CNTN
11A - Sai đi Nhóm Mười Hai
THỨ
BA - Yêu thương kẻ thù để nên trọn lành
THỨ
TƯ - Đạo đức thực sự vì Chúa
THỨ
NĂM - Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu
Sinh
nhật thánh Gioan Tẩy Giả - Tên nó là Gioan
CNTN 11A - Sai đi Nhóm Mười Hai
Lời Chúa: Mt 9,
36 - 10, 8
Tin Mừng Chúa
Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa
Giêsu thấy đoàn lũ dân chúng, liền động lòng xót thương họ: vì họ tất tưởi bơ
vơ như những con chiên không có người chăn, Người liền bảo môn đệ rằng:
"Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ
đi gặt lúa."
Và Người liền
triệu tập mười hai môn đệ, ban cho họ quyền năng trên các thần ô uế, để họ xua
đuổi chúng, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền.
Ðây là tên của
mười hai tông đồ: trước hết là Simon cũng gọi là Phêrô, rồi đến Anrê em ông;
Giacôbê con của Giêbêđê và Gioan em ông; Philipphê và Bartôlômêô; Tôma và
Matthêu người thu thế; Giacôbê con của Alphê và Tađêô; Simon người Cananêô và
Giuđa Iscariốt, kẻ nộp Người.
Chúa Giêsu sai
mười hai ông này đi và truyền lệnh cho các ông rằng: "Các con đừng đi về
phía dân ngoại, và đừng vào thành các người Samaritanô. Nhưng tốt hơn, các con
hãy đi đến cùng chiên lạc của nhà Israel trước đã, và rao giảng rằng: "Nước
Trời đã đến gần." Hãy chữa lành người liệt, phục sinh kẻ chết, chữa lành
người phung, và xua trừ ma quỷ. Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho
nhưng không."
TRUYỆN KỂ
1. Ánh mắt cứu độ--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Tình yêu bắt đầu
từ đôi mắt. Nhưng ngày nay người ta ít có thời giờ nhìn nhau, nên tình yêu
không đến. Người ta quá bận rộn vì cuộc sống ngày càng vội vã. Ra đường là đi
như chạy để tranh thủ thời gian. Nên không có thời giờ nhìn, hỏi han, trò truyện,
thông cảm. Và vì bận rộn nên nhiều lần ta lẩn tránh không muốn nhìn những thảm
cảnh chung quanh, ngay trước mắt ta.
Chúa Giêsu thì
không như thế. Người nhìn thấy đám đông và chạnh lòng thương. Nếu nhìn một đám
đông thoáng qua thì khó mà chạnh lòng thương. Chạnh lòng thương là tức là đã
nhìn kỹ từng người, thấy rõ hoàn cảnh đáng thương của từng người. Đứng trước một
đám đông, Chúa vẫn có thời giờ nhìn kỹ từng người, vì Chúa quan tâm đến số phận
của từng người.
2. Giáo huấn của Giáo hội.
Công đồng
Vatican II khẳng định: “Tự bản tính, Giáo hội lữ hành phải truyền giáo” (TG 2).
Bản tính Giáo hội là truyền giáo tức là đem Tin mừng cứu rỗi cho nhân loại. Nhiệm
vụ đó buộc tất cả mọi phần tử của Giáo hội tức là mọi người đã được rửa tội.
Công đồng đặc biệt chú trọng đến phương diện tông đồ giáo dân: “Giáo dân làm
tông đồ tức là tham gia vào chính sứ mạng cứu rỗi của Hội thánh. Chính Chúa –
do phép rửa tội và phép thêm sức – giao cho tất cả mọi người bổn phận tông đồ ấy”
(LG số 33).
Đức thánh Cha
Gioan Phaolô II cũng quả quyết: “Không một ai trong những người tin vào Chúa
Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này:
Đó là loan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc” (Sứ vụ Đấng Cứu độ, 3).
3. Ta không có tay.
Câu truyện xẩy
ra tại Đức vào khoảng cuối thế chiến thứ hai. Tại một ngôi làng kia, một toán
binh sĩ Mỹ tình nguyện giúp dân chúng xây dựng lại cuộc sống của họ. Nhưng họ
không xin thực phẩm, thuốc men, nông cụ, mà chỉ xin tái thiết một pho tượng Chúa
Giêsu bị đổ nát vì bom đạn.
Từ nhiều thế kỷ
qua, pho tượng là niềm tự hào của họ, giờ đây, chỉ còn là những mảnh vụn. Liệu
những binh sĩ Mỹ có thể làm được công việc khó khăn này không? Qua bao ngày tìm
tòi vất vả, họ cũng đã nhặt lại được từng mảnh và dựng lại pho tượng, chỉ có điều
là có hai phần trong pho tượng họ không thể tìm thấy.
Họ dựng pho tượng
lên giữa quảng trường ngôi làng và phủ lên bằng tấm vải lụa, tấm vải này chỉ được
mở ra bằng một nghi thức do ông Thị trưởng chủ tọa.
Khi dân chúng
trong làng tề tựu đông đủ, ông Thị trưởng đọc diễn văn cảm ơn các binh sĩ Mỹ và
cho mở tấm lụa ra. Mọi người ồ lên với tất cả kinh ngạc, vì pho tượng tuyệt đẹp
nhưng lại không có đôi cánh tay. Dưới chân pho tượng mọi người đọc được hàng chữ
lớn: “Ta không có tay, các ngươi có thể cho ta mượn cánh tay của các ngươi
không”?
Trước khi về trời,
Chúa Giêsu, qua các Tông đồ, đã trao phó cho Hội thánh tiếp tục sứ mạng của
Ngài cho đến tận thế. Vì vậy, Hội thánh chính là Chúa Kitô nối dài. Và một cách
nào đó, Chúa Kitô đang xử dụng đôi cánh tay của Hội thánh để tiếp tục công cuộc
cứu rỗi của Ngài. Chúng ta cũng là cánh tay nối dài của Hội thánh nên chúng ta
cũng phải cộng tác vào trong việc cứu rỗi này.
4. Muối và ánh sáng
Hai hình ảnh xem
ra khác nhau nhưng đều giống ở sức tác động tốt:
- Muối thì thấp
hèn, âm thầm và khiêm tốn. Nhưng muối giữ cho môi trường chung quanh nó khỏi hư,
lại mặn mà.
- Ánh sáng thì rực
rỡ, huy hoàng. Ánh sáng soi sáng cho người ta biết đường đi, nhận rõ các đồ vật.
Cả hai đều phải
chịu sự hao mòn hy sinh thì mới gây tác động: muối tan dần đi, ngọn đèn nến
ngày càng lụn xuống.
Lý do tồn tại của
cả hai là để gây tác động tốt: nếu muối không mặn và đèn không sáng thì không
có ích gì nữa và phải bị vất đi.
Thân phận và
hoàn cảnh của mỗi Kitô hữu khác nhau: có người âm thầm hèn mọn như muối, có người
rực rỡ huy hoàng như ánh sáng. Nhưng mọi người đều có sứ mạng tác động tốt lên
môi trường mình sống. Không tác động tốt thì không còn là Kitô hữu nữa.
Chính con người
của ta phải thể hiện hình ảnh Chúa Kitô ra trong đời sống hằng ngày, để thực sự
con người ta là tấm gương phản chiếu Chúa Kitô cho người khác. Qua cuộc sống tốt
đẹp của ta, người ta sẽ thấy Chúa tốt đẹp như thế nào.
5. Nhà bác học Louis Pasteur.
Trên chuyến xe lửa
tiến về Paris, người sinh viên trẻ ngồi bên cạnh một cụ già. Chỉ ít phút sau
khi đoàn tầu chuyển bánh, cụ rút trong túi áo ra một cỗ tràng hạt và từ từ chìm
đắm trong sự cầu nguyện.
Người sinh viên
quan sát cử chỉ của cụ già với vẻ bực bội. Sau một hồi lâu, xem chừng không còn
đủ kiên nhẫn, anh ta mới lên tiếng:
- Thưa ông, ông
vẫn còn tin vào những chuyện nhảm nhí à?
Cụ già thản
nhiên trả lời:
- Đúng vậy, tôi
vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?
Người sinh viên
cười ngạo mạn quả quyết:
- Lúc nhỏ tôi có
tin, nhưng bây giờ làm sao mà tôi có thể tin vào những chuyện ấy được. Khoa học
đã thực sự mở mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi đi, hãy quẳng chuỗi hạt ấy đi, và hãy
học hỏi những khám phá mới. Ông sẽ thấy rằng những gì ông tin từ trước đến giờ
đều là mê tín dị đoan.
Cụ già nhỏ nhẹ hỏi
người sinh viên:
- Cậu vừa nói về
những khám phá mới của khoa học. Cậu có cách nào giúp tôi hiểu được điều này không?
Người sinh viên
hăng hái đề nghị:
- Ông cứ cho địa
chỉ, tôi sẽ gửi đến cho ông một quyển sách. Ông sẽ say mê đi vào thế giới phong
phú của khoa học.
Cụ già từ từ lấy
trong túi áo ra một tấm danh thiếp và trao cho người sinh viên. Đọc qua tấm
danh thiếp, người sinh viên bỗng xấu hổ đến tái mặt và lặng lẽ rời sang toa
khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp ấy có ghi: Louis Pasteur, Hàn lâm viện khoa học
Paris.
6. Bộ mặt của anh hề.
Có một gánh xiếc
bị hỏa hoạn, ông chủ gánh xiếc sai anh hề chạy đi kêu dân chúng trong làng đến
tiếp tay chữa cháy, chẳng vậy lửa bốc to có thể lan sang khu vực họ đang ở. Anh
hề vội vàng chạy đi, nhưng anh càng gào thét, múa máy bao nhiêu dân chúng lại
càng cười lớn bấy nhiêu, vì họ nghĩ rằng anh hề đang diễn một màn hài hước.
Thấy không ai
tin mình, anh hề giật râu, giật tóc và bật khóc nức nở, khiến khuôn mặt đầy phấn
sáp của anh càng lọ lem hơn. Gào thét hết cả hơi sức, nhưng chẳng có ai tin
anh, cuối cùng ngọn lửa cháy lớn lan tới thiêu hủy cả làng ra tro.
Sống đạo là truyền
đạo. Ai cũng biết rằng không có lời rao giảng nào hùng hồn hơn chứng tá của cuộc
sống; không sứ điệp nào đáng tin hơn là gương sáng. Không gì khôi hài bằng đi
loan báo tin buồn với khuôn mặt một anh hề, và cũng không gì khôi hài bằng mang
tin vui với bộ mặt u buồn của người đi đưa đám.
Nhiều khi trong
cuộc sống đạo, chúng ta cũng mang lấy bộ mặt của những anh hề. Sứ điệp mà chúng
ta loan báo không được đón nhận, bởi vì cung cách chúng ta không phù hợp với nội
dung của sứ điệp ấy. Chúng ta loan tin vui cứu độ, nhưng chúng ta có bộ mặt của
những người không được cứu rỗi. Chúng ta loan báo tin vui của bác ái, hòa bình,
nhưng cuộc sống chúng ta lại chỉ có những hành động của oán thù, ích kỷ, chiến
tranh, hận thù.
7. Lá thư thánh Phanxicô Xavie gửi cho thánh Inhaxiô Loyola, bề
trên của ngài:
“Con thường cảm thấy bị thôi thúc muốn đi đến
các đại học Âu châu đặc biệt là đại học Sorbonne ở Paris và la lên như một gã
điên cho những kẻ giầu tri thức hơn là thiện chí để yêu cầu họ sử dụng tri thức
của họ sao cho có lợi ích... Phải chi trong khi nghiên cứu về các nhân văn họ
cũng đồng thời nghiên cứu sổ kế toán mà Thiên Chúa sẽ đòi hỏi họ về tài năng
Ngài đã ban cho họ! Lúc đó nhiều người hẳn sẽ xúc động thốt lên: “Lạy Chúa, này
con đây, Chúa muốn bảo con làm gì”?
8. Thánh Gioan Thiên Chúa
Có một vị bá tước
giầu có ngày kia cho thánh Gioan Thiên Chúa 25 đồng vàng để giúp người nghèo khổ.
Đến chiều bá tước đó giả làm người ăn xin tới bệnh viện xin giúp đỡ. Động lòng
thương, Gioan Thiên Chúa lấy ra 25 đồng vàng mới nhận được ban sáng và trao cho
người nghèo đó kèm theo những lời khích lệ ân cần. Hôm sau bá tước tới thú nhận
và xin lỗi vì đã thử lòng thánh Gioan Thiên Chúa. Trước khi từ giã, bá tước đưa
150 đồng vàng và trả lại 25 đồng vàng đã cho hôm trước. Rồi sau đó hằng tuần
ông cho đem tới bệnh viện tiền bạc, thuốc men, lương thực, quần áo để giúp
thánh Gioan Thiên Chúa trong việc bác ái từ thiện, đặc biệt là giúp các bệnh
nhân nghèo.
Chúng ta nguyện
noi gương Chúa Giêsu có cái nhìn động lòng thương đối với những anh em khốn khó
để đem tình thương của Chúa đến cho họ qua lời cầu nguyện cũng như qua những gì
ta có thể làm được hầu mưu ích cho anh em về phần xác cũng như phần hồn. Amen.
9. Hết lòng vì việc lớn
Phạm Ngũ Lão người
làng Hưng Yên, mồ côi cha từ còn nhỏ, nhà nghèo. Một hôm ông đang ngồi đan sọt ở
vệ đường mà lòng mải nghĩ về đất nước. Quân lính đi qua lấy giáo đâm thủng đùi
ông mà ông không hay. Hưng Đạo cho người hỏi mới biết ông là người tài liền đưa
ông về dinh. Ông đã đánh thắng quân giặc rất nhiều trận. Về sau ông bình cả
quân Lào và chiêm thành nữa nên vua phong ông làm võ đại tuớng bình Chiêm.
Sự đóng góp của
chúng ta dù bé mọn nhưng cũng là góp cho Giáo Hội thêm tiến triển. Đời sống
chúng ta nếu tội lỗi thì sẽ ảnh hưởng đến Giáo Hội (một con sâu làm rầu nồi
canh). Một người không sống đạo đức thánh thiện cũng có ảnh thưởng đến tất cả,
đừng nghĩ một việc nhỏ nhoi không có giá trị gì. Đức thánh cha Piô 12 nói: ”Sự
cứu rỗi của nhiều người còn tùy thuộc vào lời cầu nguyện và hy sinh của mỗi phần
tử Giáo Hội."
Chúng ta như vậy
là có trách nhiệm phải sống tốt lành. Cha mẹ luôn tạo nên sự kính trọng trong
gia đình. Người trẻ luôn kính trọng người trên. Người khoẻ biết kính trọng người
yếu như thế làm nên một dây chuyền tốt lành làm phát triển Giáo Hội.
Lạy Chúa, xin
cho con biết sống thánh thiện đạo đức, làm gương sáng cho mọi người, như thế
con làm ích cho Giáo Hội của con luôn mãi.
10. Thầy sai các con đi--Lm. Thu Băng, CRM.
Cách đây khoảng
100 năm, Giáo Hội Truyền Giáo Lyon nước Pháp sai một lớp đầu tiên gồm 10 linh mục
đi sang Dohomey, Phi Châu để làm việc truyền giáo. Ba năm sau, cả 10 người đều
bị giết chết. Thế nhưng, dù rừng sâu, nước độc, dù dân chúng lạc hậu, có nhiều
ác cảm, hàng hàng lớp lớp các nhà truyền giáo vẫn hăng hái ra đi. Người này ngã
xuống, người khác đứng lên. Đến nay sau hơn một thế kỷ, những giọt máu pha lẫn
mồ hôi của các ngài đã đâm bông kết trái: Giáo Hội Dohomey đã vươn lên mạnh mẽ,
lại hân hạnh có được vị Hồng Y bản xứ tiên khởi là Bernard Gantin.
Câu chuyện trên
diễn tả lại cảnh Chúa Giêsu triệu tập mười hai môn đệ và sai họ đi rao giảng
Tin Mừng cho muôn người. Các môn đệ đã trải qua những cuộc tập luyện thấm mồ
hôi để có một cái nhìn hướng về tương lai. Các môn đệ đã bị nhiều thử thách, đã
bị nhiều người đánh giá thấp kém khi họ ra đi rao giảng Tin Mừng. Hầu hết các
ngài đã bị đẫ máu đào và kết quả là hạt cải nhỏ bé đã trở nên một cây lớn lao
cho chim trời đến đậu mà chúng ta gọi là Đạo Kitô Giáo. Cây cải nhỏ bé đã xum
xuê cành lá, đã vươn dài trên khắp thế giới và đã làm cho nhiều tâm hồn được ơn
trở lại.
Chúng ta có thái
độ nào trong việc xây dựng Giáo Hội? Mỗi người chúng ta có thể làm một điều gì
để đến với mùa gặt? Tại sao ngày nay có ít thợ gặt hơn trước đây?
11. Làm sao để có nhiều tông đồ?
Cha Franklyn M.
Mcafee đưa ra bảy điểm nhận xét làm sao để ấp ủ và làm phát sinh ơn kêu gọi làm
Linh mục Tu sĩ trong gia đình tại Hoa Kỳ. Cha đề nghị gia đình sống và thực
hành những việc đạo hạnh sau đây:
1. Khi con cái
thấy gia đình đi dâng thánh lễ Chúa nhật, có sửa soạn trước, đi sớm và ở lại mấy
phút tạ ơn sau lễ.
2. Khi con cái
thấy gia đình cầu nguyện, lần chuỗi chung ban tối, và đọc kinh trước bữa ăn.
3. Khi con cái
thấy trong gia đình có lòng tôn sùng người Mẹ của các Linh mục cách riêng một
cách sống động.
4. Khi con cái
được nghe những chuyện nhân đức của các thánh như Thánh Don Bosco, Thánh Gioan
Vianney.
5. Khi con cái
được nghe những chuyệt tốt, tích cực về các Linh mục; khi được nghe về Linh mục
nọ làm phép cưới cho cha mẹ, Linh mục kia rửa tội cho con.
6. Khi con cái
được nghe nói về tinh thần hi sinh, thay vì chỉ nghe chuyện làm tiền và hưởng
thụ. Một lý do khiến ơn kêu gọi giảm sút là khi con cái có thói quen nhận lãnh
tất cả những gì chúng muốn, nên thường cảm thấy khó cho đi và khó từ bỏ.
7. Khi con cái
thường nghe nói về Đức Giáo Hoàng, cầu nguyện cho Ngài và thấy hình Ngài trong
nhà.
Nếu gia đình hội
đủ những yếu tố trên, mà không thấy ơn kêu gọi làm Linh mục Tu sĩ trong gia
đình, thì cha mẹ vẫn đạt được đích chung trong việc cổ võ và sống lý tưởng người
Công Giáo. Những người con mặc dầu lập gia đình cũng sẽ hướng dẫn giáo dục con
cái như cha mẹ mình. Và biết đâu ơn kêu gọi sẽ đến trong thế hệ sau.
12. Chúa chọn những người bất toàn
Mười hai tông đồ
là 12 con người bất toàn, thậm chí có người còn phạm trọng tội. Thế nhưng Đức
Giêsu đã kêu gọi và tiếp nhận họ vào chương trình chuyển trao tình yêu Thiên
Chúa đến cho mọi người.
Phêrô là người
có tính khí nóng nảy bộp chộp khác thường. Khi thì kiên vững như đá, nhưng có
lúc lại mềm nhão hơn bùn. Hôm thì thề quyết theo Chúa đến cùng, nhưng có ngày lại
quá run sợ mà chối phăng.
Giacôbê và
Gioan, con của Giêbêđê là những người nóng nảy. Họ từng xin Chúa cho lửa trời
xuống thiêu sạch bọn người Samari hổn láo. Không những thế hai ông còn mang ít
nhiều tham vọng riêng tư, muốn được ngồi nơi những vị trí tốt nhất trong vương
quốc của Đức Kitô, khiến cho xung đột nảy sinh trong hàng ngũ tông đồ.
Matthêô xuất
thân từ tầng lớp bị xã hội khinh khi ghét bỏ, một người bị xếp đồng hàng với
gái điếm vì bán mình làm kẻ thâu thuế cho ngoại bang.
Simon nhiệt
thành là người thuộc phái Zealot, đang âm mưu lật đổ chính quyền đô hộ Rôma để
dành lại độc lập tự do cho dân tộc, bất chấp thủ đoạn, miễn sao đạt được mục
đích chính trị là sách lược của phái Zealot. Ấy là chưa nói đến Giacôbê con của
Anphê và Thađêô là những người dễ có khuynh hướng cực đoan quá khích.
Tôma thì cứng
lòng. Khó tin tưởng một ai. Điều gì cũng đòi phải có chứng minh hẳn hoi, chứ
"trăm nghe không bằng mắt thấy." Còn Giuđa Iscariot, bên ngoài rất
thanh liêm ngay chính, nhưng bên trong đầy tham lam thủ đoạn, sẵn sàng phản bội
để tìm kiếm lợi riêng.
Những con người
thiếu sót, lầm lỗi là thế nhưng Đức Giêsu lại triệu tập để trao cho họ một sứ mạng
lớn lao. Như thế, không phải chỉ có những ai hoàn hảo, đầy tài năng mới được mời
gọi, và không phải khi nào tự thấy xứng đáng, tôi mới lên tiếng đáp trả. Nhưng
đúng hơn, tình yêu Thiên Chúa đón nhận tất cả, dù là con người tầm thường yếu
đuối, miễn sao tôi có được tâm hồn rộng mở cho ơn Ngài.
13. Nhiều cách truyền giáo
Ruddell Norris
là một chàng trai cần mẫn, nhưng lại có tính nhút nhát. Nói chuyện với kẻ khác
chàng đã thấy khó khăn rồi, huống chi phải bàn chuyện tôn giáo với họ. Thế rồi
một ngày kia, chàng nảy ra một ý kiến.
Ruddell đọc sách
khá nhiều và chàng biết có nhiều cuốn sách nói về đức tin Công giáo. Vì vậy
chàng quyết định dành ra một phần tiền tiết kiệm hàng tuần để mua những cuốn
sách ấy. Ruddell để những cuốn sách ấy ở những nơi mà chàng nghĩ người ta có thể
cầm lên đọc để giết thời giờ. Chẳng hạn như ở những phòng đợi khám bệnh và
phòng tiếp khách.
Ngày kia, có một
phụ nữ vốn là bạn của gia đình chàng kể cho cha mẹ chàng biết vợ chồng cô ấy đã
theo đạo Công giáo như thế nào. Cô nói: “Tất cả bắt đầu do một cuốn sách nhỏ mà
tôi đã tìm thấy tại phòng đợi ở bệnh viện."
Có nhiều linh mục,
tu sĩ và ngay cả giáo dân, thay vì tặng quà hay phát thưởng bằng những món quà
vật chất, họ lại trao gởi những cuốn sách thiêng liêng, sách đạo đức, sách giáo
dục như những món quà đầy ý nghĩa và hữu ích cho đời sống tâm linh của con người.
Đó là một trong những cách hữu hiệu để thi hành sứ mệnh truyền giáo mà hôm nay
Đức Giêsu kêu gọi: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ
mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về."
14. Chúa cần thiện chí
Một tác giả tưởng
tượng việc Chúa chọn các tông đồ như sau: Sau những đêm dài cầu nguyện, Ngài rảo
bước khắp nơi nhưng không chọn được người nào. Ngài đành đăng quảng cáo, nhưng
trong số những người đến trình diện Ngài cũng không chọn được ai.
Ngài đành tổ chức
thế vận hội. Môn đầu tiên là cầu nguyện: nhiều người biểu diễn cầu nguyện rất
hay nhưng Chúa không chọn được ai cả. Môn thứ hai là thờ phượng, cũng thế. Môn
thứ ba là giảng thuyết, cũng thế.
Chán nản vì mất
giờ vô ích, Chúa Giêsu rời vận động trường thả bộ ra bờ biển hóng gió và ở đây
Ngài thấy một đám dân chài. Ngài đứng quan sát và nhận ra có một số người để hết
tâm hồn vào công việc. Ngài nghĩ thầm họ là những người có quả tim. Và thế là
Ngài chọn họ làm tông đồ của Ngài.
15. Ðẹp thay bước chân người đi loan Tin Mừng--Lm. Augustine,
SJ.
Gợi ý để sống và
chia sẻ Tin Mừng
Hôm ấy, Ðức Cha
Thể (Théphanô Théodore Cuenot sinh 1802 tại Pháp, chết tử đạo 1861 tại Việt
Nam) gọi thày Do lên và hỏi thẳng thày về cách thày sẽ thực thi mệnh lệnh truyền
giáo như thế nào:
- Thày phải mở
qua ngõ An Sơn, tức Tây Sơn, một con đường để đi truyền giáo cho các dân tộc thiểu
số: Thày sẽ làm thế nào để hoàn thành việc đó?
- Thưa Ðức Cha,
con sẽ làm lái buôn, Thày Do đáp lời, để trong vai lái buôn, con sẽ tiến sâu
vào phía bên kia ranh giới nơi những lái buôn chưa từng vượt qua. Một khi khảo
sát xong địa hình, con sẽ trở về đưa một vị thừa sai đến vùng đó.
- Quá tốt, Ðức
Cha Thể nói tiếp, Cha mong đợi rất nhiều ở Thày.
Thế là thày Do
được trang bị bằng phẩm chất của hai thánh Têphanô và Lorensô xưa, tức chịu chức
phó tế. Không tậu ngay được môn bài làm lái buôn, thày Do xin làm người giúp việc
cho lái buôn. Sau thời gian ngắn, người chủ hết sức hài lòng về anh giúp việc
này liền thăng chức cho anh được làm đầu bếp. Thày sáu Do, vai mang gùi chứa đựng
nồi niêu chén bát, tháp tùng ông chủ lái buôn đi hết làng này sang làng khác.
Thày kiên trì hỏi han anh em dân tộc về ngôn ngữ, phong tục, tập quán của họ.
Sau sáu tháng sống
đời phiêu bạt, thày sáu Do đã biết tạm đủ thổ ngữ dân tộc để dùng trong trường
hợp phiêu lưu một mình. Không còn lý do để ở làm đầu bếp lâu hơn nữa cho ông chủ
lái buôn người kinh, thày sáu Do bỏ An Sơn về Gò Thị, trình báo mọi sự lại cho
Ðức Cha Thể. Nay thày muốn làm lái buôn thực thụ để có thể đi sâu vào những
buôn làng dân tộc mà các thương gia người kinh khác chưa tới bao giờ. Ðức Cha
Thể tán thành ý kiến và cho bốn chủng sinh đi theo thày Do.
Ðoàn thương gia
của thầy sáu Do hoàn toàn di chuyển ban đêm. Với nhiều thận trọng khôn khéo, họ
đã an toàn đến với bộ lạc Hà Ðrông. Nhưng trước kia thầy sáu Do làm người đầu bếp
nên không ai chú ý tới thầy làm chi. Nay thầy đóng vai ông chủ buôn người kinh,
thầy liền bị người Hà Ðrông để ý muốn chiếm lấy hàng hoá mà họ tưởng là rất quý
giá; họ đồng thời còn muốn bắt chủ buôn và các phụ tá để bán sang Lào làm nô lệ!
May thay thầy Do biết được ý định đen tối của chủ nhân Hà Ðrông hiếu khách một
cách giả dối. Thầy và các phụ tá đã kịp thời chạy trốn lúc đêm khuya, bỏ lại
đàng sau tất cả hành lý và đồ đạc. Khi bọn cướp kéo đến bao vây nhà trọ, phái
đoàn của thầy đã cao chạy xa bay trên đường về Gò Thị báo cáo cho Ðức Cha Thể
biết kết quả.
Trước hết như đã
thấy ở trên, thầy sáu Do đã biết được một ít thổ ngữ dân tộc, đó là điều cơ bản;
kế đến và nhất là thầy đã khám phá ra con đường độc đạo, hiểm trở, ngoài các
con đường thông thường của các thương gia người kinh sử dụng, mà qua đó các vị
thừa sai có thể kín đáo đến được các vùng rừng núi phía Tây. Con đường này hết
sức cam go và vất vả, lại dài hơn những lối đi khác, bởi vì phải đi một vòng
quanh rộng lớn theo hướng Bắc trước khi rẽ sang hướng Tây. Ðó là lối đi an
toàn, bởi lẽ không một thương gia người kinh nào có can đảm dấn bước vào đó.
Sau khi xem xét chu đáo. Ðức Cha Thể đã chọn lối đi này.
16. Tình yêu có sức hoán cải
Philip là một
con người rất đáng mến. Giờ đây ở tuổi sáu mươi ông tốt bụng khôi hài, nhân từ
và quảng đại. Nếu bạn quan sát ông trong ngày họp mặt hàng năm của gia đình mở
rộng, bạn có thể nhìn thấy điều này. Ông không kéo sự chú ý về mình. Ông chỉ có
mặt một cách tuyệt diệu. Cười nói và hòa đồng, ông làm cho mọi người cảm thấy
thoải mái. Ông lôi cuốn mọi người đến với ông. Mục đích duy nhất của ông dường
như là giúp đỡ những người khác. Ông không có một suy nghĩ nào về mình.
Nhưng ông không
như thế trước đây. Ít năm trước, ông hầu như ngược lại. Sự hiện diện của ông
trong ngày họp mặt gia đình hàng năm là một điều bối rối đặc biệt cho vợ và các
con ông. Tại sao? Bởi vì lúc đó ông là người nghiện rượu. Từ sáng sớm ông đã uống
rượu. Dường như ông chỉ quan tâm đến một mình ông thôi. Ông không thể giúp đỡ một
ai. Người ta tránh xa ông và nói chuyện với ông càng ít càng tốt. Điều làm cho
vấn đề tệ hơn là, khi ông say, ông trở nên thô tục.
Bây giờ, ông dễ
mến vì ông đã bỏ rượu và thay đổi cuộc đời. Thật vậy, bạn không thể không yêu mến
ông, khi ông còn uống rượu. Quả thật, hầu như không thể mến yêu ông lúc đó. Dù
sao qua những năm tháng tối tăm ấy khi ông còn uống rượu, vợ con ông tiếp tục
yêu thương ông. Tình yêu thương và sự quan tâm của họ, làm ông có khả năng đối
diện những vấn đề của ông, và đi tìm sự giúp đỡ. Chính tình yêu của họ làm cho
ông trở lại.
Trong bài đọc 2,
thánh Phaolô nói: “Hầu như không ai chết vì người công chính, họa may có ai dám
chết vì một người lương thiện chăng." Thánh nhân nói tiếp rằng chứng cứ thật
sự Thiên Chúa yêu thương chúng ta là Đức Kitô, Con Thiên Chúa đã chết vì chúng
ta, ngay khi chúng ta còn là những con người tội lỗi.
17. Gia đình ơn gọi
Đã có bao giờ bạn
nghe nói về một gia đình có sáu linh mục và năm nữ tu chưa? Đức hồng y Hebert
Vaughan, Tổng Giám Mục Westminste, nước Anh, đã xuất thân từ một gia đình như vậy.
Gần 20 năm, thân mẫu Ngài quì cầu nguyện trước Thánh Thể một giờ mỗi ngày để
xin Chúa cho các con bà trở thành linh mục.
Khi Đức Hồng Y
tương lai ở tuổi 21, Ngài đã mô tả đời sống Chúa của thân mẫu Ngài: “Trong
ngày, mẹ tôi thường ở trước Thánh Thể. Trước bữa điểm tâm... mặt người tươi tắn
và bình thản... trong những ngày này tôi quá cảm ích về tình yêu nồng hiệt và
lòng sùng kính của mẹ tôi đối với bí tích Thánh Thể."
Và Thiên Chúa đã
đáp lại lời cầu xin của người mẹ phi thường này thế nào? Tất cả năm cô con gái
của bà đã trở thành nữ tu – và 6 trong số tám người con trai của bà đã trở
thành linh mục. Ba trong sáu linh mục ấy trở thành giám mục, và một trong ba
Giám mục ấy được tấn phong hồng y.
Chúng ta phải nhận
đây là câu chuyện hiếm có nhưng nó nhắc nhở như Chúa Giêsu nói với chúng ta
trong Tin Mừng hôm nay: “Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa."
Câu chuyện đó nhắc
nhở như chúng ta thấy ngày nay rất cần nhiều linh mục, và những tôi tớ đặc biệt
khác của Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều biết sự cần đến nhiều người được huấn
luyện và được truyền chức để mang Thiên Chúa đến cho con người, và con người
cho Thiên Chúa. Chúng ta có thể làm gì để tăng triển số người dâng hiến đời sống
cho việc đem Chúa Kitô đến cho thế giới?
18. Cầu nguyện và hy sinh
Giữa bốn bức tường
nhà kín, thánh nữ Terêxa đã âm thầm cầu nguyện và chịu đựng những hy sinh thay
cho các vị thừa sai, để những cố gắng của Giáo Hội trên cánh đồng truyền giáo gặt
hái được nhiều thành quả tốt đẹp. Chỉ mình Chúa mới biết được những ơn ích mà
thánh nữ đã thực hiện. Nhưng chúng ta có thể nhân ra tầm mức rộng lớn khi thấy
Giáo Hội tuyên phong thánh nữ làm bổn mạng các xứ truyền giáo. Theo tương truyền
thì số người trở lại do lời cầu nguyện và những hy sinh của thánh nữ cũng đông
không kém những người trở lại của thánh Phanxicô Xaviê, một người đã dành suốt
cả đời mình lăn lộn trên cánh đồng truyền giáo tại Á châu.
Năm 1683, Chúa
Giêsu đã hiện ra với thánh nữ Magarita và xin thánh nữ cầu nguyện cho những tội
nhân biết ăn năn trở lại. Ngài nói với thánh nữ:
- Một linh hồn
công chính có thể xin ơn tha thứ cho hàng ngàn kẻ tội lỗi.
Khi hiện ra tại
Lộ Đức, Mẹ Maria cũng đã nói với chị Bernadette:
- Phải cầu nguyện
cho các tội nhân.
Cùng với lời cầu
nguyện, chúng ta hãy thêm vào đó những hy sinh. Có một ông đại úy hồi hưu sống
trong tình trạng khô khan nguội lạnh. Khi ông lâm bệnh nặng và không còn hy vọng
sẽ qua khỏi, vị linh mục mời ông xưng tội, nhưng ông đã từ chối một cách dứt
khoát. Lần sau, vị linh mục lại tìm đến nhưng người ta đã cấm không cho vào. Trở
về nhà, bỗng vị linh mục nảy ra một ý định là dâng một gìơ kinh và hy sinh một
ly cà phê thường lệ ở bữa ăn sáng để cầu nguyện cho bệnh nhân. Và vị linh mục
đã thực hiện như thế. Một vài ngày sau, điện thoại reo vang, người ta mời vị
linh mục đến giải tội cho ông đại úy vì ông ta đã đổi ý.
Sự hy sinh tự nó
không quan trọng, nhưng sẽ đem lại những hậu quả to lớn, nếu chúng ta biết hy
sinh vì Chúa, biết kết hiệp với những đớn đau của Chúa Giêsu trên thập giá.
Những chiếc rễ mặc
dù nhỏ bé và chúng ta không nhìn thấy, nhưng lại rất cần thiết vì chúng hút nhựa
sống từ lòng đất làm cho cây cối được lớn lên, đâm bông và kết trái. Cũng thế,
những lời cầu nguyện và hy sinh là như những chiếc rễ nhỏ làm cho Giáo Hội
không ngừng được phát triển và sống động.
19. Làm gương sáng
Thực vậy muốn
rao giảng Tin mừng, chúng ta không cần phải làm Linh mục hay tu sĩ, nhưng chúng
ta vẫn có thể và phải rao giảng bằng chính đời sống gương mẫu của chúng ta vì
như tục ngữ đã bảo:
- Lời nói như
gió lung lay,
việc làm như tay lôi kéo.
Biết đâu nhờ đời
sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của chúng ta mà làm cho người
khác trở về cùng Chúa, hay ít nữa cũng đặt ra trong đầu óc họ một câu hỏi: Tại
sao chúng ta lại dễ thương đến thế?
Ngày kia, thánh
Phanxicô Assie gọi một thày dòng đến và bảo:
- Này thày,
chúng ta cùng nhau đi giảng đạo nhé.
Hai cha con ra
đi, rảo qua các đường phố một vòng rồi trở về. Thày dòng bỡ ngỡ và hỏi:
- Thưa cha, bao
giờ chúng ta mới đi giảng đạo?
Thánh nhân trả lời:
- Chúng ta đã đi
giảng đạo rồi đó.
Thày dòng thắc mắc:
- Lạ thật, mới
chỉ đi một vòng phố, có nói lời nào đâu?
Nhưng thánh nhân
đã cắt nghĩa:
- Chúng ta đã giảng
đạo bằng chính thái độ nghiêm trang và tề chỉnh của chúng ta.
Thế giời hôm nay
không thiếu những bài diễn văn hùng hồn và nảy lửa. Thế nhưng những bài diễn
văn ấy là như tiếng nhạc chúng ta nghe thoảng ngoài tai, nhưng không đủ sức
thúc đảy chúng ta hành động. Thế giới hôm nay không thiếu những nhà hùng biện
tài ba, nhưng thiếu rất nhiều nhưng người làm gương sáng.
20. Khao khát rao giảng Tin Mừng
Một vị tông đồ tại
bắc cực đã phát biểu:
- Trên miềm băng
giá này vẫn có những thương gia lặn lội tìm mua da gấu, thế mà không có một
linh mục, một tu sĩ hay một giáo dân thiện chí nào đến tìm kiếm các linh hồn.
Một Martinô đã
thưa cùng Chúa:
- Lạy Chúa, nếu
con còn làm ích cho anh em, thì con sẽ không từ chối bất cứ lao nhọc nào.
Một Catarina muốn
được đứng trước cửa hỏa ngục để ngăn chặn không cho các linh hồn rơi vào đấy.
Một Vianney đã
nói:
- Nếu tôi đã đặt
được một chân vào thiên đàng mà bỗng nhìn thấy một người cần cứu vớt, thì tôi sẽ
không ngần ngại trở về trần gian để cứu vớt người ấy.
Thánh nữ Têrêxa
cũng đã nói:
- Để cứu một
linh hồn khỏi tội lỗi và hỏa ngục, tôi sẵn sàng hy sinh mạng sống của tôi đến
muôn ngàn lần.
Còn chúng ta thì
sao? Chúng ta đã làm được những gì để góp phần nhỏ bé của chúng ta vào công cuộc
rao giảng Tin mừng, truyền bá Đức tin của Giáo hội?
21. Thiện chí và lời cầu nguyện
Một chàng thanh
niên quí phái đang thong thả bước đi trên một con đường tại vùng quê nước Ý, đi
ngược chiều, có một bà già quê ăn mặc rách rưới. Cảm động vì thân hình tiều tụy
ấy, chàng thanh niên bước tới ân cần nhã nhặn an ủi, rồi chàng lấy ví ra tặng
cho bà cụ tất cả số tiền mang theo. Cử chỉ nhân ái và món quà của chàng thanh
niên đã khiến bà cụ xúc động, và khi được biết chàng thanh niên đó là người
Công giáo, bà hứa mỗi ngày đọc một tràng chuỗi cầu nguyện cho anh được làm linh
mục. Ngày tháng trôi qua, chàng thanh niên đã quên hẳn, không còn nhớ gì chuyện
gặp bà cụ ấy, nhưng ít năm sau, lời cầu nguyện chân thành của bà cụ nghèo khổ ấy
đã được Chúa chấp nhận. Anh trở thành linh mục, và còn hơn thế nữa, trở thành một
Đức Giáo Hoàng thời danh, đó là Đức Lê-ô XIII.
Kể lại câu chuyện
trên tôi muốn nói rằng: tất cả chúng ta hãy cầu nguyện, hãy cầu xin Chúa ban
nhiều thợ gặt, vì lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Hơn nữa, chúng ta cũng cầu
xin cho các thợ gặt của Chúa trở thành những thợ gặt lành nghề, những thợ gặt
nhiệt tâm làm cho nhiều người biết Chúa và đưa nhiều linh hồn về kho lẫm Nước
Trời.
CNTN 11B -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1. truyện
CNTN 11C -
TRUYỆN KỂ
1. truyện
THỨ HAI - Ðừng báo thù
Lời Chúa: Mt 5, 38-42
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đã
nghe bảo: "Mắt đền mắt, răng đền răng."
Còn Thầy, Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác;
trái lại, nếu ai vả má bên phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa. Và
ai muốn kiện con để đoạt áo trong của con, thì hãy trao cho nó cả áo choàng nữa.
Và ai bắt con đi một dặm, thì con hãy đi với nó hai dặm. Ai xin, thì con hãy
cho. Ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ."
TRUYỆN KỂ
1. Lấy lành trị ác
Lorobel khi còn làm quan toàn quyền ở Ấn Độ, vào một ngày kia
ông đáp tàu trở về Trung Quốc, cùng trên chuyến tàu có một phu nhân mang theo đứa
nhỏ, bà chẳng ngó ngàng gì đến đứa bé khiến nó cứ khóc thét suốt ngày đêm. Hành
khách ai cũng bực mình, có người thô lỗ còn hăm dọa sẽ ném đứa bé xuống biển.
Lorobel đã quyết định một việc mà ít ai ngờ tới: Ông ẵm đứa bé lên, đặt nó ngồi
trên đùi của ông và từ giờ này qua giờ khác, ông nói chuyện đùa giỡn và làm trò
đùa hoặc làm bất cứ điều gì đứa bé thích. Đầu tiên đứa bé ngạc nhiên quên đi
chuyện khóc lóc, và sau khi quen rồi nó lại thích thú quấn quýt bên Lorobel.
Hành khách trên tàu cảm thấy dễ chịu, ít bực mình và đôi khi còn vui lây niềm
vui của đứa bé. Đứa bé không còn làm phiền ai nữa, nhưng nó đã trở nên tâm điểm
truyền đạt niềm vui cho hành khách.
Nếu có mặt trên chuyến tàu cùng với Lorobel hôm đó, chúng ta
cũng được chứng kiến một cảnh khôi hài, đó là một vị quan toàn quyền đầy uy quyền
như thế mà lại nhận lãnh vai trò vú em. Ông không sử dụng uy quyền của mình để
ra lệnh cho người đàn bà, nhưng đã dùng tình thương để đối xử với sự thiếu sót
của bà. Đây quả thực là một phản chiếu lời dạy của Chúa Giêsu được thánh sử
Matthêu gởi đến cho chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay.
2. Ðừng báo thù
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
"Mắt đền mắt, răng đền răng", đó là công thức của luật
báo thù. Người ta xúc phạm đến tôi bao nhiêu, tôi phải làm lại cho người đó bấy
nhiêu. Kẻ lý luận như thế là dựa trên sự công bằng, nhưng đây là sự công bằng
theo mức độ của loài người. Luật trả thù này đã được ghi chép thành văn trong bộ
luật của vua xứ Babylon năm 1750 TCN. Trong Bộ Ngũ Kinh, người ta cũng có thể đọc
thấy vài công thức của luật trả thù này, và đó là sự bất toàn của Luật Môsê thời
Cựu Ước.
Nhưng luật trả thù này không những có trong những bộ luật lâu đời,
mà còn nằm trong tâm hồn con người mọi thời. Chúa Giêsu muốn nhắc cho các môn đệ
Ngài xưa cũng như nay, là cần phải sẵn sàng dập tắt ngay nơi bản thân mầm mống
của bạo động: "Ðừng chống cự người ác."
3. Yêu là sống yêu
Khi đạo Công Giáo mới được loan báo trên quê hương Nước Việt,
cha ông chúng ta đã mau mắn đón nhận Tin Mừng và sống những giá trị Tin Mừng ấy
rất sống động. Một trong những điểm sáng mà tổ tiên chúng ta đã sống đó là
“tình yêu thương." Khi sống như thế, nhiều người không phải là Kitô hữu, họ
đã không hiểu được các ngài theo đạo gì, vì thế, họ không ngần ngại đặt cho tôn
giáo mới này là: “Đạo Yêu Nhau."
Hôm nay, Đức Giêsu dạy cho các môn đệ bài học yêu thương. Yêu
thương thì không oán hờn; không tính toán thiệt hơn; yêu thương thì không có
khái niệm trả thù mà sẽ tha thứ không chỉ bẩy lần, mà bẩy mươi lần bẩy, tức là
không có giới hạn.
4. Tình yêu tác sinh
Winifred Potenza sống ở Santa Rosa, California. Trong một đêm
khuya con trai cả của bà là Jonathan 21 tuổi cùng bạn gái Lisa Rodriguez chết
ngay tại chỗ sau khi bị một viên tài xế say xỉn tông trúng. Potenza gần như hóa
dại và không thể gượng dậy trước nỗi đau. Bà thường lang thang trên phố mỗi
đêm, khi thì thổn thức, khi thì la hét.
Viên chưởng lý cáo buộc người tài xế say xỉn mới 20 tuổi về tội
giết người. Anh đã nhận tội và chờ đợi phán quyết của toà. Anh hiểu hành động của
mình và dằn vặt muốn được chết.
Ngồi trong phòng xử án, khi quan tòa quyết định William chịu án
15 năm tù, Potenza mới thực sự nhìn thấy William lần đầu tiên. Trong chốc lát,
bà hiểu rằng anh không phải là kẻ tàn ác như bà từng được nghe nói. Sau này bà
kể rằng, khi ấy bà đã nghĩ: “Chúa ơi, đây là sai lầm." Bà hiểu rằng,
William cũng có cha mẹ và cha mẹ anh cũng xót xa lo lắng cho con trẻ. Bà nói:
“William không cố tình giết người, đây chỉ là một tai nạn thảm kịch”, Potenza từ
từ đứng lên và đi qua hàng người bảo vệ, nhẹ nhàng ôm lấy William. Bà tha thứ
và trở thành người bạn, người bào chữa cho người đã cướp mất mạng sống con bà.
Lòng vị tha giúp Potenza hàn gắn vết thương và cũng giúp William hàn gắn nỗi ăn
năn hối hận, đưa anh trở lại với cuộc sống. Hàng tuần, Potenza tới thăm
William, đầu tiên là nhà tù Corcoran rồi nhà tù Vacaville. Bà nói: “William là
một người tốt, anh ấy có tài năng đặc biệt và xứng đáng được hưởng một cơ hội
khác."
Potenza đã không ngừng nỗ lực làm việc, thuyết phục tòa án giảm
cáo buộc tội giết người xuống thành tội ngộ sát, đồng thời giảm án tù cho
William. Nỗ lực của bà đã được đền đáp. Sau bảy năm thụ án, William được ân xá
và ra tù trước thời hạn.
Còn với Potenza, cái chết của con trai và sự hóa giải đau thương
cùng với tình yêu vị tha đánh dấu bước khởi đầu của một dự án nghệ thuật lớn.
Bà đã hoàn thành dự án chuyển tải thông điệp xã hội trong suốt 30 năm. Bà tập
trung vào dự án hòa bình, cả ở góc độ cá nhân và toàn cầu. Dự án mang tên “Những
Trái Tim Của Thế Giới." Đó là các bức sơn dầu khổ lớn, mỗi bức mô tả một
trái tim được vẽ từ chính biểu tượng, màu cờ của mỗi quốc gia. Có 80 trong số
185 tác phẩm đã hoàn thành…
5. Oán thù lá gánh nặng
Văn hào Nga ông Leon Tolstoi có kể chuyện ngụ ngôn như sau: Có một
người hành khất nọ đến trước cửa nhà người giàu có để xin bố thí một đồng xu nhỏ
hay một miếng bánh vụn, đó là tất cả những gì người ăn xin chờ đợi. Nhưng, mặc
cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc
không chịu nổi những lời van xin, thay vì bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào
con người khốn khổ.
Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm
trong miệng: “Ta mang hòn đá này cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ
dùng nó để ném trả lại ngươi."
Năm tháng qua đi. Lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật.
Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả và bị tống giam vào ngục. Ngay
hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh áp giải người giàu có vào tù. Nỗi căm hờn
sôi sục trong lòng. Ông đi theo đoàn người áp tải. Tay không rời khỏi hòn đá mà
người giàu có đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm.
Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch mối nhục đeo đẳng
bên ông. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy khuôn mặt tiều tuỵ đáng thương của kẻ đang
bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: “Tại sao ta phải
mang nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua? Con người này, giờ đây, cũng chỉ là
một con người khốn khổ như ta."
6. Oán thù là tự sát
Văn hào Nga ông Leon Tolstoi có kể chuyện ngụ ngôn như sau: Có một
người hành khất nọ đến trước cửa nhà người giàu có để xin bố thí một đồng xu nhỏ
hay một miếng bánh vụn, đó là tất cả những gì người ăn xin chờ đợi. Nhưng, mặc
cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc
không chịu nổi những lời van xin, thay vì bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào
con người khốn khổ.
Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm
trong miệng: “Ta mang hòn đá này cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ
dùng nó để ném trả lại ngươi."
Năm tháng qua đi. Lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật.
Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả và bị tống giam vào ngục. Ngay
hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh áp giải người giàu có vào tù. Nỗi căm hờn
sôi sục trong lòng. Ông đi theo đoàn người áp tải. Tay không rời khỏi hòn đá mà
người giàu có đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm.
Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch mối nhục đeo đẳng
bên ông. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy khuôn mặt tiều tuỵ đáng thương của kẻ đang
bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: “Tại sao ta phải
mang nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua? Con người này, giờ đây, cũng chỉ là
một con người khốn khổ như ta."
7. Nhường nhịn là chiến thắng
Trong trận bóng chung kết tuần vừa qua của trường, tôi tham gia
thi đấu cho khoa của mình. Trân đấu diễn ra trong sự vui vẻ đoàn kết.
Đến phút 20 của hiệp I, tôi ghi được một bàn thắng. Và từ giây
phút đó, trận đấu trở nên sôi nổi hơn nhưng cũng không thiếu sự thô bạo.
Tôi sớm trở thành nạn nhân. Một cái đạp từ phía sau, do cố ý,
làm tôi gục xuống. Tuy đau nhưng tôi vẫn gượng cười và tiếp tục thi đấu. Hiệp I
gần kết thúc, sự “không may” một lần nữa đến với tôi bằng cú lên gối ngực của
chính kẻ đã đạp tôi lần trước. Thế là tôi phải ra sân.
Trận đấu kết thúc với tỉ số 1-1. Người ấy đã đến gặp tôi và xin
lỗi.
Chúa ơi, nếu con vì đau mà trả thù ngay trên sân thì ắt sẽ không
có sự nhận lỗi và xin lỗi này. Và hận thù sẽ tiếp nối hận thù phải không Chúa?
Con cám ơn Chúa đã giúp con thắng được chính mình. Xin cho con luôn nhớ rằng: “bạo
động chỉ gây thêm bạo động. Chỉ có tình yêu mới mang lại tình yêu” (Hosanna).
8. Không trả đũa là có sức mạnh
Thánh Antôn tu rừng, người khởi xướng đời sống ẩn tu trong Giáo
Hội, có một lần sau khi giảng xong về đề tài bài giảng trên núi, thì có một giáo
dân đến hỏi ngài:
- Thưa cha, chúng con phải làm gì để được trở nên hoàn thiện?
Thánh Antôn trả lời:
- Tin Mừng đã dạy: “Ai vả má phải ngươi, hãy đưa má trái cho họ”
(Mt 5,39).
Nhóm giáo dân thưa:
- Điều này khó quá, làm sao thực hiện nổi.
Thánh Antôn nói:
- Nếu không, ít nhất hãy để nguyên má phải và đừng trả đũa, đừng
báo thù, hãy tha thứ cho kẻ đã xúc phạm các con.
Nhóm giáo dân vẫn lắc đầu:
- Thưa cha, điều này vẫn quá khó khăn, thật không dễ gì để yên
cho người khác xúc phạm đến mình.
Thánh Antôn nghe xong liền quay sang môn đệ và nói:
- Con đi nấu cháo cho những người này ăn đi vì họ quá yếu đuối.
Thật, ta còn làm gì được cho các ngươi nữa, ngoại trừ lời cầu nguyện mà thôi.
9. Cùng chịu chết với Chúa
Giêsu
Ngày 4-4-1968, mục sư Luther King lãnh tụ da đen tranh đấu cho
quyền bình đẳng của người Mỹ da đen bị bắn chết. Hằng triệu người da đen và những
người da trắng hiểu biết đã thương tiếc ông.
Martin Luther King đã hy sinh cả cuộc đời mình để ôn hòa đấu
tranh, chống cảnh kỳ thị chủng tộc mầu da. Cũng chính vì đã dám lên tiếng đòi
cho mọi người được đối xử bình đẳng như nhau trong một đại gia đình của Thiên
Chúa mà ông đã bị bắn gục.
Những ai đã nghe nói về Martin Luther King đều không thể quên được
tinh thần yêu thương tha thứ của ông với những bất công do nạn kỳ thị chủng tộc
gây ra. Câu chuyện sau đây do ông kể lại là một bằng chứng:
Chú bé da đen tên là Tom, theo thói quen, vừa tan trường là chạy
đi phân phát báo cho các trường để lấy tiền giúp đỡ gia đình. Hôm ây, chú bé bất
ngờ mót tiểu quá, thay vì chạy đến một gốc cây hay là bờ tường, nó chạy ngay
vào nhà vệ sinh dành riêng cho người da trắng, vừa để tiểu và cũng vừa để xem một
lần cho biết.
Được vào trong nhà vệ sinh sạch sẽ, mát mẻ, em thấy sung sướng.
Bất ngờ, Tom nghe có tiếng chân người bước nhanh đập trên nền nhà đi về hướng
nhà vệ sinh mà em đang ở trong đó. Chưa kịp phản ứng gì thì Tom đã bị người da
trắng ập tới, đánh Tom một cái làm em ngã dúi vào nhà vệ sinh. Rồi kèm theo với
cái đạp lên thân thằng bé là những lời nguyền rủa nó đã dám vi phạm luật lệ của
bang Alabama. Theo đó thì người da đen bị cấm không được bén mảng đến những nơi
dành cho riêng người da trắng, kể cả nhà vệ sinh.
Được chứng kiến cảnh đau lòng trên, ông Martin Luther King
khuyên chú bé Tom da đen:
- Cháu Tom bé nhỏ đáng thương ơi, cháu có thể lựa chọn giữa hai
thái độ, hoặc là cháu chạy nhanh ra khỏi nhà vệ sinh ấy, rồi nhặt những cục đá
lên mà liệng vào người da trắng đã hạ nhục cháu kia, và sau đó cháu chạy về khu
vực của người da đen và đề nghị với những người da đen như thế này: Một ngày
kia, chúng mình sẽ giết sạch những người da trắng.
Nhưng cũng còn một thái độ, một sự lựa chọn khác nữa cao thượng
hơn, đó là cháu sẽ im lặng nhớ đến Chúa Giêsu ngày xưa, Ngài cũng đã bị người
ta xô té mấy lần trên đường vác Thập Giá. Nhưng lần nào cũng thế, Ngài cũng chỉ
im lặng, chỗi dậy để tiếp tục đi đến đồi Golgotha. Cháu hãy tha thứ cho người
da trắng kia đã hạ nhục cháu. Cháu Tom ơi! Trả thù là điều quá dễ, nhưng yêu
thương mới là khó. Chúng ta là những người da đen Hoa-kỳ, chúng ta muốn xây dựng
ngày mai tươi sáng hơn nhưng chỉ có tình thương mới làm được việc đó!
10. Lấy lành thắng dữ
Nhà văn Salman Rushdie là tác giả sách “Vần Thơ Ác Quỷ” , nội
dung có tính chất bài Hồi giáo. Thế là ông Khomeini – Giáo chủ Hồi giáo – ra lệnh
truy nã ông Salman Rushdie, và treo giải thưởng cho ai giết được ông. Nhà văn
này đã phải thay hình đổi dạng sống ẩn dật trong suốt 14 năm!
Trái lại, anh Ali Agca - người Hồi Giáo cuồng tín – đã ám sát Đức
Giáo hoàng Gioan Phaolô II ngày 13-05-1981. Sau đó anh bị bắt và giam tại nhà
tù Rchibba ở Roma. Năm 1984, Đức Giáo hoàng ngay sau khi được bình phục, ngài
đã đem qùa đến thăm Ali Agca tại nhà tù đang giam giữ anh! Anh hỏi lại Đức Giáo
hoàng:
- Tại sao tôi đã bắn ông mà ông không chết?
Hành động của Đức Gioan Phaolô hơn hẳn ông Khomeini, chỉ vì Đức
Thánh cha đã thấm nhuần lời thánh Tông Đồ dạy: “Đừng lấy ác báo ác, nhưng hãy lấy
lành mà thắng ác!”(Rm 12,21). Bởi vì
- Lấy ác báo lành, ta là Satan
- Lấy ác báo ác, ta là chó sói.
- Lấy lành báo lành, ta là con người.
- Lấy lành báo ác, ta là con Chúa.
Để bày tỏ ta là con Chúa, thánh Tông Đồ dạy: “Nếu kẻ thù ngươi
đói, hãy cho nó ăn, nó khát, hãy cho nó uống, làm thế như ngươi chất than hồng
trên đầu nó. Chớ để dữ thắng được ngươi, nhưng hãy lấy lành mà thắng dữ” (Rm
12,20-21).
11. Tiêu diệt hết kẻ thù
Chuyện kể rằng có một vị vua sau khi thắng trận liền mở tiệc
khao quân. Ông mời cả các tù binh ăn mừng, đãi ngộ rất tử tế rồi trả tự do cho
họ. Quần thần hỏi tại sao nhà vua đã thề tiêu diệt hết kẻ thù không sót một người
mà nay lại cư xử như thế, nhà vua trả lời: “Ta đã tiêu diệt hết kẻ thù bằng
cách biến họ thành bạn.”
Luật “mắt đền mắt, răng đền răng” bế tắc trước vấn đề sự ác, bởi
vì lấy oán báo oán thì oán thù chồng chất. Không thể dùng lửa, cũng không thể
dùng vài giọt nước để dập tắt một đống lửa, mà phải dùng một khối lượng nước lớn
hơn đống lửa đó. Chúa Giêsu dạy chúng ta tiêu diệt sự báo thù bằng việc tha thứ,
tiêu diệt nhỏ nhen ích kỷ bằng quảng đại quên mình. Trên thập giá Chúa tiêu diệt
bạo lực bất công bằng sự hiền lành và tự nguyện chịu chết để đền bù muôn tội lỗi.
Không thể tiêu diệt sự ác bằng sự ác mà phải bằng một tình yêu lớn hơn.
12. Cách cho trọng hơn của
cho
Một nhà truyền giáo trên một hòn đảo ở Thái Bình Dương rất xúc động
khi một cô gái tặng cho ông một vỏ sò đẹp. Nhà truyền giáo hỏi: “Con lấy vỏ sò
này ở đâu vậy?” Cô gái giải thích rằng cô đã đi bộ nhiều dặm đến một vịnh bắt
ngang hòn đảo, đến nơi duy nhất có thể tìm được vỏ sò. Nhà truyền giáo nói:
“Con thật tuyệt vời khi phải đi quá xa để lấy cho ta một món quà đẹp như vậy.”
Cô gái nói với nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt: “Đi càng xa, quà càng giá trị.”
Hôm nay tôi có thể tặng một ai đó món quà nào, phải tốn tiền hay
chẳng tốn kém gì, nhưng sẽ làm cho người khác rất đỗi hạnh phúc? Ai? Và tại
sao?
Nhẫn và nữ trang không phải là những món quà, nhưng chỉ chứng
minh cho món quà. Món quà duy nhất là một phần của chính bạn. (Ralph Waldo
Emerson)
13. Luật gây mù lòa
Một phụ nữ nọ cảm thấy sửng sốt khi nghe Abraham Lincoln nói đến
sự tử tế của quân Đông minh. Bà ta chất vấn ông: “Tôi nghĩ tốt hơn chúng ta nên
được tập trung lại để tiêu diệt kẻ thù hơn là đối xử tử tế với họ.” Lincoln trả
lời: “Thưa bà, chúng ta tiêu diệt kẻ thù khi chúng ta đối xử tốt với họ.” Đó
chính là sự khôn ngoan và lòng nhân ái toát ra từ lời dạy của Chúa Giêsu trong
bài đọc hôm nay.
Lần cuối cùng tôi cầu nguyện cho kẻ thù hoặc giang tay đón nhận
kẻ thù là khi nào?
Luật xưa “mắt đền mắt” làm cho mọi người đều trở nên mù lòa
(Martin Luther King).
Lời của Đức Giêsu hôm nay
làm chúng ta choáng váng. Lời này không đòi dẹp bỏ hệ thống pháp luật, cảnh sát
hay nhà tù. Nhưng nếu các Kitô hữu cứ để cho Lời này thấm vào lòng từ từ, đời sống
của họ sẽ được thay đổi một cách kỳ diệu, và bộ mặt thế giới sẽ đổi khác.
Hiền hậu, bao dung, quảng đại,
đó là điều thế giới hôm nay thiếu trầm trọng.
Gandhi, người say mê những
câu Lời Chúa hôm nay, đã than phiền: “Tôi thích Đức Kitô của các anh, nhưng tôi
không thích các Kitô hữu. Vì các Kitô hữu thì chẳng giống Đức Kitô mấy.”
THỨ BA - Yêu thương kẻ thù để nên trọn lành
Lời Chúa: Mt. 5,
43-48
Khi ấy, Chúa
phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đã nghe dạy: "Ngươi hãy yêu thân
nhân, và hãy thù ghét địch thù." Còn Ta, Ta bảo các con: Hãy yêu thương
thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con, hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ
và nguyền rủa các con: để như vậy các con nên con cái Cha các con, Đấng ngự
trên trời: Người khiến mặt trời mọc lên cho người lành kẻ dữ, và cho mưa xuống
trên người liêm khiết và kẻ bất lương.
Vì nếu các con
yêu thương những ai mến trọng các con, thì các con được công phúc gì? Các người
thu thuế không làm thế ư? Nếu các con chỉ chào hỏi anh em các con thôi, thì các
con đâu có làm chi hơn? Những người ngoại giáo không làm như thế ư?
Vậy các con hãy
nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Đấng hoàn hảo."
TRUYỆN KỂ
1. Yêu thương kẻ thù
Sau hơn 50 ngày
bị bắt làm con tin và bị sút gần 20 ký vì sống trong thiếu thốn vật chất cũng
như tinh thần, một nhà truyền giáo nọ đã bình tĩnh trả lời câu hỏi của các
phóng viên về những gì mình đang suy tính trong lòng: "Tôi vẫn yêu mến đất
nước và dân tộc đó, như ngày tôi mới đến truyền giáo cách đây 40 năm. Tôi đã
tha thứ cho những kẻ bắt giữ và hành hạ tôi. Tôi muốn nói với họ rằng tôi không
có gì thù ghét họ, nhưng vẫn yêu thương và sẵn sàng trở lại đó làm việc mục vụ."
Những lời dạy của
Chúa Giêsu mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, cũng không mập mờ, không
nhượng bộ hay chiều theo khuynh hướng tự nhiên của con người muốn giới hạn tình
yêu của mình đối với tha nhân.
2. Các con hãy nên trọn lành
Nữ tu Antoinette
vẫn thường nhắc đến bệnh nhân già khó tính nhất trong bệnh viện, gặp ai ông
cũng nhăn nhó nạt nộ. Có chuyện gì khó chịu một chút là ông la lớn, rùm beng
lên. Ngày kia, đang lúc mải mê phục vụ các bệnh nhân, nữ tu Antoinette đã nghe
thấy tiếng bệnh nhân già đó hét lên: “Đem cho tôi quả trứng." Nữ tu
Antoinette vui vẻ đem đến, nhưng bệnh nhân già lại nhăn nhó: “Trứng chưa chín đủ
mà lại mang cho tôi ăn à?”, và nữ tu Antoinette vui vẻ mang trứng đi luộc lại.
Nhưng rồi bệnh nhân lại kiếm lý do khác để gây phiền hà đến nữ tu: “Luộc trứng
chín quá, tôi không ăn nổi đâu. Tôi muốn trứng khác."
Nữ tu Antoinette
không biết làm sao, chị bèn có sáng kiến chế một lò nấu nhỏ kê ở bên giường
ông, và trao cho ông một quả trứng để chính ông có thể nấu lấy theo sở thích của
ông. Người bệnh nhân thấy thế lại nổi giận hơn nữa. Ông đạp đổ bếp, quẳng trứng
xuống sàn nhà và quát lớn: “Tôi là bệnh nhân mà đi luộc trứng à!" Nữ tu
Antoinette chẳng nói nửa lời, chỉ biết thinh lặng cúi xuống thu sạch và quét dọn.
Lát sau, nữ tu đem đến cho bệnh nhân khó tính ấy một quả trứng khác và nhẹ
nhàng nói với bệnh nhân: “Ông hãy dùng thử quả trứng này, tôi luộc vừa chín mà
thôi." Thái độ của nữ tu Antoinette đã làm cho bệnh nhân cảm động và lập bập
nói: “Cám ơn nữ tu. Tôi ăn trứng này và cũng ăn cả lòng tốt của nữ tu nữa. Xin
nữ tu tha thứ cho tôi."
3. Hãy yêu thương cho đến cùng
Tác giả tập sách
“Đường Hy Vọng” đã chia sẻ như sau: “Bác ái là tu đức liên lỉ. Tu miệng lưỡi,
tu quả tim, tu lỗ tai, tu con mắt, tu lá gan, tu bộ óc. Tất cả con người con
vùng vẫy, nhưng con phải yêu thương như Chúa Giêsu." Hãy lấy một tờ giấy
và bình tĩnh viết trên đó đức tính của người con bất bình, con sẽ thấy họ không
hoàn toàn xấu như con nghĩ từ đầu: “Tôi không muốn biết, không muốn nhớ quá khứ
của anh em tôi. Tôi chỉ muốn biết hiện tại của anh em để thương nhau, giúp đỡ
nhau và biết tương lai để tin nhau, để khuyến khích nhau."
Sống bổn phận hiện
tại không phải là thụ động, nhưng là liên lỉ canh tân, quyết định chọn Chúa hay
chối từ, và tìm Nước Chúa là tin tưởng ở tình yêu vô bờ bến của Ngài, là hành động
với tất cả hăng say. Đó là việc làm thể hiện đức mến Chúa và yêu người ngay
trong giây phút hiện tại. Đó là những lời khuyến khích đầy kinh nghiệm giúp mỗi
người chúng ta sống sứ điệp Phúc Âm của Chúa xác thực hơn, hiệu quả hơn.
4. Lòng quảng đại của dân ta
Lịch sử đã từng
ghi lại rất nhiều sự kiện về những tù binh chiến tranh ở Việt Nam luôn được đối
xử tử tế, được mở đường hiếu sinh, được cấp đầy đủ quân trang khi trở về nước.
Ví dụ như cách hành xử vị tha của quân chiến thắng Lam Sơn với quân Minh kẻ thù
bại trận: Theo lời cố vấn của Nguyễn Trãi, tha thứ cho kẻ thù, vua Đại Việt là
Lê Thái Tổ còn cung cấp cho họ lương thực và những phương tiện di chuyển như ngựa,
thuyền để trở về đất nước họ.
Lời dạy yêu
thương tha thứ của Chúa Giêsu làm thăng hoa lòng khoan dung, vị tha của truyền
thống Việt Nam qua câu tục ngữ: “Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ chạy lại”,
người Việt không những vị tha với nhau như tục ngữ có câu: “Chín bỏ làm mười”,
mà còn vị tha với cả kẻ thù.
Nguyễn Trãi đã
nhấn mạnh: “Trả thù, báo oán là thường tình của mọi người; mà không thích giết
người là bản tâm của người nhân” (Quân trung từ mệnh tập). Vị anh hùng dân tộc
đã gây ý thức cho nhân dân Đại Việt: Có những nhu cầu làm người cao cả, trọng đại
và lâu bền hơn. Nhu cầu báo thù sẽ bùng lên và vụt tắt như ngọn lửa rơm. Nhu cầu
tha thứ xây dựng hòa bình “thêm bạn bớt thù” như người đời thường nói, xây dựng
bình an bản thân và cộng đồng.
5. Tự giải thoát mình
Nelson Mandela,
một nhà hoạt động cách mạng Nam Phi, từng bị giam giữ và bị xúc phạm trong suốt
27 năm. Đến khi ông trở thành Tổng thống Nam Phi, ông đã mời 3 người cai ngục từng
canh giữ ông trong thời gian tại chốn lao tù đến gặp mặt. Khi Mandela đứng dậy
cung kính chào 3 vị cai tù này thì mọi người có mặt và trên toàn thế giới đều
phải tĩnh lặng. Ông nói: “Khi tôi bước ra khỏi phòng giam của mình, đi qua cánh
cổng nhà tù để được tự do, tôi đã hiểu rõ ràng rằng: nếu không thể để nỗi đau của
riêng mình và oán giận ở lại đàng sau, thì tôi vẫn là còn ở trong lao tù."
Người Kitô hữu
không thể trốn tránh con đường chông gai, để chọn những lối đi bằng phẳng êm
mát. Nhưng họ phải can đảm tiến tới để đạp gãy chông gai ghen ghét, san bằng sỏi
đá hận thù, dõi theo ánh sáng của Đức Kitô, Đấng đã yêu thương và tha thứ cho
những kẻ giết hại mình.
6. Lấy thiện báo ác
Thời Xuân Thu
chiến quốc, nước Sở và nước Lương có chung biên giới đều trồng dưa. Người bên
nước Lương, vun xới chăm chỉ nên dưa tốt quả nhiều. Người bên nước Sở lười, làm
biếng tưới nên dưa xấu quả ít. Quan huyện sở tại nước Sở thấy vậy thì lấy làm tức
giận lắm. Những người trồng dưa bên Sở thấy vậy cũng đem lòng ghen ghét, tối tối
lẻn sang nhổ cây, bứt lá làm cho dưa bên nước Lương đang tốt tươi bỗng trở nên
héo hon, xơ xác. Những người trồng dưa bên nước Lương rình biết, bèn trình báo
lên quan sở tại của mình và cũng rắp tâm sang phá dưa bên Sở để trả thù. Nhưng
quan sở tại của nước Lương là người thâm trầm, liền can ngăn và bảo: “Nếu lấy
ác mà xử lại thì chỉ là cách gây thù chuốc oán, gieo mầm loạn lạc binh đao, cho
nên thay vì trả thù, ta cứ lẳng lặng sang tưới dưa cho họ, đó mới là thiện chí."
Một thời gian
sau, dưa bên nước Sở xanh tốt, quả nhiều. Dân nước Sở lấy làm lạ, họ để ý rình
rập mới hay người bên nước Lương sang tưới dưa cho mình. Biết được điều đó,
Quan bản địa có ý thẹn.
Việc đó đến tai
vua Sở, vua Sở lấy làm xấu hổ và nghĩ rằng ngoài cái tội phá hoại dưa của người,
chắc còn những việc khác gây oán thù. Vua Sở bèn xuống chiếu trách cứ quan huyện,
khuyến cáo dân chúng nước Sở, rồi viết thư sai sứ giả sang nước Lương xin lỗi,
tỏ lòng hiếu hoà bang giao.
7. Tự hại mình
Có hai người kia
đều bị bắn tên. Người thứ nhất bình tĩnh và nhẹ nhàng nhổ mũi tên ra, băng bó vết
thương, và ngày sau khỏi hẳn. Người thứ hai tức giận nhổ mũi tên ra nhưng cầm lấy
đâm túi bụi vào mình mẩy của mình, đã thế khi gặp người thân anh còn đâm họ bị
thương nữa.
Mũi tên chính là
lời công kích của kẻ khác. Người khôn cư xử như người thứ nhất, nghe xong bỏ
đi. Kẻ dại cư xử như người thứ hai cứ lập đi lập lại lời công kích đó và còn
thuật lại cho người thân, làm cho bản thân mình và người thân thêm đau đớn vô
ích.
8. Thù vặt và bệnh tim
Dale Carnegie viết:
“Thử hỏi tại sao ý muốn “báo thù” lại có hại cho bạn? Theo tờ tạp chí “Life”
thì ý muốn đó có thể làm sức khoẻ bạn phải vĩnh viễn suy nhược. Tác giả một bài
đăng trong tờ “Life” có viết rằng: “Tính xấu đặc biệt thường thấy trong số những
người đau bệnh động mạch là tính thù vặt. Nếu tính xấu này luôn luôn biểu lộ,
nó sẽ làm cho bệnh ấy thành kinh niên và có khi thành bệnh đau tim."
Ông kể tiếp: Tôi
có một người bạn thân vừa đây bị một cơn đau tim nặng. Thầy thuốc bắt anh ta phải
tĩnh dưỡng và nhất là không được nổi nóng với bất cứ một cớ nào, vì lẽ thầy thuốc
nào cũng biết rằng, người đau tim rất có thể chết bất thần khi nổi giận. Chắc bạn
chẳng cho là thật? Tôi xin kể một chứng minh. Cách đây mấy năm, một ông chủ
hàng cơm tỉnh Spokane, thuộc tiểu bang Washington, đã ngã đùng ra chết sau một
cơn thịnh nộ. Đây là bài tường thuật của viên cảnh sát trưởng, mô tả trường hợp
xảy ra tai nạn: “Ông William Falkaber 68 tuổi, chủ một tiệm ăn, đã tự giết mình
khi đang nổi giận, vì người bếp không nghe lời ông mà cứ uống cà phê trong đĩa
chứ không uống bằng tách. Ông ấy nổi khùng vác súng lục đuổi người bếp, rồi bỗng
ông ngã vật ra chết thẳng, tay hãy còn nắm chặt khẩu súng. Viên y sỹ nhà nước đến
khám nghiệm tử thi, tuyên bố ông đứt mạch máu vì “thịnh nộ." (Quảng gánh
lo đi và vui sống)
9. Để có lợi cho người và cho mình
Quý Cao làm quan
sĩ sư nước Vệ. Một lần kia, ông phải ngồi tòa và xử một phạm nhân với án toà là
phải bị chặt chân. Về sau, nước Vệ có loạn, Quý Cao phải chạy trốn. Trên đường
chạy trốn, không may ông lại gặp ngay kẻ ngày trước ông kết tội bị chặt chân
coi cửa thành trong làng.
Kẻ ấy bảo
- Kia có chỗ tường
đổ, ngài trèo lên đó mà trốn.
Quý Cao đáp:
- Người quân tử
không trèo tường.
Người ấy lại chỉ:
- Kia có lỗ hổng.
Quý Cao đáp:
- Người quân tử
không chui lỗ hổng.
Người ấy lại
nói:
- Ở đây có cái
nhà.
Quý Cao chạy vào
trong nhà đó để ẩn. Vì thế giặc không bắt được.
Khi giặc đi khỏi,
Quý Cao hỏi người canh thành:
- Trước kia vì
phép nước, ta kết tội chặt chân ngươi, ngươi phải thù ta mới phải. Sao ngươi
không trả thù, lại ba lần chỉ lối cho ta trốn như vậy ý là làm sao?
Người kia đáp:
- Tội tôi đáng
chặt chân không thể tránh khỏi. Ông không kết tội tôi, thì người khác cũng kết
tội tôi. Lúc ông luận tội, tôi thấy ông đã cố xoay sở pháp luật để cứu tôi mà
không được. Điều ấy tôi thấy rất rõ. Lúc tôi bị đem đi chặt chân, nét mặt ông
buồn rầu, tôi biết. Ông làm thế có phải vì riêng mình tôi đâu: Đó là tấm lòng bậc
quân tử. Tôi cứu ông là vì thế.
Tình yêu thương
là một ngọn nến, vừa chiếu sáng người khác, lại chiếu sáng cho bản thân. Cống
hiến một chút tình yêu thương, thì chắc thế giới này sẽ chứa chan những tình cảm
ấm áp.
10. Những vết đinh
Nếu những lời
nói trong cơn giận có thể để lại những vết sẹo còn mãi trong lòng người khác,
thì sự cảm thông, bao dung, tha thứ lại có thể làm được điều ngược lại.
Một cậu bé nọ có
tính xấu là rất hay nổi nóng. Một hôm, cha cậu bé đưa cho cậu một túi đinh rồi
nói với cậu: "Mỗi khi con nổi nóng với ai đó thì hãy chạy ra trước nhà và
đóng một cái đinh lên chiếc hàng rào gỗ.”
Ngày đầu tiên, cậu
bé đã đóng tất cả 37 cái đinh lên hàng rào. Nhưng sau vài tuần, cậu bé đã tập
kiềm chế dần cơn giận của mình và số lượng đinh cậu đóng lên hàng rào ngày một
ít đi. Cậu nhận thấy rằng kiềm chế cơn giận của mình dễ hơn là phải đi đóng một
cây đinh lên hàng rào.
Đến một ngày, cậu
đã không nổi giận một lần nào trong suốt cả ngày. Cậu đến thưa với cha và ông bảo:
"Tốt lắm, bây giờ nếu sau mỗi ngày mà con không hề giận với ai dù chỉ một
lần, con hãy nhổ cây đinh ra khỏi hàng rào.”
Ngày lại ngày
trôi qua, rồi cũng đến một hôm cậu bé đã vui mừng hãnh diện tìm cha mình báo rằng
đã không còn một cái đinh nào trên hàng rào nữa. Cha cậu liền đến bên hàng rào.
Ở đó, ông nhỏ nhẹ nói với cậu:
"Con đã làm
rất tốt, nhưng con hãy nhìn những lỗ đinh còn để lại trên hàng rào. Hàng rào đã
không giống như xưa nữa rồi. Nếu con nói điều gì trong cơn giận dữ, những lời
nói ấy cũng giống như những lỗ đinh này, chúng để lại những vết thương khó lành
trong lòng người khác. Con đừng bao giờ quên rằng: vết thương tinh thần còn đau
đớn hơn cả những vết thương thể xác.”
Nhìn thấy lỗ
đinh lởm chởm trên hàng rào, cậu bé mới thấm thía sự xấu xa của từng lần xung đột,
bất kể đúng hay sai, phải hay trái. Nó khẩn khoản hỏi cha nó: “Con phải làm gì
đây để xóa sạch những dấu đinh này.”
“Dấu vết của hận
thù chỉ có thể được chữa lành bởi tình yêu,” người cha nói.
“Nhưng cha ơi,
con phải làm gì đây?” cậu con trai hỏi.
Người cha trả lời:
“Nếu những lời nói trong cơn giận có thể để lại những vết sẹo còn mãi trong
lòng người khác, thì sự cảm thông, bao dung, tha thứ lại có thể làm được điều
ngược lại. Chỉ tình yêu mới là phương thuốc có thể chữa lành cho những vết
thương lòng.
“Mỗi khi con tha
thứ, bao dung, cảm thông, giúp đỡ hay an ủi một ai, con hãy vẽ thêm một bông hoa
trên các vết đinh.”
Mỗi ngày một
chút, hàng rào thêm xinh xắn bởi những nét vẽ ngọng nghịu. Thế nhưng chỉ một thời
gian ngắn sau đó, ai bước vào cũng phải tấm tắc khen cái hàng rào xinh xắn ấy!
11. Báo đền ân oán
Hàn Tín, người đời
Hán Cao Tổ, thuở hàn vi phải đi câu cá đổi gạo ăn. Thế mà có những lúc không đủ
ăn, nên được bà lão thợ giặt gọi về cho ăn cơm. Vào thời đó, đi đâu Hàn Tín thường
mang thanh gươm kè kè bên mình.
Một hôm, một tên
đồ tể tên Ác Thiểu muốn hạ nhục Hàn Tín, chận đường thách:
- Chú thường
mang gươm, chả biết đề làm gì. Bây giờ tôi không cho chú đi. Chú có gan thì sẵn
có gươm đó, hãy chém tôi mà đi, bằng không thì phải lòn trôn tôi mà qua.
Hàn Tín chẳng
chút do dự, lòn trôn tên hạ tiện đó mà đi, tự nhủ: "Giết thằng này thì được
rồi, nhưng mà phải lấy mạng mình đổi mạng nó, thì không đáng tí nào.”
Sau Hàn Tín nhờ
có công giúp Hán Cao Tổ dựng nước mà dược phong làm vua Tam Tê. Lúc bấy giờ,
Hàn Tín bèn mời bà thợ giặt đến biếu nghìn lạng vàng để tạ ơn.
Rồi không những
không thèm trả thù tên đồ tể mất dạy ngày xưa, lại phong cho hắn chức Trung úy.
Ác Thiểu rất ngạc nhiên, khúm núm nói:
- Lúc trước tôi
ngu lậu thô bỉ, đã dại dột xúc phạm oai nghiêm của ngài, nay tội ấy được tha chết
là may, còn dám mong đâu được ban chức tước?
Hàn Tín ôn tồn bảo:
- Ta chẳng phải
là kẻ tiểu nhân hay cố chấp, đem lòng cừu hận. Hành động của ngươi ngày xưa tuy
quá đáng, nhưng cũng là bài học luyện chí cho ta. Vậy nhà ngươi chớ tị hiềm mà
hãy nhận chức ta ban.
Lối báo đền ân
oán của Hàn Tín thật là hay. Hay vì hướng thượng, hay vì nhìn ra điều tốt trong
điều xấu. Chính vì thế, với người ân thì Hàn Tín ban thưởng vì cảm chữ tình chữ
nghĩa; còn với người oán cũng vẫn ban thưởng vì nhờ người đó mà mình nên người,
”ngọc bất trác bất thành khí.”
Hơn nữa, khi trả
thù mình chẳng được gì mà lại lấy chuốc oán hận, còn tha thứ thì có ngay một
người bạn trọn tình vẹn nghĩa với mình. Thật là cái khôn của bậc quân tử!
H.G Bohn nói:
"Lối trả thù cao thượng nhất là tha thứ.”
John Ray cũng
nói: "Quên đi một lỗi lầm là một sự phục thù lương hảo nhất.”
Lời Chúa dạy:
"Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi?
Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi
anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng
chẳng làm như thế sao? Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời
là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5,46-48)
12. Tình yêu đích thực
Christopher
Matthews là một nhà bình luận và là cựu phụ tá phát ngôn viên chính phủ Tip
O’Neill. Ông trích dẫn câu châm ngôn Texas xưa: “Hãy ôm hôn bạn bè cho chặt,
nhưng hãy ôm hôn kẻ thù chặt hơn.” Matthews sửa đổi một chút cho hợp với thực tế
mà mọi chính sách có thể hiểu được ngay: “Những nhà lãnh đạo tài khéo biết rằng
địch thủ trong trận chiến này thường là đồng minh quí giá trong trận chiến
khác.”
Động lực thúc đẩy
nhà chính trị “ôm hôn” địch thủ mời gọi tôi tự hỏi: động lực “ôm hôn” kẻ thù của
tôi là gì?
Luôn tha thứ cho
kẻ thù. Đừng bực mình vì họ quá nhiều. (Oscar Wilde)
13. Trái tim cao cả
Tạp chí Newsweek
đã đăng hình cậu bé đang quì gối cầu nguyện trong nhà thờ. Câu chuyện kể tiếp:
cha mẹ các em bị chết khi một quả bom phát nổ trên một chiếc máy bay bay qua
Colorado gây thiệt mạng 41 hành khách. Các bạn học sinh trường St.Gabriel noi
các em đang theo học đề nghị tổ chức một buổi cầu nguyện cho cha mẹ các em. Em
lớn nhất đồng ý. Rồi em nói thêm: “Chúng ta cũng có thể cầu nguyện cho người đã
giết cha mẹ tôi không?”
Đôi khi trẻ em
thực hành những giáo huấn khó khăn của Chúa Giêsu tốt hơn người lớn. Tại sao?
[Chúa Giêsu
nói:] “Nếu anh em không thay đổi mà nên như trẻ nhỏ, anh em sẽ chẳng bao giờ được
vào Nước Trời.” (Mt 18,3)
14. Quy luật của xe rác
Một hôm tôi nhảy
vào một chiếc Taxi để ra phi trường.
Đang chạy đúng
làn bỗng từ bãi đậu xe phía trước một chiếc xe nhà màu đen phóng ra. Người lái
Taxi thắng kêu một tiếng két và tránh không va chạm xe kia trong đường tơ kẽ
tóc!!
Người lái xe kia
ngoái đầu mắng chúng tôi!!
Người lái Taxi
chỉ cười vẫy chào lại. Tôi thấy anh thật là tử tế.
Thế nên tôi hỏi
"Sao anh hiền vậy? Anh kia suýt tông hư xe anh và mình có lẽ đã phải nhập
viện!!"
Bấy giờ anh lái
Taxi dạy tôi bài học này, tôi gọi nó là: Quy luật của xe rác (The Law of the
Garbage Truck).
Anh giải thích rằng
nhiều người hành động cứ như là xe rác vậy. Họ chạy suốt ngày mang theo đầy
rác, đầy bực dọc, đầy nóng giận và chán chường. Vì rác của họ đầy ắp, họ cần
nơi đổ rác và đôi khi họ trút lên bạn. Đừng mang nó vào mình. Chỉ cần mỉm cười,
vẫy chào, chúc điều tốt lành rồi ta đi tiếp, đừng thèm lấy rác đó rồi mang rải
cho người khác nơi sở làm… đừng rải trên dọc đường bạn đi… nhất là đừng mang
rác ấy về nhà bạn… Người khôn quyết không để cho mấy xe chở rác làm hỏng ngày của
mình...
Đời người ngắn
ngủi nên đừng để bị hối tiếc vì những việc ngu xuẩn!!
Hãy yêu thương
người cư xử Tốt với mình… và cầu nguyện cho ai xử Tệ với bạn!!
Cuộc sống này bạn
tạo nên nó chỉ có Mười phần trăm, còn Chín Mươi phần trăm là tùy thuộc cách bạn
Tiếp Nhận nó…
Chúc bạn một
ngày Không Có Rác!!
"Anh em đã
nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo
anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.” (Mt
5,43-44)
15. Một con người tự do
Hồi đó, tại niền
trung tiểu bang Missisipi, người ta đồn rằng, những người Đức đã reo rắc mầm nổi
loạn trong đám dân chúng da đen. Vì ông Lawrence Jones là người da đen, lại là
người sáng lập ngôi trường Piney Woods và đồng thời là mục sư trong giáo đoàn
người da đen, nên ông bị buộc vào tội tích cực hoạt động gây ra cuộc phiến loạn.
Nhóm người da trắng, khi đi qua nhà thờ, có thoáng nghe ông Lawrence Jones thuyết
giáo với các con chiên rằng: “Đời là một cuộc tranh đấu, trong đó mọi người da
đen phải võ trang để chiến đấu lấy sống còn và thắng lợi."
Võ trang! Chiến
đấu! Chỉ hai chữ ấy là đủ rồi. Những người da trắng nóng nẩy kia nhẩy lên ngựa,
phi báo tin này cho những người lân cận, rồi họp thành một đám người, họ la
hét, tiến tới nhà thờ. Họ tròng mũi dây thong lòng vào cổ vị mục sư da đen và
kéo lê ông ra đường suốt hai cây số, đến chỗ hành hình. Đến đây, họ đặt ông lên
trên một đống cành khô định đánh diêm đốt. Nhưng bỗng một người trong đám da
đen, la lên rằng: “Bắt lão thuyết giáo một lần nữa, rồi hãy hỏa thiêu."
Ông Lawrence
Jones, đứng trên đống củi, ở cổ có dây thòng lọng, bắt đầu nói về đời ông và tự
biện hộ…
Ông nói để biện
hộ không phải cho bản thân ông, mà cho chính nghĩa ông đang theo đuổi. Ông càng
nói, đám người phẫn nộ kia càng nguôi giận… Sau cùng một cựu chiến binh trong
trận nội chiến đứng ra tuyên bố: “Tôi nhận thấy người đàn ông trẻ tuổi này nói
thật, tôi biết những người da trắng mà y đã kể tên, y quả đã làm việc tốt và
chúng ta nhầm mà buộc tội y. Nhiệm vụ của chúng ta là giúp y, chứ không phải
treo cổ y!”
Nói xong, ông
già thi hành ngay, ngả mũ đi tới từng người để quyên tiền giúp ông Lawrence
Jones. Tiền quyên được tất cả là năm mươi hai mỹ kim và không người nào đến chứng
kiến vụ hành quyết này mà không cho đôi chút.
Sau đó ít lâu
người ta hỏi ông Lawrence Jones có thù oán những người đã kéo lê ông không? Ông
đáp: “Tôi còn bận trí để biện hộ cho chính nghĩa của tôi, còn thì giờ đâu mà
thù oán. Tôi còn mê mải với một lý tưởng đáng giá gấp ngàn lần. Tôi chẳng bao
giờ rảnh để đối đáp với ai và cũng chẳng ai có thể bắt tôi để tâm hằn thù."
THỨ TƯ - Đạo đức thực sự vì Chúa
Lời Chúa: Mt. 6, 1-6, 16-18
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy
cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông thấy, bằng
không, các con mất công phúc nơi Cha các con là Đấng ở trên trời.
Vậy khi các con bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả
hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng họ. Quả thật, Ta bảo
các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con có bố thí, thì làm sao đừng để tay
trái biết việc tay phải làm, để việc con bố thí được giữ kín, và Cha con, Đấng
thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.
"Rồi khi các con cầu nguyện, thì cũng chớ làm như những kẻ
giả hình: họ ưa đứng cầu nguyện giữa hội đường và các ngả đàng, để thiên hạ
trông thấy. Quả thật, Ta bảo các con: họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi cầu
nguyện, thì hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu xin với Cha con, Đấng ngự nơi bí ẩn,
và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.
"Khi các con ăn chay, thì đừng làm như bọn giả hình thiểu
não: họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt người ta. Quả thật,
Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi ăn chay, hãy xức dầu
thơm trên đầu và rửa mặt, để thiên hạ không biết con ăn chay, nhưng chỉ tỏ ra
cho Cha con Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho
con."
TRUYỆN KỂ
1. Các việc đạo đức
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Tại nhiều nơi, cứ vào mùa tranh cử, người ta lại dễ dàng nhìn thấy
những bảng hiệu ghi ơn dân biểu này, nghị sĩ nọ, hoặc loan báo những công trình
xây dựng của các nhân vật chính trị. Dĩ nhiên, ai cũng hiểu đó là những vận động
gián tiếp, những hứa hẹn với dân chúng để hy vọng được bầu vào những chức vụ
công quyền. Tâm thức và lối hành xử thường tình của con người là như thế đó:
làm việc tốt để kể công, để được trọng vọng, khen thưởng. Người Kitô hữu cũng dễ
bị cám dỗ để có tinh thần khoe khoang kể công như trên vào đời sống đạo đức.
Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời dạy của Chúa Giêsu về tinh thần
tu đức cần phải có, với nguyên tắc sống đạo: đừng làm việc lành có ý phô trương
cho người ta thấy.
2. Đừng cầu danh
Một thi sĩ người Anh, ngoài tài làm thơ ông còn có năng khiếu về
âm nhạc. Thi sĩ thường cùng với nhóm thân hữu họp để ngâm thơ và hòa nhạc. Một
đêm nọ, lúc đang trên đường tới dự một buổi hòa nhạc, thi sĩ đã gặp một chiếc
xe ngựa đang bị sa lầy, trên xe hàng hóa chất đầy, tài xế thì già yếu và con ngựa
lại gầy còm. Không chút ngần ngại, ông đã bỏ cây đàn sang một bên, dỡ số hàng
hóa trên xe xuống, đẩy xe qua khỏi vũng lầy và chất hàng hóa lên xe trở lại.
Ông còn tặng thêm cho bác tài xế ít tiền nhỏ để mua thức ăn cho con ngựa. Xong
xuôi công việc thì trời đã về khuya và bộ đồ dạ hội đã vấy bùn. Tuy nhiên, ông
vẫn đến nơi hẹn, lúc ông đến nơi thì buổi hòa nhạc đã gần tàn, một người bạn
nói với ông: “Nhà thơ của chúng ta đã lỡ mất một buổi hòa nhạc tuyệt vời."
Thi sĩ vui vẻ mỉm cười và đáp: “Vâng! đúng thế. Tuy nhiên, bù lại tôi đã tấu được
khúc nhạc khác tuyệt vời hơn nhiều."
Mỗi công việc đều đem lại một kết quả, kết quả đem lại cho con
người hài lòng thì nó là phần thưởng. Đối với nhóm bạn bè thân hữu của thi sĩ
thì công việc của ông làm đã hạ thấp giá trị người nghệ sĩ, ông bỏ mất phần thưởng
giá trị để lao mình vào chuyện không đâu. Riêng đối với nhà thơ thì khác, qua
công việc bác ái vừa làm, ông đã tấu được những khúc nhạc tuyệt vời. Vậy đâu là
giá trị, là phần thưởng của công việc.
3. Khiêm nhường thì mới có
ích
Xem lại Thứ Tư lễ Tro.
Ngày nọ, có một người đến nói với cha xứ: “Con sẵn sàng dâng
cúng tiền để mua một quả chuông cho Giáo xứ, nhưng với điều kiện, phải khắc tên
con trên quả chuông ấy!"
Đây là thực trạng của rất nhiều người biểu lộ niềm tin của mình
cách thực dụng như thế!
Sẵn sàng giúp đỡ, nhưng không thể thành hiện thực khi không được
nêu danh tánh và công trạng của mình cách công khai!
Hôm nay, Đức Giêsu lên tiếng khuyên răn các môn đệ của Ngài phải
cẩn trọng trong việc thi hành đức bác ái, kẻo lỡ trở thành “công dã tràng” tức
là tốn công vô ích. Ngài dạy cho các ông khi làm việc thiện, hãy làm vì lòng mến
và tinh thần vô vị lợi. Không cần phô trương để người đời biết mà ca tụng. Nếu
muốn được biểu dương thì hẳn đã được phần thưởng do người phàm tán tụng rồi, và
như một quy luật: đã được người đời thưởng công thì không được Thiên Chúa chúc
phúc nữa.
Vậy, cùng một việc bác ái, khi thi hành, chúng ta muốn được phần
thưởng muôn đời do Thiên Chúa ban tặng hay chỉ muốn phần thưởng tạm bợ, nhất thời,
mau qua chóng hết do con người trao tặng?
4. Làm vui lòng Cha trên trời
Có một con chuột sống trong một ngôi nhà thờ cũ kỹ ở miền quê. Một
hôm nó đi lang thang dạo mát bỗng gặp một con chuột khác cũng đang đi chơi. Nó
liền được dịp tâm sự: “Tôi sống chui rúc dưới gầm một tòa giải tội. Nhưng chẳng
được yên thân vì hầu như lúc nào cũng có người xưng tội, phá giấc ngủ của tôi."
Nghe thế, con chuột kia nói: “Vậy bạn hãy dọn đến chỗ ở của tôi.
Chỗ ấy ấm áp sạch sẽ mà chẳng mấy khi có người quấy rầy, yên tĩnh lắm." “Ô
thế bạn ở đâu vậy?"
“Tôi ở trong thùng tiền cứu giúp người nghèo”
5. Đừng phô trương
Có một linh sư Ấn độ nổi tiếng là bậc thánh thiện. Ông đã mở được
một trung tâm cầu nguyện và qui tụ được khá nhiều đệ tử. Ngày nọ có một người
tìm thầy học đạo. Để thử đức vâng lời của anh, ông bảo anh phải bơi qua một
dòng sông đầy cá sấu. Không chút ngần ngại, người thanh niên nhảy xuống và bơi
qua sông mà không bị nguy hiểm gì cả. Anh vui mừng hô to: “Tung hô quyền năng kỳ
diệu của Thầy tôi." Sự kiện này làm cho vị linh sư tin rằng mình là một
người thánh thiện. Do đó ông muốn chứng minh cho các đệ tử thấy quyền năng của
mình. Ông tập họp tất cả các đệ tử trên bờ sông. Rồi ông hô lớn “Tung hô quyền
năng của ta” và nhảy xuống sông. Thế nhưng vừa khi ông rơi xuống, đàn cá sấu đã
ào tới cắn xé ông ra từng mảnh.
Dụ ngôn trên có thể là một định nghĩa về sự thánh thiện. Thánh
thiện là sự quên mình, quên mình đến độ không còn ý thức về sự thánh thiện của
mình và sử dụng chính sự thánh thiện của mình nữa. Thiên Chúa ban sự thánh thiện
cho một người nào đó là để những kẻ khác được hưởng nhờ. Bao lâu sự thánh thiện
của người đó còn được người khác hưởng dùng thì bấy lâu người đó còn thánh thiện.
Trái lại, kể từ giây phút người đó muốn giữ riêng sự thánh thiện cho mình, thì
người đó mất sự thánh thiện và đánh mất cả chính mình
6. Bác ái phải hy sinh
Sáng nay mình đi học trễ, tuy thế vẫn cố sức đạp xe cho thật
nhanh cho kịp giờ học.
À mà! Một bà cụ gánh trái cây bị xe thồ tông phải, trái cây lăn
đầy ra đường.
Tôi tự nhủ: “Đường vắng quá có giúp cũng chẳng ai thấy, cứ lo việc
của mình đã.” Thế là tôi vụt qua, mặc cho bà cụ lẻ loi một mình. Đi được một
quãng tôi chợt cảm thấy thật có lỗi với bà cụ ấy. Những bài học về nhân bản như
bị xé vụn trước mặt mình. Cả ngày hôm đó hình ảnh bà cụ cứ làm tôi ray rứt mãi.
Vậy đó, nhiều lúc mình cứ tưởng làm những việc lớn lao mới được
tiếng tăm, được người ta kính nể, thán phục. Nhưng tôi đã lầm, nhặt một mảnh
kính vỡ giữa đường, dắt một em bé qua đường, nếu làm được với tất cả với lòng mến
và khiêm nhường, thì quả thật mình làm được một việc lớn. Ngược lại nếu có “dời
non lấp bể” để rồi công việc mình làm chỉ để phục vụ cho cái tôi huênh hoang tự
đắc thì kết quả chỉ là con số không.
Lạy chúa, xin đừng để con sa vào cạm bẫy của lợi danh, nhưng dạy
con biết phục vụ trong khiêm hạ và yêu thương.
7. Cách cầu nguyện
Mẹ Têrêsa nói: “Cầu nguyện không là xin xỏ, nhưng là trao thân gửi
phận nơi bàn tay Thiên Chúa, để Ngài định liệu. Cầu nguyện là lắng nghe tiếng
Ngài từ sâu thẳm tấm lòng chúng ta."
Mẹ Têrêsa khuyên các nữ
tu của Mẹ “Hãy yêu mến việc cầu nguyện."
Hãy cầu nguyện. Hãy cầu nguyện để có thể được ân sủng của Chúa.
Đức Cha Tihamer Toth kể:
Một triết gia kia buồn vì người học trò xuất sắc của mình ngày
càng ham suy tư hơn nhưng càng bớt cầu nguyện đi. Khi hỏi lý do thì người học
trò đáp:
- Thứ nhất, Chúa biết hết
mọi sự, không cần chúng ta nói. Thứ hai, Chúa tốt lành vô cùng, Ngài sẽ cho
chúng ta mọi thứ chúng ta cần. Thứ ba, Ngài là Đấng Vĩnh Cửu, lời cầu nguyện của
chúng ta chẳng thay đổi được Ngài.
Triết gia không nói gì. Ông đến ngồi dưới bóng cây, mặt buồn bã.
Người học trò hỏi:
- Tại sao thầy buồn thế?
- Người bạn của thầy có một thửa ruộng rất tốt, hằng năm sản xuất
rất nhiều hoa màu. Nhưng bây giờ ông ta bỏ mặc không chăm sóc gì cho nó nữa .
- Bộ ông ta khùng ư?
- Không đâu. Ông còn khôn nữa là đàng khác. Ông nói: Chúa yêu
thương vô cùng. Ngài sẽ lo cho tôi mọi thứ tôi cần thế nên chẳng cần làm ruộng
nữa. Chúa quyền phép vô cùng, dù tôi không cày xới, Ngài vẫn thừa sức cho nó
sinh sản hoa màu.
- Như thế là thử thách Chúa rồi còn gì nữa?
- Thì con cũng thế thôi .
Hãy cầu nguyện để có thể hiểu Chúa đã yêu thương chúng ta thế
nào, và để ta cũng có thể yêu thương kẻ khác giống như vậy.
8. Cầu nguyện là nói chuyện
với Chúa.
Đã nói chuyện thì phải có lúc nói lúc nghe. Nếu chỉ nói thì cuộc
nói chuyện sẽ trở thành độc thoại.
Xin kể ra đây một ít sự kiện để chúng ta hiều việc cầu nguyện với
Chúa như thế nào.
Khi viếng Chúa, các thánh thường làm gì? Sau đây là một số câu
trả lời:
Thánh Ignatiô Loyola nói: “Có khi tôi nói chuyện với Chúa như một
người bạn, có khi như một người đầy tớ đối với Chúa. Tôi xin Chúa một vài ơn,
thú tội đã phạm với Chúa, xin Ngài an ủi và khuyên bảo."
Còn thánh Phanxicô Xaviê trả lời: Có khi tôi thưa với Chúa: “Lạy
Chúa, con khẩn cầu Chúa đừng để con thoải mái trong cuộc đời, hoặc ít ra, khi
con chìm vào lòng nhân lành thương xót của Chúa, xin dẫn đưa con đến nhà thánh
của Chúa."
Vua Louis IX của nước Pháp có lần hỏi vua Henry III của nước
Anh:
- Tại sao bệ hạ thích dự Thánh lễ hơn là nghe giảng?
- Bởi vì, vua Henry trả lời, tôi thích nói chuyện mặt đối với
Vua trên trời hơn là nghe kẻ khác nói về Ngài.
Trong tác phẩm: “Năm chiếc bánh và hai con cá” Đức Hồng Y
Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận, trang 21 có kể câu chuyện sau đây: Câu chuyện
về ông già Jim.
- Mỗi ngày cứ vào lúc 12 giờ trưa, ông ta vào nhà thờ không quá
hai phút. Sự việc đó làm ông từ giữ nhà thờ rất thắc mắc nên theo dõi. Rồi một
hôm ông từ mạnh dạn chặn ông Jim lại và hỏi:
- Ngày nào ông cũng vào nhà thờ làm gì vậy?
- Tôi đến để cầu nguyện.
- Không thể được! Cầu nguyện gì chỉ trong 2 phút?
- Tôi vừa già, vừa dốt. Tôi cầu nguyện theo kiểu của tôi!
- Ông nói gì với Chúa?
- Tôi cầu nguyện: “Giêsu, có Jim đây!” rồi tôi về.
Vâng! Đó là lời cầu nguyện thật đơn sơ nhưng thật cảm động.
9. Cầu nguyện không kinh kệ
Và đây câu chuyện ông lão nhà quê được kể lại trong hạnh thánh
Gioan Maria Vianney.
Hàng ngày ngồi ở tòa giải tội, cha sở họ Ars luôn nhìn thấy một
ông lão ghé vào nhà thờ mỗi chiều sau khi đã lam lũ suốt ngày ngoài đồng. Ông
luôn quì ở hàng ghế ấy. Quì một chút rồi ông lại lặng lẽ đi ra, y như lúc ông
vào. Một hôm, ngài gọi ông lại và hỏi:
- Ông ơi, chiều nào tôi cũng thấy ông ghé nhà thờ, quì nguyên một
chỗ, ngày nào cũng vậy, mà không thấy miệng ông mấp máy đọc kinh gì cả. Ông quì
đó làm gì vậy?
Ông lão tủm tỉm trả lời:
- Con nhìn Chúa, Chúa nhìn con, rồi ra về.
10. lời cầu nguyện của thánh
Augustinô.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho con biết con,
Xin cho con biết Chúa.
Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa,
Quên đi chính bản thân,
Yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.
Xin cho con biết tự hạ,
Biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa.
Ước gì con biết nhận từ Chúa
Tất cả những gì xảy đến cho con
Và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con luôn yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con luôn được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen.
11. Bằng ân nhân
Chuyện rằng tại một giáo xứ nọ, khi một vị đại ân nhân qua đời
thì hội đồng giáo xứ được triệu tập để bàn xem phải tổ chức lễ an táng thế nào
cho xứng đáng. Có một ý kiến cho rằng cần phải tổ chức thật long trọng để sau
này giáo xứ còn có nhiều người giúp đỡ. Và ý kiến ấy xem ra được nhiều người ủng
hộ. Cách nghĩ và cách làm đó vô tình làm cớ cho người ta phô trương công đức của
mình, dẫn tới chỗ cám dỗ người ta làm việc chỉ vì hư danh. Trái lại, Thiên Chúa
muốn chúng ta âm thầm làm việc thiện, đừng phô trương công đức, đừng tỏ ra là
mình đạo đức thánh thiện hơn người khác, nhưng chỉ làm việc vì lòng mến Chúa và
yêu thương anh chị em mà thôi.
Sống trong một xã hội thích thi đua, khen thưởng, báo cáo thành
tích nhiều hơn những gì làm được trong thực tế, người Kitô hữu chúng ta cũng dễ
bị ảnh hưởng. Chúng ta cần cảnh giác đối với não trạng thích báo cáo ‘thành
tích đạo đức’, thích được tuyên dương.
12. Ngôi sao công đức
Một vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao. Ngày đêm ông ăn
chay cầu nguyện. ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết. Để
thưởng công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi. Khi ông ăn chay và cầu
nguyện ít, ngôi sao mờ đi. Khi ông ăn chay nhiều và cầu nguyện nhiều thì ngôi
sao càng sáng lên.
Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi. Khi ông chuẩn
bị lên đường thì một bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng ông. Thầy
trò hăng hái lên đường, đường càng lên càng dốc rất khó đi. Mặt trời càng lúc
càng nóng gắt. Cả hai thầy trò ướt đẫm mồ hôi và cảm thấy khát nước. Nhưng
không ai dám uống.
Em bé không dám uống trước khi thầy uống. Vị ẩn tu không dám uống
vì sợ mất công phúc trước mặt Chúa. Nhưng nhìn thấy bé gái mỗi lúc mệt thêm, thầy
ẩn tu thấy thương, nên mở nước ra uống. Lúc ấy cô bé mới dám uống. Uống nước
xong, cô bé mỉm cười rất tươi và cám ơn thầy. Thầy ẩn tu len lén nhìn lên đầu
núi. Thầy sợ ngôi sao biến mất vì thầy đã không biết hãm mình.
Nhưng lạ chưa, trên đầu núi thầy thấy không phải một mà có đến
hai ngôi sao xuất hiện. Thì ra, để thưởng công vì thầy biết nghĩ đến người
khác, Chúa đã cho xuất hiện một ngôi sao nữa, sáng không kém gì ngôi sao kia.
13. Đất sét thơm
Chuyện ngụ ngôn về miếng đất sét kể: Có người tình cờ
nhặt được miếng đất sét có màu sắc và hương thơm của hoa hồng. Vô
cùng kinh ngạc, ông ta hỏi:
- Đất sét ơi, hãy nói cho ta biết mi là gì, một viên
ngọc đáng giá, là viên kim cương quý hiếm hay viên đá kỳ diệu nhất
trên đời?
Đất sét trả lời:
- Tôi chỉ là miếng đất sét tầm thường như bạn bè của
tôi.
- Thế sao mi có hương thơm và vẻ đẹp kỳ diệu như vậy?
- Tôi sẽ nói cho ông biết điều bí mật đó: Vì tôi sống
gần một bông hồng.
Con người cũng là nắm đất sét được Thiên Chúa chạm
đến, nên trở nên cao quí nhờ thấm đẫm tình thương và ân huệ của
Người. Sách Sáng Thế viết: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất
nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một
sinh vật.” (St 2, 7) Con người chỉ là bùn đất, nhưng vì được Thiên
Chúa chuyển thông sinh khí, nên có sự sống và vượt trổi hơn muôn vật
muôn loài.
14. Bất an và bình an
Dag Hammarskjold làm Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc từ năm 1953 cho
đến năm 1961 khi ông bị chết trong một tai nạn máy bay. Trong nhật ký của ông
được tìm thấy trong căn hộ của ông sau khi ông chết, có lời dẫn nhập như sau:
“Bất an, bất an, bất an - tại sao? Vì quan tâm đến những ý nghĩ tốt của người
khác… bạn đã hạ thấp mình để tò mò muốn biết kết quả những gì mình đã làm.” Rồi
ông viết thêm: “Cầu chúc cho sự bất an của bạn, vì đó là dấu chứng tỏ sự sống vẫn
tồn tại trong bạn.”
Tôi bị điều khiển nhiều tới độ nào bởi khát vọng được người khác
nhìn nhận và kính trọng?
Lạy Chúa, xin giúp con đừng bao giờ thực hiện lẽ phải vì một động
lực không đúng đắn.
15. Dấu hiệu nhận dạng
Tại phiên tòa, chỉ một chi tiết nhỏ mà đã đóng vai trò lớn trong
việc kết tội mưu sát của Judd Gray. Vào đêm xảy ra án mạng, Gray lên một chiếc
taxi gần khu vực đó. Vấn đề ở đây là liệu người tài xế có thể nhớ để nhận dạng
Gray rõ không, Và thực sự ông ta đã nhận ra. Khi người tài xế chở Gray đi, Gray
đã cho ông ta một đầu thuốc lá mạ kền.
Khi được hỏi, người tài xế này lấy làm ngạc nhiên và nói: “Tôi
muốn nhìn rõ mặt anh ta. Chắc là tôi vẫn còn nhớ.” Rồi chỉ vào Gray, ông nói:
“Chính anh ta.”
Tôi quảng đại ra sao về thời giờ, tài năng và của cải tôi?
Thà là một kẻ ăn xin và xài đồng tiền cuối cùng của tôi như một
ông hoàng, còn hơn làm vua và xài tiền như một kẻ ăn xin (Robert Ingersoll).
THỨ NĂM - Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu
Lời Chúa: Mt 6, 7-15
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi cầu nguyện,
các con đừng nhiều lời như dân ngoại: họ nghĩ là phải nói nhiều mới được chấp
nhận. Ðừng làm như họ, vì Cha các con biết rõ điều các con cần, ngay cả trước
khi các con xin. Vậy các con hãy cầu nguyện như thế này:
"Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả
sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho
chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng tôi cũng
tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng
con cho khỏi sự dữ. Amen.
"Vì nếu các con có tha thứ cho người ta những lầm lỗi của họ,
thì Cha các con, Ðấng ngự trên trời, mới tha thứ cho các con. Nếu các con không
tha thứ cho người ta, thì Cha các con cũng chẳng tha thứ lỗi lầm cho các con."
TRUYỆN KỂ
1. Kinh Lạy Cha
Kinh Lạy Cha là một kinh quan trọng đối với đời sống người Kitô
hữu, vì đó là kinh do chính Chúa Giêsu đặt ra, là kinh được Giáo Hội đọc nhiều
hơn cả trong các cử hành phụng vụ và các cử hành khác, là kinh tóm gọn tất cả
những gì phải làm trong khi cầu nguyện.
Kinh Lạy Cha là kiểu mẫu cho tất cả việc cầu nguyện.
Theo thánh Luca, Kinh Lạy Cha có 5 lời nguyện, trong khi đó ở
Phúc Âm Matthêu có 7 lời nguyện: 3 lời cầu đầu tiên nói về Thiên Chúa, Ðấng mà
Chúa Giêsu dạy chúng ta gọi là Cha: Cha chúng con ở trên trời, sau đó chúng ta
xin cho Danh Thánh Cha được hiển vinh, nước Cha được lan rộng trên thế gian, nhất
là trong tâm hồn con người, và xin cho thánh ý Cha được thực hiện dưới đất cũng
như trên trời. Trong phần hai, có 4 lời nguyện: xin lương thực hàng ngày, nghĩa
là xin cơm bánh nuôi thân xác và của ăn nuôi hồn, tức là Lời Chúa và Mình Chúa;
xin tha thứ các tội xúc phạm đến Thiên Chúa, nhưng để được tha thứ, chúng ta
cũng phải tha thứ lỗi lầm của anh em; xin ơn kiên trì để lướt thắng cám dỗ hàng
ngày, nhất là trong cơn thử thách sau cùng trước sức tấn công của tà thần muốn
đưa chúng ta xa lìa Chúa; xin ơn thoát khỏi mọi sự dữ để có thể phụng sự Thiên
Chúa và phục vụ tha nhân mọi ngày trong đời sống chúng ta.
Chúng ta hãy dốc quyết không bao giờ bỏ đọc Kinh quan trọng và
hiệu nghiệm này trong đời sống cá nhân, gia đình và cộng đoàn chúng ta.
2. Hãy cầu nguyện như thế
này
Nhắc đến cuộc đời của thánh Gioan M. Vianey, cha sở họ Ars. Người
ta không thể quên câu chuyện sau đây về một nông dân xứ Ars: Mỗi ngày trước khi
ra đồng, anh đều ghé vào nhà thờ cầu nguyện giây lát rồi mới ra đồng. Khi trở về
nhà anh cũng ghé vào nhà thờ để cầu nguyện như vậy. Trong xứ ai cũng nể và kính
phục. Một hôm có người hỏi: “Ngày ngày ông ghé vào nhà thờ mấy lần để làm gì thế?"
Anh nông dân trả lời: “Tôi bàn chuyện với Chúa và Chúa bàn chuyện với tôi."
“Tôi bàn chuyện với Chúa và Chúa bàn chuyện với tôi." Câu
trả lời trên của anh nông dân xứ Ars diễn tả được tận gốc tủy của việc cầu nguyện.
Hoạt động không cầu nguyện là vô ích trước mặt Thiên Chúa. Máy móc tự động có
thể làm hơn con. Cầu nguyện là nền tảng của đời sống thiêng liêng, vì lúc cầu
nguyện con nối liền sự kết hợp với Thiên Chúa. Bí quyết nuôi dưỡng đời sống
Kitô hữu là cầu nguyện. Không cầu nguyện dù có làm phép lạ con cũng đừng tin.
3. Một người vô thần và kinh
lạy cha
Người con gái của Karl Marx có lần tâm sự với một người bạn:
“Tôi lớn lên mà không hề biết đến bất cứ tôn giáo nào. Tôi cũng không tin tưởng
Thiên Chúa. Thế rồi, tình cờ tôi đọc được một quyển sách trong đó có lời kinh
khác lạ. Tôi đọc hết lời kinh ấy và tự nhủ: Nếu quả thật Thiên Chúa của lời
kinh đó hiện hữu, tôi nghĩ rằng tôi có thể tin Ngài được."
Người bạn hỏi cho biết đó là lời kinh nào. Người con gái của
Karl Marx mới từ từ đọc lại kinh Lạy Cha (...) Tình cha con và tình anh em được
Chúa Giêsu mạc khải qua kinh Lạy Cha. Sống với Cha trong tình phó thác, với anh
em trong tình bác ái.
4. Thế nào là cầu nguyện
không ngừng
Tác phẩm “Con đường hành hương” kể câu chuyện như sau:
Một người kia học Thánh kinh thấy lời khuyên hãy cầu nguyện
không ngừng. Ông không biết làm thế nào để có thể cầu nguyện không ngừng. Vì thế,
ông hành hương đến một tu viện và xin một tu sĩ chỉ dạy ông. Vị tu sĩ mời khách
hành hương ở lại tu viện, trao cho ông một tràng chuỗi và dặn ông cứ lần chuỗi
và đọc câu “Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi."
Người này nghe lời làm theo, mỗi ngày vừa lần chuỗi vừa đọc không biết bao
nhiêu lần câu đó, có đến cả trăm ngàn lần.
Một ngày kia vị tu sĩ qua đời. Người khách hành hương khóc sướt
mướt khi đưa vị tu sĩ đến nơi an nghỉ cuối cùng. Sau đó ông rời tu viện tiếp tục
cuộc hành hương, bởi vì vị tu sĩ ấy vẫn chưa dạy cho ông làm thế nào để có thể
cầu nguyện không ngừng. Vừa đi, ông vừa làm như thói quen vị tu sĩ đã dạy. Khi
ông hít vào, ông đọc “Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa”, khi thở ra, ông đọc tiếp
“Xin thương xót con là kẻ tội lỗi." Cứ thế không bao lâu lời cầu nguyện đã
thành hơi thở của ông: dù khi ăn, dù khi uống, dù khi nói năng, đi đứng... Mỗi
hơi thở, mỗi nhịp đập của trái tim ông đều trở thành cầu nguyện. Và người khách
hành hương chợt hiểu: Bây giờ tôi đã hiểu thế nào là cầu nguyện không ngừng
5. Cầu nguyện là nói chuyện
với Chúa
Các nhà tu đức học thường coi cầu nguyện là câu chuyện thân mật
giữa ta và Chúa với tâm tình con thảo. Vì thế, cầu nguyện là nói chuyện với
Chúa. Đã nói chuyện thì phải có lúc nói lúc nghe. Nếu chỉ nói thì cuộc nói chuyện
sẽ trở thành độc thoại. Xin kể ra đây một ít sự kiện để chúng ta hiểu việc cầu
nguyện với Chúa như thế nào. Khi viếng Chúa, các thánh thường làm gì? Sau đây
là một số câu trả lời:
* Thánh Ignatiô Loyola nói: “Có khi tôi nói chuyện với Chúa như
một người bạn, có khi như một người đầy tớ đối với Chúa. Tôi xin Chúa một vài
ơn, thú tội đã phạm với Chúa, xin Ngài an ủi và khuyên bảo."
* Còn thánh Phanxicô Xaviê trả lời: Có khi tôi thưa với Chúa: “Lạy
Chúa, con khẩn cầu Chúa đừng để con thoải mái trong cuộc đời, hoặc ít ra, khi
con chìm vào lòng nhân lành thương xót của Chúa, xin dẫn đưa con đến nhà thánh
của Chúa."
* Vua Louis IX của nước Pháp có lần hỏi vua Henry III của nước
Anh:
- Tại sao bệ hạ thích dự Thánh lễ hơn là nghe giảng?
- Bởi vì, vua Henry trả lời, tôi thích nói chuyện mặt đối với
Vua trên trời hơn là nghe kẻ khác nói về Ngài.
* Khi thánh Phanxicô khó khăn trình lên Đức Thánh Cha Hônôriô II
bản qui luật của Dòng, để xin Ngài phê chuẩn thì Đức Thánh Cha có hỏi thánh
nhân: - Có bao giờ con thấy Chúa chưa?
Phanxicô: - Dạ thưa có. Con vừa thấy đêm hôm qua.
Đức Thánh Cha: - Người có nói gì với con không?
Phanxicô: - Người và con ở bên nhau suốt đêm mà không nói được
gì. Tuy nhiên mỗi lần con nói “Abba” với Người thì Người lại trả lời với con:
“Con Ta." Cứ thế... chẳng có gì hơn cho tới sáng.
6. Ý ngay lành
Anh Guton Boris có thói quen ghi lại tất cả những việc làm tốt của
mình vào sổ tay, đến ngày kết thúc cuộc đời ở trần gian, anh xuất hiện trước
toà Chúa và trình lên Ngài một cuốn sổ tay dày cộm, trong đó anh ghi được tổng
cộng tất cả là 50.000 việc làm tốt. Chúa Giêsu nhìn và tỏ vẻ rất nghiêm trang
nhưng Ngài không phản ứng gì. Đoạn Ngài từ từ mở sổ riêng của Ngài ra nhìn vào
đó hồi lâu rồi nói với anh.
- Con nói là đã làm được 50.000 việc tốt nhưng theo sổ riêng của
Ta thì chỉ có một việc duy nhất mà thôi, vì thế con chưa được ở lại đây với Ta
mà phải trở lại trần gian để được thanh luyện thêm rồi mới trở lại đây để ta
xét.
Anh Guton Boris vội vã thanh minh.
- Thưa Chúa, con đâu ghi láo, mỗi lần làm xong việc tốt là con
ghi ngay vào sổ. Quả thật tất cả là con đã làm 50 ngàn việc lành trong suốt đời
sống con ở trần gian. Tại sao Chúa lại chỉ nhận có một việc, còn 49.999 việc
kia thì sao.
Bấy giờ, Chúa Giêsu chậm rãi giải thích:
- Này con, con đã làm 50 ngàn việc tốt nhưng với ý khoe khoang
chứ không phải vì ý ngay lành hay vì tình yêu đối với Ta. Chỉ có một lần duy nhất
con làm vì ý ngay lành mà thôi, đó là lúc con mới được rước Ta vào lòng lần đầu
tiên. Ý ngay lành rất quan trọng vì nếu không có nó, những việc tốt con làm
không có giá trị gì đối với Ta cả. Con đã muốn khoe khoang, muốn được mọi người
khen ngợi, vì thế 49.999 việc tốt kia là những việc khoe khoang vô ích mà thôi.
Vâng, con người có thể che mắt được thiên hạ chứ làm sao giấu được
Chúa.
7. Quảng đại thực sự
Trong một bài tạp bút của báo Tuổi trẻ số ra chủ nhật đầu tháng
10/1998, tác giả Uông Thế Biển có ghi lại một kinh nghiệm như sau:
Chuyện xảy ra cách đây đã hơn mười năm. Ngày ấy, tôi làm lục lâm
vượt sông Nghệ An đi buôn bè gỗ đường dài. Lần đầu và lần sau, người đưa đường
cho tôi là Văn Suối, người dân tộc. Trong cuộc luồn rừng với tôi, Suối là cuốn
tự điển sống về rừng. Anh thuộc tên từng loại côn trùng, thảo mộc, và với anh,
rừng là cuộc sống, là máu thịt của anh.
Trời ngả sang chiều, chúng tôi dừng chân trong căn lều từ lâu đã
bị bỏ hoang. Căn lều đã siêu vẹo, lưng lửng trên bếp có một ống đứa đựng muối
còn sạch sẽ, trong đó vẫn còn một dúm muối khô như ai đó vừa bốc bỏ vào. Tôi và
Suối mở cơm nắm ra ăn. Vì mệt, nên chúng tôi chỉ ăn hết phần nửa mo cơm. Theo
thói quen, tôi định hất phần cơm còn lại đi nhưng Suối giằng lấy. Tôi nhìn anh
gói ghém lại phần cơm và trèo lên bên dưới mái lều, anh không quên bốc một nắm
muối mang theo cho vào ống đứa, và bỏ lại bên hòn đá năm bảy que diêm.
Thấy tôi ngạc nhiên, Văn Suối giải thích “Lần đầu tiên đi rừng,
cậu không hiểu là phải. Đây là tập quán của những người quanh năm sống gắn bó với
rừng: nắm cơm thừa, vài ba hạt muối, đôi lúc đã cứu được cả mạng sống người đi
lạc đường, một viên ký ninh cắt tạm cơn sốt, một que diêm có thể đốt lên ngọn lửa
sưởi ấm một người lạc trong rừng đang bị cô đơn và sợ hãi đe dọa. Những túp lều
hoang trơ trọi giữa rừng núi trùng điệp này là nơi trú chân cho những người lỡ
đường giữa mênh mông đại ngàn. Là người đi rừng, ai cũng có thể lâm vào hoàn cảnh
như thế."
Bao năm đã qua, tôi vẫn không quên được lời của Văn Suối, người
bạn chỉ chung một chuyến đi, và ấn tượng về mục đích đẹp dành cho những người bạn
rừng vẫn mãi theo tôi...
Nét đẹp của người bạn rừng trên đây hẳn phải là sự quan tâm đến
người khác. Cử chỉ anh còn đẹp hơn nữa vì được thực thi trong một nơi ẩn khuất,
không chờ đợi một đáp trả nào. Cử chỉ ấy gợi lại tinh thần vô vị lợi mà Chúa
Giêsu đòi hỏi nơi các Kitô hữu:
8. Giá trị của việc cầu nguyện
Một chàng sinh viên Văn Khoa tò mò vào Nhà Thờ, tình cờ anh gặp
thấy nhà Bác học Ampère đang chăm chú cầu nguyện. Anh đợi nhà bác học cầu nguyện
xong, anh theo nhà bác học về tới nhà và hỏi:
- Thưa ngài, con xin hỏi một điều, con học ngành Văn Khoa, nên
không dám hỏi về chuyện khoa học, con chỉ xin hỏi về vấn đề Đức Tin.
Nhà Bác học ngỡ ngàng nói lại:
- Tôi là kẻ yếu kém về Đức Tin nhất, nhưng nếu có thể giúp gì
cho anh, tôi sẵn sàng.
Chàng thanh niên mừng rỡ hỏi tiếp:
- Thưa ngài, một người vừa là một nhà khoa học vĩ đại, vừa là
người Kitô hữu siêng năng cầu nguyện được không?
Ông Ampère ôn tồn đáp:
- Chỉ thực sự là vĩ đại khi người ta biết cầu nguyện mà thôi!
Chính Chúa Giêsu là bậc vĩ đại nhất, vì Thiên Chúa là Cha toàn năng, muốn gì được
nấy, cho kẻ đói ăn, chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền, xua trừ ma quỷ… thế mà Ngài
vẫn chu đáo việc cầu nguyện trước những sinh hoạt trong ngày. Điều ấy Đức Giêsu
đã khẳng định với mọi người: muốn là người vĩ đại, phải ưu tiên việc cầu nguyện
(x Mc 1, 32-39). Chính vì vậy mà Ngài dạy mọi người rằng: “Chúng con hãy cầu
nguyện luôn đừng nhàm chán!” (Lc 18, 1).
9. Cầu nguyện là đốt lửa yêu
thương
Cha Anthony de Mello giảng về việc cầu nguyện, ngài nói cầu nguyện
chính là “đốt lửa”, theo nghĩa là “yêu thương”; không có “lửa” thì không có cầu
nguyện gì cả, dù người ta có cả núi lời hay ý đẹp. Còn thánh Têrêsa Avila, được
tôn vinh là bậc thầy cầu nguyện, xác nhận rằng cầu nguyện là sống tình bạn với
Chúa, rằng cầu nguyện hệ tại ở tâm tình chứ không ở các ý tưởng.
Quả thật, những cách diễn đạt trên chung qui là vọng lại nghệ
thuật cầu nguyện của chính vị “vạn thế sư biểu” là Chúa Giê-su: “Khi cầu nguyện,
anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng cứ nói nhiều là được nhận lời…”
Chúa chủ trương ‘quí hồ tinh bất quí hồ đa’! Và tất cả tâm tình tinh túy để cầu
nguyện được kết đọng trong Kinh Lạy Cha do chính Chúa dạy.
10. Chúng con nguyện danh
Cha cả sáng
Quyển nhật ký của Dag Hammaskjold cho thấy ông là một người rất
sâu sắc trong đời sống cầu nguyện, mặc dù ông không thuộc một tôn giáo chính thống
nào. Ông chịu trách nhiệm về việc xây phòng suy niệm tại trụ sở Liên Hiệp Quốc.
Một lời cầu nguyện được ông suy gẫm rất nhiều đó là Kinh Lạy Cha. Nhật ký của
ông có nhiều nơi ám chỉ điều này: “Danh Ngài được vinh hiển, chứ không phải
danh con. Nước Ngài trị đến, chứ không phải nước con. Ngài được phục vụ, chứ
không phải con.”
Thánh Augustinô ngụ ý gì khi viết: “Những gì chúng ta phải cầu
nguyện đã có trong Kinh Lạy Cha, còn những gì không có trong đó phải chăng
chúng ta không phải cầu nguyện?”
Kinh Lạy Cha có thể học thuộc lòng rất nhanh, nhưng thấm vào
lòng lại chậm chạp (F.D. Maurice).
11. Cầu nguyện phải lắng
nghe
Khi đang đi dọc theo bờ biển, một phụ nữ phát hiện ra một con sò
nhỏ. Bà nhặt nó lên và nói: “Mi là món quà kỳ nghỉ Thiên Chúa gửi đến, ta sẽ
đem mi về và đặt trên bàn của ta." Rồi khi mọi thứ trở nên náo động, mi sẽ
bảo ta: “Dừng lại! Hãy tĩnh lặng! Hãy thư giãn tâm hồn!”
Điều này rất phù hợp với lời giáo huấn của Chúa Giêsu trong bài
đọc hôm nay. Lời cầu nguyện tốt nhất thường diễn ra khi ta ngồi thinh lặng và lắng
nghe trong sâu thẳm tâm hồn ta.
Tôi thoải mái thế nào với việc lắng nghe khi cầu nguyện? Làm thề
nào để được thoải mái hơn?
Càng lắng nghe tiếng nói tâm hồn bằng đức tin, bạn càng có thể
nghe được âm vang bên ngoài.(Dag Hammarskjld)
12. Cầu nguyện là nối liền với
Chúa
Một người lính sắp chết đuối khi chiếc ca nô của anh ta bị lật
úp gần một thác nước. Khi dòng nước đưa anh ta đến cái chết những lời kinh
trong Kinh Lạy Cha chợt lóe lên trong tâm trí anh và anh bắt đầu cầu nguyện. Đột
nhiên, anh kinh nghiệm được một sức mạnh nổ tung và cảm nhận được sự hiện diện
còn lớn hơn cả chính anh. Nhờ đó anh đã vật lộn với dòng nước bằng một sức mạnh
mới, và được an toàn đúng lúc.
Kinh nghiệm của người lính khiến tôi tự hỏi về mối quan hệ giữa
tôi và Chúa qua lời cầu nguyện. Khi nào mối liên hệ ấy mãnh liệt nhất trong đời
tôi? Hiện nay điều gì khiến nó không còn mạnh mẽ hơn nữa?
Những ai đánh mất mối liên hệ với Chúa sẽ sống như thể bước trên
đường đưa đến sự chết, giống như kẻ chối bỏ Chúa. (Milton A.Marcy)
THỨ SÁU - Kho tàng trên trời
Lời Chúa: Mt 6, 19-23
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đừng
tích trữ cho mình kho tàng dưới đất: là nơi ten sét mối mọt sẽ làm hư nát, và
trộm cướp sẽ đào ngạch lấy mất, nhưng các con hãy tích trữ cho mình kho tàng
trên trời: là nơi không có ten sét, mối mọt không làm hư nát, trộm cướp không
đào ngạch lấy mất: Vì kho tàng con ở đâu, thì lòng con cũng ở đó.
Con mắt là đèn soi cho thân xác con. Nếu mắt con trong sáng, thì
toàn thân con được sáng. Nhưng nếu mắt con xấu kém, thì toàn thân con phải tối
tăm.
Vậy nếu sự sáng trong con tối tăm, thì chính sự tối tăm, sẽ ra tối
tăm biết chừng nào?"
TRUYỆN KỂ
1. Hai tư thế
Trong điện Vatican, có treo một bức họa nổi tiếng của Rafaelo
mang tên là "trường phái Athène", mô tả dung mạo và sứ điệp của hai
triết gia Hy Lạp là Aristote và Platon. Danh họa Rafaelo mô tả Aristote đứng vững
trên mặt đất, một tay cầm cuốn sách luân lý, một tay chỉ xuống mặt đất; còn
Platon thì được vẽ hai chân chỉ chạm nhẹ mặt đất, một tay cầm cuốn sách, một
tay chỉ về trời cao. Trong hai tư thế khác nhau này, Rafaelo muốn nói lên khía
cạnh nổi bật của thiên tài Hy Lạp, đồng thời là hai chiều kích căn bản của ơn gọi
làm người, đó là chinh phục mặt đất, đồng thời vượt qua vật chất, vượt khỏi tầm
mức những gì thấy được; vừa dấn thân trong lãnh vực trần thế, vừa biết hướng về
trời cao và những giá trị đời đời.
Tin mừng mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay cũng mời gọi
chúng ta đang sống trong ơn gọi trên trần gian, nhưng hãy biết hướng về trời
cao, nơi tích chứa của cải đích thực.
2. Món quà Giáng sinh.
Đức cha Bossuet cho làm một hang đá trong nhà nguyện của tu viện.
Chiều hôm Noel, ngài trả lương cho các người thợ. Rồi ngài nói với họ:
- Chờ một tí, tôi sẽ cho các anh quà “Giáng sinh."
Nói xong, ngài mở khăn trải bàn. Người ta thấy trên bàn, nằm kề
nhau, 4 đồng tiền vàng và 4 cuốn sách “Hạnh các thánh." Đức cha Bossuet
nói với các người thợ là họ có thể chọn, hoặc một đồng tiền, hoặc một cuốn
sách. Ba người đã chọn 3 đồng tiền vàng, còn người thứ tư tuyên bố:
- Ở nhà, mẹ già của tôi cũng rất cần tiền, nhưng bà cũng thích
những cuốn sách tốt. Tôi lấy cuốn “Hạnh các thánh."
Tuy nhiên, khi ông này vừa mở cuốn sách ấy ra thì ông tìm thấy 6
đồng tiền vàng dán sát bìa cuốn sách. Hãy tưởng tượng niềm vui của ông và nỗi hối
tiếc ân hận của ba người kia như thế nào. Ông này đã không hối hận về sự lựa chọn
của mình.
Vâng! Chỉ có những con mắt thật sáng mới nhìn thấy những giá trị
thực sự cần thiết mình phải theo đuổi ở đời này.
3. Đèn của tâm hồn
Em thì quờ quạng trước chiếc gậy trên tay, em thì bám vào vai bạn
và hai tay lấn bước. Nơi lớp học, các em dùng bàn tay nhỏ bé của mình để đọc từng
chữ.
Tôi chạnh lòng khi nhìn thấy cảnh tượng này ở một trường khiếm
thị. Bất chợt ánh mắt tôi dừng lại ở một em đeo Thánh Giá trước ngực. Tiến lại
gần, tôi làm quen với em và được biết trước khi vào trường này, mẹ em đã đưa
cây Thánh Giá cho em và bảo: “ Đèn của thân thể con người là mắt, còn đây chính
là đèn của tâm hồn con.”
Tôi hỏi em: “Em có vui không?” Thật hạnh phúc.” Em đáp: “Có chứ
anh, em đã mất con mắt của thân thể, nhưng thật sự con mắt của tâm hồn em vẫn
sáng.”
Nghe lời xác quyết ấy, tôi giật mình tự nghĩ: “Con mắt tâm hồn
có bị tắt không nhỉ?”
Lạy Chúa, xin thắp sáng lên trong tâm hồn con ngọn lửa hồng tình
yêu Chúa.
4. Kho tàng ở trên trời
Công chúa Diana mang một chiếc nhẫn kim cương trị giá 205 ngàn Mỹ
kim, tương đương với tiền Việt Nam là 3 tỷ 71 triệu đồng; và đám cưới của cô với
hoàng tử Charles nước Anh tốn hết 3 triệu 500 ngàn Mỹ kim, tương đương với 52 tỷ
500 triệu đồng Việt Nam, với 2700 khách danh dự. Vậy mà tổ ấm đắt giá đó đã tan
vỡ sau 15 năm tình lận đận. Bị tử nạn xe và được chôn cất, công chúa Diana
không mang theo nhẫn kim cương cũng không mang được một Mỹ kim nào. Trong hòm
cô hôm đó, chỉ có xâu chuỗi của mẹ Têrêsa thành Calcutta đã tặng cô mà thôi.
Khi chết, vua chúa hay anh ăn mày cũng đều như nhau cả. Nhà phú
hộ trong Tin Mừng chỉ hưởng được mấy chục năm sung sướng, nhưng anh ăn mày Lazarô
lại được sung sướng đời đời: không biết ai khôn hơn ai?
5. Ngọc nào quý?
Ngày kia, có một người gặp một vị tu hành đi qua làng, người này
vội chạy theo và nài xin vị tu hành:
- Xin ngài cho tôi viên ngọc quí trong bị của ngài.
Vị tu hành ngạc nhiên hỏi lại:
- Sao lại hỏi xin tôi viên ngọc quí?
Người kia liền thưa:
- Tối hôm qua tôi nằm mơ thấy có một ông tiên bảo tôi là, sẽ có
một vị tu hành, mang theo một viên ngọc quí đi ngang qua làng anh, nếu xin được
viên ngọc quí ấy, thì anh sẽ là người sung sướng nhất trên đời này. Ngài là người
tu hành, nên đâu có cần đến những thứ phàm tục này. Vậy xin ngài thương tôi và
gia đình tôi, cho tôi viên ngọc quí của ngài để tôi nuôi sống vợ con tôi.
Vị tu hành đáp:
- Quả thực tôi không có viên ngọc nào cả.
Và để cho người kia tin, vị tu hành đưa bị của ông ra cho người
kia xem. Mở bị ra, người kia sáng mắt lên rồi hô to:
- Đây thôi, viên ngọc quí khổng lồ như thế này mà ngài nói là
không có.
Vị tu hành ngạc nhiên nói:
- Đó là cục đá mà ông nói là viên ngọc ư? Cục đá này tôi lượm được
khi xuống suối uống nước. Nếu ông muốn thì tôi biếu ông.
Người kia sung sướng cầm viên ngọc trong tay, cám ơn vị tu hành
rối rít, rồi chạy về nhà, trong lòng thầm nghĩ, thế là từ nay mình sẽ không còn
vất vả cầy sâu cuốc bẫm nữa, mà nghiễm nhiên trở thành nhà phú hộ. Ý tưởng mình
sẽ được giàu sang phú quí nhờ viên ngọc, đã khiến cho người kia không biết cất
giữ viên ngọc ở đâu, vì để ở chỗ nào ông ta cũng sợ bị mất. Do đó, chỉ còn cách
là giữ nó trong mình. Nhưng giữ nó trong mình thì chẳng còn làm được việc gì, kể
cả việc ngủ nghỉ nữa, vì ngủ thì cũng sợ người khác lấy mất.
Sau nhiều ngày đêm lo lắng, thậm chí có đêm phải thức trắng để
giữ viên ngọc, người kia cảm thấy có ngọc cũng chẳng sung sướng gì, nên ông cầm
viên ngọc đi tìm vị tu hành để trả lại. Người này gặp vị tu hành đang nằm ngủ
thật ngon lành dưới một gốc cây. Rón rén đến bên cạnh vị tu hành, người kia lên
tiếng:
- Thưa ngài, tôi xin trả lại ngài viên ngọc mà ngài đã cho tôi mấy
hôm trước, vì tôi thấy có nó, tôi cũng chẳng sung sướng gì, mà còn khổ nữa là
khác nữa. Xin ngài cho tôi viên ngọc mà ngài đang dùng, viên ngọc đã làm cho
ngài được thảnh thơi, ngủ rất ngon lành, dù chỉ là ở dưới một gốc cây, viên ngọc
đã làm cho ngài được siêu thoát, sự siêu thoát đã khiến cho ngài sẵn sàng cho
tôi viên ngọc quí kia, mà không một chút tiếc xót.
6. Con mắt sáng suốt như thế
nào?
Nếu không có con mắt sáng suốt để biết tích góp của cải vào kho
trên trời, mà chỉ lo tích kho ở đời, thì chính của cải vật chất ta tích trữ, trở
thành nguyên cớ sẽ làm khổ ta, như lời thánh Giacôbê nói: “Tài sản của các người
đã hư nát, quần áo của các người đã bị mối ăn. Vàng bạc của các người đã bị rỉ
sét; và chính rỉ sét ấy là bằng chứng buộc tội các người; nó sẽ như lửa thiêu
huỷ xác thịt các người. Các người đã lo tích trữ trong những ngày sau hết này”
(Gc 5,2-3).
Thế mà tên phú hộ được mùa quá dư của cải, không còn đủ kho để
chất, hắn đã nổi hứng cho phá tất cả kho cũ rồi xây kho mới lớn hơn tích của
vào đó, rồi nhủ hồn mình: “Hồn ơi, sướng chán, có nhiều của cho nhiều năm, hưởng
đi, vui chơi đi." Nhưng Thiên Chúa lên tiếng: “Đồ ngốc, nội đêm nay ngươi
ra khỏi thế gian,của ngươi tích góp sẽ thuộc về tay ai?” (x Lc 12,16-21).
7. Phải tìm điều chi
Chuyên gia bất động sản Vương Thạch mô tả tệ trạng tham nhũng tại
Trung Quốc như sau: “Hiện ở Trung Quốc, không hối lộ trở thành con chuột chạy
long nhong ngoài đường, kẻ hối lộ lại trở thành anh hùng” (Tuổi Trẻ Cuối Tuần,
số 20/2010, ngày 23/5/2010, tr 22).
Người ta tìm mọi cách để làm trương phình kho tàng dưới đất, thậm
chí “mua chuộc” thần thánh hộ phù cho tài sản của mình. Cám dỗ này không trừ
ai. Phêrô từng mặc cả với Chúa: Chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Chúa, “vậy chúng
con sẽ được gì?” Họ mong được lại nhiều hơn những thứ đã hy sinh như nhà cửa,
ruộng vườn, cha mẹ và anh chị em.
Còn Chúa Giêsu cho họ kho báu từ trời đó là chính Ngài: “Thiên
Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một” (Ga 3,16) và Chúa Thánh Thần: “Cha
trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Lc 11,13).
Thánh Phaolô nhận ra kho tàng trên trời ấy nên đã xem tất cả mọi sự là phân rác
trước “mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô” (x. Pl 3,8).
8. Quyết tâm
Ngôi sao quần vợt Alice Marble thức dậy với niềm hy vọng tràn trề
về một ngày huy hoàng trong đời cô. Cô đang chơi ở trận chung kết giải
Wimbledon của Anh. Chợt một cú sốc xảy đến. Cô cảm thấy đau nhói ở vùng bụng.
Vài phút sau, một bác sĩ chuẩn đoán cô bị bệnh căng cơ. Khi Alice đòi thi đấu,
bác sĩ cho cô là khùng.
Sau đó cô viết: “Tôi sẽ không bao giờ quên được lần thi đấu đầu
tiên đó. Mỗi cử động đều làm cho ta muốn la hét lên.” Không thể tin được, Alice
vẫn tiếp tục thi đấu để danh chiến thắng trong khi Nữ Hoàng Anh và 20.000 khán
giả ngờ vực nhìn cô.
Việc Alice sẵn lòng chịu đựng để dành thắng lợi cũng như việc
thánh Phaolô sẵn lòng chịu đựng vì Chúa Kitô mời gọi tôi kiểm điểm lại sự chịu
đựng của tôi khi rao giảng Nước Chúa?
Chính Chúa Kitô đã chịu khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho
anh em dõi bước theo Ngài. (1P 2,21)
9. Hướng về cõi đời đời
Một số thổ dân vớt được một thủy thủ bị đắm tàu, đưa anh về
làng, đặt lên ngôi và cư xử với anh như một ông vua. Sau đó, người thủy thủ biết
được số phận của mình. Ông sẽ làm vua trong vòng một năm, rồi được đưa đến hòn
đảo chết và được để lại đó như một vật tế lễ cho thần thánh. Người thủy thủ
nhanh chóng lập ra kế hoạch. Với tư cách là vua, anh ra lệnh cho thợ mộc đóng một
chiếc tàu, truyền cho các nông dân đến trồng cây trên đảo và các thợ nề xây nhà
trên đó.
Câu truyện này có thể được xem như một dụ ngôn rất hay về cuộc đời
người kitô hữu. Cũng như người thủy thủ bị đắm tàu, chúng ta biết được tương
lai của mình và phải khôn ngoan chuẩn bị cho tương lai đó.
Tôi đã chuẩn bị cách khôn ngoan và cẩn thận ra sao cho tương lai
của tôi?
Cuộc đời là một hành trình hướng về nhà Cha (Merman Melville).
10. Bỏ là được
Thánh Aloysius là một người nổi tiếng thời bấy giờ vì ngài sinh
trong một gia đình quý tộc, nhưng đời sống như thiên thần, và cái chết thật
thánh thiện.
Aloysius là con cả của Hầu Tước Ferrante ở Castiglione nước Ý,
phục vụ dưới triều Philip II của Tây Ban Nha. Cha ngài mong cho con mình trở
nên một nhà lãnh đạo quân sự tài ba, do đó ngay từ khi bốn tuổi Aloysius đã được
tự do tung tăng trong trại lính, làm quen với các vũ khí. Nhưng khi lên bảy, đời
sống tâm linh Aloysius thay đổi lạ lùng và hàng ngày cậu đã đọc kinh sách,
thánh vịnh và đặc biệt kính mến Đức Maria. Càng nhìn thấy sinh hoạt triều đình
bao nhiêu, Aloysius càng chán ngán bấy nhiêu và tìm cách khuây khỏa qua hạnh
các thánh.
Chính trong thời gian này, khi nghe biết về công cuộc truyền
giáo của các cha dòng Tên ở Ấn Độ, Aloysius đã có ý định đi tu và tập sống kham
khổ cũng như tụ tập các trẻ em nghèo để dạy giáo lý cho chúng . Mơ ước đi tu của
Aloysius phải trải qua bốn năm tranh đấu với chính người cha của mình cũng như
sự dụ dỗ của rất nhiều chức sắc trong triều. Sau cùng, Aloysius đã chinh phục
được tất cả và được nhận vào đệ tử viện dòng Tên lúc 17 tuổi.
Vì nhận thấy sức khỏe yếu kém của Aloysius, các cha giám đốc đã
buộc Aloysius phải chấm dứt sự kham khổ, phải ăn nhiều hơn, phải sinh hoạt với
các đệ tử khác và không được cầu nguyện ngoài những giờ ấn định. Aloysius được
gửi lên Milan đi học, nhưng vì sức khỏe yếu kém nên đã phải trở về Rôma.
Vào năm 1587, Aloysius tuyên khấn. Được vài năm sau, trận dịch hạch
tấn công Rôma. Các tu sĩ dòng Tên mở một bệnh viện của nhà dòng. Chính cha bề
trên cũng như nhiều linh mục đích thân chăm sóc bệnh nhân. Dù sức khỏe yếu kém,
Aloysius cũng tận tình phục vụ bệnh nhân và bị lây bệnh. Sau ba tháng bệnh hoạn,
Aloysius đã từ trần ngày 21 tháng Sáu 1591, lúc ấy mới 23 tuổi.
Đời sống thánh thiện của Aloysius được cha linh hướng Robert
Bellarmine (sau này là thánh) minh xác. Và ngài được Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô
XIII phong thánh năm 1726 và được đặt làm quan thầy các học sinh Công Giáo.
11. Kho tàng ở đâu, lòng ở đấy
Charles Colson là một phụ tá của Nhà Trắng vào thập niên 1970.
Ông bị kết tội và bị giam tù vì vụ Watergate.
Sau đó, ông đã hoán cải về mặt tôn giáo. Giờ đây, ông đi khắp nước,
rao giảng những điều căn bản trong Phúc âm của Chúa. Đặt biệt ông chống lại những
kẻ rao giảng xa sự thật, những kẻ giảng dạy một Phúc âm “thời thịnh vượng”, một
Phúc âm coi của cải dồi dào như dấu chỉ tình thương của Chúa và để cho người
nghèo tự lo cho bản thân của họ. Colson phản đối luận cứ của họ: Nếu bạn sống
“cuộc sống tốt lành”, Thiên Chúa sẽ chúc phúc để bạn được của cải vật chất và
thành đạt. Colson nói: “Thiên Chúa không muốn những thành công, mà là muốn
chính bản thân chúng ta.”
Tôi giải thích thế nào lời Chúa Giêsu: “Những người có của thì
khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” (Lc 18,24).
Chúa Giêsu nói: “Kho tàng anh em ở đâu, thì lòng anh em cũng ở
đó” (Lc 12,34)
12. Cha tôi cầm lái tầu
Một thi sĩ người Anh, ông Byron, có viết một câu chuyện như sau:
Hôm ấy, một con tầu đang rẽ sóng lướt đi trên mặt biển mênh
mông. Bỗng chốc, bầu trời kéo mây đen đặc. Rồi giông tố ầm ầm nổi lên, sấm chớp
kinh hoàng. Mưa càng lớn, gió càng mạnh. Các hành khách kêu la hỗn loạn. Duy có
một em bé cứ ngồi chơi trên boong tầu như không có gì xẩy ra.
Lạ lùng, một thủy thủ dương to đôi mắt hỏi em:
- Em không sợ chết sao?
Cậu bé thản nhiên trả lời:
- Sao lại sợ? Chính ba cháu cầm lái con tầu này mà!
Câu chuyện trong bài Tin mừng hôm nay thách đố sự tin tưởng của
chúng ta vào quyền năng của Thiên Chúa. Khi đã có đức tin, chúng ta không cần đứng
ra chỉ huy mọi sự. Đã có Chúa Tình yêu, Ngài sẽ làm tất cả.
THỨ BẢY - Hãy làm tôi tớ Thiên Chúa
Lời
Chúa: Mt 6, 24-34
Khi ấy,
Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không ai có thể làm tôi hai chủ: vì
hoặc nó sẽ ghét người này, và yêu mến người kia, hoặc nó chuộng chủ này, và
khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và Tiền Của được. Vì thế, Thầy
bảo các con: Chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì mà ăn; hay cho thân
xác các con: lấy gì mà mặc. Nào mạng sống không hơn của ăn, và thân xác không
hơn áo mặc sao?
"Hãy
nhìn xem chim trời, chúng không gieo, không gặt, không thu vào lẫm, thế mà Cha
các con trên trời vẫn nuôi chúng. Nào các con không hơn chúng sao? Nào có ai
trong các con lo lắng áy náy mà có thể làm cho mình cao thêm một gang được ư?
Còn về áo mặc, các con lo lắng làm gì?
Hãy
ngắm xem hoa huệ ngoài đồng coi chúng mọc lên thế nào? Chúng không làm lụng,
không canh cửi. Nhưng Thầy nói với các con rằng: Ngay cả Salomon trong tất cả
vinh quang của ông, cũng không phục sức được bằng một trong những đoá hoa đó. Vậy
nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn, mai bị ném vào lò lửa, mà còn được Thiên Chúa mặc
cho như thế, huống chi là các con, hỡi những kẻ kém lòng tin.
Vậy
các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: "Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì hoặc sẽ
lấy gì mà mặc? Vì chưng, dân ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng Cha các con biết
rõ các con cần đến những điều đó. Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa
và sự công chính của Người, còn các điều đó Người sẽ ban thêm cho các con. Vậy
các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai. Vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày
nào có sự khốn khổ của ngày ấy.”
TRUYỆN
KỂ
1. “Không
ai có thể làm tôi hai chủ”
Vở kịch
“Con người của mọi mùa” là một câu chuyện có thật về thánh Thomas More.
Trong
một màn, một người bạn gây áp lực buộc thánh nhân phải ký giấy xác nhận rằng cuộc
hôn nhân giữa vua Henry VIII và Anne Boleyn là hợp pháp. Nếu không chịu ký, vua
sẽ buộc tội ngài là phản quốc.
Thánh
nhân từ chối, vì Ngài nghĩ rằng cuộc hôn nhân này là bất hợp pháp. Người bạn của
ngài giận dữ nói: “Anh cứ làm rối tung mọi thứ. Thực ra, tôi không biết cuộc
hôn nhân này có hợp pháp không. Nhưng quỷ quái thật, Thomas, hãy nhìn vào danh
sách này, anh biết chứ! Anh không thể thỏa hiệp vì tình bạn sao?” Thomas More vẫn
từ chối, ngài không thể làm tôi hai chủ được.
Chỗ
nào trong cuộc đời tôi bị áp lực làm tôi hai chủ?
“Này
con, đừng bao giờ tạo ra một tình bạn hoặc giữ một tình bạn bằng cách làm một
điều sai trái.” (Robert E. Lee).
2. Phó
thác trong tay Chúa
Thánh
Giáo hoàng Gioan XXIII, được mệnh danh là vị Giáo hoàng của lòng nhân hậu. Một
ngày kia, có một vị Giám mục đến gặp Ngài và chia sẻ những lo âu, nhọc nhằn, mất
ngủ… vì trách nhiệm chủ chăn, rồi xin ngài cho một lời khuyên. Sau khi nghe những
tâm sự của vị Giám mục, Đức Giáo hoàng mỉm cười và nói: “Khi mới được bầu làm
Giáo hoàng, tôi cũng lo âu và mất ngủ như Đức Cha vậy. Thế rồi một hôm trong giấc
ngủ, có một thiên thần hiện đến vỗ vào cái bụng to của tôi và nói: “Gioan ơi,
ngươi chớ lo lắng thái quá, hãy phó thác trong tay Chúa và nghỉ ngơi cho khỏe.”
Kể từ hôm đó, tôi không bị mất ngủ nữa.”
Đây
là lời cầu nguyện trích từ sách Gương Chúa Giêsu:
Lạy
Chúa, Xin ban cho con ơn Chúa Thánh Thần, để con được vững chí.
Xin
ban sức mạnh củng cố con người nội tâm trong con. Xin giải thoát tâm hồn con khỏi
những lo lắng, sầu muộn vô ích. Đừng để nó bị quyến rũ theo đuổi một của gì bất
luận sang hèn, một hãy làm cho con coi tất cả như là của mau qua.
Lạy
Chúa! Xin ban cho con ơn khôn ngoan của trời, để con biết đi tìm cho được Chúa
trước hết, cảm mến Chúa trên hết và nhận định mọi cái khác theo trật tự mà Thượng
trí Chúa định liệu cho con.
Vì ai
đứng vững được trước những giọng nói ngả nghiêng, ai bưng tai được trước những
lời phỉnh nịnh, người đó mới thực là khôn. Amen.
3. Đừng
quá lo cho ngày mai
Một
thương gia giàu có nọ đi dạo trên bờ biển, tình cờ ông thấy có những ngư phủ nằm
ngủ một cách ngon lành trên thuyền, mặc cho sóng nước chòng chành. Tò mò ông đến
hỏi một ngư phủ:
- Sao
anh không đi đánh cá?
Chàng
ngư phủ trả lời:
- Tôi
đã đánh bắt số cá đủ cho ngày hôm nay rồi.
Thấy
câu trả lời chưa được thoả mãn, thương gia hỏi tiếp:
- Sao
anh không tiếp tục đi đánh, để bắt thêm nhiều cá hơn?
Thay
vì trả lời, chàng ngư phủ hỏi lại:
-
Nhưng thưa ông để làm gì?
Với đầu
óc kinh doanh sẵn có, thương gia kia như muốn vạch đường hướng làm ăn cho anh
chàng ngư phủ, nên đã trả lời:
-
Càng đánh bắt được nhiều cá, anh càng kiếm được nhiều tiền. Có nhiều tiền anh
có thể mua được chiếc thuyền lớn hơn, để có thể ra xa hơn, bắt được nhiều cá
hơn. Rồi từ một thuyền, anh sẽ có thể có hai, ba, bốn chiếc... và như thế anh sẽ
là một người giàu có.
Chàng
ngư phủ xem chừng như không thiết tha với kế hoạch làm giàu của thương gia kia
nên hỏi tiếp:
-
Giàu có rồi làm gì nữa?
Thấy
như người đối thoại với mình quá chất phác, nên thương gia trả lời:
- Rồi
anh sẽ được vui hưởng cuộc sống.
Lúc ấy,
chàng ngư phủ mỉm cười nói:
- Thế
tôi nằm đây để ngắm nhìn trời biển như thế này không phải là vui sướng cuộc đời
hay sao?
4. Ai
bị bệnh tim?
Một
ông già trúng số độc đắc 100 triệu, ông bị bệnh tim, gia đình lo sợ tin vui sẽ
giết mất ông. Vì thế họ đến gặp một mục sư, xin ngài đến thăm dò và hỏi xem ông
cụ sẽ làm gì nếu có 100 triệu. Ông nói: “Tôi sẽ cho ngài và cho Nhà thờ một nửa”
mục sư té xỉu.
5. Tiên
vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa
Abraham
từ ngày được Thiên Chúa chọn, ngày càng sống thân tình với Thiên Chúa hơn và xa
cách các thần tượng. Thấy thế, ông thân sinh dẫn ông Abraham đến trước mặt vua
Ramos, nhà vua hỏi Abraham:
- Tại
sao ngươi lại không tôn thờ các thần tượng của vương quốc?
Abraham
trả lời với giọng cương quyết không hề sợ hãi:
- Tâu
hoàng thượng, bởi vì lửa thiêu rụi các thần tượng ấy.
- Như
vậy thì hãy tôn thờ lửa - Vua trả lời. Nhưng Abraham đáp:
- Nếu
thế, hạ thần tôn thờ nước tốt hơn, vì nước dập tắt được lửa.
- Thế
thì hãy tôn thờ nước.
- Tâu
hoàng thượng, không. Hạ thần tôn thờ mây thì tốt hơn, bởi nước từ mây mà ra.
- Thế
thì hãy tôn thờ gió.
Nghe
thế, Abraham trả lời vua Ramos:
- Nếu
gió là thần thì ta hãy tôn thờ con người, vì con người có hơi thở.
Vua
Ramos kiên nhẫn:
- Vậy
thì hãy tôn thờ con người.
Abraham
trả lời:
- Tâu
hoàng thượng, không. Vì con người phải chết.
Nhà
vua giận dữ quát lên.
- Vậy
thì hãy tôn thờ sự chết đi.
Sau
cùng Abraham nói: - Đấng duy nhất tôn thờ là chủ tể của cả sự sống và sự chết,
đó là Thiên Chúa, Chúa của hạ thần.
Sau
cuộc cãi nhau với vua Ramos, Abraham trở thành ngôn sứ của Thiên Chúa bởi vì
ông vén mở cho nhà vua thấy sự thật và sứ điệp của Chúa muốn nhắn gởi.
6. Điều
cần lo
Hồi
nhỏ, nghe mẹ hát đưa nôi em:
Một
mình lo bảy lo ba
Lo
cau trổ muộn, lo già hết duyên
Người
thời nào cũng lo xa. Có những nỗi lo chính đáng mà cũng có cái lo kiểu “lo bò
trắng răng”! Đọc Tin Mừng hôm nay có thể nhiều người sẽ ngộ nhận Ki-tô giáo giảng
dạy một thứ chủ nghĩa “lạc quan tếu.” Không lo sao được khi cơm áo gạo tiền cứ
réo gọi mỗi khi thức dậy đón một ngày mới. Chúa Giê-su không dạy ta sống vô lo
nhưng dạy ta biết lo sao cho chính đáng: “tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước, còn
những thứ kia, Người sẽ thêm cho sau.” Chúng ta thường quên mất vế sau của câu
nói này.
Bạn
ngẫm nghĩ xem cách lo toan của mình cho công ăn việc làm, cho cuộc sống hằng
ngày đã chính đáng hay chưa? Chúng có làm bạn mất bình an, mất tự chủ không? Bạn
có bỏ qua những điều cần quan tâm hơn như việc sống đạo hạnh, làm gương sáng,
làm việc tông đồ không …?
Suy
nghĩ lời Jackson Brown khuyên con: “Khi nhìn lại quãng đời đã qua, hãy tiếc những
điều chưa làm được, chứ đừng tiếc những điều đã làm xong.”
7. Biết
quyết định
Có một
thanh niên nọ đi tắm, nhưng anh ta vẫn chân trong chân ngoài phòng tắm. Khi đứng
trong tư thế đó, anh tự nghĩ: “Đây quả là bức tranh của cuộc đời tôi.” Đã từ
lâu, anh muốn phó thác cuộc đời cho Chúa, nhưng chưa bao giờ anh có thái độ dứt
khoát, anh vẫn còn do dự, chân trong chân ngoài. Bây giờ đã đến lúc phải quyết
định. Anh ngừng lại một lát, rồi hít sâu rồi nói lớn: “Con chọn Ngài, lạy Chúa.”
Rồi anh bước vào phòng tắm. Thái độ này chẳng khác gì như muốn nói rằng anh đã được
thanh tẩy.
Có chỗ
nào trong mối quan hệ của tôi với Chúa mà tôi còn do dự, thiếu cương quyết
không?
Chưa
quyết định là tiền đề của quyết định. (Harvey Cox)
8. Lời
Kinh Của Người Đau Khổ
Lạy
Chúa,
Con cầu
xin ơn mạnh mẽ
để
thành đạt trong cuộc đời,
Chúa
lại làm cho con ra yếu ớt
để biết
vâng lời khiêm hạ...
Con cầu
xin có sức khỏe
để
mong thực hiện những công trình lớn lao,
Chúa
lại cho con chịu tàn tật
để chỉ
làm những việc nhỏ tốt lành...
Con cầu
xin được giàu sang
để sống
sung sướng thoải mái,
Chúa
lại cho con nghèo nàn
để học
biết thế nào là khôn ngoan...
Con cầu
xin được có uy quyền
để mọi
người phải kính nể ca ngợi,
Chúa
lại cho con sự thấp hèn
để
con biết con cần Chúa...
Con
xin gì cũng chẳng được theo ý muốn.
Nhưng
những điều con đáng phải mơ ước,
Mà
con không hề biết thốt lên lời cầu xin,
Thì
Chúa lại đã ban cho con
thật
dư đầy từ lâu...
Lạy
Chúa,
Hóa
ra, con lại là người hơn hết trên đời này,
Bởi
con đã nhận được ơn Chúa vô vàn...
9. Tiên
vàn hãy tìm kiếm Nước Chúa và sự công chính của Người
Người
làm tôi tiền của chẳng bao giờ được yên, vì thấy mình có rất nhiều nhu cầu:
“chúng ta sẽ ăn gì, uống gì, lấy gì mà mặc?” (Mt 6,31). Mặc cho họ trung thành
với tiền của, thế nhưng tiền của chẳng trung thành với họ: “Kìa thiên hạ thấy
người khôn cũng chết, kẻ ngu đần dại dột cũng tiêu vong, bỏ lại tài sản mình
cho người khác” (Tv 49,11)
Ai mà
chẳng một lần ngẩn ngơ hối tiếc về một điều mất mát. Chúa đến để cứu chúng ta
khỏi hối tiếc về cuộc đời đã mất vì làm tôi tiền của: “lọt lòng mẹ, trần truồng
làm sao, thì cũng sẽ ra đi như vậy. Chịu đựng bao gian lao vất vả để rồi chẳng
mang theo được gì. Đó cũng là một sự dữ làm tôi đau đớn. Đến làm sao, ra đi làm
vậy. Thật là: Dã tràng xe cát biển đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì”
(Gv 5,14-15)
Một
khách hành hương đến gặp một linh sư, thấy ông ở trong một căn phòng trống trải
chỉ có một cái giường, một cái bàn, mới hỏi:
- Đồ
đạc của thầy đâu hết rồi?
- Đồ
đạc của ông đâu rồi?, vị linh sư hỏi lại ông ta.
- Thưa
thầy, con đi hành hương nên chỉ mang theo một vài vật dụng cần thiết thôi.
- Tôi
cũng đang trên đường hành hương về trời, nên cũng chỉ cần đến những vật dụng cần
thiết hằng ngày thôi.
Các
nhu cầu cho cuộc sống hằng ngày vẫn phải tìm kiếm, nhưng ưu tiên số một phải
dành cho nước Chúa và sự công chính của Người. Chẳng có mất mát nào có thể đe dọa
được người sống như vậy. Giữa mọi mất mát trên đời, họ luôn có một chỗ dựa vững
vàng là lòng Chúa yêu thương: “Duy nơi Thiên Chúa, linh hồn tôi được an vui.”
10. Ơn
Ta đủ cho con
Phóng
viên Terry Anderson của tờ Liên Kết bị những người Hồi giáo cực đoan bắt cóc
vào năm 1985. Bảy năm kế tiếp, ông bị giam trong những căn phòng không có cửa sổ
và thường bị xiềng xích. Tháng 12 năm 1987 ông gần như tuyệt vọng nên đã đập đầu
vào tường cho đến khi chảy máu. Sau này, ông nói: “Tôi nghĩ rằng chúng tôi gần
gũi Chúa nhất trong những giây phút bi đát của cuộc đời chúng ta. Thật dễ dàng
nghe tiếng Chúa khi bạn bị tước đi sự kiêu hãnh, khi bạn không có điểm tựa nào
khác ngoài Chúa. Khá đau đớn khi gặp hoàn cảnh này, nhưng khi bạn gặp nó, thì
Thiên Chúa sẽ ở đó.”
Tôi
có thể nhớ lại những giây phút bi đát nhất trong đời tôi không? Kinh nghiệm này
tác động tới mối quan hệ giữa tôi và Chúa ra sao?
Vào
giữa mùa đông, tôi đã nhận ra rằng trong tôi có mùa hè không thể nào dập tắt được.
(Albert Camus)
Sinh nhật thánh Gioan Tẩy
Giả - Tên nó là Gioan
Lời Chúa: Lc 1,
57-66. 80
Khi đến ngày
sinh, bà Êlisabeth sinh hạ một con trai. Láng giềng bà con nghe biết Chúa đã tỏ
lòng nhân hậu lớn lao đối với bà liền đến chúc mừng bà. Ngày thứ tám, người ta
đến làm phép cắt bì cho con trẻ, và họ lấy tên Dacaria của cha nó mà đặt cho
nó. Nhưng bà mẹ đáp lại rằng: “Không được, nó sẽ gọi tên là Gioan”. Họ bảo bà rằng:
“Không ai trong họ hàng bà có tên đó’’. Và họ làm hiệu hỏi cha con trẻ muốn gọi
tên gì. Ông xin một tấm bảng và viết: “Tên nó là Gioan”. Và mọi người đều bỡ ngỡ.
Bỗng chốc lưỡi
ông mở ra, và ông liền chúc tụng Chúa. Mọi người lân cận đều kinh hãi. Và trên
khắp miền núi xứ Giuđêa, người ta loan truyền mọi việc đó. Hết thảy những ai
nghe biết đều để bụng nghĩ rằng: “Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào? Vì quả thực,
bàn tay Chúa đã ở với nó”. Con trẻ lớn lên, mạnh mẽ trong lòng: nó ở trong
hoang địa cho đến ngày tỏ mình ra cùng dân Israel.
TRUYỆN KỂ
1. Dọn dường cho Đấng Cứu Thế
Chu Văn An, Tư
nghiệp Quốc tử giám, là thầy giáo của nhiều vị vua nhà Trần, cảm thấy xót xa
trước cơ nghiệp lừng lẫy của nhà Trần đang có nguy cơ ngày càng lụn bại bởi vua
ham chơi, bởi bọn tham quan, nịnh thần. Trong lúc quân thần ai cũng sợ mất ghế,
sợ bị chụp mũ là phản động, chống lại triều đình, nên không có ai dám nói gì,
chỉ hèn nhát ấm ức trong lòng, chỉ có cụ Chu Văn An dám kháng nghị qua bản Thất
trảm sớ, gửi lên vua Trần Dụ Tông xin chém bảy tên gian thần vì giang sơn đất
nước. Vua Trần Dụ Tông chỉ xem qua mà không thi hành.
Cụ Chu Văn An
xin treo mũ, từ quan, trả lại chức Tế tửu đầy quyền lực, bổng lộc, đó là khí tiết
dũng cảm của người quân tử.
Nhìn dưới góc độ
văn hóa phương Đông, Gioan Tẩy giả được giới thiệu như là người quân tử xuyên
suốt mọi thời đại, người mà Chúa Giêsu khen ngợi: Ngôn sứ “hơn cả ngôn sứ” (Mt
11,9), người được Thiên Chúa sai đến tiền hô dọn dường cho Đấng Cứu Thế đến với
nhân loại. Người sống “tu thân” trong hoang địa và rao giảng sự sám hối. Thẳng
thắn, dám tố cáo những sai phạm, can đảm đương đầu với quyền lực đen tối.
2. Chúa phải lớn lên
còn tôi phải nhỏ đi
Lúc còn là thanh
niên, anh đã say sưa nghiện ngập đủ mọi thứ: cà phê, thuốc lá, rựơu mạnh có tiếng.
Nhưng rồi một hôm, chàng đọc thấy trên mặt báo lời kêu gọi giúp nuôi chủng sinh
ở các giáo phận nghèo. Đọc xong chàng rất đỗi phân vân, một đàng chàng muốn
mình phải làm một cái gì đó, đàng khác, chàng thấy những thứ đó quá hấp dẫn, chả
có vẻ tội lỗi gì cả!
Tuy nhiên, chàng đã quyết định: bỏ tất cả...
nhưng dần dần với thời gian. Chàng đóng góp số tiền tiêu sài ấy vào quĩ truyền
bá đức tin để giúp nuôi ít chủng sinh nghèo. Cứ thế liên tiếp trong mấy mươi
năm, nhiều thế hệ chủng sinh, linh mục đã được chàng giúp đỡ. Họ liên lạc thư
tín với chàng mỗi lúc một nhiều...Thời gian trôi qua, đến ngày chàng thanh niên
nghiện ngập thành ông cụ già 85 tuổi. Ngày kỷ niệm sinh nhật thứ 85 của cụ, cụ
tuyên bố trước mặt họ hàng: “Với những hy sinh suốt mấy mươi năm qua, tôi đã
đài thọ cho việc huấn luyện các chủng sinh, và đến nay, con số các linh mục rải
rác khắp nơi được tôi giúp đỡ đã lên đến 30 người. Tôi rất hạnh phúc. Tôi đã đầu
tư thành công, và tôi sẽ còn tiếp tục đầu tư như thế cho đến giờ Chúa gọi”.
Vâng cụ già đã
biết làm cho mình nhỏ đi và cho Chúa được lớn lên, lớn lên qua những cánh tay nối
dài của Ngài.
Ước gì khẩu hiệu
này cũng trở thành lý tưởng và luật sống của mỗi người chúng ta. Sống đối với
người tín hữu Kitô chúng ta là sống cho Chúa. Sống đối với người tín hữu Kitô
chúng ta là không ngừng khước bỏ và cắt xén đi những gì là thừa thãi trong cuộc
sống, để trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu. Sống đối với người tín hữu
Kitô chúng ta là suy nghĩ và hành động trong Chúa Kitô, để dung mạo của Ngài được
chiếu sáng trong chúng ta, và nhờ ơn cứu độ của Ngài được loan báo cho mọi người.
3. Sứ điệp cứu nguy
Thánh Gioan
Baotixita là không đưa ra những lý lẽ cao siêu, không ôm đồm những tham vọng xa
vời, mà chỉ nhấn mạnh đến những điều căn bản nhất, khuyên làm những việc cần
thiết nhất, đưa người ta nhìn vào mục đích quan trọng nhất đời mình.
Tới đây, chúng
ta có thể tóm lược chân dung Thánh Gioan Baotixita ở hai nét này: Một là khiêm
nhường nghèo khó, hai là thi hành ơn gọi một cách đơn giản với những gì là căn
bản nhất.
Với chân dung
đó, Thánh Gioan Baotixita đã đem một sứ điệp Chúa gởi đến cho nhân loại nói
chung và dân Chúa nói riêng, để cứu nguy phần rỗi.
Thánh Gioan
Baotixita đã qua đời. Nhưng sứ điệp cứu nguy phần rỗi vẫn được Chúa gởi vào lịch
sử mọi thời mọi nơi, bằng cách này hay bằng cách khác.
Đức Mẹ tại
Fatima, khi thấy đời sống đức tin sa sút trầm trọng, cũng đã nhắc tới những gì
căn bản nhất để cứu con người khỏi sa vào con đường đi xuống hỏa ngục.
4. Sinh nhật vào Hạ chí
Nhưng tại sao lại
mừng sinh nhật thánh Gioan Tẩy giả vào ngày 24 tháng 6 này? Người ta có thể biết
rõ ngày sinh tháng đẻ của người sao? Không phải như vậy! Ngày xửa ngày xưa mấy
ai nhớ rõ được đúng ngày sinh của mình. Họa chăng một vài bậc quan vương nào đó
sinh ra trong các đền vua đầy văn hào văn sĩ mới có người ngồi đó để ghi ngày
sinh tháng đẻ. Chúa Giêsu, Đức Maria, thánh Gioan đều là dân nghèo về mặt xã hội
làm sao có thể để lại ngày sinh rõ ràng. Chính việc các ngài đản sinh mới quan
trọng. Còn các ngài sinh ra ngày nào, giờ nào thì hậu thế liệu mà đặt ra theo một
vài tiêu chuẩn nào đó.
Đối với Gioan Tẩy
giả, người ta đã căn cứ vào một câu người nói để tính ra ngày sinh của người.
Người đã nói về Đức Giêsu rằng: "Ngài phải tiến lên; còn tôi phải suy
đi". Vậy lúc Đức Giêsu tiến lên phải là lúc Gioan lui xuống. Đức Giêsu đã
sinh ra ngày 25 tháng 12 là ngày Đông chí, ngày mặt trời bắt đầu tiến lên trong
quỹ đạo của nó, thì tốt nhất nên đặt ngày sinh của Gioan vào ngày mặt trời bắt
đầu đi xuống. Và đó là ngày 24 tháng 6, tức là nửa năm trước ngày Đông chí. Và
hợp với lời sứ thần loan báo, bà Ysave thụ thai trước Đức Maria sáu tháng.
Những điều trên
đây một đàng cho chúng ta thấy địa vị đặc biệt của Gioan Tẩy giả trong hàng ngũ
các thánh. Nói đúng hơn người ở ngoài hàng ngũ này vì chỉ mình người khi sinh
ra đã được khỏi tội Ađam (chỉ có Đức Giêsu và Đức Maria không mắc tội đó). Và
đàng khác chúng ta được thấy cuộc đời của người gắn liền với cuộc đời của Đức
Giêsu.
Ba bài Kinh
Thánh hôm nay dường như muốn nhắc lại ba giai đoạn chính trong cuộc sống của
Gioan. Bài sách Isaia gợi lên ơn gọi tiền định của người. Bài Tin Mừng nhắc đến
hôm người sinh ra. Và bài sách Công vụ nói lên hoạt động chính Người đã làm
theo sứ mạng.
5. Khiêm tốn
Tác giả
La-phông-ten đã viết nhiều câu chuyện ngụ ngôn, trong đó có câu chuyện về con ếch
và con bò để dạy chúng ta bài học là đừng quá tự cao như sau:
Ngày kia có một
con ếch thấy một con bò to lớn vĩ đại nên rất ngưỡng mộ và mong sao cho mình
cũng được trở nên vĩ đại như vậy. Từ tư tưởng biến thành hành động, con ếch liền
xuống ao để uống nước cho bụng phình to ra sao cho bằng con bò kia. Cứ thế, cứ
thế, nó uống mãi uống hoài mà vẫn không sao to được bằng con bò. Nó lại cố uống
thêm… cho đến khi một tiếng “Bốp” nổ vang lên và con ếch đã bị chết banh xác.
Câu chuyện trên
cho chúng ta thấy tự thẳm sâu trong cõi lòng, hầu như ai cũng muốn được người
khác nể phục ca tụng. Ai cũng muốn tự nâng mình lên chứ không thích hạ mình xuống.
Nhưng chúng ta ý thức giá trị của đức khiêm tốn và tập luyện nhân đức ấy, để việc
tông đồ chúng ta làm được đẹp lòng Chúa và đạt được nhiều thành quả tốt đẹp.
6. Nép mình dưới bóng thập giá
Có một anh khờ nọ
muốn được giải thoát khỏi cái bóng của mình... Nhưng càng trốn chạy bao
nhiêu thì cái bóng đó lại càng đeo đuổi
phía sau không dứt ra được. Anh lăn lộn trên đất, nhảy xuống sông… nhung dù đi
đâu, làm gì, thì cái bóng của anh vẫn luôn ở phía sau.
Một cụ già khôn
ngoan nghe biết chuyện đã cố vấn cho anh khờ như sau: "Để thoát khỏi cái
bóng của mình, anh chỉ cần đến núp dưới bóng của một cây lớn là được". Anh
khờ nghe lời đến núp dưới một cây lớn và từ ngày đó đã không còn bị cái bóng
theo đuổi phía sau nữa.
Chỉ khi biết
khiêm tốn nép mình dưới bóng cây Thập giá Chúa Giê-su, chúng ta mới có thể
thoát được cái bóng của các thói hư, chạy theo hư danh, khoái lạc, lợi lộc…
trong cuộc sống.
Hôm nay Hội
Thánh mừng kính trọng thể ngày sinh của một con người đã từng đến nép mình dưới
cây Thập giá Chúa Giê-su. Con người ấy chính là Gio-an Tẩy Giả, vị tiền hô của
Đấng Cứu Thế. Ông đã luôn khiêm hạ nép mình dưới bóng Chúa Giê-su và hiến cả cuộc
đời phụng sự Người như ông đã nói với các môn đệ: “Chính anh em làm chứng cho
thầy là thầy đã nói: Tôi đây không phải là Đấng Ki-tô, mà là kẻ được sai đi trước
mặt Người. Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó
nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm
vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn. Người phải nổi bật lên, còn thầy
phải lu mờ đi: (Ga 3,28-30).
7. Gioan và Hêrôdê
Tôi thấy thánh
Gioan Tẩy Giả Và Vua Hêrôđê, kẻ đã ra lệnh chém đầu Người, là hai khuôn mặt
hoàn toàn tương phản. Gioan là người mạnh mẽ, chí khí, còn Hêrôđê là người yếu
đuối, do dự. Một đàng thì sống khắc khổ, giản án dị, còn đàng kia lại thích xa
hoa, hưởng thụ. Hêrôđê đã bắt giam ông Gioan vì ông mạnh mẽ tố cáo nhà vua đã lấy
vợ của anh mình. Thật ra vua cũng tỏ ra kính phục nhà tiên tri, biết ông là người
công chính và thánh thiện, nhiều khi ông đã bênh vực Gioan. Nhưng ông là người
thiếu ý chí, bị bao vây bởi đam mê, dục vọng. Và tuy là người cai trị khôn khéo
nhưng ông lại bị các khuynh hướng xấu xa làm chủ mình. Thế nên ông đã bắt Gioan
tống ngục, chắc hẳn là dưới sức ép của bà Hêrôđiađê, người chị dâu mà ông ta đoạt
làm vợ. Rồi trong một bữa tiệc, ông đã hài lòng về điệu múa của cô con gái của
bà đến độ đã hứa ban cho cô ta bất cứ điều gì cô xin.
Một lời hứa bốc
đồng. Đó không phải là tiếng nói của lý trí, của lương tâm mà là của cảm tính,
của bản năng. Và thế là ông đã mắc mưu bà Hêrôđiađê rồi. Bà bảo con gái hãy xin
cái đầu của Gioan. Đã lỡ hứa trước mặt các thực khách, nhà vua đành phải giữ lời,
mặc dù trong thâm tâm không muốn giết con người công chính này.
Vua Hêrôđê tiêu
biểu cho những con người để cho phần thú tính nơi mình lấn lướt; mặc dù đôi khi
lý trí và lương tâm vẫn còn lóe lên nơi họ, kêu gọi họ hãy vươn cao lên, nhưng
không đủ sức kéo họ ra khỏi vũng bùn lầy bởi họ đã quen sống trong những sự thấp
hèn.
Đối diện với
Hêrôđê, ông Gioan Tẩy Giả xuất hiện như một con người có lý tưởng, sống nhất
quán vì lý tưởng đời mình; một con người của bổn phận; con người biết chiến đấu
cương quyết chống lại những lôi cuốn của bản năng thấp hèn; con người của những
đỉnh cao.
8. Noi gương Gioan Tẩy Giả
Theo cha
Basséville, ông Jeannet là người công giáo rất đạo đức, nhận thấy mình có bổn
phận phải rao giảng Chúa cho người khác, nên đã tự nguyện trở nên tông đồ giáo
dân cho Chúa và các linh hồn.
Nhưng rồi ông bị
người ta này chê là giả hình. Người kia chê là ông thiếu khả năng. Người nọ bảo
là ông kém cỏi. Người khác lạ bảo lòng không xứng hợp. Đứng trước những lời chê
bai đó, ông Jeannet mất tinh thần, thối chí định bỏ việc tông đồ.
Đêm hôm ấy, Chúa
cho ông nằm mơ là mình đã chết. Sau khi chết, thiên thần bản mệnh dẫn ông đến một
gian phòng, để chờ Chúa đến phát xét. Ngay trước cửa gian phòng, ông thấy một tấm
bảng kẻ hàng chữ lớn: “Phòng triển lãm đời sống ông Jeannet. Bước vào trong,
ông thấy có nhiều bức vẽ rất đẹp. Bức thì vẽ lại những lần ông đang quì cầu
nguyện ở gia đình cho các tội nhân và người ngoại. Bức thì vẽ những lần ông
đang dự thánh lễ. Bức thì vẽ lại những lần ông đang lao động, để cầu nguyện cho
tội nhân này. Bức thì vẽ lại những lần ông đi thăm viếng người ngoại kia. Bức
thì vẽ lại người tội nhân và người ngoại được trở về với Chúa, do việc ông chịu
đựng những lời chê bai trong khi làm việc tông đồ.
Vừa mơ đến đây,
thì ông giật mình thức dậy. Ông cho giấc mơ là lời Chúa an ủi và cảnh cáo mình.
Ông liền quỳ lên giường cám ơn Chúa cho mình còn sống. Rồi ông quyết chí lại tiếp
tục làm việc tông đồ để đưa các linh hồn về cho Chúa.
Thưa anh chị em,
hôm nay kính thánh Gioan là tiền hô và tẩy giả của Chúa, ta cũng bắt chước ông
Jeannet làm việc tông đồ cho Chúa như ông Jeannet trên đây để bắt chước thánh
Gioan là tiền hô tẩy giả của Chúa.
9. Đứa trẻ này rồi sẽ nên thế nào?
Một người láng
giềng của tôi thuật lại: Trong thời gian người vợ mang thai, anh cầu ngày cầu
đêm cho được con trai. Tối 28 tết, anh chồng thấp thỏm chờ đợi thời khắc đứa
con chào đời. Hy vọng sẽ là đứa con trai như lòng anh mong ước.
Thế rồi vào khoảng
10 giờ tối, khi nghe cô đỡ báo tin người vợ sinh con trai, anh quá đỗi vui mừng,
vội chạy vào nhà lấy hai dây pháo thật dài, treo ngay dưới hai chuồng bồ câu giữa
sân, bật quẹt châm ngòi. Hai tràng pháo nổ giòn vang dội cả xóm. Tất cả bồ câu
đông đảo trong hai chuồng hoảng hốt vỗ cánh bay tán loạn không sót một con!
Niềm vui có đứa
con chào đời quá lớn khiến người cha trót dại treo hai dây pháo ngay dưới chuồng
bồ câu khiến chúng bay sạch, gây tổn thất không nhỏ cho kinh tế gia đình.
Một niềm vui còn
lớn hơn nhiều đã đến với hai ông bà Da-ca-ri-a khi bé Gioan chào đời. Mọi người
lân cận đến chúc mừng hai ông bà được Chúa thương cho sinh con trong tuổi già.
Ai cũng chúc mừng mẹ tròn con vuông. Ai cũng trầm trồ khen đứa bé thật dễ
thương đang nằm trong lòng mẹ. Ai cũng mỉm cười với bé, đặt nhiều hy vọng vào
bé: "Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây? Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ
em" (Lc 1,66).
Thế rồi cậu bé
Gioan lớn dần lên theo năm tháng mà không để cho bất kỳ ai thất vọng. Người đã
sống đẹp và đã chết hào hùng.
Gioan sống đẹp
vì dám từ bỏ đời sống dễ dãi tiện nghi nơi gia đình lối xóm, rút vào trong
hoang địa khô cằn để sống gắn bó với Thiên Chúa, chú tâm lắng nghe và thực hiện
ý Người.
10. Người mở đường cho Chúa
Có một lần ông
Ra-un cùng vợ đến thăm một trại cùi. Ông bà thường vẫn có thói quen bắt tay các
anh chị em phong cùi vì họ biết bệnh phong cùi khó lây lan.
Ông giám đốc trại
cùi dẫn hai ông bà đi thăm trại và giới thiệu với họ trường hợp của một nữ bệnh
nhân tên là Tella. Ông Ra-un giơ tay ra định bắt tay Tella, nhưng bà này vội giấu
tay lại phía sau lưng nhanh như chớp rồi nói:
- Luật cấm bắt
tay.
Thấy ông giám đốc
có vẻ ngượng ngùng, ông Ra-un hỏi:
- Thế ở đây có cấm
ôm hôn người cùi không?
Ông giám đốc bối
rối trả lời:
- Luật của chúng
tôi không dự trù trường hợp này.
Ông Ra-un liền kết
luận:
- Như thế là được
phép ôm hôn người bệnh phải không? Nói rồi ông Ra-un ôm và hôn bà Tella với tất
cả lòng thương mến chân thành. Cử chỉ yêu thương bất ngờ ấy của ông Ra-un như một
tiếng sét đập tan và tiêu hủy tất cả mọi ngăn cách sợ sệt giữa hàng trăm anh chị
em phong cùi đứng chung quanh và sau đó người cùi nào cũng muốn ôm hôn ông
Ra-un, người tông đồ nhiệt thành và là bạn đáng yêu của hàng triệu anh chị em
phong cùi trên khắp thế giới.
Ông thường nói:
Tôi không phải là bác sĩ nên tôi không thể chữa cho họ lành bệnh được. Tôi chỉ
có thể thương họ thôi, bởi vì họ cũng là con cái của Chúa.
11. Vào hoang địa
Lm Nguyễn Hồng
Giáo kể truyện: Ít năm sau chiến tranh, tôi có dịp đi thăm một anh em tu sĩ
chúng tôi ở Xuyên Mộc. Ngài phụ trách một giáo xứ khoảng 4.000 giáo dân và ba địa
điểm cách giáo xứ từ 7 đến 20 cây số với số giáo dân khoảng 6.000 người nữa.
Tôi đã đi thăm hai địa điểm lớn ở xa. Đó. là hai làng kinh tế mới. Tôi thấy
giáo dân thật sốt sắng, đầy can đảm trong công việc làm ăn cũng như trong việc
đạo.
Đặc biệt tôi gặp
một gia đình Dòng Ba Phanxicô gốc ở Phú Nhuận. Khi tôi đến, ông đang dạy giáo
lý hôn nhân cho một chị độ 25 tuổi. Ông bà cho biết: họ có mấy người con trai,
trong đó có đứa nghiện xì ke đã làm cho họ rất khổ tâm. Để tránh cho mấy đứa
khác khỏi bị lôi kéo vào con đường hư hỏng đó, hai ông bà đã quyết định đưa cả
gia đình tới đây sinh sống từ 1980.
Bây giờ họ sống
nghèo nhưng vui và bình an. Tinh thần đơn sơ, nghèo khó, vui tươi và phó thác của
Dòng Ba đã giúp họ can đảm sống cuộc đời thiếu thốn vì lợi ích của con cái. Họ
nói tuy họ không giàu có nhưng con cái họ không hư hỏng.
Theo "ơn gọi”
và hoàn cảnh riêng của mình, hai người công giáo này đáng cho ta khâm phục
không kém Gioan Tẩy Giả, và chắc chắn là gần gũi và dễ noi gương hơn noi gương
vị Tiền Hô.
12. Làm chứng cho ánh sáng
Trong ngày lễ mừng
sinh nhật của thánh Gioan Tẩy giả hôm nay, chúng ta cùng nhau nhìn lại và khám
khá về con người sứ giả của Tin mừng. Ngài đã sống và làm chứng cho sự thật.
Như lời thánh sử Gioan viết: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, người đó
tên là Gioan Tẩy giả, ông đến để làm chứng cho Ánh Sáng” (Ga1, 6). Thật vậy,
ngày nay nhân loại đang cần những chứng nhân sống động hơn là thầy dạy. Tôi lại
chợt nhớ đến một chứng từ có tựa đề là “Con Nay Trở Về” của Phan Như Ngọc,
nguyên trưởng phòng vật lý hạt nhân viện khoa học Việt Nam. Vì là một nhà khoa
học, và cũng là một người vô thần, ông ta cho rằng, ai tin vào Thiên Chúa là
người mê tín, dị đoan. Trong suốt mười ba năm dạy học, ông ta nhồi nhét cho các
sinh viên những tư tưởng duy vật và chống lại đường lối của Thiên Chúa.
Đến năm 1989,
trong một chuyến đi công tác tại Đức, ông ta gặp được một nhà truyền giáo Hà
Lan, tên là Henk Wolthaus đến phát Thánh Kinh và những quyển sách nhỏ cho mọi
người. Vì có tính tò mò, ông muốn biết cuốn sách này nói gì. Khi mở những trang
đầu cuốn Thánh Kinh, ông cảm thấy khó chịu, không thể hiểu được tại sao vũ trụ
này lại được tạo dựng trong sáu ngày? Thật là vô lý. Khi đọc tới cuốn Tân ước,
ông cũng không thể tin việc Chúa Giêsu chữa lành cho người mù được sáng mắt,
người cùi được sạch, kẻ què đi được, người chết sống lại… Tất cả như những câu
truyện thần thoại dành cho trẻ con.
Những phép lạ
trong Kinh Thánh làm cho cái đầu quen lý luận theo kiểu vô thần của ông ta
không sao hiểu nổi. Từ cái khó hiểu và vô lý đó đã nẩy ra trong đầu ông ta một
câu hỏi, đó là: Sức mạnh nào khiến cho hàng tỷ người trên thế giới, trong đó có
hầu hết các nhà khoa học vĩ đại tin vào Kinh Thánh? Họ là những người cuồng
tín, hay là chính mình là người ngu dốt? Và từ những cuốn sách mỏng của người
truyền đạo Hà Lan, ông ta đã đọc được những câu bất hủ sau đây:
Isaac Newton
(Anh, 1642-1727) đã kết luận: "Trong Kinh Thánh có nhiều biểu hiện chắc chắn
về tính có thực hơn bất cứ một câu chuyện nào chống lại sách đó”.
Victor Hugo
(Pháp 1802-1885) viết: "Nước Anh có hai cuốn sách: Kinh Thánh và
Shakespear. Nước Anh sinh ra Shakespear, còn Kinh Thánh làm nên nước Anh".
Albert Einstein
(Đức, 1879-1955), nhà vật lý được coi là vĩ đại nhất của thế kỷ 20, đã phát biểu:
"Khoa học không có tôn giáo là mù lòa, Tôn giáo mà thiếu khoa học là què
quặt".
Theo như lời tự
thuật của Phan Như Ngọc, lúc bấy giờ ông chưa được hiểu biết nhiều về Thiên
Chúa, nhưng Chúa đã mở cõi lòng chai cứng và làm thay đổi não trạng và thành kiến
của ông. Ông ta xác tín rằng, "Chúa dùng Thánh Kinh và những lời của các
nhà khoa học để mở con mắt đức tin cho tôi. Mười ba năm dạy học là mười ba năm
tôi bước đi trên con đường lầm lạc và xa cách Thiên Chúa, tôi cảm thấy xót xa
ân hận vô cùng. Nếu linh hồn của lớp đàn em tôi bị hư mất là chính tôi phải
gánh chịu một phần trách nhiệm, vì tôi đã gây nên tội."
Thật là một điều
kỳ diệu. Là một nhà khoa học, một người vô thần, ông ta lại dám nói những lời
xác tín như thế để làm chứng cho Tin mừng trong thế kỷ 21 này, ông ta đã nói
lên sự thật về tình yêu Thiên Chúa. Như lời thánh GioanTẩy giả đã công bố: “Tôi
không phải là Đấng Cứu Thế, nhưng sẽ có một Người đến sau tôi, và tôi không xứng
đáng cởi giây giầy Ngài” (Lc 3,16). Sứ vụ rao giảng của Gioan là dọn đường cho
Đấng Cứu Thế đến, ngài kêu goi người ta ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng.
Ngài bảo vệ cho chân lý và sự thật. Khi đã tố cáo vua Hêrôđê phạm tội loạn luân
với bà Hêrôđia, vì ông này đã chiếm vợ của anh mình, thì sứ vụ rao giảng của
Gioan Tẩy giả được chấm dứt khi ngài bị tống vào ngục và bị chặt đầu, cái chết
của ngài là làm chứng cho sự thật.
Lời Chúa Tuần 11 Thường Niên
Thường niên V-GS C-PS Ngoại Lịch
Lời Chúa tuần 11
Thường Niên
Vọng/GS _ Chay/PS _ Thường
Niên _ Ngoại
Lịch