LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
1. Bách hại
Hẳn chúng ta còn nhớ có lần Chúa Giêsu
đã phán: Môn đệ không trọng hơn Thầy. Nếu người ta đã bắt bớ Thầy thì người ta
cũng bắt bớ các con. Lời tiên tri này đã được thực hiện một cách trọn vẹn.
Trước hết nơi Chúa Giêsu: từ khi bước
vào cuộc sống công khai Ngài đã gặp phải sự chống đối của bọn biệt phái. Chúng
tìm mọi sơ hở để bắt lỗi những lời Ngài giảng và những việc Ngài làm. Chúng tố
cáo Ngài là phạm thượng lộng ngôn, dùng quyền quỷ mà trừ quỷ, lỗi ngày Sabat,
xách động dân chúng chống lại chính quyền Lamã và sau cùng ý đồ đen tối của
chúng đã được thực hiện, chúng đã bắt giữ và đóng đinh Ngài trên thập giá.
Tiếp đến là các tông đồ. Sau ngày lễ Hiện
Xuống Phêrô và Gioan đã bị tống ngục. Trong số 12 tông đồ thì chỉ có mình Gioan
chết già tại cộng đồng Êphêsô, còn tất cả đều đã hy sinh mạng sống cho Tin Mừng
Phúc Âm.
Sau cùng là Giáo Hội. Giáo Hội thời sơ
khai đã trải qua 300 năm cấm cách dưới thời các hoàng đế Lamã. Những tín hữu muốn
sống sót và bảo toàn đức tin phải chui rúc trong những hang toại đạo. Vì thế
các sử gia đã gọi thời kỳ này là thời kỳ Giáo Hội sống dưới hầm.
Riêng tại Việt Nam, Tin Mừng được rao giảng
vào thế kỷ 16, từ đó cho đến thế kỷ 19, từ đời hậu Lê cho tới thời Chúa Nguyễn,
trải dài hơn 300 năm, cũng đã gặp phải bao cấm cách, nhất là dưới thời Minh Mạng,
Thiệu Trị và Tự Đức. Biết bao nhiêu người đã phải bỏ nhà cửa, ruộng vườn và sản
nghiệp trốn vào những nơi rừng thiêng nước độc để bảo vệ đức tin. Trên 130.000
người đã hy sinh mạng sống để tuyên xưng đức tin, trong số đó có 117 vị đã được
tôn phong lên bậc hiển thánh.
Qua những sự kiện lịch ấy chúng ta đi tới
kết luật: Thân phận người Kitô hữu là thân phận bị bách hại. Sự bách hại có mặt
ở mọi nơi và trong mọi lúc, khi thì khắc nghiệt và toàn phần như đã xảy ra
trong dĩ vãng. Khi thì từ từ và từng phần như đang xảy ra tại nhiều nơi trên thế
giới. Khi thì như mơn trớn vuốt ve bằng tiền tài danh vọng và lạc thú như tại
những nước tư bản. Nhưng tất cả đều dẫn tới một mẫu số chung là làm cho đời sống
đức tin suy yếu và con số những người bước theo Chúa mỗi ngày một vơi giảm.
Con người càng tiến bộ thì phương cách bắt
bớ càng tinh vi, có thể chúng ta không bị bắt bớ vì lý do tôn giáo nhưng người
ta sẽ chụp mũ và bắt bớ chúng ta ở một tội trạng nào khác, nhưng theo tôi nghĩ
sự bắt bớ quan trọng nhất đang diễn ra ngay tại cõi lòng chúng ta, vì ai trong
chúng ta cũng cảm thấy một sự giằng co giữa sự thiện và sự ác, giữa sự tốt và sự
xấu. Nhiều khi sự ác đã lấn át và cất cao tiếng cười ngạo nghễ. Có chiến thắng trong
cuộc chiến nội tâm tuy âm thầm nhưng mãnh liệt này, chúng ta mới hy vọng chiến
thắng được thế gian vì tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ.
Thân xác các thánh Tử đạo Việt Nam tuy đã chết
nhưng tinh thần tử đạo của các ngài vẫn sống mãi. Hãy bước theo dấu chân của
các Ngài. Thực vậy, mặc dù chúng ta không được diễm phúc tử đạo, nhưng cũng hãy
dùng đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương để làm chứng cho
Chúa ở mọi nơi và trong mọi lúc. Mỗi hy sinh chúng ta chịu sẽ là một giọt máu tử
đạo chúng ta đổ ra từng giây từng phút để làm chứng cho Chúa.
2. Thập giá
Nhân ngày lễ kính các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta
cùng nhau tìm hiểu về thập giá trong cuộc sống của các ngài.
Hơn ai hết, các thánh tử đạo Việt Nam là những bậc
cha ông của chúng ta đã sống mầu nhiệm thập giá một cách sâu xa nhất.
Đúng thế, chẳng những vác thập giá mình hằng ngày bằng một đời sống thánh thiện
quên mình, chết đi cho lòng vị kỷ và cho tội lỗi như các tín hữu khác, các ngài
còn thực sự uống chén đắng và trải qua cuộc thanh tẩy bằng máu mà Chúa Giêsu đã
trải qua trong cuộc khổ nạn.
Các ngài chịu đau khổ
và chết trong thân xác như Đức Kitô trên thập giá.
Cuộc đời các ngài lặp lại từng bước những chặng được thập giá của Chúa Giêsu và
kết thúc bằng lời phó thác: Lạy Cha, con xin phó hồn con ở trong tay Cha. Bằng
đời sống và bằng cái chết các ngài nói lên niềm xác tín của mình: Không ai có
thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Đức Kitô. Tình yêu của các ngài còn mạnh hơn
cả sự chết và là yếu tố tạo nên chiến thắng. Các ngài sống cho tình yêu và chết
cho tình yêu, đối với tình yêu thì giá nào cũng vẫn còn là thấp, kể cả sự chết.
Các ngài đã làm chứng
và loan truyền mầu nhiệm thập giá. Cái chết của các
ngài không còn là một việc riêng tư, nhưng đã trở nên một biểu hiện cho niềm
tin chung của Giáo Hội vào giá trị tuyệt đối của Nước Trời, vào tình yêu vô
biên của Thiên Chúa. Sự chết đó còn là một tiếng gọi, một lời thúc giục toàn thể
dân Chúa hãy sống trọn vẹn niềm tin của mình và chiếu sáng niềm hy vọng giữa
lòng cuộc đời. Nếu sống được như vậy, thì dẫu không trải qua cái chết tử đạo,
chúng ta cũng vẫn có thể loan truyền mầu nhiệm thập giá. Sống như một chứng
nhân là điều kiện thiết yếu để có thể chết như một chứng nhân. Các thánh tử đạo
Việt Nam
đã làm chứng bằng cả sự sống lẫn sự chết.
Thập giá đã đưa Đức Kitô đến phục sinh.
Sau khi đã tự hạ vâng lời cho đến chết, Đức Kitô đã được suy tôn cùng với uy
quyền và vinh quang. Còn các thánh tử đạo thì sao? Dù các ngài chưa thể sống lại
trong thân xác như Đức Kitô, nhưng cũng đã đạt tới sự sống vinh quang của Ngài,
bởi vì ngay lúc chết, các ngài đã được tham dự vào sự sống vinh quang của Đức
Kitô phục sinh chỉ còn phải chờ đợi ngày được tỏ hiện mà thôi. Sự liên đới với
Đức Kitô trong cái chết chắc chắn sẽ tạo nên sự liên đới trong sự sống.
Dù trong cảnh ngộ nào, Đức Kitô và các
môn đệ Ngài cũng vẫn chung một số phận: Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ cùng
Ngài phục sinh. Nếu ta chịu khổ với Ngài, ta sẽ cùng Ngài thống trị. Vẫn là một
quy luật muôn thuở của Nước Trời: Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất còn ai
liều mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy.
Trong mùa gặt phong phú của Giáo Hội Việt
Nam
thời sơ khởi, các thánh tử đạo đã loan truyền mầu nhiệm thập giá một cách kiên
trì trên mảnh đất thân yêu. Xin các ngài giúp chúng ta, là những người công
giáo Việt Nam hôm nay luôn sống trọn vẹn niềm tin, và làm chứng cho tình thương
Chúa bằng đời sống phục vụ và yêu thương của chúng ta.
3. Kiên quyết không bỏ Đạo yêu thương
Mấy thế kỷ trước đây, trong thời gian
các tín hữu công giáo Việt-nam bị bách hại ác liệt, nhà cầm quyền khuyến dụ các
tín hữu bước qua thập giá như một dấu chỉ công khai bỏ đạo để được tha. Tín hữu
nào theo lệnh vua quan dẫm đạp lên thập giá được xem như là người công khai bỏ
đạo.
Ngày nay, không còn áp lực bên ngoài bắt
buộc các tín hữu dẫm lên thập giá, nhưng có nhiều áp lực bên trong như tham
lam, ích kỷ, ganh tỵ, oán thù… vẫn hằng thôi thúc các ki-tô hữu chà đạp lên
nhân phẩm và tình người, biến họ trở thành những người chối bỏ Đạo yêu thương của
Chúa Giêsu.
Đạo Chúa là Đạo
yêu thương
Đạo Thiên Chúa được gọi là Đạo yêu
thương vì cốt tủy của Đạo là giới luật yêu thương và mục tiêu của Đạo là xây dựng
đời sống yêu thương huynh đệ trên khắp thế giới.
Khi có vị luật sĩ hỏi Chúa Giêsu, trong
các điều răn, điều nào trọng nhất, Chúa đáp: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa,
Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều
răn quan trọng nhất và là điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống
điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật
Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy." (Mt 22,
37-40)
Thánh Phao-lô cũng nhắc lại giáo lý nầy
cho các tín hữu Rô-ma: “Các điều răn… đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu
người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại;
yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy.” (Rm 13,9-10)
Tuyên ngôn yêu thương nầy đã được Chúa
Giêsu nâng lên thành điều răn mới khi Ngài phán: “Thầy ban cho anh em một điều
răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” (Ga 13,
34)
Chỉ có những ai yêu thương mới được xem
là người môn đệ Chúa
Muốn ghi tên gia nhập vào một tổ chức, một
đoàn thể hay một đảng phái nào đó, ứng viên phải chấp nhận một số nội quy của tổ
chức đó.
Cũng thế, khi muốn gia nhập vào Đạo yêu
thương để trở thành môn đệ Chúa Giêsu, thì điều kiện đầu tiên phải có là lòng
yêu mến tha nhân, như lời Chúa Giêsu dạy: "Người ta căn cứ vào dấu nầy để
nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau."
(Gioan 13, 35).
Như thế, không phải hễ đã có tên trong sổ
rửa tội, có tham gia sinh hoạt tôn giáo là có thể xưng mình là môn đệ Chúa
Giêsu nhưng là phải thật sự yêu mến tha nhân quanh mình.
Ai ghét bỏ tha nhân là từ bỏ Đạo yêu
thương của Chúa
Vì Đạo Chúa là Đạo yêu thương nên ai
ghét bỏ tha nhân, kẻ ấy không còn là môn đệ của Chúa Giêsu nữa, như lời Chúa dạy:
"Người ta căn cứ vào dấu nầy để nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là
anh em có lòng yêu thương nhau." (Gioan 13, 35).
Như thế, khi ghét bỏ người khác hay cạn
lòng yêu thương tha nhân, ki-tô hữu tự loại mình ra khỏi hàng ngũ những người
môn đệ Chúa.
Ngoài ra, những ai thiếu lòng yêu mến
tha nhân thì trong ngày phán xét, sẽ bị liệt vào hàng ngũ những người bị nguyền
rủa và bị loại trừ vĩnh viễn khỏi nhan Thiên Chúa, như lời Chúa dạy trong dụ
ngôn phán xét cuối cùng: "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta
mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó" (Mt
25, 34. 41)
Noi gương các thánh tử
đạo Việt Nam, chúng ta kiên quyết không bỏ Đạo yêu thương.
Thách thức của các kitô-hữu bị bách hại
ngày xưa là quyết không bước qua thập giá dù phải chịu máu đổ đầu rơi. Thách thức
của kitô hữu hôm nay là quyết giữ lòng yêu mến tha nhân đến cùng dù phải đối mặt
với hận thù, bạo lực và ghen ghét.
Các thánh tử đạo Việt Nam đã rất anh
dũng bước theo Chúa Giêsu và kiên trì sống Đạo yêu thương đến cùng. Dù ngục tù,
gươm đao, dù bị róc xương xẻ thịt, các ngài vẫn không hề nao núng. Nhờ đó, các
ngài được lãnh nhận triều thiên tử đạo. Nếu hôm nay chúng ta kiên quyết xoá bỏ
oán ghét hận thù, để kiên trì giữ luật yêu thương, để sống chan hòa với mọi anh
em trong tình huynh đệ (cho dù để đạt được điều nầy, chúng ta phải chịu khổ nạn
trong tâm hồn), thì chúng ta cũng sẽ được đứng vào hàng ngũ các thánh tử đạo hiển
vinh.
4. Bách hại vì sống công chính
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Một trong các bài Tin Mừng được chọn đọc
trong ngày lễ kính các Thánh Tử Đạo là phần đầu của bài giảng trên núi mà chúng
ta quen gọi là ‘Tám Mối Phúc’. Mối phúc cuối cùng trong danh sách là: “Phúc
thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ’. Trong sách Tin
Mừng Lu-ca chương 06, dầu chỉ đề cập tới có 04 mối phúc, nhưng mối phúc sau
chót cũng vẫn nói tới cùng một điều này là “Phúc cho anh em khi vì Con Người mà
bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như người xấu xa. Ngày đó
anh em hãy vui mừng nhảy múa vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời
thật lớn lao.” (Lc 6,22) Phải chăng đó là lý do tại sao các Ki-tô hữu từ thời
xa xưa đã dành cho các vị anh hùng tử đạo một sự mừng kính đặc biệt trân trọng.
Họ gán cho các ngài danh hiệu cao quý là Chứng Nhân Tin Mừng (Martyr). Ngày nay
trong tư cách con cháu của các Anh Hùng Tử Đạo, chúng ta muốn thực sự tìm hiểu
các vị tử đạo nói chung, và Các Thánh Tử Đạo Việt Nam nói riêng, đã là chứng nhân Tin
Mừng như thế nào? Khi tiến ra pháp trường để bị trảm quyết, các ngài đã thật sự
trung kiên bảo vệ điều gì? Và ở điểm nào các ngài thực sự liên quan tới người
Công Giáo Việt Nam
chúng ta đang sống trong xã hội hôm nay?
Trong tiếng Việt, chữ ‘đạo’ thường được
chúng ta sử dụng để nói tới một đạo giáo, một tôn giáo, như Đạo Phật, Đạo Hồi,
Đạo Lão, Đạo Ông Bà, Đạo Thiên Chúa… Thế nhưng theo nguyên ngữ hán-nôm, ‘đạo’
là con đường, là lẽ sống, là học thuyết… dẫn tới mục đích tối hậu của cuộc sống,
chẳng hạn đạo Khổng, đạo hiếu, đạo làm người. Đức Giê-su đã tự giới thiếu mình
“là đường, là sự thật và là sự sống”. Và nếu nói theo từ vựng hán nôm Ngài sẽ
phải tuyên bố mình là ‘đạo, chân, sinh’. Vậy thì, trong cả phúc âm Mát-thêu lẫn
Lu-ca, khi đề cập tới mối phúc chót này, Đức Giê-su chắc chắn không hề có ý muốn
tuyên bố ‘phúc thay’ những ai dám chết cho một đạo giáo hay tôn giáo, nhất là
hiểu dưới khía cạnh cơ cấu tổ chức của tôn giáo đó. Điều mà Đức Giê-su muốn biểu
dương là tất cả mọi hình thức ‘bị bách hại’, ‘bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ
vả và bị xóa tên như người xấu xa…’ đều là ‘phúc’ vì một yếu tố duy nhất, đó là
‘vì sống công chính’, hay rõ hơn: ‘vì Con Người’.
Tới đây tôi gợi nhớ lại tư tưởng bài suy
niệm về đoạn Tin Mừng Lc 18, 9-14 của Chúa Nhật XXX thường niên năm C: ‘Đối với
Đức Giê-su, ai mới là công chính?’ Nếu đã có một nền công chính của Cựu Ước tóm
gọn trong luật Mô-sê để bẩy anh em nhà Ma-ca-bê, vị bô lão Ê-lê-a-da, và Gio-an
Tiền Hô, vì trung thành với nó, đã buộc phải gánh lấy cái chết… và ‘các ngôn sứ
là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế’, thì riêng với
Ki-tô hữu sẽ có một thứ công chính mới được chính Đức Giê-su công bố. Nói đúng
ra chính Người là hiện thân của nền công chính đó, sự công chính của Thiên Chúa
từ nhân, công chính của tình yêu tha thứ và cứu độ; ‘Vì Con Người’, Người đã khảng
định. Ai đón nhận và sống Tin Mừng này để rồi ‘bị bách hại’, hay chịu thua thiệt
dưới bất cứ hình thức nào, đều là những người được Đức Giê-su biểu dương. Còn nếu
có ai đó bị giết chết vì nền công chính mới này thì phải được chính Đức Ki-tô
và toàn Nhiệm Thể Ngài tuyên dương, phong thánh. Chính vì thế mà Giáo Hội, ngay
từ thời sơ khai và qua mọi thời đại, đã có thói quen phong thánh cho các vị anh
hùng ‘tử vì đạo’. Giáo Hội luôn muốn tuyên bố rằng các anh chị em tín hữu này
là chứng nhân cho Tin Mừng tình yêu vì đã dám chấp nhận thua thiệt lớn hơn hết
là mất cả mạng sống mình. Với việc phong thánh như thế Giáo Hội đồng thời cũng
muốn khảng định bất cứ thua thiệt nào các Ki-tô hữu phải hứng chịu trong cuộc sống
thường ngày vì ‘sống công chính mới’ đều có giá trị vô song.
Suy nghĩ như thế tôi mới thấy có một
liên hệ mật thiết giữa các chứng nhân ‘tử vì đạo’ với mỗi Ki-tô hữu chúng ta.
Các ngài không phải là những trường hợp biệt lệ để các tín hữu có ‘may mắn’ được
sống trong thời đại an bình nhìn vào mà thán phục mà ca ngợi, với mơ ước rằng:
nếu chẳng may lâm vào cơn cấm cách, mình cũng sẽ trung thành. Đức Giê-su đã chẳng
gọi tất cả mọi Ki-tô hữu là ‘ánh sáng’, là ‘muối men’ của trần gian, là chứng
nhân Tin Mừng là gì? Chứng nhân tích cực rao giảng Tin Mừng thì ít, nhưng chứng
nhân vì buộc phải chấp nhận các thua thiệt, khó khăn vì nền công chính Tin Mừng
trong đời sống thường ngày thì nhiều. Vì thế thật là chí lý: các ‘Thánh Tử Đạo’
được coi như tấm gương, như cột sống của Ki-tô hữu qua mọi thời đại, thời buổi
bị bắt bớ thử thách cũng như khi được sống an bình sung túc.
Là người Công Giáo Việt Nam, chúng ta
luôn tự hào vì Giáo Hội Việt Nam đã có hàng trăm ngàn các chứng nhân Tin Mừng
như thế, trong số đó 117 vị đã được toàn Nhiệm Thể Đức Ki-tô phong thánh. Vấn đề
được đặt ra là: phải chăng các ngài đơn thuần chỉ tạo nên nơi chúng ta một niềm
kiêu hãnh mang tính lịch sử, hay đã trở thành cột sống, thành cơ bắp thúc đẩy
chúng ta sống công chính Tin Mừng cách cụ thể trong đời sống thường ngày? Thua
thiệt vì Tin Mừng thì thời đại nào cũng có, kể cả trong các xã hội được coi là
phồn vinh dễ dãi và tự do. Thế thì các ‘Thánh Tử Đạo Việt Nam’ đã đóng góp được gì cho người Công Giáo Việt
Nam
chúng ta trong xã hội được cho là ‘dễ dãi hơn’ hôm nay? Phải chăng chỉ là một
khích lệ trung kiên nào đó sẵn sàng chiến đấu chống lại mọi thế lực thù nghịch
khi cần, hay để kiên trì ‘sống công chính’ khi ‘bị người ta oán ghét, khai trừ,
sỉ vả và bị xóa tên như người xấu xa…’ ngay trong xã hội hôm nay? Ngày mừng
kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam
hôm nay sẽ không mấy ý nghĩa nếu mỗi người không tìm ra được câu trả lời cho vấn
nạn này.
Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, các ngài
đã chịu bách hại vì dám chấp nhận ‘sống công chính’ tới độ anh hùng. Nếu Hội
Thánh đã tuyên phong cái chết của các ngài thì đồng thời cũng tuyên phong vô
vàn những tủi hổ, thiệt thòi của biết bao tín hữu anh hùng vô danh khác. Tất cả
các điều này không nằm ngoài mục đích thôi thúc mỗi người Công Giáo Việt Nam chúng con sẵn
sàng hơn trong việc cùng với Đức Ki-tô thập giá tha thứ và yêu thương trong mọi
hoàn cảnh của cuộc sống đời thường, ngay trong lòng xã hội hôm nay. Xin các
ngài tiếp tục trở nên chứng nhân Tin Mừng cho chúng con về một tình yêu tha thứ
tuyệt đối. Amen.
5. Sống chứng nhân
Truyền thống Giáo Hội bao giờ cũng quý
trọng cái chết tử đạo của con cái mình, coi cái chết đó như vừa nói lên lòng
can đảm của người tử đạo, vừa nói lên chiến thắng của Tin Mừng. Vì thế, khi
nâng 117 vị tử đạo Việt Nam lên bậc hiển thánh, Giáo Hội muốn đưa ra những mẫu
gương cho chúng ta bắt chước. Qua cái chết khổ nhục, các ngài đã làm chứng cho
Đức Kitô trong những hoàn cảnh giới hạn của mình. Noi gương cái ngài, chúng ta
cũng hãy sống làm chứng cho Đức Kitô trong hoàn cảnh riêng của chúng ta. Vậy
chúng ta phải sống làm chứng đức tin như thế nào? Tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ làm
cho gương mặt cha ông tử đạo của chúng ta thêm sáng chói, nếu chúng ta biết
tích cực sống tử đạo giữa lòng dân tộc. Đây không phải chỉ là một công thức đẹp,
một câu nói đưa duyên, nhưng là một lựa chọn của Giáo Hội, như thư chung HĐGMVN
năm 1980 đã đề ra. Chính vì thế đối với chúng ta thì đó cũng là một mệnh lệnh.
Chúng ta phải biến mệnh lệnh trên thành việc làm.
Hiện thời chúng ta đang sống trên đất nước
Việt Nam, cùng với những người
Việt Nam khác, xây dựng một
xã hội Việt Nam
tốt đẹp hơn. Đó là thánh ý nhiệm mầu, làm sao chúng ta dám cưỡng lại, làm sao
chúng ta dám chối từ. Các thánh tử đạo Việt Nam cũng đã không chạy trốn hoàn cảnh
các ngài phải sống. Xã hội trong đó chúng ta đang sống. Môi trường trong đó
chúng ta đang làm việc, những con người hằng ngày chúng ta gặp gỡ trên mọi nẻo
đường, có những điều hay, những cái đẹp, thế nhưng cũng không thể tránh đi cho
hết những cái chưa hay, những điều còn xấu. Chính vì thế, vai trò đức tin của
chúng ta xuất hiện như một nhu cầu cần thiết và sứ mệnh làm chứng của chúng ta
trở thành cấp bách. Chính chúng ta phải tự vạch ra cung cách sống đạo cho chúng
ta trong từng thời điểm, trong từng hoàn cảnh.
Chẳng hạn nếu môi trường chúng ta sống
chưa hoàn toàn tôn trọng sự thật, thì chúng ta phải sống sao cho đời thấy rằng
chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta như Tin Mừng đã dạy. Nếu tại những cơ
quan chúng ta phục vụ chưa được chí công vô tư, đầy dãy chuyện móc ngoặc, tham
nhũng hối lộ, thì chúng ta phải cố sống sao cho siêu thoát, chấp nhận sự đạm bạc,
không màng chi đến việc làm giàu trên mồ hôi nước mắt của người khác. Nếu những
kẻ có quyền có thế lạm dụng chỗ đứng mà ức hiếp người dân, thì chúng ta phải biết
tôn trọng và giúp đỡ những người chung quanh, nhất là những kẻ bất hạnh và
nghèo đói. Nếu chung quanh chúng ta đời sống lứa đôi bị coi thường, tình yêu vợ
chồng bị hạ xuống hàng trò chơi tạm bợ, sự sống của con cái, như là kết quả của
tình yêu, bị chối bỏ dễ dàng, thì đời sống gia đình của chúng ta phải thấm nhuần
tinh thần Phúc Âm, vợ chồng thương yêu nhường nhịn lẫn nhau, con cái được đón
nhận như là hồng ân Chúa ban, sự sống được tôn trọng và yêu thương. Các khó
khăn được giải quyết bằng niềm tin, bằng cầu nguyện chứ không phải bằng đấm đá,
bằng đổ vỡ dễ dàng.
Hẳn nhiên không có cuộc sống làm chứng
nào mà không phải thiệt thòi vào thân. Đó là điều làm cho chúng ta lo ngại nhất,
nhưng đó cũng chính là thước đo mức độ lòng tin của chúng ta vào Giáo Hội. Để
làm chứng cho chân lý, cho tình yêu, Đức Kitô đã phải trả giá bằng cái chết
trên thập tự. Cho nên gặp phải khó khăn trong đời sống chứng nhân là chuyện
bình thường, là quy luật của muôn đời. Bởi vì sống làm chứng là sống tận căn
cái nghịch lý mất mạng để được mạng, là sống triệt để cái biện chứng hạt lúa
gieo vào lòng đất phải chết đi để làm nẩy sinh nhiều bông hát. Đó là điều các
Thánh Tử Đạo Việt Nam
đã làm và hơn nữa, đó là điều chính chúng ta cũng phải làm, nếu muốn trở nên chứng
nhân cho Đức Kitô.
6. Truyền đạo
Người Công giáo Việt Nam thường coi
mình là kẻ có đạo và được tiếng là những kẻ giữ đạo rất nhiệt thành và sốt sắng.
Nhưng có lẽ phần đông chúng ta chưa xác tín rằng: cách giữ đạo tốt nhất là cho
người khác cái đạo của mình, như Chúa Giêsu đã nói: Cố giữ thì mất, liều mất
thì còn.
Các thánh Tử đạo Việt Nam là những
người đã sống theo chân lý đó. Các ngài không phải chỉ là những người có đức
tin, những người giữ vững đức tin đến cùng, mà còn là những người đã cho kẻ
khác niềm tin của mình.
Không có việc trao tặng niềm tin ấy qua
việc hy sinh mạng sống của các ngài thì có lẽ sẽ chẳng có Giáo Hội Việt Nam hôm nay.
Tuy nhiên, có nhiều cách cho đi niềm tin và cách thông thường nhất là chia sẻ bằng
lời rao giảng hay bằng những phương tiện truyền giáo.
Cũng có một cách khác, tuy âm thầm nhưng
hiệu quả cũng không kém, đó là bằng cách sống niềm tin một cách chân thực.
Nhưng cách cuối cùng mà các thánh Tử đạo Việt Nam đã thực hiện là cho chính sự sống
của mình. Trong sự sống được trao tặng đó có hạt giống của đức tin, tựa hạt của
một trái chín, hay như hạt thóc của một bông lúa đã được gặt hái. Đó là một
cách cho trọn vẹn nhất, một cách cho tuyệt đối nhất, bởi vì không ai có thể đòi
lại mạng sống của mình một khi đã dâng hiến.
Hơn thế nữa, trong những cách thế cho
khác, người ta có thể tìm lại được mình trong chính sự dâng hiến. Thật vậy, kẻ
rao giảng Tin mừng có thể gặt hái được thành quả công cuộc rao giảng và hưởng
niềm vui về thành quả đó. Cũng vậy, một người sống đạo cách chân thực, gương mẫu,
có thể được mọi người kính phục và yêu mến. Còn người cho niềm tin trong cái chết
thì không còn để được hưởng những lời ca tụng tán dương.
Khi đọc truyện các thánh Tử đạo Việt Nam chúng ta thấy
phần đông các ngài không phải lúc nào cũng muốn chết. Trái lại, nhiều vị đã tìm
cách trốn tránh, không phải vì sợ chết, nhưng vì muốn tiếp tục sống vì người
khác và cho người khác, hoặc cũng có khi vì lòng khiêm tốn, nghĩ mình không xứng
đáng được phúc tử đạo. Các ngài đã chấp nhận dâng hiến đời mình, chứ không tự
mình tìm đến cái chết.
Đối với chúng ta ngày nay, ngoài một vài
trường hợp đặc biệt như ở Algérie hay tại một vài nước Hồi giáo cực đoan, nơi
các tôn giáo ngoài Hồi giáo có thể bị bách hại, còn khắp nơi trên thế giới hầu
như không còn có chế độ nào được coi như cấm đạo thực sự kiểu Nêrô hay Minh Mạng,
Thiệu Trị, Tự Đức.
Nhưng nếu hiểu đạo theo nghĩa rộng, thì
vẫn còn có nhiều người tử đạo. Đó là những người dám chết cho công lý, cho hòa
bình. Nói chung là chết vì chính đạo, chết cho con người, nhất là những người
nghèo khổ hay bị áp bức. Đức Kitô cũng đã chết cho cái chính đạo ấy chứ không
phải chết vì đạo của người Do Thái, lại càng không chết vì đạo của mấy ông tư tế
và Biệt phái, bởi vì chính những người này đã chủ mưu giết Ngài vì thấy rằng
Ngài là mối đe dọa cho tôn giáo của họ.
Ngày nay, khi Giáo Hội Công giáo chuẩn bị
hồ sơ phong chân phước cho Savonarole, một linh mục dòng Đaminh ở Florence, thì
điều đó chứng tỏ rằng cả những người trước đây bị giáo quyền kết án, cũng chính
là những vị tử đạo, bởi vì họ đã sống theo chân lý và hy sinh tính mạng để bảo
vệ cho chân lý, cho chính đạo.
Dân chúng Ấn Độ đã tặng cho ông Gandhi
danh hiệu là thánh, không phải ông đã chết vì Ấn độ giáo hay bất kỳ tôn giáo
nào, mà chết vì đấu tranh cho hòa bình, hòa hợp và hòa giải giữa hai cộng đồng Ấn
độ giáo và Hồi giáo. Và mục sư Martin Luther King cũng thật xứng đáng danh hiệu
một vị thánh vì đã chết để bênh vực quyền tự do và bình đẳng của người da đen…
trên đất nước được mệnh danh là dân chủ và tự do nhất thế giới, nhưng thực ra
chỉ là tự do và dân chủ cho người da trắng mà thôi.
Đức Tổng giám mục Rômêrô bên El Salvador
đã bị chính những người lính Công giáo bắn chết đang khi dâng thánh lễ, ngài bị
giết không phải vì là người có đạo hay là vì giám mục, mà vì đã can đảm ủng hộ
chính nghĩa của dân nghèo. Người ta hy vọng ngày gần đây, ngài sẽ được tôn
phong lên hàng thánh tử đạo.
Như vậy, tử đạo là dám sống và dám chết
cho một lý tưởng của Tin mừng. Thế nhưng liệu chúng ta có dám sống và dám chết
như vậy hay không?
7. Con đường hạt lúa – ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt
Ga 12, 20-32
Khi đến Rôma, tôi thích đi viếng những
hang toại đạo. Hang toại đạo là hệ thống đường hầm đào sâu dưới lòng đất tại
các khu nghĩa trang ngoại thành Rôma. Những hang hầm dài nhiều cây số. Không phải
chỉ một tầng mà đến 3, 4 tầng sâu dưới lòng đất. Không khí trong hang thật lạnh
lẽo. Hơi lạnh từ lòng đất toát ra cộng với hơi lạnh từ những nấm mồ càng làm
cho khu hầm mộ trở nên lạnh lẽo đáng sợ. Người sống phải đấu tranh với cái chết.
Sự chết luôn đe doạ rình rập cướp lấy mạng sống con người. Tại nơi đây, các tín
hữu sơ khai đã ẩn trốn những cơn bách hại liên tiếp trong 3 thế kỷ. Có lẽ thánh
Phêrô và thánh Phaolô cũng đã từng đi lại sinh hoạt trong những hang này. Người
tín hữu sơ khai đã phải sống trong những điều kiện như thế để bảo vệ đức tin của
mình.
Nhưng thật kỳ diệu. Các vua chúa của đế
quốc Rôma hùng mạnh đã tìm cách tiêu diệt một nhóm người nghèo khổ yếu ớt không
một tấc sắt tự vệ. Không phải chĩ bắt bớ trong một chiến dịch ngắn hạn mà là một
chủ trương kéo dài suốt 300 năm. Vậy mà các vua chúa qua đi rồi, nhóm người
nghèo khổ yếu ớt đó không những chỉ tồn tại mà còn phát triển mạnh mẽ hơn bao
giờ hết. Đi dưới lòng hang toại đạo tôi mới thấm thía ý nghĩa của lời Chúa nói:
“Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn
nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”. Hạt giống Giáo Hội đã bị chôn chặt
dưới 3, 4 tầng đất. Hạt giống đức tin đã bị vùi sâu đến 300 năm. Tất cả các
thánh Tông đồ, các tín hữu sơ khai đã bị mục nát. Và các ngài đã làm trổ sinh cả
một mùa gặt dồi dào phong phú. Cả châu Âu đã tin theo Chúa.
Nhìn lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, ta cũng thấy
có sự tương tự. Khi đạo Chúa mới được truyền vào Việt Nam, lập tức bị
các vua chúa phong kiến bắt bớ. Cuộc bắt bớ kéo dài khoảng 300 năm. Đủ mọi hình
thức để tiêu diệt đạo. Nào là cấm cách bắt bớ. Nào là đe doạ bạc đãi. Nào là
xua đuổi ra khỏi những vùng trù phú phồn vinh. Nào là phân sáp, tức là tách ly
cha mẹ, anh chị em trong một gia đình bắt đi sống riêng rẽ trong các gia đình
ngoại đạo. Nào là lấy thép nung đỏ khắc chữ “tả đạo” trên má ngưới có đạo. Và
nhất là lên án tử hình những người có đạo. Người tín hữu trung thành với đức
tin phải trốn chạy chết trên rừng thiêng nước độc. Nếu bị bắt có thể bị chết
trong tù. Nếu không cũng bị xử án tử hình. Có đấng bị chém đầu. Có đấng bị trói
chân tay vào chân ngựa. Bốn con ngựa kéo về bốn góc xé nát xác vị tử đạo. Có đấng
bị kết án cho voi dày. Thê thảm nhất có lẽ là án bá đao. Cứ sau một hồi chiêng
trống, đao phủ xẻo một miếng thịt cho đến khi chết.
Dù các vua chúa đã dùng đủ mọi cách tiêu
diệt nhóm người bé nhỏ yếu ớt trong 300 năm. Trong 3 thế kỷ đó có khoảng 100
ngàn người chịu chết vì đạo. Nhưng số người tin Chúa ngày càng gia tăng. Từ một
nhóm nhỏ người bị bắt bớ, nay số tín hữu tại Việt Nam đã hơn 6 triệu người. Hạt giống
đức tin gieo trồng vào quê hương Việt Nam đã bị vùi sâu, đã bị mục nát,
và nay đã trổ sinh một mùa gặt phong phú. Một lần nữa chúng ta lại xác tín lời
Chúa dạy: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một
mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.
Nhìn lại lịch sử, ta càng thêm tin tưởng
vào Lời Chúa. Nếu đang gặp khó khă trong đời sống đạo, ta hãy an tâm. Như Đức
Giêsu đã chịu gian nan khốn khó, phải chịu bắt bớ, nhục mạ, phải chịu chết tủi
hổ trên Thánh giá, các môn đệ con cái Chúa không thể đi con đường nào khác
ngoài con đường Thánh giá. Như các bậc tiền nhân xưa đã chịu vất vả khổ cực để
xây dựng một Giáo Hội vững mạnh như ngày nay, ta tin tưởng những gian nan khốn
khó của ta rồi cũng sẽ trôi qua. Nếu ta biết chịu đựng những đau đớn, khó khăn,
vất vả vì Chúa. Nếu ta vẫn trung thành với Chúa, với đức tin qua mọi gian nan
thử thách, chắc chắn Chúa sẽ ban cho ta một mùa gặt bọi thu, kết quả phong phú
ngoài sức tưởng tượng của ta.
Lạy Các Thánh Tử đạo Việt Nam, xin dạy
con noi gương bắt chước các ngài, luôn trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh
của cuộc sống. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Khi mới khai sinh Giáo Hội đã bị bách
hại trong 3 thế kỷ. Nhưng Giáo Hội vẫn phát triển. Điều này dạy ta điều gì?
2- Hãy tóm tắt 3 thế kỷ đầu của Giáo Hội
Việt Nam.
3- Muốn đạo Chúa phát triển ta phải làm
gì?
8. Người chứng thứ nhất – Ga 12,24-26
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một thanh niên 19 tuổi bị tuyên án tử
hình mà không được nói một lời để bào chữa mình. Người tuyên án là quan trấn tỉnh
Phú Yên. Vào tháng 7 năm 1644 vị quan này từ triều đình nhà vua về, đem theo sắc
lệnh cấm đạo và bắt đầu giam một ông già tên rửa tội là Anrê, rồi sai một toán
lính đến nhà vị thừa sai Đắc Lộc để bắt thầy giảng số một là Inbaxu. Khi toán
lính xông vào nhà tìm thầy Inbaxu thì chỉ gặp người thanh niên Phú Yên là người
mà Cha Đắc Lộ đã rửa tội được ba năm và đã từng cho đi theo để giúp dạy giáo
lý. Người thanh niên này đã can đảm nhận hết các tội chúng gán cho thầy Inbaxu
và các thầy giảng, nên bị chúng trói lại và điệu đi. Anrê Phú Yên vui vẻ theo
toán lính và trong suốt quảng đường không ngừng giảng cho những kẻ dẫn mình vào
ngục biết đường tránh hỏa ngục hầu hưởng phúc Thiên Đàng.
Nhờ sự can thiệp của cha Đắc Lộ và một số
thương gia người Bồ Đào Nha, ông già Anrê được tha bổng, còn Anrê Phú Yên thì
không. Người thanh niên cường tráng này dám cương quyết thà chết chẳng thà bỏ đạo
nên sẽ phải chết để nêu gương cho mọi người biết vâng lệnh nhà vua. Vậy lính dẫn
Anrê Phú Yên tới thửa ruộng cách thành phố chừng nửa dặm. Mặc dầu đeo gông nặng,
Anrê đi rất nhanh đến nỗi cha Đắc Lộ theo không kịp. Tới nơi hành quyết, thầy
giảng trẻ tuổi Anrê quỳ xuống để chiến đấu cho can đảm hơn. Lính gác chung
quanh không cho ai vào phía trong cả, nhưng viên đội trưởng cho phép cha Đắc Lộ
được đứng cạnh thầy. Cha thấy rõ mắt thầy Anrê nhìn trời cao, miệng luôn hé mở
và kêu danh thánh Giêsu.
Một người lính lấy giáo đâm thầy từ phía
lưng, thâu qua ngực chừng hai bàn tay. Khi ấy thầy nhìn cha Đắc Lộ như để vĩnh
biệt và cha khuyên thầy nhìn lên trời là nơi thầy sắp được Chúa Giêsu đón vào
cõi phúc. Từ giây phút đó thầy chăm chút nhìn lên và không còn nhìn xuống nữa.
Người lính rút lưỡi giáo ra đâm phát thứ hai, rồi đến phát thứ ba, hắn cố ý đâm
trúng tim anh nhưng vẫn chưa chết. Thấy thế, một người lính khác lấy mã tấu chặt
vào cổ anh, anh vẫn chưa xong, phải thêm một nhát thứ hai đầu anh mới lìa khỏi
cổ, máu chảy tràn lai làng. Hành quyết xong, toán lính kéo nhau ra bờ sông để rửa
các vết máu. Cha Đắc Lộ nhặt đầu anh gói lại kỹ càng như một báu vật, còn xác
anh ngài tẩm liệm gởi xuống tàu buôn đưa về Macao chôn cất. Ngài biết đây là một thánh
nhân, cần tôn trọng thi thể này để ngàn đời lưu danh. (theo “Người chứng thứ nhất”
của Phạm Đình Khiêm).
Anh chị em thân mến,
Mỗi lần nói đến các Thánh Tử Đạo là
chúng ta nghĩ ngay đến cảnh ngục tù, gông cùm, gươm giáo, đầu rơi, máu đổ. Thế
nhưng, ở thời đại đang tiến dần vào thế kỷ 21, những cảnh hành hình tàn bạo, dã
man, cổ điển ngày xưa và việc bắt đạo của các chính quyền hầu như không thể tái
diễn. Vì hiến pháp của bất cứ quốc gia nào cũng tôn trọng tự do tín ngưỡng và
các quyền cơ bản của con người. Đàng khác, các án tử hình cũng dần dần được loại
bỏ trong các bộ luật hình sự của các nước trên thế giới.
Ngày nay, khái niệm về tử đạo hiểu rộng
rãi hơn. Người tử đạo là người dám chết cho công lý, cho hòa bình, chết cho quyền
sống của con người, nhất là những người nghèo khổ, bị áp bức. Nói chung là chết
vì Chính Đạo, chết vì muốn sống theo con đường Tin Mừng của Chúa Giêsu.
Trong Tông Thư “Tiến đến thiên niên kỷ
thứ ba”, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II kêu gọi Giáo Hội địa phương lập danh mục
các vị tử đạo mới của thế kỷ này. Vì “trong thế kỷ này lại có những người tử đạo,
– thường là âm thầm, họ như thể là “những chiến sĩ vô danh” – vì đại cuộc của
Thiên Chúa. Giáo Hội không chỉ có những người đổ máu vì Đức Kitô mà còn có những
bậc thầy về đức tin, những nhà truyền giáo, những người tuyên xưng đức tin, những
giám mục, linh mục, các trinh nữ, những người kết hôn, góa bụa và trẻ em” (số
37).
Tại đất nước chúng ta, giai đoạn lịch sử
của 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam được ghi nhận kéo dài đúng 117 năm, với hai vị tử
đạo tiên khởi là Thánh Phanxicô Frederic Tế và Matthêu Liciana Dậu, hai linh mục
dòng Đa Minh, cùng chịu tử đạo tại Thăng Long, miền Bắc năm 1745. Nhưng trước
đó hơn một thế kỷ, đã có máu đào đổ ra để làm chứng cho Chúa Kitô, như thấy nơi
cái chết của Thầy giảng Anrê Phú Yên năm 1644 tại miền Trung. Vị Tử đạo cuối
cùng trong số 117 là Thánh Phêrô Đa, giáo dân thợ mộc, vừa bị thiêu đốt vừa bị
chém đầu ngày 17 tháng 6 năm 1862 tại Qua Linh, miền Bắc. Cuối năm 1861 đầu năm
1862, cuộc cấm đạo trước khi chấm dứt còn bùng lên dữ dội ở miền Nam. Chỉ ở hai
nơi là Biên Hòa và Bà Rịa, 846 Kitô hữu đã bị thiêu sống. Vậy trong ngày lễ
kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta không những kính 117 vị đã được
tôn phong hiển thánh nhưng còn tỏ lòng biết ơn hàng trăm người đã hy sinh tính
mạng vì Chúa Kitô và đã có công truyền lại đức tin cho chúng ta là con cháu.
Nhưng trước hết và trên hết, chúng ta cần
tỏ lòng biết ơn Đấng là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa đến với loài ngừoi
chúng ta. Thiên Chúa đã yêu loài người đến nỗi đã ban Con Một Người và Người
Con Một ấy trước khi chết vì chúng ta đã quỳ xuống rửa chân cho từng môn đệ. Kế
đến Ngài đã dành những lời tâm huyết để nhắn nhủ các môn đệ. Ngài ví bản thân
Ngài như hạt lúa mì gieo vào lòng đất, phải chết đi để sinh được nhiều bông hạt
lúa mới (x.Ga 12,24). Rồi Ngài dặn dò các môn đệ về cái thế giới chẳng mấy thân
thiện đối với cả thầy lẫn trò: Họ ghét anh em vì họ đã ghét Thầy trước.
Chính tình yêu đến hy sinh mạng sống như
Chúa Giêsu là cái giá phải trả để trở nên môn đệ đích thực của Chúa Giêsu. Cái
giá ấy các môn đệ xưa đã trả bằng cách hy sinh mạng sống mình. Cái giá ấy các
Thánh Tử Đạo cũng đã trả để mang lại nhiều hoa trái là nhiều người nhận biết
Chúa Kitô để được ơn cứu độ. Đúng như lời vị Giáo Phụ Tertulianô đã nói: “Máu
các vị Tử Đạo chính là hạt giống phát sinh các Kitô hữu”.
Thưa anh chị em,
Hội Thánh thời nào cũng cần những người
dám sống đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời. Sống đức tin là một
loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống. Mỗi ngày chúng ta thường
vị đặt trước những chọn lựa, trước thập giá của Chúa Giêsu y hệt như các vị Tử
Đạo ngày xưa. Càng có tự do, chúng ta càng dễ sa sút đức tin. Tiền bạc, tiện
nghi, khoái lạc vẫn là những tạo vật gây ra những bách hại êm ả và khủng khiếp
mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện. Ước gì chúng ta không để mất đức tin
đã được mua bằng giá máu của bao vị Tử Đạo, và ước gì chúng ta không ngừng chuyển
giao đức tin ấy cho anh em đồng bào trên quê hương Việt Nam chúng ta.
9. Chứng nhân
Vào hồi 9 giờ sáng ngày 19 – 6 – 1988 tại
Rôma, tức là lúc 15 giờ cùng ngày tại Việt Nam, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
đã long trọng tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên hàng hiển
thánh, gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc. Dĩ nhiên đây chỉ là
con số tiêu biểu cho hơn 100.000 vị tử đạo trong gần 300 năm bị bách hại. 300
năm bị bách hại với hơn 100.000 người tử đạo đủ cho mọi người thấy sự ác liệt
thảm khốc cũng như sức chịu đựng bền bỉ kiên cường và lòng trung thành đối với
đức tin mà cha ông chúng ta đã lãnh nhận và tôn thờ. Các ngài cảm thấy hạnh
phúc vì được thuộc về Chúa, các ngài hãnh diện vì là người Công giáo, các ngài
can đảm tuyên xưng danh Chúa và cương quyết giữ vững lập trường đức tin chân
chính của mình.
Trong số hơn một trăm ngàn ấy, có một số
rất ít là giám mục, linh mục thừa sai nước ngoài, một số đông hơn là linh mục
và tu sĩ nam nữ Việt Nam, nhưng đại đa số là giáo dân: những ông trùm họ, ông
câu, ông chánh trương, bà quản, những binh lính và hàng ngàn thanh niên nam nữ
và các trẻ em. Tất cả đã chịu tử hình cá nhân hay tập thể, sau khi đã chịu nhiều
cực hình khác nhau.
Nói chung, các vị tử đạo đã bằng lòng chấp
nhận chịu thử thách đau thương, không kêu ca, không oán hận những người làm khổ
mình như một con sò chịu cho người ta cắt thân ra, đặt vào một hạt cát, để rồi
sau một thời gian sẽ có một viên ngọc đắt giá. Nếu như con sò kia nhả hạt cát
ra thì sẽ không bao giờ có được một viên ngọc sáng giá. Các vị tử đạo cũng vậy,
các ngài ấp ủ, bọc kín đau khổ trong đời mình, vì biết rằng qua đó Giáo hội sẽ
được lời lãi gấp bội. Các ngài luôn vui tươi trong mọi cảnh huống cuộc đời. Thật
là khó hiểu đối với những người không có đức tin. Vui tươi trước những may
lành, thành công thì ai cũng làm được, hãnh diện trong vinh quang giàu sang,
sung sướng là bình thường, nhưng vui tươi trong gian nan, thử thách, đau khổ,
chết chóc là một điều hết sức kỳ khôi, lạ lùng, khác thường, nhưng rất hợp tình
hợp lý, vì nước trời ghi công, vì sẽ được hạnh phúc muôn đời, đó là phần thưởng
vô giá mà không có gì ở trần gian có thể so sánh được. Tử đạo là như thế.
Nói rõ hơn, trong các tôn giáo khác cũng
có những người đã can đảm nhận lấy cái chết do sự nhiệt cuồng mạnh mẽ nhưng nhất
thời, còn các vị tử đạo Công giáo không phải là những người nhiệt cuồng. Trong
một thời gian lâu dài trước, các ngài đã biết hễ ai theo đạo Công giáo là sẽ bị
chết, các ngài luôn sống với ý tưởng: không sớm thì muộn mình sẽ phải chịu đau
khổ và phải chết cho đức tin, sống như vậy thì đau khổ hơn chết. Mặc dù vậy các
ngài vẫn nhẫn nại trung thành với những bổn phận hằng ngày, vẫn bình thản sống
trong sự tinh tấn của lương tâm và đợi chết hằng ngày. Thái độ đó khác hẳn với
thái độ nhiệt cuồng của những người cuồng tin, lúc đầu mặc dầu các ngài cũng
tìm hết cách để tránh khỏi bị hại, nhưng khi giờ tử đạo đến, các ngài biết chết
một cách bình tĩnh cũng như các ngài đã sống bình tĩnh. Chết cách ấy quả là một
việc anh hùng và phải có một sức mạnh siêu nhiên nào đó, đúng, đó là bàn tay vô
hình của Thiên Chúa nâng đỡ.
Như vậy, tử đạo là lấy máu mình, lấy mạng
sống mình, dùng cái chết của mình để minh chứng cho đạo mình tin theo, minh chứng
đạo Công giáo đạo của Chúa. Các vị tử đạo đã chết bằng những hình khổ khác
nhau, nhưng tất cả các ngài đều là những nhân chứng bằng chính đời sống của
mình. Cái chết của các ngài là một câu trả lời hùng hồn quyết liệt cho những ai
còn nghi ngờ tôn giáo của các ngài. Vì thế, danh từ “tử đạo” có nghĩa là kẻ làm
chứng và dùng đau khổ tử hình để bảo đảm cho lời chứng. Pascan tiên sinh đã
nói: “Tôi sẵn sàng tin những truyện mà người thuật lại giơ cổ ra cho người khác
chém để làm chứng”.
Mừng kính trọng thể các thánh tử đạo,
chúng ta nói lên lòng biết ơn sâu xa của chúng ta là những người ăn quả nhớ kẻ
trồng cây, uống nước nhớ nguồn. Các ngài là cho ông tổ tiên của chúng ta, các
ngài đã chết, nhưng công nghiệp của các ngài vẫn còn mãi. Cho nên, nhiệm vụ của
chúng ta là ghi ơn, thừa hưởng và phát huy truyền thống cha ông ngàn đời vô
giá. Truyền thống đó là: đức tin sắt đá, tinh thần đạo đức, chí hy sinh và
gương anh dũng. Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ: tử đạo là một ân huệ đặc biệt Chúa
ban cho ai tùy ý Ngài muốn, nhưng nỗ lực làm chứng cho Chúa thì không dành
riêng cho ai cả, là Kitô hữu là có nhiệm vụ làm chứng: bằng lời nói, bằng hành
động và bằng cả cuộc đời của mình.
Chúng ta đều biết cách làm chứng tốt nhất
cho Chúa, cho đạo là sống bác ái, yêu thương, đây là cách tốt nhất để sống đạo
và truyền đạo. Chung quanh chúng ta, những đồng bào không Công giáo cũng quan
tâm rất nhiều đến bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người khác:
những việc làm xóa đói giảm nghèo, những ngôi nhà tình nghĩa, những lớp học
tình thương, những chia sẻ cho những anh em bị bão lụt, thiên tai, những người
bệnh tật… chúng ta có quan tâm đến những việc đó hay những việc tương tự khác
không? Chúng ta cũng nên tự hỏi: cách sống đạo của chúng ta có thực sự tuyên
xưng Chúa, tuyên xưng đức tin không? Chúng ta cần phải thuyết phục những người
chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo bằng việc sống trọn
vẹn, quyết liệt, dứt khoát tinh thần bác ái yêu thương đối với nhau và đối với
những người chung quanh.
Xin Chúa Thánh Thần là tình yêu Thiên
Chúa ban ơn thêm sức cho chúng ta, đặc biệt là ban ơn bác ái yêu thương để
chúng ta thêm tình mến Chúa yêu người một cách đơn sơ trung thành, một cách bền
vững và một cách quảng đại. Chúng ta hãy nhớ: chỉ có tình yêu thương là cách sống
đạo tốt nhất và làm chứng cho Chúa, cho đạo hữu hiệu nhất.
10. Tử Đạo - Người làm chứng (Mt 10,17-22)
(Suy niệm của Lm Jos. Nguyễn Văn Tuyên)
Thật là lạ lùng khi mà các bài đọc trong
Thánh lễ mừng các Thánh Tử Đạo hôm nay lại chỉ toàn nói đến niềm vui. Đặc biệt
là lời đáp trong Thánh Vịnh hôm nay: “Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi,
nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan”. Vậy đâu là lý do để Giáo Hội chọn những bài đọc
này?
Nếu cứ theo cách nghĩ của người đời thì
làm sao có thể ca lên lời Thánh Vịnh nói trên, khi mà trong suốt gần 300 năm
(261) bị bách hại, người Công Giáo Việt Nam đã phải trải qua biết bao nhiêu
gian nan thử thách: nào là gông cùm, tù tội, nào là đòn vọt, xích xiềng... Với
6 triều vua cùng 53 sắc dụ cấm đạo đã cướp đi mạng sống của trên 130 ngàn người
Công Giáo. Họ đã anh dũng ngã xuống để bảo vệ niềm tin của mình.
Có lẽ, không chỉ giáo đoàn Việt Nam, mà
trong suốt dọc dài của lịch sử Giáo Hội, người tín hữu Chúa Kitô dường như đều
gắn liền với những cuộc bách hại. Trong thời Giáo Hội sơ khai, các tín hữu cũng
bị bách hại dữ dội, thế nhưng các ngài vẫn không hề nao núng. Sách Công vụ Tông
Đồ thuật lại rằng, mặc dù bị đánh đập, hành hạ, nhưng khi các Tông đồ ra khỏi hội
đường của người Dothái thì “lòng đầy hân hoan vì thấy mình xứng đáng chịu khổ
nhục vì danh Chúa Giêsu Kitô”.
Cũng vậy, các thánh TĐVN – cha ông chúng
ta – đã cảm thấy hãnh diện vì được chịu khổ nhục vì đạo Chúa. Không những thế,
các ngài còn đón nhận những hình khổ cũng như cái chết một cách vui mừng, mà
không một chút nao núng, như trường hợp của Thánh Phêrô Đoàn Công Quý: "Dù
trăng trói, gông cùm tù rạc, Chén ngục hình xiềng tỏa chi nề. Miễn vui lòng cam
chịu một bề. Cho trọn đạo trung thần hiếu tử."; hay trường hợp của Thánh
Anrê Trần An Dũng Lạc: "Đông qua tiết lại thời xuân tới. Khổ tạm mai sau
hưởng phúc an. Làm kẻ anh hùng chi quản khó. Nguyện xin cùng gặp chốn thanh
nhàn."
***
Đã có một thời, thậm chí ngay cả ngày hôm
nay, nhiều người không cùng niềm tin với chúng ta vẫn còn tỏ ra dè dặt về danh
xưng “Tử Đạo”. Có lẽ vì hai chữ “Tử Đạo” dễ khiến người ta liên tưởng đến những
cuộc thánh chiến hay những cuộc đánh bom tự sát chăng?
Nhưng đối với trường hợp của các thánh TĐVN
thì không như vậy. Mặc dù các ngài ở những bậc sống khác nhau, xuất thân từ những
môi trường không giống nhau: có vị là Giám mục, có vị là linh mục, rồi thầy giảng,
trùm trưởng, giáo dân; thậm chí có vị còn nắm giữ những trọng trách trong triều
đình như Thánh Micae Hồ Đình Hy. Tuy nhiên, các ngài đều có một điểm chung đó
là tình mến Chúa thiết tha và lòng yêu mến quê hương nồng nàn. Cái chết của các
ngài không hề mang màu sắc của sự thù hận, nhưng phát xuất từ một niềm tin, như
lời Thánh Micae Hồ Đình Hy: "Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều
vua, lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước. Nay hạ thần cam chịu mọi
cực hình để nên giống Đức Kitô."
Nguyên ngữ của chữ Tử Đạo (Martyr) có
nghĩa là “Người làm chứng”. Ngày hôm nay, có lẽ không còn những cuộc bách hại đẫm
máu, những tra tấn, gông cùm, tù tội…, hoặc ít ra là không gắt gao như thời của
các Thánh Tử Đạo - cha ông chúng ta. Tuy nhiên, người tín hữu sống đạo hôm nay,
vẫn phải đối mặt với muôn vàn thử thách.
Văn hóa thực dụng và lối sống hưởng thụ
thời nay, một cách nào đó, đã và đang cản trở chúng ta thực thi các đòi hỏi của
Tin Mừng. Giữa thế giới văn minh, tiện nghi, việc đạo được nhiều thuận lợi, biết
đâu, có khi chúng ta lại dễ dàng chối bỏ niềm tin của mình? Đó là khi chúng ta
sống ích kỷ, chỉ chăm lo đến ốc đảo của riêng mình; đó là khi chúng ta bỏ qua lời
thề ước của hôn nhân để ngoại tình; đó là khi những người mẹ giết con bằng hành
vi phá thai; đó là khi những người trẻ sống một cách buông thả; đó là khi chúng
ta coi trọng những cuộc nhậu nhẹt say sưa hơn là các giờ kinh lễ; đó là khi
chúng ta chia rẽ, hận thù và phá vỡ mối giây hiệp nhất trong cộng đoàn...
Làm sao để chúng ta có thể vẫn ở trong
thế gian nhưng không thuộc về thế gian, là điều không hề đơn giản. Chúa muốn
chúng ta là nắm men vùi trong đống bột. Men không được tách khỏi bột, và men
cũng không được biến chất thành bột. Bởi vì nếu như thế, men sẽ trở nên vô ích.
Cũng như muối mà mất đi chất mặn thì chỉ còn cách đổ ra đường để cho người ta
chà đạp lên…
***
Sẽ khó có thể nói được rằng Tử đạo ở thời
nào hay nơi nào khó hơn. Bởi vì, mỗi thời, mỗi nơi, đều có những khó khăn thử
thách riêng. Các vị Tử đạo cha ông chúng ta, đã phải hứng chịu những bách hại,
đặc biệt là những gian khổ về mặt thể lý, như đòn vọt, gông cùm, tù tội… còn
chúng ta ngày hôm nay, mặc dù không chịu những thử thách tương tự, thế nhưng để
giữ đạo và sống đạo cho đúng với ơn gọi làm người Kitô hữu của mình, chúng ta
đã phải tử đạo mỗi ngày, mà người ta vẫn gọi là “những người tử đạo trắng”.
Người Kitô hữu sống đạo hôm nay được kể
như người đang “lội ngược dòng đời”. Đang khi thế gian chạy theo tiền bạc và hưởng
thụ, tìm mọi cách để vun vén cho bản thân, chúng ta lại được mời gọi sống cho
tha nhân, và mưu cầu hạnh phúc cho người khác. Đang khi cuộc sống hôm nay đầy dẫy
những lọc lừa, gian dối, chúng ta lại được mời gọi sống ngay thẳng và làm chứng
cho sự thật. Đang khi thế gian coi nhẹ phẩm giá con người, chúng ta được mời gọi
tôn trọng sự sống và bảo vệ những mầm sống đó ngay từ những giây phút đầu tiên
trong thai bào. Đang khi mối quan hệ gia đình, sự thủy chung trong đời sống vợ
chồng ngày một trở nên lỏng lẻo, chúng ta lại được gọi mời sống trung thành với
nhau cho đến chết… Và mỗi lần sống như thế, là mỗi lần chúng ta tử đạo.
Mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, mỗi
người chúng ta đều được mời gọi trở nên những chứng nhân cho Đức Kitô qua đời sống
yêu thương phục vụ. Nhờ đó, Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô sẽ được lan tỏa đến tận
cùng trái đất.
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời!
Chúa đã hy sinh mạng sống mình vì lòng yêu mến Chúa Cha và yêu thương loài người
chúng con. Xin hãy dạy chúng con biết đáp đền tình yêu lớn lao ấy bằng chính cuộc
sống chứng tá của chúng con. Xin cho chúng con giữ được vị mặn của muối, và độ
nồng của men, để đem đến cho cuộc đời này một sức sống mới. Amen.
11. Bài giảng của ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên
(Bài giảng lễ kính các Thánh Tử đạo Việt
Nam - Missouri, 8-8-2014)
Kính thưa cộng đoàn,
Ngày 19-6-1988 đã in một nét son trong lịch
sử Giáo Hội Công giáo tại Việt Nam.
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt
Nam lên hàng hiển thánh, gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc.
117 thánh tử đạo là con số tiêu biểu cho hơn 100 ngàn Vị Tử Đạo trong thời gian
300 năm Giáo Hội bị bách hại. Đây là một biến cố quan trọng đối với Dân tộc Việt
Nam.
Người Việt Nam
vốn đã tự hào về một truyền thống kiên cường trong việc dựng nước và giữ nước,
nay càng tự hào hơn vì có những bậc tiền nhân anh hùng kiên vững trong Đức tin.
Quê hương Việt Nam
đã xinh đẹp, nay còn xinh đẹp hơn nhờ được tô điểm bằng Đức tin Công giáo.
Tại Quảng trường Đền thờ Thánh Phêrô ở
Rôma hôm đó, trước hàng triệu tín hữu, trong số đó có những tín hữu Việt Nam, Vị
Cha chung của Giáo Hội Công giáo hoàn vũ đã nhân danh Chúa Ba Ngôi long trọng
tuyên bố: kể từ nay, 117 vị Tử đạo Việt Nam được kể vào hàng các thánh và được
tôn kính trong toàn thể Giáo Hội. Để bày tỏ tình thương hiền phụ đối với các
tín hữu Việt Nam,
vị Thánh Giáo Hoàng đã ngỏ lời với con cháu các thánh Tử đạo bằng ngôn ngữ của
họ. Đây là lần đầu tiên tiếng Việt thân thương của chúng ta được phát âm và xướng
lên bởi một vị Giáo Hoàng: “Chào anh chị em Việt Nam thân mến. Cha gửi lời chào
chúng con từ bốn phương trời tuốn về La Mã, vui vẻ hiên ngang mừng các thánh Tử
đạo của Giáo Hội chúng con hôm nay. Xin Chúa chúc lành cho chúng con, và Cha cầu
chúc cho chúng con sống xứng đáng là con cháu các vị anh hùng”.
Đã 26 năm từ sự kiện phong thánh, những
lời của vị Cha Chung ngỏ lời với con dân Việt vẫn còn vang vọng đâu đây trong
tâm khảm của các tín hữu Việt Nam đang sống trong nước cũng như ở hải ngoại. Bởi
lẽ, qua những lời đơn sơ ấy, vị Thánh Giáo Hoàng muốn mời gọi chúng ta tưởng nhớ
về một quá khứ đau thương hào hùng của Giáo Hội Công giáo Việt Nam, đồng thời
khuyên chúng ta học nơi các ngài bài học sống Đức tin trong cuộc sống hiện tại
hôm nay.
- Thứ nhất, hồi tưởng về quá khứ.
Giáo Hội công giáo Việt Nam
đã trải qua những thử thách đau thương khốc liệt, giống như cộng đoàn tín hữu
tiên khởi tại Rôma ở thế ký thứ hai. Hơn một trăm ngàn người Việt Nam đã phải hy
sinh mạng sống chỉ vì một lý do là họ tin vào Chúa. Họ phải chịu biết bao đau
khổ và nhục hình: phân biệt đối xử, phát vãng lưu đày và tử hình. Có thể thế hệ
hôm nay sẽ đặt câu hỏi: các Thánh Tử đạo Việt Nam là những ai? Thưa họ là những
giám mục, linh mục, tu sĩ chủng sinh; họ là những người cha, người mẹ, những
người con trong gia đình; họ là những người học hành uyên bác nhưng phần lớn
trong số họ là những người bình dân; đa phần trong số họ là những người chân lấm
tay bùn, vất vả quanh năm với con trâu, cái cày. Trong số họ cũng có 21 vị là
người ngoại quốc. Các ngài đến từ những đất nước văn minh và đã chọn Việt Nam là quê
hương thứ hai của mình. Các Thánh Tử đạo Việt Nam, không phân biệt Tây hay Ta,
nam hay nữ, giàu hay nghèo, trí thức hay bình dân. Tất cả đều yêu mến Chúa, yêu
quê hương Việt Nam và yêu
Giáo Hội Việt Nam
đến mức sẵn sàng đổ máu đào để làm chứng cho tình yêu ấy. Vì thành kiến và thù
ghét, người ta đã nghĩ ra biết bao hình khổ ghê rợn hầu làm họ chối bỏ Đức tin,
nhưng các ngài vẫn can đảm kiên trung trước lời đe dọa của những nhà cầm quyền.
Chủng sinh 18 tuổi, Tôma Trần Văn Thiện, đã nói với quan: “Đạo dạy tôi thờ
Thiên Chúa là đạo thật, tôi sẵn sàng chịu chết chứ không bỏ đạo“. Thấy Tôma Thiện
là một chàng trai trẻ có khuôn mặt khôi ngô tuấn tú, quan muốn nhận làm con rể
mình, và sẽ đứng ra lo liệu cưới xin. Nhưng ngài đã từ chối: “Tôi chỉ mong chức
quyền trên trời, chứ không màng đến quyền chức trần thế”. Thánh Tôma đã thấu hiểu lời Đức Kitô
trong Tin mừng Luca: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai
liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được
cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì?”.
Sách viết về cuộc đời của các Thánh Tử đạo còn kể lại biết bao chứng tá anh
hùng của các ngài. Các ngài không sợ hình phạt, chỉ sợ mất nghĩa cùng Chúa. Đi
ra pháp trường mà các ngài vui vẻ như đi dự hội. Với các thánh Phạm Khắc Khoan,
Nguyễn Văn Hiếu và Đinh Văn Thanh, các ngài đã chia bè và hát kinh Tạ Ơn “TE
DEUM” bằng tiếng Latinh ngay trong nhà giam. Rồi khi ra pháp trường để chịu tử
hình, các ngài lại hát bài ca “Alleluia” như trong đêm vọng Phục Sinh. Chỉ có một
Đức tin kiên trung và lòng phó thác trọn vẹn mới có thể đem lại cho các ngài
nghị lực và niềm vui như vậy.
Sống đạo đức thánh thiện và trung thành
với Đức tin, các ngài còn là những người sống bác ái với mọi người. Lịch sử các
Thánh Tử đạo còn ghi lại thánh y sĩ Phan Đắc Hòa. Ngài đã sẵn sàng chữa bệnh miễn
phí cho người nghèo, sẵn lòng cứu giúp những người túng thiếu. Hay thánh
Martinô Thọ, Ngài thường trồng vườn dâu để có thêm thu nhập giúp người nghèo. Cụ
trùm Đích thì thường xuyên góp nhặt tiền bạc để đi thăm viếng trại cùi và nuôi
nấng những người dịch tả trong vùng. Còn với quan Hồ Đình Hy, ngài luôn giúp đỡ
những người bơ vơ, mồ côi ngay ở trong nhà, và khi họ qua đời thì lo an táng
đàng hoàng như một người bình thường.
- Ôn lại quá khứ,
chúng ta là những tín hữu Công giáo Việt Nam học những bài học cụ thể cho cuộc
sống hôm nay. Quả vậy, lòng tự hào về các bậc Tiền
Nhân không phải chỉ được ghi lại trong những pho sách sử mà thôi. Chúng ta ôn lại
truyền thống hào hùng được ghi dấu và thấm đẫm máu đào, không giống như chỉ ôn
lại một sự kiện lịch sử xa vời, dù rất đẹp nhưng khô cứng và vô hồn. Chúng ta tự
hào về các Thánh Tử Đạo cũng không giống như kiểu lấy công phúc của các ngài để
làm vinh dự cho chúng ta. Việc ôn lại chứng tá của các Thánh Tử đạo nhắc nhớ mỗi
người dân Việt, nhất là những tín hữu Công giáo Việt Nam, dù sống trên miền đất
nào, cũng cố gắng noi theo lòng đạo đức của các ngài, gìn giữ Đức tin kiên
trung vào Chúa, yêu mến Giáo Hội và sống Đức tin trong cuộc sống hằng ngày. Cuộc
sống và chứng từ của các anh hùng Tử đạo cần phải được kể lại cho mọi thế hệ
người Công giáo Việt Nam.
Cùng với lòng tự hào là tâm tình tri ân cảm mến và thiện chí noi gương các ngài
để sống Đức tin. Thời tử đạo dẫn đến máu chảy đầu rơi ngày nay không còn nữa,
nhưng những ai muốn trung thành với Chúa thời nào cũng phải cân nhắc khôn ngoan
để chọn lựa Chúa hay chọn lựa thế gian; chọn lựa hạnh phúc và niềm vui vĩnh cửu
hay chọn lựa vinh quang nhất thời; chọn lựa đường đi trong ánh sáng hay cuộc sống
trong bóng đêm. Môi trường nào cũng vậy, ta luôn phải chọn lựa. Hoàn cảnh nào
cũng thế, ta phải sống khôn ngoan. Cuộc chọn lựa này nhiều khi làm chúng ta phải
vượt lên những ràng buộc khắt khe và có khi phải vượt lên chính mình với trái
tim rướm máu. Nếu những cuộc cấm cách tàn khốc đã lùi vào dĩ vãng thì người tín
hữu hôm nay lại phải đối diện với những thử thách của thời hiện đại. Quả vậy,
biết bao trào lưu và lối sống mượn chiêu bài tự do để đi ngược với giáo huấn của
Tin Mừng, coi thường hoặc lãng quên những thực hành đạo đức, tôn vinh kỹ thuật
một cách quá đáng và lãng quên Thiên Chúa là Cội nguồn mọi sự. Sáng suốt và
khôn ngoan để trung thành với Chúa trong cuộc sống hôm nay, đó là một cuộc tử đạo
trường kỳ, dai dẳng suốt cuộc đời.
Ơn gọi tử đạo gắn liền với những ai tin
vào Chúa Giêsu và muốn làm môn đệ Người. Nếu chúng ta được sống trong một xã hội
dân chủ, an bình, thì đó đây trên thế giới, vẫn còn những nhà truyền giáo bị
hành hung và sát hại, vẫn có những ngôi thánh đường Công giáo bị tàn phá, vẫn
còn những tín hữu không dám công khai tuyên xưng Đức tin, vẫn còn những người
vì hai chữ Công giáo mà bị phân biệt đối xử. Đây cũng là những cuộc bách hại
mang hình thức mới của thời đại và những tín hữu này đang sống từng ngày chứng
tá của mình một cách anh hùng.
Kính thưa Cộng đoàn,
Ngày Thánh Mẫu được tổ chức hàng năm tại
Missouri đã trở thành điểm hẹn thân thương cho
người Việt Nam
đang sống tại Hoa Kỳ cũng như tại nhiều nước trên thế giới. Chúng ta về đây để
gặp gỡ nhau, để chia sẻ những vui buồn và nâng đỡ nhau trong cuộc sống. Chính Đức
Mẹ Maria đã quy tụ chúng ta nơi đây. Mẹ là điểm nối kết giữa những con Dân Việt
đang sống xa quê. Về với Mẹ, chúng ta được Mẹ vỗ về ủi an. Về với Mẹ, chúng ta
có dịp kể lể tâm sự với Mẹ những băn khoăn trăn trở của cuộc sống trần gian. Về
với Mẹ, chúng ta cũng chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Mẹ chiếu tỏa qua các nhân đức và
sự trung thành can đảm của Mẹ. Trong Thánh lễ kính các Thánh Tử đạo Việt Nam,
chúng ta cùng nhìn lên Mẹ và ca tụng Mẹ là Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo. Vâng, dưới
chân thập giá, Mẹ đứng đó, trong suy niệm và thinh lặng, đau khổ kết hợp với của
lễ của Con mình là Đức Giêsu chịu treo trên thập giá. Mẹ là Đấng Đồng Công cứu
chuộc. Mẹ chia sẻ đau đớn và hiệp thông với Chúa Giêsu. Mẹ cũng dâng chính bản
thân mình làm của lễ lên Chúa Cha. Mẹ xứng đáng được mang ngành thiên tuế của
các vị Tử Đạo. Về bên Mẹ trong Ngày Thánh Mẫu này, chúng ta xin Mẹ cho chúng ta
được lòng cậy trông, chí can đảm và lòng tín thác nơi Chúa trong bất kỳ hoàn cảnh
nào.
Đây bài ca ngàn trùng dâng về Thiên
Chúa, bài ca thắm nhuộm máu hồng. Nhìn Chúa đẫm máu trên đồi cao, từng đoàn người
anh dũng tiến lên pháp trường. Một bài ca đẫm máu đào. Một bài ca hào hùng bất
tận. Bài ca ấy, chính là cuộc đời của các thánh Tử đạo Việt Nam. Chúng ta,
nhưng tín hữu Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại, đang là những người nối
tiếp bài ca đã được các ngài xướng lên, để làm vang mãi lời ca tôn vinh Chúa,
ca ngợi vẻ đẹp của Giáo Hội và Quê Hương Việt Nam thân thương.
“Cha cầu chúc cho chúng con sống xứng
đáng là con cháu các vị anh hùng” - lời chúc thiêng liêng của vị Thánh Giáo
Hoàng luôn luôn là một lời mời gọi và là một thông điệp được gửi đến cho mỗi
người chúng ta.
Xin Chúa chúc lành cho chúng con. Xin Mẹ
luôn gìn giữ che chở chúng con. Xin các Thánh Tử đạo Việt Nam cầu bầu cho
chúng con. Amen.
12. Bài giảng của ĐGM. Giuse Nguyễn Năng
TUYÊN XƯNG, SỐNG VÀ LÀM CHỨNG CHO ĐỨC
TIN
1. Không một tôn
giáo nào có một lịch sử kỳ lạ như Kitô giáo. Quả vậy, không một tôn giáo nào bị
bách hại nhiều, lâu dài và đau thương như Kitô giáo; và cho dù bị bách hại nhiều,
lâu dài và đau thương, Kitô giáo không hề bị tiêu diệt, trái lại vẫn không ngừng
tăng trưởng cả về phẩm chất lẫn số lượng. Đó là những bí ẩn của lịch sử không
thể lý giải bằng lý lẽ tự nhiên, nhưng chỉ có thể hiểu được trong ánh sáng của
niềm tin.
Quả vậy, ngay từ những năm tháng đầu
tiên loan báo Tin Mừng, Hội Thánh đã trải qua 300 năm bị bách hại dưới thời các
hoàng đế Roma. Rồi từ đó, Phúc Âm được rao giảng ở đâu, thì ở đó không sớm thì
muộn, các Kitô hữu cũng bị bắt bớ và giết chết, Hội Thánh bị bách hại và loại
trừ. Lịch sử Hội Thánh là một lịch sử đầy những cuộc tử đạo, ở khắp mọi miền
trên thế giới, vào hết mọi thời kỳ trong lịch sử.
Ngay trong thời đại chúng ta, trong thế
kỷ XX và đầu thế kỷ XXI này, nếu tính tổng cộng tất cả các Kitô hữu, gồm Công
giáo, Chính thống, Anh giáo và Tin lành, thì hằng năm có khoảng 170.000 người tử
đạo, 200.000.000 người chịu bách hại vì đức tin Kitô giáo.
Trên mảnh đất Việt Nam thân yêu này, 117
vị thánh đã được phúc tử đạo trong một giai đoạn bách hại kéo dài đúng 117 năm,
tính từ hai vị tử đạo tiên khởi vào năm 1745 đến vị cuối cùng vào năm 1862, qua
các triều đại vua Lê chúa Trịnh, Tây Sơn và các triều nhà Nguyễn. Đó là chưa kể
chân phước Anrê Phú Yên tử đạo vào năm 1644, và hằng trăm ngàn tín hữu chết vì
đức tin nhưng chưa được phong thánh.
Bức tranh trên đây là một thực tế, và đó
cũng là một điều bí ẩn của lịch sử Hội Thánh. Các Kitô hữu bị ghét, vì trước hết,
chính Chúa Giêsu đã bị ghét và đã chịu tử hình trên thánh giá. Chúa Giêsu chính
là vị tử đạo đầu tiên vì Tin Mừng mà Ngài rao giảng. Ngài là con đường dẫn đến
sự sống đích thực, nhưng thế gian lại yêu sự tối tăm hơn ánh sáng.
Chúa nói: “Vì anh em không thuộc về thế
gian, và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em…
Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em… Họ chống lại anh em, vì anh em
mang danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy” (Ga 15, 19-21). Đơn giản chỉ
là thế. Sâu xa là như vậy.
Tuy nhiên, Chúa đã hứa ở cùng Hội Thánh
mọi ngày cho đến tận thế, và Chúa đã tuyên bố không quyền năng nào có thể tiêu
diệt Hội Thánh. “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm
lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).
2. Trong Năm Đức
Tin này, chúng ta hãy cùng nhau ôn lại đời sống đức tin của các thánh tử đạo Việt
Nam
để xem các ngài đã tuyên xưng, đã sống và làm chứng cho đức tin thế nào.
Tại sao các Kitô hữu bị ghét bỏ, bị bắt
bớ và giết chết? Các thánh tử đạo đã làm gì?
Các thánh tử đạo bị giết chỉ vì tuyên
xưng lòng tin vào Chúa Giêsu. Lòng tin ấy biểu lộ qua việc tôn thờ thánh giá
Chúa. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm
lên sao được!” Thánh Têôphan Ven nói: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo thập
giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này
đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”
Chắc chắn không phải vì các ngài đã theo
đạo Tây mà phản bội tổ quốc và dân tộc. Các ngài tôn trọng vua quan và hết lòng
vì quê hương. Thánh linh mục Tự đối đáp với quan tòa: “Tôi kính Thiên Chúa như
Thượng Phụ, kính vua như trung phụ, và kính song thân như hạ phụ. Không thể
nghe cha ruột để hại vua, tôi cũng không thể vì vua mà phạm đến Thượng Phụ là
Thiên Chúa được”.
Nhiều vị thánh đã ở trong hàng ngũ quân
đội bảo vệ đất nước. Thánh Trần Văn Trung là một binh sĩ, đã bị giết vì khẳng
khái tuyên bố: “Tôi là Kitô hữu, tôi sẵn sàng đi đánh kẻ thù của đất nước,
nhưng bỏ đạo thì không bao giờ”.
Thánh linh mục Khuông từng tuyên bố: “Đạo Giatô không những cấm tín hữu chống lại
triều đình, mà còn khuyến khích để họ cầu nguyện và góp phần giúp quê hương an
ninh thịnh vượng”.
Yêu nước không có nghĩa là phải thù ghét
loại trừ các Kitô hữu và chống lại Kitô giáo.
3. Lời tuyên
xưng của các thánh tử đạo không chỉ là lời tuyên bố trong một khoảnh khắc nhất
thời trước khi chết, nhưng đó là hoa trái kết tinh từ một đời sống thấm nhuần Lời
Chúa. Các ngài đã sống đức tin, đã thể hiện Tin Mừng yêu thương trong chính đời
sống của mình.
Trước hết, đời sống đức
tin của các thánh tử đạo được biểu lộ ngay trong bổn phận hằng ngày của đời sống
gia đình.
Dù thời đó, chế độ đa thê vẫn đang thịnh
hành trong xã hội Việt Nam,
nhưng các thánh tử đạo đã trung thành với giáo huấn một vợ một chồng của Phúc
Âm. Dĩ nhiên có những vị lúc đầu đã không trung thành với lời cam kết hôn nhân,
như các thánh Gẫm, binh sĩ Huy, Cai Thìn, quan Hồ Đình Hy... đã có thời gian sa
ngã, thế nhưng sau đó tất cả đều biết trở về để vun đắp lại mái ấm gia đình của
mình.
Các thánh chu toàn bổn phận nuôi dạy con
cái theo tinh thần đức tin. Thánh Thọ căn dặn các con vào thăm trong tù: “Các
con thân mến, cha không còn làm gì giúp các con ở thế gian này được nữa, cha chỉ
còn lo chuẩn bị tâm hồn đón nhận những thử thách cuối cùng. Ý Chúa đã muốn cha
xa lìa các con mãi mãi, nhưng các con còn có mẹ, hãy cố gắng vâng lời mẹ. Các
con lớn hãy nhớ quan tâm săn sóc em mình. Các con nhỏ phải biết kính trọng vâng
lời anh chị. Hãy thương yêu nhau, siêng năng làm việc đỡ đần mẹ. Hãy nhớ đọc
kinh tối sáng và lần chuỗi Mân Côi hằng ngày. Chúa trao cho mỗi người một thánh
giá riêng, hãy vui vẻ vác theo chân Chúa và kiên trung giữ đạo”.
Về phần thánh Anê Lê Thị Thành, vị thánh
nữ duy nhất trong số các vị tử đạo, người con gái thứ haicủa ngài làcô Anna Năm
xác nhận:“Bố mẹ chúng tôi chỉ gả các con gái cho những người thanh niên đạo hạnh.
Sau khi tôi kết hôn, mẹ tôi thường đến thăm chúng tôi và khuyên bảo những lời tốt
lành. Có lần mẹ dạy tôi: "Tuân theo Ý Chúa, con lập gia đình là gánh rất nặng.
Con phải ăn ở khôn ngoan, đừng cãi lời cha mẹ chồng. Hãy vui lòng nhận thánh
giá Chúa gửi cho".Người cũng thường khuyên vợ chồng tôi: "Hai con hãy
sống hoà hợp, vui vẻ, đừng để ai nghe chúng con cãi nhau bao giờ".”
Kế đến, sống đức tin
là sống Tin Mừng yêu thương.
Thánh y sĩ Phan Đắc Hòa rộng tay giúp
người nghèo khổ, riêng bệnh nhân túng thiếu, không những ông chữa bệnh miễn
phí, lại còn giúp tiền giúp lúa. Thánh Martinô Thọ nói: "Công bằng chưa đủ,
phải có bác ái nữa, mà muốn thực thi bác ái phải có điều kiện", nên ngài
trồng thêm vườn dâu kiếm tiền giúp người thiếu thốn. Người cùng tử đạo với ngài
là Gioan Cỏn từng mạnh dạn đấu tranh cho người nghèo chống lại chính sách đòi
sưu cao thuế nặng. Thánh Năm Thuông là ân nhân của viện cô nhi trong vùng. Còn
thánh Trùm Đích thường xuyên thăm viếng trại cùi và sẵn sàng nuôi người mắc bệnh
dịch tại nhà mình.
Điều quan trọng trong
đời sống đức tin của các thánh tử đạo là lòng tha thứ.
Nếu lòng anh dũng giúp các vị tử đạo
bình thản đón nhận cái chết không run sợ, không quỵ lụy khóc than, thì chính
lòng bao dung thứ tha mới là đặc tính phân biệt vị tử đạo với những vị anh hùng
vì lý do khác.
Các tín hữu chỉ thực sự chết vì đạo nếu
biểu lộ được tình yêu, lòng nhân ái, sự bao dung của Tin Mừng. Các vị chắc chắn
không đồng ý với bản án bất công của triều đình, nhưng như Đức Giêsu trên thánh
giá vẫn cầu nguyện cho quân lính giết hại mình, các chứng nhân tử đạo vẫn tiếp
tục yêu thương vua quan và những người hành xử mình.
Khi viên quan nói: “Tôi phải theo lệnh
vua, đừng giận tôi nhé”, linh mục Théophane Ven đáp: “Tôi chẳngghét gì ai cả,
tôi sẽ cầu nguyện nhiều cho quan”. Thánh Hoàng Lương Cảnh làm cho quan quân phá
lên cười khi ngài đọc: “Cầu Chúa Giêsu, xin cho các quantrị nước cho yên càng
ngày càng thịnh”.
4. Lời tuyên
xưng và đời sống đức tin của các thánh tử đạo đã làm trổ sinh hoa trái phong
phú trên quê hương Việt Nam
thân yêu này.
Chính đời sống của các thánh tử đạo đã cảm
hóa và chiếm được tình cảm của bà con hàng xóm. Dù triều đình nhà Nguyễn ra chiếu
chỉ bách hại, bà con hàng xóm vẫn tỏ dấu hiệu thân ái với người công giáo.
Thánh linh mục Vũ Bá Loan là niên trưởng
84 tuổi, được mọi người kính trọng gọi bằng “cụ”, ngài không bị đánh đòn; và trong ngày xử, mười
lý hình chạy trốn, đến người thứ mười một, đã lịch sự xin phép: “Việc vua truyền
cháu phải làm, xin cụ xá lỗi cho. Cháu sẽ cố giúp cụ chết êm ái. Khi về trời cụ
nhớ đến cháu nhé”.
Trong vụ án thánh linh mục Gioan Đạt,
viên cai ngục nói: “Tôi thấy cụ khôn ngoan, đạo đức, thì muốn kết nghĩa huynh đệ
lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cổ quan tài để biểu lộ
lòng tôi quí cụ.”
Hơn nữa, ngay trong lúc bị giam tù, các
ngài đã đưa hằng trăm người đến với Chúa. Và từ đó đến nay, hạt giống Tin Mừng
không ngừng lớn lên trong đất nước này. Tin Mừng như men đang thấm vào mọi sinh
hoạt xã hội để đưa thế gian đi theo con đường của chân lý Phúc Âm.
Là con cháu các thánh tử đạo, chúng ta
hãy phát huy gia sản đức tin mà cha ông đã để lại cho chúng ta. Đức tin ấy đã lớn
lên trong máu và nước mắt, trong hy sinh và gian khổ. Bao nhiêu thế hệ đã nằm
xuống để chúng ta được trung kiên với đức tin tông truyền.
Ngày nay, tuy không còn phải chịu những
đau thương dữ dằn như trong quá khứ, nhưng chúng ta đang phải đối diện với một
cuộc tấn công khác có thể còn nguy hiểm gấp bội, đó là sức mạnh của tiền bạc, địa
vị, khoái lạc, tự do buông thả. Những sức mạnh này đã làm cho bao nhiêu tín hữu
gục ngã, đã lôi kéo bao nhiêu Kitô hữu rời xa Hội Thánh, đã làm cho biết bao
người quên Thiên Chúa.
Trong Năm Đức Tin này, chúng ta hãy bắt
chước các thánh tử đạo tuyên xưng đức tin một cách xác tín, ý thức. Chúng ta có
thể nói như thánh Phaolô không: “Tôi biết tôi đã tin vào ai” (2Tm 1, 12)? Hãy để
cho lòng tin vào Chúa thấm nhuần và biến đổi cuộc sống chúng ta, để tất cả mọi
hành vi, ứng xử, chọn lựa, thái độ, của chúng ta luôn tỏa chiếu sức mạnh của
Tin Mừng và tạo nên một sức hấp dẫn đối với những người chung quanh để đưa họ đến
với Chúa Giêsu Cứu Thế.
13. Bài giảng của ĐGM Vinhsơn Nguyễn Văn Long
(Bài giảng thánh lễ kính Các Thánh Tử Đạo
Việt Nam tại Sydney)
Kính thưa quý cha, tu sĩ nam nữ và quý
Ông Bà, Anh Chị Em,
Hôm nay tôi rất vui mừng được đến đây
dâng đại lễ mừng các Thánh Tử Ðạo Việt Nam cùng với các linh mục tu sĩ và
đông đảo cộng đoàn Dân Chúa tại Tổng Giáo Phận Sydney. Tôi thiết nghĩ rằng,
không có Thánh Lễ nào trong phụng vụ hằng năm nói lên niềm tin của người Việt
Nam Công Giáo cho bằng Thánh Lễ ngày hôm nay. Qủa thế, các Thánh Tử Đạo Việt Nam chính là biểu
lộ những gì đặc thù nhất và tinh túy nhất của truyền thống đức tin Công Giáo của
chúng ta. Hôm nay, chúng ta tạ ơn Chúa vì những gì Ngài đã thực hiện qua những
con người yếu hèn; hôm nay chúng ta hãnh diện vì được tiếp nối truyền thống hào
hùng và hôm nay chúng ta noi gương các ngài cùng quyết tâm trung thành với sứ mạng
được trao phó.
Lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam của chúng
ta cũng là bằng chứng hùng hồn của sức mạnh của Thiên Chúa qua sự yếu đuối của
con người. Trải qua chiều dài nhiều thế kỷ, từ khi hạt giống đức tin được gieo
vào lòng đất Việt, Giáo Hội đã trải qua bao gian nan thử thách. Nhưng gông cùm,
bách bớ tù đầy và ngay cả sự chết đã không ngăn cản, không sờn lòng các vị tiền
nhân anh dũng. Các Ngài đã không sợ những người chỉ làm hại thân xác mà không
lay chuyển tâm hồn, như lời chúa phán trong bài Phúc Âm hôm nay. Các Ngài như
vàng được thử trong lửa và như của lễ toàn thiêu được Chúa chấp nhận. Nơi các
Ngài, tình yêu của Chúa Kitô đã chiến thắng tất cả những thế lực của sự dữ:
Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu
của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ,
gươm giáo? Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến
chúng ta. không có gì tách đuợc chúng ta ra khỏi tình yêu củ#a Thiên Chúa thể
hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.
Thưa quý Ông Bà, Anh Chị Em,
Lòng anh dũng can trường của các Thánh Tử
Ðạo Việt Nam
đã và đang thôi thúc các thế hệ nối tiếp. Chúng ta có thể hãnh diện tuyên xưng
không chỉ 117 vị đã được Giáo Hội hoàn vũ liệt kê vào danh sách chính thức. Thật
thế, đã có hàng trăm ngàn các vị đã hy sinh mạng sống mình vì Phúc Âm và những
hạt giống đức tin đó đang sinh hoa kết trái trong lòng đất Việt thân yêu, nơi
các Ngài nằm xuống. Những trang sử oai hùng của chúng ta không chỉ được viết
trong qúa khứ, khi bắt bớ, tù đày và gông cùm không làm cha ông chúng ta chùn
bước.Trong tinh thần đức tin bất diệt, các thế hệ nối tiếp cũng đang viết lên một
trang sử mới, trong muôn vàn thử thách đắng cay.
Trong suốt gần 70 năm dưới chế độ Cộng Sản,
Giáo Hội Việt Nam đã không bị thuần phục và trở thành công cụ của một chế độ, bất
chấp bạo lực mưu mô và sách lược của nhà cầm quyền vô thần. Hơn thế nữa, những
biến cố gần đây tại Thái Hà, Toà khâm Sứ, Cồn Dầu, Con Cuông và nhiều nơi khác ở
Việt Nam đã nói lên ý chí kiên cường cho công lý và trìều đại chính trực.
Trong một xã hội bị bóng đêm của độc
tài, của bất công và của dối trá thống trị, ngọn lửa Đức Kitô là đường, là sự
thật và là sự sống được các bậc tiền nhân anh dũng và các thế hệ nối tiếp thắp
lên và làm ánh sáng hy vọng, không chỉ cho nguời Công Giáo mà cho cả quê hương
dân tộc.
Kính thưa quý Ông Bà, Anh Chị Em,
Hôm nay cũng là ngày mà người Việt Nam
Công Giáo ly hương xác tín lại sứ mạng của chúng ta trước gia tài thiêng liêng
của các Thánh Tử Đạo. Tôi thâm tín rằng, sự kiện chúng ta hiện diện nơi đây
cũng như trên khặp thế giới là do sự quan phòng của Thiên Chúa. Mà sự an bài
nhiệm mầu này không phải chỉ dành riêng cho chúng ta, mà còn cho cả giáo hội và
cho quê hương chúng ta nữa. Như người dân Do Thái lưu đầy năm xưa, chúng ta được
đến xứ lạ không phải để tha phương cầu thực mà để làm chứng nhân của tự do, sứ
gỉa của tin mừng và là hạt nhân cho tiến trình công lý hóa và phục hưng cho quê
hương và giáo hội quê mẹ.
Chúng ta cảm tạ Chúa là sau hơn 30 năm định
cư, người Việt Công Giáo đã và đang có những đóng góp tích cực về mọi khía cạnh
của giáo hội: về ơn gọi tu sĩ linh mục, về sinh hoạt đoàn thể, mục vụ giáo xứ
và ngay cả về tài chánh. Nhưng chúng ta không thể dừng lại ở con số hay những
tiêu chuẩn bề ngoài. Cách đây ít lâu tôi có đi kinh lý tại Brisbane vì những khó khăn cộng đòan trên đó
gặp phải. Vì những vấn đề trong các cộng đòan tại Úc, tôi tự hỏi: Phải chăng
chúng ta cần đề cao cảnh giác hơn về các khuynh hướng gây chia rẽ rạn nứt trong
cộng đoàn? Phải chăng chúng ta cần sống đạo có chiều sâu hơn, nhất là sự tha thứ,
bao dung, đại đồng? Phải chăng chúng ta cần áp dụng triệt để hơn tinh thần phục
vụ trong khiêm tốn, quảng đại, hiến thân? Đây là những điều mà không phải giáo
dân mà cả các anh em linh mục tu sĩ chúng tôi cần xét mình và hành động. Nếu
chúng ta tự hào là con cháu của các Thánh Tử Đạo, chúng ta phải chứng tỏ bằng
hoa trái của đời sống người tín hữu đích thực.
Hôm nay, mừng lễ các Thánh Tử Ðạo Việt Nam, chúng ta
cùng cảm tạ Chúa vì gia tài đức tin cao qúi mà các Ngài đã để lại cho chúng ta.
Xin Thiên Chúa qua sự bầu cử của các Ngài, giúp chúng ta làm chứng nhân sống động
của đức tin và của các gía trị cao qúi mà chúng ta đã sẵn sàng trao đổi mạng sống
trong hành trình tìm tự do năm xưa. Thời Cựu Ước, Người Do Thái lưu đày tại Babylon đã trở nên hạt
nhân của công cuộc tái thiết đất nước của họ. Thời nay, người Việt ly hương
chúng ta cũng không thể quên nguồn gốc và nhất là không thể vô cảm trước bao thống
khổ của đồng bào trong nước. Chính tình yêu đối với Thiên Chúa và nhiệt tâm cho
Vương Quốc của Ngài đòi hỏi thôi thúc chúng ta trong cuộc chiến cho công lý và
sự thật, ánh sáng và sự sống – cuộc chiến mà chính Đức Kitô đã tranh đấu và khải
hoàn qua sự chết và phục sinh của Ngài. Chúng ta cùng hiệp thông với giáo hội
quê nhà và mọi người thiện tâm để hướng tới một tương lai tươi sáng, một hình ảnh
của vương quốc Thiên Chúa trên đất Việt thân yêu.
Hôm nay cũng là ngày Lễ Vọng Chúa Kitô
Vua, là ngày nhắc nhở chúng ta về Đấng là khởi điểm và là cùng đích của lịch sử.
Mặc dù trong thế giới, trong xã hội, hay trong quê hương còn có qúa nhiều tàn
dư của sự dữ, chúng ta tin tưởng vào sự tất thắng của vương quốc Thiên Chúa.
Cùng Đức Kitô Đấng đã chế ngự tử thần và sự dữ, cùng với Mẹ Lavang, các Thánh Tử
Đạo Việt Nam,
chúng ta hãy vững tiến về tương lai tươi sáng trong tin yêu hy vọng. Với các
Ngài, chúng ta hát câu “người đi trong đau thương sẽ về giữa vui cười, người
gieo trong lệ sầu sẽ gặt trong mùa xuân tươi”. Amen.
14. Lễ Kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
(Bài giảng Lễ Thiếu Nhi của Lm Nguyễn Ngọc
Long)
(Đn 12,1-3; Dt 10,11-14.18; Lc 9, 23 –
26)
Các con thiếu nhi thương mến!
Hôm nay cùng với Giáo hội khắp nơi trên
thế giới, giáo xứ chúng ta hân hoan mừng kính trọng thể lễ Các Thánh tử đạo Việt
Nam.
Bổn mạng của Hội Thánh Việt Nam
và cũng là lễ bổn mạng xứ đoàn Các Thánh tử đạo Việt Nam của chúng ta.
Nhìn lại lịch sử Giáo hội Công giáo Việt
Nam, từ năm 1580 và kết thúc hoàn toàn vào năm 1888, nghĩa là cách chúng ta một
thế kỷ và kéo dài gần ba thế kỷ. Thời gian dài 300 năm bị bách hại đã có trên
130.000 người tử vì đạo. Trong đó, có 117 vị đã được tôn phong hiển thánh mà
chúng ta cùng toàn thể Giáo hội hoàn vũ mừng kính hôm nay. Đoàn các thánh vinh
hiển đó gồm mọi cấp bậc trong Giáo Hội: từ các Giám mục, linh mục đến các thầy
giảng, nữ tu, giáo dân… Họ thuộc đủ mọi thành phần trong xã hội: từ những
thương gia, nông dân, thợ thuyền, lý trưởng, cai tổng, binh lính..
Các thánh đã chịu những cực hình khủng
khiếp mà chính quyền thời đó đã hành hạ và tiêu diệt những người tin theo Chúa
bằng nhiều cách man rợ như:
– Bá đao: bị lý hình dùng dao cắt xẻo từng
miếng thịt trên thân thể cho đủ 100 miếng.
– Lăng trì: bị chặt chân tay trước khi bị
chém đầu.
– Thiêu sinh: bị thiêu sống.
– Xử trảm: bị chém đầu.
– Xử giảo: bị tròng dây vào cổ và bị lý
hình kéo hai đầu dây cho đến chết.
– Chết rũ tù: bị tra tấn, hành hạ đủ
cách đủ kiểu, rồi bị bỏ đói cho tới khi kiệt sức và chết gục trong tù.
Các con thương,
Các Thánh tử đạo Việt Nam là những chứng
nhân anh dũng đã sống và làm chứng cho Tin mừng, để hạt giống Đức tin được nảy
mầm và trổ sinh nhiều bông hạt. Giáo phụ Tertuliano đã nói: “Máu các thánh tử đạo
là hạt giống nẩy sinh các tín hữu”.
Lịch sử hai ngàn năm qua đã chứng minh sự
chân thực của lời nói đó ở nhiều nơi, rõ ràng nhất là trên đất nước Việt Nam này; từ khi
có số tín hữu khiêm tốn ban đầu, hiện nay đã lên tới 7 triệu người Công giáo.
Mảnh đất quê hương Mỹ Tho của chúng ta
cũng tự hào vì đã được thấm gội dòng máu anh hùng của cha thánh Phêrô Nguyễn
Văn Lựu. Cha đã anh dũng đổ máu đào để hôm nay chúng ta là con cháu cũng được đồng
hành với Ngài trên hành trình về quê trời vĩnh cửu.
Các con thương mến!
Nhìn lại lịch sử cuộc bách đạo đã qua,
vào năm 1860 dưới thời Tự Đức, nhà vua đã ban hành chiếu chỉ bắt bớ, giam cầm
nhiều tín hữu Công giáo. Lúc bấy giờ, cha Phêrô Lựu đang coi sóc các giáo họ Ba
Giồng, Mỹ Tho, Sa Đéc… Vì thương đoàn giáo dân, Ngài thường cải trang vào nhà
giam thăm viếng, an ủi họ, ban cho họ lương thực Thánh thể và bình an của Chúa.
Một ngày kia, quan coi ngục phát hiện
Ngài là linh mục và ra lệnh tống giam Cha. Tại nhà lao Mỹ Tho, Cha đã vui lòng
chịu mọi cực hình để cùng chia sẻ với bổn đạo. Khi các quan buộc Cha xuất giáo,
Ngài đã tuyên xưng niềm tin của mình bằng câu nói nổi tiếng: “Đạo đã thấm nhập
vào xương vào tủy của tôi rồi, tôi làm sao bỏ được, vả lại, một người giáo dân
bình thường, một thầy giảng bình thường còn không có quyền bỏ đạo, huống gì tôi
đây là linh mục…”.
Ngày 07.04.1861, quân lính dẫn Cha ra khỏi
thành phố Mỹ Tho khoảng chừng 1 cây số và chém đầu Cha ngay bên vệ đường, tại
kinh Bảo Định ngày nay.
Là con dân đất Việt, chúng ta tự hào được
mang trong mình dòng máu hào hùng của các chứng nhân niềm tin anh dũng này. Trong
niềm tin của chúng ta hôm nay, có vết tích dòng máu thắm đỏ của các thánh tử đạo
tưới gội và nuôi dưỡng.
Ước chi mỗi ngày sống, chúng con biết trở
thành nhân chứng sống động về niềm tin ở mọi lúc mọi nơi: bằng chính những hành
động tích cực, những tấm lòng nhân ái bao la và khát khao muốn phục vụ mọi người.
Các ngài là những mẫu gương sống động
cho đời sống đức Tin, nhờ lời các thánh chuyển cầu, xin Chúa nâng đỡ con thuyền
giáo hội Việt Nam vượt qua sóng gió, nhất là những khi gặp thử thách, gian truân.
Xin cho mọi thành phần trong xứ đoàn các
Thánh tử đạo Việt Nam của giáo xứ chúng con luôn trổ sinh nhiều hoa trái tốt
lành, để một ngày kia trên thiên quốc, chúng con được hợp tiếng với các Ngài ca
tụng tạ ơn Chúa muôn đời vinh hiển.
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam, Lạy Cha
Thánh Phêrô Nguyễn Văn Lựu! Xin cầu cho chúng con.
Thực hành:
1. Năng đọc lịch sử Giáo hội Công giáo
Việt Nam
và hạnh các thánh tử đạo.
2. Cầu nguyện cho nhiều người biết giữ
trọn niềm tin của mình.
Tâm niệm:
“Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi,
thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.
Đi tìm kho báu:
Mời các con cùng suy nghĩ và trả lời các câu hỏi sau:
1. Giáo hội Việt Nam của chúng
ta, ngoài 117 Thánh tử đạo còn có một Á thánh tên là gì?
2. Các thánh tử đạo đã để lại cho các
con bài học nào?
3. Các con có nhớ tên 117 thánh tử đạo
không? Hãy kể tiểu sử của một vị thánh tử đạo mà con biết?
15. Tỉnh thức trước cơn bách đạo mới
(Suy niệm của Pm. Cao Huy Hoàng)
Là người Công Giáo Việt Nam, chúng ta rất hãnh diện về Cha ông của chúng
ta, Các Thánh Tử Đạo Việt Nam.
Không chỉ là 117 vị hiển thánh, mà có cả trăm ngàn tín hữu đã anh dũng làm chứng
cho Thiên Chúa. Không chỉ có thời các vua Chúa cấm cách, mà ngay cả thời nay, Đức
Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận và cuộc sống nhân chứng của Ngài là một
tiêu biểu.
Vì niềm tin tuyệt đối và trung kiên vào
Thiên Chúa, vì tình yêu mãnh liệt đáp lại tình yêu tạo dựng và cứu chuộc, vì bừng
bừng ngọn lửa khát khao được sống trọn vẹn và vĩnh cửu trong thế giới mới của
Ba ngôi Thiên Chúa, mà Cha ông của chúng ta đã không ngần ngại từ chối sự sống
hay hư nát của thân xác phàm trần để tuyên tín cho thiên hạ biết rằng có một đời
sau vĩnh cửu, hạnh phúc thiên thu.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã bị cấm
cách, bức bách, bắt bớ, tù đày, lăng mạ, lăng nhục và cuối cùng chấp nhận chết
cuộc sống mình, chết thân xác mình, bằng trăm ngàn cực hình dã man, đau đớn. Sức
mạnh để vượt qua và chiến thắng của họ là nhân đức cơ bản, là nguồn ơn cơ bản
Tin Cậy Mến mà Thiên Chúa ban riêng cho mỗi con người và ơn hiệp nhất ban cho cộng
đoàn làm chứng tá phục sinh. Tuyệt đối không phải là sức mạnh của tập thể theo
nghĩa phong trào, có tính hời hợt, nhất thời đấu tranh cho một quyền lợi thuộc
phạm vi trần thế.
Họ đã không bắt chước nhau tử đạo vì danh
vọng trần thế là để tiếng lại cho đời sau, nhưng là vì họ xác tín một cuộc sống
mới được phục hồi sau cái chết quí giá và ý nghĩa ấy: cái chết làm chứng cho
Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, cái chết để sống lại với Đức Kitô. Họ đã thực
thi lời huấn thị của Tin Mừng: “từ bỏ chính mình”: vì xác tín sự sống mình có
được là do Thiên Chúa, và thuộc về Thiên Chúa; “vác thập giá mình”: chấp nhận tất
cả những thương khó trong đời theo Chúa Giêsu, để ý định cứu rỗi của Thiên Chúa
Cha được thực hiện, cho mình và cho mọi người.
Đối với các Thánh Tử Đạo Việt Nam, bước qua
thập giá là từ chối ơn cứu chuộc của Đức Kitô, là bội tín với Thiên Chúa. Vì thế,
khi cuộc bách đạo càng khốc liệt, càng đẫm máu, thì niềm tin của họ càng được
nung nấu, được tôi luyện thành sắt thép vững chắc nhờ đức mến nồng nàn và đức cậy
trông mạnh mẽ.
Giáo hội Việt Nam thừa hưởng một di sản
Đức tin quí báu, vì nhờ máu các Ngài đổ ra, mà cánh đồng truyền giáo trổ sinh
muôn hạt vàng tín hữu.
Noi gương Các Thánh Tử
Đạo Việt Nam
Theo gương các Thánh Tử Đạo Việt Nam, các tín hữu Việt Nam đã kiên trung trong đời sống đức
tin cá nhân và cộng đoàn thật đáng khâm phục. Qua bao nhiêu thăng trầm của lịch
sử đất nước, qua bao nhiêu đổi thay của ý thức hệ… nhưng giáo lý Chúa Kitô và niềm tin vào Thiên
Chúa vẫn ngời sáng trên quê hương không chỉ nghèo nàn lạc hậu mà còn chịu bao
thảm họa của thiên tai, dịch nạn..
Tuy nhiên, khi mừng lễ các Thánh Tử Đạo
Việt Nam,
cũng là lúc mà mỗi chúng ta phải nhìn lại đời sống chứng tá của mình và của cộng
đoàn.
Ở đấng bậc nào trong giáo hội, trong đời
sống hằng ngày, tất cả chúng ta đều phải đối diện, phải đặt mình trước thập
giá, không phải để chúng ta bước qua, mà là để ôm lấy, yêu mến, hôn kính và nhất
là vác đi trong cuộc đời.
Ngày xưa những khổ hình có thể nói là
kinh khủng lắm, man rợ lắm dành cho ai không bằng lòng bước qua thập tự giá. Thời
nay, cuộc bức bách mới dùng cách làm cho tín hữu không thấy dữ tợn mà hiệu quả
không kém kinh khủng hay có thể nói còn kinh khủng hơn: chiêu bài đổi hướng niềm
tin và tình yêu.
Chúng ta không thấy mình đang bước qua
thập giá, khi chúng ta yêu mến của cải tiền bạc, tiện nghi vật chất và những
khoái lạc trần gian hơn là yêu mến Chúa. Hơn nữa, chúng ta vẫn thấy mình rất xứng
đáng vì những việc đạo đức, những việc tông đồ. Chúng ta không thấy mình bước
qua thập giá, khi mình đang làm việc Chúa để tìm chút hư danh cho mình. Hướng đến
của Tình yêu chúng ta là Chúa, đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta là Thập
giá Chúa Kitô, nhưng tài hoa của ma quỉ đã khéo léo chuyển hướng đến của tình
yêu chúng ta là chính chúng ta.
Quả thật, chúng ta đang không làm chứng
cho một Thiên Chúa, nhưng chúng ta đang làm chứng cho chính mình, khẳng định
chính mình, củng cố danh dự chính mình. Chúng ta đang bước qua thập giá mà
không hề hay biết. Không tỉnh thức trước những âm mưu của ma quỉ, chúng ta có
thể nằm gọn trong đúng mục tiêu, đúng tầm ngắm của cuộc bách đạo mới.
Tỉnh thức trước cơn
bách đạo thời nay
Mục tiêu của cuộc bách đạo thời nay vẫn
là cản trở, ngăn cấm con người đến với Thiên Chúa, hoặc bằng mọi giá, cắt đứt
tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Một loại gông cùm xiềng xích mới, một
loại nhà tù hiện đại đang được sử dụng khắp nơi trên thế giới.
Mục tiêu của cuộc bách đạo mới không chỉ
đơn thuần là việc bắt bớ, bỏ tù một vài người đấu tranh cho tự do nhân quyền,
cho tự do tôn giáo, nhưng là bỏ tù cả ngàn ngàn người trong cái vỏ ốc cầu an,
trong cái hố bằng lòng về sự tự do xem như là tạm đủ, trong cái túi chấp nhận một
loại tự do ảo tưởng, trá hình mà thực ra đó là thứ tự do làm nô lệ.
Cũng vậy, việc đập phá một ngôi thánh đường,
chưa bằng đập phá cả triệu cung điện của Thiên Chúa nơi tâm hồn các tín hữu bằng
những chủ thuyết vô thần, vô luân, vô vọng tưởng một đời sau… để không còn hòn
đá nào trên hòn đá nào, không còn một định luật tôn giáo nào, không còn một
nguyên tắc đạo đức nào, không còn niềm tin tôn giáo nào trong chính tâm hồn người
công giáo.
Nhận lãnh bí tích rửa tội để có một danh
xưng, hoặc hợp thức hóa một tình trạng. Và các bí tích Kitô giáo khác được lãnh
nhận tiếp theo như một thủ tục-Cung điện của Thiên Chúa là một bức họa không
hơn.
- Việc đóng cửa nhà thờ, không cho các
tín hữu hành đạo làm sao nguy hiểm bằng để tự họ cảm thấy việc đến nhà thờ
không còn cần thiết hơn việc xem phim, giải trí và các tiêu khiển khác của một
đất nước đang có đủ thứ món ăn chơi.
- Làm cho cánh cửa tâm hồn các tín hữu tự
đóng lại để không đón nhận được Thiên Chúa, và tự mở ra để đón nhận những trào
lưu thế tục là mục tiêu cuộc bức bách nguy hiểm vô cùng.
- Tâm hồn các trẻ thơ vừa có trí khôn, mới
mở ra với cuộc đời, đã đón nhận bài học con người bởi khỉ mà ra, để sẽ sống như
khỉ và chết như con khỉ - cuộc bức bách về giáo dục không Thiên Chúa.
- Mới ngày nào đây, lương tâm các đôi vợ
chồng, nhất là các tín nữ còn đắn đo, do dự khi phải chọn cho mình một cách
tránh thai hợp với luật Thiên Chúa, và cương quyết bảo vệ sự sống đến cùng thì
hôm nay, lương tâm ấy đã chai đi và có thể chấp nhận bất kỳ một phương pháp nào
để khước từ thiên chức làm Mẹ. Hơn thế nữa, không những khước từ ơn tiếp tục cuộc
sáng tạo của Thiên Chúa, mà còn có thể hủy hoại quà tặng tuyệt vời của Thiên
Chúa ở bất kỳ tháng tuổi nào.
- Không cần thiết phải cấm các em học
giáo lý, vì biết chắc những trang giáo lý khô khan kia sẽ không hấp dẫn bằng những
trò chơi vô bổ hàng giờ trên máy vi tính ở các dịch vụ internet, hoặc những
trang web có sức gieo vào đầu các em một kiểu sống vô luân. Vì thế cuộc bách đạo
hướng đến việc sản xuất và du nhập hàng loạt phim ảnh như những viên đạn đồng bắn
nát đức tin và luân lý của cả một thế hệ.
- Còn một điểm nhắm quan trọng hơn cả của
cuộc bách đạo là làm rạn nứt sự hiệp nhất giáo hội, mà phải là sự rạn nứt bắt đầu
từ những vị thẩm quyền cao nhất, đến các thành phần ưu tú nhất, rồi đến những cộng
sự thân cận, xuống đến các tín hữu. Tinh thần thế tục luồn lách vào trong mọi bất
đồng gây nên những xáo trộn nội bộ không đáng có, dẫn đến những rẽ chia đáng tiếc.
Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam
không chỉ là những cuộc rước kiệu linh đình, tôn vinh Cha Ông với niềm tự hào
dân tộc, nhưng trước tiên là tạ ơn Chúa đã gieo trồng Hội Thánh Chúa ở Việt Nam
bằng những giọt máu, và tôn vinh Cha ông với niềm tự hào về sức mạnh toàn thắng
của Thánh Giá Chúa Kitô. Nếu không có niềm tin, cậy, mến vào Thiên Chúa và nhất
là vào Thánh giá vô địch của Chúa Kitô, Cha ông chúng ta đã không thể lãnh nhận
phúc tử đạo, làm chứng cho Thiên Chúa.
Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo còn là cơ
hội cho mỗi người chúng ta nhìn lại cách sống chứng nhân của mình và phải
luôn cảnh giác trước cuộc bách đạo kiểu mới, nhất là trong toàn cảnh xã hội Việt
Nam.
Có thể chúng ta đang nằm gọn trong mục tiêu cuộc bách đạo, vì đã bước qua thập
giá Đức Kitô lúc nào không hề hay biết, mà vẫn chủ quan tự nhận là những chứng
nhân anh dũng giữa lòng quê hương dân tộc. Có thể chúng ta không những đã bước
qua thập giá, không được diễm phúc tử đạo, mà còn tiếp tay cho cuộc bức bách tiến
đến mục tiêu tối hậu là tách rời tương quan với Thiên Chúa thật hoặc vẫn còn
tương quan với một Thiên Chúa theo mô hình một loại đức tin cập nhật từ chủ
thuyết không Thiên Chúa.
Thiên Chúa sẽ không hài lòng khi chúng
ta từ chối Thập Giá Chúa Kitô. Chính Chúa Giêsu nói: “Kẻ nào hổ thẹn chối Ta và
các lời Ta, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn chối nó, khi Ngài đến trong vinh
quang của Ngài và của Cha cùng các Thiên thần” (Lc 9,26)
Mừng Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, thiết nghĩ
mỗi người đều phải đặt mình trước một sự thật: Thiên Chúa đau lòng vì con người
xúc phạm đến Thiên Chúa và vì các tín hữu Chúa chưa can đảm để làm chứng cho
Ngài. Và từ đó, mỗi người phải tự cảnh tỉnh trước những biến dạng thiên hình vạn
trạng của cơn bách đạo hôm nay, để cương quyết “không bước qua Thập Giá” và
càng không tiếp tay nối giáo cho giặc.
Lạy Chúa, giáo hội lữ hành, và đặc biệt
giáo hội Việt Nam chúng con đang gặp những thách đố lớn lao vì những chủ trương
không Thiên Chúa và không đời sau đang lôi kéo các tín hữu buông bỏ tinh thần từ
bỏ, bóp chết tinh thần tử đạo của Chúa Kitô. Xin Chúa ban cho mọi thành phần
trong giáo hội ơn kiên trung làm chứng cho Chúa qua việc không hướng theo tinh
thần thế tục đang hấp dẫn mọi nơi.
Lạy Chúa, trong đời sống gia đình, chúng
con làm cha, làm mẹ một thiên chức Chúa ban gắn liền với ơn tử đạo, qua việc hiến
dâng cả đời cho con cái với bao hy sinh đầy đắng cay và nước mắt. Xin Chúa ban
cho chúng con, nồng nàn yêu mến và tín thác vào Chúa, để mỗi hy sinh của chúng
con trong đời, xứng đáng là một giọt máu tử đạo rơi xuống, cho mầm đức tin mọc
lên trong mỗi gia đình chúng con.
16. Những vị anh hùng âm thầm – Lc 9,22-26
Dân tộc nào cũng có những vị anh hùng và
tôn giáo nào cũng có những vị anh hùng, được gọi những danh hiệu khác nhau.
Kitô giáo có hàng ngũ các thánh, những tôi trung, con thảo của Chúa, những mẫu
mực sống đạo của người công giáo. Là anh hùng trong đạo nhưng không có ai thắng.
Có chăng là thắng chính mình, thắng những kẻ thù vô hình không mang quốc tịch
nào như ma quỷ, xác thịt và thế gian.
Các vị tử đạo Việt Nam không cuồng
tín liều lĩnh, không tự ý tìm đến cái chết: không ai tự thiêu, tự thắt cổ, tự cắn
lưỡi, tự đập đầu mà chết để giữ chữ trung với đạo (không ai tự tử mà lại được
phong thánh).
Trước khi tử đạo, các ngài là những người
muốn sống để phục vụ gia đình, quê hương và Giáo Hội. Muốn sống mà không được sống,
tránh không được thì chấp nhận, để rồi vui nhận. Cam lòng chịu chết mà không
oán hận: đó là tính cách của các vị tử đạo Việt Nam. Kẻ nuôi lòng hận thù không thể
làm thánh vì không xứng danh làm môn đệ của Đấng đã dạy: Hãy yêu kẻ thù và cầu
nguyện cho kẻ ngược đãi mình.
Tôn vinh các vị thánh tử đạo Việt Nam là nêu lên
một quan điểm tích cực: Lấy tình thương xoá bỏ hận thù. Không khơi lên đống tro
tàn để bùng cháy lòng căm thù, nhưng sáng lên một tinh thần bao dung hoà giải.
Romeo và Juilette chết đi để hoà giải hai dòng họ thâm thù truyền kiếp. Cũng thế,
dòng máu các vị tử đạo đổ ra không phải là vô ích. Các vị ấy về cõi trời nhưng
gởi lại một thông điệp, đã có những người quyết tử để đất nước được hồi sinh,
đã có những người chết vì niềm tin để con cháu được sống đức tin giữa lòng dân
tộc, đã có những người bị đè bẹp vì thành kiến cố chấp để muôn người được thông
cảm hoà đồng với nhau.
Đất nước Việt Nam sản sinh nhiều anh hùng: chiến
sĩ anh hùng, bà mẹ anh hùng... nay có thêm những anh hùng đức tin làm cho kho
tàng này được thêm phong phú.
Hướng về tương lai trong viễn cảnh thái
hoà, người công giáo Việt Nam
tiếp bước cha ông tiền bối của mình để sống đời chứng nhân, đem tin yêu đến cho
mọi nhà. Còn biết bao nhiêu người đang phấn đấu sống theo chính đạo, chống lại
bóng đen gian tà, chu toàn bổn phận của mình, làm việc với lương tâm chức nghiệp,
sống lương thiện lành mạnh, chống lại các tệ nạn xã hội, tránh thoát ma lực của
đồng tiền, quên đi lợi nhuận để mưu cầu hạnh phúc cho tha nhân, hy sinh tiết kiệm
để cứu giúp những người bất hạnh. Quả là những anh hùng âm thầm trong bóng tối
mênh mông.
17. Hạt lúa gieo vào lòng đất – Ga 12,24-26
(Trích từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm
Ignatiô Trần Ngà)
Hôm ấy, có người nông dân mang thóc giống
gieo trên thửa ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời nổi gió lớn. Có nhiều hạt
rơi xuống ruộng bùn nhưng cũng có nhiều hạt bị gió thổi bạt lên vệ đường kề
bên.
Bấy giờ những hạt giống nằm trên vệ đường
khô ráo cảm thấy mình quá hên so với bao nhiêu hạt thóc bạn đang phải ngoi ngóp
ngụp lặn dưới bùn, bèn tỏ lòng thương hại và an ủi các bạn thóc dưới sình bằng
những lời ngạo mạn: "Đáng thương thay thân phận khốn khổ của các anh. Đang
khi chúng tôi đây thì được ở nơi khô ráo ngon lành, còn các anh lại phải chìm
lĩm trong vũng bùn tanh tưởi. Đang khi chúng tôi được tắm mình dưới nắng, thì
các anh lại phải ngụp lặn trong chốn tối tăm. Đang khi chúng tôi được nhìn ngắm
bầu trời xanh, nhìn ngắm những bông hoa tươi đẹp bên vệ đường thì các anh chẳng
thấy gì, chẳng biết gì... Cuộc đời chúng tôi đầy hào quang, còn cuộc đời các
anh đang tàn tạ. Bất hạnh thay cho các anh!..."
Hạt lúa ấy vừa dứt lời thì bỗng đâu có một
bàn chân nặng nề dẫm đạp lên mình nó, khiến nó bị gãy đôi. Sau đó, những bánh
xe từ xa chạy đến, lạnh lùng chà nát nó và những hạt lúa khác nát tan. Những hạt
lúa may mắn còn nguyên vẹn lại hoá thành mồi ngon cho côn trùng và chim chóc!
Trong khi đó, những hạt lúa tưởng là bất
hạnh chìm lĩm trong bùn, thì qua vài hôm sau đã ngoi lên thành những mầm non đầy
sức sống. Những mầm non ấy vươn lên phơi phới, triển nở thành những bụi lúa sum
suê. Không đầy ba tháng sau, từ một hạt lúa nhỏ nhoi chìm ngập trong bùn, nó trở
thành những bông lúa thơm tho tuyệt đẹp, kết thành hàng trăm hạt vàng khoe mình
dưới nắng.
* * *
Ai ngờ một hạt lúa bất hạnh chìm nghỉm
trong bùn, tưởng chừng như đã hư thối mà nay lại chuyển hoá thành hàng trăm hạt
vàng mẩy chắc ngon lành như thế! Thật là một điều kỳ diệu và là một bài học quý
báu cho chúng ta. Bài học đó người đời không biết đến, nhưng Chúa Giêsu đem ra
dạy chúng ta: "Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất
mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh
được nhiều hạt khác."
Một bài học đơn sơ ngắn gọn nhưng lại chứa
đựng một chân lý tuyệt vời.
Nhưng Chúa Giêsu không chỉ dạy chúng ta
biết chân lý rồi để đó. Người muốn chân lý nầy được đem ra áp dụng để đời sống
chúng ta được dồi dào phong phú hơn. Thế nên Người dạy tiếp: "Ai yêu quý mạng
sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời nầy, thì sẽ giữ lại
được cho sự sống đời đời"
Nói như thế, Chúa Giêsu không muốn chúng
ta tồn tại như một hạt lúa nằm trơ trọi trên vệ đường khô ráo. Người muốn chúng
ta hãy chấp nhận thân phận của một hạt lúa bị vùi lấp trong bùn, để nhờ đó đặt
tới hạnh phúc và thắng lợi.
Khi bước chân vào đời, mang lấy thân phận
con người giữa cuộc đời ô trọc, Chúa Giêsu đã chấp nhận thân phận hạt lúa bị
vùi dập trong bùn đất. Người để cho người ta nghiền tán, vùi lấp Người, huỷ diệt
Người. Người đời tưởng rằng họ đã tiêu diệt Đức Giêsu, xoá sổ Đức Giêsu, tưởng
rằng Chúa Giêsu sẽ bị mục rã trong lòng đất... nhưng họ đã lầm. Thay vì huỷ diệt
Đức Giêsu, họ đã giúp Người đạt tới vinh quang và thắng lợi. Qua cái chết, Người
tiến vào cõi sống; qua thập giá Người đi đến vinh quang và hiển trị đời đời!
Theo bước chân Chúa Giêsu, các thánh tử
đạo đã vui lòng chấp nhận thân phận hạt lúa bị ném xuống bùn. Các ngài chấp nhận
từ bỏ vinh hoa phú quý người đời hứa hẹn, từ bỏ nhà cửa ruộng vườn, xa lìa cha
mẹ vợ con gia đình thân thuộc, chấp nhận xiềng xích, gông cùm, tù ngục, đòn vọt
và sẵn sàng hy sinh mạng sống, sẵn sàng đổ máu đào làm chứng cho Đức Kitô...
Người đời tưởng rằng các ngài bị thua thiệt, bị mất mát, bị diệt vong... nhưng
họ có ngờ đâu, các ngài đang khải hoàn chiến thắng và sống mãi trong hạnh phúc
vinh quang. Nhờ dòng máu các ngài đổ ra, đời sống Đức tin ngày càng tiến triển,
Giáo Hội được lan rộng đến khắp mọi miền đất trên thế giới. Đó là điều Chúa
Giêsu đã tiên báo từ xưa: "nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi,
thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt
khác."
* * *
Hôm nay, một khi đã khám phá điều kỳ diệu
của hạt lúa chìm trong bùn đất, chúng ta không sợ thua thiệt vì phải làm chứng
cho Đức tin, không sợ đau khổ mất mát vì hiến thân cho lý tưởng tông đồ. Chúng
ta sẵn sàng chấp nhận thân phận hạt lúa bị gieo vào bùn đất như "hạt-lúa-Giêsu",
như "hạt-lúa-các-thánh-tử-đạo", bằng lòng chấp nhận con đường thập
giá, bằng sẵn sàng hiến mình để phục vụ Tin Mừng... Nhờ đó, mai đây, chúng ta sẽ
đạt tới vinh quang và thắng lợi với Chúa Giêsu như lời Người phán: "Ai phục
vụ Thầy thì hãy theo Thầy" để rồi "Thầy ở đâu thì kẻ phục vụ Thầy
cũng sẽ ở đó."
18. Can đảm nói không với tội lỗi.
(Trích từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm
Ignatiô Trần Ngà)
Trong thời kỳ bách hại đạo Công giáo tại
Việt Nam,
một trong những thử thách mà các kitô hữu bị bắt bớ phải trải qua là bước qua
thập giá. Quan quân thời đó thường đặt một cây thập giá dưới đất rồi bắt các
kitô hữu bước qua. Ai không bước qua thì phải chịu đủ mọi cực hình. Còn ai chấp
nhận bước qua thì được thoát cảnh ngục tù, được trả lại những tài sản bị tịch
thu, được ban thưởng bỗng lộc, được sống đời tự do, được đoàn tụ với gia đình.
Nói không trước những
lời dụ dỗ và thúc ép
Vậy mà các bậc cha ông tử đạo của chúng
ta ngày trước đã can đảm khước từ tất cả những hứa hẹn hấp dẫn đó, và đã kiên
quyết nói không: Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa, không
từ bỏ niềm tin.
Cũng có những vị được quan quân khuyến dụ
hãy giả vờ bước qua thập giá để cho quan có cớ mà tha, còn sau đó về nhà thì muốn
sao tuỳ ý; nhưng các thánh tử đạo vẫn không chấp nhận một thoả hiệp như thế.
Các ngài vẫn khẳng khái nói không. Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không
chối Chúa.
Nói không trước những
cực hình dã man và khủng khiếp nhất
Để uy hiếp các kitô-hữu và ép buộc các
ngài bỏ đạo, ngoài những lời thuyết phục và dụ dỗ, vua quan ngày xưa còn áp đặt
những cực hình man rợ và hết sức khủng khiếp để uy hiếp các ngài: bắt mang gông
cùm nặng nề, bị giam nhốt trong ngục tối với rắn rết, muỗi mòng ghê sợ, chịu
thiêu đốt, chịu thắt cổ, chịu chém đầu, chịu phanh thây, chịu án lăng trì (tức
bị chặt tay, chặt chân trước rồi mới chém đầu sau), và khủng khiếp hơn cả là án
bá đao như quan quân đã bắt cha Marchand Du phải chịu: chịu xẻo từng miếng thịt
theo tiếng trống, cho đủ trăm miếng rồi mới chém đầu, moi ruột moi gan...
Dù vậy, các thánh tử đạo đã kiên quyết
nói không: không chối Chúa, không bỏ đạo cho dù phải đổ máu, phải chịu xẻ thịt
phanh thây, phải hy sinh mạng sống mình.
Nói không với tội lỗi
Ngày hôm nay, không ai dùng bạo lực,
dùng những cực hình man rợ bắt chúng ta bỏ đạo hay chối Chúa như các thánh tử đạo
ngày xưa. Vì thế, chúng ta không cần nói không trước những hăm doạ, đòn vọt hay
án chết như các ngài.
Nhưng chúng ta cũng phải đương đầu với
những thách thức mới. Đó là những cám dỗ, những lôi cuốn của tội lỗi làm chúng
ta đi trệch con đường của Chúa Giêsu, đi lạc ra khỏi đạo lý của Người.
Noi gương các anh hùng tử đạo Việt Nam, chúng ta
hãy can đảm nói không với các tệ nạn xã hội, với các thói hư tật xấu, với những
lời quyến rũ của bạn bè xấu...
Muốn nâng lên được những tạ nặng, các lực
sĩ cử tạ phải tập nâng những tạ nhẹ trước. Muốn giải được những bài toán khó,
các học sinh phải tập làm những bài toán dễ trước. Những lực sĩ muốn nhảy thật
cao thì trước tiên phải tập băng mình qua những mức thấp trước.
Tương tự như thế, để có thể nói không
trước những cám dỗ lớn lao sẽ đến trong cuộc đời, trước những cái ác, cái xấu
lôi kéo quyến rũ chúng ta nay mai, chúng ta phải tập nói không với các cám dỗ
nho nhỏ xảy ra hằng ngày trước.
Nguyện xin các anh hùng tử đạo Việt Nam
cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta, để chúng ta luôn biết noi gương các ngài, anh
dũng nói không với tội lỗi và các cơn cám dỗ, cho dù phải chịu mất mát thua thiệt
trong cuộc sống đời nầy, để mai sau xứng đáng được lãnh vòng hoa chiến thắng và
chung hưởng vinh quang với các ngài trên thiên quốc.
19. "Thà chết vinh còn hơn sống nhục"
(Trích từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Jos.
Tạ Duy Tuyền)
Từ ngày tổ tông loài người thoả hiệp với
ma qủy quay lưng lại với Thiên Chúa, ma qủy thường dùng chiêu thức này để kiếm
thêm đồng minh chống lại Thiên Chúa. Trong vườn địa đàng nó đã nói cùng Adam -
Eva: "cứ ăn đi ngươi sẽ bằng Thiên Chúa". Ông bà đã ăn. Ông bà đã bắt
tay cùng sa tan để chống lại Thiên Chúa. Con cháu Adam từ đời này đến đời nọ vẫn
còn vô số người vì sự an nhàn bản thân, vì mong tìm kiếm lợi lộc, tìm hư danh
trần thế, họ vẫn bằng lòng quay lưng lại với Thiên Chúa để làm tôi cho ma qủy,
để tận hưởng khoái lạc mau qua trần gian.
Và cũng từ ngày Con Thiên Chúa từ chối
thoả hiệp với sa tan, các môn đệ của Chúa trải qua bao thời đại vẫn còn đó những
tấm gương quả cảm, anh dũng can trường từ chối thoả hiệp với sa tan. Họ thà
nghèo đói để được bình an tâm hồn hơn là kiếm tiền bằng việc phi nhân thất đức
mà lòng chẳng chút bình an. Họ chấp nhận vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời
vua chúa trần gian, cho dù phải tù đầy, gian truân khốn khó. Họ chấp nhận đánh
mất mùa xuân hạn hẹp trần gian để đổi lấy mùa xuân bất diệt thiên đàng.
Hôm nay chúng ta mừng kính 117 thánh tử
đạo Việt Nam, là con số tượng trưng cho hơn 130 ngàn vị tiền nhân đã chết trong
các đợt cấm đạo tại Việt Nam từ cuối thế kỷ 17 đến cuối thế kỷ 19. Họ đã chết
không phải vì chống lại triều đình. Họ đã chết không phải vì lỗi công bình bác
ái với tha nhân. Họ đã chết vì không chịu thoả hiệp với thế gian. Giữa sự sống
và sự chết chỉ cách nhau một lằn ranh. Lằn ranh đó chính là cây thập giá. Bước
qua thì được thoát khỏi cực hình trần gian. Bước qua thì được trở về với vợ
con, với xóm làng, với chức tước vua ban và bổng lột trần gian, nhưng các thánh
tử đạo Việt Nam đã không vì thế mà chối Chúa, bỏ đạo. Không thể vì ham sống sợ
chết mà phải chà đạp lên thập giá là bỏ cơ hội sống đời đời để đổi lấy cuộc sống
lây lất tạm thời trần gian. Các ngài thà chịu đòn roi, thà chịu án tử hình để
trung kiên theo Chúa, để lãnh phúc triều thiên vinh quang bất diệt trên quê trời
còn hơn là làm tôi mọi cho ma qủy. Như trường hợp ông đội Bường đã thẳng thắn
trả lời với quan quân: "Bên đạo chúng tôi ai chết trẻ là đi đường tắt, ai
chết già là đi đường trường. Song đàng nào cũng tới quê thật là nước thiên đàng
vậy". Thế nên, thánh nhân đã khuyên nhủ các đồng đạo rằng: "Chúng ta
hãy vui lòng chịu mọi sự khốn khó để giữ nghĩa cùng Chúa cho đến khi nào thánh
ý Chúa định thể khác. Nếu quan có hành hạ thì hãy can đảm chịu đựng. Hễ xác chết
rồi thì hồn chúng ta bay thẳng về trời, không sợ gì roi đòn. Chịu sự khó như vậy
là vác thánh giá theo Chúa Giêsu. Nếu có đau đớn quá thì hãy xin Đức Mẹ phù trợ
cho được bền lòng đến cùng".
Đọc lại tiểu sử các thánh tử đạo Việt
nam chúng ta thấy có vô số lời dụ dỗ thật ngọt ngào. Tại Hà Tĩnh, các quan cho
gọi những người đứng đầu các họ đạo Công Giáo đến và vẽ hình chữ thập xuống đất
rồi bảo họ: "Chúng tôi chẳng muốn bắt ép quí vị điều gì trái nghịch với đạo.
Chúng tôi biết đây không phải là thánh giá mà quí vị tôn thờ. Vậy hãy bước qua
để chúng tôi có thể trình lại với vua là chúng tôi đã thi hành lệnh, nếu không
chúng tôi mắc lỗi trước mặt vua". Riêng tại Nghệ An, ông quan tỉnh đã nói
với người công giáo: "Các ông thật dại dột để mình phải khổ sở. Làm sao chống
lại được với lệnh vua? Đạo ở trong lòng chứ đâu có ở bên ngoài. Tạm chối đi, rồi
hai ba tháng sau theo trở lại. Hãy xem thánh Phêrô đã chối đạo ba lần mà vẫn
còn được cất nhắc lên cao".
Song le, có nhiều phản ứng khác nhau.Có
kẻ giả vờ bước qua để sống an nhàn. Có kẻ đã thản nhiên bước qua vì gia đình và
dòng họ còn cần đến mình. Nhưng vẫn còn đó nhiều người không chịu bước qua dù
chỉ là giả vờ, dù chỉ là tạm thời bỏ đạo rồi khi sóng gió đi qua lại quay lại với
Thiên Chúa. Họ đã vui lòng đón nhận mọi khốn khó để nói lên lòng trung thành với
đức tin vào Chúa.
Riêng cha Anrê Dũng lạc, dù rằng quan
quân mở lối thoát bằng việc cho giáo dân đem tiền chuộc Ngài nhưng ngài vẫn
cương quyết chối từ. Các giáo dân đã tới trại giam khuyên nhủ cha rằng:
"Thưa cha, cha chịu chết thì một mình cha lên thiên đàng, mà nếu cha còn ở
lại thì bổn đạo chúng con được nhờ, vậy xin cha nghĩ lại". Nhưng cha Lạc
đã cấm họ đem tiền chuộc, cha nói: "Tôi bị bắt lần này là lần thứ ba, thì
đó đúng là thánh ý Chúa định cho tôi như vậy, anh chị em đừng mất tiền chuộc
tôi làm gì. Tôi cũng như Thánh Phêrô, khi phải bắt lần trước được giáo dân cầu
nguyện cho và được về, lần thứ hai giáo dân cũng lo liệu cho được thoát khỏi,
nhưng ý Chúa đã định cho tôi phải chết vì Người như thánh Phêrô, thì xin anh em
đừng chuộc tôi nữa".
Là con cháu các thánh tử đạo Việt Nam,
chúng ta luôn tự hào vì có các vị tiền nhân đã quả cảm để sống niềm tin, nhưng
liệu rằng chúng ta hôm nay còn mấy ai dám khước từ những thoả hiệp trần gian để
trung kiên với đức tin của cha ông để lại? Vẫn còn đó những con người vì chút bổng
lộc trần gian đã bỏ đạo, đã chống đối đạo. Vẫn còn đó những con người vì miếng
cơm manh áo, vì tương lai của con cái đã chẳng giữ đạo hay theo đạo một cách hời
hợt. Có cũng như không. Vẫn còn đó những con người vì tiền mà bán mình, bán con
để kiếm đồng đola bất chính. Họ thà rằng lỗi luật Chúa còn hơn là bỏ lỡ cơ hội
lấy tiền, lấy bạc. Họ thà rằng mắt mặt với bà con xóm làng còn hơn là mất túi
ba gang mà "quạ đen ban tặng". Vẫn còn đó những con người bỏ Chúa chứ
không bỏ tiền, bỏ Chúa chứ không bỏ tình, bỏ giáo hội chứ không bỏ danh vọng trần
gian.
Lạy các thánh Tử Đạo Việt Nam là cha ông
của chúng con, xưa các ngài đã dùng máu đào để bảo vệ đức tin xin gìn giữ chúng
con luôn trung kiên theo Chúa, dám khước từ danh lợi thú trần gian để nên chứng
nhân cho Nước Trời trong cuộc sống hôm nay.
20. Sống chứng nhân
(Trích từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Jos.
Tạ Duy Tuyền)
"Tin đạo chứ
không tin người có đạo". Câu nói này tôi
đã nghe nhiều người nói. Nhưng đáng tiếc không phải là những người ngoại đạo
nói mà là những người có đạo nói. Đa số họ là những người đã lâu năm không tới
nhà thờ. Họ bỏ xưng tội rước lễ. Họ bỏ đồng đạo. Họ có đạo nhưng không sống đạo.
Họ mang danh ky-tô hữu nhưng lại bảo rằng "đạo tại tâm" nên không thể
hiện ra bên ngoài dấu chỉ là người ky-tô hữu. Thế nhưng, họ lại biện minh cho
hành động chối đạo của mình là vì chê ghét một ai đó trong đạo. Họ không đến
nhà thờ vì ông A, ông B đã không tốt với họ. Họ bỏ Chúa vì cha xứ quá khắc khe
trong lề luật của Chúa. Họ không còn xưng tội rước lễ vì bà A, bà B vẫn chứng
nào tật ấy có tốt hơn họ đâu? Họ đòi người khác phải làm chứng cho họ còn bản
thân họ thì lại không chịu làm chứng cho tin mừng. Họ đòi người khác sống tốt
còn bản thân họ thì lại nuôi thù oán. Họ đòi người khác phải bác ái yêu thương
còn bản thân họ thì cô lập một mình không gắn bó với giáo xứ. Họ chính là những
cỏ dại đang làm mất đi vẻ đẹp của cánh đồng lúa Giáo hội Chúa Ky-tô.
Họ chính là những người có đạo nhưng không đáng tin vì tính cố chấp, nuôi thù hận
mà bỏ Chúa, bỏ anh em.
Các thánh Tử đạo Việt Nam năm xưa đã
lãnh nhận cái chết tử đạo nhiều khi cũng bởi chính những con người mang danh
ky-tô hữu nhưng đã không còn sống men tin mừng. Họ đã tố giác anh em vì một
chút bổng lộc. Họ đã bán đứng anh em vì cố chấp trong tội lỗi. Như trường hợp
thánh An-rê Kim Thông, ngài đã bị tố giác bởi chính người cháu tội lỗi, ngang
ngược. Ngài đã từng nhắc nhở người cháu sửa đổi nhưng chứng nào tật ấy. Hắn đã
không sửa đổi mà còn tố giác ngài để cầu vinh.
Trường hợp Thánh Phaolô Hạnh cũng thế.
Ngài là một thanh niên nổi tiếng về sự quen biết những tay anh chị trong giới
giang hồ tại chợ Quán. Một lần, chứng kiến một phụ nữ bị đàn em bóc lột không
thương tiếc. Thánh nhân bỗng xúc động ra tay can thiệp, làm áp lực buộc chúng
trả lại tất cả những gì đã lấy của nạn nhân. Vì hành động nghĩa hiệp này, thánh
nhân phải trả giá: họ tố cáo ngài ngoài tội là Kitô hữu, còn tiếp tay với quân
đội Pháp. Thánh nhân bị bắt, bị cầm tù, sau cùng bị trảm quyết tại Chí Hoà ngày
28-5-1859.
Trường hợp Cha Thánh Luca Vũ Bá Loan còn
đáng thương và cảm động hơn. Có hai tên tội phạm đang chờ xét xử. Họ bàn tính với
nhau đến bắt Cha Loan để lập công chuộc tội. Thế là họ đang tâm nộp Cha cho
quan huyện Phú Xuyên, nhưng quan không chịu nhận, họ phải đưa Cha về Thăng
Long. Sau cùng, ngày 5-6-1840, Thánh Luca Loan bị chém đầu.
Điểm chung của các thánh Tử Đạo chính là
can đảm đón nhận thập giá Chúa gửi đến mà không oán hận kẻ làm hại mình.
Các ngài đã vui nhận hy lễ thập giá vì yêu mến Chúa Ky-tô.
Các ngài luôn xác tín rằng: những đau khổ đời này không đáng gì so với vinh
quang bất diệt mai sau. Các ngài dầu có chịu khổ hình trong giây lát nhưng được
sống lại vinh quang muôn đời. Đó là điều mà thánh Đaminh Hạnh đã xác tín, khi
mà quan triều đình nói với ngài: "Xem kìa, đạo trưởng Duyệt đã chịu bỏ đạo,
được tha về, ông cứ làm như thế tôi sẽ tha cho ông". Nhưng thánh Đaminh Hạnh
bình tĩnh trả lời: "Kẻ trung thành với Chúa, khi chết sẽ được lên thiên
đàng".
Mừng kính các thánh Tử đạo Việt Nam là dịp nhắc
nhở chúng ta hãy sống thể hiện niềm tin trung kiên của mình trong mọi tình huống.
Đừng vì một chút cỏ dại lấn át mà chán nản bỏ đạo. Đừng vì một chút giận hờn mà
thù hận cả niềm tin của mình. Đừng chối đạo vì ghét ai đó hay đánh mất niềm tin
vì bên trong Giáo hội vẫn có cỏ lung xen lẫn. Và nhất là đừng bán đứng anh em để
cầu vinh.
Ngày nay chúng ta không còn những bạo
chúa bách đạo bằng gươm đao súng đạn, nhưng đề sống niềm tin đòi hỏi chúng ta
phải chiến thắng chính mình. Không ai bắt chúng ta bỏ đạo nhưng vẫn còn đó những
người bỏ đạo vì chức vụ trần gian, vì lười biếng ham chơi, vì đam mê truỵ lạc.
Không ai ngăn cản chúng ta thực hành đạo nhưng vẫn còn đó những người luôn nuôi
dưỡng hận thù, luôn bất mãn với tha nhân nên đã sống thiếu yêu thương trong lời
nói và việc làm. Không ai dụ dỗ chúng ta bỏ đạo nhưng nhiều người đã lao vào những
con đường tội lỗi, những quan hệ bất chính nên đã không còn xứng đáng mang danh
là ky-tô hữu.
Quả thực, ngày nay không cần những cuộc
bắt đạo những vẫn có hàng ngàn người bỏ đạo vì những danh lợi thú trần gian.
Ngày nay không ai bắt chúng ta bước qua thập giá nhưng vẫn còn đó nhiều người
vì danh lợi thú đã tự tháo bỏ thập giá khỏi bàn thờ gia đình, khỏi cuộc sống của
mình. Họ đích thực là loại người mà nhân loại kết án "tin đạo chứ không
tin người có đạo", vì lẽ họ không còn sống niềm tin của mình.
Lạy các thánh Tử đạo Việt Nam, là cha
ông chúng con. Xin cho chúng con biết tôn thờ Chúa trên hết mọi sự, biết noi
gương các ngài để thể hiện niềm tin trung kiên của mình trước những cám dỗ lợi
lộc của thế gian. Xin giúp chúng con biết thể hiện niềm tin của mình qua đời sống
thánh thiện, bác ái yêu thương. Amen.
21. "Đây Bài Ca Ngàn Trùng"
(Trích từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Jos.
Tạ Duy Tuyền)
Hôm nay lễ các thánh Tử Đạo Việt Nam. Một bầu
khí đại lễ thật hào hùng. Phụng vụ trổi lên lời hoan ca chúc tụng: "Đây
bài ca ngàn trùng. Dâng về Thiên Chúa. Bài ca thắm đượm máu hồng. Từng bao người
anh dũng tiến lên hy sinh vì tình yêu".
Vâng, cuộc đời các thánh tử đạo là một
bài ca dâng về Thiên Chúa. Các ngài ca ngợi Thiên Chúa khi bình an, khi gian
nan, khi dòng đời êm trôi và cả khi sóng gió ba đào. Các ngài ca ngợi Chúa
trong bổn phận thường ngày, khi đầu hôm sớm mai nơi ruộng vườn, nơi phố xá chợ
thị. Các ngài còn ca ngợi Chúa khi đối đầu với sự bách hại vì tin mừng. Các
ngài ca ngợi Chúa trong mọi nơi, trong mọi lúc. Đỉnh cao của lời ca ngợi là bài
ca vinh thắng thắm đượm máu đào. Các ngài đã chiến thắng gian nan, cùm gông, tù
đầy. Các ngài đã vượt lên trên sự sợ hãi của đe doạ đến cả tính mạng để tôn
vinh Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ. Các ngài đã dùng cả cuộc đời để ca ngợi
Chúa. Cho dù cuộc sống có nổi trôi, bất định, các ngài vẫn trung kiên tin thờ
Thiên Chúa.
Cuộc đời các ngài là một bài ca, thế nên
các ngài cũng đáng được ca ngợi. Ca ngợi hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Vì chưng
các ngài là những người có phúc vì dám sống triệt để trang tin mừng yêu thương
của Chúa trong cuộc sống của mình.
Các ngài dám nói lời tha thứ ngay trong
những xúc phạm mà người đời đang tuôn đổ lên các ngài.
Các ngài đã có thể nhìn thấy hoa hồng nở
rộ ngay trong đau đớn của cực hình.
Các ngài dám đi ngược lại với thế gian,
vì phải vâng lời Thiên Chúa hơn là người ta.
Nhìn vào cuộc đời các ngài, ta thấy, đó
là một cuộc đời thật đẹp. Đẹp trong cuộc sống thường ngày luôn chu toan bổn phận
của mình, luôn sống chan hoà tình bác ái với mọi người. Như bà thánh Đê là mẹ của
sáu người con. Tất cả những người con, cô Nụ, cô Mận khi làm nhân chứng đều nói
rằng: "Mẹ tôi rất đạo đức, luôn dạy con cái ăn ngay ở lành, tối sớm kinh
nguyện...".
Đẹp trong cả những gian nan khi bị người
đời ghét bỏ, các ngài vẫn thương yêu, vẫn thứ tha, vẫn ôn hoà để làm chứng cho
lời tin mừng yêu thương, đế nỗi mà những người hành quyết các ngài vẫn cảm phục
yêu mến đức hạnh các ngài. Như trong vụ án linh mục Gioan Đạt, viên cai ngục
nói: "Tôi thấy cụ khôn ngoan đạo đức thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt
vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cỗ quan tài để biểu lộ lòng tôi
quý cụ".
Đẹp trong cả cái chết luôn một mực nói lời
yêu thương. Như trường hợp ông Cai Tả thì yêu thương để xứng với tình Chúa yêu,
ông thường châm chước cho những người mắc nợ và nói: "Mình quên nợ người,
Chúa quên tội mình ". Với ông Năm Quỳnh thì bác ái rõ rệt là hoa quả của đức
tin, ông từng nói với gia đình: "Bà và các con không đồng ý cho tôi lấy của
nhà để giúp người nghèo, tôi sẽ đi vay mượn hoặc làm thuê kiếm tiền giúp đỡ họ
". Vì ông nói: "Tôi chưa thấy ai hay giúp người nghèo khó lại túng bấn
bao giờ. Kinh Thánh chẳng dạy chúng ta coi họ như chi thể của Chúa đó sao? Chúa
đã cho chúng ta sống, tất sẽ quan phòng cho ta đủ dùng".
Như vậy, tử đạo không chỉ là đổ máu. Tử
đạo là dám chết đi con người ích kỷ của mình, chết đi cho thói đời tham sân si
mù quáng. Chết đi những đam mê nhục dục để hèn. Tử đạo là dám sống vì tin mừng
mà chịu thua thiệt, chịu mất mát. Tử đạo là yêu cho đến cùng và sống trọn vẹn
những đòi hỏi của luật yêu thương.
Mừng kính các thánh tử đạo Việt Nam, xin
cho chúng ta là con cháu biết noi gương các ngài để tiếp tục là bài ca ca ngợi
Thiên Chúa. Ca ngợi Ngài bằng cả cuộc sống thắm đượm tình Chúa tình người. Ca
ngợi Ngài mọi nơi, mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh cuộc sống. Nguyện xin các
thánh Tử đạo Việt Nam
dẫn dắt chúng ta luôn bước đi trong tình yêu Chúa. Amen.
22. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
(Bài giảng của Lm. Nguyễn Văn Thuyết)
Sự hiện diện của chúng ta trước bàn thờ
các thánh tử đạo tại Việt Nam hôm nay nói lên lòng hiếu kính của con cháu đối với
tổ tiên, nén hương trầm chúng ta dâng lên biểu lộ lòng hiếu thảo đối với các bậc
tiền nhân. Và đây cũng là lúc thuận tiện để chúng ta suy ngắm hình ảnh, đời sống
và đức hy sinh của các ngài cho niềm tin.
Trước hết chúng ta thành khẩn cúi đầu tạ
ơn Thiên Chúa Cửu Trùng đã ghé mắt đến dân tộc Việt bé nhỏ mà ban cho được ơn
đón nhận hạt giống Đức tin.
Chúng ta không quên tri ân các vị thừa
sai, mà trong số đó có những vị đã được phong thánh. Họ là ai? Về thân nhân gốc
gác? Là những người phương tây, chẳng phải dốt nát hay hám lợi, hay thất nghiệp
thất tình để chọn đời truyền giáo mà cái chết đã được tuyên trước và bản án
treo lơ lửng trên đầu họ. Một ông tây mắt xanh mũi lõ, ngôn ngữ bất đồng, thủy
thổ không hợp, nơi lưu ngụ là một chiếc thuyền gỗ lênh đênh.
Đặc biệt chúng ta nhớ đến các vị tử đao
tại Việt Nam.
Tại quê hương, cơn bách hại đến sớm, nghĩ tưởng hạt giống đức tin bị chết ngạt
dưới những áp bức và giết chóc; nhưng không, những con người Việt tuy bé nhỏ về
thân xác, niềm tin còn mới mẻ nhưng đã kịp cắm sâu đức tin đời mình dưới chân
thập giá, trái tim đã kịp nóng để đối diện cơn hồng thủy của sự khước từ và loại
bỏ. Như vậy, từ các ngài, quê hương chúng ta có thể ví được như một mảnh đất
màu mỡ chỉ đợi hạt giống đức tin chạm đến thì vươn vai lớn lên. Minh chứng lòng
tin bằng máu tử đạo của các ngài chính là hoa quả sau hơn hai thế kỷ kể từ việc
khởi đầu của giáo sĩ I-ni-khu năm 1533.
Thành phần tử đạo ngoài giám mục, linh mục
là những người chuyên lo về tôn giáo, còn có các giáo dân như quan trường
(T.Hy), quan án (T. Khảm), chính tổng, lý trưởng.
Những cám dỗ sống bình yên đã không thay
thế được chọn lựa chịu bắt bớ, gông cùm vì đức tin của các ngài như thánh tử đạo
Gioan Đạt, Annê Lê thị Thành…
Những cám dỗ sống trong ân huệ này khác
đã không thể thay thế được chọn lựa chịu sống thiếu thốn khi bị giam cầm vì đức
tin như thánh tử đạo Garelin Kính khi gửi thư về nhà người viết: những thiếu thốn,
những cực nhọc đủ thứ đến với chúng tôi, nhưng tôi dám khẳng định rằng: tôi được
hạnh phúc trong túp lều tranh của tôi hơn vua nước Pháp trong hoàng cung của
ngài; hay như thánh chủng sinh Tôma Trần văn Thiện được hứa tặng cho cả cô gái
con quan huyện….
Những cám dỗ sống tự do không thể thay
thế được chọn lựa chịu giam trong ngục thất vì đức tin như thánh Cuenot Thể viết:
dù chỉ còn một giáo sĩ chẳng làm được gì ngoài việc đọc kinh thần vụ, thì
nguyên sự hiện diện của vị đó cũng đủ nâng đỡ niềm tin và sinh hoạt cho các tín
hữu rồi…
Và cám dỗ sự sống đời này không thể thay
thế được chọn lựa chết vì niềm tin như thánh Hồ Đình Hy: Tôi cam chịu mọi cực
hình để nên giống Đức Ky Tô; hay như thầy giảng Nguyễn Cầm, khi được nói nhắm mắt
bước đại qua Thập giá thầy đáp: “thưa quan, mắt thì nhắm được chứ lòng và trí
khôn không thể nhắm được, nên tôi chẳng làm”.
Vậy đó, mỗi cuộc đời tử đạo là một cuộc
tự hiến. Cuộc đời các chứng nhân đức tin chịu đốt cháy trong lao khổ, trong nhục
hình, và cả cái chết đều như một hiến tế dâng lên Thiên Chúa, sẽ trở nên hạt giống
trổ sinh các Kytô hữu cho ngàn muôn thế hệ. Hơn nữa, việc chọn chết đi cho đức
tin của các vị tử đạo không phải là khơi lên máu nóng tìm đến cái chết vì cái
chết nguyên nó chẳng có giá trị gì hết, chính sự sống mới làm nên muôn điều huyền
diệu. Vì thế khi chọn lựa mãnh liệt và dứt khoát trong mầu nhiệm tự hủy và hiến
tế chính là các ngài chọn lựa sự sống muôn đời bất diệt.
Hạt giống đức tin mà ngày nào các vị tử
đạo chịu chôn vùi trong lòng đất quê hương, thì ngày nay chính chúng ta cũng
đang được mời gọi chăm bón và vun tưới trong một cơn bão miên trường, ngày một
khốc liệt. Có khác chăng là được khoác bằng những chiếc áo hình thức khác nhau
mà thôi.
Ngày hôm nay, không gì có thể ngăn trở
chúng ta hiến tế. Các thánh tử đạo tại Việt Nam được hồng phúc hiến tế sự sống
một lần làm hy lễ. Còn chúng ta cứ phải hiến tế đời mình mỗi ngày và mọi ngày
khi chúng ta sống đời nhân chứng đức tin. Khi mà chúng ta thiêu hủy đời mình
như ngọn nến; đốt hết những nhát đảm, những yếu đuối, những toan tính thiệt hơn
và những khô cằn nội tâm. Can đảm làm chứng cho chân lý và Tin Mừng.
Chúng ta nguyện xin các thánh tử đạo tại
Việt Nam nguyện cầu cùng Chúa cho quê hương và con người Việt Nam để dòng máu
các ngài đã đổ xuống, đã tưới gội, đã kiến tạo và đã đặt nền móng cho tòa nhà
Giáo Hội tại quê hương tiếp tục lớn lên, trổ sinh ngàn vạn hoa trái mới để ánh
sang đức tin sẽ là bình minh, một bình minh chiếu rọi rạng ngời trên đất Việt cho
đến thời viên mãn, ngày chúng ta đoàn tụ với cha anh chúng ta trên cõi bất diệt.
24. Bài giảng của ĐGM. Giuse Võ Đức Minh
(Ga 12, 24-26)
NẾU HẠT LÚA MIẾN CHẾT ĐI,
THÌ SẼ SINH NHIỀU BÔNG HẠT.
Kính thưa Cộng đoàn phụng vụ,
Bài Phúc Âm của lễ Các Thánh Tử Đạo Việt
Nam hôm nay (Ga 12, 24-26), tập trung vào biểu tượng hạt lúa miến, được hiểu là
biểu tượng của chính Chúa Kitô, từ đó ý nghĩa toả lan sang các Kitô hữu, đặc biệt
các Kitô hữu chết vì đạo đã được Giáo Hội tôn phong Hiển Thánh hoặc Chân Phước
để nêu gương cho mọi thành phần Dân Chúa đang tiếp tục cuộc hành trình đức Tin
giữa dòng đời.
“Nếu hạt lúa miến không chết đi, thì nó
vẫn trơ trọi một mình ”. Câu này chứa đựng một chân lý thật sâu sắc, đó là: ý
nghĩa và giá trị của hạt lúa miến hệ tại cuộc hiện hữu của nó cho kẻ khác, để
phục vụ kẻ khác. Nếu không như thế, nó sẽ “trơ trọi một mình’’. “Trơ trọi một
mình” là đặc điểm của cuộc hiện hữu vị kỷ, ích kỷ, và vì thế không có ích cho kẻ
khác. Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng: hạt lúa miến chỉ đạt được phẩm giá cao quý của
nó, khi chấp nhận từ bỏ chính mình, để phục vụ sự sống và sự tăng trưởng của mọi
người.
“Nếu nó chết đi, thì sẽ sinh nhiều bông
hạt ”: Chắc hẳn trong đoạn Phúc Âm này, Chúa Giêsu nghĩ tới kinh nghiệm trồng
trọt của nhà nông: hạt-lúa-giống gieo vào lòng đất phải mục nát, phải thối rữa,
phải chết đi, tức là phải chấp nhận mất căn tính hạt lúa, nhìn ở bình diện hiện
tượng, để nẩy thành cái mầm, rồi lớn lên thành cây lúa chính, từ đó nẩy sinh
thêm nhiều cây lúa phụ, tất cả cùng mang nhiều bông hạt. Chỉ một hạt lúa chết
đi, mà sinh ra hằng trăm hạt lúa mới. Đó là sự gia tăng về số lượng. Đến lượt
những hạt lúa mới phát sinh từ cái chết của hạt-lúa-giống, cũng chấp nhận bị nghiền
nát, nghĩa là chấp nhận mất căn tính hạt lúa, để trở thành tinh bột, hoà mình với
nước, với men, nhờ đó dậy men lên, rồi trải qua thử thách của lửa để trở thành
tấm bánh thơm ngon và giàu chất dinh dưỡng cho con người. Đó là sự gia tăng về
chất lượng. Đối với hạt lúa miến, một cách nào đó, chết đi là tự hạ, tự huỷ ra
không; còn gia tăng số luợng và chất lượng là siêu thăng bản chất của hiện hữu.
Vì thế, cái chết của hạt lúa miến được Chúa Giêsu chọn làm biểu tượng cho sự tự
hạ, tự huỷ của Người như bước chuẩn bị cần thiết cho việc Thiên Chúa siêu thăng
và tôn vinh Người qua mầu nhiệm Phục Sinh. Như vậy, Tự hạ và Siêu thăng qua sự
Chết và sự Phục sinh, đó là như một quy luật chi phối định mệnh của Hạt Lúa Miến.
Mặt khác, vì là một biểu tượng minh hoạ cách sâu sắc ơn gọi của Vua Kitô và của
các Kitô hữu, nên Hạt Lúa Miến cũng là một huyền nhiệm.
“Máu các Vị Tử Đạo là hạt giống từ đó nẩy
sinh nhiều tín hữu Kitô”.
Câu nói lừng danh này của Tertulianô có
giá trị trước tiên đối với dòng Máu của Vua Giêsu, Vị Tử Đạo vĩ đại, đã đổ ra
trên Thánh Giá. Máu các Kitô hữu Tử đạo cũng có được khả năng sinh sản thiêng
liêng ấy, là vì các ngài đã được nuôi dưỡng bằng Máu-Thánh-Thể của Vua Giêsu chịu
đóng đinh. Ngoài ra chúng ta thấy được ý nghĩa đích thực của cuộc sống và cái
chết của các Thánh Tử Đạo Việt Nam,
khi chúng ta suy gẫm về các hành động và lời nói của các ngài dưới ánh sáng Lời
Chúa.
Trước tiên, tử đạo có nghĩa là làm chứng,
làm chứng bằng cách chấp nhận chết hoặc đổ máu mình ra để khẳng định niềm tin
vào Thiên Chúa,tiếp nối hành động của chính Vua Giêsu trên Thánh Giá. Cái chết
để làm chứng triệt để như thế đuợc đồng hoá với “của lễ toàn thiêu” như Sách
Khôn ngoan trong bài đọc 1 nói với chúng ta (x. Kn 3, 6). Theo tác giả Thư Do
Thái, khi Đức Kitô đổ máu mình ra trên Thánh Giá, là lúc Người “tự hiến tế làm
lễ vật vô tì tích cho Thiên Chúa, nhờ Thần Khí vĩnh cửu thúc đẩy” (Dt 9, 14). Vậy
thì, hành động của các Thánh Tử Đạo chấp nhận chết vì đức tin cũng được thúc đẩy
bởi Chúa Thánh Thần và nhờ đó các ngài trở thành “của lễ toàn thiêu”, và “của lễ
thiêng liêng” (x. Rm 12, 2; 1 Pr 2, 5) được Thiên Chúa ưng nhận. Thánh Phaolô
Phạm Khắc Khoan, Linh mục Tử đạo, cầu nguyện trước khi bị hành hình cùng một
lúc với hai Thầy Kẻ Giảng như sau: “Vinh danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa là
Chúa Cả trời đất, chúng con xin dâng mạng sống cho Ngài” [1]. Vâng, hành động của
các Thánh Tử Đạo tế hiến mạng sống mình làm của lễ toàn thiêu và của lễ thiêng
liêng, được tô điểm thêm bởi Hy tế ngợi khen (x. Dt 13, 15; Hs 14, 3…). Cái chết
lành thánh của các ngài, cũng giống như cái chết cứu độ của Chúa Giêsu, diễn ra
trong tâm tình cầu nguyện sâu lắng.
Thánh Tử Đạo Carolô CORNAY Tân, một Linh
mục Thừa sai Pháp, trả lời vị quan toà thẩm vấn mình rằng: “Chúng tôi chỉ
chuyên lo giảng đạo, khuyên người ta ăn ngay ở lành, dạy con cái thờ cha kính mẹ,
kêu gọi thần dân vâng phục vua quan, tôi đâu có thể đi ngược lại giáo huấn của
mình mà chống nhà vua được?”[2]. Câu nói sau đây của Thánh Linh mục Tử Đạo
Phaolô Lê Bảo Tịnh thật hết sức ý nghĩa: “Thân xác tôi ở trong tay quan, quan
muốn làm khổ thế nào tuỳ ý, nhưng linh hồn tôi là của Chúa, không có gì khiến
tôi hy sinh nó được”[3].
Bài học thứ hai là thái độ kiên định
trong sứ vụ làm chứng cho sự thật. Đây là nét nổi bật nhất của Vua Giêsu Tử Đạo
và của tất cả các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Chúa Giêsu làm chứng cho sự thật
này, là: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một, để phàm ai tin
vào Con của Người thì khỏi phải diệt vong, nhưng có sự sống đời đời” (Ga 3,
16). Chính Chúa Giêsu ý thức mình là quà tặng của Chúa Cha. Người đến thế gian,
“để phục vụ và hiến ban mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20, 28). Người
trở thành Con Đường cứu độ, dẫn tới Sự Sống đời đời và vì thế Người là hiện
thân của Sự Thật, nghĩa là của ý muốn cứu độ thế gian của Thiên Chúa Cha. Sự Thật
ấy là nội dung chính yếu của Tin Mừng. Về phần mình, các Thánh Tử Đạo Việt Nam
nhất quyết không bước qua hoặc dẫm lên Thánh Giá, biểu tượng của Đạo Giêsu, mà
vua quan phong kiến xưa gọi là “tả đạo Gia-tô”; các ngài chấp nhận bị giết để
làm chứng trước mặt mọi người rằng Đạo Gia-tô, Đạo Giêsu là Đạo Thật, là Con Đường
đích thực dẫn vào Sự Sống bất diệt. Dầu thế gian đón nhận hay khước từ, thì mọi
Kitô hữu hôm nay vẫn phải dùng lời nói và cả cuộc sống của mình làm chứng cho Sự
Thật đó, theo gương Chúa Giêsu và các Chứng Nhân đức tin anh dũng.
Bài học thứ ba là lòng bác ái không bờ bến
đối với mọi người, kể cả những người giết hại mình. Về điểm này, chính Chúa
Giêsu đã nêu gương một cách cụ thể: không những Người dạy các môn đệ phải “yêu
thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi” mình (x. Mt 5, 44), mà
chính Người, khi bị treo trên Thánh Giá, đã cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những
kẻ giết hại Người (x. Lc 23, 34). Thánh Emmanuen Lê Văn Phụng, trùm trưởng của
họ đạo Đầu Nước, Cù Lao giêng, đã nói lời trăng trối với con trai của mình tại
pháp trường: “Con ơi, hãy tha thứ, đừng tìm báo thù kẻ tố cáo cha nhé” [4]. Có
thể nói: tất cả các Thánh Tử Đạo Việt Nam khi bị thẩm vấn, cầm tù và hành
quyết, không hề nói một lời trách móc, mỉa mai hay nguyền rủa những kẻ làm hại
mình. Càng suy gẫm về những lời đối đáp của các ngài với vua quan bách hại các
ngài, hay những lời các ngài tâm sự với người thân của mình, chúng ta mới thấy
được điều kỳ diệu của Đạo Tình Thương: Tình thương mạnh hơn sự chết; Tình
thương chiến thắng hận thù.
Kính thưa cộng đoàn,
Trong ngày kỷ niệm đúng 50 năm truớc, tức
vào ngày 24-11-1960, Đức Giáo Hoàng Chân Phước Gioan XXIII ban hành Sắc chỉ
Venerabilium Nostrorum thiết lập Hàng Giáo Phẩm Công Giáo tại Việt Nam. Với
tâm tình tri ân, chúng ta hãy “Tạ ơn Thiên Chúa về hồng ân đức tin vào Chúa
Giêsu Kitô. Hồng ân này đã được rất đông các Vị Tử Đạo đón nhận cách quảng đại,
sống và làm chứng; các ngài là những người muốn loan báo chân lý và tính phổ
quát của niềm tin vào Thiên Chúa” [5].
Ngoài ra, chúng ta chân thành xin các
ngài chuyển cầu cho chúng ta biết dùng ân huệ của Năm Thánh hồng phúc này và
dùng việc nhớ lại chứng từ cao quý của các ngài để kích động đức mến, gia tăng
đức cậy và củng cố đức tin mà đôi lúc bị thử thách bởi chính đời sống thường
ngày của chúng ta [6].
Nguyên xin Đức Mẹ La Vang, Nữ Vương Các
Thánh Tử Đạo Việt Nam, hướng dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu, để cùng với Con
yêu dấu của Mẹ và Các Thánh Tử Đạo Việt Nam chúng ta đi vào huyền nhiệm Hạt Lúa
Miến: chết đi mới sinh nhiều bông hạt, làm nên nhiều tấm bánh, bẻ ra, chia sẻ
cho đồng bào của chúng ta được sống và sống dồi dào. Chúng ta chia sẻ sự sống với
đồng bào, không chỉ bằng bánh vật chất, mà bằng cả bánh nhân văn và văn hoá, nhất
là bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể; có tất cả các thứ bánh đó thì mới thực sự
có sự phát triển toàn diện của mỗi người và mọi dân tộc; và có chia sẻ những tấm
bánh đó cho mọi người, nhất là người nghèo và người bị gạt ra lề xã hội, mới thực
sự tạo được sự HIỆP THÔNG toàn diện và sâu sắc trong Giáo Hội, để Giáo Hội trở
nên Bí Tích, nghĩa là “dấu chỉ và khí cụ của sự hiệp nhất giữa con người với
Thiên Chúa và giữa con người với nhau” [7]. Theo nghĩa đó, “xây dựng sự HIỆP
THÔNG trong Giáo Hội là chìa khóa của SỨ VỤ”
[8] làm chứng cho Chúa Kitô và Phúc Âm của Người. AMEN.
------------
[1] Xem Kinh Sáng ngày 24/11, điệp ca 2.
[2] Xem Kinh Sách ngày 24/11, điệp ca 1.
[3] Xem Kinh Sáng ngày 24/11, điệp ca của
Thánh ca Tin Mừng.
[4] Xem Tài Liệu Làm Việc của Đại Hội
Dân Chúa, cước chú 109.
[5] Xem Huấn từ ĐTC Beneđictô XVI ngỏ với
HĐGMVN ngày 27-06-2009.
[6] Xem Thư ĐTC Beneđictô XVI gửi ĐC Chủ
Tịch HĐGMVN dịp lễ khai mạc Năm Thánh tại Sở Kiện 24-11-2009.
[7] Xem TLLV, chương II.
[8] Xem Sứ điệp Khánh Nhật Truyền Giáo
năm 2010 của ĐTC Beneđictô XVI.
25. Không thuộc về thế gian
(Trích từ ‘Manna’)
Suy Niệm
"Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới
ba triều vua, lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước. Nay hạ thần cam
chịu mọi cực hình để nên giống Đức Kitô." Đó là câu trả lời của ông Micae
Hồ Đình Hy khi vua Tự Đức mời ông giả vờ bước qua thánh giá.
Ông là người thanh liêm, được nhà vua hết
sức tín cẩn, cho phụ trách ngành dệt trong cả nước. Nhưng ông cũng là một Kitô
hữu xông xáo làm việc tông đồ.
Ông không thấy có gì xung khắc giữa việc
phục vụ đất nước với việc phục vụ Giáo Hội.
Khi quân Pháp bắn phá cảng Đà Nẵng thì
ông bị bắt, bị kết án là khinh luật nước, chống lại triều đình.
Ông Hy đã chấp nhận cái chết một cách
bình thản. Trước khi chịu chém, ông còn xin hút một điếu thuốc, hương vị cuối
cùng của trần gian mà ông muốn nếm trước khi nếm hương vị của thiên đàng vĩnh cửu.
Cuộc sống và cái chết của thánh Micae Hy
soi sáng cho đoạn Lời Chúa hôm nay.
Người Kitô hữu có hai đầu dây cần phải
giữ. "Như Cha đã sai Con đến trong thế gian, Con cũng sai họ đến trong thế
gian" (Ga 17,18).
Thế gian là nơi thánh Hy đã sống cho đến
chết. Thế gian là đất nước, là vua quan, là thứ dân... Ngài đã yêu mến và sống
tận tình cho thế gian đó.
Thế gian đã trở nên như máu thịt của người
Kitô hữu vì đó là nơi họ được Chúa sai đến để phục vụ, và là nơi họ trở thành
người Kitô hữu trọn vẹn.
"Họ không thuộc về thế gian, cũng
như Con không thuộc về thế gian" (Ga 17,16).
Ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế
gian, nghĩa là không hoàn toàn nghĩ và sống như thế gian.
Người Kitô hữu không coi thường mọi giá
trị của xã hội, nhưng họ có một thang giá trị riêng.
Họ biết đâu là những giá trị mà họ phải
tôn trọng. Nếu hy sinh những giá trị đó, họ sẽ đánh mất chính mình và chẳng
đóng góp được gì cho bộ mặt thế giới.
Họ là nhúm men vùi trong đống bột. Men
không được tách khỏi bột, và men cũng không được biến chất thành bột. Trong cả
hai trường hợp, men đều trở nên vô ích.
Chúng ta vẫn bị cám dỗ buông một trong
hai đầu dây. Bỏ một trong hai đều làm mất căn tính của người Kitô hữu.
Ơn gọi Kitô hữu đặt ta vào một thế đứng
chênh vênh, thế đứng dễ ghét, thế đứng đòi phải trả giá.
Tử Đạo là cách làm chứng tuyệt vời trong
thời bách hại.
Trong thời kinh tế thị trường, cần có những
cách làm chứng khác. Người Kitô hữu vẫn bị cám dỗ bước qua lương tâm mình để
mua lấy chút địa vị, lợi nhuận, an toàn, thoải mái...
Thế gian không ở ngoài ta, thế gian ở
ngay trong lòng ta.
Ước gì chúng ta dám chấp nhận thiệt
thòi, phiền hà, mất mát, khi can đảm làm chứng cho lòng tin và tình yêu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Kitô hữu vừa phải đồng hành với thế
gian, vừa có lúc phải lội ngược dòng với thế gian. Bạn thấy điều đó có quá khó
không? Làm sao thực hiện được lý tưởng đó?
Thời nào, nơi nào, làm chứng cho Chúa
cũng có cái khó riêng. Đâu là cái khó khi bạn phải làm chứng cho Chúa trong một
xã hội chạy theo tiền bạc và hưởng thụ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,
Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên
tục. Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian, lại vừa sai chúng con vào trong
thế gian đó.
Thế gian này vàng thau lẫn lộn. Có khi
vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài.
Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của
mình, giữ được vị mặn của muối, và sức tác động của men, để đem đến cho thế
gian một linh hồn, một sức sống.
Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo, chỉ sợ
mình bỏ sống đạo vì bị quyến rũ bởi bao thú vui trần thế.
Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng
chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo, những người đã đặt Chúa lên trên mạng
sống.
Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng
con, thì xin cho chúng con cảm thấy niềm vui của người được diễm phúc nên giống
Chúa. Amen.
26. Anh em làm chứng cho Thầy
(Trích từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Trong số 117 vị Tử Đạo Việt Nam, được phong
thánh năm 1988, có một phụ nữ duy nhất, mẹ của 6 người con. Đó là bà Anê Lê Thị
Thành, còn gọi là bà Đê.
Trước khi là một anh hùng tử đạo, bà đã
là một người mẹ hiền gương mẫu. "Thân mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo
dục các con. Chính người dạy chúng tôi đọc chữ và học giáo lý, sau lại dạy cách
dự thánh lễ và xưng tội rước lễ." Đó là lời khai của cô con gái út trước
giáo quyền.
Nhà bà Đê là nơi các linh mục trú ẩn. Buổi
sáng lễ Phục Sinh năm 1861, quan Tổng Đốc Nam Định cho quân bao vây làng của
bà. Bà Đê bị bắt lúc đã 60 tuổi. Bà bị đánh đập tra tấn, bị ép phải chối đạo, bị
lôi qua Thánh Giá, bị bỏ rắn độc vào người. Khi con gái đến thăm bà trong nhà
giam, đau đớn vì thấy quần áo mẹ loang đầy vết máu, bà đã an ủi con với một niềm
lạc quan lạ lùng: "Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu
khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?" Sau ba tháng chịu đủ mọi cực hình,
người phụ nữ ấy đã hiến đời mình cho Chúa.
Cuộc đời của vị thánh nữ tiên khởi của
Việt Nam
là một sức nâng đỡ lớn cho chúng ta. Thiên Chúa đã làm điều phi thường nơi một
người phụ nữ già nua, yếu đuối. Quan "Hùm Xám" tỉnh Nam Định cũng
phải bó tay trước sự yếu đuối kiên vững của bà.
Khôn ngoan và đơn sơ, can đảm chịu đau
khổ, bà thánh Đê đã phó mặc cho Chúa đời mình. Bà chẳng lo phải nói gì, phải
làm gì trước tòa án, vì sức mạnh của Thánh Thần ở với bà.
Hội Thánh thời nào cũng cần những người
dám sống vì đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời.
Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ
máu, không đòi hy sinh mạng sống, nhưng lại đòi hy sinh cả tương lai vững vàng ổn
định.
Mỗi ngày, chúng ta thường bị đặt trước
những chọn lựa, trước thập giá của Đức Giêsu, y hệt như các vị tử đạo ngày xưa.
Có khi chúng ta đã bước qua thập giá,
khi chọn mình, đã chối Chúa bằng chính cuộc sống.
Càng có tự do, ta lại càng dễ sa sút đức
tin. Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những thụ tạo gây ra những cuộc bách
hại êm ả và khủng khiếp mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện.
Ước gì chúng ta không để mất đức tin được
mua bằng giá máu của bao vị tử đạo, và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao
đức tin ấy cho hơn 70 triệu đồng bào trên quê hương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Các vị tử đạo làm chứng cho Chúa bằng
cách hy sinh tính mạng. Theo ý bạn, trong thời đại đất nước mở cửa, đâu là cách
thức làm chứng của người kitô hữu? (làm chứng ở trường, ở nơi làm việc, ở các
chỗ giải trí vui chơi...)
Theo ý bạn, xã hội hôm nay dễ nhạy cảm với
cách làm chứng nào của người kitô hữu? Phải sống như thê nào để người ta dễ có
cảm tình với Đức Giêsu?
Cầu Nguyện
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam, các ngài
đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm. Sự
hy sinh của các ngài cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết và chết là cửa mở vào
cõi sống bất diệt. Dù mang phận người yếu đuối, nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng, các
ngài đã chiến thắng khải hoàn. Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài biết
can trường sống đức tin của bậc cha anh trong một thế giới vắng bóng Thiên
Chúa, biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu bằng một đời hiến thân phục vụ. Ước
gì ngọn lửa đức tin mà các ngài đã thắp lên bằng cuộc sống và cái chết, được bừng
tỏa trên Tổ quốc Việt Nam.
Ước gì máu thắm của các ngài thấm vào mảnh đất quê hương để công cuộc truyền
giáo sinh nhiều hoa trái.
28. Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng – Mt 10,17-22
(Trích từ ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Qua những lời Chúa Giêsu loan báo cho
các môn đệ về những bách hại gặp phải và thái độ phải có khi đối diện với những
bách hại này. "Đừng lo sợ phải nói gì và nói thế nào, vì Chúa Thánh Thần sẽ
soi sáng cho biết phải nói gì". Sự bách hại là số phận không thể tránh được
của người đồ đệ, bởi vì nếp sống và sứ điệp của người đồ đệ của Chúa phơi bày
những tật xấu của thế gian.
Tác giả Phúc Âm theo thánh Gioan viết rõ
ra lý do của sự thù nghịch giữa thế gian và người đồ đệ như sau:
"Nếu thế gian ghét các con, các con
nên nhận biết rằng thế gian đã ghét Thầy trước các con. Nếu các con thuộc về thế
gian thì thế gian sẽ yêu những gì thuộc về nó, nhưng vì các con không thuộc về
thế gian và vì Thầy đã chọn các con và tách các con ra khỏi thế gian, nên thế
gian ghét các con. Các con hãy nhớ lời Thầy dạy bảo: "Tôi tớ không trọng
hơn chủ". Nếu họ đã bắt bớ Thầy, chắc chắn họ sẽ bắt bớ các con".
Người đồ đệ được đồng hóa với Chúa Giêsu
và chia sẻ số phận của Ngài, nhưng người đồ đệ cảm thấy mình như là yếu đuối,
không sức mạnh để tự mình chống lại những bách hại. Sự yếu hèn của môn đệ là sức
mạnh của Thiên Chúa. Vì biết mình yếu đuối, người đồ đệ hết lòng tin tưởng vào
Chúa, sống gắn bó với Người.
Phúc Âm theo thánh Mátthêu đã được viết
ra sau cuộc bách hại đầu tiên mà cộng đoàn Giáo Hội đầu tiên đã trải qua, như
cuộc bách hại và tử đạo của thầy Stephano tại Giêrusalem. Các tông đồ cũng đã từng
bị tù rồi chịu chết vì đạo. Phản ứng tự nhiên của con người trước những khó
khăn, những bách hại là lo sợ. Và Chúa Giêsu tiếp tục khuyên các tông đồ hãy
can đảm làm chứng cho Ngài. Người đồ đệ của Chúa cần sẵn sàng cho mọi nghịch cảnh
xảy ra.
Trong đoạn Phúc Âm chúng ta đọc trên
đây, chúng ta có thể ghi nhận là Chúa Giêsu đã kêu gọi "đừng sợ" đến
ba lần:
- "Các con đừng sợ những kẻ vu oan
vì không có gì ẩn khuất mà không bị lộ, vì sự thật luôn là sự thật".
Trung thành với sự thật đôi khi làm ta
phải trả một giá rất đắt và có khi phải trả cả bằng chính mạng sống mình.
- Lần thứ hai Chúa Giêsu nhắc: "Các
con đừng sợ và đừng sợ những kẻ có thể làm hại thân xác, làm thiệt thòi cho phần
vật chất, nhưng không thể nào giết được linh hồn".
Lý do sâu xa của lòng can đảm Phúc Âm mà
Chúa muốn cho các đồ đệ là quan niệm đích thực về con người, bao gồm thể xác và
linh hồn. Thể xác, vật chất có thể bị thiệt thòi, nhưng linh hồn, tinh thần của
con người sẽ không hề hấn gì nếu người đó vững lòng tin tưởng vào Chúa.
- Lần thứ ba Chúa Giêsu nhắc: "Các
con đừng sợ vì lý do các con quí trọng hơn chim sẻ nhiều. Thiên Chúa quan phòng
chăm sóc mọi sự, Ngài chăm lo cho chim sẻ ngoài đồng thì huống hồ là con người
cao trọng hơn mà không được Thiên Chúa chăm sóc cho hay sao".
Đó là ba lý do để đừng lo sợ và hãy tin
tưởng vào Thiên Chúa quan phòng. Ý thức mình được Thiên Chúa yêu thương chăm
sóc, người đồ đệ sẽ nhất quyết dấn thân nhiều hơn, dấn thân làm chứng cho Chúa.
"Ai nhìn nhận Thầy trước mặt mọi
người, thì Thầy cũng nhìn nhận người ấy trước mặt Cha Thầy ở trên trời".
Đó là những lời dạy của Chúa Giêsu cho những đồ đệ đầu tiên ngày xưa, những vẫn
luôn còn giá trị cho những đồ đệ của Chúa ngày hôm nay. Đừng sợ gian nan thử
thách để theo Chúa, đó là sự can đảm của người Kitô qua mọi thời đại.
Lạy Chúa,
Xin giúp con mở rộng mọi cửa nẻo tâm hồn
để đón nhận Chúa đến sống với chúng con, để ban sức mạnh cho chúng con. Xin vì
công nghiệp các thánh Tử Đạo Việt Nam, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con được
trở thành những chứng nhân trung thành của Chúa trong mọi hoàn cảnh.
29. Tử Đạo
Trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu đã
tiên báo cho các môn đệ:
- Người ta sẽ ghét bỏ các con, sẽ bắt bớ
và xua đuổi các con ra khỏi nhà hội. Sẽ đánh đập và nhốt các con vào ngục tù,
và sau cùng họ giết các con vì môn đệ không trọng hơn thày.
Lời tiên báo của Chúa Giêsu đã được thực
hiện, trải qua dòng thời gian, hằng triệu các tín hữu đã đi vào dấu chân của
các tông đồ, chấp nhận hy sinh mạng sống để làm chứng cho Tin Mừng Phúc âm.
Có thể nói được rằng Kitô giáo đã lớn
lên trong máu và nước mắt. Ở mọi nơi và trong mọi lúc, Giáo Hội đều gặp phải những
bắt bớ và cấm cách, từ những thế kỷ đầu khi Giáo Hội còn phôi thai, cho đến tận
ngày hôm nay khi Giáo Hội đã có mặt ở tận cùng bờ cõi trái đất.
Nào là những cuộc bách hại đẫm máu ở Đại
Hàn, Nhật Bản, Phi Châu và ngay cả trên đất nước Việt Nam thân yêu, suốt ba thế
kỷ, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, biết bao nhiêu bắt bớ cũng đã xảy ra. Thực vậy,
Tin mừng được chính thức loan truyền trên quê hương Việt Nam vào thời Hậu
Lê thuộc thế kỷ 16. Thế nhưng, ngày từ lúc còn phôi thai Giáo Hội Việt Nam đã gặp phải
những cấm cách đúng như lời Chúa đã phán: Nếu họ đã bắt bớ Thày, thì họ cũng sẽ
bắt bớ các con. Cuộc bách hại khởi đầu từ thời Hậu Lê, qua nhà Tây sơn, rồi tới
triều Nguyễn và đặc biệt trở nên gắt gao dưới thời Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức.
Suốt ba trăm năm, biết bao nhiêu người đã phải rời bỏ làng mạc thân yêu trốn chạy
vào những nơi rừng thiêng nước độc, cốt bảo toàn đức tin của mình. Hơn 130 ngàn
người đã ngã gục dưới những cực hình dã man, để trờ thành những chứng nhân bất
khuất cho Đức Kitô. Trong đó 117 vị đã vị đã được tôn phong lên hàng hiển
thánh, gồn 8 giám mục, 50 linh mục, 16 thày giảng, 1 chủng sinh và 42 giáo dân.
Thế gian thù ghét Chúa Giêsu và Giáo Hội,
Sự thù ghét ấy vẫn còn đó, cho dù con người hôm nay đã bước vào thời đại văn
minh và tiến bộ. Thực vậy, Ngày hôm nay trên thế giới vẫn còn có biết bao nhiêu
Giám mục, Linh mục và giáo dân bị tù tội, bị áp bức chỉ vì một lý do duy nhất
đó là đã tin theo Đức Kitô.
Thế nhưng như người ta vẫn thường bảo:
- Cái đe làm cho chiếc búa bị hỏng.
Thế gian nhục mạ, bắt bớ Giáo Hội và rồi
họ đã chết, còn Giáo Hội thì vẫn đứng vững, vẫn giữ được vẻ tươi trẻ và sức sống
của mình. Chúng ta thử nhớ lại ảnh hưởng to lớn mà Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã
tạo được trên thế giới và cái chết của ngài đã gây ra một sự mất mát đớn đau. Rồi
những tình cảm nồng hậu người ta đã dành cho Đức Phaolô VI, cũng như Đức
Gioan-Phaolô II trong những chuyến công du.
Từ đó chúng ta nhận thấy gian nguy và thử
thách là một cái gì gắn liền với thân phận của Giáo Hội, hay nói cách khác, là
một phần của đời sống Giáo Hội, bởi vì không một vị thánh nào mà không bị khổ
đau, mà không bị đổ máu.
Thế nhưng chấp nhận cái chết trong phút
chốc có thể là một việc dễ dàng. Nhưng từng giây từng phút, từ bỏ những ước muốn
riêng tư để làm vui lòng Chúa, chu toàn mọi bổn phận nhỏ bé không tên, tha thứ
mọi lỗi lầm, mọi vấp phạm, mọi va chạm, đó có thể là một việc khó, đòi phải có
một đức tính kiên nhẫn và một lòng mến chân thành. Việc làm đó không hào quang,
không rực rỡ, không một ai biết đến trừ ra chính Thiên Chúa.
Đôi lúc đau khổ và thử thách còn là một
phần của đời sống người Kitô hữu: Nào cám dỗ, nào bệnh tật, nào khó khăn, nào
chết chóc. Dĩ nhiên chúng ta phải làm việc, để tạo dựng một cuộc sống ấm no hạnh
phúc và tiện nghi. Thế nhưng chúng ta phải nhớ rằng: Sống đạo và chạy theo vui
thú là hai việc làm không thể đội trời chung với nhau. Bởi vì đời sống người
Kitô hữu là một cuộc chiến đấu không ngừng chống lại sự bành trướng của tinh thần
thế gian. Hay như lời thánh Phaolô đã nói:
- Những người thuộc về Đức Kitô thì đóng
đinh xác thịt mình cùng với mọi đam mê dục vọng vào thập giá.
Chính những đau khổ và thử thách sẽ giúp
chúng ta vượt lên trên tinh thần thế tục, thanh tẩy chúng ta và đền bù tội lỗi
chúng ta.
Bởi đó đừng nguyền rủa phẫn uất nhưng
hãy biết đón nhận vì lòng yêu mến Chúa, để góp phần vào thập giá của Ngài.
Trong những giờ phút đen tối, hãy ngước nhìn thập giá và sẽ tìm được niềm an ủi
và khích lệ vì chính Chúa cũng đã đau khổ trước chúng ta và hơn chúng ta bội phần.
Cuộc đời thì ngắn ngủi, đừng lãng phí và
làm cho nó bị hư đi, vì sau cơn mưa trời lại sáng, sau thập giá là vinh quang
phục sinh.
30. Làm Chứng
Hôm nay Giáo Hội cho phép chúng ta mừng
kính chung toàn thể các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Đây thực là một ngày giỗ tổ
làm cho mọi tâm hồn con dân đất Việt phấn khởi vui mừng. Chúng ta đều biết từ
khi đạo Chúa chính thức bắt rễ vào đất nước chúng ta cho đến cuối thế kỷ XIX,
nghĩa là từ khoảng năm 1638 đến năm 1886, gần 300 năm, lịch sử Giáo Hội Việt
Nam là cả một cuộc tử đạo kéo dài gần như liên tục năm này qua năm khác, không
mấy khi ngừng, mà nếu có ngừng thì chỉ tạm ngừng để chuẩn bị tiến sang một giai
đoạn chịu bách hại khác dữ dội hơn và đẫm máu hơn.
Trong suốt ba thế kỷ bị bách hại, tính
ra có trên 130 ngàn anh hùng tử đạo, và như thế nước Việt Nam chúng ta, tuy nhỏ
hẹp và nghèo khổ nhưng rất hào hùng. Nước nhỏ hẹp nhưng danh tiếng vang lừng quốc
tế. Chúng ta đã đóng góp cho gia sản của Giáo Hội một sự nghiệp đức tin to lớn.
Tuy nhiên, trong số đó mới chỉ có 117 vị được phong chân phước. Và ngày
19.06.1988, cả 117 vị này đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn lên bậc
hiển thánh. Các ngài được suy tôn hiển thánh để cho toàn thể thế giới tôn kính
và noi gương anh dũng của các ngài. Đồng thời để cho chúng ta, những người Công
giáo Việt Nam, là con cháu các ngài, biết nối gót cha ông, dù sống trong hoàn cảnh
nào cũng luôn trung thành với Chúa, với Giáo Hội, với Tin Mừng giữa lòng dân tộc.
Các vị tử đạo cũng là những con người
mang thân xác giòn mỏng như chúng ta, cũng biết rung cảm, cũng biết ham sống sợ
chết như chúng ta. Nhưng giờ phút hy sinh đến, các ngài sẵn sàng tiến lên dâng
hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Do đó cái chết của các ngài có một ý hướng nhất định:
các ngài là những nhân chứng cho đạo Chúa. Đúng thế, danh từ “Tử Đạo” có nghĩa
là kẻ làm chứng, và dùng đau khổ, tử hình để bảo đảm cho lời chứng. Mỗi vị tử đạo
chết bằng nhiều hình khổ khác nhau, nhưng tất cả các ngài đều hiên ngang dùng lời
nói và mạng sống mình để giảng đạo, bênh vực chân lý và tuyên xưng đức tin. Tóm
lại, tất cả các ngài đều là những nhân chứng bằng chính đời sống của mình. Và
cái chết của các ngài là một câu trả lời hùng hồn, quyết liệt cho những ai còn
nghi ngờ tôn giáo của các ngài.
Người ta thường nói: “An quả nhớ kẻ trồng
cây” hay “uống nước nhớ nguồn”. Chúng ta là con cháu các vị tử đạo, chúng ta được
thừa hưởng một di sản đức tin phong phú, được chiêm ngưỡng một Giáo Hội phát
triển tốt đẹp như ngày nay, chúng ta không thể quên đó là kết quả của những
dòng máu cha ông đã đổ ra. Bởi vậy, chúng ta phải tưởng niệm đến công lao to lớn
của tiền nhân mà đáp đền cho xứng đáng và ra công phát huy di sản quí báu cha
ông đã để lại. Nhưng nếu chỉ có những cảm tình hân hoan phấn khởi và biết ơn mà
thôi thì chưa đủ, chúng ta còn phải chú ý lắng nghe tiếng gọi tha thiết của
dòng máu tử đạo và khám phá ra những bài học cao quí để áp dụng vào đời sống. Vậy
máu tử đạo nói gì với chúng ta?
Trước hết, máu tử đạo
nói lên niềm tin mãnh liệt, sâu xa và lòng trung thành sắt son của cha ông đối
với đạo thánh Chúa. Đức tin đã thấm nhập và đâm rễ sâu vào
tâm hồn các ngài đến nỗi không một sức mạnh trần gian nào có thể lay chuyển được.
Đối với các vị tử đạo, đức tin là một cái gì cao quí vô cùng, phải bảo vệ bằng
mọi giá. Dầu bị đe dọa, tra tấn với muôn khổ hình dã man ghê rợn, dầu phải đổ đến
giọt máu cuối cùng, các ngài cũng cam chịu, miễn sao bảo tồn được đức tin
nguyên vẹn.
Đàng khác, được hấp thụ tinh thần nho
giáo, các ngài đặt chữ “trung” lên trên hết. Không những trung thành với vua
chúa trần gian, với quê hương tổ quốc, mà nhất là trung thành với vua chúa trên
các vua, chúa trên các chúa, trung thành với quê hương tổ quốc siêu nhiên là
Giáo Hội. Đó là tấm gương sán lạn cha ông để lại cho chúng ta.
Thứ hai, máu tử đạo
cũng nói lên đức hy sinh can đảm phi thường của tiền nhân.
Người ta ai mà không sợ đau khổ, ai mà không tham danh tranh lợi, ham sống sợ
chết. Nhưng với ơn Chúa, các vị tử đạo đã thướng vượt mọi trở lực, dầu khó khăn
đến đâu, để duy trì đức tin. Ai kể được những khổ hình dã man các ngài đã phải
chịu: kìm kẹp, xiềng xích, voi giày, thiêu sinh, trầm hà, trảm quyết, lăng trì,
bá đao… Nhưng các ngài can đảm chịu đựng, các ngài đã thắng tất cả: thắng vũ lực,
thắng quyền bính vua chúa trần gian, thắng ma quỉ, và thắng chính mình.
Các vị tử đạo đã chết để nêu cao lòng hiếu
trung. Các ngài đã từ bỏ tất cả, nhận lấy cái chết, không chút oán giận những kẻ
giết mình. Các ngài đã hy sinh đời sống để theo một tôn giáo, minh chứng cho mọi
người biết tôn giáo đó là từ trời ban xuống và đạo Chúa Kitô là đạo thật. Các
ngài chết nhưng luôn sống trong ký ức chúng ta. Các ngài là những hạt giống tốt
đã được gieo để đem lại hoa trái phong phú cho chúng ta. Chúng ta đang thừa hưởng
gia sản của các ngài, chúng ta hãy sống tốt đẹp, xứng đáng với những hy sinh của
các ngài.
Chúng ta hãy nhớ rằng: tử đạo là một ân
huệ đặc biệt Chúa ban cho ai tùy ý Ngài muốn, nhưng nỗ lực làm chứng cho Chúa
thì không dành riêng cho ai cả. Là Kitô hữu là có nhiệm vụ làm chứng: làm chứng
bằng lời nói, bằng hành động và bằng cả cuộc đời cụ thể của mình. Nói rõ hơn,
cách làm chứng tốt nhất cho Chúa, cho đạo là sống bác ái yêu thương. Chúng ta cần
phải thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa
của đạo chúng ta bằng cách sống trọn vẹn, quyết liệt, dứt khoát tinh thần bác
ái yêu thương đối với nhau và đối với những người chung quanh.
31. Suy niệm của Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm
Ngày 24 tháng 11, là ngày lễ thánh linh
mục tử đạo Anrê Dũng Lạc. Giáo Hội Việt Nam đã xin Giáo Hội hoàn vũ để mừng lễ
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam vào ngày này, và nhận Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là bổn
mạng Giáo Hội Việt Nam. Vì là bổn mạng của Giáo Hội Việt Nam, nên lễ Các Thánh
Tử Đạo Việt Nam là lễ trọng và được dời vào ngày Chúa Nhật. Chúa Nhật cuối cùng
của năm phụng vụ là lễ Kitô Vua, nên lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam được mừng vào
Chúa Nhật trước lễ Kitô Vua.
Các thánh tử đạo là những người dám chết
để làm chứng Thiên Chúa yêu thương con người. Các ngài là dấu chỉ cho thấy
Thiên Chúa đang làm những điều kỳ diệu nơi những con người yếu đuối mỏng dòn.
Đời sống trong sáng
đáng quý như châu ngọc
Bài đọc thứ nhất trong sách Maccabêô quyển
thứ hai, thuật chuyện một người đáng kính, từ chối không ăn thịt heo cho dù phải
chết. Ông được nhiều người quý mến nên đổi thịt heo thành thịt mà luật cho phép
ăn, rồi đề nghị ông giả vờ ăn thịt heo để thoát chết. Êlêazarô từ chối mánh
khóe để được sống này, vì khi làm như vậy gây gương xấu cho thế hệ tương lai.
Thế hệ trẻ đâu biết đó không phải là thịt heo, nên tưởng rằng Êlêazarô tham sống
sợ chết mà vi phạm luật Chúa.
Thái độ sống của Êlêazarô rất trong
sáng, rất tự do ngay cả đối với cái chết. Ông cũng là người cho thấy tình yêu
và trách nhiệm đối với thế hệ tương lai. Nơi con người mỏng dòn, Thiên Chúa đã
và đang làm những điều tuyệt vời. Các thánh tử đạo Việt Nam cũng là những
người sống thái độ tự do và yêu mến như vậy. Các ngài là những người cha, người
mẹ, người chồng, người vợ, người con hiếu thảo và tốt lành; tuy vậy các ngài sẵn
sàng chấp nhận cái chết vì yêu mến Thiên Chúa, yêu mến con người và những người
thân.
Cái chết của các ngài, làm rạng danh gia
tộc, giúp cho những người con người chồng người vợ nhìn lên tấm gương của những
bậc cha anh thân yêu mà phấn đấu sống cho nên người và nên người con ngoan của
Chúa. Các thánh tử đạo là những người ảnh hưởng rất lớn trên thế hệ tương lai
mà nhiều người không thấy rõ điều này, khi cho rằng các ngài chết thì đâu có dạy
dỗ hoặc ảnh hưởng gì được trên ai. Nơi các anh hùng tử đạo, lời dạy không bằng
ngôn từ nhưng bằng chính cuộc sống. Và chúng ta biết, lời bằng hành động hay cuộc
sống thì có sức thuyết phục hơn lời nói nhiều.
Không có gì tách tôi
ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa
Bài đọc thứ hai trong thư của thánh
Phaolô gởi tín hữu Roma, cho thấy xác tín của thánh nhân. Thiên Chúa yêu thương
chúng ta vô cùng, và không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của
Thiên Chúa trong Đức Giêsu. Bằng cớ cho thấy Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô
cùng, đó là Ngài đã ban chính Con Một Ngài cho chúng ta. Nếu Thiên Chúa ban
chính Con Một Ngài cho chúng ta, thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa?
Không có gì tách chúng ta ra khỏi tình
yêu của Thiên Chúa. Không phải vì chúng ta yêu Thiên Chúa đến độ không có gì
tách chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa, nhưng vì Thiên Chúa yêu thương
chúng ta, Thiên Chúa giữ chúng ta trong tình yêu của Ngài. Nếu chính Thiên Chúa
giữ, thì ai giựt chúng ta ra khỏi tay Thiên Chúa được? Nếu chỉ là bản thân con
người ghì chặt Thiên Chúa, thì người mạnh hơn có thể giựt họ ra được, nhưng đây
chính Thiên Chúa giữ. “Không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên
Chúa trong Đức Giêsu Kitô”. Không ai, cho dù đó là thiên thần hay quỷ dữ, bất cứ
quyền lực nào cũng không thể làm điều này, vì Thiên Chúa là Đấng vô cùng mạnh.
Vì tin vào Thiên Chúa yêu thương tôi,
nên tôi vững dạ an tâm, nên tôi ung dung thư thái bất chấp tất cả. “Nguồn ánh
sáng và ơn cứu độ của tôi, chính là Chúa”. “Đức Chúa là ánh sáng và Đấng cứu độ
tôi, tôi còn sợ chi ai, tôi còn kinh khiếp chi ai”! Chính Thiên Chúa làm cho
các thánh tử đạo trung thành với Ngài, cho dù “kiếm sắc, đầu rơi, gươm đao, xá
gì”. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài sẽ hoàn tất những gì Ngài đã khởi sự
nơi chúng ta.
Vác thập giá hằng
ngày mà theo Ta
Đức Giêsu nói trong tin mừng theo thánh
Luca: “ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Ta”. Theo
Đức Giêsu, là một thái độ sống liên lỉ chứ không chỉ là một hành vi riêng lẻ một
lần cho tất cả. Để có thể có hành vi dám chết cho tình yêu, các anh hùng tử đạo
đã luôn chết cho chính mình trong cuộc sống hằng ngày để sống cho Chúa trong từng
hành vi sống của mình.
“Được lời lãi cả thế gian, mà phải mất mạng
sống mình, thì ích gì?” Điều quan trọng là phải sống. Nhưng nếu chỉ sống một
trăm năm, mà phải khổ nhục vĩnh viễn thì ích lợi gì? Sự khôn ngoan đi kèm với
hành vi anh hùng nơi các thánh tử đạo. Các thánh tử đạo, là những người khôn
ngoan, anh hùng và đức hạnh. Các ngài là những người dám sống và dám chết cho
tình yêu. Các ngài chọn đời sống vĩnh cửu hơn đời sống chóng qua này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Tại sao các vị tử đạo dám chết? Những
người thân của họ được gì?
2. Có người nói: “sống tốt cuộc sống
này, đã là tử đạo rồi”. Bạn có đồng ý không? Tại sao?
3. Để giúp nhau hiểu thêm về lịch sử
Giáo Hội Việt Nam và gương
anh dũng của các bậc cha anh, xin bạn kể tiểu sử một vị thánh tử đạo Việt Nam!
32. Tử đạo, một chọn lựa của lòng tin
Hôm nay, chúng ta hân hoan cùng với toàn
thể Giáo Hội Việt Nam mừng
kính trọng thể lễ các thánh Tử Đạo tại Việt Nam. Đây là một ngày vui mừng chung
của tất cả chúng ta, những kitô hữu mang trong mình dòng máu con Rồng, cháu
Tiên. Cách đây gần 400 năm, hay đúng hơn từ lễ Phục sinh năm 1615, khi cha
Bugiơmi, dòng Tên, người Ý dâng thánh lễ đầu tiên tại Hội An, Đà Nẵng bây giơ,
đạo Công giáo đã được chính thức khai nguyên và lập cơ sở ở Việt Nam. Hạt giống
Tin mừng đã được gieo vãi trên mảnh đất hình chữ “S” thân yêu này. Cha ông
chúng ta những con người có tâm hồn hiền hậu, chất phác đã đón nhận và sẵn sàng
dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho Tin mừng đó.
Thật vậy, “Tử Đạo” theo nguyên ngữ là
“Martyr” có nghĩa là “làm chứng”. Vậy thì việc cha ông chúng ta, từng lớp lớp
người sẵn sàng bỏ tất cả vinh hoa, phú quý, vợ con để chết đi làm chứng điều
gì? Chắc chắn việc các ngài sẵn sàng chết không phải vì các ngài không muốn sống,
nhưng là để làm chứng rằng, sự sống nơi trần thế này không phải là tuyệt đối,
và mọi vinh dự ở đời này không phải là vĩnh cửu. Với cái chết của mình, cha ông
chúng ta đã cho thấy rằng: chết chưa phải là hết, nhưng là cửa ngõ để đi vào một
đời sống vĩnh cửu đúng như tâm thức từ bao đời nay trong lòng người dân Việt:
“sống gởi, thác về”.
Và chính dòng máu nóng của các ngài đổ ra trên mảnh đất này, đã làm phát sinh một
Giáo Hội Việt Nam hôm nay, như lời Đức Kitô: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất
không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được
nhiều hạt khác”.
1. Chọn lựa của dân
Do thái:
Tuy nhiên, để có thể sẵn sàng đổ máu để
làm chứng cho Tin mừng, cha ông chúng ta đã phải làm một cuộc chọn lựa thật quyết
liệt trong tâm hồn. Bởi vì, trong thực tế, hạnh phúc đời sau thì bây giờ chúng
ta không thấy, còn tiền của, danh vọng cùng với những vinh hoa phú quý của nó,
thì lại nằm ngay trước mắt. Chính dân Do Thái khi bước vào được Đất Hứa, sau cuộc
hành trình 40 năm trong sa mạc, cũng đã phải làm một cuộc chọn lựa cơ bản này.
Ông Môisê đã nói với họ: “Coi đây, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc là
được sống, được hạnh phúc, hoặc là bị chết, bị tai hoạ”. Khi dân Do thái chọn lựa “yêu mến Đức
Chúa,… và gắn bó với Người”, thì không phải vì trước mắt họ nhận được một cuộc
sống sung sướng, dễ dãi. Họ chọn lựa Thiên Chúa chỉ vì họ tin tưởng vào tình
yêu của Giavê Thiên Chúa, Đấng đã từng giải thoát họ thoát ách nô lệ Ai Cập, kết
ước với họ, để họ được làm dân của Ngài. Đồng thời, còn ban cho họ Đất Hứa làm
gia nghiệp.
2. Chọn lựa của cha
ông chúng ta:
“Trung thành với Thiên Chúa” cũng chính
là chọn lựa, mà cha ông chúng ta ngay từ những ngày đầu đón nhận Tin mừng đã
quyết định. Một cuộc chọn lựa nhìn bên ngoài có vẻ đơn giản: đó là bước qua thập
giá hay không bước qua. Bước qua thì có ngay tiền bạc, vinh hoa phú quý, còn như
không bước qua thì có thể lập tức lãnh lấy cái chết. Đứng trước thập giá, đã có
người bước qua, nhưng cũng đã có nhiều người không bước qua, không quá khoá. Đã
có người được khiêng qua thánh giá, nhưng đã co chân lên như thánh Antôn Nguyễn
Đích. Đã có người bước qua thánh giá, nhưng sau lại hối hận: đó là trường hợp của
ba vị thánh Augustin Phan Viết Huy, Nicôla Bùi Đức Thể, và Đaminh Đinh Đạt. Vua
quan đã bày ra trước mặt các ông mười nén vàng, một tượng Chịu Nạn và một thanh
gươm rồi nói: “Cho bay tự ý chọn, bước qua tượng thì được vàng, bằng không thì
gươm sẽ chặt đôi người bay ra, xác sẽ bị bỏ trôi ngoài biển.”
Đúng đây là một chọn lựa nghiêm chỉnh,
chọn lựa này đụng đến tương lai và sinh mạng của chính mình. Chọn lựa này bày tỏ
thái độ của bản thân tôi đối với Đức Giêsu. Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi.
Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên
sao được”. Còn Thánh Têphanô Ven, một linh mục trẻ, chỉ mới 31 tuổi, thuộc Hội
Thừa Sai Paris đã bày tỏ chọn lựa của mình một cách thật dứt khoát, khi trả lời
cho viên quan bảo ngài bước qua Thánh giá: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo
thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời
này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”. Một chọn lựa có thể nói là đầy
bấp bênh theo cái nhìn tự nhiên của con người. Chính vì bấp bênh như thế mà những
chọn lựa này trở nên có giá trị, vì nó đúng là một chọn lựa của lòng tin.
Vâng, mỗi người chúng ta chỉ nhờ có lòng
tin chứ không phải nhờ bất cứ điều gì khác, mới có thể giúp mỗi người chúng ta
lãnh nhận ơn cứu độ. Ý thức điều đó, thánh Phaolô mời gọi tín hữu thành Côlôsê
và cũng là lời nhắc nhở từng người chúng ta: “Anh em chỉ cần giữ vững đức tin,
cần được xây dựng vững chắc kiên quyết, và đừng vì nao núng mà lìa bỏ niềm hy vọng
anh em đã nhận được khi nghe loan báo Tin mừng”. Đức tin này mỗi người chúng ta
đã được lãnh nhận khi chịu phép Rửa, nhưng như thế thì chưa đủ. Đức tin đó còn
phải được minh chứng bằng chính cuộc sống hàng ngày của mỗi người chúng ta. Nhiều
vị tử đạo đã được mời giả vờ bước qua thánh giá, để quan có cớ mà tha, còn đức
tin bên trong thì quan không đụng đến. Đây là một cám dỗ khá tinh vi và hấp dẫn,
có vẻ như được cả hai, đời này và đời sau. Nhưng liệu tôi có thể bên ngoài chà
đạp một Đấng mà bên trong tôi tôn thờ không? Đứng trước thánh giá là đứng trước
một chọn lựa dứt khoát, không có giải pháp dung hoà hay lập lờ. Không ai có thể
làm tôi hai chủ (x. Mt 6, 24), điều này vẫn đúng cho những chọn lựa mỗi ngày của
các Kitô hữu chúng ta qua mọi thời đại.
3. Chọn lựa của chúng
ta hôm nay:
Mừng lễ các thánh Tử Đạo tại Việt Nam hôm nay, lời
Chúa một lần nữa mời gọi mỗi người chúng ta xét lại chọn lựa của mình. Chọn lựa
này không phải chỉ một lần là xong, nhưng cần đựơc lập lại mỗi ngày. Tôi đang
chọn Chúa hay tôi chọn tôi? Và nếu tôi chọn Chúa, tôi đã làm gì để chứng minh
cho lựa chọn của mình? Chọn lựa của chúng ta hôm nay, có thể không đòi chúng ta
phải đổ máu để làm chứng cho Chúa, nhưng tôi thiết nghĩ, cũng không kém phần
gian khó. Đứng trước những bất công, tôi có dám bênh vực, hay tôi sợ phiền hà rồi
im lặng? Trước một trận bóng đá, một bộ phim hay, một giấc ngủ ngon, một lời rủ
đi chơi của bạn bè và tiếng mời gọi của Chúa nơi ngôi Thánh đường này, tôi chọn
điều gì?
Chớ gì, nhờ lời cầu bầu của các thánh Tử
Đạo tại Việt Nam
và nhất là sức mạnh của Thánh Thể, quý ông bà anh chị em và tôi đủ sức thực hiện
những chọn lựa của mình. Nhờ đó, vào ngày sau hết, tất cả chúng ta sẽ cùng được
đoàn tụ với cha ông chúng ta như lời hứa của Đức Giêsu: “Ai phục vụ Thầy, thì
hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”. Amen.
34. Chứng nhân tình yêu – ĐTGM. Ngô quang Kiệt
Thánh lễ hôm nay đỏ một mầu máu. Máu của
hơn 100 ngàn anh hùng tử đạo. Máu của 117 vị đã được tôn phong lên hàng hiển
thánh. Máu ngập tràn chảy suốt hơn 3 thế kỷ truyền giáo tại Việt nam.
Có điều máu lênh láng nhưng không tanh
tưởi bởi không phải là thứ máu oan khốc nơi chiến trường tuôn chảy trong hờn
căm oán ghét. Máu đẹp như những cánh hoa vì phát xuất từ tình yêu cao quí. Máu
dường như toả hương thơm bởi khơi nguồn từ những trái tim chan chứa yêu thương.
Máu không gây ghê tởm nhưng gợi lòng kính trọng. Máu không tạo oán thù nhưng vực
dậy yêu thương. Đó là những dòng máu làm chứng cho tình yêu.
Tình yêu Thiên Chúa.
Các thánh tử đạo Việt nam có lòng tin mạnh
mẽ. Lòng tin của các ngài không biểu lộ trong những hành vi cuồng tín, nhưng diễn
tả trong thái độ chan chứa yêu thương. Đã nhận biết Chúa, các ngài yêu mến Chúa
tha thiết. Đã cảm nhận được tình yêu của Chúa các ngài mong muốn được đáp đền
tình yêu đó.
Tình yêu của các ngài là tình yêu hi
sinh. Nên các ngài đã từ bỏ tất cả: cuộc sống yên ổn, danh vọng tiền tài, kể cả
mạng sống vì Chúa. Thánh Hồ đình Hy sẵn sàng chịu mất chức trong triều đình.
Thánh Tôma Thiện vui lòng dâng hiến tuổi xuân xanh với những lời hứa hẹn chức
quyền của vua quan. Thánh nữ Anê Lê thị Thành mạnh dạn từ bỏ gia đình êm ấm với
những người con ngoan ngoãn dễ thương. Tất cả vì tình yêu Chúa.
Tình yêu của các ngài là tình yêu chung
thuỷ. Các ngài yêu mến Chúa khi bình an, các ngài càng yêu mến Chúa trong những
gian nan thử thách. Các ngài đã thực hiện lời thánh Phao lô: Tôi tin chắc rằng:
cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay
tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài
thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên
Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta (Rm 8:35-39).
Tình yêu của các ngài là tình yêu cao
quí. Đáp lại tình yêu của Đức Giêsu Kitô đã hiến thân vì các ngài, các ngài
cũng hiến dâng mạng sống để minh chứng tình yêu với Chúa. Đúng như lời Chúa
nói: Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính
mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15:13).
Tình yêu cuộc sống.
Các ngài là những người yêu mến cuộc sống.
Không phải một cuộc sống tầm thường nhưng là cuộc sống với tất cả những chiều
kích cao đẹp của nó. Cuộc sống với những giá trị thiêng liêng như lý tưởng, như
tình yêu, lòng trung tín. Một cuộc sống không nô lệ cho vật chất. Một cuộc sống
trung thực không giả dối. Một cuộc sống không bị đóng khung trong thế giới hữu
hạn mau tàn nhưng mở ra đến vĩnh cửu. Một cuộc sống không hạ con người xuống
nhưng nâng con người lên ngang với các thần thánh. Thật sự yêu mến cuộc sống
nên các ngài sẵn sàng hi sinh tính mạng để làm chứng, để bảo vệ và xây dựng.
Tình yêu nhân loại.
Cái chết của các ngài minh chứng một
tình yêu vô biên đối với nhân loại. Các ngài không chỉ yêu mến Chúa mà còn yêu
mến gia đình. Hãy nhìn cảnh thánh Lê văn Phụng hoặc thánh nữ Lê thị Thành an ủi
con cháu trước khi ra pháp trường. Tình yêu thương của các ngài lan cả tới lính
gác, cai tù và lý hình. Thánh Lê văn Phụng chữa bệnh cho người cai tù của mình.
Tất cả các thánh vui vẻ ra đi chịu chết. Không có ai tỏ lòng oán hận. Và nhất
là không có vị nào thù ghét các lý hình.
Tình yêu của các ngài phát xuất từ tình
yêu Chúa nên rộng rãi toả lan tới mọi người, mọi nơi các ngài sinh sống. Tình
yêu ấy là tình yêu nguyên tuyền nên không biết đến sự thù ghét, nên sẵn sàng
tha thứ cho kẻ làm hại mình. Tình yêu ấy như bông hoa vẫn toả hương trong tay kẻ
vò nát nó. Tình yêu ấy giống như loài gỗ quí vẫn phả hương thơm cả đến chiếc
rìu bổ vào nó (Fulton Sheen).
Động lực hướng dẫn cuộc đời các ngài là
tình yêu. Cái chết của các ngài làm chứng cho tình yêu. Đó chính là điều mà ta
có thể bắt chước các ngài. Trong hoàn cảnh hiện nay, ta không có hi vọng được
phúc tử đạo, nhưng ta vẫn có thể noi gương các thánh Việt nam làm chứng cho đạo
Chúa. Nếu ta không được chết cho tình yêu, ta vẫn có thể sống cho tình yêu. Có
lẽ ngày nay Chúa cũng không mong ta chết vì đạo mà mong ta hãy sống vì đạo.
Lạy các thánh tử đạo Việt nam, xin chúc
lành cho quê hương và Giáo hội Việt nam. Amen
35. Sống vì đạo - ĐTGM. Ngô quang Kiệt
Chúng ta đang sống trong một xã hội văn
minh vật chất. Khuynh hướng tìm chiếm hữu, hưởng thụ, an nhàn là rất mạnh. Thế
mà Lời Chúa hôm nay kêu gọi ta phải từ bỏ mình, phải vác thập giá, phải hy sinh
mạng sống. Phải chăng Chúa muốn ta tàn lụi đi? Hay Chúa muốn ta trở nên dại dột?
Thưa không phải như thế. Chúa khuyên bảo ta hãy biết từ bỏ mình vì lợi ích của
ta.
Chúa chỉ đường cho ta
đến những giá trị cao quý hơn. Trong đời sống, cơm
áo gạo tiền là cần là quý. Nhưng còn những thứ cao quý hơn. Ví dụ như danh dự,
tình yêu, lòng chung thủy. Mạng sống là quý. Nhưng có những giá trị còn cao quý
hơn. Ví dụ như đức tin, tổ quốc. Thân xác là quý. Nhưng linh hồn còn cao quý
hơn. Vì thế, khi không thể chọn cả hai, ta phải biết chọn những giá trị cao quý
hơn.
Chúa chỉ đường cho ta
đến những giá trị bền vững hơn. Vật chất là quý.
Nhưng giá trị của nó không lâu bền. Chết rồi ta chẳng mang theo được vật chất
theo mình. Những giá trị tinh thần bền vững hơn. Dù chết rồi vẫn còn tồn tại. Tục
ngữ có câu: “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”. Cuộc sống đời này là quý.
Nhưng cuộc sống đời này không kéo dài lâu. Cuộc sống đời sau mới trường tồn
vĩnh cửu. Khi không thể chọn lựa mọi giá trị, ta phải biết lựa chọn những giá
trị có tính cách vĩnh cửu.
Chúa chỉ cho ta đường
đến với Thiên Chúa. Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự thiện hảo.
Chọn Chúa mới là chọn những gì tốt đẹp nhất. Chúa là giá trị cao quý nhất. Chúa
là giá trị vĩnh cửu nhất. Chúa là hạnh phúc hoàn hảo nhất. Hạnh phúc ở nơi Chúa
làm ta no thỏa. Hạnh phúc ở nơi Chúa không bao giờ tàn lụi. Hạnh phúc ở nơi
Chúa cho ta đạt được mọi ước mơ của con người.
Chúa chỉ cho ta con
đường đi theo Chúa. Khi dậy dỗ ta, Chúa Giêsu không nói
suông. Chính Người đã thực hành. Người đã từ bỏ mình, vác thánh giá. Người đã
liều mạng sống, chịu chết vì chúng ta. người đã từ bỏ tất cả những giá trị trần
gian để vâng theo thánh ý Đức Chúa Cha. Cuối cùng Người lại được tất cả. Chết rồi
được Phục Sinh. Tự hủy mình ra không lại được trở thành Vua vũ trụ. Người đã từ
bỏ tất cả, nay Đức Chúa Cha lại ban cho Người tất cả, khi đặt mọi sự dưới chân
Người.
Yêu mến Chúa là vâng theo Lời Chúa, các thánh
Tử đạo Việt Nam
đã đi theo con đường của Chúa. Để bảo vệ đức tin,
các ngài đã chịu mất tất cả cuộc sống an vui, mất danh vọng chức quyền, mất nhà
cửa của cải. Vì hiểu rằng đức tin là gia tài cao quý nhất. Hướng về sự sống đời
sau, các ngài đã sẵn sàng chịu giam cầm, chịu nhục nhà, chịu hành hạ đau đờn.
Vì biết rằng những đau khổ đời này rồi sẽ qua đi, hạnh phúc đời sau mới vĩnh cửu.
Để trung thành với Chúa, các ngài sẵn sàng chịu mất mạng sống. Vì biết rằng
Chúa sẽ ban lại sự sống mới, sự sống vĩnh cửu cho các ngài. Các ngài thật can đảm.
Vì khi chọn lựa từ bỏ như thế, phải chịu nhiều đau đớn, khổ nhục. Đó là chọn lựa
tuyệt đối quyết liệt, dám liều mất cả mạng sống cho sự lựa chọn của mình. Các
ngài thật khôn ngoan. Đã biết từ bỏ cái tầm thường để lựa chọn điều cao quý. Đã
biết từ bỏ cái tạm bợ để lựa chọn điều vĩnh cửu. Đã biết từ bỏ những giá trị
tương đối để lựa chọn Chúa là giá trị tuyệt đối.
Cuộc sống hôm nay cũng đặt chúng ta trước
nhiều lựa chọn. Để sống đúng lương tâm công giáo, ta phải chối từ những mối lợi
bất chính. Để chu toàn luật Chúa, ta phải từ chối những hưởng thụ ngọt ngào. Để
thực hành luật yêu thương tha thứ, ta phải cắn răng chịu nhịn nhục. Để chọn
Chúa, ta phải vác thánh giá. Những lựa chọn đó nhiều khi khiến lòng ta đau đớn
như bị vết thương. Vết thương rỉ máu âm ỉ suốt cuộc đời. Những lựa chọn đó nhiều
khi khiến ta rơi lệ. Những dòng lệ đau đớn xót xa. Đó thực là những cuộc tử đạo.
Cuộc tử đạo không thấy máu. Vì máu chỉ rỉ trong tâm hồn. Cuộc tử đạo không thấy
lệ. Vì lệ đã nuốt ngược vào trong. Máu ri rỉ đau đớn nhức nhối lắm. Lệ nuốt vào
cay đắng lắm. Để lựa chọn như thế phải có ơn khôn ngoan của Chúa. Để lựa chọn
như thế cần phải có ơn sức mạnh của Chúa. Nhưng có lựa chọn như thế ta mới xứng
đáng là môn đệ Chúa và xứng đáng là con cháu các thánh anh hùng tử đạo. Chính
những lựa chọn đó đem lại cho ta sự sống đích thực.
Chính những lựa chọn đó đưa ta đến hạnh
phúc vĩnh cửu.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Tại sao Chúa bảo ta phải từ bỏ mình?
Chúa muốn ta tàn lụi hay phát triển?
2- Các thánh tử đạo đã theo Chúa cho đến
cùng. Ta có thực sự theo Chúa Giêsu, Đấng chịu khổ hình, vác thánh giá và chịu
chết không?
3- Thời nay không còn cấm đạo, không còn
giết người có đạo, bạn nghĩ rằng thời nay sống đạo dễ hơn xưa không?
36. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
SỐNG CHỨNG NHÂN TIN MỪNG
Hôm nay Giáo hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện mừng kính các Thánh Tử
Đạo Việt Nam
vì 3 lý do:
- Hân hoan và hãnh diện vì các thánh là
người Việt Nam,
không gì vui mừng và hãnh diện, tự hào hơn, khi đất nước ta có những vị thánh
góp mặt với Giáo Hội toàn cầu.
- Hân hoan và hãnh diện vì số lượng đông
đảo các Thánh Việt Nam.
Với 117 vị Thánh. Giáo Hội Việt Nam
được xếp nhất nhì trong Giáo Hội hoàn vũ về số lượng các Thánh.
- Hân hoan và hãnh diện vì các Ngài là
những chứng nhân anh hùng quả cảm.
Đọc lại tiểu sử các Ngài ta không khỏi cảm
phục đức tin kiên cường của các Ngài. Vì trung thành với Chúa, các Ngài đã cam
chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng và nhất là phải chịu
muôn ngàn khổ hình, chịu mất mạng sống vì đức tin.
Có những vị như thánh Hồ đình Hy, làm
quan lớn trong triều đình. Quan Án Phạm trọng Khảm, là những vị có chức có quyền
trong xã hội đã thà mất chức quyền, mất danh vọng hơn mất đức tin. Vì Chúa, các
Ngài không những đã sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi trong xã hội mà còn sẵn sàng
chịu mất mạng sống.
Có những vị như thánh Lê thị Thành, thân
phận phụ nữ yếu ớt, gánh nặng gia đình, nhưng cũng đã sẵn sàng chịu mọi cực
hình để minh chứng tình yêu đối với Đức Giêsu Kitô.
Có những vị đầu xanh tuổi trẻ như Tôma
Thiện, Phaolô Bột, mười mấy tuổi đầu, tương lai còn dài, đường đời còn nhiều hứa
hẹn. Nhưng các Ngài đã cương quyết khước từ tất cả, dâng hiến tuổi thanh xuân
cho đức tin chân chính.
Là người Công Giáo Việt Nam.
Chắc chắn mỗi khi đọc lại tiểu sử các Ngài, ta cảm thấy một dòng máu hào hùng
trào dâng trong huyết quản. Bị cuốn hút bởi cuộc sống và cái chết cao đẹp, anh
dũng của các Ngài, có lẽ ta cũng có đôi lần ao ước được như các Ngài: Sống cao
đẹp, chết anh dũng.
Làm sao ta có thể có được cái chết cao đẹp
như các Ngài. Ngày nay đâu còn cảnh cấm đạo, bắt đạo, giết người có đạo như thời
vua quan ngày xưa. Ngày nay ta không còn hy vọng chết vì đạo. Ta chỉ còn một
cách bắt chước, noi gương các vị tiền nhân anh hùng, đó là sống vì đạo.
Ngày nay, ta ít gặp những khốn khó như bị
bắt bớ giam cầm, giết chết vì đạo. Nhưng để sống đạo trong xã hội hôm nay, ta gặp
không ít khó khăn. Xin kể ra 2 khó khăn tiêu biểu.
Khó khăn thứ nhất đó
là chủ nghĩa cá nhân ngày càng phát triển.
Ai cũng muốn thăng tiến bản thân và gia đình của mình. Ai cũng lo làm ăn. Học
hành, xây dựng cho bản thân. Cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Những nhu cầu
của bản thân ngày càng nhiều. Rõ ràng là ngày nay người ta kiếm được nhiều tiền
hơn trước, có nhiều tiện nghi hơn trước, xe cộ tốt hơn, nhà cửa đẹp hơn. Nhưng
chưa bao giờ người ta thấy thỏa mãn, đầy đủ. Vì thế càng ngày người ta càng
đóng kín vào bản thân, không có thời giờ nghĩ đến người khác. Trong khi đó những
người nghèo thì càng nghèo hơn, những người yếu càng mệt hơn, những người bệnh
càng khổ hơn. Họ không đủ sức chạy theo cuộc tranh đua quyết liệt của chủ nghĩa
cá nhân. Họ bị đẩy lùi ra phía sau. Họ bị gạt ra ngoài lề xã hội. Để lựa chọn sống
theo Phúc Âm, để trung thành với Lời Chúa dạy, ta phải bỏ quên một phần thân mình,
gia đình mình để nghĩ đến, giúp đỡ, vực dậy những anh em kém may mắn. Đó là điều
không dễ.
Khó khăn thứ hai là
kinh tế thị trường ngày càng phát triển. Đồng tiền
đang trở thành một thước đo gía trị con người. Đồng tiền đang trở thành một quyền
lực chi phối toàn bộ đời sống con người. Ai cũng muốn có nhiều tiền, và để có
nhiều tiền, nhiều người đã không từ chối một phương cách nào: lường gạt, lừa đảo,
làm hàng gỉa, buôn thuốc phiện, tham nhũng, hối lộ. Tiền bạc qủa là một cơn cám
dỗ đang làm chao đảo thế giới, tàn phá những gía trị, biến chất con người.
Đứng trước nhu cầu và ham mê tiền bạc,
người Công Giáo muốn trung thành với Phúc Âm, muốn sống trọn vẹn đức tin, bắt
buộc phải có sự lựa chọn. Thà cam chịu nghèo khổ còn hơn nhận những
đồng tiền phi nhân bất nghĩa. Thà cam chịu thiếu thốn còn hơn đánh mất đức tin.
Thà lao động cực khổ để kiếm miếng cơm manh áo chân chính hơn là chạy theo những
đồng tiền dễ dãi để chối từ Phúc Âm và luật Chúa.
Qủa thực xã hội mới, đang tạo ra những
cơn bắt bớ mới. Để trung thành với Chúa, với Phúc Âm ta cũng phải lực chọn quyết
liệt. Những chọn lựa đó làm cho chúng ta đau đớn không kém gì những khổ hình.
Những hy sinh vì Phúc Âm đó cũng khiến lòng ta rỉ máu không kém gì chịu tử
hình. Các Thánh tử đạo chỉ chọn lựa một lần. Còn chúng ta chết mòn mỏi mỗi ngày
trong những chiến đấu, những từ bỏ đớn đau. Sống Phúa Âm trong thời đại mới
đúng là một cuộc tử đạo liên tục.
Sống vì đạo như thế cũng cao đẹp và anh
hùng không kém gì chết vì đạo. Sống vì đạo như thế, ta cũng góp phần làm chứng
nhân cho Chúa, cho Phúc Âm không kém gì chết vì đạo.
Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xưa các
Ngài đã anh dũng hy sinh cuộc đời, dâng hiến máu đào làm chứng cho Phúc Âm. Xin
giúp chúng con hôm nay cũng biết can đảm, hy sinh sống theo Phúc Âm để làm chứng
cho Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.
37. Để làm chứng cho vua quan
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Các vị tử đạo Việt Nam đều có kinh
nghiệm sống từng lời của đoạn Tin Mừng hôm nay: bị nộp, bị đánh đập, bị điệu ra
trước vua quan, bị tra hỏi, bị thù ghét và cuối cùng là bị giết. Tất cả những
gì các ngài phải chịu đều vì Đức Giêsu (c.18), vì Danh Đức Giêsu (c.22).
Các ngài cũng có kinh nghiệm về sự hiện
diện của Thiên Chúa. Bầu khí của toà án là bầu khí của Thiên Chúa Ba Ngôi.
"Chính Thần Khí của Chúa Cha sẽ lên tiếng trong anh em" để tuyên xưng
niềm tin vào Đức Giêsu (c.19-20)
Cái chết của vị tử đạo cho thấy sức mạnh
của Thiên Chúa được thi thố nơi một con người mỏng dòn yếu đuối.
Chết vì Đạo là một cách làm chứng.
Làm chứng cho một niềm tin kiên vững: Vì
tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, nên các ngài không bước qua
thánh giá.
Làm chứng cho một tình yêu nỏng bỏng:
"Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng vì bạn hữu"
(Ga 15,13)
Làm chứng cho một niềm hy vọng mãnh liệt:
có sự sống đời sau, có hạnh phúc vĩnh cửu, cái chết đưa tôi giáp mặt với Đấng
tôi yêu.
Các vị tử đạo đã làm chứng bằng cái chết.
Chúng ta được mời gọi làm chứng bằng cuộc
sống.
Làm chứng nào cũng đòi phải hy sinh, mất
mát, thiệt thòi, vì đòi ta lội ngược dòng với thế gian sa đọa.
Các vị tử đạo thường bị đặt trước thánh
giá. Bước qua là được tiếp tục sống sung sướng an nhàn. Không bước qua là phải
chịu tù đày, đòn vọt, mất tất cả và mất chính mạng sống. Chỉ cần một bước chân,
là mọi sự thay đổi.
Đã có người bước qua, và cũng có người
không.
Có người bị khiêng qua thánh giá, nhưng
đã co chân lên, như thánh Antôn Nguyễn Đích. Có người bước qua, nhưng sau lại hối
hận. Đó là trường hợp của ba vị thánh quân nhân: Âutinh Huy, Nicôla Thể và
Đaminh Đạt. Có người được mời giả vờ bước qua thánh giá để quan có cớ mà tha,
như thánh Micae Hồ Đình Hy, nhưng họ đã thắng được cơn cám dỗ tinh vi ấy.
Đứng trước thánh giá là đứng trước một lựa
chọn. Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi? Không có giải pháp dung hoà hay lấp lửng.
Giây phút đứng trước thánh giá là giây
phút quan trọng.
Quyết định không bước qua thánh giá là kết
tinh của những đêm dài cầu nguyện, của việc chiến thắng những mời mọc khéo léo,
của việc thắng vượt những sợ hãi, giằng co nội tâm, của những Vườn Dầu trong ngục
thất...
Thời nào chúng ta cũng được đặt trước
thánh giá, dấu hiệu của sự từ bỏ để phục vụ. Lúc nào chúng ta cũng có nguy cơ
bước qua thánh giá, bằng đời sống hưởng thụ và ích kỷ của mình.
Gợi Ý Chia Sẻ
Làm chứng bằng cuộc sống. Theo ý bạn,
người Công Giáo Việt Nam
phải sống thế nào để làm chứng về Đức Giêsu cho những đồng bào chưa biết Chúa?
Bị cám dỗ bước qua thánh giá, có khi nào
bạn có kinh nghiệm đó trong đời thường không?
Cầu Nguyện
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam,
các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô
hữu trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.
Sự hy sinh của các ngài cho thấy tình
yêu mạnh hơn sự chết và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt.
Dù mang phận người yếu đuối, nhưng nhờ
ơn Chúa đỡ nâng, các ngài đã chiến thắng khải hoàn.
Xin cầu cho chúng con là con cháu các
ngài biết can trường sống đức tin của bậc cha anh trong một thế giới vắng bóng
Thiên Chúa, biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu bằng một đời hiến thân phục
vụ.
Ước gì ngọn lửa đức tin mà các ngài đã
thắp lên bằng cuộc sống và cái chết, được bừng tỏa trên Tổ Quốc Việt Nam.
Ước gì máu thắm của các ngài thấm vào mảnh
đất quê hương để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.
38. Các thánh Tử Đạo Việt Nam
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – Radio
Veritas Asia)
"Tôi thấy một số đông người không
thể đếm được thuộc đủ mọi dân tộc, mọi quốc gia và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước
tòa Thiên Chúa và trước Chiên Con, mình mặc áo trắng và trên tay cầm cành lá
chiến thắng".
Đó là lời thánh Gioan diễn tả cảm tưởng
đoàn người chiến thắng đứng trước Ngai Thiên Chúa trên Trời mà thánh nhân được
Chúa cho thị kiến. Tiếp theo thánh Gioan viết trong sách Khải Huyền như sau:
"Những người mặc áo trắng ấy là ai
và họ từ đâu tới? Chính vị trưởng lão cho biết, đó là những người đã qua cơn đại
họa, đã giặt áo họ trong Máu Chiên Con và nay trở về. Vì thế họ được hân hạnh đứng
trước tòa Thiên Chúa và phụng thờ Ngài ngày đêm trong Đền Thờ. Đấng ngự trên
tòa sẽ chở che và phù trợ họ, họ sẽ không còn phải khát nữa, không còn bị mặt
trời và nóng bức làm khổ nữa. Vì Chiên Con đứng ở giữa tòa sẽ chăn dắt họ, sẽ
đưa họ đến suối nước thiêng liêng và Thiên Chúa sẽ lau khô nước mắt họ".
Qua ngày lễ Kính các Thánh Tử Đạo Việt
Nam được toàn thể anh chị em Công Giáo khắp Năm Châu mừng hôm nay, Giáo Hội muốn
khẳng định cho chúng ta và toàn thể Giáo Hội hoàn vũ. Trong số đoàn người
đông đảo đứng trước Ngai Thiên Chúa có cả những người thuộc dân tộc Việt Nam,
có cả con cháu dòng giống lạc hồng, các ngài đã trải qua những cơn thử thách
gian truân, lấy mạng sống của mình để minh chứng cho niềm tin và nay được trở về
với Thiên Chúa.
Các vị tử đạo Việt Nam là ai? Các
ngài là những nhà truyền giáo đến từ các nước, là các giám mục, các linh mục
người Pháp, Tây Ban Nha, nhưng đa số là những người Việt Nam gồm ba mươi bảy
linh mục, mười sáu thầy giảng, một chủng sinh và đặc biệt là rất nhiều giáo
dân. Số đông đảo giáo dân Việt Nam
đã đổ máu đào minh chứng cho niềm tin là điểm son thứ nhất tôi muốn nêu bật
trong bài chia sẻ hôm nay.
Điểm son thứ hai
tôi muốn lưu ý với anh chị em hôm nay, các thánh Tử Đạo là những công dân hiền
hòa, sống đời gương mẫu, nêu gương lý tưởng trung kiên với Thượng Đế, không phò
vua bách hại, nhưng một lòng tùng phục quốc gia. Họ bị bắt bớ, tra tấn, ngục tù
nhưng không một người nào có ý định cầm khí giới để phòng thân. Trái lại, họ chỉ
cam chịu, chỉ cầu nguyện cho tất cả mọi người, cầu cho quốc thái dân an, cầu
cho các quan đã ký sắc lệnh tử hình và thật lòng tha thứ cho những kẻ hành quyết
mình. Cử chỉ này không phải là hèn nhát, nhưng xứng đáng đối với những bậc thượng
nhân như câu: "Đấng thượng phu đừng thù mới đáng. Đấng anh hùng đừng hoảng
mới hay".
Cuối cùng điểm son thứ ba
tôi muốn nêu bật, là những thành tích vẻ vang để chứng tỏ niềm tin sắt đá các
thánh Tử Đạo Việt Nam đã ghi vào những trang sử của Giáo Hội, là lòng tôn kính
của các ngài đối với thập giá. Đối với các thánh Tử Đạo Việt Nam, chết tang
thương, chết treo trên thập tự để minh chứng tình yêu tột đỉnh của mình đối với
Thiên Chúa và đối với nhân loại, vì thế không một khổ hình nào có thể di chuyển
đôi chân của các ngài tự ý bước qua thập giá. Không bước qua thập giá để không
chối bỏ đạo dù phải đòn vọt, tra tấn, dù phải chịu tử hình, các vị Tử Đạo Việt
Nam đã nêu gương yêu mến thập giá để đáp lại tình yêu của Đấng đã chết treo
trên ấy bằng chính mạng sống của các ngài.
Cùng với anh chị em công giáo khắp năm
châu Mừng Kính Lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta phải một lần nữa
ý thức rằng, cuộc sống và cái chết của các ngài có thể nói được là những dòng
chữ đầu trong các trang sử của Giáo Hội Việt Nam mà mỗi người chúng ta được kêu
mời và thách đố. Hãy noi gương các vị tiền nhân anh dũng để chúng ta cùng nhau
viết lên thành tích của lòng trung thành và can đảm sống đạo, sống cuộc sống chứng
nhân cho tình yêu qua những hành động cụ thể, để tha thứ, hòa giải và chung tay
xây dựng đất nước cũng như chứng nhân cho ý nghĩa thập giá qua nếp sống hằng
ngày của mình, mỗi người trong địa vị, mỗi người trong môi trường sống của
mình.
Nguyện xin các thánh Tử Đạo Việt Nam cầu
bầu cho quê hương đất nước được quốc thái dân an, xin cầu bầu cho Giáo Hội Việt
Nam được luôn trung thành với niềm tin, đức cậy và lòng mến trung thành. Amen.