác để trở lại.
Truyện: Mahatma
Gandhi vào nhà thờ
Khi còn là một sinh viên,
Gandhi được du học tại Nam Phi, một thuộc địa của nước Anh. Tại đây nổi tiếng
về tệ nạn phân biệt chủng tộc. Trong thời gian này, Gandhi có dịp đọc Kinh
thánh của Kitô giáo và lập tức ông bị giáo thuyết của Đức Giêsu cuốn hút, nhất
là kinh Tám mối phúc thật trong Bài Giảng trên núi. Ông rất tâm đắc trước lời
Chúa dạy về một tình yêu phổ quát và bình đẳng giữa mọi người, không phân biệt
giầu nghèo, sang hèn, địa vị cao thấp, là Do thái hay lương dân... Gandhi nghĩ
rằng: Có lẽ Kitô giáo là giải pháp tối ưu và hữu hiệu để giải quyết tận gốc sự
phân biệt giai cấp trong xã hội Ấn độ quê hương của ông. Gandhi nghĩ mình nên
tìm hiểu và sẽ gia nhập vào Kitô giáo.
Ngày nọ, Gandhi có ý định
đi bộ đến một nhà thờ để mong được chứng kiến lễ nghi trong đạo và cũng để tìm
hiểu thêm về giáo lý Công giáo. Tuy nhiên, khi ông bước đến cửa nhà thờ thì bị
người giữ cửa chặn lại và không cho ông bước vào nhà thờ. Bấy giờ ông cho biết
ý định tìm hiểu đạo của mình. Nhưng thật là bất ngờ khi người giữ cửa lại nói
như sau:”Đây là nhà thờ dành riêng cho người da trắng. Nếu mi muốn tìm hiểu
đạo, thì hãy tìm đến nhà thờ khác dành riêng cho dân da mầu mà xin”! Gandhi rất
tức giận và bỏ về nhà, ông ghi lại cảm tưởng trong nhật ký của ông như sau:”Tôi
rất thán phục Đức Giêsu và giáo thuyết đầy tình nhân ái khoan dung của Ngài.
Thế nhưng tôi rất bất mãn mỗi khi tiếp xúc với các tín hữu là môn đệ của Ngài !
Nếu trong đạo Kitô mà cũng còn phân biệt chủng tộc như vậy, thì Kitô giáo có
hơn gì Ấn giáo có phân biệt giai cấp của tôi? Thôi, tôi cần chi phải gia nhập
đạo này. Tốt nhất là tôi cứ chấp nhận có bất toàn trong Ấn giáo và cố gắng sống
theo giáo lý truyền thống của cha ông là đủ”!
* Bênh vực đền thờ thiêng
liêng
Nhờ bí tích rửa tội,
chúng ta được trở nên con Thiên Chúa và trở thành đền thờ của Chúa như thánh
Phaolô đã nói (x. 1Cr 3,16). Trong nghi thức rửa tội cho trẻ em, Linh mục đọc
lời nguyện trừ tà xua đuổi ác thần ra khỏi em bé để em được trở nên đền thờ của
Chúa:”Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã sai Con Chúa xuống thế gian,
để trục xuất quyền lực của ác thần Satan ra khỏi chúng con, giải thoát và đem
con người được giải thoát khỏi tối tăm vào ánh sáng kỳ diệu của Nước Chúa.
Chúng con nài xin Chúa làm cho những em này, sau khi khỏi tội nguyên tổ, được
trở thành đền thờ của Chúa uy linh, và xin Chúa cũng cho Thánh Thần ngự trong
các em."
Khi đã trở thành đền thờ
thiêng liêng của Chúa chúng ta có nhiệm vụ bảo vệ cho xứng đáng, đừng bao giờ
để cho thần Mammon trở vào chiếm giữ, vì như Chúa nói: “Kho tàng của con ở đâu
thì lòng con ở đấy” (Mt 6,21). Tiền của là một nhu cầu không thể thiếu trong
cuộc sống vì “Đồng tiền liền khúc ruột”, nhưng đừng để cho tiền của lấn át linh
hồn. Chúng ta phải khôn ngoan biến tiền của thành đứa đầy tớ trung thành phục
vụ mình, đừng bao giờ để cho nó trở thành ông chủ khắc nghiệt chế ngự ta.
Truyện: Tiếng
chim hót trong bụi mận gai.
Thỉnh thoảng đài truyền
hình Việt nam lại cho chiếu bộ phim “Tiếng chim hót trong bụi mận gai” mà tác
giả là một nữ văn sĩ người Úc theo đạo Tin lành. Khi viết cuốn tiểu thuyết này,
bà đã đứng trong quan điểm của đạo Tin lành để phê phán luật độc thân của hàng
giáo sĩ Công giáo. Tuy nhiên, câu chuyện này cũng là cơ hội để chúng ta suy
nghĩ về sức mạnh của đồng tiền ảnh hưởng thế nào trong cuộc sống cá nhân và
cộng đoàn Giáo hội.
Câu chuyện về một Linh
mục là cha Ralph. Ralph là một linh mục trẻ nhiều tài năng nhưng cũng đầy tham
vọng. Vị linh mục này có nhiều ưu điểm, có sức cuốn hút nhiều người đến với
mình. Nhưng đồng thời ông ta cũng muốn được nổi danh và ham mê tiền bạc. Trong
số các người mến mộ cha Ralph, có một bà già qúi phái giầu có. Bà qúi mến cha
cách đặc biệt nhưng không được đáp lại, nên tình yêu đã biến thành hận thù.
Thay vì trả thù theo kiểu thường tình, thì người đàn bà này có sáng kiến gài
bẫy để bôi đen cuộc đời vị linh mục trẻ: Trước khi chết, bà đã làm tờ di chúc
dâng cúng toàn bộ tài sản kếch sù của bà cho Giáo hội Công giáo, với điều kiện
duy nhất là Giáo hội phải cử cha Ralph quản lý số tài sản đó. Cách trả thù của
bà quí phái giầu có đã thành công: Cha Ralph dần dần được cất nhắc lên địa vị
khá cao trong Giáo hội. Nhưng đồng thời chính đồng tiền mà Cha quản lý đã làm
cho đời sống tinh thần của Cha ngày một xuống cấp và cuối cùng Cha đã sa ngã
vào các đam mê tội lỗi, trái với sự tình nguyện “sống độc thân vì Nước Trời” mà
Cha đà khấn hứa (Theo Lm Đan Vinh).
3. Hãy biến cuộc đời mình
thành đền thờ
Chúng ta là những Kitô
hữu, cuộc sống chúng ta đã được dâng hiến cho Thiên Chúa và đã trờ thành đền
thờ cho Chúa ngự. Nỗ lực của chúng ta là phải làm sao sống xứng đáng là đền thờ
của Chúa, đừng bao giờ đuổi Chúa ra khỏi đền thờ này. Vì thế, chúng ta hãy cố
gắng biến cuộc đời của chúng ta thành đền thờ của Chúa Ba Ngôi.
Charles Singer có một bài
thơ ngụ ngôn nói về đề tài nay: hãy biến cuộc đời thành “Ngôi Thánh Đường."
Xin trich một đôi câu trong bài thơ này:
Lạy Chúa, cuộc đời con là
một ngôi Thánh đường,
Từ tro bụi, bao năm
trường xây đắp,
Con tự hào với tất cả
niềm tin,
Bằng đôi tay, bằng mối
tình nghệ sĩ,
Để vươn lên thật cao qúi
tôn nghiêm...
Lạy Chúa,
Ngôi thánh đường của đời
con,
Không thể xong trong một
sớm một chiều,
Nhưng vun đắp trải qua
nhiều năm tháng...
Lạy Chúa, con chỉ là
người thợ cả,
Chính Ngài, con không quá
lời đâu:
Là Thiên Chúa, là Khởi
Đầu, Chung Cuộc,
Chính Ngài, Nhà Kiến Trúc
của đời con.
(Lm Trương đình Hiền)
Và để kết thúc, ta hãy
đọc lời nguyện sau đây được viết trên cửa một nhà thờ nọ:
Lạy Chúa, xin làm cho
cánh cửa này đủ rộng để có thể đón tiếp mọi người nào cần đến tình thương của
đồng loại, anh em.
nhưng cũng đủ hẹp để có
thể ngăn chận mọi kiêu căng, ganh tị, bất hoà.
Xin làm cho ngưỡng cửa
này đủ phẳng để buớc chân của trẻ thơ và những người lầm đường lạc lối vào đây
mà không bị vấp ngã.
Xin làm cho nhà này là
nhà cầu nguyện và là cổng dẫn vào Nước Chúa.
(Theo Flor McCarthy)
7.
Đền thờ là Nhà Cha Ta--‘Xây Nhà Trên Đá’--ViKiNi--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Đền thờ có mục đích quy
tụ mọi người thành cộng đồng tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý. Tôn
thờ Thiên Chúa trong chân lý là nhận biết những điều chân thật để kính mến và
tuyệt đối vâng lời Thiên Chúa. Những điều chân thật đó là: Thiên Chúa là Đấng
sáng tạo và cứu độ, là Chúa và Chủ tể duy nhất hằng hữu, là tình yêu vô biên và
hằng thương xót: “Ngươi phải thờ lạy Thiên Chúa là Chúa ngươi và chỉ
một mình Ngài” (Mt. 4, 10). Tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần là
ngợi khen, cảm tạ, cầu nguyện với tinh thần đức tin, đức cậy, đức mến sâu sắc
như Đức Maria đã thể hiện trong lời kinh “Magnificat - Linh hồn tôi ngợi khen
Chúa …” (Giáo lý c. 6. 1992, số 2096-2097).
So sánh với trường học là
nơi đào tạo học sinh thâu thái những kiến thức khoa học và những luật lệ xã hội
để trở thành công dân hữu ích, mục đích tốt của trường học đạt tới thành nhân.
Đền thờ đào tạo tín hữu thành thánh nhân, thành công dân nước trời bây giờ và
vĩnh viễn muôn đời. So sánh với gia đình, nơi con người được sống trong tình
thương ấm cúng, được nuôi dưỡng, săn sóc tới khôn lớn, được chia vui sẻ buồn,
an ủi khuyến khích lẫn nhau, che chở, đùm bọc, hy sinh cho nhau. Đền thờ nơi
tín hữu sống trong tình thương bao la của Thiên Chúa, được nuôi dưỡng bằng của
ăn thịt máu Con Thiên Chúa, được ấp ủ soi sáng bằng ân sủng Thánh Thần, được
chia sẻ lời hằng sống. Và cùng cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa những hy sinh đau
khổ, hiệp thông Thánh giá cứu độ của Đức Kitô, cùng với các thánh chung hưởng
vinh phúc bất tận của Đấng Cứu Thế phục sinh.
Đền thờ đối với dân Do
thái là lẽ sống của dân tộc. Đền thờ còn thì dân tộc còn. Đền thờ tan thì đất
nước mất. Đền thờ bị xúc phạm thì toàn dân bị ô nhục. Thời vua Sêđêkia, đền thờ
bị quân Babylon thiêu hủy, dân bị lưu đầy. Đền thờ được xây dựng lại, dân được
trở về nước (2Ks. 36, 17). Thời Đức Giêsu khi toàn quyền Philatô treo ảnh hoàng
đế Caesar (Sêda) ở khuôn viên đền thờ, lập tức dân nổi dậy mạnh mẽ chống đối
quân La mã, dù phải chết, phải chịu đóng đinh vào thập giá.
Công vụ Tông đồ cũng kể
trường hợp thánh Phaolô dẫn bốn người dân ngoại đã được tẩy uế trước khi dẫn
vào đền thờ, thế mà Phaolô vẫn bị người Do thái xách động đám đông bắt ông và
đang tìm cách giết Phaolô. May nhờ binh sĩ Rôma đã đến kịp thời, xiềng còng ông
lại dẫn về đồn (Cvtd. 21, 26-32).
Đền thờ được tôn trọng
như thế, nhưng chính họ lại biến đền thờ thành chợ búa, như hang trộm cướp,
không còn là nhà Thiên Chúa, nhà Cha chung để cầu nguyện, tôn thờ Thiên Chúa,
nơi quy tụ mọi người trong tình thương mến anh em nữa.
Phải chăng, chỉ còn một
mình Đức Giêsu “vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà sẵn sàng thiệt thân, sẵn sàng
bị giết đi, sẵn sàng chịu phá hủy, nhưng Người sẽ xây lại đền thờ chỉ trong ba
ngày." Để cứu nguy dân tộc, giải thoát muôn dân, một đền thờ mới sống động
bất diệt là “chính mình Người” (Ga. 2, 17. 19-21).
Chính mình Người mới đích
thực là đền thờ, là nhà cầu nguyện: “Toàn thể được xây dựng trên
tảng đá góc tường là chính Đức Giêsu Kitô để thành ngôi đền thờ. Trong Người cả
anh em nữa, cùng với những người khác cũng được xây thành ngôi nhà Thiên Chúa
ngự, nhờ Thần Khí (Eph. 2, 20-22).
Trong đền thánh cực trọng
này, Người dâng lên Chúa Cha tâm tình trìu mến con thảo: “Này con xin đến, để
làm theo thánh ý Cha." Trong đền thánh này, Người cầu nguyện: “Lạy Cha,
giờ đã đến! xin Cha tôn vinh Con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha … Lạy Cha, tất cả
những gì Cha ban cho Con đều do bởi Cha. Con đã ban lời Cha cho họ … Lời Cha là
sự thật, xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ … Con không chỉ cầu nguyện cho
những người này, nhưng còn cho tất cả những ai nhờ họ mà tin vào Con …” (Ga.
17, 1. 7-8. 17-20).
Trong đền thánh này, Đức
Giêsu còn dâng lên Cha bao nhiêu những người đói nghèo, bệnh hoạn, tật nguyền
mà Người cứu chữa hàng ngày; bao nhiêu những lao công vất vả gồng gánh nặng nề
mà Người đến bổ sức cho họ; bao nhiêu những tội nhân, quỷ ám, mà Người xin Cha
cho họ vì họ lầm chẳng biết; bao nhiêu những người bị đả thương nửa sống nửa
chết, bao nhiêu những người đau khổ, nhục nhã oan khiên, tù đày, tử đạo thập
giá như Người.
Trong đền thờ này, “chính
Người là thượng tế đến muôn đời … Một vị thượng tế thánh thiện vẹn toàn, vô tội
… cao cả vượt các tầng trời … Người dâng chính mình, và chỉ dâng một lần là đủ
… và chỉ mình Đức Kitô dâng lễ tế duy nhất để đền tội cho nhân loại” (Pt. 7,
11. 26. 28 và 10, 12).
Mỗi người chúng ta đang
được dự phần vào đền thờ Đức Giêsu muôn thuở. Mỗi người là một viên gạch nhỏ,
một đền thờ nhỏ trong một đền thờ vĩ đại bao trùm cả trời đất. Nhưng mỗi người
chúng ta tự hỏi mình là đền thơ, là “nhà Cha Ta”, là “nhà cầu nguyện” hay đã tự
biến thành chợ búa, hang trộm cướp.
Thực ra, mỗi người chúng
ta đã được là đền thờ Ba Ngôi Thiên Chúa ngay khi chúng ta được rửa bằng nước
và Thánh Thần. Thánh Thần đã xức dầu thánh hiến chúng ta thành đền thờ Chúa.
Muốn cho đền thờ chúng ta mãi mãi là nhà Cha Ta, là nhà cầu nguyện, chúng ta
không được treo một tà thần nào, một thần tượng nào của vùng trời, vùng đất,
vùng biển trong đền thờ mình, dù là tiên giáng trần, hay thần tài, thần quyền,
chỉ được treo hình ảnh Thiên Chúa mà thôi, vì “Ta là Đức Chúa, Chúa của ngươi …
Những ai yêu mến Ta và giữ giới răn của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa với họ
đến ngàn đời." (Xh. 20, 1-17).
Lạy Cha, trong mùa Chay
thánh này, xin cho chúng con biết khuyến khích nhau kéo nhau: “nào ta lên đền
thánh Cha” để cầu nguyện, dâng lời cảm tạ Cha với tấm lòng sám hối, tan nát,
khiêm cung và dâng lên Cha những của lễ hy sinh bác ái, cùng với của lễ duy
nhất là Mình Máu thánh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
8.
Đức Yêsu là chuẩn mực--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
I. Đừng làm nhà Cha Ta
thành nơi buôn bán
Không được biến đền thờ
thành nơi buôn bán. Đền thờ là nơi thờ phượng Thiên Chúa. Không tôn trọng nơi
tôn nghiêm, là không tôn trọng những người đang hiện diện hoặc đến đây thờ
phượng Thiên Chúa.
Người ta có thể lý luận
"những người buôn bán này đang làm một việc bác ái", họ tạo điều kiện
thuận tiện cho những người dâng lễ có của lễ để dâng kính Thiên Chúa. Thực ra
khi làm như vậy, họ đã đặt cái lợi về vật chất trên Thiên Chúa và coi thường
Thiên Chúa.
Mỗi người chúng ta là đền
thờ sống động của Thiên Chúa. Đừng biến thân xác mình, con người mình thành nơi
buôn bán, thành đối tượng buôn bán. Thân xác chúng ta là thánh vì thuộc về
Thiên Chúa. Chính Đức Yêsu cũng coi thân mình Ngài là đền thờ: "Cứ hủy đền
thờ này và trong ba ngày Ta sẽ xây lại"!
Nếu chúng ta để đam mê
thống trị mình, nếu chúng ta còn mê say tiền bạc, danh vọng, địa vị chức quyền,
thì Thiên Chúa không có chỗ nhất nơi chúng ta. Bài Tin Mừng còn giúp chúng ta
nhìn lại xem đâu là thái độ của tôi đối với thân xác, với sức khỏe, với con
người toàn diện của tôi?
Với Đức Yêsu, Thiên Chúa
là nhất đối với Ngài. Ngài đã đánh đuổi những người buôn bán khỏi đền thờ, dù
bị những người có quyền hành không đồng ý và tra hỏi: "ông lấy quyền gì mà
làm như vậy?". Hôm nay Đức Yêsu đuổi họ ra khỏi đền thờ, nhưng ngày mai
thì sao? những người này có tiếp tục tôn trọng đền thờ không, hay mai họ vẫn
làm như cũ? Đức Yêsu vẫn làm điều phải làm. Ngài vẫn làm cho dầu bị người ta
ghét bỏ, cho dù người ta không vâng theo ngay trong ngày mai. Đức Yêsu sống
giây phút hiện tại cách trọn vẹn, bất chấp tất cả.
II. Chúng tôi rao giảng
Đức Kitô chịu đóng đinh thập giá
Cho dù người Hy Lạp coi
trọng và tìm kiếm khôn ngoan, cho dù người Do Thái sính phép lạ, thì Phaolô vẫn
"rao giảng Đức Yêsu Kitô chịu đóng đinh."
Cứ sự thường nếu không
đáp ứng mong ước, không thỏa mãn thị hiếu của người ta, thì sẽ thất bại! Ấy vậy
Phaolô vẫn rao giảng "Đức Yêsu Kitô chịu đóng đinh" cho dù không đáp
ứng mong ước của người đương thời. Sở dĩ vậy vì rao giảng "Đức Yêsu chịu
đóng đinh" là điều tuyệt đối cần thiết. Đức Yêsu chịu đóng đinh thập giá
là một giá trị, và là giá trị tuyệt đối.
"Đức Yêsu chịu đóng
đinh", đòi người ta xét lại cách sống của mình. Đức Yêsu đã chọn điều gì?
Tại sao Ngài bị đóng đinh? Tôi có cùng cách sống và chọn lựa với Đức Yêsu
không?
Rao giảng Đức Yêsu chịu
đóng đinh, là rao giảng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Nếu không
yêu, tại sao Thiên Chúa lại để Con của Ngài bị khốn khổ như vậy? Nếu không yêu,
tại sao Đức Yêsu phải chịu đau đớn khổ cực và ô nhục dường ấy?
Đức Yêsu chịu đóng đinh,
là niềm vinh dự, mối tự hào của mọi kitô-hữu. Đức Yêsu chịu đóng đinh, biểu
tượng và bằng chứng cho biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng.
III. Ta là Thiên Chúa,
ngươi không được...
Nội dung của thập giới là
gì? Hãy tôn thờ Thiên Chúa, thảo kính cha mẹ và yêu thương con người! Đừng xúc
phạm con người, đừng chà đạp nhân phẩm!
Tại sao tôi không được
làm điều này điều kia? Thập giới cho thấy khi tôi vi phạm lệnh cấm của thập
giới, là tôi xúc phạm con người và Thiên Chúa. Thập giới có là để bảo vệ con
người. Ngày sabbat được lập ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày
sabbat.
Luật Cựu Ước lấy con
người là chuẩn, còn luật Tân Ước lấy Đức Yêsu làm chuẩn. Luật Cựu Ước dạy
"hãy yêu thương tha nhân như chính mình", còn luật Tân Ước dạy:
"hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga. 13, 34-35).
Luật Cựu Ước cho thấy:
nếu xúc phạm con người sẽ bị xử, còn luật Tân Ước cho thấy: nếu không yêu
thương, sẽ bị xét xử (Mt. 25, 31tt).
Chính Đức Yêsu là Đấng
làm cho lề luật nên trọn "Ta đến không phải để phá hủy, nhưng để làm nên
trọn."
Xin cho chúng ta trở nên
giống Đức Yêsu trong mọi sự.
9.
Với Đức Giêsu: Thiên Chúa trên hết--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Đức Giêsu Nadarét là một
sự kiện rất đặc biệt. Những người đồng hương nhận ra Ngài là một người như bao
người; tuy nhiên, sau khi Ngài chết và sống lại, người ta nhận ra Ngài là Thiên
Chúa nhập thể. Ngài là Đấng sống ơn gọi làm người cách trọn vẹn, là Người sống
theo Thánh Ý Thiên Chúa Cha dù phải chết. Thiên Chúa là tất cả đối với Đức
Giêsu.
I. Thập Giới diễn tả Ý
Muốn Thiên Chúa
Thiên Chúa khi sai Môsê
đi giải phóng dân Israel khỏi Aicập, đã nói: “khi ngươi đưa dân ra khỏi Aicập,
các ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa trên núi này” (Ex. 3, 12). Môsê đã dẫn dân
đến núi này, và Thiên Chúa đã “thần hiển” với Môsê và dân (Ex. 19). Thập giới
là điều khoản Thiên Chúa giao kết với Israel, nghĩa là, nếu dân Israel giữ các
điều khoản này, Thiên Chúa sẽ là Thiên Chúa của dân, Thiên Chúa sẽ bảo vệ dân.
Điều khoản giao ước không
thêm gì cho Thiên Chúa, nhưng giúp dân Israel triển nở và hạnh phúc. Một khi
người ta giữ giao ước, những người được hưởng nhờ đầu tiên là gia đình và những
người thân yêu, sau đó là những người lân cận, rồi tới những người trong đất
nước. Khi giữ giao ước, con người sẽ sống an bình với chính mình, và sau đó với
người khác. Giao ước Thiên Chúa ban cho con người, không nhằm lợi cho Thiên
Chúa nhưng cho con người. Tuy vậy, khi con người tuân giữ không vi phạm thập
giới, thì Thiên Chúa được con người. Vinh quang Thiên Chúa được tỏ lộ hơn khi
con người triển nở và sống hạnh phúc hơn.
Vi phạm thập giới là dấu
chỉ cho con người biết họ đã vi phạm quyền lợi của ngôi vị, dù ngôi vị đó là
Thiên Chúa hay tha nhân. Thiên Chúa tạo dựng con người, nên theo lẽ công bình,
con người phải tôn kính Ngài. Thờ phượng là từ ngữ dùng để chỉ lòng và thái độ
kính trọng đặc biệt dành cho Thiên Chúa. Cha mẹ sinh ra mình, mình cũng phải có
thái độ hiếu thảo. Không tôn kính Đấng tạo dựng, không tôn kính cha mẹ, là bất
công đối với Thiên Chúa và với cha mẹ mình. Vi phạm những điều khác của thập
giới, là xúc phạm đến quyền lợi của người khác, chẳng hạn như giết người, cướp
của người ta. Khi vi phạm thập giới, người ta biểu lộ có điều gì đó trục trặc,
gây xáo trộn nơi chính tâm hồn mình, và gây xáo trộn bất an trong tương quan
với người khác, ngay cả đối với những người thân và những người xung quanh.
II. Đừng biến Nhà Cha Ta
thành cái chợ
Sau khi chịu phép rửa ở
sông Yordan với Yoan Tẩy Giả, Đức Giêsu đã trải qua thời gian dài tĩnh tâm cầu
nguyện, Ngài ý thức hơn sứ mạng của Ngài, và Ngài đã khởi đầu sứ mạng rao
giảng."Nước Thiên Chúa đang tới gần, hãy thống hối và tin vào Tin
Mừng." Hôm nay khi lên đền thờ dự lễ Vượt Qua, một lễ lớn nhất đối với
người Do Thái, kỷ niệm Thiên Chúa giải phóng dân khỏi Aicập, Ngài đã thấy một
việc trái tai gai mắt: người ta buôn bán ngay trong đền thờ. Để có thể phục vụ
những người từ xa tới có của lễ dâng cho Thiên Chúa, thì người ta đã đem cả súc
vật đến bán; cũng có bàn đổi tiền cho những khách phương xa tới. Đức Giêsu đã
phản đối. Ngài lấy dây làm thành roi đánh đuổi những người buôn bán chiên cừu
trong đền thờ, lật đổ bàn của những kể đổi tiền, nói với những người bán bồ
câu: “đem những thứ này ra khỏi đây, đừng biến Nhà Cha Ta thành cái chợ."
Đức Giêsu đã bị phản ứng:
“ông lấy quyền gì mà làm như vậy?” Theo luật, chỉ những người trách nhiệm mới
có quyền cho phép hay không cho phép người ta buôn bán trong đền thờ. Đức Giêsu
lấy quyền gì mà đánh đuổi người ta? Cứ theo “phép đời,” Đức Giêsu làm trái vì
Ngài làm như thể Ngài có quyền mà thực Ngài không có; thế nhưng Đức Giêsu nói
với họ: “cứ phá hủy đền thờ này đi, trong ba ngày ta sẽ dựng lại." Câu trả
lời của Đức Giêsu là câu trả lời “như không trả lời” Ai dám làm điều đó, ai dám
tin vào lời Đức Giêsu mà dám phá đền thờ này. Tác giả Tin Mừng “giải thích”
Ngài nói về đền thờ của Ngài, nghĩa là Ngài sẽ sống lại sau ba ngày. Nhưng
chuyện giải thích này chỉ có thể làm sau khi Ngài chết và sống lại, chứ lúc đó,
ai mà hiểu như vậy.
Đức Giêsu có quyền làm
điều đó. Ngài ý thức điều đó và Ngài đã làm cho dù đối với người khác Ngài
không có quyền làm như vậy. Ngài coi đền thờ là Nhà Cha Ngài. Ngài có quyền từ
Thiên Chúa là Cha Ngài. Qua những hành vi “bất bình thường” như thế này, giúp
các tông đồ và các tín hữu sau này hiểu rõ chân tướng của Ngài hơn. Ngài và
Thiên Chúa có một mối tương quan đặc biệt, mà Ngài dám gọi Thiên Chúa là Cha
Ngài. Ngài đến từ Thiên Chúa, Ngài là hình ảnh và biểu tượng giúp người ta hiểu
biết hơn về Thiên Chúa. Ngài liên kết với Thiên Chúa và phản ánh Thiên Chúa
tuyệt đến độ người ta nhận ra Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
III. Chúng tôi rao giảng
Đức Giêsu bị đóng đinh
Người Do Thái tìm phép lạ
để biết điều gì đó có đến từ Thiên Chúa hay không; người Hylạp tìm kiếm những
điều khôn ngoan vì đối với họ: chỉ có khôn ngoan mới là giá trị thật; tuy
nhiên, với thánh Phaolô, Đức Giêsu chịu đóng đinh là một giá trị, và là giá trị
tuyệt đối. Kể từ khi biết Đức Giêsu, Phaolô coi những điều khác như phân bón,
rác rưởi. Biết Đức Giêsu là mối lợi tuyệt vời đối với Phaolô (Pl. 3).
Với cái nhìn tổng hợp và
không loại trừ, ta có thể nói Đức Giêsu chịu đóng đinh là một “phép lạ” cả thể
và là sự khôn ngoan tuyệt vời của Thiên Chúa ban cho con người. Qua cách sống
kết hiệp với Thiên Chúa trong cầu nguyện, qua những hành vi dứt khoát chọn
Thiên Chúa trên hết như việc đánh đuổi những người buôn bán khỏi đền thờ, qua
việc vâng phục thánh Ý Cha trên tất cả như trong vườn dầu và trên thập giá, Đức
Giêsu dạy con người biết sống sao cho đúng trên đời này. Đức Giêsu là mẫu gương
sống.
Thiên Chúa là trên hết
đối với Đức Giêsu, và cũng phải như vậy đối với những ai muốn là môn đệ của
Ngài. Tất cả đời sống và hành vi của Đức Giêsu chuyển động và quy hướng về Thiên
Chúa. Đức Giêsu đã vâng phục Thiên Chúa cho đến bằng lòng chấp nhận chết trên
thập giá. Đức Giêsu chịu đóng đinh, là mẫu gương sống của Phaolô và của tất cả
các Kitô hữu.
Câu hỏi Gợi Ý Chia Sẻ
1. Theo bạn, đâu là tiêu
chuẩn sống của Đức Giêsu? Tại sao bạn nghĩ như vậy?
2. Con người là đền thờ
của Thiên Chúa, bạn có được Thiên Chúa mời gọi thanh tẩy tâm hồn dịp Đức Giêsu
thanh tẩy đền thờ không? Bằng cách nào?
10.
Thanh tẩy đền thờ--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Vào thời Chúa Giêsu, dân
Do thái vẫn có những hội đường để mỗi ngày sa-bát, ngày thứ bảy, họ đến đây để
nghe lời Chúa và cầu nguyện. Đây không phải là nhà thờ hay đền thờ như chúng ta
ngày nay. Họ chỉ có một đền thờ duy nhất tại Giê-ru-sa-lem để tế lễ Thiên Chúa,
là một nơi linh thiêng thánh thiện. Vậy tại sao lại có chuyện buôn bán, đổi
chác tiền bạc ở đền thờ, đến nỗi Chúa Giêsu phải nổi giận, xua đuổi?
Trước hết, về việc buôn
bán ở đền thờ. Mỗi năm, vào những dịp đại lễ, như lễ Vượt Qua, lễ Ngũ Tuần...
theo tập tục và thói quen đã trở thành như một luật lệ, bắt buộc các tín hữu
khi đến đền thờ dự lễ đều phải dâng vào đền thờ một lễ vật nào đó làm của lễ
dâng Thiên Chúa. Người giàu có thì dâng chiên bò, người nghèo thì dâng bánh
rượu, dầu hương, chim câu... Nhưng vì gần đền thờ không có chợ, nên các tư tế
đã lợi dụng cơ hội để làm ăn: hoặc là chính họ hoặc họ cho phép các con buôn đã
nộp thuế cho họ, được buôn bán các thứ lễ vật đó cho những người đến dự lễ. Và
đã là chuyện buôn bán thì có người mua kẻ bán, người trả người thách, lại với
số đông người, không thể không ồn ào, om xòm, lộn xộn... làm cho khu vực đền
thờ có vẻ là một chợ phiên hơn là nơi yên tĩnh để cầu nguyện và tế lễ.
Về chuyện đổi chác tiền
bạc. Theo luật buộc: mỗi năm mỗi người trưởng thành phải nộp ½ đồng Xê-ken, tức
là một nửa đồng tiền Do thái. Đây là một thứ thuế nghĩa vụ, ai cũng phải nộp và
chỉ được nộp tiền Do thái, chứ không nộp thứ tiền nào khác, mặc dầu thời ấy
tiền Rô-ma và tiền Hy lạp rất thông dụng, vì những thứ tiền ấy in hình vua
ngoại đạo, nên cấm lưu hành trong khu vực đền thờ. Vì thế, để có tiền Do thái
nộp thuế cho đền thờ, những người đến dự lễ phải đổi tiền. Đó là lý do sinh ra
cái nạn đổi tiền và có những quầy đổi tiền trong đền thờ.
Trước sự bất kính đối với
đền thờ như thế, Chúa Giêsu đau xót và nổi giận. Ngài xua đuổi họ. Việc này làm
cho các tín hữu hài lòng, duy có nhóm tư tế bực mình, hạch hỏi Chúa: "Ông
lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?."
Chúa bảo họ: "Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ
xây dựng lại."
Hành động của Chúa Giêsu
không chỉ đơn thuần là xua đuổi các con buôn, là đụng chạm đến quyền lực và lợi
nhuận của hàng tư tế, nhưng sâu xa hơn, đó là cử chỉ tượng trưng, nhằm phủ nhận
một cung cách thờ phượng đã bị làm cho biến chất. Và không những phủ nhận nghi
thức phụng tự, Chúa Giêsu còn phủ nhận luôn đền thờ bằng gỗ đá, một đền thờ
lộng lẫy, huy hoàng, tráng lệ đã được vua Hê-rô-đê cả ra lệnh xây dựng từ năm
19 trước công nguyên và mãi đến năm 63 sau công nguyên mới hoàn thành. Sự kiện
Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ Tin Mừng kể lại hôm nay xảy ra vào năm 28 sau công
nguyên. Như vậy đã ròng rã 46 năm trời xây cất vẫn chưa xong.
Khi phủ nhận các nghi
thức phụng vụ cũ, phủ nhận cả đền thờ gỗ đá, Chúa Giêsu giới thiệu một đền thờ
mới, đền thờ đích thực, đó là thân xác Phục Sinh của Ngài, khi Chúa nói:
"Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại",
Chúa có ý nói đến thân xác của Ngài. Ngài sẽ bị giết chết, nhưng trong ba ngày
Ngài sẽ sống lại.
Chúng ta đang sống trong
Mùa Chay, đoạn Tin Mừng này nhắc nhở chúng ta hai điều: Thứ nhất, mỗi người tín
hữu đươi coi là một đền thờ của Thiên Chúa. Nhưng hiện giờ đền thờ ấy có xứng
đáng để Thiên Chúa ngư hay không hay là một cái chợ trưng bày đủ thứ, nhất là
những thứ cấm kỵ: tham vọng, ích kỷ, hận thù, bất trung, ghen ghét, gian dối...
? Không nhiều thì ít, có lẽ đền thờ nơi chúng ta còn đang bất xứng, chúng ta
cần thanh tẩy, sửa chữa.
Thứ hai, gia đình Ki-tô
hữu cũng được mời gọi trở nên đền thờ của Thiên Chúa. Liệu trong ngôi đền thờ
ấy, các thành viên có biết lấy yêu thương, sự khoan dung tha thứ mà đối xử với
nhau, hay ngôi đền thờ đã trở thành quán trọ mạnh ai nấy sống? Liệu trong ngôi
đền thờ ấy có Thiên Chúa ngự trị hay đang bị đủ thứ ngẫu tượng chi phối, những
ngẫu tượng có tên là tiền bạc, tham vọng, ích kỷ, hận thù, gian dối?
Tóm lại, mỗi người chúng
ta, mỗi gia đình chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa ngự trị. Nhưng có thể Thiên
Chúa đã mất chỗ, nghĩa là tội lỗi, những cái xấu, những cái tiêu cực... đã
chiếm chỗ của Chúa. Vì thế, chúng ta phải loại bỏ tất cả những cái đó để trả
lại chỗ cho Thiên Chúa bằng sự ăn năn sám hối và cải thiện đời sống.
Xin Chúa cho Mùa Chay
thánh này là mùa hồng ân cho chúng ta: cho mỗi người chúng ta trở thành một đền
thờ xứng đáng, và cho gia đình chúng ta cũng là một đền thờ tốt đẹp để Thiên
Chúa ngự trị, chúc lành và ban ơn cho chúng ta.
11.
Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Đan Vinh
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1) Ý chính: Đức Giêsu
thanh tẩy đền thờ.
Với lòng nhiệt thành yêu
mến Thiên Chúa, Đức Giêsu không thể chấp nhận được cảnh tượng bát nháo diễn ra
nơi Đền Thờ của Chúa Cha. Người đã biểu lộ uy quyền của Con Thiên Chúa bằng
việc dùng roi xua đuổi bọn con buôn với tiền bạc, chiên bò, chim câu... ra khỏi
Đền Thờ. Người tẩy uế Đền Thờ của Chúa Cha và khẳng định rằng: Từ nay việc thờ
phượng đẹp lòng Thiên Chúa sẽ phải được cử hành trong Đền Thờ Mới là thân xác
Phục Sinh của Người và sẽ tồn tại mãi mãi, thay cho sự thờ phượng tại Đền Thờ
Giêrusalem bằng gỗ đá chỉ có tính tạm thời và sẽ bị phá hủy sau này.
2) Chú thích:
* Gần đến Lễ Vượt Qua của
người Do Thái, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem. Người thấy trong Đền Thờ có
những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền
lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò r a khỏi Đền Thờ.
Còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ
(Ga 2, 13-15):
+ Lễ Vượt Qua của dân Do
Thái, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem: Vào thời Đức Giêsu, lễ Vượt Qua là một
trong ba đại lễ, buộc người Do Thái ở khắp nơi phải hành hương về đền thánh
Giêrusalem để sát tế và ăn bữa tiệc chiên vượt qua, kỷ niệm biến cố Xuất Hành,
trong đó Đức Chúa dùng Môsê, giải phóng con cháu Giacóp là dân Do Thái khỏi ách
làm nô lệ cho dân Ai cập.
+ Người thấy trong Đền
Thờ: Đền Thờ là dấu chỉ Đức Chúa hiện diện giữa dân Người.
Câu hỏi: Theo lịch sử dân
Ítraen thì đã có bao nhiêu Đền Thờ được xây dựng tại Giêrusalem và cấu trúc của
các Đền Thờ ấy thế nào?
Đáp: Không kể đền thờ tạm
là Nhà Lều trong thời gian 40 năm dân Do Thái đi qua sa mạc, còn có ba Đền Thờ
được xây dựng tại Giêrusalem là Đền Thờ Salômon, Đền Thờ Sau Lưu Đầy và Đền Thờ
Hêrôđê như sau:
Đền thờ Salômon: Dưới
triều vua Đavít, tuy Hòm Bia đã được đem về Giêrusalem, nhưng vẫn còn được để
giữa Mái Lều Vải Nhà Tạm (x. 2 Sm 6,17). Vua Đavít muốn xây một Đền Thờ để kính
Đức Chúa. Nhưng ngôn sứ Nathan tuyên sấm lời Đức Chúa là sẽ dành việc xây dựng
ấy cho con của ông (x. 2 Sm 7,2. 13). Sau đó, vua Salômon đã thực hiện ý định
của vua cha Đavít vào năm 970 và Đền Thờ đã được hoàn tất sau 7 năm thi công (1
V 6,37-38). Đền Thờ này nằm giữa một khu đất rộng là Sân Trước. Tại đây có Bàn
Thờ Toàn Thiêu bằng đồng (x. 1 V 8,64). Đền Thờ có chiều dài ba mươi thước,
chiều rộng mười thước và chiều cao mười lăm thước, gồm Gian Tiền Đình, Gian
Cung Thánh và Nơi Cực Thánh. Tại Gian Cung Thánh có Bàn Thờ Hương, Bàn Bánh
Tiến và Mười Chân Đèn bằng vàng (x. 1 V 6,20-21; 7,48-49). Nơi Cực Thánh nằm
giữa Đền Thờ có một Bàn Thờ bằng gỗ bá hương và được dát bằng vàng ròng (x. 1 V
6,2. 16-22). Tại Nơi Cực Thánh, Hòm Bia Giao Ước được đặt ngay dưới đôi cánh
của hai bức tượng Thần sứ Kêrubim. Vào năm 586 trước Công Nguyên, quân Babylon
xăm lăng tàn phá thành Giêrusalem và Đền Thờ Salômon này cũng bị phá hủy. Các
báu vật trong Đền Thờ đã bị chiếm đoạt mang về Babylon.
Đền thờ sau lưu đày: Được
xây trên nền của Đền Thờ cũ và kích thước cũng như trước. Đền Thờ này kém bề
thế hơn và Nơi Cực Thánh để trống không. Trong Gian Cung Thánh có đặt một Chân
Đèn 7 Ngọn thay cho 10 ngọn đèn như trong Đền Thờ Salômon trước đó. Dân hồi cư
trước hết đã tái lập Đền Thờ Toàn Thiêu. Việc xây dựng Đền Thờ Kéo dài trong 5
năm và được thánh hiến vào năm 515 trước Công Nguyên. Năm 169 Đền Thờ này lại
bị vua Antiôcô IV chiếm đoạt và xúc phạm. Đến năm 164, Giuđa Máccabê đã thanh
tẩy Đền Thờ, lập một Bàn Thờ Toàn Thiêu mới và trang hoàng lại Gian Cung Thánh.
Đền thờ Hêrôđê: Để tranh
thủ sự ủng hộ của dân chúng, Hêrôđê đã mở rộng chu vi và trang trí lại bên
trong Đền Thờ. Công việc trùng tu Đền Thờ bắt đầu từ năm 20 trước Công Nguyên
và đến năm 26 sau Công Nguyên mới tạm xong và được tổ chức khánh thành các công
trình chính (x. Ga 2,20). Sau đó việc trùng tu Đền Thờ lại tiếp tục đến năm 63
sau Công Nguyên mới chấm dứt. Về mặt cấu trúc: Đền Thờ có bốn hàng cột nằm ở ba
mặt của Đền Thờ: Về phía Đông có hành lang Salômon (x. Cv 3,11; 5,12); Phía Tây
Bắc có pháo đài Antônia thông ra sân ngoài. Nơi đây thường xuyên có một tiểu
đoàn quân lính Rôma trú đóng, mục đích giữ gìn an ninh trật tự trong các dịp lễ
lớn của dân Do Thái và sẵn sàng trấn áp bạo loạn (x. Cv 21,31-37). Đền Thờ có
bốn cổng lớn. Một bức tường bằng đá được dùng làm ranh giới cấm lương dân vượt
qua. Nội vi Đền Thờ có nhiều sân: Bên ngoài bức tường đá là sân lương dân, là
nơi các luật sĩ thường lui tới bàn luận với nhau (x. Cv 3,11). Sân nữ giới nằm
giữa nơi có dân chúng ra vào và ăn thông với Cửa Đẹp (x. Cv 3,2). Tiếp theo là
sân Ítraen dành cho nam giới. Cuối cùng là sân Tư Tế. Tại đây có đặt một Bàn
Thờ Toàn Thiêu. Cách đó 10 thước, toàn bộ thánh điện được thiết kế giống như
Đền Thờ ngày xưa gồm Tiền đường, Nơi Thánh và Nơi Cực Thánh. Về số phận của Đền
Thờ Hêrôđê: Đức Giêsu đã tiên báo sự sụp đổ của Đền Thờ này (x. Lc 21, 5-7).
Người cũng báo cho các tín hữu biết trước về ngày thành Giêrusalem bị quân thù
kéo đến bao vây và sẽ bị tiêu diệt. Sự kiện này được coi như hình bóng của Ngày
Tận Thế (x. Lc 21,20-28). Quả thật, lời tiên báo của Đức Giêsu đã trở thành
hiện thực: Dân Do Thái đã nổi loạn và quân Rôma do tướng Titô chỉ huy đã đến
bao vây Giêrusalem. Đến ngày mùng 06 tháng 8 năm 70, thành đã bị thất thủ.
Trong lúc hỗn loạn, một tên lính Rôma đã ném một bó đuốc vào trong Đền Thờ, lửa
bốc cháy tấm màn che giữa Gian Cung Thánh và Nơi Cực Thánh và toàn bộ Đền Thờ
đã bị thiêu hủy. Chỉ một ít đồ thánh như chân đèn 7 ngọn và Bàn Thờ Dâng Bánh
còn sót lại và được mang về Rôma như chiến lợi phẩm (x. Dcr 14,1).
+ Có những kẻ bán chiên
bò bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền: Tại sân lương dân, các Tư Tế cho
một số người bán chiên, bò và chim câu... để dân chúng mua mà dâng làm lễ vật
cúng tế trong Đền Thờ (x. Ga 2,14; Lc 2,24). Cũng có cả những người ngồi đổi
tiền từ đồng tiền của Rôma lưu hành ngoài xã hội, trên đồng tiền có hình và ký
hiệu của hoàng đế Xêda (x. Lc 20,24-25), nên bị cấm lưu hành trong Đền Thờ. Dân
Do Thái muốn đóng thuế Đền Thờ hay góp tiền trùng tu Đền Thờ (x. Lc 21,1-2) thì
trước hết phải đổi từ tiền của Rôma thành tiền của Đền Thờ tại bàn đổi tiền rồi
mới được đóng góp (x. Ga 2,14).
+ Người liền lấy dây làm
roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ: Sự bất kính do
bọn con buôn gây ra như thế khiến Đức Giêsu rất đau lòng. Người nổi cơn thịnh
nộ và đã dùng giây thừng cột thú vật được ném bừa bãi ở nơi đó, chấp lại thành
roi rồi dùng roi ấy đánh đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ.
* Người nói với những kẻ
bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Tôi
thành nơi buôn bán." Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh
Thánh: "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt
thân." Người Do Thái hỏi Đức Giêsu: "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho
chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?" Đức Giêsu đáp: "Các ông
cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại" (Ga
2,16-19):
+ "Đừng biến nhà Cha
tôi thành nơi buôn bán": Nói câu này, Đức Giêsu tự xưng là Con Thiên
Chúa."Nơi buôn bán" hay "hang trộm cướp" là kiểu nói diễn
tả tình trạng bất kính ở trong Đền Thờ, một nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa!
Thế là ứng nghiệm lời các ngôn sứ đã tuyên sấm quở trách dân Do Thái xưa (x. Gr
7,11).
+ "Vì nhiệt tâm lo
việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân": "Sẽ phải thiệt
thân" nghĩa là "sẽ phải chết." Như vậy ý nghĩa lời Thánh Vịnh
69,10 như sau: lòng nhiệt thành với Đền Thờ sẽ dẫn Đức Giêsu đến chỗ bị người
đời bách hại (x. Ga 15,5).
+ Người Do Thái hỏi Đức
Giêsu: "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm
như thế?": "Người Do Thái" trong câu này ám chỉ các chức sắc Đền
Thờ như các Tư Tế và Lêvi. Họ bực tức khi thấy Đức Giêsu đuổi bọn con buôn ra
khỏi Đền Thờ. Do đó họ hạch hỏi Đức Giêsu dựavào dấu lạ nào để chứng minh mình
được Thiên Chúa sai đến thực sự và có quyền xua đuổi con buôn như thế. Trước
đây họ cũng nhiều lần đòi Đức Giêsu chứng minh Người được Thiên Chúa sai đến,
bằng cách phải làm phép cho họ thấy mà tin Người (x. Mt 12,38; Mc 8,11; Lc 11,16).
+ "Các ông cứ phá
Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại": Ở đây, Đức Giêsu
cho họ một phép lạ làm chứng Người được Thiên Chúa sai đến, là phép lạ Người sẽ
sống lại nội trong ba ngày. Tuy nhiên Đức Giêsu xử dụng kiểu nói dụ ngôn mà các
ngôn sứ hay dùng là đã gọi thân thể của mình là Đền Thờ. Câu này có nghĩa là:
Dù họ có giết chết Người thì cũng chỉ trong ba ngày Người sẽ sống lại.
* Người Do Thái nói:
"Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba
ngày ông xây lại được sao?" Nhưng Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là
chính thân thể Người. Vậy, khi Người từ cõi chết chổi dậy, các môn đệ nhớ lại
Người đã nói điều đó. Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói (Ga
2,20-22):
+ Phải mất bốn mươi sáu
năm mới xây xong: Các đầu mục Do Thái đã hiểu sai ý của Đức Giêsu. Họ hiểu lời
Người theo nghĩa đen nên mới nói về thời gian xây dựng Đền Thờ mất 46 năm (Khởi
công năm 20 trước Công Nguyên và đến năm 26 sau Công Nguyên mới tạm hoàn thành
những công trình chính), đang khi ý Đức Giêsu ám chỉ Đền Thờ là Thân Thể của
Người. Sau này khi Thượng Hội Đồng Do Thái xét xử Đức Giêsu do Caipha chủ tọa
có hai kẻ đứng ra cáo gian rằng: "Tên này đã nói: Tôi có thể phá Đền Thờ
Thiên Chúa, và nội trong ba ngày sẽ xây cất lại" (Mt 26,61). Họ cũng nhắc
lại điều tố cáo này khi lăng nhục Người trên thập gía (x. Mt 27,40).
+ Nhưng Đền Thờ Đức Giêsu
muốn nói ở đây là chính thân thể Người: Thân Thể Đức Giêsu phục sinh là nơi
Thiên Chúa hiện diện và tỏ mình ra cho loài người (x. Ga 1,14). Thân Thể ấy là
Đền Thờ Mới, là nơi thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật (x. Ga
4,23-24).
+ Khi Người từ cõi chết
chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó: Chỉ dưới ánh sáng Phục Sinh
và được ơn Thánh Thần tác động, các môn đệ mới hiểu chính xác về lời nói và
việc làm của Đức Giêsu (x. Ga 12,16; 14,26).
+ Họ tin vào Kinh Thánh
và lời Đức Giêsu đã nói: Lời Thiên Chúa trong Kinh Thánh và Lời Đức Giêsu tiên
báo đều đã được ứng nghiệm (x. Ga 18,9. 32). Do đó cả hai đều được các môn đệ
tôn trọng.
* Trong lúc Đức Giêsu ở
Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều kẻ tin vào danh Người bởi đã chứng
kiến các dấu lạ Người làm. Nhưng chính Đức Giêsu không tin họ, vì Người biết họ
hết thảy, và không cần ai làm chứng về con người. Quả thật, chính Người biết có
gì trong lòng con người (Ga 2,23-25):
+ Nhiều kẻ tin vào danh
Người. Nhưng chính Đức Giêsu lại không tin họ: Phép lạ chỉ kích thích trí tò mò
làm cho người ta đến xem để biết thực hư ra sao. Nhưng đức Tin là bởi nghe (x.
Rm 10,17) chứ không bởi thấy, như lời Đức Giêsu Phục Sinh nói với Tôma:
"Vì đã thấy Thầy nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà
tin!"(Ga 20,29). Một số khá đông dân chúng tin Đức Giêsu vì đã thấy các
phép lạ Người làm (x. Ga 12,17-18). Nhưng đức tin dựa trên mắt thấy như vậy là
đức tin bất toàn và không bền vững. Do đó Đức Giêsu không mấy tin các tín hữu
này. Thực vậy, khi bị xét xử trước tòa quan Philatô, trong số đám đông dân
chúng đòi kết án tử hình thập gía cho Đức Giêsu, chắc không thiếu những kẻ đã
từng tin và hoan hô Người là "Con Vua Đavít", "Đấng nhân Danh
Chúa mà đến!" lúc Người khải hoàn vào thành Giêrusalem (x. Lc 19,37-38; Ga
12,12-15). Đàng khác, không phải cứ trông thấy phép lạ là người ta sẽ tin. Các
kẻ thù của Đức Giêsu đã từng chứng kiến bao phép lạ người làm, thế mà họ đâu có
tin. Ngược lại còn quyết tâm tiêu diệt Người nữa (x. Ga 11,45-53). Họ xuyên tạc
để lôi kéo dân chúng đừng tin theo Người, như nói rằng: "Ông ta nhờ tướng
quỉ mà trừ quỉ" (Mc 3,22).
+ Người biết họ hết thảy:
Thánh gioan đã ghi lại nhận xét này khi thấy dân chúng nô nức đi theo Đức
Giêsu. Người biết rõ ý của họ và đã nói thẳng với họ rằng: “Thật, tôi bảo thật
các ông: Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các
ông đã được ăn bánh no nê!" (Ga 6,26). Trong phép lạ chữa bệnh nhân bại
liệt, Mátthêu cũng viết: "Đức Giêsu biết ý nghĩa của họ liền nói: Sao các
ông lại nghĩ xấu trong bụng như vậy?..." (Mt 9,4).
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA
1) "Đem tất cả những
thứ này ra khỏi đây. Đừng biến Nhà Cha tôi thành nơi buôn bán" (Ga 2,16):
Câu chuyện: Tiếng chim
hót trong bụi mận gai.
Thỉnh thoảng đài truyền
hình VN lại cho chiếu bộ phim "Tiếng chim hót trong bụi mận gai" mà
tác gỉa là một nữ văn sĩ người Úc theo đạo Tin Lành. Khi viết cuốn tiểu thuyết
này, bà đã đứng trên quang điểm của đạo Tin Lành để phê phán luật độc thân của
hàng giáo sĩ Công Giáo. Tuy nhiên, câu chuyện này cũng là cơ hội để chúng ta
suy nghĩ về sức mạnh của đồng tiền ảnh hưởng thế nào trong cuộc sống cá nhân và
cộng đoàn Giáo Hội.
Câu chuyện về một linh
mục là Cha Ráp (Ralph). Ráp là một linh mục trẻ nhiều tài năng nhưng cũng đầy
tham vọng. Vị linh mục này có khá nhiều ưu điểm, có sức cuốn hút nhiều người
đến với mình. Nhưng đồng thời ông ta cũng muốn được nổi danh và ham mê tiền
bạc. Trong số các người mến mộ Cha Ráp, có một bà già quí phái giàu có. Bà quí
mến Cha cách đặc biệt nhưng không được đáp lại, nên tình yêu đã biến thành thù
hận. Thay vì trả thù theo kiểu thường tình, thì người đàn bà này có sáng kiến
gài bẫy để bôi đen cuộc đời vị linh mục trẻ: Trước khi chết, bà đã làm tờ di
chúc dâng cúng toàn bộ tài sản kếch sù của bà cho Giáo Hội Công Giáo, với điều
kiện duy nhất là Giáo Hội phải cử Cha Ráp làm quản lý số tài sản đó. Cách trả
thù của bà quí phái giàu có đã thành công: Cha Ráp dần dần được cất nhắc lên
địa vị khá cao trong Giáo Hội. Nhưng đồng thời chính đồng tiền mà Cha quản lý
đã làm cho đời sống tinh thần của Cha ngày một xuống cấp và cuối cùng Cha đã sa
ngã vào các đam mê tội lỗi, trái với sự tình nguyện "sống độc thân vì Nước
Trời" mà Cha đã khấn hứa.
Suy nghĩ và thảo luận:
+ Suy nghĩ: Câu chuyện
trên dầu sao cũng nói lên một thực tại: Hễ là người thì dù ở trong bất cứ hoàn
cảnh hay bậc sống nào, nếu không biết khôn ngoan phòng tránh, thì đều có nguy
cơ bị ngã gục trước sức mạnh của đồng tiền! Thực ra: Tiền của là một nhu cầu
không thể thiếu trong cuộc sống: "Đồng tiền liền khúc ruột!", hay như
lời Chúa dạy: "Kho tàng của anh ở đâu thì lòng anh ở đó" (Mt 6,21).
Tiền bạc giúp người ta sống xứng với nhân phẩm: "Phú quí sinh lễ nghĩa,
bần cùng sinh đạo tặc!." Tiền bạc cần để duy trì các hoạt động của mọi tổ
chức từ trên xuống dưới, mà còn làm được rất nhiều việc hữu ích về phụng vụ,
truyền giáo, bác ái xã hội, phục vụ những người nghèo khổ, bệnh tật và bất
hạnh... Tuy nhiên, "Tiền của sẽ là một đầy tớ tốt, nhưng lại là một ông
chủ xấu." Bao lâu ta coi đồng tiền là phương tiện thì nó giúp ta làm được
rất nhiều việc tốt đẹp hữu ích cho Chúa và tha nhân. Vì "có tiền mua tiên
cũng được!." Nhưng nếu ta quá coi trọng đồng tiền, biến nó trở thành mục đích
cuộc đời mình. Nếu lúc nào ta cũng lo kiếm tiền bằng bất cứ giá nào, thì bấy
giờ đồng tiền sẽ trở thành ông chủ và sẽ sai khiến ta ăn ở bất công với người
dưới, bất nhân độc ác khi cố tình làm ngơ trước nỗi đau của đồng loại, hoặc khi
tranh chấp quyền lợi với đối phương, gian dối và lừa đảo trong các quan hệ kinh
doanh làm ăn, vô lương tâm và không còn nghĩ tới tội phúc, thưởng phạt đời
sau...
+ Thảo luận: Theo bạn thì
việc thờ phượng Thiên Chúa tại nhà thờ và làm chứng cho Đức Kitô ngoài xã hội,
Giáo Hội có cần tiền bạc không và cần tiền làm gì? Bạn sẽ làm gì để giúp Giáo
Hội có tiền bạc để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân cách tốt đẹp hơn? Giả như
Đức Giêsu sắp đến viếng thăm bạn, vậy cần phải cấp thời thanh tẩy những gì
trong tâm hồn của bạn để tránh bị Người nổi giận?
2) Tránh trở nên chướng
ngại vật cản trở tha nhân tìm đến với Chúa:
Câu chuyện: Niềm tin của
Thánh Găngđi nước Ấn độ:
Khi còn là một sinh viên,
Găngđi (Mahatma Gandhi) được du học tại Nam Phi một thuộc địa của nước Anh. Tại
đây nổi tiếng về tệ nạn phân biệt chủng tộc. Trong thời gian này, Găngđi có dịp
đọc Kinh Thánh của Kitô giáo và lập tức ông bị giáo thuyết của Đức Giêsu cuốn
hút, nhất là kinh Tám Mối Phúc thật trong phần Bài Giảng Trên Núi. Ong rất tâm
đắc trước lời Chúa dạy về một tình yêu phổ quát và bình đẳng giữa mọi người,
không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, địa vị cao thấp, là Do Thái hay lương
dân... Găngđi nghĩ rằng: Có lẽ Kitô giáo chính là giải pháp tối ưu và hữu hiệu
để giải quyết tận gốc sự phân biệt giai cấp trong xã hội An Độ quê hương của
ông. Găngđi nghĩ mình nên tìm hiểu và sớm gia nhập vào Kitô giáo.
Ngày nọ, Găngđi có ý định
đi bộ đến một nhà thờ để mong được chứng kiến lễ nghi trong đạo và cũng để tìm
hiểu thêm về giáo lý Công Giáo. Tuy nhiên, khi ông bước đến cửa nhà thờ thì bị người
giữ cửa chặn lại và không cho ông bước vào nhà thờ. Bấy giờ ông cho biết ý định
tìm hiểu đạo của mình. Nhưng thật là bất ngờ khi người giữ cửa lại nói như sau:
"Đây là Nhà thờ dành riêng cho người da trắng. Nếu mi muốn tìm hiểu đạo,
thì hãy tìm đến Nhà thờ khác dành riêng cho dân da màu mà xin!." Găngđi
rất tức giận và bỏ về nhà, ông ghi lại cảm tưởng trong nhật ký của ông như sau:
"Tôi rất thán phục Đức Giêsu và giáo thuyết đầy tình nhân ái khoan dung
của Người. Thế nhưng tôi rất bất mãn mỗi khi tiếp xúc với các tín hữu là môn đệ
của Người! Nếu trong đạo Kitô mà cũng còn phân biệt chủng tộc như vậy, thì Kitô
giáo đâu có hơn gì Ấn Giáo có phân biệt giai cấp của tôi? Thôi, tôi cần chi
phải gia nhập đạo này. Tốt nhất là tôi cứ chấp nhận có bất toàn trong Ấn Giáo
và cố gắng sống theo giáo lý truyền thống của cha ông là đủ!."
Suy niệm: Vô tình hay hữu
ý, ai trong chúng ta chắc cũng có lần trở thành một chướng ngại vật, ngăn cản
anh chị em lương dân tìm đến gặp Chúa. Chỉ cần một lời nói sẵng giọng và thiếu
tế nhị, một thái độ lạnh nhạt thiếu nhã nhặn hay một cử chỉ khinh dễ coi thường
tha nhân, một hành động hẹp hòi ích kỷ trái với tinh thần quảng đại vị tha của
Tin Mừng hoặc một gương mù gương xấu nơi vị chủ chăn... là có thể chúng ta đã
xua đuổi anh chị em lương dân ra khỏi nhà thờ và sau này họ khó còn cơ hội nào
khác để trở lại.
3) Cứ phá đền thờ này đi,
nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại (Ga 2,19):
Câu chuyện: Tiền vào nhà,
Chúa đi ra:
Ở bên Pháp, có đôi vợ
chồng bác nông dân kia làm tá điền cho một ông bá tước giàu có. Đội vợ chồng
này tuy nghèo nhưng lại có lòng đạo đức. Mỗi buổi sáng, khi vừa nghe tiếng
chuông nhà thờ là hai vợ chồng đã lập tức thức dậy và mau mắn đến nhà thờ tham
dự Thánh Lễ và Rước lễ sốt sắng. Sau lễ, họ trở về nhà, vội ăn sáng rồi vác
cuốc ra đồng làm việc và mãi đến chiều tối mới trở về nhà. Ngày nào hai vợ
chồng cũng đều đọc kinh tối chung với nhau trước khi ngủ. Họ luôn sốngvui vẻ
hòa thuận và chưa hề nghe họ cãi vã to tiếng với nhau bao giờ. Họ được mọi
người trong làng khen ngợi bình chọn là một gia đình đạo đức tiêu biểu và họ
trở thành gương sáng cho các đôi vợ chồng khác học tập noi theo. Ông chủ đất
này muốn thử xem lòng đạo đức của đôi vợ chồng tá điền kia có thật hay không.
Một hôm, ông sai gia nhân mang một túi đựng 100 đồng tiền vàng đến bí mật để
ngay trước cửa nhà của đôi vợ chồng bác tá điền. Sáng hôm ấy, khi mở cửa đi lễ
như thường lệ thì phát hiện ra một túi tiền vàng được ai đó để trước cửa nhà.
Thế là đôi vợ chồng thôi không đi lễ nữa và vội đóng cửa lại để đếm tiền. Đếm
đi đếm lại mãi, đến nỗi họ chẳng thiết gì đến ăn uống và không ra đồng làm
việc. Sau khi đã nắm vững số tiền đang giữ, hai vợ chồng bàn định tìm chỗ để
cất giấu cho an toàn. Mỗi người một ý không ai chịu ai cả, và lần đầu tiên họ
đã cãi vã nhau. Cuối cùng họ nhất trí sẽ để túi tiền ngay dưới gối và nằm đè
lên cho chắc ăn. Tuy vậy, họ vẫn khống yên tâm, nên cả hai đều không dám rời xa
chiếc giường. Thực đúng như lời Chúa đã phán: "Kho tàng của ngươi ở đâu
thì lòng ngươi cũng ở đó" (Mt 6,21). Lúc nào tâm trí họ cũng nghĩ tới số
tiền kia đến dộo ăn uống ngủ nghĩ thất thường. Cũng từ hôm ấy, hai vợ chồng
chẳng còn tha thiết cùng đi dâng lễ mỗi sáng và đọc kinh tối chung với nhau
nữa! Lòng họ lúc nào cũng lo sợ sẽ có ngày chủ nhân túi tiền đến đòi lại số
tiền ấy. Sau một tuần căng thẳng, cả hai vợ chồng đều suy nhược và bị cảm ho
đau nhức phải nằm liệt giường. Khi biết rõ tình trạng của đôi vợ chồng này, một
hôm ông bá tước đã đến thăm hỏi. Trong cuộc nói chuyện, ông đã ôn tồn giải
thích cho đôi vợ chồng biết nguyên nhân gây ra bệnh của họ. Ông cũng tường
thuật cặn kẽ các việc ông đã làm cách đó một tuần để chứng minh lời Đức Giêsu
nói: "Không ai có thể làm tôi hai chủ!... Anh em không thể vừa làm tôi
Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được" (Mt 6,24), và lời thánh Phaolô:
"Lòng yêu mến tiền của là căn nguyên của mọi sự dữ" (1 Tm 6,10). Ông
bá tước đã thuyết phục được đôi vợ chồng tá điền sẵn lòng trả lại túi vàng cho
ông không thiếu đồng nào. Cũng từ lúc đó, đôi vợ chồng tá điền đã tìm lại được
sự bình an trong tâm hồn. Họ lại vui tươi yêu đời, sớm hôm đọc kinh dự lễ để
thờ phượng Chúa, phó thác cuộc sống trong tay Chúa Quan Phòng, và thực thi giới
răn yêu thương như Đức Giêsu đã dạy.
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu, Chúa
đã tỏ ra uy nghiêm và quyết liệt khi dùng roi xua đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền
Thờ, không ngại bị họ thù ghét làm hại. Nếu Chúa sống trong thời đại của chúng
con hôm nay, chắn hẳn Chúa đã phải mạnh tay hơn để tẩy uế, khi nhiều ngôi Thánh
Đường đã bị coi thường. Một số nhà thờ vì không có khuôn viên và chung quanh là
đường đi, nên bị một số nười thiếu ý thức đem rác đến đổ bừa bãi, biến sân nhà
thờ thành một bãi rác lộ thiên. Rồi chó mèo tự do phóng uế làm mất vệ sinh
chung sân Nhà Chúa. Rồi cả những phần tử bất hảo cũng kéo đến tổ chức ăn nhậu,
bài bạc, hút chích và đàng điếm... gây cảnh ồn ào náo loạn làm mất sự trang
nghiêm trật tự lẽ ra phải có ở nơi dành riêng cho việc thờ phượng.
Lạy Chúa, nhất là thân
xác của chúng con là Đền Thờ Chúa Thánh Thần, thế mà nhiều lần đã trở nên nhơ
uế khi chúng con suy nghĩ, nói năng và hành động theo thói thế gian, chiều theo
tính xác thịt của mình thay vì theo ý Chúa, khi chúng con chiều theo các đam mê
lạc thú bất chính mà phạm tội mất lòng Chúa. Trong những ngày Mùa Chay này, xin
Chúa giúp chúng con thanh tẩy tâm hồn và thể xác nhờ siêng năng đến nhà thờ cầu
nguyện dâng lễ, tích cực tham dự các buổi tĩnh tâm, làm các việc hãm mình để
biểu lộ tâm tình sám hối, quyết tâm đổi mới đời sống để mỗi ngày trở nên con
ngoan hiếu thảo của Chúa Cha, và sống hòa thuận yêu thương để trở thành anh chị
em thực sự của mọi người.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. -
Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Thánh Mẫu Maria,
trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã trả lời cho các đầu mục Do Thái về dấu
lạ chứng minh Người có quyền xua đuổi con buôn ra khỏi Đền Thờ. Đó là: "
Cứ phá hủy Đền Thờ do tay người phàm xây dựng, và chỉ trong ba ngày tôi sẽ xây
dựng một Đền Thờ khác không phải do tay người phàm!" (Mc 14,58; Ga 2,19).
Lạy Mẹ, chúng con hiểu
rằng Chúa muốn dạy chúng con: cần phải phá hủy con người cũ với những đam mê
tội lỗi, để từ đó phát sinh ra một con người mới thánh thiện đẹp lòng Thiên
Chúa. Những việc thờ phượng có tính hẹp hòi, nặng hình thức phải được thay bằng
một tâm tình yêu mến tha thiết. Cần phải thờ phượng Chúa trong thần khí và sự
thật (x. Ga 4,23). Vậy trong những ngày Mùa Chay này, xin Mẹ giúp chúng con
thanh luyện và đổi mới cách thờ phượng theo thánh ý Chúa.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. -
Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
12.
Nhà Chúa Cha và nơi buôn bán--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
1. Lề Luật và Đền Thờ
Bài đọc I của Thánh Lễ
Chúa Nhật II Mùa Chay trích sách Xuất Hành, kể lại biến cố trọng đại: qua trung
gian ông Mô-sê, Đức Chúa công bố cho dân Mười Điều Răn, vốn sau này sẽ trở
thành trung tâm của toàn bộ Lề Luật[1]. Và trình thuật Tin Mừng theo thánh
Gioan cũng kể lại một biến cố trọng đại không kém: Đức Giê-su “sắp xếp” lại Đền
Thờ, vốn là trung tâm của đời sống Dân Chúa. Có thế nói, Người “sắp xếp” lại
khởi đi từ tình trạng “hỗn mang” của Đền Thờ. Vì thế, hành động “sắp xếp” của
Người có ý nghĩa “sáng tạo”; bởi lẽ, sáng tạo theo trình thuật “Sáng Tạo Bảy
Ngày” (St 1), không chỉ là tạo ra sự vật, nhưng còn là sắp xếp những sự vật đã
hiện hữu. Nhưng đâu là tương quan giữa hai biến cố trọng đại này?
* Cả hai biến cố đều có
bối cảnh Xuất Hành: “Ta là Đức Chúa… đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai cập” (Xh 20,
2); “Gần đến lễ Vượt Qua của người Do-thái…” (Ga 2, 13). Như thế Lề Luật và Đền
Thờ đều đặt nền tảng trên ơn huệ Thiên Chúa ban và có mục đích vừa tưởng nhớ ơn
huệ Thiên Chúa ban và vừa bày tò lòng biết ơn bằng việc phụng tự và bằng cuộc
sống. Điều này cũng phải là như thế đối với chúng ta, trong việc giữ luật và
việc cử hành phụng vụ, nhất là cử hành phụng vụ Thánh Thể.
* Tuy cả hai là đều là
“trung tâm”, như chúng vừa nói, nhưng cả hai đều có “vấn đề”: Đền Thờ, Nhà của
Thiên Chúa, nhưng bị Sự Dữ, ngang qua những con người cụ thể, biến thành nơi
buôn bán. Và tương tự như thế, Luật là tốt và thánh, nhưng trong thực tế đã để
cho Tội, nghĩa là Sự Dữ, lợi dụng để mang lại bầu khí chết chóc và gây ra cái
chết cho con người (St 3, 1-7 và Rm 7, 7-13).
* Vì thế, cả hai, Lề Luật
và Đền Thờ, cần được Đức Giê-su “sắp xếp” lại. Và điều lạ lùng là Ngài thực
hiện bằng chính cái chết của Ngài, nghĩa là bằng mầu nhiệm Vượt Qua, vì Lề Luật
và vì Đền Thờ. Vì Lề Luật: “Chúng tôi có Lề Luật; và chiếu theo Lề Luật, thì nó
phải chết” (Ga 19, 7)[2]. Vì Đền Thờ: người ta sẽ dựa vào hành động “sắp xếp”
lại Đền Thờ để chất vấn (x. Ga 2, 18) và kết án Đức Giê-su (x. Mt 26, 61), như
lời Thánh Vịnh loan báo: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà con phải thiệt
thân” (Tv 69, 10); hơn nữa, Đức Giê-su muốn thay thể Đền Thờ bằng chính thân
thể của Người (x. Ga 2, 19 và 21).
Chết vì Lề Luật và vì Đền
Thờ, phải chăng công trình “sắp xếp” của Đức Giê-su bị thất bại? Để mình bị lên
án và bị giết chết, đó là sỉ nhục và điên rồ đối với con người, như thánh
Phao-lô nói trong bài đọc II: “; nhưng đối với TC, đó lại là sức mạnh và khôn
ngoan, là con đường ĐGS hoàn tất công trình “sắp xếp” hai vấn đề “trung tâm”
nhất của đời sống con người, Lề Luật và Đền Thờ.
Trong khi người Do-thái
đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì
chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi
là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những
ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do-thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức
Ki-tô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. (1Cr 1, 22-24)
Đó là chính là “công
trình kì diệu của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (Mt 21, 42 và Tv
118, 23), mà chúng ta được mời gọi chiêm ngắm trong mầu nhiệm Vượt Qua.
2. Nhà Chúa Cha và nơi
buôn bán
Hình ảnh Đức Giê-su bừng
bừng nổi giận đánh đuổi những người buôn bán trong Đền Thờ, có thể làm chúng ta
kinh ngạc. Tương tự như sự kinh ngạc được gây ra bởi những lời nguyền rủa chống
lại kẻ dữ trong các Thánh Vịnh (chẳng hạn Tv 69; Tv 139, 19-22; Tv 141, 10).
Về biến cố này, trong ba
Tin Mừng nhất lãm, Tin Mừng theo thánh Luca kể nhẹ nhàng nhất: “Đức Giê-su vào
Đền Thờ, Người bắt đầu đuổi những kẻ đang buôn bán” (Lc 19, 45); hai Tin Mừng
còn lại kể lại cùng một biến cố với nhiều chi tiết hơn: kẻ mua người bán, các
bàn đổi tiền, các sạp bán bồ câu… (x. Mt 21, 12 -14; Mc 11, 15 -19). Nhưng
thánh sử Gioan, trong bài Tin Mừng của Thánh Lễ Chúa nhật hôm nay, tường thuật
biến cố này cách đặc biệt nhất:
* Đức Giê-su đi
Giê-ru-sa-lem và vào Đền Thờ ngay từ đầu thời gian rao giảng Tin Mừng. Chính vì
thế, biến cố này có liên quan và hướng đến mầu nhiệm Vượt Qua. Tương tự như
ngay từ đầu, Người đã so sánh con rắn đồng với mầu nhiệm Thập Giá, khi nói
chuyện với ông Ni-cô-đê-mô (x. Ga 3, 14).
* Và hành động của Ngài
rất mạnh mẽ: Ngài tự bện cho mình cái roi đánh đuổi mọi người và hất tung tất
cả ra khỏi Đền Thờ: súc vật, tiền bạc, bàn ghế, những người buôn bán.
Các môn đệ chứng kiến
cảnh tượng, liền trích Tv 69, 10: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà con phải
thiệt thân” !
***
Tuy nhiên, lời của Đức
Giêsu sẽ giúp chúng ta hiểu và nhất là cảm nếm hành vi mạnh mẽ của Ngài:
Đem tất cả những thứ này
ra khỏi đây,
đừng biến nhà Cha tôi
thành nơi buôn bán. (c.
18)
Bởi vì có một tương phản
rất lớn, nếu không muốn nói là tuyệt đối, giữa Nhà Chúa Cha và nơi buôn bán.
Tin Mừng Luca nói cho chúng ta biết yếu tính của từng nhà, nhà Chúa Cha và nơi
buôn bán:
Nhà Ta sẽ là nhà cầu
nguyện, thế mà các ngươi biến thành sào huyệt của bọn cướp. (Lc 19, 46)
Thật là lạ lùng, khi Đức
Giêsu nhìn ra “sào huyệt của bọn cướp” ở nơi người ta buôn bán ! Tuy nhiên,
kinh nghiệm sống của chúng ta cho thấy, trong cách người ta buôn bán ngày nay,
nhất là trong cách người ta buôn bán ngày nay, thường hay có sự gian dối, lọc
lừa, thậm chí hành vi nguy hại cho sự sống, chỉ vì ham lợi trước mắt. Một đàng,
nhà của Thiên Chúa là nhà cầu nguyện, nghĩa là nơi Dân Chúa diễn tả và sống tương
quan Giao Ước với Thiên Chúa của mình, là nơi Thiên Chúa hiện diện và nói với
dân của Ngài; đàng khác, là “sào huyệt của bọn cướp." Hai thực tại quá
khác biệt, quá tương phản, quá đối lập, và có thể nói, trái ngược nhau tuyệt
đối:
* Nơi chốn của nhưng không,
hiệp thông, của sự thật, của ý nghĩa, của ánh sáng, của hiền lành, của sự sống.
* Nhưng trong thực tế,
nơi này đã trở thành nơi của loại trừ, nơi của gian dối, của vô nghĩa, nơi của
bóng tối, nơi của bạo lực, nơi của sự chết. Sào huyệt của bọn cướp chính xác là
như vậy.
Chứng kiến cảnh tượng Đền
Thờ như thế và hiểu ở mức độ tuyệt đối như Đức Giê-su đã hiểu, làm sao Ngài
không nổi giận cho được? Tuy nhiên, sự nổi giận của Ngài mang tính giải phóng,
chứ không phải loại bỏ: giống như những lời nguyền rủa của các Thánh Vịnh, Đức
Giêsu làm bật sự dữ khỏi chỗ ẩn nấp của nó, để chúng ta nhìn thấy, và khi nhìn
thấy, chúng ta không thể chấp nhận được, vì nó không tương hợp với hình ảnh
Thiên Chúa có nơi chúng ta. Đó chính là cách Người chữa lành và giải thoát chúng
ta khỏi sự dữ trong cuộc Thương Khó và mầu nhiệm Thập Giá.
Chúng ta được mời gọi đọc
tình trạng của Đền thờ như biểu tượng diễn tả, nhưng chính xác hơn phải nói là
mặc khải, sự thật sâu xa và rất đau lòng về thế giới của chúng ta, về xã hội,
về Giáo Hội, về cộng đoàn, về chính con người của chúng ta, nhất là nội tâm của
chúng ta, bởi vì đó cũng là những “nơi tôn nghiêm” như đền thờ, nhưng đã bị
biến dạng, trở thành “nơi buôn bán” !
Hiểu ra như vậy, chúng ta
được mời gọi tự nguyện xin Chúa nổi giận và làm như Ngài đã làm xưa kia nơi Đền
Thờ Giê-ru-sa-lem, với con người của chúng ta, với nội tâm của chúng ta, để tái
tạo con người chúng ta như ơn gọi ban đầu: nghĩa là để cho Lời của Ngài vang
vọng mỗi ngày trong nội tâm và trong ngày sống của chúng ta, như xưa Ngài đã
đến giảng dạy trong Đền Thờ hằng ngày.
3. Thanh tẩy Đền Thờ và
mầu nhiệm Vượt Qua
Qua hành động “thanh
tẩy”, Đức Giê-su không chỉ phá đổ cái trật tự đang có của Đền Thờ, nhưng còn
đụng đến “quyền lợi” của các thượng tế và kì mục. Hơn nữa, Ngài còn gọi cái
“trật tự” đang có của Đền Thờ là cái hang trộm cướp! Chính vì thế, chúng ta
không lạ gì khi các thượng tế và kì mục đến chất vấn Người về quyền hạn:
Ông lấy dấu lạ nào chứng
tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế? (c. 18)
Tất cả các thánh sử đều
kể lại lời chất vấn này (x. Mt 21, 23; Lc 20, 2; Mc 11, 28), bởi vì câu hỏi này
là một câu hỏi liên quan đến căn tính của Đức Giê-su, đến tương quan duy nhất
của Ngài với Thiên Chúa Cha: quyền của Ngài đến từ Chúa Cha, bởi vì Ngài đến từ
Chúa Cha, Ngài là Con Duy Nhất của Chúa Cha. Chính vì thế, Người trả lời bằng
cách nói về mầu nhiệm Vượt Qua, là mầu nhiệm qua đó, Người mặc khải cho người
Do Thái và cả loài người chúng ta, Người là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng
sống:
“Các ông cứ phá huỷ Đền
Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại”… Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở
đây là chính thân thể Người. (c. 19 và 21)
Hành động và lời nói của
Đức Giê-su về Đền Thờ loan báo cuộc Thương Khó của Người. Chính vì thế, theo
lời kể của thánh sử Mác-cô, các thượng tế, kinh sư và kì mục đã có ý định giết
Đức Giê-su khi chứng kiến Ngài đánh đuổi tất cả những người mua bán, lật bàn
của những người đổi bạc và xô ghế của những kẻ bán bồ câu, và khi nghe Ngài
nói: “Nào đã chẳng có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của
mọi dân tộc sao? Thế mà các người đã biến thành sào huyệt của bọn cướp!” (Mc
11, 17).
Các thượng tế và kinh sư
nghe thấy vậy,
thì tìm cách giết Đức
Giê-su. (Mc
11, 18)
Một cung cách đã khơi dậy
nơi người chứng kiến ý định loại trừ, thì hẳn phải là một cung cách có tầm mức
rất lớn, tầm mức lịch sử cứu độ, bởi vì đó là ý định loại trừ Đức Giê-su, Đấng
Ki-tô, Con Thiên Chúa. Nhưng, đó lại là con đường Thiên Chúa chọn để xây dựng
Đền Thờ mới, để hoàn tất lịch sử cứu độ.
Như thế, với mầu nhiệm
Vượt Qua, Đức Giê-su sẽ thay thế Đền Thờ và cơ chế lễ tế của Đền Thờ bằng Lời
của Ngài, bằng sự hiện diện của Ngài và bằng chính thân mình Ngài, làm của lễ
hoàn thiện dâng lên Chúa Cha, vì loài người chúng ta. Đó là chính là Thánh Lễ
Tạ ơn mà chúng ta cử hành mỗi ngày.
***
Sự Dữ, ngang qua những
con người cụ thể, đã “phá hủy” Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, khi biến Đền Thờ thành
“hang trộm cướp." Sự phá hủy này loan báo Sự Dữ sẽ “phá hủy” Đức Giê-su
trong cuộc Thương Khó. Nhưng Thiên Chúa đã dùng chính sự phá hủy này để xây
dựng Đền Thờ Mới, là Đức Ki-tô Phục Sinh chiến thắng Sự Dữ và sự chết.
Chúng ta vốn là “đền thờ
của Thiên Chúa”, nhưng đã bị Sự Dữ phá hủy. Xin cho chúng ta biết mở lòng ra để
đón nhận Đền Thờ mới là chính Đức Ki-tô.
--------------------
[1] Mười Điều Răn (MĐR)
là trung tâm của toàn bộ Lề Luật, bởi vì MĐR qui định hai mối tương quan cản
bản: tương quan với Thiên Chúa và tương quan với người khác. Vì thế, những luật
khác không phải là những khoản thêm vào MĐR, nhưng là một giải thích hay chi tiết
hóa MĐR. Mười Điều Răn chi phối tất cả các lề luật khác như ngọn núi vượt trên
đồng bằng, hay đúng hơn, chứa đựng tất cả những lề luật này; chúng xuất phát từ
Mười Điều Răn và trở về với Mười Điều Răn. Ngày nay, Mười Điều Răn vẫn còn hiện
diện như bộ luật căn bản của Giáo Hội.
[2] Và trước đó, đã biết
bao lần, họ nhân danh luật Sa-bát, trung tâm của Mười Điều Răn (Xh 20, 8-11),
họ rình rập, lên án và lập mưu giết Đức Giê-su (x. Mc 3, 1-6).
13.
Nôi ba ngày Tôi sẽ xây dựng lại --Lm. Trầm Phúc
“Các ngươi cứ phá hủy Đền
Thờ này đi; nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại." Một câu nói táo bạo không
thể tưởng được. Theo luật Do Thái, ai nói phạm đến Đền thờ là bị ném đá. Ông
Navót thời vua Akháp, đã bị ném đá vì hoàng hậu Ysaven đã vu cáo cho ông nói
phạm đến Đền thờ. Chúa Giêsu không bị ném đá vì nhờ hậu thuẫn của dân chúng.
Câu nói của Chúa Giêsu là một vấn đề chúng ta cần suy nghĩ. Chúa muốn gì khi
tuyên bố một câu kinh khủng như thế?
Đền thờ là trung tâm thờ
phượng của người Do Thái từ khi vua Salômôn đã xây dựng. Trước đó, từ thời
Môsê, khi dân Do Thái lưu lạc trong hoang địa, Thiên Chúa chỉ ngự giữa dân
Người trong Lều tạm gọi là Lều Chứng Tri, trong đó có Hòm Bia. Đi đến đâu, dân
vẫn mang theo Lều đó và Môsê, khi cần mới vào xin ý kiến của Chúa.
Sau khi định cư, Hòm Bia
được đặt vào trong một Đền thờ nhỏ để dân đến đó cầu nguyện như thời tiên tri
Samuen, Hòm Bia được đặt ở Silô. Vua Đavít đã kiệu Hòm Bia về Giêrusalem, đặt
Hòm Bia vào trong một Đền Thờ nhỏ nhưng cũng được làm bằng gỗ quí. Vua cũng
định xây một Đền Thờ xứng đáng cho Chúa như lòng vua ước nguyện, nhưng Chúa
không để cho vua Đavít xây mà chọn vua Salômôn làm việc đó.
Từ khi Đền Thờ nguy nga
được xây dựng tại Giêrusalem, việc phụng thờ Chúa được thực hiện tại đó, xem
như trung tâm thờ phượng của toàn dân và cũng là nơi Chúa ngự trị giữa dân
Người. Đền thờ là nơi thánh, dành riêng cho việc thờ phượng và ai phạm đến Đền
thờ sẽ bị ném đá. Thế nhưng hôm nay, chúng ta nghe Chúa Giêsu phán một lời
không thể chấp nhận được đối với người Do Thái. Tại sao thế?
Tuy có Đền thờ nguy nga,
việc thờ phượng của người Do Thái dần dần đã trở thành những lễ nghi không hồn.
Lòng đạo đã bị xói mòn vì thói quen, vì thế Chúa phán qua các tiên tri: “Dân
này thờ Ta bằng môi bằng miệng mà lòng nó xa Ta muôn trùng." Và một ngày nào
đó tiên tri Êdêkien đã được thấy thị kiến là Vinh quang của Chúa rời bỏ Đền
thờ…Và sau cùng vua Nabukôđônôso sẽ phá hủy Đền thờ và dân Do Thái bị lưu đày
sang Babilon, và khóc dài suốt bảy mươi năm nơi đất khách: “Lễ toàn thiêu, lễ
hy sinh đã hết, lễ tiến lễ hương cũng chẳng còn. Chẳng còn nơi để dâng của lễ
đầu mùa lên Chúa để chúng con được Chúa xót thương."
Đây cũng là kinh nghiệm
quí báu cho dân thấy rằng, việc thờ phượng không chỉ là những của lễ mà là tâm
hồn chân thật.
Sau cuộc lưu đày, Đền thờ
được xây lại và việc thờ phượng được nội tâm hơn.
Chúa Giêsu tôn trọng Đền
thờ và xem đó như nhà của Cha Ngài, là nhà cầu nguyện. Nhưng hôm nay, khi bước
vào Đền thờ, Ngài thấy cảnh buôn bán tấp nập, không còn gì là nơi thờ phượng:
“Các ngươi hãy phá Đền thờ này đi!” Một lời phán như một lời tuyên án. Vì nếu
các ngươi đã biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán thì để Đền thờ này làm gì? Đâu
còn là nhà cầu nguyện nữa, đâu còn là nơi cực thánh nơi Chúa ngự nữa.
Thờ phượng Chúa không thể
đi đôi với trục lợi. Thiên Chúa không cần của lễ chiên bò, Ngài chỉ muốn những
tâm hồn thống hối và tinh thần khiêm nhượng của chúng con thay của lễ chiên
bò…."
“Các ngươi hãy phá Đền
thờ này đi; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại." Một lời xem ra như
một thách thức. Những ông Pharisêu xem như một lời nói ngoa vì phải mất bốn
mươi sáu năm mới xây xong. Không ai biết Ngài muốn nói gì và xem đó như một lời
phạm thượng. Thánh Gioan giải thích: “Nhưng Đền thờ Người muốn nói đây là chính
thân thể Người." Các môn đệ cũng không hiểu ngay lúc đó mà sau này, khi
Chúa từ cõi chết sống lại, các ông mới hiểu. Hôm nay, chúng ta được hiểu vì mọi
sự đã hiển nhiên. Nhưng chúng ta có hiểu thực sự không? Chúng ta có biết rằng
Đền thờ của chúng ta hôm nay không chỉ là những ngôi nhà bằng gỗ đá mà bằng
chính Đấng đã từ trời xuống, xây dựng cho chúng ta một Đền thờ bằng cái chết và
phục sinh của Ngài không? Ngài chính là Đền thờ duy nhất, xứng đáng để chúng ta
thờ phượng Chúa trong tinh thần và chân lý. Chỉ có sự thờ phượng đó mới thực sự
đẹp lòng Đấng đã trao phó Con Một Người cho chúng ta. Chỉ có Người Con Một đó
thay cho chúng ta để dâng lễ tạ ơn liên lỉ, Người Con Một đầy ân sủng và chân
lý. Từ nay, mọi hy sinh, mọi lời cầu, mọi của lễ của chúng ta đều quy tụ vào
Đền thờ duy nhất đó, vì thế Giáo hội luôn cầu xin “nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa
chúng ta." Ngài là bàn thờ và là của lễ, sách Khải Huyền đã viết như thế,
nhưng hơn thế nữa, Ngài là Vị Thượng tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là
Đức Giêsu, Con Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là Vị Thượng
Tế duy nhất, nhưng Ngài cũng muốn chúng ta trở thành một dân thánh, một dân tư
tế như thánh Phêrô đã nói: “Hãy để cho Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá
sống động mà xây nên ngôi Đền thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em
làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức
Giêsu Kitô." Đó là ơn gọi của Kitô hữu. Chúng ta là một dân tư tế thánh.
Chúng ta là những kẻ được tuyển chọn để thành một dân tư tế. Như thế Giáo hội
chính là Đền thờ mới của Thiên Chúa."Hãy phá Đền thờ này đi." Đền thờ
Giêrusalem giờ này chỉ còn là kỷ niệm, là hình bóng của Đền thờ mới xây là thân
thể Chúa Kitô.
Tiến xa hơn, thánh
Phaolô, trong thư gởi giáo đoàn Côrintô cũng dạy rằng: “Anh em là Đền thờ của
Thiên Chúa” “Thân xác anh em là Đền thờ của Chúa Thánh Thần." Vinh dự cho
chúng ta biết bao! Nhưng mấy người đã hiểu được hồng ân cao quí này? Nhờ Chúa
Giêsu, chúng ta được nâng lên đến một địa vị cao quí mà chúng ta không hay
biết.
Thánh Phaolô còn nói: “Ai
phá hủy đền thờ của Thiên Chúa (là thân xác), Thiên Chúa sẽ hủy diệt người
ấy." Không có lời nào mạnh mẽ hơn! Vì thế, sống là sống cho Thiên Chúa và
chết là chết cho Thiên Chúa."Hãy dâng thân xác anh em làm của lễ đẹp lòng
Thiên Chúa." Chúng ta thuộc trọn về Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã tẩy sạch
Đền thờ Giêrusalem để cho chúng ta thấy rằng chúng ta cần tẩy sạch đền thờ của
chúng ta để xứng đáng làm tư tế để thờ phượng Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng
đã rất mực yêu thương chúng ta và đã thánh hiến chúng ta bằng phép rửa tội, đổ
tràn tình yêu Thánh Thần vào lòng chúng ta bằng phép Thêm sức, để chúng ta
thành con yêu dấu của Người. Xưa kia Thiên Chúa đã chọn dân Do Thái và dạy họ:
“Các ngươi hãy nên thánh vì Ta là Đấng Thánh." Thì hôm nay, hơn bao giờ
hết, chúng ta càng phải thánh thiện hơn để xứng đáng với tình yêu vô biên của
Người.
Mùa Chay chính là lúc
chúng ta lắng nghe lời Chúa chăm chú hơn, đi theo đường nẻo của Người, giữ lời
của Người như Chúa Giêsu đã giữ lời của Chúa Cha, sống hoàn toàn theo ý Cha.
Như thế, cuộc sống trần gian của chúng ta sẽ thành của lễ đẹp lòng Cha. Chúng
ta còn yếu đuối lỡ lầm, nhưng lòng thương xót của Cha trên trời còn rộng hơn sự
yếu hèn của chúng ta. Hãy tin tưởng bước tới trong Chúa Giêsu, vì Ngài là
đường, là sự thật và là sự sống. Hãy tìm về Ngài như nguồn tình thương vô biên
dành sẵn cho chúng ta. Đừng ngại ngùng cầm lấy dây thừng, đánh đuổi những kẻ
buôn bán làm nhơ nhớp Đền thờ của chúng ta. Chúa Giêsu đã gánh chịu tất cả vì
chúng ta, chúng ta hãy đi vào con đường hẹp là con đường hoán cải để có thể
cùng Ngài cứu vớt chính mình và anh em chúng ta, những người đang cần ơn cứu
độ. Chúa Giêsu mong mỏi biết bao thấy chúng ta dám cùng Ngài vác thập giá để
cùng sống lại với Ngài trong vinh quang!
Vác thập giá với Ngài
chúng ta cần được can đảm. Thánh Thể chính là của ăn Chúa ban cho chúng ta nhờ
đó chúng ta mạnh đủ để bước theo Ngài trên con đường hẹp Ngài đã đi. Hãy ăn lấy
Chúa chúng ta vì Ngài đã trao ban chính mình Ngài cho chúng ta. Ăn lấy Ngài để
như tiên tri Êlia xưa ăn bánh trong sa mạc và đã đi suốt bốn mươi đêm ngày đến điểm
hẹn.
Cuộc sống chúng ta vẫn
không dễ dàng, nhiều cam go thử thách đang chờ chúng ta trên mọi nẻo đường, hãy
ăn lấy lương thực hằng sống để đi đến điểm hẹn muôn đời. Vinh quang Chúa sẽ là
phần thưởng cho những ai dám theo Ngài đến cùng. Hãy tô điểm cho đền thờ tâm
hồn chúng ta bằng những bông hoa bác ái, khiêm nhu để đón chào tân lang của
chúng ta mỗi ngày. Có thể chúng ta còn ngại ngùng, e sợ, hãy nghe tiếng mời gọi
của tình yêu và tin tưởng. Chúa chúng ta là Thiên Chúa nhẫn nại nhẹ nhàng, Ngài
sẵn sàng tiếp đón chúng ta dù chúng ta không xứng. Hãy dành cho Ngài tất cả để
Ngài biến đổi tất cả thành tình yêu vì Ngài chính là Tình Yêu nhập thể.
14.
Hãy thanh tẩy đền thờ Chúa--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Lễ Vượt qua của người Do
thái thường diễn ra tại Đền thờ. Vào dịp này, Chúa Giêsu lên dự lễ, Người thấy
ở trong Ðền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi
đổi tiền bạc, Người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên
bò ra khỏi Đền thờ. Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế
của họ và bảo những người bán chim câu rằng: “Hãy đem những thứ này đi khỏi
đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). Chứng kiến cảnh
tượng Chúa làm, các môn đệ khám phá ra lòng nhiệt thành với nhà Cha nơi tâm hôn
Chúa Giêsu, họ liền nhớ lại câu Kinh Thánh: “Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ
thiêu đốt tôi” (Tv 69,10).
Thật là tệ! Đền thờ, nhà
của Thiên Chúa đã bị biến thành nơi chợ búa. Mục đồng thì mang cừu đến bán, kẻ
bán chim câu mong kiếm được vài đồng, kẻ giữ Đền thờ cũng vậy...
Đền thờ Giêrusalem
Luật Do thái cấm mua bán
nơi Ðền thờ. Tuy nhiên hàng tư tế quản trị Ðền thờ lại dung túng cho dịch vụ
này để nhằm chuộc lợi. Kẻ đổi tiền ăn bớt phần trăm, người bán coi đó như là
cách thế làm tiền, khiến người mua thì phải mua đồ lễ một cách bất đắc dĩ cho
việc dâng hiến, với giá cắt cổ thay vì mua ở ngoài theo giá thị trường. Các tư
tế cho đấu thầu hai dịch vụ này cũng có món tiền bỏ túi riêng. Thay vì nhắm đến
việc giúp những người từ xa đến khó có thể mang theo lễ vật để hiến dâng, cho
nên việc mua bán súc vật trong khu vực Ðền thờ là tiện lợi. Tiện lợi chứ không
hẳn là cần thiết, vì việc mua bán vẫn có thể thực hiện bên ngoài Ðền thờ. Nếu
tiện lợi, sao Ðức Giêsu lại tỏ ra khó chịu, lên tiếng cảnh giác những người buôn
bán súc vật và đổi tiền quanh Ðền thờ? Chúa đuổi họ, vì họ cũng như con buôn,
coi tiền bạc trọng hơn Thiên Chúa. Chúa lên tiếng cảnh giác họ: “Ðừng biến nhà
Cha tôi thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). Ðó là lời quở trách những nhà lãnh đạo
tôn giáo thời bấy giờ đã đồng lõa trong việc thương mại hoá và phàm tục hoá Ðền
thờ.
Chúa Giêsu là Đền Thờ
Thật ra, cơn giận của
Chúa Giêsu không nhằm chống lại những người buôn bán cho bằng chống lại chính
việc thờ phượng bị thương mại hóa theo kiểu ấy. Khi lật nhào các quày buôn bán,
Ngài lật đổ chính tôn giáo và phá hủy đền thờ. Hành động đó gây phẩn nộ cho tất
cả mọi người, nhất là khi biết rằng đền thờ Giêrusalem có một vị trí trong tâm
hồn mọi người Do thái. Họ hỏi Ðức Giêsu: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng
tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” (Mc 2,18) Và Ngài đáp: “Các ông cứ phá
hủy Ðền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Mc 2,19).
Thánh Gioan tường thuật
chi tiết chính xác quan trọng ấy. Đền thờ Chúa Giêsu nói đây chính là Thân thể
Người, hiện thân của Chúa Cha. Khi sánh ví Người là Đền Thờ, Chúa Giêsu khẳng
định chính mình là Đền Thờ Thiên Chúa Cha ngự trị. Chúa Giêsu chính là sự tôn
vinh Thiên Chúa. Theo thánh sử Gioan, chúng ta được tiên báo về cái chết và sự
sống lại của Ðức Kitô: thân thể của Người, vốn bị bạo lực của tội lỗi hủy hoại
trên thập giá, Thiên Chúa gặp gỡ con người qua sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Vì
thế, nhân tính của Người chính là Ðền Thờ đích thực, là nơi Thiên Chúa mặc khải
chính mình, để phán bảo và gặp gỡ con người; và những ai thờ phượng Thiên Chúa
đích thực không phải là những kẻ giữ cửa của Ðền thờ vật chất, cũng chẳng phải
những người nắm giữ quyền lực hay có kiến thức về tôn giáo, nhưng là những ai
thờ phượng Thiên Chúa trong “Thần Khí và sự thật” (Ga 4, 23).
Chúng ta là Đền thờ
Thánh Phaolô nói: “Anh em
không biết anh em là đền thờ của Thiên Chúa sao?.. Đền thờ của Thiên Chúa là
thánh thiêng, anh chị em cũng vậy” (1 Cr 3,16-17). Như thế, chân lý và phẩm giá
Thiên Chúa được liên kết với sự thật và phẩm giá con người. Thánh Phaolô cảnh
cáo: “Anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và ai xúc phạm Đền Thờ Thiên Chúa, thì
Thiên Chúa sẽ huỷ diệt kẻ ấy” (1Cr 3, 17).
Người ta xúc phạm đến Đền
Thờ của Thiên Chúa bằng nhiều cách. Nếu người Do thái xưa kia đã biến Đền Thờ
thành nơi buôn bán. Và Chúa Giêsu đã nổi giận đến nỗi thắt dây thừng thành roi
để đánh đuổi họ và lật đổ bàn ghế của họ. Ngày nay, có nhiều nơi dùng Thánh
Đường để buôn thần bán thánh, nhưng cách xúc phạm thông thường nhất là phạm đến
Đền thờ trong tâm hồn và thân xác của mỗi người và của tha nhân.
Phá thai là một hình thức
xúc phạm nặng nề đến Đền thờ Thiên Chúa. Không những xúc phạm, mà còn phá hủy
những Đền thờ nhỏ bé của Thiên Chúa, tước quyền Thiên Chúa là Đấng đã dựng nên
các thai nhi ấy theo hình ảnh của Ngài.
Linh hồn cũng là Đền thờ
Thiên Chúa. Chúng ta xúc phạm đến Đền thờ này bằng cách xúi dục người khác phạm
tội, làm dịp cho người khác phạm tội, làm gương mù cho người khác, nhất là trẻ
em (x. Mc 9:42), hay làm lơ không nhắc nhở khi mình có trách nhiệm. Có nhiều người
nghĩ rằng mình không làm hại ai là đủ rồi. Thật ra những người có trách nhiệm
giáo dục và hướng dẫn người khác, mà lơ là bổn phận của mình, cũng là xúc phạm
đến Đền Thờ của Thiên Chúa vì mình không chu toàn bổn phận bảo trì và xây dựng
những ngôi Đền Thờ mà Thiên Chúa đã trao cho.
Khi đuổi súc vật ra khỏi
đền thờ, Chúa Giêsu muốn ta hãy tiếp tục công việc của Người là gìn giữ đền thờ
bản thân chúng ta. Tâm hồn chúng ta là cung thánh Chúa ngự. Chúa biết rõ những
khao khát nồng nhiệt nhất của chúng ta: đó là được Ngài cư ngụ trong cõi lòng
mình, chỉ một mình Chúa thôi. Chúng ta hãy để cho Ngài bước vào cuộc đời, gia
đình, và cả cõi lòng của chúng ta nữa. Để được như thế Ta phải luôn luôn thanh
tẩy tâm hồn hầu xứng đáng với Chúa.
Lạy Mẹ Maria, nơi cư trú
đặc biệt của Con Thiên Chúa, xin đồng hành với chúng con và xin nâng đỡ chúng
con trong hành trình Mùa Chay này, để chúng con có thể tái khám phá ra vẻ đẹp
của cuộc gặp gỡ với Ðức Kitô, Ðấng sẽ giải thoát và cứu độ chúng con.
15.
Nơi chốn và phương thức phụng thờ đích thực--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
Việc tẩy uế đền thờ tạo
dịp để Đức Giêsu đề cập với giới lãnh đạo Do Thái về một đề tài rất nóng bỏng
và thiết thân đối với họ: phải phụng thờ Thiên Chúa như thế nào cho phải lẽ?
Thật vậy, đền thờ Giê-ru-sa-lem vốn là trái tim của cả dân tộc Do Thái, là nơi
họ dâng lễ vật phụng thờ lên Đức Chúa Gia-vê, đồng thời thanh tẩy mình khỏi tội
nhơ. Vì thế cho nên, khi Đức Giêsu thách thức: “Các ông cứ phá hủy đền thờ này
đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại!” thì các tư tế lập tức có những phản ứng
gay gắt; Nhưng ngược lại, các môn đệ qua đó lại dần nghiệm ra: đây mới chính là
mạc khải mới mẻ nhất mà Đức Giêsu, không chỉ tuyên bố xuông, mà còn thực tế
minh định bằng sự kiện Vượt Qua thập giá do chính Người thực hiện; ‘Khi Người
từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, và họ tin rằng…
Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói đây là chính thân thể Người’.
‘Làm thế nào thờ phượng,
hay đúng hơn, đi vào tương quan với Thiên Chúa cách chân thực nhất?’ hẳn đây là
vấn nạn thầm kín của rất nhiều tâm hồn tín hữu qua mọi thời đại. Các tư tế Do
Thái thì đinh ninh họ đã sở đắc được lời giải đáp quá rõ như ban ngày: cứ lên
đền thánh Giê-ru-sa-lem dâng tiến lễ vật theo luật định! Sau này người phụ nữ
Sa-ma-ri bình dân và tầm thường cũng sẽ nêu lên cùng một vấn nạn: “Cha ông
chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo:
Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa." Khi giải đáp
vấn đề thiết thân này, Đức Giêsu đã rất thẳng thừng tuyên bố, một lời công bố
mang tính cách mạng triệt để trong lãnh vực tôn giáo: “Giờ đã đến, và chính là
lúc này đây, những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần
khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên
Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí
và sự thật." (Ga 4:19-26)
Nối kết hai đoạn văn liên
quan tới đền thờ này lại với nhau, ta sẽ khám phá ra một mạc khải có tầm quan
trọng bậc nhất đối với hết thảy các tín hữu Kitô: nơi thờ phượng Thiên Chúa
xứng hợp nhất chính là con người Đức Kitô, và phương thức thích hợp nhất để tôn
thờ Chúa Cha đó là tôn thờ trong thần khí và sự thật. Nói cách khác, chỉ duy
nhất trong Đức Giêsu Kitô ta mới tôn thờ được Chúa Cha cách chân thực, và chỉ nơi
thâm sâu nhất của cõi lòng ta mới thực sự thờ phượng trong thần khí và sự thật.
- ‘Thần khí’,
nếu trong suy nghĩ của người Do Thái và Sa-ma-ri thần khí là sức mạnh của Đức
Chúa, thì Đức Giêsu chắc hẳn cũng đang đề cập tới một sức mạnh gì ghê gớm hơn
hẳn. Đúng vậy, đó là sức mạnh mà Người sẽ thực hiện cũng chính tại
Giê-ru-sa-lem, qua cái chết thập giá và sống lại của mình: sức mạnh của yêu
thương cứu độ. Thờ phương Chúa Cha trong ‘thần khí – sức mạnh’ của tha thứ và
xót thương thì chỉ có Kitô hữu mới làm được, nhờ đi vào cái chết thập giá của
Đức Giêsu.
- ‘Sự thật’,
đối với Kitô hữu sẽ không phải là thứ triết lý gì cao siêu, nhưng là một điều
rất cụ thể và thực tế mà ai cũng phải giáp mặt và có thể nắm bắt. Tông đồ
Gio-an đã từng khảng định: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta
tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta… Nếu chúng ta nói là chúng
ta đã không phạm tội, thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối, và lời của Người
không ở trong chúng ta” (1Ga 1:8-10). Sự thật đơn giản là thế đó! Quả vậy,
không thể phụng thờ một Chúa Cha đầy từ tâm và xót thương nếu không chân thành
và khiêm tốn nhìn nhận sự thật mười mươi ‘tôi đã phạm tội!’ Đó cũng là cách thờ
phương Thiên Chúa chân chính và độc đáo nhất mà chỉ các Kitô hữu mới có thể
tích cực chu toàn.
Đức Giêsu không chỉ muốn
‘tẩy uế’ đền thờ Giê-ru-sa-lem, Người thậm chí còn công khai yêu cầu phá bỏ nó
hoàn toàn để xây dựng lại một nơi thờ phượng mới, và phải thiết lập một phong
cách thờ phương mới. Phải chăng điều này đồng nghĩa tới việc kẻ phụng thờ phải
từ bỏ lề thói tôn thờ Thiên Chúa theo kiểu phụng tự với những nghi lễ rình rang
mà mọi các tôn giáo cổ điển đều làm, để triển khai một lối phụng thờ mới tập
trung vào một Thiên Chúa từ nhân và cứu độ, trong thái độ thẳng thắn và khiêm tốn
nhìn nhận con người tội lỗi và yếu hèn của mình, đồng thời kín múc lấy nguồn
nước hằng sống là ơn cứu độ của thập giá Đức Kitô? Công việc phá bỏ và xây dựng
mới này đương nhiên không thể thực hiện trong một sớm một chiều, vì “đền thờ
này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà trong ba ngày ông xây lại
được sao?” Phải, không thể nếu ta không dứt khoát, đặc biệt trong ba ngày thánh
thiêng nhất của năm phụng vụ, thật lòng đi vào của cuộc tử nạn và phục sinh của
Đức Kitô Giêsu.
Nếu sự thật là như thế thì
những ngày này của mùa chay sẽ quan trọng đối với các Kitô hữu chúng ta biết
bao. Ta phải dứt khoát thôi, để chuẩn bị mình cho việc thờ phượng chân chính
nhất được cử hành bên ngoài, nhưng nhất là bên trong cõi lòng ta… và được biểu
hiện cách tuyệt vời trong Thánh Lễ Thập Giá trên bàn thờ!
Lạy Thiên Chúa cứu độ,
xin dạy cho con biết tôn thờ Chúa trong thần khí và sự thật. Trước hết xin giúp
con can đảm phá hủy đền thờ Giê-ru-sa-lem (lề thói giữ đạo / đi nhà thờ) mà con
đã mất bao công sức xây dựng nên. Từ nay con muốn dứt khoát xây dựng ngôi đền
thờ mới là đi vào con đường thập giá: khiêm tốn nhìn nhận tội lỗi mình và mở
rộng lòng đón lấy ơn cứu độ. Như Phao-lô, con không muốn tôn thờ một Thiên Chúa
nào khác ngoài Đức Kitô thập giá. Amen.
16.
Hãy xem lại lối sống đạo của chúng ta--Jos. Vinc. Ngọc Biển, S. S. P.
Trước và sau tết Nguyên
Đán, người dân Việt Nam nói chung, nhất là miền Bắc, không ai lại không biết
đến ít nhiều lễ hội.
Theo thống kê 2009 trên
vi. wikipedia, hiện cả nước có 7. 966 lễ hội; trong đó có 7. 039 lễ hội dân
gian (chiếm 88,36%), 332 lễ hội lịch sử (chiếm 4,16%), 544 lễ hội tôn giáo
(chiếm 6,28%), 10 lễ hội du nhập từ nước ngoài (chiếm 0,12%), còn lại là lễ hội
khác (chiếm 0,5%). Các địa phương có nhiều lễ hội là Hà Nội, Bắc Ninh, Hà Nam,
Nam Định, Hải Dương và Phú Thọ.
Qua những lễ hội này,
chúng ta thấy được một phần nào truyền thống, văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Điều này rất bổ ích, nhất là cho thế hệ trẻ! Tuy nhiên, trong những năm gần
đây, có khá nhiều nơi đã lạm dụng lễ hội để kinh doanh, buôn bán và mê tín dị
đoan. Từ đó, kéo theo một loạt những hệ lụy không đẹp như trộm cắp, đánh đập,
chửi bới và hành xử thiếu văn hóa ngay chốn linh thiêng…, làm cho lễ hội nhuốm
màu trần tục!
Hôm nay, Tin Mừng cũng
thuật lại việc những nhà lãnh đạo tôn giáo thời Đức Giêsu đã biến đền thờ là
chốn linh thiêng, là nơi dành riêng để tôn thờ Thiên Chúa thành nơi buôn bán và
trao đổi tiền bạc. Thấy vậy, Đức Giêsu đã thẳng tay đánh đuổi để trả lại cho
đền thờ đúng với ý nghĩa của nó.
Qua đó, Ngài muốn dạy cho
chúng ta rất nhiều bài học sau biến cố này.
1. Lý do khiến Đức Giêsu
đánh đuổi con buôn
Đền thờ Giêrusalem là một
đền thờ nguy nga, tráng lệ vào bậc nhất thời đó. Đền thờ này được dùng vào việc
tôn thờ Thiên Chúa và là nơi quy tụ những người Dothái hằng năm vào dịp lễ Vượt
Qua.
Câu chuyện căng thẳng
giữa Đức Giêsu và dân chúng đã xảy ra đúng vào thời điểm này.
Khởi đi từ việc Đức Giêsu
quan sát và thấy được người ta đổi tiền, mua bán súc vật ngay trong đền thờ,
làm cho đền thờ trở nên ô uế!
Điều đáng nói là: theo
quy định, những con vật được dùng vào việc tế lễ phải là con vật lành lặn không
tỳ vết. Những người chính thức được các chức sắc chỉ định mới đủ thẩm quyền để
tuyên bố con vật xứng đáng sau khi đã kiểm tra! Tuy nhiên, con vật đủ kiều kiện
để dùng vào việc tế lễ phải là con vật được mua trong nơi quy định của các tư
tế và nó sẽ đắt gấp 15 lần so với bên ngoài. Hơn nữa, người mua còn phải trả
một loại phí không nhỏ cho những người kiểm tra!
Bên cạnh đó, nơi đây còn
diễn ra chuyện đổi tiền. Theo luật thì buộc mỗi người Dothái phải nộp thuế cho
đền thờ từ 19 tuổi trở lên. Tiền thuế phải nộp là nửa siếc-lơ, tương đương với
hai ngày lương công nhật.
Vì là lễ Vượt Qua không
chỉ dành riêng cho người Dothái tại chỗ, mà còn cho cả những người Dothái ở nhiều
nơi khác hội tụ về, nên tiền họ mang theo cũng đủ loại…. Nhưng tiền nộp vào đền
thờ lại chỉ được chấp nhận là thứ tiền của người Dothái, vì họ cho rằng chỉ có
tiền này mới xứng đáng để nộp thuế đền thờ, các thứ tiền khác là ô uế!
Chính vì lý do đó nên việc
đổi tiền đã diễn ra tại nơi đây với giá cắt cổ.
Chứng kiến cảnh tượng đó,
cộng thêm: “Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa hun đúc tâm hồn”(Tv 68. 10), nên
Đức Giêsu đã bừng bừng nổi giận. Thánh Gioan cho biết là Ngài đã lấy dây bện
thành một ngọn roi xua đuổi bọn họ và đạp đổ tung thùng tiền (x. Ga 2, 14-17).
Khi có hành vi ấy, Đức
Giêsu cho thấy những hệ lụy đầy bất công của những kẻ lãnh đạo tinh thần thời
bấy giờ, đó là: họ đã nhân danh tôn giáo để đè đầu cưỡi cổ và bóc lột dân, nên
Ngài đã không thể chấp nhận tình trạng ấy diễn ra ngay tại nơi dành riêng để
tôn thờ Thiên Chúa, vì thế, Đức Giêsu nói: “Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn
bán” (Ga 2,16). Lời cảnh cáo này của Đức Giêsu cho thấy Ngài đã nhắc lại lời
của Ngôn Sứ Isaia khi xưa: “Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các
ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp” (Is 56,7).
2. Thực trạng đời sống
đạo của chúng ta
Khi xua đuổi những người
buôn bán ra khỏi đền thờ, Đức Giêsu mặc khải và dạy cho chúng ta những bài học
thật bổ ích, đó là:
Cần cẩn trọng và đừng nên
mừng vội khi thấy mỗi Chúa Nhật và các dịp lễ trọng, người đi lễ nườm nượp và
ngồi chật kín cả nhà thờ, nhất là tuần làm phúc (trước Tuần Thánh) và Tuần
Thánh. Có lẽ về khía cạnh này, Giáo Hội Việt Nam đứng đầu bảng trên toàn thế
giới. Đây là một tín hiệu rất đáng mừng và rất nên khuyến khích cũng như phát
huy.
Tuy nhiên, điều đáng tự
hào ấy lại cần phải xem xét lại, vì biết bao nhiêu người chỉ tập chung vào
những chuyện bên ngoài như đi “xem lễ” chứ không “sống thánh lễ” trong đời sống
của mình.
Lại có những người siêng
năng tham dự thánh lễ và chăm chú nghe giảng rồi lên rước lễ rất sốt sắng như
thiên thần. Nhưng khi ra khỏi nhà thờ, họ sẵn sàng chửi bới, nói hành nói xấu,
buôn gian bán lận, ăn chơi trác táng… không khác gì dân chơi thứ thiệt hạng
sang ngoài đời! Hơn nữa, việc đi lễ, thuộc kinh là một chuyện, còn chuyện coi
bói, xem quẻ, thờ ông địa, bái gốc đa, khấn gốc gạo với viện cớ rằng: “Có thờ
có thiêng, có kiêng có lành…” lại là chuyện thường tình xảy ra hằng ngày ngay tại
các cộng đoàn tín hữu với những sinh hoạt tôn giáo sầm uất!
Và, vẫn còn đó những
người rất năng nổ tham gia chuyện quyên góp để xây dựng những công trình tôn
giáo, nhưng đền thờ tâm hồn lại không màng chi đến hoặc có quan tâm thì cũng
chẳng khác gì cưỡi ngựa xem hoa! Vì thế, việc xây dựng đền thờ tâm hồn với
những nét đẹp như: từ bi, nhân hậu, bao dung, tha thứ, xây dựng tình huynh đệ,
tạo sự hiệp nhất, liên đới, cảm thông…, thì lại quá xa lạ đối với những người
xem ra có vẻ đạo đức ấy!
Hơn nữa, điều đáng buồn
nhất, đó là nhiều khi chúng ta lại đi lại chính vết xe của những nhà lãnh dạo
tôn giáo khi xưa, đó là: nhân danh lề luật, tôn giáo và nhân danh Thiên Chúa để
làm bình phong, nhằm ngụy trang cho những thói lưu manh, gian dối bẩn thỉu của
mình!!!
Tắt một lời, tin Chúa như
vậy là hình thức, là vỏ bọc, là đầu môi chóp lưỡi, còn thực chất bên trong là
rỗng tuếch! Tin Chúa như vậy được ví như tin có mùa vụ. Tin lúc thuận tiện. Tin
khi có lợi mà thôi….
3. Sứ điệp Lời Chúa
Bài học cho chúng ta hôm
nay chính là: ngoài việc tôn kính nhà thờ, nhà nguyện là nơi dành riêng để thờ
phượng Thiên Chúa, chúng ta còn có một đền thờ khác, đó là đền thờ thân xác của
mỗi người. Thánh Phaolô nói: “Thân xác anh em là đền thờ Thiên Chúa” (1 Cor 3,
16).
Vì vậy, mỗi người chúng ta
phải có bổn phận xây dựng cho mình một ngôi đền thờ xứng đáng để cho Thiên Chúa
ngự. Ngôi đền thờ này phải được xây dựng bằng nền móng vững chắc là đức tin và
lòng mến thật tâm. Cần phải được trang trí bằng những việc đạo đức, bác ái,
khoan dung, quảng đại, thông cảm và tha thứ.
Mặt khác, chúng ta đang
sống trong Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy canh tân để đổi mới. Canh
tân lối sống cũ không phù hợp với giá trị Tin Mừng. Đổi mới từ con người tội
lỗi, hình thức, hào nhoáng bên ngoài thành con người có chiều sâu nội tâm bên
trong qua việc ăn năm sám hối thật lòng….
Ước gì sứ điệp Lời Chúa
hôm nay được chúng ta mở rộng tâm hồn để đón nhận và sống sao cho thật đẹp lòng
Chúa, ngõ hầu xứng đáng là đền thờ cho Thiên Chúa Ba Ngôi ngự. Amen.
17.
Thanh tẩy đền thờ tâm hồn--Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Trên tờ tuổi trẻ Online
Thứ Năm, 12/3 có bài viết của tác giả Trần Thị Thanh với nhan đề: "Rãi
tiền lẻ khắp đền chùa!." Trong đó có đoạn viết: "Cứ mỗi dịp gần tết
kéo dài đến tháng ba (âm lịch) hằng năm, cổng chùa lại léo xéo cảnh đổi tiền lẻ
vào lễ chùa. Những tờ tiền 200, 500 đồng được đổi thành từng cục như viên gạch
mộc, cứ "10 ăn 8 hoặc 10 ăn 7." Tức 100. 000 đồng tiền chẵn thì đổi
được 70. 000 hoặc 80. 000 đồng loại chuyên dùng để "sắp lễ" (200, 500
đồng). Không biết bao nhiêu triệu đồng tiền "bé" được quay vòng cả
năm không chán: người đi lễ đổi tiền, tiền ấy được ném vào xó xỉnh, cài vào
chân tay, nách, đùi của các pho tượng đẹp nổi tiếng của quốc gia; rồi nhà chùa
xách túi hoặc rổ rá đi gom tiền ấy lại đem ra đổi ngoài cổng chùa. Và vòng quay
lại bắt đầu.
Chỉ xót thương cho văn
hóa đi chùa và xót thương cho "viên ngọc điêu khắc và kiến trúc" chùa
Mía đã bị những đồng tiền của người "đồng cốt quàng xiên" làm mất vẻ
trang nghiêm, thanh tịnh. Du khách, người có liêm sỉ đều thấy xao xác cái cảm
giác thần linh bị báng bổ. Ông ngọc hoàng, ngài thiên lôi, bà Liễu Hạnh, rồi
đến ông Quan Công, bà bồ tát, 18 vị la hán, tất tật đều bị ép ngồi ôm (hoặc
trông nom)... tiền lẻ.
Đáng sợ, đã thành 'đại
dịch' kinh niên, ở Bắc Ninh có đền thờ Bà Chúa Kho, nạn sắp lễ bằng tiền rồi
rải khắp di tích đã trở thành công nghệ. Dài dằng dặc khu vực đường dẫn vào đền
là chi chít biển quảng cáo cho dịch vụ đổi tiền, sắp lễ. Níu kéo, chèn ép, lừa
lọc, chửi bới cũng là bởi sắp tiền lẻ.... Cái lệ 'mua thần bán thánh' kiểu này
diễn ra ở rất nhiều đền, chùa."
Đọc bài viết này làm tôi
liên tưởng đến một cảnh tượng thậm chí còn bát nháo hơn thế đang diễn ra ngay
tại một nơi cực kỳ thánh thiêng đối với Dân Dothái, đó là Đền thờ Giêrusalem
vào thời Chúa Giêsu.
Quả vậy, chúng ta biết
rằng Đền thờ Giêrusalem là trung tâm đời sống tôn giáo của dân tộc Do Thái. Nó
được coi như con ngươi của đạo Giavê Thiên Chúa. Tuy nhiên theo thời gian, Đền
Thờ ấy đã bị tục hoá, bị giải thiêng nhiều mặt vì nạn buôn thần bán thánh và
thói ham danh ham lợi của một số người. Điều này khiến Chúa Giêsu nỗi giận, cơn
giận mà người ta gọi là cơn giận thánh. Ngài đã thực hiện ngay một cuộc thanh
tẩy quyết liệt nhằm trả lại ý nghĩa đích thực của Đền thờ; đồng thời qua đó, Ngài
cũng muốn mạc khải một đền thờ sống động hơn, đó chính là Thân thể Ngài.
Đọc lại lịch sử dân
thánh, ta thấy Đền Thờ Giêrusalem mang nhiều ý nghĩa nghĩa rất quan trọng:
- Trước hết,
Đền thờ Giêrusalem là địa chỉ của sự gặp gỡ nối kết. Từ xa xưa,
người Do thái vẫn xem đền thờ Giêrusalem là dấu chỉ sự hiện diện hữu hình của
Thiên Chúa ở giữa dân Người. Nói cách khác, Đền Thờ là nơi Thiên Chúa hiện diện
và gặp gỡ con người; đồng thời cũng là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa và gặp
gỡ nhau. Gặp gỡ để phượng thờ, cảm tạ, chúc tụng, tôn vinh Thiên Chúa, đặc biệt
là vào các ngày Sabát và các ngày đại lễ.
Thế nhưng, một số người
đã biến nó thành nơi nhếch nhác của những kẻ tụ tập buôn bán và đổi chác. Chúa
Giêsu xua đuổi những kẻ lạm dụng này ra khỏi Đền Thờ là để trả lại chổ đứng của
nó, vốn là "Nhà cầu nguyện."
- Thứ đến, Đền
thờ Giêrusalem là dấu chứng của tình yêu thương hiệp nhất. Quả thế, Đền
Thờ Giêrusalem là nơi biểu lộ rõ nét nhất tình yêu của Giavê Thiên Chúa đối với
dân Người và đồng thời cũng là nơi hiệp nhất muôn dân nước: "Từ muôn
phương ta về đây sánh vai lên đường, đường đưa ta đi lên Đền Chúa ta...."
Thế mà các giới chức Do
thái đã biến thành nơi cạnh tranh, kèn cựa, xô bồ và phận biệt đối xử (phụ nữ,
dân ngoại, kẻ tội lỗi.... ). Chúa Giêsu đã lật nhào, xô đổ tất cả nhằm thanh
tẩy Đền thờ khỏi những điều bất xứng, cách riêng là khu vực dân ngoại. Từ nay,
mọi người không phân biệt sắc tộc, tôn giáo... đều được tôn trọng và đón nhận.
Đối với Chúa Giêsu, Đền Thờ phải là nơi dành cho hết mọi người.
- Sau nữa, Đền
thờ Giêrusalem còn là biểu tượng của sự thánh thiêng. Khi nói đến sự
thánh thiêng, người Do thái thường nói đến Đền Thờ. Vì đối với họ, không có nơi
nào khác ngoài Đền Thờ, con người có thể tìm được tất cả những gì là thiêng
thánh và siêu việt của cõi thiên giới. Bởi đó chúng ta không ngạc nhiên gì khi
thấy người Do Thái khi phải thề thốt một điều gì quan trọng, họ thường lấy Đền
Thờ Giêrusalem mà thề.
Tuy nhiên, Đền Thờ ấy đã
bị làm cho ô uế bằng đủ mọi thứ dối gian, trở thành nơi trục lợi, chổ mua danh,
chốn lạm quyền, v. v... Trước thực trạng đó, Chúa Giêsu đã xua đuổi tất cả
những kẻ làm cho Đền Thờ bị ô nhơ, nhằm trả lại sự thánh thiêng cho Đền Thờ.
Đồng thời qua hành động và lời nói của mạnh mẽ của mình, Chúa Giêsu muốn mạc
khải một đền thờ sống động hơn, đó chính là Thân thể của Ngài.
Đức Kitô chính là Đền thờ
sống động, nơi
Ngài chúng ta tìm được 3 ý nghĩa trên một cách tròn đầy nhất.
- Trong Đức
Kitô, chúng ta được gặp gỡ Thiên Chúa là Cha và được nối kết với mọi người là
anh em. Trong Đức Kitô, chúng ta có thể thưa lên "Aba"- lạy
Cha, và đối xử với nhau như anh chị em con cùng một Cha trên trời.
- Trong Đức
Kitô, chúng ta nhận được tình yêu tràn đầy mà Thiên Chúa dành cho nhân loại và
hiệp nhất nên một với nhau, như lời Vinh Tụng Ca mà chúng ta thường
nghe đọc: "Chính nhờ Người, với Người và trong Người, mà mọi chúc tụng và
vinh quang đều qui về Chúa là Cha toàn năng trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh
Thần đến muôn đời."
- Trong Đức
Kitô, chúng ta cũng tìm lại được sự thánh thiện nguyên thuỷ dư đầy của mình vốn
là hình ảnh của Thiên Chúa, mà Ađam và Evà đã đánh mất khi phạm tội.
Và trong Đức Kitô, chính
chúng ta cũng đã trở nên đền thờ sống động đã được thánh hiến ngày chúng ta
lãnh nhận phép Thánh Tẩy. Thánh Phaolô đã minh định điều này với giáo đoàn Côrintô:
"Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần ngự trong đền thờ
ấy." Đó là một hồng ân cao cả Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta qua
Con Một yêu dấu của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền
thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm đá quý. Bởi lẽ
đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có xinh đẹp và đồ sộ thế nào đi chăng nữa thì một ngày
kia, cũng sẽ tiêu tan. Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn chúng ta mới là đền
thờ vững bền.
Vậy hằng ngày chúng ta đã
thực sự sống xứng đáng là đền thờ Thiên Chúa ngự chưa? Hay chúng ta đang làm
cho đền thờ tâm hồn mình ra nhơ uế bởi những tính toan ích kỷ, bởi lòng ghen
tị, óc thành kiến hẹp hòi và bao nhiêu thói hư tật xấu khác?
Xin Chúa Giêsu hằng yêu
thương thanh tẩy đền thờ tâm hồn của chúng ta mỗi ngày, đặc biệt trong Mùa Chay
thánh này. Xin Ngài tiếp tục xua đuổi, lật nhào khỏi lòng trí chúng ta những gì
làm cho tâm hồn ra ô nhơ và trả lại cho Chúa Thánh Thần một nơi xứng hợp để
Ngài ngự vào. Amen.
18.
Làm mới đền thờ tâm hồn--Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Trong những năm gần đây,
báo chí thường chạy những bài phóng sự về cảnh tượng xô bồ nơi các đền chùa
trong những dịp lễ hội đầu năm: nào là chen lấn xô đẩy để lĩnh ấn Đền Trần, nào
là buôn bán chặt chém khách hành hương Chùa Hương, nào là hỗn loạn xin lộc đền
bà Chúa Kho, v. v... Mục đích đi chùa chiền là để cầu an, hay cầu tài, cầu lộc.
Nhưng nhiều khi tài lộc đâu không thấy mà thấy mất tiền vì bị kẻ gian móc túi,
hay bị những người bán hàng chặt chém. An bình đâu không thấy chỉ thấy bất an
vì bị chen lấn, xô đẩy, bị văng tục khi không mua hàng của người mời hay mua
cho người này mà không mua cho người kia, v. v... Thế mới thấy rằng chính não
trạng vụ lợi muốn biến thần thánh thành công cụ phục vụ lòng ham muốn của mình
đã mở đường cho việc thương mại hoá những giá trị cao quý linh thiêng của văn
hoá và tín ngưỡng.
Cũng với não trạng ấy,
người Do Thái xưa kia đã biến sân Đền Thờ Giêrusalem, một nơi thánh thiêng,
thành một nơi bát nháo để trao đổi buôn bán, nhằm trục lợi. Là Con Thiên Chúa
và là Đấng Thánh, Chúa Giêsu không chấp nhận để Đền Thờ, “nhà của Cha Ngài,” bị
tục hoá, giải thiêng, và làm cho trở nên ô uế. Ngài đã hành động thẳng thắn để
trả lại ý nghĩa đích thực của nó; đồng thời Ngài muốn mạc khải một đền thờ sống
động hơn, đó chính là Thân thể của Ngài.
Đọc lại lịch sử dân
thánh, ta có thể thấy Đền Thờ Giêrusalem mang ba ý nghĩa rất quan trọng sau
đây:
1. Trước hết, Giêrusalem
là địa chỉ của sự gặp gỡ nối kết.
Từ xa xưa, người Do thái
vẫn xem đền thờ Giêrusalem là dấu chỉ sự hiện diện hữu hình của Thiên Chúa ở
giữa dân Người. Nói cách khác, Đền Thờ là nơi Thiên Chúa hiện diện và gặp gỡ
con người; đồng thời cũng là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa và gặp gỡ nhau.
Gặp gỡ để phượng thờ, cảm tạ, chúc tụng, tôn vinh Thiên Chúa, đặc biệt là vào
các ngày Sabát và các ngày đại lễ.
Thế nhưng, một số người
đã biến nó thành nơi nhếch nhác của những kẻ tụ tập buôn bán và đổi chác. Chúa
Giêsu xua đuổi những kẻ lạm dụng này ra khỏi Đền Thờ là để trả lại chổ đứng của
Đền Thờ, vốn là “Nhà cầu nguyện”, nhà của sự gặp gỡ và nối kết giữa Thiên Chúa
và con người.
2. Thứ đến, Giêrusalem
còn là dấu chứng của tình yêu và hiệp nhất.
Quả không sai khi nói
rằng Đền Thờ Giêrusalem là nơi biểu lộ rõ nét nhất tình yêu của Giavê Thiên
Chúa đối với dân Người, đồng thời cũng là nơi hiệp nhất muôn dân nước. Thánh
Vịnh Lên Đền 122 đã nói lên ý nghĩa này: “Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi:
‘Ta cùng trẩy lên Đền thánh Chúa!’ Và giờ đây, Giêrusalem hỡi, cửa nội thành,
ta đã dừng chân."
Thế mà các giới chức
Dothái đã biến thành nơi cạnh tranh, kèn cựa, xô bồ và phận biệt đối xử (phụ
nữ, dân ngoại, kẻ tội lỗi…). Chúa Giêsu đã lật nhào, xô đổ tất cả nhằm thanh
tẩy Đền thờ khỏi những điều bất xứng, cách riêng là khu vực dân ngoại. Từ nay,
mọi người không phân biệt sắc tộc, tôn giáo … đều được tôn trọng và đón nhận.
Tắt một lời, Đền Thờ phải là nơi dành cho tất cả mọi người.
3. Sau nữa, Giêrusalem
còn là biểu tượng của sự thánh thiêng tinh tuyền.
Khi nói đến sự thánh
thiêng, người Do thái thường nói đến Đền Thờ. Vì đối với họ, không có nơi nào
khác ngoài Đền Thờ, con người có thể tìm được tất cả những gì là thiêng thánh
và siêu việt của cõi thiên giới. Bởi đó ta không ngạc nhiên khi thấy người Do
Thái khi phải thề thốt một điều gì quan trọng, họ thường lấy Đền Thờ Giêrusalem
mà thề.
Tuy nhiên, Đền Thờ ấy đã
bị làm cho ô uế bằng đủ mọi thứ dối gian, trở thành nơi trục lợi, chỗ mua danh,
chốn lạm quyền, v. v... Trước thực trạng đó, Chúa Giêsu đã xua đuổi tất cả
những kẻ làm cho Đền Thờ bị ô nhơ, nhằm trả lại sự thánh thiêng cho Đền Thờ.
Đồng thời, qua hành động và lời nói của mạnh mẽ của mình, Chúa Giêsu muốn mạc
khải một đền thờ sống động hơn, đó chính là Thân Thể của Ngài.
Quả vậy, Đức Kitô chính
là Đền thờ sống động, nơi Ngài chúng ta tìm được ba ý nghĩa trên một cách tròn
đầy nhất.
- Trong Đức
Kitô, chúng ta được gặp gỡ Thiên Chúa là Cha và
được nối kết với mọi người là anh em. Trong Đức Kitô, chúng ta có thể thưa lên
“Aba” - lạy Cha, và đối xử với nhau như anh chị em con cùng một Cha trên trời.
- Trong Đức
Kitô, chúng ta nhận được tình yêu tràn đầy mà Thiên Chúa dành cho
nhân loại và hiệp nhất nên một với nhau, như lời Vinh Tụng Ca mà chúng ta
thường nghe đọc: “Chính nhờ Người, với Người và trong Người, mà mọi chúc tụng
và vinh quang đều qui về Chúa là Cha toàn năng trong sự hiệp nhất của Chúa
Thánh Thần đến muôn đời."
- Trong Đức
Kitô, chúng ta cũng tìm lại được sự thánh thiện nguyên thuỷ dư đầy
của mình vốn là hình ảnh của Thiên Chúa, mà Ađam và Evà đã đánh mất khi phạm
tội vì bất phục tùng.
Hãy nhớ rằng trong Đức
Kitô, chính chúng ta cũng đã trở nên đền thờ sống động đã được thánh hiến ngày
chúng ta lãnh nhận phép Thánh Tẩy. Thánh Phaolô đã minh định điều này với giáo
đoàn Côrintô: “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự
trong đền thờ ấy." Đó là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa dành cho mỗi
người chúng ta qua Con Một yêu dấu của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa yêu
thích ngự nơi đền thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm
đá quý. Bởi lẽ đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có nguy nga đồ sộ như Đền thờ Giêrusalem
đi chăng nữa, cũng đã tiêu tan. Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn chúng ta
mới là đền thờ bền vững thiên thu. Thế nhưng hằng ngày chúng ta đã thực sự sống
xứng đáng là đền thờ Thiên Chúa ngự chưa? Hay chúng ta đang làm cho đền thờ tâm
hồn mình ra nhơ uế bởi những tính toan ích kỷ, bởi lòng ghen tị, óc thành kiến
hẹp hòi, và bao nhiêu thói hư tật xấu khác?
Mùa Chay là thời gian
thuận tiện để ta làm mới lại tâm hồn của mình. Xin Chúa Giêsu tiếp tục yêu
thương thanh tẩy tâm hồn chúng ta mỗi ngày. Xin Ngài tiếp tục xua đuổi và lật
nhào những gì làm cho tâm hồn chúng ta ra ô nhơ để trả lại cho Chúa Thánh Thần
một nơi xứng hợp để Ngài ngự vào. Amen.
19.
Thân xác chúng ta là đền thờ cần được thanh tẩy--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Chúa Giêsu rất mực hiền
lành và Người cũng là mẫu mực của sự hiền lành như lời Người mời gọi: "Hãy
học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng." (Mt
11, 29)
Khi Chúa Giêsu và các môn
đệ bị người dân xứ Sa-ma-ri-a ngăn chặn không cho đi qua làng của họ để tiến về
Giê-ru-sa-lem, Giacôbê và Gioan nổi giận đùng đùng, đòi khiến lửa trời thiêu
đốt làng mạc của chúng. Thế nhưng Chúa Giêsu liền quở trách Giacôbê và Gioan vì
lối xử sự nóng nảy mang tính gây hấn nầy. (Lc 9, 54)
Khi bị người đời phê phán
là người mất trí (Mc 3, 21), là kẻ nói phạm thượng (Mt 9, 3), là người lấy phép
của tướng quỷ mà trừ quỷ (Mt 9, 34), là người bị quỷ ám (Ga 7,20), là người dại
dột; Chúa Giêsu vẫn bình thản như không.
Nhất là trong cuộc thương
khó, dù bị lăng nhục hành hạ đủ điều, bị chế nhạo đủ cách, Chúa Giêsu vẫn nín
lặng và thản nhiên. Khi chịu treo trên thập giá đớn đau tủi nhục lại còn bị chế
giễu nhạo cười, Chúa Giêsu chẳng những không nóng giận mà lại còn cầu xin Chúa
Cha tha thứ cho kẻ hành hạ và đóng đinh Người.
Tóm lại, Chúa Giêsu là
Đấng rất dịu hiền và rất bao dung khiến ta nghĩ rằng Người không hề nổi giận
bao giờ.
Dù rất hiền lành, Chúa
Giê-su cũng không thể khoan dung với việc tục hoá đền thờ.
Vậy mà khi vào đền thờ
Giê-ru-sa-lem, thấy người ta làm ô uế đền thờ thì Người không thể nào chịu nổi.
Người nổi giận thật sự. Tin Mừng Gioan ghi lại: "Người thấy trong Đền Thờ
có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người
liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền
Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế
của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra
khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán." (Ga 2, 14-16)
Thật không ngờ! Một Chúa
Giêsu rất mực hiền lành khiêm nhượng. Đấng mà 'cây lau bị giập, Người không
đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi' (Mt 12,20) giờ đây đã nổi trận
lôi đình, phải dùng roi vọt và biện pháp cứng rắn đối với những người xúc phạm
đến sự linh thánh của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.
Điều đó chứng tỏ rằng đối
với Chúa Giêsu, việc làm ô uế Đền Thờ là một xúc phạm nặng nề mà Người vốn rất
nhân từ và bao dung cũng không thể nào chịu đựng nổi!
Thân thể chúng ta là đền
thờ của Thiên Chúa.
Thế nhưng còn một đền thờ
khác còn cao trọng hơn đền thờ Giê-ru-sa-lem xưa. Đó là đền-thờ-thân-xác chúng
ta. Thánh Phao-lô khẳng định: "Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền
Thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? (I Cor 3,16),
hoặc: "Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh
Thần sao? (I Cor 6, 19)
Chúa Giêsu cũng dạy rằng
thân xác chúng ta là đền thờ cho Ba Ngôi ngự trị: "Ai yêu mến Thầy và tuân
giữ lời Thầy, thì Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng ta (tức Ba Ngôi Thiên
Chúa) sẽ đến ngự trong người ấy." (Ga 14, 23)
Chính vì yêu quý
đền-thờ-thân-xác chúng ta quá đỗi nên Chúa Giêsu sẵn sàng chuộc lại bằng giá
máu của Người, đã thánh hoá nó bằng lời hằng sống và hiến ban Thịt Máu Người
trong bí tích thánh thể để bồi bổ nó nên vạn lần cao đẹp.
Điều đó chứng tỏ rằng đối
với Thiên Chúa thì thân xác con người là đền thờ vô giá!
Vì thế, nếu hôm xưa người
Do-thái làm ô uế đền thờ Giê-ru-sa-lem khiến Chúa Giêsu đau lòng một phần, thì
hôm nay, nếu có ai làm cho đền thờ cao quý là thân xác các môn đệ Người ra nhơ
uế thì Người đau xót gấp trăm. Thế nên, Người nghiêm khắc lên án những người
nầy: "Ai làm cho một kẻ nhỏ tin vào Thầy vấp phạm, (tức là làm hư hại
đền-thờ-thân-xác người khác), thì thà lấy cối đá cột vào cổ người ấy rồi xô
xuống biển còn hơn."
Thánh Phao-lô cũng quả
quyết: "Ai phá huỷ Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt người
ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em."
(1Cr 3, 13-17)
Hãy sớm thanh tẩy đền thờ
thân xác mình
Lời Chúa hôm nay mời gọi
mỗi người chúng ta hãy nhìn thật sâu vào nội tâm kín ẩn của mình để truy tìm
những điều làm cho chúng ta ra nhơ uế và quyết tâm thanh tẩy tâm hồn, vì
"từ trong lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại
tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống. Đó mới là những cái làm cho
con người ra ô uế" (Mt 15, 19-20)
Ngoài ra, chúng ta phải
tôn trọng thân xác chúng ta là đền thờ Thiên Chúa, được Chúa Giêsu cứu chuộc,
được Chúa Thánh Thần xức dầu thánh hiến, được Ba Ngôi Thiên Chúa vui thích chọn
làm nơi ngự trị. Phải trang điểm đền thờ thân xác chúng ta bằng những đức tính
tốt; phải nâng cấp bản thân bằng rèn luyện cho mình những phẩm chất cao đẹp cho
xứng với danh hiệu đền thờ cao quý của Thiên Chúa Ba Ngôi.
20.
Sự lạm dụng thân xác--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Từ ngày 06 đến
11/02/2012, chúng tôi có dịp tham quan Singapor và Malaysia. Ở đất nước của họ
thật văn minh hiện đại, nhưng xem ra lại không có cái nhìn tích cực về người
con gái Việt Nam. Tôi đã chứng kiến một cô gái Việt Nam bị từ chối nhập khẩu
tại hải quan Singapor vì nghi ngờ qua đây làm nghề mại dâm. Điều này khiến tôi
cảm thấy khó chịu với nhân viên hải quan Singapor khi từ chối cô gái vào
Singapor chỉ vì cô ta mang theo quá ít tiền (200USD) mà cho rằng qua đây để bán
thân. Nhưng rồi vào tối ngày 09/02/2012 khi ngồi xem tivi đài Malaysia, tôi mới
cảm thấy thật xấy hổ khi đài truyền hình của họ thông báo đã bắt được một ổ mại
dâm toàn là các cô gái Việt Nam. Quả thực, nhìn lên truyền hình tôi thấy có tất
cả 11 cô gái Việt Nam bị dắt lên xe cảnh sát vì tội hành nghề mại dâm.
Thật đau xót cho hình ảnh
người con gái Việt Nam: Công - dung - ngôn - hạnh của truyền thống Việt Nam nay
còn đâu! Những đức tính này đang bị lu mờ bởi nhiều cô gái Việt nam hôm nay
đang cố gắng tu sửa thân xác của mình để kiếm tiền chứ không trau dồi nhân đức.
Người ta dùng thân xác để kiếm tiền mà bỏ qua nhân phẩm con người. Người ta
trau truốt vẻ đẹp thân xác hơn là vẻ đẹp tâm hồn. Người ta cũng bỏ công sức
nhiều cho sắc đẹp nhưng trau dồi nhân cách thì lại dửng dưng xem thường. Cha
ông ta bảo rằng: "Cái nết đánh chết cái đẹp", nhưng đời con cháu hôm
nay thì dường như: "cái đẹp đang đè bẹp cái nết." Người ta chuộng cái
đẹp nhiều hơn cái nết vì cái đẹp mang lại lợi nhuận còn cái nết đâu mang lại
lợi nhuận kinh tế cho ai? Trong các lễ hội, kể cả cưới xin người ta đều tôn
vinh trai tài - gái sắc nhưng có mấy ai tôn vinh vẻ đẹp tôn hồn? Cái đẹp là dấu
chỉ của giầu sang và cũng là cơ hội giầu sang của biết bao cô gái chân dài? Vì
thế mà người ta bất chấp lợi nhuận miễn sao có thể lợi dụng vẻ đẹp thân xác
thành một món hàng để trao đổi, mua bán, làm ăn...
Ngày nay, người ta nói
nhiều về việc suy thoái đạo đức, nhưng điểm suy thoái nguy hiểm nhất vẫn là suy
thoái về nhân phẩm con người. Thân xác con người là đền thờ của Chúa đã bị tục
hoá vì thói đời hưởng thụ hôm nay. Người ta xem thân xác chỉ là một món hàng để
có thể trao đổi, mua bán, lạm dụng... mà không cần bàn tới luân thường đạo lý.
Khi thân xác chỉ là món đồ hàng thì người ta cố gắng trang trí cho đẹp, cho
lộng lẫy, cho kiêu sa để bắt mắt, để thu lời mà quên rằng cái đẹp chỉ được tôn
vinh khi có duyên thắm đi cùng. Người đẹp nhưng lòng dạ xấu xa chắc chắn cũng
bị xem thường.
Sự lạm dụng thân xác để
hưởng thụ không chỉ ở chợ đời mà còn len lỏi vào cả trong sân Chúa, Nhà Thờ là
nơi trang nghiêm, linh thánh cũng bị tục hoá bởi những lối sống của một số
thành phần suy thoái như câu ca:
Ba cô đội gạo lên chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa
cho Sư
Sư về sư ốm tương tư
Ốm lăn ốm lóc cho sư trọc
đầu.
Cách đây hơn 2,000 năm,
Chúa Giêsu cũng chứng kiến sự ô uế của một môi trường được xem là thánh thiêng,
là nơi cực thánh, thế nhưng đã bị tục hoá từ vật chất đến tinh thần. Đền thờ là
nơi linh thánh đã bị lạm dụng vào việc làm ăn, buôn bán, trao đổi tiền. Nhìn
vào Đền thờ Giêrusalem bị tục hoá mà lòng Chúa Giêsu quặn đau. Ngài đã không
thể chần chờ. Ngài đã hành động dứt khoát để thanh tẩy đền thờ, để mang lại vẻ
đẹp ban đầu của đền thờ là nơi Chúa ngự, là nơi linh thánh cho con người gặp gỡ
Thiên Chúa. Phúc Âm nói rằng: Chúa Giêsu bện roi xua đuổi tất cả những ai can
dự vào việc làm ô uế đền thờ như: những người buôn bán chiên, bò, bồ câu và
những người đang ngồi đổi tiền. Người đã đổ tung và lật nhào bàn ghế của họ.
Người khuyến cáo họ: "Đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán." Đó là
đền thờ vật chất, con người cũng phải tôn trọng sự linh thánh của đền thờ,
huống chi là một đền thờ linh thánh hơn nửa, đó chính là thân xác con người.
Thực vậy, thân xác chúng
ta là đền thờ Thiên Chúa hãy biết kính trọng thân xác mình và anh em. Đừng lạm
dụng thân xác trong những đam mê bất chính. Đừng lạm dụng thân xác để tìm thú
vui xác thịt và kiếm tiền. Đừng phá huỷ đền thở tâm hồn trong những xa hoa truỵ
lạc. Hãy biết sống đúng với phẩm giá con người là "nhân linh ư vạn
vật." Hãy sống cao thượng hơn các loài sống theo bản năng hoặc các loài vô
tri vô giác. Hãy thanh tẩy từ chính tâm hồn chúng ta khỏi những bợn nhơ tội
lỗi, những ước muốn gian dâm và trộm cắp. Hãy loài trừ trong tâm hồn chúng ta
những cái nhìn bất chính, những ước muốn tầm thường, những đam mê vô độ. Hãy để
Chúa ngự trị và chiếm đoạt tâm hồn chúng ta. Hãy sống thanh sạch. Hãy thanh tẩy
tâm hồn mình thường xuyên bằng các bí tích nhất là bí tích Hoà Giải và Thánh
Thể. Nhờ bí tích Hoà Giải mà ta luôn làm mới lại tâm hồn, và nhờ bí tích Thánh
Thể mà ta luôn có Chúa ở trong mình.
Nguyện xin Chúa luôn nâng
đỡ và trợ giúp để chúng ta biết thanh tẩy mình mỗi ngày nên tinh tuyền, xứng
đáng là đền thờ cho Chúa ngự, và là viên đá sống động xây dựng nhiệm thể Chúa
Kitô mỗi ngày một vững mạnh hơn. Amen.
21. Thế
giới tục hóa--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Ngày nay người ta nói
nhiều đến tục hóa. Thế giới tục hóa, con người tục hóa, nhà thờ, nhà chùa cũng
tục hóa! Vậy tục hóa là gì?
Người xưa hay dùng chữ
“hoàn tục” để nói về người bỏ tu để về với thế gian. Thực ra, tục hóa không chỉ
là hoàn tục của người đi tu mà còn nói về một trào lưu loại bỏ sự hiện diện của
thần linh để đưa tinh thần thế tục vào chính sự linh thánh.
Cụ thể ta vẫn thấy ở Việt
Nam rất nhiều ngôi Chùa hoàn toàn để tham quan du lịch, người ta còn cổ vũ cả
một tour du lịch tâm linh tại Bái Đính. Các nước phương tây đã sử dụng các ngôi
nhà thờ cổ kính để làm nơi tham quan du lịch và tìm lợi nhuận như nhà thờ Đức
Bà Pari... Sự tục hóa len lỏi trong cả những việc bác ái từ thiện. Trước đây
việc bác ái hoàn toàn dựa vào sự hảo tâm của bá tánh, ngày nay nhiều nhà thờ,
nhiều hội dòng cũng biết kiếm tiền bằng cách kinh doanh buôn bán nhân danh gây
quỹ từ thiện. Ở thời đại này ta rất dễ thấy bóng dáng các nữ tu, các đệ tử, các
thầy dòng đứng bán tranh ảnh, băng dĩa, đồ dùng ở những nơi hành hương hay
những ngày lễ hội lớn nơi các giáo xứ...
Nhiều nhà thờ nhân danh
người nghèo để biến sân nhà thờ thành nơi thuê mướn mặt bằng để đám tiệc linh
đình, ca hát, nhảy nhót trên cả lễ đài vẫn để dùng làm lễ Chúa nhật! Điều tệ
hại là khuôn viên nhà thờ thì không có khu vệ sinh để đáp ứng nhu cầu tối thiểu
nên ta vẫn vô tình nhìn thấy những cách thiếu tôn kính nơi tường rào chung
quanh hay một góc khuất nào đó quanh nhà thờ của những người say sỉn, thiếu ý
thức... Đây là điều mà Đức Cha Giuse giáo phận Xuân Lộc đã thấy nhà thờ bị tục
hóa nên đang đề nghị các giáo xứ chấm dứt dùng sân nhà thờ để cho thuê đám
cưới.
Phúc âm kể rằng ngày hôm
ấy Chuá Giêsu vào trong Đền Thờ, Ngài thấy người Do Thái đã biến đền thờ thành
nơi trao đổi buôn bán. Họ lợi dụng Đền thờ để kiếm lời. Kẻ buôn bán súc vật và
đổi tiền. Ngay cả các tư tế cũng chủ trương kiếm lợi nhuận hoa hồng từ những
việc trao đổi buôn bán trên. Họ đã đánh mất sự linh thánh cần thiết của Đền
thờ.
Chính vì Đền thờ bị lạm
dụng. , Chuá đã hành động thẳng thắn để thanh tẩy Đền thờ. Chuá đã đòi hỏi họ
phải trả lại ý nghiã đích thực của Đền thờ. Chúa bảo rằng “đừng biến nhà Cha Ta
thành nơi buôn bán." Ngài đã tẩy chay một lối thờ phượng lệch lạc, không
phải là thờ Thiên Chuá, mà là thờ quyền lợi của mình.
Thế giới tục hóa vẫn là
lời mời gọi chúng ta đem đạo vào đời. Đem ánh sáng lời Chúa thánh hóa thế gian
đang hư đốn bởi tham sân si. Hãy dùng lời Chúa để canh tân xã hội. Người ky-tô
phải làm sao dậy men tin mừng trong đời sống của mình. Đừng vì lợi nhuận mà bán
rẻ lương tâm, mà tục hóa những nơi linh thánh, nhất là trong chính thân xác con
người là đền thờ của Chúa. Xin đừng tục hóa đến độ xem thường thân xác để chỉ
tìm thú vui bất chính, để thỏa mãn tính xác thịt mà tìm lợi nhuận trên thân
xác.
Muà Chay là muà mợi gọi
chúng ta sám hối và canh tân đời sống. Có thể nói mùa chay là mùa giúp chúng ta
nhìn lại đến thờ tâm hồn của mình để xin ơn Chúa thanh tẩy tâm hồn khỏi những
đam mê tội lỗi, những thói hư tật xấu, ngõ hầu xứng đáng là Đền thờ cho Chuá
ngự trị.
Lạy Chúa, tâm hồn con là
đền thờ của Chúa, thế mà con đã để tâm hồn mình hoen ố bởi biết bao thói hư tật
xấu, biết bao đam mê thấp hèn. Xin Chuá hãy thanh tẩy tâm hồn con khỏi những
bợn nhơ tội lỗi, hầu xứng đáng là đền thờ cho Ba Ngôi Thiên Chuá ngự trị. Amen.
22.
Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
“Đừng biến nhà Cha Ta
thành nơi buôn bán” (Ga 2,16)
Các em thiếu nhi thân
mến,
Có bao giờ các em đọc
kinh hay hát thánh ca trong nhà thờ mà không suy nghĩ gì đến lời kinh, tiếng
hát cuả mình không? Có khi nào ngồi đây nghe giảng mà tâm trí các em đang bay ở
mãi tận khung trời xa xôi nào đó không? Ðó chính là lối thờ phượng máy móc, vụ
hình thức của những nguoi đi đạo lâu năm. Họ đọc kinh theo thói quen. Họ hát
theo thói quen. Họ nghe giảng theo thói quen. Họ không còn ý thức đến hành vi
của mình nữa, và cũng không có một cảm xúc hay một tâm tình thờ phượng đích
thực nào trong những việc làm của mình.
Người ta kể rằng: một
người kia nằm mơ, thấy thiên sứ dẫn mình đến một ngôi nhà thờ trong một ngày
chúa nhật. Tại đó người này thấy người nhạc sĩ đang đàn phong cầm nhưng không
nghe thấy tiếng âm nhạc, ca đoàn và cộng đoàn hát nhưng không nghe có âm thanh
nào cả. Rồi đến khi linh mục đứng lên giảng, môi mấp máy, nhưng không ra tiếng nói
nào cả. Người ấy rất đỗi ngạc nhiên hỏi thiên sứ, thì thiên sứ nói: "Ông
không nghe thấy gì, vì không có gì để nghe cả. Những người trong nhà thờ không
tham dự vào buổi thờ phượng, mà chỉ dự phần vào hình thức thờ phượng mà thôi.
Tâm hồn họ trống rỗng. Họ không thờ phượng Chuá từ trong cõi lòng. Họ chỉ là
những chiếc máy vô hồn phát ra. Họ nếu không nói là giả hình thì cũng là những
loại người thờ Chuá bằng môi bằng miệng, còn lòng dạ họ đã xa Chuá lâu rồi.
Qua câu chuyện này, người
ta muốn nói điều gì? Thưa, câu chuyện này dậy ta một bài học quan trọng: khi
nào ta vào nhà thờ, thờ phượng Chúa, ta hãy đến đó với một tấm lòng ước muốn ra
mắt Chúa, và tôn kính Ngài trong mọi việc ta làm trong nhà thờ. Ta hãy đọc kinh
với thái độ tin tưởng và yêu mến. Ta hãy hát với thái độ ca ngợi Chúa thật, dù
là hát trong ca đoàn hay chung với cộng đoàn. Nếu ta đứng lên nói, hãy nói với
thái độ tôn thờ Chúa. Cầu nguyện cũng phải chân thành tập trung vào Chúa, ngay
cả khi nghe lời Chúa cũng phải có thái độ thờ phượng. Khi nào ta ý thức được
như thế thì giờ thờ phượng mới có ý nghĩa. Và chỉ những lúc đó, tiếng ca ngợi
của ta từ nơi đất thấp, mới bay lên tận trời cao được.
Hôm nay Chuá Giêsu vào
trong Đền Thờ, Ngài đã thấy gì trong đó? Họ đã biến đền thờ thành nơi trao đổi
buôn bán. Họ lợi dụng Đền thờ để lợi dụng lẫn nhau. Kẻ buôn bán súc vật và đổi
tiền nhằm lợi nhuận. Kẻ mua để dâng cúng trong đền thờ chỉ nhằm mục đích phô
trương giả hình. Ngay cả các tư tế cũng chủ trương như thế, để họ thu lợi nhuận
hoa hồng từ những việc trao đổi buôn bán trên. Họ đã đánh mất sự linh thánh cần
thiết của Đền thờ. Chính vì Đền thờ bị lạm dụng. , Chuá đã hành động thẳng thắn
để thanh tẩy Đền thờ. Chuá đã đòi hỏi họ phải trả lại ý nghiã đích thực của Đền
thờ. Vậy ý nghiã đích thực của Đền thờ là gì?
Thưa, Đền thờ là nơi cầu
nguyện. Chuá bảo rằng “đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán." Ngài đã
tẩy chay một lối thờ phượng lệch lạc, không phải là thờ Thiên Chuá, mà là thờ
quyền lợi của mình. Đồng thời, khi Chuá Giêsu nói với những kẻ chất vấn Ngài:
“Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại."
Ngài ám chỉ đến Đền thờ mới chính là thân thể Ngài. Như vậy qua hành động thanh
tẩy đền thờ Giêrusalem, Chuá Giêsu còn cho biết thêm: sự thờ phượng đích thực
của thời Tân ước là thờ phượng Thiên Chuá trong Thần Khí và Sự Thật. Thế nên,
“đã đến giờ người ta sẽ thờ phượng Chuá Cha không phải trên núi này hay tại
Giêrusalem, vì Thiên Chuá là Thần Khi và những kẻ thờ phượng Người phải thờ
trong Thần khí và sự thật” (Ga 17, 23).
Ngày hôm nay, người ta
vẫn có thể lạm dụng Đển thờ bằng nhiều cách:
Có những người đến nhà
thờ nhưng lại lo ra chia trí trong lòng. Đó là những người có xác mà không có
hồn. Họ chỉ là những thây ma trơ trẽn và nguội lạnh. Họ xem lễ chứ không dự lễ,
vì họ không đóng góp tấm lòng của mình vào việc thờ phượng Chuá.
Có những người đi lễ vì
người khác đi mình cũng đi hay chỉ vì cha mẹ bắt phải đi. Đó là những người thờ
phượng giả hình. Họ không sống những điều mình tin. Họ lấy “vải thưa che mắt
thánh." Họ chỉ che được mắt thế gian nhưng không che dấu được Thiên Chuá.
Họ đến nhà thờ nhưng không gặp được Chuá nên đời sống họ cũng không có gì thay
đổi.
Nhưng điều quan trọng mà
hôm nay sứ điệp Lời Chuá muốn nhắn gởi chúng ta, chính là hãy chỉnh đốn lại đền
thờ tâm hồn chúng ta. Tâm hồn chúng ta có Chuá ngự trị hay không? Chúng ta đang
tôn thờ Thiên Chuá hay tôn thờ những danh lợi thú trần gian?
Mùa Chay là muà mợi gọi
chúng ta sám hối và canh tân đời sống. Có thể nói muà chay là muà giúp chúng ta
nhìn lại đến thờ tâm hồn của mình để xin ơn Chuá thanh tẩy tâm hồn khỏi những
đam mê tội lỗi, những thói hư tật xấu, ngõ hầu xứng đáng là Đền thờ cho Chuá
ngự trị.
Lạy Chuá, tâm hồn con là
đền thờ của Chuá, thế mà con đã để tâm hồn mình hoen ố bởi biết bao thói hư tật
xấu, biết bao đam mê thấp hèn. Xin Chuá hãy thanh tẩy tâm hồn con khỏi những
bợn nhơ tội lỗi, hầu xứng đáng là đền thờ cho Ba Ngôi Thiên Chuá ngự trị. Amen.
23.
Nhà Cha là nhà cầu nguyện--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một người nằm mơ, thấy
thiên sứ dẫn mình đến một ngôi nhà thờ trong một ngày Chúa Nhật. Tại đó, ông
thấy người nhạc sĩ đang đàn phong cầm nhưng không nghe thấy tiếng nhạc, ca đoàn
và cộng đoàn hát nhưng không nghe có âm thanh nào cả. Rồi đến khi linh mục đứng
lên giảng, môi mấp máy, nhưng không ra tiếng nói nào cả. Người ấy rất đỗi ngạc
nhiên hỏi thiên sứ, thì thiên sứ nói: "Ông không nghe thấy gì, vì không có
gì để nghe cả. Những người trong nhà thờ không tham dự vào buổi thờ phượng, mà
chỉ dự phần vào hình thức thờ phượng mà thôi. Tâm hồn họ trống rỗng. Họ không
thờ phượng Chuá từ trong cõi lòng. Họ chỉ là những chiếc máy vô hồn phát ra. Họ
nếu không nói là giả hình thì cũng là những loại người thờ Chuá bằng môi bằng
miệng, còn lòng dạ họ đã xa Chuá lâu rồi!
Đôi khi chúng ta cũng đến
với Chúa bằng hình thức bên ngoài mà chằng có tâm tình bên trong. Ðó chính là
lối thờ phượng máy móc, vụ hình thức của những người đi đạo lâu năm. Họ đọc
kinh theo thói quen. Họ hát theo thói quen. Họ nghe giảng theo thói quen. Họ
không còn ý thức đến hành vi của mình nữa, và cũng không có một cảm xúc hay một
tâm tình thờ phượng đích thực nào trong những việc làm của mình.
Hôm nay Chuá Giêsu vào
trong Đền Thờ, Ngài đã thấy gì trong đó? Người Do Thái đã biến đền thờ thành
nơi trao đổi buôn bán. Họ lợi dụng Đền thờ để lợi dụng lẫn nhau. Kẻ buôn bán
súc vật và đổi tiền nhằm lợi nhuận. Kẻ mua để dâng cúng trong đền thờ chỉ nhằm
mục đích phô trương giả hình. Ngay cả các tư tế cũng chủ trương như thế. Họ thu
lợi nhuận hoa hồng từ những việc trao đổi buôn bán trên. Họ đã đánh mất sự linh
thánh cần thiết của Đền thờ.
Chính vì Đền thờ bị lạm
dụng. , Chuá đã hành động thẳng thắn để thanh tẩy Đền thờ. Chuá đã đòi hỏi họ
phải trả lại ý nghiã đích thực của Đền thờ. Chuá bảo rằng “đừng biến nhà Cha Ta
thành nơi buôn bán." Ngài đã tẩy chay một lối thờ phượng lệch lạc, không
phải là thờ Thiên Chuá, mà là thờ quyền lợi của mình. Đồng thời, khi Chuá Giêsu
nói với những kẻ chất vấn Ngài: “Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi, nội trong
ba ngày Ta sẽ xây dựng lại." Ngài cũng ám chỉ đến Đền thờ mới chính là
thân thể Ngài. Thân thể Ngài cũng bị phá huỷ bởi sự gian ác của con người,
nhưng rồi Ngài sẽ sống lại sau ba ngày trong mồ.
Ngày hôm nay, người ta
vẫn có thể lạm dụng Đển thờ bằng nhiều cách:
- Có những người đến nhà
thờ nhưng lại lo ra chia trí trong lòng. Đó là những người có xác mà không có
hồn. Họ ví tựa như những thây ma trơ trẽn và nguội lạnh. Họ xem lễ chứ không dự
lễ, vì họ không đóng góp tấm lòng của mình vào việc thờ phượng Chuá.
- Có những người đi lễ vì
người khác đi mình cũng đi hay chỉ vì cha mẹ bắt phải đi. Đó là những người thờ
phượng giả hình. Họ không sống những điều mình tin. Họ lấy “vải thưa che mắt
thánh." Họ chỉ che được mắt thế gian nhưng không che dấu được Thiên Chuá.
Họ đến nhà thờ nhưng không gặp được Chuá nên đời sống họ cũng không có gì thay
đổi.
- Nhưng điều quan trọng
mà hôm nay sứ điệp Lời Chuá muốn nhắn gởi chúng ta, chính là hãy chỉnh đốn lại
đền thờ tâm hồn chúng ta. Tâm hồn chúng ta có Chuá ngự trị hay không? Chúng ta
đang tôn thờ Thiên Chuá hay tôn thờ những danh lợi thú trần gian?
Mùa Chay là muà mợi gọi
chúng ta sám hối và canh tân đời sống. Có thể nói muà chay là muà giúp chúng ta
nhìn lại đến thờ tâm hồn của mình để xin ơn Chuá thanh tẩy tâm hồn khỏi những
đam mê tội lỗi, những thói hư tật xấu, ngõ hầu xứng đáng là Đền thờ cho Chuá
ngự trị.
Lạy Chuá, tâm hồn con là
đền thờ của Chuá, thế mà con đã để tâm hồn mình hoen ố bởi biết bao thói hư tật
xấu, biết bao đam mê thấp hèn. Xin Chuá hãy thanh tẩy tâm hồn con khỏi những
bợn nhơ tội lỗi, hầu xứng đáng là đền thờ cho Ba Ngôi Thiên Chuá ngự trị. Amen.
24.
Điên rồ cho Thiên Chúa--Peter Feldmeier--Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ
“Chúng tôi rao giảng Đức
Kitô chịu đóng đinh” (1Cr 1,23)
Tin Mừng quả là điên rồ,
nhưng điên rồ như thế nào? Bài đọc phụng vụ hôm nay trích trong thơ thứ nhất
Thánh Phaolô tông đồ gửi cho giáo đoàn Côrinthô. Ngài viết: “Trong khi người Do
Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp kiếm tìm lẽ khôn ngoan,
thì chúng tôi lại rao giảng Đức Kitô chịu đóng đanh, điều mà người Do thái coi
là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ (1Cor 1,22).
Vậy, phải chăng Tin mừng
thật điên rồ, thật vô lý, và dẫn con người đi vào lầm lạc? Sự khôn ngoan mà con
người thường hay đề cao có thực sự phản chiếu ánh sáng vĩnh cửu, là tấm gương
phản ánh hoạt động của Thiên Chúa, là hình ảnh lòng nhân hậu của Chúa (Kn 7,26)
hay không?
Chắc chắn, Thánh Phaolô
muốn khẳng định rằng, sự khôn ngoan theo quy chuẩn xã hội loài người sẽ bị cáo
chung bởi Tin mừng. Tin mừng đưa dẫn chúng ta tiếp cận sự khôn ngoan không theo
dạng thức mà thế gian vẫn hướng về. Cũng trong lá thư này, Thánh Phaolô đã nhắc
các độc giả, để giúp họ biện phân đâu là sự khôn ngoan đích thực." Khi anh
em được Chúa kêu gọi, trong anh em đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người
đời, đâu có mấy người quyền thế, mấy người quý phái. Song, những gì thế gian
cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và
những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ
hùng mạnh…(1,26-27). Sự xét định theo tiêu chí của thế gian không phải là đường
lối của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã tóm kết nghịch lý này, khác với suy nghĩ bình
thường của xã hội loài người, khi Ngài tuyên bố “ Phúc cho những ai sống tinh
thần nghèo khó ” và “Những ai tìm mạng sống mình, sẽ mất nó. Ai liều mất mạng
mình vì tôi, sẽ tìm được chính mạng sống ấy (Mt 5,3; 10,39).
Đức Giêsu không phải là
người hùa chạy theo đám đông, hay dễ theo xu hướng của cộng đồng xã hội. Thay
vì rập theo não trạng chung của dân chúng, Ngài lại tuyên bố những điều hoàn
toàn trái ngược. Chúng ta cũng thấy điều tương tự trong trình thuật Tin mừng
hôm nay. Đức Giêsu lên Giêrusalem, Ngài thấy trong đền thờ có một khu vực người
ta đang bán bê, chiên, bồ câu, và có những người đổi tiền ngồi đó. Đức Giêsu
mạnh tay xua đuổi họ ra ngoài, và còn lật tung những bàn đổi tiền, khiến tiền
bạc đổ vãi tung tóe. Ngài truyền lệnh đem tất cả thứ đó ra khỏi đền thờ, “ Đừng
biến nhà Cha ta thành nơi bán buôn."
Việc mua bán trong khu
vực đền thờ hồi xưa, không bị coi là một sự phạm thánh. Thậm chí, người Do Thái
còn xem đó là một việc đạo đức tốt lành. Khách hành hương thường mua những lễ
vật để tiến dâng cho Chúa. Điều này chẳng có gì xấu. Vả lại việc mua bán này
chỉ diễn ra tại khu vực tiền sảnh bên ngoài đền thờ, là những chỗ mà ngay cả dân
ngoại vẫn có thể lui tới. Khách hành hương đến đền thờ cần có lễ vật, và những
người buôn bán giúp họ thực thi bổn phận tôn giáo rất chính đáng. Có lẽ, vì
luật Do Thái cấm tôn thờ ngẫu tượng, nhưng việc buôn bán giao dịch lại phải
dùng tiền Rôma có in hình Xêda, hoàng đế của đế quốc, nên phải chăng vì thế mà
Đức Giêsu đã phản ứng gay gắt? Có phải thế không? Chúng ta sẽ từ từ tìm ra câu
trả lời, và khám phá ra ý nghĩa sâu xa của câu chuyện nêu trên.
Đối với dân Israel, đền
thờ là chốn linh thiêng nhất, biểu thị cho việc Thiên Chúa luôn hiện diện giữa
dân Ngài. Tác giả Thánh vịnh đã viết “ Một điều tôi kiếm tôi xin, là luôn được
ở trong đền Chúa tôi, mọi ngày trong suốt cuộc đời, để chiêm ngưỡng Chúa tuyệt
vời cao sang, ngắm xem thánh điện huy hoàng (Tv 27,4). Tin mừng thuật lại, sau
này các học trò của Đức Giêsu nhìn vào hành động của Ngài trong đền thờ
Giêrusalem như một hành vi tiên tri, diễn bày niềm tin sâu xa mà tác giả thánh
vịnh đã miêu tả: “Vì nhiệt tâm lo cho nhà Chúa, mà con đã chịu thiệt thân (Tv
69,4)." Đi sâu vào ý nghĩa của biến cố, chúng ta mới có thể nhận ra rằng,
những quy chuẩn theo não trạng con người dễ làm cho chúng ta trở nên mù tối
trước những thực tại thánh thiêng. Chúng ta cần phân định đâu là những gì hợp
pháp mang tính phàm tục, và đâu là những gì thuộc phạm trù linh thánh.
Khi những vị đầu mục Do
thái giáo cai quản đền thờ tra vấn Đức Giêsu, đòi Ngài phải minh chứng bằng một
dấu chỉ cho thấy Ngài có quyền hành xử như vậy, Đức Giêsu một lần nữa lại tuyên
bố sự cáo chung của những quy chuẩn khôn ngoan theo não trạng con người. Ngài
nói” Cứ phá hủy đền thờ này đi, sau ba ngày ta sẽ xây lại." Họ chỉ biết
nghĩ về một ngôi đền thờ bằng gỗ, bằng đá, nhưng Đức Giêsu nói về ngôi đền thờ
khác, là chính thân xác Ngài. Sự sống lại của Ngài là dấu ấn chung cuộc, khải
thị cho thế giới về những gì Ngài đã nói, đã hành xử. Ngài muốn nói về sự khôn
ngoan đích thực cho thế giới hôm nay, một thế giới trong đó người ta vẫn nghĩ
tưởng rằng cái chết là dấu chấm hết cuối cùng. Đức Giêsu chính là hình ảnh hữu
hình của Thiên Chúa, và sự hiện diện của Ngài diễn bày cho chúng ta chân lý
này.
Tất cả những điều đó bị
coi là ngu xuẩn đối với họ. Những luật lệ theo quy ước và não trạng hạn hẹp đã
khiến họ trở nên mù tối trước chân trời rộng mở của chân lý vĩnh hằng.
Tin mừng không phải là
những gì xuẩn ngốc hay ngu dại. Tuy nhiên, sống giữa một thế giới đầy sợ hãi,
khi con người thường hay sống cố thủ và tự mãn, người ta vẫn nghĩ tưởng Tin
mừng là như thế. Lá thư mục vụ của Hội đồng Giám mục Hoa kỳ vừa qua nói về vấn
đề hòa bình đã bị quần chúng công kích mạnh mẽ. Người ta cho rằng Giáo hội quá
ấu trĩ và không đi sát với những trào lưu chính trị của thế giới. Lá thư nêu
bật giáo huấn về sự phân bổ của cải sao cho công bằng và hợp lý, đồng thời phải
phân phối những tiện ích xã hội để phục vụ đồng đều cho hết mọi người. Chế độ
tư bản, khuyến khích người ta làm giàu, khuyến khích quyền tư hữu một cách ích
kỷ, mà không lo cho thiện ích chung, là một chế độ đáng bị lên án và cần phải
loại trừ. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ nhị và cả Đức Thánh Cha Bênêđictô đều
nhấn mạnh về giáo huấn này. Lệnh truyền của Thiên Chúa là phải chăm lo cho sự
sống nội tại nơi từng mỗi con người. Nhưng điều này dường như con người xã hội
hiện nay vẫn không chấp nhận. Người Công giáo từ lâu đã cố gắng hòa nhập với xã
hội, nhưng có một nguy hiểm to lớn là chúng ta dễ bị chao đảo về đức tin, hoặc
đức tin trở nên suy yếu, khi chúng ta đang từ từ bị xã hội đồng hóa, bị thỏa
hiệp và chúng ta không dám can đảm nêu bật căn tính của mình.
Chúng ta có dám can
trường sống đức tin, phần nào có vẽ như “điên rồ” trong cái nhìn của thế giới
ngày hôm nay hay không?
25.
Uy quyền Đấng Thiên Sai--Lm. Hồng Phúc
Chúng ta thường gọi 10
giới răn là căn bản lề luật Thiên Chúa. Người Do thái gọi đó là “Thập điều”
(Decalogue) của Thiên Chúa nói lên ý muốn cứu độ của Ngài. Mười lời đó không
phải bản tuyên xưng đức tin, một bản tóm lược luân lý, nhưng là những lời nhắn
nhủ của Chúa gửi đến con cái của Ngài. Trong mùa Chay, chúng ta hãy đến dưới
chân núi Sinai, như ngày xưa dân Israel tập họp dưới núi thánh, để nghe lời
thân mật của Chúa. Chúa nói như Cha nói với con, Cha khuyên bảo con. Tất cả
Thập điều đều tóm tắt trong một câu và phải được khắc ghi vào tâm khảm mỗi
người: “Ngươi hãy thương yêu." Hãy yêu mến Thiên Chúa và tha nhân.
Tình thương đó, khi Chúa
Giêsu đến, Ngài đã tỏ ra một cách cực độ khi chịu đóng đinh trên thập giá.
Phaolô gọi đó “là cớ vấp phạm cho người Do thái, một sự điên rồ cho người ngoại
giáo." Làm sao hiểu được tình thương của Thiên Chúa? Yêu đến bỏ trời xuống
thế, yêu đến chết trên thập giá để đền tội chúng ta.
Thiên Chúa đã cứu rỗi
chúng ta bằng phương cách chúng ta không thể hiểu nổi.
Trong khi có người tự cho
là thông thái như dân Hy lạp dùng lý luận để tự cứu vãn, trong khi người Do
thái tự cho là có thể dùng chay giới, giữ luật lệ để vào thiên đàng thì Thiên
Chúa dùng tình thương và tình thương đến điên dại như Phaolô suy tưởng.
Tình yêu Chúa Cha nung
nấu tâm can của Chúa Giêsu và bộc lộ ra bên ngoài hôm nay bằng một cử chỉ táo
bạo mà Gioan đã chứng kiến và tường thuật lại. Đó là việc Chúa xua đuổi con
buôn bán ra khỏi đền thờ. Lễ vượt qua của dân Do thái gần đến, Chúa Giêsu lên
đền thờ. Ngài thấy trước mắt trong khuôn viên đền thờ Cha Ngài, diễn ra một
cảnh hỗn loạn không thể chịu được. Người ta bày bán chiên bò. Người ta mở bàn
đổi tiền bạc. Ngài chắp giây thừng làm roi, hất tung bàn ghế và đánh đuổi tất
cả ra khỏi đền thờ. Ánh mắt Ngài chiếu sáng và miệng Ngài hô to: “Hãy đem những
thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán."
Ngài phẫn nộ để cho mọi
người biết Ngài là ai.
Ngài tỏ uy quyền của Đấng
Thiên Sai, như lời tiên tri Malachia đã loan báo; Ngài xuất hiện trong đền
thánh để tẩy uế nơi tôn nghiêm này. Nhà chức trách đền thờ hiểu điều đó nên họ
không vặn hỏi lý do mà chỉ đòi một dấu chứng minh. Chúa trả lời cách khô khan:
“Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại”; “Ngài có
ý nói đền thờ là thân thể Ngài."
Ngài cho biết “Con Chiên
chân thật của Thiên Chúa chính là Ngài” (Gio. 1,29) đến trong đền thờ. Nghi lễ
của đạo cũ đã quá thời. Ngài là Con Chiên Pascal bị tế sát vì chúng ta (1Cor.
5,7-8) và sẽ dẫn đưa chúng ta vào “trong nhà của Cha Ngài” (Gio. 14,2).
Bằng cử chỉ hôm nay, Chúa
Giêsu không có ý bãi bỏ những nơi thờ phượng, nhưng đã chấn chỉnh và nói lên
bản chất chân thật của nó. Dưới con mắt của Gioan, đền thờ của Đạo mới chính là
Thánh Thể của Chúa Giêsu, rồi đây sau 3 ngày nằm trong nhà mồ, sẽ khởi hoàn
sống lại.
Là người tín hữu trong
Giáo hội, chúng ta có bổn phận lo cho Chúa có một nơi thờ phượng trang nghiêm
xứng đáng, vì “nhiệt thành với nhà Chúa." Nhưng đừng quên xua đuổi quét
sạch những gì làm hoen ố tâm hồn chúng ta là đền thờ Chúa ngự.
26.
Cơn Giận Thánh--AM Trần Bình An
Theo Phúc Âm Nhất Lãm,
sau cuộc nghênh đón trọng thể của dân chúng rước Chúa Giêsu vào Đền Thánh
Giêrusalem, Người đã đơn phương xua đuổi con buôn ra khỏi nơi linh thiêng, mặc
dù họ đã được các thầy tư tế cho phép hành nghề.
Dĩ nhiên, họ đã phải nộp
đầy đủ các khoản hoa chi, thuế má, hay phí kiểm tra chất lượng các vật hy tế.
Hơn nữa, lợi dụng luật cấm dân chúng không được phép tự ý mua lễ vật bên ngoài
đem vào, họ nâng giá vô tội vạ, thường gấp hàng chục lần giá thị trường.
Vì thế Chúa Giê su mới
nổi cơn thịnh nộ.
Người liền lấy dây làm
roi, mà xua đuổi tất cả chiên, cũng như bò, ra khỏi Đển Thờ. Còn tiền của những
người đổi bạc, Người lật tung ra và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với kẻ
bán bồ câu: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành
nơi buôn bán." (Ga 2, 15 -17) Trong khi Phúc Âm Nhất Lãm đều chép lại lời
quở mắng của Chúa Giê su còn đanh thép hơn nữa: “Đã có lời chép rằng: Nhà Ta
được gọi là nhà cầu nguyện,(Is 56,7) thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt
của bọn cướp."(Mt 21, 13. Mc 11, 17. Lc 19, 46)
Ngày nay, nhiều chốn linh
thiêng cũng vẫn tiếp tục bị ô uế, chẳng phải vì cảnh buôn bán bát nháo chiên
bò, chim câu như xưa nữa, mà khéo léo che đậy tinh vi hơn. Có nơi bị biến tướng
thành chốn rạp hát, vũ trường. Có nơi còn thành chốn ca ngợi tà thuyết, truyền
bá văn minh sự chết. Có nơi trá hình thành điểm giao dịch buôn thần bán thánh,
biến thành hang ổ của tập đoàn tội ác.
Cơn giận Chúa làm sao
nguôi được?
Còn đền thờ sống động của
tín hữu, cũng chẳng mấy tươm tất, sạch sẽ, hay sáng sủa cho cam, mà trái lại,
cũng hoen ố bụi bặm, rác rười, ruồi nhặng, xú uế hôi hám, vì chất chứa thói mê
tật xấu. Vì thế ông Gioan Tẩy Giả đã mời gọi ăn năn, sám hối, để chào đón Chúa
đến viếng thăm. Nhưng hình như lời kêu gọi ấy chỉ vang vọng trong hoang mạc,
chưa kịp dội vào vào tâm hồn kẻ tin vào Chúa.
Làm sao Chúa không nổi
cơn thịnh nộ?
Nhưng Ngài vẫn xót
thương, thứ tha, không tiêu diệt,
Nén giận đã bao lần,
chẳng khơi bùng nộ khí (Tv 78, 38)
Thánh Phaolô đã phải tha
thiết nhắn nhủ trong thư gửi cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Anh em lại chẳng biết
rằng thân xác anh em là Đền thờ của Chúa Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần đang ngự
trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế anh em
đâu còn thuộc về chính mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh
em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em” (1 Cr 6, 19-20).
Lạy Chúa, nhờ vào lòng
thương xót vô biên của Ngài, xin thanh tẩy đền thờ tâm hồn con, để con trở nên
thanh sạch, xứng đáng đón nhận Lời Hằng Sống.
Lạy Mẹ từ bi nhân hậu,
xin giúp con thấy được những lỗi lầm, vấp phạm và tội lỗi, để con sớm sám hối,
canh tân, đổi mới, hầu con được ơn cứu rỗi. Amen.
27.
Điện Thờ Thân Thể của Người--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Chương hai gồm hai câu
chuyện: phép lạ tại Cana, như là dấu lạ đầu tiên để các môn đệ tin vào Chúa
Giêsu (2,1-11) và việc thanh tẩy đền thờ và loan báo đền thờ thân thể Người,
như là dấu lạ cho người Do thái, nhưng họ không hiểu (2,13-25). Đoạn 2,13-25
gồm hai phần song song với nhau: - phần 2,13-17 gồm: hành động của Chúa Giêsu
(c. 14-15), lời của Người về nhà của Thiên Chúa bị làm thành cái chợ (c. 16),
và việc nhớ lại của các môn đệ (c. 17); - và phần 2,18-25 gồm: hành động của
người Do thái (c. 18), lời của Chúa Giêsu về điện thờ mới (c. 19), và việc nhớ
lại của các môn đệ (c. 22). Trong phần nầy có thêm ghi nhận việc không hiểu của
người Do thái (c. 20) và lời giải thích của thánh sử (c. 21). Phần thứ hai hoàn
thành phần thứ nhất.
Theo thánh Gioan, đây là
lần đầu tiên Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Người còn lên đó nhiều lần khác nữa
(6,4; 11,15; 12,1; 13,1). Ba sự kiện: lễ Vượt Qua, thanh tẩy đền thờ và loan
báo việc sống lại liên kết với nhau rất ý nghĩa. Mỗi dịp lễ Vượt Qua là lúc đền
thờ được sử dụng cách đặc biệt để cử hành biến cố Thiên Chúa đưa dân Do thái ra
khỏi kiếp nô lệ ở Ai cập. Chúa Giêsu thanh tẩy đến thờ là để phục hồi lại phẩm
giá cho nhà của Thiên Chúa, vì những người buôn bán trong đền thờ đã tục hóa
khi làm nơi đó thành cái chợ. Trong bối cảnh nầy, Chúa Giêsu loan báo một điện
thờ mới, xứng đáng cách tuyệt đối làm nơi thờ phượng Thiên Chúa. Đó là thân thể
phục sinh của Người. Muốn được thế, Người phải chịu hủy hoại, cũng vào dịp lễ
Vượt Qua (2,17; 19,14).
Điện thờ mới gắn liền với
sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu. Thánh Gioan đã đi từ một đền thờ, ieros,
Giê-ru-sa-lem cụ thể, với những gian nhà và không gian chung quanh (2,14. 15)
đến một không gian hẹp hơn. Đó chỉ là điện thờ, naos, là nơi để cử
hành các nghi thức thờ phượng Thiên Chúa (2,19. 20. 21). Đền thờ Giêrusalem
tượng trưng cho cơ chế và quyền bính của Do thái giáo. Chúa Giêsu không nói gì
đến việc phá hủy đền thờ và quyền bính nầy, theo như lời cáo buộc sau nầy (Mc
14,58; Mt 26,61). Việc thanh tẩy đền thờ dẫn đến việc loan báo dựng lên một
điện thờ mới chứng tỏ đền thờ cũ không cần thiết nữa và phải được thay thế (cf.
4,21).
Việc thay thế sẽ không là
xây dựng một đền thờ trong bốn mươi sáu năm, mà trong ba ngày. Thân thể Chúa
Giêsu chính là điện thờ. Người sẽ chết và sống lại trong ba ngày. Sự chết của
Người được ám chỉ trong trích dẫn Thánh vịnh 69,10: “Nhiệt tâm cho nhà Người sẽ
hủy hoại tôi” và trong mệnh lệnh “Các ông hãy phá huỷ điện thờ này đi” (2,19).
Trong khi để chỉ sự sống lại, thánh Gioan đã cố ý dùng chữ egeiro,
có hai nghĩa: dựng lên một căn nhà hay một đền thờ, và làm cho đứng dậy, trỗi
dậy. Động từ nầy được dùng để chỉ việc Chúa Cha làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy từ
cõi chết (2,22; 21,14).
Điện thờ là nhà của Thiên
Chúa, là nơi gặp gỡ giữa con người và Thiên Chúa. Nơi đó sẽ không còn là một
không gian, mà là một đấng: Chúa Giêsu Kitô Sống Lại.
28.
Chúa Giêsu, Đấng kiện toàn lề luật --Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
Kính thưa quý anh chị em,
Lề luật là những chuẩn
mực con người phải tuân giữ để giao ước được luôn mãi duy trì và lời hứa được
thực hiện.
Lề luật đồng hành với sự
sống, từ những hình thức rất đơn sơ đến những quy định chi tiết phức tạp, nhằm
đảm bảo và phong nhiêu sự sống.
Vào thời sáng tạo, Chúa
chỉ lệnh cho nguyên tổ “không được ăn trái cây giữa vườn." Một lệnh truyền
rất đơn giản, nhưng mang nhiều ý nghĩa biểu tượng.
Nếu quy chiếu vào các bản
văn Kinh Thánh có liên hệ đến lề luật, lệnh cấm ăn trái cây giữa vườn chứa đựng
cả “Mười” giới luật được ghi chép trong các sách luật sau này. Đó là luật tự
nhiên, là đạo tự nhiên, Chúa in vào lương tâm con người, để tuân giữ và được
sống.
Chúa Giê-su tuyên bố: ai
giữ và dạy người ta tuân giữ thì được kể là kẻ cao trọng trong Nước Trời, ngược
lại, ai vi phạm và dạy người khác làm sai điều luật dạy, thì bị coi là kẻ nhỏ
nhất trong Nước Trời (cf. Mt 5, 19).
Vì cớ con người hay quên
do thiếu hiểu biết, do tham, sân, si, lề luật phải luôn được gióng lên giữa
cộng đoàn cho dân nghe, kiện toàn, học hỏi, ghi nhớ, đem ra thực hành, đáng
được Chúa chúc phúc và ban ơn.
Phụng vụ Lời Chúa, chúa
nhật III mùa chay, phác họa bức tranh toàn cảnh lề luật và sự kiện toàn lề luật
trong Đức Kitô, giúp con người sống đúng, sống đẹp trọng tâm lề luật “tình yêu
và vâng phục” đúng ý Chúa muốn.
Bài đọc I, trích sách
Xuất Hành, tuyên bố “Mười” giới luật, hay còn gọi là “mười điều răn."
Việc tuyên đọc luật điều
là một phần của giao ước tại núi Si-nai, trong bối cảnh dân Chúa không còn muốn
thực hành các điều luật dạy: thờ lạy con bò vàng như vị thần bảo hộ, bất công
bóc lột lẫn nhau, nuôi lòng hận thù ghen ghét đố kị...
Trong khi tuyên bố các
khoản luật, sách thánh đưa độc giả tới tận thời điểm sáng tạo, vì Thiên Chúa
sáng tạo mọi sự trong “sáu ngày và ngày thứ bảy Người nghỉ ngơi” (Xh 20, 11),
nhấn mạnh đặc tính trường tồn, bất di, bất dịch của lề luật và khi đối chiếu
cách sống của dân với luật Chúa, họ nhận ra sự sai thù, cách biệt, nên cần phải
được canh tân, kiện toàn đúng ý Chúa muốn.
Chúa đã ban hành lề luật
cho nguyên tổ thế nào, Người cũng ban luật điều cho dân như vậy. Sự chúc lành
và chúc dữ đã áp dụng cho Adam/Eva thế nào, cũng sẽ được áp dụng cho dân như
vậy. Gương của nguyên tổ là lời cảnh báo dân hôm nay: Hãy lắng nghe các lề
luật, huấn lệnh của Chúa, đem ra thực hành thì các ngươi sẽ được sống và được
vào chiếm hữu phần đất mà Chúa là Thiên Chúa cha ông các ngươi sẽ ban cho các
ngươi (cf. Đnl 4, 1).
Việc không vâng giữ luật
Chúa đã làm cho tâm hồn méo mó biến dạng. Thân xác không còn là đền thờ của
Chúa Thánh Thần, hoạt động không đem lại tình yêu và sự sống. Con người cần
được Thiên Chúa thanh tẩy.
Chúa Giê-su, trong bài
Tin Mừng, xuất hiện như Đấng thanh tẩy có thẩm quyền: xua đuổi chiên cừu ra
khỏi đền thờ, hất tung tiền bạc, lật nhào bàn ghế kẻ buôn, người bán, với một
lời cảnh cáo nặng nề: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha
Ta thành nơi buôn bán” (Jn 2, 16).
Còn hơn gấp nhiều lần
việc thanh tẩy, Chúa Giê-su còn đòi phá hủy đền thờ này, để Người xây lại nó
nội trong “ba ngày."
Ở đây, Giê-su muốn mạc
khải một điều rất quan trọng: đền thờ là chính thân thể Người, mỗi chúng ta
cũng là đền thờ của Thiên Chúa.
Nếu thân xác là dụng cụ
cho tội lỗi, vi phạm lề luật trở nên thù nghịch với Thiên Chúa, làm thành hang
trộm cướp, thì có còn xứng đáng là đền thờ nữa không ? Có đáng tồn tại hay nên
phá bỏ ?
Chúa đòi phá bỏ đền thờ
xác thịt, cũ nát, để xây lại một đền thờ mới trong Chúa Thánh Thần là điều cần
thiết, phải lẽ. Cởi bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới trong Chúa Giê-su
chẳng phải là phá hủy cái cũ, xây lại cái mới mẻ đó sao !
Khi mặc lấy thân xác
giống chúng ta mọi đàng, Chúa Giê-su chấp nhận tình trạng nhân tính sau tội
nguyên tổ, nghĩa là, cái hậu quả của tội lỗi con người phải gánh chịu theo
nghĩa liên đới, để chính trong kinh nghiệm về sự yếu hèn, bất lực, Giê-su xây
lại ngôi đền thờ thiêng liêng vững bền.
Vậy nên, khi Người từ cõi
chết sống lại, các môn đệ nhớ lại lời Người đã nói, họ tin vào Kinh Thánh và
tin vào Người (cf. Jn 2, 22).
Thưa anh chị em,
Xây lại đền thờ là làm
cho chúng ta trở nên một thụ tạo mới trong Chúa Giê-su, nghĩa là, trở nên những
con người biết mến yêu, lắng nghe và thực thi luật Chúa.
Giê-su xây lại đền thờ
trong Chúa Thánh Thần là thiết lập cái cốt lõi của lề luật, còn kiện toàn, là
thực hành lề luật trong tình yêu và tự do, loại bỏ thái độ sợ hãi, giả hình và
nô lệ.
Phụng vụ Lời Chúa hôm
nay, đưa chúng ta về “vườn địa đàng” chiêm ngắm Chúa Giê-su, Đấng ban hành lề
luật mới. Người chỉ cho chúng ta cây sự sống đích thực, cho trái trường sinh,
để ai hái mà ăn thì có sự sống đời đời.
Cây thánh giá đặt đối
diện với cây sự chết. Mười luật điều ban ra từ thánh giá có sức thánh hóa và
cứu độ con người. Tất cả mọi người đều được mời gọi thực thi luật Chúa, nhưng
hiệu quả thì luôn khác nhau. Những ai tuân giữ luật Chúa với tình yêu và tự do
đích thực mới là người được giải phóng khỏi sự sợ hãi và luận phạt, vì họ ở
trong Thiên Chúa.
Hiểu như thế, chúng ta
mới tâm đắc lời dạy về thập giá của thánh Pha-lô trong bài đọc II. Phao-lô
không bận tâm đến sự khôn ngoan theo kiểu thế gian đòi dấu lạ điềm thiêng. Lời
rao giảng của ngài tựa vào thập giá của Đấng chịu đóng đinh. Ngài kín múc từ
thập giá luật yêu thương là con đường thanh tẩy và đổi mới.
Đối với Phao-lô, những ai
tin và kết hợp với Đấng chị đóng đinh, sẽ được tẩy sạch mọi hành vi mang sự
chết, mà phụng sự Thiên Chúa hằng sống, xứng đáng hưởng sự sống muôn đời.
Thật, họ là những đền thờ
đã được Đức Giê-su phục sinh xây lại nội trong ba ngày. Cuộc đời họ từ đây,
tuân giữ lề luật theo tinh thần mới với men yêu thương vâng phục của Chúa
Giê-su, men của “tình yêu và sự sống” tuân trào từ cạnh sườn Đấng chịu đóng
đinh, nghĩa là, cùng chết với Chúa, sẽ được cùng Người phục sinh.
Mỗi người chúng ta cũng
được mời gọi tuân hành luật chúa cách mới mẻ theo gương Chúa Giê-su. Lấy tình
yêu thương làm dây ràng buộc mọi điều toàn thiện. Toàn thể lề luật và giáo huấn
ngôn sứ đều quy tụ trong một tình yêu.
Hãy làm mọi điều luật dạy
vì lòng mến Chúa, yêu người, chúng ta sẽ tìm được sự bình an, hạnh phúc và niềm
vui cứu độ.
Xin Chúa chúc lành cho
mỗi người chúng ta trong chúa nhật hôm nay. Amen!
29.
Đền Thờ Thiên Chúa--Lm. Minh Vận, CRM
Theo luật Maisen thì việc
tôn thờ Thiên Chúa gồm có mục dâng con vật sống làm lễ vật hy sinh. Luật còn
buộc cha mẹ dâng con đầu lòng cho Thiên Chúa trong Đền Thờ.
Vì thế, việc mua bán súc
vật quanh Đền Thờ là cần thiết, hay ít nhất cũng được dung thứ, vì những người
ở xa đến, khó có thể đem theo súc vật để hiến dâng. Vậy nếu việc mua bán súc
vật là tiện lợi cho những người ở xa tới, thì tại sao Chúa Kitô lại tỏ ra thái
độ khó chịu và thịnh nộ lên tiếng quở mắng những người mua bán như thế?
I. TẠI SAO CHÚA CỨU THẾ
THỊNH NỘ
Thưa, việc mua bán lễ vật
dâng hiến của họ đã trở thành việc thương mại, thiếu lòng thành tín bên trong:
Người bán súc vật chỉ lợi dụng cơ hội để làm tiền, để trục lợi, chứ không chú ý
cung cấp nhu cầu cần thiết cho khách hành hương tới thờ phượng Chúa. Còn người
mua thì coi bổn phận dâng lễ vật chỉ là một việc bất đắc dĩ, một gánh nặng cực
chẳng đã.
Trước cảnh tục hóa này,
Chúa Giêsu đã dùng uy quyền của một Đấng được Thiên Chúa sai đến trần gian, và
với nhiệt tâm của một Người Con có trách nhiệm phải bảo vệ nhà Cha Mình. Chúa
đã lên tiếng cảnh giác họ: "Hãy cất những thứ này khỏi nơi đây, các ngươi
không được làm cho Nhà Cha Ta trở nên hãng buôn, nên hang trộm cướp." Đồng
thời, Chúa đã nổi cơn thịnh nộ, chắp giây thừng làm roi, đánh đuổi bọn họ cùng
với chiên bò, hất tung khay tiền, xô đổ bàn ghế của họ.
II. CHÚNG TA LÀ ĐỀN THỜ
THIÊN CHÚA
Cũng như một ngôi Đền Thờ
được xây cất với mục đích hiến dâng làm nơi thờ phượng Thiên Chúa, làm nhà cầu
nguyện của muôn dân; mỗi người chúng ta cũng đã được thánh hiến cho Thiên Chúa,
ngày chúng ta lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, để làm nơi Thiên Chúa ngự. Chính Thánh
Phaolô đã lưu ý chúng ta rằng: "Anh chị em lại không biết rằng, anh chị em
là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Chúa Thánh Linh ngự trong anh chị em sao? Ai tục
hóa Đền Thờ Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ hủy diệt họ; vì Đền Thờ Chúa là Thánh, mà
chính bản thân anh chị em là Đền Thờ đó" (1 Cor 3:16-17). Đây là một chân
lý rất an ủi và làm cho chúng ta được sung sướng hạnh phúc; nhưng đồng thời
cũng khiến chúng ta phải lo sợ hãi hùng.
Các Thánh Nhân và những
người công chính luôn sống trong ơn nghĩa thánh, có tâm hồn trong sạch, nhiều
lúc Chúa cho các ngài được cảm nghiệm thấy niềm an vui hạnh phúc này, nên các
ngài đã để lộ trên khuôn mặt hân hoan, thốt lên trong lời nói, trào ra qua nét
bút.
Chị Nữ Tu Elizabeth Chúa
Ba Ngôi đã thường quen nói: "Hồn tôi là một Cõi Trời, nơi tôi sống, trong
khi chờ đợi Jerusalem Thiên Quốc. Tôi đã gặp Thiên Quốc ngay tại thế, vì Thiên
Quốc chính là Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong tâm hồn tôi." Một hôm, Chị
Dòng gởi một bức thư khuyên bà chị đã lập gia đình có nội dung như sau:
"Thiên Quốc ở trong tâm hồn chúng ta. Giữa những lo âu do nhiệm vụ của một
bà mẹ, lúc nào chị bị chia trí vì công việc bề bộn chồng chất, chị cứ bước vào
giữa linh hồn chị, nơi vị Thượng Khách Thần Linh cư ngụ. Như vậy không phải là
đơn sơ an ủi và hạnh phúc lắm sao?"
Ông Leoniđê, thân phụ của
Giáo Phụ Origenê, đã cảm nghiệm được niềm tin vào hạnh phúc Thiên Chúa ngự
trong tâm hồn những người sống trong ơn thánh, nên một hôm ông đã nghiêng mình
trước đứa con nằm trong nôi, ông đã đặt môi hôn ngực con. Thấy người ta bỡ ngỡ
trước cử chỉ ấy, ông sung sướng trả lời: "Tôi thờ lạy Thiên Chúa hiện diện
trong trái tim của trẻ thơ đã nhận lãnh Bí Tích Thánh Tẩy này."
Thấu hiểu và cảm nghiệm
được sự sống thần linh cao cả này, cùng với tâm tình của các Thánh, chúng ta có
thể sung sướng kêu lên: "Thực đúng, Thiên Chúa ngự trong tôi mà xưa nay
tôi không nghĩ tới. Tôi đã sống qua một phần lớn đời tôi mà tôi không nhận biết
và quan tâm đến Ngài. Ôi con người tôi là cả một Thánh Vật đáng quí trọng biết bao!
Tôi là Đền Thờ của Thiên Chúa, là Cửa Thiên Quốc!"
III. CHÚNG TA PHẢI CÓ
NGHĨA VỤ NÀO
Đức Tin dạy cho chúng ta
biết: Chúa Ba Ngôi ngự trong tâm hồn chúng ta, khi chúng ta sống trong ơn nghĩa
thánh, khi chúng ta có tâm hồn trong sạch. Chúa Ba Ngôi ngự trong tâm hồn chúng
ta không những như một Thiên Chúa toàn năng cao cả, mà còn:
* Như một
người Cha Nhân Từ, hằng yêu thương săn sóc đến mọi nhu cầu của con cái,
như chính Chúa Kitô đã dạy chúng ta dâng lời cầu xin Người với tâm tình của một
con ngoan thảo: "Lạy Cha chúng con ngự trên trời" (Mt 6:6).
* Như một Bạn
Tâm Phúc, Chúa luôn tha thiết yêu thương thân mật, tâm giao với chúng
ta bằng tất cả tâm tình của một Người Yêu: "Cha không gọi các con là tôi
tớ nữa, nhưng gọi các con là Bạn Tâm Phúc" (Jn 15:15).
* Như Đấng
Thánh Hóa, Chúa luôn soi sáng lương tâm, dạy chúng ta biết những điều
đẹp lòng Chúa, kích thích chúng ta làm điều thiện tránh điều ác, ban cho chúng
ta sức mạnh giúp chúng ta chiến thắng kẻ thù, thực thi các việc lành phúc đức,
sống đời thánh thiện đẹp lòng Chúa, như lời Thánh Phaolô quả quyết: "Nhờ
Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi có thể làm được mọi sự" (Phil 4:13).
Để đáp lại ơn phúc cao cả
được Chúa Ba Ngôi ngự trong linh hồn chúng ta, như Ngai Tòa, như Đền Thờ, như
Thiên Đàng của Chúa, chúng ta cần có 3 nghĩa vụ sau đây:
1. Tôn Thờ: Chúng ta hãy dâng
lên Chúa lòng tôn thờ xứng đáng, tôn nhận Chúa là Thiên Chúa , một Chủ Tể tối
cao và phải hết lòng tôn thờ Người, không bao giờ dám cố tình phạm tội làm
phiền lòng Người, dù là những lỗi rất nhỏ mọn, những khiếm nhã sơ xuất.
2. Yêu Mến: Chúng ta hãy hết lòng
yêu mến Chúa, không những bằng tâm tình người con thảo luôn làm hài lòng Cha;
mà còn bằng tâm tình một người yêu, luôn tha thiết thân mật khăng khít nên một
với Chúa, đáp lại lòng Chúa khát khao: "Chúng con hãy dâng trái tim chúng
con cho Cha." Và: "Cha muốn chiếm trọn trái tim chúng con, các Bạn
Tâm Phúc của Cha, các Linh Mục và Tu Sĩ của Cha, Cha không muốn một thái độ
hững hờ và một tình yêu chia sẻ" (Đại Thông Điệp Tình Yêu).
3. Biết Ơn: Được Chúa Ba Ngôi ngự
trong tâm hồn chúng ta là một đặc ân cao cả. Vì thế, chúng ta hãy luôn cảm tạ
lòng Chúa yêu thương và sống xứng đáng với ơn Chúa ban, bằng cách:
* Không bao giờ cố tình
phạm tội trọng, vì tội trọng là trục xuất Chúa ra khỏi linh hồn mình, rồi rước
ma quỉ vào thống trị linh hồn.
* Luôn làm tăng trưởng Ơn
Thánh Chúa, bằng việc thực thi các nhân đức, giúp linh hồn tiến bước trên Đường
Thánh Thiện.
* Giãi sáng gương đời
sống thánh thiện, để tất cả những ai chúng ta giao tiếp được nhận ra chúng ta là
người mang Thiên Chúa trong mình.
Kết Luận
Quyết tâm không bao giờ
cố tình làm điều gì phiền lòng Chúa, không bao giờ để cho tội lỗi tính mê nết
xấu lấn át, khiến tâm hồn ra ô uế, tục hóa Đền Thờ Chúa, kẻo bị Chúa hủy diệt.
Luôn biết thánh hóa Đền
Thờ tâm hồn mình, luôn sống đời trong sạch, để bản thân chúng ta được trở nên
Đền Thờ, nên Cung Thánh, nên Thiên Đàng xứng đáng làm nơi Chúa sung sướng hiển
ngự.
30.
Cứ phá hủy Đền Thờ này đi …--Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa
Trong những năm gần đây,
việc xây dựng các ngôi thánh đường mới, hay các trung tâm mục vụ diễn ra khá ồ
ạt. Có những nơi, Thánh đường xuống cấp hay không có nơi học giáo lý cho các em
thì việc xây dựng quả là cần thiết. Tuy nhiên, cũng có những nơi muốn hoành
tráng, muốn giáo xứ của mình hơn giáo xứ bạn nên những ngôi nhà thờ cổ hay nhà
xứ cổ bị phá hủy đi để thay thế bằng những công trình đồ sộ thì quả là lãng
phí. Đằng sau những công trình đó là biết bao nhiêu câu chuyện khó diễn tả
thành lời.
Trong bữa cơm trưa nay,
tôi trao đổi với vài người trong bàn ăn về đề tài xây dựng này. Có một bạn trẻ
nói với tôi rằng nơi bạn sinh sống và học tập, bạn thấy các thánh lễ cứ dâng
của lễ liên tục. Bạn cảm thấy thánh lễ mất đi vẻ thiêng thánh. Bạn cũng chia sẻ
thêm là có những người nói với bạn đó rằng đi lễ thấy người ta lên dâng của lễ
mà mình không lên thì ngại. Vì thế mà họ bắt buộc phải lên. Bản thân tôi cũng
được nghe những chia sẻ từ những giáo dân tôi quen biết. Có người nói rằng con
không dám đi dự thánh lễ đó bởi biết chắc sẽ có dâng của lễ mà con thì không có
tiền. Một người khác thì nói: nhà con có ba khẩu. Mỗi khẩu đóng góp 200 ngàn
đồng. Trong nhà con chỉ còn có 500 ngàn, nhưng người đi thu tiền nhất định
không nhận, phải đủ 600 mới được. Thế là con lại phải đi vay thêm 100 ngàn để
đóng cho đủ số.
Tin Mừng Chúa Nhật III
Mùa Chay năm B kể lại câu chuyện Chúa vào Đền Thờ và đánh đuổi tất cả bọn buôn
bán ra khỏi Đền Thờ. Chúa nói đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán. Có lẽ
chưa bao giờ tôi thấy Chúa tỏ thái độ dứt khoát và mạnh mẽ như hôm nay. Một Đức
Giê-su hiền lành và khiêm nhường lại có thể có những hành động thực sự quyết
liệt. Người Do Thái chất vấn Chúa rằng ông lấy quyền gì mà làm như vậy. Chúa
đáp cứ phá hủy Đền Thờ này đi nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại. Người Do
Thái kinh ngạc vì phải mất 46 năm họ mới xây dựng được Đền Thờ này. Thế mà Chúa
bảo chỉ xây dựng lại trong ba ngày. Nhưng họ không biết rằng Chúa ám chỉ Đền
Thờ là chính Thân Thể của Chúa. Qua câu chuyện này, Chúa muốn dạy tôi một bài
học thật rõ ràng. Đền Thờ vật chất dù có nguy nga tráng lệ tới đâu thì cũng
không bao giờ quan trọng bằng Đền Thờ là chính tâm hồn mỗi con người. Con người
mới thực sự quan trọng. Con người dù bé nhỏ nghèo hèn tới đâu cũng đều là thánh
thiêng. Chúa không chấp nhận sự thỏa hiệp. Tâm hồn con người không thể bị đồng
tiền chi phối, điều khiển. Vì thế, cần có một thái độ dứt khoát với tiền bạc
như chính Chúa đã dạy: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa
làm tôi tiền của được." (Lc 16,13)
Người ta thường nói Đình
sang thì Làng siêu. Việc xây dựng những Đền Thờ vật chất chỉ thực sự có ý nghĩa
khi nó được làm nên bởi những tâm hồn thiện lành. Khi con người cảm nghiệm sâu
xa mọi sự mình có đều do Chúa tặng bạn, họ sẽ đóng góp xây dựng không phải là
sự bắt buộc mà là sự tự nguyện dâng hiến. Những công trình vật chất dù hoành
tráng tới đâu, nếu được làm nên từ sự ép buộc thì cũng chẳng có giá trị gì. Nếu
vì xây dựng Đền Thờ vật chất mà phá hủy đi Đền Thờ thiêng liêng là tâm hồn các
tín hữu thì quả là đáng buồn. Thú thật, tham dự các thánh lễ tạ ơn khánh thành
các ngôi thánh đường mới những năm gần đây, tôi cứ thấy không ổn lắm. Bước vào
nhà thờ, tôi không cảm nghiệm được vẻ thiêng thánh. Tôi cảm thấy rất khó cầu
nguyện. Có vẻ như những ngôi nhà thờ mới chỉ đáp ứng được một việc là rộng lớn
hơn chứ không thể tạo ra một cái gì đó huyền bí so với các ngôi nhà thờ trước
đây. Khuôn viên Nhà thờ cũng thiếu đi cây xanh, thiếu đi một cái gì đó là thiên
nhiên. Nhiều giáo xứ xây dựng bừa bãi không quy hoạch đã làm mất đi cái hồn
thiêng mà bao đời cha ông và các vị tiền bối đã dày công xây dựng. Tôi băn
khoăn và tự hỏi rồi chúng ta sẽ đi về đâu?
Lạy Chúa, xin biến đổi
con thành Đền Thờ đích thực của Chúa. Xin Chúa giúp xua đuổi khỏi con những gì
nhơ bẩn. Xin tẩy rửa con trong sạch để con luôn mãi thuộc về Chúa. Amen.
31.
Thánh Đường, điểm hẹn--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Một giáo xứ miền quê nọ
đã được thành lập từ lâu, nhưng chưa có một ngôi nhà thờ xây cất hẳn hoi. Giáo
dân lại nằm rải rác trong hai ngôi làng sát cạnh nhau. Khát vọng duy nhất của
giáo dân là được có nơi thờ phượng đàng hoàng. Với sự hăng say bộc phát của
những người nông dân, mọi người đã quảng đại đáp lại lời kêu gọi của cha chính
xứ: kẻ góp công, người góp của. Thế nhưng vấn đề cơ bản vẫn là: đâu là địa điểm
xứng hợp nhất để xây cất ngôi nhà thờ mới. Người ở làng bên này thì muốn ngôi
nhà thờ toạ lạc trong làng của mình. Người ở làng bên kia thì lại muốn nhà thờ
được xây cất gần bên chỗ mình ở. Thế là hai bên cứ tranh luận, không bên nào
muốn nhường bên nào. Tiền của đã có sẵn, vật liệu cũng không thiếu, nhưng không
biết phải đặt viên đá đầu tiên ở đâu.
Giữa lúc vấn đề địa điểm
xây cất chưa ngã ngũ, một nạn hạn hán trầm trọng đang đe doạ dân chúng trong cả
hai làng. Thế là người ta chỉ còn nghĩ đến việc chống hạn hán hơn là xây cất
nhà thờ. Năm ấy toàn dân trong hai làng đều phải chịu cảnh đói khát. Trong cảnh
túng quẫn, lá lành đùm lá rách, dân làng hai bên mới nghĩ đến nhau. Một đêm
kia, dân làng bên này lặng lẽ phân chia lúa thóc rồi mang qua cứu trợ dân làng
bên kia. Trong khi đó, dân làng biên kia cũng có một ý nghĩ tương tự, họ cũng
mang lúa thóc qua cứu trợ dân làng bên này. Giữa đêm tối, không hẹn mà hò, dân
làng hai bên đã gặp nhau trong cùng một ý nghĩ và hành động. Không cần một lời
giải thích, không cần một lời chào hỏi, họ đã hiểu nhau: Họ đặt những bao lúa
xuống đất và ôm chầm lấy nhau… Điểm gặp gỡ của tình tương thân tương ái, của
tình liên đới chia sẻ ấy đã được giáo dân gọi là “đất thánh” và họ đã nhất trí
chọn địa điểm này làm nơi đặt viên đá đầu tiên xây cất ngôi nhà thờ mới của
giáo xứ.
Thưa anh chị em,
Nhà thờ đúng là nơi hẹn
hò gặp gỡ: hẹn hò gặp gỡ với Thiên Chúa và với anh em đồng bào. Không ai đến
nhà thờ mà không tìm gặp được sức mạnh từ chính Chúa, sự an ủi nâng đỡ từ cộng
đoàn anh em. Do đó, nhà thờ phải là điểm hẹn của mọi nẻo đường, là nơi hội tụ
của mọi xây dựng, là giải đáp của mọi tranh luận, là nơi gặp gỡ của tình yêu
thương.
Đền thờ Giêrusalem là nơi
tập họp của dân Do Thái trên mọi khắp mọi miền đất nước vào dịp lễ Vượt Qua
hằng năm, mừng kỷ niệm dân được Thiên Chúa giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập,
vượt qua Biển Đỏ về miền Đất Hứa. Năm ấy, Chúa Giêsu cũng hoà mình vào đoàn dân
tiến bước về đền thờ. Vừa bước vào đền thờ, Chúa Giêsu đã chứng kiến những cảnh
chướng tai gai mắt: buôn bán chiên bò, trao đổi tiền bạc, đám đông ồn ào náo
nhiệt, vô trật tự. Không cầm mình được trước cảnh tượng đền thờ linh thiêng bị
biến thành thị trường, sào huyệt của bọn đầu trộn đuôi cướp, Chúa Giêsu đã
“nhào vô” thẳng tay đánh đuổi những kẻ buôn thần bán thánh, thanh tẩy đền thờ,
trả lại sự trong sáng cho nơi cầu nguyện và gặp gỡ của Cha Ngài và của mọi
người.
Nhưng không phải chỉ có
thế. Dưới ngòi bút của Thánh sử Gioan, hãnh động của Chúa Giêsu còn mang một ý
nghĩa biểu tượng sâu sắc hơn nhiều, khi Gioan nói: “Các ông cứ phá hủy Đền thờ
này đi, nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại." Sau này, dưới anh sáng Phục
Sinh, các môn đệ mới hiểu đền thờ Chúa muốn nói ở đây chính là thân xác của
Chúa Giêsu sẽ được Phục Sinh sau ba ngày ở trong mồ.
Chúa Giêsu đã xua đuổi
bọn con buôn, xô đổ lật nhào bàn ghế những người đổi tiền. Ngài phá hủy không
phải chỉ để phá hủy. Phá hủy sẽ không có nghĩa gì cả, nếu không găn liền với
xây dựng. Ngài chỉ phá hủy những gì hủy hoại con người, hủy hoại mốt tương giao
giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Thực ra, chính việc
buôn bán đổi chác, ồn ào trong đền thờ mới phá hủy đền thờ, làm cho đền thờ
không còn là đền thờ, không còn là nơi gặp gỡ Thiên Chúa và anh em đồng bào,
trái lại trở thành sào huyệt trộm cướp, bóc lột, cắt cổ nhau. Chính vì thế,
việc phá đổ, giết chết, đánh mất ý nghĩa là “việc của các ông”: “Các ông cứ phá
hủy đền thờ này đi." Còn “việc của Thiên Chúa” là xây dựng lại đền thờ
mới, là cứu sống và tái tạo tất cả trong Đức Giêsu khi cho Ngài Phục Sinh sau
ba ngày ở trong mồ, và đặt Ngài làm Đức Chúa, để từ nay, Đức Giêsu Kitô trở
thành trung tâm phụng tự duy nhất. Trong Ngài toàn thể nhân loại sẽ “thờ phượng
Thiên Chúa trong Thánh Thần và chân lý."
Anh chị em thân mến,
Thời Cựu Ước, dân Do Thái
tôn thờ Thiên Chúa một cách vụ hình thức, bôi bác, máy móc. Họ nghĩ rằng, cứ
dâng cúng vào đền thờ nhiều tiền của, nhiều lễ vật là Chúa hài lòng, Chúa sẽ xí
xóa mọi tội lỗi cho họ. Họ tưởng dùng tiền của, lễ vật, quà cáp là mua chuộc,
hối lộ được Thiên Chúa. Thành thử ra, dù có sống gian tà, xảo trá, độc ác, bất
công, chỉ cần đợi dịp đại lễ hành hương lên đền thờ, dâng cúng cho nhiều, thế
là vừa bình an trong lương tâm vừa được tiếng đạo đức. Chính ngôn sứ Giêrêmia
đã thốt lên lời sấm chống lại đền thờ, vì ở đó không còn nền thờ phượng đích
thực nữa. Dân chúng chỉ sống đạo bề ngoài mà không hoán cải đời sống, không
tuân giữ Giao Ước mười điều răn của Thiên Chúa (x. Bđ. 1). ngôn sứ nói: “Chúa
phán: Sao? trộm cướp, giết người, ngoại tình, thề dối, thờ cúng Thần Baal, đi
theo các tà thần, rồi chạy vào đến trước mặt Ta trong đền thờ này, các ngươi
cho thế là thoát nợ, để rồi tiếp tục cái trò quái gở ấy ư? Các ngươi đã biến
đền thờ này là nơi Danh Ta được kêu cầu thành sào huyệt trộm cướp” (Gr 7,9-11).
Điều Thiên Chúa muốn, rõ ràng không chỉ là thái độ phải có trong đền thờ mà là
thái độ phải có trong cả cuộc sống.
Trong cuộc sống, chúng ta
thường quan niệm bổn phận đối với Thiên Chúa trong các nhà thờ tách rời khỏi
bổn phận đối với anh em ngoài xã hội. Thực ra, thờ phượng Thiên Chúa đâu chỉ là
đến nhà thờ đọc kinh, dự lễ và rồi người anh em bên cạnh có chết đói, chết rét,
có gặp tai ương hoạn nạn… cũng chỉ là việc riêng tư của họ, không cần biết đến.
Người ta không thể xây dựng những ngôi nhà thờ nguy nga đồ sộ mà lại làm ngơ
trước những người đang giẫy chết bên cạnh. Người ta không thể nhắm mắt đi đến
nhà thờ trong khi bên lề đường có bao nhiêu người lê lết trong đói khổ. Nhà thờ
phải là nơi hẹn hò gặp gỡ với Thiên Chúa và với anh em đồng loại. Nhà thờ chỉ
có thể xây dựng ngay chính trên “Đất Thánh” của tình yêu thương, chia sẻ, của
tình liên đới anh em mà thôi. Và việc đi đến nhà thờ cũng chỉ có ý nghĩa khi nó
là điểm hẹn, là biểu tượng của chính những viên đá sống động, những viên gạch
bác ái mà người ta không ngừng xây dựng trong cuộc sống hằng ngày. Vì chính các
Kitô hữu là đền thờ của Chúa Thánh Thần (x. Cv 7,49-51; 1Cr 3,16; 2Cr 6,16).
Chúng ta đang tham dự
Thánh Lễ là lễ tế của Chúa Giêsu trên thập giá. Chính Thánh Thể của Ngài giờ
đây vĩnh viễn thay thế mọi lễ tế chiên bò trong đền thờ Giêrusalem và khánh
thành một đền thờ mới với một phụng tự mới trong Thánh Thần và chân lý là yêu
thương và phục vụ anh em cũng là chi thể của thân xác Chúa Giêsu Phục Sinh và
là Đền thờ của Thiên Chúa Ba Ngôi.
32.
Giao ước mới--Lm. Đỗ Vân Lực
Lời hứa có một ảnh hưởng
nào trong cuộc sống? Hôn ước cũng chỉ là một lời hứa vắn tắt, nhưng ràng buộc
con người suốt đời. Thiên Chúa cũng bị lời hứa ràng buộc. Giao ước chính là lời
Thiên Chúa hứa cứu độ nhân loại. Nhưng rõ ràng có một sự khác biệt lớn lao giữa
Thiên Chúa và con người trong việc giữ lời hứa. Chính nhờ lời hứa, giá trị được
xác định. Vì chữ tín càng cao, con người càng được mọi người kính nể. Chúng ta
thử xem Thiên Chúa đã giữ lời hứa như thế nào trong khi thiết lập tương giao
với nhân loại.
TƯƠNG QUAN HAI CHIỀU
Thiên Chúa đã chứng tỏ
tất cả uy quyền khi thiết lập giao ước với loài người. Chính vì yêu thương,
Chúa đã hạ cố đến với Môsê. Người đã dẫn ông qua những nẻo đường, đến tận núi
Sinai để thiết lập giao ước với dân tộc Do thái. Mười Điều Răn chính là cách
diễn tả cụ thể giao ước đó (Faley 1994:244)."Mười Điều răn thể hiện quyền
bình Thiên Chúa trên chúng ta” (Disciples in Mission, Homily Guide, Lent Cycle
B 1999:13). Quyền bính ấy không nhằm đè bẹp, nhưng thăng tiến con người. Con
người chỉ thực sự thăng tiến khi biết rõ mình là ai trong tương quan với Thiên
Chúa và tha nhân. Bởi vậy “ trước khi ban Mười Điều Răn cho Israel, Thiên Chúa
mạc khải Người là ai. Israel khám phá mình là ai khi đáp trả lại lời Thiên Chúa
mời gọi bước vào tương quan giao ước, nhờ vậy có một căn tính mới” (Disciples
in Mission, Homily Guide, Lent Cycle B 1999:13). Quả thực chính nhờ giao ước,
Do thái thực sự được Chúa yêu thương và trở thành người con đầu lòng của Thiên
Chúa. Họ rất hãnh diện vì như chiếm được lòng ưu ái của Thiên Chúa, trong khi dân
ngoại bơ vơ giữa đủ thứ thần tượng. Nhờ thực thi giao ước, họ sẽ chiếm được
niềm hi vọng thiên sai.
Chính vì thế, Đức Giêsu
đã sinh ra trong dân tộc Do thái. Người đến để thực hiện tất cả những gì Thiên
Chúa đã hứa qua giao ước. Thiên Chúa phải được tôn thờ là vị Thần độc nhất. Đối
với Do thái, nhận thêm một vị thần vào bảng phong thần không khó lắm. Nhưng tôn
thờ Người là vị thần độc nhất, loại trừ tất cả các thần khác là cả một vấn
đề."Giới răn thứ nhất (cc. 3-6) là một cách diễn tả niềm tin độc thần trong
thực tế” (Faley 1994:245). Đền thánh là lãnh vực tuyệt đối dành cho một mình
Giavê mà thôi. Nếu ai đem thần ngoại bang vào đền thờ, tức là chối bỏ Giavê.
Xúc phạm tới đền thánh tức là xúc phạm tới Thiên Chúa. Đền thờ trở nên trung
tâm sinh hoạt tôn giáo và chính trị của toàn dân. Đó là biểu tượng của niềm tin
và hi vọng. Dân tộc trở thành một cộng đồng qui tụ quanh đền thờ. Cộng đồng đó
cần được Thiên Chúa hướng dẫn về Đất hứa.
“Mười Điều Răn đã được
Thiên Chúa phác họa để dẫn dân Do thái tới một cuộc sống thánh thiện trong thực
tế. Trong Mười Điều Răn đó, họ sẽ nhìn thấy bản tính Thiên Chúa và kế hoạch
Người chỉ vẽ cho dân lối sống. Mệnh lệnh và những chỉ dẫn nhằm hướng dẫn cộng
đoàn gặp gỡ từng nhu cầu cá nhân một cách đầy thương yêu và có trách nhiệm”
(Life Application Study Bible 1991:136). Thực hành Mười Điều Răn là cách duy
nhất để cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa đối với dân Người.
Biểu tượng của tình yêu
và niềm hi vọng chính là đền thờ. Bởi vậy mỗi khi nhìn đến hay hướng về đền
thờ, dân Chúa vô cùng phấn khởi và hăng say giữ tất cả những gì Thiên Chúa đòi
hỏi qua giao ước. Họ không cảm thấy gò bó hay miễn cưỡng khi giữ luật vì đó là
“phương tiện duy nhất chu toàn luật thương yêu của Thiên Chúa” (Life
Application Study Bible 1991:136). Ngày sabát là một bằng chứng. Chính vì biến
phương tiện thành mục đích, người Do thái đã đánh mất nét tinh hoa cao quí nhất
của lề luật. Nói khác, khi không còn là phương tiện đạt mục đích Thiên Chúa đã
vạch ra, luật lệ hay đền thờ trở thành những thứ thừa thãi, vô bổ.
Chính vì thế Đức Giêsu
mới không ngần ngại nổi nóng với những lạm dụng đền thờ, cản trở việc thờ
phượng. Làm sao có thể tưởng tượng nổi một Đấng “hiền hậu và khiêm nhường” (Mt
11:29) lại có thể “lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra
khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào
bàn ghế ho." (Ga 2:15). Giữa chốn ồn ào hỗn loạn đó, chắc chắn Người đã
phải quát lên: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi
thành nơi buôn bán” (Ga 2:16). Công cuộc thanh tẩy Đền Thờ làm Người hầu như
quên bản chất hiền lành của mình. Người sẵn sàng vượt lên trên mức thường tình
để thanh tẩy Đền Thờ. Người còn muốn cho mọi người thấy mạc khải lớn lao về bản
chất đích thực. Người chính là Đền Thờ mới thay thế Đền Thờ cũ vào thời Thiên
sai (Ml 3:1-4; Dcr 14:21). Bởi thế, “hành động của Đức Giêsu mang tính cánh
chung, thúc đẩy người Do thái thắc mắc về tư cách Thiên sai của Người” (Ga
2:18) (Faley 1994:248). Thắc mắc đó phải đợi sau cái chết và phục sinh của
Người được trả lời thỏa đáng."Đền Thờ ấy sẽ được một thực tại mới thay thế
là Đức Kitô tràn đầy Thần khí” (Faley 1994:248). Chính nơi Người, Thiên Chúa sẽ
hiện diện cách sung mãn và sống động nhất. Người sẽ trở nên trung tâm thu hút
mọi người về với Thiên Chúa. Quả thế, sau khi phục sinh, Đức Giêsu là nơi nhân
loại tìm được dung nhan Thiên Chúa và sự tôn thờ đích thực trong “thần khí và
sự thật” (4:23-24). Trước đó, Người đã làm nhiều dấu chỉ chứng tỏ nơi Người, sự
thật mới đạt đến độ sâu sa nhất. Vì nhờ thiên tính, Người đã đi sâu vào tận bản
tính nhân loại (c. 25; 1,47).
ĐỀN THỜ HÔM NAY
Đức Giêsu cũng muốn thanh
tẩy Đền Thờ hôm nay là Giáo hội. Nếu Giáo hội không được thanh tẩy, những hoạt
động trần tục sẽ che khuất dung nhan Thiên Chúa trước mắt mọi người. Nói khác,
chính vì Giáo hội quá nặng nề với lỗi lầm quá khứ, những nghi lễ và luật lệ
rườm rà, nhiều người đã không thể đến được với Chúa Kitô. Bởi đấy, ngày 12. 3.
2000, ĐGH Gioan Phaolô II đã làm một cử chỉ ngoạn mục trước mắt toàn thể nhân
loại. Giáo hội đã tự thanh tẩy. Đúng hơn, Thánh Linh đã thanh tẩy khuôn mặt
Giáo hội, không phải để Giáo hội được nổi tiếng, nhưng để mọi người nhận biết
Đức Kitô là “sự thật và là sự sống” (Ga 14:6), có sức giải thoát nhân loại khỏi
mọi cảnh khốn cùng hiện tại.
Trong khi rao giảng Đức
Kitô, Giáo hội nhìn nhận lịch sử Giáo hội là một chuỗi “các tội đã phạm trong
khi phục vụ chân lý, các tội đã làm tổn thương đến sự hiệp nhất Kitô giáo, các
tội chống lại dân tộc Israel, các tội chống lại tình yêu, hòa bình và kính trọng
đối với các nền văn hóa và các tôn giáo, các tội chống lại phẩm giá của người
phụ nữ và sự hiệp nhất của loài người, và các tội phạm đến các quyền cơ bản của
con người” (VietCatholic 19/3/2000). Không phải vì những lầm lỗi ấy mà Giáo hội
phải bị phá hủy, vì bản chất Giáo hội vẫn là thánh. Hi vọng sau lời thú tội
này, Giáo hội sẽ phục vụ Thiên Chúa và con người đắc lực hơn. Mọi người có thể
dễ dàng đến với Đức Kitô qua cung cách khiêm nhường của Giáo hội. Nhân loại như
bước vào “thời gian hòa giải, thời gian cứu độ cho tất cả mọi người tín hữu và
cho tất cả mọi người đang tìm kiếm Thiên Chúa!” (ĐGH Gioan Phaolô II, “Ngày Xin
Ơn Tha Thứ”, VietCatholic, 19/3/2000). Đức Giáo Hoàng đã tô một nét son thật
đậm vào lịch sử Giáo hội. Các Giáo hội địa phương cũng theo gương sáng đó.
Chẳng hạn tại Giáo hội Hoa Kỳ, các Đức Hồng y Roger Mahony, TGM Los Angeles, đã
xin lỗi cả những người đống tính luyến ái và những tín đồ thuộc các tôn giáo
khác. Người cũng xin lỗi cả những gia đình hay cá nhân về những lạm dụng tình dục
của một số linh mục. Đức Hồng y Bernard Law tại Boston cũng xin lỗi về nạn nô
lệ tại Hoa Kỳ. Các Giám mục Âu châu cũng thú nhận người Kitô hữu đã không cố
sức cứu người Do thái trong thời Đệ nhị thế chiến (VietCatholic 19/3/2000).
33.
Thiên Chúa thanh tẩy người tình--Lm. Giuse Lê Danh Tường
Trong Chúa nhật trước,
câu chuyện tình của Thiên Chúa và con người đã đi tới chỗ con người phải lòng
Thiên Chúa. Con người đã chấp nhận đi theo Chúa mà không đòi hỏi gì. Nhưng khốn
nỗi, thân phận nó lúc này đâu phải là thánh nhân. Nó đang là một kẻ lang thang,
hoang dã, tả tơi bởi cái tội dám cao ngạo với Trời. Thế nên Thiên Chúa đã tìm
cách thanh tẩy nó, Thiên Chúa thanh tẩy người tình của mình.
Thiên Chúa đơn phương tỏ
tình với con người – Chúa Nhật I Mùa Chay năm B
Con người phải lòng Thiên
Chúa – Chúa nhật II Mùa Chay – Năm B
Thanh tẩy nếp sống
Dòng dõi tổ phụ Abraham
ngày một đông. Sau thời gian lưu lạc bên Ai-cập, họ đã trở nên một đám dân có
thế lực khiến triều đình Ai-cập cũng phải dè chừng. Ngày mà ông Mô-sê dẫn dân
ra khỏi Ai-cập để tiến về miền đất mà Chúa đã hứa, là ngày không thể quên đối
với dân này. Họ đã vượt qua Biển Đỏ, thoát khỏi sự truy đuổi của quân lính
Ai-cập cách diệu kỳ. Họ đã cảm được uy quyền của Thiên Chúa, cảm được tình
thương cụ thể mà Thiên Chúa cứu họ khỏi chết.
Kể từ khi ra khỏi Ai-cập,
Thiên Chúa đã từng bước thanh tẩy họ, uốn nắn họ đi trong đường lối của Ngài.
40 năm trong sa mạc Dân được Chúa dẫn lối: ban ngày có mây che nắng, ban đêm có
cột lửa dẫn đường. Họ phải bỏ đi những nếp sống bừa bãi theo ý mình và tập làm
quen dần với nếp sống có kỷ cương.
Đỉnh điểm của cuộc thanh
tẩy là tại núi Sinai. Thiên Chúa quyết định làm một cuộc thanh lọc để chỉ còn
lại những ai chấp nhận sống theo khuôn phép. Giao ước mà con người với ông
Mô-sê là người đại diện ký kết với Thiên Chúa, là giao ước đầu tiên được ký kết
thực sự giữa con người và Chúa. Trong Giao ước ấy, mỗi bên đều có nghĩa vụ và
quyền lợi của mình: về phía Thiên Chúa, Ngài nhận dân là dân riêng của Ngài và
sẽ gìn giữ họ; về phía dân, họ nhận Thiên Chúa là Chúa duy nhất của họ và tuân
giữ 10 Điều Luật. Bài đọc thứ nhất được trích trong sách Xuất Hành (Xh 20,
1-17) liệt kê 10 điều luật này. Đây chính là Kinh 10 Điều Răn Đức Chúa Trời mà
ngày nay chúng ta vẫn đọc thường ngày. Đây không phải lời Chúa khuyên dạy con
người, ai thích thì làm theo. Nhưng đây là 10 điều mà con người phải tuân giữ.
10 điều trong giao ước mà con người đã ký với Chúa. Nếu ai không thực hiện đủ
thì đồng nghĩa với việc người đó phá vỡ giao ước và họ phải chịu hình phạt.
Trước cuộc Giao ước này,
con người chỉ được giao tiếp với Chúa qua 1 nhân vật đại diện. Giờ đây, con
người đã có thể gặp gỡ Chúa nơi có sự hiện diện của Hòm Bia. Hai tấm bia trong
hòm ấy ghi lại 10 lời của Chúa. Đó cũng chính là lời của Chúa, mặc dù lời ấy
chưa trọn vẹn, chưa hoản hảo như Ngôi Lời sau này. Nhưng cách nào đó, sự thân
tình giữa con người và Chúa đã dần trở nên gần gũi. Con người được tiếp cận gần
hơn với trái tim của Chúa. Và Thiên Chúa cũng dễ bề vỗ về, uốn nắn con người
hơn.
Thanh tẩy tâm hồn
Khi dân đã định cư tại
vùng đất Canaan, họ xây dựng đền thờ nguy nga vững chắc để thờ phượng Chúa. Hòm
Bia Giao ước được đặt nơi cực thánh của Đền Thờ. Hằng năm, ít là dịp lễ Vượt
Qua họ kéo về Đền Thờ để tế lễ, để gặp gỡ Chúa. Dịp lễ Vượt Qua là thời gian họ
cùng nhau nhắc lại biến cố vĩ đại mà Chúa đã giúp họ vượt qua Biển Đỏ thoát
chết. Họ cùng nhau ca tụng quyền năng và tình thương của Chúa. Nhưng cuộc sống
bon chen đã khiến tâm hồn họ hướng về những sự thế gian hơn là hướng về Chúa.
Họ cần được thanh tẩy không ngừng.
Câu truyện trong Tin mừng
trong Chúa nhật này (Ga 2, 13-25) liên quan đến những lệch lạc của dân chúng
trong dịp lễ Vượt Qua tại Đền Thờ. Đức Giêsu đã có mặt ở đó. Ngài đã không chấp
nhận cảnh bát nháo buôn bán làm ô uế Đền Thờ. Ngài đã thẳng tay xua đuổi: “người
chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ.
Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ." Sự
công thẳng của Thiên Chúa được thể hiện rất rõ. Ngài yêu con người. Nhưng Ngài
không chấp nhận để cho người yêu của mình trở nên nhơ uế. Ngài đau lòng khi
thấy con người nhếch nhác. Bằng mọi cách, Ngài thanh tẩy cho bằng được tâm hồn
của người tình để cho nó ngày thêm xinh tươi.
Kết lại bài Tin Mừng,
Thánh Gioan đã khẳng định “Người biết tất cả mọi người, và không cần
ai làm chứng về người nào; Người biết rõ mọi điều trong lòng người
ta." Thế đấy, Chúa biết rõ tâm hồn con người. Mọi sự kín đáo
mà con người có thể che giấu đồng loại thì nó đều bị phơi bày trước nhan Thiên
Chúa. Nếu tôi ghét ai thì việc người ấy phơi bày những sự xấu xa của họ chỉ làm
tôi chán ghét hơn và rời xa họ. Nhưng nếu tôi yêu bạn, thì việc phát hiện ra
điều không hay nơi bạn càng làm tôi gần gũi bạn hơn. Bạn càng làm điều xấu tôi
càng thương bạn và tìm mọi cách để cứu bạn. Thiên Chúa đau khổ đến tột cùng
chính bởi Ngài yêu con người hết mực mà con người thì xa đi ngã lại, tội lỗi
ngập tràn. Những cái roi mà Đức Giêsu quất xuống biểu lộ cơn giận giữ trong tâm
hồn Ngài, nhưng là cơn thịnh nộ thánh. Nó xuất phát từ một trái tim ngập tràn
tình yêu con người.
Ngẫm
Khi gục ngã hay khi lao
đao chẳng còn ai bám víu, tôi thường quay về kêu cứu Trời cao. Tôi nại đến tình
thương của Chúa để xin Chúa cứu tôi. Và khi tôi thoát nạn, tôi lại lạm dụng
tình thương của Ngài. Tôi tiếp tục đi vào con đường lầm lỗi mà bỏ ngoài tai
những giáo huấn của Ngài.
Thiên Chúa là Đấng luôn
yêu con người, nhưng Ngài cũng là Đấng rất mực công minh. Sự công thẳng của
Chúa khiến con người bao phen sợ hãi. Nhưng dường như chỉ khi tôi bị luận phạt
bấy giờ tôi mới sợ hãi. Đành rằng sống trong sự sợ hãi là điều dễ làm người ta
không trưởng thành nổi. Nhưng khi ta biết sợ thì ta sẽ không dám làm điều dữ
trước mặt Chúa.
Chúa yêu tôi và Chúa mãi
yêu tôi. Tôi mon men chạm đến tình Ngài nhưng chân tôi run rẩy đứng không vững.
Tôi gục đổ trước nhan Ngài không phải vì tôi đã kiệt sức hay bị đánh té tua.
Tôi gục xuống bởi toàn thân tôi đã khuất phục Ngài.
Lậy Chúa, con muốn được ở
lại trong Ngài. Xin giữ con lại trong tình yêu Ngài. Xin Thần Khí Chúa thấm đậm
trong con, thúc đẩy con, dẫn lối con đi trong đường lành. Xin Tình Yêu Chúa
thanh tẩy và tái tạo con.
34.
Thanh tẩy tâm hồn--Lm. Giuse Lê Danh Tường
Mùa Chay thánh đã qua một
phần ba thời gian. Mọi người tiếp tục được mời gọi sống tinh thần sám hối của
Mùa chay. Sám hối để được nên thánh thiện hơn. Trong Chúa nhật thứ III Mùa
chay, Lời Chúa liên quan đến việc thanh tẩy tâm hồn. Lời Chúa mời gọi chúng ta
hãy can đảm xua tan mọi nhơ uế trong tâm hồn để cho tâm hồn mình phần nào xứng
đáng là nơi Chúa ngự.
Trong bài Tin Mừng, thánh
Gioan thuật lại trình thuật Chúa Giêsu xua đuổi những người buôn bán tại Đền
thờ Giê-ru-sa-lem. Đền thờ Giê-ru-sa-lem được xây dựng từ thời vua Salomon vào
thế kỷ thứ 10 TCN. Đền thờ ấy tồn tại được 400 năm. Nó bị phá hủy hoàn toàn vào
năm 587 TCN. Đền thờ thứ hai được xây dựng theo đúng kích thước Đền thờ cũ trên
đống đổ nát vào năm 537 tcn và được tái thiết vào năm 19 TCN. Ngôi đền thờ bằng
đá đồ sộ tưởng như không ai có thể phá hủy, nhưng vào năm 70 SCN nó đã bị cháy
dụi bởi một người lính ném cây đuốc đang cháy trên tay vào trong đền thờ.
Đền thờ bao gồm những khu
vực dành riêng cho từng thành phần: tại cửa vào là phần sân chư dân. Phần tiền
đình này những người ngoại giáo được đi vào. Đi tiếp vào bên trong là nơi thánh
chỉ dành cho người Do thái. Nơi này được chia thành các phần dành cho nam giới,
dành cho nữ giới, và dành cho các tư tế riêng. Trong cùng là gian cực thánh,
nơi đặt Hòm bia Giao ước. Hòm đựng tấm bia bằng đá trên đó khắc 10 điều răn Đức
Chúa Trời.
Bài đọc thứ nhất trích từ
sách Xuất Hành nói về 10 điều răn này. Đây là 10 điều trong Giao ước mà ông
Mô-sê đã đại diện cho toàn dân ký kết với Thiên Chúa trên núi Sinai. Sau khi
thoát khỏi Ai cập, dân Do thái đã ở trong sa mạc 40 năm để được thanh tẩy dần
dần. Trong giai đoạn này, tại núi Si nai, Thiên Chúa đã ký kết giao ước với
dân. Trong Giao ước ấy: về phía Thiên Chúa, Ngài nhận dân là dân riêng của Ngài
và sẽ gìn giữ họ; về phía dân, họ nhận Thiên Chúa là Chúa duy nhất của họ và
tuân giữ 10 Điều. 10 Điều dân phải giữ ấy được khắc ghi trên bia đá. Và kể từ
ấy, sự hiện diện của hai tấm Bia có khắc 10 Điều được coi là sự hiện diện của
chính Thiên Chúa.
Chiếc hòm đựng Bia Giao
ước, còn gọi là Hòm bia Giao ước hay Hòm bia Thiên Chúa được đặt nơi cực thánh
của Đền thờ Giê-ru-sa-lem. Đây là đền thờ duy nhất của dân Do Thái thời đó.
Người ta lên Đền thờ là để gặp gỡ Thiên Chúa. Và Chúa Giêsu đã không chấp nhận
Đền thờ ấy lại trở thành nơi buôn bán.
Khi thấy Giêsu xua đuổi
người ta như vậy, dân chúng gạn hỏi Giêsu về tư cách của Ngài: “Ông
hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy." Giêsu
đã kéo họ ra khỏi óc suy tư hạn hẹp trong thế giới vật chất: “Các
ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại." Người
dân khi ấy không thể hiểu nổi điều mà Giêsu nói với họ. Nhưng sau khi Chúa sống
lại thì các môn đệ đã hiểu Giêsu muốn nói về chính thân thể của Ngài. Từ Đền
thờ Giê-ru-sa-lem bằng đá và đất, Chúa Giêsu đã kéo chúng ta đến với Đền thờ
vĩnh cửu đó chính là Ngài.
Ở cuối bài Tin mừng, cái
nhìn của Giêsu đã không còn hướng về sự nhơ uế của Đền thờ Giê-ru-sa-lem nữa.
Ngài nhìn thẳng vào sự nhơ uế và u tối của tâm hồn những người đang đứng quanh
Ngài: “Người biết tất cả mọi người, và không cần ai làm chứng về người nào;
Người biết rõ mọi điều trong lòng người ta." Tâm hồn chúng ta thế nào,
Ngài biết rõ. Ngôi đền thờ mà mỗi chúng ta đang sở hữu, nó đang trong tình
trạng thế nào, Ngài biết rõ.
Mỗi lần tôi đón nhận Chúa
Giêsu Thánh Thể vào lòng là dấu chỉ rõ rệt nhất Chúa ngự trong tâm hồn tôi.
Nhưng khi Chúa Giêsu bước vào tâm hồn tôi Ngài sẽ thấy gì? Tâm hồn tôi có xứng
đáng là đền thờ cho Chúa ngự chăng?
Giêsu sẵn sàng ngồi xuống
đồng bàn với những người tội lỗi. Ngài sẵn sàng đưa tay chạm đến những người
phong cùi; Ngài ôm lấy những con người tội lỗi; Ngài tha thứ cho kẻ có tội ngay
khi mọi người xung quanh đều kết án tội nhân. Nhưng Ngài không chấp nhận bất cứ
hành vi nào biến nơi thánh thiêng thành nơi chợ búa, mặc cả so đo, lọc lừa đồng
loại, lợi dụng lòng tốt. Ngài tha thứ vào kéo chúng ta lên để chúng ta được
bước vào sự thánh thiện, bước vào nơi thiêng thánh có sự hiện diện của Thiên
Chúa.
Lời mời gọi trở nên thánh
thiện và trong sạch không chỉ đối với những người tín hữu. Thánh Gioan không kể
việc Chúa làm sạch khu vực Đền thờ dành cho người Do Thái mà là phần Đền thờ
dành cho dân ngoại, những người không tin vào Chúa. Ngay cả những nơi dành cho
dân ngoại Chúa cũng không chấp nhận sự nhơ bẩn, nhếch nhác.
Lạy Chúa, Mùa Chay thánh
còn lại hai phần ba chặng đường. Xin Chúa giúp con luôn can đảm xua đi những
nhơ uế trong tâm hồn mình. Để tâm hồn con trở nên thanh sạch mà đón tiếp Chúa,
đón tiếp anh chị em của con trên mọi nẻo đường của cuộc sống.
35.
Tẩy rửa--Lm. Vũ Đình Tường
Trong hình ảnh thế giới
loài vật có những điều nhờ ống kính và phát minh khoa học ta mới được nhìn
thấy. Đó chính là hình ảnh một đàn cá con không sợ mà lại bu quanh một con cá
lớn. Con cá lớn rất thân thiện, hiền lành, tỏ ra hoà nhã và có nhiều cảm tình
với lũ cá bé. Chúng không đồng loại cá, khác loại nhưng lại thân thiện đến thế.
Người ta hay ví von xỉa răng cọp nhưng ít ai nhìn thấy; còn xỉa răng cá thì quá
rõ ràng. Cá bé bơi vào miệng cá lớn ăn những thịt cá dính chân răng con cá lớn.
Con cá lớn mở miệng, phồng mang, xoè vây cho lũ cá con nhào vào những chỗ hiểm
hóc, đầy nguy hiểm đó. Vì sao? Theo các nhà nghiên cứu thì con cá lớn cần đám
cá con tẩy rửa những nơi hiểm yếu mà nó không tự tẩy rửa được. Người ta thấy
hình ảnh con cá trườn mình trên cát vì chúng dùng cát lau rong rêu dơ dính trên
vảy cá. Một hình thức tẩy rửa thông thường của loài cá. Bạn nào nuôi hồ cá
trong nhà thấy cá con hay hớp cát rồi phun ra là hình thức rửa răng cá cho
sạch. Những chỗ khó khăn như mang cá, miệng và vi là những nơi cá tự nó không
thể thanh tẩy nên nhờ lũ cá con đến làm công việc thanh tẩy dùm. Cả hai đều có
lợi. Cá lớn được tẩy sạch vết nhơ lại được một màn đấm bóp không mất tiền. Lũ
cá nhỏ cũng có lợi vì được một bữa ăn ngon lại không tốn phí chi cả. Trên đồng
cỏ lũ chim đậu lưng trâu cũng làm cùng công việc thanh tẩy đó. Chúng bắt rận
cho trâu bò.
Đời sống động vật là như
thế. Con người cũng cần thanh tẩy qua hình thức tắm rửa cho sạch sẽ bản thân.
Thử quên tắm vài ngày bạn sẽ biết ngay cái mùi vị của chính mình. Có lẽ không
cần phải lâu như thế chỉ cần đóng kín cửa phòng sau một đêm ngủ dài, sáng ra
bạn nhận thấy cái mùi khác lạ. Trên chuyến bay dài hơn mười giờ đồng hồ, không
khí trong máy bay lúc mới tươi mát thế nào, nửa đường bay bạn cảm thấy cái
không khí đó vẫn mát lạnh nhưng vẻ trong lành bắt đầu nhiễm mùi vị và cuối
chặng bay thì cái mùi đó tăng rõ.
Thông thường chúng ta cho
đền thờ là nơi thánh nên gọi là đền thánh. Thực ra trên trần gian không nơi nào
dơ hơn đền thờ. Đền thờ là nơi cực dơ, quy tụ mọi thứ bẩn thỉu. Một Chúa Nhật
nào đó bạn ngồi quan sát xem. Còn có một thứ tội nào trên gian trần mà không
xuất hiện trong đền thờ. Thùng rác chứa các chất dơ trần thế từ thề gian đến
nói dối, từ cướp của đến giết người, từ gian dâm đến bán dâm đều có mặt nơi toà
giải tội. Xét về phương diện đó thì đền thờ chính là nơi bẩn thỉu nhất, phòng giải
tội chất chứa mọi thứ dơ bẩn trên đời. Đền thờ được gọi là đền thánh vì con
người tội lỗi đến đó đổ bỏ mọi thứ dơ bẩn để trở nên tốt lành, trở nên thánh
thiện hơn nên đền thờ là đền thánh vì giúp người ta nên thánh. Đền thờ là nơi
tất cả các tội phạm, các bí ẩn cuộc đời được phơi bày. Mọi dấu kín được thổ lộ
để tâm tư con người được thoải mái, để tâm hồn được bình an, để bản thân thấy
nhẹ nhàng. Đền thờ chính là thùng rác công cộng cho mọi người tự do đến đổ rác,
không từ loại rác nào, từ rác thông thường đến rác nguy hiểm mang chất phóng xạ
đều được tự do đổ.
Thế sao Đức Kitô lại dùng
roi, xua đuổi người buôn bán ra khỏi đền thờ. Ngài lật tung bàn của người đổi
tiền, thả chim cho bay đi tự do. Câu trả lời cho thắc mắc này nằm gọn trong hai
chữ ' buôn bán hay chợ búa'. Buôn bán hay nơi chợ búa là nơi trao đổi. Đền thờ
là thùng rác chung của xã hội. Ai muốn đổ rác đều có quyền và được tự do làm
công việc đổ rác. Những người bị Đức Kitô xua đuổi vì họ không đến đền thờ để
đổ rác mà đến đền thờ để buôn bán rác. Kẻ đến đổ rác thì được mời gọi. Kẻ đến
sống nhờ buôn bán rác thì bị xua đuổi. Đức Kitô thanh tẩy đền thờ vì người ta
làm cho đền thờ thành nơi buôn bán. Trung tâm của buôn bán dối trá, điêu ngoa,
thề gian, làm chứng dối.
Đến đền thờ đổ rác chính
là tìm sự sống chân thật. Có được sự sống thật nhờ biết vất bỏ rác rưới trói
buộc con người. Nhờ vất bỏ nên cảm thấy tự do, thảnh thơi, thoải mái. Đến đền
thờ buôn bán rác kiếm sống là tìm kiếm sự sống giả tạo, sư sống tạm bợ nên bị
ngăn cản, cấm đoán.
Chúng ta xin ơn biết cách
đổ rác và tránh xa việc buôn rơm, bán rác.
36.
Chăm lo đền thờ Giáo Xứ, tu bổ đền thờ tâm hồn--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Đối với Do Thái giáo, Lễ
Vượt Qua là một đại lễ, tưởng niệm cuộc vượt qua Biển Đỏ tiến về Đất Hứa. Lễ
Vượt Qua được tổ chức vào ngày 15 tháng Nissan, tức là tháng 4 dương lịch. Mọi
người trong đất nước Palestine đều về Giêrusalem dự lễ. Cả những người tản mác
khắp thế giới không bao giờ quên tôn giáo, tổ tiên cũng về dự đại lễ quan trọng
nhất này. Dầu sống ở xứ nào, người Do Thái vẫn ước mơ và hy vọng được dự Lễ
Vượt Qua tại Giêrusalem ít nhất là một lần trong đời. Trong dịp này Chúa Giêsu
cùng đi dự Lễ Vượt Qua với các môn đệ.
Thuế Đền Thờ là một sắc
thuế mà mỗi người Do Thái từ 9 tuổi trở lên đều phải đóng. Tiền thuế là ½
siếc-lơ, tương đương với 2 ngày công nhật. Trong việc giao dịch thương mại, mọi
loại tiền đều co giá trị tại Palestine. Nhưng tiền thuế Đền Thờ phải nộp bằng
đồng siếc-lơ Ga-li-lê hoặc siếc-lơ của Đền Thờ. Khách hành hương đến Đền Thờ
phải đổi tiền siếc-lơ. Vì vậy trong sân Đền Thờ có nhiều người làm nghề đổi
tiền. Tiền huê hồng khi đổi là ¼ ngày công cho 1 đồng. 4 đồng siếc-lơ thì người
đổi được lợi một ngày công. Do đó số tiền thuế Đền Thờ và lợi tức đổi tiền thật
là lớn.
Điều khiến Chúa Giêsu nổi
giận là khách hành hương phải chịu những tệ nạn của bọn đổi tiền bóc lột với
giá cắt cổ. Thật là bất công và càng tệ hơn nữa khi người ta nhân danh tôn giáo
để trục lợi. Bên cạnh bọn đổi tiền còn có một số người bán bò, chiên, bồ câu để
khách hành hương mua làm lễ vật toàn thiêu. Điều hết sức tự nhiên và tiện lợi
là có thể mua đựơc các con vật ở sân Đền Thờ. Luật quy định các con vật làm của
lễ phải lành lặn không tỳ vết. Có những chức sắc kiểm tra khám xét con vật. Mỗi
lần khám xét phải trả 1/12 siếc-lơ, không được mua vật ở ngoài Đền Thờ. Khốn
nổi, mỗi con vật mua trong Đền Thờ đắt gấp 15 lần ở bên ngoài. Khách hành hương
nghèo bị bốc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Sự bất công này lại càng tệ
hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo.
Chính những điều ấy đã
làm Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận."Chúa lấy dây thừng bện thành roi đánh
đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người
đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ..."
Trong Tin Mừng hiếm khi
ta thấy Chúa Giêsu nổi giận. Người bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa;
lặng lẽ trước những lời cáo gian buộc tội; xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ
đóng đinh mình vì họ không biết việc họ làm. Chính Chúa Giêsu đã mời gọi chúng
ta học lấy nơi Người bài học hiền lành và khiêm nhường. Vậy mà ở đây, Chúa đã
nỗi giận đùng đùng, lật tung bàn ghế, lấy dây thừng làm roi xua đuổi tất cả.
Khung cành Đền Thờ phải
là nơi yên tĩnh, thánh thiêng. Thế mà nay lại ồn ào huyên náo, mua bán đổi
chác, tranh giành, cãi cọ, đôi co như là một cái chợ buôn bán sầm uất."Đem
tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga
2, 16)."Nhà của Ta là nhà cầu nguyện, còn các ngươi làm thành hang trộm
cướp” (Mt 21, 12 – 13). Chúa Giêsu thất vọng biết bao trong tiếng than thở
ấy."Nơi buôn bán”, “Hang trộm cướp”, Đền Thờ, nơi tôn nghiêm thờ phượng
Đức Chúa, nay lại quá bất kính, quá bát nháo khiến Chúa Giêsu phải đau lòng.
Lời ngôn sứ Giêrêmia quở trách dân Do Thái xưa đã nên ứng nghiệm (x. Gr 7, 11).
Thế là Chúa Giêsu thực hiện một cuộc thanh tẩy Đền Thờ vì Người yêu mến Đền
Thờ."Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Tv 69,
10). Lòng nhiệt thành với Đền Thờ sẽ dẫn Đức Giêsu đến chỗ bị người đời bách
hại (x. Ga 15, 5).
Tại sao Chúa Giêsu lại
hành động như vậy? Chúa Giêsu làm như vậy vì Nhà Thiên Chúa đã bị
xúc phạm. Trong sân Đền Thờ có thờ phượng mà không có lòng tôn kính.
Thờ phượng mà không có lòng tôn kính là việc bất xứng. Đó là việc thờ phượng
hình thức chiếu lệ. Trong sân Đền Thờ, người ta cãi vã cò kè về giá cả các món
hàng, tiếng ồn ào huyên náo tạo thành một cái chợ chứ không phải là Đền Thờ.
Chúa Giêsu hành động như
vậy để chứng minh rằng việc dâng thú vật làm lễ tế không còn thích đáng
nữa. Các
ngôn sứ đã loan báo: “Đức Chúa phán, ngần ấy hy lễ của các ngươi đối với Ta nào
có nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bê mập, Ta chán ngấy. Máu chiên dê
Ta chẳng thèm." (Is 1,11)."Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có
thượng tiến lễ toàn thiêu Người cũng không chấp nhận” (Tv 50,16). Thái độ thanh
tẩy Đền Thờ của Chúa Giêsu chứng tỏ Chúa đòi hỏi lòng thành kính. Lễ vật đẹp
lòng Thiên Chúa là tấm lòng chân thành.
Lý do thứ ba chính là
“Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện." Đền Thờ là nơi Thánh, là
chốn Thiên Chúa hiện diện tiếp nhận phụng tự của người dâng lễ và thông ban cho
họ sự sống và các ân huệ của Người. Các chức sắc Đền Thờ, các con buôn người Do
Thái đã biến Đền Thờ thành nơi huyên náo, nổi loạn. Tiếng bò rống, tiếng chiên
kêu, tiếng rao hàng, lời qua tiếng lại mặc cả, cãi cọ mua bán làm cho khàch
hành hương không thể cầu nguyện được.
Chúa Giêsu đã thanh tẩy
Đền Thờ Giêrusalem. Ngày nay Chúa cũng muốn người tín hữu chúng ta thanh tẩy
nhà xứ giáo xứ mình, thanh tẩy Đền Thờ tâm hồn mình.
Chúa Giêsu đã quan tâm
đến Đền Thờ, đã thanh tẩy Đền Thờ và coi đó là nhà của Cha Người. Chúng ta cần
quan tâm đến Nhà Thờ giáo xứ. Bảo vệ nơi thánh thiêng, tôn nghiêm. Loại trừ
những thái độ bất kính. Giữ giữ Nhà Thờ, khuôn viên được sạch đẹp. Cùng nhau
góp phần xây dựng Nhà Chúa.
Chúa Giêsu có lòng nhiệt
thành đối với Nhà Cha. Người Kitô hữu cũng phải nhiệt thành đối với Nhà Thờ
giáo xứ bằng cách giữ gìn trật tự ngăn nắp trong ngoài. Nhà Thờ không phải của
Cha Xứ mà là của mỗi người góp công góp sứ xây dựng nên. Nhà Thờ là nơi người
Kitô hữu họp nhau mỗi ngày để cử hành các Mầu Nhiệm Thánh nên luôn cần lòng tôn
kính chân thành, yêu mến thiết tha.
Thiên Chúa không cần Nhà
Thờ. Chỉ có con người mới cần Nhà Thờ. Không có Đền Thờ nào đẹp bằng Đền Thờ
Giêrusalem. Một công trình nguy nga tráng lệ xây cất ròng rã 46 năm. Khi đi
qua, các môn đệ tự hào chỉ cho Chúa thấy sự huy hoàng của Đền Thờ, nhưng Chúa
Giêsu lại nói rằng:.".. sẽ có ngày không còn hòn đá nào trên hòn đá nào!”
Khi người Do Thái chất
vấn: “Ông lấy quyền nào mà làm như vậy?” Chúa Giêsu bảo: “Cứ phá Đền Thờ này
đi, trong 3 ngày Ta sẽ xây dựng lại." Chúa ám chỉ đến cái chết và sự Phục
Sinh của Người. Đền Thờ ở đây chính là thân thể Đức Giêsu mà mỗi người Kitô hữu
là một viên đá sống động xây dựng nên Đền Thờ ấy. Thân thể phục sinh của Người
là Đền Thờ mới, nơi con người thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực, trong tinh
thần và trong chân lý.
Sự thờ phượng thiêng
liêng và hoàn hảo nhất chính là sự thờ phượng trong Bí Tích Thánh Thể. Chúa
Giêsu vừa hiện diện vừa tự hiến. Một sự tự hiến để thờ phượng liên tục khắp mặt
đất và chung của giáo hội toàn cầu. Một hiến tế vừa cảm tạ, vừa ban phát ân
sủng. Người tín hữu họp nhau trong Nhà Thờ cử hành thánh lễ chính là đỉnh cao
của việc thờ phượng và đón nhận ân sủng Thiên Chúa ban.
Chăm lo giữ gìn, xây dựng
Nhà Thờ Giáo Xứ, người tín hữu còn phải lưu tâm xây dựng con người mình vì đó
là Đền Thờ của Cha và Con (x. Ga 14, 23) và chính thân xác ta cũng là Đền Thờ
của Chúa Thánh Thần (x. 1 Cr 6, 19). Mùa Chay là mùa tu sửa Đền Thờ tâm hồn
bằng việc siêng năng đến với Nhà Thờ Giáo Xứ hàng ngày với tất cả lòng nhiệt
thành yêu mến.
37.
Đền thờ tâm hồn--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Phụng vụ Lời Chúa qua hai
Chúa Nhật Mùa Chay cho thấy Đức Giêsu vừa là con người phải chịu cám dỗ trong
sa mạc, vừa là Con Thiên Chúa nơi biến cố Hiển Dung trên núi Tabor.
Phụng vụ Lời Chúa tuần 3
Mùa Chay trình bày Đức Giêsu là Đền Thờ của Thiên Chúa qua sự kiện thanh tẩy
đền thờ Giêrusalem.
1. Chúa Giêsu thánh tẩy
đền thờ
Đối với Do thái giáo, Lễ
Vượt Qua là một đại lễ, tưởng niệm cuộc vượt qua Biển Đỏ tiến về Đất Hứa. Lễ
Vượt qua được tổ chức vào ngày 15 tháng Nissan, tức là tháng 4 dương lịch.
Mọi người trong đất nước
Palestin đều về Giêrusalem dự lễ. Cả những người tản mác khắp thế giới không
bao giờ quên tôn giáo, tổ tiên cũng về dự đại lễ quan trọng nhất này. Dầu sống
ở xứ nào, người Do thái vẫn ước mơ và hy vọng được dự lễ Vượt Qua tại
Giêrusalem ít nhất là một lần trong đời. Trong dịp này Chúa Giêsu cùng đi dự lễ
Vượt qua với các môn đệ.
Thuế Đền Thờ là một sắc
thuế mà mỗi người Do thái từ 9 tuổi trở lên đều phải đóng. Tiền thuế là ½
siếc-lơ, tương đương với 2 ngày công nhật.
Trong việc giao dịch
thương mại, mọi loại tiền đều có giá trị tại Palestin. Nhưng tiền thuế Đền thờ
phải nộp bằng đồng siếc-lơ Galilê hoặc siếc-lơ của Đền Thờ. Khách hành hương
đến Đền Thờ phải đổi tiền siếc-lơ. Vì vậy trong sân Đền Thờ có nhiều người làm
nghề đổi tiền. Tiền huê hồng khi đổi là ¼ ngày công cho 1đồng. Cứ 4 đồng
siếc-lơ thì người đổi được lợi một ngày công. Do đó số tiền thuế Đền thờ và lợi
tức đổi tiền thật là lớn.
Điều khiến Chúa Giêsu nổi
giận là khách hành hương phải chịu những tệ nạn của bọn đổi tiền bóc lột với
giá cắt cổ. Thật là bất công và càng tệ hơn nữa khi người ta nhân danh Tôn giáo
để trục lợi.
Bên cạnh bọn đổi tiền còn
có một số người bán bò, chiên, bồ câu để khách hành hương mua làm lễ vật toàn
thiêu. Điều hết sức tự nhiên và tiện lợi là có thể mua đựơc các con vật ở sân
Đền Thờ. Luật quy định các con vật làm của lễ phải lành lặn không tỳ vết. Có
những chức sắc kiểm tra khám xét con vật. Mỗi lần khám xét phải trả 1/12
siếc-lơ, không được mua vật ở ngoài Đền thờ. Khốn nổi, mỗi con vật mua trong
đền thờ đắt gấp 15 lần ở bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bốc lột trắng
trợn khi muốn dâng lễ vật. Sự bất công này lại càng tệ hại thêm vì nó làm dưới
danh nghĩa tôn giáo.
Chính vì những điều ấy đã
làm Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận. Chúa lấy dây thừng bện thành roi đánh đuổi
tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ;còn tiền của những người đổi
bạc,Người đổ tung ra,và lật nhào bàn ghế của họ.
Trong Phúc âm hiếm khi ta
thấy Chúa Giêsu nổi giận. Ngài bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa;
lặng lẽ trước những lời cáo gian buộc tội; xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ
đóng đinh mình vì họ không biết việc họ làm. Chính Chúa Giêsu đã mời gọi chúng
ta học lấy nơi Ngài bài học hiền lành và khiêm nhường. Vậy mà ở đây, Chúa đã
nỗi giận đùng đùng,lật tung bàn ghế, lấy dây thừng làm roi xua đuổi tất cả.
Khung cảnh đền thờ phải
là nơi yên tĩnh, thánh thiêng. Thế mà nay lại ồn ào huyên náo, mua bán đổi
chác, tranh giành, cãi cọ, đôi co như là một cái chợ buôn bán sầm uất."Đem
tất cả những thứ này ra khỏi đây,đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga
2,16)."Nhà của Ta là nhà cầu nguyện,còn các ngươi làm thành hang trộm
cướp” ( Mt 21,12-13). Chúa Giêsu thất vọng biết bao trong tiếng than thở
ấy."Nơi buôn bán“, “Hang trộm cướp“, Đền thờ nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức
Chúa, nay lại quá bất kính, quá bát nháo khiến Chúa Giêsu phải đau lòng. Lời
ngôn sứ Giêrêmia quở trách dân Do thái xưa đã nên ứng nghiệm ( x. Gr 7,11).
Thế là Chúa Giêsu thực
hiện một cuộc thanh tẩy Đền thờ vì Ngài yêu mến Đền thờ: “Vì nhiệt tâm lo việc
Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Tv 69,10). Lòng nhiệt thành với Đền
thờ sẽ dẫn Chúa Giêsu đến chỗ bị người đời bách hại (x. Ga 15,5).
2. Tại sao Chúa Giêsu
thanh tẩy đền thờ?
– Chúa Giêsu thanh tẩy
đền thờ vì nhà Thiên Chúa đã bị xúc phạm.
Trong sân đền thờ có thờ
phượng mà không có lòng tôn kính. Thờ phượng mà không có lòng tôn kính là việc
bất xứng. Đó là việc thờ phượng hình thức chiếu lệ. Trong sân Đền thờ người ta
cãi vả về giá cả,tiếng ồn ào huyên náo tạo thành một cái chợ chứ không phải là
Đền thờ.
– Chúa Giêsu thanh tẩy
đền thờ để chứng minh rằng việc dâng thú vật làm lễ tế không còn thích đáng
nữa.
Các ngôn sứ đã loan báo:
“Đức Chúa phán, ngần ấy hy lễ của các ngươi đối với Ta nào có nghĩa lý gì? Lễ
toàn thiêu chiên cừu,mỡ bê mập, Ta chán ngấy. Máu chiên dê Ta chẳng thèm."
(Is 1,11)."Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn
thiêu, Ngài cũng không chấp nhận” ( Tv 50,16).
Thái độ thanh tẩy Đền thờ
của Chúa Giêsu chứng tỏ Chúa đòi hỏi lòng thành kính. Lễ vật đẹp lòng Thiên
Chúa là tấm lòng chân thành.
– Chúa Giêsu thanh tẩy
đền thờ vì “Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện“
Đền thờ là nơi Thánh,là
chốn Thiên Chúa hiện diện tiếp nhận phụng tự của người dâng lễ và thông ban cho
họ sự sống và các ân huệ của Người.
Các chức sắc Đền thờ,các
con buôn người Do thái đã biến Đền thờ thành nơi huyên náo, nổi loạn. Tiếng bò
rống, tiếng chiên kêu, tiếng rao hàng, lời qua tiếng lại mặc cả, cãi cọ mua bán
làm cho khách hành hương không thể cầu nguyện được.
3. Xây dựng đền thờ tâm
hồn.
Chúa Giêsu đã thanh tẩy
Đền thờ Giêrusalem. Chúa muốn chúng ta thanh tẩy Đền thờ tâm hồn của mình.
Đền thờ tâm hồn không xây
dựng bằng vật liệu cao cấp của các thứ kim loại, bằng những loại gỗ quý giá.
Đền thờ tâm hồn được xây bằng các bí tích, các việc lành thánh thiện, những hy
sinh, lòng yêu mến Thiên Chúa.
Trong Đức Kitô, chúng ta
đã trở nên đền thờ sống động và đã được cung hiến ngày lãnh nhận phép Thánh
Tẩy. Thánh Phaolô minh định: “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần
Thiên Chúa ngự trong đền thờ ấy." Đó là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa
dành cho mỗi tín hữu qua Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ
tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm đá quý. Bởi lẽ đền
thờ bằng gỗ đá, dẫu có xinh đẹp và đồ sộ như đền thờ Latêranô đi chăng nữa thì
một ngày kia, cũng sẽ tiêu tan. Không có đền thờ nào đẹp bằng đền thờ
Giêrusalem. Một công trình nguy nga tráng lệ xây cất ròng rã 46 năm. Khi đi qua,
các môn đệ tự hào chỉ cho Chúa Giêsu thấy sự huy hoàng của Đền thờ,nhưng Người
lại nói rằng: sẽ có ngày không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Khi người Do
thái chất vấn: Ông lấy quyền nào mà làm như vậy ? Chúa Giêsu bảo: cứ phá Đền
thờ này đi,trong 3 ngày Ta sẽ xây dựng lại. Chúa ám chỉ đến cái chết và sự phục
sinh của Người. Đền thờ ở đây chính là thân thể Đức Giêsu mà mỗi người Kitô hữu
là một viên đá sống động xây dựng nên đền thờ ấy. Thân thể phục sinh của Chúa
là đền thờ mới, nơi con người thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực, trong tinh
thần và trong chân lý. Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn chúng ta mới là đền
thờ vững bền.
Đền thờ đích thực, là
chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21). Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã
thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại. Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ
phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa. Quả thế, Thánh Linh đã phục sinh
thân thể Đức Giêsu. Chúa Cha đã đặt Người làm Trung gian duy nhất để chuyển cầu
cho nhân loại (x. 2 Tm 2:5; Dt 9:15; 12:24). Tất cả mọi giá trị và ý nghĩa của
mọi nhà thờ trên thế giới này đều phải bắt nguồn từ đền thờ này. Thật vậy,
“không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu
Kitô." (1Cr 3,11). Máu và nước từ cạnh sườn Đức Giêsu tuôn chảy như giòng
sông."Sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống." (Ed 47,9). Người
được phúc đón nhận sự sống đó là Kitô hữu. Vì họ là “thân thể Đức Kitô."
(2 Cr 12, 27). Bởi đó, họ cũng là “Đền Thờ của Thiên Chúa." (1 Cr 3,16).
Lạy Chúa Giêsu Kitô,
Chúa đã đuổi những người
buôn bán ra khỏi đền thờ vì họ đã đem đền thờ biến thành nơi buôn bán, đổi
chác;
Xin Chúa xua đuổi nhưng
thói hư tật xấu ra khỏi tâm hồn chúng con, để tâm hồn chúng con xứng đáng là
đền thờ sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị. Amen.
38.
Đền Thờ sống động--Lm. Vũ Thái Hoà
Trong các sách Tin Mừng,
chúng ta thấy Đức Giêsu là Đấng từ bi và nhân hậu, luôn đón tiếp và tha thứ
những kẻ tội lỗi, chữa lành các bệnh nhân... Thế mà, trong đoạn Tin Mừng hôm
nay, Đức Giêsu nổi giận “khi thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ
câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi xua đuổi tất
cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc,
Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ." Người còn nói với những kẻ
bán bồ câu: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành
nơi buôn bán." Tại sao Đức Giêsu lại giận dữ như thế?
Chúng ta thường hiểu sai
câu chuyện Đức Giêsu đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ. Sự hiện diện
của họ rất cần thiết vì họ phục vụ khách hành hương đến từ xa, cần mua thú vật
tại chỗ để dâng của lễ trong Đền Thờ theo Luật Chúa truyền. Khi bà Maria và ông
Giuse đem con lên Giêrusalem để tiến dâng cho Chúa, chắc hẳn rất hài lòng khi
mua được cặp bồ câu non ngay trong Đền Thờ (Lc 2,22-24).
Thật ra, khi đuổi những
người buôn bán ra khỏi Đền Thờ, Đức Giêsu chống đối việc thờ phượng của người
Do Thái. Khi lật nhào các quầy hàng, Người muốn lật nhào thứ tôn giáo hám lợi,
mà Đền Thờ là tượng trưng. Mỗi lần Đền Thờ bị phá đổ, người Do Thái luôn xây
cất lại. Lần này xây mất bốn mươi sáu năm mới xong. Thế mà Đức Giêsu nói phải
phá hủy nó đi: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng
lại." Thánh sử Gioan giải thích ngay sau đó: Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở
đây là thân thể Người, là chính Người. Đức Giêsu ám chỉ sự thương khó và phục
sinh của Người.
Đức Giêsu muốn nói với họ
rằng: “Bây giờ tôi đã ở đây, các ông có thể phá hủy Đền Thờ được rồi!” Nếu đền
thờ là nơi Thiên Chúa hiện diện, thì bây giờ chính Người là sự hiện diện của
Thiên Chúa. Nếu đền thờ là nơi Lời Thiên Chúa, thì bây giờ chính Người là Lời
Chúa.
Sau khi Đức Giêsu sống
lại, các môn đệ mới hiểu ra lời nói của Người, cũng như lời Người nói với người
phụ nữ miền Samari: “Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải
trên núi này hay tại Giêrusalem..." (Ga 4,21). Đã đến giờ họ nhận ra Đền
Thờ Thiên Chúa là chính Đức Kitô, là tất cả những ai tin vào Người như theo lời
thánh Thánh Phaolô: “Các anh em là thân thể Đức Kitô” (1 Cr 12,27), “Nào anh em
chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự
trong anh em sao?” (1 Cr 3,16-17).
Đền Thờ mới này là nhiệm
thể của Chúa Kitô, nghĩa là Giáo Hội, được xây dựng không bằng những viên
gạch vô tri, nhưng bằng những viên đá sống động (1 P,2-5), đó là những môn đệ
của Người, tất cả các tín hữu được Người cứu chuộc bằng cái chết của Người, tất
cả những ai tuân theo giới răn của Người, như bài đọc I (trích sách Xuất Hành)
đã nhắc nhở chúng ta. Và xi-măng gắn chặt các viên đá sống động này để làm nên
Đền Thờ tuyệt hảo đó, chính là Tình Yêu.
Nếu khi xưa, Đức Giêsu
tuyên bố với những người buôn bán ở đền thờ Giêrusalem, hôm nay Người cũng phán
với chúng ta: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành
nơi buôn bán." Đừng lấy danh nghĩa Giáo Hội, danh nghĩa giáo xứ hay cộng
đoàn công giáo của mình để làm việc thương mại, kinh doanh và mưu ích cá nhân.
Đừng biến lời cầu nguyện thành chuyện buôn bán. Nói cách khác, cầu nguyện,
không có nghĩa là mặc cả với Chúa. Không phải tôi dâng cúng cho nhà thờ hoặc
cho người nghèo là Chúa phải nhận lời cầu xin của tôi! Không! cầu nguyện không
phải là chuyện thương mại!
Đức Giêsu muốn chúng ta
cầu nguyện với niềm tin tưởng như đứa con thơ ngỏ lời với cha mẹ mình. Chúng ta
cầu nguyện, vì biết rằng Chúa biết những gì chúng ta cần (Mt 6,8), vì biết
Người chọn điều tốt nhất cho mình (Mt 7,11), vì biết Người luôn ở với chúng ta
trong lúc hạnh phúc cũng như trong lúc gian nan thử thách (Mt 28,20).
Trong lời cầu nguyện,
không phải chúng ta thay đổi Chúa, nhưng để Chúa hành động trong tâm hồn và
trong đời sống chúng ta. Cũng như mỗi sáng, khi mở cửa sổ, không phải chúng ta
làm cho mặt trời mọc lên, nhưng để mặt trời chiếu sáng khắp căn nhà. Cầu nguyện
là mở rộng những cánh cửa tâm hồn chúng ta để đón nhận ánh sáng của Chúa. Do
đó, cầu nguyện không phải là việc mặc cả với Chúa, nhưng là sự đón nhận tình
yêu bao la của Người.
Ước gì trong Mùa Chay
này, mỗi người chúng ta siêng năng cầu nguyện để Thiên Chúa chiếu sáng tâm hồn
chúng ta hầu chuẩn bị đón mừng Chúa phục sinh là Đền Thờ Vĩnh Cửu.
39.
Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR.
Sống trong thời đại tự do
khi mà người ta coi luật lệ như rơm rác và tự quyết định cho mình điều này đúng
điều kia sai, chúng ta có thể tự hỏi số phận của 10 điều răn rồi sẽ ra sao đây.
Thập giới thật sự có còn chỗ đứng hay là đã hơi cổ hủ lỗi thời? Việc Thiên Chúa
trao ban thập giới cho ông Môsê trên núi Sinai đánh dấu ngày khai sinh ra đất
nước Israen. Bởi thế đối với dân Do thái, tuân giữ lề luật trong đời sống hằng
ngày không nhằm tới việc làm điều đúng, tránh điều sai, nhưng được coi là thể
hiện trong cuộc sống mối tương quan với chính Thiên Chúa. Giữ giới luật, đối
với họ, chính là đem tình yêu đáp lại khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa,
Đấng đã tự mình kết giao với dân Ngài. Họ xem những giới luật như là những điều
khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa chia sẻ với họ như một quà tặng - như một
lời mời gọi họ cư xử như chính Thiên Chúa chứ không phải là một thước đo lòng
tuân phục - vâng lời nơi họ. Xã hội chúng ta tiến bộ và lý luận cao hơn dân
Israen thời ông Môsê, nhưng đúng sai phải trái thì ngàn đời vẫn thế. Mười giới
răn ngày xưa vẫn còn là cội rễ của đức tin chúng ta ngày nay. Bất cứ quốc gia
nào không giữ được điều cơ bản này làm thành mẫu mực cho cuộc sống, thì quốc
gia đó khó lòng tồn tại. Chúng ta vẫn còn cần đến thập giới vì chúng ta là
gạch, là vữa để kết xây nên nền tảng vững chắc của một xã hội ổn định.
Khi xua đuổi những người
buôn bán trong Đền Thờ, Đức Chúa Giêsu đã bộc lộ cho chúng ta thấy lòng tôn
kính của Người đối với nhà của Chúa, và để lại cho chúng ta một tấm gương sáng
về cung cách tôn kính những nơi thờ phượng như là những thánh địa dành riêng
cho việc cầu nguyện mà thôi. Đền thờ hôm ấy không khác gì một chốn chợ búa náo
nhiệt với kẻ mua người bán. Các con buôn có lỗi vì đã dùng nơi cư ngụ của Thiên
Chúa làm nơi trục lợi ích kỷ cho mình. Họ không mấy quan tâm đến tinh thần thờ
phượng đích thực. Chúng ta thấy Đức Chúa Giêsu đã tái khẳng định mạnh mẽ vì
lòng tôn kính Thánh Danh Thiên Chúa và Nhà Chúa vì toàn bộ mọi việc diễn ra nơi
đây đã biến thành nghi thức trống rỗng che mờ nhiệm vụ đích thực của đền thờ.
Cộng đoàn Kitô hữu thường
tụ họp nhau mỗi Chúa Nhật để cử hành mầu nhiệm Thánh Thể và Tạ Ơn Thiên Chúa vì
một tuần lễ đã qua. Mỗi một ngày của Chúa lẽ ra phải là một bước dẫn đưa chúng
ta về quê trời, nhưng liệu có thật như thế chăng? Chúng ta có được gần Chúa hơn
qua việc tham dự thánh lễ Chúa Nhật hay là việc thờ phượng ngày Chúa Nhật lại
trở nên xuống dốc, trở thành một nghi thức trống rỗng, một ước lệ của xã hội
hay là một cái gì chúng ta phải làm chỉ vì người ta muốn chúng ta làm? Ngày
Chúa Nhật lẽ ra phải làm cho chúng ta tôn vinh Thiên Chúa cao cả, ca ngợi thế
giới mà Ngài đã ban tặng cho chúng ta, và chúc mừng mọi người quanh chúng ta.
Thiên Chúa mong muốn chúng ta tôn thờ Ngài không chỉ bằng môi miệng hay cử chỉ
bên ngoài. Thờ phượng Thiên Chúa có nghĩa là nói: "Chúa cao cả biết
bao!", là tiếng đáp trả của chúng ta khi chúng ta nhận ra sự thiện hảo của
Thiên Chúa trong cuộc sống chúng ta, nhất là khi chúng ta biết rằng có Chúa là
chủ chiên chăn dắt, chúng ta không còn muốn gì, không còn sợ gì? Thờ phượng
Thiên Chúa và cuộc sống hằng ngày của chúng ta không hề bị chia cắt nhau. Ngày
Chúa Nhật chúng ta được mời gọi đi tới nhà thờ, còn ngày thường trong suốt tuần
lễ chúng ta cũng được kêu gọi trở nên ngôi thánh đường ngay trong lòng xã hội
chúng ta đang sống.
40.
Luật vĩnh hằng--Thom. Aq. Trầm Thiên Thu
Văn hào Victor Marie Hugo
(1802-1885, Pháp) phân biệt: “Đối với nhân dân, quyền lực duy nhất là pháp
luật; đối với cá nhân, quyền lực duy nhất là lương tâm." Còn văn thi sĩ
Johann Wolfgang von Goethe (1749-1832, Đức) nói: “Có hai sức mạnh mang đến sự
yên ổn: pháp luật và đạo đức." Những ý tưởng thật hay! Kinh Thánh xác
định: “Chính nhân cầm quyền, dân mừng rỡ. Ác nhân cai trị, dân oán than” (Cn
29:2). Và chắc chắn chỉ có luật Chúa là tuyệt đối, được đề cập trong Tv 119
(rất dài, với 176 câu). Thật vậy, “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho
tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19:8).
Trong xã hội loài người,
bất cứ một quốc gia nào, một tổ chức nào, một gia đình nào, một nhóm nào, dù
chỉ là một “nhóm” vài người,… cũng đều phải có luật lệ, nội quy, quy tắc, hoặc
nguyên tắc để bảo đảm trật tự – ở phạm vi lớn gọi là an ninh, ở phạm vi thế
giới gọi là hòa bình. Vì con người làm hư trật tự Thiên Chúa đã thiết lập nên
cần phải có luật để tái lập trật tự.
Bởi vì luật có sau con
người nên luật được lập ra cốt để phục vụ con người, giúp xã hội tốt hơn, gọi
là “luật vị nhân sinh” – luật vì con người, chứ con người không câu nệ hoặc quá
lệ thuộc vào luật. Tuy nhiên, lề luật của Thiên Chúa là Thập Giới, tức là Mười
Điều Răn. Luật Chúa là Thánh luật, là Thánh chỉ, là luật giao ước, là Ý Chúa.
Luật của Thiên Chúa là luật vĩnh hằng và bất biến. Còn luật của con người có
thể thay đổi cho phù hợp, ngay cả luật của Giáo hội cũng thay đổi – trước đây
là SÁU Điều Răn, nhưng nay là NĂM Điều Răn.
Xin “mở ngoặc” nho nhỏ:
Vào các ngày Chúa nhật (và Lễ Trọng), nhiều nơi vẫn đọc “Hội thánh có SÁU điều
răn…” thay vì Năm Điều Răn (*). Như vậy là không kịp cập nhật thông tin cần
thiết về giáo huấn của Giáo hội. Trách nhiệm của ai đây? Có những nơi đã sử
dụng kinh Năm Điều Răn Hội Thánh, nhưng kinh Nghĩa Đức Tin (Ngày Chúa Nhật hôm
nay chúng con họp nhau kính lạy thờ phượng Chúa…) vẫn thấy đọc “…song phải giữ
Mười Điều Răn Đức Chúa Trời cùng SÁU Luật Điều Hội Thánh…” chứ không sửa là
“năm." Chuyện nhỏ mà… không nhỏ. Lệch pha!
BIẾT LUẬT
Cựu Ước có đề cập Thập
Giới (Xh 20:3-17; Đnl 5:7-21). Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng con người, đồng
thời trao quyền tự do cho con người, bởi vì chính Ngài đã “đưa dân Chúa ra khỏi
đất Ai Cập, để thoát khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20:2). Thoát khỏi nô lệ là được tự
do. Tự do rất cần, mà Thiên Chúa đã cho con người tự do, nhưng đồng thời Ngài
cũng có luật đòi hỏi con người phải thực hành: “Ngươi không được có thần nào
khác đối nghịch với Ta. Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở
trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để
mà thờ” (Xh 20:3-4).
Các Phúc Âm nhất lãm lặp
lại Giới Răn thứ nhất: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết
lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (Mt 22:37; Mc 12:30; Lc 10:27), hoặc
như tiên tri Samuel xác định: “Hãy phụng thờ Đức Chúa hết lòng” (1 S 12:20). Đó
là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất (Mt 22:39). Theo kinh Mười
Điều Răn, chúng ta quen đọc là “thứ nhất, thờ phượng và kính mến Người trên hết
mọi sự."
Tiếp theo, Thiên Chúa
nghiêm cấm: “Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta,
Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi” (Xh 20:5a). Ngài không ngần ngại tự nhận Ngài
là “một vị thần ghen tương” (Xh 20:5b), và Ngài nhấn mạnh: “Đối với những kẻ
ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông” (Xh 20:5c). Có
phải vì Thiên Chúa đã “ấn định” như vậy nên ngày xưa người ta cũng “bắt chước”
mà ra luật “tru di tam tộc” chăng?
Có lẽ chúng ta cảm thấy
cách nói của Chúa có vẻ “gay gắt”, nhưng thật ra không phải như vậy. Ngài là
Đấng giàu lòng thương xót thì chắc chắn không độc đoán, và vì yêu thương mà
Ngài hứa chắc chắn: “Những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta thì Ta
trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời” (Xh 20:6). Ôi, Ngài quả là rất tâm lý và
công bằng, Ngài “bắt buộc” về lĩnh vực này thì Ngài lại “thưởng công” về lĩnh
vực khác. Đó là công lý. Chính Thánh Vịnh gia đã xác định: “Chúa giữ gìn những
ai thành tín, nhưng thẳng tay trừng trị người ăn ở kiêu căng” (Tv 31:24). Thiên
Chúa còn giải thích rất rõ ràng: “Ngươi không được dùng danh Đức Chúa, Thiên
Chúa của ngươi, một cách bất xứng, vì Đức Chúa không dung tha kẻ dùng danh
Người một cách bất xứng” (Xh 20:7). Và đó chính là Giới răn thứ hai: “Chớ kêu
tên Đức Chúa Trời vô cớ."
Đối với các Giới răn từ
thứ ba tới thứ mười, trình thuật Xh 20:9-17 “liệt kê” chi tiết: “Ngươi HÃY nhớ
ngày Sa-bát, mà coi đó là ngày thánh. Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm
mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là ngày Sa-bát kính Đức Chúa, Thiên
Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi KHÔNG được làm công việc nào, cả ngươi cũng như
con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi.
Vì trong sáu ngày, Đức Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi, và muôn loài trong
đó, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy, Đức Chúa đã chúc phúc cho ngày
Sa-bát và coi đó là ngày thánh. Ngươi HÃY thờ cha kính mẹ, để được sống lâu
trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi. Ngươi KHÔNG được
giết người. Ngươi KHÔNG được ngoại tình. Ngươi KHÔNG được trộm cắp. Ngươi KHÔNG
được làm chứng gian hại người. Ngươi KHÔNG được ham muốn nhà người ta, ngươi
KHÔNG được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật
gì của người ta." Trong tám Giới răn đó có hai cái HÃY và bảy cái KHÔNG.
Rất rõ ràng, rất rạch ròi.
Là Kitô hữu, ai cũng biết
luật của Thiên Chúa và luật của Giáo hội. Biết thì phải giữ. Không biết thì
không có tội, biết mà không giữ thì có tội (x. Ga 9:40-41).
GIỮ LUẬT
Giữ luật không chỉ là duy
trì và bảo vệ luật mà còn phải thi hành – nghiêm túc chứ không lơ là, gặp chăng
hay chớ. Vô tri bất mộ – không biết nên không yêu thích. Ngược lại, càng hiểu
biết thấu đáo điều gì thì người ta càng yêu quý. Hiểu biết sâu sắc về Luật
Chúa, Thánh Vịnh gia đã vui mừng thốt lên: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện,
bổ sức cho tâm hồn. Thánh Ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv
19:8). Luật pháp khiến người ta “sáng mắt” để khả dĩ phân biệt đâu là đúng và
đâu là sai. Còn Luật Chúa khiến “người dại hóa khôn." Chính các “huấn lệnh
Chúa hoàn toàn ngay thẳng” có thể “làm hoan hỷ cõi lòng” và “mệnh lệnh Chúa
minh bạch” để làm cho “đôi mắt rạng ngời” (Tv 19:9).
Thánh Vịnh gia cũng chân
nhận rằng “quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh” nên thực sự
“quý báu hơn vàng ròng muôn lượng” và “ngọt ngào hơn mật ong nguyên chất” (Tv
19:10-11). Như vậy, luật làm cho người ta hạnh phúc hơn chứ không làm cho người
ta bị gò bó, chịu lệ thuộc hoặc đau khổ. Luật phải hợp lòng dân, phải bắt nguồn
từ yêu thương chứ không vì tư lợi, nếu không thì đó chỉ là ác luật để hành dân,
là luật không hợp lý, và luật đó khiến người dân khổ sở. Tất nhiên luật đó trái
với Ý Chúa. Và người ta thường nói: “Quan nhất thời, dân vạn đại."
Trong cuộc sống đời
thường, chúng ta thấy luôn có những điều trái ngược, như người ta thường nói
rằng chín người mà có tới mười ý, và đôi khi có những tình huống rất khó xử.
Không ai chịu nghe ai, nếu không có nghiêm luật thì xã hội sẽ rối loạn. Thánh
Phaolô nói: “Người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp
tìm kiếm lẽ khôn ngoan” (1 Cr 1:22). Hai thái cực khác nhau. Còn những người
tin yêu Chúa, như thánh Phaolô, thì “lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh,
điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là
điên rồ” (1 Cr 1:23). Người ta chỉ theo những người có uy tín – dù “uy tín” đó
chỉ là vàng bạc, chức tước, địa vị, quyền hành,… chứ ai lại ủng hộ người “nghèo
rớt mồng tơi”, không có cục đất chọi chim? Thậm chí người ta còn “chửi xéo” là
kẻ “thừa nói thiếu ăn”! Những người “chịu” theo Chúa chắc chắn cũng bị người ta
cho là “tâm thần”, là “ngu xuẩn”, là “dại dột”, hoặc chí ít cũng là “khờ
khạo." Tuy nhiên, “đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái
hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên
Chúa” (1 Cr 1:24). Thật tuyệt vời!
Quả thật, Chúa Giêsu là
“dị nhân” đúng nghĩa, bởi vì Ngài có những động thái “ngược đời”, hoàn toàn
khác loài người. Trong xã hội cũng vậy (cả đạo lẫn đời), những người có tư
tưởng “mới lạ” là những người “đi trước thời đại”, có khả năng “nhìn xa, hiểu
rộng”, nhưng họ thường bị coi là cấp tiến, bị xa lánh, bị cô lập, bị ghét bỏ,
thậm chí là bị hại. Thật phũ phàng! Thực tế cho thấy đã có những người chỉ được
chấp nhận là vĩ nhân sau khi họ chết từ lâu rồi – đơn vị thời gian có thể tính
bằng thế kỷ. Thật đáng buồn! Những người có tư tưởng mới mà “yếu bóng vía” sẽ
ái ngại, và rồi có thể “bỏ của chạy lấy người." Còn những người “dị ứng”
với những tư tưởng mới thì chỉ là những người không theo kịp thời đại, thậm chí
có thể là “tiểu nhân”, không muốn người khác hơn mình, hoặc cố chấp, không muốn
thay đổi nếp nghĩ dù vẫn biết mình cổ hủ, lỗi thời. Ngày nay người ta gọi loại
người đó là “đầu đất” hoặc “đầu tôm." Tồi tệ thật!
Đối với “nhà thông thái”
Saolê, sau lần ngã-ngựa-chí-tử, ngài chợt nhận ra cái
“ngược-đời-xem-chừng-nghịch-lý” kia, và hóa thành Phaolô, và ông đã can đảm xác
nhận: “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái
yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1 Cr 1:25). Thật
vậy, có lần Thiên Chúa đã xác định: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của
các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn
đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư
tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55:8-9). Khoảng cách
biệt quá lớn, và chẳng bao giờ phàm nhân có thể hiểu hết Thánh Ý của Ngài.
Nhưng Ngài rất công minh chính trực, công bằng tuyệt đối, chắc chắn sẽ “bù lỗ”
cho những người chịu thua thiệt ở đời này.
HƯỞNG LUẬT
Trình thuật theo Thánh sử
Gioan cho biết rằng…
Gần dịp lễ Vượt Qua, Đức
Giêsu lên thành Giêrusalem, Ngài hết sức ngạc nhiên khi thấy trong Đền Thờ có
những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Ngài liền
lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ;
còn tiền của những người đổi bạc, Ngài đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ.
Bản tính thẳng thắn và
nghiêm túc, Chúa Giêsu nói thẳng với những kẻ buôn bán: “Đem tất cả những thứ
này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán” (Ga 2:16). Lúc đó,
các môn đệ “giật mình” nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: “Vì nhiệt tâm lo
việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Ga 2:17; Tv 69:10). Thấy Chúa
Giêsu “nổi nóng” và dám chê họ sai, người Do Thái ấm ức nên chất vấn Ngài: “Ông
lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” (Ga
2:18). Nhưng Ngài vẫn thản nhiên: “Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba
ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2:19).
Ui da! Ngôi Đền Thờ
Giêrusalem phải mất 46 năm mới xây xong, thế mà Chúa Giêsu nói có thể xây lại
chỉ nội trong 3 ngày. Ai cũng lắc đầu và nói: “Bó tay luôn!." Bó toàn thân
luôn chứ bó tay là chuyện nhỏ. Đối với họ thì đúng là Chúa Giêsu sinh sống gần
kho đạn, “nổ” hết mức, hoặc là “tâm thần” thật. Tuy nhiên, Ngài muốn nói về
chính thân thể Ngài mà họ không thể nghĩ kịp tư tưởng của Ngài. Ngay cả các môn
đệ, dù đã từng rong ruổi với Ngài khắp nơi, cùng chia ngọt sẻ bùi với Ngài,
đúng ra là họ phải hiểu Ngài, thế mà các ông cũng đã “miệng chữ A, mắt chữ O”
khi nghe Sư phụ mình nói như vậy. Và chúng ta cũng chẳng hơn gì!
Tất cả còn trong “bức màn
bí ẩn." Mãi đến khi Chúa Giêsu từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ mới “tá
hỏa tam tinh” mà nhớ lại điều Ngài đã nói thì mới đủ tin vào Kinh Thánh và lời
Ngài nói. Trong lúc Ngài ở Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều người tin
Ngài vì đã chứng kiến các dấu lạ Ngài làm. Thế nhưng chính Đức Giêsu chưa đủ
tin họ, vì Ngài biết rõ có gì trong lòng con người.
Chắc chắn chúng ta cũng
chẳng hơn gì người Do Thái. Thật vậy, thấy cái gì lạ thì tin ngay, nhưng rồi
“đâu lại vào đấy”, xin và được ơn thì tin lắm, xin không được thì “nhăn mặt” và
muốn “đặt vấn đề” hoặc lung lay niềm tin. Thậm chí, đôi khi chúng ta cầu nguyện
mà kỳ thực chúng ta đang “ngã giá”, “hối lộ” hoặc “mua chuộc” Chúa và các vị
thánh mà chúng ta cho là “thiêng lắm." Quả thật, đó là điều chúng ta phải
suy tư nhiều, bởi vì ngày xưa chính Thiên Chúa cũng đã từng đặt vấn đề: “Cho
đến bao giờ nữa quý vị từ chối, không tuân giữ các mệnh lệnh và luật lệ của
Tôi?” (Xh 16:28). Coi bộ “căng” dữ nghen!
Lạy Thiên Chúa duy nhất
mà con tôn thờ, con chẳng khác những kẻ bơ vơ, lạc hướng trong thế giới ngày
nay, vì khó tìm được người thực sự đáng tin cậy, trong khi xung quanh con có
nhiều loại thần ô uế, thần tài, thần nhục dục, thần danh vọng, thần địa vị,
thần quyền lực,… nhất là thần hóa “cái tôi." Đôi khi con còn mắc những
chứng bệnh trầm kha trong cách nhìn, trong nếp nghĩ, và trong lối sống, thế nên
con vẫn làm ngơ những người sống bên lề xã hội, mặc họ bị bóc lột, bị áp bức,
bị khinh miệt, bị tước đoạt nhiều thứ… Con chân thành xin lỗi Chúa, cầu xin
Ngài thương giúp con nhận diện chính mình để có thể nhìn rõ tha nhân mà chạnh
lòng thương xót họ bằng chính trái tim của Đức Kitô, đồng thời cũng xin giúp
con can đảm chấp nhận mọi thứ dù trong hoàn cảnh nào. Con cầu xin nhân danh
Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
-----------------------
(*) Hội Thánh có năm điều
răn:
– Thứ nhất: Dự lễ và
kiêng việc xác ngày Chúa Nhật cùng các ngày lễ buộc;
– Thứ hai: Xưng tội trong
một năm ít là một lần;
– Thứ ba: Rước Mình Thánh
Chúa trong mùa Phục Sinh;
– Thứ bốn: Giữ chay và
kiêng thịt những ngày Hội Thánh buộc;
– Thứ năm: Góp công góp
của xây dựng Hội Thánh, tùy theo khả năng của mình.
41.
Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Chúa Nhật III Mùa Chay
Năm B có thể được gọi là “Chúa Nhật về sự thánh thiện của Thiên
Chúa”
Xh 20: 1-17
Bài Đọc I trích từ sách
Xuất Hành trình bày Thập Giới trong đó việc thờ phượng Thiên Chúa chân thật và
tôn kính Danh Thánh của Ngài được định vị ngay ở hàng đầu tiên.
1Cr 1: 22-25
Bài Đọc II, trích từ thư
thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô, dành một chỗ đặc biệt cho
biến cố Tử Nạn: Đấng Mê-si-a bị đóng đinh là hình ảnh kỳ chướng đối với người
Do thái và điên rồ đối với dân ngoại, nhưng đó lại là sự khôn ngoan khôn dò của
Thiên Chúa.
Ga 2: 13-25
Tin Mừng Gioan tường
thuật hoạt cảnh Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ, vì họ làm
ô uế nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài.
BÀI ĐỌC I (Xh 20: 1-17)
Sách Xuất Hành là cuốn
sách thứ hai của bộ Ngũ Thư. Sách tường thuật cuộc ra khỏi Ai-cập và giai đoạn
đầu tiên của cuộc hành trình trong hoang địa. Biến cố này được định vị có lẽ
vào thế kỷ thứ mười ba trước Công Nguyên (giữa 1250 và 1230).
Qua trung gian của ông
Mô-sê, Thiên Chúa không chỉ giải thoát dân Ít-ra-en khỏi cảnh đời nô lệ bên
Ai-cập, nhưng Ngài còn quy tụ dân và ban cho họ Lề Luật. Thập Giới chỉ là một
phần rất nhỏ của Luật Mô-sê, nhưng phải nói là căn bản của Luật Mô-sê. Trong
các bộ luật được gặp thấy trong Ngũ Thư chỉ có Thập Giới được đặt vào bối cảnh
cuộc Thần Hiển, ở đó Thiên Chúa trực tiếp phán với dân Ngài (Xh 20: 18-19); còn
các bộ luật khác Thiên Chúa ban gián tiếp cho dân Ngài qua trung gian của ông
Mô-sê.
Trong Ngũ Thư, có hai bản
văn Thập Giới: bản văn của sách Xuất Hành (Xh 20: 1-17) và bản văn của sách Đệ
Nhị Luật (Đnl 5: 6-21) với vài tiểu dị. Hai bản văn nêu lên hai lý do khác nhau
về việc tuân giữ ngày sa-bát. Trong Thập Giới của sách Xuất Hành, lệnh truyền
tuân giữ ngày sa-bát quy chiếu đến cuộc Sáng Tạo (Xh 20: 11) để nêu bật tính
chất tôn giáo của ngày sa-bát; còn trong Thập Giới của sách Đệ Nhị Luật, lệnh
truyền tuân giữ ngày sa-bát quy chiếu đến cuộc giải phóng khỏi cảnh đời nô lệ
bên Ai-cập (Đnl 5: 15) để nhấn mạnh tính chất xã hội của ngày sa-bát. Cả hai
bản văn nầy đều cho thấy chúng không là bản văn nguyên thủy nhưng được khai
triển rồi. Vài chi tiết cho thấy chúng được gởi đến dân chúng không còn hành
trình trong hoang địa nhưng đã định cư rồi.
1. Tính chất cổ xưa của
Thập Giới:
Có nhiều dấu chỉ cho thấy
tính chất cổ xưa của Thập Giới. Việc luật được ghi khắc trên hai bia đá là nét
đặc trưng cho thấy tính chất cổ xưa của nó. Mặt khác, cách thức luật được trình
bày nhắc nhớ vài hiệp ước được soạn thảo ở miền Cận Đông vào giữa những thế kỷ thứ
mười lăm và mười ba trước Công Nguyên, nhất là những hiệp ước được ký kết giữa
các vua Hít-ti và các vua Át-sua hay giữa vua Hít-ti và Pha-ra-ô Ai-cập. Vị bá
vương đề xuất hiệp ước của mình với các chư hầu khi nhắc lại cho họ trước tiên
những ân phúc mà vua đã ban cho họ. Cũng vậy, Đức Chúa nhắc lại cho dân Do thái
rằng Ngài đã can thiệp để giải phóng họ khỏi miền đất nô lệ. Giờ đây, Ngài ngỏ
lời với họ như với những con người tự do, những con người được luật pháp bảo vệ
hẳn hoi; nhưng bù lại, Ngài đưa ra những yêu sách của mình.
2. Nội dung của Thập
Giới:
Thập Giới trình bày một
tổng đề về những bổn phận tôn giáo và luân lý. Vả lại, con số “mười” đánh dấu
sự viên mãn. Trong số mười giới luật, tám giới luật được phát biểu theo hình
thức phủ định tức lệnh cấm: “Ngươi không được…”; còn hai giới luật được đặt vào
giữa Thập Giới và được phát biểu theo hình thức khẳng định tức lệnh buộc: tuân
giữ ngày sa-bát để kính Đức Chúa và giữ trọn đạo hiếu với cha mẹ (20: 8-12).
Thập Giới được phân chia thành những giới luật để nhắc nhớ những bổn phận đối
với Thiên Chúa và những bổn phận đối với tha nhân.
2. 1-Bổn phận đối với Thiên
Chúa:
Những bổn phận đối với
Thiên Chúa cốt yếu là những lời cảnh báo mà Thiên Chúa nhắc nhở dân Do thái khi
dân định cư ở giữa dân ngoại: không được tạc các tượng thần; không được thờ lạy
các tượng thần đó, nhưng chỉ phụng thờ Thiên Chúa độc nhất."Đức Chúa,
Thiên Chúa ghen tuông” là cách diễn tả tính không nhân nhượng của Ngài. Đoạn
văn nầy chứa đựng một ghi nhận hùng hồn bằng con số: những kẻ ghét Ngài, Ngài
phạt con cháu đến “ba bốn đời”, nhưng những ai yêu mến Ngài, Ngài giữ trọn niềm
nhân nghĩa đến “ngàn đời." Lối nói song đối nghịch đảo nầy diễn tả lòng
xót thương nhân hậu vô cùng tận của Thiên Chúa: Ngài trừng phạt có chừng có
mực, nhưng Ngài yêu thương vô bờ bến. Đây là kinh nghiệm về mối quan hệ của dân
Do thái với Thiên Chúa của mình trong lịch sử của dân tộc mình: Thiên Chúa nổi
giận, giận trong giây lát, nhưng Ngài yêu thương, thương cho đến trọn một đời.
Bổn phận của dân đối với
Thiên Chúa liên quan đến định chế ngày sa-bát: “Ngươi hãy nhớ ngày
sa-bát…." Lệnh buộc nầy nhấn mạnh nét đặc thù của dân Ít-ra-en: mọi ngày
sống trong một tuần lễ phải hướng đến ngày sa-bát, ngày của Chúa, Đấng đem lại
ý nghĩa cho cuộc sống.
2. 2- Bổn phận đối với
tha nhân:
Về những bổn phận đối với
tha nhân, Thập Giới trở về luân lý phổ quát, có giá trị thường hằng và khắp
nơi. Điều cốt yếu ở nơi những bổn phận này là tôn trọng gia đình, con người và
của cải. Tuy nhiên, những ý định ẩn kín ở trong lòng con người được gợi lên ở
đây: “Ngươi không được ham muốn…." Căn nguyên của mọi tội lỗi hệ tại ở
trong lòng con người. Khẳng định nầy chuẩn bị giáo huấn của các ngôn sứ và của
chính Đức Giê-su.
3. Nét độc đáo của Thập
Giới:
Tuy nhiên, Thập Giới bày
tỏ nét độc đáo của riêng mình. Chắc chắn nó dựa trên luân lý tự nhiên, nhưng
nguồn gốc của nó thì siêu việt: chính Thiên Chúa đích thân ban Thập Giới cho
dân Ngài. Thập Giới chủ yếu lấy sự thánh thiện của Thiên Chúa làm khuôn vàng
thước ngọc, vì thế Luân Lý của Thập Giới trổi vượt trên luân lý của dân ngoại
chung quanh, nhất là ở nơi lời kêu gọi ăn ngay ở lành. Tính siêu việt nầy sẽ
đảm bảo sự thăng tiến tinh thần của một dân tộc nhỏ bé có một vận mệnh đặc
biệt.
Thập Giới được đặt ở dưới
dấu chỉ lịch sử của cuộc giải phóng khỏi Ai-cập. Chúng ta hãy đọc lại lời mào
đầu, ở đây Đức Chúa không phán như trước đây: “Ta là Thiên Chúa của cha ông
ngươi: Thiên Chúa của Áp-ra-ham, của I-sa-ác và của Gia-cóp”, nhưng “Ta là Đức
Chúa, Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ." Đức
Chúa tự giới thiệu mình như Đấng Giải Phóng. Chính ách nô lệ khác mà giờ đây
Thiên Chúa muốn giải phóng dân Ngài, tức ách nô lệ của tội lỗi, nhằm làm cho họ
thành một dân thánh.
BÀI ĐỌC II (1Cr 1: 22-25)
Đoạn văn trích thư thứ
nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô được cấu trúc rất chặc chẻ. Một
cách nào đó, đoạn trích nầy tự nó là trọn nghĩa; tuy nhiên, để hiểu chiều kích
của đoạn trích này rõ hơn, chúng ta đặt nó vào trong bối cảnh của bức thư.
Xin được nhắc lại cách
vắn tắt: các tín hữu Cô-rin-tô bất hòa với nhau về những nhà rao giảng của họ.
Những bất hòa này đã dẫn đến những bè phái. Chống lại những chia rẽ nầy, thánh
Phao-lô vạch cho họ thấy rằng óc bè phái không phù hợp với tinh thần Tin Mừng.
Đối với những người thích“lý sự” tự cho mình là “khôn ngoan hiểu biết”, thánh
Phao-lô nhắc nhở rằng thánh nhân đã không rao giảng cho họ những lời lẽ khôn
ngoan, nhưng sự điên rồ của thập giá. Thánh nhân đề cập đến việc người Do thái
đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ và người Hy-lạp tìm kiếm sự khôn ngoan. Tuy là
hai tinh thần rất khác nhau, nhưng hình ảnh thập giá trên đồi Can-vê không thể
nào có chỗ đứng trong những viễn cảnh của họ. Trong hoạt động truyền giáo của
mình, thánh nhân đã gặp phải cả hai chướng ngại nầy.
1. Thập giá đối với người
Do thái:
Người Do thái mong chờ
một Đấng Mê-si-a đầy quyền năng, Ngài sẽ thực hiện những điềm thiêng dấu lạ và
đem lại sự toàn thắng cho dân tộc của mình. Vì thế, nhiều người Do thái đã
không chịu nổi ý tưởng về Đấng Mê-si-a chịu khổ hình thập giá một cách nhục nhã
đến như vậy. Vì thế, thánh nhân bị họ bách hại ở An-ti-ô-khi-a, ở
Thê-xa-lô-ni-ca và ở những nơi khác.
2. Thập giá đối với người
Hy-lạp:
Người Hy-lạp tìm kiếm sự
khôn ngoan thì hình ảnh một con người bị đóng trên thập giá chẳng khôn ngoan
một chút nào. Thánh nhân đã chạm trán với họ ở A-thê-na; ngài đã ra sức thuyết
phục họ, nhưng vô ích. Họ chờ đợi một hệ thống triết lý cao vời trong khi thánh
Phao-lô lại rao giảng “Một Con Người." Đoạn trích thư nầy tự nó cho thấy
rằng việc rao giảng thập giá khó mà tránh khỏi sự thất bại. Đối với người
Hy-lạp, phẩm tính đầu tiên của thần linh chính là vẻ đẹp; ấy vậy, Đấng chịu
đóng đinh không ra hình tượng người không tương xứng với hình ảnh của vị thần
linh.
3. Rao giảng một Đức Ki
tô chịu đóng đinh:
Nhưng thập giá không là
một bài thuyết giáo, cũng không là một sự chứng minh mà là một sự kiện, một sự
kiện khác thường, ở nơi sự kiện đó ẩn dấu sự khôn ngoan khôn dò của Thiên Chúa,
hoàn toàn khác với những viễn cảnh của con người.
Một trong những bài học
vĩ đại của bức thư nầy đó là “rao giảng mầu nhiệm đau khổ như yếu tố cốt yếu
của Tin Mừng." Một cách khái quát, thần học của thánh Phao-lô không tách
Tử Nạn ra khỏi Phục Sinh. Ở đây là một trường hợp ngoại lệ, thánh nhân có chủ ý
chỉ giương cao “hình ảnh Đức Ki tô bị đóng đinh” đối diện với sự tự mãn của con
người.
TIN MỪNG (Ga 2: 13-25)
Đoạn Tin Mừng hôm nay
được trích từ Tin Mừng Gioan. Hoạt cảnh thật khác thường: cơn phẩn nộ của Đức
Giê-su: “Ngài bèn lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò
ra khỏi đền thờ, còn tiền của những người đổi bạc, Ngài đổ tung ra, và lật nhào
bàn ghế của họ." Đối với những kẻ bán bồ câu – của lễ của những người
nghèo – Ngài không mở tung các lồng chim của họ, nhưng cho họ một lời giải
thích: “Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi chợ búa." Vì thế, phải chăng Đức
Giê-su đến để chấn chỉnh tôn giáo Ít-ra-en và thanh tẩy Đền Thờ mà chẳng bao
lâu sau bị phá hủy? Không phải như thế, trái lại, Ngài loan báo rằng một thời
đại mới đang khởi sự. Cách hành xử của Ngài cốt yếu mang tính ngôn sứ.
Để hiểu trọn vẹn ý nghĩa
của hoạt cảnh quá đặc biệt nầy, phải định vị nó trước hết vào trong khung cảnh
bên ngoài; đoạn vào trong khung cảnh tôn giáo: lễ Vượt Qua; và sau cùng, vào
trong văn mạch của Tin Mừng thứ tư.
1. Khung cảnh bên ngoài:
Đền Thờ Giê-ru-sa-lem
được xây dựng trên một tiền sảnh bát ngát có những hàng hiên bao quanh. Khi
băng qua hàng hiên, người ta ở trên tiền đình được gọi “Tiền Đình dân ngoại”,
được gọi như thế vì lương dân nào muốn cầu nguyện với Thiên Chúa của dân Do thái
đều được phép đi vào ở đây. Tiếp đó, là nơi thánh, chỉ dành riêng cho người Do
thái, được phân chia thành nhiều khu vực khác nhau: khu vực nữ giới, khu vực
nam giới, và sau cùng sân của các tư tế.
Chính ở nơi Tiền Đình dân
ngoại nầy mà những kẻ buôn bán súc vật được dùng làm hy lễ. Công việc buôn bán
của họ rất thịnh đạt. Có nhiều lý do để nghĩ rằng các chức sắc tư tế đã kiếm
nhiều lợi nhuận từ những thương vụ này.
Những người đổi bạc cũng
ở nơi Tiền Đình nầy. Việc đổi bạc từ hiện kim sang “tiền đền thánh” là một nhu
cầu cần thiết cho khách hành hương, vì người Do thái không được nộp thuế cho
Đền Thờ bằng những đồng tiền “ô uế” được đúc hình của hoàng đế Rô-ma hay của vị
thần linh ngoại giáo.
2. Khung cảnh lễ Vượt
Qua:
Thánh ký nói với chúng
ta: “Gần đến lễ Vượt Qua của người Do thái." Qua kiểu nói: “lễ Vượt Qua
của người Do thái”, thánh ký hàm ý với độc giả rằng vào thời tác giả và từ
nhiều năm rồi có một lễ Vượt Qua khác: “lễ Vượt Qua của người Ki-tô hữu."
Niên biểu lễ Vượt Qua của
người Do thái này được chính bản văn cung cấp: “Đền Thờ nầy phải mất bốn mươi
sáu năm mới xây xong." Đền Thờ được vua Hê-rô-đê Cả khởi công tái thiết
vào năm 19 trước Công Nguyên, vì thế, đây là lễ Vượt Qua vào năm 28 sau Công
Nguyên.
Khung cảnh lễ Vượt Qua
nầy đem lại ý nghĩa sâu xa cho hoạt cảnh. Đức Giê-su đuổi những người buôn bán
ra khỏi Đền Thờ, vì đây là nơi dành riêng để cầu nguyện. Nhưng Ngài cũng còn
xua đuổi những súc vật dành riêng cho các hy lễ, vì chính Ngài sẽ là “con chiên
sát tế”, con chiên Vượt Qua đích thật, hy lễ có giá trị duy nhất từ nay sẽ thay
thế tất cả hy lễ vô giá trị khác (chúng ta quen lối đọc đa nghĩa nầy của Tin
Mừng Gioan). Thư gởi tín hữu Do thái cho chúng ta một bài suy niệm sâu xa về ý
nghĩa này: “Khi vào trần gian, Đức Ki-tô đã nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến
lễ, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và
lễ xóa tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực
thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10: 5-6).
Đức Giê-su xua đuổi những
người đổi bạc vì công việc làm ăn của họ bất lương không xứng hợp với khung
cảnh thánh thiêng, nhưng cũng vì những tiền dâng cúng chẳng bao lâu nữa không
còn lý do tồn tại nữa: sẽ không còn Đền Thờ, không còn tư tế…
Sau cùng, Đức Giê-su
thanh tẩy Tiền Đình dân ngoại vì dân ngoại có quyền đòi hỏi phải tôn trọng
những lời cầu nguyện của họ. Quả thật, sẽ đến một ngày không xa lắm, dân ngoại
sẽ không còn phải bị loại ra ngoài, chính họ cũng sẽ là một phần không thể
thiếu Dân Mới của Ngài và sẽ được mời gọi dự phần vào ơn cứu độ như dân
Ít-ra-en.
3. Văn mạch của Tin Mừng
Gioan:
Tin Mừng Gioan đặt sự
kiện Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua vào lúc bắt đầu sứ vụ của
Ngài, sau tiệc cưới Ca-na và sau vài ngày lưu lại ở Ca-phác-na-um. Ba Tin Mừng
nhất lãm tường thuật việc Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem vào lúc Ngài sắp bước
vào tuần Tử Nạn và xem biến cố nầy như đổ thêm dầu vào lửa khiến cho giáo quyền
Do thái công phẩn đến cực độ. Đây là một trong những lý do họ ra lệnh truy nả
Đức Giê-su.
Tin Mừng Gioan có một
quan điểm thần học khác với các Tin Mừng nhất lãm. Thánh Gioan muốn dẫn chúng
ta tiến bước vào trong mầu nhiệm của Đấng Mê-si-a (“Đức Ki-tô”). Đức Giê-su đã
được Gioan Tẩy Giả giới thiệu là Đấng Mê-si-a. Ở Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su hành
xử với tư cách “Con Thiên Chúa." Ngài cho mọi người tiên cảm những mối
liên hệ rất đặc biệt của Ngài với Thiên Chúa, Cha Ngài, qua việc Ngài ra tay
hành động để buộc người ta phải tôn kính nơi thánh thiêng, nơi Thiên Chúa ngự giữa
dân Ngài: “Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán."
Ở tiệc cưới Ca-na, Đức
Giê-su đã ban “rượu mới”, báo trước rượu sẽ trở thành máu Ngài (Ga 19: 31-37).
Ở Giê-ru-sa-lem, Ngài loan báo “đền thờ mới” đền thờ này sẽ là Thân Thể Ngài.
Như vậy, Ngài ám chỉ đến cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Các ông cứ phá hủy
đền thánh nầy đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại” (2: 19). Điều mà thánh Gioan
muốn chúng ta lưu ý ở đây chính là khi nói đến Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, tác giả
dùng từ “Iros” có nghĩa “không gian thánh” (2: 14, 15) nhưng khi nói về đền thờ
sẽ là thân thể của Ngài, Đức Giê-su sử dụng từ “Naos” là nơi cực thánh của Đền
Thờ. Khi nói về thân thể của Ngài bị giết chết nhưng sống lại, Đức Giê-su không
dùng động từ “oikodomein” (“xây dựng”), nhưng “egeirein” (“chỗi dậy”), động từ
được các bản văn Tân Ước sử dụng để nói về cuộc Phục Sinh của Đức Giê-su. Vì
thế, tác giả giải thích: “Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân
thể Người. Vậy khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói
điều đó, họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói."
Mặt khác, toàn bộ Tin
Mừng Gioan được trình bày như một phiên tòa ở đó những người xét xử Đức Giê-su
mà thánh Gioan gọi là “người Do thái” với nét nghĩa tiêu cực (chủ yếu là các
chức sắc tư tế và các kinh sư). Hoạt cảnh Đức Giê-su đuổi những người buôn bán
ra khỏi Đền Thờ cấu thành điểm nhấn của phiên tòa nầy. Ai đọc hoạt cảnh này
chắc chắn nghĩ đến lời công bố của các ngôn sứ: “Việc Thanh tẩy Đền Thờ sẽ đánh
dấu việc khai mạc thời đại Mê-si-a."
Cuối cùng, thánh Gioan
ghi nhận rằng có nhiều người đến với Ngài và tin vào Ngài vì họ đã chứng kiến
các dấu lạ Ngài làm, nhưng Ngài không tin họ vì Ngài “biết có gì trong lòng con
người." Như vậy, Đức Giê-su tiên cảm họ sẽ quay lưng lại với Ngài trong tương
lai.
Như vậy, trong Tin Mừng
Gioan, hoạt cảnh nầy có giá trị mặc khải: bày tỏ con người Đức Giê-su với tư
cách Con Thiên Chúa và loan báo những đảo lộn mà Ngài sẽ thực hiện cũng như sự
vô tri mà Ngài sẽ là đối tượng. Khung cảnh của lễ Vượt Qua sắp đến phóng chiếu
trên những dữ kiện nầy một sự soi sáng mang tính ngôn sứ.
42.
Luật Chúa truyền và luật trần gian--Lm. Xuân Hy Vọng
Bôn ba khắp trốn tìm lời
giải đáp cho những vấn nạn cuộc đời, anh Suzuki dừng chân trước một ngôi thánh
đường nguy nga, tráng lệ, anh ngỡ ngàng với sự hồ hỡi sống vui tươi, thân thiện
của giáo dân vùng Nam Mỹ. Đứng hồi lâu trước khuôn viên nhà thờ, anh tự hỏi
mình: tôi là một người Công Giáo, nhưng tâm hồn tôi xa Chúa, dẫu rằng mỗi tuần
đến tham dự Thánh lễ Chúa Nhật; biết bao lần tôi cầu nguyện nhưng tâm trí tôi
cứ quanh quẩn bởi nhiều điều lo toan với cuộc sống vật chất; biết bao lần tôi
phải đối diện với luật đời và luật đạo; và biết bao phen tôi vật lộn với chính
sự ương hèn của chính mình, v. v...
Thưa quý bà và anh chị
em, tâm tư của anh Suzuki phần nào cũng là nỗi trăn trở của chúng ta. Sống
trong xã hội bị chi phối với nhiều luật lệ, nguyên tắc, dường như chúng ta bị
cuốn vào guồng xoáy giữ luật hơn là sống tinh thần luật; xem trọng luật trần
gian hơn luật Chúa truyền qua sứ vụ của Hội Thánh. Đáng buồn hơn nữa, chúng ta
rơi vào chủ nghĩa duy luật, và trở nên cứng nhắc với những điều lệ mà quên đi
phần cốt lõi của luật, đó là tình yêu và giải thoát. Thậm chí, trong một ý
nghĩa nào đó, chúng ta trở nên ‘nô lệ’ của luật lệ, hoặc để cho những điều lệ
xã hội trói buộc chúng ta.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay
nhắc chúng ta nhớ đến luật Chúa truyền dạy qua Mười Điều Răn (x. Xh 20, 1-17).
Nói đến điều răn, chúng ta thường nghĩ ngay đến những điều phải tuân giữ, những
điều bắt buộc với ý nghĩ tiêu cực; trái lại, Mười Điều Răn cũng có thể được gọi
là Mười Điều Cam Kết giữa Thiên Chúa và con người. Và khi nói đến cam kết, thì
chắc hẳn phải có hai bên, và đôi bên đều tự nguyện giao ước và tuân giữ. Quý
ông bà và anh chị đã thuộc nằm lòng Mười Điều Răn này, nhưng thiết nghĩ để sống
đúng tinh thần của nó lại là một vấn đề khác. Thí dụ, nhiều năm qua đã biết bao
lần chúng ta tham dự Thánh lễ với thói quen, hoặc với ý nghĩ: không đi thì Chúa
phạt. Hoặc khi tham dự Bàn tiệc Thánh, chúng ta chỉ hiện diện với thân xác, còn
tâm trí chúng ta đang lo nghĩ đến điều khác, hay đang suy tính... Dĩ nhiên, chỉ
có Chúa và bản thân chúng ta mới biết những gì đang xảy ra trong tâm hồn hay
trong tâm trí ta thôi, nhưng nếu ý thức lại thì ắt hẳn chúng ta cũng cảm thấy
xấu hổ khi đến với Chúa với thái độ bất xứng này vì như Lời Kinh Thánh chép
rằng: “dân này chỉ thờ Ta ngoài môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta” (x. Mt 15,
8). Thiên Chúa mong muốn, mời gọi chúng ta sống cam kết tình yêu với Ngài, vui
tươi tuân giữ giới răn yêu thương, quảng đại trao ban, hy sinh cho tha nhân và
phụng sự Chúa. Đừng tần tiện thời giờ với Chúa, đừng chôn giấu tài năng, ơn
sủng Chúa ban, nhưng hãy dâng lên Chúa tất cả thời gian, cơ hội để phụng sự
Chúa và yêu mến tha nhân, cũng như quảng đại cho đi, dân hiến qua việc phục vụ
cộng đoàn. Như thế, chúng ta đang sống tinh thần luật, sống những điều chúng ta
đã và đang cam kết với Thiên Chúa.
Thứ đến, Chúa cũng mời
gọi chúng ta hãy ưu tiên, chăm lo về phần thiêng liêng nữa “người ta sống không
nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (x. Mt 4, 4b).
Xã hội thực dụng ngày nay đưa chúng ta vào chỗ quy tất cả giá trị tinh thần ra
vật chất, những gì có thể ‘cân, đo, đong, đếm’ được; hoặc nhiều lúc, chúng ta
cứ để con thuyền đời sống thiêng liêng bị sóng gió, bảo tố ‘danh vọng, tiền
tài, địa vị’, những gì có thể nhìn thấy, hay chóng qua đưa đẩy đến chỗ chìm sâu
dưới đáy đại dương ‘hư vô’. Để khỏi rơi vào tình trạng bi đát này, chúng ta cần
tỉnh thức, cải hối tận căn, sống theo tinh thần luật Chúa truyền dạy tóm lại
trong giới răn yêu thương: Yêu Chúa – thương người. Thật vậy, chúng ta không
phủ nhận điều này: vật chất cần thiết cho cuộc sống thân xác của con người
chúng ta; tuy nhiên, nó không quyết định đời sống hạnh phúc trường tồn của
chúng ta. Hơn nữa, nó chẳng phải là tiêu chuẩn đánh giá, khuôn vàng thước ngọc
của giá trị tâm linh, đời sống thiêng liêng. Tiền tài, danh vọng, chức tước,
địa vị, vật chất sẽ qua đi, nhưng giá trị tinh thần, đời sống đạo đức sẽ còn
mãi, và được lưu truyền mãi mãi.
Giờ đây, chúng ta hãy đặt
mình trước Chúa và tha nhân; trong thinh lặng, chúng ta nhìn lại thái độ, động
lực thúc bách chúng ta sống theo luật Chúa truyền, hay chỉ giữ luật Chúa dạy?
Chúng ta biết chăm lo, vun trồng đời sống đức tin hay chỉ chạy theo đời sống
vật chất chóng qua? Trong niềm tín thác, tin tưởng và nhận mình là kẻ yếu hèn
trước Chúa, chúng ta cùng xin Chúa ban cho chúng ta biết can đảm dứt bỏ những
gì đang cản trở đời sống đức tin, cắt bỏ những gì khiến chúng ta xa lìa Chúa, xa
lìa luật Chúa truyền dạy.
Trần gian này chọn đường
thênh thang
Chúa dạy con đi qua con
đường hẹp
Gian trần này chọn đường
vinh quang
Chúa hy sinh bước trọn
đường thập hình.
Trần gian này chọn đường
huênh hoang
Chúa dạy con đi trong
khiêm nhường
Gian trần này chọn đường
lợi danh
Chúa đưa con bước trọn
đường hy sinh.
Trần gian này chọn đường
khinh chê,
Chúa dạy con bao dung
nhân hiền
Gian trần này chọn đường
âu lo
Chúa đưa con bước vào
đường an vui.
Trần gian này chọn đường
vinh hoa
Chúa dạy con đi qua thập
hình
Gian trần này chọn đường
hư vô
Chúa đưa con bước vào
đường ơn thiêng.
43.
Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
Trong cuộc sống, đã là
con người ai cũng có lần bị vấp ngã vì những yếu đuối, tội lỗi. Nhưng điều tốt
đẹp nơi con người đó chính là mỗi khi chúng ta biết ý thức để nhận ra những
giới hạn của bản thân, nhận ra những điều chưa tốt, những lỗi lầm để ăn năn hối
lỗi và nhất là biết quyết tâm, cố gắng để sống tốt hơn. Vậy thì, câu hỏi cần
được đặt ra: Làm sao để tôi có thể sống tốt hơn đây, mặc dầu tôi đã cố gắng rất
nhiều, nhưng rồi chứng nào vẫn tật nấy; những yếu đuối lỗi lầm cũ, tôi lại cứ
sa ngã và tái phạm. Thưa ACE, vì lẽ đó mà các bài đọc Lời Chúa hôm nay soi
sáng, hướng dẫn cho chúng ta để chúng ta cần biết cậy dựa vào ơn thánh Chúa ban
mà bắt đầu trở lại.
Trong bài đọc một từ sách
Xuất hành, Thiên Chúa vì yêu thương, quan tâm đến dân chúng, nên Ngài đã qua
ông Môisê truyền lại những giới răn, lề luật cho dân chúng hầu giúp họ sống
xứng đáng với phẩm giá của những người được Thiên Chúa tuyển chọn. Khi nói đến
lề luật-giới răn, người ta thường nghĩ đến là: Tôi đang bị mất tự do, bị trói
buộc, bị kìm hãm…Thế nhưng, với Thiên Chúa và qua Giáo hội, giới răn, huấn lệnh
và lề luật chính là để giúp con người nên hoàn thiện và mục đích tối hậu là để
cứu rỗi các linh hồn. Đây chính là tất cả tình thương và thánh ý mà Thiên Chúa
muốn cho chúng ta, Ngài biết chúng ta cần những phương thế để giúp cho chúng ta
sống và trở nên hình ảnh tốt đẹp của Thiên Chúa, mà ngay từ ban đầu Ngài đã tạo
dựng nên chúng ta. Có người đã hỏi tôi: “Thưa Cha, đạo Công giáo có tới 10 điều
răn, nhiều và khó vậy, sao mà theo và sống cho được?” Tôi đã trả lời: “Để biết
10 điều răn khó hay không thì tùy thuộc vào cách chúng ta trả lời với hai câu
hỏi sau đây. Thứ nhất: Tôi có muốn trở nên người tốt không? Thứ hai: Tôi có yêu
mến Chúa và thương yêu tha nhân không? Thưa ACE, câu trả lời của mỗi người
chúng ta là gì?
Thánh vịnh 18 trong bài
đáp ca giúp chúng ta xác tín hơn ý nghĩa cao đẹp của việc thực thi những giáo
huấn và lề luật của Chúa."Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh. Giới
răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi
con mắt." Thật vậy, chỉ những ai tin, chấp nhận và đón nhận “quà tặng lề
luật” này của Chúa ban, thì sẽ được Chúa nâng đỡ, giúp sức hầu chu toàn và đạt
tới sự hoàn thiện. Suy cho thấu, thật ra, ai trong chúng ta cũng biết những giá
trị tốt lành của giới răn và lề luật Chúa ban. Nhưng để sống, tuân giữ, thực
thi thì không phải là điều dễ dàng. Chính vì lẽ đó mà Thánh Phaolo trong bài
đọc hai đã chỉ cho chúng ta một kinh nghiệm sống, nghĩa là: hãy “Rập theo khuôn
mẫu của Đức Kitô chịu đóng trên Thập giá." Hay nói khác hơn, đây là mẫu
gương của sự hy sinh, tha thứ, mẫu gương của hiến tế, ban ơn và cứu sống. Những
ai chấp nhận và muốn sống theo Chúa và đi theo con đường Thánh giá này thì sẽ
cảm nghiệm được sự ngọt ngào và ơn thánh của lề luật và giới răn yêu thương.
Thế nhưng thưa ACE, con đường Thánh giá Chúa đã nêu gương, con đường mà Thánh
Phaolô đã mời gọi chúng ta noi theo, nhiều người cho là điên rồ, khờ dại. Nhưng
với Thiên Chúa, thì đây chính là sự khôn ngoan và ơn thánh dành cho chúng ta.
Về phần mình, chúng ta nhận định và chọn theo cách nào?
Nếu chúng ta còn chần
chừ, lưỡng lự chưa biết lựa chọn, thì Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta ý thức và
xác tín hơn về con đường và sứ vụ của Chúa Giêsu. Sứ vụ của Chúa Giêsu không gì
khác hơn đó là: Trong mọi sự luôn làm để tôn vinh danh Thiên Chúa Cha. Ở đây
chúng ta sẽ nhận ra lòng yêu mến, nhiệt thành của Chúa Giêsu cho Nhà của Thiên
Chúa. Vì với Chúa Giêsu, nơi “Nhà Chúa” phải chính là nhà cầu nguyện, nhà để
gặp gỡ, tiếp xúc, thưa chuyện với Thiên Chúa Cha, để từ đây nơi “Nhà Chúa” này,
ân sủng từ Thiên Chúa Cha phải được lan tỏa và trao ban đến cho mọi người. Đồng
thời, cũng vì tôn vinh danh Chúa Cha, mà chính từ nơi Cha Chúa mỗi ngày, Chúa
Giêsu trở nên của lễ tinh tuyền, tuyệt hảo để dâng lên cho Thiên Chúa. Của Lễ
Giêsu này từ đây thay cho tất cả mọi lễ vật mà con người dâng tiến. Do đó, ai
kết hiệp những lễ vật của mình dâng tiến Chúa với Của Lễ Hiến Tế là Đức Kitô
Giêsu, thì sẽ được Thiên Chúa Cha chấp nhận và ban ơn chúc phúc.
ACE rất thân mến, Mùa
Chay chính là mùa hồng phúc mà Thiên Chúa ban tặng để cho chúng ta có thể sống
kết hiệp với Chúa Giêsu trong sứ mạng của Ngài. Xin cho chúng ta biết trân quý
những ơn thánh Chúa ban qua những giới răn lề luật, qua mẫu gương nhiệt
thành-hiến tế của Chúa Giêsu, để nhờ đó chúng ta cũng trở nên lễ phẩm đẹp lòng
Chúa. Lạy Thánh cả Giuse, xin chuyển cầu ơn Chúa cho chúng con để cuộc đời
chúng con luôn trở nên con thảo đẹp lòng Chúa mọi đàng. Amen.
44.
Thánh luật--Thom. Aq. Trầm Thiên Thu
Bất cứ một quốc gia nào,
một tổ chức nào, một gia đình nào, một nhóm nào, dù chỉ là một “nhóm” vài
người,… cũng đều phải có luật lệ, nội quy, quy tắc, hoặc nguyên tắc để bảo đảm
trật tự – ở phạm vi lớn gọi là an ninh, ở phạm vi thế gới gọi là hòa bình.
Luật vị nhân sinh – luật
vì con người, chứ con người không lệ thuộc luật, bởi vì luật có sau con người
nên luật được lập ra cốt để phục vụ con người, giúp xã hội tốt hơn. Còn lề luật
của Thiên Chúa là Thập Giới, tức là Mười Điều Răn. Luật Chúa là Thánh luật, là
Thánh chỉ, là luật giao ước, là Ý Chúa.
THẬP GIỚI
Thiên Chúa đã tạo dựng
con người, cho con người tự do, vì chính Ngài “đưa dân Chúa ra khỏi đất Ai Cập,
để thoát khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20:2). Thoát khỏi nô lệ là được tự do. Tự do rất
cần, mà Thiên Chúa đã cho con người tự do, nhưng đồng thời Ngài cũng có luật
đòi hỏi con người phải thực hành: “Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch
với Ta. Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng
như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ” (Xh 20:3-4).
Phúc âm nhất lãm lặp lại
Giới răn thứ nhất: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết
lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (Mt 22:37; Mc 12:30; Lc 10:27), hoặc
như tiên tri Samuel xác định: “Hãy phụng thờ Đức Chúa hết lòng” (1 S 12:20). Đó
là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất (Mt 22:39). Theo kinh Mười
Điều Răn, chúng ta quen đọc là “thứ nhất, thờ phượng và kính mến Người trên hết
mọi sự."
Rồi Thiên Chúa nói tiếp:
“Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Đức Chúa,
Thiên Chúa của ngươi” (Xh 20:5a). Ngài không ngần ngại tự nhận Ngài là “một vị
thần ghen tương” (Xh 20:5b), và Ngài nhấn mạnh: “Đối với những kẻ ghét Ta, Ta
phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông” (Xh 20:5c). Có phải vì
Thiên Chúa đã “ấn định” như vậy nên ngày xưa người ta cũng có luật “tru di tam
tộc” chăng?
Nghe cách nói của Chúa có
vẻ “gay gắt” nhưng thực ra không phải vậy. Ngài không độc đoán, vì Ngài luôn
yêu thương và hứa chắc chắn: “Những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta
thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời” (Xh 20:6). Ngài rất tâm lý và công
bằng, Ngài “bắt buộc” cái này thì Ngài lại “thưởng công” cái khác. Công lý là
thế. Chính tác giả Thánh vịnh đã xác định: “Chúa giữ gìn những ai thành tín,
nhưng thẳng tay trừng trị người ăn ở kiêu căng” (Tv 31:24). Thiên Chúa còn giải
thích rõ ràng: “Ngươi không được dùng danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, một
cách bất xứng, vì Đức Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng”
(Xh 20:7). Đó chính là Giới răn thứ hai: “Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô
cớ."
Sách Xuất hành, chương
20, câu 9-17 “liệt kê” các Giới răn từ thứ ba tới thứ mười: “Ngươi hãy nhớ ngày
Sa-bát, mà coi đó là ngày thánh. Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi
công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là ngày Sa-bát kính Đức Chúa, Thiên Chúa
của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con
trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi. Vì
trong sáu ngày, Đức Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi, và muôn loài trong
đó, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy, Đức Chúa đã chúc phúc cho ngày Sa-bát
và coi đó là ngày thánh. Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất
mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi. Ngươi không được giết người.
Ngươi không được ngoại tình. Ngươi không được trộm cắp. Ngươi không được làm
chứng gian hại người. Ngươi không được ham muốn nhà người ta, ngươi không được
ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của
người ta."
VUI, BUỒN VÌ LUẬT
Vô tri bất mộ – không
biết nên không yêu thích. Càng hiểu biết thấu đáo điều gì thì người ta càng yêu
quý. Tác giả Thánh vịnh đã vui mừng thốt lên: “Luật pháp Chúa quả là hoàn
thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh Ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên
khôn” (Tv 19:8). Luật pháp khiến người ta “sáng mắt” để khả dĩ phân biệt đâu là
đúng và đâu là sai. Còn Luật Chúa khiến “người dại hóa khôn." Chính các
“huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng” có thể “làm hoan hỷ cõi lòng” và “mệnh
lệnh Chúa minh bạch” để làm cho “đôi mắt rạng ngời” (Tv 19:9). Tác giả Thánh
vịnh chân nhận “quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh” nên
thực sư “quý báu hơn vàng ròng muôn lượng” và “ngọt ngào hơn mật ong nguyên
chất” (Tv 19:10-11). Như vậy, luật làm cho người ta hạnh phúc hơn chứ không làm
cho người ta bị gò bó, lệ thuộc, hoặc đau khổ. Luật phải hợp lòng dân, phải bắt
nguồn từ yêu thương chứ không vì tư lợi, nếu không thì đó chỉ là ác luật để
hành dân, là luật không hợp lý, và luật đó khiến người dân khổ sở. Tất nhiên
luật đó trái với Ý Chúa."Quan nhất thời, dân vạn đại”, người ta thường nói
vậy.
Cuộc sống luôn có những
điều trái ngược, như người ta thường nói: “Chín người mười ý”, và đôi khi có
những tình huống rất khó xử. Không ai chịu nghe ai, nếu không có nghiêm luật
thì xã hội sẽ rối loạn. Thánh PhaoLô nói: “Người Do Thái đòi hỏi những điềm
thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan” (1 Cr 1:22). Hai thái
cực khác nhau. Còn những người tin yêu Chúa, như thánh Phaolô, thì “lại rao
giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể
chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ” (1 Cr 1:23). Người ta chỉ theo những
người có uy tín – dù “uy tín” đó chỉ là vàng bạc, chức tước, địa vị, quyền
hành,… chứ ai lại ủng hộ người “nghèo rớt mồng tơi”, không có cục đất chọi
chim? Người ta còn “chửi xéo” là kẻ “thừa nói thiếu ăn”! Những người “chịu”
theo Chúa chắc chắn cũng bị người ta cho là “tâm thần”, là “ngu xuẩn”, là “dại
dột”, hoặc chí ít cũng là “khờ khạo." Tuy nhiên, “đối với những ai được
Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức
mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1:24).
Thiên Chúa là “dị nhân”
đúng nghĩa, với những động thái “ngược đời”, hoàn toàn khác loài người. Trong
xã hội cũng vậy (cả đạo lẫn đời), những người có tư tưởng “mới” là những người
“đi trước thời đại”, có khả năng “nhìn xa, nhìn rộng”, nhưng họ thường bị coi
là cấp tiến, bị xa lánh, bị cô lập, bị ghét bỏ, thậm chí là bị hại. Thức tế cho
thấy đã có những người chỉ được chấp nhận là vĩ nhân sau khi họ đã chết lâu rồi
– đơn vị thời gian có thể tính bằng thế kỷ. Thật là buồn! Những người có tư
tưởng mới mà “yếu bóng vía” sẽ ái ngại rồi có thể “bỏ của chạy lấy người."
Còn những người “dị ứng” với những tư tưởng mới thì chỉ là những người không
theo kịp thời đại, thậm chí có thể là “tiểu nhân”, hoặc không muốn người khác hơn
mình!
Riêng thánh Phaolô, sau
lần ngã-ngựa-chí-tử, ngài chợt nhận ra cái “ngược-đời-xem-chừng-nghịch-lý” kia,
và đã can đảm xác nhận: “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của
loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người”
(1 Cr 1:25). Cũng có lần Thiên Chúa đã nói: “Tư tưởng của Ta không phải là tư
tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta.
Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các
ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is
55:8-9).
THỰC HÀNH LUẬT
Thánh sử Gioan kể: Gần
dịp lễ Vượt Qua, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem, Ngài hết sức ngạc nhiên khi
thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi
đổi tiền. Ngài liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò
ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Ngài đổ tung ra, và lật nhào
bàn ghế của họ.
Ngài nói thẳng với những
kẻ buôn bán: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Tôi thành
nơi buôn bán” (Ga 2:16). Lúc đó, các môn đệ “giật mình” nhớ lại lời đã chép
trong Kinh Thánh: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt
thân” (Ga 2:17; Tv 69:10). Thấy Chúa Giêsu “nổi nóng” và dám chê họ sai, người Do
Thái ấm ức hỏi: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền
làm như thế?” (Ga 2:18). Đức Giêsu thản nhiên đáp: “Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ
này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2:19). Đền Thờ Giêrusalem phải
mất 46 năm mới xây xong, thế mà Chúa Giêsu nói có thể xây lại chỉ nội trong 3
ngày. Đối với họ thì đúng là Chúa Giêsu sinh sống gần kho đạn, “nổ” hết mức,
hoặc là “tâm thần” thật. Tuy nhiên, Ngài muốn nói về chính thân thể Ngài mà họ
không thể nghĩ kịp tư tưởng của Ngài. Ngay cả các môn đệ, dù đã từng rong ruổi
với Ngài khắp nơi, cùng chia ngọt sẻ bùi với Ngài, hẳn là phải hiểu Ngài, thế
mà các ông cũng đã “miệng chữ A, mắt chữ O” khi nghe Sư phụ mình nói như vậy!
Mãi đến khi Chúa Giêsu từ
cõi chết trỗi dậy, các môn đệ mới “tá hỏa tam tinh” mà nhớ lại điều Ngài đã nói
thì mới đủ tin vào Kinh Thánh và lời Ngài nói. Trong lúc Ngài ở Giêrusalem vào
dịp lễ Vượt Qua, có nhiều người tin Ngài vì đã chứng kiến các dấu lạ Ngài làm.
Thế nhưng chính Đức Giêsu chưa đủ tin họ, vì Ngài biết rõ có gì trong lòng con
người.
Chúng ta cũng chẳng hơn
gì người Do Thái, thấy cái gì lạ thì tin ngay, nhưng rồi “đâu lại vào đấy”, xin
và được ơn thì tin lắm, xin không được thì “nhăn mặt” và nghĩ: “Kỳ vậy
ta?." Thậm chí, đôi khi chúng ta cầu nguyện mà kỳ thực chúng ta đang “ngã
giá”, “hối lộ” hoặc “mua chuộc” chính Chúa và các vị thánh mà chúng ta cho là
“thiêng lắm”! Thật đáng để chúng ta phải trầm tư suy nghĩ nhiều với câu hỏi của
Chúa: “Cho đến bao giờ nữa quý vị từ chối, không tuân giữ các mệnh lệnh và luật
lệ của Tôi?” (Xh 16:28).
Lạy Chúa, chúng con chợt
thấy mình như những kẻ bơ vơ, lạc hướng trong thế giới ngày nay, vì khó tìm
được người đáng tin cậy, trong khi xung quanh chúng con có nhiều thần ô uế,
thần bạc tiền, thần nhục dục, thần danh vọng, thần địa vị, thần quyền lực,… Đôi
khi chúng con còn mắc những bệnh trầm kha trong cách nhìn, trong nếp nghĩ, và
trong lối sống, thế nên chúng con vẫn bỏ mặc những người sống bên lề xã hội,
mặc họ bị bóc lột, bị áp bức, bị khinh miệt, bị tước đoạt nhiều thứ… Chúng con
xin lỗi Chúa. Xin Ngài thương giúp chúng con nhận ra chính mình để có thể nhìn
rõ tha nhân mà chạnh lòng thương họ bằng chính trái tim của Đức Kitô, đồng thời
giúp chúng con dám chấp nhận mọi thứ dù phải thiệt thân. Chúng con cầu xin nhân
danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
45.
Chúa Giêsu đánh đuổi con buôn trong hành lang đền thờ--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin mừng Ga 2:
13-25: Hôm nay, Chúa Giêsu đã phẫn nộ khi bước vào hành lang đền thờ
Giêrusalem. Tại sao Chúa lại có thái độ như thế?
Hôm nay, Chúa Giêsu đã
phẫn nộ khi bước vào hành lang đền thờ Giêrusalem. Tại sao Chúa lại có thái độ
như thế? Chúng ta hãy tìm hiểu một chút về cách tổ chức cũng như sinh hoạt tại
đền thờ Giêrusalem vào thời Chúa Giêsu.
1. Trước hết là về việc
đóng thuế cho Đền Thờ
Thuế Đền Thờ là sắc thuế
mà mỗi người Do Thái từ 19 tuổi trở lên phải nộp. Đó là phần dành cho việc dâng
các sinh tế và lễ nghi trong Đền Thờ hằng ngày. Tiền thuế phải nộp là nửa
siếc-lơ, bằng gần hai ngày lương của một công nhân. Trong việc giao dịch bình
thường, mọi loại tiền đều có giá trị ở Palestine. Các loại tiền bằng bạc lưu
hành từ Rôma, Hy Lạp, Ai Cập đến Tia, Siđôn và Palestine đều có giá trị. Nhưng
tiền thuế Đền Thờ phải nộp bằng đồng siếc-lơ Galilê hoặc siếc-lơ của Đền Thờ.
Đó là loại tiền Do Thái dùng để dâng cho Đền Thờ. Các loại tiền khác là của
người ngoại, do đó bị xem là ô uế. Chúng được dùng trả các món nợ thường, nhưng
không thể dùng trả nợ cho Chúa. Khách hành hương từ khắp nơi trên thế giới đến
với đủ loại tiền, nên trong Đền Thờ có nhiều người đổi bạc. Nếu họ hành nghề
ngay thẳng, thật thà, thì họ đã thực hiện một mục đích chân thật và cần thiết.
Nhưng muốn đổi lấy một đồng nửa siếc-lơ tiền để dâng cho Đền Thờ, người ta phải
trả tương đương với ¼ tiền lương một ngày; như vậy cứ đổi 4 đồng nửa siếc-lơ
thì người đổi lợi được một số tiền tương đương một ngày công. Do đó, số tiền
thuế Đền Thờ thu được và lợi tức đổi bạc thật khủng khiếp.
Thu nhập của Đền Thờ về
khoản thuế đó hằng năm ước lượng khoảng 75. 000 bảng Anh, lợi tức hằng năm của
những người đổi bạc là 9. 000 bảng Anh. Năm 54 TC, Crassus chiếm thành
Giêrusalem, cướp kho Đền Thờ, đã lấy của kho ấy 2. 500. 000 bảng Anh, nhưng
chưa lấy hết.
Thực ra, việc những kẻ
đổi bạc ăn lời khi đổi tiền cho khách hành hương tự nó không có gì sai quấy.
Kinh Talmud quy định: “mỗi người cần có đồng nửa siếc-lơ để nộp thuế cho mình.
Do đó, khi đổi đồng một siếc-lơ để lấy hai đồng nửa siếc-lơ, người ấy phải cho
kẻ đổi bạc chút ít tiền lời." Nhưng điều khiến Chúa Giêsu nổi giận là
khách hành hương phải chịu đựng tệ nạn đổi bạc bóc lột với giá cắt cổ. Thật là
một bất công, và càng tệ hại hơn nữa là người ta nhân danh tôn giáo để làm việc
ấy.
2. Bên cạnh bọn đổi bạc,
còn có một số người bán bò, chiên và bồ câu
Thường thì mỗi lần đến Đền
Thờ là một lần dâng lễ vật. Nhiều khách hành hương muốn dâng một lễ vật cảm tạ
vì chuyến hành trình đến thánh địa bình an, hầu hết các hành động hoặc biến cố
xảy ra trong đời sống đều có một lễ vật tương ứng. Điều hết sức tự nhiên và
tiện lợi là có thể mua được các con vật tại sân Đền Thờ. Nhưng luật quy định
bất cứ con vật nào dùng làm của lễ đều phải lành lặn, không tì vết. Ban quản
trị Đền Thờ phân công những người kiểm tra súc vật. Mỗi lần khám xét đều phải
trả lệ phí 1/12 siếc-lơ. Nếu khách hành hương mua con vật ngoài Đền Thờ, chắc
chắn con vật ấy sẽ bị từ chối khi khám xét. Vấn đề dường như chẳng có gì quan
trọng, nhưng khốn nỗi, một con vật mua trong sảnh Đền Thờ có khi phải trả đắt
gấp mười lăm lần giá mua bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bóc lột trắng
trợn khi muốn dâng lễ vật. Bất công xã hội này càng tệ hại thêm vì nó làm dưới
danh nghĩa tôn giáo. Chính điều ấy đã khiến Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận.
3. Nhà Ta sẽ gọi là nhà
cầu nguyện cho muôn dân
Một lý do khác khiến Chúa
Giêsu hành động như thế mà chỉ có Maccô ghi lại: “Nhà Ta sẽ gọi là nhà cầu
nguyện cho muôn dân” (Mc 11,17). Để hiểu điều này, chúng ta phải biết cách bố
trí của Đền Thờ Giêrusalem. Đền Thờ gồm nhiều hành lang dẫn vào trong Đền Thờ
và nơi Thánh. Trước hết có hành lang dành cho dân ngoại, rồi đến hành lang dành
cho phụ nữ, tiếp đến là hành lang dành cho Israel, rồi đến hành lang cho các tư
tế. Cảnh buôn bán kể trên diễn ra trong hành lang dành cho dân ngoại, là nơi
duy nhất người ngoại có thể tới trong Đền Thờ. Một người ngoại chỉ có thể đến
đó và bị cấm không tiến xa hơn nữa. Như thế, một người ngoại có thể vào hành
lang dành cho họ để cầu nguyện và đứng từ xa tiếp xúc với Chúa. Đây là chỗ cầu
nguyện duy nhất dành cho họ. Thế mà, ban quản trị Đền Thờ và các con buôn người
Do Thái đành biến hành lang ấy thành nơi huyên náo, hỗn loạn khiến không ai có
thể cầu nguyện được. Quang cảnh như vậy của hành lang Đền Thờ đã loại bỏ mất
những người ngoại muốn tìm kiếm Chúa. Có thể đó là điều đập mạnh vào tâm trí
Chúa Giêsu; và chỉ một mình Maccô mới giữ được câu nói ngắn ngủi nhưng đầy ý
nghĩa: “Nhà Ta sẽ gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Mc 11,17). Chính vì vậy
Chúa đã xúc động tận tâm can khi thấy những người muốn ra mắt Chúa lại bị ngăn
chặn lại.
4. Trong sinh hoạt của
Giáo Hội chúng ta ngày hôm nay như thế nào?
Biết đâu có khi thái độ
kỳ thị, phân chia giai cấp, lạnh lùng, kém niềm nở, thái độ kiêu căng, làm khó
dễ của chúng ta đã đẩy những người lương, những người muốn tìm kiếm Thiên Chúa
ra khỏi nhà thờ, ra khỏi xứ đạo của chúng ta. Chúng ta hãy nhớ lại cơn giận của
Chúa Giêsu đối với những ai làm khó dễ những người thiện chí muốn tìm kiếm Chúa
trong bài Tin Mừng hôm nay.
Một câu chuyện minh họa:
khi còn là một sinh viên, Gandhi được du học tại Nam Phi, một thuộc địa của
nước Anh. Tại đây nổi tiếng về tệ nạn phân biệt chủng tộc. Trong thời gian này,
Gandhi có dịp đọc Kinh Thánh của Kitô giáo và lập tức ông bị giáo thuyết của
Đức Giêsu cuốn hút, nhất là Tám Mối Phúc Thật trong Bài Giảng trên núi. Ông rất
tâm đắc trước lời Chúa dạy về một tình yêu phổ quát và bình đẳng giữa mọi
người, không phân biệt giầu nghèo, sang hèn, địa vị cao thấp, là Do Thái hay
lương dân... Gandhi nghĩ rằng: Có lẽ Kitô giáo là giải pháp tối ưu và hữu hiệu
để giải quyết tận gốc sự phân biệt giai cấp trong xã hội Ấn Độ quê hương của
ông. Gandhi nghĩ mình nên tìm hiểu và sẽ gia nhập vào Kitô giáo.
Ngày nọ, Gandhi đến một
nhà thờ để mong được chứng kiến lễ nghi trong đạo và cũng để tìm hiểu thêm về
giáo lý Công Giáo. Tuy nhiên, khi ông bước đến cửa nhà thờ thì bị người giữ cửa
chặn lại và nói như sau:”Đây là nhà thờ dành riêng cho người da trắng. Nếu ông
muốn tìm hiểu đạo, thì hãy tìm đến nhà thờ khác dành riêng cho dân da mầu”!
Gandhi tức giận bỏ đi và ông đã ghi lại cảm tưởng trong nhật ký của ông như
sau: ”tôi rất thán phục Đức Giêsu và giáo thuyết đầy tình nhân ái khoan dung
của Ngài. Thế nhưng tôi rất bất mãn khi tiếp xúc với các tín hữu là môn đệ của
Ngài! Nếu trong đạo Kitô mà cũng còn phân biệt chủng tộc như vậy, thì Kitô giáo
có hơn gì Ấn Giáo của tôi? Thôi, tôi cần chi phải gia nhập đạo này. Tốt nhất là
tôi cứ chấp nhận có bất toàn trong Ấn Giáo và cố gắng sống theo giáo lý truyền
thống của cha ông là đủ rồi”!
46.
Nhà Ta là nhà cầu nguyện--Lm. Trần Bình Trọng
Theo luật Môsê thì việc
thờ phượng gồm có mục dâng con vật sống để làm lễ vật hi sinh. Luật Môsê buộc
cha mẹ phải dâng con đầu lòng cho Thiên Chúa trong đền thờ. Đó là lý do tại sao
sau khi Chúa cứu thế giáng sinh thì được cha nuôi và mẹ Người dâng vào đền thờ.
Khi dâng Chúa trong đền thờ, ông Giuse và bà Maria vì nghèo nên chỉ mang được
đôi chim câu làm lễ vật.
Vào dịp lễ Vượt qua của
người Do Thái, Chúa Giêsu lên Giêrusalem, thấy người ta đổi tiền, mua bán súc
vật, Người lấy làm khó chịu xua đuổi họ ra khỏi Đền Thờ. Cũng nên biết là những
người ở xa đến khó có thể mang theo súc vật để hiến dâng, cho nên việc mua bán
súc vật trong đền thờ là cần thiết hay ít ra được dung thứ. Vậy nếu việc mua
bán súc vật là tiện lợi cho những người từ xa tới, thì tại sao Chúa Giêsu lại
tỏ ra khó chịu, lên tiếng cảnh giác những người buôn bán súc vật quanh đền thờ?
Thưa rằng việc dâng hiến lễ vât của họ đã trở thành một việc chỉ nhắm mục đích
thương mại. Người bán thì coi đó như là cách thế làm tiền, còn người mua thì
coi việc dâng lễ vật như là bổn phận phải làm một cách bất đắc dĩ mà thiếu tâm
tình bên trong.
Vì thế trong Phúc âm hôm
nay Chúa lên tiếng cảnh giác họ: Đừng biến nhà cha ta thành nơi buôn bán (Ga
2:16). Đây cũng là lời quở trách những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ đã
đồng loã trong việc trần tục hoá và thương mại hoá Đền Thờ. Phúc âm thánh
Matthêu (21:14), Maccô (11:17), và Luca (19:36) còn trích Sách tiên tri Isaia
để cảnh giác họ: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi lại
biến thành sào huyệt của bọn cướp (Is 56:7). Người Do thái thường tỏ ra tôn
kính đền thờ và bàn thờ dâng lễ vật của họ. Họ thường cảm tạ Thiên Chúa cho họ
có được đền thờ và bàn thờ dâng lễ vật. Nếu bạn có dịp sang Giêrusalem mà đến
đền thờ đã bị phá huỷ, chỉ còn lại một phần tường đền thờ, mà người ta gọi là
tường ô nhục, bạn sẽ thấy người Do thái gục đầu vào tường mà than khóc, vì đền
thờ của họ đã bị phá huỷ mà chưa xây được đền thờ mới. Còn thực tế và cụ thể
hơn, người Hồi giáo khi vào đền thờ của họ, phải để giày bên ngoài. Ta có thể
tưởng tượng giả sử có một ngàn người để một ngàn đôi giày, tức là hai ngàn
chiếc bên ngoài, ra khỏi đền thờ đi tìm chiếc giày nào là của mình trong hai
ngàn chiếc giày thì sẽ lộn xộn và khó khăn thế nào? Tuy nhiên để tỏ ra tôn kính
nơi thờ phượng, người Hồi giáo vẫn giữ điều lệ này cho tới ngày nay.
Sống ở đô thị hay ở ngoại
quốc, ta có dịp va chạm với nhiều người thuộc các tôn giáo khác nhau, và được
mời đến nơi thờ phượng của họ, có thể giúp ta làm tăng triển, hoặc làm giảm căn
tính tôn giáo của mình khi vào nhà thờ. Nếu vào nhà thờ có Mình Thánh Chúa ngự,
mà ta tỏ ra những cử chỉ như đi đứng nghêng ngang, xỏ tay túi quần giống như
vào xem viện bảo tàng hay nhà triển lãm thì ta cần xét lại cái căn tính tôn
giáo của mình.
Kinh Thánh hôm nay nhắc
nhở cho ta: Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa hun đúc tâm hồn tôi (Tv 69:10).
Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa phải nhắc nhở cho ta biết tỏ ra tôn kính nhà
Chúa, biết giữ gìn sạch sẽ cho nhà Chúa. Lòng nhiệt thành cho nhà Chúa phải
nhắc nhở ta dạy cho con cháu biết phân biệt đâu là nơi thờ phượng. Dạy cho con
cháu biết trong nhà thờ, nơi thờ phượng thì không chạy nhảy, la hét, không xả
rác rưởi, không chơi đồ chơi phát ra tiếng động... Ta cũng nên xét theo phương
diện tích cực xem, ta có thể làm gì để tỏ ra tôn kính nhà Chúa như săn sóc, giữ
gìn, và bảo trì nhà Chúa.
47.
Nhà Ta là nhà cầu nguyện--Lm Trần Bình Trọng
Vào dịp lễ Vượt qua của
người Do thái, Ðức Giêsu lên Giêrusalem, thấy người ta đổi tiền bạc và mua bán
súc vật trong quảng trường của Ðền thờ, Người liền lấy giây làm roi mà xua đuổi
tất cả chiên cũng như bò ra khỏi Ðền thờ; còn tiền của những người đổi bạc,
Người đổ tung ra và lật nhào bàn ghế của họ (Ga 3:15). Luật Do thái cấm chỉ
việc mua bán trong khu vực Ðền thờ. Tuy nhiên hàng tư tế quản trị Ðền thờ lại
dung thứ cho dịch vụ này. Việc dung thứ có thể hiểu được vì những người từ xa
đến khó có thể mang theo súc vật để hiến dâng, cho nên việc mua bán súc vật
trong khu vực Ðền thờ được hiểu là tiện lợi. Tiện lợi chứ không hẳn là cần
thiết vì việc mua bán vẫn có thể được thực hiện bên ngoài các cổng ngoại tường
Ðền thờ. Vậy nếu việc mua bán súc vật và đổi tiền được coi là tiện lợi cho
những người từ xa tới, thì tại sao Ðức Giêsu lại tỏ ra khó chịu, lên tiếng cảnh
giác những người buôn bán súc vật và đổi tiền quanh Ðền thờ? Thưa rằng dịch vụ
hối đoái để trả thuế Ðền thờ và mua bán súc vật để hiến dâng đã trở thành một
việc chỉ nhắm mục đích thương mại. Người bán thì coi đó như là cách thế làm
tiền, còn người mua thì phải mua một cách bất đắc dĩ cho việc dâng hiến. Rồi
súc vật hiến dâng phải chịu sự khám xét của nhân viên đền thờ để được chứng
nhận con vật không có vết tì ố. Thực tế thì viên chức Đền thờ muốn có độc quyền
cho người đấu thầu bán súc vật trong khu vực đền thờ cho nên người dân nghĩ
rằng họ phải mua súc vật được đấu thầu bên trong thì mới được bảo đảm là con
vật có đủ tiêu chuẩn cho việc hiến dâng. Rồi họ còn phải trả tiền khám xét súc
vật nữa. Do đó người nghèo cũng phải mua súc vật của họ với giá cắt cổ thay vì
mua ở ngoài theo giá thị trường.
Thứ đến việc đổi tiền để
nộp thuế cho Ðền thờ cũng có gì không chỉnh. Theo luật Do thái, mỗi người nam
công dân Do thái phải đóng thuế đền thờ, tương đương với hai ngày công. Ðức
Giêsu cũng đóng thuế đền thờ (Mt 17:27). Thuế đóng cho Ðền thờ mỗi năm một lần
bằng tiền Do thái vì tiền Rôma có hình vua ngoại đạo là Xêdarê, nên không được
lưu hành trong Ðền thờ. Ðổi từ tiền Rôma hay những loại tiền ngoại quốc khác
sang tiền Do thái phải trả tiền huê hồng đáng kể cho quầy đổi tiền.
Ðền thờ Giêrusalem đồ sộ,
nguy nga và lộng lẫy vừa được xây cất lần thứ ba là qùa tặng của vua Hêrôđê, có
lẽ nhắm mục đích chính trị hầu làm vừa lòng dân chúng hơn là sùng đạo. Như vậy
không có vấn đề dân chúng phải trả nợ. Do đó dịch vụ buôn bán súc vật và đổi
tiền chỉ còn đem tiền lời chồng chất lên ngân khố Đền thờ. Còn nhóm người đổi
tiền và buôn bán súc vật cũng đã phải trở nên giầu có. Rồi hàng đại tư tế cho
đấu thầu hai dịch vụ này cũng phải có món tiền bỏ túi riêng. Vì thế mà Ðức
Giêsu lên tiếng cảnh giác họ: Ðừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán (Ga
2:16). Ðó là lời quở trách những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ đã đồng loã
trong việc thương mại hoá và phàm tục hoá Ðền thờ. Phúc âm thánh Mát-thêu,
Mác-cô, và Luca còn ghi lại lời Ðức Giêsu trích dẫn sách ngôn sứ Isaia ghi: Nhà
Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện (Is 56:7), rồi dùng lời ngôn sứ Giêrêmia (Gr
7:11) để khiển trách họ vì họ đã biến nơi thờ phượng thành sào huyệt của bọn
cướp (Mt 21:14; Mk 11:17; Lk 19:46). Khi người Do thái hỏi xem Ðức Giêsu lấy
dấu chỉ nào mà tỏ uy quyền làm như vậy, thì Chúa dùng cơ hội này tiên báo về
việc phục sinh của Người: Các ông cứ phá huỷ Ðền thờ này đi; nội trong ba ngày,
tôi sẽ xây dựng lại (Ga 2:19). Ở đây Chúa muốn nói đến đền thờ là thân thể phục
sinh của Người sau khi đã nằm trong mộ ba ngày, mà họ không hiểu. Ngay cả các
môn đệ cũng chưa hiểu nổi. Khi có mấy môn đệ trầm trồ khen ngợi Ðền thờ, thưa
với Chúa: Thầy xem kìa: đá lớn thật! Công trình kiến trúc vĩ đai thay (Mk 13:1)
thì Chúa trả lời: Tại đây, sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào; tất cả
đều sẽ bị phá đổ (Mc 13:2). Năm bảy mươi sau công nguyên, tướng Titô của đế
quốc La mã cho đem quân đội đến phá huỷ Ðền thờ, chỉ để chừa lại một phần của
bức tường Đền thờ đế chứng minh cho hậu thế biết rằng quân đội La mã hùng mạnh
đến thế nào. Trong một nhóm linh mục hành hương sang Thánh địa khi thăm một
phần bức tường than khóc Đền thờ còn tồn tại, ghé vào tai linh mục bạn nói: Chu
choa! Sao người ta có thể phá huỷ bức tường này vậy (khi chưa có chất nổ, xe
tăng và xe ủi).
Phúc âm hôm nay nhắc đến
việc các môn đệ nhớ lại lời Thánh kinh: Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa làm hao
mòn thân tôi (Tv 69:10). Luật Chúa ban cho Mosê dậy dân Người phải giữ ngày
Sabát (Xh 20:8-10) là ngày thứ Bảy, ngày thánh, ngày lễ nghỉ. Khi Ðức Giêsu
sống lại vào ngày thứ Nhất trong tuần, Giáo hội mới chuyển sang ngày Chúa nhật
để thờ phượng và nghỉ ngơi. Do lòng nhiệt thành lo việc nhà Chúa mà Giáo hội
hoàn vũ cũng như giáo phận địa phương còn đưa ra những luật lệ nơi thánh đường
và trong khuôn viên nhà thờ trong giờ thờ phượng công cộng để bảo đảm cho giáo
dân khỏi bị chia trí trong khi thờ phượng. Vậy thì lòng nhiệt thành với việc
nhà Chúa phải nhắc nhở cho ta biết tỏ ra tôn kính nhà Chúa, khi đến nhà thờ làm
việc thờ phượng và cầu nguyện.
Do đó Giáo hội đòi hỏi
khi đến nhà thờ ngày Chúa nhật để thờ phương cách công cộng, người công giáo
nên ăn bận thế nào, tỏ ra những cử chỉ ra sao để giúp khơi dậy tâm tình đạo đức
thích hợp. Lòng nhiệt thành cho nhà Chúa phải nhắc nhở ta dạy cho con cháu biết
phân biệt đâu là nơi thờ phượng và nhắc cho con cháu tránh những cử chỉ và hành
động gây chia trí cho người khác. Có linh mục kia nhận được lá thư của một
người đàn ông có kí tên, mà ngài không quen biết, được trích nguyên văn như
sau: Thưa Cha, tôi đi nhà thờ hằng ngày, hầu hết bảy ngày trong tuần và lần nào
ở hàng ghế đầu, đều thấy mấy bà rất trẻ, rất khoẻ mạnh, mang hài cao, mặc váy
ngắn, tóc tai ngắn ngủi, đi lễ rất trễ, cứ chạy xoong xoong lên hàng ghế đầu để
gần các cha. Có những bà ăn mặc không được kín đáo, mà ngồi gần như vậy, thì
không tốt mấy. Tôi xin Cha đề nghị với Cha sở xem có cách nào giảỉ quyết? Ông
cha nhận được thư thì thắc mắc sao ông này có mắt quan sát hay thiệt.
Giáo hội còn đưa ra những
nguyên tắc về phụng vụ, về thánh nhạc, về kiến trúc thánh và nghệ thuật thánh
và mở những lớp huấn luyện nhằm cải tiến những bộ môn trên. Không cần phải đào
sâu, mà chỉ cần hiểu biết sơ qua cũng thấy thánh nhạc, dụng cụ nhạc khí dùng
trong nhà thờ và các cơ sở thánh thì mầu sắc, âm thanh, ánh sáng, vật liệu và
phẩm chất của vật liệu xử dụng phải khác biệt. Vậy thì những mầu sắc hay bóng
đèn mầu loè loẹt nhấp nháy có thích hợp trong nhà thờ không? Người am hiểu nghệ
thuật, kiến trúc và hội họa thánh khi đến thánh đường mà thấy không phải là
nghệ thuật, kiến trúc và hội hoạ thánh, khiến họ có thể chia trí, khó chịu và
còn ẫm ức nữa. Những xứ đạo nghèo ở miền quê, thì chưa có đủ điều kiện, khả
năng và phương tiện để đạt tới mức độ khả quan đó thì người ta cũng thông cảm.
Còn những xứ đạo lớn ở thành thị: có nhân lực, vật lực và nhân tài có thể gửi
người đi học để được huấn luyện về kiến trúc và hội hoạ thánh, về những nguyên
tắc phụng vụ và thánh nhạc và nhạc khí để rồi cho áp dụng.
Việc kiến thiết và tu bổ
nơi thờ phượng công cộng nhất là trên cung thánh tại những xứ đạo có những điều
kiện và phương tiện trên, phải nhờ đến kiến trúc sư có khả năng và được huấn
luyện về kiến trúc và nghệ thuật thánh chứ không phải là việc làm vá víu có
tính chất mộc mạc của thợ cây nhà lá vườn. Nếu công trình kiến trúc lớn và phức
tạp, kiến trúc sư còn phải nhờ đến giới chuyên môn khác như kĩ sư điện, kĩ sư
máy móc, kĩ sư âm thanh, kĩ sư ánh sáng, kĩ sư đo độ co dãn của vật liệu tuỳ
theo thời tiết... Bức họa hình thánh để tôn kính cũng phải được nghiên cứu và
theo dõi việc thực hiện của hoạ sĩ chứ không phải như cho vẽ tấm phông cho buổi
trình diễn văn nghệ. Khuôn viên nhà thờ cũng phải được kiến thiết sao cho có vẻ
thẩm mỹ làm đẹp mắt nữa.
Một linh mục kia có lần
đến xin đồng cử hành cuộc Khổ nạn của Chúa vào Thứ Sáu Tuần Thánh tại một xứ
đạo kia. Linh mục khách được trao cho cây thập giá có tượng chịu nạn để cho
giáo dân hôn kính. Chiều đứng cây thập giá dài độ sáu mươi phân. Hình như cả
cây thập giá và tượng chịu nạn làm bằng kẽm. Linh mục đó quan sát cây thập giá
thấy chia trí vì không khơi dậy được tâm tình đạo đức. Chân tượng chịu nạn quá
dài sánh vói thân hình tượng. Hai đầu gối giang ra quá xa và nhô lên quá cao
khỏi thân cây thập giá cho thấy việc thiết kế tượng chịu nạn thiếu cân đối và
thiếu nét thuần phong mĩ tục. Linh mục đó nói cầm thập giá bằng tay trái thấy
khá nặng, rồi còn phải đưa chân tượng vào gần miệng cho giáo dân hôn kính và
tay kia cầm khăn lau chân tượng sau mỗi lần có người hôn kính. Linh mục đó lại
nói thấy hơi mỏi tay và còn phải cẩn thận kẻo nhỡ đầu gối của tượng chịu nạn
đụng vào trán hay xương gò má của người hôn kính thì cũng có thể làm họ đau.
Câu chuyện này có ý nhắc nhở việc cung cấp tượng chịu nạn cần cân nhắc xem chọn
tượng nào, cho treo ở đâu và có nên dùng để cho giáo dân hôn kính, hầu khỏi làm
họ chia trí không?
Nghệ thuật và kiến trúc
thánh gồm biểu hiệu bàn đến ở đây là kiến trúc và nghệ thuật Kitô giáo. Do đó
muốn hội nhập văn hoá mà đem nét văn hoá bản xứ vào mà không chọn lọc, đào thải
và thích ứng, có thể trở thành lạc lõng, méo mó. Và khi đem một nét văn hoá hay
phong tục không phải là Kitô giáo vào đạo Kitô, thì giống như việc cắt râu ông
nọ cắm cằm bà kia vậy, nếu không cho rửa tội cho sản phẩm văn hoá và phong tục
đó.
Tóm lại về phương diện
tiêu cực tại nơi thờ phượng công cộng, phải giữ những kỉ luật nào đó để khỏi
gây chia trí và than phiền nơi người đến thờ phượng. Còn về phương diện tích
cực, thì tuỳ khả năng và phương tiện của mỗi địa phương, cần đạt tới mức độ
tương xứng trong nghệ thuật thánh, kiến trúc thánh và việc cử hành phụng vụ để
giúp người đến thờ phượng có tầm hiểu biết khá về các bộ môn trên đánh giá được
vẻ đẹp được diễn tả qua các bộ môn liên hệ và giúp người chưa hiểu biết, để với
thời gian, họ cũng thưởng thức được vẻ đẹp của kiến trúc thánh, nghệ thuật
thánh và thánh nhạc mà ca tụng Ðấng sáng tạo.
Lời cầu nguyện xin cho
được ơn biết tôn kính nhà Chúa:
Lạy Chúa là Ðấng sáng tạo
và quan phòng muôn loài.
Chúa hiện diện khắp mọi
nơi, trên toàn cõi địa cầu.
Ðặc biệt Chúa diện diện
trong thánh đường
nơi có Mình Thánh Chúa
Kitô ngự trị.
Xin dạy con biết tỏ ra
tôn kính và yêu mến nhà Chúa,
và cho con được tìm thấy
nơi nhà Chúa
nguồn sức mạnh, niềm an
ủi và sự cậy trông
của đời con. Amen.
48. Đức Giêsu tại
Samari--JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Các cụm từ “đã đến
giờ” và “giờ đã đến - và chính là lúc này đây” trong bài Tin Mừng có ý nghĩa
gì? Giờ đó là giờ nào?
2. Thế nào là “thờ phượng
Thiên Chúa trong thần khí”? Thế nào là “thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật”?
Trái ngược với hai kiểu thờ phượng ấy là thờ phượng thế nào? Chúng ta đang thờ
phượng Thiên Chúa theo kiểu nào: kiểu lỗi thời của các kinh sư Do Thái hay kiểu
“mới” của Đức Giêsu?
3. Có cần thiết phải sửa
đổi cung cách thờ phượng của chúng ta không? Nếu không thì sao? Việc thờ phượng
kiểu lỗi thời có còn giá trị không?
Suy tư gợi ý:
1. Việc thờ phượng Thiên
Chúa trong Cựu Ước và Tân Ước
Vào thời Cựu Ước, trình
độ tâm linh của con người còn non kém, đầu óc con người thường chỉ hướng về
những gì cụ thể, hữu hình, dễ thấy, nghĩa là họ hướng ra ngoài hơn là vào nội
tâm. Vì thế, việc thờ phượng Thiên Chúa chủ yếu gồm những việc cụ thể, thấy
được, được thực hiện trong thời gian và không gian rõ rệt. Từ bản chất, thờ
phượng Thiên Chúa chính là nhìn nhận Thiên Chúa là chủ tể vũ trụ, có toàn quyền
trên tất cả mọi sự, trong đó, con người coi mạng sống và của cải của mình là
quí giá nhất. Để biểu lộ sự nhìn nhận quyền chủ tể đó của Thiên Chúa, đúng ra
con người phải sát tế chính mạng sống mình; nhưng làm như thế, con người sẽ dần
dần chết hết, là điều mà Thiên Chúa không muốn. Vì thế, con người bèn sát tế
những con vật như chiên bò làm của lễ hy sinh dâng lên Thiên Chúa thay cho mạng
sống của mình (x. St 4,3; 8,20; Xh 20,24; 29,18; Lv 1,14; v. v... ). Có lần, để
thử thách niềm tin và tinh thần hy sinh hiến dâng ấy, Thiên Chúa yêu cầu
Abraham sát tế đứa con trai duy nhất của mình là Isaác làm lễ vật toàn thiêu:
khi thấy Abraham không tiếc với mình đứa con duy nhất, Thiên Chúa đã ra tay cứu
Isaác (x. St 22,1-14). Đó là cách thờ phượng Thiên Chúa thời Cựu Ước.
Đến thời Đức Giêsu, Ngài
đã khai mở một kỷ nguyên mới, thích hợp với trình độ tâm linh con người vốn đã
lên cao hơn. Vì càng về sau, con người càng có khả năng tư duy trừu tượng hơn,
biết hướng vào nội tâm hơn. Vì thế, việc thờ phượng Thiên Chúa phải mặc lấy một
hình thức mới hợp với trình độ mới: tức cao hơn, mang tính nội tâm hơn. Trong bài
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu chủ trương một cách thờ phượng Thiên Chúa mới mẻ
hơn, cao cấp hơn. Ngài nói: “Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không
phải trên núi này hay tại Giêrusalem (... ) Giờ đã đến - và chính là lúc này
đây - những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và
sự thật. (... ) Thiên Chúa là thần khí, nên những kẻ thờ phượng Người phải thờ
phượng trong thần khí và sự thật."
2. Thời Tân Ước: thờ
phượng trong thần khí và sự thật
Đức Giêsu nói khi Ngài
còn sống: “Đã đến giờ”, “Giờ đã đến - và chính là lúc này đây." Như vậy,
Đức Giêsu yêu cầu con người thay đổi cách thờ phượng Thiên Chúa cho xứng hợp
với trình độ mới của con người đã được 2000 năm, một thời gian rất dài! Nhưng
ta thử xét lại xem, cách thờ phượng của chúng ta trong thế kỷ 21 này đã thay
đổi và tiến bộ đúng như yêu cầu của Đức Giêsu cách đây 2000 năm chưa? Sau 20
thế kỷ tiến bộ về vật chất đến mức chóng mặt, con người đã tiến bộ về tâm linh
thế nào, đặc biệt trong cách thờ phượng Thiên Chúa? Chúng ta đã nội tâm hóa
việc thờ phượng ấy chưa, hay vẫn còn mang nặng tính bề ngoài, tính vật chất,
tính câu nệ hình thức, và vẫn còn lệ thuộc nặng nề về thời gian lẫn không gian?
Việc thờ phượng Thiên Chúa của chúng ta hiện nay đã đúng với tinh thần Tân Ước
của Đức Giêsu chưa, hay vẫn theo tinh thần Cựu Ước của đám kinh sĩ và biệt phái
Do Thái xưa, vốn đã bị Đức Giêsu coi là lỗi thời từ 2000 năm nay?
Thiết tưởng chúng ta nên
đặt lại vấn đề này một cách nghiêm chỉnh, và sửa đổi lại những gì chưa đúng.
Điều quan trọng chúng ta cần tìm hiểu là: Thế nào là “thờ phượng Thiên Chúa
trong thần khí và sự thật”?
* Thờ phượng trong thần
khí
Đức Giêsu nói: “Thiên
Chúa là thần khí, nên những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần
khí." Thần khí (pneuma - esprit - spirit) là tinh thần, tâm linh, thuộc
thế giới nội tâm, không thấy được. Thần khí thì ngược với vật chất, thể lý,
thuộc thế giới bên ngoài, cụ thể, thấy được. Thiên Chúa của chúng ta không phải
là một Thiên Chúa hữu hình, nên việc thờ phượng Thiên Chúa không nhất thiết
phải xảy ra ở bên ngoài, trong không gian và thời gian. Theo Đức Giêsu, Ngài là
thần khí, là tinh thần, là thiêng liêng, nên việc thờ phượng Ngài cũng phải
thực hiện trong thần khí, trên bình diện tinh thần, nghĩa là một cách thiêng
liêng, trong nội tâm con người. Hành vi thờ phượng phải là hành vi của tâm hồn,
là thái độ của nội tâm, hơn là hành vi của thể xác. Thiên Chúa của chúng ta
không phải là một Thiên Chúa cứ phải nghe ta nói, nhìn ta biểu lộ ra ngoài mới
hiểu được ta; trái lại, Ngài biết hết, thấu hiểu hết những gì ta nghĩ, ta cần,
ta muốn nói: “Cha trên trời thừa biết anh em cần những gì rồi” (Mt 6,32; Lc
12,30). Vì thế, xét về phía Thiên Chúa, việc thờ phượng Ngài không cần thiết
phải biểu lộ ra bên ngoài bằng lời nói, bằng lễ nghi, bằng những biểu hiện bên
ngoài: “Khi cầu nguyện, anh em đừng nhiều lời như dân ngoại; họ tưởng cứ nói
cho nhiều là được nhận lời” (Mt 6,7). Điều Ngài mong muốn nằm trong thái độ nội
tâm của chúng ta: tinh thần từ bỏ, tự hủy, lòng quảng đại, biết ơn, khâm phục,
nhất là tình yêu dành cho Ngài. Nếu Giáo Hội chủ trương phải biểu lộ việc thờ
phượng ra bên ngoài thì không phải là vì Thiên Chúa mà vì con người: để việc
thờ phượng mang tính cộng đoàn, tính Giáo Hội, hay để biểu lộ vinh quang Thiên
Chúa cho con người, v. v...
Ngày nay, cần phải thay
thế việc thờ phượng Thiên Chúa qua những hình thức bên ngoài bằng việc thờ
phượng Thiên Chúa trong thần khí. Lễ vật dùng để sát tế, để toàn thiêu không
còn là chiên, bò, hay bất kỳ một vật nào khác, mà phải là “cái tôi” ích kỷ và
kiêu căng của ta, là ý riêng của chúng ta, là những dự định dù tốt hay xấu
nhưng không phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Bàn thờ hay đền thờ - nơi sát tế
- là chính tâm hồn ta. Thời điểm sát tế không còn là một thời điểm cố định nào
do con người qui định, mà phải là thời gian liên tục. Vì sát tế không còn là
một hành động xảy ra vào những thời điểm nhất định nào đó, cho bằng một thái độ
nội tâm thường hằng trong đời sống ta, thậm chí trở thành một yếu tố cố định
trong bản tính của ta. Cầu nguyện cũng không còn là một hành động cho bằng một
trạng thái thường hằng của nội tâm. Một biểu hiện lý tưởng của việc thờ phượng
trong thần khí đã được Đức Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay: “Lương
thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình
của Người." Việc quan tâm thi hành thánh ý Thiên Chúa phải thay thế cho
việc quan tâm thực hiện ý riêng mình, phải trở thành lương thực nuôi sống đời
sống tâm linh của ta.
* Thờ phượng trong sự
thật
Thờ phượng Thiên Chúa
trong sự thật khác với thờ phượng Thiên Chúa trong giả dối. Thờ phượng Thiên
Chúa trong sự thật đòi hỏi những gì mình nói với Thiên Chúa phải phản ảnh đúng
những tâm tình, ý nghĩ trong đầu óc mình, và đúng với thực tế của đời sống
mình. Còn thờ phượng Thiên Chúa trong giả dối là có sự khác biệt giữa điều mình
cầu nguyện với tâm tư, tình cảm và đời sống thực tế của mình. Cầu nguyện như
thế chẳng những hoàn toàn vô ích mà còn xúc phạm và tỏ ra coi thường Thiên Chúa
nữa. Nếu không thể thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật, thì thà rằng đừng thờ
phượng còn hơn là thờ phượng Ngài trong giả dối.
Ngày xưa, người ta có thể
giết chết một con vật làm lễ toàn thiêu, để tượng trưng cho việc họ nhìn nhận
quyền Chủ Tể trên mọi sự của Thiên Chúa. Hành động tế tự đó hoàn toàn xảy ra ở
bên ngoài. Nhưng bên trong, người ta vẫn có thể tiếc với Thiên Chúa những
chuyện rất nhỏ: chẳng hạn họ không thể từ bỏ một ý riêng, một sở thích, một vật
đang muốn chiếm hữu, hoặc hoãn thi hành một dự định, hy sinh một cơ hội, v.
v... để làm đẹp lòng Thiên Chúa. Như vậy, hành động thờ phượng bên ngoài chẳng
phù hợp chút nào với tâm trạng bên trong. Chính vì thế, có lần Đức Giêsu nói về
việc thờ phượng của họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng trí
chúng thì lại xa Ta. Việc chúng thờ phượng Ta thật là vô ích” (Mt 15,8-9; Mc
7,6-7; x, Is 29,13).
Ngày nay, có biết bao
người khi cầu nguyện thì nói rằng mình yêu mến Chúa, sẵn sàng hy sinh mọi sự vì
Chúa; nhưng trong đời sống thì chẳng thấy họ yêu mến Ngài ở chỗ nào. Họ thường
nói với Chúa: “Xin tha cho con như con vẫn tha kẻ có nợ với con”, nhưng trong
thực tế, họ chấp nhất và bắt bẻ lỗi người khác từng chút một! Điều tệ hại là
người ta vẫn cảm thấy an tâm, họ tưởng rằng làm như thế là đã chu toàn bổn phận
thờ phượng đối với Thiên Chúa! Thiên Chúa rõ ràng không ưa lối thờ phượng đó.
Ngôn sứ Isaia diễn tả sự ngao ngán và dị ứng của Thiên Chúa đối với kiểu thờ
phượng bên ngoài ấy: “Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bê mập, Ta đã ngấy. Máu bò,
máu chiên dê, Ta chẳng thèm! Thôi, đừng đem những lễ vật vô ích đến nữa. Ta ghê
tởm khói hương; Ta không chịu nổi ngày đầu tháng, ngày sa-bát, ngày đại hội,
không chịu nổi những người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạc linh đình. Ta chán
ghét những ngày đầu tháng, những đại lễ của các ngươi. Những thứ đó đã trở
thành gánh nặng cho Ta, Ta không chịu nổi nữa. Khi các ngươi dang tay cầu
nguyện, Ta bịt mắt không nhìn; các ngươi có đọc kinh cho nhiều, Ta cũng chẳng
thèm nghe. Vì tay các ngươi đầy những máu” (Is 1,11b. 13b-15). Thử đặt mình vào
địa vị của Ngài xem ta có thể chấp nhận một cung cách thờ phượng như thế không?
Tại sao ta lại có thể đang tâm tiếp tục thờ phượng Ngài theo kiểu ấy?
Cầu Nguyện
Tôi nghe Chúa nói với
tôi: “Ta đã chán những lễ nghi rỗng tuếch, ghét những những nghi thức trang
trọng mà người cử hành chẳng tỏ ra có chút tình thương nào trong lòng. Ta cần
tình thương của con người, nhưng họ lại chỉ dâng lên Ta toàn những nghi thức,
lời kinh trống rỗng!”
49.
Đền thờ Thiên Chúa--Lm Anphong Trần Đức Phương
Đền Thờ Giêrusalem hùng
vĩ đã được xây cất thời vua Salomon từ năm 967-964 trước Chúa Giáng Sinh (BC)
trong thành Giêrusalem Cổ, trên đồi Moriah (nơi được coi như Abraham đem con
trai duy nhất là Isaac đến hiến tế cho Thiên Chúa theo lệnh Chúa truyền (Stk
22, 1-18). Đền thờ này bị người Babylon thời vua Nabuchodonosor II phá hủy vào
năm 586 (BC), khi họ đến chiếm đóng Giêrusalem và bắt người Do Thái đi lưu đày
ở Babylon. Đến năm 536 (BC), người Do Thái được hồi hương; sau đó, họ lại tái
thiết Đền Thờ hùng vĩ như trước. Đến năm 19 (BC), Hêrôđê Đại Đế cho xây cất lại
hùng vĩ hơn. Đến năm 70 sau Chúa Giáng Sinh, khi người Do Thái vùng lên chống
lại sự cai trị của người Rôma, Đại Tướng Titus đã dẫn đoàn quân Rôma đến dẹp
tan cuộc vùng dậy, phá hủy hoàn toàn Đền Thờ Giêrusalem (đúng như Chúa Giêsu đã
nói trước vào khoảng năm 30: “Sẽ không còn hòn đá nào trên hòn đá nào…” (Mt.
24, 2; Mc. 13,2; Lc. 21,6), và bắt tất cả người Do Thái đi lưu đày khắp nơi
trong Đế Quốc Rôma, và từ đó dân Do Thái lại phải rời bỏ quê hương. Sau gần 2
ngàn năm mất nước, người Do Thái lại tìm cách trở về và khôi phục lại quê hương
là nước Israel ngày nay từ năm 1948.
Đền Thờ Giêrusalem luôn
luôn là trung tâm thờ phượng của người Do Thái. Vào dịp Đại lễ, người Do Thái ở
các nơi trở về thờ phượng Chúa tại Đền Thờ Giêrusalem thường phải đổi tiền và
mua các con vật như chiên, bò, bồ câu để dâng làm lễ vật theo nghi thức Do Thái
Giáo thời đó. Vì thế, người ta lợi dụng dịp này, biến Đền Thờ thành chỗ buôn
bán, đổi chác để kiếm lời.
Trong bài Phúc Âm Thánh
lễ hôm nay (Ga 2, 13-25), Chúa Giêsu đã phải tỏ thái độ mạnh mẽ để tìm cách
thanh tẩy Đền Thờ cho xứng đáng nơi thờ phượng: “Mang tất cả những thứ này đi
nơi khác! Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán!” Trước phản ứng của người Do
Thái, Chúa Giêsu cũng dùng dịp này để nói về việc chính Chúa Giêsu sẽ bị họ
giết đi, nhưng sau 3 ngày, Ngài sẽ sống lại.
Đền Thánh Giêrusalem đã
bị phá hủy hoàn toàn để chấm dứt thời gian Cựu Ước và bước sang thời Tân Ước,
và việc thờ phượng Thiên Chúa không phải chỉ lệ thuộc vào ‘Đền Thờ’, nhưng quan
trọng là thờ phượng Chúa trong ‘tinh thần và chân lý’ (Gioan 4,23-24), bằng tâm
hồn và lương tâm ngay thẳng của chúng ta do việc giữ đầy đủ các giới răn của
Chúa đã được ghi rõ trong sách Xuất Hành (Bài Đọc I: Xh. 20, 1-17): Chu toàn
các bổn phận thờ phượng Chúa, phụng dưỡng cha mẹ già yếu, thương yêu nhau, giúp
đỡ những người nghèo khó, bệnh tật, giữ phép công bằng và xa tránh các tội lỗi
theo ham muốn xác thịt. Đó cũng là điều chúng ta đều phải suy nghĩ nhiều trong
Mùa Chay Thánh để sửa đổi các lầm lỗi trong quá khứ và canh tân cuộc sống.
Vào Thánh Đường nào chúng
ta cũng nhìn thấy Thánh Giá là ảnh tượng chính, để nhắc nhở chúng ta về những
hy sinh đau khổ Chúa Giêsu đã phải chịu để đền thay tội lỗi chúng ta, để chúng
ta thấy rõ hậu quả của tội lỗi mà chừa bỏ và xa lánh dịp tội. Vì thế, Thánh
Phaolô trong Bài Đọc II (1Cr 1, 22-25) nhấn mạnh: Ngài không rao giảng sự khôn
ngoan thế gian, nhưng rao giảng Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thánh Giá, dù có
những kẻ cho là điên rồ.
Chúa Nhật hôm nay cũng
nhắc nhở chúng ta phải nhắc bảo nhau, cha mẹ có bổn phận phải nhắc nhở con cái
phải giữ thái độ xứng đáng khi đến các nơi Thờ Phượng, đặc biệt vào các Thánh
lễ cuối tuần. Ăn mặc nghiêm trang, kín đáo, nhất là các người có nhiệm vụ lên
đọc Sách Thánh, và các Thừa Tác Viên Thánh Thể… Tất cả mọi người khi vào Thánh
Đường phải giữ cử chỉ cung kính, nhất là khi lên Rước Lễ, rước Chúa Trời Đất
cao cả, thánh thiện vào lòng chúng ta. Nói chung, Thánh Đường là nơi thờ phượng
chứ không phải nơi để trò chuyện, không phải nơi để khoe tài, khoe sắc, khoe quần,
khoe áo!
Thánh Đường giáo xứ cũng
là trung tâm thờ phượng của mỗi giáo xứ. Bổn phận mọi giáo hữu chúng ta là
chung tay xây dựng và gìn giữ Thánh Đường luôn xứng đáng là nơi thờ phượng
Thiên Chúa là Cha chúng ta, là trung tâm tinh thần của giáo xứ, là gia đình
thiêng liêng của chúng ta. Hơn nữa, khi đến Thánh Đường, chúng ta cùng dâng lễ
thờ phượng Chúa chung với cả Cộng Đoàn Đức Tin, chứ không phải chỉ là việc cá
nhân hay riêng cho mỗi gia đình. Chúng ta cùng đọc kinh, cùng hát thánh ca,
cùng hiệp nhất với nhau trong việc thờ phượng Chúa trong một gia đình Giáo xứ
đầm ấm.
Sau hết, tâm hồn mỗi tín
hữu cũng là một Đền Thờ, nơi Ba Ngôi thiên Chúa ngự trị. Luôn luôn chúng ta
phải thanh tẩy Đền Thờ tâm hồn chúng ta để xứng đáng là Đền Thờ Thiên Chúa, qua
việc giữ mình sạch tội: xét mình, ăn năn sám hối lỗi lầm, chừa bỏ tội lỗi hàng
ngày; đặc biệt qua việc lãnh nhận Bí tích Hòa Giải. Xin Chúa thương
thanh tẩy, thánh hóa chúng ta trong Mùa Chay Thánh này.
50.
Chúa nhật 3 Mùa Chay--Jaime L. Waters--Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển
CON NGƯỜI THỜI CHÚA GIÊSU
CŨNG PHẢI ĐỐI MẶT VỚI THÁCH THỨC VỀ SỰ ĐA DẠNG QUAN ĐIỂM
Các bài đọc Chúa nhật III
Mùa Chay hôm nay nhắc nhở về những cuộc chiến đấu và cam kết nhằm giúp chúng ta
đến gần Thiên Chúa hơn. Chúng tạo cho chúng ta cơ hội suy ngẫm về những mong
ước để trở thành thành viên trong một cộng đoàn đức tin.
Trong bài đọc thứ nhất,
chúng ta nghe về Mười Điều Răn được ban cho Môsê để công bố cho dân Israel. Sau
cuộc Xuất hành khỏi Ai Cập, dân chúng quy tụ tại chân núi Sinai, và Môsê lên
núi nhận bản luật để tuân giữ khi vào đất hứa. Lề luật đưa ra một ô cửa để nhìn
vào những lý tưởng của người Israel cổ đại trong việc thờ phượng và hành xử
đúng đắn nơi cộng đoàn. Lề luật là lời nhắc nhở các đòi hỏi đi kèm với tư cách
thành viên trong một cộng đoàn đức tin.
Tương tự, bài đọc thứ
hai, nêu bật những thách thức khi sống trong một xã hội có nhiều quan điểm khác
nhau. Thánh Phaolô viết thư cho cộng đoàn ở Côrintô và ngài lưu ý rằng những
Kitô hữu sơ khai đang sống giữa những người Do Thái và Hy Lạp. Những người này
có thể chỉ trích đức tin của Kitô hữu về cái chết và sự phục sinh của Chúa
Kitô. Tuy nhiên, ngài khuyến khích cộng đoàn duy trì niềm tin và sự tín thác
vào sức mạnh và khôn ngoan của Thiên Chúa. Thánh Phaolô mở ngỏ việc đón nhận cả
người Do Thái lẫn dân ngoại vào cộng đoàn nếu họ nhận ra tầm quan trọng của
Chúa Kitô.
Trong bài Tin mừng, chúng
ta nghe câu chuyện Chúa Giêsu đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ, lên án
việc buôn bán trong sân đền thờ. Trong khi việc họ hiện diện ở những nơi này có
lẽ không sai trái, Chúa Giêsu tức giận vì họ buôn bán súc vật và tuyên bố,
“Đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán." Nhìn bề ngoài, vấn đề này xảy ra
như một lời chỉ trích chống lại các giao dịch kinh doanh ở nơi thánh. Tuy nhiên,
sự việc này có mục đích mang tính biểu tượng nhiều hơn.
Chúa Giêsu xua đuổi những
người buôn bán và súc vật dùng để hiến tế vào lễ Vượt Qua, tưởng niệm quyền
năng cứu độ của Thiên Chúa trước và trong cuộc Xuất hành khỏi Ai Cập. Hành động
đầy kịch tính của Chúa Giêsu cho thấy rằng những hy lễ Vượt Qua sẽ không còn
cần thiết nữa. Trước khi hoàn tất sứ vụ của mình, Chúa Giêsu trở thành con
chiên Vượt Qua (Paschal) tối hậu. Vào cuối Tin mừng thánh Gioan, Chúa Giêsu bị
đóng đinh vào lễ Vượt Qua. Ở đầu Tin mừng, thánh Gioan Tẩy Giả đã tuyên bố:
“Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian” (Ga 1, 29). Qua việc xua
đuổi súc vật và những người buôn bán, Chúa Giêsu rõ ràng xác nhận rằng hy lễ
không còn cần thiết nữa vì Ngài sẽ là Chiên vượt qua, sẽ chết và sống lại từ
cõi chết.
Khi chuẩn bị tưởng niệm
cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu, chúng ta cần nhìn nhận
những khó khăn và đòi hỏi đi kèm với đức tin. Cũng vậy, chúng ta cần tiếp tục
cầu nguyện và suy ngẫm về ý nghĩa của mầu nhiệm Vượt qua.
51.
Thanh tẩy “Nhà Thờ”--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Các môn đệ Chúa Giêsu khi
chứng kiến việc Thầy mình thịnh nộ trước sự kiện người ta biến đền thờ thành
nơi buôn bán, đã nhớ lại lời Kinh Thánh: “Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi
đây sẽ phải thiệt thân." Một cơn thinh nộ đúng nghĩa bằng việc lấy dây làm
roi đánh đuổi người buôn bán chiên bò, lật nhào bàn ghế và hất tung tiền của
những người đổi bạc. Quả là to gan, nếu không là tên phạm thượng thì cũng là
phường phá hoại. Cần phải nghiêm trị nếu không sẽ mất hết luật lệ, mất hết
truyền thống, tôn ti…
Trước hết cần phải cật
vấn ông này lấy quyền gì mà làm những sự to gan, tày trời như vậy. Những người
Do Thái lúc bấy giờ, cách riêng những người đang có trọng trách đã kinh ngạc
trước câu trả lời của Chúa Giêsu: Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi, nội trong
ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại. Dĩ nhiên họ chẳng thể hiểu nội hàm câu trả lời
của Người. Sau này, khi chứng kiến cuộc khổ nạn và phục sinh của Thầy chí
thánh, các môn đệ mới hiểu Thầy dùng chính mạng sống của mình để làm dấu chỉ
cho việc Người có quyền hành sử những sự to gan như thế. Đã chấp nhận hy sinh
mạng sống vì sự việc gì đó thì nó phải có tầm quan trọng đáng kể và việc đó
chính là thanh tẩy đền thờ.
Thanh Tẩy nhà thờ vật
chất gỗ đá (église - church): Chuyện nhỏ. Quét bụi, lau chùi bàn ghế nhà thờ…
là chuyện phải làm. Người ta vẫn làm thường nhật hay thường kỳ mà chẳng một ai
thắc mắc. Ra những quy luật để gìn giữ các nhà thờ thực sự là nơi quy tụ tín
hữu cho việc thờ phượng, tránh các lạm dụng làm mất sự thiêng thánh, thì cũng
là chuyện dễ đón nhận và tuân giữ. Nhiều nơi, nhiều giáo xứ khi có điều kiện đã
xây phòng hội, xây phòng giáo lý để tách các việc hội họp, dạy giáo lý ra khỏi
nhà thờ. Đây là việc làm chính đáng nhưng cũng vẫn là chuyện không lớn.
Thánh hiến hay làm phép
một ngôi nhà thờ cũng chẳng là chuyện trọng đại nếu xét về công sức bỏ ra. Chỉ
một thánh lễ do đức Giám mục chủ sự hay do một linh mục được uỷ quyền thì mọi
sự gọi là hoàn tất.
Thanh tẩy Nhà Thờ (Église
– Church): Chuyện lớn. Khi hai từ nhà thờ được viết hoa thì đã không còn là một
công trình kiến trúc vật chất, cho dù vẫn còn nhiều người, nhiều tập thể, vì
thiếu hiểu biết hay cố tình làm như không biết, gọi là “bọn Nhà Thờ” hay “Nhà
Thờ”, mà thực ra đó là Giáo Hội. Thanh tẩy Giáo Hội ư? Chuyện lớn đấy! Đó là
một cơ cấu tổ chức, là một thực thể có tính thánh thiêng. Đó là tập thể những
người có niềm tin. Và cũng không thể không kể, cho dù chỉ là đại diện, đó là
những người đang có quyền cao, chức trọng. Trong niềm tin và theo giáo lý, Giáo
Hội được Công đồng Vatican II trình bày với hình ảnh nền tảng đó là đoàn dân
Thiên Chúa. Thế nhưng dưới cái nhìn người bình dân trong đạo và theo nhãn quan
của bà con ngoài đạo thì quý đấng bậc có “chức vụ cao trọng” được đồng hoá với
Giáo Hội cách nào đó.
Để làm cho cơ cấu tổ chức
và luật lệ thực sự có ra vì con người chứ không ngược lại, thì quả là chuyện
không nhỏ chút nào (x. Mc 2,27). Công đồng Vatican II đã kết thúc vào năm 1965,
thế mà phải đến năm 1983 Bộ tân Giáo Luật mới được hình thành. Thử hỏi nội dung
và tinh thần của bộ Giáo Luật 1983 đã được triển khai và áp dụng ra sao và ở
mức độ nào? Chuyện “phép vua thua lệ làng” hình như vẫn tồn tại ít nhiều nơi
này nơi kia. Để giúp những người đang mang trọng trách với chức vị lớn trở
thành “người hầu thiên hạ” thì cũng không phải là việc một sớm một chiều (x. Mc
9,35). Chuyện “phủ bênh phủ, huyện bênh huyện” là chuyện vẫn không là cá biệt.
Thỉnh thoảng có một vài tín hữu giáo dân vì thành tâm mà bạo miệng lên tiếng về
một vài tình trạng “cha chú” đó đây, hoặc lên tiếng về thái độ thụ động của
đấng này, vị kia trước bất công, bạo quyền, thì cũng dễ bị hứng “búa rìu” cách
này cách khác.
Thanh tẩy đền thờ tâm
hồn: chuyện hệ trọng."Bách niên chi kế, mạc như thụ nhân” (Quản Trọng). Và
kế ngàn đời là trồng con cái Chúa. Trồng người con Chúa ra sao đây? Bản Thập
giới mà bài trích sách Xuất Hành trình bày không hề lỗi thời mà trái lại. Chúa
Kitô đã minh nhiên nhắc lại điều này với một vị luật sĩ và với người thanh niên
muốn nên trọn lành (x. Mt 19,16-19). Để mến Chúa hết lòng, hết sức, hết linh
hồn và hết trí khôn, đồng thời yêu thương tha nhân như chính mình thì chuyện
thanh tẩy là chuyện phải làm cả đời.
Theo thiển ý, để có những
đền thờ tâm hồn trong sáng, thánh thiện, xứng đáng, thì một trong những điều
cần thanh tẩy đó là sự tham lam. Thánh Tông đồ dân ngoại đã từng gọi tham lam
là một hình thức “thờ ngẫu tượng." Chúa Kitô cũng đã từng ví “của tiền”
(dĩ nhiên có cả chức quyền, danh vị) như một vị thần, khi Người nói rằng không
được làm tôi hai chủ (x. Lc 16,13). Và thực tiển minh chứng rõ ràng lòng tham
lam, tham danh, hám lợi đã giết chết hay làm băng hoại tình người thật khó
lường. Sự tham lam khi đã được quyền bính bảo kê hay được luật lệ hợp thức hoá
thì hậu quả thật khó lường.
Đức Bênêđictô XVI trong
cuốn “Đức Giêsu thành Nagiarét” nhận thức rằng khi Chúa Giêsu thanh tẩy đền Thờ
Giêrusalem, Người không phá bỏ lề luật nhưng Người đánh đổ các sai trái của con
người vốn đã được lề luật hoá (Phần II trang 24).
Thanh tẩy nhà thờ gỗ đá,
cách riêng Nhà Thờ viết hoa hay đền thờ tâm hồn chắc chắn phải có trả giá.
Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng, dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm
kiếm lẽ khôn ngoan thì chúng tôi rao giảng một Đấng Kitô chịu đóng đinh…(1Cr
1,22). Chúa Kitô đã chấp nhận để người ta phá “thân thể Người” để rồi xây lại
sau ba ngày không phải chỉ để thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem mà đặc biệt để thanh
tẩy cái Nhà Thờ viết hoa cũng như các đền thờ tâm hồn, tức là con người qua mọi
thời đại.
Môn đệ không trọng hơn
Thầy (x. Ga 15,20). Rất nhiều người, nhiều vị thánh đã từng to gan tiếp bước
chân Thầy chí thánh nhiệt thành lo việc thanh tẩy Nhà Thờ viết hoa, thanh tẩy
các đền thờ tâm hồn. Và số phận của họ đã dẩy đầy truân chuyên. Nói gì cho xa,
để có được thành quả là Công Đồng Vatican II và gìn giữ cũng như phát triển
thành quả ấy thì nhiều vị, nhiều đấng bậc đã chấp nhận bao hy sinh, khổ ải,
truân chuyên. Cuộc đời của Hồng Y Ives Congar, cha Marie –Dominique Chenu, Đức
Gioan XXIII, Đức Phaolô VI… là những minh chứng hùng hồn.
Vì nhiệt tâm lo việc nhà
Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân. Một quy luật như là tất yếu. Đã sợ thiệt
thân thì hầu chắc không làm được sự gì tốt cho việc nhà Chúa. An thân, thủ
phận, hay sống theo “chủ nghĩa cơ hội” thật không xứng với người môn đệ Chúa
Kitô. Có thể có nhiều lý do, nhưng chắc chắn có lý do này, đó là chưa nhiệt tâm
lo việc nhà Chúa. Khi chưa nhiệt tâm lo việc nhà Chúa thì có lẽ chúng ta đang
mải mê lo việc nhà mình chăng?
52.
Phải bị thiệt thân--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Các môn đệ Chúa Giêsu khi
chứng kiến việc Thầy mình thịnh nộ trước sự kiện người ta biến đền thờ thành
nơi buôn bán, đã nhớ lại lời Kinh Thánh: Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi
đây sẽ phải thiệt thân. Một cơn thinh nộ đúng nghĩa bằng việc lấy dây làm roi
đánh đuổi người buôn bán và chiên bò, lật nhào bàn ghế và tung vãi tiền của
những người đổi bạc. Quả là to gan, nếu không là tên phạm thượng thì cũng là
phường phá hoại. Cần phải nghiêm trị nếu không sẽ mất hết luật lệ, mất hết
truyền thống, tôn ti...
Trước hết cần phải cật
vấn ông này lấy quyền gì mà làm những sự to gan, tày trời như vậy. Những người
Do Thái lúc bấy giờ, cách riêng những người đang có trọng trách đã kinh ngạc
trước câu trả lời của Chúa Giêsu: Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi, nội trong
ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại. Dĩ nhiên họ chẳng thể hiểu nội hàm câu trả lời của
Người. Sau này, khi chứng kiến cuộc khổ nạn và phục sinh của Thầy chí thánh,
các môn đệ mới hiểu Thày dùng chính mạng sống của mình để làm dấu chỉ cho việc
Người có quyền hành sử những sự to gan như thế. Đã chấp nhận hy sinh mạng sống
vì sự việc gì đó thì nó phải có tầm quan trọng đáng kể và việc đó chính là
thanh tẩy đền thờ.
Thanh Tẩy nhà thờ vật
chất gỗ đá (église - church): Chuyện nhỏ. Quét bụi, lau chùi bàn ghế nhà thờ...
là chuyện phải làm. Người ta vẫn làm thường nhật hay thường kỳ mà chẳng một ai
thắc mắc. Ra những quy luật để gìn giữ các nhà thờ thực sự là nơi quy tụ tín
hữu cho việc thờ phượng, tránh các lạm dụng làm mất sự thiêng thánh, thì cũng
là chuyện dễ đón nhận và tuân giữ. Nhiều nơi, nhiều giáo xứ khi có điều kiện đã
xây phòng hội, xây phòng giáo lý để tách các việc hội họp, dạy giáo lý ra khỏi
nhà thờ. Đây là việc làm chính đáng nhưng cũng vẫn là chuyện không lớn.
Thánh hiến hay làm phép
một ngôi nhà thờ cũng chẳng là chuyện trọng đại nếu xét về công sức bỏ ra. Chỉ
một thánh lễ do đức Giám mục chủ sự hay do một linh mục được uỷ quyền thì mọi
sự gọi là hoàn tất.
Thanh tẩy Nhà Thờ (Église
- Church): Chuyện lớn. Khi hai từ nhà thờ được viết hoa thì đã không còn là một
công trình kiến trúc vật chất, cho dù vẫn còn nhiều người, nhiều tập thể vì
thiếu hiểu biết hay cố tình làm như không biết, gọi là "bọn Nhà Thờ"
hay "Nhà Thờ", mà thực ra đó là Giáo Hội. Thanh tẩy Giáo Hội ư?
Chuyện lớn đấy! Đó là một cơ cấu tổ chức, là một thực thể có tính thánh thiêng.
Đó là tập thể những người có niềm tin. Và cũng không thể không kể, cho dù chỉ
là đại diện, đó là những người đang có quyền cao, chức trọng. Trong niềm tin và
theo giáo lý, Giáo Hội được Công đồng Vatican II trình bày với hình ảnh nền
tảng đó là đoàn dân Thiên Chúa. Thế nhưng dưới cái nhìn người bình dân trong
đạo và theo nhãn quan của bà con ngoài đạo thì quý đấng bậc có "chức vụ
cao trọng" được đồng hoá với Giáo Hội cách nào đó
Để làm cho cơ cấu tổ chức
và luật lệ thực sự có ra vì con người chứ không ngược lại, thì quả là chuyện
không nhỏ chút nào (x. Mc 2,27). Công đồng Vatican II đã kết thúc vào năm 1965,
thế mà phải đến năm 1983 Bộ tân Giáo Luật mới được hình thành. Thử hỏi nội dung
và tinh thần của bộ Giáo Luật 1983 đã được triển khai và áp dụng ra sao và ở
mức độ nào? Chuyện "phép vua thua lệ làng" hình như vẫn tồn tại ít
nhiều nơi này nơi kia. Để giúp những người đang mang trọng trách với chức vị
lớn trở thành " người hầu thiên hạ" thì cũng không phải là việc một
sớm một chiều (x. Mc 9,35). Chuyện "phủ bênh phủ, huyện bênh huyện"
là chuyện vẫn không là cá biệt. Thỉnh thoảng có một vài tín hữu giáo dân vì
thành tâm mà bạo miệng lên tiếng về một vài tình trạng "cha chú" đó
đây, thì cũng dễ bị hứng "búa rìu" cách này cách khác.
Thanh tẩy đền thờ tâm
hồn: chuyện hệ trọng."Bách niên chi kế, mạc như thụ nhân" (Quản
Trọng). Và kế ngàn đời là trồng con cái Chúa. Trồng người con Chúa ra sao đây?
Bản Thập giới mà bài trích sách Xuất Hành trình bày không hề lỗi thời mà trái
lại. Chúa Kitô đã minh nhiên nhắc lại điều này với một vị luật sĩ và với người
thanh niên muốn nên trọn lành (x. Mt 19,16-19). Để mến Chúa hết lòng, hết sức,
hết linh hồn và hết trí khôn, đồng thời yêu thương tha nhân như chính mình thì
chuyện thanh tẩy là chuyện phải làm cả đời.
Theo thiển ý, để có những
đền thờ tâm hồn trong sáng, thánh thiện, xứng đáng, thì một trong những điều
cần thanh tẩy đó là sự tham lam. Thánh Tông đồ dân ngoại đã từng gọi tham lam
là một hình thức "thờ ngẫu tượng." Chúa Kitô cũng đã từng ví
"của tiền" (dĩ nhiên có cả chức quyền, danh vị) như một vị thần, khi
nói rằng không được làm tôi hai chủ (x. Lc 16,13). Và thực tiển minh chứng rõ
ràng lòng tham lam đã giết chết hay làm băng hoại tình người thật khó lường.
Thanh tẩy nhà thờ gỗ đá,
cách riêng Nhà Thờ viết hoa hay đền thờ tâm hồn chắc chắn phải có trả giá. Trong
khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng, dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm
lẽ khôn ngoan thì chúng tôi rao giảng một Đấng Kitô chịu đóng đinh... (1 Cr
1,22). Chúa Kitô đã chấp nhận để người ta phá "thân thể Người" để rồi
xây lại sau ba ngày không phải chỉ để thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem mà đặc biệt
để thanh tẩy cái Nhà Thờ viết hoa cũng như các đền thờ tâm hồn, tức là con
người qua mọi thời đại.
Môn đệ không trọng hơn
Thầy (x. Ga 15,20). Rất nhiều người, nhiều vị thánh đã từng to gan tiếp bước
chân Thầy chí thánh nhiệt thành lo việc thanh tẩy Nhà Thờ viết hoa, thanh tẩy
các đền thờ tâm hồn. Và số phận của họ đã dẩy đầy truân chuyên. Nói gì cho xa,
để có được thành quả là Công Đồng Vatican II và gìn giữ cũng như phát triển
thành quả ấy thì nhiều vị, nhiều đấng bậc đã chấp nhận bao hy sinh, khổ ải,
truân chuyên. Cuộc đời của Hồng Y Ives Congar, cha Marie -Dominique Chenu, Đức
Gioan XXIII, Đức Phaolô VI... là những minh chứng hùng hồn.
Vì nhiệt tâm lo việc nhà
Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân. Một quy luật như là tất yếu. Đã sợ thiệt
thân thì hầu chắc không làm được sự gì tốt cho việc nhà Chúa. An thân, thủ
phận, hay sống theo "chủ nghĩa cơ hội" thật không xứng với người môn
đệ Chúa Kitô. Có thể có nhiều lý do, nhưng chắc chắn có lý do này, đó là chưa nhiệt
tâm lo việc nhà Chúa.
53.
Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Phép lạ hoặc những việc
làm của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Gioan thường mang ý nghĩa biểu tượng. Dấu lạ
được thánh Gioan kể lại là để nói lên một thực tại khác về Chúa Giêsu. Thí dụ
phép lạ khiến ông La-da-rô sống lại cho ta biết Chúa Giêsu là sự sống lại và là
sự sống. Cũng vậy, việc Chúa lên Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua và tẩy uế
Đền Thờ là để nói lên rằng Chúa Giêsu sẽ thay thế cho Đền Thờ. Thiên Chúa không
còn ngự trị trong Đền Thờ tại Giê-ru-sa-lem hay tại Ga-ri-dim nữa, nhưng trong
Đức Kitô, để “những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong
thần khí và sự thật” (Ga 4,23). Thờ phượng Thiên Chúa trong Đền Thờ Mới là Chúa
Kitô chắc chắn phải là một đề tài ta cần suy nghĩ và xét lại trong mùa Chay về
cách thờ phượng và cầu nguyện của ta.
a) “Nhưng Đền Thờ Đức
Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người”
Khác với các sách Tin
Mừng nhất lãm, sách Tin Mừng Gioan nói Chúa Giêsu lên Giê-ru-sa-lem nhiều lần
và việc tẩy uế Đền Thờ xảy ra ngay ban đầu sứ vụ của Người. Đặc biệt những lời
của Chúa Giêsu nói trong dịp này cũng mang một sắc thái hoàn toàn khác. Không
phải những câu trích dẫn ngôn sứ I-sai-a và Giê-rê-mi-a, nhưng là những lời của
chính Chúa Giêsu nói với mọi người: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng
biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán." Do đó lệnh truyền của Chúa Giêsu
không chỉ đòi ta phải suy tư về ý nghĩa của Đền Thờ Mới, nhưng còn đòi ta phải
có những hành động cụ thể để thanh tẩy đền thờ của Chúa Thánh Thần, tức là thân
xác và tâm hồn của ta.
Thật là một hình ảnh
tuyệt vời nếu ta hiểu tất cả con người Chúa Giêsu là Đền Thờ Thiên Chúa ngự.
Nơi Người, bản tính Thiên Chúa và bản tính nhân loại kết hiệp với nhau trong
một ngôi vị, tức là Ngôi Hai Thiên Chúa. Không những Thiên Chúa hoàn toàn ngự
trong Chúa Giêsu, mà còn nhờ Chúa Giêsu ở lại với nhân loại (Emmanuel = Thiên
Chúa ở cùng chúng ta). Đến với loài người qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa muốn mọi
sự đổi mới. Đời sống mới của ta phải theo lề luật mới là giáo lý Tin Mừng của
Chúa Giêsu, Đấng đến để kiện toàn Lề Luật. Việc phụng tự biểu lộ quan hệ giữa
ta với Thiên Chúa cũng phải đổi mới. Đền thờ Giê-ru-sa-lem không còn là trung
tâm thờ phượng, nơi duy nhất người ta đến với Chúa nữa. Nhưng từ nay, Chúa
Giêsu thay thế cho Đền Thờ và là nơi thể hiện việc thờ phượng đích thực. Chúa
Giêsu nói với người phụ nữ Sa-ma-ri: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các
ngươi sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem...
Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích
thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật." Chỉ trong Chúa
Giêsu mới có sự thật toàn vẹn và thần khí Thiên Chúa đầy tràn. Do đó chỉ trong
Người mới thể hiện việc thờ phượng đích thực. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu còn muốn
mỗi người môn đệ phải là “người thờ phượng đích thực” và trở nên một đền thờ
sống động, hoặc những viên đá sống động để xây dựng Hội Thánh Người. Thánh
Phao-lô khẳng định: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên
Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1Cr 3,16).
Giáo Hội là Thân Thể Mầu
nhiệm Chúa Kitô. Người là Đầu và ta là chi thể của Nhiệm Thể ấy. Như vậy, khi
ta hiệp cùng Giáo Hội thờ phượng Thiên Chúa trong Chúa Kitô thì việc thờ phượng
đó là đích thực. Ta cũng hiểu được tại sao Giáo Hội luôn luôn kết thúc các lời
nguyện với câu: Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Bởi vì nếu không nhờ Đức Kitô,
Đấng Trung gian giữa Thiên Chúa và con người, lời cầu nguyện cũng như việc thờ
phượng của ta không bao giờ có thể đạt tới mức thập toàn được.
b) “Đem tất cả những thứ
này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”
Nếu ý thức ta là đền thờ
Thiên Chúa ngự, ta sẽ thấy lời nói trên của Chúa Giêsu bắt ta phải suy nghĩ về
tình trạng đền thờ của ta. Trước hết Chúa gọi tâm hồn ta là “nhà Cha tôi” và
lúc nào cũng phải là nơi xứng đáng để Chúa Cha hiện diện tại đó. Chúa đã nhìn
thấy nguy cơ có thể xảy ra cho ta, đó là tâm hồn ta biến thành “nơi buôn
bán." Ta thử tưởng tượng lại khung cảnh buôn bán tại Đền Thờ
Giê-ru-sa-lem. Những ồn ào, cãi vã, gian dối, lường gạt... đầy dẫy trong khung
cảnh buôn bán ấy và không thích hợp chút nào cho việc thờ phượng và cầu nguyện.
Sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a (Gr 7:11) gọi nơi buôn bán ấy là “sào huyệt của bọn
cướp." Thực đúng như vậy. Khách hành hương từ xa tới Đền Thờ ít khi quan
tâm vấn đề tiền bạc. Còn đám con buôn thì lợi dụng thời cơ và lòng đạo đức của
khách hành hương, tìm đủ cách moi tiền của họ để làm giầu cho mình.
Tình trạng này vẫn xảy ra
tại nhiều nơi hành hương trên thế giới hôm nay. Nếu tới Đất Thánh và
Giê-ru-sa-lem, ta cũng khó mà kiếm được vài ba chỗ có được khung cảnh cầu
nguyện thích hợp. Có lẽ chỉ có Na-da-rét và núi Tám Mối phúc là còn khung cảnh
thanh tĩnh giúp ta sống lại những quan hệ mầu nhiệm Chúa Kitô. Tại những nơi
hành hương nổi tiếng như Lộ-đức và Fatima, chung quanh Đền thánh việc buôn bán
sầm uất không kém! Đó là những buôn bán bên ngoài. Còn những buôn bán bên trong
tâm hồn thì sao? Trong Giáo Hội, tinh thần buôn thần bán thánh vẫn là điều
khiến nhiều người đặt vấn đề. Ngày nay Giáo Hội Hoa-kỳ đã bị ràng buộc trong cơ
cấu hành chánh và tiền bạc, không sao tìm được lối thoát. Không có tiền, làm
sao trả lương các linh mục, thư ký văn phòng, giám đốc thánh nhạc, giám đốc
giáo lý... chưa kể những khoản bảo trì cơ sở vô cùng tốn kém. Có những giáo
phận bỏ ra cả mấy triệu bạc để thuê một công ty “gây quỹ”, đặt chỉ tiêu cho các
giáo xứ phải quyên góp cho đủ! Do đó thật khó mà tránh được tinh thần buôn bán
ngay trong những công việc đạo đức.
Nhưng quan trọng hơn hết
vẫn là tình trạng buôn bán trong tâm hồn mỗi Kitô hữu. Chúa Giêsu dạy ta “đem
tất cả những thứ này ra khỏi đây." Người để cho ta nhận diện từng thứ, rồi
đem “tất cả” ra khỏi tâm hồn ta. Tâm hồn ta trước hết phải là “lều hội ngộ” để
Chúa và ta gặp gỡ mọi lúc. Chúa Giêsu, sự thật toàn vẹn và Thần Khí đầy tràn,
phải chiếm hữu tất cả con người của ta để loại trừ đi cảnh buôn bán và sào
huyệt của bọn cướp. Thánh Phao-lô cho ta thấy sự trái ngược giữa hoa quả của
Thần Khí và hoa quả của tính xác thịt, là những điều có thể gặp thấy trong tâm
hồn ta. Nếu ta biết đem tất cả những gì thuộc tính xác thịt ra khỏi tâm hồn và
thay thế bằng những hoa quả tốt lành của Thần Khí, ta sẽ là một đền thờ xứng
đáng cho Chúa Ba Ngôi ngự trị."Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai
cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất
hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè
chén, và những điều khác giống như vậy... Còn hoa quả của Thần Khí là: bác ái,
hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ.
Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá
cùng với các dục vọng và đam mê” (Gl 5,19-24).
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Nếu coi mùa Chay như là
mùa “dọn dẹp tâm hồn”, tôi có chương trình cụ thể nào để tẩy uế đền thờ tâm hồn
tôi? Tôi phải đem “tất cả những thứ này” ra khỏi tâm hồn tôi, vậy đó là những
thứ gì?
Tôi hiểu thế nào là thờ
phượng trong sự thật và thần khí? Chúa Giêsu là sự thật toàn vẹn giúp tôi hiểu
gì về Thiên Chúa? Và thần khí của Người dạy tôi sống như thế nào?
Việc thờ phượng với tính
cách cá nhân và cộng đồng của tôi như thế nào? Tôi tham dự vào việc thờ phượng
của toàn thể Giáo Hội một cách tích cực hay hời hợt? Tôi tham dự vào đời sống
của Nhiệm Thể Chúa Kitô như thế nào? Tôi đã làm gì để đóng góp vào việc giúp
cho Giáo Hội được lành mạnh thêm và chiếu tỏa hình ảnh Chúa Kitô hơn ngay trong
cộng đoàn đức tin tôi thuộc về?
Cầu Nguyện
“Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu
của con,
nếu Hội Thánh được ví như
một thân thể
gồm nhiều chi thể khác
nhau,
thì hẳn Hội Thánh không
thể thiếu
một chi thể cần thiết
nhất và cao quý nhất.
Đó là Trái Tim, một Trái
Tim bừng cháy tình yêu.
Chính tình yêu làm cho
Hội Thánh hoạt động.
Nếu trái tim Hội Thánh
vắng bóng tình yêu,
thì các tông đồ sẽ ngừng
rao giảng,
các vị tử đạo sẽ chẳng
chịu đổ máu mình...
Lạy Chúa Giêsu,
cuối cùng con đã tìm thấy
ơn gọi của con,
ơn gọi của con chính là
tình yêu.
Con đã tìm thấy
chỗ đứng của con trong
Hội Thánh:
nơi Trái Tim Hội Thánh,
con sẽ là tình yêu,
và như thế con sẽ là tất
cả,
vì tình yêu bao trùm mọi
ơn gọi trong Hội Thánh.
Lạy Chúa, với chỗ đứng
Chúa ban cho con,
mọi ước mơ của con được
thực hiện."
- dựa theo lời của thánh
Têrêxa
(Trích RABBOUNI, lời
nguyện 62)
54.
Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Alfonso
Tin mừng Ga 2: 13-25: Tin
mừng hôm nay, khi Chúa Giêsu hành hương lên đền thờ Giêrusalem, nhìn thấy những
người đang đổi tiền, buôn bán chiên bò, chim câu, Chúa Giêsu đã nổi giận, cầm
roi đánh đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền thờ.
Suy Niệm
Thiên Chúa đã chọn cho
Con của Ngài nhập thể làm người có một nơi một chốn, một xã hội và môi trường
văn hóa. Chính vì thế theo năm tháng lớn lên, Chúa Giêsu được cha nuôi Giuse và
Mẹ Maria chỉ dạy để trở nên một người Do Thái nhiệt thành sống đạo. Thánh sử Gioan
đã bảy lần ghi lại Chúa Giêsu hành hương lên Giêrusalem vào những dịp lễ trọng
(Ga 5,1; 6,4; 7,2; 10,22; 11,55; 12,1; 13,1), đặc biệt là Lễ Vượt qua vào Mùa
Xuân và Lễ Lều trại vào Mùa Thu.
Trong đoạn Tin mừng hôm
nay, khi Chúa Giêsu hành hương lên đền thờ Giêrusalem, nhìn thấy những người
đang đổi tiền, buôn bán chiên bò, chim câu, Chúa Giêsu đã nổi giận, cầm roi
đánh đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền thờ. Những người buôn bán nơi đây
không hẳn là những người xấu, bởi vì đồng tiền sử dụng bên ngoài thị trường
mang hình và ký hiệu hoàng đế Rôma đang đô hộ dân Israel, nên buộc đổi sang một
đồng tiền chỉ dành cho phụng tự nơi đền thờ. Còn những người bán chiên, bò,
chim bồ câu phục vụ đáng kể cho khách hành hương từ xa đến, đang cần sắm sửa
tại chỗ những lễ vật cần thiết để tiến dâng, đỡ vất vả mang lễ vật khệ nệ đi
đường. Nhưng sở dĩ Chúa Giêsu nổi giận là vì vị trí quá lớn của tiền bạc đang
dần ngự trị trong Đền thờ. Và họ tự biến việc phục vụ của mình trở thành nghề
thương mại, biến mình thành những con buôn, lòng họ trở nên dính bén với tiền
bạc.
Vì thế mà Chúa Giêsu dứt
khoát: “Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi
buôn bán." Điều này làm cho những người chứng kiến liền phản ứng. Mọi
người đều biết lời tiên báo này gợi nhớ tiên tri Giacaria loan báo việc tẩy uế
Đền thờ (14,21). Họ hiểu ngay rằng người đang đánh đuổi họ không những là một
vị cải tổ để tố cáo những lạm dụng nơi Đền thờ, mà còn trong tư cách Đấng
Messia, đến để làm cho lời tiên tri thực hiện.
Chúng ta hãy lắng nghe kỹ
kiểu nói lạ thường mà Chúa Giêsu sử dụng để nói về đền thờ. Người đã không dùng
từ “nhà của Chúa”, mà Người nói “nhà Cha Ta." Điều này tỏ cho thấy mối
liên hệ đặc biệt giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha, trong tương quan Cha-Con. Người
nói hết sức tự nhiên, chỉ nơi đây chính là nhà của Cha Người, là nhà của Người.
Điều này làm cớ cho những người Do Thái xem Chúa Giêsu phạm thượng, vì đối với
họ, ông Giêsu con ông thợ mộc và bà Maria ở làng quê Nazarerth vô danh tiểu tốt
cùng lắm là một vị tiên tri. Để rồi đỉnh điểm, những người đang muốn làm lợi
kinh tế cho mình nơi đền thờ sôi sục khi Chúa Giêsu phán rằng: “Các ông cứ phá
huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại."
Câu nói của Chúa Giêsu
làm cho chúng ta phải thót tim nếu như đang ở trong khung cảnh đó, vì khi dám
đụng tới Đền Thờ Giêrusalem, kết tinh của tình cảm, đức tin và niềm kiêu hãnh
của toàn dân Do Thái “phải bốn mươi sáu năm mới xây được đền thờ này, mà Ông,
Ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?” Vì thế mà án tử họ dành cho Chúa Giêsu là
điều khó tránh khỏi. Nhưng điều Chúa Giêsu muốn nhắm tới là việc thanh tẩy đền
thờ tâm hồn con người. Vâng! Đền thờ vật chất rồi cũng qua đi, và thánh sử
Gioan viết đoạn Tin mừng này trong bối cảnh sau năm 70, khi mà đền thờ
Giêrusalem đã bị thiêu rụi. Gioan chỉ ra điều Chúa Giêsu nhắm đến trước tiên là
yếu tố phụng tự mà con người thể hiện với Thiên Chúa, không phải là những gì
bên ngoài như bò, chiên, bồ câu… cho bằng tấm lòng con thảo ta đặt vào đó. Tấm
lòng con thảo luôn muốn giữ Lời Chúa, Lời mà Ngài mời gọi dân khi đã vượt ra
khỏi Ai Cập, bằng giao ước Mười Điều Răn Ngài trao cho Môisen trên núi Sinai.
Khi dân khôn ngoan, trung thành sống các Giới luật đó thì Chúa sẽ gìn giữ dân.
Dẫu cho việc tin vào Chúa Giêsu là cớ vấp phạm đối với người Do Thái, và là sự
điên rồ đối với người Hy Lạp, là thua thiệt đối với dân ngoại gán cho những các
Kitô hữu, song chính các Kitô hữu đang là những người được hướng dẫn tiến đến
sự khôn ngoan khi chọn lấy Chúa Kitô là Đường Cứu Độ, vì chính họ được giáo
huấn để sống trong tình thương Thiên Chúa dành cho con người.
Chuyện Mạnh Tử, nhà tử
tưởng, chính trị và giáo dục lớn của Trung Hoa, là người kế thừa tư tưởng Nho
gia của Khổng Tử, mồ côi cha từ nhỏ, vì thế mà người mẹ Chương Thị rất lưu tâm
đến việc nuôi dưỡng giáo dục Mạnh Tử nên người. Nhà Mạnh Tử ban đầu ở dưới chân
núi, gần nghĩa trang. Mạnh Tử cùng lũ trẻ con chơi đùa, thường gặp cảnh đưa
tang nên cũng bắt chước theo: đào, chôn, lăn, khóc. Mẹ Mạnh Tử thấy vậy ái
ngại: “Chỗ này u ám, tang tóc không phải chỗ con ta ở được." Bà bèn chuyển
nhà tới gần một chợ phiên, đến buổi chợ là ồn ào huyên náo cảnh mặc cả trả giá,
cảnh buôn bán lời qua tiếng lại, chẳng thiếu chuyện lừa lọc, điêu ngoa. Mẹ Mạnh
Tử lại nghĩ: “Chỗ thị phi, gian dối này cũng không phải chỗ con ta ở được."
Mạnh mẫu không muốn con bị ô nhiễm bởi thói chợ búa chỉ biết mưu đồ kiếm lợi.
Lần thứ ba bà chuyển nhà đến gần trường học. Tuy nhà cửa nhỏ bé tồi tàn, nhưng
luôn có những Nho sinh dáng vẻ cao nhã, phong thái chuẩn mực. Mạnh Tử cùng lũ
trẻ túm tụm dưới gốc cây tập tành học lễ nghĩa, nhân cách, chắp tay cúi chào,
nhường nhịn, rất ra dáng và cung kính, khiến Mạnh mẫu từ xa nhìn xem, trong sâu
thẳm nội tâm rất vui mừng: “Đây mới là hoàn cảnh cư trú tốt nhất cho con ta nên
người." Sách Tam Tự Kinh cũng viết rằng “Dưỡng bất giáo, nãi phụ quá”,
“Giáo bất nghiêm, sư chi nọa." Nuôi mà không dạy, là lỗi người cha; dạy mà
không nghiêm, là lỗi người thầy.
Lạy Chúa, xin cho con
biết vượt lên trên con người ích kỷ của con, những bon chen thường ngày, để
chọn lấy Chúa là niềm vui và cùng đích đời con. Amen.
55.
Đức Giêsu tẩy uế đền thờ--Lm Vũ Phan Long
1. - Ngữ cảnh
Lần đầu tiên, tác giả
Gioan có một bản văn song song với các Tin Mừng Nhất Lãm (Mc 11,15-19; Mt
21,12-17; Lc 19,45-48). Tuy nhiên, có những khác biệt:
- Trong khi Tin Mừng IV
đặt biến cố này vào đầu sứ vụ của Đức Giêsu, các Tin Mừng Nhất Lãm lại đặt ở
đầu tuần Khổ Nạn.
- Lý do đã thúc đẩy Đức
Giêsu can thiệp được gợi hứng bởi các bản văn ngôn sứ, cũng không giống nhau:
“một nơi buôn bán” (Ga 2,16) thì nhắm đến chuyện mua qua bán lại, còn “sào
huyệt của bọn cướp” (Mc 11,17 và //) thì hàm chứa một cáo giác về sự trộm cắp.
- Cuối cùng, cuộc cãi vã
giữa Đức Giêsu và các đối thủ xảy ra ngay sau đó (theo Ga), hoặc lại vào ngày
hôm sau (theo các Tin Mừng Nhất Lãm: Mc 11,28 và //).
Trong quá khứ, người ta
thường đề nghị một giả thuyết, theo chiều hướng tương phù (concordism): Đức
Giêsu đã đuổi những người buôn bán khỏi Đền Thờ 2 lần, vào đầu sứ vụ (Ga) và
cuối sứ vụ (Tin Mừng Nhất Lãm). Nhưng dường như khó tin được rằng Đức Giêsu có
thể lặp lại được một thách đố như thế đối với giới lãnh đạo Do Thái giáo. Đàng
khác, giữa bản văn của Ga và của các Tin Mừng Nhất Lãm có những nét tương đồng,
khiến người ta phải nghĩ rằng hầu chắc các bản văn ấy đều đề cập tới một biến
cố duy nhất: nơi cả hai bên, ta đều thấy cùng một cơ hội đã khiến Đức Giêsu làm
cử chỉ ấy (sự hiện diện của những người buôn bán và đổi tiền trong Đền Thờ), có
một lời Đức Giêsu trách mắng những người bán hàng, sự can thiệp của các thủ
lãnh Do Thái, và nhất là dây liên hệ chặt chẽ giữa hành động này và cái chết
của Đức Giêsu (Ga 2,17. 19; Mc 11,18; Lc 19,47).
Vậy phải chọn giữa bài
của Gioan và bài của Tin Mừng Nhất Lãm: bài nào đã đặt biến cố này vào đúng
thời điểm?
1. Đa số các nhà chú giải
Công Giáo và nhiều nhà chú giải Tin Lành ủng hộ bài của Gioan. Luận điểm chính
nằm trong chi tiết về thời gian do 2,20 cung cấp: Công việc xây dựng Đền Thờ
bắt đầu từ năm 20/19 tr CG (Fl. Josèphe, Ant XV, 380); vào lúc này là năm 28/27
CN: thời điểm này phù hợp với khởi đầu sứ vụ của Đức Giêsu hơn. Khi đó, người
ta hiểu các Tin Mừng Nhất Lãm đã đặt biến cố này vào cuối sứ vụ của Đức Giêsu,
bởi vì các Tin Mừng Nhất Lãm chỉ nói đến một chuyến đi lên Giêrusalem duy nhất
và một lễ Vượt Qua duy nhất.
2. Những người nghiêng về
các Tin Mừng Nhất Lãm thì ghi nhận trước tiên rằng dây liên kết giữa thách đố
này của Đức Giêsu và cái chết của Người không mấy phù hợp với thời gian khởi
đầu sứ vụ của Người. Tại cuộc xử án Đức Giêsu, lời của các nhân chứng nhắc lại
câu tuyên bố của Người về việc phá Đền Thờ giả thiết là sự việc mới xảy ra, nên
người ta còn nhớ rõ. Nhưng luận điểm mạnh nhất, là tác giả Gioan đã đưa bài
tường thuật này ra đầu sứ vụ của Đức Giêsu, vì ông trung thành với quan điểm
ông đã biểu lộ trong bài tường thuật Dấu lạ Cana (Ga 2,4. 11): ông muốn quy
hướng toàn thể sứ vụ của Đức Giêsu ngay từ đầu về “giờ” Khổ Nạn của Người; hơn
nữa, Gioan muốn rằng Do Thái giáo chính thức được chứng kiến Đức Giêsu biểu lộ
tư cách Mêsia của Người ngay từ đầu, để những người Do Thái phải ở trong một tư
thế bị phán xét.
Nói cho cùng, thật khó
chọn bài nào, bởi vì cả hai luận đề đều có những lập luận vững chắc.
2. - Bố cục
Bản văn có thể chia thành
ba phần:
1) Đức Giêsu tẩy uế Đền
Thờ (2,13-17);
2) Đức Giêsu nói về phá
hủy và xây dựng lại Đền Thờ (2,18-22);
3) Chuyển tiếp và dẫn
nhập vào truyện Nicôđêmô (2,23-25).
3. - Vài điểm chú giải
- Gần đến lễ Vượt Qua của
người Do Thái (13): Thời gian của dấu lạ này dĩ nhiên gợi nhớ tới lễ Vượt Qua
trong đó Đức Giêsu sẽ bị xử tử. Tương quan giữa việc tẩy uế Đền Thờ và cuộc Khổ
Nạn của Đức Giêsu đã được ám chỉ. Mc 11,18 và Lc 19,47t sẽ ghi nhận rằng sự can
thiệp của Đức Giêsu, vì kết án cả giới lãnh đạo Do Thái giáo, sẽ khiến các
thượng tế và các kinh sư quyết định “giết Người."
- trong Đền Thờ (en tôi hiêrôi,
14): Đây là tiền đường của Đền Thờ (đối lại với naos là Đền Thờ đúng nghĩa, gần
gian Thánh và gian Cực Thánh).
- Các môn đệ của Người
nhớ lại (17):
Sau khi Đức Giêsu sống lại, khi Thánh Thần đã ban cho các ông hiểu các dấu chỉ
Thầy đã làm, các môn đệ đã hiểu biến cố hôm nay:
- Người Do Thái (18): Trong thực tế, đây
là giới lãnh đạo Đền Thờ (các tư tế, các thầy Lêvi và vệ binh), những người
chịu trách nhiệm về tình trạng vừa bị Đức Giêsu kết án. Như ở khắp nơi trong
Tin Mừng, tác giả Gioan không phân biệt giữa các nhà lãnh đạo và dân Do Thái đã
từ chối tin vào Đức Kitô. Vậy phải nói là toàn thể hệ thống phượng tự của dân
này đang được đề cập đến.
- Các ông cứ phá hủy (làm
tan rã) Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (sẽ đánh thức dậy) (19): Câu này có
thể hiểu là một mệnh lệnh: “Các ông hãy phá hủy...", hoặc như một câu ở
thì tương lai: “Các ông sẽ phá hủy...", hoặc như một câu giả thiết: “Cứ
giả sử là các ông phá hủy...." Thật ra, các động từ “làm tan rã” (lyô) và
“đánh thức dậy” (egeirô) không phù hợp chút nào với một tòa nhà vật chất cả.
- bốn mươi sáu năm (20): Đền Thờ, với phần
cung thánh và tiền đường, đã được vua Hêrôđê rộng tay chi tiền sửa sang lại
thật huy hoàng. Khởi công vào năm 16 triều đại ông (x. Fl. Josèphe, Ant. jud. ,
15, 11, 1) vào năm 734-735 thành Rôma, là năm 20-19 tCN, các công việc đã kéo
dài cho tới thời Tổng đốc Anbinô, năm 62-64 (Ant. jud. , 20, 9, 7). Vào thời
điểm của bài tường thuật này, chúng ta ở vào năm xây dựng thứ 46. Lấy khởi điểm
là năm 20 hoặc 19, sự cố tẩy uế Đền Thờ đã xảy ra vào lễ Vượt Qua năm 27 hoặc
28. Điều này phù hợp với Lc 3,2, vì bản văn này đã xác định phép rửa của Đức
Giêsu xảy ra vào năm 15 triều đại Tibêriô, tức giữa ngày 1-10-27 và 30-9-28.
-... là chính thân thể
Người (21): Đền
Thờ mới sẽ thay thế Đền Thờ cũ đã bị tục hóa chính là thân thể phục sinh của
Đức Kitô. Với lời giải thích của thánh Phaolô (x. 1 Cr 3,16 và 12,27; Ep 2,21
và 4,12), Đền Thờ mới là Giáo Hội, thân thể vinh hiển của Đức Kitô phục sinh,
và tất cả các tín hữu được kết hợp với Người.
- Vậy, khi Người từ cõi
chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại... Họ tin (22): Tác giả Máccô cứ
đều đặn ghi nhận rằng các môn đệ không hiểu. Gioan thì nói cách tích cực rằng
các môn đệ hiểu sau khi Đức Kitô đã sống lại (12,16). Chỉ khi Đức Giêsu được
tôn vinh, các ông mới được nhận Thánh Thần (7,39), và Thánh Thần mới cho các
ông hiểu tất cả những dấu lạ Đức Giêsu đã thực hiện (14,26; 15,26t). Vậy, đức
tin của các môn đệ không được liên kết với cuộc Phục Sinh như với một bằng cớ
về tính xác thực của những gì Đức Giêsu đã nói, nhưng như với nguyên do (=
nguồn) ban Thánh Thần, là Đấng duy nhất cho phép hiểu.
- Họ tin vào Kinh Thánh
(22): Không
thể xác định rõ tác giả Gioan ám chỉ tới đoạn Cựu Ước nào. Có thể so sánh Cv
2,24t; 13,34tt, trong đó có những bản văn thường được Giáo Hội tiên khởi nhắc
đến trong quan hệ với sự Phục Sinh của Đức Giêsu (đặc biệt Tv 16/15,10). Chúng
ta ghi nhận rằng Kinh Thánh (Lời Thiên Chúa) và lời Đức Giêsu được đặt trên
cùng một bình diện (so sánh 18,9. 32) để làm nên đối tượng đức tin của các môn
đệ.
- nhiều kẻ tin (23): Nhiều người tin
rằng Đức Giêsu đến từ Thiên Chúa (3,2), nhưng không tin vào tất cả mầu nhiệm
bản thân Người. Lòng tin của họ chỉ dựa trên các phép lạ, nên không phải là
không có giá trị, nhưng bất toàn (4,48; 20,29).
4. - Ý nghĩa của bản văn
Đức Giêsu cũng tham dự
vào một đại lễ khác. Đây không phải là một lễ của một đôi vợ chồng được cử hành
bởi gia đình và mọi người thân thuộc trong khung cảnh một thôn làng như Cana ở
Galilê, nhưng là lễ Vượt Qua, lễ trọng nhất của Israel, khi đó toàn dân quy tụ
lại Giêrusalem. Israel tưởng niệm cuộc giải phóng khỏi Ai Cập và tạ ơn Thiên
Chúa, vì Người đã làm cho họ thành một dân độc lập và thành Dân Người.
* Đức Giêsu tẩy uế Đền
Thờ (13-17)
Tại Đền Thờ, Đức Giêsu đã
không góp phần cứu lấy và gia tăng niềm vui của ngày đại lễ, nhưng đã hòa vào
cảnh sống náo nhiệt trên sân Đền Thờ. Con người đã rảo qua xứ sở cách an hòa
(1,29. 36) và đã ra tay cứu lễ mừng Cana cách hiệu quả, nay lại tỏ mình ra dưới
một phương diện hoàn toàn khác. Là một người khách hành hương vô danh đến từ
miền Galilê, Người đã gây ra một sự cố “động trời” tại Đền Thờ Giêrusalem. Theo
TM IV, vào chuyến hành hương đầu tiên thuộc đời sống công khai của Người, Đức
Giêsu đã bắt đầu hoạt động tại Giêrusalem như thế đó, bắt đầu từ sân dành cho
Lương dân, phần ít cao quí nhất của tiền đường, phần duy nhất mà người ngoại
quốc được đặt chân đến.
Truyền thống vẫn yêu cầu
người ta tỏ ra trang nghiêm kính cẩn tại vùng sân này, chẳng hạn, phải tránh đi
qua đó chỉ để đi tắt. Nhưng các quy định này, đặc biệt vào dịp lễ Vượt Qua,
không được tuân giữ: do khách hành hương phải chuẩn bị các của lễ đúng quy định
(một con bò hoặc một con chiên cho trường hợp những người giàu, một con bồ câu
cho trường hợp những người nghèo), và một nửa đồng bạc Do Thái (một siklos,
hoặc shéqèl bằng 4 ngày công) đóng thuế Đền Thờ, họ đã mua bán đổi chác gây
huyên náo hỗn độn ngay tại đây. Các cửa hàng của những người bán bò và chiên
được bố trí dưới các cổng, bàn của những người đổi bạc được đặt ngay ngoài trời,
đã biến vùng sân này thành một cửa hàng tạp hóa vĩ đại. Tất cả tùy thuộc cách
người ta quan niệm việc thờ phượng Thiên Chúa trong Đền Thờ. Hẳn là dân chúng
nghĩ rằng có thú vật và tiền lẻ ngay tầm tay và đặt mọi sự dưới quyền kiểm soát
của giới hữu trách Đền Thờ là tiện nhất. Nhưng điều này lại không phù hợp với
quan niệm của Đức Giêsu về nhà của Cha Người. Người gọi Thiên Chúa là Cha và
xác định cách cư xử dựa trên ý tưởng Người có về nhà Thiên Chúa. Không phải là
mọi chuyện đều có thể chấp nhận. Không phải là cứ chuyện nào tiện lợi hoặc đưa
lại tiền bạc là đúng đắn. Buôn bán thú vật được dùng làm lễ hy sinh là một sinh
hoạt đáng trọng, nhưng phải cách xa nơi có sự hiện diện của Thiên Chúa và nơi
người ta tôn kính Ngài. Đức Giêsu thấy có những lạm dụng.
Nay đã được đặt để trong
chức năng Mêsia-Con Thiên Chúa, Đức Giêsu không chỉ vào Nhà Thiên Chúa như một
khách hành hương, mà còn là người quản lý và chủ nhân. Nếu Người đã làm hành vi
chứng tỏ uy quyền này ngay tại Đền Thờ có lẽ là để tự mạc khải ngay giữa lòng
Do Thái giáo, trước mặt các nhà lãnh đạo và đám đông đa tạp các khách hành
hương, nhờ thực hiện sấm ngôn Malakhi: “Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi
tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mới mà các
ngươi đợi trông đang đến... Ai chịu nổi ngày Người đến? Ai đứng được khi Người
xuất hiện? Quả thật, Người như lửa của thợ luyện kim... Người sẽ thanh tẩy con
cái Lêvi (các thừa tác viên Đền Thờ)..." (Ml 3,1-3).
Không màng tới các rủi
ro, Đức Giêsu không ngần ngại nối kết sức lực của cánh tay vào sức mạnh của lời
nói để thực hiện nguyện vọng của Cha Người, được diễn tả qua miệng ngôn sứ
Dacaria: “Ngày ấy, sẽ không còn lái buôn trong Nhà Đức Chúa các đạo binh nữa”
(Dcr 14,21)."Nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Is
56,7), nhưng “Phải chăng các ngươi coi nhà này, nơi danh Ta được kêu khấn, là
hang trộm cướp sao?” (Gr 7,11). Đức Giêsu đã can thiệp với biện pháp rõ ràng và
dứt khoát: “Người xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn
tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ.
Người nói với những kẻ bán bồ câu: ‘Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây’”
(2,15-16). Trong nhà Chúa Cha, Chúa Cha đang hiện diện; người ta phải suy nghĩ
và hành động tương ứng với chân lý này.
Cử chỉ này, trực tiếp
nhắm đưa Đền Thờ trở lại với sự thanh sạch vẫn có, dường như có một tầm mức
biểu tượng. Bằng cử chỉ này, Đức Kitô muốn nói rằng Người sẽ truất các tư tế
mất quyền điều hành Đền Thờ Thiên Chúa và sẽ loại bỏ tất cả các lễ hy sinh thú
vật để thay thế bằng lễ dâng tinh tuyền mà Thiên Chúa cũng đã loan báo qua
miệng ngôn sứ Malakhi: “Ta chẳng ưng nhận lễ phẩm từ tay các ngươi dâng... Và ở
khắp nơi, người ta dâng lễ hy sinh và lễ vật tinh tuyền kính Danh Ta” (Ml
1,10-11). Đúng là đã tới giờ rồi.
Vào lúc ấy, hẳn là sự can
thiệp cương quyết của Thầy đã khiến các môn đệ thắc mắc, nhưng nhất là khiến
các ông lo sợ rằng Người sẽ phải gánh chịu những hậu quả tệ hại, từ phía những
lái buôn và những thừa tác viên Đền Thờ. Khi đó, các môn đệ đã nghĩ tới tiếng
kêu của tác giả Tv 69/68: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải
thiệt thân...", thiệt thân vì sự nhiệt thành của mình và vì những đối thủ.
Vào lúc chịu Khổ Nạn, khi tuyên bố rằng Thánh vịnh này được ứng nghiệm nơi
Người (Tv 69/68,5; x. Ga 15,15), Đức Giêsu công nhận rằng các ông đã linh cảm
đúng: sự nhiệt thành đã thiêu đốt Người bên trong vào lễ Vượt Qua đầu tiên, sẽ
thiêu đốt Người hoàn toàn vào lễ Vượt Qua cuối cùng, để biến Người thành một lễ
hy sinh “đẹp lòng Chúa hơn bò bê đủ móng đủ sừng” (Tv 69/68,32). Người chính là
Đấng công chính chịu đau khổ để thanh tẩy Đền Thờ và nền phượng tự cũ hầu xây
dựng một Đền Thờ mới và thiết lập một nền phượng tự mới (cc. 19-21). Việc
chuyển đi từ cái cũ sang cái mới sẽ được thực hiện nhờ cái chết của Đức Giêsu.
* Đức Giêsu nói về phá
hủy và xây dựng lại Đền Thờ (18-22)
“Người Do Thái” đây là
giới lãnh đạo Đền Thờ (các tư tế, các thầy Lêvi và vệ binh), nhưng cũng là dân
Do Thái, đã hỏi: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có
quyền làm như thế?” (c. 18). Đây là đề tài căn bản của tất cả những xung đột
sau đó giữa Đức Giêsu và giới lãnh đạo Do Thái giáo. Người đã yêu cầu trả lại
phẩm cách trang nghiêm cho nhà Chúa Cha; điều này không thỏa mãn người Do Thái,
cũng như tất cả những gì Đức Giêsu sẽ nói và sẽ làm cũng chẳng thỏa mãn họ (x.
5,16; 6,30; 9,16; 11,45-53). Hẳn là các nhà chức trách Do Thái cảm thấy khó
chịu gai chướng bởi một sáng kiến vừa lạ lùng vừa cách mạng như thế: dù không
có chức tư tế và không có nhiệm vụ gì ở Đền Thờ, Đức Giêsu vừa kết án một hệ
thống được các nhà chức trách chuẩn nhận, mà như thế là tự cho mình có một uy
quyền cao hơn uy quyền của họ. Thậm chí Người còn muốn nói là Người triệt tiêu
nền phượng tự đã từng được Thiên Chúa thiết lập ở đấy, và như thế là tự gán cho
mình có một uy quyền ngang bằng với uy quyền của Thiên Chúa mà Người gọi là
“Cha Người”! Bởi vì Người cho rằng Người có một uy quyền thần linh, thì Người
phải chứng minh điều ấy bằng cách làm một dấu lạ: một hành động phi thường cho
thấy dấu ấn của Thiên Chúa trên sứ mạng cứu thế của Người (x. Mt 11,38; 16,1;
Mc 8,11; Lc 11,16; 1 Cr 1,22).
Đức Giêsu đáp: “Các ông
cứ phá hủy (làm tan rã) Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (sẽ
đánh thức dậy)” (c. 19). Câu này có thể hiểu là một mệnh lệnh: “Các ông hãy phá
hủy...", hoặc như một câu ở thì tương lai: “Các ông sẽ phá hủy...",
hoặc như một câu giả thiết: “Cứ giả sử là các ông phá hủy...." Với bối
cảnh của cuộc tranh luận, Đức Giêsu dường như ám chỉ việc phá hủy và xây lại
ngôi Đền Thờ bằng đá tọa lạc ngay gần bên. Người Do Thái nghĩ ngay đến Đền Thờ
ấy, và cho rằng không thể được. Quả thật, phải là điên thì mới nghĩ có thể xây
lại trong ba ngày; cũng phải là điên thì mới nghĩ rằng có thể đụng chạm được
tới Đền Thờ này! Cứ lấy lương tri mà xét, lẽ ra người Do Thái không nên gán
những ý tưởng ấy cho một người có đầu óc sáng suốt: là những người Đông phương,
đã quen với giọng văn bóng bảy cũng như những câu nói hiểm hóc, hẳn là họ phải
ngờ rằng ở đây có một ý hướng biểu tượng, nhất là những động từ “làm tan rã”
(lyô) và “đánh thức dậy” (egeirô) không phù hợp chút nào với một tòa nhà vật
chất cả. Nhưng họ cố ý xoáy vào ý nghĩa vật chất, cũng như người phụ nữ Samari
khi đề cập tới nước ban sự sống (4,11-15), như những người Do Thái khi đề cập tới
bánh ban sự sống (6,34) [xem lời các nhân chứng tạo tòa án (Mt 26,61; Mc 14,58)
và những người qua đường (Mt 27,40; Mc 15,29)]. Dấu lạ Đức Giêsu loan báo ở đây
tương ứng với câu trả lời cho người Pharisêu trong Mt 12,39t và 16,4.
Người Do Thái quy các lời
Đức Giêsu nói vào ngôi Đền Thờ bằng gạch đá nên đã hiểu sai ý Người (x. 3,4).
Đức Giêsu đang nói với họ: Các ông có thể giết chết tôi. Các ông có thể đẩy tôi
đến thử thách lớn lao cùng cực nhất. Nhưng rồi tôi sẽ hoàn tất công trình của
tôi và sẽ tự mạc khải ra vĩnh viễn.
Phần các môn đệ, sau khi
Đức Giêsu sống lại, các ông mới hiểu được ý nghĩa của câu nói huyền bí ấy, và
“đã tin vào lời Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói” (c. 22). Nhưng ở đây tác
giả Gioan cho chúng ta được hiểu trước biến cố ấy: Đức Giêsu nói, không phải về
Đền Thờ bằng gạch đá, nhưng hoàn toàn về Đền Thờ là thân thể của Người, nhân
tính của Người. Các từ ngữ Người dùng phù hợp với ý nghĩa đó hơn: “Cứ làm tan
rã Đền Thờ là thân thể của tôi đi (Các ông sẽ gây ra sự tan rã, cái chết, cho thân
thể tôi), và trong ba ngày, tôi sẽ dựng lại (sẽ đánh thức dậy khỏi giấc ngủ
ấy)." Đàng khác, ý nghĩa hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh. Nếu các môn đệ
đã linh cảm rằng lòng nhiệt thành của Đức Giêsu đối với ngôi nhà vật chất của
Thiên Chúa sẽ khiến Người bị các đối thủ hãm hại (c. 17), Đức Giêsu còn biết rõ
hơn các ông rằng cử chỉ này sẽ đưa Người tới cái chết. Như vậy, cái chết đối
với Đức Giêsu không phải là một tai nạn bất ngờ hoặc một thất bại không thể
tránh được, nhưng là một thử thách Người tự do chấp nhận, để rồi tiếp theo là
một Sự Sống dồi dào phong phú hơn. Đã được báo trước như vậy, người Do Thái sẽ
không thể coi đó là một chiến thắng, còn các môn đệ không thể coi đó là một cớ
vấp phạm được.
Ở đây, ngay trong cuộc
gặp gỡ đầu tiên này, ta đã thấy rõ các hậu quả của cuộc xung đột sẽ là thế nào
và mục tiêu của con đường Đức Giêsu theo là gì: chết và sống lại. Cuộc Phục
Sinh sẽ chuẩn nhận cho tư cách của Đấng đã bị đẩy đến một cái chết khốc liệt do
việc làm và yêu sách của Người. Do cái chết này, Đền Thờ mới sẽ được xây lên.
Đức Giêsu Phục Sinh là “nơi” vĩnh viễn có Thiên Chúa hiện diện với Dân Người và
có Dân Người thờ phượng Thiên Chúa: đây là “ngôi nhà Cha” hoàn hảo. Lời tiên
báo của Đức Giêsu một phần cảm hứng từ một sấm ngôn của ngôn sứ Hôsê (Hs 6,2).
Theo lời hứa của Đức Giêsu cho ông Nathanaen, các môn đệ khi ấy sẽ thấy Thầy họ
là “Bết-Ên” thật, là Nhà Thiên Chúa và Cửa thiên đàng (1,51). Một cách gián
tiếp, Đức Giêsu mạc khải cho các thính giả rằng Chúa Cha cư ngụ nơi Người một
cách viên mãn và vĩnh viễn (8,16; 10,38; 14,10;16,32) và chỉ nơi Người, các tín
hữu mới có thể gặp được Chúa Cha vô hình (14,6-10).
* Chuyển tiếp và dẫn nhập
vào truyện Nicôđêmô (23-25)
TM IV nổi bật với sự đối
kháng giữa Đức Giêsu và các đối thủ. Ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên, đã lộ rõ các
yếu tố tiêu biểu của cuộc chiến đấu này: các người tranh chấp, đối tượng của
cuộc tranh chấp và kết luận. Cuộc xung đột liên hệ đến quan niệm đúng đắn về
Thiên Chúa: Đức Giêsu nhận biết Thiên Chúa như là Cha Người; tất cả những gì Người
làm đều do Thiên Chúa gợi hứng và Người làm chứng về những điều đó; còn các đối
thủ của Người lại cảm thấy bị Người gây chuyện, nên yêu cầu Người trưng ra
những bằng chứng khác, và họ loại trừ Người. Phần các môn đệ, do đã để cho
Người dẫn dắt, các ông đạt tới đức tin và sự hiểu biết đầy đủ. Còn đám đông bị
đánh động bởi những gì Đức Giêsu thực hiện; nhưng Đức Giêsu không tin họ, nên
Người giữ khoảng cách với họ. Tình trạng xung đột này sẽ đưa Đức Giêsu đến cái
chết dữ dội, nhưng Người sẽ được xác nhận trọn vẹn bằng cuộc Phục Sinh.
+ Kết luận
Hôm ấy, Đức Giêsu đã vào
Đền Thờ như vào “nhà Cha Người”; hôm ấy, vì yêu thương Chúa Cha, Người đã đuổi
những con buôn khỏi Đền Thờ. Vì nhiệt thành lo cho nhà của Cha, vì muốn hoàn
toàn dành ngôi nhà này cho Cha, Đức Giêsu đã nổi cơn nghĩa nộ mà bảo vệ quyền
lợi của Cha, trong khi vẫn làm chủ chính mình. Như thế, Đấng “có lòng hiền hậu
và khiêm nhường”, là bạn của kẻ tội lỗi, cũng biết nổi giận khi cần, vì vinh
quang của Thiên Chúa Cha.
Sau này, đàng sau tấm màn
bị xé rách của Đền Thờ và xuyên qua thân thể bầm dập của Đức Giêsu hấp hối,
Thiên Chúa xuất hiện, bằng một tấm thân con người thật sự, đầy vinh quang thần
linh. Giấc mơ của Cựu Ước, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, nay được thực hiện mãi
mãi trong Đức Giêsu Phục Sinh.
5. - Gợi ý suy niệm
1. Theo Đức Giêsu, người
ta không thể chấp nhận hay nhượng bộ mọi sự. Người ta có thể thông cảm cho việc
trục trặc này, chuyện không xuôi chảy kia. Nhưng khi sự việc liên hệ đến việc
thờ phượng Thiên Chúa, thì không được phép có lối suy nghĩ tương-đối-hóa. Khi
sự việc liên hệ đến làm chứng cho mầu nhiệm Thiên Chúa, thì không được phép nửa
vời. Phần chúng ta, chúng ta có thể tự hỏi: chúng ta đang có quan niệm nào về
“nhà của Cha”, hoặc về nhiệm vụ và mục tiêu mà Ngài đã ban cho con người? Chúng
ta có vận dụng trọn bản thân mình cho điều đó không?
2. Các đối thủ của Đức
Giêsu cứ đòi Đức Giêsu phải trưng ra thêm các bằng chứng. Lý do không phải là
để họ đạt được niềm tin tròn đầy, nhưng nói có vẻ nghịch lý, họ đòi các bằng
chứng là để phủ nhận đức tin, để họ có cớ mà nói rằng họ không tin là phải.
Toàn bọ TM IV là một bài học với nhiều minh họa về niềm tin như một sự phó thác
vào Đấng được Thiên Chúa sai phái tới, là Đức Kitô. Trong những trường hợp nào,
cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đề những ranh giới dè dặt cho niềm tin tưởng của
chúng ta vào Đức Giêsu, chúng ta nêu ra những điều kiện, và chúng ta đòi những
đảm bảo?
3. Chứng từ của các môn
đệ còn đấy: lời của Đức Giêsu có một trọng lượng như chính lời Kinh Thánh. Nhờ
được Kinh Thánh thôi thúc, các ông hiểu lý do khiến Đức Giêsu phải chết; nhờ
được lời Đức Giêsu soi sáng, các ông hiểu Đấng Phục Sinh chính là “nơi” vĩnh
viễn có sự hiện diện và chăm sóc ân cần của Thiên Chúa. Đấy là một kinh nghiệm
quan trọng được chia sẻ cho chúng ta, để hôm nay chúng ta biết tiếp tục dựa vào
ánh sáng của Kinh Thánh mà khám phá thêm nữa mầu nhiệm Đức Giêsu, Con Thiên
Chúa nhập thể, đã chết và đã sống lại.
4. Để thực hiện được điều
này, cần nhận lấy bài học khác của các môn đệ. Các ông đã rảo qua một đoạn đường
dài cùng với Đức Giêsu và đã được Người liên tục dạy dỗ, rèn luyện. Chúng ta có
thể chờ đợi để được dẫn đến chỗ hiểu biết đầy đủ về con đường của Đức Giêsu và
con đường của chúng ta chăng?
56.
Bắt đầu lại trong sự thật--Jean-Yves Garneau
Khi sự việc hư đi
Đa số những của cải trần
thế này đều mau chóng biến chất. Chưa đầy hai năm mà chiếc xe lộng lẫy đắt tiền
của chúng ta đã bắt đầu trục trặc rồi. Ghế trường kỷ đẹp đẽ trong phòng khách
nhanh chóng bạc màu, nhất là nếu có trẻ con trong nhà. Nước sơn trên tường nhà
bếp, những cánh cửa bằng gỗ, những chỗ nối các viên gạch hoặc các viên đá… Mọi
sự đều xuống cấp một cách mau chóng lạ lùng.
Cũng y như vậy trong
nhiều lãnh vực khác nữa. Một tình bạn nẩy sinh: mươi ngày sau, có lẽ người ta
đã cãi nhau rồi. Kết hôn: đó là tình yêu lớn. Sáu tháng sau người ta không còn
như trước nữa. Mọi sự không suôn sẻ nữa. Có những điều làm ta khó hiểu nhau. Có
những hố sâu bắt đầu xuất hiện. Cũng một hiện tượng đó về mặt tôn giáo. Với
thời gian, tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa và anh em nguôi đi. Ta
buông thả. Ta có những thói quen nhỏ ít nhiều không đúng đắn. Cũng như mọi sự
khác, đời sống thiêng liêng cũng có thể xuống cấp… và trong thực tế rất thường
xuống cấp.
Vào thời Chúa Giêsu, Đền
Thờ phải là nơi cầu nguyện và dâng của lễ, nhưng người ta đã biến nó thành một
cửa tiệm và một trung tâm buôn bán. Ở Công đồng Vatican II, người ta đã ý thức
rằng phải thanh tẩy Giáo hội về nhiều mặt. Phải đổi mới nhiều điều khác. Phải
loại bỏ đi nhiều điều khác nữa. Thật vậy, với thời gian mọi sự đều có thể xuống
cấp.
Thẳng thắn nhìn vấn đề.
Sự kiện có bao nhiêu thứ
hư hỏng đi theo thời gian xem ra không trầm trọng lắm. Nhưng không nhìn thấy
điều đó hoặc tệ hơn nữa không chịu nhìn thấy, không ý thức vấn đề, làm như thể
không có chuyện gì cả, đó mới là trầm trọng.
Chúa Giêsu đã thấy ngay
những gì không ổn tại cửa đền thờ. Ngôi nhà dùng cho việc phụng tự đã trở thành
nơi buôn bán. Chúng ta có sáng suốt như vậy để nhận thấy những gì đang xuống
cấp trong cuộc sống Kitô của chúng ta không? Hay là chúng ta cứ nhắm mắt làm
ngơ?
Tìm biết sự thật về tình
trạng hiện thời của chúng ta. Đó là việc đầu tiên phải làm. Việc thiết yếu.
Cầm roi trong tay.
Sau khi thấy những gì
không ổn trong Đền Thờ. Chúa Giêsu không mặc kệ bỏ đi, Ngài không làm ngơ. Cầm
roi trong tay, Ngài hành động. Một cách hành động nghiêm khắc mà Ngài ít khi
dùng trong đời Ngài.
Không cố gắng thì ta
không đạt được gì cả. Điều này đúng về mặt luân lý và đời sống Kitô hơn về mọi
phương diện khác. Chết đối với bản thân, móc mắt, chặt tay chân v. v… đó là kỹ
thuật mà Chúa Kitô dạy. Roi ư? Tức là mọi năng lực ta có thể có được để xa lánh
những nẻo đường mà trong đó chúng ta có nguy cơ sa lầy và để tiếp tục tăng
trưởng.
Bắt đầu lại.
Cây không còn trổ lá nữa
bởi vì đất đã khô cằn. Người ta bón phân cho nó. Thế là những chồi mới lại nhú
ra. Lập gia đình đã hai năm rồi, đôi vợ chồng trẻ không còn yêu nhau như trước
kia nữa. Họ muốn dành một buổi tối để kiểm điểm lại, nói với nhau vài sự thật.
Cách bình thản. Và tình yêu của họ đã tìm lại được vẻ tươi mát ban đầu. Họ yêu
nhau hơn trước kia nữa.
Cũng giống như vậy về mối
tương quan giữa mỗi người chúng ta với Thiên Chúa. Đối với Ngài, không bao giờ
có điều gì hoặc có ai đó đã hoàn toàn mất đi. Lầm đường vẫn còn có thể trở lui
và đổi hướng. Những mối liên hệ bị cắt đứt có thể nối lại được. Tình yêu đã
nguội lạnh có thể trở thành lò lửa. Với Ngài bao giờ cũng có thể bắt đầu lại và
bao giờ cũng là lúc để bắt đầu lại. Và việc trước hết để bắt đầu lại là có cái
nhìn sáng suốt về mình, về chính mình, về con người mà ta đang trở thành. Đó là
Sự thật.
57.
Đền thờ đích thật của sự thờ phượng và tập hợp--‘Lương Thực Ngày Chúa
Nhật’--Achille Degeest
Đoạn Phúc âm của thánh sử
Gioan nói về Chúa đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi đền thờ có một mạch lạc và đầy
đủ ý nghĩa mà người ta khó lòng nhận ra được dễ dàng như vậy ở các thánh sử
khác. Các thánh sử này biên soạn Phúc âm từ những quan điểm khác và quy tụ một
các khác những tài liệu do đời sống Chúa cung cấp. Có những câu hỏi được đặt ra
ở đây về sự phù hợp giữa những gì mà Gioan nói và những gì mà các Phúc âm Nhất
lãm nói. Không đi sâu vào chi tiết, chúng ta chỉ đồng ý rằng: các khó khăn sẽ
tan biến một khi người ta nhớ lại là thánh Gioan ưa trình bày một cảnh trí
chung từ một sự kiện riêng rẽ. Cuộc đời Chúa Giêsu do thánh sử Gioan viết không
có tính cách giai thoại. Bằng cách dùng những chi tiết cụ thể, thánh sử Gioan
trình bày ở đây cho chúng ta thấy một bối cảnh qua đó, thánh sử muốn làm cho
chúng ta nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai.
Giáo huấn rút ra từ cảnh tượng
các kẻ buôn bán trong Đền thờ bị đuổi, có tính cách song đôi. Nó chứng tỏ cho
chúng ta: 1. Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai; 2. Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai đích
thân kế tiếp thực- tại tôn-giáo, được biểu thị qua Đền Thờ.
1) Chúa Giêsu là Đấng
Thiên Sai. Chúa
xử sự trong Đền thờ với một uy quyền mà chỉ có Đấng được Thiên Chúa sai đến và
người Do Thái hằng mong đợi, mới dám tự cho mình như vậy, Người xuất hiện như
trưởng tử của ngôi nhà và Người xưng hô Thiên Chúa là ‘Cha’ Người. Trước mắt
người Do thái đương thời thì đó là đặc quyền dành cho Đấng Thiên Sai. Họ quả
không lầm nên liền đó, họ xin Chúa Giêsu một dấu chỉ bảo đảm nguồn gốc Thiên
Sai của Người. Nhưng Chúa Giêsu không cho dấu chỉ mà họ đòi hỏi, vì Chúa biết
họ không thể tin được. Người ta đã vạch lá tìm sâu rất nhiều câu nói sau đây
của Chúa: “Đừng biến nhà Cha Ta thành cửa tiệm buôn bán." Dĩ nhiên khi
người ta buôn bán trong nhà thờ, người ta xúc phạm đến Ngôi Nhà của Thiên Chúa.
Thỉnh thoảng cũng cần phải lột mặt nạ sự buôn bán thật sự này nọ. Ví dụ, khi
người ta gay gắt đả kích thói tục đốt nến, thì từ khi đó, người ta có quyền
dùng toà giảng để đề cao những lợi ích có tính cách thế tục, dầu là ở lãnh vực
chính trị hay bất cứ lãnh vực nào không?
2) Hãy phá Đền thờ này,
trong 3 ngày Ta sẽ xây lại. Đó là câu trả lời của Chúa Giêsu cho người Do thái khi họ đòi
hỏi Người một dấu chỉ. Dấu chỉ đó là cái chết, và sự phục sinh của Người. Quả
thật, Chúa Giêsu đã đưa ra một câu trả lời che đậy mà chính các môn đệ cũng
không hiểu ngay. Họ sẽ hiểu sau này khi Chúa sống lại. Sau này, họ sẽ hiểu là
Đền thờ vật chất nơi tế lễ và tập hợp dân chúng, sẽ bị phá huỷ, sẽ trở thành vô
ích. Nó sẽ bị “giải nhiệm” theo ý nghĩa là, một Đền thờ khác sẽ được dựng lên
cho việc tế lế và tập hợp nhân loại. Đền thờ đó, chính là bản thân Chúa Giêsu.
Người đích thân chu toàn việc tế lễ trọn hảo của sự ngợi khen và đền tạ. Người
quy tụ nơi mình Người tất cả chúng sinh trong một sự hiệp thông chặt chẽ và phổ
quát. Chúng ta phải tìm gặp Thiên Chuá (cách đích thật) và anh em ta (cách sâu sắc)
ở đâu?
Ba ngày đây ám chỉ đến
quãng thời gian vắn vỏi giữa cuộc khổ nạn và sự Phục sinh của Chúa Giêsu. Kiểu
nói ‘Ba ngày’ này còn có cái lợi khác: nó dùng để chỉ ‘chẳng bao lâu nữa’. Ngày
nay, chúng ta quen nói: ‘Trong giăm phút nữa’ để diễn tả một thời gian ngắn nữa
thôi. Chúa Giêsu phán: ‘Trong ba ngày’ để chỉ rằng: Chúa làm chủ thời gian và
khi nào Người muốn, Thiên Chúa sẽ chi phối mọ chi tiết. Nhân dịp này, chúng ta
có thể nghĩ đến thân xác chúng ta mà thánh Phaolô gọi là ‘Đền thờ’ của Thiên Chúa.
Nó sẽ bị cái chết phá huỷ. Bao giờ nó sẽ được tái thiết, chừng nào nó sẽ phục
sinh? Chúng ta biết rằng mọi kỳ hạn nơi Thiên Chúa vắn vỏi, mặc dầu những tính
toán của con người đo lường thời gian bằng đơn vị nghìn vạn thế kỷ.
58.
Dấu lạ của việc thanh tẩy đền thờ (2,13-22)--Alain Marchabour
Cả bốn Tin Mừng đều trình
thuật về Đền thờ (Mc 11,15-17 và tương đương). Thế nhưng giữa ba Tin Mừng khác,
có nhiều điểm khác biệt quan trọng, đặc biệt nhất là vấn đề xác định thời gian:
đối với Gioan, đó là vào lúc Chúa mới bắt đầu cuộc đời công khai, đối với các
sách Tin Mừng Nhất Lãm thì lại vào cuối đời sống công khai. Hơn nữa Gioan là
tác giả duy nhất tường thuật dài về việc xua đuổi con buôn ra khỏi Đền thờ bằng
việc người Do Thái yêu cầu một dấu lạ và Chúa Giêsu trả lời về việc phá hủy Đền
thờ và xây dựng lại trong ba ngày. Chính Gioan phải chịu trách nhiệm về việc di
dịch biến cố. Ông chỉ tỏ sự đoạn tuyệt với Do Thái giáo ngay từ lúc Chúa khởi
đầu đời sống công khai của Chúa Giêsu (phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của Giáo
Hội của mình). Từ ngữ được sử dụng xác quyết điều đó: đó là lễ Vượt Qua của
người Do Thái; dung ngữ này còn lặp lại trong 6,4 và 11,55 (cũng như trong 7,2
nhân dịp lễ Lều) và làm lệch đi sự xa cách và ngay cả sự đoạn tuyệt giữa các
tín hữu tiên khởi và cộng đoàn Do Thái.
DẪN NHẬP (cc. 13-14)
Phần dẫn nhập xác định
quang cảnh và địa điểm. Chúa Giêsu lên Giêrusalem lần này là lần đầu tiên và
Người lên đây đúng vào “lúc gần đến lễ Vượt Qua của người Do Thái." Dụng
ngữ này, lặp lại ba lần trong Tin Mừng (6,4; 11,555) xác định sự chính xác về
nguồn tin của Gioan. Ba lần lễ Vượt Qua phù hợp với hai năm rưỡi đời sống công
khai của Chúa Giêsu. Đem so chiếu với những đại lễ Do Thái với những đại lễ Do
Thái này có một ý nghĩa khác nơi con người của Chúa Giêsu.
Con buôn bày bán dưới các
hành lang trên sân Dân ngoại (tiếng Hy Lạp hieron, dịch ra ở đây là “đền”) chứ
không phải bên trong Đền thờ. Ngoài ra điều đó rất khó mà tránh khỏi khi người
ta muốn cho khách hành hương, nhân dịp về Giêrusalem, có thể đổi bạc để có được
chiên bò dâng làm của lễ hiến tế. Chúa, vị ngôn sứ đầy nhiệt tâm trước những
quyền của Thiên Chúa, xem điều đó như làm ô uế Đền thờ.
HÀNH ĐỘNG NGÔN SỨ (cc.
15-16)
Việc can thiệp của Chúa
Giêsu liên kết với những hành động mà các ngôn sứ thường làm để thông truyền sứ
điệp cho có hiệu quả hơn. Nó gồm một hành động và hai lời giải thích. Hành động
ở đây dồi dào hơn ở trong bài trần thuật Nhất Lãm: lấy dây làm roi, có nhiều
chiên bò trong Đền thờ. Thời bấy giờ dọc theo Cédron hay trên núi Olivêtê có một
chợ súc vật dùng làm của lễ dâng cúng, do nhóm Sanhédrin tổ chức. Trước cảnh
tục hóa như thế, Chúa Giêsu chống đối theo đường hướng của các ngôn sứ như
Giêrêmia (7,14), Malakhi (3,1) hoặc Israel (65,7) đã làm trước Người. Người
chứng tỏ việc tẩy uế Đền thờ được tiên liệu vào thời cánh chung hiện đang tiến
hành.
Lời Người nói có hai
phần: Trước hết Người yêu cầu chính đáng một tập tục bất xứng với Thiên Chúa.
Lời này không hẳn là một trích dẫn Kinh Thánh, dù rằng điều đó được nói đến
trong Zacaria 14,21: “Vả trong ngày đó sẽ không còn kẻ buôn bán nơi Đền thờ
Chúa quân lực nữa." Ở đây Chúa Giêsu hành xử như Người bênh vực quyền lợi
của Thiên Chúa. Người vén lên bức màn về mối liên hệ duy nhất giữa Người với
Chúa Cha. Sau đó, Chúa Giêsu đáp ứng yêu cầu dấu lạ bằng một lời huyền nhiệm về
Đền thờ. (không phải hieron nữa, mà là naos, nghĩa là chính cung thánh).
Việc so chiếu với các
sách Tin Mừng Nhất Lãm về vấn đề này sẽ làm cho dễ hiểu hơn. Ở trong Nhất Lãm
có một câu gần gũi với câu trên nhưng với những điều khác biệt quan trọng:
trong Nhất Lãm, lời tuyên bố về việc phá hủy Đền thờ được những kẻ làm chứng
gian hiểm độc nói lại; còn trong Gioan, lời này được đặt vào trong môi miệng
Chúa Giêsu. Trong Tin Mừng Maccô, việc phá hủy Đền thờ được quy cho Chúa Giêsu:
“Tôi sẽ phá” (14,58); trong Tin Mừng Gioan, lời nói đó đối đáp với những người
đối thoại: “Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi." Ngoài ra Gioan cố ý dùng
cụm từ “Tôi sẽ xây dựng lại Đền thờ này” để chỉ công việc xây dựng cũng như để
chỉ sự sống lại.
GIẢI THÍCH (cc 17-22)
Như vậy không dễ gì hiểu
được nền tảng lịch sử rõ ràng về bài trần thuật này. Ta có thể nghĩ đến một
hành động tượng trưng chống lại các lạm dụng trong Đền thờ. Sự hiện diện của
các người đổi bạc là cần thiết để khách hành hương có thể đổi những đồng bạc
mang dấu ấn triều đình để lấy đồng tiền trong sạch. Cũng vậy việc buôn bán gia
súc dùng làm của lễ dâng cúng là một nhu cầu. Trừ khi nghĩ đến sự phản kháng
triệt để về việc thờ phượng do Chúa Giêsu… còn thì toàn thể Tin Mừng không đi
theo chiều hướng đó. Chỉ cần lưu ý đến sự băng hoại nổi tiếng của gia đình
Anna, thượng tế tiền nhiệm của Caipha. Bù lại, một sự công kích triệt để như
thế về của lễ dâng cúng đã được cộng đoàn của Gioan nhấn mạnh, sau khi Đền thờ
bị phá hủy, đánh dấu sự kết thúc việc hiến tế.
Tác giả thận trọng về các
vấn đề trên: ông để tâm đến việc khác. Ông chứng tỏ điều đó bằng cách đưa vào
trong bài trần thuật của mình nhiều chú thích. Chúng ta hãy ghi lại:
a. Sự liên quan mật thiết
với phép lạ ở Cana. Quả vậy cả hai cảnh tượng có nhiều điểm tương đồng. Cả hai đều
kể đến một sự chuyển tiếp: những chum đá rỗng không, đền thờ trống vắng. Mối
liên hệ với lễ Vượt Qua được chú ý trong bài trần thuật thứ nhất: “ngày thứ ba,
vinh quang”, và trong bài thứ hai: “vào dịp lễ Vượt Qua”, “nội trong ba ngày
tôi sẽ xây dựng lại” (2,19), “khi Người từ cõi chết chỗi dậy”(2,22).
b. Các lời chú giải của
thánh sử. Tác giả trong khi đưa vào trong bài trần thuật những suy tư của
riêng mình hướng dẫn chúng ta xem xét: “Các môn đệ của Người nhớ lại…” (2,17).
Thánh vịnh 69,9-10 soi dẫn cộng đoàn tiên khởi của Gioan, có đoạn sau:
“Anh em nhà kể con như
người dưng nước lã
Hàng máu mủ xem con bằng
khách lạ mà thôi.
Vì nhiệt tâm lo việc nhà
Chúa, mà con phải thiệt thân.
Lời kẻ thoá mạ Ngài, này
chính con hứng chịu."
Vậy nên, Gioan hiểu được
sự cô đơn của Chúa Giêsu đối với anh em của Người (và rộng hơn đối với dân tộc
của Người) cũng như hiểu được số phận bị thảm của Người: nhiệt tâm lo việc nhà
Chúa của Chúa Giêsu đưa Người đi đến cái chết. Thế nhưng suy tư tiếp theo của
thánh sử tiến dẫn nguyên nhân của sự phục sinh."Các môn đệ nhớ lại…và
tin."
Trong bài trần thuật này,
Đền thờ mới, Chúa Kitô, chiếm vị trí của Đền thờ cũ (biến mất vào thời biên
soạn Tin Mừng), ta sẽ không khỏi khâm phục tác giả đã khéo léo liên kết Kinh
Thánh, các sự kiện liên quan đến Chúa Giêsu và sự suy niệm Phục Sinh.
CHUYỂN TIẾP (2,23-25)
Cảnh tiếp theo tạo nên
một sự chuyển tiếp khéo léo giữa hai cảnh Cana và cảnh tẩy uế Đền thờ và cuộc
đối thoại với ông Nicôđêmô. Ta có thể nhận thấy ở đó một kết luận đã tỉnh ngộ
với sự cương quyết dứt khoát với Do Thái giáo được thể hiện trong bài trần
thuật về Cana và hành động ngôn sứ từ việc xua đuổi những người mua bán trong
Đến thờ. Đồng thời sự cảm nghiệm thất bại này chuẩn bị cuộc gặp gỡ với một nhân
vật tiêu biểu của Do Thái giáo: ông Nicôđêmô, dù có thiện chí phấn đấu, vẫn
được xem như không thể tiếp bước theo Chúa Giêsu với những đòi buộc của Người.
Sự nghi ngờ này xảy ra ở giữa sự từ khước có hệ thống cho nhóm Do Thái chính
cống và đức tin của các môn đệ. Gioan không xác định bản chất các dấu lạ Chúa
Giêsu đã làm tại Giêrusalem (xem thêm 4,45)
59.
Giữ trong sạch nhà Cha--Noel Quesson
“Đừng biến nhà Cha Tôi,
thành nơi chợ búa”
Trong tác phẩm “Chim hót
trong bụi gai” tác giả kể chuyện một linh mục, cha Rap (Ralph). Cha Rap là một
linh mục trẻ, có khả năng nhưng lại đầy tham vọng. Cha mong muốn thành công,
muốn nổi danh và cũng ham tiền. Một giáo dân đã nhận ra chân tướng của vị linh
mục. Bà phú hộ thương thầm cha nhưng không được đáp lại. Bà liền trả thù bằng
cách hiến toàn bộ tài sản của bà cho Giáo Hội, với điều kiện phải cử cha Rap
làm quản lý tài sản đó. Cách trả thù của bà phú hộ đã thành công.
Câu chuyện cốt phê bình
chỉ trích Giáo Hội, nhưng cũng nói lên một thực tại, Giáo Hội của Đức Kitô bản
chất tinh tuyền, nhưng lại gồm những con người bằng xương bằng thịt và có thể
bị ảnh hưởng xấu do tiền của. Là con người, thì ai cũng phải cẩn thận lắm, khi
sử dụng tiền của. Tiền của cần thiết cho mọi người, cho mọi tổ chức và cho cả
Giáo Hội. Nhưng nó dễ chiếm địa vị độc tôn, khi ấy nó trở thành chủ nhân như
Chúa cảnh giác ta về tình trạng đó: “Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa
vừa làm tôi tiền của” (Mt 6,24).
Tục ngữ có nói, đồng tiền
liền khúc ruột. Còn Chúa Giêsu bảo ta: “Kho tàng con nơi đâu thì lòng dạ con ở
đó” (Mt 6,21). Cũng như khi ta đặt một đồng tiền trước mắt, thì nó che chắn hết
mọi cảnh vật, và trong thực tế nó có thể che chắn cả việc đạo đức, cả mọi ý
hướng tốt lành.
Và nhiều khi có tiền bạc
xen vào các việc thờ tự thì người ta dễ hiểu lầm. Phụng vụ xưa cũng như nay,
cần có những lễ vật. Lễ vật trong phụng vụ xưa là chiên bò, chim câu cũng như
bây giờ có hương hoa, đèn nến. Những thứ đó là tùy phụ, giúp con người biểu lộ
tâm tình thờ phượng. Nhưng một khi những thứ tùy phụ đó lại trở thành chính cốt
thì con người quên cả tâm tình bên trong. Và Chúa Giêsu đã phải tuyên bố: “Đừng
biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). Chúa không ưa kiểu tính toán của
dân buôn, không thích nghe tiếng sột soạt, leng keng của tiền bạc bên cạnh bàn
thờ.
Chúa Giêsu nói tới Nhà
Cha với một cảm tình quen thuộc, thân thương. Chúng ta tới với Chúa như người
con về nhà Cha mình. Đó là cốt lõi của phụng tự, của nghi lễ của cầu nguyện,
của cuộc đời Kitô hữu. Vậy điều cần thiết là phải lo sao cho tinh thần mình
xứng hợp với ý Chúa, lo cho cuộc sống Kitô hữu của mình được trong sạch, hơn
mọi mối lo khác, hơn mọi dáng vẻ vật chất, và đẹp đẽ trong phụng vụ, trong tổ
chức, trong việc tô điểm Giáo đường, và mọi sinh hoạt tôn giáo khác.
Giá trị chính yếu của con
người, và việc giúp con người phụng sự Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng
con biết dâng hiến chính bản thân mình chúng con làm lễ tế sống thánh thiện để
tôn thờ Chúa!
60.
Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Noel Quesson
Gần đến Lễ Vượt qua của
người Do Thái, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem.
Đức Giêsu là một người Do
Thái nhiệt thành sống đạo. Trong Tin Mừng của mình, thánh Gioan đã bảy lần ghi
lại Đức Giêsu tham dự những buổi lễ trọng phải hành hương (Ga 5,1; 6,4; 7,2;
10,22; 11,55; 12,1; 13,1), đặc biệt là Lễ Vượt qua vào Mùa Xuân và Lễ Lều trại
vào Mùa Thu. Trước hết tôi chiêm ngưỡng Đức Giêsu, với tư thế là một người trần
hòa lẫn trong đám đông, đang cầu nguyện ca hát trên bước đường hành hương, rồi
trên sân trước của Đền thờ. Cho dù trên thực tế, Đức Giêsu đã sửa đổi rất kỹ
những nghi thức phụng tự Do Thái, nhưng về mặt giáo lý Người không chủ trương
bài xích. Cuốn phim “Lễ vật toàn thiêu” nhắc lại cho ta thấy sự đau khổ của dân
tộc này mà Đức Giêsu là thành phần; một dân tộc luôn mang một định mệnh đặc
biệt cách nhiệm mầu. Trang Tin Mừng trên đây của thánh Gioan bắt đầu bằng
"Lễ Vượt Qua của người Do Thái" (câu 13), và kết thúc với "Lễ
Vượt Qua của Đức Giêsu (câu 2) nhằm nhắc lại những môn đệ đầu tiên của Đức
Giêsu đều là người Do Thái, là những kẻ “tin vào danh Người trong dịp lễ Vượt
Qua" (câu 23). Từ ‘lễ Vượt qua của người Do Thái’ đến ‘Lễ Vượt qua Kitô
giáo’, luôn thể hiện cùng một mầu nhiệm khôn dò: Mầu nhiệm phá hủy một đền thờ,
rồi nhờ đó lại mọc lên một đền thờ khác.
Người thấy trong Đền thờ
có những kẻ bán chiên bò, bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền. Người bèn
lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ,
còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra và lật nhào bàn ghế của họ.
Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi
đây."
Tranh ảnh Kitô giáo đã
không bỏ sót diễn tả những cảnh này với màu sắc và hành động thật là phong phú.
Đức Giêsu đang nổi giận, cầm roi trong tay, xua đuổi "phường buôn bán ra
khỏi Đền thờ." Chúng ta cần phải vượt qua giới hạn của "biến cố"
trên, để tìm hiểu ý nghĩa thần học sâu xa của pha cảnh. Trong câu này, ta nhận
thấy, hình như Đức Giêsu đối xử với những kẻ bán bồ câu với thái độ khác
thường, tử tế hơn so với những kẻ khác: Vì bồ câu thuộc "lễ vật của người
nghèo", lễ vật của những người như Đức Maria xưa kia, đã không đủ tiền để
mua những con vật lớn. Ở đây, Đức Giêsu chứng tỏ thái độ ưu ái đối với những
người nghèo mà Người không ngừng biểu lộ.
Đừng biến nhà Cha Tôi
thành nơi chợ búa.
Những con buôn và phường
đổi tiền không nhất thiết là những người xấu. Thực ra, họ đã phục vụ đáng kể
đối với các tín hữu từ xa đến, đang cần sắm sửa tại chỗ những lễ vật cần thiết
để tiến dâng: Như trướng hợp Maria và Giuse, đến đền thờ trong ngày hiến dâng
con mình, hẳn là rất hài lòng gặp được những người buôn bán như thế, để mua
sắrn một cặp bồ câu non (Lc 2,24). Vì thế, chúng ta dễ sai lầm nếu chúng ta chỉ
đọc trang Tin Mừng trên cách hời hợt, nhất là chúng ta chỉ áp dụng trang sách
đó cho kẻ khác. Chúng ta rất dễ nổi giận, dễ dùng lời nói mà không sợ bị liên
lụy để chống lại tiền bạc, sự mua bán trái phép, những "ồn ào của bạc
tiền" chung quanh bàn thờ, xã hội tiêu thụ, đề cao lợi nhuận trong các nền
kinh tế phương Tây. Đức Giêsu quả đã là một người nghèo thực sự. Người đã nổi
giận trước vị trí quá lớn của tiền bạc đang ngự trị trong Đền thờ. Chắc chắn là
thế! Như vậy, chính chúng ta cũng phải hoán cải về vấn đề này. Lạy Chúa, xin
cứu chữa chúng con khỏi lòng dính bén với tiền bạc.
Nhưng điểm cốt yếu của
trang Tin Mừng hôm nay không nằm ở đó.
Chúng ta hãy lắng nghe kỹ
kiểu nói lạ thường mà Đức Giêsu sử dụng để nói về đền thờ: "Nhà của Cha
Tôi." Chúng ta quá chán với kiểu nói đó. Tuy nhiên chúng làm cho ta càng
phải tìm hiểu sâu xa hơn căn tính của "con người" này, Giêsu thành
Nagiarét? Trong con người đó đang ẩn chứa một bí nhiệm to lớn biết bao! Giữa
Người và Thiên Chúa, có một mối tình yêu thương mật thiết biết bao! Người đang
hiện diện nơi nhà mình, trong đền thánh của Giavê. Nơi thánh này, chính diện
bất khả xâm phạm này, không ai được phép vào trừ vị Thượng tế, mỗi năm một lần
(Dt 9,7). Đó là nơi "chí thánh", nó "tách biệt" với tất cả
"không ai được đụng chạm" đến, không ai bước vào mà không phải chết.
Thế mà nói một cách hết sức tự nhiên, đó là "nhà của Cha Người", là
nhà của Người, vì Người là con. Vào lúc 12 tuổi, Người cũng nói như thế, nhưng
không ai hiểu cả, ngay cả mẹ Người là Đức Maria: Cha mẹ không biết là con có
bổn phận ở nhà của Cha con sao?" (Lc 2,49).
Vâng! yếu tố trước nhất
trong việc phụng tự mà ta thể hiện với Thiên Chúa, không phải là việc làm bề
ngoài (như bò, chiên, bồ câu) mà là tấm lòng con thảo ta đặt vào đó. Lạy Chúa,
xin giải thoát chúng con khỏi mối bận tâm quá đề cao những nghi lễ, những hình
thức bên ngoài.
Các môn đệ của Người nhớ
lại lời đã chép trong Kinh thánh: "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi
đây đã phải thiệt vào thân" (Tv 69,10).
Đối với Đức Giêsu
"tình yêu Chúa Cha" luôn thiêu đốt Người, nói cách văn vẻ, như ngọn
lửa ngốn trọn những nhánh củi khô. Lễ vật dâng lên Chúa Cha của Đức Giêsu không
theo "nghi thức", nghĩa là những gì ở bên ngoài Người. Người sẽ dâng
hiến chính bản thân mình làm lễ vật và trọn cuộc sống Người luôn là một của lễ
như thế. Còn đối với tôi, việc phụng tự ra sao? Nó mang hình thức nào? Tôi ‘dự
lễ’ hay tôi ‘chung phần’ vào thánh lễ? Cùng với Đức Giêsu, tôi có được Thiên
Chúa khơi lửa nhiệt tình, nung đốt tình yêu và làm cho say đắm không? Ôi! lạy
Cha, con cũng muốn rằng, từ giờ trở đi, nhà của Cha sẽ làm cho con phải thiệt
vào thân vì yêu mến, Nếu Đức Giêsu đã phản ứng mạnh mẽ như thế, chính là vì
danh dự và vinh quang của Cha Người đã bị xúc phạm trong việc "buôn bán
trái phép" đó. Đức Giêsu quả là một con người say mê Thiên Chúa, sống cho
quyền lợi của Thiên Chúa.
Các ông cứ phá hủy đền
thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại. Người Do Thái nói: Đền thờ này
phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây dựng
lại được sao?”
Ở đây bản văn Hy Lạp
không dùng từ "đền thờ" (iéron) mà là từ "thánh điện"
(naos). Và đó không phải là điều ngẫu nhiên, bởi vì trước đó, cùng trong cùng
bản văn, Gioan đã sử dụng chính xác từ "đền thờ." Người thấy trong
đền (iéron) có những kẻ buôn bán; và Người xua đuổi họ ra khỏi đền thờ (iéron).
Theo nghĩa này, đền thờ là toàn bộ những công trình kiến trúc, kể cả đường dạo
chơi, công trường, các sân phía trước. Nhưng giờ đây Đức Giêsu đi xa hơn nhiều,
khi Người nói: "Các ông cứ phá hủy thánh điện (naos) này đi”, tai hại biết
bao, nếu những người dịch không tôn trọng bản văn! Thánh điện chỉ là phần kiến
trúc hoàn toàn bé nhỏ, những quý giá nhất của toàn bộ đền thờ; là trung tâm
điểm, nơi Thiên Chúa hiện diện (shékinah). Chúng ta đừng quên rằng, Đức Giêsu
sẽ bị kết án tử hình do lời tố cáo sai lầm vì Người đã tuyên bố: “Tôi sẽ phá
thánh điện này và sẽ xây cất lại" (Mt 26,6). Thực sự đó là một lời phạm
thượng. Thánh điện này vẫn hoàn toàn mới mẻ, được Hêrôdê cho phép khởi công xây
cất 50 năm trước đó. Đó là niềm tự hào của quốc gia, là nơi tôn kính để cầu
nguyện và hành hương, mà mỗi năm hàng triệu người tới viếng thăm. Đó cũng là nơi
phụng tự duy nhất" của Israel. Quả thực, con người này bạo gan mới dám nói
như thế! Phát triển như thế, cũng như người nào đó tuyên bố: "Cứ phá Đền
thờ thánh Phêrô ở Rôma đi hay cứ phá đền thánh Lộ Đức, nhà thờ Đức bà ở Paris
hay vương cung thánh đường ở Angers...." Thế mà, Đức Giêsu nói năng tự
nhiên, không có vẻ gì của một kẻ khiêu khích cả.
Nhưng đền thờ (naos) Đức
Giêsu muốn nói ở đây là chính mình Người.
Đền thờ ở đây, bản văn Hy
Lạp dùng từ "thánh điện" (naos). Hiển nhiên, ta đang ở vào trung tâm
của trang Tin Mừng trên. Ta thử tìm hiểu thêm, Đức Giêsu đã ý thức về mình thế
nào. Người biết Người là ai. Người nói: Người là một thánh điện. Đức Giêsu tự
tạo cho mình thành "nơi Thiên Chúa hiện diện." Chính thân xác Người
là "đền thờ mới", là nơi "phụng tự mới." Gioan Tẩy giả đã
chỉ Người như Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian (Ga 1,29). Phải, Đức
Giêsu đã phịu sát tế trên ngọn đồi ngoài cửa thành, hy sinh vào đúng giờ mà
trong Đền thờ người ta đang sát tế nhiều chiên Vượt Qua, ngày áp lễ "Vượt
Qua trọng đại" (Ga 19,31). Bằng chính thân xác mình chịu hy sinh, Đức
Giêsu đến thay thế cho mọi lễ vật và làm cho Đền thờ Giêrusalem trở nên vô tích
sự và màn trong Đền lúc đó có thể bị xé bỏ (Mt 27,51). Từ thân xác đó sẽ tuôn
ra "con sông với dòng nước mạnh" (Ga 19,84): Nước và máu đã được ngôn
sứ Edêkien báo trước, sẽ từ thánh điện chảy ra (Ed 41,l-12).
Vậy khi người từ cõi chết
trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó.
Do đó, Lễ Vượt qua của
Đức Giêsu và của các Kitô hữu đã kết thúc "Lễ Vượt qua của người Do
Thái", như đã đề cập đến đầu trang Tin Mừng trên. Đây là cuộc giải phóng
phi thường và triệt để, mà cuộc giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập chỉ là sự báo
trước và là hình ảnh tiêu biểu. Đây là Đền thờ mới, làm vô hiệu mọi nơi thờ tự
khác. Như vậy, nơi Thiên Chúa hiện diện không còn là một lâu đài nữa, mà là một
Đấng nào đó: Đó là Thân mình Đức Kitô. Tất cả phụng vụ Kitô giáo chỉ được thể
hiện chung quanh thân thể này. Nhưng chúng ta cần hiểu thêm, mầu nhiệm này còn
đi xa biết bao? Sau này, thánh Phaolô sẽ nói với các Kitô hữu, các kẻ bốc dỡ
hàng tại cảng Côrintô: “Anh ern là Thân mình Đức Kitô” (1Cr 12,27). Đó là cơ sở
để xây dựng phẩm giá cao cả của con người: "Nào anh em chẳng biết rằng anh
em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?
(1Cr 3,16-l7).
Như thế, không phải chỉ
có "thân xác Phục sinh" của Đức Giêsu mới là Đền thờ mới, mà cả
"thân xác của mỗi người đã chịu phép rửa": "Anh em không biết
rằng thân xác của anh em là Đền thờ của Thánh Thần, và Thánh Thần đang ngự
trong anh em sao?" (1Cr 6,19-20). Thánh Âu Tinh cũng nói với các tín hữu
của mình: "Khi linh mục nói với anh em "Mình Thánh Chúa Kitô",
anh em đáp lại: “Amen" với niềm xác tín anh em đang "hiện diện trong
Đức Kitô." Có một bản thánh ca ngợi khen mầu nhiệm này như sau: "Chớ
gì chúng con trở nên mình thánh biết sung sướng tạ ơn; chớ gì chúng con trở nên
mình thánh, giữ gìn Giao ước của Chúa...."
Chúng ta tuôn có huynh
hướng "ấn định chỗ ở cho Thiên Chúa", xây dựng cho Người những
"nhà tù sơn son thiếp vàng", những "thánh điện" để cô lập
Người, gạt Người ra khỏi thế giới, khỏi cuộc sống của ta. Nhưng không có nhà
thờ nào, vương cung thánh đường hay đền thánh nào có thể giam giữ Thân mình Đức
Kitô được? Anh em là Thân mình Đức Kitô! Tôi là Thân mình Đức Kitô! Khi nhận
mình thánh Đức Giêsu, tôi "trở nên" Thân mình của Người, trở nên
thánh điện.
Trong lúc Đức Giêsu ở
Giêrusalem vào dịp Lễ Vượt qua, có nhiều kẻ tin vào danh Người.
61.
Tẩy uế đền thờ--Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Lễ vượt qua của
người Do thái gần đến." Thời gian xảy ra dấu chỉ đây tự nhiên làm ta nghĩ tới lễ
Vượt qua trong đó Chúa Giêsu sẽ bị lên án tử hình; tương quan giữa việc tẩy uế
Đền thờ và cuộc Tử nạn của Chúa Kitô như thế là đã được ám chỉ. Mc 11,18 và Lc
19,47 ghi chú rằng việc can thiệp này của Chúa Giêsu nhằm lên án giới lãnh đạo
Do Thái giáo, sẽ thúc đẩy các tư tế và ký lục "tìm cách hại Người."
"Người gặp thấy
trong Đền thờ": Đền thờ gợi lên tất cả hệ thống phụng tự cổ xưa vốn tập
trung hoàn toàn tại đó. Cũng tại đó, các lái buôn bán súc vật để làm lễ hy tế
riêng và những người đổi tiền đổi cho bạn tiền Do thái (tiền cũ của vùng Tyrô)
là thứ tiền duy nhất được chấp nhận để trả thuế Đền thờ.
"Một cái chợ": thành ngữ này cảm hứng
từ Dcr 14,21, trong khi Tin mừng Nhất Lãm, vì muốn đối chọi hoàn cảnh hiện tại
(‘một hang trộm cướp’) với lý tưởng Thiên Chúa muốn (‘một nhà cầu nguyện’), nên
dã trích dẫn Gr 7,11 và Is 56,7.
"Môn đồ nhớ
lại": Các
môn đồ chỉ hiểu được câu chuyện này sau khi Chúa Giêsu sống lại, lúc Thần khí đã
cho họ ơn thông hiểu các dấu chỉ Thầy đã làm.
"Lòng nhiệt thành
đối với nhà Chúa sẽ nghiến cả mình tôi”: Thánh vịnh 69 trình bày người Công chính trị thiêu đốt bởi
lòng nhiệt thành đối với sự thánh thiện của nhà Thiên Chúa, nhưng lòng nhiệt
thành này khiến ông phải bị bách hại. Ga 15,25 và 19,29 cũng sẽ còn trích dẫn
thánh vịnh 69, luôn luôn trong tương quan với cuộc Khổ nạn chia Chúa Kitô.
Thành thử ý nghĩa của câu trích dẫn này trong văn mạch hiện tại là như sau:
cũng như người Công chính đau khổ đã phải trả giá cho lòng nhiệt thành đối với
Đền thờ thì Chúa Kitô, khi tẩy uế Đền thờ cũng gây nên đau khổ và cái chết cho
bản thân.
Chúa Giêsu thanh tẩy Đền
thờ và phụng tự cũ hầu xây dựng một Đền thờ mới cùng thiết lập một phụng tự mới
(cc. 19-20); việc đi từ cũ sang mới này sẽ được thực hiện nhờ cái chết của
Người.
"Người Do thái": Trong thực tế, đây là
các chức sắc trong Đền thờ (tư tế, Lêvi và vệ binh) có trách nhiệm về những
chuyện Chúa Giêsu kết án. Tuy nhiên, như hết mọi nơi trong Tin Mừng của ông,
Gioan không phân biệt giới lãnh đạo với toàn thể dân Do thái đã từ chối tin vào
Chúa Kitô. Thành thử đây là vấn đề hệ thống phụng tự của toàn dân Do thái.
"Dấu nào ông tỏ ra
được cho chúng tôi?": Qua câu này, người Do thái muốn nói tới một hành động phi
thường vốn sẽ biểu lộ dấu ấn Thiên Chúa trên sứ mệnh Chúa Giêsu. Mt 12,38;
16,1; Mc 8,11 và Lc 11,16 cũng ghi lại một lời yêu cầu tương tự của Biệt phái.
Dcr 1,22 bảo người Do thái hay đòi hỏi như vậy.
"Hãy phá hủy Đền thờ
này đi": Vì
không tin, người Do thái sẽ trở thành dụng cụ gây nên dấu chỉ họ đòi hỏi. Về
sau câu nói này của Chúa Giêsu sẽ bị nhắc lại bởi các chứng nhân trong vụ án xử
Người (Mt 26,61; Mc 14,58) và bởi khách bộ hành lăng nhục Người dưới chân thập
giá (Mt 27,40; Mc 15,29) Dấu chỉ Chúa Giêsu loan báo đây tương ứng với câu
Người trả lời cho Biệt phái trong Mt 12,29t và 16,4: "Con Người, Người đã
nói về Đền thờ thân thể Người'': Đền thờ mới thay thế Đền thờ cũ đã bị tục hóa
chính là thân thể phục sinh của Chúa Kitô. Tín hữu thành Ephêsô, độc giả trực
tiếp của Gioan, rất quen thuộc với một sự đồng hóa như vậy vì Dcr 3,16 và 12,27
(được viết tại Ephêsô) cũng như Ep 2,21 và 4,12 đều nói Kitô hữu vừa là Đền thờ
của Thiên Chúa, vừa là thân thể Chúa Kitô, với lối giải thích này của Phaolô,
Đền thờ mới chính là Giáo hội, Thân thể vinh hiển của Chúa Kitô phục sinh mà
mọi tín hữu đều kết hợp vào.
"Vậy khi Người phục
sinh từ cõi chết, môn đồ người nhớ lại... họ đã tin": Maccô thường ghi nhận
là các môn đồ không hiểu gì hết. Gioan thì nói cách tích cực là họ hiểu rõ sau
ngày Chúa Kitô phục sinh (12,16). Bởi vì chỉ sau khi Chúa Giêsu được tôn vinh,
họ mới nhận lãnh Thần khí (7,39), Đấng sẽ soi sáng cho họ hiểu các dấu chỉ Chúa
Giêsu đã làm (14,26; 15,26tt). Thành thử ở đây đức tin của các môn đồ được liên
kết với sự Phục Sinh không như với một bằng chứng về sự xác thực của những gì
Chúa Giêsu đã bảo, song như với nguyên nhân ban ơn Thần khí, Đấng duy nhất giúp
cho họ hiểu.
"Họ đã tin vào Kinh
thánh": Ta
không rõ Gioan muốn ám chỉ đoạn nào trong Cựu Ước. Có thể so sánh với Cv 2,24t;
13,34tt, nơi có những bản văn thường được Giáo hội sơ khai trích dẫn đối chiếu
với sự Phục sinh của Chúa Giêsu (đặc biệt là Tv 16,10). Xin lưu ý là Kinh Thánh
(lời Thiên Chúa) và Lời Chúa Giêsu đều được đặt trên cùng bình diện (so sánh Ga
18,9. 32) và đều là đối tượng niềm tin của các môn đồ.
Các câu 23-25 là những
câu chuyển mạch nhằm chuẩn bị cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với Nicôđêmô;
chúng giải thích việc Nicôđêmô đến (3,2), niềm tin bất toàn của ông và những
lời Chúa Giêsu khiển trách ông (3,11t). Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với
Nicôđêmô như thế được đặt trong một khung cảnh cụ thể. Thói quen của Gioan là
vậy: để ra một vài câu để đặt các trình thuật biểu tượng và thần học của ông
trong một khung cảnh lịch sử: so sánh 4,43-45; 7,1-13; 10,19-21. 40-42;
11,55-57; 12,17-19. 41-43.
"Lắm kẻ tin vào Danh
Người": Nhiều
kẻ tin rằng Chúa Giêsu đến từ Thiên Chúa (3,2), nhưng không tin vào tất cả mầu
nhiệm con người của Người. Niềm tin của họ chỉ dựa trên phép lạ mà thôi: nó
không phải là vô giá trị, nhưng bất toàn (4,48; 20,29).
KẾT LUẬN
Sau bức màn bị xé toang
của Đền thờ và qua thân thể bầm dập tắt thở của Chúa Giêsu Thiên Chúa đã xuất
hiện trong một thân xác người đích thực, phủ đầy vinh quang thần linh. Giấc mơ
của Cựu ước Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, giờ đây được thực hiện trong Chúa Giêsu
Phục Sinh mãi mãi.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Vì yêu Chúa Cha, Chúa
Giêsu đã chắp dây thừng làm roi đánh đuổi quân buôn bán ra khỏi Đền thờ, nơi mà
20 năm về trước, Người đã vào như vào nhà thân phụ khi làm cử chỉ đầu tiên của
một người Israel khôn lớn. Người đã dùng võ lực bênh vực quyền lợi của Cha, vì
bị nung nấu bởi lòng nhiệt thành đối với nhà Cha, vì muốn nhà Cha được sử dụng
cách xứng đáng, vì bị thúc đẩy bởi một cơn thịnh nộ. Thành thử, dù là Đấng
"hiền lành và lòng đầy khiêm nhượng", bạn bè của các trẻ nhỏ và tội
nhân, Chúa Giêsu cũng là người biết nổi giận và phẫn uất. Người chẳng phải là
một thượng thánh im lìm song là một con người bằng xương bằng thịt, biết phản
ứng và tỏ ra kinh khủng khi phải bênh vực vinh quang Cha Người.
2) Chúa Giêsu cũng muốn
dùng phương pháp trên để giải phóng tâm hồn nhân loại, biến nó thành Đền thờ
đích thực của Thiên Chúa hằng sống. Người biết rõ mọi cái có nơi con người ta
hơn cả những nhà tâm phân học; biết những uẩn khúc của ý thức, tiềm thức, vô
thức của chúng ta, biết các con vật đang thu mình và gầm gừ trong đó. Người hết
sức muốn giải phóng ra khỏi cảnh nô lệ này, khỏi sự tục hóa này cái con người
đã được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, cái con người đã được mời gọi sống
sự sống thần linh."Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài
hầu những ai tin vào Người sẽ được sống vĩnh cửu” (Ga 3,16).
3) Trong dịp lễ Vượt qua
đầu tiên của đời sống công khai này, Chúa Giêsu tỏ mình như một nhà giải phóng
khác với Môsê: Người thiết lập một ngày sabbat mới và một lễ Vượt Qua mới. Vì
danh Cha, Người muốn có một phụng tự khác trong Thần Khí và sự thật, trong tình
yêu và tự do, một phụng tự tôn thờ đích thực trong đó giới răn thứ nhất được
thi hành một cách tuyệt hảo: "Ngươi hãy thờ lạy một mình Thiên Chúa và mến
yêu Ngài trên hết mọi sự."
4) "Hãy phá hủy Đền
thờ này đi, và nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại." Nghĩa là thân xác
Chúa Giêsu sẽ bị đánh dập nhừ tử, sẽ bị giết chết nhưng rồi sẽ phục sinh. Trong
thực tế, vào ngày thứ sáu Tuần thánh, hai nhân chứng sẽ đến lặp lại những lời
này: Tên này đã nói: Ta có thể triệt hạ Đền thờ Thiên Chúa và trong ba ngày sẽ
xây cất lại (Mt 26,61). Tại đồi Canvê, dân chúng sẽ lắc đầu nhạo báng Người mà
rằng: "Mày định triệt hạ Đền thờ và trong ba ngày sẽ xây lại, hãy tự cứu
mình đi" (Mt 27,41). Nhưng rồi cuộc Phục sinh đã khôi phục cái Đền thờ,
trong đó, Chúa Giêsu đã dâng hy tế hoàn hảo, đã dâng của lễ giải phóng nhân
loại. Trên thập giá, Người đã vừa dâng lễ vừa tự hiến, là tư tế và hy lễ cùng
một lúc; thành thử đối với chúng ta, Đền thờ mến yêu và thờ lạy chính là thân
thể Chúa Kitô, trái tim Chúa Kitô. Trong thân thể của Người, chúng ta có thể
kết hợp với Chúa Kitô tư tế và hy lễ. Trong thân thể phục sinh của Người là tạo
vật được giải phóng tuyệt hảo nhất, thuần tính (nguồn tự do toàn vẹn) đã chiến
thắng trong thân thể phục sinh của người, Giao ước mới đã được ký kết và củng
cố mãi mãi.
5) Người Kitô hữu là Đền
thờ Thiên Chúa. Phạm tội là biến Đền thờ Thiên Chúa là hang trộm cắp, và như
thế xua đuổi Thiên Chúa ra khỏi lòng mình. Mùa chay là lúc trùng tu, kiến thiết
đền thờ tâm hồn chúng ta để xứng đáng làm nơi Thiên Chúa ngự trị.
62.
Đức Giêsu xua đuổi người buôn bán ra khỏi đền thờ--Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Từ đền thờ bằng đá,
nơi Đức Giêsu đuổi quân buôn bán.
Nếu Tin mừng của hai Chúa
nhật trước trích từ Maccô, thì Tin Mừng của ba Chúa nhật cuối cùng Mùa Chay này
trích từ Gioan.
Các thánh sử khác đã đặt
câu chuyện này vào cuối thời gian rao giảng của Chúa (Mt 21,12-17; Mc 11,15-17;
Lc 19,45-46). Còn Gioan chủ ý đặt biến cố này vào đầu đời công khai của Chúa.
Để như vậy, nêu rõ sự đoạn tuyệt với đạo Do Thái chính thống, lúc đó đang là
hoàn cảnh lịch sử của Giáo Hội, đồng thời khôn khéo nối kết Kinh Thánh, các sự
kiện và cử chỉ của Đức Giêsu bằng cái nhìn sau Phục Sinh.
Câu chuyện này xảy ra
trong hoàn cảnh Đức Giêsu lên Giêrusalem "bởi vì lễ Vượt Qua đã đến gần
Gioan nhắc lại công thức này 4 lần trong Tin Mừng (Ga 6,4; 11,55) để chuẩn bị
cho độc giả thấy lễ Phục Sinh của Kitô giáo trùng hợp với lễ Vượt Qua của
Israel (X. Léon-dufour, "Lecture de L'evangile selon Jean" cuốn 1,
Seuil, trang 253).
Đức Giêsu thấy
"trong đền thờ có những kẻ bán chim, bò, bồ câu và những người đang ngồi
đổi tiền”? Danh từ "Đền thờ” nhắc đến ở đây không phải khu vực thánh của
ngôi đền, cung thánh, nơi Thiên Chúa hiện diện giữa dân Người. Những người đổi
tiền ở đó, là cần thiết, bởi vì đồng tiền chính thức mang hình và ký hiệu hoàng
đế Rôma không được dùng trong phụng tự, và buộc phải đổi sang một đồng tiền
không dơ. Còn bọn bán chiên, bò, chim bồ câu ở đó để bán những vật cần cho việc
hy tế.
Chính trong khung cảnh
này mà Gioan đặt cuộc can thiệp của Đức Giêsu, một cuộc can thiệp gồm hành động
và lời quở trách.
+ Cử chỉ của Đức Giêsu
giống với cử chỉ của các ngôn sứ thời xưa, khi thông báo sứ điệp của các ông.
Gioan đã tả hết sức tỉ mỉ với những chi tiết mà không thấy nơi các tác giả Nhất
Lãm: "Đức Giêsu cầm lấy một dây thừng dùng làm roi, Người đuổi những lái
buôn chiên, bò, người lật đổ bàn của người đổi tiền bạc; người xua đuổi bọn bán
chim bồ câu."
+ Lời giải thích rất ý
nghĩa: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Tôi thành
nơi buôn bán” - Lời này gợi nhớ ngôn sứ Giacaria 14,21 loan báo việc tẩy uế Đền
thờ được tiên báo vào cuối đời, lúc này đã khởi sự rồi (A. Marchadour,
"L'evangile de Jean", Centurion, trang 60). Lời này tỏ cho thấy mối
liên hệ đặc biệt giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa. Khi nói về Đền thờ, Người đã
không dùng từ "nhà của Chúa”, mà Người nói "nhà của Cha tôi."
Những người chứng kiến
liền phản ứng tức khắc. Mọi người đều biết lời tiên báo về việc tẩy uế đền thờ.
Họ hiểu ngay rằng: Đức Giêsu không những đến như một người cải tổ, chỉ tố cáo
những lạm dụng nơi Đền thờ, mà còn như một vị đến để làm cho lời tiên tri thực
hiện.
Người Do Thái hỏi Đức
Giêsu: "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm
như thế?." Bởi vì dưới con mắt họ, quyền thiên sai mà Đức Giêsu tự nhận,
cũng như những gì thuộc Đền Thờ phải được chuẩn nhận bằng một dấu lạ.
2. Đến đền Thờ mới là
Thân Thể của Chúa.
Bấy giờ Đức Giêsu đáp:
"Các ông cứ phá Đền Thờ này đi Đền Thờ này "nos”); nội trong ba ngày
tôi sẽ xây dựng lại" (từ ‘dựng lại’ là từ mà thánh ký sau này, câu 22 dùng
để chỉ "sống lại) X. Léon-dufour quảng giải: "Trong câu nói long
trọng mà chúng ta đang được Đức Giêsu đối chiếu đền thờ sẽ bị phá huỷ với đền
thờ mà Người sẽ là kẻ xây dựng lại, (Lecture de L'evangile selon Jean",
cuốn 1, Seuil, trang 261).
Những kẻ đối thoại với
Chúa càng tỏ ra bực bội và ngạc nhiên. Sự không hiểu nhau về vấn đề Đền Thờ -
đây là lần đầu trong một loạt những không hiểu dẫn Người đến núi Canvê – như
vậy là hết cứu chữa.
Và cuối cùng, cộng đoàn
Kitô hữu đã làm gì khi đọc lại những lời này dưới ánh sáng của Đức Giêsu Phục
sinh: “Khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại người đã nói điều đó.
Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói."
+ Nhớ lại cử chỉ của
Chúa, cộng đoàn Kitô hữu khám phá ra rằng lời Thánh Vịnh 69 đã thực hiện, lời
mà họ đặt ở tương lai: "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải
thiệt thân." Họ hiểu ra rằng, câu chuyện Đền Thờ này, mọi tiến trình đã
bắt đầu để dẫn Đức Giêsu đến cái chết; rằng Đức Giêsu đã trả giá bằng chính
mạng sống Người, để thực hiện lời tiên tri về việc tẩy uế Đền Thờ mà Giacaria
đã loan báo.
+ Nhớ lại những lời của
Chúa về Cung Thánh Đền Thờ:
“Các ông cứ phá huỷ đền
thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”, họ hiểu rằng người nói về thân
thể Người, là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa loài người; nơi mở cửa
cho hết thảy mọi người, nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa với con người; là Đền thờ
của Giao ước mới.
Và X. Léon-Dufour kết
luận: "Có thể nghĩ rằng, đoạn văn đã được biên tập sau năm 70, tức là sau
khi đền thờ Giêrusalem thực sự bị phá huỷ, đền thờ mà Israel coi là nơi có sự
hiện diện Thiên Chúa. Bởi đó, sau khi đền thờ bị phá huỷ, câu hỏi hóc búa được
đặt ra là: cung thánh đã tan tành, vậy từ nay Thiên Chúa hiện diện ở đâu? Theo
thúc đẩy của đức tin, người Do Thái thời đó tin rằng: nơi mà họ gặp Thiên Chúa
là Lề Luật. Còn đối với những Kitô hữu, những người còn chăm chỉ lên đền thờ
cầu nguyện, câu trả lời sẽ là: Chúa Kitô sống lại hiện diện ở giữa họ khi họ tụ
họp để cử hành lễ tưởng niệm Người" (Sđd, trang 266-267).
BÀI ĐỌC THÊM
1. Ơn gọi của chúng ta:
làm dấu chỉ sự hiện hiện của Thiên Chúa giữa loài người
(Đức cha Daloz, trong
cuốn "Nous avons vu Sa gloire", Desclée de Brouwer, trang 38-39).
"Ngay từ những
chương đầu của Tin Mừng, thánh Gioan đã nói cho chúng ta biết về cuộc hành
trình lên Giêrusalem của Đức Giêsu nhân dịp lễ Vượt Qua của người Do Thái.
Chính trong dịp này, ngài đề cập đến việc tẩy uế Đền thờ, trong khi những thánh
sử khác thuật lại việc này sau khi Đức Giêsu long trọng vào thành Giêrusalem
lần cuối. Cử chỉ của Đức Giêsu là cử chỉ của một tiên tri. Người xua đuổi những
kẻ mua bán chiên bò để cúng tế và những kẻ đổi tiền ra khỏi đền thờ.
Ở đây hành vi đầy bạo lực
của Đức Giêsu là hành vi của một tiên tri, chính các môn đệ của Người cũng hiểu
như vậy. Họ nhớ tới lời Thánh Vịnh: “Nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ
phải thiệt thân." Người Do thái cũng hiểu rõ ý nghĩa của cử chỉ này. Họ
đòi Đức Giêsu phải làm một đấu lạ để biện minh cho hành động của mình:
"Ông lấy dấu lạ nào để chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như
thế?" Đức Giêsu trả lời họ bằng rnột câu bí ẩn, mầu nhiệm: "Các ông
cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại." Chúa có ý nói
đến tính cách tạm thời của những hy lễ trong đền thờ của giao ước cũ. Chúa nói
về một đền thờ khác, đền thờ mà ở đó sẽ ký kết giao ước mới. Những đền thờ Đức
Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người. Chính nơi Đức Giêsu mà từ nay
Thiên Chúa bày tỏ sự hiện diện của Người. Cần chờ đến biến cố phục sinh, các
môn đệ mới nhớ lại và tin vào Kinh Thánh và những lời Chúa đã nói. Chính đền
thờ mới, thân thể Đức Kitô và nhà của Chúa Cha, mà tạ ngày nay cần phải gìn
giữ, đừng biến nó thành nơi buôn bán. Ta cần phải hết sức cung kính đối với lễ
vật của giao ước mới, đã thay thế cho lễ vật hy sinh của đền thờ ngày xưa. Ta
cần phát hết lòng tôn trọng đốt với thân thể mầu nhiệm, mà Đức Giêsu là đầu,
thân thể có ơn gọi làm dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa nhân
loại."
2. Một đền thờ mới xây
dựng những viên đá sống
(H. Denis, trong cuốn
"100 mots pour dire la foi", Desclée de Brouwer, trang 39-40).
Đức Giêsu làm một cuộc
cách mạng, lật đổ cấu trúc tôn giáo. Không những người muốn cho người ta hiểu
rằng những ngôi đền thờ vật chất trở nên vô dụng, mà Người còn muốn tỏ cho biết
một ngôi đền thờ mới, đích thực là thân thể Người, đã chết đi và sống lại.
Đền thờ mới là chính
Người, trong Người tình yêu của Thiên Chúa và của con người chuyển thông nhau
trong một cuộc hiệp thông duy nhất.
Thật là một giao hoán lạ
lùng. Nhưng chưa hết, Tân Ước còn thêm rằng ngôi đền thờ này mà Đức Giêsu là
viên đá góc, được xây dựng bằng những viên đá sống là các Kitô hữu, và nói rộng
ra là toàn thể nhân loại. Là đền thánh, bởi vì nó không được làm bằng đá, gạch
hay bất cứ vật liệu cao quí nào, nhưng bằng những con người, con người được kêu
gọi để thương yêu nhau, để hiến mạng sống cho nhau, nhờ đó lưu thông tình yêu
vô hạn của Đức Giêsu.
3. Thánh lễ Chúa nhật:
lúc dân mới kết hợp nên một thân thể hữu hình.
(Thơ mục vụ của Hội Đồng
Giám Mục Pháp “Lettre aux catholiques de France", Cerf, 93-94).
Trong tiệc Thánh Thể, các
cộng đoàn ý thức hơn về tầm quan trọng của mình trong đời sống của Giáo Hội.
Nhưng điều tuyệt đối cần thiết là phải canh tân rộng khắp ý nghĩa của việc cử
hành ngày Chúa nhật, hiểu như thời điểm mà dân mới, gồm những người đã được rửa
tội, làm nên thân thể hữu hình, để đáp lại lời Đức Kitô mời gọi các môn đệ, kêu
gọi họ dâng hiến sự sống kết hiệp với của lễ Đức Giêsu Kitô để thế giới được
sống. Chúng ta hết thảy đều có lần cảm nghiệm những lần cử hành cởi mở, đầm ấm,
khiến ta dường như cảm nhận được ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban tặng, nhờ đó, ta
được bồi dưỡng sức lực để tiếp tục lên đường. Điều đó không chỉ là một lý tưởng
viễn vông đối với các cộng đoàn, nhất là nếu những cảm nhận và những truyền
thống tu đức biết hoà hợp những đòi hỏi mà đôi khi người ta lầm tưởng là đối
nghịch nhau, như tôn trọng truyền thống phụng vụ, kêu gọi mọi thành phần tham
gia tích cực, và sự góp phần của thẩm mỹ và mỹ thuật vào phụng vụ.
Như vậy, việc thực hiện
lễ tạ ơn không thể tách rời khỏi ý thức về thừa tác vụ được uỷ thác để ban sự
sống và xây dựng cộng đoàn Giáo Hội.
63.
Cơn giận của Chúa Giêsu (2,12-16)--William Barclay
Bây giờ chúng ta hãy xét
xem tại sao Chúa Giêsu hành động như thế. Cơn giận của Ngài là một điều đáng
sợ. Hình ảnh Chúa Cứu Thế cầm roi khiến chúng ta phải kinh hãi. Điều gì đã khiến
Ngài nổi cơn giận thánh tại sân Đền Thờ như vậy?
Trong các ngày lễ của dân
Do Thái, lễ Vượt Qua là quan trọng nhất. Như chúng ta biết, luật quy định mỗi
người nam Do Thái trưởng thành, sống trong vòng hai mươi lăm cây số chung quanh
Giêrusalem phải đến đó dự lễ. Nhưng không phải chỉ có người Do Thái trong xứ
Palestine đến dự lễ Vượt Qua. Thời bấy giờ dân Do Thái tản lạc khắp thế giới,
họ chẳng bao giờ quên tôn giáo và đất nước của tổ tiên họ. Người Do Thái dù
sống ở xứ nào, họ vẫn mong ước và hy vọng được dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem ít
nhất một lần. Chuyện nghe thật đáng kinh ngạc nhưng dường như đã có đến hai
triệu hai trăm ngàn người Do Thái đã tập họp về xứ thánh dự lễ Vượt Qua.
Thuế Đền Thờ là sắc thuế
mà mỗi người Do Thái từ 19 tuổi trở lên phải nộp. Đó là phần dành cho việc dâng
các sinh tế và lễ nghi trong Đền Thờ hằng ngày. Tiền thuế phải nộp là nửa
siếc-lơ, gần hai ngày lương của một công nhân. Trong việc giao dịch bình
thường, mọi loại tiền đều có giá trị ở Palestine. Các loại tiền bằng bạc lưu
hành từ Rôma, Hy Lạp, Ai Cập đến Tia, Siđôn và Palestine đều có giá trị. Nhưng
tiền thuế Đền Thờ phải nộp bằng đồng siếc-lơ Galilê hoặc siếc-lơ của Đền Thờ.
Đó là loại tiền Do Thái, nên có thể dùng dâng cho Đền Thờ. Các loại tiền khác
là của người ngoại, do đó bị xem là ô uế. Chúng được dùng trả các món nợ
thường, nhưng không thể dùng trả nợ cho Chúa.
Khách hành hương từ khắp
nơi trên thế giới đến với đủ loại tiền, nên trong Đền Thờ có nhiều người đổi
bạc. Nếu họ hành nghề ngay thẳng, thật thà, thì họ đã thực hiện một mục đích
chân thật và cần thiết. Nhưng muốn đổi lấy một đồng nửa siếc-lơ tiền để dâng
cho Đền Thờ, người ta phải trả tương đương với ¼ tiền lương một ngày; vậy cứ
đổi 4 đồng nửa siếc-lơ thì người đổi lợi được một số tiền tương đương một ngày công.
Do đó, số tiền thuế Đền Thờ thu được và lợi tức đổi bạc thật khủng khiếp. Thu
nhập của Đền Thờ về khoản thuế đó hằng năm ước lượng khoảng 75. 000 bảng Anh,
lợi tức hằng năm của những người đổi bạc là 9. 000 bảng Anh. Năm 54 TC, Crassus
chiếm thành Giêrusalem, cướp kho Đền Thờ, đã lấy của kho ấy 2. 500. 000 bảng
Anh, nhưng chưa lấy hết.
Việc những kẻ đổi bạc ăn
lời khi đổi tiền cho khách hành hương tự nó không có gì sai quấy. Kinh Talmud
quy định: “Mỗi người cần có đồng nửa siếc-lơ để nộp thuế cho mình. Do đó, khi
đổi đồng một siếc-lơ để lấy hai đồng nửa siếc-lơ, người ấy phải cho kẻ đổi bạc
chút ít tiền lời." Từ chỉ tiền lời là kollubos, những kẻ đổi bạc được gọi
là kollubistai. Chữ này sản sinh một vai hề tên kollybos trong tiếng Hy Lạp,
trong tiếng La Tinh là Collybus. Điều khiến Chúa Giêsu nổi giận là khách hành
hương phải chịu đựng tệ nạn đổi bạc bóc lột với giá cắt cổ. Thật là một bất
công, và càng tệ hại hơn nữa là người ta nhân danh tôn giáo để làm việc ấy.
Bên cạnh bọn đổi bạc, còn
có số người bán bò, chiên, bồ câu. Thường thì mỗi lần đến Đền Thờ là một lần
dâng lễ vật. Nhiều khách hành hương muốn dâng một lễ vật cảm tạ vì chuyến hành
trình đến thánh địa bình an, hầu hết các hành động hoặc biến cố xảy ra trong
đời sống đều có một lễ vật tương ứng. Điều hết sức tự nhiên và tiện lợi là có
thể mua được các con vật tại sân Đền Thờ. Nhưng luật quy định bất cứ con vật
nào dùng làm của lễ đều phải lành lặn, không tì vết. Ban quản trị Đền Thờ phân
công những người kiểm tra con vật. Mỗi lần khám xét đều phải trả lệ phí 1/12
siếc-lơ. Nếu khách hành hương mua con vật ngoài Đền Thờ, chắc chắn con vật ấy
sẽ bị từ chối khi khám xét. Vấn đề dường như chẳng có gì quan trọng, nhưng khốn
nỗi, một con vật mua trong sảnh Đền Thờ có khi phải trả đắt gấp mười lăm lần hơn
giá mua bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bóc lột trắng trợn khi muốn dâng
lễ vật. Bất công xã hội này càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn
giáo.
Chính điều ấy đã khiến
Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận. Gioan biết là Chúa đã lấy dây bện thành một cái
roi. Thánh Jerôme nghĩ rằng chính cái nhìn của Chúa Giêsu cũng đủ rồi, không
cần đến cây roi nữa."Một tia giận sáng như sao từ đôi mắt Ngài chiếu ra,
và oai nghi của Chúa rạng ngời khuôn mặt Ngài." Chúa Giêsu yêu mến Chúa
Cha, và chính vì yêu mến các con cái Thiên Chúa, cho nên Ngài không thể thụ
động đứng ngoài vòng, trong khi những kẻ khốn khổ đến Đền Thờ để thờ phượng
Chúa tại Giêrusalem bị đối xử như thế.
CƠN GIẬN CỦA CHÚA GIÊSU
(Ga 2,12-16)
Chính những kẻ vô lương
tâm, bóc lột khách hành hương đã khiến Chúa Giêsu nổi giận, nhưng phía sau sự
kiện dọn sạch Đền Thờ này còn có nhiều điều sâu sắc. Chúng ta thử đi sâu hơn
vào các lý do đã khiến Chúa Giêsu mạnh tay như thế.
Để có một bức tranh chính
xác về lời Chúa Giêsu nói, chúng ta ghi ra những gì các tác giả Phúc Âm đã nhớ
và chép lại, vì mỗi người đã tường thuật một cách. Mátthêu ghi lại lời Chúa
Giêsu nói: “Nhà Ta được gọi là nhà cầu nguyện, nhưng các ngươi thì làm cho nhà
ấy thành ra ổ trộm cướp” (Mt 21,13). Maccô viết: “Nhà Ta được gọi là nhà cầu
nguyện cho muôn dân… Nhưng các ngươi đã làm thành cái hang trộm cướp” (Mc
11,17). Luca thì chép: “Nhà Ta là nhà cầu nguyện song các ngươi làm thành ra
một cái hang trộm cướp." Gioan viết: “Hãy cất bỏ đồ đó khỏi đây, đừng làm
cho nhà Cha Ta thành ra nhà buôn bán” (Ga 2,16). Có ít nhất ba lý do khiến Chúa
Giêsu hành động như vậy, tại sao Ngài nổi giận:
1) Chúa Giêsu làm như vậy
vì nhà của Chúa đã bị xúc phạm. Trong Đền Thờ, có thờ phượng mà không có lòng tôn kính. Lòng tôn
kính là một bản năng bẩm sinh. Nhà nghệ sĩ Edward Seago kể lại có lần ông dẫn
hai đứa bé du mục vào một nhà thờ lớn ở Anh. Hai đứa bé này bình thường rất ngỗ
nghịch. Nhưng khi vào trong đại giáo đường, chúng giữ yên lặng cách kỳ lạ. Trên
đường về, chúng tỏ ra trang trọng cách khác thường, cho đến tối chúng mới trở
lại nghịch ngợm bình thường. Bản năng tôn kính nằm sâu trong lòng chúng ta.
2) Chúa Giêsu hành động
như thế để chứng minh việc dâng con vật làm sinh tế không còn thích đáng nữa. Từ nhiều thế kỷ trước,
các ngôn sứ đã nói: “Đức Chúa phán: Muôn vàn của lễ các ngươi có can hệ gì đến
Ta? Ta đã chán chê của lễ thiêu chiên đực và mỡ của bò con mập. Ta chẳng hài
lòng về máu của bò đực, chiên con và dê đực đâu. Thôi đừng dâng của lễ chay vô
ích cho Ta nữa” (Is 1,11-17)."Vì Ta đã đem tổ phụ các ngươi ra khỏi đất Ai
Cập, Ta chẳng hề phán và chẳng hề truyền lệnh gì về của lễ toàn thiêu và các
của lễ khác” (Gr 7,22)."Chúng nó sẽ đi với các bầy chiên, đàn bò để tìm
kiếm Đức Chúa, song không thấy Ngài” (Os 5,6)."Còn như của lễ dâng cho Ta
thì chúng nó dâng thịt và thức ăn, nhưng Đức Chúa chẳng nhận đâu” (Os 8,13),
“Vì Chúa không ưa thích của lễ, nếu Ngài ưa tôi chắc đã dâng. Của lễ toàn thiêu
cũng không đẹp lòng Chúa” (Tv 51,16). Tiếng nói ngôn sứ luôn nhắc đi nhắc lại
với loài người tính cách bất thích hợp của các lễ toàn thiêu và các sinh tế vẫn
còn tiếp tục bốc khói từ bàn thờ tại Giêrusalem. Chúa Giêsu hành động như vậy
là để chứng tỏ không có một lễ vật hay một sinh tế nào có thể làm cho loài
người hòa thuận lại với Chúa được.
Ngày nay chúng ta cũng
không thoát khỏi khuynh hướng này. Chúng ta không còn dâng sinh vật làm của lễ
cho Chúa. Nhưng chúng ta đồng hóa việc phục vụ Chúa với việc lắp đặt những cửa
sổ bằng kính màu, việc có thêm một cây đàn phong cầm vang tiếng hơn, việc hao
phí thực hiện nhiều công trình chạm trổ trên đá, trên thạch cao, trên gỗ quý,
trong khi tinh thần thờ phượng đích thực không thấy đâu. Chúng ta không lên án
những việc đó, trái lại tạ ơn Chúa, điều đó thường là do những tấm lòng yêu mến
Chúa dâng hiến. Chúng được dùng hỗ trợ cho thờ phượng chân thật, là những việc
được Chúa ban phước; nhưng khi chúng thay thế cho lòng thờ phượng chân thật,
thì lại khiến Chúa phải ghê tởm.
3) Một lý do khác khiến
Chúa Giêsu hành động như thế mà Maccô có thêm một chi tiết đáng chú ý, không tác
giả nào đề cập đến: “Nhà Ta sẽ gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Mc 11,17). Đền Thờ
gồm nhiều hành lang (sân) dẫn đến bên trong Đền Thờ và nơi Thánh. Trước hết có
hành lang dành cho dân ngoại, rồi đến hành lang dành cho phụ nữ, tiếp đến là
hành lang dành cho Israel, rồi đến hành lang cho các tư tế. Cảnh buôn bán kể
trên diễn ra trong hành lang dành cho dân ngoại, là nơi duy nhất người ngoại có
thể tới trong Đền Thờ. Một người ngoại chỉ có thể đến đó và bị cấm không tiến
xa hơn nữa. Như thế, một người ngoại có thể vào hành lang dành cho họ để suy
gẫm, cầu nguyện và đứng từ xa tiếp xúc với Chúa. Đây là chỗ cầu nguyện duy nhất
của họ.
Thế mà, ban quản trị Đền
Thờ và các con buôn người Do Thái đành biến hành lang ấy thành nơi huyên náo,
hỗn loạn khiến không ai có thể cầu nguyện được. Quang cảnh như vậy của hành
lang Đền Thờ đã loại bỏ mất những người ngoại muốn tìm kiếm Chúa. Có thể đó là
điều đập mạnh vào tâm trí Chúa Giêsu trên hết; và chỉ một mình Maccô mới giữ
được câu nói ngắn ngủi nhưng nhiều ý nghĩa đó. Chúa đã xúc động tận tâm can khi
thấy những người muốn ra mắt Chúa lại bị ngăn trở như vậy.
Trong sinh hoạt của Giáo
Hội chúng ta, giai cấp, kỳ thị, lạnh lùng, kém niềm nở, khuynh hướng biến cộng
đoàn thành một câu lạc bộ khép kín, thái độ kiêu căng, làm khó, đã ngăn trở
những người lạ có lòng tìm kiếm Chúa phải ở bên ngoài hay không? Chúng ta nên
nhớ lại cơn giận của Chúa Giêsu đối với những ai làm khó những người thiện chí
tìm Chúa nhưng không thể tiếp nhận Ngài được.
ĐỀN THỜ MỚI (Ga 2,17-22)
Một hành động, như việc
dọn sạch Đền Thờ, chắc chắn phải gây phản ứng tức khắc từ phía những người đã
mục kích. Đây không phải là loại sự việc mà người ta có thể đứng nhìn với thái
độ hoàn toàn dửng dưng, vì hành động đó quá táo bạo.
Có hai phản ứng. Một là
phản ứng của các môn đệ của Chúa. Họ nhớ lại những lời trong Thánh Vịnh 69,9;
được xem như chỉ về Đấng Mêsia. Khi Đấng Mêsia đến, Ngài có lòng sốt sắng, nóng
nảy như nung nấu về nhà Chúa. Khi Thánh Vịnh này hiện lên trong trí các môn đệ,
thì niềm tin Chúa Giêsu là Đấng Mêsia càng sâu xa và dứt khoát hơn. Hành động
ấy không thích hợp với ai khác ngoài Đấng Mêsia. Các môn đệ càng tin hơn bao
giờ hết Chúa Giêsu đúng là Đấng được xức dầu của Thiên Chúa.
Hai là phản ứng tất nhiên
của người Do Thái. Họ hỏi Chúa Giêsu lấy quyền gì để hành động như vậy, và đòi
Ngài phải làm một dấu lạ để chứng minh thẩm quyền của Ngài. Họ nhìn nhận hành
động của Chúa Giêsu là hành động tự tuyên xưng của Đấng Mêsia. Người ta luôn
luôn trông chờ Đấng Mêsia, khi Ngài đến, Ngài sẽ chứng minh và bảo đảm những
lời xưng nhận của Ngài bằng nhiều phép lạ. Thật ra nhiều Mêsia giả đã xuất
hiện, và hứa sẽ rẽ nước sông Giođan làm hai, hoặc chỉ nói một lời thì các vách
thành liền đổ xuống. Ý niệm phổ thông về Đấng Mêsia gắn liền với phép lạ. Do
đó, người Do Thái mới nói: “Bằng hành động dọn sạch Đền Thờ, Thầy đã công khai
tự xưng là Đấng Mêsia, bây giờ, hãy cho chúng tôi thấy phép lạ để chứng minh
lời tự xưng đó của Thầy."
Câu trả lời của Chúa
Giêsu đã tạo nên vấn đề lớn cho đoạn này. Chúa Giêsu thật sự đã nói gì? Ngài
muốn ngụ ý gì? Chúng ta thấy rõ hai câu 21, 22 là lời diễn giải Gioan viết sau
này. Tất nhiên ông đã đưa các ý niệm vốn là kết quả của 70 năm suy nghĩ và kinh
nghiệm về Chúa Cứu Thế Phục Sinh vào đoạn này. Giáo phụ Irenaeus kinh nghiệm: “Không
có lời tiên tri nào được thấu hiểu đầy đủ, cho đến khi nó đã được ứng
nghiệm." Nhưng nguyên thủy, Chúa Giêsu nói gì, và đã ngụ ý gì?
Không có gì để nghi ngờ
là Chúa Giêsu đã nói mấy lời giống như câu này, những lời có thể bị những kẻ
quỷ quyệt xuyên tạc thành lời tuyên xưng có tính cách phá hoại. Lúc Chúa Giêsu
bị đem ra xét xử, có lời chứng dối đưa ra để tố cáo Ngài: “Người này nói: Ta có
thể phá Đền Thờ của Chúa rồi dựng lại trong ba ngày” (Mt 26,61). Lời tố cáo
chống lại Têphanô: “Chúng ta đã nghe người này nói rằng Giêsu ở Nagiarét sẽ phá
nơi đây và đổi tục lệ Môsê đã truyền lại cho chúng ta” (Cv 6,14)
Có hai điều chúng ta phải
nhớ và ghép chúng lại với nhau. Trước hết, chắc chắn Chúa Giêsu không bao giờ
bảo Ngài sẽ phá hủy Đền Thờ bằng vật liệu thấy được ấy, rồi sẽ xây dựng lại.
Thật ra, Chúa Giêsu chờ ngày chấm dứt Đền Thờ. Ngài đã nói cùng người đàn bà
Samari, đã đến ngày mà người ta không còn thờ phượng Đức Chúa Trời hoặc trên
núi Garidim, hoặc tại Giêrusalem, nhưng phải thờ phượng Ngài bằng tinh thần và
chân lý (Ga 4,21). Điều thứ hai, có thể việc Chúa Giêsu mạnh tay dọn sạch Đền
Thờ là một cách để chứng tỏ toàn thể thờ phượng với nghi lễ và lễ vật đó không
còn phù hợp, và không thể đưa người ta đến với Chúa. Như thế, Chúa Giêsu đã dự
liệu đền thờ này sẽ bị phá bỏ, Ngài đã đến để khiến cho sự thờ phượng tại đó
trở thành lỗi thời không cần thiết, vì thế chẳng bao giờ Ngài lại gợi ý là sẽ
xây lại đền thờ.
Bây giờ chúng ta quay
sang Maccô. Như thường lệ chúng ta thấy một câu nhỏ thêm vào có tính cách gợi ý
và soi sáng trong tường thuật của Maccô. Theo Maccô kể thì lời tố cáo Chúa
Giêsu là: “Ta sẽ phá đền thờ này bởi tay người ta cất lên, khỏi ba ngày, Ta sẽ
cất một đền thờ khác không bởi tay người ta cất” (Mc 14,58). Rõ ràng, điều Chúa
muốn nói là Ngài đến để chấm dứt tất cả những gì do tay người ta làm ra, cách
thức thờ phượng Chúa do người ta sắp xếp, để đưa vào sự thờ phượng thiêng
liêng. Ngài đã kết thúc mọi việc dâng của lễ bằng súc vật và lễ nghi do các
thầy tế lễ chủ trì, thay vào đó bằng việc trực tiếp đưa tâm linh người ta đến
gần Thánh Linh của Chúa mà không cần các nghi lễ dâng hương, dâng lễ vật. Lời
xác nhận của Chúa Giêsu là: “Sự thờ phượng tại Đền Thờ, các nghi lễ rườm rà, vô
vàn lễ vật của các ngươi phải chấm dứt, bởi vì Ta đã đến." Lời hứa tiếp
theo của Chúa là: “Ta sẽ mở cho các ngươi một con đường đến với Thiên Chúa mà
không cần các nghi lễ tỉ mỉ đó nữa. Ta đã đến để phá hủy Đền Thờ Giêrusalem,
khiến cả trái đất này thành một ngôi đền thờ, ở đó loài người có thể đến gần và
biết có sự hiện diện của Thiên Chúa hằng sống."
Người Do Thái đã thấy
việc đó. Năm 19 TC, vua Hêrôđê đã bắt đầu xây dựng ngôi đền thờ vĩ đại ấy.
Nhưng đến năm 64 SC việc xây dựng mới xong. Từ ngày khởi công đến lúc bấy giờ
là 46 năm, còn hai mươi năm nữa mới hoàn thành. Chúa Giêsu khiến người Do Thái
phẫn nộ khi bảo rằng tất cả những huy hoàng tráng lệ, tiền bạc kỹ thuật mà
người ta đã đổ vào công trình ấy hoàn toàn vô ích, và Ngài đã đến để chỉ cho
người ta một con đường đến với Đức Chúa Trời mà không cần một đền thờ nào cả.
Đây là điều thực sự Chúa
Giêsu đã nói. Những năm sau đó Gioan còn nghiệm thấy thêm nhiều điều trong
những lời Chúa Giêsu nói. Ông thấy đó là một lời tiên tri về sự Phục Sinh, và
Gioan đã đúng. Ông đã thấy đúng, vì cả thế gian này không thể trở thành ngôi
đền thờ của Thiên Chúa hằng sống, cho đến khi Chúa Giêsu lìa bỏ thân xác trần
gian hiện diện khắp nơi, ở với mọi người, mọi chỗ, cho đến tận cùng trái đất.
Chính sự hiện diện của
Chúa Kitô Phục Sinh và hằng sống đã khiến cả thế gian trở thành đền thờ của
Thiên Chúa. Cho nên khi các môn đệ gẫm lại, họ mới hiểu đó là lời hứa về sự
Phục Sinh. Lúc ấy họ không thể hiểu được, nhưng sau khi chính họ kinh nghiệm về
Chúa Cứu Thế Hằng Sống, họ mới thấy được ý nghĩa sâu nhiệm của những gì Chúa
Giêsu đã nói.
Cuối cùng Gioan bảo: “thì
(họ) tin Kinh Thánh”; Kinh Thánh nào đây? Ông muốn nói đến câu Kinh Thánh vẫn
ám ảnh Hội Thánh sơ khai: “Chúa không để cho người thánh Chúa thấy sự hư nát”
(Tv 16,10). Đó là câu Phêrô đã trích dẫn vào ngày lễ Ngũ Tuần (Cv 2,31); Phaolô
đã trích dẫn tại Antiokia (Cv 13,35). Câu Kinh Thánh đó diễn tả lòng tin của
Hội Thánh vào quyền năng của Thiên Chúa và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô.
Tại điểm này chúng ta
được đưa vào chân lý, chúng ta được tiếp xúc với Chúa, ra mắt Ngài, đến gần Ngài,
không tùy thuộc vào bất cứ điều gì do bàn tay và trí tuệ con người làm ra.
Ngoài đường phố, ở trong nhà, lúc làm việc, khi ở trên núi, trên đường dài vắng
vẻ hay trong nhà thờ, chúng ta đều có đền thờ nội tâm, có sự hiện diện vĩnh
viễn của Chúa Kitô Phục Sinh, Ngài vẫn ở với chúng ta khắp mọi nơi.
ĐẤNG DÒ XÉT LÒNG NGƯỜI
(Ga 2,23-25)
Gioan không thuật lại các
phép lạ Chúa Giêsu đã làm tại Giêrusalem trong mùa lễ Vượt Qua ấy. Nhưng nhiều
người sau khi thấy phép lạ Ngài làm, thì tin Ngài. Vấn đề Gioan đặt ra ở đây
là: Nếu đã có nhiều người tin Ngài tại Giêrusalem ngay từ buổi đầu, tại sao
Chúa Giêsu không ở lại đó, dựng cờ lên để tự xưng là Đấng Mêsia, công khai
tuyên bố mình là ai?
Câu trả lời là, Chúa
Giêsu vốn biết rõ tâm địa con người. Ngài biết rõ, đối với nhiều người Ngài chỉ
là một hiện tượng lạ chóng qua. Ngài biết có nhiều người chỉ bị lôi cuốn bởi
những việc lạ lùng Ngài làm. Ngài đã biết rõ chẳng có ai thấu hiểu con đường
Ngài đã chọn. Ngài biết nhiều kẻ chỉ theo Ngài vì phép lạ, dấu kỳ, nhưng khi
Ngài bắt đầu nói với họ về phục vụ, từ bỏ mình, tuân phục ý Chúa, về thập giá
và việc vác thập giá, chắc chắn họ sẽ trố mắt nhìn Ngài mà chẳng hiểu gì cả, sẽ
bỏ Ngài ngay.
Một đặc điểm quan trọng
của Chúa Giêsu là Ngài không muốn những ai theo Ngài mà chưa hiểu biết thật rõ
ràng, và dứt khoát chấp nhận trả giá. Ngài khước từ việc nắm lấy cơ hội nổi
tiếng trong chốc lát. Nếu Ngài tự phó mình cho đám quần chúng tại Giêrusalem,
chắc họ tôn Ngài là Đấng Mêsia ngay tức khắc, để sau đó họ trông mong vào những
hành động vật chất trần gian Đấng Mêsia thực hiện. Nhưng Chúa Giêsu không yêu
cầu người ta thừa nhận Ngài, cho đến khi họ biết rõ tiếp nhận Ngài có ý nghĩa
gì. Ngài đòi hỏi mỗi người phải nhận biết điều Ngài đang làm.
Chúa Giêsu biết rõ bản
chất, tấm lòng bất định, dễ đổi thay của loài người. Ngài biết rõ con người có
thể bị bốc đồng, bị lôi cuốn trong những khoảnh khắc xúc động mạnh, nhưng lại
rút lui sau khi thấy rõ những gì phải trả giá. Ngài biết bản chất con người
thèm những kích động tình cảm. Ngài không muốn đám đông hoàn toàn chẳng biết gì
cả mà cứ tung hô, Ngài chỉ cần một số ít người biết rõ mình đang làm gì, và sẵn
sàng theo Ngài cho đến cùng.
Có một điều cần chú ý
trong đoạn này, vì chúng ta còn nhiều lần lặp lại. Khi Gioan đề cập đến những
phép lạ của Chúa Giêsu, ông gọi đó là những dấu lạ. Tân Ước dùng ba từ khác
nhau chỉ các công việc lạ lùng của Thiên Chúa và của Chúa Giêsu, mỗi từ cho
chúng ta biết một phần về ý nghĩa và bản chất của phép lạ.
1) Chữ Teras chỉ
có nghĩa là một cái gì đó lạ lùng, đáng ngạc nhiên, kỳ lạ. Chữ này không bao
hàm một ý nghĩa đạo đức nào cả. Một trò lừa đảo bằng phù phép có thể là một
teras, nó chỉ là một điều xảy ra khác lạ khiến người ta phải ngạc nhiên. Tân
Ước không dùng chữ này một mình để chỉ các công việc của Thiên Chúa và của Chúa
Giêsu.
2) Chữ Dunamis theo
nghĩa đen là năng lực, do từ này mà có chữ cốt mìn (dynamite). Nó có thể được
dùng để chỉ bất cứ một năng lực khác thường nào, hoặc chỉ sức tăng cường, các
năng lực thiên nhiên, năng lực của một thứ thuốc, năng lực của một người có
tài. Nó luôn luôn có nghĩa là một năng lực hữu hiệu để làm việc mà ai cũng nhìn
nhận.
3) Chữ Semeion có
nghĩa là một dấu hiệu (sign). Đây là chữ mà Gioan thích dùng. Theo ông, phép lạ
không chỉ là một việc xảy ra kinh ngạc, một việc làm bởi quyền năng và là một
dấu hiệu; nghĩa là nó cho người ta biết về người đã làm việc lạ ấy, phô bày một
điều gì đó về tính tình, bản chất của người ấy, đó là một hành động mà qua đó
người ta có thể biết rõ hơn, đầy đủ hơn về phẩm cách của người đã hành động.
Với Gioan, điều tối quan trọng trong các phép lạ của Chúa Giêsu là bày ra cho
người ta biết về bản chất và phẩm cách của Thiên Chúa. Quyền phép Chúa Giêsu đã
được sử dụng để chữa kẻ bệnh, cho kẻ đói được ăn, an ủi kẻ gặp bối rối; chính
sự kiện Chúa dùng quyền phép mình như thế, là bằng chứng Chúa quan tâm đến sầu
khổ, thiếu thốn và đau đớn của con người. Với Gioan thì các phép lạ là các dấu
hiệu bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa.
Vậy, trong bất cứ phép lạ
nào cũng có ba điều: có điều lạ làm cho người ta bàng hoàng, sững sờ, kinh
ngạc. Có phần quyền năng hoạt động hữu hiệu đối phó và hàn gắn thân thể bị
thương tật, tâm trí bị rối loạn, tấm lòng tan nát, một quyền năng có thể làm
mọi việc. Có phần dấu hiệu bày tỏ tình yêu và tấm lòng của Thiên Chúa, Đấng đã
làm những việc như thế cho loài người.
64.
Thanh tẩy đền thờ--Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang - Joshepus Quang Nguyễn
Trong tất cả các tôn
giáo, đền thờ là nơi thánh, nơi thần linh hiện diện với con người để tiếp nhận
sự phụng tự của họ và cho họ thông phần vào các ân huệ và sự sống của thần
linh. Đương nhiên thế giới các thần linh không thuộc thế gian này, nhưng đền
thờ được coi là nơi cư ngụ của các thần linh. Cho nên, thời Cựu Ước đền thờ
Giêrusalem là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa loài người. Nhưng đó chỉ
là dấu chỉ tạm thời sẽ được thay thế bằng một dấu chỉ loại khác trong thời Tân
ước: Thân Thể Chúa Kitô và Giáo Hội Người.
Thời các tổ phụ không có
đền thờ mà chỉ có nơi thánh để thờ phượng Chúa như Bêtel (nhà của Thiên Chúa:
St 12,8), Bersabê (St 26,25), Sikhem (St 33,18tt). Đặc biệt Núi Sinai là nơi
thánh và đã được thánh hiến do việc Thiên Chúa tỏ mình (Xh 3,19). Trong suốt
cuộc hành trình về đất hứa, dân Israel đã dùng Nhà Tạm (đền thờ lưu động) nhờ
đó Thiên Chúa hiện diện và dẫn dắt họ (Xh 26-27). Sau khi chiếm lại hòm bia
khỏi tay người Philitin (2Sm 6), Đavít thiết lập thánh địa liên tộc ở
Giêrusalem. Và khi đã cất cho mình một cung điện, ngài mơ ước xây một đền thờ
cho Giavê (2Sm 7,1-3). Vua Đavít chuẩn bị ba ngàn tấn vàng, ba mươi ngàn tấn
bạc, đồng, sắt, gỗ, đá nhiều vô kể. Ngài kêu gọi nhiều nhân công: thợ đá, nghệ
nhân chạm trỗ và đủ thứ thợ cao tay trong mọi ngành nghề (2Sm 22,1-16). Nhưng
tiếc thay ông không thực hiện được. Kế nghiệp cha, Salomon đã cho xây dựng một
Đền Thờ nguy nga, lộng lẫy và tráng lệ trong vòng bảy năm (1V 5,15-7,51).
Chúa Giêsu tỏ lòng tôn
kính sâu đậm đối với đền thờ Giêrusalem nơi Người đã được Đức Maria dâng hiến
(Lc 2,22-39). Trong các đại lễ, Người lên đó như lên để gặp gỡ Cha Người (Lc
2,41-50). Chúa Giêsu luôn coi đền thờ là nhà của Thiên Chúa, một ngôi nhà để
cầu nguyên, nhà của Cha Người. Cho nên hôm nay, Ngài lên án, nổi giận khi người
ta biến nó thành nơi buôn bán (Mt 21,12-17; Ga 2,16tt). Ngài không muốn nơi
Thánh này trở thành nơi buôn bán, đổi chác tiền bạc. Khi xua đuổi các con buôn
ra khỏi Đền thờ, Đức Giêsu đã thanh tẩy thói tôn thờ ngẫu tượng. Theo Đức
Giêsu, ngẫu tượng nguy hiểm nhất là tiền bạc, tức là thần “Mammon." Những
con buôn đưa súc vật vào Đền thờ không do lòng yêu mến Thiên Chúa, nhưng vì lợi
nhuận. Họ đã coi trọng tiền bạc hơn Chúa. Họ đã dùng Đền thờ làm phương tiện
phục vụ túi tiền của họ. Các tư tế coi sóc Đền thờ cũng như con buôn, coi tiền
bạc trọng hơn Thiên Chúa. Họ đã rơi vào thói tôn thờ ngẫu tượng: thờ tiền bạc,
dùng Chúa và Đền thờ để phục vụ tư lợi.
Hôm nay, Chúa Giêsu một
mặt ra tay thanh tẩy đền thờ vật chất mặc khác tiên báo cho chúng ta biết về
đền thờ thiêng liêng nữa. Đền thờ thiêng liêng trước hết phải là chính Chúa
Giêsu, “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”,
Chúa có ý nói đến thân xác của Ngài. Ngài sẽ bị giết chết, nhưng trong ba ngày
Ngài sẽ sống lại. Nhờ vậy, qua Chúa Giêsu Thiên Chúa đã trở thành Emmanuel, đã
trở thành Thiên Chúa ở cùng chúng ta, đồng thời nhờ Ngài, chúng ta sẽ dâng lên
cho Thiên Chúa của lễ tuyệt hảo nhất. Tiếp đến, đền thờ thiêng liêng còn là
Giáo hội, bởi vì nhờ Giáo hội, Thiên Chúa đến với chúng ta qua những hoạt động
của bí tích và lời giảng dạy, cũng như qua Giáo hội mà chúng ta không ngừng tôn
vinh và thờ phượng Chúa. Sau cùng, đền thờ thiêng liêng là chính tâm hồn chúng
ta, bởi vì nhờ công cuộc cứu độ với dòng nước Rửa tội, tâm hồn chúng ta trở nên
như một gian cung thánh sống động cho Thiên Chúa ngự trị, đồng thời cũng chính
tại thẳm sâu cõi lòng, chúng ta dâng lên Thiên Chúa những tâm tình cầu nguyện
tha thiết và kết hợp chặt chẽ với Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, để tâm hồn
chúng ta luôn xứng đáng là nơi cho Chúa ngự trị, thì có một việc chúng ta cần
phải làm ngay, đó là khử trừ tội lỗi, vì tội lỗi sẽ làm cho tâm hồn chúng ta
trở nên nhơ nhớp. Vậy, nếu Thiên Chúa viếng thăm vào giữa lúc chúng ta đang lặn
ngụp trong tội lỗi, thì có lẽ Ngài sẽ tức giận mà nói với chúng ta như xưa Ngài
đã nói với phường buôn bán tại đền thờ: đừng biến nhà Cha ta thành hang trộm
cướp.
Chúng ta đang sống trong
mùa chay, đoạn Tin Mừng này nhắc nhở chúng ta hai điều: Thứ nhất, mỗi người tín
hữu được coi là một đền thờ của Thiên Chúa. Vì vậy, Mùa Chay này là dịp tốt
nhất để thanh tẩy tâm hồn. Chúng ta hãy nhanh chóng thanh tẩy tâm hồn khỏi thói
tôn thờ ngẫu tượng tiền bạc vì chưng, bài đọc 1, Sách Xuất Hành dạy: “Ngươi
không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất
thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ” (Xh 20,4). Thứ hai, trong
tinh thần năm Phúc âm hóa giáo xứ, mọi thành phần dân Chúa trong giáo xứ chúng
ta hãy trở nên đền thờ của Thiên Chúa. Một đền thờ trong đó các thành viên biết
lấy yêu thương, sự khoan dung tha thứ mà đối xử với nhau. Một đền thờ mà trong
đó có Thiên Chúa ngự trị không còn bị những ngẫu tượng có tên là tiền bạc, tham
vọng, ích kỷ, hận thù, gian dối chi phối nữa!
Tóm lại, mỗi người chúng
ta, mỗi gia đình chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa ngự trị. Nhưng có thể Thiên
Chúa đã mất chỗ, nghĩa là tội lỗi, những cái xấu, những cái tiêu cực… đã chiếm
chỗ của Chúa. Vì thế, chúng ta phải loại bỏ tất cả những cái đó để trả lại chỗ
cho Thiên Chúa bằng sự ăn năn sám hối và cải thiện đời sống.
Xin Chúa cho Mùa chay
thánh này là mùa hồng ân cho chúng ta: cho mỗi người chúng ta trở thành một đền
thờ xứng đáng, và cho gia đình và giáo xứ chúng ta cũng là một đền thờ tốt đẹp
để Thiên Chúa ngự trị, chúc lành và ban ơn cho chúng ta.
65.
Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Anthony Trung Thành
Đoạn Tin mừng hôm nay kể
lại câu chuyện Đức Giêsu đánh đuổi những người buôn bán ra khỏi sân đền thờ
Giê-ru-sa-lem. Lý do Ngài làm như vậy là vì: Đền thờ là nơi tôn nghiêm, Đền thờ
là nơi Thiên Chúa ngự trự, Đền thờ là nơi dành để dân thập phương qui tụ lại để
cầu nguyện và dâng tiến lễ vật cho Thiên Chúa nhưng người Do thái đã biến thành
nơi buôn bán.
Thật vậy, từ thời Cựu
ước, dân Thiên Chúa đã đặt niềm tin vào sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đền
Thờ. Niềm tin đó dựa vào những sự kiện sau đây:
Sự kiện thứ nhất là giấc
mơ của tổ phụ Gia-cóp tại Bết Ên: Sau khi ra khỏi Bơ-e Se-va và đi về Kha-ran, Gia-cóp đến một
nơi kia và nghỉ đêm tại đó vì mặt trời đã lặn. Gia-cóp lấy một hòn đá để gối
đầu và nằm ngủ ở đó. Gia-cóp chiêm bao thấy một chiếc thang dựng dưới đất, đầu
thang chạm tới trời, trên đó có các sứ thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống.
Thiên Chúa đứng bên trên thang và hứa với ông nhiều điều: ban đất cho ông, dòng
dõi ông đông đúc như sao trên trời, sẽ ở với ông, gìn giữ ông…(x. St 28,
10-22). Sau giấc mơ, tổ phụ Gia-cóp đã thốt lên rằng: “Quả thật, có ĐỨC CHÚA ở
nơi này mà tôi không biết!”; “Nơi này đáng sợ thay! Đây là nhà của Thiên Chúa,
là cửa trời, chứ không phải là gì khác.";
Sự kiện thứ hai là Nhà
xếp: Sau
khi giải phóng dân Do thái khỏi ách nô lệ Ai-cập, ông Mô-sê được lệnh bởi trời
dựng Nhà xếp tức là thánh đường di động để dành riêng cho Thiên Chúa. Thiên
Chúa luôn luôn hiện diện trong Nhà xếp để đồng hành với dân Người. Cho nên, ông
Mô-sê mới khẳng định rằng: “Phải, có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần,
như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu
Người?” (Đnl 4,7);
Sự kiện thứ ba diễn ra
tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem: Khi Sa-lo-mon vừa cung hiến thánh đường
Giê-ru-sa-lem mà ông đã xây xong, ông truyền đem Hòm bia giao ước vào Đền thờ
thì có áng mây sà xuống bao phủ nơi cực thánh, hình ảnh đó là dấu chỉ Thiên
Chúa ngự xuống giữa dân Người (x. 1V 8,10-11).
Tuy nhiên, Bết Ên, Nhà
xếp hay Đền thờ Giê-ru-sa-lem chỉ là hình bóng của Nhà thờ (Thánh đường) công
giáo ngày nay. Người công giáo tin tưởng có Chúa ngự thật trong Nhà thờ. Vì nơi
Nhà thờ đã được làm phép hay cung hiến luôn có cất giữ Thánh Thể, tức là có Đức
Giêsu hiện diện cả nhân tính lẫn thần tính.
Vì sự hiện diện của Chúa
nơi Nhà thờ nên người giáo giáo luôn gắn bó với Nhờ thờ. Hầu hết các sinh hoạt
quan trọng trong cuộc đời của người công giáo đều diễn ra tại Nhà thờ: Khi mới
sinh ra, chúng ta được cha mẹ đem đến Nhà thờ để lãnh nhận Bí tích Rửa tội, trở
thành con cái Thiên Chúa. Khi đến tuổi khôn, chúng ta được học giáo lý và lãnh
nhận Bí tích Giao hòa cũng tại Nhà thờ. Sau khi lãnh nhận Bí tích Giao hòa lần
đầu chúng ta được lãnh nhận Bí tích Thánh Thể. Từ đó, chúng ta có thể đến Nhà
thờ hằng ngày để tham dự thánh lễ Misa và lãnh nhận Mình Thánh Chúa. Khi đến
tuổi trưởng thành, chúng ta được lãnh nhận Bí tích Thêm sức với đầy đủ bảy ơn
cả của Chúa Thánh Thần cũng tại nhà thờ. Các anh chị đến tuổi lập gia đình cũng
đem nhau đến nhà thờ để thề nguyền chu toàn các bổn phận vợ chồng, cha mẹ trước
mặt Thiên Chúa và Hội Thánh. Những người sống đời dâng hiến được cam kết với
Chúa và Giáo hội bằng một nghi thức truyền chức hay khấn dòng cũng được diễn ra
tại Nhà thờ. Khi kết thúc cuộc đời trần thế, mỗi người công giáo cũng được đem
đến Nhà thờ để được linh mục dâng thánh lễ và cử hành các nghi thức sau hết.
Ngoài ra, Nhà thờ là nơi
người công giáo có thể đến để thi hành những nhiệm vụ khác liên quan đến phần
rỗi đời đời, đó là việc thờ phượng Thiên Chúa. Thờ phượng Thiên Chúa không chỉ
mang tính riêng tư mà còn mang tính tập thể, cộng đoàn. Vì Nhà thờ là nơi thích
hợp nhất để cầu kinh, ca hát, xin ơn, cảm tạ, chúc tụng Thiên Chúa. Vì Nhà thờ
là nơi chúng ta được bồi dưỡng bởi ơn trên bằng việc cầu nguyện và lãnh nhận
các Bí tích. Vì Nhà thờ là nơi chúng ta được nghe Lời Chúa, được nghe giảng dạy
để mọi người hiểu đúng giáo lý và sống tốt bổn phận của mình. Vì Nhà thờ là nơi
chúng ta được sống hiệp thông với Thiên Chúa và liên kết với mọi thành viên
trong cộng đoàn xứ đạo và trong Giáo hội.
Chính vì Nhà thờ là nhà
của Chúa, là nơi Chúa ngự và là nơi diễn ra các sinh hoạt quan trọng trong cuộc
đời người kitô hữu nên Nhà thờ rất cần thiết. Thông thường, mỗi giáo xứ, giáo
họ đều có một Nhà thờ hay nhà nguyện. Nhà thờ hay nhà nguyện thường được xây
dựng nên bởi công sức của mọi thành phần trong giáo xứ. Người công giáo thường
rất quảng đại trong việc đóng góp công của để xây dựng Nhà thờ. Không những
nhiệt tình khi xây dựng mà họ còn ra sức bảo vệ Nhà thờ có khi bất chấp cả tính
mạng. Đúng như thánh vịnh: “Lòng nhiệt thành lo việc nhà Chúa làm hao tổn thân
tôi” (Tv 68. 10).
Tuy nhiên, trong thực tế
không phải ai cũng có tinh thần đóng góp công của để xây dựng Nhà thờ hay nhiệt
thành trong việc bảo vệ Nhà thờ. Đó là điều mà mỗi người công giáo chúng ta
phải xét mình lại. Nếu ngày hôm nay, Đức Giêsu đến một số các Nhà thờ công giáo
chắc chắn Ngài cũng sẽ nỗi nóng và xua đuổi nhiều người ra khỏi Nhà thờ hay
khuôn viên Nhà thờ. Đó là thái độ của những người xả rác bừa bãi trong khuôn
viên hay thậm chí trong Nhà thờ. Đó là thái độ của những người cố tình ngồi
ngoài nhà thờ để tham dự thánh lễ trong khi bên trong nhà thờ vẫn còn nhiều
chỗ. Đó là thái độ thiếu tôn kính của nhiều người khi vào Nhà thờ: đứng ngồi
không ngay ngắn, nói chuyện riêng, nghe điện thoại, quay fim chụp hình và làm
những việc riêng khác đang khi tham dự thánh lễ. Đó là chưa nói tới hiện tượng
phá nhà thờ bởi các nhà chức trách tại một số nước thiếu tự do tôn giáo đây đó
trên thế giới như tại Trung quốc.
Trên đây, chúng ta đề cập
đến ngôi Nhà thờ vật chất. Nhưng có một Đền thờ quan trọng hơn Nhà thờ vật chất
rất nhiều đó là tâm hồn của mỗi người chúng ta. Tất cả các Nhà thờ vật chất
được xây dựng nên đều nhằm mục đích giúp ích cho đền thờ tâm hồn. Thật vậy, khi
lãnh nhận Bí tích Rửa tội, mỗi người chúng ta trở thành đền thờ của Chúa Thánh
Thần. Thánh Phaolô nói: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là đền thờ của Thiên
Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?”(1Cr 3,16). Tuy nhiên,
cũng như nhiều Nhà thờ bị tàn phá bởi con người, nhiều Đền thờ tâm hồn cũng
đang bị tục hóa trở thành nơi tôn thờ Ma quỷ. Đó là những người ham mê tiền của
nên tham ô, tham nhũng, chiếm đoạt tài sản của người khác. Đó là những người
tham quyền, nên bất chấp mọi thủ đoạn kể cả giết người để đạt được mục đích. Đó
là những người ham mê sắc dục nên đã bán rẻ thân xác của mình cũng như làm hại thân
xác của tha nhân. Và nhiều hình thức khác tương tự đang làm tục hóa Đền thờ của
rất nhiều tâm hồn.
Chính vì thế, mỗi người
chúng ta hãy tự xét mình để quyết tâm gìn giữ Đền thờ tâm hồn bằng cách giữ gìn
thân xác sạch sẽ và tâm hồn sạch tội, nhất là tội trọng. Vì khi phạm tội trọng
tức là chúng ta đuổi Thiên Chúa ra khỏi tâm hồn mà rước Ma quỷ vào. Để bảo vệ
đền thờ tâm hồn cần phải tuân giữ lề luật của Thiên Chúa, đó là Mười điều răn,
Cựu ước gọi là “Thập Giới." Đó là điều mà Thiên Chúa đã ban bố cho Môi-sê
và ông đã truyền lại cho dân chúng rằng: “Ngươi không được thờ thần nào khác
trước mặt Ta. Ngươi đừng lấy danh Chúa, Thiên Chúa ngươi, mà lường gạt, vì Chúa
không thể không trừng phạt kẻ nào lấy danh Người mà lường gạt. Ngươi hãy nhớ
thánh hoá ngày Sabbat. Ngươi hãy tôn kính cha mẹ, để ngươi được sống lâu dài
trong xứ mà Thiên Chúa sẽ ban cho ngươi. Ngươi chớ giết người; chớ phạm tội
ngoại tình; chớ trộm cắp; chớ làm chứng dối hại anh em mình; chớ tham lam nhà
của kẻ khác; chớ ham muốn vợ bạn hữu, tôi tớ nam nữ, bò lừa và bất cứ vật gì
của bạn hữu." (x. Xh 20, 1-3. 7-8. 12-17).
Xin cho tất cả mỗi người
chúng ta luôn biết đóng góp công của xây dựng, tu sửa và bảo vệ Nhà thờ vật
chất. Đồng thời, xin cho mỗi người chúng ta luôn biết tôn trọng tâm hồn của mình
là Đền thờ của Thiên Chúa bằng cách năng đến Nhà thờ cầu nguyện, tham dự thánh
lễ và lãnh nhận các Bí tích. Amen.
66.
Ánh sáng Phục Sinh
Sau khi xua đuổi phường
buôn bán ra khỏi đền thờ, các nhà lãnh đạo Do Thái đã đến hỏi Chúa Giêsu: Ông
có thể làm một phép lạ nào để chứng minh rằng ông có quyền làm như thế không?
Và Chúa Giêsu đã trả lời: Hãy phá đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ xây
dựng lại. Thánh Gioan đã ghi chú: Ngôi đền thờ mà Chúa Giêsu nói đến chính là
thân xác Ngài. Vì thế khi Ngài từ trong kẻ chết sống lại, các môn đệ mới nhớ
rằng Ngài đã nói như vậy, nên họ tin vào Thánh Kinh và những gì Chúa Giêsu đã
nói.
Như thế có nghĩa là ngay
cả các môn đệ cũng không hiểu hoàn toàn những điều Ngài nói. Chỉ sau khi Ngài
sống lại trong vinh quang, thì những điều ấy mới được sáng tỏ. Nói cách khác,
biến cố phục sinh chính là luồng ánh sáng chiếu soi, nhờ đó mà chúng ta hiểu
được những biến cố và toàn bộ cuộc đời của Chúa Giêsu.
Thực vậy, khi Chúa Giêsu
tiến vào thành Giêrusalem một cách trọng thể, thánh Gioan cũng đã viết: Lúc đó,
các môn đệ không hiểu những điều ấy, nhưng khi Ngài sống lại trong vinh quang,
họ mới nhớ lại rằng Thánh Kinh đã nói những điều đó về Ngài. Rồi khi Ngài biến
hình trên đỉnh Taborê, lúc xuống núi Ngài đã căn dặn các ông không được tiết lộ
cho bất kỳ ai biết những việc xảy ra cho đến khi Ngài từ trong kẻ chết sống
lại. Phúc Âm đã ghi chú: Các ông tuân giữ lời căn dặn ấy, nhưng vẫn thắc mắc:
từ trong kẻ chết sống lại có ý nghĩa gì? Tất cả những điều vừa trình bày có
phần nào giống với công việc của người thợ rửa hình. Anh ta rọi phim xuống tấm
giấy. Lúc bấy giờ chỉ là tấm giấy trắng, không hình ảnh, không màu sắc. Thế
nhưng sau đó, anh ta đem ngâm tấm giấy đã được rọi vào thau đựng thuốc: Thế là
hình ảnh và màu sắc bắt đầu hiện lên trên tấm giấy ấy. Cũng thế, những biến cố
của cuộc đời Chúa Giêsu, mới đầu không có gì đặc biệt. Nhưng sau biến cố phục
sinh, ý nghĩa sâu xa của nó mới bắt đầu xuất hiện.
Từ đó chúng ta hãy nhìn
cuộc đời chúng ta qua ánh sáng của sự phục sinh. Đúng thế, nếu không có sự phục
sinh thì đời sống của chúng ta chỉ là một mớ hỗn mang, một chùm những sự kiện
vô nghĩa, nếu không muốn nói là phi lý. Bởi vì người giàu và kẻ nghèo, người
đạo đức thánh thiện và kẻ gian ác bất lương rồi cũng sẽ bằng nhau trước cái chết.
Nếu không có ánh sáng của sự phục sinh, thì chết là hết, là trở về với hư vô và
cát bụi. Thế nhưng, với ánh sáng của sự phụng sự, thì tất cả đều chuyển biến,
tất cả đều đổi thay, tất cả đều mang một giá trị và ý nghĩa. Đúng thế, nếu như
cuộc đời tôi chất đầy những đắng cay và chua xót, thì không có nghĩa là tôi đã
thất bại, bởi vì nếu tôi biết thánh hoá, biết chấp nhận những đắng cay chua xót
ấy vì lòng yêu mến Chúa, thì rồi mai ngày tôi sẽ sống lại và được Chúa ân
thưởng niềm hạnh phúc Nước Trời. Dưới ánh sáng của sự phục sinh thì dù cuộc
sống hiện tại của chúng ta có vắn vỏi, có buồn phiền, thì mãi mãi vẫn là một
kho tàng quý giá, bởi vì nhờ nó mà chúng ta có thể chiếm được sự sống đời đời,
cũng như nhờ nó chúng ta có thể lãnh nhận niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
67.
Yếu tố con người.
Paganini là một nhạc sĩ
vĩ cầm nổi tiếng của Ý vào thế kỷ XIX. Trong một cuộc trình diễn, ông linh cảm
như có một điều gì bất ổn và khi nhìn kỹ cây đàn, ông khám phá ra đó không phải
là cây đàn quen thuộc đã từng đưa ông lên đài danh vọng. Ông đứng lặng trong
giây lát, rồi lên tiếng: Vì lý do kỹ thuật, xin quý vị vui lòng chờ đợi trong
giây lát, vì tôi đã cầm lộn cây đàn. Nói xong, ông vào hậu trường bước thẳng
đến nơi ông vẫn để cây đàn quen thuộc. Ông bàng hoàng nhận ra có người đã đánh
cắp cây đàn quý giá của ông và đã đặt một cây đàn rẻ tiền thay thế vào đó.
Trong lúc còn bàng hoàng thì bỗng một ý tưởng loé lên trong đầu, khiến ông mạnh
dạn cầm lại cây đàn rẻ tiền kia mà bước ra sân khấu. Ông nói vơi khán giả: Kính
thưa quý vị, ai đó đã đánh cắp cây đàn quý giá của tôi, nhưng trong buổi trình
diễn này tôi muốn chứng minh cùng quý vị là vẻ đẹp và nét tinh tuý của âm nhạc
không nằm trong nhạc khí, nhưng hàm ẩn nơi chính con người của nhạc sĩ. Phải
yếu tố con người mới là quan trọng.
Từ câu chuyện này chúng
ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, qua đó chúng ta thấy Chúa Giêsu xua đuổi
phường buôn bán ra khỏi đền thờ, vì họ đã biến đền thờ, nơi cầu nguyện thành
một chốn buôn bán, thành một hang ổ trộm cướp. Và những người Do Thái đã vặn
hỏi: Ông lấy quyền gì mà làm như vậy? Chúa Giêsu đã trả lời: Các ông cứ phá đền
thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại. Và Phúc âm đã ghi nhận: Đền
thờ Ngài muốn nói đến ở đây chính là thân xác Ngài. Lần khác, bên bờ giếng
Giacóp, Ngài đã nói với người phụ nữ Samaria: Không phải thờ phương Thiên Chúa
ở núi này hay núi nọ, mà phải thờ phượng trong tinh thần và chân lý.
Với những lời xác quyết
trên, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đặt nặng yếu tố con người. Con người với thân
xác và tâm hồn chính là một đền thờ cho Thiên Chúa ngự trị, chính là một nhạc
sĩ làm vang lên muôn cùng điệu chúc tụng Thiên Chúa. Thực vậy, nhờ bí tích Rửa
Tội, tâm hồn chúng ta trở thành ngôi đền thờ thiêng liêng cho Thiên Chúa. Chính
vì thế, chúng ta phải gìn giữ tâm hồn chúng ta khỏi mọi dấu vết của tội lỗi, để
xứng đáng làm đền thờ của Ngài. Mặc dầu bên ngoài chúng ta nghèo túng, ốm đau,
hay gặp phải những điều bất hạnh, thì trong thẳm sâu cõi lòng, trong ngôi đền
thờ thiêng liêng ấy, luôn vang lên những lời ngợi khen và chúc tụng Thiên Chúa.
Thế nhưng, nếu lúc này
Chúa Giêsu cũng đến và viếng thăm chúng ta, liệu Ngài có nhận ra tâm hồn chúng
ta là một nơi cư ngụ lý tưởng cho Ngài hay là bằng những hành động tội lỗi,
chúng ta đã biến tâm hồn chúng ta thành một hang ổ trộm cướp?
68.
Đền thờ.
Những người quản lý đền
thờ, lúc ban đầu, có thể đã tổ chức bán chiên bò, chim bồ câu, hay đổi tiền đổi
bạc với tinh thần phục vụ, với ý hướng ngay lành là để giúp cho người lên đền
thờ có sẵn lễ vật, khỏi phải mang theo từ xa. Cũng là một thứ dịch vụ, thế
nhưng đồng tiền lại là một cái dốc, có thể nói được là êm ả và người ta cũng có
thể bị tuột trên cái dốc này một cách êm ả không hay biết.
Có biết bao nhiêu việc
khởi đầu là phục vụ, là cứu trợ, là bác ái, là từ thiện, là tôn vinh Chúa và
mưu ích cho các linh hồn, cho xã hội. Nhưng rồi theo hơi men của đồng tiền đã
biến thành chuyện kinh tài thuần tuý, chạy theo lợi nhuận, mưu cầu địa vị,
thanh danh hay quyền lực riêng cho mình. Lợi nhuận sẽ kéo theo gian dối, chèn
ép, bất hoà và bất công.
Và như chúng ta đã thấy,
đền thờ, mặc dù vẫn được coi là nơi thiêng liêng, nơi để con người hướng tâm
hồn lên trên những cái quen được gọi là trần tục, chóng qua, nơi giúp con người
tìm gặp cái vô giá, cũng có thể biến thành chợ búa, thành hang trộm cướp, nơi
người ta cãi cọ nhau, giành giật nhau.
Trước cảnh tượng như vậy,
cùng với lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa, Ngài đã lấy dây thừng làm roi để
xua đuổi phường buôn bán và quân đổi tiền ra khỏi đền thờ. Ngài đổ tung tiền
của họ xuống đất và xô nhào bàn ghế của họ.
Với chúng ta cũng thế, kể
từ khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, tâm hồn chúng ta đã trở nên như một đền thờ,
một gian cung thánh sống động, một nơi cho Thiên Chúa ngự trị. Thế nhưng, cùng
với thời gian, lòng đam mê tiền bạc, của cải vật chất đã xô đẩy chúng ta vấp
phạm hết tội này đến tội khác. Bởi vì như chúng ta thường nói: tiền bạc là một
tên đầy tớ tốt nhưng nó lại là một ông chủ hà khắc, khả dĩ bóp nghẹt những tình
cảm cao đẹp nhất của chúng ta.
Đúng thế, vì đam mê chạy
theo tiền bạc mà chúng ta sao lãng những bổn phận đối với Chúa. Vì đam mê chạy
theo tiền bạc, chúng ta sẵn sàng gian tham, chèn ép và đối xử bất công với
những người chung quanh. Vì đam mê chạy theo tiền bạc, chúng ta sẵn sàng ăn
trộm, ăn cắp, ăn gian, ăn quỵt, cũng như ăn hối lộ. Tất cả những tội lỗi phát
sinh từ lòng đam mê chạy theo tiền bạc ấy, đã biến tâm hồn chúng ta trở nên như
một cái chợ, một hang ổ trộm cướp, chứ không còn phải là một gian cung thánh,
một ngôi đền thờ sống động cho Chúa nữa.
Nếu như bây giờ Chúa bước
vào trong tâm hồn chúng ta thì liệu, Ngài sẽ vui mừng hay là sẽ nổi nóng vì tất
cả những sai lỗi đã làm cho tâm hồn chúng ta trở thành ô uế và nhơ nhớp?
69.
Xây dựng đền thờ Chúa ngự
Đền thờ là nơi con người
gặp gỡ Thiên Chúa và anh chị em. Người ta đến Đền thờ để tìm gặp sức mạnh của
Chúa, người ta đến Đền thờ để tìm sự an ủi nâng đỡ từ cộng đoàn anh em. Có thể
nói Đền thờ là nơi gặp gỡ của tình yêu thương. Vì thế, Chúa Giêsu muốn chúng ta
xây dựng Đền thờ mình trong tình yêu thương đúng nghĩa của nó.
Đối với người Do Thái, kể
từ thời vua Salomon, họ đã có được một ngôi Đền thờ, để làm nơi thờ phượng
Thiên Chúa. Như thế, Đền thờ Giêrusalem là nơi tập họp tôn giáo của người Do
thái từ mọi miền của đất nước vào dịp lễ vượt qua hằng năm, mừng kỷ niệm dân
Chúa được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, vượt qua biển đỏ về Đất Nước, để tạ
ơn, để xá tội, để xin ơn... Đền thờ Giêrusalem vừa cụ thể hóa sự hiện diện uy
nghiêm của Thiên Chúa vừa chính thức hóa việc phụng tự của cả dân tộc. Bởi đó,
Đền thờ là nơi Thiên Chúa ngự, là nhà cầu nguyện cho muôn dân, và không ngừng
mang tính chất thánh thiêng. Nhưng dần dần người ta đã ngang nhiên biến một
phần của nơi thánh thiện ấy thành nơi thương mại, tuy dù với lý do tốt đẹp bên
ngoài là để phục vụ việc tế tự. Họ đã biến nơi đó thành một cái chợ, thành một
hang ổ trộm cướp khiến Chúa Giêsu đã phải giận dữ, ra tay dọn dẹp và loan báo
ngày tận cùng sắp tới của chính Đền thờ.
Vừa bước vào Đền Thờ,
Chúa Giêsu đã chứng kiến cảnh tượng chướng tai gai mắt. Người ta buôn bán chiên
bò và trao đổi tiền bạc. Đám đông ồn ào náo nhiệt gây mất trật tự. Chúa Giêsu
vốn quý trọng Đền Thờ Giêrusalem. Ngài gọi đó là nhà Cha của Ngài, là nhà cầu
nguyện. Ngài không muốn nơi Thánh này trở thành cái chợ buôn bán. Ngài không
chấp nhận nhà của Cha Ngài bị xúc phạm. Chính tình yêu đã khiến Ngài nổi giận.
Ngài thấy cần phải thanh tẩy Đền Thờ, dù điều đó sẽ đưa Ngài đến chỗ thiệt
thân. Lòng nhiệt thành khiến Ngài thanh tẩy Đền thờ, Ngài không sợ nguy hiểm
khi phải ra tay dẹp loạn hầu thể hiện thánh ý Chúa Cha là Đền thờ phải là nơi
tôn nghiêm, thánh thiện. Không cầm mình được trước cảnh tượng Đền Thờ thiêng
liêng bị biến thành nơi thương mại như thế, Ngài thẳng tay đánh đuổi những kẻ
buôn thần bán thánh. Ngài thanh tẩy Đền thờ, Ngài đã xua đuổi con buôn, xô đẩy
lật nhào bàn ghế những người đổi tiền. Ngài yêu cầu mọi người trả lại cho đền
thờ sự thánh thiêng phải có, trả lại sự trong sáng cho nơi cầu nguyện, nơi gặp
gỡ của Cha Ngài và của mọi người.
Hành động thanh tẩy đền
thờ của Chúa Giêsu chắc chắn làm cho các trưởng tế khó chịu, bực tức, họ cho
Ngài là một kẻ phản động, vì Ngài không có chức tư tế, cũng chẳng có nhiệm vụ
nào trong Đền thờ. Vậy mà Chúa Giêsu đã kết án cách tổ chức của các trưởng tế
và gán cho mình một uy quyền trên họ. Ngài bãi bỏ việc phụng tự của họ. Ngài đã
tuyên bố: "Cứ phá hủy đền thờ này đi, trong ba ngày tôi sẽ xây dựng
lại." Các người Do Thái đã nghĩ ngay đến đền thờ bằng gạch đá, nhưng Chúa
Giêsu không có ý nói đến đền thờ bằng gạch đá mà là Đền thờ thân thể Ngài. Nghe
Ngài nói thế, các trưởng tế tỏ vẻ khó chịu ra mặt, họ biết Đền thờ đã được vua
Hêrôđê sửa sang, xây dựng mất 46 năm mới xong, thế mà bây giờ Ngài bảo phá hủy
đi và xây dựng lại chỉ trong ba ngày. Họ không tin lời Ngài. Họ cho rằng Ngài
nói phạm thượng.
Chúa Giêsu đã nói:
"Cứ phá hủy đền thờ này đi, trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại." Chúa
Giêsu muốn phá hủy nhưng gắn liền với xây dựng. Còn ngược lại các vị lãnh đạo
tôn giáo đang phá hủy mà cứ tưởng là mình đang xây dựng điều tốt đẹp. Chúa
Giêsu đã xua đuổi con buôn, xô đổ bàn ghế những người đổi tiền. Hay nói đúng
hơn Ngài dẹp bỏ trật tự cũ để xây dựng trật tự mới. Ngài phá hủy những gì gây
hại cho con người, gây cản trở mối hiệp thông giữa con người với Thiên Chúa và
với nhau. Vì thế, việc buôn bán đổi chác gây ồn ào trong Đền thờ mới phá hủy
đền thờ, làm cho Đền thờ không còn là đền thờ nữa; nó không còn là nơi gặp gỡ
Thiên Chúa và nhân loại. Trái lại nó trở thành nơi bóc lột, trộm cướp,... đang
làm hủy hoại tôn giáo thờ phượng Thiên Chúa của người Do Thái. Chính vì thế,
việc phá đổ giết chết là việc của giới lãnh đạo tôn giáo Do thái. Cần phải phá
hủy nó đi. Còn việc của Thiên Chúa là cần xây dựng lại Đền thờ mới, là cứu sống
và tái tạo tất cả trong Chúa Kitô Phục sinh. Để từ nay, Chúa Kitô trở thành
trung tâm phụng tự duy nhất. Trong Ngài, người ta sẽ "thờ phượng Thiên
Chúa trong Chân lý và Sự thật."
Người Do Thái tôn thờ
Thiên Chúa một cách vụ hình thức, máy móc. Họ nghĩ rằng dâng cúng vào Đền Thờ
nhiều tiền bạc, nhiều lễ vật là Chúa sẽ hài lòng, Thiên Chúa sẽ "xí
xóa" tội lỗi cho họ. Họ tưởng dùng của cải vật chất để có thể hối lộ được
Thiên Chúa. Từ suy nghĩ đó đã dẫn họ đến hành động sống bê tha tội lỗi; họ nghĩ
dù sống gian tà, độc ác, bất công với tha nhân đến thế nào đi nữa; họ sống tội
lỗi ngập đầu ngập cổ đi nữa nhưng chỉ cần đợi vào dịp đại lễ, vào dịp hành
hương lên Đền Thờ, họ sẽ dâng cúng thật nhiều tiền của thì họ nghĩ rằng mình sẽ
được tha thứ hết. Làm như thế họ vừa được bình an vừa được tiếng là mình đạo
đức. Điều này đã làm cho họ sống đạo bề ngoài mà không cần phải hoán cải đời
sống không tuân giữ giao ước Thiên Chúa nữa. Chính vì thế mà Chúa Giêsu thấy họ
cần dẹp bỏ cách thờ phượng cũ đó, để mang tâm tình mới, biết thờ phượng Thiên
Chúa trong tình yêu thương. Con người cần biết sống tương quan tình yêu với
Thiên Chúa và với nhau.
Trong cuộc sống, đôi khi
một số người trong chúng ta có quan niệm bổn phận đối với Thiên Chúa trong nhà
thờ tách rời khỏi bổn phận đối với tha nhân ngoài xã hội. Người ta chỉ lo đọc
thật nhiều kinh, dự nhiều lễ nhưng không biết yêu thương tha nhân đang ở chung
quanh mình. Thậm chí có nhiều người siêng năng đọc kinh và đi lễ nhưng khi về
nhà thì cứ chửi rủa hàng xóm, ghen ghét và nói xấu anh em mình. Chắc chắc điều
đó Chúa Giêsu không muốn rồi. Hay là, người ta không thể nhắm mắt đi lễ trong
khi bên lề đường có nhiều người đói khổ cần chúng ta giúp đỡ. Đền thờ phải là
nơi gặp gỡ Thiên Chúa và tha nhân. Đến Đền thờ, chúng ta cần biến đổi để trở
nên con người của sự hiệp thông, của tình bác ái yêu thương. Chúng ta cần xây
dựng ngôi đền thờ trong tình yêu thương, chia sẻ, trong đó mọi người biết sống
liên đới với nhau.
Mọi người chúng ta đều là
Đền thờ của Thiên Chúa ngự trị (Cv 7, 49 - 51; 1Cr 3, 16, 2Cr 6, 16). Thiên
Chúa muốn chúng ta sống hiên ngang như đền thờ Giêrusalem. Thiên Chúa muốn
chúng ta sống có lương tâm trong sạch để xứng đáng là Đền Thờ uy nghi cho Thiên
Chúa ngự. Thiên Chúa muốn chúng ta hãy xây dựng lòng mình bằng những ý nghĩ và
hành động yêu thương tha nhân để xây đựng Đền thờ thiêng liêng thờ phượng Thiên
Chúa.
Chính vì thế Chúa Giêsu
đã xác định, chính Ngài sẽ trở thành Đền thờ mà con người có thể gặp gỡ và thờ
phượng Thiên Chúa và Ngài cũng muốn rằng tất cả những ai tin theo Ngài cũng
phải trở nên Đền thờ thiêng liêng cho Thiên Chúa ngự trị. Chúng ta phải ra sức xây
dựng, trang hoàng và tô điểm chính cõi lòng con người mình để nó xứng đáng trở
nên một đền thờ của Thiên Chúa, xứng đáng nơi thể hiện tình yêu thương đối với
Thiên Chúa và với nhau.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho
chúng con biết sống hiệp thông trong tình yêu thương. Như thế là chúng con đang
xây dựng và trang hoàng ngôi đền thờ thiêng liêng và uy nghi thánh thiện cho
Thiên Chúa ngự. Chính nơi đó chúng con sẽ gặp gỡ được chính Chúa và gặp gỡ được
anh em mình. Amen.
70.
Đức Giêsu là chuẩn mực
1. Đừng làm nhà Cha Ta
thành nơi buôn bán
Không được biến đền thờ
thành nơi buôn bán. Đền thờ là nơi thờ phượng Thiên Chúa. Không tôn trọng nơi
tôn nghiêm, là không tôn trọng những người đang hiện diện hoặc đến đây thờ
phượng Thiên Chúa.
Người ta có thể lý luận
"những người buôn bán này đang làm một việc bác ái", họ tạo điều kiện
thuận tiện cho những người dâng lễ có của lễ để dâng kính Thiên Chúa. Thực ra
khi làm như vậy, họ đã đặt cái lợi về vật chất trên Thiên Chúa và coi thường
Thiên Chúa.
Mỗi người chúng ta là đền
thờ sống động của Thiên Chúa. Đừng biến thân xác mình, con người mình thành nơi
buôn bán, thành đối tượng buôn bán. Thân xác chúng ta là thánh vì thuộc về
Thiên Chúa. Chính Đức Yêsu cũng coi thân mình Ngài là đền thờ: "Cứ hủy đền
thờ này và trong ba ngày Ta sẽ xây lại"!
Nếu chúng ta để đam mê
thống trị mình, nếu chúng ta còn mê say tiền bạc, danh vọng, địa vị chức quyền,
thì Thiên Chúa không có chỗ nhất nơi chúng ta. Bài Tin Mừng còn giúp chúng ta
nhìn lại xem đâu là thái độ của tôi đối với thân xác, với sức khỏe, với con
người toàn diện của tôi?
Với đức Yêsu, Thiên Chúa
là nhất đối với Ngài. Ngài đã đánh đuổi những người buôn bán khỏi đền thờ, dù
bị những người có quyền hành không đồng ý và tra hỏi: "ông lấy quyền gì mà
làm như vậy?." Hôm nay Đức Yêsu đuổi họ ra khỏi đền thờ, nhưng ngày mai
thì sao? những người này có tiếp tục tôn trọng đền thờ không, hay mai họ vẫn
làm như cũ? Đức Yêsu vẫn làm điều phải làm. Ngài vẫn làm cho dầu bị người ta
ghét bỏ, cho dù người ta không vâng theo ngay trong ngày mai. Đức Yêsu sống
giây phút hiện tại cách trọn vẹn, bất chấp tất cả.
2. Chúng tôi rao giảng
Đức Kitô chịu đóng đinh thập giá
Cho dù người Hy Lạp coi
trọng và tìm kiếm khôn ngoan, cho dù người Do Thái sính phép lạ, thì Phaolô vẫn
"rao giảng Đức Yêsu Kitô chịu đóng đinh."
Cứ sự thường nếu không
đáp ứng mong ước, không thỏa mãn thị hiếu của người ta, thì sẽ thất bại! Ấy vậy
Phaolô vẫn rao giảng "Đức Yêsu Kitô chịu đóng đinh" cho dù không đáp
ứng mong ước của người đương thời. Sở dĩ vậy vì rao giảng "Đức Yêsu chịu
đóng đinh" là điều tuyệt đối cần thiết. Đức Yêsu chịu đóng đinh thập giá
là một giá trị, và là giá trị tuyệt đối.
"Đức Yêsu chịu đóng
đinh", đòi người ta xét lại cách sống của mình. Đức Yêsu đã chọn điều gì?
Tại sao Ngài bị đóng đinh? Tôi có cùng cách sống và chọn lựa với Đức Yêsu
không?
Rao giảng Đức Yêsu chịu
đóng đinh, là rao giảng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Nếu không
yêu, tại sao Thiên Chúa lại để Con của Ngài bị khốn khổ như vậy? Nếu không yêu,
tại sao Đức Yêsu phải chịu đau đớn khổ cực và ô nhục dường ấy?
Đức Yêsu chịu đóng đinh,
là niềm vinh dự, mối tự hào của mọi kitô-hữu. Đức Yêsu chịu đóng đinh, biểu
tượng và bằng chứng cho biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng.
3. Ta là Thiên Chúa,
ngươi không được...
Nội dung của thập giới là
gì? Hãy tôn thờ Thiên Chúa, thảo kính cha mẹ và yêu thương con người! Đừng xúc
phạm con người, đừng chà đạp nhân phẩm!
Tại sao tôi không được
làm điều này điều kia? Thập giới cho thấy khi tôi vi phạm lệnh cấm của thập
giới, là tôi xúc phạm con người và Thiên Chúa. Thập giới có là để bảo vệ con
người. Ngày sabbat được lập ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày
sabbat.
Luật Cựu Ước lấy con
người là chuẩn, còn luật Tân Ước lấy Đức Yêsu làm chuẩn. Luật Cựu Ước dạy
"hãy yêu thương tha nhân như chính mình", còn luật Tân Ước dạy:
"hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga. 13, 34-35).
Luật Cựu Ước cho thấy:
nếu xúc phạm con người sẽ bị xử, còn luật Tân Ước cho thấy: nếu không yêu
thương, sẽ bị xét xử (Mt. 25, 31tt).
Chính Đức Yêsu là Đấng
làm cho lề luật nên trọn "Ta đến không phải để phá hủy, nhưng để làm nên
trọn."
Xin cho chúng ta trở nên
giống Đức Yêsu trong mọi sự.
71.
Chúa Nhật 3 Mùa Chay
Anh chị em thân mến.
Có những lần tôi đi chợ,
len lỏi và đôi khi phải chen lấn để vượt lên phía trước, vậy mà cũng có những
lúc phải dừng lại. Quan sát kỹ, thì không phải những người đi chợ làm cho sự
lưu thông bị tắc nghẽn. Nhưng chính những người ngồi mới làm cản trở lưu thông.
Họ ngồi với một chướng ngại vật phía trước, chiếm một khoảng không gian rộng cùng
với những vật dụng trên đó. Họ kêu mời những người đi ngang qua, ghé mắt vào
những món hàng mà họ bày bán. Nhưng bổng nhiên, có một sự náo động và lưu thông
được dể dàng trở lại. Thì ra xuất hiện bóng dáng một người, mặc bộ đồ đặc biệt,
với chiếc băng vấn trên tay áo. Đây là người trong ban quản lý chợ, anh ta đi
để lập lại trật tự cho nơi buôn bán.
Công việc đó cứ diễn ra
mỗi ngày: Cứ có những người bán rong, và cũng vẫn phải có người lập lại trật
tự. Vì người ta chỉ biết tìm lợi ích riêng tư mà không nhìn thấy những ích lợi
chung, nên ban quản lý chợ cứ phải làm việc, phải đi, phải dẹp, để lập lại trật
tự.
Chúa Giêsu là người quản
lý đền thờ, còn hơn thế nữa, Ngài còn là chủ đền thờ. Ngài không thể chịu được
khi nhìn thấy đền thờ không có một chút trật tự nào hết. Đền thờ là nơi tôn
nghiêm mà giờ đây đã trở thành nơi ồn ào náo nhiệt của buôn bán. Đền thờ là nơi
cầu nguyện , mà giờ đây trở thành nơi trao đỗi và gian lận. Đền thờ là nơi dành
riêng cho Thiên Chúa, nơi để con người gặp gỡ Thiên Chúa, mà giờ đây con người
đã biến thành nơi của riêng mình để biếng thành nơi phục vụ cho lợi ích riêng
tư. Ngài mới lập lại trật tự trong đền thờ.
Đi xa hơn nữa, Ngài muốn
hướng con người đến ngôi đền thờ thật sự là tâm hồn của mỗi người. Đền thờ vật
chất, theo thời gian , nó chẵng còn giá trị và sẽ bị phá đỗ, vì nó là sản phẩm
do con người tạo nên, nó sẽ bị biến chất. Thiên Chúa không cần một đền thờ đã
bị biến chất. Ngài cần một đền thờ thật sự trong tâm hồn mỗi người, đền thờ đó
luôn phải xứng đáng với những gì mà Thiên đã xây dựng nên nó từ thuở ban đầu.
Nếu nó không xứng đáng, Ngài sẽ không ngần ngại dùng roi để lập lại trật tự cho
ngôi đền thờ của Ngài được xứng đáng hơn.
Có thực mới vực được đạo.
Câu nói mà bao nhiêu
người đã dùng nó để biện hộ cho những hành vi sai trái của mình. Biện hộ cho
hành vi lười biếng: nào là con nghèo khổ quá, không còn thời gian đến nhà thờ,
không thể giữ đạo được, không thể chăm sóc con cái cho tốt được. Nào là không
có thời gian để làm việc bác ái, không có thời gian để sống đạo cho tốt. Nhưng
cuối cùng là gì? chẵng qua là vì lười biếng, ích kỷ, muốn tìm những lợi lộc cho
bản thân mà chúng ta bất chấp tất cả. Chúng ta để ra bên ngoài tất cả những
luật công bằng, yêu thương, chúng ta cũng chẵng cần biết đến Thiên Chúa của
mình đã nói gì, đã dạy những gì.
Còn thân xác nầy, chúng
ta xem nó như là vật sở hữu riêng của chính mình, để rồi chúng ta tùy tiện xử
dụng nó vào bất cứ công việc gì cũng được, xấu có , tốt cũng có, ngay chính có,
mà bất chính cũng có. Chúng ta quên rằng thân xác nầy là do chính Thiên Chúa
dựng nên, và thân xác nầy là đền thờ cho Thiên Chúa ngự. Do đó chúng phải có
bổn phận gìn giữ thân xác luôn tốt đẹp để xứng đáng đón rước Chúa. Nếu giờ nầy
Chúa đến viếng ngôi đền thờ của mỗi người chúng ta, thử hỏi Ngài có thể yên tâm
ngự trong đó cách thoải mái được không? Hay Ngài phải giận dữ tìm một chiếc roi
để dẹp tất cả những chướng ngại vật đang ngổn ngang trong ngôi đền thờ nầy.
Chúng ta thử nhìn lại
xem, giờ nầy cái gì đang thống lĩnh và chiếm hết tâm hồn của mình. Có phải là
Thiên Chúa mà chúng ta hằng tôn thờ hay là chúng ta đã đem Thiên Chúa để bên
ngoài , còn hiện tại, chúng ta đang tôn thờ cái gì? Có phải là tiền bạc, hay
địa vị chức quyền, hoặc những đam mê nào khác. Để tất cả những cái đó thống
lĩnh cuộc sống và điều khiển tất cả mọi hành động của chúng ta. Con tim đã chay
lì khô cứng, ngôi đền của Thiên Chúa không còn được một trật tự tốt đẹp nữa.
Thiên Chúa sẽ đánh đổ những tiền bạc, tẩy chay dọn sạch những gì đang được bày
biện trong tâm hồn chúng ta để Ngài tái lập trật tự cho ngôi đền thờ của Ngài.
Đó là những lúc chúng ta gặp thất bại với những toan tính bất chính, và cũng là
những lúc công việc làm ăn không được thuận lợi, mặc dù mình đã cố gắng hết
sức. Những lúc đó chúng ta có biết nhớ đến Chúa, nhìn lại chính mình, thì thật
hạnh phúc biết bao.
Xin Chúa ban ơn giúp cho
mỗi người được trở nên xứng đáng là ngôi đền thờ cho Thiên Chúa ngự.
72.
Đền thờ vật chất, đền thờ tâm hồn
1. Một ngày kia tôi đi xa,
khi trở về thì thấy ở vách tường phía trước phòng ở đầy những vết dơ do một số
em nhỏ có lẽ do vô ý thức đã chọi những trái bàng vào vách tường, làm mủ dính
gây bẩn, điều này làm tôi khó chịu, cho nên mau mau đi chùi rửa. Có thể nói, đó
là tâm lý chung của mọi người, ai cũng muốn giữ sạch sẽ nơi mình ở, dù chỉ là nơi
ở tạm. Vì thế, chúng ta chẳng ngạc nhiên gì khi thấy Chúa Giêsu giận dữ xua
đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ Giêrusalem, nơi Ngài xem đó là nhà
Cha của Ngài.
Qua hành động này Chúa
muốn nhắc nhở chúng ta điều gì? Phải chăng Ngài ước muốn chúng ta quan tâm chăm
sóc, trân trọng đối với ngôi nhà Thiên Chúa: ngôi nhà vật chất là nơi thờ
phượng cũng như đền thờ thật của Thiên Chúa là tâm hồn của chúng ta.
2. Người Do thái thời Chúa
Giêsu họ có rất nhiều hội đường, một cộng đoàn Do thái khá đông là có thể có
một hội đường, để các ngày lễ, ngày Sabbat họ tựu lại để cầu nguyện, học hỏi
Lời Thiên Chúa. Nhưng chỉ có một đền thờ chính thức, duy nhất ở Giêrusalem. Đền
thờ Giêrusalem được gọi là Đền thánh vì là nơi tượng trưng cho Thiên Chúa ngự.
Những dịp lễ lớn người Do thái có thói quen hành hương về Đền thờ Giêrusalem.
Theo tục lệ, khách hành
hương lên Đền thờ phải dâng của lễ, người giàu thì thường dâng bò hay chiên, kẻ
nghèo thì một cặp bồ câu. Dân buôn bán lợi dụng đem bày bán những thứ này ngay
ở sân Đền thờ cho khách hành hương. Luật Do thái cũng buộc người đàn ông hằng
năm phải nộp thuế cho đền thờ nữa (1/2) đồng tiền của người Do thái. Tiền Lamã
lúc ấy rất thông dụng, nhưng vì in hình vua ngoại đạo, nên không được lưu hành
trong Đền thờ. Vì thế con buôn cũng lợi dụng đổi chác tiền bạc để kiếm lời.
Đền thờ Giêrusalem đã bị
tục hoá, biến thành cái chợ, không hơn không kém. Việc phụng tự đã trở nên tấm
bình phong để người ta tìm kiếm những lợi lộc vật chất, là nơi để người ta phô
trương... Đứng trước tình trạng tục hóa, Đức Giêsu rất đau lòng, không nén nổi
cơn thịnh nộ, Ngài đã ra tay hành động để nhắc nhở về việc thờ phượng đích thực
và trả lại cho Đền thờ sự tôn nghiêm cần thiết phải có của nó.
3. Giờ đây, qua đoạn Phúc Âm
này, Ngài cũng nhắc nhở chúng ta cần có một sự quan tâm, trân trọng chăm sóc
đối với đền thờ của Thiên Chúa: đền thờ vật chất cũng như đền thờ thật của
Thiên Chúa là con người của chúng ta:
* Trước hết đó là đền thờ
vật chất. Chúa Giêsu đã sử dụng nhiệt tâm và cả sức mạnh thể lý để bênh vực bảo
vệ "Nhà Cha." Cũng vậy, chúng ta cũng phải biết vận dụng mọi khả năng
của chúng ta để: xây dựng, gìn giữ nơi thờ phượng; tham gia những sinh hoạt của
Giáo Hội để làm sáng danh Chúa.
* Kế đến cùng xây dựng
Đền thờ thật của Thiên Chúa. Xây dựng, chăm sóc cho ngôi nhà thờ hữu hình, tích
cực xây dựng Giáo hội là cần thiết, nhưng chưa đủ; mỗi Kitô hữu chú tâm xây
dựng con người mình thành nơi thờ phượng đích thực của Thiên Chúa.
Nhờ Bí tích Rửa tội, thân
xác của mỗi chúng ta được trở nên Đền thờ Chúa Ba Ngôi, thế mà nhiều lần đã trở
nên nhơ uế khi chúng ta suy nghĩ, nói năng và hành động theo thói thế gian,
chiều theo tính xác thịt của mình thay vì theo ý Thiên Chúa. Đó chính là những
cản trở làm Chúa khó đến với ta. Chúa Giêsu cũng giận dữ nói với mọi người
chúng ta: "Hãy đem những thứ nầy đi khỏi đây" cho khuất mắt Ta. Chúng
ta nghĩ sao? Khi nơi ta ở dơ bẩn thì cảm thấy khó chịu, lẽ nào ta lại cam chịu
để tâm hồn chúng ta đầy vết nhơ tội lỗi!
Không riêng gì bản thân
mọi người, mà gia đình Kitô hữu, cũng được mời gọi trở nên đền thờ của Thiên
Chúa. Liệu trong ngôi đền thờ ấy các thành viên có biết yêu thương, khoan dung
đối với nhau không? Nếu có được những điều đó là dấu hiệu Thiên Chúa ngự trị,
rất đáng mừng. Ngược lại, khi để những thứ ngẫu tượng khác ngự trị như: ích kỷ,
hận thù, gian dối thật là điều đáng buồn.
Lạy Chúa, xin cho chúng
con nhận ra rằng gia đình chúng con, thân xác chúng con là hình bóng Giêrusalem
trên trời, để chúng con không những biết dọn dẹp, trang hoàng ngôi nhà thờ vật
chất mà điều cần thiết hơn là phải làm đẹp nội tâm của chúng con ngay từ bây
giờ, nhất là trong những ngày chay thánh này. Amen.
73.
Đền thờ
Sau khi nghe đoạn Tin
Mừng, chúng ta không khỏi băn khoăn và tự hỏi: Tại sao Chúa Giêsu lại hành động
như thế. Thực vậy, công việc của những người buôn bán và đổi tiền là công việc
đem lại lợi ích cho đền thờ và thuận tiện cho khách hành hương.
Theo luật lệ qui định,
thì vào những dịp lễ lớn, người Do Thái phải lên đền thờ để chu toàn bổn phận
thờ kính đối với Đức Giavê. Họ từ khắp các miền trong nước cũng như ngoài nước
hành hương trở về Giêrusalem. Cũng trong những dịp này, họ phải dâng lễ vật và
đóng thuế cho đền thờ. Lễ vật có thể là chiên bò hay chim bồ câu, tùy khả năng
tài chính của mỗi người. Bởi đó, muốn dâng cúng tiền thì phải đổi ra tiền thông
dụng tại Giêrusalem. Muốn có những lễ vật thì phải có những nơi để mua sắm.
Biết đâu, chính Mẹ Maria và thánh Giuse cũng đã mua ở đấy cặp chim bồ câu khi
dâng tiến Chúa vào đền thờ.
Xem như thế thì những kẻ
mua bán đổi chác không những không có hại mà còn đem lại hoa lợi và bổng lộc
cho đền thờ. Hơn nữa, mặc dù Kinh Thánh có nói đến cơn giận của Thiên Chúa,
nhưng cơn giận ấy không phải sẽ được biểu lộ theo kiểu này và trong một hoàn
cảnh cụ thể như thế, vì Chúa Giêsu ở mọi nơi và trong mọi lúc vẫn là Thiên Chúa
của lòng từ nhân và bao dung, như lời Ngài đã từng phán: Các con hãy học cùng
Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường.
Vậy thì đâu là ý nghĩa,
đâu là mục đích mà Chúa Giêsu muốn nhằm tới? Nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy khi
đánh đuổi phường buôn bán, Chúa Giêsu đã làm một hành động có tính cách tiên
tri, một biểu tượng nhằm đưa chúng ta đến một ý nghĩa khác thâm thúy và cao xa
hơn. Các nạn nhân của Ngài cũng đã hiểu được thâm ý ấy nên đã vặn hỏi Ngài: Ông
có thể đưa ra dấu hiệu nào để biện minh cho hành động của ông? Và Chúa Giêsu đã
đưa ra dấu hiệu để biện minh, dấu hiệu này mãi về sau các tông đồ mới hiểu
được: thân xác Ngài sẽ chết, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Và như vậy,
Ngài muốn nói lên rằng chính Ngài là Đấng Thiên sai, là Đấng sẽ đến để cứu
chuộc dân Ngài.
Với tư cách là Thiên sai,
Chúa Giêsu đã bất bình với phường buôn bán và đổi chác, không phải vì hành động
của họ, mà chính vì quan niệm sai lạc của họ. Họ lên đền thờ với thái độ tự
mãn.
Với tiền bạc, họ có thể
mua được những lễ vật. Và khi đã dâng lễ vật thì họ có cảm tưởng như là đã trả
nợ cho Thiên Chúa, họ thảnh thơi ra về vì đã chu toàn lề luật và có quyền ngồi
chờ Thiên Chúa thi ân đáp lễ. Họ đã cậy vào uy lực của tiền tài chứ đâu có cậy
nhờ vào Chúa.
Dấu hiệu Chúa Giêsu đưa
ra: Ngài sẽ phải chết nhưng sau ba ngày Ngài sẽ sống lại. Đó mới chính là cái
uy lực thực sự mà con người phải bấu víu, phải nương tựa vào.
Qua hành động của mình,
Chúa Giêsu đã đưa con người từ quan niệm về uy lực trần tục tới quan niệm về uy
lực của Thiên Chúa. Đó chính là một cuộc canh tân, đổi mới tận gốc rễ. Ước chi
trong Mùa Chay, chúng ta hãy nhìn lại đời sống xem chúng ta đã nghĩ gì và đã
thực hiện cuộc đổi mới này như thế nào.
74.
Chúa Nhật 3 Mùa Chay
Thưa Quý ông bà anh chị
em! Nếu đặt bài Phúc âm của ngày Chúa nhật vừa rồi và bài Phúc âm của ngày Chúa
nhật này nằm kề với nhau, thì có lẽ là chúng ta sẽ cảm thấy ngỡ ngàng. Ngỡ
ngàng không phải là vì chúng ta nhìn thấy được những nhân vật siêu phàm hay
những bài học chí lý cho cuộc sống; Thế nhưng chúng ta ngỡ ngàng trước sự thay
đổi đột ngột của dung mạo đức Giêsu. Chúa nhật vừa rồi chúng ta đã cùng với
Phêrô, Gioan và Giacôbê, hãnh diện chiêm ngắm một Đức Giêsu vinh hiển, sáng
láng, rạng ngời. Sự vinh hiển ấy, mặc dù chúng ta không tận mắt chứng kiến,
nhưng chúng ta cũng có thể cảm nghiệm được phần nào khi nghe các môn đệ này thổ
lộ niềm vui và hạnh phúc của mình: "Thưa Thầy! Nếu được ở mãi nơi này tốt
quá."
Còn Chúa nhật hôm nay thì
sao? Có lẽ là chưa bao giờ chúng ta nhìn thấy cung cách ứng xử của Chúa Giêsu
lạ lùng, nếu không muốn nói là bộp chộp nóng nãy như ngày hôm nay. Thánh Gioan
thuật lại là hôm ấy, nhân dịp đại lễ Vượt Qua sắp tới, Chúa Giêsu cũng có mặt ở
Giêrusalem như mọi người theo luật đã định. Thế nhưng lần này, khi bước vào Đền
thờ, dường như Người không còn tự chủ được nữa. Đền thờ từ muôn thuở vẫn được
coi là biểu tượng duy nhất cho sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Người, là
nơi để người ta cầu nguyện gặp gở Chúa. Thế mà giờ đây, nó đã không hơn không
kém một cái chợ: ồn ào, mua bán, đổi chác, gian lận, bóc lột. Người ta tụ họp
lại nơi đây không còn giống như ngày trước, khi ở chân núi Sinai, lúc Thiên
Chúa ban mười điều răn mà bài đọc Cựu Ước hôm nay đã kể lại một cách linh
thiêng cảm động. Lòng nhiệt thành vì Nhà Chúa đã khiến Người giận dữ đánh đuổi
tất cả mọi thứ ra khỏi đền thờ: "Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây!
Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán."
Hai hình ảnh hoàn toàn
trái ngược nhau về con người của Đức Giêsu. Phải chănglà Giáo hội đã không suy
nghĩ, không tiên liệu trước, khi đặt hai câu chuyện này gần nhau, để vô tình
gây nên một sự ngỡ ngàng như đã nói ở trên? Thưa không! Nếu đọc hai câu chuyện
này trong tinh thần và trong ý nghĩa của Mùa Chay, thì không những là không đối
chọi nhau; Mà ngược lại, hai câu chuyện ấy còn bổ túc cho nhau, làm nên một gợi
ý liên tục và chính xác trong việc sống Mùa Chay. Rõ ràng là nếu như trong ngày
Chúa nhật vừa rồi, chúng ta nghe Chúa Giêsu dạy rằng: muốn đạt tới vinh quang
thì phải bước lên con đường thập giá; Muốn có được hạnh phúc thì phải vượt qua
con đường của sự đau khổ, thì trong bài phúc âm hôm nay, thập giá ấy, sự đau
khổ mà mình phải vượt qua ấy chính là việc tỉa gọt, đổi mới con người và cung
cách sống đạo của mình, mà việc thanh tẩy Đền thờ của Chúa Giêsu là hành động
biểu tượng.
Thưa anh chị em! Chính
thái độ quyết liệt của Đức Giêsu trong bài Phúc âm hôm nay, đòi buột chúng ta
là những người thường xuyên có mặt trong ngôi nhà thờ này, phải duyệt xét lại
thái độ của chính mình. Chắc chắn rằng Chúa không bao giờ xua đuổi những con
người thành tâm thiện chí, mà Người chỉ loại trừ những nếp sống giả hình: Lời
nói và việc làm không đi chung với nhau. Mỗi người chúng ta hãy tưởng tượng
xem; Nếu bây giờ Chúa có mặt ở đây, thì Người sẽ nói với chúng ta điều gì:
"Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, hãy vào hưởng hạnh phúc với chủ ngươi!,
hoặc chổ khác "Hỡi bọn giả hình khéo léo kia, các ngươi hãy ra khỏi đây,
đừng biến nhà Cha Ta thành nơi chợ búa!"
Ai trong chúng ta cũng
biết rằng nhà thờ là nơi thánh thiêng để tôn thờ, cầu nguyện và gặp gỡ Thiên
Chúa. Thế mà rất nhiều lúc chúng ta cũng nhận thấy rằng: không khí chợ búa
dường như cũng còn man mác đâu đó, khi mà chúng ta đến nhà thờ trong thái độ mà
người ta gọi là "mắt trước mắt sau." Mình phải xuất hiện với bộ trang
phục nào cho đúng mốt, với kiểu tóc nào cho sành điệu. Vâng! Chúng ta phải nhìn
nhận rằng: không có một kiểu quần áo nào là xấu cả, nhưng chính nó sẽ làm cho
mình quê mùa khó coi khi chúng ta xử dụng nó ở những nơi không thích hợp. Chẳng
ai khoác lên mình bộ áo dài gấm Thái Tuấn hay veston để đi tắm biển, và cũng
chẳng ai đến công sở làm việc với bộ đồ ngủ. Vậy thì tại sao chúng ta không can
đảm chọn cho mình, hay giúp con cái chọn lấy một bộ quần áo thích hợp mỗi khi
bước vào ngôi nhà thánh thiêng này. Rồi nhà thờ là nơi mà chúng ta chính thức
được nghe Lời Chúa: "Các con đừng xét đoán nhau"; Nhưng rất nhiều khi
chúng ta vô tình làm cho nó trở thành một nơi để đánh giá lòng đạo đức của
người khác: người này thế này, người kia thế nọ. Và cũng chính vì chúng ta đã
làm sai đi cái ý nghĩa tốt đẹp của nó mà nhiều lúc chúng ta đến nhà thờ là để
thắp sáng hào quang cho mình hơn là cho Chúa. Chúa không cần đến nhà thờ; mà
chỉ có chúng ta mới cần nhà thờ. Và rồi con người cũng chẳng cần gì đến nhà thờ
nếu họ sống xa lạ, nếu họ đối xử lạnh nhạt với nhau. Điều đó hàm chứa một lời
xác định rằng: Nhà thờ chỉ là nhà thờ đúng nghĩa khi nó là trung tâm điểm để
dân Chúa được hiệp thông với nhau.
Thưa anh chị em! Bước vào
Chúa nhật thứ ba Mùa chay này, chúng ta có được một cơ hội thật tốt để nhìn lại
mối liên hệ của mình đối với ngôi nhà thờ hữu hình này. Đồng thời cũng được mời
gọi làm mới lại ngôi nhà thờ thiêng liêng là chính con người của mình:
"Nào anh em chẳng biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa sao?." Vậy
chúng ta hãy làm noi gương Đức Giêsu làm mới ngôi đền thờ hữu hình bằng cách
trả lại cho nó tất cả sự tôn nghiêm thánh thiện qua cung cách và thái độ của
mình mỗi khi bước vào ngôi nhà này. Hãy noi gương Đức Giêsu làm mới lại ngôi
đền thờ thiêng liêng là chính con người của mình bằng cách mỗi ngày cố gắng
thay thế những tham vọng, bất trung, ghen ghét, hận thù bằng lòng khoan dung,
khiêm tốn, thông cảm và thứ tha. Thực hiện tốt hai mối liên hệ này là chúng ta
đang sống đúng tinh thần của Mùa Chay, đang bước đi trên con đường dẫn tới sự
sống đời đời.
75.
Đền thờ đích thực
Tin Mừng Gioan thuật lại
Đức Giêsu xua đuổi những người buôn bán chiên bò, chim câu và những người đổi
tiền ra khỏi đền thờ."Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến
nhà Cha tôi thành nơi buôn bán" (Ga 2,16). Thái độ quyết liệt của Đức
Giêsu đòi chúng ta phải xét lại chính mình. Bởi vì, Người không muốn nhà Cha
của mình bị xúc phạm, nơi thánh thiêng trở thành cái chợ.
Tuy nhiên, Nhà thờ là nơi
qui tụ các kitô hữu họp nhau lại để cầu nguyện, học hỏi, chúc tụng ngợi khen
Chúa, lãnh nhận các bí tích và nhất là tham dự Thánh Lễ để gặp được Chúa. Nhờ
bí tích Thánh Tẩy, tất cả chúng ta được trở nên Đền Thờ của Thiên Chúa. Thiên
Chúa không chỉ ngự trong những Đền Thờ do tay con người làm ra, đặc biệt Người
còn ngự trong linh hồn đã được dựng nên giống hình ảnh của Người và do chính
tay Người dựng nên. Vì thế, Thánh Phaolô Tông Đồ nói rằng: "Đền Thờ Thiên
Chúa chính là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em."
Ngày nay, nhà thờ được xây
dựng nguy nga, tráng lệ, được trang bị khá nhiều tiện nghi để mọi người thoải
mái cầu nguyện, đọc kinh xem lễ. đây là điều rất đáng mừng vì đã có nơi để mỗi
người dể dàng tìm gặp Chúa. Điều cần chú ý là làm thế nào để ai cũng có thể gặp
gỡ tâm sự và lắng nghe Chúa chỉ bảo qua bầu khí thanh tịnh và ấm áp trong nhà
thờ. Nhưng đền thờ đích thực chính là tâm hồn của chúng ta. Vì thế, chúng ta
phải biết tôn trọng với chính bản thân của mình. Nghĩa là luôn giữ cho tâm hồn
thanh sạch, trong sáng không chìu theo những dục vọng của xác thịt. vì tất cả
những điều ấy làm cho tâm hồn ta không còn xứng đáng là nơi Thiên Chúa ngự.
cũng như phải có thái độ cung kính, tôn thờ và yêu mến mỗi khi tôi bước vào nhà
thờ. Mỗi người trong chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa, và là đền thờ nơi
Thiên Chúa ngự, nên cần phải dọn lòng mỗi khi rước Chúa. Lời Chúa hôm nay mời
gọi mỗi người hãy trở nên đền thờ đích thực cho Ngài ngự vào. Muốn vậy, ta cần
phải biến đổi con người của mình không chỉ nơi hình thức bên ngoài mà cả trong
tâm hồn: trong cách nhìn sự vật, trong cách đánh giá người khác...
Noi gương Thầy Giêsu:
"Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa..."(Ga 2,17). Hãy làm mọi việc vì lợi
ích của người khác chứ không vì bản thân của mình. Đừng đánh giá nhau qua hình
thức bên ngoài, nhưng qua tấm lòng nhân ái vì mọi người: Thánh Phaolô viết, chỉ
có tình yêu đích thực mới giúp ta vượt qua những gian nan, khó nhọc, cay đắng,
tủi nhục xảy đến trong cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu mùa chay
là dịp thuận tiện, là cơ hội để con sám hối và quay về với Chúa. Xin cho con
đừng tự mãn với những gì mình đã đạt được , nhưng giúp con canh tân con người
của mình để mỗi ngày con xứng đáng là đền thờ của Chúa hơn. Amen.
76.
Con người và Đền Thờ
Kể từ thời vua Salomon,
dân Do Thái đã có được một ngôi đền thờ, để làm nơi thờ phượng Thiên Chúa.
Nhưng ngôi đền thờ ấy đã sớm trở thành duyên cớ cho họ phạm tội, bởi vì họ đã
biến nơi đó thành một cái chợ, thành một hang ổ trộm cướp, khiến Chúa Giêsu đã
phải giận dữ, ra tay dọn dẹp và loan báo ngày tận cùng sắp tới của chính đền
thờ.
Vẫn biết rằng Thiên Chúa
coi trọng lòng nhân từ hơn của lễ, nhưng người Do Thái, đứng đầu là hàng tư tế,
lại nhấn mạnh tới những nghi lễ rườm rà và tốn kém bên ngoài. Chính vì thế có
lần bên bờ giếng Giacóp Ngài đã xác định: Phải thờ phượng Thiên Chúa trong tinh
thần và trong chân lý. Vấn đề không còn là phải thờ phượng Thiên Chúa trên núi
này hay núi nọ, trong đền thờ này hay đền thờ kia, mà là thờ phượng trong tinh
thần và chân lý. Hay nói đúng hơn, kể từ nay, chính Chúa Giêsu sẽ trở thành đền
thờ nơi mà con người có thể gặp gỡ và thờ phượng Thiên Chúa và Ngài cũng muốn
rằng tất cả những ai tin theo Ngài cũng phải trở nên đền thờ thiêng liêng cho
Thiên Chúa ngự trị. Như thế, chúng ta thấy con người cao trọng hơn đền thờ. Cho
nên nỗi ưu tư số một là phải lo làm sao cho có những người thờ phượng Thiên
Chúa đích thực, chứ không phải là lo làm sao cho có những đền thờ lộng lẫy. Con
người nếu biết thờ phượng Thiên Chúa đích thực, thì có thể thờ phượng Ngài ở
bất kỳ nơi nào và bất kỳ lúc nào cũng được.
Trái lại, người ta có thể
xây những nhà thờ cao đẹp, mà trong đó lại chẳng có một ai thờ phượng Thiên
Chúa, hay tệ hơn nữa, có người hiện diện trong đó, nhưng lại chỉ thờ phượng
Thiên Chúa bằng môi bằng miệng mà thôi, còn cõi lòng họ thì lại xa cách Thiên
Chúa.
Ngày xưa vua Đavid đã
từng ước mơ xây đền thờ cho Thiên Chúa, nhưng Ngài lại phán cùng vua: Ngươi mà
lại xây nhà cho Ta ở hay sao? Thật vậy, từ ngày Ta đưa con cái Israel ra khỏi
Ai Cập cho tới hôm nay, Ta đã không ở trong một ngôi nhà, nhưng Ta đã nay đây
mai đó trong một chiếc lều và trong một nhà tạm.
Thiên Chúa đâu cần nhà để
ở, bởi vì trời là ngai của Ngài và đất là bệ chân của Ngài. Chúa Giêsu trong
cuộc sống, tuy mang tiếng là một bác thợ mộc, có lẽ chỉ là thợ làm nhà cho
người khác, còn chính bản thân thì lại sinh ra trong chuồng bò, vất vưởng bên
Ai Cập, lớn lên trong căn nhà của thánh Giuse, cuối cùng trở thành một người
lang thang không cả chốn tựa đầu và chết ở trên cây thập giá, được an táng
trong ngôi mộ của người khác. Sống không cần nhà cửa, không cần địa chỉ, thì
nay sau khi đã Phục sinh liệu Ngài có cần những đền đài lộng lẫy hay không?
Trải qua dòng thời gian,
Kitô giáo cũng đã đi vào dấu vết của mọi tôn giáo khác, đó là xây thật nhiều
đền thờ. Thực ra đền thờ cũng rất cần thiết. Cần thiết cho chúng ta chứ không
phải là cần thiết cho Thiên Chúa. Đền thờ bằng gỗ đá sẽ bị mai một với thời
gian nhưng đền thờ thiêng liêng bằng chính con người thì sẽ tồn tại mãi mãi.
Bởi đó, cùng với công việc tu bổ kiến thiết ngôi thánh đường này, chúng ta còn
phải ra sức xây dựng, trang hoàng và tô điểm chính là cõi lòng con người để nó
xứng đáng trở nên một đền thờ của Thiên Chúa.
77.
Đền thờ
Chúa Giêsu đã xác định rõ
đền thờ là nơi dành riêng cho việc thờ phượng và cầu nguyện. Đây không phải là
chỗ để giao dịch buôn bán. Tuy nhiên, ngày nay người ta dễ đánh mất cảm thức về
việc tôn kính Nhà của Thiên Chúa. Trong thời đại của điện thoại di động, chúng
ta càng phải cẩn trọng và có trách nhiệm gìn giữ sự tôn nghiêm của những nơi
dành riêng cho sự thờ phượng. Không có lý do nào có thể biện minh cho việc sử
dụng di động trong nhà thờ. Tôi nghĩ rằng việc đem điện thoại di động vào trong
nhà thờ là hoàn toàn không thích hợp, vì chúng ta cần phải hết sức tôn kính
Chúa Giêsu Thánh Thể đang ngự trong nhà tạm. Chúng ta hoặc là vào nhà thờ để
cầu nguyện hoặc đừng vào. Chúng ta dành thời giờ đến nhà thờ là để cầu nguyện,
sống thân tình với Thiên Chúa hoặc đừng đến nhà thờ. Nếu chúng ta đem điện
thoại di động vào nhà thờ nó sẽ trở thành tác nhân gây chia trí, ngăn cản việc
cầu nguyện của chúng ta.
Với tư cách là một linh
mục, trong thánh lễ, tôi đứng ở một vị trí thuận lợi trên cung thánh và nhìn
xuống dân chúng ở phía dưới, tôi thấy nhiều người không chú tâm đủ đến việc cử
hành bí tích Thánh thể. Theo tôi, họ chưa chu toàn đầy đủ bổn phận tham dự
thánh lễ ngày Chúa nhật.
Điều này liên quan đến
vấn đề tôn kính Thiên Chúa. Đã đến lúc chúng ta đừng để mình làm nô lệ cho các
phương tiện kỹ thuật và phải khẳng định khả năng kiểm soát việc sử dụng chúng.
Chúng ta hãy tôn kính nhà thờ là nơi dành riêng cho việc thờ phượng và cầu
nguyện, chúng ta hãy bỏ điện thoại di động ở nhàkhi đi tham dự thánh lễ. Tôi
quả quyết với bạn, trái đất này vẫn tiếp tục quay, cho dù bạn không để điện
thoại di động trong túi áo của bạn. Trái đất cũng chẳng dừng lại cho dù bạn
không trả lời các tin nhắn khi chúng được gửi đến cho bạn.
78.
Thanh tẩy
Đền thờ Giêrusalem đầu
tiên được vua Salomon xây dựng rất đồ xộ, vĩ đại và cũng rất nguy nga, tráng
lệ, đây là một công trình quý giá vào bậc nhất thời bấy giờ, phải huy động mỗi
ngày cả trăm ngàn công nhân và bảy năm mới hoàn thành, đền thờ này đứng vững
được 400 năm thì bị Nabucô, vua nước Babylon phá hủy vào năm 587 trước Công
nguyên. Sau thời gian lưu đầy Babylon, Giôrôbaben kiến thiết lại đền thờ, nhưng
thô sơ thôi. Đến thời Hêrôđê đại vương, ông cho trùng tu lại toàn bộ đền thờ,
rất vĩ đại và nguy nga lộng lẫy, mỗi ngày có 18. 000 thợ làm việc, không thể
ước tính được số kinh phí, khởi công từ năm 20 trước Công nguyên mãi đến năm 63
sau Công nguyên mới xong, đền thờ này cũng bị tàn phá bình địa vào năm 70 do
tướng Titô của Rôma tấn công.
Đền thờ rất vĩ đại, chia
ra từng khu cho từng loại người: ngoài cùng là khu dành cho người ngoại giáo
đến tham quan đền thờ, rồi đến khu dành cho phụ nữ, rồi đến khu dành cho nam
giới, khu thiêu sinh các của lễ, khu dành cho tư tế, rồi đến bàn thờ dâng
hương, trong cùng là nơi cực thánh, đặt hòm bia 10 điều răn, tượng trưng sự
hiện diện của Thiên Chúa ở đây.
Đối với người Do Thái,
đền thờ là trung tâm tôn giáo của dân tộc, vừa cụ thể hóa sự hiện diện uy
nghiêm của Thiên Chúa vừa chính thức hóa việc phụng tự của cả dân tộc, bởi đó,
đền thờ là nơi Thiên Chúa ngự, là nhà cầu nguyện cho muôn dân, và không ngừng
mang tính chất linh thiêng thánh thiện. Nhưng dần đà người ta đã ngang nhiên
biến một phần của nơi thánh thiện ấy thành nơi buôn bán và trao đổi tiền bạc,
dĩ nhiên với lý do tốt đẹp bên ngoài là để phục vụ việc tế tự. Quang cảnh ấy đã
làm Chúa Giêsu khó chịu, nổi giận, Ngài yêu cầu mọi người trả lại cho đền thờ
sự thánh thiêng phải có.
Bài Tin Mừng kể lại việc
Chúa Giêsu xua đuổi những người buôn bán và trao đổi tiền bạc ở đền thờ
Giêrusalem, hành động này của Chúa được gọi là hành động thanh tẩy đền thờ,
nhưng làm cho giới lãnh đạo Do Thái giáo khó chịu và hạch hỏi Chúa, nhân cơ hội
này Chúa dạy bảo cho họ biết một điều rất quan trọng về cái chết và sự phục
sinh của Ngài.
Từ khi lên 12 tuổi và
suốt thời gian ẩn dật, hàng năm Chúa Giêsu đều lên đền thờ Giêrusalem dự lễ,
tại sao Ngài không đuổi những người buôn bán trong đền thờ mà lại làm bây giờ,
khi sắp kết thúc cuộc đời trần gian của Ngài? Vì bây giờ Ngài vào nhà Thiên
Chúa không phải với tư cách một người hành hương nhưng với tư thế của một Đấng
Thiên Sai, Con Thiên Chúa, Ngài vào đó và chính thức can thiệp với tư cách quản
lý và chủ nhân. Dĩ nhiên trong những lần hành hương trước, chắc chắn Chúa Giêsu
đã lấy làm chướng tai gai mắt cái cảnh buôn bán, biến nơi cầu nguyện thành chợ
búa, ồn ào, thành hang trộm cướp, bây giờ chính thức lãnh lấy trách nhiệm chu
toàn công việc của Chúa Cha, Ngài phải chấm dứt ngay cảnh lộn xộn đó. Lòng
nhiệt thành vì Cha đã khiến Ngài dùng mọi phương thế hữu hiệu nhất để thanh tẩy
đền thờ, Ngài không sợ nguy hiểm khi phải ra tay dẹp loạn hầu thể hiện thánh ý
Chúa Cha là đền thờ phải là nơi tôn nghiêm, thánh thiện.
Hành động thanh tẩy đền
thờ của Chúa Giêsu chắc chắn làm cho các trưởng tế khó chịu, bực tức, họ cho
Ngài là một kẻ phản động, vì Ngài không có chức tư tế, cũng chẳng có nhiệm vụ
nào trong đền thờ. Chúa Giêsu đã kết án cách tổ chức của các trưởng tế và gán
cho mình một uy quyền trên họ, Ngài đã bãi bỏ việc phụng tự do Thiên Chúa thiết
lập, và còn gán cho mình có quyền bằng Thiên Chúa, Đấng mà Ngài gọi là Cha, nếu
vậy thì phải làm một phép lạ từ trời, nghĩa là từ Thiên Chúa để làm bằng chứng,
vậy Chúa Giêsu đã làm phép lạ nào?
Chúa trả lời: “Cứ phá hủy
đền thờ này đi, trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại." Các người Do Thái đã
nghĩ ngay đến đền thờ bằng gạch đá, nhưng Chúa Giêsu không có ý nói đến đền thờ
bằng gạch đá mà là đền thờ thân thể Ngài. Nghe Chúa nói thế, các trưởng tế tỏ
vẻ khó chịu ra mặt, họ biết đền thờ đã được vua Hêrôđê sửa sang, xây dựng mất
46 năm mới xong, thế mà bây giờ Chúa bảo phá hủy đi và xây dựng lại chỉ trong
ba ngày, họ không tin lời Chúa nói mà còn cho là Chúa phạm thượng, nên khi Chúa
bị đưa ra tòa xét xử, họ đã đưa điều này ra để tố cáo Chúa. Thật ra ở đây Chúa
muốn báo trước cho mọi người biết: Ngài sẽ bị giết chết nhưng ngày thứ ba Ngài
sẽ sống lại, Ngài dùng đền thờ làm hình ảnh để nói về thân thể Ngài là đền thờ
đích thực của Thiên Chúa, lời tiên báo của Chúa đã xảy ra đúng như vậy.
Mỗi người chúng ta đều là
đền thờ của Thiên Chúa ngự trị, nhưng có thể Thiên Chúa đã mất chỗ, nghĩa là
tội lỗi đã chiếm mất chỗ của Chúa, vậy chúng ta phải trả lại chỗ cho Chúa bằng
việc tẩy trừ tội lỗi. Chúa muốn chúng ta sống hiên ngang như đền thờ
Giêrusalem, Chúa muốn chúng ta sống tự do độc lập hoàn toàn với tội lỗi, bởi vì
phạm bất cứ tội gì, có tính hư tật xấu nào, mắc một đam mê nào là chúng ta làm
nô lệ cho những thứ đó, như Chúa Giêsu đã nói: “Ai phạm tội là nô lệ cho
tội." Muốn độc lập với tội lỗi chúng ta phải đến với Chúa Giêsu, ăn năn
sám hối, xin Chúa tha thứ, để được sống trong tự do của con cái Chúa.
79.
Đền thờ
Dân Do thái vào thời các
tổ phụ đã không biết tới đền thờ, cho dù họ vẫn có các nơi thánh để cầu khẩn
Đức Giavê, chẳng hạn như Bêtel, Sikem, Sinai.
Rồi sau đó, trong cuộc
xuất hành, họ dùng một thứ đền thờ lưu động, đó là nhà tạm với hai hòm bia giao
ước, nhờ đó Thiên Chúa có thể ngự trị thường xuyên giữa dân Ngài.
Sau khi đã định cư tại
miền đất hứa, Đavid muốn thiết lập một đền thờ tại thủ đô Giêrusalem, thế nhưng
Thiên Chúa đã chống lại ý định ấy, bởi vì không phải Đavid sẽ xây nhà cho Đức
Giavê, nhưng chính Đức Giavê sẽ xây nhà cho Đavid.
Thế nhưng, bước sang
triều đại của Salomon, ý định của Đavid đã được thực hiện mà không gặp một sự
chống đối nào của các tiên tri.
Công cuộc dựng xây này đã
kéo dài suốt 40 năm, để rồi từ nay đền thờ Giêrusalem sẽ trở nên trung tâm
phụng thờ Thiên Chúa. Người ta từ khắp nơi trong nước hành hương về đó để tôn
kính Thiên Chúa. Người Do thái đã dành cho đền thờ một tình cảm hết sức trìu
mến.
Trong những năm tháng bị
lưu đày bên Babilon, họ luôn hướng tới đền thờ Chúa, và khi được trở về, thì
việc đầu tiên họ đã làm ngay, đó là bắt tay vào việc tái thiết đền thờ Chúa.
Như trên chúng ta vừa
nói, đền thờ là trung tâm của việc thờ kính Thiên Chúa. Hàng năm người Do thái
phải lên đền thờ vào những dịp lễ lớn. Và cũng trong những dịp lễ lớn này, họ
thường phải dâng tiến lễ vật như chiên bò hay chim bồ câu, tùy theo như khả
năng tài chính, đồng thời đóng thuế cho đền thờ.
Vì thế, người ta đã tổ
chức tại khuôn viên đền thờ một cái chợ, để buôn bán và đổi chác tiền nong.
Trước cảnh tượng ồn ào và huyên náo ấy, Chúa Giêsu đã tức giận, Ngài lật đổ bàn
của những người đổi tiền và xua đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ và Ngài đã
nói với họ:
- Nhà Cha Ta là nhà cầu
nguyện thế mà các ngươi đã biến nó thành hang trộm cướp.
Ngoài ra, Ngài còn hướng
tâm hồn tới ý nghĩa thiêng liêng của đền thờ.
Thực vậy, đền thờ là nơi
Thiên Chúa ở với chúng ta, đồng thời cũng là nơi chúng ta dâng lên Ngài những
tâm tình cầu nguyện.
Nếu hiểu như vậy, thì đền
thờ thiêng liêng trước hết phải là chính Chúa Giêsu, vì qua Ngài Thiên Chúa đã
trở thành Emmanuel, đã trở thành Thiên Chúa ở cùng chúng ta, đồng thời nhờ
Ngài, chúng ta sẽ dâng lên cho Thiên Chúa của lễ tuyệt hảo nhất.
Tiếp đến, đền thờ thiêng
liêng còn là Giáo hội, bởi vì nhờ Giáo hội, Thiên Chúa đến với chúng ta qua
những hoạt động của bí tích và lời giảng dạy, cũng như qua Giáo hội mà chúng ta
không ngừng tôn vinh và thờ phượng Chúa.
Sau cùng, đền thờ thiêng
liêng là chính tâm hồn chúng ta, bởi vì nhờ công cuộc cứu độ với giòng nước Rửa
tội, tâm hồn chúng ta trở nên như một gian cung thánh sống động cho Thiên Chúa
ngự trị, đồng thời cũng chính tại thẳm sâu cõi lòng, chúng ta dâng lên Thiên
Chúa những tâm tình cầu nguyện tha thiết và kết hợp chặt chẽ với Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, để tâm hồn
chúng ta luôn xứng đáng là nơi cho Chúa ngự trị, thì có một việc chúng ta cần
phải làm ngay, đó là khử trừ tội lỗi, vì tội lỗi sẽ làm cho tâm hồn chúng ta
trở nên nhơ nhớp.
Nếu Thiên Chúa viếng thăm
vào giữa lúc chúng ta đang lặn ngụp trong tội lỗi, thì có lẽ Ngài sẽ tức giận
mà nói với chúng ta như xưa Ngài đã nói với phường buôn bán tại đền thờ.
Đúng thế, vì tội lỗi, tâm
hồn chúng ta không còn phải là nhà cầu nguyện nữa, nhưng nó đã trở thành hang
trộm cướp.
80.
Đền thờ tâm hồn
Tin Mừng hôm nay tường
thuật việc Chúa Giêsu đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ. Nhưng sâu xa
hơn Chúa muốn nhắc mọi người phải lo thanh tẩy tâm hồn mình là nơi Thiên Chúa
hằng hiện diện.
Người Do Thái quan niệm,
muốn thờ phượng Thiên Chúa phải đến Đền thờ và có lễ vật. Còn Đức Giêsu, Ngài
cho thấy đền thờ và lễ vật không dẫn con ngừơi đến với Thiên Chúa nếu như tâm
hồn chúng ta khép kín hay bị lấp đầy bởi những tham lam, ích kỹ và ghanh tỵ.
Nên Ngài thay thế tế vật thành tinh thần thờ phượng. Chính vì vậy mà Ngài có
thể gặp gỡ Thiên Chúa mọi nơi, mọi lúc: "thờ Chúa trong tinh thần và chân
lý." (Ga 4, 23-24)
Trong cuộc sống, chúng ta
tìm Chúa khắp nơi, nhưng Chúa luôn hiện diện trong tâm hồn của mỗi người. Như
lời Thánh Phaolô dạy rằng: "Anh em không biết sao, chính anh em là đền thờ
của Thiên Chúa." Nên điều quan trọng không phải tìm Chúa nơi này hay nơi
kia nhưng là làm sao để tâm hồn mình trở thành nơi Thiên Chúa ngự.
Quả thật, điều này không
đơn giản như chúng ta nghĩ. Bởi vì, những người buôn bán xem ra rất gần gũi với
đến thờ, nhưng Tin Mừng cho thấy đây là những người xa cách Thiên Chúa hơn ai
hết. Họ đã đặt sai bậc thang giá trị khi xem tiền bạc ưu tiên hơn việc Thờ
phượng Thiên Chúa. Lẽ ra đền thờ là nơi tôn nghiêm, nơi ngự trị của Thiên Chúa
và là nơi con người đến đó để gặp gỡ Ngài, nhưng họ đến để buôn bán, để kinh
doanh. Tâm hồn họ bị giới hạn trong suy nghĩ và hành động. Việc thờ Thiên Chúa
bị đóng kín trong không gian vật chất và bị trói buộc trong cách giữ lề luật
máy móc. Khi tâm hồn đầy những lo toan, những bận tâm về danh lợi thì sẽ không
con chỗ cho Thiên Chúa hiện diện.
Theo gương Đức Giêsu,
chúng ta phải có lòng nhiệt tâm yêu mến Chúa và lề luật một cách thật sự với
một tinh thần ngay chính. Điều này, đòi hỏi chúng ta phải hy sinh rất nhiều. Vì
thờ phựơng không chỉ đơn thuần là lễ phẩm dâng hiến cho Thiên Chúa hay các nghi
thức bên ngoài, nhưng phải thực thi điều công chính bằng đời sống của mình.
Cũng như Đức Giêsu: "vì nhiệt tâm nhà Chúa mà phải thiệt thân" (Ga 2,
17). Nếu nhìn với cái nhìn trần thế, quả thật đây là một điều điên dạy. Ngày
nay, con người chỉ làm những gì có lợi cho mình, ách giữa đàng không dạy gì
mang vào cổ. Thế nhưng, thời buổi kinh tế đã đưa con người đến chỗ mạnh được
yếu thua, nhân nghĩa, hy sinh, nhường nhịn là những từ mà người ta dường như
loại bỏ và đi vào quên lãng. Chúng ta không sống theo thời đại "ai làm sao
tôi làm vậy, ai làm bậy tôi làm theo." Nhưng Chúa Giêsu dạy cho ta khôn
ngoan thật là sống theo đường lối Chúa.
Đền thờ chính là tâm hồn
của mỗi người chúng ta. Mỗi năm Mùa chay đến rồi lại đi, chúng ta có thực sống
tinh thần chay tịnh: ăn năn sám hối, cải thiện đời sống và bác ái trong việc bố
thí và phục vụ tha nhân? Có sẵn sàng thanh tẩy tâm hồn mình sạch hết những lo
lắng, bận tâm về danh, lợi, thú? Để tâm hồn ta xứng đáng là nơi Thiên Chúa ngự.
Lạy Chúa! Ước gì Lời Chúa
hôm nay thấm nhập vào tâm hồn mỗi người chúng con, để biến đổi chúng con thành
đền thờ xứng đáng cho Thiên Chúa ngự.
81.
Thanh tẩy Đền Thờ
Vào thời Chúa Giêsu, dân
Do thái vẫn có những hội đường để mỗi ngày sabat, ngày thứ bảy, họ đến đây để
nghe lời Chúa và cầu nguyện. Đây không phải là nhà thờ hay đền thờ như chúng ta
ngày nay. Họ chỉ có một đền thờ duy nhất tại Giêrusalem để tế lễ Thiên Chúa, là
một nơi linh thiêng thánh thiện. Vậy tại sao lại có chuyện buôn bán, đổi chác
tiền bạc ở đền thờ, đến nỗi Chúa Giêsu phải nổi giận, xua đuổi?
Trước hết, về việc buôn
bán ở đền thờ. Mỗi năm, vào những dịp đại lễ, như lễ Vượt qua, lễ Ngũ Tuần…
theo tập tục và thói quen đã trở thành như một luật lệ, bắt buộc các tín hữu
khi đến đền thờ dự lễ đều phải dâng vào đền thờ một lễ vật nào đó làm của lễ
dâng Thiên Chúa. Người giàu có thì dâng chiên bò, người nghèo thì dâng bánh
rượu, dầu hương, chim câu… Nhưng vì gần đền thờ không có chợ, nên các tư tế đã
lợi dụng cơ hội để làm ăn: hoặc là chính họ hoặc họ cho phép các con buôn đã
nộp thuế cho họ, được buôn bán các thứ lễ vật đó cho những người đến dự lễ. Và
đã là chuyện buôn bán thì có người mua kẻ bán, người trả người thách, lại với
số đông người, không thể nào không ồn ào, om xòm, lộn xộn… làm cho khu vực đền
thờ có vẻ là một chợ phiên hơn là nơi yên tĩnh để cầu nguyện và tế lễ.
Về chuyện đổi chác tiền
bạc. Theo luật buộc: mỗi năm mỗi người trưởng phải nộp ½ đồng Xêken, tức là một
nửa đồng tiền Do thái. Đây là một thứ thuế nghĩa vụ, ai cũng phải nộp và chỉ
được nộp tiền Do thái, chứ không nộp thứ tiền nào khác, mặc dầu thời ấy tiền
Rôma và tiền Hy lạp rất thông dụng, vì những thứ tiền ấy in hình vua ngoại đạo,
nên cấm lưu hành trong khu vực đền thờ. Vì thế, để có tiền Do thái nộp thuế cho
đền thờ, những người đến dự lễ phải đổi tiền. Đó là lý do sinh ra cái nạn đổi
tiền và có những quầy đổi tiền trong đền thờ.
Trước sự bất kính đối với
đền thờ như thế, Chúa Giêsu đau xót và nổi giận. Ngài xua đuổi họ. Việc này làm
cho các tín hữu hài lòng, duy có nhóm tư tế bực mình, hạch hỏi Chúa: “Ông lấy
dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng ta thấy là ông có quyền làm như thế?." Chúa
bảo họ: “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng
lại."
Hành động của Chúa Giêsu
không chỉ đơn thuần là xua đuổi các con buôn, là đụng chạm đến quyền lực và lợi
nhuận của hàng tư tế, nhưng sâu xa hơn, đó là cử chỉ tượng trưng, nhằm phủ nhận
một cung cách thờ phượng đã bị làm cho biến chất. Và không những phủ nhận nghi
thức phụng tự, Chúa Giêsu còn phủ nhận luôn đền thờ bằng gỗ đá, một đền thờ
lộng lẫy, huy hoàng, tráng lệ đã được vua Hêrôđê cả ra lệnh xây dựng từ năm 19
trước công nguyên và mãi đến năm 63 sau công nguyên mới hoàn thành. Sự kiện
Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ Tin Mừng kể lại hôm nay xảy ra vào năm 28 sau công
nguyên. Như vậy đã ròng rã 46 năm trời xây cất vẫn chưa xong.
Khi phủ nhận các nghi
thức phụng vụ cũ, phủ nhận cả đền thờ gỗ đá, Chúa Giêsu giới thiệu một đền thờ
mới, đền thờ đích thực, đó là thân xác Phục sinh của Ngài, khi Chúa nói: “Các
ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”, Chúa có ý nói
đến thân xác của Ngài. Ngài sẽ bị giết chết, nhưng trong ba ngày Ngài sẽ sống
lại.
Chúng ta đang sống trong
mùa chay, đoạn Tin Mừng này nhắc nhở chúng ta hai điều: Thứ nhất, mỗi người tín
hữu được coi là một đền thờ của Thiên Chúa. Nhưng hiện giờ đền thờ ấy có xứng
đáng để Thiên Chúa ngự không hay là một cái chợ trưng bày đủ thứ, nhất là những
thứ cấm kỵ: tham vọng, ích kỷ, hận thù, bất trung, ghen ghét, gian dối…? Không
nhiều thì ít, có lẽ đền thờ nơi chúng ta còn đang bất xứng, chúng ta cần thanh
tẩy, sửa chữa.
Thứ hai, gia đình Kitô
hữu cũng được mời gọi trở nên đền thờ của Thiên Chúa. Liệu trong ngôi đền thờ
ấy, các thành viên có biết lấy yêu thương, sự khoan dung tha thứ mà đối xử với
nhau, hay ngôi đền thờ đã trở thành quán trọ mạnh ai nấy sống? Liệu trong ngôi
đền thờ ấy có Thiên Chúa ngự trị hay đang bị đủ thứ ngẫu tượng chi phối, những
ngẫu tượng có tên là tiền bạc, tham vọng, ích kỷ, hận thù, gian dối?
Tóm lại, mỗi người chúng
ta, mỗi gia đình chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa ngự trị. Nhưng có thể Thiên
Chúa đã mất chỗ, nghĩa là tội lỗi, những cái xấu, những cái tiêu cực… đã chiếm
chỗ của Chúa. Vì thế, chúng ta phải loại bỏ tất cả những cái đó để trả lại chỗ
cho Thiên Chúa bằng sự ăn năn sám hối và cải thiện đời sống.
Xin Chúa cho Mùa chay
thánh này là mùa hồng ân cho chúng ta: cho mỗi người chúng ta trở thành một đền
thờ xứng đáng, và cho gia đình chúng ta cũng là một đền thờ tốt đẹp để Thiên
Chúa ngự trị, chúc lành và ban ơn cho chúng ta.
82.
Cơn tức giận
Bối cảnh Tin Mừng mô tả
về một Đức Giêsu đang nóng giận, với cây roi trong tay. Hình ảnh này của Đức
Giêsu không phù hợp với hình ảnh quen thuộc một Đức Giêsu hiền lành và tươi
cười. Dường như điều này vượt xa tính cách mà chúng ta biết về Đức Giêsu trong
những bài Tin Mừng còn lại, đến nỗi khiến chúng ta xua đuổi hình ảnh đó. Điều
này chứng tỏ cho chúng ta rằng tính cách của Đức Giêsu có một khía cạnh khác.
Tất nhiên, Đức Giêsu là một người hiền dịu. Nhưng điều đó không có nghĩa là
Người yếu đuối. Khi cơ hội đòi hỏi, Người có thể rất mạnh mẽ và rất quyết đoán.
Lại nữa, chúng ta bị sốc
khi nhận thấy Đức Giêsu không chỉ tức giận, mà còn hung dữ nữa. Và Người còn sử
dụng một hình thức như thể là bạo lực. Chúng ta đã từng được dạy dỗ rằng tất cả
mọi cơn nóng giận đều xấu xa cả. Nhưng tự thân sự tức giận chỉ là một cảm giác,
vì thế, nó không tốt và cũng chẳng xấu về mặt luân lý.
Quả thật cơn nóng giận là
một điều nguy hiểm, có thể khiến cho chúng ta có những lời nói hoặc hành động
mà chúng ta sẽ phải hối tiếc sau này. Nhưng tức giận cũng có thể là một điều
tốt đẹp. Nó có thể thúc đẩy chúng ta chấn chỉnh lại ngay tức khắc những điều
sai trái tỏ tường. Có những lúc chúng ta cần phải tức giận. Chúng ta nên tức
giận trước một tình huống bất công. Tức giận có thể là một cách diễn tả tình
yêu thương.
Chúng ta phải nhìn vào
những điều khiến cho chúng ta tức giận. Người ta nói rằng bạn có thể đo lường
được mức độ tâm hồn của một con người, qua mức độ các sự việc làm cho người đó
tức giận. Hầu hết cơn nóng giận của chúng ta đều do động cơ là quyền lợi cá
nhân, và chúng ta thường tức giận về những điều vặt vãnh.
Một người đàn ông sống
tại vùng ngoại ô của một ngôi làng. Cách nhà ông ta khoảng độ hơn 10 mét, có
trồng một cây chanh lớn. Cây chanh này là ranh giới của ngôi làng. Tuy nhiên,
nó đang bắt đầu già cỗi. Rõ ràng chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi nó gãy
đổ. Mỗi khi có bão táp, người đàn ông đó đều sợ hãi cho ngôi nhà và mạng sống
của mình. Ngày kia, không thể chịu đựng sự căng thẳng lâu hơn nữa, ông ta đốn
hạ cây chanh xuống. Ông tin chắc rằng dân làng sẽ hiểu cho ông. Nhưng ông đã
lầm: Một người nói “Ông thật xấu hổ, khi đã cắt bỏ một thân cây tuyệt đẹp như
vậy."
Một người khác nói “Ông
đã tước đoạt của dân làng một phần gia sản." Tuy là một cách ngoài lề,
nhưng cách thế dân làng nổi nóng khi ý riêng của họ bị đe dọa thật đáng ngạc
nhiên. Nhưng khi sở thích của những người hàng xóm bị đe dọa, thì rất ít khi họ
nổi nóng.
Đức Giêsu không tức giận
vì lý do cá nhân. Cơn nóng giận của Người xuất phát từ tình yêu của Người đối
với Thiên Chúa và đối với mọi người. Hành động của Người tại đền thờ phải được
coi như một sự phản đối lại việc thương mại hóa tôn giáo và báng bổ thần thánh
của đền thờ. Nhưng điều này còn sâu xa hơn.
Trước hết, Người chống đối
việc người Do thái không hoàn tất sứ vụ quốc tế đối với nhân loại. Tôn giáo đã
trở nên chật hẹp, theo chủ nghĩa dân tộc và mang tính cách độc quyền. Thiên
Chúa có ý muốn cho đền thờ trở thành một ngôi nhà cầu nguyện “cho tất cả mọi
quốc gia”, nhưng lại trở thành một nơi được bảo vệ một cách ích kỷ, dành riêng
cho dân Do thái. Đức Giêsu muốn hủy bỏ khái niệm độc quyền. Ơn Cứu Độ không chỉ
dành riêng cho người Do thái, mà còn dành cho tất cả mọi dân tộc.
Thứ hai, Người tấn công vào
chính bản chất thờ phượng của người Do thái. Với các lễ nghi và hiến tế súc
vật, toàn bộ cách thờ phượng của đền thờ không còn phù hợp nữa, và không thể
làm được gì để đưa con người đến với Thiên Chúa. Người đã thay thế lối thờ
phượng với hiến tế hy sinh bằng lối thờ phượng trong tinh thần. Việc thờ phượng
đòi hỏi nơi chúng ta rất nhiều điều, hơn là chỉ biết dâng lên Thiên Chúa các đồ
vật, và biểu diễn một số lễ nghi. Điều mà Thiên Chúa muốn hơn hết, đó là thái
độ thờ phượng trong cuộc sống của chúng ta.
Xin Chúa giúp chúng ta
biến ngôi nhà này thành một ngôi nhà cầu nguyện, vui tươi và hợp nhất. Và xin
cho những việc chúng ta thực hiện ở đây giúp chúng ta biết thờ phượng Thiên
Chúa trong cuộc sống của chúng ta.
83.
Thanh tẩy đền thờ
Gần đến lễ Vượt Qua, Chúa
Giêsu lên Giêrusalem, Ngài vào trong đền thờ. Chúa Giêsu hết sức đau lòng trước
cảnh tượng đang diễn ra trước mắt. Nguời người lố nhố kỳ kèo bớt một thêm hai,
người mua trả giá xuống, kẻ bán lại chần chừ, đâu đó có tiếng người cãi cọ,
văng tục nữa. Người đổi tiền thì rủn rẻn những đồng tiền vừa trao đổi, vui cười
tít mắt vì lợi nhuận đã thu được. Gần đến lễ Vượt Qua nhiều người Do thái từ
mọi miền trở về để mừng đại lễ của họ. Đây là cơ hội vô cùng tốt đẹp để những
người buôn bán trong đền thờ hưởng lợi, trong số những người được hưởng lợi đó
làm sao lại không có giới tư tế quản lý Đền thờ? Việc chính là dâng những lễ tế
thờ phượng Thiên Chúa, nhưng sự ngọt ngào, hấp dẫn của đồng tiền lại che lấp
tất cả, che cả Chúa! Đền thờ của Thiên Chúa đó sao? Thật đáng buồn, đáng tức
giận! Chúa Giêsu không chỉ buồn, không chỉ giận mà còn đau, đau nhiều lắm. Chúa
đã dùng dây làm roi để đánh, vừa đánh vừa đuổi. Người ta thường bảo " giận
quá thì mất khôn " , nhưng Chúa Giêsu giận mà không mất khôn. Vì Chúa
không đánh họ cho chết bỏ, đánh cho hả dạ, đánh cho đã tức mà đánh để dạy:
" đừng biến nhà ta Cha ta thành nơi buôn bán và là sào huyệt của bọn trộm
cướp." Thực ra những thứ đuợc bày bán trong sân Đền thờ cũng nhằm phục vụ
cho việc thờ phượng bên trong Đền thờ như cung cấp các lễ vật để tế lễ cho
Thiên Chúa, dịch vụ đổi tiền để giúp tiện lợi trong việc đóng thuế cho Đền thờ.
Nhưng điều đáng tiếc là những việc đó đã làm sai lệch việc thờ phượng, vì người
bán thì chạy theo lợi nhuận, người mua thì nghĩ rằng nhờ những thứ đó họ có thể
mua lòng được Thiên Chúa, bắt Thiên Chúa khi nhận lễ vật thì phải nghe theo lời
họ cầu xin, họ kêu ngạo quá chừng, không thể chấp nhận được. Họ xem Thiên Chúa
là sở hữu riêng ở trong tay mình. Thiên Chúa là chủ tể mọi loài, là Đấng tạo
thành vạn vật, nhưng giờ đây con người đã vô phép bắt Thiên Chúa phải nghe theo
lời con người như nô lệ phải vâng lời ông chủ, bởi ông chủ có tiền trong tay.
Thật vô lý láo xược vô cùng. Đúng là châu chấu đá xe mà! thật không biết tự
lượng sức mình. Hành động thanh tẩy đền thờ của Chúa Giêsu làm cho các trưởng
tế khó chịu, bực tức, họ cho Ngài là kẻ phản động, vì Chúa Giêsu không có chức
tư tế, cũng không hề có nhiệm vụ nào trong đền thờ. Họ hỏi Chúa Giêsu: "
Ông con kia, ông lấy quyền gì mà làm như thế? " Chúa Giêsu trả lời họ:
" Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội ba ngày, ta sẽ xây lại."
Chúa Giêsu muốn ám chỉ Ngài là Đền thờ mới, nhưng người Do thái không hiểu. Quả
thực Chúa Giêsu là Đền thờ mới, Ngài đòi hỏi phải có nền phụng tự mới. Chúa
Giêsu đánh đuổi người buôn bán, xô đẩy các súc vật, hất tung những đồng tiền của
họ là một hành động tiên tri; vì các thứ ấy không có lý do tồn tại nữa, Chúa
Giêsu đến thay thế mọi sự, Người chính là Đền thờ mới, trên thập giá Người hiến
mình làm lễ vật tiến dâng cho Chúa Cha. Chúa Giêsu là Đền thờ mới, nơi đó con
người gặp gỡ Thiên Chúa, như lời Chúa Giêsu dạy: " không ai đến được với
Cha mà không qua Thầy." Mỗi Kitô hữu chúng ta nhờ Bí tích Rửa tội và Thánh
Thể được trở nên đền thờ của Chúa. Là Đền thờ của Chúa nghĩa là nơi Chúa ngự,
nơi anh chị em chung quanh có thể gặp được Chúa. Chúng ta hãy xét mình xem, Đền
thờ của Chúa nơi chúng ta có còn chỗ cho Chúa ngự không hay ta dã để cho tội
lội và các sự xấu xâm chiếm hết chỗ rồi. Mùa chay là thời gian thích hợp để
chúng ta thanh tẩy lòng mình nên tinh sạch va mới mẻ bằng cách tránh xa tội lỗi,
xin Chúa tha tội giúp chúng ta sống xứng đáng làm con cái Chúa, là nơi Chúa
ngự, là nơi anh chị em gặp Chúa.
84.
Chúa Nhật 3 Mùa Chay
"Đừng biến nhà Cha
Ta thành nơi buôn bán"
Các em thiếu nhi thân
mến,
Có bao giờ các em đọc
kinh hay hát thánh ca trong nhà thờ mà không suy nghĩ gì đến lời kinh, tiếng
hát cuả mình không? Có khi nào ngồi đây nghe giảng mà tâm trí các em đang bay ở
mãi tận khung trời xa xôi nào đó không? #ó chính là lối thờ phượng máy móc, vụ
hình thức của những nguoi đi đạo lâu năm. Họ đọc kinh theo thói quen. Họ hát
theo thói quen. Họ nghe giảng theo thói quen. Họ không còn ý thức đến hành vi
của mình nữa, và cũng không có một cảm xúc hay một tâm tình thờ phượng đích
thực nào trong những việc làm của mình.
Người ta kể rằng: một
người kia nằm mơ, thấy thiên sứ dẫn mình đến một ngôi nhà thờ trong một ngày
chúa nhật. Tại đó người này thấy người nhạc sĩ đang đàn phong cầm nhưng không
nghe thấy tiếng âm nhạc, ca đoàn và cộng đoàn hát nhưng không nghe có âm thanh
nào cả. Rồi đến khi linh mục đứng lên giảng, môi mấp máy, nhưng không ra tiếng
nói nào cả. Người ấy rất đỗi ngạc nhiên hỏi thiên sứ, thì thiên sứ nói:
"Ông không nghe thấy gì, vì không có gì để nghe cả. Những người trong nhà
thờ không tham dự vào buổi thờ phượng, mà chỉ dự phần vào hình thức thờ phượng
mà thôi. Tâm hồn họ trống rỗng. Họ không thờ phượng Chuá từ trong cõi lòng. Họ
chỉ là những chiếc máy vô hồn phát ra. Họ nếu không nói là giả hình thì cũng là
những loại người thờ Chuá bằng môi bằng miệng, còn lòng dạ họ đã xa Chuá lâu rồi.
Qua câu chuyện này, người
ta muốn nói điều gì? Thưa, câu chuyện này dậy ta một bài học quan trọng: khi
nào ta vào nhà thờ, thờ phượng Chúa, ta hãy đến đó với một tấm lòng ước muốn ra
mắt Chúa, và tôn kính Ngài trong mọi việc ta làm trong nhà thờ. Ta hãy đọc kinh
với thái độ tin tưởng và yêu mến. Ta hãy hát với thái độ ca ngợi Chúa thật, dù
là hát trong ca đoàn hay chung với cộng đoàn. Nếu ta đứng lên nói, hãy nói với
thái độ tôn thờ Chúa. Cầu nguyện cũng phải chân thành tập trung vào Chúa, ngay
cả khi nghe lời Chúa cũng phải có thái độ thờ phượng. Khi nào ta ý thức được
như thế thì giờ thờ phượng mới có ý nghĩa. Và chỉ những lúc đó, tiếng ca ngợi
của ta từ nơi đất thấp, mới bay lên tận trời cao được.
Hôm nay Chuá Giêsu vào
trong Đền Thờ, Ngài đã thấy gì trong đó? Họ đã biến đền thờ thành nơi trao đổi
buôn bán. Họ lợi dụng Đền thờ để lợi dụng lẫn nhau. Kẻ buôn bán súc vật và đổi
tiền nhằm lợi nhuận. Kẻ mua để dâng cúng trong đền thờ chỉ nhằm mục đích phô
trương giả hình. Ngay cả các tư tế cũng chủ trương như thế, để họ thu lợi nhuận
hoa hồng từ những việc trao đổi buôn bán trên. Họ đã đánh mất sự linh thánh cần
thiết của Đền thờ. Chính vì Đền thờ bị lạm dụng. , Chuá đã hành động thẳng thắn
để thanh tẩy Đền thờ. Chuá đã đòi hỏi họ phải trả lại ý nghiã đích thực của Đền
thờ. Vậy ý nghiã đích thực của Đền thờ là gì?
Thưa, Đền thờ
là nơi cầu nguyện. Chuá bảo rằng "đừng biến nhà Cha Ta thành nơi
buôn bán." Ngài đã tẩy chay một lối thờ phượng lệch lạc, không phải là thờ
Thiên Chuá, mà là thờ quyền lợi của mình. Đồng thời, khi Chuá Giêsu nói với
những kẻ chất vấn Ngài: "Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi, nội trong ba
ngày Ta sẽ xây dựng lại." Ngài ám chỉ đến Đền thờ mới chính là thân thể
Ngài. Như vậy qua hành động thanh tẩy đền thờ Giêrusalem, Chuá Giêsu còn cho
biết thêm: sự thờ phượng đích thực của thời Tân ước là thờ phượng Thiên Chuá
trong Thần Khí và Sự Thật. Thế nên, "đã đến giờ người ta sẽ thờ phượng
Chuá Cha không phải trên núi này hay tại Giêrusalem, vì Thiên Chuá là Thần Khi
và những kẻ thờ phượng Người phải thờ trong Thần khí và sự thật" (Ga 17,
23).
Ngày hôm nay, người ta
vẫn có thể lạm dụng Đển thờ bằng nhiều cách:
- Có những người đến nhà
thờ nhưng lại lo ra chia trí trong lòng. Đó là những người có xác mà không có
hồn. Họ chỉ là những thây ma trơ trẽn và nguội lạnh. Họ xem lễ chứ không dự lễ,
vì họ không đóng góp tấm lòng của mình vào việc thờ phượng Chuá.
- Có những người đi lễ vì
người khác đi mình cũng đi hay chỉ vì cha mẹ bắt phải đi. Đó là những người thờ
phượng giả hình. Họ không sống những điều mình tin. Họ lấy "vải thưa che
mắt thánh." Họ chỉ che được mắt thế gian nhưng không che dấu được Thiên
Chuá. Họ đến nhà thờ nhưng không gặp được Chuá nên đời sống họ cũng không có gì
thay đổi.
- Nhưng điều quan trọng
mà hôm nay sứ điệp Lời Chuá muốn nhắn gởi chúng ta, chính là hãy chỉnh đốn lại
đền thờ tâm hồn chúng ta. Tâm hồn chúng ta có Chuá ngự trị hay không? Chúng ta
đang tôn thờ Thiên Chuá hay tôn thờ những danh lợi thú trần gian?
Muà Chay là muà mợi gọi
chúng ta sám hối và canh tân đời sống. Có thể nói muà chay là muà giúp chúng ta
nhìn lại đến thờ tâm hồn của mình để xin ơn Chuá thanh tẩy tâm hồn khỏi những
đam mê tội lỗi, những thói hư tật xấu, ngõ hầu xứng đáng là Đền thờ cho Chuá
ngự trị.
Lạy Chuá, tâm hồn con là
đền thờ của Chuá, thế mà con đã để tâm hồn mình hoen ố bởi biết bao thói hư tật
xấu, biết bao đam mê thấp hèn. Xin Chuá hãy thanh tẩy tâm hồn con khỏi những
bợn nhơ tội lỗi, hầu xứng đáng là đền thờ cho Ba Ngôi Thiên Chuá ngự trị. Amen.
85.
Giữ các giới răn
Lần kia, có một người đàn
ông rất thành thật ước ao sống một cuộc sống thánh thiện. Vì thế, anh ta đến
gặp vị thầy của mình, để xin được khuyên bảo. Vị thầy này khen ngợi anh ta về
ước vọng của anh, rồi hỏi “Tình hình của con tiến triển đến đâu rồi?."
Người đàn ông đó trả lời
“Con nghĩ rằng khá tốt."
Vị thầy hỏi “Khi con nói
rằng tốt, thì ý con muốn nói gì?”
Người đàn ông trả lời
“Con không hề vi phạm bất cứ giới răn nào. Con đã không kêu tên Chúa vô cớ. Con
không hề xâm phạm vào ngày Sabát. Con không bất kính đối với cha hoặc mẹ con.
Con không hề giết bất cứ người nào. Con không thiếu lòng trung thành đối với vợ
con. Con không hề ăn cắp. Con không làm chứng dối chống lại bất cứ ai. Và con
đã không muốn chiếm đoạt vợ của người khác hoặc tài sản của họ."
Vị thầy nói “Thầy biết.
Như vậy, con không hề lỗi phạm bất cứ giới răn nào."
Người đàn ông trả lời một
cách tự hào “Dạ đúng ạ."
Vị thầy hỏi “Nhưng con đã
giữ các giới răn chưa?."
Người đàn ông nói “Ý thầy
muốn nói gì ạ?."
“Thầy muốn nói rằng con
đã tôn kính thánh danh của Thiên Chúa chưa? Con có giữ ngày Sabát không? Con có
yêu thương và kính trọng cha mẹ con không? Con có tìm kiếm cách bảo vệ gìn giữ
cuộc sống của con không? Lần cuối cùng con nói với vợ con rằng con yêu thương
cô ấy là vào lúc nào? Con có biết chia sẻ tài sản của con cho người nghèo
không? Con có biết bảo vệ danh tiếng cho người khác không? Lần cuối cùng con từ
chối không giúp đỡ người đồng loại là lúc nào?."
Người đàn ông đó rút lui.
Nhưng theo lòng tin của mình, anh ta ra đi và suy nghĩ về những điều vị thầy đã
nói. Anh nhận ra rằng cho đến nay, anh chỉ mới có ý định tránh làm điều sai
trái mà thôi. Thật đáng ngạc nhiên khi có nhiều người nghĩ rằng đây là một tiêu
chuẩn nhân đức cao nhất. Nhưng vị thầy đã đưa ra cho anh ta một cái nhìn mới về
lòng nhân ái không chỉ là tránh làm điều ác, mà còn phải cư xử tốt nữa. Cho đến
nay, anh đã có một quan niệm tiêu cực về lòng nhân ái. Bây giờ, thầy đã cho anh
thấy một khái niệm tích cực về lòng nhân ái. Thầy đem đến cho anh một phạm vi
mới mẻ và tốt đẹp hơn để hướng dẫn anh, một đường lối mới và nhiều thách đố hơn
để anh đi theo.
Chúng ta phải cẩn thận để
không phạm phải cùng một lỗi lầm như người đàn ông đó. Chúng ta không được tiếp
cận với các giới răn theo một cách thức tiêu cực, bởi vì điều này đưa đến việc
chỉ thực hiện các giới răn ở mức vừa đủ tối thiểu. Nhưng chúng ta phải tiếp cận
với các giới răn theo một cách thức tích cực.
Và chúng ta còn phải giữ
các giới răn trong tinh thần ngay chính nữa. Sự vâng phục của chúng ta không
được phát xuất từ động cơ là nỗi sợ hãi, mà là tình yêu. Chúng ta không giữ các
giới răn để sao cho Thiên Chúa sẽ yêu thương chúng ta, mà giữ các giới răn
chính bởi vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta.
Đức Giêsu đưa ra một giới
luật mới mẻ và chính xác hơn – giới luật yêu thương. Giới luật này không mâu
thuẫn hoặc hủy bỏ giới luật cũ, mà vượt lên trên, để rồi đưa đến việc kiện toàn
giới luật cũ. Người nói rằng tất cả những giới luật của Thiên Chúa có thể được
rút lại thành hai giới răn: Yêu mến Thiên Chúa và yêu mến người đồng loại. Trên
thực tế, chỉ có một giới luật mà thôi – giới luật yêu thương.
86.
Người bị kết án tử hình
Linh Mục Frank Roof, cựu
tuyên úy của nhà cải huấn thuộc tiểu bang Kentucky, kể lại một chuyện cảm động
về một tù nhân tên là Paul Kordenbrock.
Paul lớn lên trong một
môi trường dễ dãi của thập niên 1960. Triết lý phổ thông thời đó là "Hãy
làm, nếu cảm thấy thích"
Chính triết lý này đã lôi
cuốn cậu Paul trẻ tuổi này lâm vào hết tình trạng tệ hại này đến tệ hại khác.
Cho đến một ngày nọ Paul đã bị hoảng hồn khi nhận được tin là mình sẽ bị xử tử.
Bây giờ, cậu đang bị giam
giữ trong nhà tù và chiếc ghế điện đang chờ cho sự công lý phân xử cậu.
Vào năm 1982, Paul xin
cha Roof ban phép giải tội, và xin được rước Thánh Thể. Cuộc gặp gỡ này đã đưa
đến nhiều cuộc gặp gỡ khác. Dần dà, Paul được giới thiệu đến các tử tội Công
Giáo khác. Paul đã viết đơn xin phép ban quản trị nhà tù để cho cha Roof cử
hành Thánh Lễ cho đám tù tội Công Giáo nhỏ bé đang từ từ chờ đón án tử của
mình. Nhà tù đã cho phép điều đó, và như thế cha Roof đã cử hành Thánh Lễ hằng
tuần trong một cái phòng tù bằng thép cho các tử nhân.
Tất cả sự kiện này không
phải xảy ra một cách bất ngờ. Cha Roof đã tìm hiểu và biết rằng Paul còn theo
học các khóa giáo lý hàm thụ: lớp Cựu Ước, Tân Ước, lịch sử Giáo Hội, giáo huấn
Giáo Hội, luân lý Công Giáo.
Paul còn đã trở thành một
giáo lý viên có bằng cấp thuộc một giáo phận và đã thi hành chương trình RCIA -
chương trình dài một năm để khai tâm cho những người lớn- cho các tử tội nhận
đức tin Công Giáo. Mỗi năm, Paul đã đưa ít là một người tử tội về với Đức Kitô.
Câu truyện của Paul
Kordenbrock cũng giống câu truyện của người đàn bà tại giếng nước.
Phúc Âm ghi lại: "Bà
để gầu nước lại và đi về làng và nói với mọi người, 'Hãy đến mà xem Người đã
nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. ' "
Phúc Âm thêm rằng mọi
người đã rời làng và đến gặp Chúa Giêsu.
Và như thế, người đàn bà,
từng là người tội lỗi nhất, đã trở nên nhà truyền giáo đầu tiên của đạo Kitô
Giáo. Sau khi bà khám phá ra Chúa Giêsu, bà đã ra đi chia sẻ sự khám phá của bà
với bạn bè và tha nhân.
Và đấy thực sự chính là
những gì Paul Kordenbrock đã làm. Sau khi khám phá ra Chúa Giêsu, anh đã ra đi
chia sẻ sự khám phá của mình với những bạn tử tù. Anh nói cho họ, "Hãy đến
và gặp người đã làm những sự vĩ đại cho tôi." Và như thế, anh chàng tội
lỗi nhất đã trở nên nhà truyền giáo đầu tiên của những tử tù trong trại Cải Tạo
Tiểu Bang Kentucky.
Khi chúng ta để Chúa
Giêsu Kitô vào trong đời sống của chúng ta, thì những điều phi thường mới có
thể xảy ra. Chúa Giêsu có thể biến đổi đời sống chúng ta triệt để, y như Ngài
đã biến đổi cuộc sống của người đàn bà và cuộc sống của Paul.
Qua chúng ta, Chúa Giêsu
có thể với tới và biến đổi đời sống của những người khác, giống như Ngài đã
chạm tới và biến đổi đời sống của những người khác qua người đàn bà xứ Samaria
và qua Paul.
Lạy Chúa, xin hãy giúp
chúng con biết khám phá ra Chúa trong Mùa Chay này. Và qua sự khám phá của
chúng con, xin hãy giúp chúng con trở nên những nhà truyền giáo trong gia đình
và cộng đoàn của chúng con.
87.
Mười điều răn mới
Mục đích giới luật của
Thiên Chúa không phải là để hạn chế chúng ta, nhưng là để chỉ cho chúng ta
phương cách sống. Giới luật của Thiên Chúa chính là ánh sáng cho những bước
chân của chúng ta, và là ngọn đèn soi chiếu đường đi cho chúng ta. Mười điều
răn của Người rất tốt đẹp. Nhưng lời giảng dậy của Đức Kitô còn đi xa hơn
nhiều. Kẻ nào hài lòng với giới luật cũ, thì cũng giống như một người vẫn cứ
bước đi bằng ngọn nến, sau khi đã có đèn điện rồi vậy.
Trong phần sau đây, chúng
ta nhìn vào mười điều răn dưới ánh sáng lời giảng dạy của Đức Kitô (Có thể sử
dụng hai giọng nói):
Cũ: Hãy nghe đây, hỡi nhà
Israel! Ta là Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Đấng đã đưa các ngươi ra khỏi đất
Ai cập, ra khỏi nơi chốn nô lệ.
Mới: Hãy nghe đây, hỡi
những người đi theo Đức Kitô, dân tộc mới của Thiên Chúa! Ta là Chúa, Thiên
Chúa của các con. Đấng đã đưa các con ra khỏi cảnh tối tăm, để đi vào ánh sáng.
Các con có thể nhìn thấy những hiệu quả của ánh sáng nơi lòng nhân ái, lối sống
ngay thẳng và theo lẽ phải.
Các con đã từng nô lệ cho
tội lỗi và những hành động sai trái. Hiện nay, các con phải sống trong tự do
của con cái Thiên Chúa.
Cũ: Ta là Chúa, Thiên
Chúa của các ngươi. Các ngươi không được có vị thần nào đi trước Ta.
Mới: Ta là Chúa, Thiên
Chúa của các con. Ta không phải là một Thiên Chúa xa lạ và xa cách các con. Ta
là bạn bè và người cố vấn của các con. Hãy coi chừng các vị thần, họ sẽ phản
bội các con. Tiền bạc là một loại thần phổ biến nhất. Các con không thể phục vụ
Thiên Chúa và tiền bạc được.
Cũ: Các ngươi không được
kêu tên Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, một cách vô cớ.
Mới: Kể từ bây giờ, Ta
muốn các con gọi Ta bằng một tên mới. Hãy gọi Ta là Cha. Hãy gọi tên đó không
phải trong sự sợ hãi, mà bằng tình yêu. Hãy cầu khẩn danh xưng đó trong sự ca
ngợi, biết ơn, cũng như hãy cho Ta biết những nhu cầu của các con. Tên của các
con đều được viết trong lòng bàn tay Ta.
Cũ: Các ngươi hãy nhớ giữ
ngày sabát.
Mới: Các con hãy ghi nhớ
rằng tất cả mọi ngày đều thuộc về Thiên Chúa, và hãy sống thánh thiện. Nhưng
hãy dành ngày đầu tiên trong tuần, ngày Chúa nhật, làm một ngày đặc biệt. Đây
là một ngày mà Đức Giêsu, người Anh Cả của các con, đã bẻ gãy xiềng xích của sự
chết và sống lại vinh quang từ hầm mộ. Ngày này nhắc nhở các con rằng các con
là một dân tộc đang hành hương tiến về miền đất hứa của sự sống đời đời. Sự an
bình và thư giãn của ngày Sabát là điều dự báo trước về niềm vui sắp đến.
Cũ: Các ngươi hãy kính
trọng cha mẹ.
Mới: Các con hãy yêu
thương cha mẹ, đó là những tâm hồn quí giá mà nhờ có họ, các con được mời gọi
vào bữa tiệc của sự sống. Các con hãy giúp đỡ cha mẹ khi họ cô độc. Hãy an ủi
cha mẹ khi họ đau yếu. Hãy săn sóc cha mẹ khi họ già cả và yếu đuối.
Cũ: Các ngươi chớ giết
người.
Mới: Các con không được
gây đau khổ cho người khác bằng bất cứ cách nào. Hãy thương xót như Cha các con
là Đấng thương xót. Đừng phê phán ai, và các con sẽ không bị phê phán. Đừng kết
án ai, và các con sẽ không bị kết án. Hãy yêu thương kẻ thù. Hãy cư xử tốt với
những người ghét các con. Hãy chúc phúc cho những người nguyền rủa các con. Hãy
cầu nguyện cho những người nói điều ác chống lại các con. Từ đó, các con sẽ
chứng tỏ rằng các con chính là những con cái của Thiên Chúa.
Cũ: Các ngươi chớ phạm
tội ngoại tình.
Mới: Các con hãy yêu
thương người bạn đời của các con, như thể đó là một nửa của các con. Sự trung
thành về thể lý là điều vĩ đại, nhưng sự trung thành trong tâm hồn lại còn tốt
đẹp hơn nữa.
Cũ: Các ngươi chớ lấy của
người.
Mới: Có nhiều cách thức
ăn cắp. Nếu các con chất đống và tích trữ những của cải mà các con không cần
đến, trong khi đồng loại của các con lại đang cần đến – đó là một hình thức ăn
cắp. Những tài sản trên trái đất này đều được dành cho tất cả những con cái của
Thiên Chúa. Như vậy, Ta nói với các con: hãy đem của cải cho người nào đang cần
đến, hãy chia sẻ cơm bánh cho kẻ đói khát, hãy cho kẻ rách rưới ăn mặc, hãy mở
lòng ra cho những người cô đơn và không có nhà, và ánh sáng của Thiên Chúa sẽ
chiếu tỏa trên các con.
Cũ: Các ngươi chớ làm
chứng dối. Mới: Các con hãy trở nên ánh sáng cho người đồng loại, chứ không
phải là nguồn tối tăm. Hãy dùng những lời lẽ để xây dựng, nâng đỡ và an ủi
người đồng loại. Nếu các con không thể tìm được điều gì tốt đẹp để nói về người
đồng loại, thì hãy giữ im lặng.
Cũ: Các ngươi chớ thèm
muốn vợ người khác. Mới: Các con vẫn có thể phạm tội ngoại tình trong tư tưởng
và lòng ao ước, cũng như trong hành động. Tội ngoại tình ở trong tâm hồn trong
ước muốn chiếm đoạt người khác. Do đó, các con hãy phấn đấu giữ tâm hồn thanh
sạch.
Cũ: Các ngươi chớ thèm
muốn tài sản của người khác. Mới: Ta nói với các con: đừng thèm muốn bất cứ tài
sản nào. Đừng tích trữ kho tàng trên trái đất này. Nói đúng hơn, các con hãy
phấn đấu để làm cho bản thân mình được trở nên phong phú dưới mắt Thiên Chúa.
Nếu các con thèm muốn bất cứ điều gì nơi người đồng loại, thì hãy thèm muốn sự
ân cần trong tâm hồn và cách cư xử tử tế. Kết luận: Hãy tuân theo các giới răn,
không phải vì sợ hãi, mà vì lòng yêu mến. Và nếu bạn nhận thấy mười điều răn là
quá nhiều, không nhớ được, thì bạn có thể rút gọn thành hai giới răn: Yêu mến Chúa
hết linh hồn hết trí khôn, và yêu mến người đồng loại như chính bản thân mình.
88.
Tẩy uế đền thờ
"Đem tất cả những
thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán." (Ga 2,16)
Suy niệm:
Đức Giêsu mang lại những
cái mới:
Bài Tin Mừng đặt ta giữa
một loạt những điều mới mẻ do Đức Giêsu mang lại. Tại Cana, Người mang lại rượu
mới từ nước lã (Ga 2,1-12). Cái mới được loan báo cho ông Nicôđêmô là cuộc
"sinh ra bởi nước và Thần Khí" như điều kiện để gia nhập Nước Thiên
Chúa (3,5). Cái mới mà Đức Giêsu khẳng định thực sự đã đến khi Người tuyên bố:
"Giờ đã đến - và chính lúc này đây - giờ những người thờ phượng đích thực
sẽ thờ phượng sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và trong sự thật" (4,
23).
Riêng với đoạn Tin Mừng
hôm nay, cái mới được loan báo lại là chính Thân Thể Người (2,21)! Tại sao vậy?
Thưa, vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân. Câu Thánh
Vịnh 69,10 này được trích khi tác giả Tin Mừng Gioan đặt động từ thiệt thân ở
thì tương lai (sẽ phải thiệt thân) để chỉ về cái chết Đức Giêsu phải chịu như
hậu quả của lòng nhiệt thành của Người đối với nhà Chúa. Trong thực tế trước
Thượng Hội Đồng Do Thái Giáo, Đức Giêsu sẽ bị tố cáo "Tên này đã nói: Tôi
có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa, và nội trong ba ngày, sẽ xây cất lại" (Mt
26,61). Rồi khi bị đóng đinh trên thập giá, Người sẽ bị kẻ qua lại nhục mạ:
"Mi là kẻ phá được Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy
mình đi!" (27,39-40).
Trở lại với bản văn Tin
Mừng hôm nay, điều nổi bật là cơn thịnh nộ của Đức Giêsu. Ta đặt mình vào bối
cảnh trong đó Người tỏ ra không thể đội trời chung được với cái thế giới làm
cho Đền Thờ bị tục hoá. Người nhận lấy sứ mạng tẩy uế nơi thánh. Bản văn cho
thấy trước hết là bối cảnh (2,13). Kế đến là sự kiện (cc. 14,15 và 16). Sau
cùng là những suy nghĩ (cc. 17-22).
Về bối cảnh, hãy coi tầm
quan trọng mà tác giả dành cho đoạn văn này. Đây là đoạn đầu về đời công khai
của Đức Giêsu. Mặc dầu trước đó đã có phép lạ tiệc cưới Cana, nhưng cách nào đó
tại tiệc cưới này Đức Giêsu còn hành động cách kín đáo. Người quản tiệc nếm thử
nước đã hoá thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước
thì biết) ông mới gọi tân lang lại và nói: "Ai ai cũng thết rượu ngon
trước và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu
ngon cho đến mãi bây giờ!" (Ga 2,10). Còn ở đây, ngược lại, là hồi đầu của
cuộc đời công khai trong đó Đức Giêsu hành động một cách chính thức và công
khai. Thời điểm mà người chọn cho hành động đó cũng rất quan trọng đối với đời
sống phụng tự của người Do thái: "Lễ Vượt Qua của người Do thái gần
đến." Độc giả nhớ rằng sách Tin Mừng thứ bốn được đặt ăn nhịp với tiến
trình của những cuộc lễ mà chính yếu là lễ Vượt Qua về cuối đời Đức Giêsu.
Chính với lễ này phụng vụ mới về đời Chúa được khai trương. Vậy lễ Vượt Qua của
người Do thái gần đến, Đức Giêsu lần đầu tiên lên Giêrusalem cách chính thức và
công khai.
Đức Giêsu nổi giận trước
cảnh Đền Thờ bị tục hoá:
Thế rồi sự kiện xảy ra
như thế nào? Đức Giêsu thấy Đền Thờ bị biến thành cái chợ! Người ta đang bán
bò, chiên, chim bồ câu. Đức Giêsu còn thấy những người đang ngồi đổi tiền. Tại
sao đổi tiền? Vì tiền của chính quyền thực dân không thể xài được vào việc dâng
cúng nên phải đổi nó ra tiền của Đền Thờ thì mới dâng cúng được. Vậy Người lấy
dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ. Bất kể
tới tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra khi lật nhào bàn ghế của họ.
Ở đây ta có hình ảnh một
Đức Giêsu nổi nóng. Người vớ lấy bất cứ thứ gì, chẳng hạn dây rợ, để bện thành
roi. Đó là dụng cụ Người dùng để xua đuổi những người đang buôn bán ra khỏi Đền
Thờ. Làm hành vi tẩy uế đó xong, Người mới cắt nghĩa lý do khi nói với những kẻ
bán bồ câu rằng: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha
tôi thành nơi buôn bán." (c. 16)
Kế đến trong bài Tin Mừng
là ba suy nghĩ như sau:
Trước hết các môn đệ nhớ
tới lời Kinh Thánh "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải
thiệt thân" (c. 17). Ở đây, các môn đệ áp dụng câu Thánh Vịnh 69,10 này
trực tiếp cho số phận của Đức Giêsu. Người sẽ bị thiệt mạng do âm mưu của giới
lãnh đạo Do thái giáo. Nhưng với Đức Giêsu, hành vi nhiệt thành của Người,
thuộc về đạo làm con vì Người nói: "Đừng biến nhà CHA TÔI thành nơi buôn
bán." (c. 16).
Người Do thái đòi Đức
Giêsu phải làm dấu lạ để chứng minh Người có quyền hành xử như trên (c. 18).
Nhưng Đức Giêsu đã không làm phép lạ. Người cắt nghĩa Tin Mừng này qui về thân
thể của Người là thân thể sẽ trở nên Đền Thờ cuối cùng của Thiên Chúa (cc.
19-22).
Điều nổi bật trong bài
Tin Mừng là tội được mạc khải như hành vi tục hoá Đền Thờ của Thiên Chúa. Thay
vì thờ phượng Thiên Chúa, người ta đặt ngẫu tượng lên để tôn thờ.
Mọi tội đều là hành vi
tục hoá công trình của Thiên Chúa. Con người được Thiên Chúa dựng nên để tán
dương, tôn kính và phụng sự Người. Mọi sự khác đều được dựng nên để giúp con
người thể hiện mục đích cao cả đó. Tội khiến con người hành động ngược lại với
ý định của Thiên Chúa nơi công trình của Người bằng cách đặt ngẫu tượng lên để
tôn thờ! Thư thứ nhất của Gioan nêu ba loại ngẫu tượng đặc trưng, đó là:
"dục vọng của xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình"
(2,16). Dục vọng của xác thịt chỉ về những ham muốn vô trật tự của bản tính
loài người, trong đó phải kế tới dục tình đang đe dọa trầm trọng tương lai của
xã hội loài người. Dục vọng của đôi mắt chỉ về lòng tham của con người muốn sở
hữu tất cả những gì mắt thấy bất kể tới đức công bằng và nhu cầu của người
khác. Cuối cùng là thái độ cậy mình có của. Nó phát sinh từ tính kiêu căng tự
phụ. Kẻ kiêu căng luôn tìm quyền lực để thống trị người khác. Đó là gốc gác của
biết bao cuộc chiến từng xảy ra trong lịch sử.
Những dục vọng ấy sẽ trở
thành ngẫu tượng khi trở nên giá trị tuyệt đối. Chúng sẽ thay thế Thiên Chúa để
điều khiển con người. Và khi ấy không còn phải là đền thờ được xây dựng bằng đá
hay bê tông bị tục hoá, nhưng là chính con người bị tục hoá như lời thánh tông
đồ Phaolô nói: "Nào anh em chẳng biết anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và
Thánh Thần Chúa ngự trong anh em sao? Vậy ai phá hủy Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên
Chúa sẽ hủy diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính
là anh em." (1Cr 3,16-17).
Vậy cơn thịnh nộ của Đức
Giêsu nói lên lòng nhiệt thành chính Người mang nặng. Nó thúc đẩy Người dấn
thân giải thoát những ai bị dục vọng kềm kẹp. Thực ra, chỉ thân thể Đức Giêsu
chịu chết nay được phục sinh mới thực sự là Đền Thờ mới, là nơi loài người có
thể phụng thờ Thiên Chúa trong Thần Khí và sự thật.
Phàm ai ở trong Đức Kitô
đều là thọ tạo mới:
Một cách chính xác thánh
Phaolô khuyên người Kitô của mọi thời là: "Anh em phải cởi bỏ con người cũ
với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em
phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và mặc lấy con người mới, là con người
đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh
thiện." (Ep 4,22-24).
Vậy sứ điệp cơ bản của
bài Tin Mừng hôm nay cũng giống sứ điệp của tông đồ Phaolô khi viết: "Phàm
ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, cái mới đã có đây
rồi." (2Cr 5,17)
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa, qua bài Tin
Mừng hôm nay, Chúa mạc khải cho chúng con biết chính Chúa là Đền Thờ. Chúa
chính là Đền thờ cao quý nhất. Xin cho chúng con biết trân trọng và yêu mến Đền
Thờ. Xin cho chúng con chúng con cũng biết dọn dẹp tâm hồn mình trở nên trong
sạch, xứng đáng là đền thờ đẹp cho Chúa ngự.
89.
Đền thờ di động--Huệ Minh
Với bất kỳ tôn giáo nào,
Đền Thờ chính là nơi trang trọng nhất để con người gặp gỡ vị thần linh của mình
tin cậy. Và vì thế, Đền Thờ phải nói là nơi được xây cất không chỉ kỹ lưỡng mà còn
phải trang trí, tô vẽ cho thật đẹp và dùng những vật liệu qúy giá và đắt tiền.
Dân Do Thái cũng thế, với
lòng thành kính dâng lên Thiên Chúa nên họ đã xây cấn đền thờ Giêrusalem thật
hoành tráng. Vì tính chất cũng như đặc thù như thế, Giêrusalem phải mất 46 năm
cũng như mất biết bao nhiêu tiền của mới xây dựng được như mọi người thấy.
Đền thờ chính là nơi thờ
tự, nên mà con người gặp Thiên Chúa và dâng lên Thiên Chúa của lễ của mình theo
mỗi thời điểm. Thánh Gioan thuật lại cho ta là Lễ Vượt Qua của dân Do-thái gần
đến, Chúa Giêsu cùng với bao nhiêu người khác cùng lên Giêru-salem để tế lễ.
Khi đến Giêrusalem, Người
thấy ở trong Ðền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người
ngồi đổi tiền bạc làm mất đi vẻ trang nghiêm của Đền Thờ. Thấy thế, Ngài không
ngần ngại chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra
khỏi đền thờ. Không những thế, Chúa Giêsu đã hất tung tiền của những người đổi
bạc, xô đổ bàn ghế của họ và bảo những người bán chim câu rằng: "Hãy đem
những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán."
Đứng trước cảnh tượng đó,
dĩ nhiên dân chúng đã bất bình. Bấy giờ người Do-thái bảo Người rằng: "Ông
hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy?."
Nghe thế, Chúa Giêsu nói:
"Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại"
Ta thấy cuộc tranh luận
ngày càng gắt gao. Người Do Thái đáp lại: "Phải bốn mươi sáu năm mới xây
được đền thờ này, mà Ông, Ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?"
Chuyện Chúa Giêsu muốn
nói ở đây không phải là cái đền thờ bằng gạch đá này nhưng Chúa Giêsu muốn nói
đến chính thân mình của Ngài. Và, ta thấy ngay cả các môn đệ cũng không hiểu
được lời của Chúa Giêsu. Chỉ sau khi chết và sống lại các môn đệ mới hiểu điều
Chúa Giêsu nói.
Chuyện quan trọng đó
chính là thân mình của mỗi người chúng ta, là Đền Thờ của Thiên Chúa.
Ngày hôm nay, nhìn lại
hình ảnh Đền Thờ Giêrusalem với cảnh hoang tàn bởi người ta mua bán, đổi tiền,
kiếm ăn trên đó ta cũng phải nhìn lại chính cuộc đời mỗi người chúng ta. Chúng ta,
lẽ ra cũng phải có tâm tình như Vua Đavit là Vua ước ao xây cho Thiên Chúa một
ngôi Đền Thờ xứng với Thiên Chúa. Vua ngẫm nghĩ rằng Vua sẽ xây nhà cho Thiên
Chúa nhưng Ngôi nhà mà Chúa hứa xây cho Vua Đavit không phải là ngôi nhà bằng
gạch đá nhưng là một ngôi nhà sống động, nghĩa là Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra từ
dòng dõi của Vua Đavit.
Đấng Cứu Thế là Chúa
Giêsu đã đến trong thế gian này thật sự để rồi nơi Chúa Giêsu con người được
gặp gỡ Thiên Chúa và kết hợp mật thiết với Thiên Chúa. Và, Chúa đến trong trần
gian này để ghi dấu ấn cho những ai tin vào Chúa qua bí tích Thanh Tẩy. Qua bí
tích Thanh Tẩy, con người được cùng hiệp nhất với Thiên Chúa để rồi con người
cũng trở nên những đền thờ mà Thiên Chúa ngự.
Đã là đền thờ thì phải
thanh sạch, không được vương tội lụy trần gian.
Trải qua bao nhiêu năm
lãnh bí tích Thanh Tẩy nhưng rồi cái đền thờ di động chính là tâm hồn của ta
như thế nào? Chắc có lẽ giờ này mà Chúa đến Chúa còn giận hơn khi Chúa đến đền
thờ Giêrusalem. Chắc có lẽ đền thờ của mỗi người chúng ta thì chúng ta hiểu hơn
ai hết.
Có khi ta nghĩ rằng những
người Do Thái thời đó thế này thế nọ... Họ không biết gìn giữ Đền Thờ và họ làm
cho đền thờ ra ô uế. Thế nhưng, nếu như nghĩ lại bản thân ta, đôi khi đền thờ
của ta còn ô uế hơn như thế nữa.
Đời ta, nhiều khi nghĩ
lại rất buồn cười đó là ta thấy rõ hơn ai hết về cuộc sống tạm bợ này. Thế
nhưng, vẫn mang trong mình tính ích kỷ, bon chen, hơn thua, giận hờn... Chính
khi ta sống tâm tình như thế là ta hủy diệt đời ta, ta hủy diệt tâm hồn của ta
và khi đó Chúa không thể nào ngự vào tâm hồn của ta được.
Ta nhớ Thánh Phaolô quả
quyết: "Ai phá huỷ Ðền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt người
ấy. Vì Ðền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Ðền Thờ ấy chính là anh em." (1
Cr 3, 13-17)
Và như vậy, khi nhìn lại
đền thờ tâm hồn của mỗi người chúng ta, chúng ta lại xin Chúa hãy đến, hãy
thánh hóa, hãy tẩy rửa đền thờ tâm hồn của chúng ta. Có như thế Chúa mới có chỗ
trong cung lòng của chúng ta được. Và, điều mà Chúa cũng muốn nơi mỗi người
chúng ta chính là đền thờ đích thực của Thiên Chúa để rồi bất cứ ai nhìn vào ta
họ cũng thấy sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn của ta.
Ngày nay, cũng khó nói
bởi vì ai ai cũng phải chạy đua với cuộc sống để rồi giữ đạo được ngày Chúa
Nhật cũng là may lắm. Còn lại thời gian, ai ai cũng chạy đua với cuộc sống để
rồi gạt Chúa ra khỏi đời của mình.
Thật ngạc nhiên có một
gia đình kia bỏ Chúa gần hai mươi năm qua. Tôi nhẹ nhàng nói với họ rằng hãy
tập sống đời sống cầu nguyện, hãy tạ ơn Chúa vì những ơn lành mà Chúa đã ban cho
mình. Khi mình nhìn thấy những ơn lành thì mình tạ ơn Chúa.
Tưởng chừng mình sẽ cảm
hóa được suy nghĩ cũa họ nhưng không. Khi nghe những lời đó, người chồng vui vẻ
nói rằng con thấy con sống như thế này là thoải mái lắm rồi, có thấy Chúa gì
đâu?
Đáng tiếc thay là họ đã
nhận được quá nhiều ơn của Chúa nhưng họ đã không cảm nhận được đó là ơn của
Chúa. Thôi thì thêm lời cầu nguyện cho họ để đến một lúc nào đó trong cuộc đời
họ nhận ra sự hiện diện của Chúa trong đời họ.
Phần ta, ta hãy luôn cảm
nhận rằng tất cả những gì ta có đó là ân huệ mà Thiên Chúa ban cho ta. Có như
thế, ta mới tạ ơn Chúa, ta mới ý thức rằng Chúa luôn ở trong cuộc đời ta, Chúa
luôn hiện diện trong đời ta và ta chính là đền thờ mà Thiên Chúa ngự.
Có như thế ta mới đi nói
với người khác rằng Chúa ở trong tôi và tôi ở trong Chúa. Nếu sống được như
vậy, ta mới cảm thấy bình an thư thái vì lúc nào ta cũng là đền thờ của Chúa và
Chúa ngự nơi đền thờ là tâm hồn ta vậy.
Xin Chúa thêm ơn cho ta
để ta luôn luôn dọn mình, dọn lòng, dọn tâm hồn mình thanh sạch để mời Chúa vào
ngự vào lòng ta.