Lời Chúa tuần 4 mùa chay - câu truyện minh họa

 


CNMC 4A

CNMC 4B

CNMC 4C

Thứ Hai tuần 4 MC

Thứ Ba tuần 4 MC

Thứ Tư tuần 4 MC

Thứ Năm tuần 4 MC

Thứ Sáu tuần 4 MC

Thứ Bảy tuần 4 MC

Lễ kính thánh Giuse

Lễ Truyền Tin

 

CNMC 4A

Lời Chúa: Ga 9, 1-41 (bài dài)

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu đi qua, thấy một người mù từ khi mới sinh. Môn đệ hỏi Người: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội, anh này hay cha mẹ anh, khiến anh mù từ khi mới sinh?" Chúa Giêsu đáp: "Không phải anh cũng chẳng phải cha mẹ anh đã phạm tội, nhưng để công việc của Thiên Chúa tỏ ra nơi anh. Bao lâu còn ban ngày, Ta phải làm những việc của Đấng đã sai Ta. Đêm đến không ai có thể làm việc được nữa. Bao lâu Ta còn ở thế gian, Ta là sự sáng thế gian.” Nói xong, Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy và bảo: "Anh hãy đến hồ Silôê mà rửa" (chữ Silôê có nghĩa là được sai) Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được.

Những người láng giềng và những kẻ xưa kia từng thấy anh ta ăn xin đều nói: "Đó chẳng phải là người vẫn ngồi ăn xin sao?" Có kẻ nói: "Đúng hắn!" Lại có người bảo: "Không phải, nhưng là một người giống hắn.” Còn anh ta thì nói: "Chính tôi đây.” Họ hỏi anh: "Làm thế nào mắt anh được sáng?" Anh ta nói: "Người mà thiên hạ gọi là Giêsu đã làm bùn xức mắt tôi và bảo: Ngươi hãy đến hồ Silôê mà rửa. Bấy giờ tôi đi, tôi rửa và tôi trông thấy.” Họ lại hỏi: "Ngài ở đâu?" Anh thưa: "Tôi không biết.”

Họ liền dẫn người trước kia bị mù đến với những người biệt phái, lý do tại Chúa Giêsu hoà bùn và chữa mắt cho anh ta lại nhằm ngày Sabbat. Các người biệt phái cũng hỏi anh ta do đâu được sáng mắt? Anh đáp: "Ngài đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và tôi được sáng mắt.” Mấy người biệt phái nói: "Người đó không phải bởi Thiên Chúa, vì không giữ ngày Sabbat.” Mấy kẻ khác lại rằng: "Làm sao một người tội lỗi lại làm được những phép lạ thể ấy?" Họ bất đồng ý kiến với nhau. Họ liền quay lại hỏi người mù lần nữa: "Còn anh, anh nói gì về người đã mở mắt cho anh?" Anh đáp: "Đó là một tiên tri.”

Nhưng người Do thái không muốn tin anh đã mù và đã được khỏi trước khi đòi cha mẹ anh đến. Họ hỏi hai ông bà: "Người này có phải là con hai ông bà mà ông bà bảo bị mù từ khi mới sinh không? Do đâu mà bây giờ nó lại trông thấy?" Cha mẹ y thưa rằng: "Chúng tôi xác nhận đây chính là con chúng tôi, và nó đã bị mù từ khi mới sinh. Nhưng làm sao mà bây giờ nó trông thấy, và ai đã mở mắt cho nó thì chúng tôi không biết. Nó khôn lớn rồi, các ông hãy hỏi nó, nó sẽ tự thưa lấy.” Cha mẹ anh ta nói thế bởi sợ người Do thái, vì người Do thái đã bàn định trục xuất khỏi hội đường bất cứ ai dám công nhận Chúa Giêsu là Đấng Kitô. Chính vì lý do này mà cha mẹ anh ta nói: "Nó khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó.”

Lúc ấy người Do thái lại gọi người trước kia đã mù đến và bảo: "Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa! Phần chúng ta, chúng ta biết người đó là một kẻ tội lỗi.” Anh ta trả lời: "Nếu đó là một người tội lỗi, tôi không biết; tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi mù và bây giờ tôi trông thấy.” Họ hỏi anh: "Người đó đã làm gì cho anh? Người đó đã mở mắt anh thế nào?" Anh thưa: "Tôi đã nói và các ông đã nghe, các ông còn muốn nghe gì nữa? Hay là các ông cũng muốn làm môn đệ Ngài chăng?" Họ liền nguyền rủa anh ta và bảo: "Mày hãy làm môn đệ của người đó đi, còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của Môsê. Chúng ta biết Thiên Chúa đã nói với Môsê, còn người đó chúng ta không biết bởi đâu mà đến.” Anh đáp: "Đó mới thật là điều lạ: người đó đã mở mắt cho tôi, thế mà các ông không biết người đó bởi đâu. Nhưng chúng ta biết rằng Thiên Chúa không nghe lời những kẻ tội lỗi, mà hễ ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý Chúa, thì kẻ đó mới được Chúa nghe lời. Xưa nay chưa từng nghe nói có ai đã mở mắt người mù từ khi mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì.” Họ bảo anh ta: "Mày sinh ra trong tội mà mày dám dạy chúng ta ư?" Rồi họ đuổi anh ta ra ngoài.

Chúa Giêsu hay tin họ đuổi anh ta ra ngoài, nên khi gặp anh, Người liền bảo: "Anh có tin Con Thiên Chúa không?" Anh thưa: "Thưa Ngài, nhưng Người là ai để tôi tin Người?" Chúa Giêsu đáp: "Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang nói với anh.” Anh ta liền nói: "Lạy Ngài, tôi tin", và anh ta sấp mình thờ lạy Người. Chúa Giêsu liền nói: "Chính vì để luận xét mà Ta đã đến thế gian hầu những kẻ không xem thấy, thì được xem thấy, và những kẻ xem thấy, sẽ trở nên mù.” Những người biệt phái có mặt ở đó liền nói với Người: "Thế ra chúng tôi mù cả ư?" Chúa Giêsu đáp: "Nếu các ngươi mù, thì các ngươi đã không mắc tội; nhưng các ngươi nói 'Chúng tôi xem thấy', nên tội các ngươi vẫn còn.” Đó là lời Chúa.

Hoặc đọc bài ngắn này: Ga 9, 1. 6-9. 13-17. 34-38

Khi ấy, Chúa Giêsu đi qua, thấy một người mù từ khi mới sinh. Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy, và bảo: "Anh hãy đến hồ Silôe mà rửa" (chữ Silôe có nghĩa là được sai). Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được.

Những người láng giềng và kẻ xưa kia từng thấy anh ta ăn xin đều nói: "Đó chẳng phải là người vẫn ngồi ăn xin sao?" Có kẻ nói: "Đúng hắn.” Lại có người bảo: "Không phải, nhưng là một người giống hắn.” Còn anh ta thì nói: "Chính tôi đây.”

Họ liền dẫn người trước kia bị mù đến với những người biệt phái, lý do tại Chúa Giêsu hoà bùn và chữa mắt cho anh ta lại nhằm ngày Sabbat. Các người biệt phái cũng hỏi anh ta do đâu được sáng mắt. Anh đáp: "Ngài đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và tôi được sáng mắt.” Mấy người biệt phái nói: "Người đó không phải bởi Thiên Chúa, vì không giữ ngày Sabbat.” Mấy kẻ khác lại rằng: "Làm sao một người tội lỗi lại làm được những phép lạ thể ấy?" Họ bất đồng ý kiến với nhau. Họ liền quay lại hỏi người mù lần nữa: "Còn anh, anh nói gì về người đã mở mắt cho anh?" Anh đáp: "Đó là một Tiên tri.” Họ bảo anh ta: "Mày sinh ra trong tội mà mày dám dạy chúng ta ư?" Rồi họ đuổi anh ta ra ngoài.

Chúa Giêsu hay tin họ đuổi anh ra ngoài, nên khi gặp anh, Người liền bảo: "Anh có tin Con Thiên Chúa không?" Anh thưa: "Thưa Ngài, nhưng Người là ai để tôi tin Người?" Chúa Giêsu đáp: "Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang nói với anh.” Anh ta liền nói: "Lạy Ngài, tôi tin", và anh ta sấp mình thờ lạy Người. Đó là lời Chúa.

TRUYỆN KỂ

1. Hãy biết mình

Có hai vợ chồng đi tham quan một cửa hàng trưng bày tranh thêu lụa. Vừa bước tới cửa bà vợ đã chăm chú nhìn vào bên trong một hồi lâu rồi nhận xét: “Tranh gì đâu mà xấu vậy? Thêu người đàn bà chẳng giống ai!”

Ông chồng vội bịt miệng bà và nói: “Không phải tranh đâu, đó là gương đấy. Đó là hình ảnh của bà được phản chiếu qua gương đấy! Chớ nhận xét hồ đồ!” Người đàn bà quá xấu hổ đành bỏ ra về.

Đó cũng là cảnh mù loà đáng thương của nhiều người trong chúng ta. Khi chúng ta phê bình chỉ trích người khác đang khi chính chúng ta vẫn còn đó đầy những lỗi lầm. Khi chúng ta chê bai anh em đang khi chúng ta vẫn còn đó những khuyết điểm và thói hư tật xấu. Chúng ta thường cắt nghĩa tốt về mình nhưng lại quá hà khắc về lối sống của tha nhân. Chúng ta thường mù loà về bản thân mình nhưng lại thích soi mói anh em.

2. Có nhiều hình thức mù quáng gây ra hậu quả rất tai hại:

Mù quáng vì tham lam

Sách Các Vua có thuật lại câu chuyện hoàng hậu I-dơ-ven, vợ vua A-kháp, vì tham lam muốn chiếm đoạt vườn nho của ông lão nghèo Na-vốt, đã dàn dựng một vụ án quy kết Na-vốt tội nguyền rủa Thiên Chúa và nguyền rủa đức vua, rồi tuyên án ông phải bị ném đá chết. Lòng tham lam đã làm cho hoàng hậu I-dơ-ven ra mù quáng đến độ đang tâm giết hại một ông lão nghèo vô tội để chiếm đoạt vườn nho của ông ta. (sách các vua I, chương 21)

Mù quáng vì ghen tị

Sách Samuel ghi lại rằng vua Sa-un rất yêu thương Đavít, nhưng khi Đavít hạ được tên tướng giặc khổng lồ là Gô-li-át để cứu nguy cho quân dân Israel và quay trở về trong chiến thắng, “thì phụ nữ từ hết mọi thành của Israel kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Sa-un, với trống con, với tiếng reo mừng và tiếng não bạt. Họ vui đùa ca hát rằng: “Vua Sa-un hạ được hàng ngàn, còn Đavít hàng vạn.” Khi nghe lời đó, vua Sa-un uất lên vì ghen tị. Lòng ghen tị làm cho vua đâm ra mù quáng, đổi lòng yêu thương ra thù ghét và truy lùng Đavít khắp nơi quyết giết cho bằng được vị anh hùng kiệt xuất nầy. (Samuen I, chương 18)

3. Không thấy được tội mình

Ông Dale Carnegie, (1888-1955) một nhà văn và nhà thuyết trình danh tiếng người Mỹ, viết nhiều cuốn sách nổi tiếng được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, cho rằng: “Tôi phải mất 33 năm trời để khám phá ra sự thật này là cho dù người ta có mắc phải những lầm lỗi nặng nề đến đâu, thì trong 100 lần phạm lỗi, có đến 99 lần người ta chẳng trách mình gì cả,[1]” như thể mình vô tội.

4. Ánh sáng từ trái tim

Chúa Giêsu chữa một người mù từ khi mới sinh và cho biết Chúa là ánh sáng chiếu soi trần gian.

Một cụ già trong một làng quê một hôm đặt câu hỏi cho các thanh niên: “Làm sao biết được trời còn tối hay đã sáng?” Một người trả lời:

– Khi ở tận chân trời có con trâu với con bò mà phân biệt được thì trời đã sáng; nếu không phân biệt được thì trời còn tối.

– Chưa đúng hẳn!

Một người khác:

– Khi ở mãi chân trời có cây dừa với cây chuối mà phân biệt được thì trời đã sáng; nếu không phân biệt được thì trời còn tối.

– Chưa đúng hẳn!

– Vậy cụ dạy thế nào ạ?

– Khi có một người đến với chúng ta, bất kể tuổi tác, màu da, tiếng nói, tôn giáo, học vấn, tính tình, quá khứ… mà chúng ta nhận ra đó là một người anh em, thì trời đã sáng; nếu không thì trời còn tối.

5. Tâm và thân

Một vị Nhật hoàng sau khi làm việc căng thẳng muốn thư giãn, nên xin các quan tìm cho một người biết nói đùa. Người ta dẫn đến cho ông một thiền sư.

Nhật hoàng:

– Ta muốn nhà ngươi nói đùa cho ta nghe.

– Tâu bệ hạ, xin bệ hạ nói trước để hạ thần nói đùa theo.

– Ta thấy nhà ngươi giống y hệt một con lợn!

– Tâu bệ hạ, còn hạ thần thì thấy bệ hạ giống y hệt Đức Phật!

– Tại sao ta bảo nhà ngươi là con lợn mà nhà ngươi lại bảo ta là Đức Phật?

– Tâu bệ hạ, dễ hiểu lắm ạ: ai có tâm của Phật thì nhìn vào đâu cũng thấy Đức Phật; còn ai có tâm của lợn thì nhìn vào đâu cũng thấy lợn!

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con trái tim của Chúa, để con nhận thấy mọi người đều là anh em, và nhận thấy mọi anh em đều là hiện thân của Chúa.

6. Không chịu mở mắt ra

Trong công việc mục vụ thăm viếng, tôi có dịp đến thăm một bà già bị mù từ lúc bẩm sinh. Qua tâm sự tôi biết được sự khao khát lớn nhất của bà là được nhìn thấy ánh sáng để đi đọc kinh, xem lễ và làm việc dễ dàng hơn.

Nhưng điều làm tôi nể phục là bà không bao giờ bỏ một lễ Missa nào, cho dù là trời mưa gió đường khó đi, hay lễ sớm trời tối. Bà vẫn đi dự lễ với cây gậy tre, bà mò mẫm từng bước một thật cực khổ. Bà cũng thuộc được rất nhiều câu Kinh Thánh và các kinh đọc hàng ngày….

Nhưng ngược lại, có rất nhiều người sáng mắt gần đó tôi không bao giờ thấy đi dự lễ Missa hàng ngày, mà chỉ thấy có mỗi ngày Chúa Nhật, khi được hỏi nguyên do tại sao, thì họ trả lời là do trời tối đi không được. Do đó tôi mới đi đến kết luận là nếu nhìn thấy ánh sáng thì mỗi người phải tự mình biết “mở mắt” ra để đón nhận ánh sáng.

Bà già mù tôi viếng thăm, tuy không thấy gì bên ngoài, cặp mắt bà đã bị hư từ lúc mới sinh, cũng giống như anh mù trong bài Tin Mừng hôm nay. Hay nói đúng hơn cả hai chỉ bị mù con mắt thân xác, nhưng con mắt tâm hồn họ không mù. Họ đang chờ đợi một ánh sáng xuất hiện, chỉ cần một cơ hội là họ nhận ra, họ bước theo ngay.

Trong suốt bài Tin Mừng là một hành trình của người mù, anh tiến vào ánh sáng đức tin một cách tiệm tiến. Tuy anh chỉ là người thụ ơn và đến lúc sáng mắt vẫn chưa biết người chữa mình là Ánh Sáng Thế Gian. Việc lành bệnh đối anh chỉ là điều không tưởng, nhưng đó lại là sự thật anh đã sáng mắt, mà anh chỉ biết mình được sáng mắt là nhờ ông Giêsu nào đó đã lấy bùn thoa vào mắt và anh vâng lời đi rửa và đã nhìn thấy.

7. Ai mù? Ai sáng?

Trong tập truyện có tựa đề: “Một trăm lẻ một giai thoại về Thiền”, tác giả Xen-da-ki có ghi lại câu chuyện sau đây:

Thời xa xưa, mỗi lần ra khỏi nhà trong đêm tối, người Nhật Bản thường dùng những chiếc lồng đèn. Một đêm kia, một người mù đến thăm một người bạn. Lúc ra về thấy người mù đi hai tay không người bạn mới lấy một chiếc lồng đèn trao cho anh ta. Nhưng người mù từ chối và hỏi:

– Đối với một người mù như tôi thì cầm chiếc lồng đèn để làm gì? Bóng đêm hay ánh sáng đối với tôi đều như nhau cả.

Người bạn trả lời:

– Tôi vẫn biết rằng anh không cần lồng đèn để soi đường. Nhưng nếu anh không cầm trong tay thì kẻ khác sẽ không thấy anh và như vậy có thể sẽ đụng vào anh.

Nghe thế, người mù đành cầm lấy lồng đèn ra về. Đi được một đoạn đường, người mù bị một kẻ đi đường tông vào mình. Không tự chế được, người mù quát tháo inh ỏi:

– Bộ đui sao? Không thầy chiếc lồng đèn tôi đang cầm đây sao?

Người kia bình tĩnh phân trần:

– Này ông bạn, ông bạn đang cầm lồng đèn. Nhưng ngọn đèn bên trong đã tắt rồi.

Thế là người mù cầm đèn cũng không thấy đường. Còn người sáng mắt lại không thấy đèn của người mù. Vậy ai mới thật là người mù?

8. Cửa sổ tâm hồn

Chuyện kể rằng, có một người mù lúc nào cũng kết thúc lời cầu nguyện của mình bằng câu: “Nếu điều đó có ích cho phần rỗi con.”

Một hôm, người ta dẫn ông đến trước mộ thánh Thomas thành Cantorbery để xin Người chữa cho ông sáng mắt. Ông được nhận lời. Mắt ông liền mở ra. Cảnh vật tưng bừng reo vui trước mắt ông. Khi nỗi vui mừng đầu tiên trôi qua, ông mới chợt nhớ là mình đã quên thêm vào lời cầu nguyện kết thúc: “Nếu điều đó có ích cho phần rỗi con.”

Ông liền trở lại viếng mộ thánh, và xin được mù trở lại nếu điều đó đem lại lợi ích cho linh hồn ông. Thế là ông lại mù như trước.

9. Ánh sáng

Khi William Montague Dyke được 10 tuổi, cậu đã bị mù mắt trong một tai nạn. Mặc dù bị tàn tật, William đã tốt nghiệp đại học ở Anh Quốc với bằng danh dự ưu hạng. Khi còn ở nhà trường, anh đã yêu người con gái của một sĩ quan cao cấp của hải quân hoàng gia Anh, và họ đã hứa hôn với nhau. Không lâu trước đám cưới, William đã được giải phẫu với hy vọng có thể phục hồi lại thị giác, nếu cuộc giải phẫu thành công. Còn nếu thất bại, anh sẽ bị mù suốt đời. William đã muốn giữ nguyên những giải băng trên mặt cho đến ngày lễ cưới. Nếu cuộc giải phẫu thành công, anh muốn rằng người đầu tiên nhìn thấy sẽ là cô dâu.

Ngày đám cưới đã đến. Rất nhiều quan khách được mời, gồm cả hoàng gia, các thành phần trong nội các chính phủ, và nhiều vị thân hào nhân sĩ nổi tiếng trong xã hội. Tất cả đã qui tụ nhau lại để chứng kiến những lời đoan hứa của đôi tân hôn. Cha của chú rể, William Hart Dyke và ông bác sĩ giải phẫu mắt đứng bên cạnh chú rể với đôi mắt vẫn còn bị băng kín. Tiếng kèn trumpet từ chiếc đàn organ trỗi lên bắt đầu cho từng bước chân hồi hộp của cô dâu từ từ tiến bước trên nền vải trắng dẫn lên bàn thờ. Ngay khi cô dâu tới bàn thờ, bác sĩ giải phẫu lấy từ trong túi áo ra một cái kéo để cắt những miếng băng bịt mắt của William. Sự im lặng căng thẳng bao trùm lấy nguyện đường. Cả cộng đoàn nín thở chờ đợi xem William có thể nhìn thấy cô dâu đang đứng trước mặt chú rể hay không. Khi vừa đứng đối diện với cô dâu, những lời nói mừng rỡ của William vang lên khắp giáo đường: “Em đẹp hơn anh tưởng tượng nhiều!”

Tác giả đã kết luận câu chuyện bằng những hàng chữ như sau: “Một ngày nào đó những miếng băng che phủ con mắt của chúng ta sẽ được lấy đi. Khi chúng ta đối diện với Chúa Giêsu Kitô và nhìn thấy khuôn mặt của Ngài lần đầu tiên, vinh quang sáng ngời của Ngài sẽ chiếu sáng rực rỡ và huy hoàng hơn bất cứ cái gì chúng ta đã từng tưởng tượng ra trong cuộc đời này.”

10. Anh vẫn còn mù

Có một người kia, sinh ra đã bị mù, anh sống trong một gian phòng, bởi vì không nhìn thấy gì nên anh phủ nhận tất cả những gì những người chung quanh quả quyết là có: “Tôi không tin, vì tôi có thấy đâu nào.” Một vị lương y thấy vậy thì thương hại anh, ông đi tìm một thứ linh dược chữa cho anh được sáng mắt, anh sung sướng quá, tự phụ nói: “Giờ đây tôi đã thấy được tất cả sự thật chung quanh tôi rồi.” Nhưng có người nói với anh: “Bạn ơi, bạn mới chỉ thấy được những vật chung quanh bạn trong căn phòng này thôi. Như thế có là bao, ngoài kia người ta còn thấy được mặt trời, mặt trăng và các tinh tú hằng hà sa số, còn biết bao vật khác mà bạn chưa thấy, bạn đừng tự phụ như vậy.” Anh tỏ vẻ không tin, lại còn nói mạnh hơn: “Làm gì có được những cái đó, những gì có thể thấy được, tôi đã thấy tất cả rồi.”

Một vị y sĩ khác lên tận núi cao, gặp được Sơn Thần chỉ cho một thứ linh dược khác, đem về giúp cho anh được cặp mắt sáng hơn và thấy xa hơn. Bây giờ anh thấy được mặt trời, mặt trăng và các tinh tú trên không trung. Mừng quá và lòng tự phụ tự đắc lại tăng thêm, anh nói với mọi người: “Trước đây tôi không tin, nhưng bây giờ tôi thấy, tôi tin. Như thế giờ đây không còn có gì mà tôi chẳng thấy, chẳng biết, đâu còn ai hơn tôi được nữa.”

Thấy anh ta tự phụ như vậy, một hiền nhân nói với anh: “Cậu ơi, cậu vừa hết mù, nhưng cậu cũng vẫn chưa biết gì cả. Tại sao cậu lại quá tự phụ như thế? Với chừng mực và giới hạn của tầm mắt, cậu làm gì biết có những vật ngoài ngàn dặm mà mắt cậu không làm sao thấy được. Cậu có thấy được những nguyên nhân nào đã cấu tạo ra cậu khi cậu còn nằm trong bào thai của mẹ cậu chăng? Ngoài cái vũ trụ nhỏ bé mà cậu đang sống đây, còn không biết bao nhiêu vũ trụ khác vô cùng to lớn và nhiều không kể hết như cát ở bãi biển, cậu có thấy không? Tại sao cậu dám tự phụ bảo rằng: “Tôi thấy cả, tôi biết cả rồi.” Cậu vẫn còn là một anh mù, cậu vẫn còn lấy tối làm sáng, lấy sáng làm tối.”

11. Mù loà và mù quáng

Ngày xưa ở Ấn Độ, có một vị vua muốn tìm trò tiêu khiển, bèn nảy ra ý tưởng như sau: Vua cho quân lính đi lùng kiếm năm người mù bẩm sinh chưa hề biết con voi là gì để đưa về triều làm trò tiêu khiển. Rồi vua cho đưa đến một con voi khổng lồ và bảo năm anh mù:

Các ngươi chưa hề biết voi là gì thì hôm nay Trẫm sẽ cho các ngươi được biết. Các ngươi hãy tiến lại sờ voi rồi mô tả cho Trẫm và quần thần quanh đây biết hình hài con voi ra sao. Ai mô tả đúng nhất sẽ được trọng thưởng.

Sau một hồi sờ voi, anh thứ nhất tâu:

– Tâu bệ hạ! Con voi giống y như cột nhà! Đó là người sờ trúng chân voi.

Anh thứ hai thưa:

– Voi giống như cái quạt lớn. Đó là người sờ trúng tai voi.

– Voi giống như một khúc rễ cây ngoằn ngoèo! (đó là mô tả của anh sờ trúng vòi voi).

– Voi giống như một tảng đá lớn, tròn tròn! (đó là phát biểu của người sờ trúng bụng voi)

Anh thứ năm cho rằng bốn anh kia đều sai bét, và phần thưởng chắc chắn thuộc về mình. Anh đắc chí tâu:

– Lâu nay hạ thần tưởng rằng voi là con vật to ghê lắm. Nào ngờ giờ đây chính tay hạ thần sờ thấy voi chỉ giống như cái chổi cùn! (vì anh sờ trúng đuôi voi).

Anh nào cũng hăng say và quyết liệt bênh vực ý kiến của mình, cho rằng duy chỉ có mình là đúng và những người khác đều sai. Họ tranh cãi nhau kịch liệt. Người nầy chê trách người khác là ngu, là mù, là dốt nát! Rốt cuộc, chẳng ai chịu thua ai, cả năm người nổi khùng lên, xông vào đấm đá nhau hung tợn, máu mồm máu mũi trào ra thảm hại…

Trong khi đó nhà vua và triều thần ôm bụng cười ngặt nghẽo! Cười cho sự mù quáng đáng thương.

Cả năm anh mù nầy đều thuộc diện mù loà bẩm sinh, nhưng đồng thời cũng là những người mù quáng nặng nề.

12. Bây giờ tôi đã thấy

Vào thập niên 1960, John Howard Griffin ngụy trang thành một người da đen đi chơi vòng quanh miền Nam. Ông muốn trực tiếp cảm nghiệm được sự kiện phải làm người da đen trong những năm ầm ĩ về vấn đề chủng tộc này. Griffin mô tả lại cảm nghiệm của mình trong một cuốn sách nhan đề Black Like Me (đen như tôi). Cuốn sách này về sau được dựng thành phim.

Tuy nhiên còn một khía cạnh khác trong cuộc đời của John Howard Griffin mà rất ít người biết đến: trong thế chiến thứ hai, John đã bị mù trong một vụ nổ máy bay suốt 12 năm sau đó, ông không trông thấy gì cả. Một hôm, trong khi bước xuống con phố cạnh nhà bố mẹ ông ở Texas, thình lình John bỗng thấy được “cát đỏ” (red sand) trước mắt ông. Thị giác của ông đã phục hồi trở lại mà chẳng hề báo trước. Về sau, một bác sĩ chuyên khoa mắt cắt nghĩa cho ông là vết máu tụ thần kinh thị giác do vụ nổ gây ra được khai thông, vì thế thị giác ông phục hồi trở lại. Khi bình luận về kinh nghiệm này, Griffin đã kể lại cho một phóng viên báo chí như sau:

“Quí bạn không cảm nghiệm được những gì mà một ông bố cảm nghiệm khi nhìn thấy con cái mình lần đầu tiên đâu. Cả bố với con đều tuyệt vời hơn tôi nghĩ rất nhiều”

Giai đoạn bi đát trong đời Griffin giúp anh ta đánh giá sâu sắc hơn câu chuyện của bài Phúc âm hôm nay, nó giúp chúng ta hiểu rõ hơn cảm giác người mù từ lúc mới sinh khi anh ta được Chúa Giêsu chữa lành thật kỳ kiệu như thế nào.

13. Nếm trải Giêsu

Người ta kể câu chuyện về một cha xứ già ở nông thôn lắng nghe một giáo sư chủng viện đưa ra vấn nạn về những vấn đề cốt lõi của đức tin. Khi giáo sư kết thúc bài giảng của mình, cha xứ lớn tuổi đứng dậy, lấy một quả táo từ túi đựng đồ ăn trưa của mình bắt đầu ăn rồi nói: “Thưa giáo sư, tôi chưa đọc những sách mà ngài đã trích dẫn.” Rồi ngài cắn một miếng táo nữa. “Thưa giáo sư, tôi không biết nhiều về những nhà tư tưởng vĩ đại mà ngài đã đề cập,” rồi ngài cắn thêm một miếng táo nữa. “Thưa giáo sư, tôi thừa nhận là tôi chưa nghiên cứu Kinh Thánh như cách của ngài”, khi ngài ăn xong quả táo. “Tôi chỉ đang thắc mắc, quả táo mà tôi vừa ăn này chua hay ngọt đây? Cha xứ già trả lời cho vị giáo sư: “Với tất cả sự tôn trọng, thưa ngài, tôi chỉ tự hỏi liệu ngài đã bao giờ nếm trải Chúa Giêsu của tôi chưa?”

* Người mù được sáng mắt trong bài Tin Mừng hôm nay nói: “Dù phương pháp chữa trị có được khoa học chấp thuận hay không, trước đây tôi bị mù, nhưng bây giờ tôi thấy được.” Các bạn tranh luận và giải thích tất cả những gì bạn muốn, nhưng với tôi như vậy là quá đủ. (Tiến sĩ J. Howard Olds)

14. Ánh sáng dẫn đường

ĐHY Henry Newman là giáo sư tại Đại học Oxford. Khi còn là một linh mục Anh giáo, cùng với các học giả khác, ngài đã khởi đầu phong trào Oxford. Năm ba mươi hai tuổi, sức khỏe yếu, ngài tạm ngừng viết lách và sang châu Âu dưỡng bệnh. Nhưng thật không may, ngài lại mắc phải một cơn sốt nặng. Ngài muốn trở về Anh, nhưng không có phương tiện đi lại. Khi ngài chờ đợi, cuộc sống của ngài trở nên cô đơn và tẻ nhạt; ngài đã trải qua sự tuyệt vọng lớn về thể chất và tinh thần. Sau đó, ngài đã viết một bài thánh ca hay để cầu xin Chúa ban ánh sáng: “Hỡi Ánh Sáng nhân từ, giữa bóng tối bao trùm, xin hãy dẫn dắt con; Đêm tối, và con lại xa nhà; Xin dẫn con đi tiếp: Xin giữ chân con; Con không đòi được thấy: cảnh xa – chỉ một bước đủ cho con.”

* Trong lúc bối rối và đau khổ, Newman đã cầu nguyện Thiên Chúa là Ánh Sáng dẫn dắt ngài từ bóng tối đến ánh sáng, từ hoang mang đến xác tín, và từ bệnh tật đến khỏe mạnh. Chúa đã nghe lời cầu nguyện của ngài và dẫn ngài về nhà an toàn. Năm 1845, ngài cải đạo sang Công giáo. [John Rose in John’s Sunday Homilies; được trích dẫn bởi Fr. Botelho.]

15. Mù quáng

Có một câu chuyện Sufi kể về một người Hồi giáo cưỡi ngựa quyết tâm giết kẻ thù mà anh ta đang truy đuổi. Giữa cuộc rượt đuổi, tiếng gọi cầu nguyện vang lên từ một nhà thờ Hồi giáo. Ngay lập tức, người Hồi giáo xuống ngựa, trải chiếu và cầu nguyện những lời cầu nguyện đã định sẵn nhanh nhất có thể, sau đó quay trở lại ngựa và tiếp tục cuộc rượt đuổi.

* Anh ta đã đáp ứng các yêu cầu của luật pháp nhưng lại mù quáng trước những gì luật pháp thực sự yêu cầu: đó là sự thay lòng đổi dạ.

16. Mù lòa

Người ta kể câu chuyện về một người đàn ông một hôm đến thăm lớp học dành cho trẻ em khiếm thị. Băn khoăn với những gì mình nhìn thấy, người đàn ông nhận xét một cách thiếu tế nhị trước sự có mặt của chúng: “Sẽ rất kinh khủng khi sống mà không có mắt.” Một bé gái nhanh nhảu đáp: “Chả bằng có hai mắt còn sáng mà không thấy.”

* Có mù lòa về thể lý, và có một dạng mù lòa khác, còn bi đát hơn, ảnh hưởng đến tinh thần. Cả hai hình thức đui mù đều có mặt trong bài Tin Mừng hôm nay. (Linh mục Johnny Dean).

17. Thấy lại

Trong Thế chiến II, John Howard Griffin bị mù trong một vụ nổ máy bay. Trong 12 năm tiếp theo, anh không thể nhìn thấy gì. Sau đó, một ngày nọ, anh đang đi bộ trên một con phố gần nhà của cha mẹ anh ở Texas. Đột nhiên anh bắt đầu nhìn thấy “cát đỏ” trước mắt mình. Không có dấu hiệu báo trước, thị giác của anh trở lại. Sau đó, một chuyên gia về mắt đã giải thích với anh rằng sự tắc nghẽn máu đến dây thần kinh thị giác do vụ nổ đã mở ra, khiến thị lực của anh quay trở lại. Nhận xét về trải nghiệm này, Griffin nói với một phóng viên tờ báo: “Bạn không biết lần đầu tiên một người cha nhìn thấy con cái của mình là như thế nào. Cả hai đều đẹp hơn tôi tưởng rất nhiều.” (Gerard Fuller in Stories for all Seasons).

* Mỗi ngày chúng ta nhìn thấy biết bao cảnh vật tươi đẹp. Hãy tạ ơn Chúa vì hồng ân sự sáng này.

18. Xác chết chảy máu

Một lần kia, có một người đàn ông trong bệnh viện tâm thần, và một trong những vấn đề của anh ta là anh tin rằng mình đã chết. Bác sĩ tâm lý đã thử mọi mánh khóe theo lý thuyết, nhưng không gì có thể thay đổi tâm trí của anh ta. Cuối cùng, bác sĩ tâm thần nghĩ, và ông cho đây là một bước đột phá rực rỡ. Ông khiến người đàn ông đồng ý rằng một xác chết là vô hồn, và do đó, không có máu lưu thông, nó không thể chảy máu. Sau khi đã chấp nhận rõ ràng sự thật đơn giản đó, bác sĩ tâm thần bắt đầu đi thẳng vào vấn đề. Ông ta lấy một cái ghim, cầm lấy ngón tay của người đàn ông và chích một cái đủ mạnh để lấy máu. Ông ta bóp ngón tay cho đến khi máu chảy ra rõ ràng, rồi nói với người bệnh: “Bây giờ bạn có nhìn thấy gì không? Đó là máu. Bạn đang chảy máu.” Người đàn ông nhìn vết máu với vẻ hoài nghi băn khoăn, rồi anh ta quay sang bác sĩ tâm lý với vẻ kinh ngạc, và nói: “Chà, bạn biết gì không! Xác chết chảy máu!”

* Người Pharisêu trong bài Tin Mừng hôm nay cũng không khác gì bệnh nhân tâm thần này. (Kinh Thánh IE).

19. Định kiến

Khi mới vào nghề, Clarence Darrow trẻ tuổi bào chữa cho một thân chủ trước một luật sư lớn tuổi hơn, giàu kinh nghiệm hơn, người đã mỉa mai Darrow là “gã thanh niên không có râu.” Darrow bác bỏ: “Đối thủ xứng đáng của tôi dường như hạ thấp tôi vì tôi không có râu. Tôi xin trả lời bằng một câu chuyện: Vua Tây Ban Nha có lần phái một nhà quý tộc trẻ tuổi đến triều đình của một quốc vương láng giềng, người này đã chế nhạo rằng: “Vua Tây Ban Nha thiếu đàn ông hay sao mà lại cử một cậu bé không râu cho ta sao? Vị đại sứ trẻ tuổi trả lời: “Thưa ngài, nếu Đức Vua của tôi cho rằng ngài đánh đồng trí tuệ với bộ râu, thì ông ấy đã gửi một con dê rồi.” Clarence Darrow đã thắng kiện!

* Định kiến thường làm chúng ta mù quáng. (Bennet Cerf).

20. Mù thiêng liêng

Một phụ nữ sáu mươi tuổi sống ở một thị trấn miền Trung cuối cùng được gia đình thuyết phục đi khám bác sĩ nhãn khoa. Bà ta chưa bao giờ đeo kính trong đời. Bác sĩ đã kiểm tra kỹ lưỡng cho bà và yêu cầu ba ngày sau bà quay lại khi ông đã chuẩn bị sẵn kính cho bà. Ông lắp kính và yêu cầu bà nhìn ra ngoài cửa sổ. Rất vui mừng, bà thốt lên: “Tại sao, tôi có thể nhìn thấy tháp chuông của nhà thờ chúng ta, và nó cách đó ba dãy nhà.” Bác sĩ hỏi: “Ý bà là bà chưa bao giờ có thể nhìn thấy gác chuông đó ở khoảng cách ngắn như vậy?” Bà ấy tuyên bố: “Rất may là không; Tôi chưa bao giờ biết mình có thể nhìn xa đến thế.” Chuyên gia về mắt nói: “Thưa bà, bà đã bị mù trong nhiều năm rồi.”

* Tương tự như vậy, nhiều người không thể nhìn thấy sự thật mà Chúa đã cho chúng ta biết… (Đức ông Arthur Tonne)

21. Định kiến

Vào cuối những năm 1700, người quản lý của một khách sạn lớn ở Baltimore đã từ chối cho một người đàn ông ăn mặc như nông dân vào trọ. Ông ta đuổi người nông dân đi vì ông ta nghĩ vẻ ngoài tồi tàn của anh chàng này sẽ làm mất uy tín của khách sạn nổi tiếng của ông. Người nông dân cầm chiếc túi của mình và bỏ đi mà không nói thêm một lời nào với bất kỳ ai. Cuối buổi tối hôm đó, chủ khách sạn phát hiện ra rằng ông ta đã từ chối không ai khác chính là Phó Tổng thống Hoa Kỳ, Thomas Jefferson! Ngay lập tức, người quản lý đã gửi một bức thư xin lỗi đến nhà yêu nước nổi tiếng này, yêu cầu ông quay lại và làm thượng khách trong khách sạn của mình. Jefferson trả lời bằng cách nói với người đưa tin như sau: “Hãy nói với ông ấy rằng tôi đã đặt trước một phòng. Tôi đánh giá cao ý định tốt của ông ấy, nhưng nếu ông ấy không có chỗ cho một nông dân Mỹ bình thường, thì ông ấy không có chỗ cho Phó Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.” [Brian Cavanaugh in The Sower’s Seeds; được trích dẫn bởi Fr. Botelho.]

22. Viết thư

Trong cuốn sách sâu sắc và thú vị của mình, Illustrissimi Albino Luciani (Giáo hoàng Gioan Phaolô I), đã viết một loạt thư cho những nhân vật lịch sử và hư cấu như Mark Twain, Pinocchio, Thợ cắt tóc Figaro, Hippocrates, Guglielmo Marconi và Chúa Giêsu. Thư từ của Luciani với những nhân vật nổi tiếng này cho thấy tư cách trước hết của ngài là một mục tử. Ghi nhớ câu châm ngôn cổ xưa của Kitô giáo, “per verbum ad Verbum”, ngài tin rằng một tín hữu có thể tiếp cận Lời Thiên Chúa thông qua việc nghiên cứu văn học. Với văn phong bình dân, thân thiện của mỗi bức thư, Luciani đã khuyên dạy một số khía cạnh của luân lý Kitô giáo. Vị giáo hoàng qua đời trong vòng năm tuần sau cuộc bầu cử ngày 26 tháng 8 năm 1978, đã viết trong bức thư gửi cho Đavít, vua của Israel: “Sách Thánh trình bày những khía cạnh khác nhau trong tính cách của ngài: nhà thơ và nhạc sĩ, sĩ quan tài giỏi, một vị vua khôn ngoan… Than ôi! không phải lúc nào ngài cũng hạnh phúc, vì đôi khi ngài phải liên lụy với phụ nữ và những âm mưu trong hậu cung với hậu quả là những bi kịch gia đình. Tuy nhiên, ngài là bạn của Chúa, nhờ lòng đạo đức cao cả của ngài, điều này đã giúp ngài nhận thức được sự tầm thường bé nhỏ của mình trước mặt Chúa. (Illustrissimi, Letters from Pope John Paul I, Little, Brown and Co., Boston: 1978).

* Sự tầm thường của Đavít cũng được ghi lại trong bài đọc được trích từ sách 1 Samuel. Là con trai út của Giesê, bị bỏ lại ở nhà để chăn bầy gia súc, tuy nhiên Đavít lại là người được Thiên Chúa chọn làm vua vì “Ngài nhìn thấu lòng người” (c. 7), Ngài xét đoán con người theo một tiêu chuẩn khác. Sự thiếu kinh nghiệm của Đavít tuổi trẻ dường như đối với cha, các anh và thậm chí cả Samuel là một trở ngại ngăn cản việc ông lên ngôi, nhưng tất cả đã không ngăn cản kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa. (Tài liệu cha Sanchez).

CNMC 4B

Lời Chúa: Ga 3, 14-21

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Như Môsê đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị huỷ diệt, nhưng được sống đời đời. Vì Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ. Ai tin Người Con ấy thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa; và đây án phạt là sự sáng đã đến thế gian, và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển trách; nhưng ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa." Đó là lời Chúa.

TRUYỆN KỂ

1. Hạt lúa mục nát

Mùa Xuân năm ấy, có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong thửa đất màu mỡ. Hạt giống thứ nhất hăng hái nói: “Tôi muốn mọc lên! Tôi muốn cắm rễ sâu xuống lòng đất, và đâm chồi xuyên qua lớp đất cứng bên trên. Tôi muốn vươn lên những búp non mơn mởn như những lá cờ loan báo mùa xuân đã đến… Tôi muốn cảm nhận hơi ấm của mặt trời mơn man trên mặt và hơi nước mát lạnh của sương mai trên những cánh hoa." Và nó đã mọc lên xanh tốt.

Hạt giống thứ hai tự nhủ: “Mình sợ lắm! Nếu cắm rễ xuống đất, mình chẳng biết sẽ gặp gì trong lòng đất tối tăm. Nếu mình tìm đường xuyên qua lớp đất cứng bên trên, biết đâu những chồi non yếu ớt của mình sẽ bị thương tổn… Làm sao mình có thể cho búp non xòe lá khi một chú sâu đang chờ sẵn để xơi tái đọt lá xanh non? Và nếu mình nở hoa, một em bé có thể nhổ đứt mình lên! Không, tốt hơn mình nên đợi cho đến lúc an toàn hơn." Và nó tiếp tục đợi chờ… Một sáng đầu xuân, cô gà mái bới đất kiếm ăn đã thấy hạt giống đang nằm chờ đợi. Cô chẳng đợi gì mà không mổ lấy, nuốt ngay.

2. Ánh sáng và bóng tối

Báo Los Angeles Times ngày 8-6-1996, viết về ông Sam Eason, một người đánh giày ở bãi đậu xe như sau:

Sam Eason là một người đánh bóng với tất cả ý nghĩa của danh từ ấy. Ông ta không chỉ làm cho bạn nhìn bảnh hơn ở chiếc giá đánh giày… mà còn giúp bạn cảm thấy thoải mái vui hơn. Với vài đường đánh giày thật khéo, ông làm cho đôi giày cũ sờn của bạn trở nên bóng loáng. Và bằng mấy câu nói khéo, ông có thể khiến những luật sư hoặc những người buôn chứng khoán mệt mỏi trở nên hăng hái vui tươi.

Quản lý các hệ thống văn phòng Timothy Matthews nói: "Bất kể màu da hay màu giày của bạn, Sam là một người bạn tốt của mọi người." Giám đốc công ty sản xuất máy Photocopy Phil Canon thêm: "Không có gì giả tạo nơi Sam."

 Trước sự giao tế niềm nở, cảm thông và đầy tình người của Sam Eason, nhiều khách hàng dù đã đổi đi xa, vẫn lái xe đến với ông để được đánh bóng đôi giày và được làm cho tươi mát tâm hồn.

Người đánh giày dễ thương ấy đã qua đời vì bệnh tiểu đường ngày thứ Hai 3-6-1996 và được an táng đúng sinh nhật thứ 59 của ông (thứ Sáu 7-6-1996). Trên giá đánh giày bỏ trống, khách hàng đặt những bó hoa tươi thắm ấp đầy thương nhớ. Họ kể cho nhau nghe Sam Eason đã làm tươi mát cuộc đời họ như thế nào…

Sĩ quan cảnh sát John Bavetta trong điếu văn đọc ở tang lễ của Sam Eason đã khóc khi kể lại hàng trăm tập quán của Sam Eason. Trước khi chào từ biệt ông đã nói: "Bây giờ đến lượt hào quang của Sam được đánh bóng."

3. Máu của Telmachus.

Ngày đại hội năm 444 sau kỷ nguyên, làn sóng người từ khắp nơi kéo về Rôma. Rôma tưng bừng với vẻ của một ngày hội.

Hoàng đế Honorius cho tổ chức các trận giác đấu mừng ngày giải phóng dân Goths. Giữa đám đông lũ lượt đi đi lại lại, một ông già trong bộ y phục đơn giản của một vị tu trì Đông phương trầm lặng bước đi. Tên ông là Telmachus. Nhà tu trì này chỉ chăm lo chuyên khảo Thánh kinh và cầu nguyện. Cái trò chơi đẫm máu bỉ ổi này đã chấm dứt ở miền Đông nơi phát xuất ra ông. Nhưng nó vẫn còn đang tiếp diễn ở Rôma, đất nghìn năm muôn thuở, mặc dầu đã có ba vị hoàng đế tìm cách chấm dứt. Telmachus đăm chiêu, vì ông đang suy nghĩ phải làm gì để chấm dứt trò chơi này.

Những tay giác đấu gồm đủ mọi hạng người: có khi là những phạm nhân đã bị án tử, có khi là Kitô hữu, thường hơn là tù binh, đôi khi có người vì tham tiền, ham danh tình nguyện...

Trận đấu đầu tiên ghi lại trong lịch sử diễn ra năm 264 trước kỷ nguyên với 3 cặp đấu. Con số mỗi ngày một tăng. Quốc hội phải hạn chế chỉ cho Julius Cesar được có 320 cặp để chiến đấu trong một trận. Dưới triều Augustô, có lúc tới 10.000 tham dự trận đấu.

Hôm nay ngày tổ chức giác đấu, 85.000 chỗ ngồi trong đại thao trường Colosseum chật ních không còn chỗ trống.

Cái ung nhọt này không còn cơ cứu chữa. Nhân vật duy nhất đã dám lên tiếng chỉ trích là nhà hiền triết Sénèque. Ngoài ra còn có 3 vị hoàng đế chống lại trò chơi này, nhưng không dám thi hành vì sợ sự phản ứng mạnh phía quần chúng.

Đến giờ, những tay giác đấu xếp thành hàng dài chậm chạp diễn quanh đấu trường. Tới chân khán đài danh dự, chỗ vua ngồi, họ la to: kẻ hạ thần là những người sắp chết xin kính chào bệ hạ.

Khán giả quanh đấu trường chọn tay giác đấu nào họ ưa thích rồi la hét kích thích họ xung trận.

Khi hai tay giác đấu đang sát phạt đến hồi gây cấn nhất, bỗng một người ăn mặc đơn giản xông vào giữa hai đấu thủ gạt họ ra. Đám đông khán giả giận dữ la hét vang dội. Một số bực tức quá chạy ra tận đấu trường xé ông ra hàng trăm mảnh vì làm cho họ cụt hứng. Con người đó chính là Telmachus.

Kinh hoàng trước sự việc xẩy ra, Honorius chính thức tuyên bố bãi bỏ trò chơi bỉ ổi đã giết hại không biết bao nhiêu sinh linh ở Rôma cũng như ở các nơi khác.

Kể từ đó lịch sử không còn nói những trận đấu gươm tại Rôma nữa.

Không đổ máu không có ơn cứu rỗi.

Nhờ dòng máu Telmachus làm tắt dòng máu nhiều kẻ khác (Op, cit, tr 271-273).

4. Tượng Thánh giá ban phép lành.

Tại một nhà thờ bên Tây ban nha có một tượng Thánh giá rất đặc biệt: Chúa Giêsu chỉ chịu đóng đinh có một tay trái và hai chân, tay phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra phía trước trong tư thế như đang ban phép lành.

Chuyện kể rằng: một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh ta, vị Linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi toà giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục đành răn đe:”Tôi không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh." Hối nhân ra khỏi toà giải tội mà lòng trĩu nặng và đau khổ.

 Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng những tội nặng y như những lần trước. Vị linh mục dứt khoát:”Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha." Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây Thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu được rút ra khỏi lỗ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói với chính mình:”Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con."

Kể từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không gắn vào thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, như không ngừng mời gọi:”Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ được tha thứ."

Thiên Chúa đã không dạy bài học tha thứ suông, nhưng đã dạy bài học tha thứ bằng chính mạng sống của Con yêu dấu Ngài là Đức Giêsu. Nếu ngày xưa, con rắn đồng trong sa mạc được giương lên, thì hôm nay chính Chúa Giêsu được giương lên. Mãi mãi chúng ta biết ơn Chúa Giêsu và khắc sâu lời Ngài:”Như Maisen đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ giương cao như vậy."

5. Tình yêu hiến thân

Một người mẹ goá bụa, ngày ngày thức khuya dậy sớm buôn bán tất bật nuôi cả gia đình gồm bảy miệng ăn.

Tối hôm ấy, bà vội vã phóng xe máy về nhà cho kịp nấu cơm tối cho đoàn con; bất thần, đèn pha xe máy bị hỏng khiến bà không nhìn thấy chiếc xe bò chở đầy những cây tre dài đang di chuyển cùng chiều trước mặt; hậu quả là chiếc xe máy chở bà lao vào các ngọn tre nhọn hoắt. Đôi mắt bà bị hai ngọn tre chọc thủng, máu tuôn ra đầm đìa. Bà liền được đưa vào bệnh viện cấp cứu.

Sáu người con khôn lớn của bà vội đến bệnh viện thăm mẹ. Thấy mẹ bị tai nạn hết sức thương tâm, đứa nào cũng nức nở sụt sùi.

Vị bác sĩ điều trị thấu hiểu bao nỗi gian truân mà người mẹ này đã cam chịu đêm ngày để nuôi dạy sáu người con trong mấy chục năm qua và ông nghĩ rằng công lao của bà đáng được đoàn con đáp đền cân xứng, nên đề nghị rằng nếu có ai trong họ hiến cho mẹ một con mắt, chỉ một con mắt thôi, thì ông có thể lấy con mắt của người cho để thay vào cho người mẹ. Như thế, người mẹ sẽ thoát cảnh mù loà và có thể tiếp tục làm ăn buôn bán nuôi cả đoàn con.

Khi nghe lời đó, cả sáu người con đều cúi đầu thinh lặng. Dù biết công lao mẹ dành cho mình như trời như biển, nhưng không một đứa con nào có đủ yêu thương để hiến cho mẹ, dù chỉ một con mắt của mình.

Không trách sáu người con trên đây, vì xét lại bản thân mình, mấy ai trong chúng ta có đủ yêu thương để có thể hiến cho người thân một con mắt của mình?

6. Hy lễ thập giá

Chuyện kể rằng: Có hai bạn già chơi thân với nhau, một ông là người đạo Công Giáo, có sáu người con, còn người kia đạo Tin Lành, chẳng có đứa con nào. Gia đình mà không có con thì nó vắng tanh như chùa Bà Đanh. Cho nên ông thấy bạn mình gia đình có con cái đông vui vẻ như vậy thì ông thích lắm, nên ông ngõ lời: “Tôi với anh chỗ bạn thân với nhau, tuy khác giáo phái, song thờ cùng một Thiên Chúa. Tôi thấy bạn rất đông con, mà hai vợ chồng tôi không có một mống. Vậy xin anh cho tôi một đứa, tôi sẽ nuôi nó ăn học, sẽ nhường gia tài của tôi cho nó… ."

Nghe vậy, ông bạn Công giáo về nhà bàn với vợ: “ Mình ơi! Tôi có ông bạn thân với nhau từ hồi nhỏ, mình thì được Chúa thương có sáu đứa con, còn ông ta chẳng có đứa nào, vậy chúng ta cho ông một đứa nha ." Bà vợ bằng lòng và rồi hai người bàn với nhau.

 Đứa thứ nhất là trưởng nam, mình không thể cho thằng trưởng nam được, để khi mình chết, nó còn lo xây mồ yên mả đẹp, cầu hồn xin lễ cho mình…

 Đứa thứ hai xinh ơi là xinh, cả tá con trai ngấp nghé trồng cây si trước nhà, nhưng cô từ chối, vì có ý định dâng mình cho Chúa. Vậy để nó đi tu làm Soeur mình có chức ông bà cố hãnh diện với người ta.

 Đứa thứ ba học giỏi, tính tình hơi đỏng đảnh, đôi mắt gan lỳ mưu cơ, nhưng cô đã làm lễ đính hôn với một bạn trai trong xứ đạo. Vì thế ta không thể cho được, để nó lấy chồng mình có chức sui gia, có rượu mà uống, có cháu ngoại mà bồng.

Đứa thứ tư, cũng là một cô con gái, vừa mới nói tới cô, bà vợ không bằng lòng, bà nói: đừng có cho đi cô công chúa của tôi! Vì nó giống bà ngoại như đúc. Từ đôi môi, nụ cười, khoé mắt, cả dáng đi yểu điệu uyển chuyển như người mẫu. Cứ thấy nó là bà vợ như thấy bà ngoại hiện hình, cho đi sao được.

Đứa thứ năm, là một cậu trai dễ thương, nhưng bị tật bẩm sinh, phải đi lại bằng xe lăn, ai lại cho bạn mình yêu mến một người con tàn tật.

 Và đứa thứ sáu là cậu út, cậu út khấu khỉnh, rất ngoan, được cha mẹ cưng chiều, suốt ngày nó bi ba bi bô nói cười, cậu hay ngồi trên đùi vuốt chòm râu bạc, và hay đón mẹ đi chợ về, tỉ tê với mẹ cha, cậu là niềm vui cho tuổi già.

Thế là hôm sau, ông đành vác bộ mặt u buồn đến với ông bạn Tin lành để báo tin buồn rằng: “Tôi không thể nào cho ông được đứa con nào cả ." Có sáu người con mà không thể cho người bạn thân thiết nhất đời, một người con.

Còn Thiên Chúa thì sao? Ngài chỉ có một người Con duy nhất đẹp lòng Cha mọi đàng, đồng bản tính với Chúa Cha, nghĩa là tốt đẹp hoàn hảo. Vậy mà vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa đã trao người Con Một yêu dấu của Ngài cho chúng ta. Như lời thánh Gioan tồng đồ nói: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Người Con một của Ngài, đến để chết đền tội cho chúng ta”(Ga 3,16).

7. Tôi sẽ kéo mọi người lên

Năm 1941, một tù nhân đã trốn khỏi nhà tù Ốt-suýt (Auschwits) của Đức quốc xã. Đó là một nhà tù nổi tiếng khủng khiếp, và đã có quy định là nếu một người trốn trại thì sẽ có mười người khác thế mạng. Giám thị trại giam tập họp tù nhân lại và đếm ra 10 người. Một trong đám mười người bị tử thần điểm danh này bỗng òa khóc: “Trời ơi, vợ tôi, con tôi! Tôi sẽ không bao giờ gặp lại họ nữa!" Cha Maximilianô Kônbê (Maximiliano Kolbe) cũng là tù nhân ở trại lúc đó, nghe tiếng than của người tù. Cha động lòng thương, Ngài tiến lại kéo anh tù ra, và đứng vào chỗ anh cho đủ mười người. Cha Kônbê và 9 bạn tù bị bỏ đói hai tuần lễ và kết thúc cuộc sống bằng một mũi tiêm thuốc độc. Xác họ được hỏa táng và sử dụng như phân bón.

Người tù thoát chết tên là Phanxit (Francis Gap Wniczek) kể lại chuyện này. Anh nói sau cái chết của Cha Kônbê, tinh thần trại giam thay đổi hẳn. Mọi người đối xử với nhau rất thân ái, chia sẻ từng mẩu bánh, từng muỗng canh, ai cũng cảm phục và muốn noi gương vị Linh mục dòng Phanxicô, đã hy sinh mạng sống để cứu một người anh em.

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phong Thánh cho Cha Kônbê vào tháng 10 năm 1983, và đặt Ngài làm bổn mạng của thời đại khó khăn. Giáo Hội mong ước các tín hữu noi gương Cha Kônbê, và cũng là noi gương Chúa Giêsu, sẵn sàng hy sinh cho anh em đồng loại.

8. Quy luật sự sống

Cái chết của ông Y Rabin, Thủ Tướng Israel ngày 3/11/1995 đã làm cả thế giới chấn động. Những người Do Thái quá khích giết ông, vì họ không chấp nhận công trình hòa bình ông đang kiến tạo với Palestine và các nước vùng Trung Đông. Cái chết của ông Rabin làm cho thế giới nhớ lại cái chết của Mahatma Gandhi 50 năm trước đây: một người thanh niên Ấn Giáo quá khích đã sát hại vị Cha già của dân tộc Ấn, vì anh không thể chấp nhận việc ngài tha thứ và dạy tha thứ cho người Hồi Giáo. Người ta cũng không thể quên cái chết của Mục sư Martin Luther King năm 1968, vì đã tranh đấu cho quyền bình đẳng của người da đen bằng phương pháp ôn hòa và bất bạo động.

Lịch sử nhân loại đã được viết bằng máu của biết bao gương mặt kiến tạo hòa bình như thế. Liệu người ta có thể xếp cái chết của Chúa Giêsu vào hạng những cái chết vì hòa bình không? Đâu là lý do khiến Chúa Giêsu phải chết, một cái chết cũng mang tính cách mạng như chính cuộc sống và sự điệp của Ngài?

9. Hạt giống này mầm

Vào một đêm giông bão có một người đàn ông đứng tuổi cùng bà vợ ghé vô một khách sạn nhỏ và hỏi viên thư ký: Xin anh làm ơn cho chúng tôi một phòng. Viên thư ký trả lời: Thưa ông, tất cả mọi phòng đều có người thuê, nhưng tôi không nỡ để ông bà phải ra đi vào lúc một giờ sáng như thế này. Người chồng hỏi lại: Anh nói chi? Ông bà có thể ngủ tại phòng tôi. Nhưng anh sẽ ngủ ở đâu? Tôi sẽ tìm được, xin đừng lo lắng cho tôi. Sáng hôm sau, ông khách trả tiền phòng và nói với viên thư ký: Anh là một người quản lý có tài, khả dĩ có thể làm chủ một khách sạn lớn. Rất có thể một ngày nào đó, tôi sẽ xây cho anh một cái.

Hai năm sau, viên thứ ký nhận được một bức thư, kèm theo vé máy bay khứ hồi đi Nữu Ước và tấm danh thiếp của người khách trong đêm giông bão. Người khách dẫn viên thư ký tới một đại lộ, chỉ vào một ngôi nhà cao tầng và nói: Đây là khách sạn tôi đã xây để cho anh quản lý. Không nói nên lời, người thanh niên rất đỗi ngạc nhiên, ấp úng cám ơn. Mạnh thường quân của anh là Astoria, chủ nhân của một mạng lưới khách sạn tại Mỹ. Và khách sạn ông dành cho anh ta là một khách sạn tiện nghi nhất thời bấy giờ.

Hạt lúa rơi xuống đất, có mục nát, thì mới sinh nhiều hoa trái. Anh chàng thư ký đã chôn vùi những tiện nghi của mình, bằng cách nhường lại căn phòng ấm cúng cho hai vợ chồng người khách lạ.

10. Để sinh nhiều bông hạt

Chuyện cổ Ấn Độ kể lại như sau:

Một chàng thanh niên nọ khao khát được nhìn thấy Chúa. Và rồi Chúa đã đến với anh qua vóc dáng của một con người đẹp đẻ, uy quyền và dễ mến. Ngài đề nghị với anh:

- Con hãy đi theo Ta một đoạn đường.

Chàng thanh niên cảm thấy hạnh phúc khi cùng bước đi với Chúa. Được một lúc, Chúa bảo:

- Ta khát, con hãy đi tìm cho Ta một chút nước.

Chàng thanh niên hăm hở đi tìm. Đi mãi đi hoài mà chẳng thấy. Cuối cùng anh cũng đến được bên dòng sông. Anh đang chuẩn bị múc nước thì một cô gái xuất hiện. Cô gái đẹp đến độ làm cho chàng thanh niên mê mẩn tâm thần, thậm chí quên cả việc đem nước về cho Chúa. Anh làm quen, trò chuyện với cô gái và hai người lấy nhau, sinh con đẻ cái.

Thế rồi một năm kia, lũ lụt xảy ra. Mưa đổ xuống và nước dâng lên. Chỉ một mình anh may mắn bám vào cành cây là được cứu thoát. Còn tất cả vợ con, nhà cửa và sản nghiệp anh đã chắt chiu vun trồng và tích lũy, đều bị dòng nước cuốn trôi. Giữa lúc anh đang tiếc nhớ khóc thương cho số kiếp bẽ bàng và cay đắng của mình, thì Chúa hiện ra và nói với anh:

- Con có mang nước về cho Ta không đó. Con làm gì lâu thế, bắt Ta phải chờ hoài.

11. Ai chọn Chúa?

Một giáo xứ nọ được Chúa Giêsu đến thăm, cha Sở tập họp giáo dân chật ních Nhà Thờ để hân hoan chào mừng Đấng nhân danh Chúa Cha mà đến. Chúa Giêsu hỏi:

- Ai coi tiền của hơn Ta (Điều Răn thứ I) thì ra khỏi Nhà Thờ? Một số người dáng quý phái bước ra.

- Ai hay kêu tên Chúa vô cớ (Điều Răn thứ 2)? Thì mấy bà sồn sồn đi ra.

- Ai thường bỏ lễ Chúa nhật và lễ Trọng (Điều Răn thứ 3)? Thanh niên kéo nhau đi.

- Ai không hiếu thảo, không vâng lời ông bà cha mẹ (Điều Răn thứ 4)? Con nít xô nhau ra về.

- Ai phạm Điều răn thứ 5: giết người? Mấy chú xì-ke, say xỉn chuồn mất.

- Ai không vi phạm Điều răn thứ 6? Mọi người trong Nhà Thờ tìm lối trốn hết!

Chúa ngạc nhiên và buồn bã quay lại hỏi cha Sở:

- Sao thế?…

Nhưng cha Sở cũng biến từ lúc nào!?

12. Lòng người

Xưa kia có một vị hoàng đế rất giàu sang và cũng rất đại lượng. Vua rộng ban vàng bạc châu báu cho tất cả những ai làm đẹp lòng vua. Thế là nịnh thần mọc lên như nấm khắp triều đình.

Các hoàng tử thì xu nịnh để được vua cha ban cho ngai vàng. Các quan trong triều đình thì xu nịnh để được thăng quan tiến chức. Ai cũng huênh hoang cho rằng mình hết lòng trung nghĩa với vua, sẵn sàng hiến mạng mình để bảo vệ nhà vua, để chết thay cho vua.

Nhà vua rất đơn sơ nên dễ tin vào những lời nịnh hót của họ và ban phát cho họ ân lộc dư dầy khiến ngân khố của triều đình cạn kiệt.

Cả triều đình chỉ có quan ngự y là người trung thành. Ông đã nhiều lần can gián vua, thuyết phục vua đừng tin bè lũ xu nịnh, nhưng vua chẳng chịu nghe.

Ngày nọ, vua lâm trọng bệnh thập tử nhất sinh, tính mạng nhà vua chỉ còn được đếm từng giờ. Quan ngự y trình với vua là bệnh vua chỉ có thể chữa lành nếu một vị hoàng tử nào đó hiến tặng trái tim mình làm thuốc cho vua.

Nghe tin nầy loan ra, các hoàng tử trong cung trốn biệt!

Khi không thể tìm được trái tim của hoàng tử làm thuốc, nhà vua hỏi quan ngự y xem có thể sử dụng tim của một người khác làm thuốc được không. Quan ngự y trả lời nếu không có trái tim của hoàng tử thì ít ra phải dùng trái tim của các vị quan lớn trong triều.

Nghe tin đó, các quan lớn rồi các quan nhỏ trong triều đều trốn biệt tăm.

Túng quá, thôi thì dùng tạm trái tim của lính hầu, của công chúa cũng được. Nghe tin đó, cả công chúa, cả lính hầu, cả hàng trăm thê thiếp cũng không còn ai lai vãng trong cung điện nữa. Cung điện thường ngày huyên náo, giờ nầy vắng lặng như bãi tha ma!

Bấy giờ vua chỗi dậy, tỉnh ngộ rồi cười ra nước mắt cho nhân tình thế thái.

Duyên do là quan ngự y và cũng là người trung nghĩa với vua, đã khéo dựng lên kịch bản nầy, đề nghị với vua giả vờ đau nặng, bỏ cơm bỏ cháo, để thử thách lòng người!

13. Lương y Giêsu

Một tác giả vô danh đã kể lại một lần đến bệnh viện của Chúa để kiểm tra sức khỏe và phát hiện rằng mình đang bị bệnh. Ông kể rằng:

Khi đo huyết áp cho tôi, Chúa cho biết tôi đang thiếu Lòng Nhân Ái. Và khi lấy nhiệt độ, nhiệt kế đã nhảy vọt đến 400 độ Ích Kỷ.

Điện tâm đồ cho biết trái tim thiếu những rung động Yêu Thương, một số mạch máu bị tắc nghẽn, vì lớp cholesterone Ghen Ghét.

Tới khoa chỉnh hình, tôi khám phá mình đi lại khó khăn.

Tôi không thể tiến lại ôm người anh em vì lòng Kiêu Hãnh cản ngăn, cánh tay của tôi bại xuội.

Chứng Cận Thị làm mắt tôi không thể nhìn xa hơn cái vẻ bên ngoài của người khác.

Quen những tiếng ồn ào thường ngày, tai tôi bị Điếc Đặc, không còn nhạy bén với những tiếng thì thầm yêu thương.

Con xin cảm ơn Ngài, Bác Sĩ Giêsu, vị Lương Y nhân hậu! Chúa đã chữa trị cho con miễn phí hoàn toàn vì lòng thương xót.

Con cam kết khi xuất viện sẽ tiếp tục dùng toa thuốc của Chúa, một cách trung thành và đều đặn, nhờ những dược liệu tự nhiên, Chúa hướng dẫn cho con, trong sách thuốc Tin Mừng của Chúa.

Mỗi buổi sáng, khi thức dậy, con sẽ dùng ngay một chén trà Tạ Ơn. Trước khi làm việc, con sẽ nhớ uống một thìa súp Nụ Cười Thân Ái!

Và mỗi giờ, con sẽ uống thêm một viên Nhẫn Nại, với một ly nước Nhân Bản, và lạy Chúa, khi về lại nhà, con sẽ chích một mũi thuốc Tình Thương trợ lực, rồi trước khi đi ngủ, con sẽ uống thêm 2 viên Lương Tâm Bình An.

14. Tình yêu kiên nhẫn đợi chờ

Một câu thơ mà ai trong chúng ta cũng đều biết:

Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương

Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.

Tương truyền rằng: Có đôi vợ chồng nọ rất thương nhau. Người chồng vì nghĩa vụ non sông phải ra đi, để lại quê nhà người vợ thân yêu và đứa con nhỏ dạy. Ngày tháng cứ dần trôi. . . Một hôm người chồng trở về, vì không báo trước nên không có vợ ở nhà, chỉ có đứa con nhỏ giờ đây đã nói được những tiếng nói đầu tiên. Nhìn thấy đứa con nhỏ, anh ta rất vui mừng, gọi con đến và xưng là cha của nó. Nhưng ngở ngàng thay, đứa nhỏ không chịu, còn nói rằng: cha nó không bao giờ về vào lúc ban ngày, cha nó chỉ về vào ban đêm.

Người chồng nghi ngờ vợ, niềm uất hận dâng lên. Bỗng đâu người vợ thân yêu từ ngoài đi vào, nhìn thấy chồng, rất vui mừng. Nhưng sự vồn vã yêu thương đâu chẳng thấy, mà trái lại, chị còn phải nhận thái độ lạnh nhạt và những lời cay đắng. Không thể biện minh được cho sự trong trắng của mình, chị mới tìm cái chết để giải thích cho nỗi oan tình. Chiều đến khi mọi vật đã chìm vào bóng đêm đứa nhỏ cứ đòi mẹ, nhưng chẳng thấy.

Nó lại bảo là cha nó sắp về. Nó mới dẫn người chồng vào trong và chỉ lên vách. Cái bóng đen do ánh đèn tạo nên, đứa nhỏ gọi đó là cha của nó. Người chồng ngỡ ngàng hiểu ra mọi chuyện thì đã muộn. Anh đi tìm vợ, nhưng chẵng thấy. Ngôi miếu được dựng lên để giải oan, để xin lỗi người vợ và để nói lên mối tình chung thủy của vợ chàng Trương.

Người chồng đã đứng kề bên hạnh phúc, đối mặt với sự thật. Nhưng anh ta chưa nhận ra được sự thật, vì anh ta quá tự hào về những hiểu biết của chính mình, mà không cần nghe những lời giải thích cặn kẻ. Thế cho nên suốt cuộc đời anh ta sẽ chẵng bao giờ nhìn thấy và tìm được nguồn hạnh phúc nơi người vợ chung thủy của mình nữa.

15. Tình yêu quên mình

Huyền thoại của một nước vùng Ấn Độ có câu chuyện này: Thời xưa, đất nước còn hoang sơ, có một con thỏ tên là Pôlixa. Thỏ Pôlixa rất thương người, ai xin gì cũng cho, không từ chối bao giờ. Một hôm có một cụ già lom khom chống gậy đi tới và nói:

- Già đói lắm, suốt mùa nước lũ già không có gì ăn. Chắc già sắp chết rồi, giờ đây già chỉ thèm một miếng thịt thỏ, Pôlixa có cho già được không?

Thỏ Pôlixa nhìn ông già hom hem yếu đuối, tội nghiệp quá. Thỏ Pôlixa bảo ông:

- Được rồi, ông chờ một lát.

Pôlixa đi kiếm củi xếp thành đống rồi nổi lửa, và nói:

- Ông chờ thịt cháu chín, ông lấy mà ăn.

Rồi thỏ chụm chân nhảy vào lửa. Bỗng nhiên lửa tắt, ông già biến mất. Thì ra đó là một vị thần được Thượng đế cho phép tới thử lòng thỏ. Về sau để thưởng công, Thượng đế đã cho thỏ Pôlixa về vui đùa mãi mãi bên mặt trăng.

16. Người thợ săn trên trời

Francis Thompson là một thi sĩ, khi còn là một cậu con trai, đã ước mơ làm linh mục, nhưng rồi vì lười biếng, ước mơ ấy đã không bao giờ trở thành sự thật. Lớn lên, ông làm quen với ma túy, và chính ma túy đã hủy hoại tinh thần và thể xác ông. Ông kiếm sống bằng nghề đánh giày, bán diêm quẹt và giữ ngựa. Sau cùng đã phải ngửa tay đi xin ăn và chui rúc ở gầm cầu xó chợ.

Giữa lúc ấy, nhờ lòng tốt của một cô gái nghèo, Thompson gặp ông bà Wilfred Meynell. Họ thấy ông có tài, nên giúp ông gặp được tình thương của Chúa. Và ông đã diễn tả kinh nghiệm đời mình trong một bài thơ mang tựa đề là “Người thợ săn trên trời.”

Ông cho biết ông đã trốn chạy Chúa thế nào và Chúa đã chộp bắt được ông ra làm sao? Ông so sánh mình là như một con thỏ nhỏ, còn Chúa là như người thợ săn. Khác với người thợ săn, Chúa chộp bắt từng linh hồn, không phải để giết chết, mà là để cứu sống.

17. Chiếc thang Giacóp

Trước mặt Chúa, mọi người chúng ta đều có tội. Chẳng có ai hoàn toàn trong trắng vô tội trước mặt Chúa.

Một mục sư giảng về chiếc thang Giacóp. Cậu con trai ông ấy cảm động. Mấy ngày sau, cậu nói với cha là mình vừa mơ về câu chuyện đó.

- Sao, con mơ thấy gì ?

- Con mơ thấy một chiếc thang bắc lên tới tầng mây. Ở dưới chân thang có rất nhiều phấn và mỗi người phải lấy phấn viết hết các tội mình đã phạm lên chiếc thang đó thì mới lên được.

- Hay thật! Rồi con thấy gi nữa ?

- Con thấy con leo lên, nhưng chưa được bao xa thì con thấy có người leo xuống.

- Ai vậy ?

- Ba chứ ai.

- Ba ?

- Thế ba leo xuống để làm gì ?

- Ba lấy thêm phấn!

Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được khiêm nhường trước mặt Chúa. Tưởng cũng nên nhắc lại đây lời của Thánh Phaolô: “Những ai đang đứng vững hãy coi chừng kẻo té” (1Cr 10,12).

18. Quen thói xấu

Có hai hành khách ngồi chung trong một chuyến xe lửa từ Tôrinô tới Paris.

Vào một ngày mùa đông, bầu trời xanh xám không một tia sáng mặt trời, xe lửa chạy tới biên giới nước Pháp thì tuyết bắt đầu rơi, bên ngoài trời giá lạnh, nhưng trong xe hơi ấm của lò sưởi rất dễ chịu, thêm vào đó là tiếng máy đều đặn như tiếng nhạc ru ngủ cho cuộc hành trình thêm thoải mái. Một trong hai người khách tỏ vẻ băn khoăn lo lắng lạ thường, mỗi lần tới một nhà ga người ấy lại giựt mình đứng phắt lên, đến gần cửa nhìn nhà ga đọc lớn tên ga rồi ông trở về chiếc ghế ngồi và thở dài một cách thảm não. Sau nhiều trạm như thế, người bạn bên cạnh lên tiếng hỏi với tất cả sự quan tâm và tế nhị.

- Có điều gì làm ông khó chịu hoặc ông bị đau chăng ? Ông ta thở dài một cách thảm não và nói:

- Tôi không đau ốm gì cả, chỉ có điều là tôi đã lấy chuyến xe đang chạy ngược chiều với hướng của tôi định đi. Lẽ ra tôi phải xuống xe từ những trạm trước kia rồi để đổi sang chuyến xe khác, nhưng tôi không có can đảm bước xuống giữa làn mưa tuyết trắng. Ngồi trong xe với hơi ấm thế này dễ chịu hơn.

Biết mình đang là người tiến trên con đường tội lỗi, phải quay về con đường thiện. Nếu không đủ can đảm cởi bỏ những thói quen cũ và những tiện nghi vui sướng tạm bợ của đời sống đang sống thì chắc chắc đích điểm mà mình muốn nhắm tới sẽ càng ngày càng bỏ xa mình. Than vãn thở dài nào có ích lợi gì đâu.

19. Gần đèn thì sáng

Lúc còn nhỏ, Mạnh Tử ở gần nghĩa trang. Ngày ngày thấy người ta chôn cất người chết với những lời than khóc ai oán thì cậu bé cũng bắt chước chôn các con vật chết, cũng giả vờ kêu than khóc lóc.

Thân mẫu của Mạnh Tử không muốn con mình bị tiêm nhiễm lối sống buồn thảm ở bãi tha ma, nên mới dời nhà đến gần phố chợ. Sống nơi đây, tuy nhộn nhịp vui vẻ hơn, nhưng Mạnh Tử lại học theo thói côn đồ của một số trẻ ranh ma đầu đường xó chợ, ưa trộm cắp, chửi tục và đấm đá nhau. Người mẹ một lần nữa quyết định phải dời nhà đến gần trường để xa tránh môi trường xấu.

Từ ngày sống cạnh nhà trường, ngày ngày thấy bạn bè cùng trang lứa cắp sách đến trường, Mạnh Tử cũng xin mẹ cho đi học.

Học tập chưa được bao lâu, cậu lại bị bạn xấu rủ rê bỏ học đi chơi.

Hôm nọ, khi người mẹ đang dệt vải nửa chừng chợt thấy Mạnh Tử cắp sách về nhà không muốn học nữa, bà lặng lẽ cầm kéo cắt nát tấm lụa đang còn dở dang trên khung cửi.

Quá tiếc xót tấm lụa quý, Mạnh Tử hỏi lý do, người mẹ trả lời: "Con đang đi học mà bỏ nửa chừng thì có khác chi mẹ dệt tấm lụa chưa xong mà cắt bỏ đi vậy."

Thế là từ đó, Mạnh Tử giác ngộ, ngày đêm miệt mài đèn sách và sau nầy trở thành bậc thánh hiền của người Trung Quốc.

Chúa Giêsu tỏ ra buồn phiền vì người đời yêu chuộng tối tăm và xa lìa ánh sáng: "Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách" (Ga 3,19)

CNMC 4C

Lời Chúa:

TRUYỆN KỂ

1.

Thứ Hai tuần 4 MC

Lời Chúa: Ga 4, 43-54

Khi ấy, Chúa Giêsu bỏ Samaria mà đến Galilêa. Chính Người đã nói: "Không vị tiên tri nào được kính nể nơi quê hương mình.” Khi Người đến Galilêa, dân chúng ra đón tiếp Người: Họ đã chứng kiến tất cả các việc Người làm ở Giêrusalem trong dịp lễ; vì họ cũng đi dự lễ.

Người trở lại Cana xứ Galilêa, nơi Người đã biến nước thành rượu. Bấy giờ có một quan chức nhà vua ở Capharnaum có người con trai đang đau liệt. Ðược tin Chúa Giêsu đã bỏ Giuđêa đến Galilêa, ông đến tìm Người và xin Người xuống chữa con ông sắp chết. Chúa Giêsu bảo ông: "Nếu các ông không thấy những phép lạ và những việc phi thường, hẳn các ông sẽ không tin.” Viên quan chức trình lại Người: "Thưa Ngài, xin Ngài xuống trước khi con tôi chết.” Chúa Giêsu bảo ông: "Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi.” Ông tin lời Chúa Giêsu nói và trở về.

Khi xuống đến sườn đồi thì gặp gia nhân đến đón, báo tin cho ông biết con ông đã mạnh. Ông hỏi giờ con ông được khỏi. Họ thưa: "Hôm qua lúc bảy giờ cậu hết sốt.”

Người cha nhận ra là đúng giờ đó Chúa Giêsu bảo ông: "Con ông mạnh rồi", nên ông và toàn thể gia quyến ông đều tin.

Ðó là phép lạ thứ hai Chúa Giêsu đã làm khi Người ở Giuđêa về Galilêa.

TRUYỆN KỂ

1. Để tiếng hát có hồn

Một thiếu nữ có giọng hát thiên phú, cô luyện giọng với một giáo sư âm nhạc tài ba, cô đã hát được những giai điệu tuyệt hảo. Thế nhưng khi trình diễn, cô vẫn thấy giọng hát của cô chưa được truyền cảm. Vị giáo sư âm nhạc giải thích cho cô: “Tôi đã dạy cô tất cả những gì tôi biết, nhưng cô còn thiếu một điều mà tôi không thể cung cấp cho cô được, điều đó đến từ cuộc sống: chỉ có kinh nghiệm của cuộc sống, chỉ có những điều làm tan vỡ cõi lòng mới làm cô hát với tất cả cảm xúc.”

Đau khổ là lửa thử niềm tin con người, đau khổ có thể đưa con người đến thất vọng, chối bỏ, và lộng ngôn, nhưng đau khổ cũng có thể là khởi điểm của tin yêu phó thác. Nguyện xin Đấng là đường, là sự thật và là sự sống củng cố niềm tin chúng ta giữa những đau khổ đè nặng trên thân xác và tâm hồn chúng ta.

2. Tin người đáng tin

Một bà già đứng ở ngã tư có nhiều chuyến tàu đi qua. Vì ít khi ra ngoài, nên bà chẳng biết tàu nào về đâu. Sợ đi lạc, bà giơ vé ra hỏi một người đứng kế bên:

- Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không?

- Phải đó bà.

Nhưng bà chưa an tâm. Biết đâu người ấy cũng không rành. Bà gặp người khác, cũng hỏi:

- Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không?

- Phải đó bà.

 Nhưng bà vẫn chưa hết áy náy. Rồi bà gặp một người đeo phù hiệu nhân viên hỏa xa, bà hỏi:

- Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không?

- Phải, thưa bà.

Thế là bà an tâm bước lên tàu. Bà đã tin người đáng tin. Đức tin là thế!

3. Tin là thế

Một người vô thần rất mê leo núi. Ngày kia trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhung may thay ông bám được một cánh cây nằn chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông: Tại sao không gọi Chúa đến cứu giúp. Thế là lấy hết sức lực, người vô thần la lớn: ”Lạy Chúa.”

Tuy nhiên bốn bề chỉ có thinh lặng và ông chỉ nghe được tiếng dội của lời kêu van. Một lần nữa người vô thần lại kêu xin tha thiết hơn: ”Lạy Chúa, nếu quả thật Chúa hiện hữu thì xin hãy cứu con. Con hứa sẽ tin Chúa và dạy cho những người khác cũng tin Chúa.”

Sau một hồi lặng thinh, bỗng người vô thần nghe thấy một tiếng vang dây cả vực thẳm và núi cao: ”Gặp hoạn nạn thì ai cũng cầu xin như thế.” ”Không, Lạy Chúa, nghìn lần không. Con không giống như những người khác. Chúa không thấy sao, con bắt đầu tin từ khi nghe thấy tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất.”

Tiếng ấy trả lời: ”Được lắm, Ta sẽ cứu ngươi. Vậy ngươi tin thì hãy buông tay ra.” Người vô thần thất vọng hô lên: ”Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao?”

4. Sự sống âm thầm phát triển

Một bà đạo đức áy náy vì một vài tật xấu bà đã cố gắng hết sức mà vẫn không chừa được. Bèn đến than thở với Cha linh hướng. Ngài nói: ”Con có để ý thấy không, vào mùa đông, lá sồi rụng nhiều, nhưng vẫn còn vài chiếc. Gió đông thổi mạnh nhưng vẫn không làm chúng rụng xuống. Nhưng khi mùa xuân đến, chúng tự động rụng, nhường chỗ cho những lá non nảy lộc. Vậy cái gì làm cho chúng rơi rụng? Thưa đó là sự sống mới lưu chuyển trong thân cây.

“Với chúng ta cũng vậy. Khi sự sống mới của Đức Kitô nảy nở trong đời sống, ta sẽ mau thăng tiến trên con đường đạo đức.”

5. Tin là như thế

Một vị Linh mục được mời đến bên giường của một cụ già đang hấp hối.

Khi vị linh mục sắp sửa ngồi xuống trên chiếc ghế bành đặt cạnh giường của cụ, thì cụ già ngăn cản lại: - Xin cha vui lòng đừng ngồi vào đó!

Vị linh mục bèn lấy một cái ghế đẩu, ngồi xuống cho kẻ liệt xưng tội và nhận của ăn đàng.

Sau đó cụ già cố gắng lấy lại một chút hơi hụt sức tàn và nói:

- Hãy để con kể lại lịch sử chiếc ghế bành này cho cha nghe. Cách đây 50 năm, khi con còn là một thanh niên, vị linh mục quản xứ của con có lần hỏi con có thuộc các kinh để cầu nguyện không. Con đáp: “Không, nếu con hét to đến nỗi có thể bể cả buồng phổi thì một kẻ đứng ở tầng lầu 3 cũng không nghe con được, vậy thì làm sao Thiên Chúa có thể nghe con từ Trời được?”

Cha trả lời cách nhẹ nhàng:

- Con đừng thử cố gắng cầu nguyện. Mỗi sáng con hãy ngồi tự nhiên trên một cái ghế bành và hãy tưởng tượng như Đức Giêsu Kitô đang ngồi đối diện với con trên một cái ghế bành khác như Ngài đã từng ngồi trong bao căn nhà ở Palestine… lúc đó con sẽ nói gì với Ngài?

Con trả lời:

- Con sẽ nói thẳng rằng, con không tin Ngài.

- Được, vị linh mục già trả lời, ắt là điều đó đã nói lên một cái gì đang có thật trong trí của con rồi. Con có thể đi xa hơn nữa và thách thức nhiều hơn nữa! Nếu Ngài hiện hữu thì tại sao lại không minh chứng điều đó cho con? Hoặc là nếu con không thích cách Thiên Chúa quản trị thế giới, tại sao con không nói với Ngài điều này? Con không phải là người đầu tiên than trách Ngài đâu. Vua Đavid và ông Gióp đã có lần nói với Chúa là Ngài bất công rồi. Có thể con ao ước cái gì? Con cứ nói lên điều đó. Nếu Ngài ban cho con, con cám ơn Ngài. Tất cả những trao đổi này là đối tượng của lời cầu nguyện. Con đừng đọc thuộc lòng một cách máy móc những câu kinh như nhiều người vẫn làm! Hãy nói những gì thực sự của lòng con.

 Cụ già hấp hối nói tiếp:

- Lúc đó, quả thực con không tin vào Đức Kitô, nhưng con tin vào vị linh mục già kia. Để làm hài lòng ngài, con đã ngồi trên một cái ghế bành này và làm như thấy Đức Kitô đang ngồi đối diện với con. Trong vài ngày đầu, điều đó có vẻ như trò chơi. Nhưng dần dần con cảm thấy Ngài ở đó. Con nói với Ngài về những chuyện hiện thực. Con xin Ngài một lời khuyên và con nhận được. Cầu nguyện đã trở thành đối thoại. 50 năm trôi qua và mỗi ngày con nói chuyện với Đức Kitô ngồi trong chiếc ghế bành này!

 Vị linh mục còn ở đó cho đến khi cụ già này thở hơi cuối cùng, và cử chỉ sau hết của cụ là đưa bàn tay hướng người bạn vô hình đang ngồi trên chiếc ghế bành trước mặt.

Vâng, tin là như thế! Phúc cho những ai không thấy mà tin. Không thấy nhưng vẫn tin. Đó mới là đức tin Chúa mong muốn nơi mỗi người chúng ta.

6. Cầu nguyện luôn, đừng nản chí

Vậy chỉ những ai tham dự Thánh Lễ với tất cả lòng tin tưởng nơi Chúa giống vị sĩ quan ngoại giáo Roma, thì họ đều cất tiếng ngợi khen: “Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt” (Tv 30/29,2a: Đáp ca).

Nhằm nêu cao bậc sống gia đình trong năm “Quốc Tế Gia Đình – 1994”, vào ngày lễ Chúa Chiên Lành – 24/04/1994, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã phong chân phước cho bà Êlisabeta Calnorimora.

Bà Calnorimora sinh ngày 21 tháng 11 năm 1774, tại Roma, bà thuộc gia đình giàu có, và được cha mẹ giáo dục Đức Tin rất chu đáo. Năm 22 tuổi, bà lập gia đình với một luật sư, và đã có với chồng hai cô con gái. Vài năm sau đó, bà phát hiện ra chồng ngoại tình, hay lấy trộm tiền của vợ đi nuôi bồ nhí! Bà đã khuyên lơn nhiều lần, nhưng bù lại bà bị chồng đánh đập tàn nhẫn, đến nỗi người ta phải đưa vào bệnh viện cấp cứu. Bác sĩ chê vì chồng đã quá tay đối với bà, bác sĩ khuyên đưa bà về để gặp con trước khi chết! Nhưng Chúa thương cho bà bình phục, từ bấy giờ ông chồng ở luôn với vợ bé! Bà phải một mình làm việc cần cù nuôi hai con gái. Năm 1801, bà mắc một căn bệnh hiểm nghèo lúc mới 27 tuổi, nhưng Chúa lại cho bà được bình phục, sau đó bà gia nhập tu hội đời thuộc Dòng Chúa Ba Ngôi. Nhà bà biến thành nơi cầu nguyện cho những người đau khổ. Hằng ngày bà đều xin mọi người cầu nguyện cho chồng bà biết sám hối trở về đường ngay nẻo chính, và bà cũng giúp đỡ nhiều người về đời sống vật chất cũng như tinh thần.

Ngày 05 tháng 02 năm 1825 Chúa đã cất bà ra khỏi thế gian, hưởng dương 51 tuổi. Vậy sau 25 năm bà liên lỉ cầu nguyện trong nước mắt cho người chồng trở về. Lúc vợ chết ông mới thương vợ thương con mãnh liệt, ông sám hối và trở về phục tang vợ, nhiều người thấy ông, ai cũng chế nhạo: “Nước mắt cá sấu!” Ông cam phận chịu đựng để một phần nào đền tội mình! Sau ngày an táng vợ xong, ông trù liệu tiền bạc nuôi hai con chính thức và các con ngoại hôn, rồi ông xin gia nhập Dòng Chúa Ba Ngôi, và trở thành Linh mục sống rất gương mẫu.

7. Đức tin nhìn thấy

Nhà điêu khắc người Ý Donatello bỏ đi một khối đá cẩm thạch vì nó bị trầy. Khi được đề nghị, Michel-Angelo đã nhận khối đá đó. Ông nhìn vượt qua những trầy xước để thấy được vẻ đẹp tiềm tàng trong đó, và đã chạm được một kiệt tác là tượng Đavit.

Thiên Chúa cũng làm như thế đối với chúng ta và đối với thế giới tội lỗi. Qua những trầy xước, Thiên Chúa thấy một vẻ đẹp tiềm ẩn trong đó, và giờ đây Ngài tái tạo mọi sự theo hình ảnh Chúa Giêsu.

Tôi tin tưởng Thiên Chúa có một chương trình cho tôi và muốn biến tôi thành một cái gì đặc biệt, bất chấp những trầy xước của tôi như thế nào?

Khi lấy cái dằm tội lỗi ra khỏi mắt ta, cả thế giới sẽ tỏa sáng (John Michael Talboit).

8. Đức tin nâng tâm hồn lên

Fred Smith là một chuyên gia hóa sinh ở đại học Minnesota. Anh cũng là một người theo thuyết bất khả tri. Một hôm để chiều lòng người bạn, anh đến tham dự thánh lễ của người Công giáo. Anh không thích cách hát và bài giảng, nhưng một đoạn Kinh thánh đã gây ấn tượng sâu sắc nơi anh: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Ngài sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu rỗi” (Rm 10,9). Đoạn Kinh thánh này là hạt giống nảy sinh một niềm tin vững mạnh: Smith trở thành người ủng hộ Kinh thánh hàng đầu ở Minnesota.

Câu truyện đức tin của viên sĩ quan và của Smith mời gọi tôi tự hỏi: Đâu là giây phút nồng cốt trong câu truyện đức tin của tôi?

Lý trí đưa tôi tới chân núi, đức tin nâng tôi lên đỉnh núi.

9. Niềm tin nối kết

Thiên Chúa bảo Môsê giơ gậy trên Biển Đỏ, tức thì nước rẽ ra và tạo thành con đường cho dân Israel đi qua an toàn. Truyền thuyết kể rằng nước chỉ rẽ ra khi nhóm người Israel đầu tiên thực sự bước chân xuống biển.

Niềm tin của dân Israel và của viên sĩ quan La Mã mời gọi tôi tự hỏi: Niềm tin của tôi mạnh mẽ như thế nào? Tôi sẽ làm gì để cho niềm tin của tôi ngày càng mạnh mẽ hơn?

Tôi tìm kiếm linh hồn mình, nhưng không thấy. Tôi tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng Ngài ở ngoài tầm tay tôi. Tôi tìm kiếm anh em, và tôi gặp được cả ba.

Thứ Ba tuần 4 MC

Lời Chúa: Ga 5, 1-3a. 5-16

Hôm đó là ngày lễ của người Do-thái, Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Tại Giêrusalem, gần cửa "Chiên", có một cái hồ, tiếng Do-thái gọi là Bếtsaiđa, chung quanh có năm hành lang. Trong các hành lang này, có rất nhiều người đau yếu, mù loà, què quặt, bất toại nằm la liệt. Trong số đó, có một người nằm đau liệt đã ba mươi tám năm.

Khi Chúa Giêsu thấy người ấy nằm đó và biết anh đã đau từ lâu, liền hỏi: "Anh muốn được lành bệnh không?" Người đó thưa: "Thưa Ngài, tôi không được ai đem xuống hồ, mỗi khi nước động. Khi tôi lết tới, thì có người xuống trước tôi rồi.” Chúa Giêsu nói: "Anh hãy đứng dậy vác chõng mà về.” Tức khắc người ấy được lành bệnh. Anh ta vác chõng và đi. Nhưng hôm đó lại là ngày Sabbat, nên người Do-thái bảo người vừa được khỏi bệnh rằng: "Hôm nay là ngày Sabbat, anh không được phép vác chõng.” Anh ta trả lời: "Chính người chữa tôi lành bệnh bảo tôi: "Vác chõng mà đi.” Họ hỏi: "Ai là người đã bảo anh "Vác chõng mà đi?" Nhưng kẻ đã được chữa lành không biết Người là ai, vì Chúa Giêsu đã lánh vào đám đông tụ tập nơi đó.

Sau đó, Chúa Giêsu gặp anh ta trong đền thờ, Người nói: "Này, anh đã được lành bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo phải khốn khổ hơn trước.” Anh ta đi nói cho người Do-thái biết chính Chúa Giêsu là người đã chữa anh ta lành bệnh.

Vì thế người Do-thái gây sự với Chúa Giêsu, vì Người đã làm như thế trong ngày Sabbat.

TRUYỆN KỂ

1. Cái chết của một thiên thần

Cuốn phim Mỹ với tựa đề: “Cái chết của một thiên thần” mang một ý nghĩa sâu sắc. Tại một vùng quê hẻo lánh bên Nam Mỹ, nơi mà lòng đạo đức bình dân thường pha trộn những mê tín dị đoan, một thanh niên nọ đã ngụy tạo ra một phép lạ thu hút được rất nhiều người. Anh lén rạch da lấy máu mình và cho vào tượng Thánh giá mà chỉ anh mới biết cách tháo ráp. Mỗi lần anh ôm Thánh giá vào lòng thì máu từ mão gai của tượng chảy ra. Dân chúng từ khắp nơi, nhất là những kẻ tàn tật, mù lòa đổ vào để chứng kiến phép lạ. Đoàn người làm thành một đám rước Thánh giá lên trên một ngọn đồi, tại đó người thanh niên quỳ cầu nguyện bên cạnh Thánh giá và máu lại chảy ra từ mão gai trên đầu Chúa.

Trong khi phép lạ ngụy tạo này diễn ra mỗi ngày, thì một đám người bất lương muốn lợi dụng cơ hội để làm tiền. Họ biết chắc đây chỉ là một sự lừa bịp, nhưng họ chưa khám phá được bí quyết của người thanh niên. Sau một thời gian theo dõi, họ đã bắt giữ người thanh niên và tra khảo anh khai ra bí mật ấy.

Không chịu nổi cuộc tra tấn, người thanh niên đành thú nhận sự thật và đó cũng là lúc khởi đầu của những hình ảnh đẹp nhất trong cuộc đời anh. Trước đám đông đang chuẩn bị cuộc rước, người thanh niên tháo gỡ tượng Chúa Giêsu khỏi Thánh giá và cho mọi người thấy sự lường gạt của anh từ bao năm qua. Với tất cả lòng thành tâm thống hối, anh vác Thánh giá tiến lên đồi. Đám người bất lương bắn xối xả vào người anh, anh ngã gục, nhưng đoàn người lại tiếp tục vác Thánh giá lên đồi, nhiều người tàn tật, mù lòa bỗng cảm thấy được chữa lành.

2. Nơi hội ngộ

Tu hội Nữ tử Bác ái của Mẹ Têrêsa Calcutta chuyên phục vụ những người nghèo khổ, bệnh tật, đặc biệt là những người đang hấp hối nằm trên các hè phố.

Trước đây có một vị sư Phật giáo nói với Mẹ Têrêsa: “Tôi biết và yêu mến Chúa Kitô, nhưng tôi ghét Giáo hội của Ngài. Nếu các chị làm điều các chị nói, có lẽ các chị sẽ trở nên nơi hội ngộ để chúng tôi có thể gặp gỡ Giáo hội của Đức Kitô.”

Nhưng sau một năm làm việc cùng với Mẹ Têrêsa, vị sư đó đã chứng thực việc làm của Mẹ và sẵn sàng dành cho Mẹ một ngôi nhà trong khuôn viên chùa để làm bệnh xá miễn phí.

3. Hết bị trói buộc

Thầy Andrew – một nhà truyền giáo Hà Lan, được mệnh danh là “tên buôn lậu của Thiên Chúa”, vì thầy buôn lậu Kinh Thánh vào những nước cấm phổ biến Thánh Kinh.

Ngày kia, thầy mua được một con khỉ. Không bao lâu, thầy nhận thấy con khỉ rất khó chịu khi chú bị chạm vào phần thắt lưng. Sau khi xem xét thật kỹ, thầy khám phá ra một vết sưng vòng quanh hông chú khỉ. Hóa ra là khi còn bé, chú khỉ đã bị người ta dùng một sợi dây kẽm buộc quanh hông, và cho tới nay sợi dây này vẫn còn nằm trong thân xác chú. Càng lớn lên thì sợi thép đó lặn sâu vào da thịt chú.

Chiều hôm ấy, thầy Andrew cẩn thận tháo sợi dây kẽm đó ra bằng cách: thầy cào sạch vùng lông chung quanh sợi dây, rồi cẩn thận cắt sợi dây và kéo ra khỏi da thịt con vật. Suốt thời gian này, chú khỉ kiên nhẫn nằm yên chịu đau, mắt chú nhắm nghiền lại. Ngay khi sợi kẽm được lấy ra, chú khỉ mừng rỡ nhảy lui nhảy tới rồi ôm chặt vai thầy Andrew. Thế là chú khỉ được tự do thoải mái, không còn bực bội khó chịu như trước nữa. Không thể diễn tả nổi chú khỉ hạnh phúc biết bao.

Người bại liệt trong Tin Mừng cũng vui mừng khi được Đức Giêsu tha tội và chữa khỏi bệnh bại liệt. Anh không còn bị tội lỗi và bệnh hoạn trói buộc nữa.

5. Cái giá vô giá của đức tin

Tạp chí Tiếng Vang Lộ-Đức (Écho de Lourdes) thuật lại một câu chuyện có thật như sau:

Một người vô thần nọ có đứa con gái yêu quý bị bệnh bại liệt mà các bác sĩ đều đã bó tay, không tài nào cứu chữa được nữa. Ông nghe những người quen biết đồn rằng, Đức Mẹ ở Lộ-Đức nước Pháp, có thể chữa lành cho cô bé.

Cuối cùng, thì ông cũng đã chấp nhận đưa con gái đến Lộ-Đức, nhưng không quên tuyên bố với những người bạn cả Công giáo lẫn vô thần rằng: “Nếu tôi thấy con gái tôi được chữa khỏi, nếu tôi thấy tỏ tường nó chỗi dậy và đi lại được, tôi sẽ tin rằng, Thiên Chúa hiện hữu.”

Khi đến Lộ-Đức, ông chen vào giữa đám đông những bệnh nhân đang vây quanh chiếc giếng mà Đức Mẹ thường làm phép lạ và đưa con gái lại gần đó. Khi gặp được cha Bailly, một Linh Mục thường trực phụ trách tại địa điểm hành hương ở đây, ông đã nói với cha về tất cả những nỗi niềm còn bán tín bán nghi của ông và những gì mà người ta đồn đại về phép lạ.

Rồi đúng lúc em bé được đưa xuống chiếc giếng cạn để nhúng ướt toàn thân trong nước, cha Bailly đã lớn tiếng nói với mọi người đang có mặt:

- Có ai trong các vị hiện diện ở đây bằng lòng tận hiến chính mình làm hy tế cho Thiên Chúa nhân lành để cầu nguyện cho một người vô thần không? Có ai không? Chỉ cần một người thôi, bằng lòng cam chịu cơn bệnh nan y cho tới chết để cho cô bé này được lành và để cho người cha vô thần này được trở lại đạo. Có ai không?

Mọi người yên lặng. Mấy phút trôi qua. Chợt có một nữ bệnh nhân trung niên chống nạng hai bên nách, khó nhọc lắm mới bước ra khỏi được đám đông rồi nói nhỏ nhẹ thật khiêm tốn:

- Vâng, có con, con xin tự nguyện!

Ngay lúc ấy, cô bé bệnh tật liền được khỏi và tự mình bước ra khỏi miệng giếng. Người cha vô thần vội quỳ xụp xuống và bằng một giọng thổn thức đầy cảm xúc ông đã thốt lên:

- Lạy Chúa, xin Chúa tha tội cho con, con tin rồi!

Một đức tin nhỏ sẽ đưa linh hồn bạn vào Thiên Đàng, một đức tin lớn sẽ đưa Thiên Đàng vào linh hồn bạn.

6. Anh tin Lời Chúa đứng dậy. tức khắc anh khỏi bệnh.

Las Dasir là một thanh niên rất tốt. Thế nhưng, anh thấy mình quá yếu đuối trước những cơn cám dỗ. Mặc dầu đã hết sức cố gắng nhưng anh vẫn sa ngã. Anh đã dốc lòng chừa cũng cả trăm lần rồi thế mà anh vẫn cảm thấy như bất lực. Nhiều lúc anh cảm thấy như hoàn toàn tuyệt vọng. Để chứng tỏ cho mọi người biết anh là một người có thiện chí, anh đã tự quyết định ra hình phạt cho mình: cứ mỗi lần phạm tội, anh sẽ nhổ đi mười sợi tóc trên đầu. Và chừng nào trên đầu không còn tóc nữa, thì hình phạt cuối cùng sẽ là tự kết thúc cuộc đời. Chỉ một tháng sau, đầu của Dasir đã gần như bị trọc, và anh tự hứa với mình sẽ nhất quyết thi hành hình phạt, rồi sau một tháng nữa thì đầu của anh hoàn toàn bị trọc không còn một sợi tóc nào nữa.

Nhìn vào gương, thấy không còn sợi tóc nào trên đầu, Dasir tuyệt vọng nói thầm: “Ngày kết thúc cuộc đời tôi đã đến, tôi không còn cách nào hơn để giữ mình cho khỏi sa ngã phạm tội. Tốt hơn là phải tự kết liễu cuộc đời của tôi.” Nói là làm. Anh đưa tay vào ngăn kéo rút khẩu súng lục đã để sẵn trong đó ra để chuẩn bị kết thúc cuộc đời của mình. Thế nhưng, khi vừa đưa súng lên, kê nòng vào đúng thái dương và định bóp cò thì thình lình anh thấy một thiên thần hiện ra. Sự xuất hiện của thiên thần làm cho anh phải bỏ súng xuống. Thiên thần trao cho anh một gói quà và nói:

- Las Dasir này, đừng kết liễu đời mình như vậy. Thiên Chúa sai tôi đến đem cho anh món quà này. Anh hãy mở ra xem đi.

Anh cầm lấy, mở ra và vô cùng ngạc nhiên khi nhìn vào những gì đặt ở trong chiếc hộp: đó là một bộ tóc giả. Nhìn bộ tóc giả đó anh đã hiểu ngay được ý của Thiên Chúa muốn cho anh phải làm gì.

7. Trong số đó, có một người nằm đau liệt đã ba mươi tám năm.

Hai con ếch lộn đầu vào một bình kem. Chúng quẫy đạp xuống cả giờ cố gắng để leo lên thành bình kim loại. Cuối cùng, một con bỏ cuộc và chìm xuống, còn con kia tiếp tục quẫy đạp, rồi đột nhiên nó thấy mình ngồi an toàn trên một tảng kem bơ. Đó cũng là sự kiên trì của bệnh nhân trong bài Tin mừng hôm nay.

Điều gì ngăn cản tôi kiên nhẫn cố gắng? 

8. Đâu có tình yêu thương ở đó có Đức Chúa Trời

Hai biểu tượng trong bài đọc hôm nay cần được giải thích đó là Đền thờ, và suối nước chảy ra đền thờ và đem lại sự sống cho bất cứ nơi đâu nó chảy đến. Đền thờ tượng trưng cho sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Israel. Suối nước tượng trưng cho hồng ân đến từ sự hiện diện của Ngài. Đền thờ và suối nước là hình ảnh mẫu mực cho mỗi kitô hữu, một dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa và nguồn ơn phúc cho thế giới.

Chúa Giêsu đã mô tả vai trò của người kitô hữu: “Anh em là muối cho đời… Anh em là ánh sáng thế gian” (Mt 5,13-14)

Tôi có thể làm gì cụ thể để sống tốt hơn ơn gọi kitô hữu?

Người ta có thể nghi ngờ lời bạn nói, nhưng sẽ tin việc bạn làm (Lewis Cass).

9. Kiên nhẫn

Cách đây nhiều năm, một đôi chim nọ làm tổ trên đỉnh một tượng đài ở trung tâm chính của thành phố Buenos Aires. Đã ba lần những công nhân phá tổ chim, nhưng cả ba lần đôi chim lại làm tổ ở chỗ cũ. Cuối cùng, công dân thành phố nhất mực yêu cầu các công nhân cứ để yên tổ chim.

Cái gì ngăn cản tôi theo đuổi đời sống thiêng liêng cách kiên trì như tôi đã theo đuổi sự nghiệp của mình?

Một chiếc búa gõ vào đá năm mươi lần, nhưng nó không hề nứt. Đến nhát búa năm mươi mốt, hòn đá vỡ tan. Chỉ nhát búa này không thể đập vỡ hòn đá, nhưng là tất cả những nhát búa trước đó.

10. Lời đem lại sự sống

Lee So Young, một cô gái trẻ, nhà đã nghèo, lại bị mù bẩm sinh. Không còn gì để bám víu nhưng cô không chấp nhận khép lại cuộc đời mình bằng giải pháp tự tử, trái lại, cô đã vươn lên và trở thành một nhạc sĩ dương cầm.

Cô cho biết bí quyết đã tạo cho cô nghị lực phi thường ấy: “Tất nhiên, tôi là một người rất nghèo và không nhìn thấy mọi vật, nhưng tôi không mù vì tôi có niềm tin” (Tuổi Trẻ 15/07/07). Niềm tin kitô cũng đi từ khởi điểm chung đó của thân phận con người: Không thể dựa dẫm nơi bất cứ thụ tạo nào. Dựa vào lý luận hay thực tiễn ư? Lời Chúa thật chói tai. Dựa vào người khác ư?

Lắm kẻ, kể cả các môn đệ, đã bỏ Ngài chỉ vì lời nói chói tai ấy. Niềm tin của cô Young khởi đi từ niềm say mê sự sống. Còn niềm tin kitô đặt nền tảng trên niềm say mê Đức Kitô là “Đấng có những lời đem lại sự sống đời đời.” Đó chính là niềm tin đích thực.

Thứ Tư tuần 4 MC

Lời Chúa: Ga 5, 17-30

Khi ấy, Chúa Giêsu trả lời dân Do-thái rằng: "Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng làm việc như vậy.” Bởi thế, người Do-thái càng tìm cách giết Người, vì không những Người đã phạm luật nghỉ ngày Sabbat, lại còn gọi Thiên Chúa là Cha mình, coi mình ngang hàng với Thiên Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu trả lời họ rằng:

"Quả thật, quả thật, Ta nói cho các ngươi biết: Chúa Con không thể tự mình làm gì nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy. Vì chưng, Chúa Cha yêu Chúa Con và bày tỏ cho Chúa Con biết mọi việc mình làm, và sẽ còn bày tỏ những việc lớn lao hơn thế nữa, đến nỗi các ngươi sẽ phải thán phục.

Bởi vì, cũng như Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Ngài làm cho ai sống là tuỳ ý Ngài. Vì hơn nữa, Chúa Cha không xét xử ai cả, mà trao cho Chúa Con trọn quyền xét xử, để cho mọi người tôn trọng Chúa Con cũng như tôn trọng Chúa Cha: ai không tôn trọng Chúa Con thì không tôn trọng Chúa Cha, Ðấng đã sai Ngài.

Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Ai nghe lời Ta và tin Ðấng đã sai Ta, thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống.

Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi, vì đến giờ và ngay bây giờ, kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai đã nghe thì sẽ được sống. Cũng như Chúa Cha có sự sống nơi chính mình thế nào, thì Người cũng cho Chúa Con có sự sống nơi mình như vậy, và Người đã ban cho Chúa Con quyền xét xử, vì Ngài là Con Người. Các ngươi đừng ngạc nhiên về điều này, vì đến giờ mọi kẻ trong mồ sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa và ra khỏi mồ; kẻ đã làm việc lành thì sống lại để được sống, còn kẻ đã làm việc dữ thì sống lại để bị xét xử.

Ta không thể tự mình làm điều gì. Nghe sao, Ta xét xử vậy.

Và án Ta xử thì công minh, vì Ta không tìm ý riêng Ta, mà tìm ý Ðấng đã sai Ta.”

TRUYỆN KỂ

1. Không thể làm gì tự mình

Văn Cao chẳng những là một nhạc sĩ tài hoa, mà còn là một họa sĩ, một văn sĩ, một thi sĩ.

Có một bài thơ rất ngắn ông làm năm 1967, mang tựa đề là Không Đề.

Con thuyền đi qua

để lại sóng

đoàn tàu đi qua

để lại tiếng

đoàn người đi qua

để lại bóng

tôi không đi qua tôi

để lại gì?

Theo Văn Cao, chỉ ai đi qua mình, dám vượt qua cái tôi của mình,

người ấy mới có gì để lại cho hậu thế.

2. Công Việc Của Cha.

Một họa sĩ chuyên vẽ chân dung nọ di chuyển đến một thành phố nhỏ với hy vọng tìm được nhiều khách hàng.

Vừa đến trước cửa thành, ông gặp ngay một người say rượu. Hai bên trao đổi với nhau và người say rượu đồng ý cho người họa sĩ vẽ chân dung của mình. Dù say túy lúy, gương mặt hốc hác, quần áo xốc xếch, người say rượu vẫn còn có thể ngồi yên để nhà họa sĩ làm việc. So với những khách hàng khác, thì đây là bức chân dung mà nhà họa sĩ phải tốn nhiều thời giờ nhất để vẽ.

Đứng ngắm tác phẩm vừa được hoàn thành, người say rượu không thể cầm được sự ngạc nhiên: thay cho gương mặt chán đời của mình, anh thấy trong vức chân dung một nụ cười tươi tỉnh lạc quan; thay cho cách ăn mặc cẩu thả của mình, anh thấy mình được khoác lên một bộ quần áo lộng lẫy.

Nhìn vào bức chân dung một lúc, anh lắc đầu và nói: “Người trong hình không phải là tôi.”

Nhà nghệ sĩ trả lời một cách khéo léo vì đã biết nhìn xuyên qua bề ngoài để thấy vẻ đẹp nội tâm: “Thưa ông, đây là con người mà ông phải đạt đến.”

Mùa chay là mùa của thanh luyện, của hoán cải. Giáo Hội mời gọi chúng ta trở về: trở về với Chúa, với anh em, với bản thân. Tựu trung tội lỗi là một chối bỏ Thiên Chúa, khước từ anh em, đánh mất bản thân.

3. Để được sống đời đời.

Một lần kia, thánh Gioan Boscô hỏi các học sinh của ngài đang chơi đùa: “Nếu ngay bây giờ các con biết mình sắp chết, các con sẽ làm gì?”

Một số trả lời sẽ đi vào nhà thờ cầu nguyện, một số khác cho biết sẽ đi xưng tội để dọn mình chết lành.

Riêng thánh Đaminh Saviô điềm nhiên trả lời: “Nếu trong giây lát con sẽ chết, con vẫn tiếp tục cuộc chơi.”

Sở dĩ như vậy là vì Đaminh Saviô luôn nhận ra thánh ý Chúa trong từng giây phút và đánh giá mọi sự dưới khía cạnh đời đời.

Đó cũng là thái độ để nêu gương cho các môn đệ: “Này con xin đến để thực thi ý Chúa.”

4. Cái nhìn hy vọng

Tác giả Đường hy vọng đã khuyến khích những người con tinh thần của mình như sau: “Hãy nhìn mọi sự với con mắt của Thiên Chúa, con sẽ thấy giá trị khác, kích thước khác. Sự điên dại trước mặt loài người là sự khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa.

Khó nghèo, vâng phục, hãm mình, nhịn nhục, bác ái, tha thứ, khiêm tốn, là khờ dại trước mặt người đời nhưng lại cao trọng trước mặt Thiên Chúa.

Thế gian cho là xui, Chúa cho là phúc thật. Thành công con cám ơn Chúa, thất bại con cũng cám ơn Chúa. Hãy vui tươi vì chính khi thất bại là lúc Chúa muốn thử xem con làm vì Chúa hay vì ý riêng.

Vui vẻ can đảm lúc thất bại khó khăn hơn là lúc may mắn, hạng anh hùng này con đếm được trên đầu ngón tay.”

5. Tin tưởng phó thác.

Có một gia đình nọ sống giũa đồng không mông quạnh. Vào một đêm kia, căn nhà bốc cháy dữ dội. Cha mẹ, con cái vội vã chạy ra ngoài sân và đứng bất lực nhìn ngọn lửa thiêu rụi tổ ấm gia đình họ.

Bỗng mọi người chợt nhận ra còn thiếu đứa bé nhất. Thì ra cậu bé cũng chạy ra với mọi người, nhưng chưa tới cửa, thấy lửa cháy dữ quá nên lại chảy trở lên lầu. Trong lúc cả gia đình hốt hoảng không biết phải làm sao để cứu cậu bé năm tuổi, vì lửa bao vây tứ phía, bỗng cửa sổ trên lầu mở toang, và cậu bé kêu khóc inh ỏi. Cha cậu bé gọi lớn tên con, rồi nói:

- Con nhảy xuống đây!

Cậu bé nhìn xuống dưới chỉ thấy khói mù và lửa cháy, nhưng nghe tiếng cha kêu, liền trả lời:

- Ba ơi, con không trông thấy ba đâu hết!

Người cha trả lời giọng cương quyết:

- Cứ nhảy đi, có ba trông thấy con là đủ rồi.

Và cậu bé leo lên cửa sổ, liều nhảy xuống, rơi vào vòng tay yêu thương vạm vỡ của cha mình một cách an toàn.

6. Vâng phục là tự do chọn điều Chúa muốn

Một thiếu niên đi xem đấu bóng với Cha sở, nói với Cha rằng anh không thích vâng phục. Anh nói: “Thưa Cha, con rất ghét ai bảo thế này, thế nọ. Không có tự do trong việc này.”

Cha sở không nói một lới. Liền sau đó, họ gặp một biển chỉ đường hướng đi đến sân chơi. Cha sở làm như không thấy, cậu bé la lên:

“Chúng ta đi sai đường! Thưa Cha, Cha không thấy dấu đàng kia à!”

Cha sở bình tĩnh trả lời: “Cha thấy chứ, nhưng Cha nghĩ đường này xem ra tốt hơn, và Cha ghét bị ai chỉ bảo đi đường này, đường kia bởi một biển chỉ đường cũ kĩ. Nó không cho Cha tự do hành động.”

Cậu bé nhận ra bài học, và họ vòng trở lại đi vào hướng sân chơi

7. Làm việc là cộng tác với Chúa

Một hoàng đế nọ cỡi ngựa vào rừng săn bắn. Khi đi ngang qua ngọn đồi gần bìa rừng, ông trông thấy một cụ già râu tóc bạc phơ đang cặm cụi đào lỗ trồng cây, Hoàng đế liền thắng ngựa và lớn tiếng bảo cụ già:

- Chắc hẳn là ngươi không mong đợi được ăn trái của cây ngươi đang trồng hôm nay chứ!

Cụ già thản nhiên đáp:

- Hạ thần không bao giờ thất vọng về điều đó; bao lâu hạ thần còn được Thượng Đế ban cho sinh lực, bấy lâu vẫn tiếp tục hy vọng và chu toàn bổn phận của hạ thần.

Hoàng đế tò mò hỏi thêm:

-Thế ngươi năm nay bao nhiêu tuổi?

Cụ già đáp:

-Tâu Hoàng Thượng, năm nay hạ thần vừa tròn một trăm tuổi, biết đâu Thượng Đế còn cho hạ thần sống thêm một ít năm nữa để hưởng dùng trái cây này. Dù sao, mỗi khi trồng cây, hạ thần không làm gì hơn là tiếp tục công trình sáng tạo của Thượng Đế, Đấng đã truyền cho trái đất trổ sinh hoa trái phong phú.

Thán phục lòng tin của cụ già chất phác đơn thành, hoàng đế nói tiếp:

- Nếu ngươi còn thọ tới ngày cây vả này trổ hoa kết trái, ngươi hãy cho ta biết.

Ít năm sau, quả thực cây vả đã bắt đầu nở hoa, rồi kết trái đầy cành. Đợi tới ngày trái vả chín ngọt, cụ già hái đầy một giỏ, rồi lên đường tới đền vua. Tới cổng, lính canh từ chối không cho cụ già nghèo hèn vào chầu, nhưng cụ già nài nỉ phân trần đầu đuôi câu chuyện, và rồi vì kính nể tuổi già tóc bạc, sau cùng mấy anh lính tháp tùng cụ già vào triều yết vua. Cụ già khiêm tốn cúi mình trước ngai vua và nói:

- Tâu Hoàng Thượng, hạ thần là ông già khom lưng trồng cây bên bìa rừng mà Hoàng Thượng đã gặp mấy năm trước đây. Hôm nay, hạ thần xin kính dâng Hoàng Thượng những trái chín ngọt đầu mùa của cây vả mà hạ thần đã trồng hồi năm ấy.

Nhà vua vui mừng nhận ra cụ già và rất hài lòng với món quà cụ kính dâng, nhất là với lòng trung tín và sự cần cù của cụ. Ngài vui vẻ đổi lại cho cụ già cái giỏ đầy những đồng tiền vàng và nói:

- Hỡi người trung tín và đáng kính phục, hãy trở về nhà bình an và tiếp tục cộng tác với Thượng Đế toàn năng trong cuộc sáng tạo của Người.

Thứ Năm tuần 4 MC

Lời Chúa: Ga 5, 31-47

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với dân Do-thái rằng: "Nếu chính Ta làm chứng về Mình, thì chứng của Ta sẽ không xác thực. Có một Ðấng khác làm chứng về Ta, và Ta biết chứng Người làm về Ta thì xác thực. Các ngươi đã sai người đi hỏi Gioan, và Gioan đã làm chứng cho sự thật.

Phần Ta, Ta không cần chứng của loài người, nhưng Ta nói những điều này để các ngươi được cứu thoát. Gioan là cây đèn cháy sáng. Các ngươi cũng muốn vui hưởng ánh sáng đó một thời gian.

Nhưng Ta có một bằng chứng hơn chứng của Gioan: vì công việc Chúa Cha đã giao cho Ta hoàn thành, là chính công việc Ta đang làm. Các việc đó làm chứng về Ta rằng Chúa Cha đã sai Ta. Và Chúa Cha, Ðấng đã sai Ta, chính Người cũng làm chứng về Ta. Nhưng chưa bao giờ các ngươi được nghe tiếng Người, chưa bao giờ nhìn thấy mặt Người, và lời Người, các ngươi cũng chẳng giữ lại được, vì các ngươi không tin Ðấng Người đã sai đến. Các ngươi tra cứu Sách Thánh, vì tưởng rằng trong đó các ngươi sẽ tìm thấy sự sống muôn đời; chính Sách Thánh lại làm chứng về Ta, vậy mà các ngươi vẫn không chịu đến với Ta để được sống.

Ta không tìm vinh quang nơi loài người. Nhưng Ta biết các ngươi không có lòng yêu mến Thiên Chúa. Ta đến nhân danh Chúa Cha, nhưng các ngươi không chịu đón nhận. Nếu có một người nào khác nhân danh mình mà đến, các ngươi sẽ đón nhận nó. Các ngươi là những người nhận vinh quang lẫn nhau mà không tìm vinh quang do một Thiên Chúa, thì làm sao các ngươi có thể tin được? Các ngươi đừng tưởng rằng Ta sẽ tố cáo các ngươi với Chúa Cha. Kẻ tố cáo các ngươi là Môsê, tức là người mà các ngươi vẫn tin tưởng. Vì nếu các ngươi tin Môsê, thì có lẽ các ngươi cũng đã tin Ta, bởi vì chính Môsê đã viết về Ta. Nhưng mà nếu các ngươi không tin điều Môsê đã viết, thì làm sao các ngươi tin lời Ta được?"

TRUYỆN KỂ

1. Để Lời Chúa tra vấn

Ngày nọ, có một nhóm người nghĩ là “Thiên Chúa đã chết” nên họ muốn cử hành lễ nghi an táng cho Người.

Họ nhờ bác phu già trông coi nghĩa trang đào sẵn cho họ một cái huyệt. Hiện diện trong buổi lễ, ngoài bác phu già, còn tất cả đều là những vị thuộc giai cấp tri thức trong xã hội: triết gia, giáo sư, văn sĩ, kỹ sư v.v…

Khi người chủ trì cất tiếng khai mạc lễ nghi an táng thì bác phu già kêu lên:

- Không thể được, vì quan tài chưa đến.

- Thiên Chúa vô hình thì cần gì đến quan tài để tẩn liệm.

Một vài người chạy lại kéo ông ra xa, nhưng vừa vùng vẫy ông vừa la lớn:

- Không, Thiên Chúa không chết! Thỉnh thoảng khi không ngủ được tôi vẫn hay ra đây ngồi và nghe tiếng tim Ngài đập. Nếu không tin, tối nay quí vị hãy tụ họp lại đây, quí vị sẽ thấy.

Động tính hiếu kỳ, họ bỏ dở buổi lễ và hẹn nhau ban tối sẽ quay trở lại. Tối hôm ấy, tiếng ồn ào bên ngoài vọng lại khiến cho họ không thể phân biệt đâu là tiếng đập của quả tim Thiên Chúa đâu là tiếng của những thứ khác. Sau đó họ dời điểm tụ họp đến một vùng quê. Thế nhưng, vắng tiếng động của thành phố thì lại có tiếng của côn trùng. Sau cùng, họ quyết định gặp lại nhau một đêm khác trong sa mạc. Giữa bầu khí tĩnh mịch của sa mạc về đêm, mọi người đều cảm thấy mình được cất khỏi những gánh nặng lo toan, cũng không bị chi phối bởi một tiếng động nào.

Trở về với cõi lòng, họ chăm chú lắng nghe. Tâm hồn họ như hòa nhập với không trung bát ngát. Ngồi thinh lặng nhưng họ cảm thấy gần nhau. Bỗng một người la to:

-Tôi đã nghe thấy!

Và, nhiều người khác phụ họa:

- Có, tôi cũng đã nghe.

Một người khác nữa phân tích:

- Âm thanh của nó giống như âm thanh của mỗi lần tôi cố gắng trở nên hoàn thiện.

Họ đã tin lời nói của bác phu già, và nhất là đã tìm lại được niềm tin nơi Thiên Chúa.

2. Tin vào Con của Người

Vị thẩm phán đến thi hành nhiệm vụ tại một thị trấn nọ, ông thường bị một luật sư kiêu căng ở đó chế nhạo, khích bác.

Tại một bữa ăn tối, có người hỏi vị thẩm phán sao không có biện pháp mạnh đối với viên luật sư kia. Vị thẩm phán bèn dừng bữa, một tay chống cằm, một tay để trên bàn, kể chuyện:

“Chỗ tôi ở có một bà góa nuôi một con chó. Con chó thật xinh, nhưng có tật là hễ thấy ánh trăng là nó tru lên. Có khi suốt cả đêm.”

Kể tới đó, ông ngừng lại và ăn tiếp. Tò mò, một người hỏi:

“Này ông thẩm phán, rồi con chó và mặt trăng ra sao?”

“Con chó cứ tru và mặt trăng cứ tiếp tục tỏa sáng.”

3. Nghe cho biết và vâng theo ý Chúa Cha

Một thợ săn lạc trong rừng nhiều lần. Một người bạn mua cho anh ta một la bàn. Dù vậy anh thợ săn trẻ vẫn bị lạc. Khi tìm thấy, người bạn hỏi xem anh ta có mang theo la bàn không. Anh bảo có.

-Tại sao anh không dùng nó?

-Tôi không dám. Tôi muốn đi về hướng Nam và cố giữ cho kim chỉ hướng Nam. Nhưng không được. Nó luôn lắc qua và chỉ hướng Bắc.

Nhiều người mong Thánh kinh chỉ hướng họ muốn đi, hơn là hướng Thánh kinh muốn họ đi.

4. Biết tìm ý Chúa hơn ý mình

Có lần nhà văn Mart Twain nói: “Nhiều người lấy làm buồn phiền vì không hiểu một đoạn Thánh kinh nào đó. Phần tôi, tôi thấy rằng những đoạn Thánh kinh làm tôi bối rối nhất là những đoạn mà tôi cho là mình đã hiểu.”

Muốn đọc Sách thánh mà thấy được Chúa, ta phải bỏ đi hết mọi thành kiến có sẵn, phải khiêm tốn để cho Lời Chúa tra vấn mình, phải can đảm từ bỏ những gì Chúa đòi hỏi, và phải kiên trì thực hiện những điều Chúa dạy.

5. Đọc Thánh Kinh với trái tim

Tại một làng thuộc vùng Lorraine, miền Đông Bắc nước Pháp, có một nông dân không có niềm tin, một hôm gặp ông thầy giáo làng đang đi dạo mát, ông ta tiến lại trước mặt ông thầy này và gây sự bằng một giọng đầy khiêu khích:

- Hôm qua, thầy đã dạy cho bọn trẻ trong làng những điều hay quá: “Nếu ai đánh ngươi má bên mặt, thì hãy chìa luôn cả má trái cho nó”(Mt 5,39).

- Lời đó đâu phải là do tôi - Thầy giáo đáp - đó là điều Chúa nói trong Tin Mừng chứ!

Thầy giáo vừa dứt lời thì người nông dân kia bất ngờ tát cho thầy hai cái, vì từ lâu anh đã có nhiều điều tức khí với thầy giáo làng.

Cách đó không xa, ông chủ tịch xã đang đi với nhân viên, nhìn thấy cảnh đó, liền nói với một anh nhân viên:

- Joseph, anh lại đó xem, hai người đang tranh chấp với nhau chuyện gì vậy?

Lúc Joseph vừa đến gần hai người, thì cũng chính là lúc thầy giáo làng giơ tay giáng trả hai cái tát nẩy lửa vào mặt người nông dân, kèm theo lời trích dẫn của Kinh Thánh:

“Cũng có lời chép: Ngươi lấy đấu nào mà đong cho anh em, thì cũng sẽ được đong lại bằng đấu ấy. Một đấu được lắc, được dằn sẽ đổ xuống trên lưng ngươi.” (Lc 6,38).

Joseph vội vàng trở lại báo cho ông chủ tịch:

- Thưa ông, chẳng có chuyện gì đáng kể. Họ đang tranh nhau chú giải Kinh Thánh!

Vâng, nếu chúng ta đọc Kinh Thánh với một tà ý thì Kinh Thánh sẽ chẳng mang lại ích lợi gì cho chúng ta. Ngược lại, nếu chúng ta đọc với một sự thành tâm thì Lời Chúa sẽ trở thành luơng thực, thành ánh sáng cho cuộc đời của ta.

6. Khát điều chi

Một tu sĩ hằng cầu nguyện thiết tha đêm ngày với Chúa: “Lạy Chúa, con chỉ ước được nhìn thấy Chúa”, mãi lâu sau Chúa mới chiều ý thầy: Thầy tận mắt nhìn thấy Ngài vô cùng sáng láng vinh hiển, đang lúc thầy ngây ngất chiêm ngưỡng tôn nhan Chúa, Chúa lên tiếng hỏi:

- Con có muốn theo Cha không?

- Dạ nếu được, thì còn gì sung sướng hơn.

Thầy theo Chúa đi một quãng xa, Ngài nói:

- Cha khát nước quá, con kiếm đâu được nước?

- Dạ con đi ngay.

Sau một ngày thầy đi tìm nước mà chưa thấy dòng suối nào hay con sông nào, nhưng thầy vẫn kiên nhẫn, ba ngày sau thầy gặp được một dòng nước trong vắt, thầy vui mừng múc nước vào bình để đưa về hầu Chúa. Đang lúc đó, một thiếu nữ rất xinh đẹp trong vùng cùng tới chỗ thầy để lấy nước, nàng bị trượt chân té, thầy vội đỡ nàng dậy và hai người bắt chuyện…. Lát sau cô nàng mời thầy về nhà dùng bữa, thầy quá sung sướng nên ngỏ lời với cha mẹ cô xin cưới cô làm vợ. Ba năm sau, có dịp thầy đưa vợ con đi dạo, gặp thấy Chúa Giêsu đang ngồi bên vệ đường chờ thầy cho uống nước, thấy thế ông hối hận đến xin lỗi Chúa. Chúa trả lời:

- Cha đã chờ con quá lâu, tưởng chết khát, may có người lạc đạo xứ Samari đưa nước cho Cha uống (x. Ga 4). Còn con, con đã kiếm được vợ đẹp hấp dẫn hơn Cha, thì con cứ trung thành với người con yêu cho đến chết!

Nếu thầy đã từng mơ ước được gặp Chúa Giêsu, dù thầy có gặp được người yêu, sao thầy không đưa cô nàng đến gặp Chúa ngay, cùng với hai bình nước của chàng và nàng, chắc chắn Chúa vui lắm! Tiếc thay, thầy đã chọn đàn bà hơn chọn Chúa!

7. Hương ngược gió

Trong bài Hương ngược gió, tác giả, một Phật tử, kể chuyện bố chồng cô bị bệnh tim, hay ngất xỉu. Mỗi lần như thế, các giáo dân một xóm đạo ở Thốt Nốt (Cần Thơ) luôn giúp đỡ gia đình cô. Chứng kiến người Ki-tô hữu sống yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, người Phật tử ấy rất cảm kích và muốn kể lại như một lời chứng (Tuổi Trẻ Chủ Nhật ngày 10/1/1999). Thật vậy, dân chúng thời nào cũng đòi hỏi cuộc sống chứng tá của các Ki-tô hữu. Đã lãnh nhan bí tích thánh tẩy, người Ki-tô trở nên người môn đệ-nhà truyền giáo được Chúa chọn và sai đi loan báo Tin Mừng. Chứng tá cao đẹp và đáng tin cậy nhất là khi đời sống hằng ngày sóng đôi với việc tuyên xưng niềm tin. “Hương thơm của các loài hoa không bay ngược gió. Chỉ có hương người đức hạnh mới ngược gió tung bay.”

Bạn được Thiên Chúa chọn và giao phó sứ mạng làm chứng cho Chúa. Vậy lời bạn nói, việc bạn làm, suy nghĩ của bạn có phản ánh Tin Mừng của Chúa Giê-su? Đâu là cách bạn thể hiện đức tin đáng cho kẻ khác tin?

8. Sức mạnh chứng tá của việc làm

Một học sinh trung học hỏi một linh mục ở giáo xứ Plano, Texas rằng anh ta phải làm gì để có thể gia nhập giáo xứ. Vị linh mục hỏi anh: “Tạo sao con muốn gia nhập giáo xứ này?” Người học sinh trả lời: “Bạn bè con là tín hữu thuộc nhiều giáo xứ khác nhau, nhưng những người thuộc giáo xứ này nổi hơn. Họ là những người con kính trọng. Con đang tìm kiếm một giáo xứ để gia nhập. Khi con thấy các bạn trẻ ở giáo xứ này hoạt động, con quyết định gia nhập.”

Chúa Giêsu thường nói về những gương sáng và sức lôi kéo của nó đối với người khác.

Bằng cách quan sát gần gũi, có ai được lôi kéo để gia nhập giáo xứ tôi đang sống không?

Hoa không sinh ra rễ, nhưng rễ sinh ra hoa. Hoa là bằng chứng về tầm quan trọng của rễ. (Woodrow Wilson)

10. Tình yêu nào thúc đẩy tôi?

Mẹ Clara Hale, 80 tuổi, làm việc như người mẹ nuôi của hơn 500 đứa trẻ được sinh ra bởi những người mẹ nghiện ma túy. Mẹ chăm sóc chúng cho đến lúc mẹ cũng có thể làm được việc này. Những đứa bé ấy đã bước vào đời với bệnh nhiễm ma túy trong người chúng. Điều đó khiến cho công việc của mẹ Hale càng khó khăn hơn.

Mẹ nói: “Khi một đứa trẻ khóc đòi thuốc, tất cả những gì tôi có thể làm là ôm chặt nó và nói: “Mẹ yêu con, Thiên Chúa yêu con, và mẹ của con cũng yêu con. Vấn đề là hãy để cho mẹ con một thời gian nữa.”

Công việc của mẹ Hale chứng tỏ tình yêu của mẹ dành cho trẻ thơ. Công việc của Chúa Giêsu minh chứng tình yêu của Ngài đối với Chúa Cha. Vậy công việc của tôi minh chứng cho tình yêu nào?

Hãy làm việc như mọi sự thuộc về bạn. Hãy cầu nguyện như thể mọi sự thuộc về Chúa. (Thánh Ignatiô Loyola)

11. Thành tích và sự thật

Trong bài viết Lỗ Hổng Giáo Dục trong Dạy Người (Tuổi Trẻ Cuối Tuần, số 04-07 ra ngày 28-1-2007), tác giả Nguyễn Thị Oanh nói đến bệnh thành tích (trưng ra những kết quả không đạt được để lấy điểm), bệnh hình thức (khoe cái không có về thực chất), nạn gian lận thi cử, bằng cấp giả, và sự kiện “sự dối trá được bình thường hóa đến nỗi người dân cũng im bặt cho đến những năm gần đây” (tr. 22). Phải chăng đây là hội chứng “tôn vinh lẫn nhau” mà Chúa Giê-su đã vạch ra nơi người Do Thái? Nếu thế, phương thuốc chữa trị phải là đi tìm “vinh quang phát xuất từ Thiên Chúa,” tức là phải tôn trọng sự thật, tránh xa sự dối trá dưới mọi hình thức.

Nếu dối trá gây ung nhọt thối tha cho gia đình và xã hội, thì sự thật chữa trị và làm cho người ta lớn lên cách lành mạnh. Điều cần thiết là không được bình thường hóa những hình thức dối trá, không coi đó là một “giá trị” trong đời sống. Là người ki-tô hữu, chúng ta tôn thờ Thiên Chúa là nguồn Chân-Thiện-Mỹ. Chúng ta tin tưởng rằng: dưới ánh sáng Lời Chúa và với ơn Chúa, chúng ta có thể vạch ra và nhổ sạch những gốc rễ gian dối đang bám sâu trong con người và xã hội chúng ta.

Thứ Sáu tuần 4 MC

Lời Chúa: Ga 7, 1-2. 10. 25-30

Khi ấy, Chúa Giêsu đi lại trong xứ Galilêa; Người không muốn đi lại trong xứ Giuđêa, vì người Do-thái đang tìm giết Người. Lúc đó gần đến lễ Trại của người Do-thái. Nhưng khi anh em của Người lên dự lễ rồi, thì Người cũng đi, nhưng không đi cách công khai, mà lại đi cách kín đáo.

Có một số người ở Giêrusalem nói: "Ðây không phải là người họ đang tìm giết sao? Kìa ông ta đang nói công khai mà không ai nói gì cả. Phải chăng các nhà chức trách đã nhận ra ông ta là Ðấng Kitô? Tuy nhiên, ông này thì chúng ta biết rõ đã xuất thân từ đâu. Còn khi Ðấng Kitô tới, thì chẳng có ai biết Người bởi đâu.”

Vậy lúc bấy giờ Chúa Giêsu đang giảng dạy trong đền thờ, Người lớn tiếng nói rằng: "Phải, các ngươi biết Ta, và biết Ta xuất thân từ đâu; Ta không tự Ta mà đến, nhưng thực ra, có Ðấng đã sai Ta mà các ngươi không biết Ngài. Riêng Ta, Ta biết Ngài, vì Ta bởi Ngài, và chính Ngài đã sai Ta.” Bởi thế họ tìm cách bắt Chúa Giêsu, nhưng không ai đụng tới Người, vì chưa tới giờ Người.

TRUYỆN KỂ

1.. Âm mưu giết Chúa

Ma quỉ luôn muốn thống trị thế giới. Nó khuất phục kẻ ác để tăng thêm quân số. Và tiêu diệt người lành để giảm bớt chướng ngại.

Lý do đầu tiên là kẻ lành cản trở kẻ dữ làm điều ác: “Ta hãy gài bẫy hại tên công chính, vì nó chỉ làm vướng chân ta, nó chống lại các việc ta làm, trách ta vi phạm lề luật, và tố cáo ta không tuân hành lễ giáo.”

Lý do thứ hai là vì đời sống của kẻ lành phê phán lối sống của kẻ dữ: “Nó như kẻ luôn chê trách tâm tưởng của ta,… lối cư xử của nó hoàn toàn lập dị. Nó coi ta như bọn lọc lừa, tránh đường ta đi như tránh đồ dơ bẩn.”

Lý do thứ ba là vì người lành thuộc về Thiên Chúa. Còn kẻ ác thuộc về ma quỉ. “Nó huênh hoang vì có Thiên Chúa là Cha. Ta hãy coi những lời nó nói có thật không, và nghiệm xem kết cục đời nó sẽ thế nào.”

Lý do thứ tư là vì muốn thử thách xem người lành có thật hiền lành không. “Ta hãy hạ nhục và tra tấn no, để biết nó hiền hoà làm sao, và thử xem nó nhẫn nhục đến mức nào.”

Nhiều phe nhóm toa rập với nhau để giết chết Chúa Giêsu. Tuy nhiên đó lại là ý định của Thiên Chúa. Chúa Giêsu tự nộp mình chịu chết để chuộc tội nhân loại. Vào âm phủ để chiến thắng tử thần. Chết đi để tiêu diệt cái chết.

2. Ta bởi Ngài, chính Ngài sai Ta

Năm 1958, sau khi Đức Giáo hoàng Piô XII qua đời, các báo chí mô tả ngài như một ngôi sao sáng chói đã lịm tắt, vì ngài xuất thân từ một gia đình quý tộc, hấp thụ một nền văn học uyên thâm và đã để lại bao nhiêu công trình lớn lao cho hậu thế, và cho Giáo hội.

Cơ Mật Viện đã bầu Đức Giáo hoàng Gioan XXIII lên kế vị. Giáo hoàng này xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo, với hình dáng mập mạp, quê mùa, chất phác. Người ta bảo, đây chỉ là vị Giáo hoàng chuyển tiếp cho một vị Giáo hoàng khác có tầm cỡ như vị tiền nhiệm của ngài. Nhưng có ngờ đâu con người khiêm tốn, bình dân, giản dị và vui tươi ấy đã thu hút mọi người. Và nhất là với Công đồng Vaticanô II mà ngài đã triệu tập, Giáo hoàng Gioan XXIII đã trở thành một “siêu sao” của thời đại, vượt trội hơn các vị tiền nhiệm của mình.

3. Aristide người công chính.

Aristide là một tướng lãnh và chính trị gia nổi tiếng thanh liêm tại Hy Lạp vào thế kỷ V trước công nguyên.

Ông thanh liêm đến nỗi cả nước đã tặng cho ông một danh hiệu cao quí là “Aristide người công chính.” Nhưng ông càng được nhiều người ca tụng thì lại càng bị nhiều người ganh tị chống đối. Ông bị tướng Ténistoles âm mưu muốn triệt hạ ông. Người ta muốn cho Aristide bị kết án và bị lưu đầy trong vòng 10 năm. Bản án đã được thi hành bằng một trò chơi dân chủ quái ác.

Theo thể thức biểu quyết thông thường của người Hy Lạp thời cổ, mỗi một người công dân được phát cho một vỏ sò trên đó họ sẽ viết lên ý kiến của mình. Trong trường hợp của tướng Aristide, ai đồng ý cho ông bị lưu đầy, thì viết tên ông lên vỏ sò, và người ta sẽ đem nộp vỏ sò ấy tại một nơi công cộng giữa phố chợ.

Có một thị dân nọ không biết viết, thấy Aristide đang đứng ở một góc phố và chưa một lần biết mặt ông là ai. Thấy ông, người thị dân này đến nhờ ông viết tên của người bị kết án lên vỏ sò. Aristide viết tên của mình lên vỏ sò theo yêu cầu của người lạ mặt. Ông trao vỏ sò lại cho thị dân và hỏi ông ta:

- Tại sao ông lại bỏ phiếu ủng hộ việc lưu đầy Aristide?

Người đàn ông mới trả lời như sau:

- Tại sao tôi bỏ phiếu ủng hộ việc lưu đầy ông ta ư? Bởi vì tôi không chịu nổi sự kiện ai cũng gọi ông ta là Người Công Chính, thế thôi!

4. Cái chết mang lại hoa trái

Sáng ngày 19 tháng 3 năm 1994, tại phòng thánh nhà thờ xứ Casandi Pinsepê, gần thành Napoli miền trung nước Italia, cha Giuse Daiana đã bị sát hại bởi hai phát súng do bọn bất lương Camara bắn thẳng vào mặt đang lúc ngài sửa soạn cử hành thánh lễ kính thánh Giuse bổn mạng.

Cha Daiana là một linh mục trẻ mới ba mươi sáu tuổi. Tuy bị các băng đảng bất lương đe dọa, cha vẫn hăng say với sứ mệnh tông đồ của cha. Vào dịp lễ Giáng Sinh năm 1991, cùng với các cha xứ khác trong vùng Casatano cha đã ký tên gia nhập vào hội quyết tâm chống lại mọi hình thức tội phạm bất lương, nhất là bọn Camara, những kẻ dã man đang gây tang tóc khắp miền đó.

Trước cái chết của cha Daiana, trong bài giảng lễ an táng, Đức Cha Lorenso Chiaradinali - Giám mục giáo phận Avesa đã tóm tắt sứ mệnh tông đồ của Cha như sau: "Đau khổ và tin tưởng. Một cái nhìn xuống đất nơi thân xác đẫm máu của cha an nghỉ và một cái nhìn hướng thẳng lên cao nơi có Đấng đã chết trên Thập Giá, nhưng đã chiến thắng hận thù và sự chết. Môi trường tông đồ của cha đầy khó khăn vì những hình thức vô luân đồi bại, những tổ chức bất lương và những sức mạnh dã man nấp sau bóng tối. Sứ mệnh tông đồ của cha là sứ mệnh bẻ gẫy xiềng xích của tội ác để xây dựng công bằng và tình thương. Hoạt động tông đồ của cha bắt đầu từ công tác giáo dục đức tin, nỗ lực sống chứng tá Kitô, bảo vệ quyền lợi của người tha hương, nâng đỡ tinh thần, an ủi các bệnh nhân, và nhất là huấn luyện tuổi trẻ qua các sinh hoạt hướng đạo.”

Tinh thần hăng say và lòng quả cảm của cha Daiana đã cống hiến cho giới trẻ một lý tưởng cao thượng. Ngài đã biết gieo niềm vui và hy vọng nơi tâm hồn các bệnh nhân, biết chinh phục thiện cảm của giới trẻ bằng nụ cười dễ mến. Ngài cũng có tài hướng dẫn tinh thần, làm thay đổi các tâm hồn tận thâm sâu.

Với cái chết thảm thương của cha Daiana, bạo lực đã chạm tới bàn thánh. Bàn thờ của người tín hữu được dựng lên để tưởng nhớ cái chết của Chúa Kitô, Đấng đã chấp nhận chết vì tình yêu nhân loại. Cái chết của một linh mục cũng tương tự như thế. Đức Thánh Cha Gioan - Phaolô II đã nói về cái chết của cha Daiana như sau: "Như người công chính bị ngã gục, như tiếng kêu hùng hồn của lời tố cáo tội ác đã bị im bặt, như ngọn đèn sáng đã tắt lịm đi.”

Cha Daiana đã chết nhưng cái chết của cha đã không vô ích hay uổng phí. Ngài đã ngã xuống và được chôn vùi trong lòng đất. Thân xác của ngài chẳng khác gì hạt giống được mục nát đi để đem lại một mùa gặt phong phú hơn, mùa gặt của công lý, của an bình và của tình thương. Thật vậy, mấy hôm trước khi bị ám sát, khi trả lời cho một hướng đạo sinh đến để bày tỏ cho ngài biết về nguyện vọng muốn được theo đuổi ơn gọi linh mục, cha Daiana đã nói với anh: "Nếu thực sự con muốn trở thành linh mục, con phải luôn nhớ rằng, con sẽ phải trả giá rất đắt, nếu không thì con nên gột bỏ ước nguyện đó đi"

Và sau đó, khi đứng trước thi hài cha Daiana, cậu hướng đạo sinh ấy đã thành thật nói: "Nếu trước kia tôi còn do dự nghi ngờ thì giờ đây trước sự việc vừa xảy ra hôm nay và trước cái chết của cha Daiana tôi đã có một xác tín mới: Tôi phải trở thành linh mục.”

5. Gian dối sợ hãi

Trong một xứ Đạo nọ, có thằng Tèo bản tính thích chọc ghẹo người khác lấy làm đắc thắng. Lần kia, nó thấy một bà đi chợ về ngang qua Nhà Thờ, bà có thói quen ghé vào viếng Chúa và cầu khẩn trước tượng Đức Mẹ. Tèo thấy bà chăm chú cầu nguyện, nó cũng rón rén bước vào đứng đằng sau mà bà không hay biết, đang lúc bà lẩm bẩm cầu xin khấn vái. Tèo lớn tiếng gọi giật:

- Bà kìa, bà kìa, nhìn đi, Đức Mẹ đang cười với bà đó. Đó, đó…

Bà kia quay lại hỏi:

- Đâu cậu?

- Đó đó, bà nhìn kìa, Đức Mẹ đang cười đó, ô bà thật là người có phúc.

Bà kia gật đầu:

- Ờ ờ, đúng rồi, đúng rồi, con cám ơn Mẹ.

Thế là bà chạy về loan báo tin vui ấy cho cả xứ biết, mọi người ùn ùn kéo nhau đến Nhà Thờ để được chứng kiến phép lạ! Cha Sở thấy người ta kéo đến Nhà Thờ quá đông, ngài tìm hiểu, và biết được chính thằng Tèo loan báo tin đó đầu tiên. Ngài gọi Tèo đến và tra hỏi:

- Đức Mẹ cười con nhìn thấy trước hay bà kia?

- Thưa, cả hai người cùng thấy.

Cha Sở cho gọi người đàn bà đó vào và hỏi:

- Bà thấy phép lạ trước hay thằng Tèo?

- Dạ thưa cha, thằng Tèo thấy trước nó bảo con.

Thế là cha Sở hiểu ngay rằng thằng Tèo vẫn bày trò chọc ghẹo người ta, nên ngài nói với Tèo:

- Bây giờ con theo cha vào Nhà Thờ, cha để cuốn Sách Thánh trên bàn thờ, trước mặt Chúa, có cha chứng kiến, con phải đặt tay trên Sách Thánh thề điều con đã chứng kiến là sự thật. Nếu con thề gian, Chúa sẽ phạt con chết gục ngay dưới bàn thờ!

Tèo tái mặt phải theo cha Sở ra Nhà Thờ, sau khi ngài mặc áo Các Phép, đặt cuốn Sách Thánh lên bàn thờ và đốt nến đặt hai bên, rồi ngài nói:

- Bây giờ con đặt tay lên và thề.

Tèo run rẩy thưa:

- Dạ con xin lỗi cha Sở, con nói xạo để chọc bà cụ đó thôi!

Quả thật, kẻ sợ chết là đứa nói láo!

Vậy chỉ có ai nói sự thật mà chấp nhận chết, người đó mới thực giống Chúa Giêsu Thập Giá.

Thứ Bảy tuần 4 MC

Lời Chúa: Ga 7, 40-53

Khi ấy, sau khi nghe Chúa Giêsu giảng, có nhiều người trong đám dân chúng nói rằng: "Ông này thật là tiên tri.” Kẻ khác nói: "Ông này thật là Ðấng Kitô.” Người khác nữa lại nói: "Ðấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao? Nào Kinh Thánh chẳng nói: Ðấng Kitô xuất thân bởi dòng dõi Ðavit, và từ làng Bêlem, quê hương của Ðavit?"

Vì thế, dân chúng bất đồng ý kiến với nhau về Người. Trong số đó, có một ít kẻ định bắt Người, nhưng không ai dám ra tay bắt Người.

Vậy khi những người thừa hành đến với thượng tế và biệt phái, các ông này hỏi họ rằng: "Tại sao các ngươi không điệu nó tới?" Các người thừa hành thưa rằng: "Chẳng hề có ai nói như người ấy.” Các người biệt phái trả lời rằng: "Chớ thì các ngươi cũng bị mê hoặc rồi sao? Trong các vị thủ lãnh và các người biệt phái, có ai tin nó đâu? Chỉ có lũ khốn nạn đó nó không biết gì lề luật.”

Nicôđêmô là người đã tới gặp Chúa Giêsu ban đêm, cũng là người trong nhóm họ, nói với họ rằng: "Chớ thì luật của chúng ta có lên án cho ai mà không nghe họ, hoặc không biết rõ họ làm gì không?" Nhưng họ trả lời rằng: "Hay ông cũng là người Galilêa? Hãy đọc kỹ Kinh Thánh, ông sẽ thấy rằng không có tiên tri nào phát xuất từ Galilêa.” Sau đó ai về nhà nấy.

TRUYỆN KỂ

1. Đức tin phải có việc làm.

Blondin là một trong những tên tuổi của ngành xiếc tại Mỹ. Một trong những kỳ công đáng ghi nhớ nhất của anh là đã có thể đi trên một sợi dây qua thác Niagara là thác dài nhất và cao nhất thế giới. Trong một dịp biểu diễn, anh quay sang hỏi một cậu bé đứng gần đó: “Em có tin là tôi có thể mang một người trên vai và đi xuyên qua dòng thác không”? Giữa tiếng thác đổ âm ầm, cậu bé thét lên: “Vâng, cháu tin là chú có thể làm được điều đó.” Thế nhưng khi anh đề nghị mang cậu bé trên vai thì em lắc đầu từ chối, vì không đủ tin tưởng vào sự đảm bảo của người biểu diễn.

Cậu bé trên đây có thể là hình ảnh của rất nhiều người trong chúng ta khi phải trả lời cho câu hỏi của Đức Giêsu: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” Cũng như Phêrô khi đại diện cho các Tông đồ, chúng ta sẽ trả lời: “Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống.” Nhưng trong thực tế, thái độ sống của chúng ta có lẽ còn tương phản với lời tuyên xưng ấy. Chúng ta chưa là những Kitô hữu thực sự, nghĩa là chưa tin tưởng và sống theo lời mời gọi của Chúa”

2. Gieo gió thì gặt bão

Một hoàng đế nọ mở đại tiệc và nhiều người được mời. Đến giờ ăn, một cơn bão dữ dội ập tới và chẳng ai đến được. Tức giận với “thần bão”, hoàng đế ra lệnh cho lính bắn lên trời để trả thù.

Những mũi tên rơi trở lại và gây thương tích cho rất nhiều lính, còn thần mặt trời Jupiter không bị phương hại gì. Những lời than trách của chúng ta cũng giống như những mũi tên bắn lên Chúa. Chúng sẽ quay lại và làm ta thêm đau khổ..

3. Nhân chứng

Trong khi nhiều người chống đối Chúa Giêsu, nhiều người khác hoang mang không xác định rõ lập trường, thì Nicôđêmô đã can đảm lên tiếng bênh vực Ngài. Chung quanh chúng ta ngày nay, cũng có nhiều người chống đối hay chưa hiểu Chúa Giêsu. Tôi có can đảm như Nicôđêmô không? Dám can đảm làm nhân chứng cho Chúa đó là dấu chỉ của một con người có niềm tin và là một người nhận Chúa làm Chúa của cuộc đời mình.

Một hôm, bên Châu Mỹ Latinh, một linh mục cử hành thánh lễ trong vùng “ổ chuột.” Bài giảng hôm ấy được thực hiện dưới dạng đối thoại với anh chị em tín hữu, nhắm tới sự giao hòa. Thế là một cậu bé đã tuyên bố:

- Thưa các nhà thừa sai, chúng con cảm ơn các ngài, vì các ngài đã dạy chúng con yêu thương kẻ thù. Cách đây một tuần, con đã sắm sẵn một con dao để giết một thằng bạn mà con vẫn căm ghét. Nhưng sau khi nghe cha giải thích cho chúng con nghe bài Tin Mừng, con đã đi mua một chiếc bánh kem để tặng cho kẻ thù của con.

4. Yêu kẻ thù là dấu chứng cho niềm tin

Một chủng sinh trẻ người Liban đã bị giết cách đây vài năm, trên con đường đi về nhà để mừng lễ Giáng Sinh. Đó là nạn nhân của cuộc chiến tranh, huynh đệ tương tàn đang xảy ra tại quê hương anh.

Người ta đọc được những lời sau đây trong di chúc của anh: “Tôi thấy rồi, mình sẽ bị bắt cóc và sẽ bị giết trên đường để tới làng tôi. Tôi nói với mẹ và các chị em tôi: Xin mẹ và chị em đừng buồn. Chúng ta sẽ gặp lại nhau, chắc chắn mà, trong nơi vĩnh cửu trên trời. Con xin mẹ và các chị em một điều: Xin hãy tha thứ hết lòng cho những kẻ đã giết con. Ước gì máu con được đổ ra để chuộc được tội cho Liban. Ước gì cái chết của con dạy cho con người sống bác ái. Xin hãy cầu nguyện, hãy cầu nguyện, hãy cầu nguyện và yêu thương các kẻ thù.”

5. Tin thì tha thứ

Tại vùng Chouf (một miền thuộc xứ Liban, ở miền Nam Beyrouth), vào lúc cuối năm 1983, em Maria Khoury đã bị một kẻ cuồng tín bắt, hắn chĩa súng vào gáy em:

- Hãy chối Giêsu Kitô đi, rồi mày sẽ được sống.

Em trả lời:

- Tôi sẽ không chối Giêsu Kitô, Chúa của tôi. Tôi muốn trung thành với các lời hứa khi nhận phép rửa tội. Anh cứ việc bắn, nếu anh muốn.

Hắn đã nổ súng. Nghĩ rằng em đã chết, hắn bỏ em nằm đó trên vũng máu. Được cứu, nhưng bị mù và què quặt, em đã nói:

- Em tha thứ cho người bắn em, như em đã tha thứ cho người giết mẹ em và cho người đã giết cha em.

6. Đi tìm và gặp chân lý

Đại tướng Lew Wallace, một đảng viên cao cấp của đảng Cộng sản vô thần. Lần kia ông nói với người bạn rằng: “Bọn Công Giáo thật ngu đần, chúng tôn thờ một tử tội bị treo trên thập giá là ông Giêsu! Chúng lại mê đọc sách của bọn vô học thức là Nhóm 12 môn đệ của ông ta (x Cv 4, 13). Sách này toàn là chuyện mê tín, trái khoa học! Tôi sẽ để ra 5 năm đọc sách ấy, và tôi quyết mở mắt cho bọn Công Giáo khỏi bị mù quáng, để chúng được sáng suốt như tôi!”

Thế nhưng, sau 5 năm nghiên cứu Thánh Kinh, kết quả ngược lại, thay vì ông mở mắt cho người Công Giáo, thì chính ông lại được Đức Giêsu mở mắt, ông nhìn thấy lúc Đức Giêsu bị đâm, nước và máu từ cạnh sườn dốc ra hết, lúc ấy có một trận mưa rào như trút nước, chuyển tải máu Đức Giêsu từ đỉnh đồi Sọ chảy xuống thung lũng có những người cùi ra tắm mưa, ai đằm mình trong nước đó đều được lành mạnh.

Chuyện này đã được đóng thành phim có tựa đề “Benhur” rất nổi tiếng! Ông Lew Wallace trở thành chứng nhân cho Đức Giêsu: Chỉ có Ngài mới thực là Đấng Cứu Độ!

Đây cũng là chứng từ một người có ý xấu đi tìm ý Chúa để phản đối, thì lại được Chúa hoán cải nên chứng nhân sống động cho Tin Mừng.

7. Tôn trọng sự thật

Gần 28 triệu lượt người đã xem trên Youtube về cô bé 12 tuổi nói chuyện tại hội nghị quốc tế về môi trường tại Rio de Janeiro năm 1992. Cô bé Severn Suzuki ấy đã nói về những gì mà người lớn đang làm và hủy hoại hành tinh này từng ngày từng giờ, và đang cướp mất sự sống của thế hệ tương lai.

Điều đáng ghi nhận là toàn thể cử tọa, gồm các quan chức của Liên Hiệp Quốc, đã ngoan ngoãn lắng nghe, bởi cô bé này nói đúng quá và thuyết phục quá.

Những người Pha-ri-sêu không có được thái độ tôn trọng sự thật như thế. Nghe các vệ binh trầm trồ về Ngài, họ bảo mấy anh này lú lẫn. Nghe dân chúng thán phục Ngài, họ bảo đúng là đám dân đen bị nguyền rủa. Rồi khi được Ni-cô-đê-mô là một người trong số họ nhắc nhở, họ lại cho rằng ông là kẻ ngốc nghếch. Người ta có thể cứng cỏi đến mức đó! Và sự cứng cỏi này dẫn đến cái chết của Con Thiên Chúa!

8. Tin và rao giảng lời Chúa

Những kẻ độc ác âm mưu chống lại Giêrêmia vì ông tiếp tục mời gọi họ thống hối. Ngay cả khi biết được âm mưu hại mình, ông vẫn không ngừng rao giảng. Ông đặt trọn niềm tin về Thiên Chúa. Và vì thế, ông là điềm báo trước về Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cũng kêu gọi người ta ăn năn sám hối, nhưng thay vì lưu tâm đến Ngài, họ lại âm mưu chống lại Ngài. Dù biết rõ âm mưu của họ, Chúa Giêsu vẫn không ngừng rao giảng, vì Ngài đặt tất cả niềm tin vào Thiên Chúa.

Niềm tin của tôi vào Thiên Chúa mạnh mẽ thế nào? Tôi có thể làm gì để nó mạnh mẽ hơn?

Dưới bóng Ngài, này con ẩn náu, tới khi nào hết tai họa khổ đau (Tv 56,1)

9. Kinh nghiệm để sống Lời Chúa

Đức Cha Pyung-Ho, chủ tịch Ủy Ban Loan Báo Tin Mừng Hàn Quốc chia sẻ kinh nghiệm nghe Lời Chúa cách đơn sơ của ngài. Đó là mỗi ngày học thuộc lòng một đoạn hay một câu Lời Chúa, rồi Chúa Thánh Thần sẽ làm cho Lời Chúa thấm vào tâm trí người nghe. Vị giám mục này còn xác tín rằng với phương cách đơn sơ như thế, mọi người đều có thể ghi nhớ, “nghe” được Lời Chúa và Giáo Hội chắc chắn sẽ có mùa xuân mới. Mời bạn bắt đầu phương cách đơn giản mà hữu hiệu này.

Phương cách nào giúp bạn dễ thuộc Lời Chúa?

Hãy viết một câu hay một đoạn Lời Chúa của Tin Mừng trong ngày và học thuộc lòng.

Lễ kính thánh Giuse

Lời Chúa: Mt 1, 16. 18-21. 24a

Giacóp sinh Giuse là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây:

Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo.

Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì Thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội.”

Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền.

TRUYỆN KỂ

1. Thánh Giuse, Người Cha Tuyệt Vời

Tác giả người Nga tên Mikhain Vanolov viết một truyện ngắn tựa đề “Người Cha” như sau: Trong gia đình chỉ có hai cha con. Người cha và cô con gái. Người cha rất thương yêu cô con gái của mình. Ông chăm sóc cô thật chu đáo. Nhưng cô lại rất khó chịu về sự chăm sóc quá tỉ mỉ của người cha già. Cô thường gọi cha mình là “ông già lẩm cẩm” khi ông nhắc nhở: ra đường nhớ đội mũ nón; đi đường mắc mưa thì về phải uống thuốc kẻo bệnh v.v…

Vì làm văn phòng cho một trường trung học nên cô gái thường về muộn. Dù mọi người đã ra về hết, nhưng cô gái vẫn phải ở lại để sắp xếp giấy tờ cho ổn định rồi mới ra về.

Hôm ấy, khi cô khóa cửa văn phòng để về thì trời bắt đầu tối. Khu trường học vắng tanh không một bóng người. Bỗng nhiên, trước mặt cô xuất hiện ba người đàn ông với bộ mặt hung dữ từ từ bước tới phía cô.

Cô gái sợ hãi hét lên cầu cứu và bỏ chạy ra phía chiếc xe hơi của cô đậu ở sân trường. Ba người đàn ông lập tức đuổi theo. Cô gái vừa chạy vừa đưa tay vào túi lấy chìa khóa. Nhưng vì quá run rẩy nên cô làm rớt chìa khóa xuống đất. Cô cúi xuống tìm kiếm. Nhưng mắt cô hoa lên không nhìn thấy gì cả. Đang khi đó, ba người đàn ông tiếp tục chạy về phía cô. Cô đành bỏ, không tìm chìa khóa nữa, chạy tiếp đến chiếc xe. Đến nơi, cô không biết làm gì hơn là đưa tay vào chiếc ví để tìm kiếm một cái gì đó có thể cứu cô trong lúc nguy hiểm này.

Thật kỳ lạ! trong một ngăn nhỏ của chiếc ví, tay cô chạm vào một vật bằng kim loại. Cô cầm lấy nó. Ồ! Chiếc chìa khóa! Không kịp suy nghĩ, cô cầm chìa khóa tra vào lỗ khóa. Cửa xe bật mở, cô lao vào xe và chiếc xe phóng đi. Ngay lúc ấy ba gã đàn ông phóng tới, nhưng không kịp. Thế là cô thoát nạn!

Về sau, cô gái mới biết: người “cha già lẩm cẩm” của cô đã đặt làm một chìa khóa khác và âm thầm bỏ vào ví cô, dự phòng lúc cô cần đến. Chiếc chìa khoá ấy đã cứu cô.

Câu chuyện trên gợi lên hình ảnh của một người cha hết lòng yêu thương chăm sóc con cái từ những việc nhỏ nhặt đến những việc lớn lao. Hình ảnh người cha ấy, cũng gợi lên hình ảnh người cha nuôi của Chúa Giêsu, thánh Giuse.

2. Người thợ tuyệt diệu cho mái ấm tình yêu

Để chăm sóc và dưỡng nuôi Chúa Giêsu và Mẹ Maria, thánh Giuse đã cần mẫn siêng năng trong âm thầm lặng lẽ nơi xưởng mộc. Người đã trở thành người thợ tuyệt diệu xây dựng “ngôi nhà của Chúa” và cũng là Mái Ấm Tình Yêu.

Trong tháng 3 năm 2004, Đài Truyền Hình Bình Dương hoàn tất bộ phim độc đáo mang tên: “Mùa Xuân Chim Bay Qua và Cất Tiếng Hát.” Bộ phim này hoàn toàn không có lời thoại vì diễn tả thế giới của người câm điếc. Vai chính là cô gái tên Ngọc Nhị ở Trung Tâm Giáo Dục trẻ khuyết tật Thuận An.

Trong phim có cảnh cô chụm hai bàn tay lại thành mái nhà đặt ngay trước mặt, diễn tả ước mơ mình có một mái ấm gia đình.

Bộ phim đã làm nhiều người xúc động.

Không phải chỉ bằng đôi tay, mà bằng cả trái tim, cả một đời cần lao vất vả trong thầm lặng, thánh Giuse đã tạo dựng một mái ấm gia đình đầy tình yêu thương. Người cùng với Mẹ Maria tạo thành “mái nhà” đầm ấm yên vui, nêu gương mẫu cho các gia đình chúng ta.

3. Cha tôi

Anh Vũ Đức Nghĩa đã viết một câu chuyện thật cảm động, có tựa đề: Cha tôi.

“Anh con trai đi làm được vài tháng, có dịp ghé thăm nhà. Bữa cơm chiều, anh cứ nhìn chăm chăm vào chiếc đồng hồ của cha. Người cha thầm nghĩ: ‘Chắc là con nó cần’.

Ăn cơm xong, người cha gọi con trai ra bàn uống nước, ông bảo: ‘Con mới đi làm, cũng cần biết giờ giấc’. Rồi ông tháo đồng hồ đưa cho con. Người con trai cầm đồng hồ, bấm lại hai nấc rồi đeo vào tay cha. Rơm rớm nước mắt, anh nghẹn ngào: ‘Dạo này ba gầy quá, dây đồng hồ tuột cả xuống bàn tay!’”

Người con đã có được tình thương đối với cha mình vì người cha luôn thể hiện được tình thương đối với con mình một cách hết sức nhạy bén. Và đấy là gia tài to lớn nhất mà người cha để lại cho con cái: Không phải là tiền bạc, mà chính là tình yêu thương và lòng đạo đức mới là quý giá nhất.

4. Những nụ hôn yêu thương

Noi gương Thánh Giuse, gia trưởng cũng nỗ lực trở nên người cha Yêu Thương. Muốn vậy, cần phải hiểu con, bằng không, yêu con mà kết quả lại làm hại con, như câu chuyện dưới đây:

“Có một người cha nghèo đã quở phạt đứa con gái 3 tuổi của mình vì tội lãng phí cả một cuộn giấy gói quà mầu vàng. Tiền bạc eo hẹp, người cha nổi giận khi đứa bé cắt cuộn giấy quý ra thành từng mảnh nhỏ trang trí một cái hộp.

“Sáng sớm hôm sau, đứa con gái nhỏ mang cái hộp đến nói với cha: ‘Hôm nay là sinh nhật của bố, con không có tiền mua quà cho bố nên con xin tặng bố chiếc hộp này!’. Người cha cảm thấy hối hận vì cơn giận dữ vô lý của mình tối hôm qua. Nhưng khi mở cái hộp ra, thấy bên trong trống rỗng, thì cơn giận của ông lại bùng lên.

“Ông mắng đứa con gái xối xả vì đã tặng ông chiếc hộp rỗng… Đứa con gái nhỏ ngước nhìn cha, nước mắt rưng rưng, nhỏ nhẹ thưa: ‘Bố ơi, đó đâu phải là cái hộp rỗng, con đã thổi đầy những nụ hôn vào trong hộp để tặng bố mà!’.

Người cha giật thót tim. Ông đã quá hồ đồ, xét đoán lầm đứa con hiếu thảo. Vòng tay ôm lấy đứa con gái nhỏ, ông cầu xin con tha thứ!

Sau đó không lâu, thiên thần nhỏ của ông đã qua đời trong một vụ tai nạn. Nhiều năm sau, người cha vẫn giữ khư khư chiếc hộp bên mình. Mỗi khi gặp khó khăn, buồn bực, ông lại lấy ra một ‘nụ hôn tưởng tượng’ và nghĩ đến tình yêu nồng ấm mà đứa con gái bé bỏng của ông đã thổi vào chiếc hộp.”

Trong cuộc sống, có biết bao người cha đã nhận được những chiếc hộp quý giá chứa đầy những nụ hôn chan chứa yêu thương từ con cái. Trên đời này, không có tài sản nào quý giá hơn những chiếc hộp chứa đầy tình yêu chân thành như thế!

5. Con còn tiền lẻ không?

Noi gương Thánh Giuse, gia trưởng cũng nỗ lực trở nên người cha Nhân Hậu. Xin kể một câu chuyện về tình cha đến rơi nước mắt: “Con còn tiền lẻ không?”

“Học lớp 12, tôi không có thời gian về nhà xin tiền ba như 2 năm trước. Vì thế, tôi viết thư cho ba, rồi ba đích thân lên đưa tiền lên cho tôi. Từ nhà đến chỗ tôi trọ học chừng 15 km. Nhà nghèo, không có xe gắn máy, nên ba phải đi xe đạp. Chiếc xe cũng gầy gò giống như ba!!!

Cuối năm, làm hồ sơ thi đại học, tôi lại nhắn ba đưa tiền lên. Lần này, sau khi đưa cho tôi một trăm ngàn, ba hỏi: ‘Con còn tiền lẻ không?’. Tôi đáp: ‘Con còn bốn ngàn, ba ạ’. Ba nói: ‘Con cho ba hai ngàn, để lát về, nếu xe có hư như lần trước thì có tiền mà sửa’. Ba về, tôi đứng trông theo, không cầm được nước mắt, khóc òa lên!… ”

Thật vậy, người cha Nhân Hậu thì nhạy bén, nắm bắt nhu cầu của con cái và cảm thông, chia sẻ với con, như tấm gương của Chúa Giêsu: “Tôi hy sinh mạng sống vì đàn chiên.”

6. Thánh Giuse, Người Chồng Tốt, Người Cha Hiền

Người ta kể một câu chuyện kỳ lạ về sự trợ giúp của thánh Cả Giuse như sau:

Tại một giáo xứ miền quê, vào một đêm kia, có ông già lạ mặt đến gõ cửa nhà xứ xin cha xứ đi xức dầu cho một bệnh nhân là một người đàn ông trong làng.

Được cụ già dẫn đi, vị Linh mục nhanh chóng đến nhà bệnh nhân. Khi đến nơi, mọi người trong nhà rất ngạc nhiên vì không có ai trong nhà đi mời vị linh mục đến xức dầu, vì mọi người đang bận rộn lo cho người bệnh đang hấp hối.

Không kịp tìm hiểu, vị linh mục ban những bí tích cuối cùng cho bệnh nhân. Thật may mắn, chỉ ít phút sau, người đàn ông ra đi bình an, kịp thời lãnh nhận các bí tích cuối cùng.

Khi xong xuôi mọi việc, vị linh mục đi tìm ông cụ già lạ mặt để hỏi cho ra lẽ. Thế nhưng, mọi người tìm kiếm khắp nơi cũng không thấy ông cụ già bí mật kia đâu. Ngay lúc ấy, vợ người chết chợt nghĩ ra một điều gì đó, thưa với vị Linh mục: “Thưa cha, con hiểu rồi! Chồng con có lòng yêu mến thánh Giuse cách đặc biệt, thường cầu khấn thánh Giuse trong những cơn nguy khốn. Con tin rằng: ông cụ già kia chính là thánh Giuse đến để giúp đỡ chồng con trong cơn nguy tử.”

Ngay lúc ấy, vị Linh mục giật mình và nhớ lại: ông cụ già kia có khuôn mặt rất giống thánh Giuse!

Câu chuyện trên là một lời minh chứng hùng hồn cho thấy: Thánh Giuse là Đấng Bảo Trợ hữu hiệu cho những ai chạy đến với Người. Tất cả những ai đến với thánh Giuse, đều được Người ra tay cứu vớt, phù hộ.

7. Thánh Giuse là con người nhỏ bé được Chúa chọn

Ogilvy and Mather là một công ty quảng cáo lớn. Khi muốn lập ra công ty và muốn cho công ty đó hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận, ông David Ogilvy người sáng lập ra công ty đã nghĩ ra một cách làm như thế này: Ông đã cho mời các vị lãnh đạo cộng tác với ông lại, tặng cho mỗi người một con búp bê Nga, bên trong đó có năm tấm hình người theo thứ tự mỗi lúc mỗi nhỏ dần.

Trong tấm hình người bé nhất ông dán vào đó một tờ giấy nhỏ có ghi mấy hàng chữ “nếu mỗi người trong chúng ta chọn những cộng sự nhỏ hơn mình, chúng ta sẽ trở nên một công ty của những người lùn. Nhưng nếu chúng ta chọn những người cộng sự lớn hơn mình, thì lúc ấy Ogilvy and Mather sẽ trở thành một công ty của những người khổng lồ”

Và quả thật, Ogilvy and Mather đã trở thành một trong những công ty quảng cáo lớn nhất và được kính trọng nhất thế giới.

8. Chúa yêu thích sự công chính đạo đức.

Vào năm 1729 Ben Franklin một nhà tư tưởng lớn của Mỹ đã nói những lời như thế này trước một cử tọa đến nghe ông “Nếu chúng ta vẫn chuyên chăm để trở nên vĩ đại như chuyên chăm trở nên tốt lành thì ta sẽ trở nên vĩ đại thực sự và con số những người đáng nể phục sẽ tăng lên rất nhiều. Nhưng sẽ là một sai lầm lớn nếu chúng ta nghĩ rằng mình có thể trở nên vĩ đại mà không cần có sự đạo đức”

rồi như dằn từng tiếng ông khẳng định “Và tôi khẳng định rằng không bao giờ có một con người thật sự vĩ đại mà đồng thời lại không thật sự đạo đức.”

Đây là lời của sách Khôn ngoan: “Nếu trên đời này, giàu sang là báu vật ai cũng khao khát, thì còn gì giàu sang hơn đức khôn ngoan?” (Kn 8,5).

Chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng con biết đánh giá các hành động và giá trị của chúng ta theo chuẩn mực của Ngài.

9. Sống đời công chính

Thánh Augustinô nói: “Sống công chính tốt lành không gì khác hơn là yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực mình”… “Chúng ta dành cho Người một tình yêu trọn vẹn (nhờ tiết độ), không gì lay chuyển nổi (nhờ can đảm), chỉ vâng phục một mình Người (nhờ công bình), luôn tỉnh thức để khỏi sa vào cạm bẩy của mưu mô và gian dối (nhờ khôn ngoan)” Đó là cách sống đẹp lòng Chúa nhất (T. Augustinô, Những thói quen của Hội Thánh Công Giáo 1,25,46).

Một cô kia cuộc đời thật là bất hạnh: bị mồ côi cha từ lúc 6, 7 tuổi, lúc lên 12 tuổi mẹ cô lại qua đời. Từ đó cô thay mẹ chăm sóc cho mấy đứa em nhỏ của cô. Lúc 16 tuổi cô bị lâm bệnh nặng.

Một bà đến thăm và an ủi cô. Bà này hỏi: Cháu có sợ chết không? Đừng sợ cháu à! Chết là được về với Chúa, đó là điều hạnh phúc nhất đấy cháu ạ.

Cô bé trả lời: Thưa bà, cháu không sợ chết. Nhưng cháu không biết là khi gặp Chúa, cháu sẽ phải nói làm sao vì cháu chưa làm được gì cho Chúa cả. Cháu muốn phục vụ Chúa, nhưng từ khi mẹ cháu chết, cháu phải lo nuôi mấy đứa em cháu, vì thế mà cháu chẳng còn thì giờ nào làm được việc gì cho Chúa.

Người đến thăm cô bé, nắm lấy tay cô, bàn tay gầy guộc và nói: Khi gặp Chúa, cháu không cần nói gì cả vì Chúa biết rõ lòng của cháu rồi, cháu đã làm tất cả những gì cháu có thể làm rồi.

Vâng Chúa biết rõ lòng của chúng ta. Làm tất cả những gì có thể làm, đó chính là điều mà chúng ta phải cố gắng.

10. Thánh Giuse, quan thầy giáo hội hoàn vũ, giáo hội Việt Nam

Ngày lễ nầy ra đời vào thế kỷ 15, và kể từ năm 1621 đã được mừng kính trong khắp cả Giáo Hội. Vào năm 1847, ĐGH Piô IX đã tôn phong Thánh Giuse làm quan thầy của toàn thể Giáo Hội. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã ghi tên Thánh Giuse vào lễ qui Rôma…

Đối với lịch sử Giáo Hội Việt nam, Ngày lễ Thánh Giuse 19.3 còn là một cột mốc quan trọng trong cuộc hành trình truyền giáo: vào chính ngày nầy, 19.3.1627, phái đoàn truyền giáo của Cha Đắc Lộ đã cập bến Cửa Bạng ở Đàng Ngoài để đem Tin Mừng cho dân tộc Việt nam. Đó cũng là một lý do để Hội Thánh Việt nam chọn Thánh Giuse làm quan thầy.

12. Đấng giữ gìn các kẻ đồng trinh

Giáo Hội coi Thánh Giuse là “Đấng giữ gìn các kẻ đồng trinh.” Người đã giữ gìn Đức Mẹ Maria. Người cũng sẵn sàng giữ gìn những người tận hiến đời mình cho Chúa.

Có một người làm công, ngày ngày đi quét lá rừng rụng xuống, gom lại một nơi rồi hốt đi. Một hôm một đoàn người lên rừng chơi, thấy người quét lá, họ rất đỗi ngạc nhiên, và họ càng ngẩn ngơ khi biết rằng chính Hội đồng Thành phố đã thuê với số lương 7000 $ một tháng.

Sau một hồi vãn cảnh, đoàn người trở về. Một số người tìm đến ông Chủ tịch Hội đồng thành phố đề nghị hủy bỏ phụ khoản chi tiêu cho việc quét lá rừng vì quá vô ích. Ông Chủ tịch cũng như Hội đồng chẳng hiểu căn do của phụ khoản kia, vì họ chỉ làm theo truyền thống, nên cuối cùng quyết định không thuê người quét lá rừng nữa.

Ngay giữa thành phố có một cái hồ rộng lớn, nước trong xanh, cây to in bóng mát, người qua lại dập dìu. Mọi người ca tụng nó là viên ngọc trai điểm trang cho thành phố. Nhưng lạ thay, một tháng sau ngày người quét lá rừng nghỉ việc, nước hồ trở nên đục ngầu bẩn thỉu, không còn thấy bóng người hóng gió ngoạn cảnh, quán xá bên bờ hồ vắng tanh… Cả thành phố trở nên buồn tẻ mà không hiểu tại đâu. Hội đồng Thành phố nhóm ngay phiên họp bất thường để tra xét hiện tượng trên. Và sau cùng họ tìm ra nguyên nhân: do người phu quét lá rừng nghỉ việc nên lá rừng rụng xuống, gió đùa lá bay tứ tung trên mặt đường, rồi rơi xuống hồ nước trong xanh, gây nên tình trạng ô nhiễm…

Và ngay hôm đó họ tái dụng người phu quét lá với số lương còn cao hơn xưa.

”Này ông Giuse là con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20)

13. Mối tình của Dolores và Donald

Theo tin Đài Chân Lý Á Châu loan đi khắp thế giới ngày 07-03-2012: Mẹ Dolores là một trong số các ngôi sao Holywood, tiến bước trên thảm đỏ trong buổi lễ trao giải thưởng Oscar vào ngày 26-02-2012. Vì mẹ đã đóng cuốn phim tài liệu “Chính Chúa là một Elvis lớn lao hơn” (God is bigger Elvis). Năm nay (2023) mẹ Dolores đã 87 tuổi, tu Dòng Kính Đan Viện Biển Đức Regina Laudis ở Bethlehem thuộc tiểu bang Connecticut, nước Mỹ.

Vào năm 1957, minh tinh Dolores ở tuổi 21, đã đóng nhiều phim nổi tiếng với vua nhạc rock Elvis Presley, đang ở đỉnh cao danh vọng, vì Dolores là một ngôi sao tài sắc vẹn toàn, cô đã được mời ký hợp đồng đóng phim lên tới triệu dollars. Thế mà Dolores bỏ lại những hợp đồng bạc triệu, và từ bỏ hôn ước với một kiến trúc sư giàu có, trẻ tuổi, tên là Donald John Robinson đã hết lòng yêu Dolores.

Ông Donald là một trong những người thắc mắc nhất trong số những người ái mộ ngôi sao Dolores, đã theo dõi sự kiện mẹ Dolores bỏ danh vọng đi tu. Trong độ tuổi thanh xuân phơi phới một cách dễ dàng không vương vấn, không dấu hiệu báo trước! Ngay cả vị hôn phu của cô là ông Donald cũng không thể lý giải tại sao đã năm năm Donald và Dolores hẹn hò với nhau. Ngay sau khi họ vừa làm lễ Đính hôn, cô lại tỏ ý muốn đi tu!

Ông Donald đã không thể tin ở tai của mình, vì thấy Dolores vẫn tiếp tục đi đóng phim bình thường. Ông không hề ngờ rằng ơn kêu gọi dành cho Dolores đã bắt đầu từ trước khi cô quen biết ông ở tuổi 21, và sự nghiệp điện ảnh đang ở vào thời kỳ rực rỡ nhất! Một người bạn của Dolores kể lại là nghe Dolores than thở rằng đóng phim căng thẳng quá, rồi chỉ sau vài tuần lễ thì lại đường ai nấy đi. Cô phải chia tay với người bạn mới quen mà cô yêu quý. Điều này để lại nhiều trống rỗng trong lòng cô gái trẻ đẹp, đơn sơ, dễ mến. Cô đi đến nhà Dòng Biển Đức để tĩnh tâm và học hỏi lối sống và làm việc của các nữ tu, là những người cô cho là rất ổn định và đáng khâm phục. Hai năm sau Dolores đủ điều kiện nhập Dòng vào năm 1960, và đến năm 1970 thì được Khấn trọn đời, làm cho nhiều kẻ xấu miệng loan báo cô đã có bầu với Elvis, bây giờ họ phải đấm ngực!

Ông Donald bị Dolores bỏ rơi, vẫn vui lòng chấp nhận ở vậy không chịu lập gia đình với ai, vì cho rằng không ai có thể thay thế được Dolores trong tim ông. Suốt thời gian Dolores tu trì, ông Donald hằng năm hai lần vào dịp lễ Giáng Sinh và Phục Sinh đến nhà Dòng thăm Dolores. Vào tháng 11 năm 2011, ông Donald qua đời, trước đó vài tháng ông đã để lại Di chúc hiến tất cả tài sản của ông cho Đan Viện Biển Đức để nhà Dòng có thêm tài lực mà phục vụ công ích.

Ai cũng phải khâm phục mối tình của Dolores và Donald đã hơn nửa thế kỷ, cả hai đã hiến dâng tình yêu cao quý nhất cho Chúa: một người thì trung thành với lời Khấn độc thân trọn đời trong bậc tu trì; một người thì chung thủy với lời đính ước trong mối tình vợ chồng.

Lễ Truyền Tin

Lời Chúa: Lc 1, 26-38

Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ.” Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.

Thiên thần liền thưa: “Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một Con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận.”

Nhưng Maria thưa với thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?”

Thiên thần thưa: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Ðấng Bà sinh ra, sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ họi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được.”

Maria liền thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền.” Và thiên thần cáo biệt Bà.

TRUYỆN KỂ

1. Khiêm nhường đón nhận—TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Ðọc Tam Quốc Chí, ai cũng mến mộ Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang. Thuở nhỏ, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ sông. Thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu.

Ông lão ngủ say làm rơi một chiếc dép xuống sông. Thấy Trương Lương, ông sai bảo: "Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta.” Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ cầm lấy, không một lời cám ơn.

Loay hoay xỏ mãi không vào, cụ đánh rơi chiếc dép một lần nữa. Cụ lại quát bảo Trương Lương: "Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta.” Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế.

Thấy vậy, ông lão khen: "Thằng bé này dạy được đây.” Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.

Trương Lương gặp được thầy giỏi một phần nhờ cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của ông.

Ðọc truyện Trương Lương, tôi lại nhớ đến Ðức Mẹ. Thời Ðức Mẹ, ai cũng mong chờ Ðấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Ðức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Ðức Mẹ, đó là do ơn lành nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Ðức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.

2. Ơn Chúa cần được cộng tác

Một thanh niên kia có thói quen ngủ rất say, luôn cần có mẹ gọi mới thức dậy được. Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm ở một chỗ xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng hồ báo thức.

Ngày đầu tiên anh quên vặn đồng hồ trước khi ngủ nên đến sở làm trễ. Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng sớm khi nó reo thì anh đưa tay tắt bỏ, nên lại đi làm trễ. Và anh bị đuổi việc. Khi anh trở về gia đình, mẹ anh hỏi về chiếc đồng hồ. Anh đáp:

- Chiếc đồng hồ đó hoàn toàn vô dụng đối với con.

- Nó vô dụng là vì con không chịu dùng nó. Mẹ anh đáp.

Bao nhiêu ơn Chúa ban cho ta cũng đều vô dụng nếu ta không xử dụng đến.

3. Khiêm nhường là sống theo sự thật

Khác hẳn với Eva thuở xưa trong vườn địa đàng, tuy chỉ là con người mà cứ tưởng mình ngang tầm với Thiên Chúa. Đức Mẹ là Eva mới dù được Thiên Chúa đặc biệt ưu ái tuyển chọn lên bậc "quân vương”làm Mẹ sinh ra Đấng Cứu thế, nhưng Đức Mẹ vẫn chỉ xưng mình là một tôi tớ không hơn không kém…

- Đức Mẹ nhìn nhận tất cả những gì mình có được đều là do Thiên Chúa.

"Người đã đoái thương nhìn tới phận nữ tỳ hèn mọn” (Lc 1,48)

"Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1,49)

"Thiên Chúa đã hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao những kẻ khiêm nhường - Thiên Chúa đã ban đầy dư cho những kẻ nghèo, còn người giàu có thì Người đuổi về tay không” (Lc 1,48).

Phải có một lòng khiêm nhường thật thẳm sâu thì mới có thể thấy hết được những sự thật đó. Thái độ của Đức Mẹ khác hẳn với thái độ của Eva thuở xưa. Eva thuở xưa mới có được một chút quyền hành Thiên Chúa ban cho trong công việc canh giữ và làm chủ vườn địa đàng đã tưởng mình là quan trọng, thậm chí có lúc còn tưởng là Thiên Chúa như muốn ghen tương với mình. Thật là kiêu ngạo.

4. Thị kiến của thánh Catarina Emmerrich

Một hôm, Chúa cho bà thánh Catarina Emmerrich được xem thấy quang cảnh ngày lễ Truyền Tin.

Theo bà thuật lại: Ngày 23 tháng 3, tôi thấy Đức Mẹ quỳ ngay ở chỗ phòng tôi, đầu và mặt phủ một khăn trắng mỏng, hai tay búp măng chắp trước ngực, đôi mắt đăm đăm nhìn về phía góc trời, rồi tôi thấy một luồng ánh sáng đổ xuống bên tay hữu Đức Mẹ; và trong luồng sáng trong tốt đó, tôi thấy Thiên thần Gabriel, y phục trắng toát, tóc hoe hoe và phất phới. Đoạn một tiếng chào của Thiên thần làm tan làn không khí im lặng.

Nghe tiếng chào mình, Đức Mẹ có vẻ sợ sệt, hơi nghiêng về phía tả, song con mắt vẫn đăm đăm nhìn về góc trời, chứ không quay hẳn về phía tiếng chào, và cầm trí nghe lời thiên thần - mỗi lời thiên thần nói như nhả ra từng dòng chữ lửa.

Sau khi đã hiểu ý câu truyện, Đức Mẹ xoay mình lại, mở hé khăn trùm, khiêm tốn trả lời rằng: “Này tôi là nữ tỳ Thiên Chúa, xin hãy làm trọn nơi tôi điều sứ thần truyền.”

5. Tờ giấy và cây viết

Nhắc đến ông Leonard de Vinci, chúng ta thường nghĩ ngay đến những phát minh khoa học và những bức họa tuyệt diệu của ông. Nhưng để giải trí, ông còn sưu tầm những truyện cổ tích, hay đặt ra những truyện mới, như câu truyện sau đây về cuộc đối đáp tưởng tượng của tờ giấy trắng và cây viết.

Có tờ giấy trắng nọ nằm ù lì trên bàn viết với bao đồng bạn khác từ nhiều năm tháng qua. Nhưng rồi một hôm nó được chọn đem ra trước bàn chịu cảnh cây viết với mực đen vẽ lên nó không biết bao nhiêu là những dấu hiệu mà nó không hiểu gì cả. Tờ giấy phàn nàn với cây viết như sau: "Tại sao anh lại làm thế, anh vẽ trên mình tôi những dấu làm tôi mất đi sự trắng sạch ban đầu, anh làm nhục tôi thế này sao? Anh làm hư cả cuộc đời tôi rồi.”

Nhưng cây viết trả lời: “Không, anh giấy hiểu lầm tôi rồi, tôi không làm dơ anh đâu, tôi vẽ lên anh những dấu hiệu, những dòng chữ và kể từ nay, anh không còn là tờ giấy vô dụng nữa, mà mang trên mình một sứ điệp, anh trở thành kẻ cộng tác với con người lưu giữ những tư tưởng cao siêu của con ngưởi, và vì thế sẽ được con người nâng niu bảo vệ; anh được sống mãi để trợ giúp con người.”

Tờ giấy chưa kịp trả lời cây viết, thì nó bỗng nhìn thấy một bàn tay con người quơ lấy những tờ giấy trắng đồng bạn của nó mà nay đã trở thành vàng đục, già cỗi và đầy bụi bặm mà quăng vào ngọn lửa bên cạnh. Bấy giờ tờ giấy trắng đầy chữ viết mới hiểu được hành động vừa rồi của cây viết và lấy làm sung sương vì được trở thành kẻ cộng tác và lưu giữ kho tàng trí khôn của con người.

Thật vậy, Đức Maria đã tự nguyện trở thành tôi tớ của Thiên Chúa để cộng tác vào chương trình cứu chuộc nhân loại. Ngài đã trở nên một dụng cụ tuyệt vời của Thiên Chúa, hoàn toàn đặt mình dưới quyền sử dụng của Thiên Chúa như như một tờ giấy trắng trước cây viết.

6. Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được

Cha Giuse Lê Quang Uy kể: Có một thiếu nữ người Pháp mà tôi đã lỡ quên mất tên sau khi đọc được câu truyện sau đây trên báo Echo de Lourdes cách đây khoảng 25 năm. Cô ấy bị mắc phải căn bệnh nhũn tủy làm cho bị liệt đôi chân. Cô đã hy vọng rất nhiều khi người ta đề nghị đưa cô tới Lộ-đức để xin ơn Mẹ làm phép lạ. Khi ra về, ai cũng lắc đầu thất vọng vì thấy cô gái không được lành bệnh. Thế nhưng, chính cô thì lại hân hoan tâm sự: “Tôi không hề được Mẹ chữa lành căn bệnh thể xác, chắc là Chúa Giêsu muốn tôi được chia nỗi đau đớn thân xác với Ngài, và tôi đã thưa Xin Vâng như Mẹ… Thế nhưng, Mẹ lại đã chữa lành căn bệnh tuyệt vọng bi quan của tâm hồn tôi… Từ nay, tôi xin được làm Tông Đồ của Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Mẹ… ”

Và quả thật, cô gái đã trở thành một Tông Đồ nằm trên giường bệnh của những người cũng đang đau khổ bất hạnh như cô đã từng đau khổ bất hạnh. Cô đã viết thư gửi đi để khích lệ niềm hy vọng của những em bé mồ côi, của những người già cô đơn trong Viện Dưỡng Lão, của những thiếu nữ lỡ lầm đang định phá thai, của những người khuyết tật khốn khổ…

Cho đến khi bị liệt cả hai tay, cô đọc người ta viết. Khi không nói được nữa, người ta soạn các lá thư rồi đọc lên cho cô nghe và gật đầu hoặc chớp mắt đồng ý. Và sau khi cô chết, người ta lấy những lá thư đã sao chép và lưu trữ để in thành hàng vạn lá thư khác…

Mới đây, khi tôi được đến giúp Tĩnh Tâm 3 ngày Mùa Chay cho Giáo Xứ Tử-đình ở Gò-vấp, tôi lại gặp được một bạn trẻ cũng bị căn bệnh Nhũn Tủy giống như cô gái nói trên. Đó là bạn sinh viên năm thứ hai Đại Học khoa Tin Học tên là Phạm Ngọc Quỳnh. Tôi đã mời cả gia đình Quỳnh cùng tôi cầu nguyện ngay bên giường bệnh của bạn ấy…

Và tôi đã nhìn vào đôi mắt bừng sáng đầy nghị lực quả cảm của bạn ấy. Và tôi đang cầu nguyện thật lòng xin Thánh Ý Thiên Chúa tỏ bày, để một hôm nào đó tôi sẽ mạnh dạn ngỏ lời đề nghị với bạn Quỳnh cũng chọn công việc Tông Đồ khiêm tốn mà hiệu quả tuyệt vời như cô gái người Pháp đã làm.

Nếu được, xin các bạn trẻ, đặc biệt là các bạn sinh viên hãy đến thăm bạn Quỳnh ở số nhà 2/16 đường Thống Nhất, tổ 75, phường 15, quận Gò-vấp, hoặc điện thoại số 9.961.554. Tôi hy vọng, cả tôi lẫn các bạn có thể sẽ là những “sứ giả”, những “thiên thần” được Thiên Chúa gửi đến cho Quỳnh và cho biết bao nhiêu bạn trẻ khác, cho biết bao nhiêu con người khốn khổ bất hạnh khác đang sống quanh chúng ta, ngay bên cạnh chúng ta…

Thế đấy, mỗi ngày, mỗi biến cố xảy đến trong cuộc đời chúng ta đều như văng vẳng một lời “Truyền Tin” của Thiên Chúa thông qua một “sứ giả”, một “thiên thần” nào đó ngay bên chúng ta. Có thể đó sẽ là một lời mời gọi chúng ta hãy cộng tác với một chương trình mầu nhiệm hoặc một kế hoạch kỳ diệu nào đó của Thiên Chúa như đã từng xảy đến cho Đức Ma-ri-a. Chúng ta chỉ cần khiêm tốn thưa Xin Vâng với Thiên Chúa. Còn mọi sự sau đó, hãy cứ tin rằng: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”

Được như vậy, thật sự chúng ta sẽ là những người có phúc, xứng đáng được chào bằng lời chào ngày xưa thiên thần đã kính chào đức Ma-ri-a: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.”

7. Câu Thánh Kinh đẹp nhất

Có một bà mẹ đã hỏi đứa con nhỏ của mình như sau:

-Theo ý con, câu nào trong Kinh thánh đã làm cho con thích thú hơncả?

Đứa bé mở cuốn Kinh thánh và tình cờ lật phải ngay trang nói về hoạt cảnh Truyền tin. Với ánh mắt long lanh, đứa bé đã nói với mẹ:

-Thưa má, hai tiếng xin vâng của Đức Maria là hai tiếng đã làm cho con thích thú hơn cả.

Đúng thế, không gì đẹp bằng hai chữ xin vâng trên cặp môi của Mẹ Maria cho chương trình cứu độ được thực hiện. Đồng thời, cũng không gì đẹp bằng hai tiếng xin vâng trên cặp môi mỗi người chúng ta cho thánh ý Thiên Chúa được chu toàn.

8. Người mẹ được chọn

Trong một lớp giáo lý, cô giáo hỏi các em học sinh: Em mơ ước điều gì cho mẹ của các em? Các em đua nhau trả lời:

Em muốn cho mẹ em là người đẹp nhất trên thế giới nầy.

Em mơ ước mẹ em có một sức khoẻ thật dồi dào.

Em cầu mong cho mẹ em giàu sang, có thật nhiều tiền bạc.

Em chỉ ước mong cho mẹ em là một bà mẹ hiền lành, đạo đức và nhân hậu.

Chỉ là ước mơ vì không ai có quyền chọn người mẹ sinh ra mình. Nhưng đối với Thiên Chúa thì khác hẳn. Ngài đã sinh ra bởi một người nữ được tuyển chọn. Đây là trường hợp độc nhất vô nhị trong lịch sử loài người. Đức Maria đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ. Ngài chọn Maria vì Ngài muốn chọn, theo sự tự do của Ngài (x. Rm 9,12.16), và cũng “vì bà đẹp lòng Thiên Chúa.”

Thánh ý ấy được biểu lộ qua tiếng nói lương tâm, qua mười giới răn, qua Tin mừng phúc âm, cũng như qua những lời giáo huấn của Hội Thánh.

9. Món quà tình yêu người mẹ

Có một người con gọi về cho mẹ:

– Alô, Mẹ đó ạ?

– Ừ, con đó hả?

– Dạ…

– Có chuyện gì không con?

– … Dạ, không Mẹ… hôm nay sinh nhật con…

– Ờ nhỉ, Mẹ quên mất! Già rồi nên chẳng nhớ nổi ngày sinh của mấy đứa con.

– Không sao đâu Mẹ ạ. Con… con chỉ muốn nói với Mẹ rằng… hôm nay sinh nhật con, con muốn cám ơn Mẹ đã sinh ra con. Món quà sinh nhật quý giá nhất Mẹ đã tặng cho con.

Hóa ra món quà quý nhất cho ngày sinh nhật của chúng ta là tình yêu của mẹ.

10. Mẹ thưa xin vâng để trở nên người mẹ

Trên đường đời nhiều sóng gió hôm nay, Mẹ Maria sẽ là điểm tựa vững chắc cho mỗi một người Kitô hữu chúng ta. Trải nghiệm của Mẹ sẽ thấu hiểu những khó khăn mà chúng ta đang đối diện. Niềm cậy trông của Mẹ sẽ là gương mẫu cho chúng ta trên hành trình đức tin. Mẹ sẽ là điểm tựa cho mọi NỖI ĐAU của con cái Mẹ nơi trần gian này.

Mẹ sẽ là nguồn an ủi cho những ai đang đau đớn thân xác vì ốm đau bệnh tật, vì những nặng nề của thể xác dằn vặt.

Mẹ là sẽ nguồn bình an cho những ai đang đau thương tinh thần vì thử thách chông gai, bị đối xử tệ bạc, hay bị đẩy ra bên lề của xã hội.

Mẹ sẽ là nguồn cậy trông cho những ai đang đau buồn vì sự chia ly trong tình yêu, vì những đổ vỡ hạnh phúc gia đình.

Mẹ sẽ là nguồn hy vọng cho những ai đau khổ vì sự yếu đuối vấp ngã, khó khăn thất bại, hay mất mát trong đời.

Một lòng cậy trông nơi Mẹ sẽ giúp chúng ta đáp lời xin vâng trước mọi biến cố trong cuộc đời, chiến thắng mọi sợ hãi trong cuộc sống và can đảm làm chứng cho sự thật, cho tình thương nơi trần thế.

Lời Chúa Tuần 4 Mùa Chay
Thường niên  V-GS  C-PS  Ngoại lịch