38. Video Thánh Vịnh Nhóm thánh vịnh Nauy
39. Hãy sám hối Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
40. Sám hối để được sống Lm Giuse Đinh lập Liễm
41. Trổ sinh hoa trái thiêng liêng Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
42. Thiên Chúa luôn hiện diện Radio Veritas Asia
43. Đừng xét đoán Suy niệm của JKN
44. Hãy hoán cải Chú giải của Fiches Dominicales
1. Sám hối
Dân Do Thái đã có lịch sử huy hoàng với những vị vua sáng chói
như Đavít, như Salomôn. Tuy nhiên vào thời Chúa Giêsu, tình thế đã đảo ngược. Họ
phải cúi đầu chấp nhận ách thống trị của đế quốc Lamã. Pháo đài Antonia được dựng
lên ở Giêrusalem; bịnh đội Lamã coi thường người Do Thái và những quyền lợi của
họ. Viên toàn quyền của hoàng đế César xen vào nội bộ tôn giáo bằng cách chọn lựa
và công nhận những thầy cả thượng phẩm. Miền bắc là xứ Galilêa, mặc dù do vua
Hêrôđê cai trị. Nhưng Hêrôđê cũng chỉ là một tên hề múa rối, quyền hành nằm cả
trong tay Philatô. Chính vì thế một sự oán ghét thù hận âm ỉ trong lòng người
Do Thái. Bề ngoài thì hoà hoãn nhưng bề trong thì sôi sục như một cục than hồng
dưới lớp tro tàn. Họ mong đợi Đấng cứu thế đến để giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ
lầm than.
Bấy giờ Chúa Giêsu đã bắt đầu cuộc sống công khai, Ngài lên tiếng
rao giảng về Tin Mừng Phúc Âm. Người ta kể lại cho Ngài nghe việc một số người
Galilêa có lẽ đã xách động dân chúng chống lại binh đội Lamã. Thế là theo lệnh
của Philatô binh đội Lamã xông vào đền thờ, tàn sát họ khiến máu họ hoà lẫn với
máu của lễ vật. Những người kể lại sự việc này hy vọng Chúa Giêsu sẽ đứng lên
giải phóng dân tộc và họ sẽ theo Người cho dù có phải chết. Nhưng cái nhìn của
Chúa Giêsu thì khác. Người đến không phải để gieo rắc hận thù, nhưng đến để rao
giảng Nước Thiên Chúa, kêu gọi mọi người ăn năn để được cứu độ. Người nói: Nếu
các ngươi không hối cải các ngươi cũng sẽ phải chết như vậy.
Rồi một sự kiện khác nữa đó là ngọn tháp Siloe bất thần sụp đổ
và đè chết 18 người. Thiên hạ cho rằng họ là những kẻ tội lỗi nên bị Thiên Chúa
trừng phạt. Nhưng quan điểm của Chúa Giêsu thì khác, Người muốn coi đó như một
tiếng chuông cảnh tỉnh: Nếu các ngươi không hối cải các ngươi cũng sẽ phải chết
như thế. Với chúng ta cũng vậy, những tiếng chuông cảnh tỉnh không ngừng vang
lên, những tín hiệu báo động không ngừng xuất hiện. Nếu chúng ta biết thực thi
Lời Chúa, nghĩa là biến sám hối ăn năn, thì những tai ương hoạn nạn sẽ là một
cái gì tốt lành, vì nó sẽ đem lại cho chúng ta ơn cứu độ.
Một người bà con lối xóm, Bị trúng gió và chết liền tức thời. Phải
chăng người ấy là một kẻ tội lỗi. Không phải là như thế, nhưng nếu chúng ta
không hối cải, chúng ta cũng sẽ chết như vậy. Hai chuyến xe lửa đầy ắp người đụng
phải nhau khiến cho hàng trăm người bị chết. Một thành phố bị động đất khiến
cho hàng ngàn người bị chôn vùi dưới đống gạch vụn. Phải chăng họ là những kẻ tội
lỗi, không phải như thế, nhưng nếu chúng ta không hối cải, chúng ta cũng sẽ chết
như vậy. Rồi hằng ngày báo chí, truyền thanh truyền hình đã tường thuật cho
chúng ta biết bao nhiêu tai ương hoạn nạn: nào là đói khát, nào là chiến tranh,
nào là bạo động... Phải chăng những nạn nhân đều là những kẻ tội lỗi. Không phải
là như vậy, nhưng nếu chúng ta không biết hối cải, chúng ta cũng sẽ chết như vậy.
Hằng ngày Chúa vẫn gởi đến với mỗi người chúng ta những tiếng chuông cảnh tỉnh
và những tín hiệu báo động, có khi chợt loé lên như một tia chớp, có khi âm
vang như một hồi còi dài. Thế nhưng điều quan trọng đó là chúng ta phải biết lắng
nghe, phải biết nhìn xem, để nhận ra được tiếng Chúa hầu giục lòng ăn năn sám hối
và cải thiện đời sống, vì tất cả đều là hồng ân của Chúa.
2. Sám hối.
Đứng trước cái chết thê thảm, đầy máu và nước mắt của những người
bị Philatô giết, cũng như những người bị tháp Siloe đè bẹp, có những kẻ đã nghĩ
xấu khi cho rằng sở dĩ những người này phải chết vì họ là những kẻ tội lỗi. Ý
nghĩa độc ác đó, giống như một con dao đâm vào các nạn nhân đã chết. Và như thế,
những người đã chết lại bị chết thêm một lần nữa.
Trước sự bất công và bất nhân ấy, Chúa Giêsu đã xác định không
phải là như thế, đồng thời khuyên nhủ mỗi người hãy ăn năn hối cải, kẻo rồi sẽ
bị Chúa huỷ diệt như vậy. Với những suy nghĩ trên, Ngài vừa minh oan cho các nạn
nhân, vừa công bố cách Ngài sẽ xét xử sau này, đó là ai xét đoán ác nghiệt cho
kẻ khác, thì cũng sẽ bị xét đoán ác nghiệt như vậy. Kẻ cho rằng các nạn nhân bị
chết thê thảm là vì họ có tội, thì chính họ, nếu không sửa mình, cũng sẽ bị huỷ
diệt như vậy, vì họ đâu có vô tội hơn ai.
Từ đó chúng ta đi tới một kết luận thực hành, đó là đừng mất giờ
lo chuyện suy diễn xấu cho người khác, kẻo gây khổ thêm cho họ và cho những người
thuộc về họ, đồng thời cũng gây thêm tội và thêm hậu quả xấu cho chính bản thân
mình. Điều Chúa muốn chúng ta quan tâm, đó là hãy lo chuyện mình bằng cách ăn
năn sám hối và cải thiện đời sống của mình.
Đổi mới bản thân, cải thiện đời sống đó là điều chúng ta thường
xuyên mong muốn. Chúng ta đã cố gắng, thế nhưng càng cố gắng chúng ta lại càng
khám phá ra rằng: Tự sức riêng, chúng ta không thể ăn năn sám hối và cải thiện
đời sống mình, trái lại phải cậy nhờ vào ơn Chúa giúp.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay cho chúng ta hay biết về kinh nghiệm ấy.
Chúa là người trồng cây, còn chúng ta là những cây vả không có trái. Ngài muốn
chúng ta cải thiện nên đã trồng chúng ta vào vườn nho Hội Thánh. Rồi cũng chính
Ngài đã chăm sóc chúng ta như người trồng cây đối với cây vả của mình. Nhưng
chúng ta lại là những cây vả có trí khôn, có tự do, chúng ta có thể đón nhận
hay không đón nhận ơn lành của Chúa. Chúng ta có thể sinh những hoa trái tốt,
nhưng cũng có thể chẳng có hoa trái nào cả. Nguyên do là bởi chúng ta có biết
đón nhận ơn Chúa hay không? Nghĩ tới đây hẳn chúng ta sẽ cảm thấy lo lắng cho số
phận của chúng ta, bởi vì có những lúc chúng ta đã dửng dưng với ơn Chúa, đã từ
chối ơn Chúa. Ý thức về thân phận yếu đuối, để rồi phó thác cho tình thương của
Chúa, là chúng ta đã khởi đầu sự ăn năn. Tuy nhiên, tâm tình sám hối không chỉ
dừng lại ở đó, mà còn phải tiến tới ba việc làm khác nữa, đó là cầu nguyện, hãm
mình và làm việc bác ái, đặc biệt là bố thí giúp đỡ người nghèo.
Và như thế, chúng ta thấy tâm tình sám hối của chúng ta còn rất
hời hợt. Điều Chúa mong đợi nơi chúng ta không phải chỉ là không còn phạm tội nữa,
mà còn phải tích cực làm việc lành. Vì việc lành mới là những hoa trái thiêng
liêng mà Chúa muốn có. Thế nhưng, bản thân chúng ta đã có được những hoa trái
thiêng liêng ấy chưa, hay là đến giờ này, chúng ta vẫn chỉ là những cây vả
không có trái?
3. Hối cải – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Hành trình đức tin của tổ phụ Abraham là mẫu gương sáng ngời soi
chung cho mọi người ở mọi nơi và trong mọi thời. Dòng dõi con cái cháu chắt nhiều
đời của ông tổ đã trở nên một dân tộc đông đúc sinh sống ở Ai-cập. Trong chương
trình cứu độ, từng bước Thiên Chúa đã hướng dẫn lịch sử của dân đã được chọn
này. Thiên Chúa mạc khải cho ông Môisen về ý định cứu dân ra khỏi vùng đất bị
làm tôi đòi nô lệ để đi vào miền Đất Hứa. Ông Môisen đã chứng kiến: Thiên sứ của
Thiên Chúa hiện ra với ông trong đám lửa từ giữa bụi cây. Ông Mô-sê nhìn thì thấy
bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi (Xh 3,2). Ông Môisen nhìn
thấy sự lạ là bụi gai cháy, nhưng không bị thiêu rụi. Đây là dấu hiệu của trời
cao loan báo một sứ điệp. Ông đã tiến lại gần để ngắm nhìn và lắng nghe: Thiên
Chúa phán: "Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe
tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của
chúng (Xh 3, 7). Lời hứa năm xưa với ông Abraham, hơn bốn trăm năm sau, nay mới
bắt đầu khai mở.
Thiên Chúa mạc khải chính mình: Thiên Chúa phán với ông Mô-sê:
"Ta là Đấng Hiện Hữu." Người phán: "Ngươi nói với con cái
Ít-ra-en thế này: "Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em."(Xh 3, 14).
Dân chúng sống tạm nhờ trong miền đất Ai-cập đã qúa lâu, nhiều cháu chắt không
còn nhớ đến các tổ phụ cha ông. Trong suốt thời gian lưu lạc ở đất Ai-cập, sách
sử không ghi lại những chứng tích biến cố vĩ đại nào. Sau khi tể tướng Giuse,
con của ông tổ phụ Giacob qua đời, dân chúng sống trong âm thầm và sinh xôi nẩy
nở rất đông. Thiên Chúa luôn ghé mắt đoái nhìn đến đoàn con dân của Người. Khi
thời gian đã mãn, Thiên Chúa chọn và gọi ông Môisen thi hành sứ mệnh giải thoát
dân. Chúng ta nghe biết câu truyện của Môisen được cứu vớt lên khỏi nước và trở
thành thủ lãnh đưa dân ra khỏi nước Ai-cập. Thiên Chúa đã ban cho ông uy quyền
biến đổi và thực hiện các sư lạ trước mặt vua quan Ai-cập để minh chứng bàn tay
uy quyền Thiên Chúa.
Hành trình đi về đất hứa đầy gian nan và thử thách. Khi gặp những
sự khó khăn mà không thỏa mãn nhu cầu vật chất về cái ăn cái uống, dân chúng đã
nổi loạn và kêu trách ông Môisen. Chúa phạt rồi Chúa lại tha. Ông Môisen như
người trung gian cũng đối diện với khó khăn tư bề. Thiên Chúa hướng dẫn dân đi
theo đường chính nẻo ngay, trong khi dân chúng bị ảnh hưởng cuộc sống thế tục
và đa thần giáo, nên nhiều lúc họ đã bỏ Chúa chạy theo các thần dân ngoại.
Môisen phải cùng phấn đấu với các thử thách để vượt qua những sự yếu đuối của
kiếp người. Chúng ta biết ông Môisen cũng chỉ là một con người mỏng dòn và giới
hạn mọi điều. Khi dân hối lỗi, Chúa lại tha thứ. Suốt 40 năm lang thang trong
hoang địa, Môisen đã dẫn đoàn dân tới bờ miền Đất Hứa. Ông đã chu toàn sứ mệnh
thanh luyện niềm tin của Dân vào Thiên Chúa duy nhất.
Mùa sám hối, xin kể câu truyện: Ngày kia một giáo sư già đi chơi
qua khu rừng, bên cạnh có cậu học trò cùng đi. Thình lình ông dừng chân chỉ vào
bốn cây gần đó. Cây thứ nhất mới ló lên khỏi mặt đất, cây thứ hai khá hơn, cây
thứ ba lớn hơn và cây thứ bốn đã khá to rồi. Thầy nói: Trò hãy nhổ cây thứ nhất.
Chỉ với hai ngón tay, cậu đã nhổ dễ dàng. Thầy tiếp: Bây giờ con hãy nhổ cây thứ
hai. Cậu phải dùng cả hai tay. Nhổ tiếp cây thứ ba, cậu phải dùng hết sức lực
hai cánh tay mãi mới nhổ được. Thầy nói: Bây giờ hãy cố gắng nhổ cây thứ tư.
Hai cánh tay ôm lấy thân cây, cậu cố sức lay nhưng lá nó cũng chẳng rung rinh.
Thầy nhẹ nhàng bảo: Đó con thấy không. Về các tính hư và tật xấu của ta cũng vậy.
Khi mới nhiễm thì dễ khử trừ, nhưng nếu để chúng đâm rễ sâu trong tâm khảm và
trong thân xác, con sẽ khó mà trừ khử.
Chúng ta biết các thói hư tật xấu giống cỏ dại, nơi đâu cũng có
thể mọc lên mà không cần vun tưới. Cỏ dại nơi lòng người cũng cứ tự nhiên phát
triển. Điều tốt mình muốn nhưng lại không làm. Bản năng con người có cảm tình với
các tật xấu, tội lỗi và hướng chiều về sự dữ. Tội lỗi có một ma lực kéo
lôi và quyến rũ. Nếu chúng ta không cẩn thận ngăn ngừa và cắt bứng ngay. Khi hạt
giống sự dữ được gieo vào lòng thì lớn lên nhanh. Thói quen xấu lâu ngày trở
thành tật bệnh. Sự sám hối là nhận biết chính mình để phục hồi sự tốt lành
thánh thiện. Bài phúc âm nhắc nhớ câu truyện của mấy người Galilêa bị ngược
đãi, bị ghép tội và bị giết. Chúa Giêsu nhắn nhủ mọi người: Tôi nói cho các ông
biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ
chết hết như vậy (Lc 13, 3). Chưa chắc những người này là những người tội lỗi.
Mùa chay, mỗi người chúng ta hãy tự xét chính mình trước mặt Chúa.
Có đôi khi biết thân và biết ý xấu nhưng chúng ta lại tiếc thân
ý xấu, không muốn dứt bỏ. Rất tiếc khi bỏ đi những ý tưởng xấu, lời nói hành, bịa
truyện gian dối, cờ bạc, rượu chè và gian dâm. Ai nghiện hút thuốc cũng biết,
bên ngoài bao thuốc có chữ ‘hút thuốc có hại cho sức khỏe’ hay ‘hút thuốc có thể
gây bệnh ung thư phổi’. Biết có hại đó, cám ơn lời nhắc nhở, nhưng lại tiếc
thân nghiện và không dám dứt bỏ. Tất cả các thói hư tật xấu mà chúng ta mắc phải
cũng đã được nuôi dưỡng từng ngày. Chúng ta biết rằng sự xấu, sự dữ là tội, là
sai trái và là sự hư đốn, nhưng lại tiếc như tiếc của, chẳng muốn rời xa. Đôi
khi chúng ta bị lún sâu và ngụp lặn trong những cơn mê lầm này. Vì tội kéo theo
tội. Nói dối điều này, kéo theo điều khác để biện minh. Chúng ta không thể tưởng
tượng rằng đã có nhiều vụ án ghê gớm xảy ra cũng chỉ vì tội nhân dấu diếm một lỗi
phạm nhỏ ban đầu. Người ta tìm cách phi tang dấu vết và dùng thủ đoàn để che dấu
lỗi lầm, nên đã dẫn đến những hậu qủa khó lường như trả thù đánh đập, gia đình
tan vỡ, phá thai hay giết người. Khởi đầu là những nguyên nhân và sự cố rất nhỏ,
vì sợ bị phát hiện nên dấu bớt sự thật, dần dần sự dối trá sinh ra nhiều oan
trái và báo thù khủng khiếp.
Tại sao nhiều người thích nói dối? Nói dối vì muốn dấu diếm sự
thật không tốt và không muốn bị rầy la quở trách. Nói dối loanh quanh sẽ không
có điểm dừng, nói dối này kéo theo dối trá khác. Vì nói thật thì mất lòng. Nói
thật thì mất lợi lộc. Nói thật có thể bị mất danh hờ. Nói thật thì mất nhiều thứ
khoái và nói thật thì bẽ bàng. Chúng ta biết chỉ có sự thật mới giải thoát. Sự
thật thì đơn giản và vắn gọn. Sống đạo là sống trong sự thật. Hạt giống đức tin
của tình yêu và sự thật cần được vun trồng tưới gội để phát triển. Đừng để niềm
tin bị bóp nghẹt giữa đám cỏ dại của sự gian dối. Biết rằng chúng ta không thể
tránh được mọi thói hư tật xấu ở đời, nhưng vẫn có thể khắc phục nó bằng cách
tu tâm luyện tính mỗi ngày. Xa tránh và dám dứt bỏ các dịp tội và đừng níu kéo
nó. Vun xới cho các đức tính tốt có cơ hội phát triển hơn mỗi ngày. Vì nếu sống
đời Kitô hữu mà không sinh hoa trái tốt, cuộc sống sẽ trở nên vô dụng. Chúa
Giêsu dùng hình ảnh cây vả để cảnh báo: "Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây
vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?(Lc
13, 7). Nhân đức không phát triển giống như cây không sinh trái, sẽ bị chặt đi.
Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu thành Corintô nhắc nhớ
câu truyện của những người Do-thái ương ngạnh và sống bê tha đã bị phạt trong
cuộc lữ hành về Đất Hứa: Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng
là họ đã quỵ ngã trong sa mạc (1Cor 10, 5). Phaolô kêu gọi mọi người hãy xem
gương đó mà ăn năn sám hối. Không ai trong chúng ta có thể hãnh diện khoe mình
là người đạo đức và thánh thiện. Cuộc lữ hành còn dài, chúng ta còn gặp nhiều
chông gai và thử thách. Hãy luôn ý thức thân phận yếu hèn và tội lỗi để cảnh tỉnh
và hối cải: Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã
(1Cor 10, 12).
Lạy Chúa, chúng con đã lãnh nhận muôn hồng ân phúc lộc của
Chúa, xin cho chúng con biết dùng thời giờ, của cải và khả năng để sinh lợi cho
đời sống thiêng liêng của chúng con và anh chị em. Chúng con dâng lời tạ ơn
Chúa tới muôn ngàn đời.
4. Tai họa và tội lỗi – Cố Lm. Hồng Phúc
Tất cả chúng ta, ai cũng thích nghe tin tức. Ngày nào không đọc
báo, không xem tin tức, truyền hình, chúng ta cảm thấy như thiếu một cái gì. Có
những tin tức làm xúc động dư luận quần chúng và người ta bàn tán, có khi còn đặt
câu hỏi: Vì sao Chúa để xảy ra như vậy?
Hôm nay, trong bài Phúc Âm, có hai bản tin sốt dẻo, hai tai nạn
làm xao động dư luận và người ta đem kể lại với Chúa với thâm ý xin Ngài vạch
công tội.
Một là tin vị Tổng trấn Lamã, ông Philatô, vốn nổi tiếng có bàn
tay sắt, vừa ra lệnh hạ sát một nhóm người Galilê nổi loạn, tại chính trong Đền
thờ và lấy máu của họ hòa lẫn với vật tế sinh. Hai là mẩu tin ngọn tháp Siloê đổ,
chôn sống 18 người. Họ đem kể lại với dụng ý xin Chúa vạch rõ ai là người có tội.
Dân chúng, xưa cũng như nay, vẫn có quan niệm rằng họa đâu thì tội
đó. Và khi nói đến tội, người ta nghĩ đến tội kẻ khác hơn là tội của mình. Và
khi không đổ cho kẻ khác được thì lại đổ vào…Thiên Chúa. “Vì sao Chúa để như vậy?”
Hôm nay, quần chúng qui tội cho nạn nhân và những người liên hệ. “Tội của chúng
nó hay của cha ông chúng nó?”
Chúa Giêsu dùng diệp này để nói với họ và qua họ, với chúng ta rằng:
“Nếu chúng ta không ăn năn trở lại thì chúng ta cũng sẽ chết tất cả”.
Đây là lời kêu gọi sám hối. Đây là tất cả Tin Mừng rao giảng:
Hãy ăn năn trở lại, hãy từ bỏ tội lỗi, quay về với Thiên Chúa.
Việc “trở lại” là vấn đề quan trọng sinh tử của mỗi người, nên
Chúa còn nhấn mạnh sau đó trong dụ Ngôn Cây Vả. Có thể trước mặt thính giả gió
chiều đang đong đưa cành lá một cây vả xanh tươi. Nhưng đã ba năm rồi, nó không
sinh quả. Chủ nhân đang muốn chặt nó đi, để nó khỏi chiếm đất và quăng vào lửa.
Nhưng có người ngăn can xin để thêm một năm nữa…may ra.
Dụ ngôn trực tiếp ám chỉ dân Do-Thái, dân được tuyển chọn nhưng
lại giả điếc làm ngơ, tìm cách giết hại Chúa. Nhưng dụ ngôn cũng hướng về chúng
ta… Chúa cũng cho chúng ta sống thêm chuỗi ngày năm tháng… may ra… Nếu chúng ta
không ăn năn trở lại thì chúng ta cũng bị đốn ngã và đem ném vào lửa đời đời.
Trong bài đọc II, Thánh Phaolô cũng tha thiết kêu gọi sự ăn năn trở lại và sống
gương mẫu. “Ai tưởng mình đứng vững, hãy ý tứ kẻo ngã”.
Lạy Chúa, lời kêu gọi ấy, chúng con xin đón nhận.
Mùa Chay là mùa sám hối, xin Chúa giúp chúng con sống tinh
thần chay tịnh: MISERERE MEI – Xin thương xót chúng con là kẻ tội lỗi. Amen.
5. Trở về với Đấng Yêu Thương
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Thiên Chúa đã biết nỗi khổ cực của dân Do Thái bên Aicập, Ngài
đã nghe tiếng họ kêu than (Xh.3, 7), và Ngài muốn giải phóng họ khỏi cảnh khổ cực
để đưa họ về nơi hạnh phúc. Thiên Chúa không ở xa con người, Ngài ở gần con người,
Ngài nghe tiếng con người cầu khẩn Ngài, Ngài rung động trước nỗi khổ cực của
con người. “Lạy Cha chúng con ở trên trời” là câu muốn diễn tả Thiên Chúa là Đấng
siêu việt, chứ không muốn nói Thiên Chúa ở trên khoảng không trên trời xa thẳm
và không nghe được tiếng con người cầu xin. Thiên Chúa luôn ở với con người
(Ga.14, 23.16), Ngài làm con người thành đền thờ của Ngài (1Cor.3, 16-17).
Thiên Chúa ở gần tôi, Thiên Chúa biết tôi hơn cả chính tôi, Ngài quan tâm đến
tôi hơn cả chính tôi (Tv.139, 1-6). Thiên Chúa luôn yêu thương tôi.
Thiên Chúa gọi Môsê và sai ông đi giải phóng dân Do Thái khỏi
Aicập. Môsê là người rất đặc biệt. Ông đã gắn bó với dân tộc mình, cho dù ông
đang sống trong hoàng cung với những điều kiện thuận lợi để có một đời sống vật
chất êm ấm nhưng ông đã bênh người Do Thái mà giết một người Aicập. Việc bại lộ
nên ông phải bỏ hoàng cung để trốn chạy ra ẩn cư nơi hoang địa. Giờ đây Thiên
Chúa gọi ông, Ngài chọn ông và sai ông trở lại Aicập để đưa dân Do Thái ra khỏi
đó. Môsê được gọi vì dân tộc Do Thái. Không thể chối cãi rằng Thiên Chúa yêu
thương Môsê, Ngài đã can thiệp vào đời Môsê để cứu ông khỏi chết trên giòng
sông Nil, Ngài đã giải thoát ông khỏi tay Pharaô trong biến cố ông giết người
Aicập, và bây giờ Ngài ưu ái chọn ông làm người thực hiện ý định của Ngài; tuy
nhiên người ta cũng thấy rõ, chính vì dân tộc Do Thái, để giải phóng dân Do
Thái mà Môsê đã được gọi. Sứ mạng được trao cho cá nhân, để phục vụ cộng đoàn,
để phục vụ con người.
Thiên Chúa yêu thương dân như vậy, nhưng dân Do Thái đã nổi loạn
không tuân phục Thiên Chúa. Bao nhiêu điềm thiêng dấu lạ Thiên Chúa đã làm cho
dân như mười tai ương bên Aicập, đi qua biển đỏ ráo chân, đập đá lấy nước cho
dân uống, chim cút cho dân ăn, manna hằng ngày cho dân, nhưng họ vẫn không tin
tưởng phó thác vào Thiên Chúa. Họ đã không được vào đất hứa vì thái độ phản loạn
của họ. Thánh Phaolô cho rằng con người ngày nay có lịch sử dân Do Thái để làm
gương, để biết sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa (1Cor.10, 6.10-12). Không
phải con người ngày nay khá hơn con người ngày xưa, nhưng điều đã xảy ra cho
dân tộc Do Thái ngày xưa hôm nay vẫn được lập lại cho mỗi con người. Con người
hôm nay cũng phải sống thuận thảo với Thiên Chúa, phải tin tưởng và phó thác
nơi Ngài. Hạnh phúc đích thực mà con người mọi thời đại phải cố thực hiện, là hạnh
phúc mỗi ngày và từng ngày, từng giây phút. Hạnh phúc thực tùy thuộc thái độ và
chọn lựa của mỗi con người.
Đức Giêsu cũng nói với con người thời đại của Ngài khi thấy những
tai họa xảy tới cho người thời đó. Những thiên tai hay tai họa cũng có thể là
những sứ điệp Thiên Chúa gởi tới cho con người. Đừng tưởng rằng những người bị
tai họa vì họ tội lỗi hơn người đang sống không bị tai họa, “nếu các ông không
chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết y như vậy”. Đức Giêsu khi khởi đầu sứ mạng,
Ngài đã loan báo: “hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc.1, 14). Sám hối là điều
rất cần thiết, nên Đức Giêsu đã lập đi lập lại nhiều lần.
Sám hối, là thái độ trở lại với Thiên Chúa và với con người khi
đã nhận biết sự thật về chính mình, khi thấy mình đã không đi đúng đường, khi
nhận ra mình đã lỗi lầm phạm tội. Tôi là ai, tôi đã làm gì, tôi có sống theo lời
mời gọi của Thiên Chúa đối với tôi không, tôi có cố gắng vươn lên thành người
thành toàn như Thiên Chúa muốn không, hay tôi đã xúc phạm đến tha nhân và Thiên
Chúa? Không có sự nhận thức đúng đắn về chính mình, không thể có sám hối thật sự.
Tôi có biết Thiên Chúa yêu thương tôi vô cùng không? Tôi có đáp
trả tình yêu của Ngài không? Tình yêu đáp trả tình yêu. Nếu tôi không đáp trả
tình yêu của Ngài, tôi đáng tội chết! Tuy nhiên Thiên Chúa không xử tôi chết,
nhưng nếu tôi không ở trong tình yêu của Ngài, tôi sẽ chết khô như cây mà rễ nó
không hút nước và chất bổ dưỡng để nuôi cây. Tôi không tựa vào Thiên Chúa và
không ở trong Ngài thì tôi tự hủy hoại tôi, tôi không thể sống hạnh phúc được.
Tôi có cố gắng phát triển tài năng và trưởng thành đến độ như
Thiên Chúa ao ước về tôi không? Thiên Chúa kỳ vọng nơi tôi, tôi có làm Ngài thất
vọng không? Tôi có sống hạnh phúc như Thiên Chúa muốn không? Tôi có tin rằng
Ngài thương tôi, và sẵn sàng làm tất cả cho tôi không? Nén vàng nén bạc tài
năng Thiên Chúa ban, tôi có sinh lợi không? Thiên Chúa đã gọi Môsê và đã chờ đợi
ông đáp trả, chắc chắn Thiên Chúa cũng có chương trình về tôi, Ngài cũng kỳ vọng
nơi tôi, và Ngài mong ước tôi sẽ đáp trả chương trình của Ngài có nơi tôi. Tôi
có phát triển con người của tôi, để có thể thực hiện sứ mạng Thiên Chúa trao
cho tôi không?
Thái độ của tôi như thế nào đối với bạc tiền danh vọng tình
duyên? Người đời cho rằng tiền bạc giải quyết tất cả, “có tiền mua tiên cũng được”,
và người ta tìm mọi cách để kiếm cho được thật nhiều tiền, ngay cả đến độ xúc
phạm con người, bỏ cả người thân là cha mẹ, vợ chồng, con cái. Tiền bạc chi phối
tất cả đời sống của những người này, đóng lòng họ, ngăn cản họ đến với người
khác. Tôi có cách cư xử giống như những người đó không? Thiên Chúa và tha nhân
có chỗ đứng nào nơi tôi? Thiên Chúa có chỗ đứng tuyệt đối nơi đời sống và chọn
lựa của tôi không?
Thiên Chúa vẫn đang chờ mong tôi trở lại với Ngài, như người cha
tựa cửa mong người con hoang trở về, Thiên Chúa cũng đang chờ đợi tôi sám hối
quay về với Ngài. Ngài vẫn đang ban Thánh Thần cho tôi, vẫn đang thúc giục tôi
trở về với Ngài. Hãy trở về với Thiên Chúa, để được hạnh phúc với Thiên Chúa và
với anh chị em mình. Xin Thiên Chúa giúp con trở về với Thiên Chúa là Cha nhân
từ.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, ơn gọi là gì? Ơn gọi của Môsê là gì? Ơn gọi của bạn
là gì?
2. Như thế nào là người trưởng thành? Đâu là những khía cạnh mà
con người cần lưu ý để trở thành người phát triển toàn diện?
6. Ai là tốt, ai là xấu?
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Đoạn Tin Mừng đề cập tới hai ‘tai nạn’ rất thời sự nhưng chỉ
mang tính tượng trưng: một hoàn toàn ngẫu nhiên là ngọn tháp đổ, và một vì chủ
đích chính trị là cuộc tàn sát trong đền thờ; những biến cố tương tự như thế sẽ
xảy ra hàng ngày như cơm bữa trong đời sống bất cứ ai. Thế nhưng nhiều người lại
thích đặt điều: tại sao người này bị, kẻ khác lại không? Phải chăng vì người
này tội lỗi còn kẻ kia tốt lành, người này xui xẻo còn kẻ kia may mắn...? âu đó
cũng là thái độ rất thường tình của nhân tình thế thái qua mọi thời đại.
Thế còn thái độ của Kitô hữu sống theo tinh thần Tin Mừng thì
sao; họ có lối suy nghĩ nào khác không nhỉ? Đức Giêsu cho thấy là các môn đệ
Người phải nghĩ khác: “Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu”.
Người tốt / kẻ xấu, đó là phân biệt thường tình, nhưng liệt kê xếp
loại người ta vào thứ hạng nào thì lại là điều cấm kị đối với Kitô hữu, nhất là
khi chỉ dựa trên những sự kiện xảy ra được người đời coi là ‘quả báo’! Đức
Giêsu đã chẳng thẳng thừng ngăn chận lối suy nghĩ này: “Anh em đừng xét đoán để
khỏi bị Thiên Chúa đoán xét” (Mt 7:1-5); tại sao thế?
Thường thì trong cuộc sống, ‘quả báo’ được coi là một định luật
hiển nhiên: ác giả thì ác báo, ở hiền thì gặp lành. Và luật quả báo chứa đựng một
sức mạnh vạn năng trong lãnh vực luân lý: nó buộc người ta phải làm lành lánh dữ.
Khó có thể tưởng tượng nổi: nếu không có quả báo thì làm sao có thể duy trì được
nền luân lý cao đẹp trên thế giới này, và bảo đảm được trật tự xã hội…? Và thế
là người ta có khuynh hướng giải thích nguyên nhân mọi biến cố xảy ra chung
quanh theo định luật quả báo. Cứ xem những gì xảy ra cho một người là biết được
người đó tốt hay xấu: ‘nếu người không phạt thì đã có trời phạt…’! Câu chuyện
ông Gióp trong Cựu Ước cho thấy: dứt ra khỏi lối suy nghĩ cố hữu này không phải
là chuyện đơn giản.
Đức Giêsu cho biết một điều căn bản: nếu so sánh con người với
nhau trước các lề luật, thì tất nhiên có người tốt kẻ xấu; nhưng đứng trước mặt
Thiên Chúa tình yêu, thì mọi người không trừ một ai, đều cần tới ơn cứu độ và
lòng xót thương. Các tai họa, rất thường xảy ra quanh ta hay trực tiếp liên
quan đến ta, chính là dịp đưa ta đến gần với lòng trắc ẩn xót thương các nạn nhận,
sẽ luôn là dịp để một tín hữu giáp mặt với Thiên Chúa, và rộng mở cõi lòng đón
nhận lòng thương xót của Người. Việc sám hối mà Đức Giêsu kêu gọi, không chỉ
mang tính luân lý là phải cải tà qui chính, mà trước hết là trở về với Thiên
Chúa, với nguồn mạch của lòng thương xót và nhân ái. Chính vì thế mà mỗi tai họa
lớn nhỏ xảy ra trong đời, đối với mọi tín hữu của Đức Kitô, đều phải trở thành
một lời mời gọi để sám hối và trở về với lòng xót thương thần linh.
Về phía con người, sẽ không bao giờ có ai xứng đáng với lòng
thương xót đó. Nó luôn luôn được trao ban cách nhưng không, qua một trung gian
duy nhất là Đức Kitô Giêsu. Không có lòng thương xót đó, con người, dầu có
lương thiện tốt lành tới mấy đi chăng nữa, thì cũng tựa như cây cối tốt tươi,
cành lá xum xuê trồng trong vườn mà chủ vườn là Thiên Chúa không tìm thấy trái
ăn. Người làm vườn (là Đức Kitô Giêsu) can thiệp để được tiếp tục tưới bón bằng
sự tự hiến cứu chuộc của Người. Kitô hữu là những cây vả đã được Kitô Giêsu tưới
bón bằng ơn cứu chuộc của Người, không phải chỉ để tiếp tục tốt tươi xum xuê với
sự tốt lành thánh thiện của mình, nhưng là để có được trái ngon ngọt của nhận
biết và sống tình Chúa yêu thương. Nếu Thiên Chúa là tình yêu, và là Đấng giầu
lòng từ bi và hay thương xót, thì Ông Chủ này cũng chỉ mong tìm thấy nơi các
Kitô hữu một nhìn nhận Người là như thế, chấp nhận Người, và tiếp thu lòng xót
thương vô biên; đồng thời tìm cách biểu lộ lòng thương xót đó trong cuộc sống
hàng ngày. Mùa chay chính là thời gian tưới bón, “vun xới và bón phân cho nó”,
là thời gian hướng cặp mắt các tín hữu tới Thập Giá Đức Kitô Giêsu, biểu hiện
vĩ đại nhất của một Thiên Chúa xót thương và cứu độ, để mong “sang năm nó có
trái”. Như thế Mùa Chay mới quả thực là thời gian đâm bông kết trái cho đời sống
đức tin của người tín hữu, là thời gian của hồng ân sự sống đích thực.
Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã lại cho con được hưởng một Mùa
Chay thánh nữa, đã lại cho con được ‘vun xới và tưới bón’ bằng hồng ân cứu độ.
Xin cho con mở rộng tâm hồn đón nhận tình Chúa xót thương qua việc chiêm ngắm
cuộc khổ hình và cái chết Thập giá của Đức Kitô Giêsu, Cứu Chúa của con. Con ước
mong rằng, qua Mùa Chay thánh năm nay (cũng rất có thể là mùa cuối cùng của đời
con?), Chúa sẽ tìm thấy được nơi niềm tin của con, trái thơm ngon mà Chúa hằng
mong đợi. Xin cho con nhận biết và được biến đổi trong tình thương xót hải hà của
Chúa. Amen.
7. Sám hối và canh tân - Lm. GB. Trần Văn Hào
Ý thức về tội lỗi
Con người chúng ta ai cũng có tội. Nhưng nhắc đến những tội đã
phạm, ai ai cũng khó chịu, thà đừng nói tới thì hơn. Khi bị người khác bới lại
những vết đen trong quá khứ, chúng ta cảm thấy nhức nhối, đôi khi còn muốn lồng
lộn lên để phản kháng, mặc dầu có những chứng cớ sờ sờ trước mắt.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa không muốn để chúng ta an phận
cách giả tạo. Chúng ta đừng nghĩ rằng tôi có tội, nhưng các tội tôi phạm chẳng
đến nỗi nào, vì thiếu gì những người tội lỗi còn nhiều hơn tôi gấp bội. Đây là
một tâm lý bình an giả hiệu, tự ru ngủ mình trong một pháo đài ngụy tạo để cố
thủ và chẳng thích người khác bới móc cuộc sống tư riêng nơi mình. Nhưng hôm
nay, Chúa Giêsu đã nhân cái chết của những người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết,
và Chúa còn mượn cả tiếng thét gào ai oán của những thường dân vô tội bị Philatô
sát hại để cảnh tỉnh chúng ta. Sứ điệp mà Đức Giêsu công bố rất nghiêm khắc và
mạnh mẽ: “Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ chết hết y như vậy”
(Lc 13,5).
Sự an phận giả tạo
Triết gia Lavator đã nói: “Trong các sinh vật trên mặt đất, khuôn
mặt đẹp đẽ nhất chính là nét mặt con người. Nhưng khuôn mặt xấu xa bỉ ổi nhất
cũng chính là bộ mặt nơi mỗi người chúng ta”. Con người vốn rất xinh đẹp vì được
dựng nên giống họa ảnh của Thiên Chúa là Đấng Chân, Thiện, Mỹ, nhưng chân dung
thánh thiện tuyệt vời ấy lại bị méo mó và hoen ố do tội lỗi gây ra. Ý niệm về tội
đang bị con người ngày hôm nay dần dần đào thải. Là những Kitô hữu, chúng ta rất
dễ rơi vào thái độ an phận một cách giả tạo và tưởng rằng dù tôi có tội nhưng
chẳng đến mức bị Thiên Chúa đầy xuống hỏa ngục đâu. Vả lại, chúng ta được nghe
nói rất nhiều về lòng thương xót của Thiên Chúa, vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại
quá độc ác và tàn nhẫn trừng phạt chúng ta. Quả thật, lòng thương xót của Chúa
thì vô bờ, nhưng khi con người cố chấp và không mở lòng đón nhận sự tha thứ,
thì Thiên Chúa cũng đành chịu thua. Thánh Augustinô đã cầu nguyện với Chúa: “Lạy
Chúa, Chúa dựng nên con không cần có con, nhưng Chúa muốn cứu rỗi con, lại cần
có con cộng tác”. Nỗi sỉ nhục lớn nhất đối với Thiên Chúa là chúng ta đóng khép
lòng mình lại, và chối từ lòng thương xót của Ngài. Chúa Giêsu đã từng nói: “Mọi
tội lỗi đều được tha thứ, nhưng tội phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng bao giờ được
tha” (Mc 3,29). Tội phạm đến Thánh Thần chính là sự cố chấp và chai lỳ trong tội
lỗi và đó là tình trạng sống an phận cách giả tạo. Trong bài Tin mừng hôm nay,
Chúa muốn dùng tiếng thét ai oán của những người lâm nạn để thức tỉnh lương tâm
chúng ta. Ngài còn dùng cả tiếng búa rìu chát chúa chặt vào gốc cây để lay động
lương tâm mỗi người. Đừng bao giờ ngủ quên trên sự an phận giả dối nơi lòng
mình.
Thinh lặng để lục soát lương tâm
Một đạo sỹ nọ quy tụ những học trò của ông trong một cái
sân rộng trước nhà để chỉ giáo. Giữa sân ông để một thau nước. Ông khuấy cho
thau nước sóng sánh và nói các đệ tử hãy nhìn vào. Từng đứa học trò ngoan ngoãn
làm theo. Sau đó, ông hỏi xem họ đã nhìn thấy gì. Các học trò đáp: “Thưa thầy,
chúng con chỉ thấy lờ mờ gương mặt của chúng con”. Mười lăm phút sau, khi thau
nước trở nên phẳng lặng, ông nói họ hãy nhìn lại một lần nữa và cũng hỏi lại
câu hỏi trên. Các học trò trả lời: “Bây giờ chúng con đã thấy thật rõ khuôn mặt
của chính chúng con”. Bấy giờ vị đạo sỹ mới giải thích rằng, chỉ khi nào biết
trở về trong tĩnh lặng nội tâm, chúng con mới có thể nhìn rõ con người mình.
Đúng vậy, Giáo hội vẫn thường tổ chức những cuộc tĩnh tâm để giúp chúng ta đi
vào sự thinh lặng, đặt mình trước mặt Chúa hầu có thể nhìn lại bản thân. Chúng
ta không thể nào lục soát lương tâm cách thấu đáo, nếu tâm hồn chúng ta bị nhiễu
sóng bởi những tiếng đông ồn ào bên ngoài. Đó là những tiếng xào xạc của tiền bạc.
Đó cũng là những cuốn hút ầm ĩ của một lối sống hưởng thụ, khiến đôi tai nơi
cõi lòng của chúng ta bị bịt kín, không thể nghe được tiếng nói của Chúa đang
ngỏ trao. Khi tâm hồn chúng ta đầy những chộn rộn và vướng bận của cơm áo gạo
tiền, hoặc đầy ắp nhưng so đo tính toán để lo làm giầu, chúng ta không thể nào
nhìn rõ được chính mình.
Sám hối và canh tân
Có một câu chuyện dí dỏm đăng trên một tuần báo. Một anh
chàng thanh niên kia rất bặm trợn, lảng vảng đến khu vực nhà xứ để phá phách.
Cha xứ gặp anh ta và cũng chào hỏi thân tình. Chàng thanh niên chỉ chuyên đi
nghịch ngợm, còn việc đạo đức thì khá lơ là, mỗi tuần chỉ vác xác đến nhà thờ một
lần cho có lệ. Anh chàng chào Cha xứ và nói: “Thưa Cha, đêm hôm qua con có một
giấc mơ tuyệt vời, vì con thấy cả con và Cha cùng được đưa về Thiên đàng”. Cha
xứ kiên nhẫn và lắng tai nghe tiếp xem anh ta muốn nói gì. Anh nói tiếp:“Thưa
Cha, đúng như vậy, cả Cha và con mỗi người trèo lên một cái thang bắc tới trời.
Trên cái thang đó, các thiên thần ghi lại những tội đã phạm, thang của Cha ghi
tội của Cha, thang của con ghi tội của con. Thiên thần phát cho mỗi người một hộp
phấn, dùng để xóa đi những vết tích tội lỗi ghi trên 2 chiếc thang. Con đã trèo
lên khá cao, sau khi đã lấy phấn bôi xóa gần hết những tội của con. Một lát
sau, Cha vẫn còn lẹt đẹt tít phía dưới và gọi với lên: “Con còn phấn không, cho
Cha xin đỡ mấy cục, hộp phấn của Cha hết sạch rồi”. Kể xong câu chuyện, chàng
thanh niên chuồn thẳng, còn Cha xứ đứng đó tủm tỉm cười.
Tất cả mọi người chúng ta đều là tội nhân, từ các anh em linh mục,
tu sĩ hay giáo dân. Có nhiều linh mục đã sống rất thánh thiện và gương mẫu,
nhưng hỏa ngục không phải là nơi vắng bóng các Cha đâu.
Sống hoàn thiện ơn gọi nên thánh của tất cả mọi người chúng ta
luôn khởi đầu với việc ý thức sâu xa thân phận tội lỗi nơi mình.
Kết luận
Trong năm thánh Lòng Thương Xót Chúa, chúng ta bày tỏ sự tín
thác tuyệt đối nơi Ngài. Chúng ta hãy học lấy thái độ của người đầu tiên được Chúa
Giêsu trực tiếp tuyên thánh khi Ngài bị treo trên Thập giá. Đó là một tên trộm,
suốt cả một đời ngập đầy tội ác. Người trộm này đã nhận ra lầm lỗi của mình khi
anh ta thốt lên: “Phần chúng ta bị như thế này thật thích đáng”, và anh ta đã
đăm đăm nhìn vào ánh mắt đầy yêu thương của Chúa. Vâng, khởi đầu của việc nên
thánh là khi chúng ta biết nhận ra những vết đen trong quá khứ và đặt niềm tin
tuyệt đối vào lòng Thương xót của Đấng đã chết vì chúng ta.
8. Trổ sinh hoa trái thiêng liêng
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Sáng hôm ấy, Thầy giáo cho các em học sinh một trò chơi. Thầy
chia học sinh trong lớp thành hai nhóm. Mỗi nhóm phải lần lượt đưa ra đáp án
cho câu hỏi của thầy. Nhóm nào thắng sẽ được một gói quà, nhóm nào thua phải
quét lớp.
Câu hỏi được ghi lên bảng như sau: Em hãy cho biết công dụng
của viên gạch.
Hai nhóm lần lượt đưa ra các câu đáp như sau: Gạch được
dùng để xây nhà – lót đường đi, lót sân – kê chân bàn, chân tủ – chặn cửa
– chận bánh xe – chặn giấy - kê thành bếp nấu ăn (khi đi trại)
– làm gối kê đầu khi dã ngoại - giã lương thực (giã gạo) thay cho chày –
dùng thay búa để đập – tự vệ trước đối thủ - tấn công đối thủ, ném chó – làm thớt
– vân vân…
Không ngờ viên gạch xem ra quá đỗi tầm thường mà có thể
mang lại nhiều công dụng như thế.
Tiếp đến, Thầy giáo đề nghị nêu lên công dụng của cây xương
rồng bà, loại cây nầy có nhiều gai tua tủa trên hai mặt lá, thân cao từ một đến
hai mét, mọc dày trên những đồi núi khô cằn.
Hai nhóm lại lần lượt nêu lên những công dụng sau: trồng
làm hàng rào bảo vệ nương rẫy - thức ăn cho dê cừu (sau khi dùng rơm rạ đốt cho
cháy xém) - che chắn gió - phủ xanh đồi trọc - chống xói mòn - cung cấp trái
cho chim chóc - ủ làm phân xanh, vân vân…
Cũng không ai ngờ cái thứ xương rồng đầy gai góc, tưởng là
vô tích sự đáng chặt bỏ kia lại cống hiến cho đời nhiều công dụng tốt lành như
thế.
Sau cùng, Thầy giáo nêu lên câu hỏi thứ ba: Em hãy cho biết
lợi ích mà những kẻ lười biếng chẳng làm việc gì, có thể mang lại cho xã hội.
Đến đây, nhiều khuôn mặt hồn nhiên trở nên đăm chiêu tư lự,
một số em vò đầu, nhiều em cắn bút suy nghĩ hồi lâu mà không ai tìm được bất kỳ
một cống hiến nào của nhóm người nầy cho nhân quần xã hội.
Qua Tin Mừng Luca (13, 6-9), Chúa Giêsu đề cập đến một cây vả vô
tích sự, chẳng mang lại lợi ích gì, còn thua cả viên gạch hay cây bàn chải
trong câu chuyện trên đây. Người nói: "Người kia có một cây vả trồng trong
vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn:
“Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt
nó đi, để làm gì cho hại đất?” Nhưng người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để
nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang
năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi.” (Lc 13, 6-9)
Qua đoạn Tin Mừng nầy, Chúa Giêsu kêu gọi mọi người hãy sám hối
và một trong những lý do khiến người ta phải sám hối là vì đã không dùng thời
giờ và năng lực Chúa ban để sinh nhiều “hoa trái” vật chất hay tinh thần.
Trổ sinh những loại hoa trái nào đây?
Mỗi người chúng ta là một thứ cây rất quý được Thiên Chúa đem trồng
trong vườn nho của Chúa.
Mỗi con người là một tạo vật rất tuyệt vời do Thiên Chúa dựng
nên theo hình ảnh Người và được Thiên Chúa bồi bổ cho bằng Lời hằng sống và bằng
vô vàn ân huệ cao quý. Thế nên, nếu chúng ta không trổ sinh được hoa trái thì,
theo lời Chúa nói, đáng bị hủy diệt.
Nâng cao phẩm chất của mình, làm gương sáng, làm tròn bổn phận đối
với Chúa, đối với cha mẹ, vợ chồng, anh chị em trong gia đình, tham gia xây dựng
phúc lợi cộng đồng, chăm lo phục vụ những người gặp khó khăn, bệnh tật, túng
thiếu… đang sống chung quanh ta là những hoa trái tốt lành mà mọi người có thể
cống hiến cho Chúa và cho đời. Trái lại, nếu ta không cống hiến được gì cho
Thiên Chúa và xã hội, thì thực đáng buồn và có thể phải chung số phận với cây vả
không trái trên đây.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa như người làm vườn nhân hậu đã nài xin Chúa Cha ban
cho chúng con thêm một cơ hội chót để hoặc là trổ sinh hoa trái tốt lành hay là
chết.
Xin cho chúng con biết tận dụng thời giờ còn lại để lập
thêm công đức, để sinh nhiều hoa trái tốt, hoa trái vật chất cũng như hoa trái
thiêng liêng, nhờ đó cuộc đời chúng con tăng thêm giá trị và chúng con sẽ làm
vinh danh Chúa bằng đời sống cao đẹp của mình.
9. Hãy sinh hoa trái – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Cuộc sống con người luôn có những hối tiếc do lầm lần của quá khứ.
Hối tiếc vì mình đã sống như thế! Hối tiếc vì việc tốt mà mình đã bỏ qua. Hối
tiếc vì việc mình làm đã gây nên đau khổ cho tha nhân. Và dường như, ai trong
chúng ta cũng từng hối tiếc về một việc làm nào đó.
Nhà Bác học Einstein, "cha đẻ của nguyên tử lực”, là một
người Đức gốc Dothái. Ông đã chạy trốn khỏi nước Đức và định cư tại Mỹ năm 1933
vì sự truy sát của Hittle. Năm 1939, Einsten đã trình lên Tổng thống Mỹ
Roosevet dự án chế tạo bom nguyên tử để đề phòng sự bành trướng của nước Đức. Dự
án đã được Tổng thống phê duyệt. Năm 1941, bom nguyên tử đã ra đời và đã thử
nghiệm thành công. Thế nhưng, tới năm 1945, sau khi hai quả bom nguyên tử nổ tại
Hyrosima và Nagasaky, khiến hàng trăm ngàn người chết oan uổng, Einstein đã hối
tiếc và nói: “Nếu tôi có thể làm lại cuộc đời, thì tôi sẽ làm một anh thợ hàn
còn hơn làm một nhà khoa học.”
Đôi khi nhìn lại mình, chúng ta vẫn thấy mình là tội nhân. Có biết
bao lời nói như những mũi tên chúng ta đâm thấu trái tim bao người. Có biết bao
lời nói, việc làm chúng ta đã gieo vãi những đau khổ vào cho nhân thế. Có rất
nhiều lần chúng ta cũng từng nuối tiếc như Einstein: Nếu có thể làm lại, chúng
ta sẽ không làm như thế!
Người Việt Nam có câu "ai nên khôn mà không dại một lần".
Lầm lỗi, yếu đuối, thiếu sót là lẽ thường tình của thân phận con người. Điều
quan yếu không phải chỉ nhìn nhận tội mình rồi than khóc tội mà là canh tân, khắc
phục hậu quả việc mình đã gây ra. Nhất là biết đứng dậy sau những lần vấp ngã.
Cuộc đời có vấp ngã, có lầm lỗi mới có kinh nghiệm để chiến thắng, để vượt qua
những cám dỗ trong cuộc đời.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sám hối khi thời gian còn
thuận tiện. Đừng thử thách Thiên Chúa nhưng hãy thật lòng ăn năn trở về cùng
Chúa. Sự trở về không chỉ là hành vi đấm ngực ăn năn về tội đã phạm mà còn phải
sống theo lời mời gọi của Chúa: “Hãy sinh hoa kết trái xứng với lòng ăn năn thống
hối”. Hoa trái của sự thánh thiện. Hoa trái của việc lành phúc đức. Hoa trái của
đời sống công bằng bác ái. Hoa trái của đời sống yêu thương và phục vụ mọi người.
Xem ra đường trở về là không khó. Cái khó là ở việc sinh hoa kết trái. Làm sao
chúng ta có thể sống thanh sạch đang khi còn sống giữa thế gian mà sự dâm ô, tục
tĩu, lăng loàn đang có mặt mọi nơi và mọi chốn? Làm sao làm việc lành phúc đức
đang khi phải cố gắng bươn chải với kế sinh nhau, với miếng cơm manh áo từng
ngày? Làm sao giữ được công bằng bác ái đang khi sống giữa thế gian đầy bất
công và hận thù? Làm sao sống yêu thương và phục vụ đang khi nhu cầu của bản
thân vẫn thiếu thốn tư bề?
Sinh hoa kết trái là khó nhưng đó là quy luật của sự tồn tại.
Cây không sinh hoa kết trái là tự huỷ diệt mình. Cây có sinh trái, trái mới cho
hạt, và hạt mới nẩy mần, phát triển thành cây để đơm hoa kết trái. Quy luật tuần
hoàn là thế. Cuộc sống con người cũng vậy. Con người chỉ nhận được niềm vui của
sự an bình và hạnh phúc, khi biết gieo yêu thương vào đời. Con người chỉ tồn tại
khi biết xoá bó những trái đắng của bất công và hận thù. Thế nhưng, biết bao
người vì lòng tham đã tự giết đời mình trong những đam mê của danh lợi thú. Biết
bao người vì những tham sân si đã trở thành trái cay, trái đắng cho đời những
phiền luỵ đắng cay. Làm người phải biết sống yêu thương. Tình yêu thương không
cho phép chúng ta sống lỗi công bình bác ái với tha nhân, và càng không cho
phép chúng ta dửng dưng trước sự bất hạnh của anh em. Lòng yêu thương đòi buộc
chúng ta phải yêu tha nhân như chính mình. Mỗi người hãy biết sống vì người
khác. Ai cũng cầu cho mình được bình an hãy biết kiến tạo bình an cho tha nhân.
Ai cũng mong muốn được sống hạnh phúc, vậy hãy gieo niềm vui và hạnh phúc cho
tha nhân. Ai cũng muốn được quan tâm chăm sóc, vậy hãy biết cho đi để được nhận
lại. Đó cũng là điều mà Chúa từng mời gọi chúng ta: “Điều gì anh em muốn người
khác làm cho mình thì hãy làm cho anh em như vậy.”
Hơn nữa, gieo yêu thương sẽ không bao giờ thua lỗ. Gieo yêu
thương sẽ gặt hái được biết bao hoa trái của tình yêu. Càng gieo yêu thương
càng được đón nhận nhiều nghĩa cử yêu thương. Khi gieo yêu thương thì hận thù sẽ
tan biến; bác ái sẽ nở hoa, công lý và hoà bình sẽ đơm bông kết trái. Người
gieo yêu thương sẽ gặt hái được cây sự sống mang lại hạnh phúc trường sinh.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết sống yêu thương như Chúa đã
yêu thương chúng ta. Biết sống cho đi để được nhận lại. Biết chết đi những đam
mê, ích kỷ của mình để trở nên khí cụ mang tin yêu và hạnh phúc gieo vào nhân
thế hôm nay. Amen.
10. Dấu chỉ thời đại.
Ngày xưa, cha ông chúng ta không cần tới những phương tiện hiện
đại để biết được thời tiết, trái lại, họ chỉ dựa vào những hiện tượng trong
thiên nhiên, mà cũng biết được nắng mưa, như tục ngữ đã diễn tả:
- Gió đàng nam vừa làm vừa chơi.
Đôi khi chỉ việc quan sát những phản ứng của thú vật, họ cũng biết
được thời tiết. Chẳng hạn:
- Chuồn chuồn bay thấp thì mưa,
Bay cao thì nắng bay vừa thì râm.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng khuyến khích chúng ta
hãy nhìn vào những sự kiện, những biến cố xảy ra chung quanh, để nhờ đó
mà biết được thánh ý Thiên Chúa. Ngài đã đưa ra hai trường hợp điển
hình.
Trường hợp thứ nhất đó là những người Galilêa bị Philatô giết và
trường hợp thứ hai đó là mười tám người khác bị tháp Silôê đổ xuống đè chết.
Dân Do Thái thì cho rằng sở dĩ những người bị chết là những kẻ tội lỗi cho nên bị
Chúa trừng phạt.
Thế nhưng, quan niệm của Chúa Giêsu thì khác, Ngài coi những biến
cố đau thương và đẫm máu ấy là như một tiếng chuông cảnh tỉnh được gởi đến với
họ, để họ ăn năn sám hối, làm lại cuộc đời và quay trở về cùng Chúa, nếu không
thì họ cũng sẽ phải chết một cách thảm khốc như vậy.
Còn với chúng ta ngày hôm nay thì sao? Hằng ngày qua báo chí,
truyền thanh và truyền hình, chúng ta đón nhận biết bao nhiêu sự kiện, biết bao
nhiêu biến cố đau buồn xảy ra khắp nơi trên trái đất. Chỗ này có những người chết
vì bom đạn chiến tranh, chỗ kia có những người chết vì thiên tai bão lụt, động
đất và sóng thần. Nơi khác lại có những người chết vì bệnh tật và nghèo đói.
Trước những biến cố đau thương ấy, nhiều lúc chúng ta cũng đã có
một thái độ lạnh lùng và nghiêm khắc như người Do Thái: Sở dĩ họ bị như vậy vì
họ là những kẻ tội lỗi. Thế rồi chúng ta yên tâm với cung cách mũ ni che tai,
cháy nhà hàng xóm bình chân như vại. Trong khi đó, Chúa đòi hỏi nơi chúng ta một
thái độ tích cực, đó là phải biết tìm hiểu thánh ý Ngài được gói ghém qua những
biến cố, qua những sự kiện ấy.
Cũng như nơi dân Do Thái, những biến cố, những
sự kiện ấy là như những tiếng chuông cảnh tỉnh Chúa gởi đến để kéo chúng ta ra
khỏi cuộc sống tầm thường và tội lỗi. Vấn đề được đặt ra đó là Chúa muốn nói gì
với tôi qua những sự việc, qua những biến cố ấy? Rồi từ đó, tôi sẽ phải uốn nắn,
sửa đổi lại những sai lỗi và khuyết điểm, để cuộc đời tôi sẽ đem lại những hoa
trái, và những hoa trái ấy luôn làm cho Chúa được hài lòng.
11. Hại đất
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Điều làm chúng ta khó sám hối đó là cảm thấy mình ở trong tình
trạng an toàn.
Đức Giêsu nói về hai biến cố nóng hổi tính thời sự, một do sự
tàn ác của Philatô, một do tai nạn lao động. Cả hai đều dẫn đến cái chết thảm
khốc: những người Galilê bị đổ máu ngay lúc dâng lễ ở Đền Thờ, mười tám người
chết vì bị tháp Silôa đè bẹp. Vào thời Đức Giêsu, họ bị coi là kẻ có tội, bị
Chúa phạt. Những người khác dễ nghĩ mình vô tội, vì còn được bình yên. Điều này
đưa đến sự tự hào và an toàn giả tạo.
"Đừng tưởng...": Đức Giêsu đưa ta ra khỏi ảo tưởng về
mình. Ngài nhắc mọi người sám hối vì biết ai nặng tội hơn ai.
Lúc còn được sống yên lành là lúc cần hoán cải. Có thể đây là cơ
hội cuối cùng, trước khi cái chết ập xuống.
Cây vả trong dụ ngôn cũng ở trong tình trạng an toàn. Nó không
cho trái độc, không làm hại nho, không phá cảnh quan. Nó chỉ phạm một tội thôi:
tội làm hại đất, tội sử dụng đất màu mỡ mà không sinh trái.
Chúng ta có thể cảm thấy an toàn như cây vả cằn cỗi. Tự hào vì
mình không làm điều xấu, chẳng làm hại ai, nhưng lại quên rằng mình đã phạm tội
không làm điều tốt, những điều tốt có thể làm được và phải làm. Có bao nén bạc
Chúa giao không được đầu tư (Mt 25,18), bao người túng thiếu mà ta không giúp đỡ
(Mt 25,42).
Khi không làm điều tốt cho đời, cho người, ta tiếp thêm sức mạnh
cho sự dữ tung hoành.
Sống đạo không phải chỉ là lo tránh tội, mà còn là tích cực gieo
rắc phát huy cái tốt.
Một Kitô hữu sống an phận, cằn cỗi là một phản chứng.
Thế giới cần những Kitô hữu dấn thân biết bao!
Dụ ngôn cây vả cho ta thấy khuôn mặt Thiên Chúa. Chúa Cha là người
chủ vườn kiên nhẫn: "Đã ba năm nay..." Ngài đã nuôi bao hy vọng:
"Tôi ra tìm trái mà không thấy".
Quyết định chặt cây chỉ đến sau những lần hụt hẫng.
Ngài chỉ phạt khi đã làm đủ cách để lay động tim ta.
Chúa Giêsu là người làm vườn kiên nhẫn không kém: "Xin ông
cứ để nó lại năm nay nữa". Ngài không ngừng ấp ủ chút hy vọng mong manh:
"Tôi sẽ vun xới, bón phân, may ra sang năm nó có trái".
Nhưng đừng quên lời đe doạ cuối cùng:
"Nếu không ông chủ cứ chặt nó đi".
Kiên nhẫn, hy vọng, chăm bón, nhưng cương quyết đòi hỏi: đó là
thái độ của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Đức Giêsu vừa thôi thúc chúng ta mau mau hoán cải, vừa chấp nhận
cho ta có thời gian trì hoãn.
Hoán cải là đón lấy những săn sóc tế nhị của Chúa, là đừng để
thui chột những ơn lành Ngài ban.
Mùa Chay không phải chỉ là để thú tội, mà còn thú cả sự cằn cỗi,
ì ạch của mình.
Ước gì cây đời của ta có nhiều trái hơn và ngọt hơn.
Gợi Ý Chia Sẻ
Tội thiếu sót việc bổn phận, tội sống vô trách nhiệm, tội không
làm điều lẽ ra phải làm: có khi nào bạn phạm những tội này không? Bạn có thấy
xã hội xấu đi vì nhiều người thản nhiên phạm thứ tội này không?
Bạn nghĩ gì về cây vả của đời bạn? Tình trạng này hiện nay của
nó ra sao? Làm sao để có thêm nhiều trái ngọt?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin dẫn con vào nhà của con, căn nhà của
trái tim, căn nhà vừa quen vừa lạ.
Xin hãy cho con thấy những phức tạp, rắc rối, những che đậy,
giằng co, những mâu thuẫn và vô lý nơi con.
Xin hãy cho con thấy những nhỏ mọn, ích kỷ, những yếu đuối,
khô khan, những cứng cỏi và tự ái nơi con.
Xin cho con ý thức những lo âu, sợ hãi đang đè nặng làm con
ngột ngạt, những nỗi đau thầm kín khiến đời con mất vui, những vết thương không
biết bao giờ lành, những đổ vỡ khiến lòng con khép lại.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin giúp con dọn những bề bộn nơi tim con.
Xin biến đổi tim con, để nó trở nên đơn sơ hơn, hồn nhiên
hơn và tươi tắn hơn.
Ước gì con nhìn mọi sự, mọi người, bằng trái tim bao dung của
Chúa. Và ước gì khi đã ra khỏi nỗi bận tâm về mình, trái tim con được nhẹ nhàng
hơn và tự do hơn để yêu mến mọi người. Amen.
12. Cái nhìn nội tâm - ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Mùa Chay là mùa sám hối. Sám hối là đổi mới tâm hồn. Muốn đổi mới
tâm hồn, phải đổi mới cách nhìn về con người và cuộc đời, về bản thân và tha
nhân. Hôm nay, Chúa Giêsu dạy ta những cách nhìn thời cuộc và biến cố theo tinh
thần của Người.
Thông thường, trước một biến cố, ta dễ có cái nhìn chính trị.
Hôm nay, người ta thuật lại việc Philatô giết những người Do Thái trong Đền Thờ.
Thời ấy, đế quốc Rôma đang thống trị nước Do Thái. Philatô là viên tổng trấn của
Rôma. Tường thuật biến cố đau thương này, người ta mong Chúa Giêsu có cái nhìn
chính trị, dấn thân vào chính trị. Người ta mong Chúa Giêsu kết án Philatô.
Không bàn chính trị, không làm chính trị, cho dù sau này Chúa Giêsu vẫn bị kết
án vì một tội chính trị. Không kết án Philatô, dù sau này chính Người bị viên tổng
trấn này kết án.
Trước mọi biến cố, Chúa Giêsu muốn ta có một cái nhìn tôn giáo,
vượt lên trên lĩnh vực chính trị. Từ một câu hỏi thuộc bình diện chính trị,
Chúa Giêsu đã đưa ra một giải đáp thuộc bình diện tôn giáo. Từ một biến cố gây
xôn xao dư luận, Chúa Giêsu mời gọi ta hãy ăn năn sám hối. Từ cái chết của thể
xác, Chúa Giêsu hướng suy nghĩ ta tới cái chết của linh hồn: “Các ông tưởng mấy
người Galilê đó bị như vậy là vì họ tội lỗi hơn những người Galilê khác sao?
Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối,
thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”.
Đối với người khác, ta dễ có cái nhìn kết án.
Khi gặp một người mù từ thuở mới sinh, người ta hỏi Chúa Giêsu: “Đây là do tội
nó hay tội của cha mẹ nó?”. Gặp người phụ nữ phạm tội ngoại tình, người ta muốn
kết án chị. Nga có thói quen cho rằng thành công là một ân huệ Chúa thưởng cho
người đạo đức, còn tai hoạ là hình phạt Chúa dành cho kẻ tội lỗi. Hôm nay, chứng
kiến những nạn nhân bị thiệt mạng, những người tường thuật đều nghĩ rằng những
nạn nhân ấy chết vì họ tội lỗi, còn tôi vô sự, điều đó chứng tỏ tôi vô tội.
Chúa Giêsu lên tiếng cảnh báo họ: Các ông cũng là kẻ tội lỗi. Nếu các ông không
ăn năn hối cải, các ông sẽ chết thảm khốc hơn những nạn nhân kia nữa. Chúa
Giêsu dạy ta có cái nhìn bao dung. Nếu có phải xét đoán, hãy xét mình trước khi
xét người. Nếu có phải lên án, hãy lên án chính bản thân mình trước khi lên án
người khác: “Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt ngươi trước, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy
cái rác ra khỏi mắt anh em”. “Ai trong các ông vô tội hãy ném đá chị này trước
đi”.
Sau cùng, ta thường có cái nhìn ảo tưởng.
Ta xây dựng những chương trình to lớn, những tham vọng đổi mới xã hội. Chúa
Giêsu dạy ta hãy có cái nhìn thực tế: Đừng ảo tưởng với những chương trình to
tát, lấp biển vá trời. Hãy bắt đầu bằng những việc nhỏ bé. Đừng có ảo tưởng đổi
mới xã hội, cải tạo thế giới. Trước hết, hãy đổi mới chính mình, cải tạo bản
thân mình. Tục ngữ Trung quốc có câu: Nếu mỗi người trông hoa trước cửa nhà
mình, cả thế giới sẽ biến thành một vườn hoa đẹp. Đổi mới chính mình đó là
góp phần vào đổi mới thế giới.
Với những bài học ấy, Chúa Giêsu hướng ánh mắt ta lên cao, vượt
thoát lĩnh vực tự nhiên để vươn tới lĩnh vực siêu nhiên. Với những bài học ấy,
Chúa Giêsu hướng cái nhìn của ta xuyên qua những lớp bì phủ bên ngoài để soi
chiếu vào chiều sâu nội tâm. Với những bài học ấy, Chúa Giêsu hướng cái nhìn của
ta ra khỏi những ảo tưởng, đối diện với thực tế bản thân để trước mỗi biến cố
ta tự xét và đổi mới chính mình.
Lạy Chúa, xin đổi mới trái tim con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Trong các biến cố, bạn có tìm thấy ý Chúa không?
2. Bạn có nghĩ rằng hễ ai gặp may thì đó là người đạo đức, ai gặp
tai nạn thì đó là người tội lỗi không?
3. Muốn đổi mới gia đình, xã hội, phải đổi mới bản thân trước. Bạn
nghĩ sao về điều này?
13. Ăn năn sám hối – R. Veritas
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Khi một người có vẻ gian ác gặp tai ương hoạn nạn, chúng ta vẫn
thường đưa ra nhận xét: ác giả ác báo, đúng là hắn bị trời phạt. Đây là cách
suy nghĩ thông thường của người đời. Cách đây đã hơn hai ngàn năm, những người
đồng thời với Chúa Giêsu cũng suy nghĩ cách thường tình như thế khi họ đến kể
cho Người nghe câu chuyện của người Galiê đang dâng lễ vật thì bị quan Philatô
giết chết. Khi kể câu chuyện này, họ ngầm ý nói rằng những người Galiê đó chắc
phải ăn ở thất đức mới bị giết đang khi dâng lễ như vậy. Nhân cơ hội này, Chúa
Giêsu sửa sai cách suy nghĩ thông thường đó và kêu gọi dân chúng sám hối để
thoát cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.
Khi nghe thuật lại biến cố tàn sát những người Galiê tại nơi tế
đàn, Chúa Giêsu không đồng tình với các suy nghĩ thông thường của những người kể
chuyện. Người đưa ra một cái nhìn mới, trong đó điểm quan trọng là mỗi người
hãy tự xét lấy cách ăn thói ở của mình thay vì xét đoán cách ăn thói ở và số phận
của kẻ khác.
Phê bình, xét đoán người khác là một việc làm thường gây thích
thú cho chúng ta, bởi chúng tạo cho chúng ta cảm giác mình là người tốt, hoặc
ít nữa, cũng không phải là người tồi tệ, đốn mạt. Người xưa có khuyên kẻ quân tử
hãy tự kiểm mỗi ngày ba lần để sửa mình. Trong dụ ngôn trên đây, Chúa Giêsu
cũng không ngừng nhắc nhở dân chúng sám hối. Người đưa ra hình ảnh cây vả trồng
trong vườn nho là hình ảnh rất quen thuộc trong Kinh Thánh khi nói về người
Israel và dân Israel. Cây vả ở đây là một cây vả đã ba năm rồi mà không hề sinh
hoa kết quả. Ba năm Chúa Giêsu ra đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho dân
chúng, thế mà có mấy ai thu lượm được hoa trái. Đúng ra, cơn thịnh nộ của Thiên
Chúa đã giáng xuống trên những con người ù lì ương ngạnh kia như lời Gioan Tẩy
Giả đã loan báo: “Cái rìu đã đặt sẵn gốc cây, bất cứ cây nào không sinh
quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa”. Tuy nhiên, Thiên Chúa là Cha
nhân ái và giàu lòng thương xót, Người vẫn độ lượng và gia hạn cho họ thêm một
thời gian để ăn năn hoán cải. Vì yêu thương, Người đã dằn cơn giận và cho họ
thêm một cơ hội nữa: Hãy sám hối khi vẫn còn thời cơ. Chúng ta thường mải miết
lo toan cho cuộc sống vật chất mà lơ là với cuộc sống tâm linh, đã biết bao năm
rồi, chúng ta như cây vả được trồng trong vườn nho của Thiên Chúa, chúng ta đã
mọc lên ra sao, chúng ta xanh tươi cành lá hay chúng ta quắt queo cằn cỗi,
chúng ta đâm bông kết trái hay chẳng có quả nào, chúng ta có tìm hiểu tại sao
mình ở trong tình trạng hiện nay hay không, chúng ta có kế hoạch cụ thể nào để
phát huy những điểm tốt và khắc phục những điểm xấu của mình hay chưa, ngày hôm
nay của chúng ta có khác hơn ngày hôm qua không, chúng ta có quyết tâm làm cho
ngày mai của chúng ta khá hơn ngày hôm nay hay không?
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói rằng: “Thầy là cây nho, các con
là cành. Ai ở trong Thầy, Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều
hoa trái, vì không có Thầy, các con chẳng làm gì được”. Xin cho con luôn kết hiệp
chặt chẽ với Chúa trong mọi giây phút của đời mình để cuộc sống của con được
sinh nhiều hoa trái tốt lành làm tôn vinh Thiên Chúa và mưu ích cho anh chị em.
14. Cơ hội cuối cùng – Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
Nếu hôm nay có người đến nói với bạn: “Anh chỉ còn đúng một năm
nữa để sống thôi”, bạn sẽ làm gì trong năm cuối cùng đó của cuộc đời? Bạn sẽ tự
nhủ: “Ồ, ta cứ sống đi đã. Lúc nào chết tính sau”, hay bạn sẽ tính toán: “Dẫu
sao thì cũng còn 365 ngày nữa. Tới ngày thứ 300, ta bắt đầu chuẩn bị cũng còn kịp
chán.”
Nếu đó là thái độ sống của bạn thì e rằng bạn đang sa lưới của
Satan rồi. Một tinh thần lề mề và một thái độ trì hoãn sẽ mang lại biết bao tai
hoạ. Để đến ngày mai những gì nên làm hôm nay là tự đánh mất tương lai của
chính mình. Không có cám dỗ nào nguy hiểm cho bằng tư tưởng: “đời còn dài, ngày
mai còn kịp”.
Một dụ ngôn kể lại việc ba quỷ con đến chào tướng quỷ là
Satan trước khi lên trần gian tập sự. Chúng trình bày cho Satan những mưu đồ của
mình trong việc phá huỷ hạnh phúc con người.
Quỷ con thứ nhất đến trình rằng: “Em sẽ bảo với người ta là
không có Thiên Chúa đâu. Thế nên đừng lo phải đi nhà thờ nhà thánh gì cả.”
Satan trả lời: “Như thế thì chẳng lừa được mấy người đâu, vì họ dư biết là có một
Thượng đế, Đấng Tối cao trên muôn loài muôn vật.”
Quỷ con thứ hai vội tiến lên trình bày sách lược của mình:
“Em sẽ rỉ tai người ta là không có hoả ngục đâu. Thiên Chúa là Đấng yêu thương
nên làm gì có chuyện Ngài dựng nên hoả ngục để hành hạ con người.” Nghe thế
Satan trầm tư một chút rồi nói: “Nhưng cách này cũng chỉ lừa được một ít người
thôi, vì người ta cũng dư biết Thiên Chúa là Đấng Công minh. Ngài sẽ thưởng phạt
theo công phúc của họ. Thế nên mấy ai lại không hiểu là phải có hoả ngục để làm
nơi chứa tội.”
Quỷ con thứ ba lại gần và tâu với thủ lãnh: “Em sẽ nói với
loài người rằng không có gì phải vội vã cả, còn lâu Chúa mới trở lại.” Satan
suy nghĩ, đoạn gật gù và nói: “Hay lắm, bằng cách đó ngươi sẽ tiêu diệt được
hàng vạn linh hồn.”
Thế ra, không có sự lừa dối nào tai hại cho người ta bằng ý tưởng
“thời gian còn nhiều”, để rồi cứ mãi đắm chìm trong đam mê tội lỗi, rối vợ rối
chồng, hững hờ niềm tin, tôn thờ vật chất, sa lầy hưởng thụ. Và cuối cùng, như
cây vả không sinh trái, bị chặt xuống và quăng vào lửa đời đời.
Thánh Anphongsô từng viết: “Ai cũng biết rằng mình sẽ chết,
nhưng khốn thay! Nhiều người nghĩ rằng sự chết còn rất xa. Họ cho rằng những
người già cả, ốm yếu mà còn sống được ba bốn năm nữa, huống chi là mình. Nhưng
con hãy biết, đã có biết bao nhiêu người chết một cách bất ưng, khi họ đang ngồi,
đang đi, đang ngủ…
Có ai trong họ nghĩ rằng mình sẽ chết” (xem sách Chân Lý Đời Đời của Thánh
Anphongsô).
Vị tông đồ dân ngoại từng nhắc nhở các cộng đoàn tiên khởi: “Khi
người ta nói: Bình an và chắc chắn! Thì bấy giờ là lúc tiêu diệt thình lình ập
xuống trên họ”
(1 Tx 5:3). Thế nên hãy biết tỉnh thức, sám hối, và canh tân. Chính Chúa Giêsu
cũng đã phán: “Nếu các ngươi không ăn năn sám hối, thì tất cả các ngươi cũng sẽ
bị huỷ diệt” (Lc 13:3).
Sám hối không chỉ là công việc dừng chân trên con đường tội lỗi,
nhưng còn là một ý thức về thời điểm hồng ân: “đây là lúc thuận tiện, đây là
ngày cứu độ”.
Sám hối là nhận rõ thời điểm của yêu thương tràn đầy. Tình thương dạt dào đến nỗi
Thiên Chúa còn tạo thêm cơ hội và kiên nhẫn đợi chờ: “Xin để cho nó một năm nay
nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân, may ra nó có quả chăng” (Lc
13-8-9a).
Có cảm nhận được tình Chúa yêu thương và nỗi mong chờ tha thiết của
Ngài, con người sẽ có một cuộc sám hối đích thực. Sám hối là trở về trong yêu
thương của Thiên Chúa, một tình yêu tự hiến và vị tha. Cảm nhận được tình yêu
như thế sẽ làm phát sinh hoa trái là bao việc lành phúc đức.
“Dụ Ngôn Cây Vả”
không những lên án thứ cây “ăn hại và làm choáng đất”, nhưng còn nói rõ yếu tố
kết thành bản án. Đó là thứ cây “không sinh trái”. Thế nên sám hối không chỉ là
việc thôi không phạm tội nữa, song còn là việc tô điểm tâm hồn bằng những hoa
trái thiêng liêng. Thiên Chúa không đến để nhìn một cây vả trơn tru, không gai
góc, nhưng Ngài đến là để tìm hoa quả nơi cành của nó.
“Xin để một năm nay nữa. Bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi”.
Thiên Chúa luôn cho tôi cơ hội làm lại cuộc đời. Ngài luôn mở lòng yêu thương mời
gọi những ai sa ngã chỗi dậy. Thế nhưng cơ hội thì có hạn. Sẽ đến ngày chỉ còn
một cơ hội cuối cùng. Nếu đời tôi còn một năm, hay một tháng, hoặc một ngày nữa
thôi thì sao. Thật bất hạnh vô cùng khi tôi đánh mất cơ hội cuối cùng đó.
Vì không biết đâu là cơ hội cuối, nên tôi phải xem ngày hôm nay
như là “lúc thuận tiện” để nhận ơn cứu độ đời mình. Nếu ngày mai Chúa còn cho sống,
thì ngày mai vẫn là một cơ hội không nên đánh mất.
Thông thường, mỗi tối trước khi lên giường nghỉ đêm, chúng tôi
hay đọc Kinh “Cầu Ơn Chết Lành”, xin được ghi lại dưới đây như một chia sẻ chân
thành:
“Lạy Chúa con, con biết thật con sẽ chết. Có khi con chỉ
còn sống được ít phút nữa mà thôi. Có khi đêm nay con vào giường nghỉ mà sáng
mai chẳng còn chỗi dậy nữa. Cho nên Chúa dặn bảo con: dọn mình vào giường ngủ
như là vào mồ chết vậy.
Lạy Chúa con, con biết thật đến giờ lâm chung, con sẽ ước
ao chớ gì khi sống, con chẳng có phạm tội, lại hết lòng kính mến Chúa luôn. Lại
vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy. Con ước ao sống và chết
trong sự kính sợ Chúa.
Ôi Chúa con, con xin phó dâng linh hồn con cho Chúa, vì
Chúa đã mua nó giá rất cao. Xin chớ để nó ra vô phước mà chẳng nhờ đặng Máu
Thánh Chúa đã đổ ra mà cứu chuộc nó.
Lạy Mẹ Hằng Cứu Giúp. Lạy Thánh Thiên thần hộ thủ. Lạy
Thánh Bổn mạng con. Lạy các Thánh Nam Nữ trên Nước Thiên đàng. Xin hãy chuyển cầu
cho con được sống trong sự kính sợ Chúa, chết trong sự yêu mến Chúa, và làm tôi
Chúa ở đời này, hầu ngày sau được hưởng cùng Chúa và Đức Mẹ trên Thiên đàng.
Amen.
Giêsu, Maria, Giuse. Con xin dâng lòng con, trí khôn con, và sự
sống con trong tay ba Đấng.
Giêsu, Maria, Giuse. Xin cho con được chết bằng an trong tay ba
Đấng.”
Thiết tưởng, nếu mỗi tối, khi màn đêm buông xuống, trong không
gian tĩnh mịch, với tâm tình cầu nguyện chân thành như trên, đời ta sẽ không thể
không sinh hoa trái yêu thương. Và đương nhiên, hoa trái đó sẽ tồn tại cho đến
muôn đời.
15. Hoán cải tâm hồn.
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Người ta kể lại rằng vào thế kỷ đầu của Kitô giáo, trong thành
phố Alexandria, có một vị ẩn sĩ rất nổi danh tên là Hôrôniô. Ông đã bỏ cuộc sống
xa hoa của kinh hoàng tráng lệ để vào ẩn tu trong sa mạc. Các nhân đức thánh
thiện của ông được dân chúng đất nước Ai Cập biết đến, cũng như người ta biết đến
cuộc sống trác táng của cô công chúa nổi tiếng thành Alexandria. Tức giận vì thấy
ai cũng nhắc đến Hôrôniô, nàng công chúa nhất quyết vào tận sa mạc để cám dỗ
ông phạm tội. Thế là nàng sửa soạn và ăn mặc rất khiêu gợi, lộng lẫy, đến vùng
vị ẩn tu đang sống.
Vừa thấy bóng nàng, ông Hôrôniô đã lớn tiếng giảng: Hãy ăn
năn hoán cải tâm lòng để khỏi phải chết đời đời. Hãy cải thiện nếp sống để có hạnh
phúc đích thật. Các thú vui đời này như hoa kia sớm nở tối tàn, phù du và mau
qua như giấc mộng. Hãy từ bỏ tội lỗi và tiến bước theo Chúa để được niềm vui
vĩnh cửu.
Nàng công chúa vừa uốn éo, cười giỡn và nhìn sâu vào đôi mắt
của vị ẩn sĩ như con rắn thôi miên con mồi. Trong khi đó Hôrôniô không ngừng giảng
thuyết về cuộc đời hoán cải và gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa. Những lời ông
nói như gươm đâm thấu lòng nàng. Và sau cùng, công chúa quyết tâm hoán cải.
Nàng từ bỏ kinh tnành Alexandria tráng lệ, các tình nhân, tình yêu, cả cuộc đời
trác táng, và vào ẩn tu trong sa mạc để kiếm tìm Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc thật.
Trái lại, ẩn sĩ Hôrôniô miệng lo giảng giải, mà tấm lòng ông bị mê hoặc bởi sắc
đẹp, mùi hương thơm xuất ra từ thân mình kiều diễm khiêu gợi của công chúa. Ông
tự nhủ trong lòng: Tôi sẽ từ bỏ hang tối lạnh lẽo buồn bã này để thử nếm các
vui thú của trần gian. Thế là sau bao năm tu luyện, ẩn sĩ trở lại kinh thành
tráng lệ để lao đầu vào cuộc sống ăn chơi hưởng thụ và chết trong cảnh thân tàn
ma dại. Còn nàng công chúa, sau những năm trác táng mệt nhọc đã hoán cải tâm
lòng, tiến vào sa mạc, sống cuộc đời chay tịnh cầu nguyện và chết vì hao mòn khổ
hạnh bên Chúa Giêsu tình yêu là kho tàng duy nhất của nàng.
Hoán cải tâm lòng để gặp gỡ Thiên Chúa,
được hạnh phúc đích thực và được ơn cứu độ. Đó cũng là lời Chúa Giêsu kêu mời
chúng ta trong Chúa nhật hôm nay, là thời gian Giáo Hội khuyến khích chúng ta
tìm thời gian gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa.
Trong Phúc Âm của thánh Luca hôm nay ghi lại một vài biến cố thời
sự Chúa Giêsu dạy các môn đệ và dân chúng biết học hỏi ý nghĩa các dấu chỉ của
một biến cố trong đời, các tai ương như quan Philatô sát hại người Do Thái và
biến cố tháp Siloe sập đè chết nhiều người, vì có các lý do nội tại và ngoại tại
của chúng nó. Có gì lạ khi tháp xây lâu ngày nứt nẻ, đến nổi không còn đứng vững
được nữa sập đè chết người. Có gì lạ khi một chính quyền đô hộ nghi ngờ mọi cuộc
hội họp là mưu toan chống đối phản loạn, và ra lệnh giết mà không cần biết thực
hư ra sao. Tháp sập theo luật vật lý, người ta hội họp bị sát hại vì đường lối
và chính trị của con người tàn ác. Các nạn nhân là những người chẳng may gặp những
hoàn cảnh đó, chớ không phải vì họ bị tháp đè chết hay bị sát hại, mà có thể giải
thích hay kết luận là họ tội lỗi hơn những người khác nên Chúa phạt. Hay nói
cách khác, không phải vì người gian ác tội lỗi không gặp các tai ương mà có thể
kết luận họ là những người thánh thiện.
Các tai ương, các biến cố khổ đau, tội lỗi và bất công đó sẽ trở
thành dấu chỉ. Đó là sấm sét báo động kêu mời mỗi con người hoán cải tâm lòng,
thay đổi cuộc sống và canh tân phù hợp với cuộc sống tốt lành thánh thiện hơn,
để đừng gây ra chết chóc và khổ đau cho người khác, để khỏi phải chết đời này
và nhất là khỏi phải chết đời sau.
Kêu gọi loài người trở lại sống với Chúa, bởi vì ác giả ác báo,
gieo gió thì gặt bão. Mỗi người sẽ gặp những gì mình đã gieo vào trong cuộc đời
trên trần gian. Chính con người tự phạt mình qua kiểu cách sống tội lỗi gian
tham đó. Vì Thiên Chúa yêu thương hết mọi người, điều duy nhất Thiên Chúa muốn
là họ hoán cải tâm lòng để hình ảnh Ngài trở nên trong sáng tinh tuyền. Đó là
cuộc giải phóng vĩ đại nhất mà Thiên Chúa không ngừng tiếp tục trong lịch sử
loài người. Cuộc giải phóng con người khỏi kiếp sống nô lệ tội lỗi, sự dữ và
cái chết. Cuộc giải phóng đó là một cuộc giải phóng cụ thể toàn diện, liên hệ đến
mọi bình diện cuộc sống chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và tôn giáo.
Để thực hiện nó, Thiên Chúa luôn luôn định mức trước và từ đó hiện
ra cho con người như được kể trong sách Xuất Hành. Tường thuật của gặp gỡ giữa
Môisê với Thiên Chúa trong sa mạc là một bằng chứng. Đối với các dân tộc Trung
Đông, tên gọi của một người diễn tả bản chất của người đó. Giavê, tên của Thiên
Chúa xuất phát từ động từ Hawah trong tiếng Do Thái, trong nghĩa thụ động nó diễn
tả "sự hiện hữu", nhưng trong nghĩa chủ động, nó có nghĩa "trở
thành, xảy ra, hoạt động dấn thân, can thiệp vào hay sống với".
Tên gọi mà Thiên Chúa mạc khải cho Môisê đây, chứa đựng một Tin
Mừng vĩ đại. Thiên Chúa là Đấng sống với con người, luôn luôn hiện diện bên con
người, luôn luôn dấn thân hoạt động và ra tay can thiệp để trợ giúp, giải thoát
và cứu vớt con người. Cho dầu có sự việc gì xảy ra đi nữa, Thiên Chúa là Đấng
giải thoát Israel, muốn và sẽ cứu độ loại người.
Tên gọi Thiên Chúa: "Lửa, khói, bão táp, v.v..." một
thứ ngôn ngữ, kiểu cách mà Cựu Tân Ước quen dùng để diễn tả quyền năng siêu việt
của Thiên Chúa. Cũng thế "bàn tay, cánh tay phải, v.v..." diễn tả sự
chở che bênh đỡ của Ngài, đối với những người bé mọn, yếu đuối.
Đứng trước Giavê Thiên Chúa, Đấng hằng giải phóng và cứu độ con
người, thái độ đúng đắn duy nhất mà tín hữu phải có là thái độ ký thác trọn vẹn.
Mọi nghi ngờ, mọi than trách lẩm bẩm, phản kháng và chống đối, không diễn tả
bươc tiến của niềm tin trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Và thường khi, đó là
thái độ của những người không có lòng tin.
Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô chương 10, thánh Phaolô
nhắn nhủ mọi người đừng lặp lại tội lỗi của cha ông họ ngày xưa đã từng lẩm bẩm
than trách Thiên Chúa, vì không có khả năng nhận ra sự hiện diện giấu ẩn, nhưng
sống động quyền năng và hữu hiệu của Ngài trong cuộc đời họ và trong lòng lịch
sử thế gian.
16. Lời mời gọi sám hối.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Lời Chúa hôm nay mời gọi mọi người sám hối, vì Thiên Chúa là Đấng
luôn nhân từ hay thương xót, Ngài luôn động lòng trước nỗi thống khổ của con
người, Ngài luôn thương và cứu giúp con người.
Thiên Chúa giải phóng dân Người
Dân Do Thái bị bóc lột, bị đàn áp và bị tiêu diệt từng ngày.
Trong cùng quẫn, họ đã kêu lên Thiên Chúa, và Ngài đã giải phóng họ bằng việc
sai gởi Môsê tới lãnh đạo dân, thương lượng với vua Pharaô, đưa dân ra khỏi
Ai-cập.
Thiên Chúa động lòng trước nỗi khổ của dân Do Thái, trước nỗi khổ
của Môsê lang bạt trong hoang địa khi trốn chạy Pharaô. Thiên Chúa đã hiện ra
cho Môsê qua bụi gai bốc cháy mà không tàn, để sai Môsê đi giải phóng dân. Môsê
lãnh đạo giải phóng dân, nhưng không phải Môsê lãnh đạo giải phóng dân, mà
chính là Thiên Chúa giải phóng dân. Đây chính là điều dân Do Thái cần ghi nhớ để
dạy lại cho con cháu.
Thiên Chúa, Đấng tự hữu, luôn yêu thương và cứu trợ dân người.
Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người
Người đời cho rằng những người bị tai họa là những người tội lỗi,
nên bị Chúa phạt. Nhưng Đức Giêsu lại không cho rằng những người bị Philatô sát
hại cũng như những người bị thác Siloê đổ đè chết, là những người tội lỗi hơn
những người còn đang sống. Đức Giêsu nói: “Không đâu! Nhưng nếu các người không
sám hối, các người sẽ bị như vậy”. Những người bị nạn đó, trở thành tấm gương,
là bài học để con người hôm nay nhìn vào, hầu thay đổi cách sống. Thiên Chúa vì
yêu thương những người còn đang sống, hôm nay vẫn dùng bao biến cố, như những tấm
gương, để răn dạy con người.
Dụ ngôn cây vả không sinh trái, và người làm vườn đã xin ông chủ
khoan nhượng để bón phân tưới nước, hy vọng cây vả sẽ ra trái vào năm sau, bằng
không thì sẽ chặt nó sau, cũng là dụ ngôn cho thấy Thiên Chúa vẫn luôn nhân từ
và kiên nhẫn đối với con người tội lỗi.
Xin cho con người hôm nay, cụ thể là mỗi người chúng ta, được cảm
nhận lòng yêu thương nhân từ kiên nhẫn của Thiên Chúa, để mỗi người chúng ta trở
về với Ngài, và sinh hoa kết trái trong đời sống.
Dân Do Thái là bài học cho mọi người mọi dân tộc
Dân Do Thái là dân riêng của Thiên Chúa, được Thiên Chúa thương
yêu với bao đặc ân. Nhưng Thiên Chúa cũng thương mọi dân tộc như thương dân Do
Thái. Họ được chọn để trở thành “tấm gương tầy liếp” (tấm gương to), cho tất cả
mọi người, mọi dân tộc nhìn vào để soi, để thấy tình yêu của Thiên Chúa với dân
Do Thái, và qua dân Do Thái đối với các dân tộc khác, với mọi người trên trần
gian.
Dân Do Thái được Thiên Chúa đưa ra khỏi Ai-cập, được Ngài nuôi
ăn bằng manna, được uống nước từ tảng đá. Nhưng tất cả những điều đó, cũng là dấu
chỉ, là hình bóng, cho thấy Thiên Chúa vẫn luôn nuôi sống con người qua cơm
bánh họ có từng ngày. Hơn nữa, con người hôm nay còn được nuôi sống bằng mình
máu Đức Giêsu nơi bí tích Thánh Thể.
Cả lịch sử dân tộc Do Thái thành bài học cho con người của mọi
thời đại sau này. Xin cho mỗi người cũng như mỗi dân tộc biết nhìn lịch sử dân
Do Thái để nhận ra tiếng Chúa nói với mình, nhận ra tình yêu Thiên Chúa dành
cho mình.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Qua các thiên tai cũng như những sự dữ con người gây ra, nhiều
người cho rằng Thiên Chúa độc ác, với tư cách là người Kitô hữu bạn giải thích
hay trả lời họ thế nào?
2. Bạn có cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa đối với bạn và những
người thân của bạn qua những biến cố bao giờ chưa? Nếu được xin chia sẻ.
3. Sám hối, trở lại với Thiên Chúa, theo bạn, chủ yếu hệ tại
đâu?
17. Thay đổi bộ mặt thế giới – Radio Veritas Asia
(Trích trong ‘Suy niệm Lời Chúa’)
Đời sống con người là một cuộc chiến đấu liên lỉ không ngừng.
Không tìm đâu ra nơi nào mà không khỏi chiến đấu.
Một phần lớn dân Chúa đã phải bị chết trong sa mạc và không được
vào đất Chúa hứa vì không chiến đấu. Qua tấm gương đó, thánh Phaolô nhắc nhở
tín hữu thành Côrintô: bao nhiêu hồng ân của Thiên Chúa đừng đổ vào vết xe cũ,
đừng tụ phụ mà quên chiến đấu. Vì ai tưởng mình đứng vững hãy coi chừng kẻo
ngã. Sứ điệp của thánh Phaolô trong đoạn thánh thư trên đây thật rõ ràng. Các
tín hữu Kitô cần phải thận trọng và đừng coi việc lãnh nhận phép Rửa tội và những
việc đạo đức như một bảo hiểm chắc chắn sẽ được cứu rỗi, để rồi trở nên bất cẩn
và quên chiến đấu với những yếu đuối, những cám dỗ của ma quỉ và những đam mê dục
vọng của mình. trong bối cảnh của Mùa Chay, đoạn thư thánh Phaolô gởi tín hữu
Côrintô cũng là một lời mời gọi các tín hữu Kitô tiến lên mừng lễ Phục sinh
trong tinh thần khiêm tốn, với ý thức mình là người tội lỗi và luôn tỉnh thức để
chiến đấu, bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới của Chúa Kitô Phục sinh.
Với Chúa nhật hôm nay, chúng ta đã tiến vào tuần III của Mùa
Chay, chúng ta đã làm gì để đáp lại lời Giáo Hội kêu mời: Hãy ăn năn thống
hối và tin vào Tin Mừng.
Là những người tự xưng là tín hữu Kitô, là những người tin, những
người sống niềm tin của mình vào Đức Giêsu Kitô, nhưng thành thật với lòng,
chúng ta phải thú nhận đức tin của chúng ta vẫn còn yếu kém, cuộc sống đức tin
của chúng ta chưa nở hoa kết quả bằng những việc cụ thể để nối dài đời sống của
Đức Giêsu như Ngài chờ đợi, như hình ảnh cây vả trong vườn nho được đề cập đến
trong bài Phúc Âm hôm nay. Vì thế một trong những phương pháp để củng cố đức
tin, một đức tin có việc làm đi kèm là nhìn ngắm và dõi theo mẫu gương của những
kẻ có đức tin vững mạnh.
Bài đọc thứ nhất chúng ta vừa nghe đọc nhắc lại mẫu gương đức
tin của ông Môisê. Khởi đầu cuộc hành ttrình đức tin của ngài có thể gom lược
vào những diễn tiến sau đây: Trong lúc chăn dê trên núi, Môisê thấy dấu lạ,
ngài đi để nhìn xem việc gì xảy ra, và đang lúc đi xem, ngài nghe tiếng Thiên
Chúa gọi dẫn dắt dân tộc Do Thái qua khỏi cảnh nô lệ lầm than bên Ai Cập. Thấy
bụi gai bốc lửa cháy mà không bị thiêu hủy, đi đến gần để nhìn cho rõ và nghe
tiếng Chúa gọi. Đó là ba bước tiến xem ra đơn sơ nhưng diễn tả những giai đoạn
xác thực của lịch sử ơn gọi của nhiều người có đức tin vững mạnh.
Những người như ông Môisê trước đó có tổ phụ Abraham và gần đây
có những nhân vật lừng danh như mục sư Martin, như Đức Gioan XXIII, hay Mẹ
Têrêxa Calcutta. Mỗi người trong họ đều khám phá giữa môi trường họ đang sống,
có một cái gì đó lẽ ra không nên xảy ra: một dấu lạ, một câu hỏi khó giải quyết,
một vấn đề nóng bỏng.
Abraham gặp vấn đề không có đồng cỏ cho đàn gia súc ngày một
sanh sôi, và ngược lại không có con để nối dòng.
Môisê chạm trán với vấn đề bất công, bóc lột và đàn áp mà
dân Do Thái phải gánh chịu trong cảnh sống ăn nhờ ở trên đất Ai Cập.
Đối với mục sư Martin, bụi gai cháy với một giọt nước cuối
cùng đã nhỏ giọt trên cái ly đầy nước, làm phát động phong trào đấu tranh cho sự
bình đẳng của người da đen trong xã hội Mỹ, là cảnh một phụ nữ da đen bị bắt
giam khi trên một chuyến xe bus vì tự trọng, bà đã không đứng dậy để nhường chỗ
cho một hành khách da trắng.
Còn Đức Gioan XXIII thấy Giáo Hội này có bổn phận dẫn dắt,
cần phải được canh tân, một đàng để trở về nguồn Phúc Âm và đàng khác để đáp ứng
với những vấn đề và những hoàn cảnh của cuộc sống tiên tiến của những thập niên
của thế kỷ XX.
Trong khi đó thì Mẹ Têrêxa Calcutta khi đã thấy, Mẹ cảm
nghiệm được tiếng gọi Mẹ phải làm một cái gì đó cho những người nghèo đói, bệnh
tật kiệt sức đến đổi chỉ còn biết nằm chờ chết ở các vỉa hè của thành phố
Calcutta, những người mà Mẹ Têrêxa thông cảm sâu xa, vì trong suốt cuộc đời họ
chưa bao giờ kinh nghiệm được một nụ cười yêu thương, hay một tia hy vọng.
Tất cả những nhân vật kể trên và nhiều người khác nữa không chạy
trốn khỏi những kẻ thương tâm, những vấn đề nóng bỏng. Ngược lại họ đã nhìn thẳng
vào những vấn đề ấy, cố gắng tìm những biện pháp để giải quyết.
Như ông Môisê họ đã tự nói với mình: "Ta hãy lại xem cảnh
tượng kỳ lạ này" Để rồi sau đó, họ càng xác tín là những hoàn cảnh thương
tâm ấy cần phải thay đổi tận gốc rễ. Trong những tiếng kêu gào đòi phải có những
biện pháp để thay đổi, họ nghe được tiếng nói của Thiên Chúa. Họ cảm nghiệm được
mệnh lệnh không thể cưỡng lại được, một mệnh lệnh không cho phép họ chạy trốn
trách nhiệm. họ cảm thấy như một con đường đã được vạch ra giữa những hoàn cảnh
khó khăn, kêu gọi họ phải theo đó mà hành động. Abraham đã bỏ quê cha đất tổ để
lên đường đi tìm một quê hương Thiên Chúa sẽ chỉ cho ông. Môisê đã tìm Pharaôn
để tranh đấu cho cuộc xuất hành khỏi ách nô lệ lầm than của dân Do Thái. Martin
đã đi phát động phong trào giải phóng người da màu ở Hoa Kỳ. Đức Gioan XXIII
triệu tập Công đồng chung Vatican II và nữ tu Têrêxa đã trở thành bà Mẹ của những
người nghèo.
Lắng tai nghe tiếng gọi vang lên từ những hoàn cảnh, chạm trán với
cuộc sống hằng ngày, những nhân vật trên đây và nhiều người khác đã cảm thấy họ
có trách nhiệm để sửa đổi. Vâng lời, cậy trông và nhất là đầy lòng tin và can đảm,
họ đã lên đường khởi đầu một cuộc hành trình, một cuộc hành trình không thiếu
những khó khăn vất vả, và nguy hiểm. Nhưng càng tiến bước họ càng nghe rõ tiếng
gọi của Chúa. Họ càng khám phá Thiên Chúa không phải là Đấng ngự trên chín từng
trời cao thẳm, nhưng Thiên Chúa là Đấng luôn quan tâm và thiết tha đến vận mạng
của nhân loại và của từng cá nhân.
Thiên Chúa là Đấng tuyên bố với ông Môisê: "Ta đã thấy dân
chịu cơ cực ở Ai Cập. Ta đã nghe tiếng chúng kêu than bởi kẻ bất công áp bức.
Ta biết nỗi đau khổ của chúng". Và Thiên Chúa là Đấng đã quyết định giáng
tai họa xuống trên người Ai Cập để cứu dân Do Thái và đưa chúng ra khỏi đất ấy,
đến miền đất tốt tươi, đất tràn trề sữa và mật ong.
Ngay trong những hoàn cảnh xã hội chúng ta đang sống, chúng ta
có thể khám phá ra những điều khác lạ với điều bị lửa cháy mà không thiêu hủy.
Những vấn đề nóng bỏng chưa được giải quyết, những trạng huống kêu gào sự sửa đổi,
những hoàn cảnh thương tâm kêu gọi những bàn tay băng bó những vết thương, những
vấn đề khó khăn xảy ra cả trong chính gia đình hay ngoài thôn xóm.
Để sống niềm tin Kitô của chúng ta, chúng ta không thể bưng tai
giả điếc, ngoảnh mặt làm ngơ. Chúng ta càng không có quyền chạy trốn thực tại,
nhưng chúng ta hãy noi gương ông Môisê và những người có đức tin vững mạnh khác
để đến gần xem cho rõ và nghe tiếng Chúa kêu gọi, hầu chung tay sửa đổi, chung
sức tìm cách giải quyết những vấn đề nóng bỏng hay tỏ tình liên đới và rộng tay
chia sẻ những gì mình có cho những kẻ không có gì. Và ít ra là trao tặng cho những
người đang gặp những hoàn cảnh thương tâm một câu nói khích lệ, một nụ cười
thông cảm. Đây có thể là tiếng Thiên Chúa gọi chúng ta. Để đặc biệt làm trong
Mùa Chay, chúng ta tham gia vào quá trình thay đổi mới bộ mặt xã hội chúng ta
đang sống. Nhưng thiết nghĩ, trong bầu khí ăn năn thống hối và trong trung tâm
cuộc sống của Mùa Chay, chúng ta không nên quên câu châm ngôn: "Hãy
thay đổi bộ mặt thế giới, nhưng hãy bắt đầu bằng cuộc sống thay đổi chính
mình".
18. Sự kiên nhẫn chờ đợi – Radio Veritas Asia
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’)
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay chỉ cho chúng ta thấy rằng: Thiên
Chúa là Đấng nhân từ đầy lòng thương xót, Người luôn cảm thông trước những nỗi
khổ của con người và trước những nếp sống tội lỗi bất trung, Người luôn
mong chờ sự hối hận ăn năn, từ bỏ tội lỗi trở về sống trong ân sủng và tình
thương của Người.
Nơi bài đọc thứ nhất, những lời Chúa nói cùng Môisê chắc chắn vẫn
còn vang dội đến ngày hôm nay: "Ta đã thấy dân Ta phải khổ cực ở Ai Cập,
Ta đã nghe tiếng chúng kêu than. Ta đã biết nỗi đau khổ của chúng và Ta đến cứu
chúng". Khoảng 3,000 năm trước, Thiên Chúa đã nói với Môisê những lời đó,
thì ngày nay, chắc chắn cũng chính Thiên Chúa duy nhất không bao giờ thay đổi
đó cũng thấy, cũng nghe, cũng biết những nỗi đau khổ của con người thời đại.
Chúng ta đừng tìm đâu xa, hãy nhìn vào chính bản thân mình, gia đình mình, xung
quanh mình thôi, chúng ta đã nhận thấy biết bao đau khổ. Khổ vật chất do túng
thiếu, bệnh tật, bất công. Khổ tinh thần như buồn phiền, thương nhớ, sợ sệt, lo
âu... Trước tất cả những nỗi thống khổ đó Chúa đã nói: "Ta đã thấy, đã
nghe và đã biết và này Ta đến để cứu chúng".
Trong lịch sử Chúa đã cứu dân Do Thái thế nào? Người không cứu họ
như phù thủy quăng chiếc đũa thần trong nháy mắt biến buồn ra vui, đổi đau khổ
thành hạnh phúc và con người mất cả tính người trở nên như một cái máy chỉ còn
biết bị bắt buộc hướng về một chiều mà thôi. Không, Chúa đã cứu dân Người bằng
một thời gian tôi luyện 40 năm trong sa mạc, trong cuộc hành trình về đất Hứa,
đất tràn trề sửa và mật ong. Và để được cứu thoát, con người phải trung thành với
Chúa, tin tưởng nơi Chúa. Dầu qua gian nan, qua thử thách, con người phải luôn
nhớ như thánh vịnh 102 nhắc là: "Chúa là Đấng thương xót và nhân ái".
Hãy tin tưởng nơi Chúa và rồi chỉ khi nào nhìn lại, chúng ta mới cảm thấy thấm
thía những lời của thánh vịnh trên. "Hồn tôi ơi hãy chúc tụng Chúa và toàn
thể thân tôi hãy chúc tụng danh Người. Hồn tôi ơi hãy chúc tụng Chúa và đừng
bao giờ quên các ân huệ của Người".
Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô áp dụng vào Tân Ước hình ảnh
trong Cựu Ước. Môisê dắt dân Chúa qua biển Đỏ, nuôi dân chúng bằng Manna trong
sa mạc, giải khát dân chúng bằng nước từ tảng đá chảy ra. Trong Tân Ước, chính
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa dắt chúng ta vào đời sống mới qua bí tích Thánh Tẩy,
nuôi dưỡng chúng ta bằng của ăn cực thánh là Bí Tích Thánh Thể và uống nước từ
tảng đá mà thánh Phaolô nói rõ, tảng đá ấy chính là Chúa Kitô. Và thánh nhân
cũng nhắc nhở rằng cuộc thanh tẩy 40 năm ở Cựu Ước đã được ghi chép để răn bảo
chúng ta, là những người đang sống trong thời đại cuối cùng đã được thanh tẩy
tôi luyện, thì những ai bất xứng, những ai cố chấp chắc chắn là tự mình tạo lấy
sự hủy diệt cho mình. Và chỉ những ai trung thành sống theo sự hướng dẫn của Thiên
Chúa mới được vào đất Hứa. Vì thế, kết luận bài đọc thứ hai, thánh Phaolô nhắc
nhở phải bền đổ đến cùng. Ngài nói rõ: "Ai tưởng mình đang đứng vững hãy ý
tứ kẻo ngã".
Trong bài Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng cho chúng ta thấy Thiên Chúa
là Đấng thương xót và nhân ái. Trước tiên, Người dạy chúng ta đừng kết án ai,
cũng đừng trách móc Chúa theo sự kiện xảy ra. Biết bao nhiêu người khi thấy một
điều bất hạnh xảy đến cho mình hay cho những người mình yêu mến thì hay phàn
nàn: Thật là bất công, tôi đã làm chi mà Chúa để cho tôi phải chịu như thế này?
Trái lại, khi điều bất hạnh xảy đến cho những người mà họ không ưa thì câu nói ở
cửa miệng thường là: Thật trời có mắt hay Chúa công bình vô cùng. Con người hay
gán cho Thiên Chúa những gì họ nghĩ trong lòng họ. Thiên Chúa công bình vô
cùng, nhưng suốt đời sống con người ở trần gian, Thiên Chúa vẫn là Cha nhân từ
vô cùng. Người không thất vọng nhưng luôn chờ đợi những hoa quả tốt tươi trong
đời sống con người. Chúa luôn ban ơn săn sóc và mong cho cuộc đời chúng ta đơm
hoa kết trái.
Nghe qua dụ ngôn trong Phúc Âm về sự kiên nhẫn chờ đợi, mong mỏi
những gì tốt đẹp xứng với sự chăm nom của chủ vườn, chúng ta hãy thấy được tình
yêu thương, lòng nhân từ, sự kiên nhẫn của Thiên Chúa đối với con người và cố gắng
trở về cùng Chúa nhất là trong Mùa Chay này. Vì "đây là lúc thuận tiện,
đây là thời cứu độ".
Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi hãy đặt câu hỏi: Phải
bắt đầu từ đâu để cải tạo thế giới? Và tôi sẽ nghe được tiếng trả lời: Hãy bắt
đầu từ chính bản thân tôi. Cải tạo thế giới, công việc quá to lớn vĩ đại, nhưng
mỗi người hãy bắt đầu từ bản thân mình và rồi thế giới sẽ tươi đẹp. Vậy tôi hãy
cố gắng sửa chữa một nết xấu tôi biết là quan trọng của tôi trong Mùa Chay này
và ngay ngày hôm nay. Xin Chúa nhận lấy lòng thành của tôi và giúp đỡ tôi.
19. Cơ hội thứ hai – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Có một câu chuyện về một cây vĩ cầm như sau: Cây vĩ cầm bị
rạn nứt, người ta dán lại và đem ra bán đấu giá. Người bán đấu giá nghĩ rằng chẳng
nên phí thời giờ chăm chút nó làm gì. Nhưng ông vẫn tươi cười cầm nó lên và rao
bán:
- Thưa quí vị ai sẽ bắt đầu trả giá đầu tiên đây?
Một đồng, rồi hai đồng. Chỉ có hai đồng thôi sao? Ai sẽ trả
nó ba đồng đây. Vâng, một người trả ba đồng. Không ai trả hơn sao?
Bỗng từ cuối phòng, một người đàn ông tóc hoa râm bước lên
cầm lấy cây đàn, ông lau sạch bụi chiếc đàn cũ kỹ, rồi lên dây lại. Sau đó, ông
tấu lên một bản nhạc êm dịu, ngọt ngào, du dương như bài ca của các thiên thần.
Tiếng nhạc dừng lại, người bán đấu giá chậm rãi, hỏi:
- Tôi sẽ ra giá bao nhiêu cho chiếc vĩ cầm này đây?
Đoạn ông vừa cầm đàn lên vừa nói:
- Một ngàn đồng, và ai tăng lên hai ngàn? Hai ngàn rồi, có
ai chịu tăng lên ba ngàn không? Một người chịu giá ba ngàn, còn nữa không?
Đám đông hồ hởi reo vui, nhưng có vài người trong họ la
lên:
- Chúng tôi hoàn toàn chẳng hiểu cái gì đã làm thay đổi giá
trị cây vĩ cầm đó?
Lập tức có tiếng đáp lại:
- Chính nhờ đôi tay người nghệ sĩ chạm vào đấy!
Đứng trước những biến cố đem lại tai hoạ và
chết chóc cho con người, Chúa Giêsu không bình luận theo quan điểm của người Do
Thái thời đó; Tin Mừng hôm nay kể lại việc quan tổng trấn Philalô tàn sát mấy
người Galilê và việc tháp Siluê đổ xuống đè chết 18 nạn nhân. Người Do Thái cho
rằng những người bị tai hoạ đó là do tội lỗi của chính họ,
nên bị Thiên Chúa giáng phạt. Còn những người khác thấy vẫn bình yên vô sự, thì
cho rằng mình vô tội, nên dễ tự hào về sự thánh thiện của mình. Chúa Giêsu
không nghĩ thế, Người không cho rằng những người bị nạn đó tội lỗi hơn đồng
hương của họ. Người muốn nhấn mạnh rằng mọi người đều là tội nhân, đều bị Thiên
Chúa phán xét, đều đáng chịu án phạt của Người, nên cần phải ăn năn sám hối, để
tránh hình phạt của Thiên Chúa.
Tính cấp bách phải sám hối ăn năn được Chúa Giêsu nói rõ trong dụ
ngôn cây vả: Thiên Chúa là người trồng cây, Chúa Giêsu là người làm vườn, và
dân Itraen là cây vả không sinh trái. Thiên Chúa đã tuyển chọn dân Itraen làm
dân riêng của Người, và ban cho nhiều đặc ân, nhưng họ lại không sinh hoa kết
trái, là trung thành với lề luật, sống công chính, và phụng thờ một mình Người.
Thiên Chúa đã chấp thuận lời đề nghị của Chúa Giêsu, là cho họ một
cơ hội thứ hai, một thời gian để chăm bón thêm, với các lời giảng dạy của Chúa
Giêsu và các phép lạ kèm theo. Nhưng họ vẫn cố chấp, không hoán cải để sinh hoa
trái. Vì thế, họ đã bị Thiên Chúa loại bỏ: Điều đó đã được chứng thực vào năm
70 sau Công Nguyên khi đền thánh Giêrusalem bị tàn phá.
Thiên Chúa cũng đã tuyển chọn chúng ta trong kế hoạch nhiệm mầu
của người và yêu thương chăm sóc chúng ta cách đặc biệt. Người chờ mong chúng
ta sinh ra hoa trái tốt tươi. Nhưng nếu chúng ta chưa thực hiện được những mơ ước
của Người, thì cũng như cây đàn vĩ cầm rạn nứt trong câu chuyện trên đây, Người
cũng cho chúng ta một cơ hội, là đôi tay kỳ diệu của người nghệ sĩ đã chạm vào
cây đàn, chính là Đức Giêsu, để chúng ta tấu lên những khúc nhạc du dương, là
bài ca của những tâm hồn biết ăn năn, là hoa trái của những tấm lòng sám hối.
Chúng ta hãy cảm nhận tri ân Chúa Giêsu đã cho chúng ta cơ hội
thứ hai này, và tận dụng tối đa cơ may ấy đế sinh nhiều hoa trái trong mùa Chay
thánh.
Lạy Chúa, mỗi một biến cố đau buồn là một lời nhắc nhở
chúng con hãy sẵn sàng tỉnh thức. Mỗi một ngày mới là một cơ hội Chúa khoan
giãn để chúng con có thời gian sám hối ăn năn.
Xin đừng để chúng con khất lần kẻo cũng bị số phận như cây
vả không trái, nhưng xin cho chúng con biết dùng ơn Chúa để nên thánh thiện, sống
đẹp lòng Chúa mỗi ngày một hơn. Nhất là biết chuẩn bị giờ chết ngay từ bây giờ
bằng việc ăn năn sám hối. Amen.
20. Suy niệm của Radio Veritas Asia
ĐẤNG TỪ BI VÀ HAY THƯƠNG XÓT CHẬM BẤT BÌNH VÀ HẾT SỨC KHOAN
NHÂN
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’)
Trong cùng một thời gian, dân chúng tại Phi Luật Tân đã xúc
động mãnh liệt vì hai vụ án:
- Vụ án thứ nhất diễn ra tại Phi Luật Tân. Một tòa án địa
phương gần Manila đã tuyên án phạt bảy lần chung thân một viên thị trưởng và
sáu đồng bọn vì tội hãm hiếp và giết người. Đa số người dân Phi đều biểu lộ sự
hài lòng vì công lý đã được thực thi. Một số người khác thì lại tỏ ra bất mãn
vì cho rằng hình phạt tương xứng với tội nhân này lẽ ra là phải tử hình.
- Vụ án thứ hai diễn ra tại Singapore. Một phụ nữ Phi Luật
Tân vốn làm nghề "giúp việc nhà" tại Singapore đã bị toà án tại nước
này xử tử hình vì tội giết người. Tối thứ Năm, tại Manila cũng như nhiều nơi
khác tại Phi Luật Tân, nhiều tín hữu công giáo Phi đã canh thức suốt đêm để cầu
nguyện cho việc thực hiện bản án được hoãn lại. Và vụ án cần phải được xét lại
bởi vì theo nhiều người Phi, người phụ nữ này vô tội. Tuy nhiên, mặc cho phản đối
của người dân Phi, và mặc cho lời cầu cứu của Tổng Thống Phi Luật Tân, sáng thứ
Sáu, chính phủ Singapore đã ra lệnh treo cổ người phụ nữ Phi theo đúng qui định
của hình luật nước này.
Phản ứng của người dân Phi Luật Tân qua hai vụ án trên đây xem
ra cũng là phản ứng thông thường của con người. Dù bất cứ nơi nào và thời đại
nào, có tội thì phải bị trừng trị và kẻ vô tội thì phải được giải oan. Thời
Chúa Giêsu xem ra người Do Thái cũng có một quan niệm tương tự. Cho dẫu được lồng
vào trong cái nhìn tôn giáo, khi tổng trấn Philatô ra lệnh hành quyết một số
người Galilê nổi loạn, thì nhiều người Do Thái cho rằng những người này lãnh một
hình phạt tương xứng với tội lỗi của họ. Họ là những con người có tội cho nên cần
phải bị trừng trị. Số phận của 18 người bị tháp Silôê đổ xuống đè chết cũng được
nhiều phán quyết tương tự: họ bị Chúa trừng phạt vì họ là người tội lỗi.
Cùng với tự do hạnh phúc và những giá trị cơ bản khác, công lý
là điều mà con người không ngừng khao khát và tìm kiếm. Tuy nhiên cái khái niệm
công lý nơi con người thì hạn hẹp và sự thực thi công lý lại càng bất toàn hơn.
Trong những chế độ độc tài, có biết bao nhiêu người bị giam giữ vì bất đồng
chính kiến, có biết bao nhiêu người chết rũ tù mà không hề được xét xử. Còn nay
trong những chế độ thật sự có tự do, vẫn có biết bao nhiêu người bị hàm oan,
còn bao nhiêu kẻ gian ác thì vẫn không hề sa lưới pháp luật. Nơi đây, người ta
đòi lập bản án tử hình. Nơi kia người ta tranh đấu để bãi bỏ. Quả thật trên trần
gian này khát vọng về công lý của con người không bao giờ được thỏa mãn hoàn
toàn. Chính vì thế mà khi nhận định về số phận của những người bị Philatô sát hại,
cũng như những nạn nhân của vụ tháp Silôê đổ xuống đè chết, Chúa Giêsu đã mời
những người Do Thái của thời đại này hãy vượt qua cái quan niệm thông thường về
công lý của con người: "mắt đền mắt, răng đền răng", "có vay có
trả", "tôi cho bạn là để bạn cho tôi lại". Đó là cái quan niệm
thông thường của con người về công lý. Tuy nhiên, khi đưa ra thí dụ về cây vả,
Chúa Giêsu lại đưa con người vào trong một cái nhìn mới. Đó là cái nhìn của
kiên nhẫn, của khoan dung và tha thứ. Đó là cách thế Thiên Chúa đối xử với con
người. Theo công lý của loài người, thì cây vả không sinh trái phải bị chặt
quăng đi tức khắc. Thế nhưng, cái nhìn của Thiên Chúa là cái nhìn của "Đấng
từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân" như chúng ta
vừa đọc trong bài đáp ca.
"Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng",
lời kêu gọi sám hối của Chúa Giêsu luôn gắn liền với Tin Mừng của tình yêu, của
sự tha thứ, của lòng khoan dung vô bờ của Thiên Chúa. Sám hối không chỉ là nhìn
nhận thân phận tội lỗi yếu hèn của mình, mà thiết yếu là tin vào tình yêu của
Thiên Chúa. Nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình và tin vào tình yêu của
Thiên Chúa, đây cũng chính là chìa khóa của sự hài hòa trong cuộc sống xã hội.
Sau khi Đavít phạm tội ngoại tình và giết người, ông vẫn ung
dung tự tại như không hề có gì xảy ra. Thế rồi, tiên tri Nathan được Chúa sai đến
gặp ông và kể về chuyện bất công của một người hàng xóm nọ. Đavít nổi giận, ông
đòi trừng trị tức khắc kẻ bất nhân. Lúc bấy giờ Nathan mới nói: "Con người
bất nhân đó chính là ông". Lúc bấy giờ Đavít mới chợt bừng tỉnh, ông nhận
ra cái thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. Chúng ta vốn mù quáng về mình nhưng
lại nhạy cảm trước sự yếu đuối của người khác, đó là mầm móng của thái độ bất
khoan dung. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sám hối nghĩa là nhận ra thân phận tội
lỗi của mình, nhưng thiết yếu là phải tin tưởng vào lượng khoan dung tha thứ của
Thiên Chúa. Cảm nhận được ơn tha thứ của Chúa, chúng ta được mời gọi để thể hiện
chính sự tha thứ và khoan dung với tha nhân. Quan hệ giữa người với người lúc
đó sẽ không còn là "mắt đền mắt, răng đền răng" nữa, mà sẽ là thông cảm
tha thứ. Cuộc sống xã hội sẽ không chỉ được điều khiển bởi thứ công bình có vay
có trả, mà cần phải được xây dựng trên sự tha thứ, lòng quảng đại vô vị lợi.
Thánh lễ chính là sự thể hiện của ơn tha thứ của Chúa. Chúng ta
đến đây để đón nhận ơn tha thứ một cách nhưng không, chúng ta cũng được mời gọi
để thể hiện sự tha thứ một cách nhưng không. Chỉ có điều kiện đó, chúng ta mới
xứng đáng cầu nguyện: "Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ
có nợ chúng con" trước khi chúng ta rước Mình và Máu Chúa Kitô.
21. Sám hối để tự cứu mình – Lm Ignatio Trần Ngà
Dụ ngôn cây vả được trồng trong vườn nho, được chăm sóc chu đáo
mà không mang lại hoa trái, khiến người chủ vườn thất vọng và muốn chặt bỏ đi,
vẫn được tái diễn hằng ngày, như trường hợp điển hình sau đây:
Một sinh viên được cha mẹ cho đi học ở thành phố. Cha mẹ ở
miền quê một nắng hai sương, cực nhọc đêm ngày, cắm đầu cắm cổ làm việc hùng hục
như trâu, cần cù như kiến, nhịn ăn nhịn tiêu để đầu tư tất cả cho con học hành
với hy vọng con trai mình có ngày đổ đạt kỹ sư, có công ăn việc làm, có đồng
lương cao để báo đáp công ơn cha mẹ.
Nào ngờ, đứa con không dùng tiền cha mẹ đầu tư cho mình để
học hành cho thành đạt, lại đổ tiền vào việc ăn chơi đàng điếm, rồi dần hồi trở
thành người nghiện ma tuý, nhiễm HIV, và trở nên một tên côn đồ.
Bao nhiêu đồng tiền xương máu cha mẹ dồn cho anh ta như muối
bỏ biển. Đã mất tiền, lại mất con, cha mẹ vô cùng thất vọng và đau khổ vì con.
Đây cũng là một thứ cây vả không sinh trái khiến người chủ vườn
thất vọng nên muốn chặt bỏ đi.
Như người cha người mẹ tốt lành, Thiên Chúa cũng đầu tư cho
chúng ta rất nhiều, chăm sóc chúng ta rất chu đáo. Ngài đem trồng chúng ta vào
vườn nho Hội Thánh của Ngài. Ngài đã dùng lời Ngài để uốn nắn chúng ta, dùng lời
dạy của Hội Thánh để hướng dẫn chúng ta, dùng máu Ngài đổ ra trên thập giá để cứu
chuộc chúng ta khỏi chết, dùng Mình Thánh Ngài để thông ban sự sống đời đời cho
chúng ta. Nói tóm lại, chẳng có gì Ngài có thể làm mà lại không làm để nâng đỡ
cứu vớt chúng ta, để giúp chúng ta nên người hoàn thiện. Thế nhưng thay vì sử dụng
ân huệ của Ngài để cải thiện đời sống và nâng cao phẩm chất cho xứng với tầm
vóc người con cái Chúa, chúng ta đã sử dụng ân huệ dồi dào Chúa ban để làm điều
bất xứng, làm suy giảm nhân cách, làm ô danh Chúa, làm đau lòng cho Ngài.
Nếu chúng ta cứ tiếp tục hành động như thế mà không sửa mình,
thì như lời Chúa Giêsu cảnh báo hôm nay, số phận của chúng ta sẽ y như số phận
của cây vả đã được chăm bón đầy đủ nhưng không sinh trái, là bị chặt bỏ đi, bị
huỷ diệt đời đời trong đau khổ như các nạn nhân được đề cập trong Tin Mừng hôm
nay.
Vậy muốn sống còn và được hưởng phúc đời đời với Chúa, chúng ta
phải dùng thời giờ và ân huệ Chúa ban để ăn năn sám hối.
Tội lỗi là khối u ác tính; sám hối là cắt bỏ khối u để cứu toàn
thân, vì nếu không, thì toàn thân phải chết: "nếu các ngươi không ăn năn hối
cải, các ngươi sẽ bị huỷ diệt"
Phạm tội là đi trệch đường Chúa như tàu đi trật đường rầy; sám hối
là quay về chính lộ để khỏi sa vào chỗ chết: "nếu các ngươi không ăn năn hối
cải, các ngươi sẽ bị huỷ diệt".
Con người vướng mắc tội lỗi cũng y như ngôi nhà bị bén lửa, lửa
sẽ lan nhanh và thiêu rụi ngôi nhà; sám hối là dập tắt ngọn lửa kịp thời để cứu
toàn bộ ngôi nhà khỏi cháy. "Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi
sẽ bị huỷ diệt".
Lạy Chúa Giêsu, Chúa như người làm vườn nhân hậu đã nài xin
Chúa Cha hoãn lại cho chúng con thêm một thời gian nữa để chăm sóc cho chúng
con, hầu mong chúng con sinh hoa trái tốt;
Xin đừng để chúng con làm cho Chúa thất vọng vì không sinh
trái mà lại sinh toàn gai góc.
Xin cho chúng con biết tận dụng thời giờ còn lại để lập
thêm công đức, để sinh nhiều hoa trái tốt, hoa trái vật chất cũng như hoa trái
thiêng liêng, nhờ đó cuộc đời chúng con thêm tươi đẹp và chúng con sẽ làm vinh
danh Chúa bằng đời sống cao đẹp của mình.
22. Hãy sinh hoa kết trái – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền.
Có ai đó đã nói rằng: "lầm lỗi là của con người, tha
thứ là của Thiên Chúa". Có lẽ đúng. Vì nhân vô thập toàn. Vì con
người bị giới hạn bởi tri thức, bởi văn hoá, bởi sự giáo dục... Tất cả những điều
đó làm cho con người không sao tránh khỏi những lầm lỗi và thiếu sót. Nhìn vào
những gì đang diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, cho chúng ta thấy: có những
người vì sự hiểu biết nông cạn, cộng thêm sự kiêu căng ngạo mạn nên hành động
thiếu chín chắn và hồ đồ gây nên biết bao đau khổ cho anh em. Nhất là những người
lãnh đạo nếu không khiêm tốn nhìn nhận sự khiếm khuyết của mình sẽ là mối hiểm
họa cho tập thể mình đang sống. Có những người bởi thiếu văn hoá nên nói năng bừa
bãi, thiếu lễ độ và bất lịch sự khiến người nghe cảm thấy bị xúc phạm. Có những
người vì môi trường giáo dục thiếu lành mạnh nên sống buông thả và lười biếng
gây nên biết bao tệ nạn xấu cho xã hội. Đáng tiếc thay nhiều người đã hành động
đến mất ý thức về chân thiện mỹ. Họ đã tiếp tay với ma qủy để gieo sự dữ vào thế
gian. Họ là người nhưng lại hành động thiếu lý trí, thiếu tự chủ của ý chí. Cuộc
sống sai lệch của họ đã gây nên biết boa hệ lụy đắng cay cho bản thân và gia
đình. Dầu vậy, tình yêu của Thiên Chúa còn lớn hơn tội lỗi con người. Chúa đã
không đối xử với chúng ta theo như chúng ta đáng tội, nhưng Ngài luôn lấy lòng
từ bi để yêu thương và tha thứ cho những lầm lỗi của chúng ta.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sám hối khi thời gian còn
thuận tiện. Đừng thử thách Thiên Chúa nhưng hãy thật lòng ăn năn trở về cùng
Chúa. Sự trở về không chỉ là hành vi đấm ngực ăn năn về tội đã phạm mà còn phải
sống theo lời mời gọi của Chúa: "Hãy sinh hoa kết trái xứng với lòng ăn
năn thống hối". Hoa trái của sự thánh thiện. Hoa trái của việc lành phúc đức.
Hoa trái của đời sống công bằng bác ái. Hoa trái của đời sống yêu thương và phục
vụ mọi người. Xem ra đường trở về là không khó. Cái khó là ở việc sinh hoa kết
trái. Làm sao chúng ta có thể sống thanh sạch, đang khi còn sống giữa thế gian
mà sự dâm ô, tục tĩu, lăng loàn đang có mặt mọi nơi và mọi chốn? Làm sao làm việc
lành phúc đức, đang khi phải cố gắng bươn chải với kế sinh nhau, với miếng cơm
manh áo từng ngày? Làm sao giữ được công bằng bác ái, đang khi sống giữa thế
gian đầy bất công và hận thù? Làm sao sống yêu thương và phục vụ đang khi nhu cầu
của bản thân vẫn thiếu thốn tư bề?
Sinh hoa kết trái là khó nhưng đó là quy luật của sự tồn tại.
Cây không sinh hoa kết trái là tự hủy diệt mình. Cây có sinh trái. Trái mới cho
hạt. Hạt mới nẩy sinh cây để đơm hoa kết trái. Quy luật tuần hoàn là thế. Cuộc
sống con người cũng vậy. Con người chỉ nhận được niềm vui của sự an bình và hạnh
phúc, khi biết gieo yêu thương vào đời. Con người chỉ tồn tại khi biết xoá bó
những trái đắng của bất công và hận thù. Thế nhưng, biết bao người vì lòng tham
đã tự giết đời mình trong những đam mê của danh lợi thú. Biết bao người vì những
tham sân si đã trở thành trái cay, trái đắng cho đời những phiền lụy đắng cay.
Làm người phải biết sống yêu thương. Tình yêu thương không cho phép chúng ta sống
lỗi công bình bác ái với tha nhân, và càng không cho phép chúng ta dửng dưng
trước sự bất hạnh của anh em. Lòng yêu thương đòi buộc chúng ta phải yêu tha
nhân như chính mình. Mỗi người hãy biết sống vì người khác. Ai cũng cầu cho
mình được bình an hãy biết kiến tạo bình an cho tha nhân. Ai cũng mong muốn được
sống hạnh phúc hãy gieo niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Ai cũng muốn được
quan tâm chăm sóc, hãy biết cho đi để được nhận lại. Đó cũng là điều mà Chúa từng
mời gọi chúng ta: "Điều gì anh em muốn người khác làm cho mình thì hãy làm
cho anh em như vậy".
Hơn nữa, gieo yêu thương sẽ không bao giờ thua lỗ. Gieo yêu
thương sẽ gặt hái được biết bao hoa trái của tình yêu. Càng gieo yêu thương
càng được đón nhận nhiều những nghĩa cử yêu thương. Khi gieo yêu thương thì hận
thù tan biến; bác ái sẽ nở hoa, công lý và hoà bình sẽ đơm bông kết trái. Người
gieo yêu thương sẽ gặt hái được cây sự sống mang lại hạnh phúc trường sinh.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết sống yêu thương như Chúa đã
yêu thương chúng ta. Biết sống cho đi để được nhận lại. Biết chết đi những đam
mê ích kỷ của mình để trở nên khí cụ mang tin yêu và hạnh phúc gieo vào nhân thế
hôm nay. Amen.
23. Kiên nhẫn của tình yêu - Achille Degeest
Người ta nghĩ rằng những người Galilê nói đến trong bài Phúc Âm
hôm nay là những nạn nhân bị đàn áp trong một cuộc nổi dậy chống quân La mã, có
lẽ xảy ra trong khuôn viên Đền Thờ Giêrusalem. Người ta cho rằng tháp Silôam ở
gần giếng Silôam phía đông nam thành. Nhân hai vụ bi thảm này, Chúa Giêsu đánh
đổ một thành kiến và Người đưa cuộc tranh luận lên một tầm cao hơn. Não trạng
Do Thái thời đó coi bất đắc kỳ tử là hình phạt Thượng đế áp dụng cho kẻ tội lỗi.
Nhân hai vị chết người tập thể này. Chúa phán rằng những hình phạt thật sự về sự
dữ nằm ở chỗ khác. Trước hết, dường như cách kín đáo Chúa nói, nếu dân thành
Giêrusalem không trở lại với Thiên Chúa bằng niềm tin hôm nay vào Đấng Messia,
toàn thành sẽ bị tiêu diệt. Phải chăng Chúa ám chỉ cuộc tàn phá thủ đô sẽ xảy
ra năm 70? Tiếp đó, Chúa đặt cuộc tranh luận vào bối cảnh toàn bộ giảng thuyết
của Người: Nếu không ăn năn trở lại, dân chúng sẽ bị Thiên Chúa xét phạt nghiêm
khắc. Dụ ngôn cây vả cho chúng ta hiểu Thiên Chúa vừa kiên nhẫn, vừa quyết thi
hành công lý của Người.
Chúng ta tự đặt hai câu hỏi:
1) Sự trở lại là gì?
Trở lại là thay đổi nội tâm, thay vì hướng về bản thân, con người
hướng về Thiên Chúa. Khởi đầu, người ta nhận mình là kẻ tội lỗi, cách khiêm nhượng
người ta ý thức về sự xa cách một trời một vực giữa sự thánh thiện của Thiên Chúa
và nỗi khổ cực trong tâm hồn mình. Mình có một trách nhiệm nào đó về khổ cực
bên trong ấy. Vì thế người ta hối hận về tội mình, người ta trở lại với Thiên
Chúa, vì Người luôn luôn tiếp đón những kẻ khiêm nhường sám hối. Sự trở lại
không chỉ một lần là xong, trái lại mỗi ngày phải thực hiện một sự trở lại mới.
2) Lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa là gì?
Đó là sự kiên nhẫn của tình yêu, trước hết là của tình yêu giáo
hoá. Thiên Chúa không đòi hỏi con người nhất đán trở nên hoàn toàn thánh thiện.
Thiên Chúa cho con người có đủ thời gian làm công việc cải thiện tâm hồn. Nhưng
con người phải sử dụng tốt thời gian ân huệ ấy, đúng ra nó ngắn ngủi lắm. Mỗi
ngày trong đời sống của một Kitô hữu đều mang đến một ân sủng để giúp tiến bộ
trong niềm trung tín với Thiên Chúa. Mỗi ngày người tín hữu phải tự chất vấn:
Kinh nguyện của tôi, sự thờ phụng của tôi, cung cách tôi phục vụ tha nhân có đủ
tốt để đẹp lòng Thiên Chúa không? Như một nhà giáo dục kiên nhẫn, Thiên Chúa
giúp đỡ người tín hữu tìm được câu trả lời bằng cách Người can thiệp ban cho những
ân sủng bên trong, bằng những giáo huấn của Giáo Hội, bằng những biến cố, v.v…
Lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa cũng là niềm thương yêu kiên nhẫn nhưng đòi hỏi gắt
gao. Thiên Chúa thông cảm vô cùng đối với những ai thành tâm thiện chí, nhưng
chung cục Người sẽ tỏ ra nghiêm khắc đối với những kẻ ngoan cố thờ ơ.
24. Mùa chay, mùa đổi mới.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một triết gia Ấn Độ đã nhìn lại quãng đời đi qua của mình
như sau:
- Lúc còn trẻ, tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời cầu
nguyện duy nhất mà tôi dâng lên Thượng Đế là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực
để thay đổi thế giới.
Đến tuổi trung niên, tôi mới nhận thấy rằng, một nửa đời
tôi đã qua đi mà tôi chưa thay đổi được một người nào. Lúc đó, tôi mới cầu nguyện
với Thượng Đế: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn được biến cải tất cả những người
con gặp gỡ hằng ngày, nhất là gia đình còn, bạn bè con. Và như vậy là đủ cho
con rồi.
Nhưng giờ đây, tóc đã bạc, răng đã long, ngày tháng còn lại
chỉ đếm trên đầu ngón tay, tôi mới nhận ra rằng, tôi đã khờ dại biết chừng nào.
Giờ nầy, tôi chỉ biết cầu nguyện như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con được ơn
thay đổi chính bản thân con.
Nếu tôi biết cầu nguyện như thế ngay từ lúc đầu, thì tôi đã
không phí phạm quãng đời đã qua.
Người xưa đã có lý khi dạy chúng ta: tu thân, tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ…
Theo trật tự của cuộc cách mạng, thì cách mạng bản thân – tu thân – là điều
tiên quyết.
Một nhà cách mạng nào đó đã nói: Chỉ cần mười người như thánh
Phanxicô thành Assisi thì cuộc diện thế giới sẽ thay đổi. Cuộc cách mạng đầu
tiên mà bất cứ vị thánh nào cũng khởi sự, đó là cách mạng bản thân.
Chúa Giêsu đã chuẩn bị ba năm sống công khai bằng 30 năm âm thầm,
40 đêm ngày ăn chay cầu nguyện… Và lời kêu gọi đầu tiên của Ngài là: Hãy sám hối
và tin vào Tin Mừng.
Hôm nay, Ngài lại kêu gọi chúng ta: “Hãy ám hối, nếu không chúng
ta cũng sẽ bị tiêu diệt như những nạn nhân của biến cố tháp Silôê đổ, hay như
những người bị thảm sát dưới thời Tổng trấn Philatô”.
Đến bây giờ vẫn còn không ít người quan niệm “ác giả ác báo”
theo lối suy luận từ hậu quả đến nguyên nhân. Lời Chúa hôm nay dạy ta không được
suy nghĩ như thế, phần vì ta không có quyền xét đoán tha nhân, phần vì thường
chúng ta xét đoán theo chủ quan và phiến diện nên dễ sai lầm.
Mùa Chay là mùa sám hối, mùa đổi mới. Thiên Chúa nhân từ, kiên
nhẫn chờ đợi. Ngài còn hoãn lại cho chúng ta một kỳ hạn nữa. Hãy khẩn trương
sám hối kịp thời. “Đừng để đến ngày mai việc gì bạn có thể làm được hôm nay”.
Tục ngữ Pháp có câu: “Nếu trẻ mà hiểu ra, nếu già mà làm được”
(Lúc trẻ thì không hiểu để làm, đến lúc già muốn làm thì không còn sức để làm nữa).
Việt Nam chúng ta cũng có câu: “Lão lai tài tận” (Đến tuổi già thì tài năng
cũng hết). Thế là bị rơi vào luật đào thải, như cây cằn cỗi, không sinh trái đã
lâu, phải chặt đi thôi. Bao lâu còn sống, là như cây còn xanh tươi. Hoán cải, đổi
mới, không bao giờ là quá trễ. Hãy tin tưởng, bắt đầu ngay hôm nay, kẻo không kịp
nữa. Hằng ngày, báo chí, truyền hình, radio, đưa tin trong cũng như ngoài nước,
bao nhiêu tai nạn chết người: xe đụng, tàu chìm, phi cơ rớt, động đất, hoả hoạn, đó là chưa kể đến nạn khủng bố đe doạ
biết bao người trên thế giới…
Tại sao những người kia gặp nạn, chứ chưa phải là tôi? Đừng dựa
vào những may mắn trong cuộc sống, để yên trí rằng mình sống trong sạch, tốt
lành; để tạo cho mình mối an tâm được Chúa ưu đãi hơn những người khác; để
không lo hoán cải, đổi mới.
Khoa học kỹ thuật càng tiến bộ, con người càng thấy rõ hơn nỗi
cô đơn trước những giới hạn của mình… nhất là nỗi sợ hãi trước cái chết, thân
phận bi đát nhất của kiếp người. Khát vọng được sống và sống đời đời không ngừng
đòi hỏi con người đổi mới để khỏi phải thấy sức sống tắt lịm trong tay của
mình. Vì vậy, hoán cải là vấn đề tức thời và cấp bách.
Mỗi người chúng ta đều là kẻ tội lỗi, đều có thể phải đối diện với
Đấng phán xét bất cứ lúc nào. Bởi vậy, ngày nào, giờ nào, phút nào cũng mang
tính khẩn trương: đây có thể là ngày cuối, giờ cuối, phút cuối… trước khi ra mắt
Đấng phán xét. Lời Chúa hôm nay phải thức tỉnh chúng ta. Đừng đấm ngực người
khác, hãy đấm ngực mình mà sám hối cho thật, cho mau kẻo hối hận cũng không còn
kịp nữa.
Có thể chúng ta nghĩ rằng: mình là người tín hữu đạo đức, sốt sắng,
mình đi dự lễ, rước lễ đều đặn, mình cũng làm việc bác ái, cũng đi xưng tội, vì
thế lời kêu gọi sám hối không có liên hệ gì đến mình. Chính những người nghĩ
như thế mới là người cần phải sám hối. Thánh Phaolô hôm nay đã nói: “Ai tưởng
mình đứng vững thì hãy coi chừng kẻo ngã”. Việc sám hối trở lại không bao giờ
chỉ làm một lần là xong.
Quả thực, lời kêu gọi hoán cải sám hối trong Tin Mừng hôm nay
liên hệ đến tất cả mọi người: bởi vì mỗi người chúng ta đều phải sống cuộc sống
mới và vượt lên trên tất cả những gì cản trở chúng ta sống cuộc sống mới nầy, một
cuộc sống hữu ích cho gia đình, cho xã hội và cho nhân loại.
Hành trình Mùa Chay không chỉ nhằm dẫn chúng ta quay trở lại quá
khứ để ăn năn khóc lóc tội lỗi mình hay đến toà giải tội
xưng thú tội lỗi mình… nhưng còn muốn dẫn chúng ta đến cuộc sống mới dồi dào
hơn. Mùa Chay phải trở thành mùa đổi mới con người và xã hội, mùa nở hoa kết
trái tình thương, mùa thực thi việc lành phúc đức… nếu không, chúng ta cũng sẽ
bị tiêu diệt y như vậy hoặc có thể “năm tới sẽ bị chặt đi”.
“Đổi mới hay là chết”. Có một thời người ta đã hô lớn khẩu hiệu
này. Và đây cũng là đòi hỏi của Lời Chúa hôm nay. Xin cho thánh lễ nầy kết hiệp
chúng ta mật thiết với Chúa Giêsu, để giúp chúng ta tiêu diệt dần dần đời sống
cũ kỹ nhem nhuốc của mình, đồng thời chúng ta cũng dần dần trở nên thánh thiện
phong phú hơn trong Chúa Giêsu. Ước gì mệnh lệnh hoán cải cấp bách sẽ được
chúng ta thực hiện không chỉ ngay bây giờ mà còn kéo dài trong từng phút sống của
cuộc đời ta.
25. Trừ phi các ngươi hối cải – McCarthy
(Trích trong ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)
Suy Niệm 1. MỘT CƠ HỘI THỨ HAI
Người Pharisêu không có thì giờ dành cho người tội lỗi. Họ tin rằng
những người đó chỉ là đồ bỏ đi. Đức Giêsu không đồng ý, và kể lại cho họ nghe một
câu chuyện:
Vườn nho là một nơi rất đặc biệt, thường chỉ dành ra để trồng
nho mà thôi. Tuy nhiên, trong dụ ngôn của mình, Đức Giêsu lại nói về một cây vả
được trồng trong một vườn nho. Vào thời kỳ đó, điều này không phải là bất thường.
Đất đai quá khan hiếm, đến nỗi người ta phải trồng cây ở bất cứ chỗ nào có thể
được. Vậy chúng ta đang có một cây được trồng ở một nơi rất đặc biệt.
Thông thường, một cây vả phải mất ba năm mới trưởng thành. Nếu đến
lúc đó, mà nó vẫn không trổ sinh hoa quả, thì chắc chắn nó sẽ không thể nào đơm
hoa kết trái được. Đây là trường hợp thân cây mà Đức Giêsu đang nói đến. Sau ba
năm, người chủ vườn đến xem, và nhận thấy thân cây này vẫn cứ cằn cỗi. Ông ta
đã kết luận rằng đó là một thân cây vô dụng. Nó đã rút chất bổ dưỡng từ lòng đất,
mà không hề trả lại gì cả, phải chặt nó đi thôi, vì nó chiếm mất khoảng không
gian có giá trị. Thế là ông bảo người làm vườn chặt bỏ thân cây này.
Nhưng vốn là một người có nhiều hiểu biết về cây
vả, và là một người rất kiên nhẫn, nên người làm vườn đã đáp lại: “Thưa ông xin
cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May
ra sang năm, nó có trái, nếu không, thì chúng ta sẽ chặt nó đi”.
Người chủ vườn đồng ý. Chúng ta không được nghe kể thêm điều gì
sẽ xảy ra cho cây vả đó, nhưng không thành vấn đề. Đức Giêsu đã cho thấy quan
điểm của Người: Tương tự như người làm vườn kiên nhẫn với cây vả, cũng vậy,
Thiên Chúa rất kiên nhẫn với các tội nhân.
Bài Tin Mừng này gợi lên bài Tin Mừng về cơ hội thứ hai. Thiên
Chúa rất kiên nhẫn. Lịch sử Giáo Hội đầy rẫy các ví dụ về những cây vả cằn cỗi,
nhưng cuối cùng cũng đã trổ sinh hoa quả; nói cách khác, đó là các tội nhân đã
hối cải và nên thánh.
Môsê, nhân vật trung tâm của Bài đọc 1, là một gương mẫu tốt đẹp.
Khi còn trẻ, ông đã giết chết một người khác. Tuy nhiên Thiên Chúa không hề loại
bỏ ông. Thật vậy, ông có tính tình nóng nảy. Nhưng nơi ông vẫn có điểm tốt. Ông
là một ngài hiếm có –loại người không thể chấp nhận đứng yên, khi nhìn thấy xảy
ra điều bất công hoặc tội ác. Chính nhờ tính cách này, mà Thiên Chúa đã chọn
ông trong việc dẫn dắt dân của Người từ tình trạng nô lệ đến với tự do.
Người ta có thể cho rằng Einstein là người có trí tuệ vĩ đại nhất
thế kỷ 20. Tuy nhiên, đến năm lên 2 tuổi, ông vẫn chưa biết nói. Cha mẹ của ông
rất lo lắng cho ông, đến nỗi họ đã đưa ông đi khám bác sĩ. Sau này, một trong
những giáo viên của ông rất thất vọng về ông, đến nỗi đã nói rằng “Anh sẽ không
bao giờ đáng giá một chút gì cả”,
bởi vì chưa hề có dấu hiệu nào về sự vĩ đại của ông trong tương lai. Nhưng cha
mẹ và thầy giáo của ông đã phán đoán về ông quá sớm. Một số người phát triển một
cách từ từ và chậm trễ, nhưng điều đó lại càng tốt hơn.
Nhưng loại người này cần có một người nào đó tin tưởng nơi họ, một
người nào đó kiên nhẫn đối với họ, nếu không, nhiều tài năng sẽ bị mai một dần.
Chúng ta có khuynh hướng hay khắt khe với người khác, cho đến khi chính bản
thân chúng ta cần có một cơ hội thứ hai. Chúng ta phải cởi mở tâm hồn với người
khác, bằng tấm lòng nhẫn nại và khoan dung, mà chúng ta mong muốn cho bản thân
mình.
Nhưng dụ ngôn này cũng cho thấy rõ ràng đây như một cơ hội cuối
cùng. Nếu người ta khước từ hết cơ hội này đến cơ hội khác, thì khi ngày cuối
cùng đến, không phải là Thiên Chúa không cho họ vào, nhưng là họ cố tình chọn
loại trừ bản thân. Nhưng ai trong chúng ta muốn cho mình trở nên cằn cỗi, trong khi chúng ta có thể trổ sinh hoa quả?
Suy Niệm 2. LỜI KÊU GỌI THỐNG HỐI.
Cây vả trong câu chuyện của Đức Giêsu là một thân cây rất đặc biệt,
bởi vì nó được trồng trong một vùng đất đặc biệt -vườn nho. Mặc dù được như vậy,
nhưng thân cây này lại cằn cỗi. Tuy nhiên, nó vẫn được tạo cho một cơ hội khác.
Cây vả tượng trưng cho dân Israel được trồng trong vườn nho của Chúa. Tình trạng
cằn cỗi của nó tượng trưng cho tình trạng cằn cỗi của dân Israel trước mặt
Thiên Chúa.
Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ của Người bằng lời kêu gọi thống hối:
“Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần đến”. Ngày nay, thông qua tiếng nói của
Giáo Hội, chúng ta cũng được kêu gọi cùng một lời kêu gọi đó. Lời kêu gọi sám hối
ở ngay trung tâm của Tin Mừng. Đức Giêsu nói ra lời kêu gọi này, không chỉ cho
những người tội lỗi, nhưng là cho những người tốt lành. Thật vậy, Người nói với
tất cả mọi người, không có ngoại lệ. Nhưng bạn có thể hỏi rằng: Điều này có thể
diễn ra như thế nào –người tốt lành cần phải thống hối sao?
Trong trường hợp những người tốt lành, đối với họ, sự sa ngã hệ
tại ở việc tốt lành mà họ đã không thực hiện. Đây là sự công kích chính yếu của
dụ ngôn nói về cây vả cằn cỗi. Cây vả này bị coi như không đạt yêu cầu, không
phải vì nó tạo ra những quả vả có chất độc, nhưng bởi vì nó không hề trổ sinh bất
cứ hoa quả nào. Nếu nó không sinh quả, thì cây vả đó còn để làm gì?
Hiếm khi người Kitô hữu tự hỏi mình câu hỏi: Tôi đã thiếu sót
không làm gì? Lời kêu gọi thống hối không chỉ là lời kêu gọi tránh xa sự dữ, mà
còn là lời kêu gọi “trổ sinh hoa quả”
của lối sống tốt đẹp. Đó là nguyên nhân tại sao lời kêu gọi này phù hợp cho tất
cả mọi người.
Lời kêu gọi thống hối của Đức Giêsu làm cho chúng ta bối rối, mà
chúng ta thì không thích bị gây rắc rối. Chúng ta muốn cho cuộc sống của mình
được yên ổn, một cuộc sống có thể chứa đựng nhiều sự ích kỷ. Có thể chúng ta
không phạm phải một tội trọng nào, tuy nhiên, chúng ta có thể rất ích kỷ, rất
hay đòi hỏi, rất thiếu sự quan tâm. Nhưng chúng ta lại không muốn hay biết, ít
nhiều chúng ta đã làm bất cứ điều gì, theo bản chất này của chúng ta. Chúng ta
được kêu gọi ra khỏi thói ích kỷ, để trở nên người biết quan tâm đến kẻ khác,
và tập trung vào Thiên Chúa.
Chắc hẳn là hầu hết chúng ta đều không có bất cứ giây phút chuyển
biến vĩ đại nào, giống như Môsê đã có. Hôm trước, ông mời đi chăn giữ đàn cừu của
ông, ngày hôm sau, ông lại dẫn dắt một dân tộc bị áp bức đi tới tự do. Nhưng sự
biến đổi là một điều thú vị. Đây là một tin vui, là một lời kêu gọi thoát khỏi
tình trạng nô lệ của thói ích kỷ và tội lỗi, để đến với cuộc sống của tự do và
ân sủng. Đây còn là một lời kêu gọi thoát khỏi cuộc sống cằn cỗi để đến với một
cuộc sống mang lại kết quả. Đây chính là lời kêu gọi đi vào trong niềm vui của
Nước Trời. Tuy nhiên, đây không phải là điều gì đó mà chúng ta có thể đạt được
một lần cho tất cả, nhưng lôi kéo theo cả một quá trình lớn lên và phát triển.
Cuộc sống Kitô hữu là một quá trình liên tục hoán cải.
Dụ ngôn của Đức Giêsu chứa đựng một lời cảnh báo và đe doạ. Mục
đích của dụ ngôn này là để chỉ ra cho chúng ta rằng có thể chúng ta đang bỏ lỡ,
hoặc thiếu sót, hầu cho chúng ta có được một cuộc sống sâu xa, phong phú và
chính đáng hơn. Chúng ta hãy để cho những kẻ suy nghĩ rằng họ đang an toàn, biết
sống có ý thức, để khỏi bị sa ngã. Không ai bị sa ngã nhiều cho bằng người cho
rằng mình không thể được cứu độ.
NHỮNG CÁCH TIẾP CẬN KHÁC.
1. Điều mà chúng ta nhận thấy được trong sự kiện bụi gai
đang bốc cháy, đó là sự quan tâm của Thiên Chúa đối với dân Người.
Thiên Chúa đã nghe được tiếng kêu cứu của dân Người đang bị nô lệ,
và Người đã sai Môsê đi giải phóng cho họ. Ngọn lửa là biểu tượng của tình yêu.
Tình yêu của Thiên Chúa không hề bị suy giảm khi cho đi.
Điều gì nơi Môsê làm cho Thiên Chúa nhận thấy rằng ông đúng là
người để dẫn dắt dân của Người từ tình trạng nô lệ đến với sự tự do? Kinh Thánh
không nói nhiều với chúng ta về tính cách của người thanh niên Môsê. Kinh Thánh
không nói rằng ông là người tốt lành hoặc sốt sắng. Nhưng Kinh Thánh kể lại cho
chúng ta về ba giai đoạn trong cuộc đời của ông, trước khi có sự mặc khải trong
bụi gai đang bốc cháy. Khi nhìn thấy một người Ai Cập đang tấn công một người
Israel, ông đã can ngăn. Ông nhìn thấy những người chăn cứu dân Midianite ngăn
cản các cô con gái của Jethro không được cho đàn gia súc uống nước, đã can thiệp.
Tất cả những sự kiện này đưa dẫn chúng ta đến cùng một kết luận.
Chúng chỉ ra cho chúng ta rằng ông là loại người không thể chấp nhận đứng yên,
khi nhìn thấy một điều bất công hoặc tội ác đang xảy ra. Vậy chúng ta có thể hiểu
được tại sao Thiên Chúa lại chọn ông, để dẫn dắt dân của Người từ tình trạng nô
lệ đến với tự do.
Nhưng cảm nghiệm riêng tư về Thiên Chúa có thể làm cho người ta
ích kỷ. Nhưng đây không phải là trường hợp của Môsê. Cảm nghiệm của ông về
Thiên Chúa càng lôi kéo ông vào sứ vụ giải thoát dân tộc của ông.
2. “Vùng đất mà ngươi đang đứng là vùng đất thánh”.
Tất cả trái đất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta đều là vùng đất
thánh thiện, và xứng đáng được đối xử bằng sự kính trọng. Nhưng vùng đất thánh
thiện nhất vượt lên trên tất cả thì lại ở trong tâm hồn chúng ta.
Trước hết, cơ thể con người mang tính cách thánh thiện. Cơ thể
chúng ta là công trình của Thiên Chúa. Điều đó đủ lý do để kính trọng và săn
sóc cơ thể. Nhưng Thánh Phaolô đưa ra cho chúng ta một lý do sâu xa hơn, để
kính trọng cơ thể. Ngài nói: “Thân thể anh em là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần”.
Tâm trí con người là thánh thiện. Nhiều người mỗi ngày đầu lấp đầy
tâm trí họ bằng đủ mọi thứ rác rưởi từ T.V. radio, báo chí v.v… Theo lời của
Thoreau “Người ta sẵn sàng chất chứa tâm trí mình bằng những thứ rác rưởi –họ
cho phép những tin đồn vô căn cứ và những sự kiện tạp nham xâm nhập vào tâm trí
mình, mà đáng lẽ nên dành để cho những suy nghĩ thánh thiện. Liệu tâm trí con
người sẽ là một phạm vi công cộng, hoặc tự thân nó sẽ là một nơi thuộc về thiên
đường?”. Chúng ta nên phấn đấu đi theo lời khuyên của Thánh Phaolô: “Những gì
là chân thật, cao quý, những gì là chính trực, tinh tuyền, những gì là đáng mến
và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em
hãy để ý” (Plm 4,8).
Nhưng nơi thánh thiện nhất chính là tâm hồn con người. Trong thời
đại của chúng ta, người ta bận tâm quá nhiều với vẻ sạch sẽ bề ngoài, và có
nguy cơ coi thường sự thanh sạch bên trong, hoặc là sự thanh sạch của tâm hồn.
Chính từ trong tâm hồn, mà tất cả những suy nghĩ, lời nói và hành động của
chúng ta tuôn chảy, tựa như dòng nước đổ ra từ một con suối. Nếu con suối đó sạch
sẽ, thì tất cả dòng nước chảy từ đó ra sẽ trong sạch. Như vậy, chúng ta phải cố
gắng giữ sao cho tâm hồn mình luôn được thanh sạch và tinh tuyền. Đặc biệt là
chúng ta sẽ được nhìn thấy và gặp gỡ Thiên Chúa ngay tại nơi thánh thiện này.
Theo lời của Đức Giêsu: “Phúc cho những kẻ có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được
nhìn thấy Thiên Chúa”.
26. Cơ hội ân điển cho người ta ăn năn
(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Đang khi Chúa Giêsu khuyên giục các thính giả ăn năn, thì có người
thuật với Chúa Giêsu chuyện rùng rợn về vụ Philatô giết hại những người Galilê.
Chắc người ta tưởng Chúa sẽ đồng tình để tuyên bố rằng số phận của những người
bị tàn sát ấy là đúng lắm, và ngài cũng rơi vào lối nguỵ biện thường tình, là
người nào bị hành hạ nhiều chứng tỏ họ đã phạm tội năng. Nhưng Chúa Giêsu trả lời
rằng người ta tạm thời chưa bị đau đớn là dấu hiệu ân huệ đặc biệt của Thiên
Chúa. Tất cả những kẻ không ăn năn chắc chắn sẽ phải chịu đau đớn và xứng đáng
với sự đau đớn ấy. Nếu sự phán xét chưa đến thì sự trì hoãn ấy là cơ hội ân điển
cho người ta ăn năn.
Chúa Giêsu nhấn mạnh chân lý ấy bằng cách nói thêm một tai hoạ về
mười tám người bị tháp đổ đè chết, không nên xem số phận của họ như là dấu hiệu
họ đã phạm trọng tội, mà như là lời cảnh cáo kẻ khác nếu không ăn năn thì cũng
phải chịu một số phận như vậy. Trong trí Chúa Giêsu hiện ra hình ảnh của nước
Israel, Ngài lại nhấn mạnh lời kêu gọi ăn năn bằng hình ảnh cây vả không sinh
trái. Đó là biểu hiệu thật của quốc gia này và cũng tượng trưng cho mọi linh hồn
không ăn năn. Chúng ta cần tìm hiểu chi tiết hơn. Ở đây chúng ta được nghe nói
đến hai tai hoạ mà chúng ta chưa có thông tin nên chỉ có thể phỏng đoán thôi.
Trước hết là những người Galilê bị Philatô giết đang lúc dâng lễ tế. Như chúng
ta đã biết, người Galilê rất dễ hưởng ứng những cuộc bạo động chính trị, bởi vì
họ là dân dễ bị kích động, lúc đó Philatô đang ở trong một cơn khủng hoảng
nghiêm trọng. Ông đã có một quyết định rất tốt rằng Giêrusalem cần có một hệ thống
dẫn nước mới và tân tiến hơn. Ông chủ trương xây cất hệ thống đó, và để đài thọ
cho việc này, ông đề nghị dùng một số tiền của Đền Thờ. Đó là mục tiêu đáng
khen và sự chi phí đó có lý do chính đáng. Nhưng chỉ tư tưởng sử dụng tiền của
Đền Thờ cũng đủ khiến dân Do Thái cầm vũ khí chống lại. Khi dân chúng tụ tập lại
thì Philatô cho lính của ông cải trang trà trộn với họ. Chúng được lệnh mang gậy
thay vì gươm. Đến lúc được báo hiệu, chúng xông vào dân chúng và phân tán họ.
Việc đó đã diễn ra đúng nhưng bọn lính đã hành động rất hung dữ, đi quá lệnh
trên, gây thiệt mạng cho một số thường dân. Điều gần như chắc chắn là người
Galilê có tham gia trong cuộc nổi loạn này. Chúng ta biết rằng Philatô và
Hêrôđê thù địch nhau, rất có thể chính vì vụ lộn xộn kể trên mà mối thù đó đã bắt
Chúa Giêsu. Họ chỉ hoà thuận với nhau khi Philatô gởi Chúa Giêsu đến cho Hêrôđê
xét xử (Lc 23,6-12).
Còn về phần mười tám người bị tháp Silôê đổ xuống đè chết, cho đến
nay vẫn còn là một sự kiện bí mật. Có bản văn dịch họ là tội nhân, nhưng dịch họ
là những kẻ mắc nợ thì đúng hơn. Chúng ta có chút tia sáng ở đây. Có người cho
rằng họ đã lãnh việc xây ống dẫn nước của Philatô, một công việc mà dân chúng
ghét. Vì vậy, số tiền công họ lãnh đều là tiền của Chúa và đáng lẽ họ phải tình
nguyện trả lại vì tiền đó đã lấy trộm của Ngài. Khi tháp Silôê đổ xuống trên họ
thì dân chúng cho rằng vì họ đã bằng lòng làm công việc đó.
Nhưng đoạn Kinh Thánh này còn đi xa hơn vấn đề lịch sử nữa. Người
Do Thái đã nghiêm khắc kết buộc đau khổ và tội lỗi với nhau. Trước đó rất lâu,
Êlipha đã nói với Gióp rằng: “Có ai vô tội mà bị tiêu diệt đâu?” (G 4,7). Đây
là một giáo lý độc ác, cay nghiệt như Gióp đã biết rõ. Chúa Giêsu đã bác bỏ
thuyết đó đối với một số trường hợp cá nhân. Như chúng ta biết rõ, thường những
thánh nhân là những người chịu đau khổ nhiều nhất. Chúa Giêsu còn đi xa hơn nữa
và nói rằng nếu các thính giả của Ngài không chịu ăn năn thì họ cũng sẽ bị tiêu
diệt, Chúa Giêsu ngụ ý gì ở đây? Một điều thật rõ ràng. Chúa Giêsu thấy trước
và nói trước về sự tàn phá thành Giêrusalem là việc xảy ra sau đó vào năm 70 SC
(x. Lc 19,21-24). Chúa Giêsu biết rõ nếu người Do Thái cứ tiếp tục âm mưu bạo động
và những tham vọng chính trị thì họ chỉ đưa quốc gia đến chỗ tự sát mà thôi.
Ngài biết rõ cuối cùng quân La mã sẽ đến và tiêu diệt quốc gia này, việc đã xảy
ra đúng như vậy. Cho nên, Chúa Giêsu muốn cảnh cáo rằng, nếu họ cứ tiếp tục tìm
kiếm một vương quốc trần gian và chối bỏ Nước Thiên Chúa thì họ chỉ đi vào chỗ
chết mà thôi.
Đặt vấn đề như vậy thoạt nghe có vẻ đầy mâu thuẫn. Điểm đó có
nghĩa là chúng ta không thể nói rằng đau khổ cá nhân và tội lỗi tất phải theo
nhau, nhưng có thể nói rằng tội lỗi của quốc gia và đau khổ của quốc gia thì
liên quan chặt chẽ với nhau. Quốc gia nào lựa chọn con đường xấu để đi thì cuối
cùng sẽ bị khổ vì đó. Nhưng trong trường hợp cá nhân thì khác. Cá nhân không phải
là một đơn vị lẻ loi, song được liên kết vào trong một khối của cuộc đời. Điều
thường thấy là cá nhân có thể phản đối, và phản đối mãnh liệt đường lối mà quốc
gia đang theo đuổi, nhưng khi hậu quả do đường lối đó đem lại xảy ra thì người ấy
cũng bị chìm lẫn trong hoàn cảnh mà mình đã không tạo nên, sự đau khổ của y
không hẳn là lỗi của y. Nhưng quốc gia là một đơn vị và tuỳ theo đường lối nó lựa
chọn mà gặt lấy hậu quả. Quy đau khổ của một người cho tội lỗi của người đó
trong cuộc sống trên trần thì bao giờ cũng là một ý kiến nguy hiểm, nhưng bảo rằng
quốc gia nào chống lại Thiên Chúa sẽ bị diệt vong thì đó là một phát biểu đúng
đắn.
Chúa Giêsu minh hoạ ý tưởng trên bằng dụ ngôn cây vả không sinh
trái, đây là câu chuyện vừa chứa đầy ân sủng vừa mang nhiều cảnh cáo đáng sợ.
1. Cây vả chiếm được một chỗ đất tốt hơn các cây khác.
Ở xứ Palestine, người ta thường thấy cây vả, cây gai và cây táo
trong những vườn nho. Đất mỏng và cằn cỗi đến nỗi bất kỳ ở đâu có đất, người ta
cũng trồng cây. Nhưng thực tế là cây vả này được đặc ân hơn, nhưng nó lại tỏ ra
không xứng đáng với đặc ân đó. Chúa Giêsu đã nhiều lần trực tiếp hoặc gián tiếp
nhắc nhở dân chúng rằng họ sẽ bị đoán xét tuỳ theo những cơ hội may mắn mà họ
đã có. Có người đã nói về thế hệ chúng ta rằng: “Chúng ta được ban cho nhiều sức
lực, nhưng chúng ta đã sử dụng như những học trò vô trách nhiệm”.
Không hề có một thế hệ nào được hưởng dùng quá nhiều như thế hệ chúng ta, và vì
chưa hề có một thế hệ nào mang nặng trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa như vậy.
2. Rõ ràng là dụ ngôn dạy chúng ta rằng một đời sống vô ích
sẽ đưa tới thảm bại.
Thế giới này phải đi trên con đường tiến hoá, tất cả cuộc tiến
hoá nhằm sản sinh những gì có ích lợi, điều gì có ích cứ mạnh mẽ phát triển
trên con đường tiến hoá, trong khi những gì vô ích sẽ bị tiêu diệt. Câu hỏi
khúc mắc nhất dành cho mỗi người chúng ta là: “Chúng ta sống trên thế gian này
để làm gì?”.
3. Hơn nữa, dụ ngôn cũng dạy rằng những gì chỉ biết tiêu thụ
thôi thì không thể tồn tại được.
Cây vả kia cứ rút lấy sức lực của đất mà không sản sinh gì cả.
Đó chính là tội của nó, xét cho cùng có hai hạng người trên thế giới: những người
“cầu” nhiều hơn “cung” và những người “cung” nhiều hơn “cầu”. Theo một phương
diện, chúng ta đều mắc nợ cuộc sống. Chúng ta vào đời trong sự nguy hiểm tính mạng
của người khác, chúng ta hẳn đã không còn sống đến nay nếu không có sự săn sóc
của của những người thương yêu chúng ta. Chúng ta đã thừa hưởng một nền văn
minh mà không bởi công sức của chúng ta tạo ra. Chúng ta có trách nhiệm phải
làm cho mọi sự trở nên tốt hơn lúc chúng mới tiếp cận chúng ta. Abraham Lincoln
đã nói: “Tôi chết lúc nào cũng được, nhưng tôi muốn người ta nói về tôi rằng:
tôi đã nhổ một cây cỏ và trồng một cây hoa ở nơi nào tôi nghĩ cây hoa có thể mọc”.
Có một học trò được quan sát vi trùng dưới kính hiển vi. Cậu được thấy rõ một
thế hệ những con vật li ti đó sinh ra, chết đi, thế hệ khác sinh ra thế nào…
Trước đó, cậu chưa hề được thấy thế hệ này tiếp nối thế hệ trước như thế nào. Cậu
nói: “Theo như điều tôi đã xem thấy, tôi tự hứa mình sẽ không bao giờ làm một
vòng nối yếu đuối”. Nếu chúng ta cũng biết tự hứa như vậy thì ta sẽ làm tròn
trách nhiệm, là đem vào đời sống ít ra cũng bằng phần chúng ta lấy đi.
4. Dụ ngôn này dạy chúng ta về phúc ân của cơ may thứ hai.
Một cây vả thường phải ba năm mới trưởng thành, nếu lúc đó nó
không sinh trái, chắc không bao giờ sinh trái nữa. Nhưng cây vả này được ban
cho một cơ may nữa. Chúa Giêsu bao giờ cũng ban cho người ta hết những cơ may
này đến cơ may khác. Phêrô, Marcô, Phaolô rất hoan hỉ làm chứng về điều đó.
Thiên Chúa vô cùng nhân từ với kẻ nào sa ngã rồi trỗi dậy.
5. Nhưng dụ ngôn này cũng quả quyết về việc có một cơ may
cuối cùng.
Nếu chúng ta từ chối hết cơ may này tới cơ may khác, nếu tiếng
kêu mời của Thiên Chúa cứ trở đi trở lại với chúng ta cách vô ích thì đến một
ngày, không phải Thiên Chúa đóng cửa lại, nhưng chính chúng ta tự ý đóng cửa
lòng mình với Thiên Chúa. Nguyện Chúa cứu chúng ta khỏi điều đó. “Hôm nay là
ngày thuận tiện, hôm nay là ngày cứu độ”.
27. Thống hối - R. Gutzwiller
Những lời này của Đức Giêsu trong đoạn Tin mừng này có tầm quan
trọng và sự khẩn khoản thiết tha. Tâm tình đó, yêu sách đó còn tăng thêm và đưa
đến cụ thể là lời kêu gọi hoán cải sâu xa và thống hối thực tình.
Đức Kitô dựa vào một vài biến cố để đưa ra lời kêu gọi đó và soi
sáng bằng một dụ ngôn.
1. Bài học của các biến cố
Trong một cuộc tế lễ tại đền thờ, Philatô sai quân tàn sát một
nhóm người Galilê, người ta đã tố cáo với quan người họ mưu tâm phản loạn. Tại
Galilê, các cuộc bạo động lại liên tiếp xẩy ra.
Hơn thế, gần hồ Siloê, một cái tháp sụp đổ chôn sống mười tám mạng.
Dân chúng tin rằng những biến cố đó là hình phạt Thiên Chúa ra để trừng trị tội
lỗi của các nạn nhân.
Nhưng Đức Giêsu bài bác lập luận đó. Những người vong mạng đó
không xấu xa hơn những kẻ còn đang sống. Tai nạn không đồng nghĩa với hình phạt
mà là những lời cảnh cáo: ‘Nếu các các anh các chị không ăn năn hối cải, thì
các anh các chị cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy’. Lời quả quyết nghiêm khắc ấy được
nhắc đi nhắc lại hai lần. Lời đó nhắc đến ngày suy tàn của Giêrusalem đang gần
đến.
Đối với người đương thời vừa nhằm vào ngày thế mạt, một sự kiện
mà mọi thời đều mong đợi, và trước hết nhắm tới vận mạng sau cùng của mỗi thụ tạo.
Tất cả các tai hoạ (theo Đức Giêsu và sách Khải huyền) đều là những dấu cảnh
cáo của Thiên Chúa.
Con người không thể sống quá an tâm trên đường đời và sống thản
nhiên hết ngày này qua ngày khác. Họ phải biết nguy cơ nào đang đe doạ mình và
nhận mình sẽ không hề biết giây phút cuối đời của mình là lúc nào. Cho nên lợi
dụng thời giờ còn lại để hồi tâm và thống hối.
Con người sẽ được cứu thoát miễn là biết phó thác vào ân sủng
vào tình thương của Thiên Chúa và vì là tội nhân họ phải nại đến ân sủng của
Ngài. Khẩn nài Thiên Chúa đó là tín hiệu cấp cứu của con người trong cơn nguy
biến. Lúc đó, thống hối giống như chiếc tầu an toàn của Noe trong cơn hồng thuỷ
của cuộc sống. Con người luôn luôn thấy có những tai hoạ; cho nên họ ít quan
tâm đến tầm quan trọng của các dấu hiệu cảnh cáo đó. Tuy nhiên, mỗi người không
thể biết nếu chưa gặp phải. Những lời bình luận của Chúa được trình bày một
cách mập mờ và phải biết lắng nghe mới có thể lãnh hội được.
2. Dụ ngôn
Đức Giêsu minh giải vai trò khẩn thiết của thống hối qua dụ ngôn
cây vả cằn cỗi. Người ta để nó sống một thời gian nữa. Nếu nó không có ích, người
ta sẽ chặt đi
Dụ ngôn này hợp với tình trạng của Israel. Thiên Chúa đã ưu ái họ,
đã chăm sóc họ như chưa từng thấy. Ngài ban cho họ luật pháp, tiên tri, giao ước,
đền thờ và ngày nay còn cho họ có cơ may cuối cùng để định đoạt. Con Thiên Chúa
làm người đã đến với họ. Nếu họ không hối cải ngay, số phận của họ sẽ bị định
đoạt.
Dụ ngôn đó cũng am hợp với chúng ta. Chúng ta có Giáo Hội, các
bí tích, giao ước mới, sách Tin mừng, nhất là có Chúa hiện diện ngày đêm. Vì thế
không ai có thể phàn nàn điều gì. Mỗi người đã được chăm lo cách quá ư trọng hậu…
Nhưng con người cũng phải đóng góp về phía mình. Con người không
thể ỷ lại vào Giáo Hội và các bí tích, hay tệ hơn dựa vào đám quần chúng để sống
tầm thường như họ. Phải có suy nghĩ, hồi tâm và lấy lòng thống hối chân thành để
hoán cải tình trạng của mình. Chỉ trong trường hợp đó, họ mới được ơn trợ giúp.
Kitô giáo không phải là bảo hiểm sinh mạng, cũng không phải là bảo
vệ an ninh. Trái lại, nó đe doạ sự an toàn giả tạo và tha thiết kêu gọi thống hối.
Càng tránh né vấn đề người ta càng đi vào con đường suy vong.
28. Lời mời gọi sám hối- Lm. Phạm Thanh Liêm
Lời Chúa hôm nay mời gọi mọi người sám hối, vì Thiên Chúa là Đấng
luôn nhân từ hay thương xót, Ngài luôn động lòng trước nỗi thống khổ của con
người, Ngài luôn thương và cứu giúp con người.
Thiên Chúa giải phóng dân Người
Dân Do Thái bị bóc lột, bị đàn áp và bị tiêu diệt từng ngày.
Trong cùng quẫn, họ đã kêu lên Thiên Chúa, và Ngài đã giải phóng họ bằng việc
sai gởi Môsê tới lãnh đạo dân, thương lượng với vua Pharaô, đưa dân ra khỏi
Ai-cập.
Thiên Chúa động lòng trước nỗi khổ của dân Do Thái, trước nỗi khổ
của Môsê lang bạt trong hoang địa khi trốn chạy Pharaô. Thiên Chúa đã hiện ra
cho Môsê qua bụi gai bốc cháy mà không tàn, để sai Môsê đi giải phóng dân. Môsê
lãnh đạo giải phóng dân, nhưng không phải Môsê lãnh đạo giải phóng dân, mà
chính là Thiên Chúa giải phóng dân. Đây chính là điều dân Do Thái cần ghi nhớ để
dạy lại cho con cháu.
Thiên Chúa, Đấng tự hữu, luôn yêu thương và cứu trợ dân người.
Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người
Người đời cho rằng những người bị tai hoạ là
những người tội lỗi, nên bị Chúa phạt. Nhưng Đức Giêsu lại không cho rằng những
người bị Philatô sát hại cũng như những người bị thác Siloê đổ đè chết, là những
người tội lỗi hơn những người còn đang sống. Đức Giêsu nói: “Không đâu! Nhưng nếu
các người không sám hối, các người sẽ bị như vậy”. Những người bị nạn đó, trở
thành tấm gương, là bài học để con người hôm nay nhìn vào, hầu thay đổi cách sống.
Thiên Chúa vì yêu thương những người còn đang sống, hôm nay vẫn dùng bao biến cố,
như những tấm gương, để răn dạy con người.
Dụ ngôn cây vả không sinh trái, và người làm vườn đã xin ông chủ
khoan nhượng để bón phân tưới nước, hy vọng cây vả sẽ ra trái vào năm sau, bằng
không thì sẽ chặt nó sau, cũng là dụ ngôn cho thấy Thiên Chúa vẫn luôn nhân từ
và kiên nhẫn đối với con người tội lỗi.
Xin cho con người hôm nay, cụ thể là mỗi người chúng ta, được cảm
nhận lòng yêu thương nhân từ kiên nhẫn của Thiên Chúa, để mỗi người chúng ta trở
về với Ngài, và sinh hoa kết trái trong đời sống.
Dân Do Thái là bài học cho mọi người mọi dân tộc
Dân Do Thái là dân riêng của Thiên Chúa, được Thiên Chúa thương
yêu với bao đặc ân. Nhưng Thiên Chúa cũng thương mọi dân tộc như thương dân Do
Thái. Họ được chọn để trở thành “tấm gương tầy liếp” (tấm gương to), cho tất cả
mọi người, mọi dân tộc nhìn vào để soi, để thấy tình yêu của Thiên Chúa với dân
Do Thái, và qua dân Do Thái đối với các dân tộc khác, với mọi người trên trần
gian.
Dân Do Thái được Thiên Chúa đưa ra khỏi Ai-cập, được Ngài nuôi
ăn bằng manna, được uống nước từ tảng đá. Nhưng tất cả những điều đó, cũng là dấu
chỉ, là hình bóng, cho thấy Thiên Chúa vẫn luôn nuôi sống con người qua cơm
bánh họ có từng ngày. Hơn nữa, con người hôm nay còn được nuôi sống bằng mình
máu Đức Giêsu nơi bí tích Thánh Thể.
Cả lịch sử dân tộc Do Thái thành bài học cho con người của mọi thời
đại sau này. Xin cho mỗi người cũng như mỗi dân tộc biết nhìn lịch sử dân Do
Thái để nhận ra tiếng Chúa nói với mình, nhận ra tình yêu Thiên Chúa dành cho
mình.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Qua các thiên tai cũng như những sự dữ con người gây ra, nhiều
người cho rằng Thiên Chúa độc ác, với tư cách là người Kitô hữu bạn giải thích
hay trả lời họ thế nào?
2. Bạn có cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa đối với bạn và những
người thân của bạn qua những biến cố bao giờ chưa? Nếu được xin chia sẻ.
3. Sám hối, trở lại với Thiên Chúa, theo bạn, chủ yếu hệ tại
đâu?
29. Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên
HÃY TRỞ NÊN NGƯỜI TỐT
Có lần, một sinh viên nói với nhà khoa học và triết học
Blaise Pascal: “Nếu em được tài giỏi như thày, em sẽ trở thành một người tốt
hơn”. Pascal trả lời: “Điều đầu tiên là em hãy trở thành một người tốt
hơn, rồi em sẽ được tài giỏi như thày”.
Theo ông Pascal, điều đầu tiên cần phải làm là hãy là một người
tốt, rồi sau đó mới có hy vọng và khả năng trở thành người tài giỏi. Cậu học
trò trong câu chuyện trên lại có quan điểm ngược lại, chờ khi nào mình tài giỏi
thì mới trở thành người tốt. Như thế, điều kiện đặt ra phải là người giỏi, xem
ra rất xa vời và ảo tưởng. Con đường đạt tới thành công xem ra chỉ là những mơ
ước hão huyền.
Chúng ta thường có khuynh hướng giống như cậu học trò kia, muốn
đưa ra những điều kiện ngược đời, trong khi đó, việc mà mỗi người đều có thể
làm được, đó là trở nên người tốt, thì lại bị lãng quên hoặc coi nhẹ. Trở nên
người tốt, đó là điều kiện đầu tiên để thành đạt trong cuộc sống.
Một nhóm người đến thuật lại cho Chúa Giêsu nghe những sự kiện vừa
xảy ra. Khi thuật lại những sự kiện này, không phải vì họ thương xót các nạn
nhân mà ngược lại, họ muốn kết án họ như những người tội lỗi. Khi nhận định và
phê phán người khác, họ tự coi mình là những chuẩn mực về luân lý. Chúa Giêsu
đã điều chỉnh quan niệm của họ. Theo giáo huấn của Chúa, bất cứ ai cũng cần phải
sám hối. Bởi lẽ những hình phạt dành cho người cứng lòng, kiêu ngạo có thể xảy
đến bất kỳ lúc nào, giống như cây tháp Si-lô-ê đổ xuống hoặc như cuộc chém giết
đẫm máu của Phi-la-tô. Sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn gửi đến cho các thính giả
đương thời cũng như cho các độc giả hôm nay đã rất rõ ràng: hãy sửa soạn tâm hồn,
hãy sẵn sàng và khiêm tốn nhận mình là tội nhân. Chính nhờ sự khiêm tốn đó mà họ
có thể đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa là Cha bao dung nhân hậu.
Lòng nhân hậu của Thiên Chúa đã được diễn tả qua câu chuyện bụi
gai trong sa mạc. Ông Môi-sen đã được gặp gỡ Chúa tỏ mình qua bụi gai đang cháy
bừng. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại Chúa tỏ cho con người
biết danh xưng của Ngài. Danh xưng ấy gắn liền với các tổ phụ của dân tộc
Israen. “Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của
I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp” (Bài đọc I). Nói đến Thiên Chúa của tổ phụ là
nói đến biết bao điều lạ lùng Chúa đã thực hiện vì yêu thương dân riêng của
Ngài. Những gì được kể nối tiếp trong sách Xuất hành đã cho ta thấy rõ Thiên
Chúa là Đấng nhân hậu. Ngài đã cứu dân Do Thái ra khỏi Ai-cập để dẫn đưa họ về
tới bến bờ tự do là Đất Hứa.
Mùa Chay là thời điểm để chúng ta suy tư về lịch sử cứu độ cũng
như lịch sử cuộc đời cá nhân mỗi người. Thiên Chúa luôn ghi dấu ấn tình yêu của
Ngài nơi cuộc sống chúng ta. Có điều chúng ta ít nhận ra những dấu ấn ấy. Hình ảnh
cây vả đã ba năm liền không sinh trái là tượng trưng của một cuộc sống khô cằn,
thiếu tình Chúa, vắng tình người, khép kín trước tha nhân. Dù con người mang
nhiều tội lỗi, Chúa vẫn luôn bao dung và kiên nhẫn. Ngài giống như người làm vườn
gia hạn chờ đợi thêm một năm nữa rồi mới quyết định số phận của cây vả. Thiên
Chúa luôn kiên nhẫn mời gọi và chờ đợi chúng ta trở về. Hãy sinh hoa trái để
không bị đốn ngã và tiêu diệt. Đó là điều Chúa muốn nhắn gửi chúng ta.
Trở lại câu chuyện mở đầu trên đây, Lời Chúa cũng mang nội dung
tương tự, tức là mời gọi chúng ta hãy trở nên con người tốt, để rồi nhờ đó
chúng ta mới có hy vọng thành đạt trong xã hội. Hạnh phúc siêu nhiên đời này
cũng như đời sau là kết quả của những cố gắng nỗ lực sống tốt với anh chị em
xung quanh mình.
“Ôn cố nhi tri tân”, học chuyện đã qua để biết thêm điều mới mẻ.
Thánh Phao-lô mời gọi giáo dân Cô-rinh-tô hãy nhìn lại lịch sử Cựu ước để “làm
bài học, răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông
chúng ta” (Bài đọc II).
Ước chi mỗi chúng ta được biến đổi nhờ những thực hành của Mùa
Chay, để chúng ta trở nên những người loan báo lòng nhân hậu của Chúa trong một
xã hội đang nhạt phai tình người. Amen.
30. Đổi mới cách nhìn
Có một nhà thiên văn vừa mới hoàn chỉnh được chiếc viễn vọng
kính của mình. Ông đặt chiếc viễn vọng kính ấy lên sân thượng, và đêm đêm, ông
nhìn các vì tinh tú trên bầu trời.
Một buổi tối kia, ông bỗng khám phá ra một con rồng xanh
trên mặt trăng. Ông báo cho bè bạn hay, thế là người ta ùn ùn kéo đến để được
nhìn thấy con vật lạ. Ai cũng tấm tắc khen ngợi nhà thiên văn. Thế nhưng, có một
nhà bác học già cũng đến để được nhìn xem con rồng. Sau khi đã xem qua, ông lắc
đầu và tiếp tục quan sát thật kỹ ống kính. Cuối cùng, ông khám phá ra một sợi
chỉ xanh vướng vào đầu ống kính, ông liền nói với nhà thiên văn:
- Này anh bạn, trước khi quan sát các vì tinh tú, anh hãy
coi lại cái ống kính của mình, xem có trục trặc chi không?
Cái ống kính viễn vọng trong câu chuyện vừa nghe là một hình ảnh
tượng trưng cho cách chúng ta nhìn đời và nhìn người.
Thực vậy, nhiều khi cái ống kính ấy có vướng mắc những sợi chỉ
mong manh, có nghĩa là lắm lúc chúng ta đã nhìn đời và nhìn người bằng cặp mắt
thiển cận. Chúng ta muốn suy bụng ta ra bụng người, chúng ta muốn lấy lòng mình
làm thước đo người khác. Chúng ta muốn cư xử rộng rãi với bản thân mà lại
nghiêm khắc với người khác. Chúng ta muốn lấy cái rơm trong mắt người khác mà
không chịu lấy cái xà ra khỏi mắt mình.
Đây cũng là trường hợp đã xảy ra cho hai biến cố mà Chúa Giêsu
đã nhắm đến. Đứng trước cái chết bi thương và đẫm máu của những người bị
Philatô giết chết, cũng như mười tám người khác bị tháp Siloe đổ xuống đè bẹp,
dân Do thái đã mau mắn đi tới kết luận:
- Sở dĩ họ bị như vậy vì họ là những kẻ tội lỗi, đáng bị Thiên
Chúa trừng phạt.
Thế nhưng, quan điểm của Chúa Giêsu thì khác. Ngài xác định họ
không phải là những kẻ tội lỗi, đồng thời Ngài muốn dùng những biến cố ấy, những
sự kiện ấy như tiếng chuông cảnh tỉnh cho chính bản thân mỗi người.
Đúng thế, thay vì đánh giá người khác, chúng ta phải đánh giá
chính bản thân chúng ta. Thay vì kết án người khác, chúng ta phải kết án chính
bản thân chúng ta, để rồi từ đó ăn năn sám hối mà quay trở về cùng Chúa như lời
Ngài đã phán:
- Nếu các ngươi không chịu ăn năn, thì các ngươi cũng sẽ chết
thê thảm như vậy.
Từ đó chúng ta nhận thấy rằng: điều cần thiết là phải thay đổi
cách nhìn, thay đổi cách đánh giá. Hãy nhìn vào bản thân mình, chứ đừng nhìn
vào người khác. Hãy nghiêm khắc với bản thân mình chứ đừng nghiêm khắc với người
khác. Hãy biết đấm ngực mình mà rằng:
- Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.
Chứ đừng đấm ngực người khác mà rằng:
- Lỗi tại anh, tại chị, tại ông, tại bà mọi đàng.
Có như thế, những biến cố xảy đến trong cuộc đời mới thực sự đem
lại lợi ích, bởi vì những biến cố ấy chính là tiếng chuông cảnh tỉnh thúc đẩy chúng ta thoát ra khỏi tình trạng tội lỗi. Những biến cố ấy
chính là lời Chúa mời gọi chúng ta vươn lên, thăng tiến bản thân và đổi mới cuộc
đời, để trở nên tốt lành và thánh thiện hơn.
31. Sám hối
Bài đọc 2 của Chúa nhật III Mùa chay năm C trích thơ thánh
Phaolô tông đồ gởi giáo đoàn Côrintô:
“Tất cả cha ông chúng ta đã được ở dưới áng mây khi đi
ngang qua biển đỏ và tất cả nhờ Môisê mà được thanh tẩy dưới áng mây và trong
lòng biển. Tất cả đã cùng ăn một thức ăn thiêng liêng; tất cả đã cùng uống một
thức uống thiêng liêng. Thật vậy, tất cả đã uống nước phát xuất từ tảng đá
thiêng liêng, tảng đá ấy chính là Đức Kitô. Tuy nhiên, không phải phần đông
trong họ đã sống đẹp lòng Thiên Chúa, vì họ đã bị ngã gục trong hoang địa. Bao
nhiêu sự kiện đó nêu gương cho chúng ta, để chúng ta đừng chiều theo dục vọng xấu
xa như những người đã chiều theo nó. Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách như một số
người trong bọn họ đã làm và đã vong mạng bởi một tay sứ thần huỷ
diệt”.
Thánh Phaolô giải thích Kinh thánh Cựu ước cho rõ nghĩa và đồng
thời áp dụng vào đời sống cho giáo đoàn tại Côrintô. Phaolô đã áp dụng điều gì
cho giáo đoàn Côrintô? Chúng ta lần lượt nhận ra điều đó trong những dòng sau
đây: Đọc trong toàn thể thư gửi giáo đoàn Côrintô, bài sách Thánh này nằm trong
phần bàn về những liên hệ đức tin của người tín hữu. Đức tin này đòi hỏi một
thái độ dứt khoát với những thói tục xấu, với việc tôn thờ không đúng trong quá
khứ. Việc từ khước một số tự do vì Tin Mừng và tính cách cố gắng liên tục để
chiếm đoạt trọn vẹn Tin Mừng cũng như để khỏi bị sa ngã. Thánh Phaolô viết: Cha
ông chúng ta đã được ở dưới đám mây, băng ngang qua biển và tất cả đã nhờ Môisê
mà được thanh tẩy dưới áng mây và trong lòng biển. Tổ phụ, áng mây, lòng biển,
Môisê đưa người tín hữu Côrintô trở về quá khứ cách đó hơn
13 thế kỷ.
Việc dân Israel bỏ Ai Cập lên đường về đất hứa, các biến cố này
Môisê dẫn đầu với sự trợ giúp của Thiên Chúa. Sự trợ giúp này được biểu dương bằng
áng mây ban ngày và cột lửa ban đêm, bằng việc vượt qua biển đỏ an toàn. Sự trợ
giúp này có tính cách thường xuyên, vì suốt cả cuộc hành trình của dân Israel,
Thiên Chúa đã cho đám mây và cột lửa ngang đầu giúp cho dân. Sự trợ giúp này
còn có tính cách bất thường trong những hoàn cảnh đặc biệt, vì Thiên Chúa đã cứu
họ khi họ bị dồn vào thế cùng đường cũng như khi họ không còn của ăn và nước uống.
Như vậy, hai biểu hiệu “áng mây” và “biển” đã nói lên ơn bảo trợ
của Thiên Chúa liên tục và trọn vẹn. Sự trợ giúp này còn nói lên sự hiện diện của
Thiên Chúa giữa dân Ngài. Mây là biểu hiệu của sự hiện diện của Thiên Chúa.
Ngày xưa sự hiện đó được biểu hiện qua đám mây, nhưng trong thời Tân ước, Thiên
Chúa hiện diện giữa dân Ngài qua chính Con Một của Ngài nhập thể là Chúa Giêsu
Kitô.
Điều này thánh Phaolô nói lên trong đoạn văn tảng đá thiêng
liêng là chính Chúa Kitô. Thiên Chúa đã ban cho dân Israel nhiều ân huệ trong
thời gian lưu lạc trong sa mạc, nhưng dù vậy có người trong bọn họ đã sa ngã,
đã phạm tội và do đó họ là đối tượng của hình phạt của Thiên Chúa.
Các ân huệ không là thứ bảo đảm an toàn cho họ, nếu họ không biết
sống đẹp lòng Chúa, và đây cũng chính là điều mà thánh Phaolô muốn dạy bảo các
tín hữu Côrintô. Các ơn Thiên Chúa ban cho Giáo hội, cho tín hữu thật là dồi
dào, nhưng chúng ta không được phép tự hào về các ơn này để rồi sống buông thả,
thiếu cố gắng và sau cùng sẽ bị tai hoạ cho đời mình.
Như vậy, Cựu ước là biểu tượng của Tân ước, Phaolô dùng nó để dạy
dỗ giáo đoàn và nhắc mỗi người chúng ta hãy tỉnh thức và hãy làm trổ sinh những
hoa trái tốt. Đừng an phận với những ân huệ Thiên Chúa ban cho mỗi người, nhưng
chúng ta phải cộng tác với ân huệ này và làm cho nó sinh hoa trái trong cuộc đời.
Hãy làm cho đời sống chúng ta triển nở thêm phong phú. Đây cũng là điều được nhắc
nhớ chúng ta qua bài Phúc âm của Chúa nhật III Mùa chay mà mỗi người chúng ta cần
phải lãnh nhận và áp dụng vào trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người Kitô hữu.
32. Ăn năn sám hối
Bài Tin Mừng kể lại hai câu chuyện thời sự và một dụ ngôn. Chúa
Giêsu đã dùng hai mẩu thời sự này để dạy một bài học về việc phải ăn năn sám hối.
Rồi Chúa kể dụ ngôn “cây vả”
để nhấn mạnh thêm yếu tố: phải khẩn trương ăn năn sám hối.
Câu chuyện thời sự thứ nhất do dân chúng kể cho Chúa,
đó là một sự kiện mới xảy ra tại Giêrusalem: một nhóm người xứ Galilê đến tế lễ,
đã bị tổng trấn Philatô ra lệnh tàn sát. Có lẽ đây là một nhóm người quá khích
tranh đấu cho một nước Do thái độc lập, thoát ách ngoại bang Rôma, bằng phong
trào “cứu thế”
chống đế quốc ngay tại đền thờ Giêrusalem. Tổng trấn Philatô vì có trách nhiệm
với Rôma, nên đã thẳng tay tiêu diệt nhóm phản loạn. Ông ra lệnh sát hại họ và
lấy máu của họ hoà trộn với máu của con vật được dùng làm của
lễ rồi đem tế thần.
Nghe câu chuyện này, Chúa Giêsu nhắc tới một sự kiện khác,
đó là vụ 18 người bị tháp Silôac đổ xuống đè chết. Chúng ta thấy: sau
khi nghe người ta kể câu chuyện trên cũng như sau khi chính Chúa Giêsu kể câu
chuyện sau, Ngài đều kết luận giống y như nhau: “Nếu các ông không sám hối, thì
các ông cũng sẽ bị giết chết y như vậy”. Do đó, chúng ta thấy rõ ràng điều Chúa
Giêsu muốn nhấn mạnh là ăn năn sám hối.
Sau đó, Chúa Giêsu kể dụ ngôn “cây vả” để củng cố thêm cho
chủ đích của Ngài và nhấn mạnh một chi tiết nữa: không những phải sám hối mà
còn phải khẩn trương sám hối nữa. Chúa dùng hình ảnh cây vả để khích lệ người
Do thái ăn năn sám hối. Người Do thái được ví như cây vả lâu ngày không sinh
trái, nên chủ vườn là Thiên Chúa định chặt đi, nhưng người làm vườn là Chúa
Giêsu xin khất một hạn kỳ: nếu sau đó mà vẫn không sinh hoa trái thì sẽ bị đốn
bỏ. Cây vả được gia hạn kia chính là hình ảnh người Do thái: nếu các ông không
chịu sám hối, thì chính các ông cũng sẽ chết y như những người Galilê bị
Philatô giết, hoặc như những người bị tháp Silôac đè chết. Hiện thời các ông
còn đứng đó chưa chết, là các ông đang ở trong tư thế cây vả được gia hạn. Nếu
cây vả vẫn không sinh trái, nó sẽ bị chặt đi. Nếu các ông không chịu sám hối,
các ông cũng sẽ bị huỷ diệt.
Bài học đã quá rõ ràng, nhắc nhở chúng ta hai điều: phải
ăn năn sám hối và phải khẩn trương chứ đừng chần chừ, chậm trễ. Chúng
ta có thấy bài học này cần thiết cho mình không? Trước hết, chúng ta cần phải
ăn năn sám hối, vì tất cả chúng ta đều là những kẻ có tội. Điều này thật rõ
ràng. Có ai dám cho mình không có tội không? Chắc chắn là không, vì chúng ta đều
là con cháu Adong Evà: ai cũng sinh ra trong tội. Rồi mỗi người đã phạm thêm những
tội cá nhân nữa. Có phải chúng ta càng thêm tuổi lại càng thêm tội không? Do
đó, việc ăn năn sám hối chúng ta phải làm mà còn phải làm thường xuyên nữa.
Tiếp đến, việc ăn năn sám hối là việc khẩn trương, chúng ta
phải làm ngay, không được chần chừ hay chậm trễ. Chúng
ta đừng bao giờ có ý nghĩ “đâm lao theo lao”. Lỡ yếu đuối sa ngã phạm tội, rồi
cho lỡ luôn, cứ kéo lê cuộc sống trong lầm lỡ đó. Hoặc là chúng ta cũng đừng ru
ngủ mình bằng ý tưởng: “Đời còn dài, lo gì, đến lúc già, ăn chay đền tội còn kịp
chán. Tên ăn trộm kia còn kịp ăn năn, huống chi mình”. Chúng ta có chắc mình sống
tới già không? có chắc tuổi già cô đơn, bệnh tật cho phép chúng ta dễ dàng ăn
năn không? Hay là “Trẻ đi đàng nào, già đi đàng đó”, “Cây ngả chiều nào sẽ đổ
chiều ấy”. Thời gian gần đây, không hiểu tại sao người ta chết bất ưng, chết bất
đắc kỳ tử, chết không kịp ngáp… nhiều quá. Quả thực, không ai biết mình sẽ sống
bao lâu, và cũng không ai biết được khi nào mình hết sống. Mỗi người đều có thể
phải đối diện với Đấng phán xét bất cứ lúc nào. Bởi vậy, ngày nào, giờ nào,
phút nào cũng mang tính khẩn trương: có thể đó là ngày cuối, giờ cuối, phút cuối
đối với tôi chăng?
Vì thế, lời Chúa hôm nay là lời thức tỉnh chúng ta: đừng đấm ngực
người khác, hãy đấm ngực mình và sám hối cho thật, cho mau kẻo trễ: trông người
mà nghĩ đến ta, phận mình tội lỗi liệu mà ăn năn.
33. Sám hối
Trước khi đi vào bài Tin Mừng hôm nay, thầy có mấy câu để hỏi
các em, nếu ai biết xin giơ tay nhé.
. Trong các em, ai đã nhìn thấy tội của mình? Và ai đã nhìn thấy
tội nơi người khác? – Vâng, đa số trong các em nhìn thấy tội của người khác hơn
là thấy tội của mình. Chính cái nhìn hạn hẹp này mà Chúa Giêsu nhắc nhở những
người Do thái ngày xưa, và Ngài cũng nhắc nhở chúng ta ngày nay rằng: “Nếu các
con không sám hối, thì các con cũng sẽ chết”.
Vậy để giúp nhau sống lời Chúa hôm nay, thầy cùng các em tìm hiểu
ba điểm sau đây:
. Sám hối để được tha thứ.
. Sám hối để được sống.
. Sống tinh thần sám hối.
Sám hối để được tha thứ. Các em có biết:
. Trong thánh lễ, sau khi làm dấu, chúng ta thường đọc kinh gì?
Đọc kinh cáo mình và kinh thương xót.
. Qua những kinh đó chúng ta thú nhận tội lỗi và xin Chúa thứ
tha tội lỗi chúng ta.
. Tại sao ta phải sám hối trước thánh lễ? Vì chúng ta muốn có một
tâm hồn trong sạch để xứng đáng tham dự bàn tiệc thánh.
. Giáo hội cho chúng ta bốn mươi ngày trong mùa chay. trong bốn
mươi ngày này Giáo hội kêu gọi mỗi người Kitô hữu hãy sám hối lỗi lầm để trở về
với Thiên Chúa.
. Do đó, sám hối là một điều rất cần thiết cho mỗi người Kitô hữu,
vì nếu muốn được tha thứ thì phải sám hối!
. Vậy để luôn biết mình và để luôn được sống thân tình với Thiên
Chúa, chúng ta phải hướng về Thiên Chúa và ý thức mình là kẻ có tội, quyết tâm
trở về với Thiên Chúa.
Sám hối để được sống.
Để thấy kết quả của việc ý thức tội lỗi và quyết tâm trở về với
Thiên Chúa như thế nào, giờ đây thầy kể cho các em nghe một câu chuyện.
Ngày xưa, Thiên Chúa sai tiên tri Giona đến một thành rất tội lỗi
tên là Ninivê để khuyên bảo dân thành này. Giona không vâng lời Thiên Chúa, xuống
tàu đi sang nơi khác, nên Chúa đã cho con cá nuốt ông trong bụng hết ba ngày ba
đêm để cảnh cáo ông. Sau đó, cá nhả Giona lên bãi biển. Ông không dám cãi lệnh
Thiên Chúa nữa. Ông đến thành Ninivê, rảo khắp thành phố trong ba ngày và rao
giảng rằng: còn 40 ngày nữa Ninivê sẽ bị tàn phá, nếu anh em không chịu ăn năn
sám hối để trở về với Chúa thì sẽ bị phạt.
Nghe lời kêu gọi đó, thì từ nhà vua cho đến dân và súc vật trong
thành đều tỏ lòng kính sợ Thiên Chúa. Nhà vua cởi áo cẩm bào, mặc áo nhặm, ngồi
trên đống tro cùng dân trong thành ăn năn khóc lóc tội lỗi và hết lòng thống hối,
trở về với Thiên Chúa. Thiên Chúa thấy họ thật lòng từ bỏ cách ăn thói ở gian
ác tội lỗi của họ, nên Ngài không phạt nữa.
Qua câu chuyện thầy vừa kể, các em có biết:
. Nhờ đâu mà dân thành Ninivê được Chúa tha thứ không? Nhờ lòng
ăn năn sám hối của họ.
Cũng vậy, để được Thiên Chúa tha thứ như dân thành Ninivê, chúng
ta phải biết sám hối những lỗi lầm của mình và quyết tâm trở về với Thiên Chúa.
. Nhìn lại bài Tin Mừng, các em thấy những người Do thái nghĩ gì
về những người đã chết do Philatô giết và tháp Silôê đè là những người có tội,
bị Thiên Chúa phạt. Còn họ nghĩ họ là những người tốt, không có tội nên không bị
Chúa phạt. Những người Do thái này không chịu nhìn tội lỗi của mình và họ chỉ
nhìn tội lỗi của người khác.
Thấy những người Do thái này cứng đầu, lì lợm, không chịu nhìn
nhận là mình có tội, nên Chúa Giêsu đã nhắc nhở họ rằng: “Cả các ngươi nữa, nếu
các ngươi không sám hối, thì các ngươi cũng sẽ phải chết như vậy”.
Tội lỗi đã làm cho chúng ta xa cách Thiên Chúa, làm chúng ta phản
bội Chúa, chống lại tình yêu của Chúa và nhất là làm chúng ta đánh mất sự sống
với Ngài.
Nhưng Thiên Chúa rất yêu thương chúng ta, Ngài đã ban chính Con
Một của Ngài là Chúa Giêsu cho chúng ta. Qua cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu
đã gánh lấy hết mọi tội lổi và chịu chết thay cho chúng ta. Như vậy, Chúa Giêsu
đã xoá đi tội lỗi của chúng ta và biến đổi chúng ta từ nô lệ
tội lỗi trở thành con cái của Thiên Chúa.
Vì thế, chúng ta hãy sám hối, trở về với Thiên Chúa để đón nhận
ơn cứu chuộc của Chúa như tiên tri Isaia đã loan báo: “Ta đã xoá
tội của các ngươi… Hãy trở về với Ta vì Ta đã cứu chuộc các ngươi”.
Sau khi thấy được kết quả của việc sám hối, giờ đây chúng ta quyết
tâm sống tinh thần sám hối.
Sống tinh thần sám hối.
Một hôm, đi học về. Tuyền chạy ngay vào bếp rồi nũng nịu với mẹ
rằng:
- Mẹ ơi, con đói bụng quá.
Mẹ ôn tồn:
- Chờ mẹ một chút, có cơm ăn liền. Hôm nay mẹ đi làm về trễ…
- Tuyền vùng vằng khó chịu rồi bỏ đi lên nhà. Cho đến khi
mẹ lên gọi ăn cơm Tuyền mới chịu xuống.
An cơm xong mẹ mới ôn tồn bảo Tuyền:
- Con lớn rồi. Đi học về, thấy mẹ làm cơm chưa xong thì phải biết
phụ mẹ lặt rau, hay dọn chén đũa chứ. Con không nên có thái độ như vậy.
Tuyền nhận ra mình đã làm cho mẹ buồn, tỏ ra hối hận và thưa mẹ
rằng:
- Thưa mẹ, con xin lỗi mẹ. Từ nay con sẽ cố gắng không làm mẹ buồn
nữa. Thế là mẹ ôm Tuyền vào lòng và nói: con rất ngoan, mẹ không buồn con nữa
đâu.
Câu chuyện cho chúng ta thấy, bạn Tuyền là người biết sám hối,
biết nhận ra lỗi của mình và mau mắn xin lỗi.
Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta cũng làm cho ông bà, cha mẹ,
thầy cô,… buồn lòng về những tật xấu của ta như: không vâng lời, hay đánh nhau,
chửi thề, nói dối…
Chúng ta hãy học nơi bạn Tuyền can đảm nhận ra lỗi của mình, rồi
mau mắn xin lỗi ông bà, cha mẹ, thầy cô… Và quyết tâm sửa đổi những tính hư tật
xấu.
Cũng vậy, để được Chúa tha thứ và để được sống với Chúa. Chúng ta
hãy sám hối tội lỗi của mình và quyết tâm từ bỏ những tính hư tật xấu để trở về
với Chúa bằng cách: mỗi ngày xét mình, ăn năn dốc lòng chừa và năng lãnh nhận
bí tích Giải tội.
Trong tuần này, thầy và các em cùng nhau mỗi ngày lặp lại nhiều
lần với lời nguyện tắt sau đây nhé:
“Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót con, vì con là kẻ có tội”.
34. Kiên nhẫn – Trầm Thiên Thu
Kiên nhẫn (nhẫn nại) là trạng thái chịu đựng trong hoàn cảnh khó
khăn – tinh thần và vật chất, nghĩa là can đảm và kiên trì đối mặt với điều
trái ý mà không tỏ vẻ khó chịu, bồn chồn hoặc thất vọng. Kiên nhẫn là một đức
tính giúp đạt sự thành công ở đời, đồng thời cũng là nhân đức trong đời sống
tâm linh.
Kiên nhẫn không phải là thụ động, mà là chủ động. Đó là sức mạnh
tập trung của con người. Kiên nhẫn rất cần, nhưng phải khổ luyện mới khả dĩ đạt
được, như Hellen Keller nhận định: "Chúng ta không bao giờ có thể học được
sự can đảm và kiên nhẫn nếu chỉ có niềm vui trên thế gian này". Nghĩa là
chúng ta phải có mục đích nào đó vượt trên những gì trần tục của những người
bình thường.
Ngày xưa, ông Môsê chăn chiên cho bố vợ là Gítrô, tư tế Mađian.
Ông dẫn đàn chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên Chúa, là núi Khôrếp. Bỗng
nhiên Thiên sứ của Đức Chúa hiện ra với ông trong đám lửa từ giữa bụi cây. Ông
Môsê nhìn thì thấy bụi cây cháy bừng mà không bị thiêu rụi. Thấy lạ, ông tự nhủ:
"Mình phải lại xem cảnh tượng kỳ lạ này mới được: vì sao bụi cây lại không
cháy rụi?" (Xh 3:3). Đức Chúa thấy ông lại xem, tiếng Thiên Chúa phát ra từ
giữa bụi cây: "Môsê! Môsê!". Ông thưa: "Dạ, tôi đây!" (Xh
3:4). Người phán: "Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng
là Đất Thánh" (Xh 3:5). Nơi nào có Thiên Chúa thì nơi đó là Đất Thánh, vì
Thiên Chúa là Đấng Thánh.
Thiên Chúa lại phán: "Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên
Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Ixaác, Thiên Chúa của Gia-cóp" (Xh 3:6).
Ông Môsê che mặt đi, vì sợ nhìn phải Thiên Chúa. Tại sao? Không phải Thiên Chúa
dữ tợn hoặc dị dạng khó coi, mà Thiên Chúa là Đấng Thánh. Mắt phàm nhân không
thể nhìn thẳng vào mặt trời thì làm sao nhìn Thiên Chúa là Nguồn Sáng? Biết vậy,
Đức Chúa liền trấn an ông Môsê: "Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên
Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi
đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa
chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật,
xứ sở của người Canaan, Khết, Emôri, Pơrítdi, Khivi và Giơvút" (Xh 3:7-8).
Thiên Chúa biết rõ mọi điều từ trong suy nghĩ của con người, Người chỉ muốn
chúng ta thật lòng và kiên trì kêu xin thì sẽ được toại nguyện.
Ông Môsê thưa với Thiên Chúa: "Bây giờ, con đến gặp con cái
Ítraen và nói với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy
nếu họ hỏi con: Tên Đấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?" (Xh
3:13). Thiên Chúa xác nhận với ông Môsê: "Ta là Đấng Hiện Hữu. Ngươi nói với
con cái Ítraen thế này: Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em" (Xh 3:14).
Không vòng vo. Chính xác. Rõ ràng. Thiên Chúa lại phán với ông Môsê:
"Ngươi sẽ nói với con cái Ítraen thế này: Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông
anh em, Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Ixaác, Thiên Chúa của Giacóp,
sai tôi đến với anh em. Đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các
ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia" (Xh 3:15).
Đọc đoạn Kinh thánh này và biết Thiên Chúa mà chúng ta đang tin
kính và tôn thờ là ĐẤNG HIỆN HỮU, chắc chắn chúng ta thực sự hạnh phúc vì chúng
ta đang có đức tin chính thống và sự tôn thờ đúng đắn. Quả thật, XƯA NAY CHƯA MỘT
THẦN LINH NÀO DÁM TỰ XƯNG NHƯ VẬY. Nhưng Thiên Chúa của chúng ta xác định rõ
ràng: TA LÀ ĐẤNG HIỆN HỮU. Và Ngài cũng là ĐẤNG TỰ HỮU. Hãy tạ ơn Chúa đã soi
sáng cho chúng ta đi đúng Đường Chân Lý của Thiên Chúa Thật!
Chắc hẳn vì vậy mà tác giả Thánh vịnh luôn tự nhủ: "Chúc tụng
Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa
đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người" (Tv 103:1-2). Thế mà
con người vẫn quá hèn yếu, luôn xin và muốn được toại nguyện, nhưng ít người
còn biết nhớ ơn. Phúc Âm nói tới ví dụ điển hình: Mười người được ơn, nhưng chỉ
có một người trở lại tạ ơn Chúa, mà người biết ơn đó lại là người ngoại đạo (x.
Lc 17:11-18), chắc chắn chín người vô ơn bạc nghĩa là người có đạo – dù người
đó ở cấp bậc nào, nói chung là những người mệnh danh là Kitô hữu, đừng tưởng
người địa vị cao thì "ngon" hơn người ở địa vị thấp! Chúa Giêsu đặt vấn
đề: "Thế thì chín người kia đâu?". Rất rõ ràng. Rất nghiêm túc. Rất
thực tế. Rất nhẹ nhàng mà lại rất đau – nhức buốt tận tủy xương!
Rồi khi gặp trắc trở, con người mới "giật mình" và lại
hối cải: "Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi,thương chữa lành các bệnh tật
ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng
hải hà" (Tv 103:3-4). Thiên Chúa luôn thông cảm nên luôn nhân hậu và xót
thương, Ngài "phân xử công minh, bênh quyền lợi những ai bị áp bức, mặc khải
cho Môsê biết đường lối của Người, cho con cái nhà Ít-ra-en thấy những kỳ công
Người thực hiện" (Tv 103:6-7), bởi vì "Chúa là Đấng từ bi nhân hậu,
Người chậm giận và giàu tình thương" (Tv 103:8). Nhân loại không thể hiểu
thấu kiểu yêu thương kỳ lạ như vậy: "Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất,
tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao" (Tv 103:11). Nếu không có
lòng thương xót kỳ lạ như vậy của Thiên Chúa thì chúng ta cùng đường, hết đường
sống – thời nay gọi là "tận cùng bảng số".
Từ một người Pharisêu và "chuyên gia" về việc bách hại
đạo, Saolê bỗng biến thành Phaolô nhiệt thành rao giảng về Người mà chính ông
đã tìm mọi cách để triệt hạ. Và rồi Thánh Phaolô không thể im lặng: "Thưa
anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về việc này: là tất cả cha
ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cả đều vượt qua Biển Đỏ. Tất cả cùng
được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Môsê. Tất cả
cùng ăn một thức ăn linh thiêng, tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì
họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy
chính là Đức Kitô" (1 Cr 10:1-4). Chữ "tất cả" và chữ "một"
khác nhau hoàn toàn, thế nhưng lại không hề khác chút nào. Dù "thuận"
hay "nghịch" cũng vẫn trong một tổng thể hài hòa.
Thánh Phaolô nói thêm: "Nhưng phần đông họ không đẹp lòng
Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc. Những sự việc ấy xảy ra để
làm bài học, răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông
chúng ta" (1 Cr 10:5-6). Cuộc đời chúng ta cũng vậy, thất bại và đau khổ
là bài học quý giá. Đó là tiếng Chúa cảnh tỉnh chúng ta, vì Ngài luôn hiện hữu
trong mọi biến cố của cuộc đời. Chắc hẳn cố nhạc sư Hùng Lân đã cảm nghiệm điều
đó nên ông viết trong bài thánh ca "Chúa Có Mặt Trong Lịch Sử Loài Người"
với ca từ đậm chất Đức Tin trong phần điệp khúc: "Chúa có mặt trong lịch sử
cuộc đời, Chúa có mặt trong lịch sử đời tôi. Từ thời hồng hoang tuổi đá, khi
nhân loại như thú rừng, dần dà ngự trị thiên nhiên, không gian thời gian mấy
trùng. Từ lúc bước vô trần gian cùng tiếng khóc oa oa, đời con Chúa đã an bài
trong thiết tha".
Thiên Chúa vẫn luôn kiên nhẫn, đến nỗi người ta cho rằng
"không hề có Thiên Chúa", dù chúng ta không ngừng tái phạm. Thánh
Phaolô đã cảm nhận được lòng thương xót của Chúa nên đã khuyên nhủ: "Anh
em đừng lẩm bẩm kêu trách, như một số trong nhóm họ đã lẩm bẩm kêu trách: họ đã
chết bởi tay Thần Tru Diệt. Những sự việc này xảy ra cho họ để làm bài học, và
đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những người đang sống trong thời sau hết
này" (1 Cr 10:10-11). Bởi vậy, không ai dám mạo nhận điều gì, vì "ai
tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã" (1 Cr 10:12). Không ảo
tưởng và luôn tỉnh thức, đó là biết sống kiên nhẫn.
Một ngày nọ, có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện
những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế
vật họ đang dâng. Đức Giêsu hỏi lại: "Các ông tưởng mấy người Galilê này
phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao?" (Lc
13:2). Tình trạng "tưởng mình hơn người" rất thường xảy ra trong ý
nghĩ của chúng ta. Điều này gợi nhớ tới dụ ngôn hai người cùng lên Đền Thờ để cầu
nguyện (x. Lc 18:9-14). Chúng ta quên (hoặc không muốn nhớ) rằng chính Chúa
Giêsu đã minh định: "Chẳng có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên
Chúa" (Lc 18:19).
Chúa Giêsu cảnh báo: "Nếu các ông không sám hối thì các ông
cũng sẽ chết hết như vậy. Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôác đổ xuống
đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở
thành Giêrusalem sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu
các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy" (Lc
13:3-5). Chúa Giêsu cảnh báo quá nhiều mà người ta vẫn không muốn lắng nghe, phải
chăng người ta nghĩ rằng Ngài là người-thích-đùa chăng? Không, hoàn toàn Ngài
không đùa, Ngài đang kiên nhẫn chịu đựng!
Rồi Đức Giêsu kể dụ ngôn này: "Người kia có một cây vả trồng
trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn:
"Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh
chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?" (Lc 13:7). Nhưng người làm vườn đáp:
"Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và
bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó
đi" (Lc 13:8-9). Ai xin chủ nhân trì hoãn việc đốn cây? Đó là Chúa Giêsu.
Chính Ngài đã mặc khải Thiên Chúa, đã chịu đau khổ và chịu chết để minh chứng
Tình Yêu, nhưng hầu như vô hiệu. Rồi Ngài lại mặc khải Thánh Tâm, và ngày nay
là Lòng Thương Xót. Quả thật, Thiên Chúa quá đỗi kiên nhẫn vì những thụ tạo khốn
nạn là chính mỗi chúng ta!
Lạy Thiên Chúa, chúng con xin lỗi Chúa, xin biến đổi trái
tim xơ cứng của chúng con để chúng con không phụ lòng kiên nhẫn và nhân từ của
Ngài, đồng thời có thể phần nao đáp lại Tình Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh
Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần
đến muôn đời. Amen.
35. Sám hối vì chưa làm điều tốt
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin mừng Chúa nhật hôm nay kể hai sự kiện:
Sự kiện vụ án Philatô giết người vô tội, Chúa Giêsu không ủng hộ
những người quá khích trong cuộc đấu tranh của họ chống lại Roma. Sứ điệp của
Người luôn rõ ràng và rất tập trung: “Thời giờ đã hoàn tất, nước Thiên Chúa đã
đến gần. Hãy ăn năm sám hối và tin vào Phúc Âm” (Mc 1,15). Chúa Giêsu cảnh tỉnh:
nếu các ngươi không sám hối thì cũng bị chết như vậy (Lc 13,3.5).
Sự kiện tháp Silôa đổ xuống đè chết mười tám người ở Giêrusalem.
Cũng như trong trình thuật người mù bẩm sinh (x. 9, 2–3), Chúa Giêsu giải
thích: “không phải vì anh ta,không phải vì cha mẹ anh ta đã phạm tội, mà anh ta
sinh ra đã bị mù loà”. Người khẳng định nơi đây rằng, không ai trong bọn họ là
nạn nhân của trừng phạt. Thiên Chúa không tìm trừng phạt mà là nâng dậy. Tuy
nhiên, mỗi người chịu trách nhiệm về các quyết định của mình.
Người đời thường nghĩ rằng: những kẻ bị tật nguyền, những ai bị
tai hoạ là bởi tội của họ hoặc do tiền nhân để lại. Họ đã đau khổ lại càng đau
khổ hơn bởi quan niệm sai lầm này. Trong thực tế mọi người phải chấp nhận giới
hạn của mình và hậu quả do mình gây nên hay vì sự liên đới nào đó do người khác
mang lại. Chẳng hạn, hai tai nạn Chúa Giêsu đưa ra trong trong đoạn Tin mừng đều
có nguyên nhân của nó. Philatô cần có tiền để xây dựng hệ thống dẫn nước đem lại
lợi ích cho toàn dân. Vì thiếu tiền nên đã vào đền thờ quyên góp. Nhóm cực hữu
cho hành động này là xúc phạm sự thánh nên trang bị khí giới để chống đối và bảo
vệ đền thờ. Thấy thế, Philatô ra lệnh giết chết họ trong đền thờ. Hành động của
họ dù với mục đích tốt nhưng lại thiếu khôn ngoan nên họ đã bị thiệt mạng. Vụ
án mạng tháp Silôa sập đè chết 18 người vì lý do thiếu kỷ thuật trong việc xây
cất. Cũng như vụ việc đau lòng, Nhà thờ giáo họ Ngọc Lâm thuộc giáo xứ Thái
Nguyên, Giáo phận Bắc Ninh, đang xây bị sập mái nên có 3 người tử nạn, 48 người
bị thương vào sáng ngày 17/01/2013; đang thi công, mái nhà thờ bất ngờ bị đổ sập
vào lúc 9g50. Theo cha xứ Fx Nguyễn Đức Đại và một số bà con giáo dân đang cùng
làm việc, nguyên nhân công trình bị sập là do trời mưa, ở phần gác đàn, nước đọng
và chảy xuống chân một số cột dàn giáo khu vực đó làm xói đất nên sập dàn kéo
theo toàn bộ phần mái bị sập.
Những tai hoạ đều có nguyên nhân của nó, hoặc là do mình, hoặc
là do người khác. Những người Do thái nghĩ là do có tội nên Thiên Chúa phạt họ,
còn mình vô tội thì được bình yên. Điều này đưa đến sự an toàn giả tạo. Chúa
Giêsu muốn nhấn mạnh rằng mọi người đều là tội nhân nên cần phải sám hối ăn
năn. Rồi Chúa kể dụ ngôn “cây vả”
nhấn mạnh đến tính cấp bách của sám hối. Người Do thái được ví như cây vả lâu
ngày không sinh trái, nên chủ vườn là Thiên Chúa định chặt đi, nhưng người làm
vườn là Chúa Giêsu xin khất một hạn kỳ, nếu sau đó nó vẫn không sinh hoa trái
thì sẽ bị chặt bỏ. Cây vả được gia hạn là hình ảnh người Do thái, nếu các ông
không chịu sám hối, thì chính các ông cũng sẽ chết y như những người Galilê bị
Philatô giết, hoặc như những người bị tháp Silôac đè chết. Hiện thời các ông
còn đứng đó chưa chết, là các ông đang ở trong tư thế cây vả được gia hạn. Nếu
cây vả vẫn không sinh trái, nó sẽ bị chặt đi. Nếu các ông không chịu sám hối,
các ông cũng sẽ bị huỷ diệt. Chúa Giêsu mời gọi họ trở lại với lương tâm để tự
vấn.
Thái độ quyết liệt của Chúa Giêsu biểu lộ một tình yêu Thiên
Chúa giàu lòng xót thương. Cây vả không cho trái độc, không làm hại cây khác,
không phá cảnh quang. Nó chỉ có tội làm hại đất, sử dụng đất màu mỡ mà không
cho trái.
Nhiều người cũng cảm thấy an toàn như cây vả. Tự hào vì mình
không làm điều xấu, chẳng làm hại ai. Thế nhưng họ lại quên rằng, mình đã phạm
tội không làm điều tốt, những điều tốt có thể làm được và phải làm. Nhiều người
thường tự hỏi: tại sao người tốt cần phải hối cải? Tôi là người thường đọc kinh
dự lễ rước lễ, không làm điều xấu hại ai, tại sao tôi phải ăn năn sám hối?
Sống đạo không phải chỉ lo tránh tội, mà còn là gieo trồng cái tốt,
cái thiện.
Có câu chuyện kể của ông chủ tiệm đồ cổ. Vào một đêm đông,
trời đã khuya, bão tuyết rơi lạnh lẽo, gió thổi mạnh rít từng cơn. Bỗng dưng có
tiếng gõ cửa. Ông chủ cảm thấy khó chịu vì bị quấy rầy giữa đên khuya. Khi cánh
cửa vừa mở, một người thanh niên dáng bụi đời đang run rẫy với một bàn tay xoè
ra van xin, một bàn tay đỡ cây gậy trên vai treo ít đồ đạc cá nhân. Thấy hoàn cảnh
đáng thương, ông chủ đưa tay với lấy ít bánh mì, vài đồng bạc lẽ trao cho hành
khách. Nhận được của bố thí, người thanh niên quay gót trở đi không nói lời cám
ơn giã từ. Khi đó chợt một ý tưởng đến trong đầu ông chủ nhà là nên mời người
đó vào nghĩ đỡ một đêm, nhà vẫn còn phòng khách trống, còn chăn nệm ấm êm. Tuy
nhiên ông lại nghĩ nếu để cho người này ở lại thì căn nhà sạch sẽ của mình sẽ bị
ẩm ướt, bị dơ bẩn. Thế rồi ông vội vàng đóng kín cửa. Hai ngày sau, có người thợ
đem đến một cây gậy làm bằng gỗ quý. Khi đã thương lượng giá cả, người bán gậy
cho biết, anh ta là người thợ chuyên đào mộ ở nghĩa trang. Anh vừa chôn một người
thanh niên mới chết, người thanh niên này vô gia cư, không tiền bạc, không người
thân. Tài sản anh ta chỉ là cây gậy, người thanh niên chết vì bị lạnh cóng, máu
đông lại khi ngũ trên tuyết. Nghe đến đây, ông chủ tiệm cảm thấy hối hận và xấu
hổ. Ông hối hận không phải vì đã làm điều xấu mà vì điều tốt ông có thể làm cho
người thanh niên nhưng ông đã không làm khiến cho anh phải chết rét.Ông chủ tiệm
kết thúc câu chuyện với nổi thao thức: điều tôi ao ước là những sự dữ chúng ta
làm, có lẽ Thiên Chúa sẽ tha thứ. Nhưng những gì tốt chúng ta đã không làm, sẽ
mãi mãi không được tha thứ.
Mục đích cây vả là sinh trái. Người chủ vườn thất vọng không phải
là cây vả sinh trái xấu, trái độc, trái chua mà là cây vả không sinh trái tốt.
Cứ để thêm một năm chăm bón vun xới may ra cây vả sinh hoa trái.
Cần phải sám hối hoán cải. Sám hối không chỉ là lời nhắc nhở xa
tránh sự dữ nhưng còn là lời mời gọi làm việc lành, sinh hoa trái tốt. Sám hối
liên hệ ràng buộc mọi người. Ai cũng phải làm lành lánh dữ. Lánh dữ, không làm
điều xấu chưa đủ, từ bỏ tội lỗi chưa đủ nhưng còn phải tích cực thực hành những
điều tốt lành nữa.
Khuynh hướng tự nhiên của con người là muốn được yên thân, an phận,
không muốn làm phiền ai và cũng không muốn ai gây phiền hà cho mình. Vì thế một
người ngoan đạo có thể bị rơi vào tình trạng tự mãn, sống ích kỷ mà không hay
biết.
Dụ ngôn cây vả còn cho thấy sự kiên nhẫn của Thiên Chúa.
"Đã ba năm nay...". Ngài đã nuôi bao hy vọng: "Tôi ra tìm trái
mà không thấy". Quyết định chặt cây chỉ đến sau những lần hụt hẫng. Ngài
chỉ phạt khi đã làm đủ cách để lay động tim ta. Chúa Giêsu là người làm vườn
kiên nhẫn không kém: "Xin ông cứ để nó lại năm nay nữa". Ngài không
ngừng ấp ủ chút hy vọng mong manh:"Tôi sẽ vun xới, bón phân, may ra sang
năm nó có trái". Nhưng đừng quên lời đe dọa cuối cùng: "Nếu không ông
chủ cứ chặt nó đi". Kiên nhẫn, hy vọng, chăm bón, nhưng cương quyết đòi hỏi,
đó là thái độ của Thiên Chúa đối với tội nhân. Chúa Giêsu vừa thôi thúc chúng
ta mau mau hoán cải, vừa chấp nhận cho chúng ta có thời gian trì hoãn để sám hối
canh tân.
Mùa chay là mùa ân sủng. Người chủ vườn nhẫn nại và quảng đại
cho cây vả thêm một năm nữa để hy vọng nó có thể sinh hoa trái. Mỗi Mùa
Chay,Thiên Chúa cho chúng ta thêm cơ hội để đổi mới con người, làm nhiều việc
lành bác ái phúc đức. Mùa Chay là thời gian thuận tiện để mỗi người kiểm điểm về
cây vả đời mình.Thêm một cơ hội, thêm một kỳ hạn nữa. Điều quan trọng là mỗi
người đã làm gì với cơ hội và với kỳ hạn đó ?
Lạy Chúa, xin cho con biết dùng ơn Chúa để nên thánh thiện,
sống đẹp lòng Chúa mỗi ngày một hơn. Ước gì cây đời của con có nhiều trái ngon
ngọt hơn. Amen.
36. Nhận ra lòng Chúa xót thương và hoán cải
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Phụng vụ hai Chúa nhật đầu Mùa Chay cả ba năm A, B, C đều trùng
hợp nhau ở đề tài sự lựa chọn của Chúa Giêsu trước tên cám dỗ, và Chúa biến
hình. Bước vào Chúa nhật thứ III Mùa Chay năm C, bài Tin mừng chú trọng đến đề
tài "hoán cải" với lời kêu gọi cảnh tỉnh. Ca nhập lễ nhắc nhớ chúng
ta lời cầu nguyện nổi tiếng của các Giáo phụ trong sa mạc: "Lạy Chúa
Giêsu, xin thương con, vì con là kẻ có tội!". Sau hai tuần sám hối tội lỗi,
chúng ta nên lấy những lời trên làm của mình, và can đảm nhiệt thành cùng với
Chúa Giêsu bước vào trong sa mạc của Mùa Chay, ý thức mình là những kẻ tội lỗi
nghèo hèn, nhưng chúng ta, "hướng cặp mắt" lên Chúa là Đấng giầu lòng
thương xót, Ngài sẽ cứu chúng ta khỏi Vực thẳm âm ty, và thưa: "Mắt tôi hướng
nhìn Chúa không biết mỏi, vì chính Người sẽ gỡ chân tôi khỏi dò lưới. Lạy Chúa,
xin đoái nhìn và xót thương con, vì thân này bơ vơ cùng khổ" (Ca nhập lễ).
Tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa không phải là dễ,
vì khi có biết bao chuyện buồn đẫm lệ trước mắt chúng ta như bão tố, lũ lụt, động
đất sóng thần cướp đi bao sinh mạng con người, và gần đây nhất, vụ sập nhà thờ
Ngọc Lâm làm 3 người chết, hơn 59 người bị thương. Chúng ta vẫn hát với niềm
tin rằng : "Chúa nhân từ và thương xót." Có người hỏi, lòng nhân từ
và tình thương xót của Chúa ở đâu, khi trái tim con người bị tan nát bởi những
cái chết đau thương của người thân, của anh em đồng loại... thật là khó để
chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương nhân loại và muốn tốt cho nhân loại.
Vấn nạn giả thiết rằng sự bất hạnh xảy đến với con người là
đáng. Vì vậy, khi chúng ta thấy những người bị bệnh hoặc bị cuốn đi, bởi một
cái chết đột ngột, người đời nói về họ: "Như thế nào, họ đã làm gì
sai?". Như là có sự trừng phạt tức khắc giữa trách nhiệm đạo đức và đau khổ
mà chúng ta hứng chịu. Đó không phải là điều Chúa Kitô nói trong Tin Mừng khi
người ta mang đến và hỏi Chúa: "Ai phạm tội? Anh mù này hay cha mẹ của anh
ta? (Ga 9, 2) Chúa Giêsu trả lời: "Không phải anh cũng không phải cha mẹ"
(Ga 9, 3) thực tế, anh đã mù bẩm sinh không phải là sự trừng phạt do lỗi của bất
cứ ai.
Vì vậy, làm thế nào chúng ta có thể chấp nhận và sống sự khác biệt
giữa lòng thương xót của Thiên Chúa và sự bất hạnh của con người? Chúng ta còn
nhớ việc Thiên Chúa giải thoát dân Ngài ra khỏi Ai Cập và làm cho dân chúng đi
qua Biển Đỏ ráo chân không? Liệu có nhớ Thiên Chúa dẫn dắt dân Ngài qua sa mạc,
nuôi dân bằng bánh bởi trời, và uống nước từ tảng đá vọt lên để dân đi đến tận
Đất Hứa? Chỉ cần nhớ lại những hành động Thiên Chúa trợ giúp con người, Như thư
I Côrintô, Thánh Phaolô tiên báo trước đời sống Kitô hữu mà chúng ta đang sống,
giống như Môi-se dân qua Biển Đỏ, những người đã được rửa tội trong Chúa Kitô
là Đá tảng tuôn trào mạch nước sự sống và nuôi dưỡng bằng bánh của trời. Nhưng
làm thế nào để chúng ta tin vào lòng trung thành của Thiên Chúa và giúp chúng
ta tin vào tình yêu của Thiên Chúa khi bất hạnh tấn công con người?
Thánh Luca kể lại cho chúng ta bình luận của Chúa Giêsu về hai
biến cố thời sự lúc đó. Biến cố thời sự thứ nhất là cuộc nổi loạn của vài người
Galilê bị quan Philatô đàn áp giết chết; biến cố thứ hai là việc một ngọn tháp
tại Giêrusalem bị sập ngã làm cho 18 người thiệt mạng; hai biến cố bi thảm này
khác nhau, một do con người tạo ra, và một do tai nạn. Người đương thời Chúa
Giêsu thường có tâm thức nghĩ rằng tai nạn đã đổ xuống trên các nạn nhân, bởi
vì họ đã phạm lỗi trầm trọng. Nhưng Chúa Giêsu ngược lại đã nói như sau:
"Các người cho rằng những nạn nhân người Galilêa kia là những kẻ tội lỗi
hơn tất cả mọi người Galilêa ư?... Hoặc 18 nạn nhân kia là những kẻ lỗi phạm
hơn tất cả mọi người dân Giêrusalem chăng? (Luca 13,2.4). Thay vì kết luận đơn
giản coi sự dữ như là hình phạt của Thiên Chúa, đức Giêsu hồi phục lại hình ảnh
chân thực của Thiên Chúa là Đấng tốt lành và không thể nào muốn sự dữ; Người
còn yêu cầu đừng coi những tai hoạ đó như là kết quả trực tiếp của tội lỗi cá
nhân. Người nói: "Các ông tưởng rằng những người Galilê ấy là những kẻ tội
lỗi nhất ở xứ Galilê cho nên mới đáng hình phạt như vậy ư? Và Chúa Giêsu đã kết
luận cho cả hai trường hợp như sau: "Không phải thế. Tôi nói cho các người
biết, nếu các người không ăn năn hối cải, các người cũng sẽ phải chết như vậy."
(Luca 13,3.5). Vậy, Chúa Giêsu muốn dẫn những kẻ lắng nghe Ngài đến kết luận về
sự cần thiết phải ăn năn trở lại.
Khi cái chết tấn công chúng ta, đức tin không cho chúng ta những
lời giải thích hoặc an ủi chúng ta yên tâm, nhưng đức tin hỏi chúng ta: chúng
ta đã làm gì trong cuộc đời khi chúng ta đang phải đối diện với cái chết vây
quanh ta, bất hạnh và đau khổ tấn công và chạm đến ta.
Để làm rõ lời kêu gọi hoán cải, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn cây vả.
Đã ba năm nay, cây không sinh quả. Như chúng ta, những người đã được hưởng lợi
quá lâu từ ân sủng của Thiên Chúa mà không đáp trả cách hào phóng? Chủ vườn đòi
hỏi chúng ta rằng điều này đã quá đủ. Và bây giờ người làm vườn chưa ưng nhận sự
phán xét của Thầy nên trả lời: "Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa,
tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân; may ra nó có quả chăng, bằng không năm
tới ông sẽ chặt nó đi " (Lc 13: 9), đúng là năm án treo, một năm hồng ân.
Trong hội đường Nazareth, chính Chúa Giêsu hiện diện với sứ mạng được ủy thác ứng
nghiệm lời ngôn sứ Isaia. Ngài được sai đến để công bố một năm hồng ân, một năm
ân xá. Mỗi năm chúng ta sống là một năm mà chúng ta được tự do.
Sự chết không tấn công một cách mù quáng, nhưng là lời mời gọi
chúng ta hoán cải đời sống. Đây là lý do tại sao phụng vụ cung cấp cho chúng ta
bài suy niệm này ở trung tâm của Mùa Chay, khi chúng ta tiếp tục cuộc hành
trình 40 để hướng tới việc cử hành lễ Vượt Qua, và chúng ta được mời đi tiếp Chủ
Nhật tới để canh tân phép rửa của chúng tôi, nguồn nước hằng sống trào dâng từ
trái tim của Chúa Kitô.
Vâng, lạy Chúa, khi con nhìn thấy những gì xảy ra trên thế giới,
các tệ nạn gây đau đớn cho nhân loại và đau khổ đến anh em của con, con nghe thấy
giọng nói của Chúa nói với con: "Hãy sám hối ngay ngày hôm nay. Tận dụng
năm ân sủng, năm ân xá này, năm nay Ta vẫn chăm sóc con để con có thể sinh
trái. "Amen.
37. Chú giải của Noel Quesson
Có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những người
Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ
đang dâng.
Đức Giêsu không sống trong một thời đại yên tĩnh về mặt chính trị.
Những sự đụng độ thời bấy giờ còn đẫm máu hơn ngày nay: Biến cố mà người ta vừa
loan báo cho Đức Giêsu, là sự kiện thường xảy ra. Có lẽ đó là một cuộc biểu
tình của nhóm quá khích đang cố ngoi lên một phong trào nổi dậy để cứu dân, chống
lại chính quyền Rôma đang chiếm đóng. Giữa lúc đang cử hành phụng vụ, đang dâng
lễ vật cầu xin Thiên Chúa trợ giúp, họ đã bị cảnh sát của tổng trấn Philatô tàn
sát. Ta có thể thấy thái độ phán quyết lập tức của mọi người Do Thái chân
thành, đối với việc đàn áp đẫm máu này.
Người ta kể lại sự kiện này cho Đức Giêsu để xem Người có một lập
trường, một thái độ như thế nào? Người sẽ lên án Philatô hay cảnh sát của ông
này chăng? Người sẽ lên án những kẻ khuấy động vô trách nhiệm, đưa đám đông dân
chúng vào những cuộc phiêu lưu không lối thoát chăng? Một lần nữa, chúng ta nhận
thấy Đức Giêsu khước từ bày tỏ lập trường về mặt chính trị, về lãnh vực trần
gian. Ngài sẽ thản nhiên bình luận biến cố này trong tôn giáo
tránh né bày tỏ thái độ đối với trách vụ Philatô, hay đối với các nạn nhân,
Ngài chỉ nói về tội lỗi và thái độ hối cải. Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết sống
những biến cố xảy đến cho chúng con, với mức độ suy tư và tinh thần đức tin cao
nhất.
Đức Giêsu đáp lại rằng: "Các ông tưởng mấy người
Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao?
Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu.
Đức Giêsu đang cố phá đổ một thành kiến. Ngài đưa cuộc bàn cãi
lên cao. Tâm lý thông thường cho rằng, những thử thách xảy đến cho một người,
là như một sự trừng phạt cho kẻ đó. Ngày nay cách xét đoán như thế vẫn còn ở
trong tâm trí chúng ta, thí dụ khi ta nói: "Thật là bất công, anh ấy đâu
đáng phải chết trẻ như thế" hay là "chúng ta đã làm gì phật lòng
Chúa, để Người gởi đến cho chúng ta một thử thách như thế này?".
Đối với Đức Giêsu, không có sự liên lạc nào giữa tai hoạ và tội lỗi. "Không phải anh ta, cũng không phải cha mẹ
anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra là để các việc Thiên Chúa được bảy tỏ
hiện nơi anh". Chính Đức Giêsu sẽ dễ dàng để ta tự gán cho mình một lương
tâm tốt hay tự đặt mình vào số những người công chính. Chúng ta thường nghĩ rằng
hoàn toàn chịu trách nhiệm: hoặc chính quyền, hoặc thể chế, hay xã hội!
Nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết
như vậy.
Họ đã đến để đưa vụ Philatô và các nạn nhân ra xét xử. Nhưng bây
giờ chính họ lại bị tố giác. "Các ông tưởng rằng, những người Galilê tội lỗi
hơn các ông sao? Vấn đề là không phải bàn về "những người khác". Đức
Giêsu đưa họ trở lại với lương tâm của họ. "Các ông phải sám hối. Các ông
dễ dàng lên án sự hung bạo của Philatô. Nhưng hãy nhìn xem, chính các ông lại
không góp phần vào sự hung bạo đó sao? Cùng với Đức Giêsu, chúng ta phải dám
nói lên điều đó, vì lịch sử không ngớt chứng minh: Thay đổi cơ cấu xã hội không
đủ. (Vì hỡi ôi! bất công và bạo lực vẫn tồn tại trong mọi chế độ) nhưng chính
là tấm lòng con người cần phải thay đổi, phải hoán cải, để cho cơ cấu xã hội được
cải thiện.
Vâng, lạy Chúa, con biết điều đó trong đáy lòng con. Con không
có quyền lực trên mọi hành động hung bạo đang đè nặng trên một xứ sở xa xôi
nào, cũng không có quyền gì trên những trào lưu đang ảnh hưởng môi trường xã hội,
trường học, nghề nghiệp và Giáo hội của chúng con. Nơi duy nhất mà con có thực
quyền, đó là sự hướng dẫn công cuộc "hoán cải”, của chính con.
Lạy Chúa, xin giúp con đừng trốn tránh trách nhiệm của
mình, bằng cách tố giác kẻ khác.
Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết,
các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành
Giê-ru-sa-lem sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu.
Chính Đức Giêsu nhân cơ hội này, đã nhắc lại một sứ mệnh khác.
Trong một vùng ngoại ô thủ đô, một toà nhà đã đổ xuống đè
chết nhiều gia đình. Ngày nay, trước một tai nạn như thế người ta củng cố tìm ra thủ phạm: những kiến trúc sư bất tài, chỉ lo tới
lợi nhuận, mà không bảo đảm tiêu chuẩn an toàn... Hay những người bất cẩn đã trở
thành nạn nhân đã bị "trừng phạt" bởi một định mệnh vô danh nào đó, nếu
không phải chính Chúa là Đấng chịu trách nhiệm: “Nếu có một Thiên Chúa, thì đâu
có xảy ra tai hoạ như thế".
Đức Giêsu trở lại vấn đề này như một điệp khúc: Không, đau khổ
không phải do Thiên Chúa gởi đến! Sự thử thách không phải là một sự trừng phạt.
Sự dữ xảy đến cho ta thường chỉ là hậu quả tự nhiên của quy luật tạo vật: Hấp lực
trái đất, sự dòn mỏng, những sai lầm không tránh được. Thay vì buộc tội Chúa,
là "Nguyên nhân đệ nhất” như' các triết gia thường nói, chúng ta phải để ý
đến những “nguyên nhân đệ nhị", mà chúng ta có toàn quyền trên chúng. Đức
Giêsu đã chiến đấu chống sự dữ. Ngài yêu cầu chúng ta đến lượt mình cũng phải
chiến đấu, nhưng trước tiên trong chính bản thân chúng ta.
Nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ
chết hết y như vậy.
Cũng như mọi ngôn sứ trong Kinh Thánh, Đức Giêsu trước tiên là một
nhà giảng đạo, không phải là người dạy luân lý dưới hình thức những bài học xã
hội. Kiểu nói của Đức Giêsu, mang tính ngăn đe đáng sợ: "Các ông sẽ chết hết,
nếu các ông không thay đổi". Đức Giêsu chấp nhận tâm lý chung sao? (đau khổ
là sự trừng phạt) mà Người vừa mới phủ nhận? Chắc không phải như vậy? Rõ ràng Đức
Giêsu không nói về cái chết thể lý mà những người biểu tình bị tàn sát hay những
nạn nhân do tháp đổ đã chết. Đức Gíêsu không không điên hay ngây ngô. Người quá
biết người công chính cương: phải chết, Chính Người cũng phải lên thành
Giêrusalem, để bị Philatô giết hại. Nhưng Đức Giêsu, khi có ý đặt mình trên một
bình diện khác với bình diện con người: Bình diện chính trị, luân lý hay xã hội,
Người muốn mạc khải một chân- lý tôn giáo. Người khẳng định có một cái chết
khác, một sự hư mất đời đời, mà không ai nghĩ đến và Người không ngừng nhắc đến.
"Nếu các ông không ăn năn hối cải, các ông sẽ chết hết": Không phải
cái chết sinh lý mà các bạn nhận thấy hằng ngày chung quanh mình, mà là cái chết
khác có tính nhiệm mầu do tội lỗi gây ra. Đức Giêsu không mời gọi chúng ta
“khám phá": Thực sự chúng ta không có cách nào để kiểm chứng theo lý trí,
với mức độ phân tách của con người, những điều Chúa nói. Đó thật là một "mạc
khải", một vấn đề đức tin.
Đức Giêsu mạc khải cho ta biết mọi người đều có tội, và được ban
cho cơ hội hoán cải.
Vâng, Đức Giêsu mời gọi mỗi người trở về với lương tâm của mình,
Philatô chắc hẳn rồi? Nhưng cả những người Galilê nữa! Những thợ xây kém cỏi,
hay các kiến trúc sư, và tất cả những người khác tưởng rằng mình đứng ngoài cuộc
phán quyết. Còn tôi thì sao? Chắc hẳn tôi đang đặt tránh ra ngoài sự đe doạ mà Chúa đã nói, để tránh khỏi phải hoán cải...
Bao giờ thì chúng ta mới thức tỉnh ra khỏi tình trạng vô ý thức
bi thảm của mình? Các nhà chú giải về Kinh Thánh nhấn mạnh về cách nói
"triệt' để" của Luca "Các ông sẽ chết hết". Nhưng ta cũng cần
lưu ý, kiểu nói mãnh liệt của Đức Giêsu luôn điều kiện. Nó mời gọi ta trở về với
chính mình, với việc hoán cải bản thân. Thiên Chúa không lên án. Chính con người
tự kết án mình phải chết đời đời: “Nếu các ông không ăn năn hối cải". Thái
độ mãnh liệt của Đức Giêsu, đó là sự mãnh liệt của một tình yêu Thiên Chúa đầy
xót thương, không thể chịu đựng để thấy con người đi đến chỗ hư mất. Chúa đau
khổ khi thấy loài người phải chết! Chúng ta hãy nhớ rằng Đức Giêsu đang trao
ban một sứ điệp tôn giáo, nghĩa là nói về Thiên Chúa. Điều này không có nghĩa
là Người có thái độ trung lập trước những vấn đề nan giải của con người. Nhưng
Người tự đặt mình trên một bình diện "mạc khải": Người tố giác sự dữ
đích thực của con người là gì? Trong mọi trường hợp, Người đều nhắc chúng ta rằng,
không thể có sự thoả hiệp giữa Thiên Chúa và tội lỗi: Nếu
ta ở trong tội ác, đó là tự lên án mình phải nhận cái chết nặng hơn là cái chết
do gươm đao của binh lính Philatô, hay do những tảng đá của Giêrusalem đổ xuống.
Lạy Chúa, chúng. con biết lắng nghe lời Chúa hay không? Chúng
con có tin Chúa hay không? Lạy Chúa Giêsu, do Chúa Cha gởi đến để chúc lành và
cứu rối mọi người, xin thương xót chúng con. Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết
hoán cải trong Mùa Chay này.
Rồi Đức Giêsu kể dụ ngôn này: "Người kia có một cây vả
trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người
làm vườn: `Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy
anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?
Chúng ta đang bàn về cùng một đề tài "Cuộc phán xét! Hành
vi của con người không thể lãnh đạm, trung lập, không xấu không tốt. Chúng là
"một quả". Quan điểm hiện đại cố làm cho chúng ta tin vào một sự xoá bỏ mọi mặc cảm tội lỗi: không có gì tội lỗi nữa, con người
đâu có trách nhiệm gì trước Chúa, không còn kiêng kỵ, ngăn
cấm, lỗi lầm gì cả... Bạn cứ làm bất cứ điều gì mình thích ". Trái lại, Đức
Giêsu nói: "Hãy chặt cây vô sinh không cho trái đó đi!" Người không
những lên án "trái thối" mà còn lên án cả tình trạng "không sinh
trái".
Nhưng người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm
nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có
trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi”.
Người "làm vườn" đầy tình thương với "cây
nho" của mình, đó chính là Đức Giêsu mà chúng ta yêu mến. Người đã đến
không phải vì những nguội công chính, mà vì các tội nhân. Người đã kể tất cả những
dụ ngôn về lòng thương xót, đặc biệt được ghi lại đầy dấy trong Tin Mừng Luca
(Lc 15). Do đó, những lời đe doạ khi này chỉ có một mục
đích thức tỉnh chúng ta. Thiên Chúa thương yêu những người tội lỗi. Ngài yêu
tôi! Không thể đối nghịch lòng thương xót với thái độ đòi hỏi: Vì chính tình
yêu luôn mang tính đòi hỏi. Ta không lên bỏ câu cuối này: "Nếu không ông sẽ
chặt nó”. Mùa Chay thật là thời gian thuận tiện cho một đòi hỏi triệt để nào đó
của Tin Mừng.