Lời Chúa cnmc 2c _ các bài suy niệm

SUY NIỆM LỜI CHÚA CN 2 MÙA CHAY C
St 15,5-12.17-18; Pl 3,17–4,1; Lc 9,28b-36

MỤC LỤC

31. Mau biến đổi  Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
32. Đức Giêsu biến hình  Lm Giuse Đinh lập Liễm
33. Thiên Chúa vẫn còn hiển dung  Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
34. Vượt qua những thử thách  Radio Veritas Asia



Mùa Chay không phải chỉ là thời gian sám hối ăn năn mà còn là thời gian nhận biết bản tính và vận mạng đích thực của chúng ta ở bên kia những sự vật hữu hình, đó chính là ý nghĩa của việc Chúa biến hình hôm nay.
Thực vậy, Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ lên núi, trong lúc Ngài biến hình thì các ông có lẽ đang ngủ và câu chuyện hình như xảy ra vào ban đêm. Đêm thường là biểu tượng của sự tối tăm khiến chúng ta không còn nhận ra cách trực tiếp những thực tại siêu nhiên.
Rồi Ngài nói chuyện với Maisen và Elia. Sự hiện diện của hai vị này cũng như câu chuyện trao đổi liên kết một cách mầu nhiệm trong thân phận con người và vinh quang của cuộc đời mai hậu. Điều này chứng tỏ rằng giữa những đau khổ ở đời này, con người sẽ được sống lại và được hưởng vinh quang của Thiên Chúa.
Sau đó tầng trời mở ra và có tiếng nói: Này là con Ta. Cảnh tượng giống như lúc Ngài chịu phép rửa bên bờ sông Giođan. Vì thế, Chúa Giêsu chịu phép rửa cũng là Chúa Giêsu biến hình. Ngài là người đầy tớ thực hiện ý định của Chúa Cha, cho nên chúng ta phải tin tưởng, lắng nghe và thực thi những điều Ngài truyền dạy.
Sự kiện biến hình trên đây cho chúng ta thấy được ý nghĩa đích thực của con người là phải qua đau khổ và sự chết để được thông phần vinh quang của Thiên Chúa. Đồng thời nó còn là bảo chứng thần linh của con người và sứ mạng của Đức Kitô, thắp lên cho mỗi người chúng ta niềm hy vọng, bởi vì sự kiện trên cho chúng ta thấy được ý nghĩa của mầu nhiệm sự chết và sống lại, cả hai liên kết mật thiết với nhau, vì trong sự chết, chúng ta sẽ tiến tới quê trời, cái chết chính là khung cửa hẹp dẫn chúng ta vào quê hương vĩnh cửu.
Lúc bấy giờ thân xác khổ đau của chúng ta sẽ được mặc lấy vinh quang của Thiên Chúa, như một con sâu cắn chiếc kén để trở thành một cánh bướm xinh đẹp. Sự thay đổi này được thực hiện nhờ vào tâm tình sám hối. Với tâm tình sám hối, thân xác tội lỗi này sẽ được chế ngự và đổi mới bởi đời sống trong ơn sủng và tình thương của Chúa.
Vì vậy, sống sự biến hình là một đòi hỏi hằng ngày của người Kitô hữu. Nói cách khác, từng ngày sống, người Kitô hữu chúng ta không ngừng lột xác, không ngừng đổi mới để được trở nên giống Đức Kitô hơn. Đây cũng là ý tưởng câu thánh Phaolô, ngài nói: Đức Kitô sẽ biến đổi thân xác khốn hèn của chúng ta cho nên đồng hình đồng dạng với thân xác vinh quang của Ngài. Đồng thời ngài rất đau buồn khi nhận thấy có những kẻ sống thù nghịch với thập giá. Hãy góp phần vào sự biến hình của chính thân xác mình bằng cách khử trừ tội lỗi, uốn nắn sửa đổi lại những thói hư tật xấu, để trong ngày sau hết chúng ta sẽ được mặc lấy ánh vinh quang của Thiên Chúa.



Khi Chúa Giêsu tỏ cho các môn đệ biết Ngài phải lên Giê-ru-sa-lem để chịu thương khó và chịu chết, các môn đệ cảm thấy rúng động tâm hồn. Không lẽ cuộc đời của Thầy Giêsu lại kết thúc cách bi đát như thế? Đã bao lần họ mơ tưởng một ngày nào đó được ngồi bên tả bên hữu vua Giêsu trong vương quốc vinh hiển của Ngài, lẽ nào giấc mộng vàng đó lại sớm tan thành mây khói? Nếu Chúa Giêsu mà còn phải chịu số phận oan nghiệt như thế thì số phận các ông rồi sẽ ra như thế nào đây?
Không thể chấp nhận viễn ảnh đen tối ấy, ông Phê-rô kéo riêng Chúa Giêsu ra và lên tiếng trách móc, tìm cách ngăn cản Ngài đừng chấp nhận con đường đau thương ấy (Mc 8, 32).
Để củng cố tinh thần các môn đệ đang sa sút trước tin chẳng lành vừa loan báo, tám ngày sau, Chúa Giêsu đưa ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình lên núi cao để cầu nguyện. "Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà. Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Êlia. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem."
Bấy giờ tinh thần ba môn đệ hết sức phấn chấn "ông Phê-rô thưa với Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a."
Ông còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông... Và từ đám mây có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!"
Thế là nhờ chứng kiến sự vinh hiển của Chúa Giêsu trong giờ phút vinh quang của Ngài ở đây, ít nữa là có môn đệ Gioan đã vững bước theo Chúa Giêsu đến cùng trên đường khổ nạn.
* * *
Cuộc đời người có mặt tối và mặt sáng, có mặt tốt và mặt xấu, có mặt phải và mặt trái, có lúc phấn khởi vui tươi cũng có những lúc ủ dột ưu sầu.
Cuộc đời Chúa Giêsu cũng có mặt sáng mặt tối. Mặt tối là đêm vườn Dầu đau thương ảm đạm, mặt sáng là cuộc biến hình sáng láng trên núi Tabor. Nếu các môn đệ chỉ nhìn thấy mặt đen tối, mặt u ám của đêm vườn Dầu, lúc Chúa Giêsu bộc lộ nhân tính hèn yếu của mình, tỏ ra kinh khiếp hãi hùng trước cuộc khổ nạn sắp tới đến nỗi phải đổ mồ hôi máu và phải van lơn cầu khẩn với Chúa Cha xin cho khỏi uống chén đắng... mà không thấy được mặt sáng của Ngài trên núi Tabor thì các ông sẽ ngã lòng thất vọng. Và biết đâu, các ngài đào tẩu hết, lấy ai làm chứng nhân cho biến cố phục sinh! Lấy ai loan báo Tin Mừng cứu độ?
Vì thế, Chúa Giêsu cho các ông thấy mặt sáng của đời Ngài trước, qua việc tỏ cho các ông thấy dung mạo sáng láng vinh hiển của Ngài, tỏ cho họ thấy Ngài là "Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha, Người được Thiên Chúa Cha tuyển chọn" (câu 35) để động viên tinh thần các ông khỏi sa sút, thất vọng trong đêm vườn Dầu sắp đến.
* * *
Ngôi nhà nào cũng có mặt trước mặt sau. Nếu người ta chỉ nhìn mặt sau của ngôi nhà mà không nhìn mặt tiền của nó, người ta sẽ đánh giá thấp về nó, sẽ thất vọng vì nó.
Tấm huy chương nào cũng có mặt trái mặt phải. Nếu chỉ nhìn mặt trái sần sùi và trơ trọi của tấm huy chương mà không nhìn mặt đẹp của nó, thì chẳng ai thèm nhận huy chương.
Hoa hồng rất đẹp rất kiêu sa nhưng cũng đầy gai. Nếu người ta chỉ chú trọng đến những gai nhọn của hoa hồng mà không để ý đến vẻ đẹp của bông hoa thì thật là đáng tiếc! Nhờ giá trị của những bông hoa hồng đẹp rực rỡ kiêu sa và hương thơm dịu dàng của nó, người ta quên đi những gai nhọn đáng phàn nàn của nó.
Đối với người anh em chung quanh cũng thế. Mỗi người đều có mặt sáng và mặt tối, mặt tốt và mặt xấu, không ai hoàn toàn tốt, chẳng ai hoàn toàn xấu. Nếu chúng ta chỉ nhìn vào mặt đen tối của một con người, mà quên đi mặt sáng của họ, nhìn vào nhược điểm mà quên đi ưu điểm của họ, thì chúng ta sẽ rất thất vọng về người đó. Chúng ta đánh giá người đó chẳng ra gì.
Sự kiện Chúa Giêsu tỏ cho ba môn đệ thân tín thấy mặt sáng láng vinh hiển của Ngài trên núi cao để chuẩn bị tinh thần cho các ông đón nhận mặt đen tối của đời Ngài trong đêm vườn Dầu và đêm khổ nạn, cũng là bài học cho chúng ta trong tương quan với người khác.
Một người dù có bị xem là xấu xa đến đâu chăng nữa cũng có những điểm sáng, những nết tốt tiềm ẩn bên trong. Ước gì chúng ta biết nhìn vào điểm sáng, điểm tốt, nhìn vào ưu điểm của họ để dễ dàng thông cảm với những mặt trái, mặt xấu của họ. Nhờ đó, chúng ta cảm thấy những người quanh ta dễ thương hơn, tương quan của ta với người khác được cải thiện tốt đẹp hơn và đời sống giữa chúng ta với nhau sẽ hạnh phúc hơn.



Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu biến hình trước mắt ba tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê. Cũng chính ba tông đồ này là những người sẽ chứng kiến Đức Giêsu biến hình ở vườn dầu: “Ngài kinh hoảng âu sầu”. Ở vườn dầu, Đức Giêsu sấp mình xuống đất cầu xin cùng Thiên Chúa Cha để nếu có thể cho Ngài khỏi phải uống chén đắng; còn ở đây, Đức Giêsu hiển dung vinh hiển và Thiên Chúa xác chuẩn Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng tuyển chọn Ngài. Ba tông đồ đã được chứng kiến Ngài hiển dung, để có thể chứng kiến Ngài buồn sầu xao xuyến: “linh hồn thầy buồn sầu đến chết được”. Đức Giêsu hiển dung, dấu chỉ cho thấy thân xác con người sẽ được biến đổi trở nên vinh hiển sáng láng, cho dù hiện tại người ta thấy thân xác mong manh mỏng dòn.
Thân xác con người sẽ được biến đổi. Đức Giêsu chết trần trụi trên thập giá và toàn thân Ngài bị biến dạng bởi những vết thương do người ta hành hạ, nhưng khi Ngài phục sinh thì thân xác Ngài trở nên tuyệt vời. Thân xác con người trước phục sinh và sau phục sinh tuy là một nhưng rất khác nhau. Đức Giêsu khi còn tại thế vẫn là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, Đức Giêsu Phục Sinh và Đức Giêsu trước đó vẫn là một tuy dù người ta thấy Ngài rất khác qua biến cố Phục Sinh. Theo niềm tin Kitô hữu, thân xác con người ở dương gian và lúc sống lại vào ngày cánh chung tuy là một nhưng vẫn khác. Theo thánh Phaolô, sống lại là thân xác thần thiêng, khác với thân xác dương thế biến đổi theo thời gian và cái chết (1Co.15, 44)
Con người thật lạ kỳ. Thân xác con người giới hạn và có những nhu cầu rất tự nhiên. Có người sống đời tại thế này chỉ biết lo thỏa mãn những nhu cầu của thân xác, mà quên đi một chiều kích siêu việt của con người. Khi chỉ thỏa mãn những nhu cầu vật chất, con người trở nên ích kỷ nhỏ nhen, không đạt được hạnh phúc thật ở trần gian này. Nếu người giầu chỉ biết lo tìm tiền bạc mà không chú trọng đến những nhu cầu tinh thần của mình và của những người thân của mình, thì họ không thể hạnh phúc thật. Con người có liên đới với người thân, với gia đình cha mẹ anh chị em họ hàng, và đặc biệt với con cái. Nếu không lo cho con cái triển nở, nếu không biết giáo dục con cái, con người sẽ không thể hạnh phúc được cho dù họ có tiền bạc dư giả, cho dù họ có địa vị chức quyền.
Phaolô đã có một thời bắt bớ những người tin vào Đức Giêsu Kitô, nhưng bây giờ ông đã miệt mài rao giảng Đức Giêsu Phục Sinh. Chính niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh đã làm Phaolô bình an hạnh phúc hơn. Phaolô đã tìm ra con đường hạnh phúc thật. Bây giờ, niềm vui niềm tự hào của ông là Thiên Chúa và những người thuộc về Ngài. Tuy rằng con người có thể thay đổi lòng dạ nhưng vì tin vào Thiên Chúa nên Phaolô vẫn an lòng. Trừ phi Thiên Chúa thất bại, còn không Phaolô luôn chiến thắng, vì Phaolô chọn những gì Thiên Chúa chọn. Cho dù ngay cả những lúc Phaolô cảm thấy rơi lệ khi thấy những con cái ngài đã thay lòng đổi dạ, đã chọn thực tại trần gian trên hết: “Chúa của họ là cái bụng”, thì Phaolô vẫn hy vọng họ sẽ trở lại với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Đấng trung tín. Thiên Chúa vẫn kiên trì đến với con người, và sẽ làm con người trở lại với Ngài.
Qua những chọn lựa của mình trước những thực tại trần gian mà con người hình thành chính mình. Phaolô đã là một con người khác qua biến cố té ngựa trên đường đi Damas. Phaolô đã hình thành chính mình trong suốt đời ngài. Mỗi người trong chọn lựa sống của mình, làm mình trở thành người tuyệt vời hay chỉ giống con vật, trở nên con cái Thiên Chúa hay trở nên con cái ma quỷ. Qua hành vi yêu thương mà con người ra khác và trở thành tuyệt vời hơn. Con người không chỉ chờ đến ngày Phục Sinh mới được biến đổi, nhưng mỗi người cũng đã đang biến đổi ngang qua chọn lựa sống từng ngày.
Con người vui mừng, vì Thiên Chúa đã yêu thương và cứu độ con người qua Đức Giêsu. Thiên Chúa đã và đang làm tất cả qua Đức Giêsu Kitô. Ngày xưa Thiên Chúa ký kết giao ước với Abraham, ngày nay giao ước mới đã được ký kết với con người bằng máu Đức Giêsu Kitô. Máu Đức Giêsu là dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương con người. Làm sao không vui khi biết Thiên Chúa yêu thương mình như yêu chính Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô (Ga.17, 23)?!
Thiên Chúa đã ký kết giao ước với Abraham. Thiên Chúa ký kết giao ước với con người vì con người chứ không phải vì Thiên Chúa. Thiên Chúa không cần giao ước vì Ngài luôn chân thật và thành tín. Thiên Chúa luôn trung thành, không bao giờ Ngài phản bội. Chỉ có con người mới bất trung và hay thay đổi, vì vậy mới cần giao ước. Thiên Chúa đã thề hứa với con người, để con người được biết tình yêu của Ngài đối với con người, để con người có thể sống an bình hạnh phúc vì mình được Chúa Tể hoàn vũ thương yêu.
Thiên Chúa đã đặt nơi Abraham ước vọng có con cháu nối dòng, và chính Thiên Chúa cũng là Đấng hứa ban cho ông con cháu đông như sao trên trời như cát bãi biển. Thiên Chúa cũng là Đấng giao ước với ông, để ông thuộc về Thiên Chúa, để Thiên Chúa lo cho ông. Thiên Chúa vẫn luôn ở với con người, giúp con người đi tìm chính Ngài, làm con người thuộc về Ngài trong suốt quá trình sống. Thiên Chúa là tình yêu, Ngài đang làm con người sống trong tình yêu và thuộc về tình yêu. Chính khi con người sống trong tình yêu và làm tất cả vì tình yêu, thì con người được hạnh phúc, vì lúc đó con người nên giống Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Một năm vừa qua, bạn có hài lòng với chính mình không? Bạn thấy mình khá hơn hay dở hơn? Bạn có biết tại sao không? Xin bạn chia sẻ, nếu được.
2. Bạn có kinh nghiệm về một niềm vui thiêng liêng không? Xin chia sẻ nếu được.
3. Hiện tại bạn có ao ước điều gì cách đặc biệt không? Điều bạn ao ước phản ánh chính con người bạn với những thao thức và giá trị sống, bạn có biết hơn gì về bạn qua ao ước này không? Bạn có sẵn sàng chia sẻ với các bạn khác về điều bạn ao ước không? Nếu được, xin mời bạn.



Không ai sống mà không tin. Tin vào Thiên Chúa giúp người ta sống bình an, vui và hạnh phúc hơn.
Abraham tin vào Thiên Chúa
Thiên Chúa mời gọi Abram bỏ quê cha đất tổ để đi tới nơi Thiên Chúa sẽ chỉ cho, rồi Thiên Chúa sẽ làm cho ông có con cháu nối giòng, có đất để sống. 75 tuổi được gọi và ra đi (St.12, 4) nhưng đến 99 tuổi, Abraham vẫn chưa có con với Sara (St.17, 1.17). Khi Sara chết, ông vẫn không có đất để chôn vợ (St.23, 1-20). Lời hứa có con cháu đông như sao trên trời như cát dưới biển, cũng như lời hứa có đất làm cơ nghiệp vẫn chưa được thực hiện hoàn toàn khi Abraham chết. Dưới cái nhìn của người đời, Abraham là người dại vì đã tin vào Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã thực hiện lời Ngài “quá trễ” đến độ người ta nghĩ rằng Ngài đã quên; tuy vậy Abraham vẫn một lòng tin vào Thiên Chúa, và vì thế ông là người mẫu cho các tín hữu. Thiên Chúa đã hứa, và Abraham đã tin. Tuy dù Abraham sống như những người khác, nhưng ông đã vâng phục Thiên Chúa trong mọi chuyện, kể cả việc sẵn sàng hiến tế Isaac. Chính vì tin vào Thiên Chúa mà ông trở nên công chính (St.15, 6).
Tin là thái độ của con người đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn ở gần bên mỗi người, mời gọi mỗi người bỏ mình để theo Ngài, và Ngài sẵn sàng can thiệp vào cuộc sống mỗi người khi cần. Xin cho chúng ta tin vào Thiên Chúa như Abraham.
Đức Giêsu lắng nghe Thiên Chúa trong cầu nguyện
Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu đem Phêrô, Gioan và Giacôbê theo Ngài lên núi để cầu nguyện, và trong khi cầu nguyện Ngài đã biến hình. Có lẽ nhờ cầu nguyện, mà mỗi người được biến đổi, được trở nên giống Thiên Chúa hơn.
Phêrô rất phấn khởi khi được chứng kiến những điều đang xảy ra. Ông muốn ở lại luôn trên núi, ông sẵn sàng làm lều cho các Ngài. Phêrô nói mà không biết mình nói gì!
Khi Phêrô đang nói thì có đám mây che các Ngài, và có tiếng từ trời: “đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài”. Thiên Chúa muốn con người vâng nghe Đức Giêsu. Thiên Chúa không muốn Con Ngài và những người theo Con Ngài ở hoài trên núi; Ngài muốn họ xuống núi để sống cuộc sống bình thường của họ giữa con người thời đại mình. Giây phút biến hình không biết kéo dài khoảng bao nhiêu phút, nhưng thất bại và thập giá còn hoài trong suốt cuộc sống của Đức Giêsu và các tông đồ, kể cả khi Đức Giêsu đã phục sinh từ cõi chết.
Cầu nguyện để thấy ánh sáng, để có sức sống, và được nghỉ ngơi trong cuộc sống tất bật mỗi ngày.
Tin vào Thiên Chúa được tỏ lộ qua cách sống
Thánh Phaolô sống rất tuyệt, nên Ngài đã dám nói với tín hữu ở thành Philipphê: “anh em hãy bắt chước tôi”. Ngài là người đã được ơn trở lại trên đường đi bắt các Kitô hữu tại Đamas, và kể từ đó Ngài đã hoàn toàn thuộc về Chúa. Ngài đã bôn ba đi rao truyền Lời Chúa, và thiết lập các cộng đoàn. Những bức thư Ngài viết cho các cộng đoàn trở thành “Lời Chúa” cho con người của mọi thời đại. Thuộc về Thiên Chúa trong chính cuộc sống và hành động của thánh Phaolô, là mẫu gương sống cho con người hôm nay.
Thánh Phaolô yêu thương những con cái mà Ngài đã sinh ra trong Chúa. Khi xa Ngài, đã có một số người sống như không có Thiên Chúa. Họ đã lấy những của vật chất làm Chúa của họ,  họ tự hào nơi những điều đáng lẽ phải hổ thẹn. Thánh Phaolô kêu gọi họ hãy sống trong niềm tin vào Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu sẽ biến đổi thân xác chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài. Không kiên vững trong niềm tin vào Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, không thể đứng vững trong cuộc sống hiện tại.
“Hỡi những người anh em chí thân chí thiết của tôi, anh em là triều thiên và niềm vui của tôi, anh em hãy đứng vững trong niềm tin vào Chúa”. Ước gì mỗi người có thể nói với những người mình phục vụ như thánh Phaolô đã nói với những con cái của Ngài.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Theo bạn, điều khó nhất đối với Abraham trong việc vâng phục Thiên Chúa là gì?
2. Theo bạn, đâu là thập giá lớn nhất đối với thánh Phaolô? Tại sao bạn nghĩ vậy?
3. Tin vào Thiên Chúa đòi hỏi điều gì?



Phúc Âm thánh Luca thường được gọi là Phúc Âm cầu nguyện. Tin Mừng nói đến 15 lần việc Chúa đi cầu nguyện thì 11 lần do thánh Luca.
Hôm nay, Chúa đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện và việc Chúa biến hình xảy ra trong giờ cầu nguyện đó. Nhiều khi người ta cũng chứng kiến cảnh một số các thánh mặt rạng rỡ trong khi đăm chiêu đàm đạo với Chúa.
Chúa Giêsu đưa ba môn đệ lên núi Tabor, cao khoảng 600 thước và cho các ông được chứng kiến vinh quang của Ngài, như một ngày kia các ông sẽ là nhân chứng cuộc hấp hối của Ngài trong vườn Cây Dầu. Trong đời của Chúa, đau khổ và vinh quang gắn liền với nhau thì trong cuộc sống của mỗi người chúng ta cũng vậy. Sự đọc kinh cầu nguyện sẽ giúp ta vượt thắng đau khổ lo âu, biến hóa đau khổ thành vinh quang.
Đang khi Chúa cầu nguyện thì “diện mạo Ngài đổi khác thường”, như có ánh sang từ châu than loan tỏa ra, “áo Ngài trắng tinh sáng láng”, và hai bên có Moisê và Êlia xuất hiện. Hai nhà tiên tri đại diện Cựu ước cũng đã từng được chứng kiến vinh quang của Thiên Chúa trên núi Horeb (I Vua 19, 13-21), và Sinai (X.H 20, 2-17).
Ba Đấng đàm đạo về việc gì?
Luca là người duy nhất cho biết: “Về sự chết của Chúa sẽ thực hiện tại Giêrusalem”.
Chúa Giêsu là Con Chiên sẽ gánh hết tội nhân loại. Ngài là vật tế sinh. Ngài biết rằng Ngài đến cũng vì mục đích ấy. Vinh quang núi Taborê không làm quên lãng khổ nạn đồi Calvê. Khuôn mặt sang chói hôm nay, một ngày kia sẽ “không còn hình tượng” (Isaia). Áo chói lọi hôm nay, một ngày kia sẽ bị lột trần phân chia.
Là một người như chúng ta, Chúa cũng có tình cảm, cũng cần được chia sẻ trong những phút ưu phiền cô đơn, Moisê và Êlia đã từng bị bắt bớ có thể mang lại phân nào chút thông cảm và an ủi, trước giờ quyết định quan trọng.
Nhưng, nhất là lời kinh của Chúa đến thẳng Đức Chúa Cha “Đấng hằng tôn vinh Chúa Con” (Gio 8, 54). Bấy giờ từ trong đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Ba lần, có tiếng bởi trời vọng xuống để long trọng tôn vinh Đức Chúa Con; đó là sau khi Ngài chịu phép Rửa, khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng, hôm nay trên núi biến hình và ngày mai khi sắp bước vào tuần tử nạn. Cuộc biến hình là một suy tôn bằng hành động rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa.
Câu kết luận Chúa dành cho chúng ta hôm nay: HÃY NGHE LỜI NGƯỜI. Moisê và Êlia đã biến mất, đạo cũ đã lùi vào dĩ vãng. Mọi chủ thuyết triết học, mọi ý thức hệ vắng bóng một thời rồi cũng sẽ bị lãng quên. “Chỉ còn lại một mình Chúa Giêsu”.
Văn hào André Froissard thuộc Hàn lâm viện Pháp đã được ơn “trở lại” lạ thường. Ông đã thuật lại trong cuốn sách thời danh “Có Thiên Chúa và tôi đã gặp Ngài”. Thân phụ ông, TTK đảng cộng sản Pháp, đã từng tuyên bố: “Nếu có Thiên Chúa thì tôi khuyên ‘ông ấy’ lo rút lui vì không ai thích ông”. Nhưng chính con ông lại được gặp gỡ Chúa và khẳng định: “Khi người ta được may mắn gặp Thiên Chúa thì mọi sự khác chỉ là trò hề. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng không làm cho tôi thất vọng kể từ một buổi sáng năm ấy, 1935” (Phỏng vấn của Paris Match 8-4-1988).
“Lạy Chúa Giêsu là Đức Chúa và là Cứu Chúa của con, trong tay Ngài con được an toàn. Nếu Ngài gìn giữ con, nào con sợ chi.
Nếu Ngài ruồng bỏ con, con không còn gì để hy vọng nữa. Con xin Chúa ban điều tốt nhất cho con.
Và con xin phó thác hoàn toàn cho Chúa” (HY Newman).



(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật thứ hai Mùa Chay, phụng vụ Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm biến cố Biến Hình của Chúa Giêsu, một mầu nhiệm vĩ đại. Lịch sử cho thấy ba Tông Đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê thực sự là là những tấm gương sám hối suốt Mùa Chay dẫn dắt tâm hồn chúng ta tới Đại lễ Phục Sinh, khi chúng ta cử hành cuộc chiến thắng của tinh thần trên thể xác, của ơn cứu chuộc trên tội lỗi.
PHỤNG VỤ LỜI CHÚA NĂM A –
- St 12, 1-4a: Ơn gọi của Abraham
- Tv 33, 4: Lạy Chúa, xin đổ tình thương xuống trên chúng con
- 2 Tim 1, 8-10: Thiên Chúa kêu gọi chúng ta nhận biết Vinh Quang Ngài
- Mt 17, 1-9: Cuộc biến hình của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta
* PHỤNG VỤ LỜI CHÚA NĂM - B
- St 22, 1-2 ; 9a ; 10-13 ; 15-18: Thiên Chúa để Abraham bị thử thách
- Tv 106, 10: Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa
- Rm 8, 31b-34: Ai có thể tách chúng tôi ra khỏi Tình Yêu Đức Kitô.
- Mc 9, 2-10: Cuộc biến hình của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta
* PHỤNG VỤ LỜI CHÚA NĂM – C
- St 15, 5-12 ; 17-18: Giao Ước của Thiên Chúa với Abraham
- Tv 27,1: Chúa là ánh sáng và là Đấng Cứ Độ
- Phil 3, 17-4,1: Đức Kitô sẽ biến đổi chúng ta
- Lc 9, 28-36: Cuộc biến hình của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta
Hôm nay, thánh sử Luca nhắc đến việc Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. Và đang khi cầu nguyện... Bỗng có hai vị đàm đạo với Người, đó là Môsê và Êlia.... Một số câu hỏi được đặt ra chung quanh biến cố Chúa Biến Hình:
1. Tại sao Đức Giêsu Biến Hình ?
2. Tại sao Môi-se và Ê-li lại có mặt lúc Chúa Giêsu Biến Hình?
3. Tại sao không phải là các Tông đồ khác mà lại là Phêrô, Giacôbê và Gioan được Đức Giêsu đưa lên núi ?
Chúng ta biết rằng, Đức Giêsu sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng chừng năm ngàn người ăn no (Lc 9, 14). Với vẻ chưng hửng của các Tông đồ về tương lai tươi sáng, và sự mãn nguyện về vị Thiên sai của dân chúng. Khi thăm dò ý kiến chung, Đức Giêsu đã loan báo cuộc thương khó lần thứ I: “Con người phải chịu nhiều đau khổ, và bị hàng niên trưởng và các thượng tế cùng ký lục phế thải, bị giết đi, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Lc 9, 22). Như thế, Ngài đã mạc khải cho các môn đệ biết rằng, con đường tiến về Giêrusalem sẽ đưa Ngài đến với những đau khổ, cuộc tử nạn và cái chết đau thương trên thập giá, sau đó mới rạng ngời ánh sáng vinh quang. Nhưng các ông đâu có chấp nhận, khi nghe vậy Phêrô liền can ngăn: “Thiên Chúa thương! Chứ sẽ có đâu như thế!” (Mt 16,23). Chính vì thế, Chúa muốn củng cố niềm tin cho các môn đệ, đồng thời giúp các ông sẵn sàng chấp nhận và hiệp thông với cuộc khổ nạn của Ngài, nên Ngài đã Biến Hình tám ngày sau đó, các tác giả Tin Mừng như (Mt 17, 1-9) và (Mc 9, 1-9) thì sáu ngày sau. Nhưng vì chưa nhận ra ý Chúa nên Phêrô muốn dựng ba lều ở trên núi Tabore (Lc 9, 33). Và như thế là Phêrô đã muốn biến cái tạm bợ trở thành vĩnh cửu để khỏi phải đương đầu với thập giá và khổ đau.
Trở lại câu hỏi tại sao Đức Giêsu lại chọn ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan, phải chăng là vì họ hoàn hảo hơn những người khác?
Về vấn đề này, Thánh Gioan Kim Khẩu nói: Vì Phêrô đã từng tuyên xưng Đức Giêsu là “Ðức Kitô của Thiên Chúa” và được Đức Giêsu trao cho chìa khóa Nước Trời “Ta sẽ trao cho ngươi chìa khóa Nước Trời” (Mt 16, 19). Hơn nữa cũng bởi Phêrô đã yêu mến Chúa Giêsu Kitô nhiều hơn, “Lạy Chúa, Chúa thông hay mọi sự, Chúa biết tôi yêu mến Chúa!” Phần Gioan, vì Gioan đã yêu mến nhiều, nên được mệnh danh là (người môn đệ Chúa yêu) (Ga 21, 15). Còn Thánh Giacôbê, là vì ##phản ứng của ông đã thực hiện cùng với anh trai mình: “Chúng tôi có thể uống chén của Thầy” và ông đã giữ lời, đã đi đến cùng của lời cam kết, khiến người Do Thái không chịu nổi, đã xử trảm ông.
Tại sao không phải là một tiên tri hay ngôn sứ nào khác mà lại là Môi-sen và Ê-lia?
Sứ vụ công khai của Chúa Giêsu tại Galilê đã khiến cho dân chúng đồn đoán về con người của Ngài. Có người cho rằng Ngài là Đấng Kitô, là Môi-sen hoặc Ê-lia, Giê-rê-mia hay là một tiên tri (Lc 9,19). Chúng ta cũng biết rằng người Do Thái không ngừng buộc tội Chúa Giêsu Kitô là người vi phạm luật, kẻ nói phạm thượng, kẻ chiếm đoạt vinh quang, mà theo họ, vinh quang đó không thuộc về Đức Giêsu, vinh quang của Thiên Chúa Cha. Họ thường nói: “Con người ấy không bởi Thiên Chúa được, vì hắn không giữ Hưu lễ!” (Ga 9, 16) Và chỗ khác họ nói: “Không phải vì một việc trọn hảo mà chúng tôi ném đá ông; nhưng vì một lời phạm thượng! ông là một người phàm mà dám cho mình là Thiên Chúa” (Ga 10, 33). Đức Giêsu muốn chỉ cho mọi người biết, vì nghen tương mà họ gán cho Chúa hai tội danh ấy. Khi Ngài biến hình đàm đạo với hai nhân vật là Môi-sen và Ê-lia, Ngài khẳng định mình còn hơn cả Môi-sen và Ê-lia nữa. Môi-sen là người đã trao ban lề luật cho dân chúng, nên những người Do Thái không thế nói rằng vị tiên tri thánh này đã muốn chịu đau khổ vì một người vi phạm lề luật. Còn Êlia xuất hiện cùng Đức Giêsu, Đức Giêsu dạy chúng ta rằng Ngài là Chúa của kẻ sống và kẻ chết, cả trên trời và trong địa ngục. Đó là lý do Ngài biến hình cùng với Ê-lia là người đã không chết.
Tin Mừng cũng khai mở cho chúng ta biết rằng Đức Giêsu muốn cho các môn đệ thấy được vinh quang của thập giá. Ngài muốn củng cổ niềm tin của Phêrô và các môn đệ trước cuộc khổ nạn sắp đến, giúp họ thêm can đảm. Vì Môi-sen, Ê-lia cùng với Chúa Giêsu, cả ba không im lặng, nhưng: “Hai người đang đàm đạo với Ngài... Hai vị nói đến việc ra đi Ngài sắp hoàn tất tại Yêrusalem” (Lc 9, 30-31), có nghĩa là cuộc khổ nạn và thập giá. Đó chính là điều mà các tiên tri hay nói đến. Đức Giêsu cũng muốn các môn đệ mình noi theo Môi-sen và Ê-lia về những nhân đức trổi vượt trong quá khứ, và Ngài cũng muốn rằng: “Ai muốn theo Thầy, hãy vác thập giá mình mà theo”.
Một điều rất thú vị là Môisen đã rẽ đôi nước biển để cho dân chúng đi ráo chân, phần Phêrô ông cũng đã đi trên mặt nước, để rồi chữa lành tất cả bệnh hoạn tật nguyện cho dân chúng, xua trừ ma quỉ, đưa toàn thể mọi người về với Đức Kitô. Ê-lia đã làm cho kẻ chết sống lại, các tông đồ cũng đã làm cho kẻ chết được sống lại, khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần. Đó là những lý do Chúa Giêsu chọn Môi-sen và Ê-lia hiện ra đàm đạo với mình.
Đối với chúng ta ngày hôm nay, biến cố Chúa Biến Hình loan báo trước Mầu Nhiệm Vượt Qua, và mời gọi chúng ta mở rộng đôi mắt con tim để nhìn thấy mầu nhiệm Ánh Sáng của Thiên Chúa hiện diện trong toàn thể lịch sử cứu rỗi. Mầu nhiệm Năm Sự Sáng, thứ Ba thì Ngắm, Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi, ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần. Như thế, nếu chúng ta muốn biến đổi thành công dân Nước Trời, phải bỏ mình vác thập giá hàng ngày mà theo Người. Có sẵng sàng vác thập giá Chúa gửi trao mới được theo Chúa là Đường là Sự Thật là Sự Sống để được hưởng vinh quang Phục sinh với Ngài.
Chúa biến hình vinh quang sáng láng để nêu gương cho chúng ta, để chúng ta cũng biết biến đổi hình dạng như thế: biến đổi từ con người tối tăm tội lỗi nên con người tươi sáng hoàn hảo; biến đổi từ con người ích kỷ tham lam thành người sẵn sàng yêu thương hy sinh và phục vụ mọi người ; biến đổi từ con người kiêu căng tự đắc thành người khiêm nhu tin tưởng và phó thác vào Chúa.
Lạy Chúa, xin thương giúp chúng con hiểu được ý nghĩa của thập giá Chúa và ban ơn cho chúng con biết sống mầu nhiệm thập giá Chúa trong cuộc đời, để được sống lại vinh quang với Ngài. Amen.



Có một cuốn phim mang tựa đề “Mặt nạ”, kể lại một câu chuyện về chú bé 16 tuổi, tên là Rocky. Chú mắc phải một chứng bệnh kỳ lạ khiến cho sọ và xương mặt chú phát triển khác thường, làm cho khuôn mặt chú bị biến dạng thật khủng khiếp. Nhiều người trông thấy chú, phải vội vã quay đi vì sợ hãi. Có kẻ lại chọc ghẹo, chế nhạo chú. Riêng chú thì chẳng bao giờ cảm thấy tủi thân, vì chú chấp nhận nó như một phần cuộc sống mình. Ngày nọ, chú và vài người bạn đi thăm khu công viên vui chơi. Họ vào một ngôi nhà được ráp kiếng và bật cười vì khuôn mặt họ bị những tấm gương làm cho biến dạng. Còn chú thì giật mình khi nhìn vào một tấm gương đã biến khuôn mặt méo mó của chú thành một khuôn mặt bình thường, nếu không muốn nói là rất đẹp trai. Lần đầu tiên trong đời, bè bạn chú đã nhìn thấy chú trong một trạng thái hoàn toàn mới mẻ. Họ đã nhìn thấy con người thực sự xinh đẹp bên trong của chú được bộc lộ ra bên ngoài.
Một điều tương tự như thế đã xảy ra cho Chúa Giêsu quan đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Trong lúc Ngài biến hình, các môn đệ đã nhìn thấy Ngài trong một trạng thái hoàn toàn mới lạ. Lần đầu tiên họ được trông thấy sự vinh quang tươi đẹp bên trong của Con Thiên Chúa được bộc lộ ra bên ngoài. Điều này khiến chúng ta tự hỏi: Tại sao cuộc biến hình lại được xếp vào Mùa Chay là mùa vốn mang màu sắc ảm đạm?
Để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta phải đọc lại toàn bộ bài Phúc Âm nói đến cuộc biến hình. Việc này xảy ra ngay sau khi Chúa Giêsu báo cho các môn đệ rằng Ngài phải lên Giêrusalem để chịu nạn chịu chết. Khi nghe Chúa nói thế, Phêrô liền la lớn: Lạy Thầy, xin đừng để điều đó xảy ra cho Thầy. Lập tức Chúa Giêsu trả lời cho Phêrô một cách gay gắt: Hỡi Satan, hãy xéo đi, đừng cản trở Ta. Ngươi không suy nghĩ theo đường lối Thiên Chúa mà chỉ theo đường lối của con người. Có lẽ Phêrô, Giacôbê và Gioan cần được chích một mũi thuốc bổ thiêng liêng sau khi bị cú sốc Chúa hướng các ông về cuộc tử nạn. Và đó cũng là lý do khiến Giáo Hội nói về cuộc biến hình vào Mùa Chay như một trợ lực cần thiết cho chúng ta trước khi bước vào tuần thánh.
Nếu để ý một chút chúng ta sẽ thấy được sự tương phản giữa cuộc biến hình và cơn hấp hối trong vườn Cây Dầu. Cả hai đều xảy ra trên những ngọn núi, trước sự chứng kiến của ba môn đệ thân yêu. Và cả hai sẽ bổ túc cho nhau. Thực vậy, trên đỉnh Tabor ba môn đệ nhìn thấy Ngài xuất thần, và qua đó được chiêm ngắm thiên tính của Ngài. Còn trên núi Cây Dầu họ nhìn thấy Ngài hấp hối và qua đó nhân tính của Ngài được bộc lộ một cách rõ nét hơn cả.
Tabor và Cây Dầu mạc khải nét tương phản sinh động giữa nhân tính và thiên tính của Ngài. Hai biến cố này không thể tách lìa nhau như hai mặt của một đồng bạc, và như thế cho chúng ta thấy Ngài vừa là người thật vừa là Thiên Chúa thật.
Hãy chấp nhận thập giá cuộc đời để nhờ đó chúng ta sẽ được chia sẻ phần vinh quang phục sinh với Ngài.



Đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại sự việc Chúa Giêsu biến hình vinh quang trên đỉnh Taborê. Biến cố này làm cho tôi nhớ tới cơn hấp hối của Ngài trong vườn cây dầu. Cả hai đều xảy ra trên những ngọn núi dưới sự chứng kiến của ba môn đệ thân tín. Một biến cố thì cho chúng ta chiêm ngưỡng thiên tính của Ngài. Còn một biến cố cho chúng ta thấy rõ nhân tính của Ngài. Tuy nhiên cả hai đều bổ túc cho nhau, để rồi chúng ta tin nhận Ngài vừa là người thật; lại vừa là Thiên Chúa thật.
Từ đó chúng ta rút ra một sứ điệp quan trọng, đó là giống như Đức Kitô, mỗi người chúng ta cũng có hai chiều kích, một thuộc về nhân tính, một thuộc về thiên tính. Mỗi người chúng ta đều mang trong mình một nét giống Adong và một nét giống Thiên Chúa.
Cũng như Đức Kitô trên đỉnh Tabor, chúng ta từng cảm nhận những giây phút xuất thần, khi mà nét giống Chúa được toả sáng khiến chúng ta cảm thấy Ngài thật là gần gũi dường như chúng ta có thể đụng chạm được. Trong những giây phút quý giá này, chúng ta ngạc nhiên thấy cuộc sống sao mà tươi hồng, sao mà đẹp đẽ thế. Chúng ta cảm thấy muốn yêu thương mọi người, muốn tha thứ tất cả.
Thế nhưng xét theo mặt khác, cũng như Đức Kitô trong vườn cây dầu, chúng ta từng cảm nghiệm được những giây phút hấp hối, khi mà đường nét giống Adong rực cháy trong chúng ta khiến cho đường nét của Chúa bị nhạt nhoà gần như mất hẳn.
Trong những giờ phút đen tối ấy, chúng ta cảm thấy cuộc sống thật tồi tệ làm sao. Chúng ta cảm thấy ai cũng khó thương, khiến chúng ta nghi ngờ bạn bè, gây gổ với người chung quanh và trả đũa đích đáng kẻ thù của chúng ta. Ngay cả đến sự hiện diện của Thiên Chúa chúng ta cũng muốn chối bỏ.
Thế nhưng, dù ở trong giờ phút hấp hối hay xuất thần, chúng ta hãy nhớ đến hình ảnh hai ngọn núi Tabor và Cây Dầu. Chúng ta cũng hãy nhớ lại Chúa Giêsu đã từng cảm nghiệm được cả hai khoảnh khắc vinh quang và thê thảm nhất trong cuộc đời Ngài. Và quan trọng hơn, đó là chúng ta cần phải nhớ rằng: Cả hai khoảnh khắc ấy Chúa Giêsu đều ở trong trạng thái cầu nguyện.
Nếu cầu nguyện là cách thức Ngài dùng để đáp lại những khoảnh khắc ấy, thì chúng ta cũng nên làm giống như Ngài, nhờ đó chúng ta cũng sẽ nghe được Thiên Chúa Cha nói với chúng ta như đã nói với Chúa Giêsu trong lúc biến hình: Này là con Ta yêu dấu. Cũng như Đức Kitô từng chịu hấp hối trên núi câu dầu, chúng ta cũng sẽ cảm nhận được Thiên Chúa Cha đang chạm đôi tay của Ngài để chữa lành chúng ta.



Mùa Chay mang mầu tím ảm đạm. Mầu tím buồn để ta nhớ đến thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. Mầu tím buồn để đến cuộc sống mong manh chóng tàn nơi cõi thế. Mầu tím buồn đưa ta đi theo bước Chúa Giêsu trên đường khổ nạn. Mầu tím buồn nhắc ta nhớ đến cái chết đau khổ của Người trên thánh giá.
Giữa bầu khí ảm đạm của mùa Chay, hôm nay bỗng bừng lên làn ánh sáng chói chang từ đỉnh núi Ta bo. Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện. Đang khi cầu nguyện, dung mạo Người bỗng dưng đổi khác. Thần tính phát lộ khiến dung mạo Người trở nên sáng láng, ánh sáng rực rỡ làm say mê tâm hồn các môn đệ. Được sống trong khung cảnh thần thiêng thánh thiên, các ông không muốn rời bỏ đỉnh núi nữa.
Ta hãy nhớ lại, trước đó 8 ngày, khi Chúa Giêsu loan báo Người đi lên Giêrusalem để chịu khổ và chịu chết, Phêrô đại diện cho các môn đệ đã phản đối. Ông không muốn chấp nhận thánh giá. Ông không muốn Thầy mình dấn thân vào con đường chịu chết khổ nhục. Thế mà hôm nay, đứng trước vinh quang của Thầy, ông đã say mê và đề nghị Thầy trò cùng ở lại trên ngọn núi hạnh phúc. Trốn khổ tìm sướng vẫn là cái thường tình của con người. Nhưng Chúa Giêsu đã dẫn các môn đệ xuống núi để tiếp tục con đường lên Giêrusalem chịu chết.
Việc Chúa Giêsu biến hình trên núi như thế là có chủ đích. Người hé lộ thần tính của Người để các môn đệ thêm niềm tin tưởng. Người cho các ông thấy vinh quang của thần tính để các ông chấp nhận con đường đau khổ Người sắp trải qua.
Việc Chúa biến hình ban cho các môn đệ niềm hy vọng. Hy vọng đó là: con đường đau khổ sẽ dẫn đến hạnh phúc. Cái chết tủi nhục sẽ dẫn đến ngày Phục Sinh hân hoan. Thiếu niềm hy vọng không ai có thể sống ở đời. Người nông phu chăm bẵm mảnh ruộng, thức khuya dậy sớm, dãi nắng dầm mưa cấy cầy, vì hy vọng vào mùa gặt bội thu. Người học sinh kiên nhẫn ngày ngày cắp sách đến trường, đêm đêm chong đèn đọc sách, vì hy vọng vào kết quả mùa thi tốt đẹp. Người cha, người mẹ tần tảo sớm hôm, quên mình để lo cho con cái, vì hy vọng tương lai con cái sẽ tốt đẹp hơn. Niềm hy vọng vào vinh quang Phục Sinh sẽ giúp các môn đệ can đảm chấp nhận cuộc khổ nạn thương đau và cái chết tủi nhục của Thầy chí thánh.
Việc Chúa Giêsu biến hình đã biến đổi cách nhìn của các môn đệ về con người và cuộc đời. Từ nay các ông sẽ không nhìn ở bề mặt mà biết nhìn vào bề sâu. Bên trong thân xác phàm nhân của Chúa Giêsu có ẩn chứa bản tính Thiên Chúa. Bên trong cuộc khổ nạn tủi nhục có gieo sẵn mầm mống Phục Sinh vinh quang. Cũng thế, bên trong mỗi thân xác có hiện diện của một linh hồn. Bên trong mỗi con người phàm trần có ẩn tàng mầm mống thần linh. Bên trong những thửa ruộng khổ đau có gieo sẵn hạt mầm hạnh phúc. Trong những vất vả nhọc nhằn tăm tối hôm nay đã hứa hẹn thành công tươi sáng của ngày mai.
Việc Chúa biến hình giúp các môn đệ hiểu biết định mệnh con người. Bản tính Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu đã chiếu sáng trên xác phàm con người. Con người được rạng ngời vinh quang Thiên Chúa. Đó là điềm báo trước: mang sẵn trong mình mầm mống thần linh, con người sẽ trở về với Thiên Chúa. Cuộc trở về phải vượt qua những đớn đau, những gian nan, những thử thách. Nhưng đã biết được đích đến, ta sẽ vui lòng đón nhận tất cả. Vì thế, đạo Công giáo tuy đề cao đau khổ, nhưng không rơi vào yếm thế, bi quan. Đau khổ chỉ là phương tiện. Chấp nhận thánh giá, vì đó là nhịp cầu cần thiết để con người vượt qua từ sự chết đến sự sống, từ khổ đau đến hạnh phúc, từ tủi nhục đến vinh quang.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Những đau khổ góp phần rèn luyện bạn nên người. Bạn có kinh nghiệm gì về điều đó?
2. Bạn thường đánh giá người khác theo tiêu chuẩn nào? Qua diện mạo bên ngoài, hay qua giá trị bên trong?
3. Qua thập giá tới vinh quang. Bạn có quyết tâm gì để thực hiện điều đó trong mùa Chay năm nay?



(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
"Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui..." Một bài hát của Trịnh Công Sơn đã bắt đầu như thế.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, ba môn đệ của Đức Giêsu đã chẳng phải chọn một niềm vui. Niềm vui chợt đến với họ như một quà tặng.
Đêm hôm ấy, một đêm giống như nhiều đêm, Đức Giêsu lên núi cầu nguyện cùng với ba môn đệ. Ngài chìm sâu trong cuộc đối thoại thân tình với Cha. Ngài biết khá rõ những gì đang chờ mình: khổ đau, nhục nhã, cái chết và phục sinh (x Lc 9,22). Đức Giêsu đón lấy con đường Cha muốn Ngài đi.
Đêm đã khuya, Ngài vẫn còn trò chuyện với Cha. Các môn đệ đã chìm sâu trong giấc ngủ. Khi chợt tỉnh, họ ngất ngây trước cảnh tượng phi thường. Thầy Giêsu đang đàm đạo với hai ông Môsê và Êlia. Vinh quang rạng ngời bao trùm ba đấng. Khuôn mặt Thầy Giêsu trở nên đổi khác. Cả y phục Ngài cũng trở nên trắng tinh chói lọi.
Không rõ các môn đệ đã chiêm ngưỡng cảnh này bao lâu, nhưng chắc chắn họ muốn kéo dài hạnh phúc đó. Khi ông Phêrô thấy hai vị sắp chia tay Đức Giêsu, ông đòi dựng ba lều để tất cả ở lại qua đêm.
Đêm đẹp quá, đêm huyền diệu! Đêm bừng sáng như ban ngày! Bỗng chốc một đám mây bao phủ các môn đệ, đưa họ đi vào huyền nhiệm của sự hiện diện thần linh. Họ khiếp sợ khi thấy Thiên Chúa quá ư gần gũi.
Tất cả những gì đã xảy ra đều nhằm chuẩn bị để các môn đệ nghe được lời giới thiệu của Cha:
"Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn",
và đón nhận lời Cha nhắn nhủ: "Hãy vâng nghe lời Người".
Kinh nghiệm thấy Đức Giêsu toả sáng thật cần thiết. Nó là một nâng đỡ cho các môn đệ đang cùng đi với Thầy trên đường lên Giêrusalem. Nó giúp các ông đón nhận số phận như Thầy, để được cùng Thầy chia sẻ vinh quang (x. Lc 9,23-26).
Vinh quang của Con Thiên Chúa được dấu ẩn khi làm người. Vinh quang ấy loé sáng lúc Ngài biến hình trên núi. Nhưng ngay sau Phục Sinh, Ngài cũng chẳng tỏ hết vinh quang.
Vinh quang tỏ tường chỉ bừng toả khi Ngài trở lại.
Đám mây rồi cũng tan, Môsê và Êlia biến đi. Chỉ còn mình Đức Giêsu ở lại, với khuôn mặt bình thường, với con đường phía trước.
Rồi hôm sau Thầy trò lại xuống núi ruổi rong.
Trong mùa Chay, chúng ta cần gặp được Chúa bừng sáng. Và chúng ta cũng cần được biến hình.
Sám hối đích thực, dẫn tới sự bừng sáng rực rỡ.
Bừng sáng qua cầu nguyện thâm trầm, qua chay tịnh lặng lẽ.
Bừng sáng qua chia sẻ với tha nhân.
Ước gì tôi bừng sáng qua việc biến đổi lối nghĩ, lối sống.
Gợi Ý Chia Sẻ
Cầu nguyện, ăn chay, chia sẻ cho người nghèo: đó là 3 hướng chính của mùa Chay. Bạn thấy 3 hướng đó cần thiết không và bổ sung cho nhau như thế nào?
Nhiều đoàn phẫu thuật giúp trẻ em tìm lại nụ cười trên khuôn mặt tươi tắn. Bạn nghĩ mình có thể đem lại nụ cười cho ai trong mùa Chay này?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng tấm bánh để dành của con thuộc về người đói, chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi, tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng, có bao điều con lãng phí bên cạnh những Ladarô túng quẫn, có bao điều con hưởng lợi dựa trên nỗi đau của người khác, có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu. Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công chẳng ở đâu xa. Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con. Con phải chịu trách nhiệm về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân, vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt, vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau. Thế giới còn nhiều người đói nghèo là vì chúng con giữ quá điều cần giữ. Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu, nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.



(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Khuôn mặt phản ánh đời sống nội tâm của con người.
Ai cũng muốn mình có khuôn mặt dễ mến. Người ta bỏ ra nhiều tiền để sửa sang lại khuôn mặt, vì họ muốn người khác đổi cái nhìn về họ.
Bài Tin Mừng hôm nay mời chúng ta chiêm ngắm khuôn mặt ngời sáng của Chúa Giêsu trên núi cao. Chỉ mình thánh Luca nói rõ chi tiết này: "Đang khi Ngài cầu nguyện, thì khuôn mặt Ngài biến đổi".
Gần đèn thì sáng.
Gặp gỡ Thiên Chúa làm biến đổi nội tâm con người, thậm chí làm biến đổi thân xác, biến đổi khuôn mặt, và cả những gì con người sử dụng cũng bừng toả: "y phục Ngài nên trắng ngời như chớp sáng".
Trong mùa Chay, chúng ta muốn biến đổi cuộc sống mình, chúng ta muốn mang bộ mặt mới. Chúng ta đã làm nhiều điều, trừ một điều quan trọng, đó là lên núi cao để gặp gỡ Thiên Chúa.
Núi cao ở ngay trong sâu thẳm lòng ta, nơi đây ta gặp gỡ Ngài, diện đối diện.
Mọi biến đổi nơi cá nhân cũng như tập thể, nơi gia đình, giáo xứ, dòng tu và cả Giáo Hội đều phải khởi đi từ việc tiếp xúc với Thiên Chúa.
Chúng ta dễ lãng quên việc gặp Chúa mỗi ngày, lấy cớ mình bận làm những việc của Chúa.
Thế giới hôm nay đói những người cầu nguyện, và thừa ứ những người lăng xăng... Ba môn đệ thân tín cũng đâu có cầu nguyện. Họ ngủ li bì.
Sau này ở núi Cây Dầu, họ cũng say ngủ. Thế nên họ chẳng biến đổi gì.
Dù họ chợt tỉnh và thấy khuôn mặt ngời sáng của Chúa, điều đó chỉ đem lại cho họ chút hưng phấn chóng qua, nhưng không cho họ sức để trung thành theo Chúa.
Họ mơ ước dựng lều ở ngọn núi thánh này, vì họ thích ngắm khuôn mặt rực sáng của Đức Giêsu. Nhưng họ không có can đảm ở lại Núi Sọ, để chiêm ngưỡng khuôn mặt đầy thương tích của Thầy.
"Các ngươi hãy nghe Ngài": một lời nhắc nhở hiếm hoi của Chúa Cha dành cho ta.
Bạn có nghe thấy lời nào của Đức Giêsu vang vọng nơi lòng bạn trong mùa Chay không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Các môn đệ buồn ngủ khi cầu nguyện. Còn bạn, bạn gặp khó khăn nào khi cầu nguyện? Làm sao vượt qua được những khó khăn đó?
"Con người cầu nguyện có khả năng biến đổi thế giới": Bạn có tin điều đó không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con, xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn sau mỗi lần gặp Chúa.
Ước gì mọi người thấy nét mặt tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời nói của con.
Thế giới hôm nay không cần những Kitô hữu có bộ mặt chán nản và thất vọng.
Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.



(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Rít Rítpphai Vô-đơn-Spring là một mục sư phục vụ một bệnh viện làng Bethel, ở miền Bắc Palestin. Ông là người đạo đức. Có một bận, y sĩ trưởng phòng giải phẫu cùng với vị phụ tá đến báo tin cho ông biết tình trạng thất vọng của một bệnh nhân, mà họ đã giải phẫn không lâu. Mục sư Vô-đơn-Spring hỏi:
- Bác sĩ đã cầu nguyện cho bệnh nhân được tai qua nạn khỏi chưa?
Vị y sĩ trưởng phòng giải phẫu và y tá mỉm cười kín đáo mà không trả lời. Mục sư Vô-đơn-Spring nhận ra điều đó và nói:
- Nghĩa là chưa. Thôi được rồi, tôi muốn bàn chuyện này với Chúa.
Vậy là trong một giờ liên tiếp, mục sư quỳ sụp xuống trong phòng, ông cầu nguyện với tất cả tâm hồn. Sau đó đến phòng người bệnh trầm trọng ấy. Vừa thấy ông, cô y tá đã vội vàng nói:
- Đã từ nửa giờ bệnh nhân thấy đỡ hơn.
Vài tuần sau đó bênh nhân lành hẳn. Bác sĩ trưởng phòng giải phẫu đến gặp mục sư và nói:
- Thưa mục sư, tôi sẽ không bao giờ mỉm cười nghi ngờ nữa.
Thái độ của mục sư Vô-đơn-Spring hoàn toàn tin tưởng phó thác mọi sự cho Thiên Chúa quan phòng có thể giúp chúng ta hiểu được các sứ điệp Chúa nhật hôm nay.
Tin có nghĩa là hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa và sẵn sàng nhắm mắt đưa chân bước vào cuộc phiêu lưu mạo hiểm với Ngài. Đoạn 12-25 sách Khởi Nguyên kể lại cuộc đời của Abraham và cho chúng ta thấy một khúc rẽ mới trong lịch sử cứu độ. Sau khi loài người phạm tội chặn đứng tương quan tâm tình với Thiên Chúa và đánh mất đi cuộc sống hạnh phúc của mình, Thiên Chúa lại tìm ra mối dây liên hệ mới qua việc tuyển chọn Abraham và khiến ông trở thành cha của một nhân loại mới. Các trình thuật này của tổ phụ Abraham bao gồm hai nguồn truyền thống văn chương khác nhau với cách diễn tả và quan niệm thần học riêng.
- Truyền thống Giavít: biên soạn ở vương quốc miền Nam, thế kỷ IX trước Tây lịch, trong đó Giavê là tên gọi của Thiên Chúa. Truyền thống này luôn coi Thiên Chúa là người đối thoại chân tình với tổ phụ Abraham và với loài người. Soạn giả Giavít dùng thuật hành văn nhân hình để miêu tả Thiên Chúa. Nghĩa là ông cho thấy Thiên Chúa có kiểu cách nói năng và hành xử y như một người. Ngài nói chuyện đối thoại, hoạch định chương trình, ngồi ăn uống với tổ phụ Abraham. Ngài chấp nhận sự tiếp đón của ông chân tình như một người bạn. Ngài sẵn sàng làm mọi sự cho Abraham, ban cho ông một người con ông hằng mong ước, một vùng đất làm gia nghiệp và một dân tộc. Ngài sẵn sàng làm cho ông trở thành danh tiếng, thành tổ phụ của một dòng dõi đông đúc. Sẽ đặt tên cho ông một tên mới, vừa diễn tả sự kiện ấy vừa nói lên sự liên hệ của ông với Ngài. Do đó khi đọc lại các văn bản Kinh Thánh, chúng ta cũng phải khám phá ra tình bạn hữu ấy của Thiên Chúa và mối dây liên hệ thân tình của Ngài đối với chúng ta.
- Truyền thống văn chương tại vương quốc miền Bắc vào thế kỷ thứ VIII trước Tây lịch gọi là Êlohít. Vì trong các văn bản này tác giả gọi Thiên Chúa là Êlohim. Truyền thống này nêu rõ lòng tin và sự sống lòng tin của tổ phụ Abraham hay cũng còn gọi là sự công chính của Abraham. Lòng tin là một thực tại giàu ánh sáng và tương lai, nhưng con người hay nghi ngờ như Ađam, hình ảnh diễn tả toàn nhân loại đã nghi ngờ. Abraham trái lại đã tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa, tin vào các lời Ngài hứa và tương lai mà Thiên Chúa hoạch định ra cho ông, ngay khi mà ông chưa có được gì cả. Chính thái độ ký thác hoàn toàn này khiến Abraham thành mẫu gương và là cha của những người có lòng tin thuộc mọi thời đại. Aman từ đó phát sinh ra tiếng Amen mà chúng ta thường dùng để kết thúc một lời nguyện là động từ "tin" trong tiếng Do Thái, nhưng nó có nghĩa gốc là cậy dựa trên, dựa vào. Tin như thế có nghĩa là chỉ cậy dựa vào Thiên Chúa và lời Thiên Chúa mà thôi.
16,5-12.17-18 sách Khởi Nguyên bao gồm cả hai truyền thống kể trên. Trình thuật kết thúc với nghi thức cổ xưa của giao ước mà Thiên Chúa đã ký kết với tổ phụ Abraham. Hai bên ký kết các giao ước để giữa các thú vật được chặt đôi nhằm khẳng định, bên nào không thực hiện giao ước thì cũng sẽ chịu một số phận như vậy. Tin như tổ phụ Abraham nghĩa là tín thác bước đi theo chương trình Thiên Chúa đề nghị với chúng ta. Một chương trình bí nhiệm khác với những gì chúng ta tưởng nghĩ và mong ước. Tin có nghĩa là sẵn sàng ra khỏi môi trường sống đảm bảo, ra khỏi những thói quen, kiểu cách sống qui ước của loài người. Tin có nghĩa là đưa ra nắm chặt lấy bàn tay của Chúa để cho Ngài hướng dẫn và bước đi theo Ngài. Đó cũng là ý nghĩa của trình thuật Chúa Giêsu biến hình trên núi trong 9,28-36 của thánh Luca.
Đối với dân Do Thái, Môisê và Êlia là hai gương mặt diễn tả tất cả Kinh Thánh, diễn tả tất cả Lời Chúa mà tín hữu cần phải biết lắng nghe và đem ra thực hành mỗi ngày. Qua biến cố biến hình, Thiên Chúa không chỉ mời gọi chúng ta biết lắng nghe và sống Lời Ngài hứa là Tin Mừng của Chúa Giêsu, mà còn biết thoát ly khỏi những gì ràng buộc ngăn cản chúng ta không cho bước vào cuộc sống thần thiêng sáng láng với Ngài nữa.
Qua biến cố biến hình, Chúa muốn cho ba môn đồ thân tín thấy rằng: sau con đường tiến về Giêrusalem dẫn Ngài tiến đến cái chết trên thập giá, là ánh sáng rạng ngời của cuộc sống. Trong Kinh Thánh hình ảnh cái lều diễn tả cuộc sống vô định nay đây mai đó của dân du mục. Do đó thái độ của Phêrô muốn dựng 3 lều ở trên núi Tabor mà không hiểu sâu hơn nữa có nghĩa là, Phêrô muốn biến cái tạm bợ trở thành vĩnh cửu để khỏi phải đương đầu với con đường thập giá và khổ đau. Thái độ đó là kiểu cách thiếu lòng tin. Vì đó là một cách tránh né chương trình vào con đường của Thiên Chúa. Thái độ này bị thánh Phaolô gọi là cách hành xử đặc thù của những kẻ thù nghịch với thập giá Chúa Kitô.
Trong thư gởi giáo đoàn Philipphê 3,17-4,1 thánh nhân khuyến khích mọi người bắt chước ngài và theo gương các anh chị em có lòng tin vững mạnh, sống phù hợp với giáo huấn Tin Mừng của Chúa. Thánh Phaolô không tự cho mình là người hoàn thiện, vì Ngài cũng đang phải chiến đấu với thân xác yếu hèn của chính mình, với mọi đam mê và chước cám dỗ như tất cả mọi Kitô hữu khác. Cũng như mọi người, ngài đang chạy đua với hết sức lực mình để đạt đích. Thánh Phaolô cũng không khuyên nhủ tín hữu tôn thờ thần tượng một ai đó trong cộng đoàn. Bởi vì những người này cũng đang chạy đua và cố gắng như mọi người khác, chiến đấu với những thiếu sót bất toàn và tội lỗi của họ, và bởi vì vị thầy duy nhất đáng tôn thờ là chính Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu Kitô là mẫu gương duy nhất cần phải theo và Tin Mừng của Ngài là kim chỉ nam duy nhất có thể đảm bảo cho con thuyền cuộc đời của người tín hữu đến bến bình an. Khi khuyến khích tín hữu cộng đoàn Philipphê bắt chước mình, thánh Phaolô mời cố gắng chạy, cố gắng chiến đấu như ngài, luôn hướng tấm lòng về tới đích cuộc đời là Thiên Chúa, là hạnh phúc mai sau. Đừng để các thú vui mau qua của đời này níu kéo mà khiến cho họ quên đi mục đích tối hậu của cuộc sống là ơn gọi Kitô.
Nói cách khác, thánh nhân nhắc nhở cho chúng ta biết rằng cuộc sống của chúng ta trên trần gian này là cuộc hành trình tiến về quê hương vĩnh cửu, là quê trời nơi Thiên Chúa đang chờ đón để ban cho chúng ta cuộc sống thần thiêng vĩnh cửu. Do đó phải luôn biết ý thức và tỉnh thức, đừng để cho các thú vật chất hay bất cứ thứ gì trên đời này trói buộc và cầm chân chúng ta. Ngoài ra, thánh nhân cũng khuyến khích tín hữu cũng noi gương ngài không chạy theo các điều luật, các cấm đoán tỉ mỉ và các hình thức lễ nghi bề ngoài, mà chỉ lấy Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh làm chỉ huy duy nhất và làm bánh lái sống lòng tin mà thôi.



(Suy niệm của Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn)
Tác giả cuốn sách The Seven Habits of Highly Effective People (“Bảy Thói Quen Của Người Làm Việc Có Hiệu Quả”), Steve Covey, trên một chuyến xe điện ngầm tại thành phố New York vào một sáng Chúa nhật, đã thu được một kinh nghiệm sống rất quí như sau. Steve kể:
Mọi người ngồi yên lặng. Vài kẻ đang đọc báo. Số khác đang chập chờn ru giấc ngủ. Số khác nữa đang suy nghĩ miên man. Thật là một cảnh yên tĩnh, thanh bình.
Tàu dừng lại tại một nhà ga. Một người đàn ông và mấy đứa nhỏ, có lẽ là con ông ta, bước lên. Lập tức bầu khí yên bình bị phá tan. Những đứa bé la hét om sòm. Chúng vất đồ đạc qua lại. Thậm chí còn lấy báo của người khác vò lại ném nhau. Thật là phiền hà hết sức! Nhưng sao người cha của mấy đứa bé kia lại không có phản ứng nào?
Steve cảm thấy bực bội khó chịu trước thái độ của cha con những người khách mới. Anh ta không thể hình dung ra được trên đời này lại có những kẻ vô cảm và vô tâm như gã đàn ông kia. Con cái quậy phá làm phiền biết bao nhiêu người, thế mà vẫn cứ ngồi im. Steve quan sát và thấy nhiều hành khách khác cũng có vài nếp nhăn khó chịu.
Cuối cùng, khi sức kiên nhẫn đã vượt mức tối đa, Steve bèn lên tiếng với người bố: “Thưa ông, con ông đang làm phiền nhiều người lắm đấy. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy ông không làm gì để kiềm chế chúng một chút.” Người đàn ông nhướng mắt nhìn Steve như vừa sực tỉnh lại từ một ưu trầm lắng. Nén tiếng thở dài, ông ta nói: “Tôi thành thật xin lỗi. Tôi cũng không biết phải làm sao. Chúng tôi mới rời khỏi bệnh viện nơi mẹ chúng nó vừa qua đời cách đây một giờ. Tôi suy nghĩ mãi mà không biết cuộc đời rồi đây sẽ ra sao khi không còn nhà tôi, và chắc là chúng nó cũng không biết chịu đựng thế nào khi chẳng còn có mẹ.”
Steve kết luận bài viết của mình: “Bạn có thể tưởng tượng được cảm giác của tôi lúc đó như thế nào không? Ngay lập tức tôi thấy mọi sự đổi khác. Vì thấy mọi sự đổi khác nên thái độ của tôi cũng đổi theo. Cơn khó chịu bực bội trong tôi biến mất. Thay vào đó là niềm cảm thông cho nỗi đau của người chồng mất vợ và những đứa con mất mẹ.”
Nhờ “thấy” được chiều sâu tâm hồn của cha con người đồng hành mà Steve đã thắng vượt những khó chịu bực bội trong mình, và sau đó đã đến với họ bằng tâm tình cởi mở chân thành. Phải chăng trong đời sống, người ta cũng cần có con mắt nội tâm để “thấy” được nền tảng và ý nghĩa của cuộc đời hầu có những thái độ và cách sống thích hợp? Phải chăng nhờ sự biến hình trên núi Tabor, các môn đệ đã “thấy” được hình ảnh phục sinh vinh quang của Đức Giêsu, để từ đó họ bớt nao núng khi bước vào nẻo đường thánh giá và đón nhận khổ nạn với Ngài? Phải chăng đời ta và đời người cũng cần những giây phút biến hình để dung nhan Thiên Chúa, trong tha nhân và nơi mình tôi, được bừng sáng, đón nhận, và tin yêu hơn?
Trong một bài báo tự thuật, Malcolm Muggeridge có kể lại việc nhóm chuyên viên truyền hình của anh ta cố gắng thực hiện một bộ phim tài liệu về Mẹ Têrêsa Calcutta.
Họ muốn quay cảnh mẹ cùng các chị nữ tu Bác ái đang làm việc trong căn nhà Hấp Hối, bên cạnh những kẻ sắp từ biệt cõi đời. Thế nhưng nhóm của Malcolm đã gặp phải một vấn đề khó khăn: căn phòng họ tính quay phim hơi tối, không đủ ánh sáng cần thiết cho việc thâu hình, mà trong nhà lại không có một ổ cắm điện nào cả.
Tuy nhiên, sau khi bàn thảo, họ quyết định cứ tiến hành thu hình trong cảnh tranh sáng tranh tối của căn phòng Hấp Hối.
Nhưng rồi, kết quả, trước bao cặp mắt ngạc nhiên, những thước phim thâu được lại tuyệt vời quá sức tưởng tượng. Ánh sáng trong các hình ảnh đạt đến mức độ hoàn hảo. Dường như đã có một luồng sáng ấm dịu nào đó phát ra trong lúc họ đang quay phim.
Malcolm, người mà sau này trở thành một Kitô hữu, lúc bấy giờ đã bị thuyết phục hoàn toàn với ý nghĩ là ánh sáng đã phát ra từ tình thương mà người ta có thể bắt gặp khắp nơi trong căn nhà Hấp Hối kia. Malcolm viết lại trong nhật ký của mình: “Chính tình yêu đã chiếu sáng, một thứ ánh sáng giống như hào quang trên đầu các thánh mà tôi từng được xem thấy.”
Phải chăng đó cũng là thứ ánh sáng mà Đức Giêsu đã tỏ cho ba môn đệ thân tín là Phêrô, Gioan và Giacobê khi Ngài biến hình trước mặt các ông? Trong cuộc biến hình này, các môn đệ được nghe một lời phán bảo: “Đây là Con Ta yêu dấu, kẻ Ta đã chọn, các ngươi hãy nghe lời Ngài” (Lc 9:35). Trong chương kế tiếp, Thánh sử Luca đã khéo léo trình bày việc “nghe lời” Đức Giêsu không gì khác hơn là ra đi rao giảng Tin mừng Tình thương. Chương 10 đã kể việc Chúa sai 72 môn đệ lên đường truyền giáo, đồng thời cũng làm nổi bật giáo lý của Đấng Cứu Thế qua câu hỏi “giới răn nào trọng nhất” của một luật sĩ và qua câu chuyện “Người Samari Nhân Hậu” như những minh hoạ cho giáo lý yêu thương.
Cao điểm của cuộc biến hình là lời mời gọi “Hãy nghe Ngài”. “Nghe Ngài” là để tiếp nối những cuộc biến hình khác, giữa cuộc đời này, bằng tình yêu. Chính nhờ tình yêu mà Mẹ Têrêsa đã biến những thân xác tanh hôi, đau yếu, bị bỏ rơi, nên những con người có đầy đủ phẩm giá và đáng tôn trọng. Chính nhờ tình yêu mà mẹ đã biến đổi tâm hồn của Malcolm, một kẻ “coi trời bằng vung”, nên cung điện tươi xinh cho Thiên Chúa ngự trị.
Không phải Chúa Giêsu đã từng nói: “Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết các ngươi là môn đệ của Ta: ấy là các ngươi có lòng mến thương nhau” (Ga 13:35)? Chính với yêu thương, cảm thông, cứu giúp, chia sẻ mà tha nhân thấy được dung mạo của Đức Kitô trong cuộc đời của bạn và tôi.
Ước gì tình yêu thương nhau sẽ biến hình đời ta và biến đổi đời người. Ước gì tình yêu đó cũng giúp ta thắng vượt bao gian nan, trắc trở, và khổ giá trên đường đời, để tiến đến một ngày Phục sinh tươi sáng.



(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Chúng ta đang ở vào Mùa Chay, Chúa nhật thứ II. Chúng ta đã bắt đầu Mùa Chay thánh này với ngày Thứ Tư Lễ Tro. Điều gì chúng ta đã làm trong ngày Thứ Tư Lễ Tro này? Thưa rằng, chúng ta đã cho đại diện Giáo Hội xức tro lên trên đầu chúng ta, với dấu hiệu là chúng ta bởi đất, chúng ta sẽ trở về với đất.
Qua bài Phúc Âm Chúa nhật thứ I Mùa Chay tuần vừa qua, chúng ta lại đã nghe về cuộc hành trình của Chúa Giêsu trong sa mạc với những cám dỗ Ngài phải đương đầu. Những cám dỗ này chính là hình ảnh của những quyến rũ ma quỉ đặt trước chúng ta trong những ngày chay tịnh này, khi chúng ta sống trong bầu không khí của Mùa Chay. Việc biến hình của Chúa Giêsu với sự hiện diện của ba tông đồ Phêrô, Giacôbê, Gioan; với Môisê và Êlia đại diện trong cùng bối cảnh của Mùa Chay. Từ đó chúng ta khám phá được một sự thật, Mùa Chay không phải là khoảng thời gian chúng ta phải đối đầu với những cám dỗ do ma quỉ sắp đặt đưa ra. Mùa Chay cũng không phải là khoảng thời gian người tín hữu phải tự buộc mình chịu đựng những sự đau khổ mà không tìm cách tránh né. Mùa Chay đầu tiên là một sự mạc khải về thân phận, về định mệnh, trong tiến trình tự nhiên của con người, và những kinh nghiệm phải có từ ý chí bề ngoài của cuộc sống. Một trong những kinh nghiệm đó chúng ta có được về việc biến hình của Chúa Giêsu, trong bài Phúc Âm theo thánh Luca hôm nay.
Như thế này, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, Gioan lên núi cầu nguyện. Cứ theo cách diễn tả của thánh sử Luca, thì chúng ta có thể hiểu rằng biến cố đã xảy ra vào lúc ban đêm. Vì thường thường như chúng ta biết, sau khi giảng dạy và làm các phép lạ, Chúa Giêsu ẩn mình vào các nơi thanh vắng để cầu nguyện vào ban tối. Và nhất là căn cứ vào thái độ của các môn đệ khi sự việc xảy ra đó là Phêrô, Giacôbê và Gioan. Thời gian ban đêm trong bài Phúc Âm đồng hóa với bóng tối được diễn tả ở đây, có thể là biểu hiện cho khuynh hướng xấu, biểu hiện cho phần bóng tối trong tâm hồn của mỗi con người chúng ta. Nó cũng là một trong những điều mà Luca diễn tả, khiến cho quang cảnh dễ gây xúc động hơn.
Đang khi cầu nguyện, diện mạo của Chúa Giêsu biến đổi khác thường, chói lòa hào quang ánh sáng. Nhưng Ngài vẫn là Ngài. Ngài vẫn là Chúa Giêsu. Con của Thiên Chúa, có khác chăng là về diện mạo và quang cảnh chung quanh. Một quang cảnh huy hoàng của cuộc đàm đạo giữa Chúa Giêsu với Môisê và Êlia, đến nỗi khi được chiêm ngắm, các môn đệ đã phải thốt lên như trong một cơn mê sảng: "Lạy Thầy, nếu chúng tôi được ở đây thì tốt lắm. Chúng tôi xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Môisê và một cho Êlia". Họ không muốn lìa xa nơi họ đã được chứng kiến. Một Thầy chí thánh với vinh quang và ân sủng, một vinh quang và ân sủng có thể hoà quyện trong mơ ước trần thế con người của họ trong những dịp đi theo Chúa.
Như chúng ta biết, Môisê và Êlia là hai tiên tri Cựu Ước, Môisê là người đã được Chúa tuyển chọn để đưa dân Ngài ra khỏi ách nô lệ của nước Ai Cập. Êlia là tiên tri đã được kêu gọi để làm cố vấn cho giao ước, dân Do Thái đã gần như chối từ những ơn Chúa trong đời sống họ. Khi đề cập đến biến cố này, các thánh sử khác thì nói rằng: Có một cuộc đàm đạo giữa Chúa và hai vị tiên tri. Trong khi Luca còn đi xa hơn, diễn tả ngay cả nội dung của cuộc đàm đạo giữa Chúa Giêsu, Môisê và Êlia. Họ nói về sự chết của Chúa Giêsu sẽ thực hiện tại Giêrusalem. Một cái chết không phải là dấu hiệu kết thúc của công trình cứu chuộc, nhưng là một cái chết khơi mào cho sự sống lại trong vinh quang trong nước Ngài. Trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, sự chết, sự sống lại và lên trời của Chúa Giêsu được thể hiện cùng một lúc trong biến cố biến hình này. Sự chết trong thân xác hay chết của nhân tính của Chúa Giêsu là một sự sửa soạn cho sự vinh quang vĩnh cửu của một đời sống khác trong thiên tính của Chúa Giêsu.
Chịu đựng là vượt qua những thử thách khó khăn. Không phải chúng ta luôn luôn đương đầu với mọi cám dỗ và hoạt động của ma quỉ. Nhưng trong chính thời gian này, sự vinh quang của Thiên Chúa vẫn còn thể hiện trong chính các sinh hoạt của chay tịnh, sự thống hối, ăn năn, tha thứ trong 40 ngày. Lời phán từ trong đám mây minh chứng rằng Đức Giêsu biến hình ngày hôm nay, chính là Chúa Giêsu Kitô, là Con Thiên Chúa. Ngài đã lãnh nhận và thánh hóa bí tích Rửa tội nơi sông Giođan với Gioan Tẩy Giả, Ngài là Con của Thiên Chúa, là Lời của Thiên Chúa nói với nhân loại và nhân loại phải đón nhận Ngài: "Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người".
Chúng ta cùng với Phêrô, Giacôbê và Gioan chứng kiến việc Chúa Giêsu biến hình và cùng được dự phần vào việc đàm phán của Chúa với hai tiên tri. Từ đó, chúng ta có thể được dự phần vào việc khổ nạn và cuộc Phục sinh của Chúa trong những ngày sắp tới. Đó là một cách thế chúng ta tham dự trong bất toàn nhân tính, trong con người của Chúa Giêsu và chúng ta cũng sẽ được tham dự vào thiên tính bất diệt của Con Chúa trong ngày tới.
Điểm cuối cùng của biến cố biến hình của Chúa ngày hôm nay không phải chỉ mạc khải cho chúng ta về chương trình hành động của Thiên Chúa trong việc cứu rỗi con người. Biến cố này cho chúng ta thấy ngày lịch sử, nhân loại nhận biết sự xấu hổ của đời sống trần thế và ý nghĩa của sự chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu trong nhiệm vụ cứu rỗi. Biến cố này còn nhắc lại cho chúng ta một cách sống trọn vẹn và những hy sinh cay đắng trong cuộc sống. Chúng ta còn được dự phần trong sự vinh quang của Thiên Chúa là kết quả của việc chay tịnh, thống hối và tha thứ.



(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Trong Phụng Vụ Chúa Nhật thứ hai mùa Chay này, Giáo Hội cho chúng ta chia sẻ phần nào tâm tư của Chúa Giêsu và ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê, là những người đã được Chúa Giêsu kêu gọi đầu tiên và cũng là những người được Chúa Giêsu đem theo vào vườn Giệtsêmani để cầu nguyện trước khi Người bước vào cuộc Thương Khó. Với tâm hồn tinh tế và ưu ái, Chúa Giêsu biết rõ tâm tính của các học trò mình, Người biết họ vốn là những ngư phủ chất phác, nhiệt tình nhưng khá bộp chộp. Họ hăng say đi theo Người, hết lòng cộng tác vào sứ mệnh của Người, nhưng cũng từng có những phản ứng nóng nảy, bộc phát. Trong các câu chuyện kể của Tin Mừng, chúng ta thấy không ít lần Simon Phêrô nhanh nhẩu thay mặt các đồng bạn trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu, cho dù các lời ấy có thể làm Thầy mình buồn lòng. Thậm chí, trong một lần cản ngăn Chúa Giêsu về việc Người sẽ tự nguyện lên Giêrusalem để chịu khổ hình, và Phêrô lúc đó đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng lời như sau: “Satan, lui lại đàng sau Thầy, con cản lối Thầy, vì tư tưởng của con không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà của loài người”. Còn hai ông Gioan và Giacôbê thì cũng bộp chộp không kém, vì tính tình nóng nảy, hai ông đã được Chúa Giêsu đặt biệt hiệu là con của thiên lôi, hai ông đã bị Chúa Giêsu khiển trách vì đã muốn cho lửa từ trời xuống thiêu hủy những người Samari không chịu tiếp đón Người. Vì biết rõ tâm tính của các ông, nên sau khi tiên báo lần thứ nhất về cuộc Thương Khó của mình, Chúa Giêsu đã đem riêng các ông theo Người lên núi cầu nguyện và cho các ông chứng kiến vinh quang của Người. Ngay cả trong bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe đọc hôm nay, ba ông vẫn còn nguyên vẹn tính chất phác của mình, nên khi Chúa Giêsu chuyên tâm cầu nguyện thì các ông lại vô tư nằm ngủ, và Chúa Giêsu vẫn để cho các ông ngủ say. Khi các ông bừng tỉnh thì một khung cảnh huy hoàng đã bao trùm lấy các ông, các ông được chiêm ngưỡng Chúa Giêsu trong vẻ vinh quang sáng lạn của Người, có ông Môisen và ông Êlia xuất hiện để làm chứng rằng Người là Đấng Thiên Sai mà Kinh Thánh đã loan báo. Quá kinh ngạc vì cảnh tượng huy hoàng trước mắt, Phêrô đã nói như trong cơn mê sảng, kế đó ông lại được đám mây biểu hiện sự có mặt của Thiên Chúa bao trùm và được nghe tiếng Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con Yêu Dấu của Ngài.
Khi nghe đoạn kể lại Chúa Giêsu tỏ mình vinh hiển trên đây, chúng ta thấy mình cùng ngây ngất, choáng ngợp trước cảnh tượng thánh thiêng huy hoàng ấy, chúng ta khâm phục các môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê, vì các ông đã được chiêm ngắm vinh quang của Chúa Giêsu. Nhìn lại mình, chúng ta thấy đời sống đức tin của chúng ta sao mà nhạt nhẽo. Chúng ta tin rằng Chúa Giêsu đã Phục Sinh vinh hiển, nhưng dường như Người ở tận trên thiên cung xa vời. Còn chúng ta thì cứ loay hoay mãi với những chuyện đời thường nơi chốn trần gian này. Tâm trạng của chúng ta cứ buồn buồn sao ấy. Thật ra, chúng ta không chỉ mãi quẩn quanh với những thăng trầm thế sự mà thôi. Hiện giờ, Chúa Giêsu cũng quan tâm đến mỗi người chúng ta, như Người đã từng quan tâm đến các môn đệ như Phêrô, Gioan và Giacôbê ngày xưa. Người biết rõ tâm tính của mỗi người chúng ta với những ưu điểm và khuyết điểm của từng cá nhân, bằng những cách thế khác nhau. Qua những sự kiện và những dấu chỉ khác nhau, Người cũng cho chúng ta chia sẻ những giây phút vinh quang, hoan lạc của Người, để tỏ lộ cho chúng ta đại cuộc cứu độ của Người và giúp chúng ta vững bước trên đường sống đạo. Nếu chúng ta không nhận ra những lúc Người tỏ mình như thế, có thể vì chúng ta chưa đủ nhạy bén trong đời sống đức tin, hoặc vì chúng ta không nghĩ rằng mình được Chúa Giêsu ưu ái quan tâm đến thế.
Quả thật, Chúa Kitô Phục Sinh vẫn thường xuyên đến với mỗi người chúng ta dù không rực rỡ ánh hào quang như lúc tỏ lộ cho ba môn đệ ngày xưa, nhưng vẫn đủ để tạo ra những dấu ấn có sức củng cố đức tin của chúng ta. Đại thi hào Tagore đã viết về điều này trong tác phẩm Lời Dâng như sau: “Anh không nghe thấy ư? Bước chân Người thầm lặng. Người tới, tới và luôn luôn thường tới. Người tới, tới và luôn luôn thường tới. Hàng giờ, hàng đêm, hàng ngày, hàng thời đại, anh ơi”.
Lạy Chúa Giêsu, trong cuộc sống đời thường của con, Chúa dùng muôn vàn phương cách để tỏ lộ cho con vinh quang của Ngài, nhưng nhiều lúc con chẳng nhận ra. Xin Chúa ban cho con đôi mắt biết rộng mở, đôi tai biết lắng nghe và tâm hồn biết thinh lặng để nhận ra Chúa. Xin cho con biết lưu giữ những kỷ niệm về những lần con gặp Chúa để mỗi khi gặp cơn sóng gió trong đời, con hồi tưởng lại những kỷ niệm tuyệt vời ấy mà vững tâm sống đạo.



Có một nhà vua đã hỏi các quan đại thần rằng:
- "Trong chiến trận thì cái gì cần nhất?".
Một đại thần trả lời:
- Tâu bệ hạ, cần nhất là lòng dũng cảm.
Nhà vua liền hỏi:
- Thế còn sức mạnh và vũ khí? Nhà ngươi quên à?
Vị quan nói:
- Tâu bệ hạ, nếu người lính đã không có tinh thần dũng cảm thì sức mạnh và vũ khí của anh ta cũng chẳng giúp được tí gì.
Thực vậy, lòng dũng cảm sẽ giúp chúng ta vượt qua khó khăn. Lòng dũng cảm sẽ giúp chúng ta không bỏ cuộc trước nghi nan. Giữa giòng đời chúng ta đang sống đâu mấy khi bình yên! Sóng gió luôn làm cho cuộc đời đong đầy những nghi nan. Người không có lòng dũng cảm sẽ khó có cơ hội vươn lên. Người không có lòng dũng cảm sẽ bất lực buông xuôi mặc cho giòng đời đẩy đưa.
Những khó khăn, những thử thách theo ky-tô giáo chính là những thập giá trong cuộc đời. Thập giá cuộc đời như bóng với hình hòa quyện vào trong cuộc sống chúng ta. Thập giá trong bổn phận phải thi hành. Thập giá trong hy sinh từ bỏ những đam mê bất chính. Thập giá trong hy sinh để phục vụ anh em. Thập giá đôi khi đưa đến bất ngờ như những nghịch cảnh xảy đến trong cuộc đời. Thập giá quá nặng, nhưng sức người lại yếu đuối. Đó chính là một cám dỗ khiến chúng ta đôi khi muốn trốn chạy thập giá hay giũ bỏ để tìm sự nhàn rỗi cho bản thân.
Có lẽ, chính trong hành trình đầy cam go của giòng đời này. Giáo Hội cho chúng ta chiêm ngắm cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi Tabor. Chúa Giêsu đã tỏ rõ dung nhan của một vì Thiên Chúa quyền năng. Ngài muốn dùng thứ ánh sáng từ trên núi cao ấy để chiếu rọi vào cuộc tử nạn mà Ngài sắp trải qua, cũng như chính nỗi hoang mang lo sợ của các môn đệ khi Ngài loan báo cái chết... Đau khổ làm cho con người sợ hãi, nhưng Chúa bảo "phải qua đau khổ mới tiến tới vinh quang". Cái chết đó là nỗi sợ hãi tột cùng của con người. Nhưng Chúa bảo đừng sợ, vì sau ba ngày chôn cất trong mồ Ngài sẽ sống lại. Vì Ngài là Thiên Chúa của kẻ sống. Nơi Ngài có sự sống đời đời. Trên núi Tabor, Chúa Giêsu cho ba môn đệ nếm trước sự sống thần linh vinh quang của Chúa để thêm sức cho các ông, nhờ đó mà vượt qua những thập giá gian truân. Chính nhờ ánh sáng trên núi Tabor, sẽ giúp cho các ông can đảm đón nhận từng đớn đau, thử thách trong cuộc sống với tinh thần lạc quan, phó thác, chấp nhận và hân hoan.
Cuộc đời luôn có khó khăn, nhưng lại luôn mở ra những lối đi để chúng ta vượt qua. Khó khăn nào cũng sẽ qua đi. Sau bóng đêm là ánh bình minh. Chúa mời gọi chúng ta hãy can đảm đi vào thử thách với niềm tín thác vào Chúa. Chúa mời gọi chúng ta hãy can đảm vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa. Thập giá là nhịp cầu đưa ta tới vinh quang Nước Trời. Chính Chúa Giêsu đã đi trước trên con đường thập giá. Chính Chúa đã đi qua thập giá để tiến vào vinh quang phục sinh. Chính Chúa vẫn đang chờ đợi để trao phần thưởng Nước Trời cho những ai trung tín theo Ngài.
Người ta kể rằng: Một hôm, có một bác nông dân có một chú lừa chẳng may bị lọt xuống một cái giếng cạn. Chú lừa tội nghiệp kêu la thảm thiết cả buổi mà bác chẳng biết làm cách nào đưa nó lên. Cuối cùng bác nông dân nghĩ rằng chú lừa đã già lắm rồi, thôi thì đành lấp giếng đi vậy. Hơn nữa, một con lừa cũng chẳng đáng bao nhiêu. Nghĩ thế bác liên gọi hàng xóm giúp bác một tay.
Tất cả mọi người hè nhau lấy xẻng xúc cát đổ xuống giếng. Lúc đầu, chú lừa hiểu chuyện gì đang xảy ra với mình nên la hét khủng khiếp. Rồi bỗng dưng lừa ta im lặng khiến mọi người ngạc nhiên. Sau khi đổ đất được một hồi, bác nông dân nhìn xuống và kinh ngạc vô cùng trước những gì mình thấy: cứ một lớp đất đổ xuống lưng mình, nó giũ lớp cát xuống và giẫm chân lên. Khi mọi người tiếp tục đổ xuống đầu con vật, nó lại giũ lớp cát và giẫm chân lên một bước nữa. Cứ thế, cứ thế. Chẳng bao lâu con vật đã leo lên được thành giếng và bước ra ngoài trước sự sửng sốt của mọi người.
Cát bụi cuộc đời luôn đổ xuống trên chúng ta, như muốn nhậm chìm cuộc đời chúng ta. Nhưng vẫn còn có một cách để thoát khỏi chúng là giũ bỏ lớp cát và bước lên chúng mà đi. Bởi đâu ai muôn mình mãi là chú lừa mắc cạn mãi đâu! Cuộc sống luôn có thập giá nhưng Chúa bảo phải qua đau khổ mới tới vinh quang. Đừng thất vọng than van trước khó khăn cuộc sống, nhưng hãy kiên nhẫn vượt qua. Đừng bi quan về những gì đang diễn ra chung quanh cuộc sống chúng ta, vì Chúa bảo sau đêm dài là ánh bình minh. Hãy can đảm đứng lên từ trong khó khăn vì phẫn thưởng chiến thắng đang chờ chúng ta phía trước. Hãy như con lừa biết trút bỏ mọi lo âu để tâm hồn được thảnh thơi, được nhẹ nhõm để bước theo Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta biết đón nhận thập giá trong đời sống của mình với hai tiếng xin vâng. Xin cho chúng ta cùng đi với Chúa trong cuộc khổ nạn để mai sau cùng được chia sẻ vinh phúc vinh quang trên trời. Amen.



(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Năm 1982, các nữ tu Dòng Con Đức Bà Phù Hộ, quen gọi là Dòng nữ Salêsiên ở Cáp bên Haiti, muốn thuê nhà điêu khắc Pêrikhêt làm một cây thánh giá lớn để đặt trong nhà thờ mới của các chị. Nhưng lúc đó, ông Pêrikhêt đã bị ung thư nặng.
Các chị nhờ một nữ tu cùng dòng đến gặp nhà điêu khắc để nói về ý định này. Hôm đó viên bác sĩ của ông cũng có mặt, ông nói với chị nữ tu:
- Lẽ ra chỉ phải đến đây sớm hơn. Rất tiếc là bây giờ căn bệnh ung thư của ông Pêrikhêt đã quá nặng rồi. Im một lát, bác sĩ quay sang nói với nhà điêu khắc:
- Ông là người có đức tin, vậy ông cứ tiếp tục hy vọng dù có điều gì xảy ra đi nữa.
Từ ngày đó, nhà điêu khắc Pêrikhêt chẳng muốn cầm bút để rèn tác phẩm nghệ thuật nào nữa.
Vài ngày sau, một nữ tu lại đến gặp ông và năn nỉ:
- Ông Giovani Pêrikhêt à, các nữ tu ở nhà thờ mới tại Cáp mong muốn ông làm cho các chị ấy một cây thánh giá thật đẹp, dài hai mét. Họ biết tài năng của ông mà. Trước khi trả lời dứt khoát cho họ, tôi muốn hỏi ý kiến ông một lần nữa.
Nhà điêu khắc trầm ngâm suy nghĩ và cầu nguyện, rồi ông bình thản nói với chị nữ tu:
- Tôi xin nhận lời. Cây thánh giá này sẽ là tác phẩm cuối cùng, tôi sẽ làm cây thánh giá nầy để chuẩn bị chết, và xin Chúa thương xót tôi.
Thế là nhà điêu khắc bắt tay vào công việc với tất cả tâm hồn của một người mong gặp được Chúa Giêsu. Đây thật là một công việc nặng nhọc vì bệnh tình của ông. Nhưng ông cảm thấy một điều thật lạ lùng, mỗi nhát búa đập trên thanh sắt nóng đỏ, thay vì làm cho ông mệt mỏi thêm, thì lại làm cho ông cảm thấy như được bồi dưỡng sinh lực trở lại. Ông tiếp tục làm việc ngày qua ngày, và khi ông hoàn thành cây thánh giá thật đẹp, ông cảm thấy như khoẻ hẳn. Chúa Giêsu đã giải thoát ông khỏi căn bệnh quái ác.
Ngày nay, cây thánh giá do ông thực hiện vẫn còn được treo ở nhà thờ thánh phố Cáp và tiếp tục thu hút nhiều tín hữu: người lành mạnh cũng như kẻ yếu đau đến kính viếng thường xuyên.
Anh chị em thân mến,
Nhà điêu khắc Giovani Pêrikhêt tưởng rằng cây thánh giá ở nhà thờ thành phố Cáp ấy sẽ là tác phẩm cuối cùng. Ông dùng cây thánh giá ấy để chuẩn bị chết. Nhưng với niềm tin và lòng hăng say rèn cây thánh giá, Pêrikhêt đã được Chúa thương cách đặc biệt và chữa cho khỏi bệnh ung thư. Đó là hình ảnh ơn cứu độ mà Thánh giá Chúa Kitô đã, đang và sẽ còn đem đến cho nhân loại. Chính vì để củng cố niềm tin của chúng ta vào ơn cứu độ và niềm hy vọng vào sự sống vinh quang ngang qua mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Kitô, mà hằng năm, vào Chúa Nhật 2 Mùa Chay, phụng vụ Giáo Hội cho nghe bài đọc Tin Mừng tường thuật cuộc biến hình vinh quang của Chúa Giêsu, nhờ đó người Kitô hữu ý thức rằng sự Chết và Phục Sinh, thập giá và vinh quang là hai mặt của cùng một thực tại cứu độ không thể tách rời nhau. Vinh quang mà không có khổ nạn chỉ là vinh quang của thế tục, sẽ nhạt nhoà theo năm tháng; ngược lại, khổ nạn mà không có vinh quang thì vô nghĩa và là một thất bại hoàn toàn. Do đó, sống tinh thần Mùa Chay có nghĩa là gắn bó chặt chẽ với cái Chết và sự Phục Sinh của Đức Kitô: chết đi cho con người cũ và tội lỗi, chết đi cho con người đối nghịch với Thập giá để cùng sống lại với Đức Kitô, Đấng có thể “biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài” (Bđ. 2)/
Đây chính là một quá trình lột xác đầy gian khổ nhưng cũng tràn ngập vinh quang mà sự kiện Chúa biến hình được gợi lại trong Chúa nhật hôm nay, đã trở nên như một lời loan báo và một lời động viên khích lệ tín hữu. Loan báo điểm tới là Phục Sinh đang ở phía trước, đồng thời động viên khích lệ người Kitô hữu hãy can đảm tiếp tục cuộc hành trình dù lắm gian nan.
Để có thể trung thành bước theo con đường Chúa Giêsu đã sống và vạch ra, người Kitô hữu không thể coi nhẹ hay dửng dưng với tâm tình cầu nguyện. Chính trong giây phút cầu nguyện, chìm sâu trong cuộc gặp gỡ ân tình với Chúa Cha, Chúa Giêsu đã đón nhận kế hoạch cứu độ của Cha như lẽ sống của đời mình, đây cũng là lúc Ngài biến hình vinh quang; được tỏ lộ khi Ngài chấp nhận cái chết như một phương thế tuyệt hảo để tỏ lòng vâng phục Cha và yêu thương nhân loại đến nỗi hiến dâng chính mạng sống mình. Vì thế, trong cuộc sống còn lắm vất vả bon chen và không hề thiếu vắng những cạm bẫy thử thách hôm nay, chỉ có sự chuyên cần cầu nguyện, thường xuyên đón nhận ánh sáng soi dẫn, và sức mạnh đỡ nâng của Chúa, người Kitô hữu mới thoát khỏi sự hoang mang sợ hãi hay trạng thái mê ngủ, trốn tránh thực tại trần thế với những bổn phận và trách nhiệm phải thi hành. Đành rằng quê hương vĩnh cửu ở trên trời nhưng đường lên trời lại khởi đi từ mặt đất, từ chính cuộc sống mà chúng ta phải xây dựng và làm cho phát triển mỗi ngày.
Anh chị em thân mến,
Một khi đã chiêm ngưỡng Đức Giêsu Kitô trên núi biến hình như Phêrô, Giacôbê và Gioan rồi, thì việc còn phải làm là đi theo Ngài trên con đường khiêm tốn phục vụ anh em và không vắng mặt trên các nẻo đường tiến lên đỉnh Golgotha, những nẻo đường đau thương và tử nạn thập giá với Ngài, với niềm xác tín rằng Đức Kitô Phục Sinh sẽ chia sẻ vinh quang cho các tín hữu trung thành.
Ước gì Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa chúng ta lãnh nhận trong thánh lễ hôm nay sẽ bổ sức, giúp chúng ta mạnh mẽ bước vào lòng đời để sống cho Chúa và hiến mạng vì anh em trong một cuộc sống lắm hy sinh gian khổ, nhưng cũng không kém vinh quang, vinh quang thấp thoáng hôm nay sẽ bộc lộ trọn vẹn mai sau.



(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Đây là một trụ mốc khác trong cuộc đời Chúa Giêsu. Chúng ta nên nhớ rằng Ngài đang sửa soạn lên Giêrusalem và lên thập giá. Chúng ta đã chiêm ngưỡng giờ phút quan trọng khi Ngài hỏi các môn đệ xem họ nhận thức Ngài là ai để Ngài khám phá xem ai có hiểu được Ngài chưa. Nhưng có một điều Chúa Giêsu không bao giờ làm –Ngài không bao giờ thực hiện điều gì nếu không được sự chấp thuận của Chúa Cha. Trong khung cảnh này, đó là điều mà chúng ta thấy Ngài đang tìm kiếm và đang nhận lãnh. Những gì xảy ra trên Núi Biến Hình, chúng ta không bao giờ có thể biết được, chỉ biết rằng có một sự lạ lùng đáng sợ đã xảy ra. Chúa Giêsu đã đi đến đó để tìm kiếm sự chấp thuận của Chúa Cha cho bước quyết định mà Ngài sắp thực hiện. Tại đó có Môsê và Êlia hiện đến với Ngài, Môsê là nhà lập pháp lớn nhất của dân tộc Do Thái. Êlia là người lớn nhất trong các ngôn sứ. Việc này chẳng khác nào các thủ lãnh của dân Israel về đời sống, về tư tưởng, về tôn giáo cùng đến bảo Chúa Giêsu cứ tiến bước. Bây giờ Chúa Giêsu có thể tiến lên Giêrusalem vì biết rằng có một nhóm người đã hiểu biết Ngài là ai, biết công việc Ngài đang làm gồm tất cả đời sống, tư tưởng và hành động của dân tộc Ngài, và biết rằng Chúa Cha đã ưng thuận bước đường Ngài đang đi.
Có một câu rất linh động ở đây, câu này đề cập đến ba vị tông đồ, “khi tỉnh dậy, các ông đã nhìn thấy vinh quang của Chúa Giêsu”.
1. Trong cuộc sống, chúng ta mất mát quá nhiều vì tâm trí chúng ta mê ngủ. Có nhiều điều thường làm cho trí chúng ta mê ngủ.
a. Thành kiến. Chúng ta có thể bị đóng khung trong tư tưởng đến nỗi trí chúng ta khép kín lại. Một ý tưởng mới đến gõ cửa lòng chúng ta, nhưng như người ngủ mê, chúng ta không muốn thức dậy.
b. Tê liệt tâm hồn. Nhiều người không thích cố gắng suy nghĩ. Plato nói “Một đời sống thiếu suy nghĩ là một cuộc đời không đáng sống”. Nhưng mấy ai trong chúng ta chịu khó suy nghĩ mọi việc cho đến cùng? Đôi khi chúng ta lười biếng đến nỗi không còn muốn đối diện với các vấn đề và các nghi hoặc của mình.
c. Thích an toàn. Có một thứ tinh thần tự vệ trong chúng ta khiến chúng ta tự nhiên đóng cửa lòng lại trước bất cứ tư tưởng rắc rối nào. Người có thể phục thuốc mê cho tâm trí mình tới độ nó ngủ say.
2. Nhưng đời sống cũng chứa đầy những sự việc có tính chất làm tỉnh thức chúng ta.
a. Sự đau buồn. Elgar đã nói về một ca sĩ trẻ tuổi, có tài năng, nhưng thiếu sức truyền cảm trong giọng ca: “Nàng sẽ nổi tiếng như cồn khi nào có một biến cố khiến lòng nàng tan vỡ”. Thường nỗi đau buồn có thể làm con người sực tỉnh, lúc ấy, qua mắt, người đó sẽ thấy được vinh hiển.
b. Tình yêu. Browing viết về hai người phải lòng nhau. Nàng nhìn chàng, chàng nhìn nàng bằng trái tim chan chứa tình yêu “và bỗng nhiên đời sống bừng tỉnh dậy”. Tình yêu thật khiến chúng ta thức tỉnh trước những chân trời mới mà chúng ta chưa bao giờ mơ tưởng đến.
c. Sự cảm biết nhu cầu. Có thể có một người đã sống khá lâu trong thói quen, nên đã như nửa tỉnh nửa mê, thế rồi bỗng đâu xảy đến trong đời người đó nan đề, một vấn nạn không thể giải đáp, một cám dỗ không thể lướt thắng, một tiếng gọi vượt xa quá khả năng mình. Lúc đó, người ấy không còn biết làm gì hơn là “kêu khóc nắm lấy vạt áo trời”. Và sự cảm biết nhu cầu như vậy thức tỉnh người đó đến với Chúa. Chúng ta phải cầu nguyện rằng “Lạy Chúa xin giữ con luôn tỉnh thức với Ngài”.



Ở phần cuối những đoạn nói về cuộc thương khó lần nhất, Đức Kitô đã nói rõ rằng trong số những kẻ hiện diện, có một vài người không nếm biết cái chết trước khi thấy nước Thiên Chúa. Giờ đây điều ấy được thực hiện.
1. Đức Kitô biến hình
Đức Kitô đã biến hình trên núi: y phục và dung nhan Ngài biến đổi hoàn toàn. Nhờ vinh quang chói ngời của Thiên Chúa mà y phục và dung nhan Ngài nên sáng chói; Môisen và Êlia (biểu hiệu cho lề luật và tiên tri), cùng là nhân chứng sự việc.
Việc biến hình này là sự tỏ hiện trong vinh quang Ngài cách hữu hình và thoáng qua nước Thiên Chúa. Lúc ấy, trong nước này, Cựu ước và Tân ước đều dự phần vào sự uy nghi của Chúa Kitô. Ánh sáng tràn ngập mọi nơi tăm tối, mọi khổ đau đều tan biến trong ánh vinh quang ấy.
Nhưng ở đây chưa phải là tình trạng vĩnh cửu mà chỉ là một sự chuẩn bị cho cuộc khổ nạn và thập giá vì các vị trên nói đến ‘việc ra đi Ngài sắp hoàn tất tại Giêrusalem’. Chỉ sau khi phục sinh và thăng thiên thì cuộc biến hình ấy mới kéo dài trường cửu. Bây giờ nó giống như một tiền xướng của một Thánh vịnh một loé sáng bất ngờ vụt tới từ xa, như một chặng nghỉ của cuộc hành trình đi về cái chết và như sự mặc khải nhãn tiền về những gì sắp xẩy ra.
2. Các môn đệ.
Ở đây ta lại thấy ba tông đồ đã chứng kiến việc phục sinh con gái Giarô. Khi ấy, họ chứng kiến việc chiến thắng sự chết, còn ở đây, họ được chiêm ngắm sự biến hình theo sau đó; và họ đã quá sung sướng đến nỗi Phêrô muốn dựng lều và chỉ muốn kéo dài cái phút giây mau qua ấy.
Nhưng họ thiếu bước dứt khoát, bước đi trong đám mây. Vì một đám mây bao phủ Chúa và cả hai chứng nhân kia nữa. Đám mây này biểu hiệu sự tối tăm mà họ phải vượt qua và đồng thời biểu hiệu mầu nhiệm của Thiên Chúa mà chỉ cái chết mới mở cửa bí mật ấy được. Nên cuộc biến hình thiết yếu thuộc về tương lai.
Đức tin là sức mạnh sẽ dẫn đến mục tiêu vinh quang ấy qua con đường đau khổ. Điều này giải thích lời: ‘Ngài là Con Ta, Kẻ Ta đã chọn, các ngươi hãy nghe Ngài’. Vấn đề là các môn đệ phải lắng nghe sứ điệp về cuộc khổ nạn ấy, dầu họ nghe mà không hiểu. Đấng Cứu Thế dù tự tỏ mình là Đầy Tớ đau khổ của Giavê, nhưng lại thực là Con Thiên Chúa, là Kẻ được chọn. Đấy là lý do cho thấy, điều cốt yếu là phải lắng nghe lời tiên báo kỳ lạ đó.
Đoạn này trong Kinh Thánh kết thúc cách đầy ý nghĩa bằng một câu đơn giản: ‘Trong khi tiếng phát ra, thì chỉ còn gặp một mình Đức Giêsu ở đó’. Ánh sáng tan đi, sự chói sáng mờ tối, tiếng nói cũng hết. Chỉ có đức tin mới nói được Đức Giêsu là Ai, Ngài uy nghi làm sao, và Ngài tiến tới vinh quang nào. Các môn đệ bùi ngùi và xao xuyến; họ im lặng giữ kín bí mật.
Bởi thế, trong khung cảnh đặc biệt này, ánh sáng và tối tăm, rạng rỡ và khổ đau, sống đời đời và sống tạm gửi, phương tiện và mục tiêu, vĩnh cửu trong vinh quang và hạn hẹp trong đau khổ, lời Thiên Chúa và sự lặng im của con người, đều hoà nhập vào nhau bền chặt. Từ đây, đời sống Chúa Kitô nơi trần gian cũng diễn ra như thế. Tức là thiết yếu phải bước đi trong cảnh tranh tối tranh sáng, nhưng luôn hướng về ánh sáng đang loé lên ở đầu đường.
Đó là sự hiểu biết trong âm thầm một mầu nhiệm cao cả, nhưng lúc quyết định, chỉ xẩy ra trong tương lai.



Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta nhận thấy Chúa Giêsu đưa ba môn đệ thân tín lên đỉnh Taborê, một ngọn núi cao khoảng 600 thước, và cho các ông được chiêm ngưỡng vinh quang rực rỡ của Ngài, cũng như một ngày kia cho các ông được chứng kiến cơn hấp hối thương đau của Ngài trong vườn Cây Dầu.
Nhìn vào cuộc đời của Chúa Giêsu, chúng ta thấy đau khổ và vinh quang luôn gắn liền với nhau. Thực vậy, mỗi khi loan báo về cuộc khổ nạn, Ngài đều nói:
- Con Người sẽ bị nhiều khổ đau, sẽ bị giết chết nhưng sau ba ngày sẽ sống lại.
Trong những lời giảng dạy, Ngài cũng cho biết như thế:
- Hạt lúa có mục nát đi thì mới đem lại nhiều bông hạt.
- Người đàn bà khi sinh nở thì đau đớn, nhưng sau đó sẽ mừng vui vì đã đem lại cho đời một người con.
Và sự thực đã xảy ra như vậy. Chính Ngài đã phải trải qua những khổ đau của ngày thứ sáu tuần thánh, để rồi mới có được vinh quang của ngày Phục sinh. Chính vì thế, chúng ta có thể xác quyết:
- Đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới Phục sinh.
Nếu Chúa Giêsu đã đi con đường đau khổ, con đường thập giá để tiến tới vinh quang Phục sinh, thì chúng ta, những người môn đệ của Ngài, muốn tiến tới vinh quang, muốn tiến tới Phục sinh thì cũng không có một con đường nào khác ngoài con đường đau khổ, ngoài con đường thập giá.
Thực vậy, giáo lý nhà Phật đã bảo:
- Đời là bể khổ, mà mỗi người chúng ta là như một cánh bèo trôi dạt trên đó.
Trong khi đó chúng ta lại bảo đời là một thung lũng nước mắt, như trong kinh Lạy Nữ Vương chúng ta vốn thường đọc:
- Chúng con ở nơi khóc lóc than thở.
Đứng trước vấn đề đau khổ, nhiều người đã chán nản và tuyệt vọng để rồi xa lìa Chúa, nhiều người đã phẫn uất để rồi chống đối Chúa. Nếu Thiên Chúa là Đấng nhân từ tại sao Ngài lại để cho tôi phải khổ đau? Thái độ này không giải quyết được gì hết, bởi vì đau khổ chúng ta vẫn phải chịu và nó còn trở nên nguyên nhân gây nên những bực bội và tức tối, những thất vọng và buồn phiền.
Với chúng ta, những người có đức tin thì khác, chúng ta luôn vui mừng và hy vọng, bởi vì đau khổ và thập giá sẽ là như những hạt giống nảy sinh ra cuộc sống vĩnh cửu. Chúng ta không dừng lại ở những đau khổ với thái độ bi quan. Trái lại, chúng ta sẵn sàng chấp nhận khổ đau, và hơn thế nữa, chúng ta chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa, bởi chúng ta biết rằng sau những khổ đau, sau những thập giá là vinh quang của sự phục sinh. Cũng như sau cơn mưa trời lại sáng, sau mùa đông lạnh giá là mùa xuân nắng ấm.
Chúng ta hãy dâng lên Chúa những vất vả và khổ đau, những buồn phiền và cay đắng trong cuộc sống, vì mỗi hy sinh sẽ là một góp phần nhỏ bé của chúng ta vào vào thập giá Đức Kitô, nhờ đó, chúng ta sẽ được chia sẻ phần vinh quang Phục sinh với Ngài.



Giáo hội mời gọi chúng ta suy niệm về biến cố Chúa Giêsu biến hình, đặc biệt riêng cho ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan.
Biến cố Chúa Giêsu biến hình được thánh Luca kể lại liền sau những lời Chúa Giêsu mạc khải cho các tông đồ về cuộc thương khó mà Ngài sẽ phải chịu tại Giêrusalem và những lời Chúa loan báo về con đường thương khó mà những đồ đệ của Chúa phải đi qua: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta”.
Những lời loan báo này có thể làm cho các tông đồ lúc đó chưa hiểu thấu về con người và sứ mạng của Chúa, làm cho các ông phải ngã lòng, nên biến cố Chúa Giêsu biến hình liền sau đó có thể hiểu như là một hồng ân đặc biệt Chúa cho các tông đồ và không phải cho tất cả, nhưng chỉ cho một nhóm nhỏ, cho những ai mà Ngài muốn mà thôi. Và để củng cố lòng tin của họ vào Thiên Chúa, Phúc âm thánh Luca ghi lại biến cố Chúa Giêsu biến hình như sau: Khoảng tám ngày sau khi nói những lời ấy, tức là những lời: “Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta… và Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện”.
Thân phụ của văn hào nổi tiếng người Anh là André Possa thuộc Hàn lâm viện Pháp là một người bạn thân của Đức Thánh Cha. Ông đã hơn một lần tự kiêu và tự mãn công bố: “Nếu có Thiên Chúa thì tôi khuyên ông ấy rút đi, vì không ai thích ông ấy nữa cả “. Rồi chính André Possa sau này trong cuộc đời thanh xuân cũng đã là thành viên của đảng cộng sản Pháp. Nhưng một hôm ông được đánh động bởi sự hiện diện của Thiên Chúa, nói được là đã gặp được Thiên Chúa biến hình trong cuộc đời ông, nên ông đã ăn năn trở lại và sốt sắng tuyên bố: “Thiên Chúa hiện hữu, tôi đã gặp Ngài”.
Lời tuyên xưng này trở thành bất hủ vì được chính văn hào André Possa chọn làm tựa đề cho tập sách tự thuật kể lại chính đời sống và cuộc trở lại nổi tiếng của mình: “Thiên Chúa hiện hữu. Tôi đã gặp Ngài”. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho tờ báo Paris số phát hành ngày 8.3.1988, André Possa đã nói về cuộc gặp gỡ Thiên Chúa của mình như sau: Khi người ta may mắn gặp được Thiên Chúa thì mọi sự khác chỉ là trò hề. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng không làm cho tôi thất vọng.
Chúng ta đã trải qua hơn một tuần lễ của mùa chay, đây chính là thời gian của ân sủng, của sự gặp gỡ Thiên Chúa, của sự canh tân đời sống. Nhưng trong thực tế, đôi khi chúng ta có thể có thái độ kiêu ngạo như thân phụ của văn hào André Possa mời Thiên Chúa đi chơi chỗ khác, mời Thiên Chúa rút lui khỏi cuộc sống của chính mình. Đó là những lúc chúng ta sống không theo lời dạy của Chúa mà theo cái bụng, theo cái lợi lộc ích kỷ của mình. Đó là nếp sống mà thánh Phaolô tông đồ phải buồn sầu mà nói ra với các tín hữu Philipphê sống nghịch lại với thập giá của Chúa Kitô, sống theo mệnh lệnh của cái bụng, của điều lợi lộc vật chất nghịch lại thập giá, sống trong tội lỗi.
Xin Chúa nhân từ cho chúng ta nhận ra được ân sủng của Ngài. Xin Ngài hãy đến đưa chúng ta lên núi và cho chúng ta nhìn thấy Chúa Giêsu Kitô biến hình như là Thiên Chúa vinh quang và đồng thời như là Đấng chịu treo trên thập giá để cứu chuộc con người. Xin cho chúng ta được gặp Chúa và khiêm tốn thốt lên như văn hào André Possa: “Thiên Chúa hiện hữu. Tôi đã gặp Ngài, và chứng minh rằng ta đã gặp Ngài bằng một đời sống thánh thiện. Lắng nghe lời dạy của Thiên Chúa, mệnh lệnh duy nhất Thiên Chúa Cha truyền cho ba tông đồ trong biến cố Chúa Giêsu Kitô biến hình trước mặt các tông đồ đó là: “Đây là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng”.
Một đời sống vâng phục Thiên Chúa, lắng nghe Chúa nói, đọc Kinh thánh, đọc và suy niệm Lời Chúa hằng ngày, chúng ta hãy để cho chính Lời Chúa biến đổi cuộc sống của mình. Chúng ta thử xét mình xem tôi đã đọc Lời Chúa như thế nào? Tôi đã gặp được Thiên Chúa Cha chưa? Xin Chúa thương đến với chúng ta và cho phép chúng ta được gặp Chúa để canh tân đời sống mình trở về với Chúa và với anh chị em xung quanh.



Lời kêu mời của Giáo hội hướng chúng ta sống chay tịnh trong mùa chay này đã bắt đầu được hai tuần lễ. Trong hai tuần lễ vừa qua, chúng ta cũng đã chuẩn bị tâm hồn mình để trở về với Chúa. Dấu hiệu đầu tiên của sự trở về đó là sự tha thứ. Chúng ta không thể nào tha thứ được, nếu chúng ta không có sự khiêm nhường trong đời sống. Trong thánh lễ này chúng ta hãy hợp ý với nhau để xin Chúa cho chúng ta biết sống chay tịnh, biết bắt chước những ngày chay tịnh của Chúa trước khi Chúa dâng hiến chính mình Ngài để cứu chuộc chúng ta. Chúng ta đang ở vào Chúa nhật thứ II Mùa chay, chúng ta đã khởi sự mùa chay thánh này vào ngày thứ tư lễ tro. Điều gì chúng ta đã làm trong ngày thứ tư lễ tro này? Thưa rằng, chúng ta đã để cho vị đại diện của Giáo hội xức tro lên trên đầu của chúng ta với dấu hiệu là chúng ta từ bụi đất sẽ trở về đất bụi. Qua bài Phúc âm Chúa nhật thứ I mùa chay tuần qua, chúng ta đã nghe về cuộc hành trình của Chúa Giêsu trong sa mạc với những cám dỗ mà Ngài đã phải đương đầu. Những cám dỗ này chính là hình ảnh của những quyến dũ ma quỉ sẽ đặt trước chúng ta trong những ngày chay tịnh này khi chúng ta sống trong bầu khí của mùa chay. Việc Chúa Giêsu biến hình trước sự hiện diện của Phêrô, Gioan và Giacôbê trong bài Phúc âm hôm nay giúp chúng ta khám phá ra được một sự thực, sự thực đó được diễn tiến như sau: Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. Cứ như cách diễn tả của thánh sử Luca chúng ta có thể thấy rằng, biến cố xảy ra vào lúc ban đêm, vì như chúng ta biết là sau khi giảng dạy và làm các phép lạ, Chúa Giêsu thường đi vào các nơi thanh vắng để cầu nguyện, ăn chay và nhất là căn cứ vào thái độ của các môn đệ khi sự việc xảy ra, đó là việc Phêrô và hai bạn của ông đang ngủ. Dù cho ban đêm, bài Phúc âm đồng hoá với bóng tối được diễn tả ở đây có thể biểu hiện cho khuynh hướng xấu để hiểu cho phần bóng tối trong tâm hồn của mỗi con người. Nó cũng là một trong những điều được thánh Luca diễn tả khiến cho quang cảnh dễ gây xúc động hơn cho người đọc. Đang khi cầu nguyện, diện mạo Chúa Giêsu biến đổi khác thường, ánh sáng chói loà, nhưng Ngài vẫn là Ngài, Ngài vẫn là Chúa Giêsu Con của Thiên Chúa Cha. Có khác chăng chỉ là diện mạo và sự biến đổi xung quanh, một quang cảnh huy hoàng của cuộc đàm đạo của Chúa Giêsu với Elia và Môisen đến nỗi khi được chứng kiến và chiêm ngắm, các môn đệ hốt hoảng như trong một cơn mê sảng: “Lạy Thầy, nếu chúng tôi được ở đây thì tốt lắm, tôi sẽ dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Elia và một cho Môisen”. Quả thực, ba môn đệ đã được diễm phúc chứng kiến cuộc đàm đạo trong vinh quang của Thầy Chí Thánh. Khi đề cập đến biến cố này, các thánh sử khác chỉ nói rằng, cái chết của Chúa Giêsu thực hiện tại Giêrusalem, một cái chết không phải là kết thúc chương trình của ơn cứu chuộc, nhưng là một cái chết để sống lại trong vinh quang. Trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa thì sự chết, sự sống lại và lên trời của Chúa Giêsu Kitô là sự vinh quang của Thiên Chúa vẫn thể hiện trong chính cái sinh hoạt là ăn năn, tha thứ trong 40 ngày chay tịnh. Lời phán từ trong đám mây minh chứng rằng, qua những điều này, Chúa Giêsu Người đã lãnh nhận và thánh hoá Bí tích Rửa tội nơi sông Giócđan để trao ban cho chúng ta. Ngài là Con Thiên Chúa, là Con của Thiên Chúa nói với nhân loại và nhân loại hãy đón nhận Ngài. Chúng ta hãy cùng với thánh Phêrô và hai bạn ông chứng kiến việc Chúa Giêsu biến hình và cùng được dự phần vào việc đàm phán của Chúa với hai tiên tri. Từ đó, chúng ta có thể được dự phần vào cuộc Phục sinh của Chúa trong những ngày sắp tới. Đó là một diễm phúc, chúng ta tham dự trong bất toàn của nhân tính trong con người của Chúa Giêsu, để rồi chúng ta mới được tham dự vào nhân tính bất diệt là làm con Chúa trong ngày phán xét. Biến cố biến hình của Chúa Giêsu không chỉ là mạc khải cho chúng ta nhận biết được ơn cứu chuộc của Thiên Chúa trong việc cứu rỗi con người. Nhưng biến cố này còn cho chúng ta thấy tính cách của nhân loại, tính cách tối hậu của đời sống hạn chế và ý nghĩa của sự chết và sự Phục sinh trong nhiệm vụ cứu rỗi. Biến cố biến hình còn nhắc nhở và vạch sẵn cho chúng ta một cách sống trong mùa chay. Đi sâu vào chay tịnh của mùa chay thánh, chúng ta cần phải nổi bật trong sự vinh quang của Thiên Chúa là nhờ vào việc chay tịnh và thống hối của chúng ta. Anh chị em chúng ta hãy cầu nguyện nhiều cho nhau để sao cho mỗi người sống xứng đáng với ý nghĩa trong mùa chay thánh này.



Mỗi năm, vào Chúa nhật thứ II Mùa chay, Giáo hội cho chúng ta nghe đọc đoạn Tin Mừng về việc Chúa Giêsu hiển dung trên núi Tabor. Hiển dung là thế nào? Là thay đổi hình dạng. Chúa tỏ hình dạng Thiên Chúa, Chúa bộc lộ thần tính của Ngài cho các môn đệ thấy. Nói một cách đầy đủ và đúng nghĩa là Chúa Giêsu để cho rạng sáng lên trong giây lát cái vinh hiển của “hình dạng” Thiên Chúa, đã bị che giấu đi trong cái “hình dạng” con người của Ngài. Vì thế, Tin Mừng cho biết: ba môn đệ đã thấy “vinh quang” của Ngài.
Đó là ý nghĩa của việc hiển dung. Còn mục đích của việc hiển dung là gì? Có hai mục đích: Thứ nhất, Chúa Giêsu tỏ ra cho các môn đệ thân tín và mọi người biết rõ ràng Ngài là Thiên Chúa làm người. Bởi vì người Do thái nói chung và nhất là các môn đệ, đã sống gần Chúa ba năm rồi, đã nghe biết bao lời Chúa giảng dậy, và đã chứng kiến nhiều phép lạ Chúa làm, nhưng họ vẫn chỉ thấy Ngài là một người như mọi người khác, họ không thấy chân tướng đích thực của Ngài. Hôm nay, qua sự kiện hiển dung, Chúa cho họ thấy rõ Ngài là vinh quang của Thiên Chúa, là Thiên Chúa vinh quang.
Mục đích thứ hai là để củng cố đức tin của các môn đệ. Bởi vì Chúa thấy các ông quá sợ đau khổ, không muốn chấp nhận cuộc khổ nạn của Ngài, nên Chúa đã hé mở vinh quang của Nước Thiên Chúa cho các ông thấy để tăng thêm cho các ông niềm tin và hy vọng vào ngày mai. Như vậy, việc Chúa hiển dung cũng dạy bảo cho các môn đệ biết: phải trải qua đau khổ mới vào cõi phúc, cõi hằng sống được.
Cũng như Chúa Giêsu đã dùng sự kiện hiển dung để chuẩn bị cho các môn đệ đón nhận biến cố Vượt Qua, thì Giáo hội cũng làm như thế: trong khi dẫn chúng ta đến chiêm ngắm và tham dự vào mầu nhiệm Vượt Qua như điểm tới của mùa chay, Giáo hội cho chúng ta đọc đoạn Tin Mừng này để khích lệ chúng ta, nghĩa là bảo cho chúng ta biết: khổ giá mà không có vinh quang Phục sinh thì khổ giá vô nghĩa. Vinh quang Phục sinh mà không có khổ giá thì vinh quang không bao giờ có được. Vì thế, mỗi lần loan báo về cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu cũng nói đến Phục sinh vinh quang. Cũng vậy, sau khi nói về cuộc khổ nạn sắp xảy đến, Chúa Giêsu đã hiển dung cho các môn đệ thấy vinh quang của Ngài, để động viên khích lệ các ông và dạy cho các ông cũng như mọi người biết rằng: đau khổ chỉ là bước đường phải đi qua để đưa chúng ta tới quê trời, tới hạnh phúc đích thực mọi người mong đợi.
Sống trên đời, ai cũng có đau khổ, có mặt trên đời là có khổ: “Hữu sinh hữu khổ” là thế. Đời người là một chuỗi đau khổ đầy ứ. Nhà Phật thường nói: “Đời là bể khổ”. Kinh Thánh nói: “Đời là thung lũng nước mắt”. Một thi sĩ đã nói: “Đời là cây đàn thất huyền, có một dây vui và sáu dây sầu”. Như vậy, ai cũng có đau khổ, người khổ tinh thần, người khổ thể xác, có người khổ cả hai; người khổ lúc này, người khổ lúc khác, nên có người đã nói: “Đau khổ là một khách câm, không bao giờ bảo cho chúng ta biết tại sao nó đến phá rối đời chúng ta”. Không ai muốn đau khổ mà tại sao cứ gặp hoài? Vì đời trần gian là thế.
Chúng ta đều biết: đau khổ tự nó là một điều xấu, chẳng có giá trị gì cả. Nhưng cái làm cho đau khổ có giá trị, có công phúc, chính là cách thức chúng ta xử lý chúng. Nếu chúng ta chán nản, buông xuôi, thất vọng, thì đau khổ càng đè nặng trên chúng ta. Ngược lại, nếu chúng ta bắt chước Chúa Giêsu, can đảm cúi xuống nâng chúng lên, thì chúng ta sẽ biến chúng thành năng lực tích cực, thành nguồn ban sức sống. Bởi vì chính những đau khổ ấy sẽ biến đổi chúng ta thành người tốt hơn, nhiệt tình hơn, khiêm tốn hơn, biết từ tâm hơn và biết thông cảm kẻ khác hơn.
Do đó, những khi gặp đau khổ, chúng ta đừng bao giờ kêu trách Chúa, Chúa đâu có gửi đau khổ đến cho chúng ta, Chúa đâu có muốn chúng ta phải đau khổ. Vì vậy, phàn nàn, kêu trách Chúa là oan cho Chúa và xúc phạm đến Chúa. Cũng thế, chúng ta đừng bao giờ rủa mình, than thân trách phận, chán nản, buông xuôi. Nhưng hãy gia tăng cầu nguyện để xin Chúa trợ giúp, vì Chúa đã nói: “Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến với tôi, tôi sẽ nâng đỡ, bổ sức cho”. Chúng ta nên nhớ: Chúa nói Ngài “nâng đỡ, bổ sức” cho chúng ta chứ Ngài không cất gánh nặng cho chúng ta đâu. Bởi vì Ngài xuống trần gian không phải để làm cho hết đau khổ, nhưng chỉ muốn đem lại cho đau khổ một giá trị của nước trời.
Nếu chúng ta biết nương nhờ vào Chúa, Chúa sẽ giúp chúng ta. Người ta kể rằng: một bác tiều phu kia đi lấy được một xe bò củi chất đầy. Nhưng khi đi tới một khúc đường sình lầy thì đôi bò đứng lại. Xe bò sụp lún xuống bùn. Bác ta ngồi khóc than. Khóc một hồi bác ta nhớ ra có một vị thần và bắt đầu van xin. Vị thần hiện ra phán bảo: “Thay vì ngồi khóc thì ngươi hãy ghé vai vào xe thử đẩy đi và ta sẽ giúp”. Bác tiều phu làm theo lời vị thần, cố gắng mọi cách, cuối cùng chiếc xe bò đã vượt qua khúc đường sình lầy. Đó là ngụ ngôn dạy chúng ta phải cộng tác với một sức mạnh hơn để làm việc, để giải quyết mọi việc. Trong công việc hàng ngày, chúng ta còn biết nhờ vả vào những người khoẻ mạnh hơn, uy quyền hơn, tài năng hơn, thì tại sao chúng ta lại không nhờ cậy vào Chúa, là Đấng toàn năng và hay cứu giúp? Ngài sẽ giúp chúng ta vượt thắng đau khổ nếu chúng ta tin tưởng, cậy trông và kêu xin Ngài.



Trong Thánh Kinh cũng như trong hầu hết các tôn giáo, núi thường được xem là nơi gặp gỡ giữa trời và đất, giữa thần linh và con người. Những mạc khải quan trọng trong Thánh Kinh đều diễn ra trên núi. Môsê đã được kêu mời lên núi Sinai để gặp gỡ Giavê Thiên Chúa và đón nhận lề luật cho dân riêng. Elia đã ròng rã 40 ngày đêm lên núi Horeb để gặp gỡ Chúa. Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện với Chúa Cha. Chúa Giêsu lên núi giảng dạy về các mối phúc.
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Luca cũng nói đến việc Chúa Giêsu đưa ba môn đệ lên núi với Chúa. Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu xem: Tại sao Chúa Giêsu lại đưa ba môn đệ lên núi với Chúa? Cuộc lên núi này có ý nghĩa gì đối với các môn đệ và có ý nghĩa gì đối với mỗi người chúng ta hôm nay?
Phêrô, Giacôbê và Gioan đã bỏ thuyền, bỏ lưới mà theo Đức Giêsu, sự sợ hãi ban đầu đã nhường chỗ cho lửa nhiệt tình và những lời hứa về Nước Trời đã chắp cánh cho họ. Cho tới lúc Phêrô đại diện cho anh em tuyên xưng niềm tin vào Thầy là: “Đấng Mêsia của Thiên Chúa” – tám ngày trước biến cố lên núi – thì hành trình theo Chúa của các ông quả là tràn ngập niềm vui: Thầy đi đến đâu dân chúng đi theo đến đó, để lắng nghe Thầy giảng dạy và để được Thầy chữa lành mọi bệnh tật. Thầy nổi tiếng trò cũng được thơm lây. Các nhà lãnh đạo tôn giáo như nhóm Biệt phái và Luật sĩ có lên giọng hạch sách, bắt bẻ ư? Lập tức Thầy liền khoá miệng họ bằng những lời lẽ thật khôn ngoan. Các môn đệ ngỡ rằng hành trình theo Chúa cứ thế mà xuôi chèo mát mái.
Nhưng chính lúc này đây, Thầy lại bảo rằng: “Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị hàng niên trưởng và các thượng tế cùng ký lục khai trừ, bị giết đi và ngày thứ ba sẽ sống lại”, và chính các ông sẽ phải “vác thập giá của mình để theo Người”. Rồi Thầy hứa thêm rằng: “Một số người sẽ không phải nếm cái chết, trước khi thấy Nước Thiên Chúa”.
Từng say sưa với những thành công vang dội của Thầy làm sao các môn đệ có thể chấp nhận Thầy bị bắt bớ, bị giết chết. Từng tuyên xưng Thầy là Đấng Mêsia làm sao họ có thể chấp nhận Đấng Cứu Thế cũng phải trải qua đau khổ, sự chết. Từng mơ ước theo Thầy sẽ làm nên sự nghiệp lớn, làm sao họ có thể chấp nhận từ bỏ mình vác thập giá mình mà theo Thầy. Rồi còn lời hứa của Thầy? Không thể hiểu nổi, không thể chấp nhận, họ hoang mang, lo lắng, thất vọng. Chính lúc này đây, Chúa Giêsu đưa họ lên núi với Chúa.
Ba môn đệ đã được đưa lên núi biến hình với Chúa. Một khi đã leo lên trên đó, các ông được đi vào một thế giới khác xem ra vừa kỳ diệu vừa lạ lùng, một thế giới biến đổi ý nghĩa đời họ.
Từ trên núi, Chúa Giêsu đã tỏ vinh quang của Người cho các môn đệ. Từ trên núi, Phêrô, Giacô bê và Gioan đã nhận ra được Chúa Giêsu chính là Con Thiên Chúa, là Đấng được Chúa Cha sai đến và cao điểm sứ mệnh cứu độ của Người là đón nhận đau khổ và cái chết mà Ngài sắp trải qua tại Giêrusalem. Và các ông cũng phải vác thập giá mình mà theo Người, phải vâng nghe lời Người. Từ trên núi, các môn đệ đã thấy vinh quang của Chúa như một lời hứa được thực hiện, như thành tựu của một sứ mệnh, như đích điểm của một con đường – con đường thập giá dẫn đến vinh quang.
Nhưng tiếp đó, họ phải xuống núi trở về với cuộc sống thường ngày. Người ta không lên núi để ở lại đó mà là để nhìn rõ hơn con đường phải đi. Đối với Chúa Giêsu, con đường đó là đau khổ và cái chết đang chờ đợi Người và Người đã xuống núi để giáp mặt với đời, để tiếp tục hành trình qua đau khổ, thập giá đến vinh quang. Từ trên núi, Chúa Giêsu cũng muốn đưa các môn đệ xuống núi trở lại với đời thường, trở lại gian lao, thử thách đang chờ họ.
Như thế, từ những người mù mờ về con người và sứ mệnh của Thầy, các môn đệ đã được hé mở cho thấy Thầy chính là Con Thiên Chúa và là Đấng cứu độ trần gian. Từ những người coi khổ nạn thập giá là cớ gây vấp phạm, các môn đệ đã nhận ra khổ nạn thập giá là con đường phải đi qua để đến được vinh quang.
Có thể nói rằng, cuộc lên núi với Chúa của các môn đệ đã thực sự biến đổi ý nghĩa cuộc đời họ. Còn mỗi người chúng ta thì sao? Cuộc lên núi với Chúa có ý nghĩa gì đối với mỗi người chúng ta?
Có thể nói, ba môn đệ trong Tin Mừng hôm nay là hình ảnh của mỗi Kitô hữu chúng ta. Trong hành trình đức tin, cho dù có say ngủ và thổn thức bất an hay sa lầy trong thói tật xưa cũ trên đường, chúng ta vẫn được Chúa mời gọi lên núi với Chúa. Vẫn có những giây phút chúng ta được đưa lên núi với Chúa: Núi của thánh lễ, núi của những phút giây cầu nguyện, núi của những lần hồi tâm sám hối trở về, núi của những dịp tĩnh tâm mùa chay. Đối với chúng ta, đó là những giây phút lên núi vắn vỏi để gặp gỡ Chúa, để lắng nghe, để chiêm niệm, để biến hình, rồi sau đó xuống núi với niềm phó thác, dấn thân sâu xa hơn trong mịt mờ sương mù của những cái thường ngày.
Nếu việc Chúa đưa ba môn đệ lên núi với Chúa đã làm cho tâm hồn các môn đệ được bình an, từ đó Người đã cùng với các ông từng ngày một đến gần cuộc thương khó và tử nạn mà Chúa Cha muốn để cứu độ nhân loại. Đối với chúng ta đó là được an bình trong những thử thách cam go, đồng thời tăng thêm nghị lực để chúng ta đi tới với thập giá trên vai, tiến về vinh quang nước trời.
Vấn đề còn lại là chúng ta biết theo Chúa lên núi, ở với Người một đôi phút trong mỗi ngày sống, nhìn thấy Người trong những biến cố lớn nhỏ của đời mình, của dòng lịch sử cứu độ, và lịch sử con người. Người còn đó khuôn mặt Người rạng rỡ yêu thương, để chúng ta tin tưởng Người và làm hết những gì mà chúng ta có thể làm, để cho từng ngày sống của chúng ta tốt đẹp hơn.
Chính vì biết các môn đệ yếu đuối mà Chúa Giêsu đã đưa các ông lên núi với Chúa, cho các ông được chiêm ngắm vinh quang của Người dù chỉ trong chốc lát, để củng cố niềm tin cho các ông trong bước đường khổ nạn sắp tới. Hôm nay, Chúa biết chúng ta cũng yếu đuối, dễ sa ngã. Và như ba môn đệ cũng sắp sửa cùng Chúa bước vào tử nạn, vì thế Chúa cũng mời gọi chúng ta lên núi với Chúa, để gặp gỡ Chúa, sống với Chúa và để Chúa củng cố đức tin cho chúng ta.
Ước mong mỗi thánh lễ Chúa nhật trong mùa chay này thực sự là một cuộc lên núi với Chúa của mỗi người chúng ta. Để nhờ đó, chúng ta có đủ sức mạnh và vững tin dấn bước vào đời, chấp nhận cuộc sống với tinh thần lạc quan, chấp nhận vác thập giá mà không bỏ cuộc, chấp nhận bước theo Chúa trên con đường qua tử nạn – thập giá, đến Phục sinh – vinh quang.



Có sự khác biệt lớn giữa giao ước và hợp đồng. Giao ước thì dựa trên tình yêu thương và sự thân thiện, trái lại, hợp đồng là một sự sắp xếp công việc kinh doanh một cách chặt chẽ. Xã hội của chúng ta không còn có nhiều giao ước nữa, nhưng hầu hết mọi việc thường được xúc tiến bằng hợp đồng. Hợp đồng bị vi phạm, và mất đi sức mạnh ràng buộc của nó, khi một trong hai bên đối tác không thực hiện được phần việc của mình, theo như đã thương lượng với nhau. Thiên Chúa không ký kết hợp đồng với con người; nhưng Người đã thực hiện một giao ước với chúng ta.
Thiên Chúa là một Thiên Chúa của sức mạnh. Nhưng Người cũng là Thiên Chúa của tình yêu và lòng thương xót. Trong cách cư xử với chúng ta, Thiên Chúa chọn lựa đi theo con đường của tình yêu, hơn là con đường của sức mạnh. Thiên Chúa muốn được chúng ta yêu mến, chứ không phải là sợ hãi. Nếu bạn yêu mến một người nào đó, bạn nhường chỗ cho người đó, và tạo cho họ có quyền được là chính bản thân họ. Nếu bạn muốn có quyền lực trên người nào, thì bạn cứ cố gắng kiểm soát người đó, và buộc họ phải làm theo ý thích của bạn, mặc dù họ muốn hoặc không muốn. Nhưng bạn không thể đồng thời vừa yêu thương vừa sử dụng quyền lực, hai yếu tố này xung khắc với nhau.
Để yêu và được yêu, Thiên Chúa phải ban cho chúng ta phạm vi để chọn lựa. Người không thể giành lấy tất cả mọi quyền lực, và không để lại chút gì cho chúng ta. Giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại phải có gì nhiều hơn là chủ đề về một Thiên Chúa toàn năng ban bố lề luật. Đây phải là sự thoả thuận một cách tự do giữa hai bên đối tác tự do.
Nếu chúng ta vâng phục Thiên Chúa, bởi vì chúng ta e sợ Người, bởi vì quá bị quyền lực của Người áp đảo, đến nỗi chúng ta không dám phản kháng, thì Người chỉ có sự vâng phục của chúng ta, chứ không có được tình yêu của chúng ta.
Bài đọc 1 nói về giao ước long trọng mà Thiên Chúa đã thực hiện với Abraham. Sau câu chuyện cuộc sáng tạo, đây là giây phút chủ yếu trong Cựu ước. Có thể nói rằng câu chuyện cứu độ của chúng ta được bắt đầu ở đây. Thiên Chúa không từ bỏ dân tộc đã bị sa ngã của Người, nhưng thông qua Abraham, Người đã đi vào một tương quan đặc biệt với họ. Mối tương quan này không giống như tương quan tồn tại giữa các bên đối tác trong kinh doanh, mà tương tự như mối tương quan tồn tại giữa vợ chồng. Có thể tóm tắt mối tương quan này trong một công thức, đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong Cựu ước: “Các ngươi sẽ là dân của Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi”.
Không phải Abraham, mà là chính Thiên Chúa, đã đi bước đầu trong mối tương quan này. Thiên Chúa hứa ban cho ông một dòng dõi đông đúc và nguyên vẹn. Người cũng hứa rằng dòng dõi của ông sẽ có một vùng đất riêng của họ, và nói rằng thông qua ông, tất cả các dân tộc trên trái đất sẽ được chúc phúc, bởi vì Đấng Mêsia sẽ đến từ dòng dõi của ông.
Mặc dù con người đã vi phạm giao ước của Thiên Chúa, nhưng Người vẫn không từ bỏ họ. Thay vào đó, thông qua Con của Người, Đức Giêsu Kitô, Người đã tự ràng buộc mình vào gia đình nhân loại một cách gần gũi hơn, bằng một sự ràng buộc không bao giờ có thể bẻ gãy được.
Lời hứa của Thiên Chúa với Abraham đã được nên trọn nơi Đức Giêsu. Chính thông qua Người, mà tất cả các dân tộc trên trái đất đều được chúc phúc. Đức Giêsu đã hàn gắn lại giao ước bằng chính máu của Người. Thông qua Người, chúng ta được gần gũi hơn bao giờ hết với Thiên Chúa. Chúng ta không chỉ là dân Thiên Chúa, mà còn là những người con trai và con gái của Người, chúng ta thuộc về gia đình của Người.
Đức Giêsu là người đứng đầu trong dân tộc mới của Thiên Chúa. Vùng đất mà Người đang đưa dẫn chúng ta hướng tới không phải là vùng đất nào đó ở trên trái đất, nhưng là vùng đất của sự sống đời đời.



(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Truyện ngụ ngôn kể về một nhà thiên văn có thói quen mỗi buổi tối lại nhìn lên các ngôi sao, nghiên cứu các vì tinh tú đang xoay vần, chuyển đổi trong vũ trụ bao la.
Một lần kia, đang đi dạo mát quanh vùng, mải mê suy nghĩ những chuyện trên trời, ông ta vô ý ngã xuống giếng cạn. Tiếng kêu cứu thất thanh, khiến một người đi ngang qua đó nghe được. Ông vội vàng chạy đến miệng giếng, liền đoán được việc gì đã xảy ra, bèn nói với nhà thiên văn::Này ông, ông cứ muốn biết những việc xảy ra trên trời, còn những việc sờ sờ dưới đất sao ông không thấy?”
Đêm hôm ấy, Chúa Giêsu cùng với ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện.
Trong lúc Người thân mật cầu nguyện với Chúa Cha thì các ông lại mê mệt trong giấc ngủ say. Nhưng khi tỉnh dậy, thấy Chúa Giêsu vinh quang chói loà, cả hai ông Môsê và Elia đàm đạo với Người cũng rạng ngời vinh hiển, thì Phêrô mau mắn thưa::Thưa Thầy, chúng con ở đây, hay quá!”. Các ông thích ở chốn vinh quang sáng láng, nhưng lại không tỉnh thức cầu nguyện. Các ông muốn cắm lều trên núi cao, nhưng lại chìm sâu trong cơn ngủ mê. Sau này trong vườn cây dầu, cũng chính ba môn đệ này vẫn còn mê ngủ, cho đến khi kẻ thù đến bắt mất thầy. Đó là thân phận yếu hèn của mỗi người chúng ta…
Chính vì biết các môn đệ yếu đuối mà Chúa Giêsu đã cho các ông được chiêm ngắm vinh quang của Người, dù chỉ trong chốc lát, để củng cố niềm tin của các ông trong cuộc khổ nạn mà Ngài sắp thực hiện tại Giêrusalem. Đồng thời để các ông có bằng chứng loan báo về việc Người phục sinh sau này.
Việc biến hình sáng láng hôm nay cũng là để chứng thực cho lời tuyên xưng của Phêrô ở Xêdarê cách đây tám ngày: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Nếu cuộc biến hình vinh quang của Chúa Giêsu là sự đáp trả của Chúa Cha qua việc Người chấp nhận cuộc khổ nạn, thì sự vâng theo ý Chúa hôm nay, xem ra vất vả nặng nề, cũng sẽ trở nên nguồn vui bất diệt cho chúng ta ngày mai.
Nếu đang khi cầu nguyện, dung mạo Người bỗng biến đổi, thì việc gặp gỡ, kết hiệp với Chúa trong suy niệm và cầu nguyện sẽ biến đổi tâm hồn, cuộc sống và cả con người chúng ta mỗi ngày để nên giống Chúa hơn.
Nếu sau cuộc biến hình, Chúa Giêsu trở lại với khuôn mặt bình thường, Thầy trò lại tiếp tục cuộc sống thường nhật, thì sau những niềm vui khôn tả Chúa ban trong cầu nguyện, chay tịnh và bác ái, Người vẫn tiếp tục đồng hành với chúng ta trong mọi biến cố của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã biến hình sáng láng trên núi Tabo và đã hấp hối bi thảm trên núi Cây Dầu. Nhưng trong hai lần ấy, Chúa đều cầu nguyện mật thiết với Chúa Cha. Xin cho chúng con biết cầu nguyện, lúc hạnh phúc cũng như khi đau khổ, khi an vui cũng như lúc gặp thử thách, để chúng con luôn kết hiệp với Chúa và để Chúa nâng đỡ chở che. Amen.



Sau biến cố Gioan Tẩy Giả bị chém đầu (Mt 14,1-12; Mc 6,14-29), Chúa Giêsu tiên báo về cuộc khổ nạn sắp tới, Người sẽ lên Giêrusalem để chịu thương khó và chịu chết. Một đám mây đen che phủ các môn đệ.
Họ chao đảo niềm tin. Phêrô đại diện anh em phản đối kịch liệt. Phêrô không chấp nhận thập giá khổ nhục. Để khai quang đám mây đen đó và để cũng cố niềm tin cho các môn đệ, Chúa Giêsu đưa họ lên núi Tabor. Người biến hình, cho họ thấy một thoáng Phục sinh trước Phục sinh, cho họ hưởng nếm một chút Thiên đàng trước Thiên đàng. Nhờ đó các môn đệ thêm niềm tin, thêm mạnh mẽ, thêm xác tín.
Chúa đưa ba môn đệ lên núi cao. Các ông được đi vào một thế giới vừa kỳ diệu vừa lạ lùng, làm biến đổi ý nghĩa cuộc đời.
Các ông thấy: "Dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy" (Mc 9,3); "Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng" (Mt 17,2); "Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa" (Lc 9,29). Khi biến đổi hình dạng nên sáng láng, Chúa Giêsu cho các tông đồ thoáng nhận ra vinh hiển tương lai của Người.
Suy niệm biến cố Biến Hình, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI viết : "Chính nơi đây nổi bật sự liên hệ và sự khác biệt với gương mặt ông Môisen: "Khi ông Môisen từ trên núi Sinai xuống, tay cầm hai tấm bia Chứng Ước, khi xuống núi, ông Môisen không biết rằng da mặt ông sáng chói bởi đã đàm đạo với Thiên Chúa" (Xh 34,29-35). Qua việc đàm đạo với Thiên Chúa, ánh sáng của Thiên Chúa chiếu sáng trên ông và làm cho ông sáng chói. Như thế, ánh sáng từ bên ngoài chiếu vào ông làm cho ông sáng chói. Đức Giêsu chói sáng tự bên trong, không những Người đón nhận ánh sáng mà chính Người là ánh sáng bởi ánh sáng". (x.Đức Giêsu thành Nazareth, Lm Aug Nguyễn Văn Trinh biên dịch, trang 268).
Cuộc kết hiệp đã đưa Chúa Giêsu đi vào thiên giới. Cảnh vật chung quanh cũng biến đổi theo cuộc kết hiệp vĩ đại đó: "Y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa". Cuộc kết hiệp thần kỳ đã mở ra tất cả bí mật của thế giới Thiên Chúa. Rõ nét nhất là tương quan phụ tử: "Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn" (Lc 9,35). Tiếng Chúa Cha phán ra từ đám mây bao phủ các ông. Đám mây thiên linh, là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Đám mây ngự trên Lều Hội Ngộ cho thấy sự hiện diện của Đức Chúa. Đức Giêsu là Lều Thánh, đám mây của sự hiện diện Thiên Chúa đậu trên Người và từ đó cũng sẽ "bao phủ" mọi người. Sự kiện thánh tẩy Đức Giêsu được tái hiện, nơi đó Chúa Cha từ đám mây công bố Đức Giêsu là Con: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con" (Mc 1,11). (sđd, trang 172).
Các môn đệ còn thấy: "Có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Êlia". Đây là hai nhân vật quan trọng nhất trong Cựu ước, đại diện cho hai thực tại quan trọng nhất của Do Thái giáo. Môisen đại diện cho luật pháp. Êlia đại diện cho các ngôn sứ. Hai ông là biểu tượng tiên báo sự ra đời của Đức Giêsu. "Lề luật và ngôn sứ đàm đạo với Đức Giêsu và nói về Người. Trong một chú thích ngắn ngũi, thánh Luca trình thuật cho chúng ta về điều hai chứng nhân của Thiên Chúa nói với Đức Giêsu: "Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem" (Lc 9,31). Đề tài đàm đạo của các ngài là thập giá, nhưng hiều ngầm là cả cuộc "Xuất hành của Đức Giêsu" phải diễn ra tại Giêrusalem. Thập giá Đức Giêsu là cuộc xuất hành, một việc bước ra khỏi cuộc sống này, vượt qua Biển Đỏ của cuộc khổ nạn và tiến đến vinh quang, dù vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn" (sđd trang 268).
Ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê có những trải nghiệm tuyệt vời về Thầy của mình. Cũng vẫn là Đức Giêsu bằng xương bằng thịt mà các ông vẫn thường gặp gỡ tiếp xúc hằng ngày, nhưng lần này, các ông được nhìn thấy Người dưới một dung mạo mới: thật sáng ngời, thật hấp dẫn và đầy uy nghi. Các ông vững lòng tin tưởng.
Trên núi cao, Chúa Giêsu gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Các môn đệ ngất ngây trong niềm hạnh phúc tuyệt vời. Các ông muốn ở lại trên núi để sống niềm hạnh phúc ngập tràn ấy. Các ông muốn níu kéo khoảnh khắc thần tiên ấy lại nên Phêrô thay mặt anh em thưa với Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môisen, và một cho ông Êlia". Phêrô muốn dừng lại để định cư với những túp lều lý tưởng trên núi cao.
Các môn đệ muốn đăng ký thường trú trên núi Tabor, muốn đắm mình trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo của Thầy. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa. Nhưng Chúa Giêsu đưa các môn đệ trở xuống. Người chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên núi Golgotha. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Chúa Giêsu phải chịu khổ nạn, chịu chết rồi mới Phục Sinh mở lối vào thiên đàng. "Cảm nghiệm sự kiện Hiển Dung đã giúp cho thánh Phêrô nhận thức trong lúc ngất trí, những thực tại được biểu trưng trong các nghi thức của ngày lễ đã được hoàn tất, biến cố Hiển Dung loan báo thời đại Messia đã bắt đầu. Mãi khi xuống núi, thánh Phêrô lại phải học hỏi một lần nữa, thời đại Messia trước tiên là thời đại của thập giá và việc Hiển Dung, Chúa biến dạng thành ánh sáng, sẽ bao trùm chúng ta trong ánh sáng của cuộc khổ nạn." (sđd trang 269).
Chứng kiến Chúa Hiển Dung, thấy rõ tất cả sự thật về Thầy, các môn đệ vững tin hơn. Từ nay, các ông tin tưởng tuyệt đối "Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người" (Pl 3,21).
Sự kiện Chúa Giêsu biến hình cùng với sự xuất hiện của hai chứng nhân Cựu Ước, Môisen và Êlia, thêm một lần nữa, khẳng định sứ mệnh của Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Và còn hơn thế nữa, lời Chúa Cha giới thiệu: "Này là con Ta, người được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người". Mọi người, mọi thời phải nghe Lời Chúa Giêsu, vì đây là Lời Chúa Cha, vì chỉ một mình Chúa Giêsu là Thầy mà thôi. Những chứng cứ về Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế thật quá rõ ràng. Con người muốn được sống và hưởng vinh quang Thiên Chúa, điều kiện cần và đủ, là tin vào Chúa Giêsu Kitô.
"Vâng nghe lời Người" là tất cả những gì cần thiết để con người đi đến bến bờ vinh quang của Thiên Chúa. Đó là cuộc hành trình của Đức Tin : "Con người trên đường lữ hành về với Đấng Tuyệt Đối. Đời sống con người trên trái đất là một cuộc lữ hành. Đức Tin lữ hành của con người hướng con người về Thiên Chúa, giúp con người chọn lựa những gì sẽ làm cho mình đạt tới sự sống vĩnh hằng. Do vậy, mỗi giây phút trong cuộc lữ hành trên trái đất đều quan trọng, quan trọng với những thách đố và chọn lựa của nó" (x.Tiến về ngàn năm thứ ba, ĐGH Gioan Phaolô II).
Tin vào Đức Kitô là đi con đường Thập Giá cùng với Người. Muốn ở lại trong vinh quang của Đức Kitô, phải vác thập giá với Người: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo" (Lc 9,23).Vác thập giá hằng ngày là chấp nhận những khổ đau theo thánh ý Chúa, là đối diện với những thách đố của cuộc đời với lòng thanh thản trong sự phó thác vào tình yêu Thiên Chúa, là biết từ bỏ và chọn lựa những gì cần thiết để nuôi dưỡng niềm tin vào Thiên Chúa. Cuộc lữ hành Đức Tin đầy hiểm nguy sóng gió. Satan "như sư tử gầm thét, ngày đêm rình mò chờ chực cắn xé" (1 Pr 5,8).Satan luôn rình rập chung quanh chúng ta, nó "chờ đợi thời cơ" (Lc 4,13) thuận tiện và khai thác tất cả mọi thứ trong cuộc sống để làm lung lay niềm tin của chúng ta,
Nếu chúng ta"có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này 'rời khỏi đây, qua bên kia !' nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được" (Mt 17,20-21). Sức mạnh đức tin thật lớn lao!
Bài đọc 1 kể về đức tin của Abraham. Nhờ "tin Đức Chúa" (St 15, 6), Abraham được "Đức Chúa lập giao ước" (St 15,18). Không những thế, ông còn trở thành tổ phụ của dòng dõi đông như sao trên trời (x. St 15,5). Nhưng trên hết, nhờ lòng tin, ông được "Đức Chúa kể ông là người công chính" (St 15,6). Lòng tin đã thực hiện một cuộc biến hình ngoạn mục trong đời Abraham. Đức tin đã khiến Abraham vượt núi băng rừng đến miền đất hứa.
Đất hứa đó, ngày nay không đóng khung trong ranh giới Do thái, vì miêu duệ Abraham là Giáo hội đã trải rộng khắp mặt đất. Mặc dù niềm tin đó đã gặp nhiều thử thách, nhưng Giáo hội vẫn sống mạnh mẽ với niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Nhờ đó, Giáo hội đã biến hình và luôn phản ánh vinh quang Thiên Chúa giữa muôn dân.
Cuộc biến hình hôm nay còn ngoạn mục hơn Abraham nhiều. Chính cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu sẽ biến Kitô hữu thành người công chính, thành bạn hữu của Người để có thể đi vào cuộc hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa.
Trong bài suy niệm "Việc ĐGH Bênêđictô XVI từ nhiệm là một sứ điệp của Năm Đức Tin", Đức Cha Bùi Tuần viết: "...Tin Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI từ nhiệm đã và đang gây xôn xao trong mọi tầng lớp xã hội và Giáo Hội. Đức Giáo Hoàng từ nhiệm, đó là biến cố rất bất ngờ. Bất ngờ đó gây ra trong tôi một nỗi bàng hoàng choáng váng.Lấy lại sự bừng tỉnh nhờ cầu nguyện, tôi cúi đầu lắng nghe Chúa dạy bảo. Chợt tôi nhớ lại một chi tiết nhỏ riêng tư, lần tôi được gặp Đức Giáo Hoàng lúc Ngài còn là Hồng Y Bộ trưởng Bộ Đức Tin. Trong trao đổi, tôi thấy Ngài chú ý đặc biệt đến sự gặp gỡ Đức Kitô. Như thế căn cốt của đức tin là gặp gỡ riêng tư và thân mật với Đức Kitô, để bước theo Đức Kitô... Nên trong thinh lặng nội tâm lúc này, Chúa dạy tôi hãy dùng chi tiết đó như một ánh sáng để hiểu sự từ nhiệm của Đức Giáo Hoàng. Nhờ ơn Chúa giúp, tôi dần dần nhận ra rằng: Sự từ nhiệm của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô chứng tỏ Ngài đã và đang gặp gỡ Đức Kitô và bước theo Đức Kitô... Theo Ngài, tin là gặp gỡ Đức Kitô và bước theo Đức Kitô trong sự từ bỏ quyền lợi riêng, và bước xuống thân phận con người hèn yếu, vì yêu thương con người và để cứu chuộc loài người...". (x.gplongxuyen.net).
Đức Thánh Cha đã đi trọn hành trình theo Đức Kitô,đã trở nên giống Chúa Kitô. Đức Thánh Cha từ nhiệm vào đầu Mùa Chay để sống tinh thần Mùa Chay: sám hối, chay tịnh, cầu nguyện cho Giáo Hội, thể hiện một tình yêu vô biên đối với Giáo Hội.
Gặp gỡ Đức Kitô và bước theo Đức Kitô là một hành trình đức tin đi đến sự sống mới.Thánh Phaolô đã đi trọn hành trình ấy và ngài đúc kết kinh nghiệm về cuộc sống biến đổi trở nên giống Chúa Kitô. Tư tưởng "trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô" (Pl 3,10) bàng bạc trong các bức thư của ngài và đã trở thành nguyên lý căn bản đưa chúng ta đến ơn cứu rỗi. Cuộc biến đổi để trở nên giống Chúa Kitô mỗi ngày một hơn là một tiến trình kéo dài cả đời người. Mỗi ngày một chút, rũ bỏ con người cũ, loại dần lối sống tội lỗi để làm con người mới với lối sống mới theo Thánh Thần, chúng ta sẽ gắn bó và thuộc về Chúa Kitô, và Người sẽ "biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người" (Bài đọc 2).
Thiên Chúa yêu thương con người là một tình yêu không "môn đăng hộ đối", hoàn toàn do sáng kiến và lòng xót thương của Ngài. Thiên Chúa đã đi bước đầu trong mối tương quan và thiết lập giao ước với Apraham.Thiên Chúa hứa ban cho ông một dòng dõi đông đúc và nguyên vẹn. Thiên Chúa cũng hứa thông qua ông, tất cả các dân tộc trên trái đất sẽ được chúc phúc, bởi vì Đấng Messia sẽ đến từ dòng dõi của ông. Lời hứa ấy đã được nên trọn vẹn nơi Chúa Giêsu. Biến cố biến hình chính là một mạc khải về tình thương lạ lùng đó. Thiên Chúa hiến mình cho con người: Cha hiến ban Con và Con hiến ban chính bản thân mình chịu chết để vào Phục Sinh khai mở con đường dẫn tới sự sống. Tin vào tình thương Thiên Chúa, nên chúng ta học theo lối sống của Chúa Giêsu bằng cách đọc và suy gẫm Tin Mừng, đem Lời Chúa vào cuộc sống, để cho Lời Chúa thay đổi cách suy nghĩ, nói năng và hành động của chúng ta được trở nên giống với cung cách của Chúa Giêsu. Đó là được biến hình trong Chúa, nên đồng hình đồng dạng với Chúa như Thánh Phaolô đã từng cảm nghiệm: 'Tôi sống nhưng không phải tôi sống, chính Chúa Kitô sống trong tôi" (Gal 2,10).
"Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở trong người đó...sẽ sinh nhiều hoa trái" (Ga 15,5). Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con mỗi ngày nên giống Chúa trong lời nói việc làm, xin cho đời sống chúng con nên dấu chỉ yêu thương của Chúa giữa cuộc đời hôm nay. Amen.



Không ai sống mà không tin. Tin vào Thiên Chúa giúp người ta sống bình an, vui và hạnh phúc hơn.
Abraham tin vào Thiên Chúa
Thiên Chúa mời gọi Abram bỏ quê cha đất tổ để đi tới nơi Thiên Chúa sẽ chỉ cho, rồi Thiên Chúa sẽ làm cho ông có con cháu nối dòng, có đất để sống. 75 tuổi được gọi và ra đi (St.12, 4) nhưng đến 99 tuổi, Abraham vẫn chưa có con với Sara (St.17, 1.17). Khi Sara chết, ông vẫn không có đất để chôn vợ (St.23, 1-20). Lời hứa có con cháu đông như sao trên trời như cát dưới biển, cũng như lời hứa có đất làm cơ nghiệp vẫn chưa được thực hiện hoàn toàn khi Abraham chết. Dưới cái nhìn của người đời, Abraham là người dại vì đã tin vào Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã thực hiện lời Ngài “quá trễ” đến độ người ta nghĩ rằng Ngài đã quên; tuy vậy Abraham vẫn một lòng tin vào Thiên Chúa, và vì thế ông là người mẫu cho các tín hữu. Thiên Chúa đã hứa, và Abraham đã tin. Tuy dù Abraham sống như những người khác, nhưng ông đã vâng phục Thiên Chúa trong mọi chuyện, kể cả việc sẵn sàng hiến tế Isaac. Chính vì tin vào Thiên Chúa mà ông trở nên công chính (St.15, 6).
Tin là thái độ của con người đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn ở gần bên mỗi người, mời gọi mỗi người bỏ mình để theo Ngài, và Ngài sẵn sàng can thiệp vào cuộc sống mỗi người khi cần. Xin cho chúng ta tin vào Thiên Chúa như Abraham.
Đức Giêsu lắng nghe Thiên Chúa trong cầu nguyện
Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu đem Phêrô, Gioan và Giacôbê theo Ngài lên núi để cầu nguyện, và trong khi cầu nguyện Ngài đã biến hình. Có lẽ nhờ cầu nguyện, mà mỗi người được biến đổi, được trở nên giống Thiên Chúa hơn.
Phêrô rất phấn khởi khi được chứng kiến những điều đang xảy ra. Ông muốn ở lại luôn trên núi, ông sẵn sàng làm lều cho các Ngài. Phêrô nói mà không biết mình nói gì!
Khi Phêrô đang nói thì có đám mây che các Ngài, và có tiếng từ trời: “đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài”. Thiên Chúa muốn con người vâng nghe Đức Giêsu. Thiên Chúa không muốn Con Ngài và những người theo Con Ngài ở hoài trên núi; Ngài muốn họ xuống núi để sống cuộc sống bình thường của họ giữa con người thời đại mình. Giây phút biến hình không biết kéo dài khoảng bao nhiêu phút, nhưng thất bại và thập giá còn hoài trong suốt cuộc sống của Đức Giêsu và các tông đồ, kể cả khi Đức Giêsu đã phục sinh từ cõi chết.
Cầu nguyện để thấy ánh sáng, để có sức sống, và được nghỉ ngơi trong cuộc sống tất bật mỗi ngày.
Tin vào Thiên Chúa được tỏ lộ qua cách sống
Thánh Phaolô sống rất tuyệt, nên Ngài đã dám nói với tín hữu ở thành Philipphê: “anh em hãy bắt chước tôi”. Ngài là người đã được ơn trở lại trên đường đi bắt các Kitô hữu tại Đamas, và kể từ đó Ngài đã hoàn toàn thuộc về Chúa. Ngài đã bôn ba đi rao truyền Lời Chúa, và thiết lập các cộng đoàn. Những bức thư Ngài viết cho các cộng đoàn trở thành “Lời Chúa” cho con người của mọi thời đại. Thuộc về Thiên Chúa trong chính cuộc sống và hành động của thánh Phaolô, là mẫu gương sống cho con người hôm nay.
Thánh Phaolô yêu thương những con cái mà Ngài đã sinh ra trong Chúa. Khi xa Ngài, đã có một số người sống như không có Thiên Chúa. Họ đã lấy những của vật chất làm Chúa của họ, họ tự hào nơi những điều đáng lẽ phải hổ thẹn. Thánh Phaolô kêu gọi họ hãy sống trong niềm tin vào Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu sẽ biến đổi thân xác chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài. Không kiên vững trong niềm tin vào Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, không thể đứng vững trong cuộc sống hiện tại.
“Hỡi những người anh em chí thân chí thiết của tôi, anh em là triều thiên và niềm vui của tôi, anh em hãy đứng vững trong niềm tin vào Chúa”. Ước gì mỗi người có thể nói với những người mình phục vụ như thánh Phaolô đã nói với những con cái của Ngài.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Theo bạn, điều khó nhất đối với Abraham trong việc vâng phục Thiên Chúa là gì?
2. Theo bạn, đâu là thập giá lớn nhất đối với thánh Phaolô? Tại sao bạn nghĩ vậy?
3. Tin vào Thiên Chúa đòi hỏi điều gì?



Cựu Ước không có ý nghĩa nếu không có Đức Giêsu, còn chính Người, nếu không có Cựu Ước, thì chỉ là một mầu nhiệm đối với chúng ta.
1 - Ngữ cảnh
Đây là biến cố cuối cùng trong thời gian hoạt động tại Galilê (Lc 3,1–9,50): Đức Giêsu đang ở tại một khúc quanh quan trọng trong sứ mạng; công việc rao giảng tại Galilê đã kết thúc; Phêrô mới đây đã tuyên xưng Người là "Đấng Kitô của Thiên Chúa" (9,20) và nhân dịp đó, Người đã củng cố thêm hiểu biết của các môn đệ bằng cách loan báo cuộc Thương Khó (9,22). Cũng giống như ở Mc 9,2-8, truyện Hiển Dung của Đức Giêsu trong TM III (9,28-36) đi theo sát lời Đức Giêsu nói về đời môn đệ và dường như trả lời một loạt các câu hỏi về chân tính của Đức Giêsu (x. 9,7-9.18-22). Cuộc Hiển Dung cho các môn đệ được thấy trước vinh quang của Đấng Phục Sinh, vinh quang Nước Trời. Truyện giới thiệu tư cách thuộc thiên giới của Đức Giêsu đối lại với hai dung mạo Cựu Ước và thúc bách các Kitô hữu lắng nghe Người như lắng nghe Con Một của Thiên Chúa và Đấng được Thiên Chúa ưu tuyển.
2 - Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba đơn vị:
1) Hoàn cảnh của cuộc Hiển Dung (9,28);
2) Cuộc Hiển Dung (9,29-35):
a) Lý do (cc. 29-32),
b) Cuộc đối thoại (cc. 33-35);
3) Kết thúc cuộc Hiển Dung (9,36).
3 - Vài điểm chú giải
- dung mạo Người đổi khác (29): Cụm từ này đã thay thế cho động từ "được biến hình" (metamorphôthê) trong Mc (9,2) và Mt (17,2) để tránh những truyện về hóa thân, hóa kiếp trong thần thoại ngoại giáo.
- có hai nhân vật (30): Vì được giới thiệu là "hai nhân vật, hai người đàn ông" (andres dyo), ta có thể nghĩ đến "hai người đàn ông y phục sáng chói" trong truyện Phục Sinh (Lc 24,4) hoặc "hai người đàn ông mặc áo trắng" trong truyện Thăng Thiên (Cv 1,10). Như thế, quả thật Môsê và Êlia là hai chứng nhân của Đức Giêsu, nhưng ở đây, hai vị có mặt trong tư cách là những nhân vật thuộc thiên giới, nhằm loan báo vinh quang tương lai của Đức Kitô. Và nếu vậy, quang cảnh này trước hết là một hình ảnh báo trước cuộc Lên Trời (x. Cv 1,9: đám mây).
- Xuất hành (31): Rất có thể tác giả Lc coi toàn bộ Thương Khó – Phục Sinh – Thăng Thiên là một cuộc Xuất Hành mới, đi từ Giêrusalem cứng tin (# Ai-cập) mà vào Vinh quang của Thiên Chúa (# Đất hứa).
- ngủ mê mệt (32): Dịch sát là "bị đè nặng trong giấc ngủ" (bebarêmenoi hypnô).
- vinh quang (32): Tác giả Lc là tác giả duy nhất sử dụng từ "vinh quang" ở đây. Kiểu ngài nối kết Khổ Nạn với Vinh quang ở đây rất gần với truyện Ga 12,27-28 (vẫn được coi như tương tự với truyện Hiển Dung trong các TMNL).
- thật là hay (33): Hay cho ai? Chúng ta không rõ. Dù sao, ta hiểu là Phêrô không hiểu rõ hoàn cảnh, nhưng cảm thấy vui, nên mơ ước kéo dài tình trạng này.
- đám mây (34): Phải chăng đám mây bao phủ cả các môn đệ, nên các ông mới sợ (sợ chết?)? có bao phủ ba nhân vật kia không? Nhưng bản văn lại nói là "từ đám mây có tiếng phán ra". Vậy có lẽ các môn đệ ở ngoài đám mây. Nhưng dù thế nào, đám mây thường đi liền với cuộc thần hiển (x. Xh 16,10; 19,9.16; 24,15-16; Lv 16,2; Ds 11,25) và được coi như nơi ở (shơkinâh trong sách Talmud, có nghĩa là "sự hiện diện của Thiên Chúa") của Thiên Chúa. Khi thấy đám mây xuất hiện và dường như còn bao trùm lấy mình, các môn đệ kinh hãi.
- Người được Ta tuyển chọn (35): Xem các "Bài ca về Người Tôi Trung" (Is 42,1; 49,7).
- trong những ngày ấy (36): nghĩa là trong thời gian Đức Giêsu đi hoạt động. Công thức này đối lại những gì được kể sau này, sau khi Đức Giêsu đã sống lại.
4 -Ý nghĩa của bản văn
Khung ảnh của bản văn này như sau: Ngay trước bài tường thuật này là các giáo huấn về đời môn đệ (Lc 9,23-27) và ngay sau bài, là truyện Đức Giêsu chữa lành một em bé bị quỷ ám (9,37-43). So với các Tin Mừng khác, ta thấy tác giả không kèm theo mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu và các môn đệ trong khi các ngài xuống núi (x. Mc 9,9-10; Mt 17,9), cũng không có lời nói về ngôn sứ Êlia (x. Mc 9,11-13; Mt 17,10-13).
Độc giả đã thấy giáo huấn về đời môn đệ "vác thập giá" và thị kiến về "vinh quang" được nối kết chặt chẽ trong kinh nghiệm về cuộc Hiển dung. Không thể hiểu được ý nghĩa của biến cố huyền nhiệm này nếu không đặt nó vào bên trong hai chiều tư tưởng thần học chủ đạo: sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu, yêu cầu đi theo Người trên con đường thập giá, và ánh sáng vinh quang của sự phục sinh của Người.
* Hoàn cảnh của cuộc Hiển Dung (28)
Chỉ tác giả Lc xác định biến cố xảy ra vào "khoảng tám ngày sau khi (Đức Giêsu) nói những lời ấy" (c. 28), tức là các giáo huấn về đời môn đệ (cc. 23-27). Cả ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê vừa chứng kiến Đức Giêsu làm cho con gái ông Gia-ia sống lại (Lc 8,51-56), nay Người đưa các ông đi ra khỏi tình trạng ồn áo huyên náo của cuộc sống thường ngày và đưa các ông lên núi (không được xác định), biểu tượng của thế giới Thiên Chúa. Mới trước đó, Người yêu cầu "vác thập giá mà theo" Người, bây giờ Đức Giêsu quyết định "đem theo" ba môn đệ và kết hợp các ông vào sứ mạng của Người, để các ông có thể chia sẻ kinh nghiệm vinh quang nhằm đi tới chỗ hoàn tất trong Ngày Phục sinh.
Điều đáng ghi nhận: tác giả cho biết mục tiêu Đức Giêsu nhắm không phải là tỏ mình ra cho các môn đệ, nhưng là "cầu nguyện". Việc cầu nguyện được đặc biệt nêu bật trong TM III.
* Cuộc Hiển Dung (29-35)
Đang khi Người cầu nguyện, thì "dung mạo Người đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà" (c. 29): cuộc hiển dung xảy ra như là kết quả của việc cầu nguyện. Tác giả không dùng động từ metamorphousthai (= biến hình) có trong Mc và Mt (x. Mc 9,2; Mt 17,2). Theo một vài nhà chú giải, tác giả Lc muốn tránh làm cho độc giả hiểu đây giống như những cuộc hóa thân của thần thánh ngoại giáo; có những tác giả khác lại cho rằng đây là một gợi nhắc đến biến cố Môsê đã trải qua trên núi Sinai (Xh 24,29-30): trong bản văn này có nói rằng dung mạo Môsê phản ánh vinh quang của Đức Chúa. Tầm quan trọng được gán cho biến cố huyền nhiệm này đưa độc giả đến chỗ nghĩ rằng Đức Giêsu đang tự mạc khải ra như là Đấng sống lại và đang ở trong thế giới siêu việt và vinh quang của Thiên Chúa.
Vậy, vẻ rạng rỡ của dung mạo và nét trắng tinh chói lòa nơi y phục của Người cho biết Người thông dự vào đời sống của Thiên Chúa, Người có bản tính Thiên Chúa, và báo trước cuộc Phục sinh. Các môn đệ nhận ra rằng dung mạo quen thuộc con người trần gian của Đức Giêsu lâu nay không diễn tả hết tất cả thực tại của Người; các ông hiểu rằng Người không bị khóa kín trong những giới hạn của thực tại trần gian. Đàng sau dung mạo phàm trần của Đức Giêsu, có ẩn giấu thực tại siêu phàm thần thiêng của Người.
Không những các giới hạn của thực tại trần thế bị vượt quá, các biên cương của thời gian cũng bị lướt qua. Bên cạnh Đức Giêsu, xuất hiện hai ông Môsê và Êlia, hai dung mạo nổi bật trong lịch sử dân Israel (cc. 30-31). Môsê nhà giải phóng Dân tộc, cũng là trung gian đón nhận Luật Sinai. Êlia là vị ngôn sứ đã bảo vệ tôn giáo độc thần và tái lập giao ước của Thiên Chúa với Dân. Các ngài đại diện cho mối quan tâm săn sóc của Thiên Chúa và cuộc chiến đấu của Người cho dân tộc này. Các ngài cũng chia sẻ kinh nghiệm bị từ khước và bị bách hại. Nay hai ngài đàm đạo với Đức Giêsu về "cuộc xuất hành" Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem (c. 31). Tác giả Lc coi toàn bộ Thương Khó–Phục Sinh–Thăng Thiên là một cuộc Xuất Hành mới, đi từ Giêrusalem cứng tin (# Ai Cập) mà vào Vinh quang (# Đất hứa). Nhưng toàn bộ cuộc Xuất Hành mới này liên hệ đến lịch sử Israel (đại diện bởi Môsê và Êlia); Đức Giêsu sẽ đưa lịch sử của những mối quan tâm săn sóc của Thiên Chúa đối với dân Người đến chỗ hoàn tất.
Đáng tiếc là các môn đệ nặng nề trong giấc ngủ (c. 32). Khi Thầy làm phép lạ, hoặc khi đám đông hoan hô Người, các ông thức, nhưng khi Người bắt đầu nói đến chương trình của Thiên Chúa, việc hiến dâng mạng sống, phục vụ người nghèo, thì họ từ khước hiểu biết, họ nhắm mắt lại và ngủ. Sau này, tại núi Ô-liu, các ông cũng ngủ (Lc 22,45), bởi vì các ông chờ đợi được vỗ tay hoan hô và tôn vinh, chứ không hiểu vai trò của thập giá mà Thầy đang đi tới. Tuy nhiên Phêrô còn tìm ra sức mà lên tiếng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay ! Chúng con xin dựng ba cái lều..." (c. 33). Ông mong muốn kéo dài mãi mãi kinh nghiệm về vinh quang này, tương quan đặc biệt này giữa thiên quốc và trần gian, một nếm cảm trước sự viên mãn cánh chung, thiết lập tức khắc Triều Đại Thiên Chúa trên mặt đất (G. Rossé). Chi tiết "dựng ba cái lều" vừa có tính lịch sử (Nhà Tạm của Hòm Bia Chứng Ước trong cuộc xuất hành qua sa mạc) vừa mang tính phụng vụ (Lễ Lều: Lv 23,42; Dcr 14,16-19). Thật ra, ông không biết mình đang nói gì" (c. 33). Ông chỉ dừng lại với một khoảnh khắc sống ở bình diện cá nhân chứ không nghĩ đến được số phận cánh chung của toàn thể Dân Giao ước. Ông không hiểu giá trị của cuộc Hiển dung trong chương trình cứu độ phổ quát.
Quang cảnh hiển vinh đột nhiên bị một đám mây che phủ. Khi đi vào trong hoàn cảnh mới này, các môn đệ hoảng sợ (c. 34), điều này cho hiểu là con người mỏng dòn đang tiếp cận với mầu nhiệm của sự thánh thiêng. Đám mây là sự chấm dứt kinh nghiệm về vinh quang, vừa là nơi phát ra tiếng nói thiên quốc. Đây là vai trò biểu tượng của đám mây (x. Xh 19,9.16; 24,15-18; 40,34t; 2 Mcb 2,8; Cv 1,9). Tiếng nói bảo: "Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người" (c. 35). Khẳng định được liên kết với mạc khải trong Phép rửa (Lc 3,22), nhưng khác biệt ở chỗ tại Phép rửa, tiếng nói ngỏ lời trực tiếp với Người Con, còn ở đây, mạc khải được gửi đến các môn đệ, với lệnh vâng nghe lời Người (autou akouete: lưu ý vị trí nhấn mạnh của đại từ. Diễn ra như sau: "Chính Người, anh em hãy nghe lời!"). Mạc khải từ trời đã tổng hợp hai trích dẫn Tv 2,7, nhằm nói về tư cách Con Thiên Chúa của Đức Kitô, và Is 42,1 nhắc đến sứ mạng ngôn sứ của Người Tôi tớ Đức Chúa, phải chịu đau khổ khi loan báo Lời Chúa. Đức Giêsu vừa có tư cách vừa mang sứ mạng được hai bản văn này giới thiệu. Mạc khải kết thúc với lời kêu gọi rút từ Đnl 18,15 nhắc nghe lời ngôn sứ Môsê (x. Cv 7,37). Từ nay, không còn phải là Môsê hoặc các ngôn sứ mà các môn đệ phải vâng lời, nhưng là chính Con Thiên Chúa, Đấng có uy quyền vượt xa uy quyền của mọi người từ xưa cho đến tận thế. Cách nào đó lời này phi bác ý muốn của Phêrô là thiết lập ngay từ bây giờ Nước Thiên Chúa trên mặt đất. Cần phải hiểu là sứ mạng Mêsia của Đức Giêsu vượt quá những nỗi niềm chờ mong Đấng Mêsia của dân Israel cà những nguyện vọng trần tục của các môn đệ.
Thế rồi bản văn Lc kết thúc đơn giản, so với Mc (Mc 9,8). Tiếng nói đã ngưng, các nhân vật Môsê và Êlia không còn ở đó nữa, chỉ còn lại Đức Giêsu và các môn đệ (c. 36). Tác giả không nhắc đến lệnh im lặng Đức Giêsu truyền cho các môn đệ (x. Mc 9,9; Mt 17,9), nhưng ghi nhận rằng các ông "nín thinh". Đây là hậu quả của một kinh nghiệm đã ghi dấu sâu sắc trong lòng ba chứng nhân, họ nội tâm hóa biến cố này, họ không để lộ ra bên ngoài bao lâu Đức Giêsu còn ở với họ ("Trong những ngày ấy").
* Kết thúc cuộc Hiển Dung (36)
Sau đó, các môn đệ giữ thinh lặng, không tiết lộ gì về những chuyện đã xảy ra trên núi. Ghi nhận sự thinh lặng này đúng ra là một câu tóm truyện Mc (Mc 9,9-13). Các ông cứ giữ thinh lặng như thế cho đến khi Đức Giêsu đã sống lại.
+ Kết luận
Biến cố Hiển Dung là trạm trung chuyển giữa ánh sáng loé lên quá mau của Phép Rửa và ánh sáng chói lọi của sáng ngày Phục Sinh. Trong cuộc hành trình lên Giêrusalem, Đức Giêsu thấy mình được tiếng Chúa Cha chuẩn nhận trong sứ mạng Mêsia chịu đau khổ: Người sẽ thực hiện chương trình cứu độ qua thân phận bị sỉ nhục và thât bại. Nhưng qua lời giới thiệu của Chúa Cha, chúng ta biết Đức Giêsu là Lời mà ta phải lắng nghe, là vị hướng đạo chắc chắn trong cuộc Xuất Hành cuối cùng đưa đến cuộc sống viên mãn. Điều này được làm rõ ở cuối biến cố, khi tác giả nói là "chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu: Mục tiêu của Cựu Ước là dẫn chúng ta đến với Đức Giêsu, Đấng hoàn toàn vâng phục chương trình cứu độ của Chúa Cha. Sau Phục Sinh, biến cố Hiển Dung sẽ có một vị trí quan trọng trong truyền thống Hội Thánh, vì được coi là một trong những khoảnh khắc có ý nghĩa nhất trong kinh nghiệm Kitô hữu (x. 2 Pr 1,16-28).
5 - Gợi ý suy niệm
1. Tác giả TM III cho biết vì sao Đức Giêsu lên núi: để "cầu nguyện" (c. 28). Người dành nhiều thì giờ mà cầu nguyện. Chỉ nhờ thế, Người mới dần dà hiểu được những gì sẽ xảy ra, đâu là nơi Cha Người đang dẫn Người đến. Giống như ba môn đệ ngày hôm ấy, chỉ khi để cho Đức Giêsu dẫn đưa vào nơi thanh vắng và đến gần Thiên Chúa, chúng ta mới ở trong hoàn cảnh thích hợp, thuận lợi, mà hiểu rõ hơn mầu nhiệm bản thân Đức Giêsu và chương trình của Thiên Chúa. Nhờ có Người làm trung gian, chúng ta biết mọi điều mà Thiên Chúa có ý làm cho chúng ta và chúng ta biết cách xử sự với Thiên Chúa.
2. Trong khi cầu nguyện, dung mạo của Đức Giêsu "đổi khác" (c. 29). Tác giả không nói là "biến hình" như các Tin Mừng khác. Điều xảy ra trong truyện này không nhắm trước tiên cho Đức Giêsu, nhưng là cho ba môn đệ. Không phải Người là Đấng phải thực hiện một kinh nghiệm hoặc phải biết một điều gì mới, nhưng chính các ông mới phải tiến tới trong việc hiểu biết Người và tin tưởng vào Người. Ánh sáng trên dung nhan Đức Giêsu cho chúng ta hiể trong khi cầu nguyện, Người đã hiểu chương trinh cứu độ của Cha Người và đã chấp nhận chương trình đó. Hy sinh của Người sẽ không phải là một thất bại, mà là một bước tiến tới sự phục sinh và vinh quang.
3. Sự kiện Đức Giêsu xuất hiện giữa Môsê và Êlia và hai ông đàm đạo với Người cho các môn đệ một bằng chứng nữa để có thể nhận ra Đức Giêsu là ai: Người thuộc về thế giới Thiên Chúa. Nhưng Người cũng thuộc về lịch sử dân Chúa, một lịch sử được Thiên Chúa hướng dẫn. Người phải đưa sứ mạng của Môsê và Êlia đến chỗ hoàn tất; Người cũng đáng được trân trọng và nhận biết như hai người tôi tớ vĩ đại này. Đức Giêsu không xuất hiện bất ngờ như một sao băng không hề có liên hệ gì với quá khứ, nhưng Người tháp vào trong lịch sử dài gồm những săn sóc ân cần của Thiên Chúa đối với dân Ngài, và đưa lịch sử này đến chỗ hoàn tất.
4. Quan hệ của Đức Giêsu với Thiên Chúa không phải là một vấn đề lý thuyết, không quan trọng gì bao nhiêu đối với đức tin và lối sống Kitô hữu. Phải nói là chính trong tương quan này mà bản chất của tương quan của Người đối với loài người chúng ta cũng được làm sáng tỏ, cả ý nghĩa của Người đối với chúng ta, những chờ đợi mà chúng ta có thể có nơi Người, những bổn phận phát xuất từ tương quan này đối với chúng ta.
5. Cho tới nay, Israel đã nghe lời Môsê và Êlia, nay họ phải nghe lời Đức Giêsu. Tất cả Sách Thánh của Israel đều dẫn tới Đức Giêsu. Bằng bản thân, bằng hoạt động và bằng lời nói của Người, Đức Giêsu đưa đến cho dân chúng sứ điệp chung kết của Thiên Chúa. Cựu Ước không có ý nghĩa nếu không có Đức Giêsu, còn chính Người, nếu không có Cựu Ước, thì chỉ là một mầu nhiệm đối với chúng ta. Vào ngày Phục Sinh, để cho các môn đệ có thể hiểu ý nghĩa của cái chết và sự sống lại của Người, Người sẽ phải giải thích Cựu Ước cho họ (x. Lc 24,17).



Đức Giêsu đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê.
Thật đáng tiếc, sách bài đọc Chúa nhật đã cất bớt câu của Luca. Ông đã nồi "khoảng tám ngày sau khi nói những lời ấy, Đức Giêsu đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê". Lại càng đáng tiếc hơn, vì ba Tin Mừng nhất lãm đều đồng ý liên kết chặt chẽ biến cố biến hình của Đức Giêsu với cuộc đàm thoại nầy của Người "khoảng tám ngày trước đó" (Mt 17,1-9,2; Lc 8,28). Đó là một trong những trường hợp biến cố mà hai giai đoạn trong cuộc đời của Chúa Giêsu được nối liền theo thời gian. Vâng các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê phải nhớ đến sự kiện này. Tám ngày trước, đâu có một cuộc đối thoại không thể quên được, gồm hai phần: Trước hết, Người đã hỏi các ông: "Anh em bảo Thầy là ai?" và Phêrô đã trả lời câu hỏi về “lý lịch" này, bằng cách tuyên xưng đức tin vào Chúa là "Đấng Mêsia của Thiên Chúa"... Rồi ngay sau đó, Đức Giêsu bắt đầu loan báo cho họ biết cái chết sắp tới của Người. "Thầy phải chịu đau khổ nhiều, bị loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sống lại". Đó là cuộc đàm đạo của các ông còn ghi nhớ trong tâm trí.
Việc biến hình liên quan mật thiết với cuộc thương khó và biến cố Phục Sinh. Trong vài tuần nữa, Đức Giêsu lại đem ba người theo Ngài, ba người bạn này đến vườn Ghếtsêmani (Mt 26,37; Mc 14,33). Gương mặt của Đức Giêsu mà họ sắp thấy rạng ngời vinh quang, lúc đó họ lại thấy thấm đầy mồ hôi và máu đỏ (Lc 22,44) bị vả tát, rồi phỉ nhổ (Mt 25,67).
Trong cuộc đàm đạo tám ngày trước, Đức Giêsu cũng loan báo cho các ông biết rằng, chính các ông sẽ phải "vác thập giá, của mình để theo Người" (Lc 9,23) và Người nói thêm rằng, "một số người sẽ không phải nếm cái chết, trước khi thấy Nước Thiên Chúa" (Lc 9,27)... “Vương quốc" bí mật này là sự phát triển vinh quang của Thiên Chúa trong nhân loại, thế thì biến cố biến hình phải chăng là một hình ảnh của vương quốc đó? Lạy Chúa, làm sao con có thể đạt được mềm vui Phục sinh, mà không phải ngang qua con đường khổ giá? Mùa Chay này có là dịp để giúp con thông hiệp với những đau khổ của Chúa không? Tuần lễ thứ hai Mùa Chay bắt đầu để "nhờ thập giá tiến đến niềm vui". Thương khó - Biến hình, cũng là một mầu nhiệm.
Cùng với Phêrô, Gioan và Giacôbê, Người lên núi để cầu nguyện.
Oi! Thật các ông đã có một dịp may đặc biệt! Cầu nguyện với Đức Giêsu! Được thấy Người cầu nguyện! Nhưng chỉ lát nữa, chúng ta sẽ thấy ngay, dù các ông có hiện diện trong lúc đó, các ông cũng không xứng đáng hưởng dịp may này. Trong khi Chúa Giêsu cầu nguyện thì các ông lại "ngủ”. Đức Giêsu thật là "con người của cầu nguyện". Vào mỗi lúc quan trọng của cuộc đời, Người đều cầu nguyện (Lc 3,21 - 5,16 - 6,12 - 9,18 - 9,28 - 10,21 -11,1 - 22,32 - 22,41 - 42-23,84 - 23;46). Trong suốt Tin Mừng của ông, Luca luôn ghi nhận Đức Giêsu tìm sự cô tịch có thể gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Có một bí mật trong con người Đức Giêsu. Ngài sống trong sự thân mật đặc biệt với một Đấng nào đó mà Ngài gọi là "Cha". Đức Giêsu là "con người muốn hướng về Chúa Cha". Đó là chìa khoá khai mở lý lịch sâu xa của Ngài. "Cha" là lời xưng hô đầu tiên khi Ngài còn là một cậu bé 12 tuổi ở Đền Thánh (Lc 2,49) và cũng là lời thưa cuối cùng khi Ngài đã trưởng thành, lúc Ngài chết trên thập giá (Lc 23,46).
Vậy thì, trong Mùa Chay này, tôi sẽ hướng việc cầu nguyện của tôi như thế nào đây?
Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà.
Rõ ràng là Thánh Luca tránh dùng từ biến hình mà Mát-thêu (17,2) và Máccô (9,2) đã dùng để loan báo Tin Mừng cho người đương thời, chúng ta cũng phải biết thích nghi, có thể phải tránh một vài từ. Thính giả của Luca là những người gốc ngoại giáo, hấp thụ văn hoá Hy Lạp, có thể chỉ thấy trong từ "biến hình" một trong rất nhiều biến dạng của những thần linh có tính huyền thoại. Luca thích một thứ ngôn từ bề ngoài có vẻ khiêm tốn hơn nhằm trong lúc cầu nguyện, gương mặt của Đức Giêsu trở nên khác thường". Thực tế, khi ngắm nhìn một số người nam nữ, trong lúc họ sốt sắng cầu nguyện ta cũng có thể thấy gương mặt của họ rạng ngời từ bên trong: cũng chính là con người đó, nhưng có một cái khác thường đang toát ra.
Trong văn hoá Kinh Thánh, biểu tượng "y phục" cũng giúp ta bổ sung cho sự quan sát đầu tiên này. Y phục “trắng tinh và chói loà" là “dấu chỉ" cho các hữu thể trên trời (Đn 7,9-10,5) Còn các Kitô hữu đầu tiên dùng để nói về Đức Giêsu. Phục Sinh (Kh 1,13, Lc. 17,23-24,4). Đó là tấm áo trắng các bé thơ của chúng ta thường mang khi chịu phép rửa... Ao trắng của những người lớn khi tuyên xưng lại đức tin... áo trắng của cô dâu trong ngày cưới, áo của linh mục trên bàn thờ... Đó là những dấu chỉ của Phục sinh, dấu chỉ của những môn đệ, chia phần vinh quang với Thầy (Kh 3,4-5 - 3,18-4,4 - 6,11-7,9-9,13)
Khi gợi lên cho ta thấy Đức Giêsu với “gương mặt biến đổi" nhờ cầu nguyện, Luca có ý khích lệ chúng ta. Trong cuộc sống đầy thử thách và thất bại, đầy đau khổ và tội lỗi chỉ có cầu nguyện, vào những lúc nào đó, mới có thể biến đổi chúng ta. Bởi vì chúng ta cũng được "biến đổi" phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương" (2 Cr 3,18). Khuôn mặt Mùa Chay, phải là khuôn mặt biến đổi!
Có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Ê-li-a. Hai vị hiện ra rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sấp hoàn thành tại Giêrusalem.
Chỉ mình Luca mới nói cho chúng ta biết về đề tài cuộc đàm đạo giữa Chúa và hai chứng nhân vĩ đại của Cựu ước: Họ nói về việc Chúa lên đường, cuộc "xuất hành" (exodou, theo từ Hy Lạp). Chúng ta không hiểu rõ Đức Giêsu đã sống bị ám ảnh và đeo đuổi trước viễn tượng về cái chết của mình như thế nào, cái chết mà Gioan gọi là sự “bước qua" cuộc vượt qua của Người (Ga 13, 1) và Luca gọi là "sự bốc đi" (Lc 9,51-24,51). Đức Giêsu là con người hy sinh chính thân mình. Người biết Người đến để làm gì, sẽ đi về đâu Ngời đi về cùng Chúa Cha, Người "bước vào trong vinh quang bằng cách ngang qua cái chết", và kéo theo Người toàn thể nhân loại. Mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giêsu tại Giêrusalem, là tóm tắt toàn bộ lịch sử con người, tóm tắt định mệnh của tôi: Dù tôi muốn hay không, dù tôi ý thức hay không, tôi cũng đang bước đi trên con đường về với Chúa, bằng cách vượt qua cái chết. Tôi đang "xuất hành", rời bỏ miền đất nô lệ để đến miền đất hứa. Giáo Hội bắt đầu Mùa Chay, vào ngày lễ tro, để nhắc cho ta nhớ định mệnh của ta: "Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về tro bụi!". Nhưng cuộc biến hình sẽ biến đổi tình trạng phũ phàng của ta thành một viễn tượng vinh quang: Nhờ trở thành tro bụi, chúng ta mới bước vào trong Chúa. Niềm tin nơi Đức Giêsu là một điều lạc quan phi thường. Đó là ánh sáng cho mọi người? Chúng ta đang tiến về với Thiên Chúa.
Ong Phêrô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu và hai nhân vật đứng bên Người. Đang lúc hai vị này rời xa Đức Giêsu, ông Phêrô thưa với Người rằng: "Thưa Thầy chúng con ở đây hay quá! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cái cho Thầy một cái cho ông Môsê, và một cái cho ông Êlia". Ong không biết mình đang nói gì.
Trước cảnh tượng gây ngỡ ngàng mà các ông đang chứng kiến một lần nữa các tông đồ không hiểu gì. Các ông đang sống trong tình trạng tranh tối tranh sáng, vừa tỉnh vừa mê, nói linh tinh. Tiếp cận với thế giới thần linh, không thể nói lên bằng ngôn ngữ rõ ràng được. Khi mọi sự kết thúc, nghĩa là khi Môsê và Êlia đã ra đi, thì các ông mới nhập cuộc, mới ấp úng mở lời. Tại Ghếtsêmani, cả ba người này đều ngủ cả.
Môsê và Elia là những con người của núi Sinai (Xh 38,18-22; 1 V 19~9-14). Cả hai như bừng cháy lên vì được gặp cảnh tượng không thể diễn tả. Cả hai, đều đã khơi dậy công cuộc giải phóng dân tộc mình khỏi mọi thần tượng đang chiếm chỗ của Thiên Chúa duy nhất. Đức Giêsu đã đàm đạo thân mật với các vị ngôn sứ lớn trong cựu ước. Trong Mùa Chay tôi có dành thời giờ để mở Kinh Thánh không?
Ong Phêrô còn đang nói, thì có đám mây đến bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ.
Khác với Mát-thêu và Máccô, Luca đưa ba môn đệ vào trong "đám mây: là biểu tượng thường xuyên của thế giới thần linh. Vì các Ngài còn không hiểu gì về biến cố. Biến hình vua xảy ra, nên có thể nói, chính Chúa đã muốn mạc khải lần thứ hai cho các ông. Để bước vào trong Chúa, chúng ta cần phải trải qua nhiều giai đoạn liên tiếp. Và một lần nữa, chúng ta lại ghi nhận sự sợ hãi liên tiếp của những người được gặp gỡ Chúa: Vì đó là Đấng hoàn toàn khác". Hơn nữa, họ đâu có gì về việc đó lần này họ cũng lại im lặng.. Tất cả những, định nghĩa tín tý, theo lý trí, về Thiên Chúa, chỉ là những lời lẽ phần lớn là sau những lời nói tầm phèo. Lạy Chúa, Chúa vượt trên mọi quan niệm, chúng con chỉ có thể gọi Chúa là Đấng mà chúng con “không thể nhận biết được". Chúng ta nên im lặng, thinh lặng nội tâm: Chúng ta hãy bước vào bóng mờ của đám mây, trong màn sương mù tạo bóng tối, trong đó ta không thấy cách xa bốn thước, nơi đó, ta phải dò dẫm, tìm đường mà đi.
Và từ đám mây có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta, Người đã được Ta chuyện chọn". Hãy vâng nghe lời Người.
Ở đây Mát-thêu và Luca đã dùng từ "Con yêu dấu” (tiếng Hy Lạp là "Aga pèto). Chỉ có Luca dùng từ "Người con đã được tuyển chọn" (tiếng Hy Lạp là "eklegnlenos"). Những nhà duy lý đề cao lịch sử, thường đặt vấn đề: Thực sự tiếng nói đó đã hàm chứa điều gì? Các Tin Mừng không hề quan tâm đến việc trả lời sự tò mò đó. Từ "được tuyển chọn", là do Luca tự ý viết ra. Luca tham chiếu nhiều đoạn sách ngôn sứ Isaia trong đó từ này nói về "dân Chúa" một cách tập thể, hay nói về nhân vật bí mật "Người tôi tớ của Thiên Chúa" (Is 42,1~3). Vào lúc Chúa bị đóng đinh, Luca cũng sẽ dùng lại từ này (Lc 23,35).
Chúng ta cũng vậy, chúng ta đã được tuyển chọn do phép rửa của mình và mọi người lựa chọn đều nhằm tách riêng con người ra, để phục vụ kẻ khác. Chúa đã tuyển chọn tôi vì Người đang mong đợi một điều nào đó nơi tôi, một cái gì rất độc đáo.
Tiếng phán vừa dứt, thì chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu. Con các môn đệ thì nín thinh, và trong những ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã xem thấy.
Như vậy thì tốt hơn! Các ông đã không hiểu gì ngay lúc đó. Sau này các ông sẽ hiểu, khi Đức Giêsu sẽ là “Người tôi tớ”, người "được tuyển chọn trong biến cố Vượt qua”, trong cuộc xuất hành của Ngài về với Chúa Cha.