Lời Chúa: Ga 9,
1-41 (bài dài)
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi qua,
thấy một người mù từ khi mới sinh. Môn đệ hỏi Người: "Thưa Thầy, ai đã
phạm tội, anh này hay cha mẹ anh, khiến anh mù từ khi mới sinh?" Chúa
Giêsu đáp: "Không phải anh cũng chẳng phải cha mẹ anh đã phạm tội, nhưng
để công việc của Thiên Chúa tỏ ra nơi anh. Bao lâu còn ban ngày, Ta phải làm
những việc của Đấng đã sai Ta. Đêm đến không ai có thể làm việc được nữa. Bao
lâu Ta còn ở thế gian, Ta là sự sáng thế gian.” Nói xong, Người nhổ xuống đất,
lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy và bảo: "Anh
hãy đến hồ Silôê mà rửa" (chữ Silôê có nghĩa là được sai) Anh ta ra đi và
rửa, rồi trở lại thì trông thấy được.
Những người láng giềng và
những kẻ xưa kia từng thấy anh ta ăn xin đều nói: "Đó chẳng phải là người
vẫn ngồi ăn xin sao?" Có kẻ nói: "Đúng hắn!" Lại có người bảo:
"Không phải, nhưng là một người giống hắn.” Còn anh ta thì nói:
"Chính tôi đây.” Họ hỏi anh: "Làm thế nào mắt anh được sáng?"
Anh ta nói: "Người mà thiên hạ gọi là Giêsu đã làm bùn xức mắt tôi và bảo:
Ngươi hãy đến hồ Silôê mà rửa. Bấy giờ tôi đi, tôi rửa và tôi trông thấy.” Họ
lại hỏi: "Ngài ở đâu?" Anh thưa: "Tôi không biết.”
Họ liền dẫn người trước kia
bị mù đến với những người biệt phái, lý do tại Chúa Giêsu hoà bùn và chữa mắt
cho anh ta lại nhằm ngày Sabbat. Các người biệt phái cũng hỏi anh ta do đâu
được sáng mắt? Anh đáp: "Ngài đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và tôi
được sáng mắt.” Mấy người biệt phái nói: "Người đó không phải bởi Thiên
Chúa, vì không giữ ngày Sabbat.” Mấy kẻ khác lại rằng: "Làm sao một người
tội lỗi lại làm được những phép lạ thể ấy?" Họ bất đồng ý kiến với nhau.
Họ liền quay lại hỏi người mù lần nữa: "Còn anh, anh nói gì về người đã mở
mắt cho anh?" Anh đáp: "Đó là một tiên tri.”
Nhưng người Do thái không
muốn tin anh đã mù và đã được khỏi trước khi đòi cha mẹ anh đến. Họ hỏi hai ông
bà: "Người này có phải là con hai ông bà mà ông bà bảo bị mù từ khi mới
sinh không? Do đâu mà bây giờ nó lại trông thấy?" Cha mẹ y thưa rằng:
"Chúng tôi xác nhận đây chính là con chúng tôi, và nó đã bị mù từ khi mới
sinh. Nhưng làm sao mà bây giờ nó trông thấy, và ai đã mở mắt cho nó thì chúng
tôi không biết. Nó khôn lớn rồi, các ông hãy hỏi nó, nó sẽ tự thưa lấy.” Cha mẹ
anh ta nói thế bởi sợ người Do thái, vì người Do thái đã bàn định trục xuất
khỏi hội đường bất cứ ai dám công nhận Chúa Giêsu là Đấng Kitô. Chính vì lý do
này mà cha mẹ anh ta nói: "Nó khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó.”
Lúc ấy người Do thái lại gọi
người trước kia đã mù đến và bảo: "Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa! Phần chúng
ta, chúng ta biết người đó là một kẻ tội lỗi.” Anh ta trả lời: "Nếu đó là
một người tội lỗi, tôi không biết; tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi mù và
bây giờ tôi trông thấy.” Họ hỏi anh: "Người đó đã làm gì cho anh? Người đó
đã mở mắt anh thế nào?" Anh thưa: "Tôi đã nói và các ông đã nghe, các
ông còn muốn nghe gì nữa? Hay là các ông cũng muốn làm môn đệ Ngài chăng?"
Họ liền nguyền rủa anh ta và bảo: "Mày hãy làm môn đệ của người đó đi, còn
chúng ta, chúng ta là môn đệ của Môsê. Chúng ta biết Thiên Chúa đã nói với
Môsê, còn người đó chúng ta không biết bởi đâu mà đến.” Anh đáp: "Đó mới
thật là điều lạ: người đó đã mở mắt cho tôi, thế mà các ông không biết người đó
bởi đâu. Nhưng chúng ta biết rằng Thiên Chúa không nghe lời những kẻ tội lỗi,
mà hễ ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý Chúa, thì kẻ đó mới được Chúa nghe
lời. Xưa nay chưa từng nghe nói có ai đã mở mắt người mù từ khi mới sinh. Nếu
người đó không bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì.” Họ bảo anh ta:
"Mày sinh ra trong tội mà mày dám dạy chúng ta ư?" Rồi họ đuổi anh ta
ra ngoài.
Chúa Giêsu hay tin họ đuổi
anh ta ra ngoài, nên khi gặp anh, Người liền bảo: "Anh có tin Con Thiên
Chúa không?" Anh thưa: "Thưa Ngài, nhưng Người là ai để tôi tin
Người?" Chúa Giêsu đáp: "Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang
nói với anh.” Anh ta liền nói: "Lạy Ngài, tôi tin", và anh ta sấp
mình thờ lạy Người. Chúa Giêsu liền nói: "Chính vì để luận xét mà Ta đã
đến thế gian hầu những kẻ không xem thấy, thì được xem thấy, và những kẻ xem
thấy, sẽ trở nên mù.” Những người biệt phái có mặt ở đó liền nói với Người:
"Thế ra chúng tôi mù cả ư?" Chúa Giêsu đáp: "Nếu các ngươi mù,
thì các ngươi đã không mắc tội; nhưng các ngươi nói 'Chúng tôi xem thấy', nên
tội các ngươi vẫn còn.” Đó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài
ngắn này: Ga 9, 1. 6-9. 13-17. 34-38
Khi ấy, Chúa Giêsu đi qua,
thấy một người mù từ khi mới sinh. Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn
thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy, và bảo: "Anh hãy đến hồ Silôe mà
rửa" (chữ Silôe có nghĩa là được sai). Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại
thì trông thấy được.
Những người láng giềng và kẻ
xưa kia từng thấy anh ta ăn xin đều nói: "Đó chẳng phải là người vẫn ngồi
ăn xin sao?" Có kẻ nói: "Đúng hắn.” Lại có người bảo: "Không
phải, nhưng là một người giống hắn.” Còn anh ta thì nói: "Chính tôi đây.”
Họ liền dẫn người trước kia
bị mù đến với những người biệt phái, lý do tại Chúa Giêsu hoà bùn và chữa mắt
cho anh ta lại nhằm ngày Sabbat. Các người biệt phái cũng hỏi anh ta do đâu
được sáng mắt. Anh đáp: "Ngài đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và tôi
được sáng mắt.” Mấy người biệt phái nói: "Người đó không phải bởi Thiên
Chúa, vì không giữ ngày Sabbat.” Mấy kẻ khác lại rằng: "Làm sao một người
tội lỗi lại làm được những phép lạ thể ấy?" Họ bất đồng ý kiến với nhau.
Họ liền quay lại hỏi người mù lần nữa: "Còn anh, anh nói gì về người đã mở
mắt cho anh?" Anh đáp: "Đó là một Tiên tri.” Họ bảo anh ta: "Mày
sinh ra trong tội mà mày dám dạy chúng ta ư?" Rồi họ đuổi anh ta ra ngoài.
Chúa Giêsu hay tin họ đuổi
anh ra ngoài, nên khi gặp anh, Người liền bảo: "Anh có tin Con Thiên Chúa
không?" Anh thưa: "Thưa Ngài, nhưng Người là ai để tôi tin
Người?" Chúa Giêsu đáp: "Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang
nói với anh.” Anh ta liền nói: "Lạy Ngài, tôi tin", và anh ta sấp
mình thờ lạy Người. Đó là lời Chúa.
TRUYỆN KỂ
1. Hãy biết mình
Có hai vợ chồng đi tham quan một cửa hàng
trưng bày tranh thêu lụa. Vừa bước tới cửa bà vợ đã chăm chú nhìn vào bên trong
một hồi lâu rồi nhận xét: “Tranh gì đâu mà xấu vậy? Thêu người đàn bà
chẳng giống ai!”
Ông chồng vội bịt miệng bà và nói: “Không phải
tranh đâu, đó là gương đấy. Đó là hình ảnh của bà được phản chiếu qua gương
đấy! Chớ nhận xét hồ đồ!” Người đàn bà quá xấu hổ đành bỏ ra về.
Đó cũng là cảnh mù loà đáng thương của nhiều
người trong chúng ta. Khi chúng ta phê bình chỉ trích người khác đang khi chính
chúng ta vẫn còn đó đầy những lỗi lầm. Khi chúng ta chê bai anh em đang khi
chúng ta vẫn còn đó những khuyết điểm và thói hư tật xấu. Chúng ta thường cắt
nghĩa tốt về mình nhưng lại quá hà khắc về lối sống của tha nhân. Chúng ta
thường mù loà về bản thân mình nhưng lại thích soi mói anh em.
2. Có nhiều hình thức
mù quáng gây ra hậu quả rất tai hại:
Mù quáng vì tham lam
Sách Các Vua có thuật lại câu chuyện hoàng hậu
I-dơ-ven, vợ vua A-kháp, vì tham lam muốn chiếm đoạt vườn nho của ông lão nghèo
Na-vốt, đã dàn dựng một vụ án quy kết Na-vốt tội nguyền rủa Thiên Chúa và
nguyền rủa đức vua, rồi tuyên án ông phải bị ném đá chết. Lòng tham lam đã làm
cho hoàng hậu I-dơ-ven ra mù quáng đến độ đang tâm giết hại một ông lão nghèo
vô tội để chiếm đoạt vườn nho của ông ta. (sách các vua I, chương 21)
Mù quáng vì ghen tị
Sách Samuel ghi lại rằng vua Sa-un rất yêu
thương Đavít, nhưng khi Đavít hạ được tên tướng giặc khổng lồ là Gô-li-át để
cứu nguy cho quân dân Israel và quay trở về trong chiến thắng, “thì phụ nữ từ
hết mọi thành của Israel kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Sa-un, với trống con,
với tiếng reo mừng và tiếng não bạt. Họ vui đùa ca hát rằng: “Vua Sa-un hạ được
hàng ngàn, còn Đavít hàng vạn.” Khi nghe lời đó, vua Sa-un uất lên vì ghen tị.
Lòng ghen tị làm cho vua đâm ra mù quáng, đổi lòng yêu thương ra thù ghét và
truy lùng Đavít khắp nơi quyết giết cho bằng được vị anh hùng kiệt xuất nầy.
(Samuen I, chương 18)
3. Không thấy được tội
mình
Ông Dale Carnegie, (1888-1955) một nhà văn và
nhà thuyết trình danh tiếng người Mỹ, viết nhiều cuốn sách nổi tiếng được dịch
ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, cho rằng: “Tôi phải mất 33 năm trời
để khám phá ra sự thật này là cho dù người ta có mắc phải những lầm lỗi nặng nề
đến đâu, thì trong 100 lần phạm lỗi, có đến 99 lần người ta chẳng trách mình gì
cả,[1]” như thể mình vô tội.
4. Ánh sáng từ trái
tim
Chúa Giêsu chữa một người mù từ khi mới sinh
và cho biết Chúa là ánh sáng chiếu soi trần gian.
Một cụ già trong một làng quê một hôm đặt câu
hỏi cho các thanh niên: “Làm sao biết được trời còn tối hay đã sáng?” Một
người trả lời:
– Khi ở tận chân trời
có con trâu với con bò mà phân biệt được thì trời đã sáng; nếu không phân biệt
được thì trời còn tối.
– Chưa đúng hẳn!
Một người khác:
– Khi ở mãi chân trời
có cây dừa với cây chuối mà phân biệt được thì trời đã sáng; nếu không phân
biệt được thì trời còn tối.
– Chưa đúng hẳn!
– Vậy cụ dạy thế nào
ạ?
– Khi có một người đến
với chúng ta, bất kể tuổi tác, màu da, tiếng nói, tôn giáo, học vấn, tính tình,
quá khứ… mà chúng ta nhận ra đó là một người anh em, thì trời đã sáng; nếu
không thì trời còn tối.
5. Tâm và thân
Một vị Nhật hoàng sau khi làm việc căng thẳng
muốn thư giãn, nên xin các quan tìm cho một người biết nói đùa. Người ta dẫn
đến cho ông một thiền sư.
Nhật hoàng:
– Ta muốn nhà ngươi
nói đùa cho ta nghe.
– Tâu bệ hạ, xin bệ hạ
nói trước để hạ thần nói đùa theo.
– Ta thấy nhà ngươi
giống y hệt một con lợn!
– Tâu bệ hạ, còn hạ
thần thì thấy bệ hạ giống y hệt Đức Phật!
– Tại sao ta bảo nhà
ngươi là con lợn mà nhà ngươi lại bảo ta là Đức Phật?
– Tâu bệ hạ, dễ hiểu
lắm ạ: ai có tâm của Phật thì nhìn vào đâu cũng thấy Đức Phật; còn ai có tâm
của lợn thì nhìn vào đâu cũng thấy lợn!
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con trái tim của Chúa,
để con nhận thấy mọi người đều là anh em, và nhận thấy mọi anh em đều là hiện
thân của Chúa.
6. Không chịu mở mắt
ra
Trong công việc mục vụ thăm viếng, tôi có dịp
đến thăm một bà già bị mù từ lúc bẩm sinh. Qua tâm sự tôi biết được sự khao
khát lớn nhất của bà là được nhìn thấy ánh sáng để đi đọc kinh, xem lễ và làm
việc dễ dàng hơn.
Nhưng điều làm tôi nể phục là bà không bao giờ
bỏ một lễ Missa nào, cho dù là trời mưa gió đường khó đi, hay lễ sớm trời tối.
Bà vẫn đi dự lễ với cây gậy tre, bà mò mẫm từng bước một thật cực khổ. Bà cũng
thuộc được rất nhiều câu Kinh Thánh và các kinh đọc hàng ngày….
Nhưng ngược lại, có rất nhiều người sáng mắt
gần đó tôi không bao giờ thấy đi dự lễ Missa hàng ngày, mà chỉ thấy có mỗi ngày
Chúa Nhật, khi được hỏi nguyên do tại sao, thì họ trả lời là do trời tối đi
không được. Do đó tôi mới đi đến kết luận là nếu nhìn thấy ánh sáng thì mỗi
người phải tự mình biết “mở mắt” ra để đón nhận ánh sáng.
Bà già mù tôi viếng thăm, tuy không thấy gì
bên ngoài, cặp mắt bà đã bị hư từ lúc mới sinh, cũng giống như anh mù trong bài
Tin Mừng hôm nay. Hay nói đúng hơn cả hai chỉ bị mù con mắt thân xác, nhưng con
mắt tâm hồn họ không mù. Họ đang chờ đợi một ánh sáng xuất hiện, chỉ cần một cơ
hội là họ nhận ra, họ bước theo ngay.
Trong suốt bài Tin Mừng là một hành trình của
người mù, anh tiến vào ánh sáng đức tin một cách tiệm tiến. Tuy anh chỉ là
người thụ ơn và đến lúc sáng mắt vẫn chưa biết người chữa mình là Ánh Sáng Thế
Gian. Việc lành bệnh đối anh chỉ là điều không tưởng, nhưng đó lại là sự thật
anh đã sáng mắt, mà anh chỉ biết mình được sáng mắt là nhờ ông Giêsu nào đó đã
lấy bùn thoa vào mắt và anh vâng lời đi rửa và đã nhìn thấy.
7. Ai mù? Ai sáng?
Trong tập truyện có tựa đề: “Một trăm lẻ một
giai thoại về Thiền”, tác giả Xen-da-ki có ghi lại câu chuyện sau đây:
Thời xa xưa, mỗi lần ra khỏi nhà trong đêm
tối, người Nhật Bản thường dùng những chiếc lồng đèn. Một đêm kia, một người mù
đến thăm một người bạn. Lúc ra về thấy người mù đi hai tay không người bạn mới
lấy một chiếc lồng đèn trao cho anh ta. Nhưng người mù từ chối và hỏi:
– Đối với một người mù
như tôi thì cầm chiếc lồng đèn để làm gì? Bóng đêm hay ánh sáng đối với tôi đều
như nhau cả.
Người bạn trả lời:
– Tôi vẫn biết rằng
anh không cần lồng đèn để soi đường. Nhưng nếu anh không cầm trong tay thì kẻ
khác sẽ không thấy anh và như vậy có thể sẽ đụng vào anh.
Nghe thế, người mù đành cầm lấy lồng đèn ra
về. Đi được một đoạn đường, người mù bị một kẻ đi đường tông vào mình. Không tự
chế được, người mù quát tháo inh ỏi:
– Bộ đui sao? Không
thầy chiếc lồng đèn tôi đang cầm đây sao?
Người kia bình tĩnh phân trần:
– Này ông bạn, ông bạn
đang cầm lồng đèn. Nhưng ngọn đèn bên trong đã tắt rồi.
Thế là người mù cầm đèn cũng không thấy đường.
Còn người sáng mắt lại không thấy đèn của người mù. Vậy ai mới thật là người
mù?
8. Cửa sổ tâm hồn
Chuyện kể rằng, có một người mù lúc nào cũng
kết thúc lời cầu nguyện của mình bằng câu: “Nếu điều đó có ích cho phần
rỗi con.”
Một hôm, người ta dẫn ông đến trước mộ thánh
Thomas thành Cantorbery để xin Người chữa cho ông sáng mắt. Ông được nhận lời.
Mắt ông liền mở ra. Cảnh vật tưng bừng reo vui trước mắt ông. Khi nỗi vui mừng
đầu tiên trôi qua, ông mới chợt nhớ là mình đã quên thêm vào lời cầu nguyện kết
thúc: “Nếu điều đó có ích cho phần rỗi con.”
Ông liền trở lại viếng mộ thánh, và xin được
mù trở lại nếu điều đó đem lại lợi ích cho linh hồn ông. Thế là ông lại mù như
trước.
9. Ánh sáng
Khi William Montague Dyke được 10 tuổi, cậu đã
bị mù mắt trong một tai nạn. Mặc dù bị tàn tật, William đã tốt nghiệp đại học ở
Anh Quốc với bằng danh dự ưu hạng. Khi còn ở nhà trường, anh đã yêu người con gái
của một sĩ quan cao cấp của hải quân hoàng gia Anh, và họ đã hứa hôn với nhau.
Không lâu trước đám cưới, William đã được giải phẫu với hy vọng có thể phục hồi
lại thị giác, nếu cuộc giải phẫu thành công. Còn nếu thất bại, anh sẽ bị mù
suốt đời. William đã muốn giữ nguyên những giải băng trên mặt cho đến ngày lễ
cưới. Nếu cuộc giải phẫu thành công, anh muốn rằng người đầu tiên nhìn thấy sẽ
là cô dâu.
Ngày đám cưới đã đến. Rất nhiều quan khách
được mời, gồm cả hoàng gia, các thành phần trong nội các chính phủ, và nhiều vị
thân hào nhân sĩ nổi tiếng trong xã hội. Tất cả đã qui tụ nhau lại để chứng
kiến những lời đoan hứa của đôi tân hôn. Cha của chú rể, William Hart Dyke và
ông bác sĩ giải phẫu mắt đứng bên cạnh chú rể với đôi mắt vẫn còn bị băng kín.
Tiếng kèn trumpet từ chiếc đàn organ trỗi lên bắt đầu cho từng bước chân hồi
hộp của cô dâu từ từ tiến bước trên nền vải trắng dẫn lên bàn thờ. Ngay khi cô
dâu tới bàn thờ, bác sĩ giải phẫu lấy từ trong túi áo ra một cái kéo để cắt
những miếng băng bịt mắt của William. Sự im lặng căng thẳng bao trùm lấy nguyện
đường. Cả cộng đoàn nín thở chờ đợi xem William có thể nhìn thấy cô dâu đang
đứng trước mặt chú rể hay không. Khi vừa đứng đối diện với cô dâu, những lời
nói mừng rỡ của William vang lên khắp giáo đường: “Em đẹp hơn anh tưởng
tượng nhiều!”
Tác giả đã kết luận câu chuyện bằng những hàng
chữ như sau: “Một ngày nào đó những miếng băng che phủ con mắt của
chúng ta sẽ được lấy đi. Khi chúng ta đối diện với Chúa Giêsu Kitô và nhìn thấy
khuôn mặt của Ngài lần đầu tiên, vinh quang sáng ngời của Ngài sẽ chiếu sáng
rực rỡ và huy hoàng hơn bất cứ cái gì chúng ta đã từng tưởng tượng ra trong
cuộc đời này.”
10. Anh vẫn còn mù
Có một người kia, sinh ra đã bị mù, anh sống
trong một gian phòng, bởi vì không nhìn thấy gì nên anh phủ nhận tất cả những
gì những người chung quanh quả quyết là có: “Tôi không tin, vì tôi có
thấy đâu nào.” Một vị lương y thấy vậy thì thương hại anh, ông đi tìm
một thứ linh dược chữa cho anh được sáng mắt, anh sung sướng quá, tự phụ
nói: “Giờ đây tôi đã thấy được tất cả sự thật chung quanh tôi rồi.” Nhưng
có người nói với anh: “Bạn ơi, bạn mới chỉ thấy được những vật chung
quanh bạn trong căn phòng này thôi. Như thế có là bao, ngoài kia người ta còn
thấy được mặt trời, mặt trăng và các tinh tú hằng hà sa số, còn biết bao vật
khác mà bạn chưa thấy, bạn đừng tự phụ như vậy.” Anh tỏ vẻ không tin,
lại còn nói mạnh hơn: “Làm gì có được những cái đó, những gì có thể
thấy được, tôi đã thấy tất cả rồi.”
Một vị y sĩ khác lên tận núi cao, gặp được Sơn
Thần chỉ cho một thứ linh dược khác, đem về giúp cho anh được cặp mắt sáng hơn
và thấy xa hơn. Bây giờ anh thấy được mặt trời, mặt trăng và các tinh tú trên
không trung. Mừng quá và lòng tự phụ tự đắc lại tăng thêm, anh nói với mọi
người: “Trước đây tôi không tin, nhưng bây giờ tôi thấy, tôi tin. Như
thế giờ đây không còn có gì mà tôi chẳng thấy, chẳng biết, đâu còn ai hơn tôi
được nữa.”
Thấy anh ta tự phụ như vậy, một hiền nhân nói
với anh: “Cậu ơi, cậu vừa hết mù, nhưng cậu cũng vẫn chưa biết gì cả.
Tại sao cậu lại quá tự phụ như thế? Với chừng mực và giới hạn của tầm mắt, cậu
làm gì biết có những vật ngoài ngàn dặm mà mắt cậu không làm sao thấy được. Cậu
có thấy được những nguyên nhân nào đã cấu tạo ra cậu khi cậu còn nằm trong bào
thai của mẹ cậu chăng? Ngoài cái vũ trụ nhỏ bé mà cậu đang sống đây, còn không
biết bao nhiêu vũ trụ khác vô cùng to lớn và nhiều không kể hết như cát ở bãi
biển, cậu có thấy không? Tại sao cậu dám tự phụ bảo rằng: “Tôi thấy cả, tôi
biết cả rồi.” Cậu vẫn còn là một anh mù, cậu vẫn còn lấy tối làm sáng, lấy sáng
làm tối.”
11. Mù loà và mù quáng
Ngày xưa ở Ấn Độ, có một vị vua muốn tìm trò
tiêu khiển, bèn nảy ra ý tưởng như sau: Vua cho quân lính đi lùng kiếm năm
người mù bẩm sinh chưa hề biết con voi là gì để đưa về triều làm trò tiêu khiển.
Rồi vua cho đưa đến một con voi khổng lồ và bảo năm anh mù:
Các ngươi chưa hề biết voi là gì thì hôm nay
Trẫm sẽ cho các ngươi được biết. Các ngươi hãy tiến lại sờ voi rồi mô tả cho
Trẫm và quần thần quanh đây biết hình hài con voi ra sao. Ai mô tả đúng nhất sẽ
được trọng thưởng.
Sau một hồi sờ voi, anh thứ nhất tâu:
– Tâu bệ hạ! Con voi
giống y như cột nhà! Đó là người sờ trúng chân voi.
Anh thứ hai thưa:
– Voi giống như cái
quạt lớn. Đó là người sờ trúng tai voi.
– Voi giống như một
khúc rễ cây ngoằn ngoèo! (đó là mô tả của anh sờ trúng vòi voi).
– Voi giống như một
tảng đá lớn, tròn tròn! (đó là phát biểu của người sờ trúng bụng voi)
Anh thứ năm cho rằng bốn anh kia đều sai bét,
và phần thưởng chắc chắn thuộc về mình. Anh đắc chí tâu:
– Lâu nay hạ thần
tưởng rằng voi là con vật to ghê lắm. Nào ngờ giờ đây chính tay hạ thần sờ thấy
voi chỉ giống như cái chổi cùn! (vì anh sờ trúng đuôi voi).
Anh nào cũng hăng say và quyết liệt bênh vực ý
kiến của mình, cho rằng duy chỉ có mình là đúng và những người khác đều sai. Họ
tranh cãi nhau kịch liệt. Người nầy chê trách người khác là ngu, là mù, là dốt
nát! Rốt cuộc, chẳng ai chịu thua ai, cả năm người nổi khùng lên, xông vào đấm
đá nhau hung tợn, máu mồm máu mũi trào ra thảm hại…
Trong khi đó nhà vua và triều thần ôm bụng
cười ngặt nghẽo! Cười cho sự mù quáng đáng thương.
Cả năm anh mù nầy đều thuộc diện mù loà bẩm
sinh, nhưng đồng thời cũng là những người mù quáng nặng nề.
12. Bây giờ tôi đã
thấy
Vào thập niên 1960, John Howard Griffin ngụy
trang thành một người da đen đi chơi vòng quanh miền Nam. Ông muốn trực tiếp
cảm nghiệm được sự kiện phải làm người da đen trong những năm ầm ĩ về vấn đề
chủng tộc này. Griffin mô tả lại cảm nghiệm của mình trong một cuốn sách nhan
đề Black Like Me (đen như tôi). Cuốn sách này về sau được dựng thành phim.
Tuy nhiên còn một khía cạnh khác trong cuộc
đời của John Howard Griffin mà rất ít người biết đến: trong thế chiến thứ hai,
John đã bị mù trong một vụ nổ máy bay suốt 12 năm sau đó, ông không trông thấy
gì cả. Một hôm, trong khi bước xuống con phố cạnh nhà bố mẹ ông ở Texas, thình
lình John bỗng thấy được “cát đỏ” (red sand) trước mắt ông. Thị giác của ông đã
phục hồi trở lại mà chẳng hề báo trước. Về sau, một bác sĩ chuyên khoa mắt cắt
nghĩa cho ông là vết máu tụ thần kinh thị giác do vụ nổ gây ra được khai thông,
vì thế thị giác ông phục hồi trở lại. Khi bình luận về kinh nghiệm này, Griffin
đã kể lại cho một phóng viên báo chí như sau:
“Quí bạn không cảm
nghiệm được những gì mà một ông bố cảm nghiệm khi nhìn thấy con cái mình lần
đầu tiên đâu. Cả bố với con đều tuyệt vời hơn tôi nghĩ rất nhiều”
Giai đoạn bi đát trong đời Griffin giúp anh ta
đánh giá sâu sắc hơn câu chuyện của bài Phúc âm hôm nay, nó giúp chúng ta hiểu
rõ hơn cảm giác người mù từ lúc mới sinh khi anh ta được Chúa Giêsu chữa lành
thật kỳ kiệu như thế nào.
13. Nếm trải Giêsu
Người ta kể câu chuyện về một cha xứ già ở
nông thôn lắng nghe một giáo sư chủng viện đưa ra vấn nạn về những vấn đề cốt
lõi của đức tin. Khi giáo sư kết thúc bài giảng của mình, cha xứ lớn tuổi đứng
dậy, lấy một quả táo từ túi đựng đồ ăn trưa của mình bắt đầu ăn rồi nói: “Thưa
giáo sư, tôi chưa đọc những sách mà ngài đã trích dẫn.” Rồi ngài cắn một miếng
táo nữa. “Thưa giáo sư, tôi không biết nhiều về những nhà tư tưởng vĩ đại mà
ngài đã đề cập,” rồi ngài cắn thêm một miếng táo nữa. “Thưa giáo sư, tôi thừa
nhận là tôi chưa nghiên cứu Kinh Thánh như cách của ngài”, khi ngài ăn xong quả
táo. “Tôi chỉ đang thắc mắc, quả táo mà tôi vừa ăn này chua hay ngọt đây? Cha
xứ già trả lời cho vị giáo sư: “Với tất cả sự tôn trọng, thưa ngài, tôi chỉ tự
hỏi liệu ngài đã bao giờ nếm trải Chúa Giêsu của tôi chưa?”
* Người mù được sáng
mắt trong bài Tin Mừng hôm nay nói: “Dù phương pháp chữa trị có được khoa học
chấp thuận hay không, trước đây tôi bị mù, nhưng bây giờ tôi thấy được.” Các
bạn tranh luận và giải thích tất cả những gì bạn muốn, nhưng với tôi như vậy là
quá đủ. (Tiến sĩ J. Howard Olds)
14. Ánh sáng dẫn đường
ĐHY Henry Newman là giáo sư tại Đại học
Oxford. Khi còn là một linh mục Anh giáo, cùng với các học giả khác, ngài đã
khởi đầu phong trào Oxford. Năm ba mươi hai tuổi, sức khỏe yếu, ngài tạm ngừng
viết lách và sang châu Âu dưỡng bệnh. Nhưng thật không may, ngài lại mắc phải
một cơn sốt nặng. Ngài muốn trở về Anh, nhưng không có phương tiện đi lại. Khi
ngài chờ đợi, cuộc sống của ngài trở nên cô đơn và tẻ nhạt; ngài đã trải qua sự
tuyệt vọng lớn về thể chất và tinh thần. Sau đó, ngài đã viết một bài thánh ca
hay để cầu xin Chúa ban ánh sáng: “Hỡi Ánh Sáng nhân từ, giữa bóng tối bao
trùm, xin hãy dẫn dắt con; Đêm tối, và con lại xa nhà; Xin dẫn con đi tiếp: Xin
giữ chân con; Con không đòi được thấy: cảnh xa – chỉ một bước đủ cho con.”
* Trong lúc bối rối và
đau khổ, Newman đã cầu nguyện Thiên Chúa là Ánh Sáng dẫn dắt ngài từ bóng tối
đến ánh sáng, từ hoang mang đến xác tín, và từ bệnh tật đến khỏe mạnh. Chúa đã
nghe lời cầu nguyện của ngài và dẫn ngài về nhà an toàn. Năm 1845, ngài cải đạo
sang Công giáo. [John Rose in John’s Sunday Homilies; được trích dẫn bởi Fr.
Botelho.]
15. Mù quáng
Có một câu chuyện Sufi kể về một người Hồi
giáo cưỡi ngựa quyết tâm giết kẻ thù mà anh ta đang truy đuổi. Giữa cuộc rượt
đuổi, tiếng gọi cầu nguyện vang lên từ một nhà thờ Hồi giáo. Ngay lập tức,
người Hồi giáo xuống ngựa, trải chiếu và cầu nguyện những lời cầu nguyện đã
định sẵn nhanh nhất có thể, sau đó quay trở lại ngựa và tiếp tục cuộc rượt
đuổi.
* Anh ta đã đáp ứng
các yêu cầu của luật pháp nhưng lại mù quáng trước những gì luật pháp thực sự
yêu cầu: đó là sự thay lòng đổi dạ.
16. Mù lòa
Người ta kể câu chuyện về một người đàn ông
một hôm đến thăm lớp học dành cho trẻ em khiếm thị. Băn khoăn với những gì mình
nhìn thấy, người đàn ông nhận xét một cách thiếu tế nhị trước sự có mặt của
chúng: “Sẽ rất kinh khủng khi sống mà không có mắt.” Một bé gái nhanh nhảu đáp:
“Chả bằng có hai mắt còn sáng mà không thấy.”
* Có mù lòa về thể lý,
và có một dạng mù lòa khác, còn bi đát hơn, ảnh hưởng đến tinh thần. Cả hai
hình thức đui mù đều có mặt trong bài Tin Mừng hôm nay. (Linh mục Johnny Dean).
17. Thấy lại
Trong Thế chiến II, John Howard Griffin bị mù
trong một vụ nổ máy bay. Trong 12 năm tiếp theo, anh không thể nhìn thấy gì.
Sau đó, một ngày nọ, anh đang đi bộ trên một con phố gần nhà của cha mẹ anh ở
Texas. Đột nhiên anh bắt đầu nhìn thấy “cát đỏ” trước mắt mình. Không có dấu
hiệu báo trước, thị giác của anh trở lại. Sau đó, một chuyên gia về mắt đã giải
thích với anh rằng sự tắc nghẽn máu đến dây thần kinh thị giác do vụ nổ đã mở
ra, khiến thị lực của anh quay trở lại. Nhận xét về trải nghiệm này, Griffin
nói với một phóng viên tờ báo: “Bạn không biết lần đầu tiên một người cha nhìn
thấy con cái của mình là như thế nào. Cả hai đều đẹp hơn tôi tưởng rất nhiều.”
(Gerard Fuller in Stories for all Seasons).
* Mỗi ngày chúng ta
nhìn thấy biết bao cảnh vật tươi đẹp. Hãy tạ ơn Chúa vì hồng ân sự sáng này.
18. Xác chết chảy máu
Một lần kia, có một người đàn ông trong bệnh
viện tâm thần, và một trong những vấn đề của anh ta là anh tin rằng mình đã
chết. Bác sĩ tâm lý đã thử mọi mánh khóe theo lý thuyết, nhưng không gì có thể
thay đổi tâm trí của anh ta. Cuối cùng, bác sĩ tâm thần nghĩ, và ông cho đây là
một bước đột phá rực rỡ. Ông khiến người đàn ông đồng ý rằng một xác chết là vô
hồn, và do đó, không có máu lưu thông, nó không thể chảy máu. Sau khi đã chấp
nhận rõ ràng sự thật đơn giản đó, bác sĩ tâm thần bắt đầu đi thẳng vào vấn đề.
Ông ta lấy một cái ghim, cầm lấy ngón tay của người đàn ông và chích một cái đủ
mạnh để lấy máu. Ông ta bóp ngón tay cho đến khi máu chảy ra rõ ràng, rồi nói
với người bệnh: “Bây giờ bạn có nhìn thấy gì không? Đó là máu. Bạn đang chảy
máu.” Người đàn ông nhìn vết máu với vẻ hoài nghi băn khoăn, rồi anh ta quay
sang bác sĩ tâm lý với vẻ kinh ngạc, và nói: “Chà, bạn biết gì không! Xác chết
chảy máu!”
* Người Pharisêu trong
bài Tin Mừng hôm nay cũng không khác gì bệnh nhân tâm thần này. (Kinh Thánh
IE).
19. Định kiến
Khi mới vào nghề, Clarence Darrow trẻ tuổi bào
chữa cho một thân chủ trước một luật sư lớn tuổi hơn, giàu kinh nghiệm hơn,
người đã mỉa mai Darrow là “gã thanh niên không có râu.” Darrow bác bỏ: “Đối
thủ xứng đáng của tôi dường như hạ thấp tôi vì tôi không có râu. Tôi xin trả
lời bằng một câu chuyện: Vua Tây Ban Nha có lần phái một nhà quý tộc trẻ tuổi
đến triều đình của một quốc vương láng giềng, người này đã chế nhạo rằng: “Vua
Tây Ban Nha thiếu đàn ông hay sao mà lại cử một cậu bé không râu cho ta sao? Vị
đại sứ trẻ tuổi trả lời: “Thưa ngài, nếu Đức Vua của tôi cho rằng ngài đánh
đồng trí tuệ với bộ râu, thì ông ấy đã gửi một con dê rồi.” Clarence Darrow đã
thắng kiện!
* Định kiến thường làm
chúng ta mù quáng. (Bennet Cerf).
20. Mù thiêng liêng
Một phụ nữ sáu mươi tuổi sống ở một thị trấn
miền Trung cuối cùng được gia đình thuyết phục đi khám bác sĩ nhãn khoa. Bà ta
chưa bao giờ đeo kính trong đời. Bác sĩ đã kiểm tra kỹ lưỡng cho bà và yêu cầu
ba ngày sau bà quay lại khi ông đã chuẩn bị sẵn kính cho bà. Ông lắp kính và
yêu cầu bà nhìn ra ngoài cửa sổ. Rất vui mừng, bà thốt lên: “Tại sao, tôi có
thể nhìn thấy tháp chuông của nhà thờ chúng ta, và nó cách đó ba dãy nhà.” Bác
sĩ hỏi: “Ý bà là bà chưa bao giờ có thể nhìn thấy gác chuông đó ở khoảng cách
ngắn như vậy?” Bà ấy tuyên bố: “Rất may là không; Tôi chưa bao giờ biết mình có
thể nhìn xa đến thế.” Chuyên gia về mắt nói: “Thưa bà, bà đã bị mù trong nhiều
năm rồi.”
* Tương tự như vậy, nhiều
người không thể nhìn thấy sự thật mà Chúa đã cho chúng ta biết… (Đức ông Arthur
Tonne)
21. Định kiến
Vào cuối những năm 1700, người quản lý của một
khách sạn lớn ở Baltimore đã từ chối cho một người đàn ông ăn mặc như nông dân
vào trọ. Ông ta đuổi người nông dân đi vì ông ta nghĩ vẻ ngoài tồi tàn của anh
chàng này sẽ làm mất uy tín của khách sạn nổi tiếng của ông. Người nông dân cầm
chiếc túi của mình và bỏ đi mà không nói thêm một lời nào với bất kỳ ai. Cuối
buổi tối hôm đó, chủ khách sạn phát hiện ra rằng ông ta đã từ chối không ai
khác chính là Phó Tổng thống Hoa Kỳ, Thomas Jefferson! Ngay lập tức, người quản
lý đã gửi một bức thư xin lỗi đến nhà yêu nước nổi tiếng này, yêu cầu ông quay
lại và làm thượng khách trong khách sạn của mình. Jefferson trả lời bằng cách
nói với người đưa tin như sau: “Hãy nói với ông ấy rằng tôi đã đặt trước một
phòng. Tôi đánh giá cao ý định tốt của ông ấy, nhưng nếu ông ấy không có chỗ
cho một nông dân Mỹ bình thường, thì ông ấy không có chỗ cho Phó Tổng thống Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ.” [Brian Cavanaugh in The Sower’s Seeds; được trích dẫn bởi
Fr. Botelho.]
22. Viết thư
Trong cuốn sách sâu sắc và thú vị của mình,
Illustrissimi Albino Luciani (Giáo hoàng Gioan Phaolô I), đã viết một loạt thư
cho những nhân vật lịch sử và hư cấu như Mark Twain, Pinocchio, Thợ cắt tóc
Figaro, Hippocrates, Guglielmo Marconi và Chúa Giêsu. Thư từ của Luciani với
những nhân vật nổi tiếng này cho thấy tư cách trước hết của ngài là một mục tử.
Ghi nhớ câu châm ngôn cổ xưa của Kitô giáo, “per verbum ad Verbum”, ngài tin
rằng một tín hữu có thể tiếp cận Lời Thiên Chúa thông qua việc nghiên cứu văn
học. Với văn phong bình dân, thân thiện của mỗi bức thư, Luciani đã khuyên dạy
một số khía cạnh của luân lý Kitô giáo. Vị giáo hoàng qua đời trong vòng năm tuần
sau cuộc bầu cử ngày 26 tháng 8 năm 1978, đã viết trong bức thư gửi cho Đavít,
vua của Israel: “Sách Thánh trình bày những khía cạnh khác nhau trong tính cách
của ngài: nhà thơ và nhạc sĩ, sĩ quan tài giỏi, một vị vua khôn ngoan… Than ôi!
không phải lúc nào ngài cũng hạnh phúc, vì đôi khi ngài phải liên lụy với phụ
nữ và những âm mưu trong hậu cung với hậu quả là những bi kịch gia đình. Tuy
nhiên, ngài là bạn của Chúa, nhờ lòng đạo đức cao cả của ngài, điều này đã giúp
ngài nhận thức được sự tầm thường bé nhỏ của mình trước mặt Chúa.
(Illustrissimi, Letters from Pope John Paul I, Little, Brown and Co., Boston:
1978).
* Sự tầm thường của
Đavít cũng được ghi lại trong bài đọc được trích từ sách 1 Samuel. Là con trai
út của Giesê, bị bỏ lại ở nhà để chăn bầy gia súc, tuy nhiên Đavít lại là người
được Thiên Chúa chọn làm vua vì “Ngài nhìn thấu lòng người” (c. 7), Ngài xét
đoán con người theo một tiêu chuẩn khác. Sự thiếu kinh nghiệm của Đavít tuổi
trẻ dường như đối với cha, các anh và thậm chí cả Samuel là một trở ngại ngăn
cản việc ông lên ngôi, nhưng tất cả đã không ngăn cản kế hoạch cứu rỗi của
Thiên Chúa. (Tài liệu cha Sanchez).
Lời Chúa: Ga 3, 14-21
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng:
"Như Môsê đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải
treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị huỷ diệt, nhưng
được sống đời đời. Vì Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình,
để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời,
vì Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để
thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ. Ai tin Người Con ấy thì không bị luận
phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên
Chúa; và đây án phạt là sự sáng đã đến thế gian, và người đời đã yêu sự tối tăm
hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét
sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển trách;
nhưng ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được
sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa." Đó là lời Chúa.
TRUYỆN KỂ
1. Hạt lúa mục nát
Mùa Xuân năm ấy, có hai hạt giống nằm cạnh
nhau trong thửa đất màu mỡ. Hạt giống thứ nhất hăng hái nói: “Tôi muốn mọc lên!
Tôi muốn cắm rễ sâu xuống lòng đất, và đâm chồi xuyên qua lớp đất cứng bên
trên. Tôi muốn vươn lên những búp non mơn mởn như những lá cờ loan báo mùa xuân
đã đến… Tôi muốn cảm nhận hơi ấm của mặt trời mơn man trên mặt và hơi nước mát
lạnh của sương mai trên những cánh hoa." Và nó đã mọc lên xanh tốt.
Hạt giống thứ hai tự nhủ: “Mình sợ lắm! Nếu
cắm rễ xuống đất, mình chẳng biết sẽ gặp gì trong lòng đất tối tăm. Nếu mình
tìm đường xuyên qua lớp đất cứng bên trên, biết đâu những chồi non yếu ớt của
mình sẽ bị thương tổn… Làm sao mình có thể cho búp non xòe lá khi một chú sâu
đang chờ sẵn để xơi tái đọt lá xanh non? Và nếu mình nở hoa, một em bé có thể
nhổ đứt mình lên! Không, tốt hơn mình nên đợi cho đến lúc an toàn hơn." Và
nó tiếp tục đợi chờ… Một sáng đầu xuân, cô gà mái bới đất kiếm ăn đã thấy hạt
giống đang nằm chờ đợi. Cô chẳng đợi gì mà không mổ lấy, nuốt ngay.
2. Ánh sáng và bóng
tối
Báo Los Angeles Times ngày 8-6-1996, viết về
ông Sam Eason, một người đánh giày ở bãi đậu xe như sau:
Sam Eason là một người đánh bóng với tất cả ý
nghĩa của danh từ ấy. Ông ta không chỉ làm cho bạn nhìn bảnh hơn ở chiếc giá
đánh giày… mà còn giúp bạn cảm thấy thoải mái vui hơn. Với vài đường đánh giày
thật khéo, ông làm cho đôi giày cũ sờn của bạn trở nên bóng loáng. Và bằng mấy
câu nói khéo, ông có thể khiến những luật sư hoặc những người buôn chứng khoán
mệt mỏi trở nên hăng hái vui tươi.
Quản lý các hệ thống văn phòng Timothy
Matthews nói: "Bất kể màu da hay màu giày của bạn, Sam là một người bạn
tốt của mọi người." Giám đốc công ty sản xuất máy Photocopy Phil Canon
thêm: "Không có gì giả tạo nơi Sam."
Trước sự giao tế niềm nở, cảm thông và
đầy tình người của Sam Eason, nhiều khách hàng dù đã đổi đi xa, vẫn lái xe đến
với ông để được đánh bóng đôi giày và được làm cho tươi mát tâm hồn.
Người đánh giày dễ thương ấy đã qua đời vì
bệnh tiểu đường ngày thứ Hai 3-6-1996 và được an táng đúng sinh nhật thứ 59 của
ông (thứ Sáu 7-6-1996). Trên giá đánh giày bỏ trống, khách hàng đặt những bó
hoa tươi thắm ấp đầy thương nhớ. Họ kể cho nhau nghe Sam Eason đã làm tươi mát
cuộc đời họ như thế nào…
Sĩ quan cảnh sát John Bavetta trong điếu văn
đọc ở tang lễ của Sam Eason đã khóc khi kể lại hàng trăm tập quán của Sam
Eason. Trước khi chào từ biệt ông đã nói: "Bây giờ đến lượt hào quang của
Sam được đánh bóng."
3. Máu của Telmachus.
Ngày đại hội năm 444 sau kỷ nguyên, làn sóng
người từ khắp nơi kéo về Rôma. Rôma tưng bừng với vẻ của một ngày hội.
Hoàng đế Honorius cho tổ chức các trận giác
đấu mừng ngày giải phóng dân Goths. Giữa đám đông lũ lượt đi đi lại lại, một
ông già trong bộ y phục đơn giản của một vị tu trì Đông phương trầm lặng bước
đi. Tên ông là Telmachus. Nhà tu trì này chỉ chăm lo chuyên khảo Thánh kinh và
cầu nguyện. Cái trò chơi đẫm máu bỉ ổi này đã chấm dứt ở miền Đông nơi phát
xuất ra ông. Nhưng nó vẫn còn đang tiếp diễn ở Rôma, đất nghìn năm muôn thuở,
mặc dầu đã có ba vị hoàng đế tìm cách chấm dứt. Telmachus đăm chiêu, vì ông
đang suy nghĩ phải làm gì để chấm dứt trò chơi này.
Những tay giác đấu gồm đủ mọi hạng người: có
khi là những phạm nhân đã bị án tử, có khi là Kitô hữu, thường hơn là tù binh,
đôi khi có người vì tham tiền, ham danh tình nguyện...
Trận đấu đầu tiên ghi lại trong lịch sử diễn
ra năm 264 trước kỷ nguyên với 3 cặp đấu. Con số mỗi ngày một tăng. Quốc hội
phải hạn chế chỉ cho Julius Cesar được có 320 cặp để chiến đấu trong một trận.
Dưới triều Augustô, có lúc tới 10.000 tham dự trận đấu.
Hôm nay ngày tổ chức giác đấu, 85.000 chỗ ngồi
trong đại thao trường Colosseum chật ních không còn chỗ trống.
Cái ung nhọt này không còn cơ cứu chữa. Nhân
vật duy nhất đã dám lên tiếng chỉ trích là nhà hiền triết Sénèque. Ngoài ra còn
có 3 vị hoàng đế chống lại trò chơi này, nhưng không dám thi hành vì sợ sự phản
ứng mạnh phía quần chúng.
Đến giờ, những tay giác đấu xếp thành hàng dài
chậm chạp diễn quanh đấu trường. Tới chân khán đài danh dự, chỗ vua ngồi, họ la
to: kẻ hạ thần là những người sắp chết xin kính chào bệ hạ.
Khán giả quanh đấu trường chọn tay giác đấu
nào họ ưa thích rồi la hét kích thích họ xung trận.
Khi hai tay giác đấu đang sát phạt đến hồi gây
cấn nhất, bỗng một người ăn mặc đơn giản xông vào giữa hai đấu thủ gạt họ ra.
Đám đông khán giả giận dữ la hét vang dội. Một số bực tức quá chạy ra tận đấu
trường xé ông ra hàng trăm mảnh vì làm cho họ cụt hứng. Con người đó chính là
Telmachus.
Kinh hoàng trước sự việc xẩy ra, Honorius
chính thức tuyên bố bãi bỏ trò chơi bỉ ổi đã giết hại không biết bao nhiêu sinh
linh ở Rôma cũng như ở các nơi khác.
Kể từ đó lịch sử không còn nói những trận đấu
gươm tại Rôma nữa.
Không đổ máu không có ơn cứu rỗi.
Nhờ dòng máu Telmachus làm tắt dòng máu nhiều
kẻ khác (Op, cit, tr 271-273).
4. Tượng Thánh giá ban
phép lành.
Tại một nhà thờ bên Tây ban nha có một tượng
Thánh giá rất đặc biệt: Chúa Giêsu chỉ chịu đóng đinh có một tay trái và hai
chân, tay phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra phía trước trong tư thế như đang ban
phép lành.
Chuyện kể rằng: một lần, tại nhà thờ này có
một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh
ta, vị Linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật
đó, ra khỏi toà giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục sa ngã. Rất nhiều lần
như thế. Cuối cùng, vị linh mục đành răn đe:”Tôi không muốn anh vấp lại những
tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh." Hối nhân ra
khỏi toà giải tội mà lòng trĩu nặng và đau khổ.
Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng
tội, và xưng cũng cùng những tội nặng y như những lần trước. Vị linh mục dứt
khoát:”Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha." Thật lạ lùng. Ngay lập
tức, vị linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây
Thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu được rút ra khỏi lỗ đinh và ban phép
lành cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói với chính
mình:”Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con."
Kể từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không
gắn vào thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, như không ngừng
mời gọi:”Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ được tha thứ."
Thiên Chúa đã không dạy bài học tha thứ suông,
nhưng đã dạy bài học tha thứ bằng chính mạng sống của Con yêu dấu Ngài là Đức
Giêsu. Nếu ngày xưa, con rắn đồng trong sa mạc được giương lên, thì hôm nay
chính Chúa Giêsu được giương lên. Mãi mãi chúng ta biết ơn Chúa Giêsu và khắc
sâu lời Ngài:”Như Maisen đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, Con Người cũng
sẽ giương cao như vậy."
5. Tình yêu hiến thân
Một người mẹ goá bụa, ngày ngày thức
khuya dậy sớm buôn bán tất bật nuôi cả gia đình gồm bảy miệng ăn.
Tối hôm ấy, bà vội vã phóng xe máy về
nhà cho kịp nấu cơm tối cho đoàn con; bất thần, đèn pha xe máy bị hỏng
khiến bà không nhìn thấy chiếc xe bò chở đầy những cây tre dài đang di
chuyển cùng chiều trước mặt; hậu quả là chiếc xe máy chở bà lao vào các
ngọn tre nhọn hoắt. Đôi mắt bà bị hai ngọn tre chọc thủng, máu tuôn
ra đầm đìa. Bà liền được đưa vào bệnh viện cấp cứu.
Sáu người con khôn lớn của bà vội đến
bệnh viện thăm mẹ. Thấy mẹ bị tai nạn hết sức thương tâm, đứa nào cũng
nức nở sụt sùi.
Vị bác sĩ điều trị thấu hiểu bao nỗi
gian truân mà người mẹ này đã cam chịu đêm ngày để nuôi dạy sáu người
con trong mấy chục năm qua và ông nghĩ rằng công lao của bà đáng được
đoàn con đáp đền cân xứng, nên đề nghị rằng nếu có ai trong họ hiến
cho mẹ một con mắt, chỉ một con mắt thôi, thì ông có thể lấy con mắt
của người cho để thay vào cho người mẹ. Như thế, người mẹ sẽ thoát
cảnh mù loà và có thể tiếp tục làm ăn buôn bán nuôi cả đoàn con.
Khi nghe lời đó, cả sáu người con đều cúi
đầu thinh lặng. Dù biết công lao mẹ dành cho mình như trời như biển,
nhưng không một đứa con nào có đủ yêu thương để hiến cho mẹ, dù chỉ một
con mắt của mình.
Không trách sáu người con trên đây, vì xét lại
bản thân mình, mấy ai trong chúng ta có đủ yêu thương để có thể hiến cho người
thân một con mắt của mình?
6. Hy lễ thập giá
Chuyện kể rằng: Có hai bạn già chơi thân với
nhau, một ông là người đạo Công Giáo, có sáu người con, còn người kia đạo Tin
Lành, chẳng có đứa con nào. Gia đình mà không có con thì nó vắng tanh như chùa
Bà Đanh. Cho nên ông thấy bạn mình gia đình có con cái đông vui vẻ như vậy thì
ông thích lắm, nên ông ngõ lời: “Tôi với anh chỗ bạn thân với nhau, tuy khác
giáo phái, song thờ cùng một Thiên Chúa. Tôi thấy bạn rất đông con, mà hai vợ
chồng tôi không có một mống. Vậy xin anh cho tôi một đứa, tôi sẽ nuôi nó ăn
học, sẽ nhường gia tài của tôi cho nó… ."
Nghe vậy, ông bạn Công giáo về nhà bàn với vợ:
“ Mình ơi! Tôi có ông bạn thân với nhau từ hồi nhỏ, mình thì được Chúa thương
có sáu đứa con, còn ông ta chẳng có đứa nào, vậy chúng ta cho ông một đứa nha
." Bà vợ bằng lòng và rồi hai người bàn với nhau.
Đứa thứ nhất là trưởng nam, mình không
thể cho thằng trưởng nam được, để khi mình chết, nó còn lo xây mồ yên mả đẹp,
cầu hồn xin lễ cho mình…
Đứa thứ hai xinh ơi là xinh, cả tá con
trai ngấp nghé trồng cây si trước nhà, nhưng cô từ chối, vì có ý định dâng mình
cho Chúa. Vậy để nó đi tu làm Soeur mình có chức ông bà cố hãnh diện với người
ta.
Đứa thứ ba học giỏi, tính tình hơi đỏng
đảnh, đôi mắt gan lỳ mưu cơ, nhưng cô đã làm lễ đính hôn với một bạn trai trong
xứ đạo. Vì thế ta không thể cho được, để nó lấy chồng mình có chức sui gia, có
rượu mà uống, có cháu ngoại mà bồng.
Đứa thứ tư, cũng là một cô con gái, vừa mới
nói tới cô, bà vợ không bằng lòng, bà nói: đừng có cho đi cô công chúa của tôi!
Vì nó giống bà ngoại như đúc. Từ đôi môi, nụ cười, khoé mắt, cả dáng đi yểu điệu
uyển chuyển như người mẫu. Cứ thấy nó là bà vợ như thấy bà ngoại hiện hình, cho
đi sao được.
Đứa thứ năm, là một cậu trai dễ thương, nhưng
bị tật bẩm sinh, phải đi lại bằng xe lăn, ai lại cho bạn mình yêu mến một người
con tàn tật.
Và đứa thứ sáu là cậu út, cậu út khấu
khỉnh, rất ngoan, được cha mẹ cưng chiều, suốt ngày nó bi ba bi bô nói cười,
cậu hay ngồi trên đùi vuốt chòm râu bạc, và hay đón mẹ đi chợ về, tỉ tê với mẹ
cha, cậu là niềm vui cho tuổi già.
Thế là hôm sau, ông đành vác bộ mặt u buồn đến
với ông bạn Tin lành để báo tin buồn rằng: “Tôi không thể nào cho ông được đứa
con nào cả ." Có sáu người con mà không thể cho người bạn thân thiết nhất
đời, một người con.
Còn Thiên Chúa thì sao? Ngài chỉ có một người
Con duy nhất đẹp lòng Cha mọi đàng, đồng bản tính với Chúa Cha, nghĩa là tốt
đẹp hoàn hảo. Vậy mà vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa đã trao người Con Một
yêu dấu của Ngài cho chúng ta. Như lời thánh Gioan tồng đồ nói: “Thiên Chúa đã
yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Người Con một của Ngài, đến để chết đền
tội cho chúng ta”(Ga 3,16).
7. Tôi sẽ kéo mọi
người lên
Năm 1941, một tù nhân đã trốn khỏi nhà tù
Ốt-suýt (Auschwits) của Đức quốc xã. Đó là một nhà tù nổi tiếng khủng khiếp, và
đã có quy định là nếu một người trốn trại thì sẽ có mười người khác thế mạng.
Giám thị trại giam tập họp tù nhân lại và đếm ra 10 người. Một trong đám mười
người bị tử thần điểm danh này bỗng òa khóc: “Trời ơi, vợ tôi, con tôi! Tôi sẽ
không bao giờ gặp lại họ nữa!" Cha Maximilianô Kônbê (Maximiliano Kolbe)
cũng là tù nhân ở trại lúc đó, nghe tiếng than của người tù. Cha động lòng
thương, Ngài tiến lại kéo anh tù ra, và đứng vào chỗ anh cho đủ mười người. Cha
Kônbê và 9 bạn tù bị bỏ đói hai tuần lễ và kết thúc cuộc sống bằng một mũi tiêm
thuốc độc. Xác họ được hỏa táng và sử dụng như phân bón.
Người tù thoát chết tên là Phanxit (Francis
Gap Wniczek) kể lại chuyện này. Anh nói sau cái chết của Cha Kônbê, tinh thần
trại giam thay đổi hẳn. Mọi người đối xử với nhau rất thân ái, chia sẻ từng mẩu
bánh, từng muỗng canh, ai cũng cảm phục và muốn noi gương vị Linh mục dòng
Phanxicô, đã hy sinh mạng sống để cứu một người anh em.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phong Thánh
cho Cha Kônbê vào tháng 10 năm 1983, và đặt Ngài làm bổn mạng của thời đại khó
khăn. Giáo Hội mong ước các tín hữu noi gương Cha Kônbê, và cũng là noi gương
Chúa Giêsu, sẵn sàng hy sinh cho anh em đồng loại.
8. Quy luật sự sống
Cái chết của ông Y Rabin, Thủ Tướng Israel
ngày 3/11/1995 đã làm cả thế giới chấn động. Những người Do Thái quá khích giết
ông, vì họ không chấp nhận công trình hòa bình ông đang kiến tạo với Palestine
và các nước vùng Trung Đông. Cái chết của ông Rabin làm cho thế giới nhớ lại
cái chết của Mahatma Gandhi 50 năm trước đây: một người thanh niên Ấn Giáo quá
khích đã sát hại vị Cha già của dân tộc Ấn, vì anh không thể chấp nhận việc
ngài tha thứ và dạy tha thứ cho người Hồi Giáo. Người ta cũng không thể quên
cái chết của Mục sư Martin Luther King năm 1968, vì đã tranh đấu cho quyền bình
đẳng của người da đen bằng phương pháp ôn hòa và bất bạo động.
Lịch sử nhân loại đã được viết bằng máu của
biết bao gương mặt kiến tạo hòa bình như thế. Liệu người ta có thể xếp cái chết
của Chúa Giêsu vào hạng những cái chết vì hòa bình không? Đâu là lý do khiến
Chúa Giêsu phải chết, một cái chết cũng mang tính cách mạng như chính cuộc sống
và sự điệp của Ngài?
9. Hạt giống này mầm
Vào một đêm giông bão có một người đàn ông
đứng tuổi cùng bà vợ ghé vô một khách sạn nhỏ và hỏi viên thư ký: Xin anh làm
ơn cho chúng tôi một phòng. Viên thư ký trả lời: Thưa ông, tất cả mọi phòng đều
có người thuê, nhưng tôi không nỡ để ông bà phải ra đi vào lúc một giờ sáng như
thế này. Người chồng hỏi lại: Anh nói chi? Ông bà có thể ngủ tại phòng tôi.
Nhưng anh sẽ ngủ ở đâu? Tôi sẽ tìm được, xin đừng lo lắng cho tôi. Sáng hôm
sau, ông khách trả tiền phòng và nói với viên thư ký: Anh là một người quản lý
có tài, khả dĩ có thể làm chủ một khách sạn lớn. Rất có thể một ngày nào đó,
tôi sẽ xây cho anh một cái.
Hai năm sau, viên thứ ký nhận được một bức
thư, kèm theo vé máy bay khứ hồi đi Nữu Ước và tấm danh thiếp của người khách
trong đêm giông bão. Người khách dẫn viên thư ký tới một đại lộ, chỉ vào một
ngôi nhà cao tầng và nói: Đây là khách sạn tôi đã xây để cho anh quản lý. Không
nói nên lời, người thanh niên rất đỗi ngạc nhiên, ấp úng cám ơn. Mạnh thường
quân của anh là Astoria, chủ nhân của một mạng lưới khách sạn tại Mỹ. Và khách
sạn ông dành cho anh ta là một khách sạn tiện nghi nhất thời bấy giờ.
Hạt lúa rơi xuống đất, có mục nát, thì mới
sinh nhiều hoa trái. Anh chàng thư ký đã chôn vùi những tiện nghi của mình,
bằng cách nhường lại căn phòng ấm cúng cho hai vợ chồng người khách lạ.
10. Để sinh nhiều bông
hạt
Chuyện cổ Ấn Độ kể lại như sau:
Một chàng thanh niên nọ khao khát được nhìn
thấy Chúa. Và rồi Chúa đã đến với anh qua vóc dáng của một con người đẹp đẻ, uy
quyền và dễ mến. Ngài đề nghị với anh:
- Con hãy đi theo Ta một đoạn đường.
Chàng thanh niên cảm thấy hạnh phúc khi cùng
bước đi với Chúa. Được một lúc, Chúa bảo:
- Ta khát, con hãy đi tìm cho Ta một chút
nước.
Chàng thanh niên hăm hở đi tìm. Đi mãi đi hoài
mà chẳng thấy. Cuối cùng anh cũng đến được bên dòng sông. Anh đang chuẩn bị múc
nước thì một cô gái xuất hiện. Cô gái đẹp đến độ làm cho chàng thanh niên mê
mẩn tâm thần, thậm chí quên cả việc đem nước về cho Chúa. Anh làm quen, trò
chuyện với cô gái và hai người lấy nhau, sinh con đẻ cái.
Thế rồi một năm kia, lũ lụt xảy ra. Mưa đổ
xuống và nước dâng lên. Chỉ một mình anh may mắn bám vào cành cây là được cứu
thoát. Còn tất cả vợ con, nhà cửa và sản nghiệp anh đã chắt chiu vun trồng và
tích lũy, đều bị dòng nước cuốn trôi. Giữa lúc anh đang tiếc nhớ khóc thương
cho số kiếp bẽ bàng và cay đắng của mình, thì Chúa hiện ra và nói với anh:
- Con có mang nước về cho Ta không đó. Con làm
gì lâu thế, bắt Ta phải chờ hoài.
11. Ai chọn Chúa?
Một giáo xứ nọ được Chúa Giêsu đến thăm, cha
Sở tập họp giáo dân chật ních Nhà Thờ để hân hoan chào mừng Đấng nhân danh Chúa
Cha mà đến. Chúa Giêsu hỏi:
- Ai coi tiền của hơn Ta (Điều Răn thứ I) thì
ra khỏi Nhà Thờ? Một số người dáng quý phái bước ra.
- Ai hay kêu tên Chúa vô cớ (Điều Răn thứ 2)?
Thì mấy bà sồn sồn đi ra.
- Ai thường bỏ lễ Chúa nhật và lễ Trọng (Điều
Răn thứ 3)? Thanh niên kéo nhau đi.
- Ai không hiếu thảo, không vâng lời ông bà
cha mẹ (Điều Răn thứ 4)? Con nít xô nhau ra về.
- Ai phạm Điều răn thứ 5: giết người? Mấy chú
xì-ke, say xỉn chuồn mất.
- Ai không vi phạm Điều răn thứ 6? Mọi người
trong Nhà Thờ tìm lối trốn hết!
Chúa ngạc nhiên và buồn bã quay lại hỏi cha
Sở:
- Sao thế?…
Nhưng cha Sở cũng biến từ lúc nào!?
12. Lòng người
Xưa kia có một vị hoàng đế rất giàu sang và
cũng rất đại lượng. Vua rộng ban vàng bạc châu báu cho tất cả những ai làm đẹp
lòng vua. Thế là nịnh thần mọc lên như nấm khắp triều đình.
Các hoàng tử thì xu nịnh để được vua cha ban
cho ngai vàng. Các quan trong triều đình thì xu nịnh để được thăng quan tiến
chức. Ai cũng huênh hoang cho rằng mình hết lòng trung nghĩa với vua, sẵn sàng
hiến mạng mình để bảo vệ nhà vua, để chết thay cho vua.
Nhà vua rất đơn sơ nên dễ tin vào những lời
nịnh hót của họ và ban phát cho họ ân lộc dư dầy khiến ngân khố của triều đình
cạn kiệt.
Cả triều đình chỉ có quan ngự y là người trung
thành. Ông đã nhiều lần can gián vua, thuyết phục vua đừng tin bè lũ xu nịnh,
nhưng vua chẳng chịu nghe.
Ngày nọ, vua lâm trọng bệnh thập tử nhất sinh,
tính mạng nhà vua chỉ còn được đếm từng giờ. Quan ngự y trình với vua là bệnh
vua chỉ có thể chữa lành nếu một vị hoàng tử nào đó hiến tặng trái tim mình làm
thuốc cho vua.
Nghe tin nầy loan ra, các hoàng tử trong cung
trốn biệt!
Khi không thể tìm được trái tim của hoàng tử
làm thuốc, nhà vua hỏi quan ngự y xem có thể sử dụng tim của một người khác làm
thuốc được không. Quan ngự y trả lời nếu không có trái tim của hoàng tử thì ít
ra phải dùng trái tim của các vị quan lớn trong triều.
Nghe tin đó, các quan lớn rồi các quan nhỏ
trong triều đều trốn biệt tăm.
Túng quá, thôi thì dùng tạm trái tim của lính
hầu, của công chúa cũng được. Nghe tin đó, cả công chúa, cả lính hầu, cả hàng
trăm thê thiếp cũng không còn ai lai vãng trong cung điện nữa. Cung điện thường
ngày huyên náo, giờ nầy vắng lặng như bãi tha ma!
Bấy giờ vua chỗi dậy, tỉnh ngộ rồi cười ra
nước mắt cho nhân tình thế thái.
Duyên do là quan ngự y và cũng là người trung
nghĩa với vua, đã khéo dựng lên kịch bản nầy, đề nghị với vua giả vờ đau nặng,
bỏ cơm bỏ cháo, để thử thách lòng người!
13. Lương y Giêsu
Một tác giả vô danh đã kể lại một lần đến bệnh
viện của Chúa để kiểm tra sức khỏe và phát hiện rằng mình đang bị bệnh. Ông kể
rằng:
Khi đo huyết áp cho tôi, Chúa cho biết tôi
đang thiếu Lòng Nhân Ái. Và khi lấy nhiệt độ, nhiệt kế đã nhảy vọt đến 400 độ
Ích Kỷ.
Điện tâm đồ cho biết trái tim thiếu những rung
động Yêu Thương, một số mạch máu bị tắc nghẽn, vì lớp cholesterone Ghen Ghét.
Tới khoa chỉnh hình, tôi khám phá mình đi lại
khó khăn.
Tôi không thể tiến lại ôm người anh em vì lòng
Kiêu Hãnh cản ngăn, cánh tay của tôi bại xuội.
Chứng Cận Thị làm mắt tôi không thể nhìn xa
hơn cái vẻ bên ngoài của người khác.
Quen những tiếng ồn ào thường ngày, tai tôi bị
Điếc Đặc, không còn nhạy bén với những tiếng thì thầm yêu thương.
Con xin cảm ơn Ngài, Bác Sĩ Giêsu, vị Lương Y
nhân hậu! Chúa đã chữa trị cho con miễn phí hoàn toàn vì lòng thương xót.
Con cam kết khi xuất viện sẽ tiếp tục dùng toa
thuốc của Chúa, một cách trung thành và đều đặn, nhờ những dược liệu tự nhiên,
Chúa hướng dẫn cho con, trong sách thuốc Tin Mừng của Chúa.
Mỗi buổi sáng, khi thức dậy, con sẽ dùng ngay
một chén trà Tạ Ơn. Trước khi làm việc, con sẽ nhớ uống một thìa súp Nụ Cười
Thân Ái!
Và mỗi giờ, con sẽ uống thêm một viên Nhẫn
Nại, với một ly nước Nhân Bản, và lạy Chúa, khi về lại nhà, con sẽ chích một
mũi thuốc Tình Thương trợ lực, rồi trước khi đi ngủ, con sẽ uống thêm 2 viên
Lương Tâm Bình An.
14. Tình yêu kiên nhẫn
đợi chờ
Một câu thơ mà ai trong chúng ta cũng đều
biết:
Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.
Tương truyền rằng: Có đôi vợ chồng nọ rất
thương nhau. Người chồng vì nghĩa vụ non sông phải ra đi, để lại quê nhà người
vợ thân yêu và đứa con nhỏ dạy. Ngày tháng cứ dần trôi. . . Một hôm người chồng
trở về, vì không báo trước nên không có vợ ở nhà, chỉ có đứa con nhỏ giờ đây đã
nói được những tiếng nói đầu tiên. Nhìn thấy đứa con nhỏ, anh ta rất vui mừng,
gọi con đến và xưng là cha của nó. Nhưng ngở ngàng thay, đứa nhỏ không chịu,
còn nói rằng: cha nó không bao giờ về vào lúc ban ngày, cha nó chỉ về vào ban
đêm.
Người chồng nghi ngờ vợ, niềm uất hận dâng
lên. Bỗng đâu người vợ thân yêu từ ngoài đi vào, nhìn thấy chồng, rất vui mừng.
Nhưng sự vồn vã yêu thương đâu chẳng thấy, mà trái lại, chị còn phải nhận thái
độ lạnh nhạt và những lời cay đắng. Không thể biện minh được cho sự trong trắng
của mình, chị mới tìm cái chết để giải thích cho nỗi oan tình. Chiều đến khi
mọi vật đã chìm vào bóng đêm đứa nhỏ cứ đòi mẹ, nhưng chẳng thấy.
Nó lại bảo là cha nó sắp về. Nó mới dẫn người
chồng vào trong và chỉ lên vách. Cái bóng đen do ánh đèn tạo nên, đứa nhỏ gọi
đó là cha của nó. Người chồng ngỡ ngàng hiểu ra mọi chuyện thì đã muộn. Anh đi
tìm vợ, nhưng chẵng thấy. Ngôi miếu được dựng lên để giải oan, để xin lỗi người
vợ và để nói lên mối tình chung thủy của vợ chàng Trương.
Người chồng đã đứng kề bên hạnh phúc, đối mặt
với sự thật. Nhưng anh ta chưa nhận ra được sự thật, vì anh ta quá tự hào về
những hiểu biết của chính mình, mà không cần nghe những lời giải thích cặn kẻ.
Thế cho nên suốt cuộc đời anh ta sẽ chẵng bao giờ nhìn thấy và tìm được nguồn
hạnh phúc nơi người vợ chung thủy của mình nữa.
15. Tình yêu quên mình
Huyền thoại của một nước vùng Ấn Độ có câu
chuyện này: Thời xưa, đất nước còn hoang sơ, có một con thỏ tên là Pôlixa. Thỏ
Pôlixa rất thương người, ai xin gì cũng cho, không từ chối bao giờ. Một hôm có
một cụ già lom khom chống gậy đi tới và nói:
- Già đói lắm, suốt mùa nước lũ già không có
gì ăn. Chắc già sắp chết rồi, giờ đây già chỉ thèm một miếng thịt thỏ, Pôlixa
có cho già được không?
Thỏ Pôlixa nhìn ông già hom hem yếu đuối, tội
nghiệp quá. Thỏ Pôlixa bảo ông:
- Được rồi, ông chờ một lát.
Pôlixa đi kiếm củi xếp thành đống rồi nổi lửa,
và nói:
- Ông chờ thịt cháu chín, ông lấy mà ăn.
Rồi thỏ chụm chân nhảy vào lửa. Bỗng nhiên lửa
tắt, ông già biến mất. Thì ra đó là một vị thần được Thượng đế cho phép tới thử
lòng thỏ. Về sau để thưởng công, Thượng đế đã cho thỏ Pôlixa về vui đùa mãi mãi
bên mặt trăng.
16. Người thợ săn trên
trời
Francis Thompson là một thi sĩ, khi còn là một
cậu con trai, đã ước mơ làm linh mục, nhưng rồi vì lười biếng, ước mơ ấy đã
không bao giờ trở thành sự thật. Lớn lên, ông làm quen với ma túy, và chính ma
túy đã hủy hoại tinh thần và thể xác ông. Ông kiếm sống bằng nghề đánh giày,
bán diêm quẹt và giữ ngựa. Sau cùng đã phải ngửa tay đi xin ăn và chui rúc ở
gầm cầu xó chợ.
Giữa lúc ấy, nhờ lòng tốt của một cô gái
nghèo, Thompson gặp ông bà Wilfred Meynell. Họ thấy ông có tài, nên giúp ông
gặp được tình thương của Chúa. Và ông đã diễn tả kinh nghiệm đời mình trong một
bài thơ mang tựa đề là “Người thợ săn trên trời.”
Ông cho biết ông đã trốn chạy Chúa thế nào và
Chúa đã chộp bắt được ông ra làm sao? Ông so sánh mình là như một con thỏ nhỏ,
còn Chúa là như người thợ săn. Khác với người thợ săn, Chúa chộp bắt từng linh
hồn, không phải để giết chết, mà là để cứu sống.
17. Chiếc thang Giacóp
Trước mặt Chúa, mọi người chúng ta đều có tội.
Chẳng có ai hoàn toàn trong trắng vô tội trước mặt Chúa.
Một mục sư giảng về chiếc thang Giacóp. Cậu
con trai ông ấy cảm động. Mấy ngày sau, cậu nói với cha là mình vừa mơ về câu
chuyện đó.
- Sao, con mơ thấy gì ?
- Con mơ thấy một chiếc thang bắc lên tới tầng
mây. Ở dưới chân thang có rất nhiều phấn và mỗi người phải lấy phấn viết hết
các tội mình đã phạm lên chiếc thang đó thì mới lên được.
- Hay thật! Rồi con thấy gi nữa ?
- Con thấy con leo lên, nhưng chưa được bao xa
thì con thấy có người leo xuống.
- Ai vậy ?
- Ba chứ ai.
- Ba ?
- Thế ba leo xuống để làm gì ?
- Ba lấy thêm phấn!
Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được khiêm
nhường trước mặt Chúa. Tưởng cũng nên nhắc lại đây lời của Thánh Phaolô: “Những
ai đang đứng vững hãy coi chừng kẻo té” (1Cr 10,12).
18. Quen thói xấu
Có hai hành khách ngồi chung trong một chuyến
xe lửa từ Tôrinô tới Paris.
Vào một ngày mùa đông, bầu trời xanh xám không
một tia sáng mặt trời, xe lửa chạy tới biên giới nước Pháp thì tuyết bắt đầu
rơi, bên ngoài trời giá lạnh, nhưng trong xe hơi ấm của lò sưởi rất dễ chịu,
thêm vào đó là tiếng máy đều đặn như tiếng nhạc ru ngủ cho cuộc hành trình thêm
thoải mái. Một trong hai người khách tỏ vẻ băn khoăn lo lắng lạ thường, mỗi lần
tới một nhà ga người ấy lại giựt mình đứng phắt lên, đến gần cửa nhìn nhà ga
đọc lớn tên ga rồi ông trở về chiếc ghế ngồi và thở dài một cách thảm não. Sau
nhiều trạm như thế, người bạn bên cạnh lên tiếng hỏi với tất cả sự quan tâm và
tế nhị.
- Có điều gì làm ông khó chịu hoặc ông bị đau
chăng ? Ông ta thở dài một cách thảm não và nói:
- Tôi không đau ốm gì cả, chỉ có điều là tôi
đã lấy chuyến xe đang chạy ngược chiều với hướng của tôi định đi. Lẽ ra tôi
phải xuống xe từ những trạm trước kia rồi để đổi sang chuyến xe khác, nhưng tôi
không có can đảm bước xuống giữa làn mưa tuyết trắng. Ngồi trong xe với hơi ấm
thế này dễ chịu hơn.
Biết mình đang là người tiến trên con đường
tội lỗi, phải quay về con đường thiện. Nếu không đủ can đảm cởi bỏ những thói
quen cũ và những tiện nghi vui sướng tạm bợ của đời sống đang sống thì chắc
chắc đích điểm mà mình muốn nhắm tới sẽ càng ngày càng bỏ xa mình. Than vãn thở
dài nào có ích lợi gì đâu.
19. Gần đèn thì sáng
Lúc còn nhỏ, Mạnh Tử ở gần nghĩa trang. Ngày
ngày thấy người ta chôn cất người chết với những lời than khóc ai oán thì cậu
bé cũng bắt chước chôn các con vật chết, cũng giả vờ kêu than khóc lóc.
Thân mẫu của Mạnh Tử không muốn con mình bị
tiêm nhiễm lối sống buồn thảm ở bãi tha ma, nên mới dời nhà đến gần phố chợ.
Sống nơi đây, tuy nhộn nhịp vui vẻ hơn, nhưng Mạnh Tử lại học theo thói côn đồ
của một số trẻ ranh ma đầu đường xó chợ, ưa trộm cắp, chửi tục và đấm đá nhau.
Người mẹ một lần nữa quyết định phải dời nhà đến gần trường để xa tránh môi
trường xấu.
Từ ngày sống cạnh nhà trường, ngày ngày thấy
bạn bè cùng trang lứa cắp sách đến trường, Mạnh Tử cũng xin mẹ cho đi học.
Học tập chưa được bao lâu, cậu lại bị bạn xấu
rủ rê bỏ học đi chơi.
Hôm nọ, khi người mẹ đang dệt vải nửa chừng
chợt thấy Mạnh Tử cắp sách về nhà không muốn học nữa, bà lặng lẽ cầm kéo cắt
nát tấm lụa đang còn dở dang trên khung cửi.
Quá tiếc xót tấm lụa quý, Mạnh Tử hỏi lý do, người
mẹ trả lời: "Con đang đi học mà bỏ nửa chừng thì có khác chi mẹ dệt tấm
lụa chưa xong mà cắt bỏ đi vậy."
Thế là từ đó, Mạnh Tử giác ngộ, ngày đêm miệt
mài đèn sách và sau nầy trở thành bậc thánh hiền của người Trung Quốc.
Chúa Giêsu tỏ ra buồn phiền vì người đời yêu
chuộng tối tăm và xa lìa ánh sáng: "Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người
ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai
làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi
bị chê trách" (Ga 3,19)
Lời Chúa:
TRUYỆN KỂ
1.
Lời Chúa: Ga 4, 43-54
Khi ấy, Chúa Giêsu bỏ Samaria mà đến Galilêa.
Chính Người đã nói: "Không vị tiên tri nào được kính nể nơi quê hương
mình.” Khi Người đến Galilêa, dân chúng ra đón tiếp Người: Họ đã chứng kiến tất
cả các việc Người làm ở Giêrusalem trong dịp lễ; vì họ cũng đi dự lễ.
Người trở lại Cana xứ Galilêa, nơi Người đã
biến nước thành rượu. Bấy giờ có một quan chức nhà vua ở Capharnaum có người
con trai đang đau liệt. Ðược tin Chúa Giêsu đã bỏ Giuđêa đến Galilêa, ông đến
tìm Người và xin Người xuống chữa con ông sắp chết. Chúa Giêsu bảo ông:
"Nếu các ông không thấy những phép lạ và những việc phi thường, hẳn các
ông sẽ không tin.” Viên quan chức trình lại Người: "Thưa Ngài, xin Ngài
xuống trước khi con tôi chết.” Chúa Giêsu bảo ông: "Ông hãy về đi, con ông
mạnh rồi.” Ông tin lời Chúa Giêsu nói và trở về.
Khi xuống đến sườn đồi thì gặp gia nhân đến
đón, báo tin cho ông biết con ông đã mạnh. Ông hỏi giờ con ông được khỏi. Họ thưa:
"Hôm qua lúc bảy giờ cậu hết sốt.”
Người cha nhận ra là đúng giờ đó Chúa Giêsu
bảo ông: "Con ông mạnh rồi", nên ông và toàn thể gia quyến ông đều
tin.
Ðó là phép lạ thứ hai Chúa Giêsu đã làm khi
Người ở Giuđêa về Galilêa.
TRUYỆN KỂ
1. Để tiếng hát có hồn
Một thiếu nữ có giọng hát thiên phú, cô luyện
giọng với một giáo sư âm nhạc tài ba, cô đã hát được những giai điệu tuyệt hảo.
Thế nhưng khi trình diễn, cô vẫn thấy giọng hát của cô chưa được truyền cảm. Vị
giáo sư âm nhạc giải thích cho cô: “Tôi đã dạy cô tất cả những gì tôi biết,
nhưng cô còn thiếu một điều mà tôi không thể cung cấp cho cô được, điều đó đến
từ cuộc sống: chỉ có kinh nghiệm của cuộc sống, chỉ có những điều làm tan vỡ
cõi lòng mới làm cô hát với tất cả cảm xúc.”
Đau khổ là lửa thử niềm tin con người, đau khổ
có thể đưa con người đến thất vọng, chối bỏ, và lộng ngôn, nhưng đau khổ cũng
có thể là khởi điểm của tin yêu phó thác. Nguyện xin Đấng là đường, là sự thật
và là sự sống củng cố niềm tin chúng ta giữa những đau khổ đè nặng trên thân
xác và tâm hồn chúng ta.
2. Tin người đáng tin
Một bà già đứng ở ngã tư có nhiều chuyến tàu
đi qua. Vì ít khi ra ngoài, nên bà chẳng biết tàu nào về đâu. Sợ đi lạc, bà giơ
vé ra hỏi một người đứng kế bên:
- Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này
không?
- Phải đó bà.
Nhưng bà chưa an tâm. Biết đâu người ấy cũng
không rành. Bà gặp người khác, cũng hỏi:
- Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này
không?
- Phải đó bà.
Nhưng
bà vẫn chưa hết áy náy. Rồi bà gặp một người đeo phù hiệu nhân viên hỏa xa, bà
hỏi:
- Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này
không?
- Phải, thưa bà.
Thế là bà an tâm bước lên tàu. Bà đã tin người
đáng tin. Đức tin là thế!
3. Tin là thế
Một người vô thần rất mê leo núi. Ngày kia
trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhung may thay ông bám được một cánh
cây nằn chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết chờ chết, một ý
nghĩ chợt đến với ông: Tại sao không gọi Chúa đến cứu giúp. Thế là lấy hết sức
lực, người vô thần la lớn: ”Lạy Chúa.”
Tuy nhiên bốn bề chỉ có thinh lặng và ông chỉ
nghe được tiếng dội của lời kêu van. Một lần nữa người vô thần lại kêu xin tha
thiết hơn: ”Lạy Chúa, nếu quả thật Chúa hiện hữu thì xin hãy cứu con. Con hứa
sẽ tin Chúa và dạy cho những người khác cũng tin Chúa.”
Sau một hồi lặng thinh, bỗng người vô thần
nghe thấy một tiếng vang dây cả vực thẳm và núi cao: ”Gặp hoạn nạn thì ai cũng
cầu xin như thế.” ”Không, Lạy Chúa, nghìn lần không. Con không giống như những
người khác. Chúa không thấy sao, con bắt đầu tin từ khi nghe thấy tiếng Chúa
phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ cao rao danh Chúa cho đến
tận cùng trái đất.”
Tiếng ấy trả lời: ”Được lắm, Ta sẽ cứu ngươi.
Vậy ngươi tin thì hãy buông tay ra.” Người vô thần thất vọng hô lên: ”Buông tay
ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao?”
4. Sự sống âm thầm
phát triển
Một bà đạo đức áy náy vì một vài tật xấu bà đã
cố gắng hết sức mà vẫn không chừa được. Bèn đến than thở với Cha linh hướng.
Ngài nói: ”Con có để ý thấy không, vào mùa đông, lá sồi rụng nhiều, nhưng vẫn
còn vài chiếc. Gió đông thổi mạnh nhưng vẫn không làm chúng rụng xuống. Nhưng
khi mùa xuân đến, chúng tự động rụng, nhường chỗ cho những lá non nảy lộc. Vậy
cái gì làm cho chúng rơi rụng? Thưa đó là sự sống mới lưu chuyển trong thân
cây.
“Với chúng ta cũng vậy. Khi sự sống mới của Đức
Kitô nảy nở trong đời sống, ta sẽ mau thăng tiến trên con đường đạo đức.”
5. Tin là như thế
Một vị Linh mục được mời đến bên giường của
một cụ già đang hấp hối.
Khi vị linh mục sắp sửa ngồi xuống trên chiếc
ghế bành đặt cạnh giường của cụ, thì cụ già ngăn cản lại: - Xin cha vui lòng
đừng ngồi vào đó!
Vị linh mục bèn lấy một cái ghế đẩu, ngồi
xuống cho kẻ liệt xưng tội và nhận của ăn đàng.
Sau đó cụ già cố gắng lấy lại một chút hơi hụt
sức tàn và nói:
- Hãy để con kể lại lịch sử chiếc ghế bành này
cho cha nghe. Cách đây 50 năm, khi con còn là một thanh niên, vị linh mục quản
xứ của con có lần hỏi con có thuộc các kinh để cầu nguyện không. Con đáp:
“Không, nếu con hét to đến nỗi có thể bể cả buồng phổi thì một kẻ đứng ở tầng
lầu 3 cũng không nghe con được, vậy thì làm sao Thiên Chúa có thể nghe con từ
Trời được?”
Cha trả lời cách nhẹ nhàng:
- Con đừng thử cố gắng cầu nguyện. Mỗi sáng
con hãy ngồi tự nhiên trên một cái ghế bành và hãy tưởng tượng như Đức Giêsu
Kitô đang ngồi đối diện với con trên một cái ghế bành khác như Ngài đã từng
ngồi trong bao căn nhà ở Palestine… lúc đó con sẽ nói gì với Ngài?
Con trả lời:
- Con sẽ nói thẳng rằng, con không tin Ngài.
- Được, vị linh mục già trả lời, ắt là điều đó
đã nói lên một cái gì đang có thật trong trí của con rồi. Con có thể đi xa hơn
nữa và thách thức nhiều hơn nữa! Nếu Ngài hiện hữu thì tại sao lại không minh
chứng điều đó cho con? Hoặc là nếu con không thích cách Thiên Chúa quản trị thế
giới, tại sao con không nói với Ngài điều này? Con không phải là người đầu tiên
than trách Ngài đâu. Vua Đavid và ông Gióp đã có lần nói với Chúa là Ngài bất
công rồi. Có thể con ao ước cái gì? Con cứ nói lên điều đó. Nếu Ngài ban cho
con, con cám ơn Ngài. Tất cả những trao đổi này là đối tượng của lời cầu
nguyện. Con đừng đọc thuộc lòng một cách máy móc những câu kinh như nhiều người
vẫn làm! Hãy nói những gì thực sự của lòng con.
Cụ già
hấp hối nói tiếp:
- Lúc đó, quả thực con không tin vào Đức Kitô,
nhưng con tin vào vị linh mục già kia. Để làm hài lòng ngài, con đã ngồi trên một
cái ghế bành này và làm như thấy Đức Kitô đang ngồi đối diện với con. Trong vài
ngày đầu, điều đó có vẻ như trò chơi. Nhưng dần dần con cảm thấy Ngài ở đó. Con
nói với Ngài về những chuyện hiện thực. Con xin Ngài một lời khuyên và con nhận
được. Cầu nguyện đã trở thành đối thoại. 50 năm trôi qua và mỗi ngày con nói
chuyện với Đức Kitô ngồi trong chiếc ghế bành này!
Vị linh
mục còn ở đó cho đến khi cụ già này thở hơi cuối cùng, và cử chỉ sau hết của cụ
là đưa bàn tay hướng người bạn vô hình đang ngồi trên chiếc ghế bành trước mặt.
Vâng, tin là như thế! Phúc cho những ai không
thấy mà tin. Không thấy nhưng vẫn tin. Đó mới là đức tin Chúa mong muốn nơi mỗi
người chúng ta.
6. Cầu nguyện luôn,
đừng nản chí
Vậy chỉ những ai tham dự Thánh Lễ với tất cả
lòng tin tưởng nơi Chúa giống vị sĩ quan ngoại giáo Roma, thì họ đều cất tiếng
ngợi khen: “Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt” (Tv
30/29,2a: Đáp ca).
Nhằm nêu cao bậc sống gia đình trong năm “Quốc
Tế Gia Đình – 1994”, vào ngày lễ Chúa Chiên Lành – 24/04/1994, Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II đã phong chân phước cho bà Êlisabeta Calnorimora.
Bà Calnorimora sinh ngày 21 tháng 11 năm 1774,
tại Roma, bà thuộc gia đình giàu có, và được cha mẹ giáo dục Đức Tin rất chu
đáo. Năm 22 tuổi, bà lập gia đình với một luật sư, và đã có với chồng hai cô
con gái. Vài năm sau đó, bà phát hiện ra chồng ngoại tình, hay lấy trộm tiền
của vợ đi nuôi bồ nhí! Bà đã khuyên lơn nhiều lần, nhưng bù lại bà bị chồng
đánh đập tàn nhẫn, đến nỗi người ta phải đưa vào bệnh viện cấp cứu. Bác sĩ chê
vì chồng đã quá tay đối với bà, bác sĩ khuyên đưa bà về để gặp con trước khi
chết! Nhưng Chúa thương cho bà bình phục, từ bấy giờ ông chồng ở luôn với vợ
bé! Bà phải một mình làm việc cần cù nuôi hai con gái. Năm 1801, bà mắc một căn
bệnh hiểm nghèo lúc mới 27 tuổi, nhưng Chúa lại cho bà được bình phục, sau đó
bà gia nhập tu hội đời thuộc Dòng Chúa Ba Ngôi. Nhà bà biến thành nơi cầu
nguyện cho những người đau khổ. Hằng ngày bà đều xin mọi người cầu nguyện cho
chồng bà biết sám hối trở về đường ngay nẻo chính, và bà cũng giúp đỡ nhiều
người về đời sống vật chất cũng như tinh thần.
Ngày 05 tháng 02 năm 1825 Chúa đã cất bà ra
khỏi thế gian, hưởng dương 51 tuổi. Vậy sau 25 năm bà liên lỉ cầu nguyện trong
nước mắt cho người chồng trở về. Lúc vợ chết ông mới thương vợ thương con mãnh
liệt, ông sám hối và trở về phục tang vợ, nhiều người thấy ông, ai cũng chế
nhạo: “Nước mắt cá sấu!” Ông cam phận chịu đựng để một phần nào đền tội mình!
Sau ngày an táng vợ xong, ông trù liệu tiền bạc nuôi hai con chính thức và các
con ngoại hôn, rồi ông xin gia nhập Dòng Chúa Ba Ngôi, và trở thành Linh mục
sống rất gương mẫu.
7. Đức tin nhìn thấy
Nhà điêu khắc người Ý Donatello bỏ đi một khối
đá cẩm thạch vì nó bị trầy. Khi được đề nghị, Michel-Angelo đã nhận khối đá đó.
Ông nhìn vượt qua những trầy xước để thấy được vẻ đẹp tiềm tàng trong đó, và đã
chạm được một kiệt tác là tượng Đavit.
Thiên Chúa cũng làm như thế đối với chúng ta
và đối với thế giới tội lỗi. Qua những trầy xước, Thiên Chúa thấy một vẻ đẹp
tiềm ẩn trong đó, và giờ đây Ngài tái tạo mọi sự theo hình ảnh Chúa Giêsu.
Tôi tin tưởng Thiên Chúa có một chương trình
cho tôi và muốn biến tôi thành một cái gì đặc biệt, bất chấp những trầy xước
của tôi như thế nào?
Khi lấy cái dằm tội lỗi ra khỏi mắt ta, cả thế
giới sẽ tỏa sáng (John Michael Talboit).
8. Đức tin nâng tâm
hồn lên
Fred Smith là một chuyên gia hóa sinh ở đại
học Minnesota. Anh cũng là một người theo thuyết bất khả tri. Một hôm để chiều
lòng người bạn, anh đến tham dự thánh lễ của người Công giáo. Anh không thích
cách hát và bài giảng, nhưng một đoạn Kinh thánh đã gây ấn tượng sâu sắc nơi
anh: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên
Chúa đã làm cho Ngài sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu rỗi” (Rm 10,9).
Đoạn Kinh thánh này là hạt giống nảy sinh một niềm tin vững mạnh: Smith trở
thành người ủng hộ Kinh thánh hàng đầu ở Minnesota.
Câu truyện đức tin của viên sĩ quan và của
Smith mời gọi tôi tự hỏi: Đâu là giây phút nồng cốt trong câu truyện đức tin
của tôi?
Lý trí đưa tôi tới chân núi, đức tin nâng tôi
lên đỉnh núi.
9. Niềm tin nối kết
Thiên Chúa bảo Môsê giơ gậy trên Biển Đỏ, tức
thì nước rẽ ra và tạo thành con đường cho dân Israel đi qua an toàn. Truyền
thuyết kể rằng nước chỉ rẽ ra khi nhóm người Israel đầu tiên thực sự bước chân
xuống biển.
Niềm tin của dân Israel và của viên sĩ quan La
Mã mời gọi tôi tự hỏi: Niềm tin của tôi mạnh mẽ như thế nào? Tôi sẽ làm gì để
cho niềm tin của tôi ngày càng mạnh mẽ hơn?
Tôi tìm kiếm linh hồn mình, nhưng không thấy.
Tôi tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng Ngài ở ngoài tầm tay tôi. Tôi tìm kiếm anh em,
và tôi gặp được cả ba.
Lời Chúa: Ga 5, 1-3a. 5-16
Hôm đó là ngày lễ của người Do-thái, Chúa
Giêsu lên Giêrusalem. Tại Giêrusalem, gần cửa "Chiên", có một cái hồ,
tiếng Do-thái gọi là Bếtsaiđa, chung quanh có năm hành lang. Trong các hành
lang này, có rất nhiều người đau yếu, mù loà, què quặt, bất toại nằm la liệt.
Trong số đó, có một người nằm đau liệt đã ba mươi tám năm.
Khi Chúa Giêsu thấy người ấy nằm đó và biết
anh đã đau từ lâu, liền hỏi: "Anh muốn được lành bệnh không?" Người
đó thưa: "Thưa Ngài, tôi không được ai đem xuống hồ, mỗi khi nước động.
Khi tôi lết tới, thì có người xuống trước tôi rồi.” Chúa Giêsu nói: "Anh
hãy đứng dậy vác chõng mà về.” Tức khắc người ấy được lành bệnh. Anh ta vác
chõng và đi. Nhưng hôm đó lại là ngày Sabbat, nên người Do-thái bảo người vừa
được khỏi bệnh rằng: "Hôm nay là ngày Sabbat, anh không được phép vác
chõng.” Anh ta trả lời: "Chính người chữa tôi lành bệnh bảo tôi: "Vác
chõng mà đi.” Họ hỏi: "Ai là người đã bảo anh "Vác chõng mà đi?"
Nhưng kẻ đã được chữa lành không biết Người là ai, vì Chúa Giêsu đã lánh vào
đám đông tụ tập nơi đó.
Sau đó, Chúa Giêsu gặp anh ta trong đền thờ,
Người nói: "Này, anh đã được lành bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo phải khốn
khổ hơn trước.” Anh ta đi nói cho người Do-thái biết chính Chúa Giêsu là người
đã chữa anh ta lành bệnh.
Vì thế người Do-thái gây sự với Chúa Giêsu, vì
Người đã làm như thế trong ngày Sabbat.
TRUYỆN KỂ
1. Cái chết của một
thiên thần
Cuốn phim Mỹ với tựa đề: “Cái chết của một
thiên thần” mang một ý nghĩa sâu sắc. Tại một vùng quê hẻo lánh bên Nam Mỹ, nơi
mà lòng đạo đức bình dân thường pha trộn những mê tín dị đoan, một thanh niên
nọ đã ngụy tạo ra một phép lạ thu hút được rất nhiều người. Anh lén rạch da lấy
máu mình và cho vào tượng Thánh giá mà chỉ anh mới biết cách tháo ráp. Mỗi lần
anh ôm Thánh giá vào lòng thì máu từ mão gai của tượng chảy ra. Dân chúng từ
khắp nơi, nhất là những kẻ tàn tật, mù lòa đổ vào để chứng kiến phép lạ. Đoàn
người làm thành một đám rước Thánh giá lên trên một ngọn đồi, tại đó người
thanh niên quỳ cầu nguyện bên cạnh Thánh giá và máu lại chảy ra từ mão gai trên
đầu Chúa.
Trong khi phép lạ ngụy tạo này diễn ra mỗi
ngày, thì một đám người bất lương muốn lợi dụng cơ hội để làm tiền. Họ biết
chắc đây chỉ là một sự lừa bịp, nhưng họ chưa khám phá được bí quyết của người
thanh niên. Sau một thời gian theo dõi, họ đã bắt giữ người thanh niên và tra
khảo anh khai ra bí mật ấy.
Không chịu nổi cuộc tra tấn, người thanh niên
đành thú nhận sự thật và đó cũng là lúc khởi đầu của những hình ảnh đẹp nhất
trong cuộc đời anh. Trước đám đông đang chuẩn bị cuộc rước, người thanh niên
tháo gỡ tượng Chúa Giêsu khỏi Thánh giá và cho mọi người thấy sự lường gạt của
anh từ bao năm qua. Với tất cả lòng thành tâm thống hối, anh vác Thánh giá tiến
lên đồi. Đám người bất lương bắn xối xả vào người anh, anh ngã gục, nhưng đoàn
người lại tiếp tục vác Thánh giá lên đồi, nhiều người tàn tật, mù lòa bỗng cảm
thấy được chữa lành.
2. Nơi hội ngộ
Tu hội Nữ tử Bác ái của Mẹ Têrêsa Calcutta
chuyên phục vụ những người nghèo khổ, bệnh tật, đặc biệt là những người đang
hấp hối nằm trên các hè phố.
Trước đây có một vị sư Phật giáo nói với Mẹ
Têrêsa: “Tôi biết và yêu mến Chúa Kitô, nhưng tôi ghét Giáo hội của
Ngài. Nếu các chị làm điều các chị nói, có lẽ các chị sẽ trở nên nơi hội ngộ để
chúng tôi có thể gặp gỡ Giáo hội của Đức Kitô.”
Nhưng sau một năm làm việc cùng với Mẹ Têrêsa,
vị sư đó đã chứng thực việc làm của Mẹ và sẵn sàng dành cho Mẹ một ngôi nhà
trong khuôn viên chùa để làm bệnh xá miễn phí.
3. Hết bị trói buộc
Thầy Andrew – một nhà truyền giáo Hà Lan, được
mệnh danh là “tên buôn lậu của Thiên Chúa”, vì thầy buôn lậu Kinh Thánh vào
những nước cấm phổ biến Thánh Kinh.
Ngày kia, thầy mua được một con khỉ. Không bao
lâu, thầy nhận thấy con khỉ rất khó chịu khi chú bị chạm vào phần thắt lưng.
Sau khi xem xét thật kỹ, thầy khám phá ra một vết sưng vòng quanh hông chú khỉ.
Hóa ra là khi còn bé, chú khỉ đã bị người ta dùng một sợi dây kẽm buộc quanh
hông, và cho tới nay sợi dây này vẫn còn nằm trong thân xác chú. Càng lớn lên
thì sợi thép đó lặn sâu vào da thịt chú.
Chiều hôm ấy, thầy Andrew cẩn thận tháo sợi
dây kẽm đó ra bằng cách: thầy cào sạch vùng lông chung quanh sợi dây, rồi cẩn
thận cắt sợi dây và kéo ra khỏi da thịt con vật. Suốt thời gian này, chú khỉ
kiên nhẫn nằm yên chịu đau, mắt chú nhắm nghiền lại. Ngay khi sợi kẽm được lấy
ra, chú khỉ mừng rỡ nhảy lui nhảy tới rồi ôm chặt vai thầy Andrew. Thế là chú
khỉ được tự do thoải mái, không còn bực bội khó chịu như trước nữa. Không thể
diễn tả nổi chú khỉ hạnh phúc biết bao.
Người bại liệt trong Tin Mừng cũng vui mừng
khi được Đức Giêsu tha tội và chữa khỏi bệnh bại liệt. Anh không còn bị tội lỗi
và bệnh hoạn trói buộc nữa.
5. Cái giá vô giá của
đức tin
Tạp chí Tiếng Vang Lộ-Đức (Écho de Lourdes)
thuật lại một câu chuyện có thật như sau:
Một người vô thần nọ có đứa con gái yêu quý bị
bệnh bại liệt mà các bác sĩ đều đã bó tay, không tài nào cứu chữa được nữa. Ông
nghe những người quen biết đồn rằng, Đức Mẹ ở Lộ-Đức nước Pháp, có thể chữa
lành cho cô bé.
Cuối cùng, thì ông cũng đã chấp nhận đưa con
gái đến Lộ-Đức, nhưng không quên tuyên bố với những người bạn cả Công giáo lẫn
vô thần rằng: “Nếu tôi thấy con gái tôi được chữa khỏi, nếu tôi thấy tỏ
tường nó chỗi dậy và đi lại được, tôi sẽ tin rằng, Thiên Chúa hiện hữu.”
Khi đến Lộ-Đức, ông chen vào giữa đám đông
những bệnh nhân đang vây quanh chiếc giếng mà Đức Mẹ thường làm phép lạ và đưa
con gái lại gần đó. Khi gặp được cha Bailly, một Linh Mục thường trực phụ trách
tại địa điểm hành hương ở đây, ông đã nói với cha về tất cả những nỗi niềm còn
bán tín bán nghi của ông và những gì mà người ta đồn đại về phép lạ.
Rồi đúng lúc em bé được đưa xuống chiếc giếng
cạn để nhúng ướt toàn thân trong nước, cha Bailly đã lớn tiếng nói với mọi
người đang có mặt:
- Có ai trong các vị
hiện diện ở đây bằng lòng tận hiến chính mình làm hy tế cho Thiên Chúa nhân
lành để cầu nguyện cho một người vô thần không? Có ai không? Chỉ cần một người
thôi, bằng lòng cam chịu cơn bệnh nan y cho tới chết để cho cô bé này được lành
và để cho người cha vô thần này được trở lại đạo. Có ai không?
Mọi người yên lặng. Mấy phút trôi qua. Chợt có
một nữ bệnh nhân trung niên chống nạng hai bên nách, khó nhọc lắm mới bước ra
khỏi được đám đông rồi nói nhỏ nhẹ thật khiêm tốn:
- Vâng, có con, con
xin tự nguyện!
Ngay lúc ấy, cô bé bệnh tật liền được khỏi và
tự mình bước ra khỏi miệng giếng. Người cha vô thần vội quỳ xụp xuống và bằng
một giọng thổn thức đầy cảm xúc ông đã thốt lên:
- Lạy Chúa, xin Chúa
tha tội cho con, con tin rồi!
Một đức tin nhỏ sẽ đưa linh hồn bạn vào Thiên
Đàng, một đức tin lớn sẽ đưa Thiên Đàng vào linh hồn bạn.
6. Anh tin Lời Chúa
đứng dậy. tức khắc anh khỏi bệnh.
Las Dasir là một thanh niên rất tốt. Thế
nhưng, anh thấy mình quá yếu đuối trước những cơn cám dỗ. Mặc dầu đã hết sức cố
gắng nhưng anh vẫn sa ngã. Anh đã dốc lòng chừa cũng cả trăm lần rồi thế mà anh
vẫn cảm thấy như bất lực. Nhiều lúc anh cảm thấy như hoàn toàn tuyệt vọng. Để
chứng tỏ cho mọi người biết anh là một người có thiện chí, anh đã tự quyết định
ra hình phạt cho mình: cứ mỗi lần phạm tội, anh sẽ nhổ đi mười sợi tóc trên
đầu. Và chừng nào trên đầu không còn tóc nữa, thì hình phạt cuối cùng sẽ là tự
kết thúc cuộc đời. Chỉ một tháng sau, đầu của Dasir đã gần như bị trọc, và anh
tự hứa với mình sẽ nhất quyết thi hành hình phạt, rồi sau một tháng nữa thì đầu
của anh hoàn toàn bị trọc không còn một sợi tóc nào nữa.
Nhìn vào gương, thấy không còn sợi tóc nào
trên đầu, Dasir tuyệt vọng nói thầm: “Ngày kết thúc cuộc đời tôi đã
đến, tôi không còn cách nào hơn để giữ mình cho khỏi sa ngã phạm tội. Tốt hơn
là phải tự kết liễu cuộc đời của tôi.” Nói là làm. Anh đưa tay vào
ngăn kéo rút khẩu súng lục đã để sẵn trong đó ra để chuẩn bị kết thúc cuộc đời
của mình. Thế nhưng, khi vừa đưa súng lên, kê nòng vào đúng thái dương và định
bóp cò thì thình lình anh thấy một thiên thần hiện ra. Sự xuất hiện của thiên
thần làm cho anh phải bỏ súng xuống. Thiên thần trao cho anh một gói quà và
nói:
- Las Dasir này, đừng
kết liễu đời mình như vậy. Thiên Chúa sai tôi đến đem cho anh món quà này. Anh
hãy mở ra xem đi.
Anh cầm lấy, mở ra và vô cùng ngạc nhiên khi
nhìn vào những gì đặt ở trong chiếc hộp: đó là một bộ tóc giả. Nhìn bộ tóc giả
đó anh đã hiểu ngay được ý của Thiên Chúa muốn cho anh phải làm gì.
7. Trong số đó, có một
người nằm đau liệt đã ba mươi tám năm.
Hai con ếch lộn đầu vào một bình kem. Chúng
quẫy đạp xuống cả giờ cố gắng để leo lên thành bình kim loại. Cuối cùng, một
con bỏ cuộc và chìm xuống, còn con kia tiếp tục quẫy đạp, rồi đột nhiên nó thấy
mình ngồi an toàn trên một tảng kem bơ. Đó cũng là sự kiên trì của bệnh nhân
trong bài Tin mừng hôm nay.
Điều gì ngăn cản tôi kiên nhẫn cố gắng?
8. Đâu có tình yêu
thương ở đó có Đức Chúa Trời
Hai biểu tượng trong bài đọc hôm nay cần được
giải thích đó là Đền thờ, và suối nước chảy ra đền thờ và đem lại sự sống cho
bất cứ nơi đâu nó chảy đến. Đền thờ tượng trưng cho sự hiện diện của Thiên Chúa
giữa dân Israel. Suối nước tượng trưng cho hồng ân đến từ sự hiện diện của
Ngài. Đền thờ và suối nước là hình ảnh mẫu mực cho mỗi kitô hữu, một dấu chỉ sự
hiện diện của Thiên Chúa và nguồn ơn phúc cho thế giới.
Chúa Giêsu đã mô tả vai trò của người kitô
hữu: “Anh em là muối cho đời… Anh em là ánh sáng thế gian” (Mt 5,13-14)
Tôi có thể làm gì cụ thể để sống tốt hơn ơn
gọi kitô hữu?
Người ta có thể nghi ngờ lời bạn nói, nhưng sẽ
tin việc bạn làm (Lewis Cass).
9. Kiên nhẫn
Cách đây nhiều năm, một đôi chim nọ làm tổ
trên đỉnh một tượng đài ở trung tâm chính của thành phố Buenos Aires. Đã ba lần
những công nhân phá tổ chim, nhưng cả ba lần đôi chim lại làm tổ ở chỗ cũ. Cuối
cùng, công dân thành phố nhất mực yêu cầu các công nhân cứ để yên tổ chim.
Cái gì ngăn cản tôi theo đuổi đời sống thiêng
liêng cách kiên trì như tôi đã theo đuổi sự nghiệp của mình?
Một chiếc búa gõ vào đá năm mươi lần, nhưng nó
không hề nứt. Đến nhát búa năm mươi mốt, hòn đá vỡ tan. Chỉ nhát búa này không
thể đập vỡ hòn đá, nhưng là tất cả những nhát búa trước đó.
10. Lời đem lại sự sống
Lee So Young, một cô gái trẻ, nhà đã nghèo,
lại bị mù bẩm sinh. Không còn gì để bám víu nhưng cô không chấp nhận khép lại
cuộc đời mình bằng giải pháp tự tử, trái lại, cô đã vươn lên và trở thành một
nhạc sĩ dương cầm.
Cô cho biết bí quyết đã tạo cho cô nghị lực
phi thường ấy: “Tất nhiên, tôi là một người rất nghèo và không nhìn thấy mọi
vật, nhưng tôi không mù vì tôi có niềm tin” (Tuổi Trẻ 15/07/07). Niềm tin kitô
cũng đi từ khởi điểm chung đó của thân phận con người: Không thể dựa dẫm nơi
bất cứ thụ tạo nào. Dựa vào lý luận hay thực tiễn ư? Lời Chúa thật chói tai.
Dựa vào người khác ư?
Lắm kẻ, kể cả các môn đệ, đã bỏ Ngài chỉ vì
lời nói chói tai ấy. Niềm tin của cô Young khởi đi từ niềm say mê sự sống. Còn
niềm tin kitô đặt nền tảng trên niềm say mê Đức Kitô là “Đấng có những lời đem
lại sự sống đời đời.” Đó chính là niềm tin đích thực.
Lời Chúa: Ga 5, 17-30
Khi ấy, Chúa Giêsu trả lời dân Do-thái rằng:
"Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng làm việc như vậy.” Bởi thế, người
Do-thái càng tìm cách giết Người, vì không những Người đã phạm luật nghỉ ngày
Sabbat, lại còn gọi Thiên Chúa là Cha mình, coi mình ngang hàng với Thiên Chúa.
Vì thế, Chúa Giêsu trả lời họ rằng:
"Quả thật, quả thật, Ta nói cho các ngươi
biết: Chúa Con không thể tự mình làm gì nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì
Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy. Vì chưng, Chúa Cha yêu Chúa Con
và bày tỏ cho Chúa Con biết mọi việc mình làm, và sẽ còn bày tỏ những việc lớn
lao hơn thế nữa, đến nỗi các ngươi sẽ phải thán phục.
Bởi vì, cũng như Chúa Cha cho người chết sống
lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Ngài làm cho ai sống là
tuỳ ý Ngài. Vì hơn nữa, Chúa Cha không xét xử ai cả, mà trao cho Chúa Con trọn
quyền xét xử, để cho mọi người tôn trọng Chúa Con cũng như tôn trọng Chúa Cha:
ai không tôn trọng Chúa Con thì không tôn trọng Chúa Cha, Ðấng đã sai Ngài.
Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Ai nghe
lời Ta và tin Ðấng đã sai Ta, thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng
được từ cõi chết mà qua cõi sống.
Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi, vì đến
giờ và ngay bây giờ, kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai đã nghe thì sẽ
được sống. Cũng như Chúa Cha có sự sống nơi chính mình thế nào, thì Người cũng
cho Chúa Con có sự sống nơi mình như vậy, và Người đã ban cho Chúa Con quyền xét
xử, vì Ngài là Con Người. Các ngươi đừng ngạc nhiên về điều này, vì đến giờ mọi
kẻ trong mồ sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa và ra khỏi mồ; kẻ đã làm việc lành thì
sống lại để được sống, còn kẻ đã làm việc dữ thì sống lại để bị xét xử.
Ta không thể tự mình làm điều gì. Nghe sao, Ta
xét xử vậy.
Và án Ta xử thì công minh, vì Ta không tìm ý
riêng Ta, mà tìm ý Ðấng đã sai Ta.”
TRUYỆN KỂ
1. Không thể làm gì tự
mình
Văn Cao chẳng những là một nhạc sĩ tài hoa, mà
còn là một họa sĩ, một văn sĩ, một thi sĩ.
Có một bài thơ rất ngắn ông làm năm 1967, mang
tựa đề là Không Đề.
Con thuyền đi qua
để lại sóng
đoàn tàu đi qua
để lại tiếng
đoàn người đi qua
để lại bóng
tôi không đi qua tôi
để lại gì?
Theo Văn Cao, chỉ ai đi qua mình, dám vượt qua
cái tôi của mình,
người ấy mới có gì để lại cho hậu thế.
2. Công Việc Của Cha.
Một họa sĩ chuyên vẽ chân dung nọ di chuyển
đến một thành phố nhỏ với hy vọng tìm được nhiều khách hàng.
Vừa đến trước cửa thành, ông gặp ngay một
người say rượu. Hai bên trao đổi với nhau và người say rượu đồng ý cho người
họa sĩ vẽ chân dung của mình. Dù say túy lúy, gương mặt hốc hác, quần áo xốc
xếch, người say rượu vẫn còn có thể ngồi yên để nhà họa sĩ làm việc. So với
những khách hàng khác, thì đây là bức chân dung mà nhà họa sĩ phải tốn nhiều
thời giờ nhất để vẽ.
Đứng ngắm tác phẩm vừa được hoàn thành, người
say rượu không thể cầm được sự ngạc nhiên: thay cho gương mặt chán đời của
mình, anh thấy trong vức chân dung một nụ cười tươi tỉnh lạc quan; thay cho
cách ăn mặc cẩu thả của mình, anh thấy mình được khoác lên một bộ quần áo lộng
lẫy.
Nhìn vào bức chân dung một lúc, anh lắc đầu và
nói: “Người trong hình không phải là tôi.”
Nhà nghệ sĩ trả lời một cách khéo léo vì đã
biết nhìn xuyên qua bề ngoài để thấy vẻ đẹp nội tâm: “Thưa ông, đây là
con người mà ông phải đạt đến.”
Mùa chay là mùa của thanh luyện, của hoán cải.
Giáo Hội mời gọi chúng ta trở về: trở về với Chúa, với anh em, với bản thân.
Tựu trung tội lỗi là một chối bỏ Thiên Chúa, khước từ anh em, đánh mất bản
thân.
3. Để được sống đời
đời.
Một lần kia, thánh Gioan Boscô hỏi các học
sinh của ngài đang chơi đùa: “Nếu ngay bây giờ các con biết mình sắp
chết, các con sẽ làm gì?”
Một số trả lời sẽ đi vào nhà thờ cầu nguyện,
một số khác cho biết sẽ đi xưng tội để dọn mình chết lành.
Riêng thánh Đaminh Saviô điềm nhiên trả
lời: “Nếu trong giây lát con sẽ chết, con vẫn tiếp tục cuộc chơi.”
Sở dĩ như vậy là vì Đaminh Saviô luôn nhận ra
thánh ý Chúa trong từng giây phút và đánh giá mọi sự dưới khía cạnh đời đời.
Đó cũng là thái độ để nêu gương cho các môn đệ:
“Này con xin đến để thực thi ý Chúa.”
4. Cái nhìn hy vọng
Tác giả Đường hy vọng đã khuyến khích những
người con tinh thần của mình như sau: “Hãy nhìn mọi sự với con mắt của
Thiên Chúa, con sẽ thấy giá trị khác, kích thước khác. Sự điên dại trước mặt
loài người là sự khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa.
Khó nghèo, vâng phục,
hãm mình, nhịn nhục, bác ái, tha thứ, khiêm tốn, là khờ dại trước mặt người đời
nhưng lại cao trọng trước mặt Thiên Chúa.
Thế gian cho là xui,
Chúa cho là phúc thật. Thành công con cám ơn Chúa, thất bại con cũng cám ơn
Chúa. Hãy vui tươi vì chính khi thất bại là lúc Chúa muốn thử xem con làm vì
Chúa hay vì ý riêng.
Vui vẻ can đảm lúc
thất bại khó khăn hơn là lúc may mắn, hạng anh hùng này con đếm được trên đầu
ngón tay.”
5. Tin tưởng phó thác.
Có một gia đình nọ sống giũa đồng không mông
quạnh. Vào một đêm kia, căn nhà bốc cháy dữ dội. Cha mẹ, con cái vội vã chạy ra
ngoài sân và đứng bất lực nhìn ngọn lửa thiêu rụi tổ ấm gia đình họ.
Bỗng mọi người chợt nhận ra còn thiếu đứa bé
nhất. Thì ra cậu bé cũng chạy ra với mọi người, nhưng chưa tới cửa, thấy lửa
cháy dữ quá nên lại chảy trở lên lầu. Trong lúc cả gia đình hốt hoảng không
biết phải làm sao để cứu cậu bé năm tuổi, vì lửa bao vây tứ phía, bỗng cửa sổ
trên lầu mở toang, và cậu bé kêu khóc inh ỏi. Cha cậu bé gọi lớn tên con, rồi
nói:
- Con nhảy xuống đây!
Cậu bé nhìn xuống dưới chỉ thấy khói mù và lửa
cháy, nhưng nghe tiếng cha kêu, liền trả lời:
- Ba ơi, con không
trông thấy ba đâu hết!
Người cha trả lời giọng cương quyết:
- Cứ nhảy đi, có ba
trông thấy con là đủ rồi.
Và cậu bé leo lên cửa sổ, liều nhảy xuống, rơi
vào vòng tay yêu thương vạm vỡ của cha mình một cách an toàn.
6. Vâng phục là tự do
chọn điều Chúa muốn
Một thiếu niên đi xem đấu bóng với Cha sở, nói
với Cha rằng anh không thích vâng phục. Anh nói: “Thưa Cha, con rất
ghét ai bảo thế này, thế nọ. Không có tự do trong việc này.”
Cha sở không nói một lới. Liền sau đó, họ gặp
một biển chỉ đường hướng đi đến sân chơi. Cha sở làm như không thấy, cậu bé la
lên:
“Chúng ta đi sai đường!
Thưa Cha, Cha không thấy dấu đàng kia à!”
Cha sở bình tĩnh trả lời: “Cha thấy
chứ, nhưng Cha nghĩ đường này xem ra tốt hơn, và Cha ghét bị ai chỉ bảo đi
đường này, đường kia bởi một biển chỉ đường cũ kĩ. Nó không cho Cha tự do hành
động.”
Cậu bé nhận ra bài học, và họ vòng trở lại đi
vào hướng sân chơi
7. Làm việc là cộng
tác với Chúa
Một hoàng đế nọ cỡi ngựa vào rừng săn bắn. Khi
đi ngang qua ngọn đồi gần bìa rừng, ông trông thấy một cụ già râu tóc bạc phơ
đang cặm cụi đào lỗ trồng cây, Hoàng đế liền thắng ngựa và lớn tiếng bảo cụ
già:
- Chắc hẳn là ngươi
không mong đợi được ăn trái của cây ngươi đang trồng hôm nay chứ!
Cụ già thản nhiên đáp:
- Hạ thần không bao
giờ thất vọng về điều đó; bao lâu hạ thần còn được Thượng Đế ban cho sinh lực,
bấy lâu vẫn tiếp tục hy vọng và chu toàn bổn phận của hạ thần.
Hoàng đế tò mò hỏi thêm:
-Thế ngươi năm nay bao
nhiêu tuổi?
Cụ già đáp:
-Tâu Hoàng Thượng, năm
nay hạ thần vừa tròn một trăm tuổi, biết đâu Thượng Đế còn cho hạ thần sống
thêm một ít năm nữa để hưởng dùng trái cây này. Dù sao, mỗi khi trồng cây, hạ
thần không làm gì hơn là tiếp tục công trình sáng tạo của Thượng Đế, Đấng đã
truyền cho trái đất trổ sinh hoa trái phong phú.
Thán phục lòng tin của cụ già chất phác đơn
thành, hoàng đế nói tiếp:
- Nếu ngươi còn thọ
tới ngày cây vả này trổ hoa kết trái, ngươi hãy cho ta biết.
Ít năm sau, quả thực cây vả đã bắt đầu nở hoa,
rồi kết trái đầy cành. Đợi tới ngày trái vả chín ngọt, cụ già hái đầy một giỏ,
rồi lên đường tới đền vua. Tới cổng, lính canh từ chối không cho cụ già nghèo
hèn vào chầu, nhưng cụ già nài nỉ phân trần đầu đuôi câu chuyện, và rồi vì kính
nể tuổi già tóc bạc, sau cùng mấy anh lính tháp tùng cụ già vào triều yết vua.
Cụ già khiêm tốn cúi mình trước ngai vua và nói:
- Tâu Hoàng Thượng, hạ
thần là ông già khom lưng trồng cây bên bìa rừng mà Hoàng Thượng đã gặp mấy năm
trước đây. Hôm nay, hạ thần xin kính dâng Hoàng Thượng những trái chín ngọt đầu
mùa của cây vả mà hạ thần đã trồng hồi năm ấy.
Nhà vua vui mừng nhận ra cụ già và rất hài
lòng với món quà cụ kính dâng, nhất là với lòng trung tín và sự cần cù của cụ.
Ngài vui vẻ đổi lại cho cụ già cái giỏ đầy những đồng tiền vàng và nói:
- Hỡi người trung tín
và đáng kính phục, hãy trở về nhà bình an và tiếp tục cộng tác với Thượng Đế
toàn năng trong cuộc sáng tạo của Người.
Lời Chúa: Ga 5, 31-47
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với dân Do-thái rằng:
"Nếu chính Ta làm chứng về Mình, thì chứng của Ta sẽ không xác thực. Có
một Ðấng khác làm chứng về Ta, và Ta biết chứng Người làm về Ta thì xác thực.
Các ngươi đã sai người đi hỏi Gioan, và Gioan đã làm chứng cho sự thật.
Phần Ta, Ta không cần chứng của loài người,
nhưng Ta nói những điều này để các ngươi được cứu thoát. Gioan là cây đèn cháy
sáng. Các ngươi cũng muốn vui hưởng ánh sáng đó một thời gian.
Nhưng Ta có một bằng chứng hơn chứng của
Gioan: vì công việc Chúa Cha đã giao cho Ta hoàn thành, là chính công việc Ta
đang làm. Các việc đó làm chứng về Ta rằng Chúa Cha đã sai Ta. Và Chúa Cha,
Ðấng đã sai Ta, chính Người cũng làm chứng về Ta. Nhưng chưa bao giờ các ngươi
được nghe tiếng Người, chưa bao giờ nhìn thấy mặt Người, và lời Người, các
ngươi cũng chẳng giữ lại được, vì các ngươi không tin Ðấng Người đã sai đến.
Các ngươi tra cứu Sách Thánh, vì tưởng rằng trong đó các ngươi sẽ tìm thấy sự sống
muôn đời; chính Sách Thánh lại làm chứng về Ta, vậy mà các ngươi vẫn không chịu
đến với Ta để được sống.
Ta không tìm vinh quang nơi loài người. Nhưng
Ta biết các ngươi không có lòng yêu mến Thiên Chúa. Ta đến nhân danh Chúa Cha,
nhưng các ngươi không chịu đón nhận. Nếu có một người nào khác nhân danh mình
mà đến, các ngươi sẽ đón nhận nó. Các ngươi là những người nhận vinh quang lẫn
nhau mà không tìm vinh quang do một Thiên Chúa, thì làm sao các ngươi có thể
tin được? Các ngươi đừng tưởng rằng Ta sẽ tố cáo các ngươi với Chúa Cha. Kẻ tố
cáo các ngươi là Môsê, tức là người mà các ngươi vẫn tin tưởng. Vì nếu các
ngươi tin Môsê, thì có lẽ các ngươi cũng đã tin Ta, bởi vì chính Môsê đã viết
về Ta. Nhưng mà nếu các ngươi không tin điều Môsê đã viết, thì làm sao các
ngươi tin lời Ta được?"
TRUYỆN KỂ
1. Để Lời Chúa tra vấn
Ngày nọ, có một nhóm người nghĩ là “Thiên Chúa
đã chết” nên họ muốn cử hành lễ nghi an táng cho Người.
Họ nhờ bác phu già trông coi nghĩa trang đào
sẵn cho họ một cái huyệt. Hiện diện trong buổi lễ, ngoài bác phu già, còn tất
cả đều là những vị thuộc giai cấp tri thức trong xã hội: triết gia, giáo sư,
văn sĩ, kỹ sư v.v…
Khi người chủ trì cất tiếng khai mạc lễ nghi
an táng thì bác phu già kêu lên:
- Không thể được, vì quan tài chưa đến.
- Thiên Chúa vô hình
thì cần gì đến quan tài để tẩn liệm.
Một vài người chạy lại kéo ông ra xa, nhưng
vừa vùng vẫy ông vừa la lớn:
- Không, Thiên Chúa
không chết! Thỉnh thoảng khi không ngủ được tôi vẫn hay ra đây ngồi và nghe
tiếng tim Ngài đập. Nếu không tin, tối nay quí vị hãy tụ họp lại đây, quí vị sẽ
thấy.
Động tính hiếu kỳ, họ bỏ dở buổi lễ và hẹn
nhau ban tối sẽ quay trở lại. Tối hôm ấy, tiếng ồn ào bên ngoài vọng lại khiến
cho họ không thể phân biệt đâu là tiếng đập của quả tim Thiên Chúa đâu là tiếng
của những thứ khác. Sau đó họ dời điểm tụ họp đến một vùng quê. Thế nhưng, vắng
tiếng động của thành phố thì lại có tiếng của côn trùng. Sau cùng, họ quyết
định gặp lại nhau một đêm khác trong sa mạc. Giữa bầu khí tĩnh mịch của sa mạc
về đêm, mọi người đều cảm thấy mình được cất khỏi những gánh nặng lo toan, cũng
không bị chi phối bởi một tiếng động nào.
Trở về với cõi lòng, họ chăm chú lắng nghe.
Tâm hồn họ như hòa nhập với không trung bát ngát. Ngồi thinh lặng nhưng họ cảm
thấy gần nhau. Bỗng một người la to:
-Tôi đã nghe thấy!
Và, nhiều người khác phụ họa:
- Có, tôi cũng đã
nghe.
Một người khác nữa phân tích:
- Âm thanh của nó
giống như âm thanh của mỗi lần tôi cố gắng trở nên hoàn thiện.
Họ đã tin lời nói của bác phu già, và nhất là
đã tìm lại được niềm tin nơi Thiên Chúa.
2. Tin vào Con của
Người
Vị thẩm phán đến thi hành nhiệm vụ tại một thị
trấn nọ, ông thường bị một luật sư kiêu căng ở đó chế nhạo, khích bác.
Tại một bữa ăn tối, có người hỏi vị thẩm phán
sao không có biện pháp mạnh đối với viên luật sư kia. Vị thẩm phán bèn dừng
bữa, một tay chống cằm, một tay để trên bàn, kể chuyện:
“Chỗ tôi ở có một bà
góa nuôi một con chó. Con chó thật xinh, nhưng có tật là hễ thấy ánh trăng là
nó tru lên. Có khi suốt cả đêm.”
Kể tới đó, ông ngừng lại và ăn tiếp. Tò mò,
một người hỏi:
“Này ông thẩm phán,
rồi con chó và mặt trăng ra sao?”
“Con chó cứ tru và mặt
trăng cứ tiếp tục tỏa sáng.”
3. Nghe cho biết và
vâng theo ý Chúa Cha
Một thợ săn lạc trong rừng nhiều lần. Một
người bạn mua cho anh ta một la bàn. Dù vậy anh thợ săn trẻ vẫn bị lạc. Khi tìm
thấy, người bạn hỏi xem anh ta có mang theo la bàn không. Anh bảo có.
-Tại sao anh không
dùng nó?
-Tôi không dám. Tôi
muốn đi về hướng Nam và cố giữ cho kim chỉ hướng Nam. Nhưng không được. Nó luôn
lắc qua và chỉ hướng Bắc.
Nhiều người mong Thánh kinh chỉ hướng họ muốn
đi, hơn là hướng Thánh kinh muốn họ đi.
4. Biết tìm ý Chúa hơn
ý mình
Có lần nhà văn Mart Twain nói: “Nhiều
người lấy làm buồn phiền vì không hiểu một đoạn Thánh kinh nào đó. Phần tôi,
tôi thấy rằng những đoạn Thánh kinh làm tôi bối rối nhất là những đoạn mà tôi
cho là mình đã hiểu.”
Muốn đọc Sách thánh mà thấy được Chúa, ta phải
bỏ đi hết mọi thành kiến có sẵn, phải khiêm tốn để cho Lời Chúa tra vấn mình,
phải can đảm từ bỏ những gì Chúa đòi hỏi, và phải kiên trì thực hiện những điều
Chúa dạy.
5. Đọc Thánh Kinh với
trái tim
Tại một làng thuộc vùng Lorraine, miền Đông
Bắc nước Pháp, có một nông dân không có niềm tin, một hôm gặp ông thầy giáo
làng đang đi dạo mát, ông ta tiến lại trước mặt ông thầy này và gây sự bằng một
giọng đầy khiêu khích:
- Hôm qua, thầy đã dạy
cho bọn trẻ trong làng những điều hay quá: “Nếu ai đánh ngươi má bên mặt, thì
hãy chìa luôn cả má trái cho nó”(Mt 5,39).
- Lời đó đâu phải là
do tôi -
Thầy giáo đáp - đó là điều Chúa nói trong Tin Mừng chứ!
Thầy giáo vừa dứt lời thì người nông dân kia
bất ngờ tát cho thầy hai cái, vì từ lâu anh đã có nhiều điều tức khí với thầy
giáo làng.
Cách đó không xa, ông chủ tịch xã đang đi với
nhân viên, nhìn thấy cảnh đó, liền nói với một anh nhân viên:
- Joseph, anh lại đó
xem, hai người đang tranh chấp với nhau chuyện gì vậy?
Lúc Joseph vừa đến gần hai người, thì cũng
chính là lúc thầy giáo làng giơ tay giáng trả hai cái tát nẩy lửa vào mặt người
nông dân, kèm theo lời trích dẫn của Kinh Thánh:
“Cũng có lời chép:
Ngươi lấy đấu nào mà đong cho anh em, thì cũng sẽ được đong lại bằng đấu ấy.
Một đấu được lắc, được dằn sẽ đổ xuống trên lưng ngươi.” (Lc 6,38).
Joseph vội vàng trở lại báo cho ông chủ tịch:
- Thưa ông, chẳng có
chuyện gì đáng kể. Họ đang tranh nhau chú giải Kinh Thánh!
Vâng, nếu chúng ta đọc Kinh Thánh với một tà ý
thì Kinh Thánh sẽ chẳng mang lại ích lợi gì cho chúng ta. Ngược lại, nếu chúng
ta đọc với một sự thành tâm thì Lời Chúa sẽ trở thành luơng thực, thành ánh
sáng cho cuộc đời của ta.
6. Khát điều chi
Một tu sĩ hằng cầu nguyện thiết tha đêm ngày
với Chúa: “Lạy Chúa, con chỉ ước được nhìn thấy Chúa”, mãi lâu sau Chúa mới
chiều ý thầy: Thầy tận mắt nhìn thấy Ngài vô cùng sáng láng vinh hiển, đang lúc
thầy ngây ngất chiêm ngưỡng tôn nhan Chúa, Chúa lên tiếng hỏi:
- Con có muốn theo Cha
không?
- Dạ nếu được, thì còn
gì sung sướng hơn.
Thầy theo Chúa đi một quãng xa, Ngài nói:
- Cha khát nước quá,
con kiếm đâu được nước?
- Dạ con đi ngay.
Sau một ngày thầy đi tìm nước mà chưa thấy
dòng suối nào hay con sông nào, nhưng thầy vẫn kiên nhẫn, ba ngày sau thầy gặp
được một dòng nước trong vắt, thầy vui mừng múc nước vào bình để đưa về hầu
Chúa. Đang lúc đó, một thiếu nữ rất xinh đẹp trong vùng cùng tới chỗ thầy để
lấy nước, nàng bị trượt chân té, thầy vội đỡ nàng dậy và hai người bắt chuyện….
Lát sau cô nàng mời thầy về nhà dùng bữa, thầy quá sung sướng nên ngỏ lời với
cha mẹ cô xin cưới cô làm vợ. Ba năm sau, có dịp thầy đưa vợ con đi dạo, gặp thấy
Chúa Giêsu đang ngồi bên vệ đường chờ thầy cho uống nước, thấy thế ông hối hận
đến xin lỗi Chúa. Chúa trả lời:
- Cha đã chờ con quá
lâu, tưởng chết khát, may có người lạc đạo xứ Samari đưa nước cho Cha uống (x.
Ga 4). Còn con, con đã kiếm được vợ đẹp hấp dẫn hơn Cha, thì con cứ trung thành
với người con yêu cho đến chết!
Nếu thầy đã từng mơ ước được gặp Chúa Giêsu,
dù thầy có gặp được người yêu, sao thầy không đưa cô nàng đến gặp Chúa ngay,
cùng với hai bình nước của chàng và nàng, chắc chắn Chúa vui lắm! Tiếc thay,
thầy đã chọn đàn bà hơn chọn Chúa!
7. Hương ngược gió
Trong bài Hương ngược gió, tác giả, một Phật
tử, kể chuyện bố chồng cô bị bệnh tim, hay ngất xỉu. Mỗi lần như thế, các giáo
dân một xóm đạo ở Thốt Nốt (Cần Thơ) luôn giúp đỡ gia đình cô. Chứng kiến người
Ki-tô hữu sống yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, người Phật tử ấy rất cảm kích và
muốn kể lại như một lời chứng (Tuổi Trẻ Chủ Nhật ngày 10/1/1999). Thật vậy, dân
chúng thời nào cũng đòi hỏi cuộc sống chứng tá của các Ki-tô hữu. Đã lãnh nhan
bí tích thánh tẩy, người Ki-tô trở nên người môn đệ-nhà truyền giáo được Chúa
chọn và sai đi loan báo Tin Mừng. Chứng tá cao đẹp và đáng tin cậy nhất là khi
đời sống hằng ngày sóng đôi với việc tuyên xưng niềm tin. “Hương thơm của
các loài hoa không bay ngược gió. Chỉ có hương người đức hạnh mới ngược gió
tung bay.”
Bạn được Thiên Chúa chọn và giao phó sứ mạng
làm chứng cho Chúa. Vậy lời bạn nói, việc bạn làm, suy nghĩ của bạn có phản ánh
Tin Mừng của Chúa Giê-su? Đâu là cách bạn thể hiện đức tin đáng cho kẻ khác tin?
8. Sức mạnh chứng tá của
việc làm
Một học sinh trung học hỏi một linh mục ở giáo
xứ Plano, Texas rằng anh ta phải làm gì để có thể gia nhập giáo xứ. Vị linh mục
hỏi anh: “Tạo sao con muốn gia nhập giáo xứ này?” Người học sinh trả lời: “Bạn
bè con là tín hữu thuộc nhiều giáo xứ khác nhau, nhưng những người thuộc giáo
xứ này nổi hơn. Họ là những người con kính trọng. Con đang tìm kiếm một giáo xứ
để gia nhập. Khi con thấy các bạn trẻ ở giáo xứ này hoạt động, con quyết định
gia nhập.”
Chúa Giêsu thường nói về những gương sáng và
sức lôi kéo của nó đối với người khác.
Bằng cách quan sát gần gũi, có ai được lôi kéo
để gia nhập giáo xứ tôi đang sống không?
Hoa không sinh ra rễ, nhưng rễ sinh ra hoa.
Hoa là bằng chứng về tầm quan trọng của rễ. (Woodrow Wilson)
10. Tình yêu nào thúc đẩy
tôi?
Mẹ Clara Hale, 80 tuổi, làm việc như người mẹ
nuôi của hơn 500 đứa trẻ được sinh ra bởi những người mẹ nghiện ma túy. Mẹ chăm
sóc chúng cho đến lúc mẹ cũng có thể làm được việc này. Những đứa bé ấy đã bước
vào đời với bệnh nhiễm ma túy trong người chúng. Điều đó khiến cho công việc
của mẹ Hale càng khó khăn hơn.
Mẹ nói: “Khi một đứa trẻ khóc đòi thuốc, tất
cả những gì tôi có thể làm là ôm chặt nó và nói: “Mẹ yêu con, Thiên Chúa yêu
con, và mẹ của con cũng yêu con. Vấn đề là hãy để cho mẹ con một thời gian
nữa.”
Công việc của mẹ Hale chứng tỏ tình yêu của mẹ
dành cho trẻ thơ. Công việc của Chúa Giêsu minh chứng tình yêu của Ngài đối với
Chúa Cha. Vậy công việc của tôi minh chứng cho tình yêu nào?
Hãy làm việc như mọi
sự thuộc về bạn. Hãy cầu nguyện như thể mọi sự thuộc về Chúa. (Thánh Ignatiô Loyola)
11. Thành tích và sự
thật
Trong bài viết Lỗ Hổng Giáo Dục trong Dạy
Người (Tuổi Trẻ Cuối Tuần, số 04-07 ra ngày 28-1-2007), tác giả Nguyễn Thị Oanh
nói đến bệnh thành tích (trưng ra những kết quả không đạt được để lấy điểm),
bệnh hình thức (khoe cái không có về thực chất), nạn gian lận thi cử, bằng cấp
giả, và sự kiện “sự dối trá được bình thường hóa đến nỗi người dân cũng im bặt
cho đến những năm gần đây” (tr. 22). Phải chăng đây là hội chứng “tôn vinh lẫn
nhau” mà Chúa Giê-su đã vạch ra nơi người Do Thái? Nếu thế, phương thuốc chữa
trị phải là đi tìm “vinh quang phát xuất từ Thiên Chúa,” tức là phải tôn trọng
sự thật, tránh xa sự dối trá dưới mọi hình thức.
Nếu dối trá gây ung nhọt thối tha cho gia đình
và xã hội, thì sự thật chữa trị và làm cho người ta lớn lên cách lành mạnh.
Điều cần thiết là không được bình thường hóa những hình thức dối trá, không coi
đó là một “giá trị” trong đời sống. Là người ki-tô hữu, chúng ta tôn thờ Thiên
Chúa là nguồn Chân-Thiện-Mỹ. Chúng ta tin tưởng rằng: dưới ánh sáng Lời Chúa và
với ơn Chúa, chúng ta có thể vạch ra và nhổ sạch những gốc rễ gian dối đang bám
sâu trong con người và xã hội chúng ta.
Lời Chúa: Ga 7, 1-2. 10. 25-30
Khi ấy, Chúa Giêsu đi lại trong xứ Galilêa;
Người không muốn đi lại trong xứ Giuđêa, vì người Do-thái đang tìm giết Người.
Lúc đó gần đến lễ Trại của người Do-thái. Nhưng khi anh em của Người lên dự lễ
rồi, thì Người cũng đi, nhưng không đi cách công khai, mà lại đi cách kín đáo.
Có một số người ở Giêrusalem nói: "Ðây
không phải là người họ đang tìm giết sao? Kìa ông ta đang nói công khai mà
không ai nói gì cả. Phải chăng các nhà chức trách đã nhận ra ông ta là Ðấng
Kitô? Tuy nhiên, ông này thì chúng ta biết rõ đã xuất thân từ đâu. Còn khi Ðấng
Kitô tới, thì chẳng có ai biết Người bởi đâu.”
Vậy lúc bấy giờ Chúa Giêsu đang giảng dạy
trong đền thờ, Người lớn tiếng nói rằng: "Phải, các ngươi biết Ta, và biết
Ta xuất thân từ đâu; Ta không tự Ta mà đến, nhưng thực ra, có Ðấng đã sai Ta mà
các ngươi không biết Ngài. Riêng Ta, Ta biết Ngài, vì Ta bởi Ngài, và chính
Ngài đã sai Ta.” Bởi thế họ tìm cách bắt Chúa Giêsu, nhưng không ai đụng tới
Người, vì chưa tới giờ Người.
TRUYỆN KỂ
1.. Âm mưu giết Chúa
Ma quỉ luôn muốn thống trị thế giới. Nó khuất
phục kẻ ác để tăng thêm quân số. Và tiêu diệt người lành để giảm bớt chướng
ngại.
Lý do đầu tiên là kẻ lành cản trở kẻ dữ làm
điều ác: “Ta hãy gài bẫy hại tên công chính, vì nó chỉ làm vướng chân ta, nó
chống lại các việc ta làm, trách ta vi phạm lề luật, và tố cáo ta không tuân
hành lễ giáo.”
Lý do thứ hai là vì đời sống của kẻ lành phê
phán lối sống của kẻ dữ: “Nó như kẻ luôn chê trách tâm tưởng của ta,… lối cư xử
của nó hoàn toàn lập dị. Nó coi ta như bọn lọc lừa, tránh đường ta đi như tránh
đồ dơ bẩn.”
Lý do thứ ba là vì người lành thuộc về Thiên
Chúa. Còn kẻ ác thuộc về ma quỉ. “Nó huênh hoang vì có Thiên Chúa là Cha. Ta
hãy coi những lời nó nói có thật không, và nghiệm xem kết cục đời nó sẽ thế
nào.”
Lý do thứ tư là vì muốn thử thách xem người
lành có thật hiền lành không. “Ta hãy hạ nhục và tra tấn no, để biết nó hiền
hoà làm sao, và thử xem nó nhẫn nhục đến mức nào.”
Nhiều phe nhóm toa rập với nhau để giết chết
Chúa Giêsu. Tuy nhiên đó lại là ý định của Thiên Chúa. Chúa Giêsu tự nộp mình
chịu chết để chuộc tội nhân loại. Vào âm phủ để chiến thắng tử thần. Chết đi để
tiêu diệt cái chết.
2. Ta bởi Ngài, chính
Ngài sai Ta
Năm 1958, sau khi Đức Giáo hoàng Piô XII qua
đời, các báo chí mô tả ngài như một ngôi sao sáng chói đã lịm tắt, vì ngài xuất
thân từ một gia đình quý tộc, hấp thụ một nền văn học uyên thâm và đã để lại
bao nhiêu công trình lớn lao cho hậu thế, và cho Giáo hội.
Cơ Mật Viện đã bầu Đức Giáo hoàng Gioan XXIII
lên kế vị. Giáo hoàng này xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo, với hình
dáng mập mạp, quê mùa, chất phác. Người ta bảo, đây chỉ là vị Giáo hoàng chuyển
tiếp cho một vị Giáo hoàng khác có tầm cỡ như vị tiền nhiệm của ngài. Nhưng có
ngờ đâu con người khiêm tốn, bình dân, giản dị và vui tươi ấy đã thu hút mọi
người. Và nhất là với Công đồng Vaticanô II mà ngài đã triệu tập, Giáo hoàng
Gioan XXIII đã trở thành một “siêu sao” của thời đại, vượt trội hơn các vị tiền
nhiệm của mình.
3. Aristide người công
chính.
Aristide là một tướng lãnh và chính trị gia
nổi tiếng thanh liêm tại Hy Lạp vào thế kỷ V trước công nguyên.
Ông thanh liêm đến nỗi cả nước đã tặng cho ông
một danh hiệu cao quí là “Aristide người công chính.” Nhưng ông càng được nhiều
người ca tụng thì lại càng bị nhiều người ganh tị chống đối. Ông bị tướng
Ténistoles âm mưu muốn triệt hạ ông. Người ta muốn cho Aristide bị kết án và bị
lưu đầy trong vòng 10 năm. Bản án đã được thi hành bằng một trò chơi dân chủ
quái ác.
Theo thể thức biểu quyết thông thường của
người Hy Lạp thời cổ, mỗi một người công dân được phát cho một vỏ sò trên đó họ
sẽ viết lên ý kiến của mình. Trong trường hợp của tướng Aristide, ai đồng ý cho
ông bị lưu đầy, thì viết tên ông lên vỏ sò, và người ta sẽ đem nộp vỏ sò ấy tại
một nơi công cộng giữa phố chợ.
Có một thị dân nọ không biết viết, thấy
Aristide đang đứng ở một góc phố và chưa một lần biết mặt ông là ai. Thấy ông,
người thị dân này đến nhờ ông viết tên của người bị kết án lên vỏ sò. Aristide
viết tên của mình lên vỏ sò theo yêu cầu của người lạ mặt. Ông trao vỏ sò lại
cho thị dân và hỏi ông ta:
- Tại sao ông lại bỏ phiếu ủng hộ việc lưu đầy
Aristide?
Người đàn ông mới trả lời như sau:
- Tại sao tôi bỏ phiếu ủng hộ việc lưu đầy ông
ta ư? Bởi vì tôi không chịu nổi sự kiện ai cũng gọi ông ta là Người Công Chính,
thế thôi!
4. Cái chết mang lại
hoa trái
Sáng ngày 19 tháng 3 năm 1994, tại phòng thánh
nhà thờ xứ Casandi Pinsepê, gần thành Napoli miền trung nước Italia, cha Giuse
Daiana đã bị sát hại bởi hai phát súng do bọn bất lương Camara bắn thẳng vào
mặt đang lúc ngài sửa soạn cử hành thánh lễ kính thánh Giuse bổn mạng.
Cha Daiana là một linh mục trẻ mới ba mươi sáu
tuổi. Tuy bị các băng đảng bất lương đe dọa, cha vẫn hăng say với sứ mệnh tông
đồ của cha. Vào dịp lễ Giáng Sinh năm 1991, cùng với các cha xứ khác trong vùng
Casatano cha đã ký tên gia nhập vào hội quyết tâm chống lại mọi hình thức tội
phạm bất lương, nhất là bọn Camara, những kẻ dã man đang gây tang tóc khắp miền
đó.
Trước cái chết của cha Daiana, trong bài giảng
lễ an táng, Đức Cha Lorenso Chiaradinali - Giám mục giáo phận Avesa đã tóm tắt
sứ mệnh tông đồ của Cha như sau: "Đau khổ và tin tưởng. Một cái nhìn xuống
đất nơi thân xác đẫm máu của cha an nghỉ và một cái nhìn hướng thẳng lên cao
nơi có Đấng đã chết trên Thập Giá, nhưng đã chiến thắng hận thù và sự chết. Môi
trường tông đồ của cha đầy khó khăn vì những hình thức vô luân đồi bại, những
tổ chức bất lương và những sức mạnh dã man nấp sau bóng tối. Sứ mệnh tông đồ
của cha là sứ mệnh bẻ gẫy xiềng xích của tội ác để xây dựng công bằng và tình
thương. Hoạt động tông đồ của cha bắt đầu từ công tác giáo dục đức tin, nỗ lực
sống chứng tá Kitô, bảo vệ quyền lợi của người tha hương, nâng đỡ tinh thần, an
ủi các bệnh nhân, và nhất là huấn luyện tuổi trẻ qua các sinh hoạt hướng đạo.”
Tinh thần hăng say và lòng quả cảm của cha
Daiana đã cống hiến cho giới trẻ một lý tưởng cao thượng. Ngài đã biết gieo
niềm vui và hy vọng nơi tâm hồn các bệnh nhân, biết chinh phục thiện cảm của
giới trẻ bằng nụ cười dễ mến. Ngài cũng có tài hướng dẫn tinh thần, làm thay
đổi các tâm hồn tận thâm sâu.
Với cái chết thảm thương của cha Daiana, bạo
lực đã chạm tới bàn thánh. Bàn thờ của người tín hữu được dựng lên để tưởng nhớ
cái chết của Chúa Kitô, Đấng đã chấp nhận chết vì tình yêu nhân loại. Cái chết
của một linh mục cũng tương tự như thế. Đức Thánh Cha Gioan - Phaolô II đã nói
về cái chết của cha Daiana như sau: "Như người công chính bị ngã gục, như
tiếng kêu hùng hồn của lời tố cáo tội ác đã bị im bặt, như ngọn đèn sáng đã tắt
lịm đi.”
Cha Daiana đã chết nhưng cái chết của cha đã
không vô ích hay uổng phí. Ngài đã ngã xuống và được chôn vùi trong lòng đất.
Thân xác của ngài chẳng khác gì hạt giống được mục nát đi để đem lại một mùa
gặt phong phú hơn, mùa gặt của công lý, của an bình và của tình thương. Thật
vậy, mấy hôm trước khi bị ám sát, khi trả lời cho một hướng đạo sinh đến để bày
tỏ cho ngài biết về nguyện vọng muốn được theo đuổi ơn gọi linh mục, cha Daiana
đã nói với anh: "Nếu thực sự con muốn trở thành linh mục, con phải luôn
nhớ rằng, con sẽ phải trả giá rất đắt, nếu không thì con nên gột bỏ ước nguyện
đó đi"
Và sau đó, khi đứng trước thi hài cha Daiana,
cậu hướng đạo sinh ấy đã thành thật nói: "Nếu trước kia tôi còn do dự nghi
ngờ thì giờ đây trước sự việc vừa xảy ra hôm nay và trước cái chết của cha
Daiana tôi đã có một xác tín mới: Tôi phải trở thành linh mục.”
5. Gian dối sợ hãi
Trong một xứ Đạo nọ, có thằng Tèo bản tính
thích chọc ghẹo người khác lấy làm đắc thắng. Lần kia, nó thấy một bà đi chợ về
ngang qua Nhà Thờ, bà có thói quen ghé vào viếng Chúa và cầu khẩn trước tượng
Đức Mẹ. Tèo thấy bà chăm chú cầu nguyện, nó cũng rón rén bước vào đứng đằng sau
mà bà không hay biết, đang lúc bà lẩm bẩm cầu xin khấn vái. Tèo lớn tiếng gọi
giật:
- Bà kìa, bà kìa, nhìn đi, Đức Mẹ đang cười
với bà đó. Đó, đó…
Bà kia quay lại hỏi:
- Đâu cậu?
- Đó đó, bà nhìn kìa, Đức Mẹ đang cười đó, ô
bà thật là người có phúc.
Bà kia gật đầu:
- Ờ ờ, đúng rồi, đúng rồi, con cám ơn Mẹ.
Thế là bà chạy về loan báo tin vui ấy cho cả
xứ biết, mọi người ùn ùn kéo nhau đến Nhà Thờ để được chứng kiến phép lạ! Cha
Sở thấy người ta kéo đến Nhà Thờ quá đông, ngài tìm hiểu, và biết được chính
thằng Tèo loan báo tin đó đầu tiên. Ngài gọi Tèo đến và tra hỏi:
- Đức Mẹ cười con nhìn thấy trước hay bà kia?
- Thưa, cả hai người cùng thấy.
Cha Sở cho gọi người đàn bà đó vào và hỏi:
- Bà thấy phép lạ trước hay thằng Tèo?
- Dạ thưa cha, thằng Tèo thấy trước nó bảo
con.
Thế là cha Sở hiểu ngay rằng thằng Tèo vẫn bày
trò chọc ghẹo người ta, nên ngài nói với Tèo:
- Bây giờ con theo cha vào Nhà Thờ, cha để
cuốn Sách Thánh trên bàn thờ, trước mặt Chúa, có cha chứng kiến, con phải đặt
tay trên Sách Thánh thề điều con đã chứng kiến là sự thật. Nếu con thề gian,
Chúa sẽ phạt con chết gục ngay dưới bàn thờ!
Tèo tái mặt phải theo cha Sở ra Nhà Thờ, sau
khi ngài mặc áo Các Phép, đặt cuốn Sách Thánh lên bàn thờ và đốt nến đặt hai
bên, rồi ngài nói:
- Bây giờ con đặt tay lên và thề.
Tèo run rẩy thưa:
- Dạ con xin lỗi cha Sở, con nói xạo để chọc
bà cụ đó thôi!
Quả thật, kẻ sợ chết là đứa nói láo!
Vậy chỉ có ai nói sự thật mà chấp nhận chết,
người đó mới thực giống Chúa Giêsu Thập Giá.
Lời Chúa: Ga 7,
40-53
Khi ấy, sau khi
nghe Chúa Giêsu giảng, có nhiều người trong đám dân chúng nói rằng: "Ông
này thật là tiên tri.” Kẻ khác nói: "Ông này thật là Ðấng Kitô.” Người
khác nữa lại nói: "Ðấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao? Nào Kinh Thánh
chẳng nói: Ðấng Kitô xuất thân bởi dòng dõi Ðavit, và từ làng Bêlem, quê hương
của Ðavit?"
Vì thế, dân chúng
bất đồng ý kiến với nhau về Người. Trong số đó, có một ít kẻ định bắt Người,
nhưng không ai dám ra tay bắt Người.
Vậy khi những người
thừa hành đến với thượng tế và biệt phái, các ông này hỏi họ rằng: "Tại
sao các ngươi không điệu nó tới?" Các người thừa hành thưa rằng:
"Chẳng hề có ai nói như người ấy.” Các người biệt phái trả lời rằng:
"Chớ thì các ngươi cũng bị mê hoặc rồi sao? Trong các vị thủ lãnh và các
người biệt phái, có ai tin nó đâu? Chỉ có lũ khốn nạn đó nó không biết gì lề
luật.”
Nicôđêmô là người
đã tới gặp Chúa Giêsu ban đêm, cũng là người trong nhóm họ, nói với họ rằng:
"Chớ thì luật của chúng ta có lên án cho ai mà không nghe họ, hoặc không
biết rõ họ làm gì không?" Nhưng họ trả lời rằng: "Hay ông cũng là
người Galilêa? Hãy đọc kỹ Kinh Thánh, ông sẽ thấy rằng không có tiên tri nào
phát xuất từ Galilêa.” Sau đó ai về nhà nấy.
TRUYỆN KỂ
1. Đức tin phải có việc làm.
Blondin là một
trong những tên tuổi của ngành xiếc tại Mỹ. Một trong những kỳ công đáng ghi
nhớ nhất của anh là đã có thể đi trên một sợi dây qua thác Niagara là thác dài
nhất và cao nhất thế giới. Trong một dịp biểu diễn, anh quay sang hỏi một cậu
bé đứng gần đó: “Em có tin là tôi có thể mang một người trên vai và đi xuyên
qua dòng thác không”? Giữa tiếng thác đổ âm ầm, cậu bé thét lên: “Vâng, cháu tin
là chú có thể làm được điều đó.” Thế nhưng khi anh đề nghị mang cậu bé trên vai
thì em lắc đầu từ chối, vì không đủ tin tưởng vào sự đảm bảo của người biểu
diễn.
Cậu bé trên đây có
thể là hình ảnh của rất nhiều người trong chúng ta khi phải trả lời cho câu hỏi
của Đức Giêsu: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” Cũng như Phêrô khi đại
diện cho các Tông đồ, chúng ta sẽ trả lời: “Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống.”
Nhưng trong thực tế, thái độ sống của chúng ta có lẽ còn tương phản với lời
tuyên xưng ấy. Chúng ta chưa là những Kitô hữu thực sự, nghĩa là chưa tin tưởng
và sống theo lời mời gọi của Chúa”
2. Gieo gió thì gặt bão
Một hoàng đế nọ mở
đại tiệc và nhiều người được mời. Đến giờ ăn, một cơn bão dữ dội ập tới và
chẳng ai đến được. Tức giận với “thần bão”, hoàng đế ra lệnh cho lính bắn lên
trời để trả thù.
Những mũi tên rơi
trở lại và gây thương tích cho rất nhiều lính, còn thần mặt trời Jupiter không
bị phương hại gì. Những lời than trách của chúng ta cũng giống như những mũi
tên bắn lên Chúa. Chúng sẽ quay lại và làm ta thêm đau khổ..
3. Nhân chứng
Trong khi nhiều
người chống đối Chúa Giêsu, nhiều người khác hoang mang không xác định rõ lập
trường, thì Nicôđêmô đã can đảm lên tiếng bênh vực Ngài. Chung quanh chúng ta
ngày nay, cũng có nhiều người chống đối hay chưa hiểu Chúa Giêsu. Tôi có can
đảm như Nicôđêmô không? Dám can đảm làm nhân chứng cho Chúa đó là dấu chỉ của
một con người có niềm tin và là một người nhận Chúa làm Chúa của cuộc đời mình.
Một hôm, bên Châu
Mỹ Latinh, một linh mục cử hành thánh lễ trong vùng “ổ chuột.” Bài giảng hôm ấy
được thực hiện dưới dạng đối thoại với anh chị em tín hữu, nhắm tới sự giao
hòa. Thế là một cậu bé đã tuyên bố:
- Thưa các nhà thừa
sai, chúng con cảm ơn các ngài, vì các ngài đã dạy chúng con yêu thương kẻ thù.
Cách đây một tuần, con đã sắm sẵn một con dao để giết một thằng bạn mà con vẫn
căm ghét. Nhưng sau khi nghe cha giải thích cho chúng con nghe bài Tin Mừng,
con đã đi mua một chiếc bánh kem để tặng cho kẻ thù của con.
4. Yêu kẻ thù là dấu chứng cho niềm
tin
Một chủng sinh trẻ
người Liban đã bị giết cách đây vài năm, trên con đường đi về nhà để mừng lễ
Giáng Sinh. Đó là nạn nhân của cuộc chiến tranh, huynh đệ tương tàn đang xảy ra
tại quê hương anh.
Người ta đọc được
những lời sau đây trong di chúc của anh: “Tôi thấy rồi, mình sẽ bị bắt cóc và
sẽ bị giết trên đường để tới làng tôi. Tôi nói với mẹ và các chị em tôi: Xin mẹ
và chị em đừng buồn. Chúng ta sẽ gặp lại nhau, chắc chắn mà, trong nơi vĩnh cửu
trên trời. Con xin mẹ và các chị em một điều: Xin hãy tha thứ hết lòng cho
những kẻ đã giết con. Ước gì máu con được đổ ra để chuộc được tội cho Liban.
Ước gì cái chết của con dạy cho con người sống bác ái. Xin hãy cầu nguyện, hãy
cầu nguyện, hãy cầu nguyện và yêu thương các kẻ thù.”
5. Tin thì tha thứ
Tại vùng Chouf (một
miền thuộc xứ Liban, ở miền Nam Beyrouth), vào lúc cuối năm 1983, em Maria
Khoury đã bị một kẻ cuồng tín bắt, hắn chĩa súng vào gáy em:
- Hãy chối Giêsu
Kitô đi, rồi mày sẽ được sống.
Em trả lời:
- Tôi sẽ không chối
Giêsu Kitô, Chúa của tôi. Tôi muốn trung thành với các lời hứa khi nhận phép
rửa tội. Anh cứ việc bắn, nếu anh muốn.
Hắn đã nổ súng.
Nghĩ rằng em đã chết, hắn bỏ em nằm đó trên vũng máu. Được cứu, nhưng bị mù và
què quặt, em đã nói:
- Em tha thứ cho
người bắn em, như em đã tha thứ cho người giết mẹ em và cho người đã giết cha
em.
6. Đi tìm và gặp chân lý
Đại tướng Lew
Wallace, một đảng viên cao cấp của đảng Cộng sản vô thần. Lần kia ông nói với
người bạn rằng: “Bọn Công Giáo thật ngu đần, chúng tôn thờ một tử tội bị treo
trên thập giá là ông Giêsu! Chúng lại mê đọc sách của bọn vô học thức là Nhóm
12 môn đệ của ông ta (x Cv 4, 13). Sách này toàn là chuyện mê tín, trái khoa
học! Tôi sẽ để ra 5 năm đọc sách ấy, và tôi quyết mở mắt cho bọn Công Giáo khỏi
bị mù quáng, để chúng được sáng suốt như tôi!”
Thế nhưng, sau 5
năm nghiên cứu Thánh Kinh, kết quả ngược lại, thay vì ông mở mắt cho người Công
Giáo, thì chính ông lại được Đức Giêsu mở mắt, ông nhìn thấy lúc Đức Giêsu bị
đâm, nước và máu từ cạnh sườn dốc ra hết, lúc ấy có một trận mưa rào như trút
nước, chuyển tải máu Đức Giêsu từ đỉnh đồi Sọ chảy xuống thung lũng có những
người cùi ra tắm mưa, ai đằm mình trong nước đó đều được lành mạnh.
Chuyện này đã được
đóng thành phim có tựa đề “Benhur” rất nổi tiếng! Ông Lew Wallace trở thành
chứng nhân cho Đức Giêsu: Chỉ có Ngài mới thực là Đấng Cứu Độ!
Đây cũng là chứng
từ một người có ý xấu đi tìm ý Chúa để phản đối, thì lại được Chúa hoán cải nên
chứng nhân sống động cho Tin Mừng.
7. Tôn trọng sự thật
Gần 28 triệu lượt
người đã xem trên Youtube về cô bé 12 tuổi nói chuyện tại hội nghị quốc tế về
môi trường tại Rio de Janeiro năm 1992. Cô bé Severn Suzuki ấy đã nói về những gì mà người lớn đang làm và hủy hoại hành
tinh này từng ngày từng giờ, và đang cướp mất sự sống của thế hệ tương lai.
Điều đáng ghi nhận
là toàn thể cử tọa, gồm các quan chức của Liên Hiệp Quốc, đã ngoan ngoãn lắng
nghe, bởi cô bé này nói đúng quá và thuyết phục quá.
Những người
Pha-ri-sêu không có được thái độ tôn trọng sự thật như thế. Nghe các vệ binh
trầm trồ về Ngài, họ bảo mấy anh này lú lẫn. Nghe dân chúng thán phục Ngài, họ
bảo đúng là đám dân đen bị nguyền rủa. Rồi khi được Ni-cô-đê-mô là một người
trong số họ nhắc nhở, họ lại cho rằng ông là kẻ ngốc nghếch. Người ta có thể
cứng cỏi đến mức đó! Và sự cứng cỏi này dẫn đến cái chết của Con Thiên Chúa!
8. Tin và rao giảng lời Chúa
Những kẻ độc ác âm
mưu chống lại Giêrêmia vì ông tiếp tục mời gọi họ thống hối. Ngay cả khi biết
được âm mưu hại mình, ông vẫn không ngừng rao giảng. Ông đặt trọn niềm tin về
Thiên Chúa. Và vì thế, ông là điềm báo trước về Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cũng kêu
gọi người ta ăn năn sám hối, nhưng thay vì lưu tâm đến Ngài, họ lại âm mưu
chống lại Ngài. Dù biết rõ âm mưu của họ, Chúa Giêsu vẫn không ngừng rao giảng,
vì Ngài đặt tất cả niềm tin vào Thiên Chúa.
Niềm tin của tôi
vào Thiên Chúa mạnh mẽ thế nào? Tôi có thể làm gì để nó mạnh mẽ hơn?
Dưới bóng Ngài, này
con ẩn náu, tới khi nào hết tai họa khổ đau (Tv 56,1)
9. Kinh nghiệm để sống Lời Chúa
Đức Cha Pyung-Ho,
chủ tịch Ủy Ban Loan Báo Tin Mừng Hàn Quốc chia sẻ kinh nghiệm nghe Lời Chúa
cách đơn sơ của ngài. Đó là mỗi ngày học thuộc lòng một đoạn hay một câu Lời
Chúa, rồi Chúa Thánh Thần sẽ làm cho Lời Chúa thấm vào tâm trí người nghe. Vị
giám mục này còn xác tín rằng với phương cách đơn sơ như thế, mọi người đều có
thể ghi nhớ, “nghe” được Lời Chúa và Giáo Hội chắc chắn sẽ có mùa xuân mới. Mời
bạn bắt đầu phương cách đơn giản mà hữu hiệu này.
Phương cách nào
giúp bạn dễ thuộc Lời Chúa?
Hãy viết một câu
hay một đoạn Lời Chúa của Tin Mừng trong ngày và học thuộc lòng.
Lời Chúa: Mt 1, 16. 18-21. 24a
Giacóp sinh Giuse là bạn của Maria, mẹ của
Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây:
Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước
khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của
bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín
đáo.
Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì Thiên
thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít,
đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa
Thánh Thần; bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người
sẽ cứu dân mình khỏi tội.”
Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Thiên
thần Chúa truyền.
TRUYỆN KỂ
1. Thánh Giuse, Người
Cha Tuyệt Vời
Tác giả người Nga tên Mikhain Vanolov viết một
truyện ngắn tựa đề “Người Cha” như sau: Trong gia đình chỉ có hai cha con.
Người cha và cô con gái. Người cha rất thương yêu cô con gái của mình. Ông chăm
sóc cô thật chu đáo. Nhưng cô lại rất khó chịu về sự chăm sóc quá tỉ mỉ của
người cha già. Cô thường gọi cha mình là “ông già lẩm cẩm” khi ông nhắc nhở: ra
đường nhớ đội mũ nón; đi đường mắc mưa thì về phải uống thuốc kẻo bệnh v.v…
Vì làm văn phòng cho một trường trung học nên
cô gái thường về muộn. Dù mọi người đã ra về hết, nhưng cô gái vẫn phải ở lại
để sắp xếp giấy tờ cho ổn định rồi mới ra về.
Hôm ấy, khi cô khóa cửa văn phòng để về thì
trời bắt đầu tối. Khu trường học vắng tanh không một bóng người. Bỗng nhiên,
trước mặt cô xuất hiện ba người đàn ông với bộ mặt hung dữ từ từ bước tới phía
cô.
Cô gái sợ hãi hét lên cầu cứu và bỏ chạy ra
phía chiếc xe hơi của cô đậu ở sân trường. Ba người đàn ông lập tức đuổi theo.
Cô gái vừa chạy vừa đưa tay vào túi lấy chìa khóa. Nhưng vì quá run rẩy nên cô
làm rớt chìa khóa xuống đất. Cô cúi xuống tìm kiếm. Nhưng mắt cô hoa lên không
nhìn thấy gì cả. Đang khi đó, ba người đàn ông tiếp tục chạy về phía cô. Cô
đành bỏ, không tìm chìa khóa nữa, chạy tiếp đến chiếc xe. Đến nơi, cô không
biết làm gì hơn là đưa tay vào chiếc ví để tìm kiếm một cái gì đó có thể cứu cô
trong lúc nguy hiểm này.
Thật kỳ lạ! trong một ngăn nhỏ của chiếc ví,
tay cô chạm vào một vật bằng kim loại. Cô cầm lấy nó. Ồ! Chiếc chìa khóa! Không
kịp suy nghĩ, cô cầm chìa khóa tra vào lỗ khóa. Cửa xe bật mở, cô lao vào xe và
chiếc xe phóng đi. Ngay lúc ấy ba gã đàn ông phóng tới, nhưng không kịp. Thế là
cô thoát nạn!
Về sau, cô gái mới biết: người “cha già lẩm
cẩm” của cô đã đặt làm một chìa khóa khác và âm thầm bỏ vào ví cô, dự phòng lúc
cô cần đến. Chiếc chìa khoá ấy đã cứu cô.
Câu chuyện trên gợi lên hình ảnh của một người
cha hết lòng yêu thương chăm sóc con cái từ những việc nhỏ nhặt đến những việc
lớn lao. Hình ảnh người cha ấy, cũng gợi lên hình ảnh người cha nuôi của Chúa
Giêsu, thánh Giuse.
2. Người thợ tuyệt
diệu cho mái ấm tình yêu
Để chăm sóc và dưỡng nuôi Chúa Giêsu và Mẹ
Maria, thánh Giuse đã cần mẫn siêng năng trong âm thầm lặng lẽ nơi xưởng mộc.
Người đã trở thành người thợ tuyệt diệu xây dựng “ngôi nhà của Chúa” và cũng là
Mái Ấm Tình Yêu.
Trong tháng 3 năm 2004, Đài Truyền Hình Bình
Dương hoàn tất bộ phim độc đáo mang tên: “Mùa Xuân Chim Bay Qua và Cất Tiếng
Hát.” Bộ phim này hoàn toàn không có lời thoại vì diễn tả thế giới của người
câm điếc. Vai chính là cô gái tên Ngọc Nhị ở Trung Tâm Giáo Dục trẻ khuyết tật
Thuận An.
Trong phim có cảnh cô chụm hai bàn tay lại
thành mái nhà đặt ngay trước mặt, diễn tả ước mơ mình có một mái ấm gia đình.
Bộ phim đã làm nhiều người xúc động.
Không phải chỉ bằng đôi tay, mà bằng cả trái
tim, cả một đời cần lao vất vả trong thầm lặng, thánh Giuse đã tạo dựng một mái
ấm gia đình đầy tình yêu thương. Người cùng với Mẹ Maria tạo thành “mái nhà”
đầm ấm yên vui, nêu gương mẫu cho các gia đình chúng ta.
3. Cha tôi
Anh Vũ Đức Nghĩa đã viết một câu chuyện thật
cảm động, có tựa đề: Cha tôi.
“Anh con trai đi làm
được vài tháng, có dịp ghé thăm nhà. Bữa cơm chiều, anh cứ nhìn chăm chăm vào
chiếc đồng hồ của cha. Người cha thầm nghĩ: ‘Chắc là con nó cần’.
Ăn cơm xong, người cha
gọi con trai ra bàn uống nước, ông bảo: ‘Con mới đi làm, cũng cần biết giờ
giấc’. Rồi ông tháo đồng hồ đưa cho con. Người con trai cầm đồng hồ, bấm lại
hai nấc rồi đeo vào tay cha. Rơm rớm nước mắt, anh nghẹn ngào: ‘Dạo này ba gầy
quá, dây đồng hồ tuột cả xuống bàn tay!’”
Người con đã có được tình thương đối với cha
mình vì người cha luôn thể hiện được tình thương đối với con mình một cách hết
sức nhạy bén. Và đấy là gia tài to lớn nhất mà người cha để lại cho con cái:
Không phải là tiền bạc, mà chính là tình yêu thương và lòng đạo đức mới là quý
giá nhất.
4. Những nụ hôn yêu
thương
Noi gương Thánh Giuse, gia trưởng cũng nỗ lực
trở nên người cha Yêu Thương. Muốn vậy, cần phải hiểu con, bằng không, yêu con
mà kết quả lại làm hại con, như câu chuyện dưới đây:
“Có một người cha
nghèo đã quở phạt đứa con gái 3 tuổi của mình vì tội lãng phí cả một cuộn giấy
gói quà mầu vàng. Tiền bạc eo hẹp, người cha nổi giận khi đứa bé cắt cuộn giấy
quý ra thành từng mảnh nhỏ trang trí một cái hộp.
“Sáng sớm hôm sau, đứa
con gái nhỏ mang cái hộp đến nói với cha: ‘Hôm nay là sinh nhật của bố, con
không có tiền mua quà cho bố nên con xin tặng bố chiếc hộp này!’. Người cha cảm
thấy hối hận vì cơn giận dữ vô lý của mình tối hôm qua. Nhưng khi mở cái hộp
ra, thấy bên trong trống rỗng, thì cơn giận của ông lại bùng lên.
“Ông mắng đứa con gái
xối xả vì đã tặng ông chiếc hộp rỗng… Đứa con gái nhỏ ngước nhìn cha, nước mắt
rưng rưng, nhỏ nhẹ thưa: ‘Bố ơi, đó đâu phải là cái hộp rỗng, con đã thổi đầy
những nụ hôn vào trong hộp để tặng bố mà!’.
Người cha giật thót
tim. Ông đã quá hồ đồ, xét đoán lầm đứa con hiếu thảo. Vòng tay ôm lấy đứa con
gái nhỏ, ông cầu xin con tha thứ!
Sau đó không lâu,
thiên thần nhỏ của ông đã qua đời trong một vụ tai nạn. Nhiều năm sau, người
cha vẫn giữ khư khư chiếc hộp bên mình. Mỗi khi gặp khó khăn, buồn bực, ông lại
lấy ra một ‘nụ hôn tưởng tượng’ và nghĩ đến tình yêu nồng ấm mà đứa con gái bé
bỏng của ông đã thổi vào chiếc hộp.”
Trong cuộc sống, có biết bao người cha đã nhận
được những chiếc hộp quý giá chứa đầy những nụ hôn chan chứa yêu thương từ con
cái. Trên đời này, không có tài sản nào quý giá hơn những chiếc hộp chứa đầy
tình yêu chân thành như thế!
5. Con còn tiền lẻ
không?
Noi gương Thánh Giuse, gia trưởng cũng nỗ lực
trở nên người cha Nhân Hậu. Xin kể một câu chuyện về tình cha đến rơi nước mắt:
“Con còn tiền lẻ không?”
“Học lớp 12, tôi không
có thời gian về nhà xin tiền ba như 2 năm trước. Vì thế, tôi viết thư cho ba,
rồi ba đích thân lên đưa tiền lên cho tôi. Từ nhà đến chỗ tôi trọ học chừng 15
km. Nhà nghèo, không có xe gắn máy, nên ba phải đi xe đạp. Chiếc xe cũng gầy gò
giống như ba!!!
Cuối năm, làm hồ sơ
thi đại học, tôi lại nhắn ba đưa tiền lên. Lần này, sau khi đưa cho tôi một
trăm ngàn, ba hỏi: ‘Con còn tiền lẻ không?’. Tôi đáp: ‘Con còn bốn ngàn, ba ạ’.
Ba nói: ‘Con cho ba hai ngàn, để lát về, nếu xe có hư như lần trước thì có tiền
mà sửa’. Ba về, tôi đứng trông theo, không cầm được nước mắt, khóc òa lên!… ”
Thật vậy, người cha Nhân Hậu thì nhạy bén, nắm
bắt nhu cầu của con cái và cảm thông, chia sẻ với con, như tấm gương của Chúa
Giêsu: “Tôi hy sinh mạng sống vì đàn chiên.”
6. Thánh Giuse, Người
Chồng Tốt, Người Cha Hiền
Người ta kể một câu chuyện kỳ lạ về sự trợ
giúp của thánh Cả Giuse như sau:
Tại một giáo xứ miền quê, vào một đêm kia, có
ông già lạ mặt đến gõ cửa nhà xứ xin cha xứ đi xức dầu cho một bệnh nhân là một
người đàn ông trong làng.
Được cụ già dẫn đi, vị Linh mục nhanh chóng
đến nhà bệnh nhân. Khi đến nơi, mọi người trong nhà rất ngạc nhiên vì không có
ai trong nhà đi mời vị linh mục đến xức dầu, vì mọi người đang bận rộn lo cho
người bệnh đang hấp hối.
Không kịp tìm hiểu, vị linh mục ban những bí
tích cuối cùng cho bệnh nhân. Thật may mắn, chỉ ít phút sau, người đàn ông ra
đi bình an, kịp thời lãnh nhận các bí tích cuối cùng.
Khi xong xuôi mọi việc, vị linh mục đi tìm ông
cụ già lạ mặt để hỏi cho ra lẽ. Thế nhưng, mọi người tìm kiếm khắp nơi cũng
không thấy ông cụ già bí mật kia đâu. Ngay lúc ấy, vợ người chết chợt nghĩ ra
một điều gì đó, thưa với vị Linh mục: “Thưa cha, con hiểu rồi! Chồng
con có lòng yêu mến thánh Giuse cách đặc biệt, thường cầu khấn thánh Giuse trong
những cơn nguy khốn. Con tin rằng: ông cụ già kia chính là thánh Giuse đến để
giúp đỡ chồng con trong cơn nguy tử.”
Ngay lúc ấy, vị Linh mục giật mình và nhớ lại:
ông cụ già kia có khuôn mặt rất giống thánh Giuse!
Câu chuyện trên là một lời minh chứng hùng hồn
cho thấy: Thánh Giuse là Đấng Bảo Trợ hữu hiệu cho những ai chạy đến với Người.
Tất cả những ai đến với thánh Giuse, đều được Người ra tay cứu vớt, phù hộ.
7. Thánh Giuse là con
người nhỏ bé được Chúa chọn
Ogilvy and Mather là một công ty quảng cáo
lớn. Khi muốn lập ra công ty và muốn cho công ty đó hoạt động mang lại nhiều
lợi nhuận, ông David Ogilvy người sáng lập ra công ty đã nghĩ ra một cách làm
như thế này: Ông đã cho mời các vị lãnh đạo cộng tác với ông lại, tặng cho mỗi
người một con búp bê Nga, bên trong đó có năm tấm hình người theo thứ tự mỗi
lúc mỗi nhỏ dần.
Trong tấm hình người bé nhất ông dán vào đó
một tờ giấy nhỏ có ghi mấy hàng chữ “nếu mỗi người trong chúng ta chọn
những cộng sự nhỏ hơn mình, chúng ta sẽ trở nên một công ty của những người
lùn. Nhưng nếu chúng ta chọn những người cộng sự lớn hơn mình, thì lúc ấy
Ogilvy and Mather sẽ trở thành một công ty của những người khổng lồ”
Và quả thật, Ogilvy and Mather đã trở thành
một trong những công ty quảng cáo lớn nhất và được kính trọng nhất thế giới.
8. Chúa yêu thích sự
công chính đạo đức.
Vào năm 1729 Ben Franklin một nhà tư tưởng lớn
của Mỹ đã nói những lời như thế này trước một cử tọa đến nghe ông “Nếu
chúng ta vẫn chuyên chăm để trở nên vĩ đại như chuyên chăm trở nên tốt lành thì
ta sẽ trở nên vĩ đại thực sự và con số những người đáng nể phục sẽ tăng lên rất
nhiều. Nhưng sẽ là một sai lầm lớn nếu chúng ta nghĩ rằng mình có thể trở nên
vĩ đại mà không cần có sự đạo đức”
rồi như dằn từng tiếng ông khẳng định “Và
tôi khẳng định rằng không bao giờ có một con người thật sự vĩ đại mà đồng thời
lại không thật sự đạo đức.”
Đây là lời của sách Khôn ngoan: “Nếu
trên đời này, giàu sang là báu vật ai cũng khao khát, thì còn gì giàu sang hơn
đức khôn ngoan?” (Kn 8,5).
Chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng con biết đánh
giá các hành động và giá trị của chúng ta theo chuẩn mực của Ngài.
9. Sống đời công chính
Thánh Augustinô nói: “Sống công chính
tốt lành không gì khác hơn là yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết
sức lực mình”… “Chúng ta dành cho Người một tình yêu trọn vẹn (nhờ tiết độ),
không gì lay chuyển nổi (nhờ can đảm), chỉ vâng phục một mình Người (nhờ công
bình), luôn tỉnh thức để khỏi sa vào cạm bẩy của mưu mô và gian dối (nhờ khôn
ngoan)” Đó là cách sống đẹp lòng Chúa nhất (T. Augustinô, Những thói
quen của Hội Thánh Công Giáo 1,25,46).
Một cô kia cuộc đời thật là bất hạnh: bị mồ
côi cha từ lúc 6, 7 tuổi, lúc lên 12 tuổi mẹ cô lại qua đời. Từ đó cô thay mẹ
chăm sóc cho mấy đứa em nhỏ của cô. Lúc 16 tuổi cô bị lâm bệnh nặng.
Một bà đến thăm và an ủi cô. Bà này hỏi: Cháu
có sợ chết không? Đừng sợ cháu à! Chết là được về với Chúa, đó là điều hạnh
phúc nhất đấy cháu ạ.
Cô bé trả lời: Thưa bà, cháu không sợ chết.
Nhưng cháu không biết là khi gặp Chúa, cháu sẽ phải nói làm sao vì cháu chưa
làm được gì cho Chúa cả. Cháu muốn phục vụ Chúa, nhưng từ khi mẹ cháu chết,
cháu phải lo nuôi mấy đứa em cháu, vì thế mà cháu chẳng còn thì giờ nào làm
được việc gì cho Chúa.
Người đến thăm cô bé, nắm lấy tay cô, bàn tay
gầy guộc và nói: Khi gặp Chúa, cháu không cần nói gì cả vì Chúa biết rõ lòng
của cháu rồi, cháu đã làm tất cả những gì cháu có thể làm rồi.
Vâng Chúa biết rõ lòng của chúng ta. Làm tất
cả những gì có thể làm, đó chính là điều mà chúng ta phải cố gắng.
10. Thánh Giuse, quan
thầy giáo hội hoàn vũ, giáo hội Việt Nam
Ngày lễ nầy ra đời vào thế kỷ 15, và kể từ năm
1621 đã được mừng kính trong khắp cả Giáo Hội. Vào năm 1847, ĐGH Piô IX đã tôn
phong Thánh Giuse làm quan thầy của toàn thể Giáo Hội. Đức Giáo Hoàng Gioan
XXIII đã ghi tên Thánh Giuse vào lễ qui Rôma…
Đối với lịch sử Giáo Hội Việt nam, Ngày lễ
Thánh Giuse 19.3 còn là một cột mốc quan trọng trong cuộc hành trình truyền
giáo: vào chính ngày nầy, 19.3.1627, phái đoàn truyền giáo của Cha Đắc Lộ đã
cập bến Cửa Bạng ở Đàng Ngoài để đem Tin Mừng cho dân tộc Việt nam. Đó cũng là
một lý do để Hội Thánh Việt nam chọn Thánh Giuse làm quan thầy.
12. Đấng giữ gìn các
kẻ đồng trinh
Giáo Hội coi Thánh Giuse là “Đấng giữ gìn các
kẻ đồng trinh.” Người đã giữ gìn Đức Mẹ Maria. Người cũng sẵn sàng giữ gìn
những người tận hiến đời mình cho Chúa.
Có một người làm công, ngày ngày đi quét lá
rừng rụng xuống, gom lại một nơi rồi hốt đi. Một hôm một đoàn người lên rừng
chơi, thấy người quét lá, họ rất đỗi ngạc nhiên, và họ càng ngẩn ngơ khi biết
rằng chính Hội đồng Thành phố đã thuê với số lương 7000 $ một tháng.
Sau một hồi vãn cảnh, đoàn người trở về. Một
số người tìm đến ông Chủ tịch Hội đồng thành phố đề nghị hủy bỏ phụ khoản chi
tiêu cho việc quét lá rừng vì quá vô ích. Ông Chủ tịch cũng như Hội đồng chẳng
hiểu căn do của phụ khoản kia, vì họ chỉ làm theo truyền thống, nên cuối cùng
quyết định không thuê người quét lá rừng nữa.
Ngay giữa thành phố có một cái hồ rộng lớn,
nước trong xanh, cây to in bóng mát, người qua lại dập dìu. Mọi người ca tụng
nó là viên ngọc trai điểm trang cho thành phố. Nhưng lạ thay, một tháng sau
ngày người quét lá rừng nghỉ việc, nước hồ trở nên đục ngầu bẩn thỉu, không còn
thấy bóng người hóng gió ngoạn cảnh, quán xá bên bờ hồ vắng tanh… Cả thành phố
trở nên buồn tẻ mà không hiểu tại đâu. Hội đồng Thành phố nhóm ngay phiên họp
bất thường để tra xét hiện tượng trên. Và sau cùng họ tìm ra nguyên nhân: do
người phu quét lá rừng nghỉ việc nên lá rừng rụng xuống, gió đùa lá bay tứ tung
trên mặt đường, rồi rơi xuống hồ nước trong xanh, gây nên tình trạng ô nhiễm…
Và ngay hôm đó họ tái dụng người phu quét lá
với số lương còn cao hơn xưa.
”Này ông Giuse là con
cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do
quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20)
13. Mối tình của
Dolores và Donald
Theo tin Đài Chân Lý Á Châu loan đi khắp thế
giới ngày 07-03-2012: Mẹ Dolores là một trong số các ngôi sao Holywood, tiến
bước trên thảm đỏ trong buổi lễ trao giải thưởng Oscar vào ngày 26-02-2012. Vì
mẹ đã đóng cuốn phim tài liệu “Chính Chúa là một Elvis lớn lao hơn” (God is
bigger Elvis). Năm nay (2023) mẹ Dolores đã 87 tuổi, tu Dòng Kính Đan Viện Biển
Đức Regina Laudis ở Bethlehem thuộc tiểu bang Connecticut, nước Mỹ.
Vào năm 1957, minh tinh Dolores ở tuổi 21, đã đóng nhiều phim
nổi tiếng với vua nhạc rock Elvis Presley, đang ở đỉnh cao danh vọng, vì
Dolores là một ngôi sao tài sắc vẹn toàn, cô đã được mời ký hợp đồng đóng phim
lên tới triệu dollars. Thế mà Dolores bỏ lại những hợp đồng bạc triệu, và từ bỏ
hôn ước với một kiến trúc sư giàu có, trẻ tuổi, tên là Donald John Robinson đã
hết lòng yêu Dolores.
Ông Donald là một trong những người thắc mắc
nhất trong số những người ái mộ ngôi sao Dolores, đã theo dõi sự kiện mẹ
Dolores bỏ danh vọng đi tu. Trong độ tuổi thanh xuân phơi phới một cách dễ dàng
không vương vấn, không dấu hiệu báo trước! Ngay cả vị hôn phu của cô là ông
Donald cũng không thể lý giải tại sao đã năm năm Donald và Dolores hẹn hò với
nhau. Ngay sau khi họ vừa làm lễ Đính hôn, cô lại tỏ ý muốn đi tu!
Ông Donald đã không thể tin ở tai của mình, vì
thấy Dolores vẫn tiếp tục đi đóng phim bình thường. Ông không hề ngờ rằng ơn
kêu gọi dành cho Dolores đã bắt đầu từ trước khi cô quen biết ông ở tuổi 21, và
sự nghiệp điện ảnh đang ở vào thời kỳ rực rỡ nhất! Một người bạn của Dolores kể
lại là nghe Dolores than thở rằng đóng phim căng thẳng quá, rồi chỉ sau vài
tuần lễ thì lại đường ai nấy đi. Cô phải chia tay với người bạn mới quen mà cô
yêu quý. Điều này để lại nhiều trống rỗng trong lòng cô gái trẻ đẹp, đơn sơ, dễ
mến. Cô đi đến nhà Dòng Biển Đức để tĩnh tâm và học hỏi lối sống và làm việc
của các nữ tu, là những người cô cho là rất ổn định và đáng khâm phục. Hai năm
sau Dolores đủ điều kiện nhập Dòng vào năm 1960, và đến năm 1970 thì được Khấn
trọn đời, làm cho nhiều kẻ xấu miệng loan báo cô đã có bầu với Elvis, bây giờ
họ phải đấm ngực!
Ông Donald bị Dolores bỏ rơi, vẫn vui lòng
chấp nhận ở vậy không chịu lập gia đình với ai, vì cho rằng không ai có thể
thay thế được Dolores trong tim ông. Suốt thời gian Dolores tu trì, ông Donald
hằng năm hai lần vào dịp lễ Giáng Sinh và Phục Sinh đến nhà Dòng thăm Dolores.
Vào tháng 11 năm 2011, ông Donald qua đời, trước đó vài tháng ông đã để lại Di
chúc hiến tất cả tài sản của ông cho Đan Viện Biển Đức để nhà Dòng có thêm tài
lực mà phục vụ công ích.
Ai cũng phải khâm phục mối tình của Dolores và
Donald đã hơn nửa thế kỷ, cả hai đã hiến dâng tình yêu cao quý nhất cho Chúa:
một người thì trung thành với lời Khấn độc thân trọn đời trong bậc tu trì; một
người thì chung thủy với lời đính ước trong mối tình vợ chồng.
Lời Chúa: Lc 1, 26-38
Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến
một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một
người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần
vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng
Bà, Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ.” Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi
lời chào đó có ý nghĩa gì.
Thiên thần liền thưa: “Maria đừng sợ, vì đã
được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một Con trai và đặt tên là Giêsu.
Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho
Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp,
và triều đại Người sẽ vô tận.”
Nhưng Maria thưa với thiên thần: “Việc đó xảy
đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?”
Thiên thần thưa: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với
Bà và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Ðấng Bà sinh ra, sẽ là Ðấng
Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai
con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên
hạ họi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được.”
Maria liền thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi
xin vâng như lời Thiên thần truyền.” Và thiên thần cáo biệt Bà.
TRUYỆN KỂ
1. Khiêm nhường đón
nhận—TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Ðọc Tam Quốc Chí, ai cũng mến mộ Trương Lương,
một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang. Thuở nhỏ, Trương Lương đi dạo
chơi ngoài bờ sông. Thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu.
Ông lão ngủ say làm rơi một chiếc dép xuống
sông. Thấy Trương Lương, ông sai bảo: "Thằng bé, nhặt chiếc dép
cho ta.” Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép kính cẩn đưa
lại cho cụ già. Cụ cầm lấy, không một lời cám ơn.
Loay hoay xỏ mãi không vào, cụ đánh rơi chiếc
dép một lần nữa. Cụ lại quát bảo Trương Lương: "Thằng bé, xuống
nhặt dép cho ta.” Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng
thế.
Thấy vậy, ông lão khen: "Thằng bé
này dạy được đây.” Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận
Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương
trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp
đế vương.
Trương Lương gặp được thầy giỏi một phần nhờ
cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của ông.
Ðọc truyện Trương Lương, tôi lại nhớ đến Ðức
Mẹ. Thời Ðức Mẹ, ai cũng mong chờ Ðấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Ðức Mẹ được diễm
phúc đón nhận. Chúa chọn Ðức Mẹ, đó là do ơn lành nhưng không của Chúa, nhưng
cũng vì Ðức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.
2. Ơn Chúa cần được
cộng tác
Một thanh niên kia có thói quen ngủ rất say,
luôn cần có mẹ gọi mới thức dậy được. Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm ở một chỗ
xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng hồ báo thức.
Ngày đầu tiên anh quên vặn đồng hồ trước khi
ngủ nên đến sở làm trễ. Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng sớm khi
nó reo thì anh đưa tay tắt bỏ, nên lại đi làm trễ. Và anh bị đuổi việc. Khi anh
trở về gia đình, mẹ anh hỏi về chiếc đồng hồ. Anh đáp:
- Chiếc đồng hồ đó
hoàn toàn vô dụng đối với con.
- Nó vô dụng là vì con
không chịu dùng nó. Mẹ anh đáp.
Bao nhiêu ơn Chúa ban cho ta cũng đều vô dụng
nếu ta không xử dụng đến.
3. Khiêm nhường là
sống theo sự thật
Khác hẳn với Eva thuở xưa trong vườn địa đàng,
tuy chỉ là con người mà cứ tưởng mình ngang tầm với Thiên Chúa. Đức Mẹ là Eva
mới dù được Thiên Chúa đặc biệt ưu ái tuyển chọn lên bậc "quân vương”làm
Mẹ sinh ra Đấng Cứu thế, nhưng Đức Mẹ vẫn chỉ xưng mình là một tôi tớ không hơn
không kém…
- Đức Mẹ nhìn nhận tất
cả những gì mình có được đều là do Thiên Chúa.
"Người đã đoái
thương nhìn tới phận nữ tỳ hèn mọn” (Lc 1,48)
"Đấng toàn năng
đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1,49)
"Thiên Chúa đã hạ
bệ những ai quyền thế và nâng cao những kẻ khiêm nhường - Thiên Chúa đã ban đầy
dư cho những kẻ nghèo, còn người giàu có thì Người đuổi về tay không” (Lc 1,48).
Phải có một lòng khiêm nhường thật thẳm sâu
thì mới có thể thấy hết được những sự thật đó. Thái độ của Đức Mẹ khác hẳn với
thái độ của Eva thuở xưa. Eva thuở xưa mới có được một chút quyền hành Thiên
Chúa ban cho trong công việc canh giữ và làm chủ vườn địa đàng đã tưởng mình là
quan trọng, thậm chí có lúc còn tưởng là Thiên Chúa như muốn ghen tương với
mình. Thật là kiêu ngạo.
4. Thị kiến của thánh
Catarina Emmerrich
Một hôm, Chúa cho bà thánh Catarina Emmerrich
được xem thấy quang cảnh ngày lễ Truyền Tin.
Theo bà thuật lại: Ngày 23 tháng 3, tôi thấy
Đức Mẹ quỳ ngay ở chỗ phòng tôi, đầu và mặt phủ một khăn trắng mỏng, hai tay
búp măng chắp trước ngực, đôi mắt đăm đăm nhìn về phía góc trời, rồi tôi thấy
một luồng ánh sáng đổ xuống bên tay hữu Đức Mẹ; và trong luồng sáng trong tốt
đó, tôi thấy Thiên thần Gabriel, y phục trắng toát, tóc hoe hoe và phất phới.
Đoạn một tiếng chào của Thiên thần làm tan làn không khí im lặng.
Nghe tiếng chào mình, Đức Mẹ có vẻ sợ sệt, hơi
nghiêng về phía tả, song con mắt vẫn đăm đăm nhìn về góc trời, chứ không quay
hẳn về phía tiếng chào, và cầm trí nghe lời thiên thần - mỗi lời thiên thần nói
như nhả ra từng dòng chữ lửa.
Sau khi đã hiểu ý câu truyện, Đức Mẹ xoay mình
lại, mở hé khăn trùm, khiêm tốn trả lời rằng: “Này tôi là nữ tỳ Thiên
Chúa, xin hãy làm trọn nơi tôi điều sứ thần truyền.”
5. Tờ giấy và cây viết
Nhắc đến ông Leonard de Vinci, chúng ta thường
nghĩ ngay đến những phát minh khoa học và những bức họa tuyệt diệu của ông.
Nhưng để giải trí, ông còn sưu tầm những truyện cổ tích, hay đặt ra những
truyện mới, như câu truyện sau đây về cuộc đối đáp tưởng tượng của tờ giấy
trắng và cây viết.
Có tờ giấy trắng nọ nằm ù lì trên bàn viết với
bao đồng bạn khác từ nhiều năm tháng qua. Nhưng rồi một hôm nó được chọn đem ra
trước bàn chịu cảnh cây viết với mực đen vẽ lên nó không biết bao nhiêu là
những dấu hiệu mà nó không hiểu gì cả. Tờ giấy phàn nàn với cây viết như
sau: "Tại sao anh lại làm thế, anh vẽ trên mình tôi những dấu làm
tôi mất đi sự trắng sạch ban đầu, anh làm nhục tôi thế này sao? Anh làm hư cả
cuộc đời tôi rồi.”
Nhưng cây viết trả lời: “Không, anh
giấy hiểu lầm tôi rồi, tôi không làm dơ anh đâu, tôi vẽ lên anh những dấu hiệu,
những dòng chữ và kể từ nay, anh không còn là tờ giấy vô dụng nữa, mà mang trên
mình một sứ điệp, anh trở thành kẻ cộng tác với con người lưu giữ những tư
tưởng cao siêu của con ngưởi, và vì thế sẽ được con người nâng niu bảo vệ; anh
được sống mãi để trợ giúp con người.”
Tờ giấy chưa kịp trả lời cây viết, thì nó bỗng
nhìn thấy một bàn tay con người quơ lấy những tờ giấy trắng đồng bạn của nó mà
nay đã trở thành vàng đục, già cỗi và đầy bụi bặm mà quăng vào ngọn lửa bên
cạnh. Bấy giờ tờ giấy trắng đầy chữ viết mới hiểu được hành động vừa rồi của
cây viết và lấy làm sung sương vì được trở thành kẻ cộng tác và lưu giữ kho
tàng trí khôn của con người.
Thật vậy, Đức Maria đã tự nguyện trở thành tôi
tớ của Thiên Chúa để cộng tác vào chương trình cứu chuộc nhân loại. Ngài đã trở
nên một dụng cụ tuyệt vời của Thiên Chúa, hoàn toàn đặt mình dưới quyền sử dụng
của Thiên Chúa như như một tờ giấy trắng trước cây viết.
6. Đối với Thiên Chúa,
không có gì là không thể làm được
Cha Giuse Lê Quang Uy kể: Có một thiếu nữ
người Pháp mà tôi đã lỡ quên mất tên sau khi đọc được câu truyện sau đây trên
báo Echo de Lourdes cách đây khoảng 25 năm. Cô ấy bị mắc phải căn bệnh nhũn tủy
làm cho bị liệt đôi chân. Cô đã hy vọng rất nhiều khi người ta đề nghị đưa cô
tới Lộ-đức để xin ơn Mẹ làm phép lạ. Khi ra về, ai cũng lắc đầu thất vọng vì
thấy cô gái không được lành bệnh. Thế nhưng, chính cô thì lại hân hoan tâm
sự: “Tôi không hề được Mẹ chữa lành căn bệnh thể xác, chắc là Chúa
Giêsu muốn tôi được chia nỗi đau đớn thân xác với Ngài, và tôi đã thưa Xin Vâng
như Mẹ… Thế nhưng, Mẹ lại đã chữa lành căn bệnh tuyệt vọng bi quan của tâm hồn
tôi… Từ nay, tôi xin được làm Tông Đồ của Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Mẹ… ”
Và quả thật, cô gái đã trở thành một Tông Đồ
nằm trên giường bệnh của những người cũng đang đau khổ bất hạnh như cô đã từng
đau khổ bất hạnh. Cô đã viết thư gửi đi để khích lệ niềm hy vọng của những em
bé mồ côi, của những người già cô đơn trong Viện Dưỡng Lão, của những thiếu nữ
lỡ lầm đang định phá thai, của những người khuyết tật khốn khổ…
Cho đến khi bị liệt cả hai tay, cô đọc người
ta viết. Khi không nói được nữa, người ta soạn các lá thư rồi đọc lên cho cô
nghe và gật đầu hoặc chớp mắt đồng ý. Và sau khi cô chết, người ta lấy những lá
thư đã sao chép và lưu trữ để in thành hàng vạn lá thư khác…
Mới đây, khi tôi được đến giúp Tĩnh Tâm 3 ngày
Mùa Chay cho Giáo Xứ Tử-đình ở Gò-vấp, tôi lại gặp được một bạn trẻ cũng bị căn
bệnh Nhũn Tủy giống như cô gái nói trên. Đó là bạn sinh viên năm thứ hai Đại
Học khoa Tin Học tên là Phạm Ngọc Quỳnh. Tôi đã mời cả gia đình Quỳnh cùng tôi
cầu nguyện ngay bên giường bệnh của bạn ấy…
Và tôi đã nhìn vào đôi mắt bừng sáng đầy nghị
lực quả cảm của bạn ấy. Và tôi đang cầu nguyện thật lòng xin Thánh Ý Thiên Chúa
tỏ bày, để một hôm nào đó tôi sẽ mạnh dạn ngỏ lời đề nghị với bạn Quỳnh cũng
chọn công việc Tông Đồ khiêm tốn mà hiệu quả tuyệt vời như cô gái người Pháp đã
làm.
Nếu được, xin các bạn trẻ, đặc biệt là các bạn
sinh viên hãy đến thăm bạn Quỳnh ở số nhà 2/16 đường Thống Nhất, tổ 75, phường
15, quận Gò-vấp, hoặc điện thoại số 9.961.554. Tôi hy vọng, cả tôi lẫn các bạn
có thể sẽ là những “sứ giả”, những “thiên thần” được Thiên Chúa gửi đến cho
Quỳnh và cho biết bao nhiêu bạn trẻ khác, cho biết bao nhiêu con người khốn khổ
bất hạnh khác đang sống quanh chúng ta, ngay bên cạnh chúng ta…
Thế đấy, mỗi ngày, mỗi biến cố xảy đến trong
cuộc đời chúng ta đều như văng vẳng một lời “Truyền Tin” của Thiên Chúa thông
qua một “sứ giả”, một “thiên thần” nào đó ngay bên chúng ta. Có thể đó sẽ là
một lời mời gọi chúng ta hãy cộng tác với một chương trình mầu nhiệm hoặc một
kế hoạch kỳ diệu nào đó của Thiên Chúa như đã từng xảy đến cho Đức Ma-ri-a.
Chúng ta chỉ cần khiêm tốn thưa Xin Vâng với Thiên Chúa. Còn mọi sự sau đó, hãy
cứ tin rằng: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”
Được như vậy, thật sự chúng ta sẽ là những
người có phúc, xứng đáng được chào bằng lời chào ngày xưa thiên thần đã kính
chào đức Ma-ri-a: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng
bà.”
7. Câu Thánh Kinh đẹp
nhất
Có một bà mẹ đã hỏi đứa con nhỏ của mình như
sau:
-Theo ý con, câu nào
trong Kinh thánh đã làm cho con thích thú hơncả?
Đứa bé mở cuốn Kinh thánh và tình cờ lật phải
ngay trang nói về hoạt cảnh Truyền tin. Với ánh mắt long lanh, đứa bé đã nói
với mẹ:
-Thưa má, hai tiếng
xin vâng của Đức Maria là hai tiếng đã làm cho con thích thú hơn cả.
Đúng thế, không gì đẹp bằng hai chữ xin vâng
trên cặp môi của Mẹ Maria cho chương trình cứu độ được thực hiện. Đồng thời,
cũng không gì đẹp bằng hai tiếng xin vâng trên cặp môi mỗi người chúng ta cho thánh
ý Thiên Chúa được chu toàn.
8. Người mẹ được chọn
Trong một lớp giáo lý, cô giáo hỏi các em học
sinh: Em mơ ước điều gì cho mẹ của các em? Các em đua nhau trả lời:
Em muốn cho mẹ em là
người đẹp nhất trên thế giới nầy.
Em mơ ước mẹ em có một
sức khoẻ thật dồi dào.
Em cầu mong cho mẹ em
giàu sang, có thật nhiều tiền bạc.
Em chỉ ước mong cho mẹ
em là một bà mẹ hiền lành, đạo đức và nhân hậu.
Chỉ là ước mơ vì không ai có quyền chọn người
mẹ sinh ra mình. Nhưng đối với Thiên Chúa thì khác hẳn. Ngài đã sinh ra bởi một
người nữ được tuyển chọn. Đây là trường hợp độc nhất vô nhị trong lịch sử loài
người. Đức Maria đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để cộng tác với
Ngài trong công trình cứu độ. Ngài chọn Maria vì Ngài muốn chọn, theo sự tự do
của Ngài (x. Rm 9,12.16), và cũng “vì bà đẹp lòng Thiên Chúa.”
Thánh ý ấy được biểu lộ qua tiếng nói lương
tâm, qua mười giới răn, qua Tin mừng phúc âm, cũng như qua những lời giáo huấn
của Hội Thánh.
9. Món quà tình yêu
người mẹ
Có một người con gọi về cho mẹ:
– Alô, Mẹ đó ạ?
– Ừ, con đó hả?
– Dạ…
– Có chuyện gì không
con?
– … Dạ, không Mẹ… hôm
nay sinh nhật con…
– Ờ nhỉ, Mẹ quên mất!
Già rồi nên chẳng nhớ nổi ngày sinh của mấy đứa con.
– Không sao đâu Mẹ ạ.
Con… con chỉ muốn nói với Mẹ rằng… hôm nay sinh nhật con, con muốn cám ơn Mẹ đã
sinh ra con. Món quà sinh nhật quý giá nhất Mẹ đã tặng cho con.
Hóa ra món quà quý nhất cho ngày sinh nhật của
chúng ta là tình yêu của mẹ.
10. Mẹ thưa xin vâng
để trở nên người mẹ
Trên đường đời nhiều sóng gió hôm nay, Mẹ
Maria sẽ là điểm tựa vững chắc cho mỗi một người Kitô hữu chúng ta. Trải nghiệm
của Mẹ sẽ thấu hiểu những khó khăn mà chúng ta đang đối diện. Niềm cậy trông
của Mẹ sẽ là gương mẫu cho chúng ta trên hành trình đức tin. Mẹ sẽ là điểm tựa
cho mọi NỖI ĐAU của con cái Mẹ nơi trần gian này.
Mẹ sẽ là nguồn an ủi cho những ai đang đau đớn
thân xác vì ốm đau bệnh tật, vì những nặng nề của thể xác dằn vặt.
Mẹ là sẽ nguồn bình an cho những ai đang đau
thương tinh thần vì thử thách chông gai, bị đối xử tệ bạc, hay bị đẩy ra bên lề
của xã hội.
Mẹ sẽ là nguồn cậy trông cho những ai đang đau
buồn vì sự chia ly trong tình yêu, vì những đổ vỡ hạnh phúc gia đình.
Mẹ sẽ là nguồn hy vọng cho những ai đau khổ vì
sự yếu đuối vấp ngã, khó khăn thất bại, hay mất mát trong đời.
Một lòng cậy trông nơi Mẹ sẽ giúp chúng ta đáp
lời xin vâng trước mọi biến cố trong cuộc đời, chiến thắng mọi sợ hãi trong
cuộc sống và can đảm làm chứng cho sự thật, cho tình thương nơi trần thế.
Lời Chúa Tuần 4
Mùa Chay
Thường niên V-GS C-PS Ngoại lịch