SUY
NIỆM CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO
Is. 2, 1-5; 1Tm. 2,1-8; Mt. 28,16-20
MỤC
LỤC
25. Sứ điệp cho
ngày thế giới truyền giáo 2014 ĐTC Phanxicô
26. Truyền giáo
bằng đời sống ĐTGM Ngô Quang Kiệt
27. Truyền giáo
là yêu thương phục vụ ĐGM G.B. Bùi
Tuần
28. Sống tin mừng
R. Veritas
29. Chứng nhân
truyền giáo Niềm Vui Chia Sẻ
1. Hãy đi khắp thế gian
(Trích
dẫn từ ‘Manna’)
Suy
Niệm
"Hãy
đi khắp thế giới, loan báo Tin Mừng..."
Lời
Đức Giêsu mời gọi làm chúng ta nhức nhối.
Thế
giới chẳng phải ở đâu xa. Thế giới là quê hương tôi với gần 80 triệu dân. Thế
giới là những người tôi vẫn gặp, những nơi tôi vẫn sống. Thế giới ấy, chân tôi
chưa một lần đi hết, miệng tôi chưa một lần loan báo tin vui.
Tôi
có lòng tin không? Tôi có dám tin Lời Chúa không?
Chúa
hứa cho những ai tin được khả năng trừ quỷ, nghĩa là giải phóng con người khỏi
mọi hình thức nô lệ, khả năng chữa bệnh để xoa dịu nỗi đau của trần gian, khả
năng nói những ngôn ngữ mới để đem lại hiệp nhất. Các tông đồ đã tin và thấy
Chúa cùng làm việc với mình. Họ chẳng bao giờ cô đơn trên bước đường rao giảng.
Có
nhiều cách loan Tin Mừng, nhiều cách truyền giáo.
Cách
thứ nhất là bằng chính cuộc sống bản thân. Nếu các Kitô hữu đều siêu thoát danh
lợi, sống trung thực, thanh khiết, sống chung thủy, yêu thương... Một Kitô hữu
nghèo mà vui tươi, hạnh phúc, thì đó là một lời chứng đáng tin cậy.
Làm
cho xã hội được tốt đẹp hơn, đó cũng là một cách loan báo Tin Mừng rất hiệu quả.
Kitô giáo phải góp phần xây dựng một thế giới hòa bình và huynh đệ, công bằng
và ấm no, nơi nhân phẩm của từng người được tôn trọng, nơi bóng tối của sự ích
kỷ tàn nhẫn bị đẩy lui.
Mẹ
Têrêxa Calcutta đã âm thầm loan báo Tin Mừng bằng những cử chỉ nhân ái với bao
người cùng khổ. Mẹ đã đi nhiều nơi trên thế giới để lập các cộng đoàn.
Còn
thánh Têrexa nhỏ đã truyền giáo tại chỗ bằng lời cầu nguyện và những hy sinh nhỏ
bé. Chị là nữ tu dòng Kín, sống trong bốn bức tường, nhưng lại được phong làm bổn
mạng các xứ truyền giáo. Chị đã đi khắp thế giới, không phải bằng đôi chân,
nhưng bằng lòng ước ao của một trái tim cháy bỏng.
Phải
sống sao để người ta thắc mắc, đặt câu hỏi. Nhưng cũng phải sẵn sàng trình bày
câu trả lời.
Dù
bạn chẳng uyên thâm về giáo lý nhưng hãy bập bẹ nói về Chúa bằng kinh nghiệm của
bạn.
Truyền
giáo là giới thiệu cho người khác Đấng tôi đã quen. Có thể người ấy đã biết Đấng
này từ lâu rồi.
Anrê
đã gọi Simon, Philipphê đã gọi Nathanaen đến gặp Chúa. Cần tập đến với người
khác như Đức Giêsu đã đến với người phụ nữ Samari. Hãy xin nước uống, trước khi
nói về Nước Hằng Sống. Hãy tìm hiểu người đối diện trước khi loan báo Tin Mừng.
Chúng ta cần thấm nhuần văn hóa dân tộc thì mới biết cách nói về Chúa Cha cho đồng
bào mình.
Nếu
cả đời, mỗi Kitô hữu mời được một người theo đạo, thì nguyện ước của Đấng Phục
Sinh được thành tựu.
Gợi
Ý Chia Sẻ
Thánh
Têrêxa nhỏ đã được tôn phong làm tiến sĩ Hội Thánh. Bạn nghĩ gì về kiểu truyền
giáo bằng cầu nguyện và hy sinh của chị? Bây giờ có hợp thời không?
Mẹ
Têrêxa hiến đời mình cho người cùng khổ, bệnh tật, không phân biệt tôn giáo,
màu da... Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo này? Nó có đánh động trái tim con người
hôm nay không?
Cầu
Nguyện
Lạy
Chúa Giêsu, Tình Yêu của con, nếu Hội Thánh được ví như một thân thể gồm nhiều
chi thể khác nhau, thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu một chi thể cần thiết nhất
và cao quý nhất. Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu.
Chính
tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động. Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình
yêu, thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng, các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu
mình...
Lạy
Chúa Giêsu, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con, ơn gọi của con chính là
tình yêu. Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội Thánh: nơi Trái Tim Hội
Thánh, con sẽ là tình yêu, và như thế con sẽ là tất cả, vì tình yêu bao trùm mọi
ơn gọi trong Hội Thánh. Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con, mọi ước mơ của
con được thực hiện.
(dựa theo lời của thánh Têrêxa)
2. Khánh nhật truyền giáo –
Lm Trần Ngà.
Mến
Chúa và yêu người là hai giới răn trọng nhất. Điều đó thì trẻ con cũng thuộc.
Nhưng điều quan trọng là làm sao thực thi lòng mến Chúa qua việc yêu thương con
người là hiện thân của Thiên Chúa.
Yêu
Chúa mà lại ghét người thân cận thì thật là điều trớ trêu như câu chuyện sau
đây:
Có
một vị hoàng thái tử vào rừng săn bắn gặp một cô gái hái củi trong rừng. Không
hiểu Trời xui đất khiến làm sao mà họ yêu nhau tha thiết ngay từ buổi gặp gỡ đầu
tiên.
Hoàng
tử quay về triều như kẻ mất hồn, ngày đêm tương tư cô gái nghèo mà anh đã đem
lòng thương mến và rồi anh khẩn khoản xin vua cha cưới nàng cho bằng được.
Để
tìm hiểu xem cô gái có thực sự yêu thương con trai mình bằng tình yêu chân thực
hay không, vua cha dạy cho hoàng tử cải trang làm nông dân để thử lòng cô
gái...
Thế
là hoàng tử hoá thành người nông dân, đến cắm lều gần nhà cô gái, ngày ngày vác
cuốc ra đồng làm lụng. Anh lân la đến làm quen với cô gái trong hình hài một
nông dân.
Mặc
dù cô gái vẫn thầm yêu và mong được kết hôn với hoàng tử, nhưng cô tạ không nhận
ra hoàng tử nơi người nông dân nghèo khổ nầy. Cô đã đối xử với anh rất lạnh nhạt
và cuối cùng đã xua đuổi anh.
Tiếc
thay, cô đã đánh mất cơ hội vô cùng quý báu: mất vinh dự trở thành công nương,
thành hoàng hậu tương lai.
Như
vị hoàng tử kia hoá thân thành nông dân để thử lòng cô gái, Thiên Chúa cũng hoá
thân thành người phàm để thử thách tình yêu của chúng ta. Ngài đã từ trời xuống
thế, hoá thân làm người, cắm lều ở giữa loài người, trở nên người thân cận của
mỗi người.
Thế
nên, khi yêu thương người thân cận là chúng ta yêu thương Chúa, và khi chúng ta
từ khước hay bạc đãi người thân cận là bạc đãi Chúa. Tình yêu thương người thân
cận là thước đo tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa.
Mẹ
Têrêxa là người giữ điều răn yêu thương nầy cách tuyệt hảo. Mẹ nhìn thấy Chúa
trong những người phong cùi, trong những người bần cùng khốn khổ và mẹ tận tình
yêu thương săn sóc những người ấy hết sức tận tình.
Mẹ
dạy nữ tu của mẹ: "Con thấy linh mục nâng niu trân trọng Mình Thánh Chúa
trong thánh lễ ra sao thì con hãy làm như thế đối với người cùng khổ."
Mẹ
là người vừa yêu mến Thiên Chúa trên trời lại vừa yêu mến Chúa hịên diện trong
những người khốn khổ. Mẹ không tách rời hai giới răn mến Chúa và yêu người,
nhưng mẹ đã yêu Thiên Chúa trong con người.
Khi
hỏi tại sao người công giáo chúng ta truyền đạo mà không thu hút được nhiều người
về với Hội Thánh?
Chắc
chắn là vì chúng ta chưa sống theo đạo yêu thương. Nếu chúng ta theo phương
cách sống đạo của mẹ Têrêxa Calcutta, tha thiết yêu mến Thiên Chúa nơi con người,
thì đạo chúng ta trở thành hấp dẫn, và bản thân chúng ta cũng có sức thu hút được
nhiều người như mẹ Têrêxa đã minh chứng bằng đời sống của mẹ: Mẹ được người đời
xem là bà thánh sống, được mọi người yêu mến, cả những người Hồi Giáo, Ấn giáo,
Bà La Môn và các đạo khác đều vô cùng quý mến mẹ.
Nhân
ngày Truyền Giáo, xin cho chúng ta biết áp dụng phương thế truyền giáo tuyệt hảo
của mẹ Têrêxa là yêu mến Thiên Chúa trong con người, hy vọng nhờ đó, đạo Chúa
trở thành một tôn giáo rất đẹp, rất hấp dẫn và nhiều người sẽ quay về với đạo
yêu thương nầy.
3. Xin hãy sai con – Lm.
Ignatiô Trần Ngà
Thông
thường khi cầu xin bất cứ ân huệ gì, chúng ta tha thiết cầu xin cho bản thân,
cho gia đình mình trước. Thế nhưng, giả như khi đất nước lâm nguy, cần có người
ra biên thuỳ bảo vệ, thì người ta lại sốt sắng cầu xin cho người khác, ngoại trừ
bản thân, được can đảm xông ra chiến trường gìn giữ giang sơn. Nếu ai cũng cầu
như thế và những lời cầu kiểu nầy được chấp nhận, thì làm gì còn Tổ Quốc!
Trong
việc cầu cho công cuộc truyền giáo cũng vậy, chúng ta thường cầu với Chúa rằng:
"Lạy Chúa, xin cho có đông người, ngoại trừ con, biết quảng đại lên đường
đi khắp muôn phương loan báo Tin Mừng cứu độ". Nếu ai cũng cầu xin kiểu
đó, nghĩa là cầu cho người khác lên đường, ngoại trừ bản thân mình, thì cánh đồng
truyền giáo sẽ vắng bóng thợ gặt, tìm đâu ra người đi loan báo Tin Mừng.
Vậy
thì lời cầu xin thiết thực nhất mà mỗi người chúng ta phải cầu xin với Chúa là:
"Lạy Chúa, tuy con bất xứng, nhưng xin hãy sai con đi làm thợ gặt cho Chúa
ngay hôm nay."
Dù
muốn dù không, chúng ta cũng là tông đồ của Chúa ngay từ ngày lãnh bí tích
thanh tẩy. Bí Tích Thanh Tẩy làm cho chúng ta trở thành chi thể Chúa Giêsu, cho
thông dự vào vai trò ngôn sứ của Người, nên chúng ta phải đảm nhận trách nhiệm
loan Tin Mừng cứu độ của Người.
Chính
vì thế, trước khi về trời, Chúa Giêsu long trọng chuyển trao cho chúng ta, là
môn đệ Người, tiếp tục thi hành sứ vụ: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân
trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa
Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em." (Mt
28, 19-20)
Vậy
thì sứ mạng loan Tin Mừng là một bổn phận phải làm chứ không phải là việc tuỳ
thích. Thánh Phao-lô thú nhận: "đối với tôi rao giảng Tin mừng không phải
là lý do để tự hào, nhưng là một sự cần thiết buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi
nếu tôi không rao giảng Tin mừng." (1 Cr 9,16).
Việc
loan Tin Mừng là một bổn phận bắt buộc. Chỉ khi nào chúng ta tự khai trừ mình
ra khỏi Hội Thánh, tự tách mình ra khỏi Thân Thể Chúa Giêsu, thì chúng ta mới
có thể cho phép mình ngừng loan báo Tin Mừng.
Truyền
giáo bằng chia sẻ tình thương
Phải
truyền giáo cách nào?
Đối
với Mẹ Têrêxa Calcutta, truyền giáo là chia sẻ tình thương. Mẹ không rao giảng
Phúc Âm bằng lời nhưng bằng những tâm tình và cử chỉ yêu thương cụ thể. Mẹ cũng
chẳng chủ trương yêu thương đại chúng cách chung chung, nhưng là yêu thương từng
người đang đối diện.
Mẹ
nói: "Đối với chúng tôi, điều quan trọng là từng người một. Để thương yêu
một người thì phải đến gần người ấy... Tôi chủ trương một người đến với một người.
Mỗi một người đều là hiện thân Đức Kitô, mà chỉ có một Chúa Giêsu thôi. Người
đó phải là người duy nhất trên thế gian trong giây phút đó."
Với
tâm tình nầy, Mẹ Têrêxa đã thu phục nhân tâm rất nhiều người khắp nơi trên thế
giới. Cũng bằng phương thức nầy, Giáo Hội công giáo Hàn Quốc đã làm gia tăng gấp
đôi số tín hữu chỉ trong vòng mươi năm!
Theo
gương Mẹ Têrêxa, mỗi một người công giáo nên kết thân với một người lương, coi
người đó như anh em ruột thịt và đem hết lòng yêu thương người đó.
Mỗi
gia đình công giáo nên kết thân với một gia đình lương dân, coi họ như thân quyến
của mình, sẵn sàng chia sẻ buồn vui sướng khổ; khi có kỵ giỗ, cưới xin hay lễ lạc
gì trong gia đình, hãy mời họ cùng thông hiệp. Nhờ đó hai bên thắt chặt mối
giây thân ái và qua tình thân nầy, Tin Mừng của Chúa Kitô sẽ được lan toả.
Giáo
Hội Hàn Quốc đã chứng tỏ đây là phương thức truyền giáo rất hiệu quả mà mỗi tín
hữu đều có thể thực hiện trong đời mình.
4. Chứng nhân trong sự hiệp
nhất yêu thương
(Suy
niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Thế
giới ngày hôm qua cũng như hôm nay luôn ngưỡng mộ những chứng nhân cho tình
yêu. Một Têrêsa thành Calcutta
nhỏ bé nhưng có một trái tim lớn lao đã làm cho cả thế giới kính phục. Ở Việt Nam, người công
giáo hay không công giáo họ vẫn nói với nhau về một vị giám mục dám bỏ ngai tòa
để đến ở cùng những người cùi tại trại cùi Di linh. Đó chính là Đức Giám mục
Cassien. Ngài đã dùng tình yêu để xoa dịu những những đau đớn cho người cùng khổ.
Ngài đã chết cho tình yêu, nên tình yêu của Ngài mãi ở lại nơi dương thế qua mọi
thời đại.
Hôm
nay ngày khánh nhật truyền giáo, thiết tưởng là dịp thuận lợi để chúng ta nhìn
lại tinh thần chứng nhân tin mừng của giáo hội sơ khai. Một giáo hội non trẻ
nhưng có sức mạnh biến đổi trần gian. Một giáo hội bị cấm đoán nhưng vẫn lan tỏa
đến tận cùng thế giới. Một giáo hội nhỏ bé nhưng ai cũng có tinh thần truyền
giáo, khiến thánh Phaolô đã từng nói rằng: "Tôi trồng, Apolo tưới, Thiên
Chúa mới cho mọc lên". Vậy đâu là điểm son để giáo hội có thể vượt qua mọi
trở ngại để phát triển và canh tân bộ mặt trái đất? Thưa đó chính là tinh thần
hiệp nhất yêu thương.
Theo
sách tông đồ công vụ, thời giáo hội sơ khai, các tín hữu "sống hiệp nhất với
nhau, và để mọi sự là của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho
mỗi người tùy theo nhu cầu" (Tđcv 2, 44). Họ hợp nhất với nhau không chỉ về
niềm tin mà còn hiệp nhất trong tình liên đới chia sẻ của cải vật chất cho
nhau. Sự liên đới này tạo nên một cộng đoàn bác ái yêu thương, trong đó mỗi người
đều được cộng đồng quan tâm, nâng đỡ và chia sẻ cho nhau tùy theo nhu cầu của từng
người.
Chính
đời sống yêu mến nhau nơi các tín hữu mà Giáo hội sơ khai đã được toàn dân
thương mến. Sự thương mến đó đã đem nhiều người về với Chúa. Sự thương mến đó
cũng là nơi bảo vệ các tín hữu khỏi những cuộc tàn sát của bạo chúa hung tàn.
Vâng, nếu ngày xưa cộng đoàn Giáo hội sơ khai đã được "toàn dân thương mến"
(Tđcv 2,47a), thì đời sống của xứ đạo chúng ta hôm nay, cũng phải là một cộng
đoàn được những người chung quanh nhìn bằng ánh mắt trìu mến thân thương. Đó
cũng là cách chúng ta ca tụng Chúa và giúp cho "càng ngày càng có nhiều
người gia nhập Giáo hội" (Tđcv 2, 47b).
Thế
nên, tinh thần truyền giáo mời gọi chúng ta hỗ trợ nhau không chỉ về tinh thần
mà còn cả về vật chất, không chỉ là những người có đạo mà còn cả những người
lương dân. Đồng thời sự chia sẻ này cũng nói lên sự xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét
trong cộng đoàn để đón nhận nhau trong tinh thần bác ái huynh đệ. Lấy "dĩ
hòa vi quý" để sống hài hòa, nâng đỡ đùm bọc lẫn nhau tạo nên một cộng
đoàn chan hòa yêu thương, bác ái, chia sẻ, cảm thông. Đó cũng là dấu chỉ cho thấy
chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu, là chứng nhân của Tin mừng giữa lòng dân tộc Việt
Nam.
Vì
chưng, giới luật quan trọng nhất của Kitô giáo chính là Mến Chúa - yêu người,
thì người người Kitô hữu chúng ta phải thể hiện điều đó qua từng lời nói, từng
việc làm, luôn được cân nhắc cho vừa ý trời và phù hợp với luân thường đạo lý
làm người. Vì vậy, một đời sống chứng nhân Tin mừng cũng phải thể hiện bằng một
đời sống hòa hợp với cộng đồng, với tha nhân. Nhất là biết thể hiện sự tương
thân tương ái nơi cộng đồng giáo xứ, sự hiệp nhất yêu thương trong tình huynh đệ
với tha nhân, nhờ đó mà Tin mừng mới nở hoa trên từng môi trường sống của người
tín hữu. Chúng ta không thể là một người Kitô hữu tốt mà lại đối xử thật tồi tệ
với anh chị em chung quanh. Lối sống này không chỉ là lỗi luật Chúa mà còn là cớ
vấp phạm cho những người chưa biết Chúa. Nhà lãnh tụ Ganhi của An Độ đã từng
nói: "Nếu những người Kitô giáo sống đúng tinh thần giáo lý của họ. Tôi sẽ
mời gọi cả dân tộc Ấn trở lại". Chúng ta không thể truyền giáo mà còn mang
nặng tính bè phái, tỵ hiềm, chia rẽ. Lối sống này đã không thu góp về cho giáo
hội những tín đồ mới mà còn đẩy biết bao người ra khỏi giáo hội bởi lối sống
ích kỷ, độc đoán của chúng ta. Thực tế đã có rất nhiều những cộng đoàn, những xứ
đạo đổ vỡ vì sự bè phái đã phá đổ tình hiệp nhất yêu thương. Đã có rất nhiều
người bỏ đạo, chối đạo vì sự bất khoan dung của chúng ta đã đẩy họ ra khỏi Giáo
hội, khỏi cộng đoàn. Và cũng có rất nhiều cái nhìn thiếu thiện cảm của anh em
lương dân nhìn đến chúng ta, chỉ vì chúng ta sống thiếu công bình, thiếu lòng
bác ái, thiếu lòng bao dung.
Thế
nên mỗi người tín hữu phải biết sống tinh thần truyền giáo khởi đi từ lòng mến
Chúa, yêu người nơi mỗi người chúng ta. Chúng ta mến Chúa nên chúng ta hăng say
truyền giáo. Chúng ta yêu mến tha nhân nên chúng ta muốn chia sẻ niềm vui với
tha nhân. Tình yêu mến mời gọi chúng ta đi đến với tha nhân bằng một tình yêu
chân thành, không khoe khoang, không giả dối. Tình yêu mến mời gọi chúng ta dấn
thân một cách quảng đại để đem tình yêu Chúa nối kết tình người, đưa con người
đến cùng Thiên Chúa và giúp con người xích lại gần nhau.
Nguyện
xin Chúa Giêsu là Đấng đã từ trời xuống để gieo tin mừng yêu thương vào cho
nhân thế, nâng đỡ và giúp chúng ta sống ơn gọi truyền giáo bằng một tình yêu mến
nồng nàn. Ước gì đời sống chúng ta cũng trở thành một lời chứng sống động cho
tin mừng khi chúng ta dám sống triệt để theo những đòi hỏi của tin mừng là mến
Chúa trên hết mọi sự và yêu mến tha nhân như chính mình. Amen.
5. Cách thức truyền giáo –
Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
Hôm
nay ngày khánh nhật truyền giáo, chúng ta nghe âm vang lời mời gọi của Chúa vẫn
còn vang vọng tới hôm nay: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan
báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo". Chúa không nói riêng một ai. Chúa mời
gọi tất cả. Chúa không đòi hỏi khả năng, bằng cấp, học vị mà chỉ cần có nhiệt
huyết làm tông đồ cho Chúa. Chúa cũng không đòi hỏi người truyền giáo phải hiểu
biết tín lý thần học sâu xa, hay luân lý uyên thâm, Chúa chỉ cần có lòng quảng
đại dấn thân mở mang nước Chúa. Chúa đã sai 72 môn đệ ra đi với đôi bàn tay trắng,
thế mà khi trở về ai cũng vui mừng vì thành quả họ đã đạt được. Chúa đã thưởng
công cho mỗi người như nhau, không phân biệt người đến sớm, kẻ đến muộn, người
đạo gốc hay mới theo đạo. Từ người thợ giờ thứ 9 cho tới giờ thứ 11 đều được ân
thưởng theo lòng nhân từ của Chúa.
Vậy
đâu là cách thức truyền giáo hữu hiệu nhất cho người tông đồ của Chúa?
Thánh
Gioan Tông đồ đã viết: "Ngôi lời đã hoá thành nhục thể và cư ngụ giữa
chúng ta". Chúa Giêsu là Lời hằng sống gieo vào thế gian, nhưng Lời đã
mang lấy xác phàm giống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngôi Lời đã trở thành
nguồn ơn cứu độ để những ai tiếp xúc với Ngài đều có thể nhận lãnh được sự sống
dồi dào cả tinh thần lẫn thể xác. Ngôi Lời đã mặc lấy thân phận con người, để
có thể gần gũi, cảm thông và chia sẻ với những khổ đau của con người. Cuộc sống
của Ngài đã trở thành trở thành lẽ sống cho con người, "Sống để yêu
thương", và Ngài đã đi trọn con đường tình yêu là "dám chết cho người
mình yêu". Vì vậy, cách thức duy nhất mà Chúa trối lại cho chúng ta là
"anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Lời Chúa
và giáo huấn của Chúa phải trở thành cung cách sống của người tín hữu. Một đời
sống bác ái yêu thương mới thực sự là phương thế hữu hiệu nhất để giới thiệu về
Chúa cho tha nhân. Lời nói và việc làm phải đi đôi với nhau. Mang danh Kitô hữu
và sống đời Kitô hữu phải nên một trong con người có đạo mới thực sự trở thành
chứng nhân cho Chúa.
Vì
vậy, Truyền giáo không thể chỉ đi lễ, đọc kinh cầu nguyện là xong bổn phận chứng
nhân cho Chúa. Nếu như thế mới chỉ là hành vi trả lại công bằng cho Chúa, vì việc
tạ ơn là hành vi đền đáp lại ân ban của Thiên Chúa dành cho con người. Truyền
giáo không phải là việc tuân giữ các giới răn của Chúa. Nếu như thế mới là giữ
đạo chứ chưa truyền đao. Truyền giáo không phải là nói thật hay, thuyết trình
thật hùng hồn là có thể đem nhiều người về với Chúa. Nếu như thế mới chỉ là tiếp
thị chứ chưa mang đạo vào đời như muối như men ướp mặn trần gian.
Trong
thông điệp "khánh nhật truyền giáo 2006", Đức Thánh Cha Bênedictô 16
đã viết: "Sứ mạng truyền giáo, nếu không được định hướng bởi Lòng mến, nếu
không phát sinh từ một hành động sâu xa của tình yêu thần thiêng, thì sứ mạng
đó liền bị rút gọn về chỉ còn như là một hành vi nhân ái và xã hội không hơn
không kém. Tình yêu mà Thiên Chúa có đối với mỗi người, kết thành trung tâm của
kinh nghiệm sống và loan báo Phúc Âm".
Như
vậy, Đức Thánh Cha đã tái khẳng định cách thức mà Chúa Giêsu muốn chúng ta đi
đó là thực hành bác ái. Không có lòng mến thì không thể trở thành nhân chứng
cho niềm tin của mình. Yêu Chúa luôn đi liền với yêu mến tha nhân. Và thánh
Phaolô còn quả quyết "Lòng mến chính là sợi giây ràng buộc chúng ta nên một
với Đức Kitô".
Hôm
nay nhân ngày khánh nhật truyền giáo, chúng ta hãy rà xét lại lòng mến của
chúng ta đã trở nên dấu chỉ của người Kitô hữu hay chưa? Ngày xưa cộng đoàn tín
hữu tiên khởi họ đã sống thật hiệp nhất với nhau, ngày ngày họ đến hội đường để
nghe các tông đồ rao giảng. Họ chia sẻ đời sống hằng ngày với nhau, để không ai
phải thiếu thốn. Họ được toàn dân thương mến và ngày càng có thêm nhiều người
gia nhập Giáo Hội. Ước gì cộng đoàn xứ đạo chúng ta cũng được những người chung
quanh nhìn bằng ánh mắt trìu mến, đầy thiện cảm và tôn trọng, và ngày càng có
những người muốn sống đời Kitô hữu như chúng ta. Amen.
6. Nối bước các thừa sai –
Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
Trong
tông huấn Ecclesia in Asia, Đức Cố Gioan Hoàng
Gioan Phaolô II đã kêu gọi: "Thiên niên kỷ thứ nhất truyền giáo cho Châu
Âu. Thiên niên kỷ thứ hai truyền giáo cho Châu Mỹ. Thiên niên kỷ thứ ba phải
truyền giáo cho Á Châu".
Cách
riêng với Giáo Hội việt Nam năm 2003 mừng 470 năm Tin Mừng được rao giảng trên
quê hương đất nước chúng ta, các Đức Giám mục Việt Nam đã hưởng ứng lời kêu gọi
của Đức Thánh Cha, công bố thư mục vụ mang tựa đề "Sứ Mạng Loan báo TinMừng
Của Hội Thánh Việt Nam Hôm Nay" đã khẳng định: "Đầu thiên niên kỷ mới,
sứ mạng loan báo Tin mừng được đặc biệt trao vào tay chúng ta. Chúng ta hãy tiếp
bước các vị thừa sai đầy nhiệt tình tông đồ, hãy phát huy truyền thống kiên cường
của các bậc tiền nhân anh hùng tử đạo. Ta hãy đáp lại kỳ vọng của Hội thánh đem
Tin mừng cho anh em trên lục địa mênh mông này. Và đặc biệt đem Tin mừng cho
anh chị em sống ngay trên quê hương Việt nam". (Thư chung 2003)
Hơn
nữa, Giáo hội Việt Nam ngày nay là con cháu của 117 vị thánh Tử Đạo và của hàng
chục ngàn người Việt Nam đã chết vì đạo. Nhưng gần 5 thế kỷ trôi qua, Giáo hội
Việt Nam
xem ra vẫn còn bé nhỏ giữa lòng dân tộc Việt nam. Theo thống kê năm 2006 thì
Giáo hội việt nam có 26 Giáo Phận, gồm khoảng 7 triệu giáo dân, trên tổng số
hơn 80 triệu người Việt Nam, chiếm tỉ lệ 6,62%.
Là
người con của dân tộc Việt Nam,
là dòng máu các anh hùng Tử đạo Việt Nam chúng ta cần phải có bổn phận
loan báo Tin mừng cho chính quê hương, dân tộc của mình. Đạo làm người dạy
chúng ta phải "thương người như thể thương thân", thì đạo làm con
Chúa đòi hỏi chúng ta chia sẻ tất cả những gì mình có cho tha nhân, cho đồng loại.
Các thánh Tông Đồ, các vị Thừa Sai đã đem niềm vui lớn nhất là Tin mừng Chúa
Giêsu được công bố cho toàn thế giới. Các Ngài đã không quản ngại hy sinh tính
mạng để đổi lấy niềm vui ơn cứu độ được trao ban tới muôn triệu tâm hồn.
"Từng đoàn người vượt suối băng rừng. Từng đoàn người ra khơi giữa biển rộng
sóng lớn. Biết bao người bỏ mạng nơi rừng sâu núi thẳm. Biết bao người bỏ xác
ngoài biển khơi. Nhưng lớp này nằm xuống, lớp khác đứng lên nối tiếp nhau đem
Tin mừng đến tận cùng thế giới". (Thư chung 2003)
Nhờ
các vị thừa sai tràn đầy nhiệt huyết, quê hương Việt Nam đã được đón nhận Tin mừng. Nhờ
đời sống đức tin anh dũng của các bậc tiền nhân mà thế hệ chúng ta được thừa hưởng
một gia tài đức tin vô cùng quý giá. Gia sản này chúng ta không có quyền lưu giữ
cho riêng mình, nhưng phải có bỗn phận chia sẻ cho con người thời đại hôm nay.
Chúa Giêsu sau khi phục sinh, Ngài đã uỷ thác cho Hội Thánh nhiệm vụ loan báo
tin mừng khi Ngài nói: "Anh em hãy đi tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin mừng"
(Mc 16,15). Lệnh truyền này đã trở thành sứ mạng chính yếu của Hội Thánh Chúa
Kitô. Hội thánh hiện hữu là để loan báo Tin mừng và làm cho những ai thành tâm
đón nhận Tin mừng trở nên môn đệ Chúa Kitô, đồng thời quy tụ cho Thiên Chúa mọi
con cái tản mác khắp nơi về một mối (Ga 10,52). Thế nên, là người công dân của
Nước Trời, chúng ta phản có bỗn phận chu toàn sứ vụ đó cho anh chị em chung
quanh chúng ta, cụ thề là cho chình đồng bào và dân tộc Việt Nam.
Vậy,
truyền giáo là gì?
Theo
công đồng Vat II: "Việc truyền giáo là tất cả những công tác đặc biệt qua
đó các nhà rao giảng Phúc âm được Giáo hội sai đi khắp thế gian, thi hành nhiệm
vụ rao giảng Phúc âm và vun trồng Giáo hội nơi các dân tộc cũng như giữa những
nhóm người chưa tin vào Chúa". (TG 6c)
Trước
đó, cha Pierre Charles cũng cho rằng: "mục tiêu truyền giáo không phải là
cứu rỗi các linh hồn", hoặc "làm cho dân ngoại trở về với
Chúa"...; song là "mở rộng biên cương Giáo hội hữu hình, nhằm hoàn tất
tiến trình lớn lên, hầu bao phủ toàn thế giới với lời cầu nguyện và việc phụng
tự, tức là để mang cho Đấng Cứu Thế toàn bộ gia sản của Ngài".
Như
vậy, việc truyền giáo là "đưa Thiên Chúa đến với con người và đưa con người
trở về với Thiên Chúa". Đó chính là mục tiêu chính của việc truyền giáo và
cũng là sứ mạng cấp bách của Giáo hội Chúa Kitô. Vì Giáo hội được hình thành để
tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, Đấng sang lập Giáo hội. Khi hoàn tất sứ mạng của
mình ở trần gian, Chúa Giêsu đã sai phái các tông đồ tiếp tục sứ mạng đó cho đến
tận cùng trái đất. "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sia anh em" (Ga
20, 21". "Anh em hãy làm chứng cho Thầy khởi đầu từ Giêrusalem đến tận
cùng trái đất" (Lc 24, 47)
Vì
vậy, là người công giáo chúng ta phải có bổn phận mang Tin mừng của Chúa đến
cho anh em minh. Hãy tiếp nối sứ mạng của Chúa Kitô đưa muôn người đang còn tản
mác khắp nơi về với Chúa. Hãy tiếp nối truyền thống của các Thừa sai Việt Nam mang Tin mừng
đến cho những anh em nghèo đói, đến những phận người bị bỏ rơi.. Hãy tiếp nối
tinh thần quả cảm hy sinh, kiên cường của các tiền nhân mà mạnh dạn làm chứng
cho Chúa, cho dù có bị thua thiệt trước mặt người đời, cho dù có bị hiểu lầm,
ngược đãi... nhưng cùng chịu chết với Đức Kitô là một mối lợi mà không có một
gia sản nào trên trần gian có thể sánh bằng.
Nguyện
xin Chúa Giêsu là người thợ lành nghề được sai đến trần gian để gặt lúa của Người,
xin giúp chúng con biết dấn thân quảng đại vào cánh đồng truyền giáo Việt Nam hôm nay.
Amen.
7. Bài giảng của ĐTGM.
Phaolô Bùi Văn Đọc
1.
Giáo Hội tự bản chất có sứ vụ truyền giáo (x. AG,2). Chúa Giêsu Phục Sinh, khi
hiện ra với các Tông đồ, đã trao sứ vụ của Người lại cho Giáo hội: “Như Cha đã
sai Thầy, Thầy sai anh em” (Ga 20,21). “Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và
bảo: Anh em hay nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22).
Chúa
Giêsu đã trao sứ vụ truyền giáo lại cho chúng ta, và Người cũng đã ban Chúa
Thánh Thần cho chúng ta, cho tất cả chúng ta, không trừ một ai, cho mọi thành
viên của Giáo hội, mọi người đã chịu Phép Rửa và trở thành môn đệ của Chúa.
2.
Có lẽ một số đông người Công giáo Việt Nam chưa hiểu mình có sứ mạng truyền
giáo, chưa xác tín về sứ mạng, chưa đón nhận sứ mạng từ nơi Chúa. Dịp Đại hội
Truyền giáo của Giáo phận Sài Gòn hôm nay, chúng ta hãy nhắc lại cho nhau lệnh
truyền của Chúa:
“Anh
em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai
tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ” (Mc 16,15-16).
“Anh
em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh
Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền dạy cho
anh em” (Mt 28,19-20).
“Chúa
Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thư ba, từ cõi chết sống lại và phải nhân
danh Người mà rao giảng cho muôn dân. Chính anh em là chứng nhân về những điều ấy”
(Lc 24,46-48).
3.
Cả bốn sách Tin Mừng cho chúng ta thấy rõ ý nghĩa của việc truyền giáo, thấy nội
dung sứ vụ mà Chúa Giêsu trao cho Giáo hội.
Trước
hết, truyền giáo là loan báo Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa như chính Chúa
Giêsu đã làm. Ngài không những đã hăng say loan báo tình yêu của Thiên Chúa cho
mọi người Ngài gặp gỡ, mà còn hy sinh mạng sống để làm chứng cho tình yêu đó.
Hơn thế nữa, Ngài mạc khải tình yêu đó, nhập thể tình yêu đó nơi chính bản thân
mình. Ngài là hiện thân của Tình Yêu Thiên Chúa. Nơi Ngài tình yêu đó đã chiến
thắng tội lỗi và sự chết. Vì thế sứ điệp Tin Mừng Nước Thiên Chúa trở thành Tin
Mừng Phục Sinh, Niềm Hy vọng cho toàn thể nhân loại.
4.
Truyền giáo còn bao gồm việc thiết lập và xây dựng Giáo hội, bắt đầu bằng việc
gầy dựng những cộng đoàn các môn đệ của Chúa. Rồi mạnh dạn thúc đẩy các cộng
đoàn ấy “làm chứng cho Chúa” hoặc bằng lời nói, hay bằng những việc lành, bằng
chính đời sống huynh đệ, đời sống bác ái yêu thương, như lời Chúa dạy: “Cứ dấu
này, người ta nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh em yêu thương nhau”
(Ga 13,35).
5.
Dĩ nhiên cách truyền giáo trong thế giới hôm nay không thể nào rập khuôn với những
cách làm của cha ông, vì sứ vụ của chúng ta là đưa Tin Mừng của Chúa vào các
môi trường khác nhau của xã hội hôm nay. Có những môi trường rất khó thâm nhập,
mặc dù chính những nơi ấy rất cần những hạt giống Tin Mừng, như môi trường giáo
dục, môi trường y tế, môi trường kinh doanh, môi trường xã hội đen, môi trường
của những con người khốn khổ…,
cả môi trường chính trị nữa.
Chúng
ta không truyền giáo bằng cách áp đặt, cưỡng chế những người khác theo chúng
ta. Chúng ta cũng không mua chuộc bằng tiền của, hay bằng quyền lợi, bằng những
hứa hẹn. Chúng ta cũng không dụ dỗ, như người ta dụ dỗ vị thành niên.
6.
Truyền giáo hôm nay phải là giới thiệu, là trình bày, là minh họa, là thuyết phục.
Chúng ta giới thiệu Chúa Giêsu cho những người chúng ta gặp. Chúng ta đừng sơ:
sự nhút nhát của chúng ta có hậu quả rất lớn. Nhiều người mất cơ hội để biết
Chúa. Hãy mạnh dạn như anh em Tin Lành. Họ ít khi bỏ lỡ cơ hội để nói về Chúa.
Một
thống kê khá chính xác ở Trung Quốc cho thấy một sự khác biệt quá lớn giữa sự dấn
thân truyền giáo của anh em Tin Lành và người Công Giáo: năm 1815, cách đây gần
200 năm, số người công giáo ở Trung Quốc là 215.000 người, số người Tin lành chỉ
có 20 người. Hơn 10.000 người Công giáo mới có 1 người Tin Lành. Nhưng thống kê
năm 2006 cho biết ở Trung Quốc có 12 triệu người Công giáo, và có tới 36 triệu
người Tin Lành, có nghĩa là 3 người Tin Lành mới có 1 người Công giáo.
7.
Hãy dùng mọi phương tiện lành mạnh chúng ta có được để loan báo Tin Mừng, phần
còn lại Chúa Thánh Thần sẽ bổ túc cho, vì Chúa Thánh Thần mới là tác nhân chính
của việc truyền giáo. Ngài sẽ làm những việc lớn lao mà chúng ta không ngờ, miễn
là chúng ta tự nguyện trở nên khí cụ trong tay Ngài. Chính Chúa Giêsu, khi hứa
ban Thánh Thần cho các môn đệ đã nói về sứ mạng làm chứng của Chúa Thánh Thần:
“Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Cha. Người sẽ làm chứng về Thầy. Cả anh
em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầyngay từ đầu” (Ga 15, 26-27).
8.
Chúng ta chỉ có thể cùng với Chúa Thánh Thần làm chứng cho Chúa Giêsu, khi
chúng ta có “ở với Người”, gần gũi với Người, mặc dù chúng ta không thấy Người.
Chính vì thế mà đời sống cầu nguyện rất cần thiết để chúng ta có thể loan báo
Tin Mừng. Tất cả chúng ta đều là những con người yếu đuối tội lỗi, hãy cầu nguyện
cách khiêm nhường như người thu thuế (Publicano) trong Tin Mừng Luca hôm nay,
chắc chắn Thiên Chúa sẽ nhậm lời chúng ta, vì như sách Huấn Ca viết: “Lời cầu
nguyện của kẻ khiêm nhường vọng lên tới các từng mây” (Hc 35,16).
Hãy
làm sao để có thể nói được ít nhất là một phần nào như Phaolô: “Chúa đã phù hộ
cha và ban sức mạnh cho cha, để nhờ cha mà lời rao giảng được hoàntất, và tất cả
các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng” (2 Tm 4,17).
(Bài
Giảng Thánh Lễ Đại Hội Truyền Giáo - tại Trung Tâm Mục vụ Sài Gòn)
8. Chúa sai tôi đi - ĐTGM.
Giuse Ngô Quang Kiệt
Ta
thường nghĩ rằng: Việc truyền giáo là dành cho các Giám mục, các Linh mục, Tu
sĩ. Giáo dân không được học hỏi gì nhiều làm sao có thể truyền giáo được? Truyền
giáo phải có nhiều phương tiện vật chất. Thiếu phương tiện không có thể làm gì
được. Đó là những quan niệm sai lầm mà Chúa vạch cho ta thấy trong bài Tin Mừng
hôm nay.
Chúa
Giêsu cho ta thấy truyền giáo là công việc của mọi người khi Người sai 72 môn đệ
lên đường. Mười hai Tông đồ có tên tuổi rõ ràng. Đó là thành phần ưu tuyển. Đó
là các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ. Còn 72 môn đệ không có tên tuổi rõ ràng. Đó
là một đám đông không xác định. Đó là tất cả mọi người giáo dân. Khi sai 72 môn
đệ, Chúa Giêsu muốn huy động tất cả mọi người thuộc đủ mọi thành phần tham gia
vào việc truyền giáo.
Giáo
dân tham gia vào việc truyền giáo bằng cách nào? Trước hết phải ý thức sự cấp thiết
của việc truyền giáo: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Lúa đã chín
vàng, phải nhanh chóng gặt về không được chậm trễ, nếu không lúa sẽ hư hỏng. Biết
bao anh em đang chờ đợi được nghe Lời Chúa. Biết bao anh em đang tìm kiếm Chúa.
Biết bao tâm hồn đang mở cửa đón Chúa. Ta phải mau mắn để khỏi lở mất cơ hội.
Thứ
đến ta phải cầu nguyện.
Sau khi đã chỉ cho thấy đồng lúa chín vàng, Chúa Giêsu không bảo lên đường
ngay, nhưng Người dạy phải cầu nguyện trước. Cầu nguyện là nền tảng của việc
truyền giáo. Vì truyền giáo phát xuất từ ý định của Thiên chúa. Ơn hoán cải tâm
hồn là ơn Chúa ban. Nên cầu nguyện chính là truyền giáo và kết quả của việc
truyền giáo bằng cầu nguyện sẽ rất sâu xa. Ta hãy noi gươngThánh nữ Têrêxa Hài
đồng Giêsu. Vị Thánh sống âm thầm, suốt đời chôn vùi trong 4 bức tường Dòng
Kín. Thế mà nhờ lời cầu nguyện, Thánh nữ đã đem được nhiều linh hồn về với Chúa
không kém thánh Phanxicô Xaviê, người suốt đời bôn ba khắp nơi để rao giảng Lời
Chúa.
Khi
đi truyền giáo, hãy trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chúa dạy ta:
“Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép” để ta biết sống khó nghèo. Để ta đừng
cậy dựa vào tài sức riêng mình. Để ta đừng cậy dựa vào những phương tiện vật chất.
Biết mình nghèo hèn yếu kém, biết những phương tiện vật chất chỉ có giá trị
tương đối, ta sẽ biết trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chính Chúa sẽ làm cho việc
truyền giáo có kết quả.
Sau
cùng, truyền giáo là đem bình an đến cho mọi người. Niềm bình an
đến từ thái độ quên mình, sống chan hoà với những người chung quanh. Niềm bình
an đến từ sự hiệp thông, có cho đi, có nhận lãnh. Và nhất là, niềm bình an vì
được làm con cái Chúa, luôn sống dưới ánh mắt yêu thương của Chúa.
Như
thế việc truyền giáo hoàn toàn nằm trong tầm tay của mọi người giáo dân. Mọi
người đều có thể ý thức việc truyền giáo. Mọi người đều có thể cầu nguyện. Mọi
người đều có thể trông cậy vào Thiên chúa. Và mọi người đều có khả năng cho đi,
nhận lãnh, sống chan hoà với người khác
Như
thế mọi người, từ người già tới em bé, từ người bình dân ít học đến những bậc
trí thức tài cao học rộng, từ người khoẻ mạnh đến những người đau yếu bệnh tật,
tất cả đều có thể làm việc truyền giáo theo ý Chúa muốn.
Hôm
nay, Chúa đang than thở với mọi người chúng ta: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ
gặt”. Chúng ta hãy bắt chước tiên tri Isaia thưa với Chúa: “Lạy Chúa, này con
đây, xin hãy sai con đi”.
KIỂM
ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1.
Bạn có thấy việc truyền giáo là cấp thiết không?
2.
Theo ý bạn, muốn truyền giáo thành công trong vùng này, người tông đồ cần có những
đức tính nào?
3.
Bạn có bao giờ cầu nguyện cho việc truyền giáo, cho người làm việc truyền giáo,
cho những người chưa biết Chúa ở chung quanh bạn không?
Bạn
đã bao giờ tham gia vào việc truyền giáo trong Giáo xứ, trong Giáo phận chưa?
9. Bài suy niệm của ĐTGM.
Ngô Quang Kiệt.
HÃY
THẢ LƯỚI BÊN PHẢI THUYỀN (Lc
5,1-11)
Các
Tông đồ đã đánh cá vất vả suốt đêm mà không được con cá nào. Nay Chúa Giêsu bảo
các ngài phải ra khơi một lần nữa. Chắc các ngài phải ngần ngại lắm. Ngần ngại
vì vừa qua một đêm vất vả, thân thể mỏi nhừ vì suốt đêm phải vật lộn với biển cả,
với sóng gió, với chài lưới. Ngần ngại vì đang buồn ngủ. Mắt chĩu nặng vì suốt
đêm không ngủ, đang cần một giấc ngủ để hồi phục sinh lực. Ngần ngại vì vừa bị
thất bại ê chề, đã mất hết ý chí phấn đấu. Thế nhưng các ngài vẫn vâng lời
Chúa, ra khơi, thả lưới. Và kết quả thật là bất ngờ. Lưới đầy cá chất đầy hai
thuyền đến gần chìm.
Qua
bài Tin Mừng này Chúa muốn dạy tôi những bài học về việc truyền giáo.
Bài
học thứ nhất: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi vất vả. Phải lao động đêm ngày. Như các Tông đồ
đã chài lưới suốt đêm thâu trong sương đêm giá lạnh, trong sóng gió biển khơi,
trong vất vả cực nhọc. Suốt đêm đã lênh đênh trên biển cả, sáng sớm vừa mới về
tới đất liền, tưởng được nghỉ ngơi, không ngờ lại phải ra khơi ngay tức khắc.
Ra khơi cả lúc đang mệt mỏi cần nghỉ ngơi. Người muốn truyền giáo cũng phải noi
gương các tông đồ. Làm việc không nghỉ. Phải đầu tư sức lực và trí tuệ. Phải phấn
đấu không ngừng. Làm cho hết việc chứ không làm cho hết giờ. Và phải chấp nhận
tất cả những mỏi mệt, những thử thách.
Bài
học thứ hai: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi kiên trì. Vì việc truyền giáo có nhiều thất bại
hơn thành công, có nhiều mệt nhọc hơn vui thích, nên việc truyền giáo đòi hỏi rất
nhiều kiên trì. Kiên trì khi đã gặp thất bại. Kiên trì khi đã chán nản, mệt mỏi
rã rời. Kiên trì khi gặp những trắc trở. Như lời thánh Phaolô khuyên dạy: “Hãy
rao giảng Lời Chúa. Hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện”
(2Tim 4,2). Các Tông đồ thật kiên trì, mặc dù đã thất bại sau suốt một đêm vất
vả, các ngài vẫn tiếp tục ra khơi theo lệnh Chúa truyền. Trong quá khứ, ta đã gặp
nhiều thất bại trong việc truyền giáo. Hôm nay Chúa lại mời gọi ta hãy ra khơi,
hãy lên đường truyền giáo. Ta hãy mau mắn đáp lời Chúa mời gọi, kiên nhẫn làm
việc trên cánh đồng truyền giáo, bất chấp mọi thất bại, bất chấp mọi chán nản.
Bài
học thứ ba: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi thanh luyện bản thân. Truyền giáo là công việc thánh thiện
nên người truyền giáo phải thánh thiện. Sự thánh thiện khởi đi từ nhận thức
thân phận yếu hèn tội lỗi. Và từ đó nảy sinh nhu cầu được thanh luyện. Như
Phêrô cảm thấy mình tội lỗi không xứng đáng ở gần Chúa. Như Phaolô ngã ngựa cảm
thấy mình lầm lạc. Như Isaia cảm thấy môi miệng mình ô uế. Sau khi được thanh
luyện các ngài đã trở thành những nhà truyền giáo gương mẫu. Thánh hoá bản thân
là một điều kiện quan trọng để truyền giáo thành công.
Bài
học thứ tư: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi lắng nghe Lời Chúa. Vì truyền giáo là một công việc thiêng
liêng. Nên ta không thể cậy dựa vào sức lực phàm nhân, phương tiện phàm trần.
Các tông đồ là những ngư phủ chuyên nghiệp. Các ngài biết rõ biển hồ Galilê như
lòng bàn tay. Thế mà các ngài đánh cá suốt đêm chẳng được con nào. Đó là bài học
dạy ta biết rằng, nếu cậy dựa vào tài sức riêng, việc truyền giáo sẽ không có kết
quả. Việc các tông đồ vâng lời Chúa ra khơi và vâng lời Chúa thả lưới bên phải
mạn thuyền cho ta thấy một thái độ khiêm nhường lắng nghe. Dù Chúa Giêsu không
phải là ngư phủ chính gốc. Dù Chúa Giêsu không hiểu biết biển hồ, nhưng các
ngài vẫn vâng lời Chúa. Chính nhờ thế, các ngài đã thành công. Người làm việc
truyền giáo phải noi gương các tông đồ biết khiêm nhường nhận biết sự bé nhỏ
nghèo hèn của bản thân để thao thức lắng nghe Lời Chúa. Chỉ làm theo Lời Chúa,
làm theo ý Chúa, làm vì Chúa việc truyền giáo mới có kết quả tốt đẹp.
Xin
Chúa ban cho mỗi người chúng ta một nghị lực mạnh mẽ để sẵn sàng chấp nhận những
vất vả khổ cực trong việc truyền giáo. Xin cho chúng ta biết chấp nhận cả những
thất bại mà vẫn kiên trì lên đường truyền giáo. Và nhất là xin cho mọi người
chúng ta được Chúa dạy bảo, để biết làm theo ý Chúa. Chỉ có như thế, việc truyền
giáo mới có kết quả tốt đẹp.
Lạy
Chúa Giêsu, xin kêu gọi chúng con lên đường truyền giáo. Lạy Chúa Giêsu, xin
thanh luyện chúng con để xứng đáng làm việc truyền giáo. Lạy Chúa Giêsu, xin dạy
chúng con biết cách làm việc truyền giáo. Amen.
KIỂM
ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1.
Truyền giáo là lẽ sống của Hội Thánh, bạn có ý thức điều này không?
2.
Muốn truyền giáo phải có những điều kiện nào?
3.
Bạn đã bao giờ bắt tay vào việc truyền giáo chưa?
4.
Năm nay bạn đã quyết tâm làm gì để đóng góp vào việc truyền giáo?
10. Thế Giới Truyền Giáo: Đến
với muôn dân
(Trích
trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’ – Lc 24,44-53)
Anh
chị em thân mến,
Ngày
7.12.1990 Đức Giáo Hoàng Phaolô II đã gởi cho toàn thể Giáo Hội Công Giáo một
thông điệp mang tựa đề: “Sứ vụ Đấng Cứu Độ” (Redemptoris Missio). Thông điệp được
công bố để kỷ niệm 25 năm ngày Công Đồng Vatican II ban hành Sắc lệnh về Hoạt động
Truyền Giáo của Giáo Hội: “Đến Với Muôn Dân” (Ad gentes) đồng thời nhân dịp kỷ
niệm 500 năm Christophe Colomb tìm ra Tân Thế giới và Tin Mừng được rao giảng ở
Châu Mỹ. Thông điệp còn xuất phát từ những đòi hỏi cấp bách của xã hội và Giáo
Hội trong những năm cuối của thiên niên kỷ II tiến tới năm 2000. Mới đây, trong
Tông thư “Tiến tới Thiên niên kỷ III”, Đức Thánh Cha lại kêu gọi toàn thể Giáo
Hoi chuẩn bị mừng Năm Thánh 2000 bằng việc canh tân đời sống thánh thiện trong
Giáo Hội để tiến tới công cuộc truyền giáo mới. Đức Thánh Cha không chuẩn bị
cho Giáo Hội tiến tới ngày tận thế! Trái lại, Ngài thúc đẩy Giáo Hội nhân dịp
bước qua Thiên niên kỷ III, tìm gặp lại sự thánh thiện và lòng nhiệt thành tông
đồ mà Giáo Hội cần phải có để theo đuổi sứ mạng của mình trong thế giới nhằm phục
vụ Tin Mừng cho Nước Chúa hiển trị.
Đã
một thời, hễ nói đến truyền giáo là chúng ta nghĩ đến việc ra đi đến những miền
đất xa xôi, những vùng dân cư chưa hề biết Chúa vì chưa bao giờ có các nhà truyền
giáo tới với họ. Ngày nay, không phải chúng ta không nghĩ tới những vùng đất nầy
nữa, nhưng chúng ta phải quan tâm đến môi trường chúng ta đang sống, vì có những
anh chị em chưa biết Chúa đang sống bên cạnh chúng ta. Chúng ta không cần phải
đi đâu xa xôi nữa. Theo Tông huấn “Loan báo Tin Mừng” của Đức Giáo Hoàng Phaolô
VI thì truyền giáo là đem Tin Mừng đến môi trường nhân loại và nhờ tiếp xúc với
Tin Mừng, con người được biến đổi từ bên trong, tạo nên một nhân loại mới, bằng
bí tích Thánh Tẩy và đời sống theo Tin Mừng. Vì vậy, ngày nay Giáo Hội dùng từ
ngữ “Tin-Mừng-hóa” thay cho truyền giáo. Tin Mừng hóa là làm cho Tin Mừng thấm
nhập vào mọi thực tại của cuộc sống con người. Không một thực tại nào, không một
lãnh vực nào của đời sống con người mà không phải là đối tượng của việc loan
báo Tin Mừng.
Như
vậy, quan niệm truyền giáo ngày nay bao quát rộng rãi hơn, bao trùm cả cuộc sống
con người, tất cả các công cuộc thăng tiến hay phát triển con người toàn diện,
bắt đầu từ công cuộc giải phóng con người khỏi đói kém, bệnh tật, mù chữ, nghèo
túng, bất công, áp bức, bóc lột. Tất cả các vấn đề đó không phải là điều xa lạ
với việc loan báo Tin Mừng (x. LBTM 30,31). Lý do chính là vì bác ái: “Làm sao
có thể công bố giới răn mới của Chúa Giêsu tức là giới răn yêu thương, mà không
xúc tiến trong công lý và hòa bình, sự phát triển đích thực của con người”
(LBTM 31). Thực ra, việc loan báo Tin Mừng của Giáo Hội từ bao giờ vẫn luôn đi
kèm theo những công cuộc thăng tiến con người: như mở trường học, xây cất bệnh
viện, tổ chức cứu trợ, khai hoang lập ấp, nâng ca dân trí… Việc thăng tiến con
người được xem là thành phân của chính sứ mạng rao giảng Tin Mừng, vì được bao
gồm trong ơn cứu độ Chúa Kitô đem đến và Giáo Hội tiếp tục công bố và thực hiện.
Vì
vậy, thưa anh chị em, ở đây vai trò của anh chị em giáo dân thật là quan trọng,
không thể thay thế được. Giáo Hội quý trọng anh chị em, khuyến khích anh chị em
dấn thân vì đồng loại. Ngay trong lúc cố gắng tạo các điều kiện giúp anh em đồng
loại sống xứng đáng với nhân phẩm hơn, anh chị em biết rằng, mình cũng đang làm
nhiệm vụ loan báo Tin Mừng, đang làm việc tông đồ; dù các môi trường hay các tổ
chức, các cơ quan trong đó anh chị em dấn thân không thuộc về Giáo Hội. Tuy
nhiên, nhiệm vụ loan báo Tin Mừng nầy không dừng lại ở việc thăng tiến đời sống
con người mà thôi, mà cuối cùng phải nhằm đưa con người đến chỗ sống một cuộc sống
mới từ bên trong, nhờ lãnh nhận bí tích Rửa Tội và hoán cải cuộc sống theo Tin
Mừng.
Nhưng
bằng cách nào? Thưa anh chị em,
Hình
thức đầu tiên của việc loan báo Tin Mừng là chứng tá đời sống. Đức Giáo Hoàng
Gioan-Phaolô II trong Thông điệp “Sứ Vụ Đấng Cứu Độ” đã nhất trí với nhận định của Đức
Phaolô VI trong Tông huấn “Loan báo Tin Mừng” rằng: “Con người ngày nay tin vào
các nhân chứng hơn là các thầy dạy”. Muốn người khác tin, không phải chỉ dạy đạo
lýc mà còn phải sống đạo lý mình dạy nữa. Con người hôm nay chờ đợi nơi nhà
truyền giáo:
-
Một sự quan tâm đặc biệt đến con người nói chung, nhất là những người nghèo, thấp
cổ bé miệng, những người đau khổ. Những hoạt động bác ái là những nét son của
Giáo Hội trong mọi thời đại.
-
Một sự dấn thân phục vụ công lý và hòa bình, thăng tiến phụ nữ, bảo vệ trẻ em
và bênh vực quyền con người.
-
Một sự hòa nhập vào đời sống của dân tộc mình: trugn thành với đất nước, quyền
dân tôc, với nền văn hóa dân tộc mình trong lúc vẫn đề cao tình huynh đệ đại đồng
giữa các dân tộc.
-
Lòng khiêm tốn để nhìn nhận các giới hạn và sai sót của mình, để mỗi ngày một cải
tiến.
-
Lòng can đảm để chống lại mọi áp bức, mọi bất công hay bóc lột.
Nếu
đáp ứng đủ những sự chờ đợi nầy, lời rao giảng của nhà truyền giáo sẽ có cơ may
được đón nhận dễ dàng hơn.
Ngoài
ra, nhà truyền giáo phải hết sức thận trọng để luôn trung thành với giáo huấn cả
Đức Kitô, hiệp nhất với toàn thể Giáo Hội và ý thức mình chỉ là “người được sai
đi”. Trong mọi hoàn cảnh, thuận lợi hay không thuận lợi, nhà truyền giáo luôn
xác tín rằng tự đáy lòng mọi người đều mong chờ được đón nhận chân lý về Thiên
Chúa, về con người và về con đường cứu độ. Như Đức Kitô xưa, nhà truyền giáo
can đảm rao giảng Lời Chúa. Nếu nhà truyền giáo có bị xiềng xích, bị tù đầy hay
bị mất mạng sống vì đức tin… thì đó là một lời loan báo Tin Mừng hùng hồn và có
sức thuyết phục nhất (x. SVĐCĐ 26-81).
Anh
chị em thân mến,
Trong
viễn tượng của ngày năm thứ ba sắp đến, chúng ta hãy là những người phát ngôn
cho Tin Mừng, hãy phổ biến với hết sức lực của chúng ta lời cứu rỗi, sự thật của
Thiên Chúa để biến đổi trọn cả thực tại trần gian theo tinh thần Tin Mừng.
Không phải là lúc phải lo sợ, không phải là lúc để dành cho người khác thi hành
trách vụ nầy. Mỗi người, xét theo là thành phần của Giáo Hội, cần phải lãnh lấy
phần trách nhiệm của mình. Mỗi người trong chúng ta cần phải làm cho những ai
sinh sống gần bên, trong gia đình, tại học đường, trong các môi trường lao động,
văn hóa, được hiểu rằng: “Chúa Kitô là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” của
loài người (Ga 14,6). Cần phải công bố và làm cho từng người biết được sự thật
cứu rỗi, vì chúng ta không thể nào sống lãnh đạm trước sự kiện hàng triệu triệu
người chưa biết hay biết không đúng về Chúa Kitô và Tin Mừng cứu độ của Ngài.
Hai
ngàn năm đã qua đi kể từ khi những lời “Các con hãy ra đi giảng dạy muôn dân”
được Chúa Kitô truyền dạy. Công cuộc rao giảng Tin Mừng cho muôn dân tùy thuộc
vào chúng ta. Chúa Kitô cần đến chúng ta để đem Tin Mừng cứu độ đến mọi nẻo đường
thế giới. Chúa Kitô cần đến tâm hồn quảng đại và sẵn sàng của chúng ta, cần đến
đời sống chứng tá của chúng ta để bày tỏ cho tất cả mọi người tình thương vô
biên của Ngài.
11. Tinh thần truyền giáo
(Lc 18,1-8)
(Với
cả tâm tình – ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
“Không
biết khi Con Người đến, liệu còn gặp thấy niềm tin trên mặt đất nữa không?”.
Trang Tin Mừng hôm nay được kết thúc như thế.
Có
thể đó là câu hỏi một thoáng bâng khuâng Chúa Giêsu thốt lên cho riêng mình Người.
Cũng có thể đó là câu hỏi dự báo một tình huống không vui Chúa Giêsu cảnh giác
cho các môn đệ. Có khi câu hỏi đó đợi chờ một lời đáp tích cực mở ra cho lối sống
đức tin lạc quan. Và biết đâu, câu hỏi đó lại chẳng tố giác một thực trạng tiêu
cực đang dần dà bào mòn niềm tin tôn giáo?
Nhưng
đặt trong bối cảnh của Chúa Nhật cầu cho việc truyền giáo, theo tinh thần của
các bài đọc, câu hỏi ấy đã ẩn chứa một lời giải đáp. Đó là: để lòng tin còn mãi
trên mặt đất, mọi thành phần của Dân Chúa cần phải sống tinh thần truyền giáo.
1)
Tinh thần truyền giáo ấy được nuôi dưỡng bằng sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt
động.
Nói
đến truyền giáo người ta thường nghĩ là phải dấn thân làm việc truyền giáo, và
ai càng làm được nhiều, người ấy lại càng được xem là nhà truyền giáo lớn. Thực
ra, quan niệm ấy cũng đúng, nhưng không đủ, bởi dù không phủ nhận những kết quả
lớn lao trong lịch sử Giáo Hội do hoạt động truyền giáo mang lại, nhưng bao giờ
cũng thế, bên trong những hoạt động ấy còn là cả một tinh thần cầu nguyện tích
cực của bản thân các nhà truyền giáo cũng như của mọi thành phần Dân Chúa.
Thiếu
cầu nguyện, hoạt động sẽ không kết quả, hoặc sẽ lái kết quả sang một hướng khác
có nguy cơ “sáng danh tôi, tối Danh Chúa”. Vắng cầu nguyện, hoạt động có thể trở
thành nguy hại, nó đồng nghĩa với náo động nếu không muốn nói là khua động ầm ĩ
hoặc khuấy động ồn ào. Quên cầu nguyện, hoạt động chỉ là hời hợt mang tính
phong trào bùng lên đó nhưng rồi cũng lịm tắt đó. Bạo phát bạo tàn, mau xộp mau
xẹp! Bỏ cầu nguyện, hoạt động coi chừng chỉ còn là một việc cá nhân, dẫu bỏ ra
nhiều công sức, nhưng vẫn không phải là hoạt động của Hội Thánh vốn luôn được
nuôi dưỡng phong phú bởi nguồn ơn Chúa Thánh Thần.
Cầu
nguyện là linh hồn của hoạt động truyền giáo. Nó đem đến cho những hoạt động một
sức sống kín múc tận nguồn sứ mạng.
Bài
đọc thứ nhất kể lại một hình ảnh sống động cho thấy mối tương liên không thể
tách rời giữa việc Môsê giơ tay cầu nguyện và việc Giosuê đánh bại quân Amalếch.
Khi Môsê hạ tay xuống, sức mạnh của ông Giosuê không còn nữa, nhưng khi ông giơ
tay lên, phần thắng đã nghiêng về phía Giosuê. Chiến thắng ấy không riêng của
Môsê hay riêng của Giosuê, mà là của Môsê cùng với Giosuê, là dung hòa của cầu
nguyện và hoạt động, là tổng hợp của ơn thánh Chúa và nỗ lực con người.
Thánh
nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã được mừng kính vào đầu tháng mười này cũng là một
hình ảnh khác minh họa cho sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động truyền
giáo. Chín năm khuôn mình trong nhà kín Lisieux, chưa hề làm việc truyền giáo
bên ngoài, thế nhưng chỉ bằng hy sinh cầu nguyện cho các vị thừa sai và cho
công cuộc rao giảng Tin Mừng, thánh nữ đã được Giáo Hội đặt làm Bổn Mạng các xứ
truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê một đời bươn chải giảng giải đạo
Chúa đến tận miền xa Châu Á.
Bản
chất của Giáo Hội là truyền giáo, nên có thể nói được rằng không bao giờ Giáo Hội
thôi truyền giáo. Bốn phần năm dân số địa cầu chưa biết Chúa, nên Giáo Hội phải
truyền giáo đã đành, nhưng ngay cả một phần năm đã biết Chúa, Giáo Hội cũng phải
tái truyền giáo nữa. Xem như thế, truyền giáo vừa là sứ mạng, vừa là số mạng, tức
là sự sống còn của Giáo Hội. Và tinh thần truyền giáo ấy một khi được hun đúc đều
đặn bằng cầu nguyện và hoạt động, ta có quyền hy vọng khi Chúa Kitô đến, Người
vẫn thấy niềm tin trên mặt đất.
2)
Tinh thần truyền giáo ấy được thể hiện khi thuận tiện cũng như lúc không thuận
tiện.
Được
nuôi dưỡng bằng cầu nguyện dung hòa với hoạt động cây truyền giáo nhất định sẽ
vươn lên, nhưng không thể không biết đến yếu tố thời tiết, mưa thuận gió hòa,
hoặc nắng hạn mưa giông. “Nhất nước nhì phân tam cần tứ giống”, đó là kinh nghiệm
trồng cây. Song một cây lành như cây truyền giáo phải biết chứng minh bằng phẩm
chất của mình. Nói khác đi, tinh thần truyền giáo cũng phải được chứng minh bằng
chí bền sứ mạng, nghĩa là vừa kiên tâm thực hiện những điều tốt, vừa kiên gan
chịu đựng ngay cả những điều xấu nữa (thánh Augustinô), phải bền chí khi thuận
tiện cũng như khi không thuận tiện.
Khi
thuận tiện là khi chí bền truyền giáo giúp ta tỉnh táo đừng để mất mình trong
hoạt động đến nỗi quên đi cầu nguyện, giúp ta phân biệt rõ ràng đâu là đóng góp
nhỏ nhoi của mình và đâu là ơn ban vô cùng to lớn của Thiên Chúa, và còn mãi
giúp ta không chạy theo những thành công trước mắt để sau này khỏi phải trả giá
đắng cay trắng tay thất vọng. Trong một chừng mực nào đó, biết đâu lối sống của
ông thẩm phán bạo ngược “chẳng kính sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng coi ai ra gì”
trong bài Phúc Âm lại chẳng có vài tương đồng với quan niệm háo thắng hoặc đắc
thắng của cách truyền giáo thời Trung cổ, vốn xem Kitô giới như một xã hội lý
tưởng, nên cố mà đưa người ta vào bằng chinh phục (truyền giáo) hoặc gắng mà ép
người ta về bằng cả chinh phạt nữa (thập tự chinh)?
Xem
ra kiên tâm thực hiện những điều tốt trong truyền giáo vào thời thuận tiện cũng
không ít vấn đề.
Khi
không thuận tiện là khi chí bền truyền giáo không chỉ giúp ta chịu đựng những
khắc nghiệt thường xuyên, mà còn giúp ta biết tận dụng hoàn cảnh để mà thanh
luyện tâm hồn. Nếu những hoạt động phải chấp nhận giới hạn ngoài ý muốn, thì
chí bền như một mạch điện tự động “kiểm soát lợi suất” sẽ bù lại những giới hạn
ấy bằng một thao thức phong phú của lời nguyện cầu. Và nếu như hoàn cảnh cụ thể
không cho phép có một hoạt động bên ngoài nào nữa, thì vẫn còn đó mênh mông một
phương tiện truyền giáo bằng gương sáng tình mến, bằng chứng tá đức tin và bằng
cách sống tốt đẹp đời Kitô của mình.
Điều
đáng sợ không phải là hoàn cảnh khắc nghiệt, mà là chính mình không đủ chí bền
mà vượt qua những khắc nghiệt ấy. Trong ý tưởng này, có lẽ rất thích hợp khi đặt
hình ảnh người đàn bà góa bụa của bài Phúc Âm, nhiều lần đến quấy rầy ông thẩm
phán mong được minh xét minh định minh oan, ở đây như một cổ võ sống động cho
chí kiên bền.
Và
dầu hoàn cảnh thuận tiện hay không (bài đọc thứ hai), chí truyền giáo thiết tưởng
cũng là biểu tỏ của niềm hy vọng, là tình mến khởi đi từ một đức tin sống động
vào Thiên Chúa là Cha nhân ái luôn muốn sự tốt lành trong ơn cứu độ cho tất cả
mọi người. Được như thế, chắc chắn khi Chúa Kitô trở lại vẫn thấy niềm tin còn
trên mặt đất trong chí bền của Giáo Hội là thân mình Người.
Ước
mong rằng suy nghĩ trên sẽ trở nên ý lực cho cuộc sống và trở nên ý nguyện
trong Ngày Thế Giới Truyền Giáo hôm nay.
(Trích
dẫn từ ‘Manna’)
Suy
Niệm
Truyền
giáo là một mệnh lệnh và cũng là một ước mơ của Chúa Phục Sinh: "Anh em
hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ."
Ngài
đòi ta phải ra đi loan báo Tin Mừng, nhưng cuối cùng là phải giúp người khác trở
thành môn đệ của Chúa Giêsu, nghĩa là có tương quan thân thiết với Ngài, dám sống
như Ngài, sống cho Cha và con người.
Đấng
Phục Sinh nắm quyền trên cả thế giới, nên Ngài sai chúng ta đến với mọi dân tộc.
Tin Mừng không còn bị giới hạn trong mảnh đất Israel, nhưng lan rộng khắp trái đất
(x. Mt 10,5). Ngày nào còn một người chưa trở thành môn đệ, ngày ấy trách nhiệm
chúng ta vẫn còn.
"Bằng
cách làm phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần".
Phép Rửa khiến người ta trở thành môn đệ Đức Kitô, và đi vào tương quan với Ba
Ngôi Thiên Chúa.
"Bằng
cách dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy truyền cho anh em", như thế các môn
đệ thuộc bất cứ thời đại nào đều có một điểm chung, đó là cùng tuân giữ toàn bộ
giáo huấn của Chúa.
"Và
đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" Đây không phải là một lời
hứa cho tương lai, nhưng là một điều đang xảy ra trong hiện tại. Chúa Giêsu thật
là Emmanuel (Mt 1,23), Ngài ở cùng Giáo Hội, ở cùng các môn đệ, Ngài ở bên họ
trong mọi bước đường rao giảng (Mc 16,20).
Khi
nhìn đến quê hương Việt Nam,
chúng ta thấy hơn 70 triệu người chưa biết Chúa. Chúng ta có trách nhiệm loan
báo Tin Mừng, có bổn phận nói về Chúa cho họ, nói bằng lời và nói bằng cuộc sống
cụ thể. Làm sao qua cuộc sống của tôi: yêu thương, tha thứ, hy sinh phục vụ,
bình an vui tươi, người ta gặp được Đấng Vô Hình mà gần gũi? Làm sao tôi có thể
trả lời được những câu hỏi, soi sáng được những vấn đề nhức nhối của họ bằng
ánh sáng Tin Mừng?
Truyền
giáo không phải là tuyên truyền hay mua chuộc, cũng không phải là áp đặt một
cách tinh vi, Truyền giáo là hát lên niềm vui chất chứa nơi lòng mình, là tỏa
hương tự nhiên như đoá hoa. Truyền giáo là hơi thở của một Giáo Hội đầy sức sống
Thánh Thần.
Chúng
ta phải biếu Chúa Giêsu cho con người hôm nay. Nhưng trước hết chúng ta phải có
Chúa Giêsu, và phải biết lắng nghe con người.
Gợi
Ý Chia Sẻ
Theo
ý bạn, tại sao ít người Việt Nam
theo đạo Công Giáo? Có gì cần sửa đổi để người khác dễ chấp nhận đạo chúng ta
hơn không?
Cha
Đắc Lộ đã đi truyền giáo ở Việt Nam và đã đóng góp nhiều cho việc hình thành chữ
Quốc Ngữ. Theo bạn, người Công Giáo Việt Nam hôm nay có thể làm được điều gì
cho quê hương Cha Đắc Lộ?
Cầu
Nguyện
Lạy
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Chúa đã muốn trở nên con của loài người, con của
trái đất, con của một dân tộc. Chúa vẫn yêu mến dân tộc của Chúa dù họ từ khước
Tin Mừng và đóng đinh Chúa vào thập giá. Xin cho chúng con biết yêu mến quê
hương, một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu sau những năm dài chiến tranh, một
quê hương đang mở ra trước thế giới nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc và bảo
vệ nền đạo lý của cha ông.
Xin
cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên trong sự an toàn và tiện nghi vật chất,
nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau, và làm một điều gì đó thật cụ thể cho những
đồng bào quanh chúng con. Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước bằng khối óc,
quả tim và đôi tay. Và ước gì chúng con biết khiêm tốn cộng tác với muôn người
thiện chí.
13. Truyền giáo
“Không
biết khi Con Người đến, liệu còn gặp thấy niềm tin trên mặt đất nữa không?” Lời kết của bài Tin Mừng hôm nay gợi
cho chúng ta nhiều suy nghĩ. Câu hỏi đó hướng đến một lời mời gọi tích cực,
nhưng cũng có thể nói lên một thực trạng tiêu cực của niềm tin không chỉ cho
các đồ đệ khi xưa nhưng còn cho chính con người ngày nay.
“Như
Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Sứ mạng truyền giáo loan báo Tin Mừng
tình yêu cứu độ mà Chúa Giêsu đã khai mở và thực hiện, Ngài đã truyền lại cho
Giáo Hội tiếp tục sứ mạng ấy. Đã 2000 năm qua đi và trong bối cảnh của Chúa nhật
cầu nguyện cho việc truyền giáo, cộng đoàn chúng ta qui tụ nơi thánh đường này
để cùng nhìn lại sứ mạng Kitô hữu của mình.
Trong
sứ điệp của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II về Ngày Quốc Tế Truyền Giáo, Ngài nhấn
mạnh đến hai ý nghĩa của việc cử hành ngày quốc tế truyền giáo, đó là: mời gọi
canh tân về ý thức truyền giáo, nhắc lại tính cấp bách của hoạt động truyền
giáo. Đây là sứ vụ liên quan đến mọi Kitô hữu. Quả vậy, ngay từ ngày được lãnh
nhận Bí tích Thánh tẩy, mỗi Kitô hữu đã đón nhận sứ mạng tư tế, vương đế và
tiên tri. Nói theo lối trình bày của Hiến Chế Anh Sáng Muôn Dân (Lumen Gentium)
thì truyền giáo là bản chất của Giáo Hội. Giáo Hội tồn tại là vì sứ vụ, nghĩa
là lý do hiện diện của Giáo Hội là truyền giáo. Và như vậy lệnh truyền của Đức
Giêsu về truyền giáo là lệnh truyền cho mỗi Kitô hữu, là bổn phận trách nhiệm của
mỗi Kitô hữu.
Thánh
Phaolô trong thư gởi tín hữu Rôma viết: “Tất cả những ai kêu cầu danh Chúa sẽ
được cứu thoát. Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin
Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe nếu không có ai rao giảng?”
Nhìn
vào thực tế hôm nay số người Kitô hữu chỉ chiếm một phần năm dân số thế giới. Lục
địa Á Châu gần bốn tỷ người mà trong đó người tín hữu chỉ là một con số quá bé
nhỏ với 2,7/o. Còn trong đất nước chúng ta với dân số hơn 70 triệu trong đó người
Công giáo chỉ chiếm tỷ lệ khoảng 6/o (chưa được một phần mười). Đây phải là nỗi
thao thức của mỗi Kitô hữu chúng ta. Cụ thể hơn nhìn vào giáo xứ, vào khu vực địa
phương chúng ta đây còn bao nhiêu người chưa được nghe nói về Chúa, về Tin Mừng
của Ngài, chưa tin theo Chúa? Lý do nào vậy? Trong đó có trách nhiệm của tôi
không? Sẽ không thừa khi nói lên hiện trạng không ít người vẫn còn cho rằng việc
truyền giáo là của các Đức Giám mục, Linh mục, Tu sĩ; mà quên rằng chính mình
cũng có bổn phận đó. Bên cạnh đó, không thiếu những người Công giáo lý luận:
“Ôi thôi, đạo nào cũng là đạo, đạo nào cũng dạy người ta ăn ngay ở lành. Và nếu
một người ăn ngay ở lành theo tiếng lương tâm ngay thẳng của họ thì dù họ không
được rửa tội, họ vẫn có thể được cứu rỗi. Vậy thì tại sao tôi phải mời gọi họ
tin vào Tin Mừng cứu độ, mời gọi họ lãnh nhận Bí tích Rửa tội, gia nhập Giáo Hội.
Để
trả lời cho lập luận trên, Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, Tổng trưởng Bộ Giáo Lý
Đức Tin xác nhận lại một cách rõ ràng rằng bổn phận truyền giáo của Kitô hữu là
cần thiết. Mọi người đều mắc tội nguyên tổ, lương tâm con người có thể sai lầm.
Họ vẫn cần nghe Tin Mừng, cần ơn thánh Chúa để có sức mạnh lướt thắng…
Mọi
tôn giáo đều có những tia sáng mà chúng ta không được phép coi thường hay dập tắt.
Mọi tôn giáo đều là tia sáng khởi đầu của đức tin mà chúng ta mong đợi những
tia sáng đó khai triển thành bình minh huy hoàng và dẫn đưa vào ánh sáng rực rỡ
của đức khôn ngoan Kitô.
Nói
đến truyền giáo, trong suy nghĩ của chúng ta thường là dấn thân làm việc truyền
giáo và ai càng làm được nhiều thì người ấy càng được xem là nhà truyền giáo lớn.
Lịch sử Giáo Hội qua từng thời kỳ xuất hiện những gương mặt vĩ đại trong hoạt động
truyền giáo mà tiêu biểu là thánh Phanxicô Xavier, một đời bươn chải, lặn lội
đem Tin Mừng đến vùng xa xôi. Tuy nhiên, bao giờ cũng vậy, ẩn bên trong những
hoạt động, động lực cho những hoạt động, kim chỉ nam cho mọi hoạt động ấy là cả
một tinh thần cầu nguyện của các nhà truyền giáo cũng như mọi tín hữu. Có thể
nói cầu nguyện là linh hồn của hoạt động truyền giáo. Nếu thiếu cầu nguyện thì
hoạt động chỉ là những thanh la inh ỏi, hời hợt bên ngoài. Thiếu cầu nguyện
cũng là thiếu nền tảng giáo lý cho việc rao giảng.
Trong
bài đọc 1, sách Xuất hành thuật lại việc Môsê giơ tay cầu nguyện và Giosuê đánh
bại quân Amalech. Khi Môsê hạ tay xuống, sức mạnh của Giosuê không còn nữa,
nhưng khi ông giơ tay lên thì phần thắng nghiêng về phía Giosuê. Chiến thắng ấy
là của Môsê cùng với Môsê: một sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động.
Một
hình ảnh minh họa cho sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động trong hoạt động
truyền giáo đó là thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu. Chưa từng bước ra ngoài hoạt động
truyền giáo, nhưng chỉ bằng hy sinh và cầu nguyện cho các nhà thừa sai trong việc
rao giảng Tin Mừng vậy mà thánh nữ đã được tôn phong làm thánh Tiến sĩ Hội
thánh, bổn mạng các xứ truyền giáo.
Gần
chúng ta hơn có mẹ Têrêsa Calcutta, một người mà cả thế giới đều biết đến với
những hoạt động cho tình yêu thương. Mẹ không chỉ làm cho người ta biết và yêu
mến Chúa Giêsu bằng lời nói nhưng mẹ nói về Chúa Giêsu, bày tỏ gương mặt của
Ngài bằng chính cuộc sống yêu thương của mẹ. Mẹ đã định nghĩa về một nhà truyền
giáo, đó là: “Một tín hữu Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn nào khác hơn
là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Ngài”.
Truyền
giáo chúng ta tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa, một Đức Giêsu Kitô, Đấng
trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và nhân loại, Đấng đã hiến thân để cứu chuộc
mọi người. Và truyền giáo là sứ vụ của Giáo Hội và là một nghĩa vụ mà đức bác
ái đòi buộc mỗi Kitô hữu phải thực hiện cho anh em đồng loại mình.
Con
người ngày nay cần nhân chứng hơn thầy dạy. Và như thế, truyền giáo không chỉ
là rao giảng một giáo lý mà cần thiết là chia sẻ một cuộc sống yêu thương. Đây
chính là cốt lõi mà Chúa Giêsu đã cô đọng trong giới luật mến Chúa yêu người.
Chúng ta thường nói “giữ đạo”. Giữ để khỏi mất. Nhưng giữ cũng còn nghĩa là
không muốn cho đi. Bước chân truyền giáo không bao giờ được phép “giữ” mà luôn luôn là “cho” đi.
Khi
sống yêu thương tôi luôn mở lòng ra để cho đi, để ban tặng. Tình yêu như một
nghịch lý: khi tình yêu càng cho đi thì càng được đầy tràn, càng cho nhiều càng
được nhiều, trao ban trọn vẹn sẽ nhận lãnh trọn vẹn. Như thế, truyền giáo chính
là truyền tình yêu mà chúng ta đã kín múc từ nơi Thiên Chúa và đem trao lại cho
anh em mình.
Trong
một xã hội mà người tín hữu chỉ là thiểu số thì việc truyền giáo hiện nay chính
là quyết tâm sống để người khác nhận ra Chúa Giêsu là Đấng đã đến chỉ để rao giảng
về một thứ đạo của tình yêu thương. Mỗi người chúng ta trong khả năng, hoàn cảnh
của mình đều có thể truyền giáo vì không ai nghèo đến nỗi không có gì để ban tặng.
Như thế sống yêu thương là một hành động truyền giáo thiết thực nhất có thể kín
múc được tình yêu Thiên Chúa.
14. Truyền giáo
Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II đến viếng thăm Ấn Độ hồi tháng 11.1999. Cao điểm của
chuyến viếng thăm này là nghi thức công bố Tông Huấn về Giáo Hội Tại Á Châu.
Tông Huấn này là một đúc kết kết quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục tại Á Châu
nhóm họp tại Rôma hồi tháng 4.1999. Việc chọn Ấn Độ làm nơi công bố Tông Huấn
mang một ý nghĩa đặc biệt. Những nơi mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mong mỏi
đến viếng thăm nhất hẳn phải là Đài Loan, Hồng Kông, Trung Hoa Lục Địa và đặc
biệt là Việt Nam. Thế nhưng, cho đến nay người ta vẫn cứ nại đến lý do chính trị
và quan hệ ngoại giao để không cho Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến viếng thăm
Giáo Hội ở phần đất này. Dĩ nhiên đằng sau những lý do chính trị và quan hệ ngoại
giao ấy, ai cũng thấy rõ chủ trương bài trừ tôn giáo và nhất là chống lại Giáo
Hội. Tựu trung linh hồn của bất cứ một chế độ độc tài ý thức hệ nào cũng là
tinh thần bất khoan nhượng. Người dân không những bị cưỡng bách phải tuyên xưng
ý thức hệ của chế độ mà còn bị kỳ thị loại trừ và bách hại về niềm tin tôn giáo
của mình.
Tuy
là một quốc gia có nền dân chủ lớn nhất thế giới hiện nay, Ấn Độ đang bị xâu xé
vì tinh thần bất khoan nhượng. Tại một quốc gia với một tỷ dân này, liên minh cầm
quyền gồm những người theo chủ nghĩa Ấn Giáo, trong đó có một số thành phần cực
đoan lại tái cử thêm nhiệm kỳ nữa, tinh thần bất khoan nhượng ngày càng gia
tăng tại Ấn Độ. Trong những năm gần đây, người ta ước tính là đã có gần 150 vụ
tấn công nhắm vào nhân sự và các cơ sở của Kitô Giáo, nhiều vị mục sư và linh mục
bị sát hại, nhiều nữ tu bị bạo hành, nhiều nhà thờ bị đốt phá.
Một
nhóm Ấn Giáo cực đoan đã tổ chức cuộc biểu tình phản đối nhân dịp Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô Ii viếng thăm Ấn Độ. Họ đòi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II lên án
các cuộc trở lại Công Giáo cũng như xin lỗi người Ấn Độ về những phương pháp
truyền giáo cho người Ấn trong quá khứ. Chính trong bầu khí đầy bất khoan nhượng
ấy mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đến viếng thăm Ấn Độ, đúng hơn chính bầu
khí bất khoan nhượng ấy đã khiến Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chọn Ấn Độ làm
nơi để công bố Tông Huấn về Giáo Hội Tại Á Châu.
Trong
bầu khí đó chúng ta thấy rằng, sứ điệp mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã ngỏ
với các tín hữu Kitô tại Ấn Độ và toàn thể Á Châu, cũng như với tất cả mọi người
Ấn Độ là sứ điệp về lòng khoan nhượng. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trưng dẫn
cuộc cách mạng bất bạo động vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại do Mahatma
Gandhi chủ xướng, Ngài cũng nói đến tấm lòng khoan dung độ lượng của biết bao
nhiêu nhà hiền triết Ấn Độ.
Quả
thật, tôn giáo nào cũng tốt trong một mức độ nào đó, câu nói này nói lên tinh
thần khoan nhượng vốn là yếu tính của tất cả mọi tôn giáo. Thật thế, tôn giáo
nào cũng dạy con người ăn ngay ở lành; tôn giáo nào cũng lên án ích kỷ, bạo động,
hận thù và tinh thần bất khoan nhượng.
Trong
tuyển tập có tựa đề "Con Đường Đơn Sơ" của Mẹ Têrêsa Calcutta, vị
Sáng Lập Dòng Nữ Tu Thừa Sai Bác Ái đã viết như sau: "Chỉ có một Thiên
Chúa và Ngài là Thiên Chúa của tất cả mọi người. Do đó, cần phải nhận ra mọi người
bình đẳng trước mặt Chúa. Tôi vẫn luôn luôn nói rằng, chúng ta phải giúp cho một
người Ấn Giáo trở thành người Ấn Giáo tốt hơn; một người Hồi Giáo được trở
thành một người Hồi Giáo tốt hơn và một người Công Giáo trở thành một người
Công Giáo tốt hơn." Lễ quốc táng mà chính phủ Ấn Độ đã dành cho Mẹ cách
đây 4 năm chứng tỏ rằng, sứ điệp mà Mẹ mang đến cho dân tộc này đã được mọi người
đón nhận. Sứ điệp ấy không chỉ được Mẹ Têrêsa nói lên bằng những lời nói suông
mà còn bằng cả cuộc sống của Mẹ nữa.
Hôm
nay là ngày thế giới truyền giáo, chúng ta hiệp nhau cầu nguyện cho công việc
truyền giáo của Giáo Hội, chúng ta cầu nguyện cách đặc biệt cho các nhà thừa
sai trên cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội. Chúng ta tuyên xưng rằng, Chúa
Giêsu Kitô là Đấng duy nhất cứu rỗi nhân loại, nhưng quan trọng hơn cả là chúng
ta được Giáo Hội mời gọi mỗi người ý thức về sứ mệnh truyền giáo của mình, nhất
là hiểu được ý nghĩa đích thực của việc truyền giáo trong thế giới hôm nay.
Mẹ
Têrêsa Calcutta đã định nghĩa về một nhà truyền giáo: "Đó là một tín hữu
Kitô say mê Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi
người nhận biết và yêu mến Ngài". Mẹ Têrêsa không những chỉ làm cho người
ta biết và yêu mến Chúa Giêsu bằng những lời nói suông, nhưng Mẹ nói về Chúa
Giêsu, Mẹ tỏ bày gương mặt của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống yêu thương phục
vụ của Mẹ. Do đó, truyền giáo thiết yếu đối với Mẹ Têrêsa là dùng cả cuộc sống
của mình để làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu.
Truyền
giáo không chỉ là rao giảng một giáo lý mà thiết yếu là chia sẻ một cuộc sống
yêu thương.
Đây chính là cốt lõi mà Chúa Giêsu cô đọng trong giới răn mến Chúa và yêu người
được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe trong Tin Mừng hôm nay. Trong xã hội mà
Kitô giáo chỉ là thiểu số thì truyền giáo đối với Kitô hữu hiện nay là quyết
tâm sống như thế nào để cho mọi người nhận biết Chúa Giêsu là Đấng đã đến chỉ để
rao giảng một thứ đạo, đó là đạo của tình thương. Trong một chế độ chối bỏ những
quyền tự do cơ bản nhất của con người, thì truyền giáo đối với các tín hữu Kitô
hiện nay chính là biểu lộ được bộ mặt đích thực của Đạo là yêu thương và khoan
nhượng.
15. Hãy loan báo Tin mừng
(Suy
niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Một
đạo sĩ hỏi các đệ tử: Các con có biết khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện, khi
nào ánh sáng tới và bóng tối lui đi không? Các đệ tử thi nhau trả lời: Thưa thầy,
có phải đêm tàn và ngày xuất hiện là khi từ xa nhìn một đoàn vật người ta có thể
phân biệt được con nào là con bò con nào là con trâu không? Thày lắc đầu: không
phải. Đệ tử khác trả lời: Thưa thầy có phải ánh sáng tới và bóng tối lui là khi
từ xa nhìn vào vườn cây, người ta có thể phân biệt được cây nào là cây xoài cây
nào là cây mít không? Thầy vẫn lắc đầu: không phải. Thấy không ai trả lời được,
thầy mới giải nghĩa: Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là
khi nào ta nhìn vào mặt người xa lạ và nhận ra đó là anh em mình.
Thật
là khó hiểu. Tuy trên đời ta thấy có nhiều thứ ánh sáng. Có ánh sáng mặt trăng
mặt trời. Có ánh sáng đèn dầu, đèn điện. Có những ánh sáng như tia X, tia hồng
ngoại. Nhưng tất cả những ánh sáng đó chỉ giúp ta nhìn rõ sự vật. Không thấy có
thứ ánh sáng nào soi vào mặt người xa lạ mà biến người ấy thành người thân của
mình.
Mẹ
Têrêxa dường như đã tìm ra thứ ánh sáng ấy. Mẹ là một nữ tu người Anbani, được
sai đến phục vụ người nghèo tại Ấn Độ, thấy người nghèo khổ quá tội nghiệp. Biết
bao người hấp hối ngoài lề đường. Chết rồi xác bị quẳng vào đống rác như xác
thú vật. Biết bao trẻ thơ bị bỏ rơi. Biết bao gia đình chui rúc trong các căn nhà
ổ chuột. Biết bao người đói khát không đủ cơm ăn áo mặc. Mẹ lăn xả vào phục vụ
người nghèo.
Một
hôm Mẹ đi thăm một ông già cô đơn trong căn lều tồi tàn. Bước vào lều Mẹ phải động
lòng thương cảm. Vì tất cả đồ đạc chỉ là một mớ giẻ rách. Căn lều bụi bặm bẩn
thỉu ngoài sức tưởng tượng. Và nhất là ông già thu mình lại không muốn giao tiếp
với ai. Mẹ chào hỏi ông cũng không thèm muốn trả lời. Mẹ xin phép dọn dẹp căn lều
ông cũng làm thinh. Đang khi dọn dẹp, Mẹ thấy trong góc lều có một cây đèn dầu
bụi bám đen đủi. Sau khi lau chùi, Mẹ kêu lên: Ô, cây đèn đẹp quá. Ông già nói:
Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi ngày cưới. Từ khi bà ấy chết, tôi không bao giờ đốt
đèn nữa. Thấy ông đã cởi mở, Mẹ Têrêxa đề nghị: Thế ông có bằng lòng cho các chị
nữ tu mỗi ngày đến thăm và đốt đèn cho ông không? Ông đồng ý. Từ đó mỗi buổi
chiều, các chị tới thăm ông, dọn dẹp nhà cửa, nói chuyện với ông. Ngọn đèn ấm
áp trong căn lều ấm cúng. Ông trở nên vui vẻ hơn. Ông đi thăm mọi người. Mọi
người đến thăm ông. Cuộc đời ông vui tươi trở lại.
Trước
kia cuộc đời ông tăm tối không phải vì ông không thắp đèn. Nhưng vì ngọn đèn
trong trái tim ông đã tắt. Trái tim khép kín nên ông mất niềm tin vào con người,
vào cuộc sống. Ông nhìn mọi người như thù địch. Từ ngày các nữ tu đến đốt đèn đời
ông vui lên, sáng lên. Đời ông sáng lên không phải vì có ngọn đèn dầu hỏa soi
sáng. Nhưng vì trái tim ông bừng sáng. Ngọn đèn tâm hồn ông rạng rỡ. Tâm hồn
ông cởi mở và ông nhìn thấy mọi người là anh em. Thứ ánh sáng ấy ta thấy trong
Phúc âm, khi người Samaritanô nhân hậu cúi xuống săn sóc, băng bó vết thương
cho người bị nạn bên đường. Hai người nhìn nhau. Một làn ánh sáng lóe lên. Và họ
nhận ra nhau là anh em.
Cứ
như thế Mẹ Têrêxa miệt mài phục vụ người nghèo. Lập những trung tâm đón tiếp những
người hấp hối, săn sóc để họ được chết, được chôn cất như một con người. Nuôi
trẻ mồ côi. Xây bệnh viện. Xây trường học. Công việc càng ngày càng mở rộng. Số
người theo Mẹ ngày càng đông và Mẹ lập dòng Nữ tử Thừa sai Bác ái chuyên phục vụ
người nghèo. Hiện nay nhà dòng đã có mặt trên 132 quốc gia. Mẹ được thế giới biết
tiếng. Mẹ được nhiều giải thưởng trong đó có giải Nobel Hòa bình. Năm 1997, khi
Mẹ qua đời, 80 nguyên thủ quốc gia, trong đó có phu nhân tổng thống Mỹ Bill
Clinton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac đã đến dự đám tang. Và nước Ấn
Độ, đa số dân theo Ấn Độ giáo, vốn không ưa đạo Công giáo, đã chôn cất Mẹ theo
nghi thức quốc tang. Hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn Mẹ về trời.
Mẹ
Têrêxa là một nhà truyền giáo thành công của thế kỷ 20. Vì Mẹ đã biết thắp lên
ngọn đèn soi trong đêm tối. Giữa đêm tối vật chất hưởng thụ. Mẹ đã thắp lên ngọn
đèn siêu nhiên của thiên đàng. Giữa đêm tối rụt rè nghi kỵ Mẹ đã thắp lên ngọn
đèn ấm áp tình người. Trái tim Mẹ là một ngọn đèn sáng. Ánh sáng ấy tỏa lan tới
muôn người làm cho mọi người nhận biết khuôn mặt hiền lành khiêm nhường của Đức
Kitô và làm cho mọi người nhìn nhau là anh em.
Vào
thời Cộng sản còn mạnh và còn chống đối Công giáo kịch liệt, Mẹ Têrêxa vẫn có
thể lập nhà ở Nga, ở Cuba và cả ở Việt Nam. Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã có thể
đi khắp thế giới như lời Chúa truyền. Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã chiếu tỏa ánh
sáng Tin Mừng khắp thế giới.
Hôm
nay Giáo hội cầu nguyện cho việc truyền giáo. Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta
góp phần vào việc truyền giáo. Không gì bằng ta hãy noi gương Mẹ Têrêxa, thắp
lên ngọn lửa tin yêu trong lòng mình, đem ngọn lửa yêu thương phục vụ soi sáng
khắp nơi. Thế giới sẽ bừng sáng và mọi người sẽ nhìn nhận nhau là anh em.
GỢI
Ý CHIA SẺ
1-
Nhờ đâu Mẹ Têrêxa đến được cả những nước Cộng sản?
2-
Nhờ đâu việc truyền giáo của Mẹ Têrêxa thành công tốt đẹp?
3-
Đời sống bạn là ánh sáng hay là bóng tối cho những người chung quanh?
4-
Bạn quyết tâm làm gì để loan báo Tin Mừng cho mọi người?
16. Truyền giáo theo gương
Mẹ Têrêsa
(Suy
niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt)
Hôm
nay, toàn thể Giáo Hội cầu nguyện cho việc truyền giáo. Ngày Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô đệ nhị tuyên phong Mẹ Têrêxa lên bậc Chân Phúc mà ta quen gọi là Á
thánh cũng là ngày cầu nguyện cho việc truyền giáo. Và Đức Thánh Cha khuyên nhủ
chúng ta hãy truyền giáo theo gương Mẹ Têrêxa. Vậy Mẹ Têrêxa là ai và Mẹ đã
truyền giáo như thế nào?
1)
Cuộc đời
Mẹ
Têrêxa sinh tại nước Anbani cũ. Mẹ đã xin gia nhập dòng Đức Mẹ Loretto và được
sai đi Ấn độ để phục vụ nguơì nghèo. Khi đến Ấn độ, Mẹ được chứng kiến cả một đại
dương mênh mông những người nghèo đói. Trẻ sơ sinh bị bỏ rơi nằm la liệt ngoài
đường. Những người già cả bệnh tật nằm chờ chết bên những đống rác, và khi chết,
bị vất vào đống rác như một con thú vật. Xúc động trước cảnh nghèo khổ. Mẹ lăn
xả vào phục vụ người nghèo. Việc đầu tiên là mở những trung tâm đón tiếp, đưa
những người hấp hối ngoài đường về, săn sóc để họ được chết như một con người.
Rồi mở cửa nhà cô nhi nuôi dưỡng trẻ em bị bỏ rơi. Rồi mở bệnh viện chăm sóc chữa
trị những người nghèo khổ. Rồi mở trường cho trẻ em nghèo đến học. Công việc
càng ngày càng phát triển. Số người theo giúp Mẹ càng ngày càng đông. Chẳng bao
lâu, một dòng mới được thành hình với tên Nữ tử Thừa sai Bác ái. Ngoài 3 lời khấn
như những nữ tu khác, còn có lời khấn phục vụ người nghèo. Mẹ được thế giới biết
tiếng. Cả thế giới gọi Mẹ là Mẹ Têrêxa. Khi Mẹ qua đời, 80 nhà lãnh đạo quốc
gia trên toàn thế giới, trong đó có phu nhân tổng thống Mỹ Bill Cliton và phu
nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac đã đến nghiêng mình kính cẩn trước thi hài
của Mẹ. Nước Ấn độ có đa số dân theo Ấn độ giáo, vốn không ưa đạo Công giáo, thế
mà đã nghi thức quốc táng cho Mẹ,đã bắn hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa
linh hồn Mẹ về thiên đàng.
2)
Truyền giáo
Mẹ
Têrêxa đã truyền giáo cách nào mà thành công như thế? Thưa, Mẹ đã dùng 4 phương
cách sau:
Phương
cách thứ nhất: cầu nguyện.
Có nhiều người tưởng Mẹ Têrêxa là con người hoạt động. Không phải thế. Trước hết
Mẹ là con người cầu nguyện. Những giờ cầu nguyện triền miên phát xuất từ nỗi niềm
khao khát Chúa. Cầu nguyện đã đưa Mẹ đến phục vụ người nghèo. Rồi việc phục vụ
người nghèo đã đưa Mẹ trở về với kinh nguyện. Dòng chảy cầu nguyện liên lỷ
không bao giờ ngừng. Có thể nói cuộc đời Mẹ là cuộc đời chiêm niẹm trong hoạt động.
Phương
cách thứ hai: thấm nhuần Lời Chúa. Mẹ tha thiết yêu mến Lời Chúa. Lời Chúa thấm
vào tận mạch máu thớ thịt, để Mẹ suy nghĩ, nói năng và hành động theo Lời Chúa.
Mẹ thường nói: Lời Chúa phải ở trên đầu ngón tay ta. Theo Mẹ 5 từ ngữ quan trọng
khắc ghi tên 5 đầu ngón tay của Mẹ là: You did it for me. Đó là 5 từ tóm tắt 25
chương Tin Mừng theo thánh Mátthêu: “Mỗi lần các con làm những việc này cho một
trong những anh em bé nhỏ nhất, đó là các con làm cho Thày”.
Phương
cách thứ ba: yêu mến người nghèo. Nơi Mẹ, yêu mến người nghèo không phải là cảm
tính nhất thời. Yêu mến người nghèo thực sự phát xuất từ một đức tin sâu xa.
Tin thật Thiên Chúa đang ở trong nhưng người nghèo. Vì yêu mến người nghèo Mẹ
đã tự nguyện sống nghèo. Mẹ sống trong một căn phòng đơn sơ, chỉ có một chiếc
giường, một bàn nhỏ, một ngọn đèn và một chậu nước.
Phương
cách thứ tư: phục vụ bằng tình yêu. Vì tin Chúa đang ngự trong người nghèo, nên
phục vụ người nghèo chính là phục vụ Chúa. Vì thế, phục vụ người nghèo là một bổn
phận phải thực hiện trong khiêm nhường. Phải phục vụ một cách kính cẩn. Phải phục
vụ bằng tình yêu.
Giữa
thế kỷ 20 tôn trọng vật chất, quay lưng lại với đời sống tâm linh, Mẹ Têrêxa đã
trở nên một nhân chứng sống động của thế giới thần linh. Giữa nước Ấn độ xa lạ
với Kitô giáo, Mẹ Têrêxa đã trình bày được khuôn mặt dễ thương dễ mến của Chúa,
làm cho mọi người yêu mến đạo Cháu. Mẹ xứng danh là nhà truyền giáo của thế kỷ
20. Giữa những bế tắc Mẹ đã khai thông một lối đi. Lối đi vào thẳng trái tim
con người. Trong bóng tối dày đặc, Mẹ đã thắp lên một ngọn đèn. Ngọn đèn đó chiếu
lên ánh sáng niềm tin. Giữa trần gian lạnh lẽo, Mẹ đã đốt lên ánh lửa yêu mến.
Ánh lửa đó sưởi ấm tình người.
Năm
2004 được Hội đồng Giám mục Việt Nam chọn làm Năm Truyền Giáo. Chúng
ta hãy noi gương Mẹ Têrêxa, biết tha thiết cầu nguyện, biết yêu mến Lời Chúa,
nhất là biết yêu mến người nghèo và biết phục vụ bằng tình yêu. Để mỗi người
Công giáo thực sự là một ngọn đèn chiếu toả ánh sáng của Chúa. Để mỗi người
Công giáo là một niềm vui cho những người chung quanh.
Lạy
Chân Phúc Têrêxa, xin cầu cho chúng con. Amen.
GỢI
Ý CHIA SẺ
1-
Mẹ Têrêxa đã truyền giáo bằng những phương cách nào?
2-
Trong hoàn cảnh của bạn, bạn có thể thực hiện phương cách nào trong 4 phương
cách của Mẹ Têrêxa để truyền giáo?
3-
Qua cuộc đời Mẹ Têrêxa, bạn thấy ngày nay còn có thể truyền giáo được không?
17. Chứng tá
Truyền
giáo là nhiệm vụ của mọi Kitô hữu. Đây là điều công đồng Vaticanô II nhắc đi nhắc
lại nhiều lần: việc rao giảng Tin Mừng là bổn phận chính yếu. Bổn phận căn bản
của Giáo hội và mỗi Kitô hữu. Công đồng đã làm nổi bật vấn đề truyền giáo và đã
định nghĩa Giáo hội là Giáo hội truyền giáo và coi việc truyền giáo là nghĩa vụ
tông đồ của mỗi Kitô hữu. Theo công đồng, không một tín hữu nào đáng gọi là tín
hữu mà có thể khước từ nhiệm vụ truyền giáo. Việc truyền giáo không thể là một
việc tùy sở thích, nhưng mỗi tín hữu phải coi đây là vấn đề sống đạo, vấn đề
sinh tồn của Giáo hội và là trách nhiệm của chính mình.
Đối
với người giáo dân, qua sắc lệnh về tông đồ giáo dân. Công đồng còn cho thấy
vai trò quan trọng của người giáo dân trong việc truyền giáo, vai trò là men,
là muối, là ánh sáng, là chứng nhân giữa đời. Bởi vì giáo sĩ không thể sống
chân bùn tay lấm nơi đồng ruộng với những nông dân; giáo sĩ không thể gồng gánh
theo chân những người buôn bán đi vào đầu đường xó chợ; giáo sĩ không thể đầu tắt
mặt tối làm việc trong những cơ xưởng, nhà máy, công trường… nhưng chính những
giáo dân nhà nông, những giáo dân buôn bán, những giáo dân công nhân, có nhiệm
vụ đem Chúa đến cho anh em mình nơi đồng ruộng, chợ búa, xí nghiệp, nhà máy,
nghĩa là những nơi mà giáo sĩ không thể có mặt và không thể đi đến, thì giáo
dân sẽ đóng vai trò chủ chốt và chủ động. Bởi đó, không những giáo dân đóng vai
trò yểm trợ cho giáo sĩ mà còn đóng vai trò chính yếu, thay thế cho giáo sĩ
trong những nơi hay những hoàn cảnh đó.
Như
vậy cách truyền giáo tốt nhất và có hiệu quả nhất là đời sống gương mẫu, đời sống
Công giáo đích thực, nhất là đời sống thể hiện tình yêu thương của chúng ta. Nếu
chúng ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo, khi
chúng ta chứng minh tình yêu bằng đời sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên những
bạn tốt, những công nhân gương mẫu trong nhà máy, những công nhân gương mẫu
ngoài công trường. Tóm lại, chúng ta hãy nắm lấy những cơ hội đi lại đây đó,
khi thi hành công tác, khi làm ăn sản xuất, khi xê dịch thăm viếng… để nói hay
làm chứng về Chúa qua lời nói, thái độ và cách đối xử đầy tình yêu thương của
chúng ta.
Mẹ
Têrêxa Cancutta đã định nghĩa về một nhà truyền giáo như sau: đó là “một tín hữu
Kitô say mê Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi
người nhận biết và yêu mến Ngài”. Mẹ Têrêxa không chỉ làm cho người ta biết và
yêu mến Chúa Giêsu bằng những lời nói suông, nhưng Mẹ nói về Chúa Giêsu, Mẹ tỏ
bày gương mặt của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống yêu thương phục vụ của Mẹ. Do
đó, truyền giáo thiết yếu đối với Mẹ Têrêxa là dùng cả cuộc sống của mình để
làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu, truyền giáo không chỉ là rao giảng
một giáo lý mà thiết yếu là chia sẻ một cuộc sống yêu thương.
Có
người đã kể lại lý do và động lực thúc đẩy ông theo đạo như sau: “Tôi đau rất nặng,
người ta đưa tôi vào bệnh viện, không ai chăm sóc tôi cả ngoài một chị y tá, chị
tỏ ra rất tốt và tận tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy
chị quỳ gối im lặng trong phòng, tôi hỏi: “Chị quỳ làm gì thế?”. Chị trả lời:
“Tôi cầu nguyện cho ông”. Chỉ mấy tiếng đó thôi đủ làm cho tôi bấy lâu không biết
Chúa, bây giờ được biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi người chị y tá ấy. Giữa những
đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy tình người và những lời cầu
nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp Chúa”.
Câu
chuyện trên cho chúng ta thấy gương sáng và tình yêu thương là bằng chứng cho người
ta nhận ra Thiên Chúa. Có nhiều người không bao giờ thấy chúng ta cầu nguyện sốt
sắng ở nhà thờ, vì họ có đạo đâu mà đến nhà thờ, nhưng họ thấy cách chúng ta biểu
lộ tình thương với họ hay với những người chung quanh mà họ nhận ra Thiên Chúa
của tình yêu. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm
về đạo Chúa, khi chúng ta chứng minh tình yêu bằng đời sống tốt thì chúng ta thực
sự trở nên những người bạn tốt của nhau.
Trong
thư mục vụ năm 2003 của các giám mục Việt Nam, số 10 cũng nói đến cách truyền
giáo này: cầu nguyện cho việc truyền giáo là việc quan trọng hàng đầu, việc
truyền giáo phải đặt nền tảng trên lời cầu nguyện: cá nhân, gia đình, cộng
đoàn, giáo xứ. Trước khi rao giảng bằng lời nói, hãy rao giảng bằng đời sống,
chúng ta hãy nêu gương về đời sống hiệp nhất yêu thương, không có lời rao giảng
nào có sức thuyết phục bằng sự hiệp nhất yêu thương trong gia đình, xóm làng,
trong giáo xứ, trong giáo phận, như lời Chúa phán: “Chính nơi điều này mà mọi
người sẽ biết anh em là môn đệ của Thầy, ấy là nếu anh em thương yêu nhau”.
Tóm
lại, ngày thế giới truyền giáo hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy luôn ý thức về sự
quan trọng của việc truyền giáo và nhắc nhở chúng ta hãy góp phần mình vào công
cuộc truyền giáo của Giáo hội bằng việc cầu nguyện và bằng đời sống tốt đẹp của
chúng ta.
18. Đời sống chứng nhân
Hôm
nay, ngày thế giới truyền giáo. Chúng ta cùng tìm hiểu xem: Truyền giáo là gì?
Chúng ta phải truyền giáo thế nào?
Trước
hết, truyền giáo là gì? Truyền là truyền bá, truyền thông, chuyển giao,
rao giảng, loan truyền… Giáo là giáo lý, đạo giáo, Tin Mừng, Phúc âm… Truyền
giáo là truyền bá đạo, là rao giảng Phúc âm, là loan truyền chân lý của Chúa
cho người khác. Đó là ý nghĩa thứ nhất, nghĩa hẹp, nghĩa chặt và chính xác.
Đàng khác, truyền giáo còn có nghĩa là lập những cộng đoàn Kitô hữu trong đức
tin, trong phụng tự Thánh Thể, bác ái như Giáo hội mong muốn. Nói khác đi, truyền
giáo là “trồng” Giáo hội vào các dân tộc, các địa phương, cho đến khi những người
trong địa phương ấy trở nên tín hữu, thành một đoàn chiên. Theo ý nghĩa này,
truyền giáo không phải chỉ là truyền bá một số giáo lý, nhưng là truyền thông sự
sống của Chúa cho anh em khác, vì Thiên Chúa là Đấng hằng sống, đạo Chúa là đạo
sự sống, là nguồn sống, có khả năng thay đổi, biến cải những con người từ không
có Chúa trở thành có Chúa, từ mất Chúa trở thành tìm lại được Chúa. Truyền giáo
theo nghĩa này là truyền sự sống của Chúa Kitô mà chúng ta đã có sang cho anh
em mình, như thân cây nho chuyển nhựa sống sang cho cành nho. Sau hết, truyền
giáo còn có một nghĩa nữa là củng cố, tăng cường, huấn luyện đức tin cho một cộng
đoàn, cho các tín hữu, để họ lại ra đi truyền giáo cho những người khác.
Những
ý nghĩa trên đây cho thấy hai chiều của việc truyền giáo: chiều rộng và chiều sâu.
Nếu làm cho những người chưa biết Chúa hoặc những người biết mà đã bỏ Chúa, được
nhận biết và yêu mến Chúa. Đó là truyền giáo theo chiều rộng, là mở rộng nước
Chúa và làm tăng thêm số người thờ phượng Chúa. Còn nếu làm cho những người đã
biết và yêu mến Chúa được hiểu biết và yêu mến Chúa hơn, để rồi họ lại tiếp tục
làm những công việc ấy nơi những người khác. Đó là truyền giáo theo chiều sâu,
vì làm cho nước Chúa được vững chắc hơn và làm tăng thêm số người Công giáo sốt
sắng, đạo đức.
Việc
phân biệt ý nghĩa như trên đây rất quan trọng để chúng ta hiểu rõ hơn việc truyền
giáo, vì truyền giáo không phải chỉ có nghĩa là làm cho những người ngoại, những
người lương, những người chưa biết được biết và yêu mên Chúa, nhưng còn có
nghĩa là truyền giáo cho cả những người Công giáo sống trong một họ, một xứ với
chúng ta nữa. Chúng ta phải sống một đời đạo đức, sốt sắng, thánh thiện để làm
gương tốt cho họ, để giúp cho họ thêm lòng yêu mến và tôn kính Chúa.
Đó
là ý nghĩa của việc truyền giáo. Và như vậy tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ
truyền giáo. Việc truyền giáo không của riêng ai và không phải là một việc làm
tùy sở thích, muốn làm hay không cũng được. Nhưng đây là một bổn phận, một nhiệm
vụ bắt buộc. Mỗi người chúng ta phải coi đây là vấn đề sống đạo, là vấn đề sinh
tồn của Giáo Hội và là trách nhiệm của chính mình.
Vậy
chúng ta phải truyền giáo thế nào? Có rất nhiều cách. Chúng ta muốn dùng
cách nào cũng được, nhưng nhất thiết phải thi hành hai cách này là cầu
nguyện và đời sống chứng nhân: Cầu nguyện cho việc truyền giáo là cách
thức rất quan trọng: cầu nguyện cho những người đi truyền giáo, cầu nguyện cho
mọi người mở rộng lòng sẵn sàng đón nhận ơn Chúa, Lời Chúa. Cụ thể như thánh
Têrêxa Hài Đồng Giêsu, cả đời không đi đâu truyền giáo, chỉ ở trong bốn bức tường
dòng kín cầu nguyện cho việc truyền giáo. Thế mà Giáo Hội đã tôn phong ngài là
quan thầy các nơi truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê. Xin anh chị
em hãy suy nghĩ: Chúng ta có thường xuyên thi hành việc này không? Chúng ta có
cầu nguyện cho việc truyền giáo không? Nếu không thì đó là tội thiếu sót, bỏ việc
phải làm. Thứ hai là truyền giáo bằng chính đời sống chứng nhân của mình: Đây
là cách truyền giáo tốt nhất và hữu hiệu nhất, đó là truyền giáo bằng đời sống
tốt đẹp của chúng ta. Một đời sống đạo đức, chân thành, cởi mở, yêu thương là một
tấm gương sáng trước mặt mọi người. Một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn hơn những
lời nói hay, vì “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo". Chúng ta hãy suy
nghĩ: đời sống chúng ta hiện nay có làm chứng cho Chúa, cho đạo không?
19. Khiêm nhường trong truyền
giáo
(Suy
niệm của ĐGM. Bùi Tuần)
Người
truyền giáo tốt có thể là người không hiểu biết nhiều và sâu sắc về Chúa, nhưng
nhất định phải là người có sự sống của Chúa trong mình.
Tôi
vẫn nghĩ như vậy. Và tôi có kinh nghiệm như thế.
Người
ta không nhìn thấy Chúa trong họ. Nhưng người ta có thể cảm được phần nào sự hiện
diện của Chúa trong họ qua một số dấu chỉ. Một trong những dấu chỉ dễ thấy
nhưng lại chắc chắn, đó là sự khiêm nhường.
Trước
khi khiêm nhường được nâng lên hàng nhân đức siêu nhiên, nó đã là một đức tính
nhân bản.
Ngay
trên lãnh vực nhân bản, khiêm nhường vẫn được coi là một giá trị cao quí. Văn
hoá Việt Nam
vốn ca ngợi người khiêm tốn. Lễ giáo Việt Nam vốn đề cao đức khiêm nhường,
coi khiêm nhường như một yếu tố của đạo làm người.
Trong
xử thế, khiêm nhường là chià khoá mở lòng người ta, gây nên thiện cảm. Nhờ thiện
cảm, người ta dễ chấp nhận ta, và dễ nghe ta. Trái lại, kiêu căng dễ gây nên ác
cảm. Khi ác cảm đã chớm nở, thì lý luận dù đanh thép đến đâu, chứng từ dù rõ
ràng đến mấy, người ta cũng không muốn đón nhận ta và những gì ta trình bày, kể
cả khi ta trình bày Tin Mừng cứu độ.
Cái
kiêu căng dễ xúc phạm đến người khác nhất, chính là sự tự đắc cho mình là đúng,
là đẹp, là đáng kính trọng; còn người khác thì bị coi là sai, là xấu, là phải
loại trừ. Nhất là trong việc phê phán tôn giáo, tín ngưỡng và những lựa chọn
liên quan.
Người
tự tôn, hay khinh miệt người khác rất dễ rơi vào những sai lầm trầm trọng và sự
mù quáng thê thảm. Hơn nữa, họ có thể làm cho chính mình lâm vào tình trạng
điên rồ. Để rồi, sẽ làm sụp đổ mọi sự nghiệp đạo đức của mình chỉ trong giây
phút. Thảm thương nhất là kẻ kiêu căng cứng lòng sẽ vô tình mở rộng cửa lòng
mình, rước quỷ Satan là thần kiêu ngạo vào ngự trị trong đó, để rồi lập liên
minh với các hình thức kiêu căng khác, chống lại Nước Thiên Chúa.
Đọc
Phúc Âm, tôi thấy Chúa Giêsu nhắc bảo chúng ta phải hết sức tránh mọi hình thức
kiêu căng như:
Đừng
thích tìm địa vị cao trước công chúng, như trong đám tiệc (Lc 14,7). Đừng giả
hình đạo đức bằng cái vỏ bề ngoài, còn bên trong thì dơ bẩn (Mt 23,5-25). Đừng
căn cứ vào mấy việc đạo đức của mình, để khinh chê người khác (Lc 18,9-14).
Đang
khi đó, Kinh Thánh rất khen người khiêm nhường. Đến mức Chúa Giêsu coi họ là những
người được Chúa Cha mạc khải cho biết nhiều điều cao siêu, mà Người không cho
những người khôn ngoan và thông thái biết (Lc 10,21). Chính bản thân Chúa Giêsu
cũng rất khiêm nhường. Ngài nói: “Hãy học với Thầy, vì Thầy hiền lành và khiêm
nhường trong lòng” (Mt 11,29). Hơn nữa, suốt cuộc đời, từ khi sinh ra trong
hang đá cho đến lúc chết trên thánh giá, Chúa Giêsu luôn làm chứng Đấng cứu thế
không phải là một quyền lực, nhưng là tình yêu xót thương phục vụ khiêm nhường.
Do
đó, sự khiêm nhường của người truyền giáo không phải chỉ là một đức tính nhân bản,
mà còn phải là một nhân đức được chia sẻ từ sự khiêm nhường của Đức Kitô. Đức
Kitô truyền sang cho họ sự khiêm tốn của Người, để nhờ đó, họ sẽ luôn nhận được
thêm chân lý và sự sống cứu độ của Người.
Chính
ở điểm này, mà đến lượt mình, chính người truyền giáo cũng là người cần được
Chúa Giêsu thường xuyên truyền giáo cho. Và đây chính là một kinh nghiệm quí
báu họ có được về người được truyền giáo.
Kinh
nghiệm cho thấy người được truyền giáo rất cần có lòng khiêm tốn.
Thuở
xưa, các thầy thượng tế, các kỳ lão, các kinh sư, các biệt phái đã nghe tận tai
chính Chúa Giêsu giảng, đã xem tận mắt những phép lạ Chúa Giêsu làm. Nhưng
không mấy người trong họ đã tin. Hơn nữa, càng nghe thấy và càng nhìn thấy Chúa
Giêsu, họ càng đâm ghét. Sau cùng họ đã giết Người.
Sở
dĩ Tin Mừng đã không vào lòng họ được, chính là vì sự kiêu căng tự đắc đã khoá
chặt lòng họ.
Thời
nay cũng thế. Những người đơn sơ, khiêm tốn dễ đón nhận được những cái mới mẻ của
Tin Mừng hơn những người tự phụ kiêu căng.
Vì
thế, tôi nghĩ rằng: Người truyền giáo cần phải khiêm nhường. Người được truyền
giáo cũng cần khiêm nhường.
Để
có đức khiêm nhường, chúng ta không thể coi thường việc tập luyện mình về nhiều
mặt. Một người không được uốn nắn tập luyện kỹ lưỡng về đức khiêm nhường sẽ dễ
trở nên hư hỏng: Hư hỏng do những thất bại và do cả những thành công, do những
thực tế cuộc đời và cả do những ước mơ và ảo tưởng của mình, nhất là do sự cố
chấp tôn thờ cái tôi và làm nô lệ cho ý riêng mình.
Không
những chúng ta cần tập luyện để nên khiêm nhường, mà cũng cần cầu nguyện khẩn
xin Chúa ban ơn khiêm nhường.
Ơn
khiêm nhường, mà Chúa ban cho kẻ cậy trông nài van Chúa, sẽ đặt ta dưới cái
nhìn thánh thiện của Chúa. Nhờ đó ta sẽ nhận ra Chúa nơi người khác và ta là kẻ
tội lỗi, bất xứng, mọi sự Chúa ban cho ta đều do tình xót thương nhưng không của
Chúa. Càng được ơn khiêm nhường, ta càng hiểu thấm thiá lời thánh Giacôbê:
“Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (Gc 4,6).
Và chúng ta cũng sẽ càng thấy rõ thói quen tìm đắc thắng, phô trương, trịch thượng,
bất bao dung trong truyền giáo không những đang trở nên quá lỗi thời, mà còn
gây nhiều thiệt hại cho Hội Thánh. Bởi vì đó là những điều rất trái nghịch với
thánh ý Chúa.
Một
điều lợi nữa, mà ơn khiêm nhường hôm nay sẽ đem lại cho ta, đó là nó giúp ta biết
kiểm điểm lại bổn phận đón nhận Tin Mừng và bổn phận loan báo Tin Mừng. Ai
trong chúng ta cũng có hai bổn phận đó.
Trong
hoàn cảnh cụ thể ta đang sống, Chúa vẫn gửi cho ta vô số Tin Mừng mới mẻ. Ta đã
đón nhận thế nào?
Trong
địa vị cụ thể của ta và với những phương tiện cụ thể của ta, ai trong chúng ta
cũng vẫn có thể góp phần không nhỏ vào việc loan báo phần không nhỏ vào việc
loan báo Tin Mừng, hoặc bằng cách này, hoặc bằng cách khác. Ta đã thực hiện bổn
phận đó thế nào?
Nếu
khiêm tốn biết mình, khiêm tốn ăn năn, khiêm tốn sửa mình về bổn phận truyền
giáo, chúng ta sẽ có một lương tâm truyền giáo đổi mới. Để từ nay, ta biết nhận
lãnh, biết sinh lời và biết chia sẻ Tin Mừng cho những người gần xa, mà ta có
thể gặp.
Nếu
ta ý thức được như vậy và cố gắng làm như vậy, thì đời ta sẽ mang ý nghĩa cao đẹp,
đi theo đúng hướng về với Cha trên trời.
20. Kitô hữu, chứng nhân truyền giáo
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
“Anh chị em đi khắp
thế giới, loan báo Tin Mừng cho muôn dân”.
Thưa anh chị em, đó là mệnh lệnh cuối cùng của Chúa Giêsu. Giáo Hội từ thời các
Tông đồ trải qua các thời đại cuối cùng của Chúa, bất chấp mọi trở ngại.
Thế nhưng, qua 20 thế kỷ truyền giáo, số
người tin theo Chúa Kitô vẫn là một thiểu số đáng lo ngại so với dân số thế giới
ngày càng gia tăng. Hiện nay, dân số thế giới đã lên đến trên 5 tỷ người, thế
mà số tín hữu công giáo chỉ được 900 triệu, nhưng 50 phần trăm là ở Nam Mỹ, còn
triệu kia rải rác ở Châu Âu, Bắc Mỹ, Châu Á, Châu Úc và Châu Phi.
Riêng tại Châu Á của chúng ta, một lục địa
với hơn 3 tỷ người, trong số đó chỉ có 3% là người Công giáo. Tại Trung Quốc chỉ
có 4 triệu người Công giáo giữa một tỷ dân. Tại Nhật Bản có lối 500 ngàn người
Công giáo giữa 123 triệu dân. Ở Nam Triều Tiên, 5 triệu người Công giáo trên 42
triệu dân. Tại đất nước Việt Nam
chúng ta chỉ có hơn 4 triệu rưỡi người Công giáo trên 72 triệu dân, tỷ lệ hơn
6%. Tại TP. Hồ Chí Minh chúng ta có khoảng hơn 450 ngàn (485.584) người Công
giáo trên hơn 5 triệu dân, tỷ lệ 13%. (Tại Hạt Tân Định, có 41.105 người Công
giáo trên 266,000 dân). Đó là những con số trên giấy tờ, trong sổ Rửa Tội, còn
trên thực tế, họ có sống đạo hay không là chuyện khác.
Như chúng ta được biết, ở những miền có
đông giáo dân Công Giáo- ở Nam Mỹ chẳng hạn- đời sống dân chúng ở đó lại nghèo
đói và thiếu linh mục.Ở Braxil, một nước lớn nhất Nam Mỹ, dân số 107 triệu, đại
đa số là Công giáo. Thế mà gần đây người Công giáo đã bỏ Giáo Hội để sang Hội
Thánh Tin Lành tính ra có trên 17 triệu người (lý do có lẽ là để được hưởng trợ
cấp). Trái lại, ở các nước giàu có, phồn thịnh về vật chất- như ở Châu Âu và Bắc
Mỹ- người Công giáo lại đánh mất niềm tin và không còn tôn trọng các giá trị đạo
đức tinh thần nữa, coi thường các luật luân lý của Giáo Hội về đời sống hôn
nhân gia đình. Sự kiện đó đang trở nên mối lo âu và là một vết thương đau nhức
nhối nhất của Giáo Hội ngày nay.
Xin đan cử ra đây một dấu chỉ của thời đại:
Đầu năm 1998, tại thành phố Amsterdam ở Hà Lan, Hội Đồng Giáo Mục đã quyết định
đóng cửa một loạt 5 ngôi thánh đường đồ sộ của thành phố, vì không có giáo dân
lui tới nữa, trong khi đó phí khoản 9dê3 bảo trì các ngôi thánh đường này lại
quá lớn. Tại Bắc Mỹ cũng thế, Đức Hồng Y Josef Bernardin, Tổng Giáo Mục Chicago
tuyên bố: ngài buộc lòng phải đóng cửa 13 giáo xứ, 2 cơ sở truyền giáo và 6 trường
tiểu học Công giáo trong giáo phận của ngài. Còn Đức Hồng y Szoka, Tổng Giám Mục
Giáo phận Detroit cũng tuyên bố quyết định đóng cửa 30 giáo xứ thuộc giáo phận
của ngài. Lý do đóng cửa là vì thiếu người và thiếu tiền (x. Bùi Tuần, Ơn Trở Về,
tr.85).
Nói lên những dấu chỉ thời đại ấy để
chúng ta thấy rằng: Con người ngày nay đã bỏ Chúa, không còn tin vào Chúa nữa,
hoặc có nhiều người tin, nhưng với một niềm tin hời hợt, hững hờ. Chính vì thảm
trạng nầy mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã ban hành thông điệp “Sứ Vụ Đấng
Cứu Độ”
(Redemptoris Missio, 1990) để đặt toàn thể Giáo Hội trước sứ mạng truyền giáo
và tái truyền trong Thiên Niên Kỷ Thứ III.
Anh chị em thân mến,
Hôm nay, ngày Thế Giới Truyền Giáo, Đức
Thánh Cha lại gởi đến toàn thể Dân Chúa một sứ điệp với chủ đề: “Tất cả các
kitô hữu đều được mời gọi làm người truyền giáo và chứng nhân”. Đức Thánh Cha
nói: “Trước thềm thiên niên kỷ thứ ba, Chúa Giêsu quyết liệt lập lại những lời
Ngài đã nói với các Tông đồ trước khi về trời, những lời hàm chứa bản chất sứ vụ
của người Kitô hữu: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp
các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Quả thực, Kitô hữu
là ai? Thưa họ là người được Chúa Kitô “chiếm đoạt” (x.Pl 3,12), và vì thế, là
người khao khát làm cho Chúa Kitô được mọi người nhận biết và yêu mến ở khắp mọi
nơi “cho đến tận cùng trái đất”. Chính niềm tin vào Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta
trở thành những nhà truyền giáo, những chứng nhân của Ngài. Nếu không thực hiện
được điều đó, có nghĩa là niềm tin củ chúng ta còn bất toàn, khiếm khuyết và
chưa trưởng thành.
Do đó, “Truyền giáo là vấn đề của niềm
tin, nó là thước đo niềm tin của chúng ta nơi Chúa Giêsu và nơi tình yêu của
Ngài dành cho chúng ta” (RM số 11). Đức tin và truyền giáo đi đôi với nhau: đức
tin càng mạnh càng sâu thì nhu cầu truyền thông, chia sẻ và làm chứng niềm tin
càng bức thiết. Ngược lại, nếu đức tin suy yếu thì nhiệt tình truyền giáo cũng
suy giảm và khả năng làm chứng cũng mất đi sức mạnh. Đó là điều vẫn xảy ra
trong lịch sử Giáo Hội: sự sút giảm lòng nhiệt thành truyền giáo là triệu chứng
của sự khủng hoảng đức tin. Điều này phải chăng xảy ra khi người ta đánh mất
xác tín sâu xa là: “Đức tin càng vững mạnh khi đem chia sẻ” (RM.2). Vì chính khi loan báo Chúa
Giêsu Kitô và làm chứng về Ngài mà đức tin của chúng ta được củng cố và tái
khám phá con đường đưa đến một nếp sống đúng theo Tin Mừng của Ngài. Như thế,
chúng ta có thể nói: “Truyền giáo là một phương thuốc chắc chắn nhất chống lại
cuộc khủng hoảng đức tin. Chính nhờ dấn thân truyền giáo mà mỗi thành phần Dân
Chúa củng cố căn tính mà mình và hiểu rõ là: không ai có thể là Kitô hữu đích
thực nếu không là chứng nhân” (số 2).
Thưa anh chị em,
“Mỗi Kitô hữu được sáp nhập vào Giáo Hội
nhờ Bí tích Thanh Tẩy, đều được mời gọi làm nhà truyền giáo và chứng nhân. Đó
là sự ủy nhiệm rõ ràng của Chúa Kitô. Và Thánh Thần sai mỗi người kitô hữu ra
đi loan báo và làm chứng về Chúa Kitô cho muôn dân: đó là nhiệm vụ và đặc ân, bởi
vì đó là một lời mời gọi cộng tác với Thiên Chúa để cứu độ mỗi người và cả nhân
loại” (số 3).
Truyền giáo bằng đời sống chứng tá Tin Mừng
giữa đời, làm chứng cho Chúa Kitô bằng đời sống yêu thương, bác ái, công bình,
cụ thể trong gia đình, ngoài xã hội, là sứ vụ của mọi người giáo dân. Làm chứng
cho sự thánh thiện, như những người sống các Mối Phúc của Tin Mừng, đó là căn
tính của người Kitô-hữu-chứng-nhân. Con người ngày nay có vẻ dửng dưng không muốn
tìm về Thiên Chúa, nhưng trong thực tế, họ cảm thấy cần đến Thiên Chúa và họ bị
các Thánh thu hút và đánh động, những vị thánh đã biểu lộ khuôn mặt của Thiên
Chúa trong đời sống của mình, như những ánh sao trong đêm tối.
Giáo Hội Việt Nam chúng ta ngày nay phải truyền
giáo trong môi trường cụ thể chúng ta đang sống, với những con người cụ thể
chúng ta đang gặp. Chúa Kitô cần đến chúng ta để đem Tin Mừng vào lòng dân tộc.
Chúa Kitô cần đến tâm hồn quảng đại và sẵn sàng của chúng ta, cần đến đời sống
nhân chứng của chúng ta để bày tỏ cho anh em đồng bào tình yêu thương vô biên của
Ngài. Tích cực tham gia vào công cuộc Phúc-âm-hóa mới, đó là công việc đặc
trưng của những năm chuẩn bị tiến đến Thiên Niên Kỷ Thứ Ba của Hồng Ân Cứu Độ.
21. Truyền lửa yêu thương – Lm Ignatiô Trần Ngà
Thông thường khi cầu xin bất cứ ân huệ
gì, chúng ta tha thiết cầu xin cho bản thân, cho gia đình mình trước. Thế
nhưng, khi đất nước lâm nguy, cần có người ra biên thuỳ bảo vệ, thì người ta lại
sốt sắng cầu xin cho người khác, ngoại trừ bản thân, được can đảm xông ra chiến
trường bảo vệ giang sơn. Nếu ai cũng cầu như thế và những lời cầu kiểu nầy được
chấp nhận, thì làm gì còn Tổ Quốc!
Trong việc cầu cho công cuộc truyền giáo
cũng vậy, chúng ta thường cầu với Chúa rằng: “Lạy Chúa, xin cho có đông người,
ngoại trừ con, biết quảng đại lên đường đi khắp muôn phương loan báo Tin Mừng cứu
độ.” Nhưng thử hỏi: nếu ai cũng cầu xin thế nầy, thì cánh đồng truyền giáo sẽ vắng
bóng thợ gặt, tìm đâu ra người đi loan báo Tin Mừng.
Vậy thì lời cầu nguyện thiết thực nhất
mà mỗi người chúng ta phải dâng lên Chúa là: “Lạy Chúa, tuy con bất xứng, nhưng
xin hãy sai con đi làm thợ gặt cho Chúa ngay hôm nay.”
Dù muốn dù không, chúng ta cũng là ngôn
sứ của Chúa ngay từ ngày lãnh bí tích thánh tẩy. Bí Tích Thánh Tẩy làm cho
chúng ta trở thành chi thể Chúa Giêsu, cho thông dự vào vai trò ngôn sứ của Người,
nên chúng ta phải đảm nhận trách nhiệm loan Tin Mừng cứu độ của Người.
Chính vì thế, trước khi về trời, Chúa
Giêsu long trọng chuyển trao cho chúng ta, là môn đệ Người, tiếp tục thi hành sứ
vụ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, … dạy bảo họ tuân giữ
mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28, 19-20)
Vậy thì sứ mạng loan Tin Mừng là một bổn
phận phải làm chứ không phải là việc tuỳ thích. Thánh Phao-lô thú nhận: “Đối với
tôi rao giảng Tin mừng không phải là lý do để tự hào, nhưng là một sự cần thiết
buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng.” (1 Cr
9,16).
Vì đây là bổn phận của mọi chi thể Chúa
Giêsu nên chỉ khi nào chúng ta tự tách lìa mình ra khỏi Hội Thánh là Thân Thể
Chúa, thì chúng ta mới có thể cho phép mình ngừng loan báo Tin Mừng.
Truyền giáo là truyền
lửa yêu thương
Trong đêm Vọng Phục Sinh, lòng nhà thờ
hoàn toàn chìm trong bóng tối. Thế rồi, từ cuối nhà thờ, Nến Phục Sinh được thắp
sáng lên và được long trọng rước lên cung thánh. Linh mục chủ sự lấy lửa từ Nến
Phục Sinh thắp lên cho một vài cây nến nhỏ bé khác trên tay vài người. Những
người nầy lại đem lửa phục sinh thắp lên cho người bên cạnh và cứ tiếp tục như
thế, chẳng mấy chốc, cả ngàn cây nến nhỏ của các tín hữu tham dự đều được thắp
lên.
Loan Tin Mừng cũng là thắp lên lửa yêu
thương cho người quanh ta. Lửa đức tin, lửa yêu thương đã được Chúa Giêsu thắp
lên trong ta, thì đến lượt mỗi chúng ta cũng hãy thắp lửa đức tin, lửa yêu
thương ấy cho người bên cạnh và công việc truyền lửa nầy cần phải được tiếp nối
không ngừng.
Chân phước Têrêxa Calcutta cũng cho rằng
truyền giáo là chia sẻ tình thương. Mẹ không rao giảng Phúc Âm bằng lời nhưng bằng
những tâm tình và cử chỉ yêu thương cụ thể. Mẹ cũng chẳng chủ trương yêu thương
đại chúng cách chung chung, nhưng là yêu thương từng người đang đối diện.
Mẹ nói: “Đối với chúng tôi, điều quan trọng
là từng người một. Để thương yêu một người thì phải đến gần người ấy… Tôi chủ
trương một người đến với một người. Mỗi một người đều là hiện thân của Đức
Kitô… Người đó phải là người duy nhất trên thế gian (mà ta cần yêu thương trọn
vẹn) trong giây phút đó.”
Với tâm tình nầy, Mẹ Têrêxa đã thu phục
nhân tâm nhiều người trên thế giới. Cũng bằng phương thức nầy, Giáo Hội công
giáo Hàn Quốc đã làm gia tăng gấp đôi số tín hữu chỉ trong vòng mươi năm!
Theo gương Mẹ Têrêxa, mỗi một người công
giáo nên kết thân với một người lương, coi người đó như anh em ruột thịt và đem
hết lòng yêu thương người đó.
Mỗi gia đình công giáo nên kết thân với
một gia đình lương dân, coi họ như thân quyến của mình, sẵn sàng chia ngọt sẻ
bùi; khi có kỵ giỗ, cưới xin hay lễ lạc gì trong gia đình, hãy mời họ cùng
thông hiệp. Nhờ đó hai bên thắt chặt mối giây thân ái và qua tình thân nầy, Tin
Mừng của Chúa Kitô sẽ được lan toả như ánh nến đêm Vọng Phục Sinh.
22. Quyền năng từ trên cao
Nếu Đức Giêsu phục sinh không sai gửi
Thánh Thần
thì chúng ta sẽ chẳng có một Hội Thánh
truyền giáo.
Các tông đồ được lệnh phải chờ ở
Giêrusalem.
Chờ mặc lấy quyền năng từ trời cao ban
xuống.
Chờ Đức Giêsu sai gửi Đấng Cha đã hứa
ban.
Chờ lãnh nhận phép Rửa trong Thánh Thần
(Cv 1,5).
Không có sức mạnh của Ngôi Ba Thiên
Chúa,
các tông đồ chẳng dám đi rao giảng cho
muôn dân,
và trở nên chứng nhân của Đức Giêsu cho
cả thế giới.
Không có Thánh Thần thì không có hoạt động
truyền giáo.
Điều này vẫn đúng cho thời đại chúng ta.
Thánh Thần vẫn thôi thúc bao tâm hồn đi
gieo Tin Mừng,
vẫn hiện diện và hướng dẫn Hội Thánh
trong việc rao giảng,
vẫn khơi dậy bao sáng kiến mới mẻ trong
việc truyền giáo.
Kitô hữu tự bản chất là chứng nhân.
Các tông đồ đã làm chứng vì họ đã thấy tận
mắt.
Chúng ta chỉ có thể làm chứng nếu thấy bằng
đức tin.
Thấy bằng đức tin mạnh chẳng kém gì thấy
bằng mắt.
Kitô hữu là người thấy được Đấng Vô
Hình,
có tương quan thân thiết với Đấng họ mến
tin.
Truyền giáo không phải là tuyên truyền một
lý thuyết,
mà là đưa người khác đến gặp một Ngôi Vị,
là chia sẻ cho họ niềm xác tín và yêu mến
của mình.
Chúng ta cần tự hỏi tại sao sau gần 4 thế
kỷ
Kitô giáo ở Việt Nam vẫn chưa phát triển mạnh.
Phải chăng vì đức tin chúng ta đã nhạt
nhòa,
vì đời sống chúng ta chẳng có gì đáng
nói?
Hay phải chăng chúng ta đã lơ là với việc
rao giảng,
hoặc không biết cách loan báo Tin Mừng
cho phù hợp?
Có thể tất cả những lý do trên đều đúng.
Truyền giáo hôm nay đòi ta cộng tác với
mọi người thiện chí,
để xây dựng một thế giới công bằng, nhân
ái hơn,
đòi ta yêu thương và phục vụ những người
nghèo nhất.
Truyền giáo là đưa Tin Mừng vào nền văn
hoá Việt Nam,
và đưa những giá trị tốt đẹp của văn hoá
Việt Nam
vào việc sống và làm chứng cho Tin Mừng.
Chúng ta tin một Thánh Thần duy nhất
đã hoạt động nơi các dân tộc trước khi
Ngôi Lời nhập thể,
vẫn luôn hoạt động trong đời Đức Giêsu
và trong Hội Thánh,
và còn đang hoạt động nơi các tôn giáo,
các nền văn hoá
của mọi dân tộc trong thế giới hôm nay.
Phải làm sao để trình bày Tin Mừng cách
dễ hiểu,
gần gũi với tâm thức của đồng bào.
Phải làm sao để bày tỏ một khuôn mặt Đức
Giêsu
nhân từ, dễ mến, đem lại hạnh phúc cho
con người.
Hội Thánh Việt Nam cần biết bao những người công giáo
biết làm văn, làm nhạc, làm thơ, biết viết
kịch, viết báo...
Tinh thần Chúa Kitô phải từ từ thấm vào
mọi lãnh vực.
Có thể Kitô hữu mãi mãi vẫn là một thiểu
số,
nhưng phải là một thiểu số đóng góp nhiều
cho dân tộc.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có người bảo đạo Công Giáo là đạo ngoại
lai. Bạn nghĩ sao? Có tôn giáo nào ở Việt Nam không đến từ nước ngoài? Làm
sao để đạo Công Giáo gần gũi với lối sống, lối nghĩ của người Việt Nam
hơn?
Đức Thánh Cha nói: không truyền giáo là
dấu hiệu của khủng hoảng đức tin. Bạn nghĩ sao?
Cầu Nguyện
Lạy Cha,
Cha muốn cho mọi người được cứu độ
và nhận biết chân lý,
chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu,
Con Cha.
Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người
chưa nhận biết Đức Giêsu,
họ cũng là những người đã được cứu chuộc.
Xin Cha thôi thúc nơi chúng con
khát vọng truyền giáo,
khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh
phúc,
niềm vui và bình an của mình cho tha
nhân,
và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu
cho thế giới.
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực
trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất
để loan báo Tin Mừng.
Chúng con chỉ xin đến
với những người bạn gần bên,
giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào
Ngài,
qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng
con.
Chúng con cũng cầu nguyện
cho tất cả những ai đang xả thân lo việc
truyền giáo.
Xin Cha cho những cố gắng của chúng con
sinh nhiều hoa trái. Amen.
23. Anh em là chứng nhân
(Trích trong ‘Manna’)
Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu đã làm một
điều quan trọng,
đó là đào tạo những chứng nhân.
Hội Thánh tương lai phải được xây nền vững
chắc
trên những con người có kinh nghiệm cá
nhân
về cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Chính vì thế Ngài đã hiện ra cho Simon,
cho hai môn đệ về Emmau, cho các tông đồ.
Ngài cho họ xem chân tay và Ngài đã ăn
bánh
để họ đừng nghi Ngài là ma.
Hơn nữa Ngài còn soi sáng cho họ
để họ hiểu những lời Kinh Thánh nói về
Ngài.
Các môn đệ đã là chứng nhân, đã tử đạo
để làm chứng cho điều mình xác tín.
Mỗi năm Hội Thánh dành một ngày Chúa Nhật
để nhắc chúng ta nhớ đến bổn phận của
mình,
bổn phận truyền giáo cho thế giới.
"Phải nhân danh Người mà rao giảng
cho muôn dân"
Chúng ta phải tiếp tục sứ mạng của các
tông đồ,
vinh dự đứng vào hàng ngũ các chứng
nhân.
Để truyền giáo, chúng ta phải quen thân
với Chúa Giêsu,
có kinh nghiệm gặp gỡ Ngài thật sâu lắng,
sống cái chết của Ngài mỗi ngày
và nếm được niềm vui phục sinh Ngài ban
tặng.
Để truyền giáo cần có nhiều tình yêu:
tình yêu đối với Chúa Giêsu và đối với
con người.
Chính vì mến yêu Ngài
mà ta muốn Ngài được mọi người nhận biết.
Chính vì mến yêu mọi người
mà ta muốn chia sẻ hạnh phúc mình đang
hưởng.
Thế giới hôm nay đầy lạc thú và hưởng thụ,
nhưng vẫn là một thế giới buồn.
Buồn vì nạn phá thai, ly dị, tự tử;
buồn vì hận thù, thất vọng và lo âu.
Nhiều bạn trẻ tìm quên trong vui chơi,
nghiện ngập,
vì không thấy cuộc sống có ý nghĩa.
Như thế truyền giáo là loan báo tin vui
cho một thế giới buồn.
Đức Thánh Cha đã nhắn nhủ giới trẻ:
"Hội Thánh ủy thác cho giới trẻ nhiệm
vụ hô to lên
cho thế giới biết niềm vui vì gặp được Đức
Kitô...
Hãy đi rao giảng Tin Mừng giải thoát.
Hãy là những điều ấy với tâm hồn hân
hoan."
Chúng ta không thể là những chứng nhân
buồn.
Chính cuộc sống của ta phải đầy ắp niềm
vui,
sự lạc quan và sự sống của Chúa Phục
Sinh.
Chỉ như thế chúng ta mời hy vọng đáp ứng
những đòi hỏi gay gắt của thế giới
đang bước vào đệ tam thiên niên kỷ.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có khi nào bạn nói về Chúa cho một người
bạn không? Bạn có thấy mình cần học giáo lý và cầu nguyện để có thể truyền giáo
tốt hơn không?
Hơn 90% người Việt Nam chưa tin Chúa. Theo ý bạn,
chúng ta có truyền giáo đủ chưa? Phải sửa đổi gì để việc truyền giáo có hiệu quả
hơn?
Cầu Nguyện
Lạy Cha,
Cha muốn cho mọi người được cứu độ
và nhận biết chân lý,
chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu,
Con Cha.
Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người
chưa nhận biết Đức Giêsu,
họ cũng là những người đã được cứu chuộc.
Xin Cha thôi thúc nơi chúng con
khát vọng truyền giáo,
khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh
phúc,
niềm vui và bình an của mình cho tha
nhân,
và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu
cho thế giới.
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực
trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất
để loan báo Tin Mừng.
Chúng con chỉ xin đến
với những người bạn gần bên,
giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào
Ngài,
qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng
con.
Chúng con cũng cầu nguyện
cho tất cả những ai đang xả thân lo việc
truyền giáo.
Xin Cha cho những cố gắng của chúng con
sinh nhiều hoa trái. Amen.
24. Hãy thả lưới bên phải thuyền
Các Tông đồ đã đánh cá vất vả suốt đêm
mà không được con cá nào. Nay Chúa Giêsu bảo các ngài phải ra khơi một lần nữa.
Chắc các ngài phải ngần ngại lắm. Ngần ngại vì vừa qua một đêm vất vả, thân thể
mỏi nhừ vì suốt đêm phải vật lộn với biển cả, với sóng gió, với chài lưới. Ngần
ngại vì đang buồn ngủ. Mắt chĩu nặng vì suốt đêm không ngủ, đang cần một giấc
ngủ để hồi phục sinh lực. Ngần ngại vì vừa bị thất bại ê chề, đã mất hết ý chí
phấn đấu. Thế nhưng các ngài vẫn vâng lời Chúa, ra khơi, thả lưới. Và kết quả
thật là bất ngờ. Lưới đầy cá chất đầy hai thuyền đến gần chìm.
Qua bài Tin Mừng này Chúa muốn dạy tôi
những bài học về việc truyền giáo.
Bài học thứ nhất:
Truyền giáo là một công việc đòi hỏi vất vả.
Phải lao động đêm ngày. Như các Tông đồ đã chài lưới suốt đêm thâu trong sương
đêm giá lạnh, trong sóng gió biển khơi, trong vất vả cực nhọc. Suốt đêm đã lênh
đênh trên biển cả, sáng sớm vừa mới về tới đất liền, tưởng được nghỉ ngơi,
không ngờ lại phải ra khơi ngay tức khắc. Ra khơi cả lúc đang mệt mỏi cần nghỉ
ngơi. Người muốn truyền giáo cũng phải noi gương các tông đồ. Làm việc không
nghỉ. Phải đầu tư sức lực và trí tuệ. Phải phấn đấu không ngừng. Làm cho hết việc
chứ không làm cho hết giờ. Và phải chấp nhận tất cả những mỏi mệt, những thử
thách.
Bài học thứ hai: Truyền
giáo là một công việc đòi hỏi kiên trì. Vì việc truyền
giáo có nhiều thất bại hơn thành công, có nhiều mệt nhọc hơn vui thích, nên việc
truyền giáo đòi hỏi rất nhiều kiên trì. Kiên trì khi đã gặp thất bại. Kiên trì
khi đã chán nản, mệt mỏi rã rời. Kiên trì khi gặp những trắc trở. Như lời thánh
Phaolô khuyên dạy: “Hãy rao giảng Lời Chúa. Hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng
như lúc không thuận tiện” (2Tim 4,2). Các Tông đồ thật kiên trì, mặc dù đã thất
bại sau suốt một đêm vất vả, các ngài vẫn tiếp tục ra khơi theo lệnh Chúa truyền.
Trong quá khứ, ta đã gặp nhiều thất bại trong việc truyền giáo. Hôm nay Chúa lại
mời gọi ta hãy ra khơi, hãy lên đường truyền giáo. Ta hãy mau mắn đáp lời Chúa
mời gọi, kiên nhẫn làm việc trên cánh đồng truyền giáo, bất chấp mọi thất bại,
bất chấp mọi chán nản.
Bài học thứ ba: Truyền
giáo là một công việc đòi hỏi thanh luyện bản thân.
Truyền giáo là công việc thánh thiện nên người truyền giáo phải thánh thiện. Sự
thánh thiện khởi đi từ nhận thức thân phận yếu hèn tội lỗi. Và từ đó nảy sinh
nhu cầu được thanh luyện. Như Phêrô cảm thấy mình tội lỗi không xứng đáng ở gần
Chúa. Như Phaolô ngã ngựa cảm thấy mình lầm lạc. Như Isaia cảm thấy môi miệng
mình ô uế. Sau khi được thanh luyện các ngài đã trở thành những nhà truyền giáo
gương mẫu. Thánh hóa bản thân là một điều kiện quan trọng để truyền giáo thành
công.
Bài học thứ tư: Truyền
giáo là một công việc đòi hỏi lắng nghe Lời Chúa.
Vì truyền giáo là một công việc thiêng liêng. Nên ta không thể cậy dựa vào sức
lực phàm nhân, phương tiện phàm trần. Các tông đồ là những ngư phủ chuyên nghiệp.
Các ngài biết rõ biển hồ Galilê như lòng bàn tay. Thế mà các ngài đánh cá suốt
đêm chẳng được con nào. Đó là bài học dạy ta biết rằng, nếu cậy dựa vào tài sức
riêng, việc truyền giáo sẽ không có kết quả. Việc các tông đồ vâng lời Chúa ra
khơi và vâng lời Chúa thả lưới bên phải mạn thuyền cho ta thấy một thái độ
khiêm nhường lắng nghe. Dù Chúa Giêsu không phải là ngư phủ chính gốc. Dù Chúa
Giêsu không hiểu biết biển hồ, nhưng các ngài vẫn vâng lời Chúa. Chính nhờ thế,
các ngài đã thành công. Người làm việc truyền giáo phải noi gương các tông đồ
biết khiêm nhường nhận biết sự bé nhỏ nghèo hèn của bản thân để thao thức lắng
nghe Lời Chúa. Chỉ làm theo Lời Chúa, làm theo ý Chúa, làm vì Chúa việc truyền
giáo mới có kết quả tốt đẹp.
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta một
nghị lực mạnh mẽ để sẵn sàng chấp nhận những vất vả khổ cực trong việc truyền
giáo. Xin cho chúng ta biết chấp nhận cả những thất bại mà vẫn kiên trì lên đường
truyền giáo. Và nhất là xin cho mọi người chúng ta được Chúa dạy bảo, để biết
làm theo ý Chúa. Chỉ có như thế, việc truyền giáo mới có kết quả tốt đẹp.
Lạy Chúa Giêsu, xin kêu gọi chúng con
lên đường truyền giáo. Lạy Chúa Giêsu, xin thanh luyện chúng con để xứng đáng
làm việc truyền giáo. Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết cách làm việc truyền
giáo. Amen.