Lời Chúa tuần 8 thường niên _ câu truyện minh họa

LỜI CHÚA TUẦN 8 THƯỜNG NIÊN
CÂU TRUYỆN MINH HỌA

CNTN 8A -

CNTN 8B -

CNTN 8C - CÁI RÁC, CÁI ĐÀ

THỨ HAI - ĐIỀU KIỆN THEO CHÚA

THỨ BA - SẼ ĐƯỢC GẤP TRĂM

THỨ TƯ -

THỨ NĂM -

THỨ SÁU - NHÀ CẦU NGUYỆN CỦA MỌI DÂN TỘC

THỨ BẢY - DO QUYỀN PHÉP NÀO?

LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG

LỄ ĐỨC MẸ ĐI VIẾNG - NHẬN RA DẤU CHỈ CỦA CHÚA

LỄ ĐỨC MẸ ĐI VIẾNG - NHẬN RA DẤU CHỈ CỦA CHÚA

ĐỨC MẸ LÀ MẸ HỘI THÁNH – NÀY LÀ MẸ CON

 

CNTN 8A -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1. truyện

CNTN 8B -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1. truyện

CNTN 8C - CÁI RÁC, CÁI ĐÀ

Lời Chúa: Lc 6, 39-45

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: "Người mù có thể dẫn người mù được chăng? Cả hai lại không sa xuống hố ư? Môn đệ không trọng hơn Thầy: nếu môn đệ được giống như Thầy, thì kể là hoàn hảo rồi.

"Sao ngươi nhìn cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy? Sao ngươi có thể nói với người anh em: 'Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh', trong khi chính ngươi không nhìn thấy cái đà trong mắt ngươi? Hỡi kẻ giả hình, hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi.

"Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu; và ngược lại, cũng không có cây nào xấu mà sinh trái tốt. Thật vậy, cứ xem trái thì biết cây. Người ta không hái được trái vả ở bụi gai, và cũng không hái được trái nho nơi cây dâu đất. Người hiền, bởi lòng tích chứa điều lành, nên phát xuất sự thiện; và kẻ dữ, bởi tích đầy lòng ác, nên phát xuất điều ác: vì lòng đầy, thì miệng mới nói ra.”

TRUYỆN KỂ

1. Biết mình là chuyện không dễ.

Ở một đền thờ bên Hy Lạp có khắc câu: Hãy biết mình. Chẳng ai gần gũi với mình bằng chính bản thân mình. Vậy mà tôi vẫn là một bí ẩn đối với tôi.

Người ta thích làm những bản trắc nghiệm để biết về chỉ số thông minh, về tâm lý, tính tình... Nhưng để biết mình cần trắc nghiệm bằng cả cuộc đời.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu nói về chuyện thấy mình. Ngài dùng lối ngoa ngữ để dạy dỗ môn đệ.

Tôi không thấy cái xà trong mắt mình, nghĩa là không nhận ra nơi tôi một khuyết điểm trầm trọng mà ai ai cũng thấy, trừ chính tôi. (Tôi không thể thấy hay tôi không muốn thấy!) Nhưng tôi lại thấy cái rác nhỏ trong mắt anh em. Dường như thấy cái rác nhỏ nơi mắt người khác dễ hơn là thấy cái xà nơi mắt mình.

2. Biết rõ tốt xấu

Câu truyện cổ tích kể: Một hôm con cọp thấy con trâu bị con người bắt kéo cầy. Cọp bảo trâu: Mày to lớn khỏe mạnh thế, sao để thằng người nhỏ bé bắt mày kéo cầy cực khổ vậy? Trâu đáp: nó nhỏ nhưng trí khôn nó lớn. Cọp hỏi người: Trí khôn mày đâu cho tao xem? Người nói: Trí khôn tao để ở nhà, mày muốn xem, tao sẽ về nhà lấy cho xem, nhưng phải để tao trói mày lại, kẻo mày ăn thịt trâu tao. Cọp vui vẻ để người trói.

Trói xong, bác nông phu vác cầy đập cọp, vừa đập vừa nói: trí khôn tao đây, trí khôn tao đây. Câu truyện nói lên người hơn vật ở trí khôn, ở hiểu biết. Hiểu biết rất quan trọng, quan trọng nhất là biết nhận rõ tốt xấu, phải trái, đúng sai, hay dở, thật giả, thiện ác.

3. Mù dẫn mù

Triệu Quát là con trai của Triệu Xa - một danh tướng thời Chiến Quốc. Thời trai trẻ anh để tâm nghiên cứu học hỏi rất nhiều binh thư. Là một người thông minh, lại có năng khiếu về các đề tài quân sự, nên Quát thường chiến thắng trong các cuộc tranh luận, kể cả với cha anh là Triệu Xa. Từ đó Triệu Quát sinh ra kiêu ngạo, cho mình là người giỏi nhất thiên hạ. Tuy nhiên ông bố Triệu Xa của anh lại rất lo cho tương lai của con trai mình. Ông đánh giá Triệu Quát chỉ là hạng người ăn nói giảo hoạt thích nói thánh nói tướng, Ông còn nói: "Sau này nước Triệu không nên cho nó cầm quân, kẻo nó sẽ làm cho quân đội bị đại bại.”

Quả thật, về sau khi quân Tần kéo sang xâm lược nước Triệu, vua nước Triệu cử Triệu Quát thay Liêm Pha làm đại tướng chỉ huy chống lại quân địch. Lạn Tương Như dù đang ốm cũng lên tiếng phản đối như sau: "Triệu Quát chẳng qua chỉ là thứ mọt sách và không có kinh nghiệm vận dụng binh pháp vào thực tế, nên không thể chỉ huy ngoài mặt trận được.” Mẹ của Triệu Quát cũng đến xin vua Triệu đừng cho Quát làm đại tướng. Nhưng vua Triệu không nghe, vẫn cử Triệu Quát ra tiền tuyến nghênh địch. Hậu quả là 40 vạn quân Triệu chỉ trong thời gian ngắn đã bị quân Tần đánh bại và bị tiêu diệt hoàn toàn, bản thân Triệu Quát cũng bị chết thảm.

Cha mẹ của Triệu Quát đã hiểu rõ con trai mình không thể đảm nhận được việc lớn điều binh khiển tướng. Nhưng vua Triệu lại cố chấp khi chỉ dựa vào lời nói của Triệu Quát để đánh giá anh là bậc kỳ tài trong thiên hạ và trao cho anh trách nhiệm lớn thống lĩnh quân đội. Kết quả không chỉ Triệu Quát bị hại mà còn liên quan đến tính mạng của 40 vạn quân. “Mù dắt mù” thì việc bị “lăn cù xuống hố” chỉ là chuyện sớm hay muộn mà thôi.

4. Ai biết mình thì không lên án

Một thầy dòng trẻ tuổi kia phạm một lỗi nặng. Lập tức các thầy dòng lớn tuổi họp lại để lên án anh ta. Tuy nhiên cần phải có mặt của Thầy Bề Trên thì phiên họp mới tiến hành được. Vì thế họ phái người đi mời Bề Trên: "Xin Bề trên đến mau, cộng đoàn đang chờ Thầy.”

Thầy Bề Trên đứng dậy, lấy một chiếc thúng có nhiều lỗ thủng. Thầy đổ đầy cát vào thúng, rồi mang nó sau lưng đi đến phòng họp. Dĩ nhiên cát rơi đầy dọc đường. Các thầy già hỏi Bề Trên làm việc đó vì ý gì thế. Và Thầy Bề trên trả lời: "Tội lỗi tôi rơi đầy sau lưng tôi. Tôi đi đến đâu cũng để lại một dãy tội phía sau. Chỉ có điều là tôi không thấy chúng. Thế mà hôm nay anh em lại bảo tôi ngồi tòa kết tội một người anh em của tôi sao!"

Nghe thế, các thầy già xấu hổ và bỏ ý định lên án ông thầy trẻ.

5. Đạo đức giả không biết mình

Một người kia có thói quen hút thuốc và có nuôi một con vẹt. Một ngày kia anh thấy con vẹt cứ ho mãi, anh liền bỏ hút thuốc. Anh còn mời một bác sĩ thú y đến khám xem khói thuốc đã làm hại sức khoẻ con vẹt đến mức nào. Sau khi khám rất kỹ, bác sĩ cho biết con vẹt chẳng bị bệnh gì cả. Sở dĩ nó ho là vì nó bắt chước những cơn ho của chủ nó thôi. Khi đó, người ấy mới khám phá mình bị bệnh ho!

Người đạo đức giả – mà Chúa Giêsu gọi là giả hình – là người chỉ lo sửa lỗi kẻ khác. Người đạo đức thật là người biết tự sửa mình.

6. Con tê giác dễ thương nhờ biết mình

Ngày xưa có một con tê giác luôn bị ám ảnh bởi ý tưởng mình là người hoàn hảo. Bởi thế nó tự cho mình có trách nhiệm sửa chữa những khuyết điểm của các con vật khác. Mà theo nó nghĩ, khuyết điểm nghiêm trọng nhất là có sừng trên đầu, cho nên tất cả những con vật có sừng đều không được ở yên với nó.

Thế nhưng nó đâu có biết rằng nó có một cái sừng mọc ngay trên cái mũi xấu xí của nó. Những con vật kia đều thấy rõ điều đó, nhưng chẳng con nào đủ can đảm nói cho nó biết.

Một hôm, con tê giác đang đi uống nước thì nghe tiếng một con chích choè đang hót trên cành cây. Nó bực mình thét to: "Im đi, cái con chim xấu xa. Mầy không thấy tao đang uống nước sao?” Con chích choè không chịu thua, cãi lại: "Bộ ông đẹp đẽ lắm sao? Ông thử soi mặt ông trên mặt nước rồi sẽ biết.” Con tê giác nghĩ trong bụng: "Soi thì soi. Ai mà không biết ta là người hoàn hảo.” Nhưng vừa nhìn xuống mặt nước, tê giác nhà ta bỗng giật mình vì khám phá một chiếc sừng quái dị nằm ngay trên mũi mình. Biết mình còn xấu xí hơn tất cả các con vật có sừng khác, nó xấu hổ quá: "Ta không thể nhìn mặt các con vật khác được. Ta tiều đời rồi.” Kể từ hôm đó, khi đi, nó luôn cúi gằm mặt xuống đất. Nó cũng chẳng dám cho ai thấy mặt cả, cứ trốn trong các lùm cây.

Nhưng làm sao trốn tránh mãi được. Cuối cùng nó chẳng còn lựa chọn nào khác là chấp nhận sự thật. Khi đã có can đảm đối diện với chính mình, nó cũng dần dần can đảm đối diện với các con vật khác. Và các con vật kia rất ngạc nhiên khi gặp lại nó: một anh tê giác khác hẳn trước, thật hiền lành và dễ thương làm sao!

Con tê giác của chúng ta đã thay đổi nhờ biết chấp nhận những con vật khác, không phải theo hình ảnh mà nó muốn, nhưng đúng với hình ảnh thật của chúng, nghĩa là có sừng, có gai và có đủ thứ khuyết điểm khác. Nó cũng thay đổi nhờ biết chấp nhận bản thân mình, không xấu hổ vì chiếc sừng của mình nữa và cũng không lo các con vật kia sẽ nghĩ sao về nó nữa.

Chúa Giêsu bảo chúng ta đừng mất công tìm trái vả nơi bụi gai, hay tìm trái nho nơi bụi rậm. Nơi cây nào thì tìm trái của cây ấy. Bài học này có thể áp dụng cho việc đánh giá về người khác và về chính bản thân mình.

7. Thầy tu hay đổ lỗi

Một thầy tu kia có khuynh hướng hay nổi giận. Khuynh hướng này khiến thầy trở thành một gánh nặng không những cho người khác mà còn cho cả bản thân thầy. Thầy tin rằng thầy chẳng tiến bộ chút nào trên đường nhân đức. Thầy nói rằng nhưng người khác khiến thầy phải thụt lùi vì cứ làm phiền thầy và luôn quấy rầy khi thầy cầu nguyện.

Vì thế thầy quyết định rời tu viện để vào rừng ẩn tu. Thầy nghĩ rằng đó là cách khỏi phải bị người khác làm phiền và nhờ đó mà bỏ được tính nóng giận. Thế là thầy dựng một căn lều trong rừng, chẳng mang theo gì khác ngoài một bình nước. Nhưng trong một lần bất cẩn, thầy làm đổ bình nước, nên phải trở về tu viện để lấy bình nước khác. Tuy nhiên khi trở về lều, thầy lại bất cẩn làm đổ nước nữa. Lại chịu khó lần nữa. Nhưng sự việc lại tái diễn lần thứ ba. Khi ấy cơn giận bốc lên ngùn ngụt. Thầy dập chiếc bình vỡ tan tành, rồi ngồi bẹp xuống đất, hoàn toàn thất vọng về bản thân mình.

Khi cơn giận nguội xuống, thầy bắt đầu suy nghĩ và nhận ra rằng cái tính nóng giận của thầy không phải do nơi những thấy khác mà do chính bản thân mình. Tính xấu đó nằm ngay trong con người thầy, cho nên dù thầy đã vào tận trong rừng sâu, nó vẫn còn đi theo thầy.

Thế là thầy quyết định trở lại tu viện, xin lỗi các thầy khác và hứa sẽ cố gắng sửa tính nóng.

8. Điều cần sửa đổi trước tiên

Một nhà đại thần bí Ấn độ nói về chính mình: "Tôi là một nhà cách mạng khi còn trẻ, và tất cả những gì tôi cầu nguyện với Chúa là: 'Lạy Chúa, xin cho con quyền lực để cải tạo thế giới'.

Khi đến tuổi trung niên, tôi nhận ra rằng nửa cuộc đời qua đi mà không một tâm hồn nào được thay đổi. Tôi đổi lại lời cầu: 'Lạy Chúa, xin cho con thiện chí để hoán cải tất cả những người tiếp xúc với con.'

Bây giờ tôi đã già và gần kết thúc cuộc đời. tôi cảm thấy mình ngu dại biết bao. Lời câu nguyện của tôi bây giờ là: 'Lạy Chúa, xin cho con thiện chí để hoán cải chính con'. Nếu tôi xin điều này ngay từ đầu, tôi đã không lãng phí cuộc đời.”

9. Mình làm mình hưởng, mình chịu

Một người nhà giàu nọ cho biết ông sắp đi xa và giao cho người quản lý đứng ra xây cho ông một ngôi nhà sang trọng với vật liệu đắt giá nhất và do những nhân công tài giỏi nhất. Người quản lý xem đây là một cơ hội để làm giàu: ông tính toán từng đồng để mua những vật liệu rẻ nhất, ông mướn những người thợ xoàng nhất và thuê với giá rẻ mạt. Dĩ nhiên, căn nhà cũng được hoàn thành. Khi ông chủ về, người quản lý giao ngôi nhà cho chủ. Ông chủ tỏ vẻ hài lòng và cho biết ông bảo làm ngôi nhà ấy để tặng cho người quản lý. Trong những năm kế tiếp, khi phải chi tiền để tu sửa những chỗ hư của ngôi nhà, người quản lý vô cùng hối tiếc: giả như trước đây tôi biết ngôi nhà ông chủ xây để tặng cho tôi thì tôi đã không xây cất một cách xoàng xỉnh như thế.

10. Vị quốc vương liêm chính

Vào khoảng giữa thế kỷ thứ 19, các dân tộc thuộc vùng núi Caucase ở phía nam nước Nga, được cai trị bởi một quốc vương Hồi giáo nổi tiếng là thanh liêm chính trực. Ưu tiên hàng đầu trong việc chấn hưng đất nước của ông là quét sạch mọi tham nhũng hối lộ.

Ông ban hành một sắc lệnh, theo đó thì tất cả những ai bị bắt quả tang phạm tội tham nhũng và hối lộ sẽ bị phạt đánh 50 roi trước mặt công chúng.

Điều không may xảy ra cho ông, là người đầu tiên bị bắt quả tang phạm tội này lại chính là mẹ ông. Sự kiện này làm cho ông đau đớn vô cùng. Không có một luật trừ hay châm chước nào cho sắc lệnh mà chính ông ban hành.

Liên tiếp ba ngày liền nhà vua giam mình trong lều của ông. Sang ngày thứ tư ông xuất hiện trước công chúng cùng với thân mẫu. Ông ra lệnh cho hai binh sĩ trói tay mẹ ông và bắt đầu xử lý theo qui luật.

Thế nhưng khi chiếc roi đầu tiên vừa quất xuống trên người mẹ ông, thì nhà vua chạy đến bên cạnh bà. Ông mở trói cho bà. Rồi ra lệnh cho hai binh sĩ trói tay ông, lột áo ông ra và bắt đầu cuộc đánh roi. Đúng 50 roi đã quất xuống trên thân mình nhà vua.

Với thân thể rướm máu và khuôn mặt nhợt nhạt, nhà vua quay về phía dân chúng và nói:

- Bây giờ thì các ngươi có thể ra về. Luật đã được thi hành. Máu của vua các ngươi đã chảy ra để đền bù cho tội lỗi này.

Kể từ ngày đó, trong vương quốc người ta không còn bao giờ nghe nói đến tội tham nhũng, hối lộ nữa.

11. Gieo gì thì gặt nấy

Một mùa xuân, anh nông dân đứng bên cạnh thửa ruộng, đưa mắt nhìn những luống cày thân yêu đang phơi mình dưới ánh sáng và tự hỏi:

– Năm nay, hỡi mảnh ruộng của ta, mi có đem lại cho ta cái gì chăng?

Những mảnh ruộng kia sẽ trả lời bằng một câu hỏi khác:

– Nhưng thưa ông, trước hết ông hãy cho tôi biết ông định cho tôi cái gì đã?

Đó, người bạn trẻ cũng dừng bước trước cánh cửa nhiệm mầu của đời sống:

– Hỡi đời sống, mi có dành cho ta cái gì không? Cái gì sẽ chờ đợi ta từ năm này sang năm khác?

Nhưng đời sống sẽ hỏi lại chàng trẻ tuổi:

“Hỡi anh, điều đó còn tùy ở những gì anh cho tôi, phần của anh sẽ được xứng với công việc của anh. Anh sẽ hái quả của hạt giống anh gieo.

Kinh nghiệm sẽ chỉ cho chúng ta biết rằng con đường đưa đến chí khí không phải dễ. Cần phải có một ý chí mạnh mẽ mới chống nổi được với những tật xấu nhỏ mọn, và không bao giờ sa ngã. Một ý chí không ngừng, và cần phải được chú trọng luôn.

12. Đôi kính dính bụi

Một em gái nhỏ vâng lời bà nội bảo đi quét nhà. Quét xong, bé đến thưa bà là mình đã quét sạch rồi. Bà nội hỏi lại: “Có thật quét xong chưa? Để bà xem lại.” Nói rồi bà cụ đứng dậy xem khắp nhà. Xem một lượt, bà nói với đứa cháu gái: “Nhà chưa sạch gì cả, chỗ nào cũng đầy bụi. Con quét lại đi!”

Cô gái nhỏ vâng lời quét thêm một lần nữa, lần này bé quét thật kỹ. Quét xong liền đến trình cho bà nội. Cũng như lần trước, bà cụ xem qua một lượt rồi nói: “Nhà cũng chưa được sạch gì cả, chỗ nào cũng đầy bụi. Sao quét dối vậy? Quét lại đi! Cô gái nghĩ rằng mình còn nhỏ quét chưa sạch được, nên cố vâng lời nội đi quét lần nữa. quét xong, nó cũng đến trình cho nội.

Lần này cũng như hai lần trước, bà cụ xem xong lại nói là nhà chưa sạch. Cô gái lấy làm lạ kỳ. Cuối cùng nó phát hiện ra là bà cụ mang cặp kính dính đầy bụi. Thì ra, vì vậy mà bà cụ nhìn đâu cũng thấy toàn là bụi cả.

Chỉ có cặp mắt trong sáng, tấm lòng trong sạch mới có thể nhìn thấy sự thực.

13. Kính dính bụi

Có câu chuyện kể rằng, một đôi vợ chồng trẻ vừa dọn đến ở trong một khu phố mới. Sáng hôm sau, vào lúc hai vợ chồng ăn điểm tâm, người vợ thấy bà hàng xóm giăng tấm vải trên giàn phơi.

“Tấm vải bẩn thật” – Cô vợ thốt lên. “Bà ấy không biết giặt, có lẽ bà ấy cần một loại xà phòng mới thì giặt sẽ sạch hơn.” Người chồng nhìn cảnh ấy nhưng vẫn lặng im. Thế là, vẫn cứ lời bình phẩm ấy thốt ra từ miệng cô vợ mỗi ngày, sau khi nhìn thấy bà hàng xóm phơi đồ trong sân.

Một tháng sau, vào một buổi sáng, người vợ ngạc nhiên vì thấy tấm vải của bà hàng xóm rất sạch, nên cô nói với chồng: “Anh nhìn kìa! Bây giờ bà ấy đã biết cách giặt tấm vải rồi. Ai đã dạy bà ấy thế nhỉ?”

Người chồng đáp: “Không đâu em! Sáng nay anh dậy sớm và đã lau kính cửa sổ nhà mình đấy.”

14. Mong được chết

Con người ai mà không sợ chết. Có nhiều người, nhất là những bậc vua chúa công hầu muốn mình sống mãi nên mong ước có một liều thuốc trường sinh bất tử. Nhưng giả như ai đó được trường sinh, cái gì xảy ra cho người đó?

Chuyện kể có người tìm được liều thuốc trường sinh bất tử, nên sống hoài không chết. Vợ người đó cũng chết, con cái của người đó cũng chết, cháu chắt cũng chết theo thời gian, và lâu quá những con cháu xa không còn nhận biết ông cụ đó nữa, ông cụ như người xa lạ giữa những con cháu xa bao đời…. Và quá buồn ông cụ ao ước được chết như một người bình thường.

Tôi chứng kiến một người bệnh ung thư bị đau đớn như thế nào! Và ông ta mong được chết, vì sống “đau đớn” quá. Chết lại là điều may mắn vì ông được giải phóng.

15. Lòng có đầy thì tràn ra miệng

Trả lời cho một thanh niên mong ước được biết rõ về mình, một cụ già đã trả lời như sau: Ngày nọ ở một chân trời xa tắp, người ta thấy có hai bóng đen đang ôm nhau.

Một em bé ngây thơ buột miệng nói: hai bóng đen đó là ba má đang hôn nhau.

Một chàng thanh niên mơ mộng nói: đó là đôi tình nhân đang quấn quýt bên nhau.

Một người cô đơn nhận xét: hẳn họ phải là hai người bạn thân gặp nhau sau nhiều năm tháng xa cách.

Một kẻ tham tiền lại nghĩ khác: đó phải là hai thương gia vừa mới ký giao kèo làm ăn.

Một người đàn bà có trái tim trìu mến thì thào: đây là người cha mới từ trận chiến trở về ôm hôn đứa con gái mình.

Một tên sát nhân đứng gần đó góp ý: đây là hai người đàn ông đang vật lộn đáu đá nhau trong cuộc giao chiến sống còn.

Người đàn ông khác không màng chi tới việc chung quanh gắt: ai mà biết được họ đang ôm hôn hay cắn xé.

Cuối cùng, có một vị thánh đầy lòng yêu thương của Thien Chúa giảng hòa: không gì đẹp bằng cảnh hai con người ôm nhau.

Kể xong câu chuyện, cụ già kết luận: mỗi một tư tưởng của bạn sẽ bộc lộ bạn là ai. Bạn nên tự vấn lương tâm xem bạn từng nghĩ về gì? Chính câu trả lời cho một câu hỏi bất ngờ có thể cho thấy tư tưởng của người đó thích tập chú vào đâu và những sở ước của họ đặt ở đâu. Lời nói của chúng ta phản ánh tâm địa của chúng ta.

16. Để biết mình có mến Chúa hay không

Vào một ngày Chúa Nhật, một anh giáo lý viên dạy lớp rước lễ vào lớp, và như thường lệ, anh ta bảo các em lấy giấy làm bài kiểm tra 15 phút. Câu hỏi của bài kiểm tra như sau: “Đâu là sự khác biệt trong thái độ của một người khi đi xem một trận đấu bóng có những cầu thủ nổi tiếng hoặc một buổi văn nghệ có những ca sĩ nổi tiếng với việc tham dự thánh lễ ngày Chúa Nhật?” Trong khi đọc câu trả lời của cac em, anh giáo lý viên xúc động với câu trả lời của Tèo và đã cho Tèo điểm cao nhất. Tèo viết như sau: “Đây là năm khác biệt trong thái độ của một người đi xem trận bóng hoặc buổi văn nghệ so với khi đi tham dự thánh lễ Chúa Nhật:

1. Xem trận bóng hoặc văn nghệ mất nhiều tiền mua vé, còn đi lễ không mất tiền [chỉ mất nếu muốn bỏ tiền giỏ].

2. Người đi xem trận bóng hoặc văn nghệ luôn đi sớm, còn khi đi lễ thì luôn đi trễ.

3. Người đi xem trận bóng hoặc văn nghệ luôn muốn ngồi ghế gần sân bóng hoặc sàn diễn, còn người đi lễ luôn ngồi thật xa khỏi cung thánh.

4. Người đi xem trận bóng hoặc văn nghệ luôn có thái độ vui vẻ, còn người đi lễ đôi khi có thái độ bưc tức và khó chịu.

5. Người đi xem trận bóng hoặc văn nghệ không cảm thấy mất hoặc tiếc thời gian, còn người đi lễ thì cảm thấy mất thời gian.

17. Khôn sống, mống chết

Một chú khỉ con lang thang chỗ này chốn kia, chú mệt mỏi nên năm nghỉ, anh bò tót đi ngang qua thấy vậy bèn hỏi: chú bé dự định đi đâu mà nằm đó? Chú khỉ con trả lời, cháu cũng không biết nữa, chỉ biết cháu tung tăng chạy nhảy từ sớm đến giờ mỏi mệt rồi ạ. Anh bò tót nói, vậy chú bé có đi nữa không, lên lưng anh cõng rồi chúng ta cung đi.

Khỉ con vui mừng trước sự gợi ý của anh bò tót, đi được một quãng, chim đại bàng xà xuống hỏi hành trình của hai anh em đi còn xa không? Chú khỉ bé nhỏ có muốn đi nhanh không, ta sẽ giúp chú, khỉ con thích thú trả lơi nếu được vậy thì quá tốt ạ. Thế rồi không bao lâu chú khỉ bé nhỏ đã nằm trong ổ chim đại bàng và chú trở thành bữa ăn cho mẹ con đại bàng.

Người xưa có câu: khôn thì sống, dại thì chết. Đi mà không biết mình đi đâu, là bất ổn; ở đời tốt xấu thật giả khó lường, thiếu tình người, không đủ sự bao bọc của anh chị em đồng loại, mấy ai tồn tại được?

18. Nguy cơ thầy dại

Chuyện kể rằng Khổng Tử có học trò tên Mỗ, người nước Đằng. Mỗ học vào loại trung bình, song luôn luôn tự cho mình là giỏi nhất. Học được vài năm, Mỗ xin về nước vì tưởng rằng đã học hết đạo của thầy.

Tử Cống thấy vậy hỏi thầy:

– Người ấy về nước rồi làm quan có sao không?

Khổng Tử rung đùi đáp:

– Không sao.

Tử Cống hỏi tiếp:

– Làm tướng có được không?

Khổng Tử vuốt râu đáp:

– Được.

Tử Cống lại hỏi:

– Thế nhỡ về làm giặc?

Khổng Tử vừa ngáp vừa trả lời:

– Cũng không hại gì!

Bấy giờ Tử Cống mới yên tâm mà thủng thẳng bộc bạch với thầy:

– Nghe nói Mỗ ấy xin về nước chỉ để làm thầy!

Khổng Tử vừa nghe câu đó, bỗng giật nẩy mình. Thế là chân không kịp xỏ giày, áo không kịp buộc giải, vội vàng chạy bắn ra khỏi cổng!

Học trò đuổi theo hỏi:

– Thầy chạy đi đâu?

Khổng Tử vừa thở vừa đáp:

– Sang ngay nước Đằng.

Học trò lại hỏi:

– Thầy sang nước Đằng làm gì?

Khổng Tử vẫn vừa chạy vừa trả lời:

– Sang ngăn không cho tên Mỗ này làm thầy. Hắn có làm quan thì cùng lắm chỉ hại đến một ấp. Làm tướng cũng chỉ hại đến một thành. Thậm chí có làm giặc cũng chưa chắc đã hại nổi ai. Nhưng nếu hắn làm thầy thì sẽ hại đến muôn đời. Ngay cả ta cũng khó mà tránh khỏi liên luỵ!

19. Đừng xét đoán

Ngạn ngữ Ba tư có câu: “Mỗi người chúng ta vẫn thường mang nơi mình 2 cái bị, một cái phía trước để đựng những khuyết điểm của kẻ khác và một cái phía sau để giấu đi những lỗi phạm của chính mình. Chúng ta thường hay bới móc những lầm lỗi của cận nhân bằng cách lục lọi cái bị ở phía trước, nhưng rất ít khi chúng ta chịu ngoái cổ lại nhìn vào cái bị phía sau để lục soát những tội lỗi của chính chung ta.”

Đây là khuynh hướng tự nhiên nơi tất cả mọi người, không loại trừ ai. Vào thời Chúa Giêsu, những người Pharisiêu và các đầu mục tôn giáo ngày xưa cũng hay hành xử giống như vậy. Chúa Giêsu đã thẳng thừng gọi ho là những kẻ đạo đức giả. Đồng thời, Chúa cũng mời gọi chúng ta phải khiêm tốn và can đảm để ‘bẩy ra’ những cái đà to đùng nơi con mắt của chính mình, trước khi muốn ‘gắp bỏ’ những cái rác nhỏ xíu nơi con mắt của người khác.

20. Thiên Chúa mới có quyền xét xử

Chuyện kể rằng: Có một vị vị ẩn sĩ kia, khi đến thăm một đan viện, thấy một tu sĩ làm điều lỗi, ngài có ý lên án. Khi trở về chòi trong sa mạc, gặp một thiên thần đứn chặn trước cửa và nói: “Ta không cho ngươi vào.” Ngài ngạc nhiên hỏi: “Tại sao thế thưa ngài?” Thiên thần đáp: “Thiên Chúa sai ta đến hỏi ngươi, xem ngươi đẩy vị tu sĩ ấy đi đâu?”

Lập tức, vị ấy hối hận thưa: “Tôi đã phạm tội, xin tha cho tôi.” Thiên sứ bao: “Thiên Chúa tha cho ngươi, ngươi hãy giữ mình chớ bao giờ xét đoán ai, trước khi Thiên Chúa xét xử người ấy.”

Chắc chắn không ai muốn sống mà lúc nào cũng bị người khác để ý từng hành vi, cư chi. Vậy đừng làm cho người ta cái gì mình không ưa thích. Chúa nhắc nhớ chúng ta: “Hãy lấy cái đà trong mắt chúng ta trước, rồi lấy rác nơi anh em sau” (Lc 6, 42)

21. Cái biết đầu tiên trong mọi cái biết

Có một người mù đi trong đêm tối, tay xách chiếc đèn, đầu đội cái bình sành. Một người đi đường trông thấy cho là anh mù nầy ngốc nghếch, liền cười nhạo và hỏi anh mù:

- "Này anh ngốc kia, đối với anh thì ban ngày cũng như ban đêm. Vậy anh cầm đèn để làm gì?"

Người mù ôn tồn đáp:

- "Đèn nầy không cần đối với tôi nhưng lại cần thiết đối với anh, để trong đêm tối anh không làm vỡ cái bình sành của tôi.”

Người xưa đã nói: "Biết người, biết mình, trăm trận trăm thắng.” Các nhà đạo đức cũng thường nói: "Biết mình là đầu mối khôn ngoan", là điều kiện trước tiên của mọi sự cải tiến. Nhưng làm sao để biết được người và làm sao để biết được mình?

22. Không được nghe sự thật trong chức vụ cao

Đức Hồng y Verdier đã phát biểu như sau:

- Kể từ khi làm Tổng Giám mục Paris, tôi đã bị thiệt mất ba điều quí giá, một là không còn được đi lại tự do, vì công việc quá nhiều. Hai là không có bạn bè, vì ai cũng sợ làm mất thời giờ của tôi. Ba là không được nghe biết sự thật, vì kính nể nên ai cũng khen ngợi và tâng bốc tôi.

Vì thế, để biết rõ mình hơn, chúng ta cần phải khiêm nhường để hồi tâm xét mình, kiểm điểm lại cuộc sống xem trong mối liên hệ đối với Thiên Chúa, đối với tha nhân và đối với bản thân có gì là trục trặc, có gì là bất ổn.

Việc xét mình và kiểm điểm như thế giống như việc chúng ta soi mình vào trong gương, xem trên khuôn mặt chúng ta có nhọ nhem và mang vết bẩn hay không, nếu có thì chúng ta phải vội vã cọ rửa và lau chùi ngay.

23. Để biết mình

Một ông vua kia được viên quan cận thần báo cho một tin khẩn như sau:

- Thưa ngài, kẻ đã luôn luôn phê bình chính sách của ngài nay bị bệnh nặng, sắp qua đời, từ nay chúng ta được yên thân rồi.

Nghe tin báo, thay vì vui mừng thì nhà vua lại ra lệnh cho viên quan đại thần như sau:

- Hãy mau đi tìm vị lương y giỏi nhất trong nước đến chữa trị cho bệnh nhân đó. Ta không muốn kẻ đó phải chết, hãy làm mọi cách để cứu sống ông ta.

Quan đại thần ngạc nhiên hỏi lại:

- Thưa ngài, người này là người luôn luôn phê bình đường lối cai trị của ngài. Nếu ông ta mà chết đi, thì có lợi cho ngài hơn, cớ sao ngài lại muốn như vậy, và ra lệnh phải tìm đủ mọi cách chữa trị cho người đó.

Nhà vua trả lời:

- Chính vì người đó dám lên tiếng phê bình ta, nên ta lại càng phải lo cứu sống người đó. Ta cần một con người can đảm như thế hơn là những người lúc nào cũng chỉ biết có tung hô vạn tuế.

24. Biết yêu là biết sống

Cha Phêrô Grouès sinh năm 1912 tại Lyon nước Pháp trong một gia đình khá giả, đạo đức có 8 người con, cha là con thứ 5, năm 19 tuổi vào tu dòng Fanxicô nhánh Cappucino, năm 28 tuổi được chịu chức linh mục nhưng sau vì lí do sức khỏe cha phải sang tu triều, nhập giáo phận Grenoble.

Cha che chở cho những người Do thái bị Đức Quốc Xã Hitler lùng bắt. Năm 1949 cha lập cộng đoàn Emmaus có mục đích giúp những người nghèo và những người vô gia cư biết tự lực cánh sinh. Khi đó có một người vừa được ra khỏi tù, lang thang thất vọng nên lấy dao cắt mạch máu để tự tử, cha nghe tin vội vàng tới gặp anh và nói với anh: "Có quá nhiều người kém may mắn hơn anh đang cần chúng ta giúp đỡ. Tôi đang bệnh tật và tôi cũng cần bạn giúp một tay.”

Nghe vậy anh tỉnh ngộ và để cho người ta băng bó vết thương cầm máu. Từ đó anh trở thành người cộng sự đắc lực nhất của cha. Có thời gian cha và các bạn phải đi lượm ve chai để nuôi những người đói rét. Cha lập được nhiều cộng đoàn Emmaus khắp nước Pháp và trên thế giới làm nơi nương náu cho những người nghèo đói và vô gia cư. Cha qua đời năm 94 tuổi.

Theo lời dạy của Chúa Giêsu và gương sáng cha Grouès, chúng ta sống chân thực: kính mến Chúa hết lòng và yêu thương anh em chân tình để tìm được lẽ sống trong cuộc sống đời này và phần thưởng Nước Trời mai sau. Amen.

25. Nồi cơm của Không Tử

Thời Đông Chu, chiến tranh liên miên, dân chúng phiêu bạt điêu linh. Thầy trò Khổng Tử đi du thuyết từ nước Lỗ sang nước Tề cũng lâm vào cảnh rau cháo cầm hơi nhưng không một ai kêu than, thoái chí. Trong đám đồ đệ có Nhan Hồi và Tử Lộ là hai học trò thân tín nhất. Khổng Tử phân công Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi thì đảm nhận việc nấu cơm.

Sau khi Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, Nhan Hồi nấu cơm ở nhà bếp, Khổng Tử đang nằm đọc sách đối diện với nhà bếp, chỉ cách một cái sân nhỏ. Đang đọc sách bỗng nghe một tiếng “cộp” từ nhà bếp vọng lên, Khổng Tử nhìn xuống, thấy Nhan Hồi từ từ mở nắp nồi, lấy đũa xới cơm cho vào tay và nắm lại từng nắm nhỏ. Xong, Nhan Hồi đậy nắp lại, liếc mắt nhìn chung quanh rồi từ từ đưa cơm lên miệng.

Hành động của Nhan Hồi không lọt qua đôi mắt của vị thầy tôn kính. Khổng Tử thở dài: “Chao ôi! Học trò ta tin tưởng nhất mà lại đốn mạt như thế này ư? Bao nhiêu kỳ vọng ta đặt vào nó thế là tan thành mây khói!” Sau đó, Tử Lộ cùng các môn sinh khác đem rau về. Nhan Hồi và Tử Lộ dọn cơm lên nhà trên; tất cả các môn sinh chắp tay mời Khổng Tử dùng cơm.

Khổng Tử ngồi dậy và nói rằng: “Các con ơi! Chúng ta đi từ đất Lỗ sang Tề đường xa vạn dặm, trong hoàn cảnh đói khổ này mà các con vẫn giữ được tấm lòng trong sạch, yêu thương đùm bọc nhau. Hôm nay, bữa cơm đầu tiên trên đất Tề làm thầy chạnh lòng nhớ đến tổ tiên và quê hương nước Lỗ. Cho nên thầy muốn xới một chén cơm để cúng cha mẹ thầy, nhưng không biết nồi cơm này có sạch hay không?” Bấy giờ Nhan Hồi liền chắp tay thưa: “Dạ thưa thầy, nồi cơm này không được sạch.”

Rồi Nhan Hồi thưa: “Khi cơm chín con mở nắp nồi ra xới, chẳng may một cơn gió tạt ngang, bồ hóng và bụi trên nhà rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm. Song, con lại nghĩ: cơm thì ít, anh em lại đông, nếu bỏ lớp cơm bẩn này thì vô tình làm mất một phần ăn. Vì thế, con đã mạn phép thầy và tất cả anh em, ăn trước phần cơm bẩn ấy, còn phần cơm sạch để dâng thầy và anh em. Vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi, bây giờ, con xin phép không ăn cơm nữa. Và nồi cơm đã ăn trước thì không nên cúng nữa ạ!

Nghe Nhan Hồi nói xong, Khổng Tử ngửa mặt lên than rằng: “Chao ôi! Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà chưa chắc đúng sự thật! Suýt tí nữa là Khổng Tử này trở thành kẻ hồ đồ!”

26. Vết nứt nở hoa

Một vị vua thích sưu tầm ngọc quý đủ màu sắc, đủ kích cỡ đến từ các nơi trên thế giới. Trong số đó có một viên ngọc to như quả trứng. Mỗi khi đưa ra ánh sáng, nó phản chiếu đủ màu sặc sỡ làm cho vua say mê.

Nhưng một hôm trong lúc hãnh diện khoe với khách quý, nhà vua nhận ra viên ngọc đó có một kẻ nứt. Ông buồn tiếc vô cùng. Từ ngày đó ông truyền rao khắp dân gian, ai sửa được viên ngọc đó sẽ được trọng thưởng. Các thợ đá quý ra vào hoàng cung tấp nập, nhưng đều lắc đầu chịu thua.

Ngày nọ có người vào lãnh sửa. Đang lúc buồn sầu thất vọng, nhà vua nghe nói thế thì vui mừng chấp nhận ngay, và còn hứa nếu sửa được sẽ trọng thưởng. Người đó lãnh viên ngọc về nhà, ngày đêm cặm cụi sửa chữa, đem hết tài nghệ ra mong được trọng thường. Chẳng bao lâu, anh đem viên ngọc đã sửa xong cho nhà vua. Nhà vua vô cùng kinh ngạc thấy viên ngọc vô cùng sắc xảo lại điểm thêm một bông hồng xinh đẹp, mà cánh hoa xinh tươi chính là dấu nứt của viên ngọc trước kia. Nó làm tăng giá trị của viên ngọc gấp bội, vì ai thấy cũng trầm trồ khen ngợi.

27. Sở Trang Vương và giải mũ

Truyện kể có lần Sở Trang Vương thiết tiệc đãi các quan, sai mỹ nữ hầu hạ ca xướng. Đang lúc vui say thì đèn nến bị gió thổi tắt hết cả. Một viên quan thừa cơ kéo áo cung nữ. Cung nữ chụp giật được dải mũ, rồi tâu: "Có kẻ trêu ghẹo thiếp. Thiếp giật được dải mũ. Xin cho thắp đèn ngay để xét. Kẻ nào bị đứt dải mũ thì chính là kẻ đã vô lễ làm càn.”

Trang Vương nghĩ: "Cho người ta uống rượu, để say đến quên cả lễ phép, lại vì câu chuyện đàn bà làm sỉ nhục người ta, thì lòng nào nỡ thế.” Bèn lập tức ra lệnh: "Ai uống rượu với quả nhân hôm nay mà không say đến giật đứt dải mũ là chưa thật vui.”

Các quan theo lệnh, đều giật đứt dải mũ. Khi đèn nến thắp lên thì không còn phân biệt được ai là người phạm tội. Nhờ vậy mà suốt buổi tiệc được vui vầy. Hai năm sau, nước Sở đánh nước Tấn, mà trận nào cũng có viên quan võ trẻ tuổi liều sống chết chiến đấu ở bên cạnh nhà vua. Nhờ vậy mà quân Sở thắng. Trang vương lấy làm lạ, cho đòi viên quan ấy đến hỏi: "Quả nhân đãi nhà ngươi cũng như các quan khác. Cớ sao nhà người hết lòng giúp Quả nhân khác người như thế?” Viên quan tâu: "Thần rắp tâm muốn đem thân mệnh để hiến nhà vua đã lâu. Mãi đến ngày nay mới gặp dịp báo đền ơn nghĩa, thật là may cho thần lắm. Thần tên là Tưởng Hùng, chính là người đã giật đứt dải mũ của cung phi trong tiệc rượu ngày xưa mà.”

Sở Trang Vương khoan dung với người, rồi người lại báo ơn ông. Lẽ nhân quả chẳng phải là như vậy đó sao.

28. Khách quan xét mình

Năm 16 tuổi, Albert Einstein thường thích làm bạn với những đứa trẻ chỉ thích ham chơi chứ không thích học hành. Vì thế mà việc học hành của cậu ngày càng kém, thậm chí nhiều lần còn phải thi lại.

Một buổi sáng chủ nhật nọ, Einstein chuẩn bị cần câu để đi câu với bọn trẻ đó thì bị bố ngăn lại và nói:

- Con trai, suốt ngày bố thấy con chỉ biết ham chơi, lại còn vài môn phải thi lại. Bố mẹ rất lo cho tương lai của con.

Einstein thản nhiên đáp lại bố:

- Chẳng có gì đáng lo cả bố ạ. Bố thấy đấy, nhiều đứa cũng phải thi lại, đâu phải vì chúng suốt ngày đi chơi?

Bố ân cần nói với Einstein:

- Con trai, con không được nghĩ như thế. Bố kể cho con nghe một câu chuyện ngụ ngôn nhé. Có hai chú mèo nhỏ chơi đùa cạnh ống khói. Vì không cẩn thận nên cả hai đều rơi xuống ống khói, khó khăn lắm chúng mới bò ra ngoài được. Hai chú mèo nhìn nhau, một chú mèo mặt nhem nhuốc bụi khói, còn chú mèo kia thì rất sạch sẽ. Chú mèo sạch sẽ nhìn chú mèo mặt dính đầy khói, tưởng rằng mặt mình cũng bẩn nên vội vàng chạy đi rửa mặt. Còn chú mèo mặt dínhđầy bụi kia tưởng mặt mình sạch nên chạy đến chỗ khác chơi. Những con vật khác nhìn thấy nó đều bỏ chạy tán loạn, tưởng rằng nhìn thấy yêu quái. Con trai, chúng ta không nên coi người khác là chiếc gương của mình, chỉ có mình mới là chiếc gương cho chính mình thôi.

Sau khi nghe bố kể câu chuyện, Einstein xấu hổ đặt cần câu xuống, quay về phòng học.

29. Tào Tháo tưởng bạn là thù

Tào Tháo là một trong những nhân vật xuất hiện sớm nhất và được miêu tả kỹ nhất trong Tam quốc diễn nghĩa. Trong hồi 4 của tác phẩm, La Quán Trung viết, Tào Tháo sau khi ám sát hụt Đổng Trác, lập tức bỏ trốn khỏi kinh thành, đi đến Tiêu Quân thì bị quân canh phòng bắt được, đem nộp cho quan huyện là Trần Cung.

Trước mặt Trần Cung, Tào Tháo tỏ ra là người chính trực, muốn về quê tập hợp nhân tài, khởi binh giết Đổng Trác trừ họa cho nhà Hán. Trần Cung khâm phục, không những không đem Tào Tháo nộp cho Đổng Trác, còn tình nguyện từ chức quan huyện, theo phò tá Tào Tháo.

2 người đi đến Thành Cao, nương nhờ một người bà con của Tào Tháo là Lã Bá Sa và được tiếp đón nhiệt tình. Khi Lã Bá Sa rời khỏi nhà mua rượu thết khách, Tào Tháo sinh nghi, bèn cùng với Trần Cung giết cả nhà người đã có lòng tốt che chở cho mình. Giết người xong, Tào Tháo và Trần Cung mới phát hiện người nhà Lã Bá Sa bị oan, hối hận thì đã muộn.

Trên đường bỏ chạy, Tào Tháo gặp Lã Bá Sa trên đường. Ông ta lừa Lã Bá Sa quay lưng lại rồi chém không thương tiếc. Hành động này cho thấy bản chất đa nghi và thâm độc của nhân vật Tào Tháo trong tiểu thuyết của La Quán Trung.

Tam quốc diễn nghĩa viết, khi bị Trần Cung vặn hỏi về việc giết Lã Bá Sa, Tào Tháo tuyên bố "ta thà phụ người chứ không để người phụ ta.” Trần Cung thấy được bản chất tiểu nhân của Tào Tháo, liền rời bỏ ông ta. Về sau, Trần Cung trở thành một mưu sĩ đắc lực dưới trướng Lã Bố và từng nhiều lần bày kế đánh cho Tào Tháo thất điên bát đảo.

30. Từ chối sự thật bởi định kiến

Đại thi hào R. Tagore, thi sĩ nổi tiếng Ấn Độ, là người châu Á đầu tiên đoạt giải Nobel Văn học. Ông có khiếu làm thơ ngay lúc còn thơ ấu…

Một ngày kia ông làm được một bài thơ và đưa cho bố coi thử. Chẳng biết bố có đọc hết hay không, nhưng liền nhăn mũi mà bảo: “Dở ẹc."

Ngày hôm sau, cậu lại sáng tác một bài thơ khác và cũng đưa cho bố coi thử. Lần này bố liền “kê tủ đứng vào mũi” cậu nhóc: “Đúng là bài thơ … con cóc."

Bực quá, cậu nhóc bèn chơi trò láu cá, cậu nghĩ ra một cái mưu nho nhỏ, đó là đem bài thơ vừa mới làm xong, chép lại cẩn thận, rồi ghi thêm xuất xứ từ trong một tập thơ cổ.

Lần này thì bố cứ đọc đi đọc lại, rồi vỗ đùi đánh đét một phát và phán: “Tuyệt vời, tuyệt vời, còn trên cả tuyệt vời nữa."

Sau đó, ông bố đem bài thơ khoe với anh con trai lớn, đang làm chủ nhiệm một tờ báo văn học. Cả hai bố con đều tấm tắc khen lấy khen để, rồi lại còn muốn đem trình làng cho bà con thiên hạ cùng thưởng thức. Và để cho ăn chắc, bèn bảo cậu nhóc đem cuốn thơ cổ ra để đối chiếu. Tới lúc đó thì mới vỡ lẽ ra: bài thơ ấy chính là của cậu nhóc. Ông bố giận sôi lên sùng sục, nhưng cũng cảm thấy thán phục cậu nhóc và hối hận cho thái độ mâu thuẫn của mình.

Rất có thể chúng ta đang có thái độ của dân làng Nadarét bằng cách không chấp nhận những sự thật không đúng với xét đoán mang tính so đo hơn thua vị kỷ của mình.

31. Đâu có tình yêu thương ở đó có Thiên Chúa

Một bề trên tu viện công giáo đến tìm một ẩn sỹ ấn giáo tại chân núi Hymãlạp sơn và trình bày về tình trạng bi đát của tu viện ông: Trước đây tu viện này là một trung tâm thu hút nhiều khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân từ khắp nơi đến. Trong tu viện không còn nhận thêm người tu hàng ngày đến gõ cửa nữa. Thế mà tu viện bây giờ chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng, tu sỹ thì lèo tèo vài người, cuộc sống thật là buồn tẻ. Vị bề trên hỏi tu sỹ ấn giáo cho biết nguyên nhân hay lỗi lầm nào đã đưa tu viện đến tình trang trên đây. Tu sỹ ẩn giáo ôn tồn bảo: “Các tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn đó là tội vô tình." Và ông giải thích: “Chúa Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quí vị, nhưng quí vị không nhận ra Ngài."

Nhận được lời giải đáp, vị bề trên hớn hở trở về tu viện. Ông tập họp mọi người lại và thông báo cho họ biết Chúa Cứu Thế đang cải trang thành một ngươì trong nhà. Các tu sỹ đều mở to đôi mắt và quan sát nhau. Ai là Chúa Cứu Thế cải trang vậy? Nhưng có điều chắc là một khi Ngài đã cải trang thì không ai có thể nhận ra Ngài được. Mỗi người trong họ có thể là Chúa Cứu Thế.

Vậy từ đó mọi người đều đối xử với nhau như với Chúa Cứu Thế. Chẳng bao lâu, bầu khí yêu thương huynh đệ, sức sống và niềm tin đã trở lại với tu viện. Từ khắp nơi người ta tìm đến tu viện để tĩnh tâm và cầu nguyện. Nhiều người trẻ cũng đến xin gia nhập cộng đoàn.

32. Giá trị bị đảo lộn

Một người thù ghét chủ tiệm buôn lớn, đã lợi dụng sơ hở của chủ nhân nên lẻn vào cửa tiệm giữa đêm khuya để tìm cách phá hoại.

Thấy trong cửa hàng có một bàn thờ bằng gỗ quý, chạm khắc rất mỹ thuật ghi giá bán 30 triệu đồng và một cái thùng rác ghi giá bán 10.000 đồng, người đột nhập gỡ miếng giấy ghi giá 30 triệu ở bàn thờ gắn vào thùng rác và gỡ miếng giấy ghi giá 10.000 đồng ở thùng rác dán vào bàn thờ. Thế là bàn thờ gỗ quý chạm khắc công phu chỉ có giá 10.000 đồng trong khi thùng rác hèn hạ được nâng giá trị lên đến 30 triệu đồng và y tiếp tục thực hiện như thế với những món hàng khác.

Thế là các món hàng quý báu bị mất giá nghiêm trọng còn những món hàng rẻ mạt thì được nâng cao giá trị gấp trăm lần. Hành động quái ác nầy khiến khách hàng không thể nhận ra đâu là giá trị đích thực của các món hàng nên có thể mua lầm một cách tai hại.

Đó là câu chuyện có thực trong xã hội hôm nay: Các giá trị của đời sống con người hôm nay cũng đang bị đảo lộn y hệt như thế, khiến rất nhiều người tôn vinh tiền tài của cải mà xem thường luân thường đạo lý, đánh giá cao những gì phù phiếm bên ngoài mà coi rẻ phẩm chất cao đẹp của con người. Thế là những điều phù phiếm được lên ngôi trong khi những phẩm chất cao đẹp của con người bị đẩy xuống hạng thấp kém.

Công Đồng Vaticano II nhắc nhở mọi người: “Giá trị con người không hệ tại những gì người ta sở hữu nhưng tuỳ thuộc phẩm chất của mỗi người"

Lạy Chúa Giê-su, Xin giúp chúng con “gắn lại bảng giá cho đúng với giá trị thật của mỗi món hàng”

33. Yêu bác thợ mộc

Một ngày kia, có đoàn khách làm việc từ thiện đến thăm một viện phong. Khi thấy một nữ y tá đang chăm sóc một người bệnh rất tận tụy, một ông khách dừng lại và hỏi thăm về gia cảnh của cô y tá. Cô y tá trả lời: “Tôi chưa lập gia đình, nhưng đã có người yêu. Người yêu của tôi là một bác thợ mộc.”

Đó chính là một cô gái đã tận hiến cuộc đời trong một tu hội đời. Cô từ khước cuộc sống gia đình, tình nguyện phục vụ các bệnh nhân đau khổ. Bác thợ mộc kia chính là Chúa Giêsu, người yêu muôn thuở của cô.

Xưa kia “bác thợ mộc” ấy đã bị coi thường và bị từ chối tại quê quán mình. Chớ gì hôm nay “bác thợ mộc” ấy vẫn mãi là người yêu dấu của muôn trái tim con người.

THỨ HAI - ĐIỀU KIỆN THEO CHÚA

Lời Chúa: Mc 10, 17-27

Khi ấy, Chúa Giêsu vừa lên đường, thì một người chạy lại, quỳ gối xuống trước Người và hỏi: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?" Chúa Giêsu trả lời: "Sao ngươi gọi Ta là nhân lành? Chẳng có ai là nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa. Ngươi đã biết các giới răn: đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt, hãy thảo kính cha mẹ.” Người ấy thưa: "Lạy Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ.”

Bấy giờ Chúa Giêsu chăm chú nhìn người ấy và đem lòng thương mà bảo rằng: "Ngươi chỉ còn thiếu một điều là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta.”

Nhưng người ấy nghe những lời đó, thì sụ nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. Lúc đó Chúa Giêsu nhìn chung quanh, và bảo các môn đệ rằng: "Những người giàu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao.” Các môn đệ kinh ngạc vì những lời đó.

Nhưng Chúa Giêsu lại nói tiếp và bảo các ông rằng: "Hỡi các con, những kẻ cậy dựa vào tiền bạc, thật khó mà vào nước Thiên Chúa biết bao. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa.”

Các ông càng kinh ngạc hỏi nhau rằng: "Như vậy thì ai có thể được cứu độ?" Chúa Giêsu chăm chú nhìn các ông, và nói: "Ðối với loài người thì không thể được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự.”

TRUYỆN KỂ

1. Khôn ngoan và khôn dại

Trong một dịp nói chuyện với các tu sĩ, một linh mục lớn tuổi được đề nghị chia sẻ về kinh nghiệm cầu nguyện của chính ngài. Lúc đầu ngài không muốn vì e rằng rơi vào tình trạng khoe khoang, nhưng sau khi mọi người thuyết phục trong tinh thần đạo đức, ngài đã nhận lời. Ngài chia sẻ rất nhiều ý tưởng, nhưng điều đáng chú ý nhất, ngoài lời cầu nguyện cho mọi người, ngài dâng lời cầu nguyện cho chính mình. Ngài nói: “Tôi thường xin Chúa cho tôi được ơn khôn ngoan, yêu mến Lời Chúa, can đảm đón nhận đau khổ, trung thành với ơn gọi và được chết lành đang lúc có ơn nghĩa với Chúa.”

Thật vậy, người khôn ngoan theo lối hiểu của Kinh Thánh chính là khám phá ra ý nghĩa của cuộc đời, biết đặt cuộc đời mình trong thánh ý của Thiên Chúa chứ không phải tiền bạc, danh vọng và lợi thú... Biết tìm đến với kho tàng vĩnh cửu, chứ không bám víu và phụ thuộc vào những thứ mau qua, chóng hết ở đời.

2. Đứng trên của cải.

Có một người giầu có kia thường xuyên đến xưng tội với thánh Philipphê Nêri. Ông có nhiều tiền của, có thiện chí, nhưng ông vẫn cảm thấy mình không đạt được sự tiến bộ nào trên đường thiêng liêng. Từ chán nản đến thất vọng, cuối cùng ông bỏ cuộc và không trở lại xưng tội với thánh nhân nữa.

Thấy ông đã lâu không đến xưng tội, thánh nhân tìm đến nhà ông để gặp ông. Sau một hồi trò truyện, ngài nhìn lên cây Thánh giá trên tường, ngài cân nhắc độ cao của Thánh giá rồi đề nghị với người đàn ông giầu có: “Ông là người cao lớn, ông thử với coi có tới Thánh giá không.” Ông đứng dậy giơ cánh tay lên cố với nhưng không thể nào chạm tới Chúa Giêsu trên Thánh giá.

Bấy giờ thánh Philipphê dùng hết sức đẩy cái hòm tiền của người giầu đến bên cạnh ông và bảo ông hãy đứng lên trên cái hòm tiền để với tới cây Thánh giá. Ông làm theo ý thánh nhân và sờ được Chúa Giêsu trên Thánh giá. Sau đó ngài nói với ông: “Để có thể nắm lấy được Chúa Giêsu, để có thể tiến bộ trên đường thiêng liêng, chúng ta cần phải đứng trên tiền bạc của cải.”

3. Giá cả và giá trị

Nếu mối bận tâm chính yếu của một người là của cải vật chất, thì người ấy sẽ chỉ biết có giá cả mà không biết đến giá trị. Người ấy chỉ biết nghĩ đến những gì người ta có thể mua bán bằng tiền bạc, chứ không biết rằng, có những giá trị ở đời người ta không thể nào mua bán bằng tiền bạc được.

George Horace Lorimer, chủ bút tờ Saturday Evening Post trong nhiều năm, có lần viết: "Có tiền và có những cái mua bằng tiền là tốt. Nhưng nếu biết dùng tiền và đừng để mất những thứ tiền không mua được còn tốt hơn.”

Có thể kể ra những thứ sau đây mà tiền không mua được:

Tiền không mua được tình bạn chân thực.

Tiền không mua được lương tâm trong sạch.

Tiền không mua được niềm vui mạnh khỏe.

4. Người siêu thoát không bị mất gì cả

Một chàng sinh viên vừa nhận được một phần thưởng. Lúc bước ra tới cổng thì gặp một người đàn bà với dáng vẻ tiều tụy.

- Chú ơi! Chúc mừng chú, thật vinh dự cho chú đã đạt được giải nhất trong cuộc thi khó khăn này. Tôi có một chuyện muốn nói với chú nhưng không biết có tiện không. Nếu chú có con nhỏ chú mới hiểu được điều tôi sắp nói. Con của tôi đang bị ung thư nặng nằm trong bệnh viện, nếu không có một khoản tiền để mổ, chắc em nó không qua khỏi được! Mà nhà tôi thì... không thể lo được một khoản tiền lớn đến như vậy...

- Thế bác cần bao nhiêu? - Anh sinh viên nhìn bà hỏi, lòng cảm thông thật sự.

 Sau khi nghe người phụ nữ kể hết sự việc, anh liền rút phong bì đựng số tiền vừa được thưởng và trao hết cho bà.

- Cầu mong cho con bác qua được hiểm nguy. Bác về lo cho em ấy ngay đi.

- Cảm ơn chú, không biết tôi phải lấy gì mà đền ơn chú đây.

Nói rồi, người phụ nữ với vẻ xúc động bước ngay ra cổng.

Vài ngày sau anh có dịp quay lại trường. Một người trông thấy liền tiến tới hỏi:

- Có người kể với tôi, mấy hôm trước anh có gặp một người phụ nữ sau cuộc thi, và anh đã cho bà ấy tiền để chữa bệnh cho đứa con sắp chết của bà ấy, phải không?

Người thanh niên gật đầu xác nhận.

- Vậy thì tôi phải báo với anh tin này để anh biết, bà ta là một tay lừa đảo thật sự đấy. Bà ta chẳng có đứa con nào bị bệnh gần chết cả. Anh cả tin quá! Anh bị lừa rồi, anh bạn ạ!

Một thoáng im lặng, anh thanh niên hỏi lại:

- Có thật là không có đứa bé nào bị bệnh gần chết cả, đúng không?

- Đúng vậy. Tôi bảo đảm là như thế - người đàn ông quả quyết

- Ồ đó là tin tốt lành nhất trong ngày mà tôi được biết đấy - người thanh niên nói.

Đoạn anh nói thêm:

- Chúng ta nên ăn mừng vì không có đứa trẻ nào phải chết cả.

5. Cách sinh lợi nhiều hơn

James Kallam kể lại một mẩu chuyện vui trong các bài viết của ông như sau: Cách đây nhiều năm, có một thanh niên làm nghề bán sách rong từ nhà này đến nhà kia, anh đến hành nghề tại một vùng quê nọ. Một hôm, anh vào nhà một nông gia, ông này đang ngồi trên chiếc ghế xích đu ở cổng trước. Chàng thanh niên đến gần người nông dân nhiệt tình ngỏ lời: "Thưa ông, tôi có bán một cuốn sách chỉ cách canh tác sinh lợi gấp 10 lần cách ông đang làm.”

Người nông dân chẳng thèm ngước lên. Ông tiếp tục đong đưa chiếc ghế đu. Cuối cùng, sau vài phút, ông ta liếc mắt nhìn chàng thanh niên rồi nói: "Này anh bạn trẻ, tôi chả cần sách của anh, tôi cũng biết làm thế nào để canh tác sinh lợi gấp 10 lần cách thức tôi hiện đang làm.”

6. Mất là được

Một cậu bé người Pêru tìm được một viên ngọc vô giá. Cậu nghĩ: “Thế là ta không phải lo lắng nữa, ta sẽ bán nó đi và chẳng phải làm việc nữa.” Cậu đã cố gắng bán viên ngọc quý, nhưng những người mua cứ hứa hoài. Lúc này, cậu phát hiện ra rằng những người mua muốn ăn cướp viên ngọc và có thể giết chết cậu. Cậu phải chọn lựa: hoặc viên ngọc, hoặc mạng sống. Dưới sự theo dõi của những người mua, cậu đi xuống bờ biển, lấy viên ngọc ra và ném xuống biển.

Hành động của cậu bé hoàn toàn trái ngược với hành động của người thanh niên trong bài đọc của ngày hôm nay. Nó mời gọi tôi tự hỏi: Thứ của cải vật chất nào có sức kềm giữ tôi?

Hết của cải là chẳng còn lo mất mát.

Khi sức khỏe bị mất đi, ta mất mát một cái gì đó.

Nhưng khi mất đi phẩm cách là ta mất đi tất cả.

7. Phải cho đi trước khi nhận

Một chàng trai bị lạc giữa một sa mạc rộng lớn. Anh mệt lả và khát khô, sẵn sàng đánh đổi bất kỳ cái gì chỉ để lấy một ngụm nước mát. Đi mãi đi mãi, đến khi đôi môi anh đã sưng lên nhức nhối, thì thấy một căn lều: cũ, rách nát, không cửa sổ.

Anh nhìn quanh căn lều và thấy ở một góc tối có một cái máy bơm nước cũ và gỉ sét. Tất cả mọi thứ trở nên lu mờ đi bên cạnh cái máy bơm, anh vội vã bước tới, vịn chặt tay cầm, ra sức bơm. Nhưng không có một giọt nước nào chảy ra cả.

Thất vọng, anh nhìn quanh căn lều. Lúc này, anh chàng mới để ý thấy một cái bình nhỏ. Phủi sạch bụi cát trên bình, anh đọc được dòng chữ nguệch ngoạc viết bằng cách lấy viên đá cào lên: "Hãy đổ hết nước trong bình này vào cái máy bơm. Và trước khi đi, hãy nhớ đổ nước đầy vào chiếc bình này.”

Anh bật nắp bình ra, và đúng thật: trong bình đầy nước mát. Bỗng nhiên, anh bị rơi vào một tình thế bấp bênh. Nếu anh uống ngay chỗ nước trong bình, chắc chắn anh có thể sống sót. Nhưng nếu anh đổ hết nước vào cái máy bơm cũ gỉ, có thể nó sẽ bơm được nước trong lành từ sâu trong lòng đất – rất nhiều nước.

Anh cân nhắc khả năng của cả hai sự lựa chọn; nên mạo hiểm rót nước vào máy bơm để có nguồn nước trong lành, hay uống nước trong cái bình cũ và coi như không đọc được lời chỉ dẫn? Dù sao, lời chỉ dẫn không biết đã ở đó bao lâu rồi và không biết có còn chính xác nữa không?

Nhưng rồi cuối cùng, anh cũng quyết định rót hết nước vào cái máy bơm, rồi tiếp tục nhấn mạnh cái cần máy bơm, một lần, hai lần... chẳng có gì xảy ra cả! Tuy hoảng hốt, nhưng nếu dừng lại, anh sẽ không còn một nguồn hi vọng nào nữa, nên anh tiếp tục kiên trì bơm,.. lần nữa, lần nữa... và nước mát trong lành đã bắt đầu chảy ra từ cái máy bơm cũ kỹ. Anh vội vã hứng nước vào bình và uống.

Cuối cùng anh hứng nước đầy bình, để dành cho người nào đó không may mắn bị lạc đường như anh sẽ đến đây. Anh đậy nắp bình, rồi viết thêm một câu dưới dòng chữ có sẵn trên bình:

"Hãy làm theo chỉ dẫn trên. Bạn cần phải cho trước khi bạn có thể nhận.”

8. Để có sự sống đời đời

Warren Buffett, nhà tỷ phú giàu thứ nhì thế giới theo bảng xếp hạng của tạp chí Forbes nhưng lại có cuộc sống hết sức giản dị, đã tặng 99% giá trị tài sản của mình cho công cuộc từ thiện. Thái độ của ông đối với của cải cho thấy rằng lời Chúa dạy “để được sự sống đời đời làm gia nghiệp” không phải là điều gì quá khó đến nỗi không thể thực hiện. “Hãy đi bán tất cả những gì anh có mà cho người nghèo,” điều này nhà tỷ phú đã làm được… 99%. Chỉ còn một bước, đó là “đến và theo Chúa.”

Có những lúc chúng ta quay quắt đến chóng mặt với mối lo cơm áo gạo tiền... Có những thứ chúng ta đang sở hữu tưởng là rất vững chắc nhưng kỳ thực lại rất mong manh: một chút của cải, một chút danh vọng... Thế là chúng ta thấy mình bị mất phương hướng, bị bế tắc. Những lúc đó chúng ta hãy đến với Chúa và hỏi: “Lạy Chúa, con phải làm gì đây?” Giải pháp Chúa chỉ cho chúng ta là tìm kiếm gia nghiệp đời đời bằng cách sống siêu thoát đối với của cải, nghĩa là thay vì hưởng thụ chúng một cách ích kỷ, chúng ta hãy biết chia sẻ “những gì chúng ta có” cho những anh chị em túng nghèo.

9. Bảy cách bố thí

Một người cho dù là không có tiền cũng vẫn có thể cho người khác 7 thứ:

1. Bố thí bằng vẻ mặt: Ngươi có thể cho người khác vẻ mặt tươi cười niềm nở.

2. Bố thí bằng lời nói: Ngươi có thể cho người khác những lời cổ vũ khích lệ, lời an ủi, lời khen ngợi, lời khiêm tốn và lời nói ấm áp.

3. Bố thí bằng tấm lòng: Hãy mở rộng tấm lòng và đối xử chân thành với người khác.

4. Bố thí bằng ánh mắt: Hãy dùng ánh mắt thiện ý để nhìn người khác.

5. Bố thí bằng hành động: Dùng hành động để đi giúp đỡ người khác.

6. Bố thí bằng chỗ ngồi: Khi đi xe hay thuyền, có thể đem chỗ ngồi của mình tặng cho người khác.

7. Bố thí bằng nơi ở: Đem phòng ở trống không sử dụng cho người khác nghỉ ngơi.

“Vô luận là ai, chỉ cần dưỡng thành 7 thói quen này thì vận may sẽ đến với người đó “như hình với bóng!”“

10. Những món quà vô giá!

Có những món quà bạn không cần phải mua nhưng lại vô cùng ý nghĩa và có giá trị lớn lao khi bạn trao tặng cho bạn bè, người thân và cho cả chính bạn...

Món quà của SỰ LẮNG NGHE.

Hãy thật sự lắng nghe, chia sẻ những nỗi đau, tâm sự vui buồn cùng người khác. Hãy lắng nghe không chỉ bằng đôi tai mà bằng tất cả tấm lòng.

Món quà của SỰ QUAN TÂM.

Hãy dành thời gian để quan tâm đến người thân, bạn bè đồng nghiệp, xem những vấn đề của họ như là của chính bạn. Hãy để mọi người cảm nhận tình cảm của bạn qua những hành động bạn thể hiện hàng ngày.

Món quà từ SỰ TRÌU MẾN:

Hãy thể hiện sự trìu mến với những người thân yêu bằng những lời nói ân cần và cử chỉ trìu mến, bạn sẽ thấy điều kỳ diệu.

Món quà từ NHỮNG NỤ CƯỜI.

Nụ cười là một ngôn ngữ không lời nhưng có khả năng lan tỏa sức mạnh đến người khác nhanh nhất. Một nụ cười làm niềm vui nhân đôi, làm nỗi buồn trở nên nhẹ bỗng. Hãy trao tặng nụ cười cho tất cả những người xung quanh.

Món quà từ SỰ GIÚP ĐỠ:

Mỗi ngày hãy chủ động làm một vài điều tử tế, bạn sẽ thấy cuộc sống thật vui vẻ và nhẹ nhàng.

Món quà của NHỮNG LỜI KHEN TẶNG.

Những câu nói giản đơn nhưng chân thành như “Hôm nay trông bạn thật rạng rỡ!”, “ Bạn làm việc đó thật tốt”, hay “Bữa ăn hôm nay thật tuyệt vời!”… sẽ tạo thêm niềm vui và phấn chấn cho người khác.

Món quà của SỰ SÁNG TẠO.

Mỗi ngày hãy thực hiện một điều bất ngờ nho nhỏ cho bạn bè và gia đình. Chắc chắn bạn cũng sẽ nhận được những điều bất ngờ thú vị từ họ.

Món quà của SỰ TĨNH LẶNG.

Là những khoảnh khắc bạn thực sự chỉ muốn yên lặng một mình. Hãy trân trọng thời khắc quý báu này và trao món quà của sự tĩnh lặng cho người khác đúng lúc.

Món quà của SỰ TRI ÂN.

Những lời đơn giản nhất để bày tỏ lòng biết ơn đối với sự quan tâm, chia sẻ của người khác chính là “Chào bạn!” và “Cảm ơn” cùng nụ cười chân thành…

Món quà từ NHỮNG MẨU GIẤY VIẾT TAY

Hãy viết ra từ những lời chân thật, dù rất ngắn, nó có sức mạnh phi thường đấy, dù nó là dòng chữ “cảm ơn bạn đã giúp đỡ tôi” hay “xin lỗi vì mình đã quá nóng với bạn.” Hay thậm chí một bài thơ hay một lời khuyên đẹp. Chính những điều nho nhỏ đó, có thể đi suốt cuộc đời ta.

Khi bạn trao tặng những món quà này cho bất kỳ ai cùng với một ánh mắt khích lệ chính là tấm chân tình của bạn, chắc chắn chúng sẽ trở thành những món quà vô giá, cho người nhận và cả cho người trao tặng.

11. ĐTC xếp hàng ăn cháo với người nghèo

Ngày 10-11-2015, tại nhà thờ chính tòa Florence, trong buổi nói chuyện với Hội nghị chung Giáo hội Ý lần thứ năm, Đức Phanxicô đã lên tiếng cảnh báo:

‘Chúa Giêsu là ai? Chúa Giêsu là sự khiêm nhượng. Còn kiêu ngạo, tự tôn, quyền lực, không có chỗ trong đời sống của chúng ta, các mục tử. Chúng ta thấy được các mối phúc thật nơi những người ‘biết sự phong phú của tình tương thân tương ái, của việc chia sẻ dù là một chút ít mình có.’

Khiêm nhượng, quên mình, các mối phúc thật. Đây là con đường mà Giáo hội phải theo. Hãy thôi ám ảnh về quyền lực, dù cho có muốn quyền lực để làm được việc.’

Và một minh chứng cho những gì mình nói, Đức Phanxicô chọn ăn trưa, không phải với hàng giáo phẩm Tuscan, nhưng là với những người nghèo thành Florence.

Ngài xếp hàng với hàng chục người khác tại điểm phát cháo của Caritas, lấy một thẻ đăng ký như mọi người khác và nhận một phần cháo gà nấu với đậu truyền thống của vùng Florence, trong dĩa nhựa kèm muỗng nhựa.

THỨ BA - SẼ ĐƯỢC GẤP TRĂM

Lời Chúa: Mc 10, 28-31

Khi ấy, Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Ðây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy?"

Chúa Giêsu trả lời rằng: "Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Phúc Âm, mà ngay bây giờ lại không được gấp trăm ở đời này về nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái và ruộng nương cùng với sự bắt bớ, và ở đời sau được sự sống vĩnh cửu. 

Nhưng có nhiều kẻ trước nhất sẽ nên rốt hết, và những kẻ rốt hết sẽ nên trước nhất."

TRUYỆN KỂ

1. Con lừa trước sự lựa chọn.

Ông viện trưởng đại học Paris ở thế kỷ 14 đã làm một thí nghệm như sau: ông để cho một con lừa nhịn đói, nhịn khát trong mấy ngày. Sau đó, ông đưa nó đến sân ăn, ông đặt nó giữa một thùng nước và một bó cỏ non. Lừa ta tuy đói lắm nhưng hễ nhìn đống cỏ này lại ngó thùng nước kia, nó lưỡng lự giữa nước và cỏ, để rồi cuối cùng kiệt sức mà chết.

Cuộc sống không ngừng đòi hỏi chúng ta phải lựa chọn, và chọn lúc nào cũng đòi hỏi hy sinh. Kẻ bắt cá hai tay vẫn luôn luôn là người thua thiệt nhiều nhất. Hãy nhớ lại Lời Chúa đã phán: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ kia. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Mt 6,24).

2. Kẻ sau hết sẽ nên trước hết...

Đức Giêsu nói: “Kẻ đứng đầu sẽ nên sau chót, và kẻ sau chót sẽ lên hàng đầu." Trước hết phải hiểu sự ám chỉ về dân Do thái tự phụ là những người biết Thiên Chúa trước, nhưng rồi chính họ lại tự đánh mất cơ hội nhận ra Tin Mừng nơi Người.

Ngoài ra, câu nói này, Đức Giêsu muốn chúng ta đừng bao giờ ỷ lại, hay chểnh mảng trong nhiệm vụ, nhưng phải luôn hy sinh cố gắng và kiên trì trên bước đường theo Chúa. Ở đời tốt xấu trở như bàn tay. Có khi trước đây họ là người tội lỗi xấu xa, nhưng giờ họ lại ăn năn hối lỗi và có đời sống đạo đức tốt lành. Trái lại, có những người trước đây là tốt lành thánh thiện, nhưng giờ họ lại bê tha, tội lỗi, xấu xa.

3. Hoàng tử và thanh kiếm.

Vua Charles một lần kêu hoàng tử và cho hoàng tử được chọn. Trên bàn vua đặt một thanh kiếm và một vương miện (triều thiên). Vua hỏi:

- Con chọn cái nào?

Ngần ngừ một lúc hoàng tử cầm lấy thanh kiếm.

Vua cha hỏi:

- Sao con lại chọn thanh kiếm?

Hoàng tử cầm thanh kiếm chỉ vào vương miện đáp:

- Nhờ thanh kiếm này, con sẽ được vương miện kia.

4. Nhiều anh em gấp trăm

Khi Egerton Young giảng đạo lần đầu tiên cho người da đỏ ở Saskatchewan, về Thiên Chúa là Cha mọi người thì ông đã làm cho những người từ trước đến giờ chỉ thấy Thiên Chúa trong sấm sét giông bão ngạc nhiên. Một tù trưởng cao niên hỏi Young:

- Có phải ông thưa với Thiên Chúa rằng "Lạy Cha của chúng tôi không?"

Young đáp:

- Phải.

Vị tù trưởng tiếp tục hỏi:

- Vậy thì Ngài cũng là cha của ông chứ gì?

Young đáp:

- Phải.

Rồi vị tù trưởng nói tiếp:

- Và Ngài cũng là cha của tôi phải không?

Young đáp:

- Chắc chắn như vậy.

Gương mặt vị tù trưởng bỗng sáng rực lên cách khác thường, ông ta vung tay lên và nói như người mới khám phá được một điều gì khác thường, ông bảo:

- Vậy thì tôi với ông là anh em.

Có người phải hi sinh nhiều mối dây ràng buộc với người thân yêu để trở thành Kitô hữu, nhưng khi làm như vậy người ấy đã trở thành một thuộc viên và anh em trong một gia đình rộng lớn bằng cả thế gian này kể cả Thiên Đàng.

5. Chúa quan phòng

Qua cuộc sống hiến thân phục vụ các người nghèo khổ, Mẹ Têrêsa thành Calcutta đã từng được chứng kiến những cử chỉ từ bi và âu yếm của Chúa quan phòng thật lạ lùng. Ở Calcutta, các nữ tu Dòng Bác Ái của mẹ hằng ngày phải chăm sóc cho 7.000 người, và còn phải cung cấp thực phẩm cho họ nữa. Một ngày thứ sáu trong tuần nọ, chị nữ tu coi nhà bếp đến thưa với mẹ:

- Thưa mẹ, trong nhà không còn gì ăn cho hôm nay và ngày mai. Tốt hơn hết là chúng ta nên báo trước cho mọi người biết điều đó.

Nghe tin đó, mẹ không biết trả lời với chị này thế nào... Thế nhưng, vào khoảng 09 giờ sáng hôm đó, không hiểu vì lý do gì, chính quyền Ấn Độ tuyên bố đóng cửa các trường công. Thế là số bánh mì đã được dành cho các học sinh được chở đến cho mẹ. Và tất cả hơn 7.000 người, từ nhỏ chí lớn có đủ bánh mì ăn trong hai ngày!

Thật vậy, chưa bao giờ những người nghèo lại được ăn những bữa no nê như thế, và không một ai trong cả tỉnh Calcutta biết lý do vì sao chính phủ đã tuyên bố đóng cửa các trường công hôm ấy. Nhưng đối với Mẹ Têrêsa thì đã quá rõ! Đó chính là dấu hiệu tình thương của Chúa, Người Cha giàu lòng yêu thương con cái mình!

6. Bỏ mọi sự để được mọi sự

Một học sinh muốn đạt kết quả tốt trong việc học tập thì phải biết từ bỏ những thú mê vui chơi. Một người mắc bệnh hiểm nghèo phải kiêng khem đủ thứ: kiêng rượu, thuốc lá, đường, mỡ, v.v… Họ bị buộc phải bỏ những thứ mà trước đây họ rất thích, ghiền nữa là khác, chỉ nhằm đạt được một điều: sự sống! Người ta chấp nhận từ bỏ như thế không phải để trở thành trắng tay mà là để đạt được một cái khác lớn hơn, quí hơn. Vì thế khi tông đồ Phêrô “nói khó” với Chúa: “Thầy coi, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy” hẳn là ông muốn phân trần: “Thế mà, chúng con đã được cái gì đâu!” Thật ra Phêrô nói hãy còn thiếu. Và Chúa đã bổ sung: Theo Chúa không chỉ phải từ bỏ mà còn phải chịu “nhiều sự ngược đãi” nữa. Nhưng đồng thời, Chúa quả quyết để trấn an các tông đồ, các ông sẽ được rất nhiều và được “cả chì lẫn chài”: các ông sẽ được gấp trăm so với những gì mình từ bỏ, và được cả đời này lẫn đời sau.

Sau kinh nghiệm gặp Chúa Phục Sinh trên đường đi Đamát, thánh Phao lô đã chia sẻ: “Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô.” Những gì xưa kia ngài cho là có lợi nay ngài coi là thiệt thòi “so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô” (x. Pl 3,8-9).

7. Giá trị của sự hy sinh

Charles Colson bị kết án và tống giam vì vụ Watergate. Trong cuốn “yêu mến Chúa”, Colson mô tả một phụ nữ tại một bệnh viện tư ở Georgia. Dù đã lớn tuổi và khó khăn lắm mới viết được, bà ta cũng đã viết thư cho 14 tù nhân. Bà nói: “Tất cả họ đều còn trẻ và cần đến tình yêu và sự khôn ngoan của một bà ngoại! Khó viết cũng như là một hy sinh nhỏ, nếu tôi có thể giúp đỡ họ.”

Sự hy sinh đóng vai trò thế nào trong cuộc đời tôi?

Không thể nói đến chữ “hy sinh” một khi tôi nhớ đến hy sinh vĩ đại Chúa Giêsu đã thực hiện khi bỏ Trời để hiến thân vì ta. (David Livingston)

8. Vị thánh cho người cộng sản

Nikolai Lenin nắm quyền ở Nga sau cuộc cách mạng năm 1917. Khi cuộc chém giết kết thúc, Lenin đưa ra lời phát biểu đầy ngạc nhiên: “Không còn nghi ngờ gì nữa, những kẻ bị áp bức phải được giải phóng. Tuy nhiên, cách thức chúng ta sử dụng để giải phóng họ chỉ gây ra áp bức và những cuộc đàn áp đẫm máu. Giờ đây, cơn ác mộng mà tôi phải trải qua và thấy mình chơi vơi trong đại dương thẫm máu của vô số các nạn nhân. Lúc này, chúng ta không thể thay đổi được quá khứ, nhưng điều chúng ta thực sự cần là mười vị thánh như thánh Phanxicô Assisiô để thay đổi nước Nga.”

Mười vị thánh có thể thay đổi nước Nga như thế nào?

Rất nhiều kitô hữu có khuynh hướng đặt tượng Thánh Phanxicô Assisiô ở một góc nhà hay trong vườn của họ và tôn kính Ngài ở đó (Kilmer Meyers).

9. Kẻ chót được lên đầu

James M. Barrie viết vở kịch về người đầy tớ của một gia đình giàu có. Người này thường bị sai bảo và đối xử như kẻ hạ cấp nhất. Một hôm, gia đình giàu có thực hiện một chuyến đi chơi biển. Thế rồi vụ đắm tàu xảy ra, gia đình người giàu và người đầy tớ trôi dạt lên một đảo hoang. Gia đình kia trở nên hoàn toàn vô dụng, chỉ có người đầy tớ là biết phải xoay sở thế nào. Đột nhiên, địa vị của người đầy tớ thay đổi: từ chỗ chót hết lên trước hết.

Câu truyện trên minh họa cho Lời Chúa trong bài Tin mừng hôm nay. Nó cũng thách thức tôi tự hỏi: tôi có khuynh hướng xét đoán con người theo tiêu chuẩn thế gian, hơn là theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa không?

Nếu Don Quixote sống được một thế kỷ nữa, ông sẽ được nghe thế hệ sau gọi ông là vị cứu tinh của xã hội (James Russel Lowell).

10. Sắp xếp ghế ngồi trên Titanic làm sao?

Hơn 1500 người thiệt mạng khi chiếc tàu Titanic chìm sâu ở Đại Tây Dương vào ngày 15-4-1912. Sau đó không lâu, một tạp chí đã đặt câu hỏi: “Nếu bạn có mặt trên tàu Titanic khi nó đang chìm, bạn có mải bận rộn với việc xếp ghế ngồi trên boong tàu không?”

Thoạt đầu, câu hỏi nghe có vẻ buồn cười, nhưng rồi ý tưởng dần dần sáng tỏ. Thế giới phải đối đầu với những vấn đề mới mẻ, mà nếu không được xem xét, rất có thể sẽ bị quên lãng. Nhưng chúng ta lại làm ngơ và chỉ lo “xếp lại ghế ngồi trên boong tàu.” Bài đọc hôm nay, không những là lời cảnh báo cho người thời ngôn sứ Malakhi, mà còn cho người thời nay nữa.

Trong cuộc sống cá nhân, tôi thường chỉ lo “sắp xếp lại ghế ngồi” như thế nào?

Có ba hạng người:

Người làm cho những gì xảy ra.

Người nhìn mọi chuyện đang xảy ra.

Người chẳng quan tâm đến những gì đang xảy ra.

11. Tin vào lời hứa

Tennessee William đã viết vở kịch có tựa đề: “Đêm của Ignana.” Trong một cảnh, Hannah Jelkes nói chuyện với Shannon, một người xem ra đang gặp rắc rối về rượu. Tuy nhiên, Jelkes có một cái nhìn khác mà rằng: “Rượu không thành vấn đề.” Shannon liền hỏi: “Thế thì là gì?” Jelkes trả lời: “Một vấn đề cũ rích. Cần tin tưởng vào một cái gì hoặc một ai đó.”

Ai là tôi thực sự tin tưởng? Tại sao? Tôi thực sự tin tưởng vào cái gì? Tại sao? Tôi nuôi dưỡng niềm tin vào người khác ra sao?

Một cây gậy cong, tôi không nên bẻ gãy. Một đức tin yếu ớt, tôi không nên rung lắc hoặc nóng vội gạt đi (John Greenleaf Whittier).

12. Loại trừ và bổ sung

Một người kia lui về ở ẩn đã trải qua một cuộc hoán cải. Bà ta nói với vị linh sư: “Con phải làm gì bây giờ? Về mặt thiêng liêng, con không đủ nghị lực để trở về chốn cũ và với bạn bè cũ của con. Làm sao có thể lắp đầy chỗ trống này?” Lý luận của người phụ nữ này thật là đúng đắn. Nếu chúng ta loại một cái gì đó ra khòi cuộc sống, chúng ta phải thay thế nó bằng một cái gì khác. Nếu không thì trong những giây phút bị cám dỗ, chúng ta có nguy cơ trở lại đường cũ, thiếu can đảm và rốt cuộc tệ hơn trước.

Tôi đã bao giờ kinh nghiệm một cái gì tương tự khi cố gắng theo Chúa, gần gũi Chúa hơn trong quá trình cầu nguyện chưa? Làm sao tránh khỏi mất can đảm khi gặp thử thách hoặc sa vào đường cũ?

Ta chỉ thật sự thất bại khi ta bỏ cuộc.

13. Giá trị của tình yêu

Một nhà diễn thuyết bắt đầu buổi nói chuyện bằng một câu hỏi: ”Nếu phải chết, bạn chọn một cái chết như thế nào. Chết nhẹ nhàng, nhanh chóng hay đau đớn và từ từ?”

Đám đông ồn ào vì câu hỏi kỳ quặc. Ai mà chẳng muốn một cái chết nhẹ nhàng và nhanh chóng. Vì vậy mà mọi người đều chọn nó.

Khi mọi người đã chắc chắn với quyết định của mình rồi, nhà diễn thuyết mới tiếp tục:

“Tôi cũng từng chọn giống như các bạn vậy. Cho đến một ngày, khi cha tôi lâm bệnh nặng. Ông phải trải qua những cơn đau khủng khiếp, kéo dài ngày này sang ngày khác. Chúng tôi rất thương yêu ông nhưng cũng không muốn ông phải chịu đau đớn như vậy. Chỉ có cách giải thoát cho ông càng sớm càng tốt thôi. Mẹ tôi nói với cha tôi điều đó. Ông nhìn bà hồi lâu rồi nói: Tôi đau lắm chứ, hơn ai hết tôi là người muốn giải thoát cho chính mình thoát khỏi những cơn đau. Nhưng tôi vẫn muốn sống, chỉ để nhìn các con tôi đi làm về chào bố, các cháu tôi chào ông mỗi buổi sang. Để chúng ôm hôn tôi trước khi đi ngủ. Để mỗi sáng dậy tôi còn được nhìn thấy ánh mặt trời, để nghe tiếng sóng biển từ xa vọng về. Với bà và các con, điều đó thật đơn giản, nhưng với một người như tôi thì thật khó khăn. Tôi không còn thời gian để làm những việc đó nữa. Dù đau đớn nhưng tôi bằng lòng vì tôi có thể mang đi những gì tươi đẹp nhất của cuộc sống mà tôi đã không bao giờ nhận ra…”

14. Sao lại phung phí cuộc đời?

Oscar Wilde đã viết điều mà ông mô tả như truyện ngắn hay nhất trên đời. Câu chuyện xảy ra như thế nầy: Lần kia Chúa Giêsu đi dọc theo con đường chính băng qua một tỉnh nhỏ. Ngài đi ngang qua một người say rượu nằm bơ vơ, ngớ ngẩn, bên vệ đường. Ngài nói: “Anh ơi, sao anh đã phung phí cuộc đời trong rượu chè?” Người đàn ông nhìn Chúa Giêsu, nhận ra Ngài và thưa: “Chúa ôi, Chúa không nhớ con sao? Con là người phong hủi và Chúa đã chữa con lành?”

Khi đi xa hơn một đoạn đường nữa, Chúa Giêsu gặp một người đàn ông khác đang đi theo một cô gái giang hồ. Ngài nói: “Anh ơi, sao anh phung phí cuộc đời trong những tham muốn nhục dục?” Người đàn ông nhìn Chúa Giêsu, nhận ra Ngài và thưa: “Chúa ơi, Chúa không nhớ con sao? Con là người mù và Chúa đã làm cho con sáng mắt.”

Đi thêm một đoạn đường nữa, Chúa Giêsu gặp một người đàn ông thứ ba. Ông ta già cả và dựa vào tường kêu khóc thảm thiết. Chúa nói: “Bác ơi, sao bác phung phí cuộc sống, đêm ngày than thân khóc phận?” Cụ già nhìn quanh, thấy Chúa Giêsu, nhận ra Ngài và thưa: “Chúa ôi, Chúa không nhận ra con sao? Con đã chết và Chúa làm cho con sống lại.”

Câu trả lời của chúng ta: “Chúa ôi, Chúa không nhớ con sao? Con là hư vô và Chúa đã dựng nên con. Chúa đã dựng nên con giống hình ảnh Ngài. Chúa nâng con lên phẩm giá con cái Thiên Chúa.”

THỨ TƯ -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1. truyện

THỨ NĂM -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1. truyện

THỨ SÁU - NHÀ CẦU NGUYỆN CỦA MỌI DÂN TỘC

Lời Chúa: Mc 11, 11-26

 (Khi nghe dân chúng hoan hô), Chúa Giêsu vào thành Giê-rusalem, lên đền thờ và sau khi đã đưa mắt quan sát mọi sự, và lúc trời đã xế chiều, Người ra về Bêtania cùng với nhóm mười hai. Hôm sau, khi thầy trò rời bỏ Bêtania, Người thấy đói. Và khi thấy ở đàng xa có một cây vả nhiều lá, Người đến xem coi có trái nào không. Nhưng khi lại gần, Người chỉ thấy có lá thôi, vì không phải là mùa có trái. Người phán bảo cây vả rằng: "Cho đến muôn đời sẽ không còn ai ăn trái của mi nữa." Và các môn đệ đã nghe Người nói.

Các ngài đến Giêrusalem. Và khi vào đền thờ, Chúa liền đuổi những người mua bán ở đó. Người xô đổ bàn của những người đổi tiền và ghế của những người bán chim câu. Người không để cho ai mang đồ vật đi ngang qua đền thờ. Người dạy bảo họ: "Nào chẳng có lời chép rằng: "Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của mọi dân tộc ư? Thế mà các ngươi đã biến thành hang trộm cướp." Ðiều đó đến tai các trưởng tế và luật sĩ, họ liền tìm cách giết Người, vì họ sợ Người, bởi tất cả dân chúng say mê giáo lý của Người. Chiều đến, Người ra khỏi thành.

Sáng hôm sau, khi đi ngang qua, các ngài trông thấy cây vả đã chết khô tận rễ. Phêrô nhớ lại và thưa Chúa rằng: "Lạy Thầy, hãy coi, cây vả Thầy nguyền rủa đã chết khô rồi." Chúa Giêsu đáp: "Hãy tin vào Thiên Chúa. Thầy bảo thật các con, nếu ai bảo núi kia: "Hãy dời đi và gieo mình xuống biển", mà trong lòng không hồ nghi, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì người ấy sẽ được như ý. Vì vậy Thầy bảo các con: Tất cả những gì các con cầu xin, hãy tin rằng các con sẽ được, thì các con sẽ được điều đó. Và khi các con đang đứng cầu nguyện, nếu các con có điều gì bất thuận với ai, hãy tha thứ để Cha các con trên trời cũng tha cho các con. Nếu các con không tha thứ, thì Cha các con trên trời cũng không tha tội cho các con."

TRUYỆN KỂ

1. Tâm sự của ông Mahatma Gandhi

Mahatma Gandhi, vị thánh của dân tộc Ấn độ, trong nhật ký tự thuật của mình, ông kể lại rằng: khi còn theo học ở Nam Phi, ông rất thích và say mê đọc Kinh thánh, đặc biệt là “Bài giảng trên núi."

Ông xác tín rằng Kitô giáo chính là đạo để giải đáp cho hệ thống đẳng cấp đã gây thương tổn cho đất nước Ấn độ của ông từ bao thế kỷ. Ông thực sự nuôi ý định trở thành Kitô hữu.

Ngày kia, ông vào Nhà thờ để dự lễ và nghe giảng. Người ta chặn ông lại ở cửa Nhà thờ và nhẹ nhàng cho ông hay rằng: nếu ông muốn dự lễ, xin mời ông đến một Nhà thờ dành riêng cho người da đen.

Ông đã ra đi và không bao giờ trở lại Nhà thờ nữa.

2. Tàu Titanic

Trong một xưởng lắp ráp tàu thuyền ở Belford xứ Irlande, người ta chuẩn bị hạ thủy một con tàu xuyên đại dương với cái tên gọi thật uy nghiêm: TITANIC.

Người ta tin rằng chiếc tàu vĩ đại này sẽ ngạo nghễ vượt sóng và coi thường những bão tố của biển cả.

Rất nhiều thợ đang bận rộn vào việc hoàn tất con tàu to lớn này. Trong số những thợ này có khá nhiều kẻ nghịch đạo. Họ đã viết trên vỏ tàu đủ loại lời lộng ngôn và đùa nghịch bất kính, phạm thượng, nhất là để tỏ vẻ khinh miệt các bạn bè có tín ngưỡng của họ.

Trong số những câu họ đã viết, có câu: “Chính ông Kitô cũng không thể làm cho nó chìm được." Còn rất nhiều câu khác tương tự như thế nữa, mặc dù bị nước sơn phủ lên, nhưng chẳng bao lâu lại lộ ra. Có một người Công giáo làm việc tại đây. Người này đã tận mắt thấy những câu viết phạm thượng ấy, nên anh đã viết cho cha mẹ của anh ở Dublin những dòng chữ này:

“Con nghĩ rằng chiếc tàu sẽ không thể nào đến Mỹ Châu được vì những câu nói lộng ngôn tràn đầy ở hai bên hông tàu."

Cha mẹ anh cho đến bây giờ vẫn còn giữ lá thư này như kỷ niệm cuối cùng của con họ. Linh tính đau buồn của anh đã trở thành hiện thực. Chiếc tàu Titanic đã không đến được Mỹ quốc. Trong đêm tối, nó đụng phải đá ngầm và đã chìm xuống đáy biển cùng với hầu hết số hành khách đi trên chiếc tàu ấy.

3. Hãy tin vào Thiên Chúa

Bà mẹ kia có đứa con gái. Nhưng con bà đâm hư hỏng và đi làm chiêu đãi ở những hộp đêm. Lúc đầu bà buồn phiền và ngồi than thân trách phận, cho mình là vô phúc vì có một đứa con như thế. Nhưng rồi bà suy nghĩ lại, bà tự nhủ:

- Nếu thực sự tin Chúa, tin vào tình yêu ngài đối với mỗi con người, tin vào lòng quan phòng của ngài, thì tại sao ta lại không lên tiếng ca tụng Ngài dù trong bất cứ mọi hoàn cảnh nào. Vì nếu Ngài muốn thì cái gì cũng có thể cả.

Thế rồi từ đó trở đi, bà không còn buồn phiền mỗi khi nghĩ đến người con nữa, nhưng luôn lên tiếng ca khen Chúa. Lần kia, gặp người bạn tới chơi, bà nói với ông về đứa con gái của bà…

Ông này dò hỏi và biết cô con gái của bạn mình làm ở đâu. Biết được chỗ làm việc của người con gái, một lần kia ông đích thân đến quán snack bar nơi cô làm việc.

Đúng như dự tính, ông đã gặp người con gái ấy trong quán bar này. Lúc đầu khi gặp cô, xem ra cô hơi ngạc nhiên một chút. Nhưng rồi cố lấy lại bình tĩnh và hành xử như là không có gì xảy ra. Sau khi đã kêu hai ly nước, ông mời cô ngồi xuống bên cạnh mình. Ông nhìn cô bằng một cặp mắt cảm thông. Thay vì cô được nghe những lời xàm xỡ như bao lần, cô đã nghe được từ người đàn ông này những lời khác:

- Đức Kitô yêu cô lắm!

Nói xong, ông nhìn cô với một cặp mắt trìu mến rồi thanh toán những thứ cần thanh toán và lẳng lặng ra về.

Không bao lâu sau, người ta thấy người con gái đó bên cạnh mẹ mình tại nhà thờ với tất cả sự thanh thản của một tâm hồn đã được đổi mới.

Vâng! Một bông hồng có thể mọc lên từ một đống phân!

THỨ BẢY - DO QUYỀN PHÉP NÀO?

Lời Chúa: Mc. 11, 27-33

Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ lại đến Giêrusalem. Và trong khi Chúa Giêsu đi lại trong đền thờ, thì những trưởng tế, luật sĩ và kỳ lão đến hỏi Người: "Ông lấy quyền nào mà làm sự đó? Và ai đã ban quyền cho ông để làm như vậy?"

Chúa Giêsu đáp: "Tôi sẽ hỏi các ông một câu thôi, hãy trả lời cho Tôi thì Tôi sẽ bảo cho các ông hay Tôi lấy quyền nào mà làm việc đó: Phép rửa của Gioan bởi trời hay bởi người ta? Hãy trả lời Tôi đi." Họ liền bàn riêng với nhau rằng: "Nếu chúng ta trả lời "Bởi trời", ông ấy sẽ nói: "Vậy sao các ông không tin Người?" Nhưng nếu chúng ta nói "Bởi người ta", chúng ta sợ dân chúng, vì mọi người đều coi Gioan thật là một tiên tri.

Vậy họ thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Chúng tôi không biết." Và Chúa Giêsu bảo họ: "Vậy thì tôi cũng không nói cho các ông biết bởi quyền phép nào Tôi làm sự đó."

TRUYỆN KỂ

1. Truy tìm khôn ngoan

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thượng tế, kinh sư và kỳ mục hỏi Chúa một câu hỏi. Chúa Giê-su trả lời bằng một câu hỏi khác. Theo triết học thì câu hỏi là một truy tìm khôn ngoan. Câu hỏi của các thượng tế hướng về quyền lợi. Đó là khôn ngoan theo trần gian. Vì Chúa Giê-su xua đuổi người buôn bán ra khỏi Đền Thờ. Giới thượng tế mất uy tín và lợi nhuận. Câu hỏi của Chúa Giê-su xoáy vào lương tâm. Hỏi về sự thật. Mở ra khôn ngoan theo Nước Trời. Họ không dám trả lời. Vì nếu trả lời theo lương tâm và sự thật thì họ mất uy tín và quyền lợi. Họ không tìm khôn ngoan. Họ tìm lợi nhuận. Nói đúng ra họ chọn khôn ngoan theo thế gian. Nên không nghe lời Chúa.

2. Khiêm tốn đón nhận sự thật

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Có nhiều người đến gặp Chúa Giêsu với nhiều mục đích khác nhau. Hôm nay, các thượng tế, các kinh sư, và các kỳ mục đến để bắt bẻ, gài bẫy Chúa. Chúng ta thường đến gặp Chúa với mục đích gì?

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khi gặp những người đối thoại muốn bắt bẻ điều chi, thì Chúa chứng tỏ sự trổi vượt của Chúa bằng sự im lặng, như khi Chúa đối diện với vua Hêrôđê, hoặc với quan Philatô. Bởi vì đạo Chúa không phải là cuộc đấu trí giữa những người thông minh khéo léo. Chúa cũng không đến để thỏa mãn tính tò mò của con người. Nhưng Chúa đến để thay đổi đời sống của nhân loại. Tuy nhiên, muốn đổi mới cuộc sống, con người cần mở rộng lòng mình để đón nhận chân lý.

3. Gậy ông đập lưng ông.

Hẳn chúng ta đã nghe câu chuyện “Cò với Cáo." Chuyện kể thế này: Có một dạo cáo và cò rất hay thăm viếng nhau, có vẻ như hai người bạn thân. Rồi cáo mời cò đến ăn cơm, và để chơi xỏ bạn, cáo chỉ đặt trước mặt cò một chiếc đĩa bằng.

Món này thì cáo liếm sạch dễ dàng, nhưng cò chỉ nhúng ướt đầu cái mỏ của mình trong đĩa xúp và ăn xong vẫn thấy đói. “Xin lỗi”, cáo nói: “Món xúp này không hợp với bạn."

 “Thôi mà, đừng xin lỗi”, cò nói: “Hy vọng rằng mình đã đến chơi với bạn thì bạn cũng ghé chơi với mình, mai kia mời bạn đến chơi ăn cơm với mình nhé." Và đôi bạn xếp ngày cho cáo đến thăm cò. Lúc cáo đến, cả hai ngồi vào bàn ăn.

Mâm cơm hôm đó chỉ có một cái bình, cổ dài, miệng hẹp, cáo không thể nào cho mồm vào được, chỉ ngồi đó mà liếm bên ngoài bình. Cò liền nói: “Ăn như thế này mình chẳng có gì phải xin lỗi, ác giả ác báo mà."

4. Thành kiến

Có một nhà thiên văn nọ sáng chế được một viễn vọng kính. Đêm nọ ông bỗng phát hiện một con rồng trên mặt trăng. Ông chạy khắp thành phố mời bạn bè đến xem khám phá của ông. Mọi người xem đều tấm tắc khen ngợi tài năng của ông. Nhưng trong đám đông hiếu kỳ, có một nhà thiên văn học kỳ cựu cũng đến để tìm hiểu thực hư. Vừa đưa mắt nhìn vào viễn vọng kính, ông mỉm cười một cách bí ẩn rồi mở ống kính ra, cho mọi người thấy có một con ruồi đã chết cứng trong đó. Thì ra con rồng trên mặt trăng không là gì khác hơn là con ruồi nằm trong ống kính.

Chúng ta dễ có khuynh hướng nhìn người khác qua lăng kính những thành kiến có sẵn.

5. Niềm vui từ cuộc sống bình thường

Hôm đó, tôi đến một tiệm hoa nhỏ để mua hoa. Sau khi nghe tôi kể tên một số loại hoa tôi định mua, cô gái bán hoa quay người vào trong phòng trữ hoa. Sau đó, tôi nghe thấy có tiếng nói chuyện thì thầm từ trong phòng vọng ra.

Tôi tự hỏi, không biết cô ta nói chuyện với ai vậy?

Không kiềm chế nổi sự tò mò, tôi gõ cửa hỏi cô ta:

- Cô đang nói chuyện với ai vậy?

Cô quay đầu mỉm cười, trả lời:

- Tôi đang nói chuyện với hoa của tôi.

Tôi vô cùng ngạc nhiên, hỏi lại:

- Nói chuyện với hoa của cô ư?

Bằng đôi tay mảnh mai đang bận rộn chọn những bông hoa cho tôi, cô đáp lại:

- Tôi trò chuyện với hoa của tôi. Nói với bông hoa này, mi nở tốt lắm, rực rỡ lắm, nhưng ta cũng không giữ nổi mi lại đâu. Rồi tôi nói với bông hoa kia, mi vội gì chứ, nụ hoa vẫn còn chặt như thế, một hai ngày nữa bán vẫn chưa muộn.

6. Trần trọng mọi sự

Một tài xế lái xe buýt trên một tuyến đường ngoại ô. Ngày nào anh cũng vui vẻ lái xe trên con đường đầy cát bụi này. Cô nhân viên bán vé trêu anh:

- Chẳng ai được như anh, ngày nào cũng có hẹn.

Anh ấy hạnh phúc mỉm cười, hỏi:

- Ghen tị rồi phải không?

Hành khách đều đoán già đoán non, chắc là chàng trai này có người yêu ở vùng ngoại ô.

Chiếc xe buýt lắc lư tiến về phía trước trên con đường đầy ổ gà. Gần đến một thôn nhỏ, cô nhân viên bán vé phấn khích chỉ vào một chiếc ao trước mặt nói:

- Vẫn còn ở đó? Không sai một phút!

Người lái xe bấm còi, 3 tiếng ngắn, 1 tiếng dài giống như “ám hiệu."

Hành khách ngẩng cổ lên nhìn: Trời ơi, hóa ra là một bầy ngỗng trắng! Nghe tiếng còi xe, chúng lập tức dang rộng đôi cánh tranh nhau chạy về phía chiếc xe, vừa chạy vừa vui sướng kêu lên, giống như những cô gái chờ đợi lâu ngày mới gặp được người yêu.

Chàng lái xe hò hẹn với những con ngỗng trắng, cô gái thì thầm to nhỏ với những cành hoa, khiến tôi hiểu được một điều: cuộc sống có thật nhiều niềm vui nếu ta biết trân trọng nó.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con trở nên những chứng nhân cho tình yêu Chúa giữa anh chị em xung quanh chúng con. Amen.

7. Sự khôn ngoan đến từ đâu

Người ta thường liên kết khôn ngoan với những người cao niên và từng trải. Qủa thực, sự khôn ngoan đến từ tuổi tác và kinh nghiệm, nhưng cũng có sự khôn ngoan đến như một món quà từ Thiên Chúa. Carl Sandburg ám chỉ đến sự khôn ngoan thứ hai này trong một bài viết của ông về một cô bé đang xem một cuộc duyệt binh.

Những người khác thì vui, còn cô bé lại nghĩ đến cảnh giết chóc trong chiến tranh. Đột nhiên cô nghĩ: “Tôi biết rồi sẽ có chuyện xảy ra: có ngày người ta sẽ gây chiến với nhau và chẳng còn ai đi xem duyệt binh nữa.”

Tôi có mở rộng lòng đón nhận sự khôn ngoan đến từ Thiên Chúa không?

Khôn ngoan bắt nguồn từ đức hạnh, chứ đức hạnh không bắt nguồn từ sự khôn ngoan (Ralph Waldo Emerson)

8. Giá trị của chữ muôn đời

Một du khách đến thăm nước Anh bị thu hút bởi một nghĩa trang cổ với những bia mộ và những dòng chữ kỳ quặc. Trong đó, đặc biệt có một bia mộ kéo chú ý của anh ta ngay: “Hãy nhớ, hỡi người đi qua đây, tôi cũng đã từng tài ba như bạn. Và tôi sao, bạn cũng sẽ như vậy. Bạn hãy chuẩn bị theo tôi.” Bên dưới dòng chữ, một người nào đó đã viết nguệch ngoạc những lời như sau: “Theo ông, đó không phải là mục đích của tôi, tôi đâu có biết ông đi đường nào.”

Tôi đang làm gì để đạt tới thiên đàng và nhận được cuộc sống vĩnh cửu nơi Chúa Giêsu?

Để vào Nước Trời, chúng ta luôn phải chèo lái con thuyền của mình, đôi khi thuận gió, nhưng cũng có khi ngược chiều. Điều quan trọng là phải luôn chèo chống, không được sao nhãng, không được neo thuyền lại (Olier Wendell Holmes).

9. Cố chấp

Cách đây nhiều năm, một công ty thuốc lá đã thực hiện một chiến dịch quảng cáo mở rộng. Họ chọn hình ảnh một người với con mắt đen đang hút thuốc lá để gây ấn tượng. Bên dưới bức ảnh có những lời này: “Tôi thích đối đầu hơn là thay đổi.” Nhiều người vào thời Chúa Giêsu cũng thế: họ quay lưng lại với những gì Ngài đã nói và đã làm, họ thích đối đầu hơn là thay đổi, họ khép kín trước sự thật.

Tôi có sẵn lòng chấp nhận sự thật và những thay đổi không? Đã có khi nào tôi cố chấp trong xác quyết về một ai đó không?

Cố chấp là cứng đầu và ngu xuẩn (Katharine Whitehorn).

LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG

Lời Chúa: Ga 20, 19-23

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con!" Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa.

Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con."

Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại."

TRUYỆN KỂ

1. Vai trò của Chúa Thánh Thần

Một hôm, vào một buổi sáng mùa hè, trời quang mây tạnh, các sinh vật, thực vật trong một khu rừng tranh luận với nhau về ý nghĩa đời sống. Một con họa mi mở đầu, lên tiếng nói: Đối với tôi, cuộc sống chỉ là ca hát, có thế thôi. Nói rồi nó ngẩng cao cổ, tung lên bầu trời một giọng hát trong trẻo tuyệt diệu.

Nghe thế, con chuột chũi liền lẩm bẩm: Cuộc sống không phải là ca hát, không, hoàn toàn không, nhưng cuộc sống là liên tục đấu tranh trong hầm tối.

Một chị bướm ngắt lời: Như vậy thì thật vô lý. Nhưng cuộc sống phải là thỏa thích vui chơi bay lượn.

Đến lượt con ong lên tiếng: Chị bướm ơi, chị lầm rồi. Đời sống không phải là vui chơi bay lượn, nhưng là chăm chỉ làm việc.

Một chú kiến vênh râu, tỏ ý tán thành quan điểm của con ong.

Bỗng một con phượng hoàng từ trời nói vọng xuống: Tất cả các chú không ai nói đúng cả. Theo ý tôi thì cuộc sống có ý nghĩa nhất là tự do bay bổng trên mây xanh.

Tới đây, các cây trong rừng cũng nhao nhao lên lên tiếng tham gia vào cuộc tranh luận: Một cây thông cao vút, cành lá reo vui trong gió, dưới ánh bình minh, lên tiếng khen ý kiến của con phượng hoàng là đúng: Đời sống là vươn mình lên không trung, coi thường những cái nhỏ nhen sà sà mặt đất. Cây bìm leo liền phản đối và đồng tình với chị kiến, chú ong: Đời sống là cần lao phấn đấu.

Cây hồng thắm và cây huệ trắng thì về phe với cô bướm, đồng thanh nói: Đời sống chỉ là vui chơi bay lượn.

Lúc ấy, một đám mây bay qua, buông rơi mấy hạt mưa xuống đám sinh vật, thực vật, đồng thời phát biểu: Đời sống chỉ là giọt lệ cay đắng và nước mắt.

Một dòng suối chảy ngang qua đó cũng xen vào một câu: Đời sống chỉ là mau qua biến chuyển không ngừng.

Trong lúc mà cuộc tranh luận về ý nghĩa đời sống giữa các sinh vật, thực vật và cả mây trời suối nước lên tới cao điểm, nhưng không đi tới kết thúc, thì chuông nhà thờ lên tiếng ngân vang báo hiệu mừng lễ Hiện Xuống làm cho cuộc tranmh luận đang sôi nổi bỗng im bặt. Tất cả đều nhất trí rằng câu trả lời đúng nhất về ý nghĩa đời sống là sự bình an, vui mừng, sức mạnh và hòa hợp trong Chúa Thánh Thần.

Thưa anh chị em thân mến,

Trên đây chỉ là một câu chuyện biến ngôn, không có thực, nhưng nói lên sự thực này là Chúa Thánh Thần có một vai trò rất quan trọng, vai trò chính yếu trong việc điều hòa vũ trụ vạn vật nói chung và loài người nói riêng. Không có Chúa Thánh Thần thì mọi sự sẽ hỗn độn, mọi loài sẽ bất đồng, loài người sẽ chia rẽ nhau. Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến tác tạo mọi sự và làm cho mặt đất này được đổi mới. Amen.

2. Lửa và củi

Hôm nay tôi xin nhắc lại và đào sâu hơn hình tượng Thánh Gioan Thánh Giá sử dụng. Ngài là người có kinh nghiệm thần bí sâu sắc đồng thời là một nhà thơ cho nên ngài đã vận dụng ngôn ngữ thi ca để diễn tả kinh nghiệm thần bí đó. Đó là hình ảnh của lửa, của củi.

Chúng ta thử tưởng tượng cảnh mùa đông băng giá ở Châu Âu, ngoài vườn có một khúc củi nằm cô đơn giữa tiết trời băng giá. Cái lạnh làm cho làn da của nó xần xùi, xấu xí. Thế rồi nó được ông chủ nhà đem vào quăng vào lò sưởi. Hơi nóng làm khúc củi cảm thấy ấm áp, hạnh phúc. Nó cảm nhận được đầy sự an ủi không tả được.

Nhưng tiếc rằng sự sung sướng kéo dài chẳng được bao lâu. Trong khỏanh khắc ngọn lửa ôm chặt lấy nó. Sức nóng của lửa nung nấu khiến cho nhựa cây rỉ ra bên ngoài làm thành một lớp da sần sùi như da cóc. Nó tỏa ra một mùi thật khó chịu. Khúc củi quằn quại trong than hồng một thời gian. Cuối cùng nó trở nên một với lửa. Nó không còn là củi mà chỉ là lửa. Lửa đem ánh sáng, lửa đem hơi ấm cho những người trong phòng.

Gioan Thánh Giá dùng hình ảnh tuyệt vời ấy để diễn tả về tác động của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta. Hình ảnh ấy giúp chúng ta thấy được đâu là cùng đích của đời sống trong Thánh Thần. Cái cùng đích ấy là Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta được nên một với Thiên Chúa. Như Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu nói: "Ta trở thành một giọt nước hoà trong đại dương." Sự nên một ấy chỉ trở thành trong đời sống vĩnh cữu cho những người mà Chúa ban cho kinh nghiệm thần bí, những người cảm nghiệm được sự nên một hồng phúc với Thiên Chúa.

Chúng ta chưa có được kinh nghiệm huyền bí đó. Nhưng tôi nghĩ: Nếu chúng ta thực hiện đúng những bí tích mà Giáo Hội cử hành là chúng ta đã đi đúng mục đích của Giáo Hội, dẫn ta đến chỗ nên một với Thiên Chúa. Khi ta rước mình Thánh Chúa và để Máu Thánh Chúa hoà vào máu thịt ta để ta nên một với Ngài.

3. Bài giảng biết đi.

Một buổi chiều của năm 1953, các ký giả và một số nhân viên chính phủ tập trung tại một nhà ga xe lửa ở Chicago, Hoa kỳ để chào đón một người được giải thưởng Nobel hoà bình năm 1952.

Người vừa xuống khỏi xe lửa là một người đàn ông to lớn, tóc ngắn và mang một chòm râu cắt gọn ghẽ. Các máy hình chớp liên hồi. Các nhân viên cao cấp của thành phố đang rộng tay để đón chào vị thượng khách.

Người được giải Nobel hoà bình cám ơn mọi người rồi bỗng đưa mắt nhìn vào một chỗ nào đó trên sân ga. Ông xin kiếu vài phút để đi thẳng về hướng ấy. Mọi người đều tưởng ông

đã để quên một hành lý nào chăng.

Ông băng qua đám đông đi thẳng tới một người đàn bà có tuổi đang khệ nệ với hai vali nặng. Ông giơ tay đỡ lấy một chiếc vali, mỉm cười với bà rồi dẫn bà ra một

chiếc xe buýt gần đó. Khi giúp người đàn bà lên xe, ông không quên chúc bà thượng lộ bình an. Quay lại với đám đông đang chờ đợi, ông nói: “Xin lỗi quí vị vì đã bắt quí vị chờ đợi."

Người được giải Nobel hoà bình năm 1953 ấy, không ai khác hơn là bác sĩ Albert Schweitser, nhà truyền giáo nổi tiếng đã hy sinh cả cuộc đời cho những người nghèo tại Phi châu. Chứng kiến cử chỉ của ông, một người trong ban tổ chức đón tiếp ông hôm đó, đã nói với một ký giả: “Đây là lần đầu tiên tôi thấy một bài giảng biết đi." (R.D. Wahrheit, Ánh sáng hy vọÏng, tr 41-42).

4. Tha nhân là chính Chúa

Một bề trên tu viện công giáo đến tìm một ẩn sĩ Ấn giáo tại chân núi Himalaya. Ông lo âu trình bày về tình trạng bi đát của tu viện ông.

Trước kia tu viện này là một trung tâm thu hút khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân đến từ khắp nơi. Trong tu viện không còn chỗ nhận thêm người vào tu hằng ngày đến gõ cửa nữa. Thế mà bây giờ tu viện chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng, tu sĩ thì lèo tèo mấy người. Cuộc sống thật là buồn tẻ.

Vị bề trên hỏi tu sĩ Ấn giáo cho biết nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã đưa tu viện tới tình trạng trên đây. Tu sĩ Ấn giáo ôn tồn bảo:

- Các tội đã và đang xảy ra tại cộng đoàn đó là tội vô tình. Và giải thích: Đấng Cứu thế đã cải trang thành một người trong quý vị, nhưng quý vị không nhận ra Ngài.

Nhận được câu trả lời giải đáp, vị Bề trên hối hả quay về tu viện. Ông tập họp cộng đoàn lại, và loan báo cho mọi người biết Đấng Cứu thế đang cải trang thành một người trong nhà. Các tu sĩ đều mở to đôi mắt và quan sát nhau. Ai là Đấng Cứu thế cải trang vậy? Nhưng có một điều chắc là một khi Ngài đã cải trang thì không ai có thể nhận ra Ngài được. Mỗi người trong họ đều có thể là Đấng Cứu thế.

Vậy là từ đó, mọi người đều đối xử với nhau như với Đấng Cứu thế. Chẳng bao lâu bầu khí yêu thương huynh đệ, sức sống và niềm vui đã trở lại với tu viện. Từ khắp nơi người ta lại tìm đến tu viện tĩnh tâm và cầu nguyện. Nhiều người trẻ cũng đến xin gia nhập cộng đoàn (D. Wahrheit, Món quà Giáng sinh, tr 287).

5. Các nữ tu tại Vendée

Các chị dòng tại tu viện Vendée nước Pháp không quên rằng Chúa Thánh Thần là quan trọng. Trong thời kỳ cách mạng Pháp, nhiều linh mục và nữ tu bị giết. Toàn thể các chị ở tu viện Vendée bị kết án lên máy chém. Chị nào cũng hiểu lên máy chém ghê sợ chừng nào, nhưng không một chị nào tỏ ra sợ sệt chút gì hết. Trái lại, đứng sát bên nhau, các chị cất tiếng hát bài thực du dương. Đứng trước cái chết, các chị vẫn ca hát, và bài hát các chị hát là bài thánh ca “Xin Chúa Thánh Thần ngự đến” (Diamond, Đồng cỏ non, tr 93).

6. Nhà biên kịch Henri Ghéon

Henri Ghéon là một nhà biên kịch nổi tiếng của Pháp, cũng là một người tội lỗi trong đệ nhị thế chiến, ông ở trong một tâm trạng bất an, đã quay trở lại với Chúa. Ông đến xin lãnh bí tích giải tội và ông đã kể lại tâm trạng của mình lúc xưng tội như sau: “Hai tay tôi ôm đầu, miệng bập bẹ run run, tôi đổ dòng tội tuôn ra như thác… Tôi cảm thấy một thứ cặn đắng, từng ngụm, từng ngụm trào ra khỏi các thớ thịt con tim tôi với tất cả khối nặng đó, với tất cả chất độc đó đã đè nén tôi suốt hai mươi năm nay. Tôi cố cựa quậy đổ dốc nó ra cho linh mục giải tội. Và Thiên Chúa đã nghe lời tôi: “Hãy về Bình an. Thánh Thần đã ngự trong con!” Tôi trẻ lại hai mươi tuổi, hai mươi năm tội lỗi. Một niềm vui sướng mới lạ tràn ngập tâm hồn tôi. Tôi chạy, tôi nhảy, tôi bay, tôi không còn cảm thấy xác thịt nặng nề của tôi nữa”…

7. Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy ngự đến!

Trong kho tàng văn chương Ấn giáo có ghi lại câu chuyện như sau: Có một đệ tử đến thưa với vị linh đạo của mình: “Thưa thầy, con muốn gặp Chúa." Vị linh đạo chỉ đáp trả bằng một cái mỉm cười thinh lặng.

Ngày hôm sau, người môn sinh trở lại và bày tỏ cũng một ước muốn. Vị linh đạo vẫn mỉm cười tiếp tục giữ sự im lặng cố hữu của ông.

Một ngày đẹp trời nọ, ông đưa người thanh niên đến một dòng sông. Thầy trò cùng trầm mình xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng nước mát, bất thần, vị linh đạo túm lấy anh và dìm xuống nước hồi lâu. Người thanh niên cố gắng vùng vẫy đế trồi lên mặt nước. Lúc bấy giờ vị linh đạo mới hỏi anh: “Khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?" Không một chút suy nghĩ, người đệ tử đáp: “Thưa thầy, con cần có không khí để thở.”"

Lúc bấy giờ vị linh đạo mới dẫn giải: “Con cảm thấy cần gặp Chúa như con cần khí thở không? Nếu con cảm thấy cần như thế, con sẽ gặp được Ngài tức khắc. Ngược lại, nếu con không hề cảm thấy cần như thế thì cho dù con có vận dụng tất cả tài trí và cố gắng, con cũng sẽ không bao giờ gặp được Ngài."

8. Lễ Hiện Xuống mới

Ngày 28 tháng 10 năm 1958, Đức hồng y Angelo Giuseppe Rollcali lên ngôi giáo hoàng lấy tước hiệu Gioan 23. Một ông lão không tiếng tăm lên lãnh đạo Giáo hội, nhiều người nghĩ rằng sẽ chẳng có gì mới với một ông lão gần đất xa trời. Thế nhưng, ông lão này đã làm nên một kỳ diệu được coi là lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống lần thứ hai khi Ngài triệu tập công đồng Vaticano II để canh tân Giáo Hội. Thiên Chúa vẫn tiếp tục làm những việc kỳ diệu cho dân Người. Chúng ta hãy hân hoan bước đi trong niềm tín thác vào Chúa. Và với lòng cậy trông chúng ta cùng thưa lên cùng Chúa Thánh Thần: "Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến thánh hoá chúng con trong chân lý và tình thương." Amen.

9. Tháp Babel.

Bấy giờ thiên hạ chỉ nói một thứ tiếng, sau khi định cư tại đồng bằng Senna, họ bàn luận với nhau: Ta hãy nung gạch và xây một ngọn tháp chọc trời, trước khi phân tán tới mọi miền trên mặt đất.

Trước ý định đầy kiêu căng và ngông cuồng đó, Thiên Chúa đã khiến tiếng nói của họ trở nên lộn xộn, người này không còn hiểu được người kia. Thế là họ đành phải ngưng việc xây tháp và ra đi mỗi người một ngả.

Hình ảnh tháp Babel mượn từ các tháp Ziggurat miền Lưỡng Hà: tháp vuông, nhiều tầng, càng cao tầng nhỏ lại. Những tháp này xây trong khu vực đền thờ với mục đích tôn giáo là để bắt liên lạc với thần trên cao bằng dâng lễ vật và làm bệ để thần lên xuống với con người. Ngày nay còn có nhiều di tích về các tháp này. Tác giả Thánh kinh mượn hình ảnh các tháp Ziggurat để cắt nghĩa tại sao loài người lại chia rẽ và phân tán, từ đó dạy bài học tôn giáo. Babel bởi động từ balal (làm cho lộn xộn). Tác giả dùng hình ảnh xây tháp Babel để chỉ tội cộng đồng của con người, muốn dựa vào sức lực và tài năng của mình để chống lại Chúa, gạt bỏ Chúa mà tự quyết định cho mình. Trong Cựu ước, Babel là kinh đô của một đế quốc hùng mạnh tượng trưng cho sự kiêu căng.

10. Ngôn ngữ của tình yêu

Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt chia sẽ câu chuyện thật cảm động: Thỉnh thoảng tôi có dịp gặp một ông trùm xứ Long Châu. Long Châu là một giáo xứ thuộc giáo phận Nam ninh. Trước đây, chỉ có gia đình ông tin Chúa. Gia đình ông tích cực rao giảng Lời Chúa. Kết quả là sau 20 năm hầu như cả làng gần 500 khẩu đã tin theo Chúa. Cứ mỗi dịp lễ Phục Sinh và Giáng Sinh có khoảng 20 người xin rửa tội. Tôi hỏi ông nhờ bí quyết nào mà việc truyền giáo của ông có kết quả tốt đẹp như thế. Ngẫm nghĩ một lát, ông trả lời: “Nhờ đời sống gia đình." Bên Trung quốc, đời sống gia đình trong thời đại mới đang gặp khủng hoảng. Vợ chồng bất hoà với nhau. Con cái không vâng lời cha mẹ, có khi còn hành hung cả cha mẹ. Số gia đình tan vỡ ngày càng tăng lên. Trong khi đó gia đình ông trùm vẫn trên thuận dưới hoà, vợ chồng thương yêu kính trọng nhau, con cái vâng lời cha mẹ, anh chị em thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Thấy thế, người trong làng bảo nhau: “Đây là đạo tốt vì có thể gìn giữ được hạnh phúc gia đình." Nhờ tấm gương sống đạo của gia đình ông trùm mà mọi người trong làng tin theo Chúa. Những anh em ngoài Công giáo cũng nhìn vào đời sống của chúng ta. Nếu người Công giáo thật sự sống tốt thì không cần rao giảng mọi người cũng tin. Đời sống công bình bác ái, khiêm nhường nhịn nhục, đoàn kết yêu thương có sức thuyết phục hơn tất cả mọi lời nói hay đẹp.

Trong đời sống gia đình cũng như trong sinh hoạt xã hội, đừng nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ của hận thù, hiềm khích. Đừng nói với nhau bằng ngôn ngữ của chia rẽ, nghi kị. Hãy nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ của tình yêu, ngôn ngữ của Chúa Thánh Thần. Vì ngôn ngữ của tình yêu chính là ngôn ngữ tạo được sự cảm thông và bất cứ ai cũng có thể hiểu được.

11. Đinh tặc

Ai đã từng đi xa lộ thì đều kinh hoàng với tệ nạn đinh tặc.

Có gia đình bà Nguyễn Thị Chí ở khu phố 3, phường Tân Chánh Hiệp, quận 12, gia đình ấy có bảy mẹ con kể cả 3 người con dâu, chẳng ai bảo ai đã đi chế cái máy thu đinh của bọn đinh tặc rải. Họ cứ lặng lẽ đi thu đinh ở quốc lộ 1A, 52, 22... Công việc của họ dưới cái nhãn giới bình thường thì chẳng là cái gì cả nhưng nhìn vào chiều sâu, nhìn bên dưới cái hành động đấy quả là một hành động phi thường. Một hành động mà trong đó chất chứa quá lớn cái tình người, cái tình yêu đồng loại. Vì lẽ họ biết rằng nếu họ không dọn đinh thì những người khách đi ngang qua đó chẳng may cán vào thì tai nạn sẽ kinh khủng như thế nào và hậu quả khó mà lường được.

Gia đình đi nhặt đinh này không có đạo, không biết Chúa Thánh Thần là ai nhưng Chúa Thánh Thần biết họ. Chúa Thánh Thần đã đến và Ngài ở lại trong họ, Ngài đốt lên trong lòng họ một ngọn lửa, thắp lên trong họ một tình yêu khiến họ quên mình để giúp anh chị em đồng loại.

12. Thần Khí đổi mới--‘Niềm Vui Chia Sẻ’

Tại một giáo xứ ở miền Sicilia, thuộc miền Nam nước Ý, có một tập tục khá ngộ nghĩnh và lý thú. Mỗi năm vào dịp lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, sau bài Tin Mừng, cha xứ ra lệnh thả ra trong nhà thờ một con chim bồ câu tượng trưng cho Chúa Thánh Thần. Khi con chim câu nầy đậu xuống trên vai hay đầu ai thì người ấy không được tránh né hoặc đuổi đi, nhưng phải quyết tâm thực hiện một công tác cụ thể, to hoặc nhỏ tùy theo khả năng của mình, để chứng tỏ rằng mình làm công việc ấy là do sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.

Lịch sử giáo xứ ấy có ghi lại một số sự kiện điển hình như sau:

- Một lần chim câu đã đậu xuống trên vai ông hiệu trưởng. Kết quả là ông đã quyết tâm thực hiện một cuốn sách giáo khoa rất có giá trị.

- Lần khác, chim câu đáp xuống trên đầu một công tước vùng ấy, khiến ông ta phải ra tay nghĩa hiệp, bỏ tiền xây một hệ thống dẫn nước được đặt tên là “hệ thống dẫn nước Chúa Thánh Thần."

- Có một linh mục trẻ được chỉ định đến thay thế cho cha xứ già đã đến tuổi hưu. Dù không tán thành nhưng cũng chưa dứt khoát bỏ đi tập tục đã thành truyền thống kia. Vào dịp lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống đầu tiên của ngài ở xứ mới, vị linh mục trẻ vẫn cho giữ thông lệ thả chim câu, nhưng ra lệnh mở hết tất cả các cửa chính và cửa sổ với hy vọng là chú chim câu sẽ bay ra ngoài để tung cánh trong bầu trời cao rộng. Trớ trêu thay, sau khi bay lượn vài vòng từ đầu này đến đầu kia của nhà thờ, chim câu đã đáp xuống vai phải của cha xứ mới trong tiếng vỗ tay vang dội của giáo dân. Phải hứa làm gì cụ thể bây giờ đây? Cha xứ mới chỉ tuyên bố là ngài sẽ đầu tư mọi khả năng và thời giờ để phục vụ tốt cộng đoàn giáo xứ. Và ngài đã giữ lời hứa.

13. Ấn tòa giải tội

Một điều luôn gắn liền với Bí tích Giải tội là "ấn tòa" mà tất cả mọi linh mục phải tuân giữ. Không một điều gì nghe trong toà mà cha giải tội lại được phép nói ra cho người thứ ba, dù tính mạng của mình bị đe dọa hay an ninh quốc gia được bảo toàn.

Lịch sử Giáo hội ghi nhận biết bao hình ảnh hào hùng của những con người dám lấy máu đào bảo vệ đức tin, trong đó cũng có hình ảnh của những linh mục dám lấy mạng sống bảo vệ "ấn tòa giải tội."

Cha Gioan Nepomucene là mẫu gương tiêu biểu trong thế kỷ 14. Ngài là cha giải tội của Hoàng hậu Jane, nước Bohemia. Vua Wenceslaus là người đa nghi và ghen tuông. Vì muốn biết Hoàng hậu đã làm điều chi thầm lén nên vua yêu cầu cha Gioan thuật lại những gì nàng xưng ra với Ngài.

Tưởng rằng quyền lực và uy thế của mình có thể khui được ít nhiều bí mật nơi miệng cha Gioan, nhưng vua đã lầm. Vị linh mục của Chúa nhất quyết không hé lộ bất cứ điều gì. Kết quả, ngài bị nhốt vào hầm tối, và một đêm kia, bị nhận nước cho đến chết.

Ba trăm năm sau, khi khai quật lăng mộ cha Gioan, những người hữu trách ngỡ ngàng chứng kiến thân thể ngài mục hoàn toàn, ngoại trừ chiếc lưỡi vẫn nguyên vẹn như lúc còn sống. Ngày nay, trên chỗ ngài bị giết người ta dựng lên một tượng đài, phía dưới chân có khắc dòng chữ: "Nơi đây vị chứng nhân của Ấn toà Giải tội đã nằm xuống."

14. Bình an giữa chốn phong ba--‘Như Thầy Đã Yêu”--Thiên Phúc

Báo Tuổi Trẻ Chúa nhật số ra ngày 29-4-2001 có đăng bài “sự bình an” như sau: Một vị vua treo giải thưởng cho nghệ sĩ nào vẽ được một bức tranh đẹp nhất về sự bình an. Nhiều họa sĩ đã cố công. Nhà vua ngắm tất cả các bức tranh nhưng chỉ thích có hai bức và ông phải chọn lấy một.

Một bức tranh vẽ hồ nước yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ vì có những ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây trắng mịn màng. Tất cả những ai ngắm bức tranh này đều cho rằng đây là một bức tranh bình an thật hoàn hảo.

Bức tranh kia cũng có những ngọn núi nhưng những ngọn núi này trần trụi và lởm chởm đá. Ở bên trên là bầu trời giận dữ đổ mưa như trút kèm theo sấm chớp. Đổ xuống bên vách núi là dòng thác nổi bọt trắng xóa. Bức tranh này trông thật chẳng bình an chút nào.

Nhưng khi nhà vua ngắm nhìn, ông thấy đằng sau dòng thác là một bụi cây nhỏ mọc lên từ khe nứt của một tảng đá. Trong bụi cây một con chim mẹ đang xây tổ. Ở đó, giữa dòng thác trút xuống một cách giận dữ, con chim mẹ đang an nhiên đậu trên tổ của mình. Bình an thật sự.

Nhà vua công bố: “Ta chấm bức tranh này! Sự bình an không có nghĩa là một nơi không có tiếng ồn ào, không khó khăn, không cự nhọc. Bình an có nghĩa ngay chính khi đang ở trong phong ba bão táp ta vẫn cảm thấy sự yên tĩnh trong trái tim. Đó mới chính là ý nghĩa thật sự của bình an.

15. Chứng tá cho tình yêu

Sống chứng tá cho Tin Mừng là sống bác ái yêu thương; sống bao dung tha thứ; sống quảng đại hi sinh….

Có câu chuyện kể rằng: hai người Ailen là hàng xóm với nhau, nhưng cãi nhau suốt. Một người bị bệnh nặng. Bà vợ đón linh mục và nói: “Thưa cha, anh Pat và Mike cãi nhau luôn. Giờ anh gần chết. Cha có cách nào giúp họ làm hòa với nhau không?”

Sau nhiều lần thuyết phục, Pat đồng ý cho gọi Mike đến làm hòa. Và sau ít phút chờ đợi bên giường, Mike nói:

- “Thôi mình huề nghe Pat. Chuyện gì đã qua cho qua đi nhé."

Pat miễn cưỡng đồng ý. Mike ra về. Nhưng khi Mike ra đến cửa, Pat nhỏm dậy, giơ nắm đấm nói:

- “Tao chỉ huề, nếu như tao chết thôi à nghe!”

Mừng Lễ Chúa Thánh Thần, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta vai trò quan trọng của Chúa Thánh Thần trong đời sống đạo của mình. Vậy chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần đến biến đổi trái tim chúng ta để luôn biết yêu thương, và hãy cùng cộng tác với Chúa Thánh Thần để đổi mới cuộc sống của mình, nhờ đó cuộc đời chúng ta trở thành chứng nhân cho tình yêu Thiên Chúa. Amen.

16. Ngôn ngữ tình yêu.

Tôi xin bắt đầu phần chia sẻ sáng hôm nay bằng câu chuyện về ngọn tháp Babel trong Cựu ước.

Bấy giờ thiên hạ chỉ nói một thứ tiếng, sau khi định cư tại đồng bằng Senna, họ bàn luận với nhau:

- Ta hãy nung gạch và xây một ngọn tháp chọc trời, trước khi phân tán tới mọi miền trên mặt đất.

Trước ý định đầy kiêu căng và ngông cuồng này, Thiên Chúa đã khiến tiếng nói của họ trở nên lộn xộn, người này không còn hiểu được người kia. Thế là họ đành phải ngưng việc xây tháp và ra đi mỗi người một ngả.

Đây chỉ là một hình ảnh tượng trưng nói lên tính kiêu căng và tình trạng chia rẽ của con người.

Thế nhưng, nhìn vào ngày lễ hôm nay, chúng ta thấy khác hẳn. Thực vậy, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, một tình trạng mới đã được nảy sinh.

Sách Tông đồ Công vụ kể lại:

Bấy giờ các môn đệ đang tụ họp ở một nơi, bỗng dưng có tiếng từ trời đến, ào ào như gió thổi, ùa vào nhà nơi các ông đang hội. Lại thấy có hình lưỡi lửa tản ra và đỗ trên từng người. Tất cả đều được đầy tràn Chúa Thánh Thần và bắt đầu nói được nhiều thứ tiếng khác nhau.

Trong thời gian lễ Ngũ tuần, có nhiều người Do thái từ khắp các nơi trở về Giêrusalem. Nghe tiếng ồn, họ liền tuốn đến. Và ai nấy đều bỡ ngỡ vì mỗi người đều nghe các tông đồ nói tiếng của mình.

Họ ngạc nhên và bàn tán cùng nhau:

- Phải chăng chúng ta đều nghe họ dùng tiếng thổ âm của mình mà nói đến những sự cao trọng của Thiên Chúa.

Đây chính là một cuộc tụ họp đông đảo kể từ thời ngọn tháp Babel, trong đó mọi người đều hiểu được nhau và cảm thông với nhau. Sở dĩ như vậy là do tác động của Chúa Thánh Thần.

Qua hình ảnh lưỡi lửa và ơn nói nhiều thứ tiếng nơi các tông đồ, tôi nhận thấy ngôn ngữ Chúa Thánh Thần đã dùng để liên kết và tạo lấy sự cảm thông chính là thứ ngôn ngữ của tình yêu.

17. Mục đích cuộc sống của người là gì? Ý nghĩa cuộc sống của người là gì?

Có một nhà hiền triết nọ cũng đã suy tư như thế. Hôm đó, ông đi lang thang trong rừng, miệng không ngừng lặp lại câu hỏi: Đâu là ý nghĩa của cuộc sống? Bỗng một con họa mi bay đến và nói: Ý nghĩa cuộc sống ư? Chỉ là tiếng hót véo von. Rồi nó bay đi nhưng vẫn còn vương lại những âm thanh dễ mến. Nghe vậy, chú chuột chù phản đối: Đời là một cuộc chiến đấu không ngừng với bóng tối.

Thế nhưng chị bướm lại lắc đầu không chịu: Cuộc sống chỉ là hưởng thụ và vui thú. Bấy giờ bác ong mật phát biểu: Cuộc sống không chỉ là vui thú, mà còn là lao động, lao động nhiều hơn vui chơi. Cô phượng hoàng thì vỗ cánh và nói: Chẳng ai có lý hết, đời sống chính là tự do, được tung bay trên khắp khoảng trời xanh. Cụ tùng bách thì lắc đầu và bảo: Đời sống là một cố gắng để vươn cao. Nhưng cô hồng nhung lại quả quyết: Cuộc đời chỉ là những tháng ngày trau chuốt cho vẻ đẹp được thêm duyên dáng. Còn chàng mây lang thang lại thở dài: Đời sống chỉ là những lần chia ly, khổ đau, cay đắng và nước mắt. Còn bà sóng thần thì bảo: Đời là một sự đổi thay không ngừng.

Nhà hiền triết hốt hoảng và chạy trốn khỏi khu rừng để không còn nghe tiếng nói của muôn loài trước một vấn nạn chưa được giải quyết.

Còn chúng ta thì sao? Rất có thể chúng ta cũng đã băn khoăn như nhà hiền triết, để rồi cảm thấy như bế tắc, không tìm ra đáp số cho bài toán.

Thế nhưng với biến cố Hiện xuống, các môn đệ đã nhìn rõ vấn đề, đã thấu suốt được những chân lý mà Chúa Giêsu đã truyền dạy. Với ơn Chúa Thánh Thần chúng ta cũng sẽ nếm thử được niềm an bình và nỗi mừng vui, bởi vì chúng ta xác tín rằng: quê hương chúng ta không phải ở mặt đất này, nhưng là ở chốn trời cao.

LỄ ĐỨC MẸ ĐI VIẾNG - NHẬN RA DẤU CHỈ CỦA CHÚA

Lời Chúa: Lc 1, 39-56

Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Giacaria và chào bà Elisabeth. Và khi bà Elisabeth nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Elisabeth được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng:

"Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này tai tôi vừa nghe lời Bà chào, thì hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện."

Và Maria nói: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa. Này từ nay muôn thế hệ sẽ khen rằng tôi có phước, vì Đấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại và Danh Ngài là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những người kính sợ Chúa.

"Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai thần trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không. Chúa đã săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi người đến muôn đời."

Maria ở lại với bà Elisabeth độ ba tháng, đoạn Người trở về nhà mình.

TRUYỆN KỂ

1. Mẹ dạy con

Một bà mẹ đi chợ, một tay xách giỏ, một tay ẵm đứa con nhỏ. Ở một góc chợ, có một bà lão ăn mày, hai tay giơ lên, miệng nài khẩn kẻ qua người lại. Bà mẹ bồng con đứng lại, rút ở giỏ ra chiếc bánh và ít tiền. Bà không đưa trực tiếp cho bà ăn mày. Nhưng trao cho đứa con đang bồng trên tay. Bà ngồi xuống, bảo con đưa bánh và tiền cho bà lão ăn mày. Đứa bé vâng lời thực hiện từng chi tiết mẹ dạy. Làm xong, đứa bé tỏ vẻ vui mừng hớn hở. Nó làm thay cho mẹ nó.

Bà mẹ đó đã nói với tôi: Bé của con làm thay cho con. Nhưng con cũng làm thay cho Đức Mẹ. Lời đơn sơ đó đủ nói cho tôi sứ mạng mà Mẹ Maria đang trao cho con cái Mẹ trong cuộc sống hôm nay. “Hãy thay Mẹ đi thăm viếng những người khốn khó." Việc thăm viếng này có thể thực hiện được bằng nhiều cách. Yếu tố quan trọng nhất của mọi cách thăm viếng theo gương Mẹ là tấm lòng tế nhị, nhạy bén và thương cảm trong Chúa Giêsu.

2. Mẹ nghèo mà diễm phúc

Nhà vua bị bệnh nặng. Quan ngự y lo lắng, nhưng đành bó tay. Một nhà chiêm tinh đến bảo vua chỉ khỏi bệnh khi nào được mặc chiếc áo của một người hạnh phúc nhất.

Quan quân đổ xô đi khắp nước để tìm người hạnh phúc nhất. Cuối cùng thì họ cũng tìm được một người hạnh phúc thực sự. Nhưng khổ thay, người ấy quá nghèo, chẳng có lấy một chiếc áo! (Góp nhặt)

3. Lòng bác ái của bác sĩ Longet

Bác sĩ Longet là một người Pháp, đã từng phục vụ ở Việt Nam cách đây mấy mươi năm và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tom Dooley, người Mỹ đã phục vụ ở Đông Nam Á. Ông tận tụy săn sóc các bệnh nhân bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày lẫn đêm.

Được hỏi tại sao ông quý mến bệnh nhân như thế?

Bác sĩ Longet đáp:

- Vì tôi thấy Chúa Giêsu trong mỗi bệnh nhân.

Chính vì thế, mỗi sáng khi đi dự thánh lễ; bệnh nhân lương hay giáo, ai muốn đi ông đều chở trên xe; mỗi chiều Chúa nhật, ông lại chở các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này nơi nọ. Và mỗi tối ông lần hạt chung với người Công giáo. Ít lâu sau, ông Longet trở về nước Pháp, vào chủng viện dâng mình làm linh mục và tình nguyện sang phục vụ những người nghèo ở Giáo phận Cần Thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức xong, ông lâm trọng bệnh và qua đời trước khi tới nơi hằng mong ước.

4. Thắp sáng ngọn đèn cũ

Mẹ Têrêsa thành Calcutta đã thuật lại một câu chuyện sau nhân dịp một đài truyền hình phỏng vấn Mẹ.

Mẹ nói: Một lần khi khi còn ở Úc tôi có đến thăm một người thuộc thổ dân Aborigine. Ông cụ sống trong cảnh cô độc thật thảm thương. Ông sống trong một túp lều xiêu vẹo với tuổi đã già nua của mình. Khởi đầu câu chuyện cho lần gặp đầu tiên, tôi đã đề nghị:

- Để tôi dọn dẹp nhà và sửa soạn giường ngủ cho ông.

Ông ta trả lời hững hờ:

- Tôi đã quen sống như vậy rồi.

- Nhưng ông sẽ cảm thấy dễ chịu hơn với căn nhà sạch sẽ và ngăn nắp.

Sau cùng ông ta bằng lòng để tôi dọn dẹp lại nhà cửa cho ông. Trong khi quét dọn tôi thấy một cái đèn cũ đẹp nhưng phủ đầy bụi bặm và bồ hóng. Tôi hỏi ông:

- Có bao giờ ông thắp đèn này chưa?

Ông la trả lời cộc lốc:

- Nhưng thắp đèn để cho ai? Có ai bước chân vào nhà này bao giờ đâu? Tôi sống ở đây đã từ lâu không hề trông thấy mặt người nào cả.

Tôi hỏi ông:

- Nếu như có người tình nguyện đến thăm ông thường xuyên, ông có vui lòng thắp đèn lên không?

- Dĩ nhiên.

Từ ngày đó, các nữ tu quyết định mỗi chiều sẽ ghé qua nhà ông. Ông ta bắt đầu thắp đèn và dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ hơn. Ông còn sống thêm hai năm nữa. Trước khi qua đời ông nhờ các nữ tu ghé thăm nhắn tin giúp ông:

- Xin nhắn với mẹ Têrêsa, bạn tôi, rằng ngọn đèn mà mẹ thắp lên trong đời tôi vẫn còn chiếu sáng.

Đó chỉ là một việc nhó mọn, nhưng trong bóng tối cô đơn của đời tôi, một tia sáng đã thắp lên và vẫn còn tiếp tục chiếu sáng mãi.

Vâng! Đúng là một cuộc viếng thăm thật tuyệt vời.

Ngọn đèn cũ không được thắp sẽ trở nên vô dụng và quên lãng nơi một xó xỉnh nào đấy, nhưng khi được châm vào một chút dầu tình yêu và sự bao dung thì nó đem đến sự sáng và sưởi ấm lòng người. Giờ đây, con người dù phải sống cô độc nhưng không còn cô đơn nữa vì bóng tối đã bị đẩy lui và nhường bước cho tình yêu và lòng bao dung của những đốm sáng nhỏ nơi con người, nơi nhân loại.

5. Washington thăm mẹ

George Washington, một trong những nhà anh hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, thường được đề cao như một người con chí hiếu đối với mẹ mình.

Sau những trận chiến cam go nhất, giữa những công việc nặng nề của một nguyên thủ quốc gia, ông thường về nhà thăm viếng và trò chuyện lâu giờ với người mẹ già.

Một hôm, ngạc nhiên về sự gắn bó của ông đối với mình, mẹ đã đặt câu hỏi như sau: "Tại sao con lại chịu khó mất hằng giờ như vậy để ngồi bên cạnh mẹ?"

Vị tổng thống của nước Mỹ đã trả lời như sau: "Thưa mẹ, ngồi bên cạnh mẹ để lắng nghe mẹ nói, không phải là một việc mất giờ. Bởi vì, sự thanh thản và lòng tốt của mẹ dạy con còn muốn tiếp tục sống."

Hôm nay, Giáo Hội mừng lễ Mẹ đi viếng bà thánh Isave. Giáo Hội đặt lễ này vào cuối tháng năm như cao điểm của tháng hoa.

Sự vội vã lên đường của Mẹ Maria để đi thăm người chị họ cưu mang trong lúc tuổi già là biến cố khai mạc sứ mệnh của Mẹ: đó là sứ mệnh của một người Mẹ luôn có mặt để phù trợ con người. Sự hiện diện ấy đã củng cố niềm tin của bà Isave. Sự hiện diện ấy đã đem lại niềm an ủi vô bờ cho Gioan Tẩy giả.

Bên cạnh Chúa Giêsu, từ việc cưới Cana cho đến dưới chân thập giá, và những ngày đầu của Giáo Hội, Mẹ luôn có mặt để nâng đỡ, để ủi an, để củng cố niềm tin của mọi người.

Một cách âm thầm nhưng vô cùng gần gũi, ngày nay lúc nào Mẹ cũng có mặt trong Giáo Hội và trong từng phút giây của cuộc sống chúng ta.

6. Đức Maria thăm viếng.

Ngày lễ này đã được Đức Urban VI thiết lập vào năm 1389, vào khoảng thời gian giữa lễ Truyền Tin và lễ sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả, phù hợp với những chi tiết Phúc Âm. Ngày lễ hôm nay ghi nhớ việc Đức Mẹ đi thăm bà chị họ Elizabeth, lúc ấy đã cao niên và đang có thai. Mẹ đến để chia sẻ niềm vui về những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện nơi hai chị em. Ngày lễ này - nhằm ngày kết thúc tháng Năm kính Mẹ – cho chúng ta thấy tinh thần chiêm niệm, sự phục vụ, và đức khiêm nhượng thẳm sâu của Mẹ, dạy chúng ta biết mỗi khi đi đâu, chúng ta cũng phải theo gương Mẹ Maria, trở nên một nguồn vui cho toàn thể nhân loại.

Phục vụ vui tươi.

Hãy đến mà nghe, hỡi tất cả các bạn là những người kính sợ Chúa, tôi sẽ kể cho các bạn những điều Người đã làm cho tôi.1 Đó là những lời trong Ca Nhập Lễ hôm nay.

Ngay sau ngày Truyền Tin, Đức Maria lập tức đi thăm bà Elizabeth tại miền đồi núi xứ Giuđêa, cách Nazareth chừng bốn năm ngày đàng. Thánh Luca viết: “Trong những ngày ấy, Maria vội vã ra đi lên miền đồi núi, đến một thành xứ Giuđêa." Sau khi được sứ thần cho biết về việc bà Elizabeth có thai, Đức Trinh Nữ đã vội vàng ra đi để phụ giúp những công việc cho bà chị họ. Không ai buộc Mẹ phải đi: Thiên Chúa, qua sứ thần, cũng không đòi Mẹ phải làm như thế, và cả bà Elizabeth. Đức Maria có thể ở nhà để bắt đầu chuẩn bị cho Con Mẹ, Đấng Cứu Độ, sắp chào đời; nhưng Mẹ đã hân hoan, vội vã lên đường để đến giúp đỡ bà Elizabeth.

7. Lời các thánh

- Thánh Ambrosiô: Mẹ lên đường không phải vì không tin lời sứ thần báo cho Mẹ, mà vì hối hả ước ao làm ơn cho gia đình bà chị. Sung sướng vì được làm cho người khác sung sướng, và tận lực thi hành đức ái.

- Thánh Augustinô: Qua Mẹ, tình thương đổ xuống người cơ khổ, ân sủng đổ xuống những kẻ vô ơn, và ơn tha thứ được ban phát cho những người tội lỗi.

- Thánh Phêrô Kim Ngôn: Mẹ Thiên Chúa đã khám phá ra ân sủng, để cung cấp ơn cứu độ cho nhân loại. Mẹ phát sinh ơn sủng. Đó là một ân sủng dư dật để độ phúc cho mỗi người chúng ta, để trào đổ dạt dào sóng dư ân sủng đó xuống mọi thụ tạo.

- Thánh Ilđêphong: Lạy Mẹ, trong hết mọi ân sủng Chúa đã định ban cho loài người, không có ơn nào mà Chúa không muốn đổ xuống qua tay Mẹ, vì Chúa đã ký thác cho Mẹ hết báu tàng, hết mọi phú quí về ơn sủng Người ban.

- Thánh Germanô: Ôi Maria, không ai được cứu độ nếu không nhờ Mẹ; không ai được hưởng ơn trời nào nếu không có Mẹ.

- Thánh Đamascenô: Mẹ là Thánh đô rộng mở đón tiếp hết những ai cầu xin Mẹ. Hỡi các con Mẹ hãy đến mà lãnh nhận tràn đầy ơn sủng vượt trên mọi khát vọng của các con.

- Lạy Mẹ Chí Thánh Thiên Chúa, xin mở tình thương cho chúng con, vì Mẹ là ơn độ phúc của cả nhân loại.

- Thánh Đamianô: Mẹ là kho báu chứa gồm hết mọi thánh ân. Lạy Mẹ là hy vọng của chúng con, chúng con biết hết mọi báu tàng tình thương của Chúa đều ở trong tay Mẹ.

- Thánh Bênađô: Chúa đã tàng trữ nơi Mẹ Maria toàn thể mọi ơn sung mãn, nên chúng ta có được hy vọng nào, ân sủng nào, ơn cứu độ nào là đều lãnh nhận từ tay Mẹ.

- Chúng ta hãy đi tìm ân sủng, và hãy nhờ Mẹ mà tìm. Cứ xin điều gì là Mẹ được điều ấy. Không bao giờ Mẹ có thể bị từ chối.

- Mẹ Maria được tặng ban cho thế giới di chuyển tình thương để qua Mẹ các ân sủng được liên tiếp trao ban từ trời cao xuống cho nhân loại.

- Thánh Albertô: Mẹ là Đấng quản thủ kho báu của Chúa Giêsu.

- Thánh Bonaventura: Mẹ gồm chứa báu tàng của Thiên Chúa là Chúa Giêsu và cùng với Chúa gồm chứa nguyên ủy và nguồn mạch hết mọi ân sủng.

- Lý do nào đã thúc đẩy Mẹ hối hả đi thăm nhà Gioan Tẩy giả nếu không phải là đức ái thiêu đốt tâm hồn Mẹ.

- Lời của Mẹ có mãnh lực lớn lao biết bao, vì Mẹ vừa mới nói, Chúa Thánh Thần liền xuống đầy lòng bà Elizabeth.

- Thánh Bênađinô: Khi Đức Trinh Nữ chào bà Elizabeth, lời chào vào tai bà rồi xuống thai nhi, và vì thế, thai nhi nhận được Chúa Thánh Thần.

- Từ lúc trở nên Mẹ Chúa Cứu Thế, Đức Nữ Trinh uy linh đã được quyền tài phán đối với hết các cuộc nhiệm sinh của Chúa Thánh Thần, đến nỗi không ai được Chúa ban một ơn nào mà không qua trung gian nhân từ hiền ái của Mẹ.

- Thánh Laurensô Brinđisi: Được đầy Thánh Thần bà Elizabeth do Chúa thúc đẩy đã thấy và nói những việc đã qua hiện tại và tương lai. Bà biết phẩm chức vô biên, vinh quang hiện tại và tương lai của Đức Trinh Nữ Maria rất thánh đức và khiêm hạ.

- Thánh Anphong: Vừa đặt chân vào nhà Gioan Tẩy giả Mẹ Maria đã rộng ban cho gia đình ông nào là ân trạch trời cao, nào là hồng ân thiên quốc. Do đó, ngày Lễ Mẹ Thăm Viếng thường được gọi là Lễ Mẹ ban ân sủng.

8. Giáo huấn của giáo hội

- Đức Phaolô VI: Lễ Thăm viếng nhắc nhớ việc Rất Thánh Trinh Nữ Maria đang cưu mang Con Mẹ đi viếng thăm, giúp đỡ bà Elizabeth, và công bố lòng xót thương của Thiên Chúa cứu chuộc.

- Đức Gioan Phaolô II

1. Mẹ Maria hiện diện một cách linh thiêng giữa chúng ta. Chúng ta chiêm ngưỡng Mẹ với cùng một cặp mắt mà bà Elizabeth đã nhìn xem Mẹ khi Mẹ vội vã tới viếng thăm bà, và nghe lời Mẹ chào bà thì bà nói: "Ngay lúc tiếng em chào vừa đến tai chị, thì hài nhi trong dạ chị liền nhảy mừng" (Lc 1:44). Niềm vui bà Elizabeth cảm thấy nêu bật ân huệ có thể ẩn chứa trong lời chào mừng, khi lời chào đó do một tấm lòng tràn đầy Thiên Chúa. Những bóng tối của tình trạng cô độc đè nén một tâm hồn, thường có thể bị tia sáng một nụ cười và một lời nói âu yếm phá tan.

2. Đáp lại lời chào mừng của Đức Trinh Nữ, bà Elizabeth nói: "Phúc cho em là người đã tin mọi điều Chúa phán truyền cho em sẽ được ứng nghiệm" (Lc 1:45). Những lời này được nói ra do Chúa Thánh Linh và đề cao nhân đức cốt yếu của Mẹ Maria là "đức tin." Các Giáo phụ của Giáo hội đã nhiều ý nghĩa của nhân đức này trong cuộc sống của Đức Trinh Nữ. Các ngài không ngần ngại diễn tả những bình luận có thể làm chúng ta ngạc nhiên. Như Thánh Augustinô nói: "Tính cách người mẹ của Đức Trinh Nữ không ích chi cho Người, nếu Người không cưu mang Chúa Kitô trong tâm lòng hơn là trong cung dạ."

- Nhờ đức tin của Mẹ, Mẹ Maria có thể không sợ hãi tới gần vực thẳm chủ định cứu độ khôn dò của Thiên Chúa: Không dễ gì tin rằng Thiên Chúa muốn "mặc xác phàm và đến ở giữa chúng ta" (Ga 1:14). Người muốn ẩn mình trong đời sống thường ngày vô nghĩa của chúng ta, và mặc lấy nhân tính yếu hèn phải chịu nhiều điều kiện mất thể diện. Mẹ Maria đã dám tin dự án "bất khả hữu = impossible" này. Mẹ tin cậy vào Đấng toàn năng và trở thành người cộng tác vào sáng kiến lạ lùng của Thiên Chúa đã mở ra niềm hy vọng cho lịch sử chúng ta.

Người tín hữu cũng được mời gọi vào thái độ đức tin giống như thế. Đức tin lôi kéo họ can trường nhìn qua bên kia những khả năng và giới hạn những biến cố hoàn toàn nhân loại.

- Công đồng Vatican II

Sự liên kết giữa Mẹ và Con trong công cuộc Cứu rỗi được tỏ rõ khi Đức Maria thụ thai Chúa Kitô cách trinh khiết cho đến lúc Chúa Kitô chết. Thực vậy, trước hết, Đức Maria đã vội vã đến thăm bà Elizabeth, và được bà ấy chào mừng là người có phúc, vì đã tin vào sự Cứu rỗi Chúa đã hứa, và vị Tiền hô nhảy mừng trong lòng mẹ.

9. Đến với tha nhân

Vào một buổi chiều hôm đó trong nhà thờ, đầy nghẹt những người cùi hủi. Đức cha Maigret đứng bên bàn thờ quay xuống hỏi họ:

Các con thân mến, các con hằng mong ước có một linh mục đến ở cùng và phục vụ các con. Thì đây tôi xin giới thiệu: cha Đamien (Joseph Damien de Veuster 1840-1889 người Bỉ. Ngài đã đến và sẽ ở lại để chăm sóc, phục vụ và chia sẻ với các con từ nay cho đến chết. Các con có vui mừng không?

Cả nhà thờ xôn xao, thì thầm to nhỏ. Cha Đamien đứng bên cạnh Đức giám mục mà chẳng hiểu tí gì! Rồi họ từ từ tiến lên cung thánh, họ đến bên cha, sờ vào mặt, vào tay và vào áo cha…Cha hỏi Đức giám mục: Họ làm gì vậy? Đức cha giải thích: Họ nói họ không thể tưởng tượng được một người từ nơi phương xa, chẳng có bà con huyết thống gì với họ, còn trẻ và lại đẹp trai nữa, không bệnh tật gì mà tự nguyện đến phục vụ họ trên mảnh đất khốn cùng này. Họ không tin vào mắt mình nên họ mới xúm lại sờ mó vào người cha xem thử cha có thực sự bị bệnh phong cùi như họ không? Rồi họ nói với nhau rằng: “Không, cha không bệnh tật gì và cha đẹp trai quá!"

Vào năm 1873, cha Đamien đã tự tình nguyện ra đảo Molokai, nơi mà chính quyền Hawaii thời đó “thu gom” những người bất hạnh bị bệnh cùi hủi ra sống ở đảo nhằm cách ly, tránh sự lây lan cho xã hội. Vì thế họ bị bỏ mặc, sống lạc loài và cô đơn trên đảo, không nhận được bất cứ một sự chăm sóc nào về thể xác cũng như tâm linh!

Cha Đamien đã đến và biến đổi một trại cùi hiu quạnh bị cô lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài thành một trung tâm sinh hoạt yên vui như một gia đình lớn.

Và rồi sau mười sáu năm tận tình phục vụ những anh chị em cùi, cha đã bị lây bệnh và qua đời vào năm 1889. Vì thế cha được mệnh danh là “Tông Đồ người cùi."

(Ngài được phong chân phước ngày 04/06/1995 và được phong hiển thánh ngày 11/10/2009).

Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Đức Mẹ đi thăm viếng gia đình bà Elisabet. Chúng ta thấy theo tường thuật của Phúc Âm, thì ngay sau khi nói lời “xin vâng” để chương trình cứu thế của Thiên Chúa được bắt đâu thực hiện thì Đức Mẹ đã “vội vã” lên đường đên thăm gia đình người chị họ.

10. Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng--Trầm Thiên Thu (từ CatholicCulture.org)

Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng nhắc nhở chúng ta về các sự thật và sự kiện này: Cuộc thăm viếng của Đức Mẹ dành cho người chị họ Êlidabet ngay sau khi được Sứ thần truyền tin; Thánh Gioan Tẩy giả khỏi tội Nguyên tổ khi còn trong lòng mẹ, lúc Đức Mẹ cất tiếng chào; Elizabeth's proclaiming of Mary – theo linh hứng của Chúa Thánh Thần – là Mẹ thiên chúa và “được chúc phúc giữa các phụ nữ”; Thánh ca siêu phàm Magnificat (Linh hồn tôi ngợi khen Chúa) trở thành một phần trong lời cầu nguyện chính thức của Giáo hội. Sự Thăm Viếng thường được mô tả trong nghệ thuật và là mầu nhiệm trung tâm trong các sự sùng kính của Thánh Phanxicô Salê.

LỊCH SỬ

Lễ này kính chào Đức Mẹ đã mang trong lòng chính Vua Trời Đất, Đấng Tạo Tác thế gian, Con Thiên Chúa, Mặt Trời Công Chính. Đức Maria được diễm phúc làm “Mẹ Thiên Chúa” và nhận biết hồng ân xuống trên Thai nhi Gioan, Đức Mẹ đã thốt lên lời ca tụng Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Lc 1:46-49).

Lễ này có nguồn gốc từ Thời Trung Cổ, được Dòng Phanxicô duy trì từ trước năm 1263, và mau chóng lan truyền khắp Giáo hội hoàn vũ. Trước đây, lễ này kính vào ngày 2 tháng Bảy. Nay được cử hành vào khoảng giữa lễ Truyền Tin và lễ Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy giả, phù hợp với trình thuật Phúc Âm. Một số nơi mừng lễ này theo thực tế và thánh hóa các thai nhi. Phụng vụ sử dụng màu Trắng.

LỄ ĐỨC MẸ ĐI VIẾNG - NHẬN RA DẤU CHỈ CỦA CHÚA

Lời Chúa: Lc 1, 39-56

Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Giacaria và chào bà Elisabeth. Và khi bà Elisabeth nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Elisabeth được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng:

"Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này tai tôi vừa nghe lời Bà chào, thì hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện.”

Và Maria nói: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa. Này từ nay muôn thế hệ sẽ khen rằng tôi có phước, vì Đấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại và Danh Ngài là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những người kính sợ Chúa.

"Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai thần trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không. Chúa đã săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi người đến muôn đời.”

Maria ở lại với bà Elisabeth độ ba tháng, đoạn Người trở về nhà mình.

TRUYỆN KỂ

1. Mẹ dạy con

Một bà mẹ đi chợ, một tay xách giỏ, một tay ẵm đứa con nhỏ. Ở một góc chợ, có một bà lão ăn mày, hai tay giơ lên, miệng nài khẩn kẻ qua người lại. Bà mẹ bồng con đứng lại, rút ở giỏ ra chiếc bánh và ít tiền. Bà không đưa trực tiếp cho bà ăn mày. Nhưng trao cho đứa con đang bồng trên tay. Bà ngồi xuống, bảo con đưa bánh và tiền cho bà lão ăn mày. Đứa bé vâng lời thực hiện từng chi tiết mẹ dạy. Làm xong, đứa bé tỏ vẻ vui mừng hớn hở. Nó làm thay cho mẹ nó.

Bà mẹ đó đã nói với tôi: Bé của con làm thay cho con. Nhưng con cũng làm thay cho Đức Mẹ. Lời đơn sơ đó đủ nói cho tôi sứ mạng mà Mẹ Maria đang trao cho con cái Mẹ trong cuộc sống hôm nay. “Hãy thay Mẹ đi thăm viếng những người khốn khó.” Việc thăm viếng này có thể thực hiện được bằng nhiều cách. Yếu tố quan trọng nhất của mọi cách thăm viếng theo gương Mẹ là tấm lòng tế nhị, nhạy bén và thương cảm trong Chúa Giêsu.

2. Mẹ nghèo mà diễm phúc

Nhà vua bị bệnh nặng. Quan ngự y lo lắng, nhưng đành bó tay. Một nhà chiêm tinh đến bảo vua chỉ khỏi bệnh khi nào được mặc chiếc áo của một người hạnh phúc nhất.

Quan quân đổ xô đi khắp nước để tìm người hạnh phúc nhất. Cuối cùng thì họ cũng tìm được một người hạnh phúc thực sự. Nhưng khổ thay, người ấy quá nghèo, chẳng có lấy một chiếc áo! (Góp nhặt)

3. Lòng bác ái của bác sĩ Longet

Bác sĩ Longet là một người Pháp, đã từng phục vụ ở Việt Nam cách đây mấy mươi năm và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tom Dooley, người Mỹ đã phục vụ ở Đông Nam Á. Ông tận tụy săn sóc các bệnh nhân bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày lẫn đêm.

Được hỏi tại sao ông quý mến bệnh nhân như thế?

Bác sĩ Longet đáp:

- Vì tôi thấy Chúa Giêsu trong mỗi bệnh nhân.

Chính vì thế, mỗi sáng khi đi dự thánh lễ; bệnh nhân lương hay giáo, ai muốn đi ông đều chở trên xe; mỗi chiều Chúa nhật, ông lại chở các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này nơi nọ. Và mỗi tối ông lần hạt chung với người Công giáo. Ít lâu sau, ông Longet trở về nước Pháp, vào chủng viện dâng mình làm linh mục và tình nguyện sang phục vụ những người nghèo ở Giáo phận Cần Thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức xong, ông lâm trọng bệnh và qua đời trước khi tới nơi hằng mong ước.

4. Thắp sáng ngọn đèn cũ

Mẹ Têrêsa thành Calcutta đã thuật lại một câu chuyện sau nhân dịp một đài truyền hình phỏng vấn Mẹ.

Mẹ nói: Một lần khi khi còn ở Úc tôi có đến thăm một người thuộc thổ dân Aborigine. Ông cụ sống trong cảnh cô độc thật thảm thương. Ông sống trong một túp lều xiêu vẹo với tuổi đã già nua của mình. Khởi đầu câu chuyện cho lần gặp đầu tiên, tôi đã đề nghị:

- Để tôi dọn dẹp nhà và sửa soạn giường ngủ cho ông.

Ông ta trả lời hững hờ:

- Tôi đã quen sống như vậy rồi.

- Nhưng ông sẽ cảm thấy dễ chịu hơn với căn nhà sạch sẽ và ngăn nắp.

Sau cùng ông ta bằng lòng để tôi dọn dẹp lại nhà cửa cho ông. Trong khi quét dọn tôi thấy một cái đèn cũ đẹp nhưng phủ đầy bụi bặm và bồ hóng. Tôi hỏi ông:

- Có bao giờ ông thắp đèn này chưa?

Ông la trả lời cộc lốc:

- Nhưng thắp đèn để cho ai? Có ai bước chân vào nhà này bao giờ đâu? Tôi sống ở đây đã từ lâu không hề trông thấy mặt người nào cả.

Tôi hỏi ông:

- Nếu như có người tình nguyện đến thăm ông thường xuyên, ông có vui lòng thắp đèn lên không?

- Dĩ nhiên.

Từ ngày đó, các nữ tu quyết định mỗi chiều sẽ ghé qua nhà ông. Ông ta bắt đầu thắp đèn và dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ hơn. Ông còn sống thêm hai năm nữa. Trước khi qua đời ông nhờ các nữ tu ghé thăm nhắn tin giúp ông:

- Xin nhắn với mẹ Têrêsa, bạn tôi, rằng ngọn đèn mà mẹ thắp lên trong đời tôi vẫn còn chiếu sáng.

Đó chỉ là một việc nhó mọn, nhưng trong bóng tối cô đơn của đời tôi, một tia sáng đã thắp lên và vẫn còn tiếp tục chiếu sáng mãi.

Vâng! Đúng là một cuộc viếng thăm thật tuyệt vời.

Ngọn đèn cũ không được thắp sẽ trở nên vô dụng và quên lãng nơi một xó xỉnh nào đấy, nhưng khi được châm vào một chút dầu tình yêu và sự bao dung thì nó đem đến sự sáng và sưởi ấm lòng người. Giờ đây, con người dù phải sống cô độc nhưng không còn cô đơn nữa vì bóng tối đã bị đẩy lui và nhường bước cho tình yêu và lòng bao dung của những đốm sáng nhỏ nơi con người, nơi nhân loại.

5. Washington thăm mẹ

George Washington, một trong những nhà anh hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, thường được đề cao như một người con chí hiếu đối với mẹ mình.

Sau những trận chiến cam go nhất, giữa những công việc nặng nề của một nguyên thủ quốc gia, ông thường về nhà thăm viếng và trò chuyện lâu giờ với người mẹ già.

Một hôm, ngạc nhiên về sự gắn bó của ông đối với mình, mẹ đã đặt câu hỏi như sau: "Tại sao con lại chịu khó mất hằng giờ như vậy để ngồi bên cạnh mẹ?”

Vị tổng thống của nước Mỹ đã trả lời như sau: "Thưa mẹ, ngồi bên cạnh mẹ để lắng nghe mẹ nói, không phải là một việc mất giờ. Bởi vì, sự thanh thản và lòng tốt của mẹ dạy con còn muốn tiếp tục sống.”

Hôm nay, Giáo Hội mừng lễ Mẹ đi viếng bà thánh Isave. Giáo Hội đặt lễ này vào cuối tháng năm như cao điểm của tháng hoa.

Sự vội vã lên đường của Mẹ Maria để đi thăm người chị họ cưu mang trong lúc tuổi già là biến cố khai mạc sứ mệnh của Mẹ: đó là sứ mệnh của một người Mẹ luôn có mặt để phù trợ con người. Sự hiện diện ấy đã củng cố niềm tin của bà Isave. Sự hiện diện ấy đã đem lại niềm an ủi vô bờ cho Gioan Tẩy giả.

Bên cạnh Chúa Giêsu, từ việc cưới Cana cho đến dưới chân thập giá, và những ngày đầu của Giáo Hội, Mẹ luôn có mặt để nâng đỡ, để ủi an, để củng cố niềm tin của mọi người.

Một cách âm thầm nhưng vô cùng gần gũi, ngày nay lúc nào Mẹ cũng có mặt trong Giáo Hội và trong từng phút giây của cuộc sống chúng ta.

6. Đức Maria thăm viếng.

Ngày lễ này đã được Đức Urban VI thiết lập vào năm 1389, vào khoảng thời gian giữa lễ Truyền Tin và lễ sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả, phù hợp với những chi tiết Phúc Âm. Ngày lễ hôm nay ghi nhớ việc Đức Mẹ đi thăm bà chị họ Elizabeth, lúc ấy đã cao niên và đang có thai. Mẹ đến để chia sẻ niềm vui về những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện nơi hai chị em. Ngày lễ này - nhằm ngày kết thúc tháng Năm kính Mẹ – cho chúng ta thấy tinh thần chiêm niệm, sự phục vụ, và đức khiêm nhượng thẳm sâu của Mẹ, dạy chúng ta biết mỗi khi đi đâu, chúng ta cũng phải theo gương Mẹ Maria, trở nên một nguồn vui cho toàn thể nhân loại.

Phục vụ vui tươi.

Hãy đến mà nghe, hỡi tất cả các bạn là những người kính sợ Chúa, tôi sẽ kể cho các bạn những điều Người đã làm cho tôi.1 Đó là những lời trong Ca Nhập Lễ hôm nay.

Ngay sau ngày Truyền Tin, Đức Maria lập tức đi thăm bà Elizabeth tại miền đồi núi xứ Giuđêa, cách Nazareth chừng bốn năm ngày đàng. Thánh Luca viết: “Trong những ngày ấy, Maria vội vã ra đi lên miền đồi núi, đến một thành xứ Giuđêa.” Sau khi được sứ thần cho biết về việc bà Elizabeth có thai, Đức Trinh Nữ đã vội vàng ra đi để phụ giúp những công việc cho bà chị họ. Không ai buộc Mẹ phải đi: Thiên Chúa, qua sứ thần, cũng không đòi Mẹ phải làm như thế, và cả bà Elizabeth. Đức Maria có thể ở nhà để bắt đầu chuẩn bị cho Con Mẹ, Đấng Cứu Độ, sắp chào đời; nhưng Mẹ đã hân hoan, vội vã lên đường để đến giúp đỡ bà Elizabeth.

7. Lời các thánh

- Thánh Ambrosiô: Mẹ lên đường không phải vì không tin lời sứ thần báo cho Mẹ, mà vì hối hả ước ao làm ơn cho gia đình bà chị. Sung sướng vì được làm cho người khác sung sướng, và tận lực thi hành đức ái.

- Thánh Augustinô: Qua Mẹ, tình thương đổ xuống người cơ khổ, ân sủng đổ xuống những kẻ vô ơn, và ơn tha thứ được ban phát cho những người tội lỗi.

- Thánh Phêrô Kim Ngôn: Mẹ Thiên Chúa đã khám phá ra ân sủng, để cung cấp ơn cứu độ cho nhân loại. Mẹ phát sinh ơn sủng. Đó là một ân sủng dư dật để độ phúc cho mỗi người chúng ta, để trào đổ dạt dào sóng dư ân sủng đó xuống mọi thụ tạo.

- Thánh Ilđêphong: Lạy Mẹ, trong hết mọi ân sủng Chúa đã định ban cho loài người, không có ơn nào mà Chúa không muốn đổ xuống qua tay Mẹ, vì Chúa đã ký thác cho Mẹ hết báu tàng, hết mọi phú quí về ơn sủng Người ban.

- Thánh Germanô: Ôi Maria, không ai được cứu độ nếu không nhờ Mẹ; không ai được hưởng ơn trời nào nếu không có Mẹ.

- Thánh Đamascenô: Mẹ là Thánh đô rộng mở đón tiếp hết những ai cầu xin Mẹ. Hỡi các con Mẹ hãy đến mà lãnh nhận tràn đầy ơn sủng vượt trên mọi khát vọng của các con.

- Lạy Mẹ Chí Thánh Thiên Chúa, xin mở tình thương cho chúng con, vì Mẹ là ơn độ phúc của cả nhân loại.

- Thánh Đamianô: Mẹ là kho báu chứa gồm hết mọi thánh ân. Lạy Mẹ là hy vọng của chúng con, chúng con biết hết mọi báu tàng tình thương của Chúa đều ở trong tay Mẹ.

- Thánh Bênađô: Chúa đã tàng trữ nơi Mẹ Maria toàn thể mọi ơn sung mãn, nên chúng ta có được hy vọng nào, ân sủng nào, ơn cứu độ nào là đều lãnh nhận từ tay Mẹ.

- Chúng ta hãy đi tìm ân sủng, và hãy nhờ Mẹ mà tìm. Cứ xin điều gì là Mẹ được điều ấy. Không bao giờ Mẹ có thể bị từ chối.

- Mẹ Maria được tặng ban cho thế giới di chuyển tình thương để qua Mẹ các ân sủng được liên tiếp trao ban từ trời cao xuống cho nhân loại.

- Thánh Albertô: Mẹ là Đấng quản thủ kho báu của Chúa Giêsu.

- Thánh Bonaventura: Mẹ gồm chứa báu tàng của Thiên Chúa là Chúa Giêsu và cùng với Chúa gồm chứa nguyên ủy và nguồn mạch hết mọi ân sủng.

- Lý do nào đã thúc đẩy Mẹ hối hả đi thăm nhà Gioan Tẩy giả nếu không phải là đức ái thiêu đốt tâm hồn Mẹ.

- Lời của Mẹ có mãnh lực lớn lao biết bao, vì Mẹ vừa mới nói, Chúa Thánh Thần liền xuống đầy lòng bà Elizabeth.

- Thánh Bênađinô: Khi Đức Trinh Nữ chào bà Elizabeth, lời chào vào tai bà rồi xuống thai nhi, và vì thế, thai nhi nhận được Chúa Thánh Thần.

- Từ lúc trở nên Mẹ Chúa Cứu Thế, Đức Nữ Trinh uy linh đã được quyền tài phán đối với hết các cuộc nhiệm sinh của Chúa Thánh Thần, đến nỗi không ai được Chúa ban một ơn nào mà không qua trung gian nhân từ hiền ái của Mẹ.

- Thánh Laurensô Brinđisi: Được đầy Thánh Thần bà Elizabeth do Chúa thúc đẩy đã thấy và nói những việc đã qua hiện tại và tương lai. Bà biết phẩm chức vô biên, vinh quang hiện tại và tương lai của Đức Trinh Nữ Maria rất thánh đức và khiêm hạ.

- Thánh Anphong: Vừa đặt chân vào nhà Gioan Tẩy giả Mẹ Maria đã rộng ban cho gia đình ông nào là ân trạch trời cao, nào là hồng ân thiên quốc. Do đó, ngày Lễ Mẹ Thăm Viếng thường được gọi là Lễ Mẹ ban ân sủng.

8. Giáo huấn của giáo hội

- Đức Phaolô VI: Lễ Thăm viếng nhắc nhớ việc Rất Thánh Trinh Nữ Maria đang cưu mang Con Mẹ đi viếng thăm, giúp đỡ bà Elizabeth, và công bố lòng xót thương của Thiên Chúa cứu chuộc.

- Đức Gioan Phaolô II

1. Mẹ Maria hiện diện một cách linh thiêng giữa chúng ta. Chúng ta chiêm ngưỡng Mẹ với cùng một cặp mắt mà bà Elizabeth đã nhìn xem Mẹ khi Mẹ vội vã tới viếng thăm bà, và nghe lời Mẹ chào bà thì bà nói: "Ngay lúc tiếng em chào vừa đến tai chị, thì hài nhi trong dạ chị liền nhảy mừng" (Lc 1:44). Niềm vui bà Elizabeth cảm thấy nêu bật ân huệ có thể ẩn chứa trong lời chào mừng, khi lời chào đó do một tấm lòng tràn đầy Thiên Chúa. Những bóng tối của tình trạng cô độc đè nén một tâm hồn, thường có thể bị tia sáng một nụ cười và một lời nói âu yếm phá tan.

2. Đáp lại lời chào mừng của Đức Trinh Nữ, bà Elizabeth nói: "Phúc cho em là người đã tin mọi điều Chúa phán truyền cho em sẽ được ứng nghiệm" (Lc 1:45). Những lời này được nói ra do Chúa Thánh Linh và đề cao nhân đức cốt yếu của Mẹ Maria là "đức tin.” Các Giáo phụ của Giáo hội đã nhiều ý nghĩa của nhân đức này trong cuộc sống của Đức Trinh Nữ. Các ngài không ngần ngại diễn tả những bình luận có thể làm chúng ta ngạc nhiên. Như Thánh Augustinô nói: "Tính cách người mẹ của Đức Trinh Nữ không ích chi cho Người, nếu Người không cưu mang Chúa Kitô trong tâm lòng hơn là trong cung dạ.”

- Nhờ đức tin của Mẹ, Mẹ Maria có thể không sợ hãi tới gần vực thẳm chủ định cứu độ khôn dò của Thiên Chúa: Không dễ gì tin rằng Thiên Chúa muốn "mặc xác phàm và đến ở giữa chúng ta" (Ga 1:14). Người muốn ẩn mình trong đời sống thường ngày vô nghĩa của chúng ta, và mặc lấy nhân tính yếu hèn phải chịu nhiều điều kiện mất thể diện. Mẹ Maria đã dám tin dự án "bất khả hữu = impossible" này. Mẹ tin cậy vào Đấng toàn năng và trở thành người cộng tác vào sáng kiến lạ lùng của Thiên Chúa đã mở ra niềm hy vọng cho lịch sử chúng ta.

Người tín hữu cũng được mời gọi vào thái độ đức tin giống như thế. Đức tin lôi kéo họ can trường nhìn qua bên kia những khả năng và giới hạn những biến cố hoàn toàn nhân loại.

- Công đồng Vatican II

Sự liên kết giữa Mẹ và Con trong công cuộc Cứu rỗi được tỏ rõ khi Đức Maria thụ thai Chúa Kitô cách trinh khiết cho đến lúc Chúa Kitô chết. Thực vậy, trước hết, Đức Maria đã vội vã đến thăm bà Elizabeth, và được bà ấy chào mừng là người có phúc, vì đã tin vào sự Cứu rỗi Chúa đã hứa, và vị Tiền hô nhảy mừng trong lòng mẹ.

9. Đến với tha nhân

Vào một buổi chiều hôm đó trong nhà thờ, đầy nghẹt những người cùi hủi. Đức cha Maigret đứng bên bàn thờ quay xuống hỏi họ:

Các con thân mến, các con hằng mong ước có một linh mục đến ở cùng và phục vụ các con. Thì đây tôi xin giới thiệu: cha Đamien (Joseph Damien de Veuster 1840-1889 người Bỉ. Ngài đã đến và sẽ ở lại để chăm sóc, phục vụ và chia sẻ với các con từ nay cho đến chết. Các con có vui mừng không?

Cả nhà thờ xôn xao, thì thầm to nhỏ. Cha Đamien đứng bên cạnh Đức giám mục mà chẳng hiểu tí gì! Rồi họ từ từ tiến lên cung thánh, họ đến bên cha, sờ vào mặt, vào tay và vào áo cha…Cha hỏi Đức giám mục: Họ làm gì vậy? Đức cha giải thích: Họ nói họ không thể tưởng tượng được một người từ nơi phương xa, chẳng có bà con huyết thống gì với họ, còn trẻ và lại đẹp trai nữa, không bệnh tật gì mà tự nguyện đến phục vụ họ trên mảnh đất khốn cùng này. Họ không tin vào mắt mình nên họ mới xúm lại sờ mó vào người cha xem thử cha có thực sự bị bệnh phong cùi như họ không? Rồi họ nói với nhau rằng: “Không, cha không bệnh tật gì và cha đẹp trai quá!”

Vào năm 1873, cha Đamien đã tự tình nguyện ra đảo Molokai, nơi mà chính quyền Hawaii thời đó “thu gom” những người bất hạnh bị bệnh cùi hủi ra sống ở đảo nhằm cách ly, tránh sự lây lan cho xã hội. Vì thế họ bị bỏ mặc, sống lạc loài và cô đơn trên đảo, không nhận được bất cứ một sự chăm sóc nào về thể xác cũng như tâm linh!

Cha Đamien đã đến và biến đổi một trại cùi hiu quạnh bị cô lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài thành một trung tâm sinh hoạt yên vui như một gia đình lớn.

Và rồi sau mười sáu năm tận tình phục vụ những anh chị em cùi, cha đã bị lây bệnh và qua đời vào năm 1889. Vì thế cha được mệnh danh là “Tông Đồ người cùi.”

(Ngài được phong chân phước ngày 04/06/1995 và được phong hiển thánh ngày 11/10/2009).

Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Đức Mẹ đi thăm viếng gia đình bà Elisabet. Chúng ta thấy theo tường thuật của Phúc Âm, thì ngay sau khi nói lời “xin vâng” để chương trình cứu thế của Thiên Chúa được bắt đâu thực hiện thì Đức Mẹ đã “vội vã” lên đường đên thăm gia đình người chị họ.

10. Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng--Trầm Thiên Thu (từ CatholicCulture.org)

Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng nhắc nhở chúng ta về các sự thật và sự kiện này: Cuộc thăm viếng của Đức Mẹ dành cho người chị họ Êlidabet ngay sau khi được Sứ thần truyền tin; Thánh Gioan Tẩy giả khỏi tội Nguyên tổ khi còn trong lòng mẹ, lúc Đức Mẹ cất tiếng chào; Elizabeth's proclaiming of Mary – theo linh hứng của Chúa Thánh Thần – là Mẹ thiên chúa và “được chúc phúc giữa các phụ nữ”; Thánh ca siêu phàm Magnificat (Linh hồn tôi ngợi khen Chúa) trở thành một phần trong lời cầu nguyện chính thức của Giáo hội. Sự Thăm Viếng thường được mô tả trong nghệ thuật và là mầu nhiệm trung tâm trong các sự sùng kính của Thánh Phanxicô Salê.

LỊCH SỬ

Lễ này kính chào Đức Mẹ đã mang trong lòng chính Vua Trời Đất, Đấng Tạo Tác thế gian, Con Thiên Chúa, Mặt Trời Công Chính. Đức Maria được diễm phúc làm “Mẹ Thiên Chúa” và nhận biết hồng ân xuống trên Thai nhi Gioan, Đức Mẹ đã thốt lên lời ca tụng Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Lc 1:46-49).

Lễ này có nguồn gốc từ Thời Trung Cổ, được Dòng Phanxicô duy trì từ trước năm 1263, và mau chóng lan truyền khắp Giáo hội hoàn vũ. Trước đây, lễ này kính vào ngày 2 tháng Bảy. Nay được cử hành vào khoảng giữa lễ Truyền Tin và lễ Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy giả, phù hợp với trình thuật Phúc Âm. Một số nơi mừng lễ này theo thực tế và thánh hóa các thai nhi. Phụng vụ sử dụng màu Trắng.

ĐỨC MẸ LÀ MẸ HỘI THÁNH – NÀY LÀ MẸ CON

Lời Chúa: Ga 19, 25-27

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Gioan

Khi ấy, đứng gần thập giá Chúa Giêsu, có mẹ Người, cùng với chị mẹ Người là bà Maria, vợ ông Clêôpas và Maria Mađalêna.

Khi thấy mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu nói với mẹ rằng: “Thưa Bà, này là Con Bà." Rồi Người nói với môn đệ: “Này là Mẹ con." Và từ giờ đó môn đệ đã đón bà về nhà mình.

TRUYỆN KỂ

1. Hội Thánh cùng với Mẹ tiến bước

Trong diễn từ của Đức Giáo hoàng Phaolô VI ngày bế mạc kỳ họp thứ ba của Công đồng Vatican II – 21.11.1964 viết: “Thiên chức Thánh Mẫu đã làm cho Mẹ có những mối liên hệ đặc biệt với Chúa Kitô và hiện diện trong công trình cứu rỗi nhân loại do Chúa Giêsu Kitô thực hiện, cũng chính thiên chức đó tạo nên mối tương quan giữa Đức Maria và Hội Thánh; vì Đức Maria là Mẹ của Chúa Kitô, Đấng đã nhận lấy bản tính nhân loại trong cung lòng khiết trinh của Mẹ, Đấng là Đầu của Nhiệm thể là Hội Thánh. Vì thế Đức Maria, Mẹ của Chúa Kitô, cũng là Mẹ của tất cả các tín hữu và mục tử, nghĩa là của Hội Thánh."

Vì là Mẹ của Hội Thánh, nên suốt cuộc đời Mẹ luôn là máng thông ơn Thiên Chúa xuống cho Hội Thánh. Để sống tốt hành trình dương thế, chúng ta hãy chạy đến với Mẹ, cầu xin Mẹ, để có thể khám phá ra niềm vui về sự dịu dàng của Thiên Chúa. Không ai đã bước vào mầu nhiệm sâu xa của việc nhập thể như Mẹ Maria. Toàn bộ cuộc sống Mẹ được hun đúc theo Chúa Giêsu Con Mẹ. Mẹ minh chứng rằng tình yêu của Con Mẹ là vô cùng vô tận và mở rộng cho tất cả mọi người, không một ngoại lệ nào. Chúng ta hãy tiếp bước theo Mẹ.

Lạy Đức Mẹ Hội Thánh, xin cầu cho chúng con. Amen.

2. ĐGH Phanxicô thiết lập lễ nhớ Đức Maria là Mẹ Giáo Hội--G. Trần Đức Anh OP

ĐTC Phanxicô đã quyết định thiết lập lễ kính Đức Maria là Mẹ Giáo Hội và cử hành hằng năm vào ngày thứ hai sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, theo lịch chung của Giáo Hội.

Trong sắc lệnh công bố hôm 3-3-2018, DHY Robert Sarah, Tổng trưởng Bộ Phụng Tự và kỷ luật bí tích cho biết ĐTC đưa ra quyết định trên đây xét vì việc thăng tiến lòng sùng kính này có thể giúp gia tăng cảm thức của các vị mục tử, các tu sĩ và tín hữu về Mẹ Giáo Hội, cũng như lòng kính mến chân thành đối với Đức Mẹ.

Chính Đức Giáo Hoàng Phaolô 6, ngày 21-11 năm 1964, khi bế mạc khóa III của Công đồng chung Vatican 2 đã tuyên bố Đức Trinh Nữ Maria là ”Mẹ Giáo Hội, nghĩa là của toàn thể dân Kitô giáo, các tín hữu cũng như các vị Chủ Chăn, họ gọi Đức Maria là Mẹ rất quí mến” và Ngài thiết định rằng ”toàn thể dân Kitô giáo ngày càng gia tăng lòng tôn kính Mẹ Thiên Chúa dưới danh hiệu rất dịu dàng này."

Sắc lệnh của Bộ Phụng tự khẳng định: Lễ kính Đức Maria là Mẹ Giáo Hội, do ĐGH Phanxicô ấn định, ”sẽ giúp chúng ta nhớ rằng đời sống Kitô, để tăng trưởng, cần phải ăn rễ sâu nơi mầu nhiệm Thánh Giá, nơi hy tế của Chúa Kitô trong Tiệc Thánh Thể, nơi Đức Trinh Nữ hiến dâng, Mẹ Đấng Cứu Chuộc và Mẹ của những người được cứu chuộc."

Vì thế, lễ này cần được ghi trong tất cả các lịch và sách phụng vụ để cử hành thánh lễ và phụng vụ các giờ kinh. Các văn bản phụng vụ liên hệ được đính kèm, sắc lệnh này và các bản dịch, được các HĐGM chấp thuận, sẽ được công bố sau khi Bộ Phụng Tự và kỷ luật bí tích phê chuẩn. Tại những nơi nào lễ kính Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Giáo Hội đã được cử hành theo luật riêng được phê chuẩn, vào một ngày khác, với bậc phụng vụ cao hơn, thì trong tương lai vẫn được cử hành theo cùng thể thức ấy."

Theo quyết định trên đây, thứ hai 21-5-2018 sẽ là lễ kính Đức Maria là Mẹ Giáo Hội. (Rei 3-3-2018)

3. Đức Maria Là Mẹ Giáo Hội

Mẹ Giáo Hội (tiếng La-tinh: Mater Ecclesiae) là một trong nhiều tước hiệu của Đức Maria. Với tước hiệu này, Mẹ Thiên Chúa được tôn kính với tư cách là Mẹ của Giáo Hội, thân mình mầu nhiệm của Chúa Ki-tô. Ngay từ hồi thế kỷ thứ IV, tước hiệu này đã được Giáo Phụ Am-brô-xi-ô nhắc tới. Ngài đã liên kết hình ảnh Mẹ Giáo Hội với Đức Maria như là nguyên mẫu „có tính hiện thân“ của Giáo hội. Vào giữa thời Trung Cổ, tước hiệu trên của Đức Maria đã được phổ biến khá rộng rãi trong Giáo hội.

Vào ngày 11 tháng 02 năm 2018, nhân ngày Lễ Kính Đức Mẹ Lộ Đức, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã bổ sung ngày Lễ Kính Đức Mẹ là Mẹ Giáo hội vào trong lịch chung của Giáo hội Rô-ma. Và Ngài ấn định rằng, ngày Lễ này sẽ được cử hành trên toàn Giáo hội vào ngày thứ Hai ngay sau Đại Lễ kính Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, như Tòa Thánh Vatican đã công bố vào ngày 03 tháng 03 năm 2018. Theo đó, thứ Hai ngày 21 tháng 05 năm 2018 sẽ là ngày đầu tiên Lễ Kính Đức Maria là Mẹ Giáo Hội được cử hành trên toàn Giáo hội với bậc Lễ nhớ buộc, tức Lễ bậc III.

Từ trước tới nay, ngày Lễ Kính Đức Maria là Mẹ Giáo hội chỉ được cử hành riêng lẻ trong một số Giáo phận và một số cộng đoàn Dòng Tu, và được cử hành vào những ngày khác nhau!

Hiến Chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium của Công Đồng Vatican II đã mô tả Đức Maria chính là thành phần của Giáo hội và là „Mẹ đáng mến“ của Giáo hội.

Tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo Hội đã luôn luôn được sử dụng bởi nhiều Đức Giáo Hoàng, trong đó có cả Đức Bê-nê-đíc-tô XIV (1748), Đức Lê-ô XIII (1885), Đức Gio-an XXIII, Đức Phao-lô VI và Đức Gio-an Phao-lô II. Vào năm 1944, Hugo Rahner mới khám phá ra rằng, ngay từ thế kỷ thứ IV, Thánh Am-brô-xi-ô cũng đã sử dụng tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo hội rồi. Khoa Thánh Mẫu học của Hugo Rahner được đặt nền tảng trên Thánh Am-brô-xi-ô cũng như trên các Giáo Phụ khác, và khoa Thánh Mẫu học của ông đã có một ảnh hưởng rất lớn trên Đức Phao-lô VI và Công Đồng Vatican II. Vào ngày 21 tháng 11 năm 1964, tức Lễ Kính Đức Trinh Nữ thành Giê-ru-sa-lem, trong diễn văn bế mạc phiên họp thứ III của Công Đồng trên, Đức Phao-lô VI đã chính thức công bố tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo Hội. Vào năm 1980, tước hiệu này đã được bổ sung vào trong Kinh Cầu Đức Bà, cụ thể là vào vị trí thứ hai sau tước hiệu Đức Bà là Mẹ Chúa Ki-tô.

Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo đã diễn giải tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo hội như sau: Đức Maria không chỉ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng cũng còn là Mẹ của tất cả các tín hữu nữa, như Thánh Augustinô đã trình bày trong tác phẩm De sancta virginitate: „Mẹ đồng cộng tác trong Đức Mến để các tín hữu được sinh ra trong Giáo hội, mà các tín hữu ấy chính là chi thể của Đầu“, tức Chúa Ki-tô.

Theo cách trình bày của Thánh Gio-an Phao-lô II Giáo Hoàng, thì nhờ vào việc Mẹ được tôn kính với tư cách là Mẹ ơn Cứu Độ, Mẹ Sự Sống, Mẹ ân sủng, Mẹ của những kẻ được cứu chuộc và Mẹ của những kẻ sống, Đức Maria thực sự là Mẹ của toàn Giáo hội.

Đức Bê-nê-đíc-tô XVI lưu ý rằng, ngay từ đầu, Công Đồng Vatican II đã hiểu về Thánh Mẫu Học như là một phần của Giáo Hội Học, và vì thế, trong thực tế, một trong những đặc tính có tính nội tại nhất của Giáo hội, đó là sự đồng nhất hóa với Đức Maria, đã được diễn tả tại Công Đồng này.

4. Mẹ đau khổ--Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ

Vào ngày thứ sáu tuần thánh tại các nước châu Mỹ La Tinh được cử hành với một truyền thống rất đặc biệt, ở đó người ta sống lại sự hiện diện của Mẹ Maria dưới chân thập giá Chúa Giêsu: Các phụ nữ tập trung lại dưới chân thập giá, họ đi lại từng bước những khổ nạn của Chúa Giêsu trong tiếng hát, trong những lời cầu nguyện và cả trong tiếng khóc nữa.

Các tín hữu còn giữ một truyền thống khác gọi là “chia buồn." Truyền thống này được cử hành sau nghi thức phụng vụ của Giáo hội vào chiều thứ sáu tuần thánh: Mọi người trở vào nhà thờ để an ủi Đức Mẹ Sầu Bi, như thể được ở bên Mẹ khi Mẹ đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu, dân chúng chia sẻ nỗi đau của Ngài, vừa nói lên chính nỗi đau của họ. Trong nghi thức truyền thống chia sẻ nỗi đau buồn này là bức tượng của người phụ nữ mặc áo đen đứng dưới chân thập giá, khi xác Chúa Giêsu được tháo gỡ khỏi thập giá, thì bức tượng của người phụ nữ được đặt ở đầu chiếc quan tài.

Người phụ nữ mặc áo đen ấy dĩ nhiên tượng trưng cho Mẹ Maria, là Mẹ của Người Con bị hành quyết, là người đàn bà luôn phấn đấu để tin vào sứ điệp của Con. Mẹ đã phải dằn lại cơn giận dữ trước thái độ phản bội của dân chúng, và của những người môn đệ thân tín của Chúa Giêsu. Mẹ đã phải tha thứ cho tất cả mọi người… (Theo R. Veritas).

5. Đức Mẹ là ai?

Một ngày kia, thánh Gioan Bosco rao giảng về vinh quang của Mẹ Maria tại nhà thờ chính toà Torino. Giữa lúc đang thao thao bất tuyệt, ngài bỗng dừng lại thinh lặng một hồi lâu rồi đặt câu hỏi với cử toạ như sau: "Ai trong anh chị em có thể nói cho tôi biết Đức Mẹ là ai?" Thánh nhân phải lập lại câu hỏi đó đến ba lần mới nghe được một tiếng trả lời yếu ớt từ phía cuối nhà thờ như sau: "Thưa Cha, Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa."

Thánh Gioan Bosco gật đầu nói tiếp: "Đúng thế, Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng nói thế vẫn chưa đủ. Tôi muốn anh chị em kể hết những tước hiệu của Mẹ Maria." Liền sau đó, cử toạ liền kể ra tất cả những tước hiệu của Mẹ: Mẹ là cửa Thiên Đàng, Mẹ là Đấng an ủi những kẻ có tội, Mẹ là Đấng phù trợ các tín hữu, Mẹ là Đấng cứu chữa kẻ bệnh tật v.v...

Sau khi nghe kể hết những tước hiệu mà người ta gán cho Đức Maria, thánh Gioan Bosco mỉm cười nối tiếp: "Đức Maria là tất cả những gì anh chị em vừa kể ra, nhưng vẫn chưa hết. Tôi muốn nói thêm về Đức Maria...." Chờ mãi vẫn không thấy có câu trả lời nào, thánh nhân mới nói: "Tôi xin được nói với anh chị em Đức Maria là ai: Ngài là Mẹ chúng ta. Phải, Mẹ chúng ta. Đó là điều đáng nói nhất về Mẹ Maria. Trên trần gian này, không ai có thể gần gũi thiết thân với chúng ta cho bằng Mẹ chúng ta, không ai yêu thương chúng ta hơn Mẹ chúng ta. Cũng thế trên Thiên Đàng không có vị thánh nào yêu thương chúng ta và sẵn sàng lắng nghe chúng ta cho bằng Mẹ Maria...."

Tước hiệu nói lên tương quan mẫu tử của Đức Maria với Giáo Hội.

6. Tâm tình con thảo

Trong cuốn sách tựa đề “Đồng Hành” có thuật lại câu chuyện về cuộc đời của một nhà thừa sai Canada, Giám mục Emile Crôa, Ngài thú nhận: Ngay từ thuở nhỏ, tôi là một đứa trẻ nghịch ngợm, phá phách và cứng đầu, lười biếng. Có một lần thầy giáo đã phải giận dữ thốt lên rằng: “Chưa bao giờ tao thấy một học sinh nào quá quắt như mày." Ngày nọ, thay vì đến trường, tôi lại trốn học ra đồng. Cha tôi biết được, ông giận dữ và thay vì đưa tôi về nhà, ông lại dẫn tôi vào một nhà nguyện. Ông xô tôi đến trước bàn thờ Đức Mẹ đang mỉm cười và quát: “Thằng khốn nạn, qùy xuống." Và rồi ông ngước nhìn lên tượng Đức Mẹ và nói: “Xin Mẹ nhận lại thằng nhỏ này, vì quả thực con không còn biết phải làm gì với nó nữa. Xin Mẹ lo lắng cho nó để một ngày kia, nó khỏi trở thành một tướng cướp, bị treo cổ trên dây."

Nhưng lời nói của cha tôi như một làn roi quất mạnh vào tôi. Tôi cảm thấy đau hơn tất cả các trận đòn từng bị đánh trước đây. Và nhìn lên Đức Mẹ đang mỉm cười tôi tự nhủ: “Nếu cha tôi đã phó thác tôi cho Đức Mẹ thì tôi phải minh chứng được Đức Mẹ đã làm điều gì đó tốt đẹp cho tôi’. Với sự trợ giúp của Đức Mẹ, Emile đã thay đổi, đi tu, thụ phong Linh mục, Giám mục và truyền giáo ở vùng thổ dân ngoại giáo ở Canada.

Kể lại câu chuyện này, đức cha không chỉ muốn dạy cho chúng ta cách thức hay nhất để chúng ta có thể dạy dỗ, uốn nắn sửa sai con cái, nhất là những đứa ngỗ nghịch, khó dạy hay bướng bỉnh quậy phá như Emile. Điều mà Chúa muốn xác tín với chúng ta cũng như với tất cả các gia đình Công giáo: “Mẹ Maria rất gần gũi, gắn bó và quan tâm đến những nhu cầu, khó khăn và cay cực của các gia đình."

7. Mẹ chúng ta

Thánh Aelred thành Rievaulx, một tu sĩ dòng Xitô và là người cùng thời với Thánh Bernard thành Clairaux, đã chỉ ra cho chúng ta thấy vai trò thần linh của Đức Maria:

Chúng ta nợ Mẹ Maria sự tôn kính, vì Mẹ là Mẹ của Chúa chúng ta. Ai không tôn kính Người Mẹ thì làm mất lòng Người Con. Ngoài ra, Kinh thánh nói: Hãy tôn vinh cha và mẹ của bạn... Như chúng ta đã biết và tin tưởng, khi tất cả chúng ta chết đi trong tội lỗi, bóng tối và đau khổ. Trong cái chết, vì chúng ta đã mất Thiên Chúa; trong tội lỗi, vì sự tham lam của chúng ta; trong bóng tối, vì chúng ta không có ánh sáng của sự khôn ngoan, và do đó đã bị diệt vong hoàn toàn. Nhưng sau đó chúng tôi được sinh ra, tốt đẹp hơn nhiều so với Evà, nhờ Đức Maria, vì Chúa Kitô được Mẹ sinh ra. Chúng ta được phục hồi cuộc sống mới thay cho tội lỗi, sự bất tử thay cho sự chết, ánh sáng thay cho bóng tối. Mẹ là mẹ của chúng ta, mẹ của Nguồn Sống [Chúa Giêsu], mẹ của sự cứu chuộc [Chúa Giêsu], mẹ của ánh sáng [Chúa Giêsu]. Thánh Phaolô tông đồ nói về Chúa của chúng ta: “Người đã trở nên vì chúng ta, nhờ quyền năng của Chúa Cha, sự khôn ngoan và công chính, sự thánh thiện và sự cứu chuộc cho chúng ta. [Mẹ Maria] sau đó, với tư cách là mẹ của Chúa Kitô, là mẹ của sự khôn ngoan và công chính của chúng ta, về sự thánh thiện và cứu chuộc của chúng ta. Mẹ là Mẹ của chúng ta nhiều hơn mẹ của chúng ta. Được sinh ra từ Mẹ là tốt đẹp hơn, vì từ Mẹ sinh ra là sự thánh thiện, sự khôn ngoan, công chính, sự thánh hóa, sự cứu chuộc của chúng ta.

Tất cả chúng ta đã nhận được sự sống mới trong Chúa Kitô và Mẹ Maria đã thụ thai và sinh ra Người.

Lời Chúa Tuần 8 Thường Niên
Thường niên V-GS C-PS Ngoại lịch