LỜI CHÚA TUẦN 11 THƯỜNG NIÊN
CÂU TRUYỆN MINH HỌA
CNTN 11A - SAI ĐI NHÓM MƯỜI
HAI
THỨ BA - YÊU THƯƠNG KẺ THÙ ĐỂ
NÊN TRỌN LÀNH
THỨ TƯ - ĐẠO ĐỨC THỰC SỰ VÌ
CHÚA
THỨ NĂM - LỜI CẦU NGUYỆN CỦA
CHÚA GIÊSU
THỨ BẢY - HÃY LÀM TÔI TỚ
THIÊN CHÚA
SINH NHẬT THÁNH GIOAN TẨY
GIẢ - TÊN NÓ LÀ GIOAN
CNTN 11A - SAI ĐI NHÓM MƯỜI
HAI
Lời Chúa: Mt 9, 36 - 10, 8
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ
dân chúng, liền động lòng xót thương họ: vì họ tất tưởi bơ vơ như những con
chiên không có người chăn, Người liền bảo môn đệ rằng: "Lúa chín đầy đồng,
mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa."
Và Người liền triệu tập mười hai
môn đệ, ban cho họ quyền năng trên các thần ô uế, để họ xua đuổi chúng, và chữa
lành mọi bệnh hoạn tật nguyền.
Ðây là tên của mười hai tông đồ:
trước hết là Simon cũng gọi là Phêrô, rồi đến Anrê em ông; Giacôbê con của
Giêbêđê và Gioan em ông; Philipphê và Bartôlômêô; Tôma và Matthêu người thu thế;
Giacôbê con của Alphê và Tađêô; Simon người Cananêô và Giuđa Iscariốt, kẻ nộp
Người.
Chúa Giêsu sai mười hai ông này
đi và truyền lệnh cho các ông rằng: "Các con đừng đi về phía dân ngoại, và
đừng vào thành các người Samaritanô. Nhưng tốt hơn, các con hãy đi đến cùng
chiên lạc của nhà Israel trước đã, và rao giảng rằng: "Nước Trời đã đến gần."
Hãy chữa lành người liệt, phục sinh kẻ chết, chữa lành người phung, và xua trừ
ma quỷ. Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không."
TRUYỆN KỂ
1. Ánh mắt cứu độ--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Tình yêu bắt đầu từ đôi mắt.
Nhưng ngày nay người ta ít có thời giờ nhìn nhau, nên tình yêu không đến. Người
ta quá bận rộn vì cuộc sống ngày càng vội vã. Ra đường là đi như chạy để tranh
thủ thời gian. Nên không có thời giờ nhìn, hỏi han, trò truyện, thông cảm. Và
vì bận rộn nên nhiều lần ta lẩn tránh không muốn nhìn những thảm cảnh chung
quanh, ngay trước mắt ta.
Chúa Giêsu thì không như thế.
Người nhìn thấy đám đông và chạnh lòng thương. Nếu nhìn một đám đông thoáng qua
thì khó mà chạnh lòng thương. Chạnh lòng thương là tức là đã nhìn kỹ từng người,
thấy rõ hoàn cảnh đáng thương của từng người. Đứng trước một đám đông, Chúa vẫn
có thời giờ nhìn kỹ từng người, vì Chúa quan tâm đến số phận của từng người.
2. Giáo huấn của Giáo hội.
Công đồng Vatican II khẳng định:
“Tự bản tính, Giáo hội lữ hành phải truyền giáo” (TG 2). Bản tính Giáo hội là
truyền giáo tức là đem Tin mừng cứu rỗi cho nhân loại. Nhiệm vụ đó buộc tất cả
mọi phần tử của Giáo hội tức là mọi người đã được rửa tội. Công đồng đặc biệt
chú trọng đến phương diện tông đồ giáo dân: “Giáo dân làm tông đồ tức là tham
gia vào chính sứ mạng cứu rỗi của Hội thánh. Chính Chúa – do phép rửa tội và
phép thêm sức – giao cho tất cả mọi người bổn phận tông đồ ấy” (LG số 33).
Đức thánh Cha Gioan Phaolô II
cũng quả quyết: “Không một ai trong những người tin vào Chúa Kitô, không một tổ
chức nào trong Giáo hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này: Đó là loan báo Đức
Kitô cho mọi dân tộc” (Sứ vụ Đấng Cứu độ, 3).
3. Ta không có tay.
Câu truyện xẩy ra tại Đức vào
khoảng cuối thế chiến thứ hai. Tại một ngôi làng kia, một toán binh sĩ Mỹ tình
nguyện giúp dân chúng xây dựng lại cuộc sống của họ. Nhưng họ không xin thực phẩm,
thuốc men, nông cụ, mà chỉ xin tái thiết một pho tượng Chúa Giêsu bị đổ nát vì
bom đạn.
Từ nhiều thế kỷ qua, pho tượng
là niềm tự hào của họ, giờ đây, chỉ còn là những mảnh vụn. Liệu những binh sĩ Mỹ
có thể làm được công việc khó khăn này không? Qua bao ngày tìm tòi vất vả, họ
cũng đã nhặt lại được từng mảnh và dựng lại pho tượng, chỉ có điều là có hai phần
trong pho tượng họ không thể tìm thấy.
Họ dựng pho tượng lên giữa quảng
trường ngôi làng và phủ lên bằng tấm vải lụa, tấm vải này chỉ được mở ra bằng một
nghi thức do ông Thị trưởng chủ tọa.
Khi dân chúng trong làng tề tựu
đông đủ, ông Thị trưởng đọc diễn văn cảm ơn các binh sĩ Mỹ và cho mở tấm lụa
ra. Mọi người ồ lên với tất cả kinh ngạc, vì pho tượng tuyệt đẹp nhưng lại
không có đôi cánh tay. Dưới chân pho tượng mọi người đọc được hàng chữ lớn: “Ta
không có tay, các ngươi có thể cho ta mượn cánh tay của các ngươi không”?
Trước khi về trời, Chúa Giêsu,
qua các Tông đồ, đã trao phó cho Hội thánh tiếp tục sứ mạng của Ngài cho đến tận
thế. Vì vậy, Hội thánh chính là Chúa Kitô nối dài. Và một cách nào đó, Chúa
Kitô đang xử dụng đôi cánh tay của Hội thánh để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của
Ngài. Chúng ta cũng là cánh tay nối dài của Hội thánh nên chúng ta cũng phải cộng
tác vào trong việc cứu rỗi này.
4. Muối và ánh sáng
Hai hình ảnh xem ra khác nhau
nhưng đều giống ở sức tác động tốt:
- Muối thì thấp hèn, âm thầm và
khiêm tốn. Nhưng muối giữ cho môi trường chung quanh nó khỏi hư, lại mặn mà.
- Ánh sáng thì rực rỡ, huy
hoàng. Ánh sáng soi sáng cho người ta biết đường đi, nhận rõ các đồ vật.
Cả hai đều phải chịu sự hao mòn
hy sinh thì mới gây tác động: muối tan dần đi, ngọn đèn nến ngày càng lụn xuống.
Lý do tồn tại của cả hai là để
gây tác động tốt: nếu muối không mặn và đèn không sáng thì không có ích gì nữa
và phải bị vất đi.
Thân phận và hoàn cảnh của mỗi
Kitô hữu khác nhau: có người âm thầm hèn mọn như muối, có người rực rỡ huy
hoàng như ánh sáng. Nhưng mọi người đều có sứ mạng tác động tốt lên môi trường
mình sống. Không tác động tốt thì không còn là Kitô hữu nữa.
Chính con người của ta phải thể
hiện hình ảnh Chúa Kitô ra trong đời sống hằng ngày, để thực sự con người ta là
tấm gương phản chiếu Chúa Kitô cho người khác. Qua cuộc sống tốt đẹp của ta,
người ta sẽ thấy Chúa tốt đẹp như thế nào.
5. Nhà bác học Louis Pasteur.
Trên chuyến xe lửa tiến về
Paris, người sinh viên trẻ ngồi bên cạnh một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tầu
chuyển bánh, cụ rút trong túi áo ra một cỗ tràng hạt và từ từ chìm đắm trong sự
cầu nguyện.
Người sinh viên quan sát cử chỉ
của cụ già với vẻ bực bội. Sau một hồi lâu, xem chừng không còn đủ kiên nhẫn,
anh ta mới lên tiếng:
- Thưa ông, ông vẫn còn tin vào
những chuyện nhảm nhí à?
Cụ già thản nhiên trả lời:
- Đúng vậy, tôi vẫn tin. Còn cậu,
cậu không tin sao?
Người sinh viên cười ngạo mạn quả
quyết:
- Lúc nhỏ tôi có tin, nhưng bây
giờ làm sao mà tôi có thể tin vào những chuyện ấy được. Khoa học đã thực sự mở
mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi đi, hãy quẳng chuỗi hạt ấy đi, và hãy học hỏi những
khám phá mới. Ông sẽ thấy rằng những gì ông tin từ trước đến giờ đều là mê tín
dị đoan.
Cụ già nhỏ nhẹ hỏi người sinh
viên:
- Cậu vừa nói về những khám phá
mới của khoa học. Cậu có cách nào giúp tôi hiểu được điều này không?
Người sinh viên hăng hái đề nghị:
- Ông cứ cho địa chỉ, tôi sẽ gửi
đến cho ông một quyển sách. Ông sẽ say mê đi vào thế giới phong phú của khoa học.
Cụ già từ từ lấy trong túi áo ra
một tấm danh thiếp và trao cho người sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, người
sinh viên bỗng xấu hổ đến tái mặt và lặng lẽ rời sang toa khác. Bởi vì trên tấm
danh thiếp ấy có ghi: Louis Pasteur, Hàn lâm viện khoa học Paris.
6. Bộ mặt của anh hề.
Có một gánh xiếc bị hỏa hoạn,
ông chủ gánh xiếc sai anh hề chạy đi kêu dân chúng trong làng đến tiếp tay chữa
cháy, chẳng vậy lửa bốc to có thể lan sang khu vực họ đang ở. Anh hề vội vàng
chạy đi, nhưng anh càng gào thét, múa máy bao nhiêu dân chúng lại càng cười lớn
bấy nhiêu, vì họ nghĩ rằng anh hề đang diễn một màn hài hước.
Thấy không ai tin mình, anh hề
giật râu, giật tóc và bật khóc nức nở, khiến khuôn mặt đầy phấn sáp của anh càng
lọ lem hơn. Gào thét hết cả hơi sức, nhưng chẳng có ai tin anh, cuối cùng ngọn
lửa cháy lớn lan tới thiêu hủy cả làng ra tro.
Sống đạo là truyền đạo. Ai cũng
biết rằng không có lời rao giảng nào hùng hồn hơn chứng tá của cuộc sống; không
sứ điệp nào đáng tin hơn là gương sáng. Không gì khôi hài bằng đi loan báo tin
buồn với khuôn mặt một anh hề, và cũng không gì khôi hài bằng mang tin vui với
bộ mặt u buồn của người đi đưa đám.
Nhiều khi trong cuộc sống đạo,
chúng ta cũng mang lấy bộ mặt của những anh hề. Sứ điệp mà chúng ta loan báo
không được đón nhận, bởi vì cung cách chúng ta không phù hợp với nội dung của sứ
điệp ấy. Chúng ta loan tin vui cứu độ, nhưng chúng ta có bộ mặt của những người
không được cứu rỗi. Chúng ta loan báo tin vui của bác ái, hòa bình, nhưng cuộc
sống chúng ta lại chỉ có những hành động của oán thù, ích kỷ, chiến tranh, hận
thù.
7. Lá thư thánh Phanxicô Xavie gửi cho thánh Inhaxiô Loyola, bề
trên của ngài:
“Con thường cảm thấy bị thôi thúc muốn đi đến
các đại học Âu châu đặc biệt là đại học Sorbonne ở Paris và la lên như một gã
điên cho những kẻ giầu tri thức hơn là thiện chí để yêu cầu họ sử dụng tri thức
của họ sao cho có lợi ích... Phải chi trong khi nghiên cứu về các nhân văn họ
cũng đồng thời nghiên cứu sổ kế toán mà Thiên Chúa sẽ đòi hỏi họ về tài năng
Ngài đã ban cho họ! Lúc đó nhiều người hẳn sẽ xúc động thốt lên: “Lạy Chúa, này
con đây, Chúa muốn bảo con làm gì”?
8. Thánh Gioan Thiên Chúa
Có một vị bá tước giầu có ngày
kia cho thánh Gioan Thiên Chúa 25 đồng vàng để giúp người nghèo khổ. Đến chiều
bá tước đó giả làm người ăn xin tới bệnh viện xin giúp đỡ. Động lòng thương,
Gioan Thiên Chúa lấy ra 25 đồng vàng mới nhận được ban sáng và trao cho người
nghèo đó kèm theo những lời khích lệ ân cần. Hôm sau bá tước tới thú nhận và
xin lỗi vì đã thử lòng thánh Gioan Thiên Chúa. Trước khi từ giã, bá tước đưa
150 đồng vàng và trả lại 25 đồng vàng đã cho hôm trước. Rồi sau đó hằng tuần
ông cho đem tới bệnh viện tiền bạc, thuốc men, lương thực, quần áo để giúp
thánh Gioan Thiên Chúa trong việc bác ái từ thiện, đặc biệt là giúp các bệnh
nhân nghèo.
Chúng ta nguyện noi gương Chúa
Giêsu có cái nhìn động lòng thương đối với những anh em khốn khó để đem tình
thương của Chúa đến cho họ qua lời cầu nguyện cũng như qua những gì ta có thể
làm được hầu mưu ích cho anh em về phần xác cũng như phần hồn. Amen.
9. Hết lòng vì việc lớn
Phạm Ngũ Lão người làng Hưng
Yên, mồ côi cha từ còn nhỏ, nhà nghèo. Một hôm ông đang ngồi đan sọt ở vệ đường
mà lòng mải nghĩ về đất nước. Quân lính đi qua lấy giáo đâm thủng đùi ông mà
ông không hay. Hưng Đạo cho người hỏi mới biết ông là người tài liền đưa ông về
dinh. Ông đã đánh thắng quân giặc rất nhiều trận. Về sau ông bình cả quân Lào
và chiêm thành nữa nên vua phong ông làm võ đại tuớng bình Chiêm.
Sự đóng góp của chúng ta dù bé mọn
nhưng cũng là góp cho Giáo Hội thêm tiến triển. Đời sống chúng ta nếu tội lỗi
thì sẽ ảnh hưởng đến Giáo Hội (một con sâu làm rầu nồi canh). Một người không sống
đạo đức thánh thiện cũng có ảnh thưởng đến tất cả, đừng nghĩ một việc nhỏ nhoi
không có giá trị gì. Đức thánh cha Piô 12 nói: ”Sự cứu rỗi của nhiều người còn
tùy thuộc vào lời cầu nguyện và hy sinh của mỗi phần tử Giáo Hội."
Chúng ta như vậy là có trách nhiệm
phải sống tốt lành. Cha mẹ luôn tạo nên sự kính trọng trong gia đình. Người trẻ
luôn kính trọng người trên. Người khoẻ biết kính trọng người yếu như thế làm
nên một dây chuyền tốt lành làm phát triển Giáo Hội.
Lạy Chúa, xin cho con biết sống
thánh thiện đạo đức, làm gương sáng cho mọi người, như thế con làm ích cho Giáo
Hội của con luôn mãi.
10. Thầy sai các con đi--Lm. Thu Băng, CRM.
Cách đây khoảng 100 năm, Giáo Hội
Truyền Giáo Lyon nước Pháp sai một lớp đầu tiên gồm 10 linh mục đi sang
Dohomey, Phi Châu để làm việc truyền giáo. Ba năm sau, cả 10 người đều bị giết
chết. Thế nhưng, dù rừng sâu, nước độc, dù dân chúng lạc hậu, có nhiều ác cảm,
hàng hàng lớp lớp các nhà truyền giáo vẫn hăng hái ra đi. Người này ngã xuống,
người khác đứng lên. Đến nay sau hơn một thế kỷ, những giọt máu pha lẫn mồ hôi
của các ngài đã đâm bông kết trái: Giáo Hội Dohomey đã vươn lên mạnh mẽ, lại
hân hạnh có được vị Hồng Y bản xứ tiên khởi là Bernard Gantin.
Câu chuyện trên diễn tả lại cảnh
Chúa Giêsu triệu tập mười hai môn đệ và sai họ đi rao giảng Tin Mừng cho muôn
người. Các môn đệ đã trải qua những cuộc tập luyện thấm mồ hôi để có một cái
nhìn hướng về tương lai. Các môn đệ đã bị nhiều thử thách, đã bị nhiều người
đánh giá thấp kém khi họ ra đi rao giảng Tin Mừng. Hầu hết các ngài đã bị đẫ
máu đào và kết quả là hạt cải nhỏ bé đã trở nên một cây lớn lao cho chim trời đến
đậu mà chúng ta gọi là Đạo Kitô Giáo. Cây cải nhỏ bé đã xum xuê cành lá, đã
vươn dài trên khắp thế giới và đã làm cho nhiều tâm hồn được ơn trở lại.
Chúng ta có thái độ nào trong việc
xây dựng Giáo Hội? Mỗi người chúng ta có thể làm một điều gì để đến với mùa gặt?
Tại sao ngày nay có ít thợ gặt hơn trước đây?
11. Làm sao để có nhiều tông đồ?
Cha Franklyn M. Mcafee đưa ra bảy
điểm nhận xét làm sao để ấp ủ và làm phát sinh ơn kêu gọi làm Linh mục Tu sĩ
trong gia đình tại Hoa Kỳ. Cha đề nghị gia đình sống và thực hành những việc đạo
hạnh sau đây:
1. Khi con cái thấy gia đình đi dâng thánh lễ Chúa
nhật, có sửa soạn trước, đi sớm và ở lại mấy phút tạ ơn sau lễ.
2. Khi con cái thấy gia đình cầu nguyện, lần chuỗi
chung ban tối, và đọc kinh trước bữa ăn.
3. Khi con cái thấy trong gia đình có lòng tôn sùng
người Mẹ của các Linh mục cách riêng một cách sống động.
4. Khi con cái được nghe những chuyện nhân đức của
các thánh như Thánh Don Bosco, Thánh Gioan Vianney.
5. Khi con cái được nghe những chuyệt tốt, tích cực
về các Linh mục; khi được nghe về Linh mục nọ làm phép cưới cho cha mẹ, Linh mục
kia rửa tội cho con.
6. Khi con cái được nghe nói về tinh thần hi sinh,
thay vì chỉ nghe chuyện làm tiền và hưởng thụ. Một lý do khiến ơn kêu gọi giảm
sút là khi con cái có thói quen nhận lãnh tất cả những gì chúng muốn, nên thường
cảm thấy khó cho đi và khó từ bỏ.
7. Khi con cái thường nghe nói về Đức Giáo Hoàng, cầu
nguyện cho Ngài và thấy hình Ngài trong nhà.
Nếu gia đình hội đủ những yếu tố
trên, mà không thấy ơn kêu gọi làm Linh mục Tu sĩ trong gia đình, thì cha mẹ vẫn
đạt được đích chung trong việc cổ võ và sống lý tưởng người Công Giáo. Những
người con mặc dầu lập gia đình cũng sẽ hướng dẫn giáo dục con cái như cha mẹ
mình. Và biết đâu ơn kêu gọi sẽ đến trong thế hệ sau.
12. Chúa chọn những người bất toàn
Mười hai tông đồ là 12 con người
bất toàn, thậm chí có người còn phạm trọng tội. Thế nhưng Đức Giêsu đã kêu gọi
và tiếp nhận họ vào chương trình chuyển trao tình yêu Thiên Chúa đến cho mọi
người.
Phêrô là người có tính khí nóng
nảy bộp chộp khác thường. Khi thì kiên vững như đá, nhưng có lúc lại mềm nhão
hơn bùn. Hôm thì thề quyết theo Chúa đến cùng, nhưng có ngày lại quá run sợ mà
chối phăng.
Giacôbê và Gioan, con của
Giêbêđê là những người nóng nảy. Họ từng xin Chúa cho lửa trời xuống thiêu sạch
bọn người Samari hổn láo. Không những thế hai ông còn mang ít nhiều tham vọng
riêng tư, muốn được ngồi nơi những vị trí tốt nhất trong vương quốc của Đức
Kitô, khiến cho xung đột nảy sinh trong hàng ngũ tông đồ.
Matthêô xuất thân từ tầng lớp bị
xã hội khinh khi ghét bỏ, một người bị xếp đồng hàng với gái điếm vì bán mình
làm kẻ thâu thuế cho ngoại bang.
Simon nhiệt thành là người thuộc
phái Zealot, đang âm mưu lật đổ chính quyền đô hộ Rôma để dành lại độc lập tự
do cho dân tộc, bất chấp thủ đoạn, miễn sao đạt được mục đích chính trị là sách
lược của phái Zealot. Ấy là chưa nói đến Giacôbê con của Anphê và Thađêô là những
người dễ có khuynh hướng cực đoan quá khích.
Tôma thì cứng lòng. Khó tin tưởng
một ai. Điều gì cũng đòi phải có chứng minh hẳn hoi, chứ "trăm nghe không
bằng mắt thấy." Còn Giuđa Iscariot, bên ngoài rất thanh liêm ngay chính, nhưng
bên trong đầy tham lam thủ đoạn, sẵn sàng phản bội để tìm kiếm lợi riêng.
Những con người thiếu sót, lầm lỗi
là thế nhưng Đức Giêsu lại triệu tập để trao cho họ một sứ mạng lớn lao. Như thế,
không phải chỉ có những ai hoàn hảo, đầy tài năng mới được mời gọi, và không phải
khi nào tự thấy xứng đáng, tôi mới lên tiếng đáp trả. Nhưng đúng hơn, tình yêu
Thiên Chúa đón nhận tất cả, dù là con người tầm thường yếu đuối, miễn sao tôi
có được tâm hồn rộng mở cho ơn Ngài.
13. Nhiều cách truyền giáo
Ruddell Norris là một chàng trai
cần mẫn, nhưng lại có tính nhút nhát. Nói chuyện với kẻ khác chàng đã thấy khó
khăn rồi, huống chi phải bàn chuyện tôn giáo với họ. Thế rồi một ngày kia,
chàng nảy ra một ý kiến.
Ruddell đọc sách khá nhiều và
chàng biết có nhiều cuốn sách nói về đức tin Công giáo. Vì vậy chàng quyết định
dành ra một phần tiền tiết kiệm hàng tuần để mua những cuốn sách ấy. Ruddell để
những cuốn sách ấy ở những nơi mà chàng nghĩ người ta có thể cầm lên đọc để giết
thời giờ. Chẳng hạn như ở những phòng đợi khám bệnh và phòng tiếp khách.
Ngày kia, có một phụ nữ vốn là bạn
của gia đình chàng kể cho cha mẹ chàng biết vợ chồng cô ấy đã theo đạo Công
giáo như thế nào. Cô nói: “Tất cả bắt đầu do một cuốn sách nhỏ mà tôi đã tìm thấy
tại phòng đợi ở bệnh viện."
Có nhiều linh mục, tu sĩ và ngay
cả giáo dân, thay vì tặng quà hay phát thưởng bằng những món quà vật chất, họ lại
trao gởi những cuốn sách thiêng liêng, sách đạo đức, sách giáo dục như những
món quà đầy ý nghĩa và hữu ích cho đời sống tâm linh của con người. Đó là một
trong những cách hữu hiệu để thi hành sứ mệnh truyền giáo mà hôm nay Đức Giêsu
kêu gọi: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt
sai thợ ra gặt lúa về."
14. Chúa cần thiện chí
Một tác giả tưởng tượng việc
Chúa chọn các tông đồ như sau: Sau những đêm dài cầu nguyện, Ngài rảo bước khắp
nơi nhưng không chọn được người nào. Ngài đành đăng quảng cáo, nhưng trong số
những người đến trình diện Ngài cũng không chọn được ai.
Ngài đành tổ chức thế vận hội.
Môn đầu tiên là cầu nguyện: nhiều người biểu diễn cầu nguyện rất hay nhưng Chúa
không chọn được ai cả. Môn thứ hai là thờ phượng, cũng thế. Môn thứ ba là giảng
thuyết, cũng thế.
Chán nản vì mất giờ vô ích, Chúa
Giêsu rời vận động trường thả bộ ra bờ biển hóng gió và ở đây Ngài thấy một đám
dân chài. Ngài đứng quan sát và nhận ra có một số người để hết tâm hồn vào công
việc. Ngài nghĩ thầm họ là những người có quả tim. Và thế là Ngài chọn họ làm
tông đồ của Ngài.
15. Ðẹp thay bước chân người đi loan Tin Mừng--Lm. Augustine,
SJ.
Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng
Hôm ấy, Ðức Cha Thể (Théphanô
Théodore Cuenot sinh 1802 tại Pháp, chết tử đạo 1861 tại Việt Nam) gọi thày Do
lên và hỏi thẳng thày về cách thày sẽ thực thi mệnh lệnh truyền giáo như thế
nào:
- Thày phải mở qua ngõ An Sơn, tức
Tây Sơn, một con đường để đi truyền giáo cho các dân tộc thiểu số: Thày sẽ làm
thế nào để hoàn thành việc đó?
- Thưa Ðức Cha, con sẽ làm lái
buôn, Thày Do đáp lời, để trong vai lái buôn, con sẽ tiến sâu vào phía bên kia
ranh giới nơi những lái buôn chưa từng vượt qua. Một khi khảo sát xong địa
hình, con sẽ trở về đưa một vị thừa sai đến vùng đó.
- Quá tốt, Ðức Cha Thể nói tiếp,
Cha mong đợi rất nhiều ở Thày.
Thế là thày Do được trang bị bằng
phẩm chất của hai thánh Têphanô và Lorensô xưa, tức chịu chức phó tế. Không tậu
ngay được môn bài làm lái buôn, thày Do xin làm người giúp việc cho lái buôn.
Sau thời gian ngắn, người chủ hết sức hài lòng về anh giúp việc này liền thăng
chức cho anh được làm đầu bếp. Thày sáu Do, vai mang gùi chứa đựng nồi niêu
chén bát, tháp tùng ông chủ lái buôn đi hết làng này sang làng khác. Thày kiên
trì hỏi han anh em dân tộc về ngôn ngữ, phong tục, tập quán của họ.
Sau sáu tháng sống đời phiêu bạt,
thày sáu Do đã biết tạm đủ thổ ngữ dân tộc để dùng trong trường hợp phiêu lưu một
mình. Không còn lý do để ở làm đầu bếp lâu hơn nữa cho ông chủ lái buôn người
kinh, thày sáu Do bỏ An Sơn về Gò Thị, trình báo mọi sự lại cho Ðức Cha Thể.
Nay thày muốn làm lái buôn thực thụ để có thể đi sâu vào những buôn làng dân tộc
mà các thương gia người kinh khác chưa tới bao giờ. Ðức Cha Thể tán thành ý kiến
và cho bốn chủng sinh đi theo thày Do.
Ðoàn thương gia của thầy sáu Do
hoàn toàn di chuyển ban đêm. Với nhiều thận trọng khôn khéo, họ đã an toàn đến
với bộ lạc Hà Ðrông. Nhưng trước kia thầy sáu Do làm người đầu bếp nên không ai
chú ý tới thầy làm chi. Nay thầy đóng vai ông chủ buôn người kinh, thầy liền bị
người Hà Ðrông để ý muốn chiếm lấy hàng hoá mà họ tưởng là rất quý giá; họ đồng
thời còn muốn bắt chủ buôn và các phụ tá để bán sang Lào làm nô lệ! May thay thầy
Do biết được ý định đen tối của chủ nhân Hà Ðrông hiếu khách một cách giả dối.
Thầy và các phụ tá đã kịp thời chạy trốn lúc đêm khuya, bỏ lại đàng sau tất cả
hành lý và đồ đạc. Khi bọn cướp kéo đến bao vây nhà trọ, phái đoàn của thầy đã
cao chạy xa bay trên đường về Gò Thị báo cáo cho Ðức Cha Thể biết kết quả.
Trước hết như đã thấy ở trên, thầy
sáu Do đã biết được một ít thổ ngữ dân tộc, đó là điều cơ bản; kế đến và nhất
là thầy đã khám phá ra con đường độc đạo, hiểm trở, ngoài các con đường thông
thường của các thương gia người kinh sử dụng, mà qua đó các vị thừa sai có thể
kín đáo đến được các vùng rừng núi phía Tây. Con đường này hết sức cam go và vất
vả, lại dài hơn những lối đi khác, bởi vì phải đi một vòng quanh rộng lớn theo
hướng Bắc trước khi rẽ sang hướng Tây. Ðó là lối đi an toàn, bởi lẽ không một
thương gia người kinh nào có can đảm dấn bước vào đó. Sau khi xem xét chu đáo.
Ðức Cha Thể đã chọn lối đi này.
16. Tình yêu có sức hoán cải
Philip là một con người rất đáng
mến. Giờ đây ở tuổi sáu mươi ông tốt bụng khôi hài, nhân từ và quảng đại. Nếu bạn
quan sát ông trong ngày họp mặt hàng năm của gia đình mở rộng, bạn có thể nhìn
thấy điều này. Ông không kéo sự chú ý về mình. Ông chỉ có mặt một cách tuyệt diệu.
Cười nói và hòa đồng, ông làm cho mọi người cảm thấy thoải mái. Ông lôi cuốn mọi
người đến với ông. Mục đích duy nhất của ông dường như là giúp đỡ những người
khác. Ông không có một suy nghĩ nào về mình.
Nhưng ông không như thế trước
đây. Ít năm trước, ông hầu như ngược lại. Sự hiện diện của ông trong ngày họp mặt
gia đình hàng năm là một điều bối rối đặc biệt cho vợ và các con ông. Tại sao?
Bởi vì lúc đó ông là người nghiện rượu. Từ sáng sớm ông đã uống rượu. Dường như
ông chỉ quan tâm đến một mình ông thôi. Ông không thể giúp đỡ một ai. Người ta
tránh xa ông và nói chuyện với ông càng ít càng tốt. Điều làm cho vấn đề tệ hơn
là, khi ông say, ông trở nên thô tục.
Bây giờ, ông dễ mến vì ông đã bỏ
rượu và thay đổi cuộc đời. Thật vậy, bạn không thể không yêu mến ông, khi ông
còn uống rượu. Quả thật, hầu như không thể mến yêu ông lúc đó. Dù sao qua những
năm tháng tối tăm ấy khi ông còn uống rượu, vợ con ông tiếp tục yêu thương ông.
Tình yêu thương và sự quan tâm của họ, làm ông có khả năng đối diện những vấn đề
của ông, và đi tìm sự giúp đỡ. Chính tình yêu của họ làm cho ông trở lại.
Trong bài đọc 2, thánh Phaolô
nói: “Hầu như không ai chết vì người công chính, họa may có ai dám chết vì một
người lương thiện chăng." Thánh nhân nói tiếp rằng chứng cứ thật sự Thiên
Chúa yêu thương chúng ta là Đức Kitô, Con Thiên Chúa đã chết vì chúng ta, ngay
khi chúng ta còn là những con người tội lỗi.
17. Gia đình ơn gọi
Đã có bao giờ bạn nghe nói về một
gia đình có sáu linh mục và năm nữ tu chưa? Đức hồng y Hebert Vaughan, Tổng Giám
Mục Westminste, nước Anh, đã xuất thân từ một gia đình như vậy. Gần 20 năm,
thân mẫu Ngài quì cầu nguyện trước Thánh Thể một giờ mỗi ngày để xin Chúa cho
các con bà trở thành linh mục.
Khi Đức Hồng Y tương lai ở tuổi
21, Ngài đã mô tả đời sống Chúa của thân mẫu Ngài: “Trong ngày, mẹ tôi thường ở
trước Thánh Thể. Trước bữa điểm tâm... mặt người tươi tắn và bình thản... trong
những ngày này tôi quá cảm ích về tình yêu nồng hiệt và lòng sùng kính của mẹ
tôi đối với bí tích Thánh Thể."
Và Thiên Chúa đã đáp lại lời cầu
xin của người mẹ phi thường này thế nào? Tất cả năm cô con gái của bà đã trở
thành nữ tu – và 6 trong số tám người con trai của bà đã trở thành linh mục. Ba
trong sáu linh mục ấy trở thành giám mục, và một trong ba Giám mục ấy được tấn
phong hồng y.
Chúng ta phải nhận đây là câu
chuyện hiếm có nhưng nó nhắc nhở như Chúa Giêsu nói với chúng ta trong Tin Mừng
hôm nay: “Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa."
Câu chuyện đó nhắc nhở như chúng
ta thấy ngày nay rất cần nhiều linh mục, và những tôi tớ đặc biệt khác của
Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều biết sự cần đến nhiều người được huấn luyện và
được truyền chức để mang Thiên Chúa đến cho con người, và con người cho Thiên
Chúa. Chúng ta có thể làm gì để tăng triển số người dâng hiến đời sống cho việc
đem Chúa Kitô đến cho thế giới?
18. Cầu nguyện và hy sinh
Giữa bốn bức tường nhà kín,
thánh nữ Terêxa đã âm thầm cầu nguyện và chịu đựng những hy sinh thay cho các vị
thừa sai, để những cố gắng của Giáo Hội trên cánh đồng truyền giáo gặt hái được
nhiều thành quả tốt đẹp. Chỉ mình Chúa mới biết được những ơn ích mà thánh nữ
đã thực hiện. Nhưng chúng ta có thể nhân ra tầm mức rộng lớn khi thấy Giáo Hội
tuyên phong thánh nữ làm bổn mạng các xứ truyền giáo. Theo tương truyền thì số
người trở lại do lời cầu nguyện và những hy sinh của thánh nữ cũng đông không
kém những người trở lại của thánh Phanxicô Xaviê, một người đã dành suốt cả đời
mình lăn lộn trên cánh đồng truyền giáo tại Á châu.
Năm 1683, Chúa Giêsu đã hiện ra
với thánh nữ Magarita và xin thánh nữ cầu nguyện cho những tội nhân biết ăn năn
trở lại. Ngài nói với thánh nữ:
- Một linh hồn công chính có thể
xin ơn tha thứ cho hàng ngàn kẻ tội lỗi.
Khi hiện ra tại Lộ Đức, Mẹ Maria
cũng đã nói với chị Bernadette:
- Phải cầu nguyện cho các tội
nhân.
Cùng với lời cầu nguyện, chúng
ta hãy thêm vào đó những hy sinh. Có một ông đại úy hồi hưu sống trong tình trạng
khô khan nguội lạnh. Khi ông lâm bệnh nặng và không còn hy vọng sẽ qua khỏi, vị
linh mục mời ông xưng tội, nhưng ông đã từ chối một cách dứt khoát. Lần sau, vị
linh mục lại tìm đến nhưng người ta đã cấm không cho vào. Trở về nhà, bỗng vị
linh mục nảy ra một ý định là dâng một gìơ kinh và hy sinh một ly cà phê thường
lệ ở bữa ăn sáng để cầu nguyện cho bệnh nhân. Và vị linh mục đã thực hiện như
thế. Một vài ngày sau, điện thoại reo vang, người ta mời vị linh mục đến giải tội
cho ông đại úy vì ông ta đã đổi ý.
Sự hy sinh tự nó không quan trọng,
nhưng sẽ đem lại những hậu quả to lớn, nếu chúng ta biết hy sinh vì Chúa, biết
kết hiệp với những đớn đau của Chúa Giêsu trên thập giá.
Những chiếc rễ mặc dù nhỏ bé và
chúng ta không nhìn thấy, nhưng lại rất cần thiết vì chúng hút nhựa sống từ
lòng đất làm cho cây cối được lớn lên, đâm bông và kết trái. Cũng thế, những lời
cầu nguyện và hy sinh là như những chiếc rễ nhỏ làm cho Giáo Hội không ngừng được
phát triển và sống động.
19. Làm gương sáng
Thực vậy muốn rao giảng Tin mừng,
chúng ta không cần phải làm Linh mục hay tu sĩ, nhưng chúng ta vẫn có thể và phải
rao giảng bằng chính đời sống gương mẫu của chúng ta vì như tục ngữ đã bảo:
- Lời nói như gió lung lay,
việc làm như tay lôi kéo.
Biết đâu nhờ đời sống đạo đức và
thánh thiện, bác ái và yêu thương của chúng ta mà làm cho người khác trở về
cùng Chúa, hay ít nữa cũng đặt ra trong đầu óc họ một câu hỏi: Tại sao chúng ta
lại dễ thương đến thế?
Ngày kia, thánh Phanxicô Assie gọi
một thày dòng đến và bảo:
- Này thày, chúng ta cùng nhau
đi giảng đạo nhé.
Hai cha con ra đi, rảo qua các
đường phố một vòng rồi trở về. Thày dòng bỡ ngỡ và hỏi:
- Thưa cha, bao giờ chúng ta mới
đi giảng đạo?
Thánh nhân trả lời:
- Chúng ta đã đi giảng đạo rồi
đó.
Thày dòng thắc mắc:
- Lạ thật, mới chỉ đi một vòng
phố, có nói lời nào đâu?
Nhưng thánh nhân đã cắt nghĩa:
- Chúng ta đã giảng đạo bằng
chính thái độ nghiêm trang và tề chỉnh của chúng ta.
Thế giời hôm nay không thiếu những
bài diễn văn hùng hồn và nảy lửa. Thế nhưng những bài diễn văn ấy là như tiếng
nhạc chúng ta nghe thoảng ngoài tai, nhưng không đủ sức thúc đảy chúng ta hành
động. Thế giới hôm nay không thiếu những nhà hùng biện tài ba, nhưng thiếu rất
nhiều nhưng người làm gương sáng.
20. Khao khát rao giảng Tin Mừng
Một vị tông đồ tại bắc cực đã
phát biểu:
- Trên miềm băng giá này vẫn có
những thương gia lặn lội tìm mua da gấu, thế mà không có một linh mục, một tu
sĩ hay một giáo dân thiện chí nào đến tìm kiếm các linh hồn.
Một Martinô đã thưa cùng Chúa:
- Lạy Chúa, nếu con còn làm ích
cho anh em, thì con sẽ không từ chối bất cứ lao nhọc nào.
Một Catarina muốn được đứng trước
cửa hỏa ngục để ngăn chặn không cho các linh hồn rơi vào đấy.
Một Vianney đã nói:
- Nếu tôi đã đặt được một chân
vào thiên đàng mà bỗng nhìn thấy một người cần cứu vớt, thì tôi sẽ không ngần
ngại trở về trần gian để cứu vớt người ấy.
Thánh nữ Têrêxa cũng đã nói:
- Để cứu một linh hồn khỏi tội lỗi
và hỏa ngục, tôi sẵn sàng hy sinh mạng sống của tôi đến muôn ngàn lần.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta
đã làm được những gì để góp phần nhỏ bé của chúng ta vào công cuộc rao giảng
Tin mừng, truyền bá Đức tin của Giáo hội?
21. Thiện chí và lời cầu nguyện
Một chàng thanh niên quí phái
đang thong thả bước đi trên một con đường tại vùng quê nước Ý, đi ngược chiều,
có một bà già quê ăn mặc rách rưới. Cảm động vì thân hình tiều tụy ấy, chàng
thanh niên bước tới ân cần nhã nhặn an ủi, rồi chàng lấy ví ra tặng cho bà cụ tất
cả số tiền mang theo. Cử chỉ nhân ái và món quà của chàng thanh niên đã khiến
bà cụ xúc động, và khi được biết chàng thanh niên đó là người Công giáo, bà hứa
mỗi ngày đọc một tràng chuỗi cầu nguyện cho anh được làm linh mục. Ngày tháng
trôi qua, chàng thanh niên đã quên hẳn, không còn nhớ gì chuyện gặp bà cụ ấy,
nhưng ít năm sau, lời cầu nguyện chân thành của bà cụ nghèo khổ ấy đã được Chúa
chấp nhận. Anh trở thành linh mục, và còn hơn thế nữa, trở thành một Đức Giáo
Hoàng thời danh, đó là Đức Lê-ô XIII.
Kể lại câu chuyện trên tôi muốn
nói rằng: tất cả chúng ta hãy cầu nguyện, hãy cầu xin Chúa ban nhiều thợ gặt,
vì lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Hơn nữa, chúng ta cũng cầu xin cho các
thợ gặt của Chúa trở thành những thợ gặt lành nghề, những thợ gặt nhiệt tâm làm
cho nhiều người biết Chúa và đưa nhiều linh hồn về kho lẫm Nước Trời.
CNTN 11B -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1. truyện
CNTN 11C -
TRUYỆN KỂ
1. truyện
THỨ
HAI - ÐỪNG BÁO THÙ
Lời
Chúa: Mt 5, 38-42
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đã nghe bảo: "Mắt
đền mắt, răng đền răng."
Còn
Thầy, Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác; trái lại, nếu ai vả
má bên phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa. Và ai muốn kiện con để
đoạt áo trong của con, thì hãy trao cho nó cả áo choàng nữa. Và ai bắt con đi một
dặm, thì con hãy đi với nó hai dặm. Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay mượn,
thì con đừng khước từ."
TRUYỆN KỂ
1. Lấy lành trị ác
Lorobel
khi còn làm quan toàn quyền ở Ấn Độ, vào một ngày kia ông đáp tàu trở về Trung
Quốc, cùng trên chuyến tàu có một phu nhân mang theo đứa nhỏ, bà chẳng ngó
ngàng gì đến đứa bé khiến nó cứ khóc thét suốt ngày đêm. Hành khách ai cũng bực
mình, có người thô lỗ còn hăm dọa sẽ ném đứa bé xuống biển. Lorobel đã quyết định
một việc mà ít ai ngờ tới: Ông ẵm đứa bé lên, đặt nó ngồi trên đùi của ông và từ
giờ này qua giờ khác, ông nói chuyện đùa giỡn và làm trò đùa hoặc làm bất cứ điều
gì đứa bé thích. Đầu tiên đứa bé ngạc nhiên quên đi chuyện khóc lóc, và sau khi
quen rồi nó lại thích thú quấn quýt bên Lorobel. Hành khách trên tàu cảm thấy dễ
chịu, ít bực mình và đôi khi còn vui lây niềm vui của đứa bé. Đứa bé không còn
làm phiền ai nữa, nhưng nó đã trở nên tâm điểm truyền đạt niềm vui cho hành
khách.
Nếu
có mặt trên chuyến tàu cùng với Lorobel hôm đó, chúng ta cũng được chứng kiến một
cảnh khôi hài, đó là một vị quan toàn quyền đầy uy quyền như thế mà lại nhận
lãnh vai trò vú em. Ông không sử dụng uy quyền của mình để ra lệnh cho người
đàn bà, nhưng đã dùng tình thương để đối xử với sự thiếu sót của bà. Đây quả thực
là một phản chiếu lời dạy của Chúa Giêsu được thánh sử Matthêu gởi đến cho
chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay.
2. Ðừng báo thù
"Mắt
đền mắt, răng đền răng", đó là công thức của luật báo thù. Người ta xúc phạm
đến tôi bao nhiêu, tôi phải làm lại cho người đó bấy nhiêu. Kẻ lý luận như thế
là dựa trên sự công bằng, nhưng đây là sự công bằng theo mức độ của loài người.
Luật trả thù này đã được ghi chép thành văn trong bộ luật của vua xứ Babylon
năm 1750 TCN. Trong Bộ Ngũ Kinh, người ta cũng có thể đọc thấy vài công thức của
luật trả thù này, và đó là sự bất toàn của Luật Môsê thời Cựu Ước.
Nhưng
luật trả thù này không những có trong những bộ luật lâu đời, mà còn nằm trong
tâm hồn con người mọi thời. Chúa Giêsu muốn nhắc cho các môn đệ Ngài xưa cũng
như nay, là cần phải sẵn sàng dập tắt ngay nơi bản thân mầm mống của bạo động:
"Ðừng chống cự người ác."
3. Yêu là sống yêu
Khi
đạo Công Giáo mới được loan báo trên quê hương Nước Việt, cha ông chúng ta đã
mau mắn đón nhận Tin Mừng và sống những giá trị Tin Mừng ấy rất sống động. Một
trong những điểm sáng mà tổ tiên chúng ta đã sống đó là “tình yêu thương."
Khi sống như thế, nhiều người không phải là Kitô hữu, họ đã không hiểu được các
ngài theo đạo gì, vì thế, họ không ngần ngại đặt cho tôn giáo mới này là: “Đạo
Yêu Nhau."
Hôm
nay, Đức Giêsu dạy cho các môn đệ bài học yêu thương. Yêu thương thì không oán
hờn; không tính toán thiệt hơn; yêu thương thì không có khái niệm trả thù mà sẽ
tha thứ không chỉ bẩy lần, mà bẩy mươi lần bẩy, tức là không có giới hạn.
4. Tình yêu tác sinh
Winifred
Potenza sống ở Santa Rosa, California. Trong một đêm khuya con trai cả của bà
là Jonathan 21 tuổi cùng bạn gái Lisa Rodriguez chết ngay tại chỗ sau khi bị một
viên tài xế say xỉn tông trúng. Potenza gần như hóa dại và không thể gượng dậy
trước nỗi đau. Bà thường lang thang trên phố mỗi đêm, khi thì thổn thức, khi
thì la hét.
Viên
chưởng lý cáo buộc người tài xế say xỉn mới 20 tuổi về tội giết người. Anh đã
nhận tội và chờ đợi phán quyết của toà. Anh hiểu hành động của mình và dằn vặt
muốn được chết.
Ngồi
trong phòng xử án, khi quan tòa quyết định William chịu án 15 năm tù, Potenza mới
thực sự nhìn thấy William lần đầu tiên. Trong chốc lát, bà hiểu rằng anh không
phải là kẻ tàn ác như bà từng được nghe nói. Sau này bà kể rằng, khi ấy bà đã
nghĩ: “Chúa ơi, đây là sai lầm." Bà hiểu rằng, William cũng có cha mẹ và
cha mẹ anh cũng xót xa lo lắng cho con trẻ. Bà nói: “William không cố tình giết
người, đây chỉ là một tai nạn thảm kịch”, Potenza từ từ đứng lên và đi qua hàng
người bảo vệ, nhẹ nhàng ôm lấy William. Bà tha thứ và trở thành người bạn, người
bào chữa cho người đã cướp mất mạng sống con bà. Lòng vị tha giúp Potenza hàn gắn
vết thương và cũng giúp William hàn gắn nỗi ăn năn hối hận, đưa anh trở lại với
cuộc sống. Hàng tuần, Potenza tới thăm William, đầu tiên là nhà tù Corcoran rồi
nhà tù Vacaville. Bà nói: “William là một người tốt, anh ấy có tài năng đặc biệt
và xứng đáng được hưởng một cơ hội khác."
Potenza
đã không ngừng nỗ lực làm việc, thuyết phục tòa án giảm cáo buộc tội giết người
xuống thành tội ngộ sát, đồng thời giảm án tù cho William. Nỗ lực của bà đã được
đền đáp. Sau bảy năm thụ án, William được ân xá và ra tù trước thời hạn.
Còn
với Potenza, cái chết của con trai và sự hóa giải đau thương cùng với tình yêu
vị tha đánh dấu bước khởi đầu của một dự án nghệ thuật lớn. Bà đã hoàn thành dự
án chuyển tải thông điệp xã hội trong suốt 30 năm. Bà tập trung vào dự án hòa
bình, cả ở góc độ cá nhân và toàn cầu. Dự án mang tên “Những Trái Tim Của Thế
Giới." Đó là các bức sơn dầu khổ lớn, mỗi bức mô tả một trái tim được vẽ từ
chính biểu tượng, màu cờ của mỗi quốc gia. Có 80 trong số 185 tác phẩm đã hoàn
thành…
5. Oán thù lá gánh nặng
Văn
hào Nga ông Leon Tolstoi có kể chuyện ngụ ngôn như sau: Có một người hành khất
nọ đến trước cửa nhà người giàu có để xin bố thí một đồng xu nhỏ hay một miếng
bánh vụn, đó là tất cả những gì người ăn xin chờ đợi. Nhưng, mặc cho người khốn
khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc không chịu nổi
những lời van xin, thay vì bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào con người khốn
khổ.
Người
hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: “Ta mang
hòn đá này cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại
ngươi."
Năm
tháng qua đi. Lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận,
người giàu có bị tước đoạt tất cả và bị tống giam vào ngục. Ngay hôm đó, người
hành khất chứng kiến cảnh áp giải người giàu có vào tù. Nỗi căm hờn sôi sục
trong lòng. Ông đi theo đoàn người áp tải. Tay không rời khỏi hòn đá mà người
giàu có đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm.
Ông
muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch mối nhục đeo đẳng bên ông. Nhưng cuối
cùng, nhìn thấy khuôn mặt tiều tuỵ đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người
hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: “Tại sao ta phải mang nặng hòn
đá này từ bao nhiêu năm qua? Con người này, giờ đây, cũng chỉ là một con người
khốn khổ như ta."
Lời của Đức Giêsu hôm nay làm chúng ta choáng váng.
Lời này không đòi dẹp bỏ hệ thống pháp luật, cảnh sát hay nhà tù. Nhưng nếu các
Kitô hữu cứ để cho Lời này thấm vào lòng từ từ, đời sống của họ sẽ được thay đổi
một cách kỳ diệu, và bộ mặt thế giới sẽ đổi khác.
Hiền hậu, bao dung, quảng đại, đó là điều thế giới
hôm nay thiếu trầm trọng.
Gandhi, người say mê những câu Lời Chúa hôm nay, đã
than phiền: “Tôi thích Đức Kitô của các anh, nhưng tôi không thích các Kitô hữu.
Vì các Kitô hữu thì chẳng giống Đức Kitô mấy.”
7. Nhường nhịn là chiến
thắng
Trong
trận bóng chung kết tuần vừa qua của trường, tôi tham gia thi đấu cho khoa của
mình. Trân đấu diễn ra trong sự vui vẻ đoàn kết.
Đến
phút 20 của hiệp I, tôi ghi được một bàn thắng. Và từ giây phút đó, trận đấu trở
nên sôi nổi hơn nhưng cũng không thiếu sự thô bạo.
Tôi
sớm trở thành nạn nhân. Một cái đạp từ phía sau, do cố ý, làm tôi gục xuống.
Tuy đau nhưng tôi vẫn gượng cười và tiếp tục thi đấu. Hiệp I gần kết thúc, sự
“không may” một lần nữa đến với tôi bằng cú lên gối ngực của chính kẻ đã đạp
tôi lần trước. Thế là tôi phải ra sân.
Trận
đấu kết thúc với tỉ số 1-1. Người ấy đã đến gặp tôi và xin lỗi.
Chúa
ơi, nếu con vì đau mà trả thù ngay trên sân thì ắt sẽ không có sự nhận lỗi và
xin lỗi này. Và hận thù sẽ tiếp nối hận thù phải không Chúa? Con cám ơn Chúa đã
giúp con thắng được chính mình. Xin cho con luôn nhớ rằng: “bạo động chỉ gây
thêm bạo động. Chỉ có tình yêu mới mang lại tình yêu” (Hosanna).
8. Không trả đũa là có
sức mạnh
Thánh
Antôn tu rừng, người khởi xướng đời sống ẩn tu trong Giáo Hội, có một lần sau
khi giảng xong về đề tài bài giảng trên núi, thì có một giáo dân đến hỏi ngài:
-
Thưa cha, chúng con phải làm gì để được trở nên hoàn thiện?
Thánh
Antôn trả lời:
-
Tin Mừng đã dạy: “Ai vả má phải ngươi, hãy đưa má trái cho họ” (Mt 5,39).
Nhóm
giáo dân thưa:
-
Điều này khó quá, làm sao thực hiện nổi.
Thánh
Antôn nói:
- Nếu
không, ít nhất hãy để nguyên má phải và đừng trả đũa, đừng báo thù, hãy tha thứ
cho kẻ đã xúc phạm các con.
Nhóm
giáo dân vẫn lắc đầu:
-
Thưa cha, điều này vẫn quá khó khăn, thật không dễ gì để yên cho người khác xúc
phạm đến mình.
Thánh
Antôn nghe xong liền quay sang môn đệ và nói:
-
Con đi nấu cháo cho những người này ăn đi vì họ quá yếu đuối. Thật, ta còn làm
gì được cho các ngươi nữa, ngoại trừ lời cầu nguyện mà thôi.
9. Cùng chịu chết với
Chúa Giêsu
Ngày
4-4-1968, mục sư Luther King lãnh tụ da đen tranh đấu cho quyền bình đẳng của
người Mỹ da đen bị bắn chết. Hằng triệu người da đen và những người da trắng hiểu
biết đã thương tiếc ông.
Martin
Luther King đã hy sinh cả cuộc đời mình để ôn hòa đấu tranh, chống cảnh kỳ thị
chủng tộc mầu da. Cũng chính vì đã dám lên tiếng đòi cho mọi người được đối xử
bình đẳng như nhau trong một đại gia đình của Thiên Chúa mà ông đã bị bắn gục.
Những
ai đã nghe nói về Martin Luther King đều không thể quên được tinh thần yêu
thương tha thứ của ông với những bất công do nạn kỳ thị chủng tộc gây ra. Câu
chuyện sau đây do ông kể lại là một bằng chứng:
Chú
bé da đen tên là Tom, theo thói quen, vừa tan trường là chạy đi phân phát báo
cho các trường để lấy tiền giúp đỡ gia đình. Hôm ây, chú bé bất ngờ mót tiểu
quá, thay vì chạy đến một gốc cây hay là bờ tường, nó chạy ngay vào nhà vệ sinh
dành riêng cho người da trắng, vừa để tiểu và cũng vừa để xem một lần cho biết.
Được
vào trong nhà vệ sinh sạch sẽ, mát mẻ, em thấy sung sướng. Bất ngờ, Tom nghe có
tiếng chân người bước nhanh đập trên nền nhà đi về hướng nhà vệ sinh mà em đang
ở trong đó. Chưa kịp phản ứng gì thì Tom đã bị người da trắng ập tới, đánh Tom một
cái làm em ngã dúi vào nhà vệ sinh. Rồi kèm theo với cái đạp lên thân thằng bé
là những lời nguyền rủa nó đã dám vi phạm luật lệ của bang Alabama. Theo đó thì
người da đen bị cấm không được bén mảng đến những nơi dành cho riêng người da
trắng, kể cả nhà vệ sinh.
Được
chứng kiến cảnh đau lòng trên, ông Martin Luther King khuyên chú bé Tom da đen:
-
Cháu Tom bé nhỏ đáng thương ơi, cháu có thể lựa chọn giữa hai thái độ, hoặc là
cháu chạy nhanh ra khỏi nhà vệ sinh ấy, rồi nhặt những cục đá lên mà liệng vào người
da trắng đã hạ nhục cháu kia, và sau đó cháu chạy về khu vực của người da đen
và đề nghị với những người da đen như thế này: Một ngày kia, chúng mình sẽ giết
sạch những người da trắng.
Nhưng
cũng còn một thái độ, một sự lựa chọn khác nữa cao thượng hơn, đó là cháu sẽ im
lặng nhớ đến Chúa Giêsu ngày xưa, Ngài cũng đã bị người ta xô té mấy lần trên
đường vác Thập Giá. Nhưng lần nào cũng thế, Ngài cũng chỉ im lặng, chỗi dậy để
tiếp tục đi đến đồi Golgotha. Cháu hãy tha thứ cho người da trắng kia đã hạ nhục
cháu. Cháu Tom ơi! Trả thù là điều quá dễ, nhưng yêu thương mới là khó. Chúng
ta là những người da đen Hoa-kỳ, chúng ta muốn xây dựng ngày mai tươi sáng hơn
nhưng chỉ có tình thương mới làm được việc đó!
10. Lấy lành thắng dữ
Nhà
văn Salman Rushdie là tác giả sách “Vần Thơ Ác Quỷ” , nội dung có tính chất bài
Hồi giáo. Thế là ông Khomeini – Giáo chủ Hồi giáo – ra lệnh truy nã ông Salman
Rushdie, và treo giải thưởng cho ai giết được ông. Nhà văn này đã phải thay
hình đổi dạng sống ẩn dật trong suốt 14 năm!
Trái
lại, anh Ali Agca - người Hồi Giáo cuồng tín – đã ám sát Đức Giáo hoàng Gioan
Phaolô II ngày 13-05-1981. Sau đó anh bị bắt và giam tại nhà tù Rchibba ở Roma.
Năm 1984, Đức Giáo hoàng ngay sau khi được bình phục, ngài đã đem qùa đến thăm
Ali Agca tại nhà tù đang giam giữ anh! Anh hỏi lại Đức Giáo hoàng:
- Tại
sao tôi đã bắn ông mà ông không chết?
Hành
động của Đức Gioan Phaolô hơn hẳn ông Khomeini, chỉ vì Đức Thánh cha đã thấm
nhuần lời thánh Tông Đồ dạy: “Đừng lấy ác báo ác, nhưng hãy lấy lành mà thắng
ác!”(Rm 12,21). Bởi vì
- Lấy
ác báo lành, ta là Satan
- Lấy
ác báo ác, ta là chó sói.
- Lấy
lành báo lành, ta là con người.
- Lấy
lành báo ác, ta là con Chúa.
Để
bày tỏ ta là con Chúa, thánh Tông Đồ dạy: “Nếu kẻ thù ngươi đói, hãy cho nó ăn,
nó khát, hãy cho nó uống, làm thế như ngươi chất than hồng trên đầu nó. Chớ để
dữ thắng được ngươi, nhưng hãy lấy lành mà thắng dữ” (Rm 12,20-21).
11. Tiêu diệt hết kẻ
thù
Chuyện
kể rằng có một vị vua sau khi thắng trận liền mở tiệc khao quân. Ông mời cả các
tù binh ăn mừng, đãi ngộ rất tử tế rồi trả tự do cho họ. Quần thần hỏi tại sao
nhà vua đã thề tiêu diệt hết kẻ thù không sót một người mà nay lại cư xử như thế,
nhà vua trả lời: “Ta đã tiêu diệt hết kẻ thù bằng cách biến họ thành bạn.”
Luật
“mắt đền mắt, răng đền răng” bế tắc trước vấn đề sự ác, bởi vì lấy oán báo oán
thì oán thù chồng chất. Không thể dùng lửa, cũng không thể dùng vài giọt nước để
dập tắt một đống lửa, mà phải dùng một khối lượng nước lớn hơn đống lửa đó.
Chúa Giêsu dạy chúng ta tiêu diệt sự báo thù bằng việc tha thứ, tiêu diệt nhỏ
nhen ích kỷ bằng quảng đại quên mình. Trên thập giá Chúa tiêu diệt bạo lực bất
công bằng sự hiền lành và tự nguyện chịu chết để đền bù muôn tội lỗi. Không thể
tiêu diệt sự ác bằng sự ác mà phải bằng một tình yêu lớn hơn.
12. Cách cho trọng hơn
của cho
Một
nhà truyền giáo trên một hòn đảo ở Thái Bình Dương rất xúc động khi một cô gái
tặng cho ông một vỏ sò đẹp. Nhà truyền giáo hỏi: “Con lấy vỏ sò này ở đâu vậy?”
Cô gái giải thích rằng cô đã đi bộ nhiều dặm đến một vịnh bắt ngang hòn đảo, đến
nơi duy nhất có thể tìm được vỏ sò. Nhà truyền giáo nói: “Con thật tuyệt vời
khi phải đi quá xa để lấy cho ta một món quà đẹp như vậy.” Cô gái nói với nụ cười
rạng rỡ trên khuôn mặt: “Đi càng xa, quà càng giá trị.”
Hôm
nay tôi có thể tặng một ai đó món quà nào, phải tốn tiền hay chẳng tốn kém gì,
nhưng sẽ làm cho người khác rất đỗi hạnh phúc? Ai? Và tại sao?
Nhẫn
và nữ trang không phải là những món quà, nhưng chỉ chứng minh cho món quà. Món
quà duy nhất là một phần của chính bạn. (Ralph Waldo Emerson)
13. Luật gây mù lòa
Một
phụ nữ nọ cảm thấy sửng sốt khi nghe Abraham Lincoln nói đến sự tử tế của quân
Đông minh. Bà ta chất vấn ông: “Tôi nghĩ tốt hơn chúng ta nên được tập trung lại
để tiêu diệt kẻ thù hơn là đối xử tử tế với họ.” Lincoln trả lời: “Thưa bà,
chúng ta tiêu diệt kẻ thù khi chúng ta đối xử tốt với họ.” Đó chính là sự khôn
ngoan và lòng nhân ái toát ra từ lời dạy của Chúa Giêsu trong bài đọc hôm nay.
Lần
cuối cùng tôi cầu nguyện cho kẻ thù hoặc giang tay đón nhận kẻ thù là khi nào?
Luật
xưa “mắt đền mắt” làm cho mọi người đều trở nên mù lòa (Martin Luther King).
THỨ BA - YÊU THƯƠNG KẺ THÙ ĐỂ NÊN TRỌN LÀNH
Lời Chúa: Mt. 5, 43-48
Khi ấy, Chúa phán cùng các môn đệ
rằng: "Các con đã nghe dạy: "Ngươi hãy yêu thân nhân, và hãy thù ghét
địch thù." Còn Ta, Ta bảo các con: Hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho
những kẻ ghét các con, hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các
con: để như vậy các con nên con cái Cha các con, Đấng ngự trên trời: Người khiến
mặt trời mọc lên cho người lành kẻ dữ, và cho mưa xuống trên người liêm khiết
và kẻ bất lương.
Vì nếu các con yêu thương những
ai mến trọng các con, thì các con được công phúc gì? Các người thu thuế không
làm thế ư? Nếu các con chỉ chào hỏi anh em các con thôi, thì các con đâu có làm
chi hơn? Những người ngoại giáo không làm như thế ư?
Vậy các con hãy nên hoàn hảo như
Cha các con trên trời là Đấng hoàn hảo."
TRUYỆN KỂ
1. Yêu thương kẻ thù
Sau hơn 50 ngày bị bắt làm con
tin và bị sút gần 20 ký vì sống trong thiếu thốn vật chất cũng như tinh thần, một
nhà truyền giáo nọ đã bình tĩnh trả lời câu hỏi của các phóng viên về những gì
mình đang suy tính trong lòng: "Tôi vẫn yêu mến đất nước và dân tộc đó,
như ngày tôi mới đến truyền giáo cách đây 40 năm. Tôi đã tha thứ cho những kẻ bắt
giữ và hành hạ tôi. Tôi muốn nói với họ rằng tôi không có gì thù ghét họ, nhưng
vẫn yêu thương và sẵn sàng trở lại đó làm việc mục vụ."
Những lời dạy của Chúa Giêsu mà
Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, cũng không mập mờ, không nhượng bộ hay
chiều theo khuynh hướng tự nhiên của con người muốn giới hạn tình yêu của mình
đối với tha nhân.
2. Các con hãy nên trọn lành
Nữ tu Antoinette vẫn thường nhắc
đến bệnh nhân già khó tính nhất trong bệnh viện, gặp ai ông cũng nhăn nhó nạt nộ.
Có chuyện gì khó chịu một chút là ông la lớn, rùm beng lên. Ngày kia, đang lúc
mải mê phục vụ các bệnh nhân, nữ tu Antoinette đã nghe thấy tiếng bệnh nhân già
đó hét lên: “Đem cho tôi quả trứng." Nữ tu Antoinette vui vẻ đem đến,
nhưng bệnh nhân già lại nhăn nhó: “Trứng chưa chín đủ mà lại mang cho tôi ăn
à?”, và nữ tu Antoinette vui vẻ mang trứng đi luộc lại. Nhưng rồi bệnh nhân lại
kiếm lý do khác để gây phiền hà đến nữ tu: “Luộc trứng chín quá, tôi không ăn nổi
đâu. Tôi muốn trứng khác."
Nữ tu Antoinette không biết làm
sao, chị bèn có sáng kiến chế một lò nấu nhỏ kê ở bên giường ông, và trao cho
ông một quả trứng để chính ông có thể nấu lấy theo sở thích của ông. Người bệnh
nhân thấy thế lại nổi giận hơn nữa. Ông đạp đổ bếp, quẳng trứng xuống sàn nhà
và quát lớn: “Tôi là bệnh nhân mà đi luộc trứng à!" Nữ tu Antoinette chẳng
nói nửa lời, chỉ biết thinh lặng cúi xuống thu sạch và quét dọn. Lát sau, nữ tu
đem đến cho bệnh nhân khó tính ấy một quả trứng khác và nhẹ nhàng nói với bệnh
nhân: “Ông hãy dùng thử quả trứng này, tôi luộc vừa chín mà thôi." Thái độ
của nữ tu Antoinette đã làm cho bệnh nhân cảm động và lập bập nói: “Cám ơn nữ
tu. Tôi ăn trứng này và cũng ăn cả lòng tốt của nữ tu nữa. Xin nữ tu tha thứ
cho tôi."
3. Hãy yêu thương cho đến cùng
Tác giả tập sách “Đường Hy Vọng”
đã chia sẻ như sau: “Bác ái là tu đức liên lỉ. Tu miệng lưỡi, tu quả tim, tu lỗ
tai, tu con mắt, tu lá gan, tu bộ óc. Tất cả con người con vùng vẫy, nhưng con
phải yêu thương như Chúa Giêsu." Hãy lấy một tờ giấy và bình tĩnh viết
trên đó đức tính của người con bất bình, con sẽ thấy họ không hoàn toàn xấu như
con nghĩ từ đầu: “Tôi không muốn biết, không muốn nhớ quá khứ của anh em tôi.
Tôi chỉ muốn biết hiện tại của anh em để thương nhau, giúp đỡ nhau và biết
tương lai để tin nhau, để khuyến khích nhau."
Sống bổn phận hiện tại không phải
là thụ động, nhưng là liên lỉ canh tân, quyết định chọn Chúa hay chối từ, và
tìm Nước Chúa là tin tưởng ở tình yêu vô bờ bến của Ngài, là hành động với tất
cả hăng say. Đó là việc làm thể hiện đức mến Chúa và yêu người ngay trong giây
phút hiện tại. Đó là những lời khuyến khích đầy kinh nghiệm giúp mỗi người
chúng ta sống sứ điệp Phúc Âm của Chúa xác thực hơn, hiệu quả hơn.
4. Lòng quảng đại của dân ta
Lịch sử đã từng ghi lại rất nhiều
sự kiện về những tù binh chiến tranh ở Việt Nam luôn được đối xử tử tế, được mở
đường hiếu sinh, được cấp đầy đủ quân trang khi trở về nước. Ví dụ như cách
hành xử vị tha của quân chiến thắng Lam Sơn với quân Minh kẻ thù bại trận: Theo
lời cố vấn của Nguyễn Trãi, tha thứ cho kẻ thù, vua Đại Việt là Lê Thái Tổ còn
cung cấp cho họ lương thực và những phương tiện di chuyển như ngựa, thuyền để
trở về đất nước họ.
Lời dạy yêu thương tha thứ của
Chúa Giêsu làm thăng hoa lòng khoan dung, vị tha của truyền thống Việt Nam qua
câu tục ngữ: “Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ chạy lại”, người Việt không những
vị tha với nhau như tục ngữ có câu: “Chín bỏ làm mười”, mà còn vị tha với cả kẻ
thù.
Nguyễn Trãi đã nhấn mạnh: “Trả
thù, báo oán là thường tình của mọi người; mà không thích giết người là bản tâm
của người nhân” (Quân trung từ mệnh tập). Vị anh hùng dân tộc đã gây ý thức cho
nhân dân Đại Việt: Có những nhu cầu làm người cao cả, trọng đại và lâu bền hơn.
Nhu cầu báo thù sẽ bùng lên và vụt tắt như ngọn lửa rơm. Nhu cầu tha thứ xây dựng
hòa bình “thêm bạn bớt thù” như người đời thường nói, xây dựng bình an bản thân
và cộng đồng.
5. Tự giải thoát mình
Nelson Mandela, một nhà hoạt động
cách mạng Nam Phi, từng bị giam giữ và bị xúc phạm trong suốt 27 năm. Đến khi
ông trở thành Tổng thống Nam Phi, ông đã mời 3 người cai ngục từng canh giữ ông
trong thời gian tại chốn lao tù đến gặp mặt. Khi Mandela đứng dậy cung kính
chào 3 vị cai tù này thì mọi người có mặt và trên toàn thế giới đều phải tĩnh lặng.
Ông nói: “Khi tôi bước ra khỏi phòng giam của mình, đi qua cánh cổng nhà tù để
được tự do, tôi đã hiểu rõ ràng rằng: nếu không thể để nỗi đau của riêng mình
và oán giận ở lại đàng sau, thì tôi vẫn là còn ở trong lao tù."
Người Kitô hữu không thể trốn
tránh con đường chông gai, để chọn những lối đi bằng phẳng êm mát. Nhưng họ phải
can đảm tiến tới để đạp gãy chông gai ghen ghét, san bằng sỏi đá hận thù, dõi
theo ánh sáng của Đức Kitô, Đấng đã yêu thương và tha thứ cho những kẻ giết hại
mình.
6. Lấy thiện báo ác
Thời Xuân Thu chiến quốc, nước Sở
và nước Lương có chung biên giới đều trồng dưa. Người bên nước Lương, vun xới
chăm chỉ nên dưa tốt quả nhiều. Người bên nước Sở lười, làm biếng tưới nên dưa
xấu quả ít. Quan huyện sở tại nước Sở thấy vậy thì lấy làm tức giận lắm. Những người
trồng dưa bên Sở thấy vậy cũng đem lòng ghen ghét, tối tối lẻn sang nhổ cây, bứt
lá làm cho dưa bên nước Lương đang tốt tươi bỗng trở nên héo hon, xơ xác. Những
người trồng dưa bên nước Lương rình biết, bèn trình báo lên quan sở tại của
mình và cũng rắp tâm sang phá dưa bên Sở để trả thù. Nhưng quan sở tại của nước
Lương là người thâm trầm, liền can ngăn và bảo: “Nếu lấy ác mà xử lại thì chỉ
là cách gây thù chuốc oán, gieo mầm loạn lạc binh đao, cho nên thay vì trả thù,
ta cứ lẳng lặng sang tưới dưa cho họ, đó mới là thiện chí."
Một thời gian sau, dưa bên nước
Sở xanh tốt, quả nhiều. Dân nước Sở lấy làm lạ, họ để ý rình rập mới hay người
bên nước Lương sang tưới dưa cho mình. Biết được điều đó, Quan bản địa có ý thẹn.
Việc đó đến tai vua Sở, vua Sở lấy
làm xấu hổ và nghĩ rằng ngoài cái tội phá hoại dưa của người, chắc còn những việc
khác gây oán thù. Vua Sở bèn xuống chiếu trách cứ quan huyện, khuyến cáo dân
chúng nước Sở, rồi viết thư sai sứ giả sang nước Lương xin lỗi, tỏ lòng hiếu
hoà bang giao.
7. Tự hại mình
Có hai người kia đều bị bắn tên.
Người thứ nhất bình tĩnh và nhẹ nhàng nhổ mũi tên ra, băng bó vết thương, và
ngày sau khỏi hẳn. Người thứ hai tức giận nhổ mũi tên ra nhưng cầm lấy đâm túi
bụi vào mình mẩy của mình, đã thế khi gặp người thân anh còn đâm họ bị thương nữa.
Mũi tên chính là lời công kích của
kẻ khác. Người khôn cư xử như người thứ nhất, nghe xong bỏ đi. Kẻ dại cư xử như
người thứ hai cứ lập đi lập lại lời công kích đó và còn thuật lại cho người
thân, làm cho bản thân mình và người thân thêm đau đớn vô ích.
8. Thù vặt và bệnh tim
Dale Carnegie viết: “Thử hỏi tại
sao ý muốn “báo thù” lại có hại cho bạn? Theo tờ tạp chí “Life” thì ý muốn đó
có thể làm sức khoẻ bạn phải vĩnh viễn suy nhược. Tác giả một bài đăng trong tờ
“Life” có viết rằng: “Tính xấu đặc biệt thường thấy trong số những người đau bệnh
động mạch là tính thù vặt. Nếu tính xấu này luôn luôn biểu lộ, nó sẽ làm cho bệnh
ấy thành kinh niên và có khi thành bệnh đau tim."
Ông kể tiếp: Tôi có một người bạn
thân vừa đây bị một cơn đau tim nặng. Thầy thuốc bắt anh ta phải tĩnh dưỡng và
nhất là không được nổi nóng với bất cứ một cớ nào, vì lẽ thầy thuốc nào cũng biết
rằng, người đau tim rất có thể chết bất thần khi nổi giận. Chắc bạn chẳng cho
là thật? Tôi xin kể một chứng minh. Cách đây mấy năm, một ông chủ hàng cơm tỉnh
Spokane, thuộc tiểu bang Washington, đã ngã đùng ra chết sau một cơn thịnh nộ.
Đây là bài tường thuật của viên cảnh sát trưởng, mô tả trường hợp xảy ra tai nạn:
“Ông William Falkaber 68 tuổi, chủ một tiệm ăn, đã tự giết mình khi đang nổi giận,
vì người bếp không nghe lời ông mà cứ uống cà phê trong đĩa chứ không uống bằng
tách. Ông ấy nổi khùng vác súng lục đuổi người bếp, rồi bỗng ông ngã vật ra chết
thẳng, tay hãy còn nắm chặt khẩu súng. Viên y sỹ nhà nước đến khám nghiệm tử
thi, tuyên bố ông đứt mạch máu vì “thịnh nộ." (Quảng gánh lo đi và vui sống)
9. Để có lợi cho người và cho mình
Quý Cao làm quan sĩ sư nước Vệ.
Một lần kia, ông phải ngồi tòa và xử một phạm nhân với án toà là phải bị chặt
chân. Về sau, nước Vệ có loạn, Quý Cao phải chạy trốn. Trên đường chạy trốn,
không may ông lại gặp ngay kẻ ngày trước ông kết tội bị chặt chân coi cửa thành
trong làng.
Kẻ ấy bảo
- Kia có chỗ tường đổ, ngài trèo
lên đó mà trốn.
Quý Cao đáp:
- Người quân tử không trèo tường.
Người ấy lại chỉ:
- Kia có lỗ hổng.
Quý Cao đáp:
- Người quân tử không chui lỗ hổng.
Người ấy lại nói:
- Ở đây có cái nhà.
Quý Cao chạy vào trong nhà đó để
ẩn. Vì thế giặc không bắt được.
Khi giặc đi khỏi, Quý Cao hỏi
người canh thành:
- Trước kia vì phép nước, ta kết
tội chặt chân ngươi, ngươi phải thù ta mới phải. Sao ngươi không trả thù, lại
ba lần chỉ lối cho ta trốn như vậy ý là làm sao?
Người kia đáp:
- Tội tôi đáng chặt chân không
thể tránh khỏi. Ông không kết tội tôi, thì người khác cũng kết tội tôi. Lúc ông
luận tội, tôi thấy ông đã cố xoay sở pháp luật để cứu tôi mà không được. Điều ấy
tôi thấy rất rõ. Lúc tôi bị đem đi chặt chân, nét mặt ông buồn rầu, tôi biết.
Ông làm thế có phải vì riêng mình tôi đâu: Đó là tấm lòng bậc quân tử. Tôi cứu
ông là vì thế.
Tình yêu thương là một ngọn nến,
vừa chiếu sáng người khác, lại chiếu sáng cho bản thân. Cống hiến một chút tình
yêu thương, thì chắc thế giới này sẽ chứa chan những tình cảm ấm áp.
10. Những vết đinh
Nếu những lời nói trong cơn giận
có thể để lại những vết sẹo còn mãi trong lòng người khác, thì sự cảm thông,
bao dung, tha thứ lại có thể làm được điều ngược lại.
Một cậu bé nọ có tính xấu là rất
hay nổi nóng. Một hôm, cha cậu bé đưa cho cậu một túi đinh rồi nói với cậu:
"Mỗi khi con nổi nóng với ai đó thì hãy chạy ra trước nhà và đóng một cái
đinh lên chiếc hàng rào gỗ.”
Ngày đầu tiên, cậu bé đã đóng tất
cả 37 cái đinh lên hàng rào. Nhưng sau vài tuần, cậu bé đã tập kiềm chế dần cơn
giận của mình và số lượng đinh cậu đóng lên hàng rào ngày một ít đi. Cậu nhận
thấy rằng kiềm chế cơn giận của mình dễ hơn là phải đi đóng một cây đinh lên
hàng rào.
Đến một ngày, cậu đã không nổi
giận một lần nào trong suốt cả ngày. Cậu đến thưa với cha và ông bảo: "Tốt
lắm, bây giờ nếu sau mỗi ngày mà con không hề giận với ai dù chỉ một lần, con
hãy nhổ cây đinh ra khỏi hàng rào.”
Ngày lại ngày trôi qua, rồi cũng
đến một hôm cậu bé đã vui mừng hãnh diện tìm cha mình báo rằng đã không còn một
cái đinh nào trên hàng rào nữa. Cha cậu liền đến bên hàng rào. Ở đó, ông nhỏ nhẹ
nói với cậu:
"Con đã làm rất tốt, nhưng
con hãy nhìn những lỗ đinh còn để lại trên hàng rào. Hàng rào đã không giống
như xưa nữa rồi. Nếu con nói điều gì trong cơn giận dữ, những lời nói ấy cũng
giống như những lỗ đinh này, chúng để lại những vết thương khó lành trong lòng
người khác. Con đừng bao giờ quên rằng: vết thương tinh thần còn đau đớn hơn cả
những vết thương thể xác.”
Nhìn thấy lỗ đinh lởm chởm trên
hàng rào, cậu bé mới thấm thía sự xấu xa của từng lần xung đột, bất kể đúng hay
sai, phải hay trái. Nó khẩn khoản hỏi cha nó: “Con phải làm gì đây để xóa sạch
những dấu đinh này.”
“Dấu vết của hận thù chỉ có thể
được chữa lành bởi tình yêu,” người cha nói.
“Nhưng cha ơi, con phải làm gì
đây?” cậu con trai hỏi.
Người cha trả lời: “Nếu những lời
nói trong cơn giận có thể để lại những vết sẹo còn mãi trong lòng người khác,
thì sự cảm thông, bao dung, tha thứ lại có thể làm được điều ngược lại. Chỉ
tình yêu mới là phương thuốc có thể chữa lành cho những vết thương lòng.
“Mỗi khi con tha thứ, bao dung,
cảm thông, giúp đỡ hay an ủi một ai, con hãy vẽ thêm một bông hoa trên các vết
đinh.”
Mỗi ngày một chút, hàng rào thêm
xinh xắn bởi những nét vẽ ngọng nghịu. Thế nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó,
ai bước vào cũng phải tấm tắc khen cái hàng rào xinh xắn ấy!
11. Báo đền ân oán
Hàn Tín, người đời Hán Cao Tổ,
thuở hàn vi phải đi câu cá đổi gạo ăn. Thế mà có những lúc không đủ ăn, nên được
bà lão thợ giặt gọi về cho ăn cơm. Vào thời đó, đi đâu Hàn Tín thường mang
thanh gươm kè kè bên mình.
Một hôm, một tên đồ tể tên Ác
Thiểu muốn hạ nhục Hàn Tín, chận đường thách:
- Chú thường mang gươm, chả biết
đề làm gì. Bây giờ tôi không cho chú đi. Chú có gan thì sẵn có gươm đó, hãy
chém tôi mà đi, bằng không thì phải lòn trôn tôi mà qua.
Hàn Tín chẳng chút do dự, lòn
trôn tên hạ tiện đó mà đi, tự nhủ: "Giết thằng này thì được rồi, nhưng mà
phải lấy mạng mình đổi mạng nó, thì không đáng tí nào.”
Sau Hàn Tín nhờ có công giúp Hán
Cao Tổ dựng nước mà dược phong làm vua Tam Tê. Lúc bấy giờ, Hàn Tín bèn mời bà
thợ giặt đến biếu nghìn lạng vàng để tạ ơn.
Rồi không những không thèm trả
thù tên đồ tể mất dạy ngày xưa, lại phong cho hắn chức Trung úy. Ác Thiểu rất
ngạc nhiên, khúm núm nói:
- Lúc trước tôi ngu lậu thô bỉ,
đã dại dột xúc phạm oai nghiêm của ngài, nay tội ấy được tha chết là may, còn
dám mong đâu được ban chức tước?
Hàn Tín ôn tồn bảo:
- Ta chẳng phải là kẻ tiểu nhân
hay cố chấp, đem lòng cừu hận. Hành động của ngươi ngày xưa tuy quá đáng, nhưng
cũng là bài học luyện chí cho ta. Vậy nhà ngươi chớ tị hiềm mà hãy nhận chức ta
ban.
Lối báo đền ân oán của Hàn Tín
thật là hay. Hay vì hướng thượng, hay vì nhìn ra điều tốt trong điều xấu. Chính
vì thế, với người ân thì Hàn Tín ban thưởng vì cảm chữ tình chữ nghĩa; còn với
người oán cũng vẫn ban thưởng vì nhờ người đó mà mình nên người, ”ngọc bất trác
bất thành khí.”
Hơn nữa, khi trả thù mình chẳng
được gì mà lại lấy chuốc oán hận, còn tha thứ thì có ngay một người bạn trọn
tình vẹn nghĩa với mình. Thật là cái khôn của bậc quân tử!
H.G Bohn nói: "Lối trả thù
cao thượng nhất là tha thứ.”
John Ray cũng nói: "Quên đi
một lỗi lầm là một sự phục thù lương hảo nhất.”
Lời Chúa dạy: "Vì nếu anh
em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người
thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi,
thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế
sao? Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.”
(Mt 5,46-48)
12. Tình yêu đích thực
Christopher Matthews là một nhà
bình luận và là cựu phụ tá phát ngôn viên chính phủ Tip O’Neill. Ông trích dẫn
câu châm ngôn Texas xưa: “Hãy ôm hôn bạn bè cho chặt, nhưng hãy ôm hôn kẻ thù
chặt hơn.” Matthews sửa đổi một chút cho hợp với thực tế mà mọi chính sách có
thể hiểu được ngay: “Những nhà lãnh đạo tài khéo biết rằng địch thủ trong trận
chiến này thường là đồng minh quí giá trong trận chiến khác.”
Động lực thúc đẩy nhà chính trị
“ôm hôn” địch thủ mời gọi tôi tự hỏi: động lực “ôm hôn” kẻ thù của tôi là gì?
Luôn tha thứ cho kẻ thù. Đừng bực
mình vì họ quá nhiều. (Oscar Wilde)
13. Trái tim cao cả
Tạp chí Newsweek đã đăng hình cậu
bé đang quì gối cầu nguyện trong nhà thờ. Câu chuyện kể tiếp: cha mẹ các em bị
chết khi một quả bom phát nổ trên một chiếc máy bay bay qua Colorado gây thiệt
mạng 41 hành khách. Các bạn học sinh trường St.Gabriel noi các em đang theo học
đề nghị tổ chức một buổi cầu nguyện cho cha mẹ các em. Em lớn nhất đồng ý. Rồi
em nói thêm: “Chúng ta cũng có thể cầu nguyện cho người đã giết cha mẹ tôi
không?”
Đôi khi trẻ em thực hành những
giáo huấn khó khăn của Chúa Giêsu tốt hơn người lớn. Tại sao?
[Chúa Giêsu nói:] “Nếu anh em
không thay đổi mà nên như trẻ nhỏ, anh em sẽ chẳng bao giờ được vào Nước Trời.”
(Mt 18,3)
14. Quy luật của xe rác
Một hôm tôi nhảy vào một chiếc
Taxi để ra phi trường.
Đang chạy đúng làn bỗng từ bãi đậu
xe phía trước một chiếc xe nhà màu đen phóng ra. Người lái Taxi thắng kêu một
tiếng két và tránh không va chạm xe kia trong đường tơ kẽ tóc!!
Người lái xe kia ngoái đầu mắng
chúng tôi!!
Người lái Taxi chỉ cười vẫy chào
lại. Tôi thấy anh thật là tử tế.
Thế nên tôi hỏi "Sao anh hiền
vậy? Anh kia suýt tông hư xe anh và mình có lẽ đã phải nhập viện!!"
Bấy giờ anh lái Taxi dạy tôi bài
học này, tôi gọi nó là: Quy luật của xe rác (The Law of the Garbage Truck).
Anh giải thích rằng nhiều người
hành động cứ như là xe rác vậy. Họ chạy suốt ngày mang theo đầy rác, đầy bực dọc,
đầy nóng giận và chán chường. Vì rác của họ đầy ắp, họ cần nơi đổ rác và đôi
khi họ trút lên bạn. Đừng mang nó vào mình. Chỉ cần mỉm cười, vẫy chào, chúc điều
tốt lành rồi ta đi tiếp, đừng thèm lấy rác đó rồi mang rải cho người khác nơi sở
làm… đừng rải trên dọc đường bạn đi… nhất là đừng mang rác ấy về nhà bạn… Người
khôn quyết không để cho mấy xe chở rác làm hỏng ngày của mình...
Đời người ngắn ngủi nên đừng để
bị hối tiếc vì những việc ngu xuẩn!!
Hãy yêu thương người cư xử Tốt với
mình… và cầu nguyện cho ai xử Tệ với bạn!!
Cuộc sống này bạn tạo nên nó chỉ
có Mười phần trăm, còn Chín Mươi phần trăm là tùy thuộc cách bạn Tiếp Nhận nó…
Chúc bạn một ngày Không Có Rác!!
"Anh em đã nghe Luật dạy rằng:
Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù
và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.” (Mt 5,43-44)
15. Một con người tự do
Hồi đó, tại niền trung tiểu bang
Missisipi, người ta đồn rằng, những người Đức đã reo rắc mầm nổi loạn trong đám
dân chúng da đen. Vì ông Lawrence Jones là người da đen, lại là người sáng lập
ngôi trường Piney Woods và đồng thời là mục sư trong giáo đoàn người da đen,
nên ông bị buộc vào tội tích cực hoạt động gây ra cuộc phiến loạn. Nhóm người
da trắng, khi đi qua nhà thờ, có thoáng nghe ông Lawrence Jones thuyết giáo với
các con chiên rằng: “Đời là một cuộc tranh đấu, trong đó mọi người da đen phải
võ trang để chiến đấu lấy sống còn và thắng lợi."
Võ trang! Chiến đấu! Chỉ hai chữ
ấy là đủ rồi. Những người da trắng nóng nẩy kia nhẩy lên ngựa, phi báo tin này
cho những người lân cận, rồi họp thành một đám người, họ la hét, tiến tới nhà
thờ. Họ tròng mũi dây thong lòng vào cổ vị mục sư da đen và kéo lê ông ra đường
suốt hai cây số, đến chỗ hành hình. Đến đây, họ đặt ông lên trên một đống cành
khô định đánh diêm đốt. Nhưng bỗng một người trong đám da đen, la lên rằng: “Bắt
lão thuyết giáo một lần nữa, rồi hãy hỏa thiêu."
Ông Lawrence Jones, đứng trên đống
củi, ở cổ có dây thòng lọng, bắt đầu nói về đời ông và tự biện hộ…
Ông nói để biện hộ không phải
cho bản thân ông, mà cho chính nghĩa ông đang theo đuổi. Ông càng nói, đám người
phẫn nộ kia càng nguôi giận… Sau cùng một cựu chiến binh trong trận nội chiến đứng
ra tuyên bố: “Tôi nhận thấy người đàn ông trẻ tuổi này nói thật, tôi biết những
người da trắng mà y đã kể tên, y quả đã làm việc tốt và chúng ta nhầm mà buộc tội
y. Nhiệm vụ của chúng ta là giúp y, chứ không phải treo cổ y!”
Nói xong, ông già thi hành ngay,
ngả mũ đi tới từng người để quyên tiền giúp ông Lawrence Jones. Tiền quyên được
tất cả là năm mươi hai mỹ kim và không người nào đến chứng kiến vụ hành quyết
này mà không cho đôi chút.
Sau đó ít lâu người ta hỏi ông
Lawrence Jones có thù oán những người đã kéo lê ông không? Ông đáp: “Tôi còn bận
trí để biện hộ cho chính nghĩa của tôi, còn thì giờ đâu mà thù oán. Tôi còn mê
mải với một lý tưởng đáng giá gấp ngàn lần. Tôi chẳng bao giờ rảnh để đối đáp với
ai và cũng chẳng ai có thể bắt tôi để tâm hằn thù."
THỨ
TƯ - ĐẠO ĐỨC THỰC SỰ VÌ CHÚA
Lời
Chúa: Mt. 6, 1-6, 16-18
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy cẩn thận, đừng phô
trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông thấy, bằng không, các con
mất công phúc nơi Cha các con là Đấng ở trên trời.
Vậy
khi các con bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội
đường và phố xá, để cho người ta ca tụng họ. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được
thưởng công rồi. Còn con có bố thí, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay
phải làm, để việc con bố thí được giữ kín, và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn,
sẽ trả công cho con.
"Rồi
khi các con cầu nguyện, thì cũng chớ làm như những kẻ giả hình: họ ưa đứng cầu
nguyện giữa hội đường và các ngả đàng, để thiên hạ trông thấy. Quả thật, Ta bảo
các con: họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi cầu nguyện, thì hãy vào phòng
đóng cửa lại mà cầu xin với Cha con, Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con, Đấng thấu
suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.
"Khi
các con ăn chay, thì đừng làm như bọn giả hình thiểu não: họ làm cho mặt mũi ủ
dột, để có vẻ ăn chay trước mặt người ta. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được
thưởng công rồi. Còn con khi ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt, để
thiên hạ không biết con ăn chay, nhưng chỉ tỏ ra cho Cha con Đấng ngự nơi bí ẩn,
và Cha con thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con."
TRUYỆN KỂ
1. Các việc đạo đức
(‘Mỗi
Ngày Một Tin Vui’)
Tại
nhiều nơi, cứ vào mùa tranh cử, người ta lại dễ dàng nhìn thấy những bảng hiệu
ghi ơn dân biểu này, nghị sĩ nọ, hoặc loan báo những công trình xây dựng của
các nhân vật chính trị. Dĩ nhiên, ai cũng hiểu đó là những vận động gián tiếp,
những hứa hẹn với dân chúng để hy vọng được bầu vào những chức vụ công quyền.
Tâm thức và lối hành xử thường tình của con người là như thế đó: làm việc tốt để
kể công, để được trọng vọng, khen thưởng. Người Kitô hữu cũng dễ bị cám dỗ để
có tinh thần khoe khoang kể công như trên vào đời sống đạo đức.
Tin
Mừng hôm nay ghi lại những lời dạy của Chúa Giêsu về tinh thần tu đức cần phải
có, với nguyên tắc sống đạo: đừng làm việc lành có ý phô trương cho người ta thấy.
2. Đừng cầu danh
Một
thi sĩ người Anh, ngoài tài làm thơ ông còn có năng khiếu về âm nhạc. Thi sĩ
thường cùng với nhóm thân hữu họp để ngâm thơ và hòa nhạc. Một đêm nọ, lúc đang
trên đường tới dự một buổi hòa nhạc, thi sĩ đã gặp một chiếc xe ngựa đang bị sa
lầy, trên xe hàng hóa chất đầy, tài xế thì già yếu và con ngựa lại gầy còm.
Không chút ngần ngại, ông đã bỏ cây đàn sang một bên, dỡ số hàng hóa trên xe xuống,
đẩy xe qua khỏi vũng lầy và chất hàng hóa lên xe trở lại. Ông còn tặng thêm cho
bác tài xế ít tiền nhỏ để mua thức ăn cho con ngựa. Xong xuôi công việc thì trời
đã về khuya và bộ đồ dạ hội đã vấy bùn. Tuy nhiên, ông vẫn đến nơi hẹn, lúc ông
đến nơi thì buổi hòa nhạc đã gần tàn, một người bạn nói với ông: “Nhà thơ của
chúng ta đã lỡ mất một buổi hòa nhạc tuyệt vời." Thi sĩ vui vẻ mỉm cười và
đáp: “Vâng! đúng thế. Tuy nhiên, bù lại tôi đã tấu được khúc nhạc khác tuyệt vời
hơn nhiều."
Mỗi
công việc đều đem lại một kết quả, kết quả đem lại cho con người hài lòng thì
nó là phần thưởng. Đối với nhóm bạn bè thân hữu của thi sĩ thì công việc của
ông làm đã hạ thấp giá trị người nghệ sĩ, ông bỏ mất phần thưởng giá trị để lao
mình vào chuyện không đâu. Riêng đối với nhà thơ thì khác, qua công việc bác ái
vừa làm, ông đã tấu được những khúc nhạc tuyệt vời. Vậy đâu là giá trị, là phần
thưởng của công việc.
3. Khiêm nhường thì mới
có ích
Xem
lại Thứ Tư lễ Tro.
Ngày
nọ, có một người đến nói với cha xứ: “Con sẵn sàng dâng cúng tiền để mua một quả
chuông cho Giáo xứ, nhưng với điều kiện, phải khắc tên con trên quả chuông ấy!"
Đây
là thực trạng của rất nhiều người biểu lộ niềm tin của mình cách thực dụng như
thế!
Sẵn
sàng giúp đỡ, nhưng không thể thành hiện thực khi không được nêu danh tánh và
công trạng của mình cách công khai!
Hôm
nay, Đức Giêsu lên tiếng khuyên răn các môn đệ của Ngài phải cẩn trọng trong việc
thi hành đức bác ái, kẻo lỡ trở thành “công dã tràng” tức là tốn công vô ích.
Ngài dạy cho các ông khi làm việc thiện, hãy làm vì lòng mến và tinh thần vô vị
lợi. Không cần phô trương để người đời biết mà ca tụng. Nếu muốn được biểu
dương thì hẳn đã được phần thưởng do người phàm tán tụng rồi, và như một quy luật:
đã được người đời thưởng công thì không được Thiên Chúa chúc phúc nữa.
Vậy,
cùng một việc bác ái, khi thi hành, chúng ta muốn được phần thưởng muôn đời do
Thiên Chúa ban tặng hay chỉ muốn phần thưởng tạm bợ, nhất thời, mau qua chóng hết
do con người trao tặng?
4. Làm vui lòng Cha trên
trời
Có
một con chuột sống trong một ngôi nhà thờ cũ kỹ ở miền quê. Một hôm nó đi lang
thang dạo mát bỗng gặp một con chuột khác cũng đang đi chơi. Nó liền được dịp
tâm sự: “Tôi sống chui rúc dưới gầm một tòa giải tội. Nhưng chẳng được yên thân
vì hầu như lúc nào cũng có người xưng tội, phá giấc ngủ của tôi."
Nghe
thế, con chuột kia nói: “Vậy bạn hãy dọn đến chỗ ở của tôi. Chỗ ấy ấm áp sạch sẽ
mà chẳng mấy khi có người quấy rầy, yên tĩnh lắm." “Ô thế bạn ở đâu vậy?"
“Tôi
ở trong thùng tiền cứu giúp người nghèo”
5. Đừng phô trương
Có
một linh sư Ấn độ nổi tiếng là bậc thánh thiện. Ông đã mở được một trung tâm cầu
nguyện và qui tụ được khá nhiều đệ tử. Ngày nọ có một người tìm thầy học đạo. Để
thử đức vâng lời của anh, ông bảo anh phải bơi qua một dòng sông đầy cá sấu.
Không chút ngần ngại, người thanh niên nhảy xuống và bơi qua sông mà không bị
nguy hiểm gì cả. Anh vui mừng hô to: “Tung hô quyền năng kỳ diệu của Thầy tôi."
Sự kiện này làm cho vị linh sư tin rằng mình là một người thánh thiện. Do đó
ông muốn chứng minh cho các đệ tử thấy quyền năng của mình. Ông tập họp tất cả
các đệ tử trên bờ sông. Rồi ông hô lớn “Tung hô quyền năng của ta” và nhảy xuống
sông. Thế nhưng vừa khi ông rơi xuống, đàn cá sấu đã ào tới cắn xé ông ra từng
mảnh.
Dụ
ngôn trên có thể là một định nghĩa về sự thánh thiện. Thánh thiện là sự quên
mình, quên mình đến độ không còn ý thức về sự thánh thiện của mình và sử dụng
chính sự thánh thiện của mình nữa. Thiên Chúa ban sự thánh thiện cho một người
nào đó là để những kẻ khác được hưởng nhờ. Bao lâu sự thánh thiện của người đó
còn được người khác hưởng dùng thì bấy lâu người đó còn thánh thiện. Trái lại,
kể từ giây phút người đó muốn giữ riêng sự thánh thiện cho mình, thì người đó mất
sự thánh thiện và đánh mất cả chính mình
6. Bác ái phải hy sinh
Sáng
nay mình đi học trễ, tuy thế vẫn cố sức đạp xe cho thật nhanh cho kịp giờ học.
À
mà! Một bà cụ gánh trái cây bị xe thồ tông phải, trái cây lăn đầy ra đường.
Tôi
tự nhủ: “Đường vắng quá có giúp cũng chẳng ai thấy, cứ lo việc của mình đã.” Thế
là tôi vụt qua, mặc cho bà cụ lẻ loi một mình. Đi được một quãng tôi chợt cảm
thấy thật có lỗi với bà cụ ấy. Những bài học về nhân bản như bị xé vụn trước mặt
mình. Cả ngày hôm đó hình ảnh bà cụ cứ làm tôi ray rứt mãi.
Vậy
đó, nhiều lúc mình cứ tưởng làm những việc lớn lao mới được tiếng tăm, được người
ta kính nể, thán phục. Nhưng tôi đã lầm, nhặt một mảnh kính vỡ giữa đường, dắt
một em bé qua đường, nếu làm được với tất cả với lòng mến và khiêm nhường, thì
quả thật mình làm được một việc lớn. Ngược lại nếu có “dời non lấp bể” để rồi
công việc mình làm chỉ để phục vụ cho cái tôi huênh hoang tự đắc thì kết quả chỉ
là con số không.
Lạy
chúa, xin đừng để con sa vào cạm bẫy của lợi danh, nhưng dạy con biết phục vụ
trong khiêm hạ và yêu thương.
7. Cách cầu nguyện
Mẹ
Têrêsa nói: “Cầu nguyện không là xin xỏ, nhưng là trao thân gửi phận nơi bàn
tay Thiên Chúa, để Ngài định liệu. Cầu nguyện là lắng nghe tiếng Ngài từ sâu thẳm
tấm lòng chúng ta."
Mẹ Têrêsa khuyên các nữ tu của Mẹ “Hãy yêu mến
việc cầu nguyện."
Hãy
cầu nguyện. Hãy cầu nguyện để có thể được ân sủng của Chúa.
Đức
Cha Tihamer Toth kể:
Một
triết gia kia buồn vì người học trò xuất sắc của mình ngày càng ham suy tư hơn
nhưng càng bớt cầu nguyện đi. Khi hỏi lý do thì người học trò đáp:
- Thứ nhất, Chúa biết hết mọi sự, không cần
chúng ta nói. Thứ hai, Chúa tốt lành vô cùng, Ngài sẽ cho chúng ta mọi thứ
chúng ta cần. Thứ ba, Ngài là Đấng Vĩnh Cửu, lời cầu nguyện của chúng ta chẳng
thay đổi được Ngài.
Triết
gia không nói gì. Ông đến ngồi dưới bóng cây, mặt buồn bã. Người học trò hỏi:
- Tại
sao thầy buồn thế?
-
Người bạn của thầy có một thửa ruộng rất tốt, hằng năm sản xuất rất nhiều hoa
màu. Nhưng bây giờ ông ta bỏ mặc không chăm sóc gì cho nó nữa .
- Bộ
ông ta khùng ư?
-
Không đâu. Ông còn khôn nữa là đàng khác. Ông nói: Chúa yêu thương vô cùng.
Ngài sẽ lo cho tôi mọi thứ tôi cần thế nên chẳng cần làm ruộng nữa. Chúa quyền
phép vô cùng, dù tôi không cày xới, Ngài vẫn thừa sức cho nó sinh sản hoa màu.
-
Như thế là thử thách Chúa rồi còn gì nữa?
- Thì
con cũng thế thôi .
Hãy
cầu nguyện để có thể hiểu Chúa đã yêu thương chúng ta thế nào, và để ta cũng có
thể yêu thương kẻ khác giống như vậy.
8. Cầu nguyện là nói
chuyện với Chúa.
Đã
nói chuyện thì phải có lúc nói lúc nghe. Nếu chỉ nói thì cuộc nói chuyện sẽ trở
thành độc thoại.
Xin
kể ra đây một ít sự kiện để chúng ta hiều việc cầu nguyện với Chúa như thế nào.
Khi
viếng Chúa, các thánh thường làm gì? Sau đây là một số câu trả lời:
Thánh
Ignatiô Loyola nói: “Có khi tôi nói chuyện với Chúa như một người bạn, có khi
như một người đầy tớ đối với Chúa. Tôi xin Chúa một vài ơn, thú tội đã phạm với
Chúa, xin Ngài an ủi và khuyên bảo."
Còn
thánh Phanxicô Xaviê trả lời: Có khi tôi thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con khẩn cầu
Chúa đừng để con thoải mái trong cuộc đời, hoặc ít ra, khi con chìm vào lòng
nhân lành thương xót của Chúa, xin dẫn đưa con đến nhà thánh của Chúa."
Vua
Louis IX của nước Pháp có lần hỏi vua Henry III của nước Anh:
- Tại
sao bệ hạ thích dự Thánh lễ hơn là nghe giảng?
- Bởi
vì, vua Henry trả lời, tôi thích nói chuyện mặt đối với Vua trên trời hơn là
nghe kẻ khác nói về Ngài.
Trong
tác phẩm: “Năm chiếc bánh và hai con cá” Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn
Thuận, trang 21 có kể câu chuyện sau đây: Câu chuyện về ông già Jim.
- Mỗi
ngày cứ vào lúc 12 giờ trưa, ông ta vào nhà thờ không quá hai phút. Sự việc đó
làm ông từ giữ nhà thờ rất thắc mắc nên theo dõi. Rồi một hôm ông từ mạnh dạn
chặn ông Jim lại và hỏi:
-
Ngày nào ông cũng vào nhà thờ làm gì vậy?
-
Tôi đến để cầu nguyện.
-
Không thể được! Cầu nguyện gì chỉ trong 2 phút?
-
Tôi vừa già, vừa dốt. Tôi cầu nguyện theo kiểu của tôi!
-
Ông nói gì với Chúa?
-
Tôi cầu nguyện: “Giêsu, có Jim đây!” rồi tôi về.
Vâng!
Đó là lời cầu nguyện thật đơn sơ nhưng thật cảm động.
9. Cầu nguyện không
kinh kệ
Và
đây câu chuyện ông lão nhà quê được kể lại trong hạnh thánh Gioan Maria
Vianney.
Hàng
ngày ngồi ở tòa giải tội, cha sở họ Ars luôn nhìn thấy một ông lão ghé vào nhà
thờ mỗi chiều sau khi đã lam lũ suốt ngày ngoài đồng. Ông luôn quì ở hàng ghế ấy.
Quì một chút rồi ông lại lặng lẽ đi ra, y như lúc ông vào. Một hôm, ngài gọi
ông lại và hỏi:
-
Ông ơi, chiều nào tôi cũng thấy ông ghé nhà thờ, quì nguyên một chỗ, ngày nào
cũng vậy, mà không thấy miệng ông mấp máy đọc kinh gì cả. Ông quì đó làm gì vậy?
Ông
lão tủm tỉm trả lời:
-
Con nhìn Chúa, Chúa nhìn con, rồi ra về.
10. lời cầu nguyện của
thánh Augustinô.
Lạy
Chúa Giêsu,
Xin
cho con biết con,
Xin
cho con biết Chúa.
Xin
cho con chỉ khao khát một mình Chúa,
Quên
đi chính bản thân,
Yêu
mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.
Xin
cho con biết tự hạ,
Biết
tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước
gì con biết hãm mình và sống trong Chúa.
Ước
gì con biết nhận từ Chúa
Tất
cả những gì xảy đến cho con
Và
biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin
đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin
Chúa hãy nhìn con, để con luôn yêu mến Chúa.
Xin
Chúa hãy gọi con, để con luôn được thấy Chúa.
Và
để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen.
11. Bằng ân nhân
Chuyện
rằng tại một giáo xứ nọ, khi một vị đại ân nhân qua đời thì hội đồng giáo xứ được
triệu tập để bàn xem phải tổ chức lễ an táng thế nào cho xứng đáng. Có một ý kiến
cho rằng cần phải tổ chức thật long trọng để sau này giáo xứ còn có nhiều người
giúp đỡ. Và ý kiến ấy xem ra được nhiều người ủng hộ. Cách nghĩ và cách làm đó
vô tình làm cớ cho người ta phô trương công đức của mình, dẫn tới chỗ cám dỗ
người ta làm việc chỉ vì hư danh. Trái lại, Thiên Chúa muốn chúng ta âm thầm
làm việc thiện, đừng phô trương công đức, đừng tỏ ra là mình đạo đức thánh thiện
hơn người khác, nhưng chỉ làm việc vì lòng mến Chúa và yêu thương anh chị em mà
thôi.
Sống
trong một xã hội thích thi đua, khen thưởng, báo cáo thành tích nhiều hơn những
gì làm được trong thực tế, người Kitô hữu chúng ta cũng dễ bị ảnh hưởng. Chúng
ta cần cảnh giác đối với não trạng thích báo cáo ‘thành tích đạo đức’, thích được
tuyên dương.
12. Ngôi sao công đức
Một
vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao. Ngày đêm ông ăn chay cầu nguyện. ông
ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết. Để thưởng công, Chúa cho
xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi. Khi ông ăn chay và cầu nguyện ít, ngôi sao
mờ đi. Khi ông ăn chay nhiều và cầu nguyện nhiều thì ngôi sao càng sáng lên.
Một
hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi. Khi ông chuẩn bị lên đường thì
một bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng ông. Thầy trò hăng hái lên
đường, đường càng lên càng dốc rất khó đi. Mặt trời càng lúc càng nóng gắt. Cả
hai thầy trò ướt đẫm mồ hôi và cảm thấy khát nước. Nhưng không ai dám uống.
Em
bé không dám uống trước khi thầy uống. Vị ẩn tu không dám uống vì sợ mất công
phúc trước mặt Chúa. Nhưng nhìn thấy bé gái mỗi lúc mệt thêm, thầy ẩn tu thấy
thương, nên mở nước ra uống. Lúc ấy cô bé mới dám uống. Uống nước xong, cô bé mỉm
cười rất tươi và cám ơn thầy. Thầy ẩn tu len lén nhìn lên đầu núi. Thầy sợ ngôi
sao biến mất vì thầy đã không biết hãm mình.
Nhưng
lạ chưa, trên đầu núi thầy thấy không phải một mà có đến hai ngôi sao xuất hiện.
Thì ra, để thưởng công vì thầy biết nghĩ đến người khác, Chúa đã cho xuất hiện
một ngôi sao nữa, sáng không kém gì ngôi sao kia.
13. Đất sét thơm
Chuyện
ngụ ngôn về miếng đất sét kể: Có người tình cờ nhặt được miếng
đất sét có màu sắc và hương thơm của hoa hồng. Vô cùng kinh ngạc, ông
ta hỏi:
-
Đất sét ơi, hãy nói cho ta biết mi là gì, một viên ngọc đáng giá,
là viên kim cương quý hiếm hay viên đá kỳ diệu nhất trên đời?
Đất
sét trả lời:
-
Tôi chỉ là miếng đất sét tầm thường như bạn bè của tôi.
-
Thế sao mi có hương thơm và vẻ đẹp kỳ diệu như vậy?
-
Tôi sẽ nói cho ông biết điều bí mật đó: Vì tôi sống gần một bông
hồng.
Con
người cũng là nắm đất sét được Thiên Chúa chạm đến, nên trở nên cao
quí nhờ thấm đẫm tình thương và ân huệ của Người. Sách Sáng Thế
viết: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi
sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật.” (St 2, 7) Con
người chỉ là bùn đất, nhưng vì được Thiên Chúa chuyển thông sinh khí,
nên có sự sống và vượt trổi hơn muôn vật muôn loài.
14. Bất an và bình an
Dag
Hammarskjold làm Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc từ năm 1953 cho đến năm 1961 khi
ông bị chết trong một tai nạn máy bay. Trong nhật ký của ông được tìm thấy
trong căn hộ của ông sau khi ông chết, có lời dẫn nhập như sau: “Bất an, bất
an, bất an - tại sao? Vì quan tâm đến những ý nghĩ tốt của người khác… bạn đã hạ
thấp mình để tò mò muốn biết kết quả những gì mình đã làm.” Rồi ông viết thêm:
“Cầu chúc cho sự bất an của bạn, vì đó là dấu chứng tỏ sự sống vẫn tồn tại
trong bạn.”
Tôi
bị điều khiển nhiều tới độ nào bởi khát vọng được người khác nhìn nhận và kính
trọng?
Lạy
Chúa, xin giúp con đừng bao giờ thực hiện lẽ phải vì một động lực không đúng đắn.
15. Dấu hiệu nhận dạng
Tại
phiên tòa, chỉ một chi tiết nhỏ mà đã đóng vai trò lớn trong việc kết tội mưu
sát của Judd Gray. Vào đêm xảy ra án mạng, Gray lên một chiếc taxi gần khu vực
đó. Vấn đề ở đây là liệu người tài xế có thể nhớ để nhận dạng Gray rõ không, Và
thực sự ông ta đã nhận ra. Khi người tài xế chở Gray đi, Gray đã cho ông ta một
đầu thuốc lá mạ kền.
Khi
được hỏi, người tài xế này lấy làm ngạc nhiên và nói: “Tôi muốn nhìn rõ mặt anh
ta. Chắc là tôi vẫn còn nhớ.” Rồi chỉ vào Gray, ông nói: “Chính anh ta.”
Tôi
quảng đại ra sao về thời giờ, tài năng và của cải tôi?
Thà
là một kẻ ăn xin và xài đồng tiền cuối cùng của tôi như một ông hoàng, còn hơn
làm vua và xài tiền như một kẻ ăn xin (Robert Ingersoll).
THỨ
NĂM - LỜI CẦU NGUYỆN CỦA CHÚA GIÊSU
Lời
Chúa: Mt 6, 7-15
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi cầu nguyện, các con đừng
nhiều lời như dân ngoại: họ nghĩ là phải nói nhiều mới được chấp nhận. Ðừng làm
như họ, vì Cha các con biết rõ điều các con cần, ngay cả trước khi các con xin.
Vậy các con hãy cầu nguyện như thế này:
"Lạy
Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến,
ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương
thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng con,
xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.
"Vì
nếu các con có tha thứ cho người ta những lầm lỗi của họ, thì Cha các con, Ðấng
ngự trên trời, mới tha thứ cho các con. Nếu các con không tha thứ cho người ta,
thì Cha các con cũng chẳng tha thứ lỗi lầm cho các con."
TRUYỆN KỂ
1. Kinh Lạy Cha
Kinh
Lạy Cha là một kinh quan trọng đối với đời sống người Kitô hữu, vì đó là kinh
do chính Chúa Giêsu đặt ra, là kinh được Giáo Hội đọc nhiều hơn cả trong các cử
hành phụng vụ và các cử hành khác, là kinh tóm gọn tất cả những gì phải làm
trong khi cầu nguyện.
Kinh
Lạy Cha là kiểu mẫu cho tất cả việc cầu nguyện.
Theo
thánh Luca, Kinh Lạy Cha có 5 lời nguyện, trong khi đó ở Phúc Âm Matthêu có 7 lời
nguyện: 3 lời cầu đầu tiên nói về Thiên Chúa, Ðấng mà Chúa Giêsu dạy chúng ta gọi
là Cha: Cha chúng con ở trên trời, sau đó chúng ta xin cho Danh Thánh Cha được
hiển vinh, nước Cha được lan rộng trên thế gian, nhất là trong tâm hồn con người,
và xin cho thánh ý Cha được thực hiện dưới đất cũng như trên trời. Trong phần
hai, có 4 lời nguyện: xin lương thực hàng ngày, nghĩa là xin cơm bánh nuôi thân
xác và của ăn nuôi hồn, tức là Lời Chúa và Mình Chúa; xin tha thứ các tội xúc
phạm đến Thiên Chúa, nhưng để được tha thứ, chúng ta cũng phải tha thứ lỗi lầm
của anh em; xin ơn kiên trì để lướt thắng cám dỗ hàng ngày, nhất là trong cơn
thử thách sau cùng trước sức tấn công của tà thần muốn đưa chúng ta xa lìa
Chúa; xin ơn thoát khỏi mọi sự dữ để có thể phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha
nhân mọi ngày trong đời sống chúng ta.
Chúng
ta hãy dốc quyết không bao giờ bỏ đọc Kinh quan trọng và hiệu nghiệm này trong
đời sống cá nhân, gia đình và cộng đoàn chúng ta.
2. Hãy cầu nguyện như
thế này
Nhắc
đến cuộc đời của thánh Gioan M. Vianey, cha sở họ Ars. Người ta không thể quên
câu chuyện sau đây về một nông dân xứ Ars: Mỗi ngày trước khi ra đồng, anh đều
ghé vào nhà thờ cầu nguyện giây lát rồi mới ra đồng. Khi trở về nhà anh cũng
ghé vào nhà thờ để cầu nguyện như vậy. Trong xứ ai cũng nể và kính phục. Một
hôm có người hỏi: “Ngày ngày ông ghé vào nhà thờ mấy lần để làm gì thế?"
Anh nông dân trả lời: “Tôi bàn chuyện với Chúa và Chúa bàn chuyện với tôi."
“Tôi
bàn chuyện với Chúa và Chúa bàn chuyện với tôi." Câu trả lời trên của anh
nông dân xứ Ars diễn tả được tận gốc tủy của việc cầu nguyện. Hoạt động không cầu
nguyện là vô ích trước mặt Thiên Chúa. Máy móc tự động có thể làm hơn con. Cầu
nguyện là nền tảng của đời sống thiêng liêng, vì lúc cầu nguyện con nối liền sự
kết hợp với Thiên Chúa. Bí quyết nuôi dưỡng đời sống Kitô hữu là cầu nguyện.
Không cầu nguyện dù có làm phép lạ con cũng đừng tin.
3. Một người vô thần và
kinh lạy cha
Người
con gái của Karl Marx có lần tâm sự với một người bạn: “Tôi lớn lên mà không hề
biết đến bất cứ tôn giáo nào. Tôi cũng không tin tưởng Thiên Chúa. Thế rồi,
tình cờ tôi đọc được một quyển sách trong đó có lời kinh khác lạ. Tôi đọc hết lời
kinh ấy và tự nhủ: Nếu quả thật Thiên Chúa của lời kinh đó hiện hữu, tôi nghĩ rằng
tôi có thể tin Ngài được."
Người
bạn hỏi cho biết đó là lời kinh nào. Người con gái của Karl Marx mới từ từ đọc
lại kinh Lạy Cha (...) Tình cha con và tình anh em được Chúa Giêsu mạc khải qua
kinh Lạy Cha. Sống với Cha trong tình phó thác, với anh em trong tình bác ái.
4. Thế nào là cầu nguyện
không ngừng
Tác
phẩm “Con đường hành hương” kể câu chuyện như sau:
Một
người kia học Thánh kinh thấy lời khuyên hãy cầu nguyện không ngừng. Ông không
biết làm thế nào để có thể cầu nguyện không ngừng. Vì thế, ông hành hương đến một
tu viện và xin một tu sĩ chỉ dạy ông. Vị tu sĩ mời khách hành hương ở lại tu viện,
trao cho ông một tràng chuỗi và dặn ông cứ lần chuỗi và đọc câu “Lạy Chúa
Giêsu, Con Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi." Người này nghe lời
làm theo, mỗi ngày vừa lần chuỗi vừa đọc không biết bao nhiêu lần câu đó, có đến
cả trăm ngàn lần.
Một
ngày kia vị tu sĩ qua đời. Người khách hành hương khóc sướt mướt khi đưa vị tu
sĩ đến nơi an nghỉ cuối cùng. Sau đó ông rời tu viện tiếp tục cuộc hành hương,
bởi vì vị tu sĩ ấy vẫn chưa dạy cho ông làm thế nào để có thể cầu nguyện không
ngừng. Vừa đi, ông vừa làm như thói quen vị tu sĩ đã dạy. Khi ông hít vào, ông
đọc “Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa”, khi thở ra, ông đọc tiếp “Xin thương xót
con là kẻ tội lỗi." Cứ thế không bao lâu lời cầu nguyện đã thành hơi thở của
ông: dù khi ăn, dù khi uống, dù khi nói năng, đi đứng... Mỗi hơi thở, mỗi nhịp
đập của trái tim ông đều trở thành cầu nguyện. Và người khách hành hương chợt
hiểu: Bây giờ tôi đã hiểu thế nào là cầu nguyện không ngừng
5. Cầu nguyện là nói
chuyện với Chúa
Các
nhà tu đức học thường coi cầu nguyện là câu chuyện thân mật giữa ta và Chúa với
tâm tình con thảo. Vì thế, cầu nguyện là nói chuyện với Chúa. Đã nói chuyện thì
phải có lúc nói lúc nghe. Nếu chỉ nói thì cuộc nói chuyện sẽ trở thành độc thoại.
Xin kể ra đây một ít sự kiện để chúng ta hiểu việc cầu nguyện với Chúa như thế
nào. Khi viếng Chúa, các thánh thường làm gì? Sau đây là một số câu trả lời:
*
Thánh Ignatiô Loyola nói: “Có khi tôi nói chuyện với Chúa như một người bạn, có
khi như một người đầy tớ đối với Chúa. Tôi xin Chúa một vài ơn, thú tội đã phạm
với Chúa, xin Ngài an ủi và khuyên bảo."
*
Còn thánh Phanxicô Xaviê trả lời: Có khi tôi thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con khẩn
cầu Chúa đừng để con thoải mái trong cuộc đời, hoặc ít ra, khi con chìm vào
lòng nhân lành thương xót của Chúa, xin dẫn đưa con đến nhà thánh của Chúa."
*
Vua Louis IX của nước Pháp có lần hỏi vua Henry III của nước Anh:
- Tại
sao bệ hạ thích dự Thánh lễ hơn là nghe giảng?
- Bởi
vì, vua Henry trả lời, tôi thích nói chuyện mặt đối với Vua trên trời hơn là
nghe kẻ khác nói về Ngài.
*
Khi thánh Phanxicô khó khăn trình lên Đức Thánh Cha Hônôriô II bản qui luật của
Dòng, để xin Ngài phê chuẩn thì Đức Thánh Cha có hỏi thánh nhân: - Có bao giờ
con thấy Chúa chưa?
Phanxicô:
- Dạ thưa có. Con vừa thấy đêm hôm qua.
Đức
Thánh Cha: - Người có nói gì với con không?
Phanxicô:
- Người và con ở bên nhau suốt đêm mà không nói được gì. Tuy nhiên mỗi lần con
nói “Abba” với Người thì Người lại trả lời với con: “Con Ta." Cứ thế... chẳng
có gì hơn cho tới sáng.
6. Ý ngay lành
Anh
Guton Boris có thói quen ghi lại tất cả những việc làm tốt của mình vào sổ tay,
đến ngày kết thúc cuộc đời ở trần gian, anh xuất hiện trước toà Chúa và trình
lên Ngài một cuốn sổ tay dày cộm, trong đó anh ghi được tổng cộng tất cả là
50.000 việc làm tốt. Chúa Giêsu nhìn và tỏ vẻ rất nghiêm trang nhưng Ngài không
phản ứng gì. Đoạn Ngài từ từ mở sổ riêng của Ngài ra nhìn vào đó hồi lâu rồi
nói với anh.
-
Con nói là đã làm được 50.000 việc tốt nhưng theo sổ riêng của Ta thì chỉ có một
việc duy nhất mà thôi, vì thế con chưa được ở lại đây với Ta mà phải trở lại trần
gian để được thanh luyện thêm rồi mới trở lại đây để ta xét.
Anh
Guton Boris vội vã thanh minh.
-
Thưa Chúa, con đâu ghi láo, mỗi lần làm xong việc tốt là con ghi ngay vào sổ.
Quả thật tất cả là con đã làm 50 ngàn việc lành trong suốt đời sống con ở trần
gian. Tại sao Chúa lại chỉ nhận có một việc, còn 49.999 việc kia thì sao.
Bấy
giờ, Chúa Giêsu chậm rãi giải thích:
-
Này con, con đã làm 50 ngàn việc tốt nhưng với ý khoe khoang chứ không phải vì
ý ngay lành hay vì tình yêu đối với Ta. Chỉ có một lần duy nhất con làm vì ý
ngay lành mà thôi, đó là lúc con mới được rước Ta vào lòng lần đầu tiên. Ý ngay
lành rất quan trọng vì nếu không có nó, những việc tốt con làm không có giá trị
gì đối với Ta cả. Con đã muốn khoe khoang, muốn được mọi người khen ngợi, vì thế
49.999 việc tốt kia là những việc khoe khoang vô ích mà thôi.
Vâng,
con người có thể che mắt được thiên hạ chứ làm sao giấu được Chúa.
7. Quảng đại thực sự
Trong
một bài tạp bút của báo Tuổi trẻ số ra chủ nhật đầu tháng 10/1998, tác giả Uông
Thế Biển có ghi lại một kinh nghiệm như sau:
Chuyện
xảy ra cách đây đã hơn mười năm. Ngày ấy, tôi làm lục lâm vượt sông Nghệ An đi
buôn bè gỗ đường dài. Lần đầu và lần sau, người đưa đường cho tôi là Văn Suối,
người dân tộc. Trong cuộc luồn rừng với tôi, Suối là cuốn tự điển sống về rừng.
Anh thuộc tên từng loại côn trùng, thảo mộc, và với anh, rừng là cuộc sống, là
máu thịt của anh.
Trời
ngả sang chiều, chúng tôi dừng chân trong căn lều từ lâu đã bị bỏ hoang. Căn lều
đã siêu vẹo, lưng lửng trên bếp có một ống đứa đựng muối còn sạch sẽ, trong đó
vẫn còn một dúm muối khô như ai đó vừa bốc bỏ vào. Tôi và Suối mở cơm nắm ra
ăn. Vì mệt, nên chúng tôi chỉ ăn hết phần nửa mo cơm. Theo thói quen, tôi định
hất phần cơm còn lại đi nhưng Suối giằng lấy. Tôi nhìn anh gói ghém lại phần
cơm và trèo lên bên dưới mái lều, anh không quên bốc một nắm muối mang theo cho
vào ống đứa, và bỏ lại bên hòn đá năm bảy que diêm.
Thấy
tôi ngạc nhiên, Văn Suối giải thích “Lần đầu tiên đi rừng, cậu không hiểu là phải.
Đây là tập quán của những người quanh năm sống gắn bó với rừng: nắm cơm thừa,
vài ba hạt muối, đôi lúc đã cứu được cả mạng sống người đi lạc đường, một viên
ký ninh cắt tạm cơn sốt, một que diêm có thể đốt lên ngọn lửa sưởi ấm một người
lạc trong rừng đang bị cô đơn và sợ hãi đe dọa. Những túp lều hoang trơ trọi giữa
rừng núi trùng điệp này là nơi trú chân cho những người lỡ đường giữa mênh mông
đại ngàn. Là người đi rừng, ai cũng có thể lâm vào hoàn cảnh như thế."
Bao
năm đã qua, tôi vẫn không quên được lời của Văn Suối, người bạn chỉ chung một
chuyến đi, và ấn tượng về mục đích đẹp dành cho những người bạn rừng vẫn mãi
theo tôi...
Nét
đẹp của người bạn rừng trên đây hẳn phải là sự quan tâm đến người khác. Cử chỉ
anh còn đẹp hơn nữa vì được thực thi trong một nơi ẩn khuất, không chờ đợi một
đáp trả nào. Cử chỉ ấy gợi lại tinh thần vô vị lợi mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi
các Kitô hữu:
8. Giá trị của việc cầu
nguyện
Một
chàng sinh viên Văn Khoa tò mò vào Nhà Thờ, tình cờ anh gặp thấy nhà Bác học
Ampère đang chăm chú cầu nguyện. Anh đợi nhà bác học cầu nguyện xong, anh theo
nhà bác học về tới nhà và hỏi:
-
Thưa ngài, con xin hỏi một điều, con học ngành Văn Khoa, nên không dám hỏi về
chuyện khoa học, con chỉ xin hỏi về vấn đề Đức Tin.
Nhà
Bác học ngỡ ngàng nói lại:
-
Tôi là kẻ yếu kém về Đức Tin nhất, nhưng nếu có thể giúp gì cho anh, tôi sẵn
sàng.
Chàng
thanh niên mừng rỡ hỏi tiếp:
-
Thưa ngài, một người vừa là một nhà khoa học vĩ đại, vừa là người Kitô hữu
siêng năng cầu nguyện được không?
Ông
Ampère ôn tồn đáp:
-
Chỉ thực sự là vĩ đại khi người ta biết cầu nguyện mà thôi! Chính Chúa Giêsu là
bậc vĩ đại nhất, vì Thiên Chúa là Cha toàn năng, muốn gì được nấy, cho kẻ đói
ăn, chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền, xua trừ ma quỷ… thế mà Ngài vẫn chu đáo việc
cầu nguyện trước những sinh hoạt trong ngày. Điều ấy Đức Giêsu đã khẳng định với
mọi người: muốn là người vĩ đại, phải ưu tiên việc cầu nguyện (x Mc 1, 32-39).
Chính vì vậy mà Ngài dạy mọi người rằng: “Chúng con hãy cầu nguyện luôn đừng
nhàm chán!” (Lc 18, 1).
9. Cầu nguyện là đốt lửa
yêu thương
Cha
Anthony de Mello giảng về việc cầu nguyện, ngài nói cầu nguyện chính là “đốt lửa”,
theo nghĩa là “yêu thương”; không có “lửa” thì không có cầu nguyện gì cả, dù
người ta có cả núi lời hay ý đẹp. Còn thánh Têrêsa Avila, được tôn vinh là bậc
thầy cầu nguyện, xác nhận rằng cầu nguyện là sống tình bạn với Chúa, rằng cầu
nguyện hệ tại ở tâm tình chứ không ở các ý tưởng.
Quả
thật, những cách diễn đạt trên chung qui là vọng lại nghệ thuật cầu nguyện của
chính vị “vạn thế sư biểu” là Chúa Giê-su: “Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải
như dân ngoại; họ nghĩ rằng cứ nói nhiều là được nhận lời…” Chúa chủ trương
‘quí hồ tinh bất quí hồ đa’! Và tất cả tâm tình tinh túy để cầu nguyện được kết
đọng trong Kinh Lạy Cha do chính Chúa dạy.
10. Chúng con nguyện
danh Cha cả sáng
Quyển
nhật ký của Dag Hammaskjold cho thấy ông là một người rất sâu sắc trong đời sống
cầu nguyện, mặc dù ông không thuộc một tôn giáo chính thống nào. Ông chịu trách
nhiệm về việc xây phòng suy niệm tại trụ sở Liên Hiệp Quốc. Một lời cầu nguyện
được ông suy gẫm rất nhiều đó là Kinh Lạy Cha. Nhật ký của ông có nhiều nơi ám
chỉ điều này: “Danh Ngài được vinh hiển, chứ không phải danh con. Nước Ngài trị
đến, chứ không phải nước con. Ngài được phục vụ, chứ không phải con.”
Thánh
Augustinô ngụ ý gì khi viết: “Những gì chúng ta phải cầu nguyện đã có trong
Kinh Lạy Cha, còn những gì không có trong đó phải chăng chúng ta không phải cầu
nguyện?”
Kinh
Lạy Cha có thể học thuộc lòng rất nhanh, nhưng thấm vào lòng lại chậm chạp
(F.D. Maurice).
11. Cầu nguyện phải lắng
nghe
Khi
đang đi dọc theo bờ biển, một phụ nữ phát hiện ra một con sò nhỏ. Bà nhặt nó
lên và nói: “Mi là món quà kỳ nghỉ Thiên Chúa gửi đến, ta sẽ đem mi về và đặt
trên bàn của ta." Rồi khi mọi thứ trở nên náo động, mi sẽ bảo ta: “Dừng lại!
Hãy tĩnh lặng! Hãy thư giãn tâm hồn!”
Điều
này rất phù hợp với lời giáo huấn của Chúa Giêsu trong bài đọc hôm nay. Lời cầu
nguyện tốt nhất thường diễn ra khi ta ngồi thinh lặng và lắng nghe trong sâu thẳm
tâm hồn ta.
Tôi
thoải mái thế nào với việc lắng nghe khi cầu nguyện? Làm thề nào để được thoải
mái hơn?
Càng
lắng nghe tiếng nói tâm hồn bằng đức tin, bạn càng có thể nghe được âm vang bên
ngoài.(Dag Hammarskjld)
12. Cầu nguyện là nối
liền với Chúa
Một
người lính sắp chết đuối khi chiếc ca nô của anh ta bị lật úp gần một thác nước.
Khi dòng nước đưa anh ta đến cái chết những lời kinh trong Kinh Lạy Cha chợt
lóe lên trong tâm trí anh và anh bắt đầu cầu nguyện. Đột nhiên, anh kinh nghiệm
được một sức mạnh nổ tung và cảm nhận được sự hiện diện còn lớn hơn cả chính
anh. Nhờ đó anh đã vật lộn với dòng nước bằng một sức mạnh mới, và được an toàn
đúng lúc.
Kinh
nghiệm của người lính khiến tôi tự hỏi về mối quan hệ giữa tôi và Chúa qua lời
cầu nguyện. Khi nào mối liên hệ ấy mãnh liệt nhất trong đời tôi? Hiện nay điều
gì khiến nó không còn mạnh mẽ hơn nữa?
Những
ai đánh mất mối liên hệ với Chúa sẽ sống như thể bước trên đường đưa đến sự chết,
giống như kẻ chối bỏ Chúa. (Milton A.Marcy)
13. “Lá thư gửi Cha ở
trên trời”
Ngụ
ngôn thời hiện đại: Ngày xưa, có một cậu bé tên là An, sống trong một ngôi làng
nghèo dưới chân núi. Mẹ cậu mất sớm. Người cha – một người thợ mộc hiền lành và
giỏi giang – phải rời quê để lên thành phố làm việc nuôi con. Trước khi đi, ông
hứa: “Cha sẽ trở về khi con đủ lớn để cha và con cùng xây lại căn nhà mơ ước của
mẹ.”
Những
năm tháng trôi qua, cậu bé An ở lại với bà ngoại. Mỗi buổi tối, cậu lại ngước
nhìn bầu trời đầy sao mà thầm nói: “Cha ơi, Cha ở đâu? Trên trời có thấy con
không?”
Dù
không nhận được thư, nhưng bà ngoại dạy An: “Nếu con tin rằng cha con vẫn còn
nhớ đến con, thì hãy viết thư cho ông ấy – không bằng giấy mực, mà bằng việc sống
tốt, sống tử tế mỗi ngày. Mỗi việc lành, mỗi lời cầu nguyện là một dòng thư gửi
lên trời.”
Thế
là mỗi khi An giúp người nghèo, chia sẻ bữa ăn với bạn, hay cầu nguyện ban tối,
cậu lại thì thầm: “Lạy Cha ở trên trời, hôm nay con đã cố gắng tốt hơn một
chút…”
Một
hôm, làng xảy ra bão lớn. Mái nhà xiêu vẹo. Bà ngoại ngã bệnh. Cậu bé An sợ
hãi, chỉ còn biết quỳ xuống giữa trời mưa, hai tay giơ lên, nghẹn ngào: “Lạy
Cha ở trên trời, nếu Cha nghe được, xin Cha mau về…”
Ngay
hôm sau, một người đàn ông xuất hiện trước cửa nhà. Râu đã bạc, nhưng ánh mắt
còn nguyên nét thân thương năm nào. Ông quỳ xuống, ôm lấy đứa bé: “Cha đã nghe
tiếng con suốt những năm qua. Mỗi hành động tốt của con, Cha đều thấy. Bây giờ,
Cha về – để con không còn phải sống một mình nữa.”
Họ
cùng nhau dựng lại mái nhà. Dưới vầng trăng sáng, An ngước lên trời, thì thầm: “Lạy
Cha ở trên trời… nhưng giờ Cha đã ở bên con rồi.”
🎯 Ý
nghĩa câu chuyện
“Lạy
Cha”: Cách An gọi cha không phải bằng sự sợ hãi, mà bằng niềm yêu thương và
trông cậy. Đây là lời cầu nguyện của trái tim trẻ thơ, đầy thân mật và tin tưởng.
“Ở
trên trời”: Cha vắng mặt, nhưng không vắng tình yêu. Dù cách xa về không gian,
nhưng cha vẫn luôn nhìn, lắng nghe, dõi theo. Điều này gợi nên hình ảnh Thiên
Chúa siêu việt nhưng không xa cách.
Trái
tim người con: Qua từng việc lành, từng lời cầu nguyện âm thầm, cậu bé An gửi
“lá thư” lên trời. Đó là hình ảnh người tín hữu sống đời cầu nguyện và bác ái,
như những sợi chỉ nối liền đất với trời.
Sự
trở về của người cha là hình ảnh Thiên Chúa đáp lời cầu nguyện, bước vào đời ta
đúng lúc, và không ai phải sống lẻ loi khi biết kêu lên: “Lạy Cha…”
THỨ
SÁU - KHO TÀNG TRÊN TRỜI
Lời
Chúa: Mt 6, 19-23
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đừng tích trữ cho mình
kho tàng dưới đất: là nơi ten sét mối mọt sẽ làm hư nát, và trộm cướp sẽ đào ngạch
lấy mất, nhưng các con hãy tích trữ cho mình kho tàng trên trời: là nơi không
có ten sét, mối mọt không làm hư nát, trộm cướp không đào ngạch lấy mất: Vì kho
tàng con ở đâu, thì lòng con cũng ở đó.
Con
mắt là đèn soi cho thân xác con. Nếu mắt con trong sáng, thì toàn thân con được
sáng. Nhưng nếu mắt con xấu kém, thì toàn thân con phải tối tăm.
Vậy
nếu sự sáng trong con tối tăm, thì chính sự tối tăm, sẽ ra tối tăm biết chừng
nào?"
TRUYỆN KỂ
1. Hai tư thế
Trong
điện Vatican, có treo một bức họa nổi tiếng của Rafaelo mang tên là "trường
phái Athène", mô tả dung mạo và sứ điệp của hai triết gia Hy Lạp là
Aristote và Platon. Danh họa Rafaelo mô tả Aristote đứng vững trên mặt đất, một
tay cầm cuốn sách luân lý, một tay chỉ xuống mặt đất; còn Platon thì được vẽ
hai chân chỉ chạm nhẹ mặt đất, một tay cầm cuốn sách, một tay chỉ về trời cao.
Trong hai tư thế khác nhau này, Rafaelo muốn nói lên khía cạnh nổi bật của
thiên tài Hy Lạp, đồng thời là hai chiều kích căn bản của ơn gọi làm người, đó
là chinh phục mặt đất, đồng thời vượt qua vật chất, vượt khỏi tầm mức những gì
thấy được; vừa dấn thân trong lãnh vực trần thế, vừa biết hướng về trời cao và
những giá trị đời đời.
Tin
mừng mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay cũng mời gọi chúng ta đang sống
trong ơn gọi trên trần gian, nhưng hãy biết hướng về trời cao, nơi tích chứa của
cải đích thực.
2. Món quà Giáng sinh.
Đức
cha Bossuet cho làm một hang đá trong nhà nguyện của tu viện. Chiều hôm Noel,
ngài trả lương cho các người thợ. Rồi ngài nói với họ:
-
Chờ một tí, tôi sẽ cho các anh quà “Giáng sinh."
Nói
xong, ngài mở khăn trải bàn. Người ta thấy trên bàn, nằm kề nhau, 4 đồng tiền
vàng và 4 cuốn sách “Hạnh các thánh." Đức cha Bossuet nói với các người thợ
là họ có thể chọn, hoặc một đồng tiền, hoặc một cuốn sách. Ba người đã chọn 3 đồng
tiền vàng, còn người thứ tư tuyên bố:
- Ở
nhà, mẹ già của tôi cũng rất cần tiền, nhưng bà cũng thích những cuốn sách tốt.
Tôi lấy cuốn “Hạnh các thánh."
Tuy
nhiên, khi ông này vừa mở cuốn sách ấy ra thì ông tìm thấy 6 đồng tiền vàng dán
sát bìa cuốn sách. Hãy tưởng tượng niềm vui của ông và nỗi hối tiếc ân hận của
ba người kia như thế nào. Ông này đã không hối hận về sự lựa chọn của mình.
Vâng!
Chỉ có những con mắt thật sáng mới nhìn thấy những giá trị thực sự cần thiết
mình phải theo đuổi ở đời này.
3. Đèn của tâm hồn
Em
thì quờ quạng trước chiếc gậy trên tay, em thì bám vào vai bạn và hai tay lấn
bước. Nơi lớp học, các em dùng bàn tay nhỏ bé của mình để đọc từng chữ.
Tôi
chạnh lòng khi nhìn thấy cảnh tượng này ở một trường khiếm thị. Bất chợt ánh mắt
tôi dừng lại ở một em đeo Thánh Giá trước ngực. Tiến lại gần, tôi làm quen với
em và được biết trước khi vào trường này, mẹ em đã đưa cây Thánh Giá cho em và
bảo: “ Đèn của thân thể con người là mắt, còn đây chính là đèn của tâm hồn
con.”
Tôi
hỏi em: “Em có vui không?” Thật hạnh phúc.” Em đáp: “Có chứ anh, em đã mất con
mắt của thân thể, nhưng thật sự con mắt của tâm hồn em vẫn sáng.”
Nghe
lời xác quyết ấy, tôi giật mình tự nghĩ: “Con mắt tâm hồn có bị tắt không nhỉ?”
Lạy
Chúa, xin thắp sáng lên trong tâm hồn con ngọn lửa hồng tình yêu Chúa.
4. Kho tàng ở trên trời
Công
chúa Diana mang một chiếc nhẫn kim cương trị giá 205 ngàn Mỹ kim, tương đương với
tiền Việt Nam là 3 tỷ 71 triệu đồng; và đám cưới của cô với hoàng tử Charles nước
Anh tốn hết 3 triệu 500 ngàn Mỹ kim, tương đương với 52 tỷ 500 triệu đồng Việt
Nam, với 2700 khách danh dự. Vậy mà tổ ấm đắt giá đó đã tan vỡ sau 15 năm tình
lận đận. Bị tử nạn xe và được chôn cất, công chúa Diana không mang theo nhẫn
kim cương cũng không mang được một Mỹ kim nào. Trong hòm cô hôm đó, chỉ có xâu
chuỗi của mẹ Têrêsa thành Calcutta đã tặng cô mà thôi.
Khi
chết, vua chúa hay anh ăn mày cũng đều như nhau cả. Nhà phú hộ trong Tin Mừng
chỉ hưởng được mấy chục năm sung sướng, nhưng anh ăn mày Lazarô lại được sung
sướng đời đời: không biết ai khôn hơn ai?
5. Ngọc nào quý?
Ngày
kia, có một người gặp một vị tu hành đi qua làng, người này vội chạy theo và
nài xin vị tu hành:
-
Xin ngài cho tôi viên ngọc quí trong bị của ngài.
Vị
tu hành ngạc nhiên hỏi lại:
-
Sao lại hỏi xin tôi viên ngọc quí?
Người
kia liền thưa:
- Tối
hôm qua tôi nằm mơ thấy có một ông tiên bảo tôi là, sẽ có một vị tu hành, mang
theo một viên ngọc quí đi ngang qua làng anh, nếu xin được viên ngọc quí ấy,
thì anh sẽ là người sung sướng nhất trên đời này. Ngài là người tu hành, nên
đâu có cần đến những thứ phàm tục này. Vậy xin ngài thương tôi và gia đình tôi,
cho tôi viên ngọc quí của ngài để tôi nuôi sống vợ con tôi.
Vị
tu hành đáp:
-
Quả thực tôi không có viên ngọc nào cả.
Và
để cho người kia tin, vị tu hành đưa bị của ông ra cho người kia xem. Mở bị ra,
người kia sáng mắt lên rồi hô to:
-
Đây thôi, viên ngọc quí khổng lồ như thế này mà ngài nói là không có.
Vị
tu hành ngạc nhiên nói:
-
Đó là cục đá mà ông nói là viên ngọc ư? Cục đá này tôi lượm được khi xuống suối
uống nước. Nếu ông muốn thì tôi biếu ông.
Người
kia sung sướng cầm viên ngọc trong tay, cám ơn vị tu hành rối rít, rồi chạy về
nhà, trong lòng thầm nghĩ, thế là từ nay mình sẽ không còn vất vả cầy sâu cuốc
bẫm nữa, mà nghiễm nhiên trở thành nhà phú hộ. Ý tưởng mình sẽ được giàu sang
phú quí nhờ viên ngọc, đã khiến cho người kia không biết cất giữ viên ngọc ở
đâu, vì để ở chỗ nào ông ta cũng sợ bị mất. Do đó, chỉ còn cách là giữ nó trong
mình. Nhưng giữ nó trong mình thì chẳng còn làm được việc gì, kể cả việc ngủ
nghỉ nữa, vì ngủ thì cũng sợ người khác lấy mất.
Sau
nhiều ngày đêm lo lắng, thậm chí có đêm phải thức trắng để giữ viên ngọc, người
kia cảm thấy có ngọc cũng chẳng sung sướng gì, nên ông cầm viên ngọc đi tìm vị
tu hành để trả lại. Người này gặp vị tu hành đang nằm ngủ thật ngon lành dưới một
gốc cây. Rón rén đến bên cạnh vị tu hành, người kia lên tiếng:
-
Thưa ngài, tôi xin trả lại ngài viên ngọc mà ngài đã cho tôi mấy hôm trước, vì
tôi thấy có nó, tôi cũng chẳng sung sướng gì, mà còn khổ nữa là khác nữa. Xin
ngài cho tôi viên ngọc mà ngài đang dùng, viên ngọc đã làm cho ngài được thảnh
thơi, ngủ rất ngon lành, dù chỉ là ở dưới một gốc cây, viên ngọc đã làm cho
ngài được siêu thoát, sự siêu thoát đã khiến cho ngài sẵn sàng cho tôi viên ngọc
quí kia, mà không một chút tiếc xót.
6. Con mắt sáng suốt
như thế nào?
Nếu
không có con mắt sáng suốt để biết tích góp của cải vào kho trên trời, mà chỉ
lo tích kho ở đời, thì chính của cải vật chất ta tích trữ, trở thành nguyên cớ
sẽ làm khổ ta, như lời thánh Giacôbê nói: “Tài sản của các người đã hư nát, quần
áo của các người đã bị mối ăn. Vàng bạc của các người đã bị rỉ sét; và chính rỉ
sét ấy là bằng chứng buộc tội các người; nó sẽ như lửa thiêu huỷ xác thịt các
người. Các người đã lo tích trữ trong những ngày sau hết này” (Gc 5,2-3).
Thế
mà tên phú hộ được mùa quá dư của cải, không còn đủ kho để chất, hắn đã nổi hứng
cho phá tất cả kho cũ rồi xây kho mới lớn hơn tích của vào đó, rồi nhủ hồn mình:
“Hồn ơi, sướng chán, có nhiều của cho nhiều năm, hưởng đi, vui chơi đi."
Nhưng Thiên Chúa lên tiếng: “Đồ ngốc, nội đêm nay ngươi ra khỏi thế gian,của
ngươi tích góp sẽ thuộc về tay ai?” (x Lc 12,16-21).
7. Phải tìm điều chi
Chuyên
gia bất động sản Vương Thạch mô tả tệ trạng tham nhũng tại Trung Quốc như sau:
“Hiện ở Trung Quốc, không hối lộ trở thành con chuột chạy long nhong ngoài đường,
kẻ hối lộ lại trở thành anh hùng” (Tuổi Trẻ Cuối Tuần, số 20/2010, ngày
23/5/2010, tr 22).
Người
ta tìm mọi cách để làm trương phình kho tàng dưới đất, thậm chí “mua chuộc” thần
thánh hộ phù cho tài sản của mình. Cám dỗ này không trừ ai. Phêrô từng mặc cả với
Chúa: Chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Chúa, “vậy chúng con sẽ được gì?” Họ mong
được lại nhiều hơn những thứ đã hy sinh như nhà cửa, ruộng vườn, cha mẹ và anh
chị em.
Còn
Chúa Giêsu cho họ kho báu từ trời đó là chính Ngài: “Thiên Chúa yêu thế gian đến
nỗi đã ban Con Một” (Ga 3,16) và Chúa Thánh Thần: “Cha trên trời lại không ban
Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Lc 11,13). Thánh Phaolô nhận ra
kho tàng trên trời ấy nên đã xem tất cả mọi sự là phân rác trước “mối lợi tuyệt
vời là được biết Đức Giêsu Kitô” (x. Pl 3,8).
8. Quyết tâm
Ngôi
sao quần vợt Alice Marble thức dậy với niềm hy vọng tràn trề về một ngày huy
hoàng trong đời cô. Cô đang chơi ở trận chung kết giải Wimbledon của Anh. Chợt
một cú sốc xảy đến. Cô cảm thấy đau nhói ở vùng bụng. Vài phút sau, một bác sĩ
chuẩn đoán cô bị bệnh căng cơ. Khi Alice đòi thi đấu, bác sĩ cho cô là khùng.
Sau
đó cô viết: “Tôi sẽ không bao giờ quên được lần thi đấu đầu tiên đó. Mỗi cử động
đều làm cho ta muốn la hét lên.” Không thể tin được, Alice vẫn tiếp tục thi đấu
để danh chiến thắng trong khi Nữ Hoàng Anh và 20.000 khán giả ngờ vực nhìn cô.
Việc
Alice sẵn lòng chịu đựng để dành thắng lợi cũng như việc thánh Phaolô sẵn lòng
chịu đựng vì Chúa Kitô mời gọi tôi kiểm điểm lại sự chịu đựng của tôi khi rao
giảng Nước Chúa?
Chính
Chúa Kitô đã chịu khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo
Ngài. (1P 2,21)
9. Hướng về cõi đời đời
Một
số thổ dân vớt được một thủy thủ bị đắm tàu, đưa anh về làng, đặt lên ngôi và
cư xử với anh như một ông vua. Sau đó, người thủy thủ biết được số phận của
mình. Ông sẽ làm vua trong vòng một năm, rồi được đưa đến hòn đảo chết và được
để lại đó như một vật tế lễ cho thần thánh. Người thủy thủ nhanh chóng lập ra kế
hoạch. Với tư cách là vua, anh ra lệnh cho thợ mộc đóng một chiếc tàu, truyền
cho các nông dân đến trồng cây trên đảo và các thợ nề xây nhà trên đó.
Câu
truyện này có thể được xem như một dụ ngôn rất hay về cuộc đời người kitô hữu.
Cũng như người thủy thủ bị đắm tàu, chúng ta biết được tương lai của mình và phải
khôn ngoan chuẩn bị cho tương lai đó.
Tôi
đã chuẩn bị cách khôn ngoan và cẩn thận ra sao cho tương lai của tôi?
Cuộc
đời là một hành trình hướng về nhà Cha (Merman Melville).
10. Bỏ là được
Thánh
Aloysius là một người nổi tiếng thời bấy giờ vì ngài sinh trong một gia đình
quý tộc, nhưng đời sống như thiên thần, và cái chết thật thánh thiện.
Aloysius
là con cả của Hầu Tước Ferrante ở Castiglione nước Ý, phục vụ dưới triều Philip
II của Tây Ban Nha. Cha ngài mong cho con mình trở nên một nhà lãnh đạo quân sự
tài ba, do đó ngay từ khi bốn tuổi Aloysius đã được tự do tung tăng trong trại
lính, làm quen với các vũ khí. Nhưng khi lên bảy, đời sống tâm linh Aloysius
thay đổi lạ lùng và hàng ngày cậu đã đọc kinh sách, thánh vịnh và đặc biệt kính
mến Đức Maria. Càng nhìn thấy sinh hoạt triều đình bao nhiêu, Aloysius càng
chán ngán bấy nhiêu và tìm cách khuây khỏa qua hạnh các thánh.
Chính
trong thời gian này, khi nghe biết về công cuộc truyền giáo của các cha dòng
Tên ở Ấn Độ, Aloysius đã có ý định đi tu và tập sống kham khổ cũng như tụ tập
các trẻ em nghèo để dạy giáo lý cho chúng . Mơ ước đi tu của Aloysius phải trải
qua bốn năm tranh đấu với chính người cha của mình cũng như sự dụ dỗ của rất
nhiều chức sắc trong triều. Sau cùng, Aloysius đã chinh phục được tất cả và được
nhận vào đệ tử viện dòng Tên lúc 17 tuổi.
Vì
nhận thấy sức khỏe yếu kém của Aloysius, các cha giám đốc đã buộc Aloysius phải
chấm dứt sự kham khổ, phải ăn nhiều hơn, phải sinh hoạt với các đệ tử khác và
không được cầu nguyện ngoài những giờ ấn định. Aloysius được gửi lên Milan đi học,
nhưng vì sức khỏe yếu kém nên đã phải trở về Rôma.
Vào
năm 1587, Aloysius tuyên khấn. Được vài năm sau, trận dịch hạch tấn công Rôma.
Các tu sĩ dòng Tên mở một bệnh viện của nhà dòng. Chính cha bề trên cũng như
nhiều linh mục đích thân chăm sóc bệnh nhân. Dù sức khỏe yếu kém, Aloysius cũng
tận tình phục vụ bệnh nhân và bị lây bệnh. Sau ba tháng bệnh hoạn, Aloysius đã
từ trần ngày 21 tháng Sáu 1591, lúc ấy mới 23 tuổi.
Đời
sống thánh thiện của Aloysius được cha linh hướng Robert Bellarmine (sau này là
thánh) minh xác. Và ngài được Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XIII phong thánh năm
1726 và được đặt làm quan thầy các học sinh Công Giáo.
11. Kho tàng ở đâu,
lòng ở đấy
Charles
Colson là một phụ tá của Nhà Trắng vào thập niên 1970. Ông bị kết tội và bị
giam tù vì vụ Watergate.
Sau
đó, ông đã hoán cải về mặt tôn giáo. Giờ đây, ông đi khắp nước, rao giảng những
điều căn bản trong Phúc âm của Chúa. Đặt biệt ông chống lại những kẻ rao giảng
xa sự thật, những kẻ giảng dạy một Phúc âm “thời thịnh vượng”, một Phúc âm coi
của cải dồi dào như dấu chỉ tình thương của Chúa và để cho người nghèo tự lo
cho bản thân của họ. Colson phản đối luận cứ của họ: Nếu bạn sống “cuộc sống tốt
lành”, Thiên Chúa sẽ chúc phúc để bạn được của cải vật chất và thành đạt.
Colson nói: “Thiên Chúa không muốn những thành công, mà là muốn chính bản thân
chúng ta.”
Tôi
giải thích thế nào lời Chúa Giêsu: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên
Chúa biết bao!” (Lc 18,24).
Chúa
Giêsu nói: “Kho tàng anh em ở đâu, thì lòng anh em cũng ở đó” (Lc 12,34)
12. Cha tôi cầm lái tầu
Một
thi sĩ người Anh, ông Byron, có viết một câu chuyện như sau:
Hôm
ấy, một con tầu đang rẽ sóng lướt đi trên mặt biển mênh mông. Bỗng chốc, bầu trời
kéo mây đen đặc. Rồi giông tố ầm ầm nổi lên, sấm chớp kinh hoàng. Mưa càng lớn,
gió càng mạnh. Các hành khách kêu la hỗn loạn. Duy có một em bé cứ ngồi chơi
trên boong tầu như không có gì xẩy ra.
Lạ
lùng, một thủy thủ dương to đôi mắt hỏi em:
-
Em không sợ chết sao?
Cậu
bé thản nhiên trả lời:
-
Sao lại sợ? Chính ba cháu cầm lái con tầu này mà!
Câu
chuyện trong bài Tin mừng hôm nay thách đố sự tin tưởng của chúng ta vào quyền
năng của Thiên Chúa. Khi đã có đức tin, chúng ta không cần đứng ra chỉ huy mọi
sự. Đã có Chúa Tình yêu, Ngài sẽ làm tất cả.
THỨ BẢY - HÃY LÀM TÔI TỚ THIÊN CHÚA
Lời Chúa: Mt 6, 24-34
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: "Không ai có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó sẽ ghét người
này, và yêu mến người kia, hoặc nó chuộng chủ này, và khinh chủ nọ. Các con
không thể làm tôi Thiên Chúa và Tiền Của được. Vì thế, Thầy bảo các con: Chớ áy
náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì mà ăn; hay cho thân xác các con: lấy gì
mà mặc. Nào mạng sống không hơn của ăn, và thân xác không hơn áo mặc sao?
"Hãy nhìn xem chim trời,
chúng không gieo, không gặt, không thu vào lẫm, thế mà Cha các con trên trời vẫn
nuôi chúng. Nào các con không hơn chúng sao? Nào có ai trong các con lo lắng áy
náy mà có thể làm cho mình cao thêm một gang được ư? Còn về áo mặc, các con lo
lắng làm gì?
Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng
coi chúng mọc lên thế nào? Chúng không làm lụng, không canh cửi. Nhưng Thầy nói
với các con rằng: Ngay cả Salomon trong tất cả vinh quang của ông, cũng không
phục sức được bằng một trong những đoá hoa đó. Vậy nếu hoa cỏ đồng nội, nay
còn, mai bị ném vào lò lửa, mà còn được Thiên Chúa mặc cho như thế, huống chi
là các con, hỡi những kẻ kém lòng tin.
Vậy các con chớ áy náy lo lắng
mà nói rằng: "Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì hoặc sẽ lấy gì mà mặc? Vì chưng,
dân ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng Cha các con biết rõ các con cần đến những
điều đó. Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người,
còn các điều đó Người sẽ ban thêm cho các con. Vậy các con chớ áy náy lo lắng về
ngày mai. Vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy.”
TRUYỆN KỂ
1. “Không ai có thể làm tôi hai chủ”
Vở kịch “Con người của mọi mùa”
là một câu chuyện có thật về thánh Thomas More.
Trong một màn, một người bạn gây
áp lực buộc thánh nhân phải ký giấy xác nhận rằng cuộc hôn nhân giữa vua Henry
VIII và Anne Boleyn là hợp pháp. Nếu không chịu ký, vua sẽ buộc tội ngài là phản
quốc.
Thánh nhân từ chối, vì Ngài nghĩ
rằng cuộc hôn nhân này là bất hợp pháp. Người bạn của ngài giận dữ nói: “Anh cứ
làm rối tung mọi thứ. Thực ra, tôi không biết cuộc hôn nhân này có hợp pháp
không. Nhưng quỷ quái thật, Thomas, hãy nhìn vào danh sách này, anh biết chứ!
Anh không thể thỏa hiệp vì tình bạn sao?” Thomas More vẫn từ chối, ngài không
thể làm tôi hai chủ được.
Chỗ nào trong cuộc đời tôi bị áp
lực làm tôi hai chủ?
“Này con, đừng bao giờ tạo ra một
tình bạn hoặc giữ một tình bạn bằng cách làm một điều sai trái.” (Robert E.
Lee).
2. Phó thác trong tay Chúa
Thánh
Giáo hoàng Gioan XXIII, được mệnh danh là vị Giáo hoàng của lòng nhân hậu. Một
ngày kia, có một vị Giám mục đến gặp Ngài và chia sẻ những lo âu, nhọc nhằn, mất
ngủ… vì trách nhiệm chủ chăn, rồi xin ngài cho một lời khuyên. Sau khi nghe những
tâm sự của vị Giám mục, Đức Giáo hoàng mỉm cười và nói: “Khi mới được bầu làm
Giáo hoàng, tôi cũng lo âu và mất ngủ như Đức Cha vậy. Thế rồi một hôm trong giấc
ngủ, có một thiên thần hiện đến vỗ vào cái bụng to của tôi và nói: “Gioan ơi,
ngươi chớ lo lắng thái quá, hãy phó thác trong tay Chúa và nghỉ ngơi cho khỏe.”
Kể từ hôm đó, tôi không bị mất ngủ nữa.”
Đây
là lời cầu nguyện trích từ sách Gương Chúa Giêsu:
Lạy
Chúa, Xin ban cho con ơn Chúa Thánh Thần, để con được vững chí.
Xin
ban sức mạnh củng cố con người nội tâm trong con. Xin giải thoát tâm hồn con khỏi
những lo lắng, sầu muộn vô ích. Đừng để nó bị quyến rũ theo đuổi một của gì bất
luận sang hèn, một hãy làm cho con coi tất cả như là của mau qua.
Lạy
Chúa! Xin ban cho con ơn khôn ngoan của trời, để con biết đi tìm cho được Chúa
trước hết, cảm mến Chúa trên hết và nhận định mọi cái khác theo trật tự mà Thượng
trí Chúa định liệu cho con.
Vì
ai đứng vững được trước những giọng nói ngả nghiêng, ai bưng tai được trước những
lời phỉnh nịnh, người đó mới thực là khôn. Amen.
3. Đừng quá lo cho ngày mai
Một
thương gia giàu có nọ đi dạo trên bờ biển, tình cờ ông thấy có những ngư phủ nằm
ngủ một cách ngon lành trên thuyền, mặc cho sóng nước chòng chành. Tò mò ông đến
hỏi một ngư phủ:
-
Sao anh không đi đánh cá?
Chàng
ngư phủ trả lời:
-
Tôi đã đánh bắt số cá đủ cho ngày hôm nay rồi.
Thấy
câu trả lời chưa được thoả mãn, thương gia hỏi tiếp:
-
Sao anh không tiếp tục đi đánh, để bắt thêm nhiều cá hơn?
Thay
vì trả lời, chàng ngư phủ hỏi lại:
-
Nhưng thưa ông để làm gì?
Với
đầu óc kinh doanh sẵn có, thương gia kia như muốn vạch đường hướng làm ăn cho
anh chàng ngư phủ, nên đã trả lời:
-
Càng đánh bắt được nhiều cá, anh càng kiếm được nhiều tiền. Có nhiều tiền anh
có thể mua được chiếc thuyền lớn hơn, để có thể ra xa hơn, bắt được nhiều cá
hơn. Rồi từ một thuyền, anh sẽ có thể có hai, ba, bốn chiếc... và như thế anh sẽ
là một người giàu có.
Chàng
ngư phủ xem chừng như không thiết tha với kế hoạch làm giàu của thương gia kia
nên hỏi tiếp:
-
Giàu có rồi làm gì nữa?
Thấy
như người đối thoại với mình quá chất phác, nên thương gia trả lời:
- Rồi
anh sẽ được vui hưởng cuộc sống.
Lúc
ấy, chàng ngư phủ mỉm cười nói:
-
Thế tôi nằm đây để ngắm nhìn trời biển như thế này không phải là vui sướng cuộc
đời hay sao?
4. Ai bị bệnh tim?
Một
ông già trúng số độc đắc 100 triệu, ông bị bệnh tim, gia đình lo sợ tin vui sẽ
giết mất ông. Vì thế họ đến gặp một mục sư, xin ngài đến thăm dò và hỏi xem ông
cụ sẽ làm gì nếu có 100 triệu. Ông nói: “Tôi sẽ cho ngài và cho Nhà thờ một nửa”
mục sư té xỉu.
5. Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa
Abraham
từ ngày được Thiên Chúa chọn, ngày càng sống thân tình với Thiên Chúa hơn và xa
cách các thần tượng. Thấy thế, ông thân sinh dẫn ông Abraham đến trước mặt vua
Ramos, nhà vua hỏi Abraham:
- Tại
sao ngươi lại không tôn thờ các thần tượng của vương quốc?
Abraham
trả lời với giọng cương quyết không hề sợ hãi:
-
Tâu hoàng thượng, bởi vì lửa thiêu rụi các thần tượng ấy.
-
Như vậy thì hãy tôn thờ lửa - Vua trả lời. Nhưng Abraham đáp:
- Nếu
thế, hạ thần tôn thờ nước tốt hơn, vì nước dập tắt được lửa.
-
Thế thì hãy tôn thờ nước.
-
Tâu hoàng thượng, không. Hạ thần tôn thờ mây thì tốt hơn, bởi nước từ mây mà
ra.
-
Thế thì hãy tôn thờ gió.
Nghe
thế, Abraham trả lời vua Ramos:
- Nếu
gió là thần thì ta hãy tôn thờ con người, vì con người có hơi thở.
Vua
Ramos kiên nhẫn:
- Vậy
thì hãy tôn thờ con người.
Abraham
trả lời:
-
Tâu hoàng thượng, không. Vì con người phải chết.
Nhà
vua giận dữ quát lên.
- Vậy
thì hãy tôn thờ sự chết đi.
Sau
cùng Abraham nói: - Đấng duy nhất tôn thờ là chủ tể của cả sự sống và sự chết,
đó là Thiên Chúa, Chúa của hạ thần.
Sau
cuộc cãi nhau với vua Ramos, Abraham trở thành ngôn sứ của Thiên Chúa bởi vì
ông vén mở cho nhà vua thấy sự thật và sứ điệp của Chúa muốn nhắn gởi.
6. Điều cần lo
Hồi
nhỏ, nghe mẹ hát đưa nôi em:
Một
mình lo bảy lo ba
Lo
cau trổ muộn, lo già hết duyên
Người
thời nào cũng lo xa. Có những nỗi lo chính đáng mà cũng có cái lo kiểu “lo bò
trắng răng”! Đọc Tin Mừng hôm nay có thể nhiều người sẽ ngộ nhận Ki-tô giáo giảng
dạy một thứ chủ nghĩa “lạc quan tếu.” Không lo sao được khi cơm áo gạo tiền cứ
réo gọi mỗi khi thức dậy đón một ngày mới. Chúa Giê-su không dạy ta sống vô lo
nhưng dạy ta biết lo sao cho chính đáng: “tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước, còn
những thứ kia, Người sẽ thêm cho sau.” Chúng ta thường quên mất vế sau của câu
nói này.
Bạn
ngẫm nghĩ xem cách lo toan của mình cho công ăn việc làm, cho cuộc sống hằng
ngày đã chính đáng hay chưa? Chúng có làm bạn mất bình an, mất tự chủ không? Bạn
có bỏ qua những điều cần quan tâm hơn như việc sống đạo hạnh, làm gương sáng,
làm việc tông đồ không …?
Suy
nghĩ lời Jackson Brown khuyên con: “Khi nhìn lại quãng đời đã qua, hãy tiếc những
điều chưa làm được, chứ đừng tiếc những điều đã làm xong.”
7. Biết quyết định
Có
một thanh niên nọ đi tắm, nhưng anh ta vẫn chân trong chân ngoài phòng tắm. Khi
đứng trong tư thế đó, anh tự nghĩ: “Đây quả là bức tranh của cuộc đời tôi.” Đã
từ lâu, anh muốn phó thác cuộc đời cho Chúa, nhưng chưa bao giờ anh có thái độ
dứt khoát, anh vẫn còn do dự, chân trong chân ngoài. Bây giờ đã đến lúc phải
quyết định. Anh ngừng lại một lát, rồi hít sâu rồi nói lớn: “Con chọn Ngài, lạy
Chúa.” Rồi anh bước vào phòng tắm. Thái độ này chẳng khác gì như muốn nói rằng
anh đã được thanh tẩy.
Có
chỗ nào trong mối quan hệ của tôi với Chúa mà tôi còn do dự, thiếu cương quyết
không?
Chưa
quyết định là tiền đề của quyết định. (Harvey Cox)
8. Lời Kinh Của Người Đau Khổ
Lạy
Chúa,
Con
cầu xin ơn mạnh mẽ
để
thành đạt trong cuộc đời,
Chúa
lại làm cho con ra yếu ớt
để
biết vâng lời khiêm hạ...
Con
cầu xin có sức khỏe
để
mong thực hiện những công trình lớn lao,
Chúa
lại cho con chịu tàn tật
để
chỉ làm những việc nhỏ tốt lành...
Con
cầu xin được giàu sang
để
sống sung sướng thoải mái,
Chúa
lại cho con nghèo nàn
để
học biết thế nào là khôn ngoan...
Con
cầu xin được có uy quyền
để
mọi người phải kính nể ca ngợi,
Chúa
lại cho con sự thấp hèn
để
con biết con cần Chúa...
Con
xin gì cũng chẳng được theo ý muốn.
Nhưng
những điều con đáng phải mơ ước,
Mà
con không hề biết thốt lên lời cầu xin,
Thì
Chúa lại đã ban cho con
thật
dư đầy từ lâu...
Lạy
Chúa,
Hóa
ra, con lại là người hơn hết trên đời này,
Bởi
con đã nhận được ơn Chúa vô vàn...
9. Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Chúa và sự công chính của Người
Người
làm tôi tiền của chẳng bao giờ được yên, vì thấy mình có rất nhiều nhu cầu:
“chúng ta sẽ ăn gì, uống gì, lấy gì mà mặc?” (Mt 6,31). Mặc cho họ trung thành
với tiền của, thế nhưng tiền của chẳng trung thành với họ: “Kìa thiên hạ thấy
người khôn cũng chết, kẻ ngu đần dại dột cũng tiêu vong, bỏ lại tài sản mình
cho người khác” (Tv 49,11)
Ai
mà chẳng một lần ngẩn ngơ hối tiếc về một điều mất mát. Chúa đến để cứu chúng
ta khỏi hối tiếc về cuộc đời đã mất vì làm tôi tiền của: “lọt lòng mẹ, trần truồng
làm sao, thì cũng sẽ ra đi như vậy. Chịu đựng bao gian lao vất vả để rồi chẳng
mang theo được gì. Đó cũng là một sự dữ làm tôi đau đớn. Đến làm sao, ra đi làm
vậy. Thật là: Dã tràng xe cát biển đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì”
(Gv 5,14-15)
Một
khách hành hương đến gặp một linh sư, thấy ông ở trong một căn phòng trống trải
chỉ có một cái giường, một cái bàn, mới hỏi:
- Đồ
đạc của thầy đâu hết rồi?
- Đồ
đạc của ông đâu rồi?, vị linh sư hỏi lại ông ta.
-
Thưa thầy, con đi hành hương nên chỉ mang theo một vài vật dụng cần thiết thôi.
-
Tôi cũng đang trên đường hành hương về trời, nên cũng chỉ cần đến những vật dụng
cần thiết hằng ngày thôi.
Các
nhu cầu cho cuộc sống hằng ngày vẫn phải tìm kiếm, nhưng ưu tiên số một phải
dành cho nước Chúa và sự công chính của Người. Chẳng có mất mát nào có thể đe dọa
được người sống như vậy. Giữa mọi mất mát trên đời, họ luôn có một chỗ dựa vững
vàng là lòng Chúa yêu thương: “Duy nơi Thiên Chúa, linh hồn tôi được an vui.”
10. Ơn Ta đủ cho con
Phóng
viên Terry Anderson của tờ Liên Kết bị những người Hồi giáo cực đoan bắt cóc
vào năm 1985. Bảy năm kế tiếp, ông bị giam trong những căn phòng không có cửa sổ
và thường bị xiềng xích. Tháng 12 năm 1987 ông gần như tuyệt vọng nên đã đập đầu
vào tường cho đến khi chảy máu. Sau này, ông nói: “Tôi nghĩ rằng chúng tôi gần
gũi Chúa nhất trong những giây phút bi đát của cuộc đời chúng ta. Thật dễ dàng
nghe tiếng Chúa khi bạn bị tước đi sự kiêu hãnh, khi bạn không có điểm tựa nào
khác ngoài Chúa. Khá đau đớn khi gặp hoàn cảnh này, nhưng khi bạn gặp nó, thì
Thiên Chúa sẽ ở đó.”
Tôi
có thể nhớ lại những giây phút bi đát nhất trong đời tôi không? Kinh nghiệm này
tác động tới mối quan hệ giữa tôi và Chúa ra sao?
Vào
giữa mùa đông, tôi đã nhận ra rằng trong tôi có mùa hè không thể nào dập tắt được.
(Albert Camus)
SINH NHẬT THÁNH GIOAN
TẨY GIẢ - TÊN NÓ LÀ GIOAN
Lời
Chúa: Lc 1, 57-66. 80
Khi
đến ngày sinh, bà Êlisabeth sinh hạ một con trai. Láng giềng bà con nghe biết
Chúa đã tỏ lòng nhân hậu lớn lao đối với bà liền đến chúc mừng bà. Ngày thứ
tám, người ta đến làm phép cắt bì cho con trẻ, và họ lấy tên Dacaria của cha nó
mà đặt cho nó. Nhưng bà mẹ đáp lại rằng: “Không được, nó sẽ gọi tên là Gioan.”
Họ bảo bà rằng: “Không ai trong họ hàng bà có tên đó’’. Và họ làm hiệu hỏi cha
con trẻ muốn gọi tên gì. Ông xin một tấm bảng và viết: “Tên nó là Gioan.” Và mọi
người đều bỡ ngỡ.
Bỗng
chốc lưỡi ông mở ra, và ông liền chúc tụng Chúa. Mọi người lân cận đều kinh
hãi. Và trên khắp miền núi xứ Giuđêa, người ta loan truyền mọi việc đó. Hết thảy
những ai nghe biết đều để bụng nghĩ rằng: “Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào? Vì
quả thực, bàn tay Chúa đã ở với nó.” Con trẻ lớn lên, mạnh mẽ trong lòng: nó ở
trong hoang địa cho đến ngày tỏ mình ra cùng dân Israel.
TRUYỆN KỂ
1. Dọn dường cho Đấng Cứu
Thế
Chu
Văn An, Tư nghiệp Quốc tử giám, là thầy giáo của nhiều vị vua nhà Trần, cảm thấy
xót xa trước cơ nghiệp lừng lẫy của nhà Trần đang có nguy cơ ngày càng lụn bại
bởi vua ham chơi, bởi bọn tham quan, nịnh thần. Trong lúc quân thần ai cũng sợ
mất ghế, sợ bị chụp mũ là phản động, chống lại triều đình, nên không có ai dám
nói gì, chỉ hèn nhát ấm ức trong lòng, chỉ có cụ Chu Văn An dám kháng nghị qua
bản Thất trảm sớ, gửi lên vua Trần Dụ Tông xin chém bảy tên gian thần vì giang
sơn đất nước. Vua Trần Dụ Tông chỉ xem qua mà không thi hành.
Cụ
Chu Văn An xin treo mũ, từ quan, trả lại chức Tế tửu đầy quyền lực, bổng lộc,
đó là khí tiết dũng cảm của người quân tử.
Nhìn
dưới góc độ văn hóa phương Đông, Gioan Tẩy giả được giới thiệu như là người
quân tử xuyên suốt mọi thời đại, người mà Chúa Giêsu khen ngợi: Ngôn sứ “hơn cả
ngôn sứ” (Mt 11,9), người được Thiên Chúa sai đến tiền hô dọn dường cho Đấng Cứu
Thế đến với nhân loại. Người sống “tu thân” trong hoang địa và rao giảng sự sám
hối. Thẳng thắn, dám tố cáo những sai phạm, can đảm đương đầu với quyền lực đen
tối.
2. Chúa phải lớn lên còn tôi phải nhỏ đi
Lúc
còn là thanh niên, anh đã say sưa nghiện ngập đủ mọi thứ: cà phê, thuốc lá, rựơu
mạnh có tiếng. Nhưng rồi một hôm, chàng đọc thấy trên mặt báo lời kêu gọi giúp
nuôi chủng sinh ở các giáo phận nghèo. Đọc xong chàng rất đỗi phân vân, một
đàng chàng muốn mình phải làm một cái gì đó, đàng khác, chàng thấy những thứ đó
quá hấp dẫn, chả có vẻ tội lỗi gì cả!
Tuy nhiên, chàng đã quyết định: bỏ tất cả...
nhưng dần dần với thời gian. Chàng đóng góp số tiền tiêu sài ấy vào quĩ truyền
bá đức tin để giúp nuôi ít chủng sinh nghèo. Cứ thế liên tiếp trong mấy mươi
năm, nhiều thế hệ chủng sinh, linh mục đã được chàng giúp đỡ. Họ liên lạc thư
tín với chàng mỗi lúc một nhiều...Thời gian trôi qua, đến ngày chàng thanh niên
nghiện ngập thành ông cụ già 85 tuổi. Ngày kỷ niệm sinh nhật thứ 85 của cụ, cụ
tuyên bố trước mặt họ hàng: “Với những hy sinh suốt mấy mươi năm qua, tôi đã
đài thọ cho việc huấn luyện các chủng sinh, và đến nay, con số các linh mục rải
rác khắp nơi được tôi giúp đỡ đã lên đến 30 người. Tôi rất hạnh phúc. Tôi đã đầu
tư thành công, và tôi sẽ còn tiếp tục đầu tư như thế cho đến giờ Chúa gọi.”
Vâng
cụ già đã biết làm cho mình nhỏ đi và cho Chúa được lớn lên, lớn lên qua những
cánh tay nối dài của Ngài.
Ước
gì khẩu hiệu này cũng trở thành lý tưởng và luật sống của mỗi người chúng ta. Sống
đối với người tín hữu Kitô chúng ta là sống cho Chúa. Sống đối với người tín hữu
Kitô chúng ta là không ngừng khước bỏ và cắt xén đi những gì là thừa thãi trong
cuộc sống, để trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu. Sống đối với người
tín hữu Kitô chúng ta là suy nghĩ và hành động trong Chúa Kitô, để dung mạo của
Ngài được chiếu sáng trong chúng ta, và nhờ ơn cứu độ của Ngài được loan báo
cho mọi người.
3. Sứ điệp cứu nguy
Thánh
Gioan Baotixita là không đưa ra những lý lẽ cao siêu, không ôm đồm những tham vọng
xa vời, mà chỉ nhấn mạnh đến những điều căn bản nhất, khuyên làm những việc cần
thiết nhất, đưa người ta nhìn vào mục đích quan trọng nhất đời mình.
Tới
đây, chúng ta có thể tóm lược chân dung Thánh Gioan Baotixita ở hai nét này: Một
là khiêm nhường nghèo khó, hai là thi hành ơn gọi một cách đơn giản với những
gì là căn bản nhất.
Với
chân dung đó, Thánh Gioan Baotixita đã đem một sứ điệp Chúa gởi đến cho nhân loại
nói chung và dân Chúa nói riêng, để cứu nguy phần rỗi.
Thánh
Gioan Baotixita đã qua đời. Nhưng sứ điệp cứu nguy phần rỗi vẫn được Chúa gởi
vào lịch sử mọi thời mọi nơi, bằng cách này hay bằng cách khác.
Đức
Mẹ tại Fatima, khi thấy đời sống đức tin sa sút trầm trọng, cũng đã nhắc tới những
gì căn bản nhất để cứu con người khỏi sa vào con đường đi xuống hỏa ngục.
4. Sinh nhật vào Hạ
chí
Nhưng
tại sao lại mừng sinh nhật thánh Gioan Tẩy giả vào ngày 24 tháng 6 này? Người
ta có thể biết rõ ngày sinh tháng đẻ của người sao? Không phải như vậy! Ngày xửa
ngày xưa mấy ai nhớ rõ được đúng ngày sinh của mình. Họa chăng một vài bậc quan
vương nào đó sinh ra trong các đền vua đầy văn hào văn sĩ mới có người ngồi đó
để ghi ngày sinh tháng đẻ. Chúa Giêsu, Đức Maria, thánh Gioan đều là dân nghèo
về mặt xã hội làm sao có thể để lại ngày sinh rõ ràng. Chính việc các ngài đản
sinh mới quan trọng. Còn các ngài sinh ra ngày nào, giờ nào thì hậu thế liệu mà
đặt ra theo một vài tiêu chuẩn nào đó.
Đối
với Gioan Tẩy giả, người ta đã căn cứ vào một câu người nói để tính ra ngày
sinh của người. Người đã nói về Đức Giêsu rằng: "Ngài phải tiến lên; còn
tôi phải suy đi.” Vậy lúc Đức Giêsu tiến lên phải là lúc Gioan lui xuống. Đức
Giêsu đã sinh ra ngày 25 tháng 12 là ngày Đông chí, ngày mặt trời bắt đầu tiến
lên trong quỹ đạo của nó, thì tốt nhất nên đặt ngày sinh của Gioan vào ngày mặt
trời bắt đầu đi xuống. Và đó là ngày 24 tháng 6, tức là nửa năm trước ngày Đông
chí. Và hợp với lời sứ thần loan báo, bà Ysave thụ thai trước Đức Maria sáu
tháng.
Những
điều trên đây một đàng cho chúng ta thấy địa vị đặc biệt của Gioan Tẩy giả
trong hàng ngũ các thánh. Nói đúng hơn người ở ngoài hàng ngũ này vì chỉ mình
người khi sinh ra đã được khỏi tội Ađam (chỉ có Đức Giêsu và Đức Maria không mắc
tội đó). Và đàng khác chúng ta được thấy cuộc đời của người gắn liền với cuộc đời
của Đức Giêsu.
Ba
bài Kinh Thánh hôm nay dường như muốn nhắc lại ba giai đoạn chính trong cuộc sống
của Gioan. Bài sách Isaia gợi lên ơn gọi tiền định của người. Bài Tin Mừng nhắc
đến hôm người sinh ra. Và bài sách Công vụ nói lên hoạt động chính Người đã làm
theo sứ mạng.
5. Khiêm tốn
Tác
giả La-phông-ten đã viết nhiều câu chuyện ngụ ngôn, trong đó có câu chuyện về
con ếch và con bò để dạy chúng ta bài học là đừng quá tự cao như sau:
Ngày
kia có một con ếch thấy một con bò to lớn vĩ đại nên rất ngưỡng mộ và mong sao
cho mình cũng được trở nên vĩ đại như vậy. Từ tư tưởng biến thành hành động,
con ếch liền xuống ao để uống nước cho bụng phình to ra sao cho bằng con bò
kia. Cứ thế, cứ thế, nó uống mãi uống hoài mà vẫn không sao to được bằng con
bò. Nó lại cố uống thêm… cho đến khi một tiếng “Bốp” nổ vang lên và con ếch đã
bị chết banh xác.
Câu
chuyện trên cho chúng ta thấy tự thẳm sâu trong cõi lòng, hầu như ai cũng muốn
được người khác nể phục ca tụng. Ai cũng muốn tự nâng mình lên chứ không thích
hạ mình xuống. Nhưng chúng ta ý thức giá trị của đức khiêm tốn và tập luyện
nhân đức ấy, để việc tông đồ chúng ta làm được đẹp lòng Chúa và đạt được nhiều
thành quả tốt đẹp.
6. Nép mình dưới
bóng thập giá
Có
một anh khờ nọ muốn được giải thoát khỏi cái bóng của mình... Nhưng càng trốn
chạy bao nhiêu thì cái bóng đó lại càng đeo đuổi phía sau không dứt ra được.
Anh lăn lộn trên đất, nhảy xuống sông… nhung dù đi đâu, làm gì, thì cái bóng của
anh vẫn luôn ở phía sau.
Một
cụ già khôn ngoan nghe biết chuyện đã cố vấn cho anh khờ như sau: "Để
thoát khỏi cái bóng của mình, anh chỉ cần đến núp dưới bóng của một cây lớn là
được.” Anh khờ nghe lời đến núp dưới một cây lớn và từ ngày đó đã không còn bị
cái bóng theo đuổi phía sau nữa.
Chỉ
khi biết khiêm tốn nép mình dưới bóng cây Thập giá Chúa Giê-su, chúng ta mới có
thể thoát được cái bóng của các thói hư, chạy theo hư danh, khoái lạc, lợi lộc…
trong cuộc sống.
Hôm
nay Hội Thánh mừng kính trọng thể ngày sinh của một con người đã từng đến nép
mình dưới cây Thập giá Chúa Giê-su. Con người ấy chính là Gio-an Tẩy Giả, vị tiền
hô của Đấng Cứu Thế. Ông đã luôn khiêm hạ nép mình dưới bóng Chúa Giê-su và hiến
cả cuộc đời phụng sự Người như ông đã nói với các môn đệ: “Chính anh em làm chứng
cho thầy là thầy đã nói: Tôi đây không phải là Đấng Ki-tô, mà là kẻ được sai đi
trước mặt Người. Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng
đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm
vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn. Người phải nổi bật lên, còn thầy
phải lu mờ đi: (Ga 3,28-30).
7. Gioan và Hêrôđê
Tôi
thấy thánh Gioan Tẩy Giả Và Vua Hêrôđê, kẻ đã ra lệnh chém đầu Người, là hai
khuôn mặt hoàn toàn tương phản. Gioan là người mạnh mẽ, chí khí, còn Hêrôđê là
người yếu đuối, do dự. Một đàng thì sống khắc khổ, giản án dị, còn đàng kia lại
thích xa hoa, hưởng thụ. Hêrôđê đã bắt giam ông Gioan vì ông mạnh mẽ tố cáo nhà
vua đã lấy vợ của anh mình. Thật ra vua cũng tỏ ra kính phục nhà tiên tri, biết
ông là người công chính và thánh thiện, nhiều khi ông đã bênh vực Gioan. Nhưng
ông là người thiếu ý chí, bị bao vây bởi đam mê, dục vọng. Và tuy là người cai
trị khôn khéo nhưng ông lại bị các khuynh hướng xấu xa làm chủ mình. Thế nên
ông đã bắt Gioan tống ngục, chắc hẳn là dưới sức ép của bà Hêrôđiađê, người chị
dâu mà ông ta đoạt làm vợ. Rồi trong một bữa tiệc, ông đã hài lòng về điệu múa
của cô con gái của bà đến độ đã hứa ban cho cô ta bất cứ điều gì cô xin.
Một
lời hứa bốc đồng. Đó không phải là tiếng nói của lý trí, của lương tâm mà là của
cảm tính, của bản năng. Và thế là ông đã mắc mưu bà Hêrôđiađê rồi. Bà bảo con
gái hãy xin cái đầu của Gioan. Đã lỡ hứa trước mặt các thực khách, nhà vua đành
phải giữ lời, mặc dù trong thâm tâm không muốn giết con người công chính này.
Vua
Hêrôđê tiêu biểu cho những con người để cho phần thú tính nơi mình lấn lướt; mặc
dù đôi khi lý trí và lương tâm vẫn còn lóe lên nơi họ, kêu gọi họ hãy vươn cao
lên, nhưng không đủ sức kéo họ ra khỏi vũng bùn lầy bởi họ đã quen sống trong
những sự thấp hèn.
Đối
diện với Hêrôđê, ông Gioan Tẩy Giả xuất hiện như một con người có lý tưởng, sống
nhất quán vì lý tưởng đời mình; một con người của bổn phận; con người biết chiến
đấu cương quyết chống lại những lôi cuốn của bản năng thấp hèn; con người của
những đỉnh cao.
8. Noi gương Gioan Tẩy
Giả
Theo
cha Basséville, ông Jeannet là người công giáo rất đạo đức, nhận thấy mình có bổn
phận phải rao giảng Chúa cho người khác, nên đã tự nguyện trở nên tông đồ giáo
dân cho Chúa và các linh hồn.
Nhưng
rồi ông bị người ta này chê là giả hình. Người kia chê là ông thiếu khả năng.
Người nọ bảo là ông kém cỏi. Người khác lạ bảo lòng không xứng hợp. Đứng trước
những lời chê bai đó, ông Jeannet mất tinh thần, thối chí định bỏ việc tông đồ.
Đêm
hôm ấy, Chúa cho ông nằm mơ là mình đã chết. Sau khi chết, thiên thần bản mệnh
dẫn ông đến một gian phòng, để chờ Chúa đến phát xét. Ngay trước cửa gian
phòng, ông thấy một tấm bảng kẻ hàng chữ lớn: “Phòng triển lãm đời sống ông
Jeannet. Bước vào trong, ông thấy có nhiều bức vẽ rất đẹp. Bức thì vẽ lại những
lần ông đang quì cầu nguyện ở gia đình cho các tội nhân và người ngoại. Bức thì
vẽ những lần ông đang dự thánh lễ. Bức thì vẽ lại những lần ông đang lao động,
để cầu nguyện cho tội nhân này. Bức thì vẽ lại những lần ông đi thăm viếng người
ngoại kia. Bức thì vẽ lại người tội nhân và người ngoại được trở về với Chúa,
do việc ông chịu đựng những lời chê bai trong khi làm việc tông đồ.
Vừa
mơ đến đây, thì ông giật mình thức dậy. Ông cho giấc mơ là lời Chúa an ủi và cảnh
cáo mình. Ông liền quỳ lên giường cám ơn Chúa cho mình còn sống. Rồi ông quyết
chí lại tiếp tục làm việc tông đồ để đưa các linh hồn về cho Chúa.
Thưa
anh chị em, hôm nay kính thánh Gioan là tiền hô và tẩy giả của Chúa, ta cũng bắt
chước ông Jeannet làm việc tông đồ cho Chúa như ông Jeannet trên đây để bắt chước
thánh Gioan là tiền hô tẩy giả của Chúa.
9. Đứa trẻ này rồi
sẽ nên thế nào?
Một
người láng giềng của tôi thuật lại: Trong thời gian người vợ mang thai, anh cầu
ngày cầu đêm cho được con trai. Tối 28 tết, anh chồng thấp thỏm chờ đợi thời khắc
đứa con chào đời. Hy vọng sẽ là đứa con trai như lòng anh mong ước.
Thế
rồi vào khoảng 10 giờ tối, khi nghe cô đỡ báo tin người vợ sinh con trai, anh
quá đỗi vui mừng, vội chạy vào nhà lấy hai dây pháo thật dài, treo ngay dưới
hai chuồng bồ câu giữa sân, bật quẹt châm ngòi. Hai tràng pháo nổ giòn vang dội
cả xóm. Tất cả bồ câu đông đảo trong hai chuồng hoảng hốt vỗ cánh bay tán loạn
không sót một con!
Niềm
vui có đứa con chào đời quá lớn khiến người cha trót dại treo hai dây pháo ngay
dưới chuồng bồ câu khiến chúng bay sạch, gây tổn thất không nhỏ cho kinh tế gia
đình.
Một
niềm vui còn lớn hơn nhiều đã đến với hai ông bà Da-ca-ri-a khi bé Gioan chào đời.
Mọi người lân cận đến chúc mừng hai ông bà được Chúa thương cho sinh con trong
tuổi già. Ai cũng chúc mừng mẹ tròn con vuông. Ai cũng trầm trồ khen đứa bé thật
dễ thương đang nằm trong lòng mẹ. Ai cũng mỉm cười với bé, đặt nhiều hy vọng
vào bé: "Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây? Và quả thật, có bàn tay Chúa
phù hộ em" (Lc 1,66).
Thế
rồi cậu bé Gioan lớn dần lên theo năm tháng mà không để cho bất kỳ ai thất vọng.
Người đã sống đẹp và đã chết hào hùng.
Gioan
sống đẹp vì dám từ bỏ đời sống dễ dãi tiện nghi nơi gia đình lối xóm, rút vào
trong hoang địa khô cằn để sống gắn bó với Thiên Chúa, chú tâm lắng nghe và thực
hiện ý Người.
10. Người mở đường cho Chúa
Có một lần ông Ra-un cùng vợ đến thăm một trại cùi.
Ông bà thường vẫn có thói quen bắt tay các anh chị em phong cùi vì họ biết bệnh
phong cùi khó lây lan.
Ông giám đốc trại cùi dẫn hai ông bà đi thăm trại và
giới thiệu với họ trường hợp của một nữ bệnh nhân tên là Tella. Ông Ra-un giơ
tay ra định bắt tay Tella, nhưng bà này vội giấu tay lại phía sau lưng nhanh
như chớp rồi nói:
- Luật cấm bắt tay.
Thấy ông giám đốc có vẻ ngượng ngùng, ông Ra-un hỏi:
- Thế ở đây có cấm ôm hôn người cùi không?
Ông giám đốc bối rối trả lời:
- Luật của chúng tôi không dự trù trường hợp này.
Ông Ra-un liền kết luận:
- Như thế là được phép ôm hôn người bệnh phải không?
Nói rồi ông Ra-un ôm và hôn bà Tella với tất cả lòng thương mến chân thành. Cử
chỉ yêu thương bất ngờ ấy của ông Ra-un như một tiếng sét đập tan và tiêu hủy tất
cả mọi ngăn cách sợ sệt giữa hàng trăm anh chị em phong cùi đứng chung quanh và
sau đó người cùi nào cũng muốn ôm hôn ông Ra-un, người tông đồ nhiệt thành và
là bạn đáng yêu của hàng triệu anh chị em phong cùi trên khắp thế giới.
Ông thường nói: Tôi không phải là bác sĩ nên tôi
không thể chữa cho họ lành bệnh được. Tôi chỉ có thể thương họ thôi, bởi vì họ
cũng là con cái của Chúa.
11. Vào hoang địa
Lm
Nguyễn Hồng Giáo kể truyện: Ít năm sau chiến tranh, tôi có dịp đi thăm một
anh em tu sĩ chúng tôi ở Xuyên Mộc. Ngài phụ trách một giáo xứ khoảng 4.000
giáo dân và ba địa điểm cách giáo xứ từ 7 đến 20 cây số với số giáo dân khoảng
6.000 người nữa. Tôi đã đi thăm hai địa điểm lớn ở xa. Đó. là hai làng kinh tế
mới. Tôi thấy giáo dân thật sốt sắng, đầy can đảm trong công việc làm ăn cũng
như trong việc đạo.
Đặc
biệt tôi gặp một gia đình Dòng Ba Phanxicô gốc ở Phú Nhuận. Khi tôi đến, ông
đang dạy giáo lý hôn nhân cho một chị độ 25 tuổi. Ông bà cho biết: họ có mấy
người con trai, trong đó có đứa nghiện xì ke đã làm cho họ rất khổ tâm. Để
tránh cho mấy đứa khác khỏi bị lôi kéo vào con đường hư hỏng đó, hai ông bà đã
quyết định đưa cả gia đình tới đây sinh sống từ 1980.
Bây
giờ họ sống nghèo nhưng vui và bình an. Tinh thần đơn sơ, nghèo khó, vui tươi
và phó thác của Dòng Ba đã giúp họ can đảm sống cuộc đời thiếu thốn vì lợi ích
của con cái. Họ nói tuy họ không giàu có nhưng con cái họ không hư hỏng.
Theo
"ơn gọi” và hoàn cảnh riêng của mình, hai người công giáo này đáng cho ta
khâm phục không kém Gioan Tẩy Giả, và chắc chắn là gần gũi và dễ noi gương hơn
noi gương vị Tiền Hô.
12. Làm chứng cho
ánh sáng
Trong
ngày lễ mừng sinh nhật của thánh Gioan Tẩy giả hôm nay, chúng ta cùng nhau nhìn
lại và khám khá về con người sứ giả của Tin mừng. Ngài đã sống và làm chứng cho
sự thật. Như lời thánh sử Gioan viết: “Có một người được Thiên Chúa sai đến,
người đó tên là Gioan Tẩy giả, ông đến để làm chứng cho Ánh Sáng” (Ga1, 6). Thật
vậy, ngày nay nhân loại đang cần những chứng nhân sống động hơn là thầy dạy.
Tôi lại chợt nhớ đến một chứng từ có tựa đề là “Con Nay Trở Về” của Phan Như Ngọc,
nguyên trưởng phòng vật lý hạt nhân viện khoa học Việt Nam. Vì là một nhà khoa
học, và cũng là một người vô thần, ông ta cho rằng, ai tin vào Thiên Chúa là
người mê tín, dị đoan. Trong suốt mười ba năm dạy học, ông ta nhồi nhét cho các
sinh viên những tư tưởng duy vật và chống lại đường lối của Thiên Chúa.
Đến
năm 1989, trong một chuyến đi công tác tại Đức, ông ta gặp được một nhà truyền
giáo Hà Lan, tên là Henk Wolthaus đến phát Thánh Kinh và những quyển sách nhỏ
cho mọi người. Vì có tính tò mò, ông muốn biết cuốn sách này nói gì. Khi mở những
trang đầu cuốn Thánh Kinh, ông cảm thấy khó chịu, không thể hiểu được tại sao
vũ trụ này lại được tạo dựng trong sáu ngày? Thật là vô lý. Khi đọc tới cuốn
Tân ước, ông cũng không thể tin việc Chúa Giêsu chữa lành cho người mù được
sáng mắt, người cùi được sạch, kẻ què đi được, người chết sống lại… Tất cả như
những câu truyện thần thoại dành cho trẻ con.
Những
phép lạ trong Kinh Thánh làm cho cái đầu quen lý luận theo kiểu vô thần của ông
ta không sao hiểu nổi. Từ cái khó hiểu và vô lý đó đã nẩy ra trong đầu ông ta một
câu hỏi, đó là: Sức mạnh nào khiến cho hàng tỷ người trên thế giới, trong đó có
hầu hết các nhà khoa học vĩ đại tin vào Kinh Thánh? Họ là những người cuồng
tín, hay là chính mình là người ngu dốt? Và từ những cuốn sách mỏng của người
truyền đạo Hà Lan, ông ta đã đọc được những câu bất hủ sau đây:
Isaac
Newton (Anh, 1642-1727) đã kết luận: "Trong Kinh Thánh có nhiều biểu hiện
chắc chắn về tính có thực hơn bất cứ một câu chuyện nào chống lại sách đó.”
Victor
Hugo (Pháp 1802-1885) viết: "Nước Anh có hai cuốn sách: Kinh Thánh và
Shakespear. Nước Anh sinh ra Shakespear, còn Kinh Thánh làm nên nước Anh.”
Albert
Einstein (Đức, 1879-1955), nhà vật lý được coi là vĩ đại nhất của thế kỷ 20, đã
phát biểu: "Khoa học không có tôn giáo là mù lòa, Tôn giáo mà thiếu khoa học
là què quặt.”
Theo
như lời tự thuật của Phan Như Ngọc, lúc bấy giờ ông chưa được hiểu biết nhiều về
Thiên Chúa, nhưng Chúa đã mở cõi lòng chai cứng và làm thay đổi não trạng và
thành kiến của ông. Ông ta xác tín rằng, "Chúa dùng Thánh Kinh và những lời
của các nhà khoa học để mở con mắt đức tin cho tôi. Mười ba năm dạy học là mười
ba năm tôi bước đi trên con đường lầm lạc và xa cách Thiên Chúa, tôi cảm thấy
xót xa ân hận vô cùng. Nếu linh hồn của lớp đàn em tôi bị hư mất là chính tôi
phải gánh chịu một phần trách nhiệm, vì tôi đã gây nên tội."
Thật
là một điều kỳ diệu. Là một nhà khoa học, một người vô thần, ông ta lại dám nói
những lời xác tín như thế để làm chứng cho Tin mừng trong thế kỷ 21 này, ông ta
đã nói lên sự thật về tình yêu Thiên Chúa. Như lời thánh GioanTẩy giả đã công bố:
“Tôi không phải là Đấng Cứu Thế, nhưng sẽ có một Người đến sau tôi, và tôi
không xứng đáng cởi giây giầy Ngài” (Lc 3,16). Sứ vụ rao giảng của Gioan là dọn
đường cho Đấng Cứu Thế đến, ngài kêu goi người ta ăn năn sám hối và tin vào Tin
mừng. Ngài bảo vệ cho chân lý và sự thật. Khi đã tố cáo vua Hêrôđê phạm tội loạn
luân với bà Hêrôđia, vì ông này đã chiếm vợ của anh mình, thì sứ vụ rao giảng của
Gioan Tẩy giả được chấm dứt khi ngài bị tống vào ngục và bị chặt đầu, cái chết
của ngài là làm chứng cho sự thật.