Lời Chúa tuần 23 thường niên _ câu truyện minh họa

LỜI CHÚA TUẦN 23 THƯỜNG NIÊN
CÂU TRUYỆN MINH HỌA

CNTN 23A - SỬA LỖI ANH EM

CNTN 23B - HÃY MỞ RA

CNTN 23C -

LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ – PHẢI ĐƯỢC GIƯƠNG CAO

ĐỨC MẸ SẦU BI – ĐỨNG GẦN THẬP GIÁ

THỨ HAI - LÀM VIỆC TỐT NGÀY SABBAT

THỨ BA - CHỌN NHÓM MƯỜI HAI

THỨ TƯ - PHÚC THẬT VÀ KHỐN THAY

THỨ NĂM - BẮT CHƯỚC THIÊN CHÚA CHA

THỨ SÁU - NHẬN BIẾT CHÍNH MÌNH

THỨ BẢY - NHÀ XÂY TRÊN ĐÁ: KHÔN NGOAN


CNTN 23A - SỬA LỖI ANH EM

Lời Chúa: Mt 18, 15-20

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em. Nếu nó không nghe lời ngươi, hãy đem theo một hoặc hai người nữa, để mọi việc được giải quyết nhờ lời hai hoặc ba nhân chứng. Nếu nó không nghe họ, hãy trình với cộng đoàn. Và nếu nó cũng không nghe cộng đoàn, ngươi hãy kể nó như người ngoại giáo và như người thu thuế.

"Thầy bảo thật các con, những gì các con cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc, và những gì các con tháo gỡ dưới đất, thì trên trời cũng tháo gỡ.

"Thầy lại bảo các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó. Vì ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy."

TRUYỆN KỂ

1. Liên hệ với người khác.

Tại một học viện quân sự, ngày kia huấn luyện viên ra đề tài cho các sĩ quan hãy vẽ một chiếc cầu. Cả lớp đều hiểu đó là một chiếc cầu được thiết kế cho mục đích quân sự, trừ ra một chàng sĩ quan có ý kiến khác hẳn. Anh đặt chiếc cầu trong bối cảnh thơ mộng của một ngọn núi, dưới ngọn núi là dòng sông mà hai bên bờ là những thảm cỏ xanh. Nổi bật nhất là hai cậu bé đang đứng trên cầu để câu cá. Huấn luyện viên không chấp thuận bài làm của anh và ra lệnh cho anh phải loại bỏ hai cậu bé. Thế là anh liền chuyển hai cậu bé xuống thảm cỏ xanh, nhưng huấn luyện viên càng tỏ ra tức tối, buộc anh không được để lại hình ảnh hai cậu bé trong bản vẽ. Cuối cùng anh vẽ hai cái mộ trên thảm cỏ xanh của bờ sông. Anh muốn nói cho huấn luyện viên biết rằng mình đã chôn hai cậu bé trong hai ngôi mộ đó.

Với tâm hồn nghệ sĩ hoàn toàn khác biệt với mục tiêu quân sự, anh quan niệm chiếc cầu được xây là để nối liền hai bờ sông hầu giúp con người qua lại mà liên hệ được với nhau. Thiếu sự đi lại của con người, chiếc cầu không những trở nên vô nghĩa, mà còn tượng trưng cho sự chết chóc xảy ra giữa con người với nhau.

2. Giúp người khác nhận ra lỗi của mình

Một buổi chiều nọ, vua Đavít tản bộ trên sân thượng và chợt thấy một phụ nữ xinh đẹp đang tắm, đó là bà Bat-shêba, vợ của Uria. Vua sai người đưa bà đến với vua. Ít lâu sau đó, Bat-shêba báo tin cho vua hay là bà đã có thai với nhà vua.

Khi biết chuyện, vua Đavít tìm cách ‘bán cái’ cho chồng của bà là Uria.

Vua cho triệu Uria từ mặt trận trở về, cho ông ta ăn uống thật no say rồi truyền cho Uria về nhà thăm vợ. Hai đêm liền, Uria nằm ngủ trong đền vua với những tên lính canh mà không chịu về nhà.

Thấy kế hoạch ‘bán cái’ không xong, vua Đavít ra lệnh cho tướng Yôab mượn tay quân giặc giết chết U-ria ngoài chiến trường.

Sau đó, khi đã mãn tang chồng, Bat-shêba được vua Đavít đón vào cung làm vợ chính thức của nhà vua. ( II Sam 11 và 12)

Vua Đavít đã phạm một tội tày trời, thế mà vẫn ung dung như không có gì xảy ra. Đúng là trong hàng trăm lần phạm lỗi, may ra chỉ có một lần người ta nhận ra mình có tội. Và một khi con người không tự thấy được tội lỗi của mình để ăn năn sám hối thì cần phải có ai đó đến nhắc bảo họ.

Thế là Thiên Chúa sai tiên tri Natan đến cảnh tỉnh vua. Khuyên vua thì phải lựa lời, không khéo thì mất đầu như chơi. Nhà tiên tri trình với vua: “Trong thành kia, có một người giàu sang phú quý có cả đến hàng ngàn chiên dê và bò, trong khi đó, một người nghèo bên cạnh chỉ có một con chiên nhỏ mà ông ta rất yêu quý, coi như đứa con gái của ông. Thế rồi khi người giàu có khách, ông tiếc của không dám bắt chiên mình đãi khách mà lại cho tôi tớ đi bắt con chiên độc nhất của người nghèo làm thịt."

Nghe đến đây, vua Đavít bừng bừng nổi giận. Vua quát: “Nó đáng chết, tên ác nhân đó! Nó phải bị trừng phạt và phải bồi thường gấp bốn vì việc nó đã làm.”

Tiên tri Natan thưa: “Người ấy chính là vua. Nhà vua đã có nhiều thê thiếp lại còn nhẫn tâm giết chết Uria và cướp vợ của ông ta."

Bấy giờ vua Đavít mới nhận ra tội mình và ăn năn khóc lóc thảm thiết.

3. Sữa lỗi cho nhau

Bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra những bước sửa lỗi anh em.

– Bước thứ nhất là đối thoại. Đối thoại là giúp họ nhận ra việc họ làm, lời họ nói là sai. Đối thoại để họ nhận ra lầm lỗi, để họ ý thức được việc họ làm, lời họ nói là xấu, là sai với đạo lý làm người.

– Bước thứ hai cần thêm người khác tác động. Có thể là bạn bè thân hữu của người phạm lỗi, hay có thể là người có uy tín trong cộng đoàn. Người khác tác động là người có liên quan đến người phạm lỗi chứ không phải bạ ai cũng nói, gặp ai cũng chia sẻ, làm như thế người có lỗi chỉ thêm mặc cảm vì lỗi của mình, và oán ghét chúng ta hơn là biết ơn chúng ta.

– Bước thứ ba là đưa ra cộng đồng. Người ta vẫn thường nói “xã có phép tắc của xã. Làng có khuôn phép của làng." Mỗi một đơn vị đều có những lề thói giúp nhau sống kỷ cương và đảm bảo an ninh xã hội. Thế nên, cộng đồng sẽ giúp cho con người sống tốt hơn và cho môi trường sống được lành mạnh và an bình hơn

– Bước thứ tư: hãy cùng nhau hợp lời cầu nguyện cho họ. Trên hết mọi sự là hãy cầu nguyện cho người anh em chúng ta. Lời cầu nguyện của chúng ta vì nhu cầu cộng đoàn và cho cộng đoàn sẽ được Chúa chấp nhận.

4. Con hư tại mẹ

Có một đứa trẻ từ nhỏ đã thích ăn trộm. Một hôm, nó đi học về, trong cặp có thêm một chiếc bảng học sinh. Mẹ nó hỏi:

– Sao con lại có tới hai chiếc bảng?

Đứa con đáp:

– Một cái là của bạn cùng lớp với con. Con đã lén lấy cho vào cặp đấy.

Bà mẹ vui mừng nói:

– Con của mẹ thật thông minh. Hai cái bảng chắc chắn là tốt hơn một cái rồi.

Ít lâu sau, đứa con lại mang về một cái áo da, trị giá 50 quan tiền. Đứa con đưa chiếc áo da cho mẹ, mẹ nó khen:

– Con trai của mẹ thật là giỏi, biết hiếu thảo với mẹ. Ra mẹ thơm một cái nào.

Đứa con trai ngày một lớn lên, càng ngày càng lấy trộm những thứ có giá trị hơn. Hôm nay ăn trộm bò, ngày mai ăn trộm ngựa, ngày hôm sau trộm vàng bạc châu báu. Bà mẹ luôn luôn khen ngợi con, trong nhà thiếu thứ gì, liền bảo với con trai để nó đi trộm về.

Có một lần, đứa con ăn trộm đồ bị người ta bắt quả tang, giải lên quan phủ. Vì hắn trộm quá nhiều thứ nên bị phạt tội chết. Tên trộm bị trói hai tay ra sau lưng, giải ra pháp trường. Mẹ hắn đi theo sau, khóc lóc thảm thiết. Tại pháp trường, tên trộm xin quan cho hắn được nói với mẹ vài lời. Khi bà mẹ bước tới gần, hắn liền cắn mạnh vào tai mẹ. Mẹ hắn đau quá kêu toáng lên, lớn tiếng mắng con:

– Mày thật là đồ bất hiếu, tự mình phạm tội chết còn chưa đủ hay sao mà còn muốn làm mẹ thành tật à?

Đứa con giận dữ nói với mẹ hắn:

– Lần đầu tiên tôi ăn trộm cái bảng về, nếu bà đánh tôi một trận và dạy bảo tôi thì tôi không đến nỗi như ngày hôm nay và đã không bị xử tội chết.

5. Hào quang của tha thứ

Theo ABC News, ông Yigal Cohen, một người Itraen bị đau tim nặng vừa nhận được trái tim của một người Palestin trong cuộc phẫu thuật ngày 5-6-2000, Gia đình ông Mazen Joulani, người hiến tặng tim, cho biết ông vừa bị những người Do Thái bắn tại một tiệm cà phê ngoài trời.

Gia đình này quyết định hiến tim của Joulani vào thứ sáu tuần qua, ngay trong ngày mà cuộc nổ bom ở Tel Aviv làm thiệt mạng 21 người. Những phần nội tạng khác của Joulani cũng sẽ được ghép cho một số người Itraen khác.

Bác sĩ Lavie, người thực hiện ca mổ, nói khi ông cầm hai trái tim trong tay, ông nhận ra rằng tất cả những mâu thuẫn sắc tộc là hoàn toàn vô nghĩa.

6. Hợp tác

Ngày nay, khi đi trên đường ở nước Thụy sĩ, người ta nhìn thấy một tấm biển lớn, trên đó có trình bày hai chiếc xe hơi: một chiếc màu đỏ, một chiếc màu xanh. Cả hai xe đi cùng chiều với nhau, những người ngồi trong hai chiếc xe ấy đang chào nhau và tươi cười với nhau. Người lái xe xanh đang ra dấu cám ơn lại bằng cách giở mũ chào.

Ở phần dưới tấm biển có ghi một hàng chữ: “Hợp tác là an toàn." Điều này muốn nói lên rằng: giúp đỡ lẫn nhau, đối xử tốt với nhau như người cộng sự bằng tình bằng hữu là một bảo đảm cho một cuộc hành trình không nguy hiểm.

Không ai là một hòn đảo. Cuộc sống của con người chỉ thực sự lớn lên và triển nở khi sống với người khác và sống cho người khác. Xin Chúa ban cho chúng ta biết nhìn ra sự thật nơi mình để luôn biết sống nương tựa nhau và giúp nhau nên hoàn thiện theo ý Cha trên trời là Đấng hoàn thiện.

Hội thánh là một gia đình yêu thương và là nơi hàn gắn những bất hoà chia rẽ. Vì thế, mọi người phải có trách nhiệm liên đới với nhau để tạo sự hiệp thông liên lỉ trong Giáo hội Chúa. Mỗi người chúng ta cần trở thành sợi dây liên kết tình anh em trong cộng đoàn nơi mình sống. Một cộng đoàn trưởng thành là một cộng đoàn có khả năng ngồi lại với nhau để góp ý và giúp nhau sửa lỗi. Chúng ta cần yêu thương để dám góp ý và cần khiêm tốn để được góp ý.

7. Trách nhiệm

Một du khách đang rảo qua khu danh lam thắng cảnh ở Thụy Sĩ, ông dừng lại trước hàng rào của một khu vườn hoa đẹp đẽ bao quanh một lâu đài. Người làm vườn mừng rỡ và đón chào.

Họ nói chuyện với nhau về các loài hoa. Ông du khách hỏi: Cụ ở đây bao lâu rồi? Thưa, được 24 năm. Cụ đã gặp chủ nhân được mấy lần rồi? Tôi đã gặp 4 lần và lần cuối cách đây ba năm. Vậy ông ta có thường liên lạc với cụ không? Thưa không. Vậy ai trả lương cho cụ? Viên quản gia của ông chủ. Người quản gia có năng tới đây không? Tôi chưa hề gặp ông ta, chúng tôi liên lạc bằng thơ từ thôi. Thế thì ai thưởng lãm cảnh đẹp này, mà cụ phải mất công chăm sóc kỹ lưỡng như vậy? Ô, thưa ông, tôi chu toàn trách nhiệm của mình và tôi làm như chủ tôi sẽ đến ngày hôm nay, ngay bây giờ. Ngoài ra chính khi làm đẹp khu vườn của ông chủ, vợ chồng tôi cũng được vui hưởng cảnh đẹp.

8. Hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi.

Đây là một thủ tục tình thương và bác ái dạy làm hết mọi sự để giữ một người anh em đang muốn xa lìa cộng đoàn. Vì thế, việc sửa lỗi anh em là một việc tế nhị, đòi hỏi vừa sự can đảm vừa sự thanh nhã, đồng thời phải có sự khiêm nhường và thông cảm với anh em. Đừng khơi thêm hố chia rẽ, nhưng hãy cầu nguyện để thành công, để đưa người anh em về đường công chính.

Chị Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, chung sống trong tu viện với một chị bạn tên là Marthe. Chị này có một tật xấu là quá quyến luyến Bà Mẹ bề trên. Têrêxa, sau nhiều tháng chờ đợi và cầu nguyện, chị quyết định nói. Trước khi nói, chị đã cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy đúng sự thật”, Chị đã nói với người bạn “với tất cả tâm hồn và với tất cả kinh nghiệm đã có." Chị Marthe như được giải tỏa tâm hồn và cũng nhìn nhận rằng “Vị chăn chiên đừng nghe theo những lời dua nịnh dối trá, vì không có gì tai hại cho bằng những lời ca tụng đầy nọc độc."

9. Kiên nhẫn gặp phục thiện

Bà Coritanbul, người Ba lan gốc Do thái. Thời đệ nhị thế chiến, bà đã bị giam trong trại tập trung Đức quốc xã. Sau chiến tranh, may mắn bà vẫn còn sống. Bà đi khắp châu Âu kêu gọi lòng tha thứ cho Đức quốc xã, dù trên thân thể bà đầy những tàn tích của Đức quốc xã để lại. Một hôm, một người lính Đức, trước kia đã làm nhục bà, đang đứng trước mặt bà. Nhìn thấy người đã hành khổ mình trước đây, bà như chết lặng; sự câm thù lại bùng lên. Lúc đó, bà thầm thì với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể thực sự tha thứ cho người hành khổ con. Xin ban cho con tâm tình của Chúa, để con có thể tha thứ như Chúa…”

Câu chuyện của bài Tin mừng chúa nhật hôm nay cũng cùng một chủ đề như câu chuyện chúng ta vừa nghe. Ý chính: là sửa dạy anh em; nhưng căn bản của việc sửa dạy chính là sự kiên nhẫn, bác ái và thứ tha nơi người sửa dạy, và tinh thần phục thiện nơi người được sửa…

10. Hai kiểu ăn năn

Trong sách tu hành xưa có kể: Có hai anh thanh niên sống không tốt lắm, họ muốn ăn năn sửa lỗi. Họ đi vào nơi thanh vắng quyết tâm ăn chay đền tội. Sau một năm trời, họ trở về. Một người thì vui vẻ, mặt mày sáng láng; người kia trái lại có vẻ ốm yếu, tâm trạng lại bi quan nữa. Khi được hỏi: người vui vẻ trả lời: cả thời gian qua, tôi nhận ra mình tội lỗi thật; nhưng tôi cũng nhận ra Thiên Chúa yêu thương tôi quá chừng, vậy chính tôi phải sống tốt, phải vui vẻ để đền bù lại tình thương của Chúa…Còn người bi quan đã trả lời: tôi thấy mình tội lỗi vô vàn, đáng bị Chúa phạt. Tôi luôn bị tội lỗi dày vò, không phúc giây nào được yên tâm, khi nghĩ mình không làm sao thoát khỏi án phạt đời đời… Qua câu chuyện này, có người sẽ hỏi: đâu là kiểu ăn năn thật sự? Thưa đó chính là sự phục thiện, tin cậy nơi Chúa của nguời vui vẻ, luôn tin vào Thiên Chúa. Dĩ nhiên người thanh niên kia không phải không có lòng ăn năn, nhưng thực tế ăn năn kiểu đó chưa đủ…

11. Tế nhị khi sửa lỗi

Đức Hồng y Roncalli (sau là Giáo hoàng Gioan 23) ngày kia dự tiếp tân bên cạnh một nữ công tước mặc chiếc váy cực kì ngắn. Ngài tỏ vẻ khó chịu bằng cách suốt bữa tiệc làm như không biết bà. Cuối bữa, ngài đưa cho bà một trái táo. Rất hân hạnh, bà nói:

– Tôi không biết phải cám ơn ngài thế nào. Nhờ đâu tôi được ngài ưu ái như thế? Ngài chăm chăm nhìn bà rồi nói:

– Sau khi Evà ăn quả táo, bà ta mới nhận ra là mình thiếu quần áo.

Người Ái nhĩ lan có một lời nguyện rất hay mà tôi rất thích: God grant me the Serenity to accept the things I cannot change, Courage to change the things I can, and Wisdom to know the difference.

12. Cha giáo thời đệ tử

Nhớ lại thời đệ tử. Một lần đi chợ với cha giáo. Người bán mới nói giá này, bỗng nhiên vài phút sau chị ta tăng giá. Thấy khó chịu nên tôi nói là sao hồi nảy chị nói giá khác sao giờ chị nói khác!? Lát sau về đến nhà dòng, cha phụ trách mới kéo tôi ra riêng và dặn dò cách cư xử của tôi như thế không được. Chị ta nói thế kệ chị ta, mình không nên nói thế vì nói như thế sẽ làm bẽ mặt người ta!

Ngẫm nghĩ thấy cha giáo quá tế nhị để sửa cho tôi những điều nho nhỏ trong cuộc sống mà không để cho ai biết. Sau này cũng thế, sống với ngài một thời gian khá dài của thời đệ tử và tôi đều được ngài

Kéo riêng ra để mà chỉnh sửa mỗi khi cần chứ chưa bao giờ ngài nói đi nói lại cho người khác hay là chỉnh tôi trước mặt người khác.

Trải qua thời gian Đệ Tử tử rồi đến Tập Viện rồi đến Học Viện. Thời Học Viện thì khác, có lỗi gì thì tôi thấy cha giáo không sửa trực tiếp cho mình mà thường ngài sửa theo kiểu trung gian. Nghĩa là mỗi lần phạm lỗi gì, Ngài không gọi tôi vào nhưng ngài mang tôi ra bàn cơm “mổ." Khi Ngài đem ra bàn cơm “mổ” rồi thì hình như cả Học Viện đều biết vì thời đại này công nghệ thông tin quá ư là hiện đại.

Trên đây là 2 cách sửa lỗi của 2 cha giáo. Với tôi thì cách sửa lỗi của cha giáo thời Đệ Tử vẫn là cách sửa lỗi tế nhị nhất, nhẹ nhàng nhất và cũng đỡ làm tổn thương tôi hơn cách của cha giáo thời Học Viện.

13. Trò ném phi tiêu

Tiến sĩ Smith là một diễn giả có nhiều bài giảng tinh tế về tình yêu Chúa.

Một hôm khi Sally bước vào lớp học, cô thấy trên tường có một tấm bìa lớn, gần đó có để nhiều phi tiêu. Tiến sĩ Smith nói với tất cả học sinh hãy vẽ hình của người mình ghét nhất rồi dán lên tấm bìa lớn và ông cho phép họ ném phi tiêu vào hình vẽ đó.

Cô bạn của Sally vẽ hình cô gái đã "cướp" mất người yêu của cô. Một người khác thì vẽ hình đứa em trai của mình. Sally cũng vẽ bức hình của một người bạn cũ, cô dồn công sức để vẽ sao cho thật giống, ngay cả những cái mụn trên mặt cô bạn. Xong xuôi, Sally có vẻ rất hài lòng với tác phẩm của mình...

Cả lớp xếp hàng và bắt đầu ném phi tiêu, mọi người cười nói rôm rả và không khí có vẻ rất vui nhộn. Một số học sinh ném phi tiêu rất mạnh đến nỗi tấm hình của họ bị rách toạc cả ra. Sally chờ tới lượt mình... Và cô đã rất thất vọng khi tiến sĩ Smith đề nghị mọi người dừng lại và trở về chỗ ngồi vì thời gian có hạn.

Trong khi Sally ngồi nghĩ và hậm hực trong lòng vì không có cơ hội để ném phi tiêu vào hình kẻ mình ghét, thì tiến sĩ Smith bắt đầu gỡ tấm bia ra khỏi tường.

Và sau tấm bia đó là bức hình của Chúa Giêsu...

Một sự im lặng bao trùm cả lớp học khi các học sinh trong lớp nhìn thấy bức hình của Chúa Giêsu bị rách nham nhở trên tường; Những cái lỗ và những dấu lởm chởm trên mặt Chúa, và hai mắt Chúa bị đâm thủng.

Tiến sĩ Smith chỉ nhắc lại một câu Lời Chúa: "Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40)

Mỗi vết thương của Chúa Giêsu trên cây thập giá là một lần tôi lên án người khác. Chúa chịu đánh đòn để hàn gắn những vết thương chúng ta đánh nhau, Chúa chịu đội mão gai để hàn gắn sự nhục mạ chúng ta dành cho nhau.

Trên thập giá, Chúa đi tìm anh em của Chúa giữa nhân loại tội lỗi. Chúa mời gọi chúng ta cùng với Chúa đi tìm anh em của chúng ta nơi mọi người: "Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em” (Mt 18,15).

14. Ghét điều ác mà vẫn thương người ác

Quý Cao làm quan sĩ sư nước Vệ, có làm án chặt chân một người. Sau nước Vệ loạn, Quý Cao chạy trốn, ra đến cửa thành gặp người giữ cửa thành, lại chính là người mình đã lên án chặt chân ngày trước. Thế nhưng người giữ thành ba lần chỉ chỗ cho Quý Cao trú ẩn, thoát nguy lúc loạn lạc.

Lúc sắp đi, Quý Cao bảo người giữ thành rằng: “Trước ta theo phép nước mà chặt chân ngươi. Nay ta gặp nạn, chính là cái dịp để ngươi báo thù, mà ngươi ba lần chỉ lối cho ta trốn. Thương ta như thế, là cớ làm sao?”

Người giữ thành nói: “Tội tôi đáng chặt chân, thì tránh sao cho khỏi. Lúc ông luận tội, xoay xở pháp luật, ý muốn nới tay, tôi cũng biết. Lúc án đã định, đưa ra hành hình, nét mặt của ông buồn sầu, tôi lại biết lắm. Ông làm như thế, há có vị riêng gì tôi đó. Đó là tâm địa bậc quân tử tự nhiên như thế. Nên tôi muốn cứu ông.”

Quý Cao có tâm địa tốt lành của bậc quân tử, ghét điều ác mà vẫn thương kẻ ác.

15. Trọng chữ tình nghĩa

Sách “Cổ học tinh hoa” kể chuyện Ngưu Hoằng, Ngưu Bật, là hai anh em ở chung với nhau. Ngưu Bật có tính thích nhậu, thường hay nát rượu.

Một hôm, lúc anh đi vắng, Ngưu Bật ở nhà uống rượu say túy lúy, bắn chết con trâu của anh. Người vợ ở nhà đón đợi chồng về, vừa thấy chồng bước vào cửa thì xăm xăm bảo chồng rằng:

- Này! Chú nó ở nhà bắn chết trâu rồi!

- Trâu chết thì bảo đem đi làm thịt, Hoằng bình tĩnh nói.

Nói rồi Hoằng vào nhà, vừa yên chỗ thì vợ đã đến giục giã:

- Chú nó bắn chết trâu là việc to lắm, có phải việc thường đâu…

Hoằng vẫn giữ nét mặt hoà nhã trả lời:

- Phải, tôi biết rồi mà.

Rồi mở sách vở ra xem, như không có chuyện gì cả. Thấy thế, người vợ nguôi giận, không dám nói gì nữa.

Trâu chết là việc lớn, nhưng còn một việc lớn hơn là cái tình, cái nghĩa! Nếu đưa đi kiện cáo, trâu chết vẫn chết mà lại mất thêm người em; chỉ nhờ nhịn chịu tật xấu của em mà Ngưu Hoằng giữ được cái tâm bình an và được người đời sau kính phục.

16. Lòng thanh trí sáng

Có một người đến gặp thánh Gioan M. Vianney và nói: “Thưa Cha, con muốn thảo luận với Cha vì con có nhiều nghi vấn về đạo.” Ngài trả lời: “Trước hết ông hãy xưng tội và rồi chúng ta sẽ thảo luận.”

Đã lâu năm không xưng tội nên ông hơi ngỡ ngàng, nhưng vì thánh nhân nhấn mạnh, lại khuyên bảo và nâng đỡ tâm hồn nên cuối cùng ông đã đồng ý xưng tội, cách sốt sắng. Sau khi ban phép giải tội, ngài mới nói: “Nào bây giờ chúng ta cùng thảo luận. Có phải ông hồ nghi về sự hiện hữu của Chúa, về tình thương của Ngài?” Người đàn ông đáp: “Thưa Cha, bây giờ con không cần thảo luận nữa, vì mọi nghi ngờ của con về đạo không còn khi con xưng tội xong.”

Còn gì để nghi vấn nữa khi đã gặp được tình yêu của Đức Kitô, và biết luật để sống hạnh phúc? Thế nên “anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn lề luật” (Rm 13,8).

17. Tình liên đới

Một người Ả rập kia có con ngựa rất đẹp. Người láng giềng tìm đủ mọi cách để mua con ngựa, nhưng chủ nhân vẫn một mực từ chối. Người láng giềng liền nghĩ ra một mưu kế để chiếm đoạt con ngựa.

Biết người chủ ngựa thường hay đi qua sa mạc, người láng giềng cải trang thành một người hành khất nằm rét run bên vệ đường. Chủ ngựa là người tốt bụng, thấy người hành khất liền cảm thương, đề nghị đưa ông ta lên ngựa đem về quán trọ săn sóc.

Con người tốt bụng kia xuống ngựa, đưa người hành khất lên ngựa. Nhưng khi vừa lên lưng ngựa, người hành khất hiện nguyên hình tên bất lương. Hắn giật giây cương, thúc ngựa phi nước đại.

Người chủ ngựa đáng thương chỉ còn biết đuổi theo nói với tên bất lương: “Ngươi đã ăn cắp con ngựa của ta. Ta sẵn sàng bỏ qua. Nhưng ta chỉ xin ngươi một điều: là đừng bao giờ kể cho ai nghe mưu mẹo này của ngươi. Kẻo một ngày nào đó, có người hoạn nạn thật sự bên vệ đường, sẽ không có ai dám dừng lại để cứu giúp người ấy nữa!”

18. Sức mạnh của lời nguyện

Trong vụ khủng bố kinh hoàng tại nước Mỹ vào ngày 11/9/2001, ngoài hai chiếc phi cơ đâm vào tòa tháp đôi tại New York, còn một chuyến bay khác mang tên United Flight 93 đã đâm xuống một vùng quê thuộc tiểu bang Pennsylvania.

Mọi người thắc mắc: tại sao bọn khủng bố không dùng chiếc phi cơ này đâm vào Tòa Bạch Ốc (The White House) là cơ quan đầu não của chính phủ Hoa Kỳ?

Phải đợi đến tháng 12 năm 2001, người ta mới tiết lộ mọi chi tiết từ đoạn băng thu âm trong phòng lái chiếc phi cơ.

Chiếc máy bay bị bọn không tặc khống chế. Chúng dồn hành khách xuống cuối máy bay và dự tính cho đâm vào Tòa Bạch Ốc.

Nhưng các hành khách dưới sự hướng dẫn của một người đàn ông tên Todd Beamer, đã chống lại bọn khủng bố, ép cho chiếc máy bay đâm xuống đất, thay vì đâm vào Tòa Bạch Ốc.

Có điều đặc biệt là Todd Beamer đã xin mọi người cùng cầu nguyện với anh bằng kinh Lạy Cha trước khi xông vào chiến đấu với bọn khủng bố. Chính sức mạnh của lời cầu nguyện đã làm tăng thêm niềm tin nơi họ, để họ chiến thắng bọn khủng bố.

“Nếu hai người trong các con ở dưới đất mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho các con điều đó.”?

Chúng ta hãy xin Chúa biến cộng đoàn chúng ta thành cộng đoàn của niềm tin, khi mọi người chúng ta luôn biết họp nhau mỗi ngày dâng lời cầu nguyện và siêng năng tham dự thánh lễ thật sốt sắng.

19. Lời khuyên có sức mạnh

Ngày kia khi Đức Giám Mục Amolas đến thăm mục vụ một làng nọ, dân chúng đã bày tỏ với Ngài lòng bất mãn tột độ của họ đối với một vị ẩn tu trên núi, vì ông ta đem theo một phụ nữ để chung sống.

Từ dạo ấy, vị ẩn tu không ngớt là đối tượng để dân làng đàm tiếu, chỉ trích và lên án. Thấy Giám Mục Amôlas đến, họ xúm lại vây quanh Ngài và nói: hôm nay Ngài đã đến đây thì Ngài phải chấm dứt ngay lập tức tình trạng sa đọa bê bối gây nhiều gương mù gương xấu của vị ẩn tu trên núi kia.

Sau khi nghe những lời kết án gây gắt của dân làng, Giám Mục Amôlas quyết định leo lên núi. Ngài đi đầu, dân làng lũ lượt nối gót theo sau. Vị ẩn tu thấy đám đông kéo đến túp lều của mình, ông ta hoảng sợ và cấp tốc bảo người phụ nữ chui vào trốn trong một cái thùng gỗ rỗng.

Đức Giám Mục là người đầu tiên đến trước túp lều, và cũng là người đầu tiên bước chân vào. Ngài đưa mắt nhìn chung quanh và hiểu ngay tình tình. Ung dung, Ngài đi thẳng đến chỗ ngồi ngay trên chiếc thùng gỗ để nghỉ chân, nơi người phụ nữ ẩn trốn. Rồi bình thản khoát tay gọi dân làng vào và bảo:

- Vào đây, các người hãy vào mà lục xét túp lều để tìm người phụ nữ.

Không tìm thấy người phụ nữ, mọi người đã lục tục kéo nhau xuống núi, Đức Giám Mục Amôlas tiến gần vị ẩn tu, nắm chặt hai bàn tay của ông, đưa mắt nhân từ nhưng cương nghị nhìn sâu vào đôi mắt của ông và chậm rãi nói:

- Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn đấy!

Người tu sĩ đã phạm lỗi biết rất rõ Đức Giám Mục vừa cứu anh khỏi bẽ mặt với đám đông đang phẫn nộ và muốn vạch trần sự thật từng được che dấu. Nghe đâu sau này vị tu sĩ trẻ ấy đã toàn tâm toàn ý tu tâm sửa tính, và trở thành bậc thầy đạo hạnh nổi tiếng khắp vùng.

20. Cái thùng bị thủng

Một người kia có hai chiếc thùng lớn để gánh nước. Một trong hai chiếc thùng ấy bị thủng. Vì thế, khi gánh từ giếng về, nước trong thùng chỉ còn một nửa. Chiếc thùng còn nguyên rất tự hào về sự hoàn hảo của mình, còn chiếc thùng bị thủng cứ luôn áy náy vì đã không chu toàn nhiệm vụ.

Một ngày kia, chiếc thùng bị thủng mới thưa với ông chủ:

- Tôi thật sự xấu hổ về mình, tôi muốn xin lỗi ông!

Ông chủ ngạc nhiên hỏi lại:

- Nhưng ngươi xấu hổ về chuyện gì?

Chiếc thùng buồn bã trả lời:

- Chỉ vì cái lỗ thủng trên thân tôi mà ông không nhận được đầy đủ những gì xứng đáng với công sức của ông!

Đến đây thì ông chủ ôn tồn bảo:

- Không đâu, ngươi cứ yên tâm. Mỗi khi đi từ giếng về nhà, ngươi hãy chú ý nhìn xem những luống hoa bên vệ đường. Quả thật, dọc theo bên đường là những luống hoa thật rực rỡ.

Chiếc thùng bị thủng cảm thấy vui vẻ hơn được một lúc, nhưng rồi về đến nhà, nó vẫn chỉ còn được một nửa thùng nước. Chiếc thùng lại thấy ân hận:

- Tôi xin lỗi ông!

Ông chủ lại hỏi:

- Ơ hay, thế ngươi không nhận ra rằng hoa chỉ mọc ở bên này đường, phía của ngươi thôi sao? Ta đã biết được cái lỗ thủng của ngươi và ta đã tận dụng nó. Ta đã gieo những hạt giống hoa bên vệ đường phía bên ngươi, và trong những năm qua, chính ngươi không ngờ mình đã tưới cho chúng được tốt tươi. Ta đã hái những đóa hoa để trang hoàng cho căn nhà. Nếu không có ngươi, căn nhà của ta đâu có được tươi mát và duyên dáng như thế này!

Ông chủ đã sửa chữa khuyết điểm của chiếc thùng bị thủng rất là tế nhị và tài tình. Thay vì đem hàn lại lỗ thủng hoặc bỏ hẳn chiếc thùng đi, ông lại sử dụng nó vào hai nhiệm vụ, vừa gánh nước vừa tưới hoa. Điều này đã khiến nó không còn áy náy, mà trái lại, càng thêm hãnh diện vì đã đem lại lợi ích cho chủ nó.

Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng dạy chúng ta hãy khéo léo sửa lỗi cho nhau như thế: “Nếu người anh em của ngươi trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó." Như vậy, đây là một bổn phận, một trách nhiệm trong cộng đoàn. Bổn phận này rất khó làm vì nó gây khó chịu cho người lỗi phạm.

21. Món quà lòng tốt

Nạn đói xảy ra trong vùng. Một người ăn xin bên góc đường bước đến bên đại văn hào Nga, Tolstoy, đang đi ngang qua đó. Tolstoy dừng lại, lấy tiền cho nhưng không tìm được đồng nào. Ông nói với sự nuối tiếc: " Này người anh em, đừng giận tôi. Tôi chẳng đem theo gì."

Mặt người ăn xin sáng lên và nói: "Ông gọi tôi là anh em, đó đã là món quà rất lớn rồi!"

22. Philipphe sửa lỗi nói hành

Thánh Philipphê Nêri một ngày kia muốn sửa lỗi cho một người phụ nữ có cái tật hay nói hành nói xấu người khác. Ngài bảo chị ta mua một con gà rồi làm cho nó chết đi....sau đó hãy đem con gà đó đến gặp Ngài với điều kiện là phải vặt hết lông con gà trên đường đi đến gặp ngài. Người phụ nữ hơi thắc mắc nhưng vì lòng mến đối với thánh nhân nên cũng vui lòng làm như ngài đòi hỏi. Khi tới nơi, ngài không khuyên lơn gì cả mà lại ra lệnh cho bà đó trở về.... vừa đi vừa lượm lại cho ngài hết số lông con gà mà bà đã vứt ở giữa đường.

Chúng ta thừa biết phản ứng của người phụ nữ đó như thế nào.

Sau đó ngài cắt nghĩa: "Những lời nói vu oan cáo vạ cho người khác khi ra khỏi miệng cũng sẽ nhanh chóng loan truyền từ tai người này sang tai người khác như vậy, khó mà con thể thu lượm lại được...chẳng khác gì phải thu lượm lại những cái lông gà....của con vậy.." Rồi ngài thêm "Còn khi muốn nói về một người nào làm khổ mình thì chỉ nên nói với Chúa mà thôi....hãy cầu nguyện cho họ để họ biết sửa lỗi."

23. Sức mạnh của lời cầu nguyện

Chúng ta hãy nghe những lời sau đây của Thánh Augustinô: "Nhờ ơn của mẹ tôi, nhờ lời cầu nguyện và công phúc của người mà tôi đã thành người như hiện nay. Lạy Chúa nếu con được làm con Chúa, chính vì Chúa đã ban cho con một người mẹ, một trong những tôi tá của Chúa.”

Thánh Têrêsa bằng lời cầu nguyện của mình đã làm cho một tử tội tưởng chừng như không thể khuất phục ăn năn và chịu các Bí tích cuối cùng trước khi lên đoạn đầu đài.

Ngày kia, thánh Etienne, đang giảng thuyết trước một cử tọa đông đảo, bỗng có một người dám nói với ngài:

- Thưa cha, mặc dù cha nói nhiều đến sự khinh tởm tội lỗi, con cũng chả muốn hoán cải tí nào và con rất bực bội khi nghe tin cha cầu nguyện cho con.

Ngạc nhiên trước những lời nói bạo gan này, vị thánh xúc động đến nỗi ngài phải khóc ròng. Và ngay sau đó, ngài đánh chuông tập họp tất cả các tu sĩ lại, bảo:

- Chúng ta hãy mau cầu nguyện cho con người đáng thương này!

Vài giờ sau đó, trái tim của kẻ tội lỗi cứng đầu này hoàn toàn thay đổi; anh ta nhận ra tình trạng thảm hại của mình và quyết định sống một cuộc đời đối mới. Anh đến tìm gặp vị thánh, phủ phục dưới chân ngài xin tha thứ, và hứa sẽ từ bỏ các tật xấu, không bao giờ tái phạm nữa.

24. Không nhận lỗi

Dale Carnegie nổi tiếng về những sách học làm người, đã viết:”Tôi đã phải phấn đấu gần một phần ba thế kỷ mới thấy được ánh sáng chân lý này: dù người ta có lỗi nặng đến đâu, thì trong 100 lần tới 99 lần người ta tự cho mình là vô tội."

 Bà đã kể trường hợp về ba tên đầu đảng bọn cướp nổi tiếng nhất nước Mỹ: Crowley, Capone và Schultz.

 Crowley giết người như ngóe mà vẫn nói:”Dưới lớp áo này, trái tim ta đập chán ngán, nhưng thương người không muốn làm hại ai."

 Capone đã tự tuyên bố:”Ta dùng những năm tươi đẹp nhất trong đời để mua vui cho thiên hạ. Vậy mà phần thưởng chỉ là bị chửi, bị săn bắt như thú dữ."

 Schultz đã tự mãn khoe mình với ký giả:”Ta là ân nhân của thiên hạ”

25. Án Tử căn ngăn vua.

Vua Cảnh Công nuớc Tề, có một con ngựa qúi, giao cho một người chăn nuôi. Con ngựa tự nhiên một hôm lăn ra chết. Vua giận lắm, cho là giết ngựa, sai quân cầm dao để phanh thây người nuôi ngựa. Án Tử ngồi chầu, thấy thế ngăn lại, hỏi nhà vua:

- Vua Nghiêu, vua Thuấn xưa phanh người thì bắt đầu từ đâu trước?

Cảnh Công ngơ ngác nhìn nói:

- Thôi hãy buông ra, đem giam xuống ngục để rồi trị tội.

Án Tử nói rằng:

- Tên phạm này chưa biết rõ tội mà phải chịu chết, thì vẫn tưởng là oan. Tôi xin vì vua kể rõ tội nó, rồi hãy bỏ ngục.

Vua nói:

- Phải.

Án Tử kể tội rằng:”Nhà ngươi có ba tội đáng chết. Vua sai nuôi ngựa mà để ngựa chết là tội đáng chết. Lại để chết con ngựa rất qúi của vua, là hai tội đáng chết. Để vua mang tiếng, vì một con ngựa mà giết chết một mạng người, làm cho trăm họ nghe thấy ai cũng oán vua, các nước nghe thấy ai cũng khinh vua, ngươi làm chết một con ngựa mà để đến nỗi dân gian đem lòng oán giận, nước ngoài có bụng dòm dỏ (ngấp nghé xem nguời ta hở cơ là làm hại), là ba tội đáng chết, ngươi đã biết chưa? Bây giờ hãy tạm giam ngươi vào ngục...."

Cảnh Công nghe nói ngậm ngùi than rằng:

- Thôi, tha cho nó! Kẻo để ta mang tiếng bất nhân.

CNTN 23B -

Lời Chúa: Mc 7, 31-37

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô, qua Siđon, đến gần biển Galilêa giữa miền thập tỉnh. Người ta đem một kẻ câm điếc đến cùng Người và xin Người đặt tay trên kẻ ấy.

Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Ðoạn ngước mặt lên trời, Người thở dài và bảo: "Effetha!" (nghĩa là "Hãy mở ra!"), tức thì tai anh ta mở ra, và lưỡi anh ta được tháo gỡ, và anh nói được rõ ràng. Chúa Giêsu liền cấm họ đừng nói điều đó với ai. Nhưng Người càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn. Họ đầy lòng thán phục mà rằng: "Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được!"

TRUYỆN KỂ

1. Cần hiểu nhau để sống chung

Khi ở nước ngoài, có dịp gặp những người Việt sinh sống xa quê hương xứ sở, tôi hỏi họ: “Sống ở nước ngoài, điều gì khiến ông bà buồn khổ nhất.” Họ trả lời: “Khổ nhất là chúng con sống như những người điếc và ngọng. Không biết tiếng nên ngọng nghiụ, nói chẳng nên lời, thành ra không làm cho người ta hiểu được mình. Người ta nói gì mình cũng chẳng hiểu, thật y như người điếc.”

Nghe và nói là hai cánh cửa. Nói là cánh cửa mở tâm hồn mình ra thông giao với thế giới bên ngoài. Có gì tích chứa trong lòng, phải nói ra thì người khác mới hiểu. Nghe là cánh cửa mở ra đón nhận thông tin từ thế giới bên ngoài. Phải nghe mới hiểu được người khác. Không nghe không nói cũng giống như đóng kín cánh cửa cảm thông. Mình không hiểu người mà người cũng không hiểu mình. Sống bên nhau mà không hiểu nhau thì thật đáng buồn và đáng sợ.

2. Chạm đến trái tim

Ở bên Mỹ, muốn đoạt được giải thưởng nổi tiếng thì tác phẩm của mình phải làm tác động đến trái tim người đọc và có thể vượt qua mọi biên giới của các quốc gia. Có một nhà văn cũng là một nhà báo mơ ước như vậy.

Nhưng một ngày kia, tình cờ ông ta đến một nhà dưỡng lão, gặp một cụ già ngồi ghế đá. Ông cụ kể về gia đình, con cái của cụ. Ông có nhiều con nhưng chúng đi xa hết, đứa con gái út ở tận bên Đức, ít khi liên lạc được bằng điện thoại. Tay ông bị liệt nên không viết thư được cho con, nghe vậy ông nhà báo liền lấy giấy viết ra viết dùm ông cụ một lá thư. Viết xong anh cầm tay cho ông cụ ký tên. Và hai hàng nước mắt của cụ lăn trên má. Ông cụ cảm thấy hạnh phúc vô cùng, anh nhà báo trở về nhà và hai hàng nứơc mắt cũng tuôn chảy.

Anh cảm thấy ngày hôm ấy anh đã đoạt được giải thưởng rồi. Anh chỉ viết một lá thư thôi. Nhưng những dòng chữ ấy đã chạm đến trái tim con người, anh đã cho cụ mượn đôi tay, mượn cái miệng để diễn tả nỗi lòng của ông cụ đối với đứa con gái thân yêu và xa cách nghìn trùng.

3. Cần học lắng nghe

Một công ty xây cất lớn đang vẽ sơ đồ để xây một toà nhà mới. Năm kỹ sư trẻ và một kiến trúc sư làm việc trên bản thiết kế, họ đang bàn luận về những phương cách sắp xếp một phần nào đó của toà nhà. Khi một người trong nhóm đột nhiên đề nghị một điều anh nghĩ là một phương cách mới để thi hành.

Những người khác nhìn anh đầy vẻ ngạc nhiên. Người trưởng nhóm phải trả lời anh rằng ý kiến của anh đã có người đề nghị rồi, đã cứu xét và đã bị bác bỏ. Điều gì xảy ra vậy. Người kỹ sư trẻ này đã không lắng nghe ý tưởng đó lần đầu tiên được đề nghị. Anh không nắm được vấn đề. Kết quả là anh không được thăng cấp, anh không được tăng lương. Anh đã phải trả cái giá không lắng tai nghe.

4. Các bức tường

1. Bức tường Bá Linh (Berlin). Ngày 13/08/1961, người ta xây một bức tường chưa từng thấy trong lịch sử loài người: cao 8 mét, dài 700 cây số ngăn đôi một gia đình, một thành phố, một dân tộc, một nước Đức, không ai được qua lại với nhau. Nó chia đôi thế giới ra hai phe: tư bản và cộng sản thù nghịch nhau, coi nhau như kẻ thù ghê gớm. Ai vượt qua bức tường đó hoặc bị bắt hoặc bị bắn chết. Mãi đến 28 năm sau, ngày 13/11/1989 bức tường đó bị phá đổ, chấm dứt hận thù chia rẽ. Gia đình, dân tộc được đoàn tụ với nhau, nước Đức được thống nhất, thế giới chấm dứt chiến tranh lạnh, trở thành đồng minh đồng chí với nhau.

2. Bức tường câm điếc. Tật câm điếc cũng ngăn cách kẻ câm điếc với gia đình và xã hội. Điếc không nghe, không hiểu, không thông cảm với ai được ; câm không nói, không làm cho người ta hiểu tâm tư nguyện vọng của mình.

3. Bức tường giữa Do thái và chư dân. Cách chữa ân cần và đặc biệt của Đức Giêsu, không phải chỉ cứu anh câm điếc dân ngoại này khỏi bị ngăn cách với gia đình và xã hội, mà còn chữa một bệnh quan trọng hơn, đó là bệnh ngăn cách Do thái với dân ngoại, ngăn cách ơn cứu độ của Thiên Chúa tới muôn dân.

4. Bức tường giữa loài người và Thiên Chúa. Một bức tường ghê gớm khủng khiếp đã ngăn cách con người với Thiên Chúa. Không có một sức mạnh nào của loài người phá đổ được, chỉ có Đức Giêsu, Đấng Cứu Thế, mới phá đổ được thôi: Đó là bức tường tội lỗi mà kẻ gieo rắc là satan.

5. Bức tường Bá Linh.

Ngày 13/08/1961, người ta xây một bức tường chưa từng thấy trong lịch sử loài người: cao 8 mét, dài 700 cây số ngăn đôi một gia đình, một thành phố, một dân tộc, một nước Đức, không ai được qua lại với nhau, coi nhau như kẻ thù ghê gớm. Ai vượt qua bức tường đó hoặc bị bắt hoặc bị bắn chết. Mãi đến 28 năm sau, ngày 13/11/1989 bức tường đó bị phá đổ, chấm dứt hận thù chia rẽ. Gia đình, dân tộc được đoàn tụ vơi nhau, nước Đức được thống nhất, thế giới chấm dứt chiến tranh lạnh, trở thành đồng minh đồng chí với nhau (Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm B, tr 175).

Chúa ban cho người câm điếc có thể nghe được và nói được để anh có thể dùng hai khả năng ấy để chia sẻ với mọi người. Đây là hai ân ban của Chúa. Chúng ta cũng phải dùng ân ban ấy cho đúng, bởi vì trong chúng ta, nhiều người có đôi tai tốt nhưng không biết lắng nghe, nhiều người có cái lưỡi tốt nhưng không biết nói những lời đáng nói. Cho nên chúng ta cần phải được Chúa chữa trị để biết chia sẻ cho nhau.

6. Con là môn đệ của ai?

Hồi ấy, Giêrônimô (342-420) là một văn hào lỗi lạc về văn chương cổ điển và không biết gì về Thiên Chúa. Ngài say mê đọc các tác phẩm của Cicéron. Một hôm, ngài nghe tiếng Chúa hỏi:

- Giêrônimô, con là môn đệ của ai ?

- Thưa, con là môn đệ của Chúa.

- Không phải, con là môn đệ của Cicéron.

Từ đó, Giêrônimô giác ngộ và quyết chí học hỏi Lời Chúa. Ngài được ơn Epphata. Ngài qua thánh địa vào ẩn tu trong hang đá Belem để phiên dịch Thánh Kinh, để suy niệm Lời Chúa, sống trong khung cảnh Chúa đã sống. Ngài đã nói: ”Ai không hiểu biết Thánh Kinh là không biết Chúa Giêsu.” Bản dịch Vulgata (Phổ thông) của Ngài đã được công đồng Triđentinô (thế kỷ 16) nhìn nhận là phù hợp với đức tin và được coi là bản dịch chính thức của Hội thánh.

7. Lưỡi và tai

Báo Tuổi Trẻ có đăng bài xã luận về "Cái lưỡi và cái tai" như sau:

Một hôm trong lúc đang ngồi uống trà và hàn thuyên tâm sự với nhau, tự nhiên tôi thấy ông Hai Hưu Trí có vẻ tư lự và phát biểu như sau:

- Người đời thường hay đổ thừa mọi điều xằng bậy là do tội của "cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo.” Nhưng tôi nghĩ nếu chỉ có cái lưỡi thì cũng chẳng có vấn đề! Anh cứ ngẫm lại mà coi, nếu chỉ có mấy cái lưỡi lươn lẹo, xu nịnh thường hay múa may với nhau thì bất quá cũng chỉ làm điếc tai hàng xóm láng giềng mà thôi. Cái lưỡi chỉ có thể làm nên những chuyện tày trời nếu nó được hỗ trợ của những "cái tai" không biết phân biệt tốt xấu, thật giả của mấy ông: "Nhà báo nói láo ăn tiền.”

Nhưng họ lại quên không chê mấy ông cấp trên quan liêu chỉ khoái được nghe những bài báo cáo thành tích khi chưa kiểm tra thực hư! Nếu chỉ chuyên có cái lưỡi thì chắc sẽ không thể "vẽ vời" để biến một công ty đang từ tình trạng làm ăn thua lỗ, gây thiệt hại hàng chục tỷ đồng cho nhà nước, bỗng dưng trở thành một công ty đang trên đà phát triển và làm ăn khấm khá. Nếu có những cái tai thực sự ngay chính thì những lời đường mật như vậy làm sao có khả năng gây ra biết bao thiệt hại được.

Nghe ông Hai Hưu Trí triết lý một hồi như vậy, tôi liền thêm vào:

- Hôm nay Bác Hai nói thật là chí lý thậm phải!

Ông Hai Hưu Trí bèn cười lên một tiếng lớn rồi ôn tồn nói:

- Nè nhá, cũng bởi cái tai của chú mày chỉ khoái nghe những chuyện xốc hông xiên xỏ, nên cái lưỡi của lão già rách việc này mới có cơ hội múa may như từ nãy đến giờ, phải không chú em?

8. Kính trọng cái áo đẹp

Hôm đó, một đệ tử của một vị thiền sư đi dự một buổi lễ trở về, mặt mày hớn hở. Khi được hỏi tại sao hớn hở như vậy, người đệ tử ấy cho biết là mọi người đều khen anh mặc áo đẹp. Vị thiền sư ôn tồn chỉ dạy: "Con chẳng có gì để vui mừng hớn hở cả, vì người ta khen chiếc áo đẹp chứ đâu phải khen con đẹp.”

Một ông nhà giàu mở tiệc khoản đãi tất cả những người láng giềng. Cạnh nhà ông có một người rất nghèo. Vì nễ tình hàng xóm nên người này cũng đến dự. Tuy nhiên người này nghèo nên chiếc áo anh mặc rất là tầm thường. Khi tới cổng, anh bị các đầy tớ của người nhà giàu không cho vào. Tức quá, anh mượn một chiếc áo rất đẹp của một người nhà giàu khác và lại đến. Lần này, anh được mời vào tử tế. Rủi thay, đang lúc lấy thức ăn thì một cánh tay áo rơi vào dĩa thức ăn. Lý do là chiếc áo đặc biệt này có hai cánh tay loại tháo ráp được. Người nhà nghèo chưa quen mặc nên đã không cẩn thận cài nút ở chỗ ráp nối. Những đầy tớ thấy vậy bảo anh nhà nghèo mau lượm cánh tay áo lại. Nhưng anh nhà nghèo thản nhiên nhìn cánh tay áo và nói: "Mày nằm trong dĩa thức ăn thì cứ tha hồ mà ăn cho thoả thích đi nhé, vì người ta kính trọng mày chứ đâu phải kính trọng tao.”

9. Tứ chứng nan y của nhà vua

Có một ông vua nọ bị dân gán cho một căn bệnh hiểm nghèo, đó là “Tứ chứng nan y” gồm: Mù, què, câm, điếc.

Một hôm, một người vào cung vua, yết kiến. Vua hỏi:

- Nhà ngươi vào gặp ta chắc có chuyện gì?

- Tâu bệ hạ - người đó thưa lại - hạ thần nghe rằng bệ hạ đang mang một căn bệnh rất hiểm nghèo là “Tứ chứng nan y” nên hạ thần vào thăm bệ hạ.

Nghe thế, nhà vua liền nổi giận quát:

- Kẻ nào dám bịa đặt bảo ta bị bệnh? Chân tay mắt mũi ta lành lặn thế này mà bảo ta mù, què, câm, điếc sao?

Người kia liền tâu:

- Thần nghe thiên hạ đồn như vậy, nay gặp vua mới biết sự thực. Nhưng xét lại, thì tin đồn ấy cũng chẳng sai.

Nhà vua chặn lời và nói:

- Vậy ngươi hãy chỉ cho ta xem nào!

- Tâu bệ hạ, thứ nhất dân kêu kiện nhiều mà bệ hạ không thèm trả lời, không giải quyết, nên bọn họ tưởng bệ hạ bị câm. Thứ hai, giặc ngoại bang tràn lan muốn xâm chiếm đất nước, nhân dân hoang mang lo sợ, kêu cầu nhà vua, mà vua không lo gì hết, nên họ tưởng là nhà vua họ bị điếc. Thứ ba, cuộc sống của bệ hạ thì quá sung sướng, trên nhung dưới lụa, còn ngược lại, dân chúng sống trong cùng cực, đói khổ. Họ không hề thấy bệ hạ dòm ngó gì đến họ, cũng chẳng thèm quan tâm lo lắng đến đời sống của họ, nên họ tưởng bệ hạ bị đui. Và cuối cùng, vì họ không bao giờ thấy bệ hạ ra khỏi cung điện, mà ngày đêm chỉ biết ăn chơi với các cung phi, nên họ tưởng là bệ hạ bị què!

10. Tứ chứng nan y của người thường

Carnégie thuật lại rằng: Một bà kia đã dọn cho nam giới trong gia đình bà: chồng và các con trai của bà, một bàn ăn rất lịch sự, đầy hoa, nhưng có một nắm cỏ khô trong mỗi dĩa.

- Sao thế, hôm nay dùng cỏ khô à?

- Ồ, không đâu! Tôi sẽ đưa thức ăn lên ngay lập tức. Nhưng hãy nghe tôi nói một điều: Từ bao nhiêu năm trời, tôi đã nấu nướng cho các “người”, tôi đã cố gắng thay đổi món ăn, bữa thì món cơm, bữa thì món hầm, bữa khác thì món quay hoặc món “ragu.” Không bao giờ các “người” nói: “Ngon quá! Bà chiều chúng tôi quá.” Hãy nói lên một tiếng chứ, tôi đâu phải là đá! Người ta không thể làm khi không thấy một dấu cám ơn, một lời khuyến khích hay khen thưởng.

11. Bảy kỳ quan thế giới

Một nhóm sinh viên được yêu cầu lập danh sách bảy kỳ quan của thế giới hiện nay. Mặc dù có một số bất đồng, nhưng đa số đều bình chọn theo danh sách sau:

1. Kim tự tháp Ai cập

2. Đền Taj Mahal.

3. Đại vực Grand Canyon.

4. Kênh đào Panama.

5. Tòa cao ốc Empire State.

6. Đền thờ thánh Phêrô ở Roma.

7. Vạn Lý Trường Thành.

Khi tập trung phiếu bình chọn, bà giáo sư để ý thấy có một sinh viên chỉ ngồi im lặng, không nộp lại phiếu của mình. Thấy thế, bà liền đến hỏi xem phiếu của cô có vấn đề gì không. Cô gái trả lời:

- Vâng, thưa giáo sư. Có chút ít ạ ! Có lẽ em không cần nộp vì phiếu của em quá khác so với các bạn.

Vị giáo sư nói:

- Vậy thì em hãy cho cô biết sự lựa chọn của em để tôi và các bạn xem có thể giúp gì không?

Cô sinh viên phân vân giây lát, rồi bắt đầu nói đến bảy kỳ quan thế giới theo nhận định riêng của cô là :

1. Vuốt ve

2. Nếm mùi vị

3. Ngắm nhìn.

4. Lắng nghe

5. Cảm nhận.

6. Cười vui

7. Tình yêu

Cả lớp học hoàn toàn im lặng. Bởi đó là những điều ta thường quên lãng vì chúng quá đơn giản và quá đỗi bình thường, nhưng thật sự ra đó mới là những kỳ quan tuyệt vời. Chính chúng mới làm nên hạnh phúc cho cuộc đời của ta chứ không phải là những kỳ quan vĩ đại trên cõi đời này. (Mao Trí Hùng sưu tập)

12. Phá đổ bức tường Bá-linh

Ngày 13.8.1961, một bức tường cao 8 mét, dài 700 cây số đã được cấp tốc xây dựng để làm biên giới, phân chia nước Đức làm hai quốc gia đối nghịch với nhau là Đông Đức và Tây Đức. Bức tường này được gọi là bức tường Bá-linh (Berlin). Từ đây, nhiều gia đình bị phân ly, nhiều ngôi nhà bị chia cắt làm đôi, và tiếp theo đó là sự hình thành một bức tường tâm lý, mang tính thù hận và chia rẽ ngăn cách nhau.

Mãi đến ngày 13.11.1989, sau thời gian tồn tại 28 năm, bức tường Bá-linh này mới bị phá huỷ. Từ đây các gia đình đang phân tán lại được đoàn tụ, dân tộc và đất nước lại tái thống nhất. Thế giới chấm dứt thời kỳ chiến tranh lạnh và hai nước Đông và Tây Đức đang thù nghịch nhau lại trở thành đồng minh với nhau, cùng nhau hợp tác xây dựng hoà bình, đưa đất nước này ngày một thăng tiến về mọi mặt.

13. Ông già uyên bác

Một ông già kia nổi tiếng là người có kiến thức rộng. Tuy trình độ văn hoá của ông mới hết bậc phổ thông, nhưng ông lại có vốn kiến thức hiểu biết sâu rộng về nhiều lãnh vực như khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa triết lý và thần học…

Tiếng đồn về ông già có kiến thức rộng này ngày càng đi xa và nhiều người đã đến viếng thăm ông để hỏi ý kiến của ông về các thắc mắc và các vấn đề liên quan đến cuộc sống. Họ đã được ông cụ tận tình giải đáp và cho ý kiến. Ngày nọ, một vị giáo sư đại học đã đến thăm ông. Sau buổi đàm đạo lâu giờ, vị giáo sư đã hỏi ông cụ nguyên nhân nào khiến ông có sự hiểu biết rộng rãi và đúng đắn như vậy. Đồng thời xin ông giới thiệu một cuốn sách mà ông đã đọc.

Nhưng thật bất ngờ, ông cụ đã trả lời như sau: “Thưa ngài, thực sự tôi không có thời giờ và cũng chẳng có khả năng để đọc các quyển sách cao siêu về khoa học, triết lý hay thần học…Hằng ngày tôi chỉ đọc có 3 cuốn sách mà bất cứ ai cũng có thể đọc được: Cuốn thứ nhất là những công trình lạ lùng kỳ diệu Thiên Chúa đã và đang làm nơi bản thân tôi và chung quanh tôi. Nhờ đó, tôi có dịp dâng những lời ngợi khen ca tụng Người. Cuốn thứ hai là những sự việc đã xảy ra trong cuộc đời tôi. Nhờ đó, tôi có dịp hồi tâm sám hối tội lỗi đã phạm, cảm tạ những ơn lành Chúa ban và cầu xin Người ban cho các ơn lành hồn xác, nhất là ban ơn cứu độ. Cuốn sách thứ ba là Lời Chúa trong Thánh Kinh. Mỗi ngày tôi luôn dành ra một thời gian vào lúc sáng sớm để đọc một đoạn Lời Chúa trong Thánh kinh, rồi suy niệm và cầu xin Chúa giúp thực hành trong đời sống hằng ngày. Mỗi lần dự lễ, tôi luôn để tâm lắng nghe Lời Chúa qua các bài đọc, nhất là bài giảng của vị chủ tế hôm ấy.”

14. Thiên Chúa có ở bên tôi không?

Có một câu chuyện vui kể về một tín đồ rất ngoan đạo, bị kẹt trong một cơn lũ lụt mà nước mỗi lúc một dâng cao. Anh ta từ chối việc di tản. Anh nhất quyết phải chứng minh rằng Thiên Chúa sẽ giải cứu anh.

Nước lụt mỗi lúc lại dâng cao hơn, và người ấy đến lúc đã bị kẹt trên mái nhà mình, đang cầu nguyện xin Chúa một phép lạ. Ba lần người ta dùng thuyền tới cứu, song anh không chịu lên thuyền, bảo họ hãy đi đi. Anh quyết bám vào mái nhà để chờ phép lạ của Chúa. Cuối cùng anh bị nước cuốn đi và bị chết chìm. Khi ra trình diện tại cửa thiên đàng, anh ta phẫn nộ thưa với Chúa:

- Lạy Chúa, vì sao Ngài không tôn trọng đức tin của con?

Chúa trả lời:

- Ta đã ba lần đưa thuyền đến cứu con, nhưng con đã không chịu bước vào!

15. Bệnh câm điếc thời đại

Bệnh câm điếc thời đại làm cho người hiện đại chẳng hiểu nhau. Ai cũng vẫn có thể nghe nói được, nhưng chỉ nói và hiểu dưới cái nhìn chủ quan của mình.

Có câu chuyện dân gian kể rằng: Cụ bà trải chiếu giữa sân. Cụ ông ngồi xuống đập đập hai chân vào nhau phủi bụi rồi nói:

– Chán ghê hết thuốc lào rồi.

– Bà lão: Trưa vừa rào lại đấy thôi, quên à?

– Ông lão: Tôi bảo hết thuốc lào mà

– Bà lão: Vừa cơm xong nấu cháo gà gì ông

– Ông lão: Điếc rồi, thế có chán không

– Bà lão: Giờ này còn định ra sông tắm, trời! Ông đúng là đồ dở hơi

– Ông lão: Dở hơi mà lại biết bơi đấy bà

– Bào lão: Ông bảo gì mà cháy nhà, cẩn thận cái miệng không là chết oan.

16. Nỗi khổ của người điếc

Một phụ nữ kia có người bạn bị điếc. Ngày nọ bà ta hỏi người bạn muốn được tặng gì vào ngày sinh nhật. Người bạn ấy đáp lại thật bất ngờ: “Xin bạn hãy vui lòng viết thư cho Ann Landers yêu cầu bà ta in lại bảng kinh cầu nguyện cho người điếc. Bà ấy đã từng in nó trước đây vào mục của bà trong một tờ báo, nhưng tôi đã đánh mất bản sao mục đó rồi!” Thế là người phụ nữ đã viết thư cho Ann Landers. Và vào ngày 1.6 ngày sinh nhật của cô bạn, bà Ann đã in lại lời cầu nguyện đó trong cột báo của mình. Một đoạn trong lời cầu đó như sau:

“Lạy Chúa, nỗi đau khổ mà người điếc phải gánh chịu là đa số thiên hạ xem họ như những người chuyên làm phiền người khác. Người ta thường thiện cảm với người mù, người què, nhưng lại thường nổi xung và bực bội với người điếc. Kết quả là người điếc thường phải trốn lánh bạn bè và càng ngày càng trở nên khép kín” (William Barclay)

Chính Helen Keller, một người vừa bị mù vừa bị điếc cũng nói rằng bị điếc không nghe được, thì những cánh cửa cuộc đời hầu như bị khép lại như khi mở radio thì chẳng hiểu gì, xem truyền hình cũng thế, và hầu như không thể trò chuyện được với ai cả, vì thế, sau một thời gian họ cảm thấy cô đơn như bị bỏ rơi.

17. Trái tim chữa khuyết tật

Cha Giuse Trần Việt Hùng kể: Tôi có quen biết một ông bị mù cả hai mắt mà rất linh hoạt trong cộng đoàn. Ông đã làm việc nhiều hơn những người bình thường. Để có tiền tiêu pha trong gia đình và giúp đỡ việc bác ái, ông làm nghề nấu rượu. Ông tự làm men, nấu cơm, ủ cơm lên men, nấu rượu và pha chế rượu. Ông còn chế rượu ngâm thuốc bắc và các loại rượu bóp dẹo để bán và để tặng. Đôi khi ông ấy còn làm đồ nhắm rất tuyệt vời đãi bạn bè với rượu đế và thịt nai đồng quê nữa. Có những người bị sút lưng, trật gân hay trẹo tay chân đều tìm đến ông để được xoa bóp và chữa trị.

Tuy không nhìn thấy nhưng đôi tay và đôi tai rất bén nhậy. Ông rất nhiệt tình trong việc nuôi dưỡng ơn gọi linh mục như giúp đỡ tiền bạc và nhận đỡ đầu các chủng sinh. Lập hội bác ái giúp người nghèo khổ, phong cùi và các trẻ mồ côi ở Việt Nam. Không quản ngại mưa nắng và gió tuyết lạnh lẽo, ông trung thành trong việc đưa rước tượng Đức Mẹ Maria tới từng gia đình trong cộng đoàn quanh năm suốt tháng.

Được biết trong thời gian mới nhập cư tại Hoa Kỳ, ông là người cộng tác đắc lực của linh mục quản nhiệm, là cố vấn và là giáo lý viên đặc biệt dạy tất cả các lớp giáo lý cho các em từ lớp vỡ lòng, xưng tội, rước lễ lần đầu, Thêm Sức, Tân tòng và cả Hôn Phối.

Nghĩ rằng ít có ai chạy theo cho kịp những sinh hoạt và nhân đức tốt lành của ông. Nay ông đã về yên nghỉ bên Chúa.

18. Anh giả điếc

Thơ » Việt Nam » Cận đại » Nguyễn Khuyến » Thơ chữ Nôm

Trong thiên hạ có anh giả điếc,

Khéo ngơ ngơ ngác ngác, ngỡ là ngây!

Chẳng ai ngờ sáng tai họ, điếc tai cày,

Lối điếc ấy sau này em muốn học.

Toạ trung đàm tiếu, nhan như mộc,

Dạ lý phan viên, nhĩ tự hầu.

Khi vườn sau, khi ao trước, khi điếu thuốc, khi miếng trầu, khi chè chuyên năm bảy chén, khi Kiều lẩy một đôi câu,

Sáng một chốc, lâu lâu rồi lại điếc.

Điếc như thế ai không muốn điếc?

Điếc như anh dễ bắt chước ru mà!

Hỏi anh, anh cứ ậm à!

Bài này Nguyễn Khuyến chế một ông bạn thân giả cách điếc, thấy gì có lợi cho mình thì nhanh nhẹn hưởng ứng ngay, nhưng còn điều bận đến mình thì ậm à như không nghe thấy.

19. Ta không nghe nhưng Chúa nghe

Las Dasir đã dốc lòng chừa cả trăm lần rồi, mà ông vẫn còn sa ngã phạm tội. Lần này, ông nhất quyết phạt mình như sau: cứ mỗi lần phạm tội thì ông bứt bỏ mười sợi tóc trên đầu, và chừng nào không còn tóc nữa thì hình phạt cuối cùng sẽ là giết chết mình.

Chỉ một tháng sau là đầu của Las Dasir đã gần như bị trọc, nhưng ông vẫn nhất quyết thi hành hình phạt, và một tháng sau nữa thì ông hoàn toàn trọc đầu. Nhìn vào gương thấy đầu không còn tóc nữa, Las Dasir tuyệt vọng thầm nghĩ:

"Ngày kết thúc đời tôi đã đến, tôi không còn cách nào để tránh đừng phạm tội hơn là kết liễu cuộc sống mình trên trần gian này.”

Ông đưa tay cầm khẩu súng lục định bắn vào đầu thì bỗng một thiên thần hiện ra trao cho ông món quà và nói:

- Khoan đã, đừng kết liễu đời mình như thế!

Ông thưa với thiên thần:

- Nhưng tôi đã thề là sẽ kết thúc đời mình khi không còn sợi tóc nào trên đầu.

Thiên thần đáp lại:

- Nhưng Thiên Chúa thì không đồng ý như vậy, nên Ngài đã sai tôi mang đến cho ông món quà này. Hãy mở ra xem đi.

Las Dasir vội mở món quà Chúa trao cho, đó là một đầu tóc giả và Las Dasir đã hiểu ngụ ý của Thiên Chúa, và Las Dasir đã hiểu ngụ ý của Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, là Đấng mở đường tìm phương cách cho con người hưởng hạnh phúc. Ông có thể không nghe lời Chúa nhưng Chúa nghe được tiếng lòng của ông.

20. Nghe và nói với tiếng lòng

Năm 1974, Giám mục giáo phận Beauvais bên Pháp truyền chức phó tế vĩnh viễn cho Thầy Jacques Lebreton. Thầy bị mù hai mắt và cụt hai tay. Người ta thắc mắc, một con người khuyết tật như thế làm sao có thể thi hành sứ vụ phó tế, nhất là giảng Lời Chúa. Đức Cha trả lời: Thầy ấy không còn đôi mắt, không còn đôi tay, nhưng còn trái tim. Chúng ta nghe lại tâm sự của Thầy được kể lại trong buổi hành hương Lộ Đức năm 1982:

“Cách đây khá lâu, tôi là một quân nhân. Trong một trận đánh ở El Alamen, tôi và một vài người bạn khác làm nhiệm vụ gỡ mìn. Một anh bạn cầm trái mìn, vô tình mở chốt và trao cho tôi, không hiểu sao tôi lại cầm lấy. Trái đạn nổ tung. Tôi thấy tối tăm mặt mũi, và dường như tôi đang chết. Tôi đã vĩnh viễn mất đi đôi tay và cặp mắt, mình mẩy đầy các mảnh đạn. Tỉnh dậy trong bệnh viện, tôi toan tính tự tử. Một tu sỹ đến săn sóc cho tôi và giúp tôi cầu nguyện vì tôi đã bỏ đạo từ lâu. Tôi làm theo và cuộc đời tôi đã biến đổi. Tôi đã gặp lại Đức Giêsu và cùng với Ngài, tôi cầu xin tha thiết: “Lạy Cha nếu có thể, xin hãy cất chén này xa con, nhưng đừng theo ý con, mà chỉ xin theo ý Cha mà thôi.” Tại Evreux, tôi gặp một người đàn bà toàn thân bất toại đến nỗi bà ta không thể nói được, cũng không cử động được. Duy nhất chỉ có ngón chân cái là còn có thể nhúc nhích. Bà đã dùng ngón chân ấy viết trên một tấm bảng nhỏ để nói chuyện với mọi người. Bà cũng dùng ngón chân ấy viết tặng tôi một bài thơ với tựa đề “Nụ cười.” Tôi cũng gặp một người đàn ông khác bị điếc từ năm 14 tuổi, và bị mù chỉ 2 năm sau đó. Trên giường bệnh, người đàn ông 87 tuổi này vẫn nở một nụ cười mãn nguyện và nói với mọi người: “Tôi đã trải qua một cuộc đời rất tốt đẹp. Tôi cám ơn Chúa và xin cám ơn mọi người.”

Thầy phó tế Jacques Lebreton kết luận: “Cuộc đời của tôi, dù không còn mắt cũng chẳng còn tay, vẫn là một cuộc đời tốt đẹp trong sự yêu thương của Chúa. Cuộc đời chỉ thực sự bất hạnh khi chúng ta cắt đứt tương giao với Chúa, khi chúng ta không còn thiết tha cầu nguyện để gặp gỡ Ngài và đi sâu vào sự thân tình với Ngài.”

21. Ông còn trái tim

Năm 1974, ông Jacques Lebreton 78 tuổi, được Đức Giám mục địa phận Beauvais nước Pháp truyền chức Phó tế cho.

Người ta thắc mắc :

- Trước đây ông là một đảng viên Cộng sản vô thần, vì một tai nạn xe hơi, ông đã bị cụt hai tay, và mù cả hai mắt! Chức Phó tế cần phải đọc sách mới có khả năng giảng. Mắt đâu? Cần cử hành Bí tích Thánh Tẩy cho người ta. Tay đâu? Thế thì truyền chức Phó tế cho ông để làm gì?!

Đức Giám mục trả lời:

- Jacques Lebreton còn trái tim.

Quả thực, sau khi lãnh chức Phó tế, thầy Jacques Lebreton đã giảng mỗi năm khoảng 200 bài Thánh Kinh trong các trường Đại học, được rất nhiều sinh viên ca tụng.

Tâm tình của thầy Jacques Lebreton rất giống tâm tình của thánh Phaolô: “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng, tự ý làm việc ấy thì tôi có công, còn nếu ngoài ý tôi, thì đó là trách nhiệm Chúa đã ký thác cho tôi!” (1 Cr 9, 16-17).

22. Chữa bằng tình yêu

Tại viện câm điếc Lái Thiêu có trên 200 em câm điếc. Các em nói chuyện với nhau bằng một thứ ký hiệu riêng. Trong trường có em Lâm văn Lý bị điếc ngay từ khi sinh ra, cha mẹ em đã gửi vào trường từ khi em lên bảy. Các thầy cô vẫn coi em là người chậm chạp và ngu đần. Nhưng khi em lên lớp ba, cô giáo Trần thị Mơ đã nhận ra em có khả năng nghe được. Cô giáo đã tìm cách chạy chữa cho em, cuối cùng em đã nghe được và nói được. Em đã theo đuổi hết lớp trung học và đã ra trường năm em lên 18 tuổi.

Em Lâm văn Lý bị nặng tai cũng giống như người thanh niên trẻ trong Phúc Âm hôm nay. Chúa Giêsu đã trực tiếp chữa lành cho anh. Chúa vẫn còn mở tai cho người điếc ngày nay như mở tai cho người thanh niên trong thời của Ngài. Có điều là Ngài không dùng tay một cách trực tiếp để chữa lành, nhưng Ngài dùng cách gián tiếp qua những bàn tay của người khác cũng giống như cô giáo Trần thị Mơ nhờ thầy lang, nhờ bác sĩ mà chữa lành cho em.

23. Công trình của tình yêu

Có lẽ cái tên của Helen Keller, một cô gái câm điếc người Mỹ, đã trở thành bậc khoa bảng, không còn xa lạ với chúng ta nữa. Vừa được 9 tháng, sau một cơn đau màng óc, cô gái bất hạnh này trở thành mù loà và câm điếc. Thế giới của âm thanh và màu sắc đã khép hẳn cánh cửa lại với cô.

Làm thế nào để truyền thụ kiến thức cho một người đã câm điếc lại còn mù loà? Cha mẹ của cô bé dường như muốn bó tay. Nhưng có một cô giáo tên là Anna Sullivan đã không muốn bỏ cuộc. Hy vọng duy nhất mà cô giáo này còn đó là có thể truyền thông và liên hệ với cô gái mù loà và câm điếc này qua việc tiếp xúc với bàn tay của cô. Chỉ có thể tiếp xúc với thế giới bằng đôi tay, thế mà cô Helen keller đã có thể học xong đại học, tốt nghiệp tiến sĩ và trở thành văn sĩ.

24. Văn hóa gặp gỡ

Qua trang blog và video của mình, linh mục Dòng Chúa Cứu Thế 73 tuổi, bị mù và điếc đã biến khuyết tật của mình thành “món quà” của Chúa. Linh mục Cyril Axelrod bị điếc khi lên ba và hoàn toàn bị mù khi ở tuổi trưởng thành. Sứ vụ của cha, các chuyến du hành, các dấn thân của cha để ở gần người khiếm thính bao gồm cả năm châu lục. Ngài biết 15 thứ tiếng, nhiều ngôn ngữ bằng dấu hiệu và bây giờ ngài dùng Internet để rao giảng Phúc Âm và cũng để chống sự loại trừ ra khỏi xã hội của những bị điếc và bị mù. Ngài tin chắc những người có khuyết tật là “thiên thần của Chúa,” họ có nhiệm vụ dạy cho những người gọi là “bình thường” quyền lực của một “tình yêu không điều kiện” và những giá trị nền tảng như lòng “tự tin, hy vọng, đức tin và bình an nội tâm” để vượt lên những khó khăn của cuộc đời, cha cho biết như trên trang blog của mình: cyrilaxelrod.wordpress.com.

“Chỉ những người hiểu được sự mong manh, giới hạn của mình mới có thể xây dựng được mối tương giao trong tình huynh đệ, tình tương trợ, trong Giáo hội, trong xã hội và làm chứng điều này”, Đức Phanxicô đã tuyên bố như trên trong lần gặp cảm động với 6 000 người mù và câm điếc vào tháng 3-2015. Trong số họ ở hàng đầu là linh mục Cyril, cha quá hạnh phúc được gặp Giáo hoàng thứ ba trong đời mình, Đức Phaolô VI năm 1971 và Đức Bênêđictô XVI năm 2009. “Quan trọng là những người này phải là chứng nhân cho một thái độ mới, mà chúng ta gọi là “văn hóa của gặp gỡ”, Đức Phanxicô nhấn mạnh trong ngày đó, để chống lại với nền “văn hóa loại bỏ”, một nền văn hóa làm băng hoại xã hội đương thời.

25. Đón tiếp bộ quần áo

Người Thổ nhĩ Kỳ có câu truyện kể rằng, có một nhà giáo nổi tiếng cả về tài trí và lòng đạo đức. Một hôm ông ra ruộng làm tiếp với vợ và đã quên giờ phải về đi dự bữa tiệc của một người giầu có quý phái mời. Người nhà và các bạn hối thúc ông phải mau chân kẻo trễ. Ông biết rằng mình không còn đủ giờ để về nhà tắm rửa thay quần áo, nên đã quyết định mặc yên bộ đồ đi làm đó và đi thẳng tới nhà của người quý phái kẻo trễ giờ.

Khi tới nơi, các người đầy tớ và người giữ cổng nhất định không cho ông vào, lý do vì quần áo của ông mặc là quần áo quá bình thường của một nông dân, lại thêm lấm bùn. Ông cố gắng phân giải vì vội vã kẻo trễ, và ông nói cho họ biết ông là thày giáo dạy con của ông chủ nhà. Tuy thế họ vẫn không chịu để ông vào, lý do vì chủ nhà ra lệnh không tiếp người ăn vận bê bối. Sau cùng ông đành chịu chạy qua một nhà người quen gần bên để muợn đỡ một bộ đồ lịch sự, áo khoác và ca vát, cùng giày bóng đi vào. Ông trở lại. Và lần này người ta niềm nở tiếp đón ông và mời ông ngồi vào bàn tiệc. Khi thức ăn được đưa lên, ông liền lấy các thức ăn bỏ vào túi áo khoác. Ông bôi các món ăn vào quần áo; đổ rượu vô giầy... Và miệng ông luôn nói lớn: “Ăn đi, áo khoác, quần tây và giầy bóng các ngươi hãy ăn và uống cho no thỏa đi.” Tất cả mọi người đều hướng mắt nhìn đổ xô về ông thày giáo có thái độ khùng điên kỳ cục này. Sau cùng cha con của ông chủ nhà đến hỏi: “Thưa thày tại sao thầy lại làm kỳ cục như vậy? Tại sao thày không ăn uống mà lại bảo áo quần ăn uống cho thỏa thích đi?”

Ông trả lời: “Khi tôi đến vì vội vã từ ngoài ruộng về không kịp thay quần áo, các người giữ cổng và con ăn đầy tớ nhà ông đã từ chối không tiếp đón tôi. Họ nói rằng gia đình ông ra lệnh cho họ chỉ đón tiếp người ăn bận lịch sự, và không tiếp người hành khất. Và họ đã nhất định từ chối không cho tôi vào cửa. Tôi chỉ được tiếp đón sau khi chạy đi mượn bộ đồ này mặc vào. Như thế tôi trộm nghĩ, bộ quần áo, chứ không phải tôi được đón tiếp vào bàn tiệc.”

26. Tình yêu là hiệp thông

Có một vị ẩn sĩ sống trong rừng luôn bị một cô gái lố lăng đến cám dỗ. Có lần người con gái nói với vị ẩn sĩ:

- Thầy không biết yêu ư ? (ý của cô gái này là vừa ngạc nhiên trước sự thanh thản của ẩn sĩ và đồng thời nghi ngờ chế nhạo sự bất bình thường của một người đàn ông !)

- Giờ chưa đến ! vị ẩn sĩ trả lời.

Lần nọ, trong lúc đi khất thực, vị ẩn sĩ phát hiện người con gái hay đến quấy nhiễu mình đã bị cướp và bị đánh đập nằm dở sống dở chết bên dọc đường. Ông bèn dừng chân lại săn sóc cho cô ta, cuối cùng vị ẩn sĩ bế cô ta về thành phố điều trị. Lúc đó vị ẩn sĩ mới nói với cô gái:

- Bây giờ đã đến giờ, giờ của lòng thương xót !

Vâng, vị ẩn sĩ này đã lắng nghe bằng cả con tim và nói với cả tấm lòng cao thượng qua việc làm đầy yêu thương và bác ái.

27. Linh mục câm điếc Hàn Quốc

Vào ngày 6.7.2007, Đức Hồng y Cheong Jin-Suk cai quản Tổng Giáo Phận thủ đô Seoul của Nam Hàn đã truyền chức Linh Mục cho một người câm điếc sau 22 năm cố gắng học tập tu đức. Đó là cha Benedict Park Min-seo, vị LM câm điếc đầu tiên tại Á Châu. Cha Park, sinh năm 1965, bị điếc vào lúc 2 tuổi vì uống lầm thuốc. Tuy nhiên, lúc còn trẻ Ngài ao ước được đi tu làm linh mục, nhưng vì tàng tật, Ngài quyết định đi làm nghề thợ sơn.Học tại trường dành cho người câm điếc, cậu Park gặp được cha Michael Cheong-Soon-o. Cậu tỏ cho Ngài biết ý định của cậu là muốn làm Linh Mục. Nhưng tại Nam Hàn không có lớp cho người câm điếc tại chủng viện nên cậu Park được gửi sang học ở Hoa Kỳ. Năm 1994 câu Park được vào đại học Gallaudet để học triết và toán học. Tại đây cậu Park lại được gặp cha Thomas Coughlin, một linh mục câm điếc đầu tiên của Hoa Kỳ. Cha Thomas được cử làm linh hướng cho cậu Park. Sau khi học ở đại học Gallaudet, cậu Park được vào Đại Chủng Viện Thánh Giuse ở New York và sau đó theo học tại viện đại học thánh Gioan. Tại đây vào năm 2004 thầy Park tốt nghiệp đại học.Thầy Park trở về Nam Hàn và tiếp tục theo học tại chủng viện và được phong phó tế vào năm 2006.

Khi cử hành thánh lễ mở tay, cha Park nói bằng ngôn ngữ dấu hiệu của người câm điếc: “Trước hết tôi tạ ơn Chúa đã nhận tôi làm Linh Mục. Là linh mục tàn tật đầu tiên, truyền thông đã chú ý tới tôi rất nhiều, ngay cả trước khi chịu chức, nhưng tôi không phải là tài tử màn bạc, tôi là một Linh Mục thường, xin mọi người cầu nguyện cho tôi để tôi sống khiêm tốn và là một linh mục đích thực ”Linh Mục Michael Cheong Soon-o tuyên bố, “Việc phong chức Linh Mục cho cha Park cho thấy lòng yêu thương của Chúa đối với người không thể nói và nghe được. Chúng ta hãy cầu xin cho Ngài để Ngài sẽ là ánh sáng và là muối đất cho các người tàn tật." (Vietcatholic 22.7.2007).

28. Linh mục câm điếc Hoa Kỳ

Tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Giá của Tổng Giáo Phận Boston, Đức Hồng Y Sean P. O’Malley đã truyền chức Linh Mục cho sáu tân chức trong đó có một vị bị câm điếc.Các tân chức được thụ phong hôm nay là các tân Linh Mục: Israel Rodriguez, Huy Nguyễn, Sean Maher, David Gunter, Shawn Carey, và Frank Camp. Đặc biệt tân Linh Mục Shawn Carey là người bị câm điếc bẩm sinh và là vị Linh Mục câm điếc thứ 11 của toàn Giáo Hội Hoa Kỳ. Giáo Hội Hoa Kỳ đã dành ra ngân khoản đặc biệt để huấn luyện các chủng sinh câm điếc. Các Linh Mục câm điếc sẽ lo việc mục vụ cho các giáo dân câm điếc. Trong thánh lễ truyền chức hôm nay cả một khu Vương Cung Thánh Đường Boston đã được ban tổ chức dành riêng cho cộng đồng người câm điếc đến dự lễ phong chức cho cha Shawn Carey. Qua người thông dịch, cha Shawn Carey đã ra dấu hiệu bằng tay nói với toàn thể cộng đồng: “Thật là một phép lạ. Là một chủng sinh câm điếc, là người câm điếc tôi đã trải qua cuộc hành trình dài để tiến tới chức Linh Mục và tôi không thể ngờ được cuộc hành trình ấy mau như vậy.” (Vietcatholic 25.5.2009).

29. Cởi trói

Trang nhất tờ Tuổi Trẻ số ra ngày thứ hai, 13 tháng 8 năm 2012 có bài: “Cởi trói cho dân.”

Tác giả dùng chữ “Cởi trói” để nói về quyết định trả lại hàng ngàn hecta đất cho nông dân. Đã có một vài tỉnh thi hành quyết định này. Hàng ngàn hộ dân vui mừng và biết chắc mình sẽ thoát nghèo, thoát đói, vì từ nay có ruộng đất để cày cấy. Chuyện chỉ đơn giản như vậy nhưng người dân đã phải chịu bị “trói” hàng mấy chục năm qua.

Ông Lê Minh Hiệp (ấp Nhơn Trị, xã Nhơn Thạnh Trung, TP Tân An, Long An) là một trong hàng ngàn hộ vừa được tỉnh trả đất trồng lúa. Ông nói 10 năm bị “treo” đất, cuộc sống gia đình ông như bị trói chân trói tay. Sáng 12.8, gặp vợ chồng ông Hiệp đang tất bật làm đất chuẩn bị gieo sạ vụ ba, ông bảo đến bây giờ mới an tâm đầu tư sản xuất lúa để năng suất cao hơn, tích lũy mua thêm ruộng. (x. “Tôi như người được cởi trói, thoải mái lắm”, tuoitre.vn, ngày 13.8.2012). Hy vọng người dân Việt Nam còn được “cởi trói” nhiều thứ khác nữa.

Trang Tin mừng hôm nay kể câu chuyện, Chúa Giêsu chữa lành một người câm điếc.

Chúa phán: “Epphata” nghĩa là “Hãy mở ra.” Lập tức lỗ tai điếc anh mở ra nghe được rõ ràng, lưỡi như bị một sợi dây trói buộc nay được tháo cỡi nên anh nói rành mạch. Chúa “cởi trói” cho tai và lưỡi của bệnh nhân nên anh ta nghe và nói được.

30. Đó là Lời Chúa

Trong bài giảng lễ Chúa nhật, có linh mục kia hỏi cử toạ xem có ai nhớ tuần trước linh mục giảng về điều gì không? Cử toạ yên lặng một lúc. Cuối cùng một thanh niên có vẻ bụi đời, giơ tay phát biểu:

- Dạ thưa Cha, con nhớ rồi.

- Sao Anh nhớ thế nào? Linh mục hỏi.

- Thưa Cha, con nhớ Cha giảng thế này: Đó... đó... đó là lời Chúa.

Trong thánh lễ ta lắng nghe lời Chúa trong Thánh kinh và trong bài giảng, và cả trong thánh ca và thánh nhạc.. Lời Chúa không phải là tiếng nói một chiều, nhưng bao hàm việc đáp trả. Nghe lời Chúa rồi ta cầu xin cho được biết đáp trả bằng cách loan truyền lời Chúa, bằng việc thờ phượng và cầu nguyện, bằng đời sống đức tin.

31. Miệng lưỡi được chúc phúc

Ngày xưa ở vùng Bretagne, có một em nhỏ đạo đức và thánh thiện. Em chưa biết đọc biết viết nhưng lại rất yêu mến Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Trong một ngày, nhiều lần em đọc lên lời kinh Ave Maria (kinh Kính Mừng). Ít lâu sau em bị bệnh và chết, nhưng rồi trên mộ em, có một loại huệ mọc lên. Và trên mỗi cánh huệ người ta đều thấy có hai chữ Ave. Người ta từ khắp nơi đến kính viếng và sau cùng đã xây một ngôi thánh đường kính Đức Mẹ trên phần mộ của em nhỏ.

32. Chúa Giêsu hành động hôm nay.

Cách đây khá lâu, Jerry Izenberg của tờ báo New York Post đã viết về Reggie Williams thuộc đội Cincinnati Bengals. Khi sinh ra, Reggie đã bị bệnh về thính giác, nhưng không có ai để ý. Các thầy cô giáo ở tiểu học tưởng rằng cậu là người chậm chạp và ngu đần. Tuy nhiên khi vào lớp ba, Cô Chapman khám phá ra chứng bệnh của cậu và đã tìm cách giúp đỡ. Thật rất cám ơn cô giáo Chapman, hai lỗ tai của Reggie đã được chữa lành và nghe được.

Rốt cuộc, Reggie đã ra trường trung học và được xếp vào hạng giỏi 5% trong số học sinh lớp mười hai ra trường. Người mà các cô giáo và học sinh chê bai là chậm chạp và ngu dốt nay đã xin được vào trường Đại Học Darthmouth.

“Nếu không nhờ cô giáo Chapman, tôi không dám tưởng tượng ra ngày hôm nay tôi sẽ như thế nào.” Reggie đã nói với ký giả Izenberg như thế.

Reggie bị nặng tai giống như người thanh niên trẻ trong bài Phúc Âm hôm nay. Chúa Giêsu đã trực tiếp chữa lành người thanh niên khỏi điếc.

33. Ngôn ngữ của tình yêu

Có một đôi nam nữ rất yêu nhau. Họ hẹn ước sẽ cưới nhau lúc chàng trai đi du học về. Sau khi chàng trai ra đi ít lâu, cô gái bị một tai nạn giao thông khủng khiếp. Sau đó, cô được cứu sống. Nhưng điều bi đát hơn cả là cô bị mất đi giọng nói. Bác sĩ bảo rằng tai nạn đã gây tổn thương não, khiến cô bị câm, không thể nói được nữa.

Cô gái bị suy sụp tinh thần hoàn toàn. Cô không muốn cho người yêu biết và cũng không muốn trở thành gánh nặng cho anh nên viết thư cho anh và nói rằng cô không còn kiên nhẫn đợi chờ anh được nữa. Cô trả lại cho anh chiếc nhẫn đính hôn. Chàng trai đã gửi hàng trăm bức thư và gọi biết bao cuộc điện thoại, nhưng cô không trả lời mà chỉ khóc. Cha mẹ cô quyết định chuyển nhà đến nơi khác để cô quên đi những gì đã xảy ra. Cô gái học ngôn ngữ bằng tay dành cho người câm và bắt đầu một cuộc sống mới. Chàng trai sau đó cũng về nước và không liên lạc với cô gái nữa. Cô nghĩ rằng chàng đã quên cô.

Một năm trôi qua, ngày kia, một người bạn đến trao cho cô gái thiệp mời đi dự lễ thành hôn của chàng trai, người yêu của cô. Trái tim cô tan nát. Khi mở thiệp cưới ra, cô giật mình khi thấy tên mình trong tấm thiệp. Ngước mắt lên, cô thấy chàng trai đang đứng trước mặt. Chàng xuất hiện đúng vào lúc bất ngờ nhất.

Chàng dùng tay để nói với cô: “Một năm qua anh đã dành thời gian để học ngôn ngữ bằng tay này. Hãy cho anh có cơ hội để nói với em: Anh yêu em.” Chàng xỏ chiếc nhẫn vào tay cô. Cô gái đã khóc, khóc vì hạnh phúc lại trở về với cô.

34. Hãy mở ra

Hôm nay, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục phán truyền với chúng ta: “Ephpheta. Hãy mở ra!” Không phải Ngài muốn mở đôi tai và miệng lưỡi thể lý của chúng ta, nhưng là muốn mở rộng tâm hồn chúng ta, để chúng ta luôn biết nghe và nói lời yêu thương, nhất là nghe và nói lời Chúa.

Hãy mở ra những đôi tai ích kỷ, để chúng ta biết lắng nghe lời kêu cứu của tha nhân và đưa tay ra giúp đỡ.

Hãy mở ra những đôi tai đang đầy ứ những điều thô tục, để chúng ta biết nghe lời Chúa và đem ra thực hành.

Hãy mở ra những miệng lưỡi cứng cỏi, để chúng ta biết nói những lời an ủi, động viên với những ai đang buồn sầu thất vọng.

Hãy mở ra những miệng lưỡi nhát đảm, để chúng ta biết nói sự thật, làm chứng cho chân lý, nhất là biết rao giảng Tin Mừng cho mọi người.

Trên tờ báo “Tuổi Trẻ Cuối Tuần” ngày 18/6/2006 có in một tấm ảnh độc đáo trên trang bìa. Đó là hình ảnh một lỗ hổng lớn trên mặt cầu Văn Thánh 2, Thành Phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh tấm ảnh là tựa đề: “Lỗ Hổng Trách Nhiệm, ai chịu trách nhiệm về những vụ tham nhũng, lãng phí nổi cộm vừa qua?” Tấm ảnh đó đã đoạt giải nhất về thể loại ảnh Giải Báo Chí Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2006. Tấm ảnh đó là của tác giả Nguyễn Công Thành, báo Tuổi Trẻ.

35. Khoái điếc, thích ngọng

Chuyện ngày xưa kể rằng, Mặc Tử ở nước Lỗ sang nước Tề thăm nhà bạn cũ. Người bạn cũ trách Mặc Tử: “Bây giờ thiên hạ còn ai biết đến việc nghĩa, quan lớn cũng như quan bé, mạnh ai nấy sống, lấy cái công làm cái tư, ông tự khổ thân một mình làm việc nghĩa chi cho nhọc xác?” Mặc Tử trả lời: “Tôi hỏi ông, nhà có mười đứa con, một đứa cày, chín đứa ngồi ăn, thì chẳng phải đứa cày phải cày chăm hơn sao? Bởi vì đứa cày thì ít đứa ăn thì nhiều. Thiên hạ bây giờ không ai chịu làm việc nghĩa, ông phải khuyên tôi cần làm việc nghĩa nhiều hơn mới phải chứ, sao lại ngăn tôi?”

Ngày xưa cũng như ngày nay, cám dỗ mạnh ai nấy sống luôn luôn hiện diện. Khoái điếc, thích ngọng từ đó cũng là căn bệnh của chúng ta.

36. Phép lạ của tình yêu

Mendelssohn, nhà soạn nhạc nổi tiếng người Đức, có ông nội là Moses, một người có vóc dáng xấu xí, đã thấp bé lại gù lưng. Chuyện kể là một hôm ông Moses Mendelssohn đến thăm một thương gia tại Hamburg và gặp Frumtje, cô con gái rất dễ thương của ông.

Ngay khi gặp Frumtje, ông đã yêu cô say đắm nhưng cô lại tỏ ra sợ hãi vẻ bề ngoài xấu xí của ông. Trước mắt ông, cô đẹp như một thiên thần, nhưng ông lại thật buồn khi cô luôn tránh nhìn ông.

Trước lúc ra về, ông thu hết can đảm gõ cửa phòng cô gái, mong có dịp nói chuyện riêng với cô. Sau mấy lời chào xã giao, ông lúng túng hỏi cô: “Cô có tin hôn nhân là việc đã được định đoạt từ trước trên thiên đường không?”

“Tôi tin,” cô gái nhìn xuống sàn nhà trả lời. “Ông cũng tin chứ?”

“Có chứ,” ông trả lời. “Cô biết đấy, trên thiên đường khi một cậu bé được sinh ra, Chúa cho cậu ấy biết về cô gái mà cậu sẽ cưới làm vợ. Khi tôi sinh ra, cô dâu tương lai của tôi cũng đã được chỉ định. Chúa còn nói thêm rằng vợ tôi sẽ bị gù. Ngay lúc đó, tôi kêu lên: ‘Lạy Chúa, một người phụ nữ gù hẳn sẽ là một thảm kịch. Lạy Chúa, xin trao cho con cái bướu đó để người vợ của con được xinh đẹp”

Frumtje nhìn vào mắt ông và bỗng nhiên thấy tâm tưởng có sự xáo trộn mãnh liệt. Cô đưa tay cho Mendelssohn nắm lấy, và sau đó đã trở nên người vợ trung thành của ông. Một phép lạ của tình yêu!

37. Kéo ra khỏi đám đông

Ngày nọ, trong một hội nghị về thế giới, Satan ngỏ lời với đám ác thần vây quanh: “Chúng ta không thể nào ngăn cản bọn Kitô hữu đi nhà thờ, đọc Kinh Thánh và biết được chân lý. Chúng ta cũng không thể ngăn cản chúng có một tương giao thân mật với Đức Kitô… Ngày nào họ còn liên lạc được với Đức Kitô, ngày ấy chúng ta còn bất lực!”

“Vậy cứ để mặc chúng đi lễ, và giữ nếp sống riêng tuỳ ý, nhưng phải cướp hết thì giờ của chúng, đừng để chúng gặp được Đức Kitô.”

Đám quỷ nhỏ ào ào lên: “Chúng tôi phải làm gì để được như thế?”

“Hãy làm cho bọn chúng bận rộn với những điều không thiết yếu trong đời và tạo ra nhiều chương trình để cho đầu óc chúng không rảnh rỗi. Hãy xúi chúng tiêu xài, tiêu xài, tiêu xài, rồi kiếm tiền, kiếm tiền, kiếm tiền…

“Hãy khuyến khích chúng mở tivi, đĩa phim và máy vi tính suốt ngày. Hãy đổ tràn vào hộp thư của chúng những bức thư tào lao, giấy đặt hàng, bản cá cược, mọi loại thư tiếp thị và khuyến mãi…

“Không gặp được Đức Kitô, chúng sẽ thuộc về chúng ta.”

Để chiếm hữu tôi, ma quỷ có nhiều mưu kế tinh quái để che tai, bịt mắt, không cho tôi tiếp cận với Chúa Giêsu, đấng Cứu Độ của tôi. Ngày xưa Chúa “đã kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông” để chữa anh khỏi câm và điếc, để "nối mạng" với anh. Đâu là khoảnh khắc tôi dành riêng cho Chúa trong một ngày sống?

38. Mở lòng với Chúa

Thánh Gioan Don Boscô là thánh của thời đại chúng ta. Ngài mất 31-1-1888: Tất cả những câu truyện chung quanh các phép lạ ngài làm đều xác thực, lý do khi lập hồ sơ phong thánh cho ngài, Giáo Hội bắt điều tra kỹ lưỡng, phỏng vấn những nhân chứng đã thấy tận mắt, và bắt các nhân chứng đó thề nói sự thực. Sau đây là một trong những câu truyện lạ Chúa đã cho ngài thực hiện.

Một y sĩ (giấu tên) khá nổi danh, tới Turinô, xin gặp Cha Don Boscô. Y sĩ nói: “Người ta nói là, cha có thể chữa khỏi mọi chứng bệnh?”

Cha Don Boscô trả lời: “Đâu có!”

Y sĩ nói: “Người ta đã quả quyết với tôi như thế, họ còn nói rõ tên, cũng như chứng bệnh những người đã được Cha chữa khỏi.”

Cha Don Boscô trả lời: “Quả thực có nhiều người tới đây, xin “Đức Mẹ phù hộ” chuyển cầu cho họ, rồi nếu sau một tuần tam nhật, hoặc một tuần cửu nhật, họ được khỏi, thì chính là do ơn Đức Mẹ, chứ tôi không có tham dự gì vào việc chữa khỏi đó.”

Y sĩ nói: “Vậy xin Đức Mẹ chữa tôi”

Cha Don Boscô nói: “Ông bệnh gì?”

Y sĩ nói, Ông hay bị té xỉu (động kinh), và nhất là từ một năm nay, bệnh xỉu của ông xẩy ra luôn, nên đi đâu cũng phải có người theo. Tuy là y sĩ, Ông lại không chữa được chính bệnh Ông. Ông thất vọng, Ông tới đây cầu mong được khỏi như một số người khác.

Cha Don Boscô nói: “Vậy thì xin ông cũng làm, như người ta quen làm ở đây, là quỳ xuống, đọc chung với tôi vài kinh, rồi ông cáo mình, rước lễ, để tâm hồn được trong sạch và được tăng nghị lực. Đức Mẹ sẽ yên ủi ông.”

Y sĩ nói: “Xin Cha dậy tôi làm việc gì khác, vì những việc Cha vừa nói, tôi không làm được.”

Cha Don Boscô nói: “Tại sao?”

Y sĩ trả lời: “Quả thật, tôi cũng chẳng tin Chúa, tin Đức Mẹ, tin lời cầu nguyện, tin phép lạ!”

Tuy Cha Don Boscô rất bỡ ngỡ, nhưng nhờ ơn Chúa, Cha cũng đã tìm được những lời khuyên khiến y sĩ cảm động. Kết cục Ông cũng quỳ xuống, và làm dấu thánh giá.

Y sĩ nói: “Tôi lấy làm lạ, là làm sao tôi còn nhớ làm dấu, vì tôi đã bỏ hẳn những việc này hơn 40 năm nay.”

Ông cầu nguyện, và kết cục, ông cũng đã cáo mình.

Ngay sau lúc đó, ông cảm thấy bên trong như có gì thay đổi. Và rồi, kể từ ngày đó, ông hết bị xỉu. Sau đó, ông thường tới cầu nguyện và tạ ơn “Đức Mẹ phù hộ.”

39. Sức mạnh của tình yêu

Vào năm 1934 giáo lý viên Gioan Caduna được linh mục Palexi sai đến vùng Ramxi miền bắc Ấn Độ để truyền giáo cho dân làng Majoribua, là những người rất sùng kính tôn thờ vật linh. Sau 18 năm (1952), cha Palexi trở lại vùng này, thấy cả làng đã theo Đạo và sống Đức Tin rất sốt sắng! Cha Palexi hỏi thăm về giáo lý viên Gioan Caduna, thì được biết anh đã chết lâu rồi. Họ kể lại rằng:

Thời gian đầu mới đến, anh Caduna bị dân làng tẩy chay, và nói:

- Ở đây không có chỗ cho Chúa của mày!

Gioan Caduna đáp:

- Tôi không thể đi nơi khác, vì tôi đã được sai đến đây để nói về Thiên Chúa, Đấng sáng tạo và làm Chủ muôn loài, Ngài yêu thương hết mọi người, nên đã chấp nhận chết bi đát trên thập giá, nhưng chưa tới ba ngày sau, Ngài đã sống lại, ai tin vào Ngài thì được Ngài cứu độ!

Thế nhưng dân làng vẫn quyết liệt không muốn nghe vào lời anh Caduna giảng dạy, đuổi anh đi. Anh đành phải chấp nhận ra khỏi làng và đã dựng một cái chòi bên cạnh ngôi làng để hằng ngày cầu nguyện cho dân đừng cứng lòng tin! Dân làng mỗi khi đi qua đều phỉ nhổ và mạt sát Caduna:

- Cút đi cho xa, chúng tao không muốn thấy mặt mày, và chúng tao càng không muốn nghe mày nói về ông Giêsu nào đó!

Caduna trả lời:

- Tôi không đi đâu được, Chúa Giêsu đã chết vì yêu mọi người, nên tôi cũng muốn chết ở đây, để chứng tỏ lòng tôi rất yêu dân Majoribua.

Thời gian sau, Caduna chết vì bị bệnh sốt rét và sống quá túng thiếu. Lúc đó dân làng mới tỏ ra thương anh, họ tổ chức an táng anh cách tử tế. Không bao lâu, tất cả dân trong làng xin theo đạo Công Giáo hết!

40. Nói được

Vì điếc, Helen Keller chưa bao giờ học nói, mãi tới khi cô Fuller, một giáo viên dạy nói, mở đường cho Helen. Cô đặt bàn tay Helen lên mặt cô để Helen có thể cảm nhận được vị trí của môi và lưỡi khi cô nói chuyện với Helen. Rồi Helen thử bắt chước tập lại. Sau thời gian tập luyện lâu dài, Helen đã nói được. Niềm vui của Helen thật vô tận. Về sau, cô đã viết: “Tôi thường lặp đi lặp lại một cách say sưa: giờ đây tôi không còn câm nữa” Đó là điều mà người câm trong bài Tin Mừng hôm nay cảm thấy khi được Chúa Giêsu chữa lành.

Tôi có coi trọng những khả năng được nghe, nói và thấy của tôi không? Trong những khả năng ấy, thứ nào thường bị tôi lạm dụng? Lạm dụng ra sao?

Tôi đã khóc chỉ vì không có giày, cho đến khi trông thấy một người bị cụt chân (Ngạn ngữ Ba Tư). 

CNTN 23C -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

THỨ HAI - LÀM VIỆC TỐT NGÀY SABBAT

Lời Chúa: Lc 6, 6-11

Vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu vào hội đường và giảng dạy. Khi ấy ở đó có một người tay hữu bị khô bại. Những luật sĩ và biệt phái quan sát xem Người có chữa lành người ấy trong ngày Sabbat không, để có cớ tố cáo Người.

Nhưng Người biết tư tưởng các ông, liền bảo người có tay khô bại rằng: “Ngươi hãy chỗi dậy mà đứng ra giữa đây." Người đó đứng thẳng dậy. Đoạn Chúa Giêsu bảo các ông ấy rằng: “Tôi hỏi các ông, ngày Sabbat được phép làm sự lành hay sự dữ, cứu sống hay là giết chết?” Rồi đưa mắt nhìn mọi người, Chúa bảo người đó rằng: “Ngươi hãy giơ tay ra." Người ấy giơ ra, và tay người ấy được lành.

Bấy giờ các ông đầy lòng tức giận, và bàn định với nhau xem có thể làm gì được Chúa Giêsu.

TRUYỆN KỂ

1. Cốt Lõi Của Ðạo

Văn hào Nga Léon Tolstoi có kể câu truyện ngụ ngôn như sau:

Một ông chủ nọ giao cho các gia nhân một công việc và bảo họ chỉ chu toàn công việc ấy mà thôi. Ông hứa sẽ thưởng công cho họ, nếu họ làm tốt công việc. Lúc mới bắt tay vào việc, ai cũng muốn làm vừa lòng ông chủ, cho nên để hết tâm trí vào công việc được giao.

Thế nhưng, một thời gian sau đó, nhiều người cho rằng để làm vừa lòng ông chủ và để được phần thưởng bội hầu hơn, cần phải làm nhiều việc khác nữa. Họ nghĩ ra nhiều việc khác và dần dần chú tâm vào đó đến độ quên bẵng đi công việc được chủ giao cho lúc đầu.

Bận bịu với những công việc mới, chẳng những họ không còn nhớ tới công việc đã được giao, mà cũng chẳng màng tới phần thưởng ông chủ đã hứa. Cuối cùng, tưởng mình đã có thể tự túc với công việc của mình, họ cũng gạt luôn ông chủ ra khỏi cuộc sống của họ.

Léon Tolstoi đưa ra kết luận: Người ta thường thấy một thái độ như thế nơi các Kitô hữu; họ thay thế đạo của tình thương bằng vô số những nghi lễ trống rỗng vô hồn.

2. Chúa Giêsu thổi tình yêu vào Lề Luật

Gilgal Zamir, người thanh niên 25 tuổi đã sát hại thủ tướng Do Thái Y. Rabin, khi anh ta bị tòa án tại Tel Aviv kết án tù chung thân, chẳng những anh ta không để lộ bất cứ cử chỉ hối hận nào, mà còn tuyên bố: “Tất cả những gì tôi làm là làm cho Chúa, làm cho Lề Luật, làm cho dân tộc Israel."

Thái độ của Gilgal Zamir đã khiến cho quan tòa đưa ra nhận định: Gilgal Zamir có những khuynh hướng vị kỷ, nhìn thế giới chỉ dưới hai màu trắng đen mà thôi; anh ta là sản phẩm của một nền giáo dục không quan tâm đủ đến những giá trị nhân bản và đạo đức cần mang lại cho người trẻ hiện nay…

3. Phục vụ lề luật

Em học sinh nọ bị rắn cắn phải đưa đi cấp cứu. Tuy nhiên, các bác sĩ trong bệnh viện, với lý do phải làm theo qui định và thực hiện những thủ tục đăng ký rườm rà, đã không cứu chữa ngay cho em trong cơn “thập tử nhất sinh." Hậu quả là em đã không qua khỏi.

Vì nệ luật và vụ hình thức, các luật sĩ và biệt phái đã trở thành những quan tòa khắt khe, xét đoán, nhỏ nhặt và tàn nhẫn. Họ giữ tỉ mỉ mọi điều luật mà không nhận ra rằng mình đang làm nô lệ cho luật. Trước sự bảo thủ, quá nệ luật của họ, Chúa Giêsu đã nêu lên câu hỏi trên đây để chất vấn họ, đồng thời qua đó, Người muốn họ trả lề luật về đúng vai trò và ý nghĩa của nó.

Thật vậy, lề luật được đặt ra là để phục vụ con người, chứ không phải con người phục vụ cho lề luật, mà quên mất tình yêu thương. Lúc đó, ta đã chất những gánh nặng lên vai người khác.

4. Bác ái phải trên lề luật.

Một buổi chiều năm 1953, nhiều nhân vật quan trọng cùng các phóng viên của các tờ báo lớn hồi hộp đợi chờ ở sân ga thành phố Chicago để chào đón bác sĩ Albert Schweitzer, người được chọn nhận giải thưởng Nobel nhờ công trình thử nghiệm các vaccin chữa bệnh truyền nhiễm trên chính cơ thể của mình để phục vụ cho những thôn làng nghèo khó nhất tại châu Phi.

Khi xe lửa ngừng ở sân ga, một người cao lớn, râu dài và mái tóc đã ngả mầu bước xuống. Máy ảnh chớp sáng liên tục. Các nhân vật quan trọng tiến lại bắt tay nồng nhiệt chúc mừng. Bác sĩ khiêm tốn mỉm cười cảm ơn. Bỗng, ông giơ tay xin lỗi mọi người rồi lách vội qua đám đông, tiến đến chỗ một người đàn bà da đen đang loay hoay vất vả nặng nhọc với hai chiếc va li lớn nghèo nàn. Ông giúp bà một tay đưa hành lý lên một chiếc xe buýt, loại chỉ dành cho người bình dân.

Sau khi chiếc xe lăn bánh, ông trở lại chỗ đám đông. Một người trong đoàn tiếp đón đã thốt lên:

- Đây là lần đầu tiên tôi nhận được một bài giảng sống động về tình yêu thương.

5. Người mạnh phải làm chủ được sức mạnh

Trong một giai thoại về Đức Thích Ca, có kể rằng: Một hôm ngài rơi vào tay một tên cướp. Tên này dọa giết ngài. Trước khi chết ngài xin hắn một ân huệ. Ngài chỉ vào một cây lớn trước mặt và nói:

- Ngươi hãy cắt đứt một nhánh cây.

Trong nháy mắt, tên cướp vung kiếm chém đứt nhánh cây. Đức Thích Ca nói tiếp:

- Bây giờ ngươi hãy tháp nhánh cây vào thân cây.

Tên cướp cười gằn, nói:

- Mi quả là tên khùng nên mới nghĩ rằng ta có thể làm được điều đó.

Đức Thích Ca liền dạy cho hắn một bài học:

- Ngươi mới là tên khùng khi nghĩ rằng sức mạnh con người là để gây thương tích và phá huỷ. Người có sức mạnh thực sự là người biết sáng tạo và chữa lành.

6. Sống vì lề luật

Một người Do Thái qua đời, sau khi đã khám nghiệm, các bác sĩ xác nhận người đó đã thực sự chết theo đúng ý nghĩa của y học và đã cấp giấy chứng thực để chôn cất.

Giữa lúc đang chuẩn bị hạ huyệt, người ta bỗng nghe có tiếng kêu trong quan tài. Mở nắp quan tài ra, mọi người rất đỗi ngạc nhiên thì thấy kẻ chết đã sống lại.

Thế nhưng, vị giáo trưởng chủ trì tang lễ ra hiệu cho mọi người thinh lặng rồi nói với kẻ chết sống lại như sau:

- Chúng tôi không biết rõ ông đang sống hay chết. Nhưng căn cứ theo giấy chứng thực của các bác sĩ, ông quả thực là người đã chết. Vậy chúng tôi cứ thi hành theo đúng nhận định của các bác sĩ.

Nói xong ông truyền cho tang lễ đóng nắp quan tài lại và tiếp tục nghi thức an táng.

Những người sống luật vì luật cũng tương tự như thế.

7. Điều quan trọng hơn

Một ngày nọ, Chúa Giêsu hiện ra với một tu sĩ già là người giữ cổng tu viện. Chính lúc Chúa xuất hiện, thì chuông báo đã đến giờ phải cho những người nghèo ở cổng tu viện ăn. Vị tu sĩ bị dằng co giữa Chúa Giêsu và những người nghèo. Nhưng rồi ông quyết định để Chúa Giêsu lại và đi đến với người nghèo. Khi trở lại, ông thấy Chúa Giêsu vẫn ở đó. Ngài nói với ông: "Nếu con đã không đến để cho người nghèo ăn, Ta cũng chẳng ở lại.”

Câu truyện trên đây và bài Tin mừng hôm nay có cùng một ý tưởng: Việc giúp đỡ kẻ túng thiếu cần được ưu tiên hơn cả việc thờ phượng và cầu nguyện.

Tôi có đặt việc ưu tiên cho kẻ túng thiếu không? Tại sao?

Những ai làm ngơ trước kẻ túng thiếu, thì dù người đó có kêu gào thì cũng chẳng được ai lắng nghe. (Ngạn ngữ Do thái)

8. Tình yêu phải hy sinh

W.O Saunders viết về cha của ông như sau: "Tôi đã thấy người vá giày vất vả cả giờ để lôi những con ốc rỉ khỏi tấm ván để sửa chữa khi vá hàng rào, nhờ đó tôi được mang những đôi giày tốt hơn và được nhàn rỗi hơn người.” Tất cả chúng ta có thể nhớ lại một hy sinh tương tự của cha mẹ đối với chúng ta. Nhưng các ngài chịu đựng một cách vui vẻ, cũng như thánh Phaolô đã vui vẻ chịu đựng vì những người ngài chăm sóc.

Tôi có kiên nhẫn chịu đựng cách vui vẻ để giúp đỡ những người thân yêu và những người cần đến tôi không?

Ai giúp anh em là giúp chính mình (Seneca).

9. Tỷ lệ vàng chết chóc

Theo cuộc tổng điều tra dân số năm 2009 nước ta đang bước vào thời kỳ tỷ lệ dân số vàng, nghĩa là cứ 2 người lao động mới phải nuôi 1 người. Tuy nhiên bên cạnh đó còn có những con số biết nói khác đó là liên tiếp trong nhiều năm gần đây, Việt Nam luôn luôn nằm trong “top ten” những nước có tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới. Theo thống kê của Uỷ ban Kế hoạch hoá gia đình, mỗi năm có khoảng 1,2-1,6 triệu ca phá thai, nghĩa là cứ một phút có 3 thai nhi bị sát hại. Hoá ra muốn xây dựng một cuộc sống phồn vinh thì người ta đã áp dụng biện pháp “giết chết thay vì cứu sống.” Chúa Giêsu thúc bách chúng ta trả lời vấn nạn đầy thách đố này: “Ngày sa-bát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay huỷ diệt?” Không thể trả lời thoả đáng nếu chỉ dừng lại ở giải pháp xã hội chính trị, trái lại, phải dựa vào thế giá của Thiên Chúa: Nếu ngày sa-bát, ngày của Chúa, phải làm điều lành thay vì điều dữ, phải cứu sống thay vì giết chết, thì điều đó nói lên rằng đó là một mệnh lệnh tuyệt đối, phải tuân thủ cách vô điều kiện, vì nó đụng chạm đến chính Thiên Chúa .

Bạn được mời gọi làm chứng nhân cho nền văn hoá sự sống, dù rằng quanh bạn nền văn hoá sự chết xem chừng đang lấn lướt. Bạn nhớ lời thánh Phaolô khuyên nhủ: “Hãy làm việc lành, đừng sờn lòng nản chí” (Gl 6,9).

10. Không có gì là không thể

Trong từ điển của đức tin Kitô giáo, có một chữ cần được loại bỏ. Đó là chữ “không thể.” Trong ngày truyền tin, sứ thần Gáprien đã xác quyết cùng Đức Maria: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37). Với Phêrô và các bạn, vất vả suốt đêm mà không được con tép nào, việc đánh bắt cá ban ngày tưởng chừng như không thể. Tuy nhiên, tin tưởng vâng lời Đức Giêsu, các ông đã được một mẻ cá lạ lùng.

Bài Tin Mừng hôm nay cũng minh chứng cho ta về điều không thể này. Giơ tay ra là động tác không thể làm được với người khô bại tay. Thế nhưng, tin tưởng vào lời Đức Giêsu, anh vẫn cố gắng thử làm theo lời Ngài dạy. Nhờ vậy, anh được chữa lành, bàn tay phải của anh trở lại bình thường. Chắc chắn cuộc đời anh từ nay sẽ tươi sáng hơn.

Mời Bạn gạt bỏ chữ “không thể” ra khỏi tự điển sống đức tin của bạn. Bạn mệt mỏi trước một nết xấu thâm căn cố đế hay bản chất nóng nảy của mình? Bạn bi quan chán nản trước một người thân quen chứng nào tật nấy? Bạn thất vọng khi vấp phải một thất bại quá lớn? Hãy tin tưởng cầu nguyện và nỗ lực dùng mọi phương thế để cải thiện, chắc chắn rốt cuộc, điều tưởng như không thể sẽ trở thành có thể.

THỨ BA - CHỌN NHÓM MƯỜI HAI

Lời Chúa: Lc 6, 12-19

Trong những ngày ấy, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, và suốt đêm, Người cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Sáng ngày, Người gọi các môn đệ và chọn mười hai vị mà Người gọi là Tông đồ: Đó là Simon, mà Người đặt tên là Phêrô, và em ông là Anrê, Giacôbê và Gioan, Philipphê và Bartôlômêô, Matthêu và Tôma, Giacôbê con ông Alphê và Simon cũng gọi là Nhiệt Thành, Giuđa con ông Giacôbê và Giuđa Iscariốt là kẻ phản bội.

Người đi xuống với các ông, và dừng lại trên một khoảng đất bằng phẳng, có nhóm đông môn đệ cùng đoàn lũ dân chúng đông đảo từ khắp xứ Giuđêa, Giêrusalem và miền duyên hải Tyrô và Siđôn đến nghe Người giảng và để được chữa lành mọi bệnh tật. Cả những người bị quỷ ô uế hành hạ cũng được chữa khỏi, và tất cả đám đông tìm cách chạm tới Người, vì tự nơi Người phát xuất một sức mạnh chữa lành mọi người.

TRUYỆN KỂ

1. Chúa chọn

Lịch sử ơn cứu rỗi đã khởi đầu và tiếp diễn bằng những cuộc tuyển chọn. Ở khởi đầu lịch sử này, từ trong đám dân du mục vô danh tại miền Lưỡng hà địa, Thiên Chúa đã chọn Abraham; trong những người con của ông, Ngài chỉ chọn Isaac; và trong những người con của Isaac, Ngài chỉ chọn Yacob làm người cha của mười hai chi tộc Israel. Ðể thực hiện cuộc giải phóng con cái Israel ra khỏi ách nô lệ Ai Cập, Ngài đã chọn Môsê làm thủ lãnh. Sau khi Israel đã được Ngài chọn làm dân riêng và qua đó thực thi chương trình cứu rỗi, Thiên Chúa cũng tiếp tục một đường hướng: Ngài chọn lựa một số người và trao cho họ một trách vụ đặc biệt: Ngài đã chọn Ðavít làm vua, thay thế cho Saul; Ngài đã chọn một số người làm ngôn sứ cho Ngài.

Tất cả những chọn lựa của Thiên Chúa đều bất ngờ, nghĩa là vượt lên trên những tiêu chuẩn chọn lựa thông thường của con người. Từ Abraham qua Môsê, đến các ngôn sứ và Ðavít, tất cả đều được chọn lựa không phải vì tài năng đức độ riêng của họ: Môsê chỉ là một người ăn nói ngọng nghịu; Ðavít là cậu bé kém cỏi nhất trong số anh em mình, Yêrêmia, Isaia đều nhận ra nỗi bất lực yếu hèn của mình khi được Thiên Chúa chọn làm ngôn sứ.

Suy niệm về việc Chúa Giêsu tuyển chọn 12 tông đồ của Ngài, chúng ta được mời gọi nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta, đồng thời nói lên niềm tín thác tuyệt đối và tình yêu của Ngài.

2. Ai tìm thì sẽ gặp

Cả 4 chúng tôi đã tham gia chiến dịch “ánh sáng văn hóa hè” tại vùng biên giới thuộc tỉnh Tây Ninh. Chúa nhựt tuần đầu tiên, chúng tôi phải hỏi thăm hết một giờ rưỡi mới tới được nhà thờ. Chỗ chúng tôi ở chỉ có một vài gia đình công giáo và hầu hết thỉnh thoảng mới đi lễ vì nhà thờ quá xa. Mà xa thật, mưa thì lầy lội, còn nắng thì bụi mù.

Trên đường đi, chúng tôi cứ nghĩ là nhà thờ chắc không đông. Nhưng đến nơi, chúng tôi thấy cả một nhà thờ đông đúc. Nhà thờ không rộng, cũng chưa có cha xứ. Cha thì từ nơi khác về dâng lễ, còn giáo dân thì đến từ nhiều nơi khác nhau.

Chúng tôi còn được biết ở đây chỉ có một lễ vào sáng Chúa nhựt nên nhiều gia đình phải thay phiên nhau đi lễ hàng tuần. Họ ước ao có cha xứ để được dự lễ thường xuyên hơn. Ra về, ai nấy trong chúng tôi đều cảm thấy như được thúc bách đến gần Chúa hơn, hạnh phúc dù có phải đi xa và mệt nhọc.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tìm kiếm Chúa trong những hoàn cảnh khó khăn nhất.

3. Ơn thiên triệu

Chúa Giêsu đã chọn các môn đệ của Ngài theo những tiêu chuẩn bất ngờ nhất. Mười hai Tông đồ đã được Ngài chọn làm cộng sự viên thân tín nhất và đặt làm cột trụ Giáo hội, không phải là bậc tài ba xuất sắc, cũng không phải là thành phần ưu tú thuộc giai cấp thượng lưu trong xã hội; trái lại họ chỉ là những dân chài quê mùa dốt nát miền Galilê, có người xuất thân từ hàng ngũ thu thuế là hạng người thường bị khinh bỉ.

Đọc trong toàn bộ Kinh Thánh, chúng ta thấy Chúa yêu thích những tâm hồn rộng mở, biết sống hài hòa, biết đón nhận anh em.

Ngài yêu thích những tâm hồn đơn sơ nhỏ bé, thích sống cuộc đời khiêm nhường bình dị. Ngài yêu thích những trái tim nồng nàn yêu thương luôn biết đón nhận thánh ý Chúa.

Ơn Chúa gọi là một mầu nhiệm con người không thể hiểu thấu. Chính vì thế mà chúng ta nghe người ta diễn tả về ơn của Chúa bằng một cụm từ thật gọn: “Tất cả là hồng ân."

4. Đất trời nối với nhau

Thấy thái độ cầu nguyện sốt sắng của vị giáo sư toán nổi tiếng Blaise Pascal trước Thánh Thể, một sinh viên đã hỏi ông: “Làm thế nào mà một nhà toán học vĩ đại như giáo sư lại có thể tin và cầu nguyện khiêm nhường như vậy được”? Mỉm cười, vị giáo sư ôn tồn: “Này con, chẳng có ai là vĩ đại cả, và con người chỉ trở nên vĩ đại khi cầu nguyện với Thiên Chúa, vị Chúa tể trời đất mà thôi."

Quả vậy, cầu nguyện là chuyện trò, là kết hợp với Thiên Chúa, và người cầu nguyện đi vào mối tương giao thân tình với Thiên Chúa. Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay đã cho chúng ta một tấm gương sáng về cầu nguyện: “Ngài đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa”

5. Sự lựa chọn chẳng giống ai.

Đang cần một thư ký mới, giám đốc một doanh nghiệp định thẩm vấn những người xin việc qua một nhà tâm lý. Ba cô gái được phỏng vấn.

Nhà tâm lý hỏi:

- 2 với 2 là mấy?

Cô thứ nhất trả lời cách chắc chắn: 4.

Cô thứ hai: có thể là 22.

Cô thứ ba: có thể là 22 và có thể là 4.

Khi các cô ra về, nhà tâm lý quay sang giám đốc và nói:

- Đó là những biểu hiện tâm lý. Cô thứ nhất nói điều hiển nhiên. Cô thứ hai nghi ngờ. Cô thứ ba có cả hai: ông sẽ chọn cô nào?

Giám đốc không ngập ngừng:

- Tôi sẽ chọn cô có mái tóc vàng với cặp mắt xanh.

Vâng! Việc Chúa tuyển chọn cũng như thế! Chẳng giống một kiểu nào ở trần gian.

Chính vì thế mà chúng ta thường nghe người ta diễn tả về ơn của Chúa bằng một cụm từ thật vắn gọn: “Tất cả là một hồng ân."

6. Thứ nhất là cầu nguyện

Silouanne là một đan sĩ già đáng kính, sống đơn sơ thánh thiện. Suốt nhiều năm thầy coi sóc cơ xưởng cho tu viện. Trong xưởng có một số thanh niên nghèo từ miền quê lên làm việc để kiếm tiền giúp gia đình. Một hôm các tu sĩ hỏi Ngài: “Thưa thầy, làm sao thầy có thể bảo bọn thợ kia làm việc chăm chỉ đến thế mà không cần canh chừng họ, trong khi chúng con không rời mắt khỏi họ, mà họ vẫn lừa được chúng con?” Thầy trả lời: “Tôi cũng không rõ, chỉ biết rằng mỗi sáng tôi đến xưởng và luôn cầu nguyện cho họ, tôi đến với họ bằng quả tim yêu thương. Khi bước vào xưởng, tôi phân công cho họ rồi ra về với quyết định sẽ cầu nguyện cho họ trong suốt cả ngày.”

Mời Bạn: Dù tất bật với việc rao giảng và chữa lành bệnh tật, Đức Giê-su luôn dành cho mình một thời gian cầu nguyện riêng với Đức Chúa Cha mọi lúc và mọi nơi. Chúng ta cũng được mời gọi sống cầu nguyện mỗi ngày, nhờ đó chúng ta có thể biết được điều Chúa muốn trên cuộc đời của mình và có được sức mạnh cho các hoạt động đông đồ. “Thứ nhất cầu nguyện, thứ hai hy sinh, thứ ba mới đến hoạt động” (ĐHV.119)

7. Hai nhịp đập của trái tim tông đồ

Trong cơ thể con người có một bộ phận hoạt động liên lỉ từ khi thụ thai cho tới khi lìa đời, đó là trái tim. Dẻo dai như vậy, nhưng để vận chuyển máu đi khắp cơ thể, hoạt động của nó thật đơn giản chỉ có hai nhịp: bóp vào và mở ra. Các sách Tin Mừng cho biết cuộc sống của Chúa Giêsu cũng diễn ra trong hai nhịp như vậy: cầu nguyện và hoạt động; đan cử một ví dụ: Ngài đã cầu nguyện suốt đêm trước khi chọn 12 Tông Đồ.

Và khi chọn các ông, Chúa Giêsu muốn họ chu toàn một cuộc sống gồm hai nhịp: ở lại với Chúa vàø ra đi loan báo Tin Mừng. Các động từ “ở lại”, “ở trong,” “đi theo” được các thánh sử dùng nhiều lần để diễn tả mối hiệp thông phải có của các Tông Đồ đối với Chúa Giêsu như mối thông hiệp Ngài có với Chúa Cha, Đấng đã sai Ngài, sự hiệp thông cần thiết đến mức trở nên ưu tiên trong các hoạt động của Ngài. Mặt khác, “tông đồ” nghĩa là “người được sai đi”, tham dự vào sứ mạng cứu độ của Chúa Giêsu.

Ở lại với Chúa và ra đi loan báo Tin Mừng là hai nhịp của trái tim Tông Đồ, cần thiết và không thể tách rời nhau.

Kiểm tra lại đời sống tông đồ của bạn. Đời sống tông đồ của bạn vẫn đều đặn hai nhịp đập đấy chứ?

Bạn có cho là tốn giờ vô ích khi dành thời giờ cầu nguyện trước khi làm một công tác tông đồ không?

8. Hồng ân thiên triệu

Trong dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, giữa biết bao câu chuyện truyền kỳ về triều đại nhà Lý, hẳn nhiều người cũng nhớ lại mối tình lãng mạn về cô thôn nữ hái dâu kia lọt mắt xanh một người mà cô đâu có ngờ đó chính là vua Lý Thánh Tông. Mối lương duyên đó đã đổi đời cô trở thành thái hậu Ỷ Lan, một nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đến vận mạng không những của Lý triều mà còn của cả đất nước Đại Việt nữa.

Cũng vậy, được Đức Giêsu chọn gọi còn là một hồng ân lớn lao gấp bội. Những con người không chút danh phận đã Ngài được chọn gọi đích danh để làm tông đồ và rồi “sẽ được ngự toà xét xử mười hai chi tộc Ítraen” (Lc 22,30). Mà đâu có phải do một cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên hay một sự lựa chọn tình cờ!!! Ngài đã cầu nguyện suốt đêm rồi mới chọn các ông tham gia vào sứ mạng cứu độ đã sắp sẵn cho các ông từ muôn thuở. Được Đức Giêsu chọn làm môn đệ Ngài không phải là hồng ân cao cả nhất hay sao?

9. Cầu nguyện luôn

Có đêm không chợp mắt được, thư ký của tổng thống Mỹ A. Lincoln nhìn sang phòng tổng thống, thấy ông quỳ gối cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, ngày xưa Cha đã nghe lời vua Salômon, thì hôm nay xin Cha cũng nghe lời con cầu khẩn: Nếu Cha giúp con, con sẽ đủ sức mạnh và khôn ngoan để lãnh đạo dân tộc này… Con yếu đuối và đầy tội lỗi, xin Cha hãy nghe lời con van xin.” Lịch sử Hoa Kỳ xếp ông là một trong những tổng thống xuất sắc nhất của nước này.

Thánh Luca cho ta biết trước khi có những quyết định quan trọng, Đức Giêsu đều cầu nguyện lâu giờ. Chẳng hạn, Ngài cầu nguyện 40 đêm ngày trước khi xuất hiện công khai; cầu nguyện suốt đêm cùng Cha trước khi chọn nhóm Mười Hai, cầu nguyện suốt đêm trên núi Biến Hình trước khi đi về Giêrusalem. Ngài không quyết định điều gì quan trọng nếu trước đó không tham khảo ý Cha.

THỨ TƯ - PHÚC THẬT VÀ KHỐN THAY

Lời Chúa: Lc 6, 20-26

Khi ấy, Chúa Giêsu đưa mắt nhìn các môn đệ và nói:

"Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười. Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ các ngươi như kẻ bất lương, ngày ấy các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời. Chính cha ông họ cũng đã đối xử với các tiên tri y như thế.

"Nhưng khốn cho các ngươi là kẻ giàu có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi là kẻ đã được no nê đầy đủ, vì các ngươi sẽ phải đói khát. Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu khóc lóc. Khốn cho các ngươi khi mọi người đều ca tụng các ngươi, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả."

TRUYỆN KỂ

1. Phúc cho anh em là những người nghèo

Một học sinh nghèo trả lại chiếc bóp lượm được; một giáo viên kiên trì theo đuổi nghề giáo; một cán bộ về hưu trong cảnh thanh bạch; một bạn nữ bỏ chỗ làm có thu nhập cao... ; một nhân viên từ chối những đồng tiền hối lộ.

Giữa cuộc sống khó khăn, vẫn có bao người không bị mê hoặc bởi bạc tiền. Họ chọn sống trong cảnh nghèo, lam lũ hơn, nhưng vui hơn và thanh thản hơn.

Vẫn có bao người nếm được mối phúc của Tin Mừng: “Phúc cho anh em là những người nghèo khó, Vì Nước Trời là của anh em."

2. Hạnh phúc có Chúa

Khi hoàng đế Napoléon của Pháp, người hùng chinh phục cả Âu châu, bị đày sang đảo Sainte Hélène, người viết tiểu sử của ông vẫn theo ông sát cánh. Đối với anh chàng viết tiểu sử này, mỗi chi tiết trong cuộc đời của Napoléon đều đáng ghi nhớ, không một biến cố nào là nhỏ cả và không ngày nào là không được lưu ý.

Một hôm, biết rằng ngày tận cùng của Napoléon sắp đến, chọn một giây phút Napoléon cảm thấy thoải mái nhất, người viết tiểu sử hỏi hoàng đế: “Thưa ngài, xin ngài cho biết trong suốt cuộc đời của Ngài, ngày nào là ngày hạnh phúc nhất?" Napoléon không trả lời ngay, quay đầu ra cửa sổ, nhìn biển xanh thăm thẳm phía xa một hồi, đoạn thở dài và quay lại chậm rãi nói với người viết tiểu sử của ông: “Tôi nhớ, tôi nhớ rất rõ, ngày hạnh phúc nhất trong đời của tôi đã xảy ra cách đây lâu lắm rồi, khi tôi còn bé, đó là ngày tôi rước lễ lần đầu."

Trước kinh nghiệm của Napoléon, chúng ta nhìn thấy mặc dù có danh vọng, giàu sang và tình yêu đến tuyệt đỉnh cũng không mang lại hạnh phúc đích thực cho con người, nếu vắng bóng Thiên Chúa.

3. Hạnh phúc ở đâu

Ermann Coen được mệnh danh là thánh Augustinô của thời đại chúng ta. Ngài là một người Do thái rất giàu có. Thời trai trẻ, ngài chỉ biết ăn chơi và chạy theo thế gian. Sự nhàm chán cứ đè nặng trên vai ngài. Ngày kia, ngài từ chối tất cả và xin vào tu viện. Trong bài giảng Mùa vọng tại Đền thờ Đức Bà ở Paris, ngài nói:

Tôi đã đi khắp cả mặt đất. Tôi đã yêu thế gian. Tôi đã biết thế giới và tôi đã học được một điều không có hạnh phúc ở trên thế gian này. Tôi đã tìm nó ở những nơi tôi tưởng có nó: ở những nụ cười, ở những cuộc giải trí, ở những ngày lễ, ở vàng bạc, ở sắc đẹp... Ôi! lạy Chúa, những điều con mơ ước ấy con đã tìm ở đâu? Và con đã chỉ tìm được nó trong Chúa và tình yêu Chúa."

4. Hạnh phúc của dân làng Aman

Không có dấu hiệu bên ngoài nào chứng tỏ dân làng Aman giàu có. Nhưng niềm vui tươi nở trên mặt, chứng tỏ cái nghèo vật chất không cản họ sống hạnh phúc thực sự.

Phải, tất cả mọi người trong làng đánh cá Aman này đều sống trong yên vui.

Nhưng rồi một ngày kia, hai anh em đánh cá trong làng là Sôpôt và Sôpa lưới lên một thùng thật nặng. Khi thuyền về đến bờ, họ mở thùng ra và rất đỗi ngạc nhiên, khi thấy thùng chứa đầy những viên ngọc quí. Hai anh em không biết làm gì với kho tàng, bèn đem nhau đến hỏi ý kiến nhà hiền triết Akian sống gần bên. Sôpốt hỏi:

- Thưa ngài, chúng tôi phải làm gì với những hạt ngọc này? Số lượng đủ để phân phát cho dân trong làng chúng tôi, mỗi người một hột và như thế mỗi người chúng tôi sẽ trở thành giàu có.

Nghe thế, nhà hiền triết trả lời cách khô khan:

- Hãy nên đổ lại xuống biển.

5. Đời là bể khổ

Vua Abder Rahman đệ tam của nước Tây Ban Nha thuở xưa là một người nổi tiếng thông thái, đã thâu tóm được rất nhiều quyền lực trong tay của mình, đã biến đất nước Tây Ban Nha thành một trung tâm khoa học của Âu châu vào thế kỷ thứ 10. Giỏi như thế, tài như vậy, mà vào những ngày cuối đời đã phải thốt lên rằng:

- Ta đã ngồi trên ngai vàng 50 năm, đã trải qua nhiều kinh nghiệm chiến thắng và hòa bình, được thần dân mến phục, kẻ thù sợ hãi, và đồng minh kính nể. Danh lợi, quyền quí và tất cả các thú vui trên trần gian ta đều có cả. Nhưng khi ngồi tính thật kỹ số ngày ta được hoàn toàn hạnh phúc, thì con số đó quá ít ỏi, chỉ vỏn vẹn có 14 ngày.

Làm vua một nước lớn, có quyền thế, danh vọng, giàu sang trong tay suốt 50 năm, tức là 18.250 ngày, vậy mà chỉ hưởng được có 14 ngày hạnh phúc! Sao mà xót xa quá!

6. Quyền được hạnh phúc

Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã không cho chúng ta biết địa chỉ của hạnh phúc, nhưng Chúa chỉ cho con người con đường để có thể có hạnh phúc.

Đây là lời của mẹ Têrêsa: “Chúng ta có quyền được hạnh phúc và bình an. Chúng ta được dựng nên vì điều này, được sinh ra để hạnh phúc và chúng ta chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc thật và bình an thật khi trong cuộc tình với Thiên Chúa: có niềm vui khi yêu thương Thiên Chúa, có hạnh phúc lớn lao khi yêu thương Ngài. Nhiều người nghĩ, nhất là ở Tây Phương, là tiền của sẽ mang lại hạnh phúc. Tôi nghĩ khi giàu sang bạn khó có hạnh phúc hơn vì bạn khó có thể tìm thấy Thiên Chúa: bạn có quá nhiều điều để lo lắng."

Mẹ nói tiếp: “Chúng ta không cần tìm kiếm hạnh phúc: nếu chúng ta yêu thương người khác chúng ta sẽ được hạnh phúc. Ðó là quà tặng của Thiên Chúa."

7. Nụ cười của Chúa

Lạy Chúa Giêsu, Đọc trong Tin Mừng, chúng con chẳng thấy khi nào Chúa cười, nhưng chúng con tin Chúa vẫn cười khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa. Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân. Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ Emmau khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nụ cười của Chúa luôn hòa với niềm vui của người được lành bệnh.

Xin dạy chúng con biết tươi cười, cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với chúng con. Xin cho chúng con biết mến yêu cuộc sống, dù không phải tất cả đều màu hồng.

Chúng con luôn có lý do để lo âu, chán nản, nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi chúng con.

Ước gì chúng con cảm thấy hạnh phúc, vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương và được sai đi thông truyền tình thương ấy. Amen.

8. Nhận biết mối phúc của người nghèo

Vào dịp Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới được tổ chức tại Ý, có trên hai triệu bạn trẻ khắp nơi trên thế giới tụ về, đều một trái tim, một lòng mến. Trước hấp lực này, ông Măng-cu-xô mới 34 tuổi đang giữ chức Thị trưởng thành phố Phi-ra-ca. Phải nói ông là một người tài năng và đầy hứa hẹn vinh quang trong chức vụ. Thế mà ông đã từ bỏ xin đi tu.

Rõ ràng ông đã nhận ra giá trị mối phúc nghèo được Đức Giêsu đề cao trong Tin Mừng hôm nay.

9. Nô lệ cho tiền của

Một người phụ nữ sống độc thân, bà sống bằng việc nhặt rau người ta bỏ lại sau buổi chợ, đưa về làm dưa bán. Ngày nào bà cũng bận rộn vì đợi chợ tan, bà lượm lặt rau đưa về nhà, rồi bà lựa ra từng loại mãi đến nửa đêm mới xong việc.

Sáng sớm khi trời còn tối, bà đã gánh hàng ra chợ bán, nên không còn giờ đi dự Lễ, cùng lắm miễn cưỡng đi Lễ Chúa nhật vì sợ tội. Bà cứ sống như thế trong suốt 40 năm, tích góp mua được một số vàng cất giấu. Khi chôn vàng ở đâu, bà đều ghi vào quyển sổ riêng để nhớ.

Đêm nọ, sau khi đã dọn hàng xong, bà lấy quyển sổ ra xem tài sản mình được bao nhiêu và để ở những chỗ nào, bà lấy làm đắc tâm vì có một tài sản lớn. Quá buồn ngủ, bà thiếp đi, để rơi quyển sổ xuống đất.

Đêm ấy thần chết đến lôi bà ra khỏi thế gian, không một ai hay biết. Vài ngày sau khu xóm ai cũng ngửi thấy mùi hôi thối, bảo nhau chạy đến xem chuyện gì, thì thấy cửa nhà bà đã bị cạy, vào nhà ai cũng thấy đồ đạc đã có người thu dọn từ lúc nào, và bốn chân giường đã có ai đào bới!

Người ta báo cho chính quyền. Vì xác bà đã trương thối, nên không được đưa vào Nhà Thờ vì quá nặng mùi, phải vội đem đi thiêu. Chẳng có ai đi theo quan tài, chỉ có con chó còn trung thành với chủ. Thời gian sau, người cháu biết tin bà mất, anh ta đến nói với mọi người rằng: “Bác tôi có một quyển sổ thường ghi tài sản và những nơi chôn giấu vào đó!” Lúc ấy người ta mới hiểu kẻ cậy cửa lẻn vào nhà trước đã lượm được quyển sổ ghi tàn sản của bà chôn giấu ở đâu, nó đã phỗng mất!

Đúng là “ki cóp cho cọp nó tha!” Vì thế thánh Phaolô dạy: “Chúng ta đã không đưa gì vào trần gian, thì cũng chẳng mang gì ra được. Nếu có cơm ăn áo mặc, hãy lấy thế làm đủ,còn những kẻ muốn làm giàu thì sa chước cám dỗ, sa vào cạm bẫy và nhiều ước muốn ngu xuẩn độc hại” (1Tm 6,7-9).

10. Nên giống Chúa Kitô

Một phụ nữ trẻ mua một chiếc bình đẹp và đặt lên bàn trong phòng. Chiếc bình khiến bà ta nhận ra căn phòng mới xấu xí làm sao. Vì vậy bà ta lau chùi và sơn sửa nó lại. Kế đến bà ta chùi sạch cửa và gắn rèm mới. Cuối cùng, bà đánh sáp nền nhà và trải thảm xuống. Dần dà bà cố biến căn phòng thành xinh đẹp như chiếc bình. Thánh Phaolô cũng thúc đẩy tín hữu Côlôsê biến tâm hồn họ nên đẹp đẽ, như Chúa Kitô, Đấng cư ngụ trong họ.

Tôi có thể làm gì để biến căn phòng tâm hồn tôi nên giống Chúa Kitô. Đấng cư ngụ trong đó?

Sự xấu xa tìm được nơi trú ẩn tuyệt vời nhất trong cái đẹp bị trù dập và cái xấu được đăng quang (Calvin Miller).

11. Thời gian chẳng có nhiều

Buddy Holly trở nên nổi tiếng vào thập niên 1950. Năm 19 tuổi, Texan, ngôi sao nhạc rock đầu tiên đã viết nhạc, chơi nhạc và hát nhạc do anh sáng tác. Trong sự nghiệp kéo dài khoảng ba năm, anh đã viết 45 bài hát, và rồi một tai nạn máy bay đã đột ngột kết thúc cuộc đời tươi trẻ của anh. Khi Buddy chết, sáu bài hát của anh được kể vào số những bài hát chạy nhất. Tác giả Albert Cyicki nói về nhạc sĩ trẻ thiên tài này như sau: "Nếu Buddy còn sống đến nay, có lẽ anh sẽ nói với chúng ta điều mà Thánh Phaolô nói về tín hữu Corinto trong bài đọc hôm nay: "Thời gian chẳng còn bao lâu"

Bằng cách nào tôi thể hiện tốt hơn thời giờ quý báu Thiên Chúa cho tôi mượn?

Khi bàn tay giá lạnh của Ngài đặt trên bạn, tước đi những gì bạn đầu tư, suy đoán và tiền bạc của bạn, và cùng với Ngài, bạn sẽ đi vào cuộc sống vĩnh cửu. Bạn sẽ chẳng phải quá bận rộn khi đi vào cái chết (A.E. Kittridge).

THỨ NĂM - BẮT CHƯỚC THIÊN CHÚA CHA

Lời Chúa: Lc 6, 27-38

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo các con đang nghe Thầy đây: Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình. Ai vả con má bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì con hãy cho, và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại.

Các con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy. Nếu các con yêu những kẻ yêu các con, thì còn ân nghĩa gì nữa? Vì cả những người tội lỗi cũng yêu những ai yêu họ. Và nếu các con làm ơn cho những kẻ làm ơn cho các con, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng làm như vậy. Và nếu các con cho ai vay mượn mà trông người ta trả lại, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng cho những kẻ tội lỗi vay mượn để rồi được trả lại sòng phẳng. Vậy các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mượn mà không trông báo đền. Phần thưởng của các con bấy giờ sẽ lớn lao, và các con sẽ là con cái Đấng Tối Cao, vì Người nhân hậu với những kẻ bội bạc và những kẻ gian ác. Vậy các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ. Đừng xét đoán, thì các con sẽ khỏi bị xét đoán; đừng kết án, thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được thứ tha. Hãy cho, thì sẽ cho lại các con; người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy.”

TRUYỆN KỂ

1. Đừng so sánh… mà hãy so sánh

Ghi lại kinh nghiệm sống của mình trong tập nhật ký có tựa đề là Những người bạn muôn thuở, bà Ressa Marita, vợ của triết gia công giáo người Pháp Jack Maritain đã viết như sau:

"Trong cuộc sống thiêng liêng, chúng ta không nên so sánh mình với ai cả, mà chỉ so sánh mình với mẫu gương trọn lành của Chúa mà thôi. So sánh mình với kẻ khác, ta sẽ thấy mình dễ bị cám dỗ, thấy những điểm tiêu cực nơi anh chị em và trở nên tự kiêu, luôn cho mình là tốt hơn. Nhưng nếu nhìn vào mẫu gương trọn lành của Chúa, ta được mời gọi canh tân liên lỉ, tiến mãi không ngừng, vì Chúa là Ðấng trọn tốt trọn lành vô cùng.”

2. Suy bụng ta ra bụng người

Một cô giáo nọ ra bài cho các học sinh như sau: "Chiều nay về nhà, mỗi em phải làm một việc tốt đối với người thân nào đó trong gia đình.”

Ngày hôm sau, một em học sinh đến trường than phiền với cô giáo như sau: "Thưa cô, con không thể tiếp tục làm công tác này được nữa.”

Trước sự ngạc nhiên của cô giáo, học sinh này giải thích như sau: Bữa cơm tối qua con đã khen mẹ nấu ngon. Thay vì vui mừng, mẹ con nổi giận nói con chọc tức và gián tiếp chê bữa ăn không ngon. Con giải thích với mẹ nhưng mẹ không tin, và nổi giận ra lệnh con phải rửa chén để chứng minh cụ thể bữa ăn ngon.

Tiếc thay, em bé thành tâm khen ngợi mẹ, nhưng người mẹ thì ngược lại không tin, cho rằng em giả vờ khen và có hậu ý nào khác. Thay vì yêu thương thật tình và cảm nhận tình thương của anh chị em đối với mình, thì nhiều lúc ta cũng hành động như người mẹ trong câu chuyện vui trên. Ta nghi ngờ tình thương của anh chị em vì có bao giờ ta yêu thương thật sự anh chị em đâu, có chăng chỉ là những lời nói xã giao bên ngoài cho qua lúc. Thật là, suy bụng ta ra bụng người.

3. Cùng tha thứ với Chúa Giêsu

Sau thế chiến II chấm dứt, Coritanbun với những vết sẹo trên thân thể, tàn tích của những khổ hình bà phải chịu trong trại tập trung Đức quốc xã, bà đã đi khắp Âu châu rao giảng sự tha thứ cho những kẻ đã làm hại mình.

 Thế nhưng, vào một Chúa nhật nọ, sau khi bà kêu gọi mọi người hãy tha thứ cho nhau trong một nhà thờ của thành phố Munich, bước ra ngoài bà bất ngờ đối diện với một khuôn mặt quen thuộc: dung mạo của người lính đã hành hạ bà và hàng ngàn nữ tù nhân khác ở trại tập trung. Tiếng than khóc, cảnh tra tấn, rồi những tiếng kêu trả thù nổi dậy mạnh mẽ trong tâm trí bà.

Người đàn ông tiến lại khiêm tốn đưa tay ra vừa muốn bắt tay bà vừa nói: “Thưa bà, tôi rất cảm ơn những lời tốt đẹp của bà kêu gọi sự tha thứ. Xin bà tha thứ cho tôi.” Coritanbun như chết điếng người, trước đây bà cầu nguyện và quyết tha thứ, nhưng giờ đây đối diện với con người cụ thể đã tra tấn mình, bà đứng lặng im, tay không thể bắt tay người đến xin bà tha thứ.

Sau này vào năm 1971 khi kể lại: “Trong giây phút thinh lặng đó, tôi đã cố gắng dâng lên Chúa lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể tha thứ cho người đã hành khổ con. Xin Chúa hãy ban cho con những tâm tình của Chúa để con có thể tha thứ như Chúa.” Và chính trong lúc đó bà đã hiểu rằng con người chỉ có thể tha thứ cho nhau khi nhìn nhận tình yêu thương và sự tha thứ của Thiên Chúa

4. Chữ tha thứ nơi các danh nhân

a) Học thuyết của Khổng Tử: Trong vấn đề cư xử, học thuyết của Đức Khổng Tử giống luật báo oán của Cựu ước. Ngài dạy học thuyết: “Dĩ trực báo oán.” Nhưng sau này, các đệ tử của ngài muốn đi xa hơn, họ đã thêm vào học thuyết của ngài câu: “Dĩ đức báo oán.”

b) Đức Phật Thích Ca: Ngài tìm phương thế giải thoát con người ra khỏi vòng đau khổ. Ngài chủ trương giáo thuyết TỪ BI, lấy từ bi làm phương châm cho mọi hoạt động, mà đã từ bi thì phải hỉ xả, do đó, ngài không chấp nhận luật công bình, mà chỉ chấp nhận luật tha thứ. Ngài nói: “Lấy oán báo oán, oán ấy chồng chất. Lấy đức báo oán, oán ấy tiêu tan.”

c) Ông Mahatma Gandhi nói: “Luật vàng của xứ thế là tha thứ lẫn nhau.” Ông đã dùng thuyết bất bạo động để giải phóng dân tộc Ấn Độ khỏi ách thống trị của người Anh.

d) Mục sư Luther King: Trong tác phẩm của ông “Chỉ có một cuộc cách mạng”, ông nói: “Trong Tân ước, chúng ta thấy từ “Agapè” được dùng để chỉ tình yêu. Đó chính là tình yêu dồi dào không đòi một đáp trả nào hết. Các nhà thần học nói đó là tình yêu Thiên Chúa được thực hiện nơi tâm hồn con người. Khi vươn lên đến một tình yêu như vậy, chúng ta sẽ yêu hết mọi người, không phải vì chúng ta có thiện cảm với họ, cũng không phải vì chúng ta đánh giá cao lối sống của họ, chúng ta yêu thương họ vì Thiên Chúa yêu thương họ.”

5. Tha thứ cho kẻ thù

Một ông bố giàu có, cảm thấy già yếu gần đất xa trời, bèn gọi ba đứa con trai lại chia gia tài đồng đều cho chúng, duy còn lại một viên kim cương gia bảo quý giá không thể chia cắt được.

Ông ta giải quyết bằng cách nói với các con rằng: “Ta sẽ trao viên kim cương cho đứa nào thực hiện một việc lành tốt đẹp nhất. Vậy các con hãy ra đi và thực hiện cho được điều kiện đó.”

Ba đứa con lên đường và ba tháng sau trở về. Người con cả nói với bố:

- Một người ngoại quốc đã giao toàn bộ tài sản cho con và con đã thủ tín trả lại đầy đủ.

Người cha tuyên bố:

- Con đã làm phận sự của con rất tốt đẹp.

Đến lượt đứa con thứ trình:

- Thưa cha, con đã xả thân cứu được một em bé chết đuối.

Người cha khen anh ta. Rồi quay sang nhìn đứa con út. Cậu ấp úng bẩm:

- Thưa cha, trong một cuộc hành trình con thấy địch thù con đang ngủ say bên một bờ vực sâu. Con nghĩ con có thể xô nó xuống vực dễ dàng, nhưng con không làm. Trái lại con đánh thức nó dậy và cứu nó.

Nghe xong, người cha ôm hôn cậu út và tuyên bố:

- Viên kim cương gia bảo thuộc về con, vì con đã làm một việc lành vĩ đại biểu lộ một tấm lòng nhân ái chân thực là yêu thương tha thứ cho kẻ thù mình.

6. Ngượng ngùng trong tình yêu

Lần nọ trong một ngôi thánh đường, hàng ngàn người say sưa ngồi lắng nghe vị mục sư giảng về lòng yêu thương. Khi bài giảng đã kết thúc, vị mục sư bước ra khỏi ngôi thánh đường. Bỗng một người tiến lại và chìa tay về phía ông. Đó chính là người đã hại ông khi xưa. Ngập ngừng hồi lâu, vị mục sư ngượng ngùng đưa tay bắt.

Sự ngập ngừng của vị mục sư cũng chính là thái độ của tôi trong cuộc sống hôm nay. Tôi không dễ dàng tha thứ để đón nhận và yêu thương kẻ thù. Tôi đã quay lưng lại khi phải đối diện với họ.

Lạy Chúa, xin cho con con tim của Chúa, để con bao dung, yêu thương và tha thứ cho hết mọi người như chính Chúa đã yêu thương và tha thứ cho chúng con.

7. Yêu thương một cách tiêu cực

Hillel một trong những Rabbit nổi tiếng của Do Thái, đã trả lời cho người đến xin ông ta dạy cho mình biết tất cả luật pháp chỉ trong thời gian anh ta có thể đứng cò cò trên một chân, ông bảo:

“Điều gì đáng ghét cho ngươi thì ngươi đừng làm cho kẻ khác, đó là tất cả luật pháp, các sự khác chỉ là giải thích.”

Philô, một vĩ nhân Do Thái sống tại Alexandria đã nói: “Điều gì anh ghét thì đừng làm cho bất cứ ai.”

Socrates, một nhà hùng biện Hi lạp nói: “Những gì khiến anh bực bội do kẻ khác gây ra cho mình, thì anh cũng đừng làm những sự ấy cho kẻ khác.”

Các triết gia của phái khắc kỷ có một nguyên tắc căn bản hơn: “Điều gì anh không muốn kẻ khác làm cho anh thì anh đừng làm cho ai khác.”

Khi người ta hỏi đức Khổng Tử rằng: “Có lời nào có thể làm luật thực tiễn cho cả đời sống con người không?” Cụ trả lời: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân.”

Tóm lại, tất cả các hình thức trên đều là tiêu cực. Dù không phải dễ để giữ mình đừng làm các điều đó, và cũng vô cùng khó khi chúng ta phải ép mình làm cho kẻ khác điều mà chúng ta muốn họ làm cho mình.

8. Tha thứ để tiêu trừ đau khổ

Tại Newban (Châu Úc), mẹ Têrêsa có mở một nhà nội trú dành cho các thanh thiếu niên nghèo. Một lần kia, mẹ gặp thấy một thanh niên đang bị đánh đập tàn nhẫn, toàn thể mình mẩy anh ta bầm tím. Mẹ thấy cần phải gọi cảnh sát đến để điều tra và khi cảnh sát đến hỏi anh: “Ai đã đánh anh?” thì người thanh niên này nhất định không chịu trả lời các câu hỏi. Cuối cùng, cảnh sát phải chịu thua anh và bỏ ra về. Lúc đó, mẹ Têrêsa mới ôn tồn hỏi anh:

- Sao con không khai người đánh đập con với cảnh sát?

- Thưa mẹ, - cậu ta trả lời - nếu con khai ra thì người đó sẽ bị trừng phạt và rồi những đau khổ của người đó cũng sẽ không thể làm giảm đi nỗi đau khổ của chính con!

9. Mục tử có mùi chiên

Ông chủ cửa hàng bán thú nuôi mang tấm biển “Tại đây bán chó con” đóng lên cửa ra vào.

Một cậu bé xuất hiện bên dưới tấm biển hỏi:

- Ông định bán những chú chó con này bao nhiêu ạ?

- Cũng tùy, từ 30 - 50 đô-la, cháu ạ.

Cậu bé thò tay vào túi móc ra một ít tiền lẻ:

- Cháu chỉ có 2 đô-la và 37 xu. Ông cho phép cháu ngắm chúng nhé.

Người chủ mỉm cười, huýt sáo ra hiệu. Năm chú chó lơn tơn chạy ra, có một con chậm chạp theo sau. Ngay lập tức cậu bé chỉ vào chú chó khập khiễng:

- Con chó nhỏ ấy làm sao thế ạ?

- Bác sĩ bảo rằng xương chậu nó bị khiếm khuyết nên phải khập khiễng, què quặt suốt đời.

- Đây chính là con chó cháu muốn mua – cậu bé tỏ vẻ rất thích thú.

- Không, ta nghĩ cháu không nên mua nó. Còn nếu cháu thật sự thích nó thì ta tặng cho cháu đó.

Cậu bé hơi bối rối, nhìn thẳng vào mắt ông chủ cửa hàng, rồi chìa tay đáp:

- Cháu không muốn được ông tặng. Nó cũng đáng giá như những con chó khác và cháu sẽ trả đủ tiền cho ông. Đây là 2 đô-la 37 xu và cháu sẽ đưa ông thêm 50 xu mỗi tháng đến khi nào đủ tiền.

- Cháu sẽ không nên mua con chó này. Nó không thể chạy nhảy vui đùa với cháu như những con chó khác – người chủ tỏ vẻ phản đối.

Cậu bé lặng lẽ đưa tay kéo ống quần lên, để lộ chiếc chân trái bị teo cơ đang được nâng giữ bằng một khung kim loại. Nhìn lên người chủ, nó dịu dàng nói:

- Cháu cũng đâu thể chạy nhảy vui đùa, và con chó này cần một ai đó thông cảm với nó ông ạ!

10. Kết án vì không biết tội của mình

Ngôn sứ Nathan đã dạy cho vua David muốn lấy cái rác khỏi mắt người khác, thì vua phải lấy cái đà trong mắt vua trước. Ngôn sứ Nathan nói với vua: Tại sao ngài lại để cho một vị quan giàu có, nhà không thiếu chiên dê, khi có khách đến chơi lại không bắt chiên dê của mình làm thịt đãi khách,mà lại bắt con chiên của người đầy tớ nghèo? Nghe thế vua thịnh nộ đập bàn quát:

- Tên nào, xin cho biết, ta sẽ xử tội nó đích đáng.

- Thưa tên đó chính là ngài.

Nhà vua giật mình vì biết rằng ngôn sứ Nathan đã rõ tội ác của ông lập mưu giết Uria, một vị tướng đang xông pha chiến trường bảo vệ bình an cho hậu phương, để rồi vua có cớ cướp vợ của Uria!

Tội ác của vua tày trời như thế mà không thịnh nộ với chính mình, tỏ lòng sám hối ăn năn, mà lại tỏ ra giận dữ với một người gian ác không tưởng, dù có, vẫn thua tội của vua (x 2Sm 12).

11. Biết tội và bắt đầu lại

Một trong những điều đầu tiên của George Washington phải làm sau khi nhận vai trò lãnh đạo quân đội trong cuộc cách mạng là cách chức đại úy John Callender vì đã hèn nhát trong trận Bunker Hill, John bình thản ghi danh lại như một binh nhì. Ông tiếp tục chiến đấu cách anh dũng trong trận Long Island. Chính vì thế ông đã được Washington phục chức cho. Thánh Phaolô cho thấy Thiên Chúa cũng đối xử với ngài như thế. Ngài tiếp tục trở nên người anh hùng trong việc làm vì Nước Chúa.

Hiện nay tôi có anh dũng làm việc cho Nước Chúa sau khi đã thất bại trong quá khứ không?

Hãy quên đi vết hằn quá khứ. Mỗi phút giây là một khởi đầu mới.

12. Làm thầy thì dễ hơn làm trò

Tiến sĩ Marshall Seper được gọi là một nhà đại tâm lý. Trong suốt 11 năm, chương tình truyền thanh của ông đã lôi kéo được rất đông thính giả ở Trung Mỹ. Ông không chỉ phổ biến tâm lý, mà còn thực hành nó một cách thành công. Ông đã thuyết phục được nhiều người có ý định tự sát trở lại với cuộc sống của họ. Nhưng rồi một buổi sáng thứ hai nọ, ông lái xe có mui đỏ ra khỏi nhà khoảng mười phút, rút súng ra và tự sát. Một người hâm mộ chương trình truyền thanh của ông đặt câu hỏi cuối cùng này: Tại sao ông ta không thể theo lời khuyên của chính mình?

Tôi trả lời câu hỏi trên thế nào? Ở mức độ nào tôi thực hành được lời khuyên mà tôi đưa ra cho người khác về cuộc sống?

Không ai lúng túng hơn người đưa ra được lời khuyên tốt, trong khi chính họ gặp tình huống xấu. (E.C. McKenzie).

13. Mù dắt mù

Tiến sĩ Marshall Seper được gọi là một nhà đại tâm lý. Trong suốt 11 năm, chương tình truyền thanh của ông đã lôi kéo được rất đông thính giả ở Trung Mỹ. Ông không chỉ phổ biến tâm lý, mà còn thực hành nó một cách thành công. Ông đã thuyết phục được nhiều người có ý định tự sát trở lại với cuộc sống của họ. Nhưng rồi một buổi sáng thứ hai nọ, ông lái xe có mui đỏ ra khỏi nhà khoảng mười phút, rút súng ra và tự sát. Một người hâm mộ chương trình truyền thanh của ông đặt câu hỏi cuối cùng này: Tại sao ông ta không thể theo lời khuyên của chính mình?

Tôi trả lời câu hỏi trên thế nào? Ở mức độ nào tôi thực hành được lời khuyên mà tôi đưa ra cho người khác về cuộc sống?

Không ai lúng túng hơn người đưa ra được lời khuyên tốt, trong khi chính họ gặp tình huống xấu. (E.C. McKenzie).

14. Người giỏi không cần được đánh giá cao

Có hai người đàn ông đang ngồi trên ghế đá công viên tranh luận với nhau về tôn giáo. Người trẻ hơn nói với người lớn tuổi: “Anh cho mình là biết rõ về tôn giáo. Tôi đánh cuộc là anh không biết, Ngay cả Kinh Lạy Cha.” Người lớn tuổi mở ví, đặt xuống mười đô la và nói gắt: “Tôi dám cược với anh là tôi biết đấy.” Người trẻ cũng làm như vậy và nói: “Tôi cũng dám cược là anh không biết đấy.” Người lớn tuổi bắt đầu cuộc chơi khi nói: “Thôi tớ ngủ cái đã….” Người trẻ trả lại mười đô và nói: “Anh lừa tôi, chắc là anh không biết rồi.”

Tôi trung thực với người khác như thế nào? Đôi khi tôi có cố gắng cho họ ấn tượng là tôi biết nhiều hơn là tôi thực sự biết không?

Chúng ta đạt được nhiều hơn, khi thể hiện chính mình, hơn là vờ vĩnh những gì chúng ta không có (La Rochefoucauld).

THỨ SÁU – NHẬN BIẾT CHÍNH MÌNH

Lời Chúa: Lc 6, 39-42

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: “Người mù có thể dẫn người mù được chăng? Cả hai lại không sa xuống hố ư? Môn đệ không trọng hơn Thầy; nếu môn đệ được giống như Thầy, thì kể là hoàn hảo rồi.

“Sao ngươi nhìn cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy? Sao ngươi có thể nói với người anh em: 'Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh', trong khi chính ngươi không nhìn thấy cái đà trong mắt ngươi. Hỡi kẻ giả hình, hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi.”

TRUYỆN KỂ

1. Muốn làm Thượng Đế

Chỉ là thụ tạo mà muốn làm Thượng đế, đó là ảo tưởng muôn đời của con người. Ngay từ đầu lịch sử nhân loại, Ông Bà nguyên tổ của loài người đã trải qua cơn cám dỗ ấy.

Ma quỉ nói với Ông Bà: Các ngươi hãy ăn trái cấm, các ngươi sẽ trở thành Thiên Chúa, nghĩa là các ngươi hãy chối bỏ Thiên Chúa và tự tôn mình thành Thiên Chúa để sống mà không cần có Thiên Chúa.

Ðó là cơn cám dỗ triền miên của con người: sống không cần Thiên Chúa, loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, để tự tạo cho mình một bậc thang giá trị và trở thành thẩm phán tối cao cho mọi hành động của mình cũng như của người khác.

2. Abba, Cha ơi

“The Pursuit of Happiness” là một bộ phim xúc động mang tới những thông điệp đầy tính nhân văn về ý nghĩa thực sự của từ “hạnh phúc.” Được dựa trên một câu chuyện có thật, nhân vật chính của phim là Chris, một nhân viên bán máy soi xương luôn gặp thất bại trong việc kinh doanh. Quá bức bối với việc nợ nần của gia đình, vợ Chris đã bỏ đi và để lại cậu con trai nhỏ Christopher Jr. Điều tồi tệ nhất xảy ra khi hai cha con anh bị đuổi ra khỏi căn hộ do không đủ tiền trả và trở thành những kẻ lang thang.

Đi phiêu bạt khắp nơi để kiếm sống, có lúc Chris và con trai đã phải ngủ qua đêm trong nhà vệ sinh bẩn thỉu của một ga tàu điện. Tuy nhiên, với nỗ lực phi thường, anh không ngừng mưu cầu một cuộc sống hạnh phúc cho chính mình và con trai... (Theo afamily.vn).

Tình cha là thế, lo lắng và cùng con bước vào đời với bao gian nan. Tình Chúa dành cho con người được phác họa bằng hình ảnh của tình Cha: Ngài như người cha hiền luôn đồng hành và lo lắng cho con cái ở dưới nhân gian. Dù rằng nhân loại “thuộc hạ giới” (Ga 8,23).

3. Cái đà trong mắt

Trong một ngụ ngôn hài hước của thi sĩ La Fontaine kể rằng: thần Jupiter khi dựng nên con người thì ngài đeo cho họ hai cái túi: một cái trước ngực đựng những lỗi lầm của người khác, một cái sau lưng đựng những lỗi lầm của mình. Như vậy, người ta chỉ nhìn thấy những lỗi lầm của người khác mà không nhìn thấy những lỗi lầm của mình.

Bài học dạy đời của ngụ ngôn này đúng như câu tục ngữ của chúng ta: “Việc người thì sáng, việc mình thì quáng” do câu “Bàng quan giả tỉnh, đương cục giả mê.”

Hoặc:

Chân mình thì lấm lê mê,

Lại cầm bó đuốc mà rê chân người.

Và đây cũng là bài học Chúa Giêsu dạy chúng ta: ”Cái xà trong mắt mình mà lại đòi gảy cái rác nơi mắt anh em.”

4. Lắng nghe lời phê bình.

Một ông vua kia được viên quan cận thần cho biết một tin khẩn như sau:

- Thưa ngài, kẻ đã luôn luôn phê bình chính sách của ngài nay bị bệnh nặng, sắp qua đời, từ nay chúng ta sẽ được yên thân hơn.

Nghe tin báo, thay vì vui mừng thì nhà vua lại ra lệnh cho viên quan đại thần như sau:

- Hãy mau đi tìm vị lương y giỏi nhất nước đến chữa trị cho người bệnh đó. Ta không muốn kẻ đó phải chết, hãy làm mọi cách để cứu sống kẻ đó.

Quan đại thần ngạc nhiên hỏi lại:

- Thưa ngài, người này là người luôn luôn phê bình đường lối cai trị của ngài. Nếu ông ta mà chết đi, thì có lợi cho ngài hơn, cớ sao ngài lại muốn như vậy, và ra lệnh phải tìm đủ mọi cách chữa trị cho người đó sống.

Nhà vua trả lời:

- Chính vì người đó dám lên tiếng phê bình ta, nên ta lại càng phải cứu sống người đó. Ta cần một con người can đảm như vậy hơn là những người lúc nào cũng chỉ biết có tung hô vạn tuế.

5. Nhìn người để sửa mình

Năm 16 tuổi, Albert Einstein thường thích làm bạn với những đứa trẻ chỉ thích ham chơi chứ không thích học hành. Vì thế mà việc học hành của cậu ngày càng kém, thậm chí nhiều lần còn phải thi lại.

Một buổi sáng chủ nhật nọ, Einstein chuẩn bị cần câu để đi câu với bọn trẻ đó thì bị bố ngăn lại và nói: - Con trai, suốt ngày bố thấy con chỉ biết ham chơi, lại còn vài môn phải thi lại. Bố mẹ rất lo cho tương lai của con.

Einstein thản nhiên đáp lại bố: - Chẳng có gì đáng lo cả bố ạ. Bố thấy đấy, nhiều đứa cũng phải thi lại, đâu phải vì chúng suốt ngày đi chơi?

Bố ân cần nói với Einstein: - Con trai, con không được nghĩ như thế. Bố kể cho con nghe một câu chuyện ngụ ngôn nhé. Có hai chú mèo nhỏ chơi đùa cạnh ống khói. Vì không cẩn thận nên cả hai đều rơi xuống ống khói, khó khăn lắm chúng mới bò ra ngoài được. Hai chú mèo nhìn nhau, một chú mèo mặt nhem nhuốc bụi khói, còn chú mèo kia thì rất sách sẽ. Chú mèo sạch sẽ nhìn chú mèo mặt dính đầy khói, tướng rằng mặt mình cũng bẩn nên vội vàng chạy đi rửa mặt. Còn chú mèo mặt dính đầy bụi kia tưởng mặt mình sạch nên chạy đến chỗ khác chơi. Những con vật khác nhìn thấy nó đều bỏ chạy tán loạn, tường rằng nhìn thấy yêu quái. Con trai, chúng ta không nên coi người khác là chiếc gương của mình, chỉ có mình mới là chiếc gương cho chính mình thôi.

Sau khi nghe bố kể câu chuyện, Einstein xấu hổ đặt cần câu xuống, quay về phòng học.

6. Sửa mình trước, sửa người sau

Nếu ta muốn sửa lỗi người anh em, mà mình chưa sửa được lỗi của mình, thì phải xin lỗi người anh em trước, đồng thời xin người anh em cầu nguyện cho mình sớm thoát khỏi tội đang dày vò lương tâm, mới đề nghị người anh em phải sống theo Lời Chúa dạy. Ví dụ: người bố lỡ đam mê hút thuốc, mà chưa bỏ được, lại muốn con đừng hút, thì phải xin lỗi con, đồng thời xin con cầu nguyện cho bố sớm dứt bỏ tật xấu, rồi mới lên tiếng dạy: “Con đừng bắt chước bố, con hơn cha là nhà có phúc!” Chớ đừng như chuyện một cha Sở kia khi mới về nhận xứ thấy trẻ con trong xứ đứa nào cũng giỏi tiếng “Đ. M..” Cha xứ liền gọi ông Chánh trương đến, nhờ ông nhắc bọn trẻ phải bỏ ngôn ngữ vỉa hè ấy. Mấy tháng sau, cha Sở có dịp gặp lại ông Chánh và hỏi:

- Sao ông Chánh dạy trẻ đã bớt nói tục chưa?

- Thưa cha, “Đ. M.” nó, con bảo mà nó cứ thế thôi!!?

7. Lên án người mà quên tội mình

Ngôn sứ Nathan đã dạy cho vua David muốn lấy cái rác khỏi mắt người khác, thì vua phải lấy cái đà trong mắt vua trước. Ngôn sứ Nathan nói với vua: Tại sao ngài lại để cho một vị quan giàu có, nhà không thiếu chiên dê, khi có khách đến chơi lại không bắt chiên dê của mình làm thịt đãi khách,mà lại bắt con chiên của người đầy tớ nghèo?” Nghe thế vua thịnh nộ đập bàn quát:

- Tên nào, xin cho biết, ta sẽ xử tội nó đích đáng.

- Thưa tên đó chính là ngài.

Nhà vua giật mình vì biết rằng ngôn sứ Nathan đã rõ tội ác của ông lập mưu giết Uria, một vị tướng đang xông pha chiến trường bảo vệ bình an cho hậu phương, để rồi vua có cớ cướp vợ của Uria!

Tội ác của vua tày trời như thế mà không thịnh nộ với chính mình, tỏ lòng sám hối ăn năn, mà lại tỏ ra giận dữ với một người gian ác không tưởng, dù có, vẫn thua tội của vua (x. 2Sm 12).

8. Sợ người biết

Dương Chấn được bổ đi làm thái thú quận Đông Lai, khi nhậm chức đi qua đất Xương Ấp. Quan huyện ở đấy là Vương Mật, trước được ông đề bạt, xin vào yết kiến. Rồi đợi đêm khuya lại đem vàng đến lễ.

Dương Chấn bảo: “Trước tôi biết ông là người khá, mới cử ông lên, thế mà ông vẫn chưa biết bụng tôi, còn đem vàng bạc đến cho tôi ư?”

Vương Mật cố nài, thưa rằng: “Xin ngài cứ nhận cho. Bây giờ đêm khuya không ai biết?”

Dương Chấn nói: “Trời biết, đất biết, ông biết, tôi biết, sao lại bảo không ai biết?”

Vương Mật nghe nói, xấu hổ lùi ra.

9. Muốn chỗ nhất

Một nhà khoa học mới sáng chế ra và áp dụng trên chính mình một phương pháp nhân bản vô tính hoàn hảo đến nỗi không ai có thể phân biệt được ông với phiên bản của ông. Khi biết Thần Chết đang kiếm mình ông cũng không hề sợ vì ông đã có 12 phiên bản giống hệt ông.

Lần đầu tiên gặp ông và 12 phiên bản, Thần Chết phải trở về tay không vì không được phép bắt lầm, và nhà khoa học xoa tay vui vẻ.

Nhưng sau đó không lâu Thần Chết trở lại với một “khí cụ dò tìm đặc biệt.” Cầm khí cụ trên tay, Thần Chết nói: “Này, nhà khoa học, ông thật là một thiên tài đã làm được những phiên bản giống hệt như mình. Tuy nhiên ta đã khám phá ra và sẽ chỉ cho ông thấy một sơ suất trong công trình của ông, một đặc điểm quan trọng mà các phiên bản không có được.”

Nghe đến đó, nhà khoa học nhảy chồm lên, sừng sộ: “Làm gì có sơ suất! Đâu? Sơ suất chỗ nào?”

Thần Chết túm ngay lấy gáy nhà khoa học và nói: “Chỗ này nè!”

Nhà khoa học giỏi đến thế mà vẫn không bỏ được cái dại của mọi người, cái dại của “những kẻ được mời, chọn chỗ nhất.”

Cái dại đó bắt đầu từ tổ tông loài người khi dám trái lời Chúa chỉ vì chữ “tinh khôn”: “Người đàn bà thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình; ông cũng ăn.” 

THỨ BẢY - NHÀ XÂY TRÊN ĐÁ: KHÔN NGOAN

Lời Chúa: Lc 6, 43-49

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu, và cũng không có cây nào xấu mà sinh trái tốt. Thật vậy, cứ xem trái thì biết cây. Người ta không hái trái vả nơi bụi gai, và người ta cũng không hái trái nho nơi cây dâu đất. Người tốt phát ra điều tốt từ kho tàng tốt của lòng mình, và kẻ xấu phát ra điều xấu từ kho tàng xấu của nó, vì lòng đầy thì miệng mới nói ra.

Tại sao các con gọi Thầy: 'Lạy Chúa, lạy Chúa', mà các con không thi hành điều Thầy dạy bảo? Ai đến cùng Thầy, thì nghe lời Thầy và đem ra thực hành. Thầy sẽ chỉ cho các con biết người ấy giống ai. Người ấy giống như người xây nhà: ông ta đào sâu và đặt nền móng trên đá. Khi có trận lụt, dù nước ùa vào nhà, cũng không làm cho nó lay chuyển, vì nhà đó được đặt nền trên đá. Trái lại, kẻ nghe mà không đem ra thực hành, thì giống như người xây nhà ngay trên mặt đất mà không có nền móng. Khi sóng nước ùa vào nhà, nó liền sụp đổ, và nhà đó bị hư hại nặng nề."

TRUYỆN KỂ

1. Căn Nhà Ðức Tin

Một người giàu có nọ muốn thưởng cho người quản lý của mình. Ông cho biết ông sắp đi xa và giao cho người quản lý đứng ra xây cho một căn nhà sang trọng, với những vật liệu đắt giá và những nhân công tài giỏi nhất. Người quản lý xem đây là cơ hội để làm giàu: ông tính toán từng đồng trong việc mua sắm vật liệu cũng như chỉ mướn những thợ xoàng nhất với giá rẻ mạt. Dĩ nhiên, căn nhà cũng được hoàn thành một cách tương đối tốt đẹp.

Khi người giàu có trở về, người quản lý đem tất cả chìa khóa của căn nhà đến cho ông và báo cáo đã làm đúng như chỉ thị của ông. Ông chủ hài lòng, khen người quản lý và thưởng cho ông căn nhà đó. Trong những năm kế tiếp, khi phải chi tiền để tu sửa căn nhà, người quản lý không ngừng hối tiếc: giả như tôi biết trước, đây căn nhà ông chủ tặng cho tôi, thì tôi đã không xây cất nó một cách xoàng xĩnh như thế.

2. Triệt để thi hành luật pháp.

Vào khoảng giữa thế kỷ 19, các dân tộc thuộc vùng núi Caucase ở phía nam nước Nga, được cai trị bởi một quốc vương Hồi giáo nổi tiếng là thanh liêm chính trực. Ưu tiên hàng đầu trong việc chấn hưng đất nước của ông là quét sạch mọi tham nhũng hối lộ.

Ông ban hành một sắc lệnh, theo đó thì tất cả những ai bị bắt quả tang phạm tội tham nhũng và hối lộ sẽ bị phạt đúng 50 roi trước mặt công chúng.

Điều không may xẩy ra cho ông, là ngươi đầu tiên bị bắt quả tang phạm tội lại chính là mẹ ông. Sự kiện này làm cho ông đau đớn vô cùng. Không có một luật trừ hay châm chước nào cho sắc lệnh mà chính ông đã ban hành.

Liên tiếp ba ngày liền nhà vua giam mình  trong lều của mình. Sang ngày thứ tư ông xuất hiện trước công chúng cùng với thân mẫu. Ông ra lệnh cho hai binh sĩ trói tay mẹ ông và bắt đầu xứ lý theo qui luật.

Thế nhưng khi chiếc roi đầu tiên sắp quất xuống trên người mẹ thì nhà vua chạy đến bên cạnh mẹ. Ông mở trói cho bà. Rồi ra lệnh cho hai binh sĩ trói tay ông, lột áo ông ra và bắt đầu cuộc trừng phạt bằng roi. Đúng 50 roi đã quất xuống trên thân mình nhà vua.

Với thân thể rướm máu và khuôn mặt nhợt nhạt, nhà vua quay về phía dân chúng và nói:

- Bây giờ thì các ngươi có thể ra về. Luật đã được thi hành. Máu của vua các ngươi đã chảy ra để đền bù cho tội lỗi này.

Kể từ ngày đó, trong vương quốc người ta không còn bao giờ nghe đến tội tham nhũng, hối lộ nữa.

3. Môn đệ Chúa Kitô sống tình hiệp nhất

Vào ngày thứ sau 5-4-1985, 8000 đài phát thanh trên thế giới cùng cử lên bài hát: "Chúng ta là thế giới", với mục đích gây quỹ cứu trợ nạn nhân chết đói ở Ethiopi và thể hiện sự hiệp nhất của gia đình nhân loại, chứ không phải sự chia rẽ. Thánh Phaolô chắc hẳn đã tán thưởng cử chỉ của các nhạc sĩ và chương trình phát đĩa của thể giới. Bởi vì điều ngài nói về thân thế của Chúa Kitô trong bài đọc hôm nay rất thích hợp với gia đình nhân loại. Chúng ta là gia đình và chúng ta nên bắt đầu hành động như trong một gia đình.

Tại sao tôi được ban cho các tài năng? Điều gì ngăn cản tôi sử dụng tài năng theo đúng mục đích của nó?

Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau (1Cr 12,26).

4. Thùng rác của tâm hồn

Muốn biết người ta dùng gì trong nhà, cứ việc nhìn vào thùng rác của họ sẽ biết. Muốn biết xã hội như thế nào, cứ nhìn vào các hiện tượng trong xã hội sẽ rõ, vì như một nhạc sĩ nhận xét, “sản phẩm của xã hội văn hóa nào thì sinh ra con người ấy.” Như vậy, những hiện tượng xấu giữa xã hội này từ những “kho tàng xấu” trong lòng người mà ra.

Nhưng, Thiên Chúa tạo dựng nên chúng ta theo “hình ảnh của Thiên Chúa” mà! Vậy, tại sao có những “kho tàng xấu” ấy? Chúa Giê-su đã giải thích qua câu hỏi: “Tại sao anh em gọi Thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa!, mà anh em không làm điều Thầy dạy?” Thì ra, một khi không làm những điều Chúa dạy, lòng dạ người ta sẽ trở thành “thùng rác” chứa đầy mọi thứ xấu xa, bẩn chật và tai ác; một khi không thực thi lời Chúa, thì thay vì trở thành cộng đoàn yêu thương, xã hội sẽ trở nên một đám đông “quỷ ở với người.”

Bạn làm gì để gia đình bạn thành tổ ấm yêu thương và là cộng đoàn chứng nhân giữa xã hội này? Lòng bạn thấm đầy lời Chúa dạy hay ngập tràn điều xấu? Bạn có để Chúa làm chủ đời bạn và gia đình của bạn không?

5. Chứng nhân quan trọng hơn giảng thuyết

Trong thông điệp Rao Giảng Tin Mừng, ban hành vào năm 1975, Ðức Cố Giáo Hoàng Phaolô VI đã trình bày giáo huấn của Giáo Hội về việc rao giảng Tin Mừng. Trong số 14 của thông điệp, ngài viết: "Rao giảng Tin Mừng là ân sủng và ơn gọi riêng của Giáo Hội, là bản sắc sâu xa của Giáo Hội. Giáo Hội hiện hữu là để rao giảng Tin Mừng, nghĩa là để rao truyền và giảng dạy để trở thành máng thông ân."

Như vậy, mục đích của rao giảng Tin Mừng là thay đổi tấm lòng của con người, việc công bố Tin Mừng phải được thực thi trước tiên bằng chứng từ của cuộc sống. Ðức Phaolô VI khẳng định: "Con người thời đại thích nghe các chứng nhân hơn là những thầy dạy, và nếu họ có nghe thầy dạy thì cũng bởi vì những thầy dạy này là các chứng nhân."

6. Làm chứng cho sự thật

Truyện thánh Pacôm kể rằng, khi còn ngoại đạo, đã đăng lính trong đạo binh Rôma. Ngày kia, các binh sĩ trong đơn vị của ngài, đã kiệt sức vì đói và khát sau khi đi bộ qua sa mạc dưới cái nóng chết người, thất thểu vào thành Thebes (Tê-bes) ở Ai Cập. Thấy cảnh tượng đó, có nhiều người chạy lại bên họ, cho họ ăn uống, cùng chăm sóc họ chu đáo, tận tình.

Pacôm ngạc nhiên hỏi những người tốt lành này là ai và được trả lời rằng: “Họ là các kitô hữu.” Ngài thốt lên: “Một tôn giáo dạy người ta cứu giúp những kẻ khốn khổ hoàn toàn xa lạ với mình là một tôn giáo chỉ có thể đến từ vị Chúa chân thật.”

Sau biến cố này, Pacôm, trở lại đạo Công giáo và trở thành một vị sáng lập các đan viện, sống cộng đoàn bác ái huynh đệ. Philatô đã từng hỏi: “Sự Thật là gì?” nhưng không thể hiểu được, còn Pacôm tin nhận Thiên Chúa là Sự Thật nhờ những người kitô hữu ở Thebes đã làm chứng bằng hành động bác ái.

Người kitô hữu được “thánh hiến trong sự thật” nên sống theo sự thật và làm chứng cho sự thật. Sự thật về Chúa Giêsu chỉ có thể được tỏ hiện qua cái chết tự hiến vì yêu thương trên thập giá: “Ông này quả thật là Con Thiên Chúa.” Noi gương Chúa Kitô, người kitô hữu không chỉ làm chứng nhân bằng việc tử đạo mà còn làm chứng cho sự thật bằng chứng từ bác ái nữa.

7. Hãy chiếu giải ánh sáng

Nơi nhiều đền thờ Ấn giáo người ta đặt những cái giá treo lồng đèn. Mỗi sáng, tín đồ cầm đèn dầu đi lễ. Khi tới đền thờ, họ đặt đèn của mình vào giá treo lồng đèn, nhờ đó ngôi đền sáng rực lên cách lung linh huyền ảo. Ngọn đèn soi đường cho từng cá nhân tín đồ giờ đây thành chùm đèn thắp sáng cho cả cộng đoàn.

Chúa Giê-su dạy chúng ta: Nếu ta đã được ánh sáng chân lý của Chúa soi sáng, đến lượt mình, chúng ta cũng phải cùng với anh chị em chiếu giãi ánh sáng đó ra để đẩy lùi bóng tối tội lỗi lầm lạc. Một đức tin không giãi sáng bằng đời sống chứng nhân thì chẳng khác nào “thắp đèn rồi lấy hũ che lại hay đem đặt dưới gầm gường”, sẽ không còn là ánh sáng nữa.

Các thánh đã thực hiện mệnh lệnh ‘chiếu giãi ánh sáng’ khi làm sáng lên một nét đẹp trong giáo huấn Tin Mừng, từ đó khai sáng nên những linh đạo, những con đường nên thánh: thánh Phan-xi-cô Át-xi-di cho thấy sự hấp dẫn của nếp sống khó nghèo; thánh Tê-rê-xa cho thấy nét đơn sơ đáng yêu của con đường thơ ấu thiêng liêng… Nét đẹp Tin Mừng nào hấp dẫn bạn để bạn toả sáng ra chung quanh bằng cuộc sống chứng nhân của mình?

8. Thêm lửa

Nhà văn Kazantzakis nói rằng: “Điều tôi quan tâm không phải là con người, mặt đất, bầu trời, mà là ngọn lửa thiêu đốt con người, mặt đất, bầu trời." Nếu vậy, ông nghĩ thế nào về hai môn đệ trên đường đi Em-mau? Hai môn đệ “hết lửa”! Một đội bóng “hết lửa” chỉ có từ thua đến thua to! Hai môn đệ “hết lửa” với Thầy, với công cuộc của Thầy, chỉ còn nước chót là đào tẩu về nhà!

Thế nhưng, khi được gặp Đức Ki-tô Phục Sinh thì mọi sự đổi khác. Họ được tiếp thêm “lửa” nhờ Lời và Thánh Thể của Ngài: “Dọc đường, khi Người nói chuyện… lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” Đầy “lửa” đến độ họ đứng dậy, vượt quãng đường 12km ngay trong đêm, để gặp các bạn làm chứng rằng mình đã gặp Thầy.

Bạn còn “lửa” không, “lửa” yêu Chúa, “lửa” say mê công cuộc cứu độ của Ngài, “lửa” yêu thương đồng loại, nhất là những người thân của bạn? Hay bạn “hết lửa” vì ích kỷ mải lo cho mình?

Để thêm “lửa” trong đời sống đạo, tôi sẽ trung thành với việc đọc Lời Chúa và nỗ lực sống Lời ấy mỗi ngày.

9. Cây tốt sinh quả tốt

Có những người tự xưng là danh y, thần y với những phương thuốc gia truyền, những dược liệu quý hiếm chữa bách bệnh. Nhiều người không ngại đường xa, không ngại tốn kém tuôn đến chữa trị. Thế nhưng chỉ đến khi tiền mất tật mang, mọi người mới vỡ lẽ họ là lang vườn, lang băm lừa đảo thiên hạ. Quả xấu sinh bởi cây xấu. Cây nào sinh quả ấy: đó là một định luật bất biến.

Chúa Giê-su cảnh báo chúng ta sự lừa đảo về thiêng liêng là nạn ngôn sứ giả mà thời nào cũng có. Họ mang dáng dấp là người của Thiên Chúa, họ tự nhận mình là sứ giả nói lời của Thiên Chúa. Họ hấp dẫn quần chúng và có nhiều người chạy theo. Chúa Giê-su dạy ta bí quyết để nhận biết ai là ngôn sứ giả đó. Hãy xem những hoa trái là đời sống và công việc họ làm. Cây xấu không thể sinh quả tốt, ngôn sứ giả sẽ bị lộ mặt nạ qua đời sống bất chính của họ. Hễ cây tốt thì sinh quả tốt, những môn đệ đích thực của Đức Giê-su hẳn sẽ sinh quả tốt qua đời sống công chính trước mặt Thiên Chúa và mọi người.

Sống trong một thế giới phẳng và đa nguyên, người môn đệ đích thực của Đức Giê-su phải tỉnh táo để nhận ra hoa quả nào là bắt nguồn từ Thần Khí: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín. Và quả xấu nào là bắt nguồn từ quỷ dữ: gian dối, tham lam, hận thù, bất hòa, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ,…

10. Dấu chứng đáng tin

Ngày 25/02/2006, việc phục vụ của các nữ tu Công giáo – cụ thể là các chị em tu hội Nữ Tử Bác Ái – tại trại phong Di Linh đã được xã hội tuyên dương qua việc trao tặng huân chương cho nữ tu Mai Thị Mậu.

Việc tuyên dương đó không chỉ có ý nghĩa công nhận sự hiện diện của các nữ tu, và xác nhận tính chất “tử tế” của công việc họ làm hằng ngày giữa những anh chị em bệnh phong. Họ đã âm thầm phục vụ như thế từ lâu vì họ được thôi thúc bởi tình yêu mãnh liệt đối với Chúa và tha nhân, cách riêng với những anh chị em bất hạnh nhất.

Họ đang lặp lại sự chọn lựa của Chúa Giê-su nơi cuộc đời mình: Cùng với Đức Giê-su “làm các việc của Thiên Chúa” để nếu như người đời chưa tin thì ít ra cũng cảm nhận được Ngài qua những “việc-của-Thiên-Chúa” đó.

Hẳn bạn đang tự hỏi đâu là tiêu chí xác định một việc là việc của Thiên Chúa. Gương sống của các nữ tu trên đây minh hoạ cho Lời Chúa và trả lời cho bạn câu hỏi đó: Tình yêu mãnh liệt đối với Chúa và tha nhân đến độ “hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên."

Bạn chỉ trở thành một chứng nhân đáng tin cậy khi bạn làm “việc-của-Thiên-Chúa” theo cũng một tiêu chí đó.

LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ – PHẢI ĐƯỢC GIƯƠNG CAO

Lời Chúa: Ga 3, 13-17

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng Nicôđêmô rằng: “Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời. Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời.

“Quả thật, Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người, để tất cả những ai tin vào Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ."

TRUYỆN KỂ

1. Cuốn sách hay nhất

Một nhà thông thái nằm mơ thấy mình để cả cuộc đời đi tìm một cuốn sách hay nhất gồm tóm mọi sự trên đời, cuốn sách đó chỉ tóm gọn trong một trang hay nhất, rồi trang ấy gồm trong một dòng hay nhất, rồi dòng ấy trong một chữ hay nhất. Ông giật mình tỉnh dậy, trên bàn ông có một chữ to tướng: Crux, Thánh Giá.

Thánh Giá là tình thương vô biên của Thiên Chúa qua Chúa Kitô, đã tỏ cho loài người bằng cách hứng chịu mọi đau khổ trên thập giá để cứu độ chúng ta, và ngược lại, Chúa muốn chúng ta cũng qua Thánh Giá đóng góp phần mình vào ơn cứu độ để cứu mình và anh em, để tất cả được sống lại vinh quang với Chúa. Chỉ một vài dòng đơn sơ, nhưng nói đến Thánh Giá là động chạm đến bao vấn đề hết sức quan trọng và sâu sắc.

2. Trao tặng người con duy nhất

Một nhà mục sư Tin Lành giảng về câu Kinh Thánh của Thánh Gioan trên rất hay: 2 gia đình, 1 Công giáo, 1 Tin lành đi lại với nhau rất thân, gia đình Công giáo có 5 người con, ông bà Tin lành đã già mà không có con. Họ quý mến nhau lắm và mọi sự thông cảm chia sẻ với nhau rất quảng đại. Một hôm ông bà Tin lành mạnh dạn nói với ông bà Công giáo: Cả 2 ta cùng thờ một Chúa Giavê, một Chúa Kitô, tuy là 2 Hội Thánh nhưng chúng ta vẫn quý mến nhau vì cũng gặp ở một Chúa. Chúa cho gia đình bác nhiều cô cậu, còn tôi trong cảnh già nua buồn bã, tôi muốn xin bác cho chúng tôi 1 cô hoặc 1 cậu để ông bà làm vui. Tôi hứa sẽ yêu thương giáo dục cháu hết sức! Ông bà Công giáo cảm động quá về bàn với nhau xem nên cho đứa nào.

- Con cả là một cậu trai tuấn tú, thông minh, ngoan ngoãn, nhất định không được. Vả ai lại cho trưởng nam đi.

- Con thứ là một cô gái xinh đẹp đạo đức lại vừa đính hôn với một thanh niên xứ bạn, ai lại cho đi đứa con chỉ vài ba tháng nữa sẽ về nhà chồng.

- Con thứ ba là cậu trai tàn tật, què chân. Hai vợ chồng buồn bã cho số phận hẩm hiu của con nên càng đem lòng ưu ái con để bù thiệt cho nó, thì sao có thể cho nó đi và lại cho bạn một đứa con tàn tật, làm sao coi được.

- Con thứ tư là một cô thiếu nữ 10 tuổi. Vừa nói tới bà đã khóc tru trếu vì bà coi cô như hòn ngọc. Bà coi cô là hình ảnh sống động của mình vì lời ăn tiếng nói, nụ cười, cả dáng đi đều giống hệt như bà.

- Con thứ 5 là cậu trai út, 4 tuổi, suốt ngày nói nói cười cười, khi ngồi trên gối mẹ, lúc lại nằm trên tay cha. Đi nhà thờ, đi dạo chơi luôn kèm theo mẹ cha sao có thể rời được. Rút cuộc đành phải báo lại cho ông bạn Tin lành là không thể cho ông bạn được đứa nào cả

Nhà mục sư cao giọng: Con người thân thiết nhau đến thế mà người có 5 con không thể cho ông bạn 1 đứa. Thế mà Thiên Chúa và nhân loại có thân thiết nhau được như thế không? Tội lỗi đã làm con người nên tử thần với Chúa, Chúa Cha lại chỉ có 1 người con vô cùng quý hóa, ấy mà Ngài lại cho con mình xuống trần gian tội lỗi chịu trăm ngàn đau khổ mà cao điểm là Thánh Giá để loài người được an vui.

3. Tôi có yêu thánh giá không?

Tự hào là những người yêu Thánh Giá hơn ai, mến Chúa hơn ai mà con lại không biến cải những Thánh Giá chúng con thành những cây Thánh Giá để nên giống Chúa, để biểu lộ tình yêu Chúa yêu tha nhân?

Thánh Têrêxa Avila thì nói: “Hoặc đau khổ hoặc chết." Thánh Mađalêna de Passi: “Không chết nhưng xin đau khổ mãi mãi." Thánh Rosa Lima: “Lấy vòng gai có mũi nhọn đội lên đầu, vác cây khổ giá nặng lâu giờ trong một ngày, ban đêm tự treo 2 tay lên khổ giá để kết hợp với Chúa hấp hối trên thánh giá xưa.

Thế mà con, tu sỹ Thánh Giá thì lại khiếp sợ Thánh Giá, chê chối tránh né Thánh Giá. Thật dân này chỉ mến ta bằng môi bằng miệng.

Nhà văn Montalenebat viết trong cuốn “Các đan sỹ Phương Tây” miêu tả lời than của cây gỗ Thánh Giá rất cảm động như sau: Từ năm xửa năm xưa, lâu lắm rồi, tôi không còn nhớ nữa, lúc đó tôi mọc ở khu rừng, họ đã hạ tôi xuống đất, cưa chặt và mang tôi đi. Những kẻ thù thô lỗ đã chiếm lấy tôi để thành một trò hề. Họ đem tôi lên một ngọn núi và chôn tôi xuống đất. Ở đó tôi thấy Chúa tể loài người trong uy quyền đi tới trèo lên tôi. Để khỏi bất tuân với người tôi không dám gẫy cũng không dám cong, tôi cảm thấy đất run rẩy dưới chân tôi. Tôi cũng run khi thấy vị anh hùng ôm lên lấy tôi, nhưng tôi không dám cúi mình xuống, cũng không dám lún sâu xuống đất. Dù sao tôi cũng phải đứng thẳng và vươn lên để dương cao trên dân chúng Đấng là vua cao cả, là Chúa trời đất. Họ xuyên thủng tôi bằng những cái đinh màu xám, những vết thương còn biểu hiện trên mình tôi ngày nay. Cả Ngài lẫn tôi đều bị chửi rủa. Máu từ cạnh sườn Ngài loang đổ trên mình tôi. Mặt trời tối sẫm, cả vũ trụ than khóc vua họ bị ngã xuống. Trong cuộc thương khó trên Núi Sọ, cây gỗ giá đã đồng hóa mình với Chúa Giêsu, đã góp phần vào ơn cứu chuộc –

Cây gỗ giá đã tuyên bố không dám gãy không dám cong mà cứ đứng thẳng và vươn lên. Còn ta, những người tự hào mình là kẻ hợp tác với ơn cứu độ, chuyền thông ơn cứu độ lại không dám đồng hóa với Chúa Kitô, không dám vươn lên, không dám vươn cao cho thế giới biết Đấng chịu đóng đinh là Chúa Trời Đất yêu thương ta vô cùng sao?

Lạy Chúa, xin cho con can đảm như Cha Charle de Foucauld: Khi tôi ôm lấy Thánh Giá thì một trật tôi ôm lấy Chúa Kitô chịu đóng đinh vào đó.

4. Treo cao trên thập tự

Trong truyền thuyết Hy Lạp cổ xưa, thần chữa bệnh có tên là Asklepios được biểu trưng bằng con rắn, chính vì lý do này, ngày nay hình con rắn được dùng để làm biểu tượng cho ngành Dược và ngành Y là những ngành khoa học nghiên cứu và chữa trị con người thoát khỏi bệnh tật.

Hơn nữa, con rắn đồng được giương cao trong Kinh Thánh mang ý nghĩa: Thiên Chúa cứu độ con người.

Ý nghĩa cứu độ được bắt đầu bằng những biến cố của dân Chúa khi thoát khỏi Ai Cập, thoát khỏi ách nô lệ đi vào đời tự do. Chính trong sự tự do suốt bốn mươi năm ròng rã nơi hoang địa, họ gặp nhiều thử thách tranh đấu. Bị thử thách, họ đã oán trách Thiên Chúa, vì thế cơn thịnh nộ của Chúa đã để cho rắn độc trong sa mạc cắn chết nhiều người. Dân Chúa biết tội và nhìn nhận tội lỗi của mình. Chúa đã đoái thương nỗi thống khổ của họ. Người truyền cho Môisê làm một con rắn bằng đồng, treo lên cây, để bất cứ ai bị rắn cắn, nếu nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu (x. Ds 21,4-9).

5. Ba thập giá

Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh hoạ Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ thứ 17 đó là bức tranh “Ba thập giá.” Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu trổi lên một cách ngạo nghễ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét. Tác giả như muốn nói rằng không trừ một người nào mà không dính líu vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.

Nhìn kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt gần như mất hút trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng đủ để cho các nhà chuyên môn chẩn đoán rằng đó chính là khuôn mặt của danh hoạ Rembrandt. Tại sao giữa đám đông của những kẻ đang đằng đằng sát khí khi tham dự vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembrandt lại chen vào khuôn mặt của mình? Câu trả lời duy nhất mà người ta có thể đưa ra để giải thích về sự hiện diện của tác giả giữa đám người lý hình: đó là ý thức tội lỗi của chính ông. Rembrandt muốn thú nhận rằng chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc treo Chúa Giêsu lên thập giá. Và qua sự có mặt của ông, tác giả cũng muốn nói với mỗi người chiêm ngắm bức tranh rằng, họ cũng dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.

6. Tuân phục thánh ý Chúa.

Khi nói đến ông Leonardo da Vinci, chúng ta thường nghĩ ngay đến những phát minh khoa học và những bức họa nổi tiếng của ông. Chúng ta không biết rằng để giải trí, ông Leonardo da Vinci còn sưu tầm những chuyện cổ tích hoặc ñaët ra những câu chuyện vui như câu chuyện sau đây về một cuộc đối thoại tưởng tượng giữa tờ giấy trắng và cây viết:

Tờ giấy trắng từ lâu nằm ù lỳ trên bàn giấy cùng với những đồng bạn khác, nhưng bỗng nó được chọn đem ra nằm giữa bàn và chịu cảnh cây viết mực đen ngòm vẽ lên nó không biết bao nhiêu là dấu hiệu mà nó không hiểu gì cả. Nó phàn nàn với cây viết như sau:

- Tại sao anh lại làm thế? Anh vẽ trên mình tôi những dấu đen làm mất đi sự trong trắng ban đầu. Anh làm nhục tôi thế này sao? Anh làm hư cả cuộc đời tôi rồi.

Nhưng cây viết trả lời:

- Không đâu anh giấy ạ, anh hiểu lầm tôi rồi. Tôi không bôi đen anh đâu, tôi vẽ lên anh những dấu hiệu, nhöõng dòng chữ kể từ nay anh không còn là một tờ giấy vô dụng nữa, nhưng có mang trên mình những sứ điệp. Anh trở thành kẻ cộng tác với con người, lưu giữ những tư tưởng cao siêu. Và vì thế được con người nâng niu, bảo vệ. Anh sẽ được sống mãi để trợ giúp cho con người.

Tờ giấy chưa kịp trả lời cây viết thì nó bỗng nhìn thấy một bàn tay người quơ lấy những tờ giấy khác, trước kia trắng tinh nhưng nay đã đổi mầu, đầy bụi mà quăng và ngọn lửa bên cạnh. Tờ giấy bị vẽ trên mình những lằn mực đen kia mới hiểu được hành động của cây viết và lấy làm sung sướng, vì được trở thành như người cộng tác lưu giữ trong kho tàng trí khôn con người.

Cuộc đời chúng ta có thể được so sánh như tờ giấy trắng. Nếu không chấp nhận để cho bàn tay của Thiên Chúa viết vào đó những dòng chữ, những chương trình hành động thì ta sẽ không được hạnh phúc trở thành người cộng tác với Thiên Chúa, trở thành những kẻ lưu truyền sự khôn ngoan của Ngài từ thế hệ này sang thế hệ khác. Lúc đầu, tờ giấy đã không hiểu được hành động của cây viết vẽ lên những dấu lạ trên mình nó. Con người chúng ta chắc cũng sẽ gặp trường hợp tương tự.

7. Lấy thứ kim cương nào?

Một vua kia muốn thử các con, xem ai khôn ngoan hơn, đặng nối ngôi sau khi mình băng hà, bèn lấy thứ kim cương thật quí gói vào một gói bằng giấy rất xoàng, khó coi lắm. Còn một thứ kim cương giả bằng thủy tinh thì để vào trong hộp rất lịch sự có vẻ rực rỡ ưa nhìn. Đoạn, vua gọi người con cả đến, bảo tùy ý muốn chọn thứ kim cương nào thì chọn. Thấy gói xoàng, con đó bỏ qua, song chọn cái đẹp, té ra là thứ kim cương giả. Sau vua gọi đến con út, hỏi muốn chọn lấy kim cương nào. Con đó nhìn cha bằng một cặp mắt dịu hiền, rồi nói:

- Thưa cha, xin cha lựa chọn dùm con.

Vậy, vua cha chọn thứ kim cương thật trong gói xoàng, và bảo con đó hãy đợi để mình sửa soạn cách trọn vẹn hơn nữa. Vua truyền thợ làm cái mũ triều thiên, trên đính thứ kim cương thật đó, coi rất đẹp đẽ, đoạn, để vào trong hộp bằng vàng đẹp hơn cái hộp đựng kim cương giả trước ngàn lần. Cuối cùng vua họp các thần dân lại tuyên bố rằng: Mai sau con út mình sẽ được nối ngôi làm vua.

8. Ông lão mất ngựa.

Một ông lão có con ngựa hay, một hôm tự nhiên đi mất. Hàng xóm đến chia buồn. Ông nói:

- Mất ngựa, nhưng sao các ông biết đó là họa cho tôi?

Cách mấy tháng sau, con ngựa trở về, dẫn theo một bầy ngựa hay khác. Hàng xóm cũng đến chia mừng. Ông nói:

- Được nhiều ngựa hay, nhưng sao các ông biết đó là phúc cho tôi?

Từ ngày có ngựa hay, con trai của ông lão ngày nào cũng thích cưỡi, rủi té què chân. Hàng xóm đến chia buồn. Ông nói:

- Con tôi què, nhưng sao các ông biết đó là họa cho tôi?

Năm sau có giặc. Nhà vua bắt lính. Thanh niên đi lính, mười người chết chín. Con trai ông lão vì què khỏi đi lính, nên cha con còn hủ hỉ với nhau.

Một khi đã biết sống tin vào Chúa quan phòng, chúng ta sẽ dễ dàng sống lạc quan vui vẻ như em bé trong tay mẹ mình, sống một đời thảnh thơi không lo lắng gì (x. Tv 131). Chúng ta phải có cái nhìn lạc quan vào sự đời, biết tìm ra cái hay, cái tốt để làm cho đời sống thêm sung sướng.

9. Gương của cha Pereyve

Cha Pereyve tưởng mình sẽ chết non, trong dịp cấm phòng chịu các chức nhỏ, ngài viết: bệnh của tôi không biết sẽ kéo dài bao lâu nữa, có khi đến mùa thu sắp tới hay sẽ dai dẳng cho đến mùa xuân sang năm, nếu được như vậy, càng hay, cứ thường tình mà nói, tôi có lẽ mà buồn.

Lạy Chúa, Chúa biết con muốn làm Linh mục, muốn giảng giải, giải tội, viết sách, nhưng thánh ý Chúa muốn cho con làm việc khác: việc chết non, việc vui lòng đón nhận cái chết. Lạy Chúa, con đã suy nghĩ, đã học hỏi kỹ điều Chúa dạy, và con xin giơ tay đón nhận. Lạy Chúa Giêsu, con xin ký nhận vào giấy đòi chết, và vui lòng đi. Con rước lấy sự chết với tất cả những gì tùy theo: ly biệt, đau lâu ốm dài, chiến đấu gay go, chết lúc nào đang ham sống bồng bột – hai mươi ba cái xuân – chết mà không dám phàn nàn vì chưa thực hành được những điều mơ ước, dầu khởi sự cũng chưa.

10. Thánh giá trong đời thường

Chúng ta hãy xem gương thánh nữ Têrêsa Hài Đồng đã sống thế nào trước những gian lao thử thách trong đời sống thường ngày. Thực ra, những sự hy sinh của thánh nữ chẳng lớn lao gì, nhưng thánh nữ đã biết lợi dụng khai thác triệt để với lòng yêu mến, do đó, các hy sinh ấy có giá trị to lớn. Ta hãy nghe thánh nữ kể:

 “Hai chúng con giùng giằng lèo xèo làm cho mẹ Bề trên (đang liệt bệnh) mở mắt thức dậy, thế là mọi lỗi đổ cả lên đầu con. Chị kia liến thoáng nói một thôi dài, mà đại ý chỉ có thế này: chính là tại Têrêsa Hài đồng đã làm om sòm. Nóng mặt, con muốn cãi lại ngay… Nhưng con bảo mình: nếu mà cãi phải cho mình bây giờ, chắc sẽ mất sự bằng an trong lòng. Đàng khác, vì còn kém nhân đức lắm, nên con đã không thể đứng yên để nghe chị ấy đổ tội cho mà không thưa lại vài lời cho ra nhẽ, con liền tính kế “đào vi thượng sách."

Nghĩ xong, con lủi đi như con quốc… nhưng vì trái tim quá hồi hộp thổn thức không thể bước đi xa được, chân như rủn ra, con phải cưỡng bách ngồi xệp xuống chân thang để được bình tĩnh hưởng cái thú không chiến mà thắng” (Trích Một tâm hồn, tr 40-41)

Những hy sinh nhỏ mọn hằng ngày, tuy nhỏ mọn tầm thường, nhưng rất có lợi cho ta nếu ta biết lợi dụng nó. Trong đời sống hằng ngày, không thiếu gì những dịp để chúng ta có thể làm những hy sinh dâng cho Chúa. Những xích mích va chạm trong đời sống hằng ngày thiếu gì, nhưng mấy khi chúng ta biết chịu đựng như Têrêsa Hài đồng!

11. Con hổ và lũ khỉ.

Người ta kể chuyện ngụ ngôn như sau: trong một khu rừng có một con hổ lớn và dữ tợn, lũ khỉ ghét con hổ này lắm. Một ngày kia, chẳng may, con hổ bị sa xuống hố do người thợ săn đào sẵn. Không còn cách nào thoát thân, con hổ chỉ còn biết ngồi chờ thần chết đến…

Lũ khỉ đi qua thấy thế mừng lắm, chúng chế diễu và thay nhau ném đá, lấy đất và bẻ các cành cây ném xuống con hổ cho bõ ghét. Con hổ chỉ còn biết ngồi chịu trận, không còn biết làm cách nào khác. Thấy thế, lũ khỉ thích chí càng ném hăng, ném mãi không chán, nhưng không ngờ, chính những hòn đá, cành cây ném xuống nhiều quá, làm cho hố cứ đầy dần lên, đến nỗi con hổ có thể nhờ đó mà nhảy ra khỏi hố được.

Đời là thế. Đau khổ cũng có ý nghĩa riêng của nó. Người ta nói: “Cái khó nó bó cái khôn." Nếu ta biết lợi dụng đau khổ thì nó sẽ trở nên có lợi cho ta: cũng như một hạt cát, nếu rơi vào mắt sẽ làm ta khó chịu, đau khổ; nhưng nếu những hạt cát ấy rơi vào miệng một con sò thì nó sẽ biến thành một hạt ngọc trai quí giá. Đau khổ đi theo chúng ta như hình với bóng, không thể nào rời nó được. Nhưng có một cái lạ: nếu ta đuổi nó thì cái bóng đi mất, nếu ta chạy trốn thì nó chạy theo. Chỉ còn có cách sẵn sàng chấp nhận đau khổ thì đời ta mới sung sướng được.

12. Hạt trân châu.

Ngày xưa có ba chàng kỵ mã vượt qua một bãi sa mạc quạnh hiu không một bóng người. Một hôm trời vừa sấp tối, ba chàng kỵ mã cũng vừa đến một bờ suối đã khô cạn từ lâu. Bỗng chốc trong đêm tối có một tiếng nói bí mật vang lên mơ hồ:

- Hãy dừng bước lại.

Cả ba đều tuân lệnh. Tiếng nói bí mật ấy lại tiếp tục vang lên mơ hồ:

- Các ngươi hãy xuống ngựa, bước xuống lòng suối, nhặt lấy cho mình ít đá sỏi, bỏ vào túi rồi tiếp tục lên đường.

Cả ba làm theo lời chỉ dạy thiêng liêng. Rồi tiếng nói kia lại cất lên trầm ấm:

- Hay lắm, các ngươi đã làm theo lệnh ta. Ngày mai, khi vầng đông vừa ló rạng, các ngươi sẽ vừa sung sướng vừa buồn bã.

Các kỵ mã lên đường rong duổi ban đêm. Quả đúng như lời mách trước, khi mặt trời vừa lên, ba chàng kỵ mã thấy cái gì lấp lánh trong túi mình. Thì ra, những hòn sỏi họ lấy khi hôm trước bây giờ đã trở thành những hạt trân châu sáng ngời muôn sắc. Cả ba đếu sung sướng, nhưng cũng vừa nuối tiếc. Họ sung sướng vì nhận được của báu, nhưng họ hối tiếc vì nhặt ít quá. (Nguyễn văn Huệ, báo Rạng đông, số 64, th 11/1970, tr 26)

13. Kinh dâng mình của cha Charles de Foucauld

Lạy Cha, con phó trót con cho Cha,

Xin hãy làm nơi con mọi sự đẹp ý Cha.

Cha làm chi mặc lòng, con cũng cám ơn Cha.

Con sẵn sàng luôn luôn, con nhận lãnh tất cả, miễn ý Cha làm tròn trong con, trong hết thảy loài Cha tạo dựng:

Con chẳng muốn chi khác nữa, vì Cha là Chúa trời con.

Con phó trót linh hồn con trong tay Cha, con dâng linh hồn con lên Cha, với tất cả tình yêu của lòng con.

Vì con mến Cha, và vì mến Cha nên con thấy cần phải hiến thân con.

Lạy Cha, con phó trót mình con cho Cha, không do dự đắn đo, song vô cùng tin cậy. Vì Cha là Cha của con.

14. Lễ Suy tôn Thánh giá--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

Lòng mến mộ và tôn kính Thánh Giá đã có từ lâu đời trong Kitô Giáo. Cụ thể, khi đề cập đến Giáo hội từ thời sơ khởi, vào thế kỷ đầu của ngàn năm thứ nhất, nhiều chuyên gia về giáo sử, đặc biệt như Giáo phụ Tertuliano, đều cho biết: “Bất kỳ làm một việc gì có ý nghĩa, người Kitô hữu đều làm dấu Thánh Giá." Thậm chí người Kitô hữu có thói quen làm dấu Thánh Giá trên người và vật như dấu chỉ sự chúc lành. Nhưng, phải đến thế kỷ thứ 4 trở đi mới có ngày lễ dành để tôn vinh Thánh Giá.

Đầu tiên, khi tìm được di tích Thánh Giá vào năm 326, bà Helena cho xây cất hai đền thờ, một tại núi Calvario và một tại Mộ Thánh ở Thánh Địa. Lễ khánh thành và cung hiến hai đền thờ này được tổ chức trọng thể tại Giêrusalem vào hai ngày 13 và 14 tháng 9 để mừng Đền thờ Calvario và Mộ Thánh. Năm 335, ngày 14 tháng 9 cũng mừng kính ngày tìm được Thánh Giá thực vào 14 tháng 9 năm 326. Vì gỗ Thánh Giá thực rất quý, nên được phân ra nhiều phần rất nhỏ, chia cho các Giáo hội tại mỗi nơi. Thành Constantinopoli được phần Gỗ Thánh lớn hơn và phần còn lại được lưu niệm tại Giêrusalem. Từ đó, ở Giêrusalem lễ tìm được Thánh Giá mừng kính trọng thể vào ngày 14 tháng 9.

Tiếp đến, Lễ Suy Tôn Thánh Giá được thiết lập tại Giêrusalem vào 14/9/629 như chứng tích sau:

Thế kỷ thứ 6, khi giặc giã nổi lên, vua Ba Tư Khosroès 1 (531–579), đem quân đến Cận Đông và đánh thắng quân của đế quốc Roma ở Phương Đông, chiếm đóng và tàn phá Thánh Địa, rồi cướp luôn cả Thánh Giá thực ở Giêrusalem. May thay, lúc ấy có ông Heraclius (575–641), vị tướng tài giỏi mới 35 tuổi, con của tổng trấn thành Carthage, đã lật đổ bạo chúa Phocas, rồi lên nắm quyền ở Constantinopoli ngày 3/10/610, và làm hoàng đế Byzantin, lấy hiệu là vua Heraclius 1 (610–641). Ông đã anh dũng điều khiển trận đánh và chiến thắng đầu tiên ngày 12/12/627. Ông rượt đuổi vua Khosroès 1 đến Ctésiphon, và tại đây, con trai của Khosroès là Siroes Shirva đã giết cha và giao nộp Thánh Giá thực lại cho vua Heraclius 1.

Năm 629, Thánh Giá được kiệu về Constantinopoli, rồi từ đó rước khải hoàn về Giêrusalem. Vua Heraclius muốn vác Thập Giá vào đền thờ để tạ ơn Chúa. Ông mặc vương phục và đội mũ hoàng đế. Nhưng khi vác Thánh Giá lên vai, ông thấy quá nặng. Tức thì, Đức Zacharias, Giáo chủ Giêrusalem, liền nói với vua: “Xin hoàng đế thận trọng, vì với mũ miện và y phục vương quyền mà ngài đang mặc, ngài không hợp để vác Thập Giá giống như thân phận khó nghèo, khiêm tốn của Chúa Giêsu Kitô."

Nhà vua nghe theo lời Đức Giáo chủ, bỏ hết mũ miện, vương phục. Tức thì gỗ Thập Giá trở nên nhẹ nhàng và Heraclius 1 vác Thập giá gỗ vào đền thờ. Với gỗ Thập Giá Thánh, Thiên Chúa còn ban nhiều phép lạ, trong số có một người chết được sống lại; bốn người bất toại được lành bệnh; mười người phong cùi được trở nên sạch sẽ, bình phục; mười lăm người mù được sáng mắt; vô số người bị quỷ ám được giải thoát...” (Theo nghiên cứu của Abbé L. Jaud, Vie des Saints, 1950)

15. Ba thái độ trước thập giá

Hôm đó, cô và Betty ghé một sạp bán đồ phế thải. Ann vừa lôi ra một khay đồ linh tinh, Betty bước tới hỏi:

– Có đồ gì đáng giá không?

Ann trả lời:

– Không, toàn là đồ năm vố thôi.

Đoạn cô bước sang bên cạnh nhường cho Betty vào xem. Betty chăm chú nhìn vào đống lặt vặt, nhặt lên một cây thánh giá cũ kỹ han rỉ và nói:

– Thật khó mà tin được. Tôi đã tìm được đồ quý: cây thánh giá này làm bằng chất bạc xưa.

Cô bạn của Ann bèn về nhà lau chùi và đánh bóng cây thánh giá. Đây quả là một vật quí. Về sau, đứa con trai bảy tuổi của Betty tên Bobby cầm cây thánh giá lên, cung kính ngắm nghía hồi lâu. Bỗng nhiên cậu bé oà lên khóc. Betty liền hỏi:

– Con sao vậy?

Bobby nói:

– Con không cầm lòng được khi thấy Chúa Giêsu bị treo trên thập giá.

******

Ba người nhìn vào cây thập giá, có ba thái độ khác nhau: một người dửng dưng cho là đồ ve chai, người khác thích thú vì khám phá ra vật quí báu, còn người khác nữa lại xúc động rơi lệ vì nhận ra Chúa Giêsu chịu đau đớn trên thập giá.

16. Thập giá nhẹ nhất

Có một câu chuyện dụ ngôn sau đây về một người đàn bà cứ phàn nàn, than trách Chúa vì phải vác một thập giá quá nặng. Một hôm, Chúa đưa người đó đến một cửa hàng bán các thập giá đủ cỡ để người đó chọn lựa. Người đàn bà hăm hở bước vào cửa hàng và dựng cây thập giá của mình vào tường trước cửa. Bà tự nhủ trong lòng: “Đây là chuyện cả đời người, phải hết sức cẩn thận trong việc lựa chọn.”

Sau đó, bà đi xem mọi nơi trong cửa hàng, và thử hết cây thập giá này đến cây thập giá khác, nhưng không tìm được một cây nào làm chị vừa ý vừa lòng. Cây thì quá dài, cây thì quá ngắn. Cây thì quá cong queo, cây thì quá nặng. Chị tiếp tục tìm kiếm. Cuối cùng, chị tìm được cây thập giá mà chị cho là ưng ý nhất. Chị mang đến với Chúa và nở nụ cười mãn nguyện, thưa với Chúa, “Lạy Chúa, đây chính là cây thập giá mà con hằng tìm kiếm. Con xin vác lấy.”

Khi chị vừa hí hửng ra khỏi cửa hàng, thì Chúa mỉm cười nói với chị: “Ta rất vui mừng vì con đã chấp nhận cây thập giá này. Đây cũng chính là cây thập giá mà con đã vác vào và dựng ở tường của cửa hàng này.”

17. Sức sống từ thánh giá

Có hai bà già mắc bệnh lao, nằm bên cạnh nhau trong một căn phòng bệnh viện. Họ biết rằng cơn bệnh của họ không còn phương cách nào cứu chữa, chỉ còn chờ ngày được nghỉ yên dưới lòng đất lạnh mà thôi.

Một bà thì cô độc, chỉ có một mình, bởi vì gia đình và những người thân đều đã chết vì trúng đạn pháo kích. Còn bà kia thì đã có chồng, nhưng ông chồng này đã bỏ bà từ lâu và hiện đang sống với người vợ lẽ. Bà biết rõ điều ấy.

Trước những nỗi đớn đau và bất hạnh như thế, mọi lời an ủi và khích lệ dường như đã trở nên thừa thải, nếu không muốn nói là đã trở nên lẩm cẩm và ngu ngốc. Thế nhưng, mỗi lần viếng thăm, tôi đều thấy hai bà cầm cây Thánh giá và nói với tôi:

- Cuối cùng chỉ còn lại cây Thập giá. Bởi vì chính tại Thập giá, Chúa Giêsu đã đau khổ trước chúng tôi và hơn chúng tôi bội phần. Cây Thập giá của Chúa đã nói với chúng tôi nhiều điều và đã đem lại cho chúng tôi niềm an ủi tuyệt vời nhất giữa những đắng cay chua xót của cuộc đời.

Hôm nay, chúng ta không phải chỉ suy tôn Thánh giá trong lời kinh tiếng hát hay trong những nghi thức phụng vụ, mà còn phải biết suy tôn Thánh gía trong chính cuộc sống chúng ta, bằng cách chấp nhận những hy sinh gian khổ mà chúng ta gặp phải vì lòng yêu mến Chúa, bởi vì đó chính là cây thập giá đời thường Ngài muốn chúng ta vác lấy để bước theo Ngài.

Bên trên những gai nhọn là cánh hồng nở thắm. Bên trên thập giá đời đời thường là vinh quang phục sinh chờ đón.

18. Thánh Giá chiến thắng

Chúng ta biết 300 năm đầu, Giáo Hội Mẹ Roma bị đế quốc Roma trù dập, nhất là triều đại vua Nêrô, những tín hữu thời ấy phải sinh hoạt tôn giáo trong các hang toại đạo, là nghĩa trang ngầm dưới đất, họ lợi dụng luật Roma không cho phép ai động đến nơi có mồ mả. Tuy nhiên nếu bị phát hiện ai là người Công Giáo thì phải chịu những hình khổ kinh hoàng: người thì quăng cho thú dữ ăn thịt, kẻ khác bị treo trên cây gỗ và đốt lửa dưới chân… Suốt 300 năm, các tín hữu thời sơ khai ở Roma không thể xây Nhà Thờ được.

Năm 312, tướng Constantino đưa bốn vạn quân đánh chiếm thành Roma, quân đội Roma đông gấp ba lần cùng với những chiến hào và nhiều vũ khí tối tân, tướng Constantino khó mà thắng được. Khi Constantino đưa quân bao vây thành Roma, ông cầu nguyện với Chúa rằng: “Lạy Chúa, tuy tôi là người ngoại đạo, tôi xin Chúa cho tôi dấu chỉ có thắng được Roma hay không? Nếu tôi đánh chiếm được thành này, tôi sẽ không bao giờ quên ơn Chúa.” Vừa dứt lời cầu nguyện, ông nhìn lên trời thấy lá cờ Thập Giá bay phất phới với hàng chữ “In hoc signo vinces” (cứ dấu này ngươi chiến thắng). Constantino hết sức vui mừng, ông ra lệnh cho binh lính phải khắc trên cán gươm hai chữ PX, đây là chữ tắt của tiếng Hy Lạp, có nghĩa là Chúa Kitô, rồi ông ra lệnh giương cao thập giá thúc quân tấn công, thế là quân đội ông mạnh như vũ bão ào ạt tràn vào thành, quân Roma do tướng Maxence chỉ huy không kịp trở tay, chính quân đội của ông dùng gươm giết lẫn nhau, vì họ muốn chống lại vị chỉ huy của họ!

Ông Constantino lên làm vua lãnh đạo Roma vào ngày 28 tháng 10 năm 312, và ông ra lệnh cho toàn đế quốc Roma phải tôn trọng đạo Công Giáo, qua chiếu chỉ Edit de Milan phải chấm dứt bách hại người Công Giáo. Ông dâng cung điện của ông để làm Đền Thờ đầu tiên của Giáo Hội Roma. Đó là Đền Thờ Laterano, trong Phụng Vụ Hội Thánh hằng năm vẫn dành riêng ngày 09 tháng 11 để kính nhớ việc cung hiến Đền Thờ này. Từ đó, vua Constantino ra lệnh cho toàn đế quốc Roma cho phép người Công Giáo được tự do xây Đền Thờ.

Năm 326, bà Hêlêna, mẹ của vua Constantino cũng vì nhớ ơn Chúa ủng hộ cho con bà thành công, bà đã cho người đi tìm Thánh Giá Chúa và người ta đào bới đồi Golgotha, gặp một nơi có ba cây thập giá nằm gần nhau, người ta đoán đây là nơi Chúa Giêsu bị đóng đinh với hai tên trộm. Nhưng không biết đâu là Thập Giá của Chúa Giêsu. Lúc ấy, người ta đưa đến những người tàn tật, què quặt,đui mù, sờ vào ba cây thập giá, riêng chỉ có một cây bệnh nhân nào đụng đến đều được lành mạnh. Đó là dấu chỉ người ta xác định Thập Giá Chúa Giêsu.

Năm 628,vua Ba Tư là Khosroès I (năm 531-579) chiếm thành Giêrusalem và cướp Thập Giá đưa về Ba Tư. Sau này vua Heraclius I (610-641) rượt đuổi vua Khosroès I đến Ctésiphon, tại đây con trai của vua Khosroès là Siroes Shirva đã giết vua cha và giao cây Thập Giá lại cho vua Heraclius I vào ngày 12 tháng 12 năm 627. Đến năm 629 Thập Giá được kiệu về Constantino rồi từ đó rước khải hoàn về Giêrusalem.

Thứ Sáu Tuần Thánh năm ấy, vua Heraclius cho tổ chức rước Thập Giá mà ông mới chiếm lại được đưa lên đồi Golgotha để cử hành lễ Mở Khăn. Chính vua mặc áo cẩm bào vác Thập Giá.Trong đoàn rước đó có Giám mục Zacharias, giáo chủ thành Giêrusalem chủ sự. Đoàn rước đi được một quãng đường, thì tự nhiên vua Heraclius ngã xuống, nhiều người đến nâng vua dậy để tiếp tục cuộc rước, nhưng vua không thể chỗi dậy được. Lúc đó Giám mục Zacarias lên tiếng nói: “Vua không thể chỗi dậy vác Thập Giá được, vì vua không giống Chúa Giêsu! Chúa Giêsu xưa kia bị lột trần như tên nô lệ vai vác thập giá, còn vua thì mặc áo lộng lẫy, nên không thích hợp để vác Thập Giá của Chúa.” Vua nghe thế, ông liền cởi áo cẩm bào và thay áo thường dân, lúc đó vua mới đứng dậy tiếp tục vác Thập Giá lên đồi Sọ!

19. Thờ lạy thánh giá

Có một thiếu nữ nô lệ da đen đạo đức và trung thành nên được chủ quí mến. Mỗi khi chọn thêm đầy tớ mới, ông để cô chọn lựa giùm ông. Một hôm cô lại chọn một ông già có tật. Ông chủ nhất định không chịu mua vì nghĩ rằng hắn chẳng được việc gì, nhưng cô nữ tì đó cứ nài nỉ mãi nên buộc lòng ông phải mua người nô lệ già cả tật nguyền đó.

Ít lâu sau, người nô lệ già này bị bệnh nặng và được cô nữ tì đó săn sóc với tình cảm như một người con thảo. Ông chủ ngạc nhiên hỏi:

- Ông ấy là cha cháu hay sao mà cháu chăm sóc kỹ như thế.

- Thưa ông, đó không phải là bố cháu, cũng không phải là bà con của cháu, mà còn là kẻ thù của cháu nữa. Khi cháu còn nhỏ, ông ta đã bắt cóc cháu để bán như một đứa nô lệ. Cháu làm thế, vì cháu tin vào chiến thắng sau cùng của tình yêu Đức Kitô.

Tình yêu Đức Kitô đã chiến thắng, và cây thập giá được dựng lên khắp nơi. Ở đâu có cây thập giá ở đó vang lên lời ca “Đây là cây thánh giá, nơi treo Đấng cứu độ trần gian - chúng ta hãy đến thờ lạy.”

20. Chết cho người mình yêu

Gianna sinh năm 1922 tại Milan, nước Ý, là con thứ 10 trong gia đình có 13 anh chị em. Trưởng thành, cô lập gia đình với Pietro Molla và sinh được ba người con. Năm 1962, khi đã 40 tuổi và sau 13 năm không sinh nở, Gianna mang thai lần thứ tư. Khi khám sức khỏe định kỳ, bà biết thai nhi phát triển khá tốt nhưng một khối u nằm cạnh thai nhi đang lớn dần. Là bác sĩ chuyên khoa giải phẫu, nên Gianna biết rất rõ, nếu cắt bỏ khối u, thai nhi sẽ chết, nhưng nếu muốn con bà chào đời an toàn, tính mạng của bà sẽ lâm nguy. Sau khi suy nghĩ và cầu nguyện, Gianna quyết định chấp nhận hy sinh tính mạng, và chịu đựng mọi đau đớn để con bà được sống.

Thứ 6 Tuần Thánh năm 1962, Gianna chuyển dạ, bà nói với nữ tu y tá trong bệnh viện:

- Thưa Sơ, chắc tôi không thể sống được một tuần nữa, nhưng tôi sẵn sàng chấp nhận tất cả, miễn là đứa trẻ được sinh ra mạnh khỏe.

Tối thứ bảy Tuần Thánh, các bác sĩ trong bệnh viện phải phẫu thuật đưa bé gái con bà ra đời an lành mạnh khỏe. Sau lễ Phục Sinh đúng một tuần, Gianna thở hơi cuối cùng. Bà hy sinh cho con bà được sống, đã vui lòng chấp nhận thánh giá cuộc đời và chu toàn trách vụ người mẹ cách trọn hảo. Năm 1994, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phong chân phước và 10 năm sau, chính ngài tôn phong hiển thánh cho bà.

Có người chỉ thấy cành gai mà không thấy bông hồng, nhưng với người hiểu biết thì trên đỉnh của cành hồng đầy gai nhọn là đóa hoa khoe sắc và ngát hương. Cũng vậy, người bi quan và không có niềm hy vọng sẽ thấy cuộc đời là một chuỗi khổ đau; người có đức tin sẽ nhận biết thập giá là phương thế giúp họ nên giống Đức Giêsu, vì thế họ vui lòng đón nhận mọi thử thách để được kết hợp với Người trong tình yêu, dám chấp nhận thua thiệt vì hạnh phúc của đồng loại.

21. Những lời cuối cùng của Steve Jobs

Những lời cuối cùng của Steve Jobs - người sáng tạo ra Iphone Apple - chấn động cả thế giới:

"Tôi đã đạt đến tột đỉnh của thành công. Trong con mắt người khác, cuộc đời tôi là một biểu tượng của thành công. Tuy vậy phía sau của công việc tôi có rất ít niềm vui. Tài sản của tôi cuối cùng cũng bình hoá với tôi. Trong lúc này trên giường bệnh viện, hồi tưởng về cuộc đời, những lời khen ngợi, tự cao, tự hào về tài sản nhưng tôi cảm thấy thật vô nghĩa trước tử thần, cái chết.

Trong bóng tối, khi nhìn ánh đèn màu xanh và tiếng ồn ào của máy dưỡng khí, tôi cảm nghiệm được những hơi thở của tử thần rất gần kề. Bây giờ tôi mới hiểu thấu, nếu một lần bạn đã có tiền đủ cho cuộc đời của bạn, bạn hãy đeo đuổi một mục đích khác không liên quan đến tiền bạc. Nên tìm một điều gì quan trọng hơn. Ví dụ như là lịch sử tình yêu nhân loại, nghệ thuật, ước mơ tuổi thơ… Đừng làm nô lệ cho vật chất, giàu sang, vì nó sẽ biến bạn thành một người yếu ớt như tôi.

Thượng Đế tạo dựng chúng ta để cảm nghiệm được tin yêu trong tim, chứ không phải những ảo tưởng về tiền tài, danh vọng như tôi đã làm trong suốt cuộc đời nhưng không thể đem theo tôi được. Tôi có thể mang theo được những kỉ niệm của yêu thương. Đây mới chính là sự giàu sang sẽ có thể đồng hành với bạn, là sức mạnh, ánh sáng soi sáng cho bạn tiến tới. Tình yêu có thể đi hàng ngàn cây số và chính vì thế cuộc đời không có giới hạn. Đi, tiến đến nơi mà bạn muốn, Cố gắng lên để đạt được những mục đích. Tất cả là ở trong tim và trong lòng bàn tay của bạn.

… Mất tài sản mình có thể tìm lại được, có một cái khi đã mất thì không thể tìm lại được: sự sống. Dù đang ở giai đoạn nào trong cuộc đời, cuối cùng, tất cả phải đối diện khi bức màn sự sống kéo xuống. Làm ơn hãy nâng niu và nhận thức được giá trị tình yêu gia đình, tình yêu bạn đời và tình yêu bạn hữu, gìn giữ sức khỏe cho bạn và chăm sóc đồng bào của bạn."

Và Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hãy đúc một con rắn đồng và treo nó lên làm dấu; kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được sống.” Môsê đúc một con rắn đồng, treo nó lên làm dấu, và kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được chữa lành.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng Nicôđêmô rằng: "Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời. Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời.

“Quả thật, Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người, để tất cả những ai tin vào Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ."

ĐỨC MẸ SẦU BI – ĐỨNG GẦN THẬP GIÁ

Lời Chúa: Ga. 19, 25-27

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, đứng gần thập giá Chúa Giêsu có Mẹ Người, cùng với chị Mẹ Người là Maria vợ ông Cơ-lô-pát, và Maria Mađalêna.

Khi thấy Mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu thưa cùng Mẹ rằng: "Thưa Bà, này là Con Bà."

Rồi Người lại nói với môn đệ: "Này là Mẹ con."

Và từ giờ ấy, môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà mình.

Đó là lời Chúa.

TRUYỆN KỂ

1. Ở bên Đức Mẹ sầu bi

Vào ngày thứ sáu tuần thánh tại các nước châu Mỹ La Tinh được cử hành với một truyền thống rất đặc biệt, ở đó người ta sống lại sự hiện diện của Mẹ Maria dưới chân thập giá Chúa Giêsu: Các phụ nữ tập trung lại dưới chân thập giá, họ đi lại từng bước những khổ nạn của Chúa Giêsu trong tiếng hát, trong những lời cầu nguyện và cả trong tiếng khóc nữa.

Các tín hữu còn giữ một truyền thống khác gọi là “chia buồn." Truyền thống này được cử hành sau nghi thức phụng vụ của Giáo hội vào chiều thứ sáu tuần thánh: Mọi người trở vào nhà thờ để an ủi Đức Mẹ Sầu Bi, như thể được ở bên Mẹ khi Mẹ đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu, dân chúng chia sẻ nỗi đau của Ngài, vừa nói lên chính nỗi đau của họ. Trong nghi thức truyền thống chia sẻ nỗi đau buồn này là bức tượng của người phụ nữ mặc áo đen đứng dưới chân thập giá, khi xác Chúa Giêsu được tháo gỡ khỏi thập giá, thì bức tượng của người phụ nữ được đặt ở đầu chiếc quan tài.

Người phụ nữ mặc áo đen ấy dĩ nhiên tượng trưng cho Mẹ Maria, là Mẹ của Người Con bị hành quyết, là người đàn bà luôn phấn đấu để tin vào sứ điệp của Con. Mẹ đã phải dằn lại cơn giận dữ trước thái độ phản bội của dân chúng, và của những người môn đệ thân tín của Chúa Giêsu. Mẹ đã phải tha thứ cho tất cả mọi người… (Theo R. Veritas).

2. Kinh Hãy Nhớ

Mẹ Têrêsa kể: "Khi hội dòng Thừa Sai Bác ái vừa được thành lập, chúng tôi khẩn thiết cần một ngôi nhà để làm nhà mẹ, thế là tôi khấn xin Đức Trinh Nữ một căn nhà và hứa sẽ dâng cho Đức Mẹ 85.000 kinh Hãy Nhớ:

Lạy Thánh Nữ Đồng Trinh Maria, là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người này chạy đến cùng Đức Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời. Nhân vì sự ấy con lấy lòng trông cậy than van chạy đến sấp mình xuống dưới chân Đức Mẹ, là nữ đồng trinh trên hết các kẻ đồng trinh. Xin Đức Mẹ đoái đến con, là kẻ tội lỗi. Lạy Mẹ là Mẹ Chúa cứu Thế, xin chớ bỏ lời con kêu xin, một rủ lòng thương và nhận lời con cùng. Amen.

Hồi ấy con số các dì chưa đông. Làm sao để trả nợ cho Mẹ Maria đây?

Cuối cùng tôi nghĩ ra cách: tập trung tất cả các trẻ em và những người đau yếu, chúng tôi đang chăm sóc tại Nirmal Hriday và Shishu Bhavan. Tôi dạy họ kinh Hãy Nhớ đó và tất cả chúng tôi cùng hứa đọc.

Chẳng bao lâu tòa nhà trở thành của chúng tôi.

3. Đứng dưới chân thập giá

Thánh Gioan mô tả Đức Mẹ dưới chân Thánh Giá:

- Người không rũ rượi như những người mẹ khác khi thấy con mình đang chết đau đớn. Nhưng người “đứng”, một tư thế rất kiên vững. Thế “đứng” của Đức Mẹ đã là đề tài cho bao người chiêm ngưỡng và suy gẫm: Stabat Mater dolorosa!

- Trong giờ phút đau khổ tột cùng này, không ai nâng đỡ an ủi Mẹ, trái lại Mẹ còn lãnh thêm nhiệm vụ “Thưa Bà, đây là con Bà."

“Kể từ giờ ấy, người môn đệ rước Người về nhà mình." Lạy Mẹ Maria, người môn đệ ấy là chính con. Kể từ hôm nay, con muốn rước Mẹ về ngôi nhà của lòng con và của cuộc đời con, để Mẹ cùng sống với con trong những lúc vui cũng như những lúc buồn, nhất là những lúc buồn; những khi sung sướng và nhất là những khi đau khổ, để Mẹ dạy con biết cách chịu đau khổ thế nào để những khổ đau ấy trở thành nguồn ơn cứu độ cho con và cho anh chị em con.

4. Đứng thẳng

Đức Cha Tihamer Toth có thuật lại một câu chuyện hết sức cảm động về một em bé tên là Barlaam như thế này. Thời kỳ cấm đạo đẫm máu trong thế kỷ thứ nhất của đạo Thiên Chúa, một người dân quê bị bắt và bị dẫn ra trước tượng thần Jupiter.

- Hãy bỏ hương vào lửa rồi dâng cúng cho thần linh chúng ta!

Người ta giục anh như thế.

- KHÔNG! anh trả lời...

Người ta bắt đầu hành hạ anh, nhưng anh vẫn đứng im. Người ta nâng tay anh lên trên ngọn lửa, người ta nhét hương vào bàn tay anh và bảo anh chỉ có việc bỏ hương rơi xuống lửa:

- Hãy bỏ hương xuống, mày sẽ được tự do.

- KHÔNG. Barlaam, người dân quê đó vẫn trả lời như thế. Anh vẫn đứng im, tay giơ lên... ngọn lửa bốc mạnh liếm hẳn vào bàn tay anh, hương bắt đầu bén khói, nhưng anh vẫn không động đậy... Bàn tay anh bị cháy xém với hương, nhưng Barlaam thà chịu chết vì Đạo còn hơn chối Chúa. Một quả tim biết chịu đựng!

Đó là thái độ của những người theo Chúa. Phải sống thật anh hùng. “Đứng thẳng!”

“Lúc ấy, đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người.... Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh”

5. Chết vì hoảng sợ

Một người hành hương đang định vào Baghdad thì gặp bệnh dịch ở dọc đường. Bệnh dịch cũng đang trên đường đi vào đó. Thấy thế người khách hành hương hỏi bệnh dịch:

- Mi định làm gì ở đó?

- Tôi sẽ giết 5000 người.

Người hành hương rùng mình và ngay lập tức anh thay đổi dự định và đi về hướng khác. Tuy nhiên, ít lâu sau anh gặp một người từ trong thành phố bị nạn dịch đó đi ra và được biết không phải 5000 nhưng là 50.000 người đã chết.

Liền sau đó anh lại gặp bệnh dịch đang đi tới một thành phố khác. Bằng một giọng thật nghiêm khắc anh buộc tội bệnh dịch:

- Mi nói láo. Mi nói chỉ giết 5000 người, vậy mà thực tế lại quá khác!

Bệnh dịch giải thích cách vui vẻ:

- Tôi chỉ giết có 5000 người. Số còn lại chết vì hoảng sợ”

6. Sức mạnh từ thánh giá cho người mẹ

Người ta kể về một người đạo đức nọ như sau: Trong một cơn bệnh thập tử nhất sinh, chỉ còn một phương thế duy nhất có thể hy vọng cứu sống bà đó là tiến hành cuộc giải phẫu. Người đàn bà chấp nhận cuộc giải phẫu, bà yêu cầu cho con trai bà được chứng kiến giờ phút đau khổ của bà. Vào thời buổi mà thuốc tê mê chưa có, thì bệnh nhân thường phải trải qua những cơn đau khủng khiếp. Mặc dù đau đớn vô cùng, nhưng người đàn bà vẫn cứ cắn răng chịu đựng. Nhưng đến cuối giờ mổ, khi các y sĩ chạm đến gần tim, người đàn bà rùng mình kêu lên: "Lạy Chúa tôi." Chứng kiến cảnh đau đớn của người mẹ, người con trai không làm chủ được những cảm xúc, anh đã buột miệng thốt lên những lời phàn nàn phạm đến Chúa. Lúc bấy giờ người mẹ liền nghiêm nghị bảo con: "Con ơi, con hãy im đi, con làm mẹ đau đớn hơn các bác sĩ này nhiều. Con đã làm sỉ nhục Ðấng đã ban sức mạnh và an ủi mẹ." Nói xong, bà ta mở bàn tay ra, và giơ cho mọi người xem một tượng chuộc tội nhỏ bà nắm chặt trong tay suốt giờ mổ. Và đó chính là thứ thuốc tê mê đã xoa dịu cơn đau đớn của bà.

Sau mấy tháng quằn quại trong đớn đau, người đàn bà đã yên nghỉ trong Chúa. Trước khi lìa đời, bà đã trao lại cho cậu con trai tượng ảnh chuộc tội và căn dặn: "Con hãy giữ lấy tượng chuộc tội này. Ðây sẽ là niềm an ủi của con."

7. Bảy sự đau khổ của Đức Mẹ

Lời của cụ ngôn sứ Simêon về Đức Maria (Lc 2, 25-35), là bài Tin Mừng chúng ta có thể đọc trong ngày lễ hôm nay, theo sách Phụng Vụ các bài đọc.

Trốn sang Ai-cập (Mt 2,13-15)

Lạc mất Đức Giê-su (Lc 2,41-52)

Đức Mẹ nhìn Đức Giê-su vác thập giá (Lc 23,27)

Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá (Ga 19,25-27), là bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay.

Đức Mẹ đón nhận thân xác đã chết của Đức Giê-su (Ga 19,38-40)

Đức Mẹ ở bên mộ Đức Giê-su (Ga 19,41-42)

Điều phải đánh động chúng ta, khi đọc qua danh sách bảy sự đau khổ của Đức Mẹ, đó là mọi sự đau khổ của mẹ đều có liên quan đến Đức Giê-su, con của Mẹ; một cách cụ thể, những đau khổ của Mẹ đến từ biến cố Giáng Sinh, đến từ đời sống ẩn dật, đến từ sứ mạng rao giảng Nước Trời, đến từ cuộc Thương Khó, đến từ Thập Giá, và sau cùng đến từ cái chết của Ngài.

8. Tình mẹ

Đứng trước vành móng ngựa, người con bị tuyên án tử hình vì những tội tày trời: cướp của giết người, buôn bán ma tuý.

Toà hỏi người mẹ đứng phía dưới: Bà có muốn nói gì với người con không.

Bà thưa: Xin quý toà hãy cho con tôi một cơ hội sống để làm lại con người. Xin cho tôi được chết thay nó.

Lời Chúa Tuần 23 Thường Niên
Thường niên V-GS C-PS Ngoại lịch