Lời Chúa đầu mùa chay _ câu truyện minh họa

 LỜI CHÚA ĐẦU MÙA CHAY
CÂU TRUYỆN MINH HỌA

THỨ TƯ LỄ TRO - HOÁN CẢI NỘI TÂM

THỨ NĂM SAU LỄ TRO - THEO CHÚA GIÊSU

THỨ SÁU LỄ TRO

THỨ BẢY LỄ TRO

THỨ TƯ LỄ TRO - HOÁN CẢI NỘI TÂM

Lời Chúa : Mt 6, 1-6. 16-18

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông thấy, bằng không các con mất công phúc nơi Cha các con là Đấng ở trên trời.

Vậy khi các con bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng họ. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Các con có bố thí, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc con bố thí được giữ kín và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.

"Rồi khi các con cầu nguyện, thì cũng chớ làm như những kẻ giả hình: họ ưa đứng cầu nguyện giữa hội đường và các ngả đàng, để thiên hạ trông thấy. Quả thật, Ta bảo các con rằng: họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi cầu nguyện, thì hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu xin với Cha con, Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.

"Khi các con ăn chay, thì đừng làm như bọn giả hình thiểu não: họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt người ta. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt, để thiên hạ không biết con ăn chay, nhưng chỉ tỏ ra cho Cha con, Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.”

TRUYỆN KỂ

1. Chịu mất công đức vì bác ái mới là có công đức

Một vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao. Ngày đêm ông ăn chay cầu nguyện. ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết. Để thưởng công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi. Khi ông ăn chay và cầu nguyện ít, ngôi sao mờ đi. Khi ông ăn chay nhiều và cầu nguyện nhiều thì ngôi sao càng sáng lên.

Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi. Khi ông chuẩn bị lên đường thì một bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng ông. Thày trò hăng hái lên đường. đường càng lên càng dốc dác khó đi. Mặt trời càng lúc càng nóng gắt. Cả hai thày trò ướt đẫm mồ hôi và cảm thấy khát nước. Nhưng không ai dám uống. Em bé không dám uống trước khi thày uống. Vị ẩn tu không dám uống vì sợ mất công phúc trước mặt Chúa. Nhưng nhìn thấy bé gái mỗi lúc mệt thêm, thày ẩn tu thấy thương, nên mở nước ra uống. Lúc ấy cô bé mới dám uống. Uống nước xong, cô bé mỉm cười rất tươi và cám ơn thày.

Thày ẩn tu len lén nhìn lên đầu núi. Thầy sợ ngôi sao biến mất vì thày đã không biết hãm mình. Nhưng lạ chưa, trên đầu núi thày thấy không phải một mà có đến hai ngôi sao xuất hiện. Thì ra, để thưởng công vì thày biết nghĩ đến người khác, Chúa đã cho xuất hiện một ngôi sao nữa, sáng không kém gì ngôi sao kia.

2. Tóm tắt về lễ tro

Ngày Thứ Tư lễ Tro, chúng ta nghe văng vẳng lời thánh ca từ sách Sáng thế: ”Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về bụi tro.” Lời Kinh Thánh này nhắc nhở chúng ta ý thức về thân phận con người, biểu hiệu “bụi tro”được dùng trong Kinh Thánh và trong lễ nghi Thứ Tư đầu Mùa Chay.

Về nghi thức làm phép tro và xức tro, qua thời gian lễ nghi này đã có sự biến đổi từ một nghi thức thống hối trong định chế về tập tục thống hối công cộng ngày xưa. Theo đó, những người đã phạm một số tội nặng công khai, mà mọi người biết, như chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình… là những người bị loại ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Để được nhận lại trong cộng đoàn, họ phải làm việc thống hối công cộng: vào ngày thứ tư trước Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, họ tập trung tại nhà thờ chính tòa để, sau khi xưng thú tội mình, Đức Giám mục trao cho chiếc áo nhâm mang trên mình, rồi lãnh nhận tro trên đầu và trên mình.

Sau đó họ bị đuổi ra khỏi nhà thờ và được chỉ định tới một tu viện để ở đó và thi hành một số việc thống hối đã ra cho họ. Vào sáng thư Năm Tuần thánh, các hối nhân này tụ tập tại nhà thờ chính tòa, được Đức Giám mục xem xét việc thực hành sám hối của họ trong Mùa Chay, sau đó ngài đọc lời xá giải tội lỗi của họ để giao hòa với cộng đoàn. Từ dây, họ được quyền tham dự các buổi cử hành bí tích.

Sau một thời gian lễ nghi tiếp tục biến chuyển. Vào năm 1091, công đồng Benevento (Nam Italia) đã truyền cử hành nghi lễ xức tro cho tất cả các nơi trong Giáo hội. Trong khi xức tro, vị Linh mục đọc: ”Ta là thân cát bụi và sẽ trở về cát bụi”(St 3, 19). Tro này lấy từ những cành lá đã được làm phép trong ngày Lễ Lá năm trước để lại.

Trước công cuộc canh tân phụng vụ của công đồng Vatican II, lễ nghi làm phép tro và xức tro được cử hành trước lễ. Vào năm 1970, khi công bố sách lễ Rôma được tu chỉnh, thì lễ nghi này được cử hành sau phần phụng vụ Lời Chúa. Ngoài câu trích từ sách Sáng thế, còn có thêm một công thức khác dùng khi xức tro, lấy từ Phúc âm: ”Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng”(Mc 1, 15).

3. Con chỉ nghe.

Một cụ già có thói quen ngồi bất động hằng giờ ở cuối nhà thờ. Một ngày nọ, cha xứ hỏi cụ là Chúa đã nói gì với cụ. Cụ trả lời:

- Thưa cha, Chúa chả nói gì cả, Ngài chỉ nghe con.

 - Vậy à? Thế thì cụ nói gì với Chúa?

 - Dạ, con cũng chẳng nói gì, con chỉ nghe Chúa!

Thực ra, đỉnh cao của cầu nguyện là hoàn toàn kết hợp với Chúa, lúc đó không còn ai nói ai nghe mà chỉ có sự im lặng, để con tim nói với nhau. Chúng ta có thể nói đây là một sự thinh lặng hùng biện, không nói gì mà lại nói rất nhiều. Vì thế cầu nguyện có 4 mức độ:

- Tôi nói, Chúa nghe.

- Chúa nói, tôi nghe.

- Không ai nói, cả hai cùng nghe.

- Không ai nói, không ai nghe. Đây là sự thinh lặng tuyệt đối.

4. Cho đi tất cả.

Một người kia rất nghèo và vẫn thường nghĩ mình là người nghèo khổ nhất trên khắp mặt đất này. Thế rồi, một hôm ông ta lên đường và gặp một người hành khất khác còn nghèo khổ hơn mình hơn nữa. Ông dừng lại chào hỏi và nói:

- Từ trước tới nay tôi vẫn tưởng mình là người nghèo khổ nhất trong thiên hạ, thế mà hôm nay gặp anh tôi thấy anh còn nghèo hơn tôi nữa, vì đến cái che nắng che mưa trên đầu anh cũng không có.

Người hành khất đáp:

- Này ông bạn ơi, xin ông đừng quên rằng mỗi người nghèo trên đường đi của mình đều gặp thấy những người khác còn nghèo khổ hơn nữa. Đó là điều duy nhất an ủi chúng ta hơn cả, bởi vì mình vẫn còn có thể cho đi người khác một cái gì đó.

Nghe vậy, người ấy liền giơ tay lên đầu lấy mũ trao cho người nghèo không có mũ. Dọc đường, người ấy lại gặp một người khác nghèo hơn nữa không có manh áo che thân, và người ấy liền cởi áo mình ra trao cho người kia. Tiếp tục con đường hành trình, người ấy lại gặp những người khác nghèo hơn nữa và trao cho mỗi người một chút cái mình có. Sau cùng, người ấy chỉ còn đôi dép trong chân và cảm thấy hài lòng sung sướng vì còn có thể tiếp tục đường đi.

Khi hoàn tất cuộc hành trình, người nghèo ấy thấy mình đến trước cửa thiên đàng và nhận ra mình chỉ còn hai bàn chân đi đất, thân mình hoàn toàn ở trần

Mẩu truyện trên đây nói lên ý nghĩa sâu xa của tinh thần nghèo khó là gì. Thật vậy, chúng ta thường nghe nói: ”Không ai nghèo khó đến nỗi không có gì để cho đi và cũng không ai giầu có đến nỗi không có thể lãnh nhận được gì thêm nữa.”

Cái phải cho đi khó hơn là chính bản thân mình, khi nào chúng ta chưa biết cho đi chính mình chúng ta vẫn chưa phải là người nghèo khó nhất. Cho đi chính bản thân mình mới là điều kiện căn bản không thể thiếu sót để nhận lãnh tất cả, tức là nhận lấy tình yêu và chọn con đường yêu thương.

5. Đừng phô trương

Có một linh sư Ấn độ nổi tiếng là bậc thánh thiện. Ông đã mở được một trung tâm cầu nguyện và quy tụ được khá nhiều đệ tử. Ngày nọ có một người tìm thấy học đạo. Để thử đức vâng lời của anh, ông bảo anh phải bơi qua một dòng sông đầy cá sấu.

Không chút ngần ngại, người thanh niên nhảy xuống và bơi qua sông mà không bị nguy hiểm gì cả. Anh vui mừng hô to: “Tung hô quyền năng kỳ diệu của Thầy tôi.” Sự kiện này làm cho vị linh sư tin rằng mình là một người thánh thiện. Do đó ông muốn chứng minh cho các đệ tử thấy quyền năng của mình. Ông tập họp tất cả các đệ tử trên bờ sông. Rồi ông hô lớn “Tung hô quyền năng của ta”và nhảy xuống sông.

Thế nhưng vừa khi ông rơi xuống, đàn cá sấu đã ào tới cắn xé ông ra từng mảnh.

6. Việc của mùa chay: Chay tịnh

Khi ông Nôe trồng nho, Satan lấy làm lạ nên tiến lại gần hỏi:

- Ông đang trồng cây gì thế?

- Cây nho.

- Nó có lợi gì không?

- Có chứ. Trái nó vừa đẹp mắt, vừa ngon miệng. Từ trái nho ta còn có thể làm ra rượu giúp lòng người hưng phấn nữa.

- Vậy thì để tôi giúp ông.

Satan mới giết một con chiên, một con sư tử, một con lừa và một con heo. Lấy máu của chúng tưới gốc cây nho. Thế là cây nho lớn nhanh. Noe lấy trái nho làm rượu.

Từ đó trở đi khi người ta uống một chút rượu vào thì sẽ vui vẻ dễ thương như con chiên; uống thêm chút nữa thì mạnh bạo như sư tử; Nếu chưa ngưng mà còn uống thêm thì sẽ ngu như lừa; nếu lại uống nữa thì... hoàn toàn như con heo vậy. (Truyện cổ Nước Pháp).

7. Việc của mùa chay: Bố thí

Có một con chuột sống trong một ngôi nhà thờ cũ kỹ ở miền quê. Một hôm nó đi lang thang dạo mát bỗng gặp một con chuột khác cũng đang đi chơi. Nó liền được dịp tâm sự: “Tôi sống chui rúc dưới gầm một toà giải tội. Nhưng chẳng được yên thân vì hầu như lúc nào cũng có người xưng tội, phá giấc ngủ của tôi.”

Nghe thế, con chuột kia nói: “Vậy bạn hãy dọn đến chỗ ở của tôi. Chỗ ấy ấm áp sạch sẽ mà chẳng mấy khi có người quấy rầy, yên tĩnh lắm. “Ô thế bạn ở đâu vậy?”- “Tôi ở trong thùng tiền cứu giúp người nghèo.”

8. Việc của mùa chay: Cầu nguyện

Mẹ Têrêsa nói: “Cầu nguyện sẽ mở rộng hơn tâm lòng của bạn, mãi tới mức lòng bạn lớn đủ, để chứa cả món quà tặng là chính Thiên Chúa.

Cầu nguyện không đòi chúng ta bỏ dở công việc, nhưng đòi chúng ta tiếp tục làm việc vì làm việc cũng là cầu nguyện.

Cầu nguyện dẫn tới đức tin, đức tin dẫn tới tình yêu, tình yêu đưa tới phục vụ vì lợi ích người nghèo.

Cầu nguyện không là xin xỏ, nhưng là trao thân gửi phận nơi bàn tay Thiên Chúa, để Ngài định liệu. Cầu nguyện là lắng nghe tiếng Ngài từ sâu thẳm tấm lòng chúng ta.

Chúa bảo chúng ta khi cầu nguyện đừng có nhiều lời, nhất là những lời thở than ai oán.

Các người láng giềng của nhà thần bí Hồi giáo, Farid, đã thuyết phục ông đến kinh đô ở Delhi để xin hoàng đế Akhar ban cho dân làng một ân huệ. Farid đến cung điện và gặp lúc Akhar đang đắm mình cầu nguyện.

Khi hoàng đế cầu nguyện xong, Farid hỏi:

– Nhà vua vừa cầu nguyện như thế nào?

Vua đáp:

– Ta cầu xin Đấng nhân từ ban cho ta sự thành công, giàu có và được sống lâu.

Vừa nghe xong, Farid liền quay lưng lại và bỏ đi. Vừa đi ông vừa nói:

– Ta đến gặp một vị vua. Thế mà ta lại gặp một người ăn xin, không khác gì những hạng người khác!

Lạy Chúa, xin dạy chúng con cầu nguyện.

Xin cho chúng con biết cầu nguyện luôn. Amen.

9. Hãy thay đổi cách hành động

Ngày 22/01/2008, Omar Osama Bin Laden, con trai thứ tư của ông trùm khủng bố, nhắn cha hãy tìm con đường khác. Anh công khai nói ra ý muốn chấm dứt bạo động mà thân phụ của anh kích động. Loại bạo động của al-Qaeda đã tàn sát thường dân vô tội trong hàng loạt vụ khủng bố khắp thế giới, gồm trận tấn công tại Hoa Kỳ ngày 11-9-2001.

Omar nói rõ "Bom là không tốt để dùng với bất cứ ai. Hãy thay đổi cách hành động.” Ðó chính là thông điệp mà người con của Bin Laden muốn nhắn gửi cha mình. Anh không muốn chiến tranh. Anh không muốn thế giới này cứ tiếp tục nhuốm máu bởi lối sống quá khích của cha mình. Anh muốn cha mình hối cải và cải tà quy chính để sống đúng với phẩm giá con người là "nhân chi sơ tính bản thiệt.”

10. Những cách ăn chay tác hại

Ngày nay, tinh thần ăn chay của người Công Giáo xem ra đã bị lạm dụng, hay hướng chiều về những hành vi tiêu cực.

Có những người ăn chay, bố thí... chỉ vì mục đích được khen là đạo đức, họ ủ dột, thê lương, cốt để làm sao cho mọi người biết mình là người nghiêm chỉnh giữ chay.

Lại có những người ăn chay chỉ vì vụ luật hay sợ Chúa phạt! Vì thế, nếu trong ngày, lỡ cách nào đó mà phạm luật, họ hoang mang đến bất an chỉ vì trót ăn vặt, không đúng giờ, đúng bữa...

Cũng có những người tính toán đến độ ngày mai ăn chay, hôm nay ăn uống cho đã để ngày mai đỡ thèm, hoặc ăn trực nằm chờ cho qua thời gian luật định, tức là qua 24h, sau đó nhậu nhẹt hả hê. Họ làm như thế và an tâm vì đã giữ trọn ngày chay theo đúng luật. Vì thế, không lạ gì khi có những người mỉa mai cách thức ăn chay của chúng ta rằng: “thứ ba béo”; “thứ năm sung sướng.”

Đáng buồn hơn nữa là: có nhiều gia đình ngày chay kiêng thịt thì lại đi mua những thứ cao lương mỹ vị như: hải sản, tôm hùm hay những thứ khác đắt tiền hơn thịt nhiều... mà không hề nghĩ rằng: tiền bớt chắt được trong ngày chay là để chia sẻ bác ái, đóng góp cho công cuộc truyền giáo và các nhu cầu khác của Giáo Hội!

11. Bác ái phải cụ thể

Có một người nhà giàu nằm mơ thấy một đám rất đông những người nghèo và những người bệnh tật đang kêu xin giúp đỡ. Cảnh tượng ấy khiến ông xúc động và hạ quyết tâm sẽ đi tìm để giúp những người ấy. Sáng hôm sau ông lên xe đi tìm. Vừa ra khỏi cửa nhà, ông gặp ngay một người ăn mày đang ngửa tay xin tiền. Ông định dừng xe lại, nhưng tự nghĩ hãy đi thêm để biết thêm. Chiếc xe chạy qua những con đường, những khu chợ, những quãng trường… Càng đi ông càng thấy những người nghèo khổ đông quá. Trong đầu ông bắt đầu vẽ ra rất nhiều dự án để cứu giúp rất nhiều hạng người. Nhưng ông bối rối chưa biết phải bắt đầu từ đâu. Đến chiều, ông quay xe về nhà, và gặp lại người ăn mày trước cổng, với cũng một tư thế ấy và những lời van xin ấy. Tối hôm đó ông lại nằm mơ và lại nghe thấy những tiếng kêu xin cứu giúp. Nhưng lần này những tiếng ấy không xuất phát từ đám đông, mà từ chính người ăn mày nằm trước cổng nhà ông. Và ông hiểu ra: phải bắt đầu từ chính người ăn mày ấy.

Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta nói: “Tôi luôn nghĩ rằng tình thương phải bắt đầu từ gia đình mình trước, rồi đến khu xóm, đến thành phố… Yêu thương những người ở xa thì rất dễ, nhưng yêu thương những người đang sống với mình hoặc đang ở sát cửa nhà mình mới là khó. Tôi không đồng ý với những cách làm ồn ào. Tình thương phải bắt đầu từ một cá nhân: muốn yêu thương một người, bạn phải tiếp xúc với người đó, gần gũi với người đó.

Ngài còn kể: “Lần kia tôi đi dự một hội nghị ở Bombay về việc cứu giúp những người nghèo. Đến cửa phòng hội, tôi thấy một người đang hấp hối. Tôi đưa người ấy về nhà, sau đó người ấy chết, chết vì đói. Đang lúc đó bên trong phòng hội, hàng trăm người đang hăng hái bàn luận về nạn đói và về vấn đề lương thực: làm thế nào để có lương thực, để có cái này, để có cái kia… Đang lúc họ vạch ra kế hoạch cho cả 15 năm, thì người này phải chết vì đói.”

Ngài nói tiếp: “Tôi không bao giờ nhìn những đám đông như là trách nhiệm của tôi. Tôi chỉ nhìn đến những cá nhân, bởi vì mỗi lần tôi chỉ yêu thương được một người, mỗi lần tôi chỉ nuôi được một người. Tôi đã đưa một người về nhà, nhưng nếu tôi không đưa một người ấy về nhà thì tôi đã không đưa 42.000 người về nhà. Toàn thể công việc của tôi chỉ là một giọt nước trong đại dương. Nhưng nếu tôi không góp một giọt nước ấy thì đại dương sẽ thiếu đi một giọt.”

12. Bố thí không cần đến tiền

Một ngày nọ, có người đàn ông chạy đến trước mặt lão hòa thượng, vừa khóc vừa kể lể: “Thưa ngài, vì sao con làm việc gì cũng đều không thành? Số con thật khổ!”

Lão hòa thượng điềm tĩnh trả lời anh rằng: “Đó là vì con không học được cách bố thí mà thôi.”

Người đàn ông nước mắt giàn giụa, nói: “Nhưng thưa ngài, con chỉ là một kẻ nghèo đói, ngày ăn không đủ bữa, lấy gì để bố thí đây ạ!”

Lão hòa thượng nghe xong, mỉm cười hiền từ nói với anh ta rằng: “Không phải thế! Này con, một người dù chẳng giàu sang, không tiền bạc, dù nghèo khổ mấy cũng vẫn có thể cho người khác được 7 thứ này. Để ta giảng cho con nghe. Đó là:

Thứ nhất, bố thí bằng vẻ mặt. Con có thể tặng người khác vẻ mặt tươi cười, niềm nở.

Thứ hai, bố thí bằng lời nói. Con có thể cho người khác những lời cổ vũ, an ủi, động viên, lời khiêm tốn và lời ấm áp.

Thứ ba, bố thí bằng tấm lòng. Con hãy mở rộng lòng mình và đối xử chân thành với người khác.

Thứ tư, bố thí bằng ánh mắt. Con hãy dùng ánh mắt trìu mến, cái nhìn thiện lương dành tặng mỗi người mà con gặp trên đường đời.

Thứ năm, bố thí bằng hành động. Con hãy thật lòng giúp đỡ người khác, làm điều tốt cho người.

Thứ sáu, bố thí bằng chỗ ngồi. Khi đi xe hay thuyền, có thể đem chỗ ngồi của mình tặng cho người khác.

Thứ bảy, bố thí bằng nơi ở. Con có thể đem phòng trống, không sử dụng để cho người khác nghỉ nhờ một đêm.

Dù giàu hay nghèo, bất luận là ai, chỉ cần học được 7 loại bố thí ấy thì cuộc đời của con sẽ mãi ngập tràn hạnh phúc, có đâu còn đau khổ, buồn bực nữa đây con của ta!”

Người đàn ông nghe xong chợt như bừng tỉnh cơn mê, cúi rạp người xuống, run rẩy nói: “Thưa đại sư, giờ thì con đã hiểu. Trên đời, người cho đi nhiều nhất chính là người hạnh phúc nhất!”

13. Con thương con ghét

Nhà kia có hai đứa con, một đứa thì được cha mẹ chăm sóc tối đa: cho ăn cho mặc, cho tiêu xài, cung cấp cho đủ thứ, không từ chối nó bất cứ điều gì nó muốn, thậm chí nó đòi hỏi những điều trái luân thường đạo lý thì cũng cho luôn.

Còn đứa con thứ hai thì không được cha mẹ đoái hoài: không cho ăn, không cho mặc, không cho thuốc men, không cho bất cứ gì nó cần.

Làm cha mẹ như thế có công bằng không?

Làm cha mẹ như thế có đáng bị lên án không?

Bản thân tôi cũng có hai đứa con: linh hồn và thân xác. Bao nhiêu năm qua tôi quá chú trọng thân xác mà quên mất linh hồn. Châm ngôn sống của tôi là: Tất cả cho thân xác, tất cả cho cuộc sống đời nầy.

24 giờ của một ngày, tôi đều dành trọn cho thân xác.

168 giờ của một tuần, tôi cũng đều dành trọn cho thân xác.

720 giờ của một tháng cũng được dành trọn cho thân xác.

Và cứ thế, từ ngày nầy trải qua ngày khác, hết tháng nầy đến tháng kia, tôi chỉ biết chăm lo cho thân xác mà thôi.

Còn linh hồn thì bị bỏ rơi, không được đoái hoài. Suốt 24 giờ của mỗi ngày, 168 giờ của mỗi tuần, 720 giờ của một tháng… tôi chẳng dành cho linh hồn một phút nào.

Tôi dồn hết thời giờ, tiền bạc, công sức, tài năng, trí tuệ, nghị lực của tôi cho thân xác, y như nhà đầu tư dốc hết 100% vốn liếng của mình vào một công cuộc kinh doanh lớn.

Thế rồi mai đây thân xác tôi sẽ ra sao?

Lời Chúa vang lên trong nghi thức xức tro nhắc nhở tôi nhớ đến số phận mình:

“Hỡi người, hãy nhớ mình là tro bụi, mai sau người sẽ trở về với bụi tro.”

14. Hãy làm hòa với Thiên Chúa

Ngày 2-5-1999, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II (1978-2005) nâng Cha Pio da Pietrelcina (1887-1968) lên hàng chân phước. 3 năm sau, ngày 16-6-2002 ngài lại nâng Cha lên hàng hiển thánh.

Hôm ấy, một vị đại ân nhân người Mỹ, thường quảng đại đóng góp cho các công tác bác ái của Cha thánh Pio, từ Hoa Kỳ đích thân đến San Giovanni Rotondo. Tạm gọi là ông Thomas. Ông Thomas vui mừng đến gặp Cha Pio. Nhưng ông vô cùng bỡ ngỡ khi Cha Pio vừa đuổi vừa nói: “Hãy đi đi .. tôi không biết ông là ai!”Ông Thomas tức-tưởi khi thấy Cha Pio đối xử tàn-tệ như vậy!

Từ San Giovanni Rotondo ông xuống San Severo nơi có Cha Bề Trên Giám Tỉnh Alberto D’Apolito. Ông xin Cha Alberto tháp tùng mình đến gặp Cha Pio. Ông tự nhủ: “ Đi bên cạnh Cha Giám Tỉnh, hẳn Cha Pio sẽ nhận ra và tiếp rước mình đàng hoàng hơn!” Riêng về phần Cha Alberto sau khi nghe kể sự việc, Cha thầm nghĩ: “Nếu Cha Pio cư xử như thế, hẳn phải có một lý do chính đáng trầm trọng nào đó!” Cha dò hỏi, thì quả thật, ông Thomas đang phản bội vợ và ”mèo-mỡ” với một cô tình nhân. Cha Alberto liền đề phòng trước với ông Thomas: “Biết đâu giờ đây thấy mặt chúng ta, Cha Pio lại đuổi luôn cả hai!”

Và sự thật đã xảy ra như thế. Vừa trông thấy ông Thomas được Cha Giám Tỉnh đưa tới, Cha Pio nói ngay: “Con đi tìm luật sư biện hộ. Vậy thì hãy đi luôn cả hai!” Dĩ nhiên cả hai phải rút lui! Vì biết ông Thomas có ý định đi hành hương Assisi và Padova, Cha D’Apolito liền khuyên ông lợi dụng dịp này để xưng tội nơi một trong hai đền thánh ấy. Ông Thomas mau mắn nghe lời. Trước khi trở về Hoa Kỳ, ông Thomas ước ao trở lại San Giovanni Rotondo để gặp mặt Cha thánh Pio. Lần này ông cũng xin Cha Bề Trên Giám Tỉnh đưa mình đến gặp Cha Pio.

Vừa thấy mặt ông Thomas, Cha thánh Pio vui vẻ chào hỏi, như không hề có chuyện gì xảy ra trước đó. Cha ân cần cám ơn ông Thomas, luôn quảng đại đóng góp cho các công tác bác ái. Cha thăm hỏi rồi ôm hôn và chúc lành. Trước khi từ biệt, Cha thánh Pio dặn dò: “Giờ đây trở lại Hoa Kỳ, con nhớ sống đời Kitô hữu lành thánh. Con có hiểu không?” Ông Thomas thề hứa và xin Cha Pio an tâm. Thế nhưng khi trở lại Hoa Kỳ, ông lại yếu đuối rơi vào vòng tay cô nhân tình cũ.

Một năm trôi qua, ông ao ước trở lại San Giovanni Rotondo để thăm Cha Pio. Lần này, ông cẩn thận nhờ Cha Giám Tỉnh xin hẹn với Cha Pio trước. Cha Pio trả lời ngay: “Không! Không được đến!”

Bẵng đi một thời gian, ông Thomas quyết định dứt khoát một lần cho xong. Ông từ bỏ cô nhân tình, xin lỗi vợ hiền và quay trở về với gia đình con cái. Sau khi sắp xếp mọi chuyện ổn thỏa, ông lại nhờ Cha Giám Tỉnh, hỏi ý Cha Pio xem ông có thể đến gặp ngài không. Lần này, Cha thánh Pio trả lời ngay: “Được! Được! Hãy đến ngay!” Ông Thomas vội vã đến San Giovanni Rotondo. Ông đến thật đúng lúc, vì chẳng bao lâu sau đó, khi trở về Hoa Kỳ, ông Thomas lâm trọng bệnh và qua đời, sau khi đã giao hòa với THIÊN CHÚA, với Giáo Hội và với vợ con. (Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt, Thúc giục tội nhân hoán cải, Grande Opera Mariana”, n.2, Maggio-Giugno/2001, trang 44)

15. Giá của của những việc hãm mình âm thầm

Jacopone là một luật sư nổi tiếng, trong cuộc chạy đua vào thượng viện, ông trúng ghế nghị sĩ. Vào ngày ăn khao, đang lúc xem trình diễn văn nghệ thì rạp hát bị sụp đổ, khiến bà Jacopone bị vùi dưới đống gạch vụn. Người ta phải đào bới mãi mới kéo được bà lên. Khi ấy bà đã bị thương nặng và đang thoi thóp gần chết. Lúc bấy giờ người ta mới khám phá ra, bên trong chiếc áo dạ hội, bà mặc một chiếc áo nhặm, kết bằng lông ngựa cứng.

Ông Jacopone phàn nàn trách bà là đã đày đoạ thân xác, nhưng bà trả lời:

- Tôi khuyên răn mà ông không nghe. Ông vẫn cứ sống bê tha. Vì thế, tôi mặc áo này, để hy sinh và cầu nguyện cho ông.

16. Hoán cải-- Sợi Chỉ Đỏ

Có hai anh em ruột kia rất thương nhau, thông cảm nhau, và cùng có một mơ ước cao đẹp là sẽ sống một cuộc đời hết sức thánh thiện.

Lớn lên, người anh cưới vợ, sinh con, chăm chỉ làm ăn và cũng không quên những bổn phận đạo đức hàng ngày. Còn người em thì đi tu, thành một thầy dòng ngày ngày đi khắp nơi giảng đạo và giúp đỡ những người nghèo.

Rồi một ngày kia người em làm thầy dòng trở về quê thăm lại anh mình. Hai anh em nói chuyện với nhau thật nhiều về cuộc sống và tâm tư của mình. Người anh khám phá ra rằng ngày xưa hai anh em tâm đầu ý hiệp như thế, mà sao bây giờ lại khác nhau quá xa: người em thì vẫn thích thánh thiện như xưa và còn thánh thiện hơn xưa nữa, còn mình thì sao quá tầm thường không còn chút mơ ước nào về lý tưởng thánh thiện ngày xưa nữa.

Người anh tìm đến một vị ẩn sĩ để hỏi cho biết nguyên do sự khác biệt ấy. Vị ẩn sĩ không trả lời thẳng mà dùng những hình ảnh thiên nhiên để giải thích cho anh:

- Trước tiên là đám mây trên trời: thường thường bầu trời ngày nào cũng có những đám mây, nhưng không có đám mây ngày nào giống đám mây ngày trước. Cũng là mây, nhưng mây ngày nay khác mây ngày hôm qua.

- Kế đến là một cái cây xanh: nó vẫn luôn luôn là cây thông xanh rì, nhưng năm trước nó nhỏ hơn, năm nay nó đã lớn hơn và cao hơn một tí, năm sau nó sẽ lớn và cao hơn tí nữa. Có nhiều cái lá của năm trước mà năm nay không còn, và có nhiều chiếc lá của năm nay sẽ rụng vào năm tới để thay bằng những chiếc lá khác.

- Và sau cùng chính là thân xác con người: các tế bào trong thân xác con người luôn luôn thay đổi: có cái chết đi và có cái sinh ra thêm. Khoa học tính rằng cứ sau 7 năm thì thân xác ta hoàn toàn đổi mới không còn một tế bào nào của 7 năm trước đây nữa: sợi tóc, móng tay, làn da của ta năm nay hoàn toàn không chứa một tế bào nào của sợi tóc, móng tay và làn da của 7 năm trước.

Và tới lúc đó vị ẩn sĩ mới kết luận: tâm hồn con người cũng thế: muốn lớn lên, muốn tươi trẻ mãi, muốn hăng say sinh động thì mỗi ngày cũng phải bỏ những yếu tố xấu và đồng thời thu vào những yếu tố tốt. Không đào thải đi và không thu nhận vào thì nó sẽ chết khô như một thân cây chết cứng chứ không còn là một thân cây sống động vươn lên nữa. Cái diễn trình đào thải và tiếp nhận ấy chính là cuộc hoán cải, cần phải hoán cải liên tục. Sở dĩ người anh cảm thấy mình tầm thường, khô cằn vì anh ta bấy lâu nay đã tự mãn với những cái mình đang có, không muốn bỏ đi cái nào và cũng không mong thu thêm cái nào nữa.

Câu chuyện tới đây kể ra cũng đủ kết thúc. Nhưng người anh còn muốn tìm hiểu rõ ràng hơn nên hỏi tiếp:

- Làm thế nào để loại bỏ những cái xấu trong tôi? Nó nhiều quá và nó đã bám quá chặt vào con người tôi? Vị ẩn sĩ trả lời: quan hệ nhất là đức tin và tư tưởng: tuy đời mình có nhiều tội lỗi, nhưng ta đừng quá chú ý tới nó, đừng để mình bị nó ám ảnh, đừng nghĩ nhiều tới nó. Nếu lỡ phạm tội hãy sám hối, tin tưởng vào sự tha thứ của Chúa, rồi bỏ quên nó đi, phải coi thường nó. Đầu óc mình sẽ được thanh thản khỏi những điều xấu.

- Còn làm thế nào để thu nhận những điều tốt, người anh hỏi tiếp? Vị ẩn sĩ cũng trả lời: cũng quan trọng ở đức tin và tư tưởng: phải quí chuộng những điều tốt, phải luôn nghĩ tới nó, phải để cho nó ám ảnh tâm trí mình và phải mơ ước thực hiện cho kỳ được những điều tốt, và tin rằng Thiên Chúa sẽ giúp mình thực hiện được.

Người anh trong câu chuyện trên phản ảnh tâm trạng của chúng ta:

- Cuộc sống của chúng ta có thể nói là cứ mãi mãi ở thế bình bình: chúng ta không đến nỗi xấu lắm mà cũng không được tốt lắm. Cái thế lình bình đó khiến chúng ta giống như một thân cây bị chai: không chết khô mà cũng không có sức sống vươn lên.

- Tại vì mỗi ngày chúng ta không biết cố gắng loại bớt khỏi ta những gì là xấu, là khuyết điểm, là tội lỗi và đồng thời cũng không cố gắng đón nhận những gì là tốt, là cao, là lý tưởng hơn. Nghĩa là vì chúng ta không chú ý thực hiện sự hoán cải hằng ngày cho nên hết ngày này sang ngày khác cuộc đời của chúng ta vẫn cứ chai lì, tầm thường, vô vị.

- Muốn cho cuộc sống có đà vươn lên thì phải thực hiện sự hoán cải ấy:

Mỗi ngày loại dần những cái xấu bằng cách đừng nghĩ tới nó, đừng tiếp xúc với nó, đừng mơ tưởng tới nó. Mỗi ngày đón nhận thêm những điều tốt bằng cách đi tìm nó, chú trọng tới nó, mơ ước nó và cố gắng chiếm đoạt nó.

Bấy nhiêu thôi xét ra cũng đủ là một chương trình dài hạn cho chúng ta chẳng những trong mùa chay này mà còn trong suốt cả cuộc đời chúng ta.

17. Thay đổi chính mình

Một triết gia Ấn Độ đã nhìn lại quãng đời của mình như sau: Lúc còn trẻ, tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời cầu nguyện duy nhất mà tôi dâng lên Thượng Đế là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để thay đổi thế giới. Đến tuổi trung niên, tôi mới nhận thấy rằng một nửa đời tôi đã qua đi mà tôi chưa thay đổi được một người nào. Lúc đó, tôi mới cầu nguyện với Thượng Đế: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn được biến cải tất cả những người con đã gặp gỡ hằng ngày, nhất là gia đình con, bạn bè con. Và như vậy là đủ cho con mãn nguyện rồi.Nhưng giờ đây, tóc đã bạc, răng đã long, ngày tháng còn lại chỉ đếm trên đầu ngón tay, tôi mới nhận thức rằng tôi đã khờ dại biết chừng nào. Giờ này, tôi chỉ còn biết cầu nguyện như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn được thay đổi chính con. Nếu tôi biết cầu nguyện như thế ngay từ lúc đầu, thì tôi đã không phí phạm quãng đời đã qua.

Người xưa đã có lý khi dạy chúng ta: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ... Theo trật tự của cuộc cạch mạng, thì cách mạng bản thân là điều tiên quyết. Một nhà cách mạng nào đó đã nói: chỉ cần 10 người như thánh Phanxicô thành Assisi thì cuộc diện thế giới sẽ thay đổi. Cuộc cách mạng đầu tiên mà bất cứ vị thánh nào cũng khởi sự đó là cách mạng bản thân. Chúa Giêsu đã chuẩn bị 3 năm sống công khai bằng 30 năm âm thầm, 40 đêm ngày ăn chay cầu nguyện... Và lời kêu gọi đầu tiên của Ngài là: hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.

18. Sẵn sàng cho sự sống đời đời

Thánh Vincent de Paul, nổi tiếng khắp thế giới về những công việc bác ái của ngài. Vài tháng trước khi ngài qua đời, có xẩy ra câu truyện sau đây

Thánh nhân đã sáng lập dòng thừa sai Lazariste, và dòng chị em Nữ Tử Bác Ái. Theo luật dòng, mỗi khi các cha gửi thư, phải đưa qua cha bề trên kiểm duyệt (lúc đó ngài là bề trên nhà Lazare) Một linh mục thấy ngài, mỗi ngày mỗi yếu, nên nghĩ rằng chắc ngài không thể sống lâu và có gửi thư cho một cha bạn. Trong thư có viết: “Cha Vincent sút đi trông thấy, và có lẽ chẳng bao lâu chúng ta sẽ mất ngài." Khi kiểm duyệt thư này, thánh Vincent cảm động, không phải vì nghĩ tới giờ chết, mà vì coi như cha kia đã khuyên khéo ngài phải nghĩ tới giây phút sau cùng. Ngài cho gọi cha đó và ngài nói:

"Tôi xin chân thành cảm ơn cha, về tư tưởng tốt đẹp cha cho tôi biết, cha làm tôi vui lòng, tôi đoan chắc thế. Tôi cũng xin cha, vì lòng bác ái, cho tôi biết thêm các khuyết điểm, cha nhận xét thấy nơi tôi.” Cha kia nói là mình thực sự không dám khuyên thánh nhân nghĩ tới giây phút chết, mà hoàn toàn do vô tình viết thế, chỉ có mục đích đưa tin tức nhà dòng cho cha bạn này. Thánh Vincent de Paul nói: “Xin cha cứ an tâm, tôi càng quý mến cha, kính trọng cha hơn. Còn về vấn nghĩ tới giờ chết, thì tôi xin nói là Chúa đã cho tôi ơn luôn luôn nghĩ tới việc tôi phải từ giã cõi đời. Thực sự đã 18 năm nay, không bao giờ tôi đi ngủ, mà không chuẩn bị sẵn sàng chết đêm đó. Cũng cần nói thêm rằng từ 15 năm nay, nghĩa là sau lần tôi lâm trọng bệnh (năm 1645), không ngày nào tôi bỏ đọc kinh phó linh hồn, trong giờ cảm ơn sau thánh lễ."

19. Thân phận bụi tro

Chuyện ngụ ngôn về miếng đất sét kể: Có người tình cờ nhặt được miếng đất sét có màu sắc và hương thơm của hoa hồng. Vô cùng kinh ngạc, ông ta hỏi:

- Đất sét ơi, hãy nói cho ta biết mi là gì, một viên ngọc đáng giá, là viên kim cương quý hiếm hay viên đá kỳ diệu nhất trên đời?

Đất sét trả lời:

- Tôi chỉ là miếng đất sét tầm thường như bạn bè của tôi.

- Thế sao mi có hương thơm và vẻ đẹp kỳ diệu như vậy?

- Tôi sẽ nói cho ông biết điều bí mật đó: Vì tôi sống gần một bông hồng.

Con người cũng là nắm đất sét được Thiên Chúa chạm đến, nên trở nên cao quí nhờ thấm đẫm tình thương và ân huệ của Người. Sách Sáng Thế viết: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật.” (St 2, 7) Con người chỉ là bùn đất, nhưng vì được Thiên Chúa chuyển thông sinh khí, nên có sự sống và vượt trổi hơn muôn vật muôn loài. Chẳng những thế, Đấng Tạo Thành còn cho hưởng sựsống vĩnh cửu, ơn khôn ngoan, tự do và thay quyền của Người để coi sóc muôn loài. Nhưng khi bất trung với Thiên Chúa, con người như diều đứt dây, mất tất cả và trở về với tro bụi. Trong nghi thức xức tro hôm nay, Giáo Hội nhắc nhở: “Ta là thân cát bụi, sẽ trở về cát bụi.”

20. Được cứu mạng nhờ một món quà

Tại phiên tòa, chỉ một chi tiết nhỏ mà đã đóng vai trò lớn trong việc kết tội mưu sát của Judd Gray. Vào đêm xảy ra án mạng, Gray lên một chiếc taxi ở gần khu vực đó. Vấn đề ở đây là liệu người tài xế có thể nhớ để nhận dạng Gray rõ không, Và thực sự ông ta đã nhận ra. Khi người tài xế chở Gray đi, Gray đã cho ông ta một đầu thuốc lá mạ kền.

Khi được hỏi, người tài xế này lấy làm ngạc nhiên và nói: “Tôi muốn nhìn rõ mặt anh ta. Chắc là tôi vẫn còn nhớ.” Rồi chỉ vào Gray, ông nói: “Chính anh ta.”

Tôi quảng đại ra sao về thời giờ, tài năng và của cải tôi?

Thà là một kẻ ăn xin và xài đồng tiền cuối cùng của tôi như một ông hoàng, còn hơn làm vua và xài tiền như một kẻ ăn xin (Robert Ingersoll).

21. Lãnh tụ giỏi

Bằng nghề phụ trách chuyên đề, ký giả Walter Lippmann đã có cơ hội nghiên cứu về nhiều vị lãnh tụ, những người thuộc giới chính trị, doanh thương và tôn giáo. Lippmann đưa ra kết luận: “Thử thách cuối cùng của một vị lãnh tụ là phải để lại nơi người khác niềm tin và ý chí để tiếp tục.” Êlia đã để lại gia sản quý giá này. Êlisa được thừa hưởng niềm xác tín và ý chí để tiếp tục công việc của Êlia.

Tôi đã ý thức thế nào về vai trò lãnh đạo của tôi với tư cách là cha mẹ hay là người kitô hữu để tiếp tục công việc của Chúa? Tôi có để lại niềm tin và ý chí nơi những người cùng sống và làm việc với tôi không?

Một lãnh tụ giỏi có khả năng làm cho ta đặt niềm tin vào họ. Còn một lãnh tụ vĩ đại có sức thúc đẩy ta đặt niềm tin vào chính bản thân ta.

22. Đừng phô trương

Dag Hammarskjold làm Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc từ năm 1953 cho đến năm 1961 khi ông bị chết trong một tai nạn máy bay. Trong nhật ký của ông được tìm thấy trong căn hộ của ông sau khi ông chết, có lời dẫn nhập như sau: “Bất an, bất an, bất an - tại sao? Vì quan tâm đến những lời khen của người khác… bạn đã hạ thấp mình để tò mò muốn biết kết quả những gì mình đã làm.” Rồi ông viết thêm: “Cầu chúc cho sự bất an của bạn, vì đó là dấu chứng tỏ sự sống vẫn tồn tại trong bạn.”

Tôi bị điều khiển nhiều tới độ nào bởi khát vọng được người khác nhìn nhận và kính trọng?

Lạy Chúa, xin giúp con đừng bao giờ thực hiện lẽ phải vì một động lực không đúng đắn.

23. Cần thay đổi chính mình

Mùa Chay là thời gian đặc biệt, thời gian chuẩn bị cho mùa Phục Sinh. Hôm nay Thứ Tư Lễ Tro, nhiều kitô hữu xức tro lên trán. Họ làm như thế vì hai lý do: thứ nhất để nhắc nhớ rằng cũng như Chúa Giêsu chết vào thứ sáu tuần thánh, họ cũng mang thân phận phải chết. Thứ hai nhắc nhớ rằng nếu phục sinh trong cuộc sống mới như Chúa Giêsu, họ phải hoán cải, nghĩa là thống hối tội lỗi và theo bước Chúa Giêsu.

Bằng cách nào tôi có thể theo sát Chúa Giêsu hơn trong Mùa Chay? Tại sao lại bằng cách ấy?

Mọi người đều nghĩ đến chuyện thay đổi nhân loại, nhưng không ai nghĩ đến chuyện thay đổi chính mình. (Leon Tolstoi)

24. Hãy xé lòng chứ đừng xé áo

Sở dĩ có Thứ Tư lễ tro là do nhiều kitô hữu đã xức tro lên trán vào ngày này. Cách thức này bắt nguồn từ thời Kitô giáo xa xưa. Nó nhắc nhớ rằng, như Chúa Giêsu đã chết vào thứ sáu tuần thánh, chúng ta cũng mang thân phận phải chết. Nó còn nhắc nhớ rằng nếu muốn sống đời sống vĩnh cửu, chúng ta phải ăn năn, sám hối. Như vậy, chúng ta phải để trái tim tan vỡ để nói lên nỗi đau đớn của chúng ta.

Đâu là cách thích hợp để tâm hồn tôi bày tỏ nỗi đau đớn của tôi trong mùa chay này? Tại sao đó là cách thích hợp?

Khi linh hồn tạ tội dưới chân Chúa, chúng ta cảm thấy như thể nó có cánh. (Eugenie de Guerin)

25. Chớ khua chiêng đánh trống

Cuốn phim “Những người thợ chạm khắc đá” đoạt được giải Hàn lâm viện năm 1984 cho bộ phim tài liệu hay nhất với chủ đề ngắn. Bộ phim mô tả một nhóm nghệ nhân đã dành nhiều năm để khắc chạm đồ tranh trí cho nhà thờ chánh tòa ở Washington. Các sử gia kể lại rằng những thợ khắc đá của ngôi thành đường danh tiếng thời Trung cổ đã không bao giờ ký tên dưới những tác phẩm của họ. Họ thích làm việc một cách âm thầm vì danh dự và vinh quang của Thiên Chúa.

Câu chuyện những người thợ chạm khắc đá và lời nói của Chúa Giêsu về việc đừng nên khoe khoang việc mình làm mời gọi tôi kiểm điểm động lực thúc đẩy tôi làm việc hoặc cho đi một cái gì đó.

Những điều duy nhất ta còn giữ lại được là những gì ta cho đi.

26. Lỗi tại tôi

Vua Hoàn công nước Tề đi săn, đuổi con hươu chạy vào trong một cái hang, thấy có một ông lão bèn hỏi rằng: “Hang này tên gọi là hang gì?” Ông lão thưa: “Tên là hang Ngu công”

- Tại sao mà đặt tên như thế?

- Tại kẻ hạ thần đây mới thành có tên ấy

- Coi hình dáng lão không phải là ngu, sao lại đặt cái tên như thế?

- Hạ thần xin nói: Nguyên hạ thần có con bò cái đẻ được một con. Khi bò con đã lớn, hạ thần đem đi bán, rồi lấy tiền mua một con ngựa con đem về cùng nuôi với bò cái. Một hôm có một chàng thiếu niên đến, lấy lý ‘bò không đẻ ra ngựa được’ bèn bắt con ngựa con đem đi. Hạ thần chịu mất, không cãi được. Vì thế xa gần đâu cũng cho hạ thần là ngu, mới gọi hang hạ thần ở đây là hang Ngu công.

Hoàn công nói: “Lão thế thì ngu thật.”

Chiều hôm sau, Hoàn công đem câu chuyện kể lại cho Quản Trọng nghe. Quản Trọng nói: “Đó chính là cái ngu của Di Ngô này. Nếu được vua giỏi như vua Nghiêu, bầy tôi minh như Cao Dao, thì khi nào lại có kẻ dám ngỗ ngược, lấy không ngựa của người ta như vậy. Ngu công mà đành để mất ngựa, chắc là biết rõ hình pháp ngày nay không ra gì. Xin nhà vua kíp chỉnh đốn các chính sự lại.”

Đức Khổng nghe thấy, nói: “Đệ tử ta đâu, ghi lấy việc ấy. Hoàn công là bá quân, Quản Trọng là hiền thần. Tuy đã vào bậc khôn ngoan, mà còn tự cho là ngu dại.” (Khổng tử tập ngữ)

27. Hữu xạ tự nhiên hương

Bức danh hoạ chân dung Mona Lisa do Leonardo da Vinci (1503-05) mô tả một phụ nữ quí phái trong trang phục miền Florentina thời đó, hấp dẫn con người mọi thời đại không phải vì những gam màu chói chang, những hình khối cứng cỏi, hay những chuyển động dữ dội, mà là ở nét đẹp kín đáo toát ra từ nụ cười vừa bí ẩn lại vừa cao sang quyến rũ. Nét đẹp Kitô giáo xuất phát từ một nếp sống luân lý không nhằm trau chuốt cho bản thân mình trở nên giá trị, đáng nể trọng vì những hoạt động trổi vượt mà nhằm đạt đến cuộc sống thánh thiện chỉ để cho “Chúa Cha, Đấng thấu suốt những gì kín đáo” biết và ân thưởng mà thôi. Nét đẹp Kitô giáo hấp dẫn bởi vì để hiến dâng cho Thiên Chúa chứ không phải chỉ để thưởng thức hay đánh giá ở cấp độ nhân loại.

 “Hữu xạ tự nhiên hương.” Làm điều tốt tất nhiên sẽ phát sinh danh thơm tiếng tốt. Nhưng điều chính yếu chúng ta tìm kiếm không phải ở điểm đó mà là làm đẹp lòng Chúa và làm vinh danh Ngài.

THỨ NĂM SAU LỄ TRO - THEO CHÚA GIÊSU

Lời Chúa: Lc 9, 22-25

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Con Người phải đau khổ nhiều, bị các vị Kỳ lão, các Thượng tế, và các Luật sĩ khai trừ và giết chết, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại.”

Chúa nói với mọi người rằng: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì chưng, ai muốn giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống vì Ta, sẽ được sống. Vậy nếu con người được lời lãi cả thế gian, mà phải thiệt mất mạng sống, thì được ích gì?”

TRUYỆN KỂ

1. Từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày

Một số nhà truyền giáo đến thăm M. Gandhi, vị lãnh đạo phong trào giải phóng Ấn Độ khỏi thực dân Anh bằng phương pháp bất bạo động. Ông đề nghị các ngài hát một bài thánh ca.

“Bài nào?”

“Bài nào mà quý vị thấy là diễn tả đức tin sâu sắc nhất.”

Tất cả đồng thanh hát bài Suy tôn Thánh giá.

2. Cách vác Thập giá cho đỡ nặng.

John Newton đã đề nghị chúng ta cách vác thập giá cho có hiệu quả: Chúng ta biết rằng những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục... Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi. Nhiều người lại không làm như thế: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của ngày hôm nay và còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi.

3. Biến bại thành thắng.

Người ta kể câu chuyện ngụ ngôn như sau: trong một khu rừng có một con hổ lớn và dữ tợn. Lũ khỉ ghét con hổ này lắm. Một ngày kia, chẳng may, con hổ bị sa xuống hố do người thợ săn đào sẵn. Không còn cách nào thoát thân, con hổ chỉ còn biết ngồi chờ thần chết đến.

Lũ khỉ qua thấy thế mừng lắm, chúng chế diễu và thay nhau lấy đá, lấy đất và bẻ cành cây ném xuống đầu con hổ cho bõ ghét. Con hổ chỉ còn biết ngồi chịu trận, không còn biết làm cách nào khác. Thấy thế, lũ khỉ thích chí càng ném hăng, ném mãi không chán, nhưng không ngờ, chính những hòn đá, cành cây vứt xuống nhiều quá, làm cho hố cứ đầy dần lên, đến nỗi con hổ có thể nhờ đó mà nhảy ra ngoài hố được.

4. Thập giá vừa ý

Có một người kia được Chúa cho vác một cây thập giá. Nhưng anh ta không chịu nổi, anh đến xin Chúa cho đổi cây thập giá khác. Chúa bằng lòng: “Ngoài nghĩa địa có vô số thập giá đủ loại. Con cứ ra đó muốn chọn cây nào tuỳ thích.”

Dưới ánh trăng mờ trên nghĩa địa, anh ta đã thở phào nhẹ nhõm vất cây thập giá của mình và loay hoay chọn cây khác. Nhưng anh tìm mãi vẫn không được: cây thì quá dài, cây thì quá ngắn, có cây nhẹ nhàng nhưng sù sì khó vác, có cây trơn tru nhưng nặng quá... Và rồi đêm nào cũng thế… cho đến một lần kia anh tìm được cây thập giá vừa ý nhất, nhẹ nhàng và êm ái nhất, vác về nhà.

Nhưng ôi khi nhìn kỹ lại thì ra đó chính là cây thập giá đầu tiên mà Chúa đã trao cho anh ngày nào!

5. Thế gian và thiên đàng

Một hôm, thánh nữ Têrêsa Avila được Thiên Chúa cho thấy Thiên Đàng lâu bằng đọc một kinh Kính Mừng. Thị kiến này làm cho thánh nữ vô cùng hoan hỷ. Kể từ đó, mọi lạc thú trên trần gian không còn ý nghĩa đối với mẹ nữa. Mẹ viết: “Trí khôn nhân loại không thể tưởng tượng ra được điều gì gần giống với vinh quang Thiên Đàng. Mặt Trời chỉ là u tối so với sự sáng nơi các thánh đang yên nghỉ. Một hôm, đang lúc tôi lên cơn đau quá mức, có một bà sang trọng muốn an ủi tôi. Bà đem đồ nữ trang của bà đến cho tôi xem, đặc biệt là viên kim cương quí báu mà bà hết sức trân trọng. Thái độ của bà làm tôi cảm động, nhưng rồi tôi lại thương cho bà, vì tôi thấy nó không là gì so với điều tôi đã chứng kiến. Nếu cho tôi chọn: Một đàng là phải chịu đau khổ cho đến tận thế để được thêm một chút vinh quang trên trời, và đàng khác là không phải đau đớn nhọc nhằn gì, nhưng phải chịu mất đi một phần nhỏ vinh sáng trên trời, thì chắc chắn tôi sẽ chọn ngay con đường khổ đau hôm nay, nghĩa là tôi sẽ sẵn sàng bỏ tất cả mọi sự, bỏ cả mạng sống tôi để theo Chúa.”

Chúa còn nói “Người nào được lời lãi cả thế gian mà mất chính mình hay là thiệt thân, thì có ích gì?” (câu 25). Thánh Ingatiô đã lặp đi lặp lại mãi bên tai Phanxicô Xaviê câu này. Cuối cùng, Phanxicô Xaviê đã hoán cải. Hôm nay, chúng ta cũng hãy lặp đi lặp lại câu này nhiều lần. Hy vọng Chúa sẽ giúp chúng ta hoán cải như Phanxicô Xaviê.

6. Cho đi mới được tự do

Một lần kia, có một người đàn bà giàu có người Hindou đến thăm mẹ Têrêsa. Bà ta nói với mẹ:

- Thưa mẹ, con ước ao được chia sẻ với mẹ và cộng tác với mẹ trong các hoạt động từ thiện.

- Tốt lắm! - Mẹ đáp lại một cách vui vẻ.

Rồi bà ta thú thực với mẹ là bà ta có một điểm yếu rất khó bỏ, đó là tính khoe khoang, ưa làm dáng. Bà thích mặc những chiếc áo xa-ri, những bộ đồ Ấn Độ lộng lẫy và đắt tiền. Hôm ấy, bà mặc một bộ áo xa-ri giá trị 65 đô-la, trong khi chiếc áo xa-ri của mẹ Têrêsa đang mặc chỉ trị giá 65 xu, chưa đầy một đô-la. Như được ơn trên soi sáng, mẹ Têrêsa bỗng nảy ra được tư tưởng hay. Mẹ đề nghị với bà ấy bắt đầu cộng tác với mẹ về những bộ áo xari đó. Mẹ khiêm tốn đề nghị:

- Từ nay trở đi, thay vì mua sắm những bộ áo xa-ri giá 65 hoặc 100 đô-la, thì bà chỉ nên mua những bộ rẻ tiền hơn, chừng 45 hoặc 50 đô-la thôi. Số tiền còn lại, bà hãy mua những bộ áo xari khác dành cho người nghèo khó.

Bà ấy vui vẻ hưởng ứng lời đề nghị của mẹ. Dần dần bà ấy cũng đã biết dùng những bộ áo xa-ri rẻ tiền hơn. Sau này, chính bà cũng đã thú nhận với mẹ Têrêsa rằng:

- Thưa mẹ, từ ngày con bắt đầu từ bỏ những vẻ hào nhoáng và vô ích bên ngoài đó, tâm hồn con cảm thấy được tự do hơn, nhẹ nhàng hơn. Con đã học biết và hiểu rõ hơn thế nào là cho đi, thế nào là chia sẻ. Và trong cách chia sẻ như thế, con phải thú nhận rằng, chính con đã được lãnh nhận nhiều hơn thứ con cho đi và chia sẻ với anh chị em nghèo khổ!

7. Mẹ thương con

Những căn hộ sống gần đường rày xe lửa rất nguy hiểm, vì trẻ em hay ra đường ray lật đá bắt dế! Do đó nhà nào có trẻ nhỏ đều phải làm hàng rào chắn trước cửa.

Lần kia, người mẹ đang loay hoay nấu cơm, bà nghe có tiếng còi xe lửa rít lên, bà giật mình nhìn ra cổng, thấy cổng đã mở toang, như linh tính có chuyện chẳng lành, bà vội vàng chạy ra, thì ôi thôi bà thấy đứa con trai đang đứng giữa đường ray khóc, tiếng còi xe lửa rít lên mỗi lúc một gần hơn… bà hốt hoảng lao mình xô đứa con bắn ra khỏi đường ray, không may bà vấp ngã, thế là đoàn tàu chạy ngang qua cán bà làm ba khúc!!

Bà mẹ này mất mạng vì con, không phải bà biết làm như thế là mình sẽ chết; thua xa Chúa Giêsu biết trước Ngài sẽ mất mạng để cứu những kẻ phản bội Ngài thoát tay tử thần và cho nó sống dồi dào như Thiên Chúa (x Rm 8, 32; Ga 6, 57; Ga 10, 10). Chúa dùng miệng ngôn sứ Isaia nói: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” (Is 49, 15).

8. Chọn lựa cho cuộc đời

“Người nào được lời lãi cả thế gian mà đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có ích gì ?” (Lc 9,25)

Thánh Inhaxiô, đấng sáng lập dòng Tên, bạn của thánh Phanxicô Xaviê, cứ nhắc đi nhắc lại mãi cho bạn mình câu Lời Chúa này. Ban đầu Phanxicô khó chịu nhưng cuối cùng Lời này đã đánh động Phanxicô: ngài được biến đổi, gia nhập dòng Tên và trở thành nhà truyền giáo không mệt mỏi cho vùng Á Châu. Quả thật sở hữu cả thế gian này cũng không đủ cân xứng với giá trị một con người; bởi vì “nhân linh ư vạn vật,” con người có giá trị linh thiêng mà Thiên Chúa đã phú ban khi tạo dựng. Phẩm giá con người con cao quý hơn nữa bởi vì đã được cứu chuộc bởi chính mạng sống của Đức Giêsu Kitô, Con Một Chúa.

Thế giới ngày nay đang chạy theo trào lưu tục hoá và thực dụng. Chúng ta dễ đặt vật chất làm tiêu chuẩn đánh giá: những ai sở hữu nhiều của cải, nhiều quyền lực có địa vị cao trong xã hội được coi là thành đạt. Mùa Chay là cơ hội thuận lợi để chúng ta xác định lại giá trị thật của đời người, nhất là giá trị của một người xét như là con cái Thiên Chúa.

9. Hạnh phúc cho người chọn sự sống vĩnh cửu

Đôi khi các phóng viên truyền hình đặt ra những câu hỏi thiếu tế nhị đối với những người đang phải chịu thảm kịch trong đời. Chẳng hạn John Cogan, một nạn nhân ung thư được hỏi: “Ông cảm thấy thế nào khi sắp chết?”, John đã làm phóng viên ngạc nhiên khi trả lời: “Có một niềm vui sâu kín trong tôi, nhưng tôi không sao diễn tả được. Tôi cảm thấy hoàn toàn tự do. Tôi muốn giang rộng đôi tay ôm cả vũ trụ này.” Thảm kịch đã đặt ra trước mắt John Cogan một chọn lựa giữa sự sống và sự chết theo đúng nghĩa của từ ngữ. Ông đã chọn sự sống – sự sống vĩnh cửu.

Khi thảm kịch tấn công tôi, cái gì ngăn cản tôi ôm lấy nó như một cơ hội chọn lựa sự sống theo đúng nghĩa của từ ngữ?

Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta. (Rm8,18)

10. Chọn điều chi?

Bộ phim “Tiếp cận” nói về một người đàn ông có mọi của cải vật chất như ông có thể muốn và mơ ước. Nhưng cuộc đời của ông lại ở trong tình trạng bi đát: Ông bị suy sụp về tinh thần. Bộ phim kết thúc với cảnh ông ta đứng trên đỉnh tòa nhà chọc trời do ông sở hữu, nhìn xuống ánh sáng của thành phố Los Angeles lấp lánh ở phía dưới. Rồi đột nhiên màn ảnh hiện lên những lời Chúa Giêsu: “Người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình, thì nào có lợi gì?”

Bộ phim trên có thể đưa ra sứ điệp gì ở giai đoạn hiện tại của đời tôi? Tôi có thể thuộc lòng sứ điệp đó không?

Tôi không thể đo lường của cải bằng cách liệt kê những gì tôi có trong ngân hàng. Tiêu chuẩn hoàn chỉnh nhất, đó là liệt kê những gì tôi có trong tâm hồn.

11. Được tất cả hay mất tất cả

Mihailo Jihajlov là một tù nhân chính trị người Nam Tư. Trong cuốn sách “Những ghi chép dưới lòng đất” ông thuật lại rằng khi các tù nhân bị buộc phải chọn lựa giữa sự cứu rỗi linh hồn và thể xác, những người chọn linh hồn cảm ngiệm được an bình, thanh thản và mạnh mẽ. Còn những người chọn thân xác thì kết thúc bằng việc mất cả hồn lẫn xác.

Những lời nói của Jihajlov mời gọi tôi nhớ lại thời gian tôi cảm ngiệm được an bình thanh thản và mạnh mẽ sau khi có một quyết định khiến tâm hồn phải đau đớn.

Biết việc sắp phải làm là khôn ngoan.

Biết phải làm thế nào là khéo léo.

Và nhân đức là làm việc ấy.

(Thomas Jefferson)

THỨ SÁU LỄ TRO

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

THỨ BẢY LỄ TRO

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

Lời Chúa Đầu Mùa Chay
Thường niên V GS C PS Ngoại lịch