LỜI CHÚA TUẦN 23 THƯỜNG NIÊN
CÂU TRUYỆN MINH HỌA
LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ – PHẢI
ĐƯỢC GIƯƠNG CAO
ĐỨC MẸ SẦU BI – ĐỨNG GẦN THẬP
GIÁ
THỨ HAI - LÀM VIỆC TỐT NGÀY
SABBAT
THỨ TƯ - PHÚC THẬT VÀ KHỐN
THAY
THỨ NĂM - BẮT CHƯỚC THIÊN CHÚA CHA
THỨ SÁU - NHẬN BIẾT CHÍNH MÌNH
THỨ BẢY - NHÀ XÂY TRÊN ĐÁ:
KHÔN NGOAN
CNTN 23A - SỬA LỖI ANH EM
Lời Chúa: Mt 18, 15-20
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: "Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và
nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em. Nếu nó không
nghe lời ngươi, hãy đem theo một hoặc hai người nữa, để mọi việc được giải quyết
nhờ lời hai hoặc ba nhân chứng. Nếu nó không nghe họ, hãy trình với cộng đoàn.
Và nếu nó cũng không nghe cộng đoàn, ngươi hãy kể nó như người ngoại giáo và
như người thu thuế.
"Thầy bảo thật các con, những
gì các con cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc, và những gì các con
tháo gỡ dưới đất, thì trên trời cũng tháo gỡ.
"Thầy lại bảo các con, nếu
hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì
Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó. Vì ở đâu có hai hoặc ba
người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy."
TRUYỆN
KỂ
1.
Liên hệ với người khác.
Tại một học viện quân sự, ngày
kia huấn luyện viên ra đề tài cho các sĩ quan hãy vẽ một chiếc cầu. Cả lớp đều hiểu
đó là một chiếc cầu được thiết kế cho mục đích quân sự, trừ ra một chàng sĩ
quan có ý kiến khác hẳn. Anh đặt chiếc cầu trong bối cảnh thơ mộng của một ngọn
núi, dưới ngọn núi là dòng sông mà hai bên bờ là những thảm cỏ xanh. Nổi bật nhất
là hai cậu bé đang đứng trên cầu để câu cá. Huấn luyện viên không chấp thuận
bài làm của anh và ra lệnh cho anh phải loại bỏ hai cậu bé. Thế là anh liền
chuyển hai cậu bé xuống thảm cỏ xanh, nhưng huấn luyện viên càng tỏ ra tức tối,
buộc anh không được để lại hình ảnh hai cậu bé trong bản vẽ. Cuối cùng anh vẽ
hai cái mộ trên thảm cỏ xanh của bờ sông. Anh muốn nói cho huấn luyện viên biết
rằng mình đã chôn hai cậu bé trong hai ngôi mộ đó.
Với tâm hồn nghệ sĩ hoàn toàn
khác biệt với mục tiêu quân sự, anh quan niệm chiếc cầu được xây là để nối liền
hai bờ sông hầu giúp con người qua lại mà liên hệ được với nhau. Thiếu sự đi lại
của con người, chiếc cầu không những trở nên vô nghĩa, mà còn tượng trưng cho sự
chết chóc xảy ra giữa con người với nhau.
2.
Giúp người khác nhận ra lỗi của mình
Một buổi chiều nọ, vua Đavít tản
bộ trên sân thượng và chợt thấy một phụ nữ xinh đẹp đang tắm, đó là bà
Bat-shêba, vợ của Uria. Vua sai người đưa bà đến với vua. Ít lâu sau đó,
Bat-shêba báo tin cho vua hay là bà đã có thai với nhà vua.
Khi biết chuyện, vua Đavít tìm
cách ‘bán cái’ cho chồng của bà là Uria.
Vua cho triệu Uria từ mặt trận
trở về, cho ông ta ăn uống thật no say rồi truyền cho Uria về nhà thăm vợ. Hai
đêm liền, Uria nằm ngủ trong đền vua với những tên lính canh mà không chịu về nhà.
Thấy kế hoạch ‘bán cái’ không
xong, vua Đavít ra lệnh cho tướng Yôab mượn tay quân giặc giết chết U-ria ngoài
chiến trường.
Sau đó, khi đã mãn tang chồng,
Bat-shêba được vua Đavít đón vào cung làm vợ chính thức của nhà vua. ( II Sam
11 và 12)
Vua Đavít đã phạm một tội tày trời,
thế mà vẫn ung dung như không có gì xảy ra. Đúng là trong hàng trăm lần phạm lỗi,
may ra chỉ có một lần người ta nhận ra mình có tội. Và một khi con người không
tự thấy được tội lỗi của mình để ăn năn sám hối thì cần phải có ai đó đến nhắc
bảo họ.
Thế là Thiên Chúa sai tiên tri
Natan đến cảnh tỉnh vua. Khuyên vua thì phải lựa lời, không khéo thì mất đầu
như chơi. Nhà tiên tri trình với vua: “Trong thành kia, có một người giàu sang
phú quý có cả đến hàng ngàn chiên dê và bò, trong khi đó, một người nghèo bên cạnh
chỉ có một con chiên nhỏ mà ông ta rất yêu quý, coi như đứa con gái của ông. Thế
rồi khi người giàu có khách, ông tiếc của không dám bắt chiên mình đãi khách mà
lại cho tôi tớ đi bắt con chiên độc nhất của người nghèo làm thịt."
Nghe đến đây, vua Đavít bừng bừng
nổi giận. Vua quát: “Nó đáng chết, tên ác nhân đó! Nó phải bị trừng phạt và phải
bồi thường gấp bốn vì việc nó đã làm.”
Tiên tri Natan thưa: “Người ấy
chính là vua. Nhà vua đã có nhiều thê thiếp lại còn nhẫn tâm giết chết Uria và
cướp vợ của ông ta."
Bấy giờ vua Đavít mới nhận ra tội
mình và ăn năn khóc lóc thảm thiết.
3.
Sữa lỗi cho nhau
Bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu
đưa ra những bước sửa lỗi anh em.
– Bước thứ nhất là đối thoại. Đối
thoại là giúp họ nhận ra việc họ làm, lời họ nói là sai. Đối thoại để họ nhận
ra lầm lỗi, để họ ý thức được việc họ làm, lời họ nói là xấu, là sai với đạo lý
làm người.
– Bước thứ hai cần thêm người
khác tác động. Có thể là bạn bè thân hữu của người phạm lỗi, hay có thể là người
có uy tín trong cộng đoàn. Người khác tác động là người có liên quan đến người
phạm lỗi chứ không phải bạ ai cũng nói, gặp ai cũng chia sẻ, làm như thế người
có lỗi chỉ thêm mặc cảm vì lỗi của mình, và oán ghét chúng ta hơn là biết ơn
chúng ta.
– Bước thứ ba là đưa ra cộng đồng.
Người ta vẫn thường nói “xã có phép tắc của xã. Làng có khuôn phép của làng."
Mỗi một đơn vị đều có những lề thói giúp nhau sống kỷ cương và đảm bảo an ninh
xã hội. Thế nên, cộng đồng sẽ giúp cho con người sống tốt hơn và cho môi trường
sống được lành mạnh và an bình hơn
– Bước thứ tư: hãy cùng nhau hợp
lời cầu nguyện cho họ. Trên hết mọi sự là hãy cầu nguyện cho người anh em chúng
ta. Lời cầu nguyện của chúng ta vì nhu cầu cộng đoàn và cho cộng đoàn sẽ được
Chúa chấp nhận.
4.
Con hư tại mẹ
Có một đứa trẻ từ nhỏ đã thích
ăn trộm. Một hôm, nó đi học về, trong cặp có thêm một chiếc bảng học sinh. Mẹ
nó hỏi:
– Sao con lại có tới hai chiếc bảng?
Đứa con đáp:
– Một cái là của bạn cùng lớp với
con. Con đã lén lấy cho vào cặp đấy.
Bà mẹ vui mừng nói:
– Con của mẹ thật thông minh.
Hai cái bảng chắc chắn là tốt hơn một cái rồi.
Ít lâu sau, đứa con lại mang về
một cái áo da, trị giá 50 quan tiền. Đứa con đưa chiếc áo da cho mẹ, mẹ nó
khen:
– Con trai của mẹ thật là giỏi,
biết hiếu thảo với mẹ. Ra mẹ thơm một cái nào.
Đứa con trai ngày một lớn lên,
càng ngày càng lấy trộm những thứ có giá trị hơn. Hôm nay ăn trộm bò, ngày mai
ăn trộm ngựa, ngày hôm sau trộm vàng bạc châu báu. Bà mẹ luôn luôn khen ngợi
con, trong nhà thiếu thứ gì, liền bảo với con trai để nó đi trộm về.
Có một lần, đứa con ăn trộm đồ bị
người ta bắt quả tang, giải lên quan phủ. Vì hắn trộm quá nhiều thứ nên bị phạt
tội chết. Tên trộm bị trói hai tay ra sau lưng, giải ra pháp trường. Mẹ hắn đi
theo sau, khóc lóc thảm thiết. Tại pháp trường, tên trộm xin quan cho hắn được
nói với mẹ vài lời. Khi bà mẹ bước tới gần, hắn liền cắn mạnh vào tai mẹ. Mẹ hắn
đau quá kêu toáng lên, lớn tiếng mắng con:
– Mày thật là đồ bất hiếu, tự
mình phạm tội chết còn chưa đủ hay sao mà còn muốn làm mẹ thành tật à?
Đứa con giận dữ nói với mẹ hắn:
– Lần đầu tiên tôi ăn trộm cái bảng
về, nếu bà đánh tôi một trận và dạy bảo tôi thì tôi không đến nỗi như ngày hôm
nay và đã không bị xử tội chết.
5.
Hào quang của tha thứ
Theo ABC News, ông Yigal Cohen,
một người Itraen bị đau tim nặng vừa nhận được trái tim của một người Palestin
trong cuộc phẫu thuật ngày 5-6-2000, Gia đình ông Mazen Joulani, người hiến tặng
tim, cho biết ông vừa bị những người Do Thái bắn tại một tiệm cà phê ngoài trời.
Gia đình này quyết định hiến tim
của Joulani vào thứ sáu tuần qua, ngay trong ngày mà cuộc nổ bom ở Tel Aviv làm
thiệt mạng 21 người. Những phần nội tạng khác của Joulani cũng sẽ được ghép cho
một số người Itraen khác.
Bác sĩ Lavie, người thực hiện ca
mổ, nói khi ông cầm hai trái tim trong tay, ông nhận ra rằng tất cả những mâu
thuẫn sắc tộc là hoàn toàn vô nghĩa.
6.
Hợp tác
Ngày nay, khi đi trên đường ở nước
Thụy sĩ, người ta nhìn thấy một tấm biển lớn, trên đó có trình bày hai chiếc xe
hơi: một chiếc màu đỏ, một chiếc màu xanh. Cả hai xe đi cùng chiều với nhau, những
người ngồi trong hai chiếc xe ấy đang chào nhau và tươi cười với nhau. Người
lái xe xanh đang ra dấu cám ơn lại bằng cách giở mũ chào.
Ở phần dưới tấm biển có ghi một
hàng chữ: “Hợp tác là an toàn." Điều này muốn nói lên rằng: giúp đỡ lẫn
nhau, đối xử tốt với nhau như người cộng sự bằng tình bằng hữu là một bảo đảm
cho một cuộc hành trình không nguy hiểm.
Không ai là một hòn đảo. Cuộc sống
của con người chỉ thực sự lớn lên và triển nở khi sống với người khác và sống cho
người khác. Xin Chúa ban cho chúng ta biết nhìn ra sự thật nơi mình để luôn biết
sống nương tựa nhau và giúp nhau nên hoàn thiện theo ý Cha trên trời là Đấng
hoàn thiện.
Hội thánh là một gia đình yêu
thương và là nơi hàn gắn những bất hoà chia rẽ. Vì thế, mọi người phải có trách
nhiệm liên đới với nhau để tạo sự hiệp thông liên lỉ trong Giáo hội Chúa. Mỗi
người chúng ta cần trở thành sợi dây liên kết tình anh em trong cộng đoàn nơi
mình sống. Một cộng đoàn trưởng thành là một cộng đoàn có khả năng ngồi lại với
nhau để góp ý và giúp nhau sửa lỗi. Chúng ta cần yêu thương để dám góp ý và cần
khiêm tốn để được góp ý.
7.
Trách nhiệm
Một du khách đang rảo qua khu
danh lam thắng cảnh ở Thụy Sĩ, ông dừng lại trước hàng rào của một khu vườn hoa
đẹp đẽ bao quanh một lâu đài. Người làm vườn mừng rỡ và đón chào.
Họ nói chuyện với nhau về các
loài hoa. Ông du khách hỏi: Cụ ở đây bao lâu rồi? Thưa, được 24 năm. Cụ đã gặp
chủ nhân được mấy lần rồi? Tôi đã gặp 4 lần và lần cuối cách đây ba năm. Vậy
ông ta có thường liên lạc với cụ không? Thưa không. Vậy ai trả lương cho cụ?
Viên quản gia của ông chủ. Người quản gia có năng tới đây không? Tôi chưa hề gặp
ông ta, chúng tôi liên lạc bằng thơ từ thôi. Thế thì ai thưởng lãm cảnh đẹp
này, mà cụ phải mất công chăm sóc kỹ lưỡng như vậy? Ô, thưa ông, tôi chu toàn
trách nhiệm của mình và tôi làm như chủ tôi sẽ đến ngày hôm nay, ngay bây giờ.
Ngoài ra chính khi làm đẹp khu vườn của ông chủ, vợ chồng tôi cũng được vui hưởng
cảnh đẹp.
8.
Hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi.
Đây là một thủ tục tình thương
và bác ái dạy làm hết mọi sự để giữ một người anh em đang muốn xa lìa cộng
đoàn. Vì thế, việc sửa lỗi anh em là một việc tế nhị, đòi hỏi vừa sự can đảm vừa
sự thanh nhã, đồng thời phải có sự khiêm nhường và thông cảm với anh em. Đừng
khơi thêm hố chia rẽ, nhưng hãy cầu nguyện để thành công, để đưa người anh em về
đường công chính.
Chị Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu,
chung sống trong tu viện với một chị bạn tên là Marthe. Chị này có một tật xấu
là quá quyến luyến Bà Mẹ bề trên. Têrêxa, sau nhiều tháng chờ đợi và cầu nguyện,
chị quyết định nói. Trước khi nói, chị đã cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cho con
nhìn thấy đúng sự thật”, Chị đã nói với người bạn “với tất cả tâm hồn và với tất
cả kinh nghiệm đã có." Chị Marthe như được giải tỏa tâm hồn và cũng nhìn
nhận rằng “Vị chăn chiên đừng nghe theo những lời dua nịnh dối trá, vì không có
gì tai hại cho bằng những lời ca tụng đầy nọc độc."
9.
Kiên nhẫn gặp phục thiện
Bà Coritanbul, người Ba lan gốc
Do thái. Thời đệ nhị thế chiến, bà đã bị giam trong trại tập trung Đức quốc xã.
Sau chiến tranh, may mắn bà vẫn còn sống. Bà đi khắp châu Âu kêu gọi lòng tha
thứ cho Đức quốc xã, dù trên thân thể bà đầy những tàn tích của Đức quốc xã để
lại. Một hôm, một người lính Đức, trước kia đã làm nhục bà, đang đứng trước mặt
bà. Nhìn thấy người đã hành khổ mình trước đây, bà như chết lặng; sự câm thù lại
bùng lên. Lúc đó, bà thầm thì với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể thực
sự tha thứ cho người hành khổ con. Xin ban cho con tâm tình của Chúa, để con có
thể tha thứ như Chúa…”
Câu chuyện của bài Tin mừng chúa
nhật hôm nay cũng cùng một chủ đề như câu chuyện chúng ta vừa nghe. Ý chính: là
sửa dạy anh em; nhưng căn bản của việc sửa dạy chính là sự kiên nhẫn, bác ái và
thứ tha nơi người sửa dạy, và tinh thần phục thiện nơi người được sửa…
10.
Hai kiểu ăn năn
Trong sách tu hành xưa có kể: Có
hai anh thanh niên sống không tốt lắm, họ muốn ăn năn sửa lỗi. Họ đi vào nơi
thanh vắng quyết tâm ăn chay đền tội. Sau một năm trời, họ trở về. Một người
thì vui vẻ, mặt mày sáng láng; người kia trái lại có vẻ ốm yếu, tâm trạng lại
bi quan nữa. Khi được hỏi: người vui vẻ trả lời: cả thời gian qua, tôi nhận ra
mình tội lỗi thật; nhưng tôi cũng nhận ra Thiên Chúa yêu thương tôi quá chừng,
vậy chính tôi phải sống tốt, phải vui vẻ để đền bù lại tình thương của Chúa…Còn
người bi quan đã trả lời: tôi thấy mình tội lỗi vô vàn, đáng bị Chúa phạt. Tôi
luôn bị tội lỗi dày vò, không phúc giây nào được yên tâm, khi nghĩ mình không
làm sao thoát khỏi án phạt đời đời… Qua câu chuyện này, có người sẽ hỏi: đâu là
kiểu ăn năn thật sự? Thưa đó chính là sự phục thiện, tin cậy nơi Chúa của nguời
vui vẻ, luôn tin vào Thiên Chúa. Dĩ nhiên người thanh niên kia không phải không
có lòng ăn năn, nhưng thực tế ăn năn kiểu đó chưa đủ…
11.
Tế nhị khi sửa lỗi
Đức Hồng y Roncalli (sau là Giáo
hoàng Gioan 23) ngày kia dự tiếp tân bên cạnh một nữ công tước mặc chiếc váy cực
kì ngắn. Ngài tỏ vẻ khó chịu bằng cách suốt bữa tiệc làm như không biết bà. Cuối
bữa, ngài đưa cho bà một trái táo. Rất hân hạnh, bà nói:
– Tôi không biết phải cám ơn
ngài thế nào. Nhờ đâu tôi được ngài ưu ái như thế? Ngài chăm chăm nhìn bà rồi
nói:
– Sau khi Evà ăn quả táo, bà ta
mới nhận ra là mình thiếu quần áo.
Người Ái nhĩ lan có một lời nguyện
rất hay mà tôi rất thích: God grant me the Serenity to accept the things I
cannot change, Courage to change the things I can, and Wisdom to know the
difference.
12.
Cha giáo thời đệ tử
Nhớ lại thời đệ tử. Một lần đi
chợ với cha giáo. Người bán mới nói giá này, bỗng nhiên vài phút sau chị ta
tăng giá. Thấy khó chịu nên tôi nói là sao hồi nảy chị nói giá khác sao giờ chị
nói khác!? Lát sau về đến nhà dòng, cha phụ trách mới kéo tôi ra riêng và dặn
dò cách cư xử của tôi như thế không được. Chị ta nói thế kệ chị ta, mình không
nên nói thế vì nói như thế sẽ làm bẽ mặt người ta!
Ngẫm nghĩ thấy cha giáo quá tế
nhị để sửa cho tôi những điều nho nhỏ trong cuộc sống mà không để cho ai biết.
Sau này cũng thế, sống với ngài một thời gian khá dài của thời đệ tử và tôi đều
được ngài
Kéo riêng ra để mà chỉnh sửa mỗi
khi cần chứ chưa bao giờ ngài nói đi nói lại cho người khác hay là chỉnh tôi
trước mặt người khác.
Trải qua thời gian Đệ Tử tử rồi
đến Tập Viện rồi đến Học Viện. Thời Học Viện thì khác, có lỗi gì thì tôi thấy
cha giáo không sửa trực tiếp cho mình mà thường ngài sửa theo kiểu trung gian.
Nghĩa là mỗi lần phạm lỗi gì, Ngài không gọi tôi vào nhưng ngài mang tôi ra bàn
cơm “mổ." Khi Ngài đem ra bàn cơm “mổ” rồi thì hình như cả Học Viện đều biết
vì thời đại này công nghệ thông tin quá ư là hiện đại.
Trên đây là 2 cách sửa lỗi của 2
cha giáo. Với tôi thì cách sửa lỗi của cha giáo thời Đệ Tử vẫn là cách sửa lỗi
tế nhị nhất, nhẹ nhàng nhất và cũng đỡ làm tổn thương tôi hơn cách của cha giáo
thời Học Viện.
13.
Trò ném phi tiêu
Tiến sĩ Smith là một diễn giả có
nhiều bài giảng tinh tế về tình yêu Chúa.
Một hôm khi Sally bước vào lớp học,
cô thấy trên tường có một tấm bìa lớn, gần đó có để nhiều phi tiêu. Tiến sĩ
Smith nói với tất cả học sinh hãy vẽ hình của người mình ghét nhất rồi dán lên
tấm bìa lớn và ông cho phép họ ném phi tiêu vào hình vẽ đó.
Cô bạn của Sally vẽ hình cô gái
đã "cướp" mất người yêu của cô. Một người khác thì vẽ hình đứa em
trai của mình. Sally cũng vẽ bức hình của một người bạn cũ, cô dồn công sức để
vẽ sao cho thật giống, ngay cả những cái mụn trên mặt cô bạn. Xong xuôi, Sally
có vẻ rất hài lòng với tác phẩm của mình...
Cả lớp xếp hàng và bắt đầu ném
phi tiêu, mọi người cười nói rôm rả và không khí có vẻ rất vui nhộn. Một số học
sinh ném phi tiêu rất mạnh đến nỗi tấm hình của họ bị rách toạc cả ra. Sally chờ
tới lượt mình... Và cô đã rất thất vọng khi tiến sĩ Smith đề nghị mọi người dừng
lại và trở về chỗ ngồi vì thời gian có hạn.
Trong khi Sally ngồi nghĩ và hậm
hực trong lòng vì không có cơ hội để ném phi tiêu vào hình kẻ mình ghét, thì tiến
sĩ Smith bắt đầu gỡ tấm bia ra khỏi tường.
Và sau tấm bia đó là bức hình của
Chúa Giêsu...
Một sự im lặng bao trùm cả lớp học
khi các học sinh trong lớp nhìn thấy bức hình của Chúa Giêsu bị rách nham nhở
trên tường; Những cái lỗ và những dấu lởm chởm trên mặt Chúa, và hai mắt Chúa bị
đâm thủng.
Tiến sĩ Smith chỉ nhắc lại một
câu Lời Chúa: "Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé
nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40)
Mỗi vết thương của Chúa Giêsu
trên cây thập giá là một lần tôi lên án người khác. Chúa chịu đánh đòn để hàn gắn
những vết thương chúng ta đánh nhau, Chúa chịu đội mão gai để hàn gắn sự nhục mạ
chúng ta dành cho nhau.
Trên thập giá, Chúa đi tìm anh
em của Chúa giữa nhân loại tội lỗi. Chúa mời gọi chúng ta cùng với Chúa đi tìm
anh em của chúng ta nơi mọi người: "Nếu người anh em của anh trót phạm tội,
thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh,
thì anh đã chinh phục được người anh em” (Mt 18,15).
14.
Ghét điều ác mà vẫn thương người ác
Quý Cao làm quan sĩ sư nước Vệ,
có làm án chặt chân một người. Sau nước Vệ loạn, Quý Cao chạy trốn, ra đến cửa
thành gặp người giữ cửa thành, lại chính là người mình đã lên án chặt chân ngày
trước. Thế nhưng người giữ thành ba lần chỉ chỗ cho Quý Cao trú ẩn, thoát nguy
lúc loạn lạc.
Lúc sắp đi, Quý Cao bảo người giữ
thành rằng: “Trước ta theo phép nước mà chặt chân ngươi. Nay ta gặp nạn, chính
là cái dịp để ngươi báo thù, mà ngươi ba lần chỉ lối cho ta trốn. Thương ta như
thế, là cớ làm sao?”
Người giữ thành nói: “Tội tôi
đáng chặt chân, thì tránh sao cho khỏi. Lúc ông luận tội, xoay xở pháp luật, ý
muốn nới tay, tôi cũng biết. Lúc án đã định, đưa ra hành hình, nét mặt của ông
buồn sầu, tôi lại biết lắm. Ông làm như thế, há có vị riêng gì tôi đó. Đó là
tâm địa bậc quân tử tự nhiên như thế. Nên tôi muốn cứu ông.”
Quý Cao có tâm địa tốt lành của
bậc quân tử, ghét điều ác mà vẫn thương kẻ ác.
15.
Trọng chữ tình nghĩa
Sách “Cổ học tinh hoa” kể chuyện
Ngưu Hoằng, Ngưu Bật, là hai anh em ở chung với nhau. Ngưu Bật có tính thích nhậu,
thường hay nát rượu.
Một hôm, lúc anh đi vắng, Ngưu Bật
ở nhà uống rượu say túy lúy, bắn chết con trâu của anh. Người vợ ở nhà đón đợi
chồng về, vừa thấy chồng bước vào cửa thì xăm xăm bảo chồng rằng:
- Này! Chú nó ở nhà bắn chết
trâu rồi!
- Trâu chết thì bảo đem đi làm
thịt, Hoằng bình tĩnh nói.
Nói rồi Hoằng vào nhà, vừa yên
chỗ thì vợ đã đến giục giã:
- Chú nó bắn chết trâu là việc
to lắm, có phải việc thường đâu…
Hoằng vẫn giữ nét mặt hoà nhã trả
lời:
- Phải, tôi biết rồi mà.
Rồi mở sách vở ra xem, như không
có chuyện gì cả. Thấy thế, người vợ nguôi giận, không dám nói gì nữa.
Trâu chết là việc lớn, nhưng còn
một việc lớn hơn là cái tình, cái nghĩa! Nếu đưa đi kiện cáo, trâu chết vẫn chết
mà lại mất thêm người em; chỉ nhờ nhịn chịu tật xấu của em mà Ngưu Hoằng giữ được
cái tâm bình an và được người đời sau kính phục.
16.
Lòng thanh trí sáng
Có một người đến gặp thánh Gioan
M. Vianney và nói: “Thưa Cha, con muốn thảo luận với Cha vì con có nhiều nghi vấn
về đạo.” Ngài trả lời: “Trước hết ông hãy xưng tội và rồi chúng ta sẽ thảo luận.”
Đã lâu năm không xưng tội nên
ông hơi ngỡ ngàng, nhưng vì thánh nhân nhấn mạnh, lại khuyên bảo và nâng đỡ tâm
hồn nên cuối cùng ông đã đồng ý xưng tội, cách sốt sắng. Sau khi ban phép giải
tội, ngài mới nói: “Nào bây giờ chúng ta cùng thảo luận. Có phải ông hồ nghi về
sự hiện hữu của Chúa, về tình thương của Ngài?” Người đàn ông đáp: “Thưa Cha,
bây giờ con không cần thảo luận nữa, vì mọi nghi ngờ của con về đạo không còn
khi con xưng tội xong.”
Còn gì để nghi vấn nữa khi đã gặp
được tình yêu của Đức Kitô, và biết luật để sống hạnh phúc? Thế nên “anh em đừng
mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu
toàn lề luật” (Rm 13,8).
17.
Tình liên đới
Một người Ả rập kia có con ngựa
rất đẹp. Người láng giềng tìm đủ mọi cách để mua con ngựa, nhưng chủ nhân vẫn một
mực từ chối. Người láng giềng liền nghĩ ra một mưu kế để chiếm đoạt con ngựa.
Biết người chủ ngựa thường hay
đi qua sa mạc, người láng giềng cải trang thành một người hành khất nằm rét run
bên vệ đường. Chủ ngựa là người tốt bụng, thấy người hành khất liền cảm thương,
đề nghị đưa ông ta lên ngựa đem về quán trọ săn sóc.
Con người tốt bụng kia xuống ngựa,
đưa người hành khất lên ngựa. Nhưng khi vừa lên lưng ngựa, người hành khất hiện
nguyên hình tên bất lương. Hắn giật giây cương, thúc ngựa phi nước đại.
Người chủ ngựa đáng thương chỉ
còn biết đuổi theo nói với tên bất lương: “Ngươi đã ăn cắp con ngựa của ta. Ta
sẵn sàng bỏ qua. Nhưng ta chỉ xin ngươi một điều: là đừng bao giờ kể cho ai
nghe mưu mẹo này của ngươi. Kẻo một ngày nào đó, có người hoạn nạn thật sự bên
vệ đường, sẽ không có ai dám dừng lại để cứu giúp người ấy nữa!”
18.
Sức mạnh của lời nguyện
Trong vụ khủng bố kinh hoàng tại
nước Mỹ vào ngày 11/9/2001, ngoài hai chiếc phi cơ đâm vào tòa tháp đôi tại New
York, còn một chuyến bay khác mang tên United Flight 93 đã đâm xuống một vùng
quê thuộc tiểu bang Pennsylvania.
Mọi người thắc mắc: tại sao bọn
khủng bố không dùng chiếc phi cơ này đâm vào Tòa Bạch Ốc (The White House) là
cơ quan đầu não của chính phủ Hoa Kỳ?
Phải đợi đến tháng 12 năm 2001,
người ta mới tiết lộ mọi chi tiết từ đoạn băng thu âm trong phòng lái chiếc phi
cơ.
Chiếc máy bay bị bọn không tặc
khống chế. Chúng dồn hành khách xuống cuối máy bay và dự tính cho đâm vào Tòa Bạch
Ốc.
Nhưng các hành khách dưới sự hướng
dẫn của một người đàn ông tên Todd Beamer, đã chống lại bọn khủng bố, ép cho
chiếc máy bay đâm xuống đất, thay vì đâm vào Tòa Bạch Ốc.
Có điều đặc biệt là Todd Beamer
đã xin mọi người cùng cầu nguyện với anh bằng kinh Lạy Cha trước khi xông vào
chiến đấu với bọn khủng bố. Chính sức mạnh của lời cầu nguyện đã làm tăng thêm
niềm tin nơi họ, để họ chiến thắng bọn khủng bố.
“Nếu hai người trong các con ở
dưới đất mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy Đấng ngự trên trời, sẽ
ban cho các con điều đó.”?
Chúng ta hãy xin Chúa biến cộng
đoàn chúng ta thành cộng đoàn của niềm tin, khi mọi người chúng ta luôn biết họp
nhau mỗi ngày dâng lời cầu nguyện và siêng năng tham dự thánh lễ thật sốt sắng.
19.
Lời khuyên có sức mạnh
Ngày kia khi Đức Giám Mục Amolas
đến thăm mục vụ một làng nọ, dân chúng đã bày tỏ với Ngài lòng bất mãn tột độ của
họ đối với một vị ẩn tu trên núi, vì ông ta đem theo một phụ nữ để chung sống.
Từ dạo ấy, vị ẩn tu không ngớt
là đối tượng để dân làng đàm tiếu, chỉ trích và lên án. Thấy Giám Mục Amôlas đến,
họ xúm lại vây quanh Ngài và nói: hôm nay Ngài đã đến đây thì Ngài phải chấm dứt
ngay lập tức tình trạng sa đọa bê bối gây nhiều gương mù gương xấu của vị ẩn tu
trên núi kia.
Sau khi nghe những lời kết án
gây gắt của dân làng, Giám Mục Amôlas quyết định leo lên núi. Ngài đi đầu, dân
làng lũ lượt nối gót theo sau. Vị ẩn tu thấy đám đông kéo đến túp lều của mình,
ông ta hoảng sợ và cấp tốc bảo người phụ nữ chui vào trốn trong một cái thùng gỗ
rỗng.
Đức Giám Mục là người đầu tiên đến
trước túp lều, và cũng là người đầu tiên bước chân vào. Ngài đưa mắt nhìn chung
quanh và hiểu ngay tình tình. Ung dung, Ngài đi thẳng đến chỗ ngồi ngay trên
chiếc thùng gỗ để nghỉ chân, nơi người phụ nữ ẩn trốn. Rồi bình thản khoát tay
gọi dân làng vào và bảo:
- Vào đây, các người hãy vào mà
lục xét túp lều để tìm người phụ nữ.
Không tìm thấy người phụ nữ, mọi
người đã lục tục kéo nhau xuống núi, Đức Giám Mục Amôlas tiến gần vị ẩn tu, nắm
chặt hai bàn tay của ông, đưa mắt nhân từ nhưng cương nghị nhìn sâu vào đôi mắt
của ông và chậm rãi nói:
- Hỡi người anh em, hãy cẩn thận
giữ mình kẻo mất linh hồn đấy!
Người tu sĩ đã phạm lỗi biết rất
rõ Đức Giám Mục vừa cứu anh khỏi bẽ mặt với đám đông đang phẫn nộ và muốn vạch
trần sự thật từng được che dấu. Nghe đâu sau này vị tu sĩ trẻ ấy đã toàn tâm
toàn ý tu tâm sửa tính, và trở thành bậc thầy đạo hạnh nổi tiếng khắp vùng.
20.
Cái thùng bị thủng
Một người kia có hai chiếc thùng
lớn để gánh nước. Một trong hai chiếc thùng ấy bị thủng. Vì thế, khi gánh từ giếng
về, nước trong thùng chỉ còn một nửa. Chiếc thùng còn nguyên rất tự hào về sự
hoàn hảo của mình, còn chiếc thùng bị thủng cứ luôn áy náy vì đã không chu toàn
nhiệm vụ.
Một ngày kia, chiếc thùng bị thủng
mới thưa với ông chủ:
- Tôi thật sự xấu hổ về mình,
tôi muốn xin lỗi ông!
Ông chủ ngạc nhiên hỏi lại:
- Nhưng ngươi xấu hổ về chuyện
gì?
Chiếc thùng buồn bã trả lời:
- Chỉ vì cái lỗ thủng trên thân
tôi mà ông không nhận được đầy đủ những gì xứng đáng với công sức của ông!
Đến đây thì ông chủ ôn tồn bảo:
- Không đâu, ngươi cứ yên tâm. Mỗi
khi đi từ giếng về nhà, ngươi hãy chú ý nhìn xem những luống hoa bên vệ đường.
Quả thật, dọc theo bên đường là những luống hoa thật rực rỡ.
Chiếc thùng bị thủng cảm thấy
vui vẻ hơn được một lúc, nhưng rồi về đến nhà, nó vẫn chỉ còn được một nửa
thùng nước. Chiếc thùng lại thấy ân hận:
- Tôi xin lỗi ông!
Ông chủ lại hỏi:
- Ơ hay, thế ngươi không nhận ra
rằng hoa chỉ mọc ở bên này đường, phía của ngươi thôi sao? Ta đã biết được cái
lỗ thủng của ngươi và ta đã tận dụng nó. Ta đã gieo những hạt giống hoa bên vệ
đường phía bên ngươi, và trong những năm qua, chính ngươi không ngờ mình đã tưới
cho chúng được tốt tươi. Ta đã hái những đóa hoa để trang hoàng cho căn nhà. Nếu
không có ngươi, căn nhà của ta đâu có được tươi mát và duyên dáng như thế này!
Ông chủ đã sửa chữa khuyết điểm
của chiếc thùng bị thủng rất là tế nhị và tài tình. Thay vì đem hàn lại lỗ thủng
hoặc bỏ hẳn chiếc thùng đi, ông lại sử dụng nó vào hai nhiệm vụ, vừa gánh nước
vừa tưới hoa. Điều này đã khiến nó không còn áy náy, mà trái lại, càng thêm
hãnh diện vì đã đem lại lợi ích cho chủ nó.
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu
cũng dạy chúng ta hãy khéo léo sửa lỗi cho nhau như thế: “Nếu người anh em của
ngươi trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó." Như vậy, đây là một bổn
phận, một trách nhiệm trong cộng đoàn. Bổn phận này rất khó làm vì nó gây khó
chịu cho người lỗi phạm.
21.
Món quà lòng tốt
Nạn đói xảy ra trong vùng. Một
người ăn xin bên góc đường bước đến bên đại văn hào Nga, Tolstoy, đang đi ngang
qua đó. Tolstoy dừng lại, lấy tiền cho nhưng không tìm được đồng nào. Ông nói với
sự nuối tiếc: " Này người anh em, đừng giận tôi. Tôi chẳng đem theo gì."
Mặt người ăn xin sáng lên và nói:
"Ông gọi tôi là anh em, đó đã là món quà rất lớn rồi!"
22.
Philipphe sửa lỗi nói hành
Thánh Philipphê Nêri một ngày
kia muốn sửa lỗi cho một người phụ nữ có cái tật hay nói hành nói xấu người
khác. Ngài bảo chị ta mua một con gà rồi làm cho nó chết đi....sau đó hãy đem
con gà đó đến gặp Ngài với điều kiện là phải vặt hết lông con gà trên đường đi
đến gặp ngài. Người phụ nữ hơi thắc mắc nhưng vì lòng mến đối với thánh nhân
nên cũng vui lòng làm như ngài đòi hỏi. Khi tới nơi, ngài không khuyên lơn gì cả
mà lại ra lệnh cho bà đó trở về.... vừa đi vừa lượm lại cho ngài hết số lông
con gà mà bà đã vứt ở giữa đường.
Chúng ta thừa biết phản ứng của
người phụ nữ đó như thế nào.
Sau đó ngài cắt nghĩa: "Những
lời nói vu oan cáo vạ cho người khác khi ra khỏi miệng cũng sẽ nhanh chóng loan
truyền từ tai người này sang tai người khác như vậy, khó mà con thể thu lượm lại
được...chẳng khác gì phải thu lượm lại những cái lông gà....của con vậy.."
Rồi ngài thêm "Còn khi muốn nói về một người nào làm khổ mình thì chỉ nên
nói với Chúa mà thôi....hãy cầu nguyện cho họ để họ biết sửa lỗi."
23.
Sức mạnh của lời cầu nguyện
Chúng ta hãy nghe những lời sau
đây của Thánh Augustinô: "Nhờ ơn của mẹ tôi, nhờ lời cầu nguyện và công
phúc của người mà tôi đã thành người như hiện nay. Lạy Chúa nếu con được làm
con Chúa, chính vì Chúa đã ban cho con một người mẹ, một trong những tôi tá của
Chúa.”
Thánh Têrêsa bằng lời cầu nguyện
của mình đã làm cho một tử tội tưởng chừng như không thể khuất phục ăn năn và
chịu các Bí tích cuối cùng trước khi lên đoạn đầu đài.
Ngày kia, thánh Etienne, đang giảng
thuyết trước một cử tọa đông đảo, bỗng có một người dám nói với ngài:
- Thưa cha, mặc dù cha nói nhiều
đến sự khinh tởm tội lỗi, con cũng chả muốn hoán cải tí nào và con rất bực bội
khi nghe tin cha cầu nguyện cho con.
Ngạc nhiên trước những lời nói bạo
gan này, vị thánh xúc động đến nỗi ngài phải khóc ròng. Và ngay sau đó, ngài
đánh chuông tập họp tất cả các tu sĩ lại, bảo:
- Chúng ta hãy mau cầu nguyện
cho con người đáng thương này!
Vài giờ sau đó, trái tim của kẻ
tội lỗi cứng đầu này hoàn toàn thay đổi; anh ta nhận ra tình trạng thảm hại của
mình và quyết định sống một cuộc đời đối mới. Anh đến tìm gặp vị thánh, phủ phục
dưới chân ngài xin tha thứ, và hứa sẽ từ bỏ các tật xấu, không bao giờ tái phạm
nữa.
24.
Không nhận lỗi
Dale Carnegie nổi tiếng về những
sách học làm người, đã viết:”Tôi đã phải phấn đấu gần một phần ba thế kỷ mới thấy
được ánh sáng chân lý này: dù người ta có lỗi nặng đến đâu, thì trong 100 lần tới
99 lần người ta tự cho mình là vô tội."
Bà đã kể trường hợp về ba tên đầu đảng bọn cướp
nổi tiếng nhất nước Mỹ: Crowley, Capone và Schultz.
Crowley giết người như ngóe mà vẫn nói:”Dưới lớp
áo này, trái tim ta đập chán ngán, nhưng thương người không muốn làm hại ai."
Capone đã tự tuyên bố:”Ta dùng những năm tươi
đẹp nhất trong đời để mua vui cho thiên hạ. Vậy mà phần thưởng chỉ là bị chửi,
bị săn bắt như thú dữ."
Schultz đã tự mãn khoe mình với ký giả:”Ta là
ân nhân của thiên hạ”
25.
Án Tử căn ngăn vua.
Vua Cảnh Công nuớc Tề, có một
con ngựa qúi, giao cho một người chăn nuôi. Con ngựa tự nhiên một hôm lăn ra chết.
Vua giận lắm, cho là giết ngựa, sai quân cầm dao để phanh thây người nuôi ngựa.
Án Tử ngồi chầu, thấy thế ngăn lại, hỏi nhà vua:
- Vua Nghiêu, vua Thuấn xưa
phanh người thì bắt đầu từ đâu trước?
Cảnh Công ngơ ngác nhìn nói:
- Thôi hãy buông ra, đem giam xuống
ngục để rồi trị tội.
Án Tử nói rằng:
- Tên phạm này chưa biết rõ tội
mà phải chịu chết, thì vẫn tưởng là oan. Tôi xin vì vua kể rõ tội nó, rồi hãy bỏ
ngục.
Vua nói:
- Phải.
Án Tử kể tội rằng:”Nhà ngươi có
ba tội đáng chết. Vua sai nuôi ngựa mà để ngựa chết là tội đáng chết. Lại để chết
con ngựa rất qúi của vua, là hai tội đáng chết. Để vua mang tiếng, vì một con
ngựa mà giết chết một mạng người, làm cho trăm họ nghe thấy ai cũng oán vua,
các nước nghe thấy ai cũng khinh vua, ngươi làm chết một con ngựa mà để đến nỗi
dân gian đem lòng oán giận, nước ngoài có bụng dòm dỏ (ngấp nghé xem nguời ta hở
cơ là làm hại), là ba tội đáng chết, ngươi đã biết chưa? Bây giờ hãy tạm giam
ngươi vào ngục...."
Cảnh Công nghe nói ngậm ngùi
than rằng:
- Thôi, tha cho nó! Kẻo để ta
mang tiếng bất nhân.
CNTN 23B -
Lời
Chúa: Mc 7, 31-37
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy,
Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô, qua Siđon, đến gần biển Galilêa giữa miền thập tỉnh.
Người ta đem một kẻ câm điếc đến cùng Người và xin Người đặt tay trên kẻ ấy.
Người
đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi
anh ta. Ðoạn ngước mặt lên trời, Người thở dài và bảo: "Effetha!"
(nghĩa là "Hãy mở ra!"), tức thì tai anh ta mở ra, và lưỡi anh ta được
tháo gỡ, và anh nói được rõ ràng. Chúa Giêsu liền cấm họ đừng nói điều đó với
ai. Nhưng Người càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn. Họ đầy lòng thán phục
mà rằng: "Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người
câm nói được!"
TRUYỆN
KỂ
1. Cần
hiểu nhau để sống chung
Khi ở
nước ngoài, có dịp gặp những người Việt sinh sống xa quê hương xứ sở, tôi hỏi họ:
“Sống ở nước ngoài, điều gì khiến ông bà buồn khổ nhất.” Họ trả lời: “Khổ nhất
là chúng con sống như những người điếc và ngọng. Không biết tiếng nên ngọng
nghiụ, nói chẳng nên lời, thành ra không làm cho người ta hiểu được mình. Người
ta nói gì mình cũng chẳng hiểu, thật y như người điếc.”
Nghe
và nói là hai cánh cửa. Nói là cánh cửa mở tâm hồn mình ra thông giao với thế
giới bên ngoài. Có gì tích chứa trong lòng, phải nói ra thì người khác mới hiểu.
Nghe là cánh cửa mở ra đón nhận thông tin từ thế giới bên ngoài. Phải nghe mới
hiểu được người khác. Không nghe không nói cũng giống như đóng kín cánh cửa cảm
thông. Mình không hiểu người mà người cũng không hiểu mình. Sống bên nhau mà
không hiểu nhau thì thật đáng buồn và đáng sợ.
2. Chạm
đến trái tim
Ở bên
Mỹ, muốn đoạt được giải thưởng nổi tiếng thì tác phẩm của mình phải làm tác động
đến trái tim người đọc và có thể vượt qua mọi biên giới của các quốc gia. Có một
nhà văn cũng là một nhà báo mơ ước như vậy.
Nhưng
một ngày kia, tình cờ ông ta đến một nhà dưỡng lão, gặp một cụ già ngồi ghế đá.
Ông cụ kể về gia đình, con cái của cụ. Ông có nhiều con nhưng chúng đi xa hết,
đứa con gái út ở tận bên Đức, ít khi liên lạc được bằng điện thoại. Tay ông bị
liệt nên không viết thư được cho con, nghe vậy ông nhà báo liền lấy giấy viết
ra viết dùm ông cụ một lá thư. Viết xong anh cầm tay cho ông cụ ký tên. Và hai
hàng nước mắt của cụ lăn trên má. Ông cụ cảm thấy hạnh phúc vô cùng, anh nhà
báo trở về nhà và hai hàng nứơc mắt cũng tuôn chảy.
Anh cảm
thấy ngày hôm ấy anh đã đoạt được giải thưởng rồi. Anh chỉ viết một lá thư
thôi. Nhưng những dòng chữ ấy đã chạm đến trái tim con người, anh đã cho cụ mượn
đôi tay, mượn cái miệng để diễn tả nỗi lòng của ông cụ đối với đứa con gái thân
yêu và xa cách nghìn trùng.
3. Cần
học lắng nghe
Một công ty xây cất lớn đang vẽ
sơ đồ để xây một toà nhà mới. Năm kỹ sư trẻ và một kiến trúc sư làm việc trên bản
thiết kế, họ đang bàn luận về những phương cách sắp xếp một phần nào đó của toà
nhà. Khi một người trong nhóm đột nhiên đề nghị một điều anh nghĩ là một phương
cách mới để thi hành.
Những người khác nhìn anh đầy vẻ
ngạc nhiên. Người trưởng nhóm phải trả lời anh rằng ý kiến của anh đã có người
đề nghị rồi, đã cứu xét và đã bị bác bỏ. Điều gì xảy ra vậy. Người kỹ sư trẻ
này đã không lắng nghe ý tưởng đó lần đầu tiên được đề nghị. Anh không nắm được
vấn đề. Kết quả là anh không được thăng cấp, anh không được tăng lương. Anh đã
phải trả cái giá không lắng tai nghe.
4. Các
bức tường
1. Bức
tường Bá Linh (Berlin). Ngày 13/08/1961, người ta xây một bức tường chưa từng
thấy trong lịch sử loài người: cao 8 mét, dài 700 cây số ngăn đôi một gia đình,
một thành phố, một dân tộc, một nước Đức, không ai được qua lại với nhau. Nó
chia đôi thế giới ra hai phe: tư bản và cộng sản thù nghịch nhau, coi nhau như
kẻ thù ghê gớm. Ai vượt qua bức tường đó hoặc bị bắt hoặc bị bắn chết. Mãi đến
28 năm sau, ngày 13/11/1989 bức tường đó bị phá đổ, chấm dứt hận thù chia rẽ.
Gia đình, dân tộc được đoàn tụ với nhau, nước Đức được thống nhất, thế giới chấm
dứt chiến tranh lạnh, trở thành đồng minh đồng chí với nhau.
2. Bức
tường câm điếc. Tật câm điếc cũng ngăn cách kẻ câm điếc với gia đình và xã hội.
Điếc không nghe, không hiểu, không thông cảm với ai được ; câm không nói, không
làm cho người ta hiểu tâm tư nguyện vọng của mình.
3. Bức
tường giữa Do thái và chư dân. Cách chữa ân cần và đặc biệt của Đức Giêsu,
không phải chỉ cứu anh câm điếc dân ngoại này khỏi bị ngăn cách với gia đình và
xã hội, mà còn chữa một bệnh quan trọng hơn, đó là bệnh ngăn cách Do thái với
dân ngoại, ngăn cách ơn cứu độ của Thiên Chúa tới muôn dân.
4. Bức
tường giữa loài người và Thiên Chúa. Một bức tường ghê gớm khủng khiếp đã ngăn
cách con người với Thiên Chúa. Không có một sức mạnh nào của loài người phá đổ
được, chỉ có Đức Giêsu, Đấng Cứu Thế, mới phá đổ được thôi: Đó là bức tường tội
lỗi mà kẻ gieo rắc là satan.
5. Bức
tường Bá Linh.
Ngày 13/08/1961, người ta xây một
bức tường chưa từng thấy trong lịch sử loài người: cao 8 mét, dài 700 cây số
ngăn đôi một gia đình, một thành phố, một dân tộc, một nước Đức, không ai được
qua lại với nhau, coi nhau như kẻ thù ghê gớm. Ai vượt qua bức tường đó hoặc bị
bắt hoặc bị bắn chết. Mãi đến 28 năm sau, ngày 13/11/1989 bức tường đó bị phá đổ,
chấm dứt hận thù chia rẽ. Gia đình, dân tộc được đoàn tụ vơi nhau, nước Đức được
thống nhất, thế giới chấm dứt chiến tranh lạnh, trở thành đồng minh đồng chí với
nhau (Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm B, tr 175).
Chúa ban cho người câm điếc có
thể nghe được và nói được để anh có thể dùng hai khả năng ấy để chia sẻ với mọi
người. Đây là hai ân ban của Chúa. Chúng ta cũng phải dùng ân ban ấy cho đúng,
bởi vì trong chúng ta, nhiều người có đôi tai tốt nhưng không biết lắng nghe,
nhiều người có cái lưỡi tốt nhưng không biết nói những lời đáng nói. Cho nên
chúng ta cần phải được Chúa chữa trị để biết chia sẻ cho nhau.
6.
Con là môn đệ của ai?
Hồi ấy, Giêrônimô (342-420) là một
văn hào lỗi lạc về văn chương cổ điển và không biết gì về Thiên Chúa. Ngài say
mê đọc các tác phẩm của Cicéron. Một hôm, ngài nghe tiếng Chúa hỏi:
- Giêrônimô, con là môn đệ của
ai ?
- Thưa, con là môn đệ của Chúa.
- Không phải, con là môn đệ của
Cicéron.
Từ đó, Giêrônimô giác ngộ và quyết
chí học hỏi Lời Chúa. Ngài được ơn Epphata. Ngài qua thánh địa vào ẩn tu trong
hang đá Belem để phiên dịch Thánh Kinh, để suy niệm Lời Chúa, sống trong khung
cảnh Chúa đã sống. Ngài đã nói: ”Ai không hiểu biết Thánh Kinh là không biết
Chúa Giêsu.” Bản dịch Vulgata (Phổ thông) của Ngài đã được công đồng Triđentinô
(thế kỷ 16) nhìn nhận là phù hợp với đức tin và được coi là bản dịch chính thức
của Hội thánh.
7. Lưỡi
và tai
Báo Tuổi Trẻ có đăng bài xã luận
về "Cái lưỡi và cái tai" như sau:
Một hôm trong lúc đang ngồi uống
trà và hàn thuyên tâm sự với nhau, tự nhiên tôi thấy ông Hai Hưu Trí có vẻ tư lự
và phát biểu như sau:
- Người đời thường hay đổ thừa mọi
điều xằng bậy là do tội của "cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo.”
Nhưng tôi nghĩ nếu chỉ có cái lưỡi thì cũng chẳng có vấn đề! Anh cứ ngẫm lại mà
coi, nếu chỉ có mấy cái lưỡi lươn lẹo, xu nịnh thường hay múa may với nhau thì
bất quá cũng chỉ làm điếc tai hàng xóm láng giềng mà thôi. Cái lưỡi chỉ có thể
làm nên những chuyện tày trời nếu nó được hỗ trợ của những "cái tai"
không biết phân biệt tốt xấu, thật giả của mấy ông: "Nhà báo nói láo ăn tiền.”
Nhưng họ lại quên không chê mấy
ông cấp trên quan liêu chỉ khoái được nghe những bài báo cáo thành tích khi
chưa kiểm tra thực hư! Nếu chỉ chuyên có cái lưỡi thì chắc sẽ không thể "vẽ
vời" để biến một công ty đang từ tình trạng làm ăn thua lỗ, gây thiệt hại
hàng chục tỷ đồng cho nhà nước, bỗng dưng trở thành một công ty đang trên đà
phát triển và làm ăn khấm khá. Nếu có những cái tai thực sự ngay chính thì những
lời đường mật như vậy làm sao có khả năng gây ra biết bao thiệt hại được.
Nghe ông Hai Hưu Trí triết lý một
hồi như vậy, tôi liền thêm vào:
- Hôm nay Bác Hai nói thật là
chí lý thậm phải!
Ông Hai Hưu Trí bèn cười lên một
tiếng lớn rồi ôn tồn nói:
- Nè nhá, cũng bởi cái tai của
chú mày chỉ khoái nghe những chuyện xốc hông xiên xỏ, nên cái lưỡi của lão già
rách việc này mới có cơ hội múa may như từ nãy đến giờ, phải không chú em?
8. Kính
trọng cái áo đẹp
Hôm đó, một đệ tử của một vị thiền
sư đi dự một buổi lễ trở về, mặt mày hớn hở. Khi được hỏi tại sao hớn hở như vậy,
người đệ tử ấy cho biết là mọi người đều khen anh mặc áo đẹp. Vị thiền sư ôn tồn
chỉ dạy: "Con chẳng có gì để vui mừng hớn hở cả, vì người ta khen chiếc áo
đẹp chứ đâu phải khen con đẹp.”
Một ông nhà giàu mở tiệc khoản
đãi tất cả những người láng giềng. Cạnh nhà ông có một người rất nghèo. Vì nễ
tình hàng xóm nên người này cũng đến dự. Tuy nhiên người này nghèo nên chiếc áo
anh mặc rất là tầm thường. Khi tới cổng, anh bị các đầy tớ của người nhà giàu
không cho vào. Tức quá, anh mượn một chiếc áo rất đẹp của một người nhà giàu
khác và lại đến. Lần này, anh được mời vào tử tế. Rủi thay, đang lúc lấy thức
ăn thì một cánh tay áo rơi vào dĩa thức ăn. Lý do là chiếc áo đặc biệt này có
hai cánh tay loại tháo ráp được. Người nhà nghèo chưa quen mặc nên đã không cẩn
thận cài nút ở chỗ ráp nối. Những đầy tớ thấy vậy bảo anh nhà nghèo mau lượm
cánh tay áo lại. Nhưng anh nhà nghèo thản nhiên nhìn cánh tay áo và nói:
"Mày nằm trong dĩa thức ăn thì cứ tha hồ mà ăn cho thoả thích đi nhé, vì
người ta kính trọng mày chứ đâu phải kính trọng tao.”
9. Tứ
chứng nan y của nhà vua
Có một
ông vua nọ bị dân gán cho một căn bệnh hiểm nghèo, đó là “Tứ chứng nan y” gồm:
Mù, què, câm, điếc.
Một
hôm, một người vào cung vua, yết kiến. Vua hỏi:
- Nhà
ngươi vào gặp ta chắc có chuyện gì?
- Tâu
bệ hạ - người đó thưa lại - hạ thần nghe rằng bệ hạ đang mang một căn bệnh rất
hiểm nghèo là “Tứ chứng nan y” nên hạ thần vào thăm bệ hạ.
Nghe
thế, nhà vua liền nổi giận quát:
- Kẻ
nào dám bịa đặt bảo ta bị bệnh? Chân tay mắt mũi ta lành lặn thế này mà bảo ta
mù, què, câm, điếc sao?
Người
kia liền tâu:
- Thần
nghe thiên hạ đồn như vậy, nay gặp vua mới biết sự thực. Nhưng xét lại, thì tin
đồn ấy cũng chẳng sai.
Nhà
vua chặn lời và nói:
- Vậy
ngươi hãy chỉ cho ta xem nào!
- Tâu
bệ hạ, thứ nhất dân kêu kiện nhiều mà bệ hạ không thèm trả lời, không giải quyết,
nên bọn họ tưởng bệ hạ bị câm. Thứ hai, giặc ngoại bang tràn lan muốn xâm chiếm
đất nước, nhân dân hoang mang lo sợ, kêu cầu nhà vua, mà vua không lo gì hết,
nên họ tưởng là nhà vua họ bị điếc. Thứ ba, cuộc sống của bệ hạ thì quá sung sướng,
trên nhung dưới lụa, còn ngược lại, dân chúng sống trong cùng cực, đói khổ. Họ
không hề thấy bệ hạ dòm ngó gì đến họ, cũng chẳng thèm quan tâm lo lắng đến đời
sống của họ, nên họ tưởng bệ hạ bị đui. Và cuối cùng, vì họ không bao giờ thấy
bệ hạ ra khỏi cung điện, mà ngày đêm chỉ biết ăn chơi với các cung phi, nên họ
tưởng là bệ hạ bị què!
10. Tứ
chứng nan y của người thường
Carnégie
thuật lại rằng: Một bà kia đã dọn cho nam giới trong gia đình bà: chồng và các
con trai của bà, một bàn ăn rất lịch sự, đầy hoa, nhưng có một nắm cỏ khô trong
mỗi dĩa.
- Sao
thế, hôm nay dùng cỏ khô à?
- Ồ,
không đâu! Tôi sẽ đưa thức ăn lên ngay lập tức. Nhưng hãy nghe tôi nói một điều:
Từ bao nhiêu năm trời, tôi đã nấu nướng cho các “người”, tôi đã cố gắng thay đổi
món ăn, bữa thì món cơm, bữa thì món hầm, bữa khác thì món quay hoặc món “ragu.”
Không bao giờ các “người” nói: “Ngon quá! Bà chiều chúng tôi quá.” Hãy nói lên
một tiếng chứ, tôi đâu phải là đá! Người ta không thể làm khi không thấy một dấu
cám ơn, một lời khuyến khích hay khen thưởng.
11. Bảy
kỳ quan thế giới
Một
nhóm sinh viên được yêu cầu lập danh sách bảy kỳ quan của thế giới hiện nay. Mặc
dù có một số bất đồng, nhưng đa số đều bình chọn theo danh sách sau:
1. Kim tự tháp Ai cập
2. Đền Taj Mahal.
3. Đại vực Grand Canyon.
4. Kênh đào Panama.
5. Tòa cao ốc Empire State.
6. Đền thờ thánh Phêrô ở Roma.
7. Vạn Lý Trường Thành.
Khi tập
trung phiếu bình chọn, bà giáo sư để ý thấy có một sinh viên chỉ ngồi im lặng,
không nộp lại phiếu của mình. Thấy thế, bà liền đến hỏi xem phiếu của cô có vấn
đề gì không. Cô gái trả lời:
-
Vâng, thưa giáo sư. Có chút ít ạ ! Có lẽ em không cần nộp vì phiếu của em quá
khác so với các bạn.
Vị
giáo sư nói:
- Vậy
thì em hãy cho cô biết sự lựa chọn của em để tôi và các bạn xem có thể giúp gì
không?
Cô
sinh viên phân vân giây lát, rồi bắt đầu nói đến bảy kỳ quan thế giới theo nhận
định riêng của cô là :
1. Vuốt ve
2. Nếm mùi vị
3. Ngắm nhìn.
4. Lắng nghe
5. Cảm nhận.
6. Cười vui
7. Tình yêu
Cả lớp
học hoàn toàn im lặng. Bởi đó là những điều ta thường quên lãng vì chúng quá
đơn giản và quá đỗi bình thường, nhưng thật sự ra đó mới là những kỳ quan tuyệt
vời. Chính chúng mới làm nên hạnh phúc cho cuộc đời của ta chứ không phải là những
kỳ quan vĩ đại trên cõi đời này. (Mao Trí Hùng sưu tập)
12. Phá
đổ bức tường Bá-linh
Ngày
13.8.1961, một bức tường cao 8 mét, dài 700 cây số đã được cấp tốc xây dựng để
làm biên giới, phân chia nước Đức làm hai quốc gia đối nghịch với nhau là Đông
Đức và Tây Đức. Bức tường này được gọi là bức tường Bá-linh (Berlin). Từ đây,
nhiều gia đình bị phân ly, nhiều ngôi nhà bị chia cắt làm đôi, và tiếp theo đó
là sự hình thành một bức tường tâm lý, mang tính thù hận và chia rẽ ngăn cách
nhau.
Mãi đến
ngày 13.11.1989, sau thời gian tồn tại 28 năm, bức tường Bá-linh này mới bị phá
huỷ. Từ đây các gia đình đang phân tán lại được đoàn tụ, dân tộc và đất nước lại
tái thống nhất. Thế giới chấm dứt thời kỳ chiến tranh lạnh và hai nước Đông và
Tây Đức đang thù nghịch nhau lại trở thành đồng minh với nhau, cùng nhau hợp
tác xây dựng hoà bình, đưa đất nước này ngày một thăng tiến về mọi mặt.
13. Ông
già uyên bác
Một
ông già kia nổi tiếng là người có kiến thức rộng. Tuy trình độ văn hoá của ông
mới hết bậc phổ thông, nhưng ông lại có vốn kiến thức hiểu biết sâu rộng về nhiều
lãnh vực như khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa triết lý và thần học…
Tiếng
đồn về ông già có kiến thức rộng này ngày càng đi xa và nhiều người đã đến viếng
thăm ông để hỏi ý kiến của ông về các thắc mắc và các vấn đề liên quan đến cuộc
sống. Họ đã được ông cụ tận tình giải đáp và cho ý kiến. Ngày nọ, một vị giáo
sư đại học đã đến thăm ông. Sau buổi đàm đạo lâu giờ, vị giáo sư đã hỏi ông cụ
nguyên nhân nào khiến ông có sự hiểu biết rộng rãi và đúng đắn như vậy. Đồng thời
xin ông giới thiệu một cuốn sách mà ông đã đọc.
Nhưng
thật bất ngờ, ông cụ đã trả lời như sau: “Thưa ngài, thực sự tôi không có thời
giờ và cũng chẳng có khả năng để đọc các quyển sách cao siêu về khoa học, triết
lý hay thần học…Hằng ngày tôi chỉ đọc có 3 cuốn sách mà bất cứ ai cũng có thể đọc
được: Cuốn thứ nhất là những công trình lạ lùng kỳ diệu Thiên Chúa đã và đang
làm nơi bản thân tôi và chung quanh tôi. Nhờ đó, tôi có dịp dâng những lời ngợi
khen ca tụng Người. Cuốn thứ hai là những sự việc đã xảy ra trong cuộc đời tôi.
Nhờ đó, tôi có dịp hồi tâm sám hối tội lỗi đã phạm, cảm tạ những ơn lành Chúa
ban và cầu xin Người ban cho các ơn lành hồn xác, nhất là ban ơn cứu độ. Cuốn
sách thứ ba là Lời Chúa trong Thánh Kinh. Mỗi ngày tôi luôn dành ra một thời
gian vào lúc sáng sớm để đọc một đoạn Lời Chúa trong Thánh kinh, rồi suy niệm
và cầu xin Chúa giúp thực hành trong đời sống hằng ngày. Mỗi lần dự lễ, tôi
luôn để tâm lắng nghe Lời Chúa qua các bài đọc, nhất là bài giảng của vị chủ tế
hôm ấy.”
14. Thiên
Chúa có ở bên tôi không?
Có một
câu chuyện vui kể về một tín đồ rất ngoan đạo, bị kẹt trong một cơn lũ lụt mà
nước mỗi lúc một dâng cao. Anh ta từ chối việc di tản. Anh nhất quyết phải chứng
minh rằng Thiên Chúa sẽ giải cứu anh.
Nước
lụt mỗi lúc lại dâng cao hơn, và người ấy đến lúc đã bị kẹt trên mái nhà mình,
đang cầu nguyện xin Chúa một phép lạ. Ba lần người ta dùng thuyền tới cứu, song
anh không chịu lên thuyền, bảo họ hãy đi đi. Anh quyết bám vào mái nhà để chờ
phép lạ của Chúa. Cuối cùng anh bị nước cuốn đi và bị chết chìm. Khi ra trình
diện tại cửa thiên đàng, anh ta phẫn nộ thưa với Chúa:
- Lạy
Chúa, vì sao Ngài không tôn trọng đức tin của con?
Chúa
trả lời:
- Ta
đã ba lần đưa thuyền đến cứu con, nhưng con đã không chịu bước vào!
15. Bệnh
câm điếc thời đại
Bệnh
câm điếc thời đại làm cho người hiện đại chẳng hiểu nhau. Ai cũng vẫn có thể
nghe nói được, nhưng chỉ nói và hiểu dưới cái nhìn chủ quan của mình.
Có
câu chuyện dân gian kể rằng: Cụ bà trải chiếu giữa sân. Cụ ông ngồi xuống đập đập
hai chân vào nhau phủi bụi rồi nói:
–
Chán ghê hết thuốc lào rồi.
– Bà
lão: Trưa vừa rào lại đấy thôi, quên à?
– Ông
lão: Tôi bảo hết thuốc lào mà
– Bà
lão: Vừa cơm xong nấu cháo gà gì ông
– Ông
lão: Điếc rồi, thế có chán không
– Bà
lão: Giờ này còn định ra sông tắm, trời! Ông đúng là đồ dở hơi
– Ông
lão: Dở hơi mà lại biết bơi đấy bà
– Bào
lão: Ông bảo gì mà cháy nhà, cẩn thận cái miệng không là chết oan.
16. Nỗi khổ của người điếc
Một
phụ nữ kia có người bạn bị điếc. Ngày nọ bà ta hỏi người bạn muốn được tặng gì
vào ngày sinh nhật. Người bạn ấy đáp lại thật bất ngờ: “Xin bạn hãy vui lòng viết
thư cho Ann Landers yêu cầu bà ta in lại bảng kinh cầu nguyện cho người điếc.
Bà ấy đã từng in nó trước đây vào mục của bà trong một tờ báo, nhưng tôi đã
đánh mất bản sao mục đó rồi!” Thế là người phụ nữ đã viết thư cho Ann Landers.
Và vào ngày 1.6 ngày sinh nhật của cô bạn, bà Ann đã in lại lời cầu nguyện đó
trong cột báo của mình. Một đoạn trong lời cầu đó như sau:
“Lạy
Chúa, nỗi đau khổ mà người điếc phải gánh chịu là đa số thiên hạ xem họ như những
người chuyên làm phiền người khác. Người ta thường thiện cảm với người mù, người
què, nhưng lại thường nổi xung và bực bội với người điếc. Kết quả là người điếc
thường phải trốn lánh bạn bè và càng ngày càng trở nên khép kín” (William
Barclay)
Chính
Helen Keller, một người vừa bị mù vừa bị điếc cũng nói rằng bị điếc không nghe
được, thì những cánh cửa cuộc đời hầu như bị khép lại như khi mở radio thì chẳng
hiểu gì, xem truyền hình cũng thế, và hầu như không thể trò chuyện được với ai
cả, vì thế, sau một thời gian họ cảm thấy cô đơn như bị bỏ rơi.
17.
Trái tim chữa khuyết tật
Cha
Giuse Trần Việt Hùng kể: Tôi có quen biết một ông bị mù cả hai mắt mà rất linh
hoạt trong cộng đoàn. Ông đã làm việc nhiều hơn những người bình thường. Để có
tiền tiêu pha trong gia đình và giúp đỡ việc bác ái, ông làm nghề nấu rượu. Ông
tự làm men, nấu cơm, ủ cơm lên men, nấu rượu và pha chế rượu. Ông còn chế rượu
ngâm thuốc bắc và các loại rượu bóp dẹo để bán và để tặng. Đôi khi ông ấy còn
làm đồ nhắm rất tuyệt vời đãi bạn bè với rượu đế và thịt nai đồng quê nữa. Có
những người bị sút lưng, trật gân hay trẹo tay chân đều tìm đến ông để được xoa
bóp và chữa trị.
Tuy
không nhìn thấy nhưng đôi tay và đôi tai rất bén nhậy. Ông rất nhiệt tình trong
việc nuôi dưỡng ơn gọi linh mục như giúp đỡ tiền bạc và nhận đỡ đầu các chủng
sinh. Lập hội bác ái giúp người nghèo khổ, phong cùi và các trẻ mồ côi ở Việt
Nam. Không quản ngại mưa nắng và gió tuyết lạnh lẽo, ông trung thành trong việc
đưa rước tượng Đức Mẹ Maria tới từng gia đình trong cộng đoàn quanh năm suốt
tháng.
Được
biết trong thời gian mới nhập cư tại Hoa Kỳ, ông là người cộng tác đắc lực của
linh mục quản nhiệm, là cố vấn và là giáo lý viên đặc biệt dạy tất cả các lớp
giáo lý cho các em từ lớp vỡ lòng, xưng tội, rước lễ lần đầu, Thêm Sức, Tân
tòng và cả Hôn Phối.
Nghĩ
rằng ít có ai chạy theo cho kịp những sinh hoạt và nhân đức tốt lành của ông.
Nay ông đã về yên nghỉ bên Chúa.
18. Anh
giả điếc
Thơ »
Việt Nam » Cận đại » Nguyễn Khuyến » Thơ chữ Nôm
Trong
thiên hạ có anh giả điếc,
Khéo
ngơ ngơ ngác ngác, ngỡ là ngây!
Chẳng
ai ngờ sáng tai họ, điếc tai cày,
Lối
điếc ấy sau này em muốn học.
Toạ
trung đàm tiếu, nhan như mộc,
Dạ lý
phan viên, nhĩ tự hầu.
Khi
vườn sau, khi ao trước, khi điếu thuốc, khi miếng trầu, khi chè chuyên năm bảy
chén, khi Kiều lẩy một đôi câu,
Sáng
một chốc, lâu lâu rồi lại điếc.
Điếc
như thế ai không muốn điếc?
Điếc
như anh dễ bắt chước ru mà!
Hỏi
anh, anh cứ ậm à!
Bài
này Nguyễn Khuyến chế một ông bạn thân giả cách điếc, thấy gì có lợi cho mình
thì nhanh nhẹn hưởng ứng ngay, nhưng còn điều bận đến mình thì ậm à như không
nghe thấy.
19. Ta
không nghe nhưng Chúa nghe
Las
Dasir đã dốc lòng chừa cả trăm lần rồi, mà ông vẫn còn sa ngã phạm tội. Lần
này, ông nhất quyết phạt mình như sau: cứ mỗi lần phạm tội thì ông bứt bỏ mười
sợi tóc trên đầu, và chừng nào không còn tóc nữa thì hình phạt cuối cùng sẽ là
giết chết mình.
Chỉ một
tháng sau là đầu của Las Dasir đã gần như bị trọc, nhưng ông vẫn nhất quyết thi
hành hình phạt, và một tháng sau nữa thì ông hoàn toàn trọc đầu. Nhìn vào gương
thấy đầu không còn tóc nữa, Las Dasir tuyệt vọng thầm nghĩ:
"Ngày
kết thúc đời tôi đã đến, tôi không còn cách nào để tránh đừng phạm tội hơn là kết
liễu cuộc sống mình trên trần gian này.”
Ông
đưa tay cầm khẩu súng lục định bắn vào đầu thì bỗng một thiên thần hiện ra trao
cho ông món quà và nói:
-
Khoan đã, đừng kết liễu đời mình như thế!
Ông
thưa với thiên thần:
-
Nhưng tôi đã thề là sẽ kết thúc đời mình khi không còn sợi tóc nào trên đầu.
Thiên
thần đáp lại:
-
Nhưng Thiên Chúa thì không đồng ý như vậy, nên Ngài đã sai tôi mang đến cho ông
món quà này. Hãy mở ra xem đi.
Las
Dasir vội mở món quà Chúa trao cho, đó là một đầu tóc giả và Las Dasir đã hiểu
ngụ ý của Thiên Chúa, và Las Dasir đã hiểu ngụ ý của Thiên Chúa là Đấng giàu
lòng thương xót, là Đấng mở đường tìm phương cách cho con người hưởng hạnh
phúc. Ông có thể không nghe lời Chúa nhưng Chúa nghe được tiếng lòng của ông.
20.
Nghe và nói với tiếng lòng
Năm
1974, Giám mục giáo phận Beauvais bên Pháp truyền chức phó tế vĩnh viễn cho Thầy
Jacques Lebreton. Thầy bị mù hai mắt và cụt hai tay. Người ta thắc mắc, một con
người khuyết tật như thế làm sao có thể thi hành sứ vụ phó tế, nhất là giảng Lời
Chúa. Đức Cha trả lời: Thầy ấy không còn đôi mắt, không còn đôi tay, nhưng còn
trái tim. Chúng ta nghe lại tâm sự của Thầy được kể lại trong buổi hành hương Lộ
Đức năm 1982:
“Cách
đây khá lâu, tôi là một quân nhân. Trong một trận đánh ở El Alamen, tôi và một
vài người bạn khác làm nhiệm vụ gỡ mìn. Một anh bạn cầm trái mìn, vô tình mở chốt
và trao cho tôi, không hiểu sao tôi lại cầm lấy. Trái đạn nổ tung. Tôi thấy tối
tăm mặt mũi, và dường như tôi đang chết. Tôi đã vĩnh viễn mất đi đôi tay và cặp
mắt, mình mẩy đầy các mảnh đạn. Tỉnh dậy trong bệnh viện, tôi toan tính tự tử.
Một tu sỹ đến săn sóc cho tôi và giúp tôi cầu nguyện vì tôi đã bỏ đạo từ lâu.
Tôi làm theo và cuộc đời tôi đã biến đổi. Tôi đã gặp lại Đức Giêsu và cùng với
Ngài, tôi cầu xin tha thiết: “Lạy Cha nếu có thể, xin hãy cất chén này xa con,
nhưng đừng theo ý con, mà chỉ xin theo ý Cha mà thôi.” Tại Evreux, tôi gặp một
người đàn bà toàn thân bất toại đến nỗi bà ta không thể nói được, cũng không cử
động được. Duy nhất chỉ có ngón chân cái là còn có thể nhúc nhích. Bà đã dùng
ngón chân ấy viết trên một tấm bảng nhỏ để nói chuyện với mọi người. Bà cũng
dùng ngón chân ấy viết tặng tôi một bài thơ với tựa đề “Nụ cười.” Tôi cũng gặp
một người đàn ông khác bị điếc từ năm 14 tuổi, và bị mù chỉ 2 năm sau đó. Trên
giường bệnh, người đàn ông 87 tuổi này vẫn nở một nụ cười mãn nguyện và nói với
mọi người: “Tôi đã trải qua một cuộc đời rất tốt đẹp. Tôi cám ơn Chúa và xin
cám ơn mọi người.”
Thầy
phó tế Jacques Lebreton kết luận: “Cuộc đời của tôi, dù không còn mắt cũng chẳng
còn tay, vẫn là một cuộc đời tốt đẹp trong sự yêu thương của Chúa. Cuộc đời chỉ
thực sự bất hạnh khi chúng ta cắt đứt tương giao với Chúa, khi chúng ta không còn
thiết tha cầu nguyện để gặp gỡ Ngài và đi sâu vào sự thân tình với Ngài.”
21. Ông
còn trái tim
Năm
1974, ông Jacques Lebreton 78 tuổi, được Đức Giám mục địa phận Beauvais nước
Pháp truyền chức Phó tế cho.
Người
ta thắc mắc :
- Trước
đây ông là một đảng viên Cộng sản vô thần, vì một tai nạn xe hơi, ông đã bị cụt
hai tay, và mù cả hai mắt! Chức Phó tế cần phải đọc sách mới có khả năng giảng.
Mắt đâu? Cần cử hành Bí tích Thánh Tẩy cho người ta. Tay đâu? Thế thì truyền chức
Phó tế cho ông để làm gì?!
Đức
Giám mục trả lời:
- Jacques
Lebreton còn trái tim.
Quả
thực, sau khi lãnh chức Phó tế, thầy Jacques Lebreton đã giảng mỗi năm khoảng
200 bài Thánh Kinh trong các trường Đại học, được rất nhiều sinh viên ca tụng.
Tâm
tình của thầy Jacques Lebreton rất giống tâm tình của thánh Phaolô: “Khốn cho
tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng, tự ý làm việc ấy thì tôi có công, còn nếu
ngoài ý tôi, thì đó là trách nhiệm Chúa đã ký thác cho tôi!” (1 Cr 9, 16-17).
22. Chữa
bằng tình yêu
Tại
viện câm điếc Lái Thiêu có trên 200 em câm điếc. Các em nói chuyện với nhau bằng
một thứ ký hiệu riêng. Trong trường có em Lâm văn Lý bị điếc ngay từ khi sinh
ra, cha mẹ em đã gửi vào trường từ khi em lên bảy. Các thầy cô vẫn coi em là
người chậm chạp và ngu đần. Nhưng khi em lên lớp ba, cô giáo Trần thị Mơ đã nhận
ra em có khả năng nghe được. Cô giáo đã tìm cách chạy chữa cho em, cuối cùng em
đã nghe được và nói được. Em đã theo đuổi hết lớp trung học và đã ra trường năm
em lên 18 tuổi.
Em
Lâm văn Lý bị nặng tai cũng giống như người thanh niên trẻ trong Phúc Âm hôm
nay. Chúa Giêsu đã trực tiếp chữa lành cho anh. Chúa vẫn còn mở tai cho người
điếc ngày nay như mở tai cho người thanh niên trong thời của Ngài. Có điều là
Ngài không dùng tay một cách trực tiếp để chữa lành, nhưng Ngài dùng cách gián
tiếp qua những bàn tay của người khác cũng giống như cô giáo Trần thị Mơ nhờ thầy
lang, nhờ bác sĩ mà chữa lành cho em.
23. Công
trình của tình yêu
Có lẽ
cái tên của Helen Keller, một cô gái câm điếc người Mỹ, đã trở thành bậc khoa bảng,
không còn xa lạ với chúng ta nữa. Vừa được 9 tháng, sau một cơn đau màng óc, cô
gái bất hạnh này trở thành mù loà và câm điếc. Thế giới của âm thanh và màu sắc
đã khép hẳn cánh cửa lại với cô.
Làm
thế nào để truyền thụ kiến thức cho một người đã câm điếc lại còn mù loà? Cha mẹ
của cô bé dường như muốn bó tay. Nhưng có một cô giáo tên là Anna Sullivan đã
không muốn bỏ cuộc. Hy vọng duy nhất mà cô giáo này còn đó là có thể truyền
thông và liên hệ với cô gái mù loà và câm điếc này qua việc tiếp xúc với bàn
tay của cô. Chỉ có thể tiếp xúc với thế giới bằng đôi tay, thế mà cô Helen
keller đã có thể học xong đại học, tốt nghiệp tiến sĩ và trở thành văn sĩ.
24. Văn
hóa gặp gỡ
Qua
trang blog và video của mình, linh mục Dòng Chúa Cứu Thế 73 tuổi, bị mù và điếc
đã biến khuyết tật của mình thành “món quà” của Chúa. Linh mục Cyril Axelrod bị
điếc khi lên ba và hoàn toàn bị mù khi ở tuổi trưởng thành. Sứ vụ của cha, các
chuyến du hành, các dấn thân của cha để ở gần người khiếm thính bao gồm cả năm
châu lục. Ngài biết 15 thứ tiếng, nhiều ngôn ngữ bằng dấu hiệu và bây giờ ngài
dùng Internet để rao giảng Phúc Âm và cũng để chống sự loại trừ ra khỏi xã hội
của những bị điếc và bị mù. Ngài tin chắc những người có khuyết tật là “thiên
thần của Chúa,” họ có nhiệm vụ dạy cho những người gọi là “bình thường” quyền lực
của một “tình yêu không điều kiện” và những giá trị nền tảng như lòng “tự tin,
hy vọng, đức tin và bình an nội tâm” để vượt lên những khó khăn của cuộc đời,
cha cho biết như trên trang blog của mình: cyrilaxelrod.wordpress.com.
“Chỉ
những người hiểu được sự mong manh, giới hạn của mình mới có thể xây dựng được
mối tương giao trong tình huynh đệ, tình tương trợ, trong Giáo hội, trong xã hội
và làm chứng điều này”, Đức Phanxicô đã tuyên bố như trên trong lần gặp cảm động
với 6 000 người mù và câm điếc vào tháng 3-2015. Trong số họ ở hàng đầu là linh
mục Cyril, cha quá hạnh phúc được gặp Giáo hoàng thứ ba trong đời mình, Đức
Phaolô VI năm 1971 và Đức Bênêđictô XVI năm 2009. “Quan trọng là những người
này phải là chứng nhân cho một thái độ mới, mà chúng ta gọi là “văn hóa của gặp
gỡ”, Đức Phanxicô nhấn mạnh trong ngày đó, để chống lại với nền “văn hóa loại bỏ”,
một nền văn hóa làm băng hoại xã hội đương thời.
25. Đón
tiếp bộ quần áo
Người
Thổ nhĩ Kỳ có câu truyện kể rằng, có một nhà giáo nổi tiếng cả về tài trí và
lòng đạo đức. Một hôm ông ra ruộng làm tiếp với vợ và đã quên giờ phải về đi dự
bữa tiệc của một người giầu có quý phái mời. Người nhà và các bạn hối thúc ông
phải mau chân kẻo trễ. Ông biết rằng mình không còn đủ giờ để về nhà tắm rửa
thay quần áo, nên đã quyết định mặc yên bộ đồ đi làm đó và đi thẳng tới nhà của
người quý phái kẻo trễ giờ.
Khi tới
nơi, các người đầy tớ và người giữ cổng nhất định không cho ông vào, lý do vì
quần áo của ông mặc là quần áo quá bình thường của một nông dân, lại thêm lấm
bùn. Ông cố gắng phân giải vì vội vã kẻo trễ, và ông nói cho họ biết ông là
thày giáo dạy con của ông chủ nhà. Tuy thế họ vẫn không chịu để ông vào, lý do
vì chủ nhà ra lệnh không tiếp người ăn vận bê bối. Sau cùng ông đành chịu chạy
qua một nhà người quen gần bên để muợn đỡ một bộ đồ lịch sự, áo khoác và ca
vát, cùng giày bóng đi vào. Ông trở lại. Và lần này người ta niềm nở tiếp đón
ông và mời ông ngồi vào bàn tiệc. Khi thức ăn được đưa lên, ông liền lấy các thức
ăn bỏ vào túi áo khoác. Ông bôi các món ăn vào quần áo; đổ rượu vô giầy... Và
miệng ông luôn nói lớn: “Ăn đi, áo khoác, quần tây và giầy bóng các ngươi hãy
ăn và uống cho no thỏa đi.” Tất cả mọi người đều hướng mắt nhìn đổ xô về ông
thày giáo có thái độ khùng điên kỳ cục này. Sau cùng cha con của ông chủ nhà đến
hỏi: “Thưa thày tại sao thầy lại làm kỳ cục như vậy? Tại sao thày không ăn uống
mà lại bảo áo quần ăn uống cho thỏa thích đi?”
Ông
trả lời: “Khi tôi đến vì vội vã từ ngoài ruộng về không kịp thay quần áo, các
người giữ cổng và con ăn đầy tớ nhà ông đã từ chối không tiếp đón tôi. Họ nói rằng
gia đình ông ra lệnh cho họ chỉ đón tiếp người ăn bận lịch sự, và không tiếp
người hành khất. Và họ đã nhất định từ chối không cho tôi vào cửa. Tôi chỉ được
tiếp đón sau khi chạy đi mượn bộ đồ này mặc vào. Như thế tôi trộm nghĩ, bộ quần
áo, chứ không phải tôi được đón tiếp vào bàn tiệc.”
26. Tình
yêu là hiệp thông
Có một
vị ẩn sĩ sống trong rừng luôn bị một cô gái lố lăng đến cám dỗ. Có lần người
con gái nói với vị ẩn sĩ:
- Thầy
không biết yêu ư ? (ý của cô gái này là vừa ngạc nhiên trước sự thanh thản của ẩn
sĩ và đồng thời nghi ngờ chế nhạo sự bất bình thường của một người đàn ông !)
- Giờ
chưa đến ! vị ẩn sĩ trả lời.
Lần nọ,
trong lúc đi khất thực, vị ẩn sĩ phát hiện người con gái hay đến quấy nhiễu
mình đã bị cướp và bị đánh đập nằm dở sống dở chết bên dọc đường. Ông bèn dừng
chân lại săn sóc cho cô ta, cuối cùng vị ẩn sĩ bế cô ta về thành phố điều trị.
Lúc đó vị ẩn sĩ mới nói với cô gái:
- Bây
giờ đã đến giờ, giờ của lòng thương xót !
Vâng,
vị ẩn sĩ này đã lắng nghe bằng cả con tim và nói với cả tấm lòng cao thượng qua
việc làm đầy yêu thương và bác ái.
27. Linh
mục câm điếc Hàn Quốc
Vào
ngày 6.7.2007, Đức Hồng y Cheong Jin-Suk cai quản Tổng Giáo Phận thủ đô Seoul của
Nam Hàn đã truyền chức Linh Mục cho một người câm điếc sau 22 năm cố gắng học tập
tu đức. Đó là cha Benedict Park Min-seo, vị LM câm điếc đầu tiên tại Á Châu.
Cha Park, sinh năm 1965, bị điếc vào lúc 2 tuổi vì uống lầm thuốc. Tuy nhiên, lúc
còn trẻ Ngài ao ước được đi tu làm linh mục, nhưng vì tàng tật, Ngài quyết định
đi làm nghề thợ sơn.Học tại trường dành cho người câm điếc, cậu Park gặp được
cha Michael Cheong-Soon-o. Cậu tỏ cho Ngài biết ý định của cậu là muốn làm Linh
Mục. Nhưng tại Nam Hàn không có lớp cho người câm điếc tại chủng viện nên cậu
Park được gửi sang học ở Hoa Kỳ. Năm 1994 câu Park được vào đại học Gallaudet để
học triết và toán học. Tại đây cậu Park lại được gặp cha Thomas Coughlin, một
linh mục câm điếc đầu tiên của Hoa Kỳ. Cha Thomas được cử làm linh hướng cho cậu
Park. Sau khi học ở đại học Gallaudet, cậu Park được vào Đại Chủng Viện Thánh
Giuse ở New York và sau đó theo học tại viện đại học thánh Gioan. Tại đây vào
năm 2004 thầy Park tốt nghiệp đại học.Thầy Park trở về Nam Hàn và tiếp tục theo
học tại chủng viện và được phong phó tế vào năm 2006.
Khi cử
hành thánh lễ mở tay, cha Park nói bằng ngôn ngữ dấu hiệu của người câm điếc:
“Trước hết tôi tạ ơn Chúa đã nhận tôi làm Linh Mục. Là linh mục tàn tật đầu
tiên, truyền thông đã chú ý tới tôi rất nhiều, ngay cả trước khi chịu chức,
nhưng tôi không phải là tài tử màn bạc, tôi là một Linh Mục thường, xin mọi người
cầu nguyện cho tôi để tôi sống khiêm tốn và là một linh mục đích thực ”Linh Mục
Michael Cheong Soon-o tuyên bố, “Việc phong chức Linh Mục cho cha Park cho thấy
lòng yêu thương của Chúa đối với người không thể nói và nghe được. Chúng ta hãy
cầu xin cho Ngài để Ngài sẽ là ánh sáng và là muối đất cho các người tàn tật."
(Vietcatholic 22.7.2007).
28. Linh
mục câm điếc Hoa Kỳ
Tại
Vương Cung Thánh Đường Thánh Giá của Tổng Giáo Phận Boston, Đức Hồng Y Sean P.
O’Malley đã truyền chức Linh Mục cho sáu tân chức trong đó có một vị bị câm điếc.Các
tân chức được thụ phong hôm nay là các tân Linh Mục: Israel Rodriguez, Huy Nguyễn,
Sean Maher, David Gunter, Shawn Carey, và Frank Camp. Đặc biệt tân Linh Mục
Shawn Carey là người bị câm điếc bẩm sinh và là vị Linh Mục câm điếc thứ 11 của
toàn Giáo Hội Hoa Kỳ. Giáo Hội Hoa Kỳ đã dành ra ngân khoản đặc biệt để huấn
luyện các chủng sinh câm điếc. Các Linh Mục câm điếc sẽ lo việc mục vụ cho các
giáo dân câm điếc. Trong thánh lễ truyền chức hôm nay cả một khu Vương Cung
Thánh Đường Boston đã được ban tổ chức dành riêng cho cộng đồng người câm điếc
đến dự lễ phong chức cho cha Shawn Carey. Qua người thông dịch, cha Shawn Carey
đã ra dấu hiệu bằng tay nói với toàn thể cộng đồng: “Thật là một phép lạ. Là một
chủng sinh câm điếc, là người câm điếc tôi đã trải qua cuộc hành trình dài để
tiến tới chức Linh Mục và tôi không thể ngờ được cuộc hành trình ấy mau như vậy.”
(Vietcatholic 25.5.2009).
29. Cởi
trói
Trang
nhất tờ Tuổi Trẻ số ra ngày thứ hai, 13 tháng 8 năm 2012 có bài: “Cởi trói cho
dân.”
Tác
giả dùng chữ “Cởi trói” để nói về quyết định trả lại hàng ngàn hecta đất cho
nông dân. Đã có một vài tỉnh thi hành quyết định này. Hàng ngàn hộ dân vui mừng
và biết chắc mình sẽ thoát nghèo, thoát đói, vì từ nay có ruộng đất để cày cấy.
Chuyện chỉ đơn giản như vậy nhưng người dân đã phải chịu bị “trói” hàng mấy chục
năm qua.
Ông
Lê Minh Hiệp (ấp Nhơn Trị, xã Nhơn Thạnh Trung, TP Tân An, Long An) là một
trong hàng ngàn hộ vừa được tỉnh trả đất trồng lúa. Ông nói 10 năm bị “treo” đất,
cuộc sống gia đình ông như bị trói chân trói tay. Sáng 12.8, gặp vợ chồng ông
Hiệp đang tất bật làm đất chuẩn bị gieo sạ vụ ba, ông bảo đến bây giờ mới an
tâm đầu tư sản xuất lúa để năng suất cao hơn, tích lũy mua thêm ruộng. (x. “Tôi
như người được cởi trói, thoải mái lắm”, tuoitre.vn, ngày 13.8.2012). Hy vọng
người dân Việt Nam còn được “cởi trói” nhiều thứ khác nữa.
Trang
Tin mừng hôm nay kể câu chuyện, Chúa Giêsu chữa lành một người câm điếc.
Chúa
phán: “Epphata” nghĩa là “Hãy mở ra.” Lập tức lỗ tai điếc anh mở ra nghe được
rõ ràng, lưỡi như bị một sợi dây trói buộc nay được tháo cỡi nên anh nói rành mạch.
Chúa “cởi trói” cho tai và lưỡi của bệnh nhân nên anh ta nghe và nói được.
30. Đó
là Lời Chúa
Trong
bài giảng lễ Chúa nhật, có linh mục kia hỏi cử toạ xem có ai nhớ tuần trước
linh mục giảng về điều gì không? Cử toạ yên lặng một lúc. Cuối cùng một thanh
niên có vẻ bụi đời, giơ tay phát biểu:
- Dạ
thưa Cha, con nhớ rồi.
- Sao
Anh nhớ thế nào? Linh mục hỏi.
-
Thưa Cha, con nhớ Cha giảng thế này: Đó... đó... đó là lời Chúa.
Trong
thánh lễ ta lắng nghe lời Chúa trong Thánh kinh và trong bài giảng, và cả trong
thánh ca và thánh nhạc.. Lời Chúa không phải là tiếng nói một chiều, nhưng bao
hàm việc đáp trả. Nghe lời Chúa rồi ta cầu xin cho được biết đáp trả bằng cách
loan truyền lời Chúa, bằng việc thờ phượng và cầu nguyện, bằng đời sống đức
tin.
31.
Miệng lưỡi được chúc phúc
Ngày xưa ở vùng Bretagne, có một
em nhỏ đạo đức và thánh thiện. Em chưa biết đọc biết viết nhưng lại rất yêu mến
Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Trong một ngày, nhiều lần em đọc lên lời kinh Ave Maria
(kinh Kính Mừng). Ít lâu sau em bị bệnh và chết, nhưng rồi trên mộ em, có một
loại huệ mọc lên. Và trên mỗi cánh huệ người ta đều thấy có hai chữ Ave. Người
ta từ khắp nơi đến kính viếng và sau cùng đã xây một ngôi thánh đường kính Đức
Mẹ trên phần mộ của em nhỏ.
32. Chúa
Giêsu hành động hôm nay.
Cách đây khá lâu, Jerry Izenberg
của tờ báo New York Post đã viết về Reggie Williams thuộc đội Cincinnati
Bengals. Khi sinh ra, Reggie đã bị bệnh về thính giác, nhưng không có ai để ý.
Các thầy cô giáo ở tiểu học tưởng rằng cậu là người chậm chạp và ngu đần. Tuy
nhiên khi vào lớp ba, Cô Chapman khám phá ra chứng bệnh của cậu và đã tìm cách
giúp đỡ. Thật rất cám ơn cô giáo Chapman, hai lỗ tai của Reggie đã được chữa lành
và nghe được.
Rốt cuộc, Reggie đã ra trường
trung học và được xếp vào hạng giỏi 5% trong số học sinh lớp mười hai ra trường.
Người mà các cô giáo và học sinh chê bai là chậm chạp và ngu dốt nay đã xin được
vào trường Đại Học Darthmouth.
“Nếu không nhờ cô giáo Chapman,
tôi không dám tưởng tượng ra ngày hôm nay tôi sẽ như thế nào.” Reggie đã nói với
ký giả Izenberg như thế.
Reggie bị nặng tai giống như người
thanh niên trẻ trong bài Phúc Âm hôm nay. Chúa Giêsu đã trực tiếp chữa lành người
thanh niên khỏi điếc.
33. Ngôn
ngữ của tình yêu
Có một đôi nam nữ rất yêu nhau.
Họ hẹn ước sẽ cưới nhau lúc chàng trai đi du học về. Sau khi chàng trai ra đi
ít lâu, cô gái bị một tai nạn giao thông khủng khiếp. Sau đó, cô được cứu sống.
Nhưng điều bi đát hơn cả là cô bị mất đi giọng nói. Bác sĩ bảo rằng tai nạn đã
gây tổn thương não, khiến cô bị câm, không thể nói được nữa.
Cô gái bị suy sụp tinh thần hoàn
toàn. Cô không muốn cho người yêu biết và cũng không muốn trở thành gánh nặng
cho anh nên viết thư cho anh và nói rằng cô không còn kiên nhẫn đợi chờ anh được
nữa. Cô trả lại cho anh chiếc nhẫn đính hôn. Chàng trai đã gửi hàng trăm bức
thư và gọi biết bao cuộc điện thoại, nhưng cô không trả lời mà chỉ khóc. Cha mẹ
cô quyết định chuyển nhà đến nơi khác để cô quên đi những gì đã xảy ra. Cô gái
học ngôn ngữ bằng tay dành cho người câm và bắt đầu một cuộc sống mới. Chàng
trai sau đó cũng về nước và không liên lạc với cô gái nữa. Cô nghĩ rằng chàng
đã quên cô.
Một năm trôi qua, ngày kia, một
người bạn đến trao cho cô gái thiệp mời đi dự lễ thành hôn của chàng trai, người
yêu của cô. Trái tim cô tan nát. Khi mở thiệp cưới ra, cô giật mình khi thấy
tên mình trong tấm thiệp. Ngước mắt lên, cô thấy chàng trai đang đứng trước mặt.
Chàng xuất hiện đúng vào lúc bất ngờ nhất.
Chàng dùng tay để nói với cô: “Một
năm qua anh đã dành thời gian để học ngôn ngữ bằng tay này. Hãy cho anh có cơ hội
để nói với em: Anh yêu em.” Chàng xỏ chiếc nhẫn vào tay cô. Cô gái đã khóc,
khóc vì hạnh phúc lại trở về với cô.
34. Hãy
mở ra
Hôm nay, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục
phán truyền với chúng ta: “Ephpheta. Hãy mở ra!” Không phải Ngài muốn mở đôi
tai và miệng lưỡi thể lý của chúng ta, nhưng là muốn mở rộng tâm hồn chúng ta,
để chúng ta luôn biết nghe và nói lời yêu thương, nhất là nghe và nói lời Chúa.
Hãy mở ra những đôi tai ích kỷ,
để chúng ta biết lắng nghe lời kêu cứu của tha nhân và đưa tay ra giúp đỡ.
Hãy mở ra những đôi tai đang đầy
ứ những điều thô tục, để chúng ta biết nghe lời Chúa và đem ra thực hành.
Hãy mở ra những miệng lưỡi cứng
cỏi, để chúng ta biết nói những lời an ủi, động viên với những ai đang buồn sầu
thất vọng.
Hãy mở ra những miệng lưỡi nhát
đảm, để chúng ta biết nói sự thật, làm chứng cho chân lý, nhất là biết rao giảng
Tin Mừng cho mọi người.
Trên tờ báo “Tuổi Trẻ Cuối Tuần”
ngày 18/6/2006 có in một tấm ảnh độc đáo trên trang bìa. Đó là hình ảnh một lỗ
hổng lớn trên mặt cầu Văn Thánh 2, Thành Phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh tấm ảnh là tựa
đề: “Lỗ Hổng Trách Nhiệm, ai chịu trách nhiệm về những vụ tham nhũng, lãng phí
nổi cộm vừa qua?” Tấm ảnh đó đã đoạt giải nhất về thể loại ảnh Giải Báo Chí
Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2006. Tấm ảnh đó là của tác giả Nguyễn Công Thành,
báo Tuổi Trẻ.
35. Khoái
điếc, thích ngọng
Chuyện ngày xưa kể rằng, Mặc Tử ở
nước Lỗ sang nước Tề thăm nhà bạn cũ. Người bạn cũ trách Mặc Tử: “Bây giờ thiên
hạ còn ai biết đến việc nghĩa, quan lớn cũng như quan bé, mạnh ai nấy sống, lấy
cái công làm cái tư, ông tự khổ thân một mình làm việc nghĩa chi cho nhọc xác?”
Mặc Tử trả lời: “Tôi hỏi ông, nhà có mười đứa con, một đứa cày, chín đứa ngồi
ăn, thì chẳng phải đứa cày phải cày chăm hơn sao? Bởi vì đứa cày thì ít đứa ăn
thì nhiều. Thiên hạ bây giờ không ai chịu làm việc nghĩa, ông phải khuyên tôi cần
làm việc nghĩa nhiều hơn mới phải chứ, sao lại ngăn tôi?”
Ngày xưa cũng như ngày nay, cám
dỗ mạnh ai nấy sống luôn luôn hiện diện. Khoái điếc, thích ngọng từ đó cũng là
căn bệnh của chúng ta.
36.
Phép lạ của tình yêu
Mendelssohn, nhà soạn nhạc nổi
tiếng người Đức, có ông nội là Moses, một người có vóc dáng xấu xí, đã thấp bé
lại gù lưng. Chuyện kể là một hôm ông Moses Mendelssohn đến thăm một thương gia
tại Hamburg và gặp Frumtje, cô con gái rất dễ thương của ông.
Ngay khi gặp Frumtje, ông đã yêu
cô say đắm nhưng cô lại tỏ ra sợ hãi vẻ bề ngoài xấu xí của ông. Trước mắt ông,
cô đẹp như một thiên thần, nhưng ông lại thật buồn khi cô luôn tránh nhìn ông.
Trước lúc ra về, ông thu hết can
đảm gõ cửa phòng cô gái, mong có dịp nói chuyện riêng với cô. Sau mấy lời chào
xã giao, ông lúng túng hỏi cô: “Cô có tin hôn nhân là việc đã được định đoạt từ
trước trên thiên đường không?”
“Tôi tin,” cô gái nhìn xuống sàn
nhà trả lời. “Ông cũng tin chứ?”
“Có chứ,” ông trả lời. “Cô biết
đấy, trên thiên đường khi một cậu bé được sinh ra, Chúa cho cậu ấy biết về cô
gái mà cậu sẽ cưới làm vợ. Khi tôi sinh ra, cô dâu tương lai của tôi cũng đã được
chỉ định. Chúa còn nói thêm rằng vợ tôi sẽ bị gù. Ngay lúc đó, tôi kêu lên: ‘Lạy
Chúa, một người phụ nữ gù hẳn sẽ là một thảm kịch. Lạy Chúa, xin trao cho con
cái bướu đó để người vợ của con được xinh đẹp”
Frumtje nhìn vào mắt ông và bỗng
nhiên thấy tâm tưởng có sự xáo trộn mãnh liệt. Cô đưa tay cho Mendelssohn nắm lấy,
và sau đó đã trở nên người vợ trung thành của ông. Một phép lạ của tình yêu!
37. Kéo
ra khỏi đám đông
Ngày nọ, trong một hội nghị về
thế giới, Satan ngỏ lời với đám ác thần vây quanh: “Chúng ta không thể nào ngăn
cản bọn Kitô hữu đi nhà thờ, đọc Kinh Thánh và biết được chân lý. Chúng ta cũng
không thể ngăn cản chúng có một tương giao thân mật với Đức Kitô… Ngày nào họ
còn liên lạc được với Đức Kitô, ngày ấy chúng ta còn bất lực!”
“Vậy cứ để mặc chúng đi lễ, và
giữ nếp sống riêng tuỳ ý, nhưng phải cướp hết thì giờ của chúng, đừng để chúng
gặp được Đức Kitô.”
Đám quỷ nhỏ ào ào lên: “Chúng
tôi phải làm gì để được như thế?”
“Hãy làm cho bọn chúng bận rộn với
những điều không thiết yếu trong đời và tạo ra nhiều chương trình để cho đầu óc
chúng không rảnh rỗi. Hãy xúi chúng tiêu xài, tiêu xài, tiêu xài, rồi kiếm tiền,
kiếm tiền, kiếm tiền…
“Hãy khuyến khích chúng mở tivi,
đĩa phim và máy vi tính suốt ngày. Hãy đổ tràn vào hộp thư của chúng những bức
thư tào lao, giấy đặt hàng, bản cá cược, mọi loại thư tiếp thị và khuyến mãi…
“Không gặp được Đức Kitô, chúng
sẽ thuộc về chúng ta.”
Để chiếm hữu tôi, ma quỷ có nhiều
mưu kế tinh quái để che tai, bịt mắt, không cho tôi tiếp cận với Chúa Giêsu, đấng
Cứu Độ của tôi. Ngày xưa Chúa “đã kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông” để chữa
anh khỏi câm và điếc, để "nối mạng" với anh. Đâu là khoảnh khắc tôi
dành riêng cho Chúa trong một ngày sống?
38. Mở
lòng với Chúa
Thánh Gioan Don Boscô là thánh của
thời đại chúng ta. Ngài mất 31-1-1888: Tất cả những câu truyện chung quanh các
phép lạ ngài làm đều xác thực, lý do khi lập hồ sơ phong thánh cho ngài, Giáo Hội
bắt điều tra kỹ lưỡng, phỏng vấn những nhân chứng đã thấy tận mắt, và bắt các
nhân chứng đó thề nói sự thực. Sau đây là một trong những câu truyện lạ Chúa đã
cho ngài thực hiện.
Một y sĩ (giấu tên) khá nổi
danh, tới Turinô, xin gặp Cha Don Boscô. Y sĩ nói: “Người ta nói là, cha có thể
chữa khỏi mọi chứng bệnh?”
Cha Don Boscô trả lời: “Đâu có!”
Y sĩ nói: “Người ta đã quả quyết
với tôi như thế, họ còn nói rõ tên, cũng như chứng bệnh những người đã được Cha
chữa khỏi.”
Cha Don Boscô trả lời: “Quả thực
có nhiều người tới đây, xin “Đức Mẹ phù hộ” chuyển cầu cho họ, rồi nếu sau một
tuần tam nhật, hoặc một tuần cửu nhật, họ được khỏi, thì chính là do ơn Đức Mẹ,
chứ tôi không có tham dự gì vào việc chữa khỏi đó.”
Y sĩ nói: “Vậy xin Đức Mẹ chữa
tôi”
Cha Don Boscô nói: “Ông bệnh
gì?”
Y sĩ nói, Ông hay bị té xỉu (động
kinh), và nhất là từ một năm nay, bệnh xỉu của ông xẩy ra luôn, nên đi đâu cũng
phải có người theo. Tuy là y sĩ, Ông lại không chữa được chính bệnh Ông. Ông thất
vọng, Ông tới đây cầu mong được khỏi như một số người khác.
Cha Don Boscô nói: “Vậy thì xin
ông cũng làm, như người ta quen làm ở đây, là quỳ xuống, đọc chung với tôi vài
kinh, rồi ông cáo mình, rước lễ, để tâm hồn được trong sạch và được tăng nghị lực.
Đức Mẹ sẽ yên ủi ông.”
Y sĩ nói: “Xin Cha dậy tôi làm
việc gì khác, vì những việc Cha vừa nói, tôi không làm được.”
Cha Don Boscô nói: “Tại sao?”
Y sĩ trả lời: “Quả thật, tôi
cũng chẳng tin Chúa, tin Đức Mẹ, tin lời cầu nguyện, tin phép lạ!”
Tuy Cha Don Boscô rất bỡ ngỡ,
nhưng nhờ ơn Chúa, Cha cũng đã tìm được những lời khuyên khiến y sĩ cảm động. Kết
cục Ông cũng quỳ xuống, và làm dấu thánh giá.
Y sĩ nói: “Tôi lấy làm lạ, là
làm sao tôi còn nhớ làm dấu, vì tôi đã bỏ hẳn những việc này hơn 40 năm nay.”
Ông cầu nguyện, và kết cục, ông
cũng đã cáo mình.
Ngay sau lúc đó, ông cảm thấy
bên trong như có gì thay đổi. Và rồi, kể từ ngày đó, ông hết bị xỉu. Sau đó,
ông thường tới cầu nguyện và tạ ơn “Đức Mẹ phù hộ.”
39. Sức
mạnh của tình yêu
Vào năm 1934 giáo lý viên Gioan
Caduna được linh mục Palexi sai đến vùng Ramxi miền bắc Ấn Độ để truyền giáo
cho dân làng Majoribua, là những người rất sùng kính tôn thờ vật linh. Sau 18
năm (1952), cha Palexi trở lại vùng này, thấy cả làng đã theo Đạo và sống Đức
Tin rất sốt sắng! Cha Palexi hỏi thăm về giáo lý viên Gioan Caduna, thì được biết
anh đã chết lâu rồi. Họ kể lại rằng:
Thời gian đầu mới đến, anh
Caduna bị dân làng tẩy chay, và nói:
- Ở đây không có chỗ cho Chúa của
mày!
Gioan Caduna đáp:
- Tôi không thể đi nơi khác, vì
tôi đã được sai đến đây để nói về Thiên Chúa, Đấng sáng tạo và làm Chủ muôn
loài, Ngài yêu thương hết mọi người, nên đã chấp nhận chết bi đát trên thập
giá, nhưng chưa tới ba ngày sau, Ngài đã sống lại, ai tin vào Ngài thì được
Ngài cứu độ!
Thế nhưng dân làng vẫn quyết liệt
không muốn nghe vào lời anh Caduna giảng dạy, đuổi anh đi. Anh đành phải chấp
nhận ra khỏi làng và đã dựng một cái chòi bên cạnh ngôi làng để hằng ngày cầu
nguyện cho dân đừng cứng lòng tin! Dân làng mỗi khi đi qua đều phỉ nhổ và mạt
sát Caduna:
- Cút đi cho xa, chúng tao không
muốn thấy mặt mày, và chúng tao càng không muốn nghe mày nói về ông Giêsu nào
đó!
Caduna trả lời:
- Tôi không đi đâu được, Chúa
Giêsu đã chết vì yêu mọi người, nên tôi cũng muốn chết ở đây, để chứng tỏ lòng
tôi rất yêu dân Majoribua.
Thời gian sau, Caduna chết vì bị
bệnh sốt rét và sống quá túng thiếu. Lúc đó dân làng mới tỏ ra thương anh, họ tổ
chức an táng anh cách tử tế. Không bao lâu, tất cả dân trong làng xin theo đạo
Công Giáo hết!
40. Nói
được
Vì điếc, Helen Keller chưa bao
giờ học nói, mãi tới khi cô Fuller, một giáo viên dạy nói, mở đường cho Helen.
Cô đặt bàn tay Helen lên mặt cô để Helen có thể cảm nhận được vị trí của môi và
lưỡi khi cô nói chuyện với Helen. Rồi Helen thử bắt chước tập lại. Sau thời
gian tập luyện lâu dài, Helen đã nói được. Niềm vui của Helen thật vô tận. Về
sau, cô đã viết: “Tôi thường lặp đi lặp lại một cách say sưa: giờ đây tôi không
còn câm nữa” Đó là điều mà người câm trong bài Tin Mừng hôm nay cảm thấy khi được
Chúa Giêsu chữa lành.
Tôi có coi trọng những khả năng
được nghe, nói và thấy của tôi không? Trong những khả năng ấy, thứ nào thường bị
tôi lạm dụng? Lạm dụng ra sao?
Tôi đã khóc chỉ vì không có giày, cho đến khi trông thấy một người bị cụt chân (Ngạn ngữ Ba Tư).
CNTN 23C -
TRUYỆN KỂ
1.
THỨ HAI - LÀM VIỆC TỐT NGÀY SABBAT
Lời Chúa: Lc 6, 6-11
Vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu
vào hội đường và giảng dạy. Khi ấy ở đó có một người tay hữu bị khô bại. Những
luật sĩ và biệt phái quan sát xem Người có chữa lành người ấy trong ngày Sabbat
không, để có cớ tố cáo Người.
Nhưng Người biết tư tưởng các
ông, liền bảo người có tay khô bại rằng: “Ngươi hãy chỗi dậy mà đứng ra giữa
đây." Người đó đứng thẳng dậy. Đoạn Chúa Giêsu bảo các ông ấy rằng: “Tôi hỏi
các ông, ngày Sabbat được phép làm sự lành hay sự dữ, cứu sống hay là giết chết?”
Rồi đưa mắt nhìn mọi người, Chúa bảo người đó rằng: “Ngươi hãy giơ tay ra."
Người ấy giơ ra, và tay người ấy được lành.
Bấy giờ các ông đầy lòng tức giận,
và bàn định với nhau xem có thể làm gì được Chúa Giêsu.
TRUYỆN
KỂ
1. Cốt
Lõi Của Ðạo
Văn hào Nga Léon Tolstoi có kể
câu truyện ngụ ngôn như sau:
Một ông chủ nọ giao cho các gia
nhân một công việc và bảo họ chỉ chu toàn công việc ấy mà thôi. Ông hứa sẽ thưởng
công cho họ, nếu họ làm tốt công việc. Lúc mới bắt tay vào việc, ai cũng muốn
làm vừa lòng ông chủ, cho nên để hết tâm trí vào công việc được giao.
Thế nhưng, một thời gian sau đó,
nhiều người cho rằng để làm vừa lòng ông chủ và để được phần thưởng bội hầu
hơn, cần phải làm nhiều việc khác nữa. Họ nghĩ ra nhiều việc khác và dần dần
chú tâm vào đó đến độ quên bẵng đi công việc được chủ giao cho lúc đầu.
Bận bịu với những công việc mới,
chẳng những họ không còn nhớ tới công việc đã được giao, mà cũng chẳng màng tới
phần thưởng ông chủ đã hứa. Cuối cùng, tưởng mình đã có thể tự túc với công việc
của mình, họ cũng gạt luôn ông chủ ra khỏi cuộc sống của họ.
Léon Tolstoi đưa ra kết luận:
Người ta thường thấy một thái độ như thế nơi các Kitô hữu; họ thay thế đạo của
tình thương bằng vô số những nghi lễ trống rỗng vô hồn.
2.
Chúa Giêsu thổi tình yêu vào Lề Luật
Gilgal Zamir, người thanh niên
25 tuổi đã sát hại thủ tướng Do Thái Y. Rabin, khi anh ta bị tòa án tại Tel
Aviv kết án tù chung thân, chẳng những anh ta không để lộ bất cứ cử chỉ hối hận
nào, mà còn tuyên bố: “Tất cả những gì tôi làm là làm cho Chúa, làm cho Lề Luật,
làm cho dân tộc Israel."
Thái độ của Gilgal Zamir đã khiến
cho quan tòa đưa ra nhận định: Gilgal Zamir có những khuynh hướng vị kỷ, nhìn
thế giới chỉ dưới hai màu trắng đen mà thôi; anh ta là sản phẩm của một nền
giáo dục không quan tâm đủ đến những giá trị nhân bản và đạo đức cần mang lại
cho người trẻ hiện nay…
3.
Phục vụ lề luật
Em học sinh nọ bị rắn cắn phải
đưa đi cấp cứu. Tuy nhiên, các bác sĩ trong bệnh viện, với lý do phải làm theo
qui định và thực hiện những thủ tục đăng ký rườm rà, đã không cứu chữa ngay cho
em trong cơn “thập tử nhất sinh." Hậu quả là em đã không qua khỏi.
Vì nệ luật và vụ hình thức, các
luật sĩ và biệt phái đã trở thành những quan tòa khắt khe, xét đoán, nhỏ nhặt
và tàn nhẫn. Họ giữ tỉ mỉ mọi điều luật mà không nhận ra rằng mình đang làm nô
lệ cho luật. Trước sự bảo thủ, quá nệ luật của họ, Chúa Giêsu đã nêu lên câu hỏi
trên đây để chất vấn họ, đồng thời qua đó, Người muốn họ trả lề luật về đúng
vai trò và ý nghĩa của nó.
Thật vậy, lề luật được đặt ra là
để phục vụ con người, chứ không phải con người phục vụ cho lề luật, mà quên mất
tình yêu thương. Lúc đó, ta đã chất những gánh nặng lên vai người khác.
4.
Bác ái phải trên lề luật.
Một buổi chiều năm 1953, nhiều
nhân vật quan trọng cùng các phóng viên của các tờ báo lớn hồi hộp đợi chờ ở
sân ga thành phố Chicago để chào đón bác sĩ Albert Schweitzer, người được chọn
nhận giải thưởng Nobel nhờ công trình thử nghiệm các vaccin chữa bệnh truyền
nhiễm trên chính cơ thể của mình để phục vụ cho những thôn làng nghèo khó nhất
tại châu Phi.
Khi xe lửa ngừng ở sân ga, một
người cao lớn, râu dài và mái tóc đã ngả mầu bước xuống. Máy ảnh chớp sáng liên
tục. Các nhân vật quan trọng tiến lại bắt tay nồng nhiệt chúc mừng. Bác sĩ
khiêm tốn mỉm cười cảm ơn. Bỗng, ông giơ tay xin lỗi mọi người rồi lách vội qua
đám đông, tiến đến chỗ một người đàn bà da đen đang loay hoay vất vả nặng nhọc
với hai chiếc va li lớn nghèo nàn. Ông giúp bà một tay đưa hành lý lên một chiếc
xe buýt, loại chỉ dành cho người bình dân.
Sau khi chiếc xe lăn bánh, ông
trở lại chỗ đám đông. Một người trong đoàn tiếp đón đã thốt lên:
- Đây là lần đầu tiên tôi nhận
được một bài giảng sống động về tình yêu thương.
5.
Người mạnh phải làm chủ được sức mạnh
Trong một giai thoại về Đức
Thích Ca, có kể rằng: Một hôm ngài rơi vào tay một tên cướp. Tên này dọa giết
ngài. Trước khi chết ngài xin hắn một ân huệ. Ngài chỉ vào một cây lớn trước mặt
và nói:
- Ngươi hãy cắt đứt một nhánh
cây.
Trong nháy mắt, tên cướp vung kiếm
chém đứt nhánh cây. Đức Thích Ca nói tiếp:
- Bây giờ ngươi hãy tháp nhánh
cây vào thân cây.
Tên cướp cười gằn, nói:
- Mi quả là tên khùng nên mới
nghĩ rằng ta có thể làm được điều đó.
Đức Thích Ca liền dạy cho hắn một
bài học:
- Ngươi mới là tên khùng khi
nghĩ rằng sức mạnh con người là để gây thương tích và phá huỷ. Người có sức mạnh
thực sự là người biết sáng tạo và chữa lành.
6.
Sống vì lề luật
Một người Do Thái qua đời, sau
khi đã khám nghiệm, các bác sĩ xác nhận người đó đã thực sự chết theo đúng ý
nghĩa của y học và đã cấp giấy chứng thực để chôn cất.
Giữa lúc đang chuẩn bị hạ huyệt,
người ta bỗng nghe có tiếng kêu trong quan tài. Mở nắp quan tài ra, mọi người rất
đỗi ngạc nhiên thì thấy kẻ chết đã sống lại.
Thế nhưng, vị giáo trưởng chủ
trì tang lễ ra hiệu cho mọi người thinh lặng rồi nói với kẻ chết sống lại như
sau:
- Chúng tôi không biết rõ ông
đang sống hay chết. Nhưng căn cứ theo giấy chứng thực của các bác sĩ, ông quả
thực là người đã chết. Vậy chúng tôi cứ thi hành theo đúng nhận định của các
bác sĩ.
Nói xong ông truyền cho tang lễ
đóng nắp quan tài lại và tiếp tục nghi thức an táng.
Những người sống luật vì luật
cũng tương tự như thế.
7.
Điều quan trọng hơn
Một ngày nọ, Chúa Giêsu hiện ra
với một tu sĩ già là người giữ cổng tu viện. Chính lúc Chúa xuất hiện, thì
chuông báo đã đến giờ phải cho những người nghèo ở cổng tu viện ăn. Vị tu sĩ bị
dằng co giữa Chúa Giêsu và những người nghèo. Nhưng rồi ông quyết định để Chúa
Giêsu lại và đi đến với người nghèo. Khi trở lại, ông thấy Chúa Giêsu vẫn ở đó.
Ngài nói với ông: "Nếu con đã không đến để cho người nghèo ăn, Ta cũng chẳng
ở lại.”
Câu truyện trên đây và bài Tin mừng
hôm nay có cùng một ý tưởng: Việc giúp đỡ kẻ túng thiếu cần được ưu tiên hơn cả
việc thờ phượng và cầu nguyện.
Tôi có đặt việc ưu tiên cho kẻ
túng thiếu không? Tại sao?
Những ai làm ngơ trước kẻ túng
thiếu, thì dù người đó có kêu gào thì cũng chẳng được ai lắng nghe. (Ngạn ngữ
Do thái)
8. Tình
yêu phải hy sinh
W.O Saunders viết về cha của ông
như sau: "Tôi đã thấy người vá giày vất vả cả giờ để lôi những con ốc rỉ
khỏi tấm ván để sửa chữa khi vá hàng rào, nhờ đó tôi được mang những đôi giày tốt
hơn và được nhàn rỗi hơn người.” Tất cả chúng ta có thể nhớ lại một hy sinh
tương tự của cha mẹ đối với chúng ta. Nhưng các ngài chịu đựng một cách vui vẻ,
cũng như thánh Phaolô đã vui vẻ chịu đựng vì những người ngài chăm sóc.
Tôi có kiên nhẫn chịu đựng cách
vui vẻ để giúp đỡ những người thân yêu và những người cần đến tôi không?
Ai giúp anh em là giúp chính
mình (Seneca).
9.
Tỷ lệ vàng chết chóc
Theo cuộc tổng điều tra dân số
năm 2009 nước ta đang bước vào thời kỳ tỷ lệ dân số vàng, nghĩa là cứ 2 người
lao động mới phải nuôi 1 người. Tuy nhiên bên cạnh đó còn có những con số biết
nói khác đó là liên tiếp trong nhiều năm gần đây, Việt Nam luôn luôn nằm trong
“top ten” những nước có tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới. Theo thống kê của Uỷ
ban Kế hoạch hoá gia đình, mỗi năm có khoảng 1,2-1,6 triệu ca phá thai, nghĩa
là cứ một phút có 3 thai nhi bị sát hại. Hoá ra muốn xây dựng một cuộc sống phồn
vinh thì người ta đã áp dụng biện pháp “giết chết thay vì cứu sống.” Chúa Giêsu
thúc bách chúng ta trả lời vấn nạn đầy thách đố này: “Ngày sa-bát, được phép
làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay huỷ diệt?” Không thể trả lời thoả
đáng nếu chỉ dừng lại ở giải pháp xã hội chính trị, trái lại, phải dựa vào thế
giá của Thiên Chúa: Nếu ngày sa-bát, ngày của Chúa, phải làm điều lành thay vì
điều dữ, phải cứu sống thay vì giết chết, thì điều đó nói lên rằng đó là một mệnh
lệnh tuyệt đối, phải tuân thủ cách vô điều kiện, vì nó đụng chạm đến chính
Thiên Chúa .
Bạn được mời gọi làm chứng nhân
cho nền văn hoá sự sống, dù rằng quanh bạn nền văn hoá sự chết xem chừng đang lấn
lướt. Bạn nhớ lời thánh Phaolô khuyên nhủ: “Hãy làm việc lành, đừng sờn lòng nản
chí” (Gl 6,9).
10.
Không có gì là không thể
Trong từ điển của đức tin Kitô
giáo, có một chữ cần được loại bỏ. Đó là chữ “không thể.” Trong ngày truyền
tin, sứ thần Gáprien đã xác quyết cùng Đức Maria: “Vì đối với Thiên Chúa, không
có gì là không thể làm được” (Lc 1,37). Với Phêrô và các bạn, vất vả suốt đêm
mà không được con tép nào, việc đánh bắt cá ban ngày tưởng chừng như không thể.
Tuy nhiên, tin tưởng vâng lời Đức Giêsu, các ông đã được một mẻ cá lạ lùng.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng minh
chứng cho ta về điều không thể này. Giơ tay ra là động tác không thể làm được với
người khô bại tay. Thế nhưng, tin tưởng vào lời Đức Giêsu, anh vẫn cố gắng thử
làm theo lời Ngài dạy. Nhờ vậy, anh được chữa lành, bàn tay phải của anh trở lại
bình thường. Chắc chắn cuộc đời anh từ nay sẽ tươi sáng hơn.
Mời Bạn gạt bỏ chữ “không thể”
ra khỏi tự điển sống đức tin của bạn. Bạn mệt mỏi trước một nết xấu thâm căn cố
đế hay bản chất nóng nảy của mình? Bạn bi quan chán nản trước một người thân
quen chứng nào tật nấy? Bạn thất vọng khi vấp phải một thất bại quá lớn? Hãy
tin tưởng cầu nguyện và nỗ lực dùng mọi phương thế để cải thiện, chắc chắn rốt
cuộc, điều tưởng như không thể sẽ trở thành có thể.
THỨ BA - CHỌN NHÓM MƯỜI HAI
Lời Chúa: Lc 6, 12-19
Trong những ngày ấy, Chúa Giêsu
lên núi cầu nguyện, và suốt đêm, Người cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Sáng ngày,
Người gọi các môn đệ và chọn mười hai vị mà Người gọi là Tông đồ: Đó là Simon,
mà Người đặt tên là Phêrô, và em ông là Anrê, Giacôbê và Gioan, Philipphê và
Bartôlômêô, Matthêu và Tôma, Giacôbê con ông Alphê và Simon cũng gọi là Nhiệt
Thành, Giuđa con ông Giacôbê và Giuđa Iscariốt là kẻ phản bội.
Người đi xuống với các ông, và dừng
lại trên một khoảng đất bằng phẳng, có nhóm đông môn đệ cùng đoàn lũ dân chúng
đông đảo từ khắp xứ Giuđêa, Giêrusalem và miền duyên hải Tyrô và Siđôn đến nghe
Người giảng và để được chữa lành mọi bệnh tật. Cả những người bị quỷ ô uế hành
hạ cũng được chữa khỏi, và tất cả đám đông tìm cách chạm tới Người, vì tự nơi
Người phát xuất một sức mạnh chữa lành mọi người.
TRUYỆN
KỂ
1. Chúa
chọn
Lịch sử ơn cứu rỗi đã khởi đầu
và tiếp diễn bằng những cuộc tuyển chọn. Ở khởi đầu lịch sử này, từ trong đám
dân du mục vô danh tại miền Lưỡng hà địa, Thiên Chúa đã chọn Abraham; trong những
người con của ông, Ngài chỉ chọn Isaac; và trong những người con của Isaac,
Ngài chỉ chọn Yacob làm người cha của mười hai chi tộc Israel. Ðể thực hiện cuộc
giải phóng con cái Israel ra khỏi ách nô lệ Ai Cập, Ngài đã chọn Môsê làm thủ
lãnh. Sau khi Israel đã được Ngài chọn làm dân riêng và qua đó thực thi chương
trình cứu rỗi, Thiên Chúa cũng tiếp tục một đường hướng: Ngài chọn lựa một số
người và trao cho họ một trách vụ đặc biệt: Ngài đã chọn Ðavít làm vua, thay thế
cho Saul; Ngài đã chọn một số người làm ngôn sứ cho Ngài.
Tất cả những chọn lựa của Thiên
Chúa đều bất ngờ, nghĩa là vượt lên trên những tiêu chuẩn chọn lựa thông thường
của con người. Từ Abraham qua Môsê, đến các ngôn sứ và Ðavít, tất cả đều được
chọn lựa không phải vì tài năng đức độ riêng của họ: Môsê chỉ là một người ăn
nói ngọng nghịu; Ðavít là cậu bé kém cỏi nhất trong số anh em mình, Yêrêmia,
Isaia đều nhận ra nỗi bất lực yếu hèn của mình khi được Thiên Chúa chọn làm
ngôn sứ.
Suy niệm về việc Chúa Giêsu tuyển
chọn 12 tông đồ của Ngài, chúng ta được mời gọi nhận ra thân phận yếu đuối bất
toàn của chúng ta, đồng thời nói lên niềm tín thác tuyệt đối và tình yêu của
Ngài.
2. Ai
tìm thì sẽ gặp
Cả 4 chúng tôi đã tham gia chiến
dịch “ánh sáng văn hóa hè” tại vùng biên giới thuộc tỉnh Tây Ninh. Chúa nhựt tuần
đầu tiên, chúng tôi phải hỏi thăm hết một giờ rưỡi mới tới được nhà thờ. Chỗ
chúng tôi ở chỉ có một vài gia đình công giáo và hầu hết thỉnh thoảng mới đi lễ
vì nhà thờ quá xa. Mà xa thật, mưa thì lầy lội, còn nắng thì bụi mù.
Trên đường đi, chúng tôi cứ nghĩ
là nhà thờ chắc không đông. Nhưng đến nơi, chúng tôi thấy cả một nhà thờ đông
đúc. Nhà thờ không rộng, cũng chưa có cha xứ. Cha thì từ nơi khác về dâng lễ,
còn giáo dân thì đến từ nhiều nơi khác nhau.
Chúng tôi còn được biết ở đây chỉ
có một lễ vào sáng Chúa nhựt nên nhiều gia đình phải thay phiên nhau đi lễ hàng
tuần. Họ ước ao có cha xứ để được dự lễ thường xuyên hơn. Ra về, ai nấy trong
chúng tôi đều cảm thấy như được thúc bách đến gần Chúa hơn, hạnh phúc dù có phải
đi xa và mệt nhọc.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết
tìm kiếm Chúa trong những hoàn cảnh khó khăn nhất.
3.
Ơn thiên triệu
Chúa Giêsu đã chọn các môn đệ của
Ngài theo những tiêu chuẩn bất ngờ nhất. Mười hai Tông đồ đã được Ngài chọn làm
cộng sự viên thân tín nhất và đặt làm cột trụ Giáo hội, không phải là bậc tài
ba xuất sắc, cũng không phải là thành phần ưu tú thuộc giai cấp thượng lưu
trong xã hội; trái lại họ chỉ là những dân chài quê mùa dốt nát miền Galilê, có
người xuất thân từ hàng ngũ thu thuế là hạng người thường bị khinh bỉ.
Đọc trong toàn bộ Kinh Thánh,
chúng ta thấy Chúa yêu thích những tâm hồn rộng mở, biết sống hài hòa, biết đón
nhận anh em.
Ngài yêu thích những tâm hồn đơn
sơ nhỏ bé, thích sống cuộc đời khiêm nhường bình dị. Ngài yêu thích những trái
tim nồng nàn yêu thương luôn biết đón nhận thánh ý Chúa.
Ơn Chúa gọi là một mầu nhiệm con
người không thể hiểu thấu. Chính vì thế mà chúng ta nghe người ta diễn tả về ơn
của Chúa bằng một cụm từ thật gọn: “Tất cả là hồng ân."
4.
Đất trời nối với nhau
Thấy thái độ cầu nguyện sốt sắng
của vị giáo sư toán nổi tiếng Blaise Pascal trước Thánh Thể, một sinh viên đã hỏi
ông: “Làm thế nào mà một nhà toán học vĩ đại như giáo sư lại có thể tin và cầu
nguyện khiêm nhường như vậy được”? Mỉm cười, vị giáo sư ôn tồn: “Này con, chẳng
có ai là vĩ đại cả, và con người chỉ trở nên vĩ đại khi cầu nguyện với Thiên
Chúa, vị Chúa tể trời đất mà thôi."
Quả vậy, cầu nguyện là chuyện
trò, là kết hợp với Thiên Chúa, và người cầu nguyện đi vào mối tương giao thân
tình với Thiên Chúa. Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay đã cho chúng ta một tấm
gương sáng về cầu nguyện: “Ngài đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa”
5.
Sự lựa chọn chẳng giống ai.
Đang cần một thư ký mới, giám đốc
một doanh nghiệp định thẩm vấn những người xin việc qua một nhà tâm lý. Ba cô
gái được phỏng vấn.
Nhà tâm lý hỏi:
- 2 với 2 là mấy?
Cô thứ nhất trả lời cách chắc chắn:
4.
Cô thứ hai: có thể là 22.
Cô thứ ba: có thể là 22 và có thể
là 4.
Khi các cô ra về, nhà tâm lý
quay sang giám đốc và nói:
- Đó là những biểu hiện tâm lý.
Cô thứ nhất nói điều hiển nhiên. Cô thứ hai nghi ngờ. Cô thứ ba có cả hai: ông
sẽ chọn cô nào?
Giám đốc không ngập ngừng:
- Tôi sẽ chọn cô có mái tóc vàng
với cặp mắt xanh.
Vâng! Việc Chúa tuyển chọn cũng
như thế! Chẳng giống một kiểu nào ở trần gian.
Chính vì thế mà chúng ta thường
nghe người ta diễn tả về ơn của Chúa bằng một cụm từ thật vắn gọn: “Tất cả là một
hồng ân."
6.
Thứ nhất là cầu nguyện
Silouanne là một đan sĩ già đáng
kính, sống đơn sơ thánh thiện. Suốt nhiều năm thầy coi sóc cơ xưởng cho tu viện.
Trong xưởng có một số thanh niên nghèo từ miền quê lên làm việc để kiếm tiền
giúp gia đình. Một hôm các tu sĩ hỏi Ngài: “Thưa thầy, làm sao thầy có thể bảo
bọn thợ kia làm việc chăm chỉ đến thế mà không cần canh chừng họ, trong khi
chúng con không rời mắt khỏi họ, mà họ vẫn lừa được chúng con?” Thầy trả lời:
“Tôi cũng không rõ, chỉ biết rằng mỗi sáng tôi đến xưởng và luôn cầu nguyện cho
họ, tôi đến với họ bằng quả tim yêu thương. Khi bước vào xưởng, tôi phân công
cho họ rồi ra về với quyết định sẽ cầu nguyện cho họ trong suốt cả ngày.”
Mời Bạn: Dù tất bật với việc rao
giảng và chữa lành bệnh tật, Đức Giê-su luôn dành cho mình một thời gian cầu
nguyện riêng với Đức Chúa Cha mọi lúc và mọi nơi. Chúng ta cũng được mời gọi sống
cầu nguyện mỗi ngày, nhờ đó chúng ta có thể biết được điều Chúa muốn trên cuộc
đời của mình và có được sức mạnh cho các hoạt động đông đồ. “Thứ nhất cầu nguyện,
thứ hai hy sinh, thứ ba mới đến hoạt động” (ĐHV.119)
7. Hai
nhịp đập của trái tim tông đồ
Trong cơ thể con người có một bộ
phận hoạt động liên lỉ từ khi thụ thai cho tới khi lìa đời, đó là trái tim. Dẻo
dai như vậy, nhưng để vận chuyển máu đi khắp cơ thể, hoạt động của nó thật đơn
giản chỉ có hai nhịp: bóp vào và mở ra. Các sách Tin Mừng cho biết cuộc sống của
Chúa Giêsu cũng diễn ra trong hai nhịp như vậy: cầu nguyện và hoạt động; đan cử
một ví dụ: Ngài đã cầu nguyện suốt đêm trước khi chọn 12 Tông Đồ.
Và khi chọn các ông, Chúa Giêsu
muốn họ chu toàn một cuộc sống gồm hai nhịp: ở lại với Chúa vàø ra đi loan báo
Tin Mừng. Các động từ “ở lại”, “ở trong,” “đi theo” được các thánh sử dùng nhiều
lần để diễn tả mối hiệp thông phải có của các Tông Đồ đối với Chúa Giêsu như mối
thông hiệp Ngài có với Chúa Cha, Đấng đã sai Ngài, sự hiệp thông cần thiết đến
mức trở nên ưu tiên trong các hoạt động của Ngài. Mặt khác, “tông đồ” nghĩa là
“người được sai đi”, tham dự vào sứ mạng cứu độ của Chúa Giêsu.
Ở lại với Chúa và ra đi loan báo
Tin Mừng là hai nhịp của trái tim Tông Đồ, cần thiết và không thể tách rời
nhau.
Kiểm tra lại đời sống tông đồ của
bạn. Đời sống tông đồ của bạn vẫn đều đặn hai nhịp đập đấy chứ?
Bạn có cho là tốn giờ vô ích khi
dành thời giờ cầu nguyện trước khi làm một công tác tông đồ không?
8.
Hồng ân thiên triệu
Trong dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng
Long, giữa biết bao câu chuyện truyền kỳ về triều đại nhà Lý, hẳn nhiều người
cũng nhớ lại mối tình lãng mạn về cô thôn nữ hái dâu kia lọt mắt xanh một người
mà cô đâu có ngờ đó chính là vua Lý Thánh Tông. Mối lương duyên đó đã đổi đời
cô trở thành thái hậu Ỷ Lan, một nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đến vận mạng
không những của Lý triều mà còn của cả đất nước Đại Việt nữa.
Cũng vậy, được Đức Giêsu chọn gọi
còn là một hồng ân lớn lao gấp bội. Những con người không chút danh phận đã
Ngài được chọn gọi đích danh để làm tông đồ và rồi “sẽ được ngự toà xét xử mười
hai chi tộc Ítraen” (Lc 22,30). Mà đâu có phải do một cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên
hay một sự lựa chọn tình cờ!!! Ngài đã cầu nguyện suốt đêm rồi mới chọn các ông
tham gia vào sứ mạng cứu độ đã sắp sẵn cho các ông từ muôn thuở. Được Đức Giêsu
chọn làm môn đệ Ngài không phải là hồng ân cao cả nhất hay sao?
9.
Cầu nguyện luôn
Có đêm không chợp mắt được, thư
ký của tổng thống Mỹ A. Lincoln nhìn sang phòng tổng thống, thấy ông quỳ gối cầu
nguyện rằng: “Lạy Cha, ngày xưa Cha đã nghe lời vua Salômon, thì hôm nay xin
Cha cũng nghe lời con cầu khẩn: Nếu Cha giúp con, con sẽ đủ sức mạnh và khôn
ngoan để lãnh đạo dân tộc này… Con yếu đuối và đầy tội lỗi, xin Cha hãy nghe lời
con van xin.” Lịch sử Hoa Kỳ xếp ông là một trong những tổng thống xuất sắc nhất
của nước này.
Thánh Luca cho ta biết trước khi
có những quyết định quan trọng, Đức Giêsu đều cầu nguyện lâu giờ. Chẳng hạn,
Ngài cầu nguyện 40 đêm ngày trước khi xuất hiện công khai; cầu nguyện suốt đêm
cùng Cha trước khi chọn nhóm Mười Hai, cầu nguyện suốt đêm trên núi Biến Hình
trước khi đi về Giêrusalem. Ngài không quyết định điều gì quan trọng nếu trước
đó không tham khảo ý Cha.
THỨ TƯ - PHÚC THẬT VÀ KHỐN THAY
Lời Chúa: Lc 6, 20-26
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa mắt nhìn
các môn đệ và nói:
"Phúc cho các ngươi là những
kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi. Phúc cho các ngươi là những
kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy. Phúc cho các ngươi là những kẻ
bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười. Phúc cho các ngươi, nếu
vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ
các ngươi như kẻ bất lương, ngày ấy các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì như
thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời. Chính cha ông họ cũng đã đối xử
với các tiên tri y như thế.
"Nhưng khốn cho các ngươi
là kẻ giàu có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi là
kẻ đã được no nê đầy đủ, vì các ngươi sẽ phải đói khát. Khốn cho các ngươi là kẻ
hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu khóc lóc. Khốn cho các ngươi khi mọi
người đều ca tụng các ngươi, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với
các tiên tri giả."
TRUYỆN
KỂ
1. Phúc
cho anh em là những người nghèo
Một học sinh nghèo trả lại chiếc
bóp lượm được; một giáo viên kiên trì theo đuổi nghề giáo; một cán bộ về hưu
trong cảnh thanh bạch; một bạn nữ bỏ chỗ làm có thu nhập cao... ; một nhân viên
từ chối những đồng tiền hối lộ.
Giữa cuộc sống khó khăn, vẫn có
bao người không bị mê hoặc bởi bạc tiền. Họ chọn sống trong cảnh nghèo, lam lũ
hơn, nhưng vui hơn và thanh thản hơn.
Vẫn có bao người nếm được mối
phúc của Tin Mừng: “Phúc cho anh em là những người nghèo khó, Vì Nước Trời là của
anh em."
2.
Hạnh phúc có Chúa
Khi hoàng đế Napoléon của Pháp,
người hùng chinh phục cả Âu châu, bị đày sang đảo Sainte Hélène, người viết tiểu
sử của ông vẫn theo ông sát cánh. Đối với anh chàng viết tiểu sử này, mỗi chi
tiết trong cuộc đời của Napoléon đều đáng ghi nhớ, không một biến cố nào là nhỏ
cả và không ngày nào là không được lưu ý.
Một hôm, biết rằng ngày tận cùng
của Napoléon sắp đến, chọn một giây phút Napoléon cảm thấy thoải mái nhất, người
viết tiểu sử hỏi hoàng đế: “Thưa ngài, xin ngài cho biết trong suốt cuộc đời của
Ngài, ngày nào là ngày hạnh phúc nhất?" Napoléon không trả lời ngay, quay
đầu ra cửa sổ, nhìn biển xanh thăm thẳm phía xa một hồi, đoạn thở dài và quay lại
chậm rãi nói với người viết tiểu sử của ông: “Tôi nhớ, tôi nhớ rất rõ, ngày hạnh
phúc nhất trong đời của tôi đã xảy ra cách đây lâu lắm rồi, khi tôi còn bé, đó
là ngày tôi rước lễ lần đầu."
Trước kinh nghiệm của Napoléon,
chúng ta nhìn thấy mặc dù có danh vọng, giàu sang và tình yêu đến tuyệt đỉnh
cũng không mang lại hạnh phúc đích thực cho con người, nếu vắng bóng Thiên Chúa.
3.
Hạnh phúc ở đâu
Ermann Coen được mệnh danh là
thánh Augustinô của thời đại chúng ta. Ngài là một người Do thái rất giàu có.
Thời trai trẻ, ngài chỉ biết ăn chơi và chạy theo thế gian. Sự nhàm chán cứ đè
nặng trên vai ngài. Ngày kia, ngài từ chối tất cả và xin vào tu viện. Trong bài
giảng Mùa vọng tại Đền thờ Đức Bà ở Paris, ngài nói:
Tôi đã đi khắp cả mặt đất. Tôi
đã yêu thế gian. Tôi đã biết thế giới và tôi đã học được một điều không có hạnh
phúc ở trên thế gian này. Tôi đã tìm nó ở những nơi tôi tưởng có nó: ở những nụ
cười, ở những cuộc giải trí, ở những ngày lễ, ở vàng bạc, ở sắc đẹp... Ôi! lạy
Chúa, những điều con mơ ước ấy con đã tìm ở đâu? Và con đã chỉ tìm được nó
trong Chúa và tình yêu Chúa."
4.
Hạnh phúc của dân làng Aman
Không có dấu hiệu bên ngoài nào
chứng tỏ dân làng Aman giàu có. Nhưng niềm vui tươi nở trên mặt, chứng tỏ cái
nghèo vật chất không cản họ sống hạnh phúc thực sự.
Phải, tất cả mọi người trong
làng đánh cá Aman này đều sống trong yên vui.
Nhưng rồi một ngày kia, hai anh
em đánh cá trong làng là Sôpôt và Sôpa lưới lên một thùng thật nặng. Khi thuyền
về đến bờ, họ mở thùng ra và rất đỗi ngạc nhiên, khi thấy thùng chứa đầy những
viên ngọc quí. Hai anh em không biết làm gì với kho tàng, bèn đem nhau đến hỏi
ý kiến nhà hiền triết Akian sống gần bên. Sôpốt hỏi:
- Thưa ngài, chúng tôi phải làm
gì với những hạt ngọc này? Số lượng đủ để phân phát cho dân trong làng chúng
tôi, mỗi người một hột và như thế mỗi người chúng tôi sẽ trở thành giàu có.
Nghe thế, nhà hiền triết trả lời
cách khô khan:
- Hãy nên đổ lại xuống biển.
5.
Đời là bể khổ
Vua Abder Rahman đệ tam của nước
Tây Ban Nha thuở xưa là một người nổi tiếng thông thái, đã thâu tóm được rất
nhiều quyền lực trong tay của mình, đã biến đất nước Tây Ban Nha thành một
trung tâm khoa học của Âu châu vào thế kỷ thứ 10. Giỏi như thế, tài như vậy, mà
vào những ngày cuối đời đã phải thốt lên rằng:
- Ta đã ngồi trên ngai vàng 50
năm, đã trải qua nhiều kinh nghiệm chiến thắng và hòa bình, được thần dân mến
phục, kẻ thù sợ hãi, và đồng minh kính nể. Danh lợi, quyền quí và tất cả các
thú vui trên trần gian ta đều có cả. Nhưng khi ngồi tính thật kỹ số ngày ta được
hoàn toàn hạnh phúc, thì con số đó quá ít ỏi, chỉ vỏn vẹn có 14 ngày.
Làm vua một nước lớn, có quyền
thế, danh vọng, giàu sang trong tay suốt 50 năm, tức là 18.250 ngày, vậy mà chỉ
hưởng được có 14 ngày hạnh phúc! Sao mà xót xa quá!
6.
Quyền được hạnh phúc
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa
Giêsu đã không cho chúng ta biết địa chỉ của hạnh phúc, nhưng Chúa chỉ cho con
người con đường để có thể có hạnh phúc.
Đây là lời của mẹ Têrêsa: “Chúng
ta có quyền được hạnh phúc và bình an. Chúng ta được dựng nên vì điều này, được
sinh ra để hạnh phúc và chúng ta chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc thật và bình an
thật khi trong cuộc tình với Thiên Chúa: có niềm vui khi yêu thương Thiên Chúa,
có hạnh phúc lớn lao khi yêu thương Ngài. Nhiều người nghĩ, nhất là ở Tây
Phương, là tiền của sẽ mang lại hạnh phúc. Tôi nghĩ khi giàu sang bạn khó có hạnh
phúc hơn vì bạn khó có thể tìm thấy Thiên Chúa: bạn có quá nhiều điều để lo lắng."
Mẹ nói tiếp: “Chúng ta không cần
tìm kiếm hạnh phúc: nếu chúng ta yêu thương người khác chúng ta sẽ được hạnh
phúc. Ðó là quà tặng của Thiên Chúa."
7.
Nụ cười của Chúa
Lạy Chúa Giêsu, Đọc trong Tin Mừng,
chúng con chẳng thấy khi nào Chúa cười, nhưng chúng con tin Chúa vẫn cười khi
thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa. Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các
tội nhân. Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ Emmau khi Chúa giả vờ muốn
đi xa hơn nữa. Nụ cười của Chúa luôn hòa với niềm vui của người được lành bệnh.
Xin dạy chúng con biết tươi cười,
cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với chúng con. Xin cho chúng con biết mến yêu cuộc
sống, dù không phải tất cả đều màu hồng.
Chúng con luôn có lý do để lo
âu, chán nản, nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi chúng con.
Ước gì chúng con cảm thấy hạnh
phúc, vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương và được sai đi thông truyền tình
thương ấy. Amen.
8.
Nhận biết mối phúc của người nghèo
Vào dịp Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới
được tổ chức tại Ý, có trên hai triệu bạn trẻ khắp nơi trên thế giới tụ về, đều
một trái tim, một lòng mến. Trước hấp lực này, ông Măng-cu-xô mới 34 tuổi đang
giữ chức Thị trưởng thành phố Phi-ra-ca. Phải nói ông là một người tài năng và
đầy hứa hẹn vinh quang trong chức vụ. Thế mà ông đã từ bỏ xin đi tu.
Rõ ràng ông đã nhận ra giá trị mối
phúc nghèo được Đức Giêsu đề cao trong Tin Mừng hôm nay.
9.
Nô lệ cho tiền của
Một người phụ nữ sống độc thân,
bà sống bằng việc nhặt rau người ta bỏ lại sau buổi chợ, đưa về làm dưa bán.
Ngày nào bà cũng bận rộn vì đợi chợ tan, bà lượm lặt rau đưa về nhà, rồi bà lựa
ra từng loại mãi đến nửa đêm mới xong việc.
Sáng sớm khi trời còn tối, bà đã
gánh hàng ra chợ bán, nên không còn giờ đi dự Lễ, cùng lắm miễn cưỡng đi Lễ
Chúa nhật vì sợ tội. Bà cứ sống như thế trong suốt 40 năm, tích góp mua được một
số vàng cất giấu. Khi chôn vàng ở đâu, bà đều ghi vào quyển sổ riêng để nhớ.
Đêm nọ, sau khi đã dọn hàng
xong, bà lấy quyển sổ ra xem tài sản mình được bao nhiêu và để ở những chỗ nào,
bà lấy làm đắc tâm vì có một tài sản lớn. Quá buồn ngủ, bà thiếp đi, để rơi quyển
sổ xuống đất.
Đêm ấy thần chết đến lôi bà ra
khỏi thế gian, không một ai hay biết. Vài ngày sau khu xóm ai cũng ngửi thấy
mùi hôi thối, bảo nhau chạy đến xem chuyện gì, thì thấy cửa nhà bà đã bị cạy,
vào nhà ai cũng thấy đồ đạc đã có người thu dọn từ lúc nào, và bốn chân giường
đã có ai đào bới!
Người ta báo cho chính quyền. Vì
xác bà đã trương thối, nên không được đưa vào Nhà Thờ vì quá nặng mùi, phải vội
đem đi thiêu. Chẳng có ai đi theo quan tài, chỉ có con chó còn trung thành với
chủ. Thời gian sau, người cháu biết tin bà mất, anh ta đến nói với mọi người rằng:
“Bác tôi có một quyển sổ thường ghi tài sản và những nơi chôn giấu vào đó!” Lúc
ấy người ta mới hiểu kẻ cậy cửa lẻn vào nhà trước đã lượm được quyển sổ ghi tàn
sản của bà chôn giấu ở đâu, nó đã phỗng mất!
Đúng là “ki cóp cho cọp nó tha!”
Vì thế thánh Phaolô dạy: “Chúng ta đã không đưa gì vào trần gian, thì cũng chẳng
mang gì ra được. Nếu có cơm ăn áo mặc, hãy lấy thế làm đủ,còn những kẻ muốn làm
giàu thì sa chước cám dỗ, sa vào cạm bẫy và nhiều ước muốn ngu xuẩn độc hại”
(1Tm 6,7-9).
10.
Nên giống Chúa Kitô
Một phụ nữ trẻ mua một chiếc
bình đẹp và đặt lên bàn trong phòng. Chiếc bình khiến bà ta nhận ra căn phòng mới
xấu xí làm sao. Vì vậy bà ta lau chùi và sơn sửa nó lại. Kế đến bà ta chùi sạch
cửa và gắn rèm mới. Cuối cùng, bà đánh sáp nền nhà và trải thảm xuống. Dần dà
bà cố biến căn phòng thành xinh đẹp như chiếc bình. Thánh Phaolô cũng thúc đẩy
tín hữu Côlôsê biến tâm hồn họ nên đẹp đẽ, như Chúa Kitô, Đấng cư ngụ trong họ.
Tôi có thể làm gì để biến căn
phòng tâm hồn tôi nên giống Chúa Kitô. Đấng cư ngụ trong đó?
Sự xấu xa tìm được nơi trú ẩn
tuyệt vời nhất trong cái đẹp bị trù dập và cái xấu được đăng quang (Calvin
Miller).
11.
Thời gian chẳng có nhiều
Buddy Holly trở nên nổi tiếng
vào thập niên 1950. Năm 19 tuổi, Texan, ngôi sao nhạc rock đầu tiên đã viết nhạc,
chơi nhạc và hát nhạc do anh sáng tác. Trong sự nghiệp kéo dài khoảng ba năm,
anh đã viết 45 bài hát, và rồi một tai nạn máy bay đã đột ngột kết thúc cuộc đời
tươi trẻ của anh. Khi Buddy chết, sáu bài hát của anh được kể vào số những bài
hát chạy nhất. Tác giả Albert Cyicki nói về nhạc sĩ trẻ thiên tài này như sau:
"Nếu Buddy còn sống đến nay, có lẽ anh sẽ nói với chúng ta điều mà Thánh
Phaolô nói về tín hữu Corinto trong bài đọc hôm nay: "Thời gian chẳng còn
bao lâu"
Bằng cách nào tôi thể hiện tốt
hơn thời giờ quý báu Thiên Chúa cho tôi mượn?
Khi bàn tay giá lạnh của Ngài đặt
trên bạn, tước đi những gì bạn đầu tư, suy đoán và tiền bạc của bạn, và cùng với
Ngài, bạn sẽ đi vào cuộc sống vĩnh cửu. Bạn sẽ chẳng phải quá bận rộn khi đi
vào cái chết (A.E. Kittridge).
THỨ NĂM - BẮT CHƯỚC THIÊN CHÚA CHA
Lời
Chúa: Lc 6, 27-38
Khi ấy,
Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo các con đang nghe Thầy
đây: Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc
cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình. Ai vả
con má bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng
cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì con hãy cho, và ai lấy gì của con, thì đừng
đòi lại.
Các
con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy. Nếu
các con yêu những kẻ yêu các con, thì còn ân nghĩa gì nữa? Vì cả những người tội
lỗi cũng yêu những ai yêu họ. Và nếu các con làm ơn cho những kẻ làm ơn cho các
con, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng làm như vậy. Và nếu các
con cho ai vay mượn mà trông người ta trả lại, thì còn ân nghĩa gì? Cả những
người tội lỗi cũng cho những kẻ tội lỗi vay mượn để rồi được trả lại sòng phẳng.
Vậy các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mượn mà không trông báo đền.
Phần thưởng của các con bấy giờ sẽ lớn lao, và các con sẽ là con cái Đấng Tối
Cao, vì Người nhân hậu với những kẻ bội bạc và những kẻ gian ác. Vậy các con
hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ. Đừng xét đoán, thì các con sẽ khỏi
bị xét đoán; đừng kết án, thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con
sẽ được thứ tha. Hãy cho, thì sẽ cho lại các con; người ta sẽ lấy đấu hảo hạng,
đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong đấu nào,
thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy.”
TRUYỆN
KỂ
1. Đừng
so sánh… mà hãy so sánh
Ghi lại
kinh nghiệm sống của mình trong tập nhật ký có tựa đề là Những người bạn muôn
thuở, bà Ressa Marita, vợ của triết gia công giáo người Pháp Jack Maritain đã
viết như sau:
"Trong
cuộc sống thiêng liêng, chúng ta không nên so sánh mình với ai cả, mà chỉ so
sánh mình với mẫu gương trọn lành của Chúa mà thôi. So sánh mình với kẻ khác, ta
sẽ thấy mình dễ bị cám dỗ, thấy những điểm tiêu cực nơi anh chị em và trở nên tự
kiêu, luôn cho mình là tốt hơn. Nhưng nếu nhìn vào mẫu gương trọn lành của
Chúa, ta được mời gọi canh tân liên lỉ, tiến mãi không ngừng, vì Chúa là Ðấng
trọn tốt trọn lành vô cùng.”
2.
Suy bụng ta ra bụng người
Một
cô giáo nọ ra bài cho các học sinh như sau: "Chiều nay về nhà, mỗi em phải
làm một việc tốt đối với người thân nào đó trong gia đình.”
Ngày
hôm sau, một em học sinh đến trường than phiền với cô giáo như sau: "Thưa
cô, con không thể tiếp tục làm công tác này được nữa.”
Trước
sự ngạc nhiên của cô giáo, học sinh này giải thích như sau: Bữa cơm tối qua con
đã khen mẹ nấu ngon. Thay vì vui mừng, mẹ con nổi giận nói con chọc tức và gián
tiếp chê bữa ăn không ngon. Con giải thích với mẹ nhưng mẹ không tin, và nổi giận
ra lệnh con phải rửa chén để chứng minh cụ thể bữa ăn ngon.
Tiếc
thay, em bé thành tâm khen ngợi mẹ, nhưng người mẹ thì ngược lại không tin, cho
rằng em giả vờ khen và có hậu ý nào khác. Thay vì yêu thương thật tình và cảm
nhận tình thương của anh chị em đối với mình, thì nhiều lúc ta cũng hành động
như người mẹ trong câu chuyện vui trên. Ta nghi ngờ tình thương của anh chị em
vì có bao giờ ta yêu thương thật sự anh chị em đâu, có chăng chỉ là những lời
nói xã giao bên ngoài cho qua lúc. Thật là, suy bụng ta ra bụng người.
3. Cùng
tha thứ với Chúa Giêsu
Sau
thế chiến II chấm dứt, Coritanbun với những vết sẹo trên thân thể, tàn tích của
những khổ hình bà phải chịu trong trại tập trung Đức quốc xã, bà đã đi khắp Âu
châu rao giảng sự tha thứ cho những kẻ đã làm hại mình.
Thế nhưng, vào một Chúa nhật nọ, sau khi bà
kêu gọi mọi người hãy tha thứ cho nhau trong một nhà thờ của thành phố Munich,
bước ra ngoài bà bất ngờ đối diện với một khuôn mặt quen thuộc: dung mạo của
người lính đã hành hạ bà và hàng ngàn nữ tù nhân khác ở trại tập trung. Tiếng
than khóc, cảnh tra tấn, rồi những tiếng kêu trả thù nổi dậy mạnh mẽ trong tâm
trí bà.
Người
đàn ông tiến lại khiêm tốn đưa tay ra vừa muốn bắt tay bà vừa nói: “Thưa bà,
tôi rất cảm ơn những lời tốt đẹp của bà kêu gọi sự tha thứ. Xin bà tha thứ cho
tôi.” Coritanbun như chết điếng người, trước đây bà cầu nguyện và quyết tha thứ,
nhưng giờ đây đối diện với con người cụ thể đã tra tấn mình, bà đứng lặng im,
tay không thể bắt tay người đến xin bà tha thứ.
Sau
này vào năm 1971 khi kể lại: “Trong giây phút thinh lặng đó, tôi đã cố gắng
dâng lên Chúa lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể tha thứ cho người đã
hành khổ con. Xin Chúa hãy ban cho con những tâm tình của Chúa để con có thể
tha thứ như Chúa.” Và chính trong lúc đó bà đã hiểu rằng con người chỉ có thể
tha thứ cho nhau khi nhìn nhận tình yêu thương và sự tha thứ của Thiên Chúa
4. Chữ
tha thứ nơi các danh nhân
a) Học
thuyết của Khổng Tử: Trong vấn đề cư xử, học thuyết của Đức Khổng Tử giống luật
báo oán của Cựu ước. Ngài dạy học thuyết: “Dĩ trực báo oán.” Nhưng sau này, các
đệ tử của ngài muốn đi xa hơn, họ đã thêm vào học thuyết của ngài câu: “Dĩ đức
báo oán.”
b) Đức
Phật Thích Ca: Ngài tìm phương thế giải thoát con người ra khỏi vòng đau khổ.
Ngài chủ trương giáo thuyết TỪ BI, lấy từ bi làm phương châm cho mọi hoạt động,
mà đã từ bi thì phải hỉ xả, do đó, ngài không chấp nhận luật công bình, mà chỉ
chấp nhận luật tha thứ. Ngài nói: “Lấy oán báo oán, oán ấy chồng chất. Lấy đức
báo oán, oán ấy tiêu tan.”
c)
Ông Mahatma Gandhi nói: “Luật vàng của xứ thế là tha thứ lẫn nhau.” Ông đã dùng
thuyết bất bạo động để giải phóng dân tộc Ấn Độ khỏi ách thống trị của người
Anh.
d) Mục
sư Luther King: Trong tác phẩm của ông “Chỉ có một cuộc cách mạng”, ông nói:
“Trong Tân ước, chúng ta thấy từ “Agapè” được dùng để chỉ tình yêu. Đó chính là
tình yêu dồi dào không đòi một đáp trả nào hết. Các nhà thần học nói đó là tình
yêu Thiên Chúa được thực hiện nơi tâm hồn con người. Khi vươn lên đến một tình
yêu như vậy, chúng ta sẽ yêu hết mọi người, không phải vì chúng ta có thiện cảm
với họ, cũng không phải vì chúng ta đánh giá cao lối sống của họ, chúng ta yêu
thương họ vì Thiên Chúa yêu thương họ.”
5. Tha
thứ cho kẻ thù
Một
ông bố giàu có, cảm thấy già yếu gần đất xa trời, bèn gọi ba đứa con trai lại
chia gia tài đồng đều cho chúng, duy còn lại một viên kim cương gia bảo quý giá
không thể chia cắt được.
Ông
ta giải quyết bằng cách nói với các con rằng: “Ta sẽ trao viên kim cương cho đứa
nào thực hiện một việc lành tốt đẹp nhất. Vậy các con hãy ra đi và thực hiện
cho được điều kiện đó.”
Ba đứa
con lên đường và ba tháng sau trở về. Người con cả nói với bố:
- Một
người ngoại quốc đã giao toàn bộ tài sản cho con và con đã thủ tín trả lại đầy
đủ.
Người
cha tuyên bố:
- Con
đã làm phận sự của con rất tốt đẹp.
Đến
lượt đứa con thứ trình:
-
Thưa cha, con đã xả thân cứu được một em bé chết đuối.
Người
cha khen anh ta. Rồi quay sang nhìn đứa con út. Cậu ấp úng bẩm:
-
Thưa cha, trong một cuộc hành trình con thấy địch thù con đang ngủ say bên một
bờ vực sâu. Con nghĩ con có thể xô nó xuống vực dễ dàng, nhưng con không làm.
Trái lại con đánh thức nó dậy và cứu nó.
Nghe
xong, người cha ôm hôn cậu út và tuyên bố:
-
Viên kim cương gia bảo thuộc về con, vì con đã làm một việc lành vĩ đại biểu lộ
một tấm lòng nhân ái chân thực là yêu thương tha thứ cho kẻ thù mình.
6. Ngượng
ngùng trong tình yêu
Lần nọ
trong một ngôi thánh đường, hàng ngàn người say sưa ngồi lắng nghe vị mục sư giảng
về lòng yêu thương. Khi bài giảng đã kết thúc, vị mục sư bước ra khỏi ngôi
thánh đường. Bỗng một người tiến lại và chìa tay về phía ông. Đó chính là người
đã hại ông khi xưa. Ngập ngừng hồi lâu, vị mục sư ngượng ngùng đưa tay bắt.
Sự ngập
ngừng của vị mục sư cũng chính là thái độ của tôi trong cuộc sống hôm nay. Tôi
không dễ dàng tha thứ để đón nhận và yêu thương kẻ thù. Tôi đã quay lưng lại
khi phải đối diện với họ.
Lạy
Chúa, xin cho con con tim của Chúa, để con bao dung, yêu thương và tha thứ cho
hết mọi người như chính Chúa đã yêu thương và tha thứ cho chúng con.
7. Yêu
thương một cách tiêu cực
Hillel
một trong những Rabbit nổi tiếng của Do Thái, đã trả lời cho người đến xin ông
ta dạy cho mình biết tất cả luật pháp chỉ trong thời gian anh ta có thể đứng cò
cò trên một chân, ông bảo:
“Điều
gì đáng ghét cho ngươi thì ngươi đừng làm cho kẻ khác, đó là tất cả luật pháp,
các sự khác chỉ là giải thích.”
Philô,
một vĩ nhân Do Thái sống tại Alexandria đã nói: “Điều gì anh ghét thì đừng làm
cho bất cứ ai.”
Socrates,
một nhà hùng biện Hi lạp nói: “Những gì khiến anh bực bội do kẻ khác gây ra cho
mình, thì anh cũng đừng làm những sự ấy cho kẻ khác.”
Các
triết gia của phái khắc kỷ có một nguyên tắc căn bản hơn: “Điều gì anh không muốn
kẻ khác làm cho anh thì anh đừng làm cho ai khác.”
Khi
người ta hỏi đức Khổng Tử rằng: “Có lời nào có thể làm luật thực tiễn cho cả đời
sống con người không?” Cụ trả lời: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân.”
Tóm lại,
tất cả các hình thức trên đều là tiêu cực. Dù không phải dễ để giữ mình đừng
làm các điều đó, và cũng vô cùng khó khi chúng ta phải ép mình làm cho kẻ khác
điều mà chúng ta muốn họ làm cho mình.
8.
Tha thứ để tiêu trừ đau khổ
Tại
Newban (Châu Úc), mẹ Têrêsa có mở một nhà nội trú dành cho các thanh thiếu niên
nghèo. Một lần kia, mẹ gặp thấy một thanh niên đang bị đánh đập tàn nhẫn, toàn
thể mình mẩy anh ta bầm tím. Mẹ thấy cần phải gọi cảnh sát đến để điều tra và
khi cảnh sát đến hỏi anh: “Ai đã đánh anh?” thì người thanh niên này nhất định
không chịu trả lời các câu hỏi. Cuối cùng, cảnh sát phải chịu thua anh và bỏ ra
về. Lúc đó, mẹ Têrêsa mới ôn tồn hỏi anh:
- Sao
con không khai người đánh đập con với cảnh sát?
-
Thưa mẹ, - cậu ta trả lời - nếu con khai ra thì người đó sẽ bị trừng phạt và rồi
những đau khổ của người đó cũng sẽ không thể làm giảm đi nỗi đau khổ của chính
con!
9. Mục
tử có mùi chiên
Ông
chủ cửa hàng bán thú nuôi mang tấm biển “Tại đây bán chó con” đóng lên cửa ra
vào.
Một cậu
bé xuất hiện bên dưới tấm biển hỏi:
- Ông
định bán những chú chó con này bao nhiêu ạ?
-
Cũng tùy, từ 30 - 50 đô-la, cháu ạ.
Cậu
bé thò tay vào túi móc ra một ít tiền lẻ:
-
Cháu chỉ có 2 đô-la và 37 xu. Ông cho phép cháu ngắm chúng nhé.
Người
chủ mỉm cười, huýt sáo ra hiệu. Năm chú chó lơn tơn chạy ra, có một con chậm chạp
theo sau. Ngay lập tức cậu bé chỉ vào chú chó khập khiễng:
- Con
chó nhỏ ấy làm sao thế ạ?
- Bác
sĩ bảo rằng xương chậu nó bị khiếm khuyết nên phải khập khiễng, què quặt suốt đời.
- Đây
chính là con chó cháu muốn mua – cậu bé tỏ vẻ rất thích thú.
-
Không, ta nghĩ cháu không nên mua nó. Còn nếu cháu thật sự thích nó thì ta tặng
cho cháu đó.
Cậu
bé hơi bối rối, nhìn thẳng vào mắt ông chủ cửa hàng, rồi chìa tay đáp:
-
Cháu không muốn được ông tặng. Nó cũng đáng giá như những con chó khác và cháu
sẽ trả đủ tiền cho ông. Đây là 2 đô-la 37 xu và cháu sẽ đưa ông thêm 50 xu mỗi
tháng đến khi nào đủ tiền.
-
Cháu sẽ không nên mua con chó này. Nó không thể chạy nhảy vui đùa với cháu như
những con chó khác – người chủ tỏ vẻ phản đối.
Cậu
bé lặng lẽ đưa tay kéo ống quần lên, để lộ chiếc chân trái bị teo cơ đang được
nâng giữ bằng một khung kim loại. Nhìn lên người chủ, nó dịu dàng nói:
-
Cháu cũng đâu thể chạy nhảy vui đùa, và con chó này cần một ai đó thông cảm với
nó ông ạ!
10. Kết
án vì không biết tội của mình
Ngôn
sứ Nathan đã dạy cho vua David muốn lấy cái rác khỏi mắt người khác, thì vua phải
lấy cái đà trong mắt vua trước. Ngôn sứ Nathan nói với vua: Tại sao ngài lại để
cho một vị quan giàu có, nhà không thiếu chiên dê, khi có khách đến chơi lại
không bắt chiên dê của mình làm thịt đãi khách,mà lại bắt con chiên của người đầy
tớ nghèo? Nghe thế vua thịnh nộ đập bàn quát:
- Tên
nào, xin cho biết, ta sẽ xử tội nó đích đáng.
- Thưa
tên đó chính là ngài.
Nhà
vua giật mình vì biết rằng ngôn sứ Nathan đã rõ tội ác của ông lập mưu giết
Uria, một vị tướng đang xông pha chiến trường bảo vệ bình an cho hậu phương, để
rồi vua có cớ cướp vợ của Uria!
Tội
ác của vua tày trời như thế mà không thịnh nộ với chính mình, tỏ lòng sám hối
ăn năn, mà lại tỏ ra giận dữ với một người gian ác không tưởng, dù có, vẫn thua
tội của vua (x 2Sm 12).
11. Biết
tội và bắt đầu lại
Một
trong những điều đầu tiên của George Washington phải làm sau khi nhận vai trò
lãnh đạo quân đội trong cuộc cách mạng là cách chức đại úy John Callender vì đã
hèn nhát trong trận Bunker Hill, John bình thản ghi danh lại như một binh nhì.
Ông tiếp tục chiến đấu cách anh dũng trong trận Long Island. Chính vì thế ông
đã được Washington phục chức cho. Thánh Phaolô cho thấy Thiên Chúa cũng đối xử
với ngài như thế. Ngài tiếp tục trở nên người anh hùng trong việc làm vì Nước
Chúa.
Hiện
nay tôi có anh dũng làm việc cho Nước Chúa sau khi đã thất bại trong quá khứ
không?
Hãy
quên đi vết hằn quá khứ. Mỗi phút giây là một khởi đầu mới.
12. Làm
thầy thì dễ hơn làm trò
Tiến
sĩ Marshall Seper được gọi là một nhà đại tâm lý. Trong suốt 11 năm, chương
tình truyền thanh của ông đã lôi kéo được rất đông thính giả ở Trung Mỹ. Ông
không chỉ phổ biến tâm lý, mà còn thực hành nó một cách thành công. Ông đã thuyết
phục được nhiều người có ý định tự sát trở lại với cuộc sống của họ. Nhưng rồi
một buổi sáng thứ hai nọ, ông lái xe có mui đỏ ra khỏi nhà khoảng mười phút,
rút súng ra và tự sát. Một người hâm mộ chương trình truyền thanh của ông đặt
câu hỏi cuối cùng này: Tại sao ông ta không thể theo lời khuyên của chính mình?
Tôi
trả lời câu hỏi trên thế nào? Ở mức độ nào tôi thực hành được lời khuyên mà tôi
đưa ra cho người khác về cuộc sống?
Không
ai lúng túng hơn người đưa ra được lời khuyên tốt, trong khi chính họ gặp tình
huống xấu. (E.C. McKenzie).
13. Mù
dắt mù
Tiến
sĩ Marshall Seper được gọi là một nhà đại tâm lý. Trong suốt 11 năm, chương
tình truyền thanh của ông đã lôi kéo được rất đông thính giả ở Trung Mỹ. Ông
không chỉ phổ biến tâm lý, mà còn thực hành nó một cách thành công. Ông đã thuyết
phục được nhiều người có ý định tự sát trở lại với cuộc sống của họ. Nhưng rồi
một buổi sáng thứ hai nọ, ông lái xe có mui đỏ ra khỏi nhà khoảng mười phút,
rút súng ra và tự sát. Một người hâm mộ chương trình truyền thanh của ông đặt
câu hỏi cuối cùng này: Tại sao ông ta không thể theo lời khuyên của chính mình?
Tôi
trả lời câu hỏi trên thế nào? Ở mức độ nào tôi thực hành được lời khuyên mà tôi
đưa ra cho người khác về cuộc sống?
Không
ai lúng túng hơn người đưa ra được lời khuyên tốt, trong khi chính họ gặp tình
huống xấu. (E.C. McKenzie).
14. Người
giỏi không cần được đánh giá cao
Có
hai người đàn ông đang ngồi trên ghế đá công viên tranh luận với nhau về tôn
giáo. Người trẻ hơn nói với người lớn tuổi: “Anh cho mình là biết rõ về tôn
giáo. Tôi đánh cuộc là anh không biết, Ngay cả Kinh Lạy Cha.” Người lớn tuổi mở
ví, đặt xuống mười đô la và nói gắt: “Tôi dám cược với anh là tôi biết đấy.”
Người trẻ cũng làm như vậy và nói: “Tôi cũng dám cược là anh không biết đấy.”
Người lớn tuổi bắt đầu cuộc chơi khi nói: “Thôi tớ ngủ cái đã….” Người trẻ trả
lại mười đô và nói: “Anh lừa tôi, chắc là anh không biết rồi.”
Tôi
trung thực với người khác như thế nào? Đôi khi tôi có cố gắng cho họ ấn tượng
là tôi biết nhiều hơn là tôi thực sự biết không?
Chúng
ta đạt được nhiều hơn, khi thể hiện chính mình, hơn là vờ vĩnh những gì chúng
ta không có (La Rochefoucauld).
THỨ SÁU – NHẬN BIẾT CHÍNH MÌNH
Lời
Chúa: Lc 6, 39-42
Khi ấy,
Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: “Người mù có thể dẫn người mù được
chăng? Cả hai lại không sa xuống hố ư? Môn đệ không trọng hơn Thầy; nếu môn đệ
được giống như Thầy, thì kể là hoàn hảo rồi.
“Sao
ngươi nhìn cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại
không thấy? Sao ngươi có thể nói với người anh em: 'Này anh, hãy để tôi lấy cái
rác trong con mắt anh', trong khi chính ngươi không nhìn thấy cái đà trong mắt
ngươi. Hỡi kẻ giả hình, hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ
ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi.”
TRUYỆN
KỂ
1. Muốn
làm Thượng Đế
Chỉ
là thụ tạo mà muốn làm Thượng đế, đó là ảo tưởng muôn đời của con người. Ngay từ
đầu lịch sử nhân loại, Ông Bà nguyên tổ của loài người đã trải qua cơn cám dỗ ấy.
Ma quỉ
nói với Ông Bà: Các ngươi hãy ăn trái cấm, các ngươi sẽ trở thành Thiên Chúa,
nghĩa là các ngươi hãy chối bỏ Thiên Chúa và tự tôn mình thành Thiên Chúa để sống
mà không cần có Thiên Chúa.
Ðó là
cơn cám dỗ triền miên của con người: sống không cần Thiên Chúa, loại trừ Thiên
Chúa ra khỏi cuộc sống, để tự tạo cho mình một bậc thang giá trị và trở thành
thẩm phán tối cao cho mọi hành động của mình cũng như của người khác.
2. Abba,
Cha ơi
“The
Pursuit of Happiness” là một bộ phim xúc động mang tới những thông điệp đầy
tính nhân văn về ý nghĩa thực sự của từ “hạnh phúc.” Được dựa trên một câu chuyện
có thật, nhân vật chính của phim là Chris, một nhân viên bán máy soi xương luôn
gặp thất bại trong việc kinh doanh. Quá bức bối với việc nợ nần của gia đình, vợ
Chris đã bỏ đi và để lại cậu con trai nhỏ Christopher Jr. Điều tồi tệ nhất xảy
ra khi hai cha con anh bị đuổi ra khỏi căn hộ do không đủ tiền trả và trở thành
những kẻ lang thang.
Đi
phiêu bạt khắp nơi để kiếm sống, có lúc Chris và con trai đã phải ngủ qua đêm
trong nhà vệ sinh bẩn thỉu của một ga tàu điện. Tuy nhiên, với nỗ lực phi thường,
anh không ngừng mưu cầu một cuộc sống hạnh phúc cho chính mình và con trai...
(Theo afamily.vn).
Tình
cha là thế, lo lắng và cùng con bước vào đời với bao gian nan. Tình Chúa dành
cho con người được phác họa bằng hình ảnh của tình Cha: Ngài như người cha hiền
luôn đồng hành và lo lắng cho con cái ở dưới nhân gian. Dù rằng nhân loại “thuộc
hạ giới” (Ga 8,23).
3. Cái
đà trong mắt
Trong
một ngụ ngôn hài hước của thi sĩ La Fontaine kể rằng: thần Jupiter khi dựng nên
con người thì ngài đeo cho họ hai cái túi: một cái trước ngực đựng những lỗi lầm
của người khác, một cái sau lưng đựng những lỗi lầm của mình. Như vậy, người ta
chỉ nhìn thấy những lỗi lầm của người khác mà không nhìn thấy những lỗi lầm của
mình.
Bài học
dạy đời của ngụ ngôn này đúng như câu tục ngữ của chúng ta: “Việc người thì
sáng, việc mình thì quáng” do câu “Bàng quan giả tỉnh, đương cục giả mê.”
Hoặc:
Chân
mình thì lấm lê mê,
Lại cầm
bó đuốc mà rê chân người.
Và
đây cũng là bài học Chúa Giêsu dạy chúng ta: ”Cái xà trong mắt mình mà lại đòi
gảy cái rác nơi mắt anh em.”
4. Lắng
nghe lời phê bình.
Một
ông vua kia được viên quan cận thần cho biết một tin khẩn như sau:
-
Thưa ngài, kẻ đã luôn luôn phê bình chính sách của ngài nay bị bệnh nặng, sắp
qua đời, từ nay chúng ta sẽ được yên thân hơn.
Nghe
tin báo, thay vì vui mừng thì nhà vua lại ra lệnh cho viên quan đại thần như
sau:
- Hãy
mau đi tìm vị lương y giỏi nhất nước đến chữa trị cho người bệnh đó. Ta không
muốn kẻ đó phải chết, hãy làm mọi cách để cứu sống kẻ đó.
Quan
đại thần ngạc nhiên hỏi lại:
-
Thưa ngài, người này là người luôn luôn phê bình đường lối cai trị của ngài. Nếu
ông ta mà chết đi, thì có lợi cho ngài hơn, cớ sao ngài lại muốn như vậy, và ra
lệnh phải tìm đủ mọi cách chữa trị cho người đó sống.
Nhà
vua trả lời:
-
Chính vì người đó dám lên tiếng phê bình ta, nên ta lại càng phải cứu sống người
đó. Ta cần một con người can đảm như vậy hơn là những người lúc nào cũng chỉ biết
có tung hô vạn tuế.
5. Nhìn
người để sửa mình
Năm
16 tuổi, Albert Einstein thường thích làm bạn với những đứa trẻ chỉ thích ham
chơi chứ không thích học hành. Vì thế mà việc học hành của cậu ngày càng kém,
thậm chí nhiều lần còn phải thi lại.
Một
buổi sáng chủ nhật nọ, Einstein chuẩn bị cần câu để đi câu với bọn trẻ đó thì bị
bố ngăn lại và nói: - Con trai, suốt ngày bố thấy con chỉ biết ham chơi, lại
còn vài môn phải thi lại. Bố mẹ rất lo cho tương lai của con.
Einstein
thản nhiên đáp lại bố: - Chẳng có gì đáng lo cả bố ạ. Bố thấy đấy, nhiều đứa
cũng phải thi lại, đâu phải vì chúng suốt ngày đi chơi?
Bố ân
cần nói với Einstein: - Con trai, con không được nghĩ như thế. Bố kể cho con
nghe một câu chuyện ngụ ngôn nhé. Có hai chú mèo nhỏ chơi đùa cạnh ống khói. Vì
không cẩn thận nên cả hai đều rơi xuống ống khói, khó khăn lắm chúng mới bò ra
ngoài được. Hai chú mèo nhìn nhau, một chú mèo mặt nhem nhuốc bụi khói, còn chú
mèo kia thì rất sách sẽ. Chú mèo sạch sẽ nhìn chú mèo mặt dính đầy khói, tướng
rằng mặt mình cũng bẩn nên vội vàng chạy đi rửa mặt. Còn chú mèo mặt dính đầy bụi
kia tưởng mặt mình sạch nên chạy đến chỗ khác chơi. Những con vật khác nhìn thấy
nó đều bỏ chạy tán loạn, tường rằng nhìn thấy yêu quái. Con trai, chúng ta
không nên coi người khác là chiếc gương của mình, chỉ có mình mới là chiếc
gương cho chính mình thôi.
Sau
khi nghe bố kể câu chuyện, Einstein xấu hổ đặt cần câu xuống, quay về phòng học.
6. Sửa
mình trước, sửa người sau
Nếu ta
muốn sửa lỗi người anh em, mà mình chưa sửa được lỗi của mình, thì phải xin lỗi
người anh em trước, đồng thời xin người anh em cầu nguyện cho mình sớm thoát khỏi
tội đang dày vò lương tâm, mới đề nghị người anh em phải sống theo Lời Chúa dạy.
Ví dụ: người bố lỡ đam mê hút thuốc, mà chưa bỏ được, lại muốn con đừng hút,
thì phải xin lỗi con, đồng thời xin con cầu nguyện cho bố sớm dứt bỏ tật xấu, rồi
mới lên tiếng dạy: “Con đừng bắt chước bố, con hơn cha là nhà có phúc!” Chớ đừng
như chuyện một cha Sở kia khi mới về nhận xứ thấy trẻ con trong xứ đứa nào cũng
giỏi tiếng “Đ. M..” Cha xứ liền gọi ông Chánh trương đến, nhờ ông nhắc bọn trẻ
phải bỏ ngôn ngữ vỉa hè ấy. Mấy tháng sau, cha Sở có dịp gặp lại ông Chánh và hỏi:
- Sao
ông Chánh dạy trẻ đã bớt nói tục chưa?
- Thưa
cha, “Đ. M.” nó, con bảo mà nó cứ thế thôi!!?
7. Lên
án người mà quên tội mình
Ngôn
sứ Nathan đã dạy cho vua David muốn lấy cái rác khỏi mắt người khác, thì vua phải
lấy cái đà trong mắt vua trước. Ngôn sứ Nathan nói với vua: Tại sao ngài lại để
cho một vị quan giàu có, nhà không thiếu chiên dê, khi có khách đến chơi lại
không bắt chiên dê của mình làm thịt đãi khách,mà lại bắt con chiên của người đầy
tớ nghèo?” Nghe thế vua thịnh nộ đập bàn quát:
- Tên
nào, xin cho biết, ta sẽ xử tội nó đích đáng.
- Thưa
tên đó chính là ngài.
Nhà
vua giật mình vì biết rằng ngôn sứ Nathan đã rõ tội ác của ông lập mưu giết
Uria, một vị tướng đang xông pha chiến trường bảo vệ bình an cho hậu phương, để
rồi vua có cớ cướp vợ của Uria!
Tội
ác của vua tày trời như thế mà không thịnh nộ với chính mình, tỏ lòng sám hối
ăn năn, mà lại tỏ ra giận dữ với một người gian ác không tưởng, dù có, vẫn thua
tội của vua (x. 2Sm 12).
8. Sợ
người biết
Dương
Chấn được bổ đi làm thái thú quận Đông Lai, khi nhậm chức đi qua đất Xương Ấp.
Quan huyện ở đấy là Vương Mật, trước được ông đề bạt, xin vào yết kiến. Rồi đợi
đêm khuya lại đem vàng đến lễ.
Dương
Chấn bảo: “Trước tôi biết ông là người khá, mới cử ông lên, thế mà ông vẫn chưa
biết bụng tôi, còn đem vàng bạc đến cho tôi ư?”
Vương
Mật cố nài, thưa rằng: “Xin ngài cứ nhận cho. Bây giờ đêm khuya không ai biết?”
Dương
Chấn nói: “Trời biết, đất biết, ông biết, tôi biết, sao lại bảo không ai biết?”
Vương
Mật nghe nói, xấu hổ lùi ra.
9. Muốn
chỗ nhất
Một
nhà khoa học mới sáng chế ra và áp dụng trên chính mình một phương pháp nhân bản
vô tính hoàn hảo đến nỗi không ai có thể phân biệt được ông với phiên bản của
ông. Khi biết Thần Chết đang kiếm mình ông cũng không hề sợ vì ông đã có 12
phiên bản giống hệt ông.
Lần đầu
tiên gặp ông và 12 phiên bản, Thần Chết phải trở về tay không vì không được
phép bắt lầm, và nhà khoa học xoa tay vui vẻ.
Nhưng
sau đó không lâu Thần Chết trở lại với một “khí cụ dò tìm đặc biệt.” Cầm khí cụ
trên tay, Thần Chết nói: “Này, nhà khoa học, ông thật là một thiên tài đã làm
được những phiên bản giống hệt như mình. Tuy nhiên ta đã khám phá ra và sẽ chỉ
cho ông thấy một sơ suất trong công trình của ông, một đặc điểm quan trọng mà
các phiên bản không có được.”
Nghe
đến đó, nhà khoa học nhảy chồm lên, sừng sộ: “Làm gì có sơ suất! Đâu? Sơ suất
chỗ nào?”
Thần
Chết túm ngay lấy gáy nhà khoa học và nói: “Chỗ này nè!”
Nhà khoa
học giỏi đến thế mà vẫn không bỏ được cái dại của mọi người, cái dại của “những
kẻ được mời, chọn chỗ nhất.”
Cái dại đó bắt đầu từ tổ tông loài người khi dám trái lời Chúa chỉ vì chữ “tinh khôn”: “Người đàn bà thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình; ông cũng ăn.”
THỨ BẢY - NHÀ XÂY TRÊN ĐÁ: KHÔN NGOAN
Lời Chúa: Lc 6, 43-49
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: “Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu, và cũng không có cây nào xấu
mà sinh trái tốt. Thật vậy, cứ xem trái thì biết cây. Người ta không hái trái vả
nơi bụi gai, và người ta cũng không hái trái nho nơi cây dâu đất. Người tốt
phát ra điều tốt từ kho tàng tốt của lòng mình, và kẻ xấu phát ra điều xấu từ
kho tàng xấu của nó, vì lòng đầy thì miệng mới nói ra.
Tại sao các con gọi Thầy: 'Lạy
Chúa, lạy Chúa', mà các con không thi hành điều Thầy dạy bảo? Ai đến cùng Thầy,
thì nghe lời Thầy và đem ra thực hành. Thầy sẽ chỉ cho các con biết người ấy giống
ai. Người ấy giống như người xây nhà: ông ta đào sâu và đặt nền móng trên đá.
Khi có trận lụt, dù nước ùa vào nhà, cũng không làm cho nó lay chuyển, vì nhà
đó được đặt nền trên đá. Trái lại, kẻ nghe mà không đem ra thực hành, thì giống
như người xây nhà ngay trên mặt đất mà không có nền móng. Khi sóng nước ùa vào
nhà, nó liền sụp đổ, và nhà đó bị hư hại nặng nề."
TRUYỆN
KỂ
1. Căn Nhà Ðức Tin
Một
người giàu có nọ muốn thưởng cho người quản lý của mình. Ông cho biết ông sắp
đi xa và giao cho người quản lý đứng ra xây cho một căn nhà sang trọng, với những
vật liệu đắt giá và những nhân công tài giỏi nhất. Người quản lý xem đây là cơ
hội để làm giàu: ông tính toán từng đồng trong việc mua sắm vật liệu cũng như
chỉ mướn những thợ xoàng nhất với giá rẻ mạt. Dĩ nhiên, căn nhà cũng được hoàn
thành một cách tương đối tốt đẹp.
Khi
người giàu có trở về, người quản lý đem tất cả chìa khóa của căn nhà đến cho
ông và báo cáo đã làm đúng như chỉ thị của ông. Ông chủ hài lòng, khen người quản
lý và thưởng cho ông căn nhà đó. Trong những năm kế tiếp, khi phải chi tiền để
tu sửa căn nhà, người quản lý không ngừng hối tiếc: giả như tôi biết trước, đây
căn nhà ông chủ tặng cho tôi, thì tôi đã không xây cất nó một cách xoàng xĩnh
như thế.
2.
Triệt để thi hành luật pháp.
Vào
khoảng giữa thế kỷ 19, các dân tộc thuộc vùng núi Caucase ở phía nam nước Nga,
được cai trị bởi một quốc vương Hồi giáo nổi tiếng là thanh liêm chính trực. Ưu
tiên hàng đầu trong việc chấn hưng đất nước của ông là quét sạch mọi tham nhũng
hối lộ.
Ông
ban hành một sắc lệnh, theo đó thì tất cả những ai bị bắt quả tang phạm tội tham
nhũng và hối lộ sẽ bị phạt đúng 50 roi trước mặt công chúng.
Điều
không may xẩy ra cho ông, là ngươi đầu tiên bị bắt quả tang phạm tội lại chính
là mẹ ông. Sự kiện này làm cho ông đau đớn vô cùng. Không có một luật trừ hay
châm chước nào cho sắc lệnh mà chính ông đã ban hành.
Liên
tiếp ba ngày liền nhà vua giam mình
trong lều của mình. Sang ngày thứ tư ông xuất hiện trước công chúng cùng
với thân mẫu. Ông ra lệnh cho hai binh sĩ trói tay mẹ ông và bắt đầu xứ lý theo
qui luật.
Thế
nhưng khi chiếc roi đầu tiên sắp quất xuống trên người mẹ thì nhà vua chạy đến
bên cạnh mẹ. Ông mở trói cho bà. Rồi ra lệnh cho hai binh sĩ trói tay ông, lột
áo ông ra và bắt đầu cuộc trừng phạt bằng roi. Đúng 50 roi đã quất xuống trên
thân mình nhà vua.
Với
thân thể rướm máu và khuôn mặt nhợt nhạt, nhà vua quay về phía dân chúng và
nói:
-
Bây giờ thì các ngươi có thể ra về. Luật đã được thi hành. Máu của vua các
ngươi đã chảy ra để đền bù cho tội lỗi này.
Kể
từ ngày đó, trong vương quốc người ta không còn bao giờ nghe đến tội tham
nhũng, hối lộ nữa.
3.
Môn đệ Chúa Kitô sống tình hiệp nhất
Vào
ngày thứ sau 5-4-1985, 8000 đài phát thanh trên thế giới cùng cử lên bài hát:
"Chúng ta là thế giới", với mục đích gây quỹ cứu trợ nạn nhân chết
đói ở Ethiopi và thể hiện sự hiệp nhất của gia đình nhân loại, chứ không phải sự
chia rẽ. Thánh Phaolô chắc hẳn đã tán thưởng cử chỉ của các nhạc sĩ và chương
trình phát đĩa của thể giới. Bởi vì điều ngài nói về thân thế của Chúa Kitô
trong bài đọc hôm nay rất thích hợp với gia đình nhân loại. Chúng ta là gia
đình và chúng ta nên bắt đầu hành động như trong một gia đình.
Tại
sao tôi được ban cho các tài năng? Điều gì ngăn cản tôi sử dụng tài năng theo
đúng mục đích của nó?
Nếu
một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau (1Cr 12,26).
4.
Thùng rác của tâm hồn
Muốn
biết người ta dùng gì trong nhà, cứ việc nhìn vào thùng rác của họ sẽ biết. Muốn
biết xã hội như thế nào, cứ nhìn vào các hiện tượng trong xã hội sẽ rõ, vì như
một nhạc sĩ nhận xét, “sản phẩm của xã hội văn hóa nào thì sinh ra con người ấy.”
Như vậy, những hiện tượng xấu giữa xã hội này từ những “kho tàng xấu” trong
lòng người mà ra.
Nhưng,
Thiên Chúa tạo dựng nên chúng ta theo “hình ảnh của Thiên Chúa” mà! Vậy, tại
sao có những “kho tàng xấu” ấy? Chúa Giê-su đã giải thích qua câu hỏi: “Tại sao
anh em gọi Thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa!, mà anh em không làm điều Thầy dạy?” Thì
ra, một khi không làm những điều Chúa dạy, lòng dạ người ta sẽ trở thành “thùng
rác” chứa đầy mọi thứ xấu xa, bẩn chật và tai ác; một khi không thực thi lời
Chúa, thì thay vì trở thành cộng đoàn yêu thương, xã hội sẽ trở nên một đám
đông “quỷ ở với người.”
Bạn
làm gì để gia đình bạn thành tổ ấm yêu thương và là cộng đoàn chứng nhân giữa
xã hội này? Lòng bạn thấm đầy lời Chúa dạy hay ngập tràn điều xấu? Bạn có để
Chúa làm chủ đời bạn và gia đình của bạn không?
5. Chứng
nhân quan trọng hơn giảng thuyết
Trong
thông điệp Rao Giảng Tin Mừng, ban hành vào năm 1975, Ðức Cố Giáo Hoàng Phaolô
VI đã trình bày giáo huấn của Giáo Hội về việc rao giảng Tin Mừng. Trong số 14
của thông điệp, ngài viết: "Rao giảng Tin Mừng là ân sủng và ơn gọi riêng
của Giáo Hội, là bản sắc sâu xa của Giáo Hội. Giáo Hội hiện hữu là để rao giảng
Tin Mừng, nghĩa là để rao truyền và giảng dạy để trở thành máng thông ân."
Như
vậy, mục đích của rao giảng Tin Mừng là thay đổi tấm lòng của con người, việc
công bố Tin Mừng phải được thực thi trước tiên bằng chứng từ của cuộc sống. Ðức
Phaolô VI khẳng định: "Con người thời đại thích nghe các chứng nhân hơn là
những thầy dạy, và nếu họ có nghe thầy dạy thì cũng bởi vì những thầy dạy này
là các chứng nhân."
6. Làm
chứng cho sự thật
Truyện
thánh Pacôm kể rằng, khi còn ngoại đạo, đã đăng lính trong đạo binh Rôma. Ngày
kia, các binh sĩ trong đơn vị của ngài, đã kiệt sức vì đói và khát sau khi đi bộ
qua sa mạc dưới cái nóng chết người, thất thểu vào thành Thebes (Tê-bes) ở Ai Cập.
Thấy cảnh tượng đó, có nhiều người chạy lại bên họ, cho họ ăn uống, cùng chăm
sóc họ chu đáo, tận tình.
Pacôm
ngạc nhiên hỏi những người tốt lành này là ai và được trả lời rằng: “Họ là các
kitô hữu.” Ngài thốt lên: “Một tôn giáo dạy người ta cứu giúp những kẻ khốn khổ
hoàn toàn xa lạ với mình là một tôn giáo chỉ có thể đến từ vị Chúa chân thật.”
Sau
biến cố này, Pacôm, trở lại đạo Công giáo và trở thành một vị sáng lập các đan
viện, sống cộng đoàn bác ái huynh đệ. Philatô đã từng hỏi: “Sự Thật là gì?”
nhưng không thể hiểu được, còn Pacôm tin nhận Thiên Chúa là Sự Thật nhờ những
người kitô hữu ở Thebes đã làm chứng bằng hành động bác ái.
Người
kitô hữu được “thánh hiến trong sự thật” nên sống theo sự thật và làm chứng cho
sự thật. Sự thật về Chúa Giêsu chỉ có thể được tỏ hiện qua cái chết tự hiến vì
yêu thương trên thập giá: “Ông này quả thật là Con Thiên Chúa.” Noi gương Chúa
Kitô, người kitô hữu không chỉ làm chứng nhân bằng việc tử đạo mà còn làm chứng
cho sự thật bằng chứng từ bác ái nữa.
7.
Hãy chiếu giải ánh sáng
Nơi
nhiều đền thờ Ấn giáo người ta đặt những cái giá treo lồng đèn. Mỗi sáng, tín đồ
cầm đèn dầu đi lễ. Khi tới đền thờ, họ đặt đèn của mình vào giá treo lồng đèn,
nhờ đó ngôi đền sáng rực lên cách lung linh huyền ảo. Ngọn đèn soi đường cho từng
cá nhân tín đồ giờ đây thành chùm đèn thắp sáng cho cả cộng đoàn.
Chúa
Giê-su dạy chúng ta: Nếu ta đã được ánh sáng chân lý của Chúa soi sáng, đến lượt
mình, chúng ta cũng phải cùng với anh chị em chiếu giãi ánh sáng đó ra để đẩy
lùi bóng tối tội lỗi lầm lạc. Một đức tin không giãi sáng bằng đời sống chứng
nhân thì chẳng khác nào “thắp đèn rồi lấy hũ che lại hay đem đặt dưới gầm gường”,
sẽ không còn là ánh sáng nữa.
Các
thánh đã thực hiện mệnh lệnh ‘chiếu giãi ánh sáng’ khi làm sáng lên một nét đẹp
trong giáo huấn Tin Mừng, từ đó khai sáng nên những linh đạo, những con đường
nên thánh: thánh Phan-xi-cô Át-xi-di cho thấy sự hấp dẫn của nếp sống khó
nghèo; thánh Tê-rê-xa cho thấy nét đơn sơ đáng yêu của con đường thơ ấu thiêng
liêng… Nét đẹp Tin Mừng nào hấp dẫn bạn để bạn toả sáng ra chung quanh bằng cuộc
sống chứng nhân của mình?
8.
Thêm lửa
Nhà
văn Kazantzakis nói rằng: “Điều tôi quan tâm không phải là con người, mặt đất,
bầu trời, mà là ngọn lửa thiêu đốt con người, mặt đất, bầu trời." Nếu vậy,
ông nghĩ thế nào về hai môn đệ trên đường đi Em-mau? Hai môn đệ “hết lửa”! Một
đội bóng “hết lửa” chỉ có từ thua đến thua to! Hai môn đệ “hết lửa” với Thầy, với
công cuộc của Thầy, chỉ còn nước chót là đào tẩu về nhà!
Thế
nhưng, khi được gặp Đức Ki-tô Phục Sinh thì mọi sự đổi khác. Họ được tiếp thêm
“lửa” nhờ Lời và Thánh Thể của Ngài: “Dọc đường, khi Người nói chuyện… lòng
chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” Đầy “lửa” đến độ họ đứng dậy, vượt quãng
đường 12km ngay trong đêm, để gặp các bạn làm chứng rằng mình đã gặp Thầy.
Bạn
còn “lửa” không, “lửa” yêu Chúa, “lửa” say mê công cuộc cứu độ của Ngài, “lửa”
yêu thương đồng loại, nhất là những người thân của bạn? Hay bạn “hết lửa” vì
ích kỷ mải lo cho mình?
Để
thêm “lửa” trong đời sống đạo, tôi sẽ trung thành với việc đọc Lời Chúa và nỗ lực
sống Lời ấy mỗi ngày.
9. Cây
tốt sinh quả tốt
Có
những người tự xưng là danh y, thần y với những phương thuốc gia truyền, những
dược liệu quý hiếm chữa bách bệnh. Nhiều người không ngại đường xa, không ngại
tốn kém tuôn đến chữa trị. Thế nhưng chỉ đến khi tiền mất tật mang, mọi người mới
vỡ lẽ họ là lang vườn, lang băm lừa đảo thiên hạ. Quả xấu sinh bởi cây xấu. Cây
nào sinh quả ấy: đó là một định luật bất biến.
Chúa
Giê-su cảnh báo chúng ta sự lừa đảo về thiêng liêng là nạn ngôn sứ giả mà thời
nào cũng có. Họ mang dáng dấp là người của Thiên Chúa, họ tự nhận mình là sứ giả
nói lời của Thiên Chúa. Họ hấp dẫn quần chúng và có nhiều người chạy theo. Chúa
Giê-su dạy ta bí quyết để nhận biết ai là ngôn sứ giả đó. Hãy xem những hoa
trái là đời sống và công việc họ làm. Cây xấu không thể sinh quả tốt, ngôn sứ
giả sẽ bị lộ mặt nạ qua đời sống bất chính của họ. Hễ cây tốt thì sinh quả tốt,
những môn đệ đích thực của Đức Giê-su hẳn sẽ sinh quả tốt qua đời sống công
chính trước mặt Thiên Chúa và mọi người.
Sống
trong một thế giới phẳng và đa nguyên, người môn đệ đích thực của Đức Giê-su phải
tỉnh táo để nhận ra hoa quả nào là bắt nguồn từ Thần Khí: bác ái, hoan lạc,
bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín. Và quả xấu nào là bắt nguồn từ
quỷ dữ: gian dối, tham lam, hận thù, bất hòa, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ,…
10.
Dấu chứng đáng tin
Ngày
25/02/2006, việc phục vụ của các nữ tu Công giáo – cụ thể là các chị em tu hội
Nữ Tử Bác Ái – tại trại phong Di Linh đã được xã hội tuyên dương qua việc trao
tặng huân chương cho nữ tu Mai Thị Mậu.
Việc
tuyên dương đó không chỉ có ý nghĩa công nhận sự hiện diện của các nữ tu, và
xác nhận tính chất “tử tế” của công việc họ làm hằng ngày giữa những anh chị em
bệnh phong. Họ đã âm thầm phục vụ như thế từ lâu vì họ được thôi thúc bởi tình
yêu mãnh liệt đối với Chúa và tha nhân, cách riêng với những anh chị em bất hạnh
nhất.
Họ
đang lặp lại sự chọn lựa của Chúa Giê-su nơi cuộc đời mình: Cùng với Đức Giê-su
“làm các việc của Thiên Chúa” để nếu như người đời chưa tin thì ít ra cũng cảm
nhận được Ngài qua những “việc-của-Thiên-Chúa” đó.
Hẳn
bạn đang tự hỏi đâu là tiêu chí xác định một việc là việc của Thiên Chúa. Gương
sống của các nữ tu trên đây minh hoạ cho Lời Chúa và trả lời cho bạn câu hỏi
đó: Tình yêu mãnh liệt đối với Chúa và tha nhân đến độ “hy sinh mạng sống mình
vì đàn chiên."
Bạn
chỉ trở thành một chứng nhân đáng tin cậy khi bạn làm “việc-của-Thiên-Chúa”
theo cũng một tiêu chí đó.
LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ
– PHẢI ĐƯỢC GIƯƠNG CAO
Lời Chúa: Ga 3, 13-17
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng
Nicôđêmô rằng: “Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là
Con Người vốn ở trên trời. Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào,
thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì
không bị tiêu diệt muôn đời.
“Quả thật, Thiên Chúa đã yêu thế
gian đến nỗi đã ban Con Một Người, để tất cả những ai tin vào Con của Người,
thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của
Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà
được cứu độ."
TRUYỆN
KỂ
1. Cuốn
sách hay nhất
Một nhà thông thái nằm mơ thấy
mình để cả cuộc đời đi tìm một cuốn sách hay nhất gồm tóm mọi sự trên đời, cuốn
sách đó chỉ tóm gọn trong một trang hay nhất, rồi trang ấy gồm trong một dòng
hay nhất, rồi dòng ấy trong một chữ hay nhất. Ông giật mình tỉnh dậy, trên bàn
ông có một chữ to tướng: Crux, Thánh Giá.
Thánh Giá là tình thương vô biên
của Thiên Chúa qua Chúa Kitô, đã tỏ cho loài người bằng cách hứng chịu mọi đau
khổ trên thập giá để cứu độ chúng ta, và ngược lại, Chúa muốn chúng ta cũng qua
Thánh Giá đóng góp phần mình vào ơn cứu độ để cứu mình và anh em, để tất cả được
sống lại vinh quang với Chúa. Chỉ một vài dòng đơn sơ, nhưng nói đến Thánh Giá
là động chạm đến bao vấn đề hết sức quan trọng và sâu sắc.
2.
Trao tặng người con duy nhất
Một nhà mục sư Tin Lành giảng về
câu Kinh Thánh của Thánh Gioan trên rất hay: 2 gia đình, 1 Công giáo, 1 Tin
lành đi lại với nhau rất thân, gia đình Công giáo có 5 người con, ông bà Tin
lành đã già mà không có con. Họ quý mến nhau lắm và mọi sự thông cảm chia sẻ với
nhau rất quảng đại. Một hôm ông bà Tin lành mạnh dạn nói với ông bà Công giáo:
Cả 2 ta cùng thờ một Chúa Giavê, một Chúa Kitô, tuy là 2 Hội Thánh nhưng chúng
ta vẫn quý mến nhau vì cũng gặp ở một Chúa. Chúa cho gia đình bác nhiều cô cậu,
còn tôi trong cảnh già nua buồn bã, tôi muốn xin bác cho chúng tôi 1 cô hoặc 1
cậu để ông bà làm vui. Tôi hứa sẽ yêu thương giáo dục cháu hết sức! Ông bà Công
giáo cảm động quá về bàn với nhau xem nên cho đứa nào.
- Con cả là một cậu trai tuấn
tú, thông minh, ngoan ngoãn, nhất định không được. Vả ai lại cho trưởng nam đi.
- Con thứ là một cô gái xinh đẹp
đạo đức lại vừa đính hôn với một thanh niên xứ bạn, ai lại cho đi đứa con chỉ
vài ba tháng nữa sẽ về nhà chồng.
- Con thứ ba là cậu trai tàn tật,
què chân. Hai vợ chồng buồn bã cho số phận hẩm hiu của con nên càng đem lòng ưu
ái con để bù thiệt cho nó, thì sao có thể cho nó đi và lại cho bạn một đứa con
tàn tật, làm sao coi được.
- Con thứ tư là một cô thiếu nữ
10 tuổi. Vừa nói tới bà đã khóc tru trếu vì bà coi cô như hòn ngọc. Bà coi cô
là hình ảnh sống động của mình vì lời ăn tiếng nói, nụ cười, cả dáng đi đều giống
hệt như bà.
- Con thứ 5 là cậu trai út, 4 tuổi,
suốt ngày nói nói cười cười, khi ngồi trên gối mẹ, lúc lại nằm trên tay cha. Đi
nhà thờ, đi dạo chơi luôn kèm theo mẹ cha sao có thể rời được. Rút cuộc đành phải
báo lại cho ông bạn Tin lành là không thể cho ông bạn được đứa nào cả
Nhà mục sư cao giọng: Con người
thân thiết nhau đến thế mà người có 5 con không thể cho ông bạn 1 đứa. Thế mà
Thiên Chúa và nhân loại có thân thiết nhau được như thế không? Tội lỗi đã làm
con người nên tử thần với Chúa, Chúa Cha lại chỉ có 1 người con vô cùng quý
hóa, ấy mà Ngài lại cho con mình xuống trần gian tội lỗi chịu trăm ngàn đau khổ
mà cao điểm là Thánh Giá để loài người được an vui.
3.
Tôi có yêu thánh giá không?
Tự hào là những người yêu Thánh
Giá hơn ai, mến Chúa hơn ai mà con lại không biến cải những Thánh Giá chúng con
thành những cây Thánh Giá để nên giống Chúa, để biểu lộ tình yêu Chúa yêu tha
nhân?
Thánh Têrêxa Avila thì nói: “Hoặc
đau khổ hoặc chết." Thánh Mađalêna de Passi: “Không chết nhưng xin đau khổ
mãi mãi." Thánh Rosa Lima: “Lấy vòng gai có mũi nhọn đội lên đầu, vác cây
khổ giá nặng lâu giờ trong một ngày, ban đêm tự treo 2 tay lên khổ giá để kết hợp
với Chúa hấp hối trên thánh giá xưa.
Thế mà con, tu sỹ Thánh Giá thì
lại khiếp sợ Thánh Giá, chê chối tránh né Thánh Giá. Thật dân này chỉ mến ta bằng
môi bằng miệng.
Nhà văn Montalenebat viết trong
cuốn “Các đan sỹ Phương Tây” miêu tả lời than của cây gỗ Thánh Giá rất cảm động
như sau: Từ năm xửa năm xưa, lâu lắm rồi, tôi không còn nhớ nữa, lúc đó tôi mọc
ở khu rừng, họ đã hạ tôi xuống đất, cưa chặt và mang tôi đi. Những kẻ thù thô lỗ
đã chiếm lấy tôi để thành một trò hề. Họ đem tôi lên một ngọn núi và chôn tôi
xuống đất. Ở đó tôi thấy Chúa tể loài người trong uy quyền đi tới trèo lên tôi.
Để khỏi bất tuân với người tôi không dám gẫy cũng không dám cong, tôi cảm thấy
đất run rẩy dưới chân tôi. Tôi cũng run khi thấy vị anh hùng ôm lên lấy tôi,
nhưng tôi không dám cúi mình xuống, cũng không dám lún sâu xuống đất. Dù sao
tôi cũng phải đứng thẳng và vươn lên để dương cao trên dân chúng Đấng là vua
cao cả, là Chúa trời đất. Họ xuyên thủng tôi bằng những cái đinh màu xám, những
vết thương còn biểu hiện trên mình tôi ngày nay. Cả Ngài lẫn tôi đều bị chửi rủa.
Máu từ cạnh sườn Ngài loang đổ trên mình tôi. Mặt trời tối sẫm, cả vũ trụ than
khóc vua họ bị ngã xuống. Trong cuộc thương khó trên Núi Sọ, cây gỗ giá đã đồng
hóa mình với Chúa Giêsu, đã góp phần vào ơn cứu chuộc –
Cây gỗ giá đã tuyên bố không dám
gãy không dám cong mà cứ đứng thẳng và vươn lên. Còn ta, những người tự hào
mình là kẻ hợp tác với ơn cứu độ, chuyền thông ơn cứu độ lại không dám đồng hóa
với Chúa Kitô, không dám vươn lên, không dám vươn cao cho thế giới biết Đấng chịu
đóng đinh là Chúa Trời Đất yêu thương ta vô cùng sao?
Lạy Chúa, xin cho con can đảm
như Cha Charle de Foucauld: Khi tôi ôm lấy Thánh Giá thì một trật tôi ôm lấy
Chúa Kitô chịu đóng đinh vào đó.
4.
Treo cao trên thập tự
Trong truyền thuyết Hy Lạp cổ
xưa, thần chữa bệnh có tên là Asklepios được biểu trưng bằng con rắn, chính vì
lý do này, ngày nay hình con rắn được dùng để làm biểu tượng cho ngành Dược và
ngành Y là những ngành khoa học nghiên cứu và chữa trị con người thoát khỏi bệnh
tật.
Hơn nữa, con rắn đồng được giương
cao trong Kinh Thánh mang ý nghĩa: Thiên Chúa cứu độ con người.
Ý nghĩa cứu độ được bắt đầu bằng
những biến cố của dân Chúa khi thoát khỏi Ai Cập, thoát khỏi ách nô lệ đi vào đời
tự do. Chính trong sự tự do suốt bốn mươi năm ròng rã nơi hoang địa, họ gặp nhiều
thử thách tranh đấu. Bị thử thách, họ đã oán trách Thiên Chúa, vì thế cơn thịnh
nộ của Chúa đã để cho rắn độc trong sa mạc cắn chết nhiều người. Dân Chúa biết
tội và nhìn nhận tội lỗi của mình. Chúa đã đoái thương nỗi thống khổ của họ.
Người truyền cho Môisê làm một con rắn bằng đồng, treo lên cây, để bất cứ ai bị
rắn cắn, nếu nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu (x. Ds 21,4-9).
5.
Ba thập giá
Một trong những bức tranh nổi tiếng
nhất của danh hoạ Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ thứ 17 đó là bức
tranh “Ba thập giá.” Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm:
giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu trổi lên một
cách ngạo nghễ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu
lộ hận thù oán ghét. Tác giả như muốn nói rằng không trừ một người nào mà không
dính líu vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.
Nhìn kỹ vào đám đông, người ta
thấy có một gương mặt gần như mất hút trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng đủ
để cho các nhà chuyên môn chẩn đoán rằng đó chính là khuôn mặt của danh hoạ
Rembrandt. Tại sao giữa đám đông của những kẻ đang đằng đằng sát khí khi tham dự
vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembrandt lại chen vào khuôn mặt của mình? Câu trả
lời duy nhất mà người ta có thể đưa ra để giải thích về sự hiện diện của tác giả
giữa đám người lý hình: đó là ý thức tội lỗi của chính ông. Rembrandt muốn thú
nhận rằng chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc treo Chúa Giêsu lên thập
giá. Và qua sự có mặt của ông, tác giả cũng muốn nói với mỗi người chiêm ngắm bức
tranh rằng, họ cũng dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.
6. Tuân
phục thánh ý Chúa.
Khi nói đến ông Leonardo da
Vinci, chúng ta thường nghĩ ngay đến những phát minh khoa học và những
bức họa nổi tiếng của ông. Chúng ta không biết rằng để giải trí, ông
Leonardo da Vinci còn sưu tầm những chuyện cổ tích hoặc ñaët ra những
câu chuyện vui như câu chuyện sau đây về một cuộc đối thoại tưởng
tượng giữa tờ giấy trắng và cây viết:
Tờ giấy trắng từ lâu nằm ù
lỳ trên bàn giấy cùng với những đồng bạn khác, nhưng bỗng nó được
chọn đem ra nằm giữa bàn và chịu cảnh cây viết mực đen ngòm vẽ lên
nó không biết bao nhiêu là dấu hiệu mà nó không hiểu gì cả. Nó phàn
nàn với cây viết như sau:
- Tại sao anh lại làm thế?
Anh vẽ trên mình tôi những dấu đen làm mất đi sự trong trắng ban đầu.
Anh làm nhục tôi thế này sao? Anh làm hư cả cuộc đời tôi rồi.
Nhưng cây viết trả lời:
- Không đâu anh giấy ạ, anh
hiểu lầm tôi rồi. Tôi không bôi đen anh đâu, tôi vẽ lên anh những dấu
hiệu, nhöõng dòng chữ kể từ nay anh không còn là một tờ giấy vô dụng
nữa, nhưng có mang trên mình những sứ điệp. Anh trở thành kẻ cộng
tác với con người, lưu giữ những tư tưởng cao siêu. Và vì thế được
con người nâng niu, bảo vệ. Anh sẽ được sống mãi để trợ giúp cho con
người.
Tờ giấy chưa kịp trả lời cây
viết thì nó bỗng nhìn thấy một bàn tay người quơ lấy những tờ giấy
khác, trước kia trắng tinh nhưng nay đã đổi mầu, đầy bụi mà quăng và
ngọn lửa bên cạnh. Tờ giấy bị vẽ trên mình những lằn mực đen kia
mới hiểu được hành động của cây viết và lấy làm sung sướng, vì được
trở thành như người cộng tác lưu giữ trong kho tàng trí khôn con
người.
Cuộc đời chúng ta có thể
được so sánh như tờ giấy trắng. Nếu không chấp nhận để cho bàn tay
của Thiên Chúa viết vào đó những dòng chữ, những chương trình hành
động thì ta sẽ không được hạnh phúc trở thành người cộng tác với
Thiên Chúa, trở thành những kẻ lưu truyền sự khôn ngoan của Ngài từ
thế hệ này sang thế hệ khác. Lúc đầu, tờ giấy đã không hiểu được
hành động của cây viết vẽ lên những dấu lạ trên mình nó. Con người
chúng ta chắc cũng sẽ gặp trường hợp tương tự.
7.
Lấy thứ kim cương nào?
Một vua kia muốn thử các
con, xem ai khôn ngoan hơn, đặng nối ngôi sau khi mình băng hà, bèn lấy
thứ kim cương thật quí gói vào một gói bằng giấy rất xoàng, khó coi
lắm. Còn một thứ kim cương giả bằng thủy tinh thì để vào trong hộp
rất lịch sự có vẻ rực rỡ ưa nhìn. Đoạn, vua gọi người con cả đến,
bảo tùy ý muốn chọn thứ kim cương nào thì chọn. Thấy gói xoàng, con
đó bỏ qua, song chọn cái đẹp, té ra là thứ kim cương giả. Sau vua gọi
đến con út, hỏi muốn chọn lấy kim cương nào. Con đó nhìn cha bằng
một cặp mắt dịu hiền, rồi nói:
- Thưa cha, xin cha lựa chọn
dùm con.
Vậy, vua cha chọn thứ kim
cương thật trong gói xoàng, và bảo con đó hãy đợi để mình sửa soạn
cách trọn vẹn hơn nữa. Vua truyền thợ làm cái mũ triều thiên, trên
đính thứ kim cương thật đó, coi rất đẹp đẽ, đoạn, để vào trong hộp
bằng vàng đẹp hơn cái hộp đựng kim cương giả trước ngàn lần. Cuối
cùng vua họp các thần dân lại tuyên bố rằng: Mai sau con út mình sẽ
được nối ngôi làm vua.
8.
Ông lão mất ngựa.
Một ông lão có con ngựa hay,
một hôm tự nhiên đi mất. Hàng xóm đến chia buồn. Ông nói:
- Mất ngựa, nhưng sao các ông
biết đó là họa cho tôi?
Cách mấy tháng sau, con ngựa
trở về, dẫn theo một bầy ngựa hay khác. Hàng xóm cũng đến chia
mừng. Ông nói:
- Được nhiều ngựa hay, nhưng
sao các ông biết đó là phúc cho tôi?
Từ ngày có ngựa hay, con
trai của ông lão ngày nào cũng thích cưỡi, rủi té què chân. Hàng
xóm đến chia buồn. Ông nói:
- Con tôi què, nhưng sao các
ông biết đó là họa cho tôi?
Năm sau có giặc. Nhà vua bắt
lính. Thanh niên đi lính, mười người chết chín. Con trai ông lão vì
què khỏi đi lính, nên cha con còn hủ hỉ với nhau.
Một khi đã biết sống tin
vào Chúa quan phòng, chúng ta sẽ dễ dàng sống lạc quan vui vẻ như em
bé trong tay mẹ mình, sống một đời thảnh thơi không lo lắng gì (x. Tv
131). Chúng ta phải có cái nhìn lạc quan vào sự đời, biết tìm ra
cái hay, cái tốt để làm cho đời sống thêm sung sướng.
9.
Gương của cha Pereyve
Cha Pereyve tưởng mình sẽ
chết non, trong dịp cấm phòng chịu các chức nhỏ, ngài viết: bệnh
của tôi không biết sẽ kéo dài bao lâu nữa, có khi đến mùa thu sắp
tới hay sẽ dai dẳng cho đến mùa xuân sang năm, nếu được như vậy, càng
hay, cứ thường tình mà nói, tôi có lẽ mà buồn.
Lạy Chúa, Chúa biết con
muốn làm Linh mục, muốn giảng giải, giải tội, viết sách, nhưng thánh
ý Chúa muốn cho con làm việc khác: việc chết non, việc vui lòng đón
nhận cái chết. Lạy Chúa, con đã suy nghĩ, đã học hỏi kỹ điều Chúa
dạy, và con xin giơ tay đón nhận. Lạy Chúa Giêsu, con xin ký nhận vào
giấy đòi chết, và vui lòng đi. Con rước lấy sự chết với tất cả
những gì tùy theo: ly biệt, đau lâu ốm dài, chiến đấu gay go, chết
lúc nào đang ham sống bồng bột – hai mươi ba cái xuân – chết mà không
dám phàn nàn vì chưa thực hành được những điều mơ ước, dầu khởi sự
cũng chưa.
10.
Thánh giá trong đời thường
Chúng ta hãy xem gương thánh
nữ Têrêsa Hài Đồng đã sống thế nào trước những gian lao thử thách
trong đời sống thường ngày. Thực ra, những sự hy sinh của thánh nữ
chẳng lớn lao gì, nhưng thánh nữ đã biết lợi dụng khai thác triệt
để với lòng yêu mến, do đó, các hy sinh ấy có giá trị to lớn. Ta
hãy nghe thánh nữ kể:
“Hai chúng con giùng giằng lèo xèo làm
cho mẹ Bề trên (đang liệt bệnh) mở mắt thức dậy, thế là mọi lỗi đổ
cả lên đầu con. Chị kia liến thoáng nói một thôi dài, mà đại ý chỉ
có thế này: chính là tại Têrêsa Hài đồng đã làm om sòm. Nóng mặt,
con muốn cãi lại ngay… Nhưng con bảo mình: nếu mà cãi phải cho mình
bây giờ, chắc sẽ mất sự bằng an trong lòng. Đàng khác, vì còn kém
nhân đức lắm, nên con đã không thể đứng yên để nghe chị ấy đổ tội cho
mà không thưa lại vài lời cho ra nhẽ, con liền tính kế “đào vi thượng
sách."
Nghĩ xong, con lủi đi như con
quốc… nhưng vì trái tim quá hồi hộp thổn thức không thể bước đi xa
được, chân như rủn ra, con phải cưỡng bách ngồi xệp xuống chân thang
để được bình tĩnh hưởng cái thú không chiến mà thắng” (Trích Một
tâm hồn, tr 40-41)
Những hy sinh nhỏ mọn hằng
ngày, tuy nhỏ mọn tầm thường, nhưng rất có lợi cho ta nếu ta biết
lợi dụng nó. Trong đời sống hằng ngày, không thiếu gì những dịp để
chúng ta có thể làm những hy sinh dâng cho Chúa. Những xích mích va chạm
trong đời sống hằng ngày thiếu gì, nhưng mấy khi chúng ta biết chịu
đựng như Têrêsa Hài đồng!
11.
Con hổ và lũ khỉ.
Người ta kể chuyện ngụ ngôn
như sau: trong một khu rừng có một con hổ lớn và dữ tợn, lũ khỉ
ghét con hổ này lắm. Một ngày kia, chẳng may, con hổ bị sa xuống hố
do người thợ săn đào sẵn. Không còn cách nào thoát thân, con hổ chỉ
còn biết ngồi chờ thần chết đến…
Lũ khỉ đi qua thấy thế mừng
lắm, chúng chế diễu và thay nhau ném đá, lấy đất và bẻ các cành
cây ném xuống con hổ cho bõ ghét. Con hổ chỉ còn biết ngồi chịu
trận, không còn biết làm cách nào khác. Thấy thế, lũ khỉ thích chí
càng ném hăng, ném mãi không chán, nhưng không ngờ, chính những hòn
đá, cành cây ném xuống nhiều quá, làm cho hố cứ đầy dần lên, đến
nỗi con hổ có thể nhờ đó mà nhảy ra khỏi hố được.
Đời là thế. Đau khổ cũng
có ý nghĩa riêng của nó. Người ta nói: “Cái khó nó bó cái khôn."
Nếu ta biết lợi dụng đau khổ thì nó sẽ trở nên có lợi cho ta: cũng
như một hạt cát, nếu rơi vào mắt sẽ làm ta khó chịu, đau khổ; nhưng
nếu những hạt cát ấy rơi vào miệng một con sò thì nó sẽ biến
thành một hạt ngọc trai quí giá. Đau khổ đi theo chúng ta như hình với
bóng, không thể nào rời nó được. Nhưng có một cái lạ: nếu ta đuổi
nó thì cái bóng đi mất, nếu ta chạy trốn thì nó chạy theo. Chỉ còn
có cách sẵn sàng chấp nhận đau khổ thì đời ta mới sung sướng được.
12.
Hạt trân châu.
Ngày xưa có ba chàng kỵ mã
vượt qua một bãi sa mạc quạnh hiu không một bóng người. Một hôm trời
vừa sấp tối, ba chàng kỵ mã cũng vừa đến một bờ suối đã khô cạn
từ lâu. Bỗng chốc trong đêm tối có một tiếng nói bí mật vang lên mơ
hồ:
- Hãy dừng bước lại.
Cả ba đều tuân lệnh. Tiếng
nói bí mật ấy lại tiếp tục vang lên mơ hồ:
- Các ngươi hãy xuống ngựa,
bước xuống lòng suối, nhặt lấy cho mình ít đá sỏi, bỏ vào túi rồi
tiếp tục lên đường.
Cả ba làm theo lời chỉ dạy
thiêng liêng. Rồi tiếng nói kia lại cất lên trầm ấm:
- Hay lắm, các ngươi đã làm
theo lệnh ta. Ngày mai, khi vầng đông vừa ló rạng, các ngươi sẽ vừa
sung sướng vừa buồn bã.
Các kỵ mã lên đường rong
duổi ban đêm. Quả đúng như lời mách trước, khi mặt trời vừa lên, ba
chàng kỵ mã thấy cái gì lấp lánh trong túi mình. Thì ra, những hòn
sỏi họ lấy khi hôm trước bây giờ đã trở thành những hạt trân châu
sáng ngời muôn sắc. Cả ba đếu sung sướng, nhưng cũng vừa nuối tiếc.
Họ sung sướng vì nhận được của báu, nhưng họ hối tiếc vì nhặt ít
quá. (Nguyễn văn Huệ, báo Rạng đông, số 64, th 11/1970, tr 26)
13.
Kinh dâng mình của cha Charles de Foucauld
Lạy Cha, con phó trót con cho
Cha,
Xin hãy làm nơi con mọi sự
đẹp ý Cha.
Cha làm chi mặc lòng, con
cũng cám ơn Cha.
Con sẵn sàng luôn luôn, con
nhận lãnh tất cả, miễn ý Cha làm tròn trong con, trong hết thảy loài
Cha tạo dựng:
Con chẳng muốn chi khác nữa,
vì Cha là Chúa trời con.
Con phó trót linh hồn con
trong tay Cha, con dâng linh hồn con lên Cha, với tất cả tình yêu của
lòng con.
Vì con mến Cha, và vì mến
Cha nên con thấy cần phải hiến thân con.
Lạy Cha, con phó trót mình
con cho Cha, không do dự đắn đo, song vô cùng tin cậy. Vì Cha là Cha của
con.
14.
Lễ Suy tôn Thánh giá--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Lòng mến mộ và tôn kính Thánh Giá
đã có từ lâu đời trong Kitô Giáo. Cụ thể, khi đề cập đến Giáo hội từ thời sơ khởi,
vào thế kỷ đầu của ngàn năm thứ nhất, nhiều chuyên gia về giáo sử, đặc biệt như
Giáo phụ Tertuliano, đều cho biết: “Bất kỳ làm một việc gì có ý nghĩa, người
Kitô hữu đều làm dấu Thánh Giá." Thậm chí người Kitô hữu có thói quen làm
dấu Thánh Giá trên người và vật như dấu chỉ sự chúc lành. Nhưng, phải đến thế kỷ
thứ 4 trở đi mới có ngày lễ dành để tôn vinh Thánh Giá.
Đầu tiên, khi tìm được di tích
Thánh Giá vào năm 326, bà Helena cho xây cất hai đền thờ, một tại núi Calvario
và một tại Mộ Thánh ở Thánh Địa. Lễ khánh thành và cung hiến hai đền thờ này được
tổ chức trọng thể tại Giêrusalem vào hai ngày 13 và 14 tháng 9 để mừng Đền thờ
Calvario và Mộ Thánh. Năm 335, ngày 14 tháng 9 cũng mừng kính ngày tìm được
Thánh Giá thực vào 14 tháng 9 năm 326. Vì gỗ Thánh Giá thực rất quý, nên được
phân ra nhiều phần rất nhỏ, chia cho các Giáo hội tại mỗi nơi. Thành
Constantinopoli được phần Gỗ Thánh lớn hơn và phần còn lại được lưu niệm tại Giêrusalem.
Từ đó, ở Giêrusalem lễ tìm được Thánh Giá mừng kính trọng thể vào ngày 14 tháng
9.
Tiếp đến, Lễ Suy Tôn Thánh Giá
được thiết lập tại Giêrusalem vào 14/9/629 như chứng tích sau:
Thế kỷ thứ 6, khi giặc giã nổi
lên, vua Ba Tư Khosroès 1 (531–579), đem quân đến Cận Đông và đánh thắng quân của
đế quốc Roma ở Phương Đông, chiếm đóng và tàn phá Thánh Địa, rồi cướp luôn cả
Thánh Giá thực ở Giêrusalem. May thay, lúc ấy có ông Heraclius (575–641), vị tướng
tài giỏi mới 35 tuổi, con của tổng trấn thành Carthage, đã lật đổ bạo chúa
Phocas, rồi lên nắm quyền ở Constantinopoli ngày 3/10/610, và làm hoàng đế
Byzantin, lấy hiệu là vua Heraclius 1 (610–641). Ông đã anh dũng điều khiển trận
đánh và chiến thắng đầu tiên ngày 12/12/627. Ông rượt đuổi vua Khosroès 1 đến
Ctésiphon, và tại đây, con trai của Khosroès là Siroes Shirva đã giết cha và
giao nộp Thánh Giá thực lại cho vua Heraclius 1.
Năm 629, Thánh Giá được kiệu về
Constantinopoli, rồi từ đó rước khải hoàn về Giêrusalem. Vua Heraclius muốn vác
Thập Giá vào đền thờ để tạ ơn Chúa. Ông mặc vương phục và đội mũ hoàng đế.
Nhưng khi vác Thánh Giá lên vai, ông thấy quá nặng. Tức thì, Đức Zacharias,
Giáo chủ Giêrusalem, liền nói với vua: “Xin hoàng đế thận trọng, vì với mũ miện
và y phục vương quyền mà ngài đang mặc, ngài không hợp để vác Thập Giá giống
như thân phận khó nghèo, khiêm tốn của Chúa Giêsu Kitô."
Nhà vua nghe theo lời Đức Giáo
chủ, bỏ hết mũ miện, vương phục. Tức thì gỗ Thập Giá trở nên nhẹ nhàng và
Heraclius 1 vác Thập giá gỗ vào đền thờ. Với gỗ Thập Giá Thánh, Thiên Chúa còn
ban nhiều phép lạ, trong số có một người chết được sống lại; bốn người bất toại
được lành bệnh; mười người phong cùi được trở nên sạch sẽ, bình phục; mười lăm
người mù được sáng mắt; vô số người bị quỷ ám được giải thoát...” (Theo nghiên
cứu của Abbé L. Jaud, Vie des Saints, 1950)
15.
Ba thái độ trước thập giá
Hôm đó, cô và Betty ghé một sạp
bán đồ phế thải. Ann vừa lôi ra một khay đồ linh tinh, Betty bước tới hỏi:
– Có đồ gì đáng giá không?
Ann trả lời:
– Không, toàn là đồ năm vố thôi.
Đoạn cô bước sang bên cạnh nhường
cho Betty vào xem. Betty chăm chú nhìn vào đống lặt vặt, nhặt lên một cây thánh
giá cũ kỹ han rỉ và nói:
– Thật khó mà tin được. Tôi đã
tìm được đồ quý: cây thánh giá này làm bằng chất bạc xưa.
Cô bạn của Ann bèn về nhà lau
chùi và đánh bóng cây thánh giá. Đây quả là một vật quí. Về sau, đứa con trai bảy
tuổi của Betty tên Bobby cầm cây thánh giá lên, cung kính ngắm nghía hồi lâu. Bỗng
nhiên cậu bé oà lên khóc. Betty liền hỏi:
– Con sao vậy?
Bobby nói:
– Con không cầm lòng được khi thấy
Chúa Giêsu bị treo trên thập giá.
******
Ba người nhìn vào cây thập giá,
có ba thái độ khác nhau: một người dửng dưng cho là đồ ve chai, người khác
thích thú vì khám phá ra vật quí báu, còn người khác nữa lại xúc động rơi lệ vì
nhận ra Chúa Giêsu chịu đau đớn trên thập giá.
16.
Thập giá nhẹ nhất
Có một câu chuyện dụ ngôn sau
đây về một người đàn bà cứ phàn nàn, than trách Chúa vì phải vác một thập giá
quá nặng. Một hôm, Chúa đưa người đó đến một cửa hàng bán các thập giá đủ cỡ để
người đó chọn lựa. Người đàn bà hăm hở bước vào cửa hàng và dựng cây thập giá của
mình vào tường trước cửa. Bà tự nhủ trong lòng: “Đây là chuyện cả đời người, phải
hết sức cẩn thận trong việc lựa chọn.”
Sau đó, bà đi xem mọi nơi trong
cửa hàng, và thử hết cây thập giá này đến cây thập giá khác, nhưng không tìm được
một cây nào làm chị vừa ý vừa lòng. Cây thì quá dài, cây thì quá ngắn. Cây thì
quá cong queo, cây thì quá nặng. Chị tiếp tục tìm kiếm. Cuối cùng, chị tìm được
cây thập giá mà chị cho là ưng ý nhất. Chị mang đến với Chúa và nở nụ cười mãn
nguyện, thưa với Chúa, “Lạy Chúa, đây chính là cây thập giá mà con hằng tìm kiếm.
Con xin vác lấy.”
Khi chị vừa hí hửng ra khỏi cửa
hàng, thì Chúa mỉm cười nói với chị: “Ta rất vui mừng vì con đã chấp nhận cây
thập giá này. Đây cũng chính là cây thập giá mà con đã vác vào và dựng ở tường
của cửa hàng này.”
17.
Sức sống từ thánh giá
Có hai bà già mắc bệnh lao, nằm
bên cạnh nhau trong một căn phòng bệnh viện. Họ biết rằng cơn bệnh của họ không
còn phương cách nào cứu chữa, chỉ còn chờ ngày được nghỉ yên dưới lòng đất lạnh
mà thôi.
Một bà thì cô độc, chỉ có một
mình, bởi vì gia đình và những người thân đều đã chết vì trúng đạn pháo kích.
Còn bà kia thì đã có chồng, nhưng ông chồng này đã bỏ bà từ lâu và hiện đang sống
với người vợ lẽ. Bà biết rõ điều ấy.
Trước những nỗi đớn đau và bất hạnh
như thế, mọi lời an ủi và khích lệ dường như đã trở nên thừa thải, nếu không muốn
nói là đã trở nên lẩm cẩm và ngu ngốc. Thế nhưng, mỗi lần viếng thăm, tôi đều
thấy hai bà cầm cây Thánh giá và nói với tôi:
- Cuối cùng chỉ còn lại cây Thập
giá. Bởi vì chính tại Thập giá, Chúa Giêsu đã đau khổ trước chúng tôi và hơn
chúng tôi bội phần. Cây Thập giá của Chúa đã nói với chúng tôi nhiều điều và đã
đem lại cho chúng tôi niềm an ủi tuyệt vời nhất giữa những đắng cay chua xót của
cuộc đời.
Hôm nay, chúng ta không phải chỉ
suy tôn Thánh giá trong lời kinh tiếng hát hay trong những nghi thức phụng vụ,
mà còn phải biết suy tôn Thánh gía trong chính cuộc sống chúng ta, bằng cách chấp
nhận những hy sinh gian khổ mà chúng ta gặp phải vì lòng yêu mến Chúa, bởi vì
đó chính là cây thập giá đời thường Ngài muốn chúng ta vác lấy để bước theo
Ngài.
Bên trên những gai nhọn là cánh
hồng nở thắm. Bên trên thập giá đời đời thường là vinh quang phục sinh chờ đón.
18.
Thánh Giá chiến thắng
Chúng ta biết 300 năm đầu, Giáo
Hội Mẹ Roma bị đế quốc Roma trù dập, nhất là triều đại vua Nêrô, những tín hữu
thời ấy phải sinh hoạt tôn giáo trong các hang toại đạo, là nghĩa trang ngầm dưới
đất, họ lợi dụng luật Roma không cho phép ai động đến nơi có mồ mả. Tuy nhiên nếu
bị phát hiện ai là người Công Giáo thì phải chịu những hình khổ kinh hoàng: người
thì quăng cho thú dữ ăn thịt, kẻ khác bị treo trên cây gỗ và đốt lửa dưới chân…
Suốt 300 năm, các tín hữu thời sơ khai ở Roma không thể xây Nhà Thờ được.
Năm 312, tướng Constantino đưa bốn
vạn quân đánh chiếm thành Roma, quân đội Roma đông gấp ba lần cùng với những
chiến hào và nhiều vũ khí tối tân, tướng Constantino khó mà thắng được. Khi
Constantino đưa quân bao vây thành Roma, ông cầu nguyện với Chúa rằng: “Lạy
Chúa, tuy tôi là người ngoại đạo, tôi xin Chúa cho tôi dấu chỉ có thắng được
Roma hay không? Nếu tôi đánh chiếm được thành này, tôi sẽ không bao giờ quên ơn
Chúa.” Vừa dứt lời cầu nguyện, ông nhìn lên trời thấy lá cờ Thập Giá bay phất
phới với hàng chữ “In hoc signo vinces” (cứ dấu này ngươi chiến thắng).
Constantino hết sức vui mừng, ông ra lệnh cho binh lính phải khắc trên cán gươm
hai chữ PX, đây là chữ tắt của tiếng Hy Lạp, có nghĩa là Chúa Kitô, rồi ông ra
lệnh giương cao thập giá thúc quân tấn công, thế là quân đội ông mạnh như vũ
bão ào ạt tràn vào thành, quân Roma do tướng Maxence chỉ huy không kịp trở tay,
chính quân đội của ông dùng gươm giết lẫn nhau, vì họ muốn chống lại vị chỉ huy
của họ!
Ông Constantino lên làm vua lãnh
đạo Roma vào ngày 28 tháng 10 năm 312, và ông ra lệnh cho toàn đế quốc Roma phải
tôn trọng đạo Công Giáo, qua chiếu chỉ Edit de Milan phải chấm dứt bách hại người
Công Giáo. Ông dâng cung điện của ông để làm Đền Thờ đầu tiên của Giáo Hội
Roma. Đó là Đền Thờ Laterano, trong Phụng Vụ Hội Thánh hằng năm vẫn dành riêng
ngày 09 tháng 11 để kính nhớ việc cung hiến Đền Thờ này. Từ đó, vua Constantino
ra lệnh cho toàn đế quốc Roma cho phép người Công Giáo được tự do xây Đền Thờ.
Năm 326, bà Hêlêna, mẹ của vua
Constantino cũng vì nhớ ơn Chúa ủng hộ cho con bà thành công, bà đã cho người
đi tìm Thánh Giá Chúa và người ta đào bới đồi Golgotha, gặp một nơi có ba cây
thập giá nằm gần nhau, người ta đoán đây là nơi Chúa Giêsu bị đóng đinh với hai
tên trộm. Nhưng không biết đâu là Thập Giá của Chúa Giêsu. Lúc ấy, người ta đưa
đến những người tàn tật, què quặt,đui mù, sờ vào ba cây thập giá, riêng chỉ có
một cây bệnh nhân nào đụng đến đều được lành mạnh. Đó là dấu chỉ người ta xác định
Thập Giá Chúa Giêsu.
Năm 628,vua Ba Tư là Khosroès I
(năm 531-579) chiếm thành Giêrusalem và cướp Thập Giá đưa về Ba Tư. Sau này vua
Heraclius I (610-641) rượt đuổi vua Khosroès I đến Ctésiphon, tại đây con trai
của vua Khosroès là Siroes Shirva đã giết vua cha và giao cây Thập Giá lại cho
vua Heraclius I vào ngày 12 tháng 12 năm 627. Đến năm 629 Thập Giá được kiệu về
Constantino rồi từ đó rước khải hoàn về Giêrusalem.
Thứ Sáu Tuần Thánh năm ấy, vua
Heraclius cho tổ chức rước Thập Giá mà ông mới chiếm lại được đưa lên đồi
Golgotha để cử hành lễ Mở Khăn. Chính vua mặc áo cẩm bào vác Thập Giá.Trong
đoàn rước đó có Giám mục Zacharias, giáo chủ thành Giêrusalem chủ sự. Đoàn rước
đi được một quãng đường, thì tự nhiên vua Heraclius ngã xuống, nhiều người đến
nâng vua dậy để tiếp tục cuộc rước, nhưng vua không thể chỗi dậy được. Lúc đó
Giám mục Zacarias lên tiếng nói: “Vua không thể chỗi dậy vác Thập Giá được, vì
vua không giống Chúa Giêsu! Chúa Giêsu xưa kia bị lột trần như tên nô lệ vai
vác thập giá, còn vua thì mặc áo lộng lẫy, nên không thích hợp để vác Thập Giá
của Chúa.” Vua nghe thế, ông liền cởi áo cẩm bào và thay áo thường dân, lúc đó
vua mới đứng dậy tiếp tục vác Thập Giá lên đồi Sọ!
19.
Thờ lạy thánh giá
Có một thiếu nữ nô lệ da đen đạo
đức và trung thành nên được chủ quí mến. Mỗi khi chọn thêm đầy tớ mới, ông để
cô chọn lựa giùm ông. Một hôm cô lại chọn một ông già có tật. Ông chủ nhất định
không chịu mua vì nghĩ rằng hắn chẳng được việc gì, nhưng cô nữ tì đó cứ nài nỉ
mãi nên buộc lòng ông phải mua người nô lệ già cả tật nguyền đó.
Ít lâu sau, người nô lệ già này
bị bệnh nặng và được cô nữ tì đó săn sóc với tình cảm như một người con thảo.
Ông chủ ngạc nhiên hỏi:
- Ông ấy là cha cháu hay sao mà
cháu chăm sóc kỹ như thế.
- Thưa ông, đó không phải là bố
cháu, cũng không phải là bà con của cháu, mà còn là kẻ thù của cháu nữa. Khi
cháu còn nhỏ, ông ta đã bắt cóc cháu để bán như một đứa nô lệ. Cháu làm thế, vì
cháu tin vào chiến thắng sau cùng của tình yêu Đức Kitô.
Tình yêu Đức Kitô đã chiến thắng,
và cây thập giá được dựng lên khắp nơi. Ở đâu có cây thập giá ở đó vang lên lời
ca “Đây là cây thánh giá, nơi treo Đấng cứu độ trần gian - chúng ta hãy đến thờ
lạy.”
20.
Chết cho người mình yêu
Gianna sinh năm 1922 tại Milan,
nước Ý, là con thứ 10 trong gia đình có 13 anh chị em. Trưởng thành, cô lập gia
đình với Pietro Molla và sinh được ba người con. Năm 1962, khi đã 40 tuổi và
sau 13 năm không sinh nở, Gianna mang thai lần thứ tư. Khi khám sức khỏe định kỳ,
bà biết thai nhi phát triển khá tốt nhưng một khối u nằm cạnh thai nhi đang lớn
dần. Là bác sĩ chuyên khoa giải phẫu, nên Gianna biết rất rõ, nếu cắt bỏ khối
u, thai nhi sẽ chết, nhưng nếu muốn con bà chào đời an toàn, tính mạng của bà sẽ
lâm nguy. Sau khi suy nghĩ và cầu nguyện, Gianna quyết định chấp nhận hy sinh
tính mạng, và chịu đựng mọi đau đớn để con bà được sống.
Thứ 6 Tuần Thánh năm 1962,
Gianna chuyển dạ, bà nói với nữ tu y tá trong bệnh viện:
- Thưa Sơ, chắc tôi không thể sống
được một tuần nữa, nhưng tôi sẵn sàng chấp nhận tất cả, miễn là đứa trẻ được
sinh ra mạnh khỏe.
Tối thứ bảy Tuần Thánh, các bác
sĩ trong bệnh viện phải phẫu thuật đưa bé gái con bà ra đời an lành mạnh khỏe.
Sau lễ Phục Sinh đúng một tuần, Gianna thở hơi cuối cùng. Bà hy sinh cho con bà
được sống, đã vui lòng chấp nhận thánh giá cuộc đời và chu toàn trách vụ người
mẹ cách trọn hảo. Năm 1994, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phong chân phước
và 10 năm sau, chính ngài tôn phong hiển thánh cho bà.
Có người chỉ thấy cành gai mà
không thấy bông hồng, nhưng với người hiểu biết thì trên đỉnh của cành hồng đầy
gai nhọn là đóa hoa khoe sắc và ngát hương. Cũng vậy, người bi quan và không có
niềm hy vọng sẽ thấy cuộc đời là một chuỗi khổ đau; người có đức tin sẽ nhận biết
thập giá là phương thế giúp họ nên giống Đức Giêsu, vì thế họ vui lòng đón nhận
mọi thử thách để được kết hợp với Người trong tình yêu, dám chấp nhận thua thiệt
vì hạnh phúc của đồng loại.
21.
Những lời cuối cùng của Steve Jobs
Những
lời cuối cùng của Steve Jobs - người sáng tạo ra Iphone Apple - chấn động cả thế
giới:
"Tôi
đã đạt đến tột đỉnh của thành công. Trong con mắt người khác, cuộc đời tôi là một
biểu tượng của thành công. Tuy vậy phía sau của công việc tôi có rất ít niềm
vui. Tài sản của tôi cuối cùng cũng bình hoá với tôi. Trong lúc này trên giường
bệnh viện, hồi tưởng về cuộc đời, những lời khen ngợi, tự cao, tự hào về tài sản
nhưng tôi cảm thấy thật vô nghĩa trước tử thần, cái chết.
Trong
bóng tối, khi nhìn ánh đèn màu xanh và tiếng ồn ào của máy dưỡng khí, tôi cảm
nghiệm được những hơi thở của tử thần rất gần kề. Bây giờ tôi mới hiểu thấu, nếu
một lần bạn đã có tiền đủ cho cuộc đời của bạn, bạn hãy đeo đuổi một mục đích
khác không liên quan đến tiền bạc. Nên tìm một điều gì quan trọng hơn. Ví dụ
như là lịch sử tình yêu nhân loại, nghệ thuật, ước mơ tuổi thơ… Đừng làm nô lệ
cho vật chất, giàu sang, vì nó sẽ biến bạn thành một người yếu ớt như tôi.
Thượng
Đế tạo dựng chúng ta để cảm nghiệm được tin yêu trong tim, chứ không phải những
ảo tưởng về tiền tài, danh vọng như tôi đã làm trong suốt cuộc đời nhưng không
thể đem theo tôi được. Tôi có thể mang theo được những kỉ niệm của yêu thương.
Đây mới chính là sự giàu sang sẽ có thể đồng hành với bạn, là sức mạnh, ánh
sáng soi sáng cho bạn tiến tới. Tình yêu có thể đi hàng ngàn cây số và chính vì
thế cuộc đời không có giới hạn. Đi, tiến đến nơi mà bạn muốn, Cố gắng lên để đạt
được những mục đích. Tất cả là ở trong tim và trong lòng bàn tay của bạn.
… Mất
tài sản mình có thể tìm lại được, có một cái khi đã mất thì không thể tìm lại
được: sự sống. Dù đang ở giai đoạn nào trong cuộc đời, cuối cùng, tất cả phải đối
diện khi bức màn sự sống kéo xuống. Làm ơn hãy nâng niu và nhận thức được giá
trị tình yêu gia đình, tình yêu bạn đời và tình yêu bạn hữu, gìn giữ sức khỏe
cho bạn và chăm sóc đồng bào của bạn."
Và
Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hãy đúc một con rắn đồng và treo nó lên
làm dấu; kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được sống.” Môsê đúc một
con rắn đồng, treo nó lên làm dấu, và kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng,
thì được chữa lành.
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng Nicôđêmô rằng: "Không ai lên trời được, ngoài người
đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời. Cũng như Môsê treo con rắn
nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai
tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời.
“Quả
thật, Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người, để tất cả những
ai tin vào Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì
Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để
thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ."
ĐỨC MẸ SẦU BI – ĐỨNG
GẦN THẬP GIÁ
Lời Chúa: Ga. 19, 25-27
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Khi ấy, đứng gần thập giá Chúa
Giêsu có Mẹ Người, cùng với chị Mẹ Người là Maria vợ ông Cơ-lô-pát, và Maria
Mađalêna.
Khi thấy Mẹ và bên cạnh có môn đệ
Người yêu, Chúa Giêsu thưa cùng Mẹ rằng: "Thưa Bà, này là Con Bà."
Rồi Người lại nói với môn đệ:
"Này là Mẹ con."
Và từ giờ ấy, môn đệ đã lãnh nhận
Bà về nhà mình.
Đó là lời Chúa.
TRUYỆN
KỂ
1. Ở
bên Đức Mẹ sầu bi
Vào ngày thứ sáu tuần thánh tại
các nước châu Mỹ La Tinh được cử hành với một truyền thống rất đặc biệt, ở đó
người ta sống lại sự hiện diện của Mẹ Maria dưới chân thập giá Chúa Giêsu: Các
phụ nữ tập trung lại dưới chân thập giá, họ đi lại từng bước những khổ nạn của
Chúa Giêsu trong tiếng hát, trong những lời cầu nguyện và cả trong tiếng khóc nữa.
Các tín hữu còn giữ một truyền
thống khác gọi là “chia buồn." Truyền thống này được cử hành sau nghi thức
phụng vụ của Giáo hội vào chiều thứ sáu tuần thánh: Mọi người trở vào nhà thờ để
an ủi Đức Mẹ Sầu Bi, như thể được ở bên Mẹ khi Mẹ đứng dưới chân thập giá Chúa
Giêsu, dân chúng chia sẻ nỗi đau của Ngài, vừa nói lên chính nỗi đau của họ.
Trong nghi thức truyền thống chia sẻ nỗi đau buồn này là bức tượng của người phụ
nữ mặc áo đen đứng dưới chân thập giá, khi xác Chúa Giêsu được tháo gỡ khỏi thập
giá, thì bức tượng của người phụ nữ được đặt ở đầu chiếc quan tài.
Người phụ nữ mặc áo đen ấy dĩ
nhiên tượng trưng cho Mẹ Maria, là Mẹ của Người Con bị hành quyết, là người đàn
bà luôn phấn đấu để tin vào sứ điệp của Con. Mẹ đã phải dằn lại cơn giận dữ trước
thái độ phản bội của dân chúng, và của những người môn đệ thân tín của Chúa
Giêsu. Mẹ đã phải tha thứ cho tất cả mọi người… (Theo R. Veritas).
2.
Kinh Hãy Nhớ
Mẹ Têrêsa kể: "Khi hội dòng
Thừa Sai Bác ái vừa được thành lập, chúng tôi khẩn thiết cần một ngôi nhà để
làm nhà mẹ, thế là tôi khấn xin Đức Trinh Nữ một căn nhà và hứa sẽ dâng cho Đức
Mẹ 85.000 kinh Hãy Nhớ:
Lạy Thánh Nữ Đồng Trinh Maria,
là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người này chạy đến
cùng Đức Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời. Nhân vì sự ấy
con lấy lòng trông cậy than van chạy đến sấp mình xuống dưới chân Đức Mẹ, là nữ
đồng trinh trên hết các kẻ đồng trinh. Xin Đức Mẹ đoái đến con, là kẻ tội lỗi.
Lạy Mẹ là Mẹ Chúa cứu Thế, xin chớ bỏ lời con kêu xin, một rủ lòng thương và nhận
lời con cùng. Amen.
Hồi ấy con số các dì chưa đông.
Làm sao để trả nợ cho Mẹ Maria đây?
Cuối cùng tôi nghĩ ra cách: tập
trung tất cả các trẻ em và những người đau yếu, chúng tôi đang chăm sóc tại
Nirmal Hriday và Shishu Bhavan. Tôi dạy họ kinh Hãy Nhớ đó và tất cả chúng tôi
cùng hứa đọc.
Chẳng bao lâu tòa nhà trở thành
của chúng tôi.
3.
Đứng dưới chân thập giá
Thánh Gioan mô tả Đức Mẹ dưới
chân Thánh Giá:
- Người không rũ rượi như những
người mẹ khác khi thấy con mình đang chết đau đớn. Nhưng người “đứng”, một tư
thế rất kiên vững. Thế “đứng” của Đức Mẹ đã là đề tài cho bao người chiêm ngưỡng
và suy gẫm: Stabat Mater dolorosa!
- Trong giờ phút đau khổ tột
cùng này, không ai nâng đỡ an ủi Mẹ, trái lại Mẹ còn lãnh thêm nhiệm vụ “Thưa
Bà, đây là con Bà."
“Kể từ giờ ấy, người môn đệ rước
Người về nhà mình." Lạy Mẹ Maria, người môn đệ ấy là chính con. Kể từ hôm
nay, con muốn rước Mẹ về ngôi nhà của lòng con và của cuộc đời con, để Mẹ cùng
sống với con trong những lúc vui cũng như những lúc buồn, nhất là những lúc buồn;
những khi sung sướng và nhất là những khi đau khổ, để Mẹ dạy con biết cách chịu
đau khổ thế nào để những khổ đau ấy trở thành nguồn ơn cứu độ cho con và cho
anh chị em con.
4.
Đứng thẳng
Đức Cha Tihamer Toth có thuật lại
một câu chuyện hết sức cảm động về một em bé tên là Barlaam như thế này. Thời kỳ
cấm đạo đẫm máu trong thế kỷ thứ nhất của đạo Thiên Chúa, một người dân quê bị
bắt và bị dẫn ra trước tượng thần Jupiter.
- Hãy bỏ hương vào lửa rồi dâng
cúng cho thần linh chúng ta!
Người ta giục anh như thế.
- KHÔNG! anh trả lời...
Người ta bắt đầu hành hạ anh,
nhưng anh vẫn đứng im. Người ta nâng tay anh lên trên ngọn lửa, người ta nhét
hương vào bàn tay anh và bảo anh chỉ có việc bỏ hương rơi xuống lửa:
- Hãy bỏ hương xuống, mày sẽ được
tự do.
- KHÔNG. Barlaam, người dân quê
đó vẫn trả lời như thế. Anh vẫn đứng im, tay giơ lên... ngọn lửa bốc mạnh liếm
hẳn vào bàn tay anh, hương bắt đầu bén khói, nhưng anh vẫn không động đậy...
Bàn tay anh bị cháy xém với hương, nhưng Barlaam thà chịu chết vì Đạo còn hơn
chối Chúa. Một quả tim biết chịu đựng!
Đó là thái độ của những người
theo Chúa. Phải sống thật anh hùng. “Đứng thẳng!”
“Lúc ấy, đứng gần thập giá Đức
Giêsu, có thân mẫu Người.... Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng
bên cạnh”
5.
Chết vì hoảng sợ
Một người hành hương đang định
vào Baghdad thì gặp bệnh dịch ở dọc đường. Bệnh dịch cũng đang trên đường đi
vào đó. Thấy thế người khách hành hương hỏi bệnh dịch:
- Mi định làm gì ở đó?
- Tôi sẽ giết 5000 người.
Người hành hương rùng mình và
ngay lập tức anh thay đổi dự định và đi về hướng khác. Tuy nhiên, ít lâu sau
anh gặp một người từ trong thành phố bị nạn dịch đó đi ra và được biết không phải
5000 nhưng là 50.000 người đã chết.
Liền sau đó anh lại gặp bệnh dịch
đang đi tới một thành phố khác. Bằng một giọng thật nghiêm khắc anh buộc tội bệnh
dịch:
- Mi nói láo. Mi nói chỉ giết
5000 người, vậy mà thực tế lại quá khác!
Bệnh dịch giải thích cách vui vẻ:
- Tôi chỉ giết có 5000 người. Số
còn lại chết vì hoảng sợ”
6.
Sức mạnh từ thánh giá cho người mẹ
Người ta kể về một người đạo đức
nọ như sau: Trong một cơn bệnh thập tử nhất sinh, chỉ còn một phương thế duy nhất
có thể hy vọng cứu sống bà đó là tiến hành cuộc giải phẫu. Người đàn bà chấp nhận
cuộc giải phẫu, bà yêu cầu cho con trai bà được chứng kiến giờ phút đau khổ của
bà. Vào thời buổi mà thuốc tê mê chưa có, thì bệnh nhân thường phải trải qua những
cơn đau khủng khiếp. Mặc dù đau đớn vô cùng, nhưng người đàn bà vẫn cứ cắn răng
chịu đựng. Nhưng đến cuối giờ mổ, khi các y sĩ chạm đến gần tim, người đàn bà
rùng mình kêu lên: "Lạy Chúa tôi." Chứng kiến cảnh đau đớn của người
mẹ, người con trai không làm chủ được những cảm xúc, anh đã buột miệng thốt lên
những lời phàn nàn phạm đến Chúa. Lúc bấy giờ người mẹ liền nghiêm nghị bảo
con: "Con ơi, con hãy im đi, con làm mẹ đau đớn hơn các bác sĩ này nhiều.
Con đã làm sỉ nhục Ðấng đã ban sức mạnh và an ủi mẹ." Nói xong, bà ta mở
bàn tay ra, và giơ cho mọi người xem một tượng chuộc tội nhỏ bà nắm chặt trong
tay suốt giờ mổ. Và đó chính là thứ thuốc tê mê đã xoa dịu cơn đau đớn của bà.
Sau mấy tháng quằn quại trong đớn
đau, người đàn bà đã yên nghỉ trong Chúa. Trước khi lìa đời, bà đã trao lại cho
cậu con trai tượng ảnh chuộc tội và căn dặn: "Con hãy giữ lấy tượng chuộc
tội này. Ðây sẽ là niềm an ủi của con."
7. Bảy
sự đau khổ của Đức Mẹ
Lời của cụ ngôn sứ Simêon về Đức
Maria (Lc 2, 25-35), là bài Tin Mừng chúng ta có thể đọc trong ngày lễ hôm nay,
theo sách Phụng Vụ các bài đọc.
Trốn sang Ai-cập (Mt 2,13-15)
Lạc mất Đức Giê-su (Lc 2,41-52)
Đức Mẹ nhìn Đức Giê-su vác thập
giá (Lc 23,27)
Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá
(Ga 19,25-27), là bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay.
Đức Mẹ đón nhận thân xác đã chết
của Đức Giê-su (Ga 19,38-40)
Đức Mẹ ở bên mộ Đức Giê-su (Ga
19,41-42)
Điều phải đánh động chúng ta,
khi đọc qua danh sách bảy sự đau khổ của Đức Mẹ, đó là mọi sự đau khổ của mẹ đều có liên quan đến Đức Giê-su, con của Mẹ;
một cách cụ thể, những đau khổ của Mẹ đến từ biến cố Giáng Sinh, đến từ đời sống
ẩn dật, đến từ sứ mạng rao giảng Nước Trời, đến từ cuộc Thương Khó, đến từ Thập
Giá, và sau cùng đến từ cái chết của Ngài.
8.
Tình mẹ
Đứng trước vành móng ngựa, người
con bị tuyên án tử hình vì những tội tày trời: cướp của giết người, buôn bán ma
tuý.
Toà hỏi người mẹ đứng phía dưới:
Bà có muốn nói gì với người con không.
Bà thưa: Xin quý toà hãy cho con
tôi một cơ hội sống để làm lại con người. Xin cho tôi được chết thay nó.
Lời Chúa Tuần 23 Thường Niên
Thường niên V-GS C-PS Ngoại lịch