Lời Chúa tuần 30 thường niên _ câu truyện minh họa

LỜI CHÚA TUẦN 30 THƯỜNG NIÊN
CÂU TRUYỆN MINH HỌA 

CNTN 30A – YÊU THƯƠNG LÀ CHU TOÀN LỀ LUẬT

CNTN 30B -

CNTN 30C - CẦU NGUYỆN TRONG KHIÊM TỐN VÀ SÁM HỐI

THỨ HAI - ĐỪNG GIẢ HÌNH

THỨ BA - NƯỚC THIÊN CHÚA

THỨ TƯ -

THỨ NĂM -

THỨ SÁU - YÊU THƯƠNG LÀ LINH HỒN CỦA LỀ LUẬT

THỨ BẢY - KHIÊM TỐN HẠ MÌNH

LỄ CÁC THÁNH - PHÚC THAY!

LỄ CÁC LINH HỒN

 

CNTN 30A – YÊU THƯƠNG LÀ CHU TOÀN LỀ LUẬT

Lời Chúa: Mt 22, 34-40

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, những người biệt phái nghe tiếng Chúa Giêsu đã làm cho những người Sađốc câm miệng, thì họp nhau lại, đoạn một người thông luật trong nhóm họ hỏi thử Người rằng: "Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?"

Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ðó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi.

Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó. "

TRUYỆN KỂ

1. Nắm đầu

Xưa kia, đang khi quân binh Israel và quân binh Phi-li-tinh giàn binh bố trận để giao chiến với nhau, thì Gô-li-át, một chiến sĩ khổng lồ vô địch trong hàng ngũ Phi-li-tinh đứng ra thách thức với toàn chiến binh Israel: “Các ngươi hãy chọn lấy người khoẻ nhất ra đây giao chiến tay đôi với ta, (không cần hai phe phải dốc toàn quân giao chiến làm gì cho hao binh tổn tướng). Nếu nó hạ được ta thì chúng tao sẽ làm nô lệ chúng bây. Còn nếu ta hạ được nó, thì chúng bây sẽ làm nô lệ hầu hạ chúng tao” (I Samuen 17, 9-10)

Sau đó, Đavít đã thay mặt toàn quân Israel chiến đấu tay đôi với Gô-li-át và đã hạ sát được y ngay từ phút đầu bằng một phát ná bắn đá rồi giật lấy gươm của y mà chặt đầu y.

Thắng được tên Gô-li-át là chiến thắng toàn thể quân binh Phi-li-tinh.

Sự kiện nầy minh họa cho vấn đề nầy là: nếu chúng ta chu toàn giới răn chủ chốt là giới răn yêu thương thì chúng ta đã giữ tròn các giới răn khác.

Muốn chế ngự rắn độc, phải cố tóm cho được cái đầu.

Muốn chinh phục toàn quân thì phải chiếm được bộ chỉ huy.

Muốn giữ tròn lề luật, hãy bắt đầu tuân giữ giới răn yêu người, vì “yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13, 10).

2. Bài thuốc chữa bệnh cô đơn

Có một chứng bệnh mỗi ngày một trở nên trầm trọng trong xã hội ngày nay, đó là chứng bệnh cô đơn. Thực vậy, giữa thời buổi kinh tế thị trường, người ta đổ xô về thành phố. Thế nhưng, dân số thành phố càng gia tăng thì chứng bệnh cô đơn lại càng trầm trọng. Người ta sống cách nhau chỉ một bức tường mà không hề biết đến tên tuổi của nhau. Trong một chung cư, kẻ ở lầu trên, ra vào cùng một lối mà chẳng biết đến kẻ ở lầu dưới. Mỗi người trở thành như một hòn đảo, một pháo đài biệt lập. Đời sống càng xô bồ chen chúc, thì con người lài càng cảm thấy cô đơn. Mặt trời dường như mỗi ngày một thêm nóng bức và oi ả, mà lòng người thì mỗi ngày một thêm lạnh lùng và băng giá. Thiên hạ đối xử với nhau ngày càng thêm hờ hững và xa lạ. Vậy đâu là phương thuốc trị liệu cho chứng bệnh cô đơn này?

Không có một phương thuốc nào hiệu nghiệm cho bằng hãy mến Chúa và yêu người. Hay như Chúa Giêsu đã phán qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Giới răn thứ nhất là hãy kính mến Thiên Chúa hết lòng, còn giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là hãy yêu thương tha nhân như chính mình. Tuy nhiên, đây không phải là hai giới răn riêng biệt, nhưng chỉ là một giới răn duy nhất. Yêu người chỉ là sự biểu lộ và hậu quả tất nhiên của lòng mến Chúa. Có yêu người thì mới có thể mến Chúa. Và ngược lại, có mến Chúa thì mới có thể yêu người.

3. Giới răn yêu thương

Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/8/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ tại Nhật, đó là “Sư máy. " Vị sư máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ: đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi đưa lên, một tay thì gõ mõ. Mỗi vị sư máy có thể cầu kinh không biết mỏi mệt, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật giáo khác nhau tại Nhật. Sáng kiến này được đưa ra nhằm đáp ứng cho nhu cầu ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm trong các Giáo hội Phật giáo tại Nhật. Tuy nhiên, như tác giả bài báo ghi nhận: những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương.

Yêu thương là đặc điểm của con người. Thú vật có thể có cảm giác, nhưng đó không hẳn là yêu thương. Chỉ có con người được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa tình yêu mới thực sự được mời gọi yêu thương mà thôi.

4. Tấm lòng dành cho nhau

Nạn đói lan tràn lãnh thổ. Một người ăn xin nơi góc phố tiến tới gần văn hòa Leon Tolstoy. Tolstoy dừng lại, sờ khắp mọi túi nhưng không tìm được đồng nào. Thật lòng thương cảm, ông nói: “xin đừng giận tôi, người anh em ạ, tôi không có đồng nào ở đây. " Người ăn xin ngước mặt đáp: “ông gọi tôi là người anh em thì cũng là món quà lớn lắm rồi. "

Vâng, yêu thương không nhất thiết phải được đánh giá bằng những tài sản vật chất lớn lao mà hơn thế đó là lòng thương cảm của chúng ta dành cho nhau.

5. Mến Chúa và yêu người là một

Một thơ sĩ người Anh tên là Leigh Hunt đã viết một bài thơ rất nổi tiếng về một người tên là Abou Ben Adhem như sau:

Một đêm kia, khi Abou Ben Adhem choàng tỉnh dậy, anh thấy trong phòng ngủ của anh một thiên thần nhỏ đang cắm cúi viết trên một cuốn sách bằng vàng tên của những người yêu mến Thiên Chúa. Anh rón rén lại gần và hỏi nhỏ: “Có tên của con trong sách đó không, thưa ngài?" Vị thiên thần nhỏ lắc đầu: “Chẳng có tên của anh. " Abou nài nỉ: “Nếu thế, con xin ngài hãy ghi tên con là người biết yêu mến những người anh chị em của mình thôi. " Đêm hôm sau, vị thiên thần trở lại với danh sách của những người yêu mến Thiên Chúa. Lần này, tên của Abou Ben Adhem đứng ở đầu danh sách.

Bài thơ này cho thấy tình yêu đích thực dành cho Thiên Chúa và tình yêu dành cho tha nhân thì tựa như 2 mặt của một đồng tiền. Người ta không thể tách rời 2 thứ tình yêu này ra khỏi nhau được. Đó cũng chính là những gì mà Tin Mừng ngày hôm nay muốn nói với chúng ta. Khi người ta hỏi Đức Giêsu rằng đâu là giới răn quan trọng nhất trong lề luật, thì câu trả lời vẫn là giới luật về tình yêu đối với Thiên Chúa. Nhưng Đức Giêsu không chỉ dừng lại ở đó. Ngài tiếp tục đưa ra một câu trả lời thực tế hơn. Ngài trình bày cho chúng ta thấy mặt khác của đồng tiền: đó là tình yêu dành cho tha nhân. Tình yêu mến Thiên Chúa cách đích thực và tình yêu thương tha nhân chân thành chỉ là một.

6. Thấy được tình yêu Thiên Chúa

Mẹ Têrêxa Calcutta kể: “Hôm ấy, một người lạ mặt đến nhà dòng, ông thấy một Sơ vừa đem về một người hấp hối, nằm bên ống cống, mình đầy giòi bọ rất hôi thối. Thế mà, Sơ rất nương nhẹ nhặt từng con bọ với vẻ mặt vui tươi, thanh thản đầy thương mến… Rồi người lạ đến gặp tôi nói: Thưa mẹ, khi con đến đây với lòng đầy căm hờn của một người vô tín ngưỡng. Nhưng bây giờ con ra về với một tâm hồn hoàn toàn đổi mới. Con bắt đầu tin Chúa, bởi vì con đã chứng kiến tình yêu của Chúa được diễn tả một cách cụ thể qua hành động và qua cách Sơ ấy đã đối xử với người hấp hối bẩn thỉu kia. Bây giờ con tin thật Chúa là tình yêu. Không có tình yêu Chúa trong tâm hồn, không thể nào có đủ nghị lực để yêu tha nhân được. "

Thực vậy, không mến Chúa, không thể yêu người vô vị lợi được. Vì thế Chúa Giêsu đã nhấn mạnh cho mọi người nhận biết hai giới răn quan trọng nhất là: ” Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi… và điều thứ hai giống điều răn ấy: ngươi phải yêu người đồng loại như chính mình. "

7. Không biết trò chơi hòa bình!

Ngày kia, ông Macsa, một nhà văn người Nga, đi ngang qua một sân chơi, ông dừng lại quan sát một đám trẻ em trạc tuổi lên 6 lên 7 đang chơi với nhau. Thấy chúng chơi trò gì là lạ, ông cất tiếng hỏi:

– Này các cháu, các cháu đang chơi trò gì thế?

Đám trẻ nhốn nháo trả lời:

– Chúng cháu chơi trò đánh nhau.

Nghe thế ông Macsa hơi cau mày, rồi gọi các em đến, ông ôn tồn giải thích:

– Tại sao các cháu chỉ chơi trò đánh nhau mãi. Các cháu biết chứ, đánh nhau hay chiến tranh có gì là đẹp đâu. Các cháu hãy chơi trò hòa bình xem nào.

Ông vừa dứt lời, một em bé reo lên:

– Phải rồi, tụi mình thử chơi trò hòa bình một lần xem sao.

Thế là cả bọn kéo nhau ra sân, chụm đầu vào nhau bàn tán. Thấy chúng chấp nhận ý kiến của mình, nhà văn hài lòng mỉm cười tiếp tục đi. Nhưng chưa được mấy bước ông nghe có tiếng chân chạy theo. Và chưa kịp quay lại, ông đã nghe giọng của một em bé hỏi:

– Ông ơi, trò chơi hòa bình làm sao? Chúng cháu không biết.

8. Yêu như Chúa yêu

Tại thành phố Miami, nước Mỹ, ngày 03/10/1970, cô Edwarda, mới 16 tuổi, đã lâm vào tình trạng hôn mê, do bệnh tiểu đường.

Trước lúc sự việc xảy ra, cô quay sang mẹ nài nỉ: “Mẹ ơi, mẹ hứa đừng bao giờ bỏ con mẹ nhé!” Đến hôm nay, hơn 30 năm rồi, cô gái sống như “thực vật” không còn biết gì cả. Vậy mà bà Kaye O’Bara, mẹ cô, vẫn can đảm chăm sóc cho con. Cứ hai giờ là bà phải lấy máu để thử, đo độ đường trong máu, rồi tiêm insuline, hút đờm dãi, tắm rửa, cả cho con ăn nữa. Bà còn gội đầu, chải tóc, vuốt ve, thủ thỉ nói chuyện với con, dù con bà không hề trả lời.

Thật là điều kỳ diệu của tình yêu. Khoa học không tài nào giải thích được sức mạnh này. Bà Kaye đã giữ đuợc lòng yêu thương hiếm thấy trên đời (Những điều kỳ diệu, D. P. Eich, trg. 80). Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa cũng nêu cho chúng ta rõ: điều răn của Thiên Chúa quan trọng chính là luật yêu thương.

9. Hai mặt của một tình yêu

Vào thời có nhiều người thích ẩn tu trong sa mạc, có một Tu Sĩ nổi tiếng đạo đức tên là Môsê. Sắp đến lễ Phục sinh, tất cả các tu sĩ đều nhất trí sẽ không ăn gì cả suốt Tuần Thánh, mỗi người ở luôn trong phòng mình và chuyên chăm cầu nguyện.

Đến giữa tuần, có hai khách lữ hành ghé thăm Thầy Môsê. Thấy họ đói quá, Thầy nấu cho họ một nồi súp. Và để họ không ngại, Thầy cũng ăn một ít trước mặt họ. Đang lúc đó, các thầy khác thấy khói và mùi thức ăn từ phòng Thầy Môsê bay ra thì bực tức tới bắt lỗi:

- Thầy đã phạm luật!

Thầy Môsê khiêm tốn trả lời:

- Đúng là tôi đã phạm luật của loài người. Nhưng đó là vì tôi giữ luật Chúa dạy phải yêu thương người khác.

Nghe thế, những thầy kia xấu hổ bỏ đi.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu được yêu cầu nêu ra hai điều luật quan trọng nhất. Ngài đã nêu ra luật mến Chúa và luật yêu người. Ngài đã nối kết cả hai lại với nhau và xem chúng đều trọng như nhau. Thế nhưng loài người chúng ta thường tách hai điều đó khỏi nhau.

10. Mãnh thú và giai nhân

Ngày xưa có một hoàng tử trẻ sống trong lâu đài tráng lệ. Vào một đêm mùa đông, một bà lão ăn xin lỡ đường, muốn trọ qua đêm, đã bị hoàng tử từ chối. Chẳng may, bà lão lại là một bà phù thủy. Để phạt tội hoàng tử không có lòng thương người, bà đã biến chàng thành một con mãnh thú, hình tượng xấu xí và hung dữ. Trước khi ra đi, bà cho con mãnh thú một lời hứa sẽ biến trở lại thành hoàng tử nếu có ai thực sự yêu thương mãnh thú.

Trong ngôi làng gần chỗ con mãnh thú ở, có một thiếu nữ xinh đẹp tên là Belle. Cô mồ côi mẹ, sống với cha già. Cha già con mọn bị đám thợ săn thường xuyên quấy phá. Một ngày nọ, cha cô vào rừng săn thú, đi lạc vào lâu đài, bị mãnh thú bắt giữ. Nhờ con ngựa khôn ngoan đã dẫn cô tìm được cha. Vì thương cha, cô chấp nhận đổi mạng, ở lại sống với con mãnh thú để người cha được tự do ra về.

Về đến nhà, người cha đã kết hợp với bọn thợ săn tìm cách giết con mãnh thú để cứu con gái. Trong khi đó cô gái bắt đầu quen thân, trò chuyện và đem lòng yêu mến mãnh thú, tuy rất đau khổ phải xa cách người cha. Còn mãnh thú vì yêu thương cô gái, không nỡ để cô sống trong đau khổ, nên đã đồng ý thả cô về nhà với cha. Chiến trận ác liệt đã xảy ra giữa bọn thợ săn và con mãnh thú. Đang khi giao chiến với bọn thợ săn, mãnh thú bị thương nặng. Sau khi về thăm cha già, cô gái thương nhớ con mãnh thú và quyết định trở lại tiếp cứu. Cô đến đúng khi mãnh thú bị thương, đang quằn quại trong đau đớn. Cô năn nỉ: “Không! Xin đừng chết! Mãnh thú ơi ta yêu mi!” Rồi cô ôm hôn lên mặt mãnh thú. Nhờ nụ hôn yêu thương đó, mãnh thú biến trở lại thành một hoàng tử khôi ngô tuấn tú như trước. Đó là câu chuyện tình đẹp đẽ được tóm lược trong cuốn phim hoạt hình “The Beauty and the Beast”, “Mãnh Thú và Giai Nhân”

Sống trên đời con người rất cần tình thương, tình thương có sức biến đổi con người và có thể giúp con người giải quyết những khó khăn. Vì con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa là tình yêu, nên con người luôn khao khát và tìm kiếm tình yêu. Có nhiều cách để thể hiện tình yêu, có khi là cả một sự từ bỏ, hy sinh, cho đi chính bản thân mình… Đó là tình yêu mà Chúa Giêsu muốn nói đến. Ngài đã thực hiện điều đó khi từ bỏ ngai vàng mà xuống thế đến với con người, sống trong một gia đình nghèo khó. Ngài đến để giải thoát con người khỏi vũng lầy tội lỗi, khỏi những trói buộc của lề luật, giúp con người nhận ra lòng thương xót của Chúa Cha…

Lạy Chúa, xin cho con biết làm vinh danh Chúa bằng cách sống triệt để điều răn quan trọng mà Chúa đòi hỏi nơi mỗi người chúng con là mến Chúa và yêu thương anh em mình.

11. Tình yêu đòi bỏ mình

Chàng ca sĩ nhạc pop, Cliff Richard sau một chuyến viếng thăm trại tị nạn Bihari ở Bangladesh trở về nhà đã kể lại một biến cố cảm động như sau: “Buổi sáng đầu tiên ở trại tị nạn, tôi phải rửa tay hàng chục lần. Tôi đã không dám đụng vào bất cứ cái gì, nhất là dân chúng. Mọi người ở trong những trại tị nạn đó đều bị ghẻ lở. Toàn thân đầy mụn nhọt. Tôi đang cúi xuống với một em bé gái, mục đích chính chỉ là chụp vài tấm hình để phô trương với bè bạn. Tôi đã cố gắng hết sức đừng cúi xuống quá gần kẻo đụng chạm vào người em. Ngay lúc ấy, một người nào đó tình cờ đạp lên những ngón chân của em. Bé gái hét lên, và như một phản xạ, tôi nắm lấy em, quên đi sự bẩn thỉu dơ dáy và đầy mụn nhọn trên người em. Tôi nhớ mãi một thân hình nhỏ bé và ấm áp bám chặt vào tôi, ngay lập tức tiếng khóc ngưng bặt. Từ đấy, tôi biết rằng tôi còn phải học hỏi rất nhiều điều thực tế về tình yêu Kitô giáo, nhưng tối thiểu gì tôi cũng đã bắt đầu.

Một nhà tâm lý học nổi tiếng đã đưa ra nhận xét rằng việc yêu thương một người khác là điều thử thách lớn nhất trong mọi sinh hoạt của con người, vì nó đòi hỏi phải hy sinh và từ bỏ bản thân mình.

12. Tình yêu nối kết

Vào thời Đệ Nhị Thế Chiến, tại San Francisco, có hai gia đình di dân sống gần nhau và thuộc cùng một xứ đạo: một gia đình người Nhật và một gia đình người Thụy sĩ. Sau nhiều năm làm việc khó nhọc, cả hai gia đình đã thành công trong nghề trồng hoa hồng. Đột nhiên, ngày 7 tháng 12 năm 1941, Nhật tấn công Trân Chân Cảng, và họ nghe đồn rằng những người Mỹ gốc Nhật sẽ bị bắt vào trại tập trung. Gia đình người Thụy Sĩ hứa sẽ tiếp tục săn sóc vườn hoa cho gia đình người Nhật, nếu thực sự họ bị bắt, vì đây là điều họ đã được Chúa dạy: “Các con hãy thương yêu nhau. ” (Ga 15,17). Và quả thật, gia đình người Nhật đã bị bắt. Một năm. Hai năm. Rồi ba năm qua đi, gia đình người Thụy Sĩ đã hy sinh thời giờ và sức lực để trồng cấy và đem hoa ra chợ bán thay cho gia đình người hàng xóm của mình. Khi chiến tranh chấm dứt, gia đình người Nhật được trả tự do, và họ đã được gia đình người Thụy Sĩ ra tận bến xe để đón về. Về đến nhà, họ thấy một vườn hoa xanh tươi, một căn nhà sạch sẽ tươm tất, và một món tiền, sinh lời được trong ba năm họ xa nhà.

Được lòng yêu mến Thiên Chúa thúc đẩy, gia đình người Thụy sĩ trên đây đã thực hành đúng lời Chúa đã truyền dạy: “Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn… và hãy yêu thường anh em như chính mình. ”

13. Tình yêu biết chia sẻ

Truyện cổ Đông Phương kể lại rằng ngày xưa có bốn chàng thanh niên thực hiện một cuộc du hành băng qua khu rừng. Thình lình, họ gặp một bức tường rất cao chận đứng trước mặt. Lập kế, họ bắc một cái thang dài để leo lên xem cái gì ở phía bên kia. Người thứ nhất leo lên tới đỉnh, nhìn xuống dưới và la lên trong khoái lạc cực độ. Ngay lập tức anh phóng mình xuống. Anh thứ hai cũng làm tương tự như vậy. Rồi anh thứ ba cũng thế. Sau cùng, anh thứ tư leo lên, chiêm ngắm một khung cảnh đầy hứng thú: cây cối xanh tươi, hoa trái muôn nghìn. Chưa bao giờ anh nhìn thấy cảnh tượng đẹp đẽ như vậy. Và, giống như những người khác, anh cũng bị cám dỗ nhẩy xuống đó. Nhưng anh kịp ngưng lại để suy nghĩ đôi chút, nghĩ đến gia đình, vợ con và bạn bè của mình. Sau đó anh đã vội vã leo xuống chân thang và bắt đầu đi rao giảng tin mừng về một khu vườn đẹp tuyệt trần cho những người khác biết.

Từng người một, ba chàng thanh niên đầu tiên đã nhìn thấy một vùng đất mới với những hứa hẹn tuyệt vời. Họ đã quyết định chiếm đoạt lấy cho riêng mình nên đã tự huỷ diệt. Chàng thanh niên thứ tư kịp suy nghĩ và muốn chia sẻ nó với những người khác, nên tồn tại. Cách chắc chắn nhất để làm phong phú cái nhìn nội tâm của chúng ta về tình yêu Thiên Chúa là chia sẻ tình yêu đó với những người khác.

14. Trên đỉnh yêu thương

Báo Tuổi trẻ có đăng bài “Phở nóng chiều mưa” của tác giả Bút Bi. Câu chuyện như sau: “Tiệm phở A (đường Kỳ Đồng)” chiều hôm kia mưa như trút nước. Một ông già khoảng 70 tuổi, tay lần dò chiếc gậy, tay xách chiếc gà men cũ kỹ lập cập bước vào quán, mua phở mang về. Lúc ông đang long lấy tiền – gói trong hai ba lớp bịch ni-lông – ra để trả, một trong hai thanh niên đang ngồi ăn phở ở chiếc bàn ngoài cùng bảo là đã trả tiền phở cho ông rồi. Ông già lãng tai ngớ ra không hiểu, người thanh niên vừa nói câu trên chỉ người bạn đang cắm cúi ăn: “Thằng này trả chứ không phải cháu đâu. " Rồi anh nói thêm có lẽ để câu chuyện được tự nhiên hơn: “Nó hỏi bác có con gái không?” Ông già dường như vẫn còn chưa hết ngạc nhiên thật thà nói “có. " Người thanh niên kia bật cười, bảo “nói chơi đó bác ơi. " Bút Bi tình cờ có mặt ở đó cũng bật cười. Mấy cô phục vụ trong quán cũng cười ầm lên. Ông già hiểu ra, hoạt bát hẳn lên, nói vài câu vui vẻ rồi chống gậy đi về.

Tò mò, Bút Bi nhìn hai người thanh niên. Họ ăn mặc giản dị, mang dép, đi chiếc Cub đời cũ, trông có lẽ là những người lao động làm lũ, và cử chỉ của họ thật dễ thương. Người già thường có cảm giác bị bỏ rơi, thèm sự hỏi han, chăm sóc. (Ông gìa phải tự chống gậy đi mua phở dù có con cái?). Chắc tối hôm ấy ông sẽ thấy vui lắm, chẳng những vậy có khi nó còn trở thành một kỷ niệm của ông, để ông đi kể lại với bà con, chòm xóm. Còn Bút Bi cũng thấy vui quá, bèn quyết định ăn luôn… hai tô phở!!

15. Sức mạnh của tình yêu

Có một cậu bé 7 tuổi bị mồ côi cha mẹ, nên được ông nội đón về nhà nuôi. Ông nội cậu bé đang làm chủ một xí nghiệp lớn có hằng trăm công nhân, sản xuất quy mô theo dây chuyền.

Ông vốn là một người tham lam và độc ác, thường tỏ ra hống hách và bớt xén tiền lương ít ỏi của công nhân. Nhưng mỗi khi có mặt cậu bé, ông lại tỏ thái độ nhân hậu và biết quan tâm đến những người nghèo khổ. Nhất là ông rất yêu thương chăm sóc cậu bé, khiến cậu coi ông như một thần tượng. Cậu luôn miệng khen những việc tốt ông đã làm, và cả những việc xấu nhưng đã được cậu bào chữa do động cơ tốt. Cậu thường nói với ông: “Nội ơi, nội được nhiều người yêu quý lắm phải không? Cháu dám cá là họ phải yêu ông nội thật nhiều, giống như cháu yêu nội vậy!”

Chính tình yêu thương của cậu bé khiến trái tim sơ cứng của người ông dần dần trở nên mềm mại, và cuối cùng đã biến ông trở thành một người tốt lúc nào không hay, theo những đức tính mà cậu bé thường hay ca ngợi người ông thân thương của mình.

16. Một từ tóm tắt tất cả Phúc âm: Yêu mến

Khi nói đến yêu, tôi vốn thích dùng động từ Yêu mến, nó có tính cách chủ động và tích cực, hơn là dùng từ tình yêu, một từ rất đẹp nhưng cũng rất dễ bị phê phán.

Làm sao có thể là tín hữu mà lại không yêu mến? Làm sao có thể nhận biết Thiên Chúa của chúng ta nếu Người không phải là Đấng yêu mến chúng ta?

Như vậy thì có nhiều cách yêu mến không? Chắc hẳn là có rồi. Nên trong vấn đề này, tôi vẫn theo gót nhà sư phạm trứ danh là thánh Augustinô. Ngài phân biệt ba trình độ trong hành vi yêu mến:

Trình độ thứ nhất, thấp nhất, không có ý nói là xấu nhất: thích được yêu (aimer être aimé). Bạn hãy nói cho tôi hay có ai mà không thích điều đó không? Phải là con người hư hỏng mới dám nói ngược lại. Mọi người đều như vậy thôi… Nhưng cuộc sống cũng đã dạy cho ta rằng tình yêu còn phải là cái gì khác hơn là niềm khoái chí (tự tôn kia).

Trình độ thứ hai: thích yêu (aimer aimer). Ta hãy tạm dịch ở đây là: lấy làm vui khi yêu mến người khác. Ở bậc này người ta có ra khỏi mình một chút, có quảng đại, có vị tha.

Chúa ơi, thật vui và đẹp biết bao khi làm được một việc thiện, khi xả thân, và đôi khi đi tới chỗ đóng vai con chim bồ nông tự để cho con rỉa thịt mình.

Ngày ở điểm này, ai lại không muốn nhận khen thưởng chứ? Bạn hãy nói cho tôi hay bạn có đủ can đảm để đi thăm một bệnh nhân nào đó, đi uỷ lạo một cảnh khốn này, chẳng tìm thấy được ở đó một điều gì khích lệ chăng? Nhưng bạn hãy coi chừng! Tất cả thái quá trong lãnh vực này – quảng đại thái quá – có lẽ là một hình thức tự tôn tự đại của lòng yêu mến chính mình đó thôi.

Còn trình độ thứ ba: Yêu (aimer), có thế thôi! Yêu mến người khác vì chính họ, không phải vì ta làm điều tốt cho họ, không phải vì làm cho nhân đức của ta lớn lên. Không phải thế, bởi lẽ xét cho cùng, người ta không yêu mến vì… Ta yêu là yêu thôi. Đó mới là đỉnh cao của "tình cho không biếu không. "

Hãy nhìn nhận điều này: ta chẳng mấy khi đạt tới trình độ đó. Chỉ có một Vị đã hiến thân chỉ vì yêu mà thôi, một Đức Giêsu ấy muốn lấy bản tính nhân loại của ta, một Đức Giêsu ấy mới ban cho ta Thần linh tình yêu khi Người tắt thở, một Đức Giêsu ấy mới có thể sáng nghĩ ra nhân vật Samaritanô nhân lành yêu thương mà không đòi đáp trả và hình dung ra một người cha đang mở rộng vòng tay đón nhận đứa con đi hoang trở về.

Nếu phải cần đến một từ để tóm tắt cả Phúc âm, đó là: Yêu mến.

17. Tha nhân là tấm gương cho ta thấy mình

Một cụ già đang ngồi trước cổng thành. Một người khách lạ đến hỏi:

- Dân trong thành này là người thế nào?

- Thế anh thấy dân của thành trước đây anh vừa ghé như thế nào?

- Họ rất tử tế và sẵn sàng giúp đỡ khi mình nhờ tới.

- Thế thì anh cũng sẽ gặp những người như vậy trong thành này.

Một lúc sau, một người khách khác tới và cũng hỏi:

- Dân trong thành này là người thế nào?

- Thế anh thấy dân của thành trước đây anh vừa ghé như thế nào?

- Họ rất khó ưa, ích kỷ và chẳng chịu giúp mình gì cả khi mình nhờ tới.

- Thế thì anh cũng sẽ gặp những người như vậy trong thành này.

Ý nghĩa câu chuyện này là tôi thường đánh giá người khác không theo lòng họ mà theo lòng mình. Nếu ta thấy người ta khó chịu, đó là dấu trong lòng ta đang khó chịu. Người nào bình an trong lòng thì lan tỏa bình an ấy ra ngoài và cảm thấy mọi người đều hiền hòa.

18. Tại sao phải mến Chúa

Tại vì Thiên Chúa là Chúa của mọi loài. Ngài dựng nên và là Chúa yêu thương mọi loài. Thiên Chúa còn là chủ tể, là đấng duy nhất cao cả, không ai có thể sánh bằng. Ngài là nguồn mạch sự sống và là mục đích của muôn loài muôn vật. Vũ trụ chỉ tồn tại trong Ngài. Vì thế ta phải yêu mến Ngài trên hết mọi sự.

Nhưng thử hỏi làm sao mà biết được Chúa yêu thương? Cha kể cho chúng con một thí dụ.

Chúng con hãy đặt tay lên ngực của chúng con xem, đặt và chỗ trái tim. Trái tim người bình thường đập 72 lần/phút tức 103. 680 lần trong 1 ngày.

Mỗi lần tim đập, nó bơm được 0,143 lít máu đi khắp cơ thể, tức là một phút nó bơm được 10 lít máu, 1 giờ được 615 lít, 1 ngày được 14. 725 lít máu.

Nếu trái tim không làm việc thì chúng con có sống được không? Cha hỏi ai làm cho trái tim làm việc không ngừng nghỉ vậy? Làm việc suốt cả ngày lẫn đêm không nghỉ ngơi một tí nào. Lạ thật! Ai làm vậy chúng con?

Rồi chúng con đưa tay lên thử bịt mũi lại xem sao. Chúng con thấy gì? Ồ! không được thở! Không được thở thì sao? "Tịch" là chết chứ làm sao.

Bình thường chúng con thở 23. 000 lần một ngày, hít vào khoảng 12. 000 lít không khí, khoảng 2400 lít oxy. 12. 000 lít không khí! Chúng con đã thấy cái thùng phuy bao giờ chưa? Mỗi thùng phung chứa được 200 lít. Như vậy 12. 000 lít là 60 thùng phuy không khí mỗi ngày. Cha hỏi chúng con ai cho mình không khí để mình thở vậy. 60 thùng phuy chứ đâu phải ít. Chúng con đã thấy mấy người kiệt sức người ta phải thờ bằng oxy chưa. Cha không biết giá mỗi bình oxy như vậy là bao nhiêu. Nếu mỗi ngày chúng con phải bỏ tiền ra mua 2400 lít tức là 12 thùng phuy oxy để thở thì chắc là không chịu nổi. Vậy cha thử hỏi ai cho chúng ta mỗi ngày 12. 000 lít hay 60 thùng phuy không khí trong đó có 2400 lít oxy để thở vậy? Gia đình chúng con đã bao giờ phải bỏ tiền ra mua không khí để thở chưa? Không có không khí để thở, chỉ trong vòng 6-7 phút mình tiêu đời rồi! Ai cho vậy chúng con?

- Chúa cho.

Chúa chẳng bắt chúng ta trả một xu nào!

Tại sao Chúa cho như thế? Vì Chúa thương.

19. Mến Chúa phải yêu người

Một vị vua không có con nối dõi ngai vàng, nên cho truyền rao khắp nước mời gọi những người đàn ông ưu tú đến để ngài chọn. Ngài đưa ra tiêu chuẩn là kẻ ấy phải có lòng “mến Chúa yêu người. "

Một thanh niên thấy mình có điều kiện nhưng khổ nỗi anh quá nghèo đến mức không có áo quần tươm tất, cũng chẳng có tiền mua sắm thức ăn để đi dự thi. Anh cầu xin Chúa giúp anh. Và sau đó anh đi ăn mày được quần áo và lương thực cần thiết.

Khi đến gần cung điện đức vua, anh mệt mỏi quá nên ngồi nghỉ. Ngay lúc đó anh trông thấy một ông lão ăn xin nghèo. Ông chìa tay xin anh:

- Tôi đói và lạnh quá! Xin cậu thương...

Anh nhìn ông lão, lòng vô cùng xúc động. Anh liền cởi chiếc áo lành lặn của anh đổi lấy tấm áo rách tả tơi của cụ, trao cho cụ phần lương thực dự trữ cho chuyến trở về của mình.

Và anh đi vào đền vua. Vừa đến trước mặt vua, anh cúi đầu sâu chào ngài. Khi ngước mắt lên, anh không thể tin nổi mắt anh. Anh thốt lên:

- Thế ra bệ hạ là lão ăn mày lúc nãy?

- Đúng vậy.

Anh ta ngạc nhiên hỏi:

- Sao bệ hạ làm thế?

- Vì trẫm muốn thử xem ngươi có thật lòng “mến Chúa yêu người” không.

Xin Chúa cho chúng ta biết sống luật yêu thương của Chúa để chúng ta được xứng đáng với tình yêu Chúa dành cho chúng ta mỗi ngày.

Chúng con hãy sống yêu thương như Chúa dạy, chúng con sẽ thấy mình hạnh phúc.

20. Tình yêu và hy sinh.

 Nhà đạo chúng ta sử dụng quen thuộc hai từ “hy tế” và “hy lễ. " Theo từ nguyên Hán thì HY là con trâu thui và SINH là con lợn luộc. Thời nhà Thang bên Trung quốc, người ta dùng hai lễ vật này để tế Trời ban cho mưa thuận gió hòa. Nếu dùng chữ “hy lễ” và “hy tế” thì chỉ là tế con trâu thui. Nếu dùng từ HY SINH thì có nghĩa là “tế lễ hy sinh. "

 Vậy tình yêu và hy sinh phải đi đôi với nhau. Đã yêu thì phải hy sinh: yêu Chúa thì phải dâng lễ hy sinh cho Chúa. Cho nên, khi dùng từ “hy sinh” thì nó gồm cả: chết rong lòng một ít, đau khổ, phục vụ, dâng hiến...

 Trên đường đời không có con đường nào bằng phẳng cả, nhất là con đường tình yêu. Tình yêu cũng có thử thách, gian nan, đau khổ. Nói chung nó đòi phải hy sinh. Mối tương quan sâu xa giữa tình yêu và hy sinh đau khổ đã là đề tài muôn thuở của thi ca và tiểu thuyết, cũng như nghệ thuật thứ bảy. Và người ta thường ví tình yêu và đau khổ cũng như hoa hồng với gai: không thể có hoa hồng mà không có gai. Mối tương quan có thể nói là “biện chứng” này được diễn tả gọn chỉ trong hai từ ghép lại thành một, đó là “yêu thương” hay là thương yêu: yêu thương cùng với đau thương một vần là thế.

CNTN 30B -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

CNTN 30C - CẦU NGUYỆN TRONG KHIÊM TỐN VÀ SÁM HỐI

Lời Chúa : Lc 18, 9-14

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói dụ ngôn sau đây với những ai hay tự hào mình là người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác: "Có hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người biệt phái, một người thu thuế.

Người biệt phái đứng thẳng, cầu nguyện rằng: 'Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi tuần hai lần và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi'.

Người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực và nguyện rằng: 'Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội'.

Ta bảo các ngươi: người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không. Vì tất cả những ai tự nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên.”

TRUYỆN KỂ

1. Đấm ngực cầu nguyện

Một cô gái đang độ thanh xuân, lên đền thờ xưng tội, cô đã than thở với Linh mục rằng: Thưa Cha, con thường dự lễ không nên. Thế con làm gì mà không nên? Thưa Cha suốt buổi lễ, con chỉ biết khóc vì nghĩ đến tội con đã phạm: khi thì ăn bớt tiền chợ, khi thì thích nói chọc ghẹo người ta cho người ta chửi, khi thì liếc trộm mấy cậu con trai, khi thì thích phạm tội.

- Ồ thế thì con cứ tiếp tục dự lễ như vậy, để nước mắt con tẩy sạch tâm hồn con nên trong sáng (Thánh Thể tr. 42). Cô gái này giống với người thâu thuế lên đến thờ đấm ngực cầu nguyện đã được Đức Giêsu nâng lên, và khác với người Pharisiêu cầu nguyện đầy vẻ tự đắc đã bị Đức Giêsu hạ xuống.

Trong kinh nguyện của Giáo Hội, nhất là Thánh lễ, ta thấy: Cầu nguyện gồm bốn việc: Thống hối, thờ lạy, tạ ơn và xin ơn. Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh đến thống hối.

2. Của lễ làm vui lòng Chúa

Một đêm giáng sinh nọ, Thánh Giêrônimô đang quỳ bên máng cỏ để suy niệm về mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người thì bỗng Chúa Hài Đồng hiện ra trong vầng sáng chói loà. Ngài hỏi thánh nhân:

- Giêrônimô, con có gì làm quà cho Ta trong ngày Ta giáng sinh không?

- Lạy Chúa Hài Đồng, thánh nhân đáp, con xin dâng Chúa trái tim của con.

- Được lắm, nhưng còn gì khác nữa không?

- Lạy Chúa, con xin dâng Chúa tất cả những gì con có và tất cả những gì con có thể.

- Con còn điều gì khác nữa không?

- Con có điều gì khác để dâng Chúa nữa đâu. Thánh nhân khẩn khoản thưa. Chúa Hài Đồng bảo:

- Này Giêrônimô, hãy dâng cho ta cả những tội lỗi của con nữa.

- Ô lạy Chúa, Thánh nhân hốt hoảng hỏi lại, làm sao con dâng cho Chúa tội lỗi của con được?

- Được chứ! Ta muốn con dâng cho Ta tội lỗi của con để Ta có thể tha thứ cho con. Đó là điều Ta rất mong đợi. Nghe thế, thánh nhân bật khóc vì sung sướng.

3. Điều tốt đẹp nhất trên thế gian

Ngày kia Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời. Sứ thần đáp xuống ngay một chiến trường nơi máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Ala. Nhưng xem ra Đức Ala không hài lòng mấy. Ngài bảo: “Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều quý giá nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian. ”

Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giàu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc vừa xông hương để tỏ lòng biết ơn đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm mang về trời. Lần này Đức Ala mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng, Ngài nói: “Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều hiếm có và tốt đẹp nơi trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái gì tốt đẹp hơn. ”

Lại một lần nữa sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp 4 phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường, Ngài bỗng thấy một người đang khóc sướt mướt. Trước những câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ thần, người ấy giải thích: “Tôi đã chìu theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi.” Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời. Đức Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói: “Thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối, bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp của tình yêu.

4. Ba thái độ cầu nguyện

Không ai có thể sống đời Kitô hữu tốt mà không cầu nguyện. Nhưng chúng ta phải hiểu cầu nguyện là gì và cầu nguyện thế nào.

Có 3 người bị kẹt trong một căn phòng tối tăm và chẳng có cửa gì cả. Họ làm thế nào để thoát khỏi tình trạng bế tắc này?

- Người thứ nhất là một nhà văn. Anh không có đức tin. Anh ngồi đấy và luôn miệng nguyền rủa.

- Người thứ hai là một tín hữu sốt sắng. Anh đã quỳ gối cầu nguyện rất lâu, sau đó ngồi xuống chờ phép lạ.

- Người thứ ba cũng là một tín hữu làm nghề thợ xây, vừa đạo đức vừa thực tế. Sau khi cầu nguyện, anh lấy từ túi đồ nghề ra một cây búa và một chiếc đục, rồi bắt đầu đục tường. Công việc rất lâu lắc và cực nhọc. Bụi bắn vào mặt anh, vào cả mắt anh. Mồ hôi anh nhễ nhại. Nhưng anh vẫn kiên trì đục. Thỉnh thoảng dừng lại nói "Lạy Chúa, xin cứu giúp chúng con.”

Đang lúc đó người thứ nhất vẫn ngồi ở một góc, vừa hút thuốc vừa nguyền rủa; người thứ hai ở một góc khác tiếp tục cầu nguyện.

Cuối cùng người thứ ba đã mở được một lỗ lớn trong vách tường và cả 3 người đã thoát ra khỏi căn phòng.

Trên đây là 3 thái độ khác nhau đối với sự cầu nguyện:

- Người thứ nhất coi cầu nguyện là mất giờ. Vì anh không có đức tin nên thái độ của anh cũng hợp lý thôi. Nếu bạn không tin Chúa thì cầu nguyện với Ngài sao được?

- Người thứ hai coi cầu nguyện là một sự thay thế cho làm việc, vì thế sau khi cầu nguyện xong người ấy ngồi chờ Chúa giúp. Phải thành thật nhìn nhận rằng chúng ta cũng nhiều lần cầu nguyện cách này, đặc biệt là khi chúng ta cầu nguyện cho người khác. Chỉ là những lời nói, và những lời đó trở thành một cái cớ để ta khỏi làm việc.

- Người thứ ba tin tưởng vào hiệu quả của cầu nguyện, hiệu quả ấy không thay thế làm việc, mà là trợ lực cho làm việc. Cầu xin điều gì thì đồng thời cũng cố gắng làm bất cứ việc gì có thể để đạt được điều đó. Sự cầu nguyện này khơi lên niềm hy vọng và khuyến khích lòng can đảm. Nó cũng giúp ta cảm nhận rằng Chúa ở kề bên ta và không bỏ mặc ta trong cảnh khó khăn.

5. Cầu nguyện liên lỉ

Có một thành phố nhỏ kia có đầy đủ mọi cơ quan và dịch vụ cần thiết như bệnh viện, trường học, nhà thờ, tòa án, chợ, tiệm may, tiệm ăn v. v. Chỉ thiếu một điều là không có thợ sửa đồng hồ. Bởi vậy các đồng hồ lớn đồng hồ nhỏ của những cư dân thành phố này dần dần cái thì hư, cái thì chạy sai. Một số người quẳng đồng hồ vào tủ. Một số khác cố gắng tự mình lau chùi, sửa chữa rồi tiếp tục dùng tạm mặc dù những chiếc đồng hồ ấy chạy không được chính xác lắm.

Một ngày kia có một người thợ sửa đồng hồ đến thành phố. Mọi người rất mừng, ai nấy đều mang đồng hồ đến nhờ anh sửa. Tuy nhiên anh nói thật: "Tôi chỉ có thể sửa những chiếc đồng hồ nào còn chạy. Còn những chiếc nào đã ngưng chạy từ lâu thì tôi không sửa nỗi vì chúng rỉ sét hết rồi.”

Cầu nguyện luôn cũng giống như giữ cho chiếc đồng hồ đời ta luôn luôn chạy.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bảo chúng ta phải cầu nguyện luôn, vì:

Sự cầu nguyện luôn soi sáng niềm hy vọng và những dự định của chúng ta.

Sự cầu nguyện luôn giúp ta phân biệt được điều gì là quan trọng, điều gì là tầm thường.

Sự cầu nguyện luôn giúp ta khám phá ra những ước vọng chân thật, những ray rứt lương tâm bị bóp nghẹt, những nỗi khát khao bị quên lãng.

Sự cầu nguyện luôn chỉ cho ta thấy những lý tưởng cao đẹp cần vươn tới.

Và nhất là sự cầu nguyện luôn giữ ta thường xuyên gần gũi với Chúa.

6. Hai tư thế cầu nguyện

Hồi còn bé, chúng ta được dạy chấp tay lại khi cầu nguyện. Khi tham dự Thánh lễ, chúng ta thấy Linh mục cầu nguyện giang tay. Đó là hai tư thế cầu nguyện.

Cầu nguyện chấp tay có nghĩa là chúng ta tạm dừng những hoạt động để chuyên tâm nghĩ đến Chúa. Còn cầu nguyện giang tay là để tỏ ra rằng chúng ta là những người nghèo nàn trước mặt Chúa, chúng ta làm như người ăn xin đưa hai bàn tay không ra để xin ơn Chúa.

Hai tư thế cầu nguyện trên đều tốt. Và ngay cả những khi đôi bàn tay hoặc đôi cánh tay chúng ta đều không chấp lại hay giang ra, chúng ta cũng đừng bao giờ quên ý nghĩa của hai tư thế ấy.

7. Tin tưởng cầu xin

Một lá thư được viết nguệch ngoạc của một đứa trẻ gởi vào bưu điện, và địa chỉ tới là Chúa. Nhân viên bưu điện lấy làm lạ liền mở ra đọc. Thư viết rằng: "Chúa thân mến, con là Tommy, con sáu tuổi. Ba con đã chết và mẹ con phải cực khổ để nuôi sáu anh em con. Xin Chúa cho chúng con 30O đồng nhé.”

Đọc thư xong, anh nhân viên bưu điện rất xúc động và dưa cho các bạn đồng nghiệp xem. Họ quyết định quyên góp để giúp gia đình cậu bé. Số tiền tổng cộng là 100 đồng, và họ gởi tới địa chỉ cậu bé.

Vài tuần sau, họ nhận được lá thư thứ hai. Họ cũng mở ra đọc, thư viết như sau: "Lần tới, Chúa có thể gởi trực tiếp cho gia đình con, vì gởi qua bưu điện, họ giữ lại 200 đồng!"

8. Cầu nguyện là nói chuyện với Chúa

Thánh Phao lô dạy: "Chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, chính Thánh Thần sẽ cầu thay nguyện giúp chúng ta theo đúng ý Thiên Chúa" (Rm 8, 21-27). Vì thế, Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen viết: "Pytago đã cấm môn sinh của ông không được cầu nguyện cho chính họ vì họ không biết điều gì là lợi ích cả.” Khôn ngoan hơn, Socrates dạy môn đồ ông chỉ xin những điều tốt lành, vì lẽ Thiên Chúa biết tường tận những gì là lợi ích. Dốt nát và yếu đuối nên chúng ta phải xin Thánh Thần soi sáng để chúng ta làm đẹp lòng Chúa trong lúc an bình cũng như khi xao xuyến.

Như thế, cầu nguyện không phải là việc xin ơn này ơn nọ, theo óc vụ lợi của chúng ta, cầu nguyện không phải là việc tránh né bổn phận để Thiên Chúa làm tất cả, cầu nguyện cũng không phải là việc liệt kê ước muốn để mong chờ Chúa thực hiện. Nhưng cầu nguyện đích thực chính là việc thực hành Đức Tin, nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa để đối thoại với Người, van xin Người tiếp tục ban ơn để chúng ta đủ sức thực hiện thánh ý Người. Thấu hiểu sự yếu đuối của con người nên Chúa Giêsu than thở: "Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?" (Lc 18, 8).

9. Cầu nguyện và đời sống nội tâm

Cầu nguyện là dầu giữ cho ngọn đèn đức tin luôn cháy sáng.

Hoa trái của cầu nguyện là đức tin

Hoa trái của đức tin là tình yêu

Hoa trái của tình yêu là phục vụ

Và hoa trái của phục vụ là bình an.

10. Quỷ không thể sám hối

Một hôm có một tên quỷ kia chạy đến trước mặt Thiên Chúa mà thưa rằng:

- Tôi thấy Chúa đối xử không công minh chút nào!

Chúa liền hỏi nó rằng:

- Tại sao ngươi dám bảo Ta đối xử không công bằng?

Bấy giờ tên quỉ mới đáp:

- Chúa thấy đó, loài người phạm rất nhiều tội to lớn, và mỗi tội chúng đều phạm đi phạm lại nhiều lần. Thế mà lần nào Chúa cũng tha thứ cho chúng và còn ban hạnh phúc Thiên đàng đời đời cho chúng nữa. Còn chúng tôi chỉ phạm tội có một lần duy nhất. Thế mà Chúa không khi nào tha thứ mà còn phạt chúng tôi phải xuống hoả ngục muôn đời. Như vậy chẳng phải là Chúa đối xử thiên vị và bất công lắm hay sao?

Bấy giờ Chúa mới ôn tồn nói:

- Loài người có phạm tội đi với Ta thật, và vì yếu đuối mà chúng đã phạm đi phạm lại nhiều lần thật. Nhưng sau mỗi lần phạm tội, chúng đều biết hồi tâm sám hối và xin Ta tha tội cho. Còn lũ quỉ các ngươi, có bao giờ các ngươi hồi tâm sám hối và xin Ta tha tội cho chưa?

Nghe thấy sám hối và xin tha tội, tên quỉ liền thét lên rằng:

- Ma quỷ chúng tôi không đời nào chấp nhận thái độ hèn hạ là sám hối và xin ai tha tội cho cả.

Nói thế rồi quỉ liền cong đuôi chạy mất.

11. Hãy quỳ gối xuống

Tại đền thờ thánh Phêrô ở Rôma, có một bức tượng Chúa chịu nạn do Thorvaldsen (1770-1844), nhà điêu khắc Đan mạch nổi tiếng thực hiện. Ngày kia, một du khách đến viếng bức tượng. Ông ta nhìn mãi, rồi lắc đầu nói:

- Tôi nghe đồn bức tượng này nổi tiếng là đẹp lắm. Nhưng tôi chả thấy gì là đẹp cả.

Một người quì sau lưng ông, nói:

- Ông phải quì xuống mới thấy đẹp.

Ông du khách quỳ gối xuống. Bây giờ ông mới khám phá ra vẻ đẹp lôi cuốn của bức tượng Chúa chịu nạn.

Muốn đến gần Chúa, muốn được Chúa dủ tình thương xót, ta cũng phải quì gối xuống mà van xin.

12. Thánh thiện và khiêm nhường

Đức Hồng y Mercier kể: Cuộc chiến tranh xong, lần thứ nhất gặp thống chế Foch, tôi vui mừng bắt tay và nói: “Chào vị tướng lỗi lạc, đã làm vẻ vang nhân loại!” Nhưng thống chế giơ tay lên, phân bua và nói: “Thưa Đức Hồng Y, chúng tôi chỉ là khí cụ mù quáng trong tay Thiên Chúa.”

Càng thánh thiện càng phải khiêm nhường và phải khiêm nhường thật lòng. Benjamin Franklin đã cảnh giác chúng ta như sau: “Giả như tôi đã tập luyện được nhân đức khiêm nhường rồi, không nghi ngờ gì tôi sẽ trở nên hãnh diện vì nó.” Tôi có cảm giác rằng những người khiêm nhường thực sự phải là những người không biết đến sự khiêm nhường ở nơi mình. Ngay khi chúng ta biết rằng mình đang khiêm nhường, cũng là lúc chúng ta đánh mất nó.

Thánh Phanxicô Salêsiô khi nghe thiên hạ kháo láo và gọi mình là thánh, thì thánh Phanxicô nói rằng: “Thiên hạ gọi tôi là thánh, vì họ thấy tôi làm việc thánh; nhưng chắc cha linh hướng của tôi không nghĩ như họ đâu.” Còn khi ngài nghe nói: ông De Belley phê bình và bảo ngài thiếu trí phán đoán. Khi gặp ông, ngài liền ôm lấy, và tỏ vẻ vui sướng và biết ơn.

13. Hai cỗ xe

Để hiểu biết sức mạnh của khiêm nhường, chúng ta hãy tưởng tượng hay hình dung hai cỗ xe: một cỗ xe được kéo bởi hai con ngựa là nhân đức và kiêu ngạo, còn cỗ xe kia được kéo bởi hai con ngựa là tội lỗi và khiêm nhường. Cả hai xe cùng chạy, nhưng chẳng bao lâu cỗ xe tội lỗi vượt trước cỗ xe nhân đức. Tại sao vậy? Chắc chắn không phải do khả năng của chính nó, tức là tội lỗi, nhưng bởi sức mạnh của đức khiêm nhường cùng đi chung với nó. Còn cỗ xe kia bị qua mặt, chẳng phải vì nhân đức yếu đuối mà vì sự kiêu ngạo quá nặng nề và to lớn. Điều ấy bảo cho chúng ta biết: đức khiêm nhường, nhờ cố gắng vươn lên, đã thắng được sức cản của tội lỗi, và lên đến trời trước nhất, còn kiêu ngạo, vì nặng nề và to lớn, nên át cả sự nhanh nhẹn của nhân đức, và dễ dàng kéo nó xuống sâu.

Về hai cỗ xe này, chúng ta đem áp dụng vào hai người Pha-ri-sêu và thu thuế lên đền thờ cầu nguyện chúng ta sẽ thấy rõ: người Pha-ri-sêu đã cột chung nhân đức với kiêu ngạo: ông đứng thẳng một cách hiên ngang, tự đắc, ngực ưỡn, đầu ngẩng cao, và mắt có lẽ liếc nhìn người thu thuế một cách khinh bỉ và hãnh diện trước mặt Thiên Chúa. Ông cầu nguyện gì? Ông không cầu gì cả, ông kể công với Chúa, ông tự mãn về những gì ông đã làm, ông lên đền thờ để khoe mình chứ không phải để cầu xin với Chúa, nên lời cầu nguyện của ông chẳng những không đưa ông tới gần Chúa mà còn làm cho ông xa Chúa hơn và làm cho Chúa buồn hơn.

Trái lại, người thu thuế đã cột chung tội lỗi với khiêm nhường: ông khép nép, khúm núm, đứng mãi đàng xa, không dám đến gần bàn thờ, cũng chẳng dám ngước mắt lên trời, tức là ông tự nhận mình bất xứng, chỉ biết cúi đầu, đấm ngực tỏ lòng ăn năn sám hối. Còn về lời cầu nguyện, ông nói với Chúa chứ không nói về mình, ông chẳng có gì hay để kể cho Chúa nghe, chẳng có công gì để khoe với Chúa và cũng chẳng dám xin gì khác ngoài lòng thương xót của Chúa.

14. Người thực sự khiêm nhượng

Vào buổi tối nọ, có người đàn bà phải chờ đợi chuyến bay mất nhiều thời giờ tại một phi trường Hoa Kỳ.

Bà rảo qua các sạp báo trong phi trường, mua một cuốn sách và một gói bánh, rồi tìm chỗ yên tĩnh ngồi đọc sách.

Tuy cắm cúi đọc sách, người đàn bà cũng nhận ra người đàn ông đang ngồi bên cạnh, ngoài cái đầu hói ra chẳng có gì gây sự chú ý. Tuy nhiên, có một điều khiến bà khó chịu, là chốc chốc người đàn ông lại đưa tay vào gói bánh và kéo ra một hai cái. Tuy khó chịu thật, nhưng bà cố tình làm như không biết để tránh người đàn ông khỏi ngượng. Bà cố gắng quên sự hiện diện của người đàn ông không mấy biết điều ấy.

Thỉnh thoảng, bà đưa tay vào gói bánh lấy ra một hai cái, và người đàn ông cũng làm theo. Cuối cùng, gói bánh chỉ còn vỏn vẹn một cái, bà chờ xem người đàn ông mất dạy này sẽ làm gì. Người đàn ông liền mỉm cười và lấy chiếc bánh cuối cùng bẻ ra làm hai và trao cho bà một nửa, nửa kia ông cho vào miệng. Người đàn bà nghĩ đây quả là người vô liêm sỉ, đã không biết xấu hổ thì chớ lại cũng chẳng nói một lời cảm ơn.

Bà thở ra nhẹ nhõm khi chuyến bay được loan báo. Bà thu dọn hành lý và đi về phía cổng lên máy bay, nhưng bà thật sững sờ vì cuốn sách và gói bánh vẫn còn nguyên vẹn bên cạnh chỗ bà ngồi. Như vậy, cuốn sách bà đã đọc khi chờ máy bay là của người đàn ông, và gói bánh bà dùng cũng là của ông ta. Quá trễ để nói lời xin lỗi, bà thở ra tự nhận rằng: Kẻ ăn cắp bánh, người vô liêm sỉ chính là bà.

15. Khiêm tốn là sống thật với chính mình

Ông Alexis Carrel, người lãnh giải Nobel về Y khoa năm 1978, đã chia sẻ kinh nghiệm về đức tin khi ông phát biểu: “Cầu nguyện là một hoạt động không thể thiếu để phát triển con người toàn diện. Càng cầu nguyện, chúng ta càng trở nên con người hơn.”

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu một lần nữa dạy chúng ta cầu nguyện với sự khiêm hạ chân thành. Càng khiêm tốn, chúng ta càng trở nên vĩ đại, vì được thông dự vào sự cao cả và quyền năng của Thiên Chúa. Điều đó cũng tương hợp với tư tưởng của Pascal khi ông nói: “Con người rất nhỏ bé và tầm thường, nhưng chúng ta sẽ trở nên vĩ đại và phi thường nếu biết cầu nguyện.”

16. Đạo nào mà chẳng thế?

Giáo xứ kia là một giáo xứ gần như toàn tòng Công giáo. Có một người ngoại giáo từ làng khác tới giáo xứ để làm nghề. Vì thế mà anh ta quen biết nhiều người trong giáo xứ. Thấy anh sống tốt, có người gạn hỏi anh: Sao anh không theo đạo với chúng tôi luôn đi. Anh trả lời: Tôi ăn ngay ở lành, không trộm cắp, không giết người, không lừa lọc ai. Đạo nào mà chẳng thế. Tôi sống thế là được rồi.

Nếu sống đạo là chỉ giữ những luật lệ, tránh không phạm tội trọng thì quả thực đạo nào cũng như đạo nào. Bởi cái luân thường đạo lý ở đời đâu mà chẳng vậy. Theo Đạo của Chúa là không chỉ sống tốt ở đời mà còn sống thánh, sống vươn lên vượt ra khỏi cái hạn hẹp quẩn quanh ở đời này.

17. Bông lúa cúi đầu

Một người cha dẫn đứa con nhỏ ra thăm đồng lúa đang độ chín vàng chờ ngày thu hoạch. Lần đầu tiên được tung tăng giữa cánh đồng bao la và được nhìn tận mắt những bông lúa mà bé chỉ được nghe kể bằng lời, cháu bé tỏ ra thích thú và lên tiếng hỏi ba:

- Bố ơi! Tại sao có những bông lúa cúi đầu xuống và cũng có những bông lúa khác vểnh đầu lên?

Người cha đáp:

- Những bông lúa cúi đầu là những bông lúa no đầy, chắc hạt, sẽ trở thành những hạt gạo ngon lành; còn những bông vểnh đầu lên là những bông lúa lép, chẳng có gì bên trong, chỉ còn là vỏ trấu.

Hình ảnh bông lúa cúi đầu đã in sâu vào tâm trí người dân Nhật từ rất xa xưa. Người Nhật xem bông lúa cúi đầu là biểu tượng cho những người khiêm tốn, chín chắn, có phẩm chất cao đẹp; còn bông lúa vểnh đầu lên là biểu tượng cho những người huênh hoang, rỗng tuếch.

Thế là từ đó, người Nhật rút ra một câu phương ngôn nhớ đời, in sâu vào tim óc các thế hệ về sau, đó là câu “Bông lúa chín là bông lúa cúi đầu. ” hoặc: “Bông lúa cúi đầu là bông lúa chín. ”

Qua phương ngôn này, những bậc tiền bối người Nhật muốn dạy con cháu: “Hãy khiêm tốn cúi đầu” trước mọi người, để chứng tỏ mình là người đức hạnh.

Thế là nền văn hóa cúi đầu ăn sâu vào máu thịt người Nhật cũng như người Hàn quốc. Khi gặp nhau, họ chào nhau bằng cách gập người cúi đầu cách khiêm tốn; ông chủ cúi đầu trước khách hàng vì xem khách hàng là ân nhân; nhân viên phục vụ trên sân ga cúi đầu chào khách khi đoàn tàu chuyển bánh; cô trực thang máy cúi đầu chào khi có người đi vào, đi ra cửa thang máy… Đâu đâu cũng đầy dẫy những người chào nhau bằng cách gập người cúi đầu cung kính. Bản sắc của người Nhật là như thế và đó cũng là yếu tố làm cho thế giới càng nể phục họ hơn.

18. Nhân đức nằm ở bậc trung dung

Một hôm khi cùng với học trò vào thăm miếu của vua Hoàn Công, nước Lỗ, Đức Khổng Tử thấy có cái lọ đứng nghiêng. Ngài nói với môn sinh: Ta nghe nói vua Hoàn Công có một vật quý để răn dạy người đời. Đó là một chiếc lọ đặc biệt, khi để trống không thì nghiêng, khi đổ nước vào vừa phải thì đứng; nếu đổ đầy nước vào thì lọ đổ nhào. Không rõ vật ấy có phải là cái lọ nầy không?

Rồi ngài sai học trò đổ nước vào thử xem. Quả thật, mới đầu lọ đứng nghiêng, khi nước được rót vào được một nửa, thì chiếc lọ chuyển sang vị thế đứng thẳng; rồi cứ đổ tiếp cho đầy tới miệng thì lọ đổ nhào.

Người đông phương ngày xưa khôn khéo tạo nên chiếc lọ đặc biệt như thế để ghi khắc vào tâm khảm người đời bài học khiêm tốn, bài học trung dung, một cách rất ấn tượng.

Còn người phương tây cũng diễn tả nội dung đó qua một ngạn ngữ khá phổ thông: "virtus in medio - nhân đức nằm ở mực trung.” Người nhân đức là người biết sống trung dung, không bất cập mà cũng không thái quá.

Bởi vì bất cứ điều gì quá dư đầy phải sụp đổ.

"Mặt trời đứng bóng rồi phải xế,

Mặt trăng tròn đầy rồi sẽ khuyết,

Vật gì thịnh lắm rồi cũng phải suy.” (Thái Trạch)

19. Chúa Thánh Thể nối kết

Tác giả tập sách nổi tiếng có tựa đề: "Nơi Thiên Chúa khóc.” Do kinh nghiệm sống đức tin của một cộng đồng Kitô hữu bị bách hại tại Đông Âu trước đây, kể lại kinh nghiệm cảm động nhất của mình trong việc cầu nguyện như sau:

Tôi cùng với một số người Đức bị đưa đi đày xa quê hương từ giữa thế chiến thứ hai. Tất cả đều là người Công giáo và cùng lao động tại một nông trường. Nơi ấy không có nhà thờ cũng chẳng có linh mục, nhưng chúng tôi được tụ họp mỗi chiều Chúa Nhật tại một nghĩa địa cũ để cầu nguyện chung với nhau. Khi biết cách đó 1,000 km có linh mục, anh chị em Kitô bèn quyết định hàng tháng góp chung nhau ít tiền để mua vé xe cho một bà già đi về nơi ấy, để đem Mình Thánh đến cho cộng đoàn. Thế rồi, từ đó mỗi buổi chiều Chúa Nhật, cộng đoàn gặp nhau trong nghĩa địa với tâm hồn hân hoan vui sướng, vì biết rằng có Chúa Giêsu Thánh Thể hiện diện với mình. Chúng tôi sốt sắng cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa. Những ai yếu liệt đều được trao cho của ăn đàng quí giá trước khi qua đời. Nhờ vậy, trong suốt mấy chục năm trời, cộng đoàn Kitô hữu chúng tôi vẫn sống niềm tin kiên vững, đùm bọc lẫn nhau trong tình yêu thương bác ái huynh đệ.

Tác giả của tập sách nói trên được sang sống bên thế giới tự do và cho biết chính mình là người điều khiển cộng đoàn Kitô hữu vào mỗi buổi chiều Chúa Nhật tại nghĩa địa như đã kể trong tập sách. Sống trong xã hội tự do, nhưng tâm hồn tác giả lúc nào cũng hướng về cộng đoàn huynh đệ vây quanh Chúa Giêsu Thánh Thể để cầu nguyện và nâng đỡ nhau.

20. Ai là người công chính?

Ngày kia, Khổng Tử dẫn học trò từ nước Lỗ sang nước Tề. Trong đám học trò có Nhan Hồi và Tử Lộ là hai môn sinh được Khổng Tử sủng ái nhất. Thời Đông Chu, loạn lạc khắp nơi khiến dân chúng lâm cảnh lầm than đói khổ. Thầy trò Khổng Tử cũng có nhiều ngày nhịn đói cầm hơi.

Ngày đầu tiên khi đến đất Tề, Khổng Tử và các môn sinh được một người giàu có biếu cho một ít gạo. Khổng Tử liền phân công: Tử Lộ và một số môn sinh khác vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi đảm nhận việc nấu cơm.

Đang khi nằm đọc sách ở nhà trên, Khổng Tử bỗng nghe tiếng động ở nhà bếp, nhìn xuống, người bắt gặp Nhan Hồi đang mở vung xới cơm cho vào tay nắm lại từng nắm nhỏ rồi từ từ đưa vào miệng. Thấy cảnh học trò đang ăn vụng, Khổng Tử nhìn lên trời than thở: “Người học trò tin cẩn nhất của ta lại là kẻ ăn vụng?” Khi Tử Lộ và các môn sinh khác trở về thì nồi cơm cũng vừa chín. Khổng Tử cho tập họp tất cả lại và nói:

- Bữa cơm đầu tiên này trên đất Tề làm cho thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương. Thầy nhớ đến cha mẹ, cho nên muốn xới một bát cơm để cúng cha mẹ, các con nghĩ có nên không? Nhưng liệu nồi cơm này có sạch chăng?

Nhan Hồi liền chắp tay thưa:

- Dạ thưa thầy, nồi cơm này không được sạch. Khi cơm vừa chín, con mở vung ra xem thử, chẳng may một cơn gió tràn vào, bò hóng bụi trần rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm, con đã nhanh tay đậy nồi cơm lại nhưng không kịp. Sau đó, con định xới lớp cơm bẩn vất đi, nhưng nghĩ rằng cơm ít mà anh em lại đông, nên con đã ăn phần cơm ấy. Thưa thầy, như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi.

Nghe Nhan Hồi nói xong, Khổng Tử lại ngẩng mặt lên trời mà than rằng:

- Chao ôi! Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu được đúng sự thật. Suýt nữa Khổng Tử này đã trở thành kẻ hồ đồ!

21. Ai là người công chính?

Trong Khổng Tử Gia Ngữ có câu chuyện “Thế nào là kẻ trộm” như thế này: Tử Cống được bổ làm quan Tể Tướng ở xứ Tín Dương. Khi sắp đi nhận chức, đến từ biệt Khổng Tử. Khổng Tử nhân bảo Tử Cống: - Phải siêng năng, phải cẩn thận. Chớ cướp, chớ đánh, chớ bạo tàn, chớ trộm cắp…

Tử Cống đáp: - Tứ này ngay từ lúc nhỏ đã theo học thầy là bực quân tử, có khi nào lại trộm cắp để lụy đến thân?

Khổng Tử nói: - Ngươi chưa hiểu nghĩa.

Ôi! đem người hiền đức này để thay người hiền đức kia, thế là cướp. Đem kẻ bất tiếu này để thay kẻ bất tiếu kia, thế là đánh đập. Hờ hững mệnh lệnh mà gấp rút hình phạt, thế là tàn bạo. Nhận điều thiện của người để làm ra điều thiện của mình, thế là trộm cắp. Trộm cắp đây không phải là trộm cắp tiền của vậy!

22. Khiêm nhường có sức xây dựng

Khiêm nhường có khả năng biến tội lỗi thành thánh thiện, bất chính thành công chính. Trái lại, kiêu ngạo tự mãn có thể biết điều tốt thành điều xấu. Khiêm nhường, tự hạ, quên mình luôn được coi là nền tảng của sự thánh thiện, là gốc rễ của các nhân đức. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô I đã nói: Trên thiên đàng không thiếu bọn thu thuế và gái điếm, nhưng không có kẻ kiêu ngạo. Dưới hoả ngục có cả Hồng Y, Giám mục nhưng không có người khiêm nhường.

Khiêm nhường bao nhiêu cũng không đủ, chỉ một chút kiêu ngạo cũng quá nhiều. Đừng vì mình đạo đức mà khép kín trong tự mãn, cũng đừng vì mình tội lỗi mà khép kín trong tuyệt vọng. Ơn Chúa chỉ đến với người biết mở tâm hồn ra để đón nhận. Tội lỗi hay công đức đều có thể làm ta khép lại hay mở ra. Điều quan trọng là thấy mình luôn luôn cần Chúa. Sự triển nở trong đời sống thiêng liêng nằm chỗ là ta trở nên nhỏ lại, là nhường bước để cho Chúa xâm chiếm và chi phối trọn vẹn đời ta. Càng lớn lên trong Chúa, ta càng cảm thấy một cách mạnh mẽ rằng mình cần đến Chúa ngày một hơn.

23. Vẻ đẹp của khiêm nhường

Nhà kia nơi nước Tống có hai nàng hầu, một đẹp một xấu. Một hôm Dương Chu đến trọ, quan sát và nhận thấy trong nhà ai cũng quí yêu nàng hầu xấu mà khinh thường nàng hầu đẹp. Lấy làm lạ, Dương Chu gọi hỏi cậu bé trong nhà, cậu ta trả lời:

- Nàng hầu đẹp kia tự cho mình là đẹp và khinh chê nàng hầu xấu nên mất đẹp. Chẳng ai nhìn thấy nét đẹp của nàng nữa! Còn nàng hầu xấu tự biết mình là xấu mà khiêm nhu kính trọng mọi người, nên không ai còn nhìn thấy cái xấu của nàng.

Dương Chu liền gọi môn sinh đến và dặn: Các con nhớ ghi lấy bài học này. Giỏi hay đẹp mà bỏ được cái thói tự cho mình là giỏi và đẹp thì đi đâu mà chẳng được người ta yêu mến, tôn trọng.

Cũng vậy, trong Tin Mừng hôm nay, nhân việc Chúa Giêsu thấy "một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác", Người đã dạy chúng ta bài học khiêm nhường qua dụ ngôn người Pharisiêu và người thu thuế.

24. Tình thương cảm hóa.

Kho tàng văn học Thiền có ghi lại câu chuyện sau đây. Thiền sư Sengai có một anh đệ tử hư hỏng, đêm đêm thường leo tường trốn ra ngoài chơi đêm. Vị thiền sư biết được điều đó nên vào đêm nọ, sau khi phát hiện người đệ tử vượt tường bằng cách leo lên một chiếc ghế khá cao, vị thiền sư đi đến vị trí đặt ghế, nhắc chiếc ghế bỏ sang bên rồi đứng vào chỗ đó. Trong đêm tối, người học trò leo tường trở vào, rồi theo thói quen đặt chân lên ghế để nhảy xuống, không dè lại đặt chân lên lưng thầy. Khi phát hiện thầy đứng ngay trước mặt, anh học trò hoảng sợ chờ đợi những lời khiển trách nặng nề. Thế nhưng cuối cùng vị thầy chỉ nói mấy lời yêu thương: "Áo con ướt đẫm sương đêm rồi! Mau vào thay áo ngay kẻo cảm lạnh!” Thế là từ đó, người học trò không bao giờ còn đi chơi đêm nữa.

Những lời trách móc, lên án, những thái độ khinh bỉ hay loại trừ chỉ tạo nên nguy cơ làm cho những con người tội lỗi lún sâu vào con đường lầm lạc. Nhưng chính thái độ tôn trọng và tấm lòng yêu thương sẽ tạo nên sức cảm hoá diệu kỳ. Câu chuyện về ông Giakêu cho thấy, thái độ lên án và tẩy chay thường chỉ khiến người có tội thu mình lại và càng dễ dấn sâu hơn vào con đường sai trái của mình; chỉ có một thái độ tích cực có thể giúp họ hồi tâm hoán cải, đó là cởi mở, cảm thông, kính trọng và tùy hoàn cảnh mà nhắc nhở hay sửa dạy với đầy lòng yêu mến.

Giakêu rất cảm động trước sự trân trọng và yêu thương của Chúa Giêsu. Giakêu quyết tâm trở về con đường ngay chính, trước tiên bằng việc thực thi bác ái và công bằng. Cung cách đối xử chan chứa tình người mới là yếu tố chính yếu đem lại thành công trong công việc tông đồ. Đó là nghệ thuật cảm hoá lòng người mà Chúa Giêsu đã sử dụng để làm nên phép lạ nơi con người Giakêu.

25. Chúa ban ơn cho người khiêm tốn

Ngoài ra, lời cầu của người khiêm tốn còn có thế lực chinh phục tha nhân trở về với Chúa. Câu truyện sau đây minh chứng điều đó: Bà Dorothy Day từ trần tháng 11, 1980, hưởng thọ 84 tuổi. Khi tường thuật về cái chết thánh thiện của bà, tời báo New York Times đã kể bà là một nhân vật có thế lực nhất trong lịch sử Công Giáo Hoa Kỳ. Sau ngày bà từ giã cõi đời, người ta đã khơi dậy một phong trào, vận động xin Giáo Hội phong Thánh cho bà, vì cuộc đời thánh đức và các công việc từ thiện bái ái bà đã thực hiện để cứu giúp những người nghèo đói túng thiếu ở thành phố New York.

Trong cuốn sách nhan đề: "From Union Square to Rome", bà đã tự thuật cuộc trở lại Công Giáo của bà như sau: "Một điều lôi cuốn tôi trước hết, là một hôm, tôi thấy hình ảnh một bà mẹ đang quì đăm chiêu sốt sắng cầu nguyện. Hình ảnh ấy đã lay động lòng tôi cách mãnh liệt và sâu xa, đến nỗi không bao giờ tôi có thể quên được.” Cũng trong cuốn tự thuật đó, bà còn viết: "Trong những ngày đầu khi tôi mới trở lại, tôi thường nghỉ đêm ở quán trọ, để sáng mai tôi có thể tới dự Thánh Lễ sớm tại nhà thờ Thánh Giuse; điều lôi cuốn tôi đến nhà thờ này, là tôi được thấy người ta quì cầu nguyện cách sốt sắng.” Bà còn quả quyết: "Tôi khát khao được Đức Tin như họ, và bỗng nhiên tôi được ơn tin vào Chúa, nên tôi đã quyết tâm gia nhập Giáo Hội Công Giáo.”

26. Chúa chỉ nghe tâm hồn

Trong cuốn "150 More Stories", Jack Mac Ardle kể một câu truyện:

Một người chìm vào giấc mơ, thấy mình được nâng lên trời và gặp Chúa Giêsu. Chúa đưa anh đi nhiều chỗ khác nhau và sau cùng hai người dừng chân tại một thánh đường giữa lúc đang cử hành thánh lễ. Chàng thanh niên nhìn thấy các ca viên đang mở sách hát, nhưng không nghe thấy tiếng hát; thấy một người đang lướt các ngón tay trêm phím đàn nhưng không nghe thấy tiếng nhạc; thấy mọi ngượi đang mở miệng đọc kinh, nhưng cũng không nghe thấy âm thanh phát ra từ miệng họ. Ngạc nhiên, anh ta hỏi Chúa Giêsu: tại sao chỉ thấy im lặng. Chúa trả lời: "Chúng ta chỉ có thể nghe được tiếng của họ, nếu họ thực sự cầu nguyện với tất cả tâm hồn mà thôi"

"Với tất cả tâm hồn" không chỉ được hiểu là hết sức lực, hết tâm trí, nhưng còn hiểu là cầu nguyện với niềm tin tưởng phó thác vào Chúa, với lòng khiêm nhượng và tình bác ái.

Qua dụ ngôn hôm nay, chính Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy: dù có đến nhà thờ, dù có giơ cao đôi tay hay lớn tiếng đọc kinh, nhưng không ý thức thân phận yếu đuối và tội lỗi của mình, trái lại, tự cao tự đại, coi thường anh chị em mình, thì hành động và lời nói của chúng ta chỉ trở thành vô ích, không bao giờ được Chúa lắng nghe và chấp nhận. Người thu thuế, vì ý thức mình tội lỗi, yếu hèn, cần đến ơn tha thứ, nên trong khi cầu nguyện, anh đã được Chúa nhận lời và thứ tha. Anh đã cầu nguyện với tất cả tâm hồn.

Lạy Chúa, mỗi lần trước khi đến với Chúa, trước khi mở miệng cầu nguyện, chúng con xin Chúa hãy thanh tẩy tâm hồn chúng con khỏi các ý nghĩ kiêu căng, ghen ghét, giận hờn và giúp chúng con thoát khỏi những ràng buộc bận tâm trần thế.

27. Khiêm nhường là biết mình

Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII khi còn là Khâm sứ Toà Thánh kiêm Đại diện Tông Toà quản trị các giáo phận ở Bungari và Thổ. Lúc đó có một linh mục bất mãn với ngài, nên viết thư tố cáo ngài nhiều chuyện. Tuy nhiên, thay vì giận dữ, Đức Giáo Hoàng đã trân trọng kẹp thư đó vào trong cuốn Kinh Thánh, để hằng ngày suy gẫm, để sửa sai và để nhớ đến vị linh mục đó và cầu nguyện cho vị linh mục đã tố cáo và ngài coi là đại ân nhân của mình.

Khi gặp lại vị linh mục đó ở Vaticăng, trong một buổi triều yết riêng, vị linh mục này rất sợ, vì biết những việc sai lỗi của mình, nhưng khi gặp, Đức Giáo Hoàng đã chủ động tiến lại, ôm trầm lấy vị linh mục đó và ôn tồn trong khiêm tốn, ngài nói: "Con đừng hoảng sợ, cha không bao giờ giận con đâu. Cha cám ơn con. Cha cũng là người, cũng yếu đuối, cha ngăn bức thơ con viết vào Kinh Thánh để hằng ngày đọc vào đó mà xét mình, hầu có thể dứt khoát với những khuyết điểm còn tồn tại hoặc xa tránh những lầm lỡ có thể xảy đến trong tương lai. Mỗi lần như thế cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con"

28. Cái tôi tranh giành với Chúa

Có một câu chuyện nói về một cậu bé đi xem lễ sáng sớm Chúa nhật. Mẹ cậu cho cậu hai đồng tiền bằng bạc và nói: “Một đồng cho con, còn đồng kia con dâng cho Chúa”, tức là bỏ trong giỏ khi thu tiền trong nhà thờ. Cậu bé cầm chặt hai đồng tiền trong nắm tay, khi bắt đầu đi đến nhà thờ. Trong khi băng qua đường, cậu bé đó vấp ngã trượt chân và té. Tự nhiên theo bản năng, cậu bé mở tay ra để chống đỡ cho khỏi bị ngã và hai đồng tiền vuột khỏi tay cậu. Một đồng lăn tới nằm ở lề đường, còn đồng kia lăn xuống đường mương. Cậu nhặt đồng tiền ở lề đường lên và nhìn xuống đường mương.

Đột nhiên một cuộc chiến đấu dữ dội nổi lên bên trong con người của cậu. Sau một lúc do dự, cậu đút nhanh đồng tiền nhặt được vào túi, nhìn lên trời và nói: “Chúa ôi, con rất lấy làm buồn, đồng tiền của Chúa nằm dưới đường mương rồi!”

Không biết câu chuyện đó có xác thực không? Nhưng cũng có thể lắm. Tất cả đều tùy thuộc vào “cái tôi” và có thể trở thành điển hình cho toàn bộ việc tiếp cận của chúng ta với Thiên Chúa. “Tôi”, chỉ “tôi” thôi, luôn luôn là “tôi” và không ai khác. Một chân lý chứa đựng nhiều điều trong câu chuyện có tính cách bông đùa đó!

29. Món vật cao quý nhất trước mặt Chúa

Có một chuyện cổ tích thời Trung cổ. Câu chuyện này kể lại một người đã về bên kia thế giới. Cuộc đời trên thế gian của cô thì thật là tầm thường. Khi đến cửa thiên đàng, cô được cho biết là nếu muốn vào thiên đàng thì phải trở về thế gian và tìm cho được món vật gì mà giá trị nhiều nhất trước mặt Chúa. Cô đã trở về thế gian để tìm kiếm.

Một ngày nọ, cô gặp một người bị tử đạo vì danh Chúa Kitô. Cô nghĩ: “Máu tử đạo chắc là món quà mà Thiên Chúa đánh giá cao trọng nhất.” Thế rồi, cô liền lấy một giọt máu tử đạo và đem về thiên đàng. Khi dâng lên, cô được biết là món vật đó chưa phải là cao trọng nhất. Cô lại trở về thế gian và tìm kiếm.

Rồi một ngày nọ, cô gặp một nhà truyền giáo đang rao giảng Lời Chúa giữa những người nghèo khổ. Cô nghĩ rằng, “Đây rồi, ta tìm được món vật quí nhất rồi, đó là giọt mồ hôi của người rao giảng Tin Mừng.” Khi đem về thiên đàng, cô lại được cho biết là món vật ấy chưa phải là quí nhất trước mặt Chúa. Cứ như vậy nhiều lần, cô đã tìm đủ mọi vật để đem về thiên đàng, nhưng vẫn không được gọi là vật quí giá nhất trước mặt Chúa.

Bất chợt, cô thấy một người đàn ông cưỡi ngựa đến cạnh hồ nước của thành phố. Ông xuống ngựa và định tâm uống nước. Khi người đàn ông nhìn thấy đứa bé đang chơi gần đấy, ông chợt nhớ lại tuổi thơ ấu của ông. Khi ông cúi xuống nước thì bỗng ông nhìn thấy dung nhan phản chiếu của ông trên mặt nước. Đó là một khuôn mắt xấu xí và dày dạn. Nhìn chòng chọc vào khuôn mặt của mình, ông nhận ra rằng ông đã uổng phí cuộc đời mà Thiên Chúa đã ban cho ông. Bất chợt, những giọt lệ bắt đầu lăn xuống trên má ông.

Cô đã vội hứng lấy một giọt nước mắt thống hối đó và đem về thiên đàng. Khi cô dâng hạt nước mắt ấy lên thì cả thiên đàng vui mừng hớn hở. Thì ra món quà mà Thiên Chúa đánh giá trị cao nhất là giọt nước mắt thống hối của tội nhân.

30. Thực lòng sám hối

Hối lối được định nghĩa là đau buồn đến độ chấm dứt những hành động sái quấy.

Nhưng hối lối còn hơn thế nữa. Nó không chỉ đau buồn đủ để chấm dứt những hành động sái quấy nhưng còn đau buồn đến độ ước muốn sửa sai những lầm lỗi mà chúng ta đã phạm trong quá khứ.

Một câu chuyện sau của ông James Colaianni giúp chúng ta thấy rõ điều này.

Một đứa bé đến thăm bà nội. Bà hỏi nó thích ăn gì nhất. Nó trả lời, "bánh bột chiên." Sau đó nó cho biết thêm là khi ở nhà nó chỉ được ăn có ba cái mà thôi. Rồi nó hỏi, "Vậy con ăn thiệt nhiều được không nội?"

Bà nội gật đầu, "được."

Sau khi đứa bé ăn gần mười cái bánh bột chiên, bà nhận ra sự khó chịu trên khuôn mặt của nó. Bà hỏi, "Sao vậy? Con không muốn ăn thêm nữa sao!"

"Không," đứa bé trả lời, "Con không muốn ăn nữa. Cả mấy cái ăn rồi con cũng muốn ói ra!"

Đó là một tâm trạng tốt--khó chịu nhưng tốt. Lý do nó tốt là vì đó là tâm trạng hối lỗi.

Hối lỗi không chỉ đau buồn đến độ muốn từ bỏ, nhưng còn là đau buồn đến độ ước muốn đừng thi hành những gì mà chúng ta đã làm.

Đây là loại thống hối mà câu chuyện cổ muốn đề cập đến. Đây là loại thống hối mà Chúa Giêsu đề cập đến trong Phúc Âm hôm nay.

Nhiều năm trước đây, có một vở kịch trình diễn ở Broadway về một thanh niên bỏ học, đi bụi đời và rơi vào đường cần sa ma tuý.

Trong một cảnh không thể quên được của vở kịch, người thanh niên này nhìn lên trời và đau đớn vì tuyệt vọng, anh thốt lên:

"Tôi ao ước chừng nào, phải chi cuộc đời tôi là một cuốn sách để tôi có thể xé bỏ những trang giấy đầy những sai lầm vấp phạm."

Cám ơn Chúa Giêsu, cuộc đời thì giống như một cuốn sách. Và cám ơn Chúa Giêsu, chúng ta có thể xé bỏ những trang giấy mà chúng ta đã sai lầm.

Trong tình yêu của Người, Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta bí tích Hòa Giải. Qua bí tích này, chúng ta có thể xé bỏ những phần của cuộc đời mà chúng ta đã sai lầm lỗi phạm.

31. Kiêu ngạo bị đánh chìm

Vào năm 1912, người ta hạ thủy con tàu Titanic, được xem là lớn nhất vào thời ấy: có trọng tải 60. 000 tấn, dài 270m. Các kỹ sư tính toán rất kỹ, không để một sai sót nào, dù có gặp phong ba bão tố cũng không cản trở cuộc hành trình. Vì thế họ đã đề hàng chữ bên hông tàu rằng: “Cả đến Thiên Chúa cũng không nhận chìm được!”

Con tàu nhổ neo đi từ Luân Đôn đến Nữu Ước, vào đêm 14-04-1912, lúc trời yên biển lặng, trong khi mọi người đang ăn uống, vui chơi thỏa thích. Thình lình con tàu bị va chạm mạnh vào một tảng băng ngầm làm xẻ đôi con tầu, cắt đứt hàng chữ “kiêu ngạo” bên hông, và tàu từ từ chìm xuống đáy đại dương, chôn sống 1.513 hành khách!!

Ôi bao nhiêu chất xám của rất nhiều kỹ sư nổi tiếng đổ vào con tầu khổng lồ, tối tân chưa từng có cũng chìm lỉm dưới lòng đại dương! Rõ ràng con tàu vĩ đại ấy chưa gặp một trận cuồng phong nào mà đã bị xé đôi như thế!?

32. Quỷ kiêu ngạo giả trang

Một vị hòa thượng bảo đệ tử:

- Tránh cái lợi dễ hơn tránh cái danh. Ngay những bậc ẩn sĩ, những bậc tu hành cũng mong được người ta biết đến mình. Họ muốn giảng kinh, thuyết pháp trước đám đông, chứ không muốn ở ẩn trong một cái am nhỏ mà đàm đạo với một đệ tử như chúng mình lúc này đây.

Đệ tử thưa lại:

- Bạch Thầy, quả thực Thầy là bậc duy nhất tuyệt được lòng ham danh ở đời.

Và vị hòa thượng đó mỉm cười.

Vị hòa thượng phê phán tính hám danh lại khéo léo khoe về sự đức độ của mình và thật vui khi được đệ tử khen là bậc chân tu. Quả thật tính khoe khoang và háo danh đã len lỏi vào từng ngõ ngách của cuộc sống con người, dù là nơi phố chợ hay chốn tu hành, dù người đó là một nghị sĩ nổi danh hay bậc tu hành đang ở nơi thâm sơn cùng cốc.

33. Hai bàn tay trắng

Khi còn là một chủng sinh, vì học tập rất kém nên cứ theo luật thì thầy Vianney phải bị loại, nhưng vì bền chí và có lòng đạo đức nên thầy được giữ lại. Thế mà khi làm cha sở xứ Ars, ngài đã lôi kéo được nhiều người ăn năn trở lại, nhờ đời sống cầu nguyện, hy sinh, hãm mình.

Các cha khác thấy thế thì lo ngại nên làm một tờ đơn trình Đức Giám mục, đại ý nói là cha Vianney trước đây học hành kém cỏi mà nay lôi kéo giáo dân trong cả miền đến Ars xưng tội hầu như cả ngày nên ai cũng e là có gì sai lạc chăng và xin Đức Giám mục cấm cha Vianney giải tội.

Vì chút thương tình, vị linh mục nhận cầm đơn lên toà Giám mục có ghé qua cho cha Vianney hay chuyện. Lạ thay! Khi cha Vianney cầm xem tờ đơn kiện mình thì chính ngài lại cầm bút viết thêm: “Việc anh em nói trên đây đều rất đúng với sự thật”, rồi ngài ký thêm tên mình vào đó.

Thánh Vianney đồng tình với những lời cáo buộc và lo ngại về trình độ học vấn của ngài thì chẳng có chi là khó hiểu, nhưng người Biệt phái trong câu chuyện ngụ ngôn có làm điều chi sai trái không mà phải trở về với hai bàn tay trắng: “Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không”?

34. Mình hại mình

Một người thợ rèn thời Trung cổ bị bắt làm tù nhân và bị giam trong một cái hầm ngục. Nhờ có ít vốn hiểu biết trong nghề, anh ta kiểm tra các mắt xích nặng nề đang ràng buộc mình với hy vọng tìm ra được một vết nứt để tính kế thoát thân. Sau cùng anh phải buông tay thất vọng. Các dấu hiệu trên xích cho thấy chính anh làm ra nó, mà trước đây anh đã rất tự hào về các chúng: chưa một ai bẻ gãy được sợi xích do anh chế tạo.

Người Biệt phái đã làm được thật nhiều việc tốt lành, như một thánh nhân, nhưng chính các việc tốt lành đó đã làm ông quên đi thân phận hèn yếu của mình, quên đi một Thiên Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, quên đi cái sức mạnh có thể nói được là ‘toàn năng’ của lời cầu xin nơi người biết nương tựa vào Chúa, … để rồi đứng xa Chúa hơn.

Cùng đứng trong đền thờ, nhưng tôi có gặp được Chúa không?

35. Xin tát tôi một cái

Hoàng đế Harun An-Rasít, một đêm nọ cùng tể tướng Giafa hoá trang, mặc bộ đồ lái buôn, tới bờ sông Euphrat, qua đò mà không một ai biết, rồi vào kinh thành để quan sát sinh hoạt mức sống của quần chúng. Qua một chiếc cầu, hai người gặp một lão hành khất. Hoàng đế đặt vào tay lão một đồng tiền vàng. Nhưng lão nắm chặt tay hoàng đế và thưa: "Ngài đã vì Thượng Đế mà làm phúc, xin ngài thương tát vào má tôi, vì tội tôi đáng trừng phạt như vậy."

Hoàng đế nói: "Lão già ạ, ta không thể làm theo lời thỉnh cầu của lão, vì ta làm phúc, mà lại tát lão, thì còn gì là công phúc!"

Nhưng lão hành khất vội túm lấy áo nhà vua và nói "Thưa ngài, xin tha thứ cho tôi vì tôi đã cả gan làm phiền ngài. Xin ngài hãy cho tôi một cái tát tai, hoặc lấy lại đồng tiền ngài cho, vì tôi chỉ nhận của bố thí với điều kiện bị khinh bỉ."

Hoàng đế không muốn để chậm trễ, liền tát nhẹ lão một cái rồi bỏ đi. Nhưng rồi bảo tể tướng Giafa: "Ngươi phải quay lại bảo cho lão biết ta là ai, và bảo lão ngày mai có mặt tại hoàng cung sau buổi cầu kinh trưa. Ta muốn hỏi lão hành khất này này, tại sao lại hành động kì dị như vậy?"

Ngày hôm sau lão hành khất mù vào hoàng cung, và đã tâu trình với vua Harun An-Rasít như sau: "Tâu đức vua, tôi tên là Baba Apđanla sinh ra tại Bátđa. Tuy cha mẹ tôi nghèo, không để lại gì, nhưng tôi đã siêng năng, chịu đựng mọi vất vả và tôi đã có tới 80 con lạc đà, chuyên chở hàng cho các lái buôn: do đó tôi đã thu được những khoản tiền lớn. Nhưng tôi vẫn luôn tham lam của cải, ước muốn mỗi ngày giàu có hơn.

Một hôm từ Baxôra trở về, lạc đà đi không, sau khi đã chở hàng xong cho các lái buôn. Gặp một bãi cỏ non, khá xa nơi dân cư, tôi cho đoàn lạc đà nghỉ lại gặm cỏ. Chợt có một tu sỹ đi bộ đến Banxôra, tu sĩ này đến gần tôi, nghỉ chân và nói truyện. Chúng tôi bỏ đồ ra ăn chung: tu sĩ bảo tôi là gần đây có một kho tàng, của cải nhiều tới nỗi 80 con lạc đà có chở đầy vàng bạc châu báu, lấy ở kho tàng, thì kho tàng có vẻ như chưa ai động tới; tu sĩ này lại nói là sẽ giúp tôi tới được kho tàng này, tự do lấy của cải bao nhiêu tuỳ thích, miễn là phải chia cho tu sĩ nửa số lạc đà của tôi.

Nhận thấy cơ hội trở nên giàu có mau chóng, tôi đồng ý, và rồi chúng tôi lên đường đi tới một thung lũng khá rộng, lối vào thì hẹp, vừa đủ cho từng con lạc đà qua. Nhưng rồi bên trong rộng dần, cả đoàn có thể đứng không vướng nhau. Hai quả núi lớn đứng sừng sững khép lại thành hình cánh cung tạo ra nên thung lũng đó. Tu sỹ bảo: "Hãy cho lạc đà của anh dừng lại, bắt chúng nằm xuống, để chúng ta dễ chất của cải lên, tôi sẽ bắt đầu mở cửa kho tàng."

Rồi tu sĩ đọc thần chú. Bỗng một tảng đá dựng đứng thật cao tách ra thành một cửa rộng, có hai cánh bằng đá. Qua cửa này tôi nhìn thấy bên trong có một toà lâu đài tráng lệ, chứa đầy tiền vàng và ngọc quý. Tôi mừng rỡ và đi thẳng vào đống tiền vàng, hốt vào các túi đem theo. Tu sĩ cũng làm theo tôi, nhưng ông chủ yếu lấy ngọc, nên tôi cũng theo ông dồn ngọc vào một số túi. Cuối cùng chúng tôi lấy đầy các túi xếp lên lưng lạc đà. Trước khi ra đi, tôi thấy tu sĩ vào bên trong, ở đấy có nhiều lọ lớn bằng vàng, ông cho tay vào một cái lọ lấy ra một cái hộp con làm bằng thứ gỗ quý. Sau khi cho tôi xem bên trong đựng một loại cao, tu sĩ cất vào trong người.

Khi đã phù phép đóng cửa lại, chúng tôi cho lạc đà đứng lên tách ra làm hai đoàn: tôi dành cho tu sĩ 40 con và tôi dắt 40 con chở đầy vàng ngọc quý. Chúng tôi mừng rỡ chia tay nhau. Tu sĩ đi về phía Banxôra còn tôi trở lại Bátđa. Nhưng vừa đi lòng tham của tôi nổi dậy, tôi đuổi theo tu sĩ và nói: "Tu sĩ à, việc chăm nuôi 40 con lạc đà rất khó khăn, tu sĩ nhường lại bớt cho tôi 10 con, vì tôi quen việc chăm sóc"

Tu sĩ đáp: "Anh nói có lý, vậy anh chọn lấy 10 con anh thích, tôi chỉ lấy 30 con thôi"

Khi đã được thêm 10 con, tôi lại tham lam đuổi theo tu sĩ mà nói: "Tu sĩ ạ, tu sĩ là người tu hành mà phải chăm sóc 30 con, theo kinh nghiệm của tôi, còn rất vất vả và khó khăn, vậy tu sỹ nên nhường bớt lại cho tôi 20 con nữa, tu sĩ chăm sóc 10 con là đủ"

Tu sĩ cũng bằng lòng ngay, cho thêm tôi 20 con nữa và bảo tôi: "Người anh em ạ. Thượng đế cho ta của cải, thì ngài có thể lấy lại những của cải ấy, nếu chúng ta không biết dùng nó để giúp đỡ những người nghèo khó. Trời sinh ra những người nghèo khó là để những người giàu, qua việc làm phúc giúp đỡ, sẽ được phần thưởng lớn lao, khi trở về thế giới bên kia..."

Tôi cảm ơn tu sĩ, vui mừng vì đã có 70 con lạc đà chở đầy vàng ngọc, tôi đã trở thành con người giàu có nhất đời... Nhưng rồi lòng tham vô đáy, tôi chợt nghĩ tới hộp cao, hẳn là vật quý báu lắm, nên tôi nói: "Tu sĩ ạ, tu sĩ giữ làm gì lọ cao nhỏ, xin tu sĩ làm quà cho tôi."

Tu sĩ lấy chiếc hộp ra, đưa cho tôi một cách nhã nhặn và nói: "Xin tặng anh, để anh vui lòng. Tác dụng của nó thật kì diệu: Nếu bôi cao này vào mắt bên trái, anh sẽ nhìn thấu suốt được mọi kho tàng giấu sâu trên trái đất, còn nếu bôi lên mắt phải, anh sẽ bị mù."

Tôi muốn thí nghiệm nên xin tu sĩ bôi cao vào mắt trái của tôi. Quả thực, thật kì diệu, tôi nhìn thấy biết bao kho tàng trên thế giới. Nhưng tôi lại dại dột nghĩ rằng chắc bôi lên mắt phải sẽ thấy những điều kì dị khác, chứ đâu có bị mù, nên tôi lại xin tu sĩ bôi cao vào mắt phải cho tôi. Tu sĩ từ chối và nói là ông nói rất thật, nếu bôi lên mắt phải thì bị mù ngay. Vì quá tham lam và tò mò, tôi cứ nài nẵng hoài, nên ông ta dành lấy cao bôi vào mắt phải tôi. Than ôi! Vừa bôi cao vào mắt phải: khi mở mắt ra, thì tôi chỉ thấy có bóng đen dày đặc, tôi trở thành con người mù loà, như đức vua thấy đây. Tôi liền la rầy tu sĩ, và xin ông chữa tôi khỏi mù. Nhưng tu sĩ lạnh lùng đáp: "Mày là đứa tham lam, xứng đáng chịu hình phạt mù loà này, đúng là ta biết được nhiều điều huyền bí, nhưng ta vẫn chưa biết cách làm cho mắt của mày sáng trở lại. Hãy cầu xin Thượng Đế và thống hối tội lỗi tham lam của mày. "

Nói rồi ông ta để tôi lại một mình và lùa 80 con lạc đà đi theo ông. Tôi đã được một đoàn lữ hành từ Banxôra, rủ lòng thương, nhận đưa tôi về Bátđa. Tôi nhận ra tội lỗi của tôi, thành thực thống hối, cầu xin Thượng Đế tha thứ cho tôi và tự bảo mình phải luôn luôn nghĩ tới tội lỗi, bằng cách đi hành khất, và nguyện rằng bất cứ ai làm phúc bố thí cho mình thì thì cũng tát vào mặt mình, tỏ lòng khinh bỉ mình, vì tội lỗi xứng đáng như vậy.

36. Cần khám phá tình yêu

Đạo diễn phim Jean Jacquens Arnaud nói rằng bộ phim “Tìm lửa” hoàn thành một giấc mơ lâu dài. Nó kỉ niệm việc tìm ra lửa cách đây 80 ngàn năm, một khám phá cứu nhân loại khỏi cảnh diệt chủng. Ngày nay, nhiều người lo sợ rằng nhân loại đang bên bờ vực diệt vong. Chỉ có một điều có thể cứu thoát chúng ta, đó là tái khám phá tình yêu, tình yêu mà Thiên Chúa nói đến trong bài đọc hôm nay.

Người ta tự hỏi: “Liệu 80 ngàn năm nữa, có ai sẽ thực hiện bộ phim kỉ niệm việc tái khám phá tình yêu đã cứu loài người thoát khỏi cảnh diệt vong trong năm 2000 không?”

Tôi có thể làm gì cụ thể để góp phần vào việc tái khám phá tình yêu?

Giọt nước mắt cay đắng nhất tuôn đổ trên những nấm mồ là những lời chưa được nói ra và những việc chưa được thực hiện. (Harrret Beecher Stowe)

37. Được cứu nhờ biết hạ mình

Một con sư tử mạnh mẽ vồ một con chuột yếu đuối. Chú chuột kêu lên: “Tha cho tôi, người anh em vĩ đại, một ngày nào đó, tôi có thể giúp lại anh.” Sư tử thét lên, nhưng ý tưởng này làm cho nó buồn cười đến độ nó quyết định tha cho con chuột. Một thời gian sau, những thợ săn bắt được con sư tử. Họ cột nó vào cây trong khi đi kiếm củi. Chú chuột bé nhỏ tình cờ đi ngang qua thấy tình huống bi đát của con sư tử, nó đã gặm mòn sợi dây và giải phóng cho con sư tử.

Ngụ ngôn trên đây là một minh họa rõ nét cho lời Chúa trong Tin mừng hôm nay.

Tôi cư xử thế nào đối với những người bất lực hoặc bị người khác coi thường?

Một cách đoán xét nhân cách đơn giản, đó là tôi đã đối xử ra sao đối với người không làm được gì cho tôi.

38. Mong hay không mong được nhìn nhận?

Cato, một cựu nghị viên La mã đi bộ với một nghị viên khác. Người đồng nghiệp của ông quay sang nói: “Cato, thật chẳng ra gì khi nghị viện đã không dựng tượng để tỏ lòng kính trọng anh. Tôi sẽ xem xét vấn đề này.” Cato nói: “Xin đừng. Tôi muốn người ta hỏi “Tại sao không có tượng đài cho Cato” hơn là “Tại sao lại có?”

Tôi quan tâm thế nào đến việc người khác nhìn nhận những công việc tôi làm?

Càng nhiều hạt, cây lúa càng uốn cong.

Càng ít hạt, cây lúa càng đứng thẳng. (ngạn ngữ Mã Lai)

39. Tôi là tội nhân

Một hôm, Giáo Hoàng Gio-an XXIII đến thăm một nhà tù. Các tù nhân đều một mực cho rằng họ vô tội và bị oan. Duy có một người nói với ngài rằng anh ta có tội, bị giam tù như vậy là xứng đáng. Đức Gio-an XXIII liền nói với người coi trại giam: “Nên đưa người này ra khỏi đây. Sao lại để người có tội sống chung với những người vô tội?” Một minh họa sống động cho dụ ngôn “hai người cầu nguyện” mà Chúa kể trong bài Tin Mừng hôm nay! Ơn tha thứ chỉ làm việc trên ta khi và chỉ khi ta nhìn nhận mình là tội nhân. Và nếu bạn không biết cầu nguyện là gì, thì đây là một chỉ dẫn hữu ích: Cầu nguyện là nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình và thưa với Chúa điều đó.

Ngày nay chúng ta có xu hướng không nhận ra tình trạng tội lỗi của mình hoặc trầm trọng hơn, mất hẳn ý thức về tội. Tôi không thấy cần xin lỗi người khác vì đã cư xử nóng nảy với họ bởi vì “tính tôi như thế”! Người ta huỷ diệt phôi thai để nghiên cứu tế bào gốc viện lý do vì sự tiến bộ của khoa học, y học để phục vụ con người! Người ta phá thai với danh nghĩa bảo vệ sức khoẻ hoặc vì sự phồn vinh của xã hội và hạnh phúc gia đình…!

Không phải khi vi phạm luật và bị bắt gặp tôi mới phạm tội. Tôi đã phạm tội khi không yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa đúng như Ngài đáng được yêu mến tôn thờ. Khi tôi xúc phạm đến sự sống và phẩm giá của người khác, bất kể người đó là ai, giàu hay nghèo, cùng hay khác tôn giáo, chính kiến, hay cho dù đó chỉ là một phôi thai, tôi đã phạm tội rồi.

40. Trung thực là khiêm nhường

Một viên đại tá mới được ủy nhiệm vừa đến văn phòng làm việc, thì một binh nhì bước vào với một hộp dụng cụ trên tay. Để gây ấn tượng, viên đại tá nói: “Hãy chờ một chút, tôi có điện thoại khi cậu vừa gõ cửa.” Nhắc điện thoại lên viên đại tá nói: “Thưa đại tướng, tôi có thể giúp ngài được gì?” Một giây căng thẳng theo sau, rồi ông nói tiếp: “Không hề chi. Tôi sẽ gọi cho Washington và nói chuyện với tổng thống về điều đó.”

Gác điện thoại, viên đại tá nói với binh nhì: “Nào, tôi có thể giúp được gì cho cậu?” Người lính nói một cách e dè: “Chỉ có một điều thôi: tôi được cử đến để giúp ngài liên lạc điện thoại.”

Tôi thường có khuynh hướng khoác lác và tỏ ra mình biết nhiều không? Vì lý do gì?

Ai không chấp nhận sự bé mọn của mình, sẽ đánh mất sự vĩ đại của mình. (Thánh Phanxicô Salêsiô)

THỨ HAI - ĐỪNG GIẢ HÌNH

Lời Chúa: Lc 13, 10-17

Khi ấy, nhân ngày Sabbat, Chúa Giêsu giảng dạy trong một hội đường. Và đây có một người đàn bà bị quỷ ám làm cho bà đau yếu đã mười tám năm. Bà bị khòm lưng, hoàn toàn không thể trông lên được. Khi Chúa Giêsu xem thấy bà, Người liền gọi bà đến mà bảo rằng: "Hỡi bà kia, bà được khỏi tật của bà. " Rồi Người đặt tay trên bà ấy, tức thì bà đứng thẳng lên và tôn vinh Thiên Chúa.

Nhưng viên trưởng hội đường tức giận, vì Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabbat, nên ông cất tiếng bảo dân chúng rằng: "Có sáu ngày người ta phải làm việc: vậy thì các người hãy đến xin chữa bệnh trong ngày đó, chớ đừng đến trong ngày Sabbat. "

Chúa trả lời và bảo ông ta rằng: "Hỡi những kẻ giả hình, chớ thì trong ngày Sabbat, mỗi người trong các ông không thả bò hay lừa của mình ra khỏi chuồng mà dẫn nó đi uống nước sao? Phương chi người con gái của Abraham này, Satan cột trói nó đã mười tám năm nay, chớ thì không nên tháo xiềng xích buộc nó trong ngày Sabbat sao?" Khi Người nói thế, tất cả những kẻ chống đối Người đều hổ thẹn, và toàn dân vui mừng vì những việc lạ lùng Người đã thực hiện.

TRUYỆN KỂ

1. Giê-su giải thoát (TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Đời sống con người bị nhiều thứ trói buộc khiến ta trở thành nô lệ. Trong đó có ma quỉ, xác thịt, thế gian. Ta không thể tự cứu mình. Nhờ Chúa Giê-su ta được giải thoát.

Chúa giải thoát khỏi nô lệ ma quỉ. Xa-tan là một ách nô lệ thống trị. Người phụ nữ này bị trói buộc 18 năm rồi. Nhưng không thể thoát ra. Chúa đến. Chúa là sức mạnh vô biên. Xua đuổi ma quỉ. Giải thoát để người phụ nữ trở thành con Thiên Chúa

Chúa giải thoát khỏi nô lệ xác thịt thế gian. Người phụ nữ bị tật còng lưng. Bị trói buộc khom lưng cúi đầu. Bị ràng buộc vào mặt đất. Không vươn lên trời cao được. Phải cúi đầu trước sự dữ. Chúa giải thoát. Để bà có thể mở rộng tầm mắt nhìn lên trời xanh. Để đứng thẳng hiên ngang tràn đầy phẩm giá.

Chúa giải thoát khỏi nô lệ lề luật. Nô lệ lề luật tạo nên một tôn giáo phi nhân. Có thể cởi dây cho thú vật. Mà không dám cởi trói cho con người. Chúa đem đến một tôn giáo mới. Tự do phóng khoáng. Tràn đầy tình thương. Nâng cao con người.

Hôm nay thế giới còn bị nhiều trói buộc. Xin Chúa giải thoát ta khỏi mọi nô lệ. Nô lệ thần tượng. Dục vọng. Tội lỗi. Ý riêng. Tự ái. Quan niệm. Đó là những gánh nặng kéo ta cúi xuống. Không đứng thẳng lên được.

2. Cốt Lõi Của Ðạo

Một đêm mùa Ðông lạnh như cắt, một vị ẩn sĩ không chịu nổi cái lạnh của sa mạc, đã tìm đến xin trú ẩn tại một ngôi chùa. Nhìn thấy gương mặt tiều tụy của vị ẩn sĩ, tu sĩ canh giữ ngôi chùa không nỡ để ông ta đứng mãi giữa trời. Vị tu sĩ cho ông vào, nhưng lại nói một cách cương quyết: "Ông có thể ngủ đêm trong chùa, nhưng chỉ một đêm thôi, ngày mai ông phải rời khỏi nơi này tức khắc, vì đây là nơi tu hành, chứ không phải là trại tế bần. "

Giữa đêm, vị tu sĩ nghe thấy tiếng động kỳ lạ. Ông thức dậy và chứng kiến cảnh tượng khác thường: giữa ngôi chùa vị ẩn sĩ đang ngồi sưởi ấm bên một đống lửa cháy phừng. Nhìn lên bàn thờ, vị tu sĩ không còn thấy tượng Phật bằng gỗ nữa. Ông hỏi vị ẩn sĩ, vị này chỉ vào đống lửa điềm nhiên đáp: "Tôi không chịu nổi cái lạnh, nên đã dùng tượng Phật để nhóm lên đống lửa này. " Nghe thế, vị tu sĩ quát lớn: "Ông khùng rồi sao? Ông có biết ông đã làm gì không? Ðây là tượng Phật, ông đã đốt cháy Ðức Thích Ca của chúng tôi. "

Sáng hôm sau, vị tu sĩ trở lại để đuổi vị ẩn sĩ ra khỏi chùa; ông thấy vị ẩn sĩ đang bới đống tro như để tìm kiếm vật gì đó. Thấy vị tu sĩ thắc mắc, ông ta trả lời: "Tôi đang tìm kiếm những cái xương của Ðức Phật mà ngài bảo là tôi đã thiêu đốt tối hôm qua. "

Về sau, vị tu sĩ canh giữ ngôi chùa kể lại câu truyện cho một Thiền sư, và Thiền sư đã trách ông như sau: "Ông là một tu sĩ xấu, bởi vì ông xem một tượng Phật chết trọng hơn một mạng người sống. "

3. Ngọn Lửa Nội Tâm

Thế vận hội năm 2000 dành cho những người khuyết tật đã kết thúc một cách tốt đẹp tại Sydney, Australia. Buổi lễ khai mạc hôm tối thứ Tư 18/10/2000 vẫn là biến cố được theo dõi nhiều nhất.

Khi nữ lực sĩ ngồi xe lăn người Úc là cô Louis Xaviest châm ngọn đuốc vào vạc dầu nhỏ đặt giữa sân vận động, đám đông khán giả ngồi chật trong vận động trường đã đồng loạt đứng lên vỗ tay chào mừng. Louis Xaviest được chọn để châm ngọn lửa khai mạc thế vận hội gồm hơn bốn ngàn lực sĩ khuyết tật của một trăm hai mươi chín phái đoàn tham dự; ngọn lửa soi rọi vào tất cả mọi thành tích của những lực sĩ mà không gì có thể ngăn cản nổi quyết tâm thi đua của họ.

Ðiểm xúc động nhất đối với mỗi người dĩ nhiên là hình ảnh của những con người ra sức chống chọi với mọi nghịch cảnh để thắng vượt chính mình.

Ngọn lửa nội tâm, chủ đề của đêm khai mạc thế vận hội dành cho người khuyết tật đã nói lên được tấm lòng hăng say và nhiệt tâm vươn lên ấy. Nét rạng rỡ hân hoan và đầy hưng phấn của hàng ngàn lực sĩ khuyết tật đã thể hiện được ý nghĩa của thế vận hội dành cho người khuyết tật lần thứ 11 vừa qua, đó là sự chiến thắng của ý chí con người.

4. Đừng vì luật mà bất nhân với anh em

Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: vào một buổi chiều nọ tại một làng quê, người ta đem một người chết đi chôn. Trong khi chuẩn bị hạ huyệt, người nhà nghe thấy có tiếng động trong quan tài? Ngay lập tức, họ báo cho mọi người biết! Vì thế, người chủ sự lễ nghi truyền cho những người khiêng quan tài dừng lại và mở nắp quan tài ra. Mọi người ngỡ ngàng, xôn xao và sợ hãi vì thấy người chết ngồi dạy! Tuy nhiên, vị chủ sự nói với người trong quan tài rằng: “Thưa ông, theo nguyên tắc, việc ông chết đã được thông báo và chúng tôi đã có giấy báo tử của ông trong tay. Vì thế, cứ chiếu theo nguyên tắc, ông phải được chôn xuống. Vì thế, ông vui lòng để chúng tôi thi hành bổn phận. " Dứt lời, vị trưởng nghi truyền cho mọi người đóng nắp quan tài lại và tiếp tục lễ nghi, mặc cho lời van xin của người trong quan tài!

Trên đây chỉ là câu chuyện giả tưởng nhằm phê phán những người sống hình thức, vụ luật, bất nhân.

Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Đức Giêsu lên tiếng chỉ trích rất nặng lời với những người sống vụ luật và bất nhân đối với người khác.

5. Giết người mà không quên đọc kinh

Nhà chú giải Tin Mừng Barclay kể một câu chuyện như sau: Có một người Hồi giáo kia tìm cách giết một kẻ thù để giành quyền kết hôn với một cô gái đẹp. Một hôm, gặp kẻ thù ở chỗ vắng vẻ và nhân lúc kẻ kia không đề phòng, hắn ta rút đao chém một nhát khiến người kia bị thương rồi người kia vội vàng bỏ chạy. Người Hồi giáo liền tiếp tục truy đuổi quyết tâm tiêu diệt tình địch bằng được.

Trong lúc đang hăng hái đuổi theo thì bỗng nghe thấy một hồi chuông báo giờ cầu kinh ban chiều, hắn ta lập tức nhảy xuống khỏi mình ngựa, trải chiếc chiếu luôn mang theo bên mình, quỳ hướng về thủ đô Mécca đọc bài kinh chiều thật mau, rồi lại leo lên mình ngựa tiếp tục cuộc truy đuổi!!!

6. Giữ luật cách máy móc

Có một thầy tiến sĩ luật Do thái bị đi tù ở Rôma. Ông chỉ được ăn uống tối thiểu, nhằm mục đích kéo dài cuộc sống cho qua ngày. Thời gian trôi qua, thầy Luật sĩ yếu dần dần.

Cuối cùng, người ta phải mời một bác sĩ đến khám. Bác sĩ bảo rằng cơ thể ông ta bị thiếu nước trầm trọng. Các sĩ quan cai ngục không hiểu nổi tại sao ông ta lại có thể thiếu nước. Bởi vì khẩu phần nước mỗi ngày tuy là tối thiểu, nhưng vẫn tương đối đủ cho một cơ thể.

Thế là đám lính gác liền chú ý quan sát thầy Luật sĩ ấy một cách kỹ lưỡng hơn, xem ông ta đã làm gì với số nước ấy.

Cuối cùng, người ta khám phá ra bí mật. Thầy Luật sĩ ấy đã sử dụng phần lớn số nước để rửa tay theo nghi thức tôn giáo trước khi cầu nguyện và ăn uống. Như thế ông ta chỉ còn lại ít nước để uống.

7. Chiếc nhẫn thần

Truyện cổ Đông phương kể rằng: ngày xưa, có vị đạo sĩ dâng cho vua một chiếc nhẫn kì diệu và vô giá. Nó vô giá vì được làm bằng thứ kim loại quí hiếm và gắn nhiều kim cương lóng lánh. Nó kì diệu ở chỗ: nếu người đeo nó làm điều lành, thì nó rất vừa vặn và chiếu sáng. Nhưng nếu người đó làm điều ác, thì nó sẽ biến thành một cái máy xiết rất mạnh, ngón tay rất đau đớn.

Mỗi người chúng ta cũng có một chiếc nhẫn thần là lề luật của Chúa.

8. Khóc và cười

Truyện rất ngắn với tựa đề “Tính cách” của tác giả Nguyễn thị Hoài Thanh đăng trong 40 truyện rất ngắn do Hội Nhà văn xuất bản năm 1994 có nội dung như sau:

Mẹ tôi luôn chai lì trước cán cân cơm áo, nhưng mẫn cảm trong nghệ thuật. Những nước mắt tình buồn phim ảnh, những sụt sùi số phận cải lương, bà đều hồn nhiên ăn theo một cách ngon lành. Có lần cha tôi nói giỡn: “Coi chừng trôi tivi”…

Một hôm, đang bữa ăn, bỗng nhiên mẹ tôi hớn háo phớt ra chặn đường em bé bán trứng vịt lộn: “Mày biến đâu tài thế! Có chui xuống đất rồi cũng gặp tao. "

Bà vừa nói vừa dằn mũng trứng đếm lấy trừ nợ.

“Dì ơi, cho con khất, mẹ con còn ốm. "

Mẹ tôi cười: “Nhà này cũng đang ốm đây, khỏi bẻm mép. "

Con bé chưng hửng lã chã nước mắt nhìn cái mủng không, rồi bưng lên xiêu vẹo bước đi.

Cha tôi cám cảnh, rút mùi xoa chấm mắt. Lâu lâu tivi phát vở kịch “Cô bé nghèo bán trứng vịt bị xiết nợ. " Lúc ấy, mẹ tôi lại khóc, còn cha tôi thì cười.

Truyện ngắn trên đây có thể là bức tranh sống động hàng ngày. Người ta dành nước mắt cho những vở kịch trong phim ảnh, trên sân khấu hơn là cho những chuyện xảy ra mỗi ngày trước mắt; người ta xót thương trên môi miệng hơn là bằng những hành vi cụ thể.

9. Tự đánh lừa

Đã có một tín hữu nọ đi tới một quán ăn, anh biết quán ăn có nhiều món cá lạ, nhưng là ngày thứ sáu buộc phải kiêng thịt mà trong lòng thì lại thích ăn thịt. Vì thế, trước hết anh gọi những món cá mà anh biết chắc chắn chẳng bao giờ có, anh nói:

- Cho tôi đĩa cá sấu, cho tôi đĩa cá voi, cho tôi đĩa cá mập….

Chủ quán trả lời: - Không có! Không có! Không có!

Thế rồi anh tự nhủ:

- Lạy Chúa, Chúa biết cho con, con đã làm hết sức, đó là con đã gọi nhiều thứ cá mà chẳng có. Thôi, con đành phải gọi một tô phở thịt bò tái mà ăn trong ngày thứ sáu kiêng thịt vậy.

Cầu nguyện xong, anh thi hành liền, anh tự tạo ra những lý do, những hoàn cảnh để khỏi phải bị lỗi luật Chúa!

10. Đòi người khác phải như mình muốn

Một bà đạo đức kia rất có lòng quí mến và tôn trọng các vị tu hành. Bà đã nhận chu cấp cho một đệ tử có chí nguyện từ bỏ cuộc sống trần gian để dấn thân theo con đường tu thân tầm đạo.

Suốt hai mươi năm trường, bà không ngừng chăm lo và khuyến khích vị tu sĩ trẻ gắng công tu trì, tĩnh niệm, chuyên cần để hiểu pháp luật. Trong một khu vườn thanh tịnh âm u, xa khuất mọi tiếng ồn ào cõi thế, bà dựng một tịnh xá để ngày đêm vị tu sĩ chuyên tâm tu luyện.

Hai mươi năm trôi qua, một ngày nọ, người đàn bà đạo đức ấy muốn biết công trình tu thân luyện đức của nhà sư đã đạt tới mức độ nào, bà liền bày ra một cuộc thử thách thật cam go.

Bà nhờ một thiếu nữ xinh đẹp giúp bà trong cuộc thử thách này. Đúng nửa đêm, khi nhà sư đang trầm ngâm trong tĩnh niệm, thiếu nữ liền đẩy cửa tịnh xá tiến vào trước mặt nhà sư và bày trò cám dỗ ông. Đôi mắt nhìn xuống, nét mặt thanh thản, nhà sư vẫn bất động.

Nhưng sau một hồi lâu như không thể cầm mình được nữa, nhà sư liền nắm cây chổi quất lia lịa vào người thiếu nữ và xua đuổi nàng ra khỏi tịnh xá.

Khi nghe nàng kể lại sự kiện, người đàn bà đạo đức buồn rầu hỏi nàng:

- Thế ra hắn không nói với con được một lời cảm thông ư? Hắn không tỏ dấu gì một tâm hồn đã siêu thoát và tự chủ ư?

Rồi bà thất vọng thốt lên: - Ôi, hai mươi năm trường tu luyện, thật vô ích! Hai mươi năm ân cần săn sóc và mong đợi của ta, thật uổng phí!

11. Trở về với suối nguồn yêu thương

Hơn 400 tham dự viên gồm các hồng y, giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân đã gặp nhau tại đại học Công Giáo Fu Zen (Đài Bắc, Đài Loan) từ ngày 6 đến 11/9/2009 để tham dự tuần linh thao học hỏi, suy niệm, cầu nguyện về đức bác ái, là yếu tố căn bản trong giáo lý và đời sống của kitô giáo. Kitô hữu cần phải trở về với suối nguồn tình yêu Thiên Chúa và học nơi Chúa Giêsu bài học yêu thương.

Lời Chúa hôm nay dạy ta cách huấn luyện con tim để sống tình bác ái kitô giáo đích thực. Sự câu nệ lề luật làm con tim ông trưởng hội đường ra chai cứng. Trái lại Chúa Giêsu dạy phải có con tim yêu thương để nhạy bén nhận ra nỗi niềm đau khổ của người anh chị em bị trói buộc trong bệnh hoạn tật nguyền. Chúa Giêsu không bảo chúng ta coi thường lề luật nhưng Ngài dạy lề luật chỉ có ý nghĩa khi giúp người ta thi thố tình yêu.

Có những người đau khổ trong cộng đoàn mà chúng ta không quan tâm đến không? Có ai bị khinh rẻ, sỉ nhục, làm tổn thương mà chúng ta không biết tới không? Có những cách lí luận tỏ ra chúng ta qua hẹp hòi phiến diện, thiếu hiểu biết làm người ta có nhiều thành kiến và cư xử bất công không?

12. Đêm có tối đèn mới sáng

Tạp chí Time thuật lại việc một linh mục bị tống giam trong một hầm tối ở Rumani. Một mùi hôi thối xông ra ngày đêm, bởi vì phòng giam của ông ở kề một ống cống dẫn nước thải từ những tầng trên đổ xuống. Giuờng ông nằm gồm hai tấm ván trên một cái sàn ẩm ướt, có những con chuột chạy nhảy xung quanh. Vị linh mục nói rằng: “Có một phần hào quang của Thiên Chúa bao phủ xà lim của tôi. Có một phần Thiên Chúa hằng sống mà chỉ những kẻ bị xiềng xích trong ngục tối mới cảm nhận được. Hạnh phúc của Thiên Chúa tràn ngập nơi những kẻ không được hưởng ánh sáng. ”

Tôi muốn thấy hào quang Thiên Chúa đến mức nào? Tôi có sẵn sàng ngồi trong đêm tối để được hưởng điều đó không?

Bạn chẳng cần ngồi ngoài trời trong đêm tối. Nhưng nếu muốn ngắm sao, bạn phải tìm nơi đủ tối (Annie Dillard).

13. Tha thứ là được trả tự do

Hannah là một bà góa ở Colorado. Con gái của bà bị sát hại. Kẻ sát nhân bị truy tố và bị kết án. Nhưng Hannah vẫn không thể tha thứ cho anh ta. Tệ hơn nữa, nỗi oán hờn này đã làm mất đi sự thanh thản trong tâm trí bà. Một ngày nọ, bà nhớ lại lời Chúa Giêsu: “Hãy yêu thương kẻ thù”, và bà đã bị khuất phục. Bà mua một cuốn Kinh thánh, viết một lời tha thứ và gửi đến cho tên tù nhân.

Điều đó không những thay đổi cuộc đời anh ta, mà còn cả cuộc đời của bà nữa. Trước khi đọc được lời tha thứ, anh ta sợ Thiên Chúa sẽ không bao giờ tha thứ cho anh. Nhưng sau khi nhận được lời tha thứ, anh khám phá ra rằng nếu một người mẹ có thể tha thứ cho anh, thì Thiên Chúa cũng thế. Hành động tha thứ của Hannah giải tỏa được nỗi oán hờn và đem lại sự thanh thản sâu xa trong tâm hồn bà.

Làm thế nào tôi có thể đạp đổ bức tường ngăn cản tôi tha thứ, như bà Hannah trước kia?

Tha thứ là hương thơm của bông hoa violet tỏa lên gót chân đã dẫm đạp nó (Mark Twain).

THỨ BA - NƯỚC THIÊN CHÚA

Lời Chúa: Lc 13, 18-21

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Nước Thiên Chúa giống như cái gì? Và Ta sẽ so sánh nước đó với cái gì? Nước đó giống như hạt cải mà người kia lấy gieo trong vườn mình. Nó mọc lên và trở thành một cây to, và chim trời đến nương náu trên ngành nó. "

Người lại phán rằng: "Ta sẽ so sánh Nước Thiên Chúa với cái gì? Nước đó giống như tấm men mà người đàn bà kia lấy bỏ vào ba đấu bột, cho tới khi tất cả khối đều dậy men. "

TRUYỆN KỂ

1. Hạt cải và nắm men

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thật đời thường. Thật kỳ diệu. Nhưng cũng thật thâm sâu. Như hạt cải và nắm men Nước Trời khởi đầu thật bé nhỏ. Hạt cải li ti chẳng ai nhìn thấy. Nắm men nhỏ bé chẳng ai quan tâm. Hạt cải gieo xuống chìm sâu trong đất. Nắm men biến mất trong thúng bột khổng lồ. Tan biến đi. Nhưng không tàn lụi. Mà phát triển mạnh mẽ không ngờ. Cây cải mọc lên cao lớn. Chim chóc tìm đến trú ẩn. Cả thúng bột dậy men. Trở thành bánh thơm ngon cho người đời.

Có một biến đổi sâu xa. Nhỏ bé trở thành lớn lao. Yếu đuối trở thành mạnh mẽ. Có những đau xót âm thầm. Hạt cải vùi chôn và mục nát. Nắm men phân huỷ tan tành. Không còn là mình nữa.. Mất chính thân mình. Mất căn tính mình. Chẳng còn hiện diện. Không còn hạt cải. Không còn nắm men. Đem lại lợi ích lớn lao. Không cho mình nhưng cho tha nhân. Cho chim chóc đến trú ngụ. Cho người đời có bánh ăn.

2. Nhỏ mà vĩ đại

Xem thêm CN 11 TN B (Mc 4,26-34), thứ Sáu tuần 3 TN (Mt 13,31-32), Và thứ Hai tuần 17 TN

Ở đời, người ta thường xem nhẹ những điều nhỏ mọn và coi đó như là chuyện không cần bàn, vì thế cũng đâu cần quan tâm!

Tuy nhiên, những điều tưởng chừng như bé nhỏ ấy lại là nguyên nhân cần thiết để trở thành những điều lớn lao.

Thật vậy, nhà Phật có câu:

“Hãy nhìn một em bé
Xin người chớ xem thường
Trong em có chất liệu
Của một bậc đế vương. "

Hay là:

“Hãy nhìn một đốm lửa
Xin người chớ xem thường
Dù nhỏ bằng đầu đũa
Đốt cả rừng lẫn nương. "

Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu muốn nói đến sự lớn mạnh của Nước Trời qua dụ ngôn hạt cải và nắm men.

3. Cái nhìn về thực tại nước Trời

Báo Tuổi trẻ 96 có giới thiệu khuôn mặt của một nữ triệu phú: Chị đã thoát ra từ cuộc sống dường như đang ở bước đường cùng của mình, với hai bàn tay trắng cùng một tấm thân tật nguyền của chứng bệnh phong cùi mà mọi người xung quanh ai cũng ghê sợ. Chính chị cũng có lúc không biết sống để làm gì và làm gì để sống.

Nhưng cuối cùng, vì tình yêu dành cho con, chị đã đứng vững và thành công. Nhờ tình yêu và nghị lực của chị, người con trai của chị mới có thể thành đạt, thành công và thành nhân.

4. Thế giới chưa hoàn chỉnh

Có một phiên bản của câu chuyện sáng thế như sau: Khi Thiên Chúa dựng nên thế giới, Ngài dựng nên từ từ. Ngài tạo ra cây cối, cỏ hoa, sinh vật, chim cá... Khi Ngài làm ra những vật ấy, các thiên thần liền hỏi: “Thưa Chúa, vậy thế giới xong chưa ?” Thiên Chúa đáp lại với một từ “chưa” đơn giản.

Sau cùng Thiên Chúa đã tạo ra con người và nói với họ: “Ta mệt rồi, Ta muốn các con hoàn thành thế giới. Nếu các con đồng ý làm thế, Ta sẽ cộng tác với các con. " Họ đồng ý. Sau đó, bất cứ lúc nào các thiên thần hỏi Thiên Chúa thế giới đã hoàn thành chưa, câu trả lời vẫn là: “Ta không biết. Các ngươi phải hỏi những người cộng tác của Ta. "

5. Như hạt giống nẩy mầm.

“Chúng ta chỉ nghe cây rừng đổ ngã mà không nghe được tiếng thì thầm của những mầm non đang mọc lên. Chúng ta tính toán dựa trên những con số mà không thẩm định dựa trên phẩm chất (... ) Chúa Giêsu dùng những hình ảnh này để trấn an và khuyến khích các môn đệ. Những phương tiện nhỏ bé và hầu như vô hiệu các ông đang có trong tay quả thực làm cho các ông băn khoăn lo lắng. Nhưng Chúa muốn các ông đặt tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa. Các tông đồ đã đi rao giảng với hai bàn tay trắng. Nhưng đó đã là sức mạnh nhào nắn Giáo Hội từ 2000 năm qua” (Trích "Mỗi ngày một tin vui")

Tuy nhiên ta phải nhớ rằng hạt cải không tự động nẩy mầm, nắm men không tự động làm bột dậy lên. Muốn sinh hiệu quả, hạt cải phải được “gieo xuống” lòng đất và nắm men phải được “vùi vào” thúng bột.

1 Cr 3,6: Phaolô nói “Tôi trồng. Apollo tưới. Nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. "

6. Gặp gỡ Đúc Kitô

Ernest Gordon cô viết cuốn sách nhan đề “Ngang qua thung lũng sông Kwai” (Through the valley of the Kwai), trong đó ông mô tả những chuyện có thật xảy ra tại trại tù binh Nhật dọc bờ sông Kwai trong thế chiến thứ hai. Tại đây 12 ngàn tù binh chết vì bệnh tật, vì bị đối xử tàn nhẫn trong khi họ phải xây dựng một tuyến đường xe lửa. Họ làm việc cực nhọc dưới nắng nóng gần 50 độ, đầu trần, chân đất, quần áo tả tơi!

Nhưng điều đau khổ nhất không phải do lao động mà do họ cư xử xấu với nhau. Họ chỉ điểm nhau, trộm cắp của nhau, đánh đập chửi mắng nhau như cơm bữa!

Thế rồi một điều khó tin đã xảy ra. Hai tù nhân nọ tổ chức học hỏi Kinh Thánh với các tù nhân khác. Nhờ đó, họ khám phá Chúa Giêsu đang sống giữa họ, thông cảm với họ, vì Người đã từng chịu đói khát, phản bội, đòn vọt đến chết và chết treo trên khổ giá. Từ đó họ không còn chỉ điểm nhau, thù ghét nhau. Họ hoán cải rõ rệt và bắt đầu cầu nguyện cho nhau. Cả trại biến đổi lạ thường. Không còn tiếng than van oán trách mà chỉ còn lời ca tiếng hát vui vẻ, mặc dầu vẫn phải lao lực cực khổ hằng ngày.

7. Phim Sám hối

Phim “Sám Hối” do Liên Xô sản xuất, một xã hội chủ trương chối bỏ thần thánh, nhưng tác giả cuốn phim này hoàn toàn lấy tư tưởng Kitô giáo chống lại chế độ độc tài, mà ông Vác-lam là hiện thân cho thể chế độc ác đó, nên ông biết ai hướng về Kitô giáo, cụ thể như một họa sĩ vẽ hình Đức Mẹ Đồng Trinh, vẽ hình Nhà Thờ, bị ông Vác-lam kết án là phản tiến bộ, phá hoại xã hội, như lời ông lên án người họa sĩ: “Tại sao mày không vẽ một nữ lao động đang xây dựng xã hội chủ nghĩa, mà mày lại vẽ bà Maria đồng trinh? Ích lợi gì cho xã hội? Tại sao mày không vẽ một nhà máy sản xuất vũ khí, mà mày lại vẽ một ngôi đền? Hỏi ngôi đền có chống lại kẻ thù của nước ta không?” Và ông còn lớn tiếng đe dọa mọi người rằng: “Tôi có khả năng bắt được con mèo đen trong phòng tối, dù trong phòng tối không có con mèo đen!”

Kết thúc cuốn phim, cô Kathy, con gái của ông họa sĩ, ông này bị ông Vác-lam sát hại, cô làm bánh sinh nhật để bán, mẫu bánh nào cũng có hai cây tháp Nhà Thờ cao vút với cây Thánh Giá ở trên, người mua bánh ai cũng ăn hai cây Thánh Giá.

Hình ảnh này tác giả cuốn phim muốn nói: Con người sinh ra đời nếu không được nuôi dưỡng bằng giáo lý Kitô giáo, thì cũng là kẻ độc ác như ông Vác-lam! Một bà lão chống gậy mò mẫm đi tìm đường đến Nhà Thờ, bà hỏi cô Kathy: “Đường này dẫn về đâu, thưa cô?” Cô Kathy trả lời: “Thưa cụ, đường này là đường Vác-lam không dẫn đến Nhà Thờ. ” Bà cụ thất vọng buông gậy thở dài và rên lên: “Ôi, đường nào không dẫn đến Nhà Thờ thì làm đường để làm gì?”

Cuốn phim này sản xuất trên 30 năm tại Liên xô mà không được trình chiếu, đến thời ông Gorbachov lãnh đạo, ông cho chiếu rộng rãi ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa từ năm 1986 - 1987. Chỉ hai năm sau, từ năm 1989, khối Cộng sản Đông Âu bắt đầu sụp đổ!

8. Gia đình nuôi dưỡng men đức tin

Đức Cố Giáo hoàng Gioan XXIII về quê thăm cha mẹ, ngài nói: “Thưa cha mẹ, hôm nay con được 50 tuổi, Chúa thương ban cho con nhiều chức trong Hội Thánh, đi nhiều nơi, học nhiều sách, nhưng không trường nào dạy dỗ con, làm ích cho con hơn thời gian con còn được ngồi bên cha mẹ. ” Tưởng cũng cần nhắc lại khi ngài còn làm Hồng y, có lần ngài về thăm mẹ và khoe: “Đây là nhẫn Tổng Giám mục của con. ” Bà mẹ không chịu thua giơ tay ra cho con xem và nói: “Cái nhẫn mỏng tanh này trên tay mẹ đáng hãnh diện hơn, vì nếu không có nhẫn cưới này, thì cũng chẳng có một Hồng y Roncalli. ”

9. Sống lời rao giảng

Có người kể chuyện một gánh xiếc về miền quê lưu diễn. Đang chuẩn bị diễn buổi khai trương thì gánh xiếc bốc cháy. Một diễn viên đang đóng bộ cánh chàng hề chạy vội vào làng để kêu người đến giúp chữa cháy. Dân làng được một phen cười no bụng và cho rằng gánh xiếc đã nghĩ ra một lối quảng cáo thật hay. Đến khi họ hiểu ra anh hề có ý báo tin đám cháy thực sự thì cả gánh xiếc đã ra đống tro tàn. Bạn thân mến, việc loan báo Tin Mừng của chúng mình cũng trở thành trò hề nếu chúng mình không nói được thứ ngôn ngữ cho người đương thời hiểu được sứ điệp tình yêu của Đức Ki-tô.

10. Sức mạnh từ bên trong

Albert Cylwicki kể câu truyện đầy xúc động này trong cuốn “Nếu hôm nay bạn nghe tiếng Ngài. ” Năm 1964, Robert Arias, luật sư và là chồng của diễn viên vũ balê Margot Fonteyn, bị bắn và trở thành tàn tật. Suốt hai năm ông ở trong một bệnh viện cách London 40 dặm. Trong thời gian đó, mỗi ngày Margot đến ở với Robert cả buổi sáng, còn buổi chiều diễn tập những bài vũ ba lê. Sự chăm sóc yêu thương của Margot đã đóng vai trò quan trọng trong sự hồi phục đáng ngạc nhiên của Robert. Anh vẫn bị bại một phần, nhưng có thể hành nghề luật sư lại được.

Đến mức độ nào tôi đã quan tâm yêu thương người bạn đời hoặc những ai cần đến tôi?

Chồng tôi mới là cuộc đời thực sự của tôi, còn vũ ba lê là một thực tại khác, ngắn ngủi và mau qua (Margot Fonteyn).

11. Sức mạnh của gương sáng

Một số tín hữu trẻ tham dự một trại hè quốc tế. Một kế hoạch được ban lãnh đạo trao phó là phải tìm ra phương cách rao giảng Lời Chúa trong thế giới sao cho có hiệu quả hơn. Đề nghị có tính gợi ý, được chú ý nhất, đó là đề nghị của một cô gái Châu Phi. Cô nói: “Ở nước tôi, khi những kitô hữu nghĩ về một ngôi làng ngoại giáo sẵn sàng theo đạo, họ không gửi đến đó sách vở hay các vị giảng thuyết, nhưng họ gửi đến đó một gia đình Công giáo tốt. Gương mẫu của gia đình này có sức biến đổi ngôi làng. ”

Tại sao gia đình bạn sẽ hoặc không đủ phẩm chất cho một sứ mệnh như thế?

Chỉ cần một chú vịt hoang bay lên cũng có thể kéo cả đàn bay theo (Ngạn ngữ Trung Hoa).

12. Gương sáng và gương mù

Một nhà văn kể chuyện hai cậu bé lợi dụng lúc cha mẹ vắng nhà đã sơn màu đỏ cho một con gà lông trắng, rồi thả sống chung với đàn gà trắng. Tội nghiệp con gà có màu sắc khác biệt này, nó đã bị đàn gà trắng mổ cho đến chết! Cũng vậy, con người, theo bản năng, luôn trù dập, tẩy chay những người nào sống khác với họ. Không lạ gì ta sợ ăn mặc, cư cử, nói năng, suy nghĩ khác với người chung quanh. Thậm chí vì nỗi sợ khác biệt này, ta không dám sống đúng với ơn gọi, căn tính, bản chất người Kitô hữu. Lời Chúa hôm nay mời gọi ta can đảm dương cao ngọn đèn niềm tin của mình, tuyên xưng Đấng ta tin và phụng thờ, cũng như mạnh dạn sống đúng như Đấng ấy mong muốn, dù biết rằng sống như vậy là ngược dòng đời, và có thể sẽ gặp rắc rối, ghét bỏ.

 “Có hai cách để lan tỏa ánh sáng: là ngọn nến cháy hay là tấm gương phản chiếu ngọn nến ấy” (E. Wharton). Cuộc sống của bạn sẽ là ánh sáng được dương cao khi bạn gắn bó với ánh sáng Lời Chúa, rồi phản chiếu ánh sáng ấy qua lối sống đượm chất Tin Mừng của mình. Bạn có muốn là ánh sáng của Chúa không?

THỨ TƯ -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

THỨ NĂM -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

THỨ SÁU - YÊU THƯƠNG LÀ LINH HỒN CỦA LỀ LUẬT

Lời Chúa: Lc 14, 1-6

Khi ấy, vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu vào dùng bữa trong nhà một thủ lãnh biệt phái, thì những người hiện diện ở đó dòm xét Người. Bấy giờ có một người mắc bệnh thuỷ thũng ở trước mặt Người. Chúa Giêsu lên tiếng hỏi các Luật sĩ và biệt phái rằng: "Trong ngày Sabbat, có được phép chữa bệnh không?" Các ông ấy làm thinh.

Bấy giờ Người kéo kẻ ấy lại, và chữa lành, rồi cho về. Ðoạn Người bảo các ông rằng: "Trong ngày Sabbat, ai trong các ông có con lừa hay con bò rơi xuống giếng mà không lập tức kéo nó lên sao?" Nhưng các ông không thể trả lời câu hỏi ấy.

TRUYỆN KỂ

1. Một cái nhìn khô cứng

Gilgal Zamir, người thanh niên 25 tuổi đã sát hại thủ tướng Do thái, ông Y. Rabin, khi bị toà án tại Tel Aviv kết án tù chung thân, chẳng những không để lộ bất cứ một cử chỉ hối hận nào, mà hắn còn tuyên bố: - Tất cả những gì tôi làm là làm cho Chúa, làm cho lề luật, làm cho dân tộc Israel.

Chính thái độ của Gilgal Zamir đã khiến cho quan toà đưa ra nhận định: Gilgal Zamir có những khuynh hướng vị kỷ, nhìn thế giới chỉ dưới hai màu trắng đen mà thôi; anh ta là sản phẩm của một nền giáo dục không quan tâm đủ đến những giá trị nhân bản và đạo đức cần mang lại cho con người hiện nay.

2. Quyết Tâm Chiến Thắng

Một trong những lực sĩ được chú ý trong kỳ thế vận hội dành cho người khuyết tật lần thứ 11 vào tháng 10 năm 2000 là anh Gabriel, vận động viên bơi lội duy nhất của Chilê. Sinh ra chỉ với một chân và lại là một chân không bình thường, còn hai cánh tay thì cụt gần sát nách, vậy mà trong hồ bơi anh sải người lướt tới trong nước chẳng khác nào bất cứ một vận động viên bình thường nào. Tuy không đạt được một huy chương nào nhưng ý chí phấn đấu của người lực sĩ tàn tật ba mươi hai tuổi này đã biến anh thành một ngôi sao sáng chiếm lĩnh được sự ngưỡng mộ, khâm phục và nhất là lòng quí mến của khán giả.

Trong một lá thư gởi cho khán giả, anh đã nói đến ý chí phấn đấu của mình. Sinh ra trong một gia đình đông con, lại tàn tật, Gabriel đã vượt qua được mọi giới hạn để thành đạt. Hiện nay, anh làm kế toán viên trong một công ty. Thời gian nhàn rỗi anh đi bơi. Qua anh, người ta thấy được chiến thắng của sự quyết tâm của con người. Nhưng Gabriel không chỉ nói đến chiến thắng của sự quyết tâm, anh còn đề cao sự nâng đỡ mà những người chung quanh dành cho anh. Trong lá thư gửi cho khán giả, anh viết như sau:

"Tôi đến đây với niềm hy vọng và với chút tham vọng là đạt được một huy chương. Tôi quả tình mong muốn điều đó. Nhưng tình yêu mà quí vị dành cho tôi làm cho tôi cũng cảm thấy như đã đạt được chiến thắng rồi. Tôi sẽ mãi mãi trân trọng tình yêu của quí vị. Nếu có một thiên đàng thì thiên đàng chính là nơi đây. "

3. Giả hình siêu hạng

Có một câu chuyện kể rằng: khi đang đi trên đường vào chiều tối, một cô gái bị nhóm thanh niên lạ mặt vây hãm. Đang thực hiện hành vi cướp giật và đồi bại... bất thình lình, có một chàng trai bảnh bao, võ nghệ thuộc loại giỏi, nên anh ta đã tung ra những tuyệt chiêu để đánh đuổi bọn cướp và bảo vệ cô gái.

Thấy không chống trả lại được, bọn cướp đã bỏ đi cách nhanh chóng, để lại cô gái cũng như chiếc xe hàng hiệu của cô trong sự tiếc nuối! Còn cô gái thì sợ hãi tột cùng. Tuy nhiên, với nghĩa cử hào hiệp, cộng thêm bề ngoài bảnh trai... cô gái đã nhanh chóng lấy lại tinh thần và thán phục, tôn trọng với chàng trai tốt bụng đã giúp đỡ mình thoát nạn.

Trong tâm hồn cô, chàng trai này đã chiếm được một vị trí đặc biệt. Thấy được cô gái đã siêu lòng, chàng trai tỏ vẻ yêu thương và hứa hẹn đủ điều. Tuy nhiên, lợi dụng lúc cô gái không để ý, hắn ta đã nhanh chóng lên xe của chính cô và tẩu thoát, để lại cô gái một mình trong sự bàng hoàng... Như vậy, thực chất chàng trai đã làm mờ mắt và siêu lòng cô gái trên đây chính là một tên lừa siêu hạng!

4. Lừa dối chính mình

Cha Murray đang đi trên một phố vắng vào lúc đêm khuya để mang Mình Chúa cho một bệnh nhân sắp chết. Khi đi tới một góc phố vắng, bỗng một tên cướp nhảy xổ ra chĩa súng về phía cha ra lệnh: “Đứng lại! Mau nộp tiền ra đây, nếu không tao bắn chết!"

Cha Murray sợ hãi vội vàng mở nút chiếc áo khoác đang mặc và lấy ra một chiếc ví. Tên cướp trông thấy chiếc áo đen của giáo sĩ bên trong áo khoác, trên cổ có “côn” màu trắng, thì biết là linh mục. Hắn lập tức dịu dọng và ấp úng nói: “Thưa cha, con rất tiếc vì con không biết là cha. Con thành thật xin lỗi cha. Xin cha vui lòng cất tiền đi. "

Bây giờ cha Murray mới hoàn hồn trở lại. Ngài móc trong túi ra một gói thuốc lá và mời hắn một điếu! Nhưng thật bất ngờ! Tên cướp xua tay từ chối với lời giải thích như sau: “Xin cám ơn cha, con đã dốc lòng chừa bỏ thói hút thuốc lá trong Mùa Chay này.

5. Che đậy lòng tham

Hai chú gấu con thấy một miếng pho mát lớn, nhưng không biết cách chia thành hai phần đều nhau. Một con cáo già đi tới và tự nguyện làm trong tài để chia. Nó có ý bẻ miếng phó mát thành hai phần không đều nhau, rồi cắn miếng to một cái, miếng to thành miếng nhỏ. Nó liên cắn miếng kia một cái, miếng nhỏ lại thành miếng to. Hai miếng pho mát vẫn không bằng nhau. Cứ thế, nó hết cắn miếng này rồi miếng kia cho tới lúc hai miếng phó mát chỉ còn là hai mẩu bé xíu. Lúc ấy, nó mới chia thành hai phần bằng nhau và đưa cho hai chú gấu.

Con cáo già đã ngụy trang hành động xấu xa của mình bằng một nghĩa cử cao đẹp. Nhóm biệt phái cũng vậy. Họ có lối sống thiếu bác ái và giả hình, nhưng lại che đậy bằng việc giữ luật ngày Sabat hết sức nghiêm ngặt.

6. Giữ luật chỉ vì luật

Chuyện kể rằng ở một nước kia, trải qua nhiều triều vua, trong vườn thượng uyển luôn luôn có một người lính đứng gác ở giữa vườn mà không ai biết lý do tại sao và anh ta canh gác cái gì.

Truy tìm mãi trong biên niên ký của hoàng gia người ta mới khám phá ra rằng có một bà hoàng hậu thời xưa đã trồng một cây hồng quý ở trong vườn và ra lệnh đặt lính canh gác cây hoa hồng đó. Trải qua thời gian, cây hồng ấy chết và bà hoàng hậu cũng chết, thế nhưng tập tục đặt người lính gác ở giữa vườn vẫn tồn tại.

Óc nệ luật dễ đưa đến những thực hành phi lý như thế. Các luật sĩ và Pharisêu đã câu nệ những truyền thống và tập tục đến nỗi trở thành vô cảm trước nỗi thống khổ của tha nhân.

Bằng một ví dụ – “có đứa con trai hoặc con bò của mình rớt xuống hố” – Chúa giúp ta nhận ra sự phi lý khi dựa vào việc giữ luật để từ chối việc chữa lành: con người và sự sống có giá trị vô song và việc chữa lành cho con người là ưu tiên khẩn cấp.

7. Tình yêu thúc đẩy

Một vị giảng thuyết cao niên sọan bài giảng cho cộng đoàn tín hữu khá lâu trong đêm. Vợ của ông phản đối: có khôn hay không khi mất quá nhiều thì giờ chỉ vì số ít người như vậy. Vị giảng thuyết không hề trả lời và tiếp tục làm việc. Cộng đoàn tín hữu của ông quan trọng đối với ông hơn cả việc ngủ nghỉ. Thánh Phaolô cũng sẵn sàng, và quảng đại hy sinh vì anh em đồng bào của Ngài. Ngài vui lòng chấp nhận bất cứ khó khăn nào có thể chia sẻ với họ tình yêu và sự an bình như Chúa Giêsu đã chia sẻ cho Ngài.

Tôi giải thích thế nào về sự quảng đại đã thúc đẩy những người như thánh Phaolô?

Yêu mến Chúa mà thôi chưa đủ, còn cần phải yêu thương người anh em nữa. (Thánh Vinh Sơn Phaolô)

8. Vì tình yêu hay không?

Nhà hài hước Will Rogers có khả năng đánh thẳng vào nhiều điều. Chúa Giêsu cũng có khả năng tương tự như thế. Chẳng hạn Ngài đối với một số người Biệt phái cho rằng chữa bệnh trong ngày Hưu lễ là vi phạm luật Do thái: “Ngày Hưu lễ, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi?” Nhưng họ làm thinh (Mc 3,4).

Khi nào tình yêu không ngăn cản luật lệ, nhưng luật lệ ngăn cản tình yêu?

Không thù hận, nhưng lạnh nhạt với người khác, điều đó còn tồi tệ hơn nhiều. (George Bernard Shaw)

THỨ BẢY - KHIÊM TỐN HẠ MÌNH

Lời Chúa: Lc 14, 1. 7-11

Khi ấy, Chúa Giêsu vào nhà một thủ lãnh các người biệt phái để dùng bữa, và họ dò xét Người. Người nhận thấy cách những kẻ được mời chọn chỗ nhất, nên nói với họ dụ ngôn này rằng:

"Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: "Xin ông nhường chỗ cho người này", bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết. Nhưng khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến nói với ngươi rằng: "Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên", bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc. "Vì hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên. "

TRUYỆN KỂ

1. Khiêm nhường sống theo sự thật

Có một lần, trên xe buýt có hai linh mục, hai giáo dân. Vị linh mục lớn tuổi hỏi một bác đang cùng lộ hành với ngài rằng: theo ông, thế nào được gọi là người khiêm nhường?

Tưởng rằng với tuổi đời khá cao và đã từng trải, mình sẽ trả lời “ngọt như đường mía lau. " Bác ta trả lời rằng: “Thưa cha, người khiêm nhường là người không có bon chen với ai; luôn nghe lời của người khác và làm theo; và người khiêm nhường là luôn cho mình bất xứng!"

Vị linh mục kia trả lời: “Không đúng! Vì nếu người khiên nhường chỉ mong cho được bình yên thì họ thuộc về hạng người bị thụ động, mềm yếu; hay luôn làm theo ý người khác là người trốn tránh trách nhiệm, thiếu tự chủ, chứ thực chất không phải khiêm nhường; hoặc luôn coi mình là bất xứng thì không chừng, khiêm nhường kiểu này chẳng khác gì ‘một lần khiêm tốn bằng bốn lần kiêu ngạo’ vì họ có thể dùng chiêu thức này để người khác đề cao, khen ngợi và đánh giá mình đạo đức trước mặt mọi người. "

Bác kia hỏi lại: “Vậy ai là người khiêm nhường thật?” Linh mục trả lời: “Người khiêm nhường là người sống đúng sự thật, biết nhận ra sự thật và tôn trọng sự thật. "

2. Khiêm tốn và thực thi bác ái quảng đại

Mẹ Têrêsa thành Calcutta tỏa sáng trong thế giới với giải Nobel Hòa bình và nhiều giải thưởng vinh danh khác vì những hoạt động bác ái cho người nghèo, phục vụ người bệnh tật, quan tâm người bị bỏ rơi. Dù vĩ đại như vậy, được mọi người ngưỡng mộ nhưng mẹ đã khiêm tốn chỉ nhìn nhận mình là “cây viết chì trong tay Thiên Chúa. " Chính bằng cuộc sống phục vụ trong hy sinh, khiêm tốn và chân thành, mẹ Têrêsa đã để lại cho thế giới một di sản tinh thần bác ái không biên giới…

Công trình bác ái của mẹ và tất cả những công trình bác ái, giáo dục trong lòng của Giáo hội, nếu chúng ta tìm về nguồn gốc ban đầu, sẽ khám phá đều bắt đầu từ những việc nhỏ nơi những tâm hồn khiêm tốn nhưng giàu lòng quảng đại như mẹ.

3. Hãy kịp thời thống hối

Sau khi đánh tan một cuộc nổi loạn, nhà vua bắt những kẻ phản loạn về. Ông ra lệnh thắp lên một cây nến, rồi nói với họ: “Ai chịu đầu hàng và thề trung thành với ta thì sẽ được tha, bằng không sẽ bị giết. Các ngươi hãy suy nghĩ. Khi cây nến tắt thì cuộc hành quyết sẽ bắt đầu. "

Thiên Chúa cũng đối xử với tội nhân như vậy. Ngài cho họ một thời gian gia hạn. Tuy nhiên có một khác biệt quan trọng: không ai biết cây nến của đời mình còn dài hay ngắn.

4. Bổn phận nào cũng quan trọng

Một ngày năm 11 tuổi, tôi trở về nhà khóc vì chỉ được giao một việc nhỏ của chương trình Thiếu nhi tại nhà thờ, trong khi các bạn khác được phân công vai chính. Thản nhiên, mẹ tôi lấy chiếc đồng hồ của bà và đặt vào tay tôi.

- Con có thấy gì không?

- Một hộp vàng, mặt và những cây kim.

Rồi bà mở phía sau hộp và nhắc lại câu hỏi. Tôi nhìn thấy những bánh xe nhỏ và những đinh vít. Bà nói: “Chiếc đồng hồ này sẽ vô dụng nếu thiếu đi mỗi phần, ngay cả những phần con không thể nhìn thấy. "

Bài học của bà làm tôi vui sướng hơn tất cả.

5. Coi trọng người khác là trở nên quan trọng

Ngày nọ, con Mi-mi chạy chơi trong cánh đồng của chủ. Một con ngựa lên tiếng bảo nó:

- Này chú chó nhỏ, chú thấy không. Ông chủ quí tôi hơn những con vật ở đây đấy chứ. Vì tôi giúp ông chủ chuyên chở mọi thứ cần thiết. Còn chú, tôi nghĩ chú chả giúp được gì cho ông.

Mi-mi gật đầu bỏ đi. Nó lại nghe tiếng bò cái:

- Này, tôi chiếm địa vị đặc biệt ở đây vì nhờ sữa của tôi mà gia đình ông bà chủ mới có bơ và phô mát. Còn chú chắc chả cung cấp được gì cho chủ.

Lúc đó, con cừu ở gần đó lại nói:

- Bò cái ơi, chị không hơn tôi đâu vì tôi cung cấp len cho chủ dệt áo ấm mùa đông. Không có tôi thì chắc là cả nhà chết vì lạnh đấy. Nhưng có lẽ chị nói đúng. Chú chó con này không giúp được gì cho chủ cả.

Lần lượt các con vật đều khoe với Mi-mi về công nghiệp của chúng, từ con ngựa, con bò cho tới con mèo, con vịt, con gà.

Nghe những lời chê bai sự vô ích của mình, Mi-mi buồn quá, nó tìm một chỗ vắng vẻ để than khóc thân phận. Chợt một con chó già tiến lại và bảo nó:

- Này con, đừng than khóc về những điều mình không làm được. Đàng rằng, con quá nhỏ không thể kéo xe như ngựa, cũng không cung cấp được trứng, sữa, len... nhưng con hãy dùng tới khả năng mà Thượng Đế đã ban cho loài chó chúng ta, là mang đến cho con người nụ cười và lòng quý mến.

Chiều hôm ấy, khi chủ trở về nhà sau những giờ lao động mệt nhọc, Mi-mi vui vẻ chạy ra vẫy đuôi, liếm tay chủ và chạy thót vào lòng ông. Cả hai lăn tròn trên thảm cỏ xanh. Ông chủ ôm Mi-mi vào lòng và nói với nó:

- Về đến nhà ta mệt biết bao, nhưng bây giờ ta thấy đỡ mệt hẳn đi vì Mi-mi đã làm ta vui. Ta không thể sánh Mi-mi với bất cứ con vật nào trong nông trại này được. Vì điều quan trọng nhất đối với ta là lòng quý mến, và chỉ có Mi-mi quý mến ta hơn cả!

6. Nội lực mới quan trọng

Một hôm, hoàng tử gọi vào đền vua một người lái buôn chuyên nghề bán ngựa. Ông ta dẫn đến trước mặt hoàng tử hai con ngựa bạch đã được huấn luyện rất kỹ để hoàng tử kén chọn. Bề ngoài, hai con ngựa trông giống hệt nhau, nhưng người lái buôn lại đòi hai giá khác nhau, con này gấp đôi giá con kia. Hoàng tử liền gọi các quan cận thần đến mà bảo:

- Ta có thể tặng hai con ngựa này cho ai giải thích cho ta biết, tại sao con ngựa này gấp đôi giá con ngựa kia?

Các quan cận thần đến gần hai con ngựa và quan sát thật kỹ, nhưng không một ai nhận ra có điều gì khác biệt. Thấy vậy, hoàng tử cho gọi hai người lính hầu cận đến và sai họ cưỡi lên hai con ngựa, hy vọng rằng, các quan cận thần sẽ nhận ra giá trị của mỗi con. Sau mấy vòng phóng ngựa chung quanh sân, không ai trong các quan nhận ra sự khác biệt về giá trị của hai con ngựa. Cuối cùng, hoàng tử phải lên tiếng giải thích cho họ:

- Chắc các ngươi đã nhận ra rằng: trong khi ngựa chạy quanh sân, con ngựa thứ nhất không để lại dấu gì đằng sau, nó chạy cách nhẹ nhàng như bay. Trái lại con ngựa thứ hai để lại lớp bụi bay ngập trời. Chính vì lý do đó mà con ngựa thứ nhất có giá gấp đôi con ngựa thứ hai.

7. Thế hả?

Một tu sĩ kia vốn được nhiều người kính nể, lại bị cô gái cuồng dâm tìm mọi cách chiếm đoạt! Sau khi cô đã dùng mọi mưu kế nhưng đều thất bại, thì cô lại đi cặp bồ với một anh chàng đã có gia đình. Hậu quả cô mang bầu, cô sợ bị tạt acid nếu vợ chàng biết, nên cô gán cái bầu đang mang cho tu sĩ để trả thù! Thế là cả làng kéo nhau đến rủa, nhưng tu sĩ ấy chỉ trả lời: “Thế hả!”

Người ta định lôi tu sĩ ấy ra tòa để lột áo dòng, thì anh chàng tác giả cái bào thai của cô gái bị lương tâm cắn rứt, chàng biết tu sĩ ấy rất thánh thiện, đầy nhân đức, không muốn thầy bị vu oan, nên anh đã thú nhận với vợ và mọi người: “Chính tôi là thủ phạm vụ việc này. ” Thế là những kẻ đã từng sỉ nhục tu sĩ đều phải đấm ngực hối hận và thốt lên: “À ra thế!” Họ lại kéo nhau đến xin lỗi tu sĩ, thầy cũng chỉ trả lời: “Thế hả!” Cách cư xử của tu sĩ này thật đúng với lời thánh Augustin nói: “Ở đâu có khiêm nhường, ở đó có bác ái. ”

8. Cần biết giới hạn của mình

Vào năm 1912, người ta hạ thủy con tàu Titanic, được xem là lớn nhất vào thời ấy: có trọng tải 60. 000 tấn, dài 270m. Các kỹ sư tính toán rất kỹ, không để một sai sót nào, dù có gặp phong ba bão tố cũng không cản trở cuộc hành trình. Vì thế họ đã đề hàng chữ bên hông tàu rằng: “Cả đến Thiên Chúa cũng không nhận chìm được!”

Con tàu nhổ neo đi từ Luân Đôn đến Nữu Ước, vào đêm 14-04-1912, lúc trời yên biển lặng, trong khi mọi người đang ăn uống, vui chơi thỏa thích. Thình lình con tàu bị va chạm mạnh vào một tảng băng ngầm xẻ đôi con tầu, cắt đứt hàng chữ “kiêu ngạo” bên hông, và con tàu từ từ chìm xuống đáy đại dương, chôn sống 1. 513 hành khách!!

Ôi bao nhiêu chất xám của rất nhiều kỹ sư nổi tiếng đổ vào con tầu khổng lồ, tối tân chưa từng có cũng chìm lỉm dưới lòng đại dương! Rõ ràng con tàu vĩ đại ấy chưa gặp một trận cuồng phong nào mà đã bị xé đôi như thế!?

Thánh Giacôbê nói: “Chúa chống lại kẻ kiêu căng và ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (Gc 4,6).

9. Chúa dạy đắc nhân tâm

Cuốn Đắc Nhân Tâm của D. Carnegie đã giúp cho nhiều người thành công trong kinh doanh cũng như trong giao tế đời thường. Tỷ phú Mỹ W. Buffett thú nhận rằng cuốn sách ấy đã thay đổi cuộc đời ông. Khi dạy ta chọn chỗ cuối để rồi sẽ được mời lên cỗ nhất, Đức Giê-su không nhằm dạy ta bài học về đắc nhân tâm hay xử thế trong bữa tiệc để thành công trong cuộc sống. Người đã chọn chỗ cuối trong “bàn tiệc cuộc đời” là chính Ngài. Thật vậy, Ngài đã hạ mình từ một vị Chúa trở thành con người, một người thợ thủ công nghèo, sinh sống ở ngôi làng quê hẻo lánh. Trong ba năm rao giảng Tin Mừng, thường lân la, thân thiết với những kẻ hèn kém, tội lỗi. Cuối cùng, đỉnh cao của “bàn tiệc” ấy là cái chết đau thương trên thập giá.

Chọn chỗ cuối như vậy, rốt cuộc, Đức Giê-su lại được siêu tôn trong mầu nhiệm phục sinh vinh hiển. Bạn cũng được mời gọi sống như Ngài, chọn chỗ cuối trong “bàn tiệc cuộc đời” qua nỗ lực chống lại cám dỗ của thèm muốn chức tước, vinh dự, quyền lực, tranh giành ảnh hưởng. Chắc chắn, chính Chúa sẽ là chủ bàn tiệc mời bạn ngồi vào bàn tiệc Nước Trời với Ngài.

Tôi tập sống hạ mình khiêm tốn, không nghĩ mình xứng đáng hơn người khác, không tranh giành ảnh hưởng với người anh em.

10. Tình yêu và hy sinh

Những người hâm mộ môn bóng chày điều nhớ Jimmy Piersall, cầu thủ chơi cho đội Red Sox trong đầu thập niên 1950. Họ cũng nhớ cả cuốn sách của ông: “Nỗi sợ hãi đốn ngã”, nói về những cay đắng ngọt bùi trong đời ông, Khi mới nhập cuộc, anh đã phải trải qua một cuộc khủng hoảng và được đưa đến bệnh viện tâm thần. Trong những năm thử thách này, Mary, người vợ yêu quý, luôn ở bên cạnh, yêu thương, động viên và giúp đỡ ông. Nói về lòng chung thủy xúc động của Mary, Albert Cylwicki cho biết: “Lòng trung thủy của Mary đối với Jimmy phản ánh lòng trung thành của Thiên Chúa đối với chúng ta. ”

Tôi phản ánh lòng trung của Thiên Chúa như thế nào?

Ta có thể cho đi mà không yêu thương, nhưng không thể yêu thương mà lại không cho đi. (Richard Brounstein)

11. Tin và phó thác

Elizabeth Ann Seton là vị thánh người Mỹ bản xứ đầu tiên. Chồng bà chết khi bà 29 tuổi, để lại cho bà năm đứa con. Năm 31 tuổi bà cảm nhận được lời mời gọi trở thành kitô hữu. Gia đình giàu có của bà phản đối đến độ cắt đứt trợ giúp tài chánh cho bà. Bà phải một mình phấn đấu. Nhưng trước khi chết vào tuổi 46. Bà không chỉ nuôi sống gia đình, mà còn dựng được một trường học xứ đạo đầu tiên ở Mỹ cũng như thành lập cộng đoàn phụ nữ Công giáo Mỹ đầu tiên mang tên hội chị em bác ái.

Tôi có phó thác theo tiếng gọi lương tâm, ngay cả khi điều này đòi hỏi khó khăn và hy sinh không?

Kẻ thủ đoạn hỏi: “Có tính chính trị không?” Kẻ kiêu ngạo hỏi: “Có nổi tiếng không?” Còn người đạo hạnh hỏi: “Có ngay thẳng không?” (Morley Punshon).

12. Khiêm nhường là tôn trọng sự thật

Một trong những hoạt động đầu tiên của Đức Gioan XXIII khi lên ngôi Giaó hoàng, là thăm viếng Regina Coeli, một nhà tù lớn ở Rôma. Ngài nói với các tù nhân rằng anh họ của Ngài cũng đã ngồi tù. Tờ “Người quan sát Rôma” cơ quan ngôn luận bán chính thức của Vatican nghĩ rằng đọc giả sẽ bị sốc khi biết một người họ hàng của Đức Giaó hoàng đã từng ngồi tù. Vì thế, chi tiết này trong bài tường thuật việc Đức Gioan XXIII đến thăm nhà tù đã bị loại bỏ. Sau suốt bốn năm kế tiếp, vị Giaó hoàng khiêm nhường này luôn làm cho biên tập viên tờ báo phải bận tâm khi ghi lại những lời nói “thiếu thận trọng” của ngài.

Tôi có khuynh hướng tự đề cao hay tự hạ?

Có thể lừa dối cấp trên hoặc những người xung quanh, nhưng rất hiếm khi có thể lừa gạt được cấp dưới.

13. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa

Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận thấm nhuần giáo huấn của thánh Phaolô đã viết trong cuốn “Đường Hy Vọng”: “Sự điên dại trước mặt loài người là sự khôn ngoan trước mặt Chúa” (ĐHV 106; x. 1Cr 1,18-25). Đó là tinh thần mà chính Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ Người.

Khi dạy các môn đệ chọn chỗ rốt hết, Chúa Giêsu không khuyên các ông một thái độ khiêm nhường giả tạo: giả vờ chọn chỗ cuối để được mời lên chỗ cao hơn. Chúa muốn các ông học hỏi sự khôn ngoan đích thực từ Thiên Chúa. Đó là sự khôn ngoan đi ngược lại với cái được gọi là “khôn ngoan” của con người: thích được vinh dự trước mặt người khác, nhất là ở chốn đông người. Chúa Giêsu thì ngược lại, Chúa yêu thích lối sống tự hạ và dạy người ta sống khiêm tốn. Cuộc sống của Ngài là một bằng chứng: “Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ…” (Pl 2,7). Ngài đã khiêm hạ thẳm sâu để nâng loài người lên hàng con cái Thiên Chúa.

Người đời thường thích được nổi danh, tạo ảnh hưởng trên người khác. Nhưng Nước Thiên Chúa thì chỉ dành cho những ai biết sống khiêm hạ và nhỏ bé. Các kitô hữu sống giữa đời lắm khi đưa tinh thần thế tục đó vào cơ cấu tổ chức, cung cách cư xử của mình. Bạn có nhận thấy điều đó trong cộng đoàn, trong giáo xứ của bạn không?

Noi gương khiêm nhường của Chúa Giêsu bằng cách sống giản dị và sẵn sàng phục vụ.

LỄ CÁC THÁNH - PHÚC THAY!

Lời Chúa: Mt 5, 1-12a

Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng:

"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.

Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp.

Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an.

Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả.

Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương.

Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa.

Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.

Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ.

"Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời. "

TRUYỆN KỂ

1. Các thánh chiếu tỏa vinh quang Thiên Chúa

Một câu chuyện vui kể lại rằng, trong một lớp giáo lý, khi nữ tu hỏi một em nhỏ: con hãy nói cho sơ biết các thánh là ai? Em bé suy nghĩ một chút rồi trả lời: các thánh là những người được ánh sáng chiếu xuyên qua. Sự hiểu biết ngây thơ này đến từ việc có lần theo mẹ vào nhà thờ dự lễ, khi nhìn thấy những tấm hình người trên những cửa kính nhà thờ. Em đã hỏi mẹ đó là hình của ai, và mẹ em trả lời: đó là các thánh. Trong suy nghĩ đơn sơ của em, nhờ ánh sáng mặt trời chiếu qua mà làm hiện rõ nét những con người trên tranh kính. Đó là các thánh.

Câu trả lời ấy cũng giúp chúng ta khám phá ra một trong những định nghĩa đơn sơ mà chân thực về các thánh: các ngài là những người để cho sự thánh thiện của Thiên Chúa chiếu toả. Nói cách khác các ngài đã đón nhận hào quang của Thiên Chúa rồi làm cho hào quang ấy lan toả mọi môi trường xung quanh, để rồi người khác nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa nơi các ngài.

2. Thầy dòng dạy mãnh thú

Một buổi chiều, Bề trên nhà dòng kia hỏi một tu sĩ:

- Hôm nay con đã làm gì?

Cũng như các ngày khác, tu sĩ trả lời:

- Thưa cha, con rất bận bịu mà nguyên sức con không thể nào làm nổi, ngoài sự giúp đỡ của Chúa. Ngày nào con cũng phải coi hai con chim ưng, giữ hai con nai, kìm hãm hai con diều hâu để rèn ý chí, thắng một con sấu, trị được con gấu và săn sóc cho một bệnh nhân.

Bề trên cười hỏi lại:

- Con nói gì thế? Những việc như thế làm gì có trong nhà Dòng?

- Thưa cha, thật đúng như thế! Hai con chim ưng tức là hai mắt của con, mà con phải giữ gìn luôn để khỏi nhìn những vật cấm. Hai con nai tức là hai chân mà con phải trông coi từng bước đi, để nó khỏi đi vào con đường xấu. Hai con diều hâu tức là hai bàn tay, con phải luôn luôn bắt nó làm điều phải. Con sấu tức là cái lưỡi, con phải kìm hãm hằng ngày, để khỏi nói những lời vô ích và thô bỉ. Con gấu tức là trái tim con, con phải trừng trị, để khỏi phải ích kỷ và khoe khoang. Còn bệnh nhân chính là thân thể con, con phải canh phòng ráo riết, để cho nhục dục khỏi phải xâm nhập vào

3. Nên thánh bằng cách nào?

Nên thánh là một điều cần thiết và có thể, nhưng cách nên thánh thì không ai giống ai, mỗi người có một hoàn cảnh, mỗi người có một đường lối riêng. Nhưng dù sao, đường lối nên thánh của ta là đường lối thông thường của nhiều người, không cầu kỳ khó khăn.

Tránh kiểu nên thánh đặc biệt

Thời trước đây có một số người nên thánh bằng những phương pháp đặc biệt, mà có lẽ chúng ta không học đòi được vì nó vượt quá sức ta. Ví dụ:

- Có người tự giam mình trong một nơi kín hằng mấy chục năm, chỉ sống nhờ vào lòng hảo tâm của dân chúng cung cấp cho ăn qua một lỗ hổng.

- Có người ẩn tu trong một ngôi mả hoang đào trên sườn núi, cạnh con sông hoặc mạch suối.

- Có một kiểu tu đặc độc đáo: Simong Cột leo lên cột đá cao dựng trên đỉnh chót vót, để chiêm nghiệm huyền nhiệm thần linh và giảng dạy cho dân chúng suốt 37 năm trường. Vì thế người ta mới gọi là thánh Simong Cột.

- Ngoài ra, có một số người sống một đời khắc khổ như mang trên mình xiềng xích nặng làm cho khó đi đứng, mặc áo nhặm thường xuyên, hoặc đứng yên một chỗ không xê dịch, hoặc chỉ ăn hoa quả, không hề động đến thịt, cá, trứng; hoặc đặc biệt hơn chuyên ăn thịt ươn, cá thối.

4. Vợ chồng được phong thánh

Chúa nhật, ngày 28/10/2001, Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã phong chân phước cho đôi vợ chồng đầu tiên là Luigi Maria Beltrane Quattrochi thành Rôma kết hôn được 50 năm và có 4 người con, một người con qua đời và 3 người còn sống. Hai con trai là linh mục Philipphê và Césare đồng tế với Đức Giáo hoàng trong lễ phong chân phước cho cha mẹ họ, và còn một người con gái là Eurichetla. Đức Giáo hoàng đã ca tụng họ sống một đời thường rất phi thường. Ngài muốn nói rằng: sống trong đời đôi bạn gặp biết bao đau khổ, bao gian nan thử thách, họ cũng có thể làm thánh và giúp nhau làm thánh nữa.

Vào ngày 19/10/2008, Giáo hội phong chân phước cho cha mẹ của thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu và phong thánh 18/10/2015 do ĐGH Phanxicô. Đó là ông Louis Martin và bà Zélie Guérin người Pháp. Cả hai đã từng có ý định đi tu, nhưng nhận thấy không có ơn gọi tu trì nên trở về và do sự quan phòng của Thiên Chúa họ đã kết hôn với nhau. Ông bà sống với nhau thật hạnh phúc và có 9 người con. Chết mất 4 và còn 5 người con gái đều dâng mình cho Chúa và cô con gái út đã làm thánh lớn, đó là thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Phong thánh cho cả hai ông bà, Giáo hội muốn đề cao ơn gọi nên thánh trong đời sống hôn nhân và gia đình. Dù gặp nhiều đau khổ và thử thách, nhất là giáo dục con cái, nhưng họ vẫn có thể làm thánh, nếu họ trông cậy vào ơn Chúa và chu toàn bổn phận hôn nhân vì mến Chúa.

5. Đường thơ ấu thiêng liêng

Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã được tôn phong làm tiến sĩ Hội thánh, có lẽ vì thánh nữ đã khám phá ra một con đường nên thánh phù hợp với mọi người, nhất là trong thời đại chúng ta, đó là “đường thơ ấu thiêng liêng. "

Theo con đường này, nên thánh không cần phải làm những việc đại sự, phi thường hay kỳ diệu mà chỉ cần làm những việc nhỏ với một lòng mến lớn lao “Communia non communiter” (bình thường mà không tầm thường).

Con đường thơ ấu thiêng liêng này không cần những việc hãm mình khác thường, không đặc sủng siêu nhiên, không có phương pháp cầu nguyện riêng, không bận rộn nhiều công việc… nhưng có những điểm tích cực là làm việc với lòng mến cao độ, tín thác hoàn toàn trong tay Chúa, sống đơn sơ khiêm nhường như trẻ thơ và trung thành với các việc nhỏ mọn.

Nhờ con đường thơ ấu thiêng liêng này mà Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã trở nên vĩ đại và trở nên phi thường trong những cái bình thường.

6. Sống vị tha nên thánh

Đoàn cứu trợ đến căn nhà lụp xụp của một bà già. Họ hỏi thử bà:

- Nếu chính phủ cho bà 200 đôla. Bà sẽ làm gì?

- Tôi sẽ đem cho những người nghèo.

Bà cụ này chính là một trong những người mà Chúa Giêsu nghĩ tới khi nói “Phúc cho nhũng ai có tinh thần nghèo khó”; Từ những người có tâm hồn như bà cụ này đã xuất hiện những vị Thánh mà chúng ta tôn kính hôm nay; Và tấm gương của bà cụ này khuyến khích chúng ta trở nên những kitô hữu tốt hơn

7. Người giàu khác người nghèo khi cọn tám mối phúc

Khi dọn bài giảng về Những Mối phúc thật theo thánh Luca, tôi đã hỏi một người Mỹ khá giàu rằng giữa những mối phúc thật theo thánh Matthêu và thánh Luca, ông thích bài nào hơn? Ông trả lời: “Tôi rất thích bài của thánh Matthêu. " Tôi hỏi ông: “Còn thánh Luca thì sao”? Ông trả lời: “Không, tôi không thích Luca, vì bài của Luca có vẻ chống lại người giàu. " Khi thánh Matthêu nói: “Phúc cho kẻ có tinh thần khó nghèo” (Mt 5,3), ngài đã khích lệ người giàu. Còn Luca thì nói: “Phúc cho các người là những kẻ nghèo khó” (Lc 6,20). Điều này có nghĩa là chỉ những người nghèo mới được chúc phúc và hưởng nước Trời mà thôi, còn người giàu có bị nguyền rủa: “Khốn cho các ngươi là kẻ giàu có. "

Cũng câu hỏi này, tôi hỏi một phụ nữ Mỹ không giàu, có vẻ hơi nghèo. Bà trả lời: “Tôi thích thánh Luca hơn, vì thánh Luca nói rõ người nghèo sẽ được hưởng nước Thiên đàng. Còn thánh Matthêu nói phúc cho người nghèo khó trong tinh thần, điều này không rõ ràng. Thật khó hiểu Ngài muốn nói gì”!

Chúng ta thấy người giàu là ủng hộ viên của Những Mối phúc thật theo thánh Matthêu, và người nghèo là ủng hộ viên của Những Mối phúc thật theo thánh Luca. Nhưng thực ra, ý nghĩa của hai bài tường thuật như nhau. Cả hai đều kêu gọi chống lại tất cả mọi tình thế xấu

8. Các thánh là người biết nghe lời Chúa

Vào khoảng năm 271 một thanh niên giàu có tới nhà thờ vào một buổi sáng Chúa nhật. Hôm đó vị Bài Tin Mừng được trích trong Mathêô 19,16-22: “Xảy ra là có một người thanh niên đến thưa với Chúa rằng: Lạy Thầy, tôi phải làm gì tốt để được sống đời đời?- Chúa đáp: “Nếu ngươi muốn vào cõi hằng sống, hãy giữ các giới răn” Người đó thưa: “Những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ, tôi còn thiếu sót gì nữa chăng?” Chúa nói tiếp: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”

Đó là một trong những lời mời gọi của Chúa. Người thanh niên đó bắt đầu suy nghĩ nhưng anh chưa thấy được con đường mà Chúa muốn cho anh đi là con đường nào.

Chúa nhật sau cũng trong khung cảnh của ngôi thánh đường quen thuộc đó, Lời Chúa lại vang lên: “Các người đừng lo cho ngày mai. Việc ngày mai để cho ngày mai lo. Khó khăn ngày nào có đủ cho ngày đó”(Mt 6,34)

Thế là con đường đã rõ, anh về bán tất cả tài sản do bố mẹ để lại, chia phần của cô em nhờ ông bác quản lý để lo cho em, còn của anh, anh bán tất cả và làm như lời Chúa dạy rồi anh vào trong rừng vắng sống cuộc đời tu trì ở trong đó. Đó là Thánh Antôn tu rừng, ông tổ của dòng tu chiêm niệm.

9. Các thánh áp dụng lời chúa cho mình

Một gia đình ngài quen biết có hai vợ chồng và một đứa con. Một ngày kia không hiểu vì chuyện gì mà hai vợ chồng to tiếng với nhau. Hai người tìm đủ mọi lý lẽ để biện minh cho sự phải lý của mình. Vì quá hung hăng trong việc lời qua tiếng lại mà hai vợ chồng không để ý đến cậu con trai tên là Bobbie con của hai người mới đi học về.

Bobbie thấy vậy liền nhảy lên bàn giơ hai tay lên và nói thật lớn: “Bình an - Hãy im lặng”

Cả hai vợ chồng nhìn con rồi phá lên cười. Sau đó người mẹ ôm con vào lòng vào âu yếm hỏi: “Con học được cái đó ở đâu thế?”

Cậu thưa: “Thưa con học ở trong sách Giáo lý - Chúng con đã học câu chuyện Chúa Giêsu dẹp yên bão tố - Chúa đã đưa tay ra và truyền cho sóng gió phải yên lặng”

10. Lấy nhu thắng cương

Ngày nọ, thánh Vinh-sơn bước vào một tiệm cơm, ngả mũ xin thực khách bố thí cho những trẻ mồ côi mà ngài đang chăm sóc. Cũng trong tiệm ấy, có một anh thợ giày ngạo mạn và đang có hơi men hất hàm hỏi ngài: "Tiền cho trẻ em nghèo hả? Có đây!"

Thế rồi anh ta hớp một ngụm bia, phun thẳng vào mặt thánh Vinh-sơn trước những cặp mắt bàng hoàng kinh ngạc của các thực khách. Mọi người im lặng chờ đợi sự đáp trả cân xứng từ phía Vinh-sơn, một con người vạm vỡ vừa bị xúc phạm quá đáng trước mặt đám đông.

Vinh-sơn từ từ cho tay vào túi, không phải để tìm hung khí trừng trị anh thợ giày nhỏ thó kia, nhưng là để rút ra một chiếc khăn tay và từ tốn lau khuôn mặt dơ bẩn của mình. Sau đó, cho khăn vào túi, ngài ôn tồn nói với anh thợ giày: "Cám ơn anh. Phần anh cho tôi, tôi đã nhận. Thế còn phần của các trẻ mồ côi đâu?"

Mọi người trong quán hết sức ngạc nhiên vì thái độ điềm tĩnh và hiền lành tột bực của ngài. Cả anh thợ giày hỗn láo kia cũng cảm thấy rúng động trước tấm lòng bao dung hào hiệp và bản lãnh rất cao của ngài. Anh ta quỳ xuống tạ lỗi và sau đó, quay về quyên góp bà con bạn bè một số tiền khá lớn đem đặt dưới chân thánh Vinh-sơn để giúp cho những kẻ nghèo.

11. Ánh sáng của các Thánh trên trời

Một buổi tối tại vận động trường Los Angeles, Mỹ, một diễn giả nổi tiếng, ông John Keller, được mời diễn thuyết trước khoảng 100,000 người.

Đang diễn thuyết bỗng ông dừng lại và dõng dạc nói:

- Bây giờ xin các vị đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn sáng trong sân vận động nầy.

Đèn tắt. Cả sân vận động chìm sâu trong bóng tối âm u. Ong John Keller nói tiếp:

- Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm đang cháy thì hãy hô lên cho tôi biết.

Ánh lửa nhỏ bé từ que diêm loé lên trong màn đêm được mọi người nhìn thấy và nhiều tiếng hô vang: 'tôi đã thấy'.

Sau khi đèn được bật sáng trở lại, ông John Keller giải thích:

- Ánh sáng của một hành động nhân ái dù bé nhỏ như một que diêm cũng sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy.

Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên:

- Tất cả những ai ở đây có mang theo diêm quẹt, xin hãy đốt cháy lên!

Bỗng chốc, hàng ngàn đốm sáng loé lên trong bóng đêm và cả vận động trường được thắp sáng.

Ông John Keller kết luận:

- Nếu tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau thì có thể chiến thắng bóng tối, chiến tranh, khủng bố, cái ác và oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương, bằng sự tha thứ và lòng tốt của chúng ta...

12. Những bậc thang của giá trị

Hôm nay lễ Các Thánh Nam Nữ, Giáo Hội muốn mời gọi các tín hữu Kitô củng cố lại định hướng căn bản và xác định lại bậc thang giá trị trong cuộc sống. Trong một Thánh Lễ kết thúc một hội nghị liên tôn tại Rôma vào năm 1999, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói đến những căn bệnh xã hội hiện đại. Ngài nói rằng cuộc cách mạng kỹ thuật của thế kỷ XX đã không mang lại được những tiến bộ về mặt tinh thần và luân lý. Trước đám đông tụ họp tại quảng trường thánh Phêrô, Đức Thánh Cha đã đặt câu hỏi như sau:

"Nhìn vào hiện trạng của nhân loại có quá đáng lắm không khi chúng ta nói đến một cơn khủng hoảng về văn minh?"

Ngài giải thích như sau:

"Chúng ta chứng kiến những tiến bộ vĩ đại về kỹ thuật, nhưng chúng ta lại không luôn luôn đi đôi với sự tiến bộ về tinh thần và luân lý, chúng ta cũng thấy khoảng cách ngày càng gia tăng giữa người giàu và người nghèo trên bình diện cá nhân cũng như quốc gia. "

Cơn khủng hoảng về văn minh mà Đức Thánh Cha nói đến hẳn cũng được biểu hiện trong bậc thang giá trị mà con người thời đại chọn lựa. Ở chóp đỉnh của bậc thang này chắc chắn không phải là những giá trị tinh thần, luân lý và đạo đức mà là của cải vật chất, quyền bính, danh vọng và lạc thú. Con người không được đánh giá dựa trên những giá trị tinh thần và luân lý mà chỉ trên cơ sở của tài năng, tiền của, quyền bính và danh vọng.

Lễ Các Thánh hôm nay, Giáo Hội muốn mời gọi các tín hữu Kitô chúng ta xác định lại bậc thang các giá trị trong cuộc sống của chúng ta. Là những người lữ hành trong trần thế, chúng ta không ngừng được mời gọi để ngước nhìn lên thiên đàng. Hưởng dùng của cải vật chất nhưng chúng ta lại được mời gọi để tìm kiếm hạnh phúc vĩnh cửu. Sống trong xã hội trần thế nhưng chúng ta phải tìm kiếm và xây dựng những giá trị của Nước Trời. Trong cuộc lữ hành trần thế, chúng ta không tiến bước trong đơn độc vì đã có biết bao người đi trước và chỉ cho chúng ta con đường để bước tới.

13. Dám sống Ơn gọi Kitô hữu

Trên một chuyến xe lửa, người ta chụm đầu vào nhau và bàn tán sôi nổi về một vụ phá thai vừa mới xảy ra ở trong vùng. Nhiều người đã bênh vực cho hành động ấy của người mẹ trẻ. Một vài người khác thì giữ thái độ yên lặng. Và chỉ có một cô gái đã thẳng thắn nói lên rằng:

- Không thể được, vì đó là một hành động sát nhân. Đứa nhỏ, dù mới chỉ là một thai nhi bé bỏng, cũng đã là một người có linh hồn và thể xác.

Chàng thanh niên, người tình của cô gái thì bĩu môi tỏ vẻ khinh bỉ trước lập trường dứt khoát của cô gái. Nhưng rồi ngày hôm sau, chàng thanh niên đã nhận được bức thư của cô gái, trong đó cô gái đã viết: - Tôi không hy vọng rằng mình sẽ xây dựng được hạnh phúc với một kẻ không dám mở miệng bênh vực quan điểm của Giáo Hội.

Cô gái này quả thực là một người can đảm, dám lên tiếng bênh vực sự toàn vẹn của tôn giáo, dù có phải hy sinh cả một cuộc tình tốt đẹp. Tuy nhiên, cũng thật đáng buồn vì có rất nhiều người trong chúng ta lại hành động một cách khác hẳn.

14. Nên thánh trong đời thường

Người ta kể lại rằng trong đời thánh Antôn tu rừng có một lần ngài xin tá túc trong ngôi nhà của anh thợ đóng giày theo lệnh Chúa. Hai vợ chồng dọn bữa ăn và chuẩn bị chỗ ngủ cho thánh nhân. Ngài ở đó ba ngày, hỏi thăm về đời sống và công ăn việc làm. Nhờ những câu chuyện trao đổi, họ đã trở thành bạn thân với nhau. Sau đó, thánh nhân từ giã họ mà trở về nhà. Lúc bấy giờ Chúa hỏi: con thấy người thợ giày ấy thế nào? Thánh nhân thưa lại: Ông ta là một người đơn sơ, vợ ông có thai và sắp sinh con. Họ có vẻ yêu nhau lắm. Ông ta có một cửa tiệm nhỏ để đóng và sửa giày. Ông ta làm việc hăng say, gia đình ông ta sống đạm bạc với số tiền kiếm được nhưng luôn biết chia sẻ giúp đỡ cho những người kém may mắn. Ông ta và vợ luôn tin tưởng mãnh liệt vào Chúa và cầu nguyện ít nhất mỗi ngày một lần. Họ có nhiều bạn thân và người thợ giày thì luôn miệng kể chuyện khôi hài cho mọi người cười. Chúa lắng nghe thánh nhân và cuối cùng Ngài phán: Antôn, con là một vị thánh sống, nhưng người thợ giày và bà vợ cũng là những vị thánh sống.

Cơ hội nên thánh luôn ở trong tầm tay của chúng ta, con đường theo Chúa nằm ngay dưới chân chúng ta. Chu toàn bổn phận của mình trong vui tươi, tin tưởng và phó thác nơi tình yêu thương của Chúa là mình đang bước vào con đường cứu rỗi. Đừng tìm đâu xa.

15. Thánh nhân không biết mình là thánh

Linh mục Anthony de Melo có kể câu chuyện như sau: Có một linh sư Ấn giáo nọ nổi tiếng là bậc thánh thiện, ông đã mở được nhiều trung tâm cầu nguyện và qui tụ được nhiều đệ tử.

Ngày kia, có một người tìm thầy học đạo tình cờ đến trước cửa trung tâm. Con người khao khát chân lý từ bao năm nay cảm thấy như được giác ngộ khi gặp gỡ vị linh sư. Vị linh sư nói với anh:

- Trước khi nhận ngươi làm đệ tử, ta thấy cần phải thử thách ngươi về sự vâng lời. Đằng trước trung tâm có một dòng sông dày đặc cá sấu, ta muốn ngươi phải lội qua dòng sông ấy.

Không một chút do dự, người thanh niên để nguyên quần áo quăng mình xuống dòng sông. Vừa lội qua dòng sông anh vừa hô lớn: “Tung hô quyền năng kỳ diệu của thầy tôi. "

Nhờ có sự hỗ trợ của nhiều người và của chính vị linh sư, người thanh niên đã bơi qua dòng sông và trở về an toàn. Sự kiện này càng làm cho vị linh sư thấy mình là người thánh thiện. Lập tức, ông cho tập trung các đệ tử trong nhà lại và trịnh trọng bước xuống dòng sông, vừa công khai bơi lội vừa hô lớn: “Tung hô quyền năng của ta, tung hô quyền năng của ta. " Thế nhưng, ông vừa dứt lời thì đàn cá sấu ào tới cắn xé ông ra từng mảnh.

Thánh thiện chính là quên mình, quên mình đến độ không được phép ý thức về sự thánh thiện của mình.

16. Vị thánh không tên

Ngày kia, thánh Antôn tu rừng đã đến gặp bác thợ giày, vì nghe đồn bác là một người đạo đức lạ thường. Được hỏi về bí quyết nên thánh, bác thợ giày liền đáp:

– Tôi chỉ biết đóng giày mà thôi.

Ngạc nhiên, thánh nhân bèn hỏi lại:

– Nếu chỉ có thế, làm sao mà thánh thiện cho được. Như tôi đây, tôi thường nghĩ đến Chúa trong từng giây phút. Bác có bí quyết nào khác nữa không?

Bác thợ giày liền giải thích:

– Tôi làm việc tám giờ, cầu nguyện tám giờ và nghỉ ngơi tám giờ.

Thánh nhân vẫn chưa cho đó là một cuộc sống lý tưởng vì ngài cầu nguyện ở mọi nơi và trong mọi lúc. Thánh nhân hỏi tiếp:

– Còn về đức khó nghèo thì sao?

Bác thợ giày trả lời:

– Tài sản và lợi tức của tôi, một phần ba thì dâng cho Giáo Hội, một phần ba thì bố thí cho người nghèo, còn một phần ba thì giữ lại cho tôi.

Thánh nhân cũng chưa cho đó là một bí quyết trọn hảo, bởi vì chính ngài đã phân phát tất cả những gì mình có cho Giáo Hội và cho người nghèo. Vặn hỏi mãi, cuối cùng bác thợ giày mới chịu bật mí:

– Mặc dù tôi bố thí một phần ba cho người nghèo, nhưng đêm ngày tôi không thể ngủ yên khi nhìn thấy cảnh nghèo túng chung quanh tôi, đến nỗi tôi đã phải thân thưa cùng Chúa: Lạy Chúa, thà rằng Chúa để cho con phải xuống hỏa ngục, còn hơn là nhìn thấy những kẻ khốn khổ này phải sống triền miên trong cảnh nghèo đói.

Nghe nói thế, thánh nhân liền bỏ ra về vì ngài chợt hiểu rằng: Ngài chưa đủ thánh thiện như bác thợ giày, đến độ dám hy sinh tất cả vì người nghèo.

17. Con sẽ là một vị thánh

Vào một buổi tối người mẹ đã nói với những đứa con của mình như sau:

– Mẹ sẽ rất vui mừng nếu như một trong các con trở nên một vị thánh.

Lập tức đứa bé nhất đã giơ tay lên và nói:

– Con sẽ là một vị thánh.

Đứa bé giữ lời hứa, lớn lên làm tới chức Giáo hoàng với danh hiệu Celestinô V, và đã trở nên một vị thánh.

Ơn gọi nên thánh không phải là một ơn gọi được dành riêng cho các linh mục và tu sĩ, nhưng là một ơn gọi của mọi người con Chúa, bởi vì con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Chắc hẳn Chúa sẽ vui mừng khi nhìn thấy những đường nét của Ngài trong tâm hồn chúng ta.

Hãy suy gẫm lời thánh Augustinô:

– Cậu nọ cô kia nên thánh được, còn tôi tại sao lại không?

Dù trẻ hay già, dù đàn ông hay đàn bà,tất cả chúng ta đều có thể và phải trở nên thánh.

18. Vị vua khôn ngoan

Thánh Đamascênô kể lại một mẩu chuyện như sau: ngày xưa ở một vùng kia, người ta có một tập tục kỳ lạ, đó là mỗi vị vua chỉ được trị vì mười năm. Trong thời gian đó, ông ta nắm giữ mọi quyền lực, đều hành mọi công việc, mặc sức sử dụng tiền bạc…Nhưng sau thời gian ấy, người ta sẽ tước đoạt phủ việt cũng như triều thiên và đày ải ông ta tới một hoang đảo xa xôi, để ông phải chết dần chết mòn trong cô đơn và tuyệt vọng.

Năm ấy có một vị vua lên ngôi, nhưng ông ta khôn ngoan hơn những người đi trước. Trong thời gian trị vì, ông ta chỉ có một ý nghĩ: phải chuẩn bị cho tương lai, kiến thiết hòn đảo xa xôi nơi ông ta sẽ bị lưu đày. Ông truyền cho người ta xây cất cung điện, biến rừng hoang thành những vườn cây ăn trái và những cánh đồng lúa xanh tươi. Rồi ông cho chở tất cả vàng bạc châu báu của vương quốc tới hòn đảo ấy.

Chúng ta thầm khen:

– Ông vua này quả là thận trọng và khôn ngoan.

Hãy bắt chước ông vua ấy, dùng cuộc sống ngắn ngủi hiện tại mà đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Hãy gửi trước về trời những kho tàng, là những hành động bác ái yêu thương của chúng ta.

Đừng lần lữa, nhưng hãy bắt tay vào việc nên thánh ngay từ hôm nay, bởi vì như một câu danh ngôn đã bảo:

– Việc hôm nay chớ để tới ngày mai, bởi vì ngày mai biết đâu đã quá muộn, liệu còn có hay không?

19. Nên thánh là có sự sống

Thời Chiến Quốc có người đem dâng vua nước Sở vị thuốc bất tử.

Người ấy bưng vị thuốc vào, có viên quan canh cửa hỏi rằng: “Vị thuốc này có ăn được không?” Người đáp: “Ăn được. ” Tức thì viên quan giật lấy vị thuốc mà ăn.

Chuyện nói đến tai vua. Vua phán bắt viên quan đem giết.

Viên quan kêu lên rằng: “Thần đã hỏi người đem dâng thuốc. Người ấy nói rằng: ‘Ăn được’ nên thần mới dám ăn. Thế là thần vô tội mà lỗi ở người dâng thuốc. Vả chăng người đem dâng nói là ‘bất tử’, nghĩa là ăn vào thì không chết nữa. Thế mà thần mới ăn, đã phải sắp chết, vậy thuốc tử chớ sao gọi là bất tử được? Nhà vua giết thần, thực là bắt tội một người vô tội mà tỏ rằng thiên hạ dối được nhà vua mà nhà vua vẫn tin. ”

Vua nghe nói có lý, bèn tha viên quan ấy không giết nữa.

Chẳng khôi hài chút nào chuyện sự sống của con người, nhưng lại hết sức khôi hài cái cách người ta đuổi tìm sự sống!

Vâng, đừng trốn chạy cái chết. “Xin nhớ rằng: đời con là một kiếp phù du, loài người Chúa dựng nên thật mỏng manh quá đỗi! Sống làm người, ai không phải chết? Ai cứu nổi mình thoát quyền lực âm ty?” (Tv 89,48-49)

Phải chăng con người được dựng nên để mà chết?

“Lạy Chúa, xin dạy cho con biết: đời sống con chung cuộc thế nào, ngày tháng con đếm được mấy mươi, để hiểu rằng kiếp phù du là thế. Ấy tuổi đời con, Chúa đo cho một vài gang tấc, kiếp sống này, Chúa kể bằng không. Đứng ở đời, thật con người chỉ như hơi thở” (Tv 39,5-6)

20. Chết là một cánh cửa

Trong Thủ Bản Tự Thuật, thánh Têrêxa kể lại rằng: “Suốt đời, Chúa nhân lành đã cưng chìu con: những kỳ niệm đầu tiên của đời con ghi đầy những nụ cười, những mơn trớn êm đềm nhất!… Nhưng nếu Chúa đặt bên con nhiều tình thương thì Ngài cũng cho con một trái tim để yêu và cảm xúc dạt dào, cho nên con yêu Ba Má biết bao và con tìm đủ mọi cách để tỏ lòng yêu Ba Má, vì hễ trong lòng con có gì thì con phải bộc lộ ra ngoài. Có điều là cách con tỏ tâm tình đôi khi kỳ cục lắm, như lời Má chứng minh trong đoạn thư sau đây: “Con bé này tinh nghịch có một, nó đến vuốt ve Má và chúc Má chóng chết: Má à! Con muốn Má chết lắm! …

“Mắng nó thì nó bảo: “Má chết để về thiên đàng. Thế Má chả bảo con là phải chết mới được vào thiên đàng là gì.

“Lúc nào nó yêu Ba quá, nó cũng chúc Ba chết như thế! …”

Đối với Têrêxa, chẳng còn cái chết, mà chỉ còn một cánh cửa mở ra cho hạnh phúc hoàn hảo, trọn vẹn. Ước chi đức tin trong tôi cũng lớn lên để tôi luôn vui mừng đi tìm sự sống thật trong mọi tình huống, kể cả trong những đau khổ của ngày hôm nay, “vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người. ” (Rm 8,17)

21. Đội hình 3 – 3 – 1 – 1

Trong lịch sử bóng đá, người ta đã áp dụng nhiều đội hình chiến thuật khác nhau, trước khi đạt đến đội hình quen thuộc của bóng đá hiện đại. Huấn luyện viên Giê-su thì khác, từ 2000 năm nay, Ngài chỉ sử dụng một đội hình cho mọi trận đấu của cầu thủ Nước Trời.

Đội hình ấy là 3-3-1-1.

Ba mối phúc đầu tiên giúp ta có cái nhìn lạc quan về tâm hồn nghèo khó, hiền lành, sầu khổ; chúng trở thành sức mạnh tinh thần cho ta khi đương đầu với những nghịch cảnh.

Ba mối phúc tiếp theo có giá trị nền tảng mời gọi ta hướng đến: Thiên Chúa (khát khao sự công chính), tha nhân (xót thương người) và bản thân (tâm hồn trong sạch).

Mối phúc thứ bảy, người môn đệ mang sứ mạng hoà giải để biến thế giới thành một đại gia đình của Thiên Chúa.

Cuối cùng, qua mối phúc thứ tám, người môn đệ sẽ đạt đến tuyệt đỉnh của đời sống khi được đồng hoá với Thầy mình.

Mừng Lễ Các Thánh Nam Nữ, bạn được mời gọi bước đi trên “con đường nội tâm: có khả năng lắng nghe và nhận thấy, dù chỉ là dấu chỉ nhỏ nhất do Thiên Chúa gởi vào trần gian và những gì có thể phá tan những trói buộc của các thói quen” (Đức Bênêđitô XVI, Đức Giê-su thành Na-da-rét).

22. Ngươi là ai?

Có một phụ nữ, nằm bệnh, đã rơi vào một cơn hôn mê rất sâu. Trong lúc hôn mê, chị thấy như mình được đưa lên trời và đứng trước toà phán xét.

- Ngươi là ai? Một giọng nói hỏi chị.

- Dạ, con là vợ của một thị trưởng, chị trả lời.

- Ta không hỏi ngươi là vợ của ai… Ngươi là ai?

- Dạ, con là một giáo viên.

- Ta không hỏi nghề nghiệp của ngươi là gì… Ngươi là ai?

- Dạ, con là một Kitô hữu.

- Ta không hỏi ngươi thuộc tôn giáo nào… Ngươi là ai?

- Dạ, con đi nhà thờ hằng ngày và luôn giúp đỡ người nghèo túng.

- Ta không hỏi ngươi đã làm gì… Ta chỉ hỏi ngươi là ai?

Không qua được những câu hỏi đó, chị được trả về trần gian. Sau khi khỏi bệnh, chị quyết tâm khám phá mình là ai, và mỗi ngày một thay đổi.

Một câu hỏi tuy đơn giản, nhưng khi trả lời người ta mới thấy mình chịu lệ thuộc vào rất nhiều điều, dù chỉ là những điều chóng qua. Vì thế mà chữ hoạ, chữ phúc nơi mỗi người đã vô tình bị điều kiện hoá bởi những yếu tố mong manh và hai chữ “được, mất”

Đâu là chỗ dựa vững vàng cho hạnh phúc trong đời sống mỗi người nếu không phải là một niềm tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa?

23. Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó

Một cặp vợ chồng trẻ đi tham quan thác Niagara bên Mỹ. Họ đứng trên bờ nhìn ngắm. Dòng nước chảy cuồn cuộn về xuôi với tốc độ khoảng 50 dặm một giờ tạo nên những ngọn sóng bạc đầu đổ xuống một ngọn thác ầm ầm cách chỗ họ đứng khoảng 100m. Phải hết sức cẩn thận, vì nếu có ai lỡ chân rớt xuống dòng nước thì sẽ bị cuốn phăng ngay xuống ngọn thác. Quang cảnh thật hùng vĩ, thật quyến rũ nhưng cũng thật đáng sợ!

Mà kìa… ngay dưới chân họ, một cặp vịt trời vẫn tung tăng bơi lội, kiếm ăn trên dòng nước. Chúng thản nhiên lặn hụp săn mồi bên ngọn thác hùng mạnh như vũ bão, và chốc chốc lại vỗ cánh bay đến chỗ khác.

Niềm tin vào tình yêu Chúa là đôi cánh có thể giúp tôi giữ được tâm hồn bình an giữa mọi xoay vần, như lời của bài hát ‘Trông cậy Chúa’: “Xin trao muôn đổi thay vào tay Thiên Chúa an bài. Ngài đưa con bước hôm nay, còn thương con mãi tương lai. ”

Ở đâu có niềm tin, ở đó có Nước Trời: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. ”

24. Hãy là một vị thánh!

Trong chuyến thăm nước Anh, Đức Bênêđictô 16 đã nói với các bạn trẻ, “Cha hy vọng, trong số các bạn đang nghe cha đây, sẽ có một số vị thánh tương lai của thế kỷ 21. Điều Chúa muốn trên hết đối với chúng ta là phải nên thánh! Ngài yêu chúng con hơn những gì chúng con có thể tưởng tượng, Ngài muốn điều tốt nhất cho chúng con. Và điều tốt nhất là chúng con lớn lên trong sự thánh thiện!" Bênêđictô không ngần ngại thách đố các bạn trẻ Anh và các bạn trẻ trên thế giới rằng, “Hãy là một vị thánh hơn là một người nổi tiếng!"

 “Hãy là một vị thánh!" Đó cũng là những gì chúng ta được thách thức nhân ngày Giáo Hội mừng kính và tôn vinh “Tất cả Các Thánh. " Các ngài đã thực hiện điều Chúa muốn; họ chọn trở nên những vị thánh hơn là trở nên những người nổi tiếng! “Đây chính là dòng dõi những kẻ tìm kiếm thánh nhan Ngài”, Thánh Vịnh đáp ca xác quyết.

25. Chạy đến cùng

VĐV điền kinh Bou Samnang lay động trái tim người Campuchia sau phần thi 5. 000 mét nữ chiều 8/5/2023. Bou Samnang không được đánh giá cao. Cô nhanh chóng bị bỏ lại chỉ sau 3 vòng sân. Sau đó ít phút, trời đổ mưa rất to trên sân vận động Morodok Techo.

Bất chấp cơn mưa tầm tã khiến đường piste ngập trong nước, Bou Samnang vẫn kiên trì chạy. Khi chỉ còn một mình trên đường đua, Bou Samnang bật khóc nhưng quyết tâm về đến đích. Cô nhận được sự cổ vũ rất lớn từ các tình nguyện viên, vận động viên nước ngoài và cổ động viên.

Ngay sau đó, đích thân Thủ tướng Campuchia Samdech Techo Hun Sen thưởng 10. 000 USD cho cô gái trẻ này. Ông Hun Sen nói rằng đó là phần thưởng cho "tinh thần, sự kiên trì" của Bou Samnang trên đường chạy điền kinh. Nỗ lực của VĐV này chính là cách tuyệt vời để lan toả hình ảnh của nước chủ nhà Campuchia đến với bạn bè thế giới.

Bou Samnang trải qua tuổi thơ khó khăn. Mẹ cô làm nội trợ còn cha cô qua đời trong một vụ tai nạn cách đây vài năm. Bou Samnang tình cờ đến với điền kinh vào năm 2016, khi 13 tuổi. VĐV này mất 5 năm để chính thức có tên trong danh sách đội tuyển điền kinh quốc gia Campuchia. Cô được đưa đi tập huấn nước ngoài hơn 1 năm trước khi dự SEA Games 32.

Nhưng đến trước ngày thi, sức khoẻ của Bou Samnang không tốt. Cô bị thiếu máu và gặp vấn đề với lượng hồng cầu. HLV của đội tuyển điền kinh Campuchia cho phép Bou Samnang lựa chọn dừng thi nếu muốn. Tuy nhiên, cô gái này không bỏ cuộc.

"HLV nói rằng tôi không cần quá cố gắng theo cách như vậy khi tình trạng sức khỏe như vậy. Nhưng vì đất nước Campuchia, tôi vẫn quyết tâm thi. Tôi đã cố gắng về đích vì tôi muốn cho mọi người thấy rằng trong cuộc sống, dù đi chậm hay nhanh một chút, chúng ta sẽ đến đích như nhau", Bou Samnang cho hay.

Bou Samnang bất ngờ khi thấy hình ảnh bản thân sẽ lan toả đến vậy. Trước mắt, Bou Samnang sẽ hoàn thành giấc mơ học đại học ngành công nghệ thông tin hoặc ngành luật.

LỄ CÁC LINH HỒN

Lời Chúa: Ga 6: 37-40

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với đám đông rằng: Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài, vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi. Mà ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. " Đó là lời Chúa.

TRUYỆN KỂ

1. Bám cọng hành mà lên trời

Một người phụ nữ người ta đặt tên là Bà Chằng, vì rất hợp với bản tính khó nết, ích kỷ của bà. Lúc bà vừa tắt thở, quỷ lôi bà đi ngay, vì nó biết bà này không ai ưa, thì chắc chắn phải xuống Hỏa Ngục không cần đợi Chúa xét xử!

Thiên thần bản mạnh của bà giằng co với quỷ và kêu nài với Chúa:

- Xin Chúa xét xử cho bà này theo lòng thương xót của Ngài. Không thể để quỷ lôi bà đi ngay được!

- Con hãy mở sổ Nhật Ký xem bà có làm một điều gì tốt cho ai không? Thiên Chúa nói với thiên thần.

Thiên thần mau mắn lật từng trang Nhật Ký về đời sống Bà Chằng, lật cả mấy ngàn trang rồi mà chẳng thấy có việc tốt nào cả… À, may quá, thiên thần reo lên và thưa với Chúa:

- Lạy Chúa, có một lần bà này đã cho người lối xóm một cọng hành ạ!

- Thế thì con hãy dùng cọng hành đó mà kéo bà lên! Chúa bảo thiên thần.

Thiên thần mau mắn làm ngay. Bà Chằng bám vào cọng hành và được thiên thần nín thở kéo lên. Thấy vậy nhiều người dưới Hỏa Ngục vội bám lấy bà mong được “ăn theo”, Bà Chằng nổi sùng giãy đạp, chửi thề …! Làm cọng hành đứt phựt, thế là cả chùm người rơi xuống Hỏa Ngục!!

Hãy nhớ lời Thánh Kinh dạy:

“Đức ái phủ lấp muôn vàn tội lỗi!” (1 Pr 4, 8). Vì “ai có lòng nhân ái thì được thắng án, án xử chỉ tàn nhẫn cho kẻ bất nhân!” (Gc 2, 13).

2. Nếu như không có hỏa ngục

Thánh Tôma Tiến sĩ cho ta một ví dụ để tin Hỏa Ngục hay không? Ngài nói:

- Nếu bạn không tin có Hỏa Ngục là đúng, bạn không có gì phải sợ, sống thoải mái vui thú xác thịt được tối đa 100 năm; nhưng nếu bạn sai vì có Hỏa Ngục mà bạn không sợ, cứ sống phóng túng, chắc chắn bạn mất phúc đời đời.

- Nếu tôi tin có Hỏa Ngục là sai, vì không có Hỏa Ngục mà tôi cứ sợ hãi, nên phải kìm chế xác thịt, tôi mất phúc tối đa 100 năm; nhưng nếu tôi tin có Hỏa Ngục là đúng, tôi sợ không phạm tội, chắc chắn tôi sẽ được phúc đời đời.

Vậy cứ tin có Hỏa Ngục luôn luôn có lợi!

3. Hãy trở nên trẻ nhỏ

Trong một giấc mơ, tôi thấy cảnh một đoàn người đông vô số kể, thuộc đủ mọi thành phần trong xã hội. Ai cũng chen nhau đến trình diện Chúa, để được vào Thiên Đàng trước!

Một vị mặc áo vua, đội mũ cà - cuống, cầm gậy ròng bằng vàng tiến đến trước ngai Chúa. Ngài hỏi:

- Ngươi là ai?

- Thưa con là Hồng Y Tổng Giám mục , một Giáo sĩ cao cấp nhất trong nước đấy ạ.

- Hồng Y Tổng Giám mục à? Đứng qua bên đợi đã.

- Một vị khác tiến đến, mặc áo dòng, tay cầm cuốn Thánh Kinh, Chúa hỏi:

- Ngươi là ai?

- Dạ, con là cha sở nhà thờ Chánh Tòa đây ạ!

- Cha sở Chánh Tòa à? Hãy đứng qua bên, hậu xét.

……………

Rồi thêm bao nhiêu bậc vị vọng tiến đến trình diện Chúa, ai cũng bị chận lại … Đến lượt một cụ già chống gậy bước tới. Chúa hỏi:

- Ngươi là ai?

- Bẩm Chúa, con là “con nít” ạ!

- Con nít à? Vô lẹ đi con!

Vì vậy Chúa Giêsu nói: “Ai không hoán cải trở nên giống trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời!” (Mt 18, 3).

4. Đức mến tha thứ tất cả

... Câu chuyện xảy ra cách đây khá lâu tại thành phố Bologna ở miền Bắc nước Ý. Một phụ nữ quý tộc - tạm gọi bà Claudia - góa bụa và chỉ có đứa con trai duy nhất. Không cần nói cũng hiểu bà yêu thương chìu chuộng quý tử biết là chừng nào. Cậu bé tên Andrea. Andrea thường nô đùa với các bạn đồng tuổi nơi công viên thành phố.

Ngày kia, một người lạ mặt đi ngang qua đó và quấy phá cuộc chơi của lũ trẻ. Andrea thét lên phản đối:

- Ông không được xen vào trò chơi của chúng tôi!

Người lạ mặt bỗng dưng nổi giận. Ông tuốt gươm đâm chết cậu bé tại chỗ. Nhìn cái xác bất động và lưỡi gươm vấy máu, người đàn ông đâm hoảng sợ. Ông cho gươm vào vỏ và tìm đường tẩu thoát. Ông chạy như bay qua các đường phố. Trông thấy cánh cửa một căn nhà mở rộng, ông nhanh chân lách mình vào để ẩn trốn.

Nào ngờ đó là căn nhà của bà góa Claudia, thân mẫu cậu bé Andrea vừa bị giết chết. Kẻ sát nhân chạy nhanh lên cầu thang vào đúng căn phòng của phụ nữ quý tộc. Bất thình lình đối diện với người lạ, trên tay cầm gươm vấy máu, bà Claudia hoảng sợ chết điếng. Người lạ vội vàng khẩn khoản:

- Nhân danh THIÊN CHÚA, xin bà thương chỉ cho tôi một chỗ ẩn núp, tránh khỏi những người đang lùng bắt tôi. Xin bà đừng giao nộp tôi cho họ!

Động lòng trắc ẩn, bà Claudia bằng lòng chỉ cho kẻ lạ một nơi trú ẩn an toàn và hứa sẽ không phản bội lòng từ bi trắc ẩn.

Tuy nhiên, cảnh sát biết là tên sát nhân đã chạy vào nhà bà Claudia nên họ xông vào nhà xin lục soát. Họ tìm kiếm khắp nơi nhưng vẫn không trông thấy dấu vết... Trước khi rời khỏi căn nhà, cảnh sát nói với bà Claudia:

- Bà có biết người chạy vào đây ẩn trốn, chính là tên sát nhân đã giết chết Andrea, quý tử của bà không?

Nghe mấy lời này, bà Claudia xúc động, ngã xuống đất bất tỉnh.

Khi bà hồi tỉnh, người ta tưởng chừng bà không thể nào sống được, vì tin dữ quá mạnh quá lớn lao! Nhưng bà Claudia là phụ nữ quý tộc đạo đức. Bà phó thác mọi sự nơi Bàn Tay Quan Phòng của THIÊN CHÚA Chí Công. Nhờ thế, bà tìm được sức mạnh vô biên, giúp bà thắng vượt thử thách. Bà Claudia lặng lẽ đến chỗ trú của kẻ sát nhân, trao cho ông một số tiền. Bà chỉ cho ông lối thoát ẩn kín, nơi có sẵn con ngựa, ông có thể dùng để cao bay xa chạy.

Xong xuôi đâu đó, bà Claudia trở lại phòng riêng, quỳ gối trước Thánh Giá Đức Chúa GIÊSU KITÔ, đọc kinh cầu cho linh hồn đứa con trai yêu dấu. Bỗng chốc, bà Claudia trông thấy Andrea xuất hiện, mặt mũi sáng rực, chiếu tỏa niềm hạnh phúc bao la. Andrea nói như reo vui với hiền mẫu:

- Mẹ ơi, con báo cho Mẹ tin vui! Xin Mẹ đừng khóc nữa! Xin Mẹ đừng thương tiếc cho số phận hẩm hiu của con. Trái lại, Mẹ hãy vui mừng. Bởi vì, nhờ đức bác ái Mẹ thực thi với kẻ giết con mà con được giải thoát ngay khỏi Lửa Luyện Ngục. Đáng lý con còn bị THIÊN CHÚA Chí Công phạt đền trong Lửa Luyện Tội lâu năm. Nhưng vừa khi Mẹ thực thi xong hành động bác ái, tức khắc, con được xóa bỏ mọi tội lỗi và không phải đền bù. Hiện tại con diễm phúc ở bên tòa Chúa trên Thiên Đàng và con sẽ ở lại đây mãi mãi!

Tin vui của quý tử quá cố gieo vào lòng bà Claudia niềm hân hoan khôn tả. Bà quên hết mọi nỗi đau đớn vì mất con và dâng lời cảm tạ THIÊN CHÚA đã tha thứ cho con và đưa con vào hưởng vinh phúc muôn đời.

... ”Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi. Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được!” (1Côrintô 13,1-8).

5. Tình yêu mạnh hơn thời gian

Một hôm, vua Ai Cập đang đứng chiêm ngưỡng những bia tháp mà ông đã cho dựng lên tại thành phố Eliopolis. Bỗng nhiên có một cụ già râu tóc bạc phơ không biết từ đâu đến, đã cười ngạo nghễ và thách thức với nhà vua như sau: Hãy bỏ tất cả và cút đi...

Nhà vua giận tím gan, thế nhưng ông ta đã tự chủ và trả lời: "Hỡi người già, ngươi là ai mà dám ra lệnh cho ta một cách hỗn láo như thế... Không lẽ ngươi có nhiều quyền thế hơn ta?”

Lão ông tự giới thiệu: "Ðúng thế, bởi vì ta là Thời Gian... ”

Nghe đến tên Thời Gian, vua Ai Cập tái mặt và té khỏi ngai vàng... Cùng với ông, cả đế quốc Ai Cập cũng sụp đổ.

Lão già Thời Gian cũng rảo qua khắp các đế quốc trên thế giới. Lão đi đến đâu, thì các đế quốc rơi rụng như sung: Hôm nay tại Babylone, ngày mai tại Athène, ngày mốt tại Ninive, tại Carthage...

Nhưng ngày kia, người ta bỗng thấy xuất hiện tại đồi Vatican một cụ già khác. Cụ tuyên bố nghênh chiến với lão già Thời Gian. Lão già Thời Gian tưởng mình có thể phá vỡ tất cả mọi công trình của con người trên trần gian này. Cũng một giọng điệu vô cùng hách dịch, lão ta cũng đến trước cửa Vatican và dõng dạc tuyên bố: "Ta là Thời Gian đây. ” Tiếng gầm thét đó đã làm rung chuyển trái đất, thế nhưng đã không làm cho bô lão trên ngọn đồi Vatican mảy may lo sợ. Cụ bình tĩnh đáp lại: "Còn ta, ta chính là Vĩnh Cửu! Xuyên qua các thế hệ, ta phải đại diện cho lòng chung thủy của Thiên Chúa đối với loài người... ”

6. Lịch sử ngày lễ các đẳng linh hồn

Ngay từ thời tiên khởi, Giáo Hội đã khuyến khích chúng ta cầu nguyện cho người chết như một nghĩa cử bác ái. Thánh Augustine viết, "Nếu chúng ta không lưu tâm gì đến người chết, thì chúng ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ. " Tuy nhiên, các nghi thức cầu cho người chết có tính cách dị đoan thời tiền-Kitô Giáo đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nỗi mãi cho đến đầu thời Trung Cổ, nhờ các dòng ẩn tu có thói quen cầu nguyện cho các tu sĩ đã qua đời hàng năm thì một nghi thức phụng vụ cầu cho người chết mới được thiết lập.

Vào giữa thế kỷ 11, Thánh Odilo, Tu Viện Trưởng dòng Cluny, ra lệnh rằng mọi tu viện dòng Cluny phải cầu nguyện đặc biệt và hát kinh Nhật Tụng cầu cho người chết vào ngày 2 tháng Mười Một, ngay sau lễ Các Thánh. Truyền thống này được lan rộng và sau cùng được Giáo Hội chấp nhận đưa vào niên lịch Công Giáo La Mã.

Ý nghĩa thần học làm nền tảng cho ngày lễ này là sự thừa nhận bản tính yếu đuối của con người. Vì ít có ai đạt được một đời sống trọn hảo, mà hầu hết đã chết đi với vết tích tội lỗi, do đó cần có thời gian thanh tẩy trước khi linh hồn ấy được đối diện với Thiên Chúa. Công Ðồng Triđentinô xác nhận có luyện tội và nhấn mạnh rằng lời cầu nguyện của người sống có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người chết.

Sự dị đoan vẫn còn dính dấp đến ngày lễ này. Thời trung cổ người ta tin rằng các linh hồn trong luyện tội có thể xuất hiện vào ngày lễ này dưới hình thức các phù thủy, các con cóc hay ma trơi. Và họ đem thức ăn ra ngoài mộ để yên ủi người chết.

Tuy nhiên việc cử hành lễ với tính cách tôn giáo vẫn trổi vượt. Người ta tổ chức đọc kinh cầu nguyện ở nghĩa trang hay đi thăm mộ người thân yêu đã qua đời và quét dọn, trang hoàng với nến và hoa.

Lời Chúa Tuần 30 Thường Niên
Thường niên V - GS C - PS Ngoại lịch

 

 EDIT