Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam _ các bài suy niệm

LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM



Hôm nay, phụng vụ kính nhớ 117 chứng nhân tử đạo Việt Nam. Các vị đã được tôn phong chân phước trong bốn đợt. Năm 1900, Đức Giáo Hoàng Lê-ô XIII tôn phong 64 vị; Đức Giáo Hoàng Pi-ô X tôn phong 8 vị năm 1906 và 20 vị năm 1909. Năm 1912, Đức Giáo Hoàng Pi-ô XII tôn phong 25 vị. Tất cả 117 vị đều được Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II tôn phong hiển thánh ngày 19 tháng 6 năm 1988.
Trong nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, kể từ lúc Tin Mừng bắt đầu được loan báo tại Việt Nam, thế kỷ XVI, cho đến cuộc bách hại khốc liệt thế kỷ XIX, đã có nhiều chứng nhân anh dũng cả người Âu lẫn người Việt hy sinh thân mình vì Chúa Ki-tô.
Hồ sơ phong thánh và các Giờ Kinh Phụng vụ đặc biệt chú ý đến các tên tuổi sau: Người Việt Nam: Thánh An-rê Dũng Lạc, linh mục (+ 1839), thánh Tô-ma Trần Văn Thiện, chủng sinh (+ 1838), thánh Phao-lô Lê Bảo Tịnh, linh mục (+ 1857), thánh Em-ma-nu-en Lê Văn Phụng, giáo lý viên và người cha trong gia đình (+ 1859). Các tu sĩ Đa-minh người Tây Ban Nha, thuộc tỉnh Dòng Mân Côi: thánh Giê-rô-ni-mô Héc-mô-xi-la Liêm, giám quản tông tòa địa phận Đông đàng ngoài (+ 1861), thánh Va-len-ti-nô Be-ri-ô Ô-choa, Giám mục (+ 1861) và một vị người Pháp thuộc Hội Thừa Sai Pa-ri, thánh Tê-ô-phan Vê-na (+ 1861).


MỤC LỤC

21. "Đây Bài Ca Ngàn Trùng" Lm. Tạ Duy Tuyền
39. Video Thánh Vịnh 125 Nhóm thánh vịnh Nauy
41. Cảm mến công ơn của ....  Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
42. Chứng nhân anh dũng  Lm Giuse Đinh lập Liễm
44. Tử đạo hôm nay   Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
45. Hạt giống làm phát sinh...   Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
46. Các thánh tử đạo Việt nam   Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
47. Sống tin mừng  Radio Veritas Asia
49. Ai bền đỗ đến cùng  Sưu tầm
50. Sẽ được cứu rỗi  Sưu tầm










1. Bách hại

Hẳn chúng ta còn nhớ có lần Chúa Giêsu đã phán: Môn đệ không trọng hơn Thầy. Nếu người ta đã bắt bớ Thầy thì người ta cũng bắt bớ các con. Lời tiên tri này đã được thực hiện một cách trọn vẹn.
Trước hết nơi Chúa Giêsu: từ khi bước vào cuộc sống công khai Ngài đã gặp phải sự chống đối của bọn biệt phái. Chúng tìm mọi sơ hở để bắt lỗi những lời Ngài giảng và những việc Ngài làm. Chúng tố cáo Ngài là phạm thượng lộng ngôn, dùng quyền quỷ mà trừ quỷ, lỗi ngày Sabat, xách động dân chúng chống lại chính quyền Lamã và sau cùng ý đồ đen tối của chúng đã được thực hiện, chúng đã bắt giữ và đóng đinh Ngài trên thập giá.
Tiếp đến là các tông đồ. Sau ngày lễ Hiện Xuống Phêrô và Gioan đã bị tống ngục. Trong số 12 tông đồ thì chỉ có mình Gioan chết già tại cộng đồng Êphêsô, còn tất cả đều đã hy sinh mạng sống cho Tin Mừng Phúc Âm.
Sau cùng là Giáo Hội. Giáo Hội thời sơ khai đã trải qua 300 năm cấm cách dưới thời các hoàng đế Lamã. Những tín hữu muốn sống sót và bảo toàn đức tin phải chui rúc trong những hang toại đạo. Vì thế các sử gia đã gọi thời kỳ này là thời kỳ Giáo Hội sống dưới hầm.
Riêng tại Việt Nam, Tin Mừng được rao giảng vào thế kỷ 16, từ đó cho đến thế kỷ 19, từ đời hậu Lê cho tới thời Chúa Nguyễn, trải dài hơn 300 năm, cũng đã gặp phải bao cấm cách, nhất là dưới thời Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Biết bao nhiêu người đã phải bỏ nhà cửa, ruộng vườn và sản nghiệp trốn vào những nơi rừng thiêng nước độc để bảo vệ đức tin. Trên 130.000 người đã hy sinh mạng sống để tuyên xưng đức tin, trong số đó có 117 vị đã được tôn phong lên bậc hiển thánh.
Qua những sự kiện lịch ấy chúng ta đi tới kết luật: Thân phận người Kitô hữu là thân phận bị bách hại. Sự bách hại có mặt ở mọi nơi và trong mọi lúc, khi thì khắc nghiệt và toàn phần như đã xảy ra trong dĩ vãng. Khi thì từ từ và từng phần như đang xảy ra tại nhiều nơi trên thế giới. Khi thì như mơn trớn vuốt ve bằng tiền tài danh vọng và lạc thú như tại những nước tư bản. Nhưng tất cả đều dẫn tới một mẫu số chung là làm cho đời sống đức tin suy yếu và con số những người bước theo Chúa mỗi ngày một vơi giảm.
Con người càng tiến bộ thì phương cách bắt bớ càng tinh vi, có thể chúng ta không bị bắt bớ vì lý do tôn giáo nhưng người ta sẽ chụp mũ và bắt bớ chúng ta ở một tội trạng nào khác, nhưng theo tôi nghĩ sự bắt bớ quan trọng nhất đang diễn ra ngay tại cõi lòng chúng ta, vì ai trong chúng ta cũng cảm thấy một sự giằng co giữa sự thiện và sự ác, giữa sự tốt và sự xấu. Nhiều khi sự ác đã lấn át và cất cao tiếng cười ngạo nghễ. Có chiến thắng trong cuộc chiến nội tâm tuy âm thầm nhưng mãnh liệt này, chúng ta mới hy vọng chiến thắng được thế gian vì tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ.
Thân xác các thánh Tử đạo Việt Nam tuy đã chết nhưng tinh thần tử đạo của các ngài vẫn sống mãi. Hãy bước theo dấu chân của các Ngài. Thực vậy, mặc dù chúng ta không được diễm phúc tử đạo, nhưng cũng hãy dùng đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương để làm chứng cho Chúa ở mọi nơi và trong mọi lúc. Mỗi hy sinh chúng ta chịu sẽ là một giọt máu tử đạo chúng ta đổ ra từng giây từng phút để làm chứng cho Chúa.




2. Thập giá

Nhân ngày lễ kính các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về thập giá trong cuộc sống của các ngài.
Hơn ai hết, các thánh tử đạo Việt Nam là những bậc cha ông của chúng ta đã sống mầu nhiệm thập giá một cách sâu xa nhất. Đúng thế, chẳng những vác thập giá mình hằng ngày bằng một đời sống thánh thiện quên mình, chết đi cho lòng vị kỷ và cho tội lỗi như các tín hữu khác, các ngài còn thực sự uống chén đắng và trải qua cuộc thanh tẩy bằng máu mà Chúa Giêsu đã trải qua trong cuộc khổ nạn.
Các ngài chịu đau khổ và chết trong thân xác như Đức Kitô trên thập giá. Cuộc đời các ngài lặp lại từng bước những chặng được thập giá của Chúa Giêsu và kết thúc bằng lời phó thác: Lạy Cha, con xin phó hồn con ở trong tay Cha. Bằng đời sống và bằng cái chết các ngài nói lên niềm xác tín của mình: Không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Đức Kitô. Tình yêu của các ngài còn mạnh hơn cả sự chết và là yếu tố tạo nên chiến thắng. Các ngài sống cho tình yêu và chết cho tình yêu, đối với tình yêu thì giá nào cũng vẫn còn là thấp, kể cả sự chết.
Các ngài đã làm chứng và loan truyền mầu nhiệm thập giá. Cái chết của các ngài không còn là một việc riêng tư, nhưng đã trở nên một biểu hiện cho niềm tin chung của Giáo Hội vào giá trị tuyệt đối của Nước Trời, vào tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Sự chết đó còn là một tiếng gọi, một lời thúc giục toàn thể dân Chúa hãy sống trọn vẹn niềm tin của mình và chiếu sáng niềm hy vọng giữa lòng cuộc đời. Nếu sống được như vậy, thì dẫu không trải qua cái chết tử đạo, chúng ta cũng vẫn có thể loan truyền mầu nhiệm thập giá. Sống như một chứng nhân là điều kiện thiết yếu để có thể chết như một chứng nhân. Các thánh tử đạo Việt Nam đã làm chứng bằng cả sự sống lẫn sự chết.
Thập giá đã đưa Đức Kitô đến phục sinh. Sau khi đã tự hạ vâng lời cho đến chết, Đức Kitô đã được suy tôn cùng với uy quyền và vinh quang. Còn các thánh tử đạo thì sao? Dù các ngài chưa thể sống lại trong thân xác như Đức Kitô, nhưng cũng đã đạt tới sự sống vinh quang của Ngài, bởi vì ngay lúc chết, các ngài đã được tham dự vào sự sống vinh quang của Đức Kitô phục sinh chỉ còn phải chờ đợi ngày được tỏ hiện mà thôi. Sự liên đới với Đức Kitô trong cái chết chắc chắn sẽ tạo nên sự liên đới trong sự sống.
Dù trong cảnh ngộ nào, Đức Kitô và các môn đệ Ngài cũng vẫn chung một số phận: Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ cùng Ngài phục sinh. Nếu ta chịu khổ với Ngài, ta sẽ cùng Ngài thống trị. Vẫn là một quy luật muôn thuở của Nước Trời: Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất còn ai liều mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy.
Trong mùa gặt phong phú của Giáo Hội Việt Nam thời sơ khởi, các thánh tử đạo đã loan truyền mầu nhiệm thập giá một cách kiên trì trên mảnh đất thân yêu. Xin các ngài giúp chúng ta, là những người công giáo Việt Nam hôm nay luôn sống trọn vẹn niềm tin, và làm chứng cho tình thương Chúa bằng đời sống phục vụ và yêu thương của chúng ta.



3. Kiên quyết không bỏ Đạo yêu thương

Mấy thế kỷ trước đây, trong thời gian các tín hữu công giáo Việt-nam bị bách hại ác liệt, nhà cầm quyền khuyến dụ các tín hữu bước qua thập giá như một dấu chỉ công khai bỏ đạo để được tha. Tín hữu nào theo lệnh vua quan dẫm đạp lên thập giá được xem như là người công khai bỏ đạo.
Ngày nay, không còn áp lực bên ngoài bắt buộc các tín hữu dẫm lên thập giá, nhưng có nhiều áp lực bên trong như tham lam, ích kỷ, ganh tỵ, oán thù… vẫn hằng thôi thúc các ki-tô hữu chà đạp lên nhân phẩm và tình người, biến họ trở thành những người chối bỏ Đạo yêu thương của Chúa Giêsu.
 Đạo Chúa là Đạo yêu thương
Đạo Thiên Chúa được gọi là Đạo yêu thương vì cốt tủy của Đạo là giới luật yêu thương và mục tiêu của Đạo là xây dựng đời sống yêu thương huynh đệ trên khắp thế giới.
Khi có vị luật sĩ hỏi Chúa Giêsu, trong các điều răn, điều nào trọng nhất, Chúa đáp: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và là điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy." (Mt 22, 37-40)
Thánh Phao-lô cũng nhắc lại giáo lý nầy cho các tín hữu Rô-ma: “Các điều răn… đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy.” (Rm 13,9-10)
Tuyên ngôn yêu thương nầy đã được Chúa Giêsu nâng lên thành điều răn mới khi Ngài phán: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” (Ga 13, 34)
Chỉ có những ai yêu thương mới được xem là người môn đệ Chúa
Muốn ghi tên gia nhập vào một tổ chức, một đoàn thể hay một đảng phái nào đó, ứng viên phải chấp nhận một số nội quy của tổ chức đó.
Cũng thế, khi muốn gia nhập vào Đạo yêu thương để trở thành môn đệ Chúa Giêsu, thì điều kiện đầu tiên phải có là lòng yêu mến tha nhân, như lời Chúa Giêsu dạy: "Người ta căn cứ vào dấu nầy để nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau." (Gioan 13, 35).
Như thế, không phải hễ đã có tên trong sổ rửa tội, có tham gia sinh hoạt tôn giáo là có thể xưng mình là môn đệ Chúa Giêsu nhưng là phải thật sự yêu mến tha nhân quanh mình.
Ai ghét bỏ tha nhân là từ bỏ Đạo yêu thương của Chúa
Vì Đạo Chúa là Đạo yêu thương nên ai ghét bỏ tha nhân, kẻ ấy không còn là môn đệ của Chúa Giêsu nữa, như lời Chúa dạy: "Người ta căn cứ vào dấu nầy để nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau." (Gioan 13, 35).
Như thế, khi ghét bỏ người khác hay cạn lòng yêu thương tha nhân, ki-tô hữu tự loại mình ra khỏi hàng ngũ những người môn đệ Chúa.
Ngoài ra, những ai thiếu lòng yêu mến tha nhân thì trong ngày phán xét, sẽ bị liệt vào hàng ngũ những người bị nguyền rủa và bị loại trừ vĩnh viễn khỏi nhan Thiên Chúa, như lời Chúa dạy trong dụ ngôn phán xét cuối cùng: "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó" (Mt 25, 34. 41)
Noi gương các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta kiên quyết không bỏ Đạo yêu thương.
Thách thức của các kitô-hữu bị bách hại ngày xưa là quyết không bước qua thập giá dù phải chịu máu đổ đầu rơi. Thách thức của kitô hữu hôm nay là quyết giữ lòng yêu mến tha nhân đến cùng dù phải đối mặt với hận thù, bạo lực và ghen ghét.
Các thánh tử đạo Việt Nam đã rất anh dũng bước theo Chúa Giêsu và kiên trì sống Đạo yêu thương đến cùng. Dù ngục tù, gươm đao, dù bị róc xương xẻ thịt, các ngài vẫn không hề nao núng. Nhờ đó, các ngài được lãnh nhận triều thiên tử đạo. Nếu hôm nay chúng ta kiên quyết xoá bỏ oán ghét hận thù, để kiên trì giữ luật yêu thương, để sống chan hòa với mọi anh em trong tình huynh đệ (cho dù để đạt được điều nầy, chúng ta phải chịu khổ nạn trong tâm hồn), thì chúng ta cũng sẽ được đứng vào hàng ngũ các thánh tử đạo hiển vinh.



4. Bách hại vì sống công chính

(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Một trong các bài Tin Mừng được chọn đọc trong ngày lễ kính các Thánh Tử Đạo là phần đầu của bài giảng trên núi mà chúng ta quen gọi là ‘Tám Mối Phúc’. Mối phúc cuối cùng trong danh sách là: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ’. Trong sách Tin Mừng Lu-ca chương 06, dầu chỉ đề cập tới có 04 mối phúc, nhưng mối phúc sau chót cũng vẫn nói tới cùng một điều này là “Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như người xấu xa. Ngày đó anh em hãy vui mừng nhảy múa vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.” (Lc 6,22) Phải chăng đó là lý do tại sao các Ki-tô hữu từ thời xa xưa đã dành cho các vị anh hùng tử đạo một sự mừng kính đặc biệt trân trọng. Họ gán cho các ngài danh hiệu cao quý là Chứng Nhân Tin Mừng (Martyr). Ngày nay trong tư cách con cháu của các Anh Hùng Tử Đạo, chúng ta muốn thực sự tìm hiểu các vị tử đạo nói chung, và Các Thánh Tử Đạo Việt Nam nói riêng, đã là chứng nhân Tin Mừng như thế nào? Khi tiến ra pháp trường để bị trảm quyết, các ngài đã thật sự trung kiên bảo vệ điều gì? Và ở điểm nào các ngài thực sự liên quan tới người Công Giáo Việt Nam chúng ta đang sống trong xã hội hôm nay?
Trong tiếng Việt, chữ ‘đạo’ thường được chúng ta sử dụng để nói tới một đạo giáo, một tôn giáo, như Đạo Phật, Đạo Hồi, Đạo Lão, Đạo Ông Bà, Đạo Thiên Chúa… Thế nhưng theo nguyên ngữ hán-nôm, ‘đạo’ là con đường, là lẽ sống, là học thuyết… dẫn tới mục đích tối hậu của cuộc sống, chẳng hạn đạo Khổng, đạo hiếu, đạo làm người. Đức Giê-su đã tự giới thiếu mình “là đường, là sự thật và là sự sống”. Và nếu nói theo từ vựng hán nôm Ngài sẽ phải tuyên bố mình là ‘đạo, chân, sinh’. Vậy thì, trong cả phúc âm Mát-thêu lẫn Lu-ca, khi đề cập tới mối phúc chót này, Đức Giê-su chắc chắn không hề có ý muốn tuyên bố ‘phúc thay’ những ai dám chết cho một đạo giáo hay tôn giáo, nhất là hiểu dưới khía cạnh cơ cấu tổ chức của tôn giáo đó. Điều mà Đức Giê-su muốn biểu dương là tất cả mọi hình thức ‘bị bách hại’, ‘bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như người xấu xa…’ đều là ‘phúc’ vì một yếu tố duy nhất, đó là ‘vì sống công chính’, hay rõ hơn: ‘vì Con Người’.
Tới đây tôi gợi nhớ lại tư tưởng bài suy niệm về đoạn Tin Mừng Lc 18, 9-14 của Chúa Nhật XXX thường niên năm C: ‘Đối với Đức Giê-su, ai mới là công chính?’ Nếu đã có một nền công chính của Cựu Ước tóm gọn trong luật Mô-sê để bẩy anh em nhà Ma-ca-bê, vị bô lão Ê-lê-a-da, và Gio-an Tiền Hô, vì trung thành với nó, đã buộc phải gánh lấy cái chết… và ‘các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế’, thì riêng với Ki-tô hữu sẽ có một thứ công chính mới được chính Đức Giê-su công bố. Nói đúng ra chính Người là hiện thân của nền công chính đó, sự công chính của Thiên Chúa từ nhân, công chính của tình yêu tha thứ và cứu độ; ‘Vì Con Người’, Người đã khảng định. Ai đón nhận và sống Tin Mừng này để rồi ‘bị bách hại’, hay chịu thua thiệt dưới bất cứ hình thức nào, đều là những người được Đức Giê-su biểu dương. Còn nếu có ai đó bị giết chết vì nền công chính mới này thì phải được chính Đức Ki-tô và toàn Nhiệm Thể Ngài tuyên dương, phong thánh. Chính vì thế mà Giáo Hội, ngay từ thời sơ khai và qua mọi thời đại, đã có thói quen phong thánh cho các vị anh hùng ‘tử vì đạo’. Giáo Hội luôn muốn tuyên bố rằng các anh chị em tín hữu này là chứng nhân cho Tin Mừng tình yêu vì đã dám chấp nhận thua thiệt lớn hơn hết là mất cả mạng sống mình. Với việc phong thánh như thế Giáo Hội đồng thời cũng muốn khảng định bất cứ thua thiệt nào các Ki-tô hữu phải hứng chịu trong cuộc sống thường ngày vì ‘sống công chính mới’ đều có giá trị vô song.
Suy nghĩ như thế tôi mới thấy có một liên hệ mật thiết giữa các chứng nhân ‘tử vì đạo’ với mỗi Ki-tô hữu chúng ta. Các ngài không phải là những trường hợp biệt lệ để các tín hữu có ‘may mắn’ được sống trong thời đại an bình nhìn vào mà thán phục mà ca ngợi, với mơ ước rằng: nếu chẳng may lâm vào cơn cấm cách, mình cũng sẽ trung thành. Đức Giê-su đã chẳng gọi tất cả mọi Ki-tô hữu là ‘ánh sáng’, là ‘muối men’ của trần gian, là chứng nhân Tin Mừng là gì? Chứng nhân tích cực rao giảng Tin Mừng thì ít, nhưng chứng nhân vì buộc phải chấp nhận các thua thiệt, khó khăn vì nền công chính Tin Mừng trong đời sống thường ngày thì nhiều. Vì thế thật là chí lý: các ‘Thánh Tử Đạo’ được coi như tấm gương, như cột sống của Ki-tô hữu qua mọi thời đại, thời buổi bị bắt bớ thử thách cũng như khi được sống an bình sung túc.
Là người Công Giáo Việt Nam, chúng ta luôn tự hào vì Giáo Hội Việt Nam đã có hàng trăm ngàn các chứng nhân Tin Mừng như thế, trong số đó 117 vị đã được toàn Nhiệm Thể Đức Ki-tô phong thánh. Vấn đề được đặt ra là: phải chăng các ngài đơn thuần chỉ tạo nên nơi chúng ta một niềm kiêu hãnh mang tính lịch sử, hay đã trở thành cột sống, thành cơ bắp thúc đẩy chúng ta sống công chính Tin Mừng cách cụ thể trong đời sống thường ngày? Thua thiệt vì Tin Mừng thì thời đại nào cũng có, kể cả trong các xã hội được coi là phồn vinh dễ dãi và tự do. Thế thì các ‘Thánh Tử Đạo Việt Nam’ đã đóng góp được gì cho người Công Giáo Việt Nam chúng ta trong xã hội được cho là ‘dễ dãi hơn’ hôm nay? Phải chăng chỉ là một khích lệ trung kiên nào đó sẵn sàng chiến đấu chống lại mọi thế lực thù nghịch khi cần, hay để kiên trì ‘sống công chính’ khi ‘bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như người xấu xa…’ ngay trong xã hội hôm nay? Ngày mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay sẽ không mấy ý nghĩa nếu mỗi người không tìm ra được câu trả lời cho vấn nạn này.
Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, các ngài đã chịu bách hại vì dám chấp nhận ‘sống công chính’ tới độ anh hùng. Nếu Hội Thánh đã tuyên phong cái chết của các ngài thì đồng thời cũng tuyên phong vô vàn những tủi hổ, thiệt thòi của biết bao tín hữu anh hùng vô danh khác. Tất cả các điều này không nằm ngoài mục đích thôi thúc mỗi người Công Giáo Việt Nam chúng con sẵn sàng hơn trong việc cùng với Đức Ki-tô thập giá tha thứ và yêu thương trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống đời thường, ngay trong lòng xã hội hôm nay. Xin các ngài tiếp tục trở nên chứng nhân Tin Mừng cho chúng con về một tình yêu tha thứ tuyệt đối. Amen.



5. Sống chứng nhân

Truyền thống Giáo Hội bao giờ cũng quý trọng cái chết tử đạo của con cái mình, coi cái chết đó như vừa nói lên lòng can đảm của người tử đạo, vừa nói lên chiến thắng của Tin Mừng. Vì thế, khi nâng 117 vị tử đạo Việt Nam lên bậc hiển thánh, Giáo Hội muốn đưa ra những mẫu gương cho chúng ta bắt chước. Qua cái chết khổ nhục, các ngài đã làm chứng cho Đức Kitô trong những hoàn cảnh giới hạn của mình. Noi gương cái ngài, chúng ta cũng hãy sống làm chứng cho Đức Kitô trong hoàn cảnh riêng của chúng ta. Vậy chúng ta phải sống làm chứng đức tin như thế nào? Tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ làm cho gương mặt cha ông tử đạo của chúng ta thêm sáng chói, nếu chúng ta biết tích cực sống tử đạo giữa lòng dân tộc. Đây không phải chỉ là một công thức đẹp, một câu nói đưa duyên, nhưng là một lựa chọn của Giáo Hội, như thư chung HĐGMVN năm 1980 đã đề ra. Chính vì thế đối với chúng ta thì đó cũng là một mệnh lệnh. Chúng ta phải biến mệnh lệnh trên thành việc làm.
Hiện thời chúng ta đang sống trên đất nước Việt Nam, cùng với những người Việt Nam khác, xây dựng một xã hội Việt Nam tốt đẹp hơn. Đó là thánh ý nhiệm mầu, làm sao chúng ta dám cưỡng lại, làm sao chúng ta dám chối từ. Các thánh tử đạo Việt Nam cũng đã không chạy trốn hoàn cảnh các ngài phải sống. Xã hội trong đó chúng ta đang sống. Môi trường trong đó chúng ta đang làm việc, những con người hằng ngày chúng ta gặp gỡ trên mọi nẻo đường, có những điều hay, những cái đẹp, thế nhưng cũng không thể tránh đi cho hết những cái chưa hay, những điều còn xấu. Chính vì thế, vai trò đức tin của chúng ta xuất hiện như một nhu cầu cần thiết và sứ mệnh làm chứng của chúng ta trở thành cấp bách. Chính chúng ta phải tự vạch ra cung cách sống đạo cho chúng ta trong từng thời điểm, trong từng hoàn cảnh.
Chẳng hạn nếu môi trường chúng ta sống chưa hoàn toàn tôn trọng sự thật, thì chúng ta phải sống sao cho đời thấy rằng chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta như Tin Mừng đã dạy. Nếu tại những cơ quan chúng ta phục vụ chưa được chí công vô tư, đầy dãy chuyện móc ngoặc, tham nhũng hối lộ, thì chúng ta phải cố sống sao cho siêu thoát, chấp nhận sự đạm bạc, không màng chi đến việc làm giàu trên mồ hôi nước mắt của người khác. Nếu những kẻ có quyền có thế lạm dụng chỗ đứng mà ức hiếp người dân, thì chúng ta phải biết tôn trọng và giúp đỡ những người chung quanh, nhất là những kẻ bất hạnh và nghèo đói. Nếu chung quanh chúng ta đời sống lứa đôi bị coi thường, tình yêu vợ chồng bị hạ xuống hàng trò chơi tạm bợ, sự sống của con cái, như là kết quả của tình yêu, bị chối bỏ dễ dàng, thì đời sống gia đình của chúng ta phải thấm nhuần tinh thần Phúc Âm, vợ chồng thương yêu nhường nhịn lẫn nhau, con cái được đón nhận như là hồng ân Chúa ban, sự sống được tôn trọng và yêu thương. Các khó khăn được giải quyết bằng niềm tin, bằng cầu nguyện chứ không phải bằng đấm đá, bằng đổ vỡ dễ dàng.
Hẳn nhiên không có cuộc sống làm chứng nào mà không phải thiệt thòi vào thân. Đó là điều làm cho chúng ta lo ngại nhất, nhưng đó cũng chính là thước đo mức độ lòng tin của chúng ta vào Giáo Hội. Để làm chứng cho chân lý, cho tình yêu, Đức Kitô đã phải trả giá bằng cái chết trên thập tự. Cho nên gặp phải khó khăn trong đời sống chứng nhân là chuyện bình thường, là quy luật của muôn đời. Bởi vì sống làm chứng là sống tận căn cái nghịch lý mất mạng để được mạng, là sống triệt để cái biện chứng hạt lúa gieo vào lòng đất phải chết đi để làm nẩy sinh nhiều bông hát. Đó là điều các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã làm và hơn nữa, đó là điều chính chúng ta cũng phải làm, nếu muốn trở nên chứng nhân cho Đức Kitô.



6. Truyền đạo

Người Công giáo Việt Nam thường coi mình là kẻ có đạo và được tiếng là những kẻ giữ đạo rất nhiệt thành và sốt sắng. Nhưng có lẽ phần đông chúng ta chưa xác tín rằng: cách giữ đạo tốt nhất là cho người khác cái đạo của mình, như Chúa Giêsu đã nói: Cố giữ thì mất, liều mất thì còn.
Các thánh Tử đạo Việt Nam là những người đã sống theo chân lý đó. Các ngài không phải chỉ là những người có đức tin, những người giữ vững đức tin đến cùng, mà còn là những người đã cho kẻ khác niềm tin của mình.
Không có việc trao tặng niềm tin ấy qua việc hy sinh mạng sống của các ngài thì có lẽ sẽ chẳng có Giáo Hội Việt Nam hôm nay. Tuy nhiên, có nhiều cách cho đi niềm tin và cách thông thường nhất là chia sẻ bằng lời rao giảng hay bằng những phương tiện truyền giáo.
Cũng có một cách khác, tuy âm thầm nhưng hiệu quả cũng không kém, đó là bằng cách sống niềm tin một cách chân thực. Nhưng cách cuối cùng mà các thánh Tử đạo Việt Nam đã thực hiện là cho chính sự sống của mình. Trong sự sống được trao tặng đó có hạt giống của đức tin, tựa hạt của một trái chín, hay như hạt thóc của một bông lúa đã được gặt hái. Đó là một cách cho trọn vẹn nhất, một cách cho tuyệt đối nhất, bởi vì không ai có thể đòi lại mạng sống của mình một khi đã dâng hiến.
Hơn thế nữa, trong những cách thế cho khác, người ta có thể tìm lại được mình trong chính sự dâng hiến. Thật vậy, kẻ rao giảng Tin mừng có thể gặt hái được thành quả công cuộc rao giảng và hưởng niềm vui về thành quả đó. Cũng vậy, một người sống đạo cách chân thực, gương mẫu, có thể được mọi người kính phục và yêu mến. Còn người cho niềm tin trong cái chết thì không còn để được hưởng những lời ca tụng tán dương.
Khi đọc truyện các thánh Tử đạo Việt Nam chúng ta thấy phần đông các ngài không phải lúc nào cũng muốn chết. Trái lại, nhiều vị đã tìm cách trốn tránh, không phải vì sợ chết, nhưng vì muốn tiếp tục sống vì người khác và cho người khác, hoặc cũng có khi vì lòng khiêm tốn, nghĩ mình không xứng đáng được phúc tử đạo. Các ngài đã chấp nhận dâng hiến đời mình, chứ không tự mình tìm đến cái chết.
Đối với chúng ta ngày nay, ngoài một vài trường hợp đặc biệt như ở Algérie hay tại một vài nước Hồi giáo cực đoan, nơi các tôn giáo ngoài Hồi giáo có thể bị bách hại, còn khắp nơi trên thế giới hầu như không còn có chế độ nào được coi như cấm đạo thực sự kiểu Nêrô hay Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
Nhưng nếu hiểu đạo theo nghĩa rộng, thì vẫn còn có nhiều người tử đạo. Đó là những người dám chết cho công lý, cho hòa bình. Nói chung là chết vì chính đạo, chết cho con người, nhất là những người nghèo khổ hay bị áp bức. Đức Kitô cũng đã chết cho cái chính đạo ấy chứ không phải chết vì đạo của người Do Thái, lại càng không chết vì đạo của mấy ông tư tế và Biệt phái, bởi vì chính những người này đã chủ mưu giết Ngài vì thấy rằng Ngài là mối đe dọa cho tôn giáo của họ.
Ngày nay, khi Giáo Hội Công giáo chuẩn bị hồ sơ phong chân phước cho Savonarole, một linh mục dòng Đaminh ở Florence, thì điều đó chứng tỏ rằng cả những người trước đây bị giáo quyền kết án, cũng chính là những vị tử đạo, bởi vì họ đã sống theo chân lý và hy sinh tính mạng để bảo vệ cho chân lý, cho chính đạo.
Dân chúng Ấn Độ đã tặng cho ông Gandhi danh hiệu là thánh, không phải ông đã chết vì Ấn độ giáo hay bất kỳ tôn giáo nào, mà chết vì đấu tranh cho hòa bình, hòa hợp và hòa giải giữa hai cộng đồng Ấn độ giáo và Hồi giáo. Và mục sư Martin Luther King cũng thật xứng đáng danh hiệu một vị thánh vì đã chết để bênh vực quyền tự do và bình đẳng của người da đen… trên đất nước được mệnh danh là dân chủ và tự do nhất thế giới, nhưng thực ra chỉ là tự do và dân chủ cho người da trắng mà thôi.
Đức Tổng giám mục Rômêrô bên El Salvador đã bị chính những người lính Công giáo bắn chết đang khi dâng thánh lễ, ngài bị giết không phải vì là người có đạo hay là vì giám mục, mà vì đã can đảm ủng hộ chính nghĩa của dân nghèo. Người ta hy vọng ngày gần đây, ngài sẽ được tôn phong lên hàng thánh tử đạo.
Như vậy, tử đạo là dám sống và dám chết cho một lý tưởng của Tin mừng. Thế nhưng liệu chúng ta có dám sống và dám chết như vậy hay không?



7. Con đường hạt lúa – ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt

Ga 12, 20-32
Khi đến Rôma, tôi thích đi viếng những hang toại đạo. Hang toại đạo là hệ thống đường hầm đào sâu dưới lòng đất tại các khu nghĩa trang ngoại thành Rôma. Những hang hầm dài nhiều cây số. Không phải chỉ một tầng mà đến 3, 4 tầng sâu dưới lòng đất. Không khí trong hang thật lạnh lẽo. Hơi lạnh từ lòng đất toát ra cộng với hơi lạnh từ những nấm mồ càng làm cho khu hầm mộ trở nên lạnh lẽo đáng sợ. Người sống phải đấu tranh với cái chết. Sự chết luôn đe doạ rình rập cướp lấy mạng sống con người. Tại nơi đây, các tín hữu sơ khai đã ẩn trốn những cơn bách hại liên tiếp trong 3 thế kỷ. Có lẽ thánh Phêrô và thánh Phaolô cũng đã từng đi lại sinh hoạt trong những hang này. Người tín hữu sơ khai đã phải sống trong những điều kiện như thế để bảo vệ đức tin của mình.
Nhưng thật kỳ diệu. Các vua chúa của đế quốc Rôma hùng mạnh đã tìm cách tiêu diệt một nhóm người nghèo khổ yếu ớt không một tấc sắt tự vệ. Không phải chĩ bắt bớ trong một chiến dịch ngắn hạn mà là một chủ trương kéo dài suốt 300 năm. Vậy mà các vua chúa qua đi rồi, nhóm người nghèo khổ yếu ớt đó không những chỉ tồn tại mà còn phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Đi dưới lòng hang toại đạo tôi mới thấm thía ý nghĩa của lời Chúa nói: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”. Hạt giống Giáo Hội đã bị chôn chặt dưới 3, 4 tầng đất. Hạt giống đức tin đã bị vùi sâu đến 300 năm. Tất cả các thánh Tông đồ, các tín hữu sơ khai đã bị mục nát. Và các ngài đã làm trổ sinh cả một mùa gặt dồi dào phong phú. Cả châu Âu đã tin theo Chúa.
Nhìn lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, ta cũng thấy có sự tương tự. Khi đạo Chúa mới được truyền vào Việt Nam, lập tức bị các vua chúa phong kiến bắt bớ. Cuộc bắt bớ kéo dài khoảng 300 năm. Đủ mọi hình thức để tiêu diệt đạo. Nào là cấm cách bắt bớ. Nào là đe doạ bạc đãi. Nào là xua đuổi ra khỏi những vùng trù phú phồn vinh. Nào là phân sáp, tức là tách ly cha mẹ, anh chị em trong một gia đình bắt đi sống riêng rẽ trong các gia đình ngoại đạo. Nào là lấy thép nung đỏ khắc chữ “tả đạo” trên má ngưới có đạo. Và nhất là lên án tử hình những người có đạo. Người tín hữu trung thành với đức tin phải trốn chạy chết trên rừng thiêng nước độc. Nếu bị bắt có thể bị chết trong tù. Nếu không cũng bị xử án tử hình. Có đấng bị chém đầu. Có đấng bị trói chân tay vào chân ngựa. Bốn con ngựa kéo về bốn góc xé nát xác vị tử đạo. Có đấng bị kết án cho voi dày. Thê thảm nhất có lẽ là án bá đao. Cứ sau một hồi chiêng trống, đao phủ xẻo một miếng thịt cho đến khi chết.
Dù các vua chúa đã dùng đủ mọi cách tiêu diệt nhóm người bé nhỏ yếu ớt trong 300 năm. Trong 3 thế kỷ đó có khoảng 100 ngàn người chịu chết vì đạo. Nhưng số người tin Chúa ngày càng gia tăng. Từ một nhóm nhỏ người bị bắt bớ, nay số tín hữu tại Việt Nam đã hơn 6 triệu người. Hạt giống đức tin gieo trồng vào quê hương Việt Nam đã bị vùi sâu, đã bị mục nát, và nay đã trổ sinh một mùa gặt phong phú. Một lần nữa chúng ta lại xác tín lời Chúa dạy: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.
Nhìn lại lịch sử, ta càng thêm tin tưởng vào Lời Chúa. Nếu đang gặp khó khă trong đời sống đạo, ta hãy an tâm. Như Đức Giêsu đã chịu gian nan khốn khó, phải chịu bắt bớ, nhục mạ, phải chịu chết tủi hổ trên Thánh giá, các môn đệ con cái Chúa không thể đi con đường nào khác ngoài con đường Thánh giá. Như các bậc tiền nhân xưa đã chịu vất vả khổ cực để xây dựng một Giáo Hội vững mạnh như ngày nay, ta tin tưởng những gian nan khốn khó của ta rồi cũng sẽ trôi qua. Nếu ta biết chịu đựng những đau đớn, khó khăn, vất vả vì Chúa. Nếu ta vẫn trung thành với Chúa, với đức tin qua mọi gian nan thử thách, chắc chắn Chúa sẽ ban cho ta một mùa gặt bọi thu, kết quả phong phú ngoài sức tưởng tượng của ta.
Lạy Các Thánh Tử đạo Việt Nam, xin dạy con noi gương bắt chước các ngài, luôn trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Khi mới khai sinh Giáo Hội đã bị bách hại trong 3 thế kỷ. Nhưng Giáo Hội vẫn phát triển. Điều này dạy ta điều gì?
2- Hãy tóm tắt 3 thế kỷ đầu của Giáo Hội Việt Nam.
3- Muốn đạo Chúa phát triển ta phải làm gì?



8. Người chứng thứ nhất – Ga 12,24-26

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một thanh niên 19 tuổi bị tuyên án tử hình mà không được nói một lời để bào chữa mình. Người tuyên án là quan trấn tỉnh Phú Yên. Vào tháng 7 năm 1644 vị quan này từ triều đình nhà vua về, đem theo sắc lệnh cấm đạo và bắt đầu giam một ông già tên rửa tội là Anrê, rồi sai một toán lính đến nhà vị thừa sai Đắc Lộc để bắt thầy giảng số một là Inbaxu. Khi toán lính xông vào nhà tìm thầy Inbaxu thì chỉ gặp người thanh niên Phú Yên là người mà Cha Đắc Lộ đã rửa tội được ba năm và đã từng cho đi theo để giúp dạy giáo lý. Người thanh niên này đã can đảm nhận hết các tội chúng gán cho thầy Inbaxu và các thầy giảng, nên bị chúng trói lại và điệu đi. Anrê Phú Yên vui vẻ theo toán lính và trong suốt quảng đường không ngừng giảng cho những kẻ dẫn mình vào ngục biết đường tránh hỏa ngục hầu hưởng phúc Thiên Đàng.
Nhờ sự can thiệp của cha Đắc Lộ và một số thương gia người Bồ Đào Nha, ông già Anrê được tha bổng, còn Anrê Phú Yên thì không. Người thanh niên cường tráng này dám cương quyết thà chết chẳng thà bỏ đạo nên sẽ phải chết để nêu gương cho mọi người biết vâng lệnh nhà vua. Vậy lính dẫn Anrê Phú Yên tới thửa ruộng cách thành phố chừng nửa dặm. Mặc dầu đeo gông nặng, Anrê đi rất nhanh đến nỗi cha Đắc Lộ theo không kịp. Tới nơi hành quyết, thầy giảng trẻ tuổi Anrê quỳ xuống để chiến đấu cho can đảm hơn. Lính gác chung quanh không cho ai vào phía trong cả, nhưng viên đội trưởng cho phép cha Đắc Lộ được đứng cạnh thầy. Cha thấy rõ mắt thầy Anrê nhìn trời cao, miệng luôn hé mở và kêu danh thánh Giêsu.
Một người lính lấy giáo đâm thầy từ phía lưng, thâu qua ngực chừng hai bàn tay. Khi ấy thầy nhìn cha Đắc Lộ như để vĩnh biệt và cha khuyên thầy nhìn lên trời là nơi thầy sắp được Chúa Giêsu đón vào cõi phúc. Từ giây phút đó thầy chăm chút nhìn lên và không còn nhìn xuống nữa. Người lính rút lưỡi giáo ra đâm phát thứ hai, rồi đến phát thứ ba, hắn cố ý đâm trúng tim anh nhưng vẫn chưa chết. Thấy thế, một người lính khác lấy mã tấu chặt vào cổ anh, anh vẫn chưa xong, phải thêm một nhát thứ hai đầu anh mới lìa khỏi cổ, máu chảy tràn lai làng. Hành quyết xong, toán lính kéo nhau ra bờ sông để rửa các vết máu. Cha Đắc Lộ nhặt đầu anh gói lại kỹ càng như một báu vật, còn xác anh ngài tẩm liệm gởi xuống tàu buôn đưa về Macao chôn cất. Ngài biết đây là một thánh nhân, cần tôn trọng thi thể này để ngàn đời lưu danh. (theo “Người chứng thứ nhất” của Phạm Đình Khiêm).
Anh chị em thân mến,
Mỗi lần nói đến các Thánh Tử Đạo là chúng ta nghĩ ngay đến cảnh ngục tù, gông cùm, gươm giáo, đầu rơi, máu đổ. Thế nhưng, ở thời đại đang tiến dần vào thế kỷ 21, những cảnh hành hình tàn bạo, dã man, cổ điển ngày xưa và việc bắt đạo của các chính quyền hầu như không thể tái diễn. Vì hiến pháp của bất cứ quốc gia nào cũng tôn trọng tự do tín ngưỡng và các quyền cơ bản của con người. Đàng khác, các án tử hình cũng dần dần được loại bỏ trong các bộ luật hình sự của các nước trên thế giới.
Ngày nay, khái niệm về tử đạo hiểu rộng rãi hơn. Người tử đạo là người dám chết cho công lý, cho hòa bình, chết cho quyền sống của con người, nhất là những người nghèo khổ, bị áp bức. Nói chung là chết vì Chính Đạo, chết vì muốn sống theo con đường Tin Mừng của Chúa Giêsu.
Trong Tông Thư “Tiến đến thiên niên kỷ thứ ba”, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II kêu gọi Giáo Hội địa phương lập danh mục các vị tử đạo mới của thế kỷ này. Vì “trong thế kỷ này lại có những người tử đạo, – thường là âm thầm, họ như thể là “những chiến sĩ vô danh” – vì đại cuộc của Thiên Chúa. Giáo Hội không chỉ có những người đổ máu vì Đức Kitô mà còn có những bậc thầy về đức tin, những nhà truyền giáo, những người tuyên xưng đức tin, những giám mục, linh mục, các trinh nữ, những người kết hôn, góa bụa và trẻ em” (số 37).
Tại đất nước chúng ta, giai đoạn lịch sử của 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam được ghi nhận kéo dài đúng 117 năm, với hai vị tử đạo tiên khởi là Thánh Phanxicô Frederic Tế và Matthêu Liciana Dậu, hai linh mục dòng Đa Minh, cùng chịu tử đạo tại Thăng Long, miền Bắc năm 1745. Nhưng trước đó hơn một thế kỷ, đã có máu đào đổ ra để làm chứng cho Chúa Kitô, như thấy nơi cái chết của Thầy giảng Anrê Phú Yên năm 1644 tại miền Trung. Vị Tử đạo cuối cùng trong số 117 là Thánh Phêrô Đa, giáo dân thợ mộc, vừa bị thiêu đốt vừa bị chém đầu ngày 17 tháng 6 năm 1862 tại Qua Linh, miền Bắc. Cuối năm 1861 đầu năm 1862, cuộc cấm đạo trước khi chấm dứt còn bùng lên dữ dội ở miền Nam. Chỉ ở hai nơi là Biên Hòa và Bà Rịa, 846 Kitô hữu đã bị thiêu sống. Vậy trong ngày lễ kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta không những kính 117 vị đã được tôn phong hiển thánh nhưng còn tỏ lòng biết ơn hàng trăm người đã hy sinh tính mạng vì Chúa Kitô và đã có công truyền lại đức tin cho chúng ta là con cháu.
Nhưng trước hết và trên hết, chúng ta cần tỏ lòng biết ơn Đấng là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa đến với loài ngừoi chúng ta. Thiên Chúa đã yêu loài người đến nỗi đã ban Con Một Người và Người Con Một ấy trước khi chết vì chúng ta đã quỳ xuống rửa chân cho từng môn đệ. Kế đến Ngài đã dành những lời tâm huyết để nhắn nhủ các môn đệ. Ngài ví bản thân Ngài như hạt lúa mì gieo vào lòng đất, phải chết đi để sinh được nhiều bông hạt lúa mới (x.Ga 12,24). Rồi Ngài dặn dò các môn đệ về cái thế giới chẳng mấy thân thiện đối với cả thầy lẫn trò: Họ ghét anh em vì họ đã ghét Thầy trước.
Chính tình yêu đến hy sinh mạng sống như Chúa Giêsu là cái giá phải trả để trở nên môn đệ đích thực của Chúa Giêsu. Cái giá ấy các môn đệ xưa đã trả bằng cách hy sinh mạng sống mình. Cái giá ấy các Thánh Tử Đạo cũng đã trả để mang lại nhiều hoa trái là nhiều người nhận biết Chúa Kitô để được ơn cứu độ. Đúng như lời vị Giáo Phụ Tertulianô đã nói: “Máu các vị Tử Đạo chính là hạt giống phát sinh các Kitô hữu”.
Thưa anh chị em,
Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời. Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống. Mỗi ngày chúng ta thường vị đặt trước những chọn lựa, trước thập giá của Chúa Giêsu y hệt như các vị Tử Đạo ngày xưa. Càng có tự do, chúng ta càng dễ sa sút đức tin. Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những tạo vật gây ra những bách hại êm ả và khủng khiếp mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện. Ước gì chúng ta không để mất đức tin đã được mua bằng giá máu của bao vị Tử Đạo, và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy cho anh em đồng bào trên quê hương Việt Nam chúng ta.



9. Chứng nhân

Vào hồi 9 giờ sáng ngày 19 – 6 – 1988 tại Rôma, tức là lúc 15 giờ cùng ngày tại Việt Nam, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên hàng hiển thánh, gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc. Dĩ nhiên đây chỉ là con số tiêu biểu cho hơn 100.000 vị tử đạo trong gần 300 năm bị bách hại. 300 năm bị bách hại với hơn 100.000 người tử đạo đủ cho mọi người thấy sự ác liệt thảm khốc cũng như sức chịu đựng bền bỉ kiên cường và lòng trung thành đối với đức tin mà cha ông chúng ta đã lãnh nhận và tôn thờ. Các ngài cảm thấy hạnh phúc vì được thuộc về Chúa, các ngài hãnh diện vì là người Công giáo, các ngài can đảm tuyên xưng danh Chúa và cương quyết giữ vững lập trường đức tin chân chính của mình.
Trong số hơn một trăm ngàn ấy, có một số rất ít là giám mục, linh mục thừa sai nước ngoài, một số đông hơn là linh mục và tu sĩ nam nữ Việt Nam, nhưng đại đa số là giáo dân: những ông trùm họ, ông câu, ông chánh trương, bà quản, những binh lính và hàng ngàn thanh niên nam nữ và các trẻ em. Tất cả đã chịu tử hình cá nhân hay tập thể, sau khi đã chịu nhiều cực hình khác nhau.
Nói chung, các vị tử đạo đã bằng lòng chấp nhận chịu thử thách đau thương, không kêu ca, không oán hận những người làm khổ mình như một con sò chịu cho người ta cắt thân ra, đặt vào một hạt cát, để rồi sau một thời gian sẽ có một viên ngọc đắt giá. Nếu như con sò kia nhả hạt cát ra thì sẽ không bao giờ có được một viên ngọc sáng giá. Các vị tử đạo cũng vậy, các ngài ấp ủ, bọc kín đau khổ trong đời mình, vì biết rằng qua đó Giáo hội sẽ được lời lãi gấp bội. Các ngài luôn vui tươi trong mọi cảnh huống cuộc đời. Thật là khó hiểu đối với những người không có đức tin. Vui tươi trước những may lành, thành công thì ai cũng làm được, hãnh diện trong vinh quang giàu sang, sung sướng là bình thường, nhưng vui tươi trong gian nan, thử thách, đau khổ, chết chóc là một điều hết sức kỳ khôi, lạ lùng, khác thường, nhưng rất hợp tình hợp lý, vì nước trời ghi công, vì sẽ được hạnh phúc muôn đời, đó là phần thưởng vô giá mà không có gì ở trần gian có thể so sánh được. Tử đạo là như thế.
Nói rõ hơn, trong các tôn giáo khác cũng có những người đã can đảm nhận lấy cái chết do sự nhiệt cuồng mạnh mẽ nhưng nhất thời, còn các vị tử đạo Công giáo không phải là những người nhiệt cuồng. Trong một thời gian lâu dài trước, các ngài đã biết hễ ai theo đạo Công giáo là sẽ bị chết, các ngài luôn sống với ý tưởng: không sớm thì muộn mình sẽ phải chịu đau khổ và phải chết cho đức tin, sống như vậy thì đau khổ hơn chết. Mặc dù vậy các ngài vẫn nhẫn nại trung thành với những bổn phận hằng ngày, vẫn bình thản sống trong sự tinh tấn của lương tâm và đợi chết hằng ngày. Thái độ đó khác hẳn với thái độ nhiệt cuồng của những người cuồng tin, lúc đầu mặc dầu các ngài cũng tìm hết cách để tránh khỏi bị hại, nhưng khi giờ tử đạo đến, các ngài biết chết một cách bình tĩnh cũng như các ngài đã sống bình tĩnh. Chết cách ấy quả là một việc anh hùng và phải có một sức mạnh siêu nhiên nào đó, đúng, đó là bàn tay vô hình của Thiên Chúa nâng đỡ.
Như vậy, tử đạo là lấy máu mình, lấy mạng sống mình, dùng cái chết của mình để minh chứng cho đạo mình tin theo, minh chứng đạo Công giáo đạo của Chúa. Các vị tử đạo đã chết bằng những hình khổ khác nhau, nhưng tất cả các ngài đều là những nhân chứng bằng chính đời sống của mình. Cái chết của các ngài là một câu trả lời hùng hồn quyết liệt cho những ai còn nghi ngờ tôn giáo của các ngài. Vì thế, danh từ “tử đạo” có nghĩa là kẻ làm chứng và dùng đau khổ tử hình để bảo đảm cho lời chứng. Pascan tiên sinh đã nói: “Tôi sẵn sàng tin những truyện mà người thuật lại giơ cổ ra cho người khác chém để làm chứng”.
Mừng kính trọng thể các thánh tử đạo, chúng ta nói lên lòng biết ơn sâu xa của chúng ta là những người ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn. Các ngài là cho ông tổ tiên của chúng ta, các ngài đã chết, nhưng công nghiệp của các ngài vẫn còn mãi. Cho nên, nhiệm vụ của chúng ta là ghi ơn, thừa hưởng và phát huy truyền thống cha ông ngàn đời vô giá. Truyền thống đó là: đức tin sắt đá, tinh thần đạo đức, chí hy sinh và gương anh dũng. Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ: tử đạo là một ân huệ đặc biệt Chúa ban cho ai tùy ý Ngài muốn, nhưng nỗ lực làm chứng cho Chúa thì không dành riêng cho ai cả, là Kitô hữu là có nhiệm vụ làm chứng: bằng lời nói, bằng hành động và bằng cả cuộc đời của mình.
Chúng ta đều biết cách làm chứng tốt nhất cho Chúa, cho đạo là sống bác ái, yêu thương, đây là cách tốt nhất để sống đạo và truyền đạo. Chung quanh chúng ta, những đồng bào không Công giáo cũng quan tâm rất nhiều đến bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người khác: những việc làm xóa đói giảm nghèo, những ngôi nhà tình nghĩa, những lớp học tình thương, những chia sẻ cho những anh em bị bão lụt, thiên tai, những người bệnh tật… chúng ta có quan tâm đến những việc đó hay những việc tương tự khác không? Chúng ta cũng nên tự hỏi: cách sống đạo của chúng ta có thực sự tuyên xưng Chúa, tuyên xưng đức tin không? Chúng ta cần phải thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo bằng việc sống trọn vẹn, quyết liệt, dứt khoát tinh thần bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người chung quanh.
Xin Chúa Thánh Thần là tình yêu Thiên Chúa ban ơn thêm sức cho chúng ta, đặc biệt là ban ơn bác ái yêu thương để chúng ta thêm tình mến Chúa yêu người một cách đơn sơ trung thành, một cách bền vững và một cách quảng đại. Chúng ta hãy nhớ: chỉ có tình yêu thương là cách sống đạo tốt nhất và làm chứng cho Chúa, cho đạo hữu hiệu nhất.



10. Tử Đạo - Người làm chứng (Mt 10,17-22)

(Suy niệm của Lm Jos. Nguyễn Văn Tuyên)
Thật là lạ lùng khi mà các bài đọc trong Thánh lễ mừng các Thánh Tử Đạo hôm nay lại chỉ toàn nói đến niềm vui. Đặc biệt là lời đáp trong Thánh Vịnh hôm nay: “Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan”. Vậy đâu là lý do để Giáo Hội chọn những bài đọc này?
Nếu cứ theo cách nghĩ của người đời thì làm sao có thể ca lên lời Thánh Vịnh nói trên, khi mà trong suốt gần 300 năm (261) bị bách hại, người Công Giáo Việt Nam đã phải trải qua biết bao nhiêu gian nan thử thách: nào là gông cùm, tù tội, nào là đòn vọt, xích xiềng... Với 6 triều vua cùng 53 sắc dụ cấm đạo đã cướp đi mạng sống của trên 130 ngàn người Công Giáo. Họ đã anh dũng ngã xuống để bảo vệ niềm tin của mình.
Có lẽ, không chỉ giáo đoàn Việt Nam, mà trong suốt dọc dài của lịch sử Giáo Hội, người tín hữu Chúa Kitô dường như đều gắn liền với những cuộc bách hại. Trong thời Giáo Hội sơ khai, các tín hữu cũng bị bách hại dữ dội, thế nhưng các ngài vẫn không hề nao núng. Sách Công vụ Tông Đồ thuật lại rằng, mặc dù bị đánh đập, hành hạ, nhưng khi các Tông đồ ra khỏi hội đường của người Dothái thì “lòng đầy hân hoan vì thấy mình xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Chúa Giêsu Kitô”.
Cũng vậy, các thánh TĐVN – cha ông chúng ta – đã cảm thấy hãnh diện vì được chịu khổ nhục vì đạo Chúa. Không những thế, các ngài còn đón nhận những hình khổ cũng như cái chết một cách vui mừng, mà không một chút nao núng, như trường hợp của Thánh Phêrô Đoàn Công Quý: "Dù trăng trói, gông cùm tù rạc, Chén ngục hình xiềng tỏa chi nề. Miễn vui lòng cam chịu một bề. Cho trọn đạo trung thần hiếu tử."; hay trường hợp của Thánh Anrê Trần An Dũng Lạc: "Đông qua tiết lại thời xuân tới. Khổ tạm mai sau hưởng phúc an. Làm kẻ anh hùng chi quản khó. Nguyện xin cùng gặp chốn thanh nhàn."
***
Đã có một thời, thậm chí ngay cả ngày hôm nay, nhiều người không cùng niềm tin với chúng ta vẫn còn tỏ ra dè dặt về danh xưng “Tử Đạo”. Có lẽ vì hai chữ “Tử Đạo” dễ khiến người ta liên tưởng đến những cuộc thánh chiến hay những cuộc đánh bom tự sát chăng?
Nhưng đối với trường hợp của các thánh TĐVN thì không như vậy. Mặc dù các ngài ở những bậc sống khác nhau, xuất thân từ những môi trường không giống nhau: có vị là Giám mục, có vị là linh mục, rồi thầy giảng, trùm trưởng, giáo dân; thậm chí có vị còn nắm giữ những trọng trách trong triều đình như Thánh Micae Hồ Đình Hy. Tuy nhiên, các ngài đều có một điểm chung đó là tình mến Chúa thiết tha và lòng yêu mến quê hương nồng nàn. Cái chết của các ngài không hề mang màu sắc của sự thù hận, nhưng phát xuất từ một niềm tin, như lời Thánh Micae Hồ Đình Hy: "Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều vua, lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước. Nay hạ thần cam chịu mọi cực hình để nên giống Đức Kitô."
Nguyên ngữ của chữ Tử Đạo (Martyr) có nghĩa là “Người làm chứng”. Ngày hôm nay, có lẽ không còn những cuộc bách hại đẫm máu, những tra tấn, gông cùm, tù tội…, hoặc ít ra là không gắt gao như thời của các Thánh Tử Đạo - cha ông chúng ta. Tuy nhiên, người tín hữu sống đạo hôm nay, vẫn phải đối mặt với muôn vàn thử thách.
Văn hóa thực dụng và lối sống hưởng thụ thời nay, một cách nào đó, đã và đang cản trở chúng ta thực thi các đòi hỏi của Tin Mừng. Giữa thế giới văn minh, tiện nghi, việc đạo được nhiều thuận lợi, biết đâu, có khi chúng ta lại dễ dàng chối bỏ niềm tin của mình? Đó là khi chúng ta sống ích kỷ, chỉ chăm lo đến ốc đảo của riêng mình; đó là khi chúng ta bỏ qua lời thề ước của hôn nhân để ngoại tình; đó là khi những người mẹ giết con bằng hành vi phá thai; đó là khi những người trẻ sống một cách buông thả; đó là khi chúng ta coi trọng những cuộc nhậu nhẹt say sưa hơn là các giờ kinh lễ; đó là khi chúng ta chia rẽ, hận thù và phá vỡ mối giây hiệp nhất trong cộng đoàn...
Làm sao để chúng ta có thể vẫn ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian, là điều không hề đơn giản. Chúa muốn chúng ta là nắm men vùi trong đống bột. Men không được tách khỏi bột, và men cũng không được biến chất thành bột. Bởi vì nếu như thế, men sẽ trở nên vô ích. Cũng như muối mà mất đi chất mặn thì chỉ còn cách đổ ra đường để cho người ta chà đạp lên…
***
Sẽ khó có thể nói được rằng Tử đạo ở thời nào hay nơi nào khó hơn. Bởi vì, mỗi thời, mỗi nơi, đều có những khó khăn thử thách riêng. Các vị Tử đạo cha ông chúng ta, đã phải hứng chịu những bách hại, đặc biệt là những gian khổ về mặt thể lý, như đòn vọt, gông cùm, tù tội… còn chúng ta ngày hôm nay, mặc dù không chịu những thử thách tương tự, thế nhưng để giữ đạo và sống đạo cho đúng với ơn gọi làm người Kitô hữu của mình, chúng ta đã phải tử đạo mỗi ngày, mà người ta vẫn gọi là “những người tử đạo trắng”.
Người Kitô hữu sống đạo hôm nay được kể như người đang “lội ngược dòng đời”. Đang khi thế gian chạy theo tiền bạc và hưởng thụ, tìm mọi cách để vun vén cho bản thân, chúng ta lại được mời gọi sống cho tha nhân, và mưu cầu hạnh phúc cho người khác. Đang khi cuộc sống hôm nay đầy dẫy những lọc lừa, gian dối, chúng ta lại được mời gọi sống ngay thẳng và làm chứng cho sự thật. Đang khi thế gian coi nhẹ phẩm giá con người, chúng ta được mời gọi tôn trọng sự sống và bảo vệ những mầm sống đó ngay từ những giây phút đầu tiên trong thai bào. Đang khi mối quan hệ gia đình, sự thủy chung trong đời sống vợ chồng ngày một trở nên lỏng lẻo, chúng ta lại được gọi mời sống trung thành với nhau cho đến chết… Và mỗi lần sống như thế, là mỗi lần chúng ta tử đạo.
Mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, mỗi người chúng ta đều được mời gọi trở nên những chứng nhân cho Đức Kitô qua đời sống yêu thương phục vụ. Nhờ đó, Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô sẽ được lan tỏa đến tận cùng trái đất.
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời! Chúa đã hy sinh mạng sống mình vì lòng yêu mến Chúa Cha và yêu thương loài người chúng con. Xin hãy dạy chúng con biết đáp đền tình yêu lớn lao ấy bằng chính cuộc sống chứng tá của chúng con. Xin cho chúng con giữ được vị mặn của muối, và độ nồng của men, để đem đến cho cuộc đời này một sức sống mới. Amen.



11. Bài giảng của ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên

(Bài giảng lễ kính các Thánh Tử đạo Việt Nam - Missouri, 8-8-2014)
Kính thưa cộng đoàn,
Ngày 19-6-1988 đã in một nét son trong lịch sử Giáo Hội Công giáo tại Việt Nam. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên hàng hiển thánh, gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc. 117 thánh tử đạo là con số tiêu biểu cho hơn 100 ngàn Vị Tử Đạo trong thời gian 300 năm Giáo Hội bị bách hại. Đây là một biến cố quan trọng đối với Dân tộc Việt Nam. Người Việt Nam vốn đã tự hào về một truyền thống kiên cường trong việc dựng nước và giữ nước, nay càng tự hào hơn vì có những bậc tiền nhân anh hùng kiên vững trong Đức tin. Quê hương Việt Nam đã xinh đẹp, nay còn xinh đẹp hơn nhờ được tô điểm bằng Đức tin Công giáo.
Tại Quảng trường Đền thờ Thánh Phêrô ở Rôma hôm đó, trước hàng triệu tín hữu, trong số đó có những tín hữu Việt Nam, Vị Cha chung của Giáo Hội Công giáo hoàn vũ đã nhân danh Chúa Ba Ngôi long trọng tuyên bố: kể từ nay, 117 vị Tử đạo Việt Nam được kể vào hàng các thánh và được tôn kính trong toàn thể Giáo Hội. Để bày tỏ tình thương hiền phụ đối với các tín hữu Việt Nam, vị Thánh Giáo Hoàng đã ngỏ lời với con cháu các thánh Tử đạo bằng ngôn ngữ của họ. Đây là lần đầu tiên tiếng Việt thân thương của chúng ta được phát âm và xướng lên bởi một vị Giáo Hoàng: “Chào anh chị em Việt Nam thân mến. Cha gửi lời chào chúng con từ bốn phương trời tuốn về La Mã, vui vẻ hiên ngang mừng các thánh Tử đạo của Giáo Hội chúng con hôm nay. Xin Chúa chúc lành cho chúng con, và Cha cầu chúc cho chúng con sống xứng đáng là con cháu các vị anh hùng”.
Đã 26 năm từ sự kiện phong thánh, những lời của vị Cha Chung ngỏ lời với con dân Việt vẫn còn vang vọng đâu đây trong tâm khảm của các tín hữu Việt Nam đang sống trong nước cũng như ở hải ngoại. Bởi lẽ, qua những lời đơn sơ ấy, vị Thánh Giáo Hoàng muốn mời gọi chúng ta tưởng nhớ về một quá khứ đau thương hào hùng của Giáo Hội Công giáo Việt Nam, đồng thời khuyên chúng ta học nơi các ngài bài học sống Đức tin trong cuộc sống hiện tại hôm nay.
- Thứ nhất, hồi tưởng về quá khứ. Giáo Hội công giáo Việt Nam đã trải qua những thử thách đau thương khốc liệt, giống như cộng đoàn tín hữu tiên khởi tại Rôma ở thế ký thứ hai. Hơn một trăm ngàn người Việt Nam đã phải hy sinh mạng sống chỉ vì một lý do là họ tin vào Chúa. Họ phải chịu biết bao đau khổ và nhục hình: phân biệt đối xử, phát vãng lưu đày và tử hình. Có thể thế hệ hôm nay sẽ đặt câu hỏi: các Thánh Tử đạo Việt Nam là những ai? Thưa họ là những giám mục, linh mục, tu sĩ chủng sinh; họ là những người cha, người mẹ, những người con trong gia đình; họ là những người học hành uyên bác nhưng phần lớn trong số họ là những người bình dân; đa phần trong số họ là những người chân lấm tay bùn, vất vả quanh năm với con trâu, cái cày. Trong số họ cũng có 21 vị là người ngoại quốc. Các ngài đến từ những đất nước văn minh và đã chọn Việt Nam là quê hương thứ hai của mình. Các Thánh Tử đạo Việt Nam, không phân biệt Tây hay Ta, nam hay nữ, giàu hay nghèo, trí thức hay bình dân. Tất cả đều yêu mến Chúa, yêu quê hương Việt Nam và yêu Giáo Hội Việt Nam đến mức sẵn sàng đổ máu đào để làm chứng cho tình yêu ấy. Vì thành kiến và thù ghét, người ta đã nghĩ ra biết bao hình khổ ghê rợn hầu làm họ chối bỏ Đức tin, nhưng các ngài vẫn can đảm kiên trung trước lời đe dọa của những nhà cầm quyền. Chủng sinh 18 tuổi, Tôma Trần Văn Thiện, đã nói với quan: “Đạo dạy tôi thờ Thiên Chúa là đạo thật, tôi sẵn sàng chịu chết chứ không bỏ đạo“. Thấy Tôma Thiện là một chàng trai trẻ có khuôn mặt khôi ngô tuấn tú, quan muốn nhận làm con rể mình, và sẽ đứng ra lo liệu cưới xin. Nhưng ngài đã từ chối: “Tôi chỉ mong chức quyền trên trời, chứ không màng đến quyền chức trần thế. Thánh Tôma đã thấu hiểu lời Đức Kitô trong Tin mừng Luca: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì?”. Sách viết về cuộc đời của các Thánh Tử đạo còn kể lại biết bao chứng tá anh hùng của các ngài. Các ngài không sợ hình phạt, chỉ sợ mất nghĩa cùng Chúa. Đi ra pháp trường mà các ngài vui vẻ như đi dự hội. Với các thánh Phạm Khắc Khoan, Nguyễn Văn Hiếu và Đinh Văn Thanh, các ngài đã chia bè và hát kinh Tạ Ơn “TE DEUM” bằng tiếng Latinh ngay trong nhà giam. Rồi khi ra pháp trường để chịu tử hình, các ngài lại hát bài ca “Alleluia” như trong đêm vọng Phục Sinh. Chỉ có một Đức tin kiên trung và lòng phó thác trọn vẹn mới có thể đem lại cho các ngài nghị lực và niềm vui như vậy.
Sống đạo đức thánh thiện và trung thành với Đức tin, các ngài còn là những người sống bác ái với mọi người. Lịch sử các Thánh Tử đạo còn ghi lại thánh y sĩ Phan Đắc Hòa. Ngài đã sẵn sàng chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, sẵn lòng cứu giúp những người túng thiếu. Hay thánh Martinô Thọ, Ngài thường trồng vườn dâu để có thêm thu nhập giúp người nghèo. Cụ trùm Đích thì thường xuyên góp nhặt tiền bạc để đi thăm viếng trại cùi và nuôi nấng những người dịch tả trong vùng. Còn với quan Hồ Đình Hy, ngài luôn giúp đỡ những người bơ vơ, mồ côi ngay ở trong nhà, và khi họ qua đời thì lo an táng đàng hoàng như một người bình thường.
- Ôn lại quá khứ, chúng ta là những tín hữu Công giáo Việt Nam học những bài học cụ thể cho cuộc sống hôm nay. Quả vậy, lòng tự hào về các bậc Tiền Nhân không phải chỉ được ghi lại trong những pho sách sử mà thôi. Chúng ta ôn lại truyền thống hào hùng được ghi dấu và thấm đẫm máu đào, không giống như chỉ ôn lại một sự kiện lịch sử xa vời, dù rất đẹp nhưng khô cứng và vô hồn. Chúng ta tự hào về các Thánh Tử Đạo cũng không giống như kiểu lấy công phúc của các ngài để làm vinh dự cho chúng ta. Việc ôn lại chứng tá của các Thánh Tử đạo nhắc nhớ mỗi người dân Việt, nhất là những tín hữu Công giáo Việt Nam, dù sống trên miền đất nào, cũng cố gắng noi theo lòng đạo đức của các ngài, gìn giữ Đức tin kiên trung vào Chúa, yêu mến Giáo Hội và sống Đức tin trong cuộc sống hằng ngày. Cuộc sống và chứng từ của các anh hùng Tử đạo cần phải được kể lại cho mọi thế hệ người Công giáo Việt Nam. Cùng với lòng tự hào là tâm tình tri ân cảm mến và thiện chí noi gương các ngài để sống Đức tin. Thời tử đạo dẫn đến máu chảy đầu rơi ngày nay không còn nữa, nhưng những ai muốn trung thành với Chúa thời nào cũng phải cân nhắc khôn ngoan để chọn lựa Chúa hay chọn lựa thế gian; chọn lựa hạnh phúc và niềm vui vĩnh cửu hay chọn lựa vinh quang nhất thời; chọn lựa đường đi trong ánh sáng hay cuộc sống trong bóng đêm. Môi trường nào cũng vậy, ta luôn phải chọn lựa. Hoàn cảnh nào cũng thế, ta phải sống khôn ngoan. Cuộc chọn lựa này nhiều khi làm chúng ta phải vượt lên những ràng buộc khắt khe và có khi phải vượt lên chính mình với trái tim rướm máu. Nếu những cuộc cấm cách tàn khốc đã lùi vào dĩ vãng thì người tín hữu hôm nay lại phải đối diện với những thử thách của thời hiện đại. Quả vậy, biết bao trào lưu và lối sống mượn chiêu bài tự do để đi ngược với giáo huấn của Tin Mừng, coi thường hoặc lãng quên những thực hành đạo đức, tôn vinh kỹ thuật một cách quá đáng và lãng quên Thiên Chúa là Cội nguồn mọi sự. Sáng suốt và khôn ngoan để trung thành với Chúa trong cuộc sống hôm nay, đó là một cuộc tử đạo trường kỳ, dai dẳng suốt cuộc đời.
Ơn gọi tử đạo gắn liền với những ai tin vào Chúa Giêsu và muốn làm môn đệ Người. Nếu chúng ta được sống trong một xã hội dân chủ, an bình, thì đó đây trên thế giới, vẫn còn những nhà truyền giáo bị hành hung và sát hại, vẫn có những ngôi thánh đường Công giáo bị tàn phá, vẫn còn những tín hữu không dám công khai tuyên xưng Đức tin, vẫn còn những người vì hai chữ Công giáo mà bị phân biệt đối xử. Đây cũng là những cuộc bách hại mang hình thức mới của thời đại và những tín hữu này đang sống từng ngày chứng tá của mình một cách anh hùng.
Kính thưa Cộng đoàn,
Ngày Thánh Mẫu được tổ chức hàng năm tại Missouri đã trở thành điểm hẹn thân thương cho người Việt Nam đang sống tại Hoa Kỳ cũng như tại nhiều nước trên thế giới. Chúng ta về đây để gặp gỡ nhau, để chia sẻ những vui buồn và nâng đỡ nhau trong cuộc sống. Chính Đức Mẹ Maria đã quy tụ chúng ta nơi đây. Mẹ là điểm nối kết giữa những con Dân Việt đang sống xa quê. Về với Mẹ, chúng ta được Mẹ vỗ về ủi an. Về với Mẹ, chúng ta có dịp kể lể tâm sự với Mẹ những băn khoăn trăn trở của cuộc sống trần gian. Về với Mẹ, chúng ta cũng chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Mẹ chiếu tỏa qua các nhân đức và sự trung thành can đảm của Mẹ. Trong Thánh lễ kính các Thánh Tử đạo Việt Nam, chúng ta cùng nhìn lên Mẹ và ca tụng Mẹ là Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo. Vâng, dưới chân thập giá, Mẹ đứng đó, trong suy niệm và thinh lặng, đau khổ kết hợp với của lễ của Con mình là Đức Giêsu chịu treo trên thập giá. Mẹ là Đấng Đồng Công cứu chuộc. Mẹ chia sẻ đau đớn và hiệp thông với Chúa Giêsu. Mẹ cũng dâng chính bản thân mình làm của lễ lên Chúa Cha. Mẹ xứng đáng được mang ngành thiên tuế của các vị Tử Đạo. Về bên Mẹ trong Ngày Thánh Mẫu này, chúng ta xin Mẹ cho chúng ta được lòng cậy trông, chí can đảm và lòng tín thác nơi Chúa trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Đây bài ca ngàn trùng dâng về Thiên Chúa, bài ca thắm nhuộm máu hồng. Nhìn Chúa đẫm máu trên đồi cao, từng đoàn người anh dũng tiến lên pháp trường. Một bài ca đẫm máu đào. Một bài ca hào hùng bất tận. Bài ca ấy, chính là cuộc đời của các thánh Tử đạo Việt Nam. Chúng ta, nhưng tín hữu Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại, đang là những người nối tiếp bài ca đã được các ngài xướng lên, để làm vang mãi lời ca tôn vinh Chúa, ca ngợi vẻ đẹp của Giáo Hội và Quê Hương Việt Nam thân thương.
“Cha cầu chúc cho chúng con sống xứng đáng là con cháu các vị anh hùng” - lời chúc thiêng liêng của vị Thánh Giáo Hoàng luôn luôn là một lời mời gọi và là một thông điệp được gửi đến cho mỗi người chúng ta.
Xin Chúa chúc lành cho chúng con. Xin Mẹ luôn gìn giữ che chở chúng con. Xin các Thánh Tử đạo Việt Nam cầu bầu cho chúng con. Amen.



12. Bài giảng của ĐGM. Giuse Nguyễn Năng

TUYÊN XƯNG, SỐNG VÀ LÀM CHỨNG CHO ĐỨC TIN
1. Không một tôn giáo nào có một lịch sử kỳ lạ như Kitô giáo. Quả vậy, không một tôn giáo nào bị bách hại nhiều, lâu dài và đau thương như Kitô giáo; và cho dù bị bách hại nhiều, lâu dài và đau thương, Kitô giáo không hề bị tiêu diệt, trái lại vẫn không ngừng tăng trưởng cả về phẩm chất lẫn số lượng. Đó là những bí ẩn của lịch sử không thể lý giải bằng lý lẽ tự nhiên, nhưng chỉ có thể hiểu được trong ánh sáng của niềm tin.
Quả vậy, ngay từ những năm tháng đầu tiên loan báo Tin Mừng, Hội Thánh đã trải qua 300 năm bị bách hại dưới thời các hoàng đế Roma. Rồi từ đó, Phúc Âm được rao giảng ở đâu, thì ở đó không sớm thì muộn, các Kitô hữu cũng bị bắt bớ và giết chết, Hội Thánh bị bách hại và loại trừ. Lịch sử Hội Thánh là một lịch sử đầy những cuộc tử đạo, ở khắp mọi miền trên thế giới, vào hết mọi thời kỳ trong lịch sử.
Ngay trong thời đại chúng ta, trong thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI này, nếu tính tổng cộng tất cả các Kitô hữu, gồm Công giáo, Chính thống, Anh giáo và Tin lành, thì hằng năm có khoảng 170.000 người tử đạo, 200.000.000 người chịu bách hại vì đức tin Kitô giáo.
Trên mảnh đất Việt Nam thân yêu này, 117 vị thánh đã được phúc tử đạo trong một giai đoạn bách hại kéo dài đúng 117 năm, tính từ hai vị tử đạo tiên khởi vào năm 1745 đến vị cuối cùng vào năm 1862, qua các triều đại vua Lê chúa Trịnh, Tây Sơn và các triều nhà Nguyễn. Đó là chưa kể chân phước Anrê Phú Yên tử đạo vào năm 1644, và hằng trăm ngàn tín hữu chết vì đức tin nhưng chưa được phong thánh.
Bức tranh trên đây là một thực tế, và đó cũng là một điều bí ẩn của lịch sử Hội Thánh. Các Kitô hữu bị ghét, vì trước hết, chính Chúa Giêsu đã bị ghét và đã chịu tử hình trên thánh giá. Chúa Giêsu chính là vị tử đạo đầu tiên vì Tin Mừng mà Ngài rao giảng. Ngài là con đường dẫn đến sự sống đích thực, nhưng thế gian lại yêu sự tối tăm hơn ánh sáng.
Chúa nói: “Vì anh em không thuộc về thế gian, và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em… Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em… Họ chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy” (Ga 15, 19-21). Đơn giản chỉ là thế. Sâu xa là như vậy.
Tuy nhiên, Chúa đã hứa ở cùng Hội Thánh mọi ngày cho đến tận thế, và Chúa đã tuyên bố không quyền năng nào có thể tiêu diệt Hội Thánh. “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).
2. Trong Năm Đức Tin này, chúng ta hãy cùng nhau ôn lại đời sống đức tin của các thánh tử đạo Việt Nam để xem các ngài đã tuyên xưng, đã sống và làm chứng cho đức tin thế nào.
Tại sao các Kitô hữu bị ghét bỏ, bị bắt bớ và giết chết? Các thánh tử đạo đã làm gì?
Các thánh tử đạo bị giết chỉ vì tuyên xưng lòng tin vào Chúa Giêsu. Lòng tin ấy biểu lộ qua việc tôn thờ thánh giá Chúa. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được!” Thánh Têôphan Ven nói: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”
Chắc chắn không phải vì các ngài đã theo đạo Tây mà phản bội tổ quốc và dân tộc. Các ngài tôn trọng vua quan và hết lòng vì quê hương. Thánh linh mục Tự đối đáp với quan tòa: “Tôi kính Thiên Chúa như Thượng Phụ, kính vua như trung phụ, và kính song thân như hạ phụ. Không thể nghe cha ruột để hại vua, tôi cũng không thể vì vua mà phạm đến Thượng Phụ là Thiên Chúa được”.
Nhiều vị thánh đã ở trong hàng ngũ quân đội bảo vệ đất nước. Thánh Trần Văn Trung là một binh sĩ, đã bị giết vì khẳng khái tuyên bố: “Tôi là Kitô hữu, tôi sẵn sàng đi đánh kẻ thù của đất nước, nhưng bỏ đạo thì không bao giờ. Thánh linh mục Khuông từng tuyên bố: “Đạo Giatô không những cấm tín hữu chống lại triều đình, mà còn khuyến khích để họ cầu nguyện và góp phần giúp quê hương an ninh thịnh vượng”.
Yêu nước không có nghĩa là phải thù ghét loại trừ các Kitô hữu và chống lại Kitô giáo.
3. Lời tuyên xưng của các thánh tử đạo không chỉ là lời tuyên bố trong một khoảnh khắc nhất thời trước khi chết, nhưng đó là hoa trái kết tinh từ một đời sống thấm nhuần Lời Chúa. Các ngài đã sống đức tin, đã thể hiện Tin Mừng yêu thương trong chính đời sống của mình.
Trước hết, đời sống đức tin của các thánh tử đạo được biểu lộ ngay trong bổn phận hằng ngày của đời sống gia đình.
Dù thời đó, chế độ đa thê vẫn đang thịnh hành trong xã hội Việt Nam, nhưng các thánh tử đạo đã trung thành với giáo huấn một vợ một chồng của Phúc Âm. Dĩ nhiên có những vị lúc đầu đã không trung thành với lời cam kết hôn nhân, như các thánh Gẫm, binh sĩ Huy, Cai Thìn, quan Hồ Đình Hy... đã có thời gian sa ngã, thế nhưng sau đó tất cả đều biết trở về để vun đắp lại mái ấm gia đình của mình.
Các thánh chu toàn bổn phận nuôi dạy con cái theo tinh thần đức tin. Thánh Thọ căn dặn các con vào thăm trong tù: “Các con thân mến, cha không còn làm gì giúp các con ở thế gian này được nữa, cha chỉ còn lo chuẩn bị tâm hồn đón nhận những thử thách cuối cùng. Ý Chúa đã muốn cha xa lìa các con mãi mãi, nhưng các con còn có mẹ, hãy cố gắng vâng lời mẹ. Các con lớn hãy nhớ quan tâm săn sóc em mình. Các con nhỏ phải biết kính trọng vâng lời anh chị. Hãy thương yêu nhau, siêng năng làm việc đỡ đần mẹ. Hãy nhớ đọc kinh tối sáng và lần chuỗi Mân Côi hằng ngày. Chúa trao cho mỗi người một thánh giá riêng, hãy vui vẻ vác theo chân Chúa và kiên trung giữ đạo”.
Về phần thánh Anê Lê Thị Thành, vị thánh nữ duy nhất trong số các vị tử đạo, người con gái thứ haicủa ngài làcô Anna Năm xác nhận:“Bố mẹ chúng tôi chỉ gả các con gái cho những người thanh niên đạo hạnh. Sau khi tôi kết hôn, mẹ tôi thường đến thăm chúng tôi và khuyên bảo những lời tốt lành. Có lần mẹ dạy tôi: "Tuân theo Ý Chúa, con lập gia đình là gánh rất nặng. Con phải ăn ở khôn ngoan, đừng cãi lời cha mẹ chồng. Hãy vui lòng nhận thánh giá Chúa gửi cho".Người cũng thường khuyên vợ chồng tôi: "Hai con hãy sống hoà hợp, vui vẻ, đừng để ai nghe chúng con cãi nhau bao giờ".”
Kế đến, sống đức tin là sống Tin Mừng yêu thương.
Thánh y sĩ Phan Đắc Hòa rộng tay giúp người nghèo khổ, riêng bệnh nhân túng thiếu, không những ông chữa bệnh miễn phí, lại còn giúp tiền giúp lúa. Thánh Martinô Thọ nói: "Công bằng chưa đủ, phải có bác ái nữa, mà muốn thực thi bác ái phải có điều kiện", nên ngài trồng thêm vườn dâu kiếm tiền giúp người thiếu thốn. Người cùng tử đạo với ngài là Gioan Cỏn từng mạnh dạn đấu tranh cho người nghèo chống lại chính sách đòi sưu cao thuế nặng. Thánh Năm Thuông là ân nhân của viện cô nhi trong vùng. Còn thánh Trùm Đích thường xuyên thăm viếng trại cùi và sẵn sàng nuôi người mắc bệnh dịch tại nhà mình.
Điều quan trọng trong đời sống đức tin của các thánh tử đạo là lòng tha thứ.
Nếu lòng anh dũng giúp các vị tử đạo bình thản đón nhận cái chết không run sợ, không quỵ lụy khóc than, thì chính lòng bao dung thứ tha mới là đặc tính phân biệt vị tử đạo với những vị anh hùng vì lý do khác.
Các tín hữu chỉ thực sự chết vì đạo nếu biểu lộ được tình yêu, lòng nhân ái, sự bao dung của Tin Mừng. Các vị chắc chắn không đồng ý với bản án bất công của triều đình, nhưng như Đức Giêsu trên thánh giá vẫn cầu nguyện cho quân lính giết hại mình, các chứng nhân tử đạo vẫn tiếp tục yêu thương vua quan và những người hành xử mình.
Khi viên quan nói: “Tôi phải theo lệnh vua, đừng giận tôi nhé”, linh mục Théophane Ven đáp: “Tôi chẳngghét gì ai cả, tôi sẽ cầu nguyện nhiều cho quan”. Thánh Hoàng Lương Cảnh làm cho quan quân phá lên cười khi ngài đọc: “Cầu Chúa Giêsu, xin cho các quantrị nước cho yên càng ngày càng thịnh”.
4. Lời tuyên xưng và đời sống đức tin của các thánh tử đạo đã làm trổ sinh hoa trái phong phú trên quê hương Việt Nam thân yêu này.
Chính đời sống của các thánh tử đạo đã cảm hóa và chiếm được tình cảm của bà con hàng xóm. Dù triều đình nhà Nguyễn ra chiếu chỉ bách hại, bà con hàng xóm vẫn tỏ dấu hiệu thân ái với người công giáo.
Thánh linh mục Vũ Bá Loan là niên trưởng 84 tuổi, được mọi người kính trọng gọi bằng “cụ, ngài không bị đánh đòn; và trong ngày xử, mười lý hình chạy trốn, đến người thứ mười một, đã lịch sự xin phép: “Việc vua truyền cháu phải làm, xin cụ xá lỗi cho. Cháu sẽ cố giúp cụ chết êm ái. Khi về trời cụ nhớ đến cháu nhé”.
Trong vụ án thánh linh mục Gioan Đạt, viên cai ngục nói: “Tôi thấy cụ khôn ngoan, đạo đức, thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cổ quan tài để biểu lộ lòng tôi quí cụ.”
Hơn nữa, ngay trong lúc bị giam tù, các ngài đã đưa hằng trăm người đến với Chúa. Và từ đó đến nay, hạt giống Tin Mừng không ngừng lớn lên trong đất nước này. Tin Mừng như men đang thấm vào mọi sinh hoạt xã hội để đưa thế gian đi theo con đường của chân lý Phúc Âm.
Là con cháu các thánh tử đạo, chúng ta hãy phát huy gia sản đức tin mà cha ông đã để lại cho chúng ta. Đức tin ấy đã lớn lên trong máu và nước mắt, trong hy sinh và gian khổ. Bao nhiêu thế hệ đã nằm xuống để chúng ta được trung kiên với đức tin tông truyền.
Ngày nay, tuy không còn phải chịu những đau thương dữ dằn như trong quá khứ, nhưng chúng ta đang phải đối diện với một cuộc tấn công khác có thể còn nguy hiểm gấp bội, đó là sức mạnh của tiền bạc, địa vị, khoái lạc, tự do buông thả. Những sức mạnh này đã làm cho bao nhiêu tín hữu gục ngã, đã lôi kéo bao nhiêu Kitô hữu rời xa Hội Thánh, đã làm cho biết bao người quên Thiên Chúa.
Trong Năm Đức Tin này, chúng ta hãy bắt chước các thánh tử đạo tuyên xưng đức tin một cách xác tín, ý thức. Chúng ta có thể nói như thánh Phaolô không: “Tôi biết tôi đã tin vào ai” (2Tm 1, 12)? Hãy để cho lòng tin vào Chúa thấm nhuần và biến đổi cuộc sống chúng ta, để tất cả mọi hành vi, ứng xử, chọn lựa, thái độ, của chúng ta luôn tỏa chiếu sức mạnh của Tin Mừng và tạo nên một sức hấp dẫn đối với những người chung quanh để đưa họ đến với Chúa Giêsu Cứu Thế.



13. Bài giảng của ĐGM Vinhsơn Nguyễn Văn Long

(Bài giảng thánh lễ kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam tại Sydney)
Kính thưa quý cha, tu sĩ nam nữ và quý Ông Bà, Anh Chị Em,
Hôm nay tôi rất vui mừng được đến đây dâng đại lễ mừng các Thánh Tử Ðạo Việt Nam cùng với các linh mục tu sĩ và đông đảo cộng đoàn Dân Chúa tại Tổng Giáo Phận Sydney. Tôi thiết nghĩ rằng, không có Thánh Lễ nào trong phụng vụ hằng năm nói lên niềm tin của người Việt Nam Công Giáo cho bằng Thánh Lễ ngày hôm nay. Qủa thế, các Thánh Tử Đạo Việt Nam chính là biểu lộ những gì đặc thù nhất và tinh túy nhất của truyền thống đức tin Công Giáo của chúng ta. Hôm nay, chúng ta tạ ơn Chúa vì những gì Ngài đã thực hiện qua những con người yếu hèn; hôm nay chúng ta hãnh diện vì được tiếp nối truyền thống hào hùng và hôm nay chúng ta noi gương các ngài cùng quyết tâm trung thành với sứ mạng được trao phó.
Lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam của chúng ta cũng là bằng chứng hùng hồn của sức mạnh của Thiên Chúa qua sự yếu đuối của con người. Trải qua chiều dài nhiều thế kỷ, từ khi hạt giống đức tin được gieo vào lòng đất Việt, Giáo Hội đã trải qua bao gian nan thử thách. Nhưng gông cùm, bách bớ tù đầy và ngay cả sự chết đã không ngăn cản, không sờn lòng các vị tiền nhân anh dũng. Các Ngài đã không sợ những người chỉ làm hại thân xác mà không lay chuyển tâm hồn, như lời chúa phán trong bài Phúc Âm hôm nay. Các Ngài như vàng được thử trong lửa và như của lễ toàn thiêu được Chúa chấp nhận. Nơi các Ngài, tình yêu của Chúa Kitô đã chiến thắng tất cả những thế lực của sự dữ:
Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. không có gì tách đuợc chúng ta ra khỏi tình yêu củ#a Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.
Thưa quý Ông Bà, Anh Chị Em,
Lòng anh dũng can trường của các Thánh Tử Ðạo Việt Nam đã và đang thôi thúc các thế hệ nối tiếp. Chúng ta có thể hãnh diện tuyên xưng không chỉ 117 vị đã được Giáo Hội hoàn vũ liệt kê vào danh sách chính thức. Thật thế, đã có hàng trăm ngàn các vị đã hy sinh mạng sống mình vì Phúc Âm và những hạt giống đức tin đó đang sinh hoa kết trái trong lòng đất Việt thân yêu, nơi các Ngài nằm xuống. Những trang sử oai hùng của chúng ta không chỉ được viết trong qúa khứ, khi bắt bớ, tù đày và gông cùm không làm cha ông chúng ta chùn bước.Trong tinh thần đức tin bất diệt, các thế hệ nối tiếp cũng đang viết lên một trang sử mới, trong muôn vàn thử thách đắng cay.
Trong suốt gần 70 năm dưới chế độ Cộng Sản, Giáo Hội Việt Nam đã không bị thuần phục và trở thành công cụ của một chế độ, bất chấp bạo lực mưu mô và sách lược của nhà cầm quyền vô thần. Hơn thế nữa, những biến cố gần đây tại Thái Hà, Toà khâm Sứ, Cồn Dầu, Con Cuông và nhiều nơi khác ở Việt Nam đã nói lên ý chí kiên cường cho công lý và trìều đại chính trực.
Trong một xã hội bị bóng đêm của độc tài, của bất công và của dối trá thống trị, ngọn lửa Đức Kitô là đường, là sự thật và là sự sống được các bậc tiền nhân anh dũng và các thế hệ nối tiếp thắp lên và làm ánh sáng hy vọng, không chỉ cho nguời Công Giáo mà cho cả quê hương dân tộc.
Kính thưa quý Ông Bà, Anh Chị Em,
Hôm nay cũng là ngày mà người Việt Nam Công Giáo ly hương xác tín lại sứ mạng của chúng ta trước gia tài thiêng liêng của các Thánh Tử Đạo. Tôi thâm tín rằng, sự kiện chúng ta hiện diện nơi đây cũng như trên khặp thế giới là do sự quan phòng của Thiên Chúa. Mà sự an bài nhiệm mầu này không phải chỉ dành riêng cho chúng ta, mà còn cho cả giáo hội và cho quê hương chúng ta nữa. Như người dân Do Thái lưu đầy năm xưa, chúng ta được đến xứ lạ không phải để tha phương cầu thực mà để làm chứng nhân của tự do, sứ gỉa của tin mừng và là hạt nhân cho tiến trình công lý hóa và phục hưng cho quê hương và giáo hội quê mẹ.
Chúng ta cảm tạ Chúa là sau hơn 30 năm định cư, người Việt Công Giáo đã và đang có những đóng góp tích cực về mọi khía cạnh của giáo hội: về ơn gọi tu sĩ linh mục, về sinh hoạt đoàn thể, mục vụ giáo xứ và ngay cả về tài chánh. Nhưng chúng ta không thể dừng lại ở con số hay những tiêu chuẩn bề ngoài. Cách đây ít lâu tôi có đi kinh lý tại Brisbane vì những khó khăn cộng đòan trên đó gặp phải. Vì những vấn đề trong các cộng đòan tại Úc, tôi tự hỏi: Phải chăng chúng ta cần đề cao cảnh giác hơn về các khuynh hướng gây chia rẽ rạn nứt trong cộng đoàn? Phải chăng chúng ta cần sống đạo có chiều sâu hơn, nhất là sự tha thứ, bao dung, đại đồng? Phải chăng chúng ta cần áp dụng triệt để hơn tinh thần phục vụ trong khiêm tốn, quảng đại, hiến thân? Đây là những điều mà không phải giáo dân mà cả các anh em linh mục tu sĩ chúng tôi cần xét mình và hành động. Nếu chúng ta tự hào là con cháu của các Thánh Tử Đạo, chúng ta phải chứng tỏ bằng hoa trái của đời sống người tín hữu đích thực.
Hôm nay, mừng lễ các Thánh Tử Ðạo Việt Nam, chúng ta cùng cảm tạ Chúa vì gia tài đức tin cao qúi mà các Ngài đã để lại cho chúng ta. Xin Thiên Chúa qua sự bầu cử của các Ngài, giúp chúng ta làm chứng nhân sống động của đức tin và của các gía trị cao qúi mà chúng ta đã sẵn sàng trao đổi mạng sống trong hành trình tìm tự do năm xưa. Thời Cựu Ước, Người Do Thái lưu đày tại Babylon đã trở nên hạt nhân của công cuộc tái thiết đất nước của họ. Thời nay, người Việt ly hương chúng ta cũng không thể quên nguồn gốc và nhất là không thể vô cảm trước bao thống khổ của đồng bào trong nước. Chính tình yêu đối với Thiên Chúa và nhiệt tâm cho Vương Quốc của Ngài đòi hỏi thôi thúc chúng ta trong cuộc chiến cho công lý và sự thật, ánh sáng và sự sống – cuộc chiến mà chính Đức Kitô đã tranh đấu và khải hoàn qua sự chết và phục sinh của Ngài. Chúng ta cùng hiệp thông với giáo hội quê nhà và mọi người thiện tâm để hướng tới một tương lai tươi sáng, một hình ảnh của vương quốc Thiên Chúa trên đất Việt thân yêu.
Hôm nay cũng là ngày Lễ Vọng Chúa Kitô Vua, là ngày nhắc nhở chúng ta về Đấng là khởi điểm và là cùng đích của lịch sử. Mặc dù trong thế giới, trong xã hội, hay trong quê hương còn có qúa nhiều tàn dư của sự dữ, chúng ta tin tưởng vào sự tất thắng của vương quốc Thiên Chúa. Cùng Đức Kitô Đấng đã chế ngự tử thần và sự dữ, cùng với Mẹ Lavang, các Thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta hãy vững tiến về tương lai tươi sáng trong tin yêu hy vọng. Với các Ngài, chúng ta hát câu “người đi trong đau thương sẽ về giữa vui cười, người gieo trong lệ sầu sẽ gặt trong mùa xuân tươi”. Amen.



14. Lễ Kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

(Bài giảng Lễ Thiếu Nhi của Lm Nguyễn Ngọc Long)
(Đn 12,1-3; Dt 10,11-14.18; Lc 9, 23 – 26)
Các con thiếu nhi thương mến!
Hôm nay cùng với Giáo hội khắp nơi trên thế giới, giáo xứ chúng ta hân hoan mừng kính trọng thể lễ Các Thánh tử đạo Việt Nam. Bổn mạng của Hội Thánh Việt Nam và cũng là lễ bổn mạng xứ đoàn Các Thánh tử đạo Việt Nam của chúng ta.
Nhìn lại lịch sử Giáo hội Công giáo Việt Nam, từ năm 1580 và kết thúc hoàn toàn vào năm 1888, nghĩa là cách chúng ta một thế kỷ và kéo dài gần ba thế kỷ. Thời gian dài 300 năm bị bách hại đã có trên 130.000 người tử vì đạo. Trong đó, có 117 vị đã được tôn phong hiển thánh mà chúng ta cùng toàn thể Giáo hội hoàn vũ mừng kính hôm nay. Đoàn các thánh vinh hiển đó gồm mọi cấp bậc trong Giáo Hội: từ các Giám mục, linh mục đến các thầy giảng, nữ tu, giáo dân… Họ thuộc đủ mọi thành phần trong xã hội: từ những thương gia, nông dân, thợ thuyền, lý trưởng, cai tổng, binh lính..
Các thánh đã chịu những cực hình khủng khiếp mà chính quyền thời đó đã hành hạ và tiêu diệt những người tin theo Chúa bằng nhiều cách man rợ như:
– Bá đao: bị lý hình dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt trên thân thể cho đủ 100 miếng.
– Lăng trì: bị chặt chân tay trước khi bị chém đầu.
– Thiêu sinh: bị thiêu sống.
– Xử trảm: bị chém đầu.
– Xử giảo: bị tròng dây vào cổ và bị lý hình kéo hai đầu dây cho đến chết.
– Chết rũ tù: bị tra tấn, hành hạ đủ cách đủ kiểu, rồi bị bỏ đói cho tới khi kiệt sức và chết gục trong tù.
Các con thương,
Các Thánh tử đạo Việt Nam là những chứng nhân anh dũng đã sống và làm chứng cho Tin mừng, để hạt giống Đức tin được nảy mầm và trổ sinh nhiều bông hạt. Giáo phụ Tertuliano đã nói: “Máu các thánh tử đạo là hạt giống nẩy sinh các tín hữu”.
Lịch sử hai ngàn năm qua đã chứng minh sự chân thực của lời nói đó ở nhiều nơi, rõ ràng nhất là trên đất nước Việt Nam này; từ khi có số tín hữu khiêm tốn ban đầu, hiện nay đã lên tới 7 triệu người Công giáo.
Mảnh đất quê hương Mỹ Tho của chúng ta cũng tự hào vì đã được thấm gội dòng máu anh hùng của cha thánh Phêrô Nguyễn Văn Lựu. Cha đã anh dũng đổ máu đào để hôm nay chúng ta là con cháu cũng được đồng hành với Ngài trên hành trình về quê trời vĩnh cửu.
Các con thương mến!
Nhìn lại lịch sử cuộc bách đạo đã qua, vào năm 1860 dưới thời Tự Đức, nhà vua đã ban hành chiếu chỉ bắt bớ, giam cầm nhiều tín hữu Công giáo. Lúc bấy giờ, cha Phêrô Lựu đang coi sóc các giáo họ Ba Giồng, Mỹ Tho, Sa Đéc… Vì thương đoàn giáo dân, Ngài thường cải trang vào nhà giam thăm viếng, an ủi họ, ban cho họ lương thực Thánh thể và bình an của Chúa.
Một ngày kia, quan coi ngục phát hiện Ngài là linh mục và ra lệnh tống giam Cha. Tại nhà lao Mỹ Tho, Cha đã vui lòng chịu mọi cực hình để cùng chia sẻ với bổn đạo. Khi các quan buộc Cha xuất giáo, Ngài đã tuyên xưng niềm tin của mình bằng câu nói nổi tiếng: “Đạo đã thấm nhập vào xương vào tủy của tôi rồi, tôi làm sao bỏ được, vả lại, một người giáo dân bình thường, một thầy giảng bình thường còn không có quyền bỏ đạo, huống gì tôi đây là linh mục…”.
Ngày 07.04.1861, quân lính dẫn Cha ra khỏi thành phố Mỹ Tho khoảng chừng 1 cây số và chém đầu Cha ngay bên vệ đường, tại kinh Bảo Định ngày nay.
Là con dân đất Việt, chúng ta tự hào được mang trong mình dòng máu hào hùng của các chứng nhân niềm tin anh dũng này. Trong niềm tin của chúng ta hôm nay, có vết tích dòng máu thắm đỏ của các thánh tử đạo tưới gội và nuôi dưỡng.
Ước chi mỗi ngày sống, chúng con biết trở thành nhân chứng sống động về niềm tin ở mọi lúc mọi nơi: bằng chính những hành động tích cực, những tấm lòng nhân ái bao la và khát khao muốn phục vụ mọi người.
Các ngài là những mẫu gương sống động cho đời sống đức Tin, nhờ lời các thánh chuyển cầu, xin Chúa nâng đỡ con thuyền giáo hội Việt Nam vượt qua sóng gió, nhất là những khi gặp thử thách, gian truân.
Xin cho mọi thành phần trong xứ đoàn các Thánh tử đạo Việt Nam của giáo xứ chúng con luôn trổ sinh nhiều hoa trái tốt lành, để một ngày kia trên thiên quốc, chúng con được hợp tiếng với các Ngài ca tụng tạ ơn Chúa muôn đời vinh hiển.
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam, Lạy Cha Thánh Phêrô Nguyễn Văn Lựu! Xin cầu cho chúng con.
Thực hành:
1. Năng đọc lịch sử Giáo hội Công giáo Việt Nam và hạnh các thánh tử đạo.
2. Cầu nguyện cho nhiều người biết giữ trọn niềm tin của mình.
Tâm niệm: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.
Đi tìm kho báu: Mời các con cùng suy nghĩ và trả lời các câu hỏi sau:
1. Giáo hội Việt Nam của chúng ta, ngoài 117 Thánh tử đạo còn có một Á thánh tên là gì?
2. Các thánh tử đạo đã để lại cho các con bài học nào?
3. Các con có nhớ tên 117 thánh tử đạo không? Hãy kể tiểu sử của một vị thánh tử đạo mà con biết?



15. Tỉnh thức trước cơn bách đạo mới

(Suy niệm của Pm. Cao Huy Hoàng)
Là người Công Giáo Việt Nam, chúng ta rất hãnh diện về Cha ông của chúng ta, Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Không chỉ là 117 vị hiển thánh, mà có cả trăm ngàn tín hữu đã anh dũng làm chứng cho Thiên Chúa. Không chỉ có thời các vua Chúa cấm cách, mà ngay cả thời nay, Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận và cuộc sống nhân chứng của Ngài là một tiêu biểu.
Vì niềm tin tuyệt đối và trung kiên vào Thiên Chúa, vì tình yêu mãnh liệt đáp lại tình yêu tạo dựng và cứu chuộc, vì bừng bừng ngọn lửa khát khao được sống trọn vẹn và vĩnh cửu trong thế giới mới của Ba ngôi Thiên Chúa, mà Cha ông của chúng ta đã không ngần ngại từ chối sự sống hay hư nát của thân xác phàm trần để tuyên tín cho thiên hạ biết rằng có một đời sau vĩnh cửu, hạnh phúc thiên thu.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã bị cấm cách, bức bách, bắt bớ, tù đày, lăng mạ, lăng nhục và cuối cùng chấp nhận chết cuộc sống mình, chết thân xác mình, bằng trăm ngàn cực hình dã man, đau đớn. Sức mạnh để vượt qua và chiến thắng của họ là nhân đức cơ bản, là nguồn ơn cơ bản Tin Cậy Mến mà Thiên Chúa ban riêng cho mỗi con người và ơn hiệp nhất ban cho cộng đoàn làm chứng tá phục sinh. Tuyệt đối không phải là sức mạnh của tập thể theo nghĩa phong trào, có tính hời hợt, nhất thời đấu tranh cho một quyền lợi thuộc phạm vi trần thế.
Họ đã không bắt chước nhau tử đạo vì danh vọng trần thế là để tiếng lại cho đời sau, nhưng là vì họ xác tín một cuộc sống mới được phục hồi sau cái chết quí giá và ý nghĩa ấy: cái chết làm chứng cho Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, cái chết để sống lại với Đức Kitô. Họ đã thực thi lời huấn thị của Tin Mừng: “từ bỏ chính mình”: vì xác tín sự sống mình có được là do Thiên Chúa, và thuộc về Thiên Chúa; “vác thập giá mình”: chấp nhận tất cả những thương khó trong đời theo Chúa Giêsu, để ý định cứu rỗi của Thiên Chúa Cha được thực hiện, cho mình và cho mọi người.
Đối với các Thánh Tử Đạo Việt Nam, bước qua thập giá là từ chối ơn cứu chuộc của Đức Kitô, là bội tín với Thiên Chúa. Vì thế, khi cuộc bách đạo càng khốc liệt, càng đẫm máu, thì niềm tin của họ càng được nung nấu, được tôi luyện thành sắt thép vững chắc nhờ đức mến nồng nàn và đức cậy trông mạnh mẽ.
Giáo hội Việt Nam thừa hưởng một di sản Đức tin quí báu, vì nhờ máu các Ngài đổ ra, mà cánh đồng truyền giáo trổ sinh muôn hạt vàng tín hữu.
Noi gương Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Theo gương các Thánh Tử Đạo Việt Nam, các tín hữu Việt Nam đã kiên trung trong đời sống đức tin cá nhân và cộng đoàn thật đáng khâm phục. Qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử đất nước, qua bao nhiêu đổi thay của ý thức hệ nhưng giáo lý Chúa Kitô và niềm tin vào Thiên Chúa vẫn ngời sáng trên quê hương không chỉ nghèo nàn lạc hậu mà còn chịu bao thảm họa của thiên tai, dịch nạn..
Tuy nhiên, khi mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cũng là lúc mà mỗi chúng ta phải nhìn lại đời sống chứng tá của mình và của cộng đoàn.
Ở đấng bậc nào trong giáo hội, trong đời sống hằng ngày, tất cả chúng ta đều phải đối diện, phải đặt mình trước thập giá, không phải để chúng ta bước qua, mà là để ôm lấy, yêu mến, hôn kính và nhất là vác đi trong cuộc đời.
Ngày xưa những khổ hình có thể nói là kinh khủng lắm, man rợ lắm dành cho ai không bằng lòng bước qua thập tự giá. Thời nay, cuộc bức bách mới dùng cách làm cho tín hữu không thấy dữ tợn mà hiệu quả không kém kinh khủng hay có thể nói còn kinh khủng hơn: chiêu bài đổi hướng niềm tin và tình yêu.
Chúng ta không thấy mình đang bước qua thập giá, khi chúng ta yêu mến của cải tiền bạc, tiện nghi vật chất và những khoái lạc trần gian hơn là yêu mến Chúa. Hơn nữa, chúng ta vẫn thấy mình rất xứng đáng vì những việc đạo đức, những việc tông đồ. Chúng ta không thấy mình bước qua thập giá, khi mình đang làm việc Chúa để tìm chút hư danh cho mình. Hướng đến của Tình yêu chúng ta là Chúa, đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta là Thập giá Chúa Kitô, nhưng tài hoa của ma quỉ đã khéo léo chuyển hướng đến của tình yêu chúng ta là chính chúng ta.
Quả thật, chúng ta đang không làm chứng cho một Thiên Chúa, nhưng chúng ta đang làm chứng cho chính mình, khẳng định chính mình, củng cố danh dự chính mình. Chúng ta đang bước qua thập giá mà không hề hay biết. Không tỉnh thức trước những âm mưu của ma quỉ, chúng ta có thể nằm gọn trong đúng mục tiêu, đúng tầm ngắm của cuộc bách đạo mới.
Tỉnh thức trước cơn bách đạo thời nay
Mục tiêu của cuộc bách đạo thời nay vẫn là cản trở, ngăn cấm con người đến với Thiên Chúa, hoặc bằng mọi giá, cắt đứt tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Một loại gông cùm xiềng xích mới, một loại nhà tù hiện đại đang được sử dụng khắp nơi trên thế giới.
Mục tiêu của cuộc bách đạo mới không chỉ đơn thuần là việc bắt bớ, bỏ tù một vài người đấu tranh cho tự do nhân quyền, cho tự do tôn giáo, nhưng là bỏ tù cả ngàn ngàn người trong cái vỏ ốc cầu an, trong cái hố bằng lòng về sự tự do xem như là tạm đủ, trong cái túi chấp nhận một loại tự do ảo tưởng, trá hình mà thực ra đó là thứ tự do làm nô lệ.
Cũng vậy, việc đập phá một ngôi thánh đường, chưa bằng đập phá cả triệu cung điện của Thiên Chúa nơi tâm hồn các tín hữu bằng những chủ thuyết vô thần, vô luân, vô vọng tưởng một đời sau… để không còn hòn đá nào trên hòn đá nào, không còn một định luật tôn giáo nào, không còn một nguyên tắc đạo đức nào, không còn niềm tin tôn giáo nào trong chính tâm hồn người công giáo.
Nhận lãnh bí tích rửa tội để có một danh xưng, hoặc hợp thức hóa một tình trạng. Và các bí tích Kitô giáo khác được lãnh nhận tiếp theo như một thủ tục-Cung điện của Thiên Chúa là một bức họa không hơn.
- Việc đóng cửa nhà thờ, không cho các tín hữu hành đạo làm sao nguy hiểm bằng để tự họ cảm thấy việc đến nhà thờ không còn cần thiết hơn việc xem phim, giải trí và các tiêu khiển khác của một đất nước đang có đủ thứ món ăn chơi.
- Làm cho cánh cửa tâm hồn các tín hữu tự đóng lại để không đón nhận được Thiên Chúa, và tự mở ra để đón nhận những trào lưu thế tục là mục tiêu cuộc bức bách nguy hiểm vô cùng.
- Tâm hồn các trẻ thơ vừa có trí khôn, mới mở ra với cuộc đời, đã đón nhận bài học con người bởi khỉ mà ra, để sẽ sống như khỉ và chết như con khỉ - cuộc bức bách về giáo dục không Thiên Chúa.
- Mới ngày nào đây, lương tâm các đôi vợ chồng, nhất là các tín nữ còn đắn đo, do dự khi phải chọn cho mình một cách tránh thai hợp với luật Thiên Chúa, và cương quyết bảo vệ sự sống đến cùng thì hôm nay, lương tâm ấy đã chai đi và có thể chấp nhận bất kỳ một phương pháp nào để khước từ thiên chức làm Mẹ. Hơn thế nữa, không những khước từ ơn tiếp tục cuộc sáng tạo của Thiên Chúa, mà còn có thể hủy hoại quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa ở bất kỳ tháng tuổi nào.
- Không cần thiết phải cấm các em học giáo lý, vì biết chắc những trang giáo lý khô khan kia sẽ không hấp dẫn bằng những trò chơi vô bổ hàng giờ trên máy vi tính ở các dịch vụ internet, hoặc những trang web có sức gieo vào đầu các em một kiểu sống vô luân. Vì thế cuộc bách đạo hướng đến việc sản xuất và du nhập hàng loạt phim ảnh như những viên đạn đồng bắn nát đức tin và luân lý của cả một thế hệ.
- Còn một điểm nhắm quan trọng hơn cả của cuộc bách đạo là làm rạn nứt sự hiệp nhất giáo hội, mà phải là sự rạn nứt bắt đầu từ những vị thẩm quyền cao nhất, đến các thành phần ưu tú nhất, rồi đến những cộng sự thân cận, xuống đến các tín hữu. Tinh thần thế tục luồn lách vào trong mọi bất đồng gây nên những xáo trộn nội bộ không đáng có, dẫn đến những rẽ chia đáng tiếc.
Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam không chỉ là những cuộc rước kiệu linh đình, tôn vinh Cha Ông với niềm tự hào dân tộc, nhưng trước tiên là tạ ơn Chúa đã gieo trồng Hội Thánh Chúa ở Việt Nam bằng những giọt máu, và tôn vinh Cha ông với niềm tự hào về sức mạnh toàn thắng của Thánh Giá Chúa Kitô. Nếu không có niềm tin, cậy, mến vào Thiên Chúa và nhất là vào Thánh giá vô địch của Chúa Kitô, Cha ông chúng ta đã không thể lãnh nhận phúc tử đạo, làm chứng cho Thiên Chúa.
Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo còn là cơ hội cho mỗi người chúng ta nhìn lại cách sống chứng nhân của mình và phải luôn cảnh giác trước cuộc bách đạo kiểu mới, nhất là trong toàn cảnh xã hội Việt Nam. Có thể chúng ta đang nằm gọn trong mục tiêu cuộc bách đạo, vì đã bước qua thập giá Đức Kitô lúc nào không hề hay biết, mà vẫn chủ quan tự nhận là những chứng nhân anh dũng giữa lòng quê hương dân tộc. Có thể chúng ta không những đã bước qua thập giá, không được diễm phúc tử đạo, mà còn tiếp tay cho cuộc bức bách tiến đến mục tiêu tối hậu là tách rời tương quan với Thiên Chúa thật hoặc vẫn còn tương quan với một Thiên Chúa theo mô hình một loại đức tin cập nhật từ chủ thuyết không Thiên Chúa.
Thiên Chúa sẽ không hài lòng khi chúng ta từ chối Thập Giá Chúa Kitô. Chính Chúa Giêsu nói: “Kẻ nào hổ thẹn chối Ta và các lời Ta, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn chối nó, khi Ngài đến trong vinh quang của Ngài và của Cha cùng các Thiên thần” (Lc 9,26)
Mừng Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, thiết nghĩ mỗi người đều phải đặt mình trước một sự thật: Thiên Chúa đau lòng vì con người xúc phạm đến Thiên Chúa và vì các tín hữu Chúa chưa can đảm để làm chứng cho Ngài. Và từ đó, mỗi người phải tự cảnh tỉnh trước những biến dạng thiên hình vạn trạng của cơn bách đạo hôm nay, để cương quyết “không bước qua Thập Giá” và càng không tiếp tay nối giáo cho giặc.
Lạy Chúa, giáo hội lữ hành, và đặc biệt giáo hội Việt Nam chúng con đang gặp những thách đố lớn lao vì những chủ trương không Thiên Chúa và không đời sau đang lôi kéo các tín hữu buông bỏ tinh thần từ bỏ, bóp chết tinh thần tử đạo của Chúa Kitô. Xin Chúa ban cho mọi thành phần trong giáo hội ơn kiên trung làm chứng cho Chúa qua việc không hướng theo tinh thần thế tục đang hấp dẫn mọi nơi.
Lạy Chúa, trong đời sống gia đình, chúng con làm cha, làm mẹ một thiên chức Chúa ban gắn liền với ơn tử đạo, qua việc hiến dâng cả đời cho con cái với bao hy sinh đầy đắng cay và nước mắt. Xin Chúa ban cho chúng con, nồng nàn yêu mến và tín thác vào Chúa, để mỗi hy sinh của chúng con trong đời, xứng đáng là một giọt máu tử đạo rơi xuống, cho mầm đức tin mọc lên trong mỗi gia đình chúng con.



16. Những vị anh hùng âm thầm – Lc 9,22-26

Dân tộc nào cũng có những vị anh hùng và tôn giáo nào cũng có những vị anh hùng, được gọi những danh hiệu khác nhau. Kitô giáo có hàng ngũ các thánh, những tôi trung, con thảo của Chúa, những mẫu mực sống đạo của người công giáo. Là anh hùng trong đạo nhưng không có ai thắng. Có chăng là thắng chính mình, thắng những kẻ thù vô hình không mang quốc tịch nào như ma quỷ, xác thịt và thế gian.
Các vị tử đạo Việt Nam không cuồng tín liều lĩnh, không tự ý tìm đến cái chết: không ai tự thiêu, tự thắt cổ, tự cắn lưỡi, tự đập đầu mà chết để giữ chữ trung với đạo (không ai tự tử mà lại được phong thánh).
Trước khi tử đạo, các ngài là những người muốn sống để phục vụ gia đình, quê hương và Giáo Hội. Muốn sống mà không được sống, tránh không được thì chấp nhận, để rồi vui nhận. Cam lòng chịu chết mà không oán hận: đó là tính cách của các vị tử đạo Việt Nam. Kẻ nuôi lòng hận thù không thể làm thánh vì không xứng danh làm môn đệ của Đấng đã dạy: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình.
Tôn vinh các vị thánh tử đạo Việt Nam là nêu lên một quan điểm tích cực: Lấy tình thương xoá bỏ hận thù. Không khơi lên đống tro tàn để bùng cháy lòng căm thù, nhưng sáng lên một tinh thần bao dung hoà giải. Romeo và Juilette chết đi để hoà giải hai dòng họ thâm thù truyền kiếp. Cũng thế, dòng máu các vị tử đạo đổ ra không phải là vô ích. Các vị ấy về cõi trời nhưng gởi lại một thông điệp, đã có những người quyết tử để đất nước được hồi sinh, đã có những người chết vì niềm tin để con cháu được sống đức tin giữa lòng dân tộc, đã có những người bị đè bẹp vì thành kiến cố chấp để muôn người được thông cảm hoà đồng với nhau.
Đất nước Việt Nam sản sinh nhiều anh hùng: chiến sĩ anh hùng, bà mẹ anh hùng... nay có thêm những anh hùng đức tin làm cho kho tàng này được thêm phong phú.
Hướng về tương lai trong viễn cảnh thái hoà, người công giáo Việt Nam tiếp bước cha ông tiền bối của mình để sống đời chứng nhân, đem tin yêu đến cho mọi nhà. Còn biết bao nhiêu người đang phấn đấu sống theo chính đạo, chống lại bóng đen gian tà, chu toàn bổn phận của mình, làm việc với lương tâm chức nghiệp, sống lương thiện lành mạnh, chống lại các tệ nạn xã hội, tránh thoát ma lực của đồng tiền, quên đi lợi nhuận để mưu cầu hạnh phúc cho tha nhân, hy sinh tiết kiệm để cứu giúp những người bất hạnh. Quả là những anh hùng âm thầm trong bóng tối mênh mông.



17. Hạt lúa gieo vào lòng đất – Ga 12,24-26

(Trích từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Ignatiô Trần Ngà)
Hôm ấy, có người nông dân mang thóc giống gieo trên thửa ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời nổi gió lớn. Có nhiều hạt rơi xuống ruộng bùn nhưng cũng có nhiều hạt bị gió thổi bạt lên vệ đường kề bên.
Bấy giờ những hạt giống nằm trên vệ đường khô ráo cảm thấy mình quá hên so với bao nhiêu hạt thóc bạn đang phải ngoi ngóp ngụp lặn dưới bùn, bèn tỏ lòng thương hại và an ủi các bạn thóc dưới sình bằng những lời ngạo mạn: "Đáng thương thay thân phận khốn khổ của các anh. Đang khi chúng tôi đây thì được ở nơi khô ráo ngon lành, còn các anh lại phải chìm lĩm trong vũng bùn tanh tưởi. Đang khi chúng tôi được tắm mình dưới nắng, thì các anh lại phải ngụp lặn trong chốn tối tăm. Đang khi chúng tôi được nhìn ngắm bầu trời xanh, nhìn ngắm những bông hoa tươi đẹp bên vệ đường thì các anh chẳng thấy gì, chẳng biết gì... Cuộc đời chúng tôi đầy hào quang, còn cuộc đời các anh đang tàn tạ. Bất hạnh thay cho các anh!..."
Hạt lúa ấy vừa dứt lời thì bỗng đâu có một bàn chân nặng nề dẫm đạp lên mình nó, khiến nó bị gãy đôi. Sau đó, những bánh xe từ xa chạy đến, lạnh lùng chà nát nó và những hạt lúa khác nát tan. Những hạt lúa may mắn còn nguyên vẹn lại hoá thành mồi ngon cho côn trùng và chim chóc!
Trong khi đó, những hạt lúa tưởng là bất hạnh chìm lĩm trong bùn, thì qua vài hôm sau đã ngoi lên thành những mầm non đầy sức sống. Những mầm non ấy vươn lên phơi phới, triển nở thành những bụi lúa sum suê. Không đầy ba tháng sau, từ một hạt lúa nhỏ nhoi chìm ngập trong bùn, nó trở thành những bông lúa thơm tho tuyệt đẹp, kết thành hàng trăm hạt vàng khoe mình dưới nắng.
* * *
Ai ngờ một hạt lúa bất hạnh chìm nghỉm trong bùn, tưởng chừng như đã hư thối mà nay lại chuyển hoá thành hàng trăm hạt vàng mẩy chắc ngon lành như thế! Thật là một điều kỳ diệu và là một bài học quý báu cho chúng ta. Bài học đó người đời không biết đến, nhưng Chúa Giêsu đem ra dạy chúng ta: "Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác."
Một bài học đơn sơ ngắn gọn nhưng lại chứa đựng một chân lý tuyệt vời.
Nhưng Chúa Giêsu không chỉ dạy chúng ta biết chân lý rồi để đó. Người muốn chân lý nầy được đem ra áp dụng để đời sống chúng ta được dồi dào phong phú hơn. Thế nên Người dạy tiếp: "Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời nầy, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời"
Nói như thế, Chúa Giêsu không muốn chúng ta tồn tại như một hạt lúa nằm trơ trọi trên vệ đường khô ráo. Người muốn chúng ta hãy chấp nhận thân phận của một hạt lúa bị vùi lấp trong bùn, để nhờ đó đặt tới hạnh phúc và thắng lợi.
Khi bước chân vào đời, mang lấy thân phận con người giữa cuộc đời ô trọc, Chúa Giêsu đã chấp nhận thân phận hạt lúa bị vùi dập trong bùn đất. Người để cho người ta nghiền tán, vùi lấp Người, huỷ diệt Người. Người đời tưởng rằng họ đã tiêu diệt Đức Giêsu, xoá sổ Đức Giêsu, tưởng rằng Chúa Giêsu sẽ bị mục rã trong lòng đất... nhưng họ đã lầm. Thay vì huỷ diệt Đức Giêsu, họ đã giúp Người đạt tới vinh quang và thắng lợi. Qua cái chết, Người tiến vào cõi sống; qua thập giá Người đi đến vinh quang và hiển trị đời đời!
Theo bước chân Chúa Giêsu, các thánh tử đạo đã vui lòng chấp nhận thân phận hạt lúa bị ném xuống bùn. Các ngài chấp nhận từ bỏ vinh hoa phú quý người đời hứa hẹn, từ bỏ nhà cửa ruộng vườn, xa lìa cha mẹ vợ con gia đình thân thuộc, chấp nhận xiềng xích, gông cùm, tù ngục, đòn vọt và sẵn sàng hy sinh mạng sống, sẵn sàng đổ máu đào làm chứng cho Đức Kitô... Người đời tưởng rằng các ngài bị thua thiệt, bị mất mát, bị diệt vong... nhưng họ có ngờ đâu, các ngài đang khải hoàn chiến thắng và sống mãi trong hạnh phúc vinh quang. Nhờ dòng máu các ngài đổ ra, đời sống Đức tin ngày càng tiến triển, Giáo Hội được lan rộng đến khắp mọi miền đất trên thế giới. Đó là điều Chúa Giêsu đã tiên báo từ xưa: "nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác."
* * *
Hôm nay, một khi đã khám phá điều kỳ diệu của hạt lúa chìm trong bùn đất, chúng ta không sợ thua thiệt vì phải làm chứng cho Đức tin, không sợ đau khổ mất mát vì hiến thân cho lý tưởng tông đồ. Chúng ta sẵn sàng chấp nhận thân phận hạt lúa bị gieo vào bùn đất như "hạt-lúa-Giêsu", như "hạt-lúa-các-thánh-tử-đạo", bằng lòng chấp nhận con đường thập giá, bằng sẵn sàng hiến mình để phục vụ Tin Mừng... Nhờ đó, mai đây, chúng ta sẽ đạt tới vinh quang và thắng lợi với Chúa Giêsu như lời Người phán: "Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy" để rồi "Thầy ở đâu thì kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó."



18. Can đảm nói không với tội lỗi.

(Trích từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Ignatiô Trần Ngà)
Trong thời kỳ bách hại đạo Công giáo tại Việt Nam, một trong những thử thách mà các kitô hữu bị bắt bớ phải trải qua là bước qua thập giá. Quan quân thời đó thường đặt một cây thập giá dưới đất rồi bắt các kitô hữu bước qua. Ai không bước qua thì phải chịu đủ mọi cực hình. Còn ai chấp nhận bước qua thì được thoát cảnh ngục tù, được trả lại những tài sản bị tịch thu, được ban thưởng bỗng lộc, được sống đời tự do, được đoàn tụ với gia đình.
Nói không trước những lời dụ dỗ và thúc ép
Vậy mà các bậc cha ông tử đạo của chúng ta ngày trước đã can đảm khước từ tất cả những hứa hẹn hấp dẫn đó, và đã kiên quyết nói không: Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa, không từ bỏ niềm tin.
Cũng có những vị được quan quân khuyến dụ hãy giả vờ bước qua thập giá để cho quan có cớ mà tha, còn sau đó về nhà thì muốn sao tuỳ ý; nhưng các thánh tử đạo vẫn không chấp nhận một thoả hiệp như thế. Các ngài vẫn khẳng khái nói không. Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa.
Nói không trước những cực hình dã man và khủng khiếp nhất
Để uy hiếp các kitô-hữu và ép buộc các ngài bỏ đạo, ngoài những lời thuyết phục và dụ dỗ, vua quan ngày xưa còn áp đặt những cực hình man rợ và hết sức khủng khiếp để uy hiếp các ngài: bắt mang gông cùm nặng nề, bị giam nhốt trong ngục tối với rắn rết, muỗi mòng ghê sợ, chịu thiêu đốt, chịu thắt cổ, chịu chém đầu, chịu phanh thây, chịu án lăng trì (tức bị chặt tay, chặt chân trước rồi mới chém đầu sau), và khủng khiếp hơn cả là án bá đao như quan quân đã bắt cha Marchand Du phải chịu: chịu xẻo từng miếng thịt theo tiếng trống, cho đủ trăm miếng rồi mới chém đầu, moi ruột moi gan...
Dù vậy, các thánh tử đạo đã kiên quyết nói không: không chối Chúa, không bỏ đạo cho dù phải đổ máu, phải chịu xẻ thịt phanh thây, phải hy sinh mạng sống mình.
Nói không với tội lỗi
Ngày hôm nay, không ai dùng bạo lực, dùng những cực hình man rợ bắt chúng ta bỏ đạo hay chối Chúa như các thánh tử đạo ngày xưa. Vì thế, chúng ta không cần nói không trước những hăm doạ, đòn vọt hay án chết như các ngài.
Nhưng chúng ta cũng phải đương đầu với những thách thức mới. Đó là những cám dỗ, những lôi cuốn của tội lỗi làm chúng ta đi trệch con đường của Chúa Giêsu, đi lạc ra khỏi đạo lý của Người.
Noi gương các anh hùng tử đạo Việt Nam, chúng ta hãy can đảm nói không với các tệ nạn xã hội, với các thói hư tật xấu, với những lời quyến rũ của bạn bè xấu...
Muốn nâng lên được những tạ nặng, các lực sĩ cử tạ phải tập nâng những tạ nhẹ trước. Muốn giải được những bài toán khó, các học sinh phải tập làm những bài toán dễ trước. Những lực sĩ muốn nhảy thật cao thì trước tiên phải tập băng mình qua những mức thấp trước.
Tương tự như thế, để có thể nói không trước những cám dỗ lớn lao sẽ đến trong cuộc đời, trước những cái ác, cái xấu lôi kéo quyến rũ chúng ta nay mai, chúng ta phải tập nói không với các cám dỗ nho nhỏ xảy ra hằng ngày trước.
Nguyện xin các anh hùng tử đạo Việt Nam cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta, để chúng ta luôn biết noi gương các ngài, anh dũng nói không với tội lỗi và các cơn cám dỗ, cho dù phải chịu mất mát thua thiệt trong cuộc sống đời nầy, để mai sau xứng đáng được lãnh vòng hoa chiến thắng và chung hưởng vinh quang với các ngài trên thiên quốc.



19. "Thà chết vinh còn hơn sống nhục"

(Trích từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền)
Từ ngày tổ tông loài người thoả hiệp với ma qủy quay lưng lại với Thiên Chúa, ma qủy thường dùng chiêu thức này để kiếm thêm đồng minh chống lại Thiên Chúa. Trong vườn địa đàng nó đã nói cùng Adam - Eva: "cứ ăn đi ngươi sẽ bằng Thiên Chúa". Ông bà đã ăn. Ông bà đã bắt tay cùng sa tan để chống lại Thiên Chúa. Con cháu Adam từ đời này đến đời nọ vẫn còn vô số người vì sự an nhàn bản thân, vì mong tìm kiếm lợi lộc, tìm hư danh trần thế, họ vẫn bằng lòng quay lưng lại với Thiên Chúa để làm tôi cho ma qủy, để tận hưởng khoái lạc mau qua trần gian.
Và cũng từ ngày Con Thiên Chúa từ chối thoả hiệp với sa tan, các môn đệ của Chúa trải qua bao thời đại vẫn còn đó những tấm gương quả cảm, anh dũng can trường từ chối thoả hiệp với sa tan. Họ thà nghèo đói để được bình an tâm hồn hơn là kiếm tiền bằng việc phi nhân thất đức mà lòng chẳng chút bình an. Họ chấp nhận vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời vua chúa trần gian, cho dù phải tù đầy, gian truân khốn khó. Họ chấp nhận đánh mất mùa xuân hạn hẹp trần gian để đổi lấy mùa xuân bất diệt thiên đàng.
Hôm nay chúng ta mừng kính 117 thánh tử đạo Việt Nam, là con số tượng trưng cho hơn 130 ngàn vị tiền nhân đã chết trong các đợt cấm đạo tại Việt Nam từ cuối thế kỷ 17 đến cuối thế kỷ 19. Họ đã chết không phải vì chống lại triều đình. Họ đã chết không phải vì lỗi công bình bác ái với tha nhân. Họ đã chết vì không chịu thoả hiệp với thế gian. Giữa sự sống và sự chết chỉ cách nhau một lằn ranh. Lằn ranh đó chính là cây thập giá. Bước qua thì được thoát khỏi cực hình trần gian. Bước qua thì được trở về với vợ con, với xóm làng, với chức tước vua ban và bổng lột trần gian, nhưng các thánh tử đạo Việt Nam đã không vì thế mà chối Chúa, bỏ đạo. Không thể vì ham sống sợ chết mà phải chà đạp lên thập giá là bỏ cơ hội sống đời đời để đổi lấy cuộc sống lây lất tạm thời trần gian. Các ngài thà chịu đòn roi, thà chịu án tử hình để trung kiên theo Chúa, để lãnh phúc triều thiên vinh quang bất diệt trên quê trời còn hơn là làm tôi mọi cho ma qủy. Như trường hợp ông đội Bường đã thẳng thắn trả lời với quan quân: "Bên đạo chúng tôi ai chết trẻ là đi đường tắt, ai chết già là đi đường trường. Song đàng nào cũng tới quê thật là nước thiên đàng vậy". Thế nên, thánh nhân đã khuyên nhủ các đồng đạo rằng: "Chúng ta hãy vui lòng chịu mọi sự khốn khó để giữ nghĩa cùng Chúa cho đến khi nào thánh ý Chúa định thể khác. Nếu quan có hành hạ thì hãy can đảm chịu đựng. Hễ xác chết rồi thì hồn chúng ta bay thẳng về trời, không sợ gì roi đòn. Chịu sự khó như vậy là vác thánh giá theo Chúa Giêsu. Nếu có đau đớn quá thì hãy xin Đức Mẹ phù trợ cho được bền lòng đến cùng".
Đọc lại tiểu sử các thánh tử đạo Việt nam chúng ta thấy có vô số lời dụ dỗ thật ngọt ngào. Tại Hà Tĩnh, các quan cho gọi những người đứng đầu các họ đạo Công Giáo đến và vẽ hình chữ thập xuống đất rồi bảo họ: "Chúng tôi chẳng muốn bắt ép quí vị điều gì trái nghịch với đạo. Chúng tôi biết đây không phải là thánh giá mà quí vị tôn thờ. Vậy hãy bước qua để chúng tôi có thể trình lại với vua là chúng tôi đã thi hành lệnh, nếu không chúng tôi mắc lỗi trước mặt vua". Riêng tại Nghệ An, ông quan tỉnh đã nói với người công giáo: "Các ông thật dại dột để mình phải khổ sở. Làm sao chống lại được với lệnh vua? Đạo ở trong lòng chứ đâu có ở bên ngoài. Tạm chối đi, rồi hai ba tháng sau theo trở lại. Hãy xem thánh Phêrô đã chối đạo ba lần mà vẫn còn được cất nhắc lên cao".
Song le, có nhiều phản ứng khác nhau.Có kẻ giả vờ bước qua để sống an nhàn. Có kẻ đã thản nhiên bước qua vì gia đình và dòng họ còn cần đến mình. Nhưng vẫn còn đó nhiều người không chịu bước qua dù chỉ là giả vờ, dù chỉ là tạm thời bỏ đạo rồi khi sóng gió đi qua lại quay lại với Thiên Chúa. Họ đã vui lòng đón nhận mọi khốn khó để nói lên lòng trung thành với đức tin vào Chúa.
Riêng cha Anrê Dũng lạc, dù rằng quan quân mở lối thoát bằng việc cho giáo dân đem tiền chuộc Ngài nhưng ngài vẫn cương quyết chối từ. Các giáo dân đã tới trại giam khuyên nhủ cha rằng: "Thưa cha, cha chịu chết thì một mình cha lên thiên đàng, mà nếu cha còn ở lại thì bổn đạo chúng con được nhờ, vậy xin cha nghĩ lại". Nhưng cha Lạc đã cấm họ đem tiền chuộc, cha nói: "Tôi bị bắt lần này là lần thứ ba, thì đó đúng là thánh ý Chúa định cho tôi như vậy, anh chị em đừng mất tiền chuộc tôi làm gì. Tôi cũng như Thánh Phêrô, khi phải bắt lần trước được giáo dân cầu nguyện cho và được về, lần thứ hai giáo dân cũng lo liệu cho được thoát khỏi, nhưng ý Chúa đã định cho tôi phải chết vì Người như thánh Phêrô, thì xin anh em đừng chuộc tôi nữa".
Là con cháu các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta luôn tự hào vì có các vị tiền nhân đã quả cảm để sống niềm tin, nhưng liệu rằng chúng ta hôm nay còn mấy ai dám khước từ những thoả hiệp trần gian để trung kiên với đức tin của cha ông để lại? Vẫn còn đó những con người vì chút bổng lộc trần gian đã bỏ đạo, đã chống đối đạo. Vẫn còn đó những con người vì miếng cơm manh áo, vì tương lai của con cái đã chẳng giữ đạo hay theo đạo một cách hời hợt. Có cũng như không. Vẫn còn đó những con người vì tiền mà bán mình, bán con để kiếm đồng đola bất chính. Họ thà rằng lỗi luật Chúa còn hơn là bỏ lỡ cơ hội lấy tiền, lấy bạc. Họ thà rằng mắt mặt với bà con xóm làng còn hơn là mất túi ba gang mà "quạ đen ban tặng". Vẫn còn đó những con người bỏ Chúa chứ không bỏ tiền, bỏ Chúa chứ không bỏ tình, bỏ giáo hội chứ không bỏ danh vọng trần gian.
Lạy các thánh Tử Đạo Việt Nam là cha ông của chúng con, xưa các ngài đã dùng máu đào để bảo vệ đức tin xin gìn giữ chúng con luôn trung kiên theo Chúa, dám khước từ danh lợi thú trần gian để nên chứng nhân cho Nước Trời trong cuộc sống hôm nay.



20. Sống chứng nhân

(Trích từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền)
"Tin đạo chứ không tin người có đạo". Câu nói này tôi đã nghe nhiều người nói. Nhưng đáng tiếc không phải là những người ngoại đạo nói mà là những người có đạo nói. Đa số họ là những người đã lâu năm không tới nhà thờ. Họ bỏ xưng tội rước lễ. Họ bỏ đồng đạo. Họ có đạo nhưng không sống đạo. Họ mang danh ky-tô hữu nhưng lại bảo rằng "đạo tại tâm" nên không thể hiện ra bên ngoài dấu chỉ là người ky-tô hữu. Thế nhưng, họ lại biện minh cho hành động chối đạo của mình là vì chê ghét một ai đó trong đạo. Họ không đến nhà thờ vì ông A, ông B đã không tốt với họ. Họ bỏ Chúa vì cha xứ quá khắc khe trong lề luật của Chúa. Họ không còn xưng tội rước lễ vì bà A, bà B vẫn chứng nào tật ấy có tốt hơn họ đâu? Họ đòi người khác phải làm chứng cho họ còn bản thân họ thì lại không chịu làm chứng cho tin mừng. Họ đòi người khác sống tốt còn bản thân họ thì lại nuôi thù oán. Họ đòi người khác phải bác ái yêu thương còn bản thân họ thì cô lập một mình không gắn bó với giáo xứ. Họ chính là những cỏ dại đang làm mất đi vẻ đẹp của cánh đồng lúa Giáo hội Chúa Ky-tô. Họ chính là những người có đạo nhưng không đáng tin vì tính cố chấp, nuôi thù hận mà bỏ Chúa, bỏ anh em.
Các thánh Tử đạo Việt Nam năm xưa đã lãnh nhận cái chết tử đạo nhiều khi cũng bởi chính những con người mang danh ky-tô hữu nhưng đã không còn sống men tin mừng. Họ đã tố giác anh em vì một chút bổng lộc. Họ đã bán đứng anh em vì cố chấp trong tội lỗi. Như trường hợp thánh An-rê Kim Thông, ngài đã bị tố giác bởi chính người cháu tội lỗi, ngang ngược. Ngài đã từng nhắc nhở người cháu sửa đổi nhưng chứng nào tật ấy. Hắn đã không sửa đổi mà còn tố giác ngài để cầu vinh.
Trường hợp Thánh Phaolô Hạnh cũng thế. Ngài là một thanh niên nổi tiếng về sự quen biết những tay anh chị trong giới giang hồ tại chợ Quán. Một lần, chứng kiến một phụ nữ bị đàn em bóc lột không thương tiếc. Thánh nhân bỗng xúc động ra tay can thiệp, làm áp lực buộc chúng trả lại tất cả những gì đã lấy của nạn nhân. Vì hành động nghĩa hiệp này, thánh nhân phải trả giá: họ tố cáo ngài ngoài tội là Kitô hữu, còn tiếp tay với quân đội Pháp. Thánh nhân bị bắt, bị cầm tù, sau cùng bị trảm quyết tại Chí Hoà ngày 28-5-1859.
Trường hợp Cha Thánh Luca Vũ Bá Loan còn đáng thương và cảm động hơn. Có hai tên tội phạm đang chờ xét xử. Họ bàn tính với nhau đến bắt Cha Loan để lập công chuộc tội. Thế là họ đang tâm nộp Cha cho quan huyện Phú Xuyên, nhưng quan không chịu nhận, họ phải đưa Cha về Thăng Long. Sau cùng, ngày 5-6-1840, Thánh Luca Loan bị chém đầu.
Điểm chung của các thánh Tử Đạo chính là can đảm đón nhận thập giá Chúa gửi đến mà không oán hận kẻ làm hại mình. Các ngài đã vui nhận hy lễ thập giá vì yêu mến Chúa Ky-tô. Các ngài luôn xác tín rằng: những đau khổ đời này không đáng gì so với vinh quang bất diệt mai sau. Các ngài dầu có chịu khổ hình trong giây lát nhưng được sống lại vinh quang muôn đời. Đó là điều mà thánh Đaminh Hạnh đã xác tín, khi mà quan triều đình nói với ngài: "Xem kìa, đạo trưởng Duyệt đã chịu bỏ đạo, được tha về, ông cứ làm như thế tôi sẽ tha cho ông". Nhưng thánh Đaminh Hạnh bình tĩnh trả lời: "Kẻ trung thành với Chúa, khi chết sẽ được lên thiên đàng".
Mừng kính các thánh Tử đạo Việt Nam là dịp nhắc nhở chúng ta hãy sống thể hiện niềm tin trung kiên của mình trong mọi tình huống. Đừng vì một chút cỏ dại lấn át mà chán nản bỏ đạo. Đừng vì một chút giận hờn mà thù hận cả niềm tin của mình. Đừng chối đạo vì ghét ai đó hay đánh mất niềm tin vì bên trong Giáo hội vẫn có cỏ lung xen lẫn. Và nhất là đừng bán đứng anh em để cầu vinh.
Ngày nay chúng ta không còn những bạo chúa bách đạo bằng gươm đao súng đạn, nhưng đề sống niềm tin đòi hỏi chúng ta phải chiến thắng chính mình. Không ai bắt chúng ta bỏ đạo nhưng vẫn còn đó những người bỏ đạo vì chức vụ trần gian, vì lười biếng ham chơi, vì đam mê truỵ lạc. Không ai ngăn cản chúng ta thực hành đạo nhưng vẫn còn đó những người luôn nuôi dưỡng hận thù, luôn bất mãn với tha nhân nên đã sống thiếu yêu thương trong lời nói và việc làm. Không ai dụ dỗ chúng ta bỏ đạo nhưng nhiều người đã lao vào những con đường tội lỗi, những quan hệ bất chính nên đã không còn xứng đáng mang danh là ky-tô hữu.
Quả thực, ngày nay không cần những cuộc bắt đạo những vẫn có hàng ngàn người bỏ đạo vì những danh lợi thú trần gian. Ngày nay không ai bắt chúng ta bước qua thập giá nhưng vẫn còn đó nhiều người vì danh lợi thú đã tự tháo bỏ thập giá khỏi bàn thờ gia đình, khỏi cuộc sống của mình. Họ đích thực là loại người mà nhân loại kết án "tin đạo chứ không tin người có đạo", vì lẽ họ không còn sống niềm tin của mình.
Lạy các thánh Tử đạo Việt Nam, là cha ông chúng con. Xin cho chúng con biết tôn thờ Chúa trên hết mọi sự, biết noi gương các ngài để thể hiện niềm tin trung kiên của mình trước những cám dỗ lợi lộc của thế gian. Xin giúp chúng con biết thể hiện niềm tin của mình qua đời sống thánh thiện, bác ái yêu thương. Amen.



21. "Đây Bài Ca Ngàn Trùng"

(Trích từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền)
Hôm nay lễ các thánh Tử Đạo Việt Nam. Một bầu khí đại lễ thật hào hùng. Phụng vụ trổi lên lời hoan ca chúc tụng: "Đây bài ca ngàn trùng. Dâng về Thiên Chúa. Bài ca thắm đượm máu hồng. Từng bao người anh dũng tiến lên hy sinh vì tình yêu".
Vâng, cuộc đời các thánh tử đạo là một bài ca dâng về Thiên Chúa. Các ngài ca ngợi Thiên Chúa khi bình an, khi gian nan, khi dòng đời êm trôi và cả khi sóng gió ba đào. Các ngài ca ngợi Chúa trong bổn phận thường ngày, khi đầu hôm sớm mai nơi ruộng vườn, nơi phố xá chợ thị. Các ngài còn ca ngợi Chúa khi đối đầu với sự bách hại vì tin mừng. Các ngài ca ngợi Chúa trong mọi nơi, trong mọi lúc. Đỉnh cao của lời ca ngợi là bài ca vinh thắng thắm đượm máu đào. Các ngài đã chiến thắng gian nan, cùm gông, tù đầy. Các ngài đã vượt lên trên sự sợ hãi của đe doạ đến cả tính mạng để tôn vinh Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ. Các ngài đã dùng cả cuộc đời để ca ngợi Chúa. Cho dù cuộc sống có nổi trôi, bất định, các ngài vẫn trung kiên tin thờ Thiên Chúa.
Cuộc đời các ngài là một bài ca, thế nên các ngài cũng đáng được ca ngợi. Ca ngợi hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Vì chưng các ngài là những người có phúc vì dám sống triệt để trang tin mừng yêu thương của Chúa trong cuộc sống của mình.
Các ngài dám nói lời tha thứ ngay trong những xúc phạm mà người đời đang tuôn đổ lên các ngài.
Các ngài đã có thể nhìn thấy hoa hồng nở rộ ngay trong đau đớn của cực hình.
Các ngài dám đi ngược lại với thế gian, vì phải vâng lời Thiên Chúa hơn là người ta.
Nhìn vào cuộc đời các ngài, ta thấy, đó là một cuộc đời thật đẹp. Đẹp trong cuộc sống thường ngày luôn chu toan bổn phận của mình, luôn sống chan hoà tình bác ái với mọi người. Như bà thánh Đê là mẹ của sáu người con. Tất cả những người con, cô Nụ, cô Mận khi làm nhân chứng đều nói rằng: "Mẹ tôi rất đạo đức, luôn dạy con cái ăn ngay ở lành, tối sớm kinh nguyện...".
Đẹp trong cả những gian nan khi bị người đời ghét bỏ, các ngài vẫn thương yêu, vẫn thứ tha, vẫn ôn hoà để làm chứng cho lời tin mừng yêu thương, đế nỗi mà những người hành quyết các ngài vẫn cảm phục yêu mến đức hạnh các ngài. Như trong vụ án linh mục Gioan Đạt, viên cai ngục nói: "Tôi thấy cụ khôn ngoan đạo đức thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cỗ quan tài để biểu lộ lòng tôi quý cụ".
Đẹp trong cả cái chết luôn một mực nói lời yêu thương. Như trường hợp ông Cai Tả thì yêu thương để xứng với tình Chúa yêu, ông thường châm chước cho những người mắc nợ và nói: "Mình quên nợ người, Chúa quên tội mình ". Với ông Năm Quỳnh thì bác ái rõ rệt là hoa quả của đức tin, ông từng nói với gia đình: "Bà và các con không đồng ý cho tôi lấy của nhà để giúp người nghèo, tôi sẽ đi vay mượn hoặc làm thuê kiếm tiền giúp đỡ họ ". Vì ông nói: "Tôi chưa thấy ai hay giúp người nghèo khó lại túng bấn bao giờ. Kinh Thánh chẳng dạy chúng ta coi họ như chi thể của Chúa đó sao? Chúa đã cho chúng ta sống, tất sẽ quan phòng cho ta đủ dùng".
Như vậy, tử đạo không chỉ là đổ máu. Tử đạo là dám chết đi con người ích kỷ của mình, chết đi cho thói đời tham sân si mù quáng. Chết đi những đam mê nhục dục để hèn. Tử đạo là dám sống vì tin mừng mà chịu thua thiệt, chịu mất mát. Tử đạo là yêu cho đến cùng và sống trọn vẹn những đòi hỏi của luật yêu thương.
Mừng kính các thánh tử đạo Việt Nam, xin cho chúng ta là con cháu biết noi gương các ngài để tiếp tục là bài ca ca ngợi Thiên Chúa. Ca ngợi Ngài bằng cả cuộc sống thắm đượm tình Chúa tình người. Ca ngợi Ngài mọi nơi, mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh cuộc sống. Nguyện xin các thánh Tử đạo Việt Nam dẫn dắt chúng ta luôn bước đi trong tình yêu Chúa. Amen.



22. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

(Bài giảng của Lm. Nguyễn Văn Thuyết)
Sự hiện diện của chúng ta trước bàn thờ các thánh tử đạo tại Việt Nam hôm nay nói lên lòng hiếu kính của con cháu đối với tổ tiên, nén hương trầm chúng ta dâng lên biểu lộ lòng hiếu thảo đối với các bậc tiền nhân. Và đây cũng là lúc thuận tiện để chúng ta suy ngắm hình ảnh, đời sống và đức hy sinh của các ngài cho niềm tin.
Trước hết chúng ta thành khẩn cúi đầu tạ ơn Thiên Chúa Cửu Trùng đã ghé mắt đến dân tộc Việt bé nhỏ mà ban cho được ơn đón nhận hạt giống Đức tin.
Chúng ta không quên tri ân các vị thừa sai, mà trong số đó có những vị đã được phong thánh. Họ là ai? Về thân nhân gốc gác? Là những người phương tây, chẳng phải dốt nát hay hám lợi, hay thất nghiệp thất tình để chọn đời truyền giáo mà cái chết đã được tuyên trước và bản án treo lơ lửng trên đầu họ. Một ông tây mắt xanh mũi lõ, ngôn ngữ bất đồng, thủy thổ không hợp, nơi lưu ngụ là một chiếc thuyền gỗ lênh đênh.
Đặc biệt chúng ta nhớ đến các vị tử đao tại Việt Nam. Tại quê hương, cơn bách hại đến sớm, nghĩ tưởng hạt giống đức tin bị chết ngạt dưới những áp bức và giết chóc; nhưng không, những con người Việt tuy bé nhỏ về thân xác, niềm tin còn mới mẻ nhưng đã kịp cắm sâu đức tin đời mình dưới chân thập giá, trái tim đã kịp nóng để đối diện cơn hồng thủy của sự khước từ và loại bỏ. Như vậy, từ các ngài, quê hương chúng ta có thể ví được như một mảnh đất màu mỡ chỉ đợi hạt giống đức tin chạm đến thì vươn vai lớn lên. Minh chứng lòng tin bằng máu tử đạo của các ngài chính là hoa quả sau hơn hai thế kỷ kể từ việc khởi đầu của giáo sĩ I-ni-khu năm 1533.
Thành phần tử đạo ngoài giám mục, linh mục là những người chuyên lo về tôn giáo, còn có các giáo dân như quan trường (T.Hy), quan án (T. Khảm), chính tổng, lý trưởng.
Những cám dỗ sống bình yên đã không thay thế được chọn lựa chịu bắt bớ, gông cùm vì đức tin của các ngài như thánh tử đạo Gioan Đạt, Annê Lê thị Thành…
Những cám dỗ sống trong ân huệ này khác đã không thể thay thế được chọn lựa chịu sống thiếu thốn khi bị giam cầm vì đức tin như thánh tử đạo Garelin Kính khi gửi thư về nhà người viết: những thiếu thốn, những cực nhọc đủ thứ đến với chúng tôi, nhưng tôi dám khẳng định rằng: tôi được hạnh phúc trong túp lều tranh của tôi hơn vua nước Pháp trong hoàng cung của ngài; hay như thánh chủng sinh Tôma Trần văn Thiện được hứa tặng cho cả cô gái con quan huyện….
Những cám dỗ sống tự do không thể thay thế được chọn lựa chịu giam trong ngục thất vì đức tin như thánh Cuenot Thể viết: dù chỉ còn một giáo sĩ chẳng làm được gì ngoài việc đọc kinh thần vụ, thì nguyên sự hiện diện của vị đó cũng đủ nâng đỡ niềm tin và sinh hoạt cho các tín hữu rồi…
Và cám dỗ sự sống đời này không thể thay thế được chọn lựa chết vì niềm tin như thánh Hồ Đình Hy: Tôi cam chịu mọi cực hình để nên giống Đức Ky Tô; hay như thầy giảng Nguyễn Cầm, khi được nói nhắm mắt bước đại qua Thập giá thầy đáp: “thưa quan, mắt thì nhắm được chứ lòng và trí khôn không thể nhắm được, nên tôi chẳng làm”.
Vậy đó, mỗi cuộc đời tử đạo là một cuộc tự hiến. Cuộc đời các chứng nhân đức tin chịu đốt cháy trong lao khổ, trong nhục hình, và cả cái chết đều như một hiến tế dâng lên Thiên Chúa, sẽ trở nên hạt giống trổ sinh các Kytô hữu cho ngàn muôn thế hệ. Hơn nữa, việc chọn chết đi cho đức tin của các vị tử đạo không phải là khơi lên máu nóng tìm đến cái chết vì cái chết nguyên nó chẳng có giá trị gì hết, chính sự sống mới làm nên muôn điều huyền diệu. Vì thế khi chọn lựa mãnh liệt và dứt khoát trong mầu nhiệm tự hủy và hiến tế chính là các ngài chọn lựa sự sống muôn đời bất diệt.
Hạt giống đức tin mà ngày nào các vị tử đạo chịu chôn vùi trong lòng đất quê hương, thì ngày nay chính chúng ta cũng đang được mời gọi chăm bón và vun tưới trong một cơn bão miên trường, ngày một khốc liệt. Có khác chăng là được khoác bằng những chiếc áo hình thức khác nhau mà thôi.
Ngày hôm nay, không gì có thể ngăn trở chúng ta hiến tế. Các thánh tử đạo tại Việt Nam được hồng phúc hiến tế sự sống một lần làm hy lễ. Còn chúng ta cứ phải hiến tế đời mình mỗi ngày và mọi ngày khi chúng ta sống đời nhân chứng đức tin. Khi mà chúng ta thiêu hủy đời mình như ngọn nến; đốt hết những nhát đảm, những yếu đuối, những toan tính thiệt hơn và những khô cằn nội tâm. Can đảm làm chứng cho chân lý và Tin Mừng.
Chúng ta nguyện xin các thánh tử đạo tại Việt Nam nguyện cầu cùng Chúa cho quê hương và con người Việt Nam để dòng máu các ngài đã đổ xuống, đã tưới gội, đã kiến tạo và đã đặt nền móng cho tòa nhà Giáo Hội tại quê hương tiếp tục lớn lên, trổ sinh ngàn vạn hoa trái mới để ánh sang đức tin sẽ là bình minh, một bình minh chiếu rọi rạng ngời trên đất Việt cho đến thời viên mãn, ngày chúng ta đoàn tụ với cha anh chúng ta trên cõi bất diệt.




24. Bài giảng của ĐGM. Giuse Võ Đức Minh

(Ga 12, 24-26)
NẾU HẠT LÚA MIẾN CHẾT ĐI,
THÌ SẼ SINH NHIỀU BÔNG HẠT.
Kính thưa Cộng đoàn phụng vụ,
Bài Phúc Âm của lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay (Ga 12, 24-26), tập trung vào biểu tượng hạt lúa miến, được hiểu là biểu tượng của chính Chúa Kitô, từ đó ý nghĩa toả lan sang các Kitô hữu, đặc biệt các Kitô hữu chết vì đạo đã được Giáo Hội tôn phong Hiển Thánh hoặc Chân Phước để nêu gương cho mọi thành phần Dân Chúa đang tiếp tục cuộc hành trình đức Tin giữa dòng đời.
“Nếu hạt lúa miến không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình ”. Câu này chứa đựng một chân lý thật sâu sắc, đó là: ý nghĩa và giá trị của hạt lúa miến hệ tại cuộc hiện hữu của nó cho kẻ khác, để phục vụ kẻ khác. Nếu không như thế, nó sẽ “trơ trọi một mình’’. “Trơ trọi một mình” là đặc điểm của cuộc hiện hữu vị kỷ, ích kỷ, và vì thế không có ích cho kẻ khác. Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng: hạt lúa miến chỉ đạt được phẩm giá cao quý của nó, khi chấp nhận từ bỏ chính mình, để phục vụ sự sống và sự tăng trưởng của mọi người.
“Nếu nó chết đi, thì sẽ sinh nhiều bông hạt ”: Chắc hẳn trong đoạn Phúc Âm này, Chúa Giêsu nghĩ tới kinh nghiệm trồng trọt của nhà nông: hạt-lúa-giống gieo vào lòng đất phải mục nát, phải thối rữa, phải chết đi, tức là phải chấp nhận mất căn tính hạt lúa, nhìn ở bình diện hiện tượng, để nẩy thành cái mầm, rồi lớn lên thành cây lúa chính, từ đó nẩy sinh thêm nhiều cây lúa phụ, tất cả cùng mang nhiều bông hạt. Chỉ một hạt lúa chết đi, mà sinh ra hằng trăm hạt lúa mới. Đó là sự gia tăng về số lượng. Đến lượt những hạt lúa mới phát sinh từ cái chết của hạt-lúa-giống, cũng chấp nhận bị nghiền nát, nghĩa là chấp nhận mất căn tính hạt lúa, để trở thành tinh bột, hoà mình với nước, với men, nhờ đó dậy men lên, rồi trải qua thử thách của lửa để trở thành tấm bánh thơm ngon và giàu chất dinh dưỡng cho con người. Đó là sự gia tăng về chất lượng. Đối với hạt lúa miến, một cách nào đó, chết đi là tự hạ, tự huỷ ra không; còn gia tăng số luợng và chất lượng là siêu thăng bản chất của hiện hữu. Vì thế, cái chết của hạt lúa miến được Chúa Giêsu chọn làm biểu tượng cho sự tự hạ, tự huỷ của Người như bước chuẩn bị cần thiết cho việc Thiên Chúa siêu thăng và tôn vinh Người qua mầu nhiệm Phục Sinh. Như vậy, Tự hạ và Siêu thăng qua sự Chết và sự Phục sinh, đó là như một quy luật chi phối định mệnh của Hạt Lúa Miến. Mặt khác, vì là một biểu tượng minh hoạ cách sâu sắc ơn gọi của Vua Kitô và của các Kitô hữu, nên Hạt Lúa Miến cũng là một huyền nhiệm.
“Máu các Vị Tử Đạo là hạt giống từ đó nẩy sinh nhiều tín hữu Kitô”.
Câu nói lừng danh này của Tertulianô có giá trị trước tiên đối với dòng Máu của Vua Giêsu, Vị Tử Đạo vĩ đại, đã đổ ra trên Thánh Giá. Máu các Kitô hữu Tử đạo cũng có được khả năng sinh sản thiêng liêng ấy, là vì các ngài đã được nuôi dưỡng bằng Máu-Thánh-Thể của Vua Giêsu chịu đóng đinh. Ngoài ra chúng ta thấy được ý nghĩa đích thực của cuộc sống và cái chết của các Thánh Tử Đạo Việt Nam, khi chúng ta suy gẫm về các hành động và lời nói của các ngài dưới ánh sáng Lời Chúa.
Trước tiên, tử đạo có nghĩa là làm chứng, làm chứng bằng cách chấp nhận chết hoặc đổ máu mình ra để khẳng định niềm tin vào Thiên Chúa,tiếp nối hành động của chính Vua Giêsu trên Thánh Giá. Cái chết để làm chứng triệt để như thế đuợc đồng hoá với “của lễ toàn thiêu” như Sách Khôn ngoan trong bài đọc 1 nói với chúng ta (x. Kn 3, 6). Theo tác giả Thư Do Thái, khi Đức Kitô đổ máu mình ra trên Thánh Giá, là lúc Người “tự hiến tế làm lễ vật vô tì tích cho Thiên Chúa, nhờ Thần Khí vĩnh cửu thúc đẩy” (Dt 9, 14). Vậy thì, hành động của các Thánh Tử Đạo chấp nhận chết vì đức tin cũng được thúc đẩy bởi Chúa Thánh Thần và nhờ đó các ngài trở thành “của lễ toàn thiêu”, và “của lễ thiêng liêng” (x. Rm 12, 2; 1 Pr 2, 5) được Thiên Chúa ưng nhận. Thánh Phaolô Phạm Khắc Khoan, Linh mục Tử đạo, cầu nguyện trước khi bị hành hình cùng một lúc với hai Thầy Kẻ Giảng như sau: “Vinh danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa là Chúa Cả trời đất, chúng con xin dâng mạng sống cho Ngài” [1]. Vâng, hành động của các Thánh Tử Đạo tế hiến mạng sống mình làm của lễ toàn thiêu và của lễ thiêng liêng, được tô điểm thêm bởi Hy tế ngợi khen (x. Dt 13, 15; Hs 14, 3…). Cái chết lành thánh của các ngài, cũng giống như cái chết cứu độ của Chúa Giêsu, diễn ra trong tâm tình cầu nguyện sâu lắng.
Thánh Tử Đạo Carolô CORNAY Tân, một Linh mục Thừa sai Pháp, trả lời vị quan toà thẩm vấn mình rằng: “Chúng tôi chỉ chuyên lo giảng đạo, khuyên người ta ăn ngay ở lành, dạy con cái thờ cha kính mẹ, kêu gọi thần dân vâng phục vua quan, tôi đâu có thể đi ngược lại giáo huấn của mình mà chống nhà vua được?”[2]. Câu nói sau đây của Thánh Linh mục Tử Đạo Phaolô Lê Bảo Tịnh thật hết sức ý nghĩa: “Thân xác tôi ở trong tay quan, quan muốn làm khổ thế nào tuỳ ý, nhưng linh hồn tôi là của Chúa, không có gì khiến tôi hy sinh nó được”[3].
Bài học thứ hai là thái độ kiên định trong sứ vụ làm chứng cho sự thật. Đây là nét nổi bật nhất của Vua Giêsu Tử Đạo và của tất cả các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Chúa Giêsu làm chứng cho sự thật này, là: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một, để phàm ai tin vào Con của Người thì khỏi phải diệt vong, nhưng có sự sống đời đời” (Ga 3, 16). Chính Chúa Giêsu ý thức mình là quà tặng của Chúa Cha. Người đến thế gian, “để phục vụ và hiến ban mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20, 28). Người trở thành Con Đường cứu độ, dẫn tới Sự Sống đời đời và vì thế Người là hiện thân của Sự Thật, nghĩa là của ý muốn cứu độ thế gian của Thiên Chúa Cha. Sự Thật ấy là nội dung chính yếu của Tin Mừng. Về phần mình, các Thánh Tử Đạo Việt Nam nhất quyết không bước qua hoặc dẫm lên Thánh Giá, biểu tượng của Đạo Giêsu, mà vua quan phong kiến xưa gọi là “tả đạo Gia-tô”; các ngài chấp nhận bị giết để làm chứng trước mặt mọi người rằng Đạo Gia-tô, Đạo Giêsu là Đạo Thật, là Con Đường đích thực dẫn vào Sự Sống bất diệt. Dầu thế gian đón nhận hay khước từ, thì mọi Kitô hữu hôm nay vẫn phải dùng lời nói và cả cuộc sống của mình làm chứng cho Sự Thật đó, theo gương Chúa Giêsu và các Chứng Nhân đức tin anh dũng.
Bài học thứ ba là lòng bác ái không bờ bến đối với mọi người, kể cả những người giết hại mình. Về điểm này, chính Chúa Giêsu đã nêu gương một cách cụ thể: không những Người dạy các môn đệ phải “yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi” mình (x. Mt 5, 44), mà chính Người, khi bị treo trên Thánh Giá, đã cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ giết hại Người (x. Lc 23, 34). Thánh Emmanuen Lê Văn Phụng, trùm trưởng của họ đạo Đầu Nước, Cù Lao giêng, đã nói lời trăng trối với con trai của mình tại pháp trường: “Con ơi, hãy tha thứ, đừng tìm báo thù kẻ tố cáo cha nhé” [4]. Có thể nói: tất cả các Thánh Tử Đạo Việt Nam khi bị thẩm vấn, cầm tù và hành quyết, không hề nói một lời trách móc, mỉa mai hay nguyền rủa những kẻ làm hại mình. Càng suy gẫm về những lời đối đáp của các ngài với vua quan bách hại các ngài, hay những lời các ngài tâm sự với người thân của mình, chúng ta mới thấy được điều kỳ diệu của Đạo Tình Thương: Tình thương mạnh hơn sự chết; Tình thương chiến thắng hận thù.
Kính thưa cộng đoàn,
Trong ngày kỷ niệm đúng 50 năm truớc, tức vào ngày 24-11-1960, Đức Giáo Hoàng Chân Phước Gioan XXIII ban hành Sắc chỉ Venerabilium Nostrorum thiết lập Hàng Giáo Phẩm Công Giáo tại Việt Nam. Với tâm tình tri ân, chúng ta hãy “Tạ ơn Thiên Chúa về hồng ân đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Hồng ân này đã được rất đông các Vị Tử Đạo đón nhận cách quảng đại, sống và làm chứng; các ngài là những người muốn loan báo chân lý và tính phổ quát của niềm tin vào Thiên Chúa” [5].
Ngoài ra, chúng ta chân thành xin các ngài chuyển cầu cho chúng ta biết dùng ân huệ của Năm Thánh hồng phúc này và dùng việc nhớ lại chứng từ cao quý của các ngài để kích động đức mến, gia tăng đức cậy và củng cố đức tin mà đôi lúc bị thử thách bởi chính đời sống thường ngày của chúng ta [6].
Nguyên xin Đức Mẹ La Vang, Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, hướng dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu, để cùng với Con yêu dấu của Mẹ và Các Thánh Tử Đạo Việt Nam chúng ta đi vào huyền nhiệm Hạt Lúa Miến: chết đi mới sinh nhiều bông hạt, làm nên nhiều tấm bánh, bẻ ra, chia sẻ cho đồng bào của chúng ta được sống và sống dồi dào. Chúng ta chia sẻ sự sống với đồng bào, không chỉ bằng bánh vật chất, mà bằng cả bánh nhân văn và văn hoá, nhất là bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể; có tất cả các thứ bánh đó thì mới thực sự có sự phát triển toàn diện của mỗi người và mọi dân tộc; và có chia sẻ những tấm bánh đó cho mọi người, nhất là người nghèo và người bị gạt ra lề xã hội, mới thực sự tạo được sự HIỆP THÔNG toàn diện và sâu sắc trong Giáo Hội, để Giáo Hội trở nên Bí Tích, nghĩa là “dấu chỉ và khí cụ của sự hiệp nhất giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau” [7]. Theo nghĩa đó, “xây dựng sự HIỆP THÔNG trong Giáo Hội là chìa khóa của SỨ VỤ [8] làm chứng cho Chúa Kitô và Phúc Âm của Người. AMEN.
------------
[1] Xem Kinh Sáng ngày 24/11, điệp ca 2.
[2] Xem Kinh Sách ngày 24/11, điệp ca 1.
[3] Xem Kinh Sáng ngày 24/11, điệp ca của Thánh ca Tin Mừng.
[4] Xem Tài Liệu Làm Việc của Đại Hội Dân Chúa, cước chú 109.
[5] Xem Huấn từ ĐTC Beneđictô XVI ngỏ với HĐGMVN ngày 27-06-2009.
[6] Xem Thư ĐTC Beneđictô XVI gửi ĐC Chủ Tịch HĐGMVN dịp lễ khai mạc Năm Thánh tại Sở Kiện 24-11-2009.
[7] Xem TLLV, chương II.
[8] Xem Sứ điệp Khánh Nhật Truyền Giáo năm 2010 của ĐTC Beneđictô XVI.



25. Không thuộc về thế gian

(Trích từ ‘Manna’)
Suy Niệm
"Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều vua, lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước. Nay hạ thần cam chịu mọi cực hình để nên giống Đức Kitô." Đó là câu trả lời của ông Micae Hồ Đình Hy khi vua Tự Đức mời ông giả vờ bước qua thánh giá.
Ông là người thanh liêm, được nhà vua hết sức tín cẩn, cho phụ trách ngành dệt trong cả nước. Nhưng ông cũng là một Kitô hữu xông xáo làm việc tông đồ.
Ông không thấy có gì xung khắc giữa việc phục vụ đất nước với việc phục vụ Giáo Hội.
Khi quân Pháp bắn phá cảng Đà Nẵng thì ông bị bắt, bị kết án là khinh luật nước, chống lại triều đình.
Ông Hy đã chấp nhận cái chết một cách bình thản. Trước khi chịu chém, ông còn xin hút một điếu thuốc, hương vị cuối cùng của trần gian mà ông muốn nếm trước khi nếm hương vị của thiên đàng vĩnh cửu.
Cuộc sống và cái chết của thánh Micae Hy soi sáng cho đoạn Lời Chúa hôm nay.
Người Kitô hữu có hai đầu dây cần phải giữ. "Như Cha đã sai Con đến trong thế gian, Con cũng sai họ đến trong thế gian" (Ga 17,18).
Thế gian là nơi thánh Hy đã sống cho đến chết. Thế gian là đất nước, là vua quan, là thứ dân... Ngài đã yêu mến và sống tận tình cho thế gian đó.
Thế gian đã trở nên như máu thịt của người Kitô hữu vì đó là nơi họ được Chúa sai đến để phục vụ, và là nơi họ trở thành người Kitô hữu trọn vẹn.
"Họ không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian" (Ga 17,16).
Ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian, nghĩa là không hoàn toàn nghĩ và sống như thế gian.
Người Kitô hữu không coi thường mọi giá trị của xã hội, nhưng họ có một thang giá trị riêng.
Họ biết đâu là những giá trị mà họ phải tôn trọng. Nếu hy sinh những giá trị đó, họ sẽ đánh mất chính mình và chẳng đóng góp được gì cho bộ mặt thế giới.
Họ là nhúm men vùi trong đống bột. Men không được tách khỏi bột, và men cũng không được biến chất thành bột. Trong cả hai trường hợp, men đều trở nên vô ích.
Chúng ta vẫn bị cám dỗ buông một trong hai đầu dây. Bỏ một trong hai đều làm mất căn tính của người Kitô hữu.
Ơn gọi Kitô hữu đặt ta vào một thế đứng chênh vênh, thế đứng dễ ghét, thế đứng đòi phải trả giá.
Tử Đạo là cách làm chứng tuyệt vời trong thời bách hại.
Trong thời kinh tế thị trường, cần có những cách làm chứng khác. Người Kitô hữu vẫn bị cám dỗ bước qua lương tâm mình để mua lấy chút địa vị, lợi nhuận, an toàn, thoải mái...
Thế gian không ở ngoài ta, thế gian ở ngay trong lòng ta.
Ước gì chúng ta dám chấp nhận thiệt thòi, phiền hà, mất mát, khi can đảm làm chứng cho lòng tin và tình yêu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Kitô hữu vừa phải đồng hành với thế gian, vừa có lúc phải lội ngược dòng với thế gian. Bạn thấy điều đó có quá khó không? Làm sao thực hiện được lý tưởng đó?
Thời nào, nơi nào, làm chứng cho Chúa cũng có cái khó riêng. Đâu là cái khó khi bạn phải làm chứng cho Chúa trong một xã hội chạy theo tiền bạc và hưởng thụ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,
Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục. Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian, lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó.
Thế gian này vàng thau lẫn lộn. Có khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài.
Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của mình, giữ được vị mặn của muối, và sức tác động của men, để đem đến cho thế gian một linh hồn, một sức sống.
Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo, chỉ sợ mình bỏ sống đạo vì bị quyến rũ bởi bao thú vui trần thế.
Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo, những người đã đặt Chúa lên trên mạng sống.
Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con, thì xin cho chúng con cảm thấy niềm vui của người được diễm phúc nên giống Chúa. Amen.



26. Anh em làm chứng cho Thầy

(Trích từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Trong số 117 vị Tử Đạo Việt Nam, được phong thánh năm 1988, có một phụ nữ duy nhất, mẹ của 6 người con. Đó là bà Anê Lê Thị Thành, còn gọi là bà Đê.
Trước khi là một anh hùng tử đạo, bà đã là một người mẹ hiền gương mẫu. "Thân mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo dục các con. Chính người dạy chúng tôi đọc chữ và học giáo lý, sau lại dạy cách dự thánh lễ và xưng tội rước lễ." Đó là lời khai của cô con gái út trước giáo quyền.
Nhà bà Đê là nơi các linh mục trú ẩn. Buổi sáng lễ Phục Sinh năm 1861, quan Tổng Đốc Nam Định cho quân bao vây làng của bà. Bà Đê bị bắt lúc đã 60 tuổi. Bà bị đánh đập tra tấn, bị ép phải chối đạo, bị lôi qua Thánh Giá, bị bỏ rắn độc vào người. Khi con gái đến thăm bà trong nhà giam, đau đớn vì thấy quần áo mẹ loang đầy vết máu, bà đã an ủi con với một niềm lạc quan lạ lùng: "Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?" Sau ba tháng chịu đủ mọi cực hình, người phụ nữ ấy đã hiến đời mình cho Chúa.
Cuộc đời của vị thánh nữ tiên khởi của Việt Nam là một sức nâng đỡ lớn cho chúng ta. Thiên Chúa đã làm điều phi thường nơi một người phụ nữ già nua, yếu đuối. Quan "Hùm Xám" tỉnh Nam Định cũng phải bó tay trước sự yếu đuối kiên vững của bà.
Khôn ngoan và đơn sơ, can đảm chịu đau khổ, bà thánh Đê đã phó mặc cho Chúa đời mình. Bà chẳng lo phải nói gì, phải làm gì trước tòa án, vì sức mạnh của Thánh Thần ở với bà.
Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống vì đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời.
Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống, nhưng lại đòi hy sinh cả tương lai vững vàng ổn định.
Mỗi ngày, chúng ta thường bị đặt trước những chọn lựa, trước thập giá của Đức Giêsu, y hệt như các vị tử đạo ngày xưa.
Có khi chúng ta đã bước qua thập giá, khi chọn mình, đã chối Chúa bằng chính cuộc sống.
Càng có tự do, ta lại càng dễ sa sút đức tin. Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những thụ tạo gây ra những cuộc bách hại êm ả và khủng khiếp mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện.
Ước gì chúng ta không để mất đức tin được mua bằng giá máu của bao vị tử đạo, và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy cho hơn 70 triệu đồng bào trên quê hương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Các vị tử đạo làm chứng cho Chúa bằng cách hy sinh tính mạng. Theo ý bạn, trong thời đại đất nước mở cửa, đâu là cách thức làm chứng của người kitô hữu? (làm chứng ở trường, ở nơi làm việc, ở các chỗ giải trí vui chơi...)
Theo ý bạn, xã hội hôm nay dễ nhạy cảm với cách làm chứng nào của người kitô hữu? Phải sống như thê nào để người ta dễ có cảm tình với Đức Giêsu?
Cầu Nguyện
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam, các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm. Sự hy sinh của các ngài cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt. Dù mang phận người yếu đuối, nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng, các ngài đã chiến thắng khải hoàn. Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài biết can trường sống đức tin của bậc cha anh trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa, biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu bằng một đời hiến thân phục vụ. Ước gì ngọn lửa đức tin mà các ngài đã thắp lên bằng cuộc sống và cái chết, được bừng tỏa trên Tổ quốc Việt Nam. Ước gì máu thắm của các ngài thấm vào mảnh đất quê hương để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.




28. Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng – Mt 10,17-22

(Trích từ ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Qua những lời Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ về những bách hại gặp phải và thái độ phải có khi đối diện với những bách hại này. "Đừng lo sợ phải nói gì và nói thế nào, vì Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng cho biết phải nói gì". Sự bách hại là số phận không thể tránh được của người đồ đệ, bởi vì nếp sống và sứ điệp của người đồ đệ của Chúa phơi bày những tật xấu của thế gian.
Tác giả Phúc Âm theo thánh Gioan viết rõ ra lý do của sự thù nghịch giữa thế gian và người đồ đệ như sau:
"Nếu thế gian ghét các con, các con nên nhận biết rằng thế gian đã ghét Thầy trước các con. Nếu các con thuộc về thế gian thì thế gian sẽ yêu những gì thuộc về nó, nhưng vì các con không thuộc về thế gian và vì Thầy đã chọn các con và tách các con ra khỏi thế gian, nên thế gian ghét các con. Các con hãy nhớ lời Thầy dạy bảo: "Tôi tớ không trọng hơn chủ". Nếu họ đã bắt bớ Thầy, chắc chắn họ sẽ bắt bớ các con".
Người đồ đệ được đồng hóa với Chúa Giêsu và chia sẻ số phận của Ngài, nhưng người đồ đệ cảm thấy mình như là yếu đuối, không sức mạnh để tự mình chống lại những bách hại. Sự yếu hèn của môn đệ là sức mạnh của Thiên Chúa. Vì biết mình yếu đuối, người đồ đệ hết lòng tin tưởng vào Chúa, sống gắn bó với Người.
Phúc Âm theo thánh Mátthêu đã được viết ra sau cuộc bách hại đầu tiên mà cộng đoàn Giáo Hội đầu tiên đã trải qua, như cuộc bách hại và tử đạo của thầy Stephano tại Giêrusalem. Các tông đồ cũng đã từng bị tù rồi chịu chết vì đạo. Phản ứng tự nhiên của con người trước những khó khăn, những bách hại là lo sợ. Và Chúa Giêsu tiếp tục khuyên các tông đồ hãy can đảm làm chứng cho Ngài. Người đồ đệ của Chúa cần sẵn sàng cho mọi nghịch cảnh xảy ra.
Trong đoạn Phúc Âm chúng ta đọc trên đây, chúng ta có thể ghi nhận là Chúa Giêsu đã kêu gọi "đừng sợ" đến ba lần:
- "Các con đừng sợ những kẻ vu oan vì không có gì ẩn khuất mà không bị lộ, vì sự thật luôn là sự thật".
Trung thành với sự thật đôi khi làm ta phải trả một giá rất đắt và có khi phải trả cả bằng chính mạng sống mình.
- Lần thứ hai Chúa Giêsu nhắc: "Các con đừng sợ và đừng sợ những kẻ có thể làm hại thân xác, làm thiệt thòi cho phần vật chất, nhưng không thể nào giết được linh hồn".
Lý do sâu xa của lòng can đảm Phúc Âm mà Chúa muốn cho các đồ đệ là quan niệm đích thực về con người, bao gồm thể xác và linh hồn. Thể xác, vật chất có thể bị thiệt thòi, nhưng linh hồn, tinh thần của con người sẽ không hề hấn gì nếu người đó vững lòng tin tưởng vào Chúa.
- Lần thứ ba Chúa Giêsu nhắc: "Các con đừng sợ vì lý do các con quí trọng hơn chim sẻ nhiều. Thiên Chúa quan phòng chăm sóc mọi sự, Ngài chăm lo cho chim sẻ ngoài đồng thì huống hồ là con người cao trọng hơn mà không được Thiên Chúa chăm sóc cho hay sao".
Đó là ba lý do để đừng lo sợ và hãy tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng. Ý thức mình được Thiên Chúa yêu thương chăm sóc, người đồ đệ sẽ nhất quyết dấn thân nhiều hơn, dấn thân làm chứng cho Chúa.
"Ai nhìn nhận Thầy trước mặt mọi người, thì Thầy cũng nhìn nhận người ấy trước mặt Cha Thầy ở trên trời". Đó là những lời dạy của Chúa Giêsu cho những đồ đệ đầu tiên ngày xưa, những vẫn luôn còn giá trị cho những đồ đệ của Chúa ngày hôm nay. Đừng sợ gian nan thử thách để theo Chúa, đó là sự can đảm của người Kitô qua mọi thời đại.
Lạy Chúa,
Xin giúp con mở rộng mọi cửa nẻo tâm hồn để đón nhận Chúa đến sống với chúng con, để ban sức mạnh cho chúng con. Xin vì công nghiệp các thánh Tử Đạo Việt Nam, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con được trở thành những chứng nhân trung thành của Chúa trong mọi hoàn cảnh.



29. Tử Đạo

Trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu đã tiên báo cho các môn đệ:
- Người ta sẽ ghét bỏ các con, sẽ bắt bớ và xua đuổi các con ra khỏi nhà hội. Sẽ đánh đập và nhốt các con vào ngục tù, và sau cùng họ giết các con vì môn đệ không trọng hơn thày.
Lời tiên báo của Chúa Giêsu đã được thực hiện, trải qua dòng thời gian, hằng triệu các tín hữu đã đi vào dấu chân của các tông đồ, chấp nhận hy sinh mạng sống để làm chứng cho Tin Mừng Phúc âm.
Có thể nói được rằng Kitô giáo đã lớn lên trong máu và nước mắt. Ở mọi nơi và trong mọi lúc, Giáo Hội đều gặp phải những bắt bớ và cấm cách, từ những thế kỷ đầu khi Giáo Hội còn phôi thai, cho đến tận ngày hôm nay khi Giáo Hội đã có mặt ở tận cùng bờ cõi trái đất.
Nào là những cuộc bách hại đẫm máu ở Đại Hàn, Nhật Bản, Phi Châu và ngay cả trên đất nước Việt Nam thân yêu, suốt ba thế kỷ, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, biết bao nhiêu bắt bớ cũng đã xảy ra. Thực vậy, Tin mừng được chính thức loan truyền trên quê hương Việt Nam vào thời Hậu Lê thuộc thế kỷ 16. Thế nhưng, ngày từ lúc còn phôi thai Giáo Hội Việt Nam đã gặp phải những cấm cách đúng như lời Chúa đã phán: Nếu họ đã bắt bớ Thày, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con. Cuộc bách hại khởi đầu từ thời Hậu Lê, qua nhà Tây sơn, rồi tới triều Nguyễn và đặc biệt trở nên gắt gao dưới thời Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Suốt ba trăm năm, biết bao nhiêu người đã phải rời bỏ làng mạc thân yêu trốn chạy vào những nơi rừng thiêng nước độc, cốt bảo toàn đức tin của mình. Hơn 130 ngàn người đã ngã gục dưới những cực hình dã man, để trờ thành những chứng nhân bất khuất cho Đức Kitô. Trong đó 117 vị đã vị đã được tôn phong lên hàng hiển thánh, gồn 8 giám mục, 50 linh mục, 16 thày giảng, 1 chủng sinh và 42 giáo dân.
Thế gian thù ghét Chúa Giêsu và Giáo Hội, Sự thù ghét ấy vẫn còn đó, cho dù con người hôm nay đã bước vào thời đại văn minh và tiến bộ. Thực vậy, Ngày hôm nay trên thế giới vẫn còn có biết bao nhiêu Giám mục, Linh mục và giáo dân bị tù tội, bị áp bức chỉ vì một lý do duy nhất đó là đã tin theo Đức Kitô.
Thế nhưng như người ta vẫn thường bảo:
- Cái đe làm cho chiếc búa bị hỏng.
Thế gian nhục mạ, bắt bớ Giáo Hội và rồi họ đã chết, còn Giáo Hội thì vẫn đứng vững, vẫn giữ được vẻ tươi trẻ và sức sống của mình. Chúng ta thử nhớ lại ảnh hưởng to lớn mà Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã tạo được trên thế giới và cái chết của ngài đã gây ra một sự mất mát đớn đau. Rồi những tình cảm nồng hậu người ta đã dành cho Đức Phaolô VI, cũng như Đức Gioan-Phaolô II trong những chuyến công du.
Từ đó chúng ta nhận thấy gian nguy và thử thách là một cái gì gắn liền với thân phận của Giáo Hội, hay nói cách khác, là một phần của đời sống Giáo Hội, bởi vì không một vị thánh nào mà không bị khổ đau, mà không bị đổ máu.
Thế nhưng chấp nhận cái chết trong phút chốc có thể là một việc dễ dàng. Nhưng từng giây từng phút, từ bỏ những ước muốn riêng tư để làm vui lòng Chúa, chu toàn mọi bổn phận nhỏ bé không tên, tha thứ mọi lỗi lầm, mọi vấp phạm, mọi va chạm, đó có thể là một việc khó, đòi phải có một đức tính kiên nhẫn và một lòng mến chân thành. Việc làm đó không hào quang, không rực rỡ, không một ai biết đến trừ ra chính Thiên Chúa.
Đôi lúc đau khổ và thử thách còn là một phần của đời sống người Kitô hữu: Nào cám dỗ, nào bệnh tật, nào khó khăn, nào chết chóc. Dĩ nhiên chúng ta phải làm việc, để tạo dựng một cuộc sống ấm no hạnh phúc và tiện nghi. Thế nhưng chúng ta phải nhớ rằng: Sống đạo và chạy theo vui thú là hai việc làm không thể đội trời chung với nhau. Bởi vì đời sống người Kitô hữu là một cuộc chiến đấu không ngừng chống lại sự bành trướng của tinh thần thế gian. Hay như lời thánh Phaolô đã nói:
- Những người thuộc về Đức Kitô thì đóng đinh xác thịt mình cùng với mọi đam mê dục vọng vào thập giá.
Chính những đau khổ và thử thách sẽ giúp chúng ta vượt lên trên tinh thần thế tục, thanh tẩy chúng ta và đền bù tội lỗi chúng ta.
Bởi đó đừng nguyền rủa phẫn uất nhưng hãy biết đón nhận vì lòng yêu mến Chúa, để góp phần vào thập giá của Ngài. Trong những giờ phút đen tối, hãy ngước nhìn thập giá và sẽ tìm được niềm an ủi và khích lệ vì chính Chúa cũng đã đau khổ trước chúng ta và hơn chúng ta bội phần.
Cuộc đời thì ngắn ngủi, đừng lãng phí và làm cho nó bị hư đi, vì sau cơn mưa trời lại sáng, sau thập giá là vinh quang phục sinh.



30. Làm Chứng

Hôm nay Giáo Hội cho phép chúng ta mừng kính chung toàn thể các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Đây thực là một ngày giỗ tổ làm cho mọi tâm hồn con dân đất Việt phấn khởi vui mừng. Chúng ta đều biết từ khi đạo Chúa chính thức bắt rễ vào đất nước chúng ta cho đến cuối thế kỷ XIX, nghĩa là từ khoảng năm 1638 đến năm 1886, gần 300 năm, lịch sử Giáo Hội Việt Nam là cả một cuộc tử đạo kéo dài gần như liên tục năm này qua năm khác, không mấy khi ngừng, mà nếu có ngừng thì chỉ tạm ngừng để chuẩn bị tiến sang một giai đoạn chịu bách hại khác dữ dội hơn và đẫm máu hơn.
Trong suốt ba thế kỷ bị bách hại, tính ra có trên 130 ngàn anh hùng tử đạo, và như thế nước Việt Nam chúng ta, tuy nhỏ hẹp và nghèo khổ nhưng rất hào hùng. Nước nhỏ hẹp nhưng danh tiếng vang lừng quốc tế. Chúng ta đã đóng góp cho gia sản của Giáo Hội một sự nghiệp đức tin to lớn. Tuy nhiên, trong số đó mới chỉ có 117 vị được phong chân phước. Và ngày 19.06.1988, cả 117 vị này đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn lên bậc hiển thánh. Các ngài được suy tôn hiển thánh để cho toàn thể thế giới tôn kính và noi gương anh dũng của các ngài. Đồng thời để cho chúng ta, những người Công giáo Việt Nam, là con cháu các ngài, biết nối gót cha ông, dù sống trong hoàn cảnh nào cũng luôn trung thành với Chúa, với Giáo Hội, với Tin Mừng giữa lòng dân tộc.
Các vị tử đạo cũng là những con người mang thân xác giòn mỏng như chúng ta, cũng biết rung cảm, cũng biết ham sống sợ chết như chúng ta. Nhưng giờ phút hy sinh đến, các ngài sẵn sàng tiến lên dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Do đó cái chết của các ngài có một ý hướng nhất định: các ngài là những nhân chứng cho đạo Chúa. Đúng thế, danh từ “Tử Đạo” có nghĩa là kẻ làm chứng, và dùng đau khổ, tử hình để bảo đảm cho lời chứng. Mỗi vị tử đạo chết bằng nhiều hình khổ khác nhau, nhưng tất cả các ngài đều hiên ngang dùng lời nói và mạng sống mình để giảng đạo, bênh vực chân lý và tuyên xưng đức tin. Tóm lại, tất cả các ngài đều là những nhân chứng bằng chính đời sống của mình. Và cái chết của các ngài là một câu trả lời hùng hồn, quyết liệt cho những ai còn nghi ngờ tôn giáo của các ngài.
Người ta thường nói: “An quả nhớ kẻ trồng cây” hay “uống nước nhớ nguồn”. Chúng ta là con cháu các vị tử đạo, chúng ta được thừa hưởng một di sản đức tin phong phú, được chiêm ngưỡng một Giáo Hội phát triển tốt đẹp như ngày nay, chúng ta không thể quên đó là kết quả của những dòng máu cha ông đã đổ ra. Bởi vậy, chúng ta phải tưởng niệm đến công lao to lớn của tiền nhân mà đáp đền cho xứng đáng và ra công phát huy di sản quí báu cha ông đã để lại. Nhưng nếu chỉ có những cảm tình hân hoan phấn khởi và biết ơn mà thôi thì chưa đủ, chúng ta còn phải chú ý lắng nghe tiếng gọi tha thiết của dòng máu tử đạo và khám phá ra những bài học cao quí để áp dụng vào đời sống. Vậy máu tử đạo nói gì với chúng ta?
Trước hết, máu tử đạo nói lên niềm tin mãnh liệt, sâu xa và lòng trung thành sắt son của cha ông đối với đạo thánh Chúa. Đức tin đã thấm nhập và đâm rễ sâu vào tâm hồn các ngài đến nỗi không một sức mạnh trần gian nào có thể lay chuyển được. Đối với các vị tử đạo, đức tin là một cái gì cao quí vô cùng, phải bảo vệ bằng mọi giá. Dầu bị đe dọa, tra tấn với muôn khổ hình dã man ghê rợn, dầu phải đổ đến giọt máu cuối cùng, các ngài cũng cam chịu, miễn sao bảo tồn được đức tin nguyên vẹn.
Đàng khác, được hấp thụ tinh thần nho giáo, các ngài đặt chữ “trung” lên trên hết. Không những trung thành với vua chúa trần gian, với quê hương tổ quốc, mà nhất là trung thành với vua chúa trên các vua, chúa trên các chúa, trung thành với quê hương tổ quốc siêu nhiên là Giáo Hội. Đó là tấm gương sán lạn cha ông để lại cho chúng ta.
Thứ hai, máu tử đạo cũng nói lên đức hy sinh can đảm phi thường của tiền nhân. Người ta ai mà không sợ đau khổ, ai mà không tham danh tranh lợi, ham sống sợ chết. Nhưng với ơn Chúa, các vị tử đạo đã thướng vượt mọi trở lực, dầu khó khăn đến đâu, để duy trì đức tin. Ai kể được những khổ hình dã man các ngài đã phải chịu: kìm kẹp, xiềng xích, voi giày, thiêu sinh, trầm hà, trảm quyết, lăng trì, bá đao… Nhưng các ngài can đảm chịu đựng, các ngài đã thắng tất cả: thắng vũ lực, thắng quyền bính vua chúa trần gian, thắng ma quỉ, và thắng chính mình.
Các vị tử đạo đã chết để nêu cao lòng hiếu trung. Các ngài đã từ bỏ tất cả, nhận lấy cái chết, không chút oán giận những kẻ giết mình. Các ngài đã hy sinh đời sống để theo một tôn giáo, minh chứng cho mọi người biết tôn giáo đó là từ trời ban xuống và đạo Chúa Kitô là đạo thật. Các ngài chết nhưng luôn sống trong ký ức chúng ta. Các ngài là những hạt giống tốt đã được gieo để đem lại hoa trái phong phú cho chúng ta. Chúng ta đang thừa hưởng gia sản của các ngài, chúng ta hãy sống tốt đẹp, xứng đáng với những hy sinh của các ngài.
Chúng ta hãy nhớ rằng: tử đạo là một ân huệ đặc biệt Chúa ban cho ai tùy ý Ngài muốn, nhưng nỗ lực làm chứng cho Chúa thì không dành riêng cho ai cả. Là Kitô hữu là có nhiệm vụ làm chứng: làm chứng bằng lời nói, bằng hành động và bằng cả cuộc đời cụ thể của mình. Nói rõ hơn, cách làm chứng tốt nhất cho Chúa, cho đạo là sống bác ái yêu thương. Chúng ta cần phải thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo chúng ta bằng cách sống trọn vẹn, quyết liệt, dứt khoát tinh thần bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người chung quanh.



31. Suy niệm của Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm

Ngày 24 tháng 11, là ngày lễ thánh linh mục tử đạo Anrê Dũng Lạc. Giáo Hội Việt Nam đã xin Giáo Hội hoàn vũ để mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam vào ngày này, và nhận Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là bổn mạng Giáo Hội Việt Nam. Vì là bổn mạng của Giáo Hội Việt Nam, nên lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là lễ trọng và được dời vào ngày Chúa Nhật. Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ là lễ Kitô Vua, nên lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam được mừng vào Chúa Nhật trước lễ Kitô Vua.
Các thánh tử đạo là những người dám chết để làm chứng Thiên Chúa yêu thương con người. Các ngài là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đang làm những điều kỳ diệu nơi những con người yếu đuối mỏng dòn.
Đời sống trong sáng đáng quý như châu ngọc
Bài đọc thứ nhất trong sách Maccabêô quyển thứ hai, thuật chuyện một người đáng kính, từ chối không ăn thịt heo cho dù phải chết. Ông được nhiều người quý mến nên đổi thịt heo thành thịt mà luật cho phép ăn, rồi đề nghị ông giả vờ ăn thịt heo để thoát chết. Êlêazarô từ chối mánh khóe để được sống này, vì khi làm như vậy gây gương xấu cho thế hệ tương lai. Thế hệ trẻ đâu biết đó không phải là thịt heo, nên tưởng rằng Êlêazarô tham sống sợ chết mà vi phạm luật Chúa.
Thái độ sống của Êlêazarô rất trong sáng, rất tự do ngay cả đối với cái chết. Ông cũng là người cho thấy tình yêu và trách nhiệm đối với thế hệ tương lai. Nơi con người mỏng dòn, Thiên Chúa đã và đang làm những điều tuyệt vời. Các thánh tử đạo Việt Nam cũng là những người sống thái độ tự do và yêu mến như vậy. Các ngài là những người cha, người mẹ, người chồng, người vợ, người con hiếu thảo và tốt lành; tuy vậy các ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết vì yêu mến Thiên Chúa, yêu mến con người và những người thân.
Cái chết của các ngài, làm rạng danh gia tộc, giúp cho những người con người chồng người vợ nhìn lên tấm gương của những bậc cha anh thân yêu mà phấn đấu sống cho nên người và nên người con ngoan của Chúa. Các thánh tử đạo là những người ảnh hưởng rất lớn trên thế hệ tương lai mà nhiều người không thấy rõ điều này, khi cho rằng các ngài chết thì đâu có dạy dỗ hoặc ảnh hưởng gì được trên ai. Nơi các anh hùng tử đạo, lời dạy không bằng ngôn từ nhưng bằng chính cuộc sống. Và chúng ta biết, lời bằng hành động hay cuộc sống thì có sức thuyết phục hơn lời nói nhiều.
Không có gì tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa
Bài đọc thứ hai trong thư của thánh Phaolô gởi tín hữu Roma, cho thấy xác tín của thánh nhân. Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, và không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Giêsu. Bằng cớ cho thấy Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, đó là Ngài đã ban chính Con Một Ngài cho chúng ta. Nếu Thiên Chúa ban chính Con Một Ngài cho chúng ta, thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa?
Không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Không phải vì chúng ta yêu Thiên Chúa đến độ không có gì tách chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa, nhưng vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta, Thiên Chúa giữ chúng ta trong tình yêu của Ngài. Nếu chính Thiên Chúa giữ, thì ai giựt chúng ta ra khỏi tay Thiên Chúa được? Nếu chỉ là bản thân con người ghì chặt Thiên Chúa, thì người mạnh hơn có thể giựt họ ra được, nhưng đây chính Thiên Chúa giữ. “Không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô”. Không ai, cho dù đó là thiên thần hay quỷ dữ, bất cứ quyền lực nào cũng không thể làm điều này, vì Thiên Chúa là Đấng vô cùng mạnh.
Vì tin vào Thiên Chúa yêu thương tôi, nên tôi vững dạ an tâm, nên tôi ung dung thư thái bất chấp tất cả. “Nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, chính là Chúa”. “Đức Chúa là ánh sáng và Đấng cứu độ tôi, tôi còn sợ chi ai, tôi còn kinh khiếp chi ai”! Chính Thiên Chúa làm cho các thánh tử đạo trung thành với Ngài, cho dù “kiếm sắc, đầu rơi, gươm đao, xá gì”. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài sẽ hoàn tất những gì Ngài đã khởi sự nơi chúng ta.
Vác thập giá hằng ngày mà theo Ta
Đức Giêsu nói trong tin mừng theo thánh Luca: “ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Ta”. Theo Đức Giêsu, là một thái độ sống liên lỉ chứ không chỉ là một hành vi riêng lẻ một lần cho tất cả. Để có thể có hành vi dám chết cho tình yêu, các anh hùng tử đạo đã luôn chết cho chính mình trong cuộc sống hằng ngày để sống cho Chúa trong từng hành vi sống của mình.
“Được lời lãi cả thế gian, mà phải mất mạng sống mình, thì ích gì?” Điều quan trọng là phải sống. Nhưng nếu chỉ sống một trăm năm, mà phải khổ nhục vĩnh viễn thì ích lợi gì? Sự khôn ngoan đi kèm với hành vi anh hùng nơi các thánh tử đạo. Các thánh tử đạo, là những người khôn ngoan, anh hùng và đức hạnh. Các ngài là những người dám sống và dám chết cho tình yêu. Các ngài chọn đời sống vĩnh cửu hơn đời sống chóng qua này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Tại sao các vị tử đạo dám chết? Những người thân của họ được gì?
2. Có người nói: “sống tốt cuộc sống này, đã là tử đạo rồi”. Bạn có đồng ý không? Tại sao?
3. Để giúp nhau hiểu thêm về lịch sử Giáo Hội Việt Nam và gương anh dũng của các bậc cha anh, xin bạn kể tiểu sử một vị thánh tử đạo Việt Nam!



32. Tử đạo, một chọn lựa của lòng tin

Hôm nay, chúng ta hân hoan cùng với toàn thể Giáo Hội Việt Nam mừng kính trọng thể lễ các thánh Tử Đạo tại Việt Nam. Đây là một ngày vui mừng chung của tất cả chúng ta, những kitô hữu mang trong mình dòng máu con Rồng, cháu Tiên. Cách đây gần 400 năm, hay đúng hơn từ lễ Phục sinh năm 1615, khi cha Bugiơmi, dòng Tên, người Ý dâng thánh lễ đầu tiên tại Hội An, Đà Nẵng bây giơ, đạo Công giáo đã được chính thức khai nguyên và lập cơ sở ở Việt Nam. Hạt giống Tin mừng đã được gieo vãi trên mảnh đất hình chữ “S” thân yêu này. Cha ông chúng ta những con người có tâm hồn hiền hậu, chất phác đã đón nhận và sẵn sàng dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho Tin mừng đó.
Thật vậy, “Tử Đạo” theo nguyên ngữ là “Martyr” có nghĩa là “làm chứng”. Vậy thì việc cha ông chúng ta, từng lớp lớp người sẵn sàng bỏ tất cả vinh hoa, phú quý, vợ con để chết đi làm chứng điều gì? Chắc chắn việc các ngài sẵn sàng chết không phải vì các ngài không muốn sống, nhưng là để làm chứng rằng, sự sống nơi trần thế này không phải là tuyệt đối, và mọi vinh dự ở đời này không phải là vĩnh cửu. Với cái chết của mình, cha ông chúng ta đã cho thấy rằng: chết chưa phải là hết, nhưng là cửa ngõ để đi vào một đời sống vĩnh cửu đúng như tâm thức từ bao đời nay trong lòng người dân Việt: “sống gởi, thác về. Và chính dòng máu nóng của các ngài đổ ra trên mảnh đất này, đã làm phát sinh một Giáo Hội Việt Nam hôm nay, như lời Đức Kitô: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.
1. Chọn lựa của dân Do thái:
Tuy nhiên, để có thể sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho Tin mừng, cha ông chúng ta đã phải làm một cuộc chọn lựa thật quyết liệt trong tâm hồn. Bởi vì, trong thực tế, hạnh phúc đời sau thì bây giờ chúng ta không thấy, còn tiền của, danh vọng cùng với những vinh hoa phú quý của nó, thì lại nằm ngay trước mắt. Chính dân Do Thái khi bước vào được Đất Hứa, sau cuộc hành trình 40 năm trong sa mạc, cũng đã phải làm một cuộc chọn lựa cơ bản này. Ông Môisê đã nói với họ: “Coi đây, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là bị chết, bị tai hoạ. Khi dân Do thái chọn lựa “yêu mến Đức Chúa,… và gắn bó với Người”, thì không phải vì trước mắt họ nhận được một cuộc sống sung sướng, dễ dãi. Họ chọn lựa Thiên Chúa chỉ vì họ tin tưởng vào tình yêu của Giavê Thiên Chúa, Đấng đã từng giải thoát họ thoát ách nô lệ Ai Cập, kết ước với họ, để họ được làm dân của Ngài. Đồng thời, còn ban cho họ Đất Hứa làm gia nghiệp.
2. Chọn lựa của cha ông chúng ta:
“Trung thành với Thiên Chúa” cũng chính là chọn lựa, mà cha ông chúng ta ngay từ những ngày đầu đón nhận Tin mừng đã quyết định. Một cuộc chọn lựa nhìn bên ngoài có vẻ đơn giản: đó là bước qua thập giá hay không bước qua. Bước qua thì có ngay tiền bạc, vinh hoa phú quý, còn như không bước qua thì có thể lập tức lãnh lấy cái chết. Đứng trước thập giá, đã có người bước qua, nhưng cũng đã có nhiều người không bước qua, không quá khoá. Đã có người được khiêng qua thánh giá, nhưng đã co chân lên như thánh Antôn Nguyễn Đích. Đã có người bước qua thánh giá, nhưng sau lại hối hận: đó là trường hợp của ba vị thánh Augustin Phan Viết Huy, Nicôla Bùi Đức Thể, và Đaminh Đinh Đạt. Vua quan đã bày ra trước mặt các ông mười nén vàng, một tượng Chịu Nạn và một thanh gươm rồi nói: “Cho bay tự ý chọn, bước qua tượng thì được vàng, bằng không thì gươm sẽ chặt đôi người bay ra, xác sẽ bị bỏ trôi ngoài biển.”
Đúng đây là một chọn lựa nghiêm chỉnh, chọn lựa này đụng đến tương lai và sinh mạng của chính mình. Chọn lựa này bày tỏ thái độ của bản thân tôi đối với Đức Giêsu. Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được”. Còn Thánh Têphanô Ven, một linh mục trẻ, chỉ mới 31 tuổi, thuộc Hội Thừa Sai Paris đã bày tỏ chọn lựa của mình một cách thật dứt khoát, khi trả lời cho viên quan bảo ngài bước qua Thánh giá: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”. Một chọn lựa có thể nói là đầy bấp bênh theo cái nhìn tự nhiên của con người. Chính vì bấp bênh như thế mà những chọn lựa này trở nên có giá trị, vì nó đúng là một chọn lựa của lòng tin.
Vâng, mỗi người chúng ta chỉ nhờ có lòng tin chứ không phải nhờ bất cứ điều gì khác, mới có thể giúp mỗi người chúng ta lãnh nhận ơn cứu độ. Ý thức điều đó, thánh Phaolô mời gọi tín hữu thành Côlôsê và cũng là lời nhắc nhở từng người chúng ta: “Anh em chỉ cần giữ vững đức tin, cần được xây dựng vững chắc kiên quyết, và đừng vì nao núng mà lìa bỏ niềm hy vọng anh em đã nhận được khi nghe loan báo Tin mừng”. Đức tin này mỗi người chúng ta đã được lãnh nhận khi chịu phép Rửa, nhưng như thế thì chưa đủ. Đức tin đó còn phải được minh chứng bằng chính cuộc sống hàng ngày của mỗi người chúng ta. Nhiều vị tử đạo đã được mời giả vờ bước qua thánh giá, để quan có cớ mà tha, còn đức tin bên trong thì quan không đụng đến. Đây là một cám dỗ khá tinh vi và hấp dẫn, có vẻ như được cả hai, đời này và đời sau. Nhưng liệu tôi có thể bên ngoài chà đạp một Đấng mà bên trong tôi tôn thờ không? Đứng trước thánh giá là đứng trước một chọn lựa dứt khoát, không có giải pháp dung hoà hay lập lờ. Không ai có thể làm tôi hai chủ (x. Mt 6, 24), điều này vẫn đúng cho những chọn lựa mỗi ngày của các Kitô hữu chúng ta qua mọi thời đại.
3. Chọn lựa của chúng ta hôm nay:
Mừng lễ các thánh Tử Đạo tại Việt Nam hôm nay, lời Chúa một lần nữa mời gọi mỗi người chúng ta xét lại chọn lựa của mình. Chọn lựa này không phải chỉ một lần là xong, nhưng cần đựơc lập lại mỗi ngày. Tôi đang chọn Chúa hay tôi chọn tôi? Và nếu tôi chọn Chúa, tôi đã làm gì để chứng minh cho lựa chọn của mình? Chọn lựa của chúng ta hôm nay, có thể không đòi chúng ta phải đổ máu để làm chứng cho Chúa, nhưng tôi thiết nghĩ, cũng không kém phần gian khó. Đứng trước những bất công, tôi có dám bênh vực, hay tôi sợ phiền hà rồi im lặng? Trước một trận bóng đá, một bộ phim hay, một giấc ngủ ngon, một lời rủ đi chơi của bạn bè và tiếng mời gọi của Chúa nơi ngôi Thánh đường này, tôi chọn điều gì?
Chớ gì, nhờ lời cầu bầu của các thánh Tử Đạo tại Việt Nam và nhất là sức mạnh của Thánh Thể, quý ông bà anh chị em và tôi đủ sức thực hiện những chọn lựa của mình. Nhờ đó, vào ngày sau hết, tất cả chúng ta sẽ cùng được đoàn tụ với cha ông chúng ta như lời hứa của Đức Giêsu: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”. Amen.




34. Chứng nhân tình yêu – ĐTGM. Ngô quang Kiệt

Thánh lễ hôm nay đỏ một mầu máu. Máu của hơn 100 ngàn anh hùng tử đạo. Máu của 117 vị đã được tôn phong lên hàng hiển thánh. Máu ngập tràn chảy suốt hơn 3 thế kỷ truyền giáo tại Việt nam.
Có điều máu lênh láng nhưng không tanh tưởi bởi không phải là thứ máu oan khốc nơi chiến trường tuôn chảy trong hờn căm oán ghét. Máu đẹp như những cánh hoa vì phát xuất từ tình yêu cao quí. Máu dường như toả hương thơm bởi khơi nguồn từ những trái tim chan chứa yêu thương. Máu không gây ghê tởm nhưng gợi lòng kính trọng. Máu không tạo oán thù nhưng vực dậy yêu thương. Đó là những dòng máu làm chứng cho tình yêu.
Tình yêu Thiên Chúa.
Các thánh tử đạo Việt nam có lòng tin mạnh mẽ. Lòng tin của các ngài không biểu lộ trong những hành vi cuồng tín, nhưng diễn tả trong thái độ chan chứa yêu thương. Đã nhận biết Chúa, các ngài yêu mến Chúa tha thiết. Đã cảm nhận được tình yêu của Chúa các ngài mong muốn được đáp đền tình yêu đó.
Tình yêu của các ngài là tình yêu hi sinh. Nên các ngài đã từ bỏ tất cả: cuộc sống yên ổn, danh vọng tiền tài, kể cả mạng sống vì Chúa. Thánh Hồ đình Hy sẵn sàng chịu mất chức trong triều đình. Thánh Tôma Thiện vui lòng dâng hiến tuổi xuân xanh với những lời hứa hẹn chức quyền của vua quan. Thánh nữ Anê Lê thị Thành mạnh dạn từ bỏ gia đình êm ấm với những người con ngoan ngoãn dễ thương. Tất cả vì tình yêu Chúa.
Tình yêu của các ngài là tình yêu chung thuỷ. Các ngài yêu mến Chúa khi bình an, các ngài càng yêu mến Chúa trong những gian nan thử thách. Các ngài đã thực hiện lời thánh Phao lô: Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta (Rm 8:35-39).
Tình yêu của các ngài là tình yêu cao quí. Đáp lại tình yêu của Đức Giêsu Kitô đã hiến thân vì các ngài, các ngài cũng hiến dâng mạng sống để minh chứng tình yêu với Chúa. Đúng như lời Chúa nói: Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15:13).
Tình yêu cuộc sống.
Các ngài là những người yêu mến cuộc sống. Không phải một cuộc sống tầm thường nhưng là cuộc sống với tất cả những chiều kích cao đẹp của nó. Cuộc sống với những giá trị thiêng liêng như lý tưởng, như tình yêu, lòng trung tín. Một cuộc sống không nô lệ cho vật chất. Một cuộc sống trung thực không giả dối. Một cuộc sống không bị đóng khung trong thế giới hữu hạn mau tàn nhưng mở ra đến vĩnh cửu. Một cuộc sống không hạ con người xuống nhưng nâng con người lên ngang với các thần thánh. Thật sự yêu mến cuộc sống nên các ngài sẵn sàng hi sinh tính mạng để làm chứng, để bảo vệ và xây dựng.
Tình yêu nhân loại.
Cái chết của các ngài minh chứng một tình yêu vô biên đối với nhân loại. Các ngài không chỉ yêu mến Chúa mà còn yêu mến gia đình. Hãy nhìn cảnh thánh Lê văn Phụng hoặc thánh nữ Lê thị Thành an ủi con cháu trước khi ra pháp trường. Tình yêu thương của các ngài lan cả tới lính gác, cai tù và lý hình. Thánh Lê văn Phụng chữa bệnh cho người cai tù của mình. Tất cả các thánh vui vẻ ra đi chịu chết. Không có ai tỏ lòng oán hận. Và nhất là không có vị nào thù ghét các lý hình.
Tình yêu của các ngài phát xuất từ tình yêu Chúa nên rộng rãi toả lan tới mọi người, mọi nơi các ngài sinh sống. Tình yêu ấy là tình yêu nguyên tuyền nên không biết đến sự thù ghét, nên sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm hại mình. Tình yêu ấy như bông hoa vẫn toả hương trong tay kẻ vò nát nó. Tình yêu ấy giống như loài gỗ quí vẫn phả hương thơm cả đến chiếc rìu bổ vào nó (Fulton Sheen).
Động lực hướng dẫn cuộc đời các ngài là tình yêu. Cái chết của các ngài làm chứng cho tình yêu. Đó chính là điều mà ta có thể bắt chước các ngài. Trong hoàn cảnh hiện nay, ta không có hi vọng được phúc tử đạo, nhưng ta vẫn có thể noi gương các thánh Việt nam làm chứng cho đạo Chúa. Nếu ta không được chết cho tình yêu, ta vẫn có thể sống cho tình yêu. Có lẽ ngày nay Chúa cũng không mong ta chết vì đạo mà mong ta hãy sống vì đạo.
Lạy các thánh tử đạo Việt nam, xin chúc lành cho quê hương và Giáo hội Việt nam. Amen




35. Sống vì đạo - ĐTGM. Ngô quang Kiệt

Chúng ta đang sống trong một xã hội văn minh vật chất. Khuynh hướng tìm chiếm hữu, hưởng thụ, an nhàn là rất mạnh. Thế mà Lời Chúa hôm nay kêu gọi ta phải từ bỏ mình, phải vác thập giá, phải hy sinh mạng sống. Phải chăng Chúa muốn ta tàn lụi đi? Hay Chúa muốn ta trở nên dại dột? Thưa không phải như thế. Chúa khuyên bảo ta hãy biết từ bỏ mình vì lợi ích của ta.
Chúa chỉ đường cho ta đến những giá trị cao quý hơn. Trong đời sống, cơm áo gạo tiền là cần là quý. Nhưng còn những thứ cao quý hơn. Ví dụ như danh dự, tình yêu, lòng chung thủy. Mạng sống là quý. Nhưng có những giá trị còn cao quý hơn. Ví dụ như đức tin, tổ quốc. Thân xác là quý. Nhưng linh hồn còn cao quý hơn. Vì thế, khi không thể chọn cả hai, ta phải biết chọn những giá trị cao quý hơn.
Chúa chỉ đường cho ta đến những giá trị bền vững hơn. Vật chất là quý. Nhưng giá trị của nó không lâu bền. Chết rồi ta chẳng mang theo được vật chất theo mình. Những giá trị tinh thần bền vững hơn. Dù chết rồi vẫn còn tồn tại. Tục ngữ có câu: “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”. Cuộc sống đời này là quý. Nhưng cuộc sống đời này không kéo dài lâu. Cuộc sống đời sau mới trường tồn vĩnh cửu. Khi không thể chọn lựa mọi giá trị, ta phải biết lựa chọn những giá trị có tính cách vĩnh cửu.
Chúa chỉ cho ta đường đến với Thiên Chúa. Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự thiện hảo. Chọn Chúa mới là chọn những gì tốt đẹp nhất. Chúa là giá trị cao quý nhất. Chúa là giá trị vĩnh cửu nhất. Chúa là hạnh phúc hoàn hảo nhất. Hạnh phúc ở nơi Chúa làm ta no thỏa. Hạnh phúc ở nơi Chúa không bao giờ tàn lụi. Hạnh phúc ở nơi Chúa cho ta đạt được mọi ước mơ của con người.
Chúa chỉ cho ta con đường đi theo Chúa. Khi dậy dỗ ta, Chúa Giêsu không nói suông. Chính Người đã thực hành. Người đã từ bỏ mình, vác thánh giá. Người đã liều mạng sống, chịu chết vì chúng ta. người đã từ bỏ tất cả những giá trị trần gian để vâng theo thánh ý Đức Chúa Cha. Cuối cùng Người lại được tất cả. Chết rồi được Phục Sinh. Tự hủy mình ra không lại được trở thành Vua vũ trụ. Người đã từ bỏ tất cả, nay Đức Chúa Cha lại ban cho Người tất cả, khi đặt mọi sự dưới chân Người.
Yêu mến Chúa là vâng theo Lời Chúa, các thánh Tử đạo Việt Nam đã đi theo con đường của Chúa. Để bảo vệ đức tin, các ngài đã chịu mất tất cả cuộc sống an vui, mất danh vọng chức quyền, mất nhà cửa của cải. Vì hiểu rằng đức tin là gia tài cao quý nhất. Hướng về sự sống đời sau, các ngài đã sẵn sàng chịu giam cầm, chịu nhục nhà, chịu hành hạ đau đờn. Vì biết rằng những đau khổ đời này rồi sẽ qua đi, hạnh phúc đời sau mới vĩnh cửu. Để trung thành với Chúa, các ngài sẵn sàng chịu mất mạng sống. Vì biết rằng Chúa sẽ ban lại sự sống mới, sự sống vĩnh cửu cho các ngài. Các ngài thật can đảm. Vì khi chọn lựa từ bỏ như thế, phải chịu nhiều đau đớn, khổ nhục. Đó là chọn lựa tuyệt đối quyết liệt, dám liều mất cả mạng sống cho sự lựa chọn của mình. Các ngài thật khôn ngoan. Đã biết từ bỏ cái tầm thường để lựa chọn điều cao quý. Đã biết từ bỏ cái tạm bợ để lựa chọn điều vĩnh cửu. Đã biết từ bỏ những giá trị tương đối để lựa chọn Chúa là giá trị tuyệt đối.
Cuộc sống hôm nay cũng đặt chúng ta trước nhiều lựa chọn. Để sống đúng lương tâm công giáo, ta phải chối từ những mối lợi bất chính. Để chu toàn luật Chúa, ta phải từ chối những hưởng thụ ngọt ngào. Để thực hành luật yêu thương tha thứ, ta phải cắn răng chịu nhịn nhục. Để chọn Chúa, ta phải vác thánh giá. Những lựa chọn đó nhiều khi khiến lòng ta đau đớn như bị vết thương. Vết thương rỉ máu âm ỉ suốt cuộc đời. Những lựa chọn đó nhiều khi khiến ta rơi lệ. Những dòng lệ đau đớn xót xa. Đó thực là những cuộc tử đạo. Cuộc tử đạo không thấy máu. Vì máu chỉ rỉ trong tâm hồn. Cuộc tử đạo không thấy lệ. Vì lệ đã nuốt ngược vào trong. Máu ri rỉ đau đớn nhức nhối lắm. Lệ nuốt vào cay đắng lắm. Để lựa chọn như thế phải có ơn khôn ngoan của Chúa. Để lựa chọn như thế cần phải có ơn sức mạnh của Chúa. Nhưng có lựa chọn như thế ta mới xứng đáng là môn đệ Chúa và xứng đáng là con cháu các thánh anh hùng tử đạo. Chính những lựa chọn đó đem lại cho ta sự sống đích thực.
Chính những lựa chọn đó đưa ta đến hạnh phúc vĩnh cửu.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Tại sao Chúa bảo ta phải từ bỏ mình? Chúa muốn ta tàn lụi hay phát triển?
2- Các thánh tử đạo đã theo Chúa cho đến cùng. Ta có thực sự theo Chúa Giêsu, Đấng chịu khổ hình, vác thánh giá và chịu chết không?
3- Thời nay không còn cấm đạo, không còn giết người có đạo, bạn nghĩ rằng thời nay sống đạo dễ hơn xưa không?



36. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

SỐNG CHỨNG NHÂN TIN MỪNG
Hôm nay Giáo hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam vì 3 lý do:
- Hân hoan và hãnh diện vì các thánh là người Việt Nam, không gì vui mừng và hãnh diện, tự hào hơn, khi đất nước ta có những vị thánh góp mặt với Giáo Hội toàn cầu.
- Hân hoan và hãnh diện vì số lượng đông đảo các Thánh Việt Nam. Với 117 vị Thánh. Giáo Hội Việt Nam được xếp nhất nhì trong Giáo Hội hoàn vũ về số lượng các Thánh.
- Hân hoan và hãnh diện vì các Ngài là những chứng nhân anh hùng quả cảm.
Đọc lại tiểu sử các Ngài ta không khỏi cảm phục đức tin kiên cường của các Ngài. Vì trung thành với Chúa, các Ngài đã cam chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng và nhất là phải chịu muôn ngàn khổ hình, chịu mất mạng sống vì đức tin.
Có những vị như thánh Hồ đình Hy, làm quan lớn trong triều đình. Quan Án Phạm trọng Khảm, là những vị có chức có quyền trong xã hội đã thà mất chức quyền, mất danh vọng hơn mất đức tin. Vì Chúa, các Ngài không những đã sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi trong xã hội mà còn sẵn sàng chịu mất mạng sống.
Có những vị như thánh Lê thị Thành, thân phận phụ nữ yếu ớt, gánh nặng gia đình, nhưng cũng đã sẵn sàng chịu mọi cực hình để minh chứng tình yêu đối với Đức Giêsu Kitô.
Có những vị đầu xanh tuổi trẻ như Tôma Thiện, Phaolô Bột, mười mấy tuổi đầu, tương lai còn dài, đường đời còn nhiều hứa hẹn. Nhưng các Ngài đã cương quyết khước từ tất cả, dâng hiến tuổi thanh xuân cho đức tin chân chính.
Là người Công Giáo Việt Nam. Chắc chắn mỗi khi đọc lại tiểu sử các Ngài, ta cảm thấy một dòng máu hào hùng trào dâng trong huyết quản. Bị cuốn hút bởi cuộc sống và cái chết cao đẹp, anh dũng của các Ngài, có lẽ ta cũng có đôi lần ao ước được như các Ngài: Sống cao đẹp, chết anh dũng.
Làm sao ta có thể có được cái chết cao đẹp như các Ngài. Ngày nay đâu còn cảnh cấm đạo, bắt đạo, giết người có đạo như thời vua quan ngày xưa. Ngày nay ta không còn hy vọng chết vì đạo. Ta chỉ còn một cách bắt chước, noi gương các vị tiền nhân anh hùng, đó là sống vì đạo.
Ngày nay, ta ít gặp những khốn khó như bị bắt bớ giam cầm, giết chết vì đạo. Nhưng để sống đạo trong xã hội hôm nay, ta gặp không ít khó khăn. Xin kể ra 2 khó khăn tiêu biểu.
Khó khăn thứ nhất đó là chủ nghĩa cá nhân ngày càng phát triển. Ai cũng muốn thăng tiến bản thân và gia đình của mình. Ai cũng lo làm ăn. Học hành, xây dựng cho bản thân. Cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Những nhu cầu của bản thân ngày càng nhiều. Rõ ràng là ngày nay người ta kiếm được nhiều tiền hơn trước, có nhiều tiện nghi hơn trước, xe cộ tốt hơn, nhà cửa đẹp hơn. Nhưng chưa bao giờ người ta thấy thỏa mãn, đầy đủ. Vì thế càng ngày người ta càng đóng kín vào bản thân, không có thời giờ nghĩ đến người khác. Trong khi đó những người nghèo thì càng nghèo hơn, những người yếu càng mệt hơn, những người bệnh càng khổ hơn. Họ không đủ sức chạy theo cuộc tranh đua quyết liệt của chủ nghĩa cá nhân. Họ bị đẩy lùi ra phía sau. Họ bị gạt ra ngoài lề xã hội. Để lựa chọn sống theo Phúc Âm, để trung thành với Lời Chúa dạy, ta phải bỏ quên một phần thân mình, gia đình mình để nghĩ đến, giúp đỡ, vực dậy những anh em kém may mắn. Đó là điều không dễ.
Khó khăn thứ hai là kinh tế thị trường ngày càng phát triển. Đồng tiền đang trở thành một thước đo gía trị con người. Đồng tiền đang trở thành một quyền lực chi phối toàn bộ đời sống con người. Ai cũng muốn có nhiều tiền, và để có nhiều tiền, nhiều người đã không từ chối một phương cách nào: lường gạt, lừa đảo, làm hàng gỉa, buôn thuốc phiện, tham nhũng, hối lộ. Tiền bạc qủa là một cơn cám dỗ đang làm chao đảo thế giới, tàn phá những gía trị, biến chất con người.
Đứng trước nhu cầu và ham mê tiền bạc, người Công Giáo muốn trung thành với Phúc Âm, muốn sống trọn vẹn đức tin, bắt buộc phải có sự lựa chọn. Thà cam chịu nghèo khổ còn hơn nhận những đồng tiền phi nhân bất nghĩa. Thà cam chịu thiếu thốn còn hơn đánh mất đức tin. Thà lao động cực khổ để kiếm miếng cơm manh áo chân chính hơn là chạy theo những đồng tiền dễ dãi để chối từ Phúc Âm và luật Chúa.
Qủa thực xã hội mới, đang tạo ra những cơn bắt bớ mới. Để trung thành với Chúa, với Phúc Âm ta cũng phải lực chọn quyết liệt. Những chọn lựa đó làm cho chúng ta đau đớn không kém gì những khổ hình. Những hy sinh vì Phúc Âm đó cũng khiến lòng ta rỉ máu không kém gì chịu tử hình. Các Thánh tử đạo chỉ chọn lựa một lần. Còn chúng ta chết mòn mỏi mỗi ngày trong những chiến đấu, những từ bỏ đớn đau. Sống Phúa Âm trong thời đại mới đúng là một cuộc tử đạo liên tục.
Sống vì đạo như thế cũng cao đẹp và anh hùng không kém gì chết vì đạo. Sống vì đạo như thế, ta cũng góp phần làm chứng nhân cho Chúa, cho Phúc Âm không kém gì chết vì đạo.
Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xưa các Ngài đã anh dũng hy sinh cuộc đời, dâng hiến máu đào làm chứng cho Phúc Âm. Xin giúp chúng con hôm nay cũng biết can đảm, hy sinh sống theo Phúc Âm để làm chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.



37. Để làm chứng cho vua quan

(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Các vị tử đạo Việt Nam đều có kinh nghiệm sống từng lời của đoạn Tin Mừng hôm nay: bị nộp, bị đánh đập, bị điệu ra trước vua quan, bị tra hỏi, bị thù ghét và cuối cùng là bị giết. Tất cả những gì các ngài phải chịu đều vì Đức Giêsu (c.18), vì Danh Đức Giêsu (c.22).
Các ngài cũng có kinh nghiệm về sự hiện diện của Thiên Chúa. Bầu khí của toà án là bầu khí của Thiên Chúa Ba Ngôi. "Chính Thần Khí của Chúa Cha sẽ lên tiếng trong anh em" để tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu (c.19-20)
Cái chết của vị tử đạo cho thấy sức mạnh của Thiên Chúa được thi thố nơi một con người mỏng dòn yếu đuối.
Chết vì Đạo là một cách làm chứng.
Làm chứng cho một niềm tin kiên vững: Vì tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, nên các ngài không bước qua thánh giá.
Làm chứng cho một tình yêu nỏng bỏng: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng vì bạn hữu" (Ga 15,13)
Làm chứng cho một niềm hy vọng mãnh liệt: có sự sống đời sau, có hạnh phúc vĩnh cửu, cái chết đưa tôi giáp mặt với Đấng tôi yêu.
Các vị tử đạo đã làm chứng bằng cái chết.
Chúng ta được mời gọi làm chứng bằng cuộc sống.
Làm chứng nào cũng đòi phải hy sinh, mất mát, thiệt thòi, vì đòi ta lội ngược dòng với thế gian sa đọa.
Các vị tử đạo thường bị đặt trước thánh giá. Bước qua là được tiếp tục sống sung sướng an nhàn. Không bước qua là phải chịu tù đày, đòn vọt, mất tất cả và mất chính mạng sống. Chỉ cần một bước chân, là mọi sự thay đổi.
Đã có người bước qua, và cũng có người không.
Có người bị khiêng qua thánh giá, nhưng đã co chân lên, như thánh Antôn Nguyễn Đích. Có người bước qua, nhưng sau lại hối hận. Đó là trường hợp của ba vị thánh quân nhân: Âutinh Huy, Nicôla Thể và Đaminh Đạt. Có người được mời giả vờ bước qua thánh giá để quan có cớ mà tha, như thánh Micae Hồ Đình Hy, nhưng họ đã thắng được cơn cám dỗ tinh vi ấy.
Đứng trước thánh giá là đứng trước một lựa chọn. Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi? Không có giải pháp dung hoà hay lấp lửng.
Giây phút đứng trước thánh giá là giây phút quan trọng.
Quyết định không bước qua thánh giá là kết tinh của những đêm dài cầu nguyện, của việc chiến thắng những mời mọc khéo léo, của việc thắng vượt những sợ hãi, giằng co nội tâm, của những Vườn Dầu trong ngục thất...
Thời nào chúng ta cũng được đặt trước thánh giá, dấu hiệu của sự từ bỏ để phục vụ. Lúc nào chúng ta cũng có nguy cơ bước qua thánh giá, bằng đời sống hưởng thụ và ích kỷ của mình.
Gợi Ý Chia Sẻ
Làm chứng bằng cuộc sống. Theo ý bạn, người Công Giáo Việt Nam phải sống thế nào để làm chứng về Đức Giêsu cho những đồng bào chưa biết Chúa?
Bị cám dỗ bước qua thánh giá, có khi nào bạn có kinh nghiệm đó trong đời thường không?
Cầu Nguyện
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam,
các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.
Sự hy sinh của các ngài cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt.
Dù mang phận người yếu đuối, nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng, các ngài đã chiến thắng khải hoàn.
Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài biết can trường sống đức tin của bậc cha anh trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa, biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu bằng một đời hiến thân phục vụ.
Ước gì ngọn lửa đức tin mà các ngài đã thắp lên bằng cuộc sống và cái chết, được bừng tỏa trên Tổ Quốc Việt Nam.
Ước gì máu thắm của các ngài thấm vào mảnh đất quê hương để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.




38. Các thánh Tử Đạo Việt Nam

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia)
"Tôi thấy một số đông người không thể đếm được thuộc đủ mọi dân tộc, mọi quốc gia và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước tòa Thiên Chúa và trước Chiên Con, mình mặc áo trắng và trên tay cầm cành lá chiến thắng".
Đó là lời thánh Gioan diễn tả cảm tưởng đoàn người chiến thắng đứng trước Ngai Thiên Chúa trên Trời mà thánh nhân được Chúa cho thị kiến. Tiếp theo thánh Gioan viết trong sách Khải Huyền như sau:
"Những người mặc áo trắng ấy là ai và họ từ đâu tới? Chính vị trưởng lão cho biết, đó là những người đã qua cơn đại họa, đã giặt áo họ trong Máu Chiên Con và nay trở về. Vì thế họ được hân hạnh đứng trước tòa Thiên Chúa và phụng thờ Ngài ngày đêm trong Đền Thờ. Đấng ngự trên tòa sẽ chở che và phù trợ họ, họ sẽ không còn phải khát nữa, không còn bị mặt trời và nóng bức làm khổ nữa. Vì Chiên Con đứng ở giữa tòa sẽ chăn dắt họ, sẽ đưa họ đến suối nước thiêng liêng và Thiên Chúa sẽ lau khô nước mắt họ".
Qua ngày lễ Kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam được toàn thể anh chị em Công Giáo khắp Năm Châu mừng hôm nay, Giáo Hội muốn khẳng định cho chúng ta và toàn thể Giáo Hội hoàn vũ. Trong số đoàn người đông đảo đứng trước Ngai Thiên Chúa có cả những người thuộc dân tộc Việt Nam, có cả con cháu dòng giống lạc hồng, các ngài đã trải qua những cơn thử thách gian truân, lấy mạng sống của mình để minh chứng cho niềm tin và nay được trở về với Thiên Chúa.
Các vị tử đạo Việt Nam là ai? Các ngài là những nhà truyền giáo đến từ các nước, là các giám mục, các linh mục người Pháp, Tây Ban Nha, nhưng đa số là những người Việt Nam gồm ba mươi bảy linh mục, mười sáu thầy giảng, một chủng sinh và đặc biệt là rất nhiều giáo dân. Số đông đảo giáo dân Việt Nam đã đổ máu đào minh chứng cho niềm tin là điểm son thứ nhất tôi muốn nêu bật trong bài chia sẻ hôm nay.
Điểm son thứ hai tôi muốn lưu ý với anh chị em hôm nay, các thánh Tử Đạo là những công dân hiền hòa, sống đời gương mẫu, nêu gương lý tưởng trung kiên với Thượng Đế, không phò vua bách hại, nhưng một lòng tùng phục quốc gia. Họ bị bắt bớ, tra tấn, ngục tù nhưng không một người nào có ý định cầm khí giới để phòng thân. Trái lại, họ chỉ cam chịu, chỉ cầu nguyện cho tất cả mọi người, cầu cho quốc thái dân an, cầu cho các quan đã ký sắc lệnh tử hình và thật lòng tha thứ cho những kẻ hành quyết mình. Cử chỉ này không phải là hèn nhát, nhưng xứng đáng đối với những bậc thượng nhân như câu: "Đấng thượng phu đừng thù mới đáng. Đấng anh hùng đừng hoảng mới hay".
Cuối cùng điểm son thứ ba tôi muốn nêu bật, là những thành tích vẻ vang để chứng tỏ niềm tin sắt đá các thánh Tử Đạo Việt Nam đã ghi vào những trang sử của Giáo Hội, là lòng tôn kính của các ngài đối với thập giá. Đối với các thánh Tử Đạo Việt Nam, chết tang thương, chết treo trên thập tự để minh chứng tình yêu tột đỉnh của mình đối với Thiên Chúa và đối với nhân loại, vì thế không một khổ hình nào có thể di chuyển đôi chân của các ngài tự ý bước qua thập giá. Không bước qua thập giá để không chối bỏ đạo dù phải đòn vọt, tra tấn, dù phải chịu tử hình, các vị Tử Đạo Việt Nam đã nêu gương yêu mến thập giá để đáp lại tình yêu của Đấng đã chết treo trên ấy bằng chính mạng sống của các ngài.
Cùng với anh chị em công giáo khắp năm châu Mừng Kính Lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta phải một lần nữa ý thức rằng, cuộc sống và cái chết của các ngài có thể nói được là những dòng chữ đầu trong các trang sử của Giáo Hội Việt Nam mà mỗi người chúng ta được kêu mời và thách đố. Hãy noi gương các vị tiền nhân anh dũng để chúng ta cùng nhau viết lên thành tích của lòng trung thành và can đảm sống đạo, sống cuộc sống chứng nhân cho tình yêu qua những hành động cụ thể, để tha thứ, hòa giải và chung tay xây dựng đất nước cũng như chứng nhân cho ý nghĩa thập giá qua nếp sống hằng ngày của mình, mỗi người trong địa vị, mỗi người trong môi trường sống của mình.
Nguyện xin các thánh Tử Đạo Việt Nam cầu bầu cho quê hương đất nước được quốc thái dân an, xin cầu bầu cho Giáo Hội Việt Nam được luôn trung thành với niềm tin, đức cậy và lòng mến trung thành. Amen.