LỜI CHÚA TUẦN 19 THƯỜNG NIÊN
CÂU TRUYỆN MINH HỌA
CNTN 19A - PHÉP LẠ TRÊN THIÊN NHIÊN
CNTN 19C – HÃY SẴN SÀNG VÀ THỨC TỈNH
LỄ ĐỨC MẸ LÊN TRỜI - NGỢI KHEN VÀ HOAN HỈ TRONG
CHÚA
THỨ HAI - CHÚA GIÊSU, MẪU GƯƠNG VÂNG PHỤC
THỨ BA - SỐNG TINH THẦN TRẺ THƠ
THỨ TƯ - YÊU THƯƠNG TRONG CẦU NGUYỆN VÀ SỬA LỖI
NHAU
THỨ NĂM - THA THỨ NHƯ CHÚA THA THỨ
CNTN 19A - PHÉP LẠ TRÊN THIÊN NHIÊN
Lời
Chúa: Mt 14, 22-33
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
dân chúng đã ăn no, lập tức Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ
bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên
núi cầu nguyện một mình. Đến chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền thì đã
ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió.
Canh
tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông. Thấy Người đi trên mặt
biển, các ông hoảng hồn mà nói rằng: "Ma kìa!", và các ông sợ hãi kêu
la lớn tiếng.
Lập
tức, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: "Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!"
Phêrô thưa lại rằng: "Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi
trên mặt nước mà đến cùng Thầy."
Chúa phán: "Hãy đến!" Phêrô xuống khỏi thuyền, bước đi trên mặt nước
mà đến cùng Chúa Giêsu. Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la
lên rằng: "Lạy Thầy, xin cứu con!" Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy
ông mà nói: "Người hèn tin, tại sao mà nghi ngờ?"
Khi
cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy
Người mà rằng: "Thật, Thầy là Con Thiên Chúa."
TRUYỆN KỂ
1. Hãy nhìn lên.
Vào
lúc mới có thuyền buồm, một cậu bé nọ xin đi biển để học làm thủy thủ. Một hôm
biển có bão, người ta bảo cậu leo lên trên cột buồm. Leo được nửa phần đầu thì
dễ dàng vì cậu cứ đưa mắt gắn chặt vào bầu trời. Nhưng đến lưng chừng cậu lại
phạm một sai lầm. Cậu nhìn xuống mặt nước biển trong cơn bão, thế là cậu bị
chóng mặt và sắp sửa ngã xuống.
Thấy
thế, một thủy thủ già la to lên với cậu:”Này nhóc, ngước nhìn lên lại bầu trời
đi! Nhìn lên lại bầu trời đi."
Cậu bé nghe theo lời chỉ dẫn và cuối cùng đã leo lên được an toàn.
Lỗi
lầm của cậu bé, giống hệt lỗi lầm của Phêrô trong bài Tin mừng hôm nay. Cậu ta
đã rời mắt khỏi đích nhắm của mình và đã nhìn xuống mặt biển giông tố giống như
Phêrô đã rời mắt khỏi Chúa Giêsu và nhìn xuống mặt biển giông tố.
2. Chẳng có gì kiên cố
Toà
tháp đôi ở Newyork cao đến 110 tầng (417- 425 mét) đứng uy nghi sừng sững giữa
trời, vượt hẳn lên các công trình kiến trúc hoành tráng chung quanh, ngạo nghễ
thách thức với cả những cơn địa chấn mạnh nhất, nằm ở trung tâm một đất nước phồn
vinh và hùng mạnh nhất thế giới, nhưng có ai ngờ: nó đã bị tấn công, bị bốc
cháy ngùn ngụt và sụp đổ tan tành trước sự kinh hoàng của hàng tỉ người trên thế
giới, chôn vùi ngót năm ngàn nạn nhân dưới khối bê tông khổng lồ của nó trong một
biến cố gây chấn động thế giới vào ngày 11 tháng 9 năm 2001.
Hành
trình của con người trên dương gian không khác chi hành trình của Phêrô trên mặt
nước; nhìn trước, nhìn sau, nhìn lui, nhìn tới, mọi thứ đều chao đảo, tất cả đều
bấp bênh, chẳng có gì vững bền.
“Ôi
nhân sinh là thế: như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao” (Khuyết
danh)
3. Giá một ly sữa
Trưa
hôm đó, có một cậu bé nghèo bán hàng rong ở các khu nhà để kiếm tiền đi học. Bụng
đói cồn cào mà lục túi chỉ còn mấy đồng tiền ít ỏi, cậu liều xin một bữa ăn tại
một căn nhà gần đó. Nhưng cậu giật mình xấu hổ khi thấy một cô bé ra mở cửa. Và
thay vì xin gì đó để ăn, cậu đành xin một ly nước uống. Cô bé trông cậu có vẻ
đang đói nên bưng ra một ly sữa lớn.
Cậu
bé uống xong, hỏi “Tôi nợ bạn bao nhiêu?"
“Bạn
không nợ tôi bao nhiêu cả. Mẹ dạy rằng chúng tôi không bao giờ nhận tiền khi
làm một điều tốt.”
Cậu
bé cám ơn và đi khỏi. Lúc này, Howard Kelly thấy tự tin hơn nhiều, mạnh mẽ hơn
nhiều.
Nhiều
năm sau, cô gái đó bị căn bệnh hiểm nghèo. Các bác sĩ trong vùng bó tay và chuyển
cô lên bệnh viện trung tâm thành phố để các chuyên gia chữa trị. Tiến sĩ Howard
Kelly được mời khám. Khi nghe tên địa chỉ của bệnh nhân, một tia sáng loé lên
trong mắt ông. Ông đứng bật dậy và đi đến phòng bệnh nhân và nhận ra cô bé ngày
nào ngay lập tức. Ông đã gắng sức cứu được cô gái này. Sau thời gian dài, căn bệnh
của cô gái cũng qua khỏi. Trước khi tờ hoá đơn thanh toán viện phí được chuyển
đến cô gái, ông đã viết gì đó lên bên cạnh.
Cô
gái lo sợ không dám mở ra, bởi vì cô chắc chắn rằng cho đến hết đời thì cô cũng
khó mà thanh toán hết số tiền này.
Cuối
cùng cô can đảm nhìn, và chú ý đến dòng chữ bên cạnh tờ hoá đơn….
“Đã
thanh toán đủ bằng một ly sữa.”
Ký
tên
Tiến
sĩ Howard Kelly.Nước mắt vui mừng cứ thế dâng trào và lời từ trái tim cô gái thốt
lên trong nước mắt: “Cảm ơn ông!”
Đây
là câu chuyện có thật. Dr. Howard Kelly là một nhà vât lý lỗi lạc, đã sáng lập
ra Khoa Ung thư tại trường Đại học John Hopkins năm 1895.
4. Chúa ở ngay bên
Có
người đến hỏi vị linh mục:
“Thưa
cha, có nhiều lần con cầu nguyện với Chúa, nhưng sao con cảm thấy chán nản và
thất vọng quá. Lời cầu của con không được Chúa đáp lại. Hơn nữa, những biến cố
không may lại cứ dồn dập đến với con. Hầu như con không thấy Chúa can thiệp vào
những sự kiện này cho con. Đôi lúc, con thấy Chúa ở thật xa. Thậm chí con còn
thấy nghi ngờ sự hiện diện của Chúa nữa."
Vị
linh mục lắng nghe và nhỏ nhẹ: “Này con, cha hằng cảm nhận rằng Chúa luôn ở với
chúng ta. Nhưng vì con chưa thật sự phó thác vào Chúa, chưa kiên trì trong việc
cầu nguyện và chờ đợi Chúa ban ơn; chưa kiên trì để khám phá ra ý Chúa trong cuộc
sống của con. Vì con chỉ muốn nhìn thấy những thành quả ấy trước mắt con ngay
mà lại không muốn chấp nhận thử thách trong đời sống của con. Con hãy kiên nhẫn
và chờ đợi Chúa."
Rất
nhiều người trong chúng ta cũng có những tâm trạng tương tự như thế trong cuộc
sống của mình. Nhưng chúng ta hãy xác tín một điều là Chúa đang ở bên cạnh ta
và không hề bỏ quên một lời kêu xin nào của chúng ta.
5. Tình yêu mạnh ơn sự chết
Chị
Vêrônica, một người Pháp, vào năm 1979, chị đã ngoài 58 tuổi. 55 năm mắc bịnh
cùi, 20 năm bị mù lòa, chị vẫn làm việc trong một xí nghiệp sản xuất đồ dùng của
người cùi tại nước Cameruon, châu Phi. Trong tập nhật ký của chị có ghi một lời
kinh đầy niềm tin, không sợ hải như sau:
“Lạy
Chúa, Chúa đã đến và đã xin con tất cả. Phần con, con cũng hiến dâng cho Chúa tất
cả. Xưa kia, con thích đọc sách, rồi Chúa muốn mượn đôi mắt của con. T rước đây
con thích chạy nhảy trong khu rừng thưa, và Chúa đã mượn đôi chân của con… Mỗi
khi xuân về, con tung tăng hái những cánh hoa tươi, và Chúa lại xin đôi tay của
con…
Con
là một phụ nữ, con ưa ngắm nhìn suối tóc óng ả của con, ưa ngắm nhìn những ngón
tay thon nuột xinh xắn của con. Thế mà giờ đây, đầu con hầu như chẳng còn một sợi
tóc nào! Cũng chẳng còn đâu những ngón tay hồng xinh xinh nữa! Chỉ còn lại vài
que củi… khô queo nhám nhúa…!
Chúa
ơi, Chúa hãy nhìn xem thân thể kiều diễm của con đã bị hủy hoại đến độ nào rồi…
Thế nhưng con không hề muốn nổi loạn, con lại muốn dâng lên Chúa lời tạ ơn…Vâng
lạy Chúa, muôn đời con sẽ xin thưa hai chữ tạ ơn…Bởi vì nếu đêm nay, Chúa truyền
cho con phải vĩnh biệt cỏi thế, con cũng sẽ chẳng hối tiếc điều gì. Đời con đã
đầy tràn hồng ân kỳ diệu: đó là vì con được đắm mình trong Tình Yêu vô bờ của
Chúa… Lạy Chúa là Cha của con, Cha đã đối xử tốt với bé gái Vêrônica của Cha…
Chiều nay, con xin dâng lên lời nguyện thiết tha, cho tất cả mọi người cùi trên
mặt đất. Xin Cha thương đặc biệt đến những người cùi tâm hồn, đang đè bẹp hủy
hoại họ. Chiều nay, trong âm thầm con xin tận hiến đời con cho họ, vì họ cũng
là anh chị em của con…
Con
là bé gái thân thương của Cha. Cha ơi, hãy nắm lấy bàn tay đã tàn phế của con để
dẫn con đi, như người mẹ hiền dắt tay đứa con gái cưng của mình. Hãy nhận chìm
con, sâu xuống tận đáy trái tim Cha, cho con được ở đó với mọi người thân yêu của
con, bây giờ và cho đến mãi muôn đời. Amen…”
6. Góc nhìn của đức tin
Một
nam tu sĩ trong tu hội của Mẹ Têrêsa Calcutta đã đến than phiền với mẹ về luật
lệ của một vị bề trên đã ban ra, mà ông cảm thấy rằng nó đã cản trở việc mục vụ
của ông. “Ơn gọi của tôi là làm việc cho những người cùi”, ông nói với Mẹ
Têrêsa, “tôi muốn sống cho những người cùi."
Mẹ Têrêsa nhìn thẳng vào mắt vị tu sĩ một lúc rồi mỉm cười và nhẹ nhàng
nói:“Thưa sư huynh, ơn gọi của sư huynh không phải là làm việc cho những người
cùi, nhưng ơn gọi của sư huynh là thuộc về Chúa Kitô."
Khi
nào chúng ta không nhìn thẳng lên trời, không nhìn vào những điểm tích cực và lạc
quan mà chỉ nhìn xuống, nhìn vào những hoàn cảnh đe dọa xung quanh, vào điều
tiêu cực với lòng bi quan yếm thế, chúng ta sẽ bắt đầu chìm xuống.
7. Chúa đi trên biển
Đứng
bên cạnh con đang chuẩn bị qua cơn giải phẫu nguy hiểm, người cha không ngừng
trấn an con mình với những lý luận dựa trên tài năng nổi tiếng của nhóm bác sĩ
giải phẫu với những phương tiện tối tân, ông còn trấn an con là sẽ hiện diện bên
cạnh để cung ứng mọi nhu cầu cho con.
Nghe
xong lời cha khuyên, người con trả lời cho cha:
Xin
cha đừng lo lắng nhiều, con không sợ đâu, con tin tưởng phó thác mọi sự cho
Chúa Giêsu, Người hiện diện bên con và giúp con chịu đựng, hy sinh âm thầm
trong tâm trí.
Người
cha cảm phục lòng tin của con, vừa hổ thẹn vì mình không có được thái độ tin
Chúa như con mình.
Chúng
ta cũng thường hành xử như vậy khi gặp những thử thách xảy ra cho anh chị em
xung quanh, cũng như và nhất là cho chính chúng ta. Phản ứng tự nhiên trước những
thử thách, chúng ta thường nghĩ ngay đến những phương thế, những tài năng riêng
của con người mà quên đi phần đóng góp tích cực và quan trọng của Chúa.
8. Hành trình đức tin
Một
gia đình quý tộc nước Anh đưa con về nghỉ mát ở miền quê. Trong khi nô đùa, cậu
con trai ngã xuống một suối nước sâu.
Nghe
tiếng kêu thất thanh, một chú bé lem luốc, con bác nông dân, đã chạy đến tiếp cứu.
Và số phận của cậu bé thượng lưu, không biết bơi kia tưởng như ngàn cân treo sợi
tóc, giờ đã được cứu sống.
Nhà
quý tộc vô cùng biết ơn chú bé nhà quê nghèo. Ông hỏi chú có mơ ước gì không.
Chú trả lời: “Cháu muốn được đi học để trở thành bác sĩ cứu người."
Sau
này, cậu bé ngày xưa không biết bơi đã được cứu sống, nay trở thành vĩ nhân của
thế giới, thủ tướng nước Anh, Winston Churchill. Và chú bé nhà quê, nhờ sự giúp
đỡ của nhà quý tộc, cha của Churchill bây giờ đã là bác sĩ danh tiếng, và là ân
nhân của cả nhân loại, người đã tìm ra thuốc Penicilin. Tên của ông Fleming.
Có
ai ngờ, khi thủ tướng nước Anh lâm trọng bệnh, các bác sĩ nổi tiếng đều bó tay,
thì chính Fleming, lại cứu sống ông một lần nữa.
Fleming
đã cứu vớt sinh mạng của Churchill khỏi dòng nước oan nghiệt, để rồi sau này
Churchill trở thành thủ tướng lừng danh, niềm hãnh diện và tự hào của cả nước
Anh.
Hôm
nay, Đức Giêsu cũng đã cứu thoát các môn đệ khỏi cơn cuồng phong của biển cả,
đã kéo ông Phêrô lên khi ông đang chìm xuống dòng nước sâu.
9. Hương rượu mới
Keith
Miller, tác giả cuốn sách tựa đề “Hương rượu mới” (The taste of new Wine), đã
thuật lại một biến cố làm thay đổi cuộc đời của ông như sau:
Vào
một đêm nọ, trên đường đi bộ về nhà, Két đã bị một chiếc xe hơi từ phía sau
tông phải làm anh bị té bất tỉnh bên lề đường suốt hơn một tiếng đồng hồ khi chờ
xe cứu thương. Lúc tỉnh dậy và ý thức về tình trạng của mình, anh đã cầu nguyện
với Chúa. Sau khi cầu nguyện xong, anh cảm thấy tâm hồn thật sự được bình an.
Keith
viết: “Tôi cảm thấy xấu hổ về việc tại
sao mãi đến lúc này tôi mới biết được giá trị của sự cầu nguyện. Ngay lúc đó,
dù đang phải đối diện với cái chết, nhưng tôi không còn cảm thấy sợ chút nào.
Tôi có cảm giác Chúa đang hiện diện bên tôi và sẵn sàng ra tay cứu giúp tôi." Sau đó, Keith đã được các bác
sĩ kịp thời cứu sống và mau chóng bình phục. Anh trở lại đại học được bầu làm
chủ tịch lớp sinh viên năm thứ hai.
Nhưng
về sau, do bị các hoạt động xã hội của trường đại học lôi cuốn, anh lại thôi,
không còn đến nhà thờ nữa và tiếp tục lún sâu vào các đam mê tội lỗi như trước.
Sau
khi tốt nghiệp đại học, anh lập gia đình và được nhận vào làm việc cho một hãng
xăng dầu ở tiểu bang Tếch-sớt (Texas). Cuộc sống gia đình và công việc không
suông sẻ. Một hôm Két chơi bài bị thua đậm. Bao nhiêu tiền bạc dành dụm bấy lâu
giờ bị thua trắng tay! Anh đã bị vợ nặng lời mạt sát và đòi làm đơn ra tòa ly
hôn.
Anh
buồn chán đánh xe chạy đi khỏi nhà mà không biết phải đi về đâu? Sau khi chạy
được một lúc, anh tấp xe vào bên lề đường, tắt máy rồi ngồi đó im lặng vừa hút
thuốc vừa suy nghĩ. Trước đây mỗi lần gặp phải điều gì buồn phiền, anh chỉ cần
uống vài ly rượu mạnh rồi nằm vật ra giường ngủ một giấc đến sáng là hết. Thế
nhưng bây giờ sự thể lại không đơn giản như thế. Anh đã bị dồn đến bờ vực phá sản
sau một phút lỡ lầm!
Anh
nhìn lên trời và la to: “Nếu Chúa muốn gì nữa thì xin hãy lấy tất cả đi. Con thực
sự muốn như vậy đó!” Ngay lúc ấy, đột nhiên anh cảm thấy tâm hồn thư thái bình
an trở lại, một cảm giác mà cách đó mười mấy năm anh đã từng trải qua khi bị
thương bất tỉnh bên lề đường. Ngay lúc đó, anh đã hạ quyết tâm phải thay đổi đời
sống.
Dù
không có những tia sấm chớp trên trời, cũng chẳng có tiếng nói mầu nhiệm nào của
Thiên Chúa trong lòng, nhưng Keith đã nhận biết rõ điều Chúa muốn anh phải làm
là hiến toàn thân phụng sự Người. Người không cần tiền bạc, thời giờ hay sức lực
của anh mà chỉ cần anh quyết tâm thay đổi lối sống, để Người ban bình an cho
anh và giúp anh trung thành phụng sự Người. Có thể nói: Keith đã thực sự được
tái sinh nên một người mới thuộc trọn về Chúa.
10. Sao lại hoài nghi
Có
một người đi biển tình cờ gặp sóng to gió lớn khi thuyền của ông đang vượt biển
khơi. Trong cơn nguy cấp đó ông cũng thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển tiến về
phía ông. Nhớ đến đoạn Phúc âm thuật lại chuyện Chúa đi trên mặt biển đến với
các tông đồ, ông kêu to: “Lạy Chúa, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi
trên mặt nước mà đến với Ngài”, và Chúa Giêsu bảo ông: “Hãy lại đây.”
Nghe
thế, ông vội mặc chiếc áo an toàn và phao cứu hộ rồi dũng cảm xuống biển mà đến
với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đưa tay đón lấy ông và nói: “Hỡi kẻ kém lòng tin!
Sao lại hoài nghi?”
Nghĩ
mình bị Chúa trách oan, ông vội vã cãi lại: “Đâu có, con chẳng nghi ngờ lời
Chúa nói một chút nào.” Chúa lắc đầu và hỏi: “Thế thì tại sao con lại mặc chiếc
áo an toàn và phao cứu hộ trước khi đến với Thầy?”Ông gãi đầu: “Cái này … con
mang theo chỉ để phòng hờ.”
Tư
tưởng và việc làm của Chúa khác xa với tính toán thường tình của con người. Sự
khác biệt đó là một trở ngại đáng kể cho niềm tin vào Chúa, nhưng đó mới chính
là điểm cốt yếu của lời tuyên tín: ‘tôi tin’.
“Thật
vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các
ngươi không phải là đường lối của Ta - sấm ngôn của Đức Chúa. Trời cao hơn đất
chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của
Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55,8-9).
11. Dấu hiệu của Chúa Kitô
Một
hôm, ma quỉ hiện hình một vị vua oai phong lẫm liệt để cám dỗ thánh Martin,
giám mục thành Tours (Pháp), đi vào con đường sai lạc:
- Martinô, hỡi con, cha cám ơn con về
lòng tin của con đối với cha. Con cũng phải biết rằng cha luôn thành tín với
con. Từ nay con sẽ luôn ở bên cạnh cha, con có thể hoàn toàn tín nhiệm ở cha.
- Nhưng thưa ngài, ngài là ai vậy?
- Ta là Giêsu Kitô đây!
- Vậy thì vết thương đóng đinh ở chân
tay ngài đâu?
- Ta từ vinh quang trên trời xuống, nơi
đó chẳng còn có thương tích nữa.
Nghe
thế, thánh nhân trả lời ngay: “Tôi không muốn nhìn thấy Đức Kitô không thương
tích. Tôi không thể tín nhiệm Đức Kitô không có dấu hiệu của thập giá.” Thấy
mưu đồ bị thất bại, tên quỷ lủi mất.
12. Những người đi trên mặt nước
Ðức
tin không bảo đảm cho người tin khỏi gặp sóng gió, nhưng thêm sức cho người ấy
có thể bước đi trên mặt nước giữa sóng gió tơi bời.
Hiểu
như thế thì không phải chỉ một mình Phêrô, mà còn rất nhiều người có thể đi
trên mặt nước:
A
là một sinh viên sống xa gia đình và ở nhà trọ. Sáng Chúa nhật, trời lạnh, chăn
ấm. A không muốn ngồi dậy đi lễ. Vả lại anh cũng ngại bị những bè bạn ngoại đạo
thấy anh đi lễ và chê cười anh còn mê tín dị đoan. Sau vài phút dằng co, A
cương quyết tung chăn ngồi lên chuẩn bị đi lễ. Nghĩa là A bắt đầu bước đi trên
mặt nước, bất chấp sóng gió của cơn mê ngủ và sự dị nghị của bạn bè.
B
là một cô gái độc thân, sau một lần nhẹ dạ đã phải mang thai. Nếu gia đình hay
được, nếu hàng xóm biết được thì. ôi thôi, cô không dám nghĩ tiếp. Cô định đi
phá thai. Nhưng rồi cô can đảm giữ lại bào thai ấy. B cũng đang bước đi trên mặt
nước bất chấp bao sóng gió phũ phàng của dư luận.
C
là một cảnh sát. Một tên bán ma túy hứa cho anh một số tiền lớn, chỉ cần anh
làm ngơ cho việc làm của hắn; nếu không hắn sẽ sai đồng bọn đến tính sổ với
anh. Nhưng anh cương quyết chối từ. C cũng đang đi trên mặt nước, đi ngược với
sức quyến rũ của đồng tiền và sóng gió của đe dọa.
Chúng
ta còn có thể nghĩ ra thêm rất nhiều thí dụ khác, trong đó có thí dụ hợp với
hoàn cảnh của chính mình. Quả thật, nếu có đức tin sống động, ai cũng có thể bước
đi trên mặt nước giữa bao sóng gió của cuộc đời.
13. Chỉ bán hạt giống.
Cha
Antony de Mello kể lại giấc mơ của Paquita như sau: Nàng rảo quanh các quầy
hàng của một trong những cửa tiệm lớn nhất hành tinh. Bỗng nhiên nàng nhận ra
Thiên Chúa sau một quầy hàng:
- Lạy
Chúa, Ngài bán gì vậy?
- Tất
cả những gì mà lòng con mong ước.
-
Con muốn mua sự bình an trong tâm hồn, tình yêu, sự khôn ngoan, những liều thuốc
chữa trị mọi thứ sợ hãi.
- Tốt
lắm, nhưng ở đây không bán trái mà chỉ bán hạt giống thôi.
14. Đừng sợ, hãy tin tưởng!
Vào
một buổi tối nọ, một căn nhà bị cháy. Mọi người trong nhà đều đã chạy thoát được
ra ngoài, chỉ trừ một em trai ở trên lầu. Nhìn chỗ nào cũng có lửa, em liền chạy
đến cửa sổ để xem có cách thoát thân không. Ông bố đứng dưới nhìn lên thấy con
đứng bên cửa sổ, biết là không còn cách nào khác hơn là phải nhảy xuống, nên mới
gọi lên giục con: “Con nhảy xuống đi, bố đang chờ ở đây.” Đứa con ở trên nhìn
xuống, chỉ thấy toàn là khói dầy đặc, nên sợ không dám nhẩy. Ông bố lại giục:
“Nhảy mau đi con.” Chú bé ở trên la xuống: “Con không dám nhẩy, vì không thấy bố
ở đâu hết.” “Không sao. Bố thấy con mà. Nhảy mau đi.”
15. Thầy đây, đừng sợ!
Mới
đây, tờ báo USA Weekend đã làm một cuộc thăm dò xem người Mỹ có những mối lo sợ
nào:
54% sợ bị đụng xe.
53% sợ bị ung thư.
50% sợ hết quỹ An Sinh Xã Hội.
49% sợ không đủ tiền khi về hưu.
35% sợ bệnh già.
33% sợ là nạn nhân của những vụ
hành hung.
32% sợ không đủ khả năng để trả
nợ.
Trước
những sợ hãi đó của con người, một trong những sứ điệp của Thiên Chúa trong Cựu
Ước là: Đừng sợ. Với Abraham: “Đừng sợ, vì Ta là thuẫn bảo vệ ngươi.” Với dân Do
Thái, qua Môsien: “Đừng sợ, và các ngươi sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.”
Sang tới thời Tân Ước, với Đức Mẹ Maria, qua sứ thần Gabrien: “Đừng sợ, vì Bà
đã được ơn nghĩa với Thiên Chúa.” Đừng sợ!
Bài
Phúc âm hôm nay thuật lại câu chuyện các môn đệ phải khó khăn để trèo chống con
thuyền khi bị sóng đánh. Đang khi đó, thì Chúa Giêsu đi trên mặt hồ đến với các
ông, khiến các ông tưởng là gặp ma. Chúa Giêsu đã liền chấn an các ông: “Thầy
đây. Đừng sợ!”
“Thầy
đây. Đừng sợ!” Đó cũng là lời Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta hôm nay, khi
chúng ta đang phải đối đầu với cuộc khủng hoảng kinh tế, khi sức khoẻ của chúng
ta đang suy giảm, khi một người thân đang bị dày vò vì bệnh tật, hay khi con
cái ở tuổi niên thiếu đang khiến chúng ta phải điên đầu. Đừng sợ! Hãy vững dạ,
vì giữa những sóng gió ba đào của cuộc sống, chúng ta có Chúa Kitô đang ở với
chúng ta.
16. Sự bình an thực sự
Xưa
có một ông vua tổ chức một cuộc thi tìm ra người nào vẽ được bức tranh yên bình
nhất. Nhiều họa sĩ đã tham gia và nộp bài. Nhà vua xem xét tất cả các bức tranh
và ông chọn ra hai bức ông thích nhất. Nhưng ông vẫn phải chọn ra một bức tranh
đạt giải.
Bức
tranh thứ nhất vẽ một hồ nước tĩnh lặng đến mức có thể thấy những ngọn núi cao
vút xung quanh soi bóng dưới hồ. Bên trên là bầu trời trong xanh, mây trắng. Đó
là một bức tranh mà ai nhìn vào cũng phải mê mẩn.
Bức
tranh thứ hai cũng vẽ cảnh núi, nhưng nó mấp mô và trần trụi. Bên trên là bầu
trời u ám, vần vũ như sắp có mưa bão, sấm chớp. Phía dưới một ngọn núi là thác
nước đổ xuống ào ào. Nhưng khi nhà vua nhìn kỹ, ông thấy bên cạnh thác nước là
một bụi cây nhỏ nằm trong một kẽ đá. Trong bụi cây, một con chim mẹ đang làm tổ.
Giữa thác nước đang gào thét, chim mẹ ngồi yên bình trong tổ.
Nhà
vua đã chọn bức tranh thứ hai và giải thích: “Bởi vì yên bình không có nghĩa là
bạn ở một nơi không có tiếng ồn, không gặp rắc rối, không phải làm việc vất vả.
Yên bình là khi sống giữa tất cả những thứ đó, bạn vẫn cảm thấy bình an trong
tim. Đó mới là yên bình thực sự”
Nơi
đâu có Chúa Giêsu, ở đó có bình an.
17. Dấu chân trên cát
Có
một người nọ ví cuộc đời của mình như một người lữ hành đang đi trên một bãi biển
đầy cát. Khi nhìn lại cuộc hành trình, anh nhận ra hai điều kỳ lạ:
Điều
thứ nhất: Khi anh thành công, hạnh phúc, vui sướng. anh thấy có bốn dấu chân
trên cát. Đó là hai dấu chân của anh và hai dấu chân của Chúa. Thiên Chúa đồng
hành để chia sẻ niềm vui với anh.
Điều
thứ hai: Khi anh thất bại, đau khổ, buồn sầu.anh chỉ thấy có hai dấu chân trên
cát. Và anh nghĩ đó là hai dấu chân của mình. Thiên Chúa đã bỏ rơi khi anh thất
bại. Thiên Chúa đã vắng bóng khi anh đau khổ.
Sau
đó, anh thắc mắc với Chúa: “Khi con thành công, hạnh phúc thì Chúa lại đồng
hành với con, đi với con. Nhưng khi con thất bại, đau khổ là những lúc con cần
Chúa nhất thì Chúa lại bỏ rơi con. Tại sao Chúa lại đối xử với con như thế?”
Chúa
trả lời: “Khi con vui thì Ta đi bên cạnh con, đi với con, song hành cùng con.
Còn khi con buồn, đau khổ, thất vọng thì Ta lại vác con trên vai của Ta. Cho
nên dấu chân trên cát là của Ta chứ không phải của con.”
Người ta kể về một nữ vận động viên cự phách: Sau
bao ngày tập luyện gian khổ, đã quyết định bơi biểu diễn qua eo biển Manche – một
đường bơi dài 30 km – nối liền bờ biển nước Pháp và nước Anh.
Trước sự chứng kiến và theo dõi của báo chí, đài
truyền hình, chị đã phóng mình xuống nước và lướt đi thật mạnh mẽ, bất chấp làn
sương mù dày đặc bao phủ bờ biển nước Anh.
Thời gian trôi qua, người nữ vận động viên đã bơi ra
giữa dòng nước mênh mông. Hai cánh tay chị tiếp tục vươn tới. Nhưng ngay lúc
đó, chị bắt đầu tự hỏi: “Còn bao xa nữa nhỉ? Mình đang bơi đúng đường hay đang
đi lòng vòng trong làn sương mù dày đặc, không thấy đâu là bến bờ?”
Cứ thế, với sức ép tâm lý cộng với sự mệt mỏi, chị bắt
đầu kiệt sức. Cuối cùng, vì không chịu nổi, chị đành bỏ cuộc, giơ tay xin leo
lên thuyền hộ tống.
Khi vừa lên thuyền, người nữ vận động viên được cho
biết: Chị còn cách bờ biển nước Anh chỉ vài trăm mét! Chị đã gục đầu xuống, ôm
mặt khóc nức nở.
Cuộc hành trình đức tin của chúng ta cũng giống như
vậy. Có những lúc chúng ta cảm thấy sợ hãi và thất vọng, vì phía trước mặt là
sương mù che khuất. Nhưng Chúa luôn đồng hành với chúng ta mọi nơi mọi lúc và
luôn khích lệ bên tai: “Thầy đây, đừng sợ!”
19. Tin trong lý thuyết
hay trong cuộc sống?
Có một người làm xiếc nổi tiếng với tài đi thăng bằng
trên dây. Một ngày kia, ông biểu diễn đi trên một sợi dây cáp kéo ngang qua
thác nước Niagara, một thác nước vĩ đại nằm ở biên giới nước Canađa và Hoa Kỳ.
Ngày hôm ấy, trước sự chứng kiến của nhiều người,
ông bước đi trên sợi dây cáp trơn trượt vì bụi nước tỏa ra từ ngọn thác. Với độ
sâu thăm thẳm, nếu rớt xuống, ông sẽ bị tan xương nát thịt.
Mọi người nín thở dõi theo từng bước chân của ông.
Cuối cùng, ông đã bước đến đầu bên kia sợi dây, giữa tiếng reo hò vang dậy của
dân chúng. Một người thanh niên chạy đến bên người làm xiếc tỏ lòng ngưỡng mộ:
“Quả thật, ông là người vĩ đại nhất thế giới. Ông có thể làm mọi sự trên sợi
dây!” Người làm xiếc quay lại hỏi: “Bạn có tin rằng tôi có thể cõng một người
trên lưng và đi trên sợi dây này không?” Người thanh niên đáp một cách quả quyết:
“Tôi tin chắc ông làm được.” Người làm xiếc bình thản nói: “Vậy thì mời anh lên
lưng tôi, chúng ta bắt đầu đi.”
Nghe vậy, người thanh niên chợt khựng lại, im lặng rồi
lẻn vào đám đông mất dạng.
Người thanh niên tin, nhưng anh không dám thực hành
niềm tin, vì anh nhát đảm và hoài nghi. Đó chính là tâm trạng của thánh Phêrô
và các môn đệ trong bài Tin Mừng theo thánh Matthêu hôm nay.
20.
Có Chúa nhưng có đến với Chúa hay không?
Một
người thợ hớt tóc nói cùng một khách hàng: “Tôi không tin có Chúa vì nếu có
Chúa thì tại sao con người lại giết nhau như thế?” Người khách rời tiệm chẳng
buồn tranh cãi. Nhưng chỉ một thoáng sau, ông quay lại tiệm nói vọng vào: “Tôi
không tin có thợ hớt tóc!”
Ông
thợ hớt tóc liền sừng sộ: “Ông có điên không? Thế ai vừa hớt tóc cho ông đấy?”
“Nếu
có thợ hớt tóc thì tại sao có những người như thế kia,” người khách vừa nói vừa
chỉ tay vào một người đàn ông đầu tóc rối bù đang đứng gần cửa tiệm.
“A!”
người thợ hớt tóc phá ra cười, “vì ông ta không thèm đến để cho tôi cắt tóc cạo
râu?”
“A!
Cũng vậy,” người khách hàng cười theo. “Có Chúa đấy chứ! Nhưng chiến tranh loạn
lạc vì nhân loại không thèm đến tìm Người…”
21. Đức tin của nhà truyền giáo
Trong
cuốn ký sự ghi lại những cuộc du hành của Marcô Pôlô, nhà hàng hải lừng danh của
Italia vào thế kỷ thứ XVI, có thuật lại cuộc gặp gỡ của ông với một số nhà truyền
giáo tại Biển Đen. Các nhà truyền giáo cho biết họ đang trực chỉ đến vùng
Tarta. Nhìn chiếc thuyền quá đơn sơ của các Tu Sĩ, Marcô Pôlô mới buột miệng
đưa ra câu nhận xét:
-
Có lẽ các ngài chưa lường hết được những hiểm nguy trên biển cả. Với một cuộc
hành trình cam go như thế này mà các ngài lại không mang theo gì hết. Xin các
ngài cho biết đã chuẩn bị những gì?
Các
nhà truyền giáo mỉm cười đáp:
-
Chúng tôi được trang bị bằng đức tin, đức cậy, đức mến, và Chúa chính là Đấng dẫn
đường, chỉ lối cho chúng tôi. Chúng tôi nghĩ như thế cũng đầy đủ cho chúng tôi
rồi!
22. Tin Vào Sự Hiện Diện
Của Thiên Chúa.
Cách viết của tác giả bài đọc I hàm chứa một bài học
sâu sắc về sự hiện diện của Chúa. Khi ngôn sứ Elia đứng trong một hốc núi
Horép, ông thấy một luồng gió mạnh xé núi dời non, nhưng Chúa không ở trong đó.
Ông lại thấy một cơn bão rất mạnh làm cho đất rung động, nhưng Chúa không ở
trong bão. Ông còn thấy lửa, nhưng Chúa cũng không ở trong lửa. Cuối cùng ông
thấy một làn gió hiu hiu: ông được soi sáng cho biết có Chúa ở trong đó, ông liền
cung kính lấy khăn che mặt đại để bước ra khỏi hang diện kiến Thiên Chúa.
Vâng! Thiên Chúa không thích hiện diện trong những
thứ ồn ào, uy phong, vĩ đại. Ngài thường hiện diện cách êm ả, âm thầm và nhẹ
nhàng trong cái rất bình thường của đời sống.
Chúng ta không nhận ra được sự hiện diện của Chúa bởi
vì chúng ta cứ mãi tìm Ngài trong những sự phi thường.
Nhà hiền triết Uddalaka thường dùng những dụ ngôn để
dạy cho con ông biết nhận ra Thiên Chúa ngay trong cuộc sống thường ngày. Đây
là một trong những dụ ngôn đó:
Ngày nọ, ông nói với con ông:
- Hãy bỏ nắm muối này vào nước và sáng ngày mai hãy
trở lại gặp cha
Người con làm đúng theo lời cha anh dạy. Hôm sau,
cha anh bảo:
- Con hãy lấy cho ta nắm muối con bỏ vào trong nước
hôm qua.
- Thưa cha, người con nói, con không thể làm được vì
muối đã tan trong nước hết rồi!
- Vậy con hãy nếm dĩa nước bắt đầu từ mép bên phải
xem. Uddalaka nói. Con thấy mùi vị gì?
- Muối.
- Bây giờ, con hãy nếm phía mép kia của cái dĩa. Con
thấy mùi vị gì?
- Muối.
- Con hãy ném cái dĩa đi. Người cha nói.
Người con làm y như thế và nhận thấy rằng sau khi nước
bốc hơi, muối lại xuất hiện. Lúc đó Uddalaka bèn nói:
- Con ạ, con không thể nào nhận ra Thiên Chúa ở đây,
nhưng thật ra Người luôn có đó.
Lạy Chúa! Xin giúp con luôn nhận ra sự hiện diện của
Chúa trong những biến cố của đời con. Xin ban ơn giúp sức cho con để con vượt
thắng mọi thử thách trên đường đời. Quyền năng và tình thương của Chúa luôn làm
cho con vững dạ an tâm (Tv.23:4). Amen
23. Chúa truyền cho sống
gió yên lặng
Lạ
lùng một thủy thủ giương to đôi mắt hỏi:
-
Em không sợ chết sao!
Em
bé lắc đầu thản nhiên trả lời.
-
Sao lại sợ ! Chính ba tôi cầm lái con tàu này mà.
Chúng
con tiếp tục nghe câu chuyện này: Khi được làm Giáo Hoàng, một việc hết sức trọng
đại. Đức Piô XI đã can đảm làm xong mọi thủ tục thuộc nghi lễ đăng quang, Xong
việc, Ngài về phòng riêng, ngồi vào chiếc bàn viết của Đức tiên Giáo Hoàng
Benedicto XV, thì tự nhiên một lo âu bao trùm tâm hồn Ngài. Giáo Hội đang bị tấn
công mọi mặt. Cuộc đệ thế chiến I vừa chấm dứt và cuộc đệ thế chiến II đang âm ỉ.
Giáo Hội phải trải qua một giai đoạn thử thách gắt gao.
Nghĩ
đến tất cả những điều ấy, Đức Piô XI thấy mình tràn ngập lo âu. Lúc ấy Ngài làm
chỉ làm một công việc duy nhất mà một người lo sợ có thể làm đó là Ngài quì xuống,
cầu nguyện. Trong khi Ngài cầu nguyện như thế, tay Ngài đưa ra, chạm phải một tấm
ảnh còn lại trên bàn giấy của Đức Benedicto XV. Ngài cầm mẫu ảnh lên xem và tự
nhiên nỗi lo sợ tan dần. Tâm hồn Ngài tràn ngập bình an. Đó là bức ảnh Chúa
Giêsu đang truyền cho sóng gió yên lặng. Những làn sóng lo âu, sợ sệt trong tâm
hồn Đức Piô XI êm lặng lại. Ngài giữ bức ảnh ấy trên bàn giấy của Ngài luôn. Từ
đó về sau, mỗi khi lo âu gì, ngài chỉ việc nhìn vào bức ảnh để trên bàn đó và
nhớ rằng Chúa Giêsu chỉ phán một lời là sóng gió phải yên lặng. Và tâm hồn Ngài
luôn sống trong bình an. Amen.
CNTN 19B -
Lời Chúa: Ga 6, 41-51
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Khi ấy, những người Do-thái kêu
trách Chúa Giêsu, vì Người đã phán rằng: "Ta là bánh hằng sống bởi trời mà
xuống.” Họ nói: "Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao?
Chúng ta đều biết rõ cha mẹ của ông. Vậy làm sao ông lại nói: 'Ta bởi trời mà
xuống'.”
Chúa Giêsu trả lời cùng họ rằng:
"Các ngươi chớ thì thầm với nhau. Không ai đến được với Ta nếu Cha, là Đấng
sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.
Trong sách các tiên tri có chép rằng: 'Mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo'.
Ai nghe lời giáo hoá của Cha, thì đến với Ta. Không một ai đã xem thấy Cha, trừ
Đấng bởi Thiên Chúa mà ra, Đấng ấy đã thấy Cha. Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ai
tin vào Ta thì có sự sống đời đời.
"Ta là bánh ban sự sống.
Cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Đây là bánh bởi trời xuống,
để ai ăn bánh này thì khỏi chết. Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh
này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được
sống.”
TRUYỆN KỂ
1. Bánh hằng sống
Trong kho tàng văn hóa Việt Nam
có chuyện "Thoại Khanh Châu Tuấn.” Đó là tên của hai vợ chồng trẻ. Nhà họ
nghèo, lại phải nuôi một người mẹ già yếu. Nhưng người vợ trẻ hy sinh chịu cực
khổ làm lụng để cho chồng học hành đi thi, rồi đến ngày người chồng từ giã mẹ
và vợ lên đường về kinh đô ứng thí. Rủi là trong lúc đó gia đình lâm cảnh đói
rách rất thê thảm, người mẹ già đói quá sắp chết. Người vợ trẻ đã cam đảm lấy
dao lóc thịt mình để nuôi mẹ chồng. Nhờ đó mà người mẹ già mù loà có thể sống
được cho tới ngày con trai đổ đạt vinh quy về nhà.
Câu chuyện cổ tích tưởng tượng
trên cũng cảm động như câu chuyện thực sự diễn ra hàng tuần, hàng ngày trong
Thánh Lễ: Đức Giêsu lấy chính Thịt Máu Mình để nuôi sống linh hồn chúng ta:
"Ta là bánh hằng sống.”
2. Bí quyết trường sinh (Ga
6,41-51)
Tần Thủy Hoàng là vị vua Trung
Quốc, sống trước Chúa Giáng Sinh khoảng 200 năm. Ông là người đã truyền xây Vạn
Lý Trường Thành dài hơn 2.000 dặm. Đó là kiến trúc duy nhất trên trái đất, mà các
phi hành gia có thể nhìn thấy từ ngoài không gian. Theo tạp chí National
Geographic, Tần Thủy Hoàng rất sợ chết, ông muốn được trường sinh bất tử, nên
tìm đủ mọi cách để được cải lão hoàn đồng. Một ngày kia, các chiêm tinh gia kể
cho ông nghe về một hòn đảo thần tiên ở biển Đông, dân cư ở đấy đã khám phá ra
bí quyết trường sinh.
Tần Thủy Hoàng liền phái một số
tàu thuyền chất đầy châu báu lên đường, hy vọng đổi được bí quyết trường sinh.
Nhưng dân chúng không đổi cho ông bí quyết trường sinh của họ.
Thế rồi ông lo xây nhà mồ như
cung điện nguy nga rộng lớn, lấy châu ngọc làm tinh tú, lấy thủy tinh làm sông
Ngân Hà, lấy vàng bạc lát tường và chôn sống hàng trăm cung nữ trong đó, để kiếp
sau được sống như thần tiên. Nhưng kẻ tàn bạo ham sống ấy chỉ làm vua được hơn
chục năm và sống trên năm mươi tuổi thì chết đi.
3. Kho tàng quý giá nhất
Ferdowsi (925–1020), thi sĩ người
Ba tư sống vào thế kỷ 11 có kể một câu chuyện: Một quốc vương nọ phải đi qua sa
mạc để đến một ốc đảo. Cùng đi với ông là một đoàn tùy tùng rất đông. Họ mang
theo vô số bạc vàng của cải. Dọc đường, một con lạc đà bỗng ngã quị. Và từ trên
lưng nó, một dòng thác vàng bạc châu báu chảy xuống cát. Tức khắc người ta thấy
ngay được sự tham muốn đến tột độ bừng lên trong những con mắt của những người
đi theo hộ giá nhà vua.
Bằng một cử chỉ rất vương giả,
quốc vương nói với những người tùy tùng:
- Các khanh hãy tự do nhặt lấy
những thứ đó. Trẫm tặng cho các khanh tất cả. Các khanh cũng được tự do đi tiếp
với trẫm hoặc lựa chọn con đường khác mà quay về.
Nói xong, ông tiếp tục lên đường
không một chút do dự. Ông nghĩ, tất cả sẽ dừng lại để nhặt cho đến viên kim
cương cuối cùng.
Đang đi bỗng ông nghe thấy có tiếng
chân theo sau mình. Quay lại, và ông nhận ra đó người hầu cận được tiếng là
trung thành nhất. Ông hỏi:
- Sao nhà ngươi không ở lại nhặt
vàng bạc trẫm đã ban tặng? Ngươi không biết rằng với số vốn ấy ngươi sẽ trở nên
giàu sang ư?
Người hầu cận trung thành trả lời:
- Tâu bệ hạ, ngài là vua. Đối với
hạ thần, bệ hạ là kho tàng quí giá nhất. Bệ hạ là tất cả của thần.
CNTN 19C – HÃY SẴN SÀNG VÀ THỨC TỈNH
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hỡi đoàn bé nhỏ, các con đừng sợ,
vì Cha các con đã vui lòng ban nước trời cho các con. Các con hãy bán những của
các con có mà bố thí. Hãy sắm cho các con những túi không hư nát, và kho tàng
không hao mòn trên trời, là nơi trộm cướp không lai vãng và mối mọt không làm
hư nát. Vì kho tàng các con ở đâu, thì lòng các con cũng ở đó.
"Các
con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ
đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Phúc cho những đầy tớ
nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức: Thầy bảo thật các con, chủ sẽ thắt lưng, đặt
chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng. Nếu canh hai hoặc canh ba, chủ trở về
mà gặp thấy như vậy, thì phúc cho các đầy tớ ấy. Các con hãy hiểu biết điều này
là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, ắt sẽ tỉnh thức, không để nó đào ngạch
nhà mình. Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con
Người sẽ đến.”
Phêrô
thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy nói dụ ngôn đó chỉ về chúng con hay về mọi
người?"
Chúa
phán: "Vậy con nghĩ ai là người quản lý trung tín khôn ngoan mà chủ đã đặt
coi sóc gia nhân mình, để đến giờ phân phát phần lúa thóc cho họ? Phúc cho đầy
tớ đó, khi chủ về, thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt
người đó trông coi tất cả gia sản mình. Nhưng nếu đầy tớ ấy nghĩ trong lòng rằng:
"Chủ tôi về muộn", nên đánh đập tớ trai tớ gái, ăn uống say sưa: chủ
người đầy tớ ấy sẽ về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, chủ sẽ loại
trừ nó, và bắt nó chung số phận với những kẻ bất trung. Nhưng đầy tớ nào đã biết
ý chủ mình mà không chuẩn bị sẵn sàng, và không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn
nhiều. Còn đầy tớ nào không biết ý chủ mình mà làm những sự đáng trừng phạt,
thì sẽ bị đòn ít hơn.
Vì
người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều, và đã giao phó cho ai
nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn.” Đó là lời Chúa.
TRUYỆN KỂ
1. Gìn giữ tâm hồn
Hồi đầu thế kỷ 20, thì két sắt
là nơi cất giữ tiền bạc một cách chắc chắn nhất, nhờ một hệ thống khoá bằng số
mà chỉ một mình người đặt các số ấy hay là người biết những số ấy mới mở được
mà thôi.
Quân đội của một nước kia đã sử
dụng một chiếc két sắt như thế để cất giấu số tiền lớn. Chiếc két sắt này được
đem đến một địa điểm để phát lương cho lính, thế nhưng trên đường di chuyển,
khi đi ngang qua một khu rừng đã bị một bọn cướp lấy mất. Bọn cướp hì hục nhưng
không sao mở được. Chúng lấy búa đập vào két hy vọng rằng két sẽ bung ra nhưng
chiếc két sắt vẫn cứ trơ trơ. Chúng cho vào lửa và đốt nhưng chiếc két sắt vẫn
cứ y nguyên. Chúng khiêng chiếc két lên núi rồi đẩy xuống, nhưng cánh cửa vẫn
không chịu bung ra. Sau cùng, bọn cướp gài chất nổ với hy vọng sẽ phá được chiếc
két nhưng nó vẫn không hề suy suyển sau tiếng nổ kinh hoàng. Quá bực tức, bọn
cướp đã quăng chiếc két xuống biển. Được tin này, quân đội cho người đến nơi trục
chiếc két sắt lên và khi mở ra, sồ tiền trong két vẫn còn y nguyên.
Tâm hồn chúng ta cũng là như một
chiếc két sắt, chỉ một mình chúng ta mới biết những con số để mở cửa cõi lòng
chúng ta ma thôi. Nếu chúng ta không chịu mở thì ma quỷ dù tài ba đến đâu cũng
không thể làm gì được. Bình thường thì những thất bại của chúng ta đối với ma
quỷ, không phải vì những cám dỗ bên ngoài, mà vì những điều nằm trong chính thẳm
sâu cõi lòng chúng ta.
2. Cho đi
Có một bà kia, khi đi tham dự
thánh lễ, đã gặp một cô bé đang ngồi van xin bố thí. Em bé nói:
- Xin bà thương cho cháu một đôi
giày vì chân cháu lạnh cóng.
Bà ấy hứa cho cô bé một đôi vào
chiều ngày lễ Chúa giáng sinh. Thế rồi bà ấy quên khuấy đi mất. Đúng hẹn, cô bé
tìm hỏi và bà ấy chỉ biết mỉm cười xin lỗi rồi bước vào trong nhà thờ. Ngồi
tham dự thánh lễ mà bà cảm thấy chẳng được an tâm chút nào. Thế là bà ấy đứng
lên ra ngoài để gặp cô bé và rồi bà ấy đã nói với cô bé:
- Này nhé! chúng ta hãy trao đổi
giày cho nhau. Em sẽ đi giày của tôi, còn tôi thì sẽ đi giày của em. Cô bé ngập
ngừng trong giây lát rồi mới chấp nhận. Trên đường về nhà, đôi giày của cô bé
làm cho đôi bàn chân của bà ấy vừa lạnh cóng vừa trầy xát vì đôi giày quá nhỏ.
Thế nhưng, vừa về tới nhà thì một người đàn ông đang chờ bà. Ông này là thân
nhân của một người bệnh mà bà từng chăm sóc; ông ta nói mấy lời cám ơn và trao
cho bà một quà tặng và bảo:
- Đây là món quà tượng trưng
nhân dịp lễ Giáng sinh để tỏ lòng biết ơn chị, đã vất vả chăm sóc cho mẹ tôi.
Món quà ấy là một đôi giày mới,
rất hợp với đôi bàn chân của bà ấy. Xỏ thử đôi giàu mới này, bà ấy nhớ tới lời
Chúa:
- Hãy cho thì sẽ được cho lại.
3. Người quản lý trung
tín và khôn ngoan
Trong một thời gian ngắn các nước
Á Châu đã phải chứng kiến sự ra đi của nhiều lãnh tụ. Trước hết là việc chạy trốn
của ông Fujimori. Ông Fujimori đã làm tổng thống nước Peru đến nhiệm kỳ thứ 2.
Nhưng vì tham nhũng, ông đã phải trốn chạy về Nhật. Tiếp đến là ông Estrada, tổng
thống nước Philippin. Ông đã thắng cử với số phiếu áp đảo. Nhưng cuối cùng phải
từ chức cũng vì tội tham nhũng. Gần đây là ông Wahid, tổng thống Inđônêsia. Ông
đã sang Mỹ tị nạn cũng vì tham nhũng. Tất cả chỉ vì họ đã làm sai nhiệm vụ. Họ
chỉ là quản lý chứ không làm chủ đất nước. Dân mới làm chủ. Nhưng họ đã không
làm tốt nhiệm vụ quản lý. Nên họ đã bị sa thải.
Chúng ta cũng là người quản lý của
Thiên Chúa. Thật vậy, sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ sắc đẹp, tất
cả đều là ơn Chúa ban. Nói tóm lại, tất cả những gì ta có, tất cả những gì ta
là, đều là của Chúa. Chắc chẳng có ai dám tự hỏi: Tại sao tôi không cao hơn,
không mập hơn? Tại sao tóc tôi không vàng hoe, mắt tôi không xanh biếc? Tại sao
tôi không có tài hội họa, có giọng ca hay? Ta không thể hỏi như vậy, vì ta
không có quyền gì trên đó. Tất cả đều là của Chúa. Chúng ta chỉ là quản lý.
Chúa trao sự sống, tài năng, trí thông minh cho ta gìn giữ trong một thời gian.
Nói theo ngôn ngữ Trịnh Công Sơn tất cả những thứ đó chỉ “ở trọ” nơi ta.
Con chim ở trọ cành tre,
Con cá ở trọ trong khe nước nguồn…
Môi xinh ở trọ người xinh,
Duyên dáng ở trọ đôi chân Thuý
Kiều…
Tôi nay ở trọ trần gian
Mai sau về chốn xa xăm với Người.
Một ngày kia Chúa sẽ đòi ta tính
sổ. Lúc đó ta phải nộp cho Chúa cả vốn lẫn lãi.
4. Ngày mai không bao giờ
đến
Tại chùa Tô Châu, có một nhà sư
tên Viên Thủ Trung, tu hành đắc đạo, nhà sư thường bày trên án thư, trước chỗ
ngồi, một cái quan tài con bằng gỗ bạch đàn, dài độ 5 tấc, có một cái nắp mở ra
đóng vào được.
Khách đến chơi trông thấy cười
nhạo nói rằng:
- Ngài chế ra cái này dùng để
làm gì?
Nhà sư trả lời:
- Người ta sống tất có chết, mà
chết thì vào ngay cái này. Tôi thực lấy làm lạ, người đời ai cũng chỉ biết phú
quí, công danh, tài sắc, thị hiếu, lo buồn, vất vả suốt đời chẳng biết đến cái
chết là gì… Mỗi khi có việc không vừa ý, tôi cầm lấy quan tài mà ngắm, tức khắc
tôi cảm thấy được yên tâm trong tâm hồn ngay.
5. Tỉnh thức là một biểu
hiện của tình yêu
Mặc dù biết rằng chồng mình thuộc
diện sĩ quan, còn lâu mới mãn hạn cải tạo, nhưng tâm hồn chị Hồng luôn hướng về
chồng, mong đợi chồng và chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ như thể chồng sẽ trở về nay
mai. Mỗi buổi sáng, chị dậy sớm quét dọn con đường từ cổng vào đến thềm nhà với
ý nghĩ biết đâu hôm nay chồng chị sẽ đặt những bước chân yêu thương lên con đường
mới quét. Rồi chị tiếp tục quét dọn nhà cửa tươm tất sạch sẽ, lau chùi bộ bàn
ghế phòng khách, cắm thêm những cánh hoa hồng còn đọng sương mai vào bình, thứ
hoa mà chồng chị ưa thích, như thể chồng sắp về đến nơi. Vào mỗi bữa ăn, chị lại
đặt thêm một chén và đôi đũa như thể có chồng cùng ngồi ăn bên cạnh. Chị làm tất
cả những việc đó trong niềm mong đợi, trong tâm tình yêu thương.
Trong khi đó, người láng giềng của
Hồng có tên là Phượng, cũng có chồng đi cải tạo. Phượng nghĩ rằng chồng mình
còn lâu mới về, nên rủ rê bạn hữu đến nhà đánh bài, loại hình giải trí mà chồng
của Phượng vốn rất ghét. Ban đầu thì bạn gái, dần dần thì các ông lợi dụng đến
nhà Phượng đánh bài để buông lời chọc ghẹo tán tỉnh và cuối cùng Phượng đã lang
chạ với nhiều người đàn ông khác.
Đôi khi lương tâm Phượng cũng
lên tiếng nhắc nhở chị hãy tu tỉnh lại, nhưng chị nghĩ rằng chồng mình thuộc diện
sĩ quan, thường phải cải tạo đến mươi năm mới về, thôi thì vui chơi cho thoả
thích đã, đợi đến thời gian chồng sắp mãn hạn mới tu tỉnh lại thì cũng chẳng
sao. Chị luôn tự nhủ lòng: chồng còn lâu mới về. vội gì. cứ hưởng đời đi, hưởng
tuổi xuân đi, hãy vui chơi cho thoả thích. bao giờ chồng gần về sẽ tính.
6. Sống là chuẩn bị chết
Có người bi quan bảo rằng:
"sống là chuẩn bị chết.” Mỗi ngày sống là một nhịp cầu tiến gần đến cái chết
hơn nữa. Cái chết nó đến cũng thật bất ngờ. Bất ngờ như tên trộm đột nhập vào
nhà và lấy đi sự sống của chúng ta. Cái chết nó cũng không chờ đợi lứa tuổi để
mà có thể sống theo tuần tự: sinh - bệnh - lão - tử. Cái chết đến với người già
cũng như người trẻ ngang nhau. Có người chết trẻ. Có người chết già. Có người
chết bất thình lình. Có người chết từng giờ vì cơn bệnh nan y.
Vào ngày 10/04/2010 cả thế giới
cũng ngỡ ngàng trước sự ra đi đột ngột của vợ chồng tổng thống Ba Lan cùng đoàn
tuỳ tùng gần 200 người. Họ đã tử nạn trong một chuyến bay đến Nga để dự lễ kỷ
niệm 70 năm ngày khoảng 22,000 binh sĩ Ba Lan bị sát hại. Chiếc máy bay đã
không đưa họ đến nơi dự định mà đã đưa họ về với trời cao vào lúc 11g00 trưa
cùng ngày. Họ đã kết thúc cuộc đời vào lúc mà họ không ngờ, và chắc chắn họ vẫn
chưa chuẩn bị cho chuyến đi định mệnh một cách vĩnh viễn này.
7. Sẵn sàng chờ đợi Chúa
đến
Kho truyện cổ Tây Phương có kể
tích truyện một anh hề ở cung điện vua, được vua trao cho phủ việt, biểu tượng
của vương quyền, để làm cho nhà vua giải phiền.
Nhà vua gọi anh hề lại và nói:
- “Ngươi hãy giữ lấy phủ việt nầy
cho đến khi ngươi tìm được một người nào ngây ngô và khờ dại hơn ngươi thì
ngươi trao lại cho nó.”
Từ đó, mỗi khi có thết đãi triều,
anh hề đến với phủ việt trong tay, dáng điệu vênh váo, ngông nghênh, cốt chọc
cười mua vui cho nhà vua. Mấy năm sau, nhà vua lâm bệnh nặng. Biết mình sắp chết,
nhà vua cho gọi anh hề lại. Vua buồn bã nói:
- “Ta sắp sửa đi du lịch ở một
nơi xa lắm.”
- “Nhà vua đi tận đâu lận?”, anh
hề hỏi.
- “Ta chẳng biết nữa.”
- “Nhà vua đi có lâu không?”
- “Đi hoài và không trở về đây nữa.”
- “Nhà vua đã chuẩn bị hành
trang chưa?”
- “Chưa hề.”
Anh hề liền cười hóm hỉnh và lễ
phép tâu:
- “Vậy xin Hoàng Thượng cầm lấy
phủ việt nầy. Hạ thần xin trao lại cho Hoàng Thượng, bởi vì nay hạ thần đã tìm
được một người ngây ngô và khờ dại hơn hạ thần rồi.”
8. Luôn sẵn sàng
Một nhà văn hào kể một câu chuyện
giả tưởng. Satan họp đại hội thảo luận về phương thức chiếm đoạt các linh hồn.
Nhiều ý kiến của các cấp quỷ được phát biểu. Nhưng ý kiến được đại hội tán đồng
là của một quỷ già đầy kinh nghiệm. Đó là rỉ tai câu này: ‘Gấp gì, còn kịp
chán, để gần chết rồi ăn năn trở lại, hãy sống vui đã!’
Bao nhiêu linh hồn hư mất không
sẵn sàng.
Tóm lại, muốn được cứu rỗi, phải
luôn luôn sẵn sàng: Tỉnh thức, cầu nguyện, hành động và chiến đấu với ma quỷ, với
chước cám dỗ.
Lạy Chúa, xin cho con biết luôn
cầm đèn sáng trong tay.
9. Yêu và được yêu
Một buổi sáng, sau khi bà mẹ đã
chuẩn bị điểm tâm sáng xong thì sai hai người con gái của bà chạy lên lầu nói với
ông bố xuống dùng. Người con gái lớn chạy nhanh hơn nên đã lên lầu trước, và cô
nũng nịu chạy vô lòng bố và nói, "Mời bố xuống dùng điểm tâm." Người
con thứ hai cũng đến, và cô bị người chị lớn chọc, "Chị đã chiếm hết tình
thương của bố rồi!" Thế nhưng ông bố lại nhìn người con thứ hai với ánh mắt
trìu mến và cũng đưa cánh tay kia ra để ôm lấy cô. Người con thứ hai quay sang
chị nó nói, "Có lẽ chị đã chiếm hết tình thương của bố, nhưng bố lại chiếm
hết tình yêu của em!" (You may have all there is of daddy, but daddy's got
all there is of me!)
Thiên Chúa tốt lành đã tạo dựng
nên chúng ta thì Ngài cũng muốn chúng ta thuộc trọn về Ngài. Khi các bạn biết
chọn Ngài làm kho tàng, Ngài sẽ chiếm hết con người của các bạn.
10. Tình yêu mang lại tự
do
Cách đây không lâu, trên chương
trình truyền hình Public Eye có trình chiếu một vụ xử án rất cảm động. Số là
cách đây 19 năm, một tài xế xe truck say rượu đã gây ra tai nạn và làm cho em
bé tên Josehp V. mới được một tuổi phải mang thương tật suốt đời.
Suốt 19 năm qua, bé Joe, nay là
một thanh niên 20 tuổi, đã phải sống trong cay đắng tủi hờn. Đi đâu cũng bị
kinh tởm ruồng rẫy. Gia đình cũng đã phải chia sẻ nỗi đau khổ không kém.
Mới đây, người tài xế, sau thời
gian dài lẩn trốn, đã bị bắt lại và đem ra xét xử. Tại toà, trước khi vị chánh
án buộc tội, các nạn nhân và những người liên hệ được phép tiến lên phát biểu cảm
tưởng, trong đó có anh Joe. Nhiều tâm tư—căm thù, uất hận, thương cảm—đã được
phát biểu, nhưng có ba tâm tư đã làm cho tôi khó quên.
Người bố của anh Joe tiến lên
trước toà và nói: "Trong suốt 19 năm qua, tôi không biết nên cầu cho con
tôi sống hay xin cho nó chết. Cầu cho sống thì quả là đau khổ cho nó quá, bởi
vì sau khi tại nạn xảy ra hai cánh tay con tôi bị cắt cụt, chỉ có khúc xương và
cục thịt lủng lẳng ở hai đầu cánh tay. Gương mặt bị phỏng nặng và biến dạng.
Môi cũng như mí mắt không còn nữa. Da thì chảy ra nên không còn hình thù của một
gương mặt con người, đến nỗi các đứa bé khác khi nhìn vào thì tưởng là nó đeo mặt
nạ. Bước đến đâu con tôi cũng bị kinh tởm hất hủi. Cho nên tôi không biết có
nên cầu cho nó sống không. Còn cầu cho chết thì tôi không thể, vì tôi là người
tin Chúa, nên tôi không thể cầu cho ai chết được hết.”
Đến phiên người mẹ của Joe bước
lên trước máy vi âm. Bà nói: "Trong suốt 19 năm qua tôi đã phải đau cái nỗi
đau của con tôi. Ví dụ lúc được 5 tuổi Joe hỏi tôi: ‘Mẹ ơi khi nào thì các ngón
tay của con mọc ra hả mẹ?’ Hay lúc được 8 tuổi, bé đã thắc mắc: ‘Mẹ ơi, sao da
của con không được trơn như của mẹ hay của mấy em vậy?’" Người mẹ vừa thổn
thức vừa nói tiếp: "Tôi không biết phải trả lời thế nào chỉ biết ôm lấy
con tôi mà khóc, mà thương nó thôi."
Cuối cùng anh Joe cũng tiến lên
để nói những lời có tính cách quyết định cho bản án. Anh hướng về phía người
tài xế và nhẹ nhàng nói: "Thưa ông, nếu không có đức tin thì có lẽ tôi đã
kết thúc đời mình từ lâu rồi. Đời tôi sẽ bị kết thúc bởi sự chối từ kinh tởm của
người khác, hoặc khi tôi chợt nhìn vào trong gương và thấy được nét mặt kinh khủng
của mình. Nhưng tôi không muốn hủy diệt đời mình trong sự thù hận ghen ghét.
Tôi không thù ông, không giận ông và cũng không kết án ông. Tôi chỉ xin nói với
ông một điều cuối cùng này: bất cứ chuyện gì có xảy đến thì cũng hãy biết rằng
ơn phúc của Thượng đế vẫn hằng tràn đầy trên chúng ta, vì Ngài yêu thương chúng
ta."
11. Chúa đang đi tìm ta
Người ta kể rằng, khi thánh nữ
Têrêxa Hài Đồng Giêsu lúc còn thơ ấu, thánh nữ đọc bài thương khó của Chúa
Giêsu, và được nghe nói rằng vì yêu thương nhân loại, Ngài đã trải qua cuộc khổ
nạn ấy. Têrêxa đâm đầu chạy, cứ chạy mà không biết mình chạy đi đâu. Chạy được
một quảng đường xa, thì gặp một cậu bé trai cùng tuổi chận lại. Cậu ấy hỏi
Têrêxa:
- Cô đi tìm ai? Và cô là ai?
- Tôi là Têrêxa Hài Đồng Giêsu.
Và Têrêxa hỏi ngay lại rằng:
- Còn cậu, cậu là ai mà lại hỏi
tên tôi?
- Ta là Giêsu Hài Đồng của
Têrêxa.
Thì ra, khi Têrêxa đi tìm Chúa,
chính Chúa lại đến tìm Têrêxa.
12. Làm cho chính Chúa
Vào một ngày mùa đông giá rét,
thánh Martinô, bấy giờ còn là một sĩ quan, thấy một người ăn xin đang run rẩy
bên vệ đường. Xúc động trước cảnh tượng ấy, thánh nhân liền dừng ngựa và nói:
- Tiền bạc tôi không có.
Nói đoạn, thánh nhân tuốt gươm,
xẻ dọc chiếc áo choàng ra làm hai và cho người ăn xin một nửa.
Ban đêm,trong một giấc mơ, thánh
nhân thấy Chúa Giêsu hiện ra, mặc một nửa tấm áo choàng và ngỏ lời cám ơn thánh
nhân.
Sở dĩ những hành động bác ái yêu
thương có được một giá trị to lớn vì khi làm những hành động ấy cho người khác
là chúng ta đã làm cho chính Chúa.
13. Bí quyết hạnh phúc
Nữ tu Angelica, người hiện nổi
tiếng trong dư luận Hoa Kỳ và Quốc Tế, vì đã thành công trong việc thiết lập hệ
thống truyền thanh và truyền hình để phổ biến Lời Chúa. Một hôm, bất ngờ nữ tu
gặp một luật sư giàu có, được hưởng mọi tiện nghi vật chất trên đời, có gia
đình, con cái hoàn toàn sum họp và vị luật sư này khoe với nữ Angelica là không
có gì trên đời này mà ông không hưởng được, nếu ông muốn, vì phương tiện vật chất,
tiền của không bao giờ thiếu với ông. Nhưng nữ tu Angelica chỉ hỏi lại ông có một
câu:
Ông có sống hạnh phúc hoàn toàn
không?
Câu hỏi bất ngờ này đánh động
đúng vào niềm thao thức sâu xa của ông, ông thú thật với nữ tu Angelica là tuy
có đầy đủ mọi tiện nghi vật chất, nhưng ông không cảm thấy được an vui hạnh
phúc thực sự trong tâm hồn, vì lúc nào tâm hồn ông cũng cảm thấy trống rỗng.
Ông hỏi nữ tu Angelica bí quyết để sống hạnh phúc thật.
Câu trả lời của nữ tu Angelica
cho vị luật sư giàu có này lặp lại câu trả lời của Chúa Giêsu cho chàng thanh
niên giàu có trong Phúc Âm đến hỏi Chúa phải làm sao để được sống đời đời. Nữ
tu Angelica khuyên ông ta: “Sống đừng chỉ nghĩ đến sự sống siêu việt thần thiêng,
hãy nghĩ đến sự sống đời đời, hãy lo tích trữ cho mình những sự đời đời.”
“Con hãy về bán tất cả mọi gia
tài con có, phân phát cho người nghèo rồi đến đây theo Ta.” Đó là bí quyết được
Chúa Giêsu mạc khải cho chàng thanh niên giàu có, và cách nào đó không ngừng được
thông truyền qua các thế hệ cho những người tin Chúa.
14. Vĩnh cửu
“Hãy nói về cuộc đời, khi tôi
không còn nữa, sẽ lấy được những gì, về bên kia thế giới, ngoài trống vắng mà
thôi.”
Nhà thơ Du Tử Lê đã suy tư về một
chân lý ngàn đời vẫn tái diễn chung quanh chúng ta, đó là một chân lý về thân
phận tro bụi của con người, mọi người cùng có một mẫu số chung: có sinh có tử,
tro bụi trở về tro bụi. Và trong Tin Mừng hôm nay thánh Luca cho thấy Chúa
Giêsu đã mời gọi chúng ta chuẩn bị, sẵn sàng chờ đợi Chúa đến đưa vào sự sống
vĩnh cửu.
15. Biết thưởng thức cuộc
đời
Tại Thụy sĩ, có một vườn hoa tuyệt
đẹp, đủ loại hoa, đủ màu sắc. Nằm giữa vườn là một tòa nhà tráng lệ. Nhìn vườn
hoa với cảnh phối trí, cắt tỉa, uốn nắn… ai cũng phải công nhận đã có một sự
chăm sóc kỹ lưỡng, kèm theo một óc thẩm mỹ hiếm có của người chủ vườn. Một du
khách đi qua đây, thoáng nhìn ông đã thấy như say mê. Giữa lúc đó, người làm vườn
bước ra. Chủ khách chào hỏi lẫn nhau. Rồi từ chuyện hoa cỏ, cách chăm bón, trồng
tỉa, sự phối hợp màu sắc… câu chuyện đi đến chỗ thân tình.
Du khách hỏi: “Xin lỗi cụ, cụ ở
đây được bao lâu rồi?”
– “Khoảng 40 năm rồi”
– “Tôi đoán, có lẽ ông chủ của cụ rất sành về nghề cảnh,
chắc giờ này ông có nhà?” – “Ông ta không ở đây, thỉnh thoảng mới ghé qua đây
thôi”
– “Ông có thư từ gì với cụ không?”
– “Không, ông ta bận lắm”
– “Ông không về cũng không thư từ, thì ai trả lương
cho cụ?”
– “Hàng tháng tôi chỉ nhận được ngân phiếu từ ông ta
để chi phí mọi sự cho khu vườn này”
– “Thế tội gì cụ phải chăm sóc kỹ lưỡng thế này, ông
chủ có mấy khi đến thưởng ngoạn đâu?”
– “Tôi thì lại không nghĩ thế, mình là một gia nhân
được chủ tín nhiệm trao phó việc bảo quản khu vườn này, mình phải tận tụy chứ
lúc nào ông về cũng được, ông sẽ hài lòng với công việc của tôi. Hơn nữa, khi
làm đẹp khu vườn cho chủ, chính tôi cũng được thưởng ngoạn cảnh đẹp do chính
tay mình làm nên.”
16. Thời gian dài cho ai
biết dùng
Ông Lã Phụng Tiên kể một câu
chuyện ngụ ngôn: có một cụ già kia đang cuốc đất trồng cây, có ba chàng thanh
niên tình cờ đi qua, thấy vậy các cậu nói: “Cụ ơi, cụ lẩm cẩm quá, già rồi mà còn
trồng cây. Thôi cụ ơi, việc ấy để tụi cháu, cụ lo dọn mình chết là vừa.”
Cụ già vui vẻ ân cần trả lời:
“Chắc gì lão chết trước. Chắc gì các cháu sống lâu hơn lão. Tử thần xưa rày có
phân biệt trẻ hay già đâu. Trẻ hay già có khác chi nhau về phương diện đó. Các
cháu cứ lo làm cho đàng hoàng công việc của các cháu đi.”
Một thời gian sau, cụ già lần lượt
được tin ba chàng thanh niên, vì công việc đều chết cả: người thì chết vì tai nạn
xe hơi, người thì chết trận, người thì bị đắm tàu trong một chuyến kinh doanh.
Cụ già được tin buồn, khóc thương ba chàng trai trẻ đó.
17. Con vẫn chơi như thường
Một hôm, một số trẻ em đang vui
chơi, một giáo sư đi tới hỏi các em: “Nếu bây giờ Chúa gọi các con chết, các
con sẽ làm gì?”
Nghe hỏi thế, em thì nói: “Con
vào nhà thờ cầu nguyện.” Em khác thưa: “Con đi xưng tội.” Có một em hồn hiên trả
lời: “Phần con vẫn vui chơi như thường.”
Vị giáo sư hỏi: “Tại sao con lại
vui chơi như thường?” Em trả lời: “Vì con luôn sống tốt đẹp, nên con chẳng có
gì phải lo sợ.”
Em bé đó chính là thánh trẻ
Bec-man.
18. Sẵn sàng
Một hôm, vào giờ chơi thể thao,
Saviô đang chơi với những bạn ngoài sân. Cha Gioan Boscô mới gọi thánh nhân ra
và hỏi:.”. Giả như 15 phút nữa Chúa gọi con về với Chúa, thì bây giờ con làm
gì?"
.”. Con vẫn tiếp tục chơi!"
.”. Con không đi xưng tội hay cầu
nguyện để dọn mình chết sao?"
.”. Bây giờ là giờ chơi, mọi người
có bổn phận phải chơi để thân thể khỏe mạnh. Vì thế, con nghĩ cứ chơi là đẹp ý
Chúa nhất. Dọn mình chết không gì tốt bằng làm điều đẹp lòng Chúa nhất. Vả lại,
lúc nào tâm hồn con cũng sẵn sàng trở về với Chúa!."
Câu trả lời của Saviô đã làm cho
nhiều bạn và cho cả Cha Gioan Boscô hết sức ngạc nhiên. Quả thật, đấy mới là một
thái độ sẵn sàng đúng nghĩa. Thánh nhân đã tin vào Chúa một cách vững mạnh.
19. Giá trị của thời
gian
Một tác giả nào đó đã cho chúng
ta những lời khuyên chân thành và thực tế về giá trị của những giây phút hiện tại
trong cuộc sống trần gian như sau:
Để nhận ra giá trị của một năm:
Hãy hỏi một học sinh thi rớt cuối năm.
Để nhận ra giá trị của một tháng:
Hãy hỏi một người mẹ sinh con thiếu tháng.
Để nhận ra giá trị của một tuần:
Hãy hỏi người chủ bút của tờ tuần báo.
Để nhận ra giá trị của một ngày:
Hãy hỏi công nhân lao động phải nuôi 10 đứa con.
Để nhận ra giá trị của một giờ: Hãy
hỏi những tình nhân phải chờ đợi nhau.
Để nhận ra giá trị của một phút:
Hãy hỏi người vừa trễ chuyến xe lửa, hay xe búyt.
Để nhận giá trị của một giây:
Hãy hỏi người vừa thóat khỏi tai nạn.
Để nhận ra giá trị của một sao:
Hãy hỏi nhà thể thao Olympic được huy chương bạc.
Và sau cùng để nhận ra giá trị của
một đời người: Hãy hỏi, ai sẽ khóc trong buổi tang lễ của bạn.
Vì thế, chúng ta cần thay đổi
thái độ sống chưa xứng hợp với vai trò là người Công Giáo. Chúng ta hãy đặt
Chúa lên trên hết, để mọi việc việc làm của chúng ta đều hướng về Chúa, nghe
theo tiếng Chúa gọi mời là "tìm kiếm Nước Thiên Chúa.”
20. Trung tín và tỉnh thức
Ngày nay, “Mạnh Thường Quân” là
một cụm từ khái niệm hóa, hiểu như một danh từ chung để chỉ một mẫu người hào
phóng và nhân ái.
Mạnh Thường Quân tên thật là Điền
Văn, người nước Tề thời Chiến Quốc. Ông là một người giàu sang, có lòng nghĩa
hiệp, thích chiêu hiền đãi sĩ, văn cũng như võ trong nhà lúc nào cũng tiếp đãi
đến vài nghìn tân khách. Tiếng tốt đồn vang khắp các nước chư hầu thời bấy giờ.
Một hôm Mạnh Thường Quân nhìn
vào sổ nợ, biết dân đất Tiết, một nước nhỏ bị Tề diệt, vua Tề tặng Mạnh Thường
Quân làm phong ấp (nay thuộc tỉnh Sơn Đông) còn nợ mình nhiều, thuộc loại “nợ xấu
khó đòi” nhưng nhất thiết chỉ dãn mà không cho xóa. Ông sai Phùng Huyên sang đất
Tiết đòi nợ. Trước khi đi, Phùng Huyên hỏi: “Ngài có muốn mua gì không?” Mạnh
Thường Quân trả lời: “Ngươi xem thứ gì nhà chưa có thì mua.” Khi đến đất Tiết,
Phùng Huyên cho gọi dân tới bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân
đều cho cả.” Rồi chẳng tính vốn lời, đem văn tự ra đốt sạch. Khi trở về, Phùng
Huyên nói với Mạnh Thường Quân: “Nhà ngài không thiếu gì, có lẽ chỉ thiếu ơn
nghĩa. Tôi đã trộm mua ở đất Tiết cho ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài.” Về sau
Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đó nhớ ơn xưa ra đón rước đầy
đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Huyên: “Đó hẳn là cái ơn nghĩa mà
ông đã mua cho tôi ngày trước.”
Phùng Huyên thực là người quản
lý trung thành và khôn ngoan. Trung thành vì đã biết cách làm lợi cho chủ. Khôn
ngoan vì biết nhìn xa trông rộng, đầu tư vào những chương trình có ích lợi lâu
dài. Nhờ sự khôn ngoan của Phùng Huyên, Mạnh Thường Quân đã vượt qua khó khăn,
được ơn nghĩa với dân chúng.
21. Quán trọ
Ngày kia có một vị thiền sư nổi
tiếng nọ đến trước cửa lâu đài của một ông vua giầu có. Không người lính gác
nào dám chặn ông lại. Ông chậm rãi bước vào và tiến thẳng đến ngai vàng chỗ nhà
vua đang ngự.
Vua nhận ra vị khách quí ngay lập tức và nhà
vua hỏi:
- Ngài cần gì chăng?
- Tôi cần một chỗ ngủ trong quán
trọ này – vị Thiền sư trả lời:
- Nhưng đây đâu phải là quán trọ
– nhà vua nói. Đây là lâu đài của ta chứ.
- Vậy tôi có thể xin ngài cho
tôi biết ai là chủ của tòa lâu đài này trước Ngài không?
- Cha ta. Ông ấy đã chết rồi.
- Và ai là chủ trước cha ngài?
- Ông nội ta. Ông ấy cũng đã chết
rồi.
- Như vậy là nơi đây đã có những
người đã sống trong một thời gian ngắn và sau đó đã ra đi. Có phải Ngài đã nói
với tôi là nó Không phải là một quán trọ không?
Sau đó vị Thiền sư thong thả giải
thích cho nhà vua nghe về cuộc đời, cuộc đời như một quán trọ. Giải thích xong
ông điềm tĩnh ra đi. Nhà vua thấm thía về bài học thiền sư dạy mình!
22. Ai là người khờ dại
Ngày xưa có một anh hề được gọi
vào cung để làm trò mua vui cho vua và cả quần thần trong triều. Lần kia, trong
lúc đắc ý, nhà vua gọi anh hề lại, trao cho anh phủ việt của vua và nói rằng:
Khanh hãy giữ lấy phủ việt của trẫm, cho đến khi khanh tìm được một người nào
đó ngây ngô, khờ dại hơn khanh, thì khanh hãy trao phủ việt lại cho hắn. Từ đó,
đi đâu anh hề cũng mang theo phủ việt của vua với thái độ huênh hoang, tự đắc.
Mấy năm sau, nhà vua lâm bệnh nặng.
Biết mình sắp chết, nhà vua cho gọi anh hề đến. Vua buồn bã nói: "Ta sắp sửa
đi du lịch đến một nơi xa lắm!” Anh hề hỏi: "Tâu bệ hạ, bệ hạ đi mãi tận
đâu vậy ?” Nhà vua trả lời: "Trẫm cũng chẳng biết nữa!” Anh hề hỏi:
"Tâu, bệ hạ đi có lâu không ạ ?” Nhà vua nói: "Đi hoài và không trở về
đây nữa.” Anh hề hỏi: "Thế bệ hạ đã chuẩn bị hành trang chưa?” Nhà vua đáp:
"Chưa !”
Anh hề cười hóm hỉnh, lễ phép
thưa: "Muôn tâu, vậy xin bệ hạ hãy cầm lấy phủ việt này. Vì giờ đây, hạ thần
đã tìm thấy một người ngây ngô, khờ dại hơn cả hạ thần rồi, vì bệ hạ không hề
biết chuẩn bị hành trang cho một chuyến du lịch thật xa không bao giờ trở về nữa.”
23. Sống với sự bấp bênh
Trong tất cả mọi chuyến bay, khi
máy bay vừa cất cánh và đã ổn định đường bay, các tiếp viên hàng không đều chi
dẫn cho hành khách phải làm những gì khi rủi mà máy bay gặp tai nạn. Sự việc
này có nghĩa là mặc dù chuyến bay đã được chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng, nhưng người
ta vẫn chưa dám chắc là sẽ an toàn 100 %, do đó phải chuẩn bị đối phó với điều
bất ngờ.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa
Giêsu cũng ban cho chúng ta những chỉ dẫn cho chuyến bay cuộc đời. Ngài bảo chúng
ta phải luôn tỉnh thức sẵn sàng, như một người đầy tớ chuẩn bị sẵn mọi thứ để
chờ chủ về bất cứ lúc nào.
Lời dạy của Chúa rất hợp lý, bởi
vì cuộc sống con người rất bấp bênh. Càng sống nhiều năm, con người càng cảm nhận
sự bấp bênh của cuộc sống: người ta có thể chết ở bất cứ tuổi nào, bất cứ ở đâu
và chết vì đủ thứ lý do.
Ở những vùng thường bị lũ lụt,
người ta luôn chuẩn bị sẵn sàng để nếu có lũ thì tài sản không bị hư hao. Vào
mùa hè thường xảy ra hỏa hoạn, người ta cũng nhắc nhau lúc nào cũng chuẩn bị sẵn
sàng. Đối với nhà cửa và tài sản, chúng ta biết chuẩn bị sẵn sàng, vậy tại sao
không biết chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc sống đời đời?
24. Chuẩn bị sẵn sàng
Một tu sĩ kia đang quét nhà
trong tu viện. Chợt một người đến hỏi "Nếu một giờ nữa anh phải chết thì
anh sẽ làm gì?" Vị tu sĩ trả lời "Tôi cứ tiếp tục quét nhà cho xong.”
Làm tốt việc bổn phận không phải
chỉ là làm cho xong việc bổn phận đó, mà còn là làm cách vui vẻ và với lòng yêu
mến. Cựu Tổng Thư Ký Liên Hợp Quốc, ông Dag Hammarskjold đã để lại câu sau đây:
"Có ngày nào mà niềm vui thì lớn còn nỗi buồn thì nhỏ không?" Và
chính ông trả lời: "Thưa có, ngày nào chúng ta biết sống với bổn phận và
chu toàn bổn phận thì ngày đó chúng ta sẽ thấy niềm vui thật lớn và thấy những
nỗi buồn thật nhỏ nhoi.” Thi hào Tagore cũng có một câu tương tự: "Tôi ngủ
mơ thấy đời sống là vui. Tôi thức giấc thấy đời sống là bổn phận. Tôi làm việc
và thấy bổn phận là niềm vui.”
Cách đây vài năm, một thầy dòng
Phanxicô kia phụ trách một trường giáo dục các trẻ em hư hỏng. Trong một chuyến
đi vận động các nhà hảo tâm trợ giúp tài chánh cho trường, Thầy đã bị tai nạn
xe và chết. Nhiều người tội nghiệp cho Thầy vì chết đột ngột quá. Nhưng cũng có
nhiều người khác cho rằng Thầy đã chết một cách tuyệt đẹp, bởi vì chết đang khi
thi hành bổn phận mình. (FM)
25. Sẵn sàng chết
Tại chùa Tô Châu, có một nhà sư
tên Viên Thủ Trung, tu hành đắc đạo, nhà sư thường bày trên án thư, trước chỗ
ngồi, một cái quan tài con bằng gỗ bạch đàn, dài độ 5 tấc, có một cái nắp mở ra
đóng vào được.
Khách đến chơi trông thấy cười
nhạo nói rằng:
- Ngài chế ra cái này dùng để
làm gì?
Nhà sư trả lời:
- Người ta sống tất có chết, mà
chết thì vào ngay cái này. Tôi thực lấy làm lạ, người đời ai cũng chỉ biết phú
quí, công danh, tài sắc, thị hiếu, lo buồn, vất vả suốt đời chẳng biết đến cái
chết là gì. Mỗi khi có việc không vừa ý, tôi cầm lấy cái quan tài mà ngắm, tức
khắc tôi cảm thấy được yên tâm trong tâm hồn ngay.
Thật là hiếm, những con người
luôn ngẫm suy về cái chết của chính mình, và còn hiếm hơn nữa, những con người
xem cái chết như người bạn đồng hành, giúp họ vượt qua những nỗi chán chường
trong cuộc sống như nhà sư Viên Thủ Trung trong câu chuyện trên đây. Phần nhiều,
người ta bôn ba để kiếm sống, họ lo thu tích cho nhiều của cải, vội vã thụ hưởng
những thú vui trần tục, họ sống như thể sẽ không bao giờ phải chết. (TP)
26. Ba người bạn
Một người có ba người bạn. Lúc
bình an thì hai người bạn đầu rất là thân thiết, còn người bạn thứ ba thì giao
tình sơ sài lạnh nhạt. Chẳng may, ông ta bị bắt và bị đem ra tòa xử tội. Ôâng
liền xin ba người bạn đi theo để biện hộ cho mình. Nhưng người thứ nhất từ chối
viện cớ bận việc không đi được. Người thứ hai bằng lòng đi đến tòa án, nhưng
không dám vào trong. Chỉ có người bạn thứ ba, mặc dầu không được ông ta quí lắm,
lại tỏ ra trung tín và can đảm, vào tận tòa án, hăng hái biện hộ cho ông ta đến
nỗi không những trắng án mà còn được ân thưởng nữa.
Câu chuyện giúp chúng ta nhận ra rằng: người bạn
thứ nhất của con người là tiền vì lúc còn sống ai cũng o bế nó, nhưng khi ta chết,
nó liền bỏ rơi ta ngay và nếu nó có thương hại ta thì cũng chỉ buộc lòng bố thí
cho ta một chiếc quan tài và dăm ba cây nến, bó hoa là cùng. Còn người bạn thứ
hai của con người chính là người thân trong gia đình vì khi chết đi dù họ có
thương ta bao nhiêu đi nữa thì cũng khóc lóc đôi ba lần, rồi đưa ta ra nghĩa địa
chôn cất xong xuôi và lặng lẽ ra về. Riêng người bạn thứ ba của con người là
các việc lành phúc đức, bố thí, vì tuy rằng lúc còn sống ta hay lơ là, khinh
thường nó, đôi khi ta mắng xử tệ với nó, nhưng khi ta chết nó cương quyết theo
ta đến tận tòa phán xét để bênh vực, và cuối cùng hộ tống ta vào nước thiên
đàng.
Theo như câu chuyện trên H. Cousin bình luận:”Cho
người nghèo của cải mình có (dù là tất cả hay chỉ một phần nhỏ để chia sẻ),
chính là làm giầu trước mặt Chúa, là xây dựng cho mình một kho tàng vô tận nơi
Chúa; tóm lại, là bảo đảm cho mình một phần thưởng đời đời. Tuy nhiên, đó không
phải là phần thưởng cuối cùng, nhưng biến cố Nước Chúa đến phải động viên các
Kitô hữu và giúp họ dấn thân với tất cả tâm hồn, đó chính là giá trị duy nhất.”
27. Cứ tiếp tục họp
Một ngày nọ vào năm 1780 bỗng dưng cả vùng tiểu
bang Connecticut bị tối hẳn lại. Ai nấy đều cho rằng đã đến ngày tận thế. Khi
đó hội đồng lập pháp tiểu bang đang họp. Nhiều người yêu cầu hoãn cuộc họp để họ
có thể về nhà cùng với gia đình chờ Chúa đến. Nhưng ông chủ tịch nói:”Không biết
hôm nay có phải là tận thế không: nếu không thì không cần hoãn họp. Còn nếu phải
thì chúng ta càng cần chu tòan nhiệm vụ hơn nữa. Xin thắp nến lên”
(Drinkwater).
Ai cũng muốn chết trong sự bình an. Chớ gì những
giây phút cuối cùng chuẩn bị đi vào đời sau, ta cảm thấy Chúa ở gần như người mẹ
ấp ủ con. Lúc đó ta thưa với Chúa rằng:”In manus tuas, Domine, commendo spritum
meum”: Lạy Chúa, con xin phó dâng hồn con trong tay Chúa. Chớ gì tâm hồn ta được
bình an, thảnh thơi như đứa con nằm trong tay mẹ hiền để say trong giấc ngủ
ngon lành.
Một bà mẹ kể: tối đó, khi tôi đang dọn giường
cho đứa con nhỏ, nó thỏ thẻ:”Mẹ ơi, mẹ ở với con khi con ngủ nhé”! Nghĩ đến bao
việc nhà chưa làm sau một ngày ở sở, tôi đã tính ra ngoài để nó ngủ một mình.
Chợt một ý tưởng nảy ra trong trí, tôi đến nằm bên con, đặt tay con trong tay
mình. Và trong lúc đứa con chìm vào giấc mộng, ý tưởng đó biến thành lời nguyện:”Lạy
Chúa, xin giúp con sống thế nào để khi bước vào hoàng hôn cuộc đời, con có thể
âu yếm nói với Cha trên trời:”Cha ơi, Cha ở với con khi con ngủ nhé” !
28. Người ở phòng số 40
Trong cuốn Unfinished Business
(Việc Dang Dở), ông Halford Luccock có đăng một câu chuyện của Osbert Sitwell.
Câu chuyện mang tên The Man Who Lost Himself (Người Đánh Mất Chính Mình).
Trong một cảnh, nhân vật chính
trong chuyện theo dõi một người đến Balê. Ông này tin rằng ông đã biết được
khách sạn chỗ người này ở, nhưng ông không dám chắc. Do đó ông vạch ra một kế
hoạch đi tìm mà không làm cho ai nghi ngờ.
Ông sẽ cho người thư ký khách sạn
biết tên của chính ông và hỏi xem có tên đó trong khách sạn ấy không. Và rồi
khi thư ký mở sổ tìm kiếm, ông sẽ có thể liếc trộm vào sổ để biết tên và số
phòng của người kia.
Với ý định đó trong đầu, ông đến
khách sạn và yêu cầu người thư ký kiểm điểm xem có tên của ông ở đây không. Thật
ngạc nhiên, người thư ký chẳng cần mở sổ và nói tỉnh queo:
"Có, ông ta ở phòng 40; ông
ta đang đợi ông. Tôi sẽ nói bồi phòng đưa ông đến."
Thật điếng người, nhân vật chính
trong chuyện không biết làm gì khác hơn là theo người bồi đến phòng 40.
Ông gõ cửa và khi cánh cửa mở ra,
ông không thể tin ở mắt mình. Đứng trước mặt ông là một người giống hệt như
ông, ngoại trừ tóc bạc hơn, mập hơn và già hơn khoảng 20 tuổi. Người đó chính
là ông trong tương lai 20 năm sau.
Câu chuyện trên hoàn toàn khoa học
giả tưởng, nhưng nó chứa đựng một sự thật quan trọng-đó là sự thật mà bài phúc
âm hôm nay đề cập đến.
Trong tương lai, có một người
nào đó đang chờ đợi mỗi người chúng ta. Đó là con người của chính chúng ta hôm
nay trong tương lai, 10 hay 20 năm sau.
29. Nước Trời cho anh em
Từ năm 1945 cho đến nay, cứ vào
ngày 06 tháng 08, hàng trăm ngàn người đã đến tượng đài Hòa Bình ở Nagazaki đứng
chờ đúng 11 giờ 30 từng hồi chuông đổ ngân vang trên khắp nước Nhật, nhắc nhở
thế giới mặc niệm hơn 147.000 người của hai thành phố Nagazaki và Hiroshima đã
bị thiêu hủy dưới sức tàn phá của hai trái bom nguyên tử đầu tiên trên thế giới.
Suốt 45 năm thế giới luôn luôn nơm nớp lo sợ trong chiến tranh lạnh dưới sức đe
dọa khủng khiếp của hàng triệu triệu tấn bom nguyên tử trong kho vũ khí các cường
quốc có thể phát nổ bất cứ lúc nào. Mãi cho tới năm 1990, thế giới mới có tin mừng;
chiến tranh lạnh chấm dứt, vũ khí hạch nhân đang bị loại bỏ.
Các môn đệ đang đi theo Đức
Giêsu trong cuộc hành trình tiến về Giêrusalem để tưởng niệm lễ Vượt qua của
dân tộc thoát ách nô lệ Ai Cập. Nhưng nghe Thầy tiên báo Thầy phải vượt qua một
khổ nạn sắp tới, các ông linh cảm thấy một sức mạnh ghê gớm đe dọa làm các ông
lo sợ. Thực vậy, các ông chỉ là đoàn chiên bé nhỏ có mười hai người quê mùa,
kém cỏi, đi theo một mục tử hiền hòa, nhân hậu, làm sao đương đầu được với một
lực lượng đầy quyền thế hùng hậu của thủ đô và một đoàn quân dũng mãnh của đế
quốc Rôma. Trước những lo ngại ấy, Đức Giêsu đã trấn an các ông: “Hỡi đoàn
chiên bé nhỏ, anh em đừng sợ, vì Cha của anh em đã vui lòng ban nước trời cho
anh em.”
30. Hành trình trong đức
tin
Trong một bài đăng trên báo The
Tablet (Ngày 1 tháng 4 năm 2000), Pastor Ignotus viết rằng có hai cách để sống
cuộc đời mình: một là làm như một người lập chương trình, hai là làm như một kẻ
hành hương.
Người lập chương trình muốn kiểm
soát toàn bộ đời mình và đặt chương trình cho từng giai đoạn cuộc đời theo những
mục tiêu định sẵn, đó là những thứ mà xã hội coi là thành đạt. Người lập chương
trình tốn rất nhiều thời giờ để bắt chước kiểu sống của những khác và theo đuổi
những giá trị của những người khác. Thế nhưng nếu không đạt được những mục tiêu
ấy thì họ sẽ thất vọng ê chề.
Còn người hành hương thì trái lại.
Đó là người đón nhận cuôc sống như một quà tặng bao gồm cả mặt phải và mặt trái
của nó. Người hành hương không thể kiểm soát tất cả những gì xảy đến trong đời
mình, nhưng biết thưởng thức tất cả những điều ấy, xem tất cả là những cơ hội
cho mình lớn lên. Không như người lập chương trình, người hành hương không bao
giờ cảm thấy dễ chịu hay khó chịu với những giá trị mà những người khác trong
xã hội nhắm tới.
Nói tóm lại, người lập chương
trình không biết sống theo đức tin. Còn người hành hương thì luôn sống theo đức
tin. Người hành hương ý thức rằng cuộc đời có nhiều việc khó lường nhưng biết
chấp nhận chúng. Người hành hương đặt mình trong bàn tay Thiên Chúa, phó thác đời
mình cho Thiên Chúa chở che. Vì biết sống giây phút hiện tại nên người hành
hương có thể sống tròn đầy cả cuộc đời mình.
Ông Abraham (bài đọc I) là một tấm
gương của người hành hương trong đức tin. Nghe theo lời Chúa gọi, ông rời bỏ
quê hương, lên đường đi đến một xứ sở mà Chúa hứa ban cho ông mặc dù ông chưa
biết xứ sở ấy ở đâu. Ông đi chỉ vì ông tin vào lời Chúa hứa, thế thôi.
31. Được chọn cách chết
Theo đài phát thanh Tòa thánh
ngày 1.9.1951 dựa vào bản thống kê của Liên hiệp quốc trong đệ nhị thế chiến, số
người chết như sau:
-
32 triệu người chết trong các mặt trận.
-
25 triệu người chết trong các trại giam.
-
15 đến 25 triệu thanh thiếu niên, người già trẻ nít chết vì bom đạn.
-
25 triệu người mất hết tài sản.
-
45 triệu người phải di tản hoặc lánh nạn hoặc đi đầy.
Tất cả những người chết đó có tưởng
mình sẽ chết không? Nếu tài sản chúng ta mất quá dễ dàng như vậy thì hãy tìm
bám vào những cái bền vững hơn.
Không ai muốn chết, ai cũng muốn
sống mãi, nhưng thực tế không cho phép. Kẻ trước người sau mỗi người sẽ phải ra
đi khỏi cõi đời này như kinh nghiệm của Văn Thiên Trường ngày xưa đã nói:”Nhân
sinh tự cổ thùy vô tử, lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”: con người từ xưa đến
nay ai mà không chết, phải cố mà giữ lấy tấm lòng thanh.
Ngày xưa, có một người pha trò
trong cung đình. Trong nhiều năm liền đã giúp việc mua vui cho nhà vua và triều
đình. Nhưng rồi ông đã phạm phải một hành động thiếu suy xét và bị kết tội chết.
Trước khi bản án được thi hành, nhà vua gọi ông ta đến và nói:”Vì nhiều lần
ngươi đã đem lại cho trẫm những giờ phút vui vẻ trong bao năm qua, nên trẫm sẽ
ban cho ngươi được chọn cách mà ngươi phải chết.”
Người pha trò suy nghĩ một lúc rồi
đáp:”Thưa Hoàng thượng, ngài thật là chí lý, kẻ tôi tớ này xin chọn cách chết bởi
tuổi già”
Nhà vua thấy rất vui vì lời đáp ấy
đến nỗi ngài đã chiếu cố đến lời cầu xin của ông ta.
32. Tỉnh thức
Cô Ác-ni-ét-ca, 24 tuổi, người mẫu
nổi tiếng của Hà Lan, một lần kia đã đăng ký giữ chỗ trong chuyến bay TWA 800,
nhưng vào phút chót, một trở ngại khiến cô phải đình lại chuyến đi, lúc ấy cô rất
buồn vì phải lỡ dở công việc, nhưng sau đó chắc hẳn cô đã không ngừng cảm tạ ơn
thoát chết, vì máy bay đó đã nổ tung sau khi rời sân bay và rơi xuống biển,
toàn bộ phi hành đoàn và hành khách không một ai sống sót. Nhưng thoát cái chết
đó cô lại rơi vào một cái chết không kém tang thương. Không đầy một tháng sau,
đang lúc trình diễn giữa những tiếng reo hò ca ngợi của đám đông ngưỡng mộ,
thình lình cô bị đâm túi bụi và đã tắt thở sau đó trước sự kinh ngạc của mọi
người, họ là những người mến mộ cô nhưng đã bất lực không thể cứu sống được cô.
Cái chết bất ngờ của cô người mẫu
nổi tiếng Ác-ni-ét-ca là một bằng chứng cho chúng ta thấy: dù tin hay không
tin, sự sống của cô đang có một bàn tay siêu việt điều khiển, cô không thể giữ
nổi sự sống của mình. Cô đâu có ngờ cái may thoát nạn vừa được hưởng cũng chính
là tiếng chuông cảnh báo giờ ra đi của đời cô, cô đâu có ngờ buổi trình diễn
hôm đó là lần trình diễn cuối cùng của mình. Đúng vậy, không ai có thể nắm chắc
sự sống của mình, kể cả vua chúa quyền uy cho đến thứ dân hèn mọn. Chỉ có Thiên
Chúa là Đấng toàn năng mới có quyền quyết định sự sống con người và Ngài muốn gọi
ai khi nào là tùy ý Ngài, vì thế tiếng gọi ấy thường là bất ngờ.
33. Sở hữu kho tàng trên
thiên quốc
Hiện nay, nhiều người Việt nhiều
tiền lắm của cố tìm cách nhập cư vào những nước giàu mạnh như Hoa Kỳ, Úc,
Canada… để lập nghiệp và tìm kiếm một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn.
Tuy nhiên, cuộc sống tại những
nơi được xem như là đáng ước mơ đó cũng có nhiều khó khăn, phức tạp và cuối
cùng, ai cũng như ai, phải phủi sạch hai tay để bước qua thế giới bên kia, chẳng
mang theo được gì.
Biết thế, nên một doanh nhân
thành đạt người Mỹ, sống trên đất Mỹ, tiền bạc dư đầy, là ông Chuck Feeney, nay
đã gần 80 tuổi, tìm cách chuyển tất cả tài sản mình có vào kho tàng tuyệt đối
an toàn và không thể hao hụt, mất mát trên thiên quốc.
Ông đã thực hiện kế hoạch này
như sau:
- Thay vì sở hữu biệt thự riêng,
sang trọng lộng lẫy và đầy đủ tiện nghi thì ông lại sống trong một căn hộ cho
thuê giá rẻ ở San Francisco để sống qua ngày;
- Thay vì sắm ô tô riêng thì vợ
chồng ông đi lại bằng xe buýt công cộng;
- Thay vì xài đồ sang, xài hàng
hiệu mắc tiền, thì ông mặc những bộ quần áo rẻ tiền; khi đi nhà hàng thì chọn
những món ăn rẻ nhất, những đồ dùng của ông là thứ hàng rẻ mạt. Có lẽ món đồ
“xa xỉ” nhất mà ông đang sở hữu là chiếc đồng hồ đeo tay bằng nhựa trị giá 15
đô!
Nhờ cần cù lao động tối đa và
chi tiêu tối thiếu, số tiền ông tích lũy được cộng với số tiền ông quyên góp
lên đến 8 tỷ Mỹ kim! Ông dồn hết tất cả số tiền đó vào việc từ thiện và những dự
án mang lại phúc lợi cho nhiều người.
34. Người tỉnh thức không
dùng đến chữ “giá mà”
Một cụ già và một thanh niên ngồi
đang ngồi đàm đạo với nhau bên tách cà phê dưới bầu trời Manhattan. Rồi bỗng
dưng cụ già lấy ra một cuộn băng và đặt nó vào máy cassette. Ông mỉm cười, nói:
trong cuộn băng này có ba đoạn ghi âm ngắn về ba người khác nhau đến xin tôi
giúp đỡ. Tôi muốn cậu lắng nghe những đoạn ghi âm này. Với tôi, điểm tương đồng
của ba người trong ba mẩu ghi âm này có lẽ là sự bất hạnh.
- Người đầu tiên rõ ràng đã phải
trải qua một thời kỳ khủng hoảng do việc kinh doanh thua lỗ. Anh ta nhiếc móc
mình đã không làm việc chăm chỉ và không vững tin vào con đường phía trước.
- Người phụ nữ cất tiếng sau đó
chưa kết hôn vì cô cảm thấy mình phải có trách nhiệm với người mẹ già yếu. Cô ấy
nhớ lại trong tiếc nuối và đau khổ về những cơ hội xây dựng một cuộc sống gia
đình hạnh phúc mà cô đã từ bỏ.
- Giọng nói thứ ba là của một
người mẹ có thằng con trai vừa gặp rắc rối với cảnh sát, bà trách mình đã không
biết dạy dỗ con cái.
Người bạn già của tôi tắt máy rồi
trở lại ghế ngồi.
Trong những đoạn ghi âm này có một
cụm từ được lặp lại đến những sáu lần, nó ẩn chứa ý nghĩa không mấy tích cực.
Hai từ đáng buồn nhất trong mọi ngôn ngữ, đó là hai chữ: GIÁ MÀ.
35. Đêm sắp tàn, ngày gần
đến
Một vị sư phụ đã nêu câu hỏi
trên với các đệ tử của mình: “Chúng con có biết khi nào đêm chấm dứt và lúc nào
ngày bắt đầu?”
Một anh nhanh nhảu: “Thưa thầy, ấy
là lúc ta thấy một con vật từ đàng xa và phân biệt được nó là con bê hay con lừa.”
Một anh khác: “Thưa thầy, ấy là
lúc ta phân biệt được đâu là cô gà mái đâu là cậu gà trống.”
Một anh khác, sau lúc suy tư
cũng xin góp ý: “Thưa thầy, khi nào ta nhìn thấy người bộ hành và phân biệt được
là thù hay bạn.”
Nhiều câu trả lời nữa cũng được
đưa ra nhưng dường như vị sư phụ không thoáng chút hài lòng nào. Cuối cùng cả
đám xin thầy giải thích.
Sau phút trầm ngâm như muốn thấm
sâu giòng tư tưởng, vị sư phụ lên tiếng: “Khi nào các con nhìn vào người khác
và nhận ra đó chính là anh chị em ruột của mình thì đêm đã tàn và ngày đã tới.”
Thế ra không phải việc “phân biệt”
con vật này hay con vật kia hoặc người này hay người nọ, song là “nhận ra” tha
nhân là anh chị em mình, mới làm cho bóng tối tan đi và ánh sáng toả rạng.
36. Kiến và ve sầu
La Fontaine kể câu chuyện ngụ
ngôn: “Kiến và Ve Sầu”, để cảnh báo con người sống trong thế giới này, phải biết
chăm chỉ, tỉnh thức, sẵn sàng, mới trông giữ được hạnh phúc và tồn tại lâu dài.
Kiến làm việc chăm chỉ, cần mẫn
suốt mùa hè, tích trữ nhiều lương thực cho cả mùa đông.
Ve Sầu suốt ngày chỉ ca hát cuồng
loạn dưới ánh mặt trời.
Mùa đông về, gia đình nhà kiến
có nhà cửa ấm cúng, lương thực đầy đủ, còn Ve Sầu: không nhà, lại chẳng có gì để
ăn! Vừa rét thấu xương, vừa đói cồn cào, nó phải đến nhà kiến xin trọ và xin
ăn.
Đây là câu trả lời của Kiến: chị
đã làm gì trong suốt mùa hè ? Ngày đêm tôi nhảy múa ca hát giúp vui cho đời.
Chị hát à ? Vậy giờ hãy nhảy múa
và ca hát đi!
Câu chuyện đáng để chúng ta suy
gẫm và hành động trong suốt cuộc đời!
Cổ nhân dạy: “Nhân vô viễn lự, tất
hữu cận ưu” (người không biết lo xa, tất sẽ có điều ưu phiền gần).
Lời dạy vừa hàm chứa đạo lý sâu
xa, vừa là lời giáo huấn có giá trị trường tồn!
37. Một giây phút cho đời
đời
Những nhà khảo cổ đã đào bới được
thành phố Vesure xưa kia bị núi lửa chôn vùi cách đột ngột, người ta thấy những
trạng thái trái ngược nhau:
- Có người chết khi đang nhậu nhẹt.
- Có người đang đánh nhau để
giành một số tiền.
- Nhưng hình ảnh đẹp nhất là một
người lính gác vẫn đứng nghiêm, gươm giáo trong tay với tư thế sẵn sàng.
38. Trung tín và tỉnh thức
Ngày nay, “Mạnh Thường Quân” là
một cụm từ khái niệm hóa, hiểu như một danh từ chung để chỉ một mẫu người hào
phóng và nhân ái.
Mạnh Thường Quân tên thật là Điền
Văn, người nước Tề thời Chiến Quốc. Ông là một người giàu sang, có lòng nghĩa
hiệp, thích chiêu hiền đãi sĩ, văn cũng như võ trong nhà lúc nào cũng tiếp đãi
đến vài nghìn tân khách. Tiếng tốt đồn vang khắp các nước chư hầu thời bấy giờ.
Một hôm Mạnh Thường Quân nhìn
vào sổ nợ, biết dân đất Tiết, một nước nhỏ bị Tề diệt, vua Tề tặng Mạnh Thường
Quân làm phong ấp (nay thuộc tỉnh Sơn Đông) còn nợ mình nhiều, thuộc loại “nợ xấu
khó đòi” nhưng nhất thiết chỉ dãn mà không cho xóa. Ông sai Phùng Huyên sang đất
Tiết đòi nợ. Trước khi đi, Phùng Huyên hỏi: “Ngài có muốn mua gì không?” Mạnh
Thường Quân trả lời: “Ngươi xem thứ gì nhà chưa có thì mua.”
Khi đến đất Tiết, Phùng Huyên
cho gọi dân tới bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả.”
Rồi chẳng tính vốn lời, đem văn tự ra đốt sạch. Khi trở về, Phùng Huyên nói với
Mạnh Thường Quân: “Nhà ngài không thiếu gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm
mua ở đất Tiết cho ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài.” Về sau Mạnh Thường Quân bị
bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đó nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường
Quân ngoảnh lại bảo Phùng Huyên: “Đó hẳn là cái ơn nghĩa mà ông đã mua cho tôi
ngày trước.”
Phùng Huyên thực là người quản
lý trung thành và khôn ngoan. Trung thành vì đã biết cách làm lợi cho chủ. Khôn
ngoan vì biết nhìn xa trông rộng, đầu tư vào những chương trình có ích lợi lâu
dài. Nhờ sự khôn ngoan của Phùng Huyên, Mạnh Thường Quân đã vượt qua khó khăn,
được ơn nghĩa với dân chúng.
39. Cho để được
Đức cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận
nói: “Người Công Giáo là người được lãnh nhận nơi Chúa nhiều nhất về những ơn
lành qua các Bí tích, nhất là hằng ngày được Hội Thánh ban Lời qua Phụng Vụ, là
những người được giáo dục hơn tất cả những người không biết Chúa mà họ không sống
tốt hơn lương dân, thì đã là một trọng tội rồi.”
Đài Chân Lý Á Châu tin ngày 1/3/2010: Ông
Srednassiri, quốc tịch Mỹ, người gốc Iran, ông là một tỷ phú, đã bỏ Hồi Giáo để
theo Công Giáo, ông đã dâng tất cả tài sản cho Dòng Phanxico Khó Khăn để làm việc
phúc đức, rồi xin gia nhập Dòng. Ông đã tới Roma để chào Đức Giáo hoàng. Ông
nói: “Những người giàu có phải có trách nhiệm với những người chung quanh mình.”
40. Quyết liệt chọn lựa
Trong cuốn truyện ‘Xin chọn người
yêu là Thượng đế’, văn hào Nikos Kazanzakis thuật chuyện thánh Phanxicô khó
khăn, đấng lập dòng Anh em Hèn mọn, một lần kia nói với một người bạn thường đi
theo ngài:
- Nếu anh không muốn con đường
này, anh có thể theo con đường khác. Còn tôi, tôi không thể đi đường nào khác
được nữa.
Người kia ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao anh không thể đi con
đường khác?
Thánh Phanxicô trả lời:
- Tôi đã đốt cháy mọi cây cầu mà
tôi vừa đi qua.
Đôi khi người ta có những quyết
tâm nửa vời, ba phải. Nhưng câu hỏi về đích nhắm sau cùng của đời người không
có chỗ cho sự mơ hồ, nửa muốn nửa không: “vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh,
nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3,17). Thử hỏi ai là người dám đưa cả
đời mình ra đánh cuộc cho một kết quả “năm ăn năm thua”?
41. Để được kho tàng vô
giá
Thập niên 1940, cha Goldry, một
linh mục thừa sai, bị trục xuất khỏi Trung quốc. Trên đường về Mỹ, cha đi ngang
Ấn độ.
Tại một vùng duyên hải Ấn độ,
cha Goldry gặp thấy rất nhiều dân tị nạn thuộc cộng đồng Do thái đang chen chúc
vất vưởng. Họ trốn tránh sự đàn áp của Đức Quốc Xã, nhưng chẳng mấy ai đón nhận
hay giúp đỡ họ. Họ chui nhủi trong những vựa rơm phong phanh hay những túp chòi
hoang phế. Lúc bấy giờ là gần lễ Giáng sinh, cha Goldry quyết định bán chiếc vé
tàu của mình để mua bột mì cho những người Do thái này nướng bánh mừng Lễ Đèn của
họ (tức lễ Hanukkah, xấp xỉ với lễ Giáng sinh). Sau đó, cha gửi điện tín về Mỹ
xin tiền mua vé tàu khác để về quê.
Vừa về đến Mỹ, cha đã bị bề trên
quở trách:
- Ôi, ông đã làm chuyện thật vớ
vẩn. Ông thừa biết là bọn Do thái ấy không tin vào Chúa Giêsu.
- Họ không tin, nhưng còn con,
con tin.
Vâng, chính đức tin đã buộc cha
phải chọn lựa theo bậc thang giá trị của niềm tin, là một tình yêu sẵn lòng thí
mạng vì người mình yêu.
Nhờ đức tin, với hai bàn tay trắng
và ân sủng Thiên Chúa, ai cũng có thể có cho riêng mình một kho tàng vô giá.
42. Sẵn sàng
Năm 1953, nhiều nhật báo Mỹ
đăng tin:
Ngày 14 tháng 1 năm 1953, tại
Kansas, bác sĩ báo tin cho Cha Julius Busi đang nằm điều trị tại nhà
thương:
- Cha bị ung thư, không còn
cách nào điểu trị được!
Cha Julius Busi là một người
có tin thần siêu nhiên, hết lòng tin tưởng vào Chúa quan phòng, luôn
chuẩn bị giây phút ra trước tòa Chúa, ngài mỉn cười đáp:
- Đó là đặc ơn, đó là
thánh ý Chúa muốn. Nhờ bệnh ung thư, tôi có đủ thì giờ, dọn mình
trước khi chết lành, hơn là bị các bệnh khác, bị tai nạn khác bất
ngờ xảy đến, không chuẩn bị kịp.
43. Sống để phục vụ
Tờ báo Correspondenza (Ý) có
thuật chuyện:
4-4-1923 tàu E. M. L khởi
hành từ Beleze; trên tàu có Đức Giám Mục F. Hopkins 79 tuối, cai quản
địa phận Honduras.
Khi ra giữa khơi, tàu bị
đắm. Xuồng cấp cứu quá ít, không đủ cho số hành khách.
Viên thuyền trưởng ra lệnh
chỉ có đàn bà, con nít và ngưởi già mới được xuống xuồng cấp cứu.
Người ta đến mời Đức Cha F. Hopkins xuống xuồng cấp cứu vì tàu sắp
chìm. Đức Cha thản nhiên trả lởi:
- Xin nhường chỗ cho người
khác, vì tôi đã sẵn sàng ra trước tòa Chúa.
Những người sống xót trong
vụ đắm tàu này, có thuận lại: Đức Cha vẫn bình tĩnh đứng trên boong
tàu, tay giơ lên làm phép lành và giải tội cho hành khách. Tới lúc
tàu chìm, người ta còn thấy một cánh tay ngài giơ thẳng lên trời.
44. Sẵn sàng ngay bây giờ
Linda Taylor đưa ba đứa trẻ lên
giường ngủ. Đột nhiên Peggy, đứa bé chỉ vừa đến tuổi học mẫu giáo, nói một cách
đầy trầm tư: “Mẹ ơi, nếu lỡ tận thế đến bây giờ, thì…” Linda khựng lại một lúc
để xin ơn soi sáng, rồi bà nói: “Con yêu, thế thì sao?” Peggy nói: “Con phải
mang sách trả cho thư viện hay giữ lại cũng được?”
Câu hỏi ngây thơ của Peggy và những
lời của Chúa Giêsu mời gọi tôi tự hỏi: Tôi có sẵn sàng gặp gỡ Thiên Chúa ngay
bây giờ không?
Ngày mà bạn sợ là tận cùng của mọi
sự, lại là ngày sinh nhật cho đời sống vĩnh cửu của bạn. (Seneca)
45. Con khỉ và quả táo gỗ
Trong khu rừng kia có một con khỉ
rất hạnh phúc. Nó tìm ăn những trái cây ngọt lịm khi đói và nằm nghỉ ngơi khi mệt.
Một ngày, con khỉ đang lang thang bìa rừng thì thấy một ngôi nhà…
Trong ngôi nhà nhỏ bé đó, nó thấy
một cái bát to đựng toàn táo, những quả táo tuyệt đẹp. Con khỉ liền trộm lấy một
quả và chạy thật nhanh trở lại khu rừng.
Khi đã chạy thật xa, khỉ dừng lại
đưa quả táo lên mũi ngửi nhưng chẳng thấy có mùi gì. Nó cố gắng ăn nhưng quả
táo cứng ngắc đến mức đau cả răng. Thực ra quả táo này được làm bằng gỗ nhưng rất
đẹp và trông như thật. Những con khỉ khác nhìn thấy quả táo cũng thèm được ăn.
Con khỉ nọ thấy thế càng giữ chặt quả táo.
Có được quả táo đẹp, con khỉ rất
tự hào và hãnh diện. Nó lang thang suốt trong rừng để khoe tài sản quý giá của
mình. Quả táo lấp lánh ánh đỏ dưới nắng mặt trời dường như càng hoàn hảo hơn
bao giờ hết. Và con khỉ càng ôm khư khư quả táo hơn, mặc dù cơn đói cồn cào
trong bụng thúc giục nó đi kiếm cái ăn.
Những trái cây ngọt lịm hương rừng
thôi thúc con khỉ, nhưng nó vẫn không chịu buông quả táo trong tay - nó sợ có kẻ
nào khác đang rình mò sẽ lấy trộm mất. Thực sự, trong tâm trí con khỉ rất mệt mỏi,
nó không thể thư giãn và dành lấy vài phút nghỉ ngơi cho mình. Nó vẫn đang cố gắng
bảo vệ quả táo.
Con khỉ vẫn tự hào vì tài sản vô
giá này nhưng bắt đầu cảm thấy ít hạnh phúc hơn. Nó tiếp tục đi dọc theo con đường
mòn trong rừng, càng ngày càng cảm thấy quả táo nặng hơn. Thực ra bởi nó đang mệt
mỏi, đói và kiệt sức. Nó không thể trèo lên cây để hái quả vì tay vẫn còn bận
giữ quả táo. Điều gì sẽ xảy ra nếu nó tiếp tục ôm quả táo như vậy? Hay nó sẽ
buông tay ra?
Mùi thơm của trái cây trước mặt
toả hương thơm ngát, những quả chín đỏ mọng như trêu ngươi. Đắn đo một lúc, con
khỉ quyết định buông quả táo bằng gỗ. Nó trèo lên cây hái quả ăn, lại cảm thấy
hạnh phúc trở lại.
Đôi khi chúng ta cố gắng giữ chặt
những giá trị tưởng chừng rất lớn mà không dám cho đi, rốt cuộc chỉ nhận lại sự
mệt mỏi đến kiệt sức. Hãy biết cho đi và bạn sẽ được nhận lại nhiều hơn thế. Đó
mới là hạnh phúc của cuộc sống.
LỄ ĐỨC MẸ LÊN TRỜI - NGỢI KHEN VÀ HOAN HỈ TRONG CHÚA
Lời Chúa: Lc 1, 39-56
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Trong những ngày ấy, Maria chỗi
dậy, vội vã ra đi lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria
và chào bà Elisabeth, và khi bà Elisabeth nghe lời chào của Maria, thì hài nhi
nhảy mừng trong lòng bà, và bà Elisabeth được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn
tiếng rằng: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được
chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này tai tôi vừa nghe
lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng
lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện."
Và Maria nói: "Linh hồn tôi
ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi, vì
Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa.
Này từ nay muôn thế hệ sẽ khen
tôi có phước, vì Đấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại, và Danh Ngài
là thánh.
Lòng thương xót Chúa trải qua đời
nọ đến đời kia dành cho những người kính sợ Chúa. Chúa đã vung cánh tay ra oai
thần lực, dẹp tan những ai thần trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống
khỏi ngai vàng và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no
đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không.
Chúa săn sóc Israel tôi tớ Chúa,
bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng
tôi, cho Abraham và dòng dõi người đến muôn đời."
Maria ở lại với bà Elisabeth độ
ba tháng, đoạn Người trở về nhà Mình.
TRUYỆN KỂ
1. Đàn ông xây nhà, đàn
bà xây tổ ấm
Ngày 04.04.1995, Đức Thánh Cha
Gioan-Phaolô II đã phong Chân Phước cho hai người mẹ ở Ý và ca ngợi họ là “mẫu
mực cho sự hoàn hảo của Thiên Chúa."
Bà Gianna Berretta Molla, một
bác sĩ khoa nhi, chết vì bị ung thư năm 1962 vì đã chọn mang thai đứa con thứ
tư cho đến lúc chào đời để cứu sống con, chứ không chấp nhận nạo phá thai.
Người kia là bà Elisabeth Mora,
vẫn trung thành chung thủy với chồng, dù ông ta xử sự vũ phu và bỏ rơi vợ con.
Đức Thánh Cha đã ghi nhận “lòng
trung thành hoàn toàn đối với lời thề hôn nhân giữa vô số những khó khăn của đời
sống vợ chồng." Phải chăng Vị Cha Chung của Giáo Hội đã muốn dành tặng những
lời tôn vinh cao cả nầy cho tất cả những người làm mẹ, bởi vì người mẹ luôn
đóng một vai trò quan trọng, quyết định trong việc xây đắp hạnh phúc gia đình
và tương lai con cái. Người ta nói: “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm."
Người mẹ trao cho con sự sống và vốn sống từ trái tim mình.
2. Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp
Douglas Hyde là một người cộng sản,
chủ trương tờ nhật báo “Công Nhân” tại Anh, đã trở lại Công giáo trong một hoàn
cảnh như thế này:
Sáng hôm ấy, đứng trước cổng một
nhà thờ Công giáo, ông ta nhìn thấy một thiếu nữ khoảng hai mươi tuổi, khuôn mặt
chất đầy những khổ đau. Cô ta bước vào nhà thớ và quỳ cầu nguyện trước tượng Đức
Mẹ, Sau đó, cô đứng dậy đi xuống cuối và ra khỏi nhà thờ. Khi cô đi
ngang, Douglas nhận thấy nét mặt của cô ta đã bình thản trở lại chứ
không còn lo âu sầu não như khi mới bước vào nhà thờ.
Ngay lúc đó Douglas Hyde quyết
định thử làm theo cô gái là cũng đến quỳ trước ảnh Đức Mẹ. Sau này
ông đã viết trong cuốn “tôi tin” (I believed) như sau: “Tôi không biết
người ta đã cầu nguyện với Đức Mẹ thế nào? Cuối cùng tôi nghe thấy
chính mình sắp nói ra một điều gì đó thích hợp. Tuy nhiên khi bắt
đầu thốt ra thì tôi lại thấy lời đó có vẻ kỳ cục làm sao! Nhưng điều
này không quan trọng gì. Tôi biết rõ là sự tìm kiếm bấy lâu nay của
tôi đã đạt tới đích… Lúc ra khỏi nhà thờ, tôi cố gắng hồi tưởng
lại những gì tôi nói và hầu như tôi bật cười khi nhớ lại những lời
ấy. Chúng giống hệt những lời ngân lên trong một điệu khiêu vũ!” Cuối
cùng Douglas đã đạt tới đức tin vào Chúa Giê-su nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ Hằng
Cứu Giúp.
3. Thông điệp của thần
linh
Có một câu chuyện kể về cách thức
người Da Đỏ Comache đã từng cầu nguyện để cho có mưa “Lạy Thầy Linh vĩ đại, xin
nói cho chúng tôi biết chúng tôi đã làm điều gì sai trái, khiến cho ngài tức giận.
Xin nói cho chúng tôi biết chúng ta phải làm gì, để ngài sẽ cho mưa xuống một lần
nữa, và phục hồi sự sống cho mảnh đất của chúng tôi." Họ cứ cầu nguyện như
thế trong vòng ba ngày, nhưng vẫn không hề có mưa. Trẻ con và người già bắt đầu
chết.
Thế rồi những người lớn tuổi
trên bộ lạc đi lên các ngọn đồi, để lắng nghe tiếng gió thổi, mang theo giọng
nói của Thần Linh. Khi trở về, họ nói với dân chúng “Cảnh hạn hán gây ra là do
tính ích kỷ của chúng ta. Từ bao năm qua, chúng ta đã lấy đi đủ thứ từ mặt đất,
mà không hề trả lại gì cả. Tất cả chúng ta phải làm của lễ toàn thiêu, để dâng
lên Thần Linh những tài sản giá trị nhất của chúng ta. Chúng ta phải rải tro
trên mặt đất. Rồi mưa sẽ đến, và sự sống sẽ trở lại trên mặt đất. Rồi mưa sẽ đến,
và sự sống sẽ trở lại trên địa cầu."
Dân chúng cảm ơn Thần Linh về
thông điệp đó. Nhưng khi trở về nhà, và nhìn vào những tài sản giá trị nhất của
mình, họ lại lưỡng lự, và bắt đầu tìm cách thoái thác. Thay vì hy sinh những
tài sản giá trị nhất, họ chỉ hy sinh một số thứ khác thay thế vào đó. Bây giờ,
một cô bé tên là Miriam, có một con búp bê màu xanh, mà cô bé yêu quý trên hết
mọi thứ khác. Vì là một đứa trẻ duy nhất còn sống sót, cô bé nhận ra rằng mình
cũng phải hy sinh. Thế là một đêm kia, cô bé bò ra khỏi căn lều, đem theo con
búp bê và một cây quy diêm, rồi đi lên đỉnh đồi. Tại đó, cô bé châm lửa đốt con
búp bê. Vừa khóc, cô bé vừa nhìn con búp bê biến thành tro bụi. Sau đó, cô bé
dùng bàn tay thu gom đống tro lại, và ném lên không trung. Sao cho gió sẽ rải
đám tro đó lên mặt đất. Rồi cô bé lăn ra ngủ vùi ngay tại đỉnh đồi.
Sáng hôm sau khi thức dậy, cô bé
nhìn khắp mặt đất, và thấy mặt đất phủ đầy những bông hoa màu xanh, khắp cả một
vùng xa tít tắp mà tầm mắt của cô bé có thể thấy được. Dân chúng rất vui mừng
khi nhìn thấy sự kiện xảy ra. Ngay tức khắc, họ nhận ra được điều mình phải
làm. Họ cảm thấy xấu hổ vì tính ích kỷ của mình, mỗi người đều lấy số tài sản
mà họ đã cất giữ rất cẩn thận, hi sinh đốt đi, và rải đám tro đó lên mặt đất. Một
lần nữa, họ bắt đầu cầu nguyện với Thần Linh, và lần này Thần Linh đã nhận lời
họ. Chẳng bao lâu, một cơn mưa bắt đầu chút xuống. Khi nhìn thấy sự kiện đó, họ
ôm cô bé Miriam, người đã làm cho họ hổ thẹn, vì đã không làm theo yêu cầu của
Thần Linh.
Câu chuyện nhỏ này giúp chúng ta
hiểu được vai trò của Đức Maria, và nhận ra được tại sao Giáo hội tôn vinh ngài
trong ngày hôm nay. Chính thông qua sự hy sinh Con của ngài, mà ơn tha thứ,
bình an và yêu thương của Thiên Chúa đã tuôn đổ xuống trên mặt đất, và mang lại
sự sống cho chúng ta, Đức Maria đóng một vai trò sống còn trong của lễ hy sinh
đó.
4. Chuyến xe cuộc đời có
Mẹ
Một trưa mùa hè oi ả, những hành
khách trên chiếc xe đò lặng lẽ nhìn ra con đường đơn điệu. Cái nóng nực và chuyến
đi buồn tẻ hầu như giam hãm mọi người trong một thứ thinh lặng nặng nề.
Nhưng ở một trạm dừng kia, mọi
người bỗng ra khỏi cái uể oải ngái ngủ, để đưa mắt nhìn về một phụ nữ trẻ bước
lên xe. Chiếc xe từ từ lăn bánh. Người phụ nữ bắt đầu nói cười và đùa giỡn với
đứa con thơ chị đang bồng trên tay. Khuôn mặt vui tươi của người phụ nữ và tiếng
cười hồn nhiên của đứa bé đã thu hút sự chú ý của hành khách trên xe. Trong
phút chốc, một ngọn gió mát của hiếu kỳ, của liên đới, của tham dự và của sức sống
đã đem lại bầu khí tươi mát cho mọi người. Hành khách như bừng tỉnh ra khỏi cơn
gà gật ngái ngủ.
Rồi nơi nầy có người bắt đầu nói
chuyện. Nơi kia rộn lên tiếng cười rôm rả. Hành khách chuyện trò cười nói càng
lúc càng vui vẻ hơn. Bây giờ thì chuyến đi không còn là một cuộc độc hành lầm
lì nữa.
Trên chuyến xe cọc cạch và buồn
tẻ của thế giới, một người nữ đã bước lên. Tình yêu và sự sống đã bừng dậy. Người
nữ ấy chính là Mẹ Maria. Cùng với Chúa Giêsu, Mẹ đã vội vã lên đường, bước lên
chiếc xe ì ạch của một thế giới rã rời, để biến nó thành một cuộc hành trình
vui tươi và đầy ý nghĩa. Mẹ mang Chúa Giêsu đến cho trần thế, và với Ngài, Mẹ
đã biến đổi cuộc hành trình buồn tẻ của thế giới thành một lễ hội của gặp gỡ, của
sẻ chia, của hân hoan và tin tưởng. Từ nay, tuyến đường mà nhân loại đang đi sẽ
kết thúc bằng một điểm đến rõ rệt: đó là đến cùng Chúa Giêsu là đường đi, là sự
thật, là sự sống.
Nào, tất cả chúng ta hãy cùng Mẹ
“vội vã lên đường”:
- con đường Tin, Cậy, Mến,
- con đường yêu thương và phục vụ,
- con đường vui mừng và hy vọng.
5. La Vang - nơi hội ngộ
Thật vậy, thuở ban đầu La Vang
chỉ là vùng kỷ niệm của giáo dân trong khu vực giáo xứ Cổ vưu. Nhưng chẳng bao
lâu sau, La Vang đã mau chóng trở thành điểm hành hương của Giáo Phận Huế, để rồi
năm 1958, đã được chọn làm nơi tổ chức Đại Hội Thánh Mẫu Toàn Quốc, với sự hiện
diện của Đức Hồng Y Agagianian, Tổng Trưởng Bộ Truyền Giáo, được Đức Thánh Cha
Gioan XXIII chính thức cử làm đặc sứ. Cũng chính vị Cha Chung hoàn vũ này, ngày
22.08.1961, đã nâng nhà thờ La Vang lên bậc "Tiểu Vương Cung Thánh Đường."
Nhiều đoàn hành hương nước ngoài
đã đến La Vang, nhất là năm 1998, nhân dịp kỷ niệm 200 Đức Mẹ hiện ra tại đây,
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã cử Đức Hồng Y Tổng Giám Mục Hà Nội thay mặt
ngài chủ sự thánh lễ.
Gần đây nhất, nhân dịp Năm Thánh
2010-2012 kỷ niệm 350 năm thành lập hai giáo phận Việt Nam đầu tiên, Đức Thánh
Cha Beneđitô XVI đã cử Đức Hồng Y Ivan Dias, Tổng trưởng bộ Truyền Giáo làm đặc
sứ của ngài để chủ sự lễ bế mạc ngay tại La Vang này.
Đó là bằng chứng cho thấy La
Vang không còn là điểm hành hương của riêng Giáo Hội Việt Nam, nhưng đã được
Giáo Hội toàn cầu công nhận và thăm viếng.
Vì thế mà trong lòng mỗi người
tín hữu dân Việt, trong nước cũng như hải ngoại, lúc nào cũng cháy bỏng ước mơ
sẽ có một nơi xứng đáng để tôn kính Mẹ. Giấc mơ lớn dần và đã chính thức trở
thành quyết tâm của các đấng Bản quyền: trong cuộc họp thường niên tại Huế ngày
13.4.1961, các Giám Mục miền Nam đã khấn hứa khi hoàn cảnh thuận lợi, sẽ xây cất
một Đền Thánh biệt kính Mẹ La Vang, rồi trong thư luân lưu tháng 8 cùng năm, đã
long trọng công nhận La Vang là Trung Tâm Thánh Mẫu toàn quốc VN.
6. Đức Mẹ đồng hành
Trên con đường chúng ta đi chúng
ta chẳng có gì phải sợ hãi. Mẹ sẽ luôn đồng hành với chúng ta. Mẹ sẽ có mặt kịp
thời để che chở, phù giúp chúng ta miễn là chúng ta biết tin tưởng ở Mẹ.
Một hôm trong đám những người
hành hương đến Arc có một người đàn bà mang đại tang. Bà vào giữa nhà thờ đứng
như trời trồng ở giữa mọi người. Bà có vẻ rất đau khổ. Lý do là chồng bà, một
người đã bỏ đạo từ lâu cách đây mấy bữa đã nhảy xuống sông tự tử…đã chết mà
không được lãnh nhận những bí tích cuối cùng. Cha Gioan Maria Vianney đi
qua….Bà chưa kịp nói gì thì Cha ghé vào tai bảo bà: - Ông nhà đã được cứu rỗi rồi.
Thấy người đàn bà có vẻ quá ngạc
nhiên, cha nói lại một lần nữa:
- Tôi đã bảo ông nhà đã được cứu
rỗi rồi mà.
Bà thắc mắc hỏi lại với một giọng
đầy hoài nghi, cha nhấn mạnh từng tiếng:
- Tôi bảo bà là ông nhà đã được
cứu rỗi rồi. Ông hiện đang ở trong Luyện ngục. Phải cầu nguyện nhiều cho ông
ta. Giữa nhịp cầu và dòng nước ông đã có được một thời gian để ăn năn thống hối.
Bà còn nhớ là trong tháng Đức Mẹ, bà đã cho làm một bàn thờ trong phòng của bà
không ? Thỉnh thoảng, chồng của bà, mặc dầu đã bỏ đạo cũng đến hợp lời cầu nguyện
với bà. Thái độ đó đã đem lại cho ông tạ ơn thống hối và tha tội vào phút cuối
cùng của cuộc đời.
7. Maria, Thầy dạy đức
tin
Trong một đan viện nọ, có hai tu
sỹ ngồi đàm đạo để cùng giúp nhau thăng tiến về đời sống thiêng liêng. Họ mở
Kinh Thánh ra và cùng nhau chia sẻ. Đoạn Kinh Thánh được đọc lên, trích trong
Tin mừng Luca chương 15, nói về dụ ngôn đứa con hoang đàng. Câu chuyên khá dài
với nhiều tình tiết. Gấp sách lại, cả hai thinh lặng cầu nguyện và trao đổi. Một
đan sĩ lên tiếng “Tôi không hiểu tại sao thằng bé này lại bỏ nhà đi hoang. Nó
có một gia đình khá đầy đủ về vật chất. Hơn nữa, nó còn có một ông bố yêu
thương nó hết lòng. Vậy tại sao nó lại thoát ly gia đình ?" Suy nghĩ một
lát, vị đan sĩ kia lên tiếng “Đứa bé này bỏ nhà đi bụi, vì trong ngôi nhà ấy vẫn
vắng bóng một người mẹ."
May mắn, chúng ta có một người Mẹ
tuyệt vời là chính Đức Maria. Người vừa là hiền mẫu, vửa là Thầy dạy đức tin và
cũng là đấng phù trợ chúng ta trong cuộc lữ hành đức tin trần thế. Mừng lễ Mẹ
lên trời hôm nay, Giáo hội cũng nhắc nhớ chúng ta hướng về người mẹ thiêng
liêng và tuyệt diệu này. Đồng thời, chúng ta cũng nhìn về Đức Maria như là
khuôn mẫu đức tin để noi theo.
8. Maria dám tin
Một doanh nhân giàu có ở Mỹ có
sáng kiến ngộ nghĩnh để thử lòng người: Ông cho in rất nhiều bích chương và dán
khắp nơi trong thành phố nơi ông đang ở. Đại khái nội dung của bích chương loan
báo: Bất cứ ai mắc nợ, nếu đến văn phòng của ông ngày đó, tháng đó từ 9g đến
12g đều được ông giúp đỡ để trả nợ. Dĩ nhiên, mọi người đều bàn tán về lời mời
gọi này, nhưng đa số đã xem đây là một trò đùa.
Đúng ngày hẹn, doanh nhân ngồi
trong văn phòng của mình. Hai giời trôi qua mà không thấy người nào đến. Mãi tới
11giờ mới có một người đàn ông rụt rè đến… Doanh nhân ký cho ông một ngân phiếu
để trả hết nợ. Gần 12 giờ một vài người nữa cũng đến… Và dĩ nhiên họ cũng được
giúp đỡ tận tình. Còn tất cả những người khác khi hiểu được lời mời gọi của
doanh nhân thì đã muộn.
Lời hứa của doanh nhân trong câu
chuyện trên đây quá lớn, nên đa số đã không tin. Chính vì không tin nên họ đã bỏ
lỡ một cơ hội ngàn vàng. Đức Maria, trái lại, Mẹ đã dám tin vào lời Chúa hứa nên
Mẹ đã được tràn đầy ân phúc. Bà Êlisabét nói: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng
Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em."
Tin là để cho Chúa thay đổi hướng
đi của cuộc đời mình.
Tin là để cho chương trình cứu độ
của Người đảo lộn chương trình sống của chúng ta.
Tin là chấp nhận lên đường, làm
một cuộc hành trình mạo hiểm với Chúa.
9. Mẹ Lên Trời
Tại nhiều giáo xứ bên Ý, vào
ngày lễ Đức Me hồn xác lên trời, người ta có tục lệ rước kiệu như thế này:
Một kiệu Đức Mẹ từ cuối làng đi
lên. Còn một kiệu Chúa Giêsu từ đầu làng đi xuống. Cả hai sẽ gặp nhau tại sân
nhà thờ. Người ta sắp đặt để cả hai tượng đều cúi đầu chào nhau ba lần, rồi sau
đó cũng tiến vào nhà thờ, tượng trưng cho việc Chúa Giêsu dẫn đưa Mẹ Ngài vào
quê hương Nước Trời. Nghi thức này tuy đơn sơ nhưng lại gây một ấn tượng mạnh mẽ
nơi những người người tham dự. Ngược dòng lịch sử, chúng ta thấy niềm tin vào
việc Đức Mẹ hồn xác lên trời đã được manh nha từ một thời rất xa xưa. Thực vậy,
vào năm 457, Đức Giám Mục Giêrusalem đã viết như sau: Mẹ Maria qua đời, có các
tông đồ vây quanh. Nhưng rồi sau khi chôn cất được ít lâu, ngôi mộ bỗng được mở
ra, các tông đồ nhận thấy nó hoàn toàn trống rỗng và rồi các ông đã kết luận Mẹ
đã được đưa về trời cả hồn lẫn xác.
Đúng thế, Chúa Giêsu đa không muốn
để Mẹ Ngài phải chịu một giây phút nào dưới quyền lực của Satan và tội lỗi, nên
đã ban cho Mẹ đặc ân vô nhiễm nguyên tội. Đồng thời Ngài cũng không muốn thân
xác tinh tuyền của Mẹ phải chịu cảnh mục nát trong mồ, nên đã ban cho Mẹ đặc ân
được về trời cả hồn lẫn xác. Thiên Chúa Ba Ngôi cùng với triều thần thánh trên
trời mừng rỡ chúc tụng Mẹ.
10. Yêu mến Mẹ
Ngày nọ có một chiếc máy bay bị
trục trặc và rơi xuống trong một khu rừng già. Viên phi công tên là Tom Marmon,
mặc dù biết rõ khó mà sống sót để trở về quê nhà, nhưng ông vẫn cố gắng. Cuối
cùng ông đã được cứu thoát. Các phóng viên báo chí đã hỏi ông nhờ đâu mà đã làm
được một việc kỳ diệu như thế. Ông đã trả lời: Nhờ tôi cầu nguyện. Trước sự ngạc
nhiên của mọi người, ông đã cắt nghĩa: Tôi đã đọc ít nhầt cả triệu lời kinh
Kính Mừng, suốt thời gian dò tìm đường ra. Tôi không đọc nhỏ, nhưng đã đọc thật
to với hy vọng có người nào đó sẽ nghe thấy tiếng tôi mà dẫn đường chỉ lối. Nếu
không nhờ lòng tin mạnh mẽ này, có lẽ tôi đã không thể nào ra khỏi khu rừng rậm
rạp ấy.
Kinh nghiệm của viên phi công
cũng đã là kinh nghiệm của hằng triệu Kitô hữu, bởi vì họ cũng đã dành cho Mẹ
Maria một chỗ đứng đặc biệt trong tâm hồn và trong cuộc sống của họ. Đó cũng là
lý do hôm nay chúng ta vui mừng tụ hợp nhau đây để mừng kính biến cố Mẹ về trời.
11. Mẹ lên Trời
Như chúng ta đã biết Marilyn
Monroe là một nữ tài tử nổi tiếng của Mỹ. Cách đây đúng 52 năm, tức là vào ngày
15.8.1962 cô đã chết. Cái chết của cô cho đến ngày hôm nay vẫn còn là một điều
bí ẩn. Có thể là cô đã tự tử. Có thể là cô đã bị Mafia hay dòng họ Kennedy giết
chết. Cô đã ra đi giữa lúc danh vọng đang lên, tiền bạc đang lắm và thành công
đang nhiều. Thế nhưng từ lúc cô nằm xuống cho đến ngày hôm nay, mỗi năm hàng
ngàn, hàng vạn du khách đã viếng thăm ngôi mộ của cô tại thành phố Los Angeles
và những cánh hồng không ngừng phủ kín nơi an nghỉ của một ngôi sao cô đơn. Viết
về cô, người ta đã ghi nhận: Cô không còn là một con người, nhưng đã trở thành
một huyền thoại. Cô không còn là một nhân vật, nhưng đã trở thành một thần tượng
cho nhiều người. Và hơn thế nữa, mãi mãi cô đã trở thành một câu hỏi được nêu
lên cho con người thời nay: Con người bởi đâu mà ra? Con người sống để làm gì?
Đâu là ý nghĩa của cuộc đời? Tiền bạc và danh vọng có đủ để đem lại cho con người
niềm hạnh phúc đích thực hay không? Trên phần mộ của cô, người ta đọc thấy một
hàng chữ như sau: Chúng tôi thông cảm với cô. Bởi vì cô đã không ngừng bị dằn vặt
bởi những câu hỏi quá lớn về cuộc sống. Và nhất là, nếu như thiếu vắng một niềm
tin vào cuộc sống thì sẽ không còn một chọn lựa nào khác hơn là cái chết.
Nếu cái chết của Marilyn là một
dấu hỏi được đặt ra về ý nghĩa của cuộc sống, thì cái chết của Mẹ Maria chính
là câu trả lời. Qua cái chết để được đưa về trời, Mẹ Maria cho chúng ta thấy ý
nghĩa của cuộc sống cũng như của cái chết, để rồi Mẹ trở thành niềm hy vọng cho
chúng ta. Cho dù cuộc sống này có nghèo túng, có khổ đau thì nó vẫn có cái giá
trị của nó. Bởi vì phải nhờ vào cuộc sống này mà chúng ta mới có thể chiếm lấy
niềm hạnh phúc Nước Trời và cái chết chính là nét vẽ cuối cùng hoàn tất cho tác
phẩm một đời của chúng ta, để rồi chúng ta sẽ dâng tác phẩm ấy lên Thiên Chúa.
Và như vậy, chúng ta sống là để chuẩn bị cho cái chúng ta chết là để được sống
đời đời.
12. Câu chuyện dưới đây
đã xảy ra tại Lộ Đức.
Có một bệnh nhân đau nặng, được
đặt nằm trên một chiếc ghế bố, bên cạnh con đường mà cuộc rước kiệu sẽ đi qua.
Đức Giám mục cầm mặt nhật và ghi hình thánh giá trước mỗi bệnh nhân.
Người bệnh của chúng ta có một
niềm tin tưởng vào Mẹ Maria. Thế nhưng khi Thánh Thể Chúa đi qua, anh vẫn chẳng
cảm thấy một chuyển biến nào. Hơi buồn và thất vọng anh đã kêu lên:
- Con sẽ mách với Mẹ Maria cho
mà xem.
Vị Giám Mục nghe thấy, quay lại
và một lần nữa giơ cao mặt nhật và vẽ hình thánh giá. Lập tức anh ta được khỏi
bệnh.
Là Nữ Vương trời đất, Mẹ có dư
khả năng, là Mẹ chúng ta Mẹ có dư tình thương. Bởi đó, hãy tin tưởng chạy đến với
Mẹ, vì như lời thánh Bênađô đã xác quyết: Kêu cầu Mẹ, chúng ta sẽ không bao giờ
phải thất vọng.
13. Tôi chỉ yêu người
William Lyon Phelps là một nhà
phê bình văn học nổi tiếng, một giáo sư Anh văn tại đại học Yale từ năm 1901 đến
1933. Những tác phẩm của ông đã hình thành khuynh hướng văn chương Mỹ lúc bấy
giờ. Dưới đây là điều ông viết về lễ Đức Mẹ lên trời. Lễ chúng ta mừng hôm nay.
Dù tôi không phải là một người
công giáo, tôi luôn luôn dự lễ tại một nhà thờ công giáo trong ngày lễ Đức Mẹ
lên trời. Từ năm 1928 nhà thờ công giáo gần nhất ở cảng Custin tiển bang
Michigan cách chỗ tôi ở chừng 12 km. Tôi nhớ nhà thờ này mỗi năm trong ngày ấy
để tôn kính Đức Mẹ. Nên nhớ rằng: người công giáo không thờ Đức Trinh Nữ. Họ thờ
một mình Thiên Chúa nhưng tôn kính Đức Maria và cầu khẩn với Người.
Đây là một người không Công
giáo, một giáo sư học vấn cao tại một đại học quan trọng, một nhà văn đáng
kính, một nhà phê bình văn học đã bầy tỏ lòng trìu mến Đức Trinh nữ trong ngày
lễ lên trời vinh hiển này. Ông viết trên một cột báo được nhiều người đọc, người
có tín ngưõng cũng như không tín ngưỡng. Ong Phelps thích ý tưởng Đức Mẹ cất nhắc
lên trời. Tôi thích ý tưởng đó, bạn cũng vậy, nhiều người không công giáo cũng
vậy, họ yêu mến, ngưỡng mộ Mẹ Thiên Chúa.
14. Chân dung tự họa của
Thiên Chúa
Có một câu chuyện kể về một người
phụ nữ rất thích tranh vẽ, tên bà là Adrienne. Ngày nọ, trong một cửa hàng đồ cổ
nhỏ bé nơi thôn dã, bà tiến đến một bức tranh nhỏ mà bà tin rằng đó là bức chân
dung tự hoạ của một bậc thầy hoạ sĩ vĩ đại. Tự nhiên, bà cảm thấy vui sướng vì
phát hiện này của mình. Ngay tức khắc, bà biết rằng rồi sẽ có nhiều rắc rối đến
với bà.
Mang bức tranh về đến nhà, bà
quét sạch những lớp bụi bám vào. Trong khi làm việc này, bà càng tin chắc rằng
đó đích thật là bức tranh nguyên bản, mặc dù tự nhiên bà cũng có thoáng chút
hoài nghi.
Nghĩ rằng bảo tàng viện quốc gia
sẽ rất chú ý đến phát hiện này của bà, bà gửi những tấm ảnh chụp bức tranh đến
các tác giả kiệt xuất về nghệ thuật trong nước. Thật quá đỗi ngạc nhiên đối với
bà vì họ chẳng hề quan tâm, hầu hết các nhà chuyên môn chẳng chút bận tâm để đến
xem bức tranh khi nó được triển lãm tại một phòng trưng bày công cộng. Giám đốc
phòng triển lãm quốc gia tuyên bố chắc nịch rằng bức tranh đó không phải là
nguyên bản.
Nhưng Adrienne không đầu hàng.
Bà hết sức cố gắng có thể. Bà đem bức tranh đi kiểm chứng bằng tia X quang tại
phòng thí nghiệm của cảnh sát, và dưới sự phân tích của tia X quang, tên viết tắt
của bậc thầy hội hoạ hiện dần lên trên những lớp màu. Bà lập tức gửi ngay kết
quả kiểm định cho một trong những nhà chuyên môn. Ông lịch sự bày tỏ sự quan
tâm nhưng vẫn trung thành với nhận định trước đây: bức tranh này không phải là
nguyên bản.
Bà tiếp tục nghiên cứu và đào
sâu lịch sử, và đã phát hiện được những chứng cớ giúp xoá đi tất cả những nghi
ngờ để khẳng định được là bà đúng. Cuối cùng, một buổi lễ long trọng đã diễn ra
tại Viện hàn lâm nghệ thuật để ca ngợi bà. Nếu không có những nỗ lực, bền chí
và lòng kiên định của bà, bức tranh sẽ không bao giờ được đưa ra ánh sáng.
Chúa Giêsu là chân dung tự hoạ của
Thiên Chúa. Nhưng nhờ Đức Maria mà Người đã được hạ sinh giữa loài người chúng
ta. Đức Maria đã chăm sóc nuôi nấng Người trong suốt những năm Người sống ẩn dật,
không ai biết đến, và chẳng ai nhận ra được Người. Và cuối cùng, khi Người bước
ra từ trong bóng mờ, để bắt đầu cuộc sống hoạt động công khai, Người cũng chẳng
được toàn thể mọi người hoan hô đón nhận. Thực vậy, giới lãnh đạo tôn giáo từ
chối tin vào Người. Nhưng Mẹ Maria vẫn hằng tin tưởng vào Người, giữ vững quan
điểm về Người cho đến cùng.
15. Con đường về trời của
người mẹ trìu mến
Chị giáo dân ấy tên là Huyền Tâm
(Helga Schmidt). Hôm ấy chị đến hàng bách hóa mua quà Giáng Sinh cho một số người,
mà lòng chị không được phấn khởi. Chị đã ghi một loạt tên những người chị cần
mua quà tặng; đó là những người đã nói họ không cần ai tặng quà, nhưng chị biết
rõ họ sẽ bị tổn thương nếu chị không mua gì cho họ.
Chị Huyền Tâm không mất nhiều giờ
để chọn đồ, nhưng mất đến 20 phút chờ đến lượt trả tiền, để ra khỏi cửa tiệm!
Chính ở khâu chót này, chị Huyền Tâm được dành cơ hội tặng một gói quà nhỏ mà
giá trị của nó chắc không bao giờ chị quên được.
Số là có hai khách hàng nổi bật ở
phía trưóc chị Huyền Tâm. Cậu con trai chừng năm tuổi, cô em gái nhỏ hơn ít là
một tuổi, theo sau. Cậu bé mặc chiếc áo khoác rách rưới, đi đôi giày tennis rộng
thùng thình thò ra ngoài hai ống quần gin (Jean) quá ngắn. Cậu bé ấy nắm chặt mấy
đồng tiến nhàu nát trong lòng bàn tay cáu ghét. Còn cô bé với đầu bù xù một mớ
tóc quăn bết lại, có gương mặt rõ ràng phản ánh sự thèm thuồng một bữa cơm tối.
Bé gái cầm trong tay một đôi dép
mang trong nhà màu vàng sạch bóng. Khi khúc nhạc Giáng Sinh vang lên qua hệ thống
âm thanh của cửa tiệm bách hoá, bé gái này cũng ấp úng hát theo, vẻ đầy hạnh
phúc, mặc dầu lạc giọng.
Khi đến chỗ tính tiền, bé gái ấy
cẩn thận đặt đôi dép lên quầy, làm như đó là một kho tàng quý báu rất đặc biệt.
Cô thư ký của tiệm xem hoá đơn
và nói:
- Hết 6 đôla 9 xu.
Cậu bé liền đặt mấy tờ đô la
nhàu nát lên chỗ để hàng, rồi lục lọi để kiếm thêm tiền nơi túi áo và quần. Sau
cùng cậu bé chỉ có trong tay 3 đôla 12 xu, nên phải cáo lỗi cô thư ký:
- Chúng cháu xin để lại món hàng
này tới khi khác, có lẽ ngày mai chúng cháu sẽ trở lại.
Nghe lời cáo lỗi đó, cô bé thất
vọng khóc nức nở và nói:
- Nhưng Hài Nhi Giêsu thích những
chiếc giày này.
Cậu bé liền dỗ em một mình với lời
hứa:
- Em đừng khóc nữa, chúng ta sẽ
trở lại mà!
Đó là lúc chị Huyền Tâm nhập cuộc
một cách tự nhiên. Chị kể lại: "Tôi vội đưa cho cô thư ký ba đôla. Bỗng có
hai cánh tay ôm chầm lấy tôi giọng nói yếu ớt:
- Cháu cám ơn bà.
Tôi hỏi cô bé:
- Cháu nói Chúa Giêsu thích những
chiếc giày này, điều đó có nghĩa gì vậy?
Cậu bé liền trả lời thay em cậu,
vẻ mặt đậm nét ưu tư:
- Mẹ chúng cháu bệnh và sắp về
trời. Bố nói mẹ có thể ra đi trước lễ Giáng Sinh để ở với Chúa Hài Nhi.
Cô bé liền tiếp lời trong sự phấn
khởi:
- Cô giáo dậy lớp giáo lý sáng
Chúa Nhật nói rằng: những con đường lên trời lấp lánh vàng như chiếc giày này.
Mẹ cháu sẽ chẳng rất xinh đẹp khi bước đi trên những con đường đó bằng những
chiếc giày này sao?
Mắt tôi ngập lệ khi nhìn khuôn mặt
cô bé có những vệt nước mắt. Tôi gật đầu vui vẻ đồng ý:
- Đã hẳn mẹ cháu rất đẹp rồi!
Tôi hết lòng tạ ơn Chúa vì đã
dùng những đứa trẻ này dạy tôi nhiều điều liên quan tới con đường về trời của
người mẹ trìu mến."
Câu chuyện vừa kể giúp đặt ta
vào bối cảnh của lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Mỗi năm lễ này được cử hành là nhằm
giúp các Kitô hữu thấy rõ mục đích đời mình, đồng thời nhờ ơn lành và lời cầu bầu
của Mẹ Maria để đạt tới đích đó như sự thành tựu cuối cùng của đời ta. Riêng với
chị giáo dân Huyền Tâm, câu chuyện đã dạy chị nhiều điều liên quan tới con đường
về trời của người mẹ trìu mến.
Nhưng người mẹ trìu mến nào?
Trong câu chuyện, đó là mẹ của hai đứa trẻ. Người mẹ đó đang trong tình trạng gần
đất xa trời. Nhưng người bố đã cắt nghĩa cho hai con ông biết mẹ chúng có thể
ra đi trước lễ Giáng Sinh để ở với Chúa Hài Nhi. Mọi sự đều ra khác nhờ ánh
sáng của việc lên trời để ở với Chúa Giêsu.
16. “Hãy làm những gì
Chúa truyền dạy."
Ngày xửa ngày xưa, có một gia
đình nghèo sống bên cạnh rừng, người chồng lo việc tiều phu, người vợ lo việc nội
trợ. Họ chỉ có ba người con gái, sáng sớm người chồng đi vào rừng kiếm củi, người
vợ đi vào làng để mua thức ăn và cô gái nhỏ trông chừng nhà cửa.
Một buổi sáng nọ, đang nô đùa
trước cửa nhà, ba cô bé nhỏ thấy một bà lão đang tiến lại gần, người đàn bà mặc
áo đen, từ xa ba cô bé nhỏ cũng có thể nhận ra gương mặt xấu xí của bà. Vừa thấy
bà lão đến gần, người chị hét lên:
Mụ phù thủy, mụ phù thủy.
Nghe tiếng báo động của người chị,
hai cô bé nhỏ chạy vội vào nhà đóng cửa lại, còn cô lớn chạy ra phía sau nhà để
thả chó ra. Lão bà dừng lại trước những tiếng gầm gừ của con chó. Bên trong hai
đứa nhỏ vẫn còn run cầm cập. Một lát sau người đàn bà xấu xí đành bỏ đi về phía
rừng.
Hôm sau, sinh hoạt của gia đình
tiều phu vẫn diễn ra bình thường, người cha vẫn đưa con chó vào rừng, người mẹ
đem đứa con gái lớn và cả đứa kế đi ra chợ, chỉ còn lại đứa bé nhỏ nhất mới lên
năm tuổi trông nhà. Vào giữa buổi trưa, khi đứa nhỏ đang chơi trước sân thì bà
lão xấu xí lại xuất hiện một lần nữa. Vừa trông thấy, nó thét lên như hai đứa
chị:
Mụ phù thủy, mụ phù thủy.
Và chạy nhanh vào nhà cài then cửa
lại, đứng nhìn người đàn bà. Qua lỗ nhỏ của khe của, bỗng nó nhìn thấy và nhận
ra một điều mà nó chưa hề thấy trước đó, người đàn bà không có vẻ gì là một mụ
phù thủy cả, nó chỉ thấy một người đàn bà vẻ đau yếu và mệt lả. Đứa bé năm tuổi
tự nhiên cảm thấy thương mến bà vô cùng, nó liền mở cửa và tiến đến bên bà
thưa:
Thưa bà, cháu có thể giúp bà cái
gì được không ạ?
Quả thật, gương mặt bà lão xấu
xí kinh khủng. Khi trông thấy đứa bé kháu khỉnh bà nói:
Lão còn phải đi đường xa, lão mệt
lắm, cháu có thể cho bà ly nước được không?
Nó liền chạy ra sau nhà, lấy gáo
múc nước đem ra cho bà cụ uống. Bà cụ cầm lấy chiếc gáo, cảm ơn đứa bé rồi uống
cạn. Bà rùng mình đứng thẳng, đứng thẳng rồi biến thành một cô công chúa xinh đẹp.
THỨ HAI - CHÚA GIÊSU, MẪU GƯƠNG VÂNG PHỤC
Lời Chúa: Mt 17, 21-26
Khi ấy, các môn đệ và Chúa Giêsu
còn đang ở Galilêa, thì Chúa Giêsu bảo các ông rằng: "Con Người sắp bị nộp
vào tay người đời, họ sẽ giết người, nhưng ngày thứ ba, Người sẽ sống lại."
Các môn đệ rất đỗi buồn phiền.
Khi các ngài đến Capharnaum, thì
những người thu thế đền thờ đến gặp Phêrô và hỏi rằng: "Thầy các ông không
nộp thuế "đền thờ' sao?" Ông nói: "Có chớ."
Khi ông về đến nhà, Chúa Giêsu hỏi
đón trước rằng: "Simon, con nghĩ sao? Vua chúa trần gian thu thuế má hạng
người nào? Đòi con cái mình hay người ngoài?" Ông thưa rằng: "Đòi người
ngoài." Chúa Giêsu bảo ông rằng: "Vậy thì con cái được miễn. Nhưng để
chúng ta không làm cho họ vấp phạm, con hãy ra biển thả câu: con cá nào câu lên
trước hết thì bắt lấy, mở miệng nó ra, sẽ thấy một đồng tiền, con hãy lấy tiền
đó mà nộp cho họ, trả phần Thầy và phần con."
TRUYỆN KỂ
1. Quy Luật Của Cuộc Sống
Bác sĩ Ý Antinori đã tạo ra một
chấn động mạnh trong lương tâm nhân loại khi ông tuyên bố việc tạo sinh con người
theo phương pháp vô tính. Phương pháp tạo sinh vô tính đã được áp dụng thành
công vào việc sản sinh ra con cừu có tên là Doli tại Anh Quốc cách đây vài năm
và đã được áp dụng vào những loài vật khác nhau từ chuột đến bò, heo. Vấn đề cần
đặt ra không phải là chuyện phương pháp kỹ thuật tạo sinh vô tính có hoàn hảo
không. Tất nhiên, đem thí nghiệm tạo ra một con người mà không biết chắc sẽ
sinh ra một con người bình thường hay một quái thai, quả là một hành động liều
lĩnh, vô trách nhiệm. Nhưng ngay cả khi phương pháp tạo sinh vô tính đã được
nghiên cứu tới mức hoàn hảo đi nữa thì câu hỏi vẫn là con người có quyền sản
sinh vô tính con người không? Không riêng gì những con người có niềm tin tôn
giáo mà ngay cả với những ai không thuộc tôn giáo nào đi nữa, đã là con người
có lương tri, người ta không thể trốn tránh một câu hỏi như thế.
Tựu trung, đạo đức vẫn luôn luôn
là chiều kích bao trùm toàn bộ mọi khía cạnh của cuộc sống con người. Trong bất
cứ sinh hoạt nào, con người cũng luôn luôn phải tự hỏi: Tôi có được phép làm điều
này không? Tôi phải cư xử như thế nào cho xứng với phẩm giá con người?
2. Luật của trái tim
Một cụ già kiệt sức trên một con
đường ở Brooklyn và được đưa đến bệnh viện thị trấn Kings. Từ tấm địa chỉ nhàu
nát trong túi cụ, các y sĩ lần ra tên của một nhân viên cứu hộ trên biển có thể
là con trai của cụ. Họ đã điện khẩn cấp đến doanh trại. Khi người thanh niên đến,
cụ già chìa tay ra một cách yếu ớt.
Người thanh niên bắt lấy và giữ
chặt tay cụ suốt bốn giờ liền cho đến khi cụ già qua đời. Sau khi cụ già tắt thở,
người thanh niên mới hỏi: “Cụ già này là ai?” Các y sĩ hỏi lại: “Đó không phải
là cha của anh sao?” Anh ta đáp: “Không, nhưng tôi thấy rằng cụ cần tình cảm của
một người con, vì vậy tôi đã ở đấy với cụ.”
Tôi có thể nhớ lại một người xa
lạ đã giúp tôi một cách quảng đại không? Có khi nào tôi giúp đỡ một người xa lạ
không?
Chẳng ai một mình đi suốt hành
trình. Những gì chúng ta mang đến cho cuộc sống kẻ khác sẽ chan hòa trong cuộc
đời chúng ta. (Dewin Markham)
3. Chúa ở trong lòng ta
“Thiên Chúa là ai?”, đó là câu hỏi
mà Thống đốc Mario Cuomo đặt ra trong cuộc hội thảo tại Nữu Ước. Ông nói rằng sự
hiểu biết của ông về Thiên Chúa xuất hiện khi ông đọc cuốn “Cảnh vực thần linh”
của Teilhard de Chardin. Nhà khoa học linh mục nổi tiếng này nhấn mạnh rằng
Thiên Chúa khởi sự công cuộc sáng tạo và để cho chúng ta tiếp tục hoàn thành.
Như vậy, Cuomo trả lời câu hỏi “Thiên Chúa là ai?” khi nói rằng “Thiên Chúa là
tiếng gọi thúc giục chúng ta tham gia vào công cuộc cải tạo thế giới.”
Câu truyện về Cuomo và về
Edekien mời gọi tôi tự hỏi tôi cảm nghiệm Thiên Chúa đang nói với tôi khi nào
và ở đâu. Làm sao tôi chắc được Thiên Chúa thực sự nói với tôi?
Cầu nguyện là đối thoại, chứ
không phải độc thoại. Tiếng Chúa trả lời cho chúng ta là điều nhất thiết phải
có. (Andrew Murray)
4. Phải chết để sống lại
Vào thập niên 1960, hai vở kịch
nổi tiếng về Chúa Giêsu: “Chúa Giêsu, siêu sao” và “Sức hấp dẫn của Chúa."
Cả hai vở kịch đều có những cảnh và âm nhạc tuyệt vời, nhưng mỗi vở mang ý
nghĩa khác nhau. Vở kịch “Chúa Giêsu, siêu sao” kết thúc bằng cái chết của Chúa
Giêsu. Còn vở “Sức hấp dẫn của Chúa” kết thúc bằng sự sống lại của Chúa Giêsu
được thể hiện bằng hình ảnh các môn đệ vác Chúa Giêsu đi xuống giữa hai hàng ghế
và ca vang một cách vui vẻ “Vạn tuế Thiên Chúa.”
Trong bài đọc hôm nay, các môn đệ
đã trở nên “buồn phiền” bởi vì họ làm điều mà vở kịch “Chúa Giêsu, siêu sao” đã
làm. Đó là tách rời cái chết khỏi sự sống lại của Ngài.
Tôi thường có khuynh hướng tách
rời cái chết khỏi sự sống lại của Chúa Giêsu trong đời tôi như thế nào?
Chúng ta chết đi từng ngày. Phúc
cho kẻ sống tốt đẹp mỗi ngày. (Georgre McDonald)
5. Kitô khác hay khác
kitô?
Vào ngày 31 tháng Bảy 1941, có một
tù nhân trốn thoát. Sĩ quan chỉ huy trại bắt 10 người khác phải chết thay. Hắn
khoái trá bước dọc theo dãy tù nhân đang run sợ chờ đợi sự chỉ định của hắn như
tiếng gọi của tử thần. "Tên này." "Tên kia." Có những tiếng
thở phào thoát nạn. Cũng có tiếng nức nở tuyệt vọng.
Trong khi 10 người xấu số lê bước
về hầm bỏ đói, bỗng dưng tù nhân số 16670 bước ra khỏi hàng.
- "Tôi muốn thế chỗ cho ông
kia. Ông ấy có gia đình, vợ con."
Cả một sự im lặng nặng nề. Tên
chỉ huy sững sờ, đây là lần đầu tiên trong đời hắn phải đối diện với một sự can
đảm khôn cùng.
- "Mày là ai?"
- "Là một linh mục."
(không cần xưng danh tính cũng không cần nêu công trạng).
Và Cha Kolbe được thế chỗ cho
Trung Sĩ Francis Gajowniczek.
Trong "hầm tử thần" tất
cả bị lột trần truồng và bị bỏ đói để chết dần mòn trong tăm tối. Nhưng thay vì
tiếng rên xiết, người ta nghe các tù nhân hát thánh ca. Vào ngày lễ Ðức Mẹ Hồn
Xác Lên Trời (15 tháng Tám) chỉ còn bốn tù nhân sống sót. Tên cai tù chấm dứt
cuộc đời Cha Kolbe bằng một mũi thuốc độc chích vào cánh tay. Sau đó thân xác của
ngài bị thiêu đốt cũng như bao người khác.
Cha được Ðức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II phong thánh năm 1981.
Linh mục Kolbe thực sự là một
Kitô khác: "Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết người,
nhưng ngày thứ ba, Người sẽ sống lại." Các môn đệ rất đỗi buồn phiền vì muốn
"khác Kitô"
THỨ BA - SỐNG TINH THẦN TRẺ THƠ
Lời Chúa: Mt 18, 1-5. 10. 12-14
Khi ấy các môn đệ đến bên Chúa
Giêsu mà hỏi: "Chớ thì ai là kẻ lớn nhất trong Nước Trời?" Chúa Giêsu
gọi một trẻ nhỏ lại, đặt nó giữa các ông mà phán rằng: "Thật, Thầy bảo thật
các con: nếu các con không hoá nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước
Trời. Vậy ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ này, người ấy là kẻ lớn nhất trong Nước
Trời.
"Và kẻ nào đón nhận một trẻ
nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy. Các con hãy coi chừng, đừng
khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này, vì Thầy bảo các con, thiên thần của
chúng trên trời hằng chiêm ngưỡng thánh nhan Cha Ta, Đấng ngự trên trời.
"Các con nghĩ sao? Nếu ai
có một trăm con chiên mà lạc mất một con, thì người đó lại không bỏ chín mươi
chín con trên núi, để đi tìm con chiên lạc sao? Nếu người đó tìm được, Thầy bảo
thật các con, người đó sẽ vui mừng vì con chiên đó, hơn chín mươi chín con
chiên không thất lạc. Cũng vậy, Cha các con trên trời không muốn để một trong
những kẻ bé mọn này phải hư mất.”
TRUYỆN KỂ
1. Tâm hồn trẻ thơ
Một cậu bé gõ cửa nhà một bà già
và hỏi xem bà có mua những trái trứng cá chín mọng cậu vừa hái được hay không.
Bà trả lời: “Có, bà sẽ xách xô của
cháu vào bếp và đong 2 lít.”
Cậu bé đứng ngoài đùa với con
chó. Bà nói: “Sao cháu không vào xem bà đong có đúng không? Nhỡ bà lường gạt
cháu thì sao?”
- Cháu không sợ, vì nếu bà làm
thế, bà sẽ nhận được điều xấu nhất.
- Cháu muốn nói gì?
- Vì cháu chỉ mất vài trái nhỏ,
nhưng bà tự biến mình thành kẻ trộm.
2. Tấm lòng đơn sơ thành
thật
Vào mùng hai tết Canh Thìn năm
2000, trong lúc đi chơi, bé Thiên Thanh, 9 tuổi, lớp 3A trường Phạm Như Xương,
huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, đã nhặt được chiếc ví có rất nhiều tiền.
Trên đường cầm chiếc ví đến trạm
công an khu vực ở gần đó để giao, bé Thiên Thanh thấy một người khách dáng cao
to, đang lúi húi tìm kiếm một vật gì đó, khuôn mặt đầy vẻ lo âu.
Đoán đây chính là người mất chiếc
ví, bé đến gần và hỏi thì quả thật đúng như vậy. Em đã trao cho người khách chiếc
ví còn nguyên vẹn dưới sự chứng kiến của nhiều người. Số tài sản gồm 4.100.000
đồng, 1.300 mỹ kim, 12 chỉ vàng và tất cả giấy tờ cá nhân quan trọng như hộ chiếu
v.v.
Người khách may mắn đã hết lời
khâm phục cám ơn bé Thiên Thanh. Để tỏ lòng biết ơn, người khách đã lấy 2 triệu
đồng và 100 mỹ kim biếu em, nhưng bé một mực không nhận và hồn nhiên nói:
- Cháu xin cám ơn bác, nhưng cô
giáo cháu đã dạy rằng: khi đi đường mà nhặt được của rơi, thì phải tìm cách trả
lại cho người bị mất, cháu không nhận tiền thưởng của bác đâu!
3. Hãm bám chặt vào Ta
Có người kể lại giấc mơ của mình
như sau: Tối hôm qua, tôi mơ thấy mình đang cầu nguyện, bỗng chốc một luồng ánh
sáng xuất hiện; trong ánh sáng huy hoàng đó, tôi nhận ra Chúa Giêsu đang đứng
trước mặt tôi, Ngài mỉm cười nhìn tôi và nói:
- Con hãy đến ngồi trên tấm thảm
này với Ta.
Lòng tràn đầy vui sướng, tôi tiến
lại gần bên Chúa và ngồi xuống trên tấm thảm bên cạnh Ngài. Tấm thảm từ từ bay
bổng lên không trung đưa theo Chúa Giêsu và tôi ngồi trên đó. Tôi mỉm cười,
lòng đầy vui sướng và tự nhủ: thật không còn gì hạnh phúc cho bằng được ở gần
bên Chúa.
Một lúc sau, tôi quay nhìn Chúa
Giêsu để bày tỏ niềm vui của tôi; thế nhưng tim tôi thắt lại và bắt đầu đập mạnh,
vì tôi có cảm tưởng như Chúa không còn bận tâm gì đến tôi nữa, bởi lẽ Ngài đang
chăm chú rút từng sợi chỉ của tấm thảm thả cho nó bay lơ lửng ở trên không
trung theo chiều gió. Thế là chẳng mấy chốc tấm thảm chỉ còn lại phân nửa. Hết
sợi chỉ này đến sợi chỉ khác từ từ bay. Chân tay tôi bắt đầu run lên vì hoảng sợ,
thế nhưng Chúa Giêsu vẫn thản nhiên tiếp tục rút từng sợi chỉ như chẳng có gì xảy
ra. Sau cùng tôi kêu lên:
- Lạy Chúa, Chúa đang làm gì thế?
Chúa không thấy là chẳng còn mấy chốc nữa tấm thảm của chúng ta sẽ tan tành hay
sao?
Chúa Giêsu mỉm cười nắm lấy tay
tôi và nói:
- Sao con lại nhát đảm và kém
lòng tin như thế? Con hãy bám chặt vào Ta, con sẽ không phải sợ gì nữa, mặc dù
con sẽ bị tước đoạt hết mọi sự, cả đến sợi chỉ cuối cùng.
Chúa Giêsu vừa dứt lời, thì quả
thực sợi chỉ cuối cùng của tấm thảm cũng bị rút đi và tôi giật mình thức giấc.
4. Biết nhận ra Thiên
Chúa
Nhà hiền triết Uddalaka muốn dạy
cho đứa con của ông là Svetalefu biết cách nhận ra Đấng Duy Nhất qua muôn vàn
dáng vẻ của các sự vật. Ông thường dùng những dụ ngôn để dạy con. Một lần kia
ông nói với con ông: "Hãy bỏ nắm muối này vào dĩa nước cha đặt ở đây và
sáng ngày mai hãy trở lại gặp cha!"
Người con làm đúng theo lời cha
anh dạy. Hôm sau, cha anh bảo:
- Con hãy lấy cho ta nắm muối
hôm qua con bỏ vào trong nước.
- Thưa cha, con không thể làm được
vì muối đã tan trong nước hết rồi. Người con nói.
- Vậy con hãy nếm dĩa nước đó bắt
đầu từ mép bên phải qua mép bên kia xem con thấy mùi vị gì?
- Muối.
- Bây giờ, con hãy nếm phía mép
kia của cái dĩa xem con thấy mùi vị gì?
Uddalaka nói.
- Muối.
- Hãy phơi cái dĩa ra ngoài nắng
đi. Người cha nói.
Người con làm y như thế và nhận
thấy rằng, sau khi nước bốc hơi, muối lại xuất hiện. Lúc đó Uddalaka bèn nói:
- Con ạ, con không thể nào nhận
ra Thiên Chúa ở đây, nhưng thật ra Người luôn có đó.
5. Trẻ thơ phó thác đời
mình cho Chúa
Hồi Đệ nhị thế chiến, một trại
tù của Đức Quốc xã có lệnh: “Các tù nhân có nhiệm vụ coi lẫn nhau. Nếu một tù
nhân nào trốn trại, thì sẽ có 10 tù nhân khác thế mạng!”
Một buổi sáng kia, khi kiểm điểm
các tù nhân, viên cai tù phát giác thiếu một người! Thế là tất cả các tù nhân
hôm ấy phải đứng hàng giờ phơi nắng ngoài sân! Mãi đến chiều, người sĩ quan Đức
có trách nhiệm nhà tù xuất hiện với bộ dạng giận dữ, tay chắp sau lưng, bước
chân chậm rãi trên đôi giày bốt-đờ-xô nện trên nền đá nghe “cộp, cộp!” Mắt ông
trừng trừng nhìn thẳng vào mặt từng người tù, thỉnh thoảng ông dừng lại chỉ vào
một người và buông lời cộc lốc: “Mày!” Cứ như thế ông đã chỉ đến người thứ 9,
khi ông dừng lại người tù xấu số thứ 10, thì anh tù bật khóc nức nở! Trong số
tù nhân có Linh mục Maximiliano Kolbe liền giơ tay xin phát biểu:
- Xin ông cho tôi được chết thay
cho người này!
Viên sĩ quan quát:
- Con heo Ba Lan kia, mày có
điên không?
Cha Maximiliano Kolbe ôn tồn
đáp:
- Thưa không, tôi là Linh mục chỉ
có một mình, anh này còn vợ con, cần được sống.
Trước sức mạnh của tình thương,
viên sĩ quan đứng lặng người trong giây lát, rồi buông lời:
- Thuận.
Thế là cả 10 người “được chọn” bị
đẩy vào hầm cho chết đói! Trong hầm, cha Maximiliano Kolbe luôn ca hát và cầu
nguyện, cha đã cảm hóa được 9 người kia xin theo Đạo. Sau một tháng người ta mở
cửa ngục ra xem, thấy cha Maximiliano Kolbe vẫn sống bình an, và vui vẻ. Thấy vậy
họ đã chích cho ngài mũi thuốc kết liễu cuộc đời…!
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II
đã phong Thánh cho ngài ngày 14-10-1982. Hôm đó cũng có gia đình anh tù được chết
thay tham dự!
Rõ ràng cha Kolbe đã đạt ba đòi
hỏi nơi người mục tử tốt:
- Ngài rất can đảm liều chết để
cứu người anh em.
Ngài đã sống Giới Răn Yêu của Đức
Giêsu dạy: “Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng
sống vì bạn hữu của mình!” (Ga 15,13).
- Ngài như trẻ thơ chỉ biết phó
thác đời mình trong tay Chúa, không oán thù kẻ làm hại mình!
6. Ăn sách và thấy ngọt
ngào
Người Do Thái thường giới thiệu
cho trẻ em quyển Kinh Thánh lần đầu tiên bằng cách đặt mật ong lên miệng chúng.
Việc làm tốt đẹp này có lẽ được gợi ý từ bài đọc hôm nay. Ăn cuốn Kinh thánh là
kiểu nói biểu tượng mà ngôn sứ Êzekiel dùng để nói đến việc hấp thụ Lời Chúa. Lời
Chúa trở nên một phần đời ông và nuôi dưỡng tâm linh ông. Chỉ khi hấp thụ Lời
Chúa, ông mới có thể chia sẻ nó cho người khác.
Tôi hấp thụ Lời Chúa như thế
nào? Lời Chúa nuôi dưỡng tôi ra sao? Tôi có thể chia sẻ Lời Chúa cho người khác
cách tốt hơn không?
Lạy Chúa, xin bẻ cho con chiếc
bánh đời Ngài, như Ngài đã bẻ bánh bên bờ biển. (Mary A. Lothbury)
7. Chúa cứu ai tin vào
Chúa
Trong cuốn sách ‘Các thiên thần’
Bill Graham kể rằng vợ của ông sinh ra và lớn lên ở Trung Quốc. Bà ta vẫn còn
nhớ lúc bầy hổ đi lang thang dưới chân đồi ở quê của bà. Một ngày nọ, một bà mẹ
người Hoa và hai đứa con của bà đang đi bộ thì bỗng nhiên một con hổ phóng tới
phía người mẹ và cắm móng vuốt nó vào vai bà. Trong giây phút hoảng sợ, bà nhớ
lại một điều mà một nhà truyền giáo có lần đã nói: “Đừng sợ! Chúa Giêsu sẵn
sàng giúp đỡ bạn khi bạn gặp khó khăn.” Lúc đó, bà kêu lên: “Lạy Chúa Giêsu,
xin cứu con.” Ngay lập tức con hổ chạy thục mạng vào rừng.
Điều gì giữ tôi khỏi thất vọng
khi tôi kêu xin mà Thiên Chúa chẳng đoái hoài?
Thật khích lệ để biết rằng Thiên
Chúa vẫn ra tay điều khiển bánh lái của hành tinh này. (E.C. McKenzie)
8. Bảo vệ trẻ em
Năm tháng đầu năm 2008, hai xã
Thượng Phùng, Sín Cái (Hà Giang) đã xảy ra ba vụ cướp, bốn em nhỏ bị bắt đi biệt
tích. Tính từ năm 2007 đến nay đã có mười vụ cướp trẻ con, thậm chí có vụ người
lạï bịt mặt xông vào cướp khi mẹ đang cho con bú! (báo Tuổi Trẻ, 05/06/2008).
Đây là một trong nhiều thực trạng đau buồn của xã hội hiện nay với tuổi thơ.
Thay vì được hưởng bầu khí yêu thương chăm sóc, các em phải sống trong sợ hãi,
phải học biết cách đề phòng sự xâm hại của kẻ ác. Thay vì là mầm non để người lớn
ươm mầm sống đẹp cho xã hội, các em trở thành món hàng lợi nhuận hay trò chơi
nhục dục. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cùng chung sức bảo vệ các em chống
lại kẻ ác, cũng như đồng lòng yêu thương chăm sóc những em bất hạnh.
Giáo dục và nâng đỡ những trẻ em
nghèo, cá biệt, bất hạnh, nhất là những em mang vết thương lòng, là điều chẳng
dễ chút nào, vì đòi hỏi nhiều hy sinh. Tuy nhiên, bạn ý thức rằng đó là những
chi thể Chúa Kitô đang cần sự giúp đỡ của bạn. Hãy làm việc đó như đang làm cho
Chúa.
9. Kẻ lớn nhất
Các môn đệ xem ra bị ám ảnh bởi
quan niệm lớn-bé, nhất-nhì, đến nỗi nhiều lần tranh cạnh nhau ra mặt và không
úp mở đặt thẳng vấn đề với Chúa. Để trả lời, Chúa gọi một em bé đến đứng trước
mặt các ông. Ta tưởng tượng các ông chưng hửng như thế nào! Trật tự trong Nước
Trời khác hẳn trật tự trong trần thế. Chúa muốn các môn đệ của Ngài có tinh thần
khiêm tốn nên đã cho các ông một bài học thiết thực. Chính sự tự hạ sẽ làm cho
một người bé mọn nhất ở trần gian thành người lớn nhất trong Nước Trời.
“Nếu bạn hỏi tôi, đường nào đến
với Thiên Chúa, tôi sẽ bảo bạn đường thứ nhất là khiêm nhường, đường thứ hai là
khiêm nhường, đường thứ ba là khiêm nhường” (Thánh Augustinô).
THỨ TƯ - YÊU THƯƠNG TRONG CẦU NGUYỆN VÀ SỬA LỖI
NHAU
Lời Chúa: Mt 18, 15-20
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: "Nếu anh em con lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng con và nó
thôi. Nếu nó nghe con, thì con đã lợi được người anh em. Nếu nó không nghe lời
con, hãy đem theo một hoặc hai người nữa, để mọi việc được giải quyết nhờ lời
hai hoặc ba nhân chứng. Nếu nó không nghe họ, hãy trình với cộng đoàn. Và nếu
nó cũng không nghe cộng đoàn, con hãy kể nó như người ngoại giáo và như người
thu thuế.
"Thầy bảo thật các con, những
gì các con cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc, và những gì các con
tháo gỡ dưới đất thì trên trời cũng tháo gỡ.
"Thầy cũng bảo thật các
con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều
gì, thì Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó. Vì ở đâu có hai hoặc
ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy."
TRUYỆN KỂ
1. Sửa lỗi người anh em
Trong Giáo hội ngay từ thuở ban
đầu, đã có những người sai lỗi.
Nếu đó chỉ là những sai lỗi nhỏ
giữa các cá nhân trong cộng đoàn thì cần tha thứ cho nhau (Lc 17, 3-4). Nhưng nếu
đó là những sai lỗi nghiêm trọng đụng chạm đến cộng đoàn, vô tình hay cố ý sống
ngược với giáo huấn căn bản của Đức Giêsu, thì cộng đoàn không thể nhắm mắt làm
ngơ mà không sửa sai cho người anh em phạm lỗi.
Bài Tin Mừng hôm nay phản ánh
cách sửa lỗi trong cộng đoàn thánh Mátthêu. Người phạm lỗi nặng ở đây vẫn được
gọi là người anh em (c. 15). Tiến trình sửa sai huynh đệ này diễn ra từ từ, từng
bước một. Bước này thất bại mới chuyển qua bước kế tiếp.
Bước một là cuộc gặp gỡ kín đáo
giữa người sửa lỗi và người phạm lỗi. Mục đích là để giúp người phạm lỗi biết lắng
nghe lời góp ý chân tình, nhận ra lỗi của mình và thay đổi cuộc sống cho phù hợp.
Bước hai diễn ra khi bước một thất
bại, khi người phạm lỗi không chịu nghe. Người sửa lỗi sẽ đem theo hai, ba người
nữa để tăng sức thuyết phục. Nếu người phạm lỗi vẫn khăng khăng không nghe, thì
bước kế tiếp là phải đưa chuyện này ra trước Giáo hội địa phương (c. 17).
Bước cuối cùng chỉ xảy ra khi
người anh em ấy vẫn ngoan cố, không muốn nghe tiếng nói của cộng đoàn Giáo hội,
nghĩa là tự đặt mình ra ngoài sự hiệp thông với cộng đoàn tín hữu, thì Giáo hội
đành lòng không nhận anh ấy như phần tử của Giáo hội nữa.
2. Sửa lỗi cho anh em
theo tinh thần của Chúa
Tâm tình mà Đức Giêsu muốn các
môn đệ phải có trong khi sửa lỗi cho người khác là: yêu thương chân tình, tôn
trọng, tế nhị, kiên trì và cầu nguyện. Làm được như thế thì mới thành công.
* Sửa lỗi nhau trong yêu thương
chân tình: khi muốn sửa lỗi cho người khác, chúng ta phải luôn tâm niệm rằng: lỗi
của người anh em đôi khi cũng là lỗi của chính mình. Và có lúc lỗi của mình còn
nặng hơn của họ. Có thế, chúng ta mới dễ thông cảm, nhẹ nhàng và bao dung.
* Sửa lỗi trong tâm sự nhẹ
nhàng, kín đáo: hãy đến với anh em bằng những lời nói nhẹ nhàng, đầy tình nghĩa
trong sự yêu thương: "Một mình anh với nó mà thôi."
* Sửa lỗi trong tôn trọng: khi sửa
lỗi cho nhau mà thiếu đi sự tôn trọng thì chỉ còn những lời chỉ trích, nguyền rủa.
Có được sự tôn trọng, chúng ta sẽ nhẹ nhàng, khiêm tốn khi sửa lỗi.
* Sửa lỗi trong sự tế nhị: thường
những người phạm tội luôn mang hai trạng thái, một là tự ái, hai là mặc cảm, xấu
hổ. Vì thế, nếu không tế nhị thì sẽ dễ dẫn đến thất bại và đào thêm hố ngăn
cách cho anh chị em, làm cho sự việc trở nên trầm trọng hơn. Vì thế, cần phải tế
nhị và kín đáo.
* Sửa lỗi trong kiên trì: thi
hành việc sửa lỗi là cả một quá trình. Chuyện liên quan đến toàn thể con người,
nó đụng đến tận gốc rễ của cái “tôi”, vì thế, không phải là chuyện làm một lần
là xong. Hãy nhớ lại sự kiên trì của thánh nữ Mônica với thánh Âutinh con của
ngài!
* Sửa lỗi trong cầu nguyện: “Mưu
sự tại nhân, thành sự tại Thiên." Mọi chuyện sẽ trở thành “công dã tràng”
nếu không biết cậy dựa vào ơn Chúa. Đời sống cầu nguyện, kết hợp với hy sinh là
điều quan trọng để quyết định thành công hay thất bại. Chúng ta nên nhớ rằng: sửa
lỗi là việc của chúng ta, nhưng kết quả là việc của Chúa. Tự thân, chúng ta
không có khả năng để thay đổi người khác.
3. Cách sửa lỗi đầy tình
thương
Ngày kia, khi đức giám mục
Amôlas đến thăm mục vụ một làng nọ, dân chúng đã bày tỏ với ngài lòng bất mãn tột
độ của họ đối với một vị ẩn tu trên núi, vì ông ta đem theo một phụ nữ để chung
sống.
Từ dạo ấy, vị ẩn tu không ngớt
là đối tượng để dân làng đàm tiếu, chỉ trích và lên án.
Thấy giám mục Amôlas đến, họ xúm
lại vây quanh ngài và nói:
- Hôm nay, ngài đã đến đây thì
ngài phải chấm dứt ngay lập tức tình trạng sa đọa bê bối gây nhiều gương mù
gương xấu của vị ẩn tu trên núi kia.
Sau khi nghe những lời kết án
gay gắt của dân làng, giám mục Amôlas quyết định leo lên núi. Ngài đi đầu, dân
làng lũ lượt nối gót theo sau.
Vị ẩn tu thấy đám đông kéo đến
túp lều của mình, ông hoảng sợ và cấp tốc bảo người phụ nữ chui vào trốn trong
một chiếc thùng rỗng.
Đức giám mục là người đầu tiên đến,
và cũng là người đầu tiên bước chân vào túp lều. Ngài đưa mắt nhìn chung quanh
và hiểu ngay tình hình. Ung dung, ngài đi thẳng đến ngồi trên chiếc thùng gỗ để
nghỉ chân. Rồi bình thản khoác tay gọi dân làng vào mà bảo:
- Vào đây. Các ngươi hãy vào mà
lục xét kỹ xem trong túp lều có người phụ nữ nào không.
Họ tìm khắp nơi nhưng không thấy
bóng dáng người đàn bà đâu cả. Thấy tình thế đã dịu, đức giám mục mới nói:
- Bây giờ các ngươi phải quỳ xuống
xin lỗi Thiên Chúa vì đã nói xấu vị ẩn tu này vô cớ.
Và sau đó, khi mọi người đã lục
tục kéo nhau xuống núi, đức giám mục Amôlas mới tiến gần vị ẩn tu nắm chặt hai
bàn tay của ông, đưa mắt nhân từ nhưng cương nghị nhìn sâu vào đôi mắt của ông
và chậm rãi nói:
- Hỡi người anh em, hãy cẩn thận
giữ mình kẻo mất linh hồn đấy.
Hai thái độ khác nhau đối với một
người lẫm lỗi giữa dân làng và giám mục Amôlas có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn
giáo huấn của Chúa Giêsu về việc sửa chữa lỗi lầm của nhau.
4. Đọc kinh chung
Tôi rất vui khi một anh sinh
viên đến kể: “Chúa nhựt vừa rồi khi giảng Cha đã bảo thỉnh thoảng nên đọc kinh
lần chuỗi chung với nhau. Xưa nay mỗi tối con đọc kinh riêng một mình. Thằng em
con thì rất nguội lạnh ít khi đọc. Tối Chúa nhựt ấy con rủ nó cùng con lần chuỗi.
Hai anh em chỉ lần có hai chục thôi. Nhưng chúng con thấy rất sốt sắng. Hôm sau
chúng con rủ thêm mấy thằng bạn nhà bên cạnh nữa.” Tôi không ngờ một lời khuyên
nhỏ như thế mà lại sinh một kết quả to lớn như thế. Nhưng không phải, không phải
nhờ lời khuyên của tôi, mà nhờ Thiên Chúa ở giữa những bạn trẻ ấy: “vì đâu có
hai ba người tụ họp nhân danh Thầy thì Thầy ở giữa những người ấy."
5. Bao dung
Ngày kia một vị Giám mục đến
thăm mục vụ một làng nọ. Dân chúng bày tỏ sự bất mãn của họ đối với một vị ẩn
sĩ trên núi vì ông hiện đang chung sống với một phụ nữ. Sau khi nghe những lời
kết án, vị Giám mục quyết định cùng dân làng leo lên núi. Thấy đám đông đến nơi
mình ở, vị ẩn sĩ hoảng sợ bảo người phụ nữ trốn vào một chiếc thùng rỗng. Vị
Giám mục là người thứ nhất bước vào trong lều. Ngài đưa mắt nhìn quanh và hiểu
ngay sự kiện. Ngài bình thản đến ngồi trên chiếc thùng gỗ ấy và bảo dân làng
vào lục soát. Nhưng không tìm thấy ai, dân làng đành ra về. Chờ cho mọi người
đi hết, vị Giám mục nhìn sâu vào đôi mắt nhà ẩn sĩ và nói “Hỡi người anh em,
hãy cẩn thận giữ linh hồn mình”
6. Sức mạnh của lòng bao
dung
Trong một túp lều tranh lụp xụp
tại một xóm nghèo thuộc vùng ngoại ô của thành phố Bombay, một người đàn bà đáng
thương phải sống những ngày hẩm hiu với đàn con thơ dại.
Chồng bà là một người cha gia
đình tục tằn thô bạo, chỉ biết ăn chơi nhậu nhoẹt và cờ bạc, không thiết chi đến
gia đình. Ông vắng nhà suốt ngày. Các con của ông chỉ thấy ông trở về mỗi buổi
tối trong cơn say mèm hoặc trong trận lôi đình đập đánh, chửi rủa.
Những lúc như thế, bà vợ chỉ biết
đem các con giấu đi để bảo toàn tính mạng cho chúng. Ngày ngày bà cực nhọc vá
may, hoặc vất vả giặt giũ từ nhà này sang nhà khác để kiếm tiền nuôi con.
Trong thinh lặng, bà nhẫn nhục
cam chịu mọi bạc bẽo và những trận đòn oan ức của người chồng.
Rồi vào một buổi tối kia chồng của
chị trở về nhà muộn hơn thường lệ, nhưng tỉnh táo và ít say hơn. Vừa bước tới
hiên nhà ông nghe có tiếng thì thầm từ trong túp lều vọng ra. Một nỗi nghi ngờ
xâm chiếm tâm hồn ông. Máu ghen bừng bừng nổi dậy và ông tự nhủ: “Thật vô phúc
cho kẻ nào rơi vào tay ta."
Ông dừng lại trước cửa và áp sát
tai vào vách, trố mắt nhìn qua khe lá hở. Quanh ngọn đèn dầu leo lét, ông thấy
các con nhỏ quây quần bên cạnh vợ ông. Ông nghe rõ tiếng bà nói với các con:
- Các con hãy đọc thêm một kinh
lạy cha để cầu nguyện cho người cha tốt lành của các con.
Trước khung cảnh đầm ấm tình mẫu
tử đó, bỗng chốc lửa hung hăng trong trái tim ông như tắt ngúm. Tâm hồn cứng cỏi
của ông trở nên như sáp ong mềm ra trước hơi nóng. Mắt ông như bừng sáng sau một
cơn mê ngủ dài.
7. Cần có một tấm lòng
Quý Cao làm quan sĩ sư nước Vệ,
có làm án chặt chân một người. Sau nước Vệ loạn, Quý Cao chạy trốn, ra đến cửa
thành gặp người giữ cửa thành, lại chính là người mình đã lên án chặt chân ngày
trước. Thế nhưng người giữ thành ba lần chỉ chỗ cho Quý Cao trú ẩn, thoát nguy
lúc loạn lạc.
Lúc sắp đi, Quý Cao bảo người giữ
thành rằng: “Trước ta theo phép nước mà chặt chân ngươi. Nay ta gặp nạn, chính
là cái dịp để ngươi báo thù, mà ngươi ba lần chỉ lối cho ta trốn. Thương ta như
thế, là cớ làm sao?”
Người giữ thành nói: “Tội tôi
đáng chặt chân, thì tránh sao cho khỏi. Lúc ông luận tội, xoay xở pháp luật, ý
muốn nới tay, tôi cũng biết. Lúc án đã định, đưa ra hành hình, nét mặt của ông
buồn sầu, tôi lại biết lắm. Ông làm như thế, há có vị riêng gì tôi đó. Đó là
tâm địa bậc quân tử tự nhiên như thế. Nên tôi muốn cứu ông.”
Quý Cao có tâm địa tốt lành của
bậc quân tử, ghét điều ác mà vẫn thương kẻ ác.
8. Cần thấy Chúa nơi tha
nhân
Tiến sĩ Smith là một diễn giả có
nhiều bài giảng tinh tế về tình yêu Chúa.
Một hôm khi Sally bước vào lớp học,
cô thấy trên tường có một tấm bìa lớn, gần đó có để nhiều phi tiêu. Tiến sĩ
Smith nói với tất cả học sinh hãy vẽ hình của người mình ghét nhất rồi dán lên
tấm bìa lớn và ông cho phép họ ném phi tiêu vào hình vẽ đó.
Cô bạn của Sally vẽ hình cô gái
đã "cướp" mất người yêu của cô. Một người khác thì vẽ hình đứa em
trai của mình. Sally cũng vẽ bức hình của một người bạn cũ, cô dồn công sức để
vẽ sao cho thật giống, ngay cả những cái mụn trên mặt cô bạn. Xong xuôi, Sally
có vẻ rất hài lòng với tác phẩm của mình.
Cả lớp xếp hàng và bắt đầu ném
phi tiêu, mọi người cười nói rôm rả và không khí có vẻ rất vui nhộn. Một số học
sinh ném phi tiêu rất mạnh đến nỗi tấm hình của họ bị rách toạc cả ra. Sally chờ
tới lượt mình. Và cô đã rất thất vọng khi tiến sĩ Smith đề nghị mọi người dừng
lại và trở về chỗ ngồi vì thời gian có hạn.
Trong khi Sally ngồi nghĩ và hậm
hực trong lòng vì không có cơ hội để ném phi tiêu vào hình kẻ mình ghét, thì tiến
sĩ Smith bắt đầu gỡ tấm bia ra khỏi tường.
Và sau tấm bia đó là bức hình của
Chúa Giêsu.
Một sự im lặng bao trùm cả lớp học
khi các học sinh trong lớp nhìn thấy bức hình của Chúa Giêsu bị rách nham nhở
trên tường; Những cái lỗ và những dấu lởm chởm trên mặt Chúa, và hai mắt Chúa bị
đâm thủng.
Tiến sĩ Smith chỉ nhắc lại một
câu Lời Chúa: "Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé
nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40)
Mỗi vết thương của Chúa Giêsu
trên cây thập giá là một lần tôi lên án người khác. Chúa chịu đánh đòn để hàn gắn
những vết thương chúng ta đánh nhau, Chúa chịu đội mão gai để hàn gắn sự nhục mạ
chúng ta dành cho nhau.
9. Con ngựa và tình liên
đới
Một người Ả rập kia có con ngựa
rất đẹp. Người láng giềng tìm đủ mọi cách để mua con ngựa, nhưng chủ nhân vẫn một
mực từ chối. Người láng giềng liền nghĩ ra một mưu kế để chiếm đoạt con ngựa.
Biết người chủ ngựa thường hay đi
qua sa mạc, người láng giềng cải trang thành một người hành khất nằm rét run
bên vệ đường. Chủ ngựa là người tốt bụng, thấy người hành khất liền cảm thương,
đề nghị đưa ông ta lên ngựa đem về quán trọ săn sóc.
Con người tốt bụng kia xuống ngựa,
đưa người hành khất lên ngựa. Nhưng khi vừa lên lưng ngựa, người hành khất hiện
nguyên hình tên bất lương. Hắn giật giây cương, thúc ngựa phi nước đại.
Người chủ ngựa đáng thương chỉ
còn biết đuổi theo nói với tên bất lương: “Ngươi đã ăn cắp con ngựa của ta. Ta
sẵn sàng bỏ qua. Nhưng ta chỉ xin ngươi một điều: là đừng bao giờ kể cho ai
nghe mưu mẹo này của ngươi. Kẻo một ngày nào đó, có người hoạn nạn thật sự bên
vệ đường, sẽ không có ai dám dừng lại để cứu giúp người ấy nữa!”
Cuộc sống con người trong xã hội
như một sợi giây chuyền liên đới. Vì thế, một hành động xấu, một lỗi lầm hay một
khuyết điểm của cá nhân, có thể ảnh hưởng đến đời sống tập thể hay cộng đoàn.
Mưu mẹo của tên ăn cắp ngựa trong câu chuyện trên sẽ làm giảm sút niềm tin
trong cuộc sống. Cũng thế, trong một cộng đoàn đức tin, những lỗi lầm cá nhân
cũng ảnh hưởng không nhỏ tới đức tin của cộng đoàn. Vì thế, trong bài Tin Mừng
theo thánh Matthêu hôm nay, Chúa Giêsu dạy ta cách sửa lỗi cho nhau để xây dựng
một cộng đoàn hiệp nhất, yêu thương và tràn đầy niềm tin.
10. Hãy cầu nguyện
Trong vụ khủng bố kinh hoàng tại
nước Mỹ vào ngày 11/9/2001, ngoài hai chiếc phi cơ đâm vào tòa tháp đôi tại New
York, còn một chuyến bay khác mang tên United Flight 93 đã đâm xuống một vùng
quê thuộc tiểu bang Pennsylvania.
Mọi người thắc mắc: tại sao bọn
khủng bố không dùng chiếc phi cơ này đâm vào Tòa Bạch Ốc (The White House) là
cơ quan đầu não của chính phủ Hoa Kỳ?
Phải đợi đến tháng 12 năm 2001,
người ta mới tiết lộ mọi chi tiết từ đoạn băng thu âm trong phòng lái chiếc phi
cơ.
Chiếc máy bay bị bọn không tặc
khống chế. Chúng dồn hành khách xuống cuối máy bay và dự tính cho đâm vào Tòa Bạch
Ốc.
Nhưng các hành khách dưới sự hướng
dẫn của một người đàn ông tên Todd Beamer, đã chống lại bọn khủng bố, ép cho
chiếc máy bay đâm xuống đất, thay vì đâm vào Tòa Bạch Ốc.
Có điều đặc biệt là Todd Beamer
đã xin mọi người cùng cầu nguyện với anh bằng kinh Lạy Cha trước khi xông vào
chiến đấu với bọn khủng bố. Chính sức mạnh của lời cầu nguyện đã làm tăng thêm
niềm tin nơi họ, để họ chiến thắng bọn khủng bố.
“Nếu hai người trong các con ở
dưới đất mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy Đấng ngự trên trời, sẽ
ban cho các con điều đó.”?
Chúng ta hãy xin Chúa biến cộng
đoàn chúng ta thành cộng đoàn của niềm tin, khi mọi người chúng ta luôn biết họp
nhau mỗi ngày dâng lời cầu nguyện và siêng năng tham dự thánh lễ thật sốt sắng.
11. Việc lớn hơn
Sách “Cổ học tinh hoa” kể chuyện
Ngưu Hoằng, Ngưu Bật, là hai anh em ở chung với nhau. Ngưu Bật có tính thích nhậu,
thường hay nát rượu.
Một hôm, lúc anh đi vắng, Ngưu Bật
ở nhà uống rượu say túy lúy, bắn chết con trâu của anh. Người vợ ở nhà đón đợi
chồng về, vừa thấy chồng bước vào cửa thì xăm xăm bảo chồng rằng:
- Này! Chú nó ở nhà bắn chết
trâu rồi!
- Trâu chết thì bảo đem đi làm
thịt, Hoằng bình tĩnh nói.
Nói rồi Hoằng vào nhà, vừa yên
chỗ thì vợ đã đến giục giã:
- Chú nó bắn chết trâu là việc
to lắm, có phải việc thường đâu…
Hoằng vẫn giữ nét mặt hoà nhã trả
lời:
- Phải, tôi biết rồi mà.
Rồi mở sách vở ra xem, như không
có chuyện gì cả. Thấy thế, người vợ nguôi giận, không dám nói gì nữa.
Trâu chết là việc lớn, nhưng còn
một việc lớn hơn là cái tình, cái nghĩa! Nếu đưa đi kiện cáo, trâu chết vẫn chết
mà lại mất thêm người em; chỉ nhờ nhịn chịu tật xấu của em mà Ngưu Hoằng giữ được
cái tâm bình an và được người đời sau kính phục.
12. Biết dùng người
Có một câu chuyện kể với tựa đề
‘Chiếc thùng bị thủng’ như sau: Một người kia có hai chiếc thùng lớn để gánh nước.
Một trong hai chiếc thùng ấy bị thủng. Vì thế, khi gánh từ giếng về, nước trong
thùng chỉ còn một nửa. Chiếc thùng còn nguyên rất tự hào về sự hoàn hảo của
mình, còn chiếc thùng bị thủng cứ luôn áy náy vì đã không chu toàn nhiệm vụ.
Một ngày kia, chiếc thùng bị thủng
mới thưa với ông chủ:
- Tôi thật sự xấu hổ về mình, tôi
muốn xin lỗi ông!
Ông chủ ngạc nhiên hỏi lại:
- Nhưng ngươi xấu hổ về chuyện
gì?
Chiếc thùng buồn bã trả lời:
- Chỉ vì cái lỗ thủng trên thân
tôi mà ông không nhận được đầy đủ những gì xứng đáng với công sức của ông!
Đến đây thì ông chủ ôn tồn bảo:
- Không đâu, ngươi cứ yên tâm. Mỗi
khi đi từ giếng về nhà, ngươi hãy chú ý nhìn xem những luống hoa bên vệ đường.
Quả thật, dọc theo bên đường là những luống hoa thật rực rỡ.
Chiếc thùng bị thủng cảm thấy
vui vẻ hơn được một lúc, nhưng rồi về đến nhà, nó vẫn chỉ còn được một nửa
thùng nước. Chiếc thùng lại thấy ân hận:
- Tôi xin lỗi ông!
Ông chủ lại hỏi:
- Ơ hay, thế ngươi không nhận ra
rằng hoa chỉ mọc ở bên này đường, phía của ngươi thôi sao? Ta đã biết được cái
lỗ thủng của ngươi và ta đã tận dụng nó. Ta đã gieo những hạt giống hoa bên vệ
đường phía bên ngươi, và trong những năm qua, chính ngươi không ngờ mình đã tưới
cho chúng được tốt tươi. Ta đã hái những đóa hoa để trang hoàng cho căn nhà. Nếu
không có ngươi, căn nhà của ta đâu có được tươi mát và duyên dáng như thế này!
Ông chủ đã sửa chữa khuyết điểm
của chiếc thùng bị thủng rất là tế nhị và tài tình. Thay vì đem hàn lại lỗ thủng
hoặc bỏ hẳn chiếc thùng đi, ông lại sử dụng nó vào hai nhiệm vụ, vừa gánh nước
vừa tưới hoa. Điều này đã khiến nó không còn áy náy, mà trái lại, càng thêm
hãnh diện vì đã đem lại lợi ích cho chủ nó.
THỨ NĂM - THA THỨ NHƯ CHÚA THA THỨ
Lời Chúa: Mt 18,21 - 19,1
Khi ấy, Phêrô đến thưa cùng Chúa
Giêsu rằng: "Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ
mấy lần? Có phải đến bảy lần không?" Chúa Giêsu đáp: "Thầy không bảo
con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy.
"Về vấn đề này, thì Nước Trời
cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ. Trước hết người ta dẫn
đến vua một người mắc nợ mười ngàn nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ
ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền
sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ
hạn, và tôi sẽ trả lại cho ngài tất cả." Người chủ động lòng thương, trả tự
do và tha nợ cho y.
"Khi ra về, tên đầy tớ gặp
một người bạn mắc nợ y một trăm bạc: Y tóm lấy, bóp cổ mà nói rằng: "Hãy
trả nợ cho ta." Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn rằng:
"Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh." Y
không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong. Các bạn
y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu
truyện. Bấy giờ chủ đòi y đến và bảo rằng: "Tên đầy tớ ác độc kia, ta đã
tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu
thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?" Chủ nổi giận, trao y cho lý hình
hành hạ, cho đến khi trả hết nợ. "Vậy, Cha Thầy trên trời cũng xử với các
con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em
mình."
Khi Chúa Giêsu nói những lời đó
xong, thì Người bỏ xứ Galilêa mà đến Giuđêa, bên kia sông Giođan.
TRUYỆN KỂ
1. Tha Thứ
Một đôi vợ chồng nọ đưa nhau ra
tòa xin ly dị. Vị luật sư biện hộ cho quan tòa biết: đôi vợ chồng này sống hoàn
toàn yên lặng với nhau trong suốt 12 năm liên tiếp. Họ cũng không muốn gặp nhau
nữa, nếu cần cho nhau biết điều gì, thì họ chỉ cần viết vào một mảnh giấy để sẵn
trên bàn cho người kia đọc.
Ðôi vợ chồng này trước đây đã sống
hạnh phúc với nhau trong vòng 18 năm, đã nuôi nấng con cái khôn lớn, nhưng rồi
không rõ vì lý do gì, hai người đã không thèm nói chuyện với nhau, và giờ đây họ
không nhớ đã giận nhau vì lý do gì.
2. Trả thù: cách của người
công giáo
Có hai người thổ dân Nam Phi rất
ghét nhau. Ngày kia một trong hai người gặp đứa con gái nhỏ của kẻ thù mình
trong rừng. Tên ấy liền bắt cô bé, lấy dao chặt hai ngón tay rồi thả ra. Cô bé
vừa chạy về vừa khóc, bàn tay máu chảy ròng ròng. Còn tên hung thủ vừa đi vừa
la lớn: “Trả được thù rồi."
Ngày qua tháng lại, thấm thoắt mười mấy năm,
cô gái đã có chồng con. Một hôm, có một tên ăn mày tới xin ăn. Người đàn bà nhận
ra đó là kẻ chặt ngón tay mình, vội vàng trở vào nhà bảo đầy tớ đem sữa bánh ra
cho ăn. Khi kẻ kia ăn no rồi, người đàn bà đưa bàn tay cụt hai ngón ra cho hắn
xem và nói: “Tôi cũng đã trả được thù rồi." Tên ăn mày xúc động khóc ngất.
Riêng bà kia vì đã trở lại đạo nên hiểu rằng: “Nếu kẻ thù mình đói, hãy cho nó
ăn, khát hãy cho nó uống.” (Rm 12,20).
3. Tha thứ cho kẻ thù
Một hiệp sĩ dũng cảm tên là
Hildebrand bị một bạn đồng nghiệp tên là Bruno nhục mạ nặng nề. Hildebrand thề
sẽ trả thù đích đáng. Ông suy nghĩ và chuẩn bị kỹ lưỡng chương trình hành động.
Cuối cùng ông chọn địa điểm và thời gian thuận lợi.
Ông thức dậy nửa đêm, một mình
võ trang đầy đủ đi đến nơi thanh vắng mà ông biết là Brunô sẽ đi ngang qua.
Trên đường đi ông gặp thấy một nhà nguyện nhỏ mở cửa. Ông vào đó để chờ sáng, và
trong khi chờ đợi, ông tiêu khiển bằng cách nhìn các bức tranh trong nhà nguyện.
Bức thứ nhất vẽ Đấng Cứu Thế mặc
áo choàng đỏ, đầu đội mão gai, phía dưới có ghi bằng tiếng La tinh câu này: “Bị
lăng nhục, Ngài không đáp trả lại lăng nhục." Bức thứ hai nhắc lại cảnh
đau buồn khi bị đánh đòn, với hàng chữ: “Khi chịu những khổ đau như thế, Ngài
không hề đe doạ." Và cuối cùng bức thứ ba trình bày Chúa Giêsu trên Thập
giá, hàng chữ là: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm."
Nhìn liên tiếp ba bức tranh như
thế, tâm hồn Hildebrand bị xúc động mạnh. Ông quì gối xuống và bắt đầu cầu nguyện.
Dần dần cơn hận thù giảm đi, rồi biến mất. Ông còn ngồi lại đó chờ kẻ thù của
ông đến, nhưng chờ gặp để tha thứ và để làm hoà với nhau
4. Chấp nhận giới hạn của
bản thân
Một hôm, gà con cứ bám riết lấy
gà mẹ, khóc lóc kể lể:
- Mẹ ơi, tụi thỏ chế diễu tai
con không bằng một góc tai chúng…
- Tha cho chúng đi con! Gà mẹ trả
lời.
- Nhưng bọn cò lại nói con hèn
hơn bàn chân của chúng.
- Tha cho chúng đi con!
- Mẹ! Gà con khóc to lên. Lúc
nào mẹ cũng nói tha cho chúng, trong khi con bị chế diễu, bị nhạo báng…
- Tại vì họ nói đúng!
- Nhưng tại sao?
- Tại vì con là một con gà!
Như gà con nọ, tôi cảm thấy bị
xúc phạm và khó tha thứ cho anh em, chỉ vì không chịu chấp nhận chính mình.
Lạy Chúa, xin cho con biết chấp
nhận giới hạn bản thân, để nhận ra lòng nhân từ quảng đại của Thiên Chúa, để
không chỉ tha thứ đến 7 lần, mà bảy mươi lần 7.
5. Tha thứ để bình an
Một ngày nọ, một nữ tu gọi tôi lại
bảo rằng có một người đàn ông trẻ đang hấp hối nhưng thật kỳ lạ là anh ta không
thể chết. Tôi vội lại gần và hỏi anh ta:
- Có điều gì bất ổn chăng?
Anh trả lời:
- Sơ ơi! Tôi không thể nào chết
được cho đến khi tôi chưa cầu xin cha tôi tha thứ.
Vị nữ tu vội vã tìm đến nhà cha
anh ta và gọi ông ấy. Điều lạ lùng đã xảy ra khi người cha ôm con trai mình vào
lòng và khóc:
- Con trai! Con trai yêu quý của
cha.
Người con trai ấy cầu xin cha:
- Cha ơi, xin hãy tha thứ cho
con.
Hai người đàn ông ôm chầm lấy
nhau thật lâu. Vài giờ sau, người thanh niên từ giã cõi đời.
6. Tha thứ là mua nghĩa
Mạnh Thường Quân là người rất
giàu có, đã cho nhiều người ở đất Tiết mượn tiền. Một hôm ông sai Phùng Huyên –
người đầy tớ – sang đất Tiết đòi nợ. Lúc sắp đi, Phùng Huyên hỏi:
- Tiền nợ thu được, ngài có định
mua gì không?
Mạnh Thường Quân nói:
- Ngươi xem trong nhà ta còn thiếu
thứ gì thì mua.
Khi đến đất Tiết, người đầy tớ
cho gọi các con nợ đến và bảo:
- Các người công nợ chủ tôi thế
nào, đưa giấy nợ cho tôi coi.
Họ liền đưa giấy nợ cho Phùng
Huyên, sau khi xem xong, Phùng Huyên bật quẹt đốt hết giấy nợ!
Mọi người ngạc nhiên hỏi:
- Sao thế?
Phùng Huyên trả lời:
- Vì ông chủ bảo tôi nói với các
người là ông tha hết nợ cho dân đất Tiết.
Lúc Phùng Huyên trở về, Mạnh Thường
Quân hỏi:
- Ngươi đòi được nợ, thì báu vật
ngươi mua về cho ta đâu?
Phùng Huyên thưa với ông chủ:
- Nhà của ngài châu báu đầy kho,
gia súc vô số kể… chỉ thiếu “nghĩa”, nên tôi lấy hết tiền nợ đã thu mua nghĩa
cho ngài rồi.
Mạnh Thường Quân bực mình, vì
ông chưa hiểu mua “nghĩa” là mua cái gì?
Sau này Mạnh Thường Quân lâm bệnh
nan y, bán hết gia sản để chữa bệnh mà bệnh vẫn không thuyên giảm. Dân đất Tiết
nghe tin ấy, họ lũ lượt kéo đến thăm và biếu ông đủ thứ, nhất là họ biếu ông một
hộp thuốc quý, ông uống vào thì khỏi bệnh ngay. Lúc ấy ông mới hiểu Phùng Huyên
đã mua “nghĩa” cho ông là vậy!
7. Tha thứ và sức khỏe
Một bác sĩ giới thiệu một phụ nữ
cho một bác sĩ chuyên khoa. Khi khám nghiệm, bác sĩ chuyên khoa thấy tình trạng
của bà tiến triển rất nhiều. Bác sĩ của bà tỏ ra ngạc nhiên và hỏi: “Có gì bất
thường xảy đến với bà từ khi tôi gặp bà lần cuối không?” Bà ta trả lời: “Thưa
có, tôi đã giải hòa với một người mà tôi thù ghét trong nhiều năm.” Y học hiện
đại đang xem ra bắt đầu chứng minh điều Thánh Kinh đề cập đến, đó là mối quan hệ
giữa tội lỗi và bệnh tật.
Tôi có nhớ lần nào việc từ chối
tha thứ cho người khác đã ảnh hưởng đến sức khỏe của tôi không?
Cảm giác về chính mình và về người
khác… có thể có liên quan đến bệnh tật của chúng ta hơn là do di truyền, thức
ăn hoặc môi trường. (Bruce Larson)
THỨ SÁU - KHÔNG ĐƯỢC PHÂN LY
Lời Chúa: Mt 19, 3-12
Khi ấy, có những người biệt phái
đến cùng Chúa Giêsu và hỏi thử Người rằng: "Có được phép rẫy vợ vì bất cứ
lẽ gì không?" Người đáp: "Nào các ông đã chẳng đọc thấy rằng: Từ thuở
ban đầu, Tạo Hoá đã dựng loài người có nam có nữ, và Người đã phán: Bởi thế nên
người nam sẽ bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai sẽ nên một thân xác?
Cho nên họ không còn là hai, nhưng là một thân xác. Vậy điều gì Thiên Chúa đã kết
hợp, thì loài người không được phân ly." Họ hỏi lại: "Vậy tại sao
Môsê đã truyền cấp tờ ly hôn mà cho rẫy vợ?" Người đáp: "Vì lòng chai
đá của các ông mà Môsê đã cho phép các ông rẫy vợ; nhưng từ ban đầu thì không
có như vậy. Tôi bảo các ông rằng: Ai rẫy vợ, trừ nố gian dâm, và đi cưới vợ khác,
thì phạm tội ngoại tình. Và ai cưới người đã bị rẫy, cũng phạm tội ngoại
tình."
Các môn đệ thưa Người rằng:
"Nếu sự thể việc vợ chồng là như thế, thì tốt hơn đừng cưới vợ." Người
đáp: "Không phải mọi người hiểu được điều ấy, nhưng chỉ những ai được ban
cho hiểu mà thôi. Vì có những hoạn nhân từ lòng mẹ sinh ra, có những hoạn nhân
do người ta làm nên, và có những người vì Nước Trời, tự trở thành hoạn nhân. Ai
có thể hiểu được thì hiểu."
TRUYỆN KỂ
1. Không được phân ly
Khi Đức Piô X đắc cử giám mục Mantua,
một ngày kia ngài về thăm mẹ. Chuyện trò vui vẻ một hồi lâu và trong khi nói
chuyện, ngài vui cười chỉ cho mẹ thấy chiếc nhẫn của giám mục.
Bà mỉm cười, đưa bàn tay chai cứng
phô chiếc nhẫn cưới mỏng manh, mộc mạc. Bà nói: “Không có chiếc nhẫn này sẽ chẳng
có chiếc nhẫn giám mục của con."
2. Chung thuỷ trong hôn
nhân
Catarina Yaguello là vợ của bá
tước Vasa, người Phần Lan. Vì bị buộc tội phản loạn, vua Phần Lan xử Vasa với bản
án tù chung thân.
Khi hay tin này, nữ bá tước Vasa
là Catarina Yaguello đã đến xin phép nhà vua cho bà được chia sẻ số phận tù đày
với chồng bà.
Vua Phần Lan lúc đó là Hériste
đã ngạc nhiên trước lời xin của Catarina. Nhà vua đã dùng mọi lý lẽ để thuyết
phục Catarina bỏ ý định điên rồ kia. Nhà vua hỏi bà:
- Ngươi có biết rằng, chồng
ngươi sẽ không bao giờ nhìn thấy ánh sáng mặt trời nữa không?
- Thưa hoàng thượng có.
- Và ngươi có biết rằng, nay thì
chồng ngươi không còn được đối xử như một bá tước nữa, mà bị đối xử như một tên
phản loạn không?
- Thưa hoàng thượng biết, cho dù
có được tự do hay tù tội, có tội hay vô tội, đức lang quân này vẫn là chồng của
tiện nữ.
Đức vua ngắt lời bà:
- Nhưng mà giờ đây, còn điều gì
ràng buộc ngươi với hắn nữa đâu? Ngươi được tự do mà.
Nữ bá tước Vasa tháo chiếc nhẫn
cưới đang đeo ở tay ra đưa cho nhà vua và nói:
- Xin hoàng thượng đọc cho.
Trên mặt chiếc nhẫn chỉ khắc vỏn
vẹn có hai chữ “mors sola”, nghĩa là chỉ có cái chết mà thôi.
Thế là Catarina được nhà vua cho
phép chia sẻ với số phận tù đày với chồng, sống trong ngục, chịu cảnh khổ đau
nhục nhã trong suốt 17 năm trường, cho đến khi vua Hériste qua đời. Lúc đó hai
vợ chồng bá tước Vasa mới được trả tự do.
3. Nữ thần hòa giải
Một trong những đền thờ cổ nói
lên tinh thần của người Rôma thời xưa, đó là đền tờ dâng kính Nữ thần hòa giải.
Khi hai vợ chồng bất hòa, người ta khuyên họ đến trình diện nữ thần hòa giải.
Nghi thức rất đơn sơ: mỗi người có thể trình bày lý lẽ, phơi bày những bất công
mà mình phải gánh chịu trong đời sống gia đình.
Nghi thức đòi hỏi hai người
không được nói cùng một lúc. Hễ ai ngắt lời người kia thì điều đó sẽ bị coi là
phạm thánh.
Nghi thức này có sức mang lại những
kết quả phi thường: sau khi trình bày xong lý lẽ, rủa xả thậm tệ người phối ngẫu,
hai vợ chồng thường làm hòa với nhau trước mặt vị thần
4. Coi thường tình yêu
Người đàn ông trong phim “Anh em
Blue” sống trong căn hộ nằm ở đường rầy Chicago. Khi anh của ông đến sống chung
bới ông, người anh hỏi: “Xe lửa có thường đi ngang qua đây không?” Người em trả
lời: “Quá thường đến độ em chẳng để ý nữa.” Khi một cái gì năng xảy ra, sau một
thời gian, chúng ta có xu hướng không buồn để ý đến nó nữa.
Bài đọc hôm nay (bài đọc 1) lưu
ý chúng ta điểm này. Nếu chúng ta khoanh tròn chữ “cho” lại, chúng ta sẽ có ít
là 12 vòng. Thiên Chúa “cho” Israel quá nhiều và quá thường xuyên đến độ họ xem
thường những món quà đó.
Đâu là món quà Thiên Chúa cho
tôi mà tôi có khuynh hướng coi thường?
Tôi được cho quá nhiều đến độ
không có thời giờ để xem cái nào bị tôi khước từ. (Helen Keller)
5. Cánh cửa khép lại và
mở ra
Một người mẹ trẻ có một đứa con
nhỏ, đã viết thư cho Ann Landers. Chồng của bà đã làm một điều ngu xuẩn và bà
đã ly thân với chồng. Ann viết thư hồi âm: “Đừng cứng đầu và kiêu hãnh nữa. Hãy
trở về với anh ta. Tôi hứa với bạn là bạn sẽ không bao giờ phải hối tiếc.” Nhiều
năm sau đó, người phụ nữ ấy lại viết thư cho Ann. Bà ta vừa mới chôn chồng
xong. Tám năm trước, bà ta đã bỏ chồng, nhưng trở về với anh ta theo lời khuyên
của Ann. Bà ta cám ơn Ann vì lời khuyên đó và nói rằng tám năm qua sống với
nhau là giai đoạn hạnh phúc nhất trong đời sống gia đình của họ.
Điều gì có thể giúp cải thiện mối
quan hệ giữa tôi với người bạn đời hay với bạn hữu, những người mà tôi đang gặp
rắc rối với họ?
Khi cánh cửa hạnh phúc khép lại,
một cánh cửa khác sẽ mở ra. Nhưng chúng ta mải nhìn cánh cửa đã khép lại đến độ
không thấy được cánh cửa đã mở ra cho chúng ta. (Helen Keller)
6. Độc thân vì nước trời
“Động lực duy nhất và đích thực
cho việc đoc thân là để trung tín trong việc hoàn toàn bắt chước Đức Giêsu Kitô.
Việc độc thân thuộc lãnh vực tình yêu, mà tình yêu thì không thể giải thích hay
lý luận” (Hồng y G. Daneels). Tại sao những cô gái chàng trai tuổi xuân phơi phới,
với một tương lai đầy hứa hẹn, lại giã từ tất cả, tận hiến cho Thiên Chúa trong
đời sống độc thân tu sĩ hay linh mục?
Đúng là ta không thể tìm ra lý
do để giải thích, chỉ cảm nhận rằng họ đang yêu, yêu Đấng vô hình, yêu Đấng đã
chết và sống lại cho họ. Để diễn tả tình yêu ấy một cách cụ thể và triệt để, họ
sẵn lòng khước từ hạnh phúc nam nữ, để sống độc thân vì Nước Trời như Đức
Giêsu, đi theo Đức Giêsu, sống và chết như Ngài.
Lý tưởng đời tận hiến cao đẹp
quá vì đi đến ngọn nguồn sự sống con người là noi gương Đức Kitô, sống tình con
thảo với Chúa Cha và hết lòng phục vụ tha nhân! Bạn hãy cầu nguyện cho nhiều
người quảng đại dấn thân trong đời sống cao đẹp này. Có khi chính bạn cũng được
Chúa mời gọi dấn bước trên con đường cao cả này đấy! Ước gì bạn đừng từ chối.
7. Giá trị gia đình
Suy niệm: Năm 1996, bà Lucid, một
trong 6 nữ phi hành gia đầu tiên thuộc Cơ quan NASA Hoa Kỳ đã thực hiện một phi
vụ vũ trụ mang tính lịch sử và đã trở thành người phụ nữ đầu tiên sống lâu nhất
trên không gian. Bà đã bay vòng quanh trái đất 3.008 lần, trong thời gian 4.512
giờ đồng hồ. Tổng cộng chiều dài mà bà đã bay trong suốt 6 tháng 8 ngày là
67.454.841 dặm. Thật là một thành tích không ngờ đối với một phụ nữ. Nhưng bí
quyết đã thôi thúc bà vượt qua mọi trở ngại và khích lệ bà tới thành công: đó
chính là sự gắn bó của cuộc đời bà với gia đình, như bà đã thú nhận: trong suốt
thời gian 188 ngày bồng bềnh trên không gian, tâm hồn bà luôn hướng về Michael
Lucid, người chồng đã cùng chung sống 28 năm và ba đứa con tại thành phố
Houston, Tiểu bang Texas.
Hãy nhìn lại gia đình mình và tự
hỏi: Gia đình là chiếc nôi hay nhà giam của tôi? Gia đình là điểm tựa tinh thần
để tôi dựa vào, hay là một gánh nặng mà tôi phải vác lấy? Trong gia đình tôi có
niềm vui, có sự cảm thông, chia sẻ, có sự bình an, hay mỗi người là một thế giới
lạnh lùng, cô lập? Tôi có thể đóng góp gì để thăng tiến đời sống đạo đức của gia
đình mình và làm cho gia đình thực sự trở thành một mái ấm của những người chân
thành yêu thương nhau?
Nhiều người làm đủ mọi cách để
kiếm thật nhiều tiền bạc, nhà, đất… cho gia đình mình. Theo bạn, sự bền vững của
gia đình phụ thuộc vào điều gì?
8. Tình yêu chân thực
Buổi chiều ngày 24 tháng 12 năm
2004, Wendy, cô sinh viên năm thứ hai đại học Dược Khoa đang đứng đợi chuyến xe
lửa dưới subway của thành phố NewYork để trở về nhà. Tất cả các anh chị em của
cô đều hẹn là sẽ về nhà đúng 7 giờ để đoàn tụ trong buổi cơm chiều thân mật
cùng cha mẹ theo truyền thống của gia đình họ. Bỗng Wendy để ý đến một cặp nam
nữ đang đứng cách cô vài bước, họ đang ra dấu bằng tay để giao lưu với nhau.
Wendy hiểu được thuật ngữ ra dấu
bằng tay vì trong những năm đầu đại học cô đã volunteer làm việc trong trường
tiểu học dành cho người khuyết tật nên cô đã học được cách ra dấu tay để trò
truyện với những người câm điếc. Vốn tính chịu khó học hỏi, Wendy đã khá thông
thạo thuật ngữ này. Nhìn vào cách ra dấu của hai người khuyết tật ở trạm
subway, Wendy đã "nghe lóm" được câu chuyện của hai người. Thì ra, cô
gái câm hỏi thăm đường đến một nơi nào đó, nhưng chàng thanh niên câm thì
"trả lời" là anh không biết nơi chốn đó. Wendy rất thông thạo đường
xá trong khu vực nầy nên cô mạnh dạn đứng ra chỉ dẫn cho cô gái. Dĩ nhiên cả ba
đều dùng cách ra dấu bằng tay để "nói" trong câu chuyện của họ. Khi
xe lửa đến trạm thì Wendy và hai người bạn mới quen đã kịp thời trao đổi địa chỉ
email cho nhau.
Những ngày sau đó, ba người tiếp
tục trò chuyện dùng phương tiện text messages của mobile phone rồi dần dà họ trở
thành bạn thần giao cách cảm với nhau. Chàng trai kia tên là Jack và cô gái tên
là Debbie. Jack cho biết anh đang làm việc cho một hãng xuất nhập khẩu và ở
cách nhà Wendy một đỗi không xa mấy. Từ những text messages, emails thăm hỏi xã
giao lúc đầu, cả hai dần dần tiến đến chỗ trở thành bạn thân lúc nào không hay.
Đôi khi Jack đến trường đón và mời cô đi ăn. Cả hai thích khung cảnh êm đềm
trong Central Park nên thường yên lặng đi bên nhau trong những giờ phút nghỉ
ngơi. Tuy phải ra dấu để trò chuyện nhưng Wendy không cảm thấy bất tiện mà cô lại
có dịp trau dồi "thủ thuật" để nghệ thuật ra dấu của cô càng lúc càng
tinh xảo hơn.
Đến mùa thu năm đó thì hai người
đã thân thiết như một cặp tình nhân. Wendy đã quên hẳn Jack là một người khuyết
tật, cho nên lần đầu tiên khi Jack ra dấu "I Love You" thì Wendy đã
nhẹ nhàng ngả đầu vào vai anh.
Sau những giờ học, thỉnh thoảng
Wendy cũng vào chatroom đấu láo với bạn bè, mỗi khi Wendy đặt câu hỏi "Bạn
có thể fall in love với một người câm điếc hay không?" thì hình như không
có bạn bè nào của cô có được câu trả lời dứt khoát. Điều này đã khiến cho Wendy
bị dày vò không ít.
Vào dịp lễ Thanksgiving năm đó,
Jack tặng cho Wendy một bó hoa hồng kèm theo câu ra dấu: "Wendy có chịu
làm girl friend của mình không?" Wendy vừa vui mừng vừa kinh ngạc, nhưng
sau đó là những mâu thuẫn khổ sở trong nội tâm. Wendy biết rõ là cô sẽ gặp phải
sự phản đối mạnh mẽ của những người thân. Quả nhiên cha mẹ cô khi biết rõ sự việc
đã dùng đủ mọi phương thức để mong lôi kéo đứa con gái "lầm đường lạc lối"
trở về. Thôi thì hết chú bác, cô dì, lại đến các anh chị em, bạn học, được cha
mẹ cô vận động tới để làm thuyết khách.
Đứng trước áp lực này, Wendy chỉ
có thể phân trần với gia đình về nhân cách cao cả của Jack, cô còn cho mọi người
biết là thái độ lạc quan, đầu óc thực tế, tích cực của anh đã khiến cô cảm thấy
gần gũi hơn những bạn trai mà cô đã từng quen biết trước đây.
Gia đình sau khi nghe cô giải
bày đã không còn quá khắt khe phê bình, mọi người dự định là sẽ gặp mặt Jack
trước rồi mới có thể đánh giá cuộc tình của hai người. Cả nhà đồng ý là sẽ gặp
mặt Jack vào trưa ngày 25 tháng 12 sau khi mọi người đã hưởng được một silent
night bình yên cho tâm tư lắng đọng. Wendy đã có quyết định trong đầu, nếu như
cha mẹ, anh chị của cô có những cử chỉ, hành động khinh miệt Jack thì cô và
Jack sẽ đi đến nhà thờ để nhờ sự gia ơn và chúc lành của Thiên chúa. Trên đường
dẫn Jack đến nhà, tâm trạng hồi hộp của Wendy đã không thoát khỏi cặp mắt quan
sát của Jack, anh mỉm cười ra dấu cho cô:
- Wendy yên tâm, bảo đảm với em
là cha mẹ em sẽ hài lòng. Anh cho họ biết là anh sẽ thương yêu em, chăm sóc em
suốt đời.
Đó là lần đầu tiên trong đời cô
sinh viên trường Dược rơi rớt những giọt lệ cảm động.
Vừa vào đến nhà, Wendy nắm tay
Jack đi đến trước mặt cha mẹ, cô nói:
- Thưa ba má, đây là Jack, bạn
trai mà con thường nhắc đến.
Câu nói của cô vừa thốt ra thì tất
cả những hộp kẹo bánh, hoa tươi trên tay Jack tức thời lộp độp rơi xuống đất,
anh nhào tới ôm lấy cô vào vòng tay khỏe mạnh của anh. Một điều mà Wendy không
thể ngờ được là cô bỗng nghe một giọng nói thảng thốt phát ra từ cửa miệng của
Jack:
- Trời đất, em biết nói à?
Đó cũng chính là câu mà lúc đó
Wendy muốn hỏi Jack.
Mọi người ngoài cuộc đều ngẩn
ngơ, ngạc nhiên trong khi hai người trong cuộc thì ôm nhau cười, nói, la, hét,
nhảy nhót như điên dại. Thì ra Jack cứ ngỡ Wendy là một cô gái câm thế mà anh vẫn
sinh lòng quyến luyến mà còn muốn tiếp tục đi đến hôn nhân. Wendy cũng tự hào
có quyết định sáng suốt vì đã chọn được người tình trong mộng tuyệt vời nhất thế
gian.
9. Thủy chung với nhau
Suy niệm: Các con số thống kê
cho thấy tình trạng ly dị do bạo hành, xung khắc giữa vợ chồng ngày càng gia
tăng, kể cả nơi “thành lũy” cuối cùng là người Công giáo. Lời Chúa hôm nay cho
ta cơ hội đào sâu giáo huấn của Chúa Giêsu về sự kết hợp “keo sơn gắn bó,” bất
khả phân ly của hôn nhân. Qua giao ước hôn nhân, hai người tự nguyện thỏa thuận
một cam kết nền tảng: chung sống với nhau cho đến trọn đời. Để có thể chung sống,
nền tảng và điều kiện tiên quyết là họ phải quan tâm đến nhau. Ích kỷ chỉ quan
tâm đến sở thích, ý muốn, dự định, chương trình riêng của mình là sát thủ thầm
lặng, có thể giết chết tình yêu cũng như mối tương quan gắn bó giữa hai vợ chồng.
Quan tâm đến nhau, nghĩ đến hạnh phúc của người bạn đời hơn là của mình là điều
Đức Giêsu luôn làm cho Hội Thánh, hiền thê của Ngài. Vì thế, tình yêu gắn bó giữa
Đức Kitô và Hội Thánh là hình ảnh và là khuôn mẫu cho đời sống hôn nhân Kitô
giáo (Ep 5,21-33).
Mời Bạn: Hạnh phúc trong hôn
nhân được ví như một tòa nhà, không phải bỗng dưng mà có, nhưng là kết quả xây
dựng, kiến tạo từng giờ, từng ngày của cả hai vợ chồng. Do đó, bạn đừng bao giờ
khoán trắng việc xây dựng hạnh phúc cho người phối ngẫu của mình, nhưng chung một
tay, góp một phần đem lại hạnh phúc cho mái ấm của bạn.
THỨ BẢY - TINH THẦN TRẺ NHỎ
Lời Chúa: Mt 19, 13-15
Khi ấy, người ta đem những trẻ
nhỏ đến cho Chúa Giêsu để Người đặt tay và cầu nguyện cho chúng. Các môn đệ liền
quở trách chúng, nhưng Chúa Giêsu bảo: "Hãy để các trẻ nhỏ đến với Ta, và
đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời là của những người giống như chúng." Sau
khi Người đặt tay trên chúng, thì Người đi khỏi nơi đó.
TRUYỆN KỂ
1. Một trẻ thơ làm chứng nhân.
Ông
Taba, một nhà trí thức tại Indénosia và cũng là một tín hữu Kitô đã kể lại câu
chuyện đời ông như sau:
“Tôi
rất hãnh diện và tôi cho rằng tôi là người tín hữu duy nhất trong giáo xứ có được
bằng tiến sĩ, mà còn là chủ tịch hội luật gia, đồng thời là chủ tịch hội trí thức
trong tỉnh nữa. Với tất cả những danh hiệu và chức vụ này, tôi tưởng như chẳng
ai bằng tôi cả. Thế nhưng tôi lại bê trễ việc đạo vì quá bận rộn. Tôi không còn
quan tâm gì đến việc cầu nguyện nữa.
Một
hôm, cháu trai mới hai tuổi của tôi đến chơi và ngủ lại chung phòng. Khi thấy
như thế, cháu hỏi: “Cậu ơi, sao cậu không cầu nguyện? Cậu cãi nhau với Chúa rồi
à?”
Câu
hỏi ngây thơ ấy làm tôi tỉnh ngộ. Thật chính là Chúa đã dùng một đứa bé mới có
hai tuổi làm nhân chứng cảnh tỉnh và nhắc nhở tôi. Tôi lập tức cầu ngay trước mặt
cháu. Và từ đó tới nay tôi luôn cầu nguyện trước khi đi ngủ."
2.
Trẻ đơn sơ
Một
cậu bé gõ cửa nhà một bà già và hỏi xem bà có mua những trái trứng cá chín mọng
cậu vừa hái được. Bà trả lời: “Có, bà sẽ xách xô của cháu vào bếp và đong 2
lít."
Cậu
bé đứng ngoài đùa với con chó. Bà nói: “Sao cháu không vào xem bà đong có đúng
không? Nhỡ bà lường gạt cháu thì sao?”
-
Cháu không sợ, vì làm thế bà sẽ nhận được điều xấu nhất.
-
Cháu muốn nói gì?
-
Vì cháu chỉ mất vài trái nhỏ, nhưng bà tự biến mình thành kẻ trộm.
3.
Người bạn bé nhỏ của văn sĩ Pécault
Nhà
văn Pécaut, người Pháp, có kể lại một câu chuyện có thật và đầy xúc động, mà
ông đã gặp một lần trong đời để rồi vẫn còn nhớ mãi, không thể nào quên được.
Câu chuyện như sau:
Một
hôm, tôi vừa ra khỏi nhà thì một em bé trạc 12 tuổi chạy đến van nài tôi mua
giúp em một hộp diêm quẹt. Động lòng thương, tôi rút ví ra định mua, nhưng tôi
lại chỉ có toàn tiền chẵn. Tôi đang ngần ngại thì thằng bé nói ngay:
"Không sao ông ạ, xin ông cứ vui lòng đưa tiền cho cháu, cháu sẽ chạy đi
tìm chỗ đổi tiền rồi trở lại trả cho ông ngay."
Tôi
nhìn thằng bé với một thoáng nghi ngờ. Nó vội nói: "Thưa ông, cháu không
phải là một thằng ăn cắp đâu ạ!"
Quả
vậy, gương mặt xanh xao của nó có vẻ thành thật đến mức tự hào. Tôi liền trao
cho nó một đồng tiền vàng, và nó chạy biến ngay về hướng cuối phố. 5 phút trôi
qua, rồi 10 phút, tôi bắt đầu hồ nghi sự ngay thẳng của thằng bé. Và nửa giờ
sau thì tôi hết kiên nhẫn, bỏ đi tiếp tục cuộc dạo phố, lòng thầm nhủ sẽ chẳng
bao giờ còn tin vào những bọn lêu lổng đầu đường xó chợ như thế nữa.
Buổi
trưa, khi về tới nhà, đúng chỗ ban sáng thì tôi lại thấy một đứa bé bé hơn đứa
bé ban sáng, chỉ độ 8, 9 tuổi, khuôn mặt giống "thằng ăn cắp" như tạc.
Nét mặt nó bộc lộ một sự lo âu tuyệt vọng. Nó thổn thức nói với tôi: "Thưa
ông, có phải ông đã đưa cho anh cháu một đồng tiền vàng không ạ? Đây là chỗ tiền
lẻ. Chính anh cháu nhờ gửi lại cho ông. Chúng cháu đều là trẻ mồ côi nhưng
không phải là bọn ăn cắp. Anh cháu không thể trao tận tay ông ngay lúc sáng là
vì anh cháu đã bị xe đụng khi vội chạy đi tìm chỗ đổi tiền. Cháu. cháu sợ rằng,
anh cháu chết mất thôi." Tôi bàng hoàng vội hỏi thằng bé trong tiếng nghẹn
ngào: "Thế bây giờ anh cháu nằm ở đâu? Dắt bác đến gặp anh cháu ngay đi."
Tôi
rảo bước gần như chạy sau em bé. Chúng tôi rời khỏi những khu phố giàu sang để
lách vào những con hẻm lầy lội tối tăm của một khu lao động nghèo khổ. Em bé dừng
lại trước một căn lều xiêu vẹo. Trong một xó tối, tôi nhận ra thằng bé bán diêm
quẹt ban sáng. Nó nằm dài bất động trên một đống áo quần cũ rách, mặt trắng bệch
vì mất khá nhiều máu. Nó thều thào nhìn tôi: "Thưa ông, xin ông lại gần
cháu hơn một chút nữa."
Tôi
tiến lại gần, quỳ một chân, cúi xuống đỡ lấy bàn tay nhỏ bé và lạnh ngắt. Em
nói với tôi. Ánh mắt của nó toát lên một niềm vui ngây thơ: "Em cháu đã
đưa chỗ tiền lẻ cho ông rồi phải không ạ? Ông thấy không, chúng cháu đâu có phải
là những đứa lừa gạt và ăn cắp. Cháu chỉ có mình nó là em ruột, cháu bị tai nạn
thế này, rồi đây. Ôi trời ơi, rồi đây em cháu sẽ ra sao đây?"
Tôi
lặng lẽ cúi xuống hôn lên vầng trán bị giập nát vì vết thương của em, và tôi đã
hứa với em rằng, tôi sẽ hết lòng chăm sóc thằng bé thay cho em. Tôi nói chuyện
với em được một lúc, bàn tay gầy guộc của em cứ để mãi trong tay tôi.
Tội
nghiệp thằng bé, tôi biết vết thương của nó rất trầm trọng, không còn có thể
làm gì để kịp cứu chữa cho em. Thằng bé có lẽ đã cố gắng thoi thóp sống chỉ cốt
để gặp được tôi, trăn trối một lời cuối cùng. Bây giờ thì em không còn rên rỉ
đau đớn nữa, đôi mắt em liếc nhìn đứa em thân yêu rồi chớp chớp nhìn tôi với một
vẻ bình thản gần như hạnh phúc.
Đấy,
người bạn bé nhỏ của tôi đã chết như thế đấy. Thằng bé đã cho tôi biết thán phục
và thương cảm trước một tâm hồn trẻ thơ vô cùng trong trắng, ngay giữa cảnh đời
nghèo khó và đau khổ đến cùng cực.
4.
Nhìn với cái nhìn của Chúa
Thế
giới nghệ thuật đã mất mát to lớn khi kiệt tác do Mark Rothko, người Nga, thực
hiện bị cháy trụi trên đường cao tốc Los Angeles. Một tia lửa bất thường đã
phát hỏa chiếc xe đang mang kiệt tác tới một địa điểm mới. Một nhà phê bình của
tờ Los Angeles thời báo nói về sự mất mát của kiệt tác này như sau: “Một tác phẩm
của một họa sĩ vĩ đại mà cả Rothko hay bất cứ ai khác cũng không thể thay thế
được. Đó là kiệt tác duy nhất trên thế giới không gì thay thế được.”
Điều
gì ngăn cản tôi nhìn nhận và cư xử với mọi nguời như kiệt tác không thể thay thế
do một họa sĩ vĩ đại là Thiên Chúa tạo nên? Tôi có thể làm gì để sửa chữa lại?
Trước
mặt Thiên Chúa, con người luôn là độc nhất vô nhị và được tuyển chọn từ muôn đời.
(Đức Gioan Phaolô II)
5.
Trẻ coi trọng tình yêu
Hơn
bất cứ ai khác, trẻ em cần được bảo đảm là chúng được yêu thương. Chúng cần cảm
thấy một vòng tay ấm áp, một sự ân cần dịu dàng của người lớn. chúng ta không
thể đến với chúng bằng một tình yêu bị giam kín trong tâm hồn. Một tình yêu như
thế giống như một lá thư đã viết, nhưng không được gửi đi. Trẻ em cần được nghe
những lời này: “Ta yêu con. Ta tự hào về con. Ta rất mừng vì con có mặt ở đây.”
(Jane Lindstrom).
Tôi
âu yếm và dịu dàng thế nào khi tiếp xúc với người khác, đặc biệt là với trẻ em
và gia đình tôi?
Một
đứa trẻ thất bại trong việc chống lại thái độ phi lý của quyền lực sẽ để lại dấu
vết của chứng rối loạn thần kinh. (Erich Fromm)
6.
Vẻ đẹp của tâm hồn trẻ thơ
Mẹ
Tê-rê-xa kể lại: khi biết Mẹ sắp đi cứu trợ ở Ê-thi-ô-pi, nơi đang gặp nạn đói
lớn, một em bé đến trao cho Mẹ một thanh kẹo xô-cô-la và nói: “Mẹ Tê-rê-xa ơi,
Mẹ làm ơn đem thanh kẹo xô-cô-la này cho một em nhỏ nào đó ở Ê-thi-ô-pi giùm
con nhé.” Em bé này không có nhiều để chạy theo số lượng, cũng không có tham vọng
để mang bệnh thành tích. Món quà chẳng đáng là bao của em bày tỏ một tấm lòng
quảng đại, thật thà, đơn sơ. Thế mà đó lại là một nhân tố tâm hồn mà Chúa
Giê-su coi là điều kiện thiết yếu để được vào Nước Trời: “Cứ để trẻ em đến với
Thầy… vì Nước Trời là của những ai giống như chúng.”
Tâm
hồn trẻ thơ chứa đựng vẻ đẹp mà Thiên Chúa ưa thích, đó là sự đơn sơ, trong trắng,
tin tưởng, phó thác nơi Ngài, v.v…
Lời Chúa Tuần 19 Thường Niên
Thường niên V-GS C-PS Ngoại lịch