SUY NIỆM LỜI CHÚA CN 28 THƯỜNG NIÊN C
MỤC LỤC
1. Lòng biết ơn
2. Phong cùi
3. Biết ơn
4. Đón, gặp và biết ơn
5. Dòng suối ân tình – Thiên Phúc
6. Lời tạ ơn khiêm hạ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
7. Đón nhận ơn cứu độ
8. Hãy có lòng biết ơn
9. Tạ Ơn Chúa – Logos
10. Lòng biết ơn – An Phong
11. Thể hiện của tự do thực sự
12. Đức tin của con đã cứu con – Veritas.
13. Lòng biết ơn – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
14. Một trên mười – Lm Giuse Nguyễn Cao Luật
15. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
16. Lòng biết ơn – Lm Ignatio Trần Ngà
17. Quan tòa bạo ngược và bà góa quấy rầy
18. Lòng biết ơn - Lm. Trần Việt Hùng
19. Chín người kia đâu?
20. Ưu tiên cho việc tạ ơn - Achille Degeest
21. Hãy dâng lời ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa
22. Tất cả là hồng ân
23. Mười người phong cùi
24. Lòng biết ơn
25. Mười người phong hủi - McCarthy
26. Đức tin đích thực - R. Gutzwiller
27. Đức tin của con đã cứu con
28. Lòng biết ơn
29. Biết ơn
30. Cám ơn
31. Niềm tin
32. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
33. Làm một điều tốt
34. Tạ ơn là một biểu hiệu của lòng tin
35. Tán tụng hồng ân- Lm. Vũ Minh Nghiễm
36. Sống tri ân- Lm. Bùi quang Tuấn
37. Gặp gỡ để bày tỏ lòng biết ơn
38. Đứng dậy về đi Noel Quesson
39. Vô ơn, biết ơn – Lm Giacôbê Phạm Văn Phượng
Bài ca tạ ơn Lm Giuse Đinh tất Quý
Lòng biết ơn Lm Giuse Đinh tất Quý
Biết cám ợn là biết sống đúng....Lm. Đaminh Lâm Quang Khánh
Thánh Vịnh Đáp Ca Nhóm Thánh Vịnh Nauy
Đón nhận ơn cứu độ ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Tâm tình biết ơn Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Thể hiện lòng biết ơn Lm Giuse Đinh lập Liễm
Nhận biết và cảm tạ hông ân Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Biết ơn Cha Mark Link, S.J.
Ơn người ơn đời PM. Cao Huy Hoàng
Tạ ơn Chúa PM. CAO HUY HOÀNG
Bổn phận biết ơn Suy niệm của JKN
Niềm tin trọn vẹn Hugues Cousin
Xứng đáng với tình thương William Barclay
Cái nhìn sâu xa McCarthy
Biết ơn Sưu tầm
Dòng suối ân tình Sưu tầm
Hãy chia sẻ hết lòng ... Lm. Phêrô Lê văn Chính
Bổn phận cám ơn Chúa Catholic.org.tw
Tâm tình tạ ơn Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
1. Lòng biết ơn
Đoạn Tin Mừng vừa nghe
kể lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và mười người phong cùi. Họ đã giữ lề luật
của dân Chúa, nên đã không tiến lại gần Chúa Giêsu mà chỉ dám đứng ở đằng xa
lên tiếng xin Người thương xót. Chúa Giêsu đã đáp lại lời van xin của họ, và
dạy họ tới gặp các tư tế. Người đã dạy họ làm theo điều luật dạy: Kẻ mắc bệnh
phong cùi khi thấy mình được khỏi thì phải tới gặp các tư tế và sau khi các tư
tế xem xét và tuyên bố kẻ ấy thực sự đã khỏi, thì kẻ được khỏi mới trở lại cuộc
sống bình thường trong xã hội như mọi người lành mạnh khác.
Tuy nhiên, điều đáng
nói ở đây là trong khi cả mười người cùng đi tới các vị tư tế và được khỏi,
nhưng chỉ có một người trong số họ đã trở lại sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà
ca ngợi Thiên Chúa và cảm tạ Ngài. Và trớ trêu thay, người độc nhất có cử chỉ
đứng đắn này lại là một người Samaria, một người lai căng và tạp giáo đáng ghét
dưới mắt người Do Thái. Chín người kia có thể là đã mải mê đi làm theo điều
luật dạy. Có thể họ đã nghĩ rằng họ được khỏi là nhờ lề luật, nhờ việc họ làm
theo lề luật, và do đó đã quên hay không nhận ra nguyên nhân đích thực đã làm
cho họ khỏi bệnh. Trong khi đó thì người Samaria, có lẽ ít câu nệ đối với những
chi tiết của lề luật hơn, không quá đề cao vai trò của lề luật, nên đã có thể
nhận ra mình được khỏi bệnh là do đâu. Anh ta đã nhận ra Chúa Giêsu đã chữa
lành cho anh và anh trở lại để cám ơn người đặt mình trong mối quan hệ cứu và
được cứu với Chúa Giêsu. Và do đó, anh ta tự trở thành người được cứu chữa thực
sự, người được hưởng ơn cứu chuộc cứu chuộc của Chúa. Chín người phong cùi kia
mới chỉ được khỏi bệnh, nhưng người phong cùi thứ mười và cùng là người Samaria
mới là người được cứu chữa thực sự. Chín người phong cùi kia đã dừng lại ở lề
luật, chỉ có người phong cùi thứ mười mới đi đến lòng tin và tình thương.
Đây không phải là lần
độc nhất chúng ta được chứng kiến cái thực tế lạ lùng này: Người bị coi là ở
ngoài hoá ra lại là ở trong. Người ở xa mà thực sự lại là gần. Hơn một lần Chúa
Giêsu đã quả quyết người ngoại đạo như viên sĩ quan Rôma hay người đàn bà
Canaan, có lòng tin mạnh mẽ hơn những người Do Thái. Người được kể làm ví dụ về
việc thực thi lòng bác ái yêu thương là một người Samaria, chứ không phải là
thầy tư tế, trợ tế hay một người Do Thái nào đó. Như thế, sống đạo bao gồm việc
tuân giữ những giới luật của Chúa và Hội Thánh, tuy nhiên chúng ta cần phải
nhận ra điều này, đó là không phải việc tuân giữ những giới luật và việc cử
hành các nghi lễ đã cứu chữa chúng ta mà chính là Đức Kitô.
Thực vậy lòng đạo đích
thực không phải là việc sốt sắng với lề luật, với nghi thức nhưng chính là phải
đặt mình trong mối quan hệ với Đức Kitô, một mối quan hệ đầy tin tưởng và đầy
thương yêu.
Người phong cùi trong
xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu là kẻ bất hạnh, không phải chỉ mang một nỗi đau
nơi thân xác mà còn mang cả một nỗi đau trong tâm hồn.
Thực vậy, sau khi mắc
phải chứng bệnh nan y này, thì lập tức, họ bị khai trừ khỏi xã hội. Đi đâu cũng
phải ra dấu để mọi người xa tránh. Đây không phải chỉ là một biện pháp vệ sinh
nhằm ngăn chặn sự lây lan, mà hơn thế nữa trong bầu khí tôn giáo, người ta có
thói quen coi bệnh này như là một hình phạt Thiên Chúa giáng xuống trên những
kẻ tội lỗi. Nếu không phải do chính tội của bệnh nhân, thì cũng do tội của cha
mẹ họ. Vì thế người bệnh bị xã hội coi là kẻ tội lỗi.
Chúa Giêsu thì khác,
Ngài không thể không xót thương họ, nhất là khi họ đã lên tiếng van xin. Và tất
cả 10 người phong cùi đều được khỏi. Chúa Giêsu bảo họ tới trình diện với hàng
tư tế để được chứng thực là mình đã khỏi và nhờ đó mà trở về với xã hội loài
người. Đây là lần thứ nhất họ được chữa lành.
Nếu phép lạ của Chúa
Giêsu làm chỉ là việc chữa lành chứng bệnh hiểm nghèo này thì có thể kết thúc ở
đây. Thế nhưng Chúa Giêsu không phải chỉ muốn chữa lành về phần xác, mà hơn thế
nữa, còn muốn chữa lành về phần hồn. Vì thế mà câu chuyện được tiếp nối: Sau khi
thấy mình được khỏi, thì một người đã quay trở lại tìm Chúa Giêsu để tạ ơn
Ngài. Và đây cũng chính là một dịp để Chúa Giêsu tỏ lộ cho chúng ta thấy Ngài
không phải chỉ là một thầy thuốc bình thường như mọi thầy thuốc khác, mà hơn
thế nữa, Ngài còn là Đấng Cứu Thế, Đấng tha thứ và xoá bỏ mọi tội lỗi, bắc lại
nhịp cầu cảm thông giữa trời và đất, đưa con người vào trong liên hệ thương yêu
với Thiên Chúa. Chính vì thế mà Ngài đã nói với anh ta: Đức tin của con đã cứu
chữa con. Người phong cùi thứ mười này không phải chỉ được Chúa chữa lành về
phần xác mà hơn thế nữa còn được Chúa chữa lành về phần hồn và đó là lần thứ
hai anh được chữa lành.
Thế nhưng điều làm cho
chúng ta sửng sốt đó là người phong cùi được chữa lành và quay trở lại với Chúa
Giêsu lại là người xứ Samaria. Dân Samaria vốn bị người Do Thái liệt vào hàng
ngoại đạo, không xứng đáng với ơn huệ cua Thiên Chúa. Sự kiện này buộc chúng ta
phải suy nghĩ: Phải chăng kẻ bị coi là ngoại đạo này lại nhận biết tình thương
và ơn sủng của Chúa, trong khi đó những người vốn tự hào là có đạo, đạo dòng
hay đạo gốc, lại tỏ ra vô ơn và bạc bẽo. Và phải chăng đó cũng chính là thái độ
của chúng ta, những người có đạo, đối với Chúa và đối với những người đã từng
góp công xây dựng cuộc đời của chúng ta.
3. Biết ơn
Trong cuốn "Nói
với chính mình" Đức Cha Bùi Tuần có viết: Tôi rất thích chó vì
chó biết ơn. Dầu chỉ nhận được một cục xương, chó cũng tỏ vẻ biết ơn. Chủ đi
đâu về, chó cũng vẫy đuôi mừng rỡ. Trong khi đó, con người vô ơn lãi là chuyện
bình thường.
Một sự kiện khác cũng
khiến chúng ta phải ngạc nhiên không ít: một số người Việt Nam từ hải ngoại trở
về thăm quê hương đã đưa ra nhận xét như sau: Dầu cố gắng che giấu đến đâu cái
tông tích Việt kiều của mình, thì cái tông tích ấy vẫn cứ bị lộ ra. Và oái oăm
thay, cái tông tích ấy được thể hiện không phải qua cách mua sắm tiêu xài hay
qua cách phục sức, mà gắn liền với một chi tiết rất tầm thường. Người ta nhận
ra họ bởi vì họ là những người luôn miệng nói lên hai tiếng "cám ơn".
Nếu quả thực hai tiếng cám ơn đã trở thành quý hiếm trên môi miệng người Việt
Nam hiện nay, thì điều này hẳn phải là một báo động đáng lo ngại. Đó có thể là
dấu hiệu của sự khô cạn tình người trong xã hội chúng ta đang sống.
Thực vậy, khi ơn nghĩa
đã bị chối bỏ, thì dĩ nhiên sự ràng buộc và tình liên đới cũng trở thành mong
manh. Một khi tình người bị chối bỏ, thì tất nhiên niềm tin tôn giáo cũng sẽ
chỉ là chuyện thừa thãi mà thôi.
Tin Mừng hôm nay mời
gọi chúng ta đào sâu ý nghĩa của lòng biết ơn trong cuộc sống con người. Trong
số mười người được chữa lành, thì chỉ có một người quay lại ngợi khen Thiên
Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn Ngài. Chúa Giêsu hẳn đã
chua xót trước sự vô ơn của con người khi thốt lên: Chớ thì không phải cả mười
người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu sao không thấy ai trở lại tôn
vinh Thiên Chúa mà chỉ có người ngoại này mà thôi. Tỷ lệ quá thấp, chỉ có một
phần mười. Và một phần mười ấy theo Chúa Giêsu nhận xét lại là thành phần ngoại
giáo. Mặc dù là goại giáo theo nghĩa tôn giáo, nhưng lại rất có đạo theo nghĩa
đạo làm người. Mà bởi đạo làm người cũng là thể hiện của đạo Chúa, cho nên
người ngoại giáo Samaria này, theo cái nhìn của Chúa Giêsu, hẳn phải là người
có đạo hơn chín người Do Thái kia, bởi vì người này đã thực thi cái nhân đức cao
quý nhất của con người là lòng biết ơn.
Con người không thể là
người một cách sung mãn mà không cần đến người khác. Nói lên hai tiếng cám ơn
là nói lên tình liên đới thâm sâu giữa người với người. Tôi không thể là tôi
nếu không có người khác. Tôi cần có người khác để sống hoàn thiện, để được hạnh
phúc. Từ cha mẹ tôi, gia đình tôi, những người thân thích của tôi cho đến cả
những kẻ thù của tôi...Tất cả đều đã đóng góp vào sự trưởng thành của tôi.
Không ai nghèo đến độ không có gì để trao tặng. Cuộc đời là một chuỗi những
lãnh nhận, từ sự sống cho đến những thành đạt. Không có gì chúng ta đang có mà
không do lãnh nhận từ người khác. Do đó biết ơn là một đòi hỏi thiết yếu nhất
của trái tim con người. Không có lời rủa sả nào thậm tệ bằng ba tiếng: Đồ vô
ơn. Hơn nữa, lòng biết ơn còn là con đường dẫn chúng ta đến gặp gỡ Thiên Chúa,
Đấng là cội nguồn mọi ơn huệ.
Người Samaria được
chữa lành, đã ngợi khen Thiên Chúa và sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn
Ngài. Như vậy, lòng biết ơn chính là nẻo đường dẫn anh đến gặp gỡ với Thiên
Chúa. Sống cho ra người, sống cho có tình nghĩa, đó là con đường bảo đảm nhất
dẫn chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Vô thần, xét cho cùng, cũng chỉ là vô ơn, bởi
vì kẻ chối bỏ Thiên Chúa thì dĩ nhiên cũng sẽ chối bỏ người đồng loại của mình.
4. Đón, gặp
và biết ơn
Chuyện đời thường,
muốn thăng quan tiến chức, chúng ta nghĩ đến việc “biết điều” nơi phong bì cửa
sau. Tệ nạn này không khó bắt gặp trong xã hội. Khi mọi sự đã “mã
đáo thành công” thì “cò” cũng được đền ơn cân xứng. Phủi tay, xem như ân
oán sòng phẳng, mọi chuyện chẳng có gì xảy ra. Trớ trêu thay, nhiều Kitô
hữu lại áp dụng lối suy nghĩ này với ơn lành của Thiên Chúa. Khi gặp cảnh
gian nan bĩ cực, họ qui định cho Thiên Chúa thời gian và hành vi cụ thể, đòi
buộc Thiên Chúa phải làm thế này, thế kia trong lúc này, lúc nọ. Ngược lại, họ
luôn hứa sẽ “trả công” Thiên Chúa cách cân xứng bằng cặp đèn cầy, mấy chiếc ghế
đá, vài bao xi-măng… Ở đây, tôi không vội lên án hay dè bỉu thái độ này.
Chúng ta cùng suy niệm Tin Mừng Luca chương 17 được đọc trong Chúa nhật 28
Thường Niên C để cùng rút ra những bài học quí giá trong cung cách xin ơn và
biết ơn Chúa.
Đức Giêsu đang lên
Giêrusalem. Theo Tin Mừng Luca, “lên Giêrusalem” nghĩa là đi vào con đường cứu
độ, con đường của khổ giá. Theo thói thường, khi lâm nạn, chúng ta không
mảy may để ý đến người khác, thân mình lo chưa xong thì làm sao mà lo chuyện
bao đồng? Gặp một người trong tình trạng “lá lành đùm lá rách”, chúng ta
dễ dàng bĩu môi: “Khôn nhà, dại chợ. Ăn cơm nhà, vác tù và hàng tổng.
Việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng”. Phải chăng, Tin Mừng hôm nay
giới thiệu một gương mặt của Chúa Giêsu “lắm chuyện”? Khác với thói đời,
mặc dù đang bước trên hành trình thương khó, Đức Giêsu không ích kỷ. Ngài
nán lại chữa lành mười người phong hủi. Không phải Ngài nhiều chuyện, Tin
Mừng chỉ rõ: họ đón chờ Ngài và van xin (x.Lc 17,12-13). Đúng người, đúng
việc, Đức Giêsu không để nỗi lo lắng, bi thương mình đang mang chi phối lòng
xót thương. Ngài vẫn giữ được sự tỉnh táo, sáng suốt, giàu tình thương và
đã chữa lành. Không phải vô tình mà Thánh sử Luca nhiều lần nhắc đến động
thái “lên Giêrusalem”. Lên Giêrusalem nghĩa là qui chiếu về mối dây cứu
độ, mối dây hiệp thông. Khi phạm tội nguyên tổ, loài người cắt đứt mối liên
hệ với Thiên Chúa, với tha nhân, với muôn vật muôn loài. Giờ đây, Tin
Mừng cứu độ mà Chúa Giêsu mang đến qua lòng xót thương, đỉnh điểm là biến cố
Vượt Qua ở Giêrusalem nối kết từng chi tiết một: con người lại được chia sẻ
vinh quang với Thiên Chúa. Trong trường hợp gặp gỡ mười người phong: sự
đổ vỡ trong tương quan giữa người Do Thái và Samari, sự khinh miệt của người
lành với người bệnh phong, đặc biệt như nguyên tổ là sự trốn tránh của người
tội lỗi với Thiên Chúa, mọi vết nứt, đứt gãy được trám lại thật khít cách hoàn
hảo qua biến cố chữa lành của Đức Giêsu. Đức Giêsu là Thiên Chúa, sẵn
sàng đối thoại với người tội lỗi và dùng quyền năng chữa trị cả tinh thần, thể
xác và linh hồn những người phong hủi. Ngài cũng là người Do Thái tiếp
xúc với người Samari, hành động này vượt qua mọi rào cản ngăn trở giữa hai dân
tộc tồn tại cả ngàn năm lịch sử. Ngài không mắc bệnh phong, qua việc tiếp
xúc với bệnh nhân phong đã đập tan thành kiến ô uế tệ hại. Chỉ một lần
gặp gỡ, mọi mối hiệp thông lại gắn kết. Còn chần chờ gì nữa, Kitô hữu
cũng phải vượt qua hàng rào thành kiến để mở rộng vòng tay bác ái của Thiên
Chúa.
Cả mười người cùng đợi
chờ, đón đường và van xin Đức Giêsu. Khi rơi vào cùng một nhịp đập của sự
khinh chê, cách ly, tất cả họ như thể trở nên gắn kết thành một. Sức mạnh
của thành kiến xã hội đã đẩy tất cả họ vào con đường cùng, nhưng cũng chính sức
mạnh ấy làm cho họ nhận ra tính thống nhất của sự đoàn kết của xã hội người
phong. Điều này giúp chúng ta học được bài học của sự liên kết. Quả
thực, dù đau khổ, bi ai cách mấy, nếu chúng ta cùng hợp sức như nhóm người này
để đợi chờ, đón đường và van xin, thể nào Thiên Chúa cũng dùng ngón tay Người
mà chạm đến chúng ta. Điểm khởi đầu này chẳng hề phân biệt giai cấp, tầng
lớp, thể chế xã hội hay tôn giáo. Chắc chắn, mười bệnh nhân cùng mong chờ
một điềm lạ vĩ đại nơi những lời lẽ vĩ đại xuất phát từ một người vĩ đại: “Thầy
Giêsu” (17,13). Phải thực sự gọi là trớt quớt: Đức Giêsu xuất hiện không
hào quang, không mây, không chớp, lời lẽ chữa lành không dài dòng, văn hoa, màu
mè. Chỉ một lời, một lời thôi: trình diện tư tế. Nản lòng lắm
chứ! Theo Torah (Lề Luật Do Thái) chỉ khi nào lành sạch hoàn toàn, nghĩa
là không còn chút nào bệnh tật, khi đó bản thân bệnh nhân mới được trình diện
tư tế về hiện trạng lành mạnh của mình. Sau đó tế lễ lên Thiên Chúa như
một bằng chứng thanh sạch và tỏ lòng biết ơn. Đằng này, thân mười như
một: lở loét, ô uế, mà Đức Giêsu lại bảo họ trình diện tư tế. Lố
bịch! Thiết nghĩ, Đức Giêsu đang dồn những người này vào con đường chết,
vào thế bí, thế hiểm. Ai ngờ, đây lại là đường hy vọng, đường thoát hiểm,
con đường sống. “Chơi với Chúa” đòi hỏi phải chấp nhận đánh-cuộc cuộc-đời
mình. Ngày nay, Chúa không dùng việc hiện ra như một hành vi thường xuyên
mách bảo phải làm thế này, thế kia. Những gì cần nói, Ngài đã mạc khải
tất cả nơi Thánh Kinh. Khi trình diện tư tế, mười bệnh nhân đã thể hiện
niềm tin mãnh liệt vào Lời Chúa. Nếu chúng ta cũng học hỏi, cũng tin vào
Lời Chúa, Thánh Kinh và thực hành niềm tin ấy thì chính chúng ta cũng cảm nếm
được sự bình an đích thực như thể một phép lạ của Thiên Chúa. “Hãy nếm thử và
nghiệm xem” (Tv 33).
Suy niệm đoạn Lời Chúa
này không thể bỏ qua chi tiết một phần mười. Thánh sử Luca viết rất rõ:
“đang khi đi thì họ được sạch” (17,14b). Phải chú ý rằng: họ được lành
trước khi gặp tư tế. Có hai điểm cần quan tâm: thứ nhất không phải vì
trình diện mà tư tế chữa lành họ; thứ hai họ vừa sạch phong hủi, lúc ấy vẫn
chưa gặp tư tế, nghĩa là theo Luật tình trạng của họ mới sạch chứ chưa lành lặn
hoàn toàn. Chín người kia phải thực hiện từng con chữ được ghi chép trong
Luật. Cả chín người như mong mỏi gặp cho kỳ được tư tế để nhận được xác
quyết của tư tế là họ lành sạch trăm phần trăm thì mới nghĩ đến việc biết
ơn. Riêng người Samari, người ngoại giáo, anh ta không ràng buộc mình nơi
con chữ của Lề Luật. Trước sau gì, anh ta cũng gặp tư tế như Lời Đức
Giêsu đã truyền, nhưng ngay lúc này, anh phải vội vã quay lại để gặp người chữa
lành cho anh. Anh sợ rằng: Người sẽ đi mất, Người đem ánh sáng cho cuộc đời
anh, Người tái sinh anh trong trần đời này sẽ không còn đứng lại đó để anh kịp
nói lên lòng tri ân. Hành động vội vã quay lại này không mang hình thức
của lòng biết ơn đơn thuần nhưng là lòng biết ơn tận thâm tâm. Anh khao
khát, nao nức gặp Người để tri ân. Đến với Chúa với lòng ước ao, khao
khát Chúa, chính là hành vi tri ân hoàn hảo: “Lễ toàn thiêu và lễ xóa tội, Chúa
không đòi. Con liền thưa: Này con xin đến” (Tv 39,7-8).
Thay lời kết, tôi muốn
nhìn lại ba bài học quí giá sau khi suy niệm đoạn Tin Mừng này. Trước
tiên, tôi được mời gọi đón nhận sự khác biệt của người khác, không co tròn
trong vỏ ốc tự tôn, phải mạnh dạn phá vỡ thành kiến để Thiên Chúa dễ dàng dùng
tôi như “khí cụ bình an của Ngài” (Kinh Hòa Bình – Thánh Phanxicô Assisi).
Thứ đến, nơi nghịch cảnh cuộc đời, Thiên Chúa như đang chơi trò đánh đố niềm
tin của con người. Tôi được tiếp thêm sức mạnh nơi đời sống cộng đoàn
Kitô hữu, qua kinh nguyện, sự chia sẻ, cảm thông để vững tin rằng: Chúa không
bỏ rơi tôi. Nếu tôi mạnh dạn trở thành khí cụ bình an của Chúa cho tha nhân,
thì chắc chắn: Chúa cũng sẽ gửi một khí cụ bình an khác đến với tôi. Cuối
cùng, như người Samari, một hình ảnh tuyệt vời của lòng khao khát tri ân, chúng
ta cùng hiệp thông xin Chúa đong đầy lòng khao khát tạ ơn Chúa nơi mỗi người
chúng ta. Amen!
5. Dòng suối ân tình
– Thiên Phúc
(Trích dẫn từ ‘Như
Thầy Đã Yêu’)
Trong một chuyến bay
từ Rôma về Nữu Ước, Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen chăm chú nhìn cô tiếp viên
hàng không đang đi lại phục vụ quí khách. Thấy cử chỉ lạ của Đức Tổng, cô tiếp
viên mạnh dạn đến gần và hỏi:
- Thưa Đức Cha, có
chuyện gì mà Đức Cha lại nhìn con như thế?
Vị Tổng Giám Mục nhoẻn
miệng cười đáp:
- Vì đôi mắt của con
rất đẹp!
- Vậy con phải làm gì
để cám ơn Chúa đây?
- Con ạ! Chúa đã lấy
tất cả sắc đẹp của từng người phong trong trại cùi Di Linh mà đem tặng cho con.
Vậy con hãy đến đó chăm sóc cho họ mà đền đáp ơn Chúa.
Quả thật, chỉ ít lâu
sau người ta đã thấy người phụ nữ xinh đẹp này ngày đêm tận tụy băng bó những
vết thương lở loét cho các bệnh nhân phong, tại trại cùi Di Linh dưới lớp áo
dòng nữ tu.
Phong cùi là một bệnh
nan y khó trị, ai cũng ghê tởm và run sợ nếu mắc phải bệnh này. Vào thời Chúa
Giêsu nó còn khoác vào người bệnh nỗi nhục nhã trong tâm hồn, vì người ta cho
rằng họ là những người bị Thiên Chúa phạt. Những người mắc bệnh cùi bị ruồng
bỏ, bị coi là nhơ nhớp, phải sống cách ly trong một làng cùi xa mọi người, xa
cả người thân. Phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và phải hô lên
rằng mình có bệnh truyền nhiễm và nhơ nhớp để cho người lành biết mà tránh xa.
Thế mà, trong bài Tin
Mừng hôm nay kể lại chỉ một lời Chúa Giêsu phán ra thì vết thương của thể xác
và nỗi đau trong tâm hồn bao năm đè nặng bỗng tan biến hết. Căn bệnh quái ác mà
họ cứ tưởng phải gánh chịu suốt cả cuộc đời, nỗi ô nhục mà họ cứ tưởng sẽ vĩnh
viễn theo họ sang bên kia thế giới, thì nay đã được hoàn toàn tẩy xóa. Chỉ nhờ
quyền năng và lòng thương xót của Thiên Chúa mà họ như đã chết nay được hồi
sinh, niềm vui rộn rã như vỡ òa trong tim.
Trớ trêu thay trong mười
người được hưởng ơn chữa lành vô cùng lớn lao ấy, chỉ có một người biết dâng
lời tạ ơn, mà người ấy lại là người Samari ngoại đạo. Còn những người vẫn tự
hào là dân Thiên Chúa, dân riêng Chúa chọn lại sống vô ơn.
Chúa Giêsu phải thốt
lên lời quở trách: “Không phải cả mười người được sạch cả sao? Thế thì chín
người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người
ngoại bang này?” “Sở dĩ Chúa Giêsu xem trọng lòng biết ơn cũng là vì ích lợi
của kẻ được ơn mà thôi. Người Samari trở lại tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho anh ơn
phần xác, thì Người lại ban thêm cho anh ơn phần hồn là củng cố niềm tin và xác
định tư cách tôn giáo của anh. Người nói: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã
cứu chữa anh”. Như thế, cám ơn lại là cơ hội để nhận được thêm ơn.
Cuộc sống là một chuỗi
những ân huệ nối tiếp theo nhau. Những ân huệ này đan xen với những ân huệ
khác. Có những ơn do nơi Thiên Chúa, và cũng có những ơn đến từ con người. Vậy
nếu cuộc sống là lãnh nhận thì người ta sẽ như thế nào nếu không hề biết nói
hai tiếng cám ơn, hoặc chẳng bao giờ bày tỏ tấm lòng tri ân! Thú vật còn biết
vẫy đuôi cám ơn khi ném cho nó cục xương, còn người vô ơn khi nhận được ân huệ
chỉ biết trố mắt nhìn và câm lặng.
Một đứa trẻ mới bập bẹ
tập nói trong một gia đình có giáo dục, thì tiếng “cám ơn” luôn nằm sẵn trên bờ
môi. Một người có nhân cách thực sự là một người có lòng biết ơn. Một người
luôn thể hiện lòng biết ơn mới đích thực là con người. Lòng biết ơn là nét cao
đẹp nhất của con người. Biết ơn là nhận ra thân phận bất toàn của mình. Biết ơn
là ý thức về tình liên đới với người khác. Biết ơn là thể hiện niềm tin vào
Thiên Chúa yêu thương và quan phòng. Vì thế, lòng biết ơn chính là bông hoa rực
rỡ, điểm tô cho cuộc sống con người. Một tiếng nói “cám ơn” với tất cả chân thành,
một cữ chỉ biết ơn sâu xa sẽ làm cho chúng ta nên người hơn, và thể hiện niềm
tin sâu sắc hơn.
Cả cuộc sống của Chúa
Giêsu là một “bài ca tạ ơn”. Người tạ ơn Cha trước khi cho Ladarô sống lại,
trước khi làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều, trước khi lập Phép Thánh Thể.
Người không chỉ là mẫu mực về lòng biết ơn mà còn dạy chúng ta thể hiện lòng
biết ơn ấy: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Kể từ đó, mỗi thánh lễ
mà Giáo Hội cử hành được gọi là thánh lễ tạ ơn.
Thánh Phaolô luôn dâng
lời tạ ơn lên Chúa: “Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ
Người đã ban cho anh em nơi Đức Kitô”. Ngài cám ơn tất cả những ai giúp ngài
trong công việc mục vụ: “Quà anh em tặng cho tôi đó, chúng khác nào hương thơm,
lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa và được Người chấp nhận”. Như vậy, câu ngạn ngữ Anh
nói rất chí lý: “Cho người có lòng biết ơn chính là cho vay”.
Lạy Chúa, suốt cuộc
đời chúng con ngụp lặn trong đại dương ân huệ của Chúa, suốt đời chúng con được
tắm mát trong dòng suối ân tình của anh em.
Xin cho chúng con luôn
biết sống có tình nghĩa, luôn thể hiện lòng biết ơn, luôn quí trọng những hồng
ân mà Chúa đã thương ban, và những gì mà anh em đã làm cho đời chúng con thêm
tươi đẹp và hạnh phúc hơn.
6. Lời
tạ ơn khiêm hạ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Ca dao Việt Nam có
câu:
“Ơn ai một chút chớ
quên,
Phiền ai một chút để
bên cạnh lòng
Thế nên,
“Ai mà phụ nghĩa quên
công,
Thì đeo trăm cánh hoa
hồng chẳng thơm”
Dầu biết rằng cám ơn
là việc nên làm nhưng sao ta vẫn ngại ngùng nói lời cám ơn. Nhất là những người
thân trong gia đình, tuy gần nhau nhưng lại rất xa – xa đến nỗi khó mà nói được
hai tiếng cám ơn. Vợ chồng ít dám cám ơn nhau. Con cái phớt lờ hai tiếng cám ơn
cha mẹ. Cha mẹ thị uy lại càng ít cám ơn con cái . . . Ra ngoài xã hội người ta
cũng có muôn ngàn lý do để khước từ hai tiếng cám ơn.
Trên một chuyến xe
Buýt có một em bé đang ngồi ở hàng ghế đầu thì thấy một ông lão bước lên xe,
đứa bé liền đứng dậy nhường chỗ cho ông lão. Ông lão lẳng lặng ngồi vào ghế em
bé. Thình lình em bé quay lại hỏi ông lão: Thưa ông, ông vừa nói gì ạ? Ông lão
trợn mắt trả lời: Không, tôi đâu có nói gì đâu! Đứa bé lễ phép nói: Vậy mà cháu
tưởng ông nói “cám ơn” chứ!
Thật đắng lòng khi
những người lớn lại ít làm gương cho trẻ nhỏ về hai tiếng cám ơn. Thật đáng
buồn khi nhìn thấy biết bao kẻ “ăn xong chùi mép” vô tư, không chút ngượng
ngùng vì “ăn quả quên người trồng cây”. Họ chỉ là loại “qua cầu rút ván”, vong
ân! Nếu xã hội toàn những con người bạc nghĩa vô ơn thì thật buồn cho xã hội
con người. Nếu hai chữ cám ơn ít có trên đời thì cuộc đời sẽ chẳng còn những
nghĩa cử cao đẹp của lòng biết ơn, của tính vị tha.
Có thể nói một trong
những tiếng được kể là đẹp nhất trong kho tàng ngôn ngữ con người, từ đông sang
tây, từ bắc tới nam, đó là hai tiếng “cám ơn”. Hai tiếng thật giản đơn, nhưng
lại biểu lộ được nhân cách của con người. Con người biết người biết ta. Con
người biết ôn cố tri tân. Đó là con người đáng trân trọng biết bao!
Trong tương quan với
Chúa, con người chỉ là tạo vật mọn hèn. Có ân huệ nào không đến từ Thiên Chúa?
Con người đã được Thiên Chúa ban cho muôn vàn ơn huệ hồn xác. Nhưng có mấy ai
biết khiêm tốn nhìn nhận ân ban của Thiên Chúa để dâng lời tạ ơn? Có mấy ai đã
cảm nhận sự bất toàn của mình để nói lời tri ân về những gì mình đang có?
Thiên Chúa là Đấng tốt
lành. Ngài luôn làm những điều tốt đẹp nhất cho con người. Con người được tạo
dựng để hưởng dùng mọi công trình Ngài tạo dựng. Có thể nói, Ngài tạo dựng muôn
loài để cho con người. Dù rằng con người có là chi, thế mà Chúa vẫn yêu thương.
Điều mà Chúa cần nơi
con người chính là sự khiêm hạ trước Đấng tạo thành. Sự khiêm hạ sẽ giúp con
người không chỉ biết uốn mình mà còn uốn lòng tôn thờ trước Đấng Càn Khôn. Sự
khiêm hạ là dấu chỉ cho thấy con người biết mình với những giới hạn, yếu đuối,
mỏng dòn nhưng Chúa đã làm biết bao kỳ công nơi con người. Sự khiêm hạ giúp con
người dễ dàng sấp mình thờ lạy và tôn vinh Thiên Chúa.
Đây cũng là điều mà
người phong hủi trong đoạn tin mừng đã làm. Lòng biết ơn của anh hôm nay không
dừng lại ở việc cám ơn mà điều quan yếu là anh quay đầu lại sấp mình thờ lạy và
tôn vinh Chúa. Dù rằng chín người kia đã không quay lại, nhưng số đông không là
tất cả. Lương tâm và lòng khiêm hạ đã mách bảo anh quay trở lại để cảm tạ tri
ân người đã cứu giúp anh. Chín người kia họ có thể ngại ngùng khi phải cảm ơn,
nhưng lòng khiêm hạ nơi anh là nhịp cầu để anh đến với Chúa trong niềm tri ân.
Hóa ra trong cuộc sống
lời tri ân cần có sự khiêm hạ. Không có sự khiêm hạ con người sẽ không nhìn
thấy sự trợ giúp của tha nhân cũng như của Thiên Chúa để biết sống trong tâm
tình tạ ơn. Sự kiêu căng khiến con người chỉ nhìn thấy tài năng của mình, chỉ
nhìn thấy công lao của mình mà quên rằng “mưu sự tại nhân – thành sự tại
thiên”. Nhờ sự khiêm hạ sẽ đặt con người vào đúng vị trí của loài thọ tạo biết
ơn Đấng tạo thành và của con người yếu đuối biết ơn đồng loại của mình.
Có một câu ca mà một
thời thơ ấu của tôi vẫn thường nghe hát: “bàn tay ta làm nên tất cả, có sức
người sỏi đá cũng thành cơm”. Các thày cô vẫn lấy đó làm ví dụ để nói lên sức
mạnh của con người, nhưng thực tế đó chỉ là hoài bão vô vọng của con người. Con
người qua mọi thời đại vẫn hoàn toàn bất lực nếu trời không cho “mưa thuận gió
hòa”. Bàn tay con người cũng chỉ là “dã tràng xe cát biển đông” nếu không có sự
quan phòng của Đấng tạo thành. Trận bão số 10 vừa qua đã càn quét miền Trung
thật nặng nề. Dù đã có cả một hệ thống đê điều. Dù đã có cả một đội Phòng Chống
Lụt bão, thể nhưng con người hoàn toàn bất lực trước sức mạnh của thiên nhiên.
Thế nên, dù người có niềm tin hay không đều phải khiêm tốn nhìn nhận lộc trời
thật cần thiết cho con người. Lời cầu “lạy trời mưa xuống” vẫn là lời cầu chân
thành của con người qua mọi thời đại. Và như vậy, lời tạ ơn vẫn là lời khiêm hạ
đầy chân thành của con người dâng lên Đấng tạo thành.
Là người ky-tô chúng
ta luôn nhận ra có một Thiên Chúa quyền năng quan phòng mọi sự, thế nên mọi sự
đều là ân ban của Chúa, hãy biết tạ ơn Chúa. Hãy biết khiêm tốn nhìn nhận sự
giới hạn của mình đề cám ơn về lòng tốt của Thiên Chúa vẫn dành cho chúng ta.
Đôi khi chúng ta nói:
- Sức khỏe của chúng
ta do chúng ta ăn kiêng mà có, thực ra nhiều người còn ăn kiêng hơn chúng ta.
- Trí tuệ do chúng ta
học hành mà có, thực ra nhiều người đã học nhiều hơn chúng ta.
- Chức vụ chúng ta do
tài năng chúng ta mà có, thực ra nhiều người có tài hơn chúng ta.
Và như vậy: mọi sự
chúng ta có là ân ban của Chúa. Hãy biết tạ ơn và sấp mình thờ lạy tôn vinh
Đấng tạo thành là Chúa của lòng trí chúng ta. Amen.
7. Đón
nhận ơn cứu độ
(Suy niệm của ĐTGM.
Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giêsu đang trên đường
lên Giêrusalem để chịu khổ hình, hoàn thành việc cứu độ. Chính lúc đi ngang qua
Samaria, nhất là qua việc cứu chữa mười bệnh nhân phong, Chúa cho thấy một vài
đặc điểm của ơn cứu độ.
Ơn cứu độ là phổ quát.
Chúa muốn cứu độ hết
mọi người không loại trừ ai. Nên Chúa đi qua Samaria. Samaria là vùng đất cấm
kỵ đối với người Do Thái. Đó là vùng đất ngoại đạo. Đó là vùng đất ô uế. Người
Do Thái và người Samaria không giao thiệp với nhau. Nhưng Chúa đã vượt qua ranh
giới cấm kỵ đó. Chúa muốn đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Tại Samaria Chúa còn
gặp gỡ mười người phong cùi. Lại một cấm kỵ nữa. Người phong cùi vốn bị coi là
hạng người tội lỗi, ô uế. Ai gặp họ đều trở nên ô uế. Họ bị loại trừ ra khỏi
đời sống xã hội. Tại Samaria, những người phong cùi là những người ở tầng lớp
cuối cùng của xã hội. Chúa đem ơn cứu độ cho mọi người, kể cả những người bị
khinh miệt nhất, bị quên lãng nhất, bị hất hủi nhất. Ơn cứu độ Chúa ban cho tất
cả mọi người. Trước mặt Chúa mọi người đều bình đẳng.
Ơn cứu độ là nhưng
không.
Không ai dám nghĩ đến
việc mời Chúa xuống trần gian. Không ai có công trạng gì khiến Chúa phải xuống
trần gian để tưởng thưởng hay để đền đáp. Chúa xuống trần gian hoàn toàn do
lòng nhân từ yêu thương của Chúa. Cũng thế, người Samaria hoàn toàn bất ngờ khi
Chúa đến miền đất của họ. Những người phong cùi lại càng không bao giờ dám mơ
tưởng tới. Bản thân họ đã bị lên án, bị loại trừ rồi. Ngay việc gặp một người
bình thường đã không được phép, huống chi là gặp gỡ Chúa. Nhưng Chúa đã đến gặp
gỡ họ, ban ơn cứu chữa họ. Hoàn toàn nhưng không. Họ chẳng có công gì. Họ chẳng
có quyền đòi hỏi gì. Họ chỉ có nỗi đau khổ tột cùng. Chính nỗi đau khổ đó đã
khơi dậy lòng yêu thương của Chúa. Vì Chúa là tình yêu thương.
Ơn cứu độ phải được
đón nhận với niềm tin.
Tuy ơn cứu độ được ban
rộng rãi và nhưng không, nhưng để đón nhận đòi phải có niềm tin. Những người
phong cùi hôm nay đã bày tỏ niềm tin qua hai thái độ. Thái độ thứ nhất là đồng
thanh lớn tiếng kêu cầu danh Chúa Giêsu: “Lạy Thày Giêsu, xin cứu chúng tôi”.
Danh Thánh Giêsu có nghĩa là Thiên Chúa cứu. Từ cùng tận nỗi đau khổ, những
người phong cùi đã kêu van bằng tất cả tấm lòng tha thiết và với niềm tin vững
chắc. Chỉ có Chúa mới thương xót họ. Chỉ có Chúa mới đủ quyền năng cứu chữa họ.
Thái độ thứ hai là đi trình diện với thày tư tế. Chúa không chữa họ ngay nhưng
bảo họ đi trình diện với thày tư tế. Dù chưa được khỏi, nhưng họ vẫn tin tưởng
lên đường. Đang khi đi đường thì họ được khỏi. Đức tin đã chữa họ.
Ơn cứu độ phải được
đón nhận với niềm vui.
Đây là niềm vui trong
mối tương giao giữa Thiên Chúa với con người. Cốt lõi của ơn cứu độ là thiết
lập mối tương giao, cho con người được trở nên con cái Thiên Chúa, đồng hưởng
hạnh phúc với Chúa. Đó là cội rễ của niềm vui, niềm hạnh phúc. Chín người bệnh
không trở lại chỉ có niềm vui được khỏi bệnh, nhưng không có niềm vui trong mối
tương giao với Thiên Chúa. Họ có đức tin cầu xin nhưng thiếu đức tin gặp gỡ với
Thiên Chúa. Niềm vui được khỏi bệnh rồi cũng sẽ nhạt phai. Chỉ có một người trở
lại tạ ơn. Anh trở lại vì mối tương giao. Anh nhận biết nguồn gốc niềm vui của
mình. Anh sụp lạy Chúa vì biết nguồn gốc hiện hữu của mình. Anh đã tìm thấy
nguồn cội ý nghĩa đời mình. Niềm vui của anh sẽ còn mãi mãi. Đời anh sẽ là một
đời tạ ơn không ngừng.
Lạy Chúa, xin cho con
biết tìm đến gặp gỡ Chúa để tạ ơn Chúa. Chính niềm vui tạ ơn này đem đến cho
con hạnh phúc suốt đời con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Vì sao Chúa ban ơn
cứu độ cho ta và ta phải đón nhận với thái độ thế nào?
2) Đức tin cầu xin và
đức tin gặp gỡ Chúa khác nhau thế nào? Bạn đã tiến đến đâu trong đời sống đức
tin?
3) Có những miền đất,
những con người nào mà bạn coi là cấm kỵ khiến bạn chưa dám tiếp cận không? Với
gương Chúa Giêsu hôm nay, bạn sẽ làm gì?
4) Biết ơn rất cần
trong đời sống tự nhiên. Bạn có biết ơn trong đời sống siêu nhiên không?
8. Hãy có
lòng biết ơn
(Suy niệm của Lm.
Antôn Nguyễn Văn Độ)
Để được khỏi bệnh ô
uế, mười người phong cùi muốn đến với Chúa Giêsu, nhưng căn bệnh này không cho
phép họ tới gần, nên tất cả đồng thanh kêu lên: “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót
chúng tôi!” Hỏi họ mong đợi điều gì? Thưa họ nuôi niềm hy vọng sẽ được chữa
lành. Dù biết rằng chỉ mình Thiên Chúa mới có thể chữa lành bệnh phong cùi.
Nhưng Vị Thầy Nazareth đã chẳng cho con gái bà góa thành Naim sống lại đó sao
(Lc 7, 11-17)?
Đức Giêsu không đến
gần để chạm vào họ, như Ngài vẫn làm khi chữa bệnh; Ngài cũng không phán lời
thể hiện quyền năng trên căn bệnh quái ác này. Ngài ra lệnh tẩy sạch bệnh phong
cách đơn giản.
Khi bắt họ phải đi
trình diện các tư tế ở Đền thờ lúc họ chưa được lành sạch là Chúa Giêsu thử
thách niềm tin của họ! Họ bị thử thách hơn ông Naaman thời Êlisê, ông phải tắm
bẩy lần ở sông Giođan. Mười người phong cùi có đức tin thật gương mẫu, không
thấy họ nói gì: không phản đối Chúa, họ lên Giêrusalem để trình diện các thầy
tư tế như lời Ngài truyền.
Vâng lời Đức Giêsu, họ
lên đường và đang đi thì họ được điều họ xin. Tuy nhiên, chỉ có người
Samaritanô quay trở lại với Đức Giêsu “lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa”. Sự chữa
lành chín người bệnh kia đã không thay đổi được nhận thức của họ về Thiên Chúa
hay Đức Giêsu, dĩ nhiên tất cả đều lành sạch, nhưng chỉ có người Samaritanô mới
nghe được Đức Giêsu nói, “lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi”.
Những người kia không
thể giải thích nổi dấu chỉ chữa lành họ là lời mời gọi trả lại Đức Giêsu là
Đấng có quyền trên sự dữ không chỉ thể xác mà cả linh hồn họ. Họ không biết
được rằng việc chữa bệnh thể xác là lời mời gọi Thiên Chúa gửi đến cho họ,
không còn ở xa, nhưng tiến lại gần Đức Giêsu để nhận lãnh nhiều hơn như: tình
yêu và ơn cứu độ chỉ mình Ngài có thể ban tặng cho chúng ta. Đây là “đức tin
cứu độ”.
Cả mười người phong
cùi được sạch, nhưng chỉ có một người đi đến cùng việc chữa trị căn bệnh của
anh, để được cứu. Người ta có thể nói rằng chín trong số mười người phong cùi
cần một người cứu hộ, chỉ có người thứ mười nhận ra Đức Giêsu là vị cứu tinh.
Các nhân viên cứu hộ là những bác sĩ, y tá và các dịch vụ khẩn cấp xe cứu
thương. Vị cứu tinh chỉ có một là: Đức Kitô của Thiên Chúa.
Chúng ta không biến
Đức Giêsu ra “người cấp cứu” như chín người phong cùi trong Tin Mừng hay ông
Naaman người Syria, lấy làm khó chịu khi theo quy định của Êlisa đi tắm ở sông
Jordan một điều vô thưởng vô phạt?
Có người cầu nguyện:
“Lạy Chúa, con trải qua một kỳ thi; cha con đang ốm bệnh; con phải đạt được
bằng lái xe... Con sẽ thắp một ngọn nến”. Chắc chắn, thái độ này không có gì
sai trái: Chính Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy cầu nguyện luôn; cái đáng lo
ngại nhất, là con số đông những “người tin” vào lúc nào đó trở về với Chúa: khi
họ cần một “người cứu hộ”. Phần còn lại, họ sẽ đi qua rất nhanh và quên ngay
Chúa...
Trái lại, người
Samaritanô, anh cảm thấy rất rõ cách thức chữa bệnh của Đức Giêsu mà anh là một
người được hưởng: anh trở lại với Đức Giêsu, sấp mình dưới chân và “tạ ơn
Người”.
Anh không trở lại để
thanh toán một món nợ: cũng không hành động như Naaman người Syria xin Êlisê
nhận lấy phần phúc. Ơn nhưng không của Thiên Chúa được ban cho viên sĩ quan
ngoại giáo, kẻ thù của Israel, mời gọi chúng ta khám phá ra đơn giản chỉ là
tình yêu Thiên Chúa dành cho dân ngoại. Người Samaritanô, một thành viên của
một dân tộc được coi là dị giáo đối với người Do Thái, hiểu rằng sự chữa lành
anh là một ân sủng của Thiên Chúa; hay vẫn nói là những người biết ơn, biết
phục vụ, món quà của tình yêu. Khi anh trở lại bày tỏ lòng biết ơn của mình,
tình yêu của mình với Đức Giêsu. Chính sự gắn bó cá nhân khiến anh trở thành
môn đệ Ngài.
Người ta kể rằng
Abraham Lincoln đã dành một ngày đi đến nơi bán người nô lệ. Thấy một phụ nữ da
đen trẻ tuổi, rất đẹp, đang được bán. Lincoln dạm mua. Giá tăng một cách chóng
mặt, cuối cùng Lincoln chiến thắng. Người phụ nữ trẻ đã được trao cho ông và cô
cùng ông rời khỏi chợ. Cô khinh bỉ người thắng cuộc và tự nhủ: “Bây giờ bắt đầu
việc lạm dụng và tôi phải đau khổ”. Lincoln ngạc nhiên nói: “Thưa cô, cô được
tự do”. “Tự do ư?” Cô ấy hỏi, “Tự do cái gì? Để tôi muốn nói gì thì nói sao?”
Lincoln trả lời “vâng thưa cô”. Cô hỏi tiếp: “Tự do để trở nên cái mà tôi muốn
sao?” một lần nữa Lincoln trả lời “vâng đúng vậy”. “Vậy thì” người phụ nữ nói
trong nước mắt “nếu như tôi muốn đi với ông”.
Tin tưởng vào Chúa
Giêsu là để nhận ra Ngài là Thiên Chúa; trở nên môn đệ của Ngài, có nghĩa là
chúng ta đang ngạc nhiên về ơn cứu độ nhưng không Thiên Chúa ban cho chúng ta,
chúng ta không thể sống không có Chúa được; mỗi ngày chúng ta cảm thấy cần đào
sâu hơn mối tương quan với Chúa. Nếu mỗi Chúa nhật chúng ta cùng nhau qui tụ,
lắng nghe Lời Chúa và rước Mình Máu cực thánh Chúa, không phải để được chữa
lành khỏi bệnh phong tội lỗi sao?
Trong bài giảng tại Vienne,
Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI qui chiếu vào các vị tử đạo của Abitene, bị
bắt trong khi cử hành Thánh lễ ngày Chúa nhật. Các thẩm phán hỏi lý do tại sao
họ đã vi phạm cấm hy sinh đời họ, các Kitô hữu đã trả lời: “Nếu không có món
quà của Chúa, chúng tôi không thể sống được”. Đức Thánh Cha nhận xét: “Đối với
các Kitô hữu, cử hành Thánh Lễ Chúa nhật là một điều cần thiết nội tâm. Không
có ai nâng đỡ đời sống của chúng ta, cuộc sống tự nó là trống rỗng. Chúng ta
cũng vậy, chúng ta cần phải liên hệ với Chúa Phục Sinh, Người nâng đỡ chúng ta
sau khi chết. Chúng ta cần gặp gỡ và qui tụ nhau lại, cần có một không gian tự
do, giúp chúng ta nhìn xa hơn sự nhộn nhịp của cuộc sống hàng ngày hướng đến
tình yêu sáng tạo của Thiên Chúa, mà chúng ta đến và bước đi”.
Tin Mừng hôm nay cho
chúng ta biết rằng ơn cứu độ ban xuống ở cuối chặng đường khi chúng ta bắt đầu
bước đi, hãy ý thực về sự chữa lành do Đức Kitô thực hiện trong đời sống chúng
ta, chúng ta trở lại để tạ ơn Ngài.
Cử hành “Thánh Thể” đúng hơn là tạ ơn,
Chúa đã chứng tỏ sự hiện diện của Ngài bên cạnh chúng ta. Để chia sẻ trong Bánh
và Rượu đã được truyền phép, sự sống của chính Đức Giêsu, Đấng làm cho chúng ta
tham dự vào tương quan tình yêu hiệp nhất giữa Chúa Cha và Thánh Thần. Amen.
9. Tạ Ơn
Chúa – Logos
Vào ngày 07/9/2004,
hai người phụ nữ Ý tên Toretta và Pari đã bị một nhóm người vũ trang bắt cóc
khi họ đang làm công tác từ thiện tại Irắc. Hai người phụ nữ này đều thuộc gia
đình Công Giáo rất sùng đạo. Cả nước Ý đã lo lắng cho số phận của 2 con tin.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đưa ra lời thỉnh cầu với nhóm người bắt cóc
xin hãy vì lòng nhân đạo mà thả 2 người phụ nữ ra. Vơí mọi cố gắng của chính
phủ Ý trong việc đối thoại và thương lượng với nhóm người bắt cóc, cuối cùng 2
người phụ nữ đã được thả tự do vào ngày 28/9/2004, sau 3 tuần bị giam giữ.
Vào ngày 05/10/2004
vừa qua, cô Toretta và Pari đã cùng gia đình đến Vatican xin triều yết Đức
Thánh Cha. Họ quỳ gối trước mặt ngài để cám ơn ngài đã cầu nguyện và lên tiếng
can thiệp để họ được trả tự do. Trước tin vui này, Đức Giáo Hoàng đã cùng với
gia đình 2 người phụ nữ dâng lời cảm tạ Thiên Chúa.
Hai người phụ nữ đã
cám ơn Đức Giáo Hoàng và tạ ơn Thiên Chúa vì những ân huệ đã lãnh nhận. Đó cũng
là thái độ của mọi người trước những hồng ân cao cả của Thiên Chúa. Nhưng đáng
tiếc, nhiều người đã quên nói lời cám ơn trước những ơn lành mình nhận được.
Bài Tin Mừng theo
thánh Luca hôm nay thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành mười người phong
cùi, nhưng chỉ có một người trở lại để tạ ơn Chúa. Và thật trớ trêu, đó lại là
một người xứ Samaria, một người dưới mắt người Do thái là một kẻ ngoại giáo! Đó
là một điều đáng buồn, đến nỗi Chúa Giêsu phải thốt lên: “Chớ thì không phải cả
mười người được lành sạch cả sao? còn chín người kia đâu?”. Có lẽ đó cũng là
lời chất vấn dành cho những ai không nhận biết ơn Thiên Chúa để cảm tạ Ngài.
Hơn ai hết, chính Chúa Giêsu đã nên mẫu mực cho chúng ta về lòng biết ơn Thiên
Chúa và cả cuộc đời của Ngài luôn vang lên lời tạ ơn Thiên Chúa Cha.
Cuộc đời Chúa Giêsu là
bài ca tạ ơn.
Chúa Giêsu thường tìm
đến nơi thanh vắng để cầu nguyện với Chúa Cha. Nhưng khi biểu lộ tâm tình tạ ơn
thì Ngài lại thực hiện công khai trước mặt mọi người. Chúa muốn dạy mọi người
bài học về lòng biết ơn đối với Thiên Chúa.
Trước khi làm phép lạ
hóa bánh ra nhiều, Chúa cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn rồi phân phát cho mọi
người (Ga 6, 11). Trong bữa Tiệc Ly, khi lập bí tích Thánh Thể, Ngài cầm lấy
bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ (Lc 22, 19). Đứng trước nấm
mồ Lazarô, trước khi làm cho anh ta sống lại, Chúa Giêsu đã dâng lời cảm tạ
Thiên Chúa (Ga 11, 41).
Cả cuộc sống của Chúa
Giêsu là một lễ tạ ơn liên lỉ. Ngài đã hy sinh mạng sống làm hy tế dâng lên Đức
Chúa Cha. Vì thế, ngày hôm nay, khi dâng lễ tạ ơn mỗi ngày, chúng ta cử hành
mầu nhiệm cuộc đời Chúa, chúng ta sống lại tâm tình tạ ơn của Chúa, là tâm tình
của Người Con dâng lên Chúa Cha.
Cuộc đời của Chúa là
bài ca tạ ơn luôn vang lên những giai điệu vui tươi trong những giây phút hân
hoan và trong cả những giờ khắc bi thảm. Bài ca tạ ơn đó đã ngân lên từ môi
miệng của Mẹ Maria (Magnificat), ông Zacaria (Benedictus) và vẫn tiếp tục ngân
vang trong tâm hồn những người tín hữu hôm nay.
Lời cám ơn, bông hoa
đẹp của cuộc sống.
Ngạn ngữ Pháp nói: “Lòng biết ơn là trí
nhớ của trái tim”. Đúng vậy, lời tri ân cảm tạ là lời nói của con tim. Lòng biết
ơn là nghĩa cử của tâm hồn. Chỉ có những trái tim gỗ đá mới không nhận biết ân
huệ được trao tặng. Vì vậy, lòng biết ơn là bông hoa đẹp tô điểm cho cuộc đời.
Chính những lời cám ơn sẽ làm cho cuộc sống tăng thêm hương vị ngọt ngào và làm
cho cuộc đời này thêm ý nghĩa vì mọi người biết liên đới với nhau hơn.
Ngạn ngữ Anh nói: “Cho
người có lòng biết ơn là cho vay”. Quả thật, cuộc sống hiện tại của mọi người
sẽ đẹp biết bao khi mọi người biết chia sẻ tình thương cho nhau. Mỗi cử chỉ yêu
thương sẽ được đánh dấu bằng lời “cám ơn”, sẽ làm giàu thêm tình người. Mọi
người sẽ sống trong tình huynh đệ với những “món nợ tình thương” trao trả cho
nhau.
Lời tạ ơn Thiên Chúa
của chúng ta còn là những bông hoa đẹp đẽ nhất của tấm lòng mà chúng ta dâng
cho Chúa mỗi ngày. Những bông hoa ấy trang điểm cho tâm hồn chúng ta thêm xinh
đẹp nhờ những ân sủng Thiên Chúa tặng ban. Vì “thật ra, Chúa không cần chúng ta
ca tụng, nhưng được tạ ơn Chúa lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng
của chúng ta chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng ta ơn cứu độ muôn
đời” (Kinh Tiền Tụng Chung, IV). Đúng vậy, những lời tạ ơn của chúng ta như làn
hương tỏa bay lên cao và kéo thêm nhiều cơn mưa hồng phúc xuống cuộc đời chúng
ta, vì thế, khi người Samaria quay trở lại tạ ơn Chúa, Chúa nói: “Ngươi hãy ra
về, vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi”. Người Samaria không những được ơn
lành bệnh mà còn được ơn cứu rỗi nữa. Cũng thế, sau khi được tiên tri Êlisê
chữa khỏi bệnh cùi, tướng Naaman người xứ Syria đã trở lại để tạ ơn và tôn vinh
Thiên Chúa. Từ đó, ông nhận được niềm tin vào Thiên Chúa (bài đọc 1, trích sách
Các Vua Quyển thứ hai).
Một ngày kia, có hai
thầy trò đi dạo trên con đường miền quê. Đang đi, họ chợt nhìn thấy một đôi
giày cũ kỹ để bên vệ đường. Đó là đôi giày của người nông dân nghèo khó đang
làm ruộng bên cạnh. Cậu học trò tinh nghịch định giấu đôi giày đi để trêu chọc
người nông dân, nhưng ông thầy đã ngăn cản cậu: con đừng tìm niềm vui qua việc
trêu chọc một con người nghèo khổ như thế, nhưng hãy tìm niềm vui khác to lớn
hơn: con hãy bỏ vào mỗi chiếc giày một đồng tiền xem ông ta phản ứng ra sao?”.
Sau khi bỏ tiền vào đôi giày, hai thầy trò trốn vào một bụi cây để xem người
nông dân xử sự thế nào. Khi xỏ chân vào đôi giày để ra về, người nông dân phát
hiện ra hai đồng tiền. Ông ta rất ngạc nhiên nhìn chung quanh, nhưng không thấy
ai, ông ngắm nghía hai đồng tiền thật lâu rồi bỏ vào túi. Với sự xúc động tràn
ngập trong lòng, người nông dân quỳ xuống, ngước mặt lên trời dâng lời tạ ơn
Thiên Chúa đã dùng bàn tay vô hình nào đó đem đến cho ông một món quà thật đúng
lúc trong hoàn cảnh khốn khó hiện tại của gia đình ông.
Chúng ta bắt chước
người nông dân kia luôn cảm tạ Thiên Chúa trước những ân huệ Ngài ban. Chúng ta
cũng hãy học lấy hành động yêu thương của hai thầy trò: hãy luôn biết cho đi
bằng những “bàn tay vô hình” đầy ắp tình thương. Đó là cách tạ ơn Chúa tốt đẹp
nhất của chúng ta.
10. Lòng
biết ơn – An Phong
Tin mừng hôm nay là
trình thuật Đức Giêsu chữa lành cho mười người phong cùi. Sau đó, chỉ có một
người "quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, sấp mình dưới chân
Chúa Giêsu và tạ ơn Người...". Bối cảnh của câu chuyện hôm nay là Đức
Giêsu cùng các môn đệ đang trên đường rao giảng Tin mừng từ thành này đến thành
khác, từ làng này đến làng khác. Đức Giêsu đã gặp nhóm người phong cùi này tại
một trong số những làng mà Người ghé qua. Đây là nhóm gồm có người Do Thái và
người Samari (người Do Thái và người Samari vốn thù địch nhau). Bệnh tật và sự
khốn khổ đã kéo họ lại gần nhau.
Sứ điệp Lời Chúa hôm
nay muốn nói đến dân Do Thái là dân đặc tuyển của Thiên Chúa. Họ đã nhận được
nhiều ân huệ lớn lao như giao ước, luật Môsê, các ngôn sứ, đất hứa... Nhưng,
như những người Do Thái bị phong cùi được Chúa chữa lành đã không biết trở lại
cám ơn Đức Giêsu, dân Do Thái cũng không biết bày tỏ lòng biết ơn với Thiên
Chúa vì những ân huệ lớn lao Người ban cho. Từ đó, những ân huệ lớn lao không
còn chỉ dành riêng cho dân Do Thái, nhưng cho tất cả nhân loại. Đức Giêsu là ân
huệ lớn lao nhất của Thiên Chúa gởi cho nhân loại.
Bệnh cùi không phải là
một thứ bệnh như các thứ bệnh khác, nhưng nó là một hình phạt của Thiên Chúa vì
tội lỗi quá khứ, là dấu chỉ sự thẩm phán của Thiên Chúa. Người cùi là người
không còn được coi là con Thiên Chúa, họ bị loại ra khỏi cộng đoàn những người
tin. Như thế, bệnh cùi là biểu tượng của một căn bệnh thiêng liêng của nhân
loại vắng bóng Thiên Chúa, vắng bóng sự hiệp thông với cộng đoàn những người
tin. Khi chữa lành cho mười người phong cùi, Chúa Giêsu cho thấy Người muốn tái
tạo lại tất cả chúng ta - ít nhiều là những người mắc bệnh phong cùi thiêng
liêng - thành những con cái đích thực của Thiên Chúa, đồng thời có được sự hiệp
thông huynh đệ với nhau và với cộng đoàn những người tin. Đức Giêsu luôn là
Đấng cứu độ chúng ta, Người muốn chữa lành tất cả những căn bệnh thiêng liêng
của chúng ta, đó là "tham, sân, si, mạn, nghi, thâm kiến", đó là mọi
thứ tội lỗi đẩy Thiên Chúa ra khỏi trần gian này, đó là phá đổ sự hiệp thông huynh
đệ...
Chắc hẳn Đức Giêsu
không chờ những người được chữa lành trở lại cám ơn Người. Người ghi nhận chỉ
có một người trở lại cám ơn. Một người duy nhất là tiêu biểu con số quá ít ỏi.
Dường như chỉ thiểu số nhân loại thuộc về con số ít ỏi này?
Có lẽ mỗi người chúng ta
cũng có kinh nghiệm về sự vô ơn dưới hình thức này hay hình thức khác. Có thể
là chúng ta đã làm điều tốt cho một ai đó, nhưng họ không biết cám ơn chúng ta.
Có thể là chúng ta không biết cám ơn vì những ân huệ Thiên Chúa ban cho chúng
ta. Được làm người, được làm con cái Thiên Chúa không phải là những ân huệ
Thiên Chúa ban sao?
Đời sống kitô hữu là
một bài ca chúc tụng ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa. Khi lãnh nhận bí tích Rửa
tội, chúng ta trở thành những thành viên trong cộng đoàn những người tin - Giáo
hội. Khi lãnh nhận bí tích Thánh Thể - bí tích hy tế của Đức Giêsu và bí tích
Tạ ơn Thiên Chúa, chúng ta được Thiên Chúa trao ban chính Đức Giêsu. Chúng ta
cần trao ban lại - tạ ơn Thiên Chúa. Là kitô hữu tức là luôn tạ ơn, ngợi khen
và chúc tụng Thiên Chúa. Là kitô hữu tức là được đón nhận một Tin mừng lớn lao
- Đức Giêsu Kitô.
Phải chăng cuộc đời
chúng ta là một bài ca ngợi khen chúc tụng và tạ ơn Thiên Chúa?
Lạy Chúa Giêsu, Ngài
là Đấng khoan dung và nhân từ.
Chúng con xin tạ ơn
Chúa vì những ơn lành Chúa ban.
Xin cho lòng con bình
an đón nhận một ngày mới.
Xin giúp con luôn
nương tựa vào ý Ngài.
Xin hướng dẫn con tìm
ra ý Ngài trong mỗi giờ mỗi phút của ngày hôm nay.
Xin chúc lành cách đối
nhân xử thế của con.
Xin dạy con đón nhận
mọi cái bất ngờ trong ngày hôm nay với một tâm hồn thanh thản.
Xin cho con sức mạnh
để chịu đựng những mệt nhọc của ngày hôm nay.
Xin biến đổi cuộc đời
chúng con thành một bài thần ca ngợi khen, tôn vinh và tạ ơn Thiên Chúa. Amen.
11. Thể hiện
của tự do thực sự
(Trích dẫn từ ‘Mỗi
Ngày Một Tin Vui’ – Radio Veritas Asia)
Trong suốt nhiều thế
kỷ, người Do thái đã phải còng lưng dưới sức nặng của lao động khổ sai bên Ai
Cập. Dưới sự lãnh đạo của Môsê, Thiên Chúa đã giải phóng họ và đưa họ vào vùng
đất tự do. Để đánh dấu cuộc giải phóng khỏi các thứ khổ sai đó, Thiên Chúa đã
thiết lập một ngày trong tuần như ngày Hưu Lễ. Đó là lý do tại sao người Do
thái đã trân trọng tuân giữ ngày Hưu lễ. Nó chính là biểu trưng của tự do, bởi
vì thời nô lệ, bẩy ngày trên bẩy ngày, người Do thái không thể có được một ngày
nghỉ ngơi. Như vậy, nghỉ ngơi là dấu chỉ của tự do, và đó là ý nghĩa nguyên
thủy của ngày Hưu lễ.
Thế nhưng, dần dà qua
dòng thời gian các nhà thần học Do thái đã thay đổi ý nghĩa ấy của ngày Hưu lễ:
thay vì là biểu tượng của tự do, họ đã biến ngày Hưu lễ thành một gánh nặng đầy
đọa và trói buộc con người; họ đã kéo dài ngày Hưu lễ thành một bản kê khai tỉ
mỉ những gì không được phép làm trong ngày Hưu lễ và như vậy dấu chỉ của tự do
giờ đây chỉ còn là một hình thức nô lệ mới đối với người Do thái: thay vì là
dấu chỉ của tự do đưa con người vào gặp gỡ với Thiên Chúa, ngày Hưu lễ đã trở
thành một gánh nặng chồng chất trên vai con người, nhất là làm cho con người xa
cách Thiên Chúa.
Đó cũng là tình trạng
của lề luật nói chung thời Chúa Giêsu. Luật lệ không còn là vì con người, nghĩa
là giải phóng con người, mà trở thành gánh nặng đè bẹp con người và tách lìa
con người khỏi Thiên Chúa; con người chú tâm thi hành lề luật hơn là yêu mến
Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Thái độ của 9 người phong cùi người Do thái
trong Tin Mừng hôm nay phản ánh tâm thức chung của người Do thái thời đó. Chúa
Giêsu chữa lành 10 người phong cùi, trong đó chỉ có một người Samari không phải
tuân hành luật Do thái. Theo đúng đòi hỏi của lề luật, Chúa Giêsu đã yêu cầu 9
người Do thái đến trình diện các tư tế để được xác nhận là đã khỏi bệnh, riêng
người Samari không phải tuân giữ điều đó, nhưng đây lại là người duy nhất trở
lại cám ơn Chúa Giêsu và ngợi khen Thiên Chúa.
Câu truyện trên cho
chúng ta thấy luật lệ đã cản trở con người đến gặp gỡ Chúa Giêsu và cảm tạ
Thiên Chúa. Người Samari vì không bị chi phối bởi lề luật, nên đã được tự do để
nói lên tình cảm chân thật của mình, người này gần với tôn giáo đích thực bởi
vì ông có tự do hơn. Thiên Chúa thi ân một cách nhưng không thì con người cũng
phải đáp trả một cách tự do. Một tương quan như thế không thể có được trong một
xã hội lề luật, trong đó con người chỉ biết tính toán theo thứ công bình hoán
đổi. Người Do thái vốn quen thuộc với tâm thức ấy, họ tính toán chi ly về công
đức của mình, họ lượng giá phần thưởng dựa trên công nghiệp của mình. Chúa
Giêsu đã đánh đổ một quan niệm như thế về tương quan giữa con người và Thiên
Chúa: ơn cứu rỗi mà Ngài loan báo và thực hiện là ơn cứu rỗi nhưng không, đến
độ con người chỉ được cứu độ nhờ lòng tin vào lòng từ bi của Thiên Chúa, đến độ
những kẻ tội lỗi là những người đầu tiên được vào Nước Chúa.
Ngày nay, có lẽ nhiều
người chúng ta cũng giống như 9 người phong cùi Do thái trong Tin Mừng hôm nay.
Họ đã bị lề luật giam hãm trong Đền thờ để không còn có thể nói lên lời tạ ơn
đối với Đấng đã thi ân cho mình; họ xem lề luật trọng hơn điều thiết yếu của
niềm tin là lòng biết ơn và niềm tín thác. Cũng như họ, có lẽ chúng ta đã tỏ ra
trung thành một cách chi ly với luật Hội Thánh, nhưng nhiều lúc chúng ta vẫn
còn tự hỏi: Tôi phải đọc bao nhiêu kinh? Tôi phải lần bao nhiêu chuỗi? Tôi phải
ăn chay bao nhiêu lần? Tôi phải bố thí cho bao nhiêu người nghèo khó? Tính toán
như thế là quên rằng Thiên Chúa như Chúa Giêsu mạc khải là Thiên Chúa Tình Yêu.
Ngài ban ơn cho chúng ta hơn cả những gì chúng ta chờ đợi và tính toán. Một
Thiên Chúa như thế, con người không thể có một tâm tình nào xứng hợp hơn là
lòng tri ân, niềm tín thác. Đó là sự thể hiện của một tâm hồn tự do đích thực,
nhờ đó con người có thể vượt qua bốn bức tường nhà thờ để không ngừng gặp gỡ
Chúa trong cuộc sống mỗi ngày.
12. Đức tin
của con đã cứu con – Veritas.
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra
Khơi’)
Có câu chuyện kể rằng,
một hôm Chúa sai hai thiên thần xuống trần gian đi làm nhiệm vụ, đúng hẹn hai
thiên thần trở về, một vị đeo cái giỏ nặng trĩu, thấy vị kia đeo cái giỏ nhẹ
tênh, hầu như không có gì bèn nói: Chúa sai tôi xuống trần gian thâu tất cả
những lời cầu xin, nhưng nhiều quá nên cái giỏ của tôi rất nặng. Còn ngài, ngài
đã làm gì mà sao cái giỏ của ngài nhẹ quá vậy? Vị kia trả lời: Tôi xuống trần
gian để thu tất cả những lời tạ ơn, nhưng chẳng có bao nhiêu.
Câu chuyện phần nào
nói lên một thực tế của con người và giúp chúng ta hiểu được bài Tin Mừng mà
chúng ta vừa nghe đọc, thì ra người ta hầu như biết cầu xin hơn là biết đón
nhận và tạ ơn. Thánh Luca thuật lại sự kiện có mười người phong cùi đến gặp
Chúa Giêsu và khẩn khoản cầu xin Chúa thương xót, Chúa đã chữa lành bệnh cho
họ, nhưng chỉ có một người quay lại để tạ ơn Chúa. Người quay trở lại tôn vinh
Thiên Chúa lại là một người ngoại, vậy thì chẳng lẽ những người kia không được
lành bệnh sao?
Đọc bài Tin Mừng này
tôi nhớ lại một sự kiện tôi đã gặp mà tôi nhớ rất rõ, đó là trưa ngày mùng 3
tháng 11 năm 1995 tại một nhà thờ của Dòng Đaminh, có một phụ nữ ôm một bó hoa
tươi đang phân vân đi đi lại lại trước các tượng thánh Đaminh, thánh Vinh sơn
Liêm và thánh Martinô trong khuôn viên nhà thờ. Tôi tiến lại gần và hỏi hình
như bà muốn đặt hoa trước vị thánh nào đó phải không? Bà thú nhận bà là người
ngoại đạo, bà làm việc này theo yêu cầu của đứa con trai của bà. Nhưng thật
đáng tiếc, bà không biết đâu là thánh Martinô, rồi bà tiếp tục tâm sự: gia đình
bà đều ngoại giáo, cách đó nhiều năm đứa con trai của bà học lớp 9, theo các bạn
bè Công giáo đến khấn xin thánh Martinô cho học hành tốt đẹp và tất cả chúng đã
đạt được như ý. Kể từ đó, hàng năm vào ngày 3/11 lễ thánh Martinô nó vẫn mang
bông đến tạ ơn thánh nhân, nhưng bởi vì năm nay nó đi xa, nó vẫn nhớ việc này
và nhờ bà làm giúp cho nó.
Một người ngoại đạo họ
không biết Chúa, không đón nhận Phép Rửa, không cùng tuyên xưng đức tin với
chúng ta nhưng họ đã nhận ra nguồn hạnh phúc thật của sự sống. Họ ý thức rất rõ
và xác tín những gì họ đã đón nhận. Họ hiểu ra rằng tất cả cuộc đời của họ đều
là hồng ân. Họ chưa bao giờ tuyên xưng đức tin, nhưng họ đã luôn sống và thể
hiện đức tin: “Lòng tin của ngươi đã cứu ngươi”. Có thể nói, người biết tạ ơn
đó là người có thái độ biết cầu xin và biết đón nhận, hay là người có thái độ
tạ ơn Thiên Chúa, đó là người có đức tin.
Mỗi người chúng ta khi
cầu nguyện, chúng ta thường hay nhắm đến cầu xin và luôn luôn cầu xin cho chúng
ta, cho nên chúng ta đã quên mất rằng, tạ ơn là một trong những yếu tố quan
trọng trong đời sống cầu nguyện. Cùng với chúc tụng, sám hối, chúng ta cầu
nguyện hình như là để cầu xin Thiên Chúa thực hiện theo ý của chúng ta hơn là
để chúng ta nhận ra thánh ý Chúa và thực hành ý Ngài.
Chính thái độ đó mà
chúng ta cứ quay quắt trong ý định riêng tư và dằn vặt trong tính toán nên không
thể nào nhận ra được hồng ân cao cả đầy yêu thương của Thiên Chúa đang thực
hiện trong cuộc đời của mình. Nếu chúng ta ý thức một chút, chúng ta sẽ nhận ra
cuộc đời của chúng ta là cả một cuộc đời đầy những hồng ân. Vì vậy, chúng ta
phải chúc tụng, tạ ơn cả cuộc đời và cả một cuộc đời của chúng ta phải là một
cuộc đời tạ ơn liên lỉ.
Xin cho mỗi người
chúng ta vững mạnh trong đức tin để nhận ra trên thế giới này Thiên Chúa vẫn
đang sống, vẫn đang hành động, đang ở với chúng ta, để chúng ta chúc tụng và tạ
ơn. Giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng đức tin và xin cho mỗi người chúng ta
cũng sống trọn vẹn đức tin để chúng ta chúc tụng, tạ ơn Chúa.
13. Lòng
biết ơn – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Đọc Phúc Âm Chúa Nhật
hôm nay, tôi cảm thấy thật buồn về thái độ vô ơn của chín người được ơn. Trong
số mười người phong hủi được Chúa Giêsu chữa lành, chỉ có một người quay trở
lại để tạ ơn. Mười người được ơn, chỉ có một người biết ơn. Tỷ lệ một phần
mười. Một tỷ lệ quá thấp. Như vậy, kẻ vô ơn thì thật nhiều, còn người biết ơn
có lẽ thật ít. Người biết ơn ấy lại là người ngoại đạo!
Chúa Giêsu hỏi người
ngoại giáo: "Không phải tất cả mười người đều được lành sạch cả sao? còn
chín người kia đâu? không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa mà chỉ có người
ngoại bang này?”. Chúa Giêsu buồn không phải vì bị phụ ơn mà vì trong số mười
người chỉ có một người hiểu biết tình trạng thiêng liêng của mình trước mặt
Thiên Chúa.
Trong cuốn sách
"Nói với chính mình" Đức Cha Bùi Tuần có viết: Tôi rất thích chó vì
chó biết ơn. Dầu chỉ nhận được một cục xương, chó cũng tỏ vẻ biết ơn. Chủ đi
đâu về, chó cũng vẫy đuôi mừng rỡ. Trong khi đó, con người vô ơn lại là chuyện
bình thường.
Chuyện phiếm 7 “Hai
chữ cám ơn”, Gã Siêu xót xa: Một tác giả nào đó đã viết: Một sự kiện làm chúng
ta phải ngạc nhiên không ít, đó là một số người Việt Nam từ nước ngoài trở về
thăm quê hương đã đưa ra nhận xét như sau. Dầu có cố gắng che dấu đến đâu cái
tông tích Việt kiều của mình, họ vẫn cứ bị lộ ra. Và oái oăm thay, cái tông
tích ấy được thể hiện không phải qua cách mua sắm tiêu xài, hay là phục sức, mà
gắn liền với một chi tiết rất tầm thường. Người ta nhận ra họ bởi vì họ là
những người luôn miệng nói lên hai tiếng “cám ơn”. Nếu quả thực hai tiếng cám
ơn đã trở thành quí hiếm trên môi miệng người Việt Nam hiện nay, thì phải chăng
đó là một lời báo động đáng lo ngại. Đó có thể là dấu chỉ của sự khô cạn tình
người trong xã hội Việt Nam chúng ta. Khi ơn nghĩa đã bị chối bỏ, thì dĩ nhiên
sự ràng buộc về tình người cũng trở thành mong manh. Và khi tình người bị chối
bỏ, thì nhiều lãnh vực khác cũng sẽ bị lung lay và sụp đổ.
Sở dĩ như vậy là vì
những người Việt Nam sống ở nước ngoài tiếp xúc thường xuyên với người phương
Tây, nên cũng đón nhận những nét đẹp văn hóa của họ. Những tiếng vốn được người
phương Tây xử dụng nhiều nhất là “xin lỗi” và “cám ơn”. Dân Pháp thì luôn miệng
nói “pardon” và “merci”. Còn dân Ăng lê thì động một tí là “sorry” và “thank
you”. Thói quen tốt đẹp này có được là do sự giáo dục từ trong gia đình. Có
người đã tổng kết được mười mấy chữ quan trọng trong việc giáo dục trẻ em ở
phương Tây, đó là cám ơn, chào ông bà, xin lỗi, phiền ông bà, tạm biệt, xin
mời…Trong đó đứng đầu là hai tiếng “cám ơn”. Như vậy, họ đã dạy cho con em biết
cảm động, không được thờ ơ nhìn sự giúp đỡ và làm ơn của người khác.Từ đó, gã
suy ra rằng, lòng biết ơn và tình yêu mến luôn đi song song và tỷ lệ thuận với
nhau. Lòng biết ơn sẽ sinh ra tình yêu mến và tình yêu mến lại sinh ra lòng
biết ơn.(x.dunglac.org).
Tác giả Nguyễn Văn
Tuấn, trong bài “Văn hóa cám ơn” viết chua chát: Cám ơn và xin lỗi đôi khi trở
thành một đề tài xã hội. Khoảng 2 năm trước đây, viết trên báo Tuổi Trẻ, một
người Hàn Quốc đang làm việc tại Việt Nam “phàn nàn” rằng người Việt Nam ít nói
xin lỗi. Tiếp theo đó là một thư khác của bạn đọc người Việt chỉ ra rằng chẳng
những ít nói xin lỗi, mà người Việt còn ít nói cám ơn. Điều này có vẻ mâu thuẫn
với truyền thống đạo lý của người Việt, vốn có truyền thống tôn sư trọng đạo,
ghi ơn tiền nhân. Nhưng có lẽ trong cuộc sống bề bộn của thời thực dụng kinh
tế, không ít người Việt, trong đó có cả những quan chức, quên nói lời cám ơn.
Sự thiếu sót này có thể ảnh hưởng đến quốc thể và gây ấn tượng không đẹp ở
người nước ngoài về người Việt. Câu chuyện mà tôi sắp kể sau đây còn cho thấy
hình như trong một số quan chức thể hiện sự tri ân vẫn còn khá khó khăn. Anh là
một kỹ sư người Đức, do cơ duyên nào đó, lấy vợ Việt Nam và quê vợ ở một làng
nghèo thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Có lẽ để làm một nghĩa cử đẹp cho quê
vợ, anh về Đức quyên tiền, và đem số tiền đó về quê vợ xây một bệnh xá cho
người dân nghèo. Người dân trong làng ai cũng nhớ anh ta trực tiếp chỉ huy việc
xây dựng, rất quan tâm đến chất lượng đến nổi cẩn thận gõ từng viên gạch để
đánh giá xem thật hay dỏm. Kết quả là một bệnh xá khang trang và có chất lượng
cao. Đến ngày khai mạc, các quan chức trong làng đua nhau cám ơn Đảng và Nhà
nước, nhưng không có đến một lời cám ơn chàng rể người Đức dù anh có mặt trong
buổi lễ khánh thành bệnh xá. (x.saigonecho.com).
Vô ơn chẳng làm cho
người ban ơn thiệt thòi mà chỉ làm cho tâm hồn kẻ chịu ơn thêm chật hẹp. Đúng
như John Hery Jowett đã viết: "Sống vô ơn là một cuộc đời trống vắng tình
yêu và không cảm xúc. Có hy vọng mà không có tri ân là sự thiếu hụt của một
nhận thức tinh tế. Lòng tin mà thiếu niềm tri ân là một lòng tin không có nghị
lực. Tất cả những nhân đức bị tách biệt khỏi lòng biết ơn đều trở nên tàn tật
khập khiễng trên con đường thiêng liêng".
Văn hóa cám ơn được
thể hiện trong xã hội văn minh. Mọi người luôn nói cám ơn mỗi khi được người
khác giúp đỡ, dù chỉ là nhỏ bé thôi. Hai tiếng cám ơn làm ấm lòng người nghe.
Hai tiếng cám ơn làm tăng thêm giá trị của người nói. Người biết nói tiếng cám
ơn được đánh giá là người văn hoá, văn minh.
Chúa Giêsu xem trọng
lòng biết ơn cũng là vì ích lợi của kẻ được ơn mà thôi. Người Samari trở lại tạ
ơn Chúa đã ban cho anh ơn phần xác. Chúa lại ban thêm cho anh ơn phần hồn nữa:
"Ðứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh". Như thế, cám ơn
lại là cơ hội để nhận được thêm ơn.
Sống trên đời này mọi
người cần biết ơn nhau. Biết ơn là thái độ cần thiết cần phải có đối với người
ban ơn. Trong cuộc sống, tiếng "cám ơn", "xin lỗi" luôn có
sẵn trên môi miệng những người có giáo dục, lịch sự, lễ độ. Lòng biết ơn, tiếng
cám ơn phát xuất từ tấm lòng chân thành luôn làm vui lòng mọi người. Chính lòng
biết ơn Thiên Chúa, biết ơn cha mẹ là nền tảng cho mọi thứ biết ơn khác.
Có hai thứ chịu ơn:
vật chất và tinh thần.
Vật chất thì có thể
tính bằng con số, đo lường bằng mức độ như một cây vàng, một ngàn đồng, một sào
đất... Tất cả những thứ ấy đều có thể trả được.
Chịu ơn về tinh thần
thì khó định nghĩa rõ ràng để trả ơn. Khi một người thất vọng, chán chường, cô
đơn, đau khổ, bệnh tật... nếu có được một chút lửa ấm tình thương nâng đỡ sẻ
chia, giúp cho người đó ra khỏi đêm tối, tìm lại ánh sáng, niềm vui, bình an,
hy vọng, thì lòng biết ơn đó là mãi mãi.Kẻ nghĩ rằng trả ơn là xong, không cần
biết ơn nữa, đó là một tâm hồn nghèo nàn.
Thật là dễ nếu cảm ơn
những điều tốt đẹp. Nhưng cuộc sống bao giờ cũng tạo cơ hội mới cho mọi người
cảm ơn cả những thứ chưa hoàn hảo nữa. Suy nghĩ luôn có thể chuyển tiêu cực
thành tích cực. Nếu bạn biết cách biết ơn những thứ rắc rối của bạn thì chúng
có thể giúp ích nhiều cho bạn!
Bạn thân mến.
Hãy cảm ơn vì bạn chưa
có tất cả những thứ bạn muốn. Vì nếu bạn có rồi thì bạn còn có gì để trông chờ
và hy vọng nữa đâu.
Hãy cảm ơn vì còn
nhiều điều bạn chưa biết. Vì nếu bạn biết hết rồi thì bạn chẳng còn gì để học
hỏi nữa sao?
Hãy cảm ơn những lúc
khó khăn. Vì nếu không có một lúc khó khăn thì liệu bạn có trưởng thành được
không?
Hãy cảm ơn vì bạn còn
có những nhược điểm. Vì nếu không còn nhược điểm gì thì bạn sẽ chẳng còn cơ hội
để tiến bộ, để cải thiện bản thân.
Hãy cảm ơn những thử
thách. Vì nếu không có thử thách nào thì liệu cái gì có thể xây dựng nên sức
mạnh và cá tính của bạn?
Hãy cảm ơn những lỗi
lầm bạn đã có. Vì nếu bạn không có lỗi lầm gì thì cái gì sẽ dạy cho bạn những
bài học đáng giá như thế đây?
Hãy cảm ơn những khi
bạn mệt mỏi. Vì nếu bạn không khi nào mệt mỏi tức là bạn không làm việc gì hay
sao?
Suốt cuộc đời, bạn và
tôi đều mang ơn rất nhiều. Cám ơn về tất cả, tri ân về tất cả. Bắt đầu mầm sống
trong lòng mẹ, nơi ngôi nhà ấm cúng, thầm kín đầu tiên đó, tôi được mẹ lấy máu
thịt nuôi dưỡng lớn dần từng ngày.Từ ngày đó tôi đã chịu ơn rồi. Tôi vào đời
với tiếng khóc như biểu tượng sự yếu đuối và cần đến mọi người. Rồi tôi lớn lên
nhờ dòng sữa mẹ, nhờ hơi ấm, nhờ những bàn tay nuôi nấng dẫn dắt. Công cha,
nghĩa mẹ, thầy cô giáo dục. Vào đời, tôi cần tình yêu, cần tình bạn, cần thông
cảm. Cuộc đời được dệt nên bằng những ơn nghĩa nối tiếp nhau. Sự sống là ân ban
cao cả nhất, thiêng liêng nhất mà tôi được đón nhận từ Thiên Chúa. Ngài tạo
thành tôi và còn ban Con Một của Ngài chịu chết thập giá để cứu chuộc và ban
cho tôi Sự Sống Mới.
Nói đến trả ơn, chỉ có
thể trả ơn người, chứ không bao giờ trả ơn Chúa được. Hôm nay tôi nghèo, có
người giúp tôi. Thời gian sau, có thể khá hơn tôi có dịp trả ơn. Nhưng với Chúa
thì bao giờ tôi cũng nghèo, cũng túng thiếu. Chúa chẳng cần gì để tôi có thể
trả ơn, vì mọi sự đều đến từ Chúa. Tôi chỉ có thể biết ơn Ngài bằng thái độ yêu
quý những gì Ngài ban tặng. Tặng vật lớn nhất là sự sống và lời mời gọi làm con
của Ngài. Bởi đó phải yêu quý sự sống của mình, yêu bản thân mình, yêu con
người và yêu cuộc đời. Ghét bỏ chính mình, không yêu người là sự vô ơn đối với
người ban tặng. Mọi sự đều đến từ Thiên Chúa. Ngài sắp xếp hoà điệu để con
người tham gia vào chương trình đón nhận ân sủng Ngài trao tặng. Những gì tôi
đón nhận từ tha nhân cũng là ơn Chúa, nên lòng biết ơn đối với tha nhân cũng
chính là lòng biết ơn đối với Chúa.
Mỗi sáng khi vừa thức
dậy, tâm tình đầu tiên là tôi Tạ Ơn Chúa, dâng một ngày mới cho Chúa. Cùng cộng
đoàn hiệp dâng Thánh Lễ chung lời Tạ Ơn Chúa, một ngày mới tràn đầy bình an và
ơn thánh.
Tạ ơn để đón nhận thêm
ơn lành cho cuộc sống, lời Kinh Tiền Tụng số IV trong Sách Lễ Rôma: "Thật
ra, Chúa không cần chúng con ca tụng, nhưng được tạ ơn Chúa lại là một hồng ân
cao cả, vì những lời ca tụng của chúng con chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem
lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời".
Lạy Chúa, xin cho
chúng con luôn sống tâm tình biết ơn, biết ơn Chúa, biết ơn người để cuộc đời
chúng con là bài ca tri ân tình thương của Chúa. Amen.
14. Một trên
mười – Lm Giuse Nguyễn Cao Luật
Đảo lộn trật tự bình
thường
Câu chuyện được thuật
lại cách giản dị, tự nhiên, nhưng hết sức linh động. Tất cả dường như đều diễn
ra bình thường, hợp lề luật. Những người mắc bệnh phong ở riêng một nơi: họ là
những người ô uế, nên phải ở ngoài làng. Đức Giêsu cư xử đúng đắn như một người
chữa bệnh. Người tôn trọng Lề Luật (x. Lv 13,46 ; 14,2-3) khi truyền cho những
người bệnh đi trình diện các tư tế.
Điều bất ngờ là danh
xưng mà các người phung hủi sử dụng để thưa với Đức Giêsu: "Lạy Thầy
Giêsu." Đây là lần duy nhất Đức Giêsu được những người không phải môn đệ
gọi là Thầy.
Điều bất ngờ hơn và là
trọng tâm của tường thuật là: "Một người trong bọn, thấy mình được khỏi,
liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân
Đức Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samari."
"Người
Samari" đổng nghĩa với "người nước ngoài", "người ngoại
đạo", tức là không thuộc dân Ít-ra-en, không được Thiên Chúa yêu thương
cứu vớt.
Người ta có thể nghĩ
rằng, đối với 9 người kia, câu chuyện diễn tiến theo Lề Luật: sau khi được các
tư tế chứng nhận là đã khỏi bệnh, họ được tái gia nhập cộng đoàn.
Chỉ có một người làm
đảo lộn trật tự bình thường. Có lẽ người Samari không hiểu lệnh truyền của Đức
Giêsu. Hoặc anh ta đã quên. Hay đúng hơn, vì không phải là người Ít-ra-en, anh
không để ý đến tầm quan trọng của Lề Luật. Anh đã trở lại gặp Đức Giêsu để tạ
ơn.
Những người kia ở lại
trong chế độ lề luật, họ đã không bước vào thế giới ân sủng, thế giới của việc
tặng ban và tạ ơn. Như vậy, phải chăng người ở ngoài dân được tuyển chọn mới có
thể hiểu điều này? Vậy mà, đối với một số người, việc thuộc về dân của lời hứa
lại không tạo nên một thứ bảo đảm giả tạo đó sao? Họ coi đó như một quyền lợi
hơn là một sự ban tặng.
"Thiên Chúa đã
sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc
lại những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử"
(Gl 4,4-5). Đức Giêsu sẽ lên Giêrusalem và sẽ ra mắt các tư tế. Nhưng tại đó,
Người sẽ phá tung trật tự của họ. Tại đó, Người sẽ mặc khải, sẽ tỏ bày tình
thương do Chúa Cha ban tặng, tình thương làm cho sống. Và điều ấy, hôm nay,
người Samari, đã loan báo.
Lời bộc bạch của người
Samari
"Tôi bị bệnh
phung hủi. Tôi rất mặc cảm, không những vì cái bệnh khốn khỗ nơi thân xác, mà
còn về cả cái gốc gác lý lịch không được sạch trước mắt đạo Do-thái. Như thói
quen thời ấy, những người phung hủi chúng tôi phải sống ở bên ngoài làng, không
được giao tiếp với những người bên trong, vì chúng tôi là những người dơ bẩn,
còn những người khác là người sạch.
"Tôi vẫn nghĩ
rằng mình sẽ phải mang cái bệnh khốn khỗ đó cho đến chết, và mình sẽ sống cô
đơn suốt đời, cô đơn cho đến chết. Chẳng có tài nào chữa được thứ bệnh quái ác
này, và tôi sẽ cứ phải sống chui, sống nhủi. Chỉ có cái chết mới giải thoát
được, còn bây giờ thì cứ sống mà như không phải là người.
"Khi nghe tin ông
Giêsu của người Do-thái đi ngang qua, những người phung hủi chúng tôi đến xin
ông cứu giúp, bởi vì chúng tôi đã được nghe nói về ông, và chúng tôi hy vọng
ông sẽ chữa chúng tôi lành bệnh như ông đã làm cho nhiều người. Tuy thế, tôi
vẫn sợ rằng mình không phải là người Do-thái nên ông sẽ loại tôi ra. Nhưng
không, lời ông nói đã làm cho chúng tôi được sạch, những vết phung hủi biến đâu
mất, và chúng tôi thấy mình lành lặn. Những người Do-thái, theo như lời ông
Giêsu nói, đã đi trình diện các tư tế theo đúng Lề Luật của họ. Còn tôi, tôi là
người Samari, tôi đâu có lề luật, mà các tư tế cũng đâu có chứng nhận cho tôi.
Tôi biết trình diện với ai bây giờ? Ai chứng nhận cho tôi, tôi đâu có thuộc
quyền ai?
"Bởi vậy, không
có gì hay hơn là tôi trở lại với chính người đã cứu tôi, đã chữa tôi lành bệnh.
Ông ấy không coi thường tôi, không xét đến lý lịch gốc gác của tôi, và tôi thấy
mình hạnh phúc, hạnh phúc hơn cả những người Do-thái. Tôi đã trở lại với ông
Giêsu, trở lại để cám ơn, vì ơn đó quá lớn, chẳng thể nào tin nỗi.
"Đúng thế, ân huệ
đó quá lớn lao. Những mặc cảm, những bất hạnh của tôi đã được xoá bỏ. Từ nay
tôi được vào một đời sống mới, tôi được công nhận là người như mọi người khác.
Và vì thế, tôi đã trở lại với Đấng đã làm ơn cho tôi, trở lại để bày tỏ tấm
lòng của tôi, và cũng để công bố cho mọi người biết, Đấng làm ơn cho tôi có tấm
lòng yêu thương vô biên."
Người ấy, có phải là
chúng ta?
Những người phung hủi
ấy tượng trưng cho chúng ta. Khi mọi sự yên ỗn, sức khoẻ, công việc làm ăn đều
tiến triển tốt đẹp, chúng ta nghĩ rằng chúng ta có quyền hưởng những thành quả
ấy đúng như sự khôn khéo và hiểu biết của mình. Chỉ cần một chút thông minh,
một chút mánh lới là chúng ta sẽ tránh được những điều tệ hại. Chúng ta chẳng
cần phải cầu xin: "Xin dủ lòng thương chúng con." Chúng ta không cảm
thấy mình bệnh hoạn, thiếu thốn, và khi ấy, Thiên Chúa không thể làm gì được.
Nhưng khi mắc phải
bệnh phung hủi, khi tai hoạ ập xuống, khi xảy ra những nguy hiểm, những cám dỗ,
những tật bệnh ... khi bất thình lình, cuộc đời chúng ta thay đỗi, lúc ấy, một
cách tự nhiên, chúng ta chạy đến với Đấng có thể cứu thoát và thưa: "Lạy
Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng con." Đó là tiếng kêu của ân sủng.
Mặc dù có những lúc dường như Thiên Chúa không đáp lại, nhưng Người vẫn luôn
nghe thấy. Không có tiếng kêu nào của con người bị bỏ quên, không có tiếng kêu
nào của con người mà Thiên Chúa lại không nghe thấy. Người sẽ chữa lành, chữa
lành toàn diện.
Như thế, chúng ta phải
nhận thấy mình mắc bệnh và cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa. Và khi đã phó
thác, đã đặt niềm tin tưởng nơi Người, chắc chắn Người sẽ nhận lời, sẽ chữa
lành, dù chúng ta thế nào chăng nữa. Thiên Chúa không xét chúng ta là ai, chúng
ta như thế nào, Người chỉ cần lòng tin của chúng ta.
Và cũng như người Samari,
chúng ta sẽ phải trở lại để tạ ơn Thiên Chúa, để nhìn nhận Đấng đã làm ơn cho
mình, không chỉ là biết nhận ân huệ, nhưng còn phải nhận ra Đấng đã thi ân.
Chính điều đó làm cho chúng ta nhận được thêm những ân huệ khác.
Người Samari đã vượt
ra khỏi giới hạn của Lề Luật để bước vào thế giới ân sủng, bởi vì anh có tấm
lòng. Nhận thức rõ ân huệ mình đã lãnh nhận, anh đã cư xử như nhận thức đó thúc
đẩy, không theo một quy tắc nào cả. Không phải ai cũng có được tấm lòng như
thế: Trong mười người, chỉ có một người trở lại mà thôi. Chúng ta có phải là
người ấy?
* * *
"Ngay khi đọc câu
chuyện chín người được chữa lành và mất dạng trong Tin Mừng, tôi liền khám phá
ra nơi họ khuôn mặt của các cộng đoàn chúng ta, vẫn thường có tính hay quên và
vô ân. Tôi cũng nhận thấy nơi người Samari trở lại để tạ ơn Đức Giêsu hình ảnh
dân mới của Thiên Chúa. Con người mới này, con người xa lạ với Tin Mừng, con
người không có thái độ chán ngán trước Lời Chúa, đã được Tin Mừng biến đỗi và
đã làm cho Đức Giêsu phải ngạc nhiên.
Này đây Lời đã chết
nơi những con người được coi là đạo đức, nay đang tái sinh ở ngoài họ, nơi một
con người xa lạ với mọi nghi lễ tôn giáo của họ. Này đây Tin Mừng đang trỗi
vượt lên cách bất ngờ bên ngoài mọi truyền thống và thói quen.
Chỉ một mình người lạ
này, người đã trở lại để tạ ơn Thiên Chúa, là tất cả niềm hy vọng của Ít-ra-en,
là lời mời gọi nhận ra sự hiện diện và quyền năng của Đức Ki-tô giữa trần gian.
Đó chính là nét độc đáo của Tân Ước: Xưa kia, Cựu Ước kêu mời dân ngoại nhìn
vào dân Ít-ra-en, còn giờ đây, Tân Ước kêu mời những người nhiệt thành hãy nhìn
và lắng nghe sự thật đang được Đức Ki-tô bày tỏ giữa trần gian." (theo G.
Casalis)
15. Suy niệm của Lm.
Giuse Nguyễn Hữu Duyên
Những bài Thánh Kinh
hôm nay ít nhiều đều đề cập tới một tâm tình tự nhiên của con người: lòng biết
ơn. Tướng Naaman sau khi được khỏi bệnh đã quay trở lại gặp người của Thiên
Chúa với một lễ vật tạ ơn. Người phong hủi Samaria thấy mình được khỏi bệnh
liền quay trở lại tạ ơn Đức Giêsu. Những câu chuyện như thế không có gì đáng
nói, vì là lẽ thường tình trong xã hội. Nhưng ở đây tâm tình biết ơn có một
điểm nổi bật khiến cho Đức Giêsu phải ngạc nhiên và trân trọng: sự biết ơn phát
xuất từ lòng tin và là lời diễn tả lòng tin.
Trong một chỗ khác
trong Tin Mừng, Đức Giêsu đã nói về Naaman "Cũng thế, trong thời tiên tri
Êlisêô có nhiều người bị phong cùi trong Israel, nhưng không ai trong họ được
chữa lành, chỉ có Naaman, người dân ngoại.", để ca ngợi lòng tin của viên
sỹ quan A-ram này. Cũng như ở đây, Đức Giêsu không khỏi đau đớn khi lên tiếng
hỏi "Không phải cả mười người đều được khỏi bệnh sao? Thế thì chín người
kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại
quốc này?" Và Người dã đưa ra kết luận "Đứng dậy và đi! Lòng tin của
con đã cứu con". Rõ ràng, lòng biết ơn là điều thường tình, nhưng biết ơn
bởi lòng tin thì là một điều thật họa hiếm. Sự biết ơn trong cuộc sống xã hội
thường chỉ phát xuất từ quyền lợi bản thân: muốn người làm ơn có một cái nhìn
thiện cảm và vui lòng. Ngay cả trong tôn giáo, thường cũng chỉ gặp được những
lời tạ ơn như thế.
Tiên tri Êlisêô, và cả
Đức Giêsu nữa khi bắt người bệnh của mình phải đi tắm ở sông Giođan hay đi
trình diện với các tư tề là để họ phải đặt mình trước ngưỡng cửa đức tin.
Naaman, và người phong hủi thời Đức Giêsu qủa thực đã phải đấu tranh với bản
thân mình để có sự vâng phục trong đức tin. Đức tin không cắt đứt người tin
khỏi những tương quan trong cuộc sống, nhưng giúp con người biết nhìn mỗi tương
quan ấy trong cái nhìn của Thiên Chúa. Naaman muốn dâng lễ vật cho Êlisêô, điều
đó sẽ làm cho đức tin vừa chớm nở nơi Naaman bị tổn thương, nên người của Thiên
Chúa đã trả lời "Trước mặt Đức Chúa hằng sống là Đấng tôi phục vụ, tôi thề
sẽ không nhận gì cả". Naaman đã hiểu để tạ ơn ông phải làm cho chính trọn
vẹn đời sống trở thành Lễ Tế cho Thiên Chúa. Người phong hủi Samaria cũng nhận
được một lệnh truyền tương tự "Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu
anh." Lời tạ ơn phải là cả hành trình đời sống thường ngày trong lòng tin.
Chúng ta sẽ không hiểu
đúng tâm tình tạ ơn theo đức tin, nếu không cùng thánh Phaolô chiêm ngưỡng Lễ
Tạ Ơn của chính Đức Giêsu. Bằng một gợi nhớ thật vắn gọn, nhưng thánh Phaolô đã
cho thấy Lời Tạ Ơn của Đức Giêsu xuất phát từ đâu, và đi về đâu "Con hãy
nhớ đến Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chỗi dậy từ cõi chết, Đấng xuất thân từ dòng
dõi Đavít." Lời Tạ Ơn đi từ nhập thể, ngang qua sự chết và sống lại vinh
hiển. Đó là sự VÂNG PHỤC ĐỨC TIN toàn hảo của Đức Giêsu đối với LÒNG TRUNG TÍN
tuyệt đối của THIÊN CHÚA trong GIAO ƯỚC của Ngài "Người vẫn một lòng trung
tín, vì Người không thể nào chối bỏ lời hứa của mình." Lời tạ ơn như thế,
đòi hỏi người tin "cùng chết với Người" "cùng kiên tâm chịu đựng
với Người". Lễ Tạ Ơn bắt nguồn và hình thành trong chính cuộc sống.
Người Kitô hữu chúng
ta ngày nay thường muốn đóng khung lễ tạ ơn của mình trong nhà thờ, nơi đền
đài. ở đó họ đôi khi cũng rất quảng đại, nhưng cuộc sống của họ lại là nơi của
những thần tượng khác. Thật đau lòng thay.
Cuộc sống hôm nay thật
qúa nhiều khó khăn: nhiều gia đình phải bươn trải từng ngày cũng không đủ sống.
Lại thêm bị ám ảnh chiến tranh, người ta bắt đầu có khuynh hướng thu gom và
tích trữ, và dường như cố quên đi những mảnh đời đau khổ. Lời Tạ Ơn không còn
là "cùng cam chịu chết, cùng cam chịu đựng". Đức Giêsu "hôm
qua,hôm nay và mãi mãi" vẫn là "đồng hình đồng dạng" với những
con người lam lũ đễ làm thốt lên trong lòng họ NIỀM TIN vào lòng Thương Xót của
Thiên Chúa, và biến cuộc đời những con người cùng khổ thành Lời Tạ Ơn và Chúc
Tụng, bằng sự hiến thân đến cùng cho họ. Lễ tạ ơn của chúng ta phải là "lễ
tạ ơn" của những con người đang bị khủng bố, bị bom đạn dày xéo, bị lũ lụt
cuốn trôi. Chính trong thời điểm khó khăn của chính mình, sự hiến tặng tình
thương của mỗi người mới là của lễ mà Thiên Chúa chờ đợi.
Từ quan điểm ấy, một
lần nữa tôi tha thiết mời gọi sự giúp đỡ đặc biệt cho anh em bị lũ lụt của
chúng ta. Sự khó khăn của chúng ta không thể là lý do để chúng ta khép lại Tình
Thương Trung Tín của Thiên Chúa.
16. Lòng
biết ơn – Lm Ignatio Trần Ngà
(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc
Tin Mừng’)
Sau một trận động đất
dữ dội hoặc một vụ khủng bố tựa như đã xảy ra tại Trung Tâm Thương Mại NewYork
tháng 11 năm 2001, một số người bị vùi dưới hàng khối bê tông và gạch đá, nhưng
không bị chết ngay vì được nằm lọt vào một khoang trống. Trong khoảng không
gian chật khít người, vừa tối tăm vừa ngột ngạt đó, họ dùng điện thoại di động
gọi về gia đình, gọi cho nhân viên cứu hộ đến cứu giúp. Mạng sống của họ chỉ
được tính từng giây!
Trong những giờ phút
kinh hoàng như thế, người ta cảm nhận rằng được sống thêm mươi phút nữa, dù chỉ
thêm mươi phút nữa thôi, cho đến khi toán cấp cứu đến kịp, là cả một hồng ân vô
cùng lớn lao. Và đang lúc gần như bị chôn sống dưới cả một núi bê tông như thế,
họ nghiệm thấy rằng được tự do hít thở như bao nhiêu người khác bên ngoài là
một ân huệ vô cùng quý báu; được uống vài ngụm nước lúc nầy thì thật sung sướng
không gì bằng...
Mươi phút sống... một
chút không khí trong lành... mấy ngụm nước... là những gì mà những người lâm
nạn hết lòng khao khát và ước mơ, nhưng những ước mơ giản dị đó đã không đến
được với nhiều nạn nhân bị chôn vùi ở nhiều nơi vì tai nạn hầm mỏ, vì nạn khủng
bố hay động đất... nhưng những ân huệ đó đang ở trong tầm tay chúng ta cách dồi
dào và dư dật. Chúng ta có thừa những gì mà những người lâm nạn đang mơ ước.
Thế mà chúng ta không xem đó là ân huệ, mà chỉ xem đó là chuyện thường tình.
Nước, không khí, ánh
nắng mặt trời... chỉ là một vài trong vô vàn ân huệ Thiên Chúa rộng ban cho mọi
người. Đếm sao cho xiết những ân huệ Chúa ban. Vậy mà số người nhận ra và tỏ
lòng tri ân Thiên Chúa thì vô cùng khan hiếm.
Khi Chúa Giêsu đi qua
biên giới Samaria thì gặp mười người phong cùi. Họ là những người mang số phận
bi đát. Vì mắc bệnh truyền nhiễm đáng sợ, họ bị xã hội Do-thái thời bấy giờ xua
ra khỏi gia đình, làng mạc, cách ly với tất cả mọi người. Những con người bất
hạnh nầy tụ tập với nhau, sống trong các hang hốc ngoài đồi núi, áo quần tả
tơi, đầu tóc bù xù và buộc phải để đầu trần, đi đâu phải lấy tay che miệng và
hô lên báo hiệu cho người qua lại biết mà lánh xa. Vì thế, họ không được phép
lại gần Chúa Giêsu để xin Ngài cứu chữa. Họ phải đứng đằng xa kêu lên:
"Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi".
Theo luật quy định,
nếu có người nào mắc bệnh phong có cơ duyên lành bệnh, thì phải đến trình diện
với các tư tế, để khám xét lại. Nếu thực sự được lành bệnh thì họ mới được cho
hoà nhập với cộng đồng. Chúa Giêsu bảo mười người phong đến trình diện với các
tư tế là vì lý do đó. Họ đã đi trình diện, đã được chứng nhận là khỏi bệnh,
nhưng chỉ có một người xứ Samari, người được xem là thuộc phường rối đạo, biết
quay trở lại tôn vinh Thiên Chúa và cảm tạ Chúa Giêsu. Còn chín người kia thì
không. Chưa được ơn thì van vái cầu xin, được ơn rồi thì nín thinh như hến.
Chuyện kể rằng có hai
thiên thần được Thiên Chúa sai xuống trần, một vị có nhiệm vụ thu gom những lời
cầu khẩn van xin của con người; còn vị kia thì đi thu nhặt những lời tạ ơn
người ta dâng lên Chúa. Chỉ vài giờ sau, vị thiên thần có nhiệm vụ thu gom lời
cầu nguyện van xin của nhân loại vội vã trở về vì hai va-li lớn của ngài đầy
cứng và nặng trịch vì những lời cầu khẩn, khiến ngài hầu như không cất cánh nổi
để bay về. Chờ mãi không thấy thiên thần kia trở lại, Thiên Chúa lại sai một vị
thiên thần khác xuống thế kiếm tìm, thì mới hay là thiên thần thứ hai đang rảo
khắp phố phường, khắp hang cùng ngõ hẻm suốt cả tháng trời mà chẳng gom góp
được bao nhiêu lời tạ ơn nên còn phải lặn lội đến những nơi xa xôi hiểm trở may
ra có thể kiếm thêm được ít gì nữa chăng!
Dấu hiệu để nhận ra
người có văn hoá là biết nói tiếng cám ơn. Trong xã hội văn minh, dường như hai
tiếng cám ơn liên tục được phát ra làm ấm lòng người nghe và làm tăng thêm giá
trị của người nói. Người biết nói tiếng cám ơn, khi được người khác làm ơn cho
mình, cả trong những điều nhỏ nhặt, được đánh giá là người văn hoá, văn minh.
Ước gì trong tương
quan với Chúa, mỗi người chúng ta cũng không thua kém những người khác trong xã
hội thế trần, biết nhận ra hồng ân Thiên Chúa bao phủ đời mình và luôn dâng lời
cảm tạ Thiên Chúa vì hồng ân Ngài tuôn ban trong suốt dòng lịch sử đời mình. Và
lời tạ ơn đẹp nhất, xứng hợp nhất, là cùng với Chúa Giêsu dâng hy tế tạ ơn
Thiên Chúa Cha qua mỗi thánh lễ hằng tuần.
17. Quan
tòa bạo ngược và bà góa quấy rầy
Hôm nay, Đức Giêsu
phác họa một câu chuyện để nói về sự cầu nguyện.
Đức Giêsu nói:
"Trong thành kia có một quan toà". Một quan tòa phương Đông, một
người chẳng kính sợ Thiên Chúa, chẳng sợ hãi ma quỷ và khinh khi mọi người. Một
mình làm nhiệm vụ trong một thành phố nhỏ, không có sự kiểm tra của cấp trên, có
thể kéo dài vụ kiện tùy thích.
Đối đầu với ông là một
bà góa thân cô thế cô, biểu tượng của những người nghèo không nơi nhờ cậy,
không có tiền của, bị những người giầu có thù địch tha hồ bóc lột... Một người
đàn bà không có chỗ dựa về pháp lý, không có chồng để bênh vực... Bà góa này đã
nhiều lần đến xin quan tòa xử kiện. Bà quá nghèo chẳng có gì để đút lót, nhưng
bà có một khí giới, bà rất đanh đá, rất đáo để, rất kiên trì, rất cương quyết.
Bà tin chắc, cứ kêu nài, cứ van xin, cứ quấy rầy, thế nào quan cũng phải xử.
Quan tòa không sợ ai, nhưng phải sợ sự quấy rầy của bà.
Thế rồi, bà không để
cho ông được yên lúc nào, không để ông rảnh rỗi ăn chơi, làm cho ông phải đau
đầu nhức óc, khổ sở vì bà. Ông muốn khỏi khổ, phải xử cho xong. Xong ở chỗ cho
bà phải thắng, kẻ thù phải thua. Bà không để cho kẻ thù ức hiếp. Đúng vậy, ông
quan tòa dẫu chẳng kính sợ Thiên Chúa, cũng chẳng coi ai ra gì, phải thua người
đàn bà góa này. Ông đã phải xử kiện cho bà. Chúng ta đừng ảo tưởng ông đã làm
điều tốt, ông đã trả lại công bằng. Không, ông là một người ích kỷ và vô liêm
sỉ. Đơn giản vì lợi ích của người khác trùng hợp với lợi ích riêng của ông. Ông
ta luôn luôn hành động vì mình, xử kiện cho bà góa, đơn giản để bị khỏi quấy
rầy.
Đây là dụ ngôn dùng sự
tương phản, trong đó bài học được rút ra "trái ngược" với ví dụ được
nêu. Một quan tòa bất chính, không có lương tâm phải nhượng bộ một bà góa nghèo
hèn... Phương chi Thiên Chúa tốt lành vô cùng, là người Cha vốn nhạy cảm với
những lời cầu nguyện của người nghèo, lại có thể từ chối lời cầu xin của con
cái Người sao? Không: "Hãy xin sẽ được, hãy tìm sẽ thấy, hãy gõ sẽ mở
cho". Dù bây giờ Thiên Chúa có trì hoãn, nhưng phải kiên trì cầu nguyện
liên lỉ, không thoái nhượng, không giảm sút, không buông thả, không chán nản.
"Thiên Chúa, Người sẽ mau chóng bênh vực những kẻ người đã tuyển chọn...
Người sẽ mau chóng thực thi công lý".
Khẳng định này có vẻ
nghịch lý, ta chẳng thấy nhiều khi cầu nguyện, chẳng thấy gì, chỉ đụng chạm sự
im lặng của Thiên Chúa. Bất công vẫn xảy ra, vẫn tiếp tục tồn tại trong thế
giới. Cầu cho Nước Cha trị đến, xem ra nước Cha không bao giờ đến. Thực ra, ta
luôn có xu hướng đòi Chúa phải thỏa mãn điều mình xin. Những lời cầu nguyện của
chúng ta, giống một thứ đòi nợ và yêu cầu Thiên Chúa phải trả. Thiên Chúa như
"máy phát quà tự động", bỏ vào khe một đồng tiền, kéo cái nút và cái
máy đưa ra một cái bánh Sôcôla theo yêu cầu.
Khi chúng ta có cảm
tưởng lời nguyện xin không được chấp nhận. Hãy nhớ Đức Giêsu, khi xin với Chúa
Cha: "Xin Cha cất chén này khỏi Con..." Đức Giêsu được nhận lời cách
khác, chén đau khổ không được cất đi, nhưng qua cái chết, Người đã đến niềm vui
của Phục sinh.
Tuy nhiên, nên biết
điều này: Không phải lúc nào chúng ta cũng xin Thiên Chúa điều tốt nhất. Chúng
ta không thể hiểu thấu tư tưởng của Chúa. Sẽ ra sao nếu như mọi thói ngông
cuồng, ấu trĩ của chúng ta được nhận lời?
Chúng ta giống như mọi
sinh vật và cây cỏ: Cần phải có nhịp điệu của mùa màng, có sự luân phiên của
nắng mưa, của mùa hè và mùa đông, và cả những cơn gió mạnh..., để lớn lên từ
hạt, đến hoa và đến quả. Một hạt mầm sẽ ra sao khi nó từ chối mọi thử thách
trong dòng phát triển và muốn đòi có mùa gặt ngay sau ngày gieo hạt?
Đức Giêsu dạy ta phải
vững tin và kiên trì cầu nguyện. Thế nhưng, trớ trêu thay, thực tế đã xảy ra và
Đức Giêsu phải đặt câu hỏi: "Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn
thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?". Nỗi đau của Đức Giêsu, nỗi đau của
Thiên Chúa, thay vì có những tín hữu kêu cầu lòng nhân từ của Thiên Chúa, thì
chỉ có những người vô tín ngày đêm không cầu nguyện, sẽ không còn ai hỏi:
"Liệu Thiên Chúa có nhận lời cầu nguyện hay không ?". Đức Giêsu cảm
thấy lo âu trước sứ mạng và sứ điệp của Người bị từ khước. Những người được
tuyển chọn bị đe dọa bỏ đức tin.
Để kết luận, tưởng
cũng nên kể một câu chuyện: Một đại chủng sinh đã viết: "Con lấy làm vinh
dự sống trong một gia đình nghèo hèn, chỉ ăn cháo, không bao giờ biết đến bánh
mì và thịt, họa may đôi ba lần trong một năm. Tuy gần 20 đứa con lớn bé đang
chờ chực đĩa cháo, nhưng nếu có người đến ăn xin, mẹ vẫn mời họ ngồi ăn với
chúng con". Bà mẹ đó chính là thân mẫu Đức Giáo hoàng Gioan XXIII, vị giáo
hoàng vĩ đại của hòa bình, được cả thế giới mến phục, được thưởng Nobel hòa
bình và là giáo hoàng của Công đồng Vatican II. Nhờ đâu, một bà mẹ quê mùa,
nghèo khó đã biết dạy dỗ con nên người vĩ đại như vậy? Thưa chính là nhờ cầu
nguyện với niềm tin sắt đá.
Lạy Chúa, xin cho
chúng con kiên trì cầu nguyện, không chán nản, không buông thả bao giờ. Ước gì
được như vậy.
18. Lòng
biết ơn - Lm. Trần Việt Hùng
Có một vở kịch, nhan
đề ‘Phố Của Chúng Tôi’ (Our Town), nơi đó có một người phụ nữ trẻ bị chết. Việc
xảy ra là cô ta được Chúa cho phép trở lại dương thế để sống lại một ngày của
đời cô. Cô chọn ngày sinh nhật của tuổi 12. Trở lại thế gian, mới vài giờ trôi
qua, cố ta la lớn ‘Tôi không thể, tôi không thể tiếp tục. Thời gian trôi qúa
mau. Tôi không có thời gian để ngắm nhìn nhau… Ôi dương gian quá tuyệt vời cho
bất cứ ai nhận ra nó. Rồi, với dòng lệ tuôn rơi, cô hỏi, ‘Con người có cảm nhận
được đời sống, trong khi họ đang sống ở trần gian không? Tiếng thầm trả lời cô,
‘Không’. Các thánh và các thi sĩ có thể – đôi khi họ nhận ra.
Trong sách Các Vua kể
câu truyện ông tướng Naaman được tiên tri của Chúa chữa lành bằng cách bước
xuống sông Giođan tắm bảy lần. Naaman được thanh sạch các dấu vết của bệnh tật.
Ông đã tỏ lòng tôn kính Thiên Chúa và trở lại dâng lời tạ ơn vị tiên tri của
Chúa: Sau đó, ông và đoàn tuỳ tùng trở lại gặp người của Thiên Chúa. Đến nơi,
ông đứng trước mặt người của Thiên Chúa và nói: “Thật tôi biết không có Thiên
Chúa nào khác trên hoàn vũ, ngoài một Thiên Chúa ở Israel. Vì thế, tôi xin ông
nhận lấy phần phúc của tôi tớ ông” (2V 5, 15). Trước khi được rửa sạch tì vết
phong cùi, Naaman là người dân ngoại. Ông chưa bao giờ nhận ra hồng ân sự sống
và cuộc sống. Vâng lời người của Chúa, bước xuống dòng sông và bảy lần ngụp lặn
dưới dòng nước, Naaman được hoàn toàn đổi mới. Từ ân huệ nhỏ được chữa lành,
ông nhận ra ân huệ của sự sống và Đấng ban sự sống.
Naaman đã thay đổi tận
tâm can. Ông đã hoàn toàn đổi hướng. Giờ đây, ông đã chọn Chúa làm gia nghiệp
cuộc đời: Naaman nói thêm rằng: “Tuỳ ý ông, nhưng tôi xin ông ban phép cho tôi,
là đầy tớ của ông, được chở một ít đất vừa sức hai con la chở được, vì từ nay
ngoài Chúa, tôi tớ của ông sẽ chẳng dâng của lễ toàn thiêu hoặc hy lễ cho thần
minh nào khác” (2V 5, 17). Qua sự khiêm cung và lòng thành tín, Naaman đã được
Thiên Chúa chữa lành. Ông đã nhận lãnh hồng ân thanh tẩy cả hồn lẫn xác. Với
lòng tri ân, ông đã trở lại tìm đến người của Chúa. Ông đã xưng tụng danh Thiên
Chúa và tôn thờ Chúa. Một thái độ khôn ngoan tuyệt vời. Cũng thế, đã nhiều lần
Chúa chữa lành tâm hồn thể xác của chúng ta. Mấy khi chúng ta nhận diện ra lòng
thương xót và tình yêu của Chúa để dâng lời tạ ơn.
Biết rằng mọi sự trên
thế gian này đã qua, đang qua và sẽ qua mau. Mỗi ngày chúng ta sống là mỗi giây
phút rút bớt đời sống của chúng ta. Chẳng mấy ai nói rằng cuộc sống như thế là
qúa đủ hay quá dài. Cho dù người thượng thọ cao niên vẫn muốn sống thêm, dù một
ngày vắn gọn. Chúng ta cần trân quí món qùa của sự sống. Mỗi giây phút sống là
hồng ân Chúa ban. Nếu buông bỏ giữa chốn hoang địa, chúng ta đã biến mất từ
lâu. Ngay từ lúc được thụ thai trong lòng mẹ, chúng ta đã tùy thuộc vào người
khác. Cha mẹ sinh chúng ta vào đời trần trụi. Từng giây phút, chúng ta bắt đầu
nhận lãnh và chịu ơn suốt dọc cuộc sống. Hồng ân sự sống là cao trọng nhất.
Thiên Chúa đã an bài môi trường chung quanh để đón nhận chúng ta vào đời. Xã
hội con người đã gầy dựng và dọn sẵn sàng để đáp ứng nhiều nhu cầu cuộc sống.
Chúng ta chỉ cần cố gắng bỏ công sức để đón nhận, góp phần và hoàn thành sứ
mệnh.
Sự liên đới trùng điệp
ân phước trong cuộc sống có một giây truyền nối tiếp. Kẻ đến trước, người tới
sau. Ai cũng nhận ơn và cần có thái độ biết ơn. Biết ơn, cám ơn, tạ ơn, tri ân,
mang ơn và trả ơn nói lên tính ưu việt của con người. Càng biết ơn, chúng ta
càng sống làm người hơn. Chúng ta biết rằng không có sự gì là tự nhiên mà có.
Phàm bất cứ sự gì đều có nguyên nhân và hậu qủa. Điều quan trọng là chúng ta
nhận diện ra những hoa trái mà chúng ta đang thụ hưởng, cả tinh thần lẫn thể
chất. Người đời rất đau lòng vì sự vô ơn, bạc nghĩa và phản phúc. Người ta nói
là: Ăn cháo đái bát. Còn ngại hơn nữa khi thiên hạ nói: Cứu vật, vật trả ân.
Cứu nhân, nhân trả oán. Cho dù sự giúp đỡ rất nhỏ nhoi lúc khởi đầu, nhưng đó
chính bậc thang để giúp chúng ta tiến lên: Có bột mới gột nên hồ là thế. Tha
nhân chính là ân nhân. Ai cũng có vô số các ân nhân ẩn danh trong cuộc sống.
Tất cả những kiến thức và của cải chúng ta đang hưởng dùng, đều có sự đóng góp
công sức của người khác. Thái độ biết ơn phải được trải dài mọi nơi và mọi lúc.
Trong bài phúc âm
tường thuật câu truyện mười người phong cùi được Chúa chữa lành, nhưng chỉ có
một người ngoại giáo trở lại dâng lời tạ ơn Chúa. Câu truyện làm cho chúng ta
phải tự vấn lương tâm. Có thể chúng ta là những người tín hữu rất chân thành,
nhưng bị loại tên ra ngoài. Thánh Luca tường trình: Một người trong bọn họ thấy
mình được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến
sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người, mà người ấy lại là người xứ
Samaria (Lc 17, 15-16). Qua các Bí Tích trong Hội Thánh, chúng ta được rửa sạch
tội nguyên tổ, được tha thứ các tội riêng, được nhận lãnh các ân sủng và nhận
của ăn chữa lành và dưỡng nuôi hồn xác, bấy nhiêu cũng đủ để chúng ta luôn nhớ
dâng lời tạ ơn Chúa.
Chúa Giêsu không trách
cứ những người đã được ơn chữa lành phong cùi. Chúa ngạc nhiên không thấy họ
trở lại tôn vinh Thiên Chúa: Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ
có người ngoại bang này (Lc 17, 18). Người làm ơn không đòi phải trả ơn. Nhưng
người nhận ơn, có bổn phận cám ơn. Chúa nhắc nhở mỗi người chúng ta đừng bao
giờ quên tạ ơn vì những ân phúc đang được vui hưởng. Truyện kể: Bob Evans, một
người bị mù từ khi mới sanh. Năm 50 tuổi, nhờ cuộc giải phẫu, mắt của ông đã
được nhìn thấy lần đầu tiên. Ông đã vui sướng một cách ngoại thường. Thế giới
của ông đã thay đổi ngoài sức tưởng tượng. Qua bài phỏng vấn trong tờ báo, ông
chia sẻ vài điều rất phấn khởi, “Tôi không thể đợi tới buổi sáng thức dậy để
nhìn xem những cái tôi có thể nhìn thấy. Mọi sự qúa kinh ngạc trong thế giới.
Ban đêm, tôi ngắm nhìn các vì sao lấp lánh…tôi như bay bổng trên cao. Bạn không
nhận biết mọi sự mà bạn nhìn thấy là qúa tuyệt vời sao!
Chúng ta trải nghiệm
cuộc sống với biết bao hồng ân. Thời gian sống thật quí báu. Chúng ta đã hoang
phí biết bao thời gian trong đời một cách vô ích. Đôi khi chúng ta than rằng
sao mà ngày dài thế, thời gian chán nản quá và tìm mọi cách để quên và giết
thời gian. Thiệt là uổng phí! Thảm kịch của đời sống là chúng ta cố đạt tới
cùng đích và chẳng bao giờ sống thực sự. Chúng ta chạy theo thời gian để hoàn
thành hết ước mơ này sang ước mơ khác. Ít khi chúng ta dừng tâm lại để nhận
biết sự hiện hữu thực sự trong tâm tình biết ơn. Biết ơn có nghĩa là chúng ta
nhận diện và chạm tới cuộc sống. Tôi đang sống trong giây phút tuyệt đẹp này,
đang hít thở thật đầy, ngắm nhìn thật kỹ và an hưởng tất cả những gì hiện diện
chung quanh.
Thánh Phaolô trong thơ
gởi cho Timôthêô đã khuyên răn một cách rất chân tình: Nếu chúng ta kiên tâm
chịu đựng, chúng ta sẽ cùng thống trị với Người. Nếu chúng ta chối bỏ Người,
thì Người cũng sẽ chối bỏ chúng ta (2Tm 2, 12). Ngài vạch rõ con đường phải đi
để được lãnh nhận ơn cứu độ. Chúng ta không có con đường nào khác ngoài sự tin
tưởng và phó thác vào Đức Kitô. Tất cả những sự khổ đau đời này rồi cũng sẽ qua
mau. Những khổ đau của chúng ta ở thế gian này chẳng là chi, so với hạnh phúc
Nước Trời mà Chúa đã hứa ban.
Lạy Chúa, hồng ân Chúa
bao la tuyệt vời. Từng hơi thở, từng nhịp sống và từng giây phút trong đời là
những ân huệ Chúa thương ban. Chúng con chỉ biết cúi đầu tạ lễ và xin ơn phúc
lành của Chúa. Cảm tạ ơn Chúa và tri ân đồng loại suốt cả đời.
19. Chín
người kia đâu?
Suy Niệm
Mười người phong đón
gặp Đức Giêsu. Họ chỉ dám đứng xa, nài xin Ngài thương xót. Đức Giêsu không
chữa cho họ ngay, Ngài muốn thử thách lòng tin của họ. Ngài bảo họ hãy đi trình
diện với các tư tế như thể họ đã được khỏi bệnh rồi. Mười người phong đã vâng
phục lên đường, và chính trên đường đi, tất cả được khỏi bệnh.
Niềm vui bất ngờ ùa
vào lòng mọi người. Cả nhóm tiếp tục cuộc hành trình, trừ một người phong ở
vùng Samari.
Lòng biết ơn đối với
Đức Giêsu khiến anh quay lại, sấp mình dưới chân Ngài mà tạ ơn.
Chín người kia đâu?
Đức Giêsu ngạc nhiên
đặt câu hỏi.
Chắc họ đã đi trình
diện các tư tế như lời Đức Giêsu, nhưng họ quên Đấng mới ban ơn cho họ.
Họ vui mừng ngừng lại
ở quà tặng, nhưng không vươn tới người tặng quà.
Họ đã có lòng tin nên
được khỏi bệnh, nhưng họ lại thiếu lòng biết ơn cần thiết.
Lòng biết ơn khiến
lòng tin trở nên sâu xa hơn, vì là gặp lại chính Đấng đã ban tặng.
Chín người kia đâu?
Đức Giêsu không làm
phép lạ để được biết ơn. Ngài mong những người kia trở lại để gặp họ, và trao
cho họ chính con người Ngài. Điều này còn quý hơn cả ơn được khỏi bệnh.
Ơn lành bệnh chỉ là
nhịp cầu để ta gặp gỡ Đấng ban ơn, và lớn lên trong niềm tin cậy mến.
Chín người kia đâu?
Có khi tôi thường
thuộc về nhóm chín người. Tôi quá quen với những ơn Chúa ban, đến độ thấy đó là
chuyện bình thường, đến độ không thấy cần phải tỏ lòng biết ơn.
Thật ra, biết ơn phải
là tâm tình chủ yếu chi phối lời cầu nguyện và cuộc sống của tôi.
Toàn bộ đời tôi là một
hồng ân, một quà tặng. Tôi muốn sống đời tôi như một lời tạ ơn không ngừng.
Tạ ơn là mãn nguyện về
những gì đã lãnh nhận, là thấy mình được bao bọc bởi Tình Yêu, và muốn làm mọi
sự để đáp lại Tình Yêu đó.
Người phong vùng
Samari đã trở lại tôn vinh Thiên Chúa, vì Ngài đã chữa anh lành bệnh qua Đức
Giêsu.
Chúng ta cũng đã nhận
được biết bao ơn Chúa từ tay những người xa lạ hay thân quen.
Xin cám ơn cuộc đời,
cám on mọi người.
Đời tôi là quà tặng
của Chúa cho tôi. Ước gì nó thành quà tặng của tôi cho mọi người.
Gợi Ý Chia Sẻ
Ngày nay người ta nói
nhiều về lòng biết ơn đối với thầy cô, cha mẹ. Theo bạn, tại sao nhiều bạn trẻ
vẫn sống một cách lãnh đạm, vô ơn?
Có khi nào bạn tạ ơn
Chúa vì những khó khăn và vấp ngã trong cuộc sống không? Bạn có thấy những mảng
tối trong đời bạn cũng có thể là một ơn không?
Cầu Nguyện
Con tạ ơn Cha vì những
ơn Cha đã ban cho con, những ơn con thấy được, và những ơn con không nhận là
ơn.
Con biết rằng con đã
nhận được nhiều ơn hơn con tưởng, biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì
những gì Cha không ban cho con, và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban bởi lẽ điều đó có hại cho con, hay vì Cha muốn ban
cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin
vào tình yêu Cha dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.
20. Ưu tiên
cho việc tạ ơn - Achille Degeest
(Trích dẫn từ ‘Lương
Thực Ngày Chúa Nhật’)
Theo lề luật Do thái,
bệnh phong hủi phải được một tư tế kiểm chứng và kẻ bất hạnh bị tuyên bố là ‘ô
uế’, bị gạt ra ngoài lề xã hội, nói với ai phải đứng đàng xa. Tên bệnh ấy thời
xưa chỉ nhiều chứng bệnh ngoài da. Lâu lâu có người khỏi bệnh, họ cũng phải
được một tư tế kiểm chứng, sau đó được trở về sinh hoạt bình thường. Như vậy,
chúng ta hiểu tại sao Đức Giêsu dạy mười kẻ tật phong hãy đi trình diện các tư
tế để được nhìn nhận lành bệnh. Trong số mười bệnh nhân, chỉ có mỗi một kẻ trở
lại tạ ơn Thiên Chúa. Sau khi nêu rõ sự vô ơn của chín bệnh nhân kia, Chúa nhấn
vào ba điểm: Kẻ biết ơn quê xứ Samaria, nghĩa là một kẻ ngoại giáo đối với
người Do thái –kẻ ấy công khai tôn vinh Thiên Chúa– và được chữa lành vì có đức
tin. Một số người nghĩ rằng, Chúa giải thích như vậy, phải chăng Người muốn
gián tiếp xác nhận thần tính của Người. Dẫu sao chúng ta có thể nêu ra hiểm họa
tội vô ơn nấp trong lòng người ta, nó là hình thức gớm ghiếc nhất của tính ích
kỷ. Chúng ta cũng nhấn thêm vào bổn phận cảm tạ Thiên Chúa.
1) Tại sao chín kẻ
phong hủi không nghĩ đến việc phải làm trước hết là trở lại tạ ơn Đức Giêsu?
Chắc hẳn họ hấp tấp
muốn được xác nhận khỏi bệnh thật sự để sớm trở về trong xã hội. Họ quan tâm
trước nhất đến việc đó, họ chỉ biết nghe theo tư lợi mà quên bẵng việc tạ ơn,
hoặc giả nghĩ rằng tạ ơn sau cũng được, nghĩa là sẽ tạ ơn vào lúc quá muộn.
Giữa một bên là quyền lợi về mặt xã hội vì khỏi bệnh, bên kia là tâm tình muốn
tạ ơn tức khắc, họ đặt ưu tiên cho quyền lợi của họ. Đức Giêsu tỏ thái độ bằng
cách lên án chủ nghĩa hình thức, nó bóp nghẹt tâm hồn. Chúa còn lên án như vậy
nhiều lần nữa, nhất là khi nói đến ngày Hưu lễ. Không bao giờ Chúa coi rẻ Lề
Luật, nhưng Người cho biết tín hữu nào tuân thủ Lề Luật mà thiếu đức tin sống
động thì chẳng còn giữ được tình nghĩa con người. Chúng ta kết luận: Nếu vì
tuân thủ Lề Luật, dẫu là Lề Luật Kitô giáo, mà quên mất những đức tính tự nhiên
hoặc không nhớ đến sự khẩn thiết trước tiên của đời sống nội tâm –con người lúc
đó không còn giữ được tinh thần tuân thủ đích thực.
2) Bổn phận tạ ơn.
Theo định nghĩa tôn
giáo; tạ ơn là tâm tình biết ơn, thán phục, tôn vinh, sùng kính, dâng lên Thiên
Chúa. Phúc Âm và Tân Ước trình bày Đức Giêsu là hiện thân của sự tạ ơn. Phúc Âm
cho thấy con người ít có xu hướng tạ ơn không vị lợi, trong khi Đức Giêsu thì
thường xuyên trong trạng thái tạ ơn Cha Người. Theo lời khuyên của thánh
Phaolô, thái độ gương mẫu của Đức Giêsu phải là thái độ tất nhiên của người
Kitô hữu. “Anh em hãy để cho lòng chan chứa niềm tri ân cảm tạ” (Cl 2,7) – vì nhiều
lẽ: vì ân huệ đức tin, vì ơn cứu chuộc, vì đức ái của Đức Kitô tràn đầy tâm
hồn, vì Thánh Thần ngự trong Kitô hữu. Sống kết hợp với Đức Kitô là sống trong
niềm tạ ơn Thiên Chúa.
21. Hãy
dâng lời ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa
(Trích trong ‘Mở Ra
Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller)
Thánh Lễ lớn lao là
hành động trung tâm tôn giáo của chúng ta là những người Công giáo. Bởi vì
Thánh Lễ là hành động của Đức Kitô Thượng Tế và Thân Thể Ngài là Giáo Hội, đó
là một tác động thánh vượt trên hết cả mọi cái khác. Không có gì có thể ngang
với sức mạnh quyền năng của Thánh Lễ, có thể thay thế sự quan trọng của Thánh
Lễ (x. Hiến chế về phụng vụ, đoạn 7).
Thánh Lễ thì giàu có
phong phú mà chúng ta không có thể nào lưu lại hoặc nghĩ về trong một dấu hiệu
đơn độc. Thánh Lễ là một hy tế không đổ máu của thánh giá, đó là bữa ăn tối của
chúng ta, đó là việc tưởng nhớ sống động về mầu nhiệm Vượt Qua, và bí tích của
sự chết và sự sống lại của Đức Kitô, đó là Thân Mình thật của Ngài đã được tuôn
đổ vì chúng ta, đó là bữa tiệc thánh mà trong đó Đức Kitô đã tiêu hủy Mình hoàn
toàn, đó là những lời nài xin và lời hứa từ sự Phục Sinh và cuộc sống đời đời.
Giữa những chỉ định rực rỡ này của Thánh Lễ, nhiều vị tư tế và dân chúng kể từ
Công đồng Vatican II đã thường sử dụng một từ, từ đó là”hy tế Thánh Thể,
Euchris”.
Euchris là một từ Hy
lạp được dùng trong Tân Ước mà chúng ta đã chuyển dịch sang là: “Dâng lời tạ
ơn”. Dâng lời tạ ơn có liên quan đến sự biết ơn mà chúng ta mắc nợ trong thời
gian nơi bạn bè, cũng như nơi liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa; vì lý do này
vị linh mục đọc: “Hãy để chúng ta dâng lời tạ ơn Chúa là Thiên Chúa chúng ta”.
Đáp lại: “Thật chính đáng để dâng lên Ngài lời tạ ơn và ngợi khen” và thêm
lời”ngợi khen” là để chúng ta biết mình phải dâng lời tạ ơn lên Thiên Chúa.
Chúng ta nhận biết rằng quan hệ của chúng ta với Cha trên trời, Đấng là Chúa và
là Thiên Chúa chúng ta.
Hãy nhớ dâng lời tạ ơn
là việc tốt đẹp, đừng để cho việc đó trở nên xấu xa. Khi một người trong mười
người bị bệnh hủi đã được chữa lành trở lại ngợi khen Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã
hỏi: “Còn chín người kia đâu?”. Chúng ta hầu như có thể nghe lại câu hỏi thất
vọng của Ngài. Chúng ta cũng không cần làm thất vọng Chúa Giêsu và Cha của
Người. Hãy nhớ rằng Thánh Lễ là hy tế tạ ơn của chúng ta là lời tạ ơn của chúng
ta dâng cho Thiên Chúa.
Tất cả chúng ta đều có
lý do để dâng lời tạ ơn Thiên Chúa trong Thánh Lễ. Hôm nay chúng ta có thể ước
ao cám ơn Chúa vì đặc ân sự sống nơi một em bé sơ sinh, hoặc chúc sức khỏe đã
được phục hồi nơi một người già lão bệnh hoạn. Chúng ta cũng có thể dâng lời tạ
ơn Thiên Chúa về công việc sau một thời gian dài thất nghiệp, cho một giải pháp
nơi một gia đình đang tranh cãi, hoặc cho một sự độ lượng của một người bạn
tốt. Mỗi Chúa Nhật chúng ta cần hồi tâm lại về những động lực cá nhân của chúng
ta để dâng lời cám ơn. Tiếp đó, chúng ta hãy nhớ rằng luôn luôn ở mọi nơi, mọi
lúc là phải tạ ơn Thiên Chúa, đơn giản bởi vì Chúa là Thiên Chúa của chúng ta.
Dâng lời tạ ơn diễn tả quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa.
Tạ ơn là một điều mà
Naaman người Syria đã muốn dâng lên Thiên Chúa. Ông đã được tẩy sạch bệnh phong
cùi sau khi đã tắm bảy lần trong dòng nước của sông Giođan. Ông đã yêu cầu lấy
hai thúng đất của Israel để xây nên một Đền Thờ trên Syria, nơi quê hương của
ông, để từ nơi đó ông có thể dâng lời tạ ơn với Thiên Chúa. Kinh nghiệm của ông
như là một dấu hiệu của phép rửa chúng ta. Chúng ta đã rửa sạch trong phép rửa
và đã được thông dự vào chức tư tế của Đức Kitô. Phép rửa kêu gọi chúng ta trở
thành một dân thờ lạy Thiên Chúa, dâng cho Ngài lời tạ ơn và ngợi khen. Nhưng
chúng ta không cần đất đặc biệt, không cần một vị trí đặc biệt, để dâng lời tạ
ơn cho Thiên Chúa. Bất cứ khi nào Thánh Lễ cử hành, đó là lễ dâng đẹp nhất của
lời cám ơn và ngợi khen Thiên Chúa. Đối với chúng ta luôn luôn mọi nơi và mọi
lúc đều có thể dâng lời cám ơn Thiên Chúa và chúng ta làm điều đó khi cử hành
hy tế Thánh Thể.
22. Tất cả là hồng ân
(Trích trong ‘Niềm Vui
Chia Sẻ’)
Đầu tháng 10 năm 1962,
chiếc phi cơ hàng không PanAm (Mỹ), chở mấy trăm Giám mục người Mỹ đi họp Công
Đồng chung Vatican II. Trong hai cô tiếp viên hàng không phục vụ hành khách, có
một cô kiều diễm tuyệt vời. Đức Cha Fulton Sheen, Tổng Giám Mục giáo phận New
York đồng thời là một nhà văn và một nhà hùng biện nổi tiếng Nước Mỹ, đã lưu ý
đến sắc đẹp của cô tiếp viên nầy.
Thế rồi, khi phi cơ hạ
cánh, hai cô đứng bên cửa xuống cầu thang chào từ biệt và hành khách đáp lại
hai tiếng cám ơn. Nhưng đến lượt Đức Cha Fulton Sheen, người ta thấy ngài đưa
miệng ghé vào tai cô tiếp viên xinh đẹp kia mà nói nhỏ một câu gì không ai nghe
được.
Bốn tháng sau, khi
khóa I Công Đồng chung Vatican II kết thúc, các Giám Mục được về nước nghỉ. Một
hôm, cô chiêu đãi viên xinh đẹp nọ tìm đến gặp Đức Cha Fulton Sheen: “Thưa Đức
Cha, Đức Cha còn nhớ con là ai không?” – “Tôi còn nhớ lắm, Đức Cha còn đáp. Cô
là tiếp viên trên chiếc hàng không đưa chúng tôi đến Rôma”. – “Nhưng Đức Cha
còn nhớ Đức Cha đã nói gì với con không?” – “Tôi đã nói: có khi nào cô đã tạ ơn
Chúa vì Ngài đã ban cho cô sắc đẹp tuyệt vời không?” – “Thưa Đức Cha, chính vì
câu hỏi đó mà hôm nay con đến hầu chuyện Đức Cha, chính vì câu hỏi đó mà Cha
nghĩ con phải làm gì để tạ ơn Chúa?”. Trước câu hỏi đột ngột, Đức Cha Fulton
Sheen lúng túng không biết trả lời làm sao. Ngài trấn tỉnh, chấp tay lên ngực,
rồi ngước mắt lên trời như thể xin ơn soi sáng. Trong chốc lát, ngài nói: “Cha
vừa mới được một tin từ Việt Nam: đó là Đức Cha Jean Cassaigne, một người Pháp
đang là Giám Mục giáo phận Sài Gòn, đã xin từ chức để đi phục vụ một trại phong
cùi ở miền núi Di Linh – Lâm Đồng. Nhưng người phong cùi ở đó khốn khổ lắm con
ạ! Họ đang chờ cái chết đến với họ. Vậy theo ý cha, cách tạ ơn Chúa đẹp lòng
Ngài hơn cả và có ý nghĩa hơn cả là con hãy hy sinh một thời gian, đem nụ cười
xinh tươi, đem tiếng nói dịu dàng, đem duyên sắc mặn mà của con để an ủi họ”.
Mặt cô tiếp viên tái dần đi. Cô đứng lặng yên trong mấy phút. Đột nhiên cô cúi
đầu tạm biệt không nói một lời. Rồi từ đó không biết hai người còn gặp nhau hay
thư từ liên hệ gì nữa chăng. Nhưng đầu năm 1963, đài phát thanh cũng như báo
chí ở Sài Gòn loan tin: “Một nữ tiếp viên rất xinh đẹp của hãng hàng không
Panam tình nguyện đến Di Linh – Lâm Đồng để sống với những người phong cùi
trong sáu tháng”.
Thưa anh chị em,
Cái nhìn đức tin thúc
đẩy chúng ta tạ ơn Chúa là như thế đó. Nhận được ơn thì phải biết chia sẻ cho
người khác, để nói với Thiên Chúa và anh em mình rằng: “Tất cả đều là hồng ân”.
Biết bao ơn lành lớn nhỏ Chúa tuôn đổ xuống trên cuộc đời chúng ta. Có bao giờ
chúng ta nhận ra những hồng ân ấy để dâng lên những lời cảm tạ mỗi ngày không?
Những điều chúng ta đang có tưởng rằng tầm thường, nhưng thật ra lại rất phi
thường. Đừng đợi khi mắt mù, tai điếc, cụt tay, què chân chúng ta mới nhận ra
có thân thể lành lặn là quý giá vô cùng. Nếu chúng ta biết cám ơn những gì mình
đang có, chúng ta sẽ biết cám ơn suốt đời vì tất cả những gì Ngài đã ban cho.
Chúa Giêsu đã hỏi:
“Không phải cả mười người được khỏi phong cùi sao? Thế thì chín người kia đâu,
sao không trở lại tạ ơn Chúa, mà chỉ có một người ngoại giáo nầy thôi?” Đối với
người Do Thái, người bị phong cùi được coi như bị Thiên Chúa chúc dữ và còn bị
luật coi là người mắc ô uế nhơ bẩn, bị xã hội khai trừ, phải sống biệt lập
trong bãi tha ma, đi đâu thì phải lắc chuông lên tiếng báo động cho người ta xa
tránh.
Nhưng Chúa Giêsu không
xa tránh họ. Họ đã đến với Chúa như Chúa đến với họ. Vì Ngài là tình thương cứu
chữa. Chỉ có tình thương mới tìm đến với những con người bị bỏ rơi, bị loại
trừ. Trên đất nước chúng ta có hàng chục trại phong cùi. Một số trại do các tu
sĩ, nữ tu đảm nhận điều hành, chăm sóc các bệnh nhân. Nếu ở Việt Nam tên tuổi
của Đức Cha Jean Cassaigne gắn liền với trại phong cùi Di Linh thì danh tiếng
của Đức Cha Đamien còn vang vọng giữa hải đảo Milokai – Thái Bình Dương, người
mà nhà ái quốc Gandhi đã ca ngợi và nói: “Nên tìm hiểu đâu là nguyên do phát
sinh một cuộc sống anh hùng như vậy”. Nguyên do của cuộc đời hy sinh ấy là tình
yêu mến Chúa như Chúa đã yêu thương chúng ta cho đến tận cùng.
Vậy khi chúng ta được
Chúa ban ơn, được mọi ơn lành hồn xác thì đừng quên cám ơn Chúa và đừng kiêu
hãnh khinh miệt kẻ khác. Thánh Inhaxiô nói: “Tội lớn lao hơn cả là tội vô ơn”.
Trong nhóm 10 người phong cùi được Chúa chữa lành, chỉ có một người đã trở lại
cám ơn Chúa và người đó lại là người ngoại giáo. Nhiều khi chúng ta được ơn
Chúa, nhưng không biết cám ơn Chúa. Khi hoạn nạn thì khấn vái bốn phương, khi
được như ý thì quên lời đã nguyện hứa. Tệ hơn nữa, còn tự kiêu tự phụ khinh
miệt những người xấu số, bệnh tật, nghèo khó, phong cùi.
Cám ơn là dấu chỉ của
lòng tin. Chúa nói với người phong cùi biết ơn đang sụp lạy dưới chân Ngài:
“Anh hãy đứng dậy mà về, vì lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Chính lòng tin
đã thúc giục người Samari phong cùi trở lại tạ ơn Chúa trước hết, đang khi chín
người Do Thái kia lo đi trình diện các tư tế để được xác nhận và được hội nhập
vào cộng đoàn. Trong bài đọc I hôm nay, quan Naaman sau khi dược lành sạch
phong cùi, cũng vì lòng tin đã tìm đến Ngôn sứ Êlizê và tuyên xưng lòng tin vào
Thiên Chúa: “Thật tôi biết, không có Thiên Chúa nào khác trên hoàn vụ ngoài một
Thiên Chúa của Israel”.
Anh chị em thân mến,
Tạ ơn Chúa là dấu chỉ
của niềm tin. Tạ ơn Chúa không chỉ là chuyện lễ nghĩa, nhưng là nét đặc trưng
của những tâm tình mà con người phải có trước các ơn thiêng đã lãnh nhận từ Thiên
Chúa. Việc bẻ bánh ngày xưa cũng như Thánh lễ ngày nay là gì? Phải chăng là tâm
tình tạ ơn mà người Kitô hữu khiêm tốn và hân hoan dâng lên Thiên Chúa là Cha
vì hồng ân Ngài đã ban cho chúng ta trong Đức Giêsu? Phải chăng là phương thế
tuyệt hảo để chúng ta nhận thức lại sự phong phú đích thực của mình và tìm lại
bình an của niềm tin giữa những lắng lo cuộc sống?
Cũng chính trong tâm
tình tạ ơn đó, chúng ta họp nhau chung quanh Bàn Tiệc Thánh nầy để cử hành
Thánh Thể – Bí Tích Tạ Ơn. Ước chi lễ tế tạ ơn nầy đem lại cho chúng ta bình an
và niềm vui sướng vô hạn. Bình an và niềm vui của một đức tin đã gặp được Đấng
Cứu Độ.
23. Mười người phong cùi
(Suy niệm của Lm.
Giuse Nguyễn An Khang)
Vào thời Đức Giêsu,
phong cùi là bệnh truyền nhiễm ghê tởm và đáng sợ nhất, không thuốc nào chữa
được. Người mắc bệnh coi như đã chết, bị loại ra khỏi cộng đoàn không chỉ vì lý
do vệ sinh, nhưng còn vì lý do thiêng liêng nữa. Sách Đệ Nhị Luật viết:
"Nếu ngươi không nghe lời Giavê, Thiên Chúa của ngươi, mà tuân hành mọi giới
luật Ngài ban... Giavê sẽ giáng xuống ngươi bệnh lở lói kinh khủng nơi đầu gối
và chân, ăn từ bàn chân đến đỉnh đầu không sao chữa nổi" (Đnl 28,15-35).
Giavê đã trừng phạt,
cộng đoàn cũng xa cách. Người phong cùi được phép vào các làng, nhưng không
được đi vào đô thị có tường thành chung quanh. Do đó, họ càng không được vào
thành Giêrusalem, không được đến gần các người khác. Người mắc bệnh phong cùi
phải mặc quần áo rách rưới, râu dài tua tủa, phải sống biệt lập trên bãi tha
ma, đi đến đâu phải cầm chuông lắc cho người ta tránh và phải la lên: Ô uế! Ô
uế! Bao lâu còn mắc chứng bệnh ấy, bấy lâu còn bị ô uế.
Sách ký sự ghi lại
Osias, vua Giêrusalem, bị phong cùi, thầy tư tế tức tốc trục xuất ông ta khỏi
thành và chính ông cũng vội vã ra đi, vì thấy mình bị Thiên Chúa ruồng bỏ (II
Ký sự 26, 19-21).
Tin mừng Chúa nhật hôm
nay, Luca kể: "Đức Giêsu từ Galilê tiến về Giêrusalem, khi đến Samaria,
lúc Người vào một làng kia, có mười Người phong cùi đón gặp Người". Trong
miền đất bị chúc dữ này, đây là những ngời bị chúc dữ nhiều nhất. Thật lạ lùng
khi nhóm này gồm cả người Dothái lẫn người Samaria. Đau khổ và bệnh tật làm con
người xích lại gần nhau, quên đi mối thù truyền kiếp giữa người Dothái và người
Samaria. Biết thân phận mời người phong cùi đứng đằng xa và kêu lớn tiếng:
"Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi". Họ gọi Đức Giêsu bằng
tên Người, một sự kiện tương đối hiếm trong Tin mừng.
Trong ngôn ngữ
Aramêen, Jeshouah có nghĩa là Thiên Chúa cứu. Kitô hữu gọi kinh cầu Chúa Giêsu,
chính là lời cầu xin ấy được lặp lại nhiều lần: Lạy Chúa Giêsu xin thương xót
chúng con... Trong thánh lễ chúng ta cũng lặp lại kinh này lúc đầu lễ Kyrie
Eleison: Lậy Chúa xin thương xót.
Thay vì chữa họ lành
ngay tức khắc, Đức Giêsu muốn thử thách lòng tin của họ. Cũng như ngày xưa ngôn
sứ Êlisê sai môn đệ nói với quan Naaman người Siri :"Quan hãy đi tắm ở
sông Giođan bảy lần". Đức Giêsu cũng bảo mười người phong cùi: "Hãy
đi trình diện với các tư tế".
Vào thời đó, các Thầy
tư tế có quyền chẩn đoán và quyết định người nào bị mắc, người nào khỏi. Ai mắc
bệnh được thầy tư tế công bố là khỏi, người ấy sẽ được tái nhập vào cộng đoàn
(Lv 14,3).
Khi truyền cho mười
người phong cùi đi trình diện các thầy tư tế, Đức Giêsu đòi họ phải biết vâng
lời trong đức tin. Ngài muốn hành vi tín thác đó phải được thể hiện bằng việc
tuân phục lề luật. Đối với Đức Giêsu lề luật và ngôn sứ là khuôn vàng thước
ngọc giúp người ta thực hiện ơn cứu rỗi, như Người đã đề cập trong dụ ngôn
người phú hộ xấu bụng và Ladarô nghèo khó.
Khác với vị tướng lãnh
Siri, mười người phong cùi tức tốc thi hành, không mảy may chần chừ. Đang khi
đi, họ được sạch. "Một người trong bọn thấy mình được khỏi liền quay trở
lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa." Thật kì lạ, Người quay lại cám ơn
Chúa lại là một người ngoại, một người Samari. Nhưng đó chẳng phải là điều vẫn
thường xảy ra đó sao? "Kẻ ở ngoài" coi mọi sự như quà tặng, "kẻ
ở trong" coi mọi sự đều là hiển nhiên.
Người Dothái cho, mình
thuộc tuyển dân có quyền đòi Thiên Chúa thi ân, không cần tỏ lòng biết ơn
Người. Họ quên, cám ơn là một trong những tính nhân bản của con người. Ngạn ngữ
Pháp có câu: "Biết ơn là kí ức của tâm hồn". Lời đầu tiên người Mỹ
dạy con: "Thank You – Cám ơn".
Mỗi khi nhận được ơn
từ ai, ta phải biết nói lời cám ơn. Đó là điều tốt đẹp cho ta, nó thúc dục ta
nhận ra sự hàm ơn người khác và làm cho người cho cảm nhận rõ giá trị của việc
họ làm. Người không biết ơn trong việc nhỏ, sẽ không biết ơn trong việc lớn.
Điều quan trọng là phải có lòng biết ơn.
Thánh Inhaxiô nói :
"Tội lớn hơn cả là tội vô ơn". Chín người Dothái không biết cám ơn,
chỉ được khỏi bệnh phong cùi thể xác. Người Samaria biết cám ơn, khỏi phong cùi
cả phần hồn là tin nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa, anh đã sấp mình dưới chân Đức
Giêsu tạ ơn Người, một cử chỉ người ta chỉ dành cho Thiên Chúa.
Thiên Chúa không cần
ta cám ơn, ta phải cám ơn Chúa vì mọi sự trong cuộc đời:
Hồng ân Thiên Chúa bao
la.
Muôn đời con sẽ ngợi
ca danh Người.
24. Lòng biết ơn
(Trích dẫn từ
‘Vietvatican.org’ - bài viết của Nguyễn Hiền Nhu)
Tin Mừng Lc 17, 11-19,
thánh sử Luca thuật lại câu chuyện xảy ra khi Chúa Giêsu đang trên đường tiến
lên Giê-ru-sa-lem. Có mười người phong hủi đón Ngài để xin Ngài chữa lành. Họ
không dám tiến tới gần Ngài nhưng chỉ đứng đằng xa. Họ cất tiếng thưa rằng:
“Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi”. Ngài bảo họ đến trình diện với tư
tế, và họ đã vâng lời Ngài. Trên đường đi, tất cả mười người đều được sạch.
Trong mười người đó, có một người đã quay trở lại cám ơn Ngài.
Được sạch là một niềm
mong mỏi bấy lâu trong họ. Đã lâu lắm rồi, họ hằng khao khát được lành lặn,
được sống gắn bó với những người mình thương yêu. Nhìn thấy người ta áp má chúc
lành nhau, bắt tay hỏi han sức khỏe của nhau, họ ao ước được một lần như thế.
Sách Lê-vi viết rằng: “Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xõa tóc, che
râu và kêu lên: ‘Ô uế! Ô uế!’ Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế: nó
phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại.” (Lv 13,45-46).
Người bị bệnh phong bị
xem là ô uế. Họ bị tước quyền chung sống với những người thân quen; họ phải
sống riêng ra. Họ bị đẩy ra bên lề xã hội. Tôi còn nhớ thời gian
tôi được gởi đến sống với người phong tại Trại Phong Bến Sắn ở Bình Dương. Có
một bệnh nhân phong thuật lại với tôi câu chuyện của chị: một ngày kia, trên
đường về nhà, chị bước vào quán ăn để mua ít thức ăn cho con. Có một người phát
hiện chị đến từ trại phong, thế là người đó la lên, và tất cả lần lượt bỏ bàn
ăn đi nơi khác, cách xa chị. Thế đó, xã hội ngày
nay, những bệnh nhân phong đang bị hất hủi. Xã hội ngày xưa đối xử với người
phong còn tệ hơn thế. Để bảo vệ những người khác, họ buộc các bệnh nhân phong
tự mình thốt lên “Ô uế! Ô uế!” (Lv 13,45) để người ta biết và tránh xa. Không
ai dám đến gần bệnh nhân phong, không ai dám làm bạn với họ. Họ bị cô lập. Có
lẽ nỗi đau thể xác do đặt tính của bệnh phong mang lại sẽ không nặng bằng nỗi
đau tinh thần do sự kỳ thị của xã hội gây ra cho họ.
Hơn thế nữa, xã hội Do
Thái thời bấy giờ quan niệm bệnh tật là do tội lỗi, người bị bệnh là người phạm
tội và bệnh là án phạt của Thiên Chúa. Như vậy, người phong hủi còn bị hao mòn
tinh thần từng ngày do mặc cảm tội lỗi.
Thấu cảm được vết
thương khốn cùng của những bệnh nhân, Chúa Giêsu đã chữa lành bệnh cho họ. Việc
chữa lành của Chúa không đơn thuần chỉ là việc chữa lành của một bác sỹ. Có lẽ
hơn ai hết, Chúa đã hiểu những khát khao sâu kín trong lòng của họ. Chúa bảo họ
đi trình diện tư tế, đi đến với người có thẩm quyền về phương diện xã hội cũng
như tôn giáo thời bấy giờ để được kiểm chứng đã thanh sạch. Theo luật Lê-vi,
một bệnh nhân phong khi được lành bệnh, phải đi trình diện với tư tế. Sau khi
được tư tế khám xét, nếu như họ đã được lành bệnh, thì sẽ được tư tế tuyên bố
là sạch. Khi được tuyên bố thanh sạch rồi, họ mới được quyền sống chung với xã
hội, mới được hưởng những gì cơ bản nhất của một thành viên trong cộng đồng (x.
Lv 13).
Từ thân phận người bị
xã hội đẩy ra ngoài, giờ đây, họ được đón nhận. Chính Chúa đã mang lại cho họ
niềm vui đó. Giờ đây, họ hoàn toàn có thể được sống chung với người thân, hoàn
toàn có thể sánh bước cùng người họ thương yêu trên con đường làng vào mỗi buổi
chiều. Họ sẽ không còn mặc cảm tội lỗi nữa. Quá khứ đã qua đi, và chính Chúa đã
mở ra cho họ một cuộc sống mới. Nỗi đau trước đây bây giờ đối với họ sẽ là một
kinh nghiệm quý giá; kinh nghiệm ấy đưa họ tới yêu quý cuộc sống họ đang có
hơn.
Tuy nhiên, khi thấy
mình được sạch, một người trong số họ đã quay trở lại để cám ơn Chúa. Một việc
làm nhỏ bé nhưng tuyệt vời. Anh đã tạm quên con đường đi nhanh đến trình diện
vị tư tế để được tuyên bố thanh sạch. Anh đã tạm quên đi niềm mơ ước bấy lâu
của mình để quay trở lại cám ơn Đấng đã mang lại cho anh niềm vui. Niềm vui của
anh đã trở nên trọn vẹn hơn khi anh được chính Chúa tuyên bố “con hãy đứng dậy
mà về: vì lòng tin của con đã cứu chữa con”. Chúa khen ngợi lòng tin của anh.
Quà tặng chỉ là phương tiện để dẫn đưa con người tới gặp Đấng tặng quà. Niềm
vui của anh giờ đây trọn vẹn hơn vì không chỉ anh được thanh sạch, mà còn được
gặp Đấng Chữa Lành anh. Tâm hồn anh giờ đây tràn ngập hân hoan.
Có lẽ trong tương lai,
khi gặp lại Chúa, chín người kia sẽ cám ơn ngài. Có lẽ trong thâm tâm của họ
đang mang một niềm tri ân nào đó mà họ chưa ý thức hoặc chưa có cơ hội diễn tả.
Phải chăng niềm vui đó đã đến với họ quá bất ngờ, quá lớn lao, khiến họ quên
cám ơn ân nhân của họ. Dường như có một chút gọi là vô ơn nơi họ, một chút vô
tâm khi họ xem trọng ân huệ hơn là Đấng ban ơn. Họ đã không đủ nhạy bén để nhận
ra rằng mình đã bỏ qua một cơ hội quý giá để đếp gặp Đấng đã ban ơn cho mình.
Họ hân hoan vui mừng và đi tiếp con đường để hòa mình vào xã hội; đó là điều
tốt đẹp, nhưng sẽ tốt đẹp hơn biết bao nếu họ không chỉ dừng lại với niềm vui
hiện tại của bản thân để dành giây lát tri ân Đấng ban cho họ niềm vui đó. Chúa
không hề hẹp hòi với họ, không hề vì một chút vô ơn của họ mà rút lại quà tặng.
Cho dù họ có quay trở lại cám ơn Ngài, hoặc cho dù họ đã quên Ngài đi chăng
nữa, thì chính Ngài là Đấng đã khôi phục quyền được sống như một con người của
họ. Hy vọng rằng sẽ có một dịp nào đó họ sẽ nhận ra sự thiếu sót này và quay
trở lại tri ân Ngài.
Một lời trách nhẹ
nhàng của Chúa “còn chín người kia đâu?” như một lời nhắc nhớ những người nghe
lời này của Ngài ý thức được lòng biết ơn của mình. Có khi tôi cũng thuộc về
nhóm chín người kia. Hằng ngày, tôi vẫn nhận biết bao ơn lành từ Ngài; nhận nhiều
đến độ tôi cảm thấy là bình thường và không cần thiết phải cám ơn. Chúa ơi, xin
đừng để con vô cảm trước những ân huệ của Chúa. Từng giây từng phút trong đời
con được bao bọc bởi tình yêu vô biên của Ngài. Hãy biến đổi tâm hồn con để
cuộc đời con trở nên một lời tri ân Ngài.
25. Mười người phong hủi - McCarthy
Suy niệm 1: ĐIỀU ẤY
XẢY RA NHƯ THẾ NÀO?
Vào thời đại của Đức
Giêsu, bệnh phong hủi không có thuốc chữa. Khi một người mắc phải bệnh ấy, có
sống cũng như chết. Thế mà tại sao chín người phong hủi đã không trở lại để cám
ơn Đức Giêsu vì Người đã chữa lành cho họ? Chúng ta không lạm dụng trí tưởng
tượng của chúng ta khi vẽ lại những gì đã xảy ra. Chúng ta giả sử điều đó xảy
ra trong thời đại của mình.
Người thứ nhất là
Miriam, vợ của một người bán hàng. Khi về lại nhà, bà thấy nhà mình bừa bãi,
lộn xộn. Không phải do lỗi của chồng bà. Ông phải tất bật với công việc. Trở
lại gặp Chúa không còn là vấn đề nữa – ít ra là trong lúc này.
Người thứ hai là
Aaron, một nông dân. Mùa hè này là một mùa tồi tệ, và toàn thể mùa màng có nguy
cơ bị mất trắng. May mà dự báo thời tiết đã nói rằng thời tiết tốt, có mưa
nhiều đúng vào những ngày ông có thể trở lại.
Người thứ ba là Saul.
Khi ông ta trở lại nhà, gia đình ông đã mở tiệc mừng ông. Họ không muốn nghe
ông nói đi đến nơi nào đó. Ông đã không xa nhà đủ rồi hay sao? Chính họ đã ngăn
cản ông trở lại gặp Chúa.
Martha là người thứ
tư. Khi chị trở về nhà thì chương trình Tivi chị ưa thích vẫn còn, trong thời
gian sống cách ly vì bệnh phong hủi, chị luôn thèm khát được xem chương trình
đó. Giờ đây chị mải mê với chương trình ấy. Chị muốn ngày mai trở lại gặp Chúa.
Nhưng ngày mai không bao giờ đến.
Người thứ năm là
Daniel. Trước khi ông bị phong hủi, ông rất thành công trong kinh doanh, khi
ông về đến nhà, ông thấy việc kinh doanh hoàn toàn suy sụp. Trở lại gặp Đức
Giêsu không nằm trong các ưu tiên của ông. Chẳng bao lâu sau, ông hoàn toàn
quên việc đó.
Amos, người thứ sáu
không có nhà để về. Anh đã cảm thấy rất cay đắng về căn bệnh phong hủi của mình
và về cuộc sống chung. Khi anh trở về, anh gom góp được ít tiền bạc mà người ta
cho anh, về đến thành phố, anh uống rượu. Việc trở lại không bao giờ có trong
đầu anh.
Peter là người thứ
bảy. Khi anh về nhà, anh không có việc làm. Vì thế khi nghe nói về một cuộc
phỏng vấn để được nhận vào một chỗ làm tốt, anh đến ngay. Trong lúc này, anh
không thể trở lại.
Anna là người thứ tám.
Lúc đó nhiên liệu đang bị khan hiếm. Chị hiện đang trên đường về nhà thì thấy
một trạm xăng còn mở cửa. Chị phải xếp hàng ba giờ liền để được đổ đầy bình
xăng. Sau đó chị đi thẳng về nhà. Thật đáng thương khi muốn phung phí xăng cho
một cuộc hành trình thật sự không cần thiết.
Người thứ chín là
Joseph. Khi ông ta về nhà, ông ta quyết định bán câu chuyện của ông ta cho một
tờ báo. Không để mất thời gian. Một người khác có thể có cùng ý tưởng ấy và sẽ
phỗng tay trên. Quay lại không có chỗ trong kế hoạch của ông.
Sau cùng, đó là Simon.
Ông có mấy lý do để không quay trở lại. Một lý do đặc biệt thuyết phục. Ông là
người Samari lại được một người Do Thái chữa lành. Một người Samari cám ơn một
người Do Thái không phải là chuyện dễ. Nhưng là một người nhân ái, ông gạt bỏ
những lý lẽ ấy và quay lại để cám ơn.
Xin lỗi! Những lý lẽ
ấy xem ra nguỵ biện, đê tiện, trơ trẽn và rác rưởi. Nhưng có hiệu lực trong
chín trên mười trường hợp. Chúng ngăn cản chín người ấy làm một việc mà có lên
trời người ta cũng phải làm.
“Chúng ta viết trên
cát những ơn ích mà chúng ta nhận được, nhưng viết trên đá cẩm thạch những tổn
thất” (Thomas More).
Chín người phong hủi
không thể diễn tả lòng biết ơn. Sự vô ơn ấy nói với chúng ta điều gì? Điều đó
nói lên rằng họ chỉ lành lặn ở ngoài da. Bệnh phong hủi đã hết, nhưng không có
gì khác nơi họ đã thay đổi. Sau kinh nghiệm cay đắng ấy, họ trở về với những
thái độ cũ, những tập quán, mục tiêu của họ và sự nông cạn của cuộc đời. Họ đã
không học được gì từ đau khổ của họ. Đây là một bi kịch thật sự.
Nhưng rõ ràng người
Samari đã học được từ kinh nghiệm đau thương của mình. Kể từ đó, ông đã trở
thành một con người hoàn toàn đổi khác, như Naaman sau khi được Êlisa chữa lành
phần xác. Naaman và người Samari được chữa lành cả xác lẫn hồn.
Trong những lúc tốt
đẹp, chúng ta quên mất Thiên Chúa, dù rằng chúng ta vẫn tiếp tục phục vụ Người
bằng môi miệng. Nhưng rồi một cơn bệnh đến bắt chúng ta phải quỳ gối xuống, và
bất ngờ chúng ta đối diện với sự nghèo nàn, yếu đuối và tính dễ chết của chúng
ta. Tuy nhiên, nếu điều ấy đưa chúng ta đến gần Thiên Chúa hơn và làm cho chúng
ta sống tâm linh hơn thì nó đúng là một ơn lành trong bộ áo cải trang. Dường
như trong mười người phong hủi, chỉ có một người được đưa đến gần Thiên Chúa
hơn qua bệnh tật và sự bình phục của người ấy.
Suy niệm 2: CÁI NHÌN
SÂU XA HƠN
Câu chuyện mười người
bị phong hủi có một bài học rất rõ ràng, đó là tầm quan trọng của việc bày tỏ
lòng biết ơn. Nhưng nó có một bài học khác: Tìm thấy Thiên Chúa qua đau khổ.
Đau khổ có thể đưa con người rời xa Thiên Chúa hoặc có thể đem họ đến gần Thiên
Chúa. Nhiều người trở lại đạo là những tân tòng của Ngày Thứ Sáu Tốt Lành: họ
vào Nước Chúa qua những cái cổng của đau khổ. Naaman là một gương tốt.
Vào một giai đoạn của
đời mình, ông ở đỉnh cao của ngọn sóng. Ông có một công việc danh giá: chỉ huy
trưởng đạo quân hùng mạnh của nước Syri. Ông được nhà vua kính nể có quyền lực
và danh tiếng. Ông ta không cần Thiên Chúa. Tôn giáo không có vai trò nào trong
đời sống của ông. Ông là kiểu mẫu của một số người thành công hôm nay. Họ dường
như không dành chỗ cho Thiên Chúa trong đời họ.
Tuy nhiên, khi ông đã
đạt đến đỉnh cao của quyền lực, ông mắc một chứng bệnh kinh khủng: bệnh phong
hủi. Thình lình, thế giới của ông bắt đầu tan rã.
Một phút trước, ông ở
đỉnh cao của thế giới. Một phút sau ông rơi xuống vực thẳm.
Tuyệt vọng về việc
chữa trị, ông phải nuốt trửng lòng tự hào và tìm kiếm sự giúp đỡ của ngôn sứ
Êlisa ở Do Thái, một quốc gia nhỏ bé mà ông đã từng cướp bóc và khinh miệt. Tuy
nhiên điều ông tìm kiếm là một “thứ thần dược” để ông có thể sớm quay về và đảm
nhận đời sống cũ giống như trước đây.
Nhưng ông đã mau chóng
nhận ra rằng không có thứ thần dược ấy; không có sự chữa lành mau chóng và
không đau đớn. Vì thế ông phải học để trở nên khiêm nhường và nhẫn nại. Ông đã
học tuân lệnh để thay đổi. Nhưng thời gian ông bỏ ra không uổng công bởi vì ông
không chỉ được chữa lành bệnh phong hủi mà còn được hoán cải. Ông tìm thấy
Thiên Chúa chân thực. Vì thế sau cùng ông có lý do để cám ơn bệnh phong hủi của
ông, bởi vì qua đó ông đã nhận được ơn đức tin.
Người ta tự hỏi chín
người phong hủi thu được gì từ kinh nghiệm khủng khiếp của họ. Khi họ không tạ
ơn Thiên Chúa thì không chắc họ đã rút ra được lợi ích tâm linh nào từ kinh
nghiệm ấy.
Giống với ông Naaman
trước khi mắc bệnh, trong những thời kỳ tốt đẹp, chúng ta bỏ quên Thiên Chúa,
dù rằng chúng ta vẫn tiếp tục phục vụ Người bằng môi miệng. Nhưng rồi một bệnh
tật hoặc một cái gì tương tự bắt chúng ta phải quỳ gối, và chúng ta bất ngờ đối
diện với sự nghèo nàn, yếu đuối và phải chết của chúng ta. Chúng ta nhận ra nền
móng mà trên đó chúng ta đã xây dựng bao nhiêu niềm hy vọng sao quá mong manh,
nông cạn.
Nếu điều ấy đưa chúng
ta đến gần Thiên Chúa hơn và làm cho chúng ta sống tâm linh hơn thì đó là một
sự chúc lành trong bộ y phục cải trang. Dường như chỉ một trên mười người phong
hủi đã được đưa đến Thiên Chúa gần hơn qua bệnh tật và sự bình phục của người
ấy.
Chúng ta không phải
lúc nào cũng làm chủ những gì xảy đến với chúng ta, nhưng chúng ta phải làm chủ
phản ứng của chúng ta khi sự việc xảy đến. Ví dụ như, có hai người bị thương
nặng trong một tai nạn. Một người chọn cách sống cay đắng kinh nghiệm ấy và bị
nó huỷ hoại. Người kia sống kinh nghiệm ấy với lòng biết ơn. Người này tin rằng
dù sự việc xảy ra là gì, dù nó có đau khổ thì nó vẫn có thể đem lại một điều
tốt. Vấn đề không phải là quên nó đi mà nhớ đến nó và hội nhập nó vào trong đời
sống của mình.
Ước muốn đền đáp lại
một điều gì là một dấu chỉ cao cả của lòng biết ơn. Khi bạn có đầy lòng biết
ơn, bạn sẽ không có chỗ cho sự cay đắng hoặc căm giận. Mọi người hạnh phúc đều
biết ơn. Những người bội bạc không thể có hạnh phúc.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Một ngày nọ, David bố
thí cho một người nghèo mà ông gặp trên đường phố. Khi ông tiếp tục bước đi ông
bắt đầu cảm thấy một niềm vui thoả mãn bừng lên trong ông. Nhưng rồi một bóng
tối lướt qua ông – ông nhớ lại người nghèo đó đã không cám ơn ông. Sau đó, ông
kể lại sự cố cho vị giáo trưởng của ông. Vị giáo trưởng kiên nhẫn lắng nghe,
sau đó ông này nói: “Ông cảm thấy thế nào khi ông bố thí?”
“Tôi cảm thấy rất vui”
David đáp.
“Điều đó không đủ là
phần thưởng cho ông sao?”
“Con vẫn nghĩ rằng hắn
ta phải cám ơn con”, David nhấn mạnh.
“Chắc chắn ông không
muốn được cám ơn vì đã có hành động như một người theo đạo phải có? Vậy thì ông
đã cám ơn Thiên Chúa chưa?”.
“Về điều gì?” David
ngạc nhiên hỏi.
“Vì Người đã ban cho
ông cơ hội trở nên một công cụ để tình yêu của Người đến với một người đồng
loại của ông”, câu đáp là như thế.
26. Đức tin đích thực - R. Gutzwiller
1. Niềm tin bất toàn.
Mười người phong cùi
hình như đã có một niềm tin lớn lao. Họ nghe nói về Đức Kitô và tin rằng Ngài
có thể chữa lành họ. Chính vì niềm tin đó, mà họ đã vượt qua những luật lệ
cưỡng bách họ sống tách biệt.
Họ đến một làng nhỏ,
tiến gần đến Đức Giêsu và xin Ngài thương họ. Họ đã thất vọng hoàn toàn đối với
khả năng của con người, chỉ còn tin tưởng vào sự cứu giúp của Đức Kitô thôi.
Niềm tin đó đã bị thử
thách và rồi được giữ vững, vì Chúa Giêsu không chữa cho họ ngay, Ngài gửi họ
tới trình diện với các tư tế, đó là lệ thường đối với những người được chữa
khỏi: nhưng đây họ đâu đã được khỏi. Do đó, người ta có thể đoán được rằng họ
sẽ đứng im, không nhúc nhích cho tới khi Chúa giải thoát họ khỏi cơn bệnh ghê
tởm.
Thế mà, họ lại đã tin,
chỉ dựa vào có một lời của Ngài thôi. Và rồi đang khi đi, họ thấy mình được
khỏi, họ có niềm tin đích thật, dầu vậy, đó cũng chỉ là niềm tin bất toàn. Họ
còn bám víu vào ngoại cảnh, nhắm vào tật bệnh và sự lành lặn của họ.
Vì thế, họ không khám
phá được Đấng chữa lành họ là ai. Họ chưa đi sâu vào cái chính yếu. Ngoài sức
khoẻ thể xác, Ngài còn ban cho họ sức khoẻ của tâm hồn.
2. Đức tin hoàn toàn.
Chỉ có một người, lại
là người ngoại quay lại tìm gặp Chúa Giêsu, tuyên xưng đức tin vào Thiên tính
của Ngài và phục lạy để tỏ lòng cảm tạ tri ân.
Chỉ có người này có
được đức tin hoàn toàn. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã nói với anh ta: ‘Hãy chỗi
dậy mà về, lòng tin của anh đã chữa anh’. Cả xác lẫn hồn được giải phóng, được
chữa bệnh và thánh hoá một lượt.
Anh ta không còn bị
bận trí vì cái thân xác phong cùi vây hãm. Đức tin hoàn toàn không dừng lại ở
việc chữa trị mà phải dừng lại ở người chữa mình; không phải ở công việc mà là
ở tác giả của công việc đó. Đức tin chân thực vượt lên trên mọi dấu chỉ, để
được gặp gỡ Thiên Chúa hằng hữu.
27. Đức tin của con đã cứu con
Trong bài Tin Mừng hôm
nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã không làm một cử chỉ phù phép nào để chữa lành
tức khắc mười người phong cùi, mà Ngài lại sai họ đi trình diện với tư tế trước
đã. Họ đã làm theo lệnh của Ngài và tất cả đã được chữa lành, nhưng kỳ thực có
phải tất cả mười người phong cùi đã được chữa lành không? Xem chừng như Tin
Mừng muốn nói với chúng ta rằng, chỉ có một người thực sự được chữa lành, người
đó chính là người ngoại bang xứ Samaria, một kẻ thù không đội trời chung với
người Do thái. Chỉ có kẻ ngoại bang này được thực sự chữa lành, bởi vì ông ta
không những được lành lặn trong thân xác, mà còn được chữa lành trong tâm hồn.
Chúa Giêsu đã nói với ông ta: “Đức tin của ông đã cứu chữa ông”.
Có đức tin là nhìn
nhận rằng, Chúa Giêsu không những là nguồn mạch duy nhất có thể chữa lành bệnh
tật thân xác mà Ngài còn mang lại niềm vui, sức sống hy vọng cho tâm hồn. Chính
đức tin đã khiến cho người xứ Samaria đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu để cảm
tạ và thờ lạy Ngài. Người Samaria này không chỉ thấy mình đã khỏe trong thân
xác, mà còn nhận được sức sống niềm tin bừng dậy trong tâm hồn, đó mới là điều
quan trọng.
Tất cả mọi phép lạ của
Chúa Giêsu đều nhắm đến việc phục hồi sức khỏe tâm linh ấy. Dĩ nhiên, Đức Giêsu
mang đến cho con người ơn cứu rỗi toàn diện, còn việc được no cơm ấm áo, được
khỏe mạnh trong thân xác, Chúa Giêsu chỉ cần làm một cử chỉ hoặc Ngài chỉ phán
một lời thì nhân loại có thể đạt được giấc mơ ấy. Thế nhưng, đó không phải là
đường lối của Thiên Chúa. Ơn cao cả nhất mà Thiên Chúa ban tặng cho con người
và Tin Mừng vĩ đại nhất mà Ngài mang đến cho con người trước hết chính là “niềm
tin”. Có niềm tin là làm được tất cả. Chúa Giêsu đã chẳng nói với chúng ta sao:
“Đức tin của con đã cứu con”.
Giấc mơ thông thường
của con người là được giàu sang, được quyền bính, được sức khỏe tràn đầy, nhưng
Thiên Chúa lại mở ra cho chúng ta một chân trời mới, đó là chân trời của đức
tin. Có đức tin là có sức mạnh để đương đầu với mọi thử thách khổ đau của cuộc
sống. Có đức tin là được chữa lành mọi thứ bệnh phong cùi của thất vọng, ích
kỷ, tham lam. Có đức tin là có đủ sức mạnh để ra khỏi chính mình và không ngừng
đến với tha nhân trong tin yêu và hy vọng.
Với cử chỉ của người
Samaria trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta hãy chạy đến với Chúa, sấp mình
dưới chân Chúa để thờ lạy, cảm tạ tri ân Ngài. Vì Ngài đã ban cho chúng ta ơn
đức tin, đưa chúng ta vào chân trời của sự sống, của niềm vui đích thực và của
hy vọng tràn đầy.
Nguyện cho sức sống
đích thực mà Ngài trao ban cho chúng ta hôm nay chữa lành được bệnh hoạn cùi
hủi của tâm hồn chúng ta. Và với một tâm hồn tràn ngập hân hoan, chúng ta cũng
hãy mau mắn ra đi chia sẻ Tin Mừng cứu độ của Ngài cho tất cả mọi người.
28. Lòng biết ơn
Nhờ có cuốn sách
Sehirdler’s Ark và cuốn phim Schindler’s List, tên của Oskar Schindler được
hàng triệu người trên thế giới biết đến. Schindler là một nhà công nghiệp người
Đức. Trong suốt Thế chiến II, ông đã cứu hàng ngàn người Do thái ở Ba Lan khỏi
các trại tập trung. Khi chiến tranh chấm dứt, quân Đức rút khỏi Ba Lan và người
ta chờ đợi quân Liên Xô đến. Ngay trước khi quân Liên Xô đến, Schindler cũng đã
quyết định trốn qua phương Tây.
Khi những công nhân
người Do Thái, giờ đây đã được tự do nghe tin ông ra đi, họ họp lại để xem có
thể bày tỏ lòng biết ơn ông như thế nào. Phải bắt tay ngay để làm một món quà
bằng kim loại. Rồi một người gợi ý một cái gì tốt hơn. Ông ta mở miệng mình ra
và chỉ chiếc răng vàng.
“Hãy lấy cái này”, ông
nói, “Nó mà còn là nhờ có Oskar, bọn mật vụ SS muốn chiếm lấy các vật dụng bằng
mọi cách. Cái răng của tôi lẽ ra cũng đã ở trong đống đồ trong nhà kho của SS,
giữa những chiếc răng vàng của những người khác”.
Ban đầu, những người
khác phản đối đề nghị ấy, nhưng vì người ấy nài nỉ mãi nên người ta nhận. Một
tù nhân trước kia là nha sĩ ở Cracow đã lấy cái răng vàng đó ra khỏi hàm răng.
Một thứ kim hoàn trong số họ nấu chảy vàng và tạo thành một chiếc nhẫn. Vòng bên
trong của chiếc nhẫn, người ta ghi những lời lấy từ Kinh Talmud: “Người nào cứu
sống chỉ một mạng người, người ấy cứu sống toàn bộ thế giới”.
Đó là một cử chỉ bày
tỏ lòng biết ơn làm người ta ngạc nhiên và cảm động sâu xa. Đó là một trong
những việc kỳ diệu về lòng biết ơn –nó làm cho chúng ta muốn đền đáp một điều
gì. “Lòng biết ơn là ký ức của tâm hồn” (Tục ngữ Pháp). Nhưng rồi người ta phải
nói rằng đó là điều tối thiểu mà người ta có thể làm khi người ta mang ơn
Schindler về cuộc đời của họ.
Mười người phong hủi
trong Tin Mừng cũng mang ơn Đức Giêsu về cuộc đời của họ. Tuy nhiên, chỉ có một
người trở lại để cảm ơn Người.
Dường như cũng kỳ lạ
khi người quay trở lại để cảm ơn là một người ngoài cuộc –một người Samari.
Nhưng điều đó không thường xảy ra đó sao? Người trong cuộc cho rằng mọi sự là
đương nhiên và chính người ấy cũng được coi là đương nhiên. Trái lại, người
ngoài cuộc nhìn mọi sự vật là một ân huệ. Chúng ta thấy bài đọc I cũng một ý
tưởng. Người nước ngoài Naaman trở lại để cảm ơn Êlisa vì đã chữa cho ông khỏi
bệnh phong hủi.
Chúng ta đòi người
khác biết ơn mình hơn là tỏ lòng biết ơn người khác. Điều này chỉ ra lòng ích
kỷ của chúng ta khi chúng ta thi ân. Nếu có người nào nhận thấy người anh em
mình vô ơn, bội bạc thì người ấy không tìm kiếm hạnh phúc cho người khác mà tìm
kiếm hạnh phúc cho chính mình.
Đức Giêsu đòi hỏi lòng
biết ơn, không phải cho chính Người. Điều Người nói là: “Sao không thấy họ trở
lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?”. Qua đó rõ ràng Người
không nghĩ đến chính mình. Người nghĩ đến những người phong hủi. Người nhận một
ân huệ có thể bày tỏ lòng biết ơn là một điều tốt và cần thiết.
Chúng ta biết bày tỏ
lòng biết ơn là một việc rất quan trọng. Trước tiên điều ấy tốt cho chúng ta,
nó bắt buộc chúng ta phải biết món nợ mà chúng ta còn mắc người khác. Lòng tri
ân dĩ nhiên cũng tốt cho người khác ấy –nó làm cho người làm ơn cảm thấy được
đánh giá cao. Người không cảm ơn điều nhỏ, sẽ không cảm ơn điều lớn. Vì thế
điều quan trọng là biết ơn và đánh giá cao các ơn huệ nhỏ mà người khác làm cho
chúng ta cũng như các dịch vụ mà chúng ta nhận được mỗi ngày.
Về việc thể hiện lòng
biết ơn đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa không cần những lời cảm ơn của chúng ta
nhưng chúng ta cần cảm ơn Thiên Chúa. Điều ấy nhắc chúng ta rằng mọi sự mà
chúng ta có đều do Thiên Chúa ban cho. Cảm ơn Thiên Chúa về điều xảy đến cho
chúng ta là việc dễ dàng. Nhưng chúng ta cố gắng biết ơn về trọn cả cuộc đời
mình: điều xấu cũng như điều tốt, những niềm vui và nỗi buồn, những thành công
và thất bại. Đó không phải là một việc dễ dàng. Chúng ta chỉ thật sự gọi mình
là những người có lòng biết ơn khi chúng ta có thể nói lời cảm ơn về mọi việc
đã đưa chúng ta đến giây phút này. Loại tri ân này làm chúng ta có khả năng cải
tạo toàn bộ quá khứ của chúng ta và coi nó như là con đường cụ thể trong đó
Thiên Chúa dẫn đưa chúng ta đến giây phút này.
Khi chúng ta nhìn lại
đời sống của mình, chúng ta thấy rằng những điều làm tổn thương chúng ta và
những điều giúp đỡ chúng ta không thể tách rời nhau. Chúng ta hãy cố gắng nhìn
ra bàn tay hướng dẫn của Thiên Chúa yêu thương trong mọi việc đã đưa chúng ta
đến nơi chúng ta đang có mặt hiện nay.
29. Biết ơn
Thái độ vô ơn của chín
người Do Thái được chữa lành, phải chăng cũng chính là thái độ của mỗi người
chúng ta?
Rải rắc trên đường
đời, chúng ta đã nhận lãnh biết bao nhiêu ơn lành của Chúa, từ những ơn làn
phần xác, đến những ơn lành phần hồn, thế nhưng chúng ta cho rằng mình được
quyền hưởng dùng những ơn lành ấy và chẳng bao giờ chúng ta nghĩ tới việc phải
cảm tạ Ngài.
Khi gặp gian nan thử
thách, chúng ta khẩn cầu cùng Chúa, chúng ta thú nhận những sai lỗi, những vấp
phạm của mình và chúng ta hứa với Ngài điều nọ điều kia. Thế nhưng, khi tai qua
nạn khỏi, chúng ta dường như không còn nhớ gì nữa và chẳng bao giờ biết cám ơn
Ngài.
Nếu thái độ vô ơn của
chín người Do Thái đã làm cho Chúa Giêsu phải buồn phiền, thì chắc chắn thái độ
vô ơn của chúng ta cũng sẽ chẳng hơn gì. Làm sao chúng ta có thể kể ra cho hết
những ơn lành Chúa đã ban, bởi vì tình thương của Ngài thì dạt dào như biển
khơi, không bờ không bến.
Thân phận chúng ta chỉ
là tro bụi, thế nhưng, Chúa đã dựng nên, đã trao tặng sự sống phần xác, đã
chiếu dõi ánh sáng đức tin phần hồn và đã hứa ban niềm hạnh phúc vĩnh cửu làm
sản nghiệp, vậy mà chúng ta lại không biết cảm tạ Ngài hay sao?
Lòng biết ơn là một
bông hoa tươi xinh của tình bác ái. Trái lại, sự vô ơn chính là một phép lạ vĩ
đại của ma quỉ. Tôi xin đưa ra một thí dụ.
Chẳng hạn sức khỏe là
một điều quí giá mà không một quà tặng trần gian nào có thể đánh đổi được. Một
ông tỷ phú, trong cơn hấp hối, dù có bỏ ra hằng triệu đô la cũng không thể nào
mua về cho mình sự sống, bởi vì đó là một hồng ân của Chúa. Thế mà biết bao
nhiêu lần chúng ta đã hoang phí cho những cuộc nhậu thâu đêm, cho những canh
bài suốt sáng. Đáng lẽ chúng ta phải dùng cuộc sống để làm đẹp tâm hồn và nâng
tâm hồn lên cùng Chúa mà cảm tạ Ngài, thì chúng ta lại sử dụng nó để làm nô lệ
cho những đam mê dục vọng xấu xa, cho những ý đồ đen tối và bất chính…
Vì thế, thánh Bernađô
đã nói:
- Sự vô ơn là một bức
tường ngăn cách giữa Thiên Chúa và tạo vật, là một chiếc đập ngăn chặn nguồn
suối với dòng sông.
Bởi đó, phải biết cảm
tạ Chúa vì tâm tình biết ơn cũng chính là một lời kinh tuyệt vời chúng ta dâng
lên Chúa, một cách không so đo, không tính toán.
Với những người biết
ơn, chắc chắn Chúa sẽ ban cho họ những sự cần thiết, mặc dù họ không kêu xin.
Vì biết ơn là một nhân đức đẹp đẽ nhất của người Kitô hữu. Chúng ta hãy cảm tạ
Chúa, không phải chỉ trong những giờ phút may mắn và gặp được những sự tốt
lành. Trái lại, chúng ta còn phải cảm tạ Chúa ngay cả trong những khi buồn
phiền với những tai ương hoạn nạn xảy ra.
Có một chàng thanh
niên, cha mẹ chẳng may bị giết chết trong một cuộc thảm sát. Tuy buồn, nhưng
anh vẫn thầm thĩ kêu lên cùng Chúa:
- Lạy Chúa, con xin
quì gối cảm tạ Chúa vì sự đau khổ con đang phải chịu cũng là một ơn huệ Chúa
ban, để con biết chia sẻ với những khổ đau của Chúa.
Lòng biết ơn cũng
chính là một dấu chỉ để phân biệt người đạo đức thật với kẻ đạo đức giả. Kẻ đạo
đức giả thì trong những hoàn cảnh đen tối thường kêu trách Chúa. Còn người đạo
đức thật, thì luôn khám phá ra bàn tay yêu thương của Chúa trong mọi tình
huống, vì đối với họ: mọi sự đều là hồng ân.
Lời kinh cảm ta tuyệt
vời nhất, theo tôi nghĩ, đó là lời kinh chúng ta thường hát trong thánh lễ:
- Chúng con cảm tạ
Chúa vì vinh quang cao cả Chúa.
Hay như trong kinh
tiền tụng, chúng ta vốn thường đọc:
- Lạy Chúa, chúng con
cảm tạ Chúa thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu rỗi cho chúng con.
Và sau cùng, ở mọi nơi
và trong mọi lúc, hãy sống một cuộc sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu
thương, nhờ đó bản thân chúng ta sẽ trở thành những chứng nhân cho tình thương
của Chúa và cuộc đời chúng sẽ trở thanh một hiến lễ tạ ơn dâng lên Chúa.
30. Cám ơn
Một trong những tiếng
được kể là đẹp nhất trong kho tàng ngôn ngữ con người, từ đông sang tây, từ bắc
tới nam, tức là khắp mọi nơi. Một tiếng rất ngắn nhưng đưa đi rất xa, nếu chúng
ta biết sử dụng nó một cách trọn vẹn, chân tình. Đó là tiếng “cám ơn”. Nhưng
trong thực tế, dường như người ta còn quá dè dặt và tiết kiệm tỏ lòng biết ơn
nhau và cám ơn nhau.
Bài Tin Mừng Chúa
Giêsu lưu ý chúng ta về lỗ hổng trầm trọng ấy. Chúa đã làm phép lạ chữa lành
cho cả mười người phong cùi. Thế là họ ra đi sung sướng, thỏa mãn, chỉ có một
người nghĩ tới việc trở lại cám ơn Chúa. Chúa hỏi người ấy: “Không phải cả mười
người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu?” Chỉ là vì họ quên cám ơn.
Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta quên: cố tình quên hoặc vô tình quên như
thế.
Có phải chúng ta vẫn
thường coi việc người khác làm cho chúng ta hay phục vụ chúng ta như là những
chuyện đương nhiên, những việc họ phải làm? Chẳng hạn khi có người lưu ý một
ông giám đốc hay một ông chủ về sự tận tâm của người thừa hành hay người giúp
việc, thì các vị này đã tỉnh bơ trả lời: “Họ đã được trả lương để làm việc ấy
mà”. Người ta trả tiền công và tưởng thế là sòng phẳng.
Chúng ta nên suy nghĩ
tới đức bác ái Kitô giáo, tới tình người được gói ghém trong tiếng “cám ơn”, dù
khi đã trả tiền công. Thực vậy, có biết bao nhiêu chuyện mà người ta không thể
thanh toán được bằng tiền bạc, nhưng bằng một nụ cười, một thoáng quan tâm, một
tiếng cám ơn. Những người bán hoa đã viết một biểu ngữ trước quầy hàng của họ
thế này: “Hãy diễn tả tâm tình của bạn bằng những bông hoa”. Cũng vậy, chúng ta
phải diễn tả tâm tình của mình ra nhờ những cái gì khác hơn là tiền bạc, hoặc
cả tiền “puộc boa”, tiền trà nước, đó là lời cám ơn. Có cả một nghệ thuật bày
tỏ lòng tri ân mà chúng ta phải tập để biết sử dụng hợp thời, đúng lúc và tinh
tế khéo léo.
Chúng ta phải biết cám
ơn những người sống chung quanh mình, bắt đầu từ những người gần gũi nhất, đó
là những người trong gia đình. Người ta nói: hạnh phúc của mái gia đình tùy
thuộc một phần không nhỏ vào bổn phận nhớ ơn nhau. Cuộc sống của chúng ta được
dệt thành bởi trăm ngàn điều nhỏ mọn chẳng đáng kể gì, thế mà hạnh phúc gia
đình phần lớn lại lệ thuộc vào những điều chẳng đáng kể gì đó, là tiếng “cám
ơn” bé nhỏ nói cho đúng lúc.
Thực vậy, hạnh phúc
thay gia đình nào có những người con biết nói cám ơn người cha người mẹ vẫn tận
tâm tận lực lo lắng cho chúng và suốt ngày tảo tần mưu ích cho chúng. Và cũng
thật hạnh phúc cho gia đình nào người chồng biết nói cám ơn đối với người vợ và
người vợ biết nói cám ơn đối với người chồng. Tiếng cám ơn người chồng nói với
người vợ đáng giá hơn tất cả mọi thứ vật chất, vì nó chứng tỏ người chồng lưu ý
tới những gì người vợ làm cho mình. Cũng vậy, tiếng cám ơn người vợ nói với
người chồng sẽ động viên cho ông thêm nghị lực, thêm can đảm, thêm sức mạnh để
hăng say với công việc đều đều cực nhọc vất vả hằng ngày.
Sau hết nhưng trước
hết và trên hết, chúng ta phải biết cám ơn Thiên Chúa, vì tất cả những gì chúng
ta đang có, đang sử dụng: về ngôi nhà đang che chở chúng ta, cái bàn kia, cái
giường ấy, chiếc tủ này, những quyển sách đó, cái đèn đang cháy sáng kia, những
người bạn chúng ta gặp tình cờ trong cuộc sống, và hàng trăm hàng ngàn điều
khác đang ở trong tầm tay chúng ta… Chính Thiên Chúa ban cho chúng ta những
điều ấy xuyên qua những nguyên do phụ thuộc. Vì thế, chúng ta phải luôn dâng
lên Thiên Chúa tâm tình cảm tạ tri ân như đối với nguyên nhân tối hậu, từ đó
phát xuất ra mọi điều thiện hảo cho chúng ta.
Có một người cha trong
gia đình đã ghi lại câu chuyện và những ý nghĩ sau đây: Một đêm kia, trong lúc
đang đọc báo, tôi nghe đứa con gái bé nhỏ của tôi nói: “Bố ơi, con sẽ đếm xem
trên trời có bao nhiêu ngôi sao nhé”. Sau đó, tôi nghe giọng nói êm đềm của con
tôi bắt đầu đếm 1,2,3,4… Rồi tôi chăm chú vào việc đọc báo, không để ý đến
tiếng con tôi đếm các ngôi sao nữa. Đến khi đọc xong bài báo, tôi chú ý lắng
tai và nghe tiếng nó vẫn tiếp tục đếm 123, 124, 125…Đến đây nó bỗng ngừng lại,
không đếm nữa, rồi quay sang nói với tôi: “Bố ơi, con không dè trên trời lại có
nhiều sao đến thế”. Nghe con gái nhận xét như vậy, tôi chợt nhớ là thỉnh thoảng
tôi cũng âm thầm nói với Chúa: “Chúa ơi, để con thử đếm xem con đã nhận lãnh
bao nhiêu ơn lành Chúa đã ban”, và càng đếm, trái tim tôi hình như càng cảm
thấy thổn thức, không phải vì âu sầu mà vì bị quá nhiều hồng ân Chúa đè nặng.
Rồi tôi cũng thường phải thốt lên như con gái tôi: “Lạy Chúa, con không dè đời
con lại có quá nhiều hồng ân của Chúa đến thế”.
Hôm nay, mỗi người
chúng ta hãy nhìn lại thời gian đã qua, nghĩ lại quá khứ cuộc đời mình và gia
đình mình: có phải chúng ta đã lãnh nhận được rất nhiều ơn lành của Chúa mà rất
ít khi chúng ta để ý cám ơn Chúa và tri ân Ngài không? Đó là một thiếu sót lớn
lao đấy. Cuộc đời chúng ta lãnh nhận từ Thiên Chúa, từ mọi người thực là nhiều:
từ một đồng bạc đến một sản nghiệp, từ một nụ cười đến một tình thương, từ một
lời chào đến những lời an ủi, khích lệ, trao đổi, gặp gỡ… tất cả và bất cứ sự gì
chúng ta lãnh nhận được đều là những viên gạch xây dựng đời chúng ta và gia
đình chúng ta. Nên chúng ta phải luôn tạ ơn Chúa và cám ơn mọi người. Tạ ơn
Chúa là chúng ta đem các ơn mình đã lãnh nhận được trình bày với Chúa, để rồi
Chúa sẽ ban lại nhiều hơn, như người ta thường nói: “Một lần cám ơn là hai lần
xin ơn”.
Xin Chúa cho chúng ta
luôn biết sống trong tâm tình tạ ơn Chúa như thánh Phaolô đã khuyên bảo giáo
dân Côlôsê: “Anh em hãy luôn sống trong tâm tình tạ ơn Chúa và biết ơn Chúa”.
Đồng thời, chúng ta cũng phải luôn biết cám ơn mọi người, vì có thể nói, tất cả
những người có liên hệ xa gần với chúng ta, đều là những ân nhân của chúng ta.
31. Niềm tin
Phụng vụ lời Chúa hôm
nay cho chúng ta biết khi Chúa đi lên Giêrusalem, qua giữa miền Samaria và
Galilê thì Chúa chữa 10 người phong cùi. Theo thánh sử Luca, Giêrusalem đối với
Chúa Giêsu là đích điểm của cuộc hành trình và cũng là nơi kết thúc cuộc đời
của Chúa, để từ đây ơn cứu độ lan rộng khắp nơi, cho tất cả mọi người. Quả
thật, Tin Mừng thuật lại cả 10 người đều được Chúa chữa cho khỏi bệnh, nhưng
oái oăm thay, trong 10 người đó chỉ có một người – mà lại là người xứ Samaria,
một người ngoại bang, người ngoại đạo – quay trở lại để tạ ơn, để tôn vinh
Thiên Chúa.
Đối với những người Do
thái thời xưa, ai bị bệnh phong cùi thì bị coi là đồ chúc dữ, là hình phạt của
Thiên Chúa. Họ bị cô lập, tách riêng ra khỏi cộng đoàn và không được phép tham
dự bất kỳ một nghi lễ phụng vụ nào. Đồng thời khi nghe có ai tiến gần đến họ
thì phải kêu lên: “Ô uế! Ô uế!” để cho người khác biết mà tránh xa. Nhưng khi
biết Đức Giêsu sắp đến gần, thì họ đón gặp Người – Không phải để kêu lên “Ô uế!
Ô uế” – mà “lạy Thày Giêsu, xin thương xót chúng tôi”. Điều này chứng tỏ họ đã
được biết, được nghe đến danh của Đức Giêsu và hy vọng một điều tốt đẹp xảy đến
cho họ. Và Đức Giêsu đã đoái nghe đến lời khấn xin này, và bảo họ hãy đi trình
diện tư tế, nghĩa là xác nhận đã lành bệnh. Quả thật, mệnh lệnh này là một thử
thách đức tin của họ, vì chúng ta thấy trước khi đi thì họ vẫn trong tình trạng
bị phong cùi. Và Tin Mừng thuật lại. Đang khi đi thì họ được khỏi, điều đó cho
thấy 10 người cùng tin. Nhưng trong số 10 này chỉ có một là biết sống ơn đức
tin đó: anh ta đã tiến thêm một bước trên con đường đức tin. Và nghịch lý thay,
bước tiến lại là một bước quay trở lại, một bước trở về để tạ ơn Thiên Chúa, tạ
ơn Đấng đã làm ơn cho mình.
Chúng ta thấy, điều mà
người Samaria này cần phải làm khi được khỏi bệnh không phải là một cái gì
khác, không phải là một nghi lễ phụng vụ nào nhưng là phải gặp lại Đức Giêsu để
mà tạ ơn. Điều mà anh ta thấy là gì? Là chính Đức Giêsu đã cứu anh, anh đã tin
như thế. Người Kitô hữu hôm nay cũng thế, chúng ta xin Chúa đủ điều, chúng ta
tiếp nhận mọi sự tốt đẹp từ Giáo Hội, từ những người khác, nhưng mấy khi tôi
biết ngồi lại để tạ ơn Chúa, để tạ ơn người khác? Hãy tự xét mình lại ta sẽ
thấy được!
Trước đây, tôi có biết
một chị, là người lương. Cứ mỗi tuần vào chiều thứ bảy là chị đem một bó bông
huệ đến đặt dưới chân tượng Đức Mẹ. Sau khi tìm hiểu thì tôi biết được là chị
có một đứa con bị bệnh đã nhiều năm, chạy chữa tốn rất nhiều tiền bạc, công sức
mà không khỏi. Tình cờ khi đi ngang một nhà thờ, chị nhìn thấy nhiều người đang
đứng cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ. Chị chẳng biết Đức Mẹ là ai, nhưng cũng đến
để cầu xin cho con mình được khỏi bệnh. Và quả thật, chỉ hơn 2 tuần sau thì con
chị được khỏi bệnh.
Ở đây, tôi không biết
là do chạy chữa nhiều hay là ơn Chúa ban qua Đức Mẹ mà con chị đã khỏi bệnh.
Nhưng điều mà tôi muốn chia sẽ là tâm tình của chị sau đó. Chị đã tin là “Bà
đó” – người đã chữa lành bệnh cho con chị cách lạ lùng và chị đã không ngừng tạ
ơn về điều đó.
Nhiều khi chúng ta
luôn miệng nói cám ơn vì lịch sự hay do thói quen mà không cần suy nghĩ, cũng
không để cho nó tạo ra một mối quan hệ hay một sự tương quan nào với ai. Vâng
lời cám ơn chân thành phải làm cho chúng ta hiệp thông với một con người, nó
phải là một lời bộc lộ tình yêu thương. Mỗi ngày khi tham dự thánh lễ, sau khi
nghe lời Chúa chúng ta cùng thưa lên: “Tạ ơn Chúa hay ngợi khen Chúa”. Và việc
tạ ơn này là gì? Nếu không phải là để cho lời Chúa thấm vào trong tôi, đi vào
trong con người của tôi và là động lực để thúc đẩy tôi dấn thân, để tôi sống và
làm chứng lời đó giữa cuộc đời.
Như vậy, chúng ta thấy
lòng biết ơn không chỉ là đức tính nhân bản, mà còn là một nhân đức tôn giáo
nữa; không chỉ là lời nói xã giao, mà còn là một sự tự nguyện dấn thân để tin
theo. Đó là hình ảnh của một chị người lương nói trên và cũng là hình ảnh của
một người cùi xứ Samaria trong Tin Mừng hôm nay. Họ đã tạo ra được một mối
tương quan mật thiết với Chúa. Nhưng trong thực tế, mấy ai đã làm được điều
này?
Nhìn vào lịch sử dân
Chúa, chúng ta thấy đầy dẫy những sự vô ơn: như Tin Mừng hôm nay 10 người được
chữa lành nhưng chỉ có một người quay trở lại tạ ơn; 5.000 rồi 4.000 người được
Chúa cho ăn no như khi hóa bánh ra nhiều nhưng trên đường vác thập giá chỉ có
một người vác đỡ Chúa; cả một dân tộc mang ơn nhưng khi Chúa bị đóng đinh thì
chỉ có một tên trộm tuyên xưng Chúa vô tội.
Tục ngữ ca dao Việt
Nam cũng có nhiều câu để diễn tả lòng biết ơn như: “An quả nhớ kẻ trồng cây,
hay uống nước nhớ nguồn”, nhưng cũng có nhiều câu để nói lên sự vô ơn của con
người: “An cháo đái bát, vắt chanh bỏ vỏ hay có trăng quên đèn…” là người thì
không ai cách này hay cách khác đã có lần phải chịu ơn.
Hơn nữa, là người Kitô
hữu thì tôi lại càng mang ơn nhiều hơn. Cử chỉ của người cùi xứ Samaria trong
Tin Mừng nhắc nhớ cho chúng ta về điều này. Anh ta sấp mình xuống dưới chân
Chúa mà tạ ơn, một cữ chỉ dành riêng cho Thiên Chúa mà thôi: để nói lên rằng
chính con người tôi đây, tôi chẳng là gì cả, tôi đã được nhận tất cả, tôi chỉ
là cát bụi. Vậy thì hôm nay tôi phải tạ ơn Chúa vì chính sự sống của tôi đây,
điều mà tôi không có quyền gì để đòi hỏi nơi Chúa nhưng do tình yêu nhưng không
của Ngài, như lời thánh vịnh 8 đã nói: “Phàm nhân là gì để Người nhớ đến, con
người là chi để Chúa phải lưu tâm”.
Vâng tôi chẳng là gì
cả, tôi chỉ là thân cát bụi hèn yếu nhưng chính Ngài đã ban Thần Khí cho tôi,
đã cho tôi có sự sống, tôi không thể sống mà không biết tạ ơn! Lại nữa, tôi
không chỉ tạ ơn về những điều tốt đẹp, mà còn tạ ơn về những thiếu sót, lỗi
lầm, giới hạn của tôi nữa. Tại sao ư? Vì có như thế, tôi mới nhận ra được con
người đích thực của mình, tôi mới có thể nhận ra được những điều tốt, điều hay
nơi những người xung quanh, nơi những anh chị em của tôi. Thực ra, thì Chúa
chẳng cần chúng ta ca tụng tạ ơn đâu – như lời Kinh Tiền Tụng đã ghi – vì điều
đó chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đó lại là một hồng ân cao cả, nó đem lại ơn
cứu độ cho chúng ta.
Xin Chúa cho mỗi người
chúng con biết không ngừng tạ ơn Chúa trong từng phút giây của cuộc đời chúng
con. Lời Chúa hôm nay cho chúng con biết rằng, đối với Chúa điều làm cho chúng
con có giá trị không phải là thân thế, sự nghiệp hay danh vọng, mà là chính
tình yêu thương vô điều kiện của Chúa đã đổ tràn ngập xuống tâm hồn chúng con
và bao phủ lấy cuộc đời của mỗi người chúng con. Chính điều này cho chúng con
biết được Chúa là Thiên Chúa luôn gần gũi với con người, một Thiên Chúa luôn
cúi xuống trên nỗi bất hạnh của con người.
Xin Chúa cho chúng con
biết sống tâm tình tạ ơn bằng tất cả sự tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, chứ không
phải chỉ trên đầu môi chót lưỡi. Để từ đó, chúng con cũng có được thái độ chia
sẻ như là một trách nhiệm, đối với anh chị em chúng con, vì như thánh Giacôbê
đã nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”.
32. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm
Thanh Liêm
TÌNH YÊU THIÊN CHÚA
ĐƯỢC DIỄN TẢ QUA TRUNG GIAN CON NGƯỜI
Thiên Chúa là tình
yêu. Ai ở trong tình yêu, thì ở trong Thiên Chúa. Ai nói mình yêu Thiên Chúa mà
ghét anh em mình, đó là người nói dối. Tình yêu đối với Thiên Chúa được diễn tả
qua tình yêu con người đối với nhau. Thiên Chúa cũng yêu thương con người qua
những trung gian của Ngài, cụ thể qua những con người sống chung quanh chúng
ta.
Thay đổi con người, để
có thể lãnh nhận hồng ân
Naaman trước khi xuống
tắm bảy lần ở sông Jordan, đã phẫn nộ với tiên tri Êlisa vì ông tưởng rằng tiên
tri sẽ đứng trước ông, giơ tay cầu khẩn cùng Thiên Chúa, và chữa ông khỏi. Đằng
này, tiên tri chỉ sai người nói với Naaman: “đi tắm bảy lần ở sông Jordan, thì
sẽ được sạch”. Naaman nghĩ: “Nước sông ở Đa-mát chẳng sạch hơn nước sông ở
Jordan sao?” Và Naaman đã không muốn xuống tắm.
Naaman đòi người của
Thiên Chúa phải làm theo suy nghĩ và cách thế của mình. Nhưng Thiên Chúa không
muốn thế, và người của Thiên Chúa lại không muốn vậy. Đòi hỏi để được khỏi bệnh
quá đơn giản đến độ Naaman không thể tin được, và không muốn tin. Nếu Naaman
không khiêm tốn bỏ mình để làm theo lời sứ giả của tiên tri, thì chắc ông chẳng
khỏi bệnh. Trong cuộc sống, người ta cũng thường đòi Thiên Chúa phải làm theo ý
người ta, theo điều kiện người ta đặt cho Chúa. Trường hợp của Naaman cho thấy,
nếu người ta không bỏ mình, e rằng người ta khó có thể đón nhận hồng ân của
Thiên Chúa.
Bao nhiêu yếu tố xảy
đến giúp Naaman đón nhận hồng ân: người tớ gái “quá thơ ngây” suýt gây họa cho
cả nhà vua nước mình, những đầy tớ của Naaman khuyên ông nên vâng lời vị sứ giả
của tiên tri, và cả dòng sông nước không được sạch dưới con mắt của Naaman.
Trong cuộc sống của mỗi người, dường như cũng được đan dệt bằng bao nhiêu lời,
bao nhiêu biến cố nhỏ nhỏ, để làm nên mỗi người như hiện tại. Chúng ta có nhận
ra đó là những hồng ân để tạ ơn Thiên Chúa không?
Đức Giêsu- tình yêu
của Thiên Chúa cho con người
Người phong cùi, theo
luật Do Thái, không được tiếp xúc với người lành. Chính vì vậy, họ đứng đàng xa
và kêu xin Đức Giêsu thương xót, chữa lành họ. Họ đáng thương, không chỉ vì con
bệnh hành hạ làm họ đau đớn thể xác, nhưng họ còn đau khổ hơn khi phải tách
biệt với xã hội con người, với những người thân yêu: cha mẹ, vợ chồng, con cái
của họ. Đức Giêsu giúp con người giao hoà với Thiên Chúa và giao hoà với nhau.
Đức Giêsu nói với
những người phong cùi: “đi trình diện với các tư tế”. Luật Do Thái dạy những
người phong cùi thấy mình khỏi bệnh, phải đi trình diện thầy tư tế, để được xác
nhận là đã khỏi bệnh. Đang khi họ đi, họ được khỏi. Niềm tin phó thác biểu lộ
qua thái độ vâng lời Đức Giêsu, làm những người phong cùi được khỏi bệnh. Thiên
Chúa đòi con người tin tưởng và phó thác tất cả nơi Ngài. Tin tưởng phó thác
tất cả nơi Thiên Chúa, đó là dấu chỉ của những người được thương và được cứu
độ.
Chỉ có mỗi người ngoại
trở lại để tạ ơn Thiên Chúa. “Chín người kia đâu? Không phải cả mười người được
khỏi sao?” Chín người kia chắc chắn được khỏi bệnh phong cùi, còn người ngoại
này không chỉ được khỏi bệnh thân xác, nhưng còn được nhiều ơn thiêng liêng
khác nữa. Nhận ra hồng ân Thiên Chúa trong đời mình, là một dấu chỉ của người
đang sống hạnh phúc.
Thiên Chúa vẫn muôn
ngàn đời thành tín
“Nếu chúng ta cùng
chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống với Ngài”. Đi theo Đức Giêsu, đòi chúng
ta phải bỏ mình, bỏ những ham muốn của thế gian và xác thịt. Không chiều theo
những ham muốn của xác thịt và thế gian, là một cách chết cho thế gian, cùng
chết với Đức Kitô. Thiên Chúa vẫn muôn ngàn đời thành tín: nếu chúng ta chết
cho thế gian cùng với Đức Kitô, chúng ta sẽ được cùng sống lại với Ngài.
“Nếu chúng ta chối
Ngài, Ngài cũng chối chúng ta”. Sở dĩ vậy, vì nếu chúng ta cứng lòng và cố tình
chối Ngài, đứng đối nghịch với Ngài. Ngài không thể làm khác được. Thiên đàng
không thể có đối với người không muốn “lên thiên đàng”. Về phía Thiên Chúa,
Ngài luôn luôn yêu thương con người, Ngài muốn con người ở trong tình yêu của
Ngài, Ngài muốn họ “lên thiên đàng” nhưng Ngài không buộc họ phải lên thiên
đàng. Nếu một người cố tình thù nghịch Ngài, Ngài phải chịu vì Ngài đã cho con
người tự do.
“Nếu chúng ta bất
trung, thì Ngài vẫn trung thành”. Nếu vì yếu đuối, chúng ta bất trung, thì
Thiên Chúa vẫn thành tín, Ngài chờ đợi chúng ta trở lại với Ngài. Tình yêu
Thiên Chúa đối với con người được cụ thể qua bí tích hoà giải, mỗi khi con
người trở lại với Thiên Chúa, đều được lãnh ơn hoà giải với Ngài qua trung gian
thừa tác viên của Giáo Hội. Hơn nữa, hối hận hay muốn trở lại, đã là hồng ân
của Thiên Chúa cho tội nhân rồi.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Xin bạn cho một vài
thí dụ cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người qua các trung gian!
2. Đức Giêsu có là
diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với con người không? Xin bạn chia sẻ quan
điểm lập trường của bạn.
3. Với kinh nghiệm bản
thân, thay đổi bản thân nên có thể đón nhận hồng ân, hay, đón nhận hồng ân nên
thay đổi chính mình? Xin bạn chia sẻ kinh nghiệm!
33. Làm một điều tốt
Xa xưa, một chiếc tầu
bị đắm chìm trong một Ngũ Biển Hồ. Những đội cấp cứu được đưa đến để cứu vớt,
gồm cả một nhóm học sinh tại Đại Học Northwestern. Một học sinh, anh Edward
Spenser, đã giải cứu 16 người trong chiếc tàu đắm chìm đó. Khi anh được khiêng
ra khỏi hiện trường sau khi đã kiệt sức, anh chỉ còn nói, "Tôi có làm tốt
không? Bạn có nghĩ là tôi đã làm hết sức tôi chưa?" Nhiền năm sau, trong
một cuộc hiệp hội cùng các bạn ra trường, một trong những người diễn thuyết đã
nhắc nhớ lại hành vi anh hùng này. Thì có người kêu lên rằng Edward Spenser
đang hiện diện trong những khán giả. Ông Spenser đã được mời tiến lên trước mọi
người. Già nua và tóc bạc, ông tiến lên khán đài trong khi mọi khán giả đứng
lên vỗ tay tán thưởng ông. Người diễn thuyết hỏi ông sự kiện nào ông nhớ nhất
trong biến cố đấy. Ông đáp, "Chỉ có một việc là trong số 16 hay 17 người
tôi đã cứu vớt, không một ai đã cám ơn tôi."
Dân Cựu Ước trong Sách
Xuất Hành đã nhận thấy những việc quyền uy về Quyền Lực và Ân Sủng và Tình Yêu
của Thiên Chúa đã mời gọi họ đáp trả với lòng biết ơn đặc biệt và rõ ràng. Họ
biết rõ rằng nó thật là không đủ khi chỉ cảm thấy biết ơn mà thôi. Những cảm
nghiệm chỉ là hão huyền, tạm bợ, thường là bề ngoài, và thường hay sai lầm. Họ
biết rõ rằng nó thật là không đủ khi chỉ biết nói về lòng biết ơn mà thôi. Nói
vô tích sự! Vì tất cả những gì Thiên Chúa đã làm cho họ trong cuộc chạy loạn
khỏi Ai-cập và trong cuộc hành trình về đất hứa. Những người này biết rằng họ
cần phải biểu lộ lòng biết ơn trong một hình thức rõ ràng.
Một trong những hình
thức rõ ràng để họ biểu lộ lòng biết ơn chính là mang những lễ vật đến nơi thờ
phượng mà hiến dâng lên Thiên Chúa. Một hình thức khác, họ dùng những khả năng
của họ, kinh nghiệm của họ, những tài năng của họ, kiến thức của họ, để làm một
điều gì đẹp mà nói lên "Lời Cảm Tạ" đến Thiên Chúa.
Mariam chị của Môi-sen
muốn có một cách thức tỏ lòng biết ơn một cách đặc biệt và rõ ràng vì Ơn Giải
Cứu của Thiên Chúa. Bà đã sáng tác một bài ca, bà đã cầm lấy đàn và bắt đầu ca
hát nhảy múa: "Hãy hát mừng Thiên Chúa, vì Ngài là niềm hỉ hoan mừng vui
chiến thắng." Chính "Bài Ca Mariam" là một phần quan trọng không
chỉ trong lịch sử nhưng còn là vì nó giúp cho chúng ta biết rằng một trong
những phương thức biểu lộ lòng biết ơn chính là làm một điều gì đẹp cho Thiên
Chúa.
Và tiếp đến Tân Ước.
Thiên Chúa đang hành động với quyền uy và yêu mến. Giờ đây Ngài hành động qua
việc sai Đức Kitô đến. Và Chính Đức Kitô này là Đấng Duy Nhất mà chúng ta thấy
và cảm nghiệm được trọn vẹn sự sống của chúng ta là những con người. Chính Đức
Kitô này là Đấng Duy Nhất mà chúng ta nối theo trong cuộc thám hiểm tìm kiếm
chúng ta thật sự là ai và cái gì mới chính là cuộc sống của chúng ta thật sự.
Chính Đức Kitô là Gương Mẫu tuyệt hảo về cái gì là con người hoàn hảo, trở nên
con người trọn vẹn nghĩa là gì, trở nên con người mà Thiên Chúa đã tạo dựng nên
chúng ta nghĩa là gì. Và Cộng Đồng Tân Ước đã cảm nghiệm chính Biến Cố Kitô này
với một lòng vui sướng tràn đầy và trao ban, và như thế họ đặt để hoàn toàn con
người của họ và biểu lộ đó. Họ đã dùng tài năng của họ để tạo nên một sự gì
tuyệt đẹp và dâng nó lên Thiên Chúa như là dấu chỉ và biểu chứng lời ca tụng và
cảm tạ.
Không gương sáng nào
hơn gương của Thánh Luca, tác giả của bài Phúc Âm hôm nay! Phúc Âm theo Thánh
Luca là một bài ca ngợi và cảm tạ. Ông đã dùng kiến thức và kinh nghiệm mà ông
có để trao ban cho thế giới một Tin Mừng thật hay.
"Lòng biết ơn
chính là ký ức của con tim." Trong bài giáo huấn hôm nay, Chúa Giêsu trên
đường đi đến Giêsusalem khi Ngài gặp 10 người phong cùi. Chúng ta sẽ liền khám
phá rằng 9 người trong bọn họ có một ký ức thật là ngắn ngủi. Khi 10 người gặp
Chúa Giêsu, họ van nài, "Lạy Ngài Giêsu, xin thương đến chúng tôi"
(Lk. 17:13). Họ nài nỉ xin Chúa Giêsu chữa họ khỏi căn bệnh khủng khiếp của họ.
Và nằm trong lời van nài ơn cứu chữa nhân từ thông thường này chứa ẩn một đức
tin thông thường -- đức tin mà Chúa Giêsu Nagiarét, danh tiếng Ngài được truyền
lan đến ngay cả cộng đồng cô lập của người cùi, có quyền lực làm phép lạ chữa
họ khỏi bệnh. Niềm tin của họ đã không bị lầm lạc. Chúa Giêsu nói với họ,
"Hãy đi trình diện với các tư tế," và lập tức họ được lành sạch.
Trong khi các người cùi bị dồn ép sống biệt lập, họ cần phải có chứng nhận
chính thức của các tư tế cho sự lành sạch của họ trước khi có thể trở lại cuộc
sống như những người thường. Do đó, chín người phong cùi đi thẳng đến đền thờ.
Chỉ có một người trở lại bày tỏ lòng biết ơn với Chúa, khi anh nhận ra mình đã
được lành sạch. "Lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa," anh sấp mình xuống
chân Chúa Giêsu và cảm tạ Ngài. Chúa Giêsu nói với anh, "Hãy đứng dậy mà
về; đức tin anh đã làm cho anh lành mạnh" (Lk. 17:19). Bản dịch khác dịch
rằng, "Đức tin anh đã làm cho anh được trọn vẹn" hay "Đức tin
anh đang là ơn cứu độ anh."
Cả 10 người cùi có
niền tin vào quyền làm phép lạ của Chúa Giêsu. Thế nhưng Thánh Luca tỏ rõ rằng
Chúa Giêsu nói những lời của ơn cứu độ với chỉ một người trong bọn họ. Rõ ràng,
tác giả Tân Ước muốn nói cho chúng ta biết rằng những nguyên liệu của lời ca
tụng và cảm tạ là trung tâm điểm của đức tin chân chính. Không có chúng, những
việc bày tỏ đức tin của chúng ta thì chỉ là hời hợt.
Trong khi dùng chính
những tài năng mà Thiên Chúa ban để tạo nên một sự việc tuyệt đẹp cho Thiên
Chúa, các bạn hoạ nên một bức ảnh. Các bạn phổ ra một bài thơ. Các bạn sáng tác
một bài hát. Các bạn sửa chữa một sự gì đã bị hư hỏng. Các bạn cất lên một căn
nhà. Các bạn trồng lên một khóm hồng. Các bạn sửa soạn một bữa ăn ngon. Ai
trong chúng ta cũng có một vài những khả năng, và chúng ta có thể làm những gì
chúng ta có thể để làm vinh danh Thiên Chúa. Mỗi một người trong chúng ta có
thể làm một cái gì đó hiển nhiên như là những phương tiện để đưa chính con
người của chúng ta vào việc bày tỏ lời ca tụng và cảm tạ Thiên Chúa. Nó trở nên
một phần trong cách thức sống của chúng ta hầu thông mở máng chuyển Ân sủng
triền miên.
Mỗi một người chúng ta
có thể làm việc này: trước khi tuần lễ chấm dứt, đời sống của các bạn sẽ chạm
đến nhiều người. Trong tinh thần của Chúa Giêsu Kitô, các bạn có thể tạo nên
những mối dây liên kết tốt lành, và nhận ra niềm thành tín của người khác, và
mời gọi với những tài năng đặc biệt của họ. Và các bạn có thể dâng những mối dây
liên kết này như là những dấu chỉ hữu hình của lời ca tụng và cảm tạ của các
bạn lên Thiên Chúa.
34. Tạ ơn là một biểu hiệu của lòng tin
(Suy niệm của Lm. Đỗ
Bá Công)
Một thi sĩ đã tả lại
một giấc mơ thế này: Thiên Chúa mở đại hội “trăm hoa đua nở”. Tất cả các loại
hoa trên mặt đất đều gởi đại biểu đến tham dự. Thật là một rừng hoa tươi thắm
muôn màu, xông hương khoe sắc trước nhan Chúa. Các đại biểu hoa, tay bắt mặt
mừng chào hỏi thăm nhau, duy chỉ có hai loại hoa không buồn giáp mặt nhau. Đó
là hoa Thi ơn và hoa Nhớ ơn.
Giấc mơ chỉ vắn vỏi
chừng ấy, nhưng thật có ích cho ta, vì nó mô tả trung thực sự kiện xảy trong
bài Tin Mừng: mười người phong hủi đã được Chúa chữa lành, nhưng chỉ một người
trở lại tạ ơn Chúa. Cũng như ở đời có lắm người thi ân mà có ít người nhớ ơn.
Ta hãy cùng nhau suy niệm:
- Con số thống kê một
trên mười nói lên những điều gì?
- Khi ta đã ý thức tạ
ơn là một biểu hiệu của lòng tin, ta phải tạ ơn thế nào?
“Chỉ một trên mười
người phong hủi được lành đến tạ ơn, nói lên chẳng những là sự vô ơn, mà một
cách sâu xa hơn, là sự thiếu lòng tin”. Với câu hỏi của Chúa Giêsu trên người
phong hủi biết ơn đang sụp dưới chân Ngài: “Ngươi hãy đứng dậy mà về, vì lòng
tin của ngươi đã cứu chữa ngươi”. Cha Féder giải rằng: “Chúa ngạc nhiên khi thấy
chỉ có một người quay trở lại mà lên tiếng tôn vinh Chúa, nên Ngài cảm phục
lòng tin tưởng đầy biết ơn của người Samari đó.”
Vâng, chính đức tin đã
thúc giục người phong hủi trở lại tạ ơn Chúa. Bởi lẽ, việc Chúa chữa mười người
phong hủi này khác hẳn với trường hợp khác. Khi thấy Chúa đi qua, mười người
phong hủi đứng xa và la lớn rằng: “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng con”.
Chúa không đến với họ, nhưng Ngài cũng từ xa lớn tiếng trả lời: “Các ngươi hãy
đi trình diện với các tư tế”. Thế là vâng theo lời Chúa dạy, mang thương tích
mà đi. Và chỉ khi đã đi một đoạn đường xa, họ mới thấy mình lành mạnh. Như thế,
Chúa Giêsu đã khuất bóng họ và có lẽ họ có cảm tưởng rằng, việc họ được sạch là
một việc tình cờ chăng? Hơn nữa, có tạ ơn hay không, họ cũng đã sạch phong hủi
rồi. Vì thế, việc đầu tiên của họ là đi trình tư tế, hầu được cấp giấy trở về
với làng họ, với bà con. Duy chỉ người Samaria nghĩ khác mà trở lại cảm tạ
Chúa.
Vâng, chỉ để ra một
giây phút suy tư, một nháy mắt quan sát, ta có thể thấy đời ta tràn ngập hồng
ân Thiên Chúa: Đây bầu không khí trong lành ta đang thở. Đây bát cơm ta đang
ăn, chén nước ta đang uống. Đây tiếng chim thánh thót ta đang nghe, hương sắc
những cánh hoa ta đang hưởng, tất cả đều nói cho ta hay tình yêu vô biên của
Chúa chan hoà đời sống chúng ta.
Khi ta đã ý thức tạ ơn
là một biểu hiệu của lòng tin, ta phải tạ ơn thế nào? Cái nhìn đức tin ấy có
hướng chúng ta tới Thánh Thể để tạ ơn Chúa không?
Ta hãy đưa con người
tướng quân Naaman được mô tả trong bài đọc I để làm gương sáng cho chúng ta.
Khi Naaman đã xuống tắm bảy lần ở sông Giođan theo lời tiên tri dạy, da thịt
ông lại trở nên hồng hào như da thịt đứa trẻ, thì việc trước tiên là ông và
đoàn tùy tùng trở lại gặp người của Thiên Chúa. Ông không cảm tạ Elisê, nhưng
ông lớn tiếng và ngước mắt lên trời tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa và tạ ơn
Ngài. Nói xong Naaman mới lấy của lễ dâng Elisê. Elisê không nhận, Naaman cố
nài ép nhưng tiên tri nhất định từ chối. Sự từ chối của Elisê đã mạc khải cho
Naaman rằng: Chúa không muốn nhận của lễ vật chất và chỉ nhất thời, nhưng phải
là một của lễ thiêng liêng và trường tồn hơn. Chính trong lúc ấy, Naaman nảy ra
một sáng kiến. Ông nói: “Vậy xin ngài ban phép cho tôi được chở một xe đất đem
về nước tôi, để dựng tế đàn trên đất ấy mà dâng lễ tế cho Yavê, vì tôi tớ ngài
đây sẽ không còn dâng thượng hiến và tế lễ cho một thần linh nào khác.” Sáng
kiến ấy được tiên tri Elisê tán thành.
Như thế, nếu việc tạ
ơn đẹp lòng Chúa hơn hết trong Cựu ước là mỗi ngày dâng lễ toàn thiêu hoặc hy
lễ lên Yavê Thiên Chúa, thì ngày nay trong Tân Ước việc tạ ơn đẹp lòng Chúa hơn
hết cũng phải hướng về Thánh Thể – tức là Thánh lễ Misa, một của lễ cao quí
dâng lên hằng giây phúc “để từ Đông sang Tây có một hiến lễ trong sạch dâng lên
Chúa” (Kinh nguyện Thánh Thể III).
Vậy Thánh lễ có một
tầm quan trọng như thế bởi vì chỉ trong Thánh lễ, chúng ta mới tìm được một Tư
tế xứng đáng, một bàn thờ trong sạch và một của lễ vẹn toàn. Vị Tư tế ấy, bàn
thờ ấy, của lễ ấy chính là Chúa Giêsu. Nói đến đây, xin mọi người hãy tự vấn
lương tâm coi thử chúng ta có thấy triệt cái tầm quan trọng của Thánh Lễ chăng?
Ta có hối hận chăng vì đã bỏ lễ ngày Chúa Nhật? Chúng ta nghĩ xem: ai sẽ thay
thế chúng ta để cảm tạ Thiên Chúa về những ơn lành mà Ngài đã ban cho chúng ta
trong bảy này qua? Bởi vì “nhận ơn thì đừng quên ơn”. Rồi ai sẽ thay thế chúng
ta để xin ơn Chúa cho bảy ngày tới? Bởi vì không có Chúa, ta không làm gì
được”.
Như thế, hôm nay đây
trước nhan Chúa, chúng ta hãy cùng nhau đoan hứa quyết dốc lòng luôn cảm tạ
Thiên Chúa với một niềm tin chân thành.
35. Tán tụng hồng ân- Lm. Vũ Minh Nghiễm
Cách đây không lâu,
trong kỳ nghỉ hè, một thanh niên Trung học tình nguyện đi làm việc xã hội ở
Nicaragua. Chàng đi theo một nhóm y tế đến một làng nhỏ trên miền núi để chích
thuốc ngừa bệnh tê liệt, bệnh đậu mùa, cho các trẻ em nghèo ở đó. Chàng thuật
lại rằng:
“Cuối tuần đầu, tôi
cảm thấy rất chán nản, nhớ nhà, nhớ bạn. Tôi đi ra ngoài trời, ngồi ủ rủ trong
bóng tối và tự hỏi: Tại sao tôi lại tình nguyện đi tới một nơi xa lạ nghèo khổ
như thế nầy? Bỗng tôi nghe có tiếng người nói trong đêm tối. Đó chính là José
Santos, một giáo viên cũng là gia trưởng của gia đình tôi trọ. Ông kéo ghế ngồi
gần bên tôi, mắt ngước lên nhìn trời.
Sau một phút thinh
lặng, ông José bắt đầu nói:
“Thật là hùng vĩ”
Tôi hỏi:
- Thưa Thầy, Thầy nói
gì vậy?
Ông José lại nói:
“Thật là hùng vĩ!”
“Đôi mắt ông vẫn ngước
nhìn lên trời. Tôi cũng nhìn lên trời theo. Thì ra tôi đã không để ý rằng trên
đầu tôi, hằng hà sa số những ngôi sao lung linh nhấp nháy, một quang cảnh rực
rỡ vô cùng. Chúng tôi cứ ngồi đó mãi, mắt nhìn lên trời hoài, thưởng ngoạn sự
huy hoàng của muôn vì sao trên không trung lồng lộng.”
Cảm nghiệm hôm đó,
không bao giờ tôi có thể quên được. Sáng hôm sau, tôi đi tới một ngọn suối để
tắm. Chung quanh tôi, cỏ cây mơn mởn tươi xanh. Vạn vật điều yên tĩnh, trừ ra
tiếng nước chảy róc rách, hòa với tiếng bầy chim ca hát líu lo trên ngọn cây.
Bây giờ tôi nhớ lại lời ông José nói trong đêm vừa rồi: “Thật là hùng vĩ!”
Những cảnh tượng Thiên Chúa ban cho chúng ta thật là hùng vĩ. Và tôi cảm thấy
tâm hồn sảng khoái lạ thường. Chưa bao giờ tôi cảm nghiệm được lòng biết ơn đối
với Chúa sâu sa như vậy. Chưa bao giờ tôi cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương
tôi bao la như vậy. Khi trở lại chích ngừa cho các em trong làng, tôi luôn luôn
vui cười, từ đầu chí cuối, đến nỗi đau cả hai gò má.”
Câu chuyện nầy nhắc
chúng ta nhớ đến hai hạng người mà Chúa Giêsu nói đến trong Phúc âm hôm nay.
Hạng người biết tri ân đối với những ơn Thiên Chúa đã ban cho mình. Và hạng
người vô ơn bội nghĩa.
Câu chuyện trên cũng
cho chúng ta thấy rằng: Các em nào lớn lên mà hay vô ơn, là vì các em đó đã
không được ai chỉ vẽ cho biết cách tri ân. Cậu sinh viên Trung học nói trên, sở
dĩ học biết lòng tri ân đối với các ơn Thiên Chúa ban cho là nhờ có ông giáo
viên José Santos dạy bảo cho.
Một hôm nà Ann Landers
nhận được một bài do người nào đó cắt trong báo Wall Street Journal gởi cho bà.
Bài đó như sau:
“Một hôm, có người hỏi
một người miền Nam Hoa-kỳ rằng:
- Ranh giới miền Nam
thực sự bắt đầu từ chỗ nào?
Người miền Nam kia đáp
lại cách kiêu hãnh:
- Ranh giới miền Nam
bắt đầu từ chỗ người ta thấy các trẻ em biết nói: ‘Dạ, thưa ông có’. ‘Dạ, thưa
không’.
Thật ra, bài báo nói
tiếp, phép lịch sự không phải là vấn đề địa dư. Nhưng phép lịch sự đó, các học
được nơi cha mẹ, không phải nơi con dấu của bưu điện.”
Bài báo vừa rồi nhắc
nhở cha mẹ có bổn phận dạy bảo con cái biết ăn nói lịch sự. Nhưng ăn nói lịch
sự và có lòng biết ơn cũng là một. Chỉ có những ai lịch sự mới biết nói: “Cảm
ơn”. Không phải bất cứ lời cám ơn nào, nhưng là lời cám ơn chân thành.
Một trong những phương
pháp hữu hiệu để dạy con phải có lòng biết ơn, là phương pháp của José Santos
dạy cậu học sinh Trung học Chicago nói trên. Đó là chia sẻ những lý do thúc đẩy
mình biết ơn Thiên Chúa về những ơn lành Ngài đã ban cho.
Ông Byron, một người
sinh trưởng tại Nebraska, nói: “Khi lên 8 tuổi, tôi có một con ngựa nhỏ tên
Frisky. Một buổi sáng, khi tôi đang ngồi trên lưng, bỗng nó lồng lên, chạy nhảy
như điên khùng. Tôi hết hồn hết vía, nhắm mắt cố ghì chặt lấy lưng ngựa. Sau
cùng, may quá, tôi được thoát nạn, an toàn. Tối đó, trước giờ đi ngủ, ba tôi
lên phòng, bảo tôi quì xuống đất bên cạnh người, rồi người lớn tiếng chúc tụng
tạ ơn Chúa vì đã cho tôi được qua tai qua nạn khỏi. Đến nay đã 55 năm rồi, tôi
vẫn nhớ mãi đêm đó. Đêm mà ba tôi dạy tôi biết tạ ơn Thiên Chúa về ơn lành Ngài
đã ban cho tôi như thế nào. Và từ đó, tôi coi việc tán tụng hồng ân Thiên Chúa
là bổn vụ thường xuyên hằng ngày của cuộc đời tôi.”
Trở lại với Phúc âm
hôm nay, chúng ta hãy tự hỏi mình: Tôi thuộc hạng người nào? Tri ân hay phụ ân?
Nếu là phụ huynh, là
cha mẹ, tôi có lo dạy bảo con em biết tạ ơn Chúa về các ơn lành Chúa ban cho
không?
Bài Phúc âm hôm nay
nói trong số mười người được chữa khỏi bệnh phong cùi, thì chỉ có một người
biết tạơn Chúa thôi. Mà người nầy lại là người ngoại giáo. Còn chín người thuộc
dân riêng Chúa đều phụ ơn.
Trước cảnh tượng nầy,
Chúa Giêsu lấy làm buồn, hỏi:
“Không phải tất cả
mười người đều được lành sạch cả sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy trở
lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang nầy?
Chúa buồn không phải
buồn vì bị phụ ơn, cho bằng buồn vì thấy trong 10 người, chỉ có một người hiểu
biết tình trạng thiêng liêng của mình trước mặt Thiên Chúa.
Bệnh phong cùi là thứ
bệnh nan y thời bấy giờ. Chỉ có một phép lạ do quyền năng của Thiên Chúa mới
chữa lành được. Vậy việc Đức Giêsu chữa họ khỏi bệnh phong cùi là một lời tuyên
bố Ngài là ai. Ngài là Đấng Thiên Sai đã được các tiên tri loan báo từ lâu đời
về trước. Ngài đến để thuyên chữa các tật bệnh, đem hy vọng tới cho những người
tuyệt vọng, những tù nhân.
Trong mười người chỉ
có một đến tạ ơn Thiên Chúa, vì nhận biết rằng loài người trước mặt Ngài chỉ là
những hành khất, những người đi xin bố thí. Và người đó là người dân ngoại. Còn
chín người kia, những người thuộc dân Chúa chọn, thì vô ơn, coi ân huệ Chúa ban
cho họ như tất nhiên. Như cha mẹ sinh con ra, tất nhiên phải lo gầy dựng cho
con cái. Họ là những người mù lòa thiêng liêng, không nhìn thấy tình trạng thấp
kém nghèo hèn của mình trước mặt Thiên Chúa. Chính sự mù lòa thiêng liêng của
họ đây hơn là sự họ phụ ơn Ngài, làm cho Đức Giêsu phải buồn rầu.
Chúng ta biết rằng
lòng biết ơn là một nhân đức trong đạo. Người Việt Nam gọi là hiếu nghĩa, hay
là chữ Hiếu. Điều răn thứ IV dạy chúng ta phải có hiếu, phải biết ơn cha mẹ,
ông bà tổ tiên, và trên hết là biết ơn.
Chúa Trời, Đấng tạo
thành vạn vật. Thánh lễ, trung tâm điểm của việc thờ phượng Chúa mà chúng ta
đang cử hành trong giờ nầy, là do tiếng Eucharistia, một danh từ trong tiếng Hy
Lạp có nghĩa là Tạ Ơn.
Dâng thánh lễ hay là
dâng lời Tạ Ơn Thiên Chúa cũng là một. Thể theo lời truyền dạy của Chúa trong
đêm Tiệc Ly, Giáo Hội dạy chúng ta năng đi dâng lễ, tối thiểu một tuần một lần
trong ngày Chúa nhựt, hầu nhớ lại những ơn lành hồn xác Ngài ban cho chúng ta
là những người mắc bệnh phong cùi một cách nào đó, là những người thực sự đi ăn
xin bố thí trước cửa nhà Chúa.
Hội Thánh dạy chúng ta
năng đi dâng lễ là để Tạ ơn Chúa. Thánh lễ là trung tâm điểm của việc thờ
phượng Chúa. Cảm tạ hồng ân Chúa cũng phải là trung tâm điểm của đời sống tín
hữu của chúng ta.
Để tóm lược: nhân bài
Phúc Âm có giọng điệu u buồn hôm nay, mỗi một người trong chúng ta hãy tự xét
mình:
Trước hết, tôi thuộc
về hạng người nào trong hai hạng người của Phúc Âm. Hạng người biết ơn như
người ngoại bang Samari? Hay hạng người vô ơn bội nghĩa cùng Chúa như chín
người Do-thái kia?
Sau nữa, nếu là cha
mẹ, phụ huynh, tôi có lo dạy vẽ cho con em biết cách xử thế lịch sự cùng mọi
người, biết tạ ơn Chúa về những ơn Ngài đã ban cho, ít nhứt trước khi lên
giường nằm ngủ, như cụ thân sinh của ông Byron nói trên chăng?
36. Sống tri ân- Lm. Bùi quang Tuấn
"Chớ thì không
phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu?" (Lc 17:17)
Cách đây không lâu,
giới điện ảnh Hollywood có phát hành một cuốn phim mang tựa đề Schindler’s List
dựa trên một câu chuyện có thật thời Đệ Nhị Thế Chiến.
Schindler là một nhà
kinh doanh giàu có người Đức. Khi gặp cảnh những người Do thái bị ức hiếp, giết
hại, ông đã tìm cách cứu họ qua việc mua chuộc các sĩ quan Đức để được phép
chiêu mộ nhân công Do thái cho các cơ xưởng của ông. Việc này nếu bị bại lộ thì
không những gia sản bị tước đoạt mà mạng sống của ông cũng chẳng còn, vì Hitler
sẽ không dung thứ cho kẻ nào dám bao che hay bênh vực dân Do thái.
Cuốn phim được kết
thúc không bằng cảnh quân đội đồng minh tiến vào giải phóng người Do thái,
nhưng là cảnh Schindler phải chạy trốn vì bị tố cáo có chân trong Đảng Quốc xã.
Lúc chia tay với các nhân công, ông đã bật khóc. Người ta tò mò hỏi tại sao ông
khóc? Ông cho hay: "Tôi hối tiếc vì đã không cứu được nhiều người
Dothái." Không ít người ngạc nhiên hỏi lại: "Thế nhưng ông đã cứu
được hàng ngàn người Do thái chúng tôi cơ mà?"
Sau lúc dằn nén cảm
xúc, Schindler trả lời: "Nếu tôi bớt được tính ích kỷ thêm một chút nữa
thì có lẽ nhiều người Do thái đã không phải chết oan. Nếu những chiếc đồng hồ,
cà rá trên tay tôi được bán đi sớm hơn một chút thì tôi đã cứu thêm được vài
người. Nếu tôi không dùng chiếc xe quá sang trọng kia thì có lẽ tôi đã giải thoát
thêm được ít là 10 người Do thái nữa rồi."
Câu nói của Schindler,
người mà sau này dân Do thái vinh danh như một anh hùng, đáng cho con người hôm
nay suy nghĩ: Làm việc thiện nhưng không nghĩ đến trục lợi. Lo cứu người đến độ
không quản ngại tài sản, địa vị, và tính mạng của mình. Làm nhiều việc thiện,
cứu được nhiều người mà vẫn còn cảm thấy như chưa thực hiện được bao nhiêu.
Thử hỏi động lực nào
đã thúc đẩy Schindler ra tay cứu mạng người Do thái như thế? Phải chăng vì lợi
nhuận? Hay mưu đồ riêng tư? Hay phải thi hành một sự báo đáp nào đó?
Không một động lực hay
lôi cuốn lớn lao nào đã khiến cho Schindler dám trả giá mạng sống, địa vị, và
tài sản mình có để cứu "kẻ thù của dân tộc Đức," ngoại trừ lòng xác
tín vào một chân lý: chỉ mình Thượng Đế mới có toàn quyền trên sự sống con
người; còn con người là phải biết tôn trọng và bảo vệ sự sống đó cho nhau.
Việc tôn trọng, bênh
vực và làm thăng hoa chân lý đó, cộng với thái độ dám hy sinh của cải, sức lực
và an toàn cá nhân chính là hành động biết ơn và tôn vinh Đấng ban sự sống cho
mình cách chân thành và sâu xa nhất.
Trong sách Các Vua có
nhắc đến chuyện ông Naaman, một người dân ngoại đang bị chứng phong cùi bào mòn
sự sống. Ông được chữa lành sau khi nghe lời tiên tri Elisa đi tắm tại sông
Giođan. Thế rồi, trước khi về lại quê hương, Naaman đã tuyên bố trước mặt vị
tiên tri: "Từ nay, ngoài Chúa ra, tôi tớ ngài sẽ chẳng dâng của lễ toàn
thiêu hoặc hy tế tôn vinh bất cứ thần minh nào khác." Tâm tình biết ơn và
tự nguyện vinh danh Thiên Chúa này đã được Đức Giêsu nhắc lại sau khi chữa lành
cho 10 người phong cùi, nhưng chỉ có một người biết trở lại để tri ân và tôn
vinh. Đức Giêsu phải thốt lên: "Còn chín người kia đâu? Chớ thì không phải
họ đã được lành sạch hết sao? Tại sao chỉ có một người ngoại giáo này?"
Không phải Đức Giêsu
cần đến lòng tri ân và lời ca ngợi chúc vinh của con người, nhưng bởi những ai
biết ơn, kẻ đó sẽ nhận ra ơn mới. Một con người có lòng tri ân sẽ không bao giờ
thiếu vắng hạnh phúc, vì nhận thức mình luôn được yêu thương và tặng ban. Chính
điều này làm cho sức sống nơi họ thêm phong phú và tràn đầy. Sức sống đó sẽ
giúp họ thêm quảng đại, cảm thương, và trao ban cho tha nhân. Đây chính là điều
Đức Giêsu muốn nhìn thấy nơi con người, và đây cũng chính là điều mà Schindler
đã thực thi.
Đức Giêsu muốn con
người nhận ra ơn Chúa trong đời mình để tri ân và đáp đền qua việc bảo vệ và
làm thăng hoa cho sự sống của người xung quanh. Biết ơn sẽ làm cho đời người
thêm hạnh phúc.
Tôi muốn tri ân Thiên
Chúa đã ban cho tôi sự sống, biết ơn Ngài vẫn hằng tuôn đổ ân thiêng từ trời
cao, biết ơn những ai giúp làm phong phú đời mình, cả thể xác lẫn tinh thần,
chính là thái độ cần có nơi những người mang danh Kitô hữu.
Có tâm tình biết ơn
như vậy, tôi mới dám vượt trên danh dự cá nhân, gia đình để bảo vệ sự sống thay
vì huỷ diệt.
Có biết ơn như vậy,
tôi mới tích cực dùng khả năng, thời gian, sức lực, của cải vào việc giáo dục
dạy dỗ, củng cố niềm tin, và gia tăng sức sống của tha nhân.
Và có biết ơn như vậy,
tôi mới có thể đi sâu hơn vào ý nghĩa của Hiến lễ Tạ ơn--trung tâm điểm của đời
sống Kitô hữu--nơi đó tôi tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa qua Đức Giêsu, và cũng
nơi đó tôi đón nhận chính Ngài để làm phong phú cho sức sống của tâm hồn, gia
đình, và xã hội.
37. Gặp gỡ để bày tỏ lòng biết ơn
(Suy niệm của Lm. FX.
Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Với giai thoại Đức
Giêsu chữa mười người phong này (17,11-19), tác giả bắt đầu phần thứ ba
(17,11–18,14) của bài tường thuật hành trình lên Giêrusalem: tại c. 11a, độc
giả gặp lời nhắc về hành trình này lần thứ ba (hai lần trước: 9,51; 13,22). Cho
dù c. 11b tạo ra một điểm khó giải thích (“thập giá của các nhà chú giải”) do
có những lời quy chiếu về Samari và Galilê, độc giả vẫn không quên rằng mối bận
tâm thần học của Lc là đưa Đức Giêsu về thành định mệnh, để tại đó công cuộc
cứu độ loài người được vĩnh viễn hoàn tất.
Đây là giai thoại chỉ
có trong Tin Mừng Luca.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia
thành bốn phần:
1) Địa điểm (17,11);
2) Đức Giêsu chữa lành
mười người phong (17,12-14);
3) Người Samari trở
lại cám ơn Đức Giêsu (17,15-18);
4) Liên hệ giữa đức
tin và cứu độ (17,19).
3.- Vài điểm chú giải
- Đức Giêsu đi qua
giữa hai miền Samari và Galilê (11): “Đi qua giữa
(dia meson) hai miền Samari và Galilê” có thể có nghĩa là đi trong giải đất làm
thành biên giới giữa hai miền. Nếu thế, hẳn là Đức Giêsu đi theo con đường này
để đến thung lũng Giođan phía Sythopoli và từ đó đi xuống tới Giêrikhô (18,35),
rồi từ đó Người sẽ đi lên Giêrusalem. Từ ngữ meson (mesos, “giữa”) được dùng ở
đối-cách, thay vì thuộc-cách (Đối-cách: accusative; thuộc-cách: genitive)
và không có mạo từ dường như hỗ trợ cho cách giải thích này. Cả về mặt địa lý,
cách giải thích này cũng chắc chắn hơn, bởi vì nếu Đức Giêsu đi về Giêrusalem,
thì Người đi từ bắc xuống nam; nhưng nếu Người “đi qua Samari và Galilê” (theo
một cách dịch), thì dường như Người đi từ nam lên bắc! Phải chăng chi tiết địa
lý này có một ý nghĩa thần học? Trong trường hợp này, chắc là Lc viết “đi qua
Samari và Galilê”, mà mắt nhìn lui về phía sau để ngó lại đoạn đường đã đi qua.
Con đường và hoạt động của Đức Giêsu luôn luôn được hướng dẫn bởi Giêrusalem,
nên bây giờ Người như đứng tại Giêrusalem mà nhìn ngược lại. Ta chỉ có thể hiểu
được lộ trình, cuộc tiến bước và tất cả hoạt động của Người nếu khởi đi từ
Giêrusalem, nơi số phận bi thương đang chờ Người. Phần tường thuật cuộc hành
trình đã bắt đầu với một sự cố nhắc đến Samari, nay Samari cũng bắt đầu chặng
cuối của cuộc hành trình. Như thế, Samari là cái cầu chuyển Lời Chúa từ Galilê
đến Giêrusalem, rồi từ Giêrusalem đến với Dân ngoại. Sau khi sống lại, Đức
Giêsu sẽ giao cho các môn đệ sứ mạng này: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại
Giêrusalem, trong khắp miền Giuđê và miền Samari và cho đến tận cùng trái đất”
(Cv 1,8). Như thế, con đường Đức Giêsu theo hôm nay phác ra trước con đường Giáo
Hội sẽ theo sau này: con đường của Giáo Hội là hoa trái của con đường Đức
Giêsu.
Chúng ta ghi nhận rằng
về phương diện ngữ học, cách giải thích thứ hai có thể chấp nhận được: cách
dùng dia trong thể thơ với từ ngữ chỉ nơi chốn ở đối-cách, dù chỉ có ở đây trong
Tân Ước, ta thấy có trong hy-ngữ sau này.
Cũng khó có thể chọn
lựa dứt khoát cách giải thích nào. Theo N. Guillemette, nếu Lc đã muốn nói “ở
biên giới của Samari và Galilê” như BJ (“aux confins de la Samarie et de la
Galilée”) hoặc “dọc theo biên giới Samari và Galilê”, hẳn ông đã nói. Về phương
diện này, dường như cách dịch của TOB (“Người đi băng qua Samari và Galilê”,
“il passa à travers la Samarie et la Galilée”) tự nhiên hơn. Mặc dù cách giải
thích thứ hai có thể khiến ta có ấn tượng là hơi ép về mặt thần học, nó lại hài
hòa với các bận tâm thần học và địa lý của tác giả Luca. Vì thế, trong khi chờ
đợi những khám phá mới, Guillemette nghiêng về cách giải thích này.
- mười người mắc bệnh
phong (12): Rất có thể con số “mười” chỉ có nghĩa là một con số tròn.
- Hãy đi trình diện
các tư tế (14): Đức Giêsu không chữa lành họ, mà bảo họ cứ đi gặp các tư
tế trong tình trạng bệnh tật. Người gợi đến quy tắc Lv 13,49. Các “tư tế” đây có lẽ nói chung là
giới chức phục vụ thánh điện, chứ không nhất thiết là tư tế Do-thái đang làm
việc tại Đền Thờ Giêrusalem hoặc tư tế Samari đang phục vụ tại Núi Garidim.
- Anh sấp mình dưới
chân Đức Giêsu mà tạ ơn (16): Hành vi phủ phục cho hiểu là anh ta nhìn nhận Đức Giêsu là
người của Thiên Chúa.
4.- Ý nghĩa của bản
văn
* Địa điểm (11)
Vị trí địa lý cũng như
ngôi làng đều không được xác định. Điều quan trọng là Đức Giêsu đang tiến về
Giêrusalem; trên đường, Người đi qua cả Samari, là khối dân bị coi là bội giáo,
và Người đã có những khám phá độc đáo.
* Đức Giêsu chữa lành
mười người phong (12-14)
Vào thời Đức Giêsu, có
câu tục ngữ nói rằng: “Có bốn hạng người có thể được coi như người chết, dù vẫn
sống, đó là những người nghèo, người phong cùi, người mù và người không có
con”. Mọi chứng bệnh đều bị coi như hình phạt của Thiên Chúa để trừng phạt tội
lỗi, nhưng bệnh phong cùi được coi như là chính biểu tượng của tội. Người
Do-thái nghĩ rằng Thiên Chúa dùng bênh phong cùi để trừng phạt kẻ ghen tị, kiêu
căng, quân trộm cướp, giết người, thề gian và loạn luân.
Hôm nay Đức Giêsu gặp
mười người phong. Đôi khi số phận cướp mất sự tự do hành động của con người,
buộc con người phải sống một kiểu sống rất giới hạn. Ai mắc bệnh phong là rơi
vào tình trạng đó. Người ấy bị dứt khoát loại khỏi gia đình và làng quê và phải
sống bên lề cộng đồng nhân loại. Người ấy chỉ được sống chung với những người
cũng mắc chứng bệnh đó. Vì sợ bị lây nhiễm, xã hội bắt họ phải la to hoặc rung
chuông mà báo cho biết là họ đang đến; họ sống nhờ xin bố thí, nhưng luôn phải
ở cách những vùng dân cư; họ được vào một làng, nhưng không được vào một thành
có tường lũy bao quanh. Như thế, vì chứng bệnh này, họ phải sống một kiếp sống
thê thảm bên lề xã hội. “Mười” có thể có nghĩa là “toàn vẹn”. Như thế, “mười
người phong” tượng trưng cho tình trạng tội lỗi, là biểu tượng của tội, của
tình trạng bần khốn của con người, của tình trạng xa lìa Thiên Chúa và người
thân cận. Đức Giêsu đã gặp mười người đúng với hoàn cảnh của họ: họ đứng đàng
xa và kêu lớn tiếng xin Đức Giêsu giúp đỡ. Đáng ghi nhận là nhóm này gồm cả
người Do-thái lẫn người Samari. Hẳn là bệnh tật và sự bần khốn đã giúp xóa đi
những tị hiềm giữa Do-thái và Samari (x. Lc 9,53; Ga 4,4-9). Sự bất hạnh đã đưa
họ lại với nhau và làm cho họ thành bạn bè. Mười người phong cùi này không tách
riêng nhau ra mà xin giúp đỡ từng người một; họ cùng đi với nhau mà gặp Đức
Giêsu. Lời cầu xin của họ là lời thỉnh cầu của cộng đoàn: “Lạy thầy Giêsu, xin
rủ lòng thương chúng tôi!” (c. 13).
Trong trường hợp bà
goá Nain (7,11-17) và người phụ nữ còng lưng (13,10-17), Đức Giêsu đã lấy sáng
kiến, đến gần và thương xót cứu giúp các bà. Trong trường hợp những người phong
này, Người lại để cho họ có sáng kiến, họ cầu khẩn Người. Người cũng chẳng đến
gần họ, mà lại bảo họ đi xa Người, như thể Người muốn tránh né họ. Người phái
họ đến gặp các tư tế mà bề ngoài chưa hề làm gì để chữa họ cả. Theo quy định
của Cựu Ước (Lv 13–14), các tư tế có thẩm quyền tuyên bố về các chứng bệnh này.
Các vị phải xác nhận rằng một người phong đã thật sự khỏi bệnh. Nhờ phán quyết
này mà một người đã hết bệnh được tái nhập xã hội. Mười người phong này cần
được chữa lành đã, thì việc họ đi trình diện các tư tế mới có ý nghĩa. Đức
Giêsu lại bảo họ cứ việc đi, vì Người đòi hỏi họ có lòng tin để hiểu rằng việc
ra đi do Người truyền lệnh có một ý nghĩa và đưa đến một cùng đích. Trong khi
đi đường, họ đã được khỏi bệnh.
* Người Samari trở lại
cám ơn Đức Giêsu (15-18)
Cho tới lúc này, mười
người phong được giới thiệu như một nhóm. Tất cả đều sống như nhau; tất cả đều
sống một biến cố như nhau. Bây giờ có một người tách khỏi nhóm và quay lại với
Đức Giêsu. Tại sao chỉ có một người trở lại bày tỏ lòng biết ơn? Tại sao Đức
Giêsu than thở về chín người kia khi chính Người đã truyền họ đi và trình diện
trước tiên với các tư tế? Phải chăng người Samari đã không vâng lời Người? Có lẽ
những người khác cũng sẽ trở lại cám ơn Đức Giêsu, nhưng lúc này họ vội vã đến
gặp các tư tế vì họ muốn được tuyên bố là sạch bệnh càng sớm càng tốt và thế là
bỏ được số phận bi đát. Họ mong muốn được trở vào cộng đồng nhân loại càng sớm
càng tốt, như là những thành viên có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ. Họ nhìn tới
tương lai, chứ không nhìn lui về Đấng đã kéo họ thoát khỏi số phận bi thương.
Chỉ có một người duy nhất đã “quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa”.
Chỉ có người Samari này đã nhận ra được Đức Giêsu là ai và muốn nhìn nhận tư
cách đặc biệt của Đức Giêsu như là trung gian của Thiên Chúa. Chín người kia
làm các công việc theo cách quy ước và đi theo những cách hành đạo truyền
thống, họ không nhận thấy là một trật tự mới đã được thiết lập. Điều này đã xảy
ra cho dân Israel. Những kẻ laic đạo, những người ngoại giáo là những người đầu
tiên nhận ra rằng Đức Giêsu là Đấng trung gian đưa ơn cứu độ của Thiên Chúa đến
cho trần gian.
* Liên hệ giữa đức tin
và cứu độ (19)
Người Samari này ca
ngợi Thiên Chúa và cám ơn Đức Giêsu. Anh coi điều Đức Giêsu đã làm cho anh là
một ân huệ của Thiên Chúa. Tất cả mười người đều đã được lành. Nhưng chỉ đối
với anh Samari này, cuộc chữa lành không những là dịp khôi phục sức khoẻ và đời
sống chung với loài người, mà còn trở thành dịp gặp gỡ Thiên Chúa và Đức Giêsu.
Chứng nan y đã đưa anh đến một tiếp xúc đầu tiên với Đức Giêsu, một cuộc gặp gỡ
từ đàng xa. Sau khi được chữa lành, anh không chạy xa Đức Giêsu, nhưng đã trở
lại với Người mà ca ngợi Thiên Chúa. Với lần thứ hai này, anh có thể gặp Người
gần kề hơn, như Đấng đã tỏ lòng thương xót anh. Không những trong tư cách là
người đã chữa bệnh phong, mà còn trong tư cách là người có ơn ban thường trực
là kinh nghiệm này, Đức Giêsu chỉ cho anh lộ trình sau này. Tất cả giai thoại
kết thúc bằng câu nói: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”.
Đức Giêsu không nói:
“Tôi cứu chữa anh”, mà lại nói: “Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Anh đã nhận
biết hoạt động của Đức Giêsu là Đức Chúa, anh đã đón nhận, nay anh dâng trả lại
cho Người. Những người khác nhận được sự chữa lành như là một món nợ được trả,
họ giữ ân huệ của Thiên Chúa lại cho mình. Chỉ có anh Samari này “quay trở
lại”, “hoán cải” và nhận biết rằng anh ta mắc món nợ phải trả. Vì thế, chỉ có
anh này mới thật sự “được cứu”.
Bằng việc quay trở lại
với Đức Giêsu, người Samari cho chúng ta thấy rằng anh đã hiểu tại sao lúc đầu
anh lại được sai đến với các tư tế. Anh phải nói cho họ biết tin này: Thiên
Chúa đã sai đến Đấng từng được các ngôn sứ loan báo, Đấng làm cho người mù được
thấy, kẻ điếc được nghe, kẻ què được đi, người chết trỗi dậy và người cùi được
lành (x. Lc 7,22). Anh làm chứng rằng Thiên Chúa ở gần mọi người, kể cả người
phong cùi. Từ nay sẽ không còn chia cách giữa người khỏe mạnh và người phong cùi,
giữa người công chính và lẻ tội lỗi.
+ Kết luận
Đức Giêsu đã chiếu cố
đến cả mười ngươi phong cùi, dù họ là người Do-thái hay là người Samari. Tuy
nhiên cách Người chữa lành đòi hỏi sự cộng tác nghiêm túc của con người. Trước
tiên, các bệnh nhân phải đi trình diện với các tư tế, y như thể họ đã lành: họ
phải chứng tỏ đức tin bằng cách vâng lời Người mà đi đến với các vị lãnh đạo có
quyền cho họ được tái tháp nhập vào trong cộng đồng. Sau đó, điều mà Đức Giêsu
chờ đợi chứ không truyền lệnh: họ phải chứng tỏ đức tin vào Người bằng cách nói
lên tâm tình biết ơn. Chỉ có một người bị coi là bội giáo, coi như kẻ ngoại, là
người Samari, đã quay trở lại mà cám ơn, tức là nhìn nhận rằng điều tốt lành
mình có được là do một Đấng khác. Chỉ khi thực hiện được cả hai điều này, vâng
lời và cám ơn Thiên Chúa, người ta mới thực sự được lành mạnh trọn vẹn. Đức tin
phát sinh từ việc nhận biết ân huệ Thiên Chúa ban và được diễn tả ra bằng một
tiếng “cám ơn” không ngừng. Khi nhìn nhận người Samari đã được đức tin chữa
lành, Đức Giêsu đã công nhận chỉ có anh này mới được chữa lành hoàn toàn.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Mười người phong
cùi được lành bệnh đang khi họ đi đường với nhau. Tân Ước vẫn so sánh đời sống
Kitô hữu như một hành trình dài, mệt nhọc. Sự lành mạnh thiêng liêng của chúng
ta không xả ra tức khắc. Nếu chúng ta đã sống nhiều năm như một người “phong
cùi”, chúng ta sẽ không được chữa lành đột ngột. Chúng ta phải đi với nhau, và
trên đường đi, chúng ta sẽ nhận ra rằng tất cả chúng ta đã được chữa lành.
2. Nghĩ về thân phận
người phong, chúng ta phải đặt ra cho mình câu hỏi: Ai là những người đang sống
một cuộc sống bên lề cộng đồng chúng ta? Họ đang phải sống kiểu sống nào? Hôm
nay, có những dạng bệnh và tật mới, hoặc một sự sa cơ thất thế, cũng khiến
người ta có thể bị đẩy ra bên lề xã hội. Phải chăng chúng ta coi đó là chuyện
đương nhiên, dễ hiểu?
3. Thông thường khi
nhận được một sự trợ giúp, người ta mau quên người đã giúp đỡ mình. Người ta
say sưa với viễn tượng tương lai đang mở ra. Đối với Thiên Chúa, có khi ta còn
đối xử tệ hơn. Bởi vì Người thường xuyên ban cho chúng ta qua nhiều ơn lành,
chúng ta chẳng nghĩ rằng mọi điều ta có đều là do Thiên Chúa xót thương ban
tặng. Chúng ta cứ lao tới trước, bỏ lại đàng sau chúng ta Đấng liên tục ban ơn
để chúng ta có thể lao tới phía trước.
4. Khi chúng ta nhận
được một điều tốt lành, chúng ta nên đặt ra cho mình câu hỏi: Điều gì đáng giá
hơn đối với chúng ta, ân huệ hay là người ban ơn? Cần phải đặc biệt đặt ra câu
hỏi này cho mọi ơn lành nhận được từ Thiên Chúa. Nếu chúng ta chỉ chú ý đến ân
huệ (quà tặng), nghĩa là đến các của cải vật chất, đến sức khoẻ, v.v., thì trái
tim của chúng ta còn giới hạn, còn ích kỷ. Nếu đi từ quà tặng, chúng ta chú ý
đến tình yêu và lòng nhân ái của ân nhân, thì kinh nghiệm về ân huệ trở thành
gặp gỡ mới mẻ và riêng tư với người ban ơn. Ân ban có thể là một sự trợ giúp
lớn lao. Nhưng điều làm cho chúng ta sung sướng hơn nữa là có thể nhận biết sự
tốt lành của Đấng ban và có thể cám ơn Ngài về điều đó. Không phải là Thiên
Chúa nhận được gì từ lời cám ơn của chúng ta. Nhưng chúng ta sẽ nên nghèo nàn
hơn nếu không cám ơn Ngài. Nếu chúng ta chỉ ích kỷ nhìn vào tặng phẩm, chúng ta
đang mất khả năng thấy, trải nghiệm và nhận biết tình yêu của Đấng ban ơn.
5. Cám ơn Thiên Chúa
là dâng trả ân huệ về cho Ngài, là nhìn nhận Ngài là nguồn mạch tuôn trào ra ân
huệ chúng ta đã lãnh nhận. Cám ơn là đi vào luồng tương giao tình yêu phát xuất
từ Thiên Chúa đến với chúng ta và trở lại với Ngài. Người vô ơn là người chặn
đứng luồng tương giao này lại, không cho nó trở về với nguồn mạch, và sẽ làm
cạn khô tương giao đang có. Công trình cứu độ của Đức Giêsu chỉ thực sự sinh
hiệu quả nếu chính chúng ta cởi mở để cho mọi sự quay trở lại với Người.
38. Chú giải của Noel Quesson
Trên đường lên
Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu đi…
Một lần nữa, Luca nhắc
chúng ta biến cố đang được chuẩn bị. Đức Giêsu đang sống những tuần lễ cuối
cùng. Trước tiên tôi cần dành thời gian để dừng lại trên từng chữ đó: Đức
Giêsu... đi... lên... Giêrusalem. Chúng ta hãy thử hình dung cảnh tượng. Hãy
thử tưởng tượng những tư tưởng của Đức Giêsu lúc Người đang tiến bước.
Giêrusalem! Mục tiêu của cuộc hành trình sau cùng.
Đức Giêsu đi qua biên
giới giữa hai miền Samari và Galilê
Luca nhấn mạnh rằng
Đức Giêsu đi qua miền Samari. Người không theo các quan điểm về chủng tộc của
những người đồng thời: Người không ngần ngại đi qua miền đất ấy mà người dân ở
Giêrusalem đã tuyệt thông. "Quả thế, người Do Thái không được giao thiệp
với Người Samari" (Ga 4,9).
Khi vương quốc ở miền
Bắc sụp đổ và dân bị đi đày năm 722 trước công nguyên. Quân đội chiến thắng
Át-xi-ri đã đưa những đám nô lệ về định cư lại trên miền Samari. Những đoàn dân
ấy thuộc mọi chủng tộc từ mọi miền chuyển về tạo thành một sự pha trộn về chủng
tộc và tôn giáo. Các hội đoàn tôn giáo ở Giêrusalem vẫn coi họ như những người
dị giáo.
Quan điểm phóng khoáng
của Đức Giêsu phải tra vấn chúng ta. Chúng ta đã không giữ lại những hơi hướng
khinh thị đối với một số hạng Người, một số chủng tộc, một số môi tường đó sao?
Điều lý thú mà Luca
mang lại cho miền Samari là nó chứa đựng một ý nghĩa tượng trưng sâu sắc: Chính
trong tỉnh này mà "sứ vụ Tin Mừng hóa" đã thực hiện những bước đầu
tiên bên ngoài vùng Giu-đê. Khúc dạo đầu của việc phát triển to lớn của Giáo
Hội trong những vùng đất của dân ngoại.
Đối với những Kitô
hữu, phải có những con người khác ngoài con đường mà Đức Giêsu đã mở đầu. Ngày
hôm nay, có phải tôi tránh xa những "miền Samari".
Lúc Người vào một làng
kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người.
Trong miền đất bị chúc
dữ này; đây là những người bị chúc dữ nhiều nhất. Ở đây cũng vậy, tôi phải dám
tưởng tượng ra cảnh tượng đó. Dưới từ ngữ "phong hủi", trong tâm thức
của Kinh Thánh (Lv 13 và 14); người ta gọi chung mọi bệnh tật trên da thịt, bề
ngoài rất ghê tởm và không chỉ bệnh phong hủi theo nghĩa y học hiện đại.
Hơn thế nữa, Kinh
Thánh nhìn trong bệnh phong hủi một hình phạt của Thiên Chúa, hình ảnh của
chính tội lỗi làm hư hỏng con người.
Còn Đức Giêsu, Người
không sợ. Là sự dịu dàng của Thiên Chúa. Người đã đến vì những người nghèo hèn
nhất. Ngày hôm nay cũng thế, Đức Giêsu đã không ghê tởm tội lỗi của tôi, tội
lỗi của những người gớm ghiếc nhất. Đức Giêsu đã đến vì điều đó để cứu chuộc,
để chữa lành.
Họ dừng lại đằng xa và
kêu lớn tiếng.
Tôi tưởng tượng tiếng
kêu của mười cái cổ họng ấy.
Ngay khi họ nhận ra có
người nào đó ở đằng xa, họ có thói quen kêu lớn tiếng, một điều bắt buộc. Luật
của Môsê thật hà khắc nhằm đóng khung dịch bệnh lan truyền: "Người mắc
bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên; "ô uế! ô uế!"
(Lv 13,45). Không cần phải nói thêm rằng họ đương nhiên phải bị cấm đến ở những
nơi có dân cư, và hoàn toàn bị đuổi ra khỏi những nơi thờ phụng. Những người
nghèo ấy thuộc về hạng nghèo nhất.
Lạy Thầy Giêsu, xin dủ
lòng thương chúng tôi!
Họ gọi Đức Giêsu bằng
tên Người, một sự kiện tương đối hiếm thấy trong các sách Tin Mừng. Trong ngôn
ngữ Aramêen, Jéshouah có nghĩa là “Thiên Chúa cứu”. Kitô hữu Phương Đông gọi
"kinh cầu Chúa Giêsu” chính là lời cầu xin ấy được lặp lại nhiều lần: Lạy
Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con. Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót. Lạy Chúa
Giêsu, xin thương xót. Chúng ta, cũng rất thường lăp lại kinh này trong thánh
lễ: Kyrie eleison. Lạy Chúa, xin thương xót!
Thấy vậy, Đức Giêsu
bảo họ: "Hãy đi trình diện với các tư tế.
Cũng theo Luật (Lv
14,2). Các tư tế là những Người duy nhất có tư cách xác nhận sự lành bệnh. Vậy
mệnh lệnh này của Đức Giêsu phải được họ hiểu như một lời hứa chữa lành.
Người ta không khỏi
ngạc nhiên bới sứ cứng rắn bề ngoài của Đức Giêsu. Thay vì chữa lành họ ngay
tức khắc, người đòi hỏi những người tội nghiệp khẳn khổ ấy ra đi như thế. Và
chúng ta thấy họ ra đi, vẫn còn chứng bệnh phong hủi gớm ghiếc ở trên người.
Mọi sự xảy ra như thể
Đức Giêsu muốn thử thách Đức tin của họ, có thể nói như thế. Và chúng ta nghĩ
đến cùng một thử thách đức tin mà ngôn sứ Êlisê bắt ông Na-a-man, gốc Xyri phải
chịu khi yêu cầu ông này phải tự mình thực hiện một biện pháp; điều này làm ông
Na-a-man nổi giận!
Ngày nay đối với chúng
ta cũng thế, đức tin thường là một thử thách đi qua đêm tối và không thấy,
không hiểu chúng ta phải trông cậy vào lời Người. Chúng ta cầu xin Chúa để được
giải thoát. Người hứa một ngày nào đó sẽ giải thoát chúng ta. Và chúng ta phải
tiếp tục đi theo con đường của chúng ta với chỉ lời hứa của Người.
Đang khi đi thì họ
được sạch
Một lần nữa, phép lạ
hoàn thành trong sự kín đáo, ở một khoảng cách xa Đức Giêsu. Khía cạnh
"giật gân” lạ lùng mà chúng ta rất thích đã cố tình bị làm cho mờ nhạt.
Chúng ta cũng ghi nhận
những cộng hưởng tôn giáo của việc chữa lành này, một việc chữa lành không được
mô tả dưới khía cạnh y học: Đấy là một sự "thanh luyện". Lời cầu xin
của các bệnh nhân hầu như là lời phụng vụ: “Xin thương xót chúng con". Đức
Giêsu đã yêu cầu họ "trình diện với các tư tế".
Xuyên qua sự chữa lành
đặc biệt này, chúng ta được mời gọi nhận ra một dấu chỉ. Đức Giêsu có thể thanh
luyện tôi. Đức Giêsu có thể cứu tôi nữa.
Trước tiên chúng ta
chớ xin Người những lợi ích vật chất "Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin hãy chữa
lành tâm hồn con người hôm nay bằng Mình và Máu Chúa".
Một người trong bọn,
thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta
sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn
“Vinh quang của Thiên
Chúa! Hãy "cao giọng lên để" ca ngợi vinh quang của Thiên Chúa!”
“Sấp mình xuống dưới
chân"! Một cử chỉ mà những Người phương Tây no nê không bao giờ làm nữa,
trừ một vài người trẻ tuổi. Chúng ta có cái bụng quá căng khó mà sấp mình sát
đất được. Chúng ta tưởng rằng chúng ta chỉ mang ơn chính mình, khả năng và công
việc của mình, những tài sản mà chúng ta thừa mứa. Chúng ta không ngạc nhiên
khi thấy những người Hồi giáo có thể gập mình làm đôi đến độ trán họ chạm vào
mặt đất đó sao? Một ngày nào đó, bạn hãy thử làm ở nhà bạn không cần ai thấy.
Và trong tư thế đó của thân thể, hóa ra không, bạn hãy để cho tư tưởng của bạn
thoát đi đến những điều mà tư thế ấy hầu như bắt buộc bạn thực hiện: Con không
là gì cả con đã nhận tất cả. Lạy Chúa, con đang ở trước mặt Chúa. Con chỉ là
một kẻ quê mùa bẩn thỉu, một “Ađam". Con chỉ là cát bụi trên mặt đất cát
bụi này.
Trong Kinh Thánh, sự
sấp mình xuống tận đất là một cử chỉ mà người ta chỉ làm trước Thiên Chúa. Ở
đây, người phong hủi được chữa lành đã sấp mình sát đất "trước mặt Đức
Giêsu”. Đức Giêsu tham dự vào vinh quang và sự vô cùng của Thiên Chúa: Một mầu
nhiệm còn ẩn giấu đằng sau nhân tính rất người của Đức Giêsu!
"Mà tạ ơn!"
"eucharistôn!", "trong khi tham dự vào Thánh Thể "…
Ngày nay cũng thế,
trong tiếng Hy Lạp hiện đại, "cám ơn" thì nói "efkaristo".
Thật là tai hại khi sự chuyển thể của ngôn ngữ đã làm chúng ta mất dần ý nghĩa
của các từ. Ai trong chúng ta khi nói "tôi đến với Thánh Thể" thì một
cách tự phát nghĩ rằng "tôi đến tạ ơn"... tôi sẽ nói lời tạ ơn Thiên
Chúa! Thánh lễ trước hết chính là Giáo Hội bước vào một hành động cao cả,
"hành động tạ ơn" Đức Giêsu khi "Người ra khỏi thế gian này để
về với Chúa Cha".
"Người cầm lấy
bánh, người cầm lấy rượu, tạ ơn và nói: “này là Mình Ta, này là Máu Ta, chịu
nộp vì các con". Mọi bữa ăn của người Do Thái và đặc biệt là bữa ăn lễ
Vượt qua đều bắt đầu bằng một bài "berakha" "kinh tạ ơn".
Đức Giêsu được đào tạo trong tín ngưỡng của dân tộc Người, đã không ngừng tạ ơn
Thiên Chúa vì sự dịu dàng và lòng nhân hậu của Người dựng nên thế giới bao la
và xinh đẹp và cho chúng ta biết bao điều tốt lành đặc biệt là lương thực để
sống: (bánh và rượu). Người còn giải thoát và cứu chuộc chúng ta. Chúng ta hãy
biết ơn Người. Chúng ta không còn biết cám ơn Thiên Chúa.. Chúng ta luôn miệng
nói tiếng cám ơn vì lịch sự về mọi việc, do thói quen mà không cần suy nghĩ ở
bàn ăn, cửa hàng, trên đường phố; cũng không để nó tạo ra một quan hệ với một
ai. Vả lại việc nói cám ơn phải làm chúng ta hiệp thông với một con người: thật
ra, đó là một lời bộc lộ tình yêu thương. Nói cám ơn, thông thường phải nhìn
thẳng vào người đã làm cho chúng ta hạnh phúc? Người phong hủi tội nghiệp của
Tin Mừng, khi nhận được hạnh phúc của mình, đã đi được một khoảng xa. Trong sự
vui mừng ngây ngất, người ấy muốn tìm lại khuôn mặt của Đức Giêsu. Anh ta đi
ngược trở lại con đường. Anh trở về với Người để nói với Người lời cám ơn! Và
giờ đây, tôi thử tưởng tương những cử chỉ, giọng nói và khuôn mặt của anh ta.
Anh ta lại là người
Sa-ma-ri.
Vậy ra Người ngoại
quốc, người dị giáo, người đáng khinh nhất đó đã có cử chỉ nhân bản nhất, tự
nhiên nhất.
Đức Giêsu mới nói:
"Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu?
Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang
này?" Rồi Người nói với anh ta: "Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã
cứu chữa anh.
Đối với Đức Giêsu,
phép lạ này là một thất bại; bởi vì nó không tạo ra hiệu quả mà Người có quyền
chờ đợi: Đối với chín Người kia, phép lạ này không tạo ra "đức tin".
Điều thật sự đáng kể đối với Người. Và vì thế Đức Giêsu rất buồn.
Người Kitô hữu thật sự
phân biệt với tất cả các "tín đồ khác không phải vì họ cầu nguyện, họ xin
ơn và họ được ơn. Mà chính vì họ "cảm tạ" Thiên Chúa qua Đức Giêsu
Kitô. Cần phải đi từ đức tin sơ đẳng chỉ biết cầu xin đến đức tin phát triển
biết hướng về Đấng Khác (Tha Thể Tuyệt Đối) để gặp gỡ thật sự Khuôn Mặt của
Người.
Chúa Giêsu đi lên
Giêrusalem, theo thánh Lu-ca. đây là lần thứ ba Chúa đến đây và cũng gần tới
ngày Chúa chịu nạn. Khi đi tới gần biên giới Samari và Ga-li-lê, thì gặp 10
người phong hủi van xin Chúa cứu chữa. Chúa không chữa ngay, nhưng bảo họ đi
trình diện các tư tế. Đây là luật của người Do Thái, không phải các tư tế làm
cho họ khỏi bệnh, nhưng là để xác nhận họ đã khỏi bệnh. Nghe lời Chúa, họ ra
đi, và khi đi dọc đường, cả 10 người đều được khỏi, nhưng chỉ có một người trở
lại cám ơn Chúa, tỉ lệ một phần mười, thật là đáng buồn. Đây cũng là điều chúng
ta chú ý tìm hiểu và suy nghĩ: vô ơn và biết ơn.
Có người nói: “Con
người thường hay ích kỷ: muốn người khác phải trả ơn mình, biết ơn mình, còn
mình không để ý cám ơn ai”. Hơn nữa, người ta dễ quên ơn hoặc mau quên ơn, cũng
như cả năm ngàn người được ăn bánh hóa nhiều lần thứ nhất và bốn ngàn người lần
thứ hai; bao nhiêu người được hưởng sóng gió yên lặng, mẻ cá lạ, được chữa lành
bệnh tật…Nhưng đến khi Chúa vác thập giá thì chỉ có một người vác đỡ Chúa, đó
là ông Si-mon, nhưng là do quân lính bắt vác chứ không phải ông tự nguyện; chỉ
có một phụ nữ cảm thương trao khăn cho Chúa lau mặt, đó là bà Vê-rô-ni-ca; rồi
khi Chúa bị đóng đinh trên thập giá thì chỉ có một người dám lên tiếng xưng đức
tin, biện hộ cho Chúa là vô tội, đó là một người ăn trộm.
Đời là thế. Lẽ ra phải
“ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “uống nước nhớ nguồn”, “có đi có lại mới toại lòng
nhau”, lẽ ra phải “ăn cây nào rào cây ấy”, “hòn đất ném đi hòn chì ném lại”… Đó
là phép xã giao, lịch sự, tế nhị tối thiểu, bình thường, và phải cư xử như vậy
mới là người biết điều. Lẽ ra phải như vậy, thì lại “ăn cháo đá bát”, “vắt
chanh bỏ vỏ”, “có trăng phụ đèn”, “ăn mật trả gừng”, “ăn sung trả ngải”… Kẻ
muốn được ơn thì quá nhiều, kẻ biết ơn, hàm ơn thì lại quá ít, đếm số người
biết ơn thì dễ hơn số người vô ơn, vì số người này quá lớn, có những con cháu
vô ơn, có những học trò vô ơn, có đủ thứ người vô ơn, thậm chí có người nói một
cách chua chát: “Ném cho con chó một khúc xương, nó vẫy đuôi tỏ vẻ cám ơn, còn
làm ơn cho một người, thì rồi bạn sẽ thấy người ấy làm gì cho bạn?”.
Chúng ta nhìn nhận
rằng: làm ơn thì không đòi trả nghĩa, nhưng đã chịu ơn thì phải biết ơn: “có đi
có lại mới toại lòng nhau”. Tuy nhiên, nếu làm ơn mà mong người sẽ trả ơn lại
mình thì đó chỉ là một việc bình thường và tầm thường, nếu không muốn nói là
xấu, tính toán, ích kỷ và vụ lợi. Nhưng nếu làm ơn mà không đòi trả nghĩa thì
đó mới là tấm lòng vàng, cao quý, cao thượng.
Ngược lại, nếu đã chịu
ơn thì phải biết ơn. Bổn phận biết ơn không có nghĩa là đổi chác, bồi hoàn,
nhưng là một sự bày tỏ điều mình nhận biết về giá trị tinh thần và vật chất đã
nhận được. Một món quà chúng ta nhận được, không những có một giá trị vật chất
bằng tiền của trong đó, nhưng còn gói ghém bao tình thương, tình cảm quý mến và
hy sinh của người cho hay tặng món quà ấy. Có những món quà mà vật chất chỉ là
vỏ, còn ruột là tình yêu. Nhận ra được như thế, hiểu được như thế mới thấy, mới
biết ơn huệ là gì. Dĩ nhiên, chúng ta đừng chỉ coi những gì lớn lao mới là ơn,
bất cứ những gì người khác đem lại cho chúng ta: một niềm vui, một sự bình an,
một sự thăm hỏi…đều là ơn và chúng ta phải biết ơn. Chúng ta hãy nhớ: biết ơn
người khác làm cho tấm lòng họ càng mở rộng thêm ra, đúng như câu nói: “một lần
cám ơn là hai lần xin ơn”, một lời cám ơn được nói ra, không mất mát gì, không
tốn kém gì, nhưng sẽ làm phát sinh nơi người làm ơn cũng như người thụ ơn một
niềm vui lan tỏa. Một câu cám ơn trên môi miệng có giá trị như vậy, nên nếu
chúng ta không biết ơn thì giá trị con người chúng ta chẳng hơn gì chín người
phong hủi kia: “ai mà phụ nghĩa quên công, thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng
thơm”. Biết ơn là một tập quán mà mọi người phải học tập, có nghĩa là chúng ta
quý mến những gì người khác làm cho chúng ta và không coi chúng là những chuyện
dĩ nhiên phải thế, không nhận nhưng không. Khi người khác làm gì cho chúng ta,
nhất là những việc chúng ta không có quyền hy vọng được làm, thì việc tối thiểu
chúng ta phải làm là nói “cám ơn”. Những người phong hủi không có quyền được
chữa lành, nhưng chỉ có một người tỏ ra biết điều trở lại cám ơn Chúa.
Sống với nhau, chúng
ta còn phải biết đối xử với nhau như thế, còn phải biết ơn người làm ơn cho
mình, thì chúng ta lại càng phải biết ơn Thiên Chúa nhiều hơn nữa. Lòng biết ơn
Thiên Chúa là thái độ làm con mà Chúa Giêsu đã làm gương, Ngài luôn luôn cảm tạ
Chúa Cha thay cho chúng ta; thánh Phao-lô không ngừng tạ ơn Thiên Chúa thay cho
các tín hữu và kêu gọi họ sống tâm tình biết ơn này. Lòng biết ơn Thiên Chúa
còn là thái độ sâu xa nhất của lòng tin, đồng thời làm tăng thêm lòng tin vào
Thiên Chúa. Chúng ta hãy nhớ: tạ ơn Chúa là dấu tỏ lộ lòng tin vào Thiên Chúa,
là tuyên xưng lòng tin của mình.
Tóm lại, đời chúng ta
là kết tinh của bao công ơn, chúng ta phải biết ơn, cám ơn mọi người có liên hệ
gần xa với chúng ta, tất cả đều là những ân nhân của chúng ta. Nhưng trước hết
và trên hết, chúng ta phải biết ơn và cảm tạ Chúa luôn luôn, bởi vì tất cả
những gì chúng ta đã có, đang có hay sẽ có đều là những ơn Chúa ban. Cảm tạ
Chúa là một sự công bằng, hợp lý, không bao giờ đủ, cả đời sống dương thế để mà
tạ ơn Chúa cũng không đủ, huống chi chúng ta chỉ thỉnh thoảng cám ơn, thậm chí
quên bẵng luôn những việc tạ ơn, thì thật là bất hiếu, bất kính biết bao.