Is 45,1.4-6; 1Tx 1,1-5b; Mt 22,15-21
Hiển thị các bài đăng có nhãn Mt 22:15-21. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Mt 22:15-21. Hiển thị tất cả bài đăng
Thời sự GH _ Lễ phong chân phước cho Đức Phaolô 6 và bế mạc THĐGM
Lễ phong chân phước cho Đức
Phaolô 6
và bế mạc Thượng HĐGM thế giới
”Hãy
trả cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa” có nghĩa là cởi mở đối với Thánh Ý
Chúa và tận hiến cuộc sống của chúng ta cho Chúa, và cộng tác vào Nước từ bi,
yêu thương và an bình của Ngài. (ĐGH Phanxicô)
G. Trần Đức Anh OP (Radio Vatican)
Lời Chúa cntn 29a _ của Chúa phải trả cho Chúa
Chúa đã tạo dựng nên muôn loài, kể cả loài người chúng ta,
và mỗi người chúng đều lệ thuộc vào Chúa trong mọi phương diện. Chẳng những
chúng ta phải giữ các điều Chúa truyền dậy, mà khi cần thiết, chúng ta phải hy
sinh cả mạng sống của ta cho Chúa.
Lm. Giuse Đỗ Đình Tiệm
Daily reflection _ stamped with God's image
STAMPED WITH GOD'S IMAGE
It's God who brings us new life, a new dawn, a new breath,
a new strength behind each step and a new hope behind each thought.
Deacon John Ruscheinsky
Tìm hiểu Lời Chúa _ cntn 29a
CHÚA NHẬT 29
THƯỜNG NIÊN
NĂM A
Is
45, 1. 4-6; 1Tx. 1, 1-5b; Mt 22, 15-21
5 phút cho Chúa _ thế gian khôn khéo
19/10/14 CHÚA NHẬT TUẦN 29 TN – A
Khánh Nhật Truyền giáo
Mt 22,15-21
THẾ GIAN KHÔN KHÉO
“Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và
cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên
Chúa.” (Mt 22,16b)
Tôi sẽ/đã làm gì để đem tinh thần
Tin Mừng vào công việc này?
Lời Chúa cntn 29a _ con người _ hình ảnh Thiên Chúa
CON NGƯỜI - HÌNH ẢNH THIÊN CHÚA
Sứ mạng
của Đức Giêsu khi đến trần gian là sứ mạng tôn giáo, là đưa nhân loại về với
Thiên Chúa.
Lm Nguyễn Hữu An
Lời Chúa cntn 29a _ gỡ cạm bẫy, bẻ gẫy cung tên
GỠ CẠM BẪY, BẺ GÃY CUNG TÊN
“Các môn đệ là những người đã để cho mình luôn
tràn ngập tình yêu của Chúa Giêsu và được ghi dấu bởi ngọn lửa nhiệt tình của Nước
Thiên Chúa, để trở nên người mang niềm vui Tin Mừng.” (ĐGH Phanxicô, sứ điệp
truyền giáo 2014, số 4)
Lm. Mt
5 phút cho Chúa _ trả lại cho Xê-da cái gì?
19/10/08 CHÚA
NHẬT TUẦN 29 TN - A
Chúa Nhật Truyền Giáo Mt
22,15-21
TRẢ LẠI CHO XÊ-DA
CÁI GÌ?
“Của Xê-da,
trả về cho Xê-da; của Thiên Chúa, trả về cho Thiên Chúa.” (Mc 22,21)
Suy niệm: “Trả lại cho Xê-Da: Phục Vụ Tổ Quốc bằng cách Sống Đức Tin Công Giáo trong Sinh Hoạt
Chính Trị,” đó là tựa đề cuốn sách của
Charles Chaput, tổng giám mục Denver, Hoa Kỳ, ra mắt vào trung tuần tháng 8, được
liệt vào danh sách sách bán chạy nhất chỉ sau ba tuần lễ phát hành. Theo tác giả,
“của Xê-da, trả lại cho Xê-da” không có nghĩa là đạo đời tách biệt theo kiểu
“đường ai nấy đi.” Người công giáo có thể trả lại cho Xê-da cái gì, đức cha
Chaput trả lời: “Món quà lớn nhất mà
người ‘tín hữu-công dân’ có thể đem lại cho tổ quốc là chứng tá đức tin của
mình trong đời sống luân lý, trong lời nói, trong sự lựa chọn, trong hành động.
Càng sống đức tin cách chân chính, người ‘tín hữu-công dân’ càng đóng góp nhiều
cho tổ quốc.”
Mark Link _ Lời Chúa chủ nhật tuần 29 thường niên
CHÚA NHẬT - TUẦN 29
Tin Mừng Năm A
[Một số người Biệt phái
cố gắng gài bẫy Chúa Giêsu bằng cách hỏi Ngài rằng có nên nộp thuế cho Xêda
không. Chúa Giêsu phá vỡ âm mưu của họ nhằm đưa Ngài vào một cuộc tranh luận
chính trị, Ngài nói:] “Của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên
Chúa” (Mt 22,21).
Nhiều
người nuôi ong chuyên nghiệp không cần đeo mạng hay vải đặc biệt khi chăm sóc
ong. Làm thế nào họ có thể tránh bị ong đốt? Kỹ thuật của họ thật đơn giản:
hoàn toàn giữ yên lặng, khi đi chậm rãi và khoan thai. Điều này khiến những con
ong vẫn giữ được bình tĩnh và thư giãn. Chính vì vậy, ngay cả khi ngòi ong chạm
vào da, người nuôi ong cũng không hét lên vì sợ hãi. Chúa Giêsu cũng giữ bình
tĩnh một cách tuyệt vời cả trong tình huống nóng bỏng, như chúng ta có thể thấy
trong bài đọc hôm nay.
5 phút cho Chúa _ trả về cho Thiên Chúa
16/10/11 chúa nhật tuần 29 tn – a
Mt 22,15-21
TRẢ VỀ CHO THIÊN CHÚA
Lời Chúa cntn 29a _ không có chúa nào khác
NGOÀI TA RA,
KHÔNG CÓ CHÚA NÀO KHÁC
KHÔNG CÓ CHÚA NÀO KHÁC
Dừng để các việc đạo đức, các việc tông đồ của tôi bị điểu
khiển bởi những toan tính đề cao bản thân, gia tăng ảnh hưởng, thủ lợi thế tục...
Đừng trao cho một vị thần nào khác những gì là của Chúa...
Lm.
HK
Lời Chúa cntn 29a _ vấn nạn quyền bính dân sự
VẤN NẠN QUYỀN BÍNH DÂN SỰ
(Chúa Nhật XXIX TN A)
“Của Xêda hãy trả cho Xêda. Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa” (Mt 22,21). Câu nói của chúa Giêsu năm nào đã làm cho nhiều người Pharisêu và nhóm người phe Hêrôđê là những người đầy dã tâm đang tìm mọi cách hãm hại Người phải chưng hửng. Thoạt nghe câu chuyện chúng ta dễ nghĩ đến sự khôn ngoan của Chúa Giêsu. Phải nhận rằng Người đã tài tình thoát khỏi cái thế tiến thoái lưỡng nan do bởi cái bẫy hiểm độc của nhóm Pharisêu và phe Hêrôđê, những người vốn không thích nhau, thì nay lại hợp sức giăng ra. Tuy nhiên, nhân câu chuyện thú vị này và nhất là qua câu trả lời của Chúa Giêsu, chúng ta có được một cái nhìn chuẩn mực hơn về vấn nạn quyền bính trong các xã hội dân sự.
Con người là hữu thể có tính xã hội. Có thể nói rằng tính xã hội là một trong những yếu tố nền tảng làm nên con người. Không ai là một hòn đảo. Kinh Thánh khẳng định: “con người ở một mình không tốt” (St 2,18). Cái không tốt ở đây không chỉ liên hệ đến phẩm tính mà còn liên hệ đến căn tính, nghĩa là liên hệ đến hữu thể “người”. Nói nôm na là nếu “ở một mình” thì không thể thành người đúng nghĩa. Một vài sự kiện về các trẻ bé lạc trong rừng sâu như một minh chứng rõ ràng. Dù sau đó khi được phát hiện và đưa về thì “người rừng” rất khó hòa nhập với xã hội loài người. Quyền bính có ra là do yêu cầu của tính xã hội. Đã là hai người thì tất yếu có kẻ trên, người dưới. Đã là tập thể thì phải có người đứng đầu để lãnh đạo. Một tập thể mà không có người chỉ huy thì chuyện tan rã là chuyện không sớm thì muộn cũng xảy ra. Không có người lãnh đạo thì sẽ dẫn đến tình trạng hỗn độn, cá lớn nuốt cá bé. Chính vì thế sự hiện hữu của quyền bính là điều tất yếu cần thiết. Vị trí quan trọng và thiết yếu của quyền bính được nhìn nhận do bởi vai trò của nó. Quyền bính có ra là để gìn giữ xã hội ổn định trong trật tự, công bằng; xây dựng công ích; bảo vệ kẻ cô thân, yếu thế, người bất hạnh; tạo điều kiện cho mỗi người và mọi người hoàn cảnh thuận lợi để tồn tại, phát triển và nên hoàn thiện.
Theo viễn kiến này và dưới ánh sáng đức tin, chúng ta nhìn nhận rằng Thiên Chúa muốn có sự hiện hữu của quyền bính trong xã hội dân sự. Và sự hiện hữu của quyền bính là trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa, khi Người dựng nên nhân loại mang tính xã hội. Như thế chúng ta có thể nói không sợ sai lầm rằng quyền bính là một trong những công trình của Thiên Chúa, nghĩa là do Thiên Chúa làm nên.
Những gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa. Xêda là một hình thức quyền bính của xã hội dân sự thời phong kiến xưa. Xêda là hoàng đế của La mã hoặc bất cứ vị hoàng đế của nước nào cũng đều thuộc về Thiên Chúa. Ngày nay, Tổng thống, Thủ tướng, Bộ trưởng, Quốc Hội, Tòa án…cũng là quyền bính xã hội và chúng đều thuộc về Thiên Chúa. Vì thuộc về Thiên Chúa thì những người nắm giữ quyền bính ấy phải hành động theo thánh ý Thiên Chúa. Hoàng đế Kyrô khi ra sắc chỉ cho dân Do Thái bị lưu đày trước đây được hồi hương và tái thiết Đền thờ thì đã được ngôn sứ Isaia nhìn nhận như là người được Thiên Chúa tuyển chọn. Hoàng đế Kyrô còn được gọi là người được xức dầu vì ông đã thực thi thánh ý Thiên Chúa (x.Is 45,1).
Chúng ta cần phân biệt sự hiện hữu của quyền bính với người nắm quyền bính. Sự hiện hữu của quyền bính là chính đáng, hợp pháp và phải đạo vì do Thiên Chúa làm nên. Tuy nhiên không phải bất cứ ai nắm quyền bính cũng đều chính đáng, vì có thể họ chiếm lấy quyền bính cách không hợp pháp hoặc họ thực thi quyền bính cách không phải đạo. Lich sử minh chứng có trường hợp người ta đã chiếm lấy quyền bính cách “ma đạo” và hành quyền kiểu độc tài, phi nhân và phi luân. Như thế chúng ta cần phải phân biệt rạch ròi thực thể quyền bính với những người nắm quyền để khỏi nhầm lẫn.
Xét quyền bính như là một cơ cấu tổ chức điều hành một tập thể xã hội hay tôn giáo thì nó thật chính đáng và hợp lý. Tuy nhiên hình thức quyền bính này cũng cần phải được chỉnh sửa cho phù hợp với sự phát triển của con người và xã hội để phục vụ cách hữu hiệu ngày mỗi hơn. Chẳng hạn như cơ cấu quyền bính loại hình quân chủ chuyên chế không thể nào thích hợp với con người và xã hội hôm nay. Nhiều hình thái cơ cấu, tổ chức không chỉ cần phải được đổi mới mà thậm chí còn phải bị thay thế bằng hình thái khác. Có thể nói rằng với đà phát triển của nhân loại như hôm nay thì những hình thái quyền bính mang tính độc tài, chuyên chế không còn lý do để hiện hữu.
Xét những con người nắm quyền bính thì trước hết chúng ta cần xem xét cách thức họ nắm giữ quyền hành có hợp pháp không, nghĩa là có minh bạch và công bằng không. Chúng ta dễ nhận ra cách thức xem ra được gọi là khá công bằng hiện nay để xây dựng công quyền đó là “phổ thông đầu phiếu”. Và dù được tổ chức bầu bán công khai thì cũng cần phải xét xem việc bầu bán ấy có tiến hành trong sự tự do và công bằng hay không. Thực tế đã có đó những cuộc bầu bán tuy là công khai những chỉ là một thứ hình thức hợp pháp hóa sự độc quyền, vì chưa bầu mà thiên hạ đã biết những ai sẽ đắc cử và sẽ đảm nhận vai vế gì trong hệ thống công quyền.
Kế đến chúng ta cần xem xét những người cho dù đảm nhận quyền bính cách hợp pháp và công minh nhưng họ có hành quyền cách công tâm và đúng mực không, dĩ nhiên là ở một mức độ nào đó khả dĩ có thể chấp nhận. Nếu đang nắm quyền mà không thực thi vai trò của quyền bính như đã nói trên, đó là xây dựng công ích, gìn giữ trật tự, bảo vệ người cô thế…,thì chắc chắn những người ấy đang đi ngoài đường lối của Thiên Chúa. Như thế họ không chỉ không đáng được tôn trọng mà thậm chí còn cần phải bị thay thế.
Giáo Hội không làm thay việc của Chính quyền. Đây là một lời khẳng định đúng. Thế nhưng cần hiểu hai từ Giáo Hội ở đây xét như là một thực thể tôn giáo mang tính xã hội có cơ cấu tổ chức và cả quyền bính. Còn những con người có tôn giáo thì chắc chắn phải thực thi nghĩa vụ “con người mang tính xã hội” của mình. Họ phải tích cực tham gia và xây dựng quyền bính xã hội để làm cho nó ngày càng thuộc về Thiên Chúa hơn, nghĩa là được vận hành cách chính đáng và phải đạo. Giáo hội Công giáo chỉ cấm hàng giáo sĩ và tu sĩ không được tham gia vào các chức vụ công quyền, trừ khi có lý do thật khẩn thiết và được ban phép (GL Đ.287.2 ; Đ.672). Còn với tín hữu giáo dân thì việc trực tiếp hay gián tiếp tham gia công quyền và xây dựng công quyền ngày càng trở thành “chính quyền” là một nghĩa vụ khẩn thiết, không thể xao nhãng hay bỏ qua vì bất cứ lý do gì.
“Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”. Có thể khẳng định rằng thể chế nào, nền công quyền nào hay người nắm quyền lực nào mà không “thuộc về Thiên Chúa” thì đang bị Thần dữ chi phối. Thần dữ vốn là tên sát nhân và là cha của sự gian dối thì “thành quả” của nó chính là sự chết chóc, bạo lực và hận thù (x.Ga 8,44). Chính vì thế để làm phát triển nền văn minh tình thương và sự sống thì mọi Kitô, dù là giáo dân, tu sĩ hay giáo sĩ, theo cách thế của mình, đều có bổn phận làm cho các cơ chế công quyền và những người nắm quyền “thuộc về Thiên Chúa”, nghĩa là hiện hữu, vận hành và thi hành quyền bính phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Để được vậy, thiết nghĩ không gì hơn chúng ta cần tích cực can đảm bảo vệ công lý và làm chứng cho sự thật trong tình yêu. Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đang có chương trình phổ biến và học tập “Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo”. Mong sao chương trình này không dừng lại ở phạm trù truyền đạt kiến thức mà được hiện thực hóa bằng việc làm cụ thể, rõ ràng.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
CHÚ GIẢI LỜI CHÚA - CNTN 29A
1. Chú giải của Noel Quesson
Bấy giờ những người Pha-ri-sêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy. Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với nhau người phe Hê-rô-đê đến gặp Đức Giêsu…
Chúng ta thường sai lầm mà cho rằng thời đại của chúng ta là thời đại khó sống nhất. Không còn có sự "nhất trí về đạo đức và xã hội" hôm nay. Những quan điểm chống đối nhau có thể được bày tỏ công khai. Người ta không còn biết suy nghĩ gì, và có thái độ thế nào đối diện với một số vấn đề lớn.
Nếu chúng ta thật sự biết đọc Tin Mừng, chúng ta sẽ khám phá ra rằng thời đại của Đức Giêsu cũng khó sống không kém. Đức Giêsu đã sống trong một bối cảnh lịch sử thật sự bùng nổ. Những đạo quân La Mã chiếm đóng miền Pa-lét-tin và cuộc kháng chiến của người Do Thái không ngừng âm ỉ vào những năm 30 ấy, Hoàng Đế Xê-da ngườibắt cả một Đế quốc mênh mông quỳ mọp là Tibêre một ông già cai trị Đế quốc từ hòn đảo Capri của nhà vua. Những người không cộng tác với quân chiếm đóng, nhóm Dê-lốt hô hào từ chối nộp thuế. Nhà Hê-rô-đê, trái lại dựa vào chính quyền La Mã để giữ địa vị của họ. Sau hết, có nhóm Pha-ri-sêu ra sức bảo vệ sự tự do tôn giáo bằng cách chiều theo hoặc ít hoặc nhiều các quyền lực chính trị.
Phái đoàn đến tìm Đức Giêsu để giăng bẫy Người được cố ý bao gồm những con người có quan điểm trái ngược nhau phe Pha-ri-sêu và phe Hê-rô-đê. Dù Đức Giêsu có theo "cánh hữu' hay "cánh tả", Đức Giêsu sẽ mắc bẫy và làm hại thanh danh của Người mà thôi!?
Họ đến nói với Đức Giêsu rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta.”
Bốn lời khen ngợi nịnh hót là miếng mồi xảo quyệt để che giấu cái bẫy. Tuy nhiên cái bẫy ấy cũng là một lời tôn kính mà các nhân viên gây hấn đó đã khen một thầy Rabbi trẻ tuổi: Họ thừa nhận Đức Giêsu là một con người độc lập sống phục vụ Thiên Chúa và cương quyết. Thực ra, chúng ta biết rằng Đức Gi'êsu thường có thái độ ngược lại với những quan điểm đang thịnh hành: Người đã thán phục đức tin của ông đội trưởng của đạo quân La Mã (Mát-thêu 8,10). Người đã giao du với những người thu thuế và tệ nhất là một trong các người thu thuế ấy có mặt trong số các tông đồ của Người (Mát-thêu 9,9-10). Trước khi đi xa hơn, chúng ta hãy dành thời gian để nguyện ngắm Đức Giêsu, một con người không giống như những người khác. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết theo gương Chúa để luôn luôn là người chân thật... để đi theo chính lộ của Thiên Chúa… không để chúng con bị lôi kéo bới những ảnh hưởng định đưa chúng con đến nơi mà chúng con không muốn... để chúng con luôn luôn được tự do hoàn toàn, không cứng nhắc, không thỏa hiệp không đánh giá người ta theo bề ngoài.
Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: "Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?".
Câu hỏi này khéo léo một cách quỷ quyệt: Nếu Đức Giêsu trả lời "có", Người sẽ không còn được quần chúng ủng hộ vì họ đang chờ đợi một. Đấng Mê-si-a xua đuổi kẻ xâm lược… Nếu Người trả lời "không”, Người sẽ bị phe Hê-rô-đê tố giác như một kẻ xúi giục nguy hiểm chống lại La Mã.
Như thế, Giáo Hội HÔM NAY, cũng như ở mọi thời, thấy mình đối đầu với cùng một vấn đề: vai trò của Giáo Hội không thể trực tiếp làm chính trị... nhưng Giáo Hội cũng không thể đứng trung lập. Và dầu sao đi nữa, dầu nói "có" hoặc nói "không", dầu có nói hay không nói, Giáo Hội thấy mình bị kéo vào trong phe này hay phe khác. Vậy lời đáp lại của Đức Giêsu là gì?
Nhưng Đức Giêsu biết họ có ác ý nên Người nói: "Tại sao các người lại thử tôi hỡi những kẻ giả hình? Đưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi? Họ liền đưa cho Người một đồng bạc.
Trước tiên Đức Giêsu cho họ thấy Người không bị họ lừa! Và Người lột mặt nạ đạo đức giả của họ, bằng cách yêu cầu họ chỉ cho Người thấy một đồng tiền với sự ngây thơ. Không ngần ngại một giây, họ rút tiền ra khỏi túi họ. Như thế, trong khi đóng vai trò của những người đắn đo thận trọng tự vấn mình về việc giữ mình trong sạch trước kẻ ngoại xâm, họ biết sử dụng tốt đồng tiền của kẻ vô đạo để kinh doanh! Dẫu sao, việc đóng thuế không làm cho lương tâm họ ô uế hơn là sử dụng mỗi ngày đồng tiền xấu đó.
Và Người hỏi họ: "Hình và danh hiệu này là của ai đây?". Họ đáp: "Của Xê-da".
Những người La Mã giành quyền đúc đồng tiền bằng bạc, dấu ấn vương quyền của họ. Và đồng bạc có mang tính của Hoàng đế với danh hiệu của ông ta. Hình cái đầu của Tibère được coi như dấu chỉ sự lệ thuộc ô nhục vào La-Mã: Hoàng đế tự xưng mình là thần linh? Người ta biết rằng nhóm Dê-lốt (Zélotes) cấm các thành viên của họ nộp thuế. Đức Giêsu với danh tiếng về sự trung tín với chỉ mình Thiên Chúa làm thế nào mà lại không đứng về cánh tả với những người xúi giục nổi loạn nhân danh Kinh Thánh chứ?
Đức Giêsu sẽ trả lời gì.
Bấy giờ, Người bảo họ: 'Thế thì của Xê-da, trả về Xê da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa".
Câu trả lời của Đức Giêsu đã trở thành một câu châm ngôn đến độ nó trở thành một câu tục ngữ bình dân có trong các trang hồng của từ điển Larousse. Tuy nhiên người ta thường hiểu câu đó rất sai, như thể Đức Giêsu hoàn toàn theo chủ trương tách rời "Giáo Hội và Nhà Nước" đồng thời chấp nhận một thứ độc lập hoàn toàn của quyền lực chính trị…hoặc, ngược lại như thể Đức Giêsu yêu cầu các môn đệ của Người không được tham gia vào các công việc trần thế…
Vậy phải cố gắng hiểu biết tư tưởng ẩy của Đức Giêsu để áp dụng nó vào thời đại chúng ta. Vì thế chúng ta phải chú trọng đến cả hai phần của câu đó, mà vẫn cho phần thứ hai tất cả giá trị của kết luận có tính quyết định.
a) Của Xê-da, trả về Xê-da...
Trong viễn cảnh của toàn bộ Cựu ước, mọi quyền bính đều do Thiên Chúa mà có. Và chúng ta cũng đã nghe trong bài đọc đầu tiên của Chúa nhật hôm nay: Một ông vua dân ngoại như Ki-rô đã được Thiên Chúa xức dầu để thực hiện các công việc của Thiên Chúa "dù không biết Thiên Chúa” (I-sai-a 45,1-4-6). Thánh Phaolô áp dụng chính nguyên tắc ấy để yêu cầu các Kitô hữu đầu tiên tuân phục các chính quyền dân sự (Rôma 13,1-7; Titô 3,1-2).
Thật vậy, không ai có thể coi chừng sự liên đới xã hội và dân sự. Và hẳn người ta sẽ giải thích Tin Mừng rất sai khi muốn cắt đời sống con người thành những lát rời nhau như thể các Kitô hữu và Giáo Hội có thể không biết đến chính trị... như thể tôn giáo phải quanh quẩn trong nhà thờ và không được ảnh hưởng trên đường phố, đô thị, các công việc, gia đình, luật pháp, thuế khóa... Quả thật, Đức Giêsu đã thướng từ chối đóng vai trò của "Đấng Mê-si-a” xã hội chính trị mà người ta muốn bắt Người làm: đó là ý nghĩa sâu xa của kinh nghiệm tâm linh của các cám dỗ đến với Người lúc bắt đầu đời sống công khai (Mt 4,8-10); đó là ý nghĩa của việc Người chạy trốn vào sự cầu nguyện khi người ta muốn đưa Người lên làm vua sau khi hóa bánh ra nhiều (Ga 6,14-15); đó là ý nghĩa lời Người quở trách Phêrô khi ông này xuống ngăn cản Người trở thành Đấng Mê-si-a đau khổ (Mt 16,21-23); đó là ý nghĩa rất rõ ràng của lời Người tuyên bố với Philatô: "Tôi là vua, nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này" (Ga 18,36).
Tuy nhiên, trong lời đáp lại của Đức Giêsu: “của Xê-da, trả về Xê-da", khó mà không nhận thấy một lời mời gọi phải tính đến quyền bính đã được thiết lập và tôn trọng các quyền hành của nó. Khi chọn thái độ ấy, Đức Giêsu đưa vào thế giới cổ đại một sự phân biệt cách mạng: Người giản thiêng chính trị bằng việc khẳng định Xê-da là Xê-da... nhưng không phải là Thiên Chúa! Trong khi mà Xê-da vì là Xê-da nên tiếp tục thực hiện chức vụ của ông ta! Đó là một chức năng thuộc về con người phụ thuộc mọi sự cố bất ngờ, và những thực tế xã hội chính trị phức tạp, khống chế độ, những hệ thống, những ý thức hệ. Nhưng vẫn chưa nói hết tất cả.
b) Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa...
Chúng ta là những con người hiện đại nên chúng ta biết giờ đây mọi nền chính trị coi thường phần thứ hai này của tư tượng Đức Giêsu rồi sẽ dẫn con người đi về đâu. Những xã hội "không Thiên Chúa" cũng là những xã hội phi nhân. Khi Nhà Nước coi mình là thần linh, nó sẽ đè bẹp con người. Chính Xê-da cũng phải phục tùng Thiên Chúa, và trả cho Thiên Chúa sự gì thuộc về Người. Việc Đức Giêsu đề cao “bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa" là một việc rất có ý nghĩa, trong khi mà người ta không hỏi Người câu hỏi ấy nhưng chỉ hỏi Người một câu hỏi thế tục: Vì thế mệnh đề này là đỉnh điểm của toàn bộ trang Tin Mừng hôm nay. "Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa". Cả cuộc đời của Đức Giêsu không ngừng kêu gọi chúng ta điều đó. Chính trị dù rất quan trọng bởi vì nó là nghệ thuật đem lại công ích, không phải là tất cả con người, không phải là phần chủ yếu nhất của con người. "Con người không chỉ sống bởi bánh"... bởi chỗ ở, bởi thị trường, bởi sự sản xuất. Được tạo dựng theo "hình ảnh của Thiên Chúa" "theo hình và hiệu của Thiên Chúa", con người có số phận phải chia sẻ chính sự sống của Thiên Chúa. Nếu Xê-da đã có thể in hình của mình lên những đồng tiền và vì thế người ta phải trả lại tiền đó cho Xê-da thì còn hợp lý hơn thế biết bao đối với Con người đã được hình ảnh của Thiên Chúa đóng ấn, con người phải "trả mình" trọn vẹn về cho Thiên Chúa! (St 1,26). Con người đáng được tôn trọng tuyệt đối vì số phận của con người vốn thánh thiêng. Như thế Đức Giêsu không để cho Người bị mắc bẫy mà người ta giăng ra cho Người. Một lần nữa, người đã mạc khải điều kín nhiệm và sứ mạng của Người: Thiết lập Triều đại của Thiên Chúa... và bởi thế mạc khải chiều kích cao cả nhất của con người! Nhưng quả thật, có phải tôi trả cho Xê-da điều thuộc về Xê-da? Có phải tôi coi chiều kích chính trị của đời tôi là điều nghiêm túc? Và có phải tôi cũng trả cho Thiên Chúa điều thuộc về Người. Có phải đời sống tôi được hiến dâng hoàn toàn cho Thiên Chúa.
2. Chú giải của Fiches Dominicales
VẤN ĐỀ NỘP THUẾ CHO CESAR
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Kẻ khéo giăng bẫy…
Ba dụ ngôn về xét xử mà chúng ta đã suy gẫm suốt mấy tuần rồi (dụ ngôn hai người con được sai đi làm vườn nho, Chúa nhật 26; dụ ngôn những tá điền sát nhân, Chúa nhật 27; dụ ngôn khách dự tiệc cưới, Chúa nhật 28) vẫn không đủ làm cho các kẻ thù địch Chúa tan rã hàng ngũ. Trái lại họ còn liên minh với nhau và thay phiên nhau trong cố gắng làm cho Chúa phải rơi vào bẫy của họ. Sau khi đã "bàn bạc với nhau, tìm cánh làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy" thì một lần nữa những người Pharisiêu, không ngại gì sai các môn đệ của họ cùng đi với những người thuộc phe Hêrôđê. Vấn đề họ đặt ra. cho thấy rất rõ những thái độ khác nhau của họ đối với người Rôma chiếm đóng. Đang khi những người Pharisêu đành phải bằng lòng coi sự có mặt của quân chiếm đóng như một điều xấu không tránh khỏi được, miễn là tự do tôn giáo được bảo đảm - những người phe Hêrôđê là nhóm chính trị ủng hộ gia đình Hêrôđê lại thân với chính quyền Rôma- thì những người thuộc nhóm quá khích" (zéloté) lại chủ trương bày tỏ sự chống đối công khai, nên nhóm này cấm các thành viên của nhóm không được đụng chạm đến tiền bạc của người Rôma. Họ lên tiếng hỏi Đức Giêsu, sau mấy lời mở đầu đầy vẻ phỉnh phờ: vậy xin Thầy cho biết ý kiến có được phép nộp thuế cho Ceasar hay không P. de Surgy đưa ra nhận xét sau: "Vấn đề họ đặt ra này liên can tới sứ vụ thiên sai, điều đó không làm ta ngạc thiên, bởi lẽ họ chỉ muốn nhắm đả kích việc Đức Giêsu cho mình là Đấng Cứu Thế là thôi. Vả lại họ đặt ra vấn đề cũng là thì lòng thì địch ghen ghét muốn cho dân chúng hay chính quyền thù ghét Người" (“Assemblées du seigneur" số 60, trang 10).
Họ nghĩ: Dù Đức Giêsu trả lời đàng nào, thì Người cũng không thể thoát khỏi bẫy. Nếu Người trả lời "không", nếu Người không nhìn nhận công khai việc phải nộp thuế này, thì đúng là Người chống lại với hoàng đế César - Và nhưng người phe Hêrôđê sẽ vội vã tố cáo Người với nhà chức trách Rôma - Trái lại, nếu Người trả lời “Có", nếu Người công khai thừa nhận là nên nộp thuế cho César, thì Người hợp thức hoá sự hiện diện vô đạo và bất nhân của người Rôma trên một đất thánh mà Thiên Chúa đã ban cho tổ phụ Abraham và con cháu ngài; vậy thì trước con mắt của một dân tộc đang trông đợi một cuộc giải phóng quốc gia, Người mất hết tín nhiệm và đừng hòng coi mình là Đấng Messia đến thực hiện những ước mơ của họ. Những người Pharisiêu sẽ không bỏ lỡ cơ hội để đánh trống la làng về chuyện này.
2. … thì chính họ lại mắc bẫy.
Trước khi trả lời câu hỏi của họ, Đức Giêsu làm cho lộ ra thanh thiên bạch nhật "thói giả hình" của những kẻ đối thoại với Người. Người yêu cầu họ: "Đem đồng tiền nộp thuế cho tôi coi. Lạ thay! Họ có đem theo một đồng. Quả là hồi đó "đồng tiền này", đồng quan Rôma, đều có mang hình tượng hoàng đế Rôma, đầu đội vòng hoa như một vị thần, cùng với danh hiệu rõ ràng này: César Tibeno con của thần Augusto: Augusto". Cl. Tassin chú giải: "Rõ ràng là có chuyện coi mình như thần thánh, mặc dầu bản thân Tiberio vẫn coi mình là một người như mọi người". Nhất là từ thời Caligula, thì các hoàng đế Rôma vẫn hiên ngang đòi cho mình có căn tính thần thánh. Cựu ước đã rò ràng cấm chỉ những hình ảnh phàm trần cùng vì xu hướng thần thánh hoá này. Để tôn trọng cái cảm quan tôn giáo này, các nhà cầm quyền Rôma chỉ đúc những đồng tiền không có hình ảnh để dùng trên lãnh thổ Do thái. Nhưng, đối với việc nộp thuế trong đế quốc, thì người ta không tránh khỏi được đồng bạc bất nhân ấy, mà đồng tiền ấy, theo nét trào phúng của câu chuyện, xem ra lại được móc ra từ túi của những người Pharisiêu vốn dĩ rất trung thành với những điều cấm đoán của Luật Chúa" (Phúc Âm thánh Matthêu, NXB Centurion, trang 233).
Chúa hỏi họ: “Hình và danh hiệu này là của ai đây”. Họ đáp: của César. Và Chúa Giêsu nói lên một câu bất hủ -nhưng lại rất hay bị người ta cắt nghĩa sai- khiến những kẻ đối mặt với Người phải hết sức ngạc nhiên": "Thế thì của César, trả về César; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa? Người không phải là Đấng Messia mà, để chu toàn công việc của mình, phải nắm lấy quyền chính trị và đảm nhận những trách nhiệm và chức vụ của César. Và bởi vì chính họ đã được tạo dựng giống hình ảnh Chúa, nên Người khuyên nhủ họ hành động sao cho trong mọi sự Thiên Chúa phải được phụng sự trên hết; còn đối với quyền hành chính trị, mặc dầu vẫn hết mực tôn trọng, nhưng khi quyền ấy ngẫu nhiên tự thần thánh hoá mình mà chiếm đoạt luôn cả những quyền chỉ thuộc về Thiên Chúa, thì họ phải lên tiếng phản đối vì: "Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”? Không muốn để mình kẹt vào thế lưỡng nan do đối phương bày ra, Đức Giêsu xác định lập trường của Người và xoay chuyển vấn đề. Nước Thiên Chúa không phải là nước cạnh tranh với nước của César; Nước ấy thuộc về một trật tự khác và nằm ở một bình diện khác, Đấng Messia không đến để chiếm chỗ của César và thực hiện một sứ vụ thiên sai có tính tôn giáo - chính trị; Người đến thiết lập Nước Thiên Chúa. P. de Surgy kết luận: khi mời gọi người ta trả về César... cái mà thông thường Người... có thể đòi hỏi theo như trách nhiệm của chính mình và nhất là khi làm cho hiểu rõ bản chất của Nước Chúa cũng như sứ vụ cứu thế của người và khi khẳng định quyển ưu tiên của Thiên Chúa, Đức Giêsu đem vào quan niệm của Người xưa một sự phân biệt rạch ròi và rất cách mạng: nghĩa là Người làm cho chính trị mất đi tính thần tinh và thánh thiêng, chống lại với mọi xu hướng tôn thờ nó như một ngẫu tượng; người trả chính trị cho chính trị, bằng cách nhìn nhận giá trị của nó và quy cho nó một trách nhiệm riêng. Khi trả chính trị về cho chính trị, Đức Giêsu không có ý để cho chính trị ở trong một hoàn cảnh trung lập với Phúc âm. "Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.Với những lời dứt khoát này Đức Giêsu kêu gọi ta sống cuộc đời của ta, kể cả đời sống chính trị, trong niềm trung tín với Thiên Chúa, Đấng đã tỏ mình ra nơi người. Người đòi hỏi đời sống chính trị của ta phải trung tín với những ước vọng và tinh thần Phúc Âm. Người cũng lêu gọi Giáo Hội cũng như cộng đồng đức tin phải nắm giữ, không phải là phận vụ thống trị hay luân lý đối với chính trị, nhưng là vai trò tiên tri về Phúc âm hoá là bằng con đường hoán cải các tâm hồn sẽ đem lại hiệu quả thực sự: sống giữa lòng lịch sử nhân loại Giáo Hội phải dùng đời sống và lời nói mà lặp lại cho César, tiếng gọi của Thiên Chúa hằng sống là và lên tiếng "mời gọi, mời gọi chuyên chăm, và mời gọi không ngừng tất cả mọi người tiếp tay thực hiện những gợi hứng tích cực của Phúc âm trong công cuộc xây dựng thành đô của loài người" (O.C. trang 24).
BÀI ĐỌC THÊM
1. “Hình tượng này là của ai đây?”
Thánh Augustino bài giảng 24.
Anh em thân mến, Thiên Chúa đòi chúng ta trả lại hình ảnh Người (hình ảnh mà theo đó chúng ta đã được tác tạo) Đó chính là điều Người muốn nói cho những người Do Thái khi họ đưa Người coi một đồng bạc. Trước hết họ muốn thử Người khi hỏi Người rằng: "Xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho César hay không để, nếu Người trả lời: được phép, thì họ có thể tố cáo Người là nhục mạ dân tộc Israel vì muốn cho dân thần phục bằng việc đóng thuế và trở thành chư hầu dưới ách thống trị của hoàng đế. Còn nếu Người trả lời là không được phép, thì họ sẽ có thể tố cáo Người tội phát ngôn chống lại hoàng đế César, là căn cớ cho dân chúng từ chối nộp thuế mà họ phải nộp, bởi lẽ người ta đang sống dưới ách của hoàng đế. Đức Giêsu nhìn thấy mưu mô của họ, như sự thật tìm ra điều gian dối, vì Người đã làm cho họ phải chịt là chính miệng lưỡi họ gian dối. Người không dùng miệng lưỡi mình mà kết án họ, nhưng bắt chính họ phải tuyên án cho mình, như có lời chép rằng: "Vì nhờ lời nói của anh, mà anh sẽ được trắng án, và cũng tại lời nói của anh mà anh sẽ bị kết án" (Mt 12,37). Người nói với họ: "Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình! Đưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi!. Họ liền đưa cho Người một đồng bạc. "Hình và danh hiệu này là của ai đây Họ đáp: "Của César". Bấy giờ Đấng Cứu Thế bảo họ: "Thế thì của César, trả về César; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa" Cũng như César tìm hình ảnh mình trên đồng tiền thế nào, thì Thiên Chúa cũng tìm hình ảnh của Người-trong hình hồn bạn như vậy. Đấng Cứu chuộc phán rằng: "của César, trả về César". César đòi bạn trả gì? trả hình ảnh của ông. Chúa đòi bạn trả gì? Hình ảnh Người. Nhưng hình ảnh của César thì in trên đồng tiền, hình ảnh của Thiên Chúa ở trong lòng bạn: Nếu mất đồng tiền khiến bạn phải khóc, vì bạn đã đánh mất hình ảnh César. Thì gây xỉ nhục cho hình ảnh Chúa trong lòng bạn, lẽ nào điều đó lại không hề làm cho bạn phải nhỏ lệ sao?".
2. “Hôm nay đến lượt ta làm chứng Tin Mừng”.
(Sổ tay sinh hoạt Ngày thế giới Truyền giáo).
"Năm 180, tại miền đất nay là nước Tunisit có 5 phụ nữ và 7 người đàn ông là nông dân bị bắt vì là những người có đạo Người ta ép họ chối bỏ đức tin và nhìn nhận hoàng đế Rôma là Chúa. Theo án lệnh, một phụ nữ trong đám đáp: "chúng tôi kính trọng César vì là hoàng đế nhưng chúng tôi chỉ tôn thờ Thiên Chúa mà thôi. Tất cả đều bị kết án tử, họ là những vị tử đạo tiên khởi của Bắc Phi.
Họ làm chứng cho lời Chúa mà chúng ta vừa nghe: "Hình và danh hiệu của César, trả về César, vì đồng tiền này là dấu hiệu sự tổ chức xã hội mà con người tham dự nào, tỉ dụ như việc nộp thuế, nhưng con người được tạo dựng theo hình ảnh Chúa (St 1,26-27) và "mang danh hiệu: Con thuộc về Chúa (Is 44,5), nên phải trả về Chúa"... Đây chẳng qua là một thí dụ xưa rồi, nhưng ta có thể tìm ra vô vàn những mẫu tương đương trong tất cả lịch sử Kitô giáo. Cho tới thời hiện đại... Đó chẳng phải là kết quả của việc loan báo Tin Mừng, của Lời Chúa được đón nhận có sức làm biến đổi đời sống con người như đã thể hiện nơi Giáo Hội trẻ trung ở Thessalonica mà thánh Phaolô nói tới đó sao? Chính ngài, ngài biết rõ mình được sai đi rao giảng bí ẩn của Thiên Chúa mà Đức Giêsu đã mạc khải... Nhưng điều làm cho thánh nhân vui mừng là được thấy sống dậy một cộng đồng các người nam nữ mà đời sống của họ được đổi mới nhờ việc họ đón nhận Tin Mừng này. Họ có một lòng tin sống động, một lòng mến tích cực và một lòng cậy trông vững vàng như ta thấy thánh tông đồ nói về họ. Những cộng đồng này, đến lượt mình, trở thành những nhân chứng giúp mở ra những hàng rào xã hội trong đó con người có nguy cơ bị giam hãm. Những cộng đồng này móc nối với cộng đồng kia lần lượt nổi lên như những hoa trái của Lời Đức Giêsu, tạo thành một chuỗi các mắt xích, đã dần dần thể hiện một sự hiệp thông các Giáo Hội địa phương và đó chính là Giáo Hội của Chúa trong thế giới. Các giáo hội ấy cùng nhau thực thi Lời Chúa "Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.
3. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
NỘP THUẾ CHO HOÀNG ĐẾ
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Phải đặt đoạn này trong toàn bộ các chương 21-23 như thế nào?
2. Có lạ lùng không khi hai phe Biệt phái và Hêrôđê hợp tác chặt chẽ với nhau ở đây?
3. Phải chăng tiếng kêu "Thầy" có một cách dùng đặc biệt trong Mt?
4. "Cạm bẫy" mà các kẻ đối thoại với Chúa Giêsu giăng ra cho Người đúng ra là gì?
5. Biệt phái có phải là "giả hình" chỉ vì đã giả vờ khen Chúa Giêsu không? Phải chăng họ cũng không sống giả hình trong chính vấn đề nộp thuế?
6. Câu trả lời của Chúa Giêsu vượt quá câu hỏi do địch thủ Người đặt ra ở chỗ nào?
*****
1. Trong vụ tranh tụng diễn ra tại Đền thờ giữa Chúa Giêsu và các địch thủ Người: thượng tế và ký lục (20,18; 21, 15), thượng tế và niên trưởng trong dân (21, 23), thượng tế và Biệt phái (21, 45), chúng ta đã thấy điểm tranh chấp dần dần xác định: lai lịch của Con Đavít và nguồn gốc quyền bính của người hay, nói cách tương đương, bản chất của Nước Thiên Chúa. Các dụ ngôn đã cho thấy sự cấp bách phải chọn lựa, đồng thời vẫn còn để cho cơ hội hối cải về sau (21, 32; 21, 45).
Bây giờ đến bốn cuộc tranh luận móc nối nhau theo chiều hướng đi lên. Chúng xem ra được xếp đặt theo một lược đồ thông dụng của các giáo sĩ:
- Hokmâh (sự khôn ngoan): một cuộc tranh luận về phép xử thế nhân cơ hội một vấn đề pháp luật (22,15-22).
- Haggadâh (lời chú giải): một dịp giải thích các đoạn Kinh Thánh có vẻ mâu thuẫn (22,41-46).
- Bôrut (điều thô tục): một cuộc tranh luận nhắm chế nhạo một niềm tin (22, 23-33).
- Dérèk érèts (con đường thế): một tranh luận về các nguyên tắc căn bản của đời sống luân lý (22,34-40).
Tuy nhiên Mt đổi thứ tự cổ truyền bằng cách đặt haggadâh vào phần cuối của cuộc tranh chấp để cho thấy cuộc tranh chấp tiến đần đến câu hỏi sau cùng của Chúa Giêsu.
Ba cuộc tranh luận đầu tiên được khỏi xướng do ba nhóm đại diện cho Do thái giáo chính thức, họ muốn tìm cách gài bẫy Chúa Giêsu bằng chính lời nói của Người (cc.15 và 35) về những vấn đề càng lúc càng quan trọng: việc nộp thuế cho hoàng đế vấn đề chia rẽ phe cánh Hêrôđê, nhóm Biệt phái và đảng Nhiệt thành; kẻ chết sống lại; vấn đề bị phái Sađucêô chối bỏ; điều răn lớn nhất: mốl bận tâm của những người Do thái chăm chú giữ luật là nhóm Biệt phái. Các vấn đề này được đặt ra cho một Rabbi, một "Thầy" (didaskale: cc. 6. 27. 36), tước hiệu cho thấy sự hiểu biết của họ về Chúa Giêsu đến mức độ đâu, nhưng Người, cứ mỗi lần như vậy, lại dẫn họ đến một vấn đề căn để hơn. Và sau cùng Người đi bước trước bằng cách đặt rõ cho họ vấn đề nêu lên do sự có mặt của Người giữa họ trong Đền thờ, khiến họ bị bắt buộc phải chọn lập trường tối hậu.
2. Đoạn ngắn này bao gồm âm mưu của địch thủ Chúa Giêsu (c. 15), cuộc toan tính của họ bên Người (16, 17) và câu Người trả lời cho họ (18- 21): trọng tâm của trình thuật nằm trong lời phán quyết sau cùng, cái lời lưu giữ với những hạn từ rành rẽ một giáo huấn quan trọng của Chúa Kitô. Đưa ra nhân một cuộc tranh luận với các tiến sĩ Luật, công thức này quả nổi bật trong khung cảnh đó.
Câu hỏi đặt ra cho Chúa Giêsu là một câu hỏi hóc búa, nhằm mục đích hại Người hoặc trước dân chúng, hoặc trước quyền bính dân sự. Như ta biết, nhóm Biệt phái tượng trưng cho tinh thần bất nhượng bộ về vấn đề tôn giáo và một cách chính thức tượng trưng cho những người quyết tâm bảo vệ sự tự do của dân Chúa tước quyền bính Rôma tại Giuđêa, quyền bính này nằm trong tay một tổng trấn mà đôi lúc, với sự hỗ trợ của binh lính, đã tỏ ra rất hà khắc. Còn nhóm Hêrôđê lại thân với Rôma, vì đế quốc nâng đỡ các quận vương xuất thân từ giòng tộc Hêrôđê Cả đang trị vì ở Galilê và Pêrê (Hêrôđê Antipas) hoặc Auranitide, Gaulanitide, Batanée, Tratronitide và lturée (philíp). Nhóm chủ trương hợp tác với kẻ chiếm đóng vì sự hợp tác này có lợi cho họ.
Các lời nói của những kẻ được sai phái thật sảo quyệt. Câu đầu tiên, rất dài, với dụng ý đánh tan mọi ngờ vực, là một lời khen đầy tôn kính giả vờ đối với Chúa Giêsu (c. 18). Họ chào Người với tước hiệu Rabbi. Họ khen Người thành thật. Có thẩm quyền và bất thiên vị. Họ năn nỉ xin Người phán một lời để giải quyết một vấn đề phức tạp mà họ không thể nào đồng ý với nhau. Sau câu xã giao rườm rà và thơn thớt ấy là đến một liều thuốc độc (c. 17), một câu hỏi sắt như dao và bất ngờ: "Có được phép nộp thuế cho hoàng đế không?".
Ngoài các loại thuế gián thâu đánh trên mọi công dân của đế quốc (thuế thông lưu, thuế thương chính, thuế kế sản và thuế mại vật), các tỉnh còn phải nộp cống thuế (tributum) cho nhà vua; cùng với việc kiểm tra, cống thuế này là dấu chỉ rõ ràng nhất của việc lệ thuộc; người Do thái ghét thứ thuế đó lắm và đảng Nhiệt thành coi việc từ chối nộp nó là một bổn phận tôn giáo. Tại Giuđêa, nó đã được giòng tộc Séleucos thiết lập từ lâu và được người Rôma duy trì dưới hai hình thức là thuế điền thổ (tributum soli) và thuế thân (tributum capitis) mà nhiều nhân viên có nhiệm vụ thâu dưới sự kiểm soát của các quan chức chuyên môn là các tổng trấn, được đặt đứng đầu mỗi khu vực tài chính.
Thành thử câu hỏi đặt ra cho Chúa Giêsu hàm chứa một lưỡng đao: nếu Người chấp nhận nguyên tắc trả thuế thì dân chúng sẽ xem Người như một tên Do thái gian, một người bạn của Rôma và nhóm Biệt phái sẽ có cơ hội đạp đổ uy tín của Người trên dân chung. Nếu tuyên bố chống nộp thuế, nhóm Hêrôđê sẽ phản ứng tức thì và sẽ có cớ để làm Người bị tổng trấn lên án bằng cách trình bày Người như một tên phá rối trật tự chung. Cổ võ việc chống đối nộp thuế điều mà chính Người sẽ thực sự bị gán ghép trong vụ xử án trước tòa Philatô sau này. (x Lc 23, 2).
Câu trả lời của Chúa Giêsu gồm ba yếu tố:
1. Trước tiên Người tuyên bố rằng mình không phải là kẻ dễ bị lừa gạt. Người biết mình bị giăng bẫy và biết các kẻ đối thoại (đều nham hiểm và tà tâm).
2. Người trả đũa một cách khéo léo bằng cách hỏi vặn lại. Vì những kẻ nói với Người đều đã trả lời, qua các sự kiện, cho chính câu hỏi họ nêu lên. Chúa Giêsu bắt buộc họ tỏ ra cho thấy là họ đang mang trong mình đồng tiền của đế quốc (người Do-thái không được quyền đúc tiền bằng đồng đỏ hay bằng bạc mà chỉ bằng đồng thau, những thứ ít giá trị này không được dùng để nộp thuế thân hoặc thuế điền thổ). Theo lời Người yêu cầu họ liền đưa ra một đồng quan. Đồng quan chính là thứ tiền dùng nộp thuế. Ngoài ra, đồng này lại còn được khắc hình và tên của hoàng đế tại vị (lúc ấy là Tibêriô). Làm thế, Chúa Giêsu muốn ngầm hỏi họ rằng tại sao họ ngại ngùng khi phải trả lại cho hoàng đế (qua việc nộp thuế) đồng tiền có nguồn gốc Rôma và ngoại giáo ấy hơn là khi nhận nó với cùng thế giá của hoàng đế trong các giao dịch bán buôn của họ? Nếu đã có một vấn đề thì từ lâu họ đã giải quyết bằng cách chấp nhận rồi. Trong lãnh vực tiền tệ, họ đã tự nhận mình lệ thuộc hoàng đế Rôma.
3. Bấy giờ Chúa Giêsu mới đi xa hơn câu hỏi được đặt: Nói cho cùng, chỉ có một điều quan trọng mà người ta có thể thực hiện cách hoàn toàn ngay dưới ách thống tn của ngoại bang, đó là trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài. Điều này, Người không ngừng nói từ khi bắt đầu hoạt cộng và cả Tin Mừng đầy dấy: hãy tìm kiếm Thiên Chúa trước hết mọi sự hãy tìm Nước Trời và sự công chính của Nước ấy trước tiên... Nếu ta thực sự quan tâm đến điều đó, thì mọi vấn đề khác đầu trở thành phụ thuộc, không quan yếu; cơm ăn, áo mặc và công lý dưới trần gian (x. 5, 39-42). Tuy thế, câu nói này không muốn thiết lập hai trật tự khác biệt mà mỗi thứ sẽ là một điều quy chiếu tối hậu: Giáo Hội và quốc gia, và lại càng không muốn đề cao thái độ tùng phục hoàng đế. Nó chỉ đặt các vấn đề vào đúng chỗ của chúng thôn. Các vấn đề liên quan tài hoàng đế đến sau các vấn đề liên hệ tới Nước Trời. Người ta đã đặt vấn đề nộp thuế cho Chúa Giêsu, nhưng lại không hỏi gì Người về những đòi hỏi của Thiên Chúa. Người đã chẳng tìm cách tránh né vấn đề vì có thể gây nên nguy hiểm cho bản thân. Người chỉ đặt lại mọi sự vào đúng chỗ của chúng khiến các địch thủ không còn cách nào theo đuổi câu chuyện, chẳng còn biết làm sao để đun sôi cuộc tranh luận lên. Quyền lợi của hoàng đế đã không bị động chạm, nhưng nhất là quyền lợi của Thiên Chúa đã được đề cao. Người ta có thể hoàn toàn thỏa mãn các yêu sách của Thiên Chúa mà vẫn nộp thuế cho hoàng đế. Chính Thiên Chúa là Đấng duy nhất mà con người phải yêu mến hết sức lực mình (x. 22, 37)
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Họ sai đến với Người môn đồ của họ": một câu khó hiểu: trong Tin Mừng (và hầu như trong văn chương Do thái), người ta chỉ đề cập đến "môn đồ của Biệt phái" ở đây và ở Mc 2, 13 thôi; trong "môn đồ" hàm chứa giả thuyết có một tôn sư, thế mà các người Biệt phái không dạy dỗ bao giờ, trừ ra một số trong bọn họ là Ký lục. Phải chăng Biệt phái đã sai môn đồ của những ký lục như thế. Điều đó rất có thể. Một Biệt phái đứng tuổi mà lại đi hỏi về vấn đề nộp thuế thì chắc chắn không phải là chuyện tự nhiên và có thể làm cho Chúa Giêsu nghi ngờ, vì lập trường của họ về vấn đề này đã quá rõ đối với dân chúng Palestine.
"Thầy": Trong Mt, các môn đồ chẳng bao giờ dùng tiếng Thầy khi nói với Chúa Giêsu, nhưng dùng danh xưng “Ngài" (Kyrie); chỉ có các Ký lục, Biệt phái, phe Saducêô (8, 19; 9, 11; 12, 38; 22, 16. 25. 36) cũng như những người thu thuế (17, 24) và chàng thanh niên giàu có (19, 16) sử dụng thôi. Giuđa, người duy nhất trong đám 12, hai lần dùng danh xưng, "Thầy" (26, 25.49), trong mà Chúa Giêsu yêu cầu tránh trong cộng đoạn huynh đệ (23, 7- 8).
“Chúng tôi biết...": Lời khen lớn nhất tặng cho một rabbi, nghĩa là một kẻ cắt nghĩa Lề luật cho đời sống hằng ngày, là khen họ trung thành với Lề luật (cách dịch của BJ và Nguyễn Thế Thuấn: "ngay thật” (franc) và “chân thành" (franchise) kể ra quá yếu, cách của Osty hay hơn: "Chúng tôi biết Thầy là người chân thật và Thầy dạy đường lối của Thiên Chúa trong chân lý") và không thiên vị ai; các giáo sĩ đương thời hay nhắc đi nhắc lại hai yêu sách này. Sau Cựu ước, Tân ước thường tố cáo tội thiên tư, những thói trọng người theo địa vị và giai cấp xã hội (Cv 10, 34; Gc 2, 1.9; Rm 2,11; Ep 6. 9; Cl 3, 25...).
"Có được phép nộp thuế cho hoàng đế không?": Kiểu nói đặc thù này của Mt (12, 24. 10. 12; 14, 4; 19, 3; 20, 15; 27, 6) là câu hỏi mà người Do thái mộ đạo luôn luôn tự đặt cho mình và là câu mà các giáo sĩ có nhiệm vụ giải đáp trong cả ngàn nố lương tâm nêu lên cho cuộc sống thường nhật; nó có ý nghĩa quy thần: trước mắt Thiên Chúa, nghĩa là dưới ánh sáng của lề luật có được phép nộp thuế không? thành thử câu hỏi không được đặt ra trong phạm vi dân luật hay chính trị, vì trong trường hợp đó, nó sẽ được phát biểu: "Có được phép không nộp thuế chăng?"
"Đồ giả hình": Các người đối thoại với Chúa Giêsu giả hình trong hai chuyện. trước hết là họ làm bộ như rất quan tâm đến một vấn đề thời sự trong lúc chỉ cốt đặt nó ra để làm cho Chúa Giêsu lúng lúng. Thứ đến là khi sử dụng đồng quan ("đồng tiền của hoàng đế") trong các giao dịch thương mại của họ, họ đã mặc nhiên thừa nhận quyền bính của hoàng đế từ lâu rồi.
"Hãy trả cho hoàng đế": câu trả lời này chứa đựng một thẩm định tích cực và tổng quát về vai trò của Nhà nước trong đường hướng của một vài giáo thuyết Do thái đương thời cho rằng những người làm lớn nhận lãnh quyền bính từ nơi Thiên Chúa (Đn 2,21; 2,37-38; Cn 8, 15-16; Ga 19,11; Rm 13,1-7). Triều đại của Thiên Chúa đã được khai mào, tuy nhiên các triều đại của thế gian này vẫn còn hành xử quyền bính cách chính đáng luỵ chỉ tạrn thời. Đối với các quyền bính chính trị, thì Chúa Giêsu, trong toàn bộ Tin Mừng, đã tỏ ra một thái độ chung chung là hoàn toàn không lệ thuộc, nhưng cũng chẳng chống đối. Cách sống của Kitô hữu đầu tiên, như được mô tả trong Công vụ sứ đồ và các thánh thư, cũng nằm trong chiều hướng ấy.
KẾT LUẬN
Qua câu trả lời, Chúa Giêsu không phân định ranh giới giữa hai phạm vi hay hai lãnh vực trong đó Thiên Chúa và hoàng đế sẽ làm chúa tể trong những gì liên quan đến mình. Người chẳng có ý bảo rằng sự vâng phục nhà nước có thể được quan niệm một cách độc lập với sự vâng phục Thiên Chúa. Người không phủ nhận việc có thể xảy ra những tranh chấp giữa Thiên Chúa và hoàng đế và có nhiều trường hợp cần phải chọn lựa giữa việc vâng lời Thiên Chúa và vâng lời người ta (x Cv 4, 18-20). Người chỉ bảo sự xung đột này chẳng có ở nơi mà Biệt phái muốn thấy. Kẻ nào thực sự tùng phục Thiên Chúa và sống trong niềm mong đợi Nước Trời và sự công chính của nó, thì có thể thừa nhận tính cách chính đáng và đồng thời những giới hạn của quyền lợi hoàng đế. Sở dĩ Biệt phái đã đặt câu hỏi, là vì họ không lấy làm quan trọng sự hiện hữu của họ trong thế giới của hoàng đế cũng như sự hiện hữu của Thiên Chúa mà thế giới của hoàng đế cũng lệ thuộc vào. Chính vì Chúa Giêsu đích thực là vua các vua và Chúa các chúa (1Tm 6,15) mà mệnh lệnh của người: hãy trả cho hoàng đế những gì thuộc về hoàng đế..." làm cho việc tùng phục quyền bính thế gian này có một ý nghĩa, một nội.dung ki tô giáo: "Anh em hãy vì Chúa là tùng phục mọi thể chế trong nhân loại hãy hành động như tôi tớ của Thiên Chúa" (1 Pr 2, 13-16).
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Chúng ta có thể lấy lại, nhưng phải gột rửa khỏi mọi ý hướng mỉa mai trong đó, lời Biệt phái khen ngợi Chúa Giêsu, một lời thật xứng hợp cho Người Chúa Giêsu là Đấng chân thật: Người không để cho những đòi hỏi của sự thật hay của luân lý tùy thuộc vào những toan lính "xu thời", chỉ cốt mưu sự thánh công; người nói thẳng thắn trước mặt địch thủ; câu trả lời của Người là có hoặc không (2Cr 1, 18-20), tùy như sự việc đúng hay sai, tốt hay xấu; Người tự xác định chính mình là Sự thật (Ga 14,6). Chúa Giêsu dạy đường lối của Thiên Chúa không phải luật Môisen (Ga 1,17) cũng chẳng phải sự khôn ngoan nhân trần (1Cr 2,1-16) của các triết gia hay nhà luân lý định hướng cuộc đời chúng ta nhưng là giáo huấn Chúa Giêsu; Người là ánh sáng mà chúng ta phải theo để khỏi lạc đường; Người cũng đã xác định mình là "ánh sáng thế gian" (Ga 8, 12) và quả quyết rằng "ai theo Ta, không phải bước đi trong tăm tối” Chúa Giêsu chẳng thiên vị ai: Người là Cứu Chúa của mọi người (x.1Tm 2, 3-6); đối với Người, những khác biệt về chủng tộc phái tính, gốc tích và địa vị xã hội không quan trọng (Gl 3, 28). Với Người, mỗi người là một cá vị độc đáo.
2. Mối bận tâm lớn của Chúa Giêsu, trong câu Người trả lời là biểu lộ tính cách siêu việt và tuyệt đối của những quyền lợi Thiên Chúa. Trước đòi hỏi nộp thuế, Người không chối từ, trái lại còn nhìn nhận việc ấy có tính cách chính đáng. Nhưng Người lại nêu lên một đòi hỏi còn sâu xa hơn, triệt để hơn, của một trật tự hoàn toàn khác hẳn: người ta phải trả cho Chúa không phải một vật nào đó, nhưng là chính bản thân của mình.
3. Thành thử quyền bính dân sự chỉ chuyên trách trong trật tự trần thế là trật tự lệ thuộc vào những thực tại của trật tự tôn giáo. Trong phạm vi này, mà Chúa Giêsu không muốn xác định rõ hơn, Người đã nhìn nhận rằng việc người Do thái nộp thuế cho chính quyền rôm đương thời không có gì là vô luân và phạm thánh cả. Dù chẳng xác quyết bổn phận nộp thuế xem ra Người vẫn giả thiết nó như một hậu quả của tính cách chính đáng của thuế má; nhưng Người không, đi sâu vào trong các quan điểm này, những quan điểm mà thánh Phaolô sẽ minh giải về sau: "Nợ gì với ai hãy trả cho người ấy: sưu cho kẻ đòi sưu, thuế cho kẻ đòi thuế" (Rm 13, 6-7).
4. Kiểu nói: “Hãy trả cho hoàng đế những gì thuộc về hoàng đế" muốn diễn lả những đòi buộc của đời sống cộng đồng trong số những đòi buộc của đời sống luân lý. người Ki-tô hữu không thể nào tự miễn cho mình những bổn phận đối với quốc gia và trong quốc gia, lấy cớ là chỉ thực hiện những bổn phận thuần túy tôn giáo. Việc vấn tâm của chúng ta do đó phải xét đến các bổn phận của người công dân. Vì dù là công dân của Nước Trời (Pl 3, 19-20), chúng ta cũng là công dân của một quê hương trần thế mà chúng ta mang trách nhiệm về trong mức độ quê hương ấy đòi chúng ta phải dấn thân phục vụ (Cv 21,39: Phaolô, công dân thành Tarsê; Cv 16, 37-39 và 22, 25-29; Phaolô, công dân Rôma).
5. Thánh Phaolô nói rõ mọi quyền bính đều từ Thiên Chúa mà ra, và ta phải tùng phục chính quyền trong những gì thuộc địa hạt của nó, không những vì sợ hãi và vì lợi ích, nhưng còn vì bổn phận lương tâm (Rm 13,1-7; Tt 3, 1). Ngài cũng khuyên nhủ cầu nguyện cho các nhà đương quyền, để hòa bình được ngự trị trong thế gian (1Tm 2, 1-4).
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)