CÁC BÀI SUY NIỆM CN 29 TN C
MỤC LỤC
1. Thiên Chúa lắng nghe
Phụng vụ Lời Chúa hôm
nay không phải chỉ nhấn mạnh đến việc phải kiên nhẫn cầu nguyện, mà hơn thế
nữa, còn cho chúng ta hay Thiên Chúa hằng lắng nghe và chấp nhận những lời
chúng ta van xin.
Thực vậy bài đọc thứ I
kể lại cuộc chiến giữa dân Do Thái và người Amalec. Điểm nổi bật đáng nhớ đó là
hậu quả của việc Maisen cầu nguyện. Hễ bao lâu ông dang tay cầu nguyện thì dân
Do Thái thắng còn khi nào ông bỏ tay xuống và không cầu nguyện nữa thì dân Do
Thái sẽ bị thua. Như thế dân Do Thái đã không chiến đấu một mình, trái lại có
Chúa ở bên cạnh và cùng chiến đấu với họ. Qua bài đọc thứ II, thánh Phaolô đã
khuyên nhủ môn đệ thân tín của mình là Timôthê hãy can đảm và kiên nhẫn trong
việc rao giảng Tin Mừng ở mọi nơi, trong mọi lúc và bằng mọi cách.
Nhất là qua bài đọc
thứ III với câu chuyện của Chúa. Thực vậy, từ một kinh nghiệm thông thường mà
ai cũng có thể chứng kiến, đó là hậu quả những lời van xin liên lỉ của một
người đàn bà goá đối với thái độ của một vị thẩm phán vô lương tâm. Chúa Giêsu
mời gọi chúng ta hướng tới tấm lòng nhân từ của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, Chúa
Giêsu không muốn sánh ví Thiên Chúa như vị thẩm phán bất lương này. Ngài chỉ
muốn cho người nghe hiểu được rằng: đến như một kẻ xấu xa như ông quan toà bất
lương, thế mà cuối cùng cũng đã phải xét xử và minh oan cho bà goá khỏi tay kẻ
thù. Mặc dù chỉ là để không bị quấy rầy, chứ chẳng phải vì muốn tôn trọng luật
pháp, tôn trọng lẽ phải, tôn trọng sự thật, huống nữa là Thiên Chúa, Đấng đầy
lòng thương xót, há lại chẳng lắng nghe tiếng kêu cầu của những người Ngài đã
tuyển chọn.
Thế nhưng kiên tâm cầu
nguyện không có nghĩa là lải nhải những công thức có sẵn một cách máy móc.
Nhiều người nghĩ rằng: cứ đọc thật nhiều, lặp đi lặp lại mãi một câu kinh, một
lời nguyện thì thế nào Chúa cũng cho được toại nguyện. Trái lại kiên tâm cầu
nguyện chính là cầu nguyện với lòng trông cậy, với lòng tin tưởng vào tình
thương của Chúa, Ngài luôn bênh vực sự thật, bênh vực lẽ phải, bênh vực sự công
chính. Cầu xin tức là tự đặt mình vào trong mối tương quan mật thiết với Chúa,
là cởi mở lòng chúng ta trước tôn nhan Ngài. Như thế chúng ta chẳng còn lo sợ
việc Chúa chẳng nhận lời cầu xin. Kinh Thánh đã từng xác quyết: Thiên Chúa là
Đấng giải phóng chúng ta, Ngài muốn cho chúng ta được sống hạnh phúc.
Vì thế hãy mở rộng cõi
lòng đến đón nhận ơn Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ được toại nguyện.
2. Cầu nguyện.
Có một bác nông phu ra
tỉnh, chẳng may bị đụng xe, và trở nên mù loà. Các bác sĩ chuyên môn về mắt cho
biết: Không thể nào chữa lành được nữa. Lúc đó, bác vừa tròn năm mươi tuổi và
là cha của một gia đình gồm bà vợ và bảy đứa con. Dầu vậy bác không mất lòng
cậy trông, trái lại bác luôn tin tưởng vào tình thương và quyền năng của Chúa,
đồng thời kiên tâm cầu nguyện... Trong suốt ba năm liền, mỗi ngày bác đều tham
dự thánh lễ và rước lễ. Ngày kia, sau khi rước lễ, bác cảm thấy vui mừng trong
lòng và khi đứng dậy ra về, thì bỗng bác được khỏi, cặp mắt nhìn rõ mọi vật như
khi trước. Nước mắt trào dâng, bác chạy lại bàn thờ quỳ gối tạ ơn Chúa.
Từ mẩu chuyện trên,
chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng cần
phải cầu nguyện luôn và đừng ngã lòng. Ngài đưa ra hình ảnh một ông quan toà
không kính sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng kiêng nể người ta. Thế rồi một bà goá
đến tìm ông và đòi cho được xét xử công bằng lần này qua lần khác. Vị quan toà
từ chối bà lần này, thì bà lại đến vào một lần khác. Sau cùng để khỏi bị quấy
rầy, vị quan toà đã nghe bà và minh oan cho bà. Rồi Ngài đã kết luận: Thiên
Chúa sẽ lắng nghe và nhận lời chúng ta nếu như chúng ta biết kiên tâm cầu
nguyện.
Có một sự khác biệt
sâu xa giữa vị quan toà bất lương và Thiên Chúa, Cha chúng ta ở trên trời là
Đấng đầy lòng thương xót, đó là vị quan toà vì không muốn bị quấy rầy mà phải
thuận theo lời yêu cầu để người goá phụ không tới nữa. Thiên Chúa thì khác,
Ngài hằng khao khát và luôn lắng nghe lời chúng ta van xin, cho dù Ngài thường
để họ phải tiếp tục kêu cầu trong một thời gian nào đó. Và như thế, kiên trì
vốn là một yếu tố căn bản của lời cầu nguyện. Đừng bỏ cuộc, trái lại hãy tiếp
tục cầu xin, ngay cả khi không còn hy vọng. Đó là bài học quý giá Chúa Giêsu
muốn đưa ra cho chúng ta hôm nay.
Nhiều người trong
chúng ta giống như chàng thanh niên đến gặp vị linh mục, khi gặp phải điều khó
khăn. Vị linh mục hỏi anh đã cầu nguyện chưa, anh trả lời: Thưa cha con đã cầu
nguyện. Được mấy lần rồi. Thưa cha được một lần. Vị linh mục mới nói với anh hãy
tiếp tục cầu nguyện. Cầu nguyện luôn mãi đừng nản lòng như Chúa Giêsu đã dạy. Đó là
lý do hối thúc người công giáo chúng ta cầu nguyện hằng ngày. Chúng ta cầu
nguyện vào ban sáng, ban tối và trước mỗi bữa ăn. Chúng ta thường xuyên đọc
kinh Kính Mừng như muốn nhờ Mẹ Maria cầu nguyện thay cho chúng ta lúc này và
trong cơn hấp hối. Chúng ta đọc kinh Lạy Cha mỗi ngày để xin Chúa ban xuống cho
chúng ta những ơn lành hồn xác. Chúng ta đi tham dự Thánh lễ ngày thường cũng
như ngày Chúa nhật. Thế nhưng chúng ta đừng quên rằng: Cầu xin chỉ là một trong
những tâm tình của việc cầu nguyện mà thôi, bởi vì khi đến với Chúa trong tâm
tình cầu nguyện, chúng ta còn phải thờ lạy và cảm tạ Chúa nữa.
Sự cầu nguyện được ví
như một chiếc máy vô tuyến thiêng liêng, nhờ đó chúng ta được liên hệ trực tiếp
với Thiên Chúa mà lãnh nhận được những trợ giúp cần thiết.
3. Truyền giáo, một hành trình sống đức tin
(Suy niệm của Lm. John
Nguyễn)
Cách vài ngày, tôi đọc
được một câu chuyện thương tâm về cái chết của cô Eleonora Cantamessa, đã đánh
động tôi trước tấm gương hy sinh cao cả của cô ta. Tôi xin lược thuật lại câu
chuyện sau đây.
Vào đêm Chúa Nhật ngày
8.9.2013, vào lúc 11g đêm, cô Eleonora Cantamessa 44 tuổi vừa mới đi chơi với
một người bạn. Trong lúc trên đường trở về nhà, cô nhìn thấy một tai nạn đụng
xe, một người đàn ông bị thương nằm trên đường và có một số xe dừng lại quanh
đó. Vì là một bác sĩ, cô đã lập tức dừng xe lại để giúp đỡ nạn nhân băng bó vết
thương. Nạn nhân là một thanh niên Ấn Độ, tên là Baldev Kumar đang nằm quằn
quại trên vũng máu vì bị đánh vào đầu bằng những thanh sắt.
Điều cô ta không ngờ,
kẻ hành hung chính là người em trai của người bị nạn, hắn ta hãm hại người anh
mình vì sự tranh giành lợi lộc và chức tước cùng với 4 người đồng bọn. Trong
lúc cô Eleonora đang tìm cách băng bó vết thương cho Balvev, thì tên Vicky em
của người bị nạn đã phóng xe tới cán lên cả hai người chết và gây thương tích
cho 6 người khác.
Bác sĩ Eleonora
Cantamessa là một bác sĩ sản khoa làm việc tại bệnh viện Sant’Anna di Brescia
và có một văn phòng tư ở phố Trescore Balneario. Cô điều trị miễn phí cho người
nghèo, trong đó có cả những người Ấn Độ di dân. Cái chết của cô Cantamessa đã
làm rúng động xã hội Ý. Thị Trưởng Alberto Finazzi đã tuyên bố một ngày để tang
cho cô. Tổng Thống Giorgio Napolitano và Thủ Tướng Enrico Letta cũng đã gửi
vòng hoa phúng điếu.
Đám tang của cô có rất
đông người tham dự, đứng chật các đường phố vì trong nhà thờ không còn chỗ
ngồi. Cộng đoàn người Ấn Độ cũng mặc quốc phục, họ giương cao biểu ngữ: “Cộng
đoàn Ấn Độ chúng tôi cùng xin chia sẻ nỗi đau của gia đình”.
Trước nỗi đau cái chết
của người con gái, nhưng gia đình của cô không giận dữ và oán giận. Ông Mino,
bố cô Eleonora Cantamessa đã nói: “Tất cả mọi sự đều nằm ở trong kế hoạch của
Thiên Chúa. Bây giờ, chính là lúc chúng ta xin ơn Chúa cứu chuộc và tái sinh
cho các thủ phạm trong lúc này và sau khi thụ án.” Để tiếp nối những nghĩa cử
của cô Eleonora đối với trẻ em nghèo, gia đình đã yêu cầu mọi người không mua
hoa phúng điếu mà hãy dùng tiền đó để làm việc từ thiện.
Đức Giáo Hoàng
Phanxicô đã gửi bức thư chia buồn với gia đình cô, Giám Mục Luciano Monari, địa
phận Brescia, đọc bức thư đó trong đám tang, ngài viết: “Cô Cantamessa đã kết
thúc cuộc sống nơi trần thế trong lúc thực hiện nghĩa cử cuả một người Samaria
nhân lành “.
Ngày thứ Tư vừa qua
tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha đã dừng lại thật lâu để an ủi gia
đình của cô Eleonora Cantamessa. Ngài vỗ về lên má của bà mẹ đầy nước mắt. Sự
ân cần của Đức Thánh Cha đã gây tác động mạnh mẽ cho gia đình, như lời bà
Mariella Cantamessa đã tâm sự với báo Osservatore Romano rằng: “Chúng tôi có
cảm tưởng khi được Đức Thánh Cha an ủi chia sẻ là chính lúc khuôn mặt của
Eleonora, tuy đã mất nhưng đang được Ngài vuốt ve vậy. Chúng tôi tuy mang một
nỗi buồn lớn lao nhưng cũng tự hào đã chứng kiến một hành động hào hiệp của
người Kitô giáo. Chúng tôi không oán trách bất cứ ai về cái chết của Eleonora,
Thiên Chuá có kế hoạch riêng cuả Ngài mà Eleonora đã chấp nhận và thực hiện và
hy sinh cả mạng sống của mình. Bây giờ, việc quan trọng là truyền đạt thông
điệp của sự vị tha, ngay cả việc phải giúp đỡ các gia đình Ấn Độ đang lâm vào
thảm kịch này.”
Với thông điệp này,
tôi thiết nghĩ, họ là những chứng nhân sống động trong thời này. Cụ thể, cô
Eleonora Cantamessa được xem như là người Samaria nhân hậu. Việc làm của cô thể
hiện lòng nhân ái của con người trước người bị nạn cần được giúp đỡ, nhưng
không phải ai cũng có thể làm được như cô ta. Song song với việc làm của cô,
chính là nơi cô đã sống và hành động theo Lời Chúa dạy với một trái tim và tấm
lòng nhân ái. Cô biểu hiện đời sống đức tin mạnh mẽ qua việc làm của mình, là
đốm sáng cho chúng ta nhận ra khuôn mặt của Chúa Giê-su.
Từ câu chuyện cảm động
này, chúng ta có thể nhận ra thông điệp rõ nét hơn về hành động đức tin của
người Ki-tô hữu. Đặc biệt với Chúa Nhật Truyền Giáo, Giáo hội mời gọi chúng ta
mạnh dạn dấn thân trong việc rao giảng Tin Mừng, như là lời mời gọi cấp bách
trong năm sống Đức Tin này.
Với trang Tin Mừng hôm
nay, chúng ta được nghe câu hỏi của Chúa Giê-su: ” Khi Con Người ngự đến, liệu
Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” Đức tin là điều kiện tiên
quyết cần có để chúng ta sống và rao truyền Lời Chúa, mà đức tin đó đi đôi với
việc làm. Có thể chúng ta nói về đức tin rất mạnh mẽ, nhưng chúng ta không dám
sống cho đức tin của mình. Có lẽ, có nhiều nguyên do khác nhau. Nhưng một trong
những nguyên do đó là, con người đang chạy theo bởi các trào lưu học thuyết ảo
và lối sống hưởng thụ ngày nay đã áp đặt lên tư tưởng của chúng ta. Hay nói
cách khác, đời sống đức tin đang tha hóa bởi não trạng của sở hữu và quy về chủ
nghĩa cá nhân. Cho nên, có một lỗ hổng rất lớn giữa hiểu biết và đón nhận đức
tin.
Câu hỏi của Chúa
Giê-su có thể đặt lại vấn đề cho mọi người chúng ta là những người mang danh
Đức Kitô. Chúng ta đã và đang làm gì cho Nước Chúa được lớn lên và Lời Chúa đến
với mọi người. Hơn nữa, chúng ta không thể rao truyền đức tin mà không sống và
hành động đức tin của mình.
Ngày Khánh nhật Truyền
Giáo là dịp để cho chúng ta nhìn lại hành trình sống đức tin của mình. Và qua
đó, chúng ta tiếp tục sứ mạng của người Ki-tô và hãy noi gương của các nhà
truyền giáo vĩ đại đã sống và chết cho giá trị Tin Mừng.
Thánh Tê-rê-sa Hài
đồng Giê-su truyền giáo qua lời câu nguyện và hy sinh nơi Dòng kín. Thánh
Phan-xi-cô với cuộc đời đi rao giảng cho các dân tộc Châu Á, nhờ đó nhiều người
trở về với Chúa và nhận biết Đức Kitô. Mẹ Têrêsa Calcutta truyền giáo qua việc
phục vụ cho người nghèo và những người bị bỏ rơi. Các thánh tử đạo Việt Nam
chết để mang lại hạt giống đức tin trên quê hương Việt Nam.
Là con cháu của các
ngài, nhiệm vụ của mỗi người chúng ta hôm nay là giữ lấy kho tàng đức tin và
mạnh dạn dấn thân loan truyền Tin Mừng. Như lời Chúa nói: “Các con hãy đi rao
giảng Tin mừng khắp thế gian, làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và
Thánh Thần”.
Lạy Chúa, xin ban thêm
lòng tin cho chúng con giữa cuộc đời nổi trôi để con có thể sống và làm chứng
cho Đức Kitô đã chết cho chúng con, và sự phục sinh của Ngài mang lại cho chúng
con niềm hy vọng và hạnh phúc đời sau. Amen!
4. Cầu nguyện
Cô giáo trẻ, phụ trách
một lớp học, trong đó có một em thật ngang bướng ngỗ nghịch, tựa hồ như một con
ngựa chứng trong sân trường. Sáng hôm ấy, cô giáo đến sớm và đang ngồi viết,
thì Bình, tên em học trò ngang bướng ấy, xuất hiện và hỏi: Cô viết cái chi vậy?
Cô trả lời: viết lời nguyện gởi cho Chúa đây. Ngài có thể làm được mọi sự, kể
cả việc nhận lời cầu xin này. Cô giáo kẹp lời nguyện ấy vào trong một cuốn vở.
Lợi dụng lúc cô giáo viết bài, Bình đã chớp mẩu giấy ghi lời cầu nguyện bỏ vào
trong cuốn vở của mình.
Mười hai năm sau, tình
cờ trong lúc dọn nhà, Bình tìm lại được mẩu giấy ngày xưa với nét chữa đã bị
nhạt nhoà...Thế nhưng, vì cô giáo dùng loại tốc ký, nên Bình không thể đọc
được. Anh bỏ mẩu giấy ấy vào trong ví rồi đi đến công sở. Tại đây anh nhờ cô
thơ ký đọc giùm. Cô thơ ký nói: Tôi sẽ đánh máy và để trên bàn giấy của anh vì
tôi nghĩ đây là chuyện riêng tư.
Trên đường về và suốt
buổi tối hôm đó, anh cứ đọc đi đọc lại lời cầu nguyện của cô giáo: Lạy Chúa,
xin đừng để con bị thất bại trong nghề nghiệp con đã chọn lựa... Nhưng con
không thể nào thành công nếu như em Bình cứ phá bĩnh hoài. Xin Chúa hãy thúc
giục tâm hồn em, để em trở nên một người rất tốt hoặc là rất xấu.
Lời cầu nguyện này đã
đánh động anh để rồi anh xoá bỏ một số hành động mờ ám mà anh đã định thực
hiện. Anh tìm đến cô giáo cũ và nói cho cô hay là lời cầu nguyện năm xưa của cô
đã làm thay đổi cuộc đời anh.
Từ câu chuyện trên và
nhất là từ đoạn Tin Mừng hôm nay chúng ta rút ra được hai điểm liên quan đến
việc cầu nguyện của chúng ta:
Điểm thứ nhất đó là
lời cầu nguyện có một năng lực to lớn, ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc đời chúng ta. Bác sĩ Carel, người
đã từng đoạt giải Nobel, đã viết như sau: Cầu nguyện là hình thức năng lực hùng
mạnh nhất mà con người có thể phát sinh ra, ành hưởng trên tâm hồn và thân xác
chúng ta, không khác gì hấp lực của trái đất.
Điểm thứ hai đó là hãy
kiên trì trong lời cầu nguyện của mình. Hình ảnh của Maisen qua bài đọc thứ nhất đã
là một mẫu gương cho chúng ta noi theo, mặc dù mệt mỏi, Maisen vẫn cứ kiên trì
cầu nguyện, nhờ sự giúp đỡ của bè bạn ông. Một em nhỏ đã kể lại
cho bè bạn biết sở dĩ cậu ta có thể kiên trì cầu nguyện mỗi ngày là vì có bà mẹ
giúp đỡ. Họ đồng ý với nhau là: mỗi sáng cả hai cùng thức dậy cùng một giờ, rồi
mỗi người cầu nguyện riêng 15 phút trong phòng mình, đoạn cùng nhau ăn sáng,
rồi bà mẹ thì đi lo công việc của mình, còn cậu thì đi đến trường. Cậu bé nói
điều đã giúp cho cậu rất nhiều, đó là biết được rằng đang khi cậu cầu nguyện
trong phòng mình, thì mẹ cậu cũng đang cầu nguyện trong phòng của bà.
Để thực hiện sự kiên
trì trong việc cầu nguyện, chúng ta cần có một thời khoá biểu, một chương trình
sống, ấn định những giờ giấc cầu nguyện đều đặn mỗi ngày, giống như hai mẹ con
cậu bé đã làm.
Để kết luận, chúng ta
ghi nhận một hình ảnh về sự cầu nguyện. Chúng ta có thể nói: Cầu nguyện chính
là một chiếc máy vô tuyến thiêng liêng, nhờ đó mà chúng ta liên hệ trực tiếp với
Thiên Chúa, để lãnh nhận được những sự trợ giúp cần thiết.
5. Thiên Chúa của Người nghèo – An Phong
Xã hội loài người
Chúa Giêsu kể chuyện
một quan toà bất chính, ông ta "chẳng kính sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng coi
ai ra gì". Qua lối nói vắn gọn như thế, Chúa Giêsu muốn trình bầy cho
chúng ta một con người nắm quyền hành, ngang ngạnh, "khó chơi"...; và
điều đó nói lên tình trạng bế tắc, dường như không còn con đường nào để một con
người nhỏ bé trong xã hội, một bà goá, có thể tìm được công lý.
"Vũ khí" của
người bé mọn
Tuy nhiên, điều tưởng
chừng như không thể như thế lại trở nên có thể với lòng kiên nhẫn. Lòng kiên
nhẫn của bà góa đã làm cho con đường bế tắc của người yếu thế được thành tựu,
nhờ vào chính sự mệt mỏi của vị quan toà cứng lòng. Người nghèo không có tiền
bạc, không có sức mạnh, không có lý lẽ khôn ngoan, nhưng có một vũ khí lợi lại,
đó là lòng kiên nhẫn. Chính nỗi cực nhọc của đời sống làm cho người nghèo biết
kiên nhẫn và có thể đạt được mục tiêu mình mong muốn.
Dĩ nhiên, Thiên Chúa
không phải là một quan án bất công. Dụ ngôn ở đây chỉ muốn củng cố kết quả của
lòng kiên nhẫn trong việc cầu nguyện. Nếu như lòng kiên nhẫn có thể thay đổi
lập trường của vị quán án hắc ám, thì huống hồ gì đối với Thiên Chúa.
"Vậy chẳng lẽ
Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu
cứu với Người, dù Người có trì hoãn?"
Sự kiên trì của niềm
tin
Tuy nhiên, Chúa Giêsu
không trình bầy ở đây một sự kiên nhẫn thuần túy con người. Chúa cho thấy căn
bản của vấn đề là ở lòng tin. Chính lòng tin vào chúa giúp người ta biết kiên
nhẫn. Do đó, Chúa Giêsu muốn củng cố lòng tin của người tín hữu khi khẳng định
chắc chắn Thiên Chúa sẽ ra tay tiếp cứu, dù ra như Ngài có đến chậm. Đây là một
vấn đề lớn của Giáo Hội sơ khai: người ta tưởng Chúa sắp đến để xét xử chung
cuộc, những đợi mãi mà vẫn chưa thấy, người ta tưởng Nước của Ngài sắp tỏ hiện
huy hoàng, nhưng người Kitô hữu vẫn bị bắt bớ.... Ngày nay cũng vậy, đã có rất
nhiều lời tiên báo về ngày tận thế, rồi nhưng rồi mọi sự vẫn trôi qua một cách
"bình thường". Chúa Giêsu hình như hiểu rõ điều đó, Ngài phải thốt
lên:
"Nhưng khi Con
Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng? Thực sự ta
không thể hiểu được cách làm của Thiên Chúa. Việc của ta và điều Chúa Giêsu
nhắc nhở ta là: hãy vững tin, đừng sợ.; vì..."Người sẽ mau chóng bênh vực
họ"
Lời nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Có lẽ vì con chưa ý
thức tình trạng bế tắc của đời con như bà goá nghèo nọ, nên con cũng chưa đủ
lòng tin, lòng kiên nhẫn trong lời cầu nguyện. Con còn tìm nhiều đường lối khác
để giải quyết đời con, nên chưa hoàn toàn tin vào Chúa. Xin tha thứ cho con.
6. Cầu nguyện – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Đây là một dụ ngôn dễ
hiểu. Chúa Giêsu đưa ra hai tình ảnh trái ngược. Một bên là bà goá nghèo khổ,
bé nhỏ, không có tiếng nói trong xã hội. Một bên là ông quan toà bất nhân,
chẳng sợ trời mà cũng chẳng nể người. Thật là một hoàn cảnh tuyệt vọng cho
người phụ nữ không có tiếng nói. Nhưng nhờ kiên trì, bà đã đạt được ý nguyện.
Chúa kể dụ ngôn này với mục đích: dạy các môn đệ hãy noi gương bà goá, cầu
nguyện luôn không được nản chí. Bà goá nêu gương cầu nguyện cho ta ở 4 thái độ
sau:
1. Thái độ khiêm
nhường. Người đàn bà này rất khiêm nhường vì bà tự biết mình bé nhỏ
nghèo hèn. Bị người ta ức hiếp mà chẳng thể tự bảo vệ. Không có sức khoẻ để
chống lại người ác. Không người bênh vực chống lại bất công. Không có cả tiền
bạc để mua lấy sự bình an. Bà mất tất cả. Chẳng còn gì. Chẳng có gì. Nói gương
bà, khi cầu nguyện ta phải rất khiêm nhường. Khiêm nhường vì biết mình nghèo
nàn yếu đuối, biết mình chỉ là thân phận tro bụi. Khiêm nhường biết mình đã
cùng đường, không còn nơi nương tựa. Khiêm nhường biết mình bất tài bất lực
không thể thoát khỏi hoàn cảnh bi đát này.
2. Thái độ phó thác. Bà goá này không còn
nơi nương tựa. Chỉ còn trông cậy vào ông quan toà như lối thoát duy nhất. Bà
đặt niềm tin vào ông quan toà. Đó là niềm hy vọng duy nhất và cuối cùng. Bà bám
víu lấy ông quan toà. Bà phó thác vận mạng trong tay ông quan toà. Sự sống của
bà ở nơi ông quan toà. Cũng thế, khi ta cầu nguyện, hãy hoàn toàn phó thác vận
mệnh cho Chúa. Chúa là lối thoát duy nhất. Chỉ có Chúa mới có thể cứu giúp ta.
Hơn nữa Chúa là người Cha toàn năng và giầu lòng thương xót. Ta là đứa con bé
nhỏ, yếu ớt. Hãy đặt vận mệnh ta trong tay Chúa. Hãy tin tưởng Chúa sẽ sắp xếp
cho ta những gì tốt đẹp nhất.
3. Thái độ kiên trì. Chỉ còn một con đường
duy nhất để sống, nên bà kiên trì theo đuổi cho đến cùng. Thất bại không làm bà
nản lòng. Bị hất hủi không làm bà bỏ cuộc. Niềm tin của bà thật lớn lao. Sự
kiên trì của bà thật bền bỉ. Bà đã đi đến cùng và bà đã thành công. Cũng thế,
khi cầu nguyện ta hãy kiên trì. Kiên trì chứng tỏ sự phó thác trong tay Chúa.
Kiên trì chứng tỏ ta hoàn toàn yếu hèn chỉ biết trông cậy vào Chúa. Kiên trì
chứng tỏ lòng ta yêu mến Chúa tha thiết. Chắc chắn Chúa sẽ dủ lòng thương ta.
4. Thái độ khao khát. Bà khao khát vì đó là
con đường sống duy nhất. Bà khao khát được sống. Bà không ngồi đó chờ đợi.
Nhưng làm hết cách, hết sức mình để đạt được khao khát đó. Bà không chán nản an
nghỉ. Nhưng bà làm việc liên lỉ cho ước nguyện của mình. Cũng thế, khi cầu
nguyện ta phải có lòng khao khát cháy bỏng. Lòng khao khát đó được biểu lộ
trong hành động. Ta không ngồi chờ, nhưng đứng lên, ra đi và bắt tay hành động.
Không lùi bước trước khó khăn, nhưng tìm hết cách để đạt được ước nguyện. Lòng
khao khát chứng tỏ ta tha thiết với lời cầu nguyện. Lòng khao khát cùng với nỗ
lực phấn đấu sẽ được Chúa thương chấp nhận.
Chiêm ngắm tấm gương
của bà goá, ta nhận thấy rất nhiều khi ta chưa cầu nguyện cho đủ. Chưa thực
hiện sự khiêm nhường nhận biết sự thực về mình. Chưa hoàn toàn phó thác vận
mệnh trong tay Chúa. Chưa biết kiên trì đủ. Và nhất là chưa tha thiết tới mức
ta tích cực làm hết sức mình cho nguyện ước đó. Hôm nay với bài học của Chúa,
ta sẽ biết cầu nguyện hơn. Khi biết cầu nguyện hơn, chắc chắn lời cầu nguyện
của ta sẽ đẹp lòng Chúa và đem lại nhiều lợi ích cho linh hồn ta hơn.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Kể ra những thái độ
của bà goá mà ta cần noi theo khi cầu nguyện.
2. Đối với bạn Chúa là
gì? Có phải là nguồn hy vọng duy nhất? Hay chỉ là một chỗ cậy nhờ như những chỗ
khác?
3. Bạn có phấn đấu làm
việc cho ước nguyện của mình không? Hay bạn chỉ ngồi chờ Thiên Chúa ban tặng?
4. Trong 4 thái độ cần
có, bạn thiếu thái độ nào nhất?
7. Tinh thần truyền giáo
(Suy niệm của ĐGM.
Giuse Vũ Duy Thống)
“Không biết khi Con
Người đến, liệu còn gặp thấy niềm tin trên mặt đất nữa không?”. Trang Tin Mừng hôm
nay được kết thúc như thế.
Có thể đó là câu hỏi
một thoáng bâng khuâng Chúa Giêsu thốt lên cho riêng mình Người. Cũng có thể đó
là câu hỏi dự báo một tình huống không vui Chúa Giêsu cảnh giác cho các môn đệ.
Có khi câu hỏi đó đợi chờ một lời đáp tích cực mở ra cho lối sống đức tin lạc
quan. Và biết đâu, câu hỏi đó lại chẳng tố giác một thực trạng tiêu cực đang
dần dà bào mòn niềm tin tôn giáo?
Nhưng đặt trong bối
cảnh của Chúa Nhật cầu cho việc truyền giáo, theo tinh thần của các bài đọc,
câu hỏi ấy đã ẩn chứa một lời giải đáp. Đó là: để lòng tin còn mãi trên mặt
đất, mọi thành phần của Dân Chúa cần phải sống tinh thần truyền giáo.
1) Tinh thần truyền
giáo ấy được nuôi dưỡng bằng sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động.
Nói đến truyền giáo
người ta thường nghĩ là phải dấn thân làm việc truyền giáo, và ai càng làm được
nhiều, người ấy lại càng được xem là nhà truyền giáo lớn. Thực ra, quan niệm ấy
cũng đúng, nhưng không đủ, bởi dù không phủ nhận những kết quả lớn lao trong
lịch sử Giáo Hội do hoạt động truyền giáo mang lại, nhưng bao giờ cũng thế, bên
trong những hoạt động ấy còn là cả một tinh thần cầu nguyện tích cực của bản
thân các nhà truyền giáo cũng như của mọi thành phần Dân Chúa.
Thiếu cầu nguyện, hoạt
động sẽ không kết quả, hoặc sẽ lái kết quả sang một hướng khác có nguy cơ “sáng
danh tôi, tối Danh Chúa”. Vắng cầu nguyện, hoạt động có thể trở thành nguy hại,
nó đồng nghĩa với náo động nếu không muốn nói là khua động ầm ĩ hoặc khuấy động
ồn ào. Quên cầu nguyện, hoạt động chỉ là hời hợt mang tính phong trào bùng lên
đó nhưng rồi cũng lịm tắt đó. Bạo phát bạo tàn, mau xộp mau xẹp! Bỏ cầu nguyện,
hoạt động coi chừng chỉ còn là một việc cá nhân, dẫu bỏ ra nhiều công sức,
nhưng vẫn không phải là hoạt động của Hội Thánh vốn luôn được nuôi dưỡng phong
phú bởi nguồn ơn Chúa Thánh Thần.
Cầu nguyện là linh hồn
của hoạt động truyền giáo. Nó đem đến cho những hoạt động một sức sống kín múc
tận nguồn sứ mạng.
Bài đọc thứ nhất kể
lại một hình ảnh sống động cho thấy mối tương liên không thể tách rời giữa việc
Môsê giơ tay cầu nguyện và việc Giosuê đánh bại quân Amalếch. Khi Môsê hạ tay
xuống, sức mạnh của ông Giosuê không còn nữa, nhưng khi ông giơ tay lên, phần
thắng đã nghiêng về phía Giosuê. Chiến thắng ấy không riêng của Môsê hay riêng
của Giosuê, mà là của Môsê cùng với Giosuê, là dung hòa của cầu nguyện và hoạt
động, là tổng hợp của ơn thánh Chúa và nỗ lực con người.
Thánh nữ Têrêsa Hài
Đồng Giêsu đã được mừng kính vào đầu tháng mười này cũng là một hình ảnh khác
minh họa cho sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động truyền giáo. Chín năm
khuôn mình trong nhà kín Lisieux, chưa hề làm việc truyền giáo bên ngoài, thế
nhưng chỉ bằng hy sinh cầu nguyện cho các vị thừa sai và cho công cuộc rao
giảng Tin Mừng, thánh nữ đã được Giáo Hội đặt làm Bổn Mạng các xứ truyền giáo,
ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê một đời bươn chải giảng giải đạo Chúa đến
tận miền xa Châu Á.
Bản chất của Giáo Hội
là truyền giáo, nên có thể nói được rằng không bao giờ Giáo Hội thôi truyền
giáo. Bốn phần năm dân số địa cầu chưa biết Chúa, nên Giáo Hội phải truyền giáo
đã đành, nhưng ngay cả một phần năm đã biết Chúa, Giáo Hội cũng phải tái truyền
giáo nữa. Xem như thế, truyền giáo vừa là sứ mạng, vừa là số mạng, tức là sự
sống còn của Giáo Hội. Và tinh thần truyền giáo ấy một khi được hun đúc đều đặn
bằng cầu nguyện và hoạt động, ta có quyền hy vọng khi Chúa Kitô đến, Người vẫn
thấy niềm tin trên mặt đất.
2) Tinh thần truyền
giáo ấy được thể hiện khi thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện.
Được nuôi dưỡng bằng
cầu nguyện dung hòa với hoạt động cây truyền giáo nhất định sẽ vươn lên, nhưng
không thể không biết đến yếu tố thời tiết, mưa thuận gió hòa, hoặc nắng hạn mưa
giông. “Nhất nước nhì phân tam cần tứ giống,” đó là kinh nghiệm trồng cây. Song
một cây lành như cây truyền giáo phải biết chứng minh bằng phẩm chất của mình.
Nói khác đi, tinh thần truyền giáo cũng phải được chứng minh bằng chí bền sứ
mạng, nghĩa là vừa kiên tâm thực hiện những điều tốt, vừa kiên gan chịu đựng
ngay cả những điều xấu nữa (thánh Augustinô), phải bền chí khi thuận tiện cũng
như khi không thuận tiện.
Khi thuận tiện là khi
chí bền truyền giáo giúp ta tỉnh táo đừng để mất mình trong hoạt động đến nỗi
quên đi cầu nguyện, giúp ta phân biệt rõ ràng đâu là đóng góp nhỏ nhoi của mình
và đâu là ơn ban vô cùng to lớn của Thiên Chúa, và còn mãi giúp ta không chạy
theo những thành công trước mắt để sau này khỏi phải trả giá đắng cay trắng tay
thất vọng. Trong một chừng mực nào đó, biết đâu lối sống của ông thẩm phán bạo
ngược “chẳng kính sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng coi ai ra gì” trong bài Phúc Âm
lại chẳng có vài tương đồng với quan niệm háo thắng hoặc đắc thắng của cách
truyền giáo thời Trung cổ, vốn xem Kitô giới như một xã hội lý tưởng, nên cố mà
đưa người ta vào bằng chinh phục (truyền giáo) hoặc gắng mà ép người ta về bằng
cả chinh phạt nữa (thập tự chinh)?
Xem ra kiên tâm thực
hiện những điều tốt trong truyền giáo vào thời thuận tiện cũng không ít vấn đề.
Khi không thuận tiện
là khi chí bền truyền giáo không chỉ giúp ta chịu đựng những khắc nghiệt thường
xuyên, mà còn giúp ta biết tận dụng hoàn cảnh để mà thanh luyện tâm hồn. Nếu
những hoạt động phải chấp nhận giới hạn ngoài ý muốn, thì chí bền như một mạch
điện tự động “kiểm soát lợi suất” sẽ bù lại những giới hạn ấy bằng một thao
thức phong phú của lời nguyện cầu. Và nếu như hoàn cảnh cụ thể không cho phép
có một hoạt động bên ngoài nào nữa, thì vẫn còn đó mênh mông một phương tiện
truyền giáo bằng gương sáng tình mến, bằng chứng tá đức tin và bằng cách sống
tốt đẹp đời Kitô của mình.
Điều đáng sợ không
phải là hoàn cảnh khắc nghiệt, mà là chính mình không đủ chí bền mà vượt qua
những khắc nghiệt ấy. Trong ý tưởng này, có lẽ rất thích hợp khi đặt hình ảnh
người đàn bà góa bụa của bài Phúc Âm, nhiều lần đến quấy rầy ông thẩm phán mong
được minh xét minh định minh oan, ở đây như một cổ võ sống động cho chí kiên
bền.
Và dầu hoàn cảnh thuận
tiện hay không (bài đọc thứ hai), chí truyền giáo thiết tưởng cũng là biểu tỏ
của niềm hy vọng, là tình mến khởi đi từ một đức tin sống động vào Thiên Chúa
là Cha nhân ái luôn muốn sự tốt lành trong ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Được
như thế, chắc chắn khi Chúa Kitô trở lại vẫn thấy niềm tin còn trên mặt đất
trong chí bền của Giáo Hội là thân mình Người.
Ước mong rằng suy nghĩ
trên sẽ trở nên ý lực cho cuộc sống và trở nên ý nguyện trong Ngày Thế Giới
Truyền Giáo hôm nay.
8. Tâm hồn phải sâu rộng, cầu nguyện mới đắt lời.
(Trích dẫn từ ‘Lương
Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Trong Phúc âm theo
thánh Luca, dụ ngôn này đi liền sau một bài giảng của Đức Kitô về ngày tận thế,
có lẽ vì vậy câu cuối đoạn Phúc Âm hôm nay là “Tuy thế, Con Người đến sẽ còn
gặp được niềm tin trên trái đất nữa không?”. Có lẽ nhân vật thẩm phán bạc ngược
được dùng để làm nổi bật một sự tương phản. Bên này là một kẻ không có tình
người, bên kia là Đấng Thượng Đế tuyệt đối nhân hậu. Nếu như kẻ bạo ngược chán
chê mới nhận lời nài xin của bà goá chỉ vì muốn được yên thân với lòng ích kỷ
của mình, tại sao Thiên Chúa, Đấng vô cùng nhân hậu, không tức khắc nhận lời
cầu xin của con cái Người? Theo nhận xét bề ngoài, dụ ngôn nếu vấn đề thời hạn
Thiên Chúa đặt ra để nhận lời chúng ta cầu xin. Vấn đề khác sâu sắc hơn: Thiên
Chúa nhận lời, điều ấy nghĩa là gì? Khi chúng ta xin Thiên Chúa một điều rõ
rệt, chẳng hạn xin lương thực hằng ngày, chúng ta có biết rõ tính chất sâu sắc
bí ẩn của điều chúng ta xin không? Chúng ta có nhận thức không về tầm mức điều
Thiên Chúa nhận lời ban cho, vì Thiên Chúa bao giờ cũng nhận lời? Chúng ta là
những sinh vật sống trong giới hạn thời gian chúng ta đo bằng ngày giờ, bằng
hiện tại và tương lai. Những ước vọng của chúng ta, tức là những lời cầu
nguyện, hướng lên Thiên Chúa. Chúng ta sốt ruột nến phải chờ đến ngày mai,
chúng ta muốn được thoả mãn ngay hôm nay, ngay tức khắc. Vậy mà Thiên Chúa nhìn
chúng ta ở ngoài giới hạn thời gian ấy, Người nhận lời chúng ta tuỳ theo viễn
ảnh toàn bộ định mệnh chúng ta, bây giờ và trong tương lai. Thiên Chúa vượt ra
ngoài cái hiện tại trước mắt. Chúng ta ghi nhận hai điều sau:
1) Tại sao Thiên Chúa
luôn luôn nhận lời? Bởi vì Người là Cha vô cùng nhân lành. Niềm tin chắc Thiên Chúa
nhận lời cầu khẩn chính là một trong những cột trụ vững chắc nhất đời sống Kitô
giáo. Nghi ngờ điều ấy là tội phạm đến đức cậy. Điều ấy quá đúng đến nỗi lời
cầu nguyện của chúng ta không cần dài dòng vì Thiên Chúa biết trước biết rõ hơn
chúng ta điều gì cần cho chúng ta. Thế mà Thiên Chúa là Cha chúng ta, luôn luôn
sẵn sàng ban cho rất hậu tất cả những điều chúng ta cần. Toàn bộ Phúc Âm khẳng
định sự thật ấy. Nếu vậy tại sao phải cầu nguyện? Cầu nguyện phải chăng là
không cần thiết?
2) Bởi lẽ Thiên Chúa
dựng nên chúng ta, những tạo vật có tự do, Người không bắt buộc chúng ta nhận
lãnh ân huệ của Người cách miễn cưỡng. Thiên Chúa chỉ đáp ứng những nguyện vọng bày
tỏ cách tự do. Lượng nhân hậu của Thiên Chúa đáp ứng quá lời cầu xin của chúng
ta, nhưng Người muốn chúng ta phải cầu xin. Tại sao chúng ta thấy hình như
Thiên Chúa rất nhiều phen để lâu mới trả lời. Sở dĩ như vậy vì nguyện vọng nung
nấu và cầu nguyện bền bỉ mở rộng khả năng lòng trí chúng ta. Cầu nguyện hữu ích
trước hết cho chúng ta, cầu nguyện đào sâu mở rộng tâm hồn. Thế mà Đấng nhân
hậu vô biên cần có những tâm hồn sâu rộng… Hơn nữa, khi thấy Chúa mãi chưa cho,
phải chăng Người có tham vọng sẽ ban chính mình Người cho chúng ta?
9. Dân chúng và linh mục cùng nhau cầu nguyện
(Trích trong ‘Mở Ra
Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller)
Thật là dễ dàng để bứt
đứt một sợi chỉ nhưng khi đặt một ngàn sợi chỉ cùng với nhau trong một sợi dây
bện thì thật khó mà cắt chúng ra làm hai. Cầu nguyện thì cũng giống như thế.
Khi chúng ta cùng nhau cầu nguyện, đặc biệt là trong khi cử hành phụng vụ, lời
cầu nguyện của chúng ta có một sức mạnh vô song. Thiên Chúa rất hài lòng với
lời cầu nguyện này. Khi chúng ta cùng nhau cầu nguyện, Thiên Chúa là Cha của
chúng ta sẵn sàng đoái nhìn chúng ta trong Con yêu dấu của Người, là Đầu của
Thân Thể, Giáo Hội của Người. Lời cầu nguyện cùng nhau trong phụng vụ như là
thân mình của Đức Kitô, là lời cầu nguyện tốt đẹp nhất.
Bài đọc đầu tiên của
ngày hôm nay biểu hiện được lời cầu nguyện phụng vụ chung này, Môsê cần sức
mạnh để tiếp tục cầu nguyện trong cuộc chiến đấu với người Amalếch. Bao lâu
Môsê đưa hai tay lên cầu nguyện thì dân Israel chiến thắng, nhưng khi ông buông
tay xuống thì người Amalếch lại phản hồi và chiến thắng. Tiếp đó, Aaron, người
anh em của Môsê và Hur bạn của ông đã giúp ông giữ cánh tay luôn luôn ở trong
tư thế cầu nguyện, bởi đó dân Israel đã chiến thắng cuộc chiến.
Môsê và đôi tay giơ
lên trong tư thế cầu nguyện thì giống như linh mục ngày hôm nay với đôi tay
dâng lên cầu nguyện trong phụng vụ của Thánh Lễ. Linh mục sẽ không còn mệt mỏi
như Môsê đã mệt mỏi xưa kia vì mọi người trong Thánh Lễ đã cùng hiệp lòng, cùng
nâng bàn tay và cánh tay của linh mục. Giáo dân và linh mục đã cùng cầu nguyện
với nhau. Linh mục sẽ không cầu nguyện cho chính ngài, ngài là vị lãnh đạo, là
chủ tịch, là người thay thế và đại diện cho giáo dân, cho toàn dân. Đó là thời
gian mà linh mục và giáo dân nói hoặc hát cùng với nhau như trong kinh Vinh
danh hoặc trong những lời tuyên xưng. Tiếp đó giáo dân đáp lại những lời cầu
nguyện mà vị linh mục đã xướng trên mọi người. Giáo dân lắng nghe cách chăm chú
và cầu nguyện trong tâm hồn họ, đặc biệt là trong suốt kinh nguyện Thánh Thể.
Tư tế linh mục là dấu
hiệu hợp nhất của phụng vụ, điều đó được tỏ hiện qua lời cầu nguyện dâng lên
Thiên Chúa như là một dân duy nhất. Tất cả chúng ta như hằng ngàn sợi chỉ đã
hình thành trong một sợi dây thừng. Không chỉ vị linh mục nơi Thánh Lễ, nhưng
là mọi người đều cần thiết và xứng đáng để nâng đỡ những người bạn Công giáo,
đặc biệt là sự trung thành trong lời cầu nguyện khi chúng ta cảm thấy Thiên
Chúa không đáp lời chúng ta. Chúng ta tin rằng sự giúp đỡ của chúng ta đến từ
Thiên Chúa nhưng có lúc khó mà hành động theo như niềm tin của chúng ta.
Chúa Giêsu hiểu sự yếu
đuối của chúng ta. Đó là lý do vì dao Ngài đã nói với chúng ta về dụ ngôn sự
cần thiết của cầu nguyện luôn luôn và đừng bao giờ mất hy vọng. Người góa phụ
trong dụ ngôn là môt bằng chứng. Một bằng chứng về sự bền bỉ, bà đã bị từ chối,
bị bỏ rơi. Chúa Giêsu đã không muốn chúng ta bỏ cuộc, không có vấn đề gì khó,
hay mất bao lâu để chúng ta cầu nguyện cho một điều gì. Để chúng ta cùng nhau
cầu nguyện trong suốt Thánh Lễ.
Chúng ta đến với Thánh
Lễ với nhiều lý do, và có thể mọi người trong chúng ta đều được thúc đẩy bởi lý
do riêng của mỗi người mà chúng ta cho là quan trọng nhưng trên hết chúng ta
phải được cảnh báo để thực hành bài học của phụng vụ trong ngày hôm nay.
Là một người Công
giáo, một thành phần của Giáo Hội, chúng ta có trách nhiệm hướng đến người
khác. Aaron và Hur đã không bỏ rơi Môsê trong lúc ông mệt mỏi. Họ không nghĩ
rằng Môsê cầu nguyện một mình hoặc họ phải chú ý tới những lời cầu nguyện riêng
của họ. Thiên Chúa hài lòng với lời cầu nguyện đầy mạnh mẽ bởi vì chúng ta cầu
nguyện với tất cả không phải như những cá nhân độc lập, nhưng là cùng nhau như
những người Công giáo, những người của Giáo Hội được hợp nhất trong tinh thần
và trong thân thể của Đức Kitô.
10. Cần phải cầu nguyện không ngừng
(Suy niệm của Lm.
Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bài Tin Mừng hôm nay
bắt đầu: "Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn, dạy các ông phải cầu
nguyện luôn, đừng ngã lòng". Dụ ngôn nói về một bà goá gây phiền hà. Để
trả lời cho câu hỏi "Chúng ta phải cầu nguyện bao lâu?" Chúa Giêsu trả
lời, "phải cầu nguyện luôn!" (Lc 18, 1-2).
Bà góa trong dụ ngôn
tin chắc vào vụ kiện của bà, bà chứng tỏ rằng bà đáng được đền bù, nên không
ngại đấu tranh vì điều đó, bà có đủ lý do để lo lắng, vì các thẩm phán hành
động không theo công lý, "họ không kính sợ Thiên Chúa, cũng không kiêng nể
người ta"(Lc 18, 3). Đức Giêsu không ngại gọi ông là "vị thẩm phán
bất lương nói"(Lc 18, 7). Vị thẩm phán bất lương này không có ý định xử vụ
bà góa kiện, ông không để ý đến vụ kiện của bà. May mắn thay, câu chuyện kết
thúc tốt đẹp: khi ông từ chối mãi, cuối cùng ông mất kiên nhận vì sự quấy rầy
của bà, nên xét xử cho bà, để ông có sự yên tĩnh.
Và Đức Giêsu phán:
"Các con hãy nghe lời vị thẩm phán bất lương đó nói". Cuối cùng vị
thẩm phán đó cũng mang lại công lý, hơn nữa chúng ta chắc chắn rằng Thiên Chúa
sẽ nghe lời chúng ta. Đức Giêsu tuyên bố một cách long trọng rằng: "Thầy
bảo các con, Chúa lại sẽ kíp giải oan cho họ !" (Lc 18, 8).
Để chúng ta yên tâm
Thánh Luca giải thích rằng "Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ một dụ ngôn,
dạy các ông phải cầu nguyện luôn, đừng ngã lòng". Nguy cơ chán nản thất
vọng, khiến chúng ta ngã lòng là vì Thiên Chúa nhân lành không nhận lời chúng
ta ngay? Nghĩa là Thiên Chúa có thể trì hoãn đáp lời chúng ta. Đáng ngạc nhiên
nhất Đức Giêsu bảo chúng ta "phải luôn luôn cầu nguyện không ngừng",
cần phải kiên trì.
Để giúp chúng ta giải
quyết nghịch lý này, phụng vụ cho chúng ta đọc sách Xuất Hành (Xh 17, 8-13) có
Môisen cầu bầu cho dân Israel trong trận chiến với người Amalec kẻ thù cha
truyền con nối. Tình trạng của dân Israel cũng giống như bà góa trong Tin Mừng
(Lc 18 ; 1-8). Israel chiến thắng là do tác động của Thiên Chúa chứ không chỉ
bằng vũ lực của các chiến binh. Vì thế, khi nào Môisen mệt mỏi, hạ tay xuống,
thì Israel thua trần, còn nếu ông cứ giơ tay lên, thì dân Israel thằng trận (Xh
17, 12). Thực tế cho thấy sức mạnh và sự kiên trì cầu nguyện là chìa khóa để
chiến thắng. Môisen đã thể hiện niềm tin của mình vào Thiên Chúa công bình, khi
cánh tay của ông giơ cao, dân chúng thấy sức mạnh của lời cầu nguyện. Tóm lại,
Bài đọc I cho thấy niềm tin vào Thiên
Chúa có thể đảo ngược
những tình huống tuyệt vọng nhất. Thiên Chúa ban ơn cách mau lẹ, Ngài mau đáp
lời, nhưng một cuộc chiến vẫn được thực hiện, ân sủng phải được thể hiện trong
nhân loại, chúng ta cần có thời gian để khám phá. Sự kiên trì cầu nguyện của
con người và sự đáp trả từ từ của Thiên Chúa không phải là mâu thuẫn.
Điểm này khai sáng
trang Tin Mừng. "Thầy bảo các con," Đức Giêsu trả lời chúng ta. Đây
không phải là một câu hỏi nhưng một điều chắc chắn: Thiên Chúa nhân lành vẫn lo
lắng và ban cho con cái mọi điều chúng cần. Dụ ngôn giúp chúng ta hiểu những gì
Chúa quan tâm: "Nhưng khi Con Người đến, liệu sẽ còn gặp được lòng tin
trên mặt đất nữa chăng?". Thật vậy, Thiên Chúa sẽ minh oan cho người Ngài
tuyển chọn "kẻ ngày đêm kêu cầu Ngài". Trong số những người nghe dụ
ngôn, làm thế nào "kêu cầu cùng [Thiên Chúa ] ngày và đêm"? Đây là lý
do tại sao chúng ta phải luôn luôn cầu nguyện và kiên trì nữa để duy trì lòng
tin của chúng ta!
Sự cầu nguyện, như
tình yêu, không chịu sự tính toán. Một người mẹ đâu có hỏi bà phải thường yêu
con mình bao lâu, hay là một người bạn đâu có hỏi mình phải yêu một người bạn
bao lâu? Có thể có những mức độ khác nhau trong sự cân nhắc đối với tình yêu, nhưng
không có những khoảng cách nhiều hay ít điều hòa hơn trong sự yêu đương. Với sự
cầu nguyện cũng vậy. Lý tưởng của sự cầu nguyện kiên trì này được thực hiện
trong nhiều hình thức bên phương Đông và phương Tây. Kitô giáo phương Đông thực
hành điều ấy với "Kinh cầu nguyện Chúa Giêsu: "Lạy Chúa Giêsu Kitô,
xin thương xót con!"
Thánh Augustine dạy
rằng bản chất của sự cầu nguyện là sự ước muốn. Nếu sự ước muốn đối với Thiên
Chúa là kiên trì, thì sự cầu nguyện cũng vậy, nhưng nếu không có sự ước muốn
nội tâm, bấy giờ bạn có thể la hét nhiều như bạn muốn với Thiên Chúa bạn lặng
thinh.
Bây giờ, sự ước muốn
bí mật đối với Chúa, một công việc của trí nhớ, của nhu cầu đối với sự vô cùng,
của sự tưởng nhớ đến Chúa, có thể vẫn sống động, cả khi người ta có những sự khác
phải làm: "Cầu nguyện lâu giờ cũng không là một sự như quì gối hay chấp
tay lâu giờ. Cầu nguyện đúng hơn hệ tại sự đánh thức một sự thúc đẩy kiên trì
và thành kính tâm hồn đối với Đấng chúng ta cầu khẩn."
Chính Chúa Giêsu cho
chúng ta gương cầu nguyện không ngừng. Người đã cầu nguyện ban ngày, ban chiều,
sớm ban mai, và thỉnh thoảng Người thức suốt đêm cầu nguyện. Sự cầu nguyện là
sợi giây liên kết của toàn diện sự sống của Người.
Nhưng gương Chúa Giêsu
nói với chúng ta một cái gì quan trọng khác. Chúng ta tự phỉnh gạt mình nếu
chúng ta tưởng rằng chúng ta có thể cầu nguyện luôn, biến sự cầu nguyện thành
một thứ hơi thở của linh hồn giữa sinh hoạt hằng ngày, nếu chúng ta không chỉ
ra những thời gian ấn định cho sự cầu nguyện, khi chúng ta tránh khỏi mọi sự
bận việc khác.
Lạy Chúa Giêsu, xin
hướng lòng chúng con về với Chúa, giúp chúng con kiên trì cầu nguyện với Chúa
không ngừng, xin Chúa dạy chúng con cầu nguyện, để linh hồn, thể xác, trí khôn
chúng con luôn hướng về Chúa. Amen.
11. Cầu nguyện với đôi tay rộng mở - McCarthy
Đức Giêsu nói với các
môn đệ và với chúng ta hôm nay “Hãy cầu nguyện không ngừng và không bao giờ nên
chán nản”. Từ khi còn thơ ấu, chúng ta được dạy rằng khi cầu nguyện phải chắp
tay lại. Tuy nhiên, trong các kinh nguyện lớn của thánh lễ, vị linh mục mở rộng
và dang thẳng đôi tay. Hai cách cầu nguyện đều tốt và có chỗ của chúng. Nhưng
những cử chỉ khác nhau ấy có nghĩa là gì? Khi chắp tay lại, có nghĩa là trong
lúc ấy chúng ta ngừng lại các hoạt động bình thường của chúng ta và dành thời
gian để cầu nguyện Thiên Chúa. Điều này phù hợp với sự cầu nguyện riêng tư. Cầu
nguyện với bàn tay mở rộng phù hợp với sự cầu nguyện chung. Cầu nguyện như thế
là nhận rằng trước mặt Thiên Chúa, chúng ta nghèo khó. Vì thế, chúng ta hướng
bàn tay trống rỗng về Thiên Chúa như một người ăn mày hướng cái bát trống rỗng
về những người khách bộ hành. Thật vậy, chúng ta đang nói: “Lạy Chúa, trước mặt
Chúa, con nghèo khó như một người ăn mày. Con cầu Chúa làm đầy sự trống rỗng
của con”. Cử chỉ cầu nguyện với đôi tay mở rộng tạo nên một tình trạng mạnh mẽ.
Tự nó là một bài thuyết giáo. Cử chỉ ấy có từ xa xưa trong Kinh Thánh. Có một
ví dụ về điều đó trong bài đọc 1 của thánh lễ hôm nay. Chúng ta thấy Môsê ở
trên đỉnh đồi cầu nguyện với đôi tay dang rộng trên dân Do thái, trong cuộc
chiến đấu một mất một còn với quân Amalếch. Khi cánh tay ông hạ xuống, quân
Amalếch thắng thế. Nhưng khi ông giữ tay giương cao, quân Do thái thắng thế.
Điều đó có ý muốn diễn tả quyền lực của sự cầu nguyện. Chừng nào mà dân Do thái
còn đặt niềm tin vào Thiên Chúa, họ còn tiến lên. Chừng nào họ quên không nhìn
đến Thiên Chúa, họ buộc phải rút lui.
Đức Giêsu khuyên chúng
ta cầu nguyện luôn và không nản chí. Nếu chúng ta ngưng cầu nguyện, chúng ta
hầu như mất nhiệt tình và bỏ cuộc. Nếu chúng ta cầu nguyện liên tục, chúng ta
sẽ không bao giờ mất nhiệt tình. Cầu nguyện có nghĩa là đặt chính mình và số
phận của mình trong đôi tay của Thiên Chúa. Chúng ta cầu nguyện có nghĩa là
chúng ta trông cậy vào sức mạnh của Thiên Chúa chứ không phải sức mạnh của
chúng ta. Khi chúng ta cầu nguyện một thứ quyền lực khác trở thành có hiệu lực
đối với chúng ta.
Linh mục đọc Kinh
nguyện trong thánh lễ với đôi tay rộng mở. Giống như Môsê, ông cầu nguyện không
chỉ nhân danh ông mà nhân danh một cộng đoàn thờ phượng. Cho dù chính chúng ta
không cầu nguyện giống như thế, chúng ta có thể có cùng một thái độ trước Thiên
Chúa như kinh nguyện ấy gợi ý: một thái độ khiêm nhường và tín thác.
Một lời cầu nguyện
được đáp lại, không phải khi chúng ta có được điều chúng ta cầu xin, nhưng khi
chúng ta được ban cho cảm thức về sự cận kề của Thiên Chúa. Lời cầu nguyện của
một bệnh nhân được đáp lại không phải bởi bì bệnh của người ấy biến mất, nhưng
bởi vì người ấy có được một cảm thức về sự kề cận của Thiên Chúa, sự bảo đảm rằng
căn bệnh của người ấy không phải là một hình phạt của Thiên Chúa và Thiên Chúa
không bỏ rơi người ấy. Cầu nguyện có thể không làm thay đổi thế giới cho chúng
ta, nhưng nó có thể cho chúng ta lòng can đảm đối diện với thế giới.
Khi chúng ta học cách
cầu nguyện, chúng ta không chỉ học cách đọc lời kinh mà còn học cách mở rộng
lòng mình. Chỉ cần ngồi thật im lặng và mở lòng mình và để Thiên Chúa bước vào.
12. Cầu nguyện không ngừng - McCarthy
Đức Giêsu nói với các
môn đệ và với chúng ta hôm nay “Hãy cầu nguyện không ngừng và không bao giờ nên
nản chí”. Một số người không nhận thấy giá trị của việc cầu nguyện thường
xuyên. Họ nghĩ rằng chỉ cần cầu nguyện khi họ cảm thấy hứng thú. Và câu chuyện
sau đây được kể lại cho những người như thế.
Trước đây có một thị
trấn nhỏ có đủ mọi cơ sở của một thành phố tự trị: một nhà tắm, một nghĩa
trang, một bệnh viện và một toà án. Nó cũng có mọi loại thờ thủ công: thợ may
nam nữ, thợ giày, thợ mộc, thợ nề, vân vân… Tuy nhiên, thiếu một ngành nghề:
không có thợ đồng hồ.
Giờ đây, nhiều năm
trôi qua, nhiều năm trôi qua, nhiều đồng hồ không còn chính xác nữa đến nỗi các
người có đồng hồ để cho đồng hồ họ ngưng chạy và hoàn toàn quên chúng. Tuy
nhiên, có những người khác vẫn không vất bỏ đồng hồ, và để cho chúng chạy chừng
nào chúng còn chạy được. Vì thế, họ đã lên dây đồng hồ mỗi ngày dù họ biết rằng
chúng không còn chạy chính xác nữa.
Một ngày nọ, một tin
lan ra khắp thị trấn: một người thợ đồng hồ đã đến. Mọi người chạy đến ông ta
với những chiếc đồng hồ của họ. Nhưng chỉ những đồng hồ người ta còn để cho
chạy, người thợ ấy mới sửa được. Những đồng hồ bị bỏ xó bụi bặm bám đầy, ông ta
không thể làm gì với chúng.
Tại sao cầu nguyện lại
quan trọng? Nó làm được điều gì? Cầu nguyện làm cho hy vọng và những ý định
của chúng ta trở nên trong sáng. Nó giúp chúng ta phân biệt giữa điều quan
trọng và tầm thường. Nó giúp chúng ta khám phá những khát vọng chân thật của
chúng ta, những ray rứt mà chúng ta không biết, những ước mơ mà chúng ta quên
lãng. Cầu nguyện là một hành động thanh luyện bản thân.
Cầu nguyện dạy chúng
ta phải khao khát điều gì. Nó giúp vun đắp trong
chúng ta những lý tưởng mà chúng ta phải trân trọng. Sự trong sạch của miệng
lưỡi hiện ra như một ý tưởng trong trí óc chúng ta, nhưng ý tưởng trở thành một
sự quan tâm, một điều gì đó phải được theo đuổi, một mục tiêu phải được đạt
đến, khi ấy chúng ta cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin giữ miệng lưỡi con không nói
điều xấu và môi con không nói lời xảo trá”.
Cầu nguyện không thay
thế cho hành động. Đúng hơn, cầu nguyện giống như một luồng ánh sáng từ chiếc đèn
ở phía trước chúng ta chiếu vào đêm tối. Nó giúp chúng ta tiến lên phía trước,
nó khuyến khích chúng ta hành động.
Cầu nguyện không trốn
tránh cuộc đời nhưng là một hành trình đi vào trung tâm của đời sống. Chúng ta học đứng
vững trên đôi chân mình trước Thiên Chúa và thế giới, và chấp nhận mọi trách
nhiệm về đời sống chúng ta.
Mục đích chính của đời
sống ấy là nuôi dưỡng tương quan chúng ta với Thiên Chúa. Đây là điều quan
trọng nhất trong mọi sự việc, chứ không phải việc chúng ta làm. Đó là cái neo
trong đời sống tâm linh của chúng ta. Đời sống tâm linh không phải là một sự
khác thường. Nó là đời sống của bản thân chân thật. Vấn đề không phải chỉ là
đọc kinh.
Cầu nguyện không phải là một
chiến thuật dùng khi hữu sự, một nơi trú ẩn được
dùng đến khi sự việc trở nên tồi tệ. Nó là nơi cư trú được thiết lập cho cái
tôi thâm sâu nhất. Cầu nguyện không phải là cầu xin Thiên Chúa cái này cái nọ
mà nhận lãnh điều mà Người muốn ban cho chúng ta.
Cầu nguyện tự nó là
một phần thưởng. Nó làm chúng ta trở nên phong phú và có khả năng sống không
những tâm linh hơn mà sâu xa hơn, viên mãn hơn và đích thực hơn.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Một lần kia, có một
người thợ giày rất coi trọng việc cầu nguyện mỗi ngày. Khách hàng của ông ta
đều là dân nghèo, và họ chỉ có mỗi một đôi giày. Người thợ giày phải nhận các
đôi giày cần sửa vào chiều tối, sửa chữa chúng suốt đêm và sáng sớm giao hàng
để các chủ nhân của chúng sẵn sàng sử dụng chúng lúc đi làm.
Điều này làm phát sinh
một vấn đề: Ông sẽ đọc kinh sáng vào lúc nào? Có nên cầu nguyện thật nhanh vào
sáng sớm và sau đó trở lại với công việc? Hoặc cứ để giờ cầu nguyện đã định
trôi đi và mỗi lần như thế, ông ngừng tay búa đóng giày và thở dài: “Khốn cho
tôi, tôi chưa cầu nguyện được”.
Chúng ta cũng thường
gặp sự nan giải ấy vì phải lựa chọn hoặc sự hối tiếc trong lòng hoặc cầu nguyện
đại khái chiếu lệ. Nhiều người trong chúng ta cố nén việc cầu nguyện thường
ngày với lòng hối tiếc để chờ có được những điều kiện lý tưởng.
Nhưng sự kiềm chế, trì
hoãn mãi có thể dễ dàng trở thành một thói quen. Khi giờ cầu nguyện đến, dường
như miệng lưỡi chúng ta mệt mỏi, trí óc chúng ta trì trệ và cái nhìn nội tâm
của chúng ta mờ tối. Vì thế, chúng ta không cầu nguyện. Chúng ta không từ khước
cầu nguyện; chúng ta kiềm chế. Sự nuông chiều bản thân phù phiếm này ngăn cản
chúng ta dìm mình vào sự tĩnh mịch bao quanh thế giới, sự tĩnh mịch trước lúc
chúng ta sinh ra và đi theo chúng ta khi chúng ta chết.
Tại sao chúng ta không
dành một giờ sống thân mật với Thiên Chúa và quay về với sự thính lặng tĩnh
mịch ấy? Chúng ta ở trên ranh giới của sự mầu nhiệm mà mình không biết.
13. Kiên nhẫn trong lời cầu
Qua đoạn tin mừng hôm
nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ hai điểm, đó là hãy cầu nguyện và cầu nguyện
trong kiên nhẫn.
Trước hết là hãy cầu
nguyện.
Người xưa có câu:
- Hữu cầu tất hữu ứng.
Câu này thực đúng với
lời Chúa Giêsu đã nói:
- Hãy xin thì sẽ được,
hãy tìm thì sẽ thấy và hãy gõ cửa thì sẽ mở cho.
Chỉ cần đọc lại Phúc
âm, chúng ta sẽ thấy được sự thật ấy.
Ngày kia, có một viên
đội trưởng đến xin Chúa chữa lành cho đứa con đau yếu tại nhà. Chúa bảo:
- Ta sẽ đi chữa nó.
Nhưng viên đội trưởng
liền thưa lại:
- Lạy Thầy, con chẳng
đáng Thầy ngự vào nhà con, nhưng xin Thầy phán một lời, tức thì đứa nhỏ nhà con
sẽ lành mạnh.
Chúa Giêsu đã khen
ngợi đức tin của ông và đã chữa lành cho đứa con của ông.
Cũng trong lúc ấy, có
một người phong cùi đến quỳ dưới chân Chúa mà van xin:
- Lạy Thầy, nếu Thầy
muốn, Thầy có thể làm cho con được sạch.
Và Chúa Giêsu đã nói
với anh:
- Ta muốn, con hãy nên
lành sạch.
Thái độ dễ dàng của
Chúa Giêsu không có chi là khó hiểu vì Ngài là Đấng quyền năng và giàu lòng
thương xót.
Thực vậy, là một người
giàu có, sẵn tiền trong tay, đồng thời lại là người quảng đại và bác ái, nếu
gặp một kẻ nghèo khổ đến xin giúp đỡ, hẳn chúng ta sẽ không ngần ngại bố thí.
Là con người xấu xa,
chúng ta còn biết đối xử với nhau như vậy, huống nữa là Thiên Chúa. Ngài vừa
giàu về quyền năng, lại vữa giàu về lòng thương xót. Chính Chúa Giêsu cũng đã
nói cho chúng ta biết điều ấy:
- Ai trong các ngươi
lại cho đá thay vì bánh, cho rắn thay vì cá khi con cái các ngươi van xin. Là
những kẻ xấu xa, các ngươi còn biết đem của tốt mà cho con cái, phương chi là
Cha các ngươi ở trên trời, là Đấng tốt lành vô cùng.
Và rồi Ngài đã kết
luận:
- Hãy xin thì sẽ được,
hãy tìm thì sẽ thấy và hãy gõ cửa thì sẽ mở cho.
Điều cần thiết đó là
chúng ta có xin, có tìm và có gõ cửa hay không?
Tuy nhiên, Chúa còn
đòi hỏi chúng ta phải kiên nhẫn trong lời cầu của mình.
Thực vậy, người đời
thường bảo:
- Ngồi lâu câu bền,
năng nhặt chặt bị.
Chính Chúa Giêsu cũng
nói:
- Ai bền đỗ đến cùng
thì sẽ được cứu rỗi.
Hẵn chúng ta còn nhớ
câu chuyện về người đàn bà xứ Canaan. Bà tới xin Chúa Giêsu làm phép lạ cho đứa
con gái bị quỉ ám. Lần thứ nhất, Chúa yên lặng. Lần thứ hai, Chúa cũng vẫn yên
lặng đến nỗi các môn đệ phải can thiệp:
- Xin Thầy làm phứt đi
cho bà kẻ bà cứ lải nhải đi theo chúng ta,
Thế nhưng, Chúa đã đáp
lại bằng một câu không ai ngờ tới:
- Đừng lấy bánh của
con cái mà ném cho chó.
Dầu vậy, bà vẫn không
thất vọng nản chí, bà thưa lên cùng Chúa:
- Ít nữa là chó con
cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn rơi xuống.
Và Chúa Giêsu đã khen
ngợi sự kiên nhẫn của bà và đã cứu chữa đứa con gái của bà.Thánh nữ Monica cũng
đã từng kiên nhẫn cầu nguyện trong nức mắt và khổ đau suốt nhiều năm, cuối cùng
Augustinô đã làm lại cuộc đời và trở nên một vị thánh. Hãy cầu xin và cầu xin
trong kiên nhẫn, chắc chắn Chúa sẽ nhận lời chúng ta.
14. Chúa Giêsu dạy cầu nguyện
(Suy niệm của Lm.
Giuse Nguyễn Hữu An)
Theo tục lệ của
người Do thái, Chúa Giêsu cầu nguyện một ngày 3 lần: buổi sáng khi mặt trời
mọc, buổi chiều vào lúc cử hành hy tế trong đền thờ Giêrusalem (3giờ chiều) và
ban tối khi màn đêm buông xuống. Trước và sau bữa ăn còn có những lời kinh tạ
ơn. Các giờ cầu nguyện đó là thói quen hàng ngày của bất cứ người Do thái đạo
đức nào. Nhưng lời cầu nguyện của Chúa Giêsu còn có một cái gì đó vượt cao hơn
mô hình truyền thống Do thái.
1. Chúa Giêsu cầu
nguyện.
Các sách Tin Mừng cho
thấy, Chúa Giêsu cầu nguyện vào những giây phút quan trọng nhất trong cuộc đời
của Người. Khi chịu Phép Rửa và nhận lãnh sứ mạng Chúa Cha giao phó (Lc 3,21);
đêm trước khi chọn các môn đệ (Lc 6,12); trước khi biến hình (Lc 9,28); trước
khi chữa bệnh cho nhiều người (Ga Lc 5,16); trước khi đặt ra cho các môn đệ câu
hỏi quan trọng: người ta bảo Thầy là ai?; khi dạy các môn đệ cầu nguyện (Lc
11,1-2); khi các môn đệ đi truyền giáo lần đầu tiên trở về; trước khi chịu
thương khó (Lc 22,34-46); trong bữa Tiệc Ly; đêm thương khó; trên Thánh giá (Lc
23,34.46)... Lời cầu nguyện đã nuôi sống tất cả sứ mạng của Người.
Các Tông đồ đã nhiều
lần thấy Thầy cầu nguyện. Có lẽ khi Thầy cầu nguyện có một cái gì đó thật đẹp,
thật huyền bí và cũng thật lôi cuốn tỏa ra từ nơi con người Thầy.
Vào một buổi sáng sớm,
lúc trời còn tối mịt, Chúa Giêsu đã ra khỏi nhà ông Phêrô để tìm một nơi thanh
vắng mà cầu nguyện (Mc 1,35). Chúa Giêsu phấn khởi trong Thánh Thần, Ngài ngước
mắt lên trời và cầu nguyện: "Con ngợi khen Cha là Chúa trời đất, vì Cha đã
mạc khải cho những kẻ bé mọn những điều mà Cha giấu không cho những bậc khôn
ngoan và trí thức biết" (Lc 10,21).
Chúa Giêsu ngước mắt
lên trời tâm sự với Chúa Cha rằng: "Con cảm tạ Cha vì Cha đã nghe lời con
cầu xin. Vâng, con biết rằng lúc nào Cha cũng vẫn nghe lời con xin. Sở dĩ con
nói thế là để những người đang đứng bên con đây tin rằng Cha đã sai con"
(Ga 11,41-41). Đặc biệt là trong phòng Tiệc Ly, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời
để cầu nguyện với Chúa Cha. Tâm sự ngỏ với Cha rất nhiều lời tha thiết (Ga 17).
Trong vườn Cây Dầu,
Chúa Giêsu quỳ gối và cầu nguyện: "Lạy Cha, nếu đựoc thì xin cho con khỏi
uống chén này, nhưng xin đừng theo ý con, xin chỉ thực hiện ý của Cha" (Lc
22,42).
Lúc hấp hối trên Thánh
giá, Chúa Giêsu cầu nguyện gởi lên Cha ba lời tâm sự tha thiết: Lạy Cha, xin
tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm; Lạy Cha, sao Cha bỏ con?; Lạy Cha,
con xin phó thác hồn con trong tay Cha.
Chiêm ngắm Chúa Giêsu
cầu nguyện, ta có thể hiểu rằng:
- Tư thế cầu nguyện
rất linh động: có thể quỳ, có thể đứng, có thể ngồi...Ánh mắt ngước lên trời
cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa Cha trong cõi vô biên, hoặc nhắm mắt lại để
cho hồn xoáy vào vô biên ấy.
- Nội dung cầu nguyện
là ngỏ bày tâm tình của mình cho Chúa Cha. Tâm tình có khi là ngợi khen, chúc
tụng, cảm tạ, có khi là thống hối, cầu xin. Luôn luôn kết thúc bằng hai ý
nguyện: xin đừng theo ý con mà là theo ý Cha và con xin phó thác hồn con trong
tay Cha.
- Nơi chốn cầu nguyện
có thể là một nơi thanh vắng (Lc 5,16), trên núi (Lc 6,12;9,28), mà cũng có thể
là nơi chỗ đông người (Ga 12,28).
- Thời gian cầu nguyện
là bất cứ lúc nào, nhưng tốt nhất là sáng sớm tinh mơ hay lúc đêm về.
- Đỉnh cao của cầu
nguyện chính là "xin đừng theo ý con mà theo ý Cha".
2. Chúa Giêsu dạy cầu
nguyện
Chúa Giêsu dạy phải
cầu nguyện như Người hằng cầu nguyện (Lc 6,12); cầu nguyện cho các địch thù (Lc
6,28; Mt 5,34); kiên trì và tin tưởng cầu nguyện (Lc 11,5-8.9-13; Mt 7,7-11);
cầu nguyện với lòng khiêm tốn để nhận ơn tha thứ (Lc18,9-14); vững tâm cầu
nguyện đón chờ ngày Chúa đến (Lc 21,36); cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ (Lc
22,40.46)... Khi các môn đệ xin Người dạy cách cầu nguyện, Người dạy họ cầu
nguyện với kinh Lạy Cha (Lc 11,2-4; Mt 6,9-13). Chúa Giêsu mang theo cả nhân
loại trong lời cầu nguyện của mình. Người nói chuyện với Chúa Cha, bàn bạc với
Chúa Cha về những việc Người làm cho công cuộc cứu độ nhân loại.
Tin mừng Chúa nhật hôm
nay, Chúa Giêsu dạy về sự cần thiết và hiệu nghiệm của lời cầu xin. Phải cầu
nguyện liên lỉ, đừng bao giờ nhàm chán, đừng ngã lòng. Chúa dùng Dụ ngôn minh
hoạ, ông quan toà bất lương gặp bà goá kêu nài.
Bà góa cô thân cô thế
nhưng lại kiên trì cương quyết, bà tin chắc cứ kêu nài, cứ van xin, thế nào
quan tòa cũng chịu xét xử. Quan tòa là người chẳng sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng
coi ai ra gì, nhưng cũng chịu thua bà góa. Ông minh xử cho bà goá không phải vì
yêu thương, chẳng phải vì trách nhiệm mà là vì sợ bị quấy rầy. Một quan tòa vô
đạo, bất công mà còn xét xử cho người van xin thì huống là Thiên Chúa, Đấng
công minh chính trực, thưởng phạt công bằng, Đấng giàu lòng xót thương, luôn
bênh đỡ những kẻ bé mọn kêu cầu Ngài!
Khi nói dụ ngôn này,
Chúa Giêsu không có ý nói phải cầu xin thật dai dẳng thì mới được Thiên Chúa
nhậm lời, nhưng Người muốn chúng ta tin tưởng vào hiệu lực của lời cầu xin, bởi
vì "Có người cha nào, khi con mình xin cái bánh mà lại cho nó hòn đá? Hoặc
nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? Nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết
cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời,
Người sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin Người" (Mt 7,9-11).
3. Sự cần thiết của
đời sống cầu nguyện
Sống lời Chúa Giêsu
dạy, Thánh Phaolô khuyên các tín hữu cầu nguyện liên tục, không ngừng, ngày
đêm. Ngài nói lên sự cần thiết của cầu nguyện bằng những lời tâm tình mời gọi:
"Hãy chuyên cần cầu nguyện" (Rm 12,12); "Anh em hãy bền đỗ cầu nguyện,
tỉnh thức cầu nguyện và tạ ơn" (Co 14,2), "Đừng ngớt cầu nguyện"
(1Thes 5,7; Rm 8,26-27).
Cầu nguyện là một vấn
đề cần thiết, tối quan trọng, là một vấn đề sinh tử. Thánh Gioan Kim Khẩu so
sánh sự cần thiết của lời cầu nguyện với chuyện cá trong nước. Bao lâu cá ở trong
nước, nó vẫn sống, hoạt động và tăng trưởng, nhưng nếu cá bị bắt ra ngoài, chắc
chắn nó sẽ chết. Cũng vậy, con người muốn sống siêu nhiên cần phải cầu nguyện,
nếu không cầu nguyện họ sẽ mất ơn Chúa giúp, rồi dần dà họ sẽ mất sự sống siêu
việt không khác nào cá phải chết vì không có nước.
Thánh Bênađô cũng đã
so sánh sự hô hấp cần thiết cho con người như thế nào, thì lời cầu nguyện cũng
cần thiết cho con người như vậy. Đối với linh hồn, cầu nguyện cần thiết cũng
như hô hấp cần cho cơ thể con người. Nếu con người hô hấp khó khăn thì thân xác
sẽ thành tiều tuỵ, và nếu hô hấp đình chỉ thì con người sẽ chết. Cũng thế, khi
ta ít cầu nguyện, linh hồn biến thành bạc nhược, và khi ta không cầu nguyện tí
nào, linh hồn ta sẽ chết đi trước mặt Chúa.
Cầu nguyện là hơi thở
của linh hồn, là sự sống, là sức mạnh của người Kitô hữu. Một đức tin không có
cầu nguyện thì chỉ là một niềm tin vô ngã, vật chất.
Cầu nguyện là lẽ sống.
Lời cầu nguyện có một tầm quan trọng đặc biệt trong cuộc sống. Lời cầu nguyện
chỉ thực sự có giá trị và sức mạnh khi phát xuất từ một đức tin có chất lượng
và sống động.
4. Đỉnh cao cầu nguyện
Phần đông người tín
hữu chúng ta ít khi biết cầu nguyện trong thinh lặng. Hễ cầu nguyện là chỉ biết
đọc kinh. Đọc kinh ở nhà thờ, đọc kinh ở nhà. Có khi đọc kinh nhiều mà cầu
nguyện chẳng bao nhiêu. Nhưng phút giây thinh lặng là những phút giây quan
trọng để lắng nghe Chúa nói. Đỉnh cao của cầu nguyện là thinh lặng kính thờ
Chúa.
Cầu nguyện không phải
là vấn đề của kiến thức hay kỹ thuật. Cầu nguyện luôn đi đôi với đức tin và
lòng mến. Vì thế phải cầu nguyện trong Thánh Thần (Rm 8,1), đơn sơ (Lc
18,15-17), khiếm tốn (Lc 18,14), trong thầm kín (Mt 6,6).
Khi cầu nguyện tâm trí
được nâng lên cùng Thiên Chúa hầu suy tôn, tán tụng, cảm mến, tạ tội, xin ơn.
Trình độ cầu nguyện cao nhất là: xin đừng theo ý con mà theo ý Cha.
Trong một thế giới ồn
ào náo động như hiện nay, một thế giới bị ô nhiễm về môi sinh và bị ô nhiễm về
tinh thần, người Kitô hữu phải là chứng nhân cầu nguyện. Chúng ta cầu nguyện vì
muốn nên giống Chúa Giêsu, Đấng hằng cầu nguyện liên lỉ với Cha và dạy chúng ta
cách thức cầu nguyện.
Lạy Chúa Giêsu, chiêm
ngắm Chúa cầu nguyện, lắng nghe Chúa dạy cầu nguyện, chúng con nhận thấy đời
sống cầu nguyện thật cần thiết cho đời tâm linh. Xin cho chúng con luôn yêu mến
đời sống cầu nguyện; xin cho chúng con xác tín rằng, tự sức riêng, chúng con
không làm được gì cả, nhưng với ơn Chúa, chúng con làm được nhiều điều tốt lành
trong cuộc sống hàng ngày. Amen.
15. Kiên nhẫn cầu nguyện – Lm. Jos.
Tạ Duy Tuyền
Người có tôn giáo luôn
gắn liền với cầu nguyện. Cầu nguyện là hơi thở, là sự sống của người tín hữu.
Vậy cầu nguyện là gì?
Cầu nguyện theo thánh
Augstinô là thưa chuyện với Chúa, như một người con hiếu thảo thưa chuyện với
cha mẹ, hoặc như hai người bạn chân tình tâm sự với nhau.
Vâng, nếu hiểu cầu
nguyện là một cuộc tâm sự, là một cuộc trò chuyện, thì quả thực cầu nguyện là
một điều rất dễ dàng và dành cho mọi người, chứ không phải chỉ dành riêng cho
các linh mục, tu sĩ hay những người trí thức.
Mỗi người trong chúng
ta cũng đều có kinh nghiệm về những lần trò chuyện, trao đổi tâm sự với người
khác. Vậy chúng ta đã thường hay nói những gì?
Tôi xin thưa:
- Nếu là bè bạn thân
thích, chúng ta có thể nói tới mọi sự: sự vui cũng như sự buồn, sự trong nhà
cũng như sự ngoài ngõ, sự quan trọng cũng như sự tầm phào. Nói chung nếu là bạn
bè chúng ta có rất nhiều điều để tâm sự với nhau, để kể cho nhau...
Khi đến với Chúa,
chúng ta cũng có thể trình bày về những niềm vui, những nỗi buồn, những đắng
cay và những băn khoăn lo lắng chúng ta đã gặp phải. Và chắc chắn khi niềm vui
được chia sẻ, thì niềm vui sẽ được nhân rộng hơn lên. Nỗi buồn được chia sẻ,
nỗi buồn sẽ vơi đi. Chính những lời kinh xuất phát từ giữa lòng cuộc đời, từ
những biến cố xảy ra hằng ngày, sẽ dễ làm cho chúng ta cầm trí và tránh đi thói
quen máy móc chiếu lệ trong cầu nguyện.
Tuy nhiên, lời Chúa
hôm nay mời gọi chúng ta hãy cầu nguyện trong kiên trì và tín thác. Thiên Chúa
sẽ không bỏ rơi những ai kêu cầu Người, nhất là những người thấp hèn, bé nhỏ,
miễn là biết đặt niềm tin tưởng vào Chúa.
Thánh nữ Monica đã
luôn cầu xin Chúa cho đứa con hoang đàng của mình là Augustinô. Hằng ngày bà
khóc lóc, ăn chay và hãm mình. Một hôm quá thất vọng, bà đã đến hỏi ý kiến
thánh Ambrôsiô và thánh giám mục đã trả lời:
- Bà hãy yên trí, đứa
con của biết bao nhiêu nước mắt sẽ không thể nào hư mất.
Mười tám năm đằng
đẵng, sau cùng Augustinô mới trở lại.
- Như vậy, cầu nguyện
là một việc rất dễ dàng mà bất cứ ai cũng đều có thể và phải làm được. Nhưng
cầu nguyện không phải là chúng ta đòi Thiên Chúa làm theo ý chúng ta mà là để
xin được theo ý Chúa với một lòng tin tưởng cậy trông tuyệt đối vào sự quan
phòng của Thiên Chúa.
Đức Hồng Y Jaime Sin,
Tổng giám mục Manila, Phi Luật Tân, thường trích dẫn bài thơ của một tác giả vô
danh trong các bài giảng của Ngài. Bài thơ ấy như sau:
Tôi đã xin Chúa cất
khỏi sự kiêu hãnh của tôi và Chúa trả lời: "Không". Ngài nói rằng
không phải Ngài là người cất khỏi mà chính tôi mới là người phấn đấu để vượt
thắng nó.
Tôi đã xin Chúa làm
cho đứa con tàn tật của tôi được lành lặn và Chúa trả lời: "Không".
Ngài nói rằng tinh thần mới lành lặn, còn thể xác chỉ là tạm bợ.
Tôi đã xin Chúa ban
cho tôi sự kiên nhẫn và Chúa đã trả lời: "Không". Ngài nói rằng kiên
nhẫn là hoa trái của thử thách. Ngài không ban cho tôi trái ấy mà để tôi tự tìm
lấy.
Tôi đã xin Chúa ban
cho tôi được hạnh phúc và Chúa đã trả lời: "Không". Ngài nói rằng
Ngài ban ân phúc cho tôi, còn hạnh phúc hay không là tùy tôi.
Tôi đã xin Chúa gia
tăng tinh thần cho tôi và Chúa đã trả lời: "Không". Ngài nói rằng tôi
phải tự lớn lên, nhưng Ngài sẽ cắt tỉa để tôi mang nhiều hoa trái.
Tôi đã xin Chúa đừng
để tôi đau khổ và Ngài đã trả lời: "Không". Ngài nói rằng đau khổ là
cho tôi được xa cách với những vướng bận trần gian và mang tôi đến gần Ngài.
Tôi đã hỏi: "Liệu
Ngài có yêu tôi không" và Ngài đã trả lời rằng: "Có". Ngài nói
rằng Ngài đã ban cho tôi Người Con Một, Đấng đã chết vì tôi và một ngày nào đó,
tôi sẽ được lên Thiên đàng vì tôi đã tin.
Tôi đã xin Chúa giúp
tôi yêu mến tha nhân như Ngài yêu thương tôi và Chúa nói: "Cuối cùng con
đã xin đúng điều ta chờ đợi".
Nguyện xin Chúa ban
thêm lòng tin để chúng ta luôn kiên nhẫn trong lời cầu nguyện và tín thác vào
sự quan phòng của Chúa. Amen.
16. Cầu nguyện
Trong bài Tin Mừng hôm
nay, Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn về một vị thẩm phán không liêm khiết khi có một
bà góa đến xin ông xử việc cho mình. Kết luận của dụ ngôn là nếu vị thẩm phán
bất lương đã không quan tâm gì đến bổn phận, không kính sợ Thiên Chúa và cũng
chẳng sợ ai, nhưng sau cùng phải xét xử cho bà góa để khỏi bị quấy rầy nhiều
lần. Chỉ có Chúa là Đấng thánh và công bình, chắc chắn Ngài sẽ nghe lời cầu xin
thiết tha của con cái mình.
Một câu hỏi người thời
nay thường đặt ra đối với việc cầu nguyện là: “Cầu nguyện có ích gì không?” Nếu
hiểu cầu nguyện là xin ơn mà thôi thì có thể nói cầu nguyện không cần thiết.
Thiên Chúa không thay thế chúng ta trong những gì chúng ta phải làm vì bổn phận
và trong những gì chúng ta có thể làm được. Việc xin các ơn huệ như sức khỏe,
hạnh phúc, thành công, giàu có không phải là mục đích và lý do hay nhân tố duy
nhất của việc cầu nguyện. Nếu chỉ nhấn mạnh đến các khía cạnh như vậy mà thôi
thì không hiểu chút gì về cầu nguyện, tức là đánh giá việc cầu nguyện theo tư
lợi và ích kỷ.
Khi Chúa Giêsu dạy
chúng ta cầu nguyện trong kinh Lạy Cha, Ngài dành phần thứ nhất gồm lời cầu xin
cho Thiên Chúa: “Nguyện cho danh Cha được hiển vinh, nước Chúa được lan rộng và
thánh ý Ngài được tuân theo”. Sang phần thứ hai dành cho chúng ta, lời cầu xin
có tính cách vật chất và tinh thần như xin cơm bánh hằng ngày để nuôi thể xác
và xin bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể để nuôi linh hồn. Còn tất cả những lời
cầu xin khác đều thuộc phạm vi thiêng liêng như xin tha thứ các tội nhân, xin
ơn trung thành trong các cơn thử thách và cám dỗ, nhất là trong giờ sau hết.
Sau cùng là xin ơn chiến thắng sự dữ và tà thần.
Cầu nguyện theo lời
Chúa dạy không những có ích mà còn cần thiết nữa, bởi vì lời cầu nguyện như vậy
là của nuôi linh hồn, bồi bổ đức tin và thánh hóa trần thế. Lời cầu nguyện đích
thực là lời cầu nguyện Chúa Giêsu đã thực hành và dạy lại cho mỗi người chúng
ta. Lời cầu nguyện này phát xuất bởi đức tin sống động được bày tỏ ra bên ngoài
bằng các việc lành, đồng thời nuôi sống đức tin bên trong. Tất cả đời sống đức
tin của người Kitô hữu phải là một việc cầu nguyện không ngừng. Vì thế, Chúa
Giêsu đã dạy chúng ta rằng: “Hãy cầu nguyện luôn, đừng bao giờ nhàm chán”.
Qua việc cầu nguyện
liên lỉ này, chúng ta tiếp tục hiệp thông với nguồn mạch sự sống. Chính Thiên
Chúa là Cha chúng ta, Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta trong các khó khăn,
chán nản, cô đơn, thất vọng, miễn sao chúng ta cứ tin tưởng vững chắc vào Ngài.
Lạy Chúa, Chúa là Cha
chúng con, Chúa luôn trung thành với lời Chúa hứa và Ngài luôn luôn nhận lời
những ai cầu xin với lòng tin vững chắc. Xin hãy lắng nghe tiếng van xin của
chúng con, nhất là trong cơn thử thách của cuộc đời trần thế này.
Lạy Chúa Giêsu nhân
lành, chúng con xin thú thực rằng, chúng con không biết cầu nguyện. Xin Chúa
dạy chúng con cầu nguyện như Chúa đã dạy các môn đệ của Ngài xưa. Xin ban Thánh
Linh cho chúng con, để Ngài giúp chúng con và chỉ dạy cho chúng con biết cách
phải cầu nguyện như thế nào cho hợp thánh ý Ngài.
17. Cầu nguyện
Để giúp hiểu rõ hơn
đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe qua của Chúa nhật 29 quanh năm hôm nay và cũng
là Chúa nhật Truyền Giáo, chúng ta hãy nhớ lại đoạn Tin Mừng này được đặt nằm
trong viễn tượng cánh chung là viễn tượng Chúa trở lại trong vinh quang vào giây
phút cuối cùng của lịch sử khi mọi sự được nên trọn trong Chúa Kitô.
Cuộc đời của người tín
hữu Chúa trên trần gian này là một cuộc hành trình khó khăn giữa nhiều thử
thách, và để an toàn đạt đến cùng đích của cuộc lữ hành thì mỗi môn đệ Chúa
phải kiên trì, phải trung thành trong đức tin cho đến khi Chúa lại đến. Và để
kiên trì trong đức tin cho đến cùng thì mỗi đồ đệ của Chúa cần thực hành điều
căn bản và quan trọng, đó là cầu nguyện. Chính vì thế mà vào khởi đầu của đoạn
Tin Mừng hôm nay, chúng ta nghe thấy Chúa Giêsu nói về việc cầu nguyện: “Hãy
cầu nguyện luôn”. Nhưng rồi vào cuối đoạn Phúc âm thì chúng ta lại nghe Chúa
chất vấn: “Liệu khi Con Người là chính Chúa ngự đến thì thử hỏi còn đức tin,
còn ai tin vào Chúa trên trần gian này nữa hay không?”
Cuộc sống đức tin
không phải là không có những nguy hiểm, những gian nan thử thách, không ngừng
chất vấn và thách thức con người, khi con người chiều theo những lợi lộc mà bỏ
quên Thiên Chúa. Dù ai, dù trong địa vị nào trong xã hội cũng như trong Giáo
Hội, dung mạo tinh thần của mỗi người chúng ta có thể được so sánh như dung mạo
của người đàn bà góa nghèo. Hình ảnh người đàn bà góa nghèo trong văn chương Do
thái cũng như trong nếp sống cụ thể của người Do thái là hình ảnh của một con
người cô thế, yếu đuối, không phẩm giá, không địa vị, bị bỏ rơi, bị loại ra bên
ngoài xã hội, không có gì để vinh danh hay khoe khoang, nhưng chỉ sống nhờ vào
lòng nhân từ của kẻ khác.
Với những tật xấu,
những bất toàn của chính bản thân mình, phải chăng mỗi người chúng ta trước nhan
Thiên Chúa cũng là những kẻ yếu đuối thấp hèn, không công trạng gì, sống nhờ
vào lòng nhân từ của Thiên Chúa. Chỉ khi ý thức về thân phận yếu đuối của mình
như người đàn bà góa kia, chúng ta mới khiêm tốn đủ để chạy đến với Chúa mà cầu
nguyện để xin Chúa nâng đỡ trả lại sự công chính nguyên thủy đã bị mất đi vì
tội lỗi.
Con người kiêu ngạo
thì không thể sống cầu nguyện đích thực được. Như người đàn bà góa, mỗi người
chúng ta có thể đã và còn đang sống trong tình trạng bị thiệt thòi trên bình
diện cứu rỗi, thiếu ơn Chúa. Tình trạng không bình thường vì bị làm nô lệ cho
những tật xấu của mình, và như người đàn bà góa chúng ta cần ý thức về những
khuyết điểm và qua lời cầu nguyện mà chạy đến với Chúa để xin Ngài trợ giúp,
phục hồi chúng ta lại trong trật tự ân sủng và trong tình yêu của Ngài.
Hình ảnh quan tòa xấu,
quan tòa bất lương không phải là một dung mạo biểu tượng cho Thiên Chúa, nhưng
là một dung mạo được Chúa dùng để so sánh, để làm nổi bật điều ngược lại là
dung mạo khác của một vị Thiên Chúa trọn hảo hơn. Thiên Chúa là Đấng phán xét
công bằng, không phải như quan tòa bất lương và chỉ mình Thiên Chúa mới là quan
tòa chí công vô tư. Ngài xét xử công bằng, nhưng xét xử với tình thương nhân
từ. Thiên Chúa không phải như quan tòa xấu trong câu chuyện dụ ngôn trong bài
Phúc âm hôm nay, Ngài là quan tòa công bằng và nhân từ. Quan tòa xấu trong dụ
ngôn hành động để khỏi bị quấy rầy, còn Thiên Chúa, Ngài hành động vì yêu
thương thôi thúc.
Con người có thể lên
tiếng chống đối chối bỏ Thiên Chúa, nhưng phần Thiên Chúa thì Người không bao
giờ ngưng yêu thương con người. Ngài muốn thi ân trọn vẹn cho đến cùng, Ngài
muốn cho mọi người được ơn cứu rỗi.
Trong cuộc sống trên
trần gian này, giữa những thử thách chúng ta còn đủ khiêm tốn và sáng suốt chạy
đến nhờ vào lòng nhân từ của Thiên Chúa hay không? Chúa khuyến khích chúng ta
hãy cầu nguyện luôn, hãy giữ liên lạc với Ngài, tiếp xúc với Ngài qua việc cầu
nguyện để đức tin được cũng cố, được kiên trì, được trung thành cho đến cùng,
cho đến khi Chúa trở lại Chúa còn gặp chúng ta tỉnh thức trong đức tin, còn gặp
chúng ta trung thành với đức tin vào Ngài.
Trong khung cảnh của
ngày Chúa nhật truyền giáo hôm nay, đoạn Tin Mừng chúng ta vừa chia sẽ có giúp
chúng ta sống sứ mạng Chúa trao phó cho mỗi người trong Giáo Hội hay không? Dĩ
nhiên là có. Cầu nguyện để kiên trì trong đức tin, vì càng cầu nguyện, đức tin
chúng ta càng được cũng cố, được trưởng thành hơn và do đó chúng ta mới trở nên
chứng nhân của Tin Mừng.
Chính vì lý do này mà
việc cầu nguyện luôn luôn được Đức Thánh Cha nhắc đến trong các sứ điệp truyền
giáo của Ngài. Năm nay cũng vậy, sứ điệp truyền giáo của Đức Thánh Cha nhắc nhở
mỗi người chúng ta rằng, người tín hữu nào đã chiêm ngắm Chúa Giêsu, đã cầu
nguyện thì không thể, không cảm thấy bị lôi cuốn bởi ánh sáng của Chúa mà dấn
thân minh chứng niềm tin của mình vào Chúa Kitô, Đấng cứu chuộc duy nhất của
loài người.
Đức Thánh Cha đã giải
thích thêm như sau: Sự truyền giáo là việc loan báo vui tươi về một ân huệ cống
hiến cho tất cả và phải được đề nghị cho tất cả, nhưng tôn trọng hết sức sự tự
do của mỗi người. An huệ mạc khải của Thiên Chúa tình yêu, Đấng đã đến trong
thế gian, Đấng đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một của Người. Như vậy,
Giáo Hội không thể lẩn tránh sinh hoạt truyền giáo đối với các dân tộc và điều
không kém quan trọng là nhiệm vụ đầu tiên của sứ vụ truyền giáo là loan báo
rằng, chính trong Chúa Kitô, Đấng là sự thật và là sự sống mà cầu nguyện được
ơn cứu độ.
Sứ vụ đó đòi hỏi phải
cầu nguyện và dấn thân cụ thể, đó là những lời của Đức Thánh Cha được trích từ
sứ điệp của ngài cho Ngày Quốc Tế Truyền Giáo hôm nay. Bài Phúc âm một lần nữa
mời gọi chúng ta hãy cầu nguyện luôn để được trung thành trong đức tin, được
kiên trì cho đến cùng trong tình yêu Chúa. Chúng ta hãy dốc lòng sống đời sống
cầu nguyện bắt đầu từ Chúa nhật hôm nay, ngày truyền giáo, ngày chúng ta không
phải nghĩ đến truyền giáo cho anh chị em mà truyền giáo cho chính bản thân của
mỗi người chúng ta. Ước chi nhờ lời cầu nguyện mà chúng ta nhờ ơn Chúa để cải
tạo mỗi người chúng ta trở thành con người mới, trở thành đồ đệ trung thành của
Chúa, trung thành với đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh
tin kính.
18. Cầu nguyện
Ngay câu mở đầu bài
Tin Mừng đã cho biết chủ đích của Chúa Giêsu muốn dạy các môn đệ của Ngài, đó
là phải cầu nguyện luôn, không được nản chí. Rồi Chúa minh họa bằng dụ ngôn ông
quan tòa bất lương gặp bà góa kêu nài.
Một viên quan tòa bất
lương, không sợ trời đất nào, cũng chẳng sợ ai. Một bà góa đến kêu nài. Bà góa
trong xã hội Do thái là người cô thế cô thân, bị mọi thứ thiệt thòi, không ai
bênh vực. Bà chỉ còn biết kêu đến quan tòa để bênh vực bà chống lại kẻ đang ức
hiếp bóc lột bà. Nhưng ông quan tòa này đã chẳng sợ trời lại không nể người thì
ông đâu coi chuyện oan ức của bà góa này ra gì. Bởi vậy ông cứ giả điếc làm
ngơ. Nhưng bà góa kia không đầu hàng. Bà cứ kiên trì kêu nài mãi. Cuối cùng, để
khỏi bị quấy rầy, ông quan tòa đành quyết định xét xử bênh vực quyền lợi cho
bà.
Kể dụ ngôn xong, Chúa
Giêsu kết luận: “Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người
đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao?”. Viên quan tòa bất chính
còn biết hành sử như vậy, chẳng lẽ Thiên Chúa, là Đấng nhân lành và công bằng
lại không lắng nghe lời cầu nguyện liên lỉ của những con cái Ngài hay sao? Như
vậy, câu đầu tiên và câu cuối cùng của bài Tin Mừng cho chúng ta thấy ý tưởng
chính là cần phải cầu nguyện luôn, đừng nản chí.
Có hai lý do thúc đẩy
chúng ta phải cầu nguyện luôn: Thứ nhất, vì chúng ta luôn thiếu thốn và cần
mọi sự. Tự
bản chất con người ta bất toàn, thiếu thốn. Hầu hết các động vật khác, vừa sinh
ra đã có đủ điều kiện sinh sống, còn con người sinh ra trong tình trạng thiếu
thốn mọi sự. Về tâm hồn cũng thế. Những gì bất toàn đòi phải được kiện toàn,
những gì thiếu thốn đều đòi phải được đầy đủ. Thế nên, muốn kiện toàn những bất
toàn, muốn lấp đầy những thiếu thốn, muốn thỏa mãn những ước vọng chính đáng
thì phải cầu nguyện luôn.
Thứ hai, chúng ta phải
cầu nguyện luôn bởi vì tự sức riêng chúng ta không thể làm gì được. Nói cách khác, chúng
ta hoàn toàn bất lực trong việc kiện toàn những khiếm khuyết, trong việc lấp
đầy những thiếu thốn, nhất là đối với những bất toàn và thiếu thốn siêu nhiên.
Những thứ đó vượt hẳn khả năng của con người, chúng ta không thể tự làm cho
mình có được, như Chúa Kitô đã nói: “Không có Thầy, các con không thể làm gì
được”. Tuy nhiên, lòng tự ái đã ngăn cản người ta không chấp nhận mình thiếu
thốn, khuyết điểm và bất lực. Cần phải có một tâm hồn đơn sơ khiêm tốn mới tự
công nhận mình như thế. Có công nhận mới tín nhiệm chạy đến cầu nguyện với
Chúa.
Ngoài ra. Cũng có hai
lý do chính giúp chúng ta không nản chí: Thứ nhất, Chúa rất tốt lành và
đầy lòng yêu thương, đồng thời Ngài lại là Thiên Chúa toàn năng. Nếu một quan tòa bất
lương và vô tín ngưỡng còn biết nghe theo lời người thưa kiện, huống nữa là
Thiên Chúa tốt lành vô cùng. Nhưng Thiên Chúa tốt lành ấy đâu phải là người
dưng nước lã mà là chính Đấng tác thành nên ta, là Cha yêu thương ta hết tình,
đến nỗi như lời thánh Phaolô dạy: “Đã ban chính con Chúa cho ta, thì lẽ nào lại
không ban mọi cái khác cho ta cùng với người con ấy”. Hơn nữa, Thiên Chúa lại
là Đấng toàn năng, Ngài làm được mọi điều Ngài muốn. Nếu Ngài là đấng tốt lành
yêu thương ta và muốn cho ta được mọi sự tốt lành, thì dĩ nhiên Ngài sẽ làm
những điều đó cho ta.
Thứ đến, chúng ta
không thể ngã lòng nản chí vì Chúa đã long trọng hứa rằng sẽ nhận lời ta
cầu xin. Tuyệt đối mà xét thì Thiên Chúa chẳng mắc nợ ai, cho nên dầu
Ngài tốt lành và yêu thương ta, nhưng chẳng ai bắt buộc Ngài phải làm điều nọ
điều kia được. Tuy nhiên, khi hứa sẽ nhận lời mọi người kêu xin, thì Chúa đã tự
đặt mình vào thế bắt buộc phải nghe lời ta.
Điều cần thiết và quan
trọng Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải cầu nguyện luôn là để được trung thành với
đức tin. Cuộc sống mỗi người Kitô là một cuộc sống trong đức tin và nhờ đức
tin. Vì thế mỗi người đừng để mất đức tin hay giảm sút lòng tin. Nói một cách
khác tích cực hơn là để trung thành với đức tin và phát triển đời sống đức tin.
Chính việc cầu nguyện sẽ giúp chúng ta sống được như thế.
Quả thực, cuộc đời
người tín hữu Chúa trên trần gian là một cuộc hành trình khó khăn giữa nhiều
thử thách, và để an toàn đạt đến cùng đích của cuộc lữ hành thì mỗi môn đệ Chúa
phải kiên trì, phải trung thành trong đức tin cho đến khi Chúa lại đến. Và để
kiên trì trong đức tin cho đến cùng thì mỗi môn đệ của Chúa cần thực hành điều
căn bản và quan trọng, đó là cầu nguyện. Cũng thế, cuộc sống đức tin không phải
là không có những nguy hiểm, những gian nan thử thách, không ngừng chất vấn và
thách thức con người, khi con người chiều theo những lợi lộc mà bỏ quên Thiên
Chúa. Dù ai, dù ở địa vị nào trong xã hội cũng như trong Giáo Hội, dung mạo
tinh thần của mỗi người chúng ta có thể được so sánh như dung mạo của người đàn
bà góa nghèo. Hình ảnh của người đàn bà góa nghèo trong văn chương Do thái cũng
như trong nếp sống cụ thể của người Do thái là hình ảnh của một con người cô
thế, yếu đuối, không phẩm giá, không địa vị, bị bỏ rơi, bị loại ra bên ngoài xã
hội, nhưng chỉ sống nhờ vào lòng nhân từ của kẻ khác. Với những tật xấu, những
bất toàn của chính bản thân mình, phải chăng mỗi người chúng ta trước nhan
Thiên Chúa cũng là những kẻ yếu đuối thấp hèn, không công trạng gì, sống nhờ
vào lòng nhân từ của Thiên Chúa? Chỉ khi ý thức về thân phận yếu đuối của mình
như người đàn bà góa kia, chúng ta mới khiêm tốn đủ để chạy đến với Chúa mà cầu
nguyện xin Chúa nâng đỡ. Chúa khuyến khích chúng ta hãy cầu nguyện luôn, hãy
giữ liên lạc với Ngài, tiếp xúc với Ngài qua việc cầu nguyện để đức tin được
cũng cố, được kiên trì, được trung thành cho đến cùng, cho đến khi Chúa trở lại
Chúa còn gặp chúng ta tỉnh thức trong đức tin, còn gặp chúng ta trung thành với
đức tin vào Ngài.
19. Thiên Chúa sẽ ban cho tôi điều tốt
nhất
Lời cầu “xin” là thái
độ của người nghèo, của tạo vật cần Thiên Chúa. Đây là thái độ đúng đắn diễn tả
thân phận con người, nên đẹp lòng Thiên Chúa. Lời cầu nguyện không chỉ là xin
ơn, nhưng còn là lời cảm tạ và ca khen Thiên Chúa. Tuy vậy, thái độ “cần” Thiên
Chúa, được diễn tả qua lời cầu “xin”, là nền tảng của lời cầu nguyện.
Lời “Xin” trong Kinh
Chúa dạy
“Lạy Cha chúng con ở
trên trời, nguyện danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện…Xin Cha
cho chúng con…”. Lời trong kinh Lạy Cha nói lên khao khát ước vọng của con
người, về nhu cầu thiêng liêng và về nhu cầu vật chất.
Xin Cha làm cho Danh
Cha cả sáng, xin Cha làm cho con người tin nhận quyền Cha, để Danh Cha cả sáng.
Xin Cha làm cho Nước Cha trị đến, bằng cách làm cho con người biết yêu thương, biết
sống theo luật của Đức Yêsu. Xin Cha cho chúng con lương thực cần dùng. Chúng
con cần Chúa, để chúng con có lương thực hằng ngày, để chúng con được ơn tha
thứ, để chúng con khỏi sa ngã phạm tội. Chúng con cần Chúa để nên thánh, để
sống bình an và hạnh phúc.
Chúng ta bất lực.
Chúng ta cần Chúa để làm tất cả, thế nên chúng ta xin Chúa để làm tất cả mọi
điều chúng ta phải làm, ngay cả những điều như thể chỉ tuỳ thuộc nơi chúng ta.
Xin Chúa cho chúng con luôn luôn tuỳ thuộc vào Chúa trong mọi chuyện.
Môsê giơ tay cầu
nguyện
Sách Xuất Hành cho
thấy hiệu lực lời cầu nguyện của Môsê: khi ông giơ tay lên cầu nguyện, Yosua và
binh lính Israel thắng trận, khi ông hạ tay xuống, bên đối nghịch Amalek thắng
trận. “Bè để qua sông, qua sông hãy quên bè”. Đừng vác bè mà đi! Hãy đón nhận
sứ điệp, đừng bận tâm quá những điều không cần thiết, hoặc làm mình quên mất
điều chính. Sứ điệp của đoạn Lời Chúa: lời cầu xin thật hữu hiệu.
Đức Yêsu kể dụ ngôn về
ông thẩm phán, không sợ Thiên Chúa, không sợ con người, nhưng chỉ sợ người ta
làm phiền, nên phải làm theo lời thỉnh cầu của bà goá. Nếu con người, vì sợ bị
phiền mà phải làm theo điều người ta xin, thì huống chi là Thiên Chúa, Đấng
luôn luôn yêu thương con người, và sẵn sàng làm tất cả cho con người khi họ cầu
xin Ngài.
Thái độ cầu xin, là
thái độ của người khiêm tốn. Vì người ta chỉ xin điều mình rất muốn, mà mình
không thể có được, vì nó không tuỳ thuộc mình, nó là một ơn “nhưng không” của
Thiên Chúa ban cho mình. Xin cho chúng ta tin tưởng Chúa yêu thương mình, tin
Ngài luôn sẵn sàng làm tất cả những gì tốt lành cho chúng ta, để chúng ta chạy
đến cầu xin với Ngài.
Hãy dùng Kinh Thánh để
cầu nguyện
Kinh Thánh là Lời Chúa
cho con người, là sách gợi hứng và ý tưởng giúp người ta cầu nguyện. Kinh Thánh
giúp người ta hiểu biết về Đức Yêsu hơn. Một thánh giáo phụ nói: không biết
Kinh Thánh là không biết Đức Yêsu. Sở dĩ vậy, vì Kinh Thánh nói về Đức Yêsu,
Kinh Thánh cho thấy những hành động Thiên Chúa làm trong lịch sử, vì yêu thương
con người. Qua những hành vi hoạt động của ai, chúng ta biết hơn về người đó.
Cũng tương tự như vậy, qua Kinh Thánh ghi lại những gì Thiên Chúa làm cho dân
tộc Israel và loài người, chúng ta biết về Thiên Chúa hơn.
Kinh Thánh được viết
trong một thời gian nhất định, bởi những người có một nền văn hoá riêng, nên
cần biết những phong tục tập quán của họ để hiểu được những điều họ muốn diễn
tả, những điều Thiên Chúa muốn diễn tả hoặc nói với con người qua họ.
Kinh nghiệm về Thiên
Chúa của những người được linh ứng, là kinh nghiệm đặc biệt và được diễn tả trung
thực, để những người thời sau học hỏi. Kinh nghiệm Thiên Chúa ban cho những
người xưa, có thể con người ngày nay cũng được khi họ đọc và suy niệm Lời Chúa
(Kinh Thánh). Khi đọc Tin Mừng của Đức Yêsu, chúng ta hãy nhìn nghe và xem Ngài
sống, để mình trở nên giống Ngài hơn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Lời cầu nguyện của
bạn có thường được nhậm lời không? Xin bạn chia sẻ kinh nghiệm về những lần cầu
nguyện, mà được nhận lời.
2. Những điều bạn xin,
bạn có thấy đó thực sự là điều cần thiết đối với bạn không? Tại sao bạn xin
điều không thực sự cần thiết đối với bạn?
3. Theo bạn, điều nào
là cần thiết nhất đối với bạn, mà bạn phải cầu xin? Tại sao đây lại là điều cần
thiết nhất đối với bạn?
20. Lời nguyện cầu- Lm. Bùi quang Tuấn
"Thiên Chúa lại
không minh xử cho những kẻ Ngài tuyển chọn cứ mãi kêu cứu với Người đêm ngày
sao" (Lc 18:7).
Tôi có đọc được một
cuốn hồi ký rất hay của một thanh niên 22 tuổi người Nga, tên Sergi Koudakov.
Cuốn hồi ký có tựa đề là "Lời Nguyện Cầu" được viết ra sau khi anh
trốn thoát sang thế giới tự do và được hưởng quyền tị nạn tại Canada năm 1971.
Sinh ra trong một gia
đình có bố là sĩ quan cao cấp của hồng quân Nga và mẹ là một giáo dân Công giáo
ngoan đạo, Koudakov lớn lên với tương lai tràn trề hứa hẹn. Không may, anh bị
mồ côi cả cha lẫn mẹ lúc chưa đầy 5 tuổi. Đường đời bắt đầu với những bước chân
lang thang trộm cắp để sống còn.
Một ngày kia Koudakov
bị bắt đang khi ăn cắp, và bị nhốt vào một viện mồ côi. Tại đây đứa bé bơ vơ
bỗng được nhà nước cộng sản chú ý cách đặc biệt và đã đào luyện cậu thành người
cộng sản chính tông, tức là trở thành một con người không tim óc, tàn ác, dã
man, hăng say đánh đập và tra tấn, nhất là với những ai có đạo.
Từ khi còn ở viện mồ
côi cho đến lúc tốt nghiệp sĩ quan với cấp bậc trung uý hải quân, Koudakov
không ngừng được tiến cử hết chức vụ này đến danh dự kia, từ cháu ngoan Lênin
cho đến thủ lãnh Liên đoàn Thanh thiếu niên cộng sản Nga sô. Thậm chí còn được
đề bạt làm trùm mật vụ KGB nữa.
Là con cưng của chế độ
với tương lai sáng sủa như thế, vậy mà trong một chuyến hải hành trên chiếc tàu
tình báo Elagin dọc theo hải phận Canada, Koudakov đã quyết định vượt thoát chế
độ. Anh nhảy khỏi tàu trong một đêm giông bão, bơi suốt 12 hải lý dưới làn nước
giá lạnh, để xin tị nạn tại Canada.
Hồi ký của chàng thanh
niên Sergi Koudakov không dừng lại nơi đây. Điểm đáng lưu ý là sau khi bừng
tỉnh khỏi giấc mơ hãi hùng và rút chân khỏi guồng máy thống trị tàn ác,
Koudakov đã chuyển biến từ một tên đồ tể từng tra tấn đánh đập những con chiên
của Chúa thành một tông đồ nhiệt thành trung kiên. Anh đã tham gia một tổ chức
có tên "Underground Evangelism" (Truyền Giáo Thầm Lặng) chuyên cung
cấp Thánh kinh và tài trợ cho các giáo hội đang bị đàn áp tại các nước cộng
sản. Rồi vì quá hăng say với công tác vạch mặt sự giả dối và đề cao chân lý,
anh đã bị ám hại lúc mới 22 tuổi.
Đọc hồi ký của Sergi,
có lẽ mỗi người sẽ có những cảm xúc hay nỗi niềm khác nhau dọc theo diễn tiến
của câu chuyện, nhưng phần tôi lại bị lôi cuốn ngay từ đầu bởi cách đặt vấn đề
và giải quyết vấn đề của dịch giả Nhị Lang: Với một con người như Koudakov, mồ
côi cha mẹ từ thuở bé thơ, trộm cắp đầu đường xó chợ, không ai dạy cho một câu
về luân thường đạo lý, lại còn luôn được khuyến khích làm những điều thất nhân
ác đức, trong một môi trường như vậy thì đáng lẽ Koudakov phải biến thành một
con thú ghê tởm nhất trần gian chứ. Đàng này anh đã không trở thành con thú,
nhưng lại dám một mình đột phá chống lại cả một hệ thống đàn áp tôn giáo tinh
vi và một chế độ vô thần mênh mông như tại Nga. Anh đã đi từ thái cực bất lương
qua thái cực thánh thiện mà không có một sự hướng dẫn hay tia sáng đạo đức nào
chung quanh. Thế thì nhờ đâu mà anh đã có được sự biến đổi lạ lùng như vậy?
Câu trả lời thật bất
ngờ và lý thú: vì anh còn thừa hưởng được dòng máu đạo đức của người mẹ quá cố.
Anh đã thừa hưởng được cái tinh hoa còn tiềm tàng trong huyết quản tâm linh do
bà mẹ đạo đức truyền sang. Và nhờ đó anh đã chiến thắng.
Nhớ lại trong sách Cựu
ước có đoạn nói về dân Do thái phải bước vào một trận chiến cam go với người
Amalek. Từ sáng sớm, Môisen đã đi lên núi với Aharon và một người phụ tá. Trên
đó, Môisen đã giơ tay lên trời cầu nguyện. Và hễ ông giơ tay lên thì dân Do
thái rượt quân Amalek chạy tơi bời, còn khi mõi tay hạ xuống một tí thì quân
Amalek lại vùng lên đuổi dân Do thái chạy bán sống bán chết. Thành ra hai bên
đánh nhau mà cứ như trò chơi ngày hội. Nhưng cuối cùng, dân Do thái đã toàn
thắng nhờ đôi tay của Môisen được giơ lên cho đến chiều tối.
Một sức mạnh tâm linh
đã được truyền qua Môisen sang người Do thái, và nhờ thế họ đã đánh bại quân
Amalek.
Cũng vậy, sức mạnh tâm
linh đã được truyền sang Sergei từ người mẹ đạo đức và nhờ đó anh đã giành được
phần thắng trong cuộc chiến giữa một con người không tim óc với con người có
tâm hồn, giữa thế giới vô thần và thế giới niềm tin, giữa hận thù gian ác và
bao dung nhân ái.
Vậy mới hay những tinh
hoa của lòng đạo đức nơi cha mẹ sẽ có ảnh hưởng biết bao trên cuộc đời con cái.
Nhất là khi cuộc đời đó lại đang là một cuộc chiến giữa đúng và sai, tội lỗi và
thánh thiện, bất hiếu và có hiếu, đam mê buông tuồng và khổ chế hy sinh. Trước
các trận chiến quyết liệt đó, cha mẹ phải là những người không ngừng giơ tay
lên cao để khẩn cầu cùng Thiên Chúa cho con cái như Moisen đã khẩn cầu cho
Israen. Và phải giơ tay khẩn cầu liên lỉ, từ "hừng đông" cho đến
"chiều tà," từ bắt đầu cuộc chiến cho đến khi toàn thắng. Chứ không
vì mỏi mệt hay nhát đảm, quân thù hăng lên hoặc con ta yếu đi, mà buông xuôi,
thất vọng, đầu hàng.
Nói đến sức mạnh và sự
cần thiết của cầu nguyện, chính Chúa Giêsu đã đưa ra hình ảnh của một bà goá bị
người khác chèn ép oan ức. Bà không có tiền để lo lót, cũng chẳng có quyền để
tựa nương, thậm chí cũng chẳng có đứa con nào để nhờ cậy. Thế nhưng bà có một
thứ vũ khí rất lợi hại: cái lưỡi. Và bà đã biết sử dụng nó. Bà bạo van bạo xin.
Kêu đi kêu lại, kêu mãi kêu hoài. Ấy thế mà được việc! Tức là mặc dầu quan toà,
và là thứ quan toà bất lương theo lời Kinh thánh, không muốn xử cho bà, thậm
chí còn coi bà như rơm rác, ấy thế mà vì điếc tai nhức óc, vì muốn được yên
thân, nên ông đã xử cho xong chuyện.
Câu trả lời thật bất
ngờ và lý thú: vì anh còn thừa hưởng được dòng máu đạo đức của người mẹ quá cố.
Anh đã thừa hưởng được cái tinh hoa còn tiềm tàng trong huyết quản tâm linh do
bà mẹ đạo đức truyền sang. Và nhờ đó anh đã chiến thắng.
Nhớ lại trong sách Cựu
ước có đoạn nói về dân Do thái phải bước vào một trận chiến cam go với người
Amalek. Từ sáng sớm, Môisen đã đi lên núi với Aharon và một người phụ tá. Trên
đó, Môisen đã giơ tay lên trời cầu nguyện. Và hễ ông giơ tay lên thì dân Do
thái rượt quân Amalek chạy tơi bời, còn khi mõi tay hạ xuống một tí thì quân
Amalek lại vùng lên đuổi dân Do thái chạy bán sống bán chết. Thành ra hai bên
đánh nhau mà cứ như trò chơi ngày hội. Nhưng cuối cùng, dân Do thái đã toàn
thắng nhờ đôi tay của Môisen được giơ lên cho đến chiều tối.
Một sức mạnh tâm linh
đã được truyền qua Môisen sang người Do thái, và nhờ thế họ đã đánh bại quân
Amalek.
Nếu một thẩm phán bất
lương, một quan toà bạo ngược mà còn phải nghe một kẻ tha thiết nài van và vững
tâm kêu cầu như thế, thì huống gì là Thiên Chúa, một Thẩm phán đầy lòng xót
thương.
Đọc hồi ký của Sergi,
có lẽ mỗi người sẽ có những cảm xúc hay nỗi niềm khác nhau dọc theo diễn tiến
của câu chuyện, nhưng phần tôi lại bị lôi cuốn ngay từ đầu bởi cách đặt vấn đề
và giải quyết vấn đề của dịch giả Nhị Lang: Với một con người như Koudakov, mồ
côi cha mẹ từ thuở bé thơ, trộm cắp đầu đường xó chợ, không ai dạy cho một câu
về luân thường đạo lý, lại còn luôn được khuyến khích làm những điều thất nhân
ác đức, trong một môi trường như vậy thì đáng lẽ Koudakov phải biến thành một
con thú ghê tởm nhất trần gian chứ. Đàng này anh đã không trở thành con thú,
nhưng lại dám một mình đột phá chống lại cả một hệ thống đàn áp tôn giáo tinh
vi và một chế độ vô thần mênh mông như tại Nga. Anh đã đi từ thái cực bất lương
qua thái cực thánh thiện mà không có một sự hướng dẫn hay tia sáng đạo đức nào
chung quanh. Thế thì nhờ đâu mà anh đã có được sự biến đổi lạ lùng như vậy?
Cũng vậy, sức mạnh tâm
linh đã được truyền sang Sergei từ người mẹ đạo đức và nhờ đó anh đã giành được
phần thắng trong cuộc chiến giữa một con người không tim óc với con người có
tâm hồn, giữa thế giới vô thần và thế giới niềm tin, giữa hận thù gian ác và
bao dung nhân ái.
Vậy mới hay những tinh
hoa của lòng đạo đức nơi cha mẹ sẽ có ảnh hưởng biết bao trên cuộc đời con cái.
Nhất là khi cuộc đời đó lại đang là một cuộc chiến giữa đúng và sai, tội lỗi và
thánh thiện, bất hiếu và có hiếu, đam mê buông tuồng và khổ chế hy sinh. Trước
các trận chiến quyết liệt đó, cha mẹ phải là những người không ngừng giơ tay
lên cao để khẩn cầu cùng Thiên Chúa cho con cái như Moisen đã khẩn cầu cho
Israen. Và phải giơ tay khẩn cầu liên lỉ, từ "hừng đông" cho đến
"chiều tà," từ bắt đầu cuộc chiến cho đến khi toàn thắng. Chứ không
vì mỏi mệt hay nhát đảm, quân thù
Tất nhiên, Ngài sẽ
rộng lòng vạn lần hơn thẩm phán bất lương kia chứ. Ngài sẽ lắng nghe mà xoa dịu
cùng đáp cứu cho kẻ nài van Ngài chứ.
Nhưng liệu tôi có đủ
kiên cường và bền chí nguyện cầu như bà goá ấy hay không?
Cuộc đua Tour de
France là một cuộc đua xe đạp được tổ chức tại Pháp trong khoảng một tháng.
Đường đua dài hơn 3 ngàn cây số, gồm những khúc quẹo hiểm trở, có lúc lên núi
xuống đồi. Cuộc đua này chỉ có những người chạy xe đạp đua lành nghề tham dự.
Vào tháng Bảy năm
1986, Greg LeMond đã đoạt được giải Tour de France. Greg đã đạt tới tuyệt đỉnh
của một môn thể giao thế giới.
Vào tháng Tư năm 1987,
Greg đã không may bị bắn khi anh đi săn. Ba mươi viên đạn đã đâm qua lưng,
chân, tay, phổi, gan, mô bọc tin, và làm gẫy hai xương sườn. Kỳ diệu thay, Greg
đã không chết. Sau một thời gian nằm nhà thương, anh đãđược trở về nhà.
Khi trở về nhà, Greg
còn phải kiên trì vượt qua những ngày tháng trị liệu và hồi phục sức khoẻ, Sau
đó, Greg lại bắt đầu luyện tập chạy xe đạp và ghi tên tham gia các cuộc đua.
Gần một năm sau khi bị
thương, Greg thi đấu đua xe đạp ở Ireland. Tuy không thắng, Greg đã không bỏ
cuộc. Sau nhiều cuộc thi đấu, Greg càng trở nên can đảm và dũng mạnh hơn.
Đến năm 1989, Greg ghi
tên tham gia cuộc thi Tour de France. Nhiều người không tin rằng anh có thể
hoàn tất cuộc đua. Sai với nhiều dự đoán, Greg đã dùng hết sức lực mình để thi
đấu tới cùng.
Tiếp đến là ngày cuối
cùng của trận đua. Các đấu thủ bất đầu tiến dần về thành phố Paris. Hàng ngàn
khán giả đứng đầy đường để chờ xem kết quả cuộc đua. Greg khi đó đang đúng ở
hàng thứ hai. Một ký giả thể thao ghi lại: “Greg như một mũi tên nhắm thẳng về
đích điểm.”
Greg đã đuổi kịp đấu
thủ dẫn đầu trong cuộc đua. Tiếp đấy, anh vượt qua cả đấu thủ ấy, và anh đã
thắng giải Tour de France lần thứ hai. Anh đã đạt tới đích trong giây phút hồi
hộp nhất trong bảy mươi sáu năm lịch sử của cuộc đua.
Câu chuyện trên minh
họa điều mà Chúa Giêsu đã phán qua dụ ngôn trong bài Phúc âm hôm nay. Sự kiên
nhẫn của Greg là sự kiên nhẫn mà Chúa Giêsu chủ trương cho tất cả những người
muốn theo Ngài phải có khi họ làm việc và cầu nguyện để mở mang Nước Chúa trên
trái đất này.
Greg là một mẫu gương
cho câu ngạn ngữ thời xưa, “Sự kiên nhẫn có sức mạnh vô song”. Nếu Greg đã biết
trang bị đầy đủ, đạt được những danh dự và phần thưởng thế gian này, thì chúng
ta cũng phải biết trang bị đầy đủ hơn để đạt được phần thưởng trên trời.
Chúng ta phải làm sao
để kiên nhẫn theo chân Chúa Kitô? Câu trả lời được chứa đựng trong lời của Chúa
Giêsu. Ngài nói: “Ai muốn theo Ta phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng
ngày và theo Ta” (Lc 9:23). Lời tuyên bố đó của Chúa Giêsu bao gồm câu trả lời
cho việc chúng ta phải làm sao để kiên trì theo chân Chúa Kitô.
Trước hết, chúng ta
phải biết từ bỏ chính mình đi. Chúng ta phải biết nhắm tới mục đích của chúng
ta hơn là nhắm về mình.
Thứ đến, bên cạnh sự
bỏ mình, chúng ta còn phải vác thập giá mình hằng ngày. Nói cách khác, chúng ta
phải tập đón nhận thập giá từng ngày một.
Sau hết, bên cạnh việc
bỏ mình và vác thánh giá hằng ngày, chúng ta phải theo Chúa Giêsu. Có nghĩa là,
chúng ta theo dấu vết chân Ngài. Theo dấu chân Ngài không có nghĩa là chúng ta
sẽ không bao giờ té, nhưng có nghĩa là mỗi lần chúng ta té, chúng ta biết đứng
dậy và tiếp tục đi.
Như thế, điểm then
chốt của việc kiên trì theo chân Chúa Giêsu là làm những gì Ngài đã phán. “Ai
muốn theo Ta phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.”
22. Sức mạnh vạn năng- Lm. Vũ Minh Nghiễm
Năm nào đây, tờ
Guidepost có đăng một câu chuyện đáng ghi nhớ như sau:
Cô Mary là một giáo
viên Trung học trẻ. Cô hằng mong ước được thành công trong nghề nghiệp của
mình. Nhưng trong lớp, có một cậu học sinh rất bướng bỉnh, nghịch ngợm, hay phá
phách, làm cho cả lớp nên ồn ào xáo trộn như rạp xiếc. Cô Mary buồn bã vô cùng.
Một buổi sáng kia, trước giờ học, cô ngồi vào bàn viết lấy giấy viết một câu gì
đó bằng tốc ký (tức là chữ viết bằng những dấu tượng trưng). Bỗng cậu Bill xuất
hiện. Cậu lại nơi bàn cô giáo, hỏi:
- Cô đang viết gì vậy?
- Cô đang viết một lời
cầu nguyện đây em ạ. Cô giáo trả lời...
Cậu Bill nhạo lại
liền:
- Chứ Thiên Chúa có
đọc chữ tốc ký được không?
- Ngài có thể hiểu
được hết mọi sự. Ngài có thể nhậm lời cầu nguyện của cô nữa.
Nói xong cô gấp tờ
giấy kinh đó lại, bỏ vào trong cuốn Kinh Thánh cô để trên bàn, rồi đứng dậy,
lên bảng đen viết bài làm cho học trò. Bill liền rón rén đi lên, lén mở cuốn
Kinh thánh, lấy tờ giấy cô giáo vừa để trong đó, và bỏ vào cuốn tập của mình.
Thời gian trôi qua...
Hai mươi năm về sau.
Một hôm chàng lên gác nhà, gặp thấy cái hộp đựng các đồ đạc của chàng xưa khi
còn cắp sách đi học. Cái hộp nầy mẹ chàng cất giữ trên đó đã lâu lắm. Mở ra,
chàng thấy trong đó có cuốn tập của chàng hồi trước. Cầm lên, chàng giở trang
nầy sang trang nọ, trang nọ sang trang kia. Kìa! Tờ giấy kinh cô giáo Mary viết
xưa, mà chàng đã lấy trộm từ cuốn Kinh Thánh cô để trên bàn, đang nằm gọn trong
đó, tuy đã úa vàng. Chàng liền lấy ra, nhìn đi ngắm lại những giòng cô Mary
viết bằng tốc ký ngoằn ngoèo, chẳng hiểu gì cả. Chàng xếp tờ giấy lại, bỏ vào
ví mình. Hôm sau, đến sở làm việc, chàng đem tờ giấy ra, xin cô thư ký cắt
nghĩa cho những giòng viết trong đó có nghĩa gì. Xem xong, cô thư ký đỏ mặt,
nói: “ Đây là chuyện riêng tư của ông. Tôi sẽ đánh máy, rồi chiều nay,khi tan
sở ra về, tôi sẽ đem để trên bàn giấy cho ông.”
Chiều đó, Bill đọc câu
kinh của cô giáo Mary xưa, cách đây 20 năm như sau:
“Lạy Chúa, xin đừng để
con phải thất bại trong nghề nghiệp của con. Trò Bill quá bướng bỉnh, phá
phách, con không điều khiển nổi lớp học của em. Xin Chúa đánh động tâm hồn em.
Nó có thể trở nên một nguời thật tốt, mà cũng có thể trở nên một người thật
xấu. Một thiên thần hay một tướng quỉ.”
Câu kinh sau cùng bổ
vào tâm hồn chàng như một nhát búa tạ! Tôi có thể trở nên một người hoặc thật
tốt, hoặc thật xấu, một thiên thần hay một tướng quỉ!
Chính lúc đó, chàng
đang tính toán làm một việc mà nếu thực hiện, thì đời chàng sẽ là một đời đại
gian đại ác.
Tâm hồn chàng đầy
hoang mang giao động. Chàng xếp bản kinh kia, bỏ vào ví lại, rồi đóng cửa ra
về. Trong những ngày sau đó, chàng rút bản kinh ra đọc đi xem lại nhiều lần.
Cuối cùng chàng đổi ý, cương quyết gạt bỏ công việc tối tăm gian ác dự định.
Sau đó, chàng đi tìm gặp cô giáoMary xưa. Với lòng đầy biết ơn, chàng thuật lại
cho cô nghe: nhờ câu kinh của cô mà chàng đã xoá bỏ được một việc đại gian ác
như thế nào.
Câu chuyện trên đây
giúp chúng ta hiểu được những gì Chúa Yê-su muốn dạy các môn đồ qua bài Phúc Âm
hôm nay về sự cầu nguyện.
Thứ nhứt: Sức mạnh của
lời cầu nguyện.
Thứ hai: Sự kiên trì
trong việc cầu nguyện.
Trước hết, sức mạnh
của lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện có ảnh hưởng mãnh liệt trên thành quả của
công việc chúng ta làm. Lời cầu nguyện có thể thay đổi hẳn cuộc đời của con
người ta, như lời cầu nguyện cô giáo Mary đã thay đổi hẳn cuộc đời anh Bill.
Bàn về sức mạnh của sự
cầu nguyện, bác sĩ Carrel, một người được giải thưởng Nobel, nói: “Lời kinh cầu
nguyện là một nguồn sinh lực mạnh mẽ nhứt mà con người ta có thể sản xuất được.
Lời kinh cầu nguyện có ảnh hưởng mạnh mẽ trên tâm hồn và thể xác của chúng ta
giống như các hạch tuyến trong cơ thể chúng ta vậy. Lời kinh cầu nguyện là một
sức mạnh thiết thực như hấp lực (sức hút) của trái đất.”
Thứ hai, để thực
nghiệm được sức mạnh của lời cầu nguyện, chúng ta phải kiên trì. Trong bài đọc
thứ nhứt, chúng ta thấy ông Mô-sê đã kiên trì trong sự cầu nguyện như thế nào.
Trong khi quân Israel giao chiến với quân cướp đường Amalec, ông lên đỉnh núi
cầu nguyện. Bao lâu ông giơ tay lên cầu nguyện, thì quân Israel thắng thế, quân
giặc lùi. Khi ông bỏ tay xuống, thì quân giặc lại thắng thế, quân Israel lùi.
Mấy người bạn phải vực ông ngồi lên một tảng đá, nâng hai cánh tay ông lên,
giúp ông cầu nguyện cho đến khi mặt trời lặn xuống, và tướng Yo-su-ê dẹp tan
quân địch.
Chúng ta cũng vậy,
phải kiên trì trong việc cầu nguyện, mãi cho đến khi mặt trời của cuộc đời
chúng ta lặn xuống, mới có thể kết thúc được trận chiến của chúng ta với ba thù
ma quỉ, thế gian và xác thịt. Chúng ta chỉ có thể buông tay súng một khi nằm
xuống và được Chúa gọi về.
Trong bài Phúc Âm hôm
nay, Chúa Yê-su nói về một vị thẩm phán lì lợm, dưới không nể người, trên không
sợ Trời. Thế mà ông đã chịu thua một bà góa nghèo hèn. Ngày ngày bà cứ kêu gào
mãi trước cửa nhà ông, xin ông minh oan cho bà. Sau cùng, vì không chịu nổi được
sự quấy rầy đó mà ông phải chiều ý, xử minh oan cho bà.
Nghe qua, chúng ta có
cảm tưởng như Chúa dạy chúng ta gây áp lực với Cha trên trời, như bà góa kia đã
gây áp lực nơi ông thẩm phán bất lương?
Không! Ông thẩm phán
kia bất lương, còn Cha trên trời thì đại lượng và khôn ngoan. Một người con
bướng bỉnh có thể hành động như vậy đối với cha mẹ ít khôn ngoan. Chúng ta thì
không thể làm áp lực với Cha trên trời, là đấng khôn ngoan vô cùng, biết chọn
sự lành để ban cho chúng ta, biết chọn thời buổi để nhậm lời chúng ta.
Khi nói dụ ngôn trên,
Đức Yê-su chỉ nhằm dạy chúng ta điều này: Phải dùng lời cầu nguyện để kết hợp
cùng Chúa khi buồn cũng như lúc vui, ban đêm cũng như ban ngày, trời mưa âm u,
cũng như trời nắng sáng. Chúng ta phải tạo cho sự đọc kinh cầu nguyện thành một
tập quán, một nhu cầu như ăn cơm uống nước vậy.
Hiểu được ý nghĩa sự
đọc kinh cầu nguyện là như thế, chúng ta mới ưa thích sự cầu nguyện, mới kiên
trì trong sự cầu nguyện được. Nhược bằng hiểu sự cầu nguyện chỉ là cầu xin,
chúng ta sẽ không thể ưa thích sự cầu nguyện, sẽ chán ghét sự cầu nguyện, việc
dâng lễ cầu kinh.
Đã bao lần chúng ta
cầu xin mà đâu có được Chúa nhậm lời? Cầu xin Chúa cho được khỏe mạnh, mà cứ
nay yếu mai đau! Cầu xin cho một người bạn đang mắc ung thư, được lành mạnh, mà
thấy bạn nằm xuống chết như thường! Cầu xin được trúng số, đỡ vất vả, mà mất
bao nhiêu tiền rồi, chỉ được cái không thôi!
Phải, nếu hiểu sự cầu
nguyện chỉ có nghĩa là cầu xin mà thôi, thì chúng ta sẽ không thể kiên trì
trong sự cầu nguyện, không thể ưa thích đi dâng lễ cầu kinh lâu được.
Đức Yê-su thì hiểu sự
cầu nguyện một cách khác. Phúc âm đã nói đến việc Chúa cầu nguyện, ít nhứt là
20 lần. Phần lớn sự cầu nguyện của Ngài là những lời chúc tụng, tán tạ ngợi
khen Thiên Chúa Cha. Lần cuối đời, trong vườn Cây Dầu, trước viễn ảnh thập giá,
Ngài đã cầu xin:
“Lạy Cha, xin cho con
được qua chén đắng nầy.”
Nhưng rồi Ngài vội
thêm liền:
“Con xin vâng theo ý
Cha, không phải theo ý con.”
Và Ngài đã không được
Chúa Cha chấp nhận. Ngài vẫn bị quân dữ bắt treo lên thập giá. Ngài đã được một
ơn cao trọng khác. Ngài được can đảm và bình tĩnh, rất bình tĩnh, để nộp mình
cho quân dữ.
Để tóm lược, chúng ta
hãy trở lại với câu chuyện cô giáo Mary và cậu học trò tên Bill nói lúc ban
đầu.
Trước hết, lời cầu
nguyện quả là một sức mạnh vạn năng. Nhờ lời cầu nguyện của cô, mà cậu học trò
bướng bỉnh kia đã thay đổi đời sống hoàn toàn, và trở nên ngưởi lương thiện.
Thứ đến, ơn cô xin,
Chúa đã không ban cho ngay. Đợi 20 năm sau, Ngài mới nhậm lời, mở con mắt linh
hồn cho chàng Bill được nhìn thấy con đường chính trực. Vậy khi cầu nguyện,
chúng ta phải biết kiên trì, phó thác mà cầu nguyện. Cha trên trời đại lượng và
khôn ngoan vô cùng. Ngài sẽ nghe lời con cái kêu cầu. Nhưng cách nào và lúc
nào?
Điều đó hoàn toàn tùy
thuộc vào thánh ý Ngài, vào sự khôn ngoan của Ngài.
Nếu chúng ta biết cầu
nguyện như vậy, tức là cầu nguyện như Đức Yê-su đã cầu nguyện và dạy các môn đệ
cầu nguyện, chúng ta sẽ ưa thích sự cầu nguyện, sự đọc kinh dâng lễ. Và dầu gặp
hoàn cảnh nào đi nữa, tâm hồn chúng ta cũng sẽ gặp được bình an và thư thái.
23. Cầu nguyện là sự sống của người Kitô hữu
(Suy niệm của Jos.
Vinc. Ngọc Biển)
Bất kể một tôn giáo
nào, cầu nguyện là yếu tố sống còn của mình. Cầu nguyện được ví như hơi thở, là
hoạt động căn bản của đời sống tâm linh. Cầu nguyện đối với người Công Giáo,
chính là thể hiện niềm tin, phó thác cho sự an bài quan phòng của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay
Đức Giêsu một lần nữa nhắc lại cho chúng ta thấy tầm quan trọng của việc cầu
nguyện, đồng thời Ngài dạy mỗi chúng ta hãy kiên trì, trung thành khi cầu
nguyện qua dụ ngôn vị thẩm phán bất lương và bà góa nghèo.
1. Sự cần thiết của
lời cầu nguyện
Nếu cá cần nước để
sống; cây cối cần ánh sáng mặt trời để quang hợp và sinh trưởng, thì cầu nguyện
cũng cần cho đời sống của người kitô hữu như vậy. Cầu nguyện chính là nâng tâm
hồn lên với Thiên Chúa để xin Ngài ban ơn, nâng đỡ. Cầu nguyện còn nói lên một
sự thật là ta thuộc về Chúa; Chúa thuộc về ta. Tuy nhiên, vẫn là khởi đi từ
Thiên Chúa, Ngài luôn thúc đẩy tâm hồn chúng ta khao khát Ngài: “như nai rừng
mong mỏi, hồn con cũng trông mong được gần Ngài, lạy Chúa”. Hay nói như thánh
Âu Tinh: “Lạy Chúa, tâm hồn con vẫn bồn chồn xao xuyến mãi cho tới khi được
nghỉ ngơi trong Chúa”.
Khi nói đến sự cần
thiết của cầu nguyện, Đức Giêsu cũng đã nhiều lần khuyên các môn đệ của mình
hãy cầu nguyện và, chính Ngài cũng luôn luôn cầu nguyện trước, trong và sau khi
làm bất cứ việc gì. Thật vậy, Ngài cầu nguyện trong sa mạc; nơi hội đường; trên
triền núi; ngoài bãi biển. Đặc biệt, nơi các giáo huấn của Ngài, chúng ta thấy
toát lên tâm tình cầu nguyện. Khi dạy các tông đồ cầu nguyện, Ngài nói: “Phải
cầu nguyện luôn mãi không ngừng nghỉ” (Lc 18,1). “Hãy tỉnh
thức và cầu nguyện” (Mc 14,38). Rồi khi dạy các ông về sự tín thác, Ngài nói:
“Không có Thầy, chúng con không thể làm được gì” (Ga 15,5). Qua câu nói này,
Đức Giêsu cho chúng ta thấy sức mạnh vô song của lời cầu nguyện, cũng như quyền
năng của Thiên Chúa trên mọi sự.
Thánh Nữ Têrêxa Hài
Đồng Giêsu đã nói về sức mạnh của lời cầu nguyện như sau: “Hãy cho tôi một đòn
bẩy, một điểm tựa, thì tôi sẽ nâng thế giới lên”.
Như vậy, cầu nguyện là
điều quan trọng. Không cầu nguyện, ta đánh mất điều căn bản để làm nên đời sống
tinh thần. Tuy nhiên, khi cầu nguyện, Đức Giêsu dạy phải có sự kiên trì và
trung thành.
2. Kiên trì trong cầu
nguyện
Nói về sự kiên trì
trong cầu nguyện, Đức Giêsu đã kể dụ ngôn bà góa và vị thẩm phán:
Bà góa mà Đức Giêsu
nói đến hôm nay chính là một trong những thành phần bị xã hội khinh khi, bỏ
rơi; là thành phần thấp cổ bé họng trong xã hội, không có tiếng nói và ít được
ai quan tâm. Sở dĩ có sự kỳ thị này là do thói quen, văn hóa và truyền thống
của một số nước niềm Cận Đông thời bấy giờ. Thành phần bà góa là một trong ba
thành phần không cần quan tâm (quả phụ, cô nhi và di dân). Họ cũng không có
quyền đòi xã hội phải công bằng với mình. Chính vì thế, việc ông thẩm phán dửng
dưng và không thèm quan tâm tới bà là lẽ đương nhiên, không có gì lạ. Ý thức
được điều đó, nên bà đã trai lỳ và hoàn toàn phó thác trong tay vị thẩm phán
bất công.
Nói lên tính kiên trì
của bà góa này, tưởng cũng nên nhắc lại khuôn mặt của vị thẩm phán trong dụ
ngôn hôm nay để thấy được lòng kiên định, trung thành của người đàn bà này.
Vị thẩm phán chính là
một người bất lương, tham nhũng, bóc lột. Cuộc đời của ông là tiền và tiền chứ
không có ân nghĩa gì hết. Vì thế, ông ta “không có kiêng nể ai” và, cũng “chẳng
coi Thiên Chúa ra gì”. Cán cân công lý của ông chính là tiền. Tuy nhiên, ông đã
chịu thua bà góa nghèo. Bà này có một thứ vũ khí thần kỳ, khiến vị thẩm phán
cứng lòng, vô cảm đến đâu cũng phải khuất phục, đó là: kiên trì để ngồi lỳ, kỳ
nèo, năn nỉ. Quả thật, ông thẩm phán này không thể chịu nổi sự phiền hà của bà
góa. Cuối cùng, ông ta đã phải mở phiên tòa để minh oan cho bà. Điều mà Đức
Giêsu muốn nói ở đây chính là sự kiên trì của bà góa. Và, đi xa hơn một bước
nữa, Đức Giêsu muốn nói về lòng nhân từ của Thiên Chúa qua hình ảnh vị quan
tòa.
3. Lòng nhân từ của
Thiên Chúa
Nếu người thẩm phán
trong bài Tin Mừng hôm nay rất bất lương và bất nhân như thế, mà ông ta còn
phải chịu khuất phục trước nỗi thống khổ của bà góa, thì Thiên Chúa là Đấng
nhân lành, từ bi, chậm giận và hay thương xót… lại không thương con cái khi
chúng chạy đến với mình hay sao? Chính Đức Giêsu đã mạc khải cho thấy tình
thương của Thiên Chúa khi nói: “Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy
gõ thì sẽ mở cửa cho” (Mt 11,9). Tuy nhiên, lời cầu nguyện của chúng ta có khi
đẹp lòng Chúa và ích lợi cho phần hồn thì Chúa sẽ ban cho ngay, nhưng đôi khi
chúng ta chỉ biết xin mà không biết điều đó có lợi hay có hại, những lúc như
thế, Chúa sẽ trì hoãn hoặc ban những ơn khác tốt đẹp hơn cho chúng ta. Vì vậy,
hãy tin tưởng, kiên trì và phó thác nơi Thiên Chúa. Hãy trở thành tác phẩm
trong bàn tay tuyệt diệu của Thiên Chúa. Vậy, nếu chúng ta đã được Chúa yêu
thương, thì chúng ta cũng phải loan truyền về một vị Thiên Chúa giàu tình
thương và muốn cho con người được hạnh phúc đến với hết mọi người, mọi nơi...
4. Truyền giáo bằng
cầu nguyện
Hôm nay là ngày khánh
nhật truyền giáo, ngày cả Giáo Hội cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo, đồng
thời cũng là dịp để mỗi chúng ta ý thức vai trò loan báo Tin Mừng của mình.
Truyền giáo là bản
chất của Giáo Hội. Nếu Giáo Hội không truyền giáo thì Giáo Hội đánh mất bản
chất của mình, và như thế đặc tính của chúng ta mất. Tuy nhiên, truyền giáo có
nhiều cách. Một trong những cách truyền giáo hữu hiệu nhất chính là cầu nguyện.
Đức Giêsu khi xưa cũng
vậy, Ngài khởi đầu sứ vụ của mình bằng việc vào hoang địa ăn chay, cầu nguyện.
Ngài cầu nguyện để: nhằm tìm kiếm, đón nhận và thi hành thánh ý của Chúa Cha
(x. Mt 4,1-11). Sau khi loan báo Tin Mừng Chúa Giêsu cũng cầu nguyện: “Giải tán
họ xong, Ngài lên núi một mình mà cầu nguyện” (Mt 14, 23); “Anh em ngồi lại
đây, Thầy đến đàng kia cầu nguyện” (Mt 26,36); “ sau khi từ biệt các ông, Ngài
lên núi cầu nguyện” (Mc 6,46); “Ngài lui vào nơi hoang vắng để cầu nguyện” (Lc
5,16)...
Tại sao khi truyền
giáo phải cầu nguyện? Thưa vì chúng ta xác định rất rõ: công trình cứu độ là
của Thiên Chúa. Chúng ta chỉ là người cộng tác vào công trình ấy mà thôi. Thật
vậy: “Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thờ nề vất vả cũng là uổng công…”. Chính
Thiên Chúa mới làm cho công cuộc truyền giáo sinh hoa kết quả (x. 1 Cr 3, 6-7).
Thánh Phaolô cũng nói: “ Trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van
xin, và tạ ơn mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện”
(Pl 4,6).
Khi cầu nguyện, chúng
ta biết được tính cấp thiết của sứ vụ. Biết mưu cầu hạnh phúc cho người khác.
Sẵn sàng hy sinh, trung thành vì Nước Trời và phần rỗi của các linh hồn.
Nếu không có đời sống
cầu nguyện, chúng ta sẽ là những người thợ dại khờ trong cánh đồng của sự chết.
Cầu nguyện để xin Chúa biến đổi chính chúng ta, làm cho chúng ta trở nên xứng
đáng để trở thành sứ giả của Chúa, những người thợ gặt lành nghề như Chúa muốn
trong cánh đồng truyền giáo của Ngài, trở nên những người gieo vãi hạt giống
Tin Mừng yêu thương giữa một thế giới đang dần dần muốn xa rời Thiên Chúa, đến
với những con người chưa có cơ hội biết Ngài, những con người lầm lạc trong thế
giới hôm nay.
Lạy Chúa, xin cho
chúng con yêu mến đời sống cầu nguyện, bởi vì có cầu nguyện, chúng con mới biết
Chúa là Đấng yêu thương. Xin cũng cho chúng con biết kiên trì, trung thành
trong khi cầu nguyện. Xin Chúa ban cho cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội có
được nhiều thợ gặt lành nghề, để ra đi thu lúa về cho Chúa. Amen.
24. Tin Mừng thúc bách tôi – Lm G. Nguyễn Cao Luật
Hơn một năm trước đây,
nhân loại trong bầu khí chuẩn bị buớc vào thiên niên kỷ thứ ba, kỷ niệm 2000
năm Mầu Niệm Nhập Thể. Trong dịp trọng đại đó, Giáo hội nhìn lại việc loan báo
Tin Mừng cho thế giới, đồng thời đề ra những đường huớng mới cho một cuộc loan
báo Tin Mừng cách cụ thể cho từng châu lục. Đặc biệt với giáo hội tại Á Châu đã
vui mừng đón nhận được Văn kiện "Eccelesia in Asia - Giáo Hội Tại Á
Châu" được công bố tại New Delhi (Ấn độ), tháng 11 năm 1999, như một
"kim chỉ nam" cho giáo hội nơi đây chuẩn bị mừng Năm Đại Toàn xá
2000; đồng thời có dịp nhìn lại vấn đề truyền giáo của mình và tìm ra một hướng
đi mới cho thiên niên kỷ này.
Và mới đây trong phiên
họp chung ngày 10-10-2001, ĐHY Jan Schotte, Tổng thư ký Thượng Hội Đồng Giám
Mục, đã loan báo các nghị phụ về việc công bố Văn kiện Hậu- Thượng Hội Đồng
Giám Mục riêng của Châu Đại dương (Ecclesia in Ocaenia). Ngài nói: "Tôi
vui mừng loan báo trong phiên họp chung này là Đức Thánh Cha, sau khi suy tư
lâu dài và bàn hỏi, đã quyết định công bố Tông huấn Hậu- Thượng Hội Đồng
"Ecclesia in Oceania" tại Vatican (thay vì đi đến một địa điểm trong
miền này), trong một buổi tiếp kiến riêng, được ấn định vào ngày 22 tháng 11
năm 2001, lúc 11g30, tại Phòng Khánh Tiết Clementina của Phủ Giáo Hoàng, nhân
dịp kỷ niệm năm thứ bốn của lễ nghi khai mạc khóa họp riêng cho Châu Đại
dương".
ĐHY Jan Schotte nhấn
mạnh: "Trong lúc này, tôi xin các Nghị phụ cầu nguyện cho Giáo hội tại
Châu Đại Dương, đã từ lâu chờ đợi với nhiều lo âu về văn kiện này. Giáo hội
trong miền này được mời gọi đón nhận giáo huấn Hậu Thượng Hội Đồng trong tinh
thần yêu mến, được mời gọi phổ biến văn kiện này và thực hiện nội dung của nó
trên cấp bậc giáo phận và giáo xứ với lòng nhiệt thành truyền giáo, đáp lại lời
kêu gọi của Đức Thánh Cha tiến đến việc tái rao giảng Tin Mừng, cách riêng
trong lúc bước vào Ngàn Năm thứ ba".
Với những ý nghĩa đó,
Chúa Nhật Truyền Giáo có chiều kích của một cuộc khởi khởi đầu mới trong nỗ lực
loan báo Đức Giêsu cho thế giới.
Anh em sẽ làm chứng
cho Thầy
Các tông đồ là những
người được Đức Giêsu kêu gọi để chia sẻ cuộc sống của Người; các ông đã được
tham dự và chứng kiến những biến cố khác nhau trong cuộc đời của Đức Giêsu.
Những điều đó không phải chỉ là những sự kiện lịch sử,?không phải chỉ làô1 xảy
ra trong quá khứ. Các tông đồ không phải chỉ là những chứng nhân về những sự
kiện tầm thường. Trái lại đây là những biến cố làm đảo lộn lịch sử, những biến
cố đem lại ơn giải thoát cho con người, và các tông đồ là những người loan báo,
những người tiếp tục thực hiện công trình ấy.
Những biến cố tập
trung vào sự kiện: Đức Ki-tô đã chết và sống lại. Các tông đồ không làm chứng
về điều gì khác ngoài sự kiện đó. Đó không phải là hoạt động của con người,
nhưng là những hoạt động của Thiên Chúa, để thể hiện tình thương và ơn cứu độ
cho thế giới. Loan truyền sứ điệp ấy có nghĩa là làm chứng về biến cố quan
trọng này. Vì đó là biến cố quan trọng nên phải dồn hết mọi nỗ lực, mọi khả
năng để loan báo, để làm chứng. Phải làm chứng bằng lời nói, bằng đời sống và
có khi bằng máu nữa.
Do đó, ý thức được tầm
quan trọng của sứ điệp, các tông đồ, những người đã được chứng kiến tận mắt, đã
đem hết cuộc đời của mình để làm chứng: các ông đã giảng dạy, đã viết thơ, viết
sách, đã chịu nhiều gian nan vất vả với một ước mong duy nhất là sứ điệp phục
sinh được công bố cho tất cả mọi người. Các ông đã không ngần ngại chịu đổ máu,
chịu hy sinh cuộc đời, bởi vì các ông được sai đi làm nhân chứng, theo gương Vị
Thầy, Đấng đã gọi và sai các ông đi.
Và, như lịch sử cho
thấy, việc loan báo sứ điệp Ki-tô giáo trong những thế kỷ đầu tiên dựa trên
biến cố nền tảng này. Các ki-tô hữu thời sơ khai không chú trọng về các quy
luật luân lý, cũng không trình bày nhiều về các chi tiết trong cuộc đời Đức
Giêsu, nhưng tất cả cuộc sống, mọi sinh hoạt của họ đều xoay quanh biến cố phục
sinh, vì họ hiểu rằng, đó là biến cố trọng tâm của lịch sử ơn cứu độ.
Như vậy, sứ điệp Ki-tô
giáo không phải là một ý tưởng sáng tạo, một sáng kiến độc đáo chi phối những
khám phá mới; cũng không phải là việc tìm kiếm các chân lý, nhưng chính là xác
quyết sự kiện: Đức Ki-tô đã chết và sống lại. Ki-tô giáo trước hết là một biến
cố, và người loan báo phải làm chứng về biến cố ấy.
Tin Mừng thúc bách tôi
Ơn cứu độ phải được
loan đi cho đến tận cùng vũ trụ. Đó là sự nôn nóng của một tâm hồn đã được đổ
tràn tình thương của Thiên Chúa. Đó cũng là thao thức của một tâm hồn đã được
cảm hóa nhờ sự chết và sống lại của Đức Ki-tô, và đó cũng là niềm phấn khởi của
tâm hồn tràn đầy sức sống và gắn bó sâu xa với Đức Ki-tô.
Người làm chứng phải là
người có kinh nghiệm về điều mình làm chứng. Tin Mừng không phải chỉ là những
điều được rao giảng, được công bố, nhưng chính là cuộc sống, là những tiếp xúc
thâm sâu với Đức Giêsu, để rồi từ đó mới chuyển qua những hoạt động cụ thể,
những công việc bên ngoài.
Đã có một thời người
ta quan niệm việc truyền giáo như là những hoạt động rầm rộ nhằm áp đặt, lôi
kéo người khác theo đạo. Dĩ nhiên, những công việc này rất ích lợi nếu phát
xuất từ tấm lòng nhiệt tình với Tin Mừng, với ơn cứu độ. Khốn thay, không phải
lúc nào cũng được như thế. Không những người ta đã bó buộc, đã áp đặt, nhưng
còn lợi dụng danh nghĩa truyền giáo để mưu tìm những ích lợi cho riêng mình…
Tuy thế, chúng ta
không hề có ý phủ nhận công lao vất vả của các vị truyền giáo đã đem Tin Mừng
đi khắp thế giới. Chỉ có điều là, vẫn có những bóng đen trong lịch sử truyền
giáo, và điều ấy phải là một kinh nghiệm sâu sắc cho cuộc loan báo Tin Mừng
mới.
Như vậy, truyền giáo
không phải là lôi bè, kết đảng làm sao lôi kéo nhiều người về với phe mình. Nhưng
truyền giáo phải là tiếng gọi, là nhu cầu bên trong của cõi lòng tha thiết yêu
thương, của tâm hồn có được kinh nghiệm về Đức Giêsu. Ngoài ra, truyền giáo
cũng chính là để mọi người được sống trong tình thương, được tôn trọng để từ đó
Nước Chúa được hiển trị và muôn người hợp nhất nên một trong ơn cứu độ nhờ mầu
nhiệm Đức Ki-tô chịu chết và sống lại.
Từ đó, con đường hành
động của người Ki-tô hữu không thể nào khác hơn con đường của Thầy mình: là hạt
lúa mì gieo vào lòng đất, chịu thối rữa đi; là phải cúi xuống rửa chân cho anh
em mình, là phải sẵn sàng phục vụ giúp đỡ những người khó khăn bên cạnh mình …
nghĩa là phải đối xử với mọi người cách chân tình, đầy tâm tình yêu mến và kính
trọng, bởi vì tâm hồn mình đang thấm đầy tình yêu và sức sống của Đức Ki-tô,
Đấng đã chịu chết và sống lại cho tất cả mọi người.
Tin Mừng là tin mừng
tình thương, chỉ khi nào con người sống trong tình thương, và loan báo, thể
hiện tình thương đó, khi ấy mới thực sự là truyền giáo.
Lạy Chúa, con là sứ
giả của Chúa
"Lạy Chúa, Chúa
đã muốn chọn con để cộng tác vào việc loan báo Tin Mừng của Chúa. Chúa muốn đến
với nhân loại qua cuộc đời của con. Chúa muốn đi sâu vào cõi thâm cung của lòng
người qua trung gian của con.
Con là người được tham
dự vào công trình của Chúa, con là sứ giả của Chúa. Không còn gì vĩ đại hơn,
không còn danh hiệu nào vinh dự hơn.
Vâng, lạy Chúa, Con
biết rõ điều đó.
Chính Chúa đã kêu gọi
con, đã đổ xuống trên con tình thương của Chúa. Chính Chúa đã đóng dấu ấn của
Chúa trên con, dù con khốn khổ và nghèo hèn. Chúa đã muốn dùng con để công bố
những điều kỳ diệu mà không sợ rằng chân lý bị suy suyển vì tội lỗi của con.
Riêng con, con rất vui
mừng và sung sướng được góp phần nhỏ nhoi của mình vào công việc lớn lao của
Chúa. Con cảm thấy hạnh phúc vì được trở nên khí cụ để Chúa bày tỏ quyền năng.
Xin cho con luôn cảm
thấy ngỡ ngàng khi thấy có những người nhận ra được Chúa đã sai con đi và đã
đón nhận con với tư cách là sứ giả của Chúa.
Xin cho con cảm nhận
được niềm vui chân thật đó mỗi khi con được đón nhận, dù con thật bất xứng.
Nhưng lạy Chúa,
Con cũng nhận ra đây
là một gánh nặng.
Con phải hoàn thành sứ
mạng đã được trao phó “khi thuận tiện cũng như lúc khó khăn".
Con phải loan báo về
Chúa, phải làm chứng - vì khốn cho con, nếu con không rao giảng. Con không thể
tháo lui, bỏ mặc sứ mạng của mình.
Con phải ra đi, ra
khỏi mình để loan báo, để thể hiện ơn cứu độ của Chúa cho mọi người, dù người
đó là ai chăng nữa.
Đôi lúc con cảm thấy
mình không đủ sức để chu toàn sứ vụ, đôi lúc con cảm thấy sứ vụ quá khó khăn mà
dường như con không thể vượt qua.
Xin con luôn nhớ rằng
Chúa vẫn ở bên con, vẫn là người hướng dẫn, vẫn là người chịu trách nhiệm về sứ
vụ đã trao cho con.
Xin cho con đủ tin
tưởng và can đảm để trở thành một khí cụ tốt …
Và lạy Chúa,
Làm sao con có thể
thông truyền chân lý của Chúa mà chính con lại đã không đích thân chiếm lấy
chân lý ấy, và Chúa cũng đã chẳng chiếm lấy con rồi?
Làm sao con có thể
loan báo Tin Mừng mà đã không được Tin Mừng ấy ghi dấu sâu xa nơi tâm hồn mình.
Làm sao con có thể làm
chứng về Chúa nếu con đã không có kinh nghiệm về Chúa?
Con hiểu rằng Chúa là
Ánh Sáng, và ánh sáng đó bừng lên là nhờ chất dầu của cuộc đời con.
Con phải để cho ánh
sáng đó bừng lên trong cuộc đời mình trước khi bừng lên trong thế giới.
Cuối cùng, lạy Chúa,
Chúa đã muốn sử dụng
con, xin đừng để con thành một ngăn trở. Xin đừng để những vụng về, những yếu
đưối của con làm hỏng đi công trình của Chúa, trái lại, xin cho mọi người đón
nhận được Chúa qua cuộc đời của con."
Theo Karl Rahner