SUY NIỆM LỜI CHÚA CN 1 MÙA CHAY C
MỤC LỤC
33. Chiến đấu
34. Chúa nhật I mùa
chay Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
36. Chiến đấu chống lại cám
dỗ Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà
42. Tiến tới một tình yêu Sưu
tầm
44. Cơm bánh Sưu
tầm
45. Thanh luyện chính mình Sưu
tầm
46. Giữ vững niềm tin
Sưu tầm
47. Luôn đề cao cảnh giác Sưu
tầm
48. Lãnh nhận chính Chúa
Giêsu Sưu tầm
1. Cầu
Nguyện
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩ đơn
sơ về việc cầu nguyện trong sa mạc, trong thanh vắng, trong thinh lặng.
Nhìn vào thế giới ngày hôm nay chúng ta nhận thấy khắp nơi đề
vang lên những âm thanh ồn ào, con người như chạy đua với vận tốc, vật lộn
trong cuộc đấu tranh tìm chén cơm manh áo. Rất ít người biêt tìm lấy những giây
phút thinh lặng để cầu nguyện, tâm sự với Chúa. Rất ít người biết quỳ gối trước
nhà tạm trong những giây phút rảnh rỗi. Hành động của con người thời nay thì
hời hợt bên ngoài, không thấm sâu vào tâm hồn, nó chỉ dừng lại trên bình diện
tự nhiên.
Là người tín hữu, chúng ta phải biết đánh giá và làm việc theo
tinh thần đức tin. Điều đó có nghĩa là chúng ta không được gác bỏ những công
việc bổn phận thường ngày, nhưng hãy chu toàn một cách siêu nhiên, hãy làm
những công việc ấy vì lòng yêu mến và gắn bó mật thiết với Chúa. Có như vậy thì
những công việc nhỏ bé nhất cũng có được một giá trị trước mặt Thiên Chúa, bởi
vì nó đã được Thiên Chúa chúc phúc, đồng thời nó sẽ đem lại những hiệu quả tốt
đẹp như lời Chúa đã phán: Không có Thầy, các con không thể làm gì được. Nếu
không có sự yêu mến và gắn bó với Chúa, thì những công việc chúng ta làm, kết
quả bên ngoài có thể là rất tốt đẹp, nhưng kết quả bề trong, trước mặt Thiên
Chúa chỉ là một con số không mà thôi.
Nhiều khi chúng ta nghĩ rằng Giáo Hội được đổi mới, được cứu độ
nhờ vào những công việc rùm beng bề ngoài và mang nặng tính cách quảng cáo. Thế
nhưng Thiên Chúa lại hành động một cách khác. Con người chúng ta có thể quay
trở về với Chúa bằng những phương tiện siêu nhiên và chỉ có thể được cứu rỗi
nhờ vào một đời sống kết hiệp mật thiết với Chúa. Chính vì thế mà chúng ta hiểu
được việc Chúa Giêsu vào sa mạc để cầu nguyện trước khi bắt đầu sứ mạng rao
giảng Tin Mừng của mình, cũng như hiểu được vì sao các đấng thánh, trước khi
bắt đầu một công việc trọng đại, nhất là về phương diện tôn giáo, thường cấm
phòng, tĩnh tâm, thường tìm lấy những giây phút thinh lặng để cầu nguyện với
Chúa.
Để canh tân, để đổi mới trái đất này, Chúa Giêsu đã bắt đầu bằng
việc cầu nguyện. Hơn thế nữa, Ngài còn dùng 30 năm dài để chuẩn bị cho 3 năm sứ
vụ của Ngài. Trong khi đó chúng ta thường thích ra tay lèo lái hơn là tồn tâm
dưỡng tịnh, chúng ta thường thích hoạt động hơn là cầu nguyện. Bởi đó, giữa sự
huyên náo của cuộc đời, chúng ta hãy biết dành lấy cho mình một khoảng sa mạc,
một nơi thanh vắng, một thoáng thinh lặng, để thực sự cầu nguyện và kết hiệp
với Chúa.
2. Đức Giêsu bị cám dỗ – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Đức Giêsu bị cám dỗ sau một thời gian dài không ăn trong hoang
địa. Có lẽ sau khi Ngài chịu phép rửa ở sông Jordan với Yoan Tẩy Giả, Đức Giêsu
đã ăn chay cầu nguyện để biết Thiên Chúa muốn Ngài làm gì, và phải làm như thế
nào trong những tháng ngày sắp tới. Sau thời gian này, Đức Giêsu đã đi rao
giảng, khởi đầu một giai đoạn mới trong đời Ngài.
Đức Giêsu là người. Ngài không biết tất cả. Ngài phải tìm ý
Thiên Chúa liên lỉ qua cầu nguyện, bằng việc nhận định những gì xảy tới cho
Ngài trong đời sống thường ngày (Lc.22, 42; Ga.4, 34). Ngài cầu nguyện để biết
phải làm gì, phải chọn ai (Lc.6, 12-13). Trong cuộc sống, có lúc Ngài biết
nhưng lúc khác Ngài lại xao xuyến dao động: Ngài đã loan báo cho các tông đồ
rằng Ngài sẽ bị bắt bị giết và sau ba ngày Ngài sẽ sống lại (Lc.9, 22.
44-45;18, 31-34) nhưng ở trên thập giá Ngài lại bị cám dỗ Thiên Chúa bỏ Ngài:
“Lạy Cha, lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” (Mc.15, 34).
Đức Giêsu là người. Ngài còn bị cám dỗ như tất cả mọi người. Tin
Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu bị cám dỗ biến đá thành bánh (Lc.4, 3), bị cám
dỗ có quyền hành (Lc.4, 6-7), bị cám dỗ nghi ngờ tình yêu Thiên Chúa (Lc.4,
9-10). “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay”. Ai đã có kinh nghiệm đói, mới biết
những cám dỗ này mãnh liệt như thế nào. Ai có kinh nghiệm về nghèo, mới thấy
tiền bạc thu hút con người đến độ nào. Khi đói, người ta mong có đủ cơm ăn; khi
có đủ cơm ăn áo mặc, người ta mong muốn có nhiều để bảo đảm tương lai và còn
muốn ăn ngon mặc đẹp. Đây là những cám dỗ mà ai cũng gặp. Đức Giêsu một khi đã
chia sẻ thân phận con người nên Ngài cũng bị cám dỗ về ăn, tuy nhiên Ngài không
thể biến đá thành bánh như Ngài muốn, nếu không, Ngài không còn là người trọn
vẹn nữa. Nhập thể, là chấp nhận giới hạn của con người.
Con người thấy mình có những khuynh chiều của thân xác và cũng
có lý trí để nhận biết điều tốt và phải làm. Con người có những khuynh chiều
thân xác như thèm ăn, đòi thỏa mãn thân xác, muốn được đề cao và quy tất cả về
mình. Những khuynh chiều này cũng thuộc về tôi nhưng không hoàn toàn thuộc về
tôi. Tôi có những nhu cầu thân xác, có những khuynh chiều thân xác, nhưng cũng
không phải chỉ có vậy. Tôi còn cảm nhận nơi tôi có ao ước cái gì cao hơn, tươi
đẹp hơn, tuyệt hơn. Tôi là thực tại gồm cả khuynh chiều thân xác cũng như lý
trí hướng thiện. Khuynh chiều xấu có nơi tôi, nhưng nó chưa là tôi hoàn toàn;
chỉ khi nào tôi đồng tình, chỉ khi nào tôi ưng thuận, nó mới hoàn toàn là tôi.
Có nhiều lúc tôi ưng thuận với những khuynh chiều bất chính nơi tôi, và như
vậy, tôi làm tôi thành xấu qua chính hành vi ưng thuận của tôi.
Đức Giêsu, theo ngôn từ của thư gởi tín hữu Do Thái, không bao
giờ ưng thuận những điều sai quấy cho dù Ngài bị cám dỗ như tất cả bao người
khác: “Ngài nên giống chúng ta mọi đàng trừ tội” (Dt.4, 15; 2, 17). Ngài bị cám
dỗ như bao người, như mỗi người chúng ta, nhưng không bao giờ Ngài phạm tội,
không bao giờ Ngài ưng thuận với những gì bất chính, với những khuynh chiều bất
chính nơi thân xác Ngài. Đức Giêsu là người hoàn toàn, Ngài chịu thử thách trăm
bề, bị cám dỗ như bất cứ ai trên đời, nhưng Ngài có một điều khác con người:
Ngài không phạm tội. Đồng tình hay không đối với những khuynh chiều bất chính
nơi mình, là hành vi tự do của mỗi người; đồng tình với những khuynh chiều xấu,
là phạm tội. Phạm tội hay không, là tùy tự do của mỗi người, là do con người xử
dụng tự do Thiên Chúa ban cho như thế nào. Phạm tội hay không, là tùy tự do con
người, nó không thuộc bản chất con người.
Theo niềm tin Kitô hữu, có hai người không bao giờ dùng tự do
Thiên Chúa ban để chống lại Thiên Chúa, không bao giờ hai vị này thuận theo
những khuynh chiều bất chính nơi họ, đó là Đức Giêsu và Đức Maria. Đức Maria vô
nhiễm nguyên tội và không phạm tội “riêng”. Mẹ là người tuyệt vời, nên đã được
Thiên Chúa cho hưởng hạnh phúc trọn vẹn và vĩnh cửu với Ngài. Điều này được
diễn tả qua tín điều: Đức Maria lên trời cả hồn lẫn xác. Đức Giêsu đã không bao
giờ thuận tình với bất cứ cám dỗ làm điều xấu nào. Ngài thuộc trọn về Thiên
Chúa đến độ người ta nói Ngài là con Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
Tin vào Đức Giêsu là tin vào Thiên Chúa. Thiên Chúa đã sinh ra
Đức Giêsu, đã làm Đức Giêsu thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn. Đức Giêsu đã thuộc
về Thiên Chúa với thân xác của mình, cho dù người ta đã hủy hoại thân xác Ngài,
nhưng không thể hủy hoại được Ngài. Thân xác Đức Giêsu là thân xác thánh ngang
qua chính cuộc sống của Ngài. Mỗi con người đều được gọi để thành thánh, để
thuộc về Thiên Chúa, trở nên người thành toàn, người tuyệt vời qua những chọn
lựa sống của mình. Hơn bất cứ thời điểm nào, mùa chay giúp các Kitô hữu nhìn
lại con người của mình với những khuynh chiều thân xác và tinh thần, để rồi
nhận ra lời mời gọi nên thánh trong tất cả mọi hành vi của đời sống mình.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, làm sao để dễ vượt thắng cám dỗ?
2. Bạn có nghĩ Đức Giêsu bị cám dỗ thật không? Tại sao bạn có
quan điểm như vậy?
3. Chiến đấu chống lại cám dỗ với Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Có vô vàn cám dỗ hủy diệt cuộc đời
Con người dùng mồi bọc lưỡi câu để dụ cá và giật chúng lên khỏi
nước để rồi kết liễu cuộc đời của chúng trên bàn ăn. Vô số cá tham mồi đã sa
vào cám dỗ của con người và phải chết tức tưởi trước thời hạn.
Một số nhà nông hiện nay thường dùng những hóa chất có mùi hương
đặc biệt có sức thu hút hàng ngàn con ruồi vàng đục trái và hủy diệt chúng ngay
khi chúng vừa xáp tới hít phải mùi hương hấp dẫn nầy. Vô số ruồi đục trái phải
chết tức thời cũng vì sa vào cám dỗ của người nông dân.
Những kẻ nghịch thù thường dùng gái đẹp và rượu ngon để làm mê
muội lòng trí những ông vua đầy quyền lực hầu triệt hạ nhà vua và chấm dứt
triều đại của ông. Thế là rất nhiều ông vua say đắm tửu sắc bị mắc vào cạm bẫy
của kẻ thù và phải chết chìm trong vũng lầy êm ái.
Cám dỗ có thiên hình vạn trạng
Cám dỗ diễn ra dưới nhiều dạng thức như tiền tài, danh vọng, địa
vị chức quyền, lạc thú…
Cám dỗ có thể từ bên ngoài thâm nhập vào con người qua cả ngũ
quan: thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác và xúc giác.
Cám dỗ cũng còn ẩn sâu từ cõi lòng và thôi thúc từ bên trong, đó
là tham lam, ham muốn, kiêu căng, giận hờn… xui khiến người ta chìm vào tội
lỗi.
Thông thường hơn, có những cám dỗ rất gần gũi với đời sống hằng
ngày, đang vây bọc chung quanh chúng ta và chi phối, chế ngự cuộc đời chúng ta.
Nhà thơ Tú Xương có nêu tên vài cám dỗ rất thường tình nhưng
cũng là những cám dỗ bất tận trong kiếp người, như:
“Một trà, một rượu, một đàn bà,
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta…”
Ca dao Việt Nam cũng nói đến sự cám dỗ của thuốc lá khiến nhiều
người không kháng cự nổi:
“Nhớ ai như nhớ thuốc lào,
đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên.”
Thế là con người phải luôn luôn đương đầu với vô vàn cám dỗ có
nguy cơ hủy diệt nhân cách và phẩm chất của mình.
Cám dỗ không buông tha bất cứ ai
Cám dỗ không chừa bất cứ ai. Các môn đệ Chúa Giêsu ngày xưa cũng
bị cám dỗ được làm lớn, (Mc 9,34) được ngồi bên tả bên hữu chiếc ngai vàng mà
họ tưởng là Thầy Giêsu sẽ chiếm lấy.(Mc 10,37)
Ngay cả Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi những cơn cám dỗ trong
cuộc đời. Mặc dầu Người thực sự là Thiên Chúa nhưng vì Người cũng hoàn toàn là
con người như chúng ta, nên "Người cũng phải chịu trăm chiều thử thách y
như ta" (Do-thái 4,15).
Bài Tin Mừng hôm nay đề cập đến không phải một mà là đến ba cơn
cám dỗ của Chúa Giêsu.
Cám dỗ thứ nhất là sử dụng quyền lực thần linh để biến đá thành
cơm bánh (Lc 4,3).
Cám dỗ thứ hai là trở thành vua của thế giới, “toàn quyền cai
trị các nước thiên hạ cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này” (Lc 4,
5-7). Cám dỗ nầy còn được lặp lại khi dân chúng muốn tôn Chúa Giêsu làm
vua. (Gioan 6,15).
Cám dỗ thứ ba là dùng quyền phép để thu phục nhân tâm, chẳng hạn
như đứng trên “nóc Đền Thờ Giê-ru-sa-lem rồi gieo mình xuống” an toàn, khiến
cho mọi người khâm phục và tin theo (Lc 4, 9-11).
Dù bị cám dỗ về mọi mặt y như chúng ta, nhưng Chúa Giêsu không
bao giờ thua trận. Người chiến thắng tất cả mọi thứ cám dỗ cách vẻ vang. Vũ khí
Người sử dụng để chống lại các chước cám dỗ là lòng yêu mến Chúa Cha, luôn vâng
phục Chúa Cha và cố công làm đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng.
Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta kiên quyết chống lại mọi cơn cám
dỗ trong cuộc đời
Thân phận con người như lau sậy yếu đuối, bị lắc lư nghiêng ngả
giữa muôn luồng gió cuộc đời. Đời sống con người chơi vơi như cánh bèo trên mặt
nước, dễ dàng bị trôi dạt bởi sóng nước vây phủ tư bề.
Vì cám dỗ có thể đến từ mọi phía nên chúng ta phải luôn tỉnh táo
để không bị chúng bất thần xông tới hủy diệt chúng ta.
Vì cám dỗ có tính cách trường kỳ, chỉ chấm dứt khi con người tắt
thở nên chúng ta phải thường xuyên rèn luyện để có thể bền gan chiến đấu cho
đến hơi thở cuối cùng.
Vì cám dỗ có thể hủy diệt những phẩm chất cao đẹp của con người
và biến người ta thành nô lệ cho dục vọng đen tối, cho bản năng hư hèn, nên
chúng ta không thể để cho mình thua trận.
Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta hãy chọn làm theo ý Chúa hơn là
theo ý mình, cố gắng làm đẹp lòng Chúa trong mọi sự, gắn bó với Chúa Giêsu, cầu
nguyện với Chúa Giêsu để xin Người giúp chúng ta chiến thắng.
4. Đời là cuộc chiến không ngừng
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Mùa chay khởi đầu với thứ tư lễ tro và kéo dài 40 ngày. Chúa
Nhật thứ sáu mùa chay là Lễ Lá, khởi đầu tuần thánh tưởng niệm cuộc tử nạn phục
sinh của Đức Giêsu. Mùa chay dọi lại cuộc hành trình của dân Chúa trong hoang
địa 40 năm trước khi vào đất hứa, cũng như biến cố Đức Giêsu ăn chay cầu nguyện
40 ngày trước khi khởi đầu sứ mạng rao giảng công khai, và cụ thể chuẩn bị tâm
hồn tín hữu hôm nay chuẩn bị đón mừng mầu nhiệm Đức Giêsu tử nạn phục sinh.
Thiên Chúa can thiệp trong lịch sử dân tộc Việt Nam
Bài đọc thứ nhất cho thấy người Do Thái mỗi năm trình diện trước
nhan Chúa với hương hoa mình thu lượm được, và tuyên xưng niềm tin vào Thiên
Chúa Đấng can thiệp vào lịch sử dân tộc: Cha tôi là người Aram đã sống ở Aicập,
bị hà hiếp và chúng tôi đã kêu lên Thiên Chúa, và Ngài đã giải phóng chúng tôi
khỏi ách nô lệ… Thiên Chúa đã kiến tạo và dìu dắt dân Do Thái qua Abraham,
Isaac và Môsê…
Người Việt Nam cho mình là con rồng cháu tiên, con cháu Lạc Long
Quân và Âu Cơ, con cháu vua Hùng với bốn ngàn năm văn hiến…! Đó là cách nói của
người Việt Nam về chính mình, nhưng dù nói cách nào chăng nữa thì cuối cùng,
người Việt Nam vẫn là con Thiên Chúa, vẫn được Thiên Chúa tạo dựng, và Ngài đã
làm một số người Việt Nam trở nên những bậc anh hùng, dám hiến dâng mạng sống
để làm chứng Thiên Chúa đang hiện diện và hướng dẫn dân tộc Việt Nam.
Những gì dân tộc Việt Nam đang là đang có, đều là ân điển Thiên
Chúa ban. Lịch sử dân Do Thái là lịch sử Thiên Chúa yêu thương tất cả loài
người qua dân tộc Do Thái, cũng tương tự vậy lịch sử dân tộc Việt Nam là chuỗi
những biến cố các anh hùng dân tộc đã thực hiện trong tình yêu của Chúa, qua
các triều đại vua Hùng, qua bà Trưng bà Triệu, qua một ngàn năm sống dưới sự
cai trị của người Tàu mà không bị đồng hóa hoặc tiêu diệt. Thiên Chúa hiện diện
nơi lịch sử dân tộc Việt Nam với nét nhịn nhục, sự kiên cường và tính anh hùng
bất khuất của người Việt Nam. Thiên Chúa yêu thương người Do Thái, và Ngài cũng
yêu thương người Việt Nam không kém gì người Do Thái. Dân tộc Do Thái là mẫu,
là hình ảnh, để giúp các dân tộc khác nhận ra tình yêu của Thiên Chúa nơi mỗi
dân tộc.
Thiên Chúa yêu thương và gần gũi mọi người thuộc mọi dân tộc
Thiên Chúa nói với con người qua lương tâm của mỗi người, và
Ngài đã nói với con người qua lịch sử dân Do Thái cũng như qua các ngôn sứ, và
trong thời cuối cùng Ngài đã nói với con người qua chính Con Một của Ngài là
Ngôi Lời nhập thể. “Lời rất gần ngươi, ngay nơi miệng và trong lòng ngươi”. Nếu
ai muốn nghe tiếng Chúa, ắt có thể nghe được vì Thiên Chúa rất gần con người.
“Nếu ngoài miệng tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và trong lòng tin
rằng Thiên Chúa đã phục sinh Ngài từ cõi chết, thì được cứu”. Tin vào Đức
Giêsu, thì được cứu, dù người đó là Do Thái hay Hylạp, nô lệ hay tự do, vì “tất
cả những ai kêu cầu danh Thiên Chúa đều được cứu”.
Xin cho mỗi người nhận ra Thiên Chúa luôn yêu thương và đồng
hành với từng người, và với dân tộc mình trong dòng lịch sử.
Đời là cuộc chiến
Đức Giêsu cũng không được miễn trừ khỏi cuộc chiến. Đã là người,
ai cũng phải chiến đấu. Cuộc chiến thể lý, không phải ai cũng phải đương đầu;
nhưng cuộc chiến thiêng liêng hay nội tâm thì ai cũng phải trải qua. Tin Mừng
hôm nay cho thấy Đức Giêsu trải qua cuộc chiến của Ngài:
- Ngài đói, và có cám dỗ muốn ăn, muốn có gì để ăn, muốn biến đá
thành bánh để ăn. Tại sao không biến đá thành bánh để ăn, khi tất cả để phục vụ
con người, đặc biệt khi mình đói? Cám dỗ trở nên cực kỳ mãnh liệt khi ý tưởng
“nếu không được ăn bây giờ thì mình sẽ mất sức và như vậy không biết mình còn
có thể sống được nữa không”!
- Con người nếu để tự do, không biết cái gì xảy ra. Tại sao
không dùng quyền lực để thống trị con người? Tại sao không làm vua và cưỡng bức
tất cả mọi người phải được rửa tội, như vậy danh Chúa có cả sáng và dễ dàng hơn
không? Tại sao lại cho con người tự do? Tại sao không dùng quyền lực để bắt
người ta làm điều tốt?
- Nếu tôi nổi tiếng và được người ta kính phục, thì khi tôi
giảng về Thiên Chúa người ta sẽ nghe, và Chúa sẽ được vinh danh hơn. Làm sao để
lấy được lòng tin và kính phục của con người? Tôi có thể nhảy từ đỉnh đền thờ
xuống, và giảng cho người ta một bài về Thiên Chúa, và người ta sẽ nghe lời tôi
giảng! Nhưng nhảy xuống thì tan xương nát thịt. Tại sao Thiên Chúa không can
thiệp? Tại sao Thiên Chúa không sai thiên thần đến đỡ chân tôi?
Đức Giêsu đã phải chiến đấu với ma qủy, với chính khuynh chiều
thân xác của con người. Và Ngài đã thắng, Ngài chấp nhận chương trình Thiên
Chúa về con người, Ngài chấp nhận luật lệ tự nhiên Thiên Chúa đã xếp đặt, Ngài
không biến đá thành bánh, Ngài tôn trọng tự do của con người, Ngài không thách
thức Thiên Chúa và đòi Thiên Chúa làm theo ý riêng mình. Con người ngày nay
cũng có những cám dỗ tương tự như Ngài ngày xưa, có lẽ là:
Tại sao tôi không được phá thai khi đó chỉ là một tế bào trong
thân xác tôi? Tại sao tôi không được cloning (sinh vô tính) khi tôi không có
con, khi tôi muốn có người nối giòng? Tại sao con người không được làm những
thí nghiệm về con người (tái tạo con người khi cho phôi và tinh trùng gặp nhau,
xem nó phát triển như thế nào, và v.v… rồi có thể hủy những “thai nhi” như
vậy)?
Tại sao tôi không được thỏa mãn mình khi người khác đồng ý, khi
tôi có tiền và người khác cần tiền, v.v…?
Tại sao tôi không được coi những giá trị “đa số người đời thừa
nhận” làm giá trị của tôi, chẳng hạn tiền bạc, địa vị, danh vọng…
Mỗi người trong cuộc sống thường ngày, phải chiến đấu với ma
qủy, với chính mình, với thế gian và những giá trị của nó. Xin Chúa giúp, để
mỗi người chúng ta vượt qua chính mình, để chúng ta trở nên giống Đức Giêsu,
nên thánh mỗi ngày trong từng hành vi quyết định của chúng ta.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Theo bạn, con người hôm nay bị cám dỗ về điều gì nhất? Làm
sao để vượt qua?
2. Có gì lợi ngay ở đời này khi vượt qua chính mình, khi thắng
được “cám dỗ”?
3. Dân tộc Do Thái có chỗ đứng đặc biệt trong chương trình của
Thiên Chúa. Theo bạn, dân tộc Việt Nam có chỗ “đặc biệt” trong chương trình của
Thiên Chúa không? Xin mời bạn chia sẻ chỗ đứng đặc biệt của dân tộc Việt Nam
trong chương trình của Thiên Chúa, nếu bạn “thấy”!
5. Ma qủi cám dỗ – Cố Lm Hồng
Phúc
Bài Phúc Âm hôm nay đề cập đến cuộc tranh chấp giữa Chúa Giêsu
và ma quỉ. Một cuộc tranh chấp sẽ còn kéo dài trong những ngày sắp tới và còn
tiếp tục trong lịch sử Giáo hội cũng như trong cuộc sống mỗi người, cho đến
ngày toàn thắng cuối cùng của Chúa.
Đã là một cuộc tranh chấp thì có hai đối thủ đương đầu: Chúa
Giêsu và ma quỉ.
Người Công giáo chúng ta, ai cũng tin có ma quỉ, vì Thánh Kinh
đã nói rõ ràng và trong đời sống, chúng ta nhận thấy hoạt động của nó. Tuy
nhiên, ma quỉ - những thiên thần ngụy vốn rất khôn ngoan-, biết dấu đầu che
đuôi, để làm cho một số người không tin rằng nó có. Cha Ravignan nói: “Cái khôn
ngoan của ma quỉ ngày nay là làm cho người ta tin tưởng rằng nó không có, để dễ
dàng hoạt động”.
Ma quỉ thuộc thế giới vô hình, chúng ta không nhìn thấy nhưng
nhận thức sự hiện diện của nó qua các hoạt động. Ma quỉ thường hoạt động bằng 3
cách: ám ảnh, phá phách, và cám dỗ.
Trước hết, ma quỉ ám ảnh người ta, dùng nạn nhân như dụng cụ để
nói năng hoạt động. Chúa Giêsu đã trừ quỉ nhiều lần (Mt 8, 16; Mc 1, 32; Lc 4,
41…). Chúa ban cho các tông đồ quyền năng ấy (Mt 10, 1 & Mc 3, 15). Giáo
hội cũng thừa hưởng trong sứ vụ “trừ quỉ”.
Báo Express của Pháp ngày 22-4-1974, đăng tải một bài nói về
những vị trừ quỉ, cho biết cả nước Pháp có 8 vị, những linh mục thánh thiện,
khôn ngoan và can đảm được chỉ định để làm nghi thức trừ quỉ theo Phụng vụ khi
cần đến. Một vị, Cha Henri Gesland, 66 tuổi, nói: “Tôi không cần xem phim Người
trừ quỉ-Exorcist-đang làm xôn xao dư luận, vì sự thật mà tôi phải đương đầu còn
hơn trong phim”.
Ma quỉ còn phá phách, nhất là những tâm hồn thánh thiện đạo đức.
Thánh Gioan Vianney, Cha sở họ Ars, bị ma quỉ phá trong 35 năm và chỉ được
buông tha một năm trước khi Ngài qua đời. Ở Việt Nam, câu chuyện chị Anna Diệu
thuộc Dòng Mến Thánh Giá Thanh Hóa, nạn nhân của ma quỉ, được kiểm chứng và ghi
trong cuốn “Le diable au Couvent” (Quỉ trong Tu viện) của Đức Cha De Cooman.
Nhất là ma quỉ hay cám dỗ chúng ta, xúi dục ta sa ngã phạm tội.
Bài Phúc Âm đề cập đến 3 đợt cám dỗ của ma quỉ. Chúa chấp nhận
bị satan cám dỗ. Luca viết: “Thánh Thần đưa Ngài vào hoang địa để chịu ma quỉ
cám dỗ”. Ma quỉ dùng ba tư tưởng để cám dỗ Chúa thì nó cũng dùng ba thứ mồi nhử
để lôi kéo chúng ta, là tiền tài, danh vọng và sắc dục.
Cuộc đương đầu với ma quỉ còn kéo dài. Luca viết: “Ma quỉ rút
lui để chờ dịp khác”, thì đối với chúng ta cũng vậy, một nhà tu đức viết: “Đó
là cơm bữa hàng ngày”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết cầu nguyện, ăn chay hãm mình,
để bắt chước Chúa chống lại chước cám dỗ của tà thần.
“Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho
khỏi sự dữ” (Kinh Lạy Cha).
6. Cùng Chúa chiến thắng cám dỗ
(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Đình Túc)
Chuyện xưa kể rằng: Vua nước Thục có tính tham lam. Huệ vương,
vua nước Tần lại muốn xâm chiếm nước Thục. Nhưng vì khe núi hiểm trở, không thể
đem quân sang đánh, Huệ vương sai lấy đá tạc hình một con trâu để gần địa giới
nước Thục, mỗi ngày bỏ vàng sau đuôi trâu và phao tin đồn rằng: “Trâu đãi ra
vàng”. Tiếng đồn ấy đến tai vua Thục. Ông liền sai xẻ núi lấp khe và cho năm
lực sĩ vào rừng kéo con trâu đá về. Huệ vương nhờ đó sẵn lối đi, liền đem quân
tiến đánh, cướp được nước Thục. Vua Thục vừa mất nước, vừa hại cả mình, vừa để
lại trò cười cho thiên hạ.
Vua Thục chỉ vì tham chút lợi nhỏ giả tạo mà mất nước, và số
vàng kia cũng quay trở lại vào tay quân thù. Thiên hạ cười chê nhà vua dại khờ
vì đã chọn lựa sai.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Cuộc sống luôn mở ra cho chúng ta những chọn lựa, thử thách. Tuy
nhiên, với người này, gian nan thử thách có thể làm cho họ nhụt chí, thoái lui,
hay vấp ngã ê chề; nhưng với người khác, có thể lại là dịp để họ lớn lên,
trưởng thành và vững chắc hơn trước thách đố cuộc sống.
Cám dỗ gắn liền với phận người tự do. Bởi tự do chỉ thực sự có
giá trị và ý nghĩa khi nó đi liền với chọn lựa. Những chọn lựa thật dứt khoát
của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay có thể gợi lên một thái độ mới trước
những thách đố của cuộc sống, đồng thời cho chúng ta cái nhìn chân xác hơn về
bản chất của những cơn cám dỗ trong cuộc đời.
Bởi cám dỗ không đơn giản là xúi giục làm điều xấu, nhưng còn là
những mánh khóe biến giả thành thật, thực thành ảo, là thủ đoạn tô hồng những
khía cạnh chân thật, đánh bóng những nhu cầu giả tạo – thoạt nhìn – thật tốt
đẹp và cần thiết, nhưng thật ra, đó chỉ là hình ảnh ảo, hoặc một cái nhìn rất
phiến diện.
Cám dỗ thứ nhất ma quỷ đưa ra hôm nay
là nhu cầu ăn uống, là đánh vào bản năng sinh tồn, đánh vào thân xác luôn đòi
hỏi nâng niu, chiều chuộng. Đây quả là một nhu cầu thật thiết thân, nhưng chưa
phải là nhu cầu cao nhất, càng không phải là nhu cầu độc nhất. Bởi cứ mải đánh
bóng nhu cầu vật chất, nhiều người bị mờ mắt, không còn ý thức đến nhu cầu tinh
thần, và nguy hiểm hơn, đánh mất phẩm giá của mình để rơi vào một hình thức nô
lệ khác: nô lệ cho vật chất và cái bụng.
Cám dỗ thứ hai là một nhu cầu khác,
cao hơn và hấp dẫn hơn nhu cầu ăn uống. Đó là cơn cám dỗ chính yếu của con rắn
địa đàng trong bài đọc I hôm nay: “Chẳng chết chóc gì đâu! Thiên Chúa biết ngày
nào ông bà ăn trái cây đó, mắt hai người sẽ mở ra và ông bà sẽ nên như những vị
thần biết điều thiện điều ác”.
Ngày nay, đó là cơn cám dỗ nhắm vào bản năng đối kháng. Là tìm
cách chạy trốn giới hạn cùng những thực tại phũ phàng để bay lên bằng ảo giác
của bia bọt và thuốc kích thích,… Là thèm khát địa vị, quyền chức thế gian,
nhắm vào khuynh hướng thích ngồi chiếu trên, để thống trị, áp đặt quyền lực
trên người khác…
Bởi Thiên Chúa luôn có vẻ như vắng mặt, nên con người rất dễ
chạy theo những vị thần giả hiệu, chúng có tên là tiện nghi, sắc đẹp, kiến
thức, tài năng,…
Khát vọng vươn lên một cuộc sống tốt đẹp hơn là một khát vọng
chính đáng. Nhưng mối nguy của nó ở chỗ điều kiện luôn đi kèm: phải thỏa hiệp
với sự dữ. Nhiều người vì muốn thăng quan tiến chức mà phải chạy chọt, gian
lận, sống luồn cúi, bất lương và vì thế, họ vô tình “bái lạy” ma quỷ mà không
hề hay biết.
Cám dỗ thứ ba là cám dỗ xảo quyệt
nhất. Vì nó không xui giục người ta bỏ Chúa, nhưng khuyến khích người ta chạy
đến cầu xin với Ngài để được ban phép lạ. Thực ra, cầu xin không phải là chuyện
xấu xa, và một đời sống đạo đức, gắn bó với Thiên Chúa là điều đáng khuyến
khích.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã khước từ lời đề nghị của quỷ ma, vì xin
không phải là thử, lại càng không phải là thách thức Thiên Chúa, đòi kiểm chứng
bằng dấu lạ điềm thiêng. Đó là cơn cám dỗ tìm những pha ngoạn mục, kiếm những
chuyện thần kỳ, muốn gặt hái những thành công lẫy lừng bằng những chuyện kinh
thiên động địa.
Cơn cám dỗ này thúc đẩy người ta đổ xô đi tìm phép lạ, dùng
quyền năng Thiên Chúa để trốn tránh khó khăn, nghịch cảnh. Thích phô trương màu
mè, nhưng rất ngại nghe Lời Chúa, hoặc mượn danh nghĩa việc tông đồ để cầu danh
trục lợi. Không ít người đã từ bỏ, không còn đặt niềm tin vào Thiên Chúa chỉ vì
xin mà không được.
Như thế, Ác thần chẳng những dùng điều xấu xa, mà còn có thể lợi
dụng việc đạo đức tốt lành để đẩy con người ra xa Thiên Chúa. Những cơn cám dỗ
ma quỷ thật vô cùng tinh khôn và hiểm độc vì nó tiến từng bước: từ hạ thấp phẩm
giá đến tước mất tự do của con người. Sau cùng là chối bỏ, khước từ Thiên Chúa.
Cơn cám dỗ càng hiểm độc khi âm mưu nham hiểm được bọc trong lớp vỏ nhung lụa,
ngọt ngào, hợp lý và đầy quyến rũ của những nhu cầu, quyền lực và uy tín.
Chúa Giêsu được Thánh Thần thúc đẩy đi vào sa mạc, vì 40 ngày
chay tịnh đầy thử thách, không chỉ như giai đoạn thanh luyện, chuẩn bị cho sứ
vụ sắp tới của Ngài, mà còn là một gặp gỡ, để đón nhận sức sống từ trời cao cho
hạt mầm cứu độ đâm chồi nảy lộc giữa lòng thế giới. Ngài đi vào sa mạc không
chỉ để đối đầu với thử thách mà còn để sống tâm tình con thảo với Chúa Cha.
Vì thế, sa mạc không chỉ là nơi hoang vu, thiếu thốn, nhiều cạm
bẫy đáng sợ, mà còn có thể là chặng dừng quan trọng, là nơi gặp gỡ của những
con tim. Con tim Thiên Chúa và con tim nhân loại.
Mùa Chay vì vậy, không chỉ là mùa của kiêng khem, khổ chế trong
u sầu than vãn, mà còn là giờ của ân sủng, là thời gian Thiên Chúa yêu thương
chúng ta.
Bởi những cơn cám dỗ và lời thách thức: “Nếu ông là con Thiên
Chúa” trong Tin Mừng hôm nay vẫn có đó giữa đời thường, như gắn liền với thân
phận đàn con lũ cháu của Ông Bà Nguyên Tổ.
Dù có khoác lớp áo mới hào nhoáng, hấp dẫn, tinh vi, hiện đại
hơn, thì cũng là một chuỗi những cám dỗ của thuở đầu tạo dựng. Nếu lo sợ đi tìm
một biện pháp giải trừ, tìm một phương cách để chống chọi hay tránh né vẫn thật
sự chưa đủ. Điều cần thiết là một định hướng, một thái độ, một cách nhìn. Bởi
một khi đã gạt Thiên Chúa ra khỏi những suy nghĩ của mình, chúng ta cũng rất dễ
hào phóng mở lòng ra với cơm bánh, của cải và danh vọng. Vì thế, khi chọn bước
vào cuộc chiến suốt 40 ngày sa mạc, Chúa Giêsu muốn chứng tỏ với thế gian rằng:
Con người có thể thắng được những cám dỗ của thế lực tối tăm, nếu biết chọn
đứng về Thiên Chúa và sống bằng sức sống của Ngài.
Chọn Thiên Chúa và thực thi thánh ý Ngài, là thông điệp mà Chúa
nhật đầu Mùa chay hôm nay gửi đến chúng ta, như lời gọi mời một tư thế đứng
thẳng, và để lại sau lưng những ươn lười, ngần ngại. Đứng thẳng lên để cùng với
Chúa Giêsu đi tới trong cuộc hành trình Mùa chay: nói KHÔNG với cái xấu, cái
thấp hèn; nói KHÔNG với lối sống buông thả, gian tà, nhu nhược.
Nhưng điều quan trọng hơn có lẽ là cách nhìn của mỗi chúng ta về
những khó khăn, thách đố của đời thường. Bởi những thách đố của cuộc sống hôm nay
có thể làm chúng ta lo sợ, tránh né, hoặc thỏa hiệp với tà tâm, bất chính,
nhưng cũng có thể là cơ hội cần thiết giúp chúng ta lớn lên hơn, vững vàng hơn,
để sống công chính và thẳng ngay trong tư thế đứng thẳng của những người con
Thiên Chúa.
7. Tín hữu bị cám dỗ cách riêng
về điều gì?
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Đức Giêsu khởi đầu cuộc rao giảng Tin Mừng về tình yêu thương
xót và cứu độ của Thiên Chúa; rồi trong tư cách một người phàm, qua kinh nghiệm
‘cám dỗ’ nơi chính bản thân mình, Người cho thấy phải tiếp nhận Tin Mừng cứu độ
đó như thế nào. Kinh nghiệm chiến đấu với cám đỗ này mang tính phổ quát, cách
riêng có giá đối với Kitô mọi thời đại và trong mọi hoàn cảnh, không chỉ dưới
khía cạnh luân lý nhưng nhất là trong thái độ tiếp nhận Tin Mừng. Càng là Kitô
hữu, dầu là các linh mục - tu sĩ đã được tu luyện nhiều năm tháng, ai trong
chúng ta cũng cần liên tục vượt thắng các cơn cám dỗ đánh trực tiếp vào niềm
tin của mình.
Nói tới ‘cám dỗ’ thông thường ta nghĩ ngay tới điều gì đó cấm
kỵ, thuộc lãnh vực luật lệ hay luân lý mà mọi người phải xa tránh; vì thế cho
nên nhiều người cắt nghĩa trình thuật Đức Giêsu chịu cám dỗ như sau: Người bị
ma quỉ cám đỗ về mê ăn uống, về tính khoe khoang hay tự tôn tự đại; nhất là sự
hiện diện của ‘con quỷ’ lại càng làm cho vấn đề thêm vẻ ‘luân lý’. Đã sống trên
đời thì phàm ai cũng bị ‘cám dỗ’ như thế thôi, chẳng cứ gì Đức Giêsu hay Kitô
hữu; và như thế thì bài học của Đức Giêsu về chống trả cám đỗ càng ít giá trị
khi mà ta muốn giới thiệu Người như ông thầy dạy luân lý (moralist). Điều này
chắc chắn không đánh trúng trọng tâm, vì trước Người, đã có rất nhiều bậc thánh
hiền thuộc nhiều tôn giáo và triết thuyết khác đã từng dạy và phổ biến những
nền luân lý và đạo đức còn cao đẹp và cặn kẽ hơn, cũng như đưa ra các phương
thế chế ngự hữu hiệu hơn nhiều. Họ không những giải thích bản chất của cám dỗ
(tham, xâm, xi) mà còn dạy các phương pháp chế ngự vượt thắng (diệt dục, tự kỷ)
rất căn cơ và bài bản. Nếu thế thì Kitô hữu chúng ta rút ra được điều gì qua
bài học ‘chiến thắng cám đỗ’ của Đức Giêsu, khi mà Người không chỉ bị cám dỗ
‘luân lý’ về mê ăn uống, khoe khoang hay thống trị, mà sâu sắc hơn, Người đang
cho thấy một kinh nghiệm chống trả thách thức đối với đức tin trong tư cách
Kitô hữu?
Tôi thiết nghĩ mọi ‘tín hữu’ - bất luận thuộc tôn giáo nào (miễn
là không thuộc hạng vô đạo) vẫn cho rằng đời mình được xây dựng trên niềm tin
vào một đấng vô hình; có một điều họ cần làm, nhưng lại rất ít khi thực hiện,
đó là duyệt xét xem mình thực sự mong đợi điều gì nơi đấng đó. Họ coi như
chuyện đương nhiên, ‘niềm tin’ là chờ đợi Chúa (hoặc Trời, hoặc Phật, hoặc Thần
Thánh) chu cấp cho cuộc sống mình được đầy no, sung túc; cao hơn thế nữa, để
đời mình được thăng hoa trong thành đạt và danh vọng, được danh thơm tiếng tốt…
và cao thượng hơn nữa là được đắc đạo, là đạt tới nhân đức thánh thiện, trọn
lành. Niềm tin ‘kỳ vọng’ này hình như rất phổ biến nơi người ‘có đạo’ thuộc mọi
tôn giáo, trong đó có cả Kitô hữu chúng ta. Điều được coi như tất yếu, như lẽ
thường tình này thì hôm nay lại bị Lời Chúa liệt vào loại ‘cám dỗ’, mà Đức Kitô
trước nhất, rồi tới mọi Kitô hữu chúng ta, phải thắng vượt. Trong tư cách một
con người đặt niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu đã nêu gương
chiến đấu và chiến thắng cơn cám dỗ tinh vi này như thế nào? Thường tình ta sẽ
nghĩ rằng, Thiên Chúa phải (truyền) biến những hòn đá thành lương thực để nuôi
sống tôi… vì tôi đã tin vào Ngài, phải gìn giữ tôi “kẻo chân vấp phải đá”… vì
tôi đã cậy trông nơi Ngài, phải ban cho tôi thành công, quyền lực, vinh quang,
phúc lộc… vì tôi đã ”bái lạy, thờ phượng Ngài”.
Đối với Đức Giêsu, tin vào Thiên Chúa trước hết phải là lắng
nghe, phó thác và qui về Thiên Chúa nhân ái cách trọn vẹn và vô điều kiện! Đặt
bất cứ điều gì khác lên trên niềm tin phó thác tuyệt đối đó, cho dầu có là nhu
cầu cuộc sống, là thăng tiến nhân bản, là trọn lành đạo đức…, thì đều bị coi là
cám dỗ đối với đức tin. Trước lời cầu cứu khẩn thiết rất chính đáng của các môn
đệ trong cơn bão táp: “Thầy ơi, chúng con chết đến nơi rồi!” (Mc 4:38), hay của
Phê-rô trong lúc bị chìm xuống nước: “Thầy ơi, cứu con” (Mt 14:30) thì Đức
Giêsu vẫn luôn quở trách các ông là đã ‘sa ngã’ vào cơn cám đỗ đức tin: “Làm
sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”
Vì thế, vào đầu mùa chay thánh, thời gian mà Hội Thánh mời gọi
con cái mình duyệt xét và củng cố niềm tin vào một Thiên Chúa đã tự hiến, đã
chết và phục sinh để cứu độ, bài tường thuật về các cám đỗ Đức Giêsu đã trải
qua khi khởi sự cuộc rao giảng Tin Mừng về Chúa Cha nhân ái cứu độ thật có ý
nghĩa và đánh rất trúng trọng tâm; trong số các điều cần chấn chỉnh trong Mùa
Chay thánh này, các Kitô hữu chúng ta (ngay cả các linh mục, tu sĩ) cần phải
đặt việc chấn chỉnh đức tin lên hàng đầu:
- Phải chăng tương quan giữa tôi với Thiên Chúa (của Đức Kitô)
vẫn chủ yếu là cầu xin cho được no đủ, được che chở, được thăng tiến trong nhân
đức, trong tông đồ…?
- Niềm tin và phó thác tuyệt đối vào một Thiên Chúa từ nhân và
hay thương xót, đã cho Con Một Người xuống thế để sống và chết cho tôi, đang ở
mức độ nào?
- Trong cuộc sống Tin Mừng của tôi, giữa cầu xin các ơn huệ và
phó thác tin tưởng cho tình yêu nhân ái, điều nào nổi trội hơn?
Mùa chay là thời gian để tôi suy nghĩ và trả lời các vấn nạn
trên, nếu tôi thật sự muốn chân thành hoán cải!
Lạy Chúa! Mùa Chay là thời gian hồng phúc, là thời gian thuận
tiện để con tiến xa hơn trong niềm tin vào lòng Chúa yêu thương. Xin cho con
hằng biết chiêm ngưỡng Đức Kitô Cứu Chúa tự hiến trên Thập Giá, để không bao
giờ con rơi vào cám dỗ đặt tin tưởng vào tình Chúa yêu thương chỉ thông qua các
ân huệ mình nhận được. Qua Mùa Chay thánh này, xin cho con có được niềm xác tín
vững chắc như Phao-lô: “không gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của đức Giêsu
Kitô, cho dầu là…” A-men.
8. Hành trình cuộc đời – Lm Phêrô Bùi
Quang Tuấn
Khởi đầu sứ vụ rao giảng công khai, Chúa Giêsu được Thánh Thần
đưa vào hoang địa để ở lại nơi đó bốn mươi ngày. Thế ra, để một hoạt động mang
lại hiệu quả, hoạt động đó phải được xây dựng trên nền tảng tĩnh lặng. Chính
trong tĩnh lặng mà con người có thể xác định đường đi nước bước và tiến tới
việc chọn lựa chính xác mục tiêu.
Trước đây, mỗi lần đọc bài Phúc âm “Chúa Giêsu vào hoang địa
chịu ma quỉ cám dỗ”, tôi đều nghĩ đến nỗi cảm thông sâu xa mà Đức Giêsu đã chia
sẻ với nhân loại trong thân phận con người. Đời là một cuộc chiến đấu và chọn
lựa. Trong kiếp người, Đức Giêsu cũng không ra khỏi thông lệ đó. Chắc hẳn Ngài
không chỉ đơn thuần hiểu thấu nỗi đau khổ nơi thân xác lẫn tinh thần của kiếp
nhân sinh, nhưng Ngài còn cảm được những khó khăn, yếu đuối, và gian nan trước
bao cuộc chiến của con người với ma quỉ, xác thịt, và thế gian.
Đức Giêsu cũng trải qua cuộc chiến như ai. Ngài cũng chịu thử
thách giống Ađam ngày xưa trong vườn Địa đàng. Ngài cũng đón nhịu cám dỗ như
Dân Do thái trong hoang địa. Nhưng Ađam thì sa ngã, chạy theo những lôi cuốn
của giác quan và quyền lực. Dân Do thái thì bất trung, dám thử thách và chống
lại Thiên Chúa khi tôn thờ “cái bụng” và thần ngoại.
Riêng Đức Giêsu, Ngài đã chiến thắng và mang lại cho con người
một niềm hy vọng tươi sáng và hướng đi huy hoàng: Chọn lựa và tin tưởng Thiên
Chúa, con người sẽ chiến thắng Satan.
Để có thể làm nên cuộc chọn lựa chính xác và tin tưởng vững vàng
những gì mình lựa chọn, tôi cần có sự tĩnh lặng tâm hồn. Nếu đời là một cuộc
chiến và chọn lựa liên lỉ, tôi phải không ngừng tìm vào “hoang địa”, để nơi đó
luôn xác định cho lối đi, đích tới và phương tiện tiến bước của đời mình.
Lần này, khi đọc lại bài Phúc âm “Chúa Giêsu chịu cám dỗ” qua
lăng kính “đi vào tĩnh lặng để xác định một sự chọn lựa”, tôi đón nhận được từ
Lời Chúa một nguồn sinh lực mới, làm phong phú cho hành trang đức tin, trên con
đường hy vọng.
Chúa Giêsu đi vào hoang địa, nơi đó trong thinh lặng và nguyện
cầu, Ngài xác định con đường mình sẽ đi: “con đường cứu độ nhân loại”. Đích tới
của việc cứu độ đó không phải là mang lại cơm bánh cho con người. Đối với Đức
Giêsu, cứu độ hay giải phóng không phải là việc cung cấp cho con người phúc lợi
vật chất: “Người ta sống không chỉ nhờ bánh” (Lc 4:4). Đây chính là lầm lẫn của
thần học gia Leonard Boff, khi quá chú tâm đến việc giải phóng con người khỏi
cái nghèo thân xác mà quên mất nỗi tiều tuỵ bần cùng của tâm linh, một sự bần
cùng mà chỉ có Chân Lý Yêu Thương mới giải phóng được mà thôi. “Chân Lý sẽ giải
phóng con người.”
Nhưng chân lý đó ở đâu nếu không phải là từ Lời Chúa. Thế nên
yếu tố mà Đức Giêsu chọn lựa để cứu độ con người chính là Lời: “Người ta sống
không chỉ nhờ bánh, nhưng là nhờ vào mọi lời xuất từ miệng Thiên Chúa” (Mt
4:4). Mà Đức Giêsu chính là Lời của Thiên Chúa. Như thế, Ngài tự khẳng định:
không ai khác, không một điều gì khác, ngoại trừ Ngài, chính là con đường cứu
thoát duy nhất cho nhân loại.
Sau khi đã nhìn ra con đường giải thoát chân chính và duy nhất,
Đức Giêsu đã làm thêm một cuộc chọn lựa khác: chọn lựa phương tiện. Đối với
Ngài, phương tiện cứu độ không phải là phép lạ.
Nhảy từ trên đỉnh cao của đền thờ xuống mà không hề hấn gì thì
quả là một phép lạ cả thể đấy chứ. Không chừng nhờ phép lạ như vậy mà nhiều
người sẽ phục sát đất và tin nhận mình là Đấng Thiên Sai. Nhưng Chúa Giêsu không
chọn phép lạ.
Ngày hôm nay, khoa học kỹ thuật tiến bộ đến nỗi đã phát minh
không biết cơ man nào là “phép lạ”. Ví dụ, trước đây, khi một noãn cầu của
người phụ nữ được thụ tinh, nhiều lắm là mười tháng sau, một đứa bé sẽ chào
đời. Nhưng hiện nay, kỹ thuật khoa học có thể làm phép lạ giữ trứng thụ tinh
đến 6, 7 năm sau mới cho mầm sống tiếp tục phát triển và chào đời. Bằng phép lạ
cloning (sao người), khoa học có thể làm ra một thân xác không đầu để lấy các
cơ phận, mà cung cấp cho những ai cần đến.
Trong hoang địa, Chúa Giêsu đã xác định phép lạ không phải là
phương thế tuyệt hảo để cứu độ con người. Ngài thấy trước rằng khi thiếu niềm
tin, khi mất chân lý, thì phép lạ hay bất cứ một sự thần thông biến hoá nào
cũng không mang ơn cứu độ. Trái lại, chỉ gây ra tình trạng huỷ diệt nhân phẩm
và làm tàn lụi sự sống con người.
Thế nên, phương thế cứu độ không phải là phép lạ, nhưng là niềm
tin. Một niềm tin vững vàng vào Thiên Chúa chính là phương thế mang ơn cứu độ.
Biết bao lần Chúa Giêsu chữa lành què quặt, đui mù, đau yếu, phung hủi… và Ngài
chẳng bao giờ tuyên bố: “Phép lạ của Ta đã cứu chữa con” nhưng luôn là: “Lòng
tin của con đã cứu chữa con.” Như thế niềm tin vào Chúa Giêsu chính là phương
thế cứu độ bảo đảm nhất.
Đã có con đường và phương tiện di chuyển, nhưng đâu là cùng đích
cho cuộc hành trình? Xin thưa: “Thiên Chúa”. Đức Giêsu chỉ rõ: “Ngươi phải bái
lạy Thiên Chúa, và chỉ thờ phượng một mình Người” (Lc 4:8).
Trong thinh lặng và cầu nguyện của mùa Chay Thánh, người tín hữu
được mời gọi nhìn lại hành trình cuộc đời. Thử hỏi, nẻo đường tôi đi có được
soi sáng bởi Chân lý Tin mừng, hay chỉ là gian dối lọc lừa? Niềm tin trong tôi
đang dẫm chân tại chỗ hay vững vàng tiến bước? Đích cùng của đời tôi chính là
Thiên Chúa Tình Yêu, hay miếng cơm, xác thịt, đồng tiền, uy quyền, danh dự.
Có quyết tâm đi vào sa mạc lòng mình, với những hy sinh, cầu
nguyện, bố thí, giúp đỡ đồng loại,
Có chân thành nhìn lại và trả lời với chính mình về con đường,
phương tiện, và đích tới trong đời,
Có chọn lựa, tin tưởng, và phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa,
Tôi mới mong có được một mùa Chay ý nghĩa và tràn đầy sức sống
nội tâm, hứa hẹn một ngày Phục sinh vinh quang.
9. Sự lựa chọn của Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Ba Tin Mừng đều trình bày cơn cám dỗ như là trình bày phép rửa.
Sự liên hệ là thời gian vì cả hai sự kiện gắn liền nhau "Bấy giờ Chúa
Giêsu được Thần Khí dẫn vào samạc' (Mt) "và lập tức Thần Khí đẩy Ngài vào
samạc' (Mc) "Chúa Giêsu đầy Thánh Thần, từ giã vùng sông Giođan" (Lc),
Nhưng cùng một chủ đề: tuyên xưng Chúa Giêsu như là con Thiên Chúa đã nhận lấy
thử thách. Cám dỗ ở chỗ bắt Chúa Giêsu chọn lựa giữa những gì có thể.
Ba nhãn quan về chính một sự kiện
Biết rằng Thánh Thần dẫn Chúa Giêsu vào samạc và ở đó 40 ngày
chịu satan cám dỗ. Mc trình bày rất cô đọng, còn Mt và Lc đã sử dụng một truyền
thống thuật dạy giáo lý sư phạm hơn; lặp lại, phương cách Thánh Kinh, đưa ra
cảnh đối nghịch giữa tên cám dỗ và Chúa Giêsu; điều đó thể hiện một giai đoạn
nhất định, sẵn sàng ghi lại trong một trình thuật và một cốt truyện về căn tính
của Chúa Giêsu và nguồn gốc của Ngài trong lịch sử Israel.
Trình thuật trong ngữ cảnh của Luca
Trình thuật này tự nó hầu như đã đầy đủ: có ý nghĩa. Có một sự
khởi đầu ('Chúa Giêsu được dẫn vào trong samạc và bị ma quỷ cám dỗ"). Cuộc
gặp gỡ mở ra làm cho các nhân vật xuất hiện, tương ứng, vào cuối trình thuật,
chia rẽ ("ma quỷ lìa bỏ Chúa Giêsu mà chờ dịp"). Nhưng trình thuật
của chúng ta là thành phần của một lịch sử lâu dài: ghi chép trong một bản văn
rộng lớn hơn. Phép rửa (3,21-22), tiếp theo là gia phả (3,23-35) dẫn vào hai
khuân mặt tính của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa và con người. Hai mặt tính này
chắc chắn dẫn đến sự cám dỗ. Tiếng từ trời tuyên phán là Con Thiên Chúa, được
ghi lại trong tiến trình lịch sử nhân loại bởi gia phả, Chúa Giêsu được dẫn vào
samạc.
Đọc lại trình chúng ta thấy rõ. Ma quỷ lìa bỏ Chúa Giêsu để chờ
dịp. Điều này muốn nói rằng, cuộc chạm trán giữa Chúa Giêsu và tên cám dỗ được
nhắc đi nhắc lại. Nhưng chắc chắn kết thúc. Chiến thắng của Chúa Giêsu được thánh
hiển bởi sự nhận biết ("danh tiếng Người đồn ra khắp vùng"), sẽ được
hoàn tất khi thời gian tới; có nghĩa là khổ nạn bất chợt.
Một vở kịch ba hồi
Trình thuật diễn ra theo một trình tự rõ ràng. Trước hết, các
diễn viên kịch được đưa vào. Bên này là Chúa Giêsu, bên kia là ma quỷ. Hai nhân
vật không cần được giới thiệu. Chúa Giêsu được độc giả biết đến khi tin vào
Ngài gửi đến trong Tin Mừng. Ma quỷ là thành phần của thế giới quen thuộc của
người Dothái ở thế kỷ đầu. Rất thú vị, mô tả tên nó có nghĩa là một chương
trình. "Satan" tiếng Dothái ("quỷ" tiếng Hylạp) chỉ tên đối
phương. Đó là một nhân vật mà bản tính là đối đầu. Nó đối đầu với ai? Với Thiên
Chúa trước tiên và trước hết mọi sự Chúa Giêsu đến để được Thiên Chúa tiên phán
là Con.
HỒI THỨ NHẤT (V. 1-4)
Hồi thứ nhất có khung cảnh là samạc. Sự định vị này không rõ
nét. Đối với con người trong Thánh Kinh, samạc tự nhiên gợi lên thời Xuất hành
và đối diện thường xuyên, đau khổ giữa Thiên Chúa và dân Ngài. 40 ngày nhắc lại
40 năm trong samạc và 40 ngày Môsê ở trên núi. Chúa Giêsu ăn chay 40 ngày. Ở
trong tình trạng cần thiết và mỏng giòn. Ma quỷ đặt ra cho Chúa Giêsu khi đưa
ra sự thiếu điều cần thiết này: "Hãy truyền cho hòn đá này biến thành
bánh". Như là một gợi ý quy kết một cái nhìn chính xác của Con Thiên Chúa.
Thực vậy, đối với ma quỷ, tương đương với là Con Thiên Chúa.
Đứng vào cương vị quyền lực: "hãy truyền cho hòn đá
này...". Tránh trật tự bình thường của bản tính muốn rằng những hòn đá chỉ
là những hòn đá và bánh chỉ là bánh. Sự từ chối của Chúa Giêsu mạc khải cách là
con của Ngài. Ngài đối đầu hai lần với ma quỷ.
- Ra lệnh: ngươi phải vâng lời: "có lời chép". Nó ẩn
chứa sau một lối văn từ Sách Thánh để làm sáng tỏ thái độ.
- Được mời gọi trở lại cách đặc biệt, đồng nhất với con người
"người ta sống không nguyên bởi bánh". Đó là cả một chương trình. Đối
với Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, như lời Kinh Thánh, trở nên người vâng lời
của Lời. Đó cũng chấp nhận làm cho cái đói dừng lại để chứng nhận một cái đói
khác, để làm cho samạc chỉ còn là nơi mong muốn.
HỒI THỨ 2. (V 5-8).
Sự chuyển biến đột ngột ở đây. Từ cao xuống(trả lại) sự thống
trị. Cái nhìn (ma quỉ) nó chỉ cho Đức Giêsu tất cả các nước là một cách chiếm
hữu lập tức (trong chốc lát), và trong tổng thể( tôi sẽ cho ông tất cả quyền
lực này). Là con theo ma quỉ đó là thử thách, một sự thống trị tuyệt đối trên
các nước thế gian. Để thấy rõ mối liên quan cần phải đọc lại 2 sự cám dỗ.
Nếu ông là con Thiên Chúa (5,3)
Nếu ông thờ lạy tôi (5,7).
Ở đây, ma quỉ tự vạch trần. Con Thiên Chúa mà nó thách thức được
mời gọi tôn thờ nó, có nghĩa là bắt phải theo một thần biến hoá và thờ tân
lượng có bộ mặt các nước thế gian.
Đối diện với lời đề nghị này, Chúa Giêsu xắp đặt lại cái nào vào
vị trí cái ấy. Đối với Satan, sự biến hoá của Thiên Chúa, nó nhắc lại rằng chỉ
có một Chúa. Hơn nữa, trong khi nép mình một lần nữa vào sau Lời, Ngài đặt
chính ma quỉ và vị trí của nó: "ngươi phải thờ lạy Thiên Chúa ". Nó
dẫn Ngài lên cao để thử thách nước Người vềụ thực tại quyền lực Chúa Giêsu đặt
ra sự khoảng cách căn bản giữa quyền lực thế gian và nước Thiên Chúa.
HỒI THỨ 3 (V 9-12).
Cuối cùng ma quỉ mang Chúa Giêsu lên nóc Đền thờ Giêrusalem. Sau
cuộc cám dỗ lần thứ nhất và kinh tế, tiếp theo lần thứ hai về chính trị, và đây
cám dỗ về tôn giáo. Như trước, Chúa Giêsu bị đặt dưới thực tại để chế ngự tốt
nhất. Ở đây, cám dỗ gieo mình từ đền thờ xuống để chiếm được ngay lập tức và
với sự giúp đỡ tuyệt vời, sự nhận biết của dân Dothái.
Ở đây ma quỉ còn biện minh rõ ràng về danh tính của nó, nó là kẻ
chống đối Thiên Chúa. Nếu chúng ta đọc bản văn này, chúng ta có thể thấy lời đề
nghị này rất (thô thiển). Trong thực tế, cám dỗ luôn là tế nhị vì rằng cám dỗ
biết thể hiện sự thật bên ngoài. Ma quỷ đặt Chúa Giêsu vào một vị trí ngược lại
với Ngài: mục tiêu tối hậu của nó là chỉ cho thấy rõ Đền thờ Giêrusalem để biết
rõ hơn.
Khi đó, phải đặt sự cám dỗ vào đâu và tại sao Chúa Giêsu lại đẩy
lùi cơn cám dỗ? Nếu Chúa Giêsu chịu thua tên cám dỗ, thì Ngài trở về với những
niềm mong đợi của dân chúng, đi tìm một Messia huy hoàng và hiệu lực. Chúa
Giêsu đã từ chối ít nhất hai kiểu trên. Trước hết chính vì Ngài mà Ngài phải
chờ đợi thời gian thuận tiện, tiếp theo là con đường mà Ngài chọn bao hàm sự
chôn vùi trong con người, sự kiên trì và sau cùng có nguy cơ thất bại. Thái độ
của Chúa Giêsu thật rõ ràng: được mời gọi xác định căn tính tiên tri của mình.
Ngài khẳng định cách từ chối của mình thật tuyệt vời lạ thường.
Phần kết:
Cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu và tên cám dỗ kết thúc bằng sự chiến
thắng của Chúa Giêsu: "ma quỷ lìa bỏ Ngài mà chờ dịp". Để chúng ta
hiểu rõ rằng cuộc đối đầu này báo trước dịp cám dỗ khác. Lc đưa cho chúng ta ít
nhất là hai dấu hiệu. Trước hết Lc đảo ngược trật tự của những cơn cám dỗ khi
đặt thử thách ở nóc Đền thơ vào cuối. Đó là một cách nhấn mạnh rằng giai đoạn
cuối cùng của cuộc đối đầu sẽ diễn ra trong thành thánh. Tiếp theo khi thời khổ
nạn đến, Lc viết: "Satan nhập vào Giuđa Iscariot" (Lc 22,3): đó là
dấu hiệu "chờ dịp" hoàn thành.
Sử tính của cuộc cám dỗ
Hình như hiển nhiên rằng trình thuật này không phải được hiểu
theo nghĩa đen. Bản văn Tin Mừng là một bố cục được soạn thảo rất công phu,
trong bố cục đó từ Giáo Hội sơ khai rồi đến các sách Tin Mừng đã tổng hợp cái
mà họ biết về căn tính của Chúa Giêsu, trải qua những cơn cám dỗ mà Ngài đã đẩy
lui. Nhưng điều đó không muốn nói rằng đó là một cuộc sáng tạo từ hư không.
Người ta có thể hình dung hai giả thuyết để phân tích tính lịch sử của cuộc cám
dỗ. Cuộc cám dỗ thứ nhất cho rằng các tác giả Tin Mừng đã làm một cuộc sáng tạo
văn học và thần học từ những cuộc cám dỗ rất thực tế mà Chúa Giêsu đã gặp phải
trong đời sống công khai. Những người Dothái dùng ngôn ngữ của sự cám dỗ khi họ
mời Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá: "Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy
xuống khỏi thập giá và tự cứu mình đi" (Mt 27,40). Thánh Phêrô bị quở trách
cũng chính những thuật ngữ mà tên cám dỗ: "Satan, hãy lui ra, ngươi làm
cho Thầy vấp phạm" (Mt 16,23). Sau cùng, toàn bộ Tin Mừng, Chúa Giêsu tố
cáo sự tìm kiếm tham lam về dấu chỉụ kỳ dị ở một số người Dothái.
Nhưng lời giải thích này có thể rất phù hợp với một giả thuyết
khác ở khởi đầu đời sống công khai của Chúa Giêsu, một thời gian ẩn dật hay lựa
chọn sẽ được đặt ra cho Chúa Giêsu. Sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa đánh dấu
một bước ngoặt trong đời mình, Chúa Giêsu phải lựa chọn. Những con đường dễ dãi
mở ra trước Ngài: nó dẫn Ngài đến một niềm mong đợi Đấng Thiên Sai huy hoàng,
thu hút đám đông bằng những phép lạ và dấu chỉ. Kết thúc một thử thách làm cho
trong sạch. Chúa Giêsu ấn định một con đường khó khăn, hưu quạnh bởi vì ngược
dòng với những khao khát của quần chúng. Chúa Giêsu đã biết, từ đầu cho tới khi
kết thúc có sự vứt bỏ và sự chết.
Mở ra chiều kích Kitô học
Điểm mạnh của các trình thuật Tin Mừng là các trình thuật có sức
mạnh chuyển tiếp các tường thuật về những sự thật sâu xa của Chúa Giêsu. Toàn
bộ các nghĩa mở rộng xoay quanh trình thuật cám dỗ trở về thời xuất hành. Thời
ấy dân Israel, con Thiên Chúa, thất bại, Chúa Giêsu thành công. Ở đây Ngài xuất
hiện như:
- Con người ("người ta sống không nguyên bởi bánh")
Ngài từ chối là Con Thiên Chúa trong khi ẩn đi tính nhân loại, trong khi trốn
chạy những gò bó tự nhiên, không chấp nhận sự lâu la chậm trễ, trong một hạn từ
thời gian cấu tạo bên trong đó tỏ rõ tự nhiên gian truân của con người nhân
loại.
- Người tin gặp gỡ Thiên Chúa của họ được mạc khải trong Sách
Thánh Thiên Chúa mở ra cho họ con đường.
- Người con trời gọi đến Thiên Chúa của mình để thoả mãn những
nhu cầu của con người (của cả,i kinh tế, quyèân lực chính trị).
- Người con gặp Cha mình trong khi nghe Lời ở đó con người tìm
thấy lương thực nuôi mình. Là con, đối với Chúa Giêsu đó là hoàn toàn đi vào
trong những chỉ thị của giao ước mạo hiểm của sự nhập thể đến tận cùng.
10. Tinh thần sa mạc.
Trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã vào trong
sa mạc, và suốt 40 đêm ngày, Ngài đã ăn chay, cầu nguyện và chịu cám dỗ.
Và như chúng ta đã biết, sa mạc là một vùng đất bao la, hoang
vắng, không cây cối, không nhà cửa, không người và cũng không vật. Chỗ nào cũng
chỉ là bãi cát mênh mông. Chúa Giêsu đã cầu nguyện và ăn chay trong sa mạc như
thế. Hết sức thanh vắng, hết sức khó nghèo. Với thái độ từ bỏ tối đa, với niềm
tin cậy và phó thác tuyệt đối. Tinh thần sa mạc như thế là điều chúng ta cần
phải thực hiện trong cuộc sống của chúng ta, để nhờ đó chúng ta xứng đáng lãnh
nhận ơn sủng củac.
Hình như chúng ta cũng có được đôi chút kinh nghiệm về chuyện
này. Chẳng hạn có những lúc chúng ta như bị đẩy vào một sa mạc tinh thần như
khi chúng ta bị cô đơn. Có những lúc chúng ta tự tạo ra một sa mạc tinh thần
như khi chúng ta sống nội tâm. Thời gian trong sa mạc tinh thần là những tháng
ngày thuận tiện để suy nghĩ, cầu nguyện và trút bỏ cái tôi cũ kỹ. Mặc dù nhờ
cầu nguyện và chay tịnh trong tinh thần sa mạc, chúng ta có thể tập được nhiều
thói quen tốt, có thể uốn nắn sửa đổi lại nhiều khuyết điểm hay là có thể nghĩ
tới Chúa nhiều hơn, thế nhưng chúng ta vẫn phải tỉnh thức. Bởi vì chính lúc ấy
ma quỷ sẽ quan tâm đến chúng ta nhiều hơn.
Cơn cám dỗ dành cho chúng ta, tuy vẫn giống như các cám dỗ của
Chúa Giêsu, nhưng sẽ được hiện đại hoá. Kẻ cám dỗ chúng ta không phải là quỷ
dữ, mà rất có thể là chính lòng nhiệt thành của chúng ta. Nội dung của cám dỗ
không phải là những gì phàm tục sống sượng, nhưng lại là những đề nghị có vẻ
đạo đức. Mục đích đưa ra không thấy ghi trong 7 mối tội đầu, nhưng lại nằm
trong cả một chương trình đạo đức lớn.
Chẳng hạn thay vì bị cám dỗ biến đá thành bánh, thì chúng ta sẽ
được khuyến khích ham muốn một thứ quyền lực kinh tế nào đó, với hy vọng để mở
rộng Nước Chúa. Thay vì bị cám dỗ quỳ lạy ma quỷ để nắm trọn quyền cai trị thế
giới, thì chúng ta sẽ được khuyến khích thoả hiệp với một thế lực xã hội nào đó
để có được một thứ quyền lực chính trị với hy vọng sẽ dễ bảo vệt và phát triển
quyền lợi Giáo Hội. Thay vì bị cám dỗ nhảy từ đỉnh cao đền thờ xuống, mà không
hề hấn gì nhờ quyền phép thiêng liêng, thì chúng ta sẽ được khuyến khích hăng
say phô trương quyền lực thiêng liêng, với hy vọng xây dựng uy tín cho đạo của
mình. Tất cả chỉ nhằm làm sáng danh Thiên Chúa của tôi và Giáo Hội của tôi.
Trong những trường hợp như vậy, nếu chúng ta không cầu nguyện và
ăn chay trong tinh thần sa mạc như Chúa Giêsu đã làm, thì chúng ta sẽ không dễ
dàng nhận ra đâu là những chước cám dỗ và đâu là những phương thế phải dùng để
đối phó với những cám dỗ ấy.
11. Ra đi.
Cuộc đời là một chuyến đi không ngừng. Sinh ra là giã từ cái êm
ấm của lòng mẹ để đi vào một thế giới xa lạ. Lớn lên là từ bỏ tuổi thơ để đi
vào một cuộc đời đầy bấp bênh và thử thách. Khi về già, con người cảm thấy mình
đứng vên bờ của vĩnh cửu, lại một lần ra đi dứt khoát.
Lịch sử ơn cứu độ, qua đó Thiên Chúa hướng dẫn chúng ta cũng
được trình bày như một cuộc ra đi. Khởi đầu là cuộc ra đi của tổ phụ Abraham.
Ông đã bỏ lại đàng sau tất cả để đi về phía trước với không biết bao nhiêu gian
nan vất vả. Nhưng tiêu biểu hơn cả chính là cuộc ra đi của dân Do Thái. Bốn
mươi năm trong sa mạc đã trở thành biểu tượng của không biết bao nhiêu thử
thách mà bất cứ chuyến đi nào cũng đều gặp phải. Trong ký ức của dân Do Thái,
bốn mươi năm sa mạc ấy không ngừng được ôn lại để ý thức hơn về những thanh
luyện mà con người cần phải trải qua để sống tốt đẹp hơn.
Kinh nghiệm ấy Chúa Giêsu cũng muốn trai qua trong cuộc lữ hành
trần thế của Ngài với 40 đêm ngày trong sa mạc. Rời bỏ khung cảnh êm đềm của
làng Nagiarét, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc hành trình dẫn tới cái chết và nhớ đó
thực hiện công cuộc cứu chuộc nhân loại.
Trong cuộc hành trình đầy chông gai và thử thách này, Ngài cũng
đã gặp phải thử thách và cám dỗ. Nếu dân Do Thái ngày xưa đã gục ngã một cách
thảm hại, thì hôm nay Chúa Giêsu đã chiến thắng một cách vinh quang. Tất cả ba
cơn cám dỗ đều quy về một điểm chung đó là quyền lực và danh vọng.
Đối lại với con đường ma quỷ đề ra, Chúa Giêsu đã chọn lấy con
đường khiêm hạ của thập giá. Đối lại với con đường của quyền bính và danh vọng,
Chúa Giêsu đã chọn con đường của vâng phục, và vâng phục cho đến chết. Sự chiến
thắng của Chúa Giêsu là sự chiến thắng của lòng tin tưởng và phó thác, của sự
khiêm nhường và vâng phục.
Với chúng ta cũng vậy, đời sống đức tin của chúng ta được định nghĩa
như là một cuộc lữ hành. Cũng chào đời, lớn lên và ra đi không ngừng.
Thiết lập mùa chay, Giáo Hội muốn chúng ta sống lại kinh nghiệm
sa mạc của Chúa Giêsu, bởi vì cuộc lữ hành trần gian của chúng ta không thể
không đi qua sa mạc cát nóng. Thử thách và gian nan là chuyện không thể thiếu
vắng.
Cùng với Chúa Giêsu, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy vượt qua sa
mạc cuộc đời với những thử thách ấy một cách can đảm và dứt khoát. Dứt khoát
với nếp sống cũ với những sai lỗi và khuyết điểm, với những ích kỷ và nhỏ nhoi,
với những thất vọng và buông xuôi.
Đồng thời hãy tin tưởng và phó thác nơi Thiên Chúa. Chúng ta
không bước đi và chiến đấu một cách đơn độc lẻ loi, bởi vì có Chúa Giêsu cùng
bước đi và cùng chiến đấu với chúng ta. Hơn thế nữa, Ngài chính là sức mạnh của
chúng ta. Cùng bước đi với Chúa, chúng ta không còn phải lo lắng và sợ hãi chi
nữa.
12. Cơ hội – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Mùa chay là mùa hồng ân mang lại sự hoan lạc và bình an. Chúng
ta lại có cơ hội trở về với chính mình để sám hối ăn năn. Mỗi người sẽ rất vui
khi chứng kiến cha mẹ, vợ chồng, anh chị em và mọi người thân cận trong gia
đình dành nhiều thời giờ cầu nguyện, tham dự thánh lễ và lãnh nhận các Bí tích,
nhất là Bí tích Hòa Giải và Thánh Thể. Những giọt nước mắt ăn năn sám hối và trở
về là niềm vui lớn cho các thành viên trong gia đình, cộng đoàn và cả các thiên
thần trên thiên đàng cũng vui mừng. Mùa chay như là trạm dừng để giúp cho chúng
ta tìm lại được hướng đi, sửa lại những lỗi lầm và trau dồi thêm các nhân đức.
Mầu tím mùa chay giúp chúng ta gợi nhớ thân phận tro bụi bọt bèo như mây trôi
và gió thoảng. Bản chất của thân xác của chúng ta bởi tro bụi và một ngày nào
đó cũng sẽ trở về bụi tro. Mùa Chay không chỉ là mùa của sự than van khóc lóc
lỗi lầm, nhưng là cơ hội để chúng ta phấn đấu thắng vượt chính bản thân mình
qua việc ăn chay, bố thí và cầu nguyện.
Tác giả Sách Đệ Nhị Luật đã nhắc nhở cho toàn dân về tình yêu
của Thiên Chúa dành cho Dân Người. Ngài đã bao bọc chở che qua mọi giai đọan
thăng trầm của lịch sử. Ngài đưa Dân vào miền đất Ai-cập sinh sống để trở thành
một dân tộc vĩ đại. Khi bị người Ai-cập ngược đãi hành khổ, Thiên Chúa đã ra
tay cứu vớt và dẫn đưa về miền Đất Hứa: Thiên Chúa đã dang cánh tay mạnh mẽ uy
quyền, đã gây kinh hồn táng đởm và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng, để đưa
chúng tôi ra khỏi Ai-cập (Đnl 26, 8). Cảm nghiệm được tình thương yêu, ấp ủ và
đùm bọc của Thiên Chúa, dân chúng đã có những nghi lễ dâng hoa qủa đầu mùa để
cảm tạ tri ân: Và bây giờ, lạy Thiên Chúa, này con xin dâng sản phẩm đầu mùa của
đất đai mà Ngài đã ban cho con (Đnl 26, 10). Tâm tình biết ơn của cha ông đã
được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Lòng tri ân là tinh hoa của cuộc sống
con người.
Bước vào Mùa Chay Thánh, chúng ta có cơ hội để học hỏi, suy gẫm
và thực hành sống đạo. Trong bài Phúc âm, thánh Luca đã diễn tả sự kiện Chúa
Giêsu vào hoang địa bốn mươi đêm ngày và chịu ma quỉ cám dỗ. Các cơn cám dỗ xem
ra rất thực tế có thể đáp ứng các nhu cầu đang cần thiếu. Qua nhiều ngày ăn
chay nhịn đói, ma quỉ cám dỗ Chúa Giêsu: Bấy giờ, quỷ nói với Người: "Nếu
ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá bánh đi! (Lc 4, 3). Dễ
thôi! Chúa có dư đủ uy quyền để biến đổi đá thành bánh cũng như nước thành
rượu. Việc biến đổi trong tầm tay nhưng Chúa đã không chiều theo ý của ma quỉ.
Chúa Giêsu đã dùng lời trong Kinh Thánh để hướng tới một loại bánh khác cao
trọng hơn, đó là bánh lời Chúa.
Thua keo này bày keo khác. Ma quỉ tìm cách độc hại hơn để cám
dỗ: Rồi nó nói với Người: "Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh
hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi
muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông."
(Lc 4, 6-7). Thật dễ dàng, chỉ việc bái lạy ma quỉ thì được sở hữu tất cả vinh
hoa lợi lộc. Chúa Giêsu nhận diện sự ma quái và ranh mãnh của cơn cám dỗ. Chúa
dứt khoát dùng lời Chúa đế đáp trả rằng ngươi phải thờ lạy một mình Thiên Chúa
mà thôi. Ma quỉ tước đoạt quyền cai trị và tự làm sở hữu chủ. Đây là cạm bẫy
khá hấp dẫn. Đã có biết bao nhiêu người đời rơi vào những danh vọng hão huyền
này. Các hoàng đế, vua chúa, nhà cầm quyền và các chế độ bạo quyền tham lam
dành dật vinh hoa phú quí trần gian, tất cả cũng đã qua đi như cánh hoa phù du
sáng nở tối tàn.
Ma quỉ không bao giờ chịu thua. Những nhu cầu vật chất không
thuyết phục được, chúng lại giở quẻ mới để thách thức: Quỷ lại đem Đức Giê-su
đến Giê-ru-sa-lem và đặt Người trên nóc Đền Thờ, rồi nói với Người: "Nếu
ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi!(Lc 4, 9). Đặt điều
kiện, nếu…thì… rất thuyết phục. Khêu gợi sự tò mò và đánh vào lòng kiêu ngạo
như xưa thần Lucifer muốn nên bằng Thiên Chúa. Ngày xưa tổ tiên Adong và Evà
cũng đã bị sa chước cám dỗ vì những câu hỏi tò mò và gợi lòng tham sân si.
Chúng ta lưỡng lự đôi đường chỉ vì luyến tiếc các dịp thỏa mãn bản năng đòi hỏi
mà thôi. Chọn lựa thái độ dứt khoát với dịp tội luôn là cửa ngõ dẫn vào sự bình
an thanh thản.
Khi một ngày mới mở ra, mỗi người đều có cơ hội làm việc thiện
hay việc ác, làm sự lành hay sự dữ, vui hay buồn và có thể thành công hay thất
bại. Tất cả tùy theo sự chọn lựa thái độ sống của chúng ta. Việc thiện, điều
lành, niềm vui là những dấu hiệu tốt và tích cực. Thành công hay thất bại thì
còn tùy thuộc rất nhiều yếu tố chung quanh, nhưng chúng ta vẫn có thể có thái
độ lạc quan, vì thất bại là mẹ thành công. Sự quyết định chọn lựa đúng sẽ giúp
chúng ta sống an vui và thư thái. Bất cứ việc gì xảy ra cũng đều có cơ hội: Cơ
hội có thể tốt hoặc xấu và cũng như có dịp tốt hay dịp tội. Thái độ chọn lựa sẽ
dẫn chúng ta đi vào những lối khác nhau có khi nghịch chiều. Có những cơ hội
xấu dẫn ta đến cùng đường lạc lối. Khi gặp cơ hội tốt và dịp thuận lợi, việc
làm của chúng ta sẽ sinh hoa trái tốt lành.
Người ta thường nói về dịp tội hay cơn cám dỗ, nếu chúng ta
không tỉnh thức, ắt sẽ bị rơi vào bẫy sập của ma quỉ. Dịp tội là những cánh cửa
đón mời chúng ta tò mò bước vào thế giới ảo. Cơ hội đến với mỗi người qua rất
nhiều cách thế khác nhau. Cám dỗ đi vào lầm lạc có rất nhiều lối ngõ. Có những
cơ hội lúc đầu xem ra rất đơn gian, nhưng kết cục đưa đến những hậu qủa khó
lường. Kinh nghiệm cuộc đời cho chúng ta thấy có nhiều người đã hủy hoại cuộc
đời, nên phóng lao đành phải theo lao. Cái xấu này níu kéo cái xấu kia. Cởi nút
này lại thắt nút nọ. Đôi khi có người nghĩ rằng đã lỡ, cho lỡ luôn hay đời đã
dang dở lỡ bước và dù bước lùi hay bước tới cũng vẫn dở dang. Khi bước vào cạm
bẫy thì khó có thể rút chân ra. Trải qua thời gian, có biết bao cơ hội mà chúng
ta đã sinh lợi trong gian dối. Nhiều khi chúng ta cũng đang say mê trong
lầm lạc, nhưng không muốn nhìn nhận sai lầm. Vì ham danh lợi về của cải vật
chất mà chúng ta đã quay lưng lại với sự thật và đức công bằng. Mỗi người hãy
tự vấn lương tâm!
Sau ba lần cám dỗ thất bại, ma quỉ chờ dịp khác: Sau khi đã xoay
hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ (Lc 4, 13). Cuộc đời của
chúng ta cũng thế, cạm bẫy của sự dữ giăng giăng khắp nơi. Danh, lợi và thú là
ba đầu mối của các cơn cám dỗ trong đời sống con người. Cạm bẫy về lợi lộc vật
chất, ma túy và say mê trong đời sống thường ngày như: Bài bạc, hút sách, trai
gái, nghiện ngập rượu chè, cá độ, tham nhũng, lừa đảo, bất công và các thứ trò
chơi bạo lực hại mình và hại người. Cơ hội ban đầu của tất cả các dịp tội cũng
chỉ là thử đỏ đen, thử thời vận và thử tìm cảm giác lạ, nói rằng thử thôi mà, không
sao đâu! Các cơn cám dỗ lúc nào cũng nhẹ nhàng mời mọc, hấp dẫn, dịu ngọt và có
thể đáp ứng ngay những nhu cầu đòi hỏi của ước muốn bản năng. Thời cơ xấu tạo
nên dịp tội xấu. Nếu không đủ bản lãnh, chúng ta không nên thách thức, dây dưa
và đối đầu với các cơn cám dỗ. Cám dỗ và dịp tội giống như cái lờ bắt cá có
hom. Nguyên tắc của các bẫy sập là sự hấp dẫn của mồi nhử. Sập bẫy chui vào rọ
rồi thì khó lòng tìm lối thoát ra.
Trong thơ của thánh Phaolô gởi cho tín hữu thành Rôma, Ngài
viết: Vậy Kinh Thánh nói gì? Thưa: Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng,
ngay trong lòng. Lời đó chính là lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy đức tin
(Rm 10, 8). Lời Chúa là kim chỉ nam giúp chúng ta thắng vượt tất cả các cơn cám
dỗ. Lời Chúa có sức biến đổi tâm hồn và kiên thuẫn chở che. Tin, tuyên xưng và
thực hành lời Chúa sẽ đem lại ơn cứu độ: Quả thế, có tin thật trong lòng, mới
được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ (Rm 10, 10).
Lạy Chúa, chúng con không thể tránh mọi cơn cám dỗ đang bủa vây chung
quanh. Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con khỏi mọi sự
dữ.
13. Cám dỗ - ĐTGM. Giuse Ngô
Quang Kiệt
Cám dỗ là chuyện xưa như trái đất. Từ khi có con người, đã có
cám dỗ. Hẳn ta không thể quên chuyện hai ông bà nguyên tổ sa chước cám dỗ của
ma quỷ. Dân Do Thái, khi bị nô lệ dưới ách người Ai cập thì muốn được tự do.
Nhưng khi lang thang 40 năm trong sa mạc, phải chịu đói khát, lại bị cám dỗ
quay trở lại Ai cập để được no ấm. Nhưng có thể nói, 3 cơn cám dỗ mà Đức Giêsu
phải đương đầu hôm nay gồm tóm tất cả mọi thứ cám dỗ mà ta thường gặp.
+ Cơn cám dỗ thứ nhất: thoả mãn tức khắc mọi nhu cầu.
Sau khi Đức Giêsu ăn chay 40 đêm ngày. Ma quỷ đề nghị Người biến
đá thành bánh mà ăn. Thật là một đề nghị hợp lý. Đói thì phải ăn. Muốn ăn thì
phải có bánh. Nhưng có bánh bằng cách nào mới là vấn đề. Không phải cứ có nhu
cầu là phải thoả mãn ngay. Và nhất là không được dùng những cách không hợp đạo
lý để thoả mãn những nhu cầu của mình. Cơm bánh tượng trưng cho những nhu cầu
thiết yếu của con người. Nhu cầu của con người thì có nhiều và có khuynh hướng ngày càng gia tăng. Vì thế cơn cám dỗ thoả mãn nhu cầu
ngày càng lớn.
+ Cơn cám dỗ thứ hai: muốn có quyền lực thống trị.
Ma quỷ biết Đức Giêsu muốn cứu độ loài người, nên đề nghị tặng
Người tất cả các nước trên trần gian. Có lẽ nhiều người nghĩ rằng đề nghị của
ma quỷ là hợp lý. Cứ có quyền thống trị trên hết mọi dân nước rồi nói gì người
ta chẳng nghe. Chúa sẽ không phải mất công chịu đau khổ chịu chết. Chỉ cần quỳ
xuống thờ lạy ma quỷ, vua quan dân chúng các nước sẽ răm rắp tuân theo. Thật là
tiện lợi. Quyền lực là một cơn cám dỗ muôn đời của nhân loại. Từ ngàn xưa, vua
chúa các nước đã không ngừng gây chiến để tranh giành quyền lực. Ngày nay,
trong các cuộc chiến mới, người ta không còn giết nhau bằng gươm đao, súng đạn,
nhưng bằng quyền lực kinh tế, khoa học, kỹ thuật. Tuy êm đềm nhưng cuộc chiến
vô cùng khốc liệt. Cơn cám dỗ về quyền lực thống trị không những không suy giảm
mà còn mãnh liệt hơn.
+ Cơn cám dỗ thứ ba: tìm những điều kỳ lạ.
Muốn những chuyện thần kỳ. Muốn làm được những việc kinh thiên
động địa. Muốn có những thành công lẫy lừng. Cơn cám dỗ này thúc đẩy người ta
đổ xô đi tìm phép lạ. Cơn cám dỗ xây tháp Ba ben từ ngàn xưa vẫn còn tiếp diễn.
Xuyên qua những cơn cám dỗ ấy ta thấy ma quỷ thật vô cùng tinh
khôn và hiểm độc.
Với cơn cám dỗ thứ nhất, ma quỷ muốn xô đẩy con người làm nô lệ
cho dục vọng. Xúi giục con người chỉ tìm thoả mãn những bản năng thấp hèn. Giới
hạn con người vào sự sống xác thịt. Đức Giêsu đã vạch trần âm mưu của ma quỷ
khi Người cho biết con người không chỉ có đời sống thể lý mà còn có đời sống
tâm linh. Người nâng cao phẩm giá con người khi quyết tâm chống lại cơn cám dỗ
thoả mãn những nhu cầu thân xác để chăm lo cho sự sống tâm linh.
Với cơn cám dỗ thứ hai, ma quỷ muốn biến con người thành nô lệ
cho tham vọng, nô lệ cho ma quỷ. Vì ham hố chức quyền, vì mưu cầu danh vọng mà
đánh mất tự do của mình, cam tâm làm nô lệ cho ma quỷ. Vì tham vọng mà đánh mất
chính mình. Đức Giêsu vạch trần âm mưu đen tối của ma quỷ khi cương quyết chối
từ danh vọng quyền thế. Người còn chỉ cho ta con đường duy nhất phải theo đó là
thờ phượng Thiên Chúa. Chỉ có thờ phượng Thiên Chúa mới đem đến cho con người
tự do đích thực, tự do trong tâm hồn, không bị nô lệ một tham vọng nào.
Với cơn cám dỗ thứ ba, ma quỷ đẩy con người vào nô lệ cho cuồng
vọng. Điên cuồng đến chống lại Thiên Chúa. Dùng Thiên Chúa để phục vụ cho những
ước vọng ngông cuồng của mình. Không đến với Chúa trong tâm tình của người con
thảo đối với Cha hiền. Đức Giêsu đã vạch trần âm mưu của ma quỷ. Người chỉ cho
ta con đường của người con hiếu thảo. Người con hiếu thảo tin cậy phó thác và
luôn làm theo ý Cha, chứ không bao giờ dám thách thức Cha. Người con hiếu thảo
vâng lệnh Cha sai bảo chứ không bao giờ dám sai bảo Cha.
Cám dỗ của ma quỷ hiểm độc vì nó tiến từng bước: Từ hạ thấp phẩm
giá con người khi khiến con người làm nô lệ cho dục vọng đến cướp mất tự do của
con người khi xúi giục con người nô lệ cho ma quỷ. Và sau
cùng đi đến chỗ tận cùng là chối bỏ Thiên Chúa, không coi Thiên Chúa là cha.
Cám dỗ càng hiểm độc vì ma quỷ đã khéo léo học những âm mưu thâm hiểm trong lớp
vỏ nhung lụa, êm ái, hợp lý và đầy quyến rũ của những nhu cầu, quyền lực và uy
tín.
Ngày nay, những cơn cám dỗ của ma quỷ vẫn như những chiếc bẫy
giăng ra để trói buộc con người trong vòng nô lệ. Cám dỗ càng ngày càng tinh vi
và càng ngọt ngào hơn nên càng hiểm độc hơn. Muốn chống trả được những cơn cám
dỗ, ta phải bắt chước Đức Giêsu dùng những vũ khí sắc bén, đó là ăn chay cầu
nguyện, thấm nhuần Lời Chúa và luôn sống tâm tình của người con thảo đối với
Chúa.
Lạy Chúa, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng
con cho khỏi sự dữ. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn đã gặp nhiều cơn cám dỗ, bạn đã chống trả những cơn cám
dỗ như thế nào?
2. Có những việc lúc đầu bạn thấy là tốt. Mãi sau này bạn mới
biết là xấu. Bạn có nghĩ đó là âm mưu của ma quỷ không?
3. Bạn có ý thức rằng ma quỷ vẫn đang hoạt động mạnh mẽ trong thế giới ngày nay không?
4. Mùa Chay này, bạn sẽ làm gì để phòng chống âm mưu ma quỷ?
14. Cú nhẩy ngoạn mục – Thiên
Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Vua nước Thục có tính tham lam. Vua Huệ Vương, nước Tần, muốn
xâm chiếm nước Thục, nhưng vì khe núi hiểm trở, không thể đem quân sang đánh.
Huệ Vương sai lấy đá tạc hình con trâu để gần địa giới nước Thục, mỗi ngày bỏ
vàng sau đuôi con trâu và phao tin đồn rằng: “Trâu đãi ra vàng”.
Tiếng đồn ấy đến tai vua Thục. Ông liền sai xẻ núi lấp khe và
cho năm người lực sĩ vào rừng kéo con trâu về.
Huệ Vương sẵn lối đi, đem quân tiến đến cướp được nước Thục. Vua
Thục vừa mất nước, vừa hại cả mình, để lại trò cười cho thiên hạ. Thế chẳng
phải là tham chút lợi nhỏ mà để thiệt mất cái lợi to ư?
Vua Thục vì tham vàng mà mất nước, và số vàng kia cũng lọt vào
tay quân thù. Thiên hạ cười chê ông dại khờ. Nhưng thật ra thì ai cũng đã hơn
một lần khờ dại như ông. Ai cũng đã không ít lần bị cám dỗ giống ông, nếu không
phải là vàng thì cũng là của cải, sắc dục, danh vọng, quyền uy.
Bị cám dỗ là thân phận của con người. Đức Giêsu đã từng bị cám
dỗ, vì Người muốn chia sẻ trọn vẹn kiếp người, Người muốn nên đồng số phận với
con người, và Người đã thắng cơn cám dỗ để nêu gương cho con người.
Cám dỗ thứ nhất là cám dỗ về cái đói. Cơn
cám dỗ về manna (Xh 16) mà dân Chúa đã bị thử thách trong hoang địa. Đó cũng là
thử thách từng ngày của mỗi người chúng ta. Nếu chúng ta chỉ tìm thỏa mãn những
khao khát của thể xác, những nỗi thèm thuồng vật chất đang cào cấu trong ta,
thì chúng ta đã thất bại ngay trong cơn cám dỗ đầu tiên. “Người ta sống
không chỉ nhờ cơm bánh” (Lc 4,4). Vâng, con người còn có những giá trị cao
quý khác cần phát huy, đừng hạ thấp mình xuống mức độ sơ đẳng nhất của: cơm,
áo, gạo, tiền.
Cám dỗ thứ hai là cám dỗ về quyền hành thế gian. Cám
dỗ thờ ngẫu tượng, bò vàng (Xh 32,42) của dân Israel nơi hoang địa. Không chỉ
hôm nay mà rất nhiều lần trong cuộc đời, Đức Giêsu đã bị cám dỗ này tấn công.
Dân chúng luôn kéo Người vào cơn cám dỗ trở nên một Đấng Cứu Thế mang tính
chính trị, một vị vua trần gian đầy quyền lực vinh quang. Nhưng Người đã nhất
mực khước từ. Người muốn trở nên “tôi tớ” của Thiên Chúa (Ga 13,1-20). Cơn cám
dỗ về quyền hành cũng là cơn cám dỗ của tất cả mọi người. Ai trong chúng ta
cũng muốn thống trị kẻ khác, muốn áp đặt ý kiến của mình trên anh em.
Đây cũng là cơn cám dỗ về sự nghi ngờ Thiên Chúa. Vì Người
thường hay vắng mặt, nên chúng ta dễ chạy theo những vị thần giả hiệu, chúng có
tên là của cải, sắc đẹp, kiến thức, tài năng… Đức Giêsu nhắc cho chúng ta lời
Kinh Thánh: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải
thờ phượng một mình Người” (Lc 4,8).
Cám dỗ thứ ba là cám dỗ đòi kiểm chứng, đòi xem những dấu lạ
điềm thiêng (Xh 17), đòi thấy những cú nhẩy đẹp mắt,
những pha ngoạn mục: Đó là cơn cám dỗ trên nóc đền thờ Giêrusalem. Cũng chính
nơi đây, Đức Giêsu sẽ chịu một cơn thử thách hết sức nặng nề: đó là cơn cám dỗ
muốn thoát cái chết: “Nếu có thể được, xin tha cho con khỏi uống chén này” (Lc
22,42). Dường như Chúa Cha “đã bỏ rơi” Người. Cuối cùng thì Đức Giêsu đã
không dùng quyền năng của mình để trốn tránh thân phận con người phải chết.
Người đã từ chối nhẩy một cú đẹp mắt, cũng không xuống khỏi thập giá một cách
ngoạn mục. Người tin tưởng vào tình yêu của Cha, Người tuyệt đối trung thành và
trọn vẹn vâng theo ý Cha.
Đức Giêsu đã chiến đấu với các cơn cám dỗ và Người đã hoàn toàn
chiến thắng, để nêu gương cho chúng ta trong những cơn thử thách. Cám dỗ nào
cũng ngọt ngào hấp dẫn; thử thách nào cũng đòi phải chọn lựa. Điều quan trọng
là chúng ta có nhận ra cái đắng đót chua cay trong cái vỏ ngọt ngào hấp dẫn đó
không! Chúng ta có dám chọn theo Chúa hơn là theo ma quỷ? Chọn yêu anh em hơn
là yêu chính mình? Chọn điều thiện hơn là cái ác?
Lạy Chúa, chúng con sẽ trưởng thành hơn sau mỗi lần chiến thắng,
sẽ kinh nghiệm nhiều hơn sau mỗi cơn thử thách. Nhưng xin Chúa đừng để chúng
con thất vọng sau mỗi lần vấp ngã, đừng bao giờ chúng con bỏ cuộc sau những lần
thất bại.
Xin cho chúng con luôn tin tưởng chỗi dậy, tiếp tục chiến đấu
cho dù phải hy sinh mạng sống, vì chính Đức Giêsu đã sẵn lòng chịu chết để
trung tín với Chúa Cha.
Xin ban thêm sức mạnh để chúng con chiến thắng các cơn cám dỗ
nhờ ăn chay và cầu nguyện. Amen.
15. Chiến đấu với ma quỷ – R.
Veritas
Có một câu chuyện vui dân gian kể rằng: Có một người nọ bị quỷ
hiện lên chận đường. Quỷ bắt anh ta phải làm một trong ba điều sau đây: một là
uống rượu thật say – hai là đốt nhà của mình – ba là giết chết vợ mình.
Quá hoảng sợ, người đàn ông đành chọn uống rượu thật say vì anh
ta cho đó là việc làm đỡ nguy hại nhất. Nào ngờ, khi say rượu, anh ta mất hết
lý trí, nổi lửa đốt nhà mình. Bà vợ ra can ngăn, anh ta điên tiết giết luôn vợ
mình. Rốt cuộc là anh ta đã làm cả ba việc mà tên quỷ đã đề ra.
Ma quỷ có rất nhiều mưu mô xảo kế, khi cám dỗ người nào, chúng
vận dụng hết mọi thủ đoạn để hạ gục người đó. Vì thế, khi cám dỗ Chúa Giêsu, ma
quỷ đã dùng chính Lời Thiên Chúa để dụ dỗ Người, nhưng Chúa Giêsu không rơi vào
bẫy của ma quỷ. Trái lại, Ngài cũng đã dùng Lời của Thiên Chúa để cho ma quỷ
phải bẽ mặt và bỏ đi.
Quả thật, satan là tên xảo trá. Hắn dùng ngay lời Chúa Cha vừa
tuyên bố về Chúa Giêsu ở sông Giođan để cám dỗ Người. Hắn khích Người dùng
quyền năng của Con Thiên Chúa để thỏa mãn những nhu cầu riêng tư, nhất là khi
việc này xem ra không phương hại đến ai. Nhưng Chúa Giêsu không rơi vào bẫy của
satan một cách dễ dàng như chúng tưởng. Tuy Người đang đói, nhưng cơn đói không
là lý do thúc đẩy Người đi tìm thỏa mãn bằng mọi cách. Người trưng dẫn câu
chuyện Thiên Chúa cho dân Israel ăn manna trong sa mạc, để cho tên quỷ biết
rằng Thiên Chúa là Đấng nuôi sống con cái Ngài. Điều quan trọng không chỉ là
cơm áo mà thôi. Chúa Giêsu trích dẫn lời sách Đệ Nhị Luật để đáp lại lời satan:
“Người ta sống không phải chỉ nhờ cơm bánh”. Thất bại trong cám dỗ đầu
tiên, satan lại bày ra mưu kế khác. Chúa Giêsu không chịu thua vì cái bụng thì
hắn đánh vào cái đầu.
Tin Mừng theo thánh Luca kể tiếp như sau: “Quỷ đem Chúa Giêsu
lên cao và chỉ Người thấy tất cả các nước thiên hạ, rồi nó nói với Người: “Tôi
sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh quang, lợi lộc của các nước này, vì
quyền hành ấy đã được trao cho tôi và tôi muốn trao cho ai tùy ý. Vậy, nếu ông
bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông”. Satan thật ghê gớm, hắn biết Chúa
Giêsu đã quyết định giữ trọn đời mình để thiết lập nước trời mới nơi trần thế,
hầu đem lại hạnh phúc đời này và đời sau cho con người. Một lý tưởng thật tuyệt
vời. Nhưng để thực hiện thì gian lao vất vả lắm, lại không biết có thành công
hay không. Satan dụ dỗ Chúa Giêsu quy phục quyền bính của hắn. Đổi lại, hắn sẽ
cho Người chinh phục cả thế gian một cách dễ dàng. Satan đã lầm to, Chúa Giêsu
thật sự quyết tâm sống chết cho nước Thiên Chúa, nhưng nước này phải được thiết
lập bằng việc thi hành thánh ý Thiên Chúa Cha chứ không bằng việc tuân phục một
quyền lực nào khác. Để đáp lại satan, Chúa Giêsu nhắc lại rằng: “Thiên Chúa
mới là Đấng nắm chủ quyền trên các dân tộc”, và Chúa Giêsu trích lời trong
sách Đệ Nhị Luật để đáp lại: “Ngươi phải bái lạy Thiên Chúa là Chúa ngươi và
phải thờ lạy một mình Người mà thôi”. Lần cuối cùng, satan quay lại tấn
công trái tim Chúa Giêsu: “Nếu Thiên Chúa đã gọi ông là con thì hãy thử xem
Người có thật lòng yêu thương che chở ông không hay Người sẽ bỏ mặc ông trong
cảnh gian truân”.
Thánh Luca kể tiếp:
Quỷ đem Chúa Giêsu đến Giêrusalem và đặt Người lên nóc đền thờ
rồi nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì đến đây mà gieo mình xuống
đi, vì đã có lời chép rằng: “Thiên Chúa sẽ truyền cho các thiên sứ lo cho bạn
để luôn luôn gìn giữ bạn”. Lại còn chép rằng: “Thiên sứ sẽ ra tay nâng
đỡ cho bạn khỏi vấp chân vào đá”. Đợt cám dỗ thứ ba này satan không chỉ trưng
dẫn lời thánh vịnh 91 một lần, mà đến những hai lần để thuyết phục Chúa Giêsu
nghe theo hắn. Song lập trường của Chúa Giêsu nào có xoay chuyển. Người tiếp
tục dùng sách Đệ Nhị Luật thuật lại lời Thiên Chúa cảnh cáo sẽ tiêu diệt kẻ nào
dám thách thức Ngài để đáp lại lời satan: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là
Thiên Chúa của ngươi”.
Chúng ta vừa cùng có mặt bên Chúa Giêsu khi Người đối đầu với ba
cơn cám dỗ của ma quỷ. Chúng ta đã thấy phần nào thủ đoạn tinh vi xảo quyệt của
satan và cũng đã thấy lập trường kiên định của Chúa Giêsu khi Người chống lại
hắn.
Tấm gương mà Chúa Giêsu vừa nêu sẽ giúp chúng ta có được thái độ
vững vàng khi phải chiến đấu với mưu chước ma quỷ. Là những người sống lăn lộn
giữa lòng đời, chúng ta thường xuyên phải đối phó với những cám dỗ của ma quỷ.
Chúng thường tập trung vào ba lãnh vực: quyền lợi vật chất, tham vọng thống trị
và nhu cầu tình cảm. Mưu mô xảo kế của satan thì thiên hình vạn trạng. Xã hội
văn minh phát triển thì các cơn cám dỗ của satan phát triển theo. Chúng mặc đủ
mọi hình thức, khi thì dịu dàng mời mọc, khi thì đe dọa hung hãn. Chúng thường
tạo cho chúng ta cảm giác hợp lý, được phép khi đưa ra những lập luận có vẻ vô
hại. Nhất là trong thời đại hôm nay, khi lợi thú cá nhân được đề cao quá mức và
nhu cầu hưởng thụ của con người được kích thích đến mức tối đa. Cái bụng, cái
đầu và con tim của chúng ta luôn luôn phải đối mặt với những lời rỉ tai hay
những cuộc biểu dương ồ ạt của sự dữ.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa biết rõ con chỉ là những thụ tạo mỏng dòn,
lại phải sống lăn lộn giữa bao cạm bẫy của satan. Ma quỷ thì tinh ranh xảo
quyệt, còn con thì thường lơ là mất cảnh giác, xin Chúa luôn ở kề bên con mỗi
khi con gặp cơn cám dỗ. Xin Chúa nhắc con nhớ rằng chỉ có thánh ý Chúa Cha mới
là tiêu chuẩn tuyệt đối trong đời người Kitô.
16. Không chỉ nhờ cơm bánh.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Làm người ở đời là chấp nhận thân phận cám dỗ.
Con người vừa mang trong mình khát vọng vươn tới Tuyệt Đối, vừa
thấy mình luôn bị một mãnh lực kéo trì, nên đời người lúc nào cũng phải chiến
đấu giằng co, chỉ một chút lơi lỏng yếu mềm là sa ngã.
Con người cao cả khi thắng được cám dỗ trong ngoài.
Lúc buông theo cái tôi dễ dãi tầm thường, tôi chẳng là tôi. Chỉ
khi tôi vượt qua tôi, tôi mới thật là mình.
Tôi chỉ là tôi khi tôi vươn tới Chân, Thiện, Mỹ.
Trong mùa Chay, ta hãy để Thánh Thần dẫn vào hoang địa. Hãy cùng
với Đức Giêsu sống trong cô tịch, cầu nguyện và ăn chay, để có khả năng nhận ra
các cơn cám dỗ quen thuộc.
Biết mình bị cám dỗ thật là một ơn, vì ma quỷ chẳng phải là một
con vật có đuôi lộ liễu.
Những cám dỗ của Đức Giêsu cũng là của tôi hôm nay.
Cám dỗ đầu tiên đánh thẳng vào điểm yếu của Ngài.
Sau một thời gian dài nhịn ăn, Ngài thấy đói. Cái đói làm tê
liệt, và đụng đến bản năng sinh tồn. Điều duy nhất cần đối với người đói là tấm
bánh. Đức Giêsu đã thắng được cơn cám dỗ này. Ngài không phủ nhận sự cần thiết
của vật chất, nhưng con người không chỉ sống nhờ cơm bánh.
Lợi nhuận trong kinh tế là điều quan trọng, nhưng không được
quên các giá trị văn hoá, luân lý, tôn giáo... Lắm khi cái đói vật chất vẫn chi
phối chúng ta. Người ta dễ hiểu sai câu: "Có thực mới vực được đạo."
Chúng ta vẫn bị cồn cào bởi những thèm thuồng: chính đáng và
không chính đáng, cá nhân và tập thể, nhưng đừng để mình thoả mãn cơn đói bằng
mọi giá.
Cám dỗ thứ hai là một cám dỗ thô bạo và hấp dẫn: bái lạy ma quỷ để được quyền lực và vinh quang.
Có nhiều người nhẹ dạ đã tin vào lời hứa hão này. Bao đế quốc,
bao nhà độc tài đã trôi đi trong dòng lịch sử.
Đức Giêsu chẳng muốn nhận quyền từ ai khác ngoài Cha. Chỉ Cha
mới là Đấng duy nhất để Ngài thờ phụng.
Cơn cám dỗ thứ ba có vẻ đạo đức, kỳ thực lại là dấu hiệu của sự
thiếu lòng tin.
Tôi đưa mình vào tình huống hiểm nghèo, để bắt Chúa hành động.
Nhảy xuống từ nóc Đền Thờ mà không chết, quả là ngoạn mục! Chúng
ta vẫn thích Chúa làm chuyện ngoạn mục cho đời ta. Chúng ta không thích sống
trong lòng tin êm ả, như đứa con biết rõ Cha thương mình, không đòi kiểm chứng.
Tiền bạc, của cải, sắc đẹp, khoái lạc, bằng cấp, tự do, quyền
lực, uy tín, danh dự, chủng tộc, khoa học, kỹ thuật: tất cả những giá trị trên
đều đáng quý. Nhưng nếu tôi tôn chúng lên hàng Tuyệt Đối viết hoa, và thờ chúng
như một ngẫu tượng, thì tôi và thế giới sẽ như kim tự tháp lật ngược.
Ước gì Chúa giúp tôi tự cởi trói mình mỗi ngày, để tôi càng lúc
càng tự do đến gần Đấng Tuyệt Đối.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn có tin ma quỷ không? Ma quỷ là ai? Bạn có thấy sức cám dỗ
của ma quỷ không?
Ma quỷ thường tấn công vào chỗ yếu của ta. Bạn có biết rõ những
chỗ yếu của bạn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, bị cám dỗ là thân phận của con người, nhưng
thắng được cám dỗ là nhờ ơn của Chúa.
Cuộc sống hôm nay cho chúng con bao cám dỗ ngọt ngào, làm khuấy
động những thèm khát nơi chúng con.
Cám dỗ chiếm đoạt và sở hữu.
Cám dỗ thống trị bằng quyền uy hay tri thức.
Cám dỗ sống buông thả theo bản năng tự nhiên.
Cám dỗ nào cũng hứa cho chúng con ít nhiều hoan lạc, nhưng thật
ra lại làm chúng con nghèo nàn vì tự giam mình trong cái tôi ích kỷ.
Xin cho chúng con thắng được các cơn cám dỗ nhờ tỉnh thức và cầu
nguyện, nhờ chay tịnh và làm chủ bản thân.
Xin cho chúng con dám lội ngược dòng với thế gian, để đi vào con
đường hẹp của Chúa, con đường nghèo khó khiêm nhu, con đường hy sinh phục vụ.
Ước gì chúng con được lớn lên trong tình yêu Chúa, sau những lần
chiến đấu vất vả cam go. Và ngay cả khi yếu đuối ngã sa, xin cho chúng con can
đảm đứng lên, vững tin vào lòng Chúa tín trung tha thứ. Amen.
17. Chỉ thờ phượng một mình Người
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Bị cám dỗ là điều chẳng mấy hay ho. Chúng ta ít khi muốn kể ra
những cơn cám dỗ của mình. Dường như chỉ người yếu đuối mới dễ bị cám dỗ. Ấy
thế mà Con Thiên Chúa lại bị cám dỗ như ta. Ngài muốn đồng hành với chúng ta
trong từng cơn cám dỗ, trên đường về quê trời. Ngài đã mang lấy trọn vẹn phận
người mong manh, Ngài đã chiến đấu và chiến thắng.
Mùa Chay là thời gian thuận tiện để chúng ta nhận diện cơn cám
dỗ riêng của bản thân.
Có khi chúng ta tưởng Satan là chuyện bịa đặt, tưởng thế giới
không bao giờ là thế gian, hay tưởng thân xác mình chẳng còn bằng xương thịt.
Phải nhận ra cơn cám dỗ dưới trăm ngàn bộ mặt, tuỳ
người, tuỳ tuổi tác, tuỳ hoàn cảnh riêng tư. Nhưng mọi cơn
cám dỗ đều khép kín con người, khiến ta không còn mở ra trước Thiên Chúa và tha
nhân.
Cần nhìn sâu vào những cơn cám dỗ của Đức Giêsu để thấy đó vẫn
là những cám dỗ muôn thuở.
Biến đá thành bánh để làm dịu cơn đói, chuyện đó đâu có gì xấu.
Nhưng Đức Giêsu đã không muốn dùng quyền năng Cha ban để tự lo cho bao tử của
mình.
Ngài cũng không phục lạy ma quỷ để được làm chủ cả thế gian với
bao quyến rũ. Ngài cũng chẳng cần nhảy từ nóc Đền Thờ xuống để kiểm chứng tình
yêu của Cha. Ngài không muốn cứu nhân loại bằng cách nhảy xuống, giữa tiếng vỗ
tay của bao người đứng dưới.
Ngài muốn cứu con người bằng cách bị treo lên thập tự, giữa
những tiếng nhục mạ cười chê.
Đức Giêsu thật là Con Thiên Chúa vì Ngài đã trung tín với Cha
đến cùng.
Cuộc sống văn minh cho chúng ta nhiều cám dỗ hơn, ngọt ngào hơn,
hấp dẫn hơn, tinh vi hơn.
Cơn cám dỗ nào cũng đặt chúng ta trước sự chọn lựa, và chọn lựa
nào cũng đòi từ bỏ, hy sinh. Bởi vậy cơn cám dỗ lại có thể làm tôi lớn lên và
cứng cáp hơn sau mỗi lần chiến thắng.
Ước gì tôi không bị mắc bẫy Satan nhờ noi gương Đức Giêsu trong
ăn chay, cầu nguyện.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đối với bạn, loại cám dỗ nào đáng sợ hơn cả? Bạn đã làm gì để
thắng được loại cám dỗ đó? Qua báo chí, truyền hình... bạn thấy con người ở
cuối thế kỷ 20 bị cám dỗ về những điều gì?
Cầu Nguyện
Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa rất đáng mến, xin dạy con biết sống
quảng đại, biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài, biết cho đi mà không
tính toán, biết chiến đấu không ngại thương tích, biết làm việc không tìm an
nghỉ, biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào ngoài việc biết mình đã
chu toàn Thánh Ý Chúa. Amen.
18. Chúa ăn chay và bị cám dỗ
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Có một nhà thần bí nọ trở về thành phố sau một thời gian dài
sống trong sa mạc, bạn bè và người thân vây xung quanh rối rít hỏi thăm và xin
ông tả lại cho họ nghe về kinh nghiệm mà ông đã có về Thiên Chúa. Ai cũng hỏi:
"Thiên Chúa ra sao?". Nhưng làm sao ông có thể diễn tả kinh nghiệm
của tâm hồn bằng lời nói được. Bị gạn hỏi mãi, sau cùng ông đưa ra cho họ một
công thức thật mơ hồ và bất toàn, với hy vọng khiến cho ai đó không được thỏa
mãn, với câu hỏi "quyết định tìm vào sa mạc sống kinh nghiệm gặp gỡ Thiên
Chúa" như mình. Mọi người mừng rỡ ghi chép công thức ấy và biến nó trở
thành một văn bản thánh. Họ buộc mọi người phải thuộc bản văn đó như Kinh Tin
Kính, và không nề quản hy sinh gian khó vượt trùng dương để loan báo cho các
dân, các nước công thức ấy. Và có người trong bọn đã hy sinh cả mạng sống cho
công tác loan truyền này nữa. Nhưng không ai tìm được cho mình kinh nghiệm sống
về việc gặp gỡ Thiên Chúa cả. Đó là điều khiến cho nhà thần bí nọ vô cùng buồn
sầu và hối hận, và ông đã thầm nghĩ rằng: Thà đừng nói gì cả có phải hay hơn
không?".
Anh chị em thân mến!
Thiên Chúa không phải là một văn bản, mà là một bản vị, một nhân
vật sống động có các liên hệ thân tình với loài người. Đó là sứ điệp mà các bài
đọc Chúa Nhật I Mùa Chay hôm nay đề cập đến.
Sách Đệ Nhị Luật (26,4-10) là bản văn đúc kết niềm tin của dân
Do Thái vào Thiên Chúa mà học giả Beinha Fuegat gọi là kinh tin kính lịch sử
của Israel. Nó diễn tả kinh nghiệm của cuộc gặp gỡ giữa dân Do Thái và Thiên
Chúa trong thời khai sinh ra lịch sử của họ. Trong cuộc Xuất hành khỏi Ai Cập,
vào khoảng năm 1250 (trước tây lịch) dân Do Thái mới ý thức được họ là một dân
tộc bao gồm 12 chi họ khác nhau, dưới sự lãnh đạo của Môisê, họ cảm nhận được
các mối dây liên hệ với nhau. Cho tới lúc đó, họ chỉ có một ý thức dân tộc mờ
nhạt, biết mình thuộc về chi họ này, chi họ kia, giữa dòng giống Do Thái và
sống riêng rẽ nhau. Nhưng họ chưa có ý thức quốc gia, nghĩa là chưa có ý thức
về mình như là một dân tộc có chủ quyền, có tổ chức, có ý thức về mình như là
một dân tộc có chủ quyền, có tổ chức, có đất nước và một mệnh lệnh chung. Nhờ
có biến cố Xuất Hành, người Do Thái mới ý thức được rằng: Họ là một dân tộc
thực sự, và Giavê Thiên Chúa của cha ông tổ tiên họ trước hết là Đấng đã giải
phóng họ khỏi kiếp sống nô lệ ở Ai Cập.
Kinh nghiệm về Thiên Chúa giải phóng ấy được cô đọng lại trong
một công thức tuyên xưng lòng tin của họ vào Thiên Chúa. Hình ảnh Giavê Thiên
Chúa như là Đấng Tạo Hóa chỉ có về sau này, khi Israel suy tư về nguồn gốc con
người và vũ trụ vạn vật, hay nói cách khác những gì được nhắc đến trong kinh
tin kính trên đây của sách "Đệ Nhị Luật" đều là kết quả các kinh
nghiệm của cuộc gặp gỡ sống động của dân Do Thái với Thiên Chúa. Chúng được làm
khung trong bối cảnh của lễ nghi phụng tự dâng tiến lên Thiên Chúa các hoa trái
đầu mùa. Khi cử hành các lễ nghi phụng tự là dân Do Thái sống trở lại kinh
nhgiệm gặp gỡ Thiên Chúa trong suốt dòng lịch sử dài của họ kể từ thời các tổ
phụ. Các biến cố ấy giờ đây được trở thành nền tảng niềm tin của họ.
Phụng vụ là cách thế nhắc nhớ dân Do Thái biết các điều kỳ diệu
Thiên Chúa đã làm để giải phóng và cứu thoát, hướng dẫn che chở họ trong dòng
lịch sử. Chính vì thế, tiếng Do Thái dùng để dâng lễ vật đầu mùa gọi là lễ
"tưởng nhớ". Sự kiện toàn dân mang lễ vật đầu mùa tiến đến với Thiên
Chúa là diễn tả cách đáp trả liên lỉ lời kêu mời của Thiên Chúa.
Đây là cách thế mà dân Do Thái xưng tụng Thiên Chúa là Đấng đã
tạo dựng nên họ, chọn lựa họ, giải phóng họ khỏi Ai Cập và đưa họ vào miền đất
hứa, nơi họ đang sinh sống. Đối với Israel thì Thiên Chúa tạo Hóa là Thiên Chúa
của biến cố Xuất Hành, Đấng trao ban cho họ miền đất hứa và sẽ gửi Đấng Cứu Thế
đến. Bàn tay tạo dựng của Ngài cũng là bàn tay và cánh tay của Đấng quyền uy
giải phóng họ khỏi kiếp sống tôi đòi bên Ai Cập, và hướng dẫn chở che họ trong
40 năm lang thang trong sa mạc để tiến về miền đất hứa. Bàn tay ấy giờ đây cũng
giang ra đón nhận những hoa trái đầu mùa mà dân Do Thái tiến dâng lên Ngài.
Những hoa trái nảy sinh từ lòng đất mà Thiên Chúa đã hứa ban cho tổ phụ Abraham
và dòng dõi ông là chính họ.
Việc cử hành phụng vụ như thế trở thành thời điểm, trong đó các
hành động riêng rẽ của Thiên Chúa đã chiếm hữu, sắp xếp, thống nhất trở lại cho
có thứ tự lớp lang và giải thích như là các hành động cứu độ, chứ không phải
chỉ là lịch sử các biến cố tầm thường, vô nghĩa.
Qua trình thuật Chúa Giêsu bị cám dỗ trong sa mạc (Lc 4,1-13)
thánh sử Luca muốn cho chúng ta thấy Chúa Giêsu khai mào một cuộc xuất hành mới
là giải phóng loài người khỏi ách thống trị của Satan, của sự dữ, của tội lỗi,
các chước cám dỗ của chúng, và cái chết như là hậu quả cay đắng cuối cùng của
vòng xích oan nghiệp ấy. So sánh với tường thuật cám dỗ của Phúc Âm thánh
Mathhêu, chúng ta thấy tường thuật của thánh Luca có ba đặc điểm sau đây:
1. Vai trò của Thánh Thần trong cuộc đời Chúa Giêsu. Tất
cả mọi thời điểm quan trọng trong cuộc đời Chúa Giêsu đều được ghi dấu bởi sự
hiện diện của Chúa Thánh Thần. Đối với thánh sử trong kinh nghiệm Phục Sinh và
trong lịch sử của Giáo Hội, Chúa Thánh Thần không phải là sức mạnh như diễn tả
trong Kinh Thánh Cựu Ước, mà là một bản vị, là Đấng hướng dẫn cuộc đời Chúa
Giêsu và hoạt động trong lòng thế giới. Chính Ngài đã dẫn đưa Chúa Giêsu vào sa
mạc và trợ lực Chúa Giêsu trong cơn thử thách nơi sa mạc. Chúa Giêsu đã bị cám
dỗ từ bỏ con đường khổ giá mà Thiên Chúa Cha đã vạch ra, để đi theo một con
đường khác hấp dẫn hơn, ngoạn mục hơn và dễ dàng hơn.
Chúa Giêsu phải chọn con đường nào đây? Dùng
quyền năng cứu thế của mình thỏa mãn các nhu cầu vật chất và hiện sinh, như
biến đá sỏi thành bánh mà ăn, chứ không cần phải lao nhọc vất vả hay sống theo
luật công bằng hoặc tinh thần liên đới chia sẻ làm gì; hay là dùng các phép lạ
cả thể để lôi kéo tín đồ cho nó mau lẹ và kết quả, chứ tội gì mà phải khổ nhọc
rao giảng gieo vãi hạt giống vào tâm hồn con người và thôi thúc họ đối chiếu
cuộc sống hằng ngày với giáo huấn sự thật làm gì. Hoặc dùng bạo lực và mọi thứ
sức ép vật chất và tinh thần để lôi kéo đông đảo môn đệ và tín đồ. Đủ mọi thứ
cám dỗ, nhưng Chúa Giêsu đã chọn lựa con đường khổ đau. Đối với thánh Luca thì
chiến thắng của Chúa Giêsu trên các chước cám dỗ trước ngày công khai loan báo
Tin Mừng nước trời, báo trước cho biết chiến thắng sau cùng của Chúa Giêsu khi
chịu chết treo trên Thập Giá.
2. Đặc điểm thứ hai trong trình thuật Phúc Âm của thánh Luca là
vai trò quan trọng của thành Giêrusalem. Toàn Phúc Âm thánh
Luca trình bày cuộc đời Chúa Giêsu như là một cuộc lữ hành tiến về Giêrusalem,
nơi Chúa Giêsu sẽ thực hiện công trình cứu chuộc trần gian qua cuộc tử nạn, cái
chết và sự Phục Sinh của Ngài. Do đó, thánh sử Luca đặt cám dỗ thứ ba trong bối
cảnh thành Giêrusalem, nơi ơn cứu độ được thành toàn. Do đó không có chương
ngại nào kể cả các chước cám dỗ mà ma quỉ được phép cản trở hành trình ấy của
Chúa Giêsu.
3. Sa mạc: trong sa mạc của cuộc
Xuất Hành xưa kia, dân Do Thái đã lẩm bẩm kêu trách Thiên Chúa. Họ đã ngã thua
trước cám dỗ và khước từ Thiên Chúa là Đấng giải phóng minh. "Lẩm
bẩm" là từ Kinh Thánh Cựu Ước dùng để diễn tả thái độ chống lại Thiên
Chúa, phản đối Ngài. Họ muốn gợi ý cho Thiên Chúa phải hành động thế nào để
giải phóng mình. Trong sa mạc, Chúa Giêsu đã không nhượng bộ mà nghe theo lời
ma quỉ cám dỗ, hay theo cách thế nó đề nghị. Mặc dù đói khát và khổ sở, Chúa
Giêsu vẫn luôn vững tin vào lòng yêu thương quan phòng ấp ủ của Thiên Chúa Cha,
mà không đòi yêu sách là phải trông thấy các dấu chỉ cụ thể của tình yêu thương
quan phòng ấp ủ, như diễn tả bằng lương thực, của cải giàu sang, chức quyền và
thành công trong đời.
Trong thư gởi tín hữu Rôma (Rm 10,8-13), thánh Phaolô tuyên xưng
niềm tin vào Đức Giêsu Kitô Phục Sinh mà khẳng định với chúng ta rằng:
"Mọi người đều có thể đạt được ơn cứu độ". Điều kiện duy nhất là tin
nhận Chúa Giêsu Kitô, là sống Tin Mừng cứu độ của Ngài mỗi ngày trong đời. Hãy để
cho lòng tin vào Chúa Giêsu đâm rễ sâu trong tâm trí chúng ta. Hãy biết nghiền
gẫm Lời Chúa. Hãy để cho Lời Chúa thánh thót nhỏ giọt trong con tim, trong tâm
trí chúng ta và uống lấy Lời ấy. Hãy dành cho Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời Nhập
Thể của Thiên Chúa một chỗ nhất trong tâm trí chúng ta và hãy thực thi giáo
huấn của Chúa trong đời.
Một khi đã thấm nhuần Tin Mừng của Chúa, chúng ta hãy tuyên xưng
lòng tin vào Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, và đem hết nghị lục rao truyền Chúa
Kitô và Lời Ngài cho mọi người khác. Và cách tuyên xưng lòng tin hữu hiệu nhất,
trước hết và bây giờ cũng là gương sống cụ thể của chúng ta.
19. Một cuộc lữ hành đức tin
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Đời là một cuộc ra đi không ngừng. Sinh
ra là giã từ cái ấm êm của lòng mẹ để đi vào thế giới xa lạ. Lớn lên là từ bỏ
tuổi thơ đầy mơ mộng để đi vào cuộc đời với không biết bao nhiêu bấp bênh và
thử thách. Khi tuổi về già đến, con người lại thấy mình đứng bên bờ của vĩnh
cửu, lại một lần ra đi vĩnh viễn, dứt khoát. Cuộc đời không bao giờ là một dòng
sông êm ả, chúng ta không ngừng phải trải qua không biết bao nhiêu đổi thay.
Lần vào cuộc ra đi không ngừng ấy, cuộc sống đức tin của chúng ta cũng được
định nghĩa như là một cuộc lữ hành. Khởi đầu cuộc sống đức tin cũng là một sự
chào đời để lớn lên và ra đi không ngừng. Lịch sử ơn cứu độ, qua đó Thiên Chúa
hướng dẫn cuộc lữ hành của chúng ta cũng được trình bày như một cuộc ra đi.
Ở khởi đầu là cuộc ra đi của tổ phụ Abraham, đó là cuộc ra đi
mẫu mực. Abraham đã bỏ lại đàng sau tất cả để đi về phía trước với không biết
bao nhiêu bấp bênh và thử thách. Nhưng điển hình nhất trong các cuộc ra đi của
lịch sử cứu độ chính là cuộc ra đi của dân Israel... Bốn mươi năm lang thang
trong sa mạc đã trở thành biểu tượng của không biết bao nhiêu thử thách mà bất
cứ một cuộc lữ hành nào cũng đều phải có.
Trong ký ức tập thể của người Do Thái, 40 năm sa mạc ấy không
ngừng được ôn lại để ý thức hơn về những thanh luyện mà con người cần phải trải
qua, để sống tốt đẹp hơn, để sống tiến bộ hơn, để sống xứng đáng với nhân phẩm
của con người hơn. Kinh nghiệm 40 ngày sa mạc ấy, Chúa Giêsu cũng muốn trải qua
trong cuộc lữ hành trần gian của Ngài. Rời bỏ khung cảnh êm đềm của làng
Nagiarét, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc hành trình dẫn đến cái chết và nhờ đó, thực
hiện được công cuộc cứu rỗi nhân loại. Trong cuộc hành trình đầy chông gai và
thử thách ấy, Chúa Giêsu cũng muốn sống lại kinh nghiệm của 40 năm sa mạc. Ngài
đã chịu thử thách. Nhưng nếu dân Do Thái đã bắt đầu gục ngã một cách thảm
thương, thì Chúa Giêsu lại chiến thắng. Chiến thắng một cách vinh quang. Tựu
trung, ba cơn cám dỗ mà Ngài đã chịu đựng đều quy về một mối đó là quyền lực và
danh vọng. Đối lại với con đường dễ dãi mà ma quỷ đề ra, Chúa Giêsu đã chọn lấy
con đường của thập giá. Đối lại với con đường của quyền bính và danh vọng, Chúa
Giêsu đã chọn lấy con đường của khiêm hạ và vâng phục, và vâng phục cho đến
chết. Sự chiến thắng của Chúa Giêsu là chiến thắng của lòng tin tưởng phó thác
trên sự tự phụ mù quáng. Sự chiến thắng của Chúa Giêsu là chiến thắng của tự do
trên những quyền lực tăm tối trong tâm hồn con người.
Nếu cuộc hành trình của dân Do Thái là một hành trình tiến về
vùng đất tự do, thì cuộc hành trình của Chúa Giêsu là cuộc hành trình tiến về
tự do của tâm hồn. Nếu người Do Thái qua cuộc hành trình đã trở thành một dân
tộc tự do, thì Chúa Giêsu qua cuộc hành trình để trở thành mẫu mực cho con
người tự do, và qua cuộc thử thách trong sa mạc Chúa Giêsu muốn cho chúng ta
thấy rằng cuộc hành trình tiến về tự do nào cũng đòi hỏi hy sinh, chiến thắng
và thanh luyện.
Thiết lập Mùa Chay, Giáo Hội muốn cho chúng ta sống lại kinh
nghiệm sa mạc của Chúa Giêsu. Cuộc lữ hành trần gian của chúng ta không thể
không đi xuyên qua những vùng sa mạc khô cằn, nóng cháy. Thử thách, gian lao là
chuyện không thể thiếu được trong cuộc lữ hành. Cùng với Chúa Giêsu, Giáo Hội
mời gọi chúng ta vượt qua sa mạc của những thử thách ấy một cách can đảm và dứt
khoát. Dứt khoát với nếp sống cũ khiến chúng ta lê lết trong ích kỷ nhỏ nhoi,
dứt khoát với nếp sống cũ đầy dẫy những thất vọng buông xuôi. Cùng với Chúa
Giêsu, Giáo Hội mời gọi chúng ta phó thác tin tưởng hoàn toàn nơi Thiên Chúa.
Chúng ta không chiến đấu và hành trình một cách lẻ loi, Chúa Giêsu đang đồng
hành với chúng ta. Chúng ta không chiến đấu bằng sức mạnh và khí giới riêng của
chúng ta, chúng ta có Chúa làm sức mạnh cho chúng ta.
Nguyện xin Thánh Thể Chúa Giêsu mà chúng ta sắp rước lấy trong
thánh lễ hôm nay, trở thành sức mạnh và can đảm để giúp chúng ta tiếp tục tiến
bước trong cuộc lữ hành.
20. Hãy chọn Chúa – Lm. Jos Tạ
Duy Tuyền.
Danh - Lợi - Thú, đó là ba ham muốn chi phối toàn bộ đời sống
con người. Đó cũng chính là ba nguyên nhân gây nên biết bao khổ đau cho nhân
thế. Kẻ được người thua cũng đều có thể phải đau khổ vì nó, đều cảm nghiệm rằng
những bất hạnh mà mình đang phải gánh chịu đều vì tiền, vì lạc thú, vì quyền
lực. Nhìn vào xã hội, ở nơi này nơi kia đang xảy ra những bất hoà, tranh chấp,
có khi giết hại lẫn nhau và làm khổ cuộc đời nhau cũng chỉ vì tiền, vì tình và
vì quyền. Ngay trong gia đình cũng có thể bị đảo lộn những nề nếp gia phong bởi
quá tôn thờ nó. Con cái bỏ cha mẹ, cha mẹ từ chối con cái. Vợ kết án chồng,
chồng ruồng bỏ vợ..Anh em bạn hữu bất hoà với nhau cũng chì vì tình, vì tiền và
vì quyền. Vì nó mà người ta chà đạp lên nhau, người ta làm khổ nhau và làm hại
lẫn nhau.
Thực vậy, có những kẻ vì tiền mà mê muội. Có những người vì tình
mà hoá dại. Có những người vì quyền mà đánh mất tính người. Nhưng có lễ cái cám
dỗ nguy hiểm nhất của đời người chính là đồng tiền. Vì nhiều người cho rằng:
"có tiền là có tất cả".
Vì tham lam đồng tiền mà họ sẵn sàng đánh đổi tất cả: danh dự,
phẩm giá và tình làng nghĩa xóm, tình cha nghĩa mẹ, tình nghĩa vợ chồng cũng
không bằng ma lực đồng tiền. Vì "Còn tiền còn bạc còn đệ tử - Hết tiền hết
gạo hết ông tôi". Có biết bao kẻ đã bạc tình, bạc nghĩa chỉ vì đặt đồng
tiền lên trên mọi mối quan hệ giữa người với người. Đồng tiền là đối tượng duy
nhất để tôn thờ, vì thế dân gian mới có câu: "Ông tiền, ông Phật, ông Tiên
- ba ông đứng lại, ông tiền cao hơn".
Ngày xưa, có người nước Tề thích vàng đến nỗi mê vàng. Sáng sớm
thay áo quần đi ra chợ. Tới hàng đổi tiền, thì liền chộp vội một khối vàng rồi
chay đi. Người ta bắt anh ta lại và hỏi:
+ Tại sao giữa đám đông mà anh lại dám cướp vàng của kẻ khác như
thế?
Anh ta trả lời:
+ Lúc thấy vàng, tôi đâu còn thấy ai nữa. Trước mắt tôi chỉ có
vàng mà thôi.
Đồng tiền liền khúc ruột nên họ sẵn sàng mạo hiểm lao vào, bất
chấp đó là hiểm nguy, là lửa cháy có thể tiêu huỷ cả tính mạng. Vì tiền họ sẵn
sàng dùng mọi thủ đoạn mánh mung, cho dù phải chà đạp lên người khác bằng những
phương thế bóc lột và bất công, tham nhũng miễn sao vơ vét, vun quén về cho đầy
túi tham của mình.
Bài phúc âm hôm nay, thánh Mattheu miêu tả đến những cám dỗ mà
ma quỷ đã bày ra cho Chúa Gie6su. Nó cám dỗ Chúa Giêsu vì nó biết Chúa Giêsu
sau 40 ngày nhịn ăn nên rất đói, rất cần đến nhu cầu ăn uống. Nó đã khơi dậy
nơi Chúa sự quay lưng lại với Chúa Cha. Từ khước sống vâng phục thánh ý Chúa để
được thoả mãn cái bụng của mình. Nó hướng mở cho Chúa một tương lai đầy hứa hẹn
không chỉ có của ăn dư đầy từ những hòn đất, hòn đá cũng biết thành của ăn. Từ
sỏi đá cũng thành cơm mà vượt xa hơn nữa là nắm gọn trong tay cả và dân thiên
hạ. Có kẻ hầu người hạ. Có cơ hội hưởng dùng mọi vinh hoa phú quý trần gian.
Năm xưa trong vườn địa đàng nó đã thắng ông bà nguyên tổ, khi nó đưa ra những
lời dụ dỗ đầy ngọt ngào, đầy hấp dẫn này, nhưng hôm nay màn trình diễn này đã
hoàn toàn thất bại bởi Người Con duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giê su. Ngài
không những đã khước từ những lời mời mọc của ma quỷ mà còn cho ma qủy nhận ra
rằng không có gì hiện hữu ở trần gian này đáng giá hơn con người, đến nỗi phải
cúi mình mà thờ lạy nó. Chỉ có Thiên Chúa mới xứng đáng cho con người tôn thờ.
Và chỉ khi nào sống và thực hiện ý Chúa mới làm cho con người trở nên cao đẹp
hơn mọi loài trên trần gian.
Những cám dỗ mà ma quỷ tuy thất bại với Chúa Giêsu nhưng nó vẫn
dùng những chiêu thức đó để tấn công con người hôm nay. Trước tiên nó gieo vào
lòng ta mối nghi ngờ Thiên Chúa, về lòng thương xót và sự quan phòng của Thiên
Chúa. Nó mở ra cho chúng ta một so sánh, tính toán thiệt thua và cuối cùng là
đưa ra một con mồi để quyến rũ là: danh vọng, tiền tài, lạc thú. Kết quả là
nhiều người vì ham tiến, ham sắc, ham lợi lộc đã trở thành tay sai cho ma quỷ.
Từ một chàng thanh niên nhà quê hiền lành chất phác bỗng biến thành một con
người lòng mang dạ sói, sẵn sàng giết hại đồng loại. Từ một cô gái đoan trang
mực thước rồi bỗng một hôm lại trở thành một tú bà chuyên nghiệp của lầu xanh.
Thực vậy, dưới sức nặng và sự lôi kéo của sự dữ, mỗi người chúng
ta đều phải trải qua kinh nghiệm của thánh Phaolo: "việc thiện tôi muốn
thì tôi lại không làm. Điều ác tôi không muốn nhưng tôi lại làm. Ở khởi đầu mùa
chay, khi cho chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu chiến thắngị ma quỷ cám dỗ, Giáo
hội mời gọi chúng ta ý thức về thân phận tội lỗi của mình và sức mạnh của sự dữ
luôn rình rập để lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa, đi trong tối tăm của đam
mê lầm lạc. Ý thức thân phận yếu hèn để ta luôn biết trông cậy vào ơn Chúa giúp
chúng ta vượt qua thử thách của đam mê danh lợi thú. Đồng thời, biết theo gương
Chúa, chúng ta hãy tỉnh thức trong từng giờ từng phút, trong từng biến cố buồn
vui của cuộc sống, luôn biết chọn lựa giá trị vĩnh cửu hơn là những giá trị
mong manh của đời này. Hãy chọn Chúa và thợ phượng Chúa hơn là chọn danh lợi
thú và làm nô lệ cho những đam mê thấp hèn. Xin Chúa là Đấng đã chiến thắng cám
dỗ giúp chúng ta học nơi Chúa để sống quy phục Thiên Chúa và thực thi theo
thánh ý Ngài. Amen.
21. Chúa cần tấm lòng thành – Lm
Jos Tạ Duy Tuyền
Đôi khi qùy trước mặt Chúa, chúng ta chẳng biết nói gì, thưa gì
với Chúa. Thông thường khi gặp hoạn nạn, khi gặp khó khăn chúng ta dễ tâm sự
với Chúa, hay đúng hơn là chúng ta còn có chuyện để nói với Chúa, còn bình thường
thì chẳng biết nói gì với Chúa, nếu không mượn những lời kinh thuộc lòng thì có
lẽ chúng ta cũng chỉ tới với Chúa, độ dăm ba phút rồi mau chóng chào Chúa ra
về.
Đức HồngY FX Nguyễn Văn Thuận, Ngài đã kể câu chuyện như sau:
Có một người nông dân tên là Jim, hằng ngày vác cuốc đi làm
ngang qua nhà thờ, cậu đều vào nhà thờ rồi đi ra. Sự kiện được lập đi lập lại
nhiều lần, đến nỗi nhiều người thắc mắc, không hiểu Jim vào nhà thờ nói gì với
Chúa mà mau lẹ thế. Họ mới hỏi Jim: Anh vào nhà thờ cầu nguyện sao lại nhanh
thế? Anh đã nói gì với Chúa?
Jim đã trả lời: Tôi chỉ vào nhà thờ làm dấu rồi nói với Chúa.
"Lạy Chúa, có Jim đây" rồi tôi đi ra.
Sự kiện được tiếp diễn cho đến khi cậu Jim đã thành ông lão, nằm
kiệt quệ trên giường bệnh. Lúc đó hàng xóm láng giềng đến thăm hỏi ông và họ
ngạc nhiên khi thấy bên giường ông luôn có một cái bàn, một cái ghế và một ly
nước. Họ hỏi ông: Nhà không có khách, sao ông vẫn để một ly nước. Ông nói:
"Ngày xưa khi còn trẻ hằng ngày tôi vẫn đến với Chúa và nói với Chúa: Lạy
Chúa, Jim đây. Cho tới bây giờ, tôi đã già không còn có thể đến với Chúa được
nữa, nên Chúa vẫn hằng ngày đến với tôi và nói: Jim ơi, có Chúa đây".
Thực vậy, cầu nguyện không phải là mình nói thật nhiều với Chúa,
hay là tìm những lời thật hay, thật văn chương để nói với Chúa, nhưng điều quan
yếu là biết dành một thời gian cho Chúa. Khi chúng ta đón nhận một món quà,
không phải vì nó có một giá trị vật chất to lớn mà mình vui, nhưng là vượt lên
trên món qùa là cả tấm lòng người cho dành cho mình. Món quà tuy nhỏ nhưng
người cho với cả tấm lòng yêu mến thì cao qúy hơn những tặng phẩm cao sang mắc
tiền mà thiếu tấm lòng chân thành. Vì quà tặng chỉ là tượng trưng cho tấm lòng
người cho. Đó là một sự quan tâm, một tình yêu mà người cho dành cho chúng ta.
Việc chúng ta cầu nguyện với Chúa cũng thế. Điều quan yếu không phải là cầu
nguyện như thế nào, hay bao nhiêu lần trong ngày mà là tấm lòng chúng ta dành
cho Chúa như thế nào? Cầu nguyện vì tình yêu, vì lòng yêu mến Chúa hay đó chỉ
là thói quen, làm cho qua lần chiếu lượt, hời hợt cho xong.
Hôm nay Chúa muốn chúng ta làm các việc đạo đức: ăn chay, cầu
nguyện, làm việc lành phúc đức phải phát xuất từ tấm lòng chân thành chứ không
phải là những hình thức bên ngoài. Chúa đả phá thái độ phô trương, giả hình của
nhóm biệt phái. Họ ăn chay, họ cầu nguyện, họ làm việc lành nhằm mục đích phô
trương thân thế của mình. Họ làm những việc này vì bản thân họ chứ không phải
vì lòng yêu mến Chúa và tha nhân. Họ làm việc lành vì muốn khoe khoang sự giầu
có của mình. Họ cầu nguyện vì muốn được người khác khen ngợi. Họ ăn chay chỉ
nhằm che mắt thiên hạ về đời sống thiếu đạo đức của mình.
Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự. Ngài có thể nhìn thấu tâm
can của con người. Ngài cần tấm lòng chứ không cần lễ vật. Ngài đã từng đề cao
đồng tiền bà góa nghèo mà xem thường của bố thí dư thừa nơi người giầu. Ngài đã
từng nhìn đến lễ vật chân thành của Abel và bỏ qua lễ vật chiếu lệ của Cain.
Phải chăng Ngài cũng đang chờ đợi nơi lòng thành của chúng ta?
Ngài không cần chúng ta mang danh là người ky-tô hữu mà thiếu đời sống đạo.
Ngài càng buồn hơn khi chúng ta mang danh là người ky-tô hữu nhưng vẫn gian
tham, trộm cắp, vẫn gian dâm, chồng nọ vợ kia... Ngài cần chúng ta đến dâng lễ
vật với tấm lòng hòa bình, vì khi ngươi dâng lễ vật mà chợt nhận ra mình có bất
hòa với anh em, thì hãy để của lễ lại trên bàn thờ mà về làm hòa với anh em
trước đã. Ngài không muốn chúng ta đến nhà thờ mỗi ngày mà lòng chúng ta lại xa
Chúa. Ngài không cần chúng ta ăn chay với hình thức bên ngoài mà cần phải chay
tịnh về tâm hồn luôn khước từ những ước muốn bất chính, những ham muốn tầm
thường. Ăn chay có ích gì khi mà tâm trí chúng ta vẫn nuôi dưỡng những tư tưởng
bất chính? Ăn chay càng không có ích khi chúng ta vẫn để tính xác thịt lôi kéo
chúng ta vào đường tội lỗi.
Ước gì mỗi người chúng ta bước vào mùa chay với tầm lòng chân
thành ước muốn sửa đổi bản thân. Ước gì những hình thức đạo đức bên ngoài như:
ăn chay, cầu nguyện, việc lành luôn là hành vi được phát xuất từ lòng thành
dâng cho Chúa. Xin đừng làm những việc đạo đức chiếu lệ cho qua. Điều này chẳng
thêm ơn ích gì trước mặt Chúa. Đôi khi còn mang tội vì giả hình và gian dối.
Xìn đừng đến với Chúa mà thiếu lòng hoán cải, thiếu ước muốn hoàn thiện. Điều
này sẽ làm chúng ta ngày càng xa cách Chúa. Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn
có một tấm lòng chân thành với Chúa để mỗi lời kinh, mỗi việc làm của chúng ta
luôn đẹp lòng Chúa. Amen.
22. Sống là chiến đấu.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trong chuyến viếng thăm Giáo Hội tại Lituani vào tháng 9 năm
1993, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến cầu nguyện tại một ngọn đồi nổi
tiếng của nước nầy, thường được mệnh danh là “Ngọn đồi Thập Giá”.
Ngọn đồi này nằm tại một ngôi làng hẻo lánh. Qua suốt dòng lịch
sử của dân tộc, cứ mỗi lần có một người dân trong làng ngã gục ngoài mặt trận
thì toàn dân trong làng tập trung lại để tưởng niệm và dựng lên một cây thập
giá. Dưới thời Nga Hoàng cũng như dưới thời Liên Xô đã có không biết bao nhiêu
người dân làng ngã gục để bảo vệ nền độc lập của xứ sở. Binh lính và công an đã
làm mọi cách để triệt hạ thập giá khỏi ngọn đồi. Trong ba thế kỷ liền, ngọn đồi
thập gái đã không ngừng bị san bằng bởi những bàn tay vô đạo. Nhưng cứ đêm đến,
người dân trong làng lại lẳng lặng dựng lên những cây thập giá khác. Cuộc chiến
của thập giá cứ tiếp diễn như thế cho đến khi tự do được thực sự vãn hồi. Ngày
nay khách hành hương tìm đến ngọn đồi thập giá nầy để nhận
ra biểu trưng của một niềm tin sắt đá, của khát vọng tự do, và cuối cùng, của
chiến thắng.
Có niềm tin hay không, có sống đạo hay không, dường như ai cũng
có ý thức được rằng cuộc đời là một trận chiến. Giáo Hội không ngừng mời gọi
các Kitô hữu chúng ta sống lại cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu trong sa mạc. Mời
gọi chúng ta sống lại kinh nghiệm chiến đấu của Chúa Giêsu, Giáo Hội muốn nhắc
nhở chúng ta rằng cuộc sống niềm tin Kitô là một cuộc chiến
đầu trường kỳ.
Các sách Tin Mừng Nhất Lãm đều kể rằng sau khi được tấn phong
bên bờ sông Giođan, Chúa Giêsu vào sa mạc đương đầu với Satan. Thánh Marcô chỉ
nói vắn tắt rằng, Chúa Giêsu ở trong sa mạc 40 ngày và chịu Satan cám dỗ. Còn
thánh Matthêu và Luca lại kể rõ ba chước cám dỗ của Satan, nhưng theo thứ tự
hơi khác nhau. Theo thánh Luca, những chước cám dỗ của Satan phải được giải
thích trong mối liên hệ chặt chẽ với cuộc tử nạn thập giá của Chúa Giêsu. Các
chước cám dỗ nhằm lôi kéo Chúa Giêsu đi trệch đường lên thành Giêrusalem dẫn
đến đỉnh đồi thập giá. Chính vì để nhấn mạnh ý nghĩa của đỉnh đồi thập giá ở
Giêrusalem mà thánh Luca đã sắp xếp lại thứ tự các chước cám dỗ, để cho chước
cám dỗ sau cùng xảy ra ở Giêrusalem là đích điểm của con đường Ngài đã dứt
khoát chọn lựa ngay từ đầu sứ vụ Cứu Thế.
Do đó, Thánh Luca sắp xếp cám dỗ thứ nhất là Satan thách
đố Chúa Giêsu biến sỏi đá thành cơm bánh ăn: “Nếu ông là Con Thiên
Chúa, hãy làm cho đá nầy trở thành bánh đi!” Ý đồ của Satan là xúi Chúa Giêsu
vận dụng quyền năng Thiên Chúa trao cho Ngài để phục vụ bản thân mình trước đã.
Nhưng Chúa Giêsu đã từ chối. Ngài là Con Thiên Chúa không phải để phục vụ bản
thân mình, nhưng để làm công việc Thiên Chúa trao cho Ngài. Ngài đến để phục vụ
và làm theo ý Đấng đã sai Ngài. Satan muốn xúi Chúa Giêsu lấy mạng sống riêng
của mình làm cứu cánh, chỉ có mạng sống là đáng quý, chỉ có bản thân là đáng
trọng, không còn gì quý và cao cả hơn nữa.
Dân Israel khi ở trong sa mạc cũng đã bị cám dỗ như vậy. Khi họ
hết lương thực, họ quên tất cả giá trị của cuộc giải phóng
khỏi Ai Cập, tất cả niềm tự hào được trở thành người tự do. Trước nguy cơ chết
đói, họ sẵn sàng đánh đổi tất cả: Thà làm nô lệ mà được ăn no hơn được tự do mà
phải chết đói. Nhưng Thiên Chúa đã muốn cho họ thấy: còn có một cái gì đáng quý
trọng hơn nữa, hơn cả mạng sống: “Người ta không sống nhờ cơm bánh mà thôi, mà
còn nhờ Lời Chúa nữa” (Đnl 8,3). Chúa Giêsu dùng lời ấy để khẳng định rằng:
mạng sống trần gian không phải là tất cả đâu. Ngài đã lãnh nhận cuộc sống làm
người không phải để khư khư giữ lấy, nhưng là để cho đi, để hiến mình cho mọi
người được sống.
Cám dỗ thứ hai là Satan hứa sẽ trao cho Chúa Giêsu mọi quyền lực
và vinh quang của các vương quốc trên trần gian nầy, nếu
Chúa Giêsu chịu thờ lạy nó. Cái “xạo” của Satan là ở chỗ nó cho rằng nó là bá
chủ mọi vương quốc trần gian và có quyền ban quyền lực và vinh quang cho Chúa
Giêsu. Satan muốn Chúa Giêsu nhìn nhận rằng: chỉ có quyền lực và vinh quang của
mọi vương quốc trên trần gian này là đáng quý. Chúa Giêsu muốn được hưởng thì
cứ thờ lạy là xong ngay. Để trả lời Satan, Chúa Giêsu phán: “Mi phải thờ lạy
Chúa là Thiên Chúa của mi, và mi chỉ phải thờ phượng một mình Ngài mà thôi” Đnl
6,13). Sau nầy, Philatô sẽ phải công khai nhìn nhận rằng: Chúa Giêsu chẳng hề
có dụng ý tranh cướp quyền lực và vinh quang của Đế quốc Rôma.
Dân Israel khi xưa đã đúc bò vàng để thờ thay vì thờ phượng
Thiên Chúa. Đó là tội bất trung của Israel đối với Thiên Chúa. Chúa Giêsu dứt
khoát trả lời Satan: Mi không phải là Thiên Chúa. Quyền lực và vinh quang trên
trần gian không phải là tất cả. Chỉ có Thiên Chúa mới đáng thờ lạy, chỉ có
Thiên Chúa mới có quyền lực và vinh quang thật để ban cho Ngài.
Cám dỗ thứ ba là Satan xúi Chúa Giêsu thử thách quyền năng Thiên
Chúa; vận dụng quyền năng Thiên Chúa để mở một con đường tắt mà hoà thành sứ mạng; nếu Chúa Giêsu nhảy từ đỉnh cao của đền thờ
Giêrusalem xuống mà an toàn thì tất nhiên mọi người sẽ theo Ngài. Chúa Giêsu
không theo đường tắt Satan đề nghị. “Ngài hạ mình vâng phục cho đến nỗi bằng
lòng chết và chết trên thập giá” để thực hiện công cuộc của Chúa Cha. Ngài mời
gọi ai muốn theo Ngài thì hãy bỏ mình đi, vác thập giá của mình mà đi theo
Ngài.
Dân Israel trong sa mạc khi thiếu nước uống, họ đã thử thách
Thiên Chúa. Chúa Giêsu đáp lại Satan: “Ngươi đừng thử thách Thiên Chúa của
ngươi” (Đnl 6,16). Chúa Giêsu đã không thử thách Thiên Chúa nhưng hoàn toàn tin
tưởng và phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa khi Ngài đi vào con đường tuyệt vọng
nhất – con đường thập giá.
Chúa Giêsu đã chiến thắng hết mọi chước cám dỗ của Satan. Trong
suốt thời gian Chúa Giêsu rao giảng, ma quỷ tiếp tục thua dài hết keo này đến
keo khác. Nó không còn chước nào để cám dỗ Ngài nữa. Cuối cùng Satan nhập vào
Giuđa Iscariôt (một trong mười hai môn đệ) để nộp Ngài. Trong cuộc giao chiến
này, Satan sẽ cướp được mạng sống của Chúa Giêsu. Nếu quả thật không có gì khác
ngoài cuộc sống trần gian thì Satan đã thắng rồi. Nhưng chính lúc cướp được
mạng sống của Chúa Giêsu, Satan đã đại bại, bởi vì Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu
từ trong cõi chết sống lại và đặt Ngài làm Chúa, khiến cho mọi loài trên trời
dưới đất khi nghe Danh Giêsu thì phải quỳ gối mà tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa,
để làm vinh danh Thiên Chúa Cha. Đây là cuộc chiến thắng dứt khoát và vĩnh
viễn.
Đọc lại đoạn Phúc âm này vào ngày Chúa Nhật
đầu Mùa Chay, Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta suy nghĩ về cuộc sống Kitô hữu như
một cuộc chiến đấu với Satan. Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan, làm con Thiên
Chúa. Nhưng chúng ta còn phải thể hiện bản chất con Thiên Chúa ấy trong cuộc
sống. Chúng ta phải đích thân chiến thắng Satan trong cuộc sống của chúng ta.
Chúa Giêsu đã chiến thắng để cho chúng ta có thể chiến thắng nhờ Thánh Thần
Ngài ban cho, nhưng không hề miễn cho chúng ta khỏi chiến đấu. Mùa Chay là thời
kỳ tập luyện tích cực để chiến đấu với Satan.
Những cám dỗ mà Satan đã đem ra dụ dỗ Đức Giêsu vẫn là những cám
dỗ muôn đời của con người.
Cơm ăn, áo mặc, danh vọng, tiền của, quyền uy, thế lực. Có những
người, để làm giàu cho bản thân mình đã tán tận lương tâm, chà đạp mọi quy luật
của đạo đức… Có những người, vì danh vọng, vì quyền lực, đã sẵn sàng sinh sát
anh em đồng bào mình… Những cám dỗ ấy liên tục xảy ra trong cuộc sống chúng ta.
Nếu chúng ta không cảnh giác, không được trang bị bằng ánh sáng và sức mạnh Lời
Chúa, chúng ta sẽ ngã gục lúc này không hay!
Càng có điều kiện để làm giàu, có điều kiện để thụ hưởng danh
vọng và nắm giữ quyền lực, càng dễ bị Satan cám dỗ. Có của mà vẫn sống lương
thiện, hưởng thụ danh vọng mà vẫn khiêm tốn, hiền hoà, nắm
giữ uy quyền mà vẫn là người phục vụ chân thực… đó là một thử thách lớn, là một
cuộc đấu tranh gay gắt. Những cơn cám dỗ đến với Chúa Giêsu, các Lời Chúa đáp
lại, và sự vượt thắng cám dỗ của Chúa vẫn là cái gì gần gũi với chúng ta ngày
hôm nay, trong cả cuộc sống, nếu không muốn nói là từng giây phút, khi mà các
nhu cầu tối thiểu còn là vấn đề quan trọng và cấp bách, khi mà lòng tham quyền
bính và bả vinh hoa vẫn làm cho nhiều người mong bước vào.
Muốn chống trả và chiến thắng Satan, cần phải có tinh thần từ bỏ
và tấm lòng siêu thoát. Chúa Giêsu đã chiến thắng Thần Chết và tội lỗi. Chúng
ta cũng có thể chiến thắng mọi cám dỗ và thử thách, nếu chúng ta biết dựa vào
Thiên Chúa, biết dùng vũ khí vạn năng mà Chúa Giêsu đã trao cho chúng ta. Lời Chúa
mà thánh Luca ghi lại vẫn là lời nhắc nhở các tín hữu, đừng để sa vào các cơn
cám dỗ, mà ngày nay không khác với ngày xưa, nếu không muốn nói là còn lộ liễu
hơn. Hãy lấy chính Lời Chúa làm sức nâng đỡ, lời chỉ đạo, và hãy lấy tâm gương
Chúa làm tiêu chuẩn cho cuộc sống để đương đầu với những cơn thử thách bất cứ
từ đâu tới.
23. Chiến đấu với cám dỗ
(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Chúng ta đã từng thấy có một số cột mốc lớn trong cuộc đời Chúa
Giêsu, và đây là cột mốc lớn hơn hết. Trong Đền Thờ, khi được mười hai tuổi,
Ngài đã nhận thức rằng Thiên Chúa là Cha Người theo một ý nghĩa đặc biệt. Khi
Gioan xuất hiện, Ngài cảm kích giờ của Ngài đã điểm, trong lễ rửa Thiên Chúa đã
tỏ ra việc chuẩn y. Bây giờ Chúa Giêsu sắp bắt đầu chiến dịch của Ngài. Muốn bắt
đầu một chiến dịch, người ta phải chọn nhưng phương sách sẽ dùng. Câu chuyện
cám dỗ cho chúng ta thấy Chúa Giêsu đã dứt khoát chọn lựa phương cách Ngài sẽ
sử dụng để đem con người trở về cùng Thiên Chúa. Nó cho ta thấy Chúa Giêsu từ
bỏ con đường vinh quang quyền thế, chấp nhận con đường thập giá khổ đau. Trước
khi đi vào chi tiết câu chuyện, có hai điểm cần lưu ý:
1. Đây là một câu chuyện thánh, vì nó không thể phát xuất từ bất
cứ một nguồn nào khác ngoài chính Chúa Giêsu. Vào một lúc nào đó, có lẽ chính
Chúa Giêsu đã thuật lại cho các môn đệ về kinh nghiệm sâu thẳm đó của linh hồn
Ngài.
2. Cũng vào dịp này hẳn Ngài đã ý thức được những quyền năng đặc
biệt của Ngài. Những cám dỗ đó chỉ có thể xảy đến cho một người có đủ quyền
năng làm những sự lạ lùng. Chúng ta không bị cám dỗ khiến đá thành bánh hoặc
nhảy từ nóc Đền Thờ, vì lẽ rất đơn giản là chúng ta không thể nào thực hiện
được những việc như vậy. Các cám dỗ đó chỉ có thể xảy đến cho ai có sẵn quyền
năng độc nhất và phải quyết định cách thức sử dụng quyền năng đó.
Trước hết chúng ta thử hình dung khung cảnh đó, khung cảnh của
sa mạc hoang vu. Phần đất có người ở của xứ Giuđê là vùng cao nguyên trung tâm
cái xương sống cho miền Nam đất Paléttin. Từ đó ra Biển Chết có một vùng sa mạc
ghê rợn, chiều dài 56 cây số và rộng 24 cây số, có tên là sa mạc Jehsimmon,
nghĩa là “sự tàn phá”. Các núi đồi như những đống cát bụi, những đá vôi trông
như phồng lên và tróc ra, những tảng đá lớn trơ trọi gồ ghề, mặt đất kêu rền
dưới vó ngựa. Nắng ở đó nóng như một lò lửa mênh mông, và có một sườn núi dốc
dựng đứng cao khoảng 400 mét, đổ xuống tận Biển Chết. Chính tại đó, nơi hoang
tàn ghê gớm đó, Chúa Giêsu chịu cám dỗ.
Không nên nghĩ rằng ba đợt cám dỗ đó đã diễn ra theo trình tự và
lớp lang như một tấn tuồng. Chúng ta phải nhớ rằng Chúa Giêsu tự ý lui vào nơi
vắng vẻ đó và suốt bốn mươi ngày Ngài vật lộn với vấn đề làm thế
nào để chinh phục nhân loại về với Thiên Chúa. Đó là một trận chiến lâu dài
và là một cuộc chiến không ngưng nghỉ cho tới cây thập giá, và câu chuyện này
chấm dứt với lời tuyên bố của ma quỷ “tạm” lìa bỏ Ngài.
1. Cám dỗ thứ nhất khiến đá thành bánh.
Vùng này không phải là một sa mạc cát, khắp đó đây rải rác những
hòn đá vôi rất giống những ổ bánh mì nhỏ. Ma quỷ nói với Chúa Giêsu rằng: “Nếu
ông muốn dân chúng theo ông thì ông hãy dùng quyền năng lạ lùng để ban cho họ
những nhu cầu vật chất đi”. Ma quỷ xui Chúa Giêsu nên đút lót dân chúng để họ
theo Ngài, Ngài trả lời bằng một câu trích ở Đệ nhị luật 8,3, Ngài nói: “Người
ta không bao giờ tìm được sự sống trong của cải vật chất”. Nhiệm vụ của Kitô
giáo không phải là tạo ra những tình trạng mới, mặc dầu uy tín và tiếng nói của
Hội Thánh phải hỗ trợ cho mọi cố gắng cải thiện đời sống con người. Nhiệm vụ
của Hội Thánh là kiến tạo con người mới. Và khi đã có con người mới hẳn sẽ phát
sinh các tình trạng mới.
2. Trong chước cám dỗ thứ nhì, Chúa Giêsu thấy mình đứng trên
một đỉnh núi cao, từ đó mắt Ngài có thể thấy được tất cả các nước văn minh.
Ma quỷ nói: “Hãy thờ lạy ta thì tất cả sẽ là của ngươi”. Đó là
một chước cám dỗ để thoả hiệp, để hoà đồng. Ma quỷ nói: “Ta đã nắm được dân
chúng trong tay ta rồi, ngươi chớ nên đặt tiêu chuẩn của ngươi quá cao. Hãy ký
kết một thoả hiệp với ta, chỉ cần hoà đồng thích nghi một chút với điều ác thôi
thì loài người sẽ theo ngươi” Chúa Giêsu trả lời: “Thiên Chúa là Thiên Chúa,
phải là phải, trái là trái. Trong cuộc tranh chiến với tội ác không thể có thoả
hiệp”. Một lần nữa Chúa Giêsu lại trích dẫn Đệ nhị luật 6,13.10,20. Một sự cám
dỗ thường dễ vướng phải là việc tìm cách chinh phục lòng người bằng cách thoả
hiệp với các tiêu chuẩn của đời này. Có người phát biểu rất đúng rằng khuynh
hướng của thế gian là nhìn mọi sự trong màu sắc mơ hồ không rõ rệt, nhưng Kitô
hữu phải nhìn mọi sự cách trắng ra trắng, đen ra đen. Carlyle nói: “Kitô hữu
phải nóng cháy trong niềm tin vào sự vô cùng xinh đẹp của sự thánh khiết và vô
cùng xấu xa của tội lội”.
3. Trong cơn cám dỗ thứ ba, Chúa Giêsu thấy mình đứng ở nóc Đền
Thờ là chỗ cổng Salômôn và cổng vua giáp nhau.
Chỗ này cao 1.500 mét, dốc thẳng xuống thung lũng Kêdron bên
dưới. Đây là chước cám dỗ muốn khích động dân chúng. Chúa Giêsu phán: “Không,
ngươi không được quyền thử nghiệm quyền năng Thiên Chúa” (Đnl 6,16) Chúa Giêsu
hiểu rằng nếu Ngài làm theo ma quỷ thì dân chúng sẽ phải sửng sốt thán phục
Ngài, và chắc chắn ảnh hưởng đó không lâu bền được. Con đường phục vụ và chịu
khó dẫn đến thập giá là con đường rất khó đi, nhưng sau thập giá sẽ có vinh
quang của mão triều thiên.
“Chúa trở nên giống như ta, là anh em Ngài, về mọi phương diện,
để làm Thầy Thượng Tế nhân từ, trung thực trước mặt Thiên Chúa, chuộc tội cho
mọi người. Vì Chúa từng chịu khổ khi đương đầu với các cơn cám dỗ, nên Ngài có
thể giải cứu những người đang bị màng lưới cám dỗ vây bọc” (Dt 3,17-18). Suy
nghĩ về điểm này, thánh Gioan Viannay phấn khởi kêu lên: “Chúng ta hạnh phúc
thay! May mắn thay cho chúng ta có Thiên Chúa làm gương mẫu! Chúng ta nghèo khổ
ư? Chúng ta có một Thiên Chúa sinh ra trong chuồng bò, nằm trong máng cỏ. Chúng
ta bị khinh chê ư? Chúng ta có một Thiên Chúa đi trước chúng ta về điểm đó,
Ngài đã từng bị đội mão gai, quấn áo đỏ để coi như một tên điên khùng. Chúng ta
bị đối xử tồi tệ và đánh đập tàn nhẫn ư? Chúng ta có một Thiên Chúa, đứng trước
ta, mình đầy vết thương, chết giữa những khổ hình mà ta không thể tưởng tượng
ra. Chúng ta chịu bách hại sao? Này, sao mà dám phàn nàn khi ta có một Chúa
chịu chết vì tay các lý hình. Cuối cùng, chúng ta đau khổ vì bị cám dỗ sao?
Chúng ta có một Chúa Cứu Thế đáng yêu cũng bị ma quỷ cám dỗ, hai lần bị các
thần dữ mang đi này, và trong tất cả các khổ đau, quyến rũ và cám dỗ mà chúng
ta gặp phải, chúng ta luôn có Chúa đi trước chúng ta, bảo đảm cho chúng ta toàn
thắng miễn là chúng ta muốn thật” (Curé d’Ars).
Như thế Chúa dạy không ai tránh khỏi cám dỗ, Chúa chỉ cách thắng
vượt, khuyến khích ta tin cậy vào lòng thương xót, vì chính Ngài cũng bị cám dỗ
như ta.
24. Chú giải của Noel Quesson
Sau khi chịu phép rửa, Đức Giêsu được đầy Thánh Thần. Từ sông
Giođan trở về và được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa.
Đức Giêsu vừa thay đổi cuộc sống. Đối với Người đó là một khúc
quanh quyết định. Cách đây chỉ có vài ngày, Người vẫn còn là anh thợ mộc thôn
làng, ở Nadarét. Người vừa nhận phép rửa ở sông Giođan "nhận chức"
tác vụ làm ngôn sứ. Người được tràn đầy Thánh Thần? Trước khi bắt đầu tác vụ,
Người cảm thấy cần phải một mình lui vào hoang địa. Người muốn cầu nguyện, suy
nghĩ chọn những phương thế sẽ sử dụng để hoàn thành công trình của mình.
Không có một công trình lớn lao nào của con người, hay cuộc sống
thiêng liêng thực sự nào, mà không cần thời gian suy nghĩ, cô tịch và im lặng
nội tâm. Trong Mùa Chay đang bắt đầu, tôi có dành mỗi ngày vài phút, hay mỗi
tuần vài khắc đồng hồ cho việc này? Để cầu nguyện suy nghĩ, và thấy rõ hơn
không?
Tôi dùng tưởng tượng, ngắm nhìn Đức Giêsu đang rời làng mạc đông
dân cư, đi sâu vào những vùng đất sỏi đá không người, không cây cỏ, không nước.
Người bước đi bước tới. Lạy Chúa, còn con có dám đi theo Chúa không, để có một
thời gian trong "hoang địa"?
Tại đây Chúa bị cám dỗ trong 40 ngày.
Theo Luca, cơn "cám dỗ" mà Đức Giêsu đương đầu, kéo
dài trong suốt thời gian 40 ngày. Người ở nơi hoang địa.
Thời gian cầu nguyện, cũng là thời gian "thử thách". Chữ này nhấn
mạnh đến khía cạnh tích cực của cơn cám dỗ. Tự thử thách chính mình đó là xem
mình có thể làm được những gì và "đưa ra bằng chứng về chính mình".
Trắc nghiệm một cỗ máy, đó là thử xem giá trị thực sự của nó. Sự “thử
thách", theo nghĩa này, là một điều rất tốt. Một mối tình được thử thách,
đó là mối tình luôn bền vững và hiện giờ ta vẫn có thể chắc chắn về sự bền vững
đó. Khi bảo chúng ta xin Thiên Chúa "đừng để chúng con xa trước cám dỗ,
nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ" Đức Giêsu không muốn nói là chúng ta
sẽ không bị cám dỗ, nhưng ta phải chiến thắng cám dỗ, không bị nó đè bẹp, bị bại
trận, thì sự dữ ngự trị. Nhờ khắc khổ, Đức Giêsu đã có kinh nghiệm về lợi ích
của thử thách. Vì thử thách có thể làm tình yêu lớn lên: Những cám dỗ Người
chịu, sẽ làm nổi bật giá trị lòng "trung tín" của Người đối với Chúa
Cha.
Trong những ngày ấy, Người không ăn gì và khi hết thời gian đó
thì Người thấy đói.
Tôi ngưng một lát để chiêm ngắm cảnh này: Đức Giêsu đang đau khổ
vì đói! Bao tử co thắt - chóng mặt, nhức đầu.
Đa số các tôn giáo lớn, đều có việc thực hành "chay
tịnh" tự nguyện như thế! Nền văn minh hiện đại của chúng ta, có lẽ là nền
văn minh duy nhất trong lịch sử, khước từ kinh nghiệm tôn giáo phổ quát này. Ta
thường nói, cần phải hưởng thụ. Tại sao phải nín nhịn? Khi
một người ít buông thả trong phạm vi tình dục hay ăn uống, họ có nguy cơ mất đi
một điều cốt yếu: "Sự tự chủ”. Lúc đó, con người trở thành một sinh vật
rất mềm yếu, không ý chí, nô lệ cho những bản năng sơ đẳng nhất. Ở đây, Đức
Giêsu đưa ra cho chúng ta hình ảnh một con người mạnh, có thể quên mình, “ăn
chay" tự nguyện. Tôi có biết từ bỏ, hy sinh trong Mùa Chay này không?
1. Cơn cám dỗ thứ nhất.
Bấy giờ quỷ nói với Người: "Nếu ông là con Thiên Chúa thì
truyền cho hòn đá này hoá bánh đi".
Cơn cám dỗ vì cái đói, đã là sự thử thách của Israel trong hoang
địa. Nhưng cơn cám dỗ để thoả mãn cái đói của chúng ta, là
sự thử thách của mọi người. Chúng ta biết rõ những khao khát thể xác của mình.
Thiên Chúa đã đặt chúng trong ta, nhưng chúng ta có thể dễ "lệch
lạc", trở thành độc tài yêu sách. Xã hội tiêu thụ quanh ta lại càng tăng
thêm quyền lực cho chúng: "Hãy mua món ragu, mì sợi Ý. Thế giới phương
Tây, nói chung, quá dư thừa thực phẩm. Những y sĩ thường cảnh giác điều đó.
Đức Giêsu đáp lại: "Đã có lời chép rằng: Người ta sống
không chỉ nhờ cơn bánh".
“Con người". Lạy Chúa Giêsu, con thích nghe lời này từ
miệng Chúa. Con người, đó là nỗi đam mê của Chúa. Chúa đã đến trong nhân loại
để phát huy giá trị của con người trong mọi chiều kích. Chúa lặp lại cho chúng
con hôm nay: Hỡi con người, đừng sống chỉ nhờ cơm bánh! Đừng hạ thấp mình xuống
mức độ sơ đẳng nhất. Người không có nhu cầu nào khác hơn là ăn, uống hút
xách... sao?
Trong Mùa Chay này, chúng ta có biết phát triển những giá trị
tâm linh của mình không? Chúng ta có biết cầu nguyện đón thận những thiếu sót
khắc khổ, giúp mình thêm sinh khí không?
2. Cám dỗ thứ hai.
Quỷ đem Đức Giêsu lên cao và trong giây lát chỉ cho Người thấy
tất cả các nước thiên hạ. Rồi nó nói với Người: "Tôi sẽ cho ông toàn quyền
cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được
giao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông bái lạy
tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông".
Rõ ràng, trình thuật này không phải là một "phóng sự"
của một nhà báo mô tả hay quay phim một biến cố. Đây là một trang thần học tóm
kết và tổng hợp cách tượng trưng "tất cả những hình thức cám dỗ" (Lu
ca sẽ nói rõ điều đó khi kết thúc trình thuật của ông) mà Đức Giêsu đã gặp
“thực sự” suốt cuộc đời của Ngài. Chẳng hạn, rõ ràng là cơn cám dỗ thứ hai này,
cám dỗ để được "quyền hành thế gian", đã không ngớt tấn công Đức Giêsu.
Hằng ngày, Ngài đã phải đẩy lui cơn cám dỗ "cứu thế
nhất thời" mà người đương thời đã muốn lôi kéo Người bước vào: Một Đấng
cứu thế có tính chính trị, một ông "vua của thế gian" này theo kiểu
vua Đavít cầm đầu, cùng với Nhóm quá khích để chống lại quyền hành và vinh quang,
chống lại quân Rôma xâm lược (Ga 6,15). Ngay từ ngày đầu tiên này, tại hoang
địa, cho tới hơi thở cuối cùng, Đức Giêsu đã khước từ vương quyền để làm người
"nghèo hèn" "người tôi tớ" (Ga 13,1-20). Đức Giêsu đã có
thể trở nên giàu có và quyền thế nhưng Người đã chấp nhận "yếu đuối"
(1 Cr 1,27), khi chọn thập giá là “điều ô nhục đối với người Do Thái, là sự
điên rồ đối với dân ngoại". Cơn cám dỗ về "quyền hành" cũng là
cơn cám dỗ của chúng ta: Muốn thống trị áp đặt, và lợi dụng.
Đức Giêsu đáp lại: "Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy
Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình
Người mà thôi". (Đnl 6,13)
Chống lại những cuộc tấn công của xatan, Đức Giêsu trả lời 3 lần
bằng Kinh Thánh (Đnl 8,3-6,13-6,16), vì đó cũng chính là những cơn cám dỗ mà
dân Chúa đã gặp nơi hoang địa trong "40 năm", và giờ đây Đức Giêsu
cũng đang sống lại trong bản thân Người: Đó là cơn cám dỗ về mana (Xh 16), cám
dỗ thờ ngẫu thần và con bò vàng (Xh 32-42), cám dỗ làm những dấu lạ (Xh 17).
Cơn cám dỗ của Israel cũng là cơn cám dỗ của Đức Giêsu, của toàn thể nhân loại,
của chúng ta. Nghi ngờ Thiên Chúa, vì người không tỏ hiện, để tin những gì
khác".
Câu trả lời của Đức Giêsu là "không có gì hơn Thiên
Chúa". Lạy Chúa Giêsu, theo chân Chúa, con không muốn thờ lạy và tin tưởng
ở tiền bạc, lạc thú, quyền hành, "những ý thức hệ chính trị", những
tiến bộ hay thời trang. Con chỉ phục bái “trước mặt Chúa". Cái tạm thời
không phải là xấu. Nhưng biến nó trở nên "tuyệt đối", là một ảo tưởng
bi thảm. Đức Giêsu là Đấng giải thoát chúng ta khỏi những “thần giả hiệu” đang
gạt gẫm chúng ta.
3. Cơn cám dỗ thứ ba.
Quỷ đem Đức Giêsu đến Giêrusalem và đặt Người lên nóc đền thờ
rồi nói với Người: “Nếu ông là con Thiên Chúa thì đứng dậy, mà gieo mình xuống
đi! Vì có lời phép rằng: Thiên Chúa sẽ tay đỡ, tay nâng cho
bạn khỏi vấp chân vào đá". (Tv 91,11-12)
Đó là cơn cám dỗ lớn và liên tục mà người ta đã đặt ra trước Đức
Giêsu suốt đời sống công khai của Người: hãy làm phép lạ đi - Hãy cho chúng tôi
một dấu chỉ trên trời. Hãy chứng minh rằng ông là Thiên Chúa. Hãy biểu lộ quyền
hành của ông bằng phép lạ, chứng minh rằng ông là Đấng Cứu 'Thế chúng tôi đang
mong đợi. Hãy bước xuống khỏi thập giá đi? (Lc 11,29-11,16-21,7; Ga
91,28-6,30-12,37; Mt 27,42-43). Còn chúng ta, chúng ta cũng luôn đòi hỏi những
điều đó với Chúa sao?
Luca đã đặt cơn cám dỗ này, cám dỗ nơi đền thờ Giêrusalem xuống
hàng thứ ba (còn đối với Matthêu, đó là cám dỗ thứ hai 4,5). Làm như thế, Luca
mới nhấn mạnh đến sự tiệm tiến. Thực vậy, chính tại Giêrusalem, Đức Giêsu đã
trải qua cơn thử thách lớn nhất của Người. Đó là cơn cám dỗ bi thiết, muốn cho
Người khỏi phải chết: "Nếu có thể được, xin tha cho con khỏi uống chén
này" (Lc 22,42). Đức Giêsu đã không được thiên thần "bảo vệ". Đó
là cơn cám dỗ bi thảm nhất: trong đau khổ; mất niềm tin nơi Chúa Cha. Đức Giêsu
đã không được bảo vệ, chân của Người đã vấp phải đá đường. Người đã không bao
giờ dùng quyền năng thần linh của mình để tránh sức mạnh ghê gớm của "thân
phận con người phải chết”. Người đã khước từ những phương tiện "ngoạn
mục" để thi hành xứ vụ của mình, mà chỉ chọn những "phương tiện hạn
hẹp". Chính nhờ thái độ Dâng lời tuyệt đối Chúa Cha, đến nỗi có cảm tưởng
bị "Chúa Cha bỏ rơi" (Mt 27,48), mà người chứng tỏ mình là Con Một
của Cha. Người sẽ được ' "'cứu khỏi chết" nhờ sự phục sinh của mình,
nhưng chỉ sau khi đã sống trọn tình thương "cho đến tận cùng". Do đó,
chúng ta chớ ngạc nhiên khi đến lượt mình cũng cảm thấy cơn cám dỗ bi thảm này:
Đó là cơn cám dỗ nặng nhất, khi nghĩ rằng “Chúa bỏ rơi ta", cám dỗ của
khuynh hướng vô thần "nếu có một Thiên Chúa tốt lành, thì tôi đâu có gặp
thử thách như vậy! "
Chúa Giêsu đáp lại: Đã có lời rằng: ngươi chớ thử thách Đức Chúa
là Thiên Chúa của ngươi.
Chúng ta cũng thường "thử thách Thiên Chúa". Đôi khi
chúng ta buộc Chúa phải theo ý muốn của ta: "Nếu Chúa hiện hữu, nếu con
thật là con của Chúa, Chúa phải cho con lành bệnh, hay thoát khỏi một cơn thử
thách nào đó hay thành công ở một kỳ thi nào đó. Nếu Chúa không làm như thế,
thì Chúa đâu có còn quan tâm tới con nữa, và Chúa đâu còn hiện hữu gì với
con". Chúng ta biết rằng, vấn đề sự dữ trong thế gian là nguyên nhân của
phần lớn những cuộc khủng hoảng tâm linh và dẫn đến nhiều trường hợp bỏ Đức
tin.
Nhưng chúng ta cũng tin rằng, Đức Giêsu đang "ở cùng chúng
ta". Đức Giêsu là người đầu tiền đã thắng cơn cám dỗ này, và dù có bị
"đóng đinh trên cây gỗ”, vẫn một lòng trung thành với Chúa Cha.
Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi
thời cơ.
Như vậy những cơn cám dỗ này, chỉ là khởi đầu. Đức Giêsu sẽ còn
bị cám dỗ nữa. Và có thể nói, xatan đã hẹn tại Giêrusalem. Nơi đó sẽ diễn ra
trận đụng độ thực sự khi Đức Giêsu bước vào cuộc thương khó (Lc 22,3).
25. Trong sa mạc - R. Gutzwiller
Do Thần trí Thiên Chúa thúc đẩy, Chúa Giêsu đi vào sa mạc. Sự
sung mãn tinh thần cùng với việc đối thoại thân mật với Chúa Cha chiếm hữu Ngài
mãnh liệt đến độ Ngài không còn tưởng nghĩ đến những nhu cầu vật chất nữa,
dường như Ngài xuất thần, sống trong một thế giới khác.
Rồi bốn mươi ngày trong trạng thái xuất thần ấy qua đi, nhường
chỗ cho những nhu cầu của con người, khiến Ngài cảm thấy cơn đói mãnh liệt.
Tiếp theo ánh sáng từ trên cao là những u ám dưới đất; sau sự tràn đầy Thiên
Chúa đến cơn cám dỗ của Satan vây bọc.
Càng là bậc thần bí chiêm niệm, càng là Đấng thánh thiện, thì
lại càng hay bị Satan bủa vây, công hãm; những vị sống ở mức độ thánh thiện cao
thì đồng thời cũng có nguy cơ liều mình sa xuống vực thẳm. Chúa Giêsu đã được
nâng cao hơn ai hết: cho nên không ai bị Satan cám dỗ bằng Ngài.
Đây Ngài sắp bị kẻ địch mở ba mũi dùi tấn công:
Cám dỗ thứ nhất muốn nói đến cách sử dụng sai lầm quyền năng
Thiên Chúa để phục vụ cho một lợi ích thế trần. Chúa
Giêsu cũng có thể làm giảm cơn đói đang hoành hành nơi bản thân Ngài, điều đó
có thể lắm chứ! Thế nhưng Ngài đã trả lời: ‘Người ta sống, không phải chỉ bằng
cơm bánh’.
Tinh thần hay cơm bánh, linh hồn hay thân thể, đâu là điều quan
trọng đối với Ngài? Từng thứ một luân phiên xuất hiện trước
mặt Ngài… Phần đa số nhân loại đều ao ước cả hai, nhưng lại đặt trật tự sai
lạc: tiên vàn là những gì liên quan đến thân xác, no nê, tiện nghi đầy đủ, rồi
sau đó, hay may mắn lắm là song song với nó, mới đến những yếu tố tinh thần và
thiêng liêng.
Hơn nữa, nhiều người còn bị cái chủ hướng chỉ coi trọng vật
chất. Những người này hoàn toàn chối bỏ tinh thần và linh hồn. Duy chỉ còn tiện
nghi vật chất là cứu cánh cho đời họ: ‘Cơm bánh và vui chơi’. Ngày nay xu hướng
đó có một tầm ảnh hưởng đặc biệt, vì coi kinh tế như là động lực mang tính cách
quyết định, những cái còn lại chỉ là phụ trội mà thôi.
Ngược lại, Chúa Giêsu xác quyết chỉ tinh thần mới có giá trị
tuyệt đối. Bởi vì Thiên Chúa quan trọng hơn thế gian nhiều. Do đó, tiên vàn
phải lo tìm kiếm nước của Người và mọi sự khác sẽ đến sau. Trời quan trọng hơn
đất, nên kẻ nào chỉ loay hoay với những sự dưới đất là
những người vụng về, không biết đâu là chính yếu và đâu là tuỳ phụ. Sự vĩnh cửu
đáng giá hơn thời gian, nên kẻ nào liều mạng sống mình để chiếm được những cái
chóng qua đời này, thì kể là đã đặt tất cả mọi sự trên một địa bàn sai lạc.
Lời Chúa Giêsu trưng dẫn lấy từ đoạn ở sách Đệ nhị luật, trong
đó nói về thứ bánh Thiên Chúa ban cho dân khi còn ở trong sa mạc, nhưng đồng
thời cũng nhấn mạnh là Lời Sáng tạo và Thần trí Thiên Chúa trọng hơn bội phần,
đáng giá hơn thứ bánh do phép lạ Thiên Chúa làm và càng hơn thứ bánh ta dùng
thường ngày gấp ngàn vạn lần.
Chúa Giêsu không chỉ khinh rẻ thân xác và những nhu cầu thể xác.
Chúng ta sẽ thấy Ngài chữa lành bệnh tật, làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, phục
sinh kẻ chết. Xem đó thì biết Ngài không phải là anh trí thức một chiều, chỉ
chu chu chăm chắm vào những điều thiêng liêng sáng láng, Ngài cũng chẳng phải
là kẻ ngông cuồng không nhận biết Thiên Chúa. Nhưng Ngài muốn là tinh thần và
Lời của Thiên Chúa phải được đặt vào đúng chỗ của nó, bởi vì thân thể chỉ có được
ý nghĩa đúng đắn và những nhu cầu vật chất cũng chỉ thoả mãn một cách chính
đáng khi tất cả đều diễn tiến theo một trật tự hợp với Thánh ý Thiên Chúa, hợp
với luật của Người.
Chúa Giêsu cũng sẽ sử dụng quyền năng lạ lùng của Ngài theo lời,
theo ý của Thiên Chúa chứ không theo sở thích của lòng mình, lại càng không
theo ý muốn của mình, hay sự thúc đẩy của thân xác. Sứ vụ của Ngài là loan báo
Nước Thiên Chúa. Xu hướng coi trọng vật chất vẫn còn xung khắc với Kitô giáo.
Cám dỗ thứ hai liên quan đến sự ham hố quyền hành. Satan
chỉ cho Chúa thấy ‘hết các nước thiên hạ’ và nói thêm: ‘Tôi hiến cho Ngài uy
quyền đó hết thảy và vinh quang của các nước ấy, vì nó đã được phú thác cho
tôi, và tôi muốn hiến cho ai tuỳ ý tôi’. Lời gì mà lạ lùng thế! Tuy nhiên chính
Chúa Giêsu đã gọi Satan là ‘Thủ lĩnh thế gian này’. Quyền lực tự nó đâu phải là
cái gì xấu xa, nhưng có một chú quỉ quyền thế chỉ lo quyến rũ những kẻ ham danh
và mê thống trị. Kẻ đó không còn lo tìm Đấng toàn năng, cũng chẳng tìm Thánh ý
Thiên Chúa Tối Cao, Đấng mọi quyền hành đều phải phụng sự Ngài.
Trái lại, họ coi quyền hành của họ là sự thiện tuyệt đối và sử
dụng tuỳ theo sở thích của họ. Kiêu ngạo, dương dương tự đắc quá lố như vậy tất
sẽ đi đến chỗ lầm đường lạc lối. Sách Khải huyền gọi quyền thế là ‘con mãnh thú
vực sâu…’. Nói đúng ra, đối với những người có địa vị, cám dỗ này còn nguy hiểm
hơn cám dỗ coi vật chất là số một, dù cám dỗ này cũng đã thật thô bỉ. Cám dỗ về
ham quyền được nguỵ trang bằng những dáng vẻ đạo đức bề ngoài, vì nó khuyến
khích việc mở rộng nước Chúa nhờ những phương tiện bên ngoài của chính trị, võ
khí, tổ chức này tổ chức nọ, tiền bạc… Thậm chí có những việc khởi đầu hoàn
toàn với ý hướng ngay thẳng, thế rồi dần dà cũng đi đến chỗ coi trọng quyền
thế; tham quyền thì cố vị, và rốt cuộc sa vào mưu mô của ma quỷ.
‘Vậy nếu ông bái xuống lạy tôi, thì mọi sự ấy sẽ là của ông’.
Khi bái lạy quyền thế thì người ta cũng thờ lạy Satan. Khi ham quyền và những
lợi lộc do đó mà ra, thì người ta đã đang tâm hiến mình làm nô lệ cho quyền
thế.
Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã trả lời: ‘Ngươi phải bái lạy
Chúa, Thiên Chúa của ngươi, và chỉ thờ phượng một mình Người’ Đấng Tối Cao là
Đấng độc nhất mà mọi sự phải quy phục. Đấng toàn năng là Vị Duy Nhất sở hữu và
ban phát quyền năng chính đáng. Mọi thứ quyền hành không phụng sự Thiên Chúa là
một sự lạm dụng và phục vụ cho Satan, cho dầu nó có vẻ huy hoàng rực rỡ mấy
chăng nữa. Ham quyền quá đáng trao nộp chúng ta vào tay ma quỷ. Nhưng Chúa
Giêsu đã đến để thiết lập Nước Thiên Chúa thì đồng thời Ngài cũng phá tan vương
quốc của kẻ thù.
Trong cái chết của Chúa Giêsu, quyền lực âm phủ mở tiệc ăn mừng;
nhưng trên thực tế, nó đã bị bẻ gãy và tỏ ra mình yếu kém ngay tại đó. Trót
cuộc sống Chúa Giêsu là một sự phục vụ Thiên Chúa, chứ không phải phụng sự
Satan. ‘Ngươi phải thờ phượng một mình Thiên Chúa’. Kẻ nào thờ lạy bất cứ cái
gì khác phải kể là đã phản bội Thiên Chúa.
Cám dỗ thứ ba nói đến việc lạm dụng phép lạ với mục đích thoả
mãn tính hiếu kỳ.
Satan đưa Chúa Giêsu, trong Thần trí, lên chóp đỉnh đền thờ. ‘Nếu
Ngài là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống’. Chú quỷ còn trưng dẫn Kinh
Thánh nữa: ‘Vì Người đã truyền cho các thiên thần gìn giữ ông; và các vị đó sẽ
giơ tay nâng đỡ ông khỏi vấp chân vào đá’.
Chúa Giêsu đã khởi đầu cuộc sống công khai của mình trong đơn sơ
và ẩn mặt, vì Ngài đã xen lẫn vào đám dân chúng, và những người tội lỗi bên bờ
sông Giođan. Giờ đây, cám dỗ có ý muốn làm cho mọi chuyện xảy ra ngược lại:
Ngài sẽ làm một phép lạ từ trời trước mặt quần chúng, tỏ ra mình đặc biệt phi
thường. Dân chúng đang khát khao được nhìn, được thấy. Họ muốn thấy Ngài xuất
hiện trên chín tầng mây chứ không phải như một người trong họ, như bao nhiêu
người khác.
Trong lãnh vực tôn giáo, phép lạ vẫn luôn mang theo một sự lôi
kéo mới mẻ. Người ta từ chối không muốn phụng sự Thiên Chúa trong những khó
khăn của cuộc sống thường nhật và không muốn theo Thánh ý Người trong cuộc sống
bình thường. Họ muốn có những chuyện lạ lùng bên ngoài, bên trong cũng được.
Nhất là cảm nghiệm trong việc cầu nguyện thần bí.
Những chuyện Đức Mẹ hiện ra. Vị này vị nọ được in năm dấu Thánh,
có sức lôi kéo họ đi hành hương bất chấp xa xôi vất vả và họ coi là có giá trị
hơn là chấp nhận Lời Chúa và Thánh ý Người bằng niềm tin cùng với tấm lòng đơn
sơ chân thành. Thánh ý mà Chúa tỏ bày qua những hy sinh trong chức nghiệp bổn
phận trong gia đình, những thánh giá hằng ngày mà ít ai để ý, cũng chẳng ai tỏ
vẻ khâm phục.
Chúa Giêsu không coi rẻ phép lạ đâu. Chính Ngài sẽ thực hiện
những phép lạ, nhưng không phải để thoả mãn những thèm khát của đại chúng hoặc
để cho tôn giáo có tính chất ngoại lệ đặc biệt, một chỉ để vâng phục Thánh ý
Thiên Chúa, Cha của Ngài trên trời, và do đó chứng mình rằng mình nhận lãnh sứ
vụ từ nơi Chúa Cha. Tất cả những gì ngoài mục đích đó đều được coi là thử thách
Cha Ngài, là có ý bắt Thiên Chúa làm những phép lạ không cần thiết, cũng không
theo lệnh, chẳng theo ý của Người.
Vì đó, Chúa Giêsu trả lời: ‘Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên
Chúa của ngươi’.
Đó là cám dỗ chống lại Thiên Chúa cao trọng, chống lại Thần trí,
ý muốn và quyền năng của Người. Chúa Giêsu lướt thắng Satan nhờ Thiên Chúa và
phá tan mưu chước bằng cách chạy đến Thiên Chúa. Cũng thế, con người không thể
đứng vững trước những cơn thử thách nhờ vào sức riêng của mình được. Đứng giữa
Thiên Chúa và ma quỷ, con người chỉ có thể vượt thắng được ma quỷ nhờ sự trợ
lực của Thiên Chúa. Không thể có chuyện trung lập hay lẩn tránh. Người ta chỉ
có thể xa lánh Satan khi quay hướng về Thiên Chúa, làm như vậy thì người ta
cũng xa tránh được mưu chước cám dỗ của Satan.
Bây giờ đây, thời gian chuẩn bị cho cuộc đời công khai của Chúa
Giêsu đã chấm dứt. Được Thiên Chúa uỷ phái, nhưng Ngài lại ở giữa loài người.
Sinh bởi Thiên Chúa, tuy nhiên cũng là con loài người, Ngài được đầy tràn Thần
khí Thiên Chúa và sẽ chiến đấu với Thần trí Satan. Thánh ý Thiên Chúa cũng là
lề luật của Ngài, nước Thiên Chúa là bổn phận của Ngài, tất cả những gì thuộc
về ma quỷ là thù địch của Ngài. Ngài sẽ xây dựng nước Thiên Chúa và sẽ huỷ diệt
vương quốc của Satan.
Sau phần mở đầu uy hùng và bi tráng này, thái độ mâu thuẫn giữa
sức lực trên cao và quyền năng dưới thế sắp bắt đầu công cuộc hành động của
Ngài trên dân chúng.
26. Satan
Qua báo chí cũng như qua những câu chuyện thường ngày, chúng ta
thấy xã hội loài người đầy dẫy những tội ác và bất công, nào là tham nhũng hối
lộ, nào là cướp của giết người, nào là cao bồi du đãng, nào là rượu chè cờ bạc,
nào là xì ke ma tuý, nào là ly dị phá thai…
Nếu hỏi tại sao lại có tình trạng bi đát ấy, người ta sẽ không
ngần ngại đưa ra những lý do về xã hội, về kinh tế, về giáo dục…Tuy nhiên, có
người lại bảo đó là kết quả những việc làm của ma quỷ.
Nghe qua câu trả lời này chúng ta mỉm cười, vì ma quỉ hiện giờ
là một cái gì xa lạ đối với não trạng và sự suy tư của con người thời nay. Vậy
thì ma quỉ là như thế nào?
Nói tới ma quỉ hay Satan chúng ta liên tưởng tới những hình vẽ,
những bức tượng thời Trung cổ, vừa có sừng lại vừa có đuôi, vừa đen đủi lại vừa xấu xa, luôn ám hại chúng ta. Nó có thể dùng một
chiếc đũa thần làm cho chúng ta trở nên xinh đẹp, hay biến chúng ta trở thành
một nhà triệu phú, miễn là chúng ta bán linh hồn cho nó, miễn là chúng ta thờ
lạy nó.
Đối với chúng ta ngày nay, những hình ảnh đó không còn thích hợp
nữa. Ma quỉ dần dần mất đi vai trò và sự quan trọng trong cuộc sống. Phải chăng
đó cũng là điều nó mong muốn? Chính trong sự lãng quên này mà nó ra tay hành
động, làm đảo lộn trật tự và bậc thang giá trị.
Người xưa người ta thường khuyên nhủ:
- Ai không để tâm tới Thiên Chúa, thì ít nữa đừng làm lợi cho ma
quỉ.
Thế nhưng, con người thời nay đã thay đổi câu nói trên:
- Ai không để tâm tới ma quỉ thì ít nữa đừng làm lợi cho Thiên
Chúa.
Trong Phúc âm thì khác, Chúa Giêsu đã đặt nặng vấn đề ma quỉ,
Ngài gọi nó là chủ của trần gian. Hơn thế nữa, qua đoạn Tin Mừng hôm nay, mặc
dù không thể sa ngã, nhưng Ngài đã để cho ma quỉ cám dỗ, nhờ đó Ngài chia sẻ
thân phận yếu đưới với con người, và vạch trần chiến thuật
tinh vi của ma quỷ.
Cám dỗ thứ nhất, đó là nhu cầu vật chất. Ma
quỉ lợi dụng cái đói tự nhiên để cám dỗ Chúa, bởi vì bụng đói thì đầu gối phải
bò, có thực mới vực được đạo…Nó cũng hứa “cơm áo gạo tiền” cùng với những tiện
nghi vật chất cho chúng ta, để rồi chúng ta quên mất lý tưởng theo đuổi và chối
bỏ đức tin của mình.
Cám dỗ thứ hai, đó là lòng thèm muốn vinh quang.
Nhiều người dễ dàng rơi vào chiếc bẫy của nó. Vì một chút địa vị, vì một chút
quyền bính mà người ta sẽ dễ dàng bán Chúa như Giuđa và chối Chúa như Phêrô,
Cám dỗ thứ ba, đó là tham vọng thống trị. Đối
với nhiều người thời nay thì tiền bạc và chức quyền vẫn là những cám dỗ thường
xuyên, họ có thể đánh đổi tất cả miễn sao được thoả mãn
những ước vọng kể trên.
Còn một điều nữa chúng ta cũng cần phải lưu ý: Ma quỉ thời nay
không còn mặc lấy một bộ dạng xấu xa như người ta vốn thường tưởng tượng vào
thời Trung cổ. Nhưng có thể là một nhân vật tầm vóc, với một bộ áo quần sang
trọng nhưng lại chủ trương một lập trường, một quan điểm thật nguy hại, gây
chia rẽ và đổ vỡ.
Có thể là những tác phẩm đồ sộ được in ấn một cách mỹ thuật và
đẹp mắt nhưng lại chất chứa những điều khả dĩ làm lung lạc đức tin và hoen ố
tâm hồn.
Bổn phận của chúng ta là phải vạch trần bộ mặt của ma quỷ. Bởi vì ma quỉ đang ở giữa chúng ta, ẩn núp dưới những
chiêu bài chính trị, dưới những tờ bích chương, dưới những hình ảnh quảng cáo,
dưới những chương trình truyền thanh truyền hình gây độc hại cho tâm hồn.
Vì thế, hãy tin tưởng vào Chúa và hãy tỉnh thức để xa tránh
những mưu chước của ma quỷ, nhờ đó mà chúng ta mới có thể
bảo vệ vẻ trong trắng của tâm hồn.
27. Nhận biết
Lần kia, một vị thầy ước muốn được thoáng nhìn thấy tâm hồn của
con người và trắc nghiệm những nhận định của họ về chính bản thân mình. Ông mời
ba người đi qua đường vào nhà ông. Quay sang người đầu tiên, ông nói “Giả thử
anh nhìn thấy một cái túi đựng đầy những đồng tiền vàng, thì anh sẽ làm gì với
cái túi đó?”
Người đàn ông trả lời: “Tôi sẽ trả cái túi đó ngay cho người chủ
của nó, tất nhiên là tôi phải biết được ai là chủ nhân”.
Vị thầy kêu lên: “Thật là điên rồ?”. Thế rồi ông đặt cùng một
câu hỏi cho người thứ hai.
Người đó đáp “Tôi sẽ không trả lại cái túi đó cho người chủ của
nó, mà bỏ ngay vào túi của tôi. Tôi không quá ngu xuẩn đến nỗi để mặc cho thứ
của cải từ trời rơi xuống đó trượt khỏi tay tôi như vậy đâu “.
Vị thầy kêu lên: “Đồ vô loại!”. Thế rồi ông đặt cùng một câu hỏi
cho người thứ ba.
Người đó đáp “Thưa thầy, làm sao tôi có thể biết được là tôi sẽ
làm gì trong trường hợp này? Liệu tôi có khuất phục được khuynh hướng xấu xa
chăng? Hoặc sự dữ sẽ nhanh chóng chế ngự tôi, và khiến tôi cứ lấy đi thứ tài
sản thuộc về người khác? Tôi không biết nữa. Nhưng nếu có ơn Chúa ban sức mạnh
cho tôi chống lại khuynh hướng xấu, thì tôi sẽ trả số tiền đó lại cho người chủ
của nó”. Vị thầy kêu lên: “Những lời nói của anh thật là hay. Quả thật anh là
một con người khôn ngoan”.
Vị thầy cho rằng người đàn ông đầu tiên là điên rồ. Tại sao? Bởi
vì anh ta hoàn toàn thiếu sự nhận biết bản thân mình. Anh ta dám cho rằng mình
có đủ sức mạnh, để kháng cự lại chước cám dỗ giữ lại món tiền. Không ai biết
chắc chắn rằng mình không thể sa ngã được. Người ta không sa ngã bởi vì yếu
đuối, nhưng lại sa ngã là do họ nghĩ rằng mình mạnh mẽ.
Vị thầy gọi người đàn ông thứ hai là hạng vô loại, bởi vì anh ta
có ý định giữ lại tài sản không phải thuộc về mình, mà lương tâm không hề day
dứt chút nào. Đối với một con người như vậy, chước cám dỗ là một cơ hội để làm
cho mình giàu có lên, bằng tài sản của người khác.
Vị thầy khen ngợi người đàn ông thứ ba là một con người vừa tốt
bụng, vừa khôn ngoan. Đó là vì anh nhận biết rằng mình yếu đuối giống như tất
cả mọi người khác. Anh hy vọng rằng khi đương đầu với chước cám dỗ giữ lại số
tiền, thì anh sẽ có sức mạnh để làm được điều đúng đắn. Nhưng anh biết rằng để
làm được như vậy, anh cần phải có ơn Chúa giúp, và anh chuẩn bị để tìm kiếm sự
giúp đỡ đó.
Tất cả chúng ta đều yếu đuối và dễ sa ngã. Đây có thể là một sự
thật gây bối rối, nhưng trong khi liều lĩnh, chúng ta lại không biết đến điều
này. Vấn đề lớn trong thời đại của chúng ta là chúng ta đã thất bại trong việc
nhận biết chính mình, trong việc nhận ra sự dữ và đối phó với sự dữ ở ngay
trong con người mình. Tuy nhiên, khi nhận biết và chấp nhận sự thật thấp hèn
này, thì chúng ta có được một niềm an ủi và sự tự do.
Chúng ta phải đấu tranh chống lại sự dữ nơi những người khác và
nơi xã hội. Nhưng cuộc đấu tranh gay go nhất là chống lại sự dữ phát xuất từ
ngay bên trong con người của chúng ta. Bản chất của chúng ta là có những xung
đột nội tâm cứ thúc giục chúng ta, làm cho chúng ta luôn luôn có thể thực hiện
được điều tốt lành, nhưng điều đó không bao giờ là dễ dàng cả. Chiến thắng gay
go nhất chính là chiến thắng chính bản thân mình.
Chước cám dỗ của Đức Giêsu không phải là đóng kịch, mà là sự
thật. Những cám dỗ của Đức Giêsu là những chước cám dỗ của các Kitô hữu thuộc
tất cả mọi thời đại: sống chỉ vì vật chất; tìm kiếm vinh quang cho bản thân
mình, hơn là vinh quang cho Thiên Chúa; và từ bỏ việc thờ phượng Thiên Chúa, để
tôn thờ quyền lực và sự nổi tiếng theo thế gian.
Chiến thắng của Đức Giêsu vượt lên trên Satan không phải là
chiến thắng một lần cho tất cả. Người đã chiến thắng một cuộc chiến đấu, chứ
không phải là một cuộc chiến tranh. Còn có những lần tấn công khác mà chúng ta
cần phải cự tuyệt. Một số người cho rằng mình sẽ đạt được một cấp độ, khi họ
vượt ra ngoài chước cám dỗ. Đức Giêsu không bao giờ đạt được một cấp độ, các thánh
cũng vậy. Thiên Chúa ở với chúng ta trong những cuộc đấu tranh của chúng ta,
giúp đỡ chúng ta chế ngự nó.
Thánh Augustinô nói: “Chính thông qua chước cám dỗ, mà chúng ta
nhận biết được bản thân mình. Chúng ta không thể chiến thắng đạt được triều
thiên của mình, trừ phi chúng ta vượt qua được chước cám dỗ đó, và chúng ta
không thể vượt qua được, trừ phi chúng ta đi vào cuộc chiến đấu, và không có
cuộc chiến đấu, trừ phi chúng ta có một kẻ thù và những chước cám dỗ mà kẻ thù
đó mang lại.
Một số người cho rằng thật khó mà tin rằng Đức Giêsu có thể bị
cám dỗ. Mặc dù có bản chất thần thánh, nhưng Người cũng có một bản chất của con
người. Ngoài ra, tự thân chước cám dỗ không phải là một tội lỗi. Có phải ma quỷ đã thực sự hiện ra với Người không? Chúng ta không biết.
Điều chính yếu là những chước cám dỗ của Người đều có thật, giống như chúng ta
vậy, mặc dù quỉ sứ không hiện ra với chúng ta trong hình dạng của một con
người. Nhưng những chước cám dỗ của Người chứa đựng cái gì?
Chước cám dỗ đầu tiên là biến hòn đá thành bánh. Ngoài ý nghĩa
rõ rệt, chữ “bánh” có thể mang ý nghĩa là những thứ vật chất nói chung. Ma quỉ
đang nói với Đức Giêsu là hãy sử dụng những quyền năng đặc biệt của Người, để
mang lại cho con người tất cả những thứ vật chất mà có thể họ mong muốn. Nhưng
Đức Giêsu biết rằng tự thân những thứ vật chất đó sẽ không bao giờ thoả mãn được con người. Công việc chính của Người là nuôi
dưỡng tâm trí và tấm lòng con người bằng lời của Thiên Chúa. Đây là chước cám
dỗ mang lại cho con người những điều họ mong muốn, hơn là những nhu cầu của họ.
Chước cám dỗ chính là thoả mãn đám đông, bằng cách cho họ
những gì sẽ thoả mãn các mong muốn nhất thời của họ, khi họ
không biết điều gì mình thực sự cần đến.
Chúng ta có những nhu cầu và những khát vọng lớn lao hơn. Tâm
hồn con người thực sự khát khao cái gì? Chắc hẳn rằng đó không phải là cơm
bánh. Cơm bánh là cái mà cơ thể thèm khát. Sau phép lạ ban bánh và cá, ngày hôm
sau, dân chúng trở về với mong muốn sao cho có thêm bánh nữa. Nhưng Đức Giêsu
đã từ chối ban thêm bánh cho họ. Người nói “Các ngươi đừng làm việc vì của ăn
không thể tồn tại được, nhưng hãy làm việc để tìm kiếm lương thực kéo dài cho
đến cuộc sống đời đời”.
Đối với một vị thầy về mặt thiêng liêng, thì tinh thần chiếm vị
trí ưu tiên vượt lên trên lương thực của cơ thể. Khi đặt ưu tiên cho những nhu
cầu thân xác, điều đó có nghĩa là giảm giá trị con người, là đối xử với họ
không hơn gì một con vật. Chúng ta cũng bị cám dỗ chỉ sống cho những thứ vật
chất mà thôi. Không phải là chúng ta khước từ đời sống thiêng liêng, nhưng
chúng ta bỏ qua đời sống đó.
Chước cám dỗ thứ hai là tạo dựng một vương quốc chính trị, là
việc dẫn đến quyền lực hơn là tình yêu. Quyền lực tạo ra một sự thay thế dễ
dàng cho công việc khó khăn mà có thể tình yêu đòi buộc. Người ta dễ dàng muốn
làm chủ người khác, hơn là yêu thương họ, dễ dàng thống trị người khác, hơn là
trở thành người phục vụ họ. Đức Giêsu không đến để cai trị, nhưng để phục vụ.
Người không hề nại vào quyền lực thần thánh của Người, nhưng đã tự huỷ mình ra không, và trở thành người tôi tớ đầy yêu thương
đối với tất cả mọi người. Chúng ta luôn luôn bị cám dỗ thay thế tình yêu bằng
quyền lực.
Chước cám dỗ thứ ba cốt ở việc làm được một điều gì đó kỳ lạ (tự
gieo mình xuống khỏi đền thờ), nhằm khơi gợi lòng tin – giống như một ảo thuật
gia có thể khơi gợi được lòng tin, qua nghệ thuật làm một số chuyện mang tính
cách quảng cáo phô trương. Ý tưởng này nghe thật hấp dẫn. Một kiểu quảng cáo
như vậy sẽ làm cho mọi người đồn thổi về Người tại Giêrusalem. Nhưng lối gây
giật gân lại đưa đến vinh quang cho bản thân mình, hơn là vinh quang cho Thiên
Chúa. Đức Giêsu khước từ việc gieo mình này. Người không muốn tìm kiếm những kẻ
ái mộ mình. Người mong muốn có những kẻ đi theo Người, nghĩa là những kẻ muốn
bắt chước lối sống của Người.
Trong suốt sứ vụ của Người, Đức Giêsu đã khước từ việc ban cho
dân chúng những kiểu dấu lạ, ngay cả khi người ta ép buộc Người phải làm như
vậy. Những loại dấu lạ này không có ích lợi gì cả, không đòi hỏi điều gì tốt
đẹp nhất nơi chúng ta, mà chỉ hạ thấp giá trị của lòng tin. Lòng tin không phải
là ma thuật. Sự thánh thiện không hệ tại ở việc cố gắng ép buộc Thiên Chúa phải
làm theo ý muốn của chúng ta, nhưng là nỗ lực bắt buộc chính bản thân mình phải
làm theo thánh ý Thiên Chúa.
Các chước cám dỗ là đòn tấn công trên tất cả những yếu tố cơ bản
đối với sứ vụ của Đức Giêsu. Vâng, Người đến để thiết lập một vương quốc, nhưng
không phải là loại vương quốc mà Satan đề nghị. Và Người đã khước từ chước cám
dỗ đạt được vương quốc bằng phương tiện trần thế. Cả ba chước cám dỗ cuối cùng
đều qui về cùng một điều: đặt những thứ vật chất và vinh quang bản thân lên
trước hết, kế đó, mới đến các điều thiêng liêng và Thiên Chúa. Nói chung, đây
là những chước cám dỗ chủ yếu trong Giáo Hội của Người, và nơi mỗi người chúng
ta là các thành viên trong Giáo Hội. Chúng ta phải luôn hướng mắt về Đấng đã
khước từ biến những hòn đá thành bánh, tự gieo mình xuống khỏi nóc Đền thờ, và
cai trị bằng quyền lực.
Kinh nghiệm này đã giúp cho Đức Giêsu tự thấu hiểu sứ vụ của Người
là gì, và làm thế nào để hoàn tất sứ vụ đó. Và một khi đã biết được sứ vụ của
mình là gì, thì Người quyết định hoàn toàn tận hiến cho sứ vụ đó.
Chước cám dỗ không phải là những thứ chỉ xảy ra một lần mà thôi,
không bao giờ chúng kết thúc, mà có thể trở lại mỗi khi có cơ hội. Trong suốt
cuộc đời của Đức Giêsu, chước cám dỗ vẫn tiếp tục xảy ra, bởi vì ma quỉ vẫn cứ
tìm mọi cách để xói mòn sứ vụ của Người, mặc dù là vô hiệu. Ngay cả khi Người
đã bị treo trên thánh giá, chúng ta vẫn nghe thấy tiếng vang vọng của chước cám
dỗ thứ hai “Nếu ông ta là Đấng Mêsia, thì ông ta hãy xuống khỏi thánh giá, rồi
chúng ta sẽ tin ông ấy”.
Tất cả những ai đang đấu tranh để sống một cuộc sống tốt đẹp,
đều có thể ghi lòng tạc dạ điều này: Việc chống trả lại chước cám dỗ không hề
dễ dàng đối với Đức Giêsu, cũng không dễ dàng đối với chúng ta. Nhưng nơi Đức
Giêsu, chúng ta có được một người anh, Đấng biết được rằng chúng ta đang phải
chiến đấu với cái gì. Người tha thứ cho chúng ta, và nâng chúng ta lên, khi
chúng ta vấp ngã. Người ban cho chúng ta khả năng tuân theo Lời của Thiên Chúa,
tin tưởng nơi Người và chỉ thờ phượng một mình Người mà thôi.
Thánh Grêgôriô Giáo Hoàng đã viết như sau: Hết mọi ngày trong
năm, lòng đạo đức của người tín hữu được diễn tả bằng nhiều hình thức khác
nhau, nhưng không hình thức nào quan trọng cho bằng lễ Phục sinh. Bởi vì chính
từ sự Phục sinh mà xuất phát tính cách thánh thiện của các lễ khác. Với tất cả
nguồn ân sủng vũ trụ đã nhận được đều do bởi cây thập giá của Chúa. Lẽ cố nhiên
đó, mừng ngày lễ Phục sinh và để tham dự vào các mầu nhiệm của Chúa, chúng ta
chuẩn bị bằng 40 ngày ăn chay quả là một việc chính đáng. Không riêng gì các
Giám mục, linh mục, các phó tế có nhiệm vụ thanh tẩy mình
khỏi tội lỗi mà cả toàn thể Giáo Hội. Tất cả mọi người vì là đền thờ của Thiên
Chúa phải được tráng lệ trong từng hòn đá huy hoàng, trong từng góc một. Hiểu
như thế chúng ta mới ý thức được tính cách nghiêm cẩn và khổ hạnh trong suốt
thời gian mùa chay mà chúng ta khai mạc từ thứ tư lễ tro.
Mùa chay là thời kỳ đi bộ, phải vất vả nhọc nhằn mà mục đích là
hy sinh chịu khó thanh tẩy để tham dự vào chặng đường khổ nạn của Chúa Kitô.
Những hy sinh khổ hạnh trong mùa chay được diễn tả trong hai bài đọc và trong
bài Phúc âm của thánh lễ Chúa nhật I Mùa chay. Cuộc đi bộ, cuộc hành trình
trong 40 ngày của mùa chay được ví như là cuộc hành trình gian lao đau khổ của
dân Do thái trong những năm bị nô lệ bên Ai Cập, bị dân bản xứ hành hạ mạt sát
tàn nhẫn.
Trong thời gian nô lệ, dân Do thái đã kêu gào Thiên Chúa nhìn
lại số phận đau thương của họ. Quả thật, Chúa đã đến giải thoát họ khỏi ách nô
lệ Ai Cập và dẫn vào một xứ sở phồn thịnh, nơi đó sữa và mật ong trôi chảy dồi
dào.
Quan điểm trên đây thánh Phaolô trình bày lại theo lối văn linh
động của ngài bằng quan niệm đức tin, và thực ra đức tin cũng là một lời cầu
khẩn lên Thiên Chúa. Chỉ Ngài mới có quyền năng cứu thoát chúng ta khỏi vòng nô
lệ tội lỗi.
Quan niệm đức tin còn tiếp diễn trong bài Phúc âm của Chúa nhật
I Mùa chay được thánh Luca diễn tả: Được tràn đầy Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu
từ sông Giocđan trở về, sau đó Chúa Thánh Thần đưa Ngài đến hoang địa, tại đây
Chúa bị cám dỗ trong vòng 40 ngày, nghĩa là Chúa bị ma quỉ quấy phá sau khi đã
chịu phép rửa của thánh Gioan, tức là sau khi Chúa Giêsu đã được Chúa Cha long
trọng tuyên bố: “Đây là Con Ta yêu dấu”.
Satan biết rằng, Chúa Giêsu Con Thiên Chúa có quyền năng có thể
thực thi những dấu chỉ lớn lao, do đó Satan đến cám dỗ Chúa hãy hành động theo
uy quyền của một vị cứu thế theo nghĩa trần gian oai phong lẫm liệt. Hai lần
Satan xúi giục Chúa theo danh nghĩa: “Nếu ông là Con Thiên Chúa…” Các loại cám
dỗ ỷ vào uy thế Thiên Chúa này còn theo mãi cho đến ngày Chúa chịu tử nạn. Chúa
đã bị treo trên thập giá rồi mà ma quỉ còn dùng miệng dân chúng để thử thách Chúa
một lần sau cùng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, là người được Thiên Chúa lựa chọn
thì hãy tự cứu mình đi”.
Ma quỉ cám dỗ Chúa đi ra ngoài chương trình của Thiên Chúa Cha
đã tiền định. Nó xúi giục Ngài là một vị cứu thế theo quan điểm của một người
trần gian được người ta hoan hô, chứ không theo ý định của Thiên Chúa. Do đó mà
Chúa Giêsu đã trả lời cho ma quỉ khi Ngài nhắc đến lời Kinh Thánh có chép rằng,
hãy minh chứng cho thế giới và toàn thể nhân loại biết sở dĩ Chúa xuống trần
gian là để thực thi thánh ý của Thiên Chúa Cha, và sau đó Ngài đã chiến thắng
ma quỉ là Ngài đã tin vào lời của Thiên Chúa Cha.
Cơn cám dỗ của Chúa Giêsu cũng là tiêu biểu cho sự cám dỗ ngàn
đời của mỗi người Kitô hữu chúng ta trên trần gian này. Ma quỉ xúi giục chúng
ta chọn nếp sống tiện nghi, dễ dàng thực thi những gì theo ý muốn riêng tư của
mình, chứ không phải sống theo lề luật là thực thi thánh ý của Thiên Chúa.
Trong mùa chay này, chúng ta có nhiệm vụ thanh luyện chính mình
để xứng đáng được tham dự vào các mầu nhiệm của Chúa Phục sinh. Xin Chúa hướng
dẫn chúng ta trong cuộc hành trình biến đổi này.
Cách đây vài năm, ngay tại giữa thủ đô Paris của nước Pháp, xuất
hiện một Đan viện dòng Trapis, một dòng tu có nếp sống khắc khổ nghiêm ngặt.
Người ta không khỏi ngạc nhiên tự hỏi: Tại sao một dòng tu vốn có truyền thống
rất lâu đời lại chọn những địa điểm xa cách thành thị để lập những Đan viện,
nhờ đó các Đan sĩ hưởng được bầu khí thanh tịnh thoát tục, nối tiếp tinh thần
của các ẩn sĩ ngày xưa trong sa mạc hoặc trong rừng vắng, nay lại hiện diện
giữa chốn đô thị rực rỡ ánh sáng văn minh, sôi động nhịp sống chính trị, kinh
tế và văn hoá này? Phải chăng dòng tu nay đã thay đổi đường
hướng cho hợp thời, hợp hoàn cảnh?
Vị viện phụ của Đan viện nói trên đã trả lời như sau:
Dòng vẫn trung thành với truyền thống đan tu và thoát tục của
mình trong việc lập một Đan viện ngay giữa chốn phồn hoa đô hội này, bởi vì tại
những địa điểm ồn ào, náo nhiệt như vậy chúng tôi khám phá ra một bộ mặt mới
của hoang mạc, của rừng rú, của thử thách để nêu một chứng từ, để cất lên một
tiếng kêu thức tỉnh.
Nếu như ngày nay Đức Giêsu cần một hoang địa để chay tịnh, cầu
nguyện và chịu thử thách, Người có lẽ không phải nhọc công đi đâu xa, nhưng có
thể đến bất kỳ một trung tâm thành phố nào trong xã hội cực kỳ văn minh tiến bộ
của thời đại chúng ta. Bởi lẽ theo truyền thống Thánh Kinh, hoang địa là địa
điểm của thử thách, của sàng lọc, thanh luyện như dân Israel xưa phải vượt qua
hoang địa trước khi được vào đất hứa.
Phải chăng xã hội hiện đại của chúng ta hôm nay lại không đầy
dẫy tình chất thách đố cam go, sàng lọc và thanh luyện dữ dội như bất kỳ một
hoang địa nào thời xưa. Đây là nơi chạm trán của tứ chiếng anh hùng, của đủ mọi
bộ mặt, mọi tâm dạ, mọi thủ thuật, mọi mánh lới, mọi chiêu bài, mọi chủ nghĩa,
mọi ý thức hệ, mọi thiên thần và mọi gã quỉ ma vương. Đây là nơi vàng thau lẫn
lộn, chân tình và dối trá, trung nghĩa và dua nịnh, can trường và hèn nhát, ánh
sáng và bóng tối, thánh thiện và tội lỗi, yêu thương và thù hận.
Cũng theo truyền thống Thánh Kinh, hoang địa là thế giới của thú
dữ, của rắn rết, bọ cạp, là vùng đất chết nơi con người không thể sinh sống,
tồn tại. Phải chăng thế giới văn minh hiện nay của chúng ta lại không đầy dẫy
những loài thú ăn thịt người, những loài giống rắn hổ mang, những dòng bọ cạp
hiểm độc nguỵ trang dưới bộ mặt con người xinh đẹp, sang
trọng, học thức, đạo đức, nhân nghĩa? Phải chăng xã hội thừa mứa tiện nghi vật
chất của chúng ta hiện nay lại không là một vùng đất chết khi không còn tình
người, không còn trái tim trắc ẩn, không còn lòng nhân ái vị tha, không còn
tình cảm chia sẻ đùm bọc mà chỉ toàn là lợi dụng, trao đổi, mua bán, vụ lợi,
thực dụng, lạnh lùng và sơ cứng?
Phải chăng xã hội văn minh phồn hoa đô hội của chúng ta hiện nay
lại không phải là một bãi tha ma khi mà mọi giá trị tinh thần, mọi truyền thống
đạo đức đều bị chôn vùi dưới nấm mồ của chủ nghĩa sùng bái vật chất, chủ nghĩa
thụ hưởng, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa vô thần?
Phải chăng xã hội vốn tự hào là đỉnh cao trí tuệ, với khoa học
kỹ thuật hùng hậu lại không đang biến thành cõi rừng rú nơi bạo lực được cổ xuý, hận thù được cấp dưỡng, hành vi sát nhân được trả lương,
tuyên dương, dù nạn nhân là những trẻ em vô tội, những bào thai chưa kịp nhìn
thấy mặt cha mẹ, nơi người nghèo bị khinh miệt, người già yếu tật nguyền bị bạc
đãi lãng quên, người thiểu số bị tước bỏ quyền lợi về kinh tế, chính trị?
Nếu như ngày nay Đức Giêsu bước vào hoang địa mới của xã hội
loài người hiện đại để bắt đầu cuộc tịnh chay và cầu nguyện, Người có lẽ sẽ
không còn gặp những thử thách quá đơn giản và kinh điển về thói mê ăn, tính háo
danh và lòng tham lam của cải, thay vào đó Người có lẽ phải đối đầu với trăm
ngàn tình huống, trường phái phức tạp tinh vi hơn nhiều. Đó là vấn đề miếng cơm
manh áo hằng ngày giữa một thị trường kinh tế toàn cầu hoá,
không có đất sống cho tôm tép, cho con sâu chú kiến, mà chỉ có hạng kình ngư cá
mập, hùm beo làm mưa làm gió. Đó là nỗi cám dỗ khó chống cưỡng, muốn làm giàu
cách nào dễ dãi nhất, ít vất vả nhất, nhanh chóng nhất, dù có thể là vô luân
nhất, dơ bẩn nhất như buôn lậu vũ khí, ma tuý, buôn người
và rửa tiền.
Có thể trong bối cảnh hoang địa đời mới này, Đức Giêsu sẽ phải
dấn thân vào một cuộc chiến đấu cam go và phức tạp gấp trăm ngàn lần hơn và
cũng sẽ kéo dài trăm ngàn lần hơn. Có thể Đức Giêsu sẽ phải chật vật trăm ngàn
lần hơn khi đối đầu với một Satan trong một bối cảnh xã hội văn minh, kỹ thuật
cao, tinh xảo cực kỳ hôm nay. Và có thể Người sẽ phải cô đơn một mình chống lại
Maphia trăm ngàn lần bi đát hơn, vì không dễ tìm ra ai đó trong cõi hoang mạc
rừng rú của xã hội hôm nay để đóng vai thiên thần đến động viên tiếp sức thêm
cho Người.
Rồi có thể trong cuộc chiến với Satan thời đại khoa học điện tử
hôm nay, Đức Giêsu sẽ không còn một giây phút rảnh rang để thở, để cầu nguyện,
để thân thưa cùng Thiên Chúa Cha, để nhớ lấy một câu Kinh Thánh mà củng cố đức
tin cho mình, vì ma quỉ không còn nghỉ giữa hiệp đấu để chờ đợi cuộc tấn công
khác như xưa nữa, mà tranh thủ liên tục cả ngày lẫn đêm, luôn cả dịp hưu lễ.
Có thể trong cuộc chiến đấu này, cuối cùng rồi Đức Giêsu sẽ
chiến thắng Satan như Người đã từng chiến thắng và sẽ mãi mãi chiến thắng, song
còn những kẻ muốn thực sự theo bước Người vào cuộc chiến đó trong bối cảnh của
thế giới, của xã hội hôm nay thì chiến thắng vẫn còn là một ẩn số, một thách
đố. Vì thế, chúng ta cần phải giữ vững niềm tin của mình vào Chúa Kitô mà giờ
đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng đức tin qua kinh tin kính.
Đoạn Tin Mừng kể việc Chúa Giêsu bị cám dỗ và chiến thắng Satan.
Giáo Hội cho chúng ta nghe đọc đoạn Tin Mừng này để mời gọi chúng ta nhìn ngắm
hình ảnh Chúa Giêsu như kiểu mẫu và bảo đảm cho chúng ta trong cuộc chiến đấu
với Satan và những cám dỗ của nó.
Chiến thuật hay phương thế ma quỉ sử dụng để lôi kéo, xúi giục,
thúc đẩy người ta phạm tội là cám dỗ. Chúng không kiêng nể ai hay không buông
tha ai, vì thế không ai thoát khỏi cám dỗ của chúng. Bản chất của cơn cám dỗ là
sự quyến rũ. Bất cứ cơn cám dỗ nào cũng đều mang một bộ mặt quyến rũ giả tạo,
một sự hứa hẹn hão huyền, và một vị ngọt ngào lừa phỉnh. Thế nhưng những tính
cách giả tạo, hão huyền và lừa phỉnh đã được che đậy tài tình bởi bàn tay bậc
thầy là ma quỉ và cơn cám dỗ vẫn thành công như lần đầu nó đã thành công.
Thực vậy, ma quỷ đã thành công khi cám dỗ
ông bà nguyên tổ bằng trái cấm. Trái cấm bao gồm nhiều vẻ quyến rũ: cung cấp
cho thị giác một hình ảnh mê hoặc, tuyệt diệu, cung cấp cho thính giác những
lời bảo đảm, thoả mãn, cung cấp cho khứu giác mùi vị mời
mọc, quyến rũ, cung cấp cho xúc giác sự êm dịu, thích thú, nhất là khi đã biết
và có trái cấm trong tay, rồi khi đưa lên ăn, lại có thêm sự tham gia và đồng
tình của vị giác. Đến lúc này thì cái bẫy sập xuống, bộ mặt thật của cơn cám dỗ
lộ ra nguyên hình và con người đã mở mắt nhìn ra sự thật.
Điều đáng buồn là qua cái nhìn ấy, con người nhận ra chính mình
lại là nạn nhân tự nguyện, mình đã ngã vì chính sự yếu đuối cũng như sự dại dột
của mình. Ông Richard Wumbrand đã diễn tả điều này rất đúng bằng hình ảnh như
sau: chúng ta như những cô gái vừa đến độ xuân thì. Người yêu cô thật lòng,
muốn chia sẻ cuộc đời với cô và kẻ sở khanh lừa phỉnh, chỉ muốn qua đêm để hại
đời cô, cùng dùng chung một ngôn ngữ, cùng chia chung một động từ, đó là “Anh
yêu em”. Nếu chỉ để ý đến những cái hào nhoáng bên ngoài hay những lời nói ngon
ngọt và không có sự tỉnh táo cần thiết để phân biệt thì chắc chắn thảm hoạ sẽ xảy đến.
Đàng khác, bên cạnh sự lừa đảo tinh vi của cơn cám dỗ và sự khôn
ngoan quỉ quyệt của kẻ đứng sau cơn cám dỗ ấy, phải kể đến sự áo tưởng và vụng
dại của con người. Chơi dao có ngày đứt tay; đùa với lửa có ngày gây nên hoả hoạn. Con người biết đó là những bài học và đã có biết bao
nhiêu thí dụ “xương máu” để chứng minh. Thế nhưng vẫn còn không ít người sa lầy
ngay trên bánh xe của người đi trước. Biết rõ đó là trái cấm, biết rõ đó là ma tuý, biết rõ đó là cơn cám dỗ, thế mà vẫn liều lĩnh mon men
đến gần, hay chần chừ vì ảo tưởng: không sao đâu. Vì thế các nhà đạo đức cho
rằng: tránh xa những dịp tội là tốt nhất, và nếu có phải giáp mặt thì không nên
trao đổi hay thoả hiệp gì cả.
Ma quỉ biết rất rõ những gì chúng ta cần, chúng ta thích, chúng
ta ham mê, nếu không tỉnh táo, chắc chắn chúng ta sẽ bị sa bẫy cám dỗ của chúng
vì chính những nhu cầu và sở thích của mình. Tương tự như khi chúng ta muốn bẫy
một con vật, chúng ta phải tìm hiểu xem con vật cần gì, muốn gì, thích gì, tìm
gì. Sau đó chúng ta đặt thứ mồi đó vào bẫy, và con vật nào dại dột sẽ sa bẫy.
Nếu chúng ta không biết con vật cần gì, thích gì thì chúng ta sẽ không thể bẫy
được con vật ấy vì đã để vào bẫy những thứ không thích hợp. Chẳng hạn như khi
câu cá, nếu chúng ta không biết rằng cá thích ăn giun hay trùng mà cứ để vào
lưỡi câu thịt bò hay thức ăn khác thì rất ít khi câu được cá. Vì vậy, để đề
phòng cám dỗ, chúng ta nên đề phòng chính những nhu cầu và ham muốn của chúng
ta. Những người nào giảm thiểu nhu cầu của mình tới mức tối đa và tập luyện
không ham muốn ước vọng nhu cầu gì cả thì ít khi bị cám dỗ, và nếu có bị cám dỗ
thì cũng thắng được dễ dàng.
Chúng ta thấy ma quỷ đã lợi dụng ngay nhu
cầu căn bản nhất của con người là ăn uống để cám dỗ Chúa Giêsu. Ngài nhịn ăn đã
40 ngày, nên nhu cầu ăn uống lúc đó thật là khẩn thiết và chính đáng. Nhưng
Chúa đã làm chủ được nhu cầu thể xác và không sa chước cám dỗ. Tiếp đến, ma quỉ
nhằm vào những gì mà tất cả mọi người đều ham muốn, thậm chí đam mê, đó là sự
giàu sang, quyền bính, địa vị, danh vọng. Hễ đã là người thì ai cũng thích cái
tôi của mình được đề cao, được tôn vinh, được triển nở, được thăng tiến. Rất
nhiều người đã nhượng bộ ma quỉ để có một đời sống dễ dãi, giàu có, sang trọng,
uy quyền. Nhưng Chúa Giêsu đã không để những ham muốn đó làm chủ, nên đã không
sa bẫy của chúng. Rồi ma quỉ lại nhằm vào khuynh hướng thích khoe khoang, nhất
là sự khoe khoang đó lại không đúng sự thật. Nhiều khi chỉ cần một câu nói
thách thức hay chạm tự ái là người ta làm theo thách thức đó. Một số bạn trẻ
rơi vào xì ke, ma tuý cũng chỉ vì một lời thách thức hay
khiêu khích gì đó. Đối với Chúa Giêsu, Ngài đã làm chủ tính khoe khoang. Ngài
không bị mắc bẫy.
Có thể nói ai trong chúng ta cũng đều có kinh nghiệm về việc cám
dỗ. Chúng ta đã bị cám dỗ nhiều lần. Có lần chúng ta đã vượt qua được, và nhiều
lần chúng ta đã bị vấp ngã. Đó chính là thân phận của con người yếu hèn và bất
toàn. Vì vậy điều quan trọng là chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác trước những
quyến rũ, hấp dẫn của cám dỗ. Không nên quá tự tin vào khả năng của mình mà
không cầu nguyện cùng Chúa. Mỗi khi bị cám dỗ chúng ta càng phải cầu nguyện
nhiều để xin ơn Chúa trợ giúp. Và nếu chẳng may vấp ngã, chúng ta phải năn năn
sám hối ngay.
32. Tỉnh thức và cầu nguyện
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Phụng vụ Giáo hội đã bước vào Mùa Chay Thánh. Mùa Chay trải dài
40 ngày.
Thời gian này nhắc lại 40 năm của dân Israel trong sa mạc trước
khi đến Đất Hứa, 40 ngày ngôn sứ Êlia ở trên núi Horeb, 40 ngày Chúa Giêsu ăn
chay cầu nguyện trong hoang địa. Thời gian 40 ngày là con số tượng trưng nói
lên thời gian thử thách và thanh luyện. Trên con đường về Nước Trời, chúng ta
trải qua những thử thách và thanh luyện. Thời gian 40 ngày chay tịnh thật quí
giá để mỗi người nhìn lại bản thân, đánh giá lại chính mình để sám hối canh
tân.
Hàng năm, Phúc Âm Chúa Nhật I Mùa Chay đều nói về cám dỗ. Chúa
Giêsu vào hoang địa. Sau bốn mươi đêm ngày ăn chay và cầu nguyện, Satan xuất
hiện và cám dỗ. Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan.
Làm người ở đời là chấp nhận thân phận chịu cám dỗ. Thánh Kinh
đã ghi nhận, từ buổi đầu sáng tạo đã có cám dỗ. Thụ tạo đầu tiên trong hàng các
thiên thần đối diện với cám dỗ là Lucifer, một thiên thần sáng láng đã không
vượt qua được cơn cám dỗ, và đã trở thành Satan tăm tối. Tiếp đến, thụ tạo đầu
tiên trong con người là Adong và Evà cũng đã nếm mùi cám dỗ. Nguyên Tổ đã gục
ngã trước cám dỗ cho nên đau khổ sự chết đã tràn vào thế gian.Trong hành trình
về Đất Hứa, dân Israel đi trong sa mạc và đã gặp nhiều cám dỗ: cám dỗ trở lại
Ai cập để có bánh ăn; cám dỗ thờ tượng con bê vàng; cám dỗ thử thách Thiên
Chúa. Vua Đavit sa ngã trước cám dỗ sắc dục nên đã phạm tội cướp vợ của Uria và
đã giết chết người anh em này. Giuđa Iscariốt chỉ vì tham tiền nên đã phản bội
Thầy và bán Thầy giá 30 đồng bạc bằng nụ hôn giả dối...Các chước cám dỗ của
Satan đều chung quy về ba mục tiêu: danh, lợi, thú.
Thánh Gioan Kim Khẩu đã quả quyết: "Trên đời này không ai
mà không bị cám dỗ". Người Việt Nam cũng thường nói "Con người ta,
già cái lợi cái răng, nhưng ba cái lăng nhăng không già". Như vậy cám dỗ
là một cái gì hết sức mạnh mẽ, hết sức lôi cuốn, và rất khó chống cự.
Chúa Giêsu đã chiến thắng mọi cám dỗ của Satan bằng quyền năng
Thánh Thần, bằng sức mạnh Lời Chúa, bằng đời sống chay tịnh cầu nguyện và luôn
tín thác vào Chúa Cha.
Cả ba Phúc Âm đều đề cập đến một chi tiết rất thú vị, đó là Chúa
Giêsu không đi vào hoang địa một mình mà đi cùng với Chúa Thánh Thần.
- "Bấy giờ Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để
chịu quỷ cám dỗ" (Mt 4,1)
- "Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong
hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các
thiên sứ hầu hạ Người" (Mc 1,12-13).
- "Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về.
Suốt bốn mươi ngày, Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ
cám dỗ" (Lc 4,1-2).
Thánh Thần hướng dẫn Chúa Giêsu vào hoang địa để chịu ma quỷ cám
dỗ. Đây là một hành động hết sức khó hiểu và nghịch lý. Vì Thánh Thần sao lại
có thể làm như thế cho Chúa Giêsu? Thế nhưng, cũng qua việc Chúa Giêsu chịu cám
dỗ, mỗi khi chúng ta bị ma quỷ cám dỗ cũng có thể nói được là "Thánh Thần
đã dẫn chúng ta đến chỗ để bị cám dỗ", để qua đó, chúng ta có thể tránh
khỏi sa chước cám dỗ.
Khi vào hoang địa, khi bị ma quỷ cám dỗ, Chúa Giêsu cần đến sự
nâng đỡ của Chúa Thánh Thần. Người đã dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần và
Lời của Thiên Chúa để đối đáp với ma quỷ và đã chiến thắng.
Khi chúng ta lâm vào những cuộc thử thách, phải đối diện với
những mưu chước của Satan, rất cần ơn Chúa Thánh Thần trợ lực. Chúa Giêsu mà
còn cần đến Chúa Thánh Thần nữa, thì huống hồ là chúng ta.
Cần phải cầu nguyện (Lc 22,40; Cv 2,42; LGTC #2612,2742). Nhờ
cầu nguyện, Chúa Giêsu đã không cô đơn một mình, nhưng "được Thánh Thần
hướng dẫn" (Mt 4,1). Nhờ cầu nguyện chúng ta được liên kết với sức mạnh
của Thánh Thần và với Các Thánh trên trời.Vai trò của Chúa Thánh Thần thật quan
trọng trong đời sống của chúng ta. Những lúc bị cám dỗ, những khi sống trong cô
đơn, buồn chán và thất vọng...hãy cậy trông và khẩn cầu với Chúa Thánh Thần xin
ơn phù trợ. Chính Chúa Giêsu đã hứa: "Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa
Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy các con mọi điều" (Ga
14,26).
Lời Chúa là sức mạnh tâm linh, là lẽ sống thần linh và là lời ban
sự sống. Đọc và suy gẫm Thánh Kinh sẽ đem lại cho chúng ta sức mạnh để chiến
thắng tội lỗi. Gương của Chúa Giêsu được Tin Mừng Thánh Luca kể rõ: mỗi lần ma
qủy đưa ra một chước cám dỗ thì Chúa Giêsu lại lấy một lời của Kinh Thánh mà
đẩy lui chước cám dỗ ấy:
- Có lời chép rằng: người ta không sống bằng cơm bánh mà còn
bằng lời của Thiên Chúa nữa.(Lc 4,5)
- Có lời chép rằng:ngươi phải thờ lạy Chuá là Thiên Chúa ngươi
và chỉ phụng thờ một mình Người.(Lc 4,8)
- Có lời chép rằng: ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa
ngươi.(Lc 4, 11).
"Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ
đợi thời cơ". Satan tạm lánh vào bóng tối, khi có thời cơ thuận tiện sẽ
quay lại tiếp tục tấn công. Có lần, Satan dùng miệng lưỡi của Phêrô để cám dỗ
Chúa đừng lên Giêrusalem chịu khổ nạn. Chúa quay lại quát nạt: "Satan, hãy
lui ra đằng sau, đừng gây cớ cho Ta vấp phạm". Thời cơ quỷ chờ đợi chính
là lúc Chúa Giêsu trải qua cuộc Khổ Nạn. Trong vườn Giêtsêmani, khi đối diện
với cái chết đang cận kề, Chúa Giêsu không khỏi sợ hãi đến nổi "mồ hôi đổ
ra như máu". Người đã thân thưa cùng Chúa Cha đến hai lần: " Lạy Cha,
nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý
con, mà xin theo ý Cha " (Mt 26, 39b); " Lạy Cha, nếu con cứ phải
uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha " (Mt 26, 42b).
Cao điểm là khi Chúa bị treo trên thập giá, Satan dùng miệng lưỡi kẻ qua người
lại để cám dỗ Chúa xuống khỏi thập giá: "Ông Kitô vua Israel, cứ xuống
khỏi thập giá ngay bây giờ đi để chúng ta thấy và tin". Trong suốt cuộc
đời dương thế, Chúa Giêsu đã phải chiến đấu chống lại nhiều cơn cám dỗ. Người
thực sự là Thiên Chúa nhưng đồng thời Người cũng hoàn toàn là con người nên
"Người cũng phải chịu trăm chiều thử thách y như ta" (Dt 4,15). Chúa
Giêsu đã chiến thắng tất cả. Không một cám dỗ, không một thách thức nào có thể
khiến Người lùi bước.
Chuá Giêsu đã từng căn dặn các Tông Đồ: "Hãy tỉnh
thức". Tỉnh thức để nhận ra mưu mô của ma quỷ, tỉnh thức trước những lôi
cuốn của thế gian, tỉnh thức trước những yếu đuối của con người xác thịt.
Chúng ta đang sống trong một xã hội có quá nhiều cám dỗ. Một xã
hội đầy dẫy các tệ nạn, có nhiều lối sống buông thả. Đó là môi trường là cơ hội
thuận tiện cho ma quỷ ẩn núp và tấn công. Cám dỗ ngày càng nhiều và ngày càng
tinh vi dưới muôn hình dáng vẻ. Vì thế, lời dặn dò của Chúa Giêsu ngày càng
khẩn thiết: "Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ". Cơn
cám dỗ độc hại nhất mà con người cần phải luôn tỉnh thức canh phòng và trường
kỳ chiến đấu bằng mọi cách, chính là lòng ích kỷ, quan niệm sống hẹp hòi, thiển
cận của chính mình, chỉ biết có mình mà quên kẻ khác, chỉ biết thu vén lợi ích
cho riêng mình mà quên quyền lợi kẻ khác.
Để tỉnh thức và cầu nguyện, chúng ta cần sống theo sự hướng dẫn
của Chúa Thánh Thần và ánh sáng soi dẫn của Lời Chúa.
Sau khi chịu phép Rửa Tội để trở nên một Kitô hữu, chúng ta dấn
thân vào đời với nhiều thử thách của niềm tin, phải chịu nhiều cám dỗ của phận
người lữ thứ. Nếu chúng ta tin rằng "Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn
Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta"
(Tt 3,6) thì hãy vững tâm và tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng của Chúa Thánh
Thần. Ngài sẽ không bao giờ xa rời chúng ta đâu! Điều quan trọng là chúng ta có
thành tâm để cầu xin và nhờ cậy Ngài, hay là không thôi!
Hãy tin tưởng và trông cậy vào Chúa Thánh Thần. Bảy hồng ân của
Chúa Thánh Thần luôn trao ban cho người: ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn nhận
thức, ơn chỉ bảo, ơn dũng mạnh, ơn thánh thiện và ơn kính sợ Thiên Chúa. Hãy mở
rộng tâm hồn đón nhận ơn Chúa Thánh Thần và hăng hái cộng tác với chương trình
của Ngài, nhờ đó "Hoa trái của Thần Thần là bác ái, hoan lạc, bình an,
nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ" (Gl 5,22-23) sẽ
tràn đầy trong tâm hồn và đời sống của chúng ta.
Việc gặp gỡ Chúa Thánh Thần rất dễ dàng. Chỉ cần hồi tâm lại, ý
thức Ngài đang hiện diện ngay trong bản thân mình, và muốn được tan hòa vào
trong Ngài. Chúa Thánh Thần sẽ mở tung cánh cửa ích kỷ. Ngài sẽ phá tan cánh
cửa hẹp hòi. Ngài sẽ ban thêm sức mạnh. Ngài sẽ quét sạch mọi lớp bụi bặm rêu
phong. Ngài sẽ đổ tràn vào hồn chúng ta nguồn sống mới giúp chúng ta chiến
thắng mọi cám dỗ và hăng hái lên đường.
Thánh Phaolô cảm nghiệm sâu xa ơn ban của Thánh Thần và đã
khuyên nhủ: "Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con
người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới
tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo
theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện" (Ep
4,22-24); "Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ
Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta" (Rm 5,5); "Thiên Chúa đã chẳng
ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một
Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ"
(2Tm 1,7).
Chúa Giêsu đã dùng lời Thánh Kinh để thắng Satan. Muốn vượt
thắng mọi cám dỗ, chúng ta phải yêu mến Lời Chúa, đọc Lời Chúa và sống Lời
Chúa. Sứ điệp Đại Hội Dân Chúa năm 2010 mời gọi: "Hội Thánh tại Việt Nam sẽ
đẩy mạnh việc phổ biến và học hỏi Lời Chúa bằng những phương thế khác nhau, để
Lời Chúa thực sự trở thành của ăn nuôi dưỡng tâm hồn, kim chỉ nam và ánh sáng
soi dẫn mọi quyết định và chọn lựa của các tín hữu" (Số 3).
Mùa Chay là thời gian đặc biệt để ngưới tín hữu xét mình, để sám
hối canh tân bản thân dưới ánh sáng Lời Chúa và ơn soi sáng của Chúa Thánh Linh
theo gương Chúa Giêsu, nhờ đó mà sống đẹp lòng Thiên Chúa mỗi ngày.
33. Chiến đấu
Thánh lễ hôm nay các con thấy có gì đặc biệt nào? Phải rồi, cha
mặc lễ phục màu tím, thầy cũng đeo dây tím, các bạn lễ sinh cũng mang khăn tím.
Vậy là chúng ta đã vào một mùa phụng vụ mới, mùa gì nào? Đúng rồi, mùa chay.
Hôm nay là Chúa nhật I mùa chay. Mùa chay là thời gian thuận tiện để chúng ta
theo gương Đức Kitô tập luyện chiến đấu chống lại ma quỉ. Bài Tin Mừng hôm nay
cho biết Chúa Giêsu ba lần bị ma quỉ cám dỗ và cả ba lần Ngài đã chiến thắng
thật vẻ vang.
Lần thứ nhất, sau khi Chúa Giêsu ăn chay cầu nguyện, không ăn gì
cả suốt 40 ngày, Ngài đói meo, lúc đó ma quỉ tới cám dỗ Ngài: “Nếu ông là Con
Thiên Chúa, thì truyền cho hòn đá này biến thành bánh đi”. Ma quỉ muốn Ngài
dùng quyền phép để dễ dãi thoả mãn cơn đói của riêng mình,
chẳng cần phải vất vả làm việc. Chúa Giêsu phản công làm sao? Người đã dùng một
câu trong sách thánh: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”.
Lần thứ hai, quỉ cho Chúa Giêsu thấy tất cả các nước trên thế
gian, mọi thú vui và giàu sang, rồi nó dám lếu láo nói với Chúa: “Nếu ông thờ
lạy tôi, tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị các nước đó”. Sức mấy mà Chúa Giêsu
chịu thờ lạy nó, Người quả quyết: “Ngươi phải thờ lạy Thiên Chúa và chỉ phụng
thờ một mình Người”. Đây cũng lại là một câu trích trong sách thánh.
Lần thứ ba, quỉ đưa Chúa Giêsu lên nóc đền thờ Giêrusalem, nó dụ
dỗ Chúa Giêsu: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống đi… vì Thiên
Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ ông”. Ma quỉ cám dỗ Chúa Giêsu thử thách
Thiên Chúa, đồng thời biểu diễn phép lạ để mọi người thấy phải lác mắt thán
phục. Chúa Giêsu mắng nó: “Ngươi chớ thử thách Thiên Chúa là Chúa của ngươi”.
Lại một lần nữa Người chiến thắng ma quỉ bằng một câu trích trong sách thánh.
Cả ba lần ma quỉ đều thua, thế là chúng phải rút lui.
Các con thấy đó, Chúa Giêsu mà còn bị ma quỉ cám dỗ huống hồ gì
là chúng ta. Mọi người chúng ta đều bị ma quỉ cám dỗ. Các con bị cám dỗ, thầy
cũng bị cám dỗ và chính cha mẹ các con cũng bị cám dỗ nữa.
Vậy theo các con cám dỗ là gì? À giỏi lắm, các con có thể hiểu
nôm Ngài như thế: cám dỗ là những lời rủ rê chúng ta làm điều xấu, xúi giục
chúng ta phạm tội. Thế thì ma quỉ cám dỗ chúng ta bằng cách nào? Phải chăng nó
hiện ra thành một thằng quỉ đen thùi lùi, có đuôi dài, trên đầu có hai cái sừng
để cám dỗ chúng ta? Không đâu! Trước hết nó có thể cám dỗ chúng ta qua những
người khác. Đó có thể là những bạn xấu, khi họ rủ rê ta làm điều sai trái. Đó
cũng có thể là những người xấu khi họ muốn lợi dụng chúng ta, làm hại chúng ta.
Thầy nghe nói, có những bọn xấu, chúng đến tận các cổng trường, cho các em học
sinh tiền bạc bánh kẹo, dụ dỗ các em học sinh hút thuốc hay dùng thuốc gây
nghiện để rồi biến những em học sinh thành những kẻ nghiện ma tuý,
phải mua hàng của chúng. Trong những trường hợp như thế này, các con phải làm
sao? Phải chạy à? Đúng rồi, khi có người đề nghị các con điều gì các con không
biết đúng hay sai, các con hãy chạy ngay lại thầy cô, cha
mẹ để hỏi xem có được làm như thế hay không. Bọn xấu nghe nói các con đi hỏi
cha mẹ thầy cô thì nó lỉnh đi liền.
Ngoài ra ma quỉ cũng có thể trực tiếp cám dỗ chúng con, nó bỏ
nhỏ vào tai chúng con, nó xúi giục trong tâm trí chúng con, nên chúng con rất
khó nhận ra chúng. Chẳng hạn bạn Rong, trên đường đi lễ, ngang qua chỗ trò chơi
điện tử, ma quỉ nói nhỏ vào tai: còn sớm mà, vào đây coi một tí rồi ra ngay.
Thế rồi Rong bước vào, nó lại rủ rê: chơi 15 phút thôi. Rong mê mải chơi và
quên mất thời gian, thế là không đi lễ. Về nhà má hỏi đi đâu về trễ. Nghe ma
quỉ xúi giục Rong lại nói dối má: con đi lễ và học giáo lý mới về.
Các con thấy đó, ma quỉ rất xảo trá, khi cám dỗ bao giờ ma quỉ
cũng bày ra những hình ảnh hay đưa ra những lời dụ dỗ thật hấp dẫn, làm cho ta
khoái, làm cho ta thích. Hơn thế nữa, ma quỉ rất lì lợm, cám dỗ một lần không
được nó sẽ trở lại cám dỗ cách khác, cám dỗ nữa, cám dỗ hoài, cho đến khi ta
chiều theo ý nó. Nó cũng lại rất ranh ma, quỉ quyệt chẳng bao giờ nó cám dỗ các
con phạm tội nặng ngay, nhưng ban đầu nó xúi hãy bỏ qua việc này việc nọ, hay
nó chỉ xúi phạm những tội nhẹ, một khi phạm tội nhẹ quen rồi, nó sẽ cám dỗ ta
phạm tội nặng mấy hồi. Thế nên, các con đừng bao giờ dại dột nghe lời dụ dỗ của
nó mà phạm tội, dù là phạm tội nhẹ, đừng giống như chú vịt trời trong câu
chuyện sau đây:
Có một đàn vịt trời bay về phương nam để trú đông. Vào một buổi
chiều cả đàn đáp xuống một nông trại, thấy vịt nhà đang ăn bắp, chúng ùa theo
vào ăn ké. Hôm sau chúng lại tiếp tục cuộc hành trình. Thế nhưng có một chú vịt
con, vì được một bữa ăn ngon nên không muốn bay theo đàn, nó tự nhủ để mai mốt
bay theo cũng chưa muộn. Thế rồi, ngày qua ngày, chú vẫn ở lì với đàn vịt nhà
để được ăn ngon mà chẳng phải vất vả gì. Mùa xuân về, đàn vịt trời bay qua. Các
bạn cũ kêu gọi nó: “Hãy theo chúng tôi. Được bay lượn trên bầu trời rộng lớn,
được chu du khắp mọi nơi, thích lắm!” Chú vịt trời ráng sức đập cánh bay lên,
thế nhưng, những bữa ăn no nê làm nó mập ú, và đôi cánh lâu nay không bay trở
nên yếu ớt nên nó chỉ bay là đà đến ngọn cây rồi té cái bịch xuống đất, nó
không bay theo đàn được nữa. Thế là dần dần quen đi, nó cam lòng sống lẹt bẹt
dưới đất với lũ vịt nhà.
Trở lại trường hợp bạn Rong trên kia, nếu Rong không chịu sửa
lỗi, cứ nói dối mà trốn học, trốn lễ để chơi điện tử, rồi sẽ đến một ngày khi
không có tiền, ma quỉ xúi giục ăn cắp của má một ít, của ba một ít, ngày này
qua ngày khác… Thế là ăn cắp quen tay, lớn lên Rong có thể ăn cắp nhiều hơn,
rồi đi ăn trộm, ăn cướp…
Các con thấy đó, kẻ thù của chúng ta đúng là lũ ranh ma quỉ
quyệt, vậy làm sao chúng ta chống lại được chúng? Tuy ma quỉ gian tà giảo
quyệt, nhưng chúng ta không sợ ma quỉ. Chúng con biết tại sao không? Tại vì
chúng ta có Chúa. Chúa mạnh hơn ma quỉ, Chúa giỏi hơn ma quỉ. Có Chúa ở phe ta
thì ma quỉ không làm gì chúng ta được. Vậy muốn thắng được ma quỉ các con phải
có Chúa Giêsu và phải trang bị khí giới của Chúa Giêsu. Khí giới của Chúa Giêsu
là gì? Đó là cầu nguyện, ăn chay hãm mình, đó là Lời Chúa trong sách thánh. Vậy
muốn sắm cho được khí giới của Chúa Giêsu, trước hết các con hãy siêng năng sớm
tối đọc kinh cầu nguyện; biết hy sinh hãm mình, nghĩa là biết chăm làm, chăm
học, không làm biếng. Thứ đến là phải chăm chỉ học giáo lý, trong thánh lễ thì
chăm chú nghe giảng để được biết về Chúa biết về những điều Ngài dạy. Để có
Chúa thì phải làm sao? Phải năng lãnh nhận các bí tích nhất là bí tích giải tội
và Thánh Thể. Mỗi khi tham dự thánh lễ, lãnh nhận Mình Thánh Chúa là các con
được lãnh nhận chính Chúa Giêsu, chính Ngài chiến đấu trong các con, tiếp thêm
sức mạnh cho các con. Ước chi trong mùa chay này, các con biết luôn tin tưởng
bám chặt vào Chúa, được vậy ma quỉ sẽ chẳng thể làm gì hại các con, bởi vì Chúa
sẽ luôn trợ giúp và bảo vệ các con như lời Kinh Thánh mà thánh Phaolô lập lại
trong bài đọc 2 hôm nay: “Ai đặt niềm tin vào Chúa, sẽ không phải thất vọng” và
“Ai kêu cầu danh Chúa, sẽ được cứu thoát”.