16/03/24
THỨ BẢY TUẦN 4 MC
Ga 7,40-53
KHÂM PHỤC CÁC VỆ
BINH
Các vệ binh trở về trả lời: “Xưa nay chưa hề có ai nói năng như người ấy.” (Ga 7,50-51)
Giàu lương tri: họ không thể bắt người vô tội.
16/03/24
THỨ BẢY TUẦN 4 MC
Ga 7,40-53
KHÂM PHỤC CÁC VỆ
BINH
Các vệ binh trở về trả lời: “Xưa nay chưa hề có ai nói năng như người ấy.” (Ga 7,50-51)
Giàu lương tri: họ không thể bắt người vô tội.
LỜI CHÚA TUẦN 4 MÙA CHAY
CÂU TRUYỆN MINH HỌA
LỜI CHÚA TUẦN 4 MÙA CHAY
CÂU TRUYỆN MINH HỌA
Lời Chúa: Ga 9, 1-41 (bài dài)
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu
đi qua, thấy một người mù từ khi mới sinh. Môn đệ hỏi Người: "Thưa Thầy,
ai đã phạm tội, anh này hay cha mẹ anh, khiến anh mù từ khi mới sinh?"
Chúa Giêsu đáp: "Không phải anh cũng chẳng phải cha mẹ anh đã phạm tội,
nhưng để công việc của Thiên Chúa tỏ ra nơi anh. Bao lâu còn ban ngày, Ta phải
làm những việc của Đấng đã sai Ta. Đêm đến không ai có thể làm việc được nữa.
Bao lâu Ta còn ở thế gian, Ta là sự sáng thế gian.” Nói xong, Người nhổ xuống đất,
lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy và bảo: "Anh
hãy đến hồ Silôê mà rửa" (chữ Silôê có nghĩa là được sai) Anh ta ra đi và
rửa, rồi trở lại thì trông thấy được.
Những người láng giềng
và những kẻ xưa kia từng thấy anh ta ăn xin đều nói: "Đó chẳng phải là người
vẫn ngồi ăn xin sao?" Có kẻ nói: "Đúng hắn!" Lại có người bảo:
"Không phải, nhưng là một người giống hắn.” Còn anh ta thì nói: "Chính
tôi đây.” Họ hỏi anh: "Làm thế nào mắt anh được sáng?" Anh ta nói:
"Người mà thiên hạ gọi là Giêsu đã làm bùn xức mắt tôi và bảo: Ngươi hãy đến
hồ Silôê mà rửa. Bấy giờ tôi đi, tôi rửa và tôi trông thấy.” Họ lại hỏi:
"Ngài ở đâu?" Anh thưa: "Tôi không biết.”
Họ liền dẫn người
trước kia bị mù đến với những người biệt phái, lý do tại Chúa Giêsu hoà bùn và
chữa mắt cho anh ta lại nhằm ngày Sabbat. Các người biệt phái cũng hỏi anh ta
do đâu được sáng mắt? Anh đáp: "Ngài đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và
tôi được sáng mắt.” Mấy người biệt phái nói: "Người đó không phải bởi
Thiên Chúa, vì không giữ ngày Sabbat.” Mấy kẻ khác lại rằng: "Làm sao một
người tội lỗi lại làm được những phép lạ thể ấy?" Họ bất đồng ý kiến với
nhau. Họ liền quay lại hỏi người mù lần nữa: "Còn anh, anh nói gì về người
đã mở mắt cho anh?" Anh đáp: "Đó là một tiên tri.”
Nhưng người Do thái
không muốn tin anh đã mù và đã được khỏi trước khi đòi cha mẹ anh đến. Họ hỏi
hai ông bà: "Người này có phải là con hai ông bà mà ông bà bảo bị mù từ
khi mới sinh không? Do đâu mà bây giờ nó lại trông thấy?" Cha mẹ y thưa rằng:
"Chúng tôi xác nhận đây chính là con chúng tôi, và nó đã bị mù từ khi mới
sinh. Nhưng làm sao mà bây giờ nó trông thấy, và ai đã mở mắt cho nó thì chúng
tôi không biết. Nó khôn lớn rồi, các ông hãy hỏi nó, nó sẽ tự thưa lấy.” Cha mẹ
anh ta nói thế bởi sợ người Do thái, vì người Do thái đã bàn định trục xuất khỏi
hội đường bất cứ ai dám công nhận Chúa Giêsu là Đấng Kitô. Chính vì lý do này
mà cha mẹ anh ta nói: "Nó khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó.”
Lúc ấy người Do
thái lại gọi người trước kia đã mù đến và bảo: "Anh hãy tôn vinh Thiên
Chúa! Phần chúng ta, chúng ta biết người đó là một kẻ tội lỗi.” Anh ta trả lời:
"Nếu đó là một người tội lỗi, tôi không biết; tôi chỉ biết một điều: trước
đây tôi mù và bây giờ tôi trông thấy.” Họ hỏi anh: "Người đó đã làm gì cho
anh? Người đó đã mở mắt anh thế nào?" Anh thưa: "Tôi đã nói và các
ông đã nghe, các ông còn muốn nghe gì nữa? Hay là các ông cũng muốn làm môn đệ
Ngài chăng?" Họ liền nguyền rủa anh ta và bảo: "Mày hãy làm môn đệ của
người đó đi, còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của Môsê. Chúng ta biết Thiên
Chúa đã nói với Môsê, còn người đó chúng ta không biết bởi đâu mà đến.” Anh
đáp: "Đó mới thật là điều lạ: người đó đã mở mắt cho tôi, thế mà các ông
không biết người đó bởi đâu. Nhưng chúng ta biết rằng Thiên Chúa không nghe lời
những kẻ tội lỗi, mà hễ ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý Chúa, thì kẻ đó mới
được Chúa nghe lời. Xưa nay chưa từng nghe nói có ai đã mở mắt người mù từ khi
mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì.” Họ bảo
anh ta: "Mày sinh ra trong tội mà mày dám dạy chúng ta ư?" Rồi họ đuổi
anh ta ra ngoài.
Chúa Giêsu hay tin
họ đuổi anh ta ra ngoài, nên khi gặp anh, Người liền bảo: "Anh có tin Con Thiên
Chúa không?" Anh thưa: "Thưa Ngài, nhưng Người là ai để tôi tin Người?"
Chúa Giêsu đáp: "Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang nói với
anh.” Anh ta liền nói: "Lạy Ngài, tôi tin", và anh ta sấp mình thờ lạy
Người. Chúa Giêsu liền nói: "Chính vì để luận xét mà Ta đã đến thế gian hầu
những kẻ không xem thấy, thì được xem thấy, và những kẻ xem thấy, sẽ trở nên
mù.” Những người biệt phái có mặt ở đó liền nói với Người: "Thế ra chúng
tôi mù cả ư?" Chúa Giêsu đáp: "Nếu các ngươi mù, thì các ngươi đã không
mắc tội; nhưng các ngươi nói 'Chúng tôi xem thấy', nên tội các ngươi vẫn còn.”
Đó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài ngắn này: Ga 9, 1. 6-9. 13-17. 34-38
Khi ấy, Chúa Giêsu
đi qua, thấy một người mù từ khi mới sinh. Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng
trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy, và bảo: "Anh hãy đến hồ
Silôe mà rửa" (chữ Silôe có nghĩa là được sai). Anh ta ra đi và rửa, rồi
trở lại thì trông thấy được.
Những người láng giềng
và kẻ xưa kia từng thấy anh ta ăn xin đều nói: "Đó chẳng phải là người vẫn
ngồi ăn xin sao?" Có kẻ nói: "Đúng hắn.” Lại có người bảo:
"Không phải, nhưng là một người giống hắn.” Còn anh ta thì nói:
"Chính tôi đây.”
Họ liền dẫn người
trước kia bị mù đến với những người biệt phái, lý do tại Chúa Giêsu hoà bùn và
chữa mắt cho anh ta lại nhằm ngày Sabbat. Các người biệt phái cũng hỏi anh ta
do đâu được sáng mắt. Anh đáp: "Ngài đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và
tôi được sáng mắt.” Mấy người biệt phái nói: "Người đó không phải bởi
Thiên Chúa, vì không giữ ngày Sabbat.” Mấy kẻ khác lại rằng: "Làm sao một
người tội lỗi lại làm được những phép lạ thể ấy?" Họ bất đồng ý kiến với
nhau. Họ liền quay lại hỏi người mù lần nữa: "Còn anh, anh nói gì về người
đã mở mắt cho anh?" Anh đáp: "Đó là một Tiên tri.” Họ bảo anh ta:
"Mày sinh ra trong tội mà mày dám dạy chúng ta ư?" Rồi họ đuổi anh ta
ra ngoài.
Chúa Giêsu hay tin
họ đuổi anh ra ngoài, nên khi gặp anh, Người liền bảo: "Anh có tin Con
Thiên Chúa không?" Anh thưa: "Thưa Ngài, nhưng Người là ai để tôi tin
Người?" Chúa Giêsu đáp: "Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang
nói với anh.” Anh ta liền nói: "Lạy Ngài, tôi tin", và anh ta sấp
mình thờ lạy Người. Đó là lời Chúa.
TRUYỆN KỂ
1. Hãy biết mình
Có hai vợ chồng đi
tham quan một cửa hàng trưng bày tranh thêu lụa. Vừa bước tới cửa bà vợ đã chăm
chú nhìn vào bên trong một hồi lâu rồi nhận xét: “Tranh gì đâu mà xấu vậy?
Thêu người đàn bà chẳng giống ai!”
Ông chồng vội bịt
miệng bà và nói: “Không phải tranh đâu, đó là gương đấy. Đó là hình ảnh của bà
được phản chiếu qua gương đấy! Chớ nhận xét hồ đồ!” Người đàn bà quá xấu hổ
đành bỏ ra về.
Đó cũng là cảnh mù
loà đáng thương của nhiều người trong chúng ta. Khi chúng ta phê bình chỉ trích
người khác đang khi chính chúng ta vẫn còn đó đầy những lỗi lầm. Khi chúng ta
chê bai anh em đang khi chúng ta vẫn còn đó những khuyết điểm và thói hư tật xấu.
Chúng ta thường cắt nghĩa tốt về mình nhưng lại quá hà khắc về lối sống của tha
nhân. Chúng ta thường mù loà về bản thân mình nhưng lại thích soi mói anh em.
2. Có nhiều hình thức
mù quáng gây ra hậu quả rất tai hại:
Mù quáng vì tham
lam
Sách Các Vua có thuật
lại câu chuyện hoàng hậu I-dơ-ven, vợ vua A-kháp, vì tham lam muốn chiếm đoạt
vườn nho của ông lão nghèo Na-vốt, đã dàn dựng một vụ án quy kết Na-vốt tội
nguyền rủa Thiên Chúa và nguyền rủa đức vua, rồi tuyên án ông phải bị ném đá chết.
Lòng tham lam đã làm cho hoàng hậu I-dơ-ven ra mù quáng đến độ đang tâm giết hại
một ông lão nghèo vô tội để chiếm đoạt vườn nho của ông ta. (sách các vua I,
chương 21)
Mù quáng vì ghen tị
Sách Samuel ghi lại
rằng vua Sa-un rất yêu thương Đavít, nhưng khi Đavít hạ được tên tướng giặc khổng
lồ là Gô-li-át để cứu nguy cho quân dân Israel và quay trở về trong chiến thắng,
“thì phụ nữ từ hết mọi thành của Israel kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Sa-un,
với trống con, với tiếng reo mừng và tiếng não bạt. Họ vui đùa ca hát rằng:
“Vua Sa-un hạ được hàng ngàn, còn Đavít hàng vạn.” Khi nghe lời đó, vua Sa-un uất
lên vì ghen tị. Lòng ghen tị làm cho vua đâm ra mù quáng, đổi lòng yêu thương
ra thù ghét và truy lùng Đavít khắp nơi quyết giết cho bằng được vị anh hùng kiệt
xuất nầy. (Samuen I, chương 18)
3. Không thấy được
tội mình
Ông Dale Carnegie,
(1888-1955) một nhà văn và nhà thuyết trình danh tiếng người Mỹ, viết nhiều cuốn
sách nổi tiếng được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, cho rằng: “Tôi
phải mất 33 năm trời để khám phá ra sự thật này là cho dù người ta có mắc phải
những lầm lỗi nặng nề đến đâu, thì trong 100 lần phạm lỗi, có đến 99 lần người
ta chẳng trách mình gì cả,[1]” như thể mình vô tội.
4. Ánh sáng từ trái
tim
Chúa Giêsu chữa một
người mù từ khi mới sinh và cho biết Chúa là ánh sáng chiếu soi trần gian.
Một cụ già trong một
làng quê một hôm đặt câu hỏi cho các thanh niên: “Làm sao biết được trời
còn tối hay đã sáng?” Một người trả lời:
– Khi ở tận chân trời
có con trâu với con bò mà phân biệt được thì trời đã sáng; nếu không phân biệt
được thì trời còn tối.
– Chưa đúng hẳn!
Một người khác:
– Khi ở mãi chân trời
có cây dừa với cây chuối mà phân biệt được thì trời đã sáng; nếu không phân biệt
được thì trời còn tối.
– Chưa đúng hẳn!
– Vậy cụ dạy thế
nào ạ?
– Khi có một người
đến với chúng ta, bất kể tuổi tác, màu da, tiếng nói, tôn giáo, học vấn, tính
tình, quá khứ… mà chúng ta nhận ra đó là một người anh em, thì trời đã sáng; nếu
không thì trời còn tối.
5. Tâm và thân
Một vị Nhật hoàng
sau khi làm việc căng thẳng muốn thư giãn, nên xin các quan tìm cho một người
biết nói đùa. Người ta dẫn đến cho ông một thiền sư.
Nhật hoàng:
– Ta muốn nhà ngươi
nói đùa cho ta nghe.
– Tâu bệ hạ, xin bệ
hạ nói trước để hạ thần nói đùa theo.
– Ta thấy nhà ngươi
giống y hệt một con lợn!
– Tâu bệ hạ, còn hạ
thần thì thấy bệ hạ giống y hệt Đức Phật!
– Tại sao ta bảo
nhà ngươi là con lợn mà nhà ngươi lại bảo ta là Đức Phật?
– Tâu bệ hạ, dễ hiểu
lắm ạ: ai có tâm của Phật thì nhìn vào đâu cũng thấy Đức Phật; còn ai có tâm của
lợn thì nhìn vào đâu cũng thấy lợn!
Lạy Chúa Giêsu, xin
cho con trái tim của Chúa, để con nhận thấy mọi người đều là anh em, và nhận thấy
mọi anh em đều là hiện thân của Chúa.
6. Không chịu mở mắt
ra
Trong công việc mục
vụ thăm viếng, tôi có dịp đến thăm một bà già bị mù từ lúc bẩm sinh. Qua tâm sự
tôi biết được sự khao khát lớn nhất của bà là được nhìn thấy ánh sáng để đi đọc
kinh, xem lễ và làm việc dễ dàng hơn.
Nhưng điều làm tôi
nể phục là bà không bao giờ bỏ một lễ Missa nào, cho dù là trời mưa gió đường
khó đi, hay lễ sớm trời tối. Bà vẫn đi dự lễ với cây gậy tre, bà mò mẫm từng bước
một thật cực khổ. Bà cũng thuộc được rất nhiều câu Kinh Thánh và các kinh đọc
hàng ngày….
Nhưng ngược lại, có
rất nhiều người sáng mắt gần đó tôi không bao giờ thấy đi dự lễ Missa hàng
ngày, mà chỉ thấy có mỗi ngày Chúa Nhật, khi được hỏi nguyên do tại sao, thì họ
trả lời là do trời tối đi không được. Do đó tôi mới đi đến kết luận là nếu nhìn
thấy ánh sáng thì mỗi người phải tự mình biết “mở mắt” ra để đón nhận ánh sáng.
Bà già mù tôi viếng
thăm, tuy không thấy gì bên ngoài, cặp mắt bà đã bị hư từ lúc mới sinh, cũng giống
như anh mù trong bài Tin Mừng hôm nay. Hay nói đúng hơn cả hai chỉ bị mù con mắt
thân xác, nhưng con mắt tâm hồn họ không mù. Họ đang chờ đợi một ánh sáng xuất
hiện, chỉ cần một cơ hội là họ nhận ra, họ bước theo ngay.
Trong suốt bài Tin
Mừng là một hành trình của người mù, anh tiến vào ánh sáng đức tin một cách tiệm
tiến. Tuy anh chỉ là người thụ ơn và đến lúc sáng mắt vẫn chưa biết người chữa
mình là Ánh Sáng Thế Gian. Việc lành bệnh đối anh chỉ là điều không tưởng,
nhưng đó lại là sự thật anh đã sáng mắt, mà anh chỉ biết mình được sáng mắt là
nhờ ông Giêsu nào đó đã lấy bùn thoa vào mắt và anh vâng lời đi rửa và đã nhìn
thấy.
7. Ai mù? Ai sáng?
Trong tập truyện có
tựa đề: “Một trăm lẻ một giai thoại về Thiền”, tác giả Xen-da-ki có ghi lại câu
chuyện sau đây:
Thời xa xưa, mỗi lần
ra khỏi nhà trong đêm tối, người Nhật Bản thường dùng những chiếc lồng đèn. Một
đêm kia, một người mù đến thăm một người bạn. Lúc ra về thấy người mù đi hai
tay không người bạn mới lấy một chiếc lồng đèn trao cho anh ta. Nhưng người mù
từ chối và hỏi:
– Đối với một người
mù như tôi thì cầm chiếc lồng đèn để làm gì? Bóng đêm hay ánh sáng đối với tôi
đều như nhau cả.
Người bạn trả lời:
– Tôi vẫn biết rằng
anh không cần lồng đèn để soi đường. Nhưng nếu anh không cầm trong tay thì kẻ
khác sẽ không thấy anh và như vậy có thể sẽ đụng vào anh.
Nghe thế, người mù
đành cầm lấy lồng đèn ra về. Đi được một đoạn đường, người mù bị một kẻ đi đường
tông vào mình. Không tự chế được, người mù quát tháo inh ỏi:
– Bộ đui sao? Không
thầy chiếc lồng đèn tôi đang cầm đây sao?
Người kia bình tĩnh
phân trần:
– Này ông bạn, ông
bạn đang cầm lồng đèn. Nhưng ngọn đèn bên trong đã tắt rồi.
Thế là người mù cầm
đèn cũng không thấy đường. Còn người sáng mắt lại không thấy đèn của người mù.
Vậy ai mới thật là người mù?
8. Cửa sổ tâm hồn
Chuyện kể rằng, có
một người mù lúc nào cũng kết thúc lời cầu nguyện của mình bằng câu: “Nếu
điều đó có ích cho phần rỗi con.”
Một hôm, người ta dẫn
ông đến trước mộ thánh Thomas thành Cantorbery để xin Người chữa cho ông sáng mắt.
Ông được nhận lời. Mắt ông liền mở ra. Cảnh vật tưng bừng reo vui trước mắt
ông. Khi nỗi vui mừng đầu tiên trôi qua, ông mới chợt nhớ là mình đã quên thêm
vào lời cầu nguyện kết thúc: “Nếu điều đó có ích cho phần rỗi con.”
Ông liền trở lại viếng
mộ thánh, và xin được mù trở lại nếu điều đó đem lại lợi ích cho linh hồn ông.
Thế là ông lại mù như trước.
9. Ánh sáng
Khi William
Montague Dyke được 10 tuổi, cậu đã bị mù mắt trong một tai nạn. Mặc dù bị tàn tật,
William đã tốt nghiệp đại học ở Anh Quốc với bằng danh dự ưu hạng. Khi còn ở
nhà trường, anh đã yêu người con gái của một sĩ quan cao cấp của hải quân hoàng
gia Anh, và họ đã hứa hôn với nhau. Không lâu trước đám cưới, William đã được
giải phẫu với hy vọng có thể phục hồi lại thị giác, nếu cuộc giải phẫu thành
công. Còn nếu thất bại, anh sẽ bị mù suốt đời. William đã muốn giữ nguyên những
giải băng trên mặt cho đến ngày lễ cưới. Nếu cuộc giải phẫu thành công, anh muốn
rằng người đầu tiên nhìn thấy sẽ là cô dâu.
Ngày đám cưới đã đến.
Rất nhiều quan khách được mời, gồm cả hoàng gia, các thành phần trong nội các
chính phủ, và nhiều vị thân hào nhân sĩ nổi tiếng trong xã hội. Tất cả đã qui tụ
nhau lại để chứng kiến những lời đoan hứa của đôi tân hôn. Cha của chú rể,
William Hart Dyke và ông bác sĩ giải phẫu mắt đứng bên cạnh chú rể với đôi mắt
vẫn còn bị băng kín. Tiếng kèn trumpet từ chiếc đàn organ trỗi lên bắt đầu cho
từng bước chân hồi hộp của cô dâu từ từ tiến bước trên nền vải trắng dẫn lên
bàn thờ. Ngay khi cô dâu tới bàn thờ, bác sĩ giải phẫu lấy từ trong túi áo ra một
cái kéo để cắt những miếng băng bịt mắt của William. Sự im lặng căng thẳng bao
trùm lấy nguyện đường. Cả cộng đoàn nín thở chờ đợi xem William có thể nhìn thấy
cô dâu đang đứng trước mặt chú rể hay không. Khi vừa đứng đối diện với cô dâu,
những lời nói mừng rỡ của William vang lên khắp giáo đường: “Em đẹp hơn
anh tưởng tượng nhiều!”
Tác giả đã kết luận
câu chuyện bằng những hàng chữ như sau: “Một ngày nào đó những miếng
băng che phủ con mắt của chúng ta sẽ được lấy đi. Khi chúng ta đối diện với
Chúa Giêsu Kitô và nhìn thấy khuôn mặt của Ngài lần đầu tiên, vinh quang sáng
ngời của Ngài sẽ chiếu sáng rực rỡ và huy hoàng hơn bất cứ cái gì chúng ta đã từng
tưởng tượng ra trong cuộc đời này.”
10. Anh vẫn còn mù
Có một người kia,
sinh ra đã bị mù, anh sống trong một gian phòng, bởi vì không nhìn thấy gì nên
anh phủ nhận tất cả những gì những người chung quanh quả quyết là có: “Tôi
không tin, vì tôi có thấy đâu nào.” Một vị lương y thấy vậy thì thương
hại anh, ông đi tìm một thứ linh dược chữa cho anh được sáng mắt, anh sung sướng
quá, tự phụ nói: “Giờ đây tôi đã thấy được tất cả sự thật chung quanh
tôi rồi.” Nhưng có người nói với anh: “Bạn ơi, bạn mới chỉ thấy
được những vật chung quanh bạn trong căn phòng này thôi. Như thế có là bao,
ngoài kia người ta còn thấy được mặt trời, mặt trăng và các tinh tú hằng hà sa
số, còn biết bao vật khác mà bạn chưa thấy, bạn đừng tự phụ như vậy.” Anh
tỏ vẻ không tin, lại còn nói mạnh hơn: “Làm gì có được những cái đó, những
gì có thể thấy được, tôi đã thấy tất cả rồi.”
Một vị y sĩ khác
lên tận núi cao, gặp được Sơn Thần chỉ cho một thứ linh dược khác, đem về giúp
cho anh được cặp mắt sáng hơn và thấy xa hơn. Bây giờ anh thấy được mặt trời, mặt
trăng và các tinh tú trên không trung. Mừng quá và lòng tự phụ tự đắc lại tăng
thêm, anh nói với mọi người: “Trước đây tôi không tin, nhưng bây giờ
tôi thấy, tôi tin. Như thế giờ đây không còn có gì mà tôi chẳng thấy, chẳng biết,
đâu còn ai hơn tôi được nữa.”
Thấy anh ta tự phụ
như vậy, một hiền nhân nói với anh: “Cậu ơi, cậu vừa hết mù, nhưng cậu
cũng vẫn chưa biết gì cả. Tại sao cậu lại quá tự phụ như thế? Với chừng mực và
giới hạn của tầm mắt, cậu làm gì biết có những vật ngoài ngàn dặm mà mắt cậu
không làm sao thấy được. Cậu có thấy được những nguyên nhân nào đã cấu tạo ra cậu
khi cậu còn nằm trong bào thai của mẹ cậu chăng? Ngoài cái vũ trụ nhỏ bé mà cậu
đang sống đây, còn không biết bao nhiêu vũ trụ khác vô cùng to lớn và nhiều
không kể hết như cát ở bãi biển, cậu có thấy không? Tại sao cậu dám tự phụ bảo
rằng: “Tôi thấy cả, tôi biết cả rồi.” Cậu vẫn còn là một anh mù, cậu vẫn còn lấy
tối làm sáng, lấy sáng làm tối.”
11. Mù loà và mù
quáng
Ngày xưa ở Ấn Độ,
có một vị vua muốn tìm trò tiêu khiển, bèn nảy ra ý tưởng như sau: Vua cho quân
lính đi lùng kiếm năm người mù bẩm sinh chưa hề biết con voi là gì để đưa về
triều làm trò tiêu khiển. Rồi vua cho đưa đến một con voi khổng lồ và bảo năm
anh mù:
Các ngươi chưa hề
biết voi là gì thì hôm nay Trẫm sẽ cho các ngươi được biết. Các ngươi hãy tiến
lại sờ voi rồi mô tả cho Trẫm và quần thần quanh đây biết hình hài con voi ra
sao. Ai mô tả đúng nhất sẽ được trọng thưởng.
Sau một hồi sờ voi,
anh thứ nhất tâu:
– Tâu bệ hạ! Con
voi giống y như cột nhà! Đó là người sờ trúng chân voi.
Anh thứ hai thưa:
– Voi giống như cái
quạt lớn. Đó là người sờ trúng tai voi.
– Voi giống như một
khúc rễ cây ngoằn ngoèo! (đó là mô tả của anh sờ trúng vòi voi).
– Voi giống như một
tảng đá lớn, tròn tròn! (đó là phát biểu của người sờ trúng bụng voi)
Anh thứ năm cho rằng
bốn anh kia đều sai bét, và phần thưởng chắc chắn thuộc về mình. Anh đắc chí
tâu:
– Lâu nay hạ thần
tưởng rằng voi là con vật to ghê lắm. Nào ngờ giờ đây chính tay hạ thần sờ thấy
voi chỉ giống như cái chổi cùn! (vì anh sờ trúng đuôi voi).
Anh nào cũng hăng
say và quyết liệt bênh vực ý kiến của mình, cho rằng duy chỉ có mình là đúng và
những người khác đều sai. Họ tranh cãi nhau kịch liệt. Người nầy chê trách người
khác là ngu, là mù, là dốt nát! Rốt cuộc, chẳng ai chịu thua ai, cả năm người nổi
khùng lên, xông vào đấm đá nhau hung tợn, máu mồm máu mũi trào ra thảm hại…
Trong khi đó nhà
vua và triều thần ôm bụng cười ngặt nghẽo! Cười cho sự mù quáng đáng thương.
Cả năm anh mù nầy đều
thuộc diện mù loà bẩm sinh, nhưng đồng thời cũng là những người mù quáng nặng nề.
12. Bây giờ tôi đã
thấy
Vào thập niên 1960,
John Howard Griffin ngụy trang thành một người da đen đi chơi vòng quanh miền
Nam. Ông muốn trực tiếp cảm nghiệm được sự kiện phải làm người da đen trong những
năm ầm ĩ về vấn đề chủng tộc này. Griffin mô tả lại cảm nghiệm của mình trong một
cuốn sách nhan đề Black Like Me (đen như tôi). Cuốn sách này về sau được dựng
thành phim.
Tuy nhiên còn một
khía cạnh khác trong cuộc đời của John Howard Griffin mà rất ít người biết đến:
trong thế chiến thứ hai, John đã bị mù trong một vụ nổ máy bay suốt 12 năm sau
đó, ông không trông thấy gì cả. Một hôm, trong khi bước xuống con phố cạnh nhà
bố mẹ ông ở Texas, thình lình John bỗng thấy được “cát đỏ” (red sand) trước mắt
ông. Thị giác của ông đã phục hồi trở lại mà chẳng hề báo trước. Về sau, một
bác sĩ chuyên khoa mắt cắt nghĩa cho ông là vết máu tụ thần kinh thị giác do vụ
nổ gây ra được khai thông, vì thế thị giác ông phục hồi trở lại. Khi bình luận
về kinh nghiệm này, Griffin đã kể lại cho một phóng viên báo chí như sau:
“Quí bạn không cảm
nghiệm được những gì mà một ông bố cảm nghiệm khi nhìn thấy con cái mình lần đầu
tiên đâu. Cả bố với con đều tuyệt vời hơn tôi nghĩ rất nhiều”
Giai đoạn bi đát
trong đời Griffin giúp anh ta đánh giá sâu sắc hơn câu chuyện của bài Phúc âm
hôm nay, nó giúp chúng ta hiểu rõ hơn cảm giác người mù từ lúc mới sinh khi anh
ta được Chúa Giêsu chữa lành thật kỳ kiệu như thế nào.
13. Nếm trải Giêsu
Người ta kể câu
chuyện về một cha xứ già ở nông thôn lắng nghe một giáo sư chủng viện đưa ra vấn
nạn về những vấn đề cốt lõi của đức tin. Khi giáo sư kết thúc bài giảng của
mình, cha xứ lớn tuổi đứng dậy, lấy một quả táo từ túi đựng đồ ăn trưa của mình
bắt đầu ăn rồi nói: “Thưa giáo sư, tôi chưa đọc những sách mà ngài đã trích dẫn.”
Rồi ngài cắn một miếng táo nữa. “Thưa giáo sư, tôi không biết nhiều về những
nhà tư tưởng vĩ đại mà ngài đã đề cập,” rồi ngài cắn thêm một miếng táo nữa.
“Thưa giáo sư, tôi thừa nhận là tôi chưa nghiên cứu Kinh Thánh như cách của
ngài”, khi ngài ăn xong quả táo. “Tôi chỉ đang thắc mắc, quả táo mà tôi vừa ăn
này chua hay ngọt đây? Cha xứ già trả lời cho vị giáo sư: “Với tất cả sự tôn trọng,
thưa ngài, tôi chỉ tự hỏi liệu ngài đã bao giờ nếm trải Chúa Giêsu của tôi
chưa?”
* Người mù được
sáng mắt trong bài Tin Mừng hôm nay nói: “Dù phương pháp chữa trị có được khoa
học chấp thuận hay không, trước đây tôi bị mù, nhưng bây giờ tôi thấy được.”
Các bạn tranh luận và giải thích tất cả những gì bạn muốn, nhưng với tôi như vậy
là quá đủ. (Tiến sĩ J. Howard Olds)
14. Ánh sáng dẫn đường
ĐHY Henry Newman là
giáo sư tại Đại học Oxford. Khi còn là một linh mục Anh giáo, cùng với các học
giả khác, ngài đã khởi đầu phong trào Oxford. Năm ba mươi hai tuổi, sức khỏe yếu,
ngài tạm ngừng viết lách và sang châu Âu dưỡng bệnh. Nhưng thật không may, ngài
lại mắc phải một cơn sốt nặng. Ngài muốn trở về Anh, nhưng không có phương tiện
đi lại. Khi ngài chờ đợi, cuộc sống của ngài trở nên cô đơn và tẻ nhạt; ngài đã
trải qua sự tuyệt vọng lớn về thể chất và tinh thần. Sau đó, ngài đã viết một
bài thánh ca hay để cầu xin Chúa ban ánh sáng: “Hỡi Ánh Sáng nhân từ, giữa bóng
tối bao trùm, xin hãy dẫn dắt con; Đêm tối, và con lại xa nhà; Xin dẫn con đi
tiếp: Xin giữ chân con; Con không đòi được thấy: cảnh xa – chỉ một bước đủ cho
con.”
* Trong lúc bối rối
và đau khổ, Newman đã cầu nguyện Thiên Chúa là Ánh Sáng dẫn dắt ngài từ bóng tối
đến ánh sáng, từ hoang mang đến xác tín, và từ bệnh tật đến khỏe mạnh. Chúa đã
nghe lời cầu nguyện của ngài và dẫn ngài về nhà an toàn. Năm 1845, ngài cải đạo
sang Công giáo. [John Rose in John’s Sunday Homilies; được trích dẫn bởi Fr.
Botelho.]
15. Mù quáng
Có một câu chuyện
Sufi kể về một người Hồi giáo cưỡi ngựa quyết tâm giết kẻ thù mà anh ta đang
truy đuổi. Giữa cuộc rượt đuổi, tiếng gọi cầu nguyện vang lên từ một nhà thờ Hồi
giáo. Ngay lập tức, người Hồi giáo xuống ngựa, trải chiếu và cầu nguyện những lời
cầu nguyện đã định sẵn nhanh nhất có thể, sau đó quay trở lại ngựa và tiếp tục
cuộc rượt đuổi.
* Anh ta đã đáp ứng
các yêu cầu của luật pháp nhưng lại mù quáng trước những gì luật pháp thực sự
yêu cầu: đó là sự thay lòng đổi dạ.
16. Mù lòa
Người ta kể câu
chuyện về một người đàn ông một hôm đến thăm lớp học dành cho trẻ em khiếm thị.
Băn khoăn với những gì mình nhìn thấy, người đàn ông nhận xét một cách thiếu tế
nhị trước sự có mặt của chúng: “Sẽ rất kinh khủng khi sống mà không có mắt.” Một
bé gái nhanh nhảu đáp: “Chả bằng có hai mắt còn sáng mà không thấy.”
* Có mù lòa về thể
lý, và có một dạng mù lòa khác, còn bi đát hơn, ảnh hưởng đến tinh thần. Cả hai
hình thức đui mù đều có mặt trong bài Tin Mừng hôm nay. (Linh mục Johnny Dean).
17. Thấy lại
Trong Thế chiến II,
John Howard Griffin bị mù trong một vụ nổ máy bay. Trong 12 năm tiếp theo, anh
không thể nhìn thấy gì. Sau đó, một ngày nọ, anh đang đi bộ trên một con phố gần
nhà của cha mẹ anh ở Texas. Đột nhiên anh bắt đầu nhìn thấy “cát đỏ” trước mắt
mình. Không có dấu hiệu báo trước, thị giác của anh trở lại. Sau đó, một chuyên
gia về mắt đã giải thích với anh rằng sự tắc nghẽn máu đến dây thần kinh thị
giác do vụ nổ đã mở ra, khiến thị lực của anh quay trở lại. Nhận xét về trải
nghiệm này, Griffin nói với một phóng viên tờ báo: “Bạn không biết lần đầu tiên
một người cha nhìn thấy con cái của mình là như thế nào. Cả hai đều đẹp hơn tôi
tưởng rất nhiều.” (Gerard Fuller in Stories for all Seasons).
* Mỗi ngày chúng ta
nhìn thấy biết bao cảnh vật tươi đẹp. Hãy tạ ơn Chúa vì hồng ân sự sáng này.
18. Xác chết chảy
máu
Một lần kia, có một
người đàn ông trong bệnh viện tâm thần, và một trong những vấn đề của anh ta là
anh tin rằng mình đã chết. Bác sĩ tâm lý đã thử mọi mánh khóe theo lý thuyết,
nhưng không gì có thể thay đổi tâm trí của anh ta. Cuối cùng, bác sĩ tâm thần
nghĩ, và ông cho đây là một bước đột phá rực rỡ. Ông khiến người đàn ông đồng ý
rằng một xác chết là vô hồn, và do đó, không có máu lưu thông, nó không thể chảy
máu. Sau khi đã chấp nhận rõ ràng sự thật đơn giản đó, bác sĩ tâm thần bắt đầu
đi thẳng vào vấn đề. Ông ta lấy một cái ghim, cầm lấy ngón tay của người đàn
ông và chích một cái đủ mạnh để lấy máu. Ông ta bóp ngón tay cho đến khi máu chảy
ra rõ ràng, rồi nói với người bệnh: “Bây giờ bạn có nhìn thấy gì không? Đó là
máu. Bạn đang chảy máu.” Người đàn ông nhìn vết máu với vẻ hoài nghi băn khoăn,
rồi anh ta quay sang bác sĩ tâm lý với vẻ kinh ngạc, và nói: “Chà, bạn biết gì
không! Xác chết chảy máu!”
* Người Pharisêu
trong bài Tin Mừng hôm nay cũng không khác gì bệnh nhân tâm thần này. (Kinh
Thánh IE).
19. Định kiến
Khi mới vào nghề,
Clarence Darrow trẻ tuổi bào chữa cho một thân chủ trước một luật sư lớn tuổi
hơn, giàu kinh nghiệm hơn, người đã mỉa mai Darrow là “gã thanh niên không có
râu.” Darrow bác bỏ: “Đối thủ xứng đáng của tôi dường như hạ thấp tôi vì tôi
không có râu. Tôi xin trả lời bằng một câu chuyện: Vua Tây Ban Nha có lần phái
một nhà quý tộc trẻ tuổi đến triều đình của một quốc vương láng giềng, người
này đã chế nhạo rằng: “Vua Tây Ban Nha thiếu đàn ông hay sao mà lại cử một cậu
bé không râu cho ta sao? Vị đại sứ trẻ tuổi trả lời: “Thưa ngài, nếu Đức Vua của
tôi cho rằng ngài đánh đồng trí tuệ với bộ râu, thì ông ấy đã gửi một con dê rồi.”
Clarence Darrow đã thắng kiện!
* Định kiến thường
làm chúng ta mù quáng. (Bennet Cerf).
20. Mù thiêng liêng
Một phụ nữ sáu mươi
tuổi sống ở một thị trấn miền Trung cuối cùng được gia đình thuyết phục đi khám
bác sĩ nhãn khoa. Bà ta chưa bao giờ đeo kính trong đời. Bác sĩ đã kiểm tra kỹ
lưỡng cho bà và yêu cầu ba ngày sau bà quay lại khi ông đã chuẩn bị sẵn kính
cho bà. Ông lắp kính và yêu cầu bà nhìn ra ngoài cửa sổ. Rất vui mừng, bà thốt
lên: “Tại sao, tôi có thể nhìn thấy tháp chuông của nhà thờ chúng ta, và nó
cách đó ba dãy nhà.” Bác sĩ hỏi: “Ý bà là bà chưa bao giờ có thể nhìn thấy gác
chuông đó ở khoảng cách ngắn như vậy?” Bà ấy tuyên bố: “Rất may là không; Tôi
chưa bao giờ biết mình có thể nhìn xa đến thế.” Chuyên gia về mắt nói: “Thưa
bà, bà đã bị mù trong nhiều năm rồi.”
* Tương tự như vậy,
nhiều người không thể nhìn thấy sự thật mà Chúa đã cho chúng ta biết… (Đức ông
Arthur Tonne)
21. Định kiến
Vào cuối những năm
1700, người quản lý của một khách sạn lớn ở Baltimore đã từ chối cho một người
đàn ông ăn mặc như nông dân vào trọ. Ông ta đuổi người nông dân đi vì ông ta
nghĩ vẻ ngoài tồi tàn của anh chàng này sẽ làm mất uy tín của khách sạn nổi tiếng
của ông. Người nông dân cầm chiếc túi của mình và bỏ đi mà không nói thêm một lời
nào với bất kỳ ai. Cuối buổi tối hôm đó, chủ khách sạn phát hiện ra rằng ông ta
đã từ chối không ai khác chính là Phó Tổng thống Hoa Kỳ, Thomas Jefferson! Ngay
lập tức, người quản lý đã gửi một bức thư xin lỗi đến nhà yêu nước nổi tiếng
này, yêu cầu ông quay lại và làm thượng khách trong khách sạn của mình.
Jefferson trả lời bằng cách nói với người đưa tin như sau: “Hãy nói với ông ấy
rằng tôi đã đặt trước một phòng. Tôi đánh giá cao ý định tốt của ông ấy, nhưng
nếu ông ấy không có chỗ cho một nông dân Mỹ bình thường, thì ông ấy không có chỗ
cho Phó Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.” [Brian Cavanaugh in The Sower’s
Seeds; được trích dẫn bởi Fr. Botelho.]
22. Viết thư
Trong cuốn sách sâu
sắc và thú vị của mình, Illustrissimi Albino Luciani (Giáo hoàng Gioan Phaolô
I), đã viết một loạt thư cho những nhân vật lịch sử và hư cấu như Mark Twain,
Pinocchio, Thợ cắt tóc Figaro, Hippocrates, Guglielmo Marconi và Chúa Giêsu.
Thư từ của Luciani với những nhân vật nổi tiếng này cho thấy tư cách trước hết
của ngài là một mục tử. Ghi nhớ câu châm ngôn cổ xưa của Kitô giáo, “per verbum
ad Verbum”, ngài tin rằng một tín hữu có thể tiếp cận Lời Thiên Chúa thông qua
việc nghiên cứu văn học. Với văn phong bình dân, thân thiện của mỗi bức thư,
Luciani đã khuyên dạy một số khía cạnh của luân lý Kitô giáo. Vị giáo hoàng qua
đời trong vòng năm tuần sau cuộc bầu cử ngày 26 tháng 8 năm 1978, đã viết trong
bức thư gửi cho Đavít, vua của Israel: “Sách Thánh trình bày những khía cạnh
khác nhau trong tính cách của ngài: nhà thơ và nhạc sĩ, sĩ quan tài giỏi, một vị
vua khôn ngoan… Than ôi! không phải lúc nào ngài cũng hạnh phúc, vì đôi khi
ngài phải liên lụy với phụ nữ và những âm mưu trong hậu cung với hậu quả là những
bi kịch gia đình. Tuy nhiên, ngài là bạn của Chúa, nhờ lòng đạo đức cao cả của
ngài, điều này đã giúp ngài nhận thức được sự tầm thường bé nhỏ của mình trước
mặt Chúa. (Illustrissimi, Letters from Pope John Paul I, Little, Brown and Co.,
Boston: 1978).
* Sự tầm thường của
Đavít cũng được ghi lại trong bài đọc được trích từ sách 1 Samuel. Là con trai
út của Giesê, bị bỏ lại ở nhà để chăn bầy gia súc, tuy nhiên Đavít lại là người
được Thiên Chúa chọn làm vua vì “Ngài nhìn thấu lòng người” (c. 7), Ngài xét
đoán con người theo một tiêu chuẩn khác. Sự thiếu kinh nghiệm của Đavít tuổi trẻ
dường như đối với cha, các anh và thậm chí cả Samuel là một trở ngại ngăn cản
việc ông lên ngôi, nhưng tất cả đã không ngăn cản kế hoạch cứu rỗi của Thiên
Chúa. (Tài liệu cha Sanchez).
Lời Chúa: Ga 3,
14-21
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu
nói với Nicôđêmô rằng: "Như Môsê đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì
Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ
không bị huỷ diệt, nhưng được sống đời đời. Vì Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi
đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất,
nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận
phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ. Ai tin Người Con ấy
thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào
danh Con Một Thiên Chúa; và đây án phạt là sự sáng đã đến thế gian, và người đời
đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật vậy, ai hành động
xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình
bị khiển trách; nhưng ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành
động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa." Đó là lời Chúa.
TRUYỆN KỂ
1. Hạt lúa mục nát
Mùa Xuân năm ấy, có
hai hạt giống nằm cạnh nhau trong thửa đất màu mỡ. Hạt giống thứ nhất hăng hái
nói: “Tôi muốn mọc lên! Tôi muốn cắm rễ sâu xuống lòng đất, và đâm chồi xuyên
qua lớp đất cứng bên trên. Tôi muốn vươn lên những búp non mơn mởn như những lá
cờ loan báo mùa xuân đã đến… Tôi muốn cảm nhận hơi ấm của mặt trời mơn man trên
mặt và hơi nước mát lạnh của sương mai trên những cánh hoa." Và nó đã mọc
lên xanh tốt.
Hạt giống thứ hai tự
nhủ: “Mình sợ lắm! Nếu cắm rễ xuống đất, mình chẳng biết sẽ gặp gì trong lòng đất
tối tăm. Nếu mình tìm đường xuyên qua lớp đất cứng bên trên, biết đâu những chồi
non yếu ớt của mình sẽ bị thương tổn… Làm sao mình có thể cho búp non xòe lá
khi một chú sâu đang chờ sẵn để xơi tái đọt lá xanh non? Và nếu mình nở hoa, một
em bé có thể nhổ đứt mình lên! Không, tốt hơn mình nên đợi cho đến lúc an toàn
hơn." Và nó tiếp tục đợi chờ… Một sáng đầu xuân, cô gà mái bới đất kiếm ăn
đã thấy hạt giống đang nằm chờ đợi. Cô chẳng đợi gì mà không mổ lấy, nuốt ngay.
2. Ánh sáng và bóng
tối
Báo Los Angeles
Times ngày 8-6-1996, viết về ông Sam Eason, một người đánh giày ở bãi đậu xe
như sau:
Sam Eason là một
người đánh bóng với tất cả ý nghĩa của danh từ ấy. Ông ta không chỉ làm cho bạn
nhìn bảnh hơn ở chiếc giá đánh giày… mà còn giúp bạn cảm thấy thoải mái vui
hơn. Với vài đường đánh giày thật khéo, ông làm cho đôi giày cũ sờn của bạn trở
nên bóng loáng. Và bằng mấy câu nói khéo, ông có thể khiến những luật sư hoặc
những người buôn chứng khoán mệt mỏi trở nên hăng hái vui tươi.
Quản lý các hệ thống
văn phòng Timothy Matthews nói: "Bất kể màu da hay màu giày của bạn, Sam
là một người bạn tốt của mọi người." Giám đốc công ty sản xuất máy
Photocopy Phil Canon thêm: "Không có gì giả tạo nơi Sam."
Trước sự giao
tế niềm nở, cảm thông và đầy tình người của Sam Eason, nhiều khách hàng dù đã đổi
đi xa, vẫn lái xe đến với ông để được đánh bóng đôi giày và được làm cho tươi
mát tâm hồn.
Người đánh giày dễ
thương ấy đã qua đời vì bệnh tiểu đường ngày thứ Hai 3-6-1996 và được an táng
đúng sinh nhật thứ 59 của ông (thứ Sáu 7-6-1996). Trên giá đánh giày bỏ trống,
khách hàng đặt những bó hoa tươi thắm ấp đầy thương nhớ. Họ kể cho nhau nghe
Sam Eason đã làm tươi mát cuộc đời họ như thế nào…
Sĩ quan cảnh sát
John Bavetta trong điếu văn đọc ở tang lễ của Sam Eason đã khóc khi kể lại hàng
trăm tập quán của Sam Eason. Trước khi chào từ biệt ông đã nói: "Bây giờ đến
lượt hào quang của Sam được đánh bóng."
3. Máu của Telmachus.
Ngày đại hội năm
444 sau kỷ nguyên, làn sóng người từ khắp nơi kéo về Rôma. Rôma tưng bừng với vẻ
của một ngày hội.
Hoàng đế Honorius
cho tổ chức các trận giác đấu mừng ngày giải phóng dân Goths. Giữa đám đông lũ
lượt đi đi lại lại, một ông già trong bộ y phục đơn giản của một vị tu trì Đông
phương trầm lặng bước đi. Tên ông là Telmachus. Nhà tu trì này chỉ chăm lo
chuyên khảo Thánh kinh và cầu nguyện. Cái trò chơi đẫm máu bỉ ổi này đã chấm dứt
ở miền Đông nơi phát xuất ra ông. Nhưng nó vẫn còn đang tiếp diễn ở Rôma, đất
nghìn năm muôn thuở, mặc dầu đã có ba vị hoàng đế tìm cách chấm dứt. Telmachus
đăm chiêu, vì ông đang suy nghĩ phải làm gì để chấm dứt trò chơi này.
Những tay giác đấu
gồm đủ mọi hạng người: có khi là những phạm nhân đã bị án tử, có khi là Kitô hữu,
thường hơn là tù binh, đôi khi có người vì tham tiền, ham danh tình nguyện...
Trận đấu đầu tiên
ghi lại trong lịch sử diễn ra năm 264 trước kỷ nguyên với 3 cặp đấu. Con số mỗi
ngày một tăng. Quốc hội phải hạn chế chỉ cho Julius Cesar được có 320 cặp để
chiến đấu trong một trận. Dưới triều Augustô, có lúc tới 10.000 tham dự trận đấu.
Hôm nay ngày tổ chức
giác đấu, 85.000 chỗ ngồi trong đại thao trường Colosseum chật ních không còn
chỗ trống.
Cái ung nhọt này
không còn cơ cứu chữa. Nhân vật duy nhất đã dám lên tiếng chỉ trích là nhà hiền
triết Sénèque. Ngoài ra còn có 3 vị hoàng đế chống lại trò chơi này, nhưng
không dám thi hành vì sợ sự phản ứng mạnh phía quần chúng.
Đến giờ, những tay
giác đấu xếp thành hàng dài chậm chạp diễn quanh đấu trường. Tới chân khán đài
danh dự, chỗ vua ngồi, họ la to: kẻ hạ thần là những người sắp chết xin kính
chào bệ hạ.
Khán giả quanh đấu
trường chọn tay giác đấu nào họ ưa thích rồi la hét kích thích họ xung trận.
Khi hai tay giác đấu
đang sát phạt đến hồi gây cấn nhất, bỗng một người ăn mặc đơn giản xông vào giữa
hai đấu thủ gạt họ ra. Đám đông khán giả giận dữ la hét vang dội. Một số bực tức
quá chạy ra tận đấu trường xé ông ra hàng trăm mảnh vì làm cho họ cụt hứng. Con
người đó chính là Telmachus.
Kinh hoàng trước sự
việc xẩy ra, Honorius chính thức tuyên bố bãi bỏ trò chơi bỉ ổi đã giết hại
không biết bao nhiêu sinh linh ở Rôma cũng như ở các nơi khác.
Kể từ đó lịch sử
không còn nói những trận đấu gươm tại Rôma nữa.
Không đổ máu không
có ơn cứu rỗi.
Nhờ dòng máu Telmachus
làm tắt dòng máu nhiều kẻ khác (Op, cit, tr 271-273).
4. Tượng Thánh giá
ban phép lành.
Tại một nhà thờ bên
Tây ban nha có một tượng Thánh giá rất đặc biệt: Chúa Giêsu chỉ chịu đóng đinh
có một tay trái và hai chân, tay phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra phía trước
trong tư thế như đang ban phép lành.
Chuyện kể rằng: một
lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá
nhiều tội nặng như anh ta, vị Linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều.
Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi toà giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục
sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục đành răn đe:”Tôi không muốn
anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho
anh." Hối nhân ra khỏi toà giải tội mà lòng trĩu nặng và đau khổ.
Được vài
tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng những tội nặng y như những
lần trước. Vị linh mục dứt khoát:”Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không
tha." Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng
thì thầm phía bên trên. Từ cây Thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu được rút
ra khỏi lỗ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng thì
thầm ấy nói với chính mình:”Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải
con."
Kể từ đó, bàn tay
phải của Chúa Giêsu không gắn vào thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban
phép lành, như không ngừng mời gọi:”Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ được tha thứ."
Thiên Chúa đã không
dạy bài học tha thứ suông, nhưng đã dạy bài học tha thứ bằng chính mạng sống của
Con yêu dấu Ngài là Đức Giêsu. Nếu ngày xưa, con rắn đồng trong sa mạc được
giương lên, thì hôm nay chính Chúa Giêsu được giương lên. Mãi mãi chúng ta biết
ơn Chúa Giêsu và khắc sâu lời Ngài:”Như Maisen đã giương cao con rắn ở sa mạc
thế nào, Con Người cũng sẽ giương cao như vậy."
5. Tình yêu hiến
thân
Một người mẹ
goá bụa, ngày ngày thức khuya dậy sớm buôn bán tất bật nuôi cả gia
đình gồm bảy miệng ăn.
Tối hôm ấy, bà
vội vã phóng xe máy về nhà cho kịp nấu cơm tối cho đoàn con; bất thần,
đèn pha xe máy bị hỏng khiến bà không nhìn thấy chiếc xe bò chở đầy
những cây tre dài đang di chuyển cùng chiều trước mặt; hậu quả là chiếc
xe máy chở bà lao vào các ngọn tre nhọn hoắt. Đôi mắt bà bị hai ngọn
tre chọc thủng, máu tuôn ra đầm đìa. Bà liền được đưa vào bệnh viện
cấp cứu.
Sáu người con khôn
lớn của bà vội đến bệnh viện thăm mẹ. Thấy mẹ bị tai nạn hết sức thương
tâm, đứa nào cũng nức nở sụt sùi.
Vị bác sĩ điều
trị thấu hiểu bao nỗi gian truân mà người mẹ này đã cam chịu đêm ngày
để nuôi dạy sáu người con trong mấy chục năm qua và ông nghĩ rằng công
lao của bà đáng được đoàn con đáp đền cân xứng, nên đề nghị rằng
nếu có ai trong họ hiến cho mẹ một con mắt, chỉ một con mắt thôi, thì
ông có thể lấy con mắt của người cho để thay vào cho người mẹ. Như thế,
người mẹ sẽ thoát cảnh mù loà và có thể tiếp tục làm ăn buôn bán
nuôi cả đoàn con.
Khi nghe lời đó,
cả sáu người con đều cúi đầu thinh lặng. Dù biết công lao mẹ dành cho
mình như trời như biển, nhưng không một đứa con nào có đủ yêu thương
để hiến cho mẹ, dù chỉ một con mắt của mình.
Không trách sáu người
con trên đây, vì xét lại bản thân mình, mấy ai trong chúng ta có đủ yêu thương
để có thể hiến cho người thân một con mắt của mình?
6. Hy lễ thập giá
Chuyện kể rằng: Có
hai bạn già chơi thân với nhau, một ông là người đạo Công Giáo, có sáu người
con, còn người kia đạo Tin Lành, chẳng có đứa con nào. Gia đình mà không có con
thì nó vắng tanh như chùa Bà Đanh. Cho nên ông thấy bạn mình gia đình có con
cái đông vui vẻ như vậy thì ông thích lắm, nên ông ngõ lời: “Tôi với anh chỗ bạn
thân với nhau, tuy khác giáo phái, song thờ cùng một Thiên Chúa. Tôi thấy bạn rất
đông con, mà hai vợ chồng tôi không có một mống. Vậy xin anh cho tôi một đứa,
tôi sẽ nuôi nó ăn học, sẽ nhường gia tài của tôi cho nó… ."
Nghe vậy, ông bạn
Công giáo về nhà bàn với vợ: “ Mình ơi! Tôi có ông bạn thân với nhau từ hồi nhỏ,
mình thì được Chúa thương có sáu đứa con, còn ông ta chẳng có đứa nào, vậy
chúng ta cho ông một đứa nha ." Bà vợ bằng lòng và rồi hai người bàn với
nhau.
Đứa thứ nhất
là trưởng nam, mình không thể cho thằng trưởng nam được, để khi mình chết, nó
còn lo xây mồ yên mả đẹp, cầu hồn xin lễ cho mình…
Đứa thứ hai
xinh ơi là xinh, cả tá con trai ngấp nghé trồng cây si trước nhà, nhưng cô từ
chối, vì có ý định dâng mình cho Chúa. Vậy để nó đi tu làm Soeur mình có chức
ông bà cố hãnh diện với người ta.
Đứa thứ ba học
giỏi, tính tình hơi đỏng đảnh, đôi mắt gan lỳ mưu cơ, nhưng cô đã làm lễ đính
hôn với một bạn trai trong xứ đạo. Vì thế ta không thể cho được, để nó lấy chồng
mình có chức sui gia, có rượu mà uống, có cháu ngoại mà bồng.
Đứa thứ tư, cũng là
một cô con gái, vừa mới nói tới cô, bà vợ không bằng lòng, bà nói: đừng có cho
đi cô công chúa của tôi! Vì nó giống bà ngoại như đúc. Từ đôi môi, nụ cười,
khoé mắt, cả dáng đi yểu điệu uyển chuyển như người mẫu. Cứ thấy nó là bà vợ
như thấy bà ngoại hiện hình, cho đi sao được.
Đứa thứ năm, là một
cậu trai dễ thương, nhưng bị tật bẩm sinh, phải đi lại bằng xe lăn, ai lại cho
bạn mình yêu mến một người con tàn tật.
Và đứa thứ
sáu là cậu út, cậu út khấu khỉnh, rất ngoan, được cha mẹ cưng chiều, suốt ngày
nó bi ba bi bô nói cười, cậu hay ngồi trên đùi vuốt chòm râu bạc, và hay đón mẹ
đi chợ về, tỉ tê với mẹ cha, cậu là niềm vui cho tuổi già.
Thế là hôm sau, ông
đành vác bộ mặt u buồn đến với ông bạn Tin lành để báo tin buồn rằng: “Tôi
không thể nào cho ông được đứa con nào cả ." Có sáu người con mà không thể
cho người bạn thân thiết nhất đời, một người con.
Còn Thiên Chúa thì
sao? Ngài chỉ có một người Con duy nhất đẹp lòng Cha mọi đàng, đồng bản tính với
Chúa Cha, nghĩa là tốt đẹp hoàn hảo. Vậy mà vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa
đã trao người Con Một yêu dấu của Ngài cho chúng ta. Như lời thánh Gioan tồng đồ
nói: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Người Con một của
Ngài, đến để chết đền tội cho chúng ta”(Ga 3,16).
7. Tôi sẽ kéo mọi
người lên
Năm 1941, một tù
nhân đã trốn khỏi nhà tù Ốt-suýt (Auschwits) của Đức quốc xã. Đó là một nhà tù
nổi tiếng khủng khiếp, và đã có quy định là nếu một người trốn trại thì sẽ có
mười người khác thế mạng. Giám thị trại giam tập họp tù nhân lại và đếm ra 10
người. Một trong đám mười người bị tử thần điểm danh này bỗng òa khóc: “Trời
ơi, vợ tôi, con tôi! Tôi sẽ không bao giờ gặp lại họ nữa!" Cha Maximilianô
Kônbê (Maximiliano Kolbe) cũng là tù nhân ở trại lúc đó, nghe tiếng than của
người tù. Cha động lòng thương, Ngài tiến lại kéo anh tù ra, và đứng vào chỗ
anh cho đủ mười người. Cha Kônbê và 9 bạn tù bị bỏ đói hai tuần lễ và kết thúc
cuộc sống bằng một mũi tiêm thuốc độc. Xác họ được hỏa táng và sử dụng như phân
bón.
Người tù thoát chết
tên là Phanxit (Francis Gap Wniczek) kể lại chuyện này. Anh nói sau cái chết của
Cha Kônbê, tinh thần trại giam thay đổi hẳn. Mọi người đối xử với nhau rất thân
ái, chia sẻ từng mẩu bánh, từng muỗng canh, ai cũng cảm phục và muốn noi gương
vị Linh mục dòng Phanxicô, đã hy sinh mạng sống để cứu một người anh em.
Đức Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II đã phong Thánh cho Cha Kônbê vào tháng 10 năm 1983, và đặt Ngài
làm bổn mạng của thời đại khó khăn. Giáo Hội mong ước các tín hữu noi gương Cha
Kônbê, và cũng là noi gương Chúa Giêsu, sẵn sàng hy sinh cho anh em đồng loại.
8. Quy luật sự sống
Cái chết của ông Y
Rabin, Thủ Tướng Israel ngày 3/11/1995 đã làm cả thế giới chấn động. Những người
Do Thái quá khích giết ông, vì họ không chấp nhận công trình hòa bình ông đang
kiến tạo với Palestine và các nước vùng Trung Đông. Cái chết của ông Rabin làm
cho thế giới nhớ lại cái chết của Mahatma Gandhi 50 năm trước đây: một người
thanh niên Ấn Giáo quá khích đã sát hại vị Cha già của dân tộc Ấn, vì anh không
thể chấp nhận việc ngài tha thứ và dạy tha thứ cho người Hồi Giáo. Người ta
cũng không thể quên cái chết của Mục sư Martin Luther King năm 1968, vì đã
tranh đấu cho quyền bình đẳng của người da đen bằng phương pháp ôn hòa và bất bạo
động.
Lịch sử nhân loại
đã được viết bằng máu của biết bao gương mặt kiến tạo hòa bình như thế. Liệu
người ta có thể xếp cái chết của Chúa Giêsu vào hạng những cái chết vì hòa bình
không? Đâu là lý do khiến Chúa Giêsu phải chết, một cái chết cũng mang tính
cách mạng như chính cuộc sống và sự điệp của Ngài?
9. Hạt giống này mầm
Vào một đêm giông
bão có một người đàn ông đứng tuổi cùng bà vợ ghé vô một khách sạn nhỏ và hỏi
viên thư ký: Xin anh làm ơn cho chúng tôi một phòng. Viên thư ký trả lời: Thưa
ông, tất cả mọi phòng đều có người thuê, nhưng tôi không nỡ để ông bà phải ra
đi vào lúc một giờ sáng như thế này. Người chồng hỏi lại: Anh nói chi? Ông bà
có thể ngủ tại phòng tôi. Nhưng anh sẽ ngủ ở đâu? Tôi sẽ tìm được, xin đừng lo
lắng cho tôi. Sáng hôm sau, ông khách trả tiền phòng và nói với viên thư ký:
Anh là một người quản lý có tài, khả dĩ có thể làm chủ một khách sạn lớn. Rất
có thể một ngày nào đó, tôi sẽ xây cho anh một cái.
Hai năm sau, viên
thứ ký nhận được một bức thư, kèm theo vé máy bay khứ hồi đi Nữu Ước và tấm
danh thiếp của người khách trong đêm giông bão. Người khách dẫn viên thư ký tới
một đại lộ, chỉ vào một ngôi nhà cao tầng và nói: Đây là khách sạn tôi đã xây để
cho anh quản lý. Không nói nên lời, người thanh niên rất đỗi ngạc nhiên, ấp úng
cám ơn. Mạnh thường quân của anh là Astoria, chủ nhân của một mạng lưới khách sạn
tại Mỹ. Và khách sạn ông dành cho anh ta là một khách sạn tiện nghi nhất thời bấy
giờ.
Hạt lúa rơi xuống đất,
có mục nát, thì mới sinh nhiều hoa trái. Anh chàng thư ký đã chôn vùi những tiện
nghi của mình, bằng cách nhường lại căn phòng ấm cúng cho hai vợ chồng người
khách lạ.
10. Để sinh nhiều
bông hạt
Chuyện cổ Ấn Độ kể
lại như sau:
Một chàng thanh
niên nọ khao khát được nhìn thấy Chúa. Và rồi Chúa đã đến với anh qua vóc dáng
của một con người đẹp đẻ, uy quyền và dễ mến. Ngài đề nghị với anh:
- Con hãy đi theo
Ta một đoạn đường.
Chàng thanh niên cảm
thấy hạnh phúc khi cùng bước đi với Chúa. Được một lúc, Chúa bảo:
- Ta khát, con hãy
đi tìm cho Ta một chút nước.
Chàng thanh niên
hăm hở đi tìm. Đi mãi đi hoài mà chẳng thấy. Cuối cùng anh cũng đến được bên
dòng sông. Anh đang chuẩn bị múc nước thì một cô gái xuất hiện. Cô gái đẹp đến
độ làm cho chàng thanh niên mê mẩn tâm thần, thậm chí quên cả việc đem nước về
cho Chúa. Anh làm quen, trò chuyện với cô gái và hai người lấy nhau, sinh con đẻ
cái.
Thế rồi một năm
kia, lũ lụt xảy ra. Mưa đổ xuống và nước dâng lên. Chỉ một mình anh may mắn bám
vào cành cây là được cứu thoát. Còn tất cả vợ con, nhà cửa và sản nghiệp anh đã
chắt chiu vun trồng và tích lũy, đều bị dòng nước cuốn trôi. Giữa lúc anh đang
tiếc nhớ khóc thương cho số kiếp bẽ bàng và cay đắng của mình, thì Chúa hiện ra
và nói với anh:
- Con có mang nước
về cho Ta không đó. Con làm gì lâu thế, bắt Ta phải chờ hoài.
11. Ai chọn Chúa?
Một giáo xứ nọ được
Chúa Giêsu đến thăm, cha Sở tập họp giáo dân chật ních Nhà Thờ để hân hoan chào
mừng Đấng nhân danh Chúa Cha mà đến. Chúa Giêsu hỏi:
- Ai coi tiền của
hơn Ta (Điều Răn thứ I) thì ra khỏi Nhà Thờ? Một số người dáng quý phái bước
ra.
- Ai hay kêu tên
Chúa vô cớ (Điều Răn thứ 2)? Thì mấy bà sồn sồn đi ra.
- Ai thường bỏ lễ
Chúa nhật và lễ Trọng (Điều Răn thứ 3)? Thanh niên kéo nhau đi.
- Ai không hiếu thảo,
không vâng lời ông bà cha mẹ (Điều Răn thứ 4)? Con nít xô nhau ra về.
- Ai phạm Điều răn
thứ 5: giết người? Mấy chú xì-ke, say xỉn chuồn mất.
- Ai không vi phạm
Điều răn thứ 6? Mọi người trong Nhà Thờ tìm lối trốn hết!
Chúa ngạc nhiên và
buồn bã quay lại hỏi cha Sở:
- Sao thế?…
Nhưng cha Sở cũng
biến từ lúc nào!?
12. Lòng người
Xưa kia có một vị
hoàng đế rất giàu sang và cũng rất đại lượng. Vua rộng ban vàng bạc châu báu
cho tất cả những ai làm đẹp lòng vua. Thế là nịnh thần mọc lên như nấm khắp triều
đình.
Các hoàng tử thì xu
nịnh để được vua cha ban cho ngai vàng. Các quan trong triều đình thì xu nịnh để
được thăng quan tiến chức. Ai cũng huênh hoang cho rằng mình hết lòng trung
nghĩa với vua, sẵn sàng hiến mạng mình để bảo vệ nhà vua, để chết thay cho vua.
Nhà vua rất đơn sơ
nên dễ tin vào những lời nịnh hót của họ và ban phát cho họ ân lộc dư dầy khiến
ngân khố của triều đình cạn kiệt.
Cả triều đình chỉ
có quan ngự y là người trung thành. Ông đã nhiều lần can gián vua, thuyết phục
vua đừng tin bè lũ xu nịnh, nhưng vua chẳng chịu nghe.
Ngày nọ, vua lâm trọng
bệnh thập tử nhất sinh, tính mạng nhà vua chỉ còn được đếm từng giờ. Quan ngự y
trình với vua là bệnh vua chỉ có thể chữa lành nếu một vị hoàng tử nào đó hiến
tặng trái tim mình làm thuốc cho vua.
Nghe tin nầy loan
ra, các hoàng tử trong cung trốn biệt!
Khi không thể tìm
được trái tim của hoàng tử làm thuốc, nhà vua hỏi quan ngự y xem có thể sử dụng
tim của một người khác làm thuốc được không. Quan ngự y trả lời nếu không có
trái tim của hoàng tử thì ít ra phải dùng trái tim của các vị quan lớn trong
triều.
Nghe tin đó, các
quan lớn rồi các quan nhỏ trong triều đều trốn biệt tăm.
Túng quá, thôi thì
dùng tạm trái tim của lính hầu, của công chúa cũng được. Nghe tin đó, cả công
chúa, cả lính hầu, cả hàng trăm thê thiếp cũng không còn ai lai vãng trong cung
điện nữa. Cung điện thường ngày huyên náo, giờ nầy vắng lặng như bãi tha ma!
Bấy giờ vua chỗi dậy,
tỉnh ngộ rồi cười ra nước mắt cho nhân tình thế thái.
Duyên do là quan ngự
y và cũng là người trung nghĩa với vua, đã khéo dựng lên kịch bản nầy, đề nghị
với vua giả vờ đau nặng, bỏ cơm bỏ cháo, để thử thách lòng người!
13. Lương y Giêsu
Một tác giả vô danh
đã kể lại một lần đến bệnh viện của Chúa để kiểm tra sức khỏe và phát hiện rằng
mình đang bị bệnh. Ông kể rằng:
Khi đo huyết áp cho
tôi, Chúa cho biết tôi đang thiếu Lòng Nhân Ái. Và khi lấy nhiệt độ, nhiệt kế
đã nhảy vọt đến 400 độ Ích Kỷ.
Điện tâm đồ cho biết
trái tim thiếu những rung động Yêu Thương, một số mạch máu bị tắc nghẽn, vì lớp
cholesterone Ghen Ghét.
Tới khoa chỉnh
hình, tôi khám phá mình đi lại khó khăn.
Tôi không thể tiến
lại ôm người anh em vì lòng Kiêu Hãnh cản ngăn, cánh tay của tôi bại xuội.
Chứng Cận Thị làm mắt
tôi không thể nhìn xa hơn cái vẻ bên ngoài của người khác.
Quen những tiếng ồn
ào thường ngày, tai tôi bị Điếc Đặc, không còn nhạy bén với những tiếng thì thầm
yêu thương.
Con xin cảm ơn
Ngài, Bác Sĩ Giêsu, vị Lương Y nhân hậu! Chúa đã chữa trị cho con miễn phí hoàn
toàn vì lòng thương xót.
Con cam kết khi xuất
viện sẽ tiếp tục dùng toa thuốc của Chúa, một cách trung thành và đều đặn, nhờ
những dược liệu tự nhiên, Chúa hướng dẫn cho con, trong sách thuốc Tin Mừng của
Chúa.
Mỗi buổi sáng, khi
thức dậy, con sẽ dùng ngay một chén trà Tạ Ơn. Trước khi làm việc, con sẽ nhớ uống
một thìa súp Nụ Cười Thân Ái!
Và mỗi giờ, con sẽ
uống thêm một viên Nhẫn Nại, với một ly nước Nhân Bản, và lạy Chúa, khi về lại
nhà, con sẽ chích một mũi thuốc Tình Thương trợ lực, rồi trước khi đi ngủ, con
sẽ uống thêm 2 viên Lương Tâm Bình An.
14. Tình yêu kiên
nhẫn đợi chờ
Một câu thơ mà ai
trong chúng ta cũng đều biết:
Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.
Tương truyền rằng:
Có đôi vợ chồng nọ rất thương nhau. Người chồng vì nghĩa vụ non sông phải ra
đi, để lại quê nhà người vợ thân yêu và đứa con nhỏ dạy. Ngày tháng cứ dần
trôi. . . Một hôm người chồng trở về, vì không báo trước nên không có vợ ở nhà,
chỉ có đứa con nhỏ giờ đây đã nói được những tiếng nói đầu tiên. Nhìn thấy đứa
con nhỏ, anh ta rất vui mừng, gọi con đến và xưng là cha của nó. Nhưng ngở
ngàng thay, đứa nhỏ không chịu, còn nói rằng: cha nó không bao giờ về vào lúc
ban ngày, cha nó chỉ về vào ban đêm.
Người chồng nghi ngờ
vợ, niềm uất hận dâng lên. Bỗng đâu người vợ thân yêu từ ngoài đi vào, nhìn thấy
chồng, rất vui mừng. Nhưng sự vồn vã yêu thương đâu chẳng thấy, mà trái lại, chị
còn phải nhận thái độ lạnh nhạt và những lời cay đắng. Không thể biện minh được
cho sự trong trắng của mình, chị mới tìm cái chết để giải thích cho nỗi oan
tình. Chiều đến khi mọi vật đã chìm vào bóng đêm đứa nhỏ cứ đòi mẹ, nhưng chẳng
thấy.
Nó lại bảo là cha
nó sắp về. Nó mới dẫn người chồng vào trong và chỉ lên vách. Cái bóng đen do
ánh đèn tạo nên, đứa nhỏ gọi đó là cha của nó. Người chồng ngỡ ngàng hiểu ra mọi
chuyện thì đã muộn. Anh đi tìm vợ, nhưng chẵng thấy. Ngôi miếu được dựng lên để
giải oan, để xin lỗi người vợ và để nói lên mối tình chung thủy của vợ chàng
Trương.
Người chồng đã đứng
kề bên hạnh phúc, đối mặt với sự thật. Nhưng anh ta chưa nhận ra được sự thật,
vì anh ta quá tự hào về những hiểu biết của chính mình, mà không cần nghe những
lời giải thích cặn kẻ. Thế cho nên suốt cuộc đời anh ta sẽ chẵng bao giờ nhìn
thấy và tìm được nguồn hạnh phúc nơi người vợ chung thủy của mình nữa.
15. Tình yêu quên
mình
Huyền thoại của một
nước vùng Ấn Độ có câu chuyện này: Thời xưa, đất nước còn hoang sơ, có một con
thỏ tên là Pôlixa. Thỏ Pôlixa rất thương người, ai xin gì cũng cho, không từ chối
bao giờ. Một hôm có một cụ già lom khom chống gậy đi tới và nói:
- Già đói lắm, suốt
mùa nước lũ già không có gì ăn. Chắc già sắp chết rồi, giờ đây già chỉ thèm một
miếng thịt thỏ, Pôlixa có cho già được không?
Thỏ Pôlixa nhìn ông
già hom hem yếu đuối, tội nghiệp quá. Thỏ Pôlixa bảo ông:
- Được rồi, ông chờ
một lát.
Pôlixa đi kiếm củi
xếp thành đống rồi nổi lửa, và nói:
- Ông chờ thịt cháu
chín, ông lấy mà ăn.
Rồi thỏ chụm chân
nhảy vào lửa. Bỗng nhiên lửa tắt, ông già biến mất. Thì ra đó là một vị thần được
Thượng đế cho phép tới thử lòng thỏ. Về sau để thưởng công, Thượng đế đã cho thỏ
Pôlixa về vui đùa mãi mãi bên mặt trăng.
16. Người thợ săn
trên trời
Francis Thompson là
một thi sĩ, khi còn là một cậu con trai, đã ước mơ làm linh mục, nhưng rồi vì
lười biếng, ước mơ ấy đã không bao giờ trở thành sự thật. Lớn lên, ông làm quen
với ma túy, và chính ma túy đã hủy hoại tinh thần và thể xác ông. Ông kiếm sống
bằng nghề đánh giày, bán diêm quẹt và giữ ngựa. Sau cùng đã phải ngửa tay đi
xin ăn và chui rúc ở gầm cầu xó chợ.
Giữa lúc ấy, nhờ
lòng tốt của một cô gái nghèo, Thompson gặp ông bà Wilfred Meynell. Họ thấy ông
có tài, nên giúp ông gặp được tình thương của Chúa. Và ông đã diễn tả kinh nghiệm
đời mình trong một bài thơ mang tựa đề là “Người thợ săn trên trời.”
Ông cho biết ông đã
trốn chạy Chúa thế nào và Chúa đã chộp bắt được ông ra làm sao? Ông so sánh
mình là như một con thỏ nhỏ, còn Chúa là như người thợ săn. Khác với người thợ
săn, Chúa chộp bắt từng linh hồn, không phải để giết chết, mà là để cứu sống.
17. Chiếc thang
Giacóp
Trước mặt Chúa, mọi
người chúng ta đều có tội. Chẳng có ai hoàn toàn trong trắng vô tội trước mặt
Chúa.
Một mục sư giảng về
chiếc thang Giacóp. Cậu con trai ông ấy cảm động. Mấy ngày sau, cậu nói với cha
là mình vừa mơ về câu chuyện đó.
- Sao, con mơ thấy
gì ?
- Con mơ thấy một
chiếc thang bắc lên tới tầng mây. Ở dưới chân thang có rất nhiều phấn và mỗi
người phải lấy phấn viết hết các tội mình đã phạm lên chiếc thang đó thì mới
lên được.
- Hay thật! Rồi con
thấy gi nữa ?
- Con thấy con leo
lên, nhưng chưa được bao xa thì con thấy có người leo xuống.
- Ai vậy ?
- Ba chứ ai.
- Ba ?
- Thế ba leo xuống
để làm gì ?
- Ba lấy thêm phấn!
Chúng ta hãy xin
Chúa cho chúng ta được khiêm nhường trước mặt Chúa. Tưởng cũng nên nhắc lại đây
lời của Thánh Phaolô: “Những ai đang đứng vững hãy coi chừng kẻo té” (1Cr
10,12).
18. Quen thói xấu
Có hai hành khách
ngồi chung trong một chuyến xe lửa từ Tôrinô tới Paris.
Vào một ngày mùa
đông, bầu trời xanh xám không một tia sáng mặt trời, xe lửa chạy tới biên giới
nước Pháp thì tuyết bắt đầu rơi, bên ngoài trời giá lạnh, nhưng trong xe hơi ấm
của lò sưởi rất dễ chịu, thêm vào đó là tiếng máy đều đặn như tiếng nhạc ru ngủ
cho cuộc hành trình thêm thoải mái. Một trong hai người khách tỏ vẻ băn khoăn
lo lắng lạ thường, mỗi lần tới một nhà ga người ấy lại giựt mình đứng phắt lên,
đến gần cửa nhìn nhà ga đọc lớn tên ga rồi ông trở về chiếc ghế ngồi và thở dài
một cách thảm não. Sau nhiều trạm như thế, người bạn bên cạnh lên tiếng hỏi với
tất cả sự quan tâm và tế nhị.
- Có điều gì làm
ông khó chịu hoặc ông bị đau chăng ? Ông ta thở dài một cách thảm não và nói:
- Tôi không đau ốm
gì cả, chỉ có điều là tôi đã lấy chuyến xe đang chạy ngược chiều với hướng của
tôi định đi. Lẽ ra tôi phải xuống xe từ những trạm trước kia rồi để đổi sang
chuyến xe khác, nhưng tôi không có can đảm bước xuống giữa làn mưa tuyết trắng.
Ngồi trong xe với hơi ấm thế này dễ chịu hơn.
Biết mình đang là
người tiến trên con đường tội lỗi, phải quay về con đường thiện. Nếu không đủ can
đảm cởi bỏ những thói quen cũ và những tiện nghi vui sướng tạm bợ của đời sống
đang sống thì chắc chắc đích điểm mà mình muốn nhắm tới sẽ càng ngày càng bỏ xa
mình. Than vãn thở dài nào có ích lợi gì đâu.
19. Gần đèn thì
sáng
Lúc còn nhỏ, Mạnh Tử
ở gần nghĩa trang. Ngày ngày thấy người ta chôn cất người chết với những lời
than khóc ai oán thì cậu bé cũng bắt chước chôn các con vật chết, cũng giả vờ
kêu than khóc lóc.
Thân mẫu của Mạnh Tử
không muốn con mình bị tiêm nhiễm lối sống buồn thảm ở bãi tha ma, nên mới dời
nhà đến gần phố chợ. Sống nơi đây, tuy nhộn nhịp vui vẻ hơn, nhưng Mạnh Tử lại
học theo thói côn đồ của một số trẻ ranh ma đầu đường xó chợ, ưa trộm cắp, chửi
tục và đấm đá nhau. Người mẹ một lần nữa quyết định phải dời nhà đến gần trường
để xa tránh môi trường xấu.
Từ ngày sống cạnh
nhà trường, ngày ngày thấy bạn bè cùng trang lứa cắp sách đến trường, Mạnh Tử
cũng xin mẹ cho đi học.
Học tập chưa được
bao lâu, cậu lại bị bạn xấu rủ rê bỏ học đi chơi.
Hôm nọ, khi người mẹ
đang dệt vải nửa chừng chợt thấy Mạnh Tử cắp sách về nhà không muốn học nữa, bà
lặng lẽ cầm kéo cắt nát tấm lụa đang còn dở dang trên khung cửi.
Quá tiếc xót tấm lụa
quý, Mạnh Tử hỏi lý do, người mẹ trả lời: "Con đang đi học mà bỏ nửa chừng
thì có khác chi mẹ dệt tấm lụa chưa xong mà cắt bỏ đi vậy."
Thế là từ đó, Mạnh
Tử giác ngộ, ngày đêm miệt mài đèn sách và sau nầy trở thành bậc thánh hiền của
người Trung Quốc.
Chúa Giêsu tỏ ra buồn
phiền vì người đời yêu chuộng tối tăm và xa lìa ánh sáng: "Ánh sáng đã đến
thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều
xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng,
để các việc họ làm khỏi bị chê trách" (Ga 3,19)
Lời Chúa: Lc 15,
1-3. 11-32
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, những người
thu thuế và những kẻ tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng; thấy vậy,
những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: "Ông này đón tiếp những kẻ
tội lỗi và cùng ngồi ăn uống với chúng.”
Bấy giờ Người phán
bảo họ dụ ngôn này: "Người kia có hai con trai. Đứa em thưa với cha rằng:
"Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về con.” Người cha liền chia
gia tài cho các con.
Ít ngày sau, người
em thu nhặt tất cả của mình, trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ phung phí hết
tiền của. Khi nó tiêu hết tiền của thì vừa gặp nạn đói lớn trong miền đó, và nó
bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người
này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ cặn bã heo ăn cho đầy bụng,
nhưng cũng không ai cho. Bấy giờ nó hồi tâm lại và tự nhủ: "Biết bao người
làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói.
Tôi muốn ra đi trở về với cha tôi và thưa người rằng: "Thưa cha, con đã lỗi
phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử
với con như một người làm công của cha.” Vậy nó ra đi và trở về với cha nó.
Khi nó còn ở đàng
xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy ra ôm choàng lấy cổ
nó và hôn nó hồi lâu... Người con trai lúc đó thưa rằng: "Thưa cha, con đã
lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa.” Nhưng
người cha bảo đầy tớ: "Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo
nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để
chúng ta ăn mừng: vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất, nay lại tìm thấy.”
Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình.
"Người con cả
đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa, anh gọi
một tên đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ nói: "Đó là em cậu đã
trở về, và cha cậu đã giết bê béo, vì thấy cậu ấy về mạnh khoẻ.” Anh liền nổi
giận và quyết định không vào nhà.
Cha anh ra xin anh
vào. Nhưng anh trả lời: "Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái
lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn
mừng với chúng bạn. Còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của
cha với bọn đàng điếm, nay trở về thì cha lại sai làm thịt bê béo ăn mừng nó.”
Nhưng người cha bảo: "Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều
là của con. Nhưng phải ăn tiệc và vui mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã
mất nay lại tìm thấy.”
TRUYỆN KỂ
1. Ăn mừng vì con ta sống lại--ViKiNi --‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm.
Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Cha Boscô thường
xuyên vào thăm trại tù thiếu nhi phạm pháp. Một hôm ngài xin ban giám thị cho
ngài dẫn các tù nhân đó đi cắm trại ở khu rừng mát mẻ ngoài thành phố Tôrinô. Mọi
người ngạc nhiên chưa thấy ai dám cho tù nhân tự do ra ngoài. Ban Giám thị sợ
tù nhân trốn hết, họ phải tù thay. Cha Boscô cam đoan nếu có trẻ nào trốn, ngài
sẽ tù thế, buộc lòng họ phải chấp thuận và cho một đội lính đi canh. Nhưng ngài
khăng khăng không cần lính, chỉ mình ngài lo thôi. Thế là nhà tù mở cửa, các em
ào ào ra và xếp thành hàng đôi đi ra rừng cắm trại. Chúng thi đua nhau các trò
chơi, ca hát, chạy nhảy, làm trò đủ kiểu em nào cũng hăng say hoạt động vui
chơi thỏa thích vô cùng. Em nào cũng răm rắp theo lệnh Cha. Chiều về, ngài dẫn
một đoàn thiếu nhi ngoan ngoãn vui vẻ trở vào tù. Ban quản tù điểm danh không thiếu
một tên. Họ sửng sốt như thấy phép lạ. Thánh Boscô đã chinh phục được những con
ngựa bất kham nhỏ bé nhờ tình yêu tha thiết đối với các thiếu nhi phạm pháp đó.
Tình yêu của thánh
nhân làm cho những tâm hồn đã chết được sống lại. Còn hơn nữa, tình yêu của Đức
Giêsu làm cho những người thu thuế và tội lỗi đã chết được sống lại, như Tin Mừng
kể: “Các người thu thuế và tội lỗi thường đến gần Đức Giêsu mà nghe Người giảng,
thấy vậy, những người thuộc phái Pharisiêu và các kinh sư xì xầm với nhau: Ông
này niềm nở đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng. Đức Giêsu mới nói với
họ 3 dụ ngôn: Chiên lạc, đồng tiền lạc mất và tình phụ tử.”Tin Mừng hôm nay cho
chúng ta thấy tình phụ tử của Thiên Chúa thương yêu tội nhân thế nào qua câu
chuyện một người cha có hai đứa con.
2. Thiên Chúa giàu lòng thương xót
Gandhi kể rằng khi
ông 15 tuổi, ông đã ăn cắp của anh mình một đồng tiền vàng. Tuy nhiên sau đó
ông rất áy náy nên quyết định thú tội với cha mình. Ông viết lên một tờ giấy những
gì mình đã làm, sau đó xin cha tha thứ, và cuối cùng hứa sẽ không tái phạm nữa.
Khi ấy cha ông đang bệnh phải nằm trên giường. Gandhi đến đưa tờ giấy cho cha
và hồi hộp chờ cha xét xử. Người cha ngồi dậy, cầm tờ giấy, trong khi ông đọc
thì hai dòng lệ từ đôi mắt ông chảy xuống. Gandhi cũng không cần được nước mắt
mình. Cuối cùng khi đã đọc xong, người cha không hề nổi giận và cũng chẳng
trách móc Gandhi lời nào. Ông ôm chầm lấy con và sung sướng vì con mình đã biết
hối hận.
Cảm nghiệm được yêu
thương ngay khi mình còn tội lỗi là một cảm nghiệm vô cùng sâu sắc đối với
Gandhi. Sau này ông nói: "Chỉ có người nào đã trải qua cảm nghiệm về loại
tình yêu như thế mới có thể hiểu được nó thôi.”
Đó cũng là cảm nghiệm
của đứa con hoang đàng trong bài Tin Mừng hôm nay.
3. Trong đôi mắt cha
Một cô bé đang ngồi
trên gối mẹ, chợt lên tiếng hỏi mẹ:
- Mẹ ơi, con có thể
nhìn thấy lòng mẹ không?
Bà mẹ đáp:
- Mẹ không biết,
nhưng con có thể nhìn vào mắt mẹ xem có thấy gì trong đó?
Cô bé nhướng mắt
nhìn chăm chú vào đôi mắt người mẹ, rồi sung sướng kêu lên:
- Mẹ ơi! Con nhìn
thấy lòng mẹ rồi, ở đó có một cô bé tí xíu là chính con đó mẹ ạ?
Trong đôi mắt của
cha mẹ, con cái là tất cả. Trong đôi mắt Thiên Chúa chỉ có con người, nhất là
những con người tội lỗi đáng thương.
4. Lòng cha bao dung:
Richard Pindell có
viết một câu chuyện ngắn về một cậu bé tên là David. Cậu ta đã nghe
theo chúng bạn lén về nhà ăn cắp một số tiền lớn rồi bỏ đi bụi
đời. Mấy tháng sau, vì không chịu nổi hoàn cảnh đói khát khổ cực,
cậu đã viết một lá thư gửi về cho mẹ. Trong thư, cậu tỏ ra hối lỗi
và nhờ mẹ thuyết phục ông bố vốn rất khiêm khắc, để xin ông tha tội
và cho cậu được về nhà sum họp với cha mẹ như trước. Nội dung lá thư
ấy như sau: “Mẹ kính yêu, trong một vài ngày nữa con sẽ đáp chuyến xe
lửa ngang qua nhà mình. Vậy nhờ mẹ xin lỗi bố cho con. Nếu bố bằng
lòng tha thứ và chấp nhận cho con về nhà, thì xin mẹ yêu cầu bố hãy
cột một miếng vải trắng trên cây táo hồng ở cạnh nhà mình mẹ nhé!”
Vài ngày sau, David
lên xe lửa để trở về nhà. Khi xe lửa đang di chuyển đến gần nhà thì hai
hình ảnh cứ liên tục hiện ra trong tâm trí cậu bé David: Lúc thì trên
cây táo có cột một miếng vải trắng, lúc lại chẳng thấy có miếng
vải nào cả. Khi sắp đi ngang qua nhà, trái tim David đập nhanh hơn. Cậu
quay sang người ngồi cạnh và ấp úng nói: “Thưa ông, ông có thể giúp
cháu việc này không ạ?” Được ông đồng ý, cậu nói: “Vào khúc quẹo
bên tay mặt, ông sẽ thấy một cây táo. Vậy phiền ông nhìn vào cây táo
ấy và cho cháu biết trên cành cây có cột một miếng vải trắng nào
không nhé?” Khi xe lửa ầm ầm lướt nhanh qua nhà, David nhắm mắt lại
rồi run giọng hỏi: “Thưa ông, có miếng vải trắng nào treo trên cành
cây táo cạnh nhà cháu không ạ?” Ông ta sửng sốt trả lời rằng: “Ô, này
cậu bé, không phải chỉ một mà cành cây nào ta cũng thấy có cột vải
trắng cả!” Thì ra sợ con trai không nhìn thấy giải vải trắng, ông bố
của cậu bé đã treo thật nhiều vải trắng để chắc chắn cậu sẽ nhìn
thấy dấu hiệu tình thương tha thứ để cậu yên tâm trở về.
5. Ta quên hết rồi
Một bà già thường đến
gõ phòng cha xứ, kể cho ngài nghe rằng đêm qua Chúa mới hiện ra với bà. Để làm
bà nản lòng đừng đến nữa, Cha xứ bảo:”Lần sau nếu Chúa có hiện ra, bà hãy hỏi
Ngài “Cha xứ con có tội gì nặng nhất? sau đó tới kể cho tôi nghe.” Mấy ngày
sau, bà già không đến nữa. Cha xứ mừng thầm vì bà đã trúng kế của Ngài. Nhưng một
tuần sau đó, bà già trở lại.
– Thưa cha, tối hôm
qua Chúa lại hiện ra với con.
– Thế bà có hỏi
Ngài không?
– Thưa có chứ.
Cha xứ bắt đầu hồi
hộp:
– Bà hỏi thế nào?
– Thì con hỏi y như
Cha đã bảo :”Cha xứ con có tội gì nặng nhất”?
Cha xứ càng hồi hộp
thêm:
– Vậy Chúa có trả lời
không?
– Có chứ.
Bây giờ thì cha xứ
đã lo lắng thật sự:
– Chúa nói sao ?
– Chúa nói: ”Ta đã
quên hết rồi.
Cha xứ thở phào nhẹ
nhõm. (Kể theo ĐHY PX Nguyễn văn Thuận)
6. Ghen tương tự hại chính mình
Chuyện xảy ra vào
thế kỷ 16 tại Ấn Độ: trong triều đình có hai viên quan, mỗi người một tính xấu.
Một người thì ganh tị, một người thì tham lam. Ngày kia, nhà vua có một sáng kiến
để sửa đổi những tính xấu đó. Nhà vua cho triệu hai viên quan vào triều đình,
cho biết sẽ trọng thưởng họ vì đã phục vụ lâu năm. Hai ông có thể xin gì tùy
thích,
nhưng người đầu
tiên mở miệng xin, chỉ được những gì mình muốn. Còn người thứ hai sẽ được gấp
đôi. Những giây phút nặng nề trôi nhưng không ai mở miệng trước. Người tham lam
nghĩ trong lòng rằng nếu tôi nói trước, tôi sẽ được ít hơn người kia. Còn người
ganh tị lý luận: thà tôi không được gì còn hơn mở miệng nói trước, để người kia
được gấp đôi.
Vì thế không ai muốn
lên tiếng trước.
Cuối cùng, nhà vua
phải đề nghị người ganh tị nói trước. Người ganh tị lẩm nhẩm: thà không được gì
còn hơn để tên tham lam được gấp đôi, nên ông tâu với vua: tôi xin chặt đứt một
cánh tay. Ông ta sung sướng với ý nghĩ: người tham lam sẽ bị chặt hai cánh tay.
Thật là ngớ ngẩn! Hại
ai không hại, lại hại chính thân mình. Kẻ ganh tỵ là như thế đó!
7. Đào hai cái huyệt
Marvin Gaye, người
đoạt giải Grammy dành cho các giọng ca chuyên nghiệp đã chết bi thảm ngày
1.4.1983 sau khi bị chính người cha ruột anh bắn. Một năm sau, người bạn thân của
anh là David Ritz đã viết lại tiểu sử của anh. Trong tập đó, David đã gọi Gaye
là "một tâm hồn bị chia mảnh.” Thật thế, Gaye là một tâm hồn bị chia mảnh,
vì một đàng anh là nghệ sĩ đàng khác là tay ăn chơi... Tuổi thơ của anh luôn bị
người cha độc ác dày vò. Ritz đã phẩm bình về hậu quả sự việc đó như sau:
"Anh ấy thực sự
rất tin Chúa, nhưng không thể áp dụng lời giáo huấn của Chúa mà thứ tha cho cha
mình, để rồi cuối cùng cả hai đều phải chết bi thảm!.."
Câu chuyện trên về
người cha không biết tha thứ và đứa con luôn hận thù tương phản hoàn toàn với
câu chuyện trong Tim mừng hôm nay. Nó làm nổi bật vấn đề bi đát hiện nay trong
xã hội và gia đình. Con người đối xử với nhau ngày càng bạo lực, hận thù, khủng
bố, ly dị, kỳ thị!..
Vừa rồi hội y khoa
Hoa Kỳ mở cuộc thăm dò các bác sĩ. Câu hỏi như sau:
"Trong một tuần,
bạn có bao nhiêu bệnh nhân mà bạn xét thấy có thể chữa trị bằng y thuật?"
Câu trả lời thật ngạc
nhiên. Các bác sĩ trả lời rằng họ chỉ điều trị được khoản 10/100. Số còn lại
thuộc lãnh vực tâm lý.
Điều đó chứng tỏ nếu
con người không biết thuơng tha thứ cho nhau, mà cứ hận thù, ganh tỵ, tranh chấp
rồi dùng bạo lực trả thù nhau, thì mũi gươm dùng để làm hại kẻ thù sẽ đâm chính
mình trước. Thế nên ông Miyagi nói: "Ai cứ quyết tâm nuôi mộng báo thù thì
nên đào sẵn hai cái huyệt: một cái cho kẻ thù và một cái cho chính mình!.."
(Theo "Sunday Homilies").
8. Như lòng Chúa khoan dung
Sở Trang Vương
Trung Quốc mở đại tiệc khao tướng sĩ sau khi thắng trận lớn. Đang ăn bỗng gió lớn
tắt hết đèn. Lợi dụng đêm tối, một đại quan ôm hôn cô chuốc rượu cho vua. Cô đó
là Hứa Cơ đang được vua sủng ái nhất. Cô giựt đứt giải mũ của quan đó, đem
trình vua tự sự, và yêu cầu vua trừng trị.
Thay vì phẫn nộ,
vua ra lệnh cho các quan bỏ giải mũ khi đèn sáng. Không ai hiểu tại sao. Và vua
còn mời tiếp tục bữa tiệc...
Hai năm sau nước Sở
đánh với nước Tần. Đánh luôn 5 trận mà trận nào cũng một viên quan võ đó liều sống
chết... Nhờ đó mà quân Sở đại thắng.
Nhà vua lấy làm lạ
hỏi viên quan võ đó:
- Trẫm đãi khanh
cũng như các quan khác. Sao khanh hết lòng giúp trẫm quá vậy?
Viên quan đó đáp:
- Thần đây chính là
kẻ ngày xưa đã bị giựt đứt giải mũ mà được bệ hạ tha thứ.
***
"Tha thứ lầm lỗi
của kẻ khác chính là cách hữu hiệu chinh phục lòng người. Chúa Giêsu phán:
"Ai được tha nhiều thì yêu nhiều" (Lc.7,47).
9. Người cha nhân hậu
Có câu chuyện tựa đề
"Gói quà không được mở" như sau:
Một thanh niên bỏ
nhà ra đi vì xích mích với cha mình, tựu trung chỉ vì việc chia gia tài. Người
cha này có chương trình sắp xếp sẵn mà người con không hiểu nên đi bụi đời. Người
cha rất đau khổ vì chuyện đứa con ra đi. Ông chỉ mong nó mở miệng xin lỗi là
ông sẽ để gia sản lại cho nó ngay, song vì tự ái tự đắc, nó cứ im lặng. Nhưng
nhờ lời khuyên bảo năn nỉ của người mẹ, cậu đã trở về.
Mỗi dịp lễ trong
gia đình, mọi người trong nhà có thói quen tặng quà cho nhau. Hôm đó người
thanh niên này cũng được cha tặng quà. Anh tưởng đâu chỉ là cái cà vạt ông thuờng
tặng. Sau khi mọi người trong nhà đã đi ngủ, anh nằm mãi không chợp mắt được,
dường như có tiếng ai bảo anh mở gói quà cha anh tặng lúc chiều. Anh liền mở
gói quà ra. Không phải là cái cà vạt mà là cả cái gia tài từ lâu anh mong ước.
Anh chạy thẳng vào phòng người cha, nước mắt ràn rụa! Anh ôm người cha thổn thức:
- Cha ơi! Cha
thương con quá! Cha đã đi bước trước. Con tưởng con không bao giờ làm hòa lại với
Cha được. Xin cha tha cho con.
Hình ảnh của người
cha trong câu chuyện trên đây gợi lên hình ảnh Cha trên trời và người cha trong
Tin mừng hôm nay.
"Hình ảnh người
cha được Chúa Giêsu mượn để nói lên lòng nhân từ của Chúa là Cha. Người luôn đi
bước trước để hòa giải, tha thứ kẻ tội lỗi.
10. Thiên Chúa giàu lòng thương xót
Một tên gian ác vừa
chết và bị điệu ra trước tòa phán xét. Nhưng hôm đó Chúa vắng mặt, chỉ có
Apraham, Đavít, Phêrô và Luca ngồi xử.
Sau khi xem hồ sơ,
tổ phụ Apraham tuyên bố:
- Người như ngươi
không thể nào cho vào thiên đàng được, hãy lui ra.
Con người gian ác
đó kêu lên:
- Thưa tổ phụ
Apraham, con là kẻ có tội đáng bị phạt. Nhưng chắc tổ phụ nhớ đã nói dối, khi
nói vợ của tổ phụ là em. Thế mà Chúa vẫn thương tha cho tổ phụ lại còn đặt làm
tổ phụ nhân loại.
Vua Đavít bác lời
anh và nói:
- Tổ phụ Apraham xử
đúng. Ngươi đã phạm biết bao tội ác, ngươi không thể được thưởng.
Anh ta nhìn lên vua
Đavít kêu than:
- Đúng thế, thưa
vua Đavít. Con là kẻ gian ác tội lỗi đáng bị phạt. Nhưng xin vua cũng nhớ lúc
vua phạm tội ngoại tình với vợ quan Uria. Và để che đậy tội ác đó, vua đã giết
chết ông ta. Con chỉ xin được Chúa tha thứ như Chúa đã tha cho Vua.
Đến phiên thánh
Phêrô lên tiếng:
- Ngươi làm sao
sánh được với vua Đavít, vì vua đã tỏ lòng ăn năn sám hối, nên được Chúa thương
tha. Còn ngươi, mỗi lần mở miệng ra là xúc phạm đến Danh Chúa.
Nghe thế, tội nhân
thổn thức:
- Thật ra con chỉ
kêu tên Chúa trong lúc giận thôi. Nhưng thưa vị tông đồ cả, xin ngài nhớ ngài
đã chối Chúa ba lần, Ngài chẳng những được Chúa tha mà còn chọn làm Giáo Hoàng
đầu tiên nữa.
Nghe tội nhân nói
thế thánh sử Luca lên tiếng:
- Ngươi nói dài
dòng quá. Hãy lui ra. Ngươi không đáng vào nước Chúa.
Tội nhân cúi đầu buồn
bã vì tội lỗi mình, nên bị phạt. Nhưng anh cố gắng nói lên lời sau cùng:
- Quả thực, hồ sơ của
con đã ghi tỏ tường. Con đây bị luận phạt vì lỗi lầm của con. Nhưng thưa thánh
sử Luca, xin Ngài thương mở cửa thiên đàng cho con vào, vì chính tay ngài đã viết
về lòng nhân từ bao dung của Chúa trong sách Tin mừng của Ngài. Vậy hôm nay xin
ngài chứng thực lời Ngài đã xác quyết đó...
Vừa nghe thế, thánh
sử Luca giang hai tay ra ôm lấy tội nhân, và cửa thiên đàng liền mở ra.
11. Người con cả
Lúc đứa con thứ ăn
năn trở về xin lỗi cha, người anh cả vắng mặt. Cả trong bữa tiệc mừng cũng thiếu
vắng anh. Và khi biết tin đứa em trở về được bình yên, anh chẳng những không
vui mừng mà còn tức giận. Lúc cha anh năn nỉ, chẳng những anh không nghe lời
còn giận dữ ganh tỵ...
Danh họa Rembrandt
người Hòa Lan ở thế kỷ 17 đã vẽ bức tranh nổi tiếng về "Sự trở về của đứa
con hoang đàng" này.
Trong bức tranh đó,
nhà danh họa nêu lên những đường nét bên ngoài của người anh cả và cha anh có
nhiều điểm giống nhau, như cả hai cùng để râu dài; mặc áo choàng đỏ. Nhưng nhìn
kỹ sẽ thấy rất nhiều nét khác biệt: Trong khi người cha cúi mình trên con thứ
thì người anh cả đứng chống gập xổng lưng. Áo choàng của người cha rộng mở bao
nhiêu thì áo của người anh cả hẹp hòi bấy nhiêu. Hai tay người cha ôm choàng lấy
con thứ trong người, con cả khoanh tay trên ngực, vv...
Nhiều nhà phê bình
cho rằng: qua bức danh họa này, không những chỉ có con thứ bỏ nhà lầm lạc, mà
ngay cả người con cả cũng là đứa con lối lạc, mặc dầu luôn ở với cha già. Bề
ngoài anh trung thành làm bổn phận đối với cha già, nhưng trong thâm tâm anh
hoang đàng xa cách người cha không kém người con thứ.
12. Người Cha tuyệt hảo
Sau tiếng gọi cửa
nhà ông Mạc Văn Mỹ, sinh sống cạnh nhà thờ Xóm Chiếu, một chàng trai cao lớn ra
đón chúng tôi bằng nụ cười hiền hậu và một cách giao tiếp chào hỏi khá nhanh nhẹn.
Ít ai có thể nghĩ rằng đây là chàng trai Mặc Đăng Mừng đã từng bị bệnh down từ
khi mới chào đời. Tuy nhiên, qua những năm phấn đấu không ngừng cùng với sự đồng
hành của người cha, hiện nay chàng trai này đã biết chơi đàn Organ, bơi lội,
đai nâu võ Aikido và đặc biệt anh vừa nhận chứng chỉ nghề tại trường ĐH Văn
Lang với chuyên ngành đồ họa.
Tiếp chúng tôi
trong căn nhà nhỏ luôn rộn rã tiếng cười, ông Mạc Văn Mỹ (bố của Mừng, 66 tuổi)
vui mừng đem khoe cuốn album hình ảnh của con trai trong lớp học đàn, học võ và
những tấm huy chương Mừng đạt được trong các kì thi thể dục thể thao. Bắt đầu
câu chuyện về cuộc đời và nghị lực của cậu con trai mình, ông Mạc Văn Mỹ cho
hay, ông và vợ mình là bà Đặng Thị An (66 tuổi) cưới nhau vào năm 1970, sinh được
Mừng năm 1988. Từ khi biết Mừng mắc bệnh down, ông Mỹ như mất đi tất cả, nhiều lần
ông định đầu hàng nghịch cảnh, nhưng ông nghĩ lại vì thương cho số phận chẳng
may của con trai mình. Ông Mỹ đã đưa Mừng đi nhiều nơi chữa trị nhưng không có
kết quả. Không muốn con chấp nhận số phận, ông Mỹ đã tự tìm hiểu nhiều phương
pháp tự dạy cho con học và tập cho con vượt qua căn bệnh để hòa nhập cùng cộng
đồng. Ông Mỹ bồi hồi nhớ lại: “Không muốn con bị người khác chê cười, nên tôi
đã tìm phương pháp để dạy cho con biết học Anh văn, học nghề và học nhiều thứ
khác để cháu được phát triển tư duy một cách bình thường.” Những ngày đầu tiên
cho con đi học ông Mỹ muốn con mình được học đàn, để kích thích các dây thần
kinh lên não. Nhiều lần ông Mỹ tìm đến các nơi dạy đàn để đăng kí cho con học,
nhưng đều bị từ chối. Không bỏ cuộc, nhiều tháng liền ông tìm đến phòng dạy đàn
ở nhà thờ để học lỏm cách đánh đàn, rồi về bàn với vợ gom góp tiền mua đàn về dạy
cho con tập đánh đàn. Ngoài việc dạy con đánh đàn, ông Mỹ còn dành thời gian mỗi
buổi chiều để tập cho Mừng đi trên những viên đá xanh, giúp kích thích các dây
thần kinh từ lòng bàn chân lên não, khiến việc tiếp thu của Mừng nhạy bén hơn.
“Khi đó tôi gõ cửa
nơi bán đàn để xin cho con vào học, nhưng thầy bảo con tôi bị bệnh thế thì học
được gì. Lúc đó buồn lắm nhưng tôi bảo với họ, là nếu con tôi biết đánh đàn,
thì phải nhận dạy cho cháu, thế là họ cho đánh thử, khi con đánh được một đoạn
nhạc, thì họ tỏ ra rất ngạc nhiên và sau đó nhận dạy cháu đến bây giờ”, ông Mừng
tâm sự. Đến năm Mừng theo học ở trường Võ Thị Sáu, ông Mỹ phải đưa đón con đi học,
rồi ngồi lại trường để đợi đón con về. Những ngày nghỉ, ông dạy cho con trai học
thêm Anh văn. Thấy việc học phổ thông quá khó đối với con, ông quyết định cho Mừng
nghỉ học lớp 9 và tìm trường dạy nghề đồ họa cho Mừng theo học. Với những môn học
có tính sáng tạo, Mừng tỏ ra rất thích thú. Những ngày con đến học môn đồ họa ở
trường đại học Văn Lang, ông Mỹ xin thầy dạy cho phép được vào học cùng con, những
ghi chú của thầy cô dặn dò ông tỉ mỉ ghi chép lại, để về nhà giảng lại cho con.
Cứ như thế sau 5 tháng Mừng đã hoàn thành khóa học chứng chỉ nghề kĩ thuật viên
đồ họa. Ngoài khóa học trên, ông Mỹ còn cho con mình tham gia rất nhiều khóa học
khác như: kỹ năng sống, võ thuật, Anh văn… để Mừng có điều kiện phát triển tốt
và tăng tính tư duy hơn. (Hành trình 27 năm của người cha biến đứa con bị bệnh
Down thành người bình thường, Tri Thức Trẻ)
13. Trung tín, quảng đại và khoan dung
Truyện 1001 đêm của
Ba Tư có kể lại câu chuyện này: Có hai anh em nhà kia bắt trói được thủ phạm giết
chết người cha của mình. Ra toà, thủ phạm thú nhận tội lỗi, nên luật "mắt
đền mắt, mạng đền mạng" được áp dụng. Nhưng trước khi xử, hắn ta xin ân huệ
cuối cùng là được trở về nhà trong 3 ngày để giải quyết một vấn đề liên hệ tới
người cháu đã được giao phó cho hắn chăm sóc từ nhỏ. Hắn hứa sau 3 ngày sẽ trở
lại để chịu tử hình. Quan toà và dân xem chừng không tin. Thì giữa đám đông có
một bàn tay giơ lên: “Tôi xin bảo đảm lời cam kết của tử tội, nếu 3 ngày sau hắn
không trở lại thì cứ xử tử tôi thay hắn!” Tên tử tội được tự do 3 ngày để giải
quyết việc gia đình. Hết hạn, y… trở lại để chịu tử hình. Trước khi bị hành quyết,
y nói lớn: “Tôi đã giải quyết xong việc riêng, giờ đây tôi trở lại chịu tội,
tôi muốn trung thành với lời cam kết của tôi, để người ta không nói được rằng
chữ trung tín không còn trên mặt đất này nữa.”
Sau lời phát biểu của
tử tội, người đàn ông bảo lãnh cũng đứng ra tuyên bố: “Tôi đứng ra bảo lãnh vì
tôi không muốn người ta nói rằng lòng quảng đại không còn trên mặt đất này nữa.”
Nghe hai lời tuyên bố trên, cả đám đông thinh lặng. Dường như ai cũng cảm thấy
được mời gọi thể hiện những gì là cao quí trong lòng người. Bỗng từ giữa đám
đông, hai người con trai của người cha đã bị giết tiến ra thưa với quan toà:
“Thưa ngài, chúng tôi xin tha cho kẻ đã giết cha chúng tôi, để người ta không
còn nói được rằng: Lòng khoan dung tha thứ không còn có trên mặt đất này nữa.”
14. Tình yêu chữa lành
Vì xích mích với
gia đình hàng xóm, anh Năm bị một tên côn đồ, thuộc diện xã hội đen do người
hàng xóm thuê mướn, xông đến gây sự và chặt đứt cánh tay. Nhìn máu từ cánh tay
bị chặt phun ra cuồn cuộn, nhìn cánh tay bị đứt lìa nằm bất động dưới đất, anh
Năm hết sức kinh hoàng, vô cùng đau đớn và tiếc nuối. Sau vài phút, anh ngã xuống
trên vũng máu và ngất đi. Thế là từ đây, anh bị mất đi một phần thân thể quan
trọng, từ đây anh trở thành người cụt tay, một người tàn phế…
Khi phát hiện ra
anh Năm nằm bất tỉnh bên cạnh cánh tay đứt lìa, những người hàng xóm tốt bụng vội
chạy đến cứu anh. Người ta cầm máu vết thương đang rỉ máu, lau rửa thật sạch và
khử trùng vết chém; người khác nhặt cánh tay anh lên, lau rửa sạch sẽ rồi cho
vào thùng đá ướp lạnh. Người khác nữa vội gọi xe cấp cứu đến và giục xe phóng
nhanh vào bệnh viện chuyên khoa tận Sài gòn hòng cứu chữa anh, với hy vọng là đến
kịp bệnh viện trong vòng 7 tiếng đồng hồ thì các bác sĩ có thể ráp nối lại cánh
tay cho anh được.
May thay, anh đã được
cứu chữa kịp thời. Các bác sĩ giỏi đã ráp nối lại cánh tay cho anh, ghép lại
xương, nối lại mạch máu và chăm sóc chu đáo. Sau hai tháng điều trị, anh xuất
viện và cánh tay anh có thể hoạt động bình thường. Bấy giờ anh Năm cảm thấy rằng
chẳng có niềm vui nào trong đời lớn hơn niềm vui có lại cánh tay tưởng như đã mất.
Thiên Chúa rất đau
lòng khi ta phạm tội
Nỗi đau thương của
anh Năm, người bị cắt đứt mất cánh tay trong vụ xung đột trên đây, nói lên phần
nào nỗi đau thương khôn nguôi của Thiên Chúa khi Người đánh mất chúng ta là một
chi thể rất yêu quý của Người.
Thiên Chúa rất mừng
vui khi người tội lỗi trở lại với Người
Niềm vui có lại được
cánh tay của anh Năm cũng diễn tả đúng niềm vui của Thiên Chúa khi có người tội
lỗi ăn năn hối cải trở lại với Người.
15. Thánh Vianney VÀ NGƯỜI CHA NHÂN HẬU
Khi quan sát hình ảnh
người cha ôm người con, nghe người cha nói với người con và liên tưởng tới Vì
Thiên Chúa là Cha xử với chúng ta là tội nhân như thế. Thánh Gioan Maria
Vianney cha sở họ Ars đã thốt lên rằng: Đây hình ảnh tuyệt đẹp về sự vĩ đại của
lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân khốn khổ nhất!..
Ôi Thiên Chúa của
con, rằng tội lỗi là một cái gì đó thật khủng khiếp! Làm thế nào chúng con có
thể phạm tội được? Nhưng tất cả chúng con là những kẻ khốn nạn, ngay khi chúng
con còn là tội nhân, thì Thiên Chúa đã yêu thương chúng con trước.
Lòng thương xót của
Thiên Chúa cộng với lòng trắc ẩn. Tình yêu của Đấng Cứu Thế thật bất ngờ bởi ân
sủng của Ngài trước các tội nhân, Ngài ôm hôn tội nhân, trao ban cho họ sự an ủi
tuyệt vời…Ôi khoảnh khắc tuyệt với! Chúng ta mà hiểu được thì chúng ta sẽ rất hạnh
phúc! Nhưng than ôi, chúng ta không phù hợp với ơn thánh, nên những khoảnh khắc
hạnh phúc tuyệt vời ấy biến mất…
Chao ôi, đâu là điều
mà tội nhân tin tưởng, cho dù tội lỗi đến đâu đi chăng nữa, thì hãy biết và tin
rằng lòng thương xót của Thiên Chúa là vô cùng vô hạn! (Trích bài giảng thứ
Chúa nhật III Mùa Chay của thánh Gioan Maria Vianney).
16. Sống trong tình trạng ơn thánh
Leonard da Vinci là
một họa sĩ tài ba, nhưng khi vẽ bức tranh Bửa Tiệc Ly trong nhà cơm của tu viện
Đức Mẹ Ban Ơn tại thành phố Bắc Italia, ông phải mất nhiều năm mới hoàn thành bức
tranh vì không tìm ra những người mẫu thích hợp. Một hôm nọ, ông gặp trong công
viên Castellô một thanh niên tên là Francisco, gương mặt bầu dục tuyệt đẹp với
phần trán an hòa và quý phái, đôi mắt suông và trong suốt, tóc vàng hoe có dợn
sóng. Leonard liền mời chàng trai tuấn tú ấy đến ngồi làm mẫu để ông vẽ Chúa
Giêsu.
Vài năm sau bức họa
vẫn chưa xong. Ông ngày đêm gãi đầu bứt tai vì không sao tìm ra được một người
có gương mặt dữ dằn làm mẫu, để ông vẽ hình Giuđa, kẻ đã phản bội bán nộp Chúa
Giêsu. Tình cờ một buổi chiều, ông thấy một người đàn ông có gương mặt xấu xa dữ
dằn đang nhìn các người khác đánh cá ngựa, hắn chửi thề luôn miệng. Leonard vui
mừng vì đã tìm thấy mẫu người ông đang cần. Ông gọi hắn ra một góc và đề nghị với
hắn nhận làm người mẫu cho ông vẽ thì sẽ được thưởng nhiều tiền. Gã đàn ông nhận
lời và cùng họa sĩ vào tu viện Đức Bà Ban Ơn.
Trong lúc họa sĩ
đang chăm chú nhìn gương mặt gã với vầng trán buồn, đôi mắt dữ tợn, tai dựng đứng
và dường như đang nhớ đến một kỷ niệm nào đó, thì ông nghe một tiếng nghẹn
ngào. Ông hỏi hắn: Có chuyện gì vậy? Bác cảm thấy người không khỏe hay sao? Gã
đàn ông trả lời: Thưa thầy, chắc thầy còn nhớ cách đây ba năm, tôi cũng ngồi
trên chiếc ghế này làm mẫu cho thầy vẽ hình Chúa Giêsu. Gã đàn ông nhìn bức
tranh gần hoàn thành trên tường và thở dài nói: Tôi thật là một tên khốn nạn,
đam mê và tội lỗi đã biến tôi ra thân tàn ma dại như thế này.
17. Thiên Chúa đang tìm tôi
Có một người đàn
ông nọ khao khát đi tìm gặp gỡ Chúa. Ông đi khắp nơi để thọ giáo những bậc
thánh hiền, ông cặm cụi đọc sách, nghiền ngẫm nhưng vẫn không tìm được Chúa.
Ngày nọ, ông đến ngồi thơ thẩn bên một dòng sông nhìn dòng nước trôi lững lờ,
ông nhìn thấy một con vịt mẹ và một đàn con đang bơi lội. Đàn vịt con tinh nghịch
muốn rời mẹ để ra đi kiếm ăn riêng.
Để tìm con này đến
con nọ, vịt mẹ phải lặn lội đi tìm đàn con mà không hề tỏ dấu giận dữ hay thất
vọng. Nhìn thấy cảnh vịt mẹ cứ mãi đi tìm con như thế, người đàn ông mỉm cười
và đứng dậy trở về quê hương. Ông chợt khám phá ra một chân lý và ông thốt lên:
Tôi đã đi tìm Chúa và cuối cùng tôi đã khám phá ra rằng chính Thiên Chúa đang
đi tìm tôi.
Con vịt mẹ không ngừng
đi tìm kiếm con của mình, đó là hình ảnh nói lên chính tình yêu của Thiên Chúa.
Thiên Chúa không ngừng đi tìm kiếm con người. Qua bài dụ ngôn "người con
hoang đàng" quen thuộc mà chúng ta có dịp lắng nghe trong Mùa Chay này,
Chúa Giêsu cũng mạc khải cho chúng ta tình yêu cao vời ấy của Thiên Chúa. Thiên
Chúa đã tạo dựng cho chúng ta có tự do. Thiên Chúa muốn đối xử với chúng ta như
một con người trưởng thành.
18. Bổn phận tôi là cho mượn.
Chuyện xảy ra ở một
thôn bản người dân tộc thiểu số.
Có gia đình kia
nghèo nhưng đạo đức. Hai vợ chồng chăm chỉ làm ăn, nên trong nhà không thiếu
ăn. Mấy người hàng xóm thiếu, cứ đến vay mượn hoài, và hứa sang mùa tới sẽ trả.
Nhưng sự thật thì có một vài người hết mùa nầy sang mùa nọ, chẳng bao giờ trả
được. Bà mẹ già trong gia đình không bằng lòng và trách con gái:
- Sao mầy ngu vậy?
Bạ ai hỏi cũng cho mượn hết, người ta không trả cho mầy thì mầy lấy gì mà ăn?
Chị mỉm cười và ôn
tồn đáp lại:
- Mẹ nầy, không sao
đâu! Mình nghe lời Chúa dạy: cho mượn là việc của mình phải làm, còn trả hay
không là việc của người ta mà!..
19. Vậy nó ra đi và trở về với cha nó
Đức Hồng Y Suhart,
Giám Mục Paris là một vị chủ chăn lỗi lạc. Điều này chẳng một ai dám phủ nhận.
Đặc biệt về đường hướng đạo đức thâm sâu mà Ngài đã vạch ra trong các thư luân
lưu danh tiếng như: "Giáo hội tiến hay lùi" (Mùa Chay năm 1948); hoặc
"Linh Mục giữa xã hội" (Mùa Chay năm 1948).
Đức Thánh Cha Piô
XII rất lấy làm cảm phục khi đọc qua các thư luân lưu ấy. Trong dịp Đức Hồng Y
đến Vaticano, Đức Thánh Cha đã tươi cười hỏi đùa: "Năm nay Đức Hồng Y có
ra thông điệp nào mới không?"
Giữa những bận rộn
của giáo phận với mấy triệu giáo dân, 10 Giám mục phụ tá, 1,500 linh mục và
hàng trăm ngàn tu sĩ nam nữ, một hôm, một linh mục bí thư trình lên Đức Hồng Y
một tập sách mới viết định xuất bản, do một linh mục trẻ trong giáo phận soạn
ra. Linh mục ấy thiết tha xin Đức Hồng Y xem qua cuốn sách và chuẩn y trước khi
ấn hành. Đức Hồng Y vui vẻ nhận lời: "Tốt lắm! Cha cứ để đấy, lúc nào rỗi
tôi sẽ xem.”
Một tháng trôi qua,
cuốn sách chẳng được đụng đến, vị linh mục nôn nóng chờ đợi, thời gian dài như
cả thế kỷ. Thế nhưng, chẳng biết làm sao hơn, vì Đức Hồng Y quá bận việc. Phải
đợi đến một buổi chiều mùa đông giá lạnh, khi Toà Giám Mục hoàn toàn vắng
khách, trong bầu khí thân mật, cha bí thư rụt rè trình bày: "Thưa Đức Hồng
Y, xin Đức Hồng Y xem qua tập sách cho ông cha trẻ kia được phấn khởi. Ông ta cứ
hỏi con hoài à! Có thể hôm nay vắng khách, xin Đức Hồng Y xem qua tí thôi, cũng
như đọc sách báo giải trí vậy.” Đúng! Tôi bận quá vậy nên chậm trễ mất, đưa quyển
sách cho tôi, tôi bắt đầu đọc ngay bây giờ. Cha bí thư vui mừng phấn khởi, trao
ngay cuốn sách và nhẹ nhàng rút lui. Thế rồi Đức Hồng Y mải mê đọc sách, giờ
cơm tối Ngài vắng mặt, 12 giờ khuya đèn phòng Ngài vẫn còn bật sáng và 3 giờ
sáng vẫn còn đèn. Ngài đã đọc suốt đêm, quên cả ăn lẫn ngủ.
Sáng hôm sau, vừa
dùng điểm tâm xong, Đức Hồng Y vội gọi ngay cha bí thư vào và bảo mời các các
Giám Mục phụ tá, các Tổng Đại Diện và ban cố vấn đến dự phiên họp đặc biệt. Khi
tất cả tề tựu đông đảo, Đức Hồng Y lên tiếng: Lý do của buổi họp mặt đặc biệt
hôm nay là vì tập sách của cha Henry Kobel mang tựa đề: "Nước Pháp, một xứ
truyền giáo.” Tập sách được cha bí thư trao cho tôi chiều hôm qua và tôi đã đọc
hết cuốn sách, quên cả ăn, cả ngủ. Bấy lâu nay tôi cứ ngờ rằng, tôi đã biết rõ
thành phố Paris, giáo phận của tôi. Nhưng bây giờ đọc trong đó, tôi thấy có nhiều
sự kiện rất mới lạ khiến cho tôi phải bồn chồn thao thức. Tôi tự kiểm điểm lại:
Thật tôi chưa biết rõ giáo phận của tôi. Tôi rất cảm phục cuốn sách này. Vì những
tư tưởng trong cuốn sách cứ ám ảnh tôi, khiến tôi trằn trọc suốt đêm, mong sao
đến sáng để gặp các vị cố vấn và tức khắc đi vào vấn đề.
Cám ơn cha Henry
Kobel đã trao sách ấy cho tôi đọc. Và kết quả của công việc kiểm điểm này là
Ngài đã lập ra "Hội Truyền Giáo Thừa Sai Paris" vào năm 1944, đồng thời
Ngài ra hai bức thư luân lưu nổi tiếng nói trên.
Khởi đầu của cuộc canh tân hay sự trở về bao giờ cũng được đánh
dấu bằng những giây phút "Tự Kiểm Điểm" hay "Cảnh Tỉnh.”
20. Phúc cho ai biết cậy vào lòng chúa thương xót
Một nhà truyền giáo
trong vùng Thái Bình Dương có kể lại sự kiện như sau: Ngày nọ có một người đàn
bà bước vào lều của ngài với đôi bàn tay nắm chặt cát ướt. Bà hỏi ngài: Cha có
biết cái gì trong tay con không?
Vị linh mục đáp:
Hình như chị đang cầm cát trong tay thì phải?
Người đàn bà lại hỏi
tiếp: Cha có biết tại sao con mang cát ấy đến đây không?
Nhà truyền giáo lắc
đầu. Người đàn bà liền giải thích: Thưa cha, đây là tội lỗi của con, tội của
con nhiều như cát biển, làm sao con có thể được tha thứ?
Lúc bấy giờ vị linh
mục mới an ủi: Có phải chị lấy cát từ bờ biển không, vậy chị hãy quay trở lại bờ
biển và giống như các em bé vẫn thường làm, chị hãy xây lên một núi cát, rồi chị
ngồi đó và ngắm những đợt sóng biển, sóng biển sẽ vỗ vào bờ và cuốn đi ngọn núi
cát của chị. Ơn tha thứ của Chúa cũng giống như thế, lòng nhân từ của Ngài bao
la như đại dương, chị hãy thành tâm thống hối và Chúa sẽ tha thứ cho chị.
Lạy Chúa, xin cho mỗi
chúng con đừng bỏ đi hoang như người con thứ, đừng kiêu ngạo, ích kỷ như người
con cả. Xin cho chúng con luôn tin tưởng nơi lòng thương xót của Chúa để biết đứng
dậy trở về mỗi khi sa ngã. Xin cho chúng con có lòng nhân hậu tha thứ như tấm
lòng của Chúa. Amen.
Lời Chúa: Ga 4, 43-54
Khi ấy, Chúa Giêsu
bỏ Samaria mà đến Galilêa. Chính Người đã nói: "Không vị tiên tri nào được
kính nể nơi quê hương mình.” Khi Người đến Galilêa, dân chúng ra đón tiếp Người:
Họ đã chứng kiến tất cả các việc Người làm ở Giêrusalem trong dịp lễ; vì họ
cũng đi dự lễ.
Người trở lại Cana
xứ Galilêa, nơi Người đã biến nước thành rượu. Bấy giờ có một quan chức nhà vua
ở Capharnaum có người con trai đang đau liệt. Ðược tin Chúa Giêsu đã bỏ Giuđêa
đến Galilêa, ông đến tìm Người và xin Người xuống chữa con ông sắp chết. Chúa
Giêsu bảo ông: "Nếu các ông không thấy những phép lạ và những việc phi thường,
hẳn các ông sẽ không tin.” Viên quan chức trình lại Người: "Thưa Ngài, xin
Ngài xuống trước khi con tôi chết.” Chúa Giêsu bảo ông: "Ông hãy về đi,
con ông mạnh rồi.” Ông tin lời Chúa Giêsu nói và trở về.
Khi xuống đến sườn
đồi thì gặp gia nhân đến đón, báo tin cho ông biết con ông đã mạnh. Ông hỏi giờ
con ông được khỏi. Họ thưa: "Hôm qua lúc bảy giờ cậu hết sốt.”
Người cha nhận ra
là đúng giờ đó Chúa Giêsu bảo ông: "Con ông mạnh rồi", nên ông và
toàn thể gia quyến ông đều tin.
Ðó là phép lạ thứ
hai Chúa Giêsu đã làm khi Người ở Giuđêa về Galilêa.
TRUYỆN KỂ
1. Để tiếng hát có
hồn
Một thiếu nữ có giọng
hát thiên phú, cô luyện giọng với một giáo sư âm nhạc tài ba, cô đã hát được những
giai điệu tuyệt hảo. Thế nhưng khi trình diễn, cô vẫn thấy giọng hát của cô
chưa được truyền cảm. Vị giáo sư âm nhạc giải thích cho cô: “Tôi đã dạy cô tất
cả những gì tôi biết, nhưng cô còn thiếu một điều mà tôi không thể cung cấp cho
cô được, điều đó đến từ cuộc sống: chỉ có kinh nghiệm của cuộc sống, chỉ có những
điều làm tan vỡ cõi lòng mới làm cô hát với tất cả cảm xúc.”
Đau khổ là lửa thử
niềm tin con người, đau khổ có thể đưa con người đến thất vọng, chối bỏ, và lộng
ngôn, nhưng đau khổ cũng có thể là khởi điểm của tin yêu phó thác. Nguyện xin Đấng
là đường, là sự thật và là sự sống củng cố niềm tin chúng ta giữa những đau khổ
đè nặng trên thân xác và tâm hồn chúng ta.
2. Tin người đáng
tin
Một bà già đứng ở
ngã tư có nhiều chuyến tàu đi qua. Vì ít khi ra ngoài, nên bà chẳng biết tàu
nào về đâu. Sợ đi lạc, bà giơ vé ra hỏi một người đứng kế bên:
- Tôi định đi Bay
City, có phải đi tàu này không?
- Phải đó bà.
Nhưng bà chưa an
tâm. Biết đâu người ấy cũng không rành. Bà gặp người khác, cũng hỏi:
- Tôi định đi Bay
City, có phải đi tàu này không?
- Phải đó bà.
Nhưng bà vẫn
chưa hết áy náy. Rồi bà gặp một người đeo phù hiệu nhân viên hỏa xa, bà hỏi:
- Tôi định đi Bay
City, có phải đi tàu này không?
- Phải, thưa bà.
Thế là bà an tâm bước
lên tàu. Bà đã tin người đáng tin. Đức tin là thế!
3. Tin là thế
Một người vô thần rất
mê leo núi. Ngày kia trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhung may thay
ông bám được một cánh cây nằn chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ
còn biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông: Tại sao không gọi Chúa đến cứu
giúp. Thế là lấy hết sức lực, người vô thần la lớn: ”Lạy Chúa.”
Tuy nhiên bốn bề chỉ
có thinh lặng và ông chỉ nghe được tiếng dội của lời kêu van. Một lần nữa người
vô thần lại kêu xin tha thiết hơn: ”Lạy Chúa, nếu quả thật Chúa hiện hữu thì
xin hãy cứu con. Con hứa sẽ tin Chúa và dạy cho những người khác cũng tin
Chúa.”
Sau một hồi lặng
thinh, bỗng người vô thần nghe thấy một tiếng vang dây cả vực thẳm và núi cao:
”Gặp hoạn nạn thì ai cũng cầu xin như thế.” ”Không, Lạy Chúa, nghìn lần không.
Con không giống như những người khác. Chúa không thấy sao, con bắt đầu tin từ
khi nghe thấy tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ
cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất.”
Tiếng ấy trả lời:
”Được lắm, Ta sẽ cứu ngươi. Vậy ngươi tin thì hãy buông tay ra.” Người vô thần
thất vọng hô lên: ”Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao?”
4. Sự sống âm thầm
phát triển
Một bà đạo đức áy
náy vì một vài tật xấu bà đã cố gắng hết sức mà vẫn không chừa được. Bèn đến
than thở với Cha linh hướng. Ngài nói: ”Con có để ý thấy không, vào mùa đông,
lá sồi rụng nhiều, nhưng vẫn còn vài chiếc. Gió đông thổi mạnh nhưng vẫn không
làm chúng rụng xuống. Nhưng khi mùa xuân đến, chúng tự động rụng, nhường chỗ
cho những lá non nảy lộc. Vậy cái gì làm cho chúng rơi rụng? Thưa đó là sự sống
mới lưu chuyển trong thân cây.
“Với chúng ta cũng
vậy. Khi sự sống mới của Đức Kitô nảy nở trong đời sống, ta sẽ mau thăng tiến
trên con đường đạo đức.”
5. Tin là như thế
Một vị Linh mục được
mời đến bên giường của một cụ già đang hấp hối.
Khi vị linh mục sắp
sửa ngồi xuống trên chiếc ghế bành đặt cạnh giường của cụ, thì cụ già ngăn cản
lại: - Xin cha vui lòng đừng ngồi vào đó!
Vị linh mục bèn lấy
một cái ghế đẩu, ngồi xuống cho kẻ liệt xưng tội và nhận của ăn đàng.
Sau đó cụ già cố gắng
lấy lại một chút hơi hụt sức tàn và nói:
- Hãy để con kể lại
lịch sử chiếc ghế bành này cho cha nghe. Cách đây 50 năm, khi con còn là một
thanh niên, vị linh mục quản xứ của con có lần hỏi con có thuộc các kinh để cầu
nguyện không. Con đáp: “Không, nếu con hét to đến nỗi có thể bể cả buồng phổi
thì một kẻ đứng ở tầng lầu 3 cũng không nghe con được, vậy thì làm sao Thiên
Chúa có thể nghe con từ Trời được?”
Cha trả lời cách nhẹ
nhàng:
- Con đừng thử cố gắng
cầu nguyện. Mỗi sáng con hãy ngồi tự nhiên trên một cái ghế bành và hãy tưởng
tượng như Đức Giêsu Kitô đang ngồi đối diện với con trên một cái ghế bành khác
như Ngài đã từng ngồi trong bao căn nhà ở Palestine… lúc đó con sẽ nói gì với
Ngài?
Con trả lời:
- Con sẽ nói thẳng
rằng, con không tin Ngài.
- Được, vị linh mục
già trả lời, ắt là điều đó đã nói lên một cái gì đang có thật trong trí của con
rồi. Con có thể đi xa hơn nữa và thách thức nhiều hơn nữa! Nếu Ngài hiện hữu
thì tại sao lại không minh chứng điều đó cho con? Hoặc là nếu con không thích
cách Thiên Chúa quản trị thế giới, tại sao con không nói với Ngài điều này? Con
không phải là người đầu tiên than trách Ngài đâu. Vua Đavid và ông Gióp đã có lần
nói với Chúa là Ngài bất công rồi. Có thể con ao ước cái gì? Con cứ nói lên điều
đó. Nếu Ngài ban cho con, con cám ơn Ngài. Tất cả những trao đổi này là đối tượng
của lời cầu nguyện. Con đừng đọc thuộc lòng một cách máy móc những câu kinh như
nhiều người vẫn làm! Hãy nói những gì thực sự của lòng con.
Cụ già hấp hối
nói tiếp:
- Lúc đó, quả thực
con không tin vào Đức Kitô, nhưng con tin vào vị linh mục già kia. Để làm hài
lòng ngài, con đã ngồi trên một cái ghế bành này và làm như thấy Đức Kitô đang
ngồi đối diện với con. Trong vài ngày đầu, điều đó có vẻ như trò chơi. Nhưng dần
dần con cảm thấy Ngài ở đó. Con nói với Ngài về những chuyện hiện thực. Con xin
Ngài một lời khuyên và con nhận được. Cầu nguyện đã trở thành đối thoại. 50 năm
trôi qua và mỗi ngày con nói chuyện với Đức Kitô ngồi trong chiếc ghế bành này!
Vị linh mục
còn ở đó cho đến khi cụ già này thở hơi cuối cùng, và cử chỉ sau hết của cụ là
đưa bàn tay hướng người bạn vô hình đang ngồi trên chiếc ghế bành trước mặt.
Vâng, tin là như thế!
Phúc cho những ai không thấy mà tin. Không thấy nhưng vẫn tin. Đó mới là đức
tin Chúa mong muốn nơi mỗi người chúng ta.
6. Cầu nguyện luôn,
đừng nản chí
Vậy chỉ những ai
tham dự Thánh Lễ với tất cả lòng tin tưởng nơi Chúa giống vị sĩ quan ngoại giáo
Roma, thì họ đều cất tiếng ngợi khen: “Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã
thương cứu vớt” (Tv 30/29,2a: Đáp ca).
Nhằm nêu cao bậc sống
gia đình trong năm “Quốc Tế Gia Đình – 1994”, vào ngày lễ Chúa Chiên Lành –
24/04/1994, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã phong chân phước cho bà Êlisabeta
Calnorimora.
Bà Calnorimora sinh
ngày 21 tháng 11 năm 1774, tại Roma, bà thuộc gia đình giàu có, và được cha mẹ
giáo dục Đức Tin rất chu đáo. Năm 22 tuổi, bà lập gia đình với một luật sư, và
đã có với chồng hai cô con gái. Vài năm sau đó, bà phát hiện ra chồng ngoại
tình, hay lấy trộm tiền của vợ đi nuôi bồ nhí! Bà đã khuyên lơn nhiều lần,
nhưng bù lại bà bị chồng đánh đập tàn nhẫn, đến nỗi người ta phải đưa vào bệnh
viện cấp cứu. Bác sĩ chê vì chồng đã quá tay đối với bà, bác sĩ khuyên đưa bà về
để gặp con trước khi chết! Nhưng Chúa thương cho bà bình phục, từ bấy giờ ông
chồng ở luôn với vợ bé! Bà phải một mình làm việc cần cù nuôi hai con gái. Năm
1801, bà mắc một căn bệnh hiểm nghèo lúc mới 27 tuổi, nhưng Chúa lại cho bà được
bình phục, sau đó bà gia nhập tu hội đời thuộc Dòng Chúa Ba Ngôi. Nhà bà biến
thành nơi cầu nguyện cho những người đau khổ. Hằng ngày bà đều xin mọi người cầu
nguyện cho chồng bà biết sám hối trở về đường ngay nẻo chính, và bà cũng giúp đỡ
nhiều người về đời sống vật chất cũng như tinh thần.
Ngày 05 tháng 02
năm 1825 Chúa đã cất bà ra khỏi thế gian, hưởng dương 51 tuổi. Vậy sau 25 năm
bà liên lỉ cầu nguyện trong nước mắt cho người chồng trở về. Lúc vợ chết ông mới
thương vợ thương con mãnh liệt, ông sám hối và trở về phục tang vợ, nhiều người
thấy ông, ai cũng chế nhạo: “Nước mắt cá sấu!” Ông cam phận chịu đựng để một phần
nào đền tội mình! Sau ngày an táng vợ xong, ông trù liệu tiền bạc nuôi hai con
chính thức và các con ngoại hôn, rồi ông xin gia nhập Dòng Chúa Ba Ngôi, và trở
thành Linh mục sống rất gương mẫu.
7. Đức tin nhìn thấy
Nhà điêu khắc người
Ý Donatello bỏ đi một khối đá cẩm thạch vì nó bị trầy. Khi được đề nghị,
Michel-Angelo đã nhận khối đá đó. Ông nhìn vượt qua những trầy xước để thấy được
vẻ đẹp tiềm tàng trong đó, và đã chạm được một kiệt tác là tượng Đavit.
Thiên Chúa cũng làm
như thế đối với chúng ta và đối với thế giới tội lỗi. Qua những trầy xước,
Thiên Chúa thấy một vẻ đẹp tiềm ẩn trong đó, và giờ đây Ngài tái tạo mọi sự
theo hình ảnh Chúa Giêsu.
Tôi tin tưởng Thiên
Chúa có một chương trình cho tôi và muốn biến tôi thành một cái gì đặc biệt, bất
chấp những trầy xước của tôi như thế nào?
Khi lấy cái dằm tội
lỗi ra khỏi mắt ta, cả thế giới sẽ tỏa sáng (John Michael Talboit).
8. Đức tin nâng tâm
hồn lên
Fred Smith là một
chuyên gia hóa sinh ở đại học Minnesota. Anh cũng là một người theo thuyết bất
khả tri. Một hôm để chiều lòng người bạn, anh đến tham dự thánh lễ của người
Công giáo. Anh không thích cách hát và bài giảng, nhưng một đoạn Kinh thánh đã
gây ấn tượng sâu sắc nơi anh: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và
lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Ngài sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ
được cứu rỗi” (Rm 10,9). Đoạn Kinh thánh này là hạt giống nảy sinh một niềm tin
vững mạnh: Smith trở thành người ủng hộ Kinh thánh hàng đầu ở Minnesota.
Câu truyện đức tin
của viên sĩ quan và của Smith mời gọi tôi tự hỏi: Đâu là giây phút nồng cốt
trong câu truyện đức tin của tôi?
Lý trí đưa tôi tới
chân núi, đức tin nâng tôi lên đỉnh núi.
9. Niềm tin nối kết
Thiên Chúa bảo Môsê
giơ gậy trên Biển Đỏ, tức thì nước rẽ ra và tạo thành con đường cho dân Israel
đi qua an toàn. Truyền thuyết kể rằng nước chỉ rẽ ra khi nhóm người Israel đầu
tiên thực sự bước chân xuống biển.
Niềm tin của dân
Israel và của viên sĩ quan La Mã mời gọi tôi tự hỏi: Niềm tin của tôi mạnh mẽ
như thế nào? Tôi sẽ làm gì để cho niềm tin của tôi ngày càng mạnh mẽ hơn?
Tôi tìm kiếm linh hồn
mình, nhưng không thấy. Tôi tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng Ngài ở ngoài tầm tay
tôi. Tôi tìm kiếm anh em, và tôi gặp được cả ba.
Lời Chúa: Ga 5,
1-3a. 5-16
Hôm đó là ngày lễ của
người Do-thái, Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Tại Giêrusalem, gần cửa
"Chiên", có một cái hồ, tiếng Do-thái gọi là Bếtsaiđa, chung quanh có
năm hành lang. Trong các hành lang này, có rất nhiều người đau yếu, mù loà, què
quặt, bất toại nằm la liệt. Trong số đó, có một người nằm đau liệt đã ba mươi
tám năm.
Khi Chúa Giêsu thấy
người ấy nằm đó và biết anh đã đau từ lâu, liền hỏi: "Anh muốn được lành bệnh
không?" Người đó thưa: "Thưa Ngài, tôi không được ai đem xuống hồ, mỗi
khi nước động. Khi tôi lết tới, thì có người xuống trước tôi rồi.” Chúa Giêsu
nói: "Anh hãy đứng dậy vác chõng mà về.” Tức khắc người ấy được lành bệnh.
Anh ta vác chõng và đi. Nhưng hôm đó lại là ngày Sabbat, nên người Do-thái bảo
người vừa được khỏi bệnh rằng: "Hôm nay là ngày Sabbat, anh không được
phép vác chõng.” Anh ta trả lời: "Chính người chữa tôi lành bệnh bảo tôi:
"Vác chõng mà đi.” Họ hỏi: "Ai là người đã bảo anh "Vác chõng mà
đi?" Nhưng kẻ đã được chữa lành không biết Người là ai, vì Chúa Giêsu đã
lánh vào đám đông tụ tập nơi đó.
Sau đó, Chúa Giêsu
gặp anh ta trong đền thờ, Người nói: "Này, anh đã được lành bệnh, đừng phạm
tội nữa, kẻo phải khốn khổ hơn trước.” Anh ta đi nói cho người Do-thái biết
chính Chúa Giêsu là người đã chữa anh ta lành bệnh.
Vì thế người
Do-thái gây sự với Chúa Giêsu, vì Người đã làm như thế trong ngày Sabbat.
TRUYỆN KỂ
1. Cái chết của một
thiên thần
Cuốn phim Mỹ với tựa
đề: “Cái chết của một thiên thần” mang một ý nghĩa sâu sắc. Tại một vùng quê hẻo
lánh bên Nam Mỹ, nơi mà lòng đạo đức bình dân thường pha trộn những mê tín dị
đoan, một thanh niên nọ đã ngụy tạo ra một phép lạ thu hút được rất nhiều người.
Anh lén rạch da lấy máu mình và cho vào tượng Thánh giá mà chỉ anh mới biết
cách tháo ráp. Mỗi lần anh ôm Thánh giá vào lòng thì máu từ mão gai của tượng
chảy ra. Dân chúng từ khắp nơi, nhất là những kẻ tàn tật, mù lòa đổ vào để chứng
kiến phép lạ. Đoàn người làm thành một đám rước Thánh giá lên trên một ngọn đồi,
tại đó người thanh niên quỳ cầu nguyện bên cạnh Thánh giá và máu lại chảy ra từ
mão gai trên đầu Chúa.
Trong khi phép lạ
ngụy tạo này diễn ra mỗi ngày, thì một đám người bất lương muốn lợi dụng cơ hội
để làm tiền. Họ biết chắc đây chỉ là một sự lừa bịp, nhưng họ chưa khám phá được
bí quyết của người thanh niên. Sau một thời gian theo dõi, họ đã bắt giữ người
thanh niên và tra khảo anh khai ra bí mật ấy.
Không chịu nổi cuộc
tra tấn, người thanh niên đành thú nhận sự thật và đó cũng là lúc khởi đầu của
những hình ảnh đẹp nhất trong cuộc đời anh. Trước đám đông đang chuẩn bị cuộc
rước, người thanh niên tháo gỡ tượng Chúa Giêsu khỏi Thánh giá và cho mọi người
thấy sự lường gạt của anh từ bao năm qua. Với tất cả lòng thành tâm thống hối,
anh vác Thánh giá tiến lên đồi. Đám người bất lương bắn xối xả vào người anh,
anh ngã gục, nhưng đoàn người lại tiếp tục vác Thánh giá lên đồi, nhiều người
tàn tật, mù lòa bỗng cảm thấy được chữa lành.
2. Nơi hội ngộ
Tu hội Nữ tử Bác ái
của Mẹ Têrêsa Calcutta chuyên phục vụ những người nghèo khổ, bệnh tật, đặc biệt
là những người đang hấp hối nằm trên các hè phố.
Trước đây có một vị
sư Phật giáo nói với Mẹ Têrêsa: “Tôi biết và yêu mến Chúa Kitô, nhưng
tôi ghét Giáo hội của Ngài. Nếu các chị làm điều các chị nói, có lẽ các chị sẽ
trở nên nơi hội ngộ để chúng tôi có thể gặp gỡ Giáo hội của Đức Kitô.”
Nhưng sau một năm
làm việc cùng với Mẹ Têrêsa, vị sư đó đã chứng thực việc làm của Mẹ và sẵn sàng
dành cho Mẹ một ngôi nhà trong khuôn viên chùa để làm bệnh xá miễn phí.
3. Hết bị trói buộc
Thầy Andrew – một nhà
truyền giáo Hà Lan, được mệnh danh là “tên buôn lậu của Thiên Chúa”, vì thầy
buôn lậu Kinh Thánh vào những nước cấm phổ biến Thánh Kinh.
Ngày kia, thầy mua
được một con khỉ. Không bao lâu, thầy nhận thấy con khỉ rất khó chịu khi chú bị
chạm vào phần thắt lưng. Sau khi xem xét thật kỹ, thầy khám phá ra một vết sưng
vòng quanh hông chú khỉ. Hóa ra là khi còn bé, chú khỉ đã bị người ta dùng một
sợi dây kẽm buộc quanh hông, và cho tới nay sợi dây này vẫn còn nằm trong thân
xác chú. Càng lớn lên thì sợi thép đó lặn sâu vào da thịt chú.
Chiều hôm ấy, thầy
Andrew cẩn thận tháo sợi dây kẽm đó ra bằng cách: thầy cào sạch vùng lông chung
quanh sợi dây, rồi cẩn thận cắt sợi dây và kéo ra khỏi da thịt con vật. Suốt thời
gian này, chú khỉ kiên nhẫn nằm yên chịu đau, mắt chú nhắm nghiền lại. Ngay khi
sợi kẽm được lấy ra, chú khỉ mừng rỡ nhảy lui nhảy tới rồi ôm chặt vai thầy
Andrew. Thế là chú khỉ được tự do thoải mái, không còn bực bội khó chịu như trước
nữa. Không thể diễn tả nổi chú khỉ hạnh phúc biết bao.
Người bại liệt
trong Tin Mừng cũng vui mừng khi được Đức Giêsu tha tội và chữa khỏi bệnh bại
liệt. Anh không còn bị tội lỗi và bệnh hoạn trói buộc nữa.
5. Cái giá vô giá của
đức tin
Tạp chí Tiếng Vang
Lộ-Đức (Écho de Lourdes) thuật lại một câu chuyện có thật như sau:
Một người vô thần nọ
có đứa con gái yêu quý bị bệnh bại liệt mà các bác sĩ đều đã bó tay, không tài
nào cứu chữa được nữa. Ông nghe những người quen biết đồn rằng, Đức Mẹ ở Lộ-Đức
nước Pháp, có thể chữa lành cho cô bé.
Cuối cùng, thì ông
cũng đã chấp nhận đưa con gái đến Lộ-Đức, nhưng không quên tuyên bố với những
người bạn cả Công giáo lẫn vô thần rằng: “Nếu tôi thấy con gái tôi được
chữa khỏi, nếu tôi thấy tỏ tường nó chỗi dậy và đi lại được, tôi sẽ tin rằng,
Thiên Chúa hiện hữu.”
Khi đến Lộ-Đức, ông
chen vào giữa đám đông những bệnh nhân đang vây quanh chiếc giếng mà Đức Mẹ thường
làm phép lạ và đưa con gái lại gần đó. Khi gặp được cha Bailly, một Linh Mục
thường trực phụ trách tại địa điểm hành hương ở đây, ông đã nói với cha về tất
cả những nỗi niềm còn bán tín bán nghi của ông và những gì mà người ta đồn đại
về phép lạ.
Rồi đúng lúc em bé
được đưa xuống chiếc giếng cạn để nhúng ướt toàn thân trong nước, cha Bailly đã
lớn tiếng nói với mọi người đang có mặt:
- Có ai trong các vị
hiện diện ở đây bằng lòng tận hiến chính mình làm hy tế cho Thiên Chúa nhân
lành để cầu nguyện cho một người vô thần không? Có ai không? Chỉ cần một người
thôi, bằng lòng cam chịu cơn bệnh nan y cho tới chết để cho cô bé này được lành
và để cho người cha vô thần này được trở lại đạo. Có ai không?
Mọi người yên lặng.
Mấy phút trôi qua. Chợt có một nữ bệnh nhân trung niên chống nạng hai bên nách,
khó nhọc lắm mới bước ra khỏi được đám đông rồi nói nhỏ nhẹ thật khiêm tốn:
- Vâng, có con, con
xin tự nguyện!
Ngay lúc ấy, cô bé
bệnh tật liền được khỏi và tự mình bước ra khỏi miệng giếng. Người cha vô thần
vội quỳ xụp xuống và bằng một giọng thổn thức đầy cảm xúc ông đã thốt lên:
- Lạy Chúa, xin
Chúa tha tội cho con, con tin rồi!
Một đức tin nhỏ sẽ
đưa linh hồn bạn vào Thiên Đàng, một đức tin lớn sẽ đưa Thiên Đàng vào linh hồn
bạn.
6. Anh tin Lời Chúa
đứng dậy. tức khắc anh khỏi bệnh.
Las Dasir là một
thanh niên rất tốt. Thế nhưng, anh thấy mình quá yếu đuối trước những cơn cám dỗ.
Mặc dầu đã hết sức cố gắng nhưng anh vẫn sa ngã. Anh đã dốc lòng chừa cũng cả
trăm lần rồi thế mà anh vẫn cảm thấy như bất lực. Nhiều lúc anh cảm thấy như
hoàn toàn tuyệt vọng. Để chứng tỏ cho mọi người biết anh là một người có thiện
chí, anh đã tự quyết định ra hình phạt cho mình: cứ mỗi lần phạm tội, anh sẽ nhổ
đi mười sợi tóc trên đầu. Và chừng nào trên đầu không còn tóc nữa, thì hình phạt
cuối cùng sẽ là tự kết thúc cuộc đời. Chỉ một tháng sau, đầu của Dasir đã gần
như bị trọc, và anh tự hứa với mình sẽ nhất quyết thi hành hình phạt, rồi sau một
tháng nữa thì đầu của anh hoàn toàn bị trọc không còn một sợi tóc nào nữa.
Nhìn vào gương, thấy
không còn sợi tóc nào trên đầu, Dasir tuyệt vọng nói thầm: “Ngày kết
thúc cuộc đời tôi đã đến, tôi không còn cách nào hơn để giữ mình cho khỏi sa
ngã phạm tội. Tốt hơn là phải tự kết liễu cuộc đời của tôi.” Nói là
làm. Anh đưa tay vào ngăn kéo rút khẩu súng lục đã để sẵn trong đó ra để chuẩn
bị kết thúc cuộc đời của mình. Thế nhưng, khi vừa đưa súng lên, kê nòng vào
đúng thái dương và định bóp cò thì thình lình anh thấy một thiên thần hiện ra.
Sự xuất hiện của thiên thần làm cho anh phải bỏ súng xuống. Thiên thần trao cho
anh một gói quà và nói:
- Las Dasir này, đừng
kết liễu đời mình như vậy. Thiên Chúa sai tôi đến đem cho anh món quà này. Anh
hãy mở ra xem đi.
Anh cầm lấy, mở ra
và vô cùng ngạc nhiên khi nhìn vào những gì đặt ở trong chiếc hộp: đó là một bộ
tóc giả. Nhìn bộ tóc giả đó anh đã hiểu ngay được ý của Thiên Chúa muốn cho anh
phải làm gì.
7. Trong số đó, có
một người nằm đau liệt đã ba mươi tám năm.
Hai con ếch lộn đầu
vào một bình kem. Chúng quẫy đạp xuống cả giờ cố gắng để leo lên thành bình kim
loại. Cuối cùng, một con bỏ cuộc và chìm xuống, còn con kia tiếp tục quẫy đạp,
rồi đột nhiên nó thấy mình ngồi an toàn trên một tảng kem bơ. Đó cũng là sự
kiên trì của bệnh nhân trong bài Tin mừng hôm nay.
Điều gì ngăn cản
tôi kiên nhẫn cố gắng?
8. Đâu có tình yêu
thương ở đó có Đức Chúa Trời
Hai biểu tượng
trong bài đọc hôm nay cần được giải thích đó là Đền thờ, và suối nước chảy ra đền
thờ và đem lại sự sống cho bất cứ nơi đâu nó chảy đến. Đền thờ tượng trưng cho
sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Israel. Suối nước tượng trưng cho hồng ân
đến từ sự hiện diện của Ngài. Đền thờ và suối nước là hình ảnh mẫu mực cho mỗi
kitô hữu, một dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa và nguồn ơn phúc cho thế giới.
Chúa Giêsu đã mô tả
vai trò của người kitô hữu: “Anh em là muối cho đời… Anh em là ánh sáng thế
gian” (Mt 5,13-14)
Tôi có thể làm gì cụ
thể để sống tốt hơn ơn gọi kitô hữu?
Người ta có thể
nghi ngờ lời bạn nói, nhưng sẽ tin việc bạn làm (Lewis Cass).
9. Kiên nhẫn
Cách đây nhiều năm,
một đôi chim nọ làm tổ trên đỉnh một tượng đài ở trung tâm chính của thành phố
Buenos Aires. Đã ba lần những công nhân phá tổ chim, nhưng cả ba lần đôi chim lại
làm tổ ở chỗ cũ. Cuối cùng, công dân thành phố nhất mực yêu cầu các công nhân cứ
để yên tổ chim.
Cái gì ngăn cản tôi
theo đuổi đời sống thiêng liêng cách kiên trì như tôi đã theo đuổi sự nghiệp của
mình?
Một chiếc búa gõ
vào đá năm mươi lần, nhưng nó không hề nứt. Đến nhát búa năm mươi mốt, hòn đá vỡ
tan. Chỉ nhát búa này không thể đập vỡ hòn đá, nhưng là tất cả những nhát búa
trước đó.
10. Lời đem lại sự
sống
Lee So Young, một
cô gái trẻ, nhà đã nghèo, lại bị mù bẩm sinh. Không còn gì để bám víu nhưng cô
không chấp nhận khép lại cuộc đời mình bằng giải pháp tự tử, trái lại, cô đã
vươn lên và trở thành một nhạc sĩ dương cầm.
Cô cho biết bí quyết
đã tạo cho cô nghị lực phi thường ấy: “Tất nhiên, tôi là một người rất nghèo và
không nhìn thấy mọi vật, nhưng tôi không mù vì tôi có niềm tin” (Tuổi Trẻ
15/07/07). Niềm tin kitô cũng đi từ khởi điểm chung đó của thân phận con người:
Không thể dựa dẫm nơi bất cứ thụ tạo nào. Dựa vào lý luận hay thực tiễn ư? Lời
Chúa thật chói tai. Dựa vào người khác ư?
Lắm kẻ, kể cả các
môn đệ, đã bỏ Ngài chỉ vì lời nói chói tai ấy. Niềm tin của cô Young khởi đi từ
niềm say mê sự sống. Còn niềm tin kitô đặt nền tảng trên niềm say mê Đức Kitô
là “Đấng có những lời đem lại sự sống đời đời.” Đó chính là niềm tin đích thực.
Lời Chúa: Ga 5,
17-30
Khi ấy, Chúa Giêsu
trả lời dân Do-thái rằng: "Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng làm việc như vậy.”
Bởi thế, người Do-thái càng tìm cách giết Người, vì không những Người đã phạm
luật nghỉ ngày Sabbat, lại còn gọi Thiên Chúa là Cha mình, coi mình ngang hàng
với Thiên Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu trả lời họ rằng:
"Quả thật, quả
thật, Ta nói cho các ngươi biết: Chúa Con không thể tự mình làm gì nếu không thấy
Chúa Cha làm. Ðiều gì Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy. Vì chưng,
Chúa Cha yêu Chúa Con và bày tỏ cho Chúa Con biết mọi việc mình làm, và sẽ còn
bày tỏ những việc lớn lao hơn thế nữa, đến nỗi các ngươi sẽ phải thán phục.
Bởi vì, cũng như
Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng
vậy, Ngài làm cho ai sống là tuỳ ý Ngài. Vì hơn nữa, Chúa Cha không xét xử ai cả,
mà trao cho Chúa Con trọn quyền xét xử, để cho mọi người tôn trọng Chúa Con
cũng như tôn trọng Chúa Cha: ai không tôn trọng Chúa Con thì không tôn trọng
Chúa Cha, Ðấng đã sai Ngài.
Quả thật, quả thật,
Ta bảo các ngươi: Ai nghe lời Ta và tin Ðấng đã sai Ta, thì được sống đời đời
và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống.
Quả thật, quả thật,
Ta bảo các ngươi, vì đến giờ và ngay bây giờ, kẻ chết nghe tiếng Con Thiên
Chúa, và ai đã nghe thì sẽ được sống. Cũng như Chúa Cha có sự sống nơi chính
mình thế nào, thì Người cũng cho Chúa Con có sự sống nơi mình như vậy, và Người
đã ban cho Chúa Con quyền xét xử, vì Ngài là Con Người. Các ngươi đừng ngạc
nhiên về điều này, vì đến giờ mọi kẻ trong mồ sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa và
ra khỏi mồ; kẻ đã làm việc lành thì sống lại để được sống, còn kẻ đã làm việc dữ
thì sống lại để bị xét xử.
Ta không thể tự
mình làm điều gì. Nghe sao, Ta xét xử vậy.
Và án Ta xử thì
công minh, vì Ta không tìm ý riêng Ta, mà tìm ý Ðấng đã sai Ta.”
TRUYỆN KỂ
1. Không thể làm gì
tự mình
Văn Cao chẳng những
là một nhạc sĩ tài hoa, mà còn là một họa sĩ, một văn sĩ, một thi sĩ.
Có một bài thơ rất
ngắn ông làm năm 1967, mang tựa đề là Không Đề.
Con thuyền đi qua
để lại sóng
đoàn tàu đi qua
để lại tiếng
đoàn người đi qua
để lại bóng
tôi không đi qua
tôi
để lại gì?
Theo Văn Cao, chỉ
ai đi qua mình, dám vượt qua cái tôi của mình,
người ấy mới có gì
để lại cho hậu thế.
2. Công Việc Của
Cha.
Một họa sĩ chuyên vẽ
chân dung nọ di chuyển đến một thành phố nhỏ với hy vọng tìm được nhiều khách
hàng.
Vừa đến trước cửa
thành, ông gặp ngay một người say rượu. Hai bên trao đổi với nhau và người say
rượu đồng ý cho người họa sĩ vẽ chân dung của mình. Dù say túy lúy, gương mặt hốc
hác, quần áo xốc xếch, người say rượu vẫn còn có thể ngồi yên để nhà họa sĩ làm
việc. So với những khách hàng khác, thì đây là bức chân dung mà nhà họa sĩ phải
tốn nhiều thời giờ nhất để vẽ.
Đứng ngắm tác phẩm
vừa được hoàn thành, người say rượu không thể cầm được sự ngạc nhiên: thay cho
gương mặt chán đời của mình, anh thấy trong vức chân dung một nụ cười tươi tỉnh
lạc quan; thay cho cách ăn mặc cẩu thả của mình, anh thấy mình được khoác lên một
bộ quần áo lộng lẫy.
Nhìn vào bức chân
dung một lúc, anh lắc đầu và nói: “Người trong hình không phải là tôi.”
Nhà nghệ sĩ trả lời
một cách khéo léo vì đã biết nhìn xuyên qua bề ngoài để thấy vẻ đẹp nội
tâm: “Thưa ông, đây là con người mà ông phải đạt đến.”
Mùa chay là mùa của
thanh luyện, của hoán cải. Giáo Hội mời gọi chúng ta trở về: trở về với Chúa, với
anh em, với bản thân. Tựu trung tội lỗi là một chối bỏ Thiên Chúa, khước từ anh
em, đánh mất bản thân.
3. Để được sống đời
đời.
Một lần kia, thánh
Gioan Boscô hỏi các học sinh của ngài đang chơi đùa: “Nếu ngay bây giờ
các con biết mình sắp chết, các con sẽ làm gì?”
Một số trả lời sẽ
đi vào nhà thờ cầu nguyện, một số khác cho biết sẽ đi xưng tội để dọn mình chết
lành.
Riêng thánh Đaminh
Saviô điềm nhiên trả lời: “Nếu trong giây lát con sẽ chết, con vẫn tiếp
tục cuộc chơi.”
Sở dĩ như vậy là vì
Đaminh Saviô luôn nhận ra thánh ý Chúa trong từng giây phút và đánh giá mọi sự
dưới khía cạnh đời đời.
Đó cũng là thái độ
để nêu gương cho các môn đệ: “Này con xin đến để thực thi ý Chúa.”
4. Cái nhìn hy vọng
Tác giả Đường hy vọng
đã khuyến khích những người con tinh thần của mình như sau: “Hãy nhìn mọi
sự với con mắt của Thiên Chúa, con sẽ thấy giá trị khác, kích thước khác. Sự
điên dại trước mặt loài người là sự khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa.
Khó nghèo, vâng phục,
hãm mình, nhịn nhục, bác ái, tha thứ, khiêm tốn, là khờ dại trước mặt người đời
nhưng lại cao trọng trước mặt Thiên Chúa.
Thế gian cho là
xui, Chúa cho là phúc thật. Thành công con cám ơn Chúa, thất bại con cũng cám
ơn Chúa. Hãy vui tươi vì chính khi thất bại là lúc Chúa muốn thử xem con làm vì
Chúa hay vì ý riêng.
Vui vẻ can đảm lúc
thất bại khó khăn hơn là lúc may mắn, hạng anh hùng này con đếm được trên đầu
ngón tay.”
5. Tin tưởng phó
thác.
Có một gia đình nọ
sống giũa đồng không mông quạnh. Vào một đêm kia, căn nhà bốc cháy dữ dội. Cha
mẹ, con cái vội vã chạy ra ngoài sân và đứng bất lực nhìn ngọn lửa thiêu rụi tổ
ấm gia đình họ.
Bỗng mọi người chợt
nhận ra còn thiếu đứa bé nhất. Thì ra cậu bé cũng chạy ra với mọi người, nhưng
chưa tới cửa, thấy lửa cháy dữ quá nên lại chảy trở lên lầu. Trong lúc cả gia
đình hốt hoảng không biết phải làm sao để cứu cậu bé năm tuổi, vì lửa bao vây tứ
phía, bỗng cửa sổ trên lầu mở toang, và cậu bé kêu khóc inh ỏi. Cha cậu bé gọi
lớn tên con, rồi nói:
- Con nhảy xuống
đây!
Cậu bé nhìn xuống
dưới chỉ thấy khói mù và lửa cháy, nhưng nghe tiếng cha kêu, liền trả lời:
- Ba ơi, con không
trông thấy ba đâu hết!
Người cha trả lời
giọng cương quyết:
- Cứ nhảy đi, có ba
trông thấy con là đủ rồi.
Và cậu bé leo lên cửa
sổ, liều nhảy xuống, rơi vào vòng tay yêu thương vạm vỡ của cha mình một cách
an toàn.
6. Vâng phục là tự
do chọn điều Chúa muốn
Một thiếu niên đi
xem đấu bóng với Cha sở, nói với Cha rằng anh không thích vâng phục. Anh
nói: “Thưa Cha, con rất ghét ai bảo thế này, thế nọ. Không có tự do
trong việc này.”
Cha sở không nói một
lới. Liền sau đó, họ gặp một biển chỉ đường hướng đi đến sân chơi. Cha sở làm
như không thấy, cậu bé la lên:
“Chúng ta đi sai đường!
Thưa Cha, Cha không thấy dấu đàng kia à!”
Cha sở bình tĩnh trả
lời: “Cha thấy chứ, nhưng Cha nghĩ đường này xem ra tốt hơn, và Cha
ghét bị ai chỉ bảo đi đường này, đường kia bởi một biển chỉ đường cũ kĩ. Nó
không cho Cha tự do hành động.”
Cậu bé nhận ra bài
học, và họ vòng trở lại đi vào hướng sân chơi
7. Làm việc là cộng
tác với Chúa
Một hoàng đế nọ cỡi
ngựa vào rừng săn bắn. Khi đi ngang qua ngọn đồi gần bìa rừng, ông trông thấy một
cụ già râu tóc bạc phơ đang cặm cụi đào lỗ trồng cây, Hoàng đế liền thắng ngựa
và lớn tiếng bảo cụ già:
- Chắc hẳn là ngươi
không mong đợi được ăn trái của cây ngươi đang trồng hôm nay chứ!
Cụ già thản nhiên
đáp:
- Hạ thần không bao
giờ thất vọng về điều đó; bao lâu hạ thần còn được Thượng Đế ban cho sinh lực,
bấy lâu vẫn tiếp tục hy vọng và chu toàn bổn phận của hạ thần.
Hoàng đế tò mò hỏi
thêm:
-Thế ngươi năm nay
bao nhiêu tuổi?
Cụ già đáp:
-Tâu Hoàng Thượng,
năm nay hạ thần vừa tròn một trăm tuổi, biết đâu Thượng Đế còn cho hạ thần sống
thêm một ít năm nữa để hưởng dùng trái cây này. Dù sao, mỗi khi trồng cây, hạ
thần không làm gì hơn là tiếp tục công trình sáng tạo của Thượng Đế, Đấng đã
truyền cho trái đất trổ sinh hoa trái phong phú.
Thán phục lòng tin
của cụ già chất phác đơn thành, hoàng đế nói tiếp:
- Nếu ngươi còn thọ
tới ngày cây vả này trổ hoa kết trái, ngươi hãy cho ta biết.
Ít năm sau, quả thực
cây vả đã bắt đầu nở hoa, rồi kết trái đầy cành. Đợi tới ngày trái vả chín ngọt,
cụ già hái đầy một giỏ, rồi lên đường tới đền vua. Tới cổng, lính canh từ chối
không cho cụ già nghèo hèn vào chầu, nhưng cụ già nài nỉ phân trần đầu đuôi câu
chuyện, và rồi vì kính nể tuổi già tóc bạc, sau cùng mấy anh lính tháp tùng cụ
già vào triều yết vua. Cụ già khiêm tốn cúi mình trước ngai vua và nói:
- Tâu Hoàng Thượng,
hạ thần là ông già khom lưng trồng cây bên bìa rừng mà Hoàng Thượng đã gặp mấy
năm trước đây. Hôm nay, hạ thần xin kính dâng Hoàng Thượng những trái chín ngọt
đầu mùa của cây vả mà hạ thần đã trồng hồi năm ấy.
Nhà vua vui mừng nhận
ra cụ già và rất hài lòng với món quà cụ kính dâng, nhất là với lòng trung tín
và sự cần cù của cụ. Ngài vui vẻ đổi lại cho cụ già cái giỏ đầy những đồng tiền
vàng và nói:
- Hỡi người trung
tín và đáng kính phục, hãy trở về nhà bình an và tiếp tục cộng tác với Thượng Đế
toàn năng trong cuộc sáng tạo của Người.
Lời Chúa: Ga 5,
31-47
Khi ấy, Chúa Giêsu
nói với dân Do-thái rằng: "Nếu chính Ta làm chứng về Mình, thì chứng của
Ta sẽ không xác thực. Có một Ðấng khác làm chứng về Ta, và Ta biết chứng Người
làm về Ta thì xác thực. Các ngươi đã sai người đi hỏi Gioan, và Gioan đã làm chứng
cho sự thật.
Phần Ta, Ta không cần
chứng của loài người, nhưng Ta nói những điều này để các ngươi được cứu thoát.
Gioan là cây đèn cháy sáng. Các ngươi cũng muốn vui hưởng ánh sáng đó một thời
gian.
Nhưng Ta có một bằng
chứng hơn chứng của Gioan: vì công việc Chúa Cha đã giao cho Ta hoàn thành, là
chính công việc Ta đang làm. Các việc đó làm chứng về Ta rằng Chúa Cha đã sai
Ta. Và Chúa Cha, Ðấng đã sai Ta, chính Người cũng làm chứng về Ta. Nhưng chưa
bao giờ các ngươi được nghe tiếng Người, chưa bao giờ nhìn thấy mặt Người, và lời
Người, các ngươi cũng chẳng giữ lại được, vì các ngươi không tin Ðấng Người đã
sai đến. Các ngươi tra cứu Sách Thánh, vì tưởng rằng trong đó các ngươi sẽ tìm
thấy sự sống muôn đời; chính Sách Thánh lại làm chứng về Ta, vậy mà các ngươi vẫn
không chịu đến với Ta để được sống.
Ta không tìm vinh
quang nơi loài người. Nhưng Ta biết các ngươi không có lòng yêu mến Thiên Chúa.
Ta đến nhân danh Chúa Cha, nhưng các ngươi không chịu đón nhận. Nếu có một người
nào khác nhân danh mình mà đến, các ngươi sẽ đón nhận nó. Các ngươi là những
người nhận vinh quang lẫn nhau mà không tìm vinh quang do một Thiên Chúa, thì
làm sao các ngươi có thể tin được? Các ngươi đừng tưởng rằng Ta sẽ tố cáo các
ngươi với Chúa Cha. Kẻ tố cáo các ngươi là Môsê, tức là người mà các ngươi vẫn
tin tưởng. Vì nếu các ngươi tin Môsê, thì có lẽ các ngươi cũng đã tin Ta, bởi
vì chính Môsê đã viết về Ta. Nhưng mà nếu các ngươi không tin điều Môsê đã viết,
thì làm sao các ngươi tin lời Ta được?"
TRUYỆN KỂ
1. Để Lời Chúa tra
vấn
Ngày nọ, có một
nhóm người nghĩ là “Thiên Chúa đã chết” nên họ muốn cử hành lễ nghi an táng cho
Người.
Họ nhờ bác phu già
trông coi nghĩa trang đào sẵn cho họ một cái huyệt. Hiện diện trong buổi lễ,
ngoài bác phu già, còn tất cả đều là những vị thuộc giai cấp tri thức trong xã
hội: triết gia, giáo sư, văn sĩ, kỹ sư v.v…
Khi người chủ trì cất
tiếng khai mạc lễ nghi an táng thì bác phu già kêu lên:
- Không thể được,
vì quan tài chưa đến.
- Thiên Chúa vô
hình thì cần gì đến quan tài để tẩn liệm.
Một vài người chạy
lại kéo ông ra xa, nhưng vừa vùng vẫy ông vừa la lớn:
- Không, Thiên Chúa
không chết! Thỉnh thoảng khi không ngủ được tôi vẫn hay ra đây ngồi và nghe tiếng
tim Ngài đập. Nếu không tin, tối nay quí vị hãy tụ họp lại đây, quí vị sẽ thấy.
Động tính hiếu kỳ,
họ bỏ dở buổi lễ và hẹn nhau ban tối sẽ quay trở lại. Tối hôm ấy, tiếng ồn ào
bên ngoài vọng lại khiến cho họ không thể phân biệt đâu là tiếng đập của quả
tim Thiên Chúa đâu là tiếng của những thứ khác. Sau đó họ dời điểm tụ họp đến một
vùng quê. Thế nhưng, vắng tiếng động của thành phố thì lại có tiếng của côn
trùng. Sau cùng, họ quyết định gặp lại nhau một đêm khác trong sa mạc. Giữa bầu
khí tĩnh mịch của sa mạc về đêm, mọi người đều cảm thấy mình được cất khỏi những
gánh nặng lo toan, cũng không bị chi phối bởi một tiếng động nào.
Trở về với cõi
lòng, họ chăm chú lắng nghe. Tâm hồn họ như hòa nhập với không trung bát ngát.
Ngồi thinh lặng nhưng họ cảm thấy gần nhau. Bỗng một người la to:
-Tôi đã nghe thấy!
Và, nhiều người
khác phụ họa:
- Có, tôi cũng đã
nghe.
Một người khác nữa
phân tích:
- Âm thanh của nó
giống như âm thanh của mỗi lần tôi cố gắng trở nên hoàn thiện.
Họ đã tin lời nói của
bác phu già, và nhất là đã tìm lại được niềm tin nơi Thiên Chúa.
2. Tin vào Con của
Người
Vị thẩm phán đến
thi hành nhiệm vụ tại một thị trấn nọ, ông thường bị một luật sư kiêu căng ở đó
chế nhạo, khích bác.
Tại một bữa ăn tối,
có người hỏi vị thẩm phán sao không có biện pháp mạnh đối với viên luật sư kia.
Vị thẩm phán bèn dừng bữa, một tay chống cằm, một tay để trên bàn, kể chuyện:
“Chỗ tôi ở có một
bà góa nuôi một con chó. Con chó thật xinh, nhưng có tật là hễ thấy ánh trăng
là nó tru lên. Có khi suốt cả đêm.”
Kể tới đó, ông ngừng
lại và ăn tiếp. Tò mò, một người hỏi:
“Này ông thẩm phán,
rồi con chó và mặt trăng ra sao?”
“Con chó cứ tru và
mặt trăng cứ tiếp tục tỏa sáng.”
3. Nghe cho biết và
vâng theo ý Chúa Cha
Một thợ săn lạc
trong rừng nhiều lần. Một người bạn mua cho anh ta một la bàn. Dù vậy anh thợ
săn trẻ vẫn bị lạc. Khi tìm thấy, người bạn hỏi xem anh ta có mang theo la bàn
không. Anh bảo có.
-Tại sao anh không
dùng nó?
-Tôi không dám. Tôi
muốn đi về hướng Nam và cố giữ cho kim chỉ hướng Nam. Nhưng không được. Nó luôn
lắc qua và chỉ hướng Bắc.
Nhiều người mong
Thánh kinh chỉ hướng họ muốn đi, hơn là hướng Thánh kinh muốn họ đi.
4. Biết tìm ý Chúa
hơn ý mình
Có lần nhà văn Mart
Twain nói: “Nhiều người lấy làm buồn phiền vì không hiểu một đoạn Thánh
kinh nào đó. Phần tôi, tôi thấy rằng những đoạn Thánh kinh làm tôi bối rối nhất
là những đoạn mà tôi cho là mình đã hiểu.”
Muốn đọc Sách thánh
mà thấy được Chúa, ta phải bỏ đi hết mọi thành kiến có sẵn, phải khiêm tốn để
cho Lời Chúa tra vấn mình, phải can đảm từ bỏ những gì Chúa đòi hỏi, và phải
kiên trì thực hiện những điều Chúa dạy.
5. Đọc Thánh Kinh với
trái tim
Tại một làng thuộc
vùng Lorraine, miền Đông Bắc nước Pháp, có một nông dân không có niềm tin, một
hôm gặp ông thầy giáo làng đang đi dạo mát, ông ta tiến lại trước mặt ông thầy
này và gây sự bằng một giọng đầy khiêu khích:
- Hôm qua, thầy đã
dạy cho bọn trẻ trong làng những điều hay quá: “Nếu ai đánh ngươi má bên mặt,
thì hãy chìa luôn cả má trái cho nó”(Mt 5,39).
- Lời đó đâu phải
là do tôi - Thầy giáo đáp - đó là điều Chúa nói trong Tin Mừng
chứ!
Thầy giáo vừa dứt lời
thì người nông dân kia bất ngờ tát cho thầy hai cái, vì từ lâu anh đã có nhiều
điều tức khí với thầy giáo làng.
Cách đó không xa,
ông chủ tịch xã đang đi với nhân viên, nhìn thấy cảnh đó, liền nói với một anh
nhân viên:
- Joseph, anh lại
đó xem, hai người đang tranh chấp với nhau chuyện gì vậy?
Lúc Joseph vừa đến
gần hai người, thì cũng chính là lúc thầy giáo làng giơ tay giáng trả hai cái
tát nẩy lửa vào mặt người nông dân, kèm theo lời trích dẫn của Kinh Thánh:
“Cũng có lời chép:
Ngươi lấy đấu nào mà đong cho anh em, thì cũng sẽ được đong lại bằng đấu ấy. Một
đấu được lắc, được dằn sẽ đổ xuống trên lưng ngươi.” (Lc 6,38).
Joseph vội vàng trở
lại báo cho ông chủ tịch:
- Thưa ông, chẳng
có chuyện gì đáng kể. Họ đang tranh nhau chú giải Kinh Thánh!
Vâng, nếu chúng ta
đọc Kinh Thánh với một tà ý thì Kinh Thánh sẽ chẳng mang lại ích lợi gì cho
chúng ta. Ngược lại, nếu chúng ta đọc với một sự thành tâm thì Lời Chúa sẽ trở
thành luơng thực, thành ánh sáng cho cuộc đời của ta.
6. Khát điều chi
Một tu sĩ hằng cầu
nguyện thiết tha đêm ngày với Chúa: “Lạy Chúa, con chỉ ước được nhìn thấy
Chúa”, mãi lâu sau Chúa mới chiều ý thầy: Thầy tận mắt nhìn thấy Ngài vô cùng
sáng láng vinh hiển, đang lúc thầy ngây ngất chiêm ngưỡng tôn nhan Chúa, Chúa
lên tiếng hỏi:
- Con có muốn theo Cha không?
- Dạ nếu được, thì còn gì sung sướng hơn.
Thầy theo Chúa đi một
quãng xa, Ngài nói:
- Cha khát nước quá, con kiếm đâu được nước?
- Dạ con đi ngay.
Sau một ngày thầy
đi tìm nước mà chưa thấy dòng suối nào hay con sông nào, nhưng thầy vẫn kiên nhẫn,
ba ngày sau thầy gặp được một dòng nước trong vắt, thầy vui mừng múc nước vào
bình để đưa về hầu Chúa. Đang lúc đó, một thiếu nữ rất xinh đẹp trong vùng cùng
tới chỗ thầy để lấy nước, nàng bị trượt chân té, thầy vội đỡ nàng dậy và hai
người bắt chuyện…. Lát sau cô nàng mời thầy về nhà dùng bữa, thầy quá sung sướng
nên ngỏ lời với cha mẹ cô xin cưới cô làm vợ. Ba năm sau, có dịp thầy đưa vợ
con đi dạo, gặp thấy Chúa Giêsu đang ngồi bên vệ đường chờ thầy cho uống nước,
thấy thế ông hối hận đến xin lỗi Chúa. Chúa trả lời:
- Cha đã chờ con quá lâu, tưởng chết khát, may
có người lạc đạo xứ Samari đưa nước cho Cha uống (x. Ga 4). Còn con, con đã kiếm
được vợ đẹp hấp dẫn hơn Cha, thì con cứ trung thành với người con yêu cho đến
chết!
Nếu thầy đã từng mơ
ước được gặp Chúa Giêsu, dù thầy có gặp được người yêu, sao thầy không đưa cô
nàng đến gặp Chúa ngay, cùng với hai bình nước của chàng và nàng, chắc chắn
Chúa vui lắm! Tiếc thay, thầy đã chọn đàn bà hơn chọn Chúa!
7. Hương ngược gió
Trong bài Hương ngược
gió, tác giả, một Phật tử, kể chuyện bố chồng cô bị bệnh tim, hay ngất xỉu. Mỗi
lần như thế, các giáo dân một xóm đạo ở Thốt Nốt (Cần Thơ) luôn giúp đỡ gia
đình cô. Chứng kiến người Ki-tô hữu sống yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, người Phật
tử ấy rất cảm kích và muốn kể lại như một lời chứng (Tuổi Trẻ Chủ Nhật ngày
10/1/1999). Thật vậy, dân chúng thời nào cũng đòi hỏi cuộc sống chứng tá của
các Ki-tô hữu. Đã lãnh nhan bí tích thánh tẩy, người Ki-tô trở nên người môn đệ-nhà
truyền giáo được Chúa chọn và sai đi loan báo Tin Mừng. Chứng tá cao đẹp và
đáng tin cậy nhất là khi đời sống hằng ngày sóng đôi với việc tuyên xưng niềm
tin. “Hương thơm của các loài hoa không bay ngược gió. Chỉ có hương người
đức hạnh mới ngược gió tung bay.”
Bạn được Thiên Chúa
chọn và giao phó sứ mạng làm chứng cho Chúa. Vậy lời bạn nói, việc bạn làm, suy
nghĩ của bạn có phản ánh Tin Mừng của Chúa Giê-su? Đâu là cách bạn thể hiện đức
tin đáng cho kẻ khác tin?
8. Sức mạnh chứng
tá của việc làm
Một học sinh trung
học hỏi một linh mục ở giáo xứ Plano, Texas rằng anh ta phải làm gì để có thể
gia nhập giáo xứ. Vị linh mục hỏi anh: “Tạo sao con muốn gia nhập giáo xứ này?”
Người học sinh trả lời: “Bạn bè con là tín hữu thuộc nhiều giáo xứ khác nhau,
nhưng những người thuộc giáo xứ này nổi hơn. Họ là những người con kính trọng.
Con đang tìm kiếm một giáo xứ để gia nhập. Khi con thấy các bạn trẻ ở giáo xứ
này hoạt động, con quyết định gia nhập.”
Chúa Giêsu thường
nói về những gương sáng và sức lôi kéo của nó đối với người khác.
Bằng cách quan sát
gần gũi, có ai được lôi kéo để gia nhập giáo xứ tôi đang sống không?
Hoa không sinh ra rễ,
nhưng rễ sinh ra hoa. Hoa là bằng chứng về tầm quan trọng của rễ. (Woodrow
Wilson)
10. Tình yêu nào
thúc đẩy tôi?
Mẹ Clara Hale, 80
tuổi, làm việc như người mẹ nuôi của hơn 500 đứa trẻ được sinh ra bởi những người
mẹ nghiện ma túy. Mẹ chăm sóc chúng cho đến lúc mẹ cũng có thể làm được việc
này. Những đứa bé ấy đã bước vào đời với bệnh nhiễm ma túy trong người chúng.
Điều đó khiến cho công việc của mẹ Hale càng khó khăn hơn.
Mẹ nói: “Khi một đứa
trẻ khóc đòi thuốc, tất cả những gì tôi có thể làm là ôm chặt nó và nói: “Mẹ
yêu con, Thiên Chúa yêu con, và mẹ của con cũng yêu con. Vấn đề là hãy để cho mẹ
con một thời gian nữa.”
Công việc của mẹ
Hale chứng tỏ tình yêu của mẹ dành cho trẻ thơ. Công việc của Chúa Giêsu minh
chứng tình yêu của Ngài đối với Chúa Cha. Vậy công việc của tôi minh chứng cho
tình yêu nào?
Hãy làm việc như mọi sự thuộc về bạn. Hãy cầu
nguyện như thể mọi sự thuộc về Chúa. (Thánh Ignatiô Loyola)
11. Thành tích và sự
thật
Trong bài viết Lỗ Hổng
Giáo Dục trong Dạy Người (Tuổi Trẻ Cuối Tuần, số 04-07 ra ngày 28-1-2007), tác
giả Nguyễn Thị Oanh nói đến bệnh thành tích (trưng ra những kết quả không đạt
được để lấy điểm), bệnh hình thức (khoe cái không có về thực chất), nạn gian lận
thi cử, bằng cấp giả, và sự kiện “sự dối trá được bình thường hóa đến nỗi người
dân cũng im bặt cho đến những năm gần đây” (tr. 22). Phải chăng đây là hội chứng
“tôn vinh lẫn nhau” mà Chúa Giê-su đã vạch ra nơi người Do Thái? Nếu thế,
phương thuốc chữa trị phải là đi tìm “vinh quang phát xuất từ Thiên Chúa,” tức
là phải tôn trọng sự thật, tránh xa sự dối trá dưới mọi hình thức.
Nếu dối trá gây ung
nhọt thối tha cho gia đình và xã hội, thì sự thật chữa trị và làm cho người ta
lớn lên cách lành mạnh. Điều cần thiết là không được bình thường hóa những hình
thức dối trá, không coi đó là một “giá trị” trong đời sống. Là người ki-tô hữu,
chúng ta tôn thờ Thiên Chúa là nguồn Chân-Thiện-Mỹ. Chúng ta tin tưởng rằng: dưới
ánh sáng Lời Chúa và với ơn Chúa, chúng ta có thể vạch ra và nhổ sạch những gốc
rễ gian dối đang bám sâu trong con người và xã hội chúng ta.
Lời Chúa: Ga 7,
1-2. 10. 25-30
Khi ấy, Chúa Giêsu
đi lại trong xứ Galilêa; Người không muốn đi lại trong xứ Giuđêa, vì người
Do-thái đang tìm giết Người. Lúc đó gần đến lễ Trại của người Do-thái. Nhưng
khi anh em của Người lên dự lễ rồi, thì Người cũng đi, nhưng không đi cách công
khai, mà lại đi cách kín đáo.
Có một số người ở
Giêrusalem nói: "Ðây không phải là người họ đang tìm giết sao? Kìa ông ta
đang nói công khai mà không ai nói gì cả. Phải chăng các nhà chức trách đã nhận
ra ông ta là Ðấng Kitô? Tuy nhiên, ông này thì chúng ta biết rõ đã xuất thân từ
đâu. Còn khi Ðấng Kitô tới, thì chẳng có ai biết Người bởi đâu.”
Vậy lúc bấy giờ
Chúa Giêsu đang giảng dạy trong đền thờ, Người lớn tiếng nói rằng: "Phải,
các ngươi biết Ta, và biết Ta xuất thân từ đâu; Ta không tự Ta mà đến, nhưng thực
ra, có Ðấng đã sai Ta mà các ngươi không biết Ngài. Riêng Ta, Ta biết Ngài, vì
Ta bởi Ngài, và chính Ngài đã sai Ta.” Bởi thế họ tìm cách bắt Chúa Giêsu,
nhưng không ai đụng tới Người, vì chưa tới giờ Người.
TRUYỆN KỂ
1.. Âm mưu giết
Chúa
Ma quỉ luôn muốn thống
trị thế giới. Nó khuất phục kẻ ác để tăng thêm quân số. Và tiêu diệt người lành
để giảm bớt chướng ngại.
Lý do đầu tiên là kẻ
lành cản trở kẻ dữ làm điều ác: “Ta hãy gài bẫy hại tên công chính, vì nó chỉ
làm vướng chân ta, nó chống lại các việc ta làm, trách ta vi phạm lề luật, và tố
cáo ta không tuân hành lễ giáo.”
Lý do thứ hai là vì
đời sống của kẻ lành phê phán lối sống của kẻ dữ: “Nó như kẻ luôn chê trách tâm
tưởng của ta,… lối cư xử của nó hoàn toàn lập dị. Nó coi ta như bọn lọc lừa,
tránh đường ta đi như tránh đồ dơ bẩn.”
Lý do thứ ba là vì
người lành thuộc về Thiên Chúa. Còn kẻ ác thuộc về ma quỉ. “Nó huênh hoang vì
có Thiên Chúa là Cha. Ta hãy coi những lời nó nói có thật không, và nghiệm xem
kết cục đời nó sẽ thế nào.”
Lý do thứ tư là vì
muốn thử thách xem người lành có thật hiền lành không. “Ta hãy hạ nhục và tra tấn
no, để biết nó hiền hoà làm sao, và thử xem nó nhẫn nhục đến mức nào.”
Nhiều phe nhóm toa
rập với nhau để giết chết Chúa Giêsu. Tuy nhiên đó lại là ý định của Thiên
Chúa. Chúa Giêsu tự nộp mình chịu chết để chuộc tội nhân loại. Vào âm phủ để
chiến thắng tử thần. Chết đi để tiêu diệt cái chết.
2. Ta bởi Ngài,
chính Ngài sai Ta
Năm 1958, sau khi Đức
Giáo hoàng Piô XII qua đời, các báo chí mô tả ngài như một ngôi sao sáng chói
đã lịm tắt, vì ngài xuất thân từ một gia đình quý tộc, hấp thụ một nền văn học
uyên thâm và đã để lại bao nhiêu công trình lớn lao cho hậu thế, và cho Giáo hội.
Cơ Mật Viện đã bầu
Đức Giáo hoàng Gioan XXIII lên kế vị. Giáo hoàng này xuất thân từ một gia đình
nông dân nghèo, với hình dáng mập mạp, quê mùa, chất phác. Người ta bảo, đây chỉ
là vị Giáo hoàng chuyển tiếp cho một vị Giáo hoàng khác có tầm cỡ như vị tiền
nhiệm của ngài. Nhưng có ngờ đâu con người khiêm tốn, bình dân, giản dị và vui
tươi ấy đã thu hút mọi người. Và nhất là với Công đồng Vaticanô II mà ngài đã
triệu tập, Giáo hoàng Gioan XXIII đã trở thành một “siêu sao” của thời đại, vượt
trội hơn các vị tiền nhiệm của mình.
3. Aristide người
công chính.
Aristide là một tướng
lãnh và chính trị gia nổi tiếng thanh liêm tại Hy Lạp vào thế kỷ V trước công
nguyên.
Ông thanh liêm đến
nỗi cả nước đã tặng cho ông một danh hiệu cao quí là “Aristide người công
chính.” Nhưng ông càng được nhiều người ca tụng thì lại càng bị nhiều người
ganh tị chống đối. Ông bị tướng Ténistoles âm mưu muốn triệt hạ ông. Người ta
muốn cho Aristide bị kết án và bị lưu đầy trong vòng 10 năm. Bản án đã được thi
hành bằng một trò chơi dân chủ quái ác.
Theo thể thức biểu
quyết thông thường của người Hy Lạp thời cổ, mỗi một người công dân được phát
cho một vỏ sò trên đó họ sẽ viết lên ý kiến của mình. Trong trường hợp của tướng
Aristide, ai đồng ý cho ông bị lưu đầy, thì viết tên ông lên vỏ sò, và người ta
sẽ đem nộp vỏ sò ấy tại một nơi công cộng giữa phố chợ.
Có một thị dân nọ
không biết viết, thấy Aristide đang đứng ở một góc phố và chưa một lần biết mặt
ông là ai. Thấy ông, người thị dân này đến nhờ ông viết tên của người bị kết án
lên vỏ sò. Aristide viết tên của mình lên vỏ sò theo yêu cầu của người lạ mặt.
Ông trao vỏ sò lại cho thị dân và hỏi ông ta:
- Tại sao ông lại bỏ
phiếu ủng hộ việc lưu đầy Aristide?
Người đàn ông mới
trả lời như sau:
- Tại sao tôi bỏ
phiếu ủng hộ việc lưu đầy ông ta ư? Bởi vì tôi không chịu nổi sự kiện ai cũng gọi
ông ta là Người Công Chính, thế thôi!
4. Cái chết mang lại
hoa trái
Sáng ngày 19 tháng
3 năm 1994, tại phòng thánh nhà thờ xứ Casandi Pinsepê, gần thành Napoli miền
trung nước Italia, cha Giuse Daiana đã bị sát hại bởi hai phát súng do bọn bất
lương Camara bắn thẳng vào mặt đang lúc ngài sửa soạn cử hành thánh lễ kính
thánh Giuse bổn mạng.
Cha Daiana là một
linh mục trẻ mới ba mươi sáu tuổi. Tuy bị các băng đảng bất lương đe dọa, cha vẫn
hăng say với sứ mệnh tông đồ của cha. Vào dịp lễ Giáng Sinh năm 1991, cùng với
các cha xứ khác trong vùng Casatano cha đã ký tên gia nhập vào hội quyết tâm chống
lại mọi hình thức tội phạm bất lương, nhất là bọn Camara, những kẻ dã man đang
gây tang tóc khắp miền đó.
Trước cái chết của
cha Daiana, trong bài giảng lễ an táng, Đức Cha Lorenso Chiaradinali - Giám mục
giáo phận Avesa đã tóm tắt sứ mệnh tông đồ của Cha như sau: "Đau khổ và
tin tưởng. Một cái nhìn xuống đất nơi thân xác đẫm máu của cha an nghỉ và một
cái nhìn hướng thẳng lên cao nơi có Đấng đã chết trên Thập Giá, nhưng đã chiến
thắng hận thù và sự chết. Môi trường tông đồ của cha đầy khó khăn vì những hình
thức vô luân đồi bại, những tổ chức bất lương và những sức mạnh dã man nấp sau
bóng tối. Sứ mệnh tông đồ của cha là sứ mệnh bẻ gẫy xiềng xích của tội ác để
xây dựng công bằng và tình thương. Hoạt động tông đồ của cha bắt đầu từ công
tác giáo dục đức tin, nỗ lực sống chứng tá Kitô, bảo vệ quyền lợi của người tha
hương, nâng đỡ tinh thần, an ủi các bệnh nhân, và nhất là huấn luyện tuổi trẻ
qua các sinh hoạt hướng đạo.”
Tinh thần hăng say
và lòng quả cảm của cha Daiana đã cống hiến cho giới trẻ một lý tưởng cao thượng.
Ngài đã biết gieo niềm vui và hy vọng nơi tâm hồn các bệnh nhân, biết chinh phục
thiện cảm của giới trẻ bằng nụ cười dễ mến. Ngài cũng có tài hướng dẫn tinh thần,
làm thay đổi các tâm hồn tận thâm sâu.
Với cái chết thảm
thương của cha Daiana, bạo lực đã chạm tới bàn thánh. Bàn thờ của người tín hữu
được dựng lên để tưởng nhớ cái chết của Chúa Kitô, Đấng đã chấp nhận chết vì
tình yêu nhân loại. Cái chết của một linh mục cũng tương tự như thế. Đức Thánh
Cha Gioan - Phaolô II đã nói về cái chết của cha Daiana như sau: "Như người
công chính bị ngã gục, như tiếng kêu hùng hồn của lời tố cáo tội ác đã bị im bặt,
như ngọn đèn sáng đã tắt lịm đi.”
Cha Daiana đã chết
nhưng cái chết của cha đã không vô ích hay uổng phí. Ngài đã ngã xuống và được
chôn vùi trong lòng đất. Thân xác của ngài chẳng khác gì hạt giống được mục nát
đi để đem lại một mùa gặt phong phú hơn, mùa gặt của công lý, của an bình và của
tình thương. Thật vậy, mấy hôm trước khi bị ám sát, khi trả lời cho một hướng đạo
sinh đến để bày tỏ cho ngài biết về nguyện vọng muốn được theo đuổi ơn gọi linh
mục, cha Daiana đã nói với anh: "Nếu thực sự con muốn trở thành linh mục,
con phải luôn nhớ rằng, con sẽ phải trả giá rất đắt, nếu không thì con nên gột
bỏ ước nguyện đó đi"
Và sau đó, khi đứng
trước thi hài cha Daiana, cậu hướng đạo sinh ấy đã thành thật nói: "Nếu
trước kia tôi còn do dự nghi ngờ thì giờ đây trước sự việc vừa xảy ra hôm nay
và trước cái chết của cha Daiana tôi đã có một xác tín mới: Tôi phải trở thành
linh mục.”
5. Gian dối sợ hãi
Trong một xứ Đạo nọ,
có thằng Tèo bản tính thích chọc ghẹo người khác lấy làm đắc thắng. Lần kia, nó
thấy một bà đi chợ về ngang qua Nhà Thờ, bà có thói quen ghé vào viếng Chúa và
cầu khẩn trước tượng Đức Mẹ. Tèo thấy bà chăm chú cầu nguyện, nó cũng rón rén
bước vào đứng đằng sau mà bà không hay biết, đang lúc bà lẩm bẩm cầu xin khấn
vái. Tèo lớn tiếng gọi giật:
- Bà kìa, bà kìa,
nhìn đi, Đức Mẹ đang cười với bà đó. Đó, đó…
Bà kia quay lại hỏi:
- Đâu cậu?
- Đó đó, bà nhìn
kìa, Đức Mẹ đang cười đó, ô bà thật là người có phúc.
Bà kia gật đầu:
- Ờ ờ, đúng rồi,
đúng rồi, con cám ơn Mẹ.
Thế là bà chạy về
loan báo tin vui ấy cho cả xứ biết, mọi người ùn ùn kéo nhau đến Nhà Thờ để được
chứng kiến phép lạ! Cha Sở thấy người ta kéo đến Nhà Thờ quá đông, ngài tìm hiểu,
và biết được chính thằng Tèo loan báo tin đó đầu tiên. Ngài gọi Tèo đến và tra
hỏi:
- Đức Mẹ cười con nhìn
thấy trước hay bà kia?
- Thưa, cả hai người
cùng thấy.
Cha Sở cho gọi người
đàn bà đó vào và hỏi:
- Bà thấy phép lạ
trước hay thằng Tèo?
- Dạ thưa cha, thằng
Tèo thấy trước nó bảo con.
Thế là cha Sở hiểu
ngay rằng thằng Tèo vẫn bày trò chọc ghẹo người ta, nên ngài nói với Tèo:
- Bây giờ con theo
cha vào Nhà Thờ, cha để cuốn Sách Thánh trên bàn thờ, trước mặt Chúa, có cha chứng
kiến, con phải đặt tay trên Sách Thánh thề điều con đã chứng kiến là sự thật. Nếu
con thề gian, Chúa sẽ phạt con chết gục ngay dưới bàn thờ!
Tèo tái mặt phải
theo cha Sở ra Nhà Thờ, sau khi ngài mặc áo Các Phép, đặt cuốn Sách Thánh lên
bàn thờ và đốt nến đặt hai bên, rồi ngài nói:
- Bây giờ con đặt
tay lên và thề.
Tèo run rẩy thưa:
- Dạ con xin lỗi
cha Sở, con nói xạo để chọc bà cụ đó thôi!
Quả thật, kẻ sợ chết
là đứa nói láo!
Vậy chỉ có ai nói sự
thật mà chấp nhận chết, người đó mới thực giống Chúa Giêsu Thập Giá.
Lời Chúa: Ga 7,
40-53
Khi ấy, sau khi
nghe Chúa Giêsu giảng, có nhiều người trong đám dân chúng nói rằng: "Ông
này thật là tiên tri.” Kẻ khác nói: "Ông này thật là Ðấng Kitô.” Người
khác nữa lại nói: "Ðấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao? Nào Kinh Thánh chẳng
nói: Ðấng Kitô xuất thân bởi dòng dõi Ðavit, và từ làng Bêlem, quê hương của
Ðavit?"
Vì thế, dân chúng bất
đồng ý kiến với nhau về Người. Trong số đó, có một ít kẻ định bắt Người, nhưng
không ai dám ra tay bắt Người.
Vậy khi những người
thừa hành đến với thượng tế và biệt phái, các ông này hỏi họ rằng: "Tại
sao các ngươi không điệu nó tới?" Các người thừa hành thưa rằng: "Chẳng
hề có ai nói như người ấy.” Các người biệt phái trả lời rằng: "Chớ thì các
ngươi cũng bị mê hoặc rồi sao? Trong các vị thủ lãnh và các người biệt phái, có
ai tin nó đâu? Chỉ có lũ khốn nạn đó nó không biết gì lề luật.”
Nicôđêmô là người
đã tới gặp Chúa Giêsu ban đêm, cũng là người trong nhóm họ, nói với họ rằng:
"Chớ thì luật của chúng ta có lên án cho ai mà không nghe họ, hoặc không
biết rõ họ làm gì không?" Nhưng họ trả lời rằng: "Hay ông cũng là người
Galilêa? Hãy đọc kỹ Kinh Thánh, ông sẽ thấy rằng không có tiên tri nào phát xuất
từ Galilêa.” Sau đó ai về nhà nấy.
TRUYỆN KỂ
1. Đức tin phải có việc làm.
Blondin là một
trong những tên tuổi của ngành xiếc tại Mỹ. Một trong những kỳ công đáng ghi nhớ
nhất của anh là đã có thể đi trên một sợi dây qua thác Niagara là thác dài nhất
và cao nhất thế giới. Trong một dịp biểu diễn, anh quay sang hỏi một cậu bé đứng
gần đó: “Em có tin là tôi có thể mang một người trên vai và đi xuyên qua dòng
thác không”? Giữa tiếng thác đổ âm ầm, cậu bé thét lên: “Vâng, cháu tin là chú
có thể làm được điều đó.” Thế nhưng khi anh đề nghị mang cậu bé trên vai thì em
lắc đầu từ chối, vì không đủ tin tưởng vào sự đảm bảo của người biểu diễn.
Cậu bé trên đây có
thể là hình ảnh của rất nhiều người trong chúng ta khi phải trả lời cho câu hỏi
của Đức Giêsu: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” Cũng như Phêrô khi đại
diện cho các Tông đồ, chúng ta sẽ trả lời: “Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống.”
Nhưng trong thực tế, thái độ sống của chúng ta có lẽ còn tương phản với lời
tuyên xưng ấy. Chúng ta chưa là những Kitô hữu thực sự, nghĩa là chưa tin tưởng
và sống theo lời mời gọi của Chúa”
2. Gieo gió thì gặt bão
Một hoàng đế nọ mở
đại tiệc và nhiều người được mời. Đến giờ ăn, một cơn bão dữ dội ập tới và chẳng
ai đến được. Tức giận với “thần bão”, hoàng đế ra lệnh cho lính bắn lên trời để
trả thù.
Những mũi tên rơi
trở lại và gây thương tích cho rất nhiều lính, còn thần mặt trời Jupiter không
bị phương hại gì. Những lời than trách của chúng ta cũng giống như những mũi
tên bắn lên Chúa. Chúng sẽ quay lại và làm ta thêm đau khổ..
3. Nhân chứng
Trong khi nhiều người
chống đối Chúa Giêsu, nhiều người khác hoang mang không xác định rõ lập trường,
thì Nicôđêmô đã can đảm lên tiếng bênh vực Ngài. Chung quanh chúng ta ngày nay,
cũng có nhiều người chống đối hay chưa hiểu Chúa Giêsu. Tôi có can đảm như
Nicôđêmô không? Dám can đảm làm nhân chứng cho Chúa đó là dấu chỉ của một con
người có niềm tin và là một người nhận Chúa làm Chúa của cuộc đời mình.
Một hôm, bên Châu Mỹ
Latinh, một linh mục cử hành thánh lễ trong vùng “ổ chuột.” Bài giảng hôm ấy được
thực hiện dưới dạng đối thoại với anh chị em tín hữu, nhắm tới sự giao hòa. Thế
là một cậu bé đã tuyên bố:
- Thưa các nhà thừa
sai, chúng con cảm ơn các ngài, vì các ngài đã dạy chúng con yêu thương kẻ thù.
Cách đây một tuần, con đã sắm sẵn một con dao để giết một thằng bạn mà con vẫn
căm ghét. Nhưng sau khi nghe cha giải thích cho chúng con nghe bài Tin Mừng,
con đã đi mua một chiếc bánh kem để tặng cho kẻ thù của con.
4. Yêu kẻ thù là dấu chứng cho
niềm tin
Một chủng sinh trẻ
người Liban đã bị giết cách đây vài năm, trên con đường đi về nhà để mừng lễ
Giáng Sinh. Đó là nạn nhân của cuộc chiến tranh, huynh đệ tương tàn đang xảy ra
tại quê hương anh.
Người ta đọc được
những lời sau đây trong di chúc của anh: “Tôi thấy rồi, mình sẽ bị bắt cóc và sẽ
bị giết trên đường để tới làng tôi. Tôi nói với mẹ và các chị em tôi: Xin mẹ và
chị em đừng buồn. Chúng ta sẽ gặp lại nhau, chắc chắn mà, trong nơi vĩnh cửu
trên trời. Con xin mẹ và các chị em một điều: Xin hãy tha thứ hết lòng cho những
kẻ đã giết con. Ước gì máu con được đổ ra để chuộc được tội cho Liban. Ước gì
cái chết của con dạy cho con người sống bác ái. Xin hãy cầu nguyện, hãy cầu
nguyện, hãy cầu nguyện và yêu thương các kẻ thù.”
5. Tin thì tha thứ
Tại vùng Chouf (một
miền thuộc xứ Liban, ở miền Nam Beyrouth), vào lúc cuối năm 1983, em Maria
Khoury đã bị một kẻ cuồng tín bắt, hắn chĩa súng vào gáy em:
- Hãy chối Giêsu
Kitô đi, rồi mày sẽ được sống.
Em trả lời:
- Tôi sẽ không chối
Giêsu Kitô, Chúa của tôi. Tôi muốn trung thành với các lời hứa khi nhận phép rửa
tội. Anh cứ việc bắn, nếu anh muốn.
Hắn đã nổ súng.
Nghĩ rằng em đã chết, hắn bỏ em nằm đó trên vũng máu. Được cứu, nhưng bị mù và
què quặt, em đã nói:
- Em tha thứ cho
người bắn em, như em đã tha thứ cho người giết mẹ em và cho người đã giết cha
em.
6. Đi tìm và gặp chân lý
Đại tướng Lew
Wallace, một đảng viên cao cấp của đảng Cộng sản vô thần. Lần kia ông nói với
người bạn rằng: “Bọn Công Giáo thật ngu đần, chúng tôn thờ một tử tội bị treo
trên thập giá là ông Giêsu! Chúng lại mê đọc sách của bọn vô học thức là Nhóm
12 môn đệ của ông ta (x Cv 4, 13). Sách này toàn là chuyện mê tín, trái khoa học!
Tôi sẽ để ra 5 năm đọc sách ấy, và tôi quyết mở mắt cho bọn Công Giáo khỏi bị
mù quáng, để chúng được sáng suốt như tôi!”
Thế nhưng, sau 5
năm nghiên cứu Thánh Kinh, kết quả ngược lại, thay vì ông mở mắt cho người Công
Giáo, thì chính ông lại được Đức Giêsu mở mắt, ông nhìn thấy lúc Đức Giêsu bị
đâm, nước và máu từ cạnh sườn dốc ra hết, lúc ấy có một trận mưa rào như trút
nước, chuyển tải máu Đức Giêsu từ đỉnh đồi Sọ chảy xuống thung lũng có những
người cùi ra tắm mưa, ai đằm mình trong nước đó đều được lành mạnh.
Chuyện này đã được
đóng thành phim có tựa đề “Benhur” rất nổi tiếng! Ông Lew Wallace trở thành chứng
nhân cho Đức Giêsu: Chỉ có Ngài mới thực là Đấng Cứu Độ!
Đây cũng là chứng từ
một người có ý xấu đi tìm ý Chúa để phản đối, thì lại được Chúa hoán cải nên chứng
nhân sống động cho Tin Mừng.
7. Tôn trọng sự thật
Gần 28 triệu lượt
người đã xem trên Youtube về cô bé 12 tuổi nói chuyện tại hội nghị quốc tế về
môi trường tại Rio de Janeiro năm 1992. Cô bé Severn Suzuki ấy đã nói về những gì mà người lớn đang làm và hủy hoại
hành tinh này từng ngày từng giờ, và đang cướp mất sự sống của thế hệ tương
lai.
Điều đáng ghi nhận
là toàn thể cử tọa, gồm các quan chức của Liên Hiệp Quốc, đã ngoan ngoãn lắng
nghe, bởi cô bé này nói đúng quá và thuyết phục quá.
Những người Pha-ri-sêu
không có được thái độ tôn trọng sự thật như thế. Nghe các vệ binh trầm trồ về
Ngài, họ bảo mấy anh này lú lẫn. Nghe dân chúng thán phục Ngài, họ bảo đúng là
đám dân đen bị nguyền rủa. Rồi khi được Ni-cô-đê-mô là một người trong số họ nhắc
nhở, họ lại cho rằng ông là kẻ ngốc nghếch. Người ta có thể cứng cỏi đến mức
đó! Và sự cứng cỏi này dẫn đến cái chết của Con Thiên Chúa!
8. Tin và rao giảng lời Chúa
Những kẻ độc ác âm
mưu chống lại Giêrêmia vì ông tiếp tục mời gọi họ thống hối. Ngay cả khi biết
được âm mưu hại mình, ông vẫn không ngừng rao giảng. Ông đặt trọn niềm tin về
Thiên Chúa. Và vì thế, ông là điềm báo trước về Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cũng kêu
gọi người ta ăn năn sám hối, nhưng thay vì lưu tâm đến Ngài, họ lại âm mưu chống
lại Ngài. Dù biết rõ âm mưu của họ, Chúa Giêsu vẫn không ngừng rao giảng, vì
Ngài đặt tất cả niềm tin vào Thiên Chúa.
Niềm tin của tôi
vào Thiên Chúa mạnh mẽ thế nào? Tôi có thể làm gì để nó mạnh mẽ hơn?
Dưới bóng Ngài, này
con ẩn náu, tới khi nào hết tai họa khổ đau (Tv 56,1)
9. Kinh nghiệm để sống Lời Chúa
Đức Cha Pyung-Ho,
chủ tịch Ủy Ban Loan Báo Tin Mừng Hàn Quốc chia sẻ kinh nghiệm nghe Lời Chúa
cách đơn sơ của ngài. Đó là mỗi ngày học thuộc lòng một đoạn hay một câu Lời
Chúa, rồi Chúa Thánh Thần sẽ làm cho Lời Chúa thấm vào tâm trí người nghe. Vị
giám mục này còn xác tín rằng với phương cách đơn sơ như thế, mọi người đều có
thể ghi nhớ, “nghe” được Lời Chúa và Giáo Hội chắc chắn sẽ có mùa xuân mới. Mời
bạn bắt đầu phương cách đơn giản mà hữu hiệu này.
Phương cách nào giúp
bạn dễ thuộc Lời Chúa?
Hãy viết một câu
hay một đoạn Lời Chúa của Tin Mừng trong ngày và học thuộc lòng.
Lời Chúa: Mt 1, 16.
18-21. 24a
Giacóp sinh Giuse
là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô. Chúa Kitô giáng sinh trong
hoàn cảnh sau đây:
Mẹ Người là Maria
đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa
Thánh Thần. Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định
tâm lìa bỏ bà cách kín đáo.
Nhưng đang khi định
tâm như vậy, thì Thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi
Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang
thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là
Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội.”
Khi tỉnh dậy, Giuse
đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền.
TRUYỆN KỂ
1. Thánh Giuse, Người
Cha Tuyệt Vời
Tác giả người Nga
tên Mikhain Vanolov viết một truyện ngắn tựa đề “Người Cha” như sau: Trong gia
đình chỉ có hai cha con. Người cha và cô con gái. Người cha rất thương yêu cô
con gái của mình. Ông chăm sóc cô thật chu đáo. Nhưng cô lại rất khó chịu về sự
chăm sóc quá tỉ mỉ của người cha già. Cô thường gọi cha mình là “ông già lẩm cẩm”
khi ông nhắc nhở: ra đường nhớ đội mũ nón; đi đường mắc mưa thì về phải uống
thuốc kẻo bệnh v.v…
Vì làm văn phòng
cho một trường trung học nên cô gái thường về muộn. Dù mọi người đã ra về hết,
nhưng cô gái vẫn phải ở lại để sắp xếp giấy tờ cho ổn định rồi mới ra về.
Hôm ấy, khi cô khóa
cửa văn phòng để về thì trời bắt đầu tối. Khu trường học vắng tanh không một
bóng người. Bỗng nhiên, trước mặt cô xuất hiện ba người đàn ông với bộ mặt hung
dữ từ từ bước tới phía cô.
Cô gái sợ hãi hét
lên cầu cứu và bỏ chạy ra phía chiếc xe hơi của cô đậu ở sân trường. Ba người
đàn ông lập tức đuổi theo. Cô gái vừa chạy vừa đưa tay vào túi lấy chìa khóa.
Nhưng vì quá run rẩy nên cô làm rớt chìa khóa xuống đất. Cô cúi xuống tìm kiếm.
Nhưng mắt cô hoa lên không nhìn thấy gì cả. Đang khi đó, ba người đàn ông tiếp
tục chạy về phía cô. Cô đành bỏ, không tìm chìa khóa nữa, chạy tiếp đến chiếc
xe. Đến nơi, cô không biết làm gì hơn là đưa tay vào chiếc ví để tìm kiếm một
cái gì đó có thể cứu cô trong lúc nguy hiểm này.
Thật kỳ lạ! trong một
ngăn nhỏ của chiếc ví, tay cô chạm vào một vật bằng kim loại. Cô cầm lấy nó. Ồ!
Chiếc chìa khóa! Không kịp suy nghĩ, cô cầm chìa khóa tra vào lỗ khóa. Cửa xe bật
mở, cô lao vào xe và chiếc xe phóng đi. Ngay lúc ấy ba gã đàn ông phóng tới,
nhưng không kịp. Thế là cô thoát nạn!
Về sau, cô gái mới
biết: người “cha già lẩm cẩm” của cô đã đặt làm một chìa khóa khác và âm thầm bỏ
vào ví cô, dự phòng lúc cô cần đến. Chiếc chìa khoá ấy đã cứu cô.
Câu chuyện trên gợi
lên hình ảnh của một người cha hết lòng yêu thương chăm sóc con cái từ những việc
nhỏ nhặt đến những việc lớn lao. Hình ảnh người cha ấy, cũng gợi lên hình ảnh
người cha nuôi của Chúa Giêsu, thánh Giuse.
2. Người thợ tuyệt
diệu cho mái ấm tình yêu
Để chăm sóc và dưỡng
nuôi Chúa Giêsu và Mẹ Maria, thánh Giuse đã cần mẫn siêng năng trong âm thầm lặng
lẽ nơi xưởng mộc. Người đã trở thành người thợ tuyệt diệu xây dựng “ngôi nhà của
Chúa” và cũng là Mái Ấm Tình Yêu.
Trong tháng 3 năm
2004, Đài Truyền Hình Bình Dương hoàn tất bộ phim độc đáo mang tên: “Mùa Xuân
Chim Bay Qua và Cất Tiếng Hát.” Bộ phim này hoàn toàn không có lời thoại vì diễn
tả thế giới của người câm điếc. Vai chính là cô gái tên Ngọc Nhị ở Trung Tâm
Giáo Dục trẻ khuyết tật Thuận An.
Trong phim có cảnh
cô chụm hai bàn tay lại thành mái nhà đặt ngay trước mặt, diễn tả ước mơ mình
có một mái ấm gia đình.
Bộ phim đã làm nhiều
người xúc động.
Không phải chỉ bằng
đôi tay, mà bằng cả trái tim, cả một đời cần lao vất vả trong thầm lặng, thánh
Giuse đã tạo dựng một mái ấm gia đình đầy tình yêu thương. Người cùng với Mẹ
Maria tạo thành “mái nhà” đầm ấm yên vui, nêu gương mẫu cho các gia đình chúng
ta.
3. Cha tôi
Anh Vũ Đức Nghĩa đã
viết một câu chuyện thật cảm động, có tựa đề: Cha tôi.
“Anh con trai đi
làm được vài tháng, có dịp ghé thăm nhà. Bữa cơm chiều, anh cứ nhìn chăm chăm
vào chiếc đồng hồ của cha. Người cha thầm nghĩ: ‘Chắc là con nó cần’.
Ăn cơm xong, người
cha gọi con trai ra bàn uống nước, ông bảo: ‘Con mới đi làm, cũng cần biết giờ
giấc’. Rồi ông tháo đồng hồ đưa cho con. Người con trai cầm đồng hồ, bấm lại
hai nấc rồi đeo vào tay cha. Rơm rớm nước mắt, anh nghẹn ngào: ‘Dạo này ba gầy
quá, dây đồng hồ tuột cả xuống bàn tay!’”
Người con đã có được
tình thương đối với cha mình vì người cha luôn thể hiện được tình thương đối với
con mình một cách hết sức nhạy bén. Và đấy là gia tài to lớn nhất mà người cha
để lại cho con cái: Không phải là tiền bạc, mà chính là tình yêu thương và lòng
đạo đức mới là quý giá nhất.
4. Những nụ hôn yêu
thương
Noi gương Thánh
Giuse, gia trưởng cũng nỗ lực trở nên người cha Yêu Thương. Muốn vậy, cần phải
hiểu con, bằng không, yêu con mà kết quả lại làm hại con, như câu chuyện dưới
đây:
“Có một người cha
nghèo đã quở phạt đứa con gái 3 tuổi của mình vì tội lãng phí cả một cuộn giấy
gói quà mầu vàng. Tiền bạc eo hẹp, người cha nổi giận khi đứa bé cắt cuộn giấy
quý ra thành từng mảnh nhỏ trang trí một cái hộp.
“Sáng sớm hôm sau,
đứa con gái nhỏ mang cái hộp đến nói với cha: ‘Hôm nay là sinh nhật của bố, con
không có tiền mua quà cho bố nên con xin tặng bố chiếc hộp này!’. Người cha cảm
thấy hối hận vì cơn giận dữ vô lý của mình tối hôm qua. Nhưng khi mở cái hộp
ra, thấy bên trong trống rỗng, thì cơn giận của ông lại bùng lên.
“Ông mắng đứa con
gái xối xả vì đã tặng ông chiếc hộp rỗng… Đứa con gái nhỏ ngước nhìn cha, nước
mắt rưng rưng, nhỏ nhẹ thưa: ‘Bố ơi, đó đâu phải là cái hộp rỗng, con đã thổi đầy
những nụ hôn vào trong hộp để tặng bố mà!’.
Người cha giật thót
tim. Ông đã quá hồ đồ, xét đoán lầm đứa con hiếu thảo. Vòng tay ôm lấy đứa con
gái nhỏ, ông cầu xin con tha thứ!
Sau đó không lâu,
thiên thần nhỏ của ông đã qua đời trong một vụ tai nạn. Nhiều năm sau, người
cha vẫn giữ khư khư chiếc hộp bên mình. Mỗi khi gặp khó khăn, buồn bực, ông lại
lấy ra một ‘nụ hôn tưởng tượng’ và nghĩ đến tình yêu nồng ấm mà đứa con gái bé
bỏng của ông đã thổi vào chiếc hộp.”
Trong cuộc sống, có
biết bao người cha đã nhận được những chiếc hộp quý giá chứa đầy những nụ hôn
chan chứa yêu thương từ con cái. Trên đời này, không có tài sản nào quý giá hơn
những chiếc hộp chứa đầy tình yêu chân thành như thế!
5. Con còn tiền lẻ
không?
Noi gương Thánh
Giuse, gia trưởng cũng nỗ lực trở nên người cha Nhân Hậu. Xin kể một câu chuyện
về tình cha đến rơi nước mắt: “Con còn tiền lẻ không?”
“Học lớp 12, tôi
không có thời gian về nhà xin tiền ba như 2 năm trước. Vì thế, tôi viết thư cho
ba, rồi ba đích thân lên đưa tiền lên cho tôi. Từ nhà đến chỗ tôi trọ học chừng
15 km. Nhà nghèo, không có xe gắn máy, nên ba phải đi xe đạp. Chiếc xe cũng gầy
gò giống như ba!!!
Cuối năm, làm hồ sơ
thi đại học, tôi lại nhắn ba đưa tiền lên. Lần này, sau khi đưa cho tôi một
trăm ngàn, ba hỏi: ‘Con còn tiền lẻ không?’. Tôi đáp: ‘Con còn bốn ngàn, ba ạ’.
Ba nói: ‘Con cho ba hai ngàn, để lát về, nếu xe có hư như lần trước thì có tiền
mà sửa’. Ba về, tôi đứng trông theo, không cầm được nước mắt, khóc òa lên!… ”
Thật vậy, người cha
Nhân Hậu thì nhạy bén, nắm bắt nhu cầu của con cái và cảm thông, chia sẻ với
con, như tấm gương của Chúa Giêsu: “Tôi hy sinh mạng sống vì đàn chiên.”
6. Thánh Giuse, Người
Chồng Tốt, Người Cha Hiền
Người ta kể một câu
chuyện kỳ lạ về sự trợ giúp của thánh Cả Giuse như sau:
Tại một giáo xứ miền
quê, vào một đêm kia, có ông già lạ mặt đến gõ cửa nhà xứ xin cha xứ đi xức dầu
cho một bệnh nhân là một người đàn ông trong làng.
Được cụ già dẫn đi,
vị Linh mục nhanh chóng đến nhà bệnh nhân. Khi đến nơi, mọi người trong nhà rất
ngạc nhiên vì không có ai trong nhà đi mời vị linh mục đến xức dầu, vì mọi người
đang bận rộn lo cho người bệnh đang hấp hối.
Không kịp tìm hiểu,
vị linh mục ban những bí tích cuối cùng cho bệnh nhân. Thật may mắn, chỉ ít
phút sau, người đàn ông ra đi bình an, kịp thời lãnh nhận các bí tích cuối
cùng.
Khi xong xuôi mọi
việc, vị linh mục đi tìm ông cụ già lạ mặt để hỏi cho ra lẽ. Thế nhưng, mọi người
tìm kiếm khắp nơi cũng không thấy ông cụ già bí mật kia đâu. Ngay lúc ấy, vợ
người chết chợt nghĩ ra một điều gì đó, thưa với vị Linh mục: “Thưa
cha, con hiểu rồi! Chồng con có lòng yêu mến thánh Giuse cách đặc biệt, thường
cầu khấn thánh Giuse trong những cơn nguy khốn. Con tin rằng: ông cụ
già kia chính là thánh Giuse đến để giúp đỡ chồng con trong cơn nguy tử.”
Ngay lúc ấy, vị
Linh mục giật mình và nhớ lại: ông cụ già kia có khuôn mặt rất giống thánh Giuse!
Câu chuyện trên là
một lời minh chứng hùng hồn cho thấy: Thánh Giuse là Đấng Bảo Trợ hữu hiệu cho
những ai chạy đến với Người. Tất cả những ai đến với thánh Giuse, đều được Người
ra tay cứu vớt, phù hộ.
7. Thánh Giuse là
con người nhỏ bé được Chúa chọn
Ogilvy and Mather
là một công ty quảng cáo lớn. Khi muốn lập ra công ty và muốn cho công ty đó hoạt
động mang lại nhiều lợi nhuận, ông David Ogilvy người sáng lập ra công ty đã
nghĩ ra một cách làm như thế này: Ông đã cho mời các vị lãnh đạo cộng tác với ông
lại, tặng cho mỗi người một con búp bê Nga, bên trong đó có năm tấm hình người
theo thứ tự mỗi lúc mỗi nhỏ dần.
Trong tấm hình người
bé nhất ông dán vào đó một tờ giấy nhỏ có ghi mấy hàng chữ “nếu mỗi người
trong chúng ta chọn những cộng sự nhỏ hơn mình, chúng ta sẽ trở nên một công ty
của những người lùn. Nhưng nếu chúng ta chọn những người cộng sự lớn hơn mình,
thì lúc ấy Ogilvy and Mather sẽ trở thành một công ty của những người khổng lồ”
Và quả thật, Ogilvy
and Mather đã trở thành một trong những công ty quảng cáo lớn nhất và được kính
trọng nhất thế giới.
8. Chúa yêu thích sự
công chính đạo đức.
Vào năm 1729 Ben
Franklin một nhà tư tưởng lớn của Mỹ đã nói những lời như thế này trước một cử
tọa đến nghe ông “Nếu chúng ta vẫn chuyên chăm để trở nên vĩ đại như
chuyên chăm trở nên tốt lành thì ta sẽ trở nên vĩ đại thực sự và con số những
người đáng nể phục sẽ tăng lên rất nhiều. Nhưng sẽ là một sai lầm lớn nếu chúng
ta nghĩ rằng mình có thể trở nên vĩ đại mà không cần có sự đạo đức”
rồi như dằn từng tiếng
ông khẳng định “Và tôi khẳng định rằng không bao giờ có một con người
thật sự vĩ đại mà đồng thời lại không thật sự đạo đức.”
Đây là lời của sách
Khôn ngoan: “Nếu trên đời này, giàu sang là báu vật ai cũng khao khát,
thì còn gì giàu sang hơn đức khôn ngoan?” (Kn 8,5).
Chúng ta hãy xin
Chúa giúp chúng con biết đánh giá các hành động và giá trị của chúng ta theo
chuẩn mực của Ngài.
9. Sống đời công
chính
Thánh Augustinô
nói: “Sống công chính tốt lành không gì khác hơn là yêu mến Thiên Chúa
hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực mình”… “Chúng ta dành cho Người một tình
yêu trọn vẹn (nhờ tiết độ), không gì lay chuyển nổi (nhờ can đảm), chỉ vâng phục
một mình Người (nhờ công bình), luôn tỉnh thức để khỏi sa vào cạm bẩy của mưu
mô và gian dối (nhờ khôn ngoan)” Đó là cách sống đẹp lòng Chúa nhất
(T. Augustinô, Những thói quen của Hội Thánh Công Giáo 1,25,46).
Một cô kia cuộc đời
thật là bất hạnh: bị mồ côi cha từ lúc 6, 7 tuổi, lúc lên 12 tuổi mẹ cô lại qua
đời. Từ đó cô thay mẹ chăm sóc cho mấy đứa em nhỏ của cô. Lúc 16 tuổi cô bị lâm
bệnh nặng.
Một bà đến thăm và
an ủi cô. Bà này hỏi: Cháu có sợ chết không? Đừng sợ cháu à! Chết là được về với
Chúa, đó là điều hạnh phúc nhất đấy cháu ạ.
Cô bé trả lời: Thưa
bà, cháu không sợ chết. Nhưng cháu không biết là khi gặp Chúa, cháu sẽ phải nói
làm sao vì cháu chưa làm được gì cho Chúa cả. Cháu muốn phục vụ Chúa, nhưng từ
khi mẹ cháu chết, cháu phải lo nuôi mấy đứa em cháu, vì thế mà cháu chẳng còn
thì giờ nào làm được việc gì cho Chúa.
Người đến thăm cô
bé, nắm lấy tay cô, bàn tay gầy guộc và nói: Khi gặp Chúa, cháu không cần nói
gì cả vì Chúa biết rõ lòng của cháu rồi, cháu đã làm tất cả những gì cháu có thể
làm rồi.
Vâng Chúa biết rõ
lòng của chúng ta. Làm tất cả những gì có thể làm, đó chính là điều mà chúng ta
phải cố gắng.
10. Thánh Giuse,
quan thầy giáo hội hoàn vũ, giáo hội Việt Nam
Ngày lễ nầy ra đời
vào thế kỷ 15, và kể từ năm 1621 đã được mừng kính trong khắp cả Giáo Hội. Vào
năm 1847, ĐGH Piô IX đã tôn phong Thánh Giuse làm quan thầy của toàn thể Giáo Hội.
Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã ghi tên Thánh Giuse vào lễ qui Rôma…
Đối với lịch sử
Giáo Hội Việt nam, Ngày lễ Thánh Giuse 19.3 còn là một cột mốc quan trọng trong
cuộc hành trình truyền giáo: vào chính ngày nầy, 19.3.1627, phái đoàn truyền
giáo của Cha Đắc Lộ đã cập bến Cửa Bạng ở Đàng Ngoài để đem Tin Mừng cho dân tộc
Việt nam. Đó cũng là một lý do để Hội Thánh Việt nam chọn Thánh Giuse làm quan
thầy.
12. Đấng giữ gìn
các kẻ đồng trinh
Giáo Hội coi Thánh
Giuse là “Đấng giữ gìn các kẻ đồng trinh.” Người đã giữ gìn Đức Mẹ Maria. Người
cũng sẵn sàng giữ gìn những người tận hiến đời mình cho Chúa.
Có một người làm
công, ngày ngày đi quét lá rừng rụng xuống, gom lại một nơi rồi hốt đi. Một hôm
một đoàn người lên rừng chơi, thấy người quét lá, họ rất đỗi ngạc nhiên, và họ
càng ngẩn ngơ khi biết rằng chính Hội đồng Thành phố đã thuê với số lương 7000
$ một tháng.
Sau một hồi vãn cảnh,
đoàn người trở về. Một số người tìm đến ông Chủ tịch Hội đồng thành phố đề nghị
hủy bỏ phụ khoản chi tiêu cho việc quét lá rừng vì quá vô ích. Ông Chủ tịch
cũng như Hội đồng chẳng hiểu căn do của phụ khoản kia, vì họ chỉ làm theo truyền
thống, nên cuối cùng quyết định không thuê người quét lá rừng nữa.
Ngay giữa thành phố
có một cái hồ rộng lớn, nước trong xanh, cây to in bóng mát, người qua lại dập
dìu. Mọi người ca tụng nó là viên ngọc trai điểm trang cho thành phố. Nhưng lạ
thay, một tháng sau ngày người quét lá rừng nghỉ việc, nước hồ trở nên đục ngầu
bẩn thỉu, không còn thấy bóng người hóng gió ngoạn cảnh, quán xá bên bờ hồ vắng
tanh… Cả thành phố trở nên buồn tẻ mà không hiểu tại đâu. Hội đồng Thành phố
nhóm ngay phiên họp bất thường để tra xét hiện tượng trên. Và sau cùng họ tìm
ra nguyên nhân: do người phu quét lá rừng nghỉ việc nên lá rừng rụng xuống, gió
đùa lá bay tứ tung trên mặt đường, rồi rơi xuống hồ nước trong xanh, gây nên
tình trạng ô nhiễm…
Và ngay hôm đó họ
tái dụng người phu quét lá với số lương còn cao hơn xưa.
”Này ông Giuse là
con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là
do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20)
13. Mối tình của
Dolores và Donald
Theo tin Đài Chân
Lý Á Châu loan đi khắp thế giới ngày 07-03-2012: Mẹ Dolores là một trong số các
ngôi sao Holywood, tiến bước trên thảm đỏ trong buổi lễ trao giải thưởng Oscar
vào ngày 26-02-2012. Vì mẹ đã đóng cuốn phim tài liệu “Chính Chúa là một Elvis
lớn lao hơn” (God is bigger Elvis). Năm nay (2023) mẹ Dolores đã 87 tuổi, tu
Dòng Kính Đan Viện Biển Đức Regina Laudis ở Bethlehem thuộc tiểu bang
Connecticut, nước Mỹ.
Vào năm 1957, minh tinh Dolores
ở tuổi 21, đã đóng nhiều phim nổi tiếng với vua nhạc rock Elvis Presley, đang ở
đỉnh cao danh vọng, vì Dolores là một ngôi sao tài sắc vẹn toàn, cô đã được mời
ký hợp đồng đóng phim lên tới triệu dollars. Thế mà Dolores bỏ lại những hợp đồng
bạc triệu, và từ bỏ hôn ước với một kiến trúc sư giàu có, trẻ tuổi, tên là
Donald John Robinson đã hết lòng yêu Dolores.
Ông Donald là một
trong những người thắc mắc nhất trong số những người ái mộ ngôi sao Dolores, đã
theo dõi sự kiện mẹ Dolores bỏ danh vọng đi tu. Trong độ tuổi thanh xuân
phơi phới một cách dễ dàng không vương vấn, không dấu hiệu báo trước!
Ngay cả vị hôn phu của cô là ông Donald cũng không thể lý giải tại sao đã năm
năm Donald và Dolores hẹn hò với nhau. Ngay sau khi họ vừa làm lễ Đính hôn, cô
lại tỏ ý muốn đi tu!
Ông Donald đã không
thể tin ở tai của mình, vì thấy Dolores vẫn tiếp tục đi đóng phim bình thường.
Ông không hề ngờ rằng ơn kêu gọi dành cho Dolores đã bắt đầu từ trước khi cô
quen biết ông ở tuổi 21, và sự nghiệp điện ảnh đang ở vào thời kỳ rực rỡ nhất!
Một người bạn của Dolores kể lại là nghe Dolores than thở rằng đóng phim căng
thẳng quá, rồi chỉ sau vài tuần lễ thì lại đường ai nấy đi. Cô phải chia tay với
người bạn mới quen mà cô yêu quý. Điều này để lại nhiều trống rỗng trong lòng
cô gái trẻ đẹp, đơn sơ, dễ mến. Cô đi đến nhà Dòng Biển Đức để tĩnh tâm và học
hỏi lối sống và làm việc của các nữ tu, là những người cô cho là rất ổn định và
đáng khâm phục. Hai năm sau Dolores đủ điều kiện nhập Dòng vào năm 1960, và đến
năm 1970 thì được Khấn trọn đời, làm cho nhiều kẻ xấu miệng loan báo cô đã có bầu
với Elvis, bây giờ họ phải đấm ngực!
Ông Donald bị
Dolores bỏ rơi, vẫn vui lòng chấp nhận ở vậy không chịu lập gia đình với ai, vì
cho rằng không ai có thể thay thế được Dolores trong tim ông. Suốt thời gian
Dolores tu trì, ông Donald hằng năm hai lần vào dịp lễ Giáng Sinh và Phục Sinh
đến nhà Dòng thăm Dolores. Vào tháng 11 năm 2011, ông Donald qua đời, trước đó
vài tháng ông đã để lại Di chúc hiến tất cả tài sản của ông cho Đan Viện Biển Đức
để nhà Dòng có thêm tài lực mà phục vụ công ích.
Ai cũng phải khâm
phục mối tình của Dolores và Donald đã hơn nửa thế kỷ, cả hai đã hiến dâng tình
yêu cao quý nhất cho Chúa: một người thì trung thành với lời Khấn độc thân trọn
đời trong bậc tu trì; một người thì chung thủy với lời đính ước trong mối tình vợ chồng.
Lời Chúa: Lc 1,
26-38
Khi ấy, thiên thần
Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một
trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy
tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào Bà đầy ơn
phước, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ.” Nghe lời
đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.
Thiên thần liền
thưa: “Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một
Con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối
Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị
đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận.”
Nhưng Maria thưa với
thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?”
Thiên thần thưa:
“Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế
Ðấng Bà sinh ra, sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave
chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được
sáu tháng, người mà thiên hạ họi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không
làm được.”
Maria liền thưa:
“Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền.” Và thiên thần
cáo biệt Bà.
TRUYỆN KỂ
1. Khiêm nhường đón
nhận—TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Ðọc Tam Quốc Chí,
ai cũng mến mộ Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang. Thuở
nhỏ, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ sông. Thấy một ông lão ăn mặc rách rưới
nằm ngủ trên cầu.
Ông lão ngủ say làm
rơi một chiếc dép xuống sông. Thấy Trương Lương, ông sai bảo: "Thằng
bé, nhặt chiếc dép cho ta.” Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc
dép kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ cầm lấy, không một lời cám ơn.
Loay hoay xỏ mãi
không vào, cụ đánh rơi chiếc dép một lần nữa. Cụ lại quát bảo Trương
Lương: "Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta.” Trương Lương vẫn
vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế.
Thấy vậy, ông lão
khen: "Thằng bé này dạy được đây.” Thì ra cụ là một cao
nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho
ông. Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho
Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.
Trương Lương gặp được
thầy giỏi một phần nhờ cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của
ông.
Ðọc truyện Trương
Lương, tôi lại nhớ đến Ðức Mẹ. Thời Ðức Mẹ, ai cũng mong chờ Ðấng Cứu Thế,
nhưng chỉ mình Ðức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Ðức Mẹ, đó là do ơn
lành nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Ðức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.
2. Ơn Chúa cần được
cộng tác
Một thanh niên kia
có thói quen ngủ rất say, luôn cần có mẹ gọi mới thức dậy được. Sau khi tốt
nghiệp, anh đi làm ở một chỗ xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng hồ báo
thức.
Ngày đầu tiên anh
quên vặn đồng hồ trước khi ngủ nên đến sở làm trễ. Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng
hồ, nhưng sáng sớm khi nó reo thì anh đưa tay tắt bỏ, nên lại đi làm trễ. Và
anh bị đuổi việc. Khi anh trở về gia đình, mẹ anh hỏi về chiếc đồng hồ. Anh
đáp:
- Chiếc đồng hồ đó
hoàn toàn vô dụng đối với con.
- Nó vô dụng là vì
con không chịu dùng nó. Mẹ anh đáp.
Bao nhiêu ơn Chúa
ban cho ta cũng đều vô dụng nếu ta không xử dụng đến.
3. Khiêm nhường là
sống theo sự thật
Khác hẳn với Eva
thuở xưa trong vườn địa đàng, tuy chỉ là con người mà cứ tưởng mình ngang tầm với
Thiên Chúa. Đức Mẹ là Eva mới dù được Thiên Chúa đặc biệt ưu ái tuyển chọn lên
bậc "quân vương”làm Mẹ sinh ra Đấng Cứu thế, nhưng Đức Mẹ vẫn chỉ xưng
mình là một tôi tớ không hơn không kém…
- Đức Mẹ nhìn nhận
tất cả những gì mình có được đều là do Thiên Chúa.
"Người đã đoái
thương nhìn tới phận nữ tỳ hèn mọn” (Lc 1,48)
"Đấng toàn
năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1,49)
"Thiên Chúa đã
hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao những kẻ khiêm nhường - Thiên Chúa đã ban
đầy dư cho những kẻ nghèo, còn người giàu có thì Người đuổi về tay không” (Lc 1,48).
Phải có một lòng
khiêm nhường thật thẳm sâu thì mới có thể thấy hết được những sự thật đó. Thái
độ của Đức Mẹ khác hẳn với thái độ của Eva thuở xưa. Eva thuở xưa mới có được một
chút quyền hành Thiên Chúa ban cho trong công việc canh giữ và làm chủ vườn địa
đàng đã tưởng mình là quan trọng, thậm chí có lúc còn tưởng là Thiên Chúa như
muốn ghen tương với mình. Thật là kiêu ngạo.
4. Thị kiến của
thánh Catarina Emmerrich
Một hôm, Chúa cho
bà thánh Catarina Emmerrich được xem thấy quang cảnh ngày lễ Truyền Tin.
Theo bà thuật lại:
Ngày 23 tháng 3, tôi thấy Đức Mẹ quỳ ngay ở chỗ phòng tôi, đầu và mặt phủ một
khăn trắng mỏng, hai tay búp măng chắp trước ngực, đôi mắt đăm đăm nhìn về phía
góc trời, rồi tôi thấy một luồng ánh sáng đổ xuống bên tay hữu Đức Mẹ; và trong
luồng sáng trong tốt đó, tôi thấy Thiên thần Gabriel, y phục trắng toát, tóc
hoe hoe và phất phới. Đoạn một tiếng chào của Thiên thần làm tan làn không khí
im lặng.
Nghe tiếng chào
mình, Đức Mẹ có vẻ sợ sệt, hơi nghiêng về phía tả, song con mắt vẫn đăm đăm
nhìn về góc trời, chứ không quay hẳn về phía tiếng chào, và cầm trí nghe lời
thiên thần - mỗi lời thiên thần nói như nhả ra từng dòng chữ lửa.
Sau khi đã hiểu ý
câu truyện, Đức Mẹ xoay mình lại, mở hé khăn trùm, khiêm tốn trả lời rằng: “Này
tôi là nữ tỳ Thiên Chúa, xin hãy làm trọn nơi tôi điều sứ thần truyền.”
5. Tờ giấy và cây
viết
Nhắc đến ông Leonard
de Vinci, chúng ta thường nghĩ ngay đến những phát minh khoa học và những bức họa
tuyệt diệu của ông. Nhưng để giải trí, ông còn sưu tầm những truyện cổ tích,
hay đặt ra những truyện mới, như câu truyện sau đây về cuộc đối đáp tưởng tượng
của tờ giấy trắng và cây viết.
Có tờ giấy trắng nọ
nằm ù lì trên bàn viết với bao đồng bạn khác từ nhiều năm tháng qua. Nhưng rồi
một hôm nó được chọn đem ra trước bàn chịu cảnh cây viết với mực đen vẽ lên nó
không biết bao nhiêu là những dấu hiệu mà nó không hiểu gì cả. Tờ giấy phàn nàn
với cây viết như sau: "Tại sao anh lại làm thế, anh vẽ trên mình
tôi những dấu làm tôi mất đi sự trắng sạch ban đầu, anh làm nhục tôi thế này
sao? Anh làm hư cả cuộc đời tôi rồi.”
Nhưng cây viết trả
lời: “Không, anh giấy hiểu lầm tôi rồi, tôi không làm dơ anh đâu, tôi vẽ
lên anh những dấu hiệu, những dòng chữ và kể từ nay, anh không còn là tờ giấy
vô dụng nữa, mà mang trên mình một sứ điệp, anh trở thành kẻ cộng tác với con
người lưu giữ những tư tưởng cao siêu của con ngưởi, và vì thế sẽ được con người
nâng niu bảo vệ; anh được sống mãi để trợ giúp con người.”
Tờ giấy chưa kịp trả
lời cây viết, thì nó bỗng nhìn thấy một bàn tay con người quơ lấy những tờ giấy
trắng đồng bạn của nó mà nay đã trở thành vàng đục, già cỗi và đầy bụi bặm mà
quăng vào ngọn lửa bên cạnh. Bấy giờ tờ giấy trắng đầy chữ viết mới hiểu được
hành động vừa rồi của cây viết và lấy làm sung sương vì được trở thành kẻ cộng
tác và lưu giữ kho tàng trí khôn của con người.
Thật vậy, Đức Maria
đã tự nguyện trở thành tôi tớ của Thiên Chúa để cộng tác vào chương trình cứu
chuộc nhân loại. Ngài đã trở nên một dụng cụ tuyệt vời của Thiên Chúa, hoàn
toàn đặt mình dưới quyền sử dụng của Thiên Chúa như như một tờ giấy trắng trước
cây viết.
6. Đối với Thiên
Chúa, không có gì là không thể làm được
Cha Giuse Lê Quang
Uy kể: Có một thiếu nữ người Pháp mà tôi đã lỡ quên mất tên sau khi đọc được
câu truyện sau đây trên báo Echo de Lourdes cách đây khoảng 25 năm. Cô ấy bị mắc
phải căn bệnh nhũn tủy làm cho bị liệt đôi chân. Cô đã hy vọng rất nhiều khi
người ta đề nghị đưa cô tới Lộ-đức để xin ơn Mẹ làm phép lạ. Khi ra về, ai cũng
lắc đầu thất vọng vì thấy cô gái không được lành bệnh. Thế nhưng, chính cô thì
lại hân hoan tâm sự: “Tôi không hề được Mẹ chữa lành căn bệnh thể xác,
chắc là Chúa Giêsu muốn tôi được chia nỗi đau đớn thân xác với Ngài, và tôi đã
thưa Xin Vâng như Mẹ… Thế nhưng, Mẹ lại đã chữa lành căn bệnh tuyệt vọng bi
quan của tâm hồn tôi… Từ nay, tôi xin được làm Tông Đồ của Chúa Giêsu, Con yêu
dấu của Mẹ… ”
Và quả thật, cô gái
đã trở thành một Tông Đồ nằm trên giường bệnh của những người cũng đang đau khổ
bất hạnh như cô đã từng đau khổ bất hạnh. Cô đã viết thư gửi đi để khích lệ niềm
hy vọng của những em bé mồ côi, của những người già cô đơn trong Viện Dưỡng
Lão, của những thiếu nữ lỡ lầm đang định phá thai, của những người khuyết tật
khốn khổ…
Cho đến khi bị liệt
cả hai tay, cô đọc người ta viết. Khi không nói được nữa, người ta soạn các lá
thư rồi đọc lên cho cô nghe và gật đầu hoặc chớp mắt đồng ý. Và sau khi cô chết,
người ta lấy những lá thư đã sao chép và lưu trữ để in thành hàng vạn lá thư
khác…
Mới đây, khi tôi được
đến giúp Tĩnh Tâm 3 ngày Mùa Chay cho Giáo Xứ Tử-đình ở Gò-vấp, tôi lại gặp được
một bạn trẻ cũng bị căn bệnh Nhũn Tủy giống như cô gái nói trên. Đó là bạn sinh
viên năm thứ hai Đại Học khoa Tin Học tên là Phạm Ngọc Quỳnh. Tôi đã mời cả gia
đình Quỳnh cùng tôi cầu nguyện ngay bên giường bệnh của bạn ấy…
Và tôi đã nhìn vào
đôi mắt bừng sáng đầy nghị lực quả cảm của bạn ấy. Và tôi đang cầu nguyện thật
lòng xin Thánh Ý Thiên Chúa tỏ bày, để một hôm nào đó tôi sẽ mạnh dạn ngỏ lời đề
nghị với bạn Quỳnh cũng chọn công việc Tông Đồ khiêm tốn mà hiệu quả tuyệt vời
như cô gái người Pháp đã làm.
Nếu được, xin các bạn
trẻ, đặc biệt là các bạn sinh viên hãy đến thăm bạn Quỳnh ở số nhà 2/16 đường
Thống Nhất, tổ 75, phường 15, quận Gò-vấp, hoặc điện thoại số 9.961.554. Tôi hy
vọng, cả tôi lẫn các bạn có thể sẽ là những “sứ giả”, những “thiên thần” được
Thiên Chúa gửi đến cho Quỳnh và cho biết bao nhiêu bạn trẻ khác, cho biết bao
nhiêu con người khốn khổ bất hạnh khác đang sống quanh chúng ta, ngay bên cạnh
chúng ta…
Thế đấy, mỗi ngày,
mỗi biến cố xảy đến trong cuộc đời chúng ta đều như văng vẳng một lời “Truyền
Tin” của Thiên Chúa thông qua một “sứ giả”, một “thiên thần” nào đó ngay bên
chúng ta. Có thể đó sẽ là một lời mời gọi chúng ta hãy cộng tác với một chương
trình mầu nhiệm hoặc một kế hoạch kỳ diệu nào đó của Thiên Chúa như đã từng xảy
đến cho Đức Ma-ri-a. Chúng ta chỉ cần khiêm tốn thưa Xin Vâng với Thiên Chúa.
Còn mọi sự sau đó, hãy cứ tin rằng: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là
không thể làm được.”
Được như vậy, thật
sự chúng ta sẽ là những người có phúc, xứng đáng được chào bằng lời chào ngày
xưa thiên thần đã kính chào đức Ma-ri-a: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân
sủng, Đức Chúa ở cùng bà.”
7. Câu Thánh Kinh đẹp
nhất
Có một bà mẹ đã hỏi
đứa con nhỏ của mình như sau:
-Theo ý con, câu
nào trong Kinh thánh đã làm cho con thích thú hơncả?
Đứa bé mở cuốn Kinh
thánh và tình cờ lật phải ngay trang nói về hoạt cảnh Truyền tin. Với ánh mắt
long lanh, đứa bé đã nói với mẹ:
-Thưa má, hai tiếng
xin vâng của Đức Maria là hai tiếng đã làm cho con thích thú hơn cả.
Đúng thế, không gì
đẹp bằng hai chữ xin vâng trên cặp môi của Mẹ Maria cho chương trình cứu độ được
thực hiện. Đồng thời, cũng không gì đẹp bằng hai tiếng xin vâng trên cặp môi mỗi
người chúng ta cho thánh ý Thiên Chúa được chu toàn.
8. Người mẹ được chọn
Trong một lớp giáo
lý, cô giáo hỏi các em học sinh: Em mơ ước điều gì cho mẹ của các em? Các em
đua nhau trả lời:
Em muốn cho mẹ em
là người đẹp nhất trên thế giới nầy.
Em mơ ước mẹ em có
một sức khoẻ thật dồi dào.
Em cầu mong cho mẹ
em giàu sang, có thật nhiều tiền bạc.
Em chỉ ước mong cho
mẹ em là một bà mẹ hiền lành, đạo đức và nhân hậu.
Chỉ là ước mơ vì
không ai có quyền chọn người mẹ sinh ra mình. Nhưng đối với Thiên Chúa thì khác
hẳn. Ngài đã sinh ra bởi một người nữ được tuyển chọn. Đây là trường hợp độc nhất
vô nhị trong lịch sử loài người. Đức Maria đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng
Cứu Thế để cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ. Ngài chọn Maria vì Ngài
muốn chọn, theo sự tự do của Ngài (x. Rm 9,12.16), và cũng “vì bà đẹp
lòng Thiên Chúa.”
Thánh ý ấy được biểu
lộ qua tiếng nói lương tâm, qua mười giới răn, qua Tin mừng phúc âm, cũng như
qua những lời giáo huấn của Hội Thánh.
9. Món quà tình yêu
người mẹ
Có một người con gọi
về cho mẹ:
– Alô, Mẹ đó ạ?
– Ừ, con đó hả?
– Dạ…
– Có chuyện gì
không con?
– … Dạ, không Mẹ…
hôm nay sinh nhật con…
– Ờ nhỉ, Mẹ quên mất!
Già rồi nên chẳng nhớ nổi ngày sinh của mấy đứa con.
– Không sao đâu Mẹ ạ.
Con… con chỉ muốn nói với Mẹ rằng… hôm nay sinh nhật con, con muốn cám ơn Mẹ đã
sinh ra con. Món quà sinh nhật quý giá nhất Mẹ đã tặng cho con.
Hóa ra món quà quý
nhất cho ngày sinh nhật của chúng ta là tình yêu của mẹ.
10. Mẹ thưa xin
vâng để trở nên người mẹ
Trên đường đời nhiều
sóng gió hôm nay, Mẹ Maria sẽ là điểm tựa vững chắc cho mỗi một người Kitô hữu
chúng ta. Trải nghiệm của Mẹ sẽ thấu hiểu những khó khăn mà chúng ta đang đối
diện. Niềm cậy trông của Mẹ sẽ là gương mẫu cho chúng ta trên hành trình đức
tin. Mẹ sẽ là điểm tựa cho mọi NỖI ĐAU của con cái Mẹ nơi trần gian này.
Mẹ sẽ là nguồn an ủi
cho những ai đang đau đớn thân xác vì ốm đau bệnh tật, vì những nặng nề của thể
xác dằn vặt.
Mẹ là sẽ nguồn bình
an cho những ai đang đau thương tinh thần vì thử thách chông gai, bị đối xử tệ
bạc, hay bị đẩy ra bên lề của xã hội.
Mẹ sẽ là nguồn cậy
trông cho những ai đang đau buồn vì sự chia ly trong tình yêu, vì những đổ vỡ hạnh
phúc gia đình.
Mẹ sẽ là nguồn hy vọng
cho những ai đau khổ vì sự yếu đuối vấp ngã, khó khăn thất bại, hay mất mát
trong đời.
Một lòng cậy trông
nơi Mẹ sẽ giúp chúng ta đáp lời xin vâng trước mọi biến cố trong cuộc đời, chiến
thắng mọi sợ hãi trong cuộc sống và can đảm làm chứng cho sự thật, cho tình
thương nơi trần thế.