SUY NIỆM CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN C
Kn 11,22–12,2; 2Tx 1,11–2,2; Lc 19,
1-10
MỤC LỤC
2. Vòng tay tha thứ
3. Đổi đời
4. Ánh mắt yêu thương _ TGM Ngô Quang Kiệt
5. Chúa Nhật 31 TN
6. Có một cái nhìn như thế – Thiên Phúc
7. Tình thương làm thay đổi lòng người
8. Hôm nay nhà này được giải thoát.
9. Trở về – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
10. Hoán cải đích thực – Radio Veritas Asia
11. Chúa Nhật 31 TN C
12. Giakêu, một con lừa chui qua lỗ kim – RC.
13. Chia sẻ – Lm Giuse Lê Minh Thông
14. Niềm vui của Thiên Chúa
15. Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
16. Sám hối
17. Thiên Chúa là Đấng Cứu độ – An Phong
18. Nghệ thuật cảm hóa lòng người của Chúa Giêsu
19. Biến đổi
20. Đổi mới cuộc đời – Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
21. Hoán cải từ con tim
22. Tôi phải lưu lại nhà anh
23. Sống đức ái – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
24. Viếng thăm nhau – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
25. Tầm cao của Phúc Âm Achille Degeest
26. Con Người đến để tìm và cứu
27. Chúng ta thì giống như Giakêu
28. Gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình
29. Tình yêu làm kinh ngạc - McCarthy
30. Từ khán giả đến người tiếp cận - McCarthy
31. Người tội lỗi - R. Gutzwiller
32. Hôm nay nhà này được giải thoát.
33. Tiền bạc
34. Người tội lỗi hay người công chính
35. Đền tội
36. Đổi đời
37. Hoán cải
38. Hoán cải
39. Thiên Chúa yêu thương
40. Biến đổi nhờ nhận ra Chúa yêu thương và tin tưởng
41. Chúa Nhật 31 TN
42. Gặp Chúa - Khơi nguồn cho đổi mới
43. Ơn cứu độ – Lm. Vũ Minh Nghiễm
44. Thiên Chúa từ bi và nhân hậu – Lm. Thanh Minh
45. Tình thương biến đổi – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
46. Suy niệm Tin Mừng Lc 19, 1-10
47. Kiểu mẫu người môn đệ Chúa Kitô: sống chia sẻ
48. Gặp gỡ ơn cứu độ – Lm. FX Vũ Phan Long
49. Chú giải của Noel Quesson
50. Lùn thấp bé nhưng …
Hôm nay ơn cứu độ Lm Giuse Đinh tất Quý
Để tìm và cứu những gì đã mất...Lm Giuse Đinh tất Quý
Sám hối cụ thể như Za kêu Lm. Phêrô Lê văn Chính
Hãy xuồng để đón nhận... Lm. Đaminh Lâm Quang Khánh
Thánh vịnh & Đáp- ca Nhóm Thánh Vịnh Nauy
Chúa vào nhà kẻ tội lỗi Catholic.org.tw
Chúa cứu vớt người tội lỗi Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Con người được đổi mới Lm Giuse Đinh lập Liễm
Nghệ thuật cảm hóa long người... Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Thiên Chúa đi tìm Lm Gioan M. Thiên Khải, CMC
Chúng ta giống như Gia kêu Charles E. Miller
Gặp gỡ Đức Ki tô... Niềm Vui Chia Sẻ
Cái hố Cha Mark Link, S.J.
Đi tìm và cứu những gì đã mất William Barclay
Hoán cải và quảng đại Lm. Đan Vinh
Lòng thương xót Lm. Trần thanh Sơn
Thiên Chúa từ bi và nhân hậu Lm. Thanh Minh
Ơn cứu độ Lm. Vũ minh Nghiễm
Gặp gỡ Đức Ki tô Lm. Bùi quang Tuấn
Trân trọng và yêu thương Suy Niệm của JKN
Ơn cứu độ đã đến cho nhà này Đinh ngọc Thiệu
Cần tình thương và gương sáng Suy Niệm của JKN
Giải thoát Sưu tầm
Sẵn sàng đáp trả Sưu tầm
Tình yêu Sưu tầm
Tham dự Sưu tầm
Cái nhìn Sưu tầm
Đời đời Sưu tầm
Tôi muốn bạn yêu tôi Sưu tầm
Nơi chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa Sưu tầm
Cấm vào nhà kẻ có tội PM. CAO HUY HOÀNG
Giakêu là người thu
thuế giàu có tại Giêricô. Và như chúng ta đã biết, dân chúng, nhất là những
người đạo đức thường khinh bỉ những làm làm nghề thu thuế, nối giáo cho quân
đội Rôma để bóc lột đồng bào của mình. Họ thường bị đồng hoá với những kẻ độc
ác, bất công và tội lỗi, do đó bị loại trừ khỏi cộng đồng dân Chúa.
Ông Giakêu hẳn đã từng
được nghe nói nhiều về Chúa Giêsu. Và quả thực lúc này Chúa Giêsu đã trở thành
một nhân vật được đông đảo quần chúng biết đến, vì những lời Ngài giảng dạy và
những việc Ngài làm, nhất là về lập trường và thái độ của Ngài. Phúc Âm kể lại:
Rất đông người vây quanh Chúa Giêsu khiến cho ông Giakêu muốn được nhìn thấy
Ngài nhưng không sao được, vì ông thấp bé. Nhưng ông không chịu thua. Ông chạy
lên phía trước, đón đường Chúa và để chắc ăn, ông đã trèo lên một cây sung.
Thái độ của Giakêu có thể là vì tò mò nhưng lại cũng là một điều thuận lợi để
ông đi vào quan hệ với Chúa Giêsu.
Thế nhưng, Chúa Giêsu
vẫn là người đi bước trước. Vừa thấy Giakêu, trước cả khi ông kịp nói lên một
lời nào đó, Chúa Giêsu đã ngỏ lời với ông và trong lời ngỏ cùng Giakêu, Ngài đã
dành cho ông một ân huệ lớn lao hơn cả điều ông có thể tưởng tượng ra. Ngài ngỏ
ý muốn lưu lại tại nhà ông. Đó quả là điều ông không hề nghĩ tới. Ông phải là
người hiểu rõ địa vị của ông hơn ai hết, vì ngay cả khi Ngài đến tại nhà ông,
thì mọi người vẫn còn lẩm bẩm: Ông này lại đến trọ nhà một kẻ tội lỗi.
Nhưng điều bất ngờ lớn
nhất đã xảy ra đó là cuộc viếng thăm của Chúa Giêsu đã hoàn toàn biến đổi con
người ông. Cuộc viếng thăm ấy đã đánh dấu một khúc quanh trong cuộc đời một
người thu thuế. Trước cả khi Chúa Giêsu nói một lời nào về tội lỗi của ông, thì
ông đã tự động đề ra biện pháp để sửa đổi những lầm lỗi ông đã phạm. Biện pháp
đó gồm hai phần: Phần thứ nhất là bố thí cho kẻ khó, và ông bố thí tới nửa phần
ba gia tài của ông. Ông làm việc bố thí này hoàn toàn vì lòng đại lượng. Phần
thứ hai là đền bù cho những người ông đã gây thiệt hại. Ông sẵn sàng đền bù gấp
bốn lần, nghĩa là vượt quá điều luật buộc của người Do Thái, nhưng lại phù hợp
với hình phạt của luật Rôma dành cho tội ăn cắp tỏ tường. Ông Giakêu quả là đã
có được một sự độ lượng.
Lời Chúa Giêsu kết
thúc có một ý nghĩa đặc biệt. Trước hết đó là lời tuyên bố ơn cứu độ được ban
cho nhà, nơi Chúa Giêsu lưu lại, dù đó là nhà của Giakêu, người thu thuế. Đồng
thời đây cũng là lời đặt ông Giakêu vào lại vị trí của ông trong cộng đồng dân
Chúa, trong dòng dõi Abraham. Và cuối cùng Ngài đã mạc khải cho chúng ta chân
lý lạ lùng này, đó là Ngài đến tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư đi.
Giakêu đã được gặp
Chúa và cuộc gặp gỡ này đã đổi mới cuộc đời ông. Trong sự đổi mới này, ông đã
không chỉ trở lại với Chúa mà còn trở lại với anh em, với những người chung
quanh, nhất là với những người ông đã làm thiệt hại. Liệu chúng ta đã thực sự
gặp gỡ Chúa hay chưa, và nhất là chúng ta đã thực sự đổi mới cuộc đời chúng ta
hay chưa.
Nhiều người trong
chúng ta có một cái nhìn sai lạc về Thiên Chúa. Đối với họ Thiên Chúa thường là
một ông cảnh sát đầy quyền năng, luôn đứng bên lề cuộc đời để biên phạt những
hành động sai trái. Trong khi đó Đức Kitô đã tỏ lộ cho chúng ta thấy Thiên Chúa
là một người Cha nhân từ hằng yêu thương chăm sóc chúng ta, và đặc biệt Ngài
sẵn sàng tha thứ những lầm lỗi của chúng ta. Ngài hằng mong ước cho chúng ta,
những người con của Ngài được hạnh phúc.
Sách Khôn Ngoan đã
viết: Chúa thương xót mọi người và Ngài nhắm mắt trước những tội lỗi của những
kẻ thực lòng sám hối. Lòng nhân từ và thương xót ấy ngày hôm nay được biểu lộ
một cách cụ thể qua câu chuyện về ông Giakêu. Ông ta là một người thu thuế giàu
có tại Giêricô. Dưới mắt những người Do Thái, thì những kẻ làm nghề thu thuế bị
đồng hoá với phường tội lỗi, vì họ tiếp tay với đế quốc Lamã, bóc lột đồng bào
của mình, để nuôi sống kẻ thù và làm giàu cho bản thân. Chính vì thế mà họ bị
loại trừ khỏi cộng đồng dân Chúa.
Từ lâu Giakêu hẳn
thường nghe nói nhiều về Chúa Giêsu và ao ước được gặp gỡ với Người. Vì thế khi
hay biết Người sắp đi qua nơi đó, Giakêu đã trèo lên một cây sung vì ông là một
người thấp bé, và dân chúng thì lại đông đảo vây quanh Người. Thế rồi, Chúa
Giêsu đã nhận ra ông, Ngài nói: Hỡi Giakêu hãy xuống mau vì hôm nay Ta muốn lưu
lại tại nhà ngươi.
Hẳn chúng ta sẽ ngạc
nhiên trước một lời nói như thế. Ngài đã dành cho ông một vinh dự quá to lớn,
phải chăng Ngài đã đảo lộn bậc thang giá trị? Phải chăng Ngài khích lệ những kẻ
bóc lột, gian tham và độc ác? Chính Giakêu cũng ngạc nhiên không kém trước tình
yêu Ngài dành cho ông. Trong khi mọi người thù ghét ông thì Ngài lại yêu thương
ông. Chính tình yêu này đã chuyển hướng cuộc đời ông, đưa ông vào một khúc
quanh mới, thắp lên trong tâm hồn ông một ngọn lửa nhiệt thành.
Từ thẳm sâu cõi lòng,
ông cảm thấy chính mình cần phải uốn nắn sửa đổi lại những sai lỗi khuyết điểm,
đền bù những thiệt hại trong dĩ vãng để xứng đáng với tình thương yêu ấy. Lập
tức ông đã quyết định: Thưa Thầy, con sẽ bố thí một nửa phần sản nghiệp của
con. Và nếu như con đã làm thiệt hại ai thì con sẽ đền trả gấp bốn. Chúa Giêsu
thấu suốt cõi lòng ông, Ngài đã cảm động khi nói với ông: Ngày hôm nay nhà này
được ơn cứu độ vì cũng là con cháu Abraham. Chúa Giêsu đã chống lại những thiên
kiến của người đời, Ngài đã xác quyết: Con Người đến để tìm kiếm và cứu vớt
những gì đã hư đi.
Dù cuộc đời chúng ta
có chồng chất tội lỗi, chúng ta đừng vội thất vọng, hãy ngước nhìn Chúa, hãy
tìm gặp Ngài với lòng yêu mến chân thành, bởi vì lúc nào Ngài cũng mở rộng vòng
tay chờ đón để tha thứ cho chúng ta.
Trong cuộc sống, có
nhiều người đã thoát xác, đã đổi đời một cách bất ngờ để trở nên tốt lành và
thánh thiện.
Phanxicô Borgia đã từ
bỏ chức vị tại triều đình khi đứng trước thi thể rữa thối của hoàng hậu
Isabella. Phanxicô Xaviê đã trở nên một vị tông đồ Á châu chỉ vì lời Kinh Thánh
mà Ignatio không ngừng nhắc đến mỗi khi gặp gỡ: Được lời lãi cả thế gian mà mất
linh hồn thì có ích lợi chi. Magueritte de Cortone đã xa lìa nếp sống tội lỗi
và trở nên một vị thánh trước cái chết của người tình. Và ngày hôm nay, ông
Giakêu cũng đã thực hiện một cuộc đổi đời, một cuộc thoát xác như thế.
Thực vậy, khi trèo lên
cây sung để nhìn xem Chúa Giêsu, có lẽ ông chỉ muốn thoả mãn tính tò mò của
mình cứ chẳng có nghĩ ngợi xa xôi gì. Thế nhưng thật bất ngờ là sự việc tưởng
như vô nghĩa này đã đưa ông đi rất xa, đánh dấu một khúc quanh, mở ra một huyết
mới có tính cách quyết định toàn bộ cuộc đời của ông.
Từ đó chúng ta nhận
thấy Chúa thường đến với chúng ta, thường bước vào cuộc đời chúng ta một cách
bất ngờ, bằng những con đường đầy bí ẩn, hầu dẫn chúng ta tới những nơi thật xa
lạ. Ngài luôn chủ động, đưa ra sáng kiến và chọn lựa chúng ta như lời Ngài đã
phán: Không phải các con chọn Thầy nhưng chính Thầy đã chọn các con.
Phần chúng ta là phải
nắm lấy cơ hội một cách đúng lúc, chấp nhận sáng kiến của Chúa và cùng bước đi
với Ngài trên nẻo đường Ngài đã mở ra. Điều quan trọng đó là đừng lỡ hẹn với
Ngài. Bởi vì cơ hội bỏ qua sẽ không bao giờ trở lại.
Nếu như ngày hôm nay,
ông Giakêu không muốn xem thấy Chúa hay không đón nhận Ngài đến thăm nhà ông,
thì có lẽ đã chẳng xảy ra sự gì, để rồi ông mãi mãi vẫn là một người thu thuế,
mải mê làm giàu một cách bất chính. Thế nhưng ngày hôm nay, một con đường mới
đã mở ra cho ông, một cuộc sống mới đã bùng lên trong ông và một con người mới
được khai sinh nơi cõi lòng ông. Cuộc đổi đời của ông đã diễn ra tức khắc và
triệt để.
Tức khắc bởi vì ông không xin
được gia hạn, được trì hoãn, và bởi vì ông biết rằng nếu không thực hiện ngay
hôm nay, ngay lúc này thì cũng sẽ chẳng bao giờ thực hiện được.
Triệt để bởi vì ông sẵn sàng
chấp nhận mọi hậu quả của cuộc hoán cải: chia tài sản cho người nghèo túng, đền
bù gấp bốn cho những thiệt hại mình đã gây nên. Cuộc hoán cải nào cũng có cái
giá phải trả. Có sẵn lòng trả thì mới là hoán cải thực sự.
Còn chúng ta thì sao?
Chúng ta đã quyết tâm trở lại với Chúa biết bao nhiêu lần, nhưng có lẽ chưa một
lần chúng ta đã trở lại thật sự với Ngài. Phải chăng, vì sợ phải trả cái giá
đắt ấy mà chúng ta cứ còn trì hoãn, và thoái thác mãi.
(Suy niệm của ĐTGM.
Giuse Ngô Quang Kiệt)
Mỗi khi đọc câu chuyện
ông Giakêu, tôi ngỡ ngàng trước ánh mắt của Chúa Giêsu khi Ngài nhìn lên ông
Giakêu trên cây sung. Ánh mắt ấy có sức mạnh kỳ lạ. Ánh mắt ấy chất chứa bao
tâm tình. Chỉ trong một ánh mắt cuộc đời Giakêu hoàn toàn biến đổi.
Đó là ánh mắt quan tâm. Chúa Giêsu vào thành
Giêricô. Giêricô là một thành phố rộng lớn, người đông đúc, buôn bán sầm uất.
Một đám đông lớn đi theo Chúa Giêsu. Trong khi đó ông Giakêu thật bé nhỏ. Nên
ông phải leo lên cây sung để nhìn Chúa. Thật lạ lùng. Giữa đám đông mênh mông
ấy, Chúa vẫn nhìn thấy ông Giakêu, dù ông thấp lùn. Giữa muôn người, Chúa chỉ
tìm Giakêu. Lại còn biết rõ tên ông. Điều đó chứng tỏ Chúa quan tâm tới Giakêu,
dù ông bé nhỏ trong một đám đông hỗn độn. Giakêu chắc chắn cảm thấy ấm lòng vì
ánh mắt quan tâm của Chúa.
Đó là ánh mắt khiêm
nhường. Hãy
tưởng tượng cảnh Chúa ngước lên nhìn Giakêu. Chúa nhìn lên. Giakêu nhìn xuống.
Thật là một cảnh tượng phi thường. Người có tầm vóc cao lớn phải ngước nhìn lên
mới gặp ánh mắt người thấp bé. Thiên Chúa phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được
phàm nhân. Đấng vô cùng thánh thiện phải ngước mắt nhìn lên mới gặp kẻ tội lỗi
tầy trời. Tạo hóa phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được thụ tạo. Đấng Cứu Độ
phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được kẻ cần được cứu. Đấng tha tội phải ngước
mắt nhìn lên mới gặp được kẻ cần được thứ tha. Thật là một sự khiêm nhường thẳm
sâu. Giakêu chắc chắn phải choáng váng vì ánh mắt khiêm nhường của Chúa.
Đó là ánh mắt tha thứ. Nguyên một việc quan
tâm tìm kiếm cũng đã chứng tỏ Chúa tha thứ cho ông rồi. Huống hồ Chúa còn khiêm
tốn ngước nhìn lên. Hơn thế nữa Chúa còn ngỏ lời muốn đến thăm nhà ông. Giakêu
chưa tìm Chúa thì Chúa đã tìm Giakêu. Giakêu chưa gọi Chúa thì Chúa đã gọi
Giakêu. Giakêu chưa mời thì Chúa đã ngỏ ý đến nhà. Giakêu chưa xin lỗi thì Chúa
đã tha thứ. Ánh mắt tha thứ mới khoan dung độ lượng và ấm áp làm sao. Giakêu
chắc chắn tràn đầy niềm hối cải khi nhìn vào ánh mắt tha thứ của Chúa.
Đó là ánh mắt tin
tưởng. Chúa
Giêsu nhìn Giakêu bằng ánh mắt tin tưởng. Tin tưởng nên không nhìn về quá khứ
mà chỉ hướng về tương lai. Chúa quên hết tội lỗi của ông. Hơn thế nữa Chúa tin
rằng ông sẽ nên người tốt. Chúa tin rằng ông sẽ làm lại cuộc đời. Chúa tin vào
tương lai của ông. Nên Chúa đã nhìn ông. Nên Chúa tha thứ cho ông. Nên Chúa kết
thân với ông. Trước ánh mắt tin tưởng của Chúa, chắc chắn Giakêu sẽ cương quyết
làm lại cuộc đời.
Đó là ánh mắt yêu
thương. Tất
cả sẽ không thể giải thích được nếu không có tình yêu. Chúa quan tâm tới Giakêu
vì Chúa yêu thương ông, như người mục tử tốt lành đi tìm con chiên lạc. Chúa
khiêm nhường vì Chúa yêu thương ông, như người cha cõng con trên vai. Chúa tha
thứ vì Chúa yêu thương ông, như người cha sẵn sàng chờ đón đứa con hoang đàng.
Chúa tin tưởng vì Chúa yêu thương ông, như người mẹ không khi nào nói rằng con
mình xấu, dù nó phạm tội trăm lần. Chúa nhìn ông bằng ánh mắt yêu thương. Ngập
tràn trong yêu thương, trái tim Giakêu bừng lên ngọn lửa yêu thương. Đời ông
được đốt cháy trong yêu thương. Nên ông đã đáp lại tình yêu thương của Chúa. Vì
yêu mến Chúa mà ông yêu thương đồng loại. Yêu thương nên đền bù thiệt hại. Yêu
thương nên chia sẻ chân thành.
Lạy Chúa, Chúa luôn
nhìn con bằng ánh mắt yêu thương. Xin cho con biết nhìn vào mắt Chúa, nhận ra
tình yêu thương của Chúa và biến đổi cuộc đời như ông Giakêu.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Chúa nhìn Giakêu
bằng ánh mắt thế nào?
2) Giakêu đã đáp lại
ánh mắt của Chúa ra sao?
3) Bạn có bao giờ nhìn
thấy ánh mắt Chúa nhìn bạn chưa?
4) Bạn có muốn nhìn
tha nhân bằng ánh mắt của Chúa không?
Anh chị em thân mến.
Nhạc sĩ Trần Tiến có
một bài hát đi vào lòng người, không phải chỉ những người Việt Nam, nhưng cả
người ngoại quốc đến Việt Nam và biết tiếng Việt khá một chút, cũng biết bài
hát này.
Bài hát diễn tả tâm
tình của một chú bé miền quê, mê tiếng đàn của anh lính xa nhà. Không biết “Đàn
anh hát câu gì mà sao chú bé cười ngộ ghê, cũng không biết đàn anh hát câu gì,
mà sao chú bé ngồi mơ màng. Hạnh phúc quá đơn sơ....”
Hạnh phúc quá đơn sơ
thật, với tiếng đàn nghiệp dư, tiếng đàn để giải sầu cho riêng mình, mà cũng có
người tìm được niềm vui. Chú bé tìm đến tiếng đàn của anh lính, chú bé ngất
ngây dường như bước vào một cỏi thần tiên.
Cũng một cuộc đi tìm,
một biến cố không chỉ làm ngất ngây lòng người trong phút chốc, nhưng cái tìm
gặp nầy làm thay đổi cả một đời người. Đó là sự tìm gặp giữa Chúa Giêsu và
Giakêô.
Giakêô muốn tìm Chúa,
muốn nhìn thấy Chúa Giêsu. Nhưng lực bất tòng tâm, tầm vóc của ông không đủ để
vượt qua đám đông để cho ông có thể nhìn thấy Chúa Giêsu. Thân phận của ông
cũng khó công khai đến gần những người được gọi là đạo đức, vì ông là thủ lãnh
người thu thuế, là người mang tội với dân tộc. Nhưng ông không chịu thua số
phận, ông vượt lên số phận, tìm cách vượt qua những trở ngại.
Với những cố gắng như
thế, ông đã nhận được hơn cái mình mơ ước. Ong chưa nhìn thấy Chúa Giêsu thì
Ngài đã nhìn thấy ông, không chỉ thế, Ngài còn gọi đúng tên ông, ngoài sức
tưởng tượng, Ngài còn nhả ý ngụ tại nhà ông. Niềm vui tràn ngập cỏi lòng, ông
bất chấp những người chung quanh, bất chấp hoàn cảnh sống, cái hoàn cảnh không
cho ông có cơ hội đỗi đời. Giờ đây ông ông không bỏ lở cơ hội mà ông có được.
Ong làm một cuộc đỗi mới ngoạn mục, việc làm của ông còn hơn việc làm của một
người đạo đức bình thường, ông đã sẵn sàng và Chúa Giêsu nhìn thấy sự đỗi mới
này nên Ngài thốt lên: “Hôm nay nàh này được ơn cứu độ, vì ông cũng là con cái
Abraham”.
Một sự tìm kiếm, một
cái nhìn thông cảm, hơn cả tiếng sét ái tình, một cuộc chạm trán làm thay đổi
đời người. Giakêô đi tìm và đã tìm được hơn cái mình muốn tìm, ông không thể
nào ngồi yên bất động, nhưng ông nghe tiếng Chúa nên ông phải đi, phải hành
động. Không phải chỉ hành động bằng đôi tay, nhưng bằng cả con người của ông.
Ong không để cho con người mình bất động trong những gì mà người khác gọi là
tội lỗi, ông đã bước ra khỏi đó, để trở thành một người mới hoàn toàn.
Câu chuyện của ngày
xưa, nhưng không xưa, câu chuyện vẫn còn mang tính cách hiện đại cho những
người thời nay, cho mỗi người trong chúng ta. Giakêô chỉ ao ước nhìn thấy Chúa,
nhưng ông được Chúa đến ở tại nhà và như thế sự đỗi mới đã xẩy ra. Cũng như chú
bé trong bài hát Mặt Trời Bé Con của nhạc sĩ Trần Tiến, chỉ cần tìm đến nghe
tiếng đàn, chú bé có thể đỗi đời được từ buồn, đã đỗi sang vui và mơ màng. Còn
chúng ta, chúng ta có tìm và chúng ta có gặp được gì chưa?
Mỗi người để ra một
giây phút nhìn lại mình, xem đời sống mình có gì mới hơn so với những ngày
tháng trước đó. Hay chúng ta vẫn tự hào về đời sống của mình, rồi tự cho là
thánh thiện đạo đức, nên không cần phải thay đổi gì nữa. Nếu có thay đổi thì
người khác, những người tội lỗi, những người mà chúng ta đã từng chỉ trích và
khinh dể họ, vì họ có đời sống mà chúng ta cho là không xứng đáng. Như thế thì
chúng ta đang đứng về phía đám đông đi theo Chúa Giêsu, họ cũng cho mình là đạo
đức thánh thiện xứng đáng hơn Giakêô, họ đã che khuất tầm nhìn của ông, họ đã
khinh dể chỉ trích ông và chỉ trích cả Chúa Giêsu. Họ cũng đã tự hào về chính
mình. Nhưng Chúa Giêsu không ghé vào nhà của người nào trong họ, mà lại ghé nhà
người mà họ khinh dể, vì ông ta nhìn thấy chính mình và biết thay đổi cuộc
sống.
Còn chúng ta, không
phải Chúa Giêsu chỉ ghé qua, nhưng Ngài luôn ở trongtâm hồn mỗi người. Ngài
không chỉ nhìn và kêu gọi, nhưng Ngài hằng hoạt động và kêu mời liên tục. Nếu
chúng ta biết lắng nghe, biết từ bỏ những gì làm cho chúng ta trở thành không
xứng đáng, khi đó chúng ta cũng được nghe Chúa Giêsu nói như đã nói với Giakêô: “Hôm nay nhà này được
ơn cứu độ”.
Xin Chúa chúc lành cho
cuộc sống chúng ta mỗi ngày biết thay đổi cho tốt hơn.
(Trích dẫn từ ‘Như
Thầy Đã Yêu’)
Nhiều đệ tử đang theo
học Thiền định dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Một người trong bọn họ
thường hay thức dậy ban đêm, vượt tường ra phố để dạo mát cho thỏa thích.
Một đêm kia, Sengai đi
giám thị phòng ngủ, thấy một đệ tử vắng mặt và cũng khám phá ra được chiếc ghế
đẩu cao mà anh ta thường dùng để leo qua tường. Sengai dời chiếc ghế đi chỗ
khác và đứng thay vào chỗ đó. Khi anh chàng rong chơi trở về, không biết rằng
Sengai là chiếc ghế, anh ta đặt chân lên đầu thầy và nhảy xuống đất. Lúc khám
phá ra việc mình đã làm, anh ta hoảng sợ, nhưng Sengai nhẹ nhàng bảo:
- Sáng sớm hôm nay
trời lạnh lắm. Con hãy cẩn thận kẻo bị cảm đấy?
Từ đó, người đệ tử ấy
không bao giờ bỏ ra ngoài ban đêm nữa. Anh chuyên tâm học tập và trở thành
người đệ tử gương mẫu của thầy Sengai.
Thiên Chúa không những
tế nhị, dịu dàng, và nhân từ như thầy Sengai mà Người còn khoan dung, tha thứ
và yêu thương những con người tội lỗi.
Ông Giakêu là một
trưởng ty thuế vụ thành Giêricô, một người giàu có vì lạm thu bất chính. Ông bị
liệt vào số những kẻ tội lỗi, bị khai trừ và khinh bỉ. Chúa Giêsu không nhìn
ông bằng con mắt ấy, Người ngước nhìn ông đang ngồi trên cây sung; một cái nhìn
nhân từ như không thấy tội gì trong ông. Chính cái nhìn đầy chân tình và yêu
thương ấy đã khiến ông nhìn lại chính mình và quyết tâm đổi mới.
Người nói với ông:
“Này Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!”. Hạnh phúc quá
bất ngờ: Người không chỉ biết ông đang ở trên cây mà còn biết cả tên ông. Người
không chỉ muốn đến thăm mà còn xin ở lại nhà ông. Ông chỉ có một ao ước nhỏ
nhoi là được nhìn thấy Người, nhưng Người lại cho ông cả một ân huệ lớn lao
vượt quá lòng ông mong ước. Ông chỉ muốn thấy kẻ đã chữa cho anh mù Báctimê là
người thế nào, nhưng chính Đấng ấy lại chữa lành đôi mắt tâm hồn ông.
Vâng, chính đôi mắt
tâm hồn ông đã bừng sáng, để ông không chỉ thấy một con người bình thường trước
mặt, nhưng còn thấy Người chính là Đấng ban ơn cứu độ, đầy lòng nhân từ và xót
thương; để ông không chỉ thấy tiền bạc là tất cả nhưng còn thấy cần chia sẻ và
trao ban. Ông đã quá vui mừng hứa với Chúa: “Thưa Ngài, này đây phân nửa tài
sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi
xin đến gấp bốn”. Và Chúa chỉ chờ có thế, để nói với mọi người: “Ơn cứu độ đã đến
cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”. Thật vậy ở đâu có
Chúa hiện diện là có ơn cứu độ, ở đâu có ơn cứu độ là có sự tha thứ. Ông Giakêu
đã được thứ tha để được nhận lại làm con cái Abraham, con cái của lòng tin, con
cái của Thiên Chúa.
Và chắc chắn, không ai
có thể ngăn cản ông ngồi đồng bàn với Chúa, trong bữa tiệc hân hoan ngay sau
đó. Chắc chắn, ông Giakêu không còn giàu có như trước nữa, nhưng ông sẽ hạnh
phúc hơn nhiều. Chắc chắn thân xác ông vẫn lùn như xưa, nhưng tâm hồn ông đã
cao thượng hơn gấp bội. Những người được Chúa “tìm đến và cứu chữa” bao giờ
cũng trổi vượt trong nhân cách và kiên vững trong lòng tin.
Lạy Chúa, có rất nhiều
người cần chúng con nhìn họ với cái nhìn của Chúa, có rất nhiều người mong
chúng con ghé thăm.
Xin cho chúng con một
tấm lòng khoan dung như Chúa, và một tâm hồn quảng đại như Giakêu, để cả thế
giới này trở nên con cái Abraham, và được hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa. Amen.
“Giang sơn dễ đổi bản
tính khó dời”. Đó là cái nhìn của nhiều người. Thế nhưng dù sao thì “Nhân chi
sơ tính bản thiện”. Bản tính đó nhiều khi được hình thành do nhiều yếu tố khác
nhau. Chính vì thế chúng ta có cơ sở để nói rằng lòng người có thể thay đổi. Sự
thay đổi ấy sẽ tùy thuộc vào cố gắng nỗ lực của bản thân đương sự và nhất là
nhờ vào tình yêu thương của tác nhân bên ngoài.
Điều khẳng định trên
đây được minh chứng qua hình ảnh ông Dakêu trong đoạn Tin mừng hôm nay. Trước
hết chúng ta tìm hiểu những chi tiết cho thấy sự cố gắng nỗ lực của ông. Ông là
thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có (Lc 19, 2). Có lẽ, bấy nhiêu
vẫn chưa đủ đối với ông, tự đáy lòng mình ông vẫn còn khao khát một điều gì đó
và ông nghĩ là chỉ có Chúa Giêsu mới có thể làm cho ông được thỏa lòng. Nghe
biết có Chúa Giêsu đi ngang qua thành Giêricô nên ông tìm cách thấy mặt cho
được Người. Là thủ lãnh những người thu thuế và do dáng thấp bé quá nên chắc
ông không được mọi người ủng hộ. Dầu vậy, ông không chịu đầu hàng với số phận.
Đúng như ông bà chúng ta nói cái khó nó ló cái khôn nên: “Ông liền chạy tới
phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giêsu, vì Người sắp đi qua đó”. (Lc
19, 4).
Những nỗ lực của ông
đã được Chúa Giêsu đền bù thỏa lòng vượt khỏi những gì ông mong đợi. “Này ông
Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” (Lc 19, 5b). Câu nói
này xuất phát từ một tình thương vô bờ bến của Chúa Giêsu dành cho ông. Một con
người dường như không còn giá trị, không còn ích lợi gì cho đời nữa. Thể lý thì
thấp bé, đã vậy còn là thủ lãnh những người thu thuế. Đối với xã hội Do thái
nghề thu thuế được coi là nghề tội lỗi công khai. Cho nên, không ai còn ưa
thích ông, mọi người đều tìm cách xa lánh. Thiết nghĩ ông sẽ rất đau khổ. Nỗi
thống khỗ ấy không ai nhìn thấy nhưng Chúa Giêsu đã nhìn thấy.
Chi tiết hết sức đẹp
trong đoạn Tin mừng hôm nay là sự thay đổi của ông Dakêu: “Thưa Ngài, đây phân
nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái
gì, tôi xin đền gấp bốn.” (Lc 19,8b). Từ một con người chỉ biết thu góp tích
trữ cho mình bây giờ ông đã thay đổi trở thành một con người biết mở ra cho
người khác.
Có nhiều lúc chúng ta
cảm thấy mình như lạc lỏng giữa cộng đoàn vì tội lỗi hay vì lý do nào đó. Không
còn ai hiểu mình, mọi người đều xa lánh. Những lúc ấy chúng ta hãy tin tưởng
đặt trọn con người mình vào vòng tay yêu thương của Chúa Giêsu. Hãy noi gương
ông Dakêu vượt qua số phận và dự luận để đến múc lấy nguồn ơn của Chúa Giêsu.
Và rồi chúng ta cũng được kêu mời noi guơng Chúa Giêsu dùng tình thương mà đến
với anh chị em mình. Biết đâu nhờ tình thương của mình mà họ được thay đổi tốt
hơn.
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra
Khơi’ – Veritas)
Bài Tin Mừng hôm nay
cho chúng ta một hình ảnh sinh động và thú vị về thái độ của một tay trùm thu
thuế có tên là Giakêu. Giakêu là một con người khá đặc biệt. Đặc biệt vì ông ta
có vóc dáng quá khiêm tốn, vừa nhỏ vừa lùn. Đặc biệt vì ông ta là một người
giàu có ai cũng biết, nhưng sự giàu có của ông là do nghề nghiệp thu thuế, một
nghề mà đối với người Do thái bấy giờ là nghề tội lỗi. Tội lỗi với dân tộc vì
làm tay sai cho ngoại bang, cho đế quốc đàn áp và bóc lột đồng bào. Tội lỗi với
Gia vê Thiên Chúa và với lề luật, vì đã tham nhũng và thủ lận tiền chung bỏ vào
túi riêng.
Một người như ông mà
lại tò mò đến nỗi phải leo lên cây sung, vì ao ước chỉ được xem thấy Chúa Giêsu
và cuối cùng không những được xem thấy mà còn đối diện với Ngài, tiếp đón Ngài
vào nhà. Cuộc tiếp xúc này dẫn ông đến việc tự nộp mình vào cuộc đánh tư sản
mại bản của chính bản thân ông: “Này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi sẽ phân
phát cho người nghèo và nếu tôi có gian lận của ai, tôi sẽ đền gấp bốn”.
Thái độ của Giakêu
không phải là thái độ rửa tiền hay chạy tội của một kẻ quan chức tham ô thủ
đoạn. Nhưng là một thái độ chân thành hối cải, một thái độ của người nhận ra
lời mời gọi của Thiên Chúa và đón nhận ơn cứu độ của Ngài. Một lần và chỉ một
lần giữa Đức Giêsu và Giakêu đã làm biến đổi cả cuộc đời. Nhưng dầu sao đi nữa,
điều làm cho chúng ta lưu ý chính là dung mạo đích thực của Đức Giêsu, Đấng cứu
chuộc đã đến và đang hiện diện giữa nhân loại.
Giakêu hôm nay tôi lưu
lại nhà ông và hôm nay ơn được cứu độ đã đến cho nhà này.Vì Con Người đến để
tìm kiếm và cứu chữa những gì đã mất. Chúa Giêsu không những đã vượt qua và còn
phá đổ những giới hạn và những gía trị của tập tục Do thái và những quan niệm
của những người biệt phái. Ngài la cà tiếp xúc với những người tội lỗi, Ngài
vào nhà và ăn cơm với những người thu thuế. Ngài để cho người đàn bà tội lỗi
quấn quít rồi để cho bà lấy tóc lau chân Ngài. Ngài đã cứu chữa những người
bệnh tật trong ngày Sabbat.
Hình ảnh của Đức Giêsu
cho thấy một Thiên Chúa giống như bài đọc 1 sách Khôn Ngoan: “Thiên Chúa chẳng
từ nan để vượt qua những ranh giới ứng kỵ giữa thanh sạch và nhơ uế, giữa thánh
thiện và tội lỗi, giữa luật lệ và cứu sống. Ngài đến để gặp gỡ những người mà
Ngài yêu thương, Ngài tìm kiếm và cứu độ họ”.
Thái độ của Chúa Giêsu
cho thấy một nguồn mạch mới của đời sống Kitô hữu chúng ta, điều cốt uếu của
Tin Mừng Đức Kitô chính là ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa chứ không phải do nỗ lực
luân lý của con người. Chính thái độ đi bước trước của Chúa Giêsu đã giúp ông
Giakêu sám hối và tìm lại được đời sống luân lý tốt đẹp hơn. Chính Thiên Chúa
đã đi tìm Giakêu, trước khi ông tìm kiếm Ngài. Ngài đã mời gọi ông trước khi
ông thấy gặp Ngài. Quả thực, đúng như điều thánh Phaolô đã xác tín trong thơ
Rôma như sau: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là tội
nhân”. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.
Thiên Chúa đã luôn
luôn tìm kiếm chúng ta, mọi người và từng người, chỉ có điều chúng ta có ao ước
gặp Ngài hay không? Chúng ta có dám vượt qua đám đông xô bồ đang bon chen xô
lấn cuộc đời để đến với Ngài hay không? Có dám mạnh dạn để đáp trả lời mời gọi
của Ngài và đón tiếp Ngài hay không? Nếu chỉ một lần gặp gỡ Đức Giêsu mà Giakêu
đã đánh đổi tất cả thì chúng ta hằng ngày đến nhà thờ để hiệp dâng Thánh Lễ,
chúng ta có sẵn sàng đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể vào trong tâm hồn và có dám
để Thiên Chúa biến đổi chúng ta hay không? Điều còn lại của chúng ta là biết
lắng nghe và sẵn sàng đáp trả, dám can đảm sám hối và canh tân đời sống để được
ơn cứu độ.
Xin Chúa cho mỗi người
chúng ta vững mạnh trong đời sống đức tin để nhận ra tình yêu và ơn cứu độ của
Thiên Chúa đang trao ban cho chúng ta. Xin cho chúng ta can đảm để sẵn sàng đáp
trả và đón nhận ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta. Vậy chúng ta
hãy cùng nhau tuyên xưng đức tin của mình qua Kinh Tin Kính.
Truyện kể: Công tước
D’Ossome, phó vương xứ Napoli, nước Ý. Một hôm, ông đi thị sát chiến thuyền
Galère được chèo chống bởi một đội tù nhân đông đảo. Khi gặp các tù nhân, ai
cũng kêu ca bào chữa rằng họ là những người vô tội. Chỉ có một tù nhân ngồi ở
phía góc cúi đầu, chẳng nói chẳng rằng. Công tước bước đến và dịu dàng hỏi han.
Anh nói: Thưa ngài, tôi chẳng có gì để bào chữa. Tôi chịu xứng với tội tôi đã
phạm. Công tước quay ra nói với mọi người: Anh này là phạm nhân, hắn không xứng
đáng ngồi nơi đây chung đụng với những người vô tội. Ta ra lệnh trục xuất ngay
hắn ra khỏi chỗ này. Và thế là, chỉ nhờ vào lòng chân thành biết nhận lỗi.
Người tù nhân đã được giải phóng khỏi kiếp nô lệ.
Thiên Chúa là Đấng
thánh thiện tốt lành vô cùng. Vì yêu thương, Chúa tạo dựng muôn loài và muôn
vật để cùng chung hưởng hạnh phúc. Nhìn ngắm vũ trụ muôn loài thật quá vĩ đại
nhưng tình thương của Chúa còn bao la vĩ đại tuyệt vời hơn. Tác giả sách Khôn
Ngoan viết: Trước nhan thánh, toàn thể vũ trụ ví tựa hạt cát trên bàn cân, tựa
giọt sương mai rơi trên mặt đất (Kn 11, 22). Thụ tao do Chúa dựng nên đều tùy
thuộc vào sự an bài của Chúa. Sự hiện hữu của những mầm sống từ loài thực vật
nhỏ li ti cho đến những loài vật khổng lồ đều sống dưới sự chở che quan phòng
của Thiên Chúa. Mọi loài thọ tạo đều chia sẻ một nguồn sống từ Đấng Tạo Hóa:
Lạy Chúa tể là Đấng yêu sự sống, Chúa xử khoan dung với mọi loài, vì mọi loài
đều là của Chúa (Kn 11, 26). Mỗi loài thụ tạo đều góp phần làm vinh danh Thiên
Chúa từ đời này tới đời kia.
Luật Chúa như kim chỉ
nam giúp cho chúng ta tìm ra con đường chính thật. Giống như luật lệ giao
thông, trên mọi con đường lớn nhỏ đều có các bảng dẫn lối chỉ đường, vậy mà
nhiều người cũng vẫn bị lạc hoặc phạm lỗi. Những ai có bằng lái xe đều phải học
biết luật lệ, khi phạm luật thì bị phạt. Chúng ta không thể kêu ca trách móc ai
cả. Đời sống đạo cũng thế, có luật Chúa và luật Giáo Hội, chúng ta cố gắng soi
mình để sống tốt và sống cho phù hợp với luật dạy. Chúng ta được nhắc nhở canh
thức và thức tỉnh lương tâm sống đạo. Sách Khôn Ngoan dậy rằng: Vì thế, những
ai sa ngã, Chúa sửa dạy từ từ. Chúa cảnh cáo họ, nhắc cho họ nhớ họ đã phạm tội
gì, để họ bỏ điều ác mà tin vào Chúa (Kn 12, 2). Đừng coi thường những huấn
lệnh, giới răn và lời khuyên dạy. Có đôi khi chúng ta đang dìm mình trong vũng
lầy mà không nhận ra. Sống trong u mê lầm lạc lại tưởng là đang sống trong hoan
lạc.
Phúc âm kể câu truyện
Chúa Giêsu đi ngang qua làng, thấy ông Giakêu trèo lên cây sung để nhìn xem
Chúa. Chúa ngước nhìn lên, ông cúi xuống và hai ánh mắt chạm nhau. Trái tim
Chúa xót thương và lòng người thổn thức. Chúa đề nghị ghé thăm nhà ông. Giakêu
vui mừng đón tiếp Chúa và ông tự xưng thú tội lỗi mình trước mọi người. Ông
Dakêu đứng đó thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, đay phân nửa tài sản của tôi, tôi
cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”
(Lc 19, 8). Ánh mắt nhân từ của Chúa đã cải hóa được một tâm hồn tội lỗi. Với
lòng chân thành hối lỗi đền bù, Chúa đã cứu ông ra khỏi vũng lầy của gian tham
tội lỗi.
Chúa Giêsu rong ruổi
đi tìm những con chiên bị lạc. Có nhiều con chiên xa lạc chưa biết đường trở
về. Chúa đã tìm và đi cứu: Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất (Lc
19, 10). Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy xin Chúa Cha ban thêm các thợ gặt tâm
hồn. Cánh đồng lúa chín bao la nhưng thiếu thợ gặt. Còn biết bao nhiêu người
đang bị mê lầm trong tội lỗi mà không nhận biết tin mừng cứu độ. Đôi khi chính
chúng ta qúa quen với lối sống ấm êm hưởng thụ và cách sống dung túng trụy lạc,
chúng ta không muốn từ bỏ con đường cũ và không muốn bước ra khỏi vũng bùn nhơ
nhớp. Buông bỏ tội lỗi thì tiếc xót, vì tội là một cái thú. Chúa thường gởi đến
những nhân chứng để đánh động tâm hồn. Chúng ta rất may mắn được lắng nghe lời
Chúa chỉ dậy và được Giáo Hội nhắc nhở luôn. Chúng ta cần cầu nguyện xin ơn can
đảm để có thái độ dứt khoát với tội lỗi qúa khứ.
Khi đọc Kinh Lạy Cha,
chúng ta cầu xin rằng xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Mỗi ngày sống,
chúng ta phải đối diện với rất nhiều cơn cám dỗ. Cám dỗ về danh, lợi và thú. Có
nghĩa là khi còn sống, thân xác luôn đòi hỏi những nhu cầu rất tự nhiên. Chúng
ta luôn có cơ hội để chọn lựa thái độ sống tốt. Cái danh cái lợi, ai mà không
thích. Tiền bạc và lạc thú, mấy ai từ chối. Những thói đời tham sân si kéo ghì
con người chúng ta lại. Người ta thường nói tới cái ‘thú’ ở đời. Lạc thú dẫn
chúng ta vào những si mê quay cuồng trong thú vui nhục dục, tham lam danh lợi,
tiền bạc, gian lận bài bạc và buông thả cuộc sống.
Tội lỗi cứ bám sát
cuộc đời của chúng ta. Nếu chúng ta không dứt khoát khước từ và dũ bỏ, nó sẽ
không buông tha chúng ta. Chúng ta cần tự xét, nhận lỗi và sửa lỗi mình mỗi
ngày. Cũng giống như ngày hôm qua chúng ta đã ăn no, ngày hôm nay đói, lại muốn
ăn. Hôm qua, chúng ta tắm rửa sạch sẽ mát mẻ, hôm nay lại thấy dơ, nên phải
tắm. Sáng thức dậy ra khỏi nhà và đi làm việc. Chiều lại trở về xum họp gia
đình. Ai ra đi cũng mong trở về. Kẻ đi lạc, mong tìm được lối ra. Người rơi vào
đường lầm, nên tìm đường trở lại. Khi sa ngã phạm tội, cần phải sám hối ăn năn.
Tội hôm qua khác tội hôm nay. Cần xưng thú và lãnh ơn tha tội và xin hứa quyết
lòng chừa. Mỗi lần phạm tội đều là tội mới trong hoàn cảnh mới. Chúng ta cần
tiếp tục sám hối và trở về. Sống mỗi ngày cho trọn vẹn. Mỗi người được mời gọi
đổi thay để sống tốt, thánh thiện và hoàn hảo hơn mỗi ngày.
Chúng ta có trí khôn
để nhận biết giá trị của không gian và thời gian. Thời gian thuộc về Chúa. Mỗi
ngày là một ngày mới hoàn toàn. Những điều chúng ta xem như cũ, cứ lập đi lập
lại, nhưng không phải thế. Lời khuyên cũ được nhắc lại trong hoàn cảnh mới và
với tâm tình mới. Mười năm trước chúng ta đã nghe câu truyện đó, hôm nay chúng
ta được nghe lại cùng câu truyện nhưng đã có nhiều đổi thay. Khi xưa, chúng ta
còn trẻ, còn hăng say và còn nhiều vấp ngã. Hôm nay, chúng ta trưởng hơn một
chút, chững chạc hơn một tí và có thể nhẫn nại hơn. Điều quan trọng là chúng ta
có tốt lành thánh thiện hơn không, hay vẫn dậm chân tại chỗ và đôi khi còn bị
thụt lùi. Cho nên lời khuyên răn mời gọi đổi đời, trở về và sửa sai vẫn là cần
thiết.
Trong thơ gởi cho giáo
đoàn Thessalônica, thánh Phaolô vừa mời gọi và vừa cảnh báo rằng: Nếu có ai bảo
rằng chúng tôi đã được thần khí mạc khải, hoặc đã nói, đã viết thư qủa quyết
rằng ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng
đừng hoảng sợ (2Thes 2, 2). Hãy sống thanh thản trong tư thế chuẩn bị sẵn sàng,
chúng ta không phải bồn chồn lo lắng truyện gì sẽ xảy đến. Đừng để lòng bận
vướng những oán thù đã qua. Cố gắng sống trọn vẹn giây phút hiện tại trong ân
tình với Chúa và với anh chị em.
Lạy Chúa, thân con mỏi
mệt, tâm con yếu đuối, lòng con tội lỗi và hồn con lạc xa Chúa. Con xin thành
tâm hối lỗi, xin Chúa thứ tha và đưa dắt con về nẻo chính đường ngay.
(Trích dẫn từ ‘Mỗi
Ngày Một Tin Vui’)
Gặp gỡ Chúa Giêsu là
một biến cố hồng phúc cho con người, nếu người đó không lo sợ hoặc tránh né
cuộc gặp gỡ này.
Tin Mừng hôm nay thuật
lại cho chúng ta cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Giakêu. Chúng ta có thể ghi
nhận hai thái độ trong cuộc gặp gỡ này.
Trước hết là thái độ
của những kẻ tự cho mình là công chính mà khinh dễ kẻ khác, không muốn cho kẻ
khác đến gặp Chúa và nhận lãnh ơn lành của Chúa. Đó là thái độ của những kẻ lẩm
bẩm trách Chúa đã niềm nở đón tiếp những người tội lỗi và ăn uống với họ, bởi
vì đối với Chúa không có ai xấu xa tội lỗi đến độ không đáng được hưởng lòng
nhân từ tha thứ của Chúa. Liệu chúng ta có thái độ của những kẻ tự cho mình là
công chính và khinh dễ người khác không?
Thái độ thứ hai là
thái độ của ông Giakêu, người thu thuế trưởng và giầu có. Đối với người Do thái,
người thu thuế là kẻ tội lỗi công khai: đó là tội phản bội quê hương cộng tác
với ngoại bang, và tội gian lận tiền thuế quá mức qui định. Giakêu là người thu
thuế trưởng và giầu có, sự giầu có này theo lý luận của người Do thái, chứng tỏ
ông có những hành vi bất chính để làm giầu: thu nhiều, nộp ít, và như vậy ông
là một người tội lỗi. Đối với người đồng hương với Giakêu, thì tội của ông
không thể tha thứ được; nhưng đối với Chúa Giêsu, Đấng đến tìm và cứu những gì
đã hư mất, thì đây là dịp để thể hiện tình thương nhân từ của Thiên Chúa.
Nơi con người tội lỗi
Giakêu vẫn còn một khát vọng hướng về Chúa: ông muốn nhìn xem Chúa Giêsu đi
qua, và đây là yếu tố căn bản để được Chúa thi ân. Từ một khát khao gặp Chúa
đến việc ăn năn trở lại không có khoảng cách không vượt qua được, vì Chúa Giêsu
có thể vượt qua khoảng cách này một khi con người đã có sẵn thái độ chờ mong
Ngài đến. Thái độ của Giakêu có thể khuyến khích chúng ta trở về với Chúa. Ông
đã thể hiện sự trở lại của mình bằng một hành động cụ thể thiết thực: phân chia
nửa phần tài sản cho người nghèo và đền bù gấp bốn cho những thiệt hại ông đã
gây ra cho kẻ khác.
Ước gì Lời Chúa hôm
nay giúp chúng ta thể hiện một cách cụ thể sự hoán cải của mình. Xin cho chúng
ta đừng bao giờ đùa giỡn hay lạm dụng lòng nhân từ của Chúa, nhưng luôn biết
cộng tác với ơn Chúa và thành tâm trở về với Chúa.
Suốt mấy tuần lễ vừa
qua, Lời Chúa nhấn mạnh đến tầm quan trọng của lời cầu nguyện trong đời sống
người Kitô hữu chúng ta. Trong Chúa Nhật 29, Đức Giêsu mời gọi chúng ta cầu
nguyện kiên trì, như bà goá kiên trì trước vị Thẩm phán bất lương. Còn trong
Chúa Nhật vừa rồi, Đức Giêsu lại mời gọi chúng ta cầu nguyện với một tấm lòng
khiêm tốn, biết nhận ra những lỗi lầm, yếu đuối của mình, để nhờ đó chúng ta
nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa, như người thu thuế cầu nguyện trong
Đền Thờ. Sở dĩ Đức Giêsu luôn kêu mời chúng ta cầu nguyện, vì Thiên Chúa, Đấng
chúng ta tôn thờ là một người Cha đầy lòng nhân ái. Ngài yêu thương chúng ta
“đến nỗi đã ban Con Một của Người, ngõ hầu phàm ai tin vào Ngài thì khỏi phải
hư đi, nhưng được sự sống đời đời” (Ga 3, 16). Người Con đó chính là Đức Giêsu
Kitô, Ngài đã được Chúa Cha sai đến thế gian, không phải để xét xử, nhưng là để
chứng tỏ lòng thương xót của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã đến trong thế gian là để
ban ơn cứu độ, hay nói như lời Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay, Ngài đến
để “tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất”.
Đời sống con người gắn
liền với những cuộc gặp gỡ. Có những cuộc gặp gỡ mà người ta háo hức như gặp
người yêu, gặp một nhân vật nổi tiếng, gặp một người thân xa cách đã lâu... Tuy
nhiên, gặp kẻ khó ưa, gặp tên trấn lột, tên lường gạt... thì chẳng ai mong
muốn. Ngoài ra lại có những cuộc gặp gỡ đầy ý nghĩa, có sức hoán cải, làm thay
đổi cả con người. Cuộc gặp gỡ như thế không chỉ dừng lại ở gặp mặt, gặp gỡ xã
giao, nhưng là cuộc gặp gỡ thâm sâu, gặp gỡ giữa hai tâm hồn. Trang Tin Mừng
hôm nay kể lại cho húng ta cuộc gặp gỡ hết sức thú vị giữa Đức Giêsu và Giakêu.
Đức Giêsu lại muốn kết thân với Giakêu, kẻ tội lỗi bị mọi người xa lánh. Thế
nhưng trong cuộc kết giao này, Đức Giêsu đã cứu được một tội nhân khỏi vòng tội
lụy; còn Giakêu, dù là chia nửa gia tài của mình cho người nghèo, nhưng lại
được mối lợi thật to. Ông và cả gia đình đón nhận được hồng ân cứu độ. Quả là
một cuộc gặp gỡ diệu kỳ đưa đến hoán cải tận căn. Ông Giakêu không những là một
người thu thuế, mà còn là thủ lãnh những người thu thuế, tức là một chủ thầu
thuế má, nên ông cũng là một người rất giàu có. Người Do thái rất ghét những
người thu thuế, coi họ là những người tội lỗi, không thể ăn năn hối cải, không
thể tha thứ, làm tay sai cho ngoại bang: thu thế cho đế quốc Rôma. Trong nghề
đó, người ta có thể bày rất nhiều trò ma giáo để ăn hối lộ những kẻ muốn trốn
thuế, hay muốn giảm thuế phải đóng. Bởi đó, người Do thái ghê tởm những người
thu thuế. Ông Giakêu là người như thế. Không những ông bị thiên hạ khinh dể mà
còn có thân hình thấp lùn. Tuy nhiên, Ông muốn tìm cách để xem Chúa Giêsu là
người như thế nào. Nhưng dân chúng chen chúc chung quanh Chúa đông quá. Ông
quyết không bỏ lỡ cơ hội. Một người chủ thầu phải có nhiều sáng kiến. Ông chạy
tới trước và leo lên một cây sung bên đường. Ông yên tâm chờ đợi, vì Chúa Giêsu
sắp đi ngang qua đó. Lòng ước muốn của ông thật là mãnh liệt, vì ông không sợ
đám đông chế diễu. Ông chỉ còn biết một điều là làm sao thấy được mặt Chúa
Giêsu. Quả thực, ông đã có thiện chí. Bấy nhiêu đã đủ để Chúa trọng thưởng tấm
lòng chân thành của ông.
Giakêu muốn gặp mặt
Đức Giêsu, không kèn, không trống, không kẻ hầu người hạ. Ông đi một mình trơ
trụi, bị đẩy lại sau những kẻ tò mò, và điều hạ nhục ông là ông phải làm một
chuyện kỳ dị đối với một viên chức cao cấp. Có thể nói ông đã làm một bước nhảy
vọt, vượt trên mọi dư luận, mọi thành kiến. Ông làm tất cả những điều đó cốt để
tận mắt thấy Đức Giêsu. Quả là đáng khâm phục! Thế nhưng, Đức Giêsu lại làm một
cử chỉ đáng kinh ngạc hơn. Trong lúc được đám đông dân chúng vây quanh và hết
lòng ngưỡng mộ, Người lại tách mình ra khỏi đám đông hỗn độn ấy để đến với một
kẻ tội lỗi. Vì lòng thương xót đối với tội nhân, Người chẳng màng đến những lời
xì xầm, bàn tán hay dị nghị. Đấng Thánh của Thiên Chúa hạ mình xuống làm bạn
với một người tội lỗi. Tình yêu vượt lên mọi thành kiến, mọi trở ngại, mọi rào
cản.
Chúa Giêsu đi tới,
Ngài nhìn lên và gọi đích danh ông. Điều quan trọng là Chúa không chỉ đi ngang
qua cho ông Giakêu nhìn Chúa, chính Chúa nhìn lên và gọi tên ông: “Giakêu!
xuống mau, hôm nay ta đến nhà ông”. Chúa muốn đến với ông và đến tận nhà ông.
Được đáp ứng quá sự trông mong. Ông muốn thấy Chúa thì Chúa đến tận nhà để ông
nhìn cho đã. Chúa quảng đại vô cùng. Ông vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước
Ngài. Nhưng đám đông lại xầm xì với nhau. Họ khó chịu với Chúa Giêsu, vì Chúa
vào trọ nhà một người tội lỗi. Ông Giakêu đã tìm ra giải pháp để vượt qua cái
giới hạn của tấm thân lùn. Liệu ông có tìm được giải pháp cho thân phận tội lỗi
của ông để thắng được lời xì xầm kia không? Ông không sợ đám đông chế diễu khi
leo lên cây sung để nhìn mặt Chúa, thì Chúa đã đáp lại, Ngài không sợ đám đông
xầm xì khi yêu cầu ông đón Ngài về ở nhà ông. Đứng trước tình thương của Chúa,
ông đã mở rộng tâm hồn. Ông sẵn sàng chuộc lại tội lỗi, ông thưa với Chúa là
đem nửa gia tài phân phát cho người nghèo. Không những thế, ông thấy mình còn
phải thực hiện sự công bình nữa: làm thiệt ai ông sẽ đền gấp bốn. Lòng quảng
đại của ông sánh với lòng quảng đại của người đàn bà tội lỗi: ông yêu mến nhiều
vì đã được tha nhiều. Lòng yêu mến của ông đối với Chúa Giêsu diễn tả thành
lòng yêu mến người nghèo và những người đã bị ông bóc lột.
Sau khi ông Giakêu
tuyên bố quyết định của ông, thì Chúa Giêsu nói: “Hôm nay nhà này được cứu độ,
bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”. Ông Giakêu trở thành kiểu mẫu
đón nhận ơn cứu độ và là cơ hội để Chúa Giêsu khẳng định sứ mạng của Ngài: “Con
Người đến để tìm và cứu những gì đã hư mất”. Ông Dakêu đã bị đám đông loại trừ,
vì thân ông lùn và phận ông tội lỗi. Nhưng Chúa đã rời đám đông kiêu hãnh kia
để đi tìm ông và đem ơn cứu độ cho ông. Chúa đã nhìn ông và cứu ông. Cái nhìn
của Chúa, cái nhìn chinh phục, cái nhìn của tình thương muốn cứu vớt. Ông
Giakêu đã tìm cách nhìn thấy Chúa, nhưng ông cũng đã để cho Chúa nhìn ông và
chinh phục ông. Ông được cứu độ.
Thái độ của Chúa Giêsu
cho thấy một nguồn mạch mới của đời sống Kitô hữu chúng ta, điều cốt yếu của
Tin Mừng Đức Kitô chính là ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa chứ không phải do nỗ lực
luân lý của con người. Chính thái độ đi bước trước của Chúa Giêsu đã giúp ông
Giakêu sám hối và tìm lại được đời sống luân lý tốt đẹp hơn. Chính Thiên Chúa
đã đi tìm Giakêu, trước khi ông tìm kiếm Ngài. Ngài đã mời gọi ông trước khi
ông thấy gặp Ngài. Quả thực, đúng như điều thánh Phaolô đã xác tín trong thơ
Rôma như sau: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là tội nhân”.
Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.
Thiên Chúa đã luôn
luôn tìm kiếm chúng ta, mọi người và từng người, chỉ có điều chúng ta có ao ước
gặp Ngài hay không? Chúng ta có dám vượt qua đám đông xô bồ đang bon chen xô
lấn cuộc đời để đến với Ngài hay không? Có dám mạnh dạn để đáp trả lời mời gọi
của Ngài và đón tiếp Ngài hay không? Nếu chỉ một lần gặp gỡ Đức Giêsu mà Giakêu
đã đánh đổi tất cả thì chúng ta hằng ngày đến nhà thờ để hiệp dâng Thánh Lễ,
chúng ta có sẵn sàng đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể vào trong tâm hồn và có dám
để Thiên Chúa biến đổi chúng ta hay không? Điều còn lại của chúng ta là biết
lắng nghe và sẵn sàng đáp trả, dám can đảm sám hối và canh tân đời sống để được
ơn cứu độ.
Xin Chúa cho mỗi người
chúng ta vững mạnh trong đời sống đức tin để nhận ra tình yêu và ơn cứu độ của
Thiên Chúa đang trao ban cho chúng ta. Xin cho chúng ta can đảm để sẵn sàng đáp
trả và đón nhận ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta.
Ông Giakêu thưa với
Chúa rằng: “Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo”.
“Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc. 19, 8b-10)
Ông Giakêu thân hình
thấp bé, đứng đầu những người thâu thuế ở thành Giêricô, những đoàn người buôn
bán từ Ả-rập qua thành đều phải chịu thuế nhập thị. Như thế, ông là người rất
giàu, nhưng bị người Do thái khinh chê là hạng người tội lỗi công khai và cộng
tác với quân xâm lăng. Tuy nhiên, chính ông là người được Thiên Chúa gửi Thánh
Thần đến lôi kéo ông về cùng Đức Giêsu.
Ông “Sếp” trở nên trẻ
nhỏ
Các trẻ nhỏ sẵn lòng
trèo lên cây cao quá tầm đám đông để xem. Ông Giakêu, mặc dầu là “xếp”, địa vị
cao và giàu sang đã nên giống trẻ nhỏ. Ông không sợ thiên hạ nhạo cười và hạ
nhục. Được tiếng nội tâm thúc đẩy, ông tò mò trèo lên cây nhìn xem Đức Giêsu
bất kể ra sao thì sao.
Đức Giêsu vị ngôn sứ
tuyệt vời, rất nhạy bén với hành động của Thánh Thần nơi người khác. Người nhìn
lên và thấu suốt tận con tim của Giakêu. Người gọi tên ông, đó là tiếng gọi của
tình yêu. Người ra lệnh cho ông: “Hãy xuống mau đi, vì hôm nay tôi ở lại nhà
ông”. Sứ điệp của Đức Giêsu đã kêu gọi ông. Người phải dắt đưa chiên lạc của
nhà Israel về.
Đoàn hành hương theo
Đức Giêsu chẳng hiểu gì sứ điệp của Người. Đức Giêsu vừa tỏ quyền phép của Thiên
Chúa chữa người mù được thấy và bây giờ tự mời mình vào ở nhà một người tội
lỗi. Vậy Người không thể là Đấng Thiên sai Cứu thế. Người trong sạch không thể
đồng cư với kẻ ô uế. Như thế, Đức Giêsu đã nên cớ cho người ta vấp phạm trong
suốt cuộc đời cứu thế của Người đúng như ông Si-mê-on nói tiên tri: “Thiên Chúa
đã đặt cháu bé này làm cớ cho nhiều người Israel vấp ngã hay được chỗi dậy”
(Lc. 2, 34).
Và tự hủy mình đi
Niềm vui đáp lại lời
mời gọi của Thiên Chúa để trở về thật chứa chan, Giakêu đã vui mừng đón rước
Đức Giêsu vào nhà. Ông vui mừng chính thức công bố trở về và hứa bồi thường đầy
đủ gấp bốn lần luật buộc, cùng hiến nửa gia tài làm việc bác ái giúp người
nghèo. Ơn Chúa đầy tràn, ông đáp lại bằng tấm lòng thiện chí đầy tràn.
Đức Giêsu quay lại phía
đám đông giúp họ hiểu rằng Giakêu đã tỏ ra xứng đáng là con cháu thật của tổ
phụ Áp-ra-ham, có lòng quảng đại đặc biệt, mặc dầu nghề nghiệp ông thuộc lớp
người tội lỗi. Đức Giêsu đem ơn cứu độ đến nơi nào biết tiếp đón Người đến ở.
Câu chuyện Giakêu quá
quen thuộc, nhưng lại là một bức tranh sống động, phong phú, tinh tế và là lời
chất vấn và mời gọi qua mọi thời đại. Trong hành trình lên Giê-ru-sa-lem, Đức
Giêsu đi ngang qua Giê-ri-khô và xảy ra câu chuyện ông Giakêu với những nét
tương phản hài hước và độc đáo. Nhân vật chính được giới thiệu qua bốn chi
tiết: (1) Tên gọi: Giakêu, (2) Nghề nghiệp: Đứng đầu những người thu thuế, (3)
Địa vị xã hội: Người giàu có, (4) Ngoại hình: thấp bé, ngôn ngữ bình dân gọi là
lùn.
Trong câu chuyện, nhân
vật Giakêu có những nét tương phản vừa theo quan điểm người đời, vừa theo quan
điểm tâm linh. Theo người đời, Giakêu là người có địa vị, có quyền và có tiền,
ba yếu tố này làm nên sức mạnh và uy thế của một con người. Ông ở cao hơn những
người bình thường, nhưng ông lại thua kém họ về chiều cao, nên tầm nhìn bị thu
hẹp và bị hạn chế. Ông muốn thấy Đức Giêsu, nhưng đám đông trở thành chướng
ngại cho điều ông ước muốn. Tuy nhiên, con người không hơn nhau ở chiều cao mà
hơn nhau ở cái đầu; Giakêu quyết định thực hiện ước muốn thấy Đức Giêsu bằng
cách trèo lên cây sung. Quyết định này tạo nên tương phản giữa việc ông đạt
được mục đích là thấy Đức Giêsu, nhưng phải hy sinh thể diện. Một người có
quyền hành và địa vị như ông mà lại leo lên cây sung, mượn cây sung để cải
thiện chiều cao của mình, thì chẳng gì đề cao cái sự thấp bé của ông trước mọi
người.
Đáng chú ý hơn là
tương phản theo quan điểm tâm linh. Ông Giakêu là người quyền thế trong xã hội,
nhưng đám đông lại gọi ông là “người tội lỗi”, vì khi Đức Giêsu quyết định ở
lại nhà ông, mọi người xầm xì: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!” Câu
kết của Đức Giêsu: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” đã xếp Giakêu
vào loại những người đã mất, nhưng được Đức Giêsu cứu.
Tương phản trên bình
diện tâm linh và cách xử sự của Giakêu để xem thấy Đức Giêsu đã được Người đánh
giá cao. Việc ông dám trở trên trò cười cho thiên hạ để tiếp cận được Đức Giêsu
cho thấy thiện chí của ông. Nhờ hành động này, ông trở thành nhân vật chính của
câu chuyện với những chuyển biến tích cực và nhanh chóng. Khi Đức Giêsu nhìn
lên và nói với ông: “Này ông Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại
nhà ông!” (19,5) Bản văn chơi chữ khi viết Đức Giêsu nhìn lên và bảo ông xuống,
nghĩa là trở về với chiều cao đích thực của mình, trở về với con người thực của
mình, để không những thấy Đức Giêsu mà còn để đối thoại với Người, để quyết
định bán nửa tài sản cho người nghèo và đền gấp bốn cho những ai mình đã làm họ
bị thiệt.
Điều mới mẻ so với
trình thuật người thu thuế Lê-vi ở chỗ Lê-vi đã bỏ nghề thu thuế và đi theo Đức
Giêsu, còn ông Giakêu có bỏ nghề đứng đầu những người thu thuế hay không, bản
văn không cho biết. Trình thuật chỉ nhấn mạnh tấm lòng của ông đối với người
nghèo và việc ông chú trọng sự công bằng. Có thể hiểu Giakêu có thể tiếp tục
đứng đầu những người thu thuế mà vẫn được cứu. Điều quan trọng là ước muốn gặp
Đức Giêsu, thực hiện ước muốn này, và khi gặp thì mừng rỡ đón tiếp Người.
Trình thuật nói đến sự
gặp gỡ tốt đẹp giữa hai con người với hai sự tìm kiếm. Giakêu tìm cách để thấy
Đức Giêsu còn Đức Giêsu đang tìm và cứu những gì đã mất. Chính sự gặp gỡ giữa
hai con người đang tìm kiếm này làm cho Giakêu trở thành người được cứu và làm
tỏ lộ sứ vụ của Đức Giêsu.
Điểm độc đáo của bản
văn ở ngay trong trong cách trình bày nhân vật Giakêu. Ông là người vừa
thấp vừa cao. Cao về địa vị xã hội, nhưng thấp bé về chiều cao. Thấp bé thể lý
nhưng cao quý trong thiện chí tìm gặp Đức Giêsu. Ông có quyền hành và giàu có
trong xã hội nhưng bị coi là người tội lỗi, là người đã mất, cần được cứu. Nhân
vật Giakêu trở thành điển hình cho hành trình tìm kiếm và gặp gỡ Đức Giêsu là
Người mang lại ơn cứu độ cho ông.
Đầu câu chuyện, Giakêu
được giới thiệu như là người có mọi thứ: Chức vị, tiền bạc và quyền hành; nhưng
ông đang thiếu và đang đi tìm cái mà tiền bạc và chức quyền không đem lại cho
ông. Ông tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai, mục đích trước tiên là xem
cho biết con người mà ông chưa biết.
Điểm độc đáo thứ hai là Đức Giêsu không dạy
giáo lý cho Giakêu, Người không bày tỏ tư cách Con Thiên Chúa của Người. Ngược
lại Người chỉ nói một câu tỏ bày sự thân thiện và ưu ái của Người dành cho ông:
“Này ông Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”.
Bài học cho chúng ta
hôm nay là liệu sự ở lại của Đức Giêsu có khả năng làm cho chúng ta hoán cải,
có khả năng làm cho chúng ta thuộc về Người, làm cho chúng ta biết chia sẻ với
người nghèo và tôn trọng sự công bằng hay không. Câu chuyện Giakêu vẫn là lời
chất vấn, lời mời gọi chúng ta trong cách chúng ta tìm gặp và đón tiếp Đức
Giêsu, trong cách chúng ta sống niềm tin và thể hiện niềm tin của mình.
(Suy niệm của Lm.
Giuse Nguyễn Cao Luật)
Vẫn có một khát vọng
Đức Giêsu sắp đi ngang
qua Giê-ri-khô, chặng cuối cùng trước khi băng qua sa mạc để lên Giê-ru-sa-lem.
Cuộc đi qua này xác định thêm một lần nữa sứ vụ của Đức Giêsu ; đó là tìm kiếm
những gì đã hư mất.
Ông Da-kêu là một
người bị dân chúng coi thường, vì ông là người cộng tác với quân chiếm đóng
Rô-ma. Ông là một nhân viên thuế vụ luôn tìm cách thu lợi cho quân chiếm đóng
và nhờ vậy mình được giàu thêm. Trước mắt dân chúng, đó là một con người bị
khinh bỉ, mặc dù tên gọi của ông có nghĩa là trong sạch, là công chính.
Tuy nhiên, con người
này lại muốn nhìn thấy Đức Giêsu. Trong tâm hổn ông đang trào lên một khát vọng
gặp được Đức Giêsu, một con người lừng danh vì các phép lạ, và cả vì lời giảng
của Người. Nhưng ông lại là một người thấp bé. Ông chen chúc trong đám đông.
Ông nghển cỗ, kiểng chân, nhưng vô ích! Ông chẳng nhìn thấy Đức Giêsu, ông thật
là một con người nhỏ mọn, không giá trị. Ông không dám chịu đến gần Đức Giêsu.
Ông không dám tỏ mình ra.
Vậy là ông bỏ qua mọi
chuyện: viên chức cao cấp này tìm cách trèo lên một cây sung. Một hấp lực nào
đó từ bên trong thôi thúc ông. Ông hy vọng từ trên cành cây ông có thể nhìn
thấy Đức Giêsu mà không bị phát giác. Những người dân ở đó nhìn thấy cảnh này
hẳn phải bật cười: quả là kỳ cục, một đứa trẻ cũng không làm như thế.
Quả thật, vì Đức
Giêsu, ông Da-kêu chẳng kể gì đến địa vị của mình. Ông chấp nhận tầm vóc nhỏ bé
đích thực của mình. Ông chỉ là một người bé nhỏ khốn khỗ, và ông chấp nhận tình
trạng này. Ông khiêm tốn, và bỏ hết mọi sự che đậy, mọi vẻ bên ngoài giả tạo.
Ông trở về với sự giản dị của mình. Những gì vẫn bao phủ ông từ trước tới nay,
lúc này rơi xuống hết. Đối với người khác, có thể chẳng có gì thay đỗi, nhưng
đối với ông tất cả đang bắt đầu!
Tất cả đã thay đỗi -
như phần sau của câu chuyện cho thấy. Ông Da-kêu được tái tạo, khi ông khiêm
tốn hạ mình. Ông đã leo lên cây (hình bóng của thập giá) và con người cũ đã
chết trên đó. Một đời sống mới được khởi đầu, một con người mới được nảy sinh.
Người đến để đem niềm
vui
Đức Giêsu đi ngang qua
và thấy có gì khác lạ. Ngước mắt lên, Người nhìn thấy ông và ngỏ lời với ông, một
con người bị dân Do-thái coi là kẻ bất lương. Người nhận ra nơi con người này
có điều gì đó đặc biệt: hành động leo lên cây của ông là một tiếng kêu gửi đến
Người.
Người đòi lòng hiếu
khách của ông và tỏ ý muốn dùng bữa tại nhà ông. Ông cảm thấy quá hạnh phúc và
"vội vàng tụt xuống". Từ đây cuộc sống của ông hoàn toàn thay đỗi: từ
một người bị cộng đoàn khinh chê ruổng bỏ, ông được Đức Giêsu đưa nhập vào cộng
đoàn con cháu tỗ phụ Áp-ra-ham.
Ông Da-kêu đã bị bất
ngờ, nhưng phải nói là dân chúng Giê-ri-khô còn bị bất ngờ hơn: "Nhà người
tội lôỵi mà ông ấy cũng vào trọ." Thật là xúc phạm, không thể nào chấp
nhận nỗi. Vậy mà Đức Giêsu còn tuyên bố rõ ràng: "Hôm nay, ơn cứu độ đã
đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tỗ phụ Áp-ra-ham. Vì Con Người
đến để tìm và cứu những gì đã mất."
Như thế, từ cái nhìn
yêu thương và mời gọi yêu thương, Đức Giêsu không loại trừ ai cả, dù người đó
thế nào chăng nữa. Lòng thương xót của Người đủ rộng để bao phủ mọi tội lôỵi
của con người. Ông Da-kêu đã lọt vào trong tấm lưới là lòng từ ái của Thiên
Chúa. Ông tìm lại được niềm tin nơi người đã cứu ông, và ông đã trở thành người
được tha thứ. Còn niềm vui nào lớn lao hơn nữa! Niềm vui chính là câu trả lời
của Thiên Chúa cho con người chấp nhận để mình được cứu thoát khỏi chính bản
thân mình và khỏi tội lôỵi.
Ông Da-kêu vui và làm
cả nhà rối loạn lên vì niềm vui. Ông thúc giục gia nhân chuẩn bị đón tiếp Đức
Giêsu. Từ trước đến nay do bản tính keo kiệt, chưa bao giờ ông tỗ chức một cuộc
tiếp đón tưng bừng như thế.
Nhưng chưa hết, do sức
mạnh của ơn giải thoát, của niềm vui đang dào dạt trong lòng, ông đã sẵn sàng
chia một nửa tài sản cho người nghèo, và hứa đền gấp bốn cho những người đã bị
ông cưỡng đoạt tài sản.
Ông Da-kêu đã bị tình
yêu Đức Giêsu chinh phục, ông sẵn sàng bỏ mọi sự để sống đời sống mới do Đức
Giêsu đem lại. Nhờ lòng thương xót của Người, tâm hổn ông đã hoán cải. Ông
không nhận ra chính mình nữa, người khác cũng không nhận ra ông: đó là phép lạ
lớn nhất. Có lẽ có người nghĩ rằng ông đã mất trí. Thực ra, sự quảng đại khó
tin nỗi này là hệ quả đơn giản do lòng rộng rãi của Thiên Chúa, là dấu chỉ bên
ngoài của sự hoán cải bên trong. Khi người ta thực sự được thứ tha, làm sao
người ta lại không ước muốn trao tặng tất cả? Bởi vì lúc ấy người ta là một
người khác: một con cháu của tỗ phụ Áp-ra-ham, một người được cứu thoát, một
người tin vào tình yêu đầy bất ngờ do Thiên Chúa đem lại.
Thiên Chúa cần đến
chúng ta
Qua khát vọng của ông
Da-kêu, Đức Giêsu đã mở một con đường. Chính Người đã đưa ra sáng kiến, đã lôi
ông từ trên cành cây xuống, đã làm vỡ tung những vỏ bọc bên ngoài con người
ông. Người cần đến ông Da-kêu, như đã cần đến các ông Phê-rô, An-rê, và những
người khác nữa như các cô Mác-ta, Ma-ri-a. Người cần đến họ để ở trong nhà họ,
để sống với họ, biến họ thành những người bạn, những người anh em. Người cũng
cần đến môỵi người chúng ta, Người muốn đến cư ngụ nơi chúng ta.
Thế nhưng, môỵi lần
Đức Giêsu đến với một người nào thì Người trở thành người quấy rầy, người phá
vỡ những tình trạng an toàn sẵn có. Những chuyện như thế không chỉ xảy ra nơi
ông Da-kêu, nhưng còn nơi nhiều người khác như chúng ta đọc thấy trong Tin
Mừng. Chẳng hạn như Mác-ta, cô phải thay đỗi cách nhìn ; như ông Phê-rô buộc
lòng phải thả lưới, như Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se phải lên đường về Bét-lem,
rổi sau đó từ Bét-lem sang Ai-cập. Luôn là những con đường hướng đến nơi không
biết trước, không an toàn, kèm theo một thái độ từ bỏ quyết liệt buộc con người
phải ra khỏi mình để lao vào trong tấm lòng của Thiên Chúa.
Đức Giêsu cũng đang ở
trong chúng ta: Người muốn lôi chúng ta xuống khỏi cái cây của chúng ta. Người
muốn phá vỡ sự phòng vệ cá nhân của ta, Người muốn đập tan những gì chúng ta
coi là cần thiết để giữ thể diện. Người đang nhìn chúng ta và thôi thúc chúng
ta môỵi ngày. Để đáp lại, chúng ta phải để cho lòng thương xót của Người xâm
chiếm, đổng thời cũng để niềm vui của chính Thiên Chúa tràn ngập tâm hổn chúng
ta.
Nhưng Đức Giêsu ngỏ
lời với chúng ta bằng cách nào? Nên nhớ rằng Thiên Chúa đã làm người để nói với
chúng ta bằng ngôn ngữ loài người, ngôn ngữ bình thường của cuộc sống. Chúng ta
có khát mong được nghe lời ấy không?
* * *
Con chẳng biết làm thế
nào
để kính chào Chúa,
phải chăng là dùng
luật lệ của con?
Lạy Chúa, xin chỉ dạy
con đường nẻo của Chúa,
xin giải thoát con
khỏi cảnh nô lệ
là sự điên rổ của con.
Xin hướng dẫn con, con
vẫn còn đủ sức hạ mình,
trước khi chính con
trở thành gánh nặng cho con.
theo J. Halevy
Cách đây không lâu,
trên trang “Tuổi Biết Buồn”, tôi có đọc được đôi dòng tâm sự như sau: “Em năm
nay 21 tuổi. Sang Mỹ được 3 năm. Năm đầu sống rất vui vẻ hồn nhiên, không buồn
phiền gì về vấn đề tình cảm. Năm thứ hai thì con tim bắt đầu lúc lắc. Năm thứ
ba em bắt đầu yêu thật. Em đã quen một anh tên A. Lúc đầu chỉ coi anh là anh
trai, nhưng tình cảm len lỏi vào tim lúc nào không biết. Anh lo cho em từng li
từng tí. Càng ngày em càng cảm thấy mến anh. Nhưng có điều anh hơn em đến cả 18
tuổi. Lấy anh thì cũng được, nhưng em lại sợ cái cảnh ‘cha già con mọn’. Thế
rồi em lại quen một anh khác tên B. Anh này thương em, cũng lo lắng cho em. Hơn
em chừng 7, 8 tuổi. Nhưng có điều cũng khó nghĩ vì B lại thấp hơn em, lại không
có đạo nữa. Không trở lại, bố em không chấp nhận là cái chắc. Không lớn hơn vài
'inches' nữa thì tương lai của em sẽ không biết giầy, guốc cao gót là gì?”.
Đọc qua tâm sự đó, tôi
chợt nhớ đến hình ảnh của một người rất thấp trong Phúc âm: Giakêu, một ty
trưởng quan thuế tại thành phố Giêricô, nằm cách Giêrusalem 15 dặm về hướng
đông bắc.
Giakêu không những
được mô tả như một người thiếu thước tấc về thể xác, nhưng còn là kẻ quá thấp
bé về tâm hồn, dưới cái nhìn của người Do thái. Không “thấp” lắm sao khi cấu
kết với ngoại bang Rôma để vơ vét tài sản của dân tộc, đất nước! Không “bé” lắm
sao khi đi làm giàu trên bao mồ hôi xương máu của những người lầm than khốn
khổ!
Từ xưa đến nay, chẳng
mấy ai ưa thích chuyện thuế má. Người Do thái lại càng chán ghét chế độ sưu
thuế do chính sách đô hộ Rôma áp đặt. Số là tại các thuộc địa, để không phải
trực tiếp bóc lột, chính quyền cai trị Rôma thường cho đấu thầu việc thu thuế
tại từng khu vực. Tất nhiên chỉ có kẻ giàu mới có khả năng và mới có cơ may
trúng thầu. Khi trúng, họ có quyền qui định mặt hàng cũng như giá thuế phải
đóng. Lắm khi người trúng thầu phải ra giá thật cao để gỡ vốn. Và không ít khi
cao thêm tí nữa để có lời. Thế nên, dân Do thái tự động xem hạng thu thuế là
phường bán rẻ lương tâm, phá nước hại dân, làm giàu bất chính. Người ta tránh
xa như gặp phải những con vật dơ nhớp, nguy hiểm. Thậm chí còn coi họ như quân
ngoại đạo và tội lỗi.
Thành ra con người
Giakêu hẳn là quá thấp bé trong tầm nhìn luân lý của những kẻ “đang bị bóc
lột”. Đã vậy vóc dạng của ông cũng chẳng cao ráo sáng sủa gì. Lùn quá! Có nhón
gót cũng chẳng thấy Đức Giêsu đâu. Đám đông che mất tầm nhìn của ông.
Mặt khác, danh xưng
của ông còn khơi lên ý tưởng mỉa mai châm biếm khi nó tương phản với công luận.
Giakêu là phiên âm từ chữ “Zakkay”, trong tiếng Do thái có nghĩa là “người công
chính” hay “người thanh khiết”. Gọi một kẻ tội lỗi, nhơ uế là “công chính” và
“thanh khiết”, nếu không phải là chế giễu và khinh bỉ thì là gì?
Nhưng dù thân xác và
tinh thần có bị bao quanh bằng những hàng rào của mặc cảm tự ti, hay sự khinh
thường ghét bỏ của dân chúng, lòng khát mong gặp Đức Giêsu đã như tác động đầu
tiên đưa đến biến đổi và thăng hoa con người.
Ước ao nhìn mặt Đức
Giêsu, đó là sự tò mò tự nhiên hay lời mời gọi của tình thương? Cứ tưởng tượng
Giakêu xắn chiếc áo rộng thùng thình của một bậc trưởng giả để leo lên cây sung
như một đứa con nít cũng đủ thấy đó là một khát khao vượt tính tự nhiên rồi.
Phải chăng khi bị mọi người tránh xa, khi nghe đồn Đức Giêsu hay đến làm bạn
với những kẻ không được thương yêu, trong ông đã hình thành nỗi niềm đi tìm yêu
thương vỗ về.
Lòng khát khao mãnh
liệt làm cho lòng Giakêu “cao lên” so với bao người chen chúc trong đám đông
hiếu kỳ. Oâng muốn nhìn Chúa, nhưng đúng hơn, Chúa lại muốn tìm ông. Khi vừa
đến chỗ cây sung có Giakêu đang trèo trên đó, Đức Giêsu “nhìn lên và trông thấy
ông”. Giả như không có ánh mắt nhìn lên đó thì chuyện gì sẽ sảy ra? Có lẽ
Giakêu cũng tuột xuống ra về trong âm thầm. Cái nhìn của Chúa làm biến đổi cuộc
đời.
Nhìn và thấy diễn tả
một sự chú ý kiếm tìm. Nhìn vào bao con người chen chúc chung quanh, với đủ mọi
thành phần, trình độ, sang hèn, tuổi tác, nhưng Đức Giêsu lại chỉ thấy có một
tâm hồn mà Ngài đang muốn tìm về. Niềm vui rạng rỡ đã bật thành lời: “Hỡi
Giakêu hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi” (Lc 19,5). Ngài
đã tìm thấy “con chiên lạc” đang vướng trên cành, và lòng Ngài ngập tràn hân
hoan.
Một nhà chú giải suy
niệm: “Ôi chao! Ngày hôm đó, chắc là Đức Giêsu phải sung sướng hạnh phúc lắm!
Còn vài cây số nữa là đến Giêrusalem. Còn vài ngày nữa là cuộc khổ nạn được
dâng hiến để cứu chuộc con người. Mọi nỗi đơn độc chơ vơ của thập giá, mọi hình
khổ Ngài sẽ gánh chịu, mọi vết thương xé nát bàn tay và đôi chân đẫm máu sẽ
mang lại ơn ích cho nhân loại. Ngài biết điều đó. Ngài đã cứu thế gian khi tiến
lên Giêrusalem. Và Giakêu là hoa trái đầu mùa”. (Noel Quesson)
Con tim cháy lửa yêu
thương đã tìm gặp được tâm hồn khao khát thương yêu. Và thương yêu đã biến đổi
phận người! Đúng là “gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình; Gặp gỡ Đức Kitô,
nảy sinh tình đệ huynh”. Tình huynh đệ nảy sinh khi Giakêu tự nguyện “bố thí
nửa phần gia tài cho người khổ đau”. Tình đệ huynh lại được hàn gắn khi Giakêu
can đảm “đền trả gấp bốn cho người bị ông làm thiệt hại”.
Không gặp được Đức
Kitô chẳng ai có đủ sức đền bù, chia sẻ, hay trao ban. Không có tình thương
sưởi ấm chắc chắn chẳng ai có thể đổi đời. Nhưng khi có tình Chúa chiếu soi,
người ta sẽ “cao lên” trong tình người. Và như thế, không ai có quyền kỳ thị
hay gạt bỏ, vì họ cũng là “con cái của Abraham”. Không ai được phép xem họ như
người ngoại hay kẻ lầm lạc, vì họ cũng là môn đệ của Tình Yêu Thiên Chúa.
Trở lại với lời tâm sự
ban đầu. Thiết tưởng cao to thân xác mà thấp bé cõi lòng thì ăn thua gì. Mang
danh có đạo mà không bác ái hy sinh thì cũng thiếu xót lắm thay. Thế nên, việc
cần thiết nhất không phải là cao lùn, mập ốm, rửa tội hay chưa, nhưng là có
được tình yêu đúng nghĩa chiếm ngự tâm hồn hay không.
Tình yêu đúng nghĩa
chỉ có khi được Đức Giêsu lưu lại trong đời. Và như Lệ Vũ, người phụ trách
“Tuổi Biết Buồn” xác quyết: “Tìm được tình yêu và yêu thật lòng, ba cái chuyện
cao gầy, lùn mập, miệng méo, mắt Sài gòn, mắt Chợ Lớn, sẽ không thành vấn đề
quan trọng”.
Xin tình yêu của Đức
Kitô gặp gỡ đời con và đời người.
Khi còn học giáo lý
rước lễ ở họ đạo, tôi được cha sở dạy rất kỹ về những việc mà hối nhân phải làm
trước khi xưng tội gồm có: thật lòng ăn năn, xưng tội và thành tâm đền tội.
Nhưng trong 3 việc đó thì ăn năn tội là điều quan trọng nhất. Ví ăn năn tội là
đau đớn trong lòng và chê ghét tội đã phạm, dốc lòng chừa từ nay không phạm tội
nữa. Tương tự như thế hình ảnh Giakêu trong bài Tin Mừng hôm nay cũng cho chúng
ta một bài học về “sám hối”. Đó chính là tấm lòng mà Thiên Chúa luôn cần nơi
mỗi người và đặc biệt trong cuộc sống mỗi người phải biết sám hối vì “nhân vô
thập toàn”.
Có câu chuyện kể rằng
một cha sở nọ nằm mơ, thấy Đức Giêsu thăm giáo dân đang tụ họp trong nhà thờ.
Khi Đức Giêsu ra về khuôn mặt Ngài rất vui và hớn hở. Cha mới chạy theo hỏi Đức
Giêsu tại sao thế? Và Chúa đáp: vì có những người nói những lời hết sức đẹp ý
Ta. Thưa Chúa đó là những lời nào vậy, những lời chúc tụng ngợi khen ư? Không
phải. Vậy những lời ta ơn tri ân cảm tạ phải không? Chúa trả lời cũng không
đúng nữa. Không chịu thua cha sở nọ lại hỏi tiếp: hay là những lời cầu xin Chúa
ban ơn này ơn no cho họ? Chúa Giêsu lắc đầu: con đoán sai cả rồi họ đã nói với
ta: “Lạy Chúa xin hãy tha thứ tội lỗi chúng con”. Câu nói của Giakêu
trong bài Tin mừng hôm nay, cũng có nội dung tương tự như thế và nó còn thể
hiện việc sám hối bằng cả hành động nữa “thưa Ngài, này đây là phân nửa tài sản
của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin
đền gấp bốn”. Do đâu mà những người giáo dân trong câu chuyện lại mau mắn sám
hối như vậy. Vì lí do gì mà Giakêu lại quyết tâm hoán cải nhanh đến như thế.
Chúng ta thấy cả hai đều có điểm chung là đã gặp được Chúa. Vậy để có thể sám
hối tôi thiết tưởng phải cần có những yếu tố sau:
1. Thiên Chúa mời gọi
Cuộc gặp gỡ giữa Chúa
Giêsu và ông Giakêu đặt chúng ta vào trung tâm vấn đề cơ bản của lòng chúng ta,
làm sao nối lại tình thân với Thiên Chúa sau khi tội lỗi đã làm ta xa cách
Ngài? Làm sao nhìn thấy Chúa Giêsu khi giữa ta và Ngài còn một “khoảng đám
đông” đang chen lấn, mà ta lại là người đang “nhỏ bé như Giakêu”. Chúng ta
không nên quá lo lắng về điều đó, vì Thiên Chúa luôn quan tâm đến mỗi người,
nhất là những người tội lỗi “vì con người đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì
đã hư mất” (Mt 19,10). Thiên Chúa không chờ ta quyết định đến với Ngài, Ngài đi
bước trước và đến với ta trước. Hầu hết các sách Tin Mừng không trình bày việc
gì khác ngoài việc Thiên Chúa đến với loài người và gặp gỡ họ. Như trong Bài
Tin Mừng không phải Giakêu đã nhận ra Đức Giêsu trước, nhưng chính Đức Giêsu đã
nhân ra Giakêu trên cây. Điều đó chứng tỏ Đức Giêsu đã quan tâm đến chúng ta
hơn là chính Người. Đức Giêsu chỉ đi ngang qua Giêrikhô một lần thôi, Ngài cũng
chỉ gặp Giakêu ở đó một lần thôi, nhưng trong đời chúng ta Ngài sẽ đến mãi
trong từng giây phút, nếu ta chưa tiếp xúc được với Ngài.
Kinh nghiệm gặp gỡ Đức
Giêsu của Giakêu như bài học kêu gọi mỗi người chúng ta hãy làm một cuộc sám
hối như thế, và biết rằng sám hối là một đặc ân Chúa ban, chính Chuá là người
đi bước trước và có sáng kiến chứ không phải nơi chúng ta, đó là tiếng gọi của
Chúa mà chúng ta có bổn phận phải đáp lại.
2. Con người đáp trả
Thánh Augustinô đã
nói: “Khi dựng nên con Chúa không hỏi con, nhưng khi dựng nên con Chúa phải hỏi
con”, nghĩa là Thiên Chúa luôn cần đến sự cộng tác nơi con người, không những
thế Thiên Chúa còn muốn con người cộng tác một cách chủ động và trưởng thành.
Chúa không đòi ai cũng phải chờ đợi để leo lên cây sung, nhưng quan trọng là
phải đi gặp Chúa trong chính hành động của mình. Giakêu luôn ao ước được gặp
Chúa và chính lòng khao khát đó đã được Chúa cho thoã mãn. Nhưng để phá rào cản
tội tội, rào cản mă#c cảm, và nhất là rào cản giữa con người với nhau thật sự
không dễ chút nào. Chắc chắn Giakêu đã nghe Danh Đức Giêsu từ lâu và hằng ao
ước đến chỉ để nhìn mặt thôi, nhưng kết quả thật không ngờ, ông được hưởng hơn
những gì mà ông mong đợi và hơn thề nữa “ơn cứu độ đã đến cho nhà này”.
Giakêu được như vậy
không phải do ông này nỉ, van xin, cũng không do công trạng lập được, lại không
phải là một người tốt đáng khen, nhưng điều quan trọng là ông biết “đáp trả” lời Chúa mời gọi,
trong khi những người được cho là tốt thì lại không biết làm. Như Giakêu chúng
ta cũng hãy biết đáp trả tình yêu Chúa băng cách sám hối để được tha thứ và đổi
mới cuộc đời, vì tình yêu Thiên Chúa luôn bai la rộng mở, dù chúng ta là ai, dù
chúng ta đang sống trong hoàn cảnh nào, cuộc đời chúng ta có xấu đến đâu cũng
không sao. Chúa sẽ tẩy xoá hết để mỗi người chúng ta sẽ là một giọt tình thường
trong bể tình thương bao la của Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con
biết ăn năn sám hối mỗi ngày, để con xứng đáng đáp trả tình yê mà Thiên Chúa đã
ban cho con. Amen.
Ranh giới giữa nhơ uế
và thanh sạch
Trong đạo Do Thái, có
một ranh giới giữa thanh sạch và nhơ uế, giữa tội lỗi và công chính... một ranh
giới rất "thiêng liêng", mà chỉ có một đời sống luân lý nghiêm khắc
mới có thể giúp người ta vượt qua được. Như thế, yếu tố luân lý trở thành yếu
tố quan trọng nhất. Họ quan niệm cuộc đời con người như một cuộc thi cử, ai đủ
điểm trung bình thì vượt qua được ngưỡng cửa thi cử, đó là thi đậu; ai không đủ
điểm thì không thể vượt qua và là thi rớt. Cách phân chia này làm cho người nào
chưa vượt qua được mức trung bình thì sợ hãi; người nào vượt qua được mức trung
bình thì yên tâm, an nghĩ và thỏa mãn với đời sống của mình.
Chúa Giêsu nhiều lần
phá bỏ ranh giới "siêu hình" này, vượt qua ranh giới giữa thanh sạch
và nhơ uế. Chúa Giêsu tiếp xúc với những người thu thuế, ăn cơm với họ, Ngài để
cho người đàn bà tội lỗi lấy tóc lau chân. Chúa Giêsu cho thấy Thiên Chúa chẳng
từ nan để vượt qua những ranh giới úy kỵ giữa thanh sạch và nhơ uế, giữa thánh
thiện và tội lỗi... để gặp gỡ những người Ngài yêu thương và kiếm tìm.
Không phải luân lý
nhưng là ơn cứu độ
Ở đây cũng thế, Chúa
Giêsu đã đi bước trước, Ngài vượt qua cái úy kỵ của người biệt phái: bị nhơ uế
vì tiếp xúc với người tội lỗi, Ngài thân hành đề nghị trú ngụ ở nhà ông Giakêu,
dù lúc đó ông chưa có "hành vi sám hối".
"Vì Con Người đến
để tìm và cứu những gì đã hư mất"
Thái độ của Chúa Giêsu
cho thấy một nguồn mạch mới của đời sống đạo: điều chính yếu của Tin Mừng Đức
Giêsu chính là ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa chứ không phải nỗ lực luân lý của
con người. Chính thái độ đi bước trước của Chúa Giêsu đã giúp cho ông Giakêu
sám hối và tìm được một đời sống luân lý tốt đẹp, chứ không phải ngược lại.
Chính vì thế, Luca hay
nêu lên cái ngày hôm nay của ơn cứu độ; và mỗi khi Kinh Thánh nói tới "hôm
nay", thì có nghĩa là một điều gì mới của Thiên Chúa được thực hiện trong
cuộc sống con người.
"Hôm nay nhà này
được cứu độ"
Ơn Cứu độ tặng-không
Trong thư Roma (5, 8),
thánh Phaolô đã từng nói rằng: "Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta ngay
khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương
chúng ta"
Điều đó được thể hiện
trong trình thuật Chúa Giêsu đến với Giakêu hôm nay. Điều "cần thiết"
của Giakêu chỉ thái độ sẵn sàng để đón nhận hồng ân của Chúa. Một thái độ sẵn
sàng, một lòng tin đơn thành, một sự chân nhận tình yêu của Thiên Chúa, đó là
những điều thuộc về tự do của con người mà Thiên Chúa không muốn ép buộc. Với
những ai sẵn sàng, Chúa Giêsu nhìn thấy con người đó trong dòng dõi những người
tin; "bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham", và Ngài nhận
thấy họ chính là đối tượng sứ vụ Ngài; bởi vì: "Con Người đến là để tìm và
cứu vớt những gì hư hỏng".
Lời nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Không phải con đến với
Chúa,
nhưng là Chúa đến với
con trong bí tích Thánh Thể hôm nay.
Con đến nhà thờ hôm
nay như bày tỏ một chút thiện chí của con;
những gì còn lại, là
ơn cứu độ, là sự thay đổi đời sống,
xin Chúa rộng lòng ban
cho con
như Chúa đã ban cho
ông Giakêu khi xưa.
(Suy niệm của Lm.
Ignatio Trần Ngà)
Đứng trước tội nhân
hay những người sa ngã, hư hỏng, dư luận xã hội thường lên án, khinh miệt, loại
trừ… Đó là thái độ vốn có của những người Do-thái có tiếng là đạo đức
như các thầy tư tế, các luật sĩ và biệt phái đối với những người tội lỗi như
Giakêu.
Ngay cả Chúa Giêsu, dù
Người chỉ tiếp đón những người tội lỗi thôi thì cũng đã bị tai tiếng rồi. Khi
“Các người thu thuế và các người tội lỗi lui tới với Đức Giêsu để nghe Người
giảng. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này
đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng." (Lc 15, 1-2)
Chính thái độ khinh
thị và loại trừ người tội lỗi như thế lại càng xô đẩy người sa ngã lún sâu hơn
trong tội lỗi của mình. Cư xử như thế là dìm xuống chứ không phải là nâng lên.
Còn về phần Chúa Giêsu, Người có cách cư xử rất đẹp đối với người tội lỗi và
chính cách cư xử cao nhã nầy có một sức cảm hoá thần diệu. Cung cách đối xử của
Chúa Giêsu là niềm nở tiếp đón và trân trọng họ, coi họ như bạn bè. Thế nên dư
luận hồi ấy đã xem Ngài “là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội
lỗi.” (Mt 11,19)
Chúa Giêsu thừa biết
Giakêu là ai và thuộc hạng người nào, nhưng Chúa Giêsu không nhìn Giakêu bằng
ánh mắt khinh miệt của người Do-thái, nhưng đối xử với ông bằng tấm lòng trân
trọng và yêu thương.
Khi thấy Giakêu vắt
vẻo trên cành cây chờ xem Chúa Giêsu đi qua, Chúa vui vẻ thân mật vẫy chào ông
trước: "Này ông Giakêu…”
Chúa Giêsu gọi đích
danh ông như đã từng quen biết từ lâu. Việc gọi tên thân mật nầy khiến ta nhớ
lại lời Chúa Giêsu nói về quan hệ gắn bó giữa người chăn chiên tốt và đoàn
chiên của mình: “Chiên nghe tiếng của anh và anh gọi tên từng con chiên” (Ga
10,3).
Rồi Chúa Giêsu tiếp:
“Xuống mau đi!” Đây không hẳn là lời thúc giục mà chỉ là lời thân mật giữa bạn
bè. Rồi Chúa Giêsu lại muốn thắt chặt mối tình bằng hữu qua việc cùng ăn uống
đồng bàn với Giakêu, và hơn thế nữa, đề nghị ở lại tại nhà ông để rộng giờ hàn
huyên tâm sự: “Hôm nay, tôi sẽ ở lại nhà ông.”
Sáng kiến tình yêu của
Chúa Giêsu lúc đó chắc hẳn phải khiến cho Giakêu sửng sốt. Một bậc thầy khả
kính và danh tiếng như Đức Giêsu mà lại đến trọ tại nhà một người tội lỗi như
Giakêu ư? Chuyện thực mà tưởng như mơ! Thế là Giakêu vô cùng sung sướng đón
tiếp Đức Giêsu vào nhà mình.
Thái độ yêu thương,
trân trọng và quý mến của Đức Giêsu đối với Giakêu đã làm cho ông đổi đời thật
sự, một sự thay đổi tận căn ít ai ngờ tới.
Bấy giờ Ông Giakêu
đứng lên thưa với Chúa rằng : "Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi,
tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp
bốn."
Dám đem nửa phần gia
sản lớn lao của mình trao ban cho người nghèo khó, lại chấp nhận đền gấp bốn
những thiệt hại đã gây ra… quả là một quyết định anh hùng! Thế là từ một người
đáng khinh, Giakêu bỗng trở thành một người rất đáng khâm phục!
Kho tàng văn học thiền
có ghi lại câu chuyện sau đây. Thiền sư Sengai có một anh đệ tử hư hỏng, đêm
đêm thường leo tường trốn ra ngoài chơi đêm. Vị thiền sư biết được điều đó nên
vào đêm nọ, sau khi phát hiện người đệ tử vượt tường bằng cách leo lên một
chiếc ghế khá cao, vị thiền sư đi đến vị trí đặt ghế, nhắc chiếc ghế bỏ sang
bên rồi đứng vào chỗ đó.
Trong đêm tối, người
học trò leo tường trở vào, rồi theo thói quen đặt chân lên ghế để nhảy xuống,
không dè lại đặt chân lên lưng thầy. Khi phát hiện thầy đứng ngay trước mặt,
anh học trò hoảng sợ chờ đợi những lời khiển trách nặng nề. Thế nhưng cuối cùng
vị thầy chỉ nói mấy lời yêu thương: “Áo con ướt đẫm sương đêm rồi! Mau vào thay
áo ngay kẻo cảm lạnh!” Thế là từ đó, người học trò không bao giờ còn đi chơi
đêm nữa.
Những lời trách móc,
lên án, những thái độ khinh bỉ hay loại trừ chỉ tạo nên nguy cơ làm cho những
con người tội lỗi lún sâu vào con đường lầm lạc.
Nhưng chính thái độ
tôn trọng và tấm lòng yêu thương sẽ tạo nên sức cảm hoá diệu kỳ. Đó là nghệ
thuật cảm hoá lòng người rất khôn khéo mà Chúa Giêsu đã sử dụng để làm nên phép
lạ nơi con người Giakêu, biến cải một con người tưởng là ‘hết thuốc chữa’ trở
thành một người mới rất đáng khâm phục.
Lạy Chúa Giêsu, trước
người lầm lỗi,
Xin cho chúng con thay
thế những lời kết án bằng những lời lẽ yêu thương;
Xin cho chúng con biết
thay đổi cái nhìn khinh khi bằng cái nhìn tôn trọng;
Xin cho chúng con biết
thay thế thái độ xa lánh bằng thái độ tiếp đón ân cần…
Nhờ đó, chúng con sẽ
tạo cơ hội cho nhiều anh em lầm lỗi có cơ may phục thiện và đổi mới cuộc đời.
Người ta thường nói:
“Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời”, Để sửa chữa hay thay đổi một người nào đó
là một điều rất khó. Ngược lại nếu không khéo chúng ta lại càng làm cho ra thêm
tệ hơn. Trong thực tế, có những người nói hay, nói khéo, khuyên giỏi... nhưng
kết qủa không mấy khả quan, mà còn làm cho cho họ càng khép kín, bảo thủ, trở
nên oán hận và chai cứng tâm hồn.
Hôm nay, Đức Giêsu với
đường lối sư phạm đại tài, Ngài đã từng bước hoán cải một người thu thuế bị xếp
chung với hạng trộm cắp, giết người và đĩ điếm. Vậy Đức Giêsu đã làm gì mà lại
có sực mạnh biến đổi kỳ lạ như thế?
Thông thường người có
tội hay lẫn trốn, tránh xa những người được cho là công chính. Ở đây Giakêu lại
càng không dám trực tiếp gặp thầy Giêsu, ông cũng không hoà nhập được với dân,
ông như bị cô đơn giữa một rừng người xa cách không ai quan tâm đến ông. Lúc mà
mọi người không ai để ý đến, không ai quan tâm đến thì Đức Giêsu lại quan tâm.
Điều đó quá lạ đối với suy nghĩ của ông, từ trước đến giờ ông không bao giờ dám
nghĩ đến: Chúa lại tìm một người “đứng đầu những người thu thuế” như mình. Dù đang mang
mặc cảm tội lỗi, dù đang bơ vơ lạnh lẽo, ông vẫn cảm thấy ấm lòng vì được Thiên
Chúa quan tâm, trong cuộc sống những người tội lỗi vẫn thường hay tự ty xa
cách, họ không thể hòa mình với mọi người, họ vẫn cảm thấy cô đơn vì bị người
khác bỏ rơi. Những điều đó càng làm cho họ ngày càng lún sâu vào vũng lầy tội
lỗi, không có ai đưa bàn tay để kéo họ lên. Vậy những lúc tuyệt vọng, những lúc
chúng ta không còn chỗ nương tựa chúng ta hãy biết chạy đến cùng Chuá, cho dù
tất cả bỏ rơi chúng ta thì Thiên Chúa vẫn cưu mang chúng ta, vì lúc nào Ngài
cũng đang “nhìn” chúng ta, quan tâm chúng ta
Dân chúng cứ nghĩ Đức
Giêsu sẽ quở trách Giakêu về những việc làm xấu xa của ông. Nhưng Đức Giêsu
không những không quở trách mà còn muốn dùng cơm tối ở nhà ông. Việc làm đó
không chỉ làm cho dân chúng kinh ngạc về cách hành xử của Đức Giêsu, mà cả
Giakêu nữa cũng bị bất ngờ. Ông đã thay đổi tâm hồn từng bước một, bắt đầu từ
lúc Đức Giêsu nhìn thấy ông, gọii ông rồi còn lưu lại nhà ông. Đáng lẽ ông là
tội nhân đáng bị trừng phạt và lên án, thì Đức Giêsu lại đến với ông bằng sự
tín nhiệm yêu thương, vì Người đến không phải để lến án nhưng là để cứu chuộc.
Thiên Chúa luôn nhìn
người tội lỗi với một cắp mắt bao dung, Ngài không để tội nhân đi vào con đường
bế tắc mà mở cho họ một hướng đi trong tương lai, Ngài tin ở sự hoán cải, nơi
người tội nhân. Chính đường lối sư phạm này mà Thiên chúa đã làm cho Giakêu
quay lại 180 độ. Từ một người tội lỗi trở thành tốt, nhưng để được thay đổi tâm
hồn con người không phải “ngồi để chờ xung rụng”, mà phải có thiên chí, có lòng
hoán cải ao ước thật sự... Vậy chúng ta hãy đến xin Chúa để người thay đổi cuộc
đời, vì con người chỉ có thể đổi mới khi có ơn Chúa ban. Hơn nữa, Thiên Chúa
lại luôn quan tâm đến tội nhân. Vì thế, chúng ta phải đáp lại tiếng gọi của
Chúa, sự trông đợi của Người... thì công việc mới hoàn thành cho dù chúng ta có
tội lỗi xấu xa có đáng ghét đến dâu đi nữa thì thiên Chúa vẫn chờ đợi chúng ta
Lạy Chúa, “không có
một ông thánh nào mà không có quá khứ, không có tội nhân nào lại không có tương
lai”. Xin Chúa cho con đừng vì quá khứ mà trở nên xấu xa. Nhưng cho con giống
Giakêu biết hướng đến tương lai, nhờ ơn Chúa tất cả chúng con trở thành con
người mới.
Lắng nghe sứ điệp của
bài Tin Mừng
Chúng ta đổi công
việc, đổi nhà, thay xe…, nhưng nói đến đổi mới cuộc đời thì ít ai muốn thực
hiện. Có nhiều lý do, nhưng có lẽ lý do đáng kể nhất đó là người ta không muốn
mạo hiểm và cố gắng. Câu chuyện Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy một cuộc đổi
đời đầy mạo hiểm và nỗ lực về phía ông Giakêu, nhưng quan trọng hơn chính là
vai trò và ảnh hưởng của Chúa Giêsu trong cuộc thay đổi này.
Câu chuyện xảy ra tại
Giê-ri-khô, một thành phố nằm phía đông Giê-ru-sa-lem và gần Biển Chết. Thành
phố đông dân cư, buôn bán phồn thịnh. Cho nên ông Giakêu đứng đầu những người
thu thuế ở đây thì nhất định phải là người giàu có rồi. Dân chúng khinh dể ông,
còn gọi nhà ông ở là “nhà người tội lỗi”. Chúng ta không rõ lý do nào khiến ông
“tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai”. Rất có thể vì ông đã nghe nói “các
người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người
giảng” và Người còn “đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (Lu-ca
15:1-2). Tuy nhiên lần này cộng thêm với việc ông tìm cách gặp Chúa, thì chính
Chúa lại chủ ý đi tìm ông. Ông nấp ở trên cây sung, không ai nhìn thấy ông.
Nhưng Chúa Giêsu không cần ai mách bảo, Người chủ động nhìn lên và kêu ông
xuống. Trong cuộc đổi đời này, cả ông Giakêu lẫn Chúa Giêsu đều đích thân tìm
đến với nhau. Chúa Giêsu đã mở đầu diễn tiến cho cuộc thay đổi khi Người đề
nghị trước: “Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” Dường như Chúa muốn ngầm bảo ông:
Tôi đã tóm được ông rồi. Giả như ông có đuổi, tôi cũng không đi! Hôm nay tôi ở
lại với ông, để bắt đầu cho việc ở lại vĩnh viễn suốt cuộc đời ông! Đúng vậy,
chỉ có sự hiện diện của Chúa mới giúp cho cuộc đổi đời thành công. Khi người ta
có mối tương quan với Chúa, tương quan ấy sẽ có sức mạnh biến đổi họ. Gần đèn
thì rạng là thế. Đáp lại đề nghị của Chúa, ông Giakêu “vội vàng tụt xuống, và
mừng rỡ đón rước Người”.
Trong cảnh kế tiếp của
câu chuyện, thánh Luca mô tả một ông Giakêu mới. Chúa và ông Giakêu đứng đó
trước mặt mọi người. Mặc cho bao con mắt soi mói, ông chỉ biết có Chúa Giêsu
hiện diện mà thôi. Ông công khai “xưng tội” với Chúa và trước mặt mọi người.
“Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em”. Ông nhìn nhận mình
đã ăn cướp của người nghèo nên giờ đây ông lấy phân nửa tài sản để trả lại cho
người nghèo. Ông thú nhận đã chiếm đoạt nhiều thứ của người khác nên ông tự
nguyện xin đền gấp bốn. Quả thực ông đã trở thành con người mới rồi, tất cả là
nhờ gặp gỡ Chúa Giêsu! Về phần Chúa Giêsu, Người trang trọng nhìn nhận sự thay
đổi của con người Giakêu. Chúa Giêsu trước hết nói về cuộc biến đổi của cái
nhà: “nhà người tội lỗi” giờ trở thành “nhà tiếp nhận ơn cứu độ”. Rồi Chúa nói
đến sự biến đổi con người. Từ một “người tội lỗi” và bị đồng bào loại trừ khỏi
cộng đồng con cháu Áp-ra-ham, bây giờ ông Giakêu được Chúa phục hồi quyền làm
“con cháu tổ phụ Áp-ra-ham”.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Sau khi nhìn nhận cuộc
đổi đời của ông Giakêu, Chúa Giêsu đã khẳng định lại vai trò của Người: “Con
Người đến để tìm và cứu chữa những gì đã mất”. Lời này của Chúa làm cho chúng
ta vững tâm thay đổi cuộc sống. Chúng ta “đã mất” trong nhiều phương diện, nhất
là mất đi căn tính làm con cái Chúa. Thường chúng ta không đổi đời một cách
nhanh chóng và ấn tượng như trường hợp ông Giakêu, nhưng là cuộc biến đổi từ
từ, liên tục và kéo dài cả một đời. Dù thế nào đi nữa, vai trò sự hiện diện của
Chúa Giêsu và cố gắng của chúng ta vẫn là những yếu tố chính để việc biến đổi
được tiếp tục. Hơn lúc nào hết, hình ảnh “trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa
Kitô” (Philípphê 4,10) mà thánh Phaolô nêu lên luôn là hình ảnh sống động nhất
diễn tả tiến trình thay đổi. Có lẽ chúng ta sử dụng hình ảnh này mỗi ngày trong
cuộc xét mình buổi tối, nhìn lại một ngày sống để xem cuộc đổi đời của chúng ta
tiến triển như thế nào.
Chúa Giêsu lúc nào
cũng muốn đến để tìm và cứu chữa chúng ta. Cũng như ông Giakêu, chúng ta chỉ
cần mở tâm hồn đón Chúa. Chúa muốn ở lại với chúng ta, nên chúng ta hãy để cho
người tiếp tục ở lại và thực hiện cuộc tìm và cứu chữa này.
Nếu như tuần trước
Chúa Giêsu kể dụ ngôn người Biệt phái và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện
để cho chúng ta thấy lòng nhân từ hay thương xót của Thiên Chúa. Thì hôm nay,
qua câu chuyện ông Giakêu muốn thể hiện cách cụ thể lòng thương xót đó bằng
việc Ngài thương xót và an ủi cho Giakêu khi đến viếng và ở lại nhà ông, một
người tội lỗi.
Thế giới và những
những gì chứa đựng trong nó chỉ là những hạt cát nhỏ bé, mong manh so với sự vĩ
đại lớn lao của Thiên chúa. Nhưng Thiên Chúa yêu thương tất cả các tạo vật ấy.
Vì Chúa tạo dựng vũ trụ này chỉ vì tình yêu. Chúa không hề chê bất cứ tạo vật
nhỏ bé nào. Vì nếu ngài chê ghét thì không một tạo vật nào có thể tồn tại. Vì
thế, mọi vật hiện hữu quanh ta điều có giá trị trước mặt Thiên Chúa cho dù một
vài thụ tạo không đi đúng đường lối Ngài thì ngài vẫn tỏ lòng khoan dung để
nhắc nhở, sửa dạy hầu chúng biết được lỗi lầm mà bỏ đường gian ác. Đó là tư
tưởng của bài đọc I
Bài Tin Mừng sẽ cho
chúng ta một ví dụ về lòng thương xót Chúa qua việc Chúa Giêsu tìm được một
người thu thuế tội lỗi Giakêu để kêu gọi ông ta sám hối. Sự sám hối này được
ông ấm ủ trong lòng bấy lâu qua sự khao khát muốn gặp Chúa Giêsu.
Chắc chắn Chúa Giêsu
không xa lạ gì đối với dân thành Giêricô. Vì tại đây, Ngài đã chửa cho một
người mù tên Bartimê. Và không biết tình cờ hay ngẫu nhiên mà chúa Giêsu người
Samaria nhân hậu xuất phát từ Giêricô. Vì thế, là người giàu có trong thành,
Giakêu cũng đã nghe đồn đây đó về Chúa Giêsu và ông muốn gặp Ngài.
Dẫu biết sự khao ấy
nơi ông có nhiều khó khăn cản trở: giới hạn về thân xác, là một người lùn “đừng
chơi với thằng lé đừng ghé nhà thằng lùn”; giới hạn về tâm hồn, là người không
có uy tín mấy, bị khinh khi. Nhưng tất cả những cản trở, những khó khăn đó
không ngăn được ước muốn gặp Chúa và ngăn cản đôi chân ông cất bước đi tìm. Bấy
nhiêu đó cũng đủ thấy sự cố gắng nổ lực khát khao gặp Chúa xuất phát từ tấm
lòng chân thành của ông.
Nhưng sự quảng đại và
lòng thương xót của Chúa Giêsu cũng đâu chịu thua sự nỗ lực và cố gắng của
Giakêu. Vì Chúa Giêsu đã biết trước Ngài sẽ phải làm gì cho ông hôm nay. Giữa
đám đông chen lấn vây quanh Chúa Giêsu. Nhưng Ngài không mấy quan tâm. Vì ánh mắt
của Ngài đã hướng lên ngọn cây sung cao chót vót, nơi Giakêu đang ngồi chờ đợi.
Điều này chứng tỏ Chúa Giêsu đã quan tâm đến ông cách đặc biệt. Vì thế nếu
chúng ta cảm phục trước tấm lòng khao khát Chúa Giêsu cách chân thật nơi Giakêu
bao nhiêu thì chúng ta càng phải thán phục trước sự quảng đại và lòng khoan
dung của Chúa gấp bội.
Vì Ngài đã không mấy
quan tâm đến đám đông reo hò đón rước vây quanh mà lại đoái nhìn đến Giakêu,
một người bị xã hội loại trừ khinh bỉ. “Này ông Giakêu hãy xuống mau đi vài hôm
nay tôi phải ở lại nhà ông”. Cách đối xử của Thiên Chúa hoàn toàn khác và vượt
xa với suy nghĩ của con người. Việc Chúa Giêsu đến trọ nhà ông đã nói lên ơn
cứu độ của Thiên Chúa không loại trừ một ai. Vì Chúa không nhìn con người với
những lầm lỗi của họ. Nhưng Ngài chỉ để ý đến phẩm giá cao quý được đặt để nơi
người đó. Và chính cái nhìn thông cảm thấu suốt tâm can của Chúa Giêsu đã làm
cho Giakêu cảm phục và hoán cải đời sống. Một sự hoán cải chân thật xuật phát
từ con tim bị đánh động bởi lòng quảng đại của Chúa Giêsu.
Chính khi cảm nhận
được tấm lòng bao la quảng đại và tình thương của Chúa Giêsu dành cho mà Giakêu
đã nhận ra, ý thức được chính mình. Con tim của ông đã bị đánh động và bị chinh
phục. Chính sự khao khát của ông đã được đáp đền. Giakêu đã thật sự mặt chạm
mặt và lòng gặp lòng với Chúa Giêsu.
Sự hoán cải liền xảy
ra ngay lập tức, có thể thấy được và chắc chắn là sự hoán cải này sẽ chi phối
suốt cuộc đời Giakêu. Đây không chỉ hoàn toàn là sự hoán cải theo lý trí mà bao
gồm cả con tim. Đây mới là sự hoán cải thật sự, đúng nghĩa và là sự hoán cải
quan trọng. Nó vượt ra ngoài những suy nghĩ của lý trí và đi đến một hiệu quả
sâu xa. Sự sợ hãi của con người không thể có được sự hoán cải này mà chỉ có con
tim, chỉ có gặp gỡ và tình yêu.
Chính sự hoán cải này
mới có thể thay đổi được lòng người, thay đổi được cái nhìn, biết yêu thương
người khác và biết chia sẻ cho nhau. Kỳ thị, ghen ghét... chỉ có thể làm cho
con tim đóng kín và trở nên chai đá. Sự thông cảm đón nhận và cách đối xử thân
tình của Chúa Giêsu sẽ làm cho con tim nhân lọai trở nên mềm mại và rộng mở.
Không có gì có thể làm thay đổi hay có thể hoán cải một con người nếu không
phải là con tim.
Để tỏ lòng sám hối
thật sự và để Chúa Giêsu không phải thất vọng, Giakêu đã chứng minh bằng một sự
từ bỏ và hứa hẹn một cuộc đời công chính. Danh lợi và vật chất giờ đây đối với
ông chỉ là phù vân. Vì bấy lâu nay có nó nhưng đâu có ngày nào ông cảm thấy
hạnh phúc, bình an. Sống trong nhung lụa nhưng tâm hồn ông vẫn cứ khắc khoải,
lo lắng như còn thiếu một điều gì đó. Và Chúa Giêsu đã lấp đầy mọi khoảng trống
trong tâm hồn và thỏa mãn mọi khát vọng cuả ông.
Giờ đây ông cảm thấy
thư thái, bình an trước cuộc. Đây quả là một sự hoán cải sâu xa xuất phát từ
nội tâm của Giakêu. Tất cả chúng ta cũng đang cần sự hoán cải đó. Mỗi người
chúng ta cũng có khả năng hoán cải như Giakêu nhưng khả năng đó còn đang bị
đóng kín và chưa được khơi dậy. Chúng ta đang sống trong sự khao khát hoán cải
mỗi ngày để biến đổi một con tim hẹp hòi thành con tim quảng đại, từ một con
tim chai đá cho đến một con tim bằng thịt biết yêu thương.
(Suy niệm của Lm.
Louis Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Luca thuật lại hai câu
chuyện liên quan đến thành Giêricô: người mù được chữa lành khi Chúa Giêsu đến
gần đó (18,35-43), và ông Giakêu khi Người đi ngang qua thành (19,1-9). Câu
chuyện Giakêu được đặt ở cuối hành trình lên Giêrusalem (9,51-19,27). Hành
trình tạm ngưng khi Người dừng chân ở lại nhà người thu thuế nầy (x.
17,11;18,31). Có thể phân chia bố cục của đoạn như sau: - Bối cảnh dẫn nhập (c.
1); - Giakêu tìm và gặp Chúa Giêsu (cc. 2-6); - Chúa Giêsu đến nhà Giakêu và
ban ơn cứu độ cho ông, và kết luận (cc. 7-10). Hai phần chính có cấu trúc hình
thức tương tự nhau. Trong phần đầu (cc. 2-6), Giakêu tìm gặp Chúa Giêsu, và bị
dân chúng cản trở. Họ che ông khỏi thấy Người, vì ông thấp bé (c. 3). Ông tìm
cách vượt qua trở ngại bằng cách trèo lên cây sung (c. 4). Chúa Giêsu đáp lại
sự tìm kiếm của ông là đi ngang qua chỗ ông và nói với ông (c. 5). Người đến
nhà ông và ông đón tiếp trong vui mừng (c. 6). Trong phần thứ hai (cc. 7-10),
Chúa Giêsu đến nhà Giakêu, và bị dân chúng cản trở bằng những lời lẩm bẩm (c.
7). Người vẫn đến và Giakêu đáp lại bằng sự sửa mình của ông (c. 8). Chúa Giêsu
vui mừng vì đã cứu vớt được một người con của Abraham (cc. 9-10). Những từ quan
trọng liên kết hai phần với nhau đều nằm ở câu 5 và 9 là “hôm nay”, “ nhà” và
“Giêsu”. Hai câu nầy là chìa khóa giúp hiểu ý nghĩa của mỗi phần. Từ
eis-erchomai “đi vào”(c. 1) và erchomai “đi” “đến” (c. 10) đóng khung đoạn
(inclusio), đánh dấu việc cứu độ Chúa Giêsu làm cho Giakêu đã xong tại Giêricô.
Dựa trên câu chuyện của Giakêu, có thể thấy việc Giakêu tìm kiếm Chúa (c. 3) đã
kết thúc với việc Chúa Giêsu tìm kiếm ông theo chiều ngược lại, và đã cứu vớt
ông (c. 10).
Chúa Giêsu vội vã đi
ngang qua Giêricô để lên Giêrusalem (c. 1). Động từ “đi
ngang qua”, dia-erchomai, gợi lên ý tưởng đi xuyên lãnh thổ, và đi vội vã (x.
2,15; 4,30; 5,15). Người nhắm đến Giêrusalem và không muốn chậm trễ. Tuy nhiên,
Người đã tự cầm chân mình lại trong nhà Giakêu để cứu vớt người nầy.
Giakêu tìm và gặp Chúa
Giêsu (cc. 2-6). Phân đoạn nầy tập trung vào Giakêu: - Con người và
ước muốn (cc. 2-3); - Thực hiện ước muốn và kết quả đến hơn cả lòng mong muốn
(cc. 4-6). Cụm từ “Và nầy” mở đầu, dùng để kéo sự chú ý vào điều sắp được trình
bày; tương tự như thế khi nói về Simêon (2,25). Luca giới thiệu tên, nghề
nghiệp và thân thế của Giakêu (c. 2). Zacchaeus là hy lạp hoá tên hipri Zakkay
(Nêh 7,14; Esdra 2,9), có nghĩa là “sạch, vô tội”. Là trưởng thu thuế, nên ông
giàu có. Giêricô là trụ sở quan thuế thường được nhắc đến, và đây là thí dụ
điển hình.
Giakêu tìm thấy cho
bằng được Chúa Giêsu là ai (c. 3). Động từ “tìm
kiếm” được dùng rất nhiều lần trong Luca; nhưng ở thể quá khứ chưa hoàn thành,
chỉ được dùng cho Giakêu, cho Hêrôđê (9,9) và Giuđa (22,6). Khó có thể nghĩ là
độ dài, sự lập lại của việc tìm kiếm của Giakêu chỉ xảy ra cách ngắn ngủi khi
Chúa Giêsu vội vã ngang qua thành Giêricô. Nếu như thế, tìm kiếm ấy chỉ là một
sự tò mò nhất thời. Sự tìm kiếm nầy phải là đã từ lâu, bây giờ là cơ hội để tìm
thấy, như trường hợp của Hêrôđê (x. 23,7-8) và Giuđa (22,47). Động từ nầy
thường hàm ý là tìm cho đến khi nào thấy được (2,48.49; 9,9). Tuy Giakêu đã đi
tìm, chính Chúa Giêsu mới là người tìm thấy ông (c. 5). Người tỏ mình ra cho
ông, như trong khẳng định “Ai tìm sẽ được cho” (11,9-10; 12,31). Sự thấp bé của
Giakêu là sự kiện chứ không phải là nguyên nhân. Dân chúng mới là nguyên nhân
“vì dân chúng” (c. 3). Họ cản trở không cho ông nhìn thấy Chúa Giêsu, cũng như
họ không muốn Người đến nhà ông (c. 7). Đáng ngạc nhiên là Luca trình bày phản
ứng của dân chúng tương tự như phản ứng của những người Pharisêô (x. 5,30;
15,2).
Khung cảnh thu nhỏ lại
hơn. Chúa Giêsu “đi ngang qua Giêricô” đến “đi đến” chỗ cây vả nơi có Giakêu
(c. 4). Chúa Giêsu dừng lại ở đó. Tên “Giêsu” được nêu rõ ở đây, cũng như ở câu
9, chỉ sự quan trọng của điều Người sắp nói: “Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay
tôi phải ở lại nhà anh” (c. 5). Chúa Giêsu lên chương trình cho Giakêu. Ông
phải “xuống mau” vì Người đang vội vã đi lên Giêrusalem. Nhưng Người “phải” ở
lại, vì đó là sứ mệnh cứu độ của Người (x. 2,49; 4,43; 9,22…). “Hôm nay” sẽ
được lập lại trong c. 9 chỉ thời điểm ơn cứu độ được thực hiện (2,11; 4,21;
5,26; 23,43). “Nhà của anh” đại từ chỉ ngôi “của anh” đặt sau “nhà” là vị trí
nhấn mạnh. “Ở lại” là một phần của việc tông đồ (x. 1,56; 9,4; 10,7; 19,5;
24,29). Giakêu đã trèo lên để tìm xem Chúa (c. 4). Bây giờ ông trèo xuống vì đã
gặp Người (c.6). “Vội vã” chỉ sự khao khát (x. 2,16). Động từ “đón tiếp” hàm ý
sự hiếu khách (x. 10,38). Ông vui mừng vì Chúa ở lại nhà ông. Luca thường nói
đến niềm vui của những người được Thiên Chúa can thiệp và cứu độ (x. 1,14;
1,28; 6,23; 10,20; 13,17; 19,6). Như thế, Giakêu đã nhận được nhiều hơn cả điều
ông mong ước.
Chúa Giêsu đến nhà
Giakêu và ban ơn cứu độ cho ông (cc. 7-10). Động từ “cho” và “hoàn trả” (c. 8) ở thì hiện tại
hiểu như là tương lai gần: “tôi sẽ cho”, “tôi sẽ hoàn trả lại” (x. 4,6; Cv
3,6). Giakêu đã không làm điều nầy trong quá khứ. Ông đã đặt giả thiết là ông
có thể đã làm thiệt hại ai đó trong quá khứ (c. 8). Nên không lạ gì dân chúng
nghĩ ông là “người tội lỗi” (c. 7). Do đó, quyết định nầy chứng tỏ ông đã hoán
cải. Và Chúa Giêsu mới tuyên bố là “hôm nay ơn cứu độ đến với nhà nầy” (c. 9),
và “Người đến để cứu vớt những người hư mất” (c. 10). Cuộc gặp gỡ với Chúa
Giêsu đã biến đổi đời ông. Động từ “sykophante” có nghĩa là “gian lận”, “áp
bức”, “hăm dọa tống tiền” (x. 3,14). Làm nghề thu thuế, Giakêu gian lận tiền
bạc của người khác cho chính mình. Dựa vào luật Môse, phải đền trả lại “gấp
bốn” (x. Xh 21,37; 2 Sam 12,6) hay “gấp năm” (x. Lv 6,5; Ds 5,6-7).
Như câu 5 ở trên, Chúa
Giêsu lại tuyên bố (c. 9), và lần nầy Người nói đến sự cứu độ cho Giakêu,
“người con của Abraham.” “Cứu độ” được gắn liền với “hôm
nay”; xem ở trên. “Con cháu của Abraham” không phải chỉ do bởi sự thuộc về dân
tộc Do thái. Chúa Giêsu đã phê bình những người tự hào là họ có Abraham là tổ
tiên, nhưng thiếu lòng hoán cải (x. 3,8). Chính sự hoán cải trở về với Thiên
Chúa mới chứng thực ai là con cái của Abraham. Giakêu đã làm điều nầy và đáng
được gọi là con cái của Abraham. Câu 10 lấy lại ý tưởng của câu 5,32 với nhiều
thay đổi từ ngữ. Đó là “đến tìm kiếm” và “những người hư mất”, thay vì nói đến
việc kêu gọi “người tội lỗi hoán cải”. Việc thay đổi từ ngữ nấy nhằm nhấn mạnh
sứ vụ mục tử của Chúa Giêsu; xem dụ ngôn đi tìm chiên lạc (15,4-7). Tước hiệu
“Người Con của Nhân Loại” gắn liền với cuộc thương khó, sự chết và vinh quang
(9,26.44; 12,8; 22,69); đồng thời cũng gắn liền với những người thu thuế và tội
lỗi (7,34; 19,10). Họ là những người đầu tiên “phải” được tìm đến và cứu chuộc.
Vậy như lời hứa với Abraham (1,73), Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót với con
cháu của ông (1,55) qua việc ban ơn cứu độ cho Giakêu.
Thiên Chúa vẫn còn đi
ngang qua trần gian nầy để tìm kiếm và cứu độ những người đã hư mất. Hãy mở cửa
nhà cho Chúa. Mời Người vào và lãnh nhận ơn cứu độ.
Một ngày nọ, Mẹ Têrêsa
nhận được 15 đôla do một người bị bất toại đã 20 năm gửi tặng. Ông ta bị toàn
thân bất toại chỉ còn bàn tay phải là có thể cử động được. Ông sống trong cô
đơn và chỉ có một người bạn duy nhất là điếu thuốc lá.
Hôm ấy, Mẹ Têrêsa đến
thăm, an ủi ông và ông đã nói với Mẹ:
- Thưa Mẹ, con đã ngừng
hút thuốc từ một tuần nay, và đây là số tiền con dành dụm được. Con xin biếu Mẹ
để Mẹ mua cơm bánh cho những kẻ nghèo khó.
Thật quý hóa cho một
tâm hồn cao thượng. Biết tích góp từ những đồng tiền ít ỏi của mình để trao
tặng tha nhân. Người ta nói rằng: trên đời này, không ai nghèo đến nỗi không có
gì để chia sẻ với người khác và cũng không ai giàu đến độ không thể nhận thêm
được cái gì của người khác ! Với số tiền nhỏ bé 15 đôla kia, Mẹ Têrêsa đã mua
cơm bánh cho người nghèo đói, và cả hai -người bất toại trong việc cho đi
và người nghèo đói trong việc nhận lãnh- đều cảm nhận được một niềm vui sâu xa.
Có lẽ nhiều lần chúng ta đã dễ dàng quên đi một sự thật căn bản này là: mỗi một
dịp chia sẻ với người khác tức là một lần đón nhận niềm vui của một tâm hồn
biết cho đi. Thế nhưng, chúng ta vẫn để cuộc đời trôi qua trong tẻ nhạt vì lạnh
vắng tình người.
Thực ra, giá trị cuộc
đời con người nằm ở chỗ có khả năng trao ban. Người càng trao ban nhiều thì
càng có giá trị với cộng đoàn, với xã hội. Ai không biết trao ban sẽ trở thành
vô ích với xã hội loài người. Cho dù họ có lắm tiền nhiều của hay chức vọng cao
sang thì cũng vô giá trị với anh em nếu không biết sống trao ban. Trao ban còn
cho ta niềm vui của cuộc sống khi nhận ra mình thật có ích với tha nhân. Chúng
ta có thể trao ban cho tha nhân tiền tài, tình yêu, sự chia sẻ, lòng cảm thông.
Chúng ta có thể trao ban lời nói và hành động ngay cả ánh mắt của sự đồng cảm
yêu thương. Trao ban sẽ tạo cho ta mối giây liên hệ gắn kết với tha nhân, cộng
đoàn. Trao ban sẽ tạo cho ta niềm vui vì thấy người khác vui nhờ sự chia sẻ của
chúng ta.
Đây là niềm vui của
Gia-kêu khi ông biết cho đi. Có lẽ cuộc đời ông trước kia chỉ đón nhận, chỉ
biết vun quén, có khi vun quén bằng những hành vi bất chính. Ông có tiền và rất
giầu. Ông có kho lẫm tích trữ rất nhiều nhưng ông không có niềm vui tâm hồn.
Ông biết rằng khi trao ban mới có niềm vui nhưng ông không tìm được lý do để
trao ban. Cho tới khi ông gặp Thầy Giê-su, ông mới mạnh dạn làm cái điều mà
mình hằng thổn thức, hằng ước mong. Thầy Giê-su là động lực để ông dám trao ban
cả một khối gia tài mà trước đây ông vun quén, ông xây kho lẫm để chất cho đầy.
Khi có Thầy Giê-su, ông chỉ muốn dùng tài sản của mình để đền bù cho những ngày
tháng mình quá ích kỷ. Ông muốn làm việc nghĩa. Ông sẵn sàng làm tất cả để
chuộc lại lỗi lầm. Giờ đây ông biết rằng: tiền bạc chẳng mua được hạnh phúc và
càng không mua được Nước trời.
Cuộc đời quanh ta cũng
có biết bao cơ hội để ta trao ban nhưng dường như chúng ta vẫn để cơ hội ấy
lặng lẽ trôi qua. Chúng ta vẫn sợ cho đi mình sẽ thiệt thòi. Chúng ta vẫn ích
kỷ không dám cho đi vì sợ người ta hơn mình. Chúng ta vẫn cố nắm giữ cho mình
mà ít nghĩ tới việc trao ban. Thế nên, cuộc đời chúng ta vẫn lặng lẽ trôi qua
trong âm thầm tẻ nhạt.
Ước gì mỗi lần chúng
ta đến với Chúa sẽ cho chúng ta cơ hội để trao ban. Có Chúa là gia nghiệp, là
hạnh phúc vượt trội hơn mọi danh vọng, vật chất trần gian. Có Chúa là lẽ sống
sẽ giúp chúng ta làm một điều gì đó cho Chúa vui lòng như Gia-kêu đã thành tâm
sám hối chuộc lại lỗi lầm. Ông đã bố thí, đã trao ban nhờ đó ông ngập tràn niềm
vui trong tâm hồn. Xin cho chúng ta cũng biết noi gương Chúa biết sống cho đi
mà không tính toán, cho đi cả mạng sống mình vì hạnh phúc tha nhân để nhờ đó
chúng ta được sống mãi trong tình thương của Chúa. Amen.
Thánh Giáo hoàng Gioan
Phaolo II được coi là sứ giả của Thiên Chúa, và là con người của muôn người.
Ngài là vị giáo hoàng đầu tiên đã thực hiện trên 100 chuyến công du đến 129
quốc gia để gặp gỡ và chung sống với đủ mọi thành phần trong xã hội, đủ mọi dân
tộc trên khắp Năm Châu. Dù tuổi già sức yếu, hai lần té gãy xương, thậm chí
cuộc ám sát năm 1981 đã khiến ngài từng ngã qụy vì viên đạn bắn gần vào tim,
nhưng tất cả vẫn không làm chùn bước chân của người mục tử đi đến với đoàn
chiên và tìm chiên lạc trở về.
Ngài đã thực hiện một
chuyến viếng thăm lịch sử, một chuyến viếng thăm đã chinh phục được toàn thể
luơng tâm nhân loại. Đó là khi Ngài dừng chân bên bức tường Than Khóc. Tại đây,
ngài lập lại lời xin lỗi cho cả một quá khứ hiểu lầm đầy đau thương. Đây quả
thực là một cuộc viếng thăm đã san bằng con đường gồ ghề gai góc và mở ra một
chân trời mới.
Chân trời của sự tha
thứ lẫn nhau.
Chân trời của sự tin
tưởng lẫn nhau
Chân trời của những
chân lý chung
Chân trời của những
trách nhiệm chung
Và chân trời của sự
cầu nguyện chung.
Đức thánh Cha Đức
Bênêdicto 16 cũng ra đi, để đến với muôn dân. Đặc biệt trong chuyến viếng thăm
Thổ Nhĩ Kỳ vào cuối tháng 11/2006, ngài đã thực hiện một chuyến viếng thăm đầy
mạo hiểm theo cái nhìn người đời, nhưng là bước đi đầy lòng cậy trông và phó
thác vào Thiên Chúa quan phòng. Ngài đã đánh đổ mọi cái nhìn lệch lạc về ngài
khi ôm chúc bình an với Đức Thượng phụ Bathôlômêô I, và khi ngài bước vào Đền
Thờ Xanh trong sự kính trọng và đầy thiện cảm của anh em Hồi Giáo. Chính chuyến
tông du có tính lịch sử này, giới truyền thông trên toàn thế giới cho rằng ngài
đã đóng góp: “cho việc xây dựng một thế giới có khả năng nhận ra những chân lý
chung trong tình huynh đệ và đối thoại, và không chiều theo đối kháng hay đầu
hàng quyền lực sự chết”.
Trong cuộc đời dương
thế, Chúa Giêsu luôn đi đến với mọi người. Mỗi bước đi của Ngài luôn để lại dấu
ấn đầy yêu thương cho những ai được tiếp xúc với Ngài. Hôm nay, Giakêu đã được
Chúa viếng thăm. Đây là một hồng phúc dành cho Giakêu. Gia Kêu không ngờ mình
lại được Thiên Chúa viếng thăm. Những người Do Thái năm xưa càng không ngờ Thầy
Giêsu, một vị Thầy đáng kính, một người thánh thiện lại ghé thăm kẻ tội lỗi.
Nhưng đây lại là đường lối của Chúa. Chúa đã dùng cách này để mang tình yêu đổi
lấy cuộc đời Gia Kêu. Chúa dùng tình yêu để cải hoá người tội lỗi. Chúa đến để
tìm kiếm, để cứu chữa những gì đã mất. Chính trong chuyến viếng thăm lịch sử
này, Chúa đã đổi đời Gia Kêu để từ đây ông không còn tham lam quyền bính hay
tham lam tiền bạc. Gia Kêu đã sám hối và chuộc lại lỗi lầm. Ông đã cho đi những
của phù vân. Ông đã biết dùng của cải đời này mà mua lấy bạn hữu Nước Trời mai
sau. Ông còn bỏ tiền để đền bù những việc lỗi công bằng bác ái mà ông đã gây
ra. Ông đã tìm được sự bình an của tâm hồn sau một lần được Chúa viếng thăm.
Con đường đến với anh
em phải là con đường của các môn đệ Thầy Giêsu. Hãy ra khỏi chính mình để đến
với anh em. Hãy tìm đến các con chiên lạc mà đưa về ràn. Hãy hội nhập với đời
để đem đạo vào đời. Chúa đã đi vào đời để gieo chân lý, niềm tin và hy vọng. Là
môn đệ của Chúa cũng cần bước theo dấu chân của Thầy Giêsu. Dấu chân luôn rong
ruổi khắp mọi nẻo đường. Dấu chân của người môn đệ đi đến đâu, sẽ để lại cho
đời một màu xanh của yêu thương và hạnh phúc bình an. Ước mong mỗi người chúng
ta hãy can đảm vượt qua những trở ngại từ bản thân, từ môi trường để dấn thân
cho Tin mừng của Chúa được đến với muôn người. Hãy xoá mọi thành kiến xấu nơi
anh em để có thể hoà hợp với anh em. Hãy xoá bỏ mọi ngăn cách giầu nghèo hay
địa vị cao thấp mà sống hoà đồng với anh em. Hãy xoá bỏ mọi hiềm khích hận thù
để sống bác ái yêu thương nhau ngõ hầu làm sáng danh Chúa qua những dấu chỉ của
tình yêu thương.
Nguyện xin Chúa là
Đấng đã viếng thăm Giakêu xin cũng lưu lại nơi cuộc đời chúng con để biến đổi
chúng con thành những tín hữu biết sống công bình bác ái và dấn thân hết mình
phục vụ tha nhân. Amen.
(Suy niệm của Achille
Degeest)
Giakêu là một người
giàu có. Sự giàu có của ông có thể khiến cho người ta có lý do chính đáng nghi
ngờ ông tham nhũng. Thật vậy, phụ trách thu thuế cho người La mã chiếm đóng xứ
sở mình, ông trích ra những khoản đáng kể làm của riêng, lấy ở những số tiền
thuế do ông quản lý. Vậy mà Đức Giêsu đã không nề hà đến thăm, lưu lại nhà ông,
đem đến cho ông ơn cứu rỗi. Đoạn kết bài tường thuật nhấn vào ý nghĩa sứ vụ của
Chúa là đến cứu rỗi nhân loại. Vấn đề đặt ra ở đây là gì? Ơn cứu rỗi đối với
ông Giakêu phải chăng là bố thí rộng rãi và hoàn trả gấp bội số tiền phù thu
lạm bổ? Chúng ta không nên tách riêng đoạn Phúc Âm hôm nay với giáo huấn tổng
quát của Đức Kitô về của cải thế gian. Mọi của cải thế gian, mọi sự giàu có,
bất lương hay lương thiện cũng vậy, đều có xu thế chiếm đoạt tâm hồn, đều được chứa
đựng hiểm họa gây thiệt hại cho kẻ khác. Muốn được cứu rỗi thì phải cố lên tới
tầm mức Nước Thiên Chúa, ở độ cao ấy tâm hồn tự giải thoát khỏi sự chi phối của
tiền bạc để có thể thờ phụng Thiên Chúa và đối xử với đồng loại bằng một tình
huynh đệ thực tế và công bằng. Tình thương công bằng cho đồng loại, ưu tiên
tuyệt đối cho Thiên Chúa, đó là tầm cao ơn cứu rỗi của Phúc Âm. Thế mới biết,
những viễn ảnh muốn nhìn Phúc Âm như một hệ thống bình đẳng đáng ngờ trong
hưởng thụ của cải đời này, quả là một lối nhìn thiển cận biết chừng nào. Phúc
âm trong thực tế chủ trương công bằng xã hội, chính là vì Phúc Âm nhắm một mục
tiêu vượt xa đời này vô cùng. Ơn cứu rỗi của Phúc Âm ở tầm cao của đức tin và
trong trật tự đức tin. Do đó có hai câu hỏi:
1) Ai dám
tự phụ hoàn toàn không mắc cái “tội” của ông Giakêu?
Kitô hữu nào thật sự
giàu hoặc thèm muốn giàu mà không cần lo giải thoát tâm hồn mình khỏi sức hấp
dẫn của tiền bạc? Tới đây, chúng ta phải đề phòng kẻo rơi vào một ảo tưởng.
Sống trong hoàn cảnh đầy đủ, người ta có thể ngay lòng xác nhận mình không bận
tâm về của cải thế gian. Nhưng trong hoàn cảnh may mắn ấy, người ta có đặt ưu
tiên cho việc thờ phụng Thiên Chúa không? Vì ở đây không chỉ là giá trị của sự
từ bỏ những điều giam hãm tâm hồn, ở đây là giá trị của sự thờ phụng và kính
mến Thiên Chúa hằng sống.
2) Đức Giêsu có ghét
bỏ Giakêu kẻ giàu có không?
Chúng ta biết rõ Đức
Giêsu nghĩ gì về sự giàu có. Thế mà Người đối thoại với những kẻ giàu. Chúa
đứng về phía những kẻ hèn mọn, nghèo khổ, Chúa bênh vực quyền lợi họ, nhưng
không lấy đó làm vũ khí chống kẻ giàu có. Chúa không hô hào bần cùng hóa nhà
giàu và tư hữu hóa kẻ nghèo. Tất nhiên Đức Giêsu tiếp lời các ngôn sứ giảng dạy
về sự Thiên Chúa đòi hỏi gắt gao phải đối xử công bằng. Nhưng Đức Giêsu đi xa
hơn nữa, Người nhắm vấn đề cơ bản. ‘Người này cũng là con cái Abraham’, Chúa
nói như thế về ông Giakêu ăn năn trở lại. Vậy thì, con cái Abraham, nghĩa là
gì? Là đặt niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa và tin cậy sắt đá vào Thiên Chúa.
Dòng dõi thiêng liêng Abraham tập hợp và liên kết chặt chẽ với nhau trong niềm
tin vào Đức Kitô. Kẻ nào thành thật sống niềm tin ấy thì tìm được thái độ thích
đáng là không gắn bó thiết tha với sự giàu có, giàu có thật sự hoặc giàu có
trong mơ ước thèm khát cũng vậy.
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Giakêu là một người
thu thuế giàu có. Tuy không thiếu gì, nhưng lòng ông vẫn khắc khoải không yên.
Ông vẫn tìm kiếm một Ai đó có thể nâng đỡ ông dậy. Hẳn ông đã nghe người ta bàn
tán về Đức Giêsu. Ngài chẳng sợ làm bạn với những người bị khinh như ông.
Giakêu mong có ngày thấy Đức Giêsu.
Dịp may đã tới, ông đi
với đám đông theo sau Ngài, nhưng vẫn không sao thấy được Ngài, vì dân chúng
thì đông, còn ông lại thấp bé. Giakêu không thất vọng. Lòng khát mong đích thực
chẳng bao giờ chịu bó tay.
Ông chạy trước đám
đông và leo lên một cây sung. Ông hí hửng với sáng kiến khôn ngoan của mình, và
tin chắc mình sẽ toại nguyện. Giakêu núp ở trên cây, tưởng không ai trông thấy.
Nào ngờ Đức Giêsu ngừng lại, nhìn lên và gọi tên ông.
Ngài thấy ông trước
khi ông thấy Ngài. Ánh mắt Ngài làm ông luống cuống, nhưng lời của Ngài lại làm
ông sung sướng, ngỡ ngàng: Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông. Niềm hạnh phúc bất
ngờ làm ông ngây ngất.
Đường từ gốc sung về
nhà ông bao xa, ta không rõ, nhưng chắc chắn đó là đường đầy ắp niềm vui.
Giakêu thấy mình mất
đi những mặc cảm thấp kém. Ông như lấy lại được danh dự trước đám đông, bởi lẽ
Đức Giêsu sắp đến thăm nhà ông, bất chấp những lời xầm xì phản đối.
Ông chỉ ao ước thấy
mặt Ngài, còn Ngài lại muốn bày tỏ cả bề sâu của lòng mình: dịu dàng, tha thứ,
yêu thương, tế nhị.
Hoán cải là kết quả
của một cảm nhận về Tình Yêu.
Ánh mắt, lời nói, thái
độ của Đức Giêsu đã thổi bùng lên ngọn lửa leo lét nơi Giakêu, và khiến lòng
ông tan chảy.
Bỗng chốc Giakêu thấy
mình được tự do thanh thoát.
Những gì xưa nay trói
buộc ông, làm ông say mê, bây giờ trở nên vô vị. Một cách hồn nhiên, ông dâng
nửa gia sản cho người nghèo, và xin đền gấp bốn những gì đã lường gạt.
Giakêu sẽ trở nên
nghèo hơn trước, nhưng ông hạnh phúc hơn xưa nhiều, vì ông cũng là con cháu tổ
phụ Apraham.
Ước gì chúng ta bao
dung như Đức Giêsu và quảng đại như Giakêu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Giakêu muốn thấy Đức
Giêsu và ông đã được quá lòng mình mong ước. Theo ý bạn, để thấy Đức Giêsu
trong đời mình, cần có thái độ nào? Mẫu gương của Giakêu có giúp gì cho bạn
không?
Xã hội hôm nay vẫn có
nhiều Giakêu: những người bị coi thường hay loại trừ, những thanh niên đã có
tiền án, trẻ bụi đời, gái điếm, những người nghiện ma túy... Họ cần những người
có trái tim của Đức Giêsu. Bạn nghĩ mình có thể giúp gì để họ thay đổi cuộc
sống không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, khi
đến với chúng con Chúa thường đến như một người hành khất.
Chúa cần chút nước của
người phụ nữ Samari.
Chúa cần năm chiếc
bánh và hai con cá,
Chúa cần nhà ông
Giakêu để nghỉ chân.
Chúa khiêm tốn cúi
xuống xin chúng con, để rồi tuôn đổ trên chúng con nhiều gấp bội.
Xin dạy chúng con biết
cách đến với mọi người, và khám phá ra đốm lửa nhỏ của sự thiện vẫn cháy sáng
nơi lòng người tội lỗi.
Ước gì chúng con nhìn
tha nhân bằng ánh mắt của Chúa, dám hy vọng không ngơi vào lòng tốt của mỗi
người, và can đảm tin tưởng vào sự quảng đại của họ, nhờ đó thế giới của chúng
con trở nên nhân bản hơn và thần linh hơn.
(Trích dẫn từ ‘Mở Ra
Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller)
Một số người khiếp hãi
về cách cư xử của Chúa Giêsu. Bài Phúc Âm ngày hôm nay cho chúng ta thấy những
người bàng quan đã không bằng lòng với chú ý đặc biệt mà Chúa Giêsu đã dành cho
Giakêu. Bài Phúc Âm ngày hôm nay cho chúng ta thấy những người bàng quan đã
không bằng lòng với chú ý đặc biệt mà Chúa Giêsu đã dành cho Giakêu, người bị
đóng nhãn như một người tội lỗi. Thật ra họ đã bị sốc và họ phải xì xào bàn tán
chống lại Chúa Giêsu.
Mặc dầu không được
chuẩn nhận từ đám đông, Giakêu đã làm một quyết định đúng. Ông nhận thấy rằng
Chúa Giêsu, Đấng có thể làm cho ông trở lại đường ngay chính bằng cuộc sống của
mình. Ông hiểu rằng, Chúa Giêsu có đầy đủ tình yêu và lòng nhân từ. Giakêu cũng
đã xác định được, ông ta sẽ không đi đến với bất cứ ai hoặc bất cứ điều gì có
thể ngăn cản ông gặp gỡ Chúa Giêsu, không phải sự bất bình của những kẻ phán
xét ông không có giá trị gì, và hình hài nhỏ bé của ông cũng không thể ngăn
cách ông thấy Chúa Giêsu từ trên đầu của đám đông.
Tôi tưởng tượng ra
Giakêu giống như một đứa trẻ khi cha mẹ chúng đang đi ngang qua. Ông bị những
người trưởng thành che khuất tầm nhìn. Ông đã nhảy lên nhảy xuống nhưng vẫn
không thể thấy những gì đang xảy ra. Giakêu biết rằng không một người nào giúp
ông nhưng ông có một ý tưởng để tự giúp mình. Ông đã chạy tới phía trước để
trèo lên một cây vả và ở đó ông có thể thấy Chúa Giêsu, khi ở trên đám đông ông
cố gắng nín thở để quan sát một cách cẩn thận, nhưng sự kinh ngạc của ông thì
không phải ông chỉ thấy có Chúa Giêsu nhưng ông đã thật sự nghe Ngài nói. Chúa
Giêsu đã gọi đích danh tên ông, Giakêu đã ngạc nhiên làm sao Chúa Giêsu biết
ông là ai. Có phải Chúa Giêsu đã nghe về những tội lỗi khủng khiếp của ông
không? Một người nào đó đã chỉ ông cho Chúa Giêsu phải không? Tiếp đó, ông nhận
ra những gì Chúa Giêsu đang nói: “Giakêu, hãy xuống nhanh lên, Ta sẽ lưu lại
nhà ngươi hôm nay”. Ông vội vàng trèo xuống khi biết rằng ông đang ở trên cây
và ông đã hộ tống Chúa Giêsu đến nhà ông. Ông hứa sẽ thống hối, sẽ thay đổi để
theo những lời giáo huấn của Chúa Giêsu, đó là một ngày hạnh phúc trong đời
ông.
Những gì Chúa Giêsu đã
làm cho Giakêu, nay Ngài cũng làm cho chúng ta. Ngài đã bước vào trong thế giới
của chúng ta, thế giới mà sự thật là nhà của người tội lỗi. Chúng ta đã được
chúc phúc bằng cách cư xử bất ngờ của Con Thiên Chúa. Cho dù những người khác
có thấy đó là gương mù hay không, chúng ta phải làm một quyết định đúng là tìm
kiếm Chúa Giêsu, nâng tầm nhìn của chúng ta lên trên những người loại bỏ Chúa
Giêsu hoặc nhìn Giáo Hội một cách khinh miệt. Với đôi mắt của đức tin, chúng ta
tháy Chúa Giêsu như là Đấng cứu độ của chúng ta, và với đôi tai đức tin chúng
ta nghe Ngài nói với chúng ta. Vào ngày chúng ta chịu phép rửa Ngài đã gọi tên
chúng ta, Ngài đã biết chúng ta là ai bởi vì Cha Ngài là Đấng Sáng Tạo chúng
ta, đã chỉ định chúng ta cho Ngài. Chúng ta đã trở thành con cái của Thiên
Chúa.
Trở lại vấn đề, Chúa
Giêsu đã không trở thành người khách của chúng ta như Ngài đã là khách của
Giakêu, nhưng chúng ta đã trở thành khách của Người. Phép rửa đã mở ra cho
chúng ta cánh cửa vào nhà Người là Giáo Hội, nơi mà Chúa Giêsu, chủ của chúng
ta đang mời gọi chúng ta tới bàn tiệc thánh, là Thân Mình và Máu Người trong bí
tích Thánh Thể. Chúng ta có một đặc ân kỳ diệu vào mỗi ngày Chúa Nhật và mọi
ngày nếu chúng ta muốn.
Chúa Giêsu trông đợi
chúng ta sẽ thay đổi bất cứ những gì phải xếp đặt lại để theo giáo huấn của
Ngài, như Giakêu đã làm. Vào lúc kết Thánh Lễ, chúng ta đã nghe nói: “Hãy đi
trong bình an, để yêu thương và phục vụ Thiên Chúa”. Đó là lời hứa của chúng ta
trung thành với ý muốn của Thiên Chúa.
Chúng ta không bị sốc
bởi cách cư xử của Chúa Giêsu, chúng ta phải sung sướng nghĩ rằng Ngài đã đến
để tìm kiếm chúng ta và cứu thoát những gì đã hư mất. Giống như Giakêu chúng ta
phải là những kẻ được chúc phúc bởi tình yêu Thiên Chúa và lòng nhân từ của
Người.
(Trích dẫn từ ‘Niềm
Vui Chia Sẻ’)
Tại Boston ở Hoa Kỳ có
một đại hội đặc biệt. Đó là đại hội người lùn. 400 người trong 3000 hội viên đã
đến tham dự đại hội người lùn của nước Mỹ. Người cao nhất của hội chỉ có 4 feet
(=1m40) và người lùn nhất chỉ có 2 feet (=0m70). Đây là đại hội thứ 25, có mục
đích để người lùn gặp gỡ vui chơi với nhau và để cho mọi người bớt thiên kiến với
thế giới người lùn.
Tin Mừng hôm nay nói
đến một người lùn, một người lùn nổi tiếng trong thành Giêricô có tên là
Giakêu. Con người lùn tịt ấy đã đi vào lịch sử vì đã được gặp Đức Giêsu. Giakêu
là trưởng phòng thuế vụ của thành phố và là một người giàu có, do chức vụ, do
việc làm của mình và cũng có thể do đã ăn của đút lót, đã bớt xén của công… Ông
là người có tiếng tăm vừa được nể sợ, vừa bị chê ghét trong dân chúng. Có thể
chỉ vì tò mò muốn biết Đức Giêsu là người thế nào, có thể trong lòng ông có sẵn
một tâm tình ngưỡng mộ, yêu mến. Điều đáng ngạc nhiên là ông tìm bằng được mọi
cách để có thể ngó mặt Đức Giêsu khi Ngài đi qua đường phố. Vì lùn, bị đám đông
vây kín, Chúa khuất tầm nhìn, ông phải chui ra khỏi đám đông, chạy lên phía
trước, leo lên một cây sung để xem thấy Đức Giêsu.
Kìa Giakêu đang ngồi
trêng chạng hai của cây sung, ẩn mình trong cành lá. Trăm ngàn người đi theo
Chúa Giêsu nào có ai để ý? Và nếu có bị để ý thì ông cứ để mặc. Nhưng Chúa
Giêsu thì khác: Đến nơi gốc cây, chân Ngài dừng lại như thể đã hẹn hò; mắt Ngài
ngước lên như âu yếm chào; miệng Ngài khẽ kêu đúng tên như người thân đã từng
quen biết: “Ông Giakêu ơi! Hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà
ông”. Hạnh phúc của Giakêu thật tràn đầy vượt quá lòng mong ước. “Ông vội vàng
tụt xuống và mừng rỡ đón rước Chúa Giêsu”.
Giakêu đã ngỡ ngàng,
nhưng phải nói là dân chúng thành Giêricô còn bị bất ngờ hơn nữa. Mọi người xầm
xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!”. Thật quá sức, thật
không thể chấp nhận được. Họ cùng trao đổi với nhau như người Pharisêu đã mời
Chúa dùng bữa tại nhà ông: “Nếu quả thật ônt nầy là Ngôn sứ, thì ông phải biết
người kia là hạng người nào chứ: Hắn là hạng người tội lỗi” (Lc 7,39).
Gặp Đức Giêsu, Giakêu
thấy mỉnh phải thay đổi cách sống, phải chuộc lại những lỗi lầm, phải đền bù
những bất công đã gây ra trong quá khứ. “Tôi xin lấy phân nửa tài sản của tôi
mà cho người nghèo; và nếu tôi đã lường gạt ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”.
Dân chúng càng bàng hoàng kinh ngạc khi Chúa Giêsu chẳng những đến nhà Giakêu
trú ngụ ở đó ít ngày, mà lại còn tuyên bố minh bạch: “Hôm nay nhà nầy đã được
ơn cứu độ, bởi vì người nầy cũng là con cháu tổ phụ Abraham. Vì Con Người đến
để tìm và cứu những gì đã hư mất”. Chỉ có một cái dừng chân do tình thương và lòng
nhân hậu thúc đẩy, Chúa Giêsu đã biến đổi một con người tội lỗi trở thành người
công chính. Từ giây phút gặp gỡ ấy, cuộc sống của Giakêu đã hoàn toàn đổi mới:
từ một người bị cộng đoàn khinh chê ruồng bỏ, ông được Chúa Giêsu cho hội nhập
vào cộng đoàn con cháu tổ phụ Abraham.
Thưa anh chị em,
Lời Chúa hôm nay khẳng
định với chúng ta về tình yêu thương của Thiên Chúa. Tình yêu thương đó là tinh
yêu thương không giới hạn, không phân biệt tình trạng của đối tượng. Tình yêu
thương ấy dường như ngả về người tội lỗi, nghiêng về những người sống bên lề xã
hội, bên ngoài tôn giáo.
Qua đời sống trần thế
của Chúa Giêsu, chúng ta thấy rõ Chúa Giêsu dành tấm lòng yêu thương, ưu ái cho
những hạng người mà xã hội tôn giáo Do Thái lúc bấy giờ gạt ra ngoài lề. Đó là
những dân ngoại, những người nghèo, những cô gái điếm, những phụ nữ, trẻ em,
những người bênh phong cùi, bỉ quỷ ám, những người thu thuế cộng tác và phục vụ
ngoại bang… như Matthêu, như Giakêu hôm nay. Chính những hạng người đó lại là
đối tượng của Thiên Chúa tình yêu. Vì, như Chúa Giêsu đã nói: “Không phải người
khỏe mạnh cần thầy thuốc, nhưng là những người đau bênh”. Và họ cần Chúa là
thấy thuốc vạn năng, chữa bá bệnh, có thể làm hồi sinh người đã chết, có thể
chữa lành mọi vết thương thân xác cũng như tâm hồn. Chính vì những người tội
lỗi, những người yếu đuối, những người bệnh tật mà Chúa Giêsu đã đến.
Giakêu là một thí dụ,
Madalenna là một thí dụ khác. Người phụ nữ ngoại tình, người trộm lành lại là
một thí dụ khác nữa. Trong bốn sách Tin Mừng, chúng ta gặp được nhiều khuôn mặt
méo mó đã được trả lại vẻ đẹp, chúng ta thấy nhiều tâm hồn tan nát đã được ban
đầy sức sống mới. Công trình cứu độ là như thế. Tình yêu thương của Thiên Chúa
không bị chi phối bở sự trong sáng hay vẫn đục trong lý lịch con người. Trái
lại, ai có một lý lịch càng nhiều vết đen, càng phức tạp thì tâm hồn lại càng
được yêu thương cứu chữa. Điều cần thiết trước nhất là chúng ta dám mạnh dạn
tin tưởng và tiến lại gần tình yêu thân linh vô vị lợi của Thiên Chúa. Và chúng
ta hãy cảnh giác, bao lâu chúng ta tưởng mình đã là người khỏe mạnh, đã là
người đạo đức thánh thiện… thì lúc đó coi chừng, chúng ta khước từ tình yêu của
Thiên Chúa đang nâng đỡ chúng ta từng giây từng phút.
Chúng ta cho rằng mình
chẳng có tội gì ư? Có thể nhiều người nghĩ như thế, vì trong cuộc đời nhiều
người không hề giết người, không hề gian dâm, không hề trộm cắp. Thế nhưng chãy
coi chừng! Tội vì làm những điều ác thì có lẽ phần đông chúng ta không có,
nhưng tội vì không làm những điều tốt mà Thiên Chúa truyền dạy thì chẳng ai cò
thể vỗ ngực là mình không sai phạm. Vậy thì chúng ta cũng trở thành đối tượng
của lòng yêu thương vô bờ của Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến,
Gặp được Chúa Giêsu là
cuộc đời chúng ta được biến đổi. Chúng ta phải biết tìm đến gặp cho bằng được
Chúa Giêsu. Nếu thực sự chúng ta gặp Chúa như Giakêu, thì thế nào đời sống
chúng ta cũng sẽ được đổi mới, tội lỗi chúng ta sẽ được xóa sạch và tâm hồn
chúng ta sẽ trở nên trong sáng hơn. Càng gặp gỡ Chúa trong thâm sâu của cõi
lòng, chúng ta càng được biến đổi. Nếu chung quanh chúng ta có bao người vẫn
mang một nếp sống cũ rích, sói mòn, càng ngày càng nghèo nàn hơn về mặt chất
lượng, thì đó là dấu chứng họ chưa thực sự gặp được Đức Kitô Giêsu. Nếu cuộc
sống của chúng ta chưa thể hiện được một thay đổi quyết liệt, thì đó là dấu
chứng chúng ta chưa gặp Đức Kitô thực sự. Bởi vì bất kỳ một cuộc gặp gỡ nào với
Đức Kitô thì đều phát sinh một hiệu quả là thay đổi cuộc sống.
Nơi Chúa Giêsu, Thiên
Chúa đã thực sự ở giữa loài người chúng ta và Ngài mong ước mỗi người chúng ta
gắt chước Giakêu mở rộng cõi lòng ra để đón nhận ngài. Khi gặp gỡ Chúa cách
chân thành như thế thì chính Chúa sẽ ban ơn hoán cải cho ta và biến đổi ta
thành những con người mới: trong sạch, liêm chính theo thánh ý Ngài.
Khi sửa chữa người khác,
cách tiếp cận mà chúng ta chọn rất quan trọng. Nếu chúng ta tiếp cận họ chỉ để
chất vấn những lỗi lầm của họ thì có nhiều khả năng, chúng ta không làm được
gì. Thật vậy, chúng ta hầu như làm cho vấn đề trở nên tồi tệ. Họ sẽ khép kín,
trở nên oán hận và chai cứng tâm hồn.
Một người quản lý nhà
tù nói rằng cách duy nhất để thay đổi người ta phải thông qua một tương quan
với người ấy. Bạn không thể cải thiện người khác bằng cách tránh xa hoặc bỏ rơi
họ. Một bầu khí lạnh lùng không khích lệ sự trưởng thành.
Nếu bạn làm bẽ mặt một
người, bạn chỉ làm cho tâm hồn người ấy chai cứng. Bạn chỉ tìm cách nào để tâm
hồn người ấy cảm động. Mọi người, kể cả người có máu lạnh nhất đều có cái cốt
lõi của sự lễ nghĩa, và có khả năng thay đổi, nếu tâm hồn họ cảm động.
Chúng ta phải tiếp cận
những người khác cách nào để họ thấy rằng chúng ta tin tưởng và tín nhiệm họ.
Kết quả là họ sẽ dẹp bỏ sự thủ thế, dè chừng và cởi mở lòng họ. Một khi họ cởi
mở thì một điều gì đó có thể xảy ra. Chúng ta thấy điều đó trong trường hợp của
Giakêu.
Đức Giêsu nhìn thấy
Giakêu trên cây. Lúc đó cách sống của Giakêu hoàn toàn trái ngược với những
điều mà Đức Giêsu bảo vệ. Chắc chắn đám đông chờ đợi và hy vọng Đức Giêsu sẽ
quở trách và cấm ông ta không được làm bậy. Làm như thế, Người sẽ làm cho dân
chúng trong thành thêm yêu thích Người.
Nhưng Đức Giêsu từ
chối quở trách Giakêu. Trái lại, Người đã làm một điều khiến dân chúng lập tức
không còn yêu thích Người. Người nói với Giakêu Người muốn dùng cơm tối ở nhà
ông và với sự kinh ngạc. Giakêu vui mừng đón tiếp Người. Dân chúng than phiền:
“Ông ấy đến ở lại nhà người tội lỗi”. Họ ghét Giakêu. Họ không muốn nhìn thấy
ông được cứu. Họ muốn nhìn thấy ông bị lên án và trừng phạt.
Nhưng Đức Giêsu đã
không nghĩ như thế, Người thấy rằng điều mà Giakêu cần không phải là sự lên án
mà là sự cứu chuộc. Vấn đề không phải là ông ta có xứng đáng với sự cứu chuộc
hay không. Ông ta cần có – đối với Đức Giêsu, như thế đã đủ. Với việc đi đến
nhà ông, đối đầu với sự bất mãn và giận dữ của dân chúng trong thành, Đức Giêsu
cho Giakêu thấy rằng Người quan tâm đến ông. Nếu Người tránh xa ông hoặc lên án
ông, phép lạ hẳn không bao giờ xảy ra.
Giakêu đã cảm nghiệm
tình yêu thương của Đức Giêsu. Điều này đã là một kinh nghiệm kỳ diệu đối với
một người mà cho tới nay chỉ có kinh nghiệm về sự oán ghét. Được một người tín
nhiệm chúng ta, người ấy không phán xét hoặc lên án chúng ta nhưng yêu thương
chúng ta, đó là một cảm giác tuyệt vời. Tâm hồn Giakêu nở bung ra với sự sống
như một sa mạc sau trận mưa to.
Được người ta yêu
thương vì mình tốt lành không có gì là to lớn, khác thường. Cũng như khi mình
xứng đáng. Nhưng được yêu thương khi mình xấu xa – như trường hợp của Giakêu
quả là kỳ diệu. Giakêu đã cảm nghiệm sự kinh ngạc ấy vì được yêu. Điều này
khiến cho những điều tốt đẹp nhất trong ông được triển nở. Sự hoán cải của ông
là một sự hoán cải hướng đến điều thiện hảo. Với mức độ nhiều hơn hoặc ít hơn,
tất cả chúng ta cần có sự hoán cải ấy.
Truyền hình đang đe
dọa biến tất cả chúng ta thành những khán giả, kẻ bàng quan, người ngoài cuộc.
Giả sử bạn là một người yêu thích thiên nhiên. Giờ đây, bạn không cần phải để
cho giày mình bị bẩn, hoặc bạn phải đội mưa. Bạn cũng không cần phải ra khỏi
phòng khách hoặc đi xa lò sưởi. Truyền hình đem lại cho bạn lễ hội với quang
cảnh và âm thanh. Không nguy hiểm, không mệt nhọc, không rắc rối. Tuy nhiên, đó
là một sự thay thế quá nghèo nàn so với cảnh vật.
Có những người tuyên
bố rằng mình yêu thiên nhiên nhưng hiếm khi hoặc không bao giờ họ đi dạo trong
rừng, băng qua các cánh đồng hoặc đi dọc theo bờ biển. Nói cách khác, họ chỉ là
những khán giả. Họ không thật sự bị lôi kéo để tham gia. Tham gia là góp phần
mình vào việc đó. Nhưng bạn sẽ thu hoạch nhiều hơn điều bạn cho đi.
Tuy nhiên, khi làm
khán giả, ít nhất, người ta cũng có sự quan tâm. Và nơi nào có sự quan tâm, ở
đó có khả năng người ta sẽ thật sự tham gia.
Trường hợp của Giakêu
là như thế. Lúc bắt đầu câu chuyện ông chỉ là một khán giả. Ông có thể nhìn
thấy mà không bị nhìn thấy, ông chỉ là một người đi xem. Ông cảm thấy thuận
tiện khi bị quan sát. Tất cả chúng ta chẳng như thế sao?
Ông không hòa nhập vào
đám đông. Ông trèo lên cây sung giữa những cành cây. Và bằng cách đó, ông chơ
vơ, không có chỗ để bám. Ông đứng bên lề, không phải vì nghèo nàn mà vì giàu
có. Sự giàu sang đã cô lập ông với những đồng bào ông trong thành mà phần lớn
đều nghèo khó.
Là một người đi xem,
ông chỉ tham dự một cách thụ động. Ông ở đó trong những giới hạn của mình. Hẳn
ông phải có một sự quan tâm nào đó, nhưng không liều lĩnh, không dấn thân. Khi
mọi việc qua đi, ông có thể trở về nhà, và nếu ông muốn, ông sẽ quên hết mọi
chuyện.
Nhưng điều gì đã xảy
ra? Đức Giêsu đã nhìn thấy ông và mời gọi ông trở thành một người tham dự.
Thình lình Giakêu bị lôi từ đường biên vào thẳng trung tâm của hành động. Ông
giống như một khán giả đi xem bóng đá và thình lình giám đốc đội banh phát hiện
anh ta, thẩy cho anh ta một bộ đồ cầu thủ và nói: “Anh ra sân đi?” Và anh thấy
mình đang chơi banh.
Điều làm ngạc nhiên là
không những Giakêu đáp lại một cách tích cực mà còn hân hoan làm như thế ngay
lập tức. Có niềm vui khi đi xem nhưng niềm vui còn lớn hơn khi tham dự. Kết quả
đối với ông thật là to lớn, nó biến đổi cuộc đời ông. Đời sống hoạt động theo
ơn gọi Kitô hữu của chúng ta sẽ thay đổi đời sống của chúng ta.
Giakêu đã cảm nghiệm
một ơn hoán cải – hoán cải hướng về sự thiện hảo. Với mức độ lớn hơn hoặc nhỏ
hơn, tất cả chúng ta cần có loại hoán cải ấy.
Đức Giêsu vừa chữa
lành người mù, bây giờ Ngài lại gặp một người tội lỗi, một người vị vọng ở
Giêricô. Ở thị trấn gần biên giới này, thu thuế là nghề rất phát tài. Giakêu
thi hành công việc này nhiều nơi nên ông đã thu tích được một gia sản đáng kể,
tuy phải dùng đến những phương sách mà người Do thái coi là bất chính. Thực
thế, vì nghề nghiệp, ông luôn phải giao tiếp với lương dân và còn phải chi li
từng đồng với bọn thuộc hạ, rồi với dân chúng qua những người trung gian. Thế
cho nên người Do thái cứ yên trí rằng bọn thu thuế khỏi cần nói cũng là người tội
lỗi. Tội lỗi đã nên như đặc điểm nơi ông Giakêu.
Tuy nhiên đó chỉ là
dáng vẻ cuộc đời ‘dân sự’ bình thường của Giakêu, nhưng bên trong ông có cả một
chiều sâu. Ông muốn gặp gỡ Đức Giêsu. Không phải ông là người hiếu kỳ, vì cứ
theo lời ông người ta sẽ nhận ra nỗi lòng hối tiếc trong tâm tư con người dư
dật đó. Ông sẵn sàng dành phân nửa tài sản để bố thí cho người nghèo và nếu có
lỡ gian lận của ai thì bồi thường gấp bốn. Giakêu không thoả mãn vơí chính
mình, với đời sống, địa vị và thành công của mình. Tự đáy lòng ông cảm nghiệm
được sự trống vắng. Tiền của có thể dư giả, nhưng không bù lấp được tâm tư. Uy
thế có thể củng cố địa vị xã hội của ông, nhưng không cứu vãn được linh hồn ông
trước mặt Thiên Chúa. Với tuổi đời như Giakêu, con người không còn ảo tưởng nữa
và sự vĩnh cửu bắt đầu là một cái gì có ý nghĩa. Trên đời vẫn còn có nhiều
người xử sự như Giakêu.
Cái nhìn và lời nói
của Chúa đến với ông thật đúng lúc. Đức Kitô không bị ràng buộc với phán đoán
của con người. người thường mai mỉa những ai ra vẻ đạo đức, rồi Người luôn kêu
gọi người tội lỗi trở lại đường lành. Người không hề mị dân. Trong trình thuật
này, Người đã chọn Giakêu-một con người dị dạng giữa đám dân chúng. Người không
chỉ trao đổi hay gặp gỡ qua loa nhưng còn đem lại niềm vui và cho ông vinh dự
đón tiếp Người tại nhà cho đến ngày hôm sau. Người biết rõ, theo quan niệm đạo
đức thông thường, vào nhà một người tội lỗi là làm một cái gương xấu. Nhưng Đức
Giêsu đến ‘để tìm và cứu chữa những gì đã hư mất’. Suốt cuộc hành trình cuối
cùng đi lên Giêrusalem, Người đã nghĩ đến những kẻ lầm đường lạc lối; vì tha
nhân quên mình, bất chấp quan niệm thường tình, Người đến với Giakêu vì Người
đáp ứng được niềm ông mong đợi, đưa ông trở về với Thiên Chúa khoả lấp tâm hồn
ông bằng sự sung mãn tinh thần, ban ân sủng, thức tỉnh và hướng dẫn tâm hồn con
người để họ lắng nghe lời Ngài. Kẻ tội lỗi sẵn sàng hoàn lương ấy chính là điều
Đức Giêsu lấy làm mãn nguyện.
Đoạn Tin Mừng hôm nay
được đặt vào đoạn cuối của lần sau cùng khi Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem,
nơi đây Người sẽ chịu khổ nạn và sẽ bị giết bởi tay người Do thái, rồi ngày thứ
ba Ngài sẽ sống lại. Câu chuyện ông Giakêu được đặt kế tiếp sau phép lạ Chúa
Giêsu chữa lành người mù thành Giêricô. Người mù được Thiên Chúa chữa lành, vì
tin vào Chúa Giêsu mà ông ta được sáng mắt. Phép lạ của người mù chuẩn bị cho
thính giả hiểu được sâu xa cuộc cách mạng tinh thần của ông Giakêu, một cuộc
cách mạng tận gốc rễ, đổi mới hoàn toàn. Từ bóng tối của cảnh mù lòa bước vào ánh
sáng của người được chữa lành. Từ bóng tối của tội lỗi bước sang con đường sáng
của cuộc đời mới, của cuộc sống thánh thiện. Từ cuộc gian tham khéo léo bước
sang con đường ngay chính chân thật và quảng đại. Từ cuộc sống xa Chúa được
xích lại gần Chúa hơn, được kết hợp với Chúa Giêsu và hòa giải với tha nhân.
Do đó, trọng tâm bài
Tin Mừng hôm nay nêu bật một khía cạnh sâu xa nhất của tình yêu, đó là sự tha
thứ, một sự tha thứ được gói gọn trong tình yêu khoan dung. Vì tình yêu này
không đóng khung kẻ mình yêu trong những ngụ ý của lỗi lầm, của tha thứ. Tình
yêu này cũng không giới hạn kẻ mình yêu trong hiện tại đen tối của người ấy,
nhưng còn phóng tầm mắt nhìn về những điều họ có thể trở nên tương lai. Trong
cách hành sử của Chúa Giêsu, Ngài luôn sẵn sàng tha thứ. Để biểu lộ một tình
yêu chân thành trên, Chúa Giêsu đã tiếp xúc với người thu thuế, làm bạn với
những người bị xã hội bấy giờ gán cho là những kẻ tội lỗi. Ngài không cấm họ
không được lui tới nghe Ngài giảng dạy, hơn nữa Ngài cùng ăn uống và đồng bàn
với họ.
Vì thế, những cuộc gặp
gỡ và giao tiếp này minh chứng rằng, Chúa Giêsu nhìn những kẻ thu thuế và những
người tội lỗi trong hai trạng thái: Trạng thái hiện tại của họ và những trạng
thái họ có thể trở nên tốt trong tương lai. Trong hiện tại, mặc dầu họ đang
sống trong tình trạng tội lỗi, nhưng họ biết lắng nghe lời Chúa để khởi sự tiến
những bước đầu tiên trên con đường hoán cải. Và những điều họ có thể trở nên
tốt được minh chứng qua những hành động cụ thể, ví dụ như hành động dứt khoát
với quá khứ tội lỗi để đi theo Chúa Giêsu như trường hợp của Ông Gia kêu. Ông
là một người thu thuế nhưng khi nghe Chúa Giêsu gọi, ông liền bỏ bàn thu thuế
đứng dậy và theo làm môn đệ của một người tự nhiên tả: “Con cáo có hang, con
chồn có tổ nhưng Con Người không có chỗ dựa đầu”.
Do đó, sự cải tạo xã
hội tận căn phải bắt đầu bằng ý thức về tội lỗi và sám hối, và đây có thể là ý
tưởng mà Tin Mừng hôm nay gợi lên cho chúng ta. Vào thời Chúa Giêsu, nghề thu
thuế được hiểu như là cấu kết với ngoại bang để hà hiếp và bóc lột người đồng
hương, nên cũng đồng nghĩa với tham lam bất chính. Một cách nào đó, phường thu
thuế là một ung nhọt của xã hội, trong khi xa lánh là biện pháp thanh trừng đối
với nhà lãnh đạo Do thái dành cho những người thu thuế thì trái lại Chúa Giêsu
đến với họ, ngồi đồng bàn với họ. Chúa Giêsu không làm như thế để biện minh cho
hành động tham lam bất chính đối với những người thu thuế cũng như đối với các
cô gái điếm. Ngài đến gần họ, trước hết là để cảm thông với thân phận bị đẩy ra
bên lề xã hội của họ, đồng thời Ngài mời gọi họ ý thức về hành động tội lỗi của
họ.
Cuộc gặp gỡ giữa Chúa
Giêsu và viên chức giàu có tên là Giakêu tại thành phố Giêricô cho thấy cuộc
cách mạng ấy bắt đầu bằng việc sám hối và cải thiện cuộc sống. Thật ra, sám hối
đích thật luôn đi liền với cải thiện. Ánh mắt của Chúa Giêsu đã đi xuyên suốt
tâm hồn ông, khiến ông nhận ra được những lỗi lầm của mình. Ánh mắt ấy lại từ
nhân và mời gọi, đến nỗi đã làm cho ông cảm thấy thôi thúc và cải thiện đời
sống. Vì thế, ơn cứu độ đã thực sự đến nhà ông và cuộc tái sinh đã khởi đầu:
Này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, mà nếu tôi đã cưỡng đoạt
của ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn lần”. Ông Giakêu không chỉ sám hối và cải
thiện cuộc sống bản thân, nhưng ông còn góp phần vào việc cải tạo xã hội, đúng
hơn nữa sự hoán cải cá nhân của ông ảnh hưởng sâu đậm đến cuộc sống xã hội. Lời
Chúa hôm nay cho chúng ta thấy được chiều kích xã hội của lòng sám hối. Vì thế,
không những người tín hữu Kitô đóng góp tài trí của mình cho công cuộc cải tạo
xã hội, nhưng niềm tin của họ được thể hiện bằng lòng sám hối và cải thiện cuộc
sống làm trọng tâm và cũng là linh hồn của bất cứ một cuộc cách mạng và cải tạo
xã hội nào.
Qua thái độ đền bù
rộng rãi của ông Giakêu tôi muốn chia sẻ một vài ý tưởng nhỏ mọn về vấn đề tiền
bạc.
Người xưa đã nói: của
đồng lần thiên hạ tiêu chung. Thực ra tiền bạc có mục đích là để phục vụ con
người. Nó được dùng để nuôi sống và thăng tiến con người toàn diện. Vì thế của
cải phải được phân chia công bằng, và mọi người phải chung tay đóng góp vào đó.
Kẻ giàu phải biết mở rộng con tim và bàn tay cứu giúp người nghèo túng. Còn
người nghèo, không có gì phải mặc cảm khi nhận lãnh sự giúp đỡ của họ, dù giá
nào mình vẫn sống khiêm hạ và công chính. Nào có ai giàu ba họ khó ba đời đâu
mà lo!.
Trên thực tế, chúng ta
thấy có điều đáng buồn, đó là số người nghèo quá đông, chiếm tới 3/4 nhân loại.
Còn kẻ giàu lại làm giàu trên sự túng cực của người nghèo. Kẻ giàu thì như
chuột sa chĩnh gạo, còn người nghèo thì lại bị chó cắn áo rách. Giàu nghèo mãi
mãi trở thành hai phe chống đối nhau, gieo tai họa cho nhau.
Kinh Thánh đã lên án
những kẻ giàu bất công và ích kỷ. Đồng thời tục ngữ Việt Nam cũng xác quyết:
- Của thiên trả địa.
- Của phù vân thì vần
xuống biển.
Của cải dành cho một
số người có nghĩa là nó sẽ loại trừ hạnh phúc của một số đông. Của cải sẽ làm
cho chúng ta xa lìa Thiên Chúa là Đấng ban phát cho chúng ta. Một xứ đầy vàng
bạc sẽ chóng biến thành ngẫu tượng. Vì khi đã mãn nguyện rồi, họ sẽ kiêu căng
mà lãng quên Thiên Chúa. Và chính Chúa Giêsu cũng đã cảnh cáo: Không ai có thể
làm tôi hai chủ, hoặc yêu chủ này mà ghét chủ kia, cũng vậy không ai có thể làm
tôi Thiên Chúa và vừa làm tôi tiền bạc. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn
người giàu có vào Nước Trời.
Bởi đó, vấn đề là phải
biết san sẻ cho nhau, bởi vì không ai có thể tự sống tự lập một mình, không cần
nhờ cậy ai. Ngay như kẻ giàu có, cũng phải nhờ vào người nghèo túng mà trở nên
khấm khá. Cho nên chia sẻ là điều hợp tình và hợp ý.
Trước hết là cùng nhau
chia sẻ những gì mình có. Chẳng hạn cùng là
người Việt Nam, chúng ta hãy chia sẻ gia tài quí giá cũng như phúc lộc do tổ
tiên để lại về luân lý và văn hóa. Cùng là con cái Thiên Chúa, chúng ta hãy
chia sẻ với nhau trong Giáo Hội những việc lành thánh và ơn cứu rỗi. Còn về của
cải, chúng ta thấy các tín hữu đầu tiên ở Giêrusalem đã chia sẻ cơm áo cho nhau
không để của mình là của riêng.
Tiếp đến là chia sẻ
cái mình hơn cho người kém, cái mình có mà người khác không có và ngược lại người khác
cũng làm như thế. Đó là lá lành đùm lá rách, có đi có lại, chị ngã em nâng.
Thật ra chúng ta luôn
luôn có những cái để chia sớt và luôn có những người để lãnh nhận, vì chính
chúng ta cũng đang ở trong tình trạng như thế. Cùng là chi thể của một thân
thể, chúng ta có trách nhiệm lẫn nhau như câu nói: ‘Môi hở răng lạnh, một con
ngựa đau cả tàu không ăn cỏ’.
Và sau cùng, chúng ta
phải sống thế nào để đem lại hạnh phúc cho người khác, nhất là những người túng
thiếu hơn mình. Chúng ta phải coi hạnh phúc của người khác là hạnh phúc của
mình. Khóc cùng kẻ khóc, vui cùng kẻ vui.
Sự chia sẻ cho người
khác hàm ý cho đi mà không đòi lại, cho đi thì có phúc hơn là nhận lãnh. Hãy
coi sự cho đi của tre già cho măng mọc, của cha mẹ cho con cái được phát triển.
Chúng ta hãy nối rộng vòng tay tình thương đến những ai đang cần tới chúng ta
để họ thuộc về gia đình của Chúa sớm hơn.
Hãy coi Chúa Giêsu,
Đấng giàu có đã trở nên nghèo khó để nhờ Ngài mà chúng ta được trở nên giàu có,
thì đến lượt chúng ta, chúng ta không có quyền sống ích kỷ hưởng thụ cho riêng
mình. Tất nhiên cho đi là tiếc xót và thiệt hại, nhưng khi chúng ta đã chọn
Chúa làm gia nghiệp thì Ngài sẽ là tất cả cho chúng ta.
Chuyện kể rằng, một
hôm có vị Quận công vào thăm trại tù. Ông là người tốt lành, nhân hậu. Khi ông
đến, ông hỏi thăm các tù nhân về tội trạng của họ. Ông lấy làm ngạc nhiên vì
các tù nhân ông hỏi đến đều nói mình vô tội. Người thì nói bị cáo gian, kẻ thì
nói vì lòng ghen tỵ mà người ta thêu dệt tội trạng để bỏ tù mình, có người còn
nói tại quan toà thích bỏ tù thì kết án chứ anh có làm gì sai đâu! Nhưng có một
người đứng lên thú nhận tội mình: thưa quận công, tôi là người có tội, trong
lúc cần tiền, tôi đã đi ăn trộm, tôi thấy mình đáng bị phạt nơi này. Lúc đó các
bạn tù xỉ vả anh: anh thật tệ, anh không xứng đáng ở chung với những người vô
tội. Lúc đó, vị quận công nhìn anh với lòng thương xót và tuyên bố tha bổng cho
anh. Còn những người kia thì tiếp tục ở lại trong tù để có thời giờ suy nghĩ về
sự công chính giả hiệu của mình.
Chúa Giêsu đến không
phải để cứu chữa người công chính, nhưng để cứu người tội lỗi. Hay nói một cách
khác: ai khiêm tốn và nhận lỗi, sẵn sàng để cho Chúa khám và điều trị thói hư,
lầm lạc của mình thì Chúa mới chữa được. Vì Chúa luôn tôn trọng tự do của con
người. Những người xưng mình là công chính, tự cho mình là đúng, không muốn
nghe dư luận, không sửa mình, kể cả lời nhắc bảo của Chúa họ cũng để ngoài tai
thì làm sao Chúa chữa lành được họ. Chúng ta biết, Chúa Giêsu khi muốn chữa
bệnh cho ai, thì Ngài hỏi: “Con muốn ta làm gì cho con?” Chắc chắn Chúa biết
người đó phạm tội gì, bệnh tật gì. Nhưng Ngài muốn người đó tự thú nhận, cầu
xin ơn tha thứ. Kế đó Ngài mới giải tội, ra tay chữa trị cho lành cả hồn lẫn
xác.
Giakêu là mẫu gương về
lòng hoán cải. Giakêu biết tội mình, nhưng vì ông thấy nhiều luật sĩ và biệt
phái hữu danh vô thực. Tuy mang danh là đạo đức nhưng thật ra nhiều người biệt
phái luật sĩ cũng tham lam đâu thua gì ông, họ cũng ỷ quyền, áp bức kẻ khác,
lạm quyền đâu kém gì ông mà có khi, ông nghĩ, họ còn tệ hơn ông nữa! Vì vậy,
ông tuy biết việc mình làm là không đúng nhưng nhất định không đến thú tội với
bọn người giả hình kia.
Tuy nhiên, thật may
mắn cho ông, xu hướng trở về với Chúa vẫn thôi thúc lòng ông đêm ngày. Ông là
người thức thời, ông nghe người ta đồn về một ông Giêsu, là một vị tiên tri đầy
quyền năng, đối xử nhân từ với người thu thuế và tội lỗi chứ không như bọn Luật
sĩ, Biệt phái giả hình, khinh khi và loại trừ người thu thuế. Vì thế, ông đã
hỏi thăm kỹ càng ngày giờ Thầy Giêsu sẽ đi ngang qua đó. Đúng lúc đám đông theo
Chúa Giêsu đi ngang, ông vội vàng trèo lên cây sung để mong được nhìn Thầy
Giêsu, một người đầy lòng thương xót đối với tội nhân, và ông đã nhìn thấy
Chúa. Hay đúng hơn Ánh Mắt Nhân Từ đã nhìn thấy ông trước khi ông nhận ra Ngài.
Ngài đã gọi đúng tên ông. Thật ngỡ ngàng quá. Ông những tưởng chỉ có lòng ông
khao khát tìm gặp Chúa, ai ngờ Chúa lại thao thức đi tìm ông. Dường như Chúa
biết tất cả về ông về những tội lỗi và lòng chân thành sám hối của ông.
Thật quả đúng như lời
người ta đồn đại và còn hơn thế nữa, Giêsu là Đấng Cứu Thế, Giakêu xúc động vô
cùng trước tấm lòng của vị chủ chăn đi tìm chiên lạc. Ông chỉ còn biết thốt
lên: tôi làm thiệt ai trong thời gian qua thì xin đền gấp 4 lần, còn phân nửa
tài sản tôi xin chia cho kẻ khó. Đối với Giakêu, cuộc đời ông đã được Chúa
Giêsu cứu chuộc rồi, của cải tài sản ông coi như phân phát hết cũng được, ông
không cần gì khác nữa. Ông nhận ra tình thương của Chúa rồi. Cuộc đời ông tràn
đầy ý nghĩa. Ông thấy cuộc đời mình đáng sống và hạnh phúc trong tình thương
cứu chuộc của Chúa.
Trong ngày Chúa Nhật
hôm nay, chúng ta hãy suy nghĩ đến tình thương của Chúa. Dù chúng ta thấy mình
là công chính thì chúng ta hãy xét mình thêm xem mình đã đáp trả lại tình
thương của Chúa đúng mức chưa? Chúng ta có dám nói như Giakêu: nếu tôi có làm
thiệt hại danh giá hay vật chất của ai thì tôi xin đền gấp 4 và phân nửa tài
sản của tôi xin chia cho kẻ khó. Rõ ràng, chúng ta chưa dám nói như vậy. Điều
này cũng cho thấy là chúng ta chưa yêu mến Chúa bằng Giakêu. Vì vậy chúng ta
phải dành thời giờ lưu lại với Chúa nhiều hơn sau thánh lễ và thiết tha cầu xin
Chúa cho đời mình gắn bó Chúa hơn nữa. Ước gì chúng ta luôn biết nhận ra sự
thật về chính mình để được Chúa gột rửa nên hoàn hảo, xứng đáng là môn đệ của
Thầy chí thánh Giêsu. Amen.
Sau khi được Chúa tha
thứ, ông Giakêu đã thưa lên cho mọi người được biết:
- Tôi sẽ lấy nửa gia
tài để làm phúc bố thí cho người nghèo và nếu đã làm thiệt hại ai, tôi xin đền
bù gấp bốn.
Lời nói này biểu lộ
thái độ sẵn sàng đền bù và sửa lại những sai lỗi của mình. Đã có một chuyển
biến, đã có một đổi thay nơi con người Giakêu. Vì thế, chúng ta cùng nhau chia
sẻ một vai ý nghĩ đơn sơ về sự đền bù.
Có một người bỏ xưng
tội lâu năm, tìm gặp vị ẩn tu trong sau mạc để xưng tội. Vị ẩn tu ra việc đền
tội là một kinh Lạy Cha, khiến người ấy hết sức ngạc nhiên. Vị ẩn tu trả lời:
- Chỉ có vậy mà thôi,
nhưng con phải đọc cho thật sốt sắng.
Người tội lỗi quì gối
giữa vùng sa mạc cát nóng, đôi tay giang rộng, mắt ngước nhìn lên trời và bắt
đầu đọc chậm chậm kinh Lạy Cha với tất cả sự trang nghiêm của mình. Và khi đọc
tới những chữ cuối cùng, người ấy cảm thấy mệt mỏi rã rời, hơi thở đứt đoạn,
rồi ngã gục xuống và nhẹ nhàng từ bỏ cuộc sống. Vị ẩn tu nhìn thấy linh hồn
người ấy bay lên trời như một cánh chim bồ câu trắng.
Nhờ việc xưng thú, tội
lỗi chúng ta đã được tha thứ, nhưng nhờ việc đền bù, những hình phạt do tội lỗi
gây ra cũng được xóa bỏ. Chính vì thế, linh hồn có thể không phải qua luyện
ngục, mà tiến thẳng đến cùng Chúa. Do đó, chúng ta hiểu được tại sao vị linh
mục bao giờ cũng ra việc đền tội cho chúng ta sau mỗi làng xưng thú. Ngài muốn
hoàn tất trọn vẹn công việc của ngài: xóa bỏ tội lỗi cũng như những hình phát
bởi tội mà ra. Ngài muốn cho chúng ta thoát khỏi những tháng ngày đày đọa nơi
luyện ngục. Bởi đó, hãy chu toàn việc đền tội của mình.
Tuy nhiên, những người
thiện chí như muốn nói:
- Xin cha hãy ra việc
đền tội nặng hơn một chút.
Tốt lắm! Chúng ta cứ
việc hoàn tất việc đền tội linh mục đã chỉ định, rồi sau đó tự ý làm thêm những
việc khác, chẳng hạn như lần chuỗi hay đi chặng đàng Thánh giá…
Sau khi xưng tội, đừng
vội vã rời bỏ nhà thờ, nhưng hãy ở lại ít phút để cầu nguyện với Chúa bằng tất
cả tâm hồn trong sạch của mình. Chúa sẽ lắng nhge lời chúng ta trong những phút
giây ấy.
Tuy nhiên, việc đền
tội không nhất thiết phải là đọc kinh nọ, kinh kia, nhưng có thể là những hy
sinh và hãm mình. Hãy sống tinh thần sám hối trong chính cuộc sống hằng ngày
của chúng ta.
Thánh Louis đã kể lại
rằng: trong suốt cuộc sống mình chỉ phạm có hai tội nhẹ mà thôi. Tội thứ nhất,
đó là hồi còn bé ngài đã ăn cắp mấy xu của một người lính. Tội thứ hai, đó là
ngài đã nói lời tục tĩu một lần. Ngài đã làm nhiều việc hãm nình để đền bù hai
sai lỗi nhỏ bé ấy. Là hoàng tử, nhưng ngài luôn vui vẻ giúp đỡ người khác. Mỗi
khi cầu nguyện, ngài đều quì trên đất cứng, thay vì quì trên nhung lụa. Mỗi
tuần, ngài ăn chay hai ngày. Ban đêm, thay vì ngủ trên chăm ấm nệm êm, thì ngài
lại nằm trên một tấm ván.
Sau này, ngài đã rời
bỏ cung điện để vào tu trong một nhà dòng. Tại đây, ngài vui mừng vì được làm
những công việc tầm thường như quét nhà, rửa bát… Khi cơn dịch bộc phát, ngài
đã hăng say đi giúp đỡ các bệnh nhân và sau cùng, ngài cũng đã mắc phải bệnh
dịch.
Mặc dù đớn đau, ngài
không bao giờ than van oán trách. Ngài chấp nhận tất cả để đền bù tội lỗi. Tại
sao thế? Vì ngài biết Thiên Chúa là Đấng công bằng vô cùng và sẽ trừng phạt cả
những sai lỗi nhỏ bé nhất. Ngài muốn bị trừng phạt ở đời này, còn hơn là bị
trừng phạt ở đời sau.
Tuy nhiên, có một cách
đền tội thật tốt đẹp, đó là hãy uốn nắn những sai lỗi, sửa đổi những khuyết
điểm, để thăng tiến bản thân, mỗi ngày một trở nên tốt lành và thánh thiện hơn.
Chúng ta hãy noi gương
thánh Phêrô, ông đã chối Chúa ba lần, nhưng sau đó, ông đã ăn năn sám hối, đã
làm lại cuộc đời và đã trở nên một vị thánh.
Trước khi xưng thú,
chúng ta là những kẻ tội lỗi. Còn sau khi xưng thú, chúng ta phải trở nên những
vị thánh.
Câu chuyện trong bài
Tin Mừng do thánh Luca kể lại. Ngài được mệnh danh là “Thư ký của lòng thương
xót”, vì trong Tin Mừng của ngài đã kể lại nhiều giáo huấn và công việc Chúa
Giêsu làm để bày tỏ lòng Chúa xót thương loài người tội lỗi. Bài Tin Mừng hôm
nay là một bằng chứng điển hình rõ ràng. Trên đường lên Giêrusalem, khi đi
ngang qua thành Giêricô, Chúa Giêsu đã gặp một người tội lỗi, nhưng đầy thiện
chí, là ông Giakêu. Chúa đã ghé vào trọ nhà ông và ban ơn cứu độ cho cả gia
đình ông, bất chấp mọi lời dị nghị, gièm pha.
Ông Giakêu không những
là một người thu thuế, mà còn là thủ lãnh những người thu thuế, tức là một chủ
thầu thuế má, nên ông cũng là một người rất giàu có. Dân Do thái rất ghét những
người thu thuế, coi họ là những người tội lỗi, không thể ăn năn hối cải, không
thể tha thứ, làm tay sai cho ngoại bang: thu thế cho nhà nước bảo hộ, tức đế
quốc Rôma. Trong nghề đó, người ta có thể bày rất nhiều trò ma giáo để ăn hối
lộ những kẻ muốn trốn thuế, hay muốn giảm thuế phải đóng. Bởi đó, người Do thái
ghê tởm những người thu thuế. Ông Giakêu là người như thế. Không những ông bị
thiên hạ khinh dể mà còn có thân hình thấp lùn.
Ông muốn tìm cách để
xem Chúa Giêsu là người như thế nào. Nhưng dân chúng chen chúc chung quanh Chúa
đông quá. Ông quyết không bỏ lỡ cơ hội. Một người chủ thầu phải có nhiều sáng
kiến. Ông chạy tới trước và leo lên một cây sung bên đường. Ông yên tâm chờ
đợi, vì Chúa Giêsu sắp đi ngang qua đó. Lòng ước muốn của ông thật là mãnh
liệt, vì ông không sợ đám đông chế diễu. Ông chỉ còn biết một điều là làm sao
thấy được mặt Chúa Giêsu. Quả thực, ông đã có thiện chí. Bấy nhiêu đã đủ để
Chúa trọng thưởng tấm lòng chân thành của ông.
Chúa Giêsu đi tới,
Ngài nhìn lên và gọi đích danh ông. Điều quan trọng là Chúa không chỉ đi ngang
qua cho ông Giakêu nhìn Chúa, chính Chúa nhìn lên và gọi ông đúng như có lần Chúa
đã nói: “Ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho”. Ông Giakêu đi tìm và ông đã
thấy, ông đã gõ cửa và Chúa đã mở cho ông, bằng cách xin ông mở cửa nhà ông cho
Ngài vào. Chúa muốn đến với ông và đến tận nhà ông.
Được đáp ứng quá sự
trông mong. Ông muốn thấy Chúa thì Chúa đến tận nhà để ông nhìn cho đã. Chúa
quảng đại vô cùng. Ông vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Ngài. Nhưng đám
đông lại sầm xì với nhau. Họ khó chịu với Chúa Giêsu, vì Chúa vào trọ nhà một
người tội lỗi. Ông Giakêu đã tìm ra giải pháp để vượt qua cái giới hạn của tấm
thân lùn. Liệu ông có tìm được giải pháp cho thân phận tội lỗi của ông để thắng
được lời xì sầm kia không? Ông không sợ đám đông chế diễu khi leo lên cây sung
để nhìn mặt Chúa, thì Chúa đã đáp lại, Ngài không sợ đám đông sầm xì khi yêu
cầu ông đón Ngài về ở nhà ông.
Đứng trước tình thương
của Chúa, ông đã mở rộng tâm hồn. Ông sẵn sàng chuộc lại tội lỗi, ông thưa với
Chúa là đem nửa gia tài phân phát cho người nghèo. Không những thế, ông thấy
mình còn phải thực hiện sự công bình nữa: làm thiệt ai ông sẽ đền gấp bốn. Lòng
quảng đại của ông sánh với lòng quảng đại của người đàn bà tội lỗi: ông yêu mến
nhiều vì đã được tha nhiều. Lòng yêu mến của ông đối với Chúa Giêsu diễn tả
thành lòng yêu mến người nghèo và những người đã bị ông bóc lột.
Sau khi ông Giakêu
tuyên bố quyết định của ông, thì Chúa Giêsu nói: “Hôm nay nhà này được cứu độ,
bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”. Ông Giakêu trở thành kiểu mẫu
đón nhận ơn cứu độ và là cơ hội để Chúa Giêsu khẳng định sứ mạng của Ngài: “Con
Người đến để tìm và cứu những gì đã hư mất”. Ông Giakêu đã bị đám đông loại
trừ, vì thân ông lùn và phận ông tội lỗi. Nhưng Chúa đã rời đám đông kiêu hãnh
kia để đi tìm ông và đem ơn cứu độ cho ông. Chúa đã nhìn ông và cứu ông. Cái
nhìn của Chúa, cái nhìn chinh phục, cái nhìn của tình thương muốn cứu vớt. Ông
Giakêu đã tìm cách nhìn thấy Chúa, nhưng ông cũng đã để cho Chúa nhìn ông và
chinh phục ông. Ông được cứu độ.
Qua những điều trên,
chúng ta hãy ghi nhớ hai điều sau đây: Thứ nhất, những tội bất công
hay tham nhũng mà ông Giakêu phạm, đã làm cho ông mất tước hiệu là con cái
Abraham. Nhưng với sự ăn năn sám hối, muốn làm lại cuộc đời, sửa lại những lỗi
lầm, ông Giakêu đã được chính Chúa Giêsu tha tội và trả lại cho ông tước vị đó.
Tước vị con cái Abraham là một vinh dự của người Do thái. Nhưng người Công
giáo, ngoài tước vị đó ra, chúng ta còn là con cái Thiên Chúa. Người Do thái
rất hãnh diện về tước vị đó. Còn chúng ta, chúng ta có hãnh diện về tước vị làm
con Thiên Chúa không? Nếu làm mất danh hiệu con cái Thiên Chúa, chúng ta cũng
cần bắt chước Giakêu mà sửa lại những lỗi lầm gây nên sự mất mát kia, để Chúa
cũng trả lại danh hiệu nghĩa tử Thiên Chúa cho chúng ta và tuyên bố về chúng ta
rằng: “Người này cũng là con cái Thiên Chúa”.
Thứ hai, nhiều người Công
giáo quên mất rằng: Đạo Chúa là đạo cứu thế chứ không phải đạo phán xét. Do đó,
người Công giáo cũng phải có tinh thần cứu thế, không phán xét, khinh dể những
người tội lỗi… Chúa Giêsu đã không hùa theo người Do thái mà khinh dể, loại trừ
ông Giakêu. Trái lại, đã đến với ông để cứu ông và cả gia đình ông, làm cho họ
trở thành con cái thực thụ của Abraham. Thế thì người Công giáo cũng vậy, phải
yêu thương tội nhân, đến với họ, mang ơn cứu độ cho họ và làm cho họ lấy lại
tước vị “con cái Abraham” trong đức tin và “con cái Thiên Chúa” trong tình yêu
thương bác ái.
Đời sống con người gắn
liền với những cuộc gặp gỡ. Có những cuộc gặp gỡ mà người ta háo hức như gặp
người yêu, gặp một nhân vật nổi tiếng, gặp một người thân xa cách đã lâu… Tuy
nhiên, gặp kẻ khó ưa, gặp tên trấn lột, tên lường gạt… thì chẳng ai mong muốn.
Ngoài ra lại có những cuộc gặp gỡ đầy ý nghĩa, có sức hoán cải, làm thay đổi cả
con người. Cuộc gặp gỡ như thế không chỉ dừng lại ở gặp mặt, gặp gỡ xã giao,
nhưng là cuộc gặp gỡ thâm sâu, gặp gỡ giữa hai tâm hồn.
Trang Tin Mừng hôm nay
kể lại cho chúng ta cuộc gặp gỡ hết sức thú vị giữa Đức Giêsu và Giakêu. Đức
Giêsu, Đấng Thánh của Thiên Chúa, lại muốn kết thân với Giakêu, kẻ tội lỗi bị
mọi người xa lánh. Thế nhưng trong cuộc kết giao này. Đức Giêsu chẳng mất mát
gì, trái lại Ngài đã cứu được một tội nhân khỏi vòng tội lụy; còn Giakêu, dù là
chia nửa gia tài của mình cho người nghèo, nhưng lại được mối lợi thật to. Ông
và cả gia đình đón nhận được hồng ân cứu độ. Quả là một cuộc gặp gỡ diệu kỳ đưa
đến hoán cải tận căn.
Phải chăng là sự hài
hước, chế giễu hoặc là một nghịch lý? Danh xưng “Giakêu” trong tiếng Do thái có
nghĩa là “người thanh khiết, người công chính”. Con người tội lỗi công khai ấy
lại có tên “thanh khiết, trong sạch” làm chúng ta nghĩ tới một kẻ lừa bịp ác
tâm mà người ta đặt cho là “người vô tội”.
Bạn của Giakêu là
“tiền”, còn phương châm sống là “bất chấp dư luận”. Thế nên, dù có vóc dáng nhỏ
thó với chiều cao khiêm tốn, ông cũng leo lên được nấc thang xã hội, đã đạt
được vị trí ước mong, đã thu tích được một gia tài. Có được gia tài này, một
phần là nhờ trí tuệ, sự miệt mài làm việc, một phần cũng là nhờ bòn mót và kiếm
chác của người khác. Bởi lẽ ông đứng đầu những người thu thuế. Ông coi những
người khác là bần cùng, khố rách áo ôm. Còn người ta lại khinh bỉ ông là kẻ tội
lỗi. Giakêu, một con người bị tránh xa như bệnh dịch, kẻ tội lỗi hoàn toàn hư
mất. Cấm không được giao du với hạng người hư hỏng đó. Người ta nhổ xuống đất
và quay mặt đi khi đi ngang qua con người ấy.
Ông đã sống để kiếm
tiền và khuấy động thành phố. Nhân danh pháp luật, ông bức bách người ta. Nhưng
khi nghe nói Đức Giêsu đi qua đó, và Người là bạn của những kẻ không được ai
yêu thương, ông đã leo lên một cây sung bên đường để xem cho biết mặt Đấng ấy.
Khi tới chỗ ấy, Đức Giêsu dừng lại và đưa mắt nhìn lên. Chẳng biết Người muốn
nói gì nơi ông?
Chúng ta có thể gọi
chỗ này là “nơi hai ánh mắt gặp nhau”. Bề ngoài, cái nhìn đầu tiên là của
Giakêu, đang cháy bỏng ước muốn xem Đức Giêsu. Nhưng sẽ không có gì xảy ra nếu
như Đức Giêsu đã không ngước mắt nhìn lên kẻ ở trọ lạ lùng – trên cây sung.
Người “nhìn lên” Giakêu. Người không xem thường ông, nhưng nhận ra nơi ông một
con người sẵn sàng hoán cải. Anh mắt, thái độ và lời nói của Người không ngừng
biểu lộ sáng kiến lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Giakêu muốn gặp mặt
Đức Giêsu, không kèn, không trống, không kẻ hầu người hạ. Ông đi một mình trơ
trụi, bị đẩy lại sau những kẻ tò mò, và điều hạ nhục ông là ông phải làm một
chuyện kỳ dị đối với một viên chức cao cấp. Có thể nói ông đã làm một bước nhảy
vọt, vượt trên mọi dư luận, mọi thành kiến. Ông làm tất cả những điều đó cốt để
tận mắt thấy Đức Giêsu. Quả là đáng khâm phục! Thế nhưng, Đức Giêsu lại làm một
cử chỉ đáng kinh ngạc hơn. Trong lúc được đám đông dân chúng vây quanh và hết
lòng ngưỡng mộ, Người lại tách mình ra khỏi đám đông hỗn độn ấy để đến với một
kẻ tội lỗi. Vì lòng thương xót đối với tội nhân, Người chẳng màng đến những lời
xì sầm, bàn tán hay dị nghị. Đấng Thánh của Thiên Chúa hạ mình xuống làm bạn
với một người tội lỗi.
Tình yêu vượt lên mọi
thành kiến, mọi trở ngại, mọi rào cản.
Hiển nhiên, đám đông
chờ đợi và hy vọng Đức Giêsu sẽ cho Giakêu một bài học đích đáng. Và nếu Người
làm như vậy, Người sẽ được dân chúng tán dương. Nhưng Đức Giêsu từ chối đối xử
với ông như vậy. Thay vào đó, Người lại muốn trọ tại nhà ông. Dân chúng lập tức
đâm ra ghét Người; còn Giakêu thì vô cùng bỡ ngỡ, ông vui vẻ đón tiếp Người.
Người ta ghét Giakêu.
Họ không muốn thấy ông được cứu độ. Họ chỉ muốn ông bị kết án và bị trừng phạt.
Nhưng Đức Giêsu không nghĩ như vậy. Người thấy rằng điều Giakêu cần không phải
là bị kết án nhưng là ơn cứu độ. Giakêu có xứng đáng hay không xứng đáng lãnh
ơn cứu độ – điều đó không quan trọng – Giakêu cần ơn cứu độ, như thế là đủ đối
với Đức Giêsu. Nếu Người cũng như đám đông dân chúng kết án, hạ nhục hay tránh
né ông, thì chắc chắn phép lạ hoán cải đã chẳng xảy ra.
Nghịch lý trong tên
gọi của Giakêu lúc đầu giờ đây lại hoàn toàn hữu lý. Chúng ta thấy rằng niềm
vui của cuộc gặp gỡ làm nảy sinh nơi người tội lỗi ước vọng thiết tha được khởi
đầu một cuộc sống mới: “Thưa Ngài, này đây là phân nửa tài sản của tôi, tôi cho
người nghèo; và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”.
Ban đầu, Giakêu chỉ
muốn xem cho biết Đức Giêsu là người thế nào. Thay vì chỉ thoáng thấy Chúa đi
ngang, ông được diễm phúc diện đối diện, và còn hơn thế nữa tâm hồn ông gặp
được tấm lòng bao dung của Thiên Chúa. Tâm hồn Giakêu giờ đây giống như vùng
đất sa mạc được tưới mát sau cơn mưa lớn.
Cuộc hoán cải của
Giakêu đã xảy ra tức khắc, tỏ tường và chúng ta có thể chắc chắn về điều đó.
Tuy nhiên, đây không phải chỉ là cuộc hoán cải thuộc lãnh vực trí tuệ. Ông đã
thay đổi cõi lòng. Trên quan điểm của Tin Mừng, đây là cuộc hoán cải có tầm
quan trọng nhất và cũng để lại những dấu ấn sâu đậm nhất. Sợ hãi chẳng thể nào
làm nảy sinh được cuộc hoán cải nội tâm. Chỉ có tình thương và lòng bao dung
mới có thể làm được điều đó. Một sự tiếp cận cứng cỏi sẽ đưa tới một con tim
khép kín và chai đá. Một sự tiếp xúc dịu hiền, như Đức Giêsu đã cư xử với
Giakêu, sẽ dẫn đến một con tim mềm mại và cởi mở.
Lời tuyên bố của Đức
Giêsu cho thấy phép lạ thật sự đã xảy ra ngay trong cuộc gặp gỡ giữa Người và
Giakêu: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu
tổ phụ Abraham”. Giờ đây, Giakêu không còn mang danh hiệu kẻ tội lỗi nữa, nhưng
ông có thể mang tên thật của mình là “người thanh khiết”.
Đức Giêsu không chỉ
muốn gặp gỡ Giakêu nhưng Người cũng muốn gặp gỡ mỗi người chúng ta. Trước mặt
Thiên Chúa chúng ta cũng là những kẻ tội lỗi đáng thương như Giakêu, cũng cần
đến sự hoán cải và ơn tha thứ.
Thiên Chúa không chờ
ta quyết định đến với Người. Người luôn đi bước trước. Bao giờ cũng chính Người
đến với ta, và Người vẫn còn đến mãi bao lâu chưa tiếp xúc được với chúng ta.
Thế nên chúng ta phải
hành động để tìm gặp Thiên Chúa. Người không đòi ta phải leo lên cây sung như
Giakêu, nhưng quan trọng là phải đi gặp Người bằng chính hành động của mình.
Cũng như Giakêu, Thiên Chúa không đòi ta phải bỏ nhiệm vụ của mình mà lánh vào
sa mạc. Người giúp Giakêu khám phá ra rằng ông phải chu toàn nhiệm vụ của mình
một cách công bằng và đền bù những lạm dụng. Do đó, chúng ta cũng nên xét lại
những bổn phận và cách cư xử của mình có hợp với lẽ công bằng hay chưa. Có thể
chúng ta chẳng lấy cắp hay chiếm cứ tài sản của ai cách công khai, nhưng chúng
ta lại thỏa hiệp với việc lấy cắp của công, tham ô, hối lộ, bớt xén thời gian
làm việc, đầu cơ trục lợi hoặc cho vay nặng lãi. Bên cạnh đó, có bao giờ chúng
ta đã để tâm sống đức công bằng qua việc tôn trọng danh dự, phẩm giá người
khác; hay chúng ta coi việc gièm pha, vu khống, hỗn láo, nói xấu người khác… là
chuyện bình thường?
Sự hoán cải của Giakêu
là một cuộc hoàn lương. Tất cả chúng ta cũng cần một cuộc hoán cải như vậy. Mỗi
người đều có khả năng mà Giakêu đã có, cho dẫu nó có thể bị che khuất hay chưa
được tỏ lộ. Thế nên, chúng ta cũng cần hoán cải hằng ngày để từ một quả tim
khép kín trở nên rộng mở, từ một quả tim chai đá, bất công trở thành thịt mềm,
ngời sáng đức công bằng.
Chắc hẳn Giakêu đã
nghe người ta nói nhiều điều tốt về Chúa Giêsu. Nhưng ông muốn chính mình gặp
Ngài, lý do thứ nhất là để xem tướng mạo Ngài ra sao, và lý do thứ hai quan
trọng hơn là để biết con người của Ngài thế nào.
Hôm đó cũng có rất
đông người muốn nhìn thấy Chúa Giêsu. Họ ở cạnh Ngài, họ bao quanh Ngài. Còn
Giakêu thì không đến gần được, ông phải trèo lên một cây sung. Thế mà Chúa
Giêsu lại đặc biệt để ý tới ông. Thật sung sướng khi được người khác để ý tới.
Tuy nhiên, để ý tới ai
không hẳn chỉ là để chăm sóc hay khen ngợi người đó. Nếu người đó là kẻ xấu thì
có thể người ta để ý tới để mà dò xét hay khiển trách. Giakêu là người xấu,
nhưng Chúa Giêsu để ý tới ông không phải là để khiển trách. Ngài dừng lại và
nhìn lên ông. Giakêu hiểu là Chúa Giêsu quan tâm đến ông. Được để ý tới là sung
sướng, được quan tâm lại càng sung sướng hơn.
Chúa Giêsu còn nói với
Giakêu nữa. Đặc biệt là Ngài không nói một lời nào về những tội lỗi của ông.
Thay vào đó Ngài gọi đích danh ông “Này ông Giakêu”. Rồi Ngài gọi ông xuống
“Xuống mau đi”. Ngài còn ngỏ ý muốn đến trọ nhà ông “Hôm nay tôi phải ở lại nhà
ông”. Điều này không ai ngờ. Giakêu không ngờ, mà tất cả mọi người có mặt ở đó
cũng không thể ngờ một người đạo đức như thế mà lại đến trọ nhà một người tội
lỗi công khai. Giakêu sung sướng quá. “Ông vội vàng trèo xuống và mừng rỡ đón
tiếp ngài”. Ban đầu ông chỉ mong nhìn được Chúa Giêsu một cái thôi. Bây giờ ông
được nhìn Ngài mặt đối mặt và sắp được ở chung với Ngài ngay trong nhà của ông
nữa.
Giakêu đã biết chẳng
những tướng mạo mà cả con người của Chúa Giêsu. Ông còn biết được tâm hồn dạt
dào yêu thương của Ngài nữa.
Và khi nhìn thấy tâm
hồn Chúa Giêsu rồi, Giakêu cũng nhìn lại tâm hồn của ông: một tâm hồn đầy tội
lỗi. Ông thấy đời mình bấy lâu nay như một sa mạc khô cằn, thế mà hôm nay Chúa
Giêsu lại đến, như một cơn mưa rào.
Thế là Giakêu hoán
cải. Cuộc hoán cải thể hiện bằng những hành động cụ thể: đền bồi tất cả những
thiệt hại đã gây ra cho người khác, và phân chia tài sản mình cho những người
nghèo. Đây không phải là hoán cải chỉ bằng ý muốn mà bằng cả con tim. Giakêu đã
biết xót xa cho những người bị ông làm thiệt hại, và biết yêu thương những
người nghèo khổ. Đây chính là sự hoán cải thật, vì con tim có hoán cải thì cuộc
đời mới hoán cải thật.
Con tim của Giakêu
hoán cải nhờ Chúa Giêsu đã để ý tới ông, quan tâm ông, đối xử nhẹ nhàng với
ông. Goethe đã viết: “Hãy đối xử với một người như người ấy là, và người ấy sẽ
xấu hơn. Hãy đối xử với người ấy như người ấy phải là, hoặc như người ấy muốn
là, và người ấy sẽ tốt hơn. Bởi vì những ước muốn trong chúng ta chính là phần
tốt nhất của con người chúng ta”.
Chúa Giêsu hiểu rằng
những việc làm xấu của Giakêu không phải là toàn phần con người của ông; Ngài
hiểu trong ông còn có phần tốt, phần muốn làm điều tốt và có khả năng làm những
điều tốt ấy. Ngài đã khơi lên chính cái phần tốt ấy.
Cuộc hoán cải của
Giakêu là hoán cải con tim, là hướng con tim về điều tốt.
Cũng giống như Giakêu,
trong con người chúng ta cũng có phần tốt mặc dù có thể phần tốt ấy xưa nay bị
những việc xấu chèn ép và chưa phát huy ra. Hãy hoán cải con tim bằng cách để
Chúa để ý đến ta, quan tâm ta, nói với ta, trọ trong tim ta và đánh động con
tim ta.
Thiên Chúa là tình
yêu. Ngài yêu thương con người, và luôn đi tìm tội nhân để dẫn đưa họ về với
Ngài.
Thiên Chúa luôn đi
bước trước
Thiên Chúa đã đánh
động Giakêu, để ông có lòng khao khát gặp Đức Giêsu. Thiên Chúa đã thúc đẩy để
Giakêu, người trưởng của những người thu thuế, nhiều tiền, dám trèo lên cây để
nhìn ngắm Đức Giêsu. Đây là thái độ của người khiêm nhường, không tự phụ vì
tiền bạc mình có, không kiêu căng vì chức vụ trưởng thu thuế của mình, nhưng
can đảm làm điều như một em bé, trèo lên cây để nhìn Đức Giêsu. Thái độ này đã
đánh động Đức Giêsu. Đức Giêsu đã dừng lại, ngó lên, và gọi Giakêu, đề nghị
được ở lại nhà ông. Giakêu đã trèo xuống, vui vẻ chấp nhận đề nghị của Đức
Giêsu. Và không chỉ vậy, ông hứa sẽ bố thí cho người nghèo nửa gia tài của ông,
và bồi thường gấp bốn những gì ông đã làm hại người khác.
Giakêu đã làm điều
vượt khỏi quan niệm “thế gian thường tình”. Ông đã trở lại với Chúa và với con
người, với những anh em cụ thể sống xung quanh ông. Và với điều này, cả trời
đất vui mừng. Con người vui và Thiên Chúa cũng vui.
Thiên Chúa yêu thương
mọi loài hiện hữu
Thiên Chúa, Đấng đánh
động Giakêu, là Thiên Chúa hay thương xót và yêu thương. Thiên Chúa vẫn yêu
thương tất cả mọi loài, cho dù trước nhan Thiên Chúa, toàn thể vũ trụ chỉ như
hạt cát dính bàn cân, như giọt sương mai rơi trên đất.
Tương tự như cha mẹ
yêu thương con cái vì con cái do cha mẹ sinh ra, Thiên Chúa cũng yêu thương tất
cả mọi loài vì tất cả mọi loài đều được Thiên Chúa tạo dựng. Thiên Chúa tạo
dựng con người qua cha mẹ mỗi người. Thiên Chúa là Cha của tất cả. Thiên Chúa
là Cha của tất cả mọi người, Ngài là Cha của người con trưởng lẫn người con thứ
trong dụ ngôn người cha nhân từ. Thiên Chúa là Cha của người công chính cũng
như của người tội lỗi.
Chính vì yêu thương,
mà Thiên Chúa đã tạo dựng mỗi người. Nếu không yêu thương, Ngài đâu tạo dựng
họ. Hiện hữu là một hồng ân vô cùng lớn, mà chỉ những người cảm nhận tình yêu
mới nhận ra.
Thiên Chúa yêu thương
cả những tội nhân
Thiên Chúa vẫn yêu
thương, cả những người tội lỗi. Ngài yêu thương qua việc Ngài kiên nhẫn và
không trừng phạt tội nhân ngay khi họ phạm tội.
Hình ảnh Đức Giêsu
chết trên thập giá và những người chủ mưu giết Ngài, những người hành hình
Ngài, giúp con người thấy Thiên Chúa yêu thương con người đến độ nào! Tại sao
Thiên Chúa Cha không hủy diệt những người âm mưu giết Con Ngài, tại sao Thiên
Chúa không làm cánh tay của những kẻ đóng đinh Đức Giêsu phải tê liệt, tại sao
Ngài không làm những người đánh Người Con yêu của Ngài phải chết! Vì Ngài nhân
từ yêu thương, Ngài yêu thương cả những kẻ giết Con Ngài. Ngài nhân từ để chờ
họ nhận biết chân lý và trở lại với Ngài.
Ai cũng phạm tội, và
có lẽ mỗi người đều cảm nghiệm tình yêu thương nhân từ và kiên nhẫn của Thiên
Chúa. Ngài luôn mời gọi con người trở lại với Ngài, để Ngài tha thứ và để con
người được chia sẻ sự sống với Ngài.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Trong cách hành xử
của Giakêu, có điều gì hay mà bạn thiếu?
2. Bạn thường nhìn
người tội lỗi thế nào? Bạn có “phân biệt đối xử” hông? Bạn có thái độ (như
người con) của Thiên Chúa không?
3. Thiên Chúa là ai
đối với bạn?
Có lẽ trong cuộc sống
ít nhiều chúng ta đã chứng kiến nhiều sự biến đổi. Biến đổi cảnh vật, biến đổi
nơi chốn và nhất là con người được biến đổi. Sau khi biến đổi những cảnh vật,
những nơi chốn và những con người có thể tốt hơn hay có khi cũng xấu hơn. Dường
như ai trong chúng ta cũng đều mong muốn với sự biến đổi đó mọi sự sẽ trở nên
tốt hơn và có giá trị hơn.
Mỗi sự biến đổi đều có
động lực của nó. Chẳng hạn, một bạn trẻ sau khi đi làm xa một thời gian, nhờ có
được nhiều tiền trở về quê biết quan tâm và giúp đỡ đến bà con của mình. Đoạn
Tin mừng Giáo hội cho chúng ta suy niệm hôm nay cũng cho thấy một sự biến đổi.
Đó là ông Dakêu đã biến đổi cách sống của mình. Chúng ta xem ông đã biến đổi
như thế nào và do đâu khiến ông đã được biến đổi.
Chúng ta biết, trong
xã hội Do thái lúc đó những ai làm nghề thu thuế được liệt vào một trong những
người tội lỗi đáng sợ. Ai tiếp xúc với những hạng người như thế sẽ bị ô uế.
Những ai được xem là công chính rất sợ phải tiếp xúc với những người tội lỗi
như thế. Mà ông Dakêu là một người thu thuế. Hơn nữa, ông lại còn là người đứng
đầu trong các người thu thuế. Như thế, với cái nhìn ấy ông Dakêu thật là một
người tội lỗi rất đáng sợ.
Ngày kia, nghe tin
Chúa Giêsu đi ngang thành Giêricô ông chỉ muốn tìm cách xem Người là ai. Vì quá
lùn nên ông đã trèo lên cây sung để xem mặt Người. Biết thế, không những Chúa
Giêsu cho ông thấy mặt mà Chúa Giêsu còn bảo ông: “ Này ông Dakêu, xuống mau
đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông! “. Nghe lời ấy ông quá đỗi vui mừng: “
vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người “.
Vì yêu thương và tin
tưởng Dakêu nên Chúa Giêsu đã không ngại gợi ý để vào nhà ông và dùng bửa với
ông. Đến nổi những người khác bàn tán xầm xì: “ Nhà người tội lỗi mà ông ấy
cũng vào trọ! “. Chắc chắn ông Dakêu đã nhận ra được điều ấy nên ông đã hoàn
toàn thay đổi cách sống của mình: “ Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi,
tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp
bốn “. Từ một con người chỉ biết thu vào cho mình giờ đây nhờ tình yêu và sự
tin tưởng của Chúa Giêsu nên ông đã trở thành con người biết mở ra cho người
khác.
Ai trong chúng ta cũng
được Thiên Chúa yêu thương và tin tưởng như thế. Vì yêu thương và tin tưởng nên
Thiên Chúa đã trao phó cho chúng ta quản lý mạng sống của mình. Vì yêu thương
và tin tưởng nên Thiên Chúa đã trao cho chúng ta những sứ mạng. Có người làm
giáo sĩ, có người làm tu sĩ, có người làm cha làm mẹ trong gia đình, có người
lãnh trách nhiệm này trách nhiệm nọ trong họ đạo...
Nếu chúng ta nhận ra
được Thiên Chúa đang yêu thương và tin tưởng mình chắc chắn đời sống chúng ta
sẽ thay đổi nhiều. Chúng ta sẽ biết phục vụ tốt trong vài trò bổn phận của
mình.
(Suy niệm của Lm.
Gioakim Nguyễn Tấn Đạt)
Kính thưa quí ông bà
và anh chị em,
Hết thảy chúng ta đã
từng nghe những tin đồn về ngày tận thế diễn ra trong lịch sử. Và có rất nhiều
người cảm thấy hoang mang, sợ hãi. Họ lo chuẩn bị mọi thứ để có thể đối phó. Có
người che chắn nhà cửa để tránh phải khí độc, có người vội vàng xin thôi việc,
bán tài sản, có người lại tuyên truyền tận dụng thời giờ để tận hưởng những
giây phút còn lại. Mới đây nhất là tin đồn về ngày 21/12/2012, ngày diệt vong
của nhân loại dựa theo sự kết thúc lịch của người Maya. Tin đồn này khiến nhiều
người trên thế giới lo sợ. Họ đã tích cực mua nến, tích đồ lương thực, xây dựng
hầm trú ấn… Họ chuẩn bị trong sợ hãi và vô vọng.
Cộng đoàn thân mến,
Hành trình của đời
sống Kitô hữu là chuẩn bị đón chờ ngày Chúa đến. Trong niềm hy vọng, người Kitô
hữu không phải lo sợ ngày này như những người vô thần. Ngày Chúa đến không phải
để kết thúc nhưng là sự bắt đầu. Đó không phải là thời khắc của trừng phạt
nhưng là thời khắc của lòng xót thương và ơn cứu độ. Và thật hạnh phúc hơn nữa
là Chúa vẫn đang đến với con người trong từng giây phút sống hiện tại.
Chúa đã đến với con
người từ thuở khai thiên lập địa qua công trình tạo dựng. Thiên chúa sáng tạo
để đem lại cho nhân loại được hạnh phúc. Một cuộc sáng tạo vì lòng xót thương,
muốn cho muôn loài muôn vật được chia sẻ vinh quang, hạnh phúc với Ngài. Chúa
yêu thương, Chúa mới tạo dựng, như trong bài đọc thứ I, trích từ sách Khôn
Ngoan, chúng ta vừa nghe.
Chúa dựng nên muôn
loài không phải để bỏ mặc theo kiểu đem con bỏ chợ nhưng luôn quan phòng hết
tất cả. Chúa vẫn đến và tiếp tục cuộc sáng tạo của Ngài qua việc sửa dạy từ từ,
nhắc nhở, cảnh báo để những ai phạm tội, những người sa ngã trở về với Ngài.
Điều này để thể hiện
rõ trong bài Tin Mừng hôm nay, qua hình ảnh của ông Giakêu. Ông là người đứng
đầu những người thu thuế, cũng đồng nghĩa với hạng nhất về phương diện tội lỗi
trước mặt mọi người. Ông chỉ ước mong một lần được gặp con người nổi danh lúc
bấy giờ, dù chỉ tò mò, và như thế là ông mãn nguyện lắm. Nhưng ông đâu có biết
rằng Con Người đó bấy lâu nay vẫn tìm kiếm những người như ông. Thiện chí của
Giakêu đã được đền đáp khi Chúa gọi đúng tên ông và muốn ngụ lại nhà ông. Một
biến cố không thể ngờ được đối với ông lùn này. Chúa đã tìm đến với Giakêu hơn
là Giakêu tìm Chúa. Thiên Chúa viếng thăm nhà ông, đem lại cho ông một niềm vui
khôn tả, một niềm hạnh phúc vô biên.
Và càng hạnh phúc hơn
nữa đối với Chúa và đối với mọi người khi một người tội lỗi ăn năn sám hối. Với
đôi mắt nhân từ, cử chỉ đầy yêu thương của Chúa, lúc đó ông không chỉ muốn gặp
Chúa vì tò mò, mà muốn gặp Chúa trong tâm hồn, một cuộc gặp gỡ Thiên Chúa đúng
nghĩa là biến đổi tận căn con người của ông. Chúa đến không phải để giáng phạt
vì những hành vi sai trái của Giakêu nhưng để đưa ông trở về. Đó là một cuộc
sáng tạo mới. Chúa đến để đem lại cho ông được sự bình an, và cả nhà ông được
ơn cứu độ. Chúa đến để mang lại một sự bắt đầu, một cuộc sống mới. Chúa đến
không phải để tiêu diệt nhưng “để tìm và cứu những gì đã mất”.
Anh chị em thân mến,
Nói không sai rằng, ai
trong chúng ta cũng đã từng mất. Nếu chúng ta không mất tiền, mất bạc, mất danh
dự, mất địa vị thì cũng mất chính con người của mình bởi tội lỗi gây nên. Sống
đạo là theo một con đường, con đường đó mang tên Giêsu Kitô. Nơi mỗi người ai
cũng có dư những thiện chí, vẫn luôn khao khát để sống tốt hơn. Đừng tưởng rằng
như thế là chúng ta đã tìm Chúa, mà kỳ thực Chúa đang và luôn tìm đến với chúng
ta. Chừng nào chúng ta chưa đáp lại, chưa đón tiếp Chúa thì thiện chí ấy chỉ là
thiện chí suông, khao khát ấy vẫn là một giấc mơ hão huyền. Con đường mang tên
Giêsu ấy vẫn chỉ ở trước mặt, chứ chúng ta chưa hề bước lên một bước.
Vẫn biết rằng, chúa
không bỏ mặc ai, trái lại, Người tìm đến để cứu từng người chúng ta. Nhưng đã
biết bao lần Chúa đến trong cuộc đời mỗi người. Chúa đến qua những biến cố
trong cuộc sống, kể cả những thất bại ê chề, những nỗi buồn tê tái, những đau
khổ triền miên. Chúa đến qua tha nhân, những người nghèo, ngay cả những người
làm chúng ta buồn bực, đau khổ. Chúa đến qua các Bí tích, nhất là Bí tích Thánh
Thể. Nhưng thử hỏi liệu chúng ta đã đón tiếp Chúa như thế nào. Cứ nhìn vào thái
độ, nhìn vào cách hành xử của mình, chúng ta có thể lượng giá được rằng mình đã
gặp Chúa chưa?
Một khi tôi có thái độ
như Giakêu, chắc chắn tôi sẽ không thất vọng, không đánh mất niềm tin, không
buồn bực, giận dữ. Nếu tôi được như Giakêu, chắc chắc tôi không lơ là với các
Bí tích, không để Chúa phải cô đơn, lãnh lẽo với những băng ghế trống không
trong nhà thờ, với tòa giải tội bị phủ đầy mạng nhện, được gán là nơi yên tĩnh
nhất cho loài chuột trú ngụ. Coi ra chúng ta còn thua Giakêu xa lắm vì vẫn cứ ù
lì, không sửa đổi, canh tân đời sống.
Cũng như Giakêu, Chúa
viếng thăm là đem lại ơn cứu độ, chứ không phải đem lại những điều theo ý mình
muốn. Chính Người, trước khi chịu khổ nạn cũng cầu nguyện rằng: “Áp-ba, Cha ơi,
Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn,
mà làm điều Cha muốn” (Mc 14,36). Chừng nào chúng ta vẫn còn muốn làm theo ý
mình, chúng ta vẫn lẩn tránh Chúa, chạy trốn Thiên Chúa, vẫn còn chìm trong
bóng đêm tội lỗi. Khi đó ơn cứu độ còn xa tầm với của mỗi người chúng ta. Thiên
Chúa vẫn đến, gõ cửa và kiên nhẫn đợi. Hãy mở cửa và đón tiếp Người! “Này đây
Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người
ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3,20).
Ước gì qua Lời Chúa
hôm nay, mỗi chúng ta ý thức lại ơn gọi của mình. Ơn gọi làm người, ơn gọi làm
Con Chúa. Mỗi người đáng trọng, đáng quí trước mặt Chúa. Chúa luôn đến với
chúng ta, làm cho chúng ta đổi mới. Hãy mau đón tiếp Người. Hãy chuẩn bị vì
không biết giờ nào, ngày nào Con Người đến. Amen.
Thấp bé trước mặt
người đời có thể không ảnh hưởng đến cuộc sống chúng ta, nhưng thấp bé trước
mặt Thiên Chúa đòi buộc chúng ta phải nỗ lực vươn lên. Tình yêu Thiên Chúa dẫn
đưa chúng ta đến với Ngài. Chúng ta hãy đến với Chúa để được thanh luyện và
được ơn hoán cải đích thực. Đó chính là sứ điệp của Lời Chúa hôm nay.
Thiên Chúa đầy lòng
khoan dung
Khởi đi từ bài đọc Cựu
Ước, tác giả sách Khôn Ngoan cho thấy hình ảnh một Thiên Chúa đầy lòng khoan
dung trước những sai lỗi của con người. Theo thói thường, “ác giả ác báo”, tội
nhân ắt phải bị trừng trị. Chúng ta thường lên tiếng phản đối trước những hình
phạt chưa xứng với tội. Chuyện toà án để “lọt người, sót tội” xuất hiện hằng
ngày trên các phương tiện truyền thông. Luật lệ là thước đo cho sự công bằng
giữa người với người, nhưng đôi lúc cũng là công cụ gây nên biết bao đau khổ
cho con người.
Thiên Chúa thì lại
khác, Ngài làm ngơ trước tội lỗi của con người. Phải chăng Ngài “bó tay”?
Không. Mọi vật đối với Ngài như hạt sương nhỏ. Ngài thừa khả năng đánh phạt
những ai lầm lỗi. Nhưng nếu Ngài làm thế, biết còn mấy ai tồn tại trước nhan Ngài?
Ngược lại, vì yêu thương mà Ngài dễ dàng kiên nhẫn chờ đợi. Ngài là Thiên Chúa
sáng tạo chứ không phải là kẻ huỷ diệt, mang đến sự sống chứ không rắc gieo cái
chết. Ngài tạo dựng muôn loài vì yêu mến thì cũng vì yêu mến mà Ngài khoan dung
tha thứ cho tội nhân. Ngài để cho tội nhân có cơ hội hoán cải. Chúng ta thay vì
nhìn vào sự dữ thì hãy nhìn vào lòng khoan dung của Thiên Chúa, chạy đến với
Ngài để được Thánh Thần Ngài an ủi, biến đổi như Giakêô trong bài Phúc Âm hôm
nay.
Gặp Chúa để được biến
đổi
Giakêô - một người tội
lỗi công khai. Ông là thủ lãnh những người thu thuế, thủ lãnh của những kẻ
“cõng rắn cắn gà nhà”, chỉ làm lợi cho đế quốc Rôma mà gây hại cho dân cho
nước.
Ông là người thấp bé
nhưng ông chẳng mảy may lo lắng, vì ông sang giàu và có địa vị. Ông đã “quên”
lớn lên trong lòng mọi người, và cũng “quên” lớn lên trước mặt Thiên Chúa. Cuộc
sống của ông đang đẩy ông rời xa Nước Thiên Chúa.
Cho đến một ngày, cuộc
gặp gỡ Chúa Giêsu đã biến đổi cuộc đời ông. Cuộc gặp gỡ xuất phát từ cái nhìn
và tiếng gọi của Chúa Giêsu, đồng thời cũng là thành quả của sự nỗ lực vươn lên
từ chính Giakêô. Sáng kiến của Thiên Chúa gặp gỡ thái độ thành tâm thiện chí
của con người đã đem đến cho con người một sự biến đổi. Cuộc gặp gỡ phát sinh
ơn cứu độ!
Hoán cải nhằm thực thi
công bằng - bác ái
Giakêô đã trở lại!
Niềm vui đã đến với ông, với gia đình ông. Chúa đến viếng thăm nhà ông thì cuộc
sống của ông ngày mai hẳn sẽ phải khác với nếp sống hôm nay. Ông đã lớn tiếng
tuyên bố rằng từ nay ông sẽ sống đời sống mới và sẽ sửa chữa những lỗi lầm của
mình. Ông vui vẻ từ bỏ sản nghiệp, sẵn sàng từ bỏ tất cả để ông được lớn lên
trong Chúa.
Ơn hoán cải mà Chúa
ban cho mỗi người không chỉ dừng lại ở lời cầu nguyện và lòng sám hối, nhưng
còn nhằm thực thi công bằng bác ái, từ bỏ của cải theo tinh thần Phúc Âm.
Giakêô có thể còn nhiều của cải sau cuộc biến đổi, nhưng là một người giàu có
với tinh thần nghèo khó, sẵn sàng cho đi nếu Chúa cần.
Ngày nay, Chúa Giêsu
vẫn đứng trước cửa ngõ tấm lòng chúng ta. Ngài mời gọi chúng ta mở rộng cửa
lòng để Ngài ngự vào. Còn thái độ của chúng ta thì sao? Đón tiếp với thái độ
của đám đông hay của Giakêô? Thờ ơ, lạnh nhạt hay thành tâm, thiện chí? Hãy
nhìn vào những bất công, những cảnh đời bất hạnh của tha nhân, rồi nhìn lại
thái độ của chúng ta trước những nghịch cảnh như thế, chúng ta sẽ biết mình đón
tiếp Chúa thế nào. Chúa đến với ta không như một ông vua uy quyền, mà trong
hình hài của những người đói khát, bệnh tật, buồn phiền, ngu dốt... Chúa Giêsu
là chính tha nhân và “những gì các con làm cho họ là các con làm cho ta”
(Mt25,40).
Ước mong mỗi người
chúng ta như Giakêô, luôn sẵn sàng đón tiếp Chúa trong từng giây phút cuộc đời.
“Lạy Chúa, đây là nhà của Chúa, xin hãy ngự đến”.
“Hôm nay nhà nầy được
ơn cứu độ.”
Toàn bộ sách Tin Mừng
được viết ra tập trung vào một chủ đề: Đức Kitô là Đấng cứu độ trần gian. Đó là
quan niệm của các môn đồ tiên khởi về thân thế và sự nghiệp của Ngài.
Trên thực tế, Ngài đã
cứu họ. Ngài rất hiểu sứ mạng cứu thế của Ngài. Ngài nói: “Con Người đến trong
thế gian để tìm cứu những gì đã hư mất” (Lc 19:10)
Điều đáng tiếc là
trong Giáo hội, đề tài này chỉ mặc được một ý nghĩa rất giới hạn. Gần như chỉ
giới hạn vào những gì sẽ xảy đến cho chúng ta sau khi chết mà thôi. Được cứu
rỗi có nghĩa là đời sau, tại bên kia thế giới, chúng ta được vào thiên đàng,
sống bên cạnh Chúa muôn đời.
Điều này thật sự thì
rất dễ hiểu. Một ngày nào đó chúng ta sẽ chết. Thiên đàng là nơi cực lạc, thoát
ra ngoài những truân chuyên buồn khổ của trần gian. Dĩ nhiên, ai trong chúng ta
cũng ước được vào thiên đàng.
Nhưng đây không phải
là điều mà sách Phúc âm nhấn mạnh trước hết trong công cuộc cứu độ trần gian
của Đức Kitô. Trong Phúc ân, các thánh sử đã trình bày Ngài như một vị Tôn sư
giúp con người ta đối phó với những thử thách của cuộc đời, giải thoát con
người ngay trên dương thế.
Bài Phúc âm hôm nay là
một ví dụ điển hình. Đức Giêsu đến thăm nhà một ông trưởng thuế vụ. Chúng ta
biết câu chuyện đã bắt đầu như thế nào, và đã kết thúc làm sao. Nhưng giữa đó
những gì đã xảy ra? Chúng ta không được biết rõ. Đầu hết, Đức Giêsu trên đường
đi ngang qua thành Yêricô, nhìn thấy trên cây sung một người thấp bé. Ngài liền
nói:
“Hỡi Giakêu, hãy xuống
mau. Hôm nay Ta phải lưu lại nhà ngươi.”
Kết thúc là ông Giakêu
hứa cùng Chúa sẽ lấy nửa phần của cải to lớn của ông bố thí cho người nghèo. Sẽ
đền bù gấp bốn cho những người ông đã gian lận. Gian lận ai 100, ông sẽ bù lại
cho 400. Chúng ta có thể đoán được sự Chúa viếng thăm ông đã làm cho ông được
vui mừng hạnh phúc như thế nào, đã đổi mới đời ông, giải thoát ông như thế nào.
Và Đức Kitô đã tỏ mình
là đấng cứu độ loài người ngay trên trần gian nầy như thế nào.
Đây lời Ngài phán
trong cuộc tiếp xúc với ông Giakêu:
“Hôm nay đây, nhà này
được ơn cứu độ.”
Lời Chúa vừa nói có
nghĩa gì? Chúng ta có thể nghĩ rằng hôm nay ông Giakêu đang được ở trên thiên
đàng?
Nhưng đó không phải là
điều mà bài Phúc âm muốn nhắm. Chúa đang nói về kinh nghiệm cứu độ xảy đến ngay
ngày hôm đó tại nhà ông Giakêu. Ông đã được cứu độ cách rất thiệt thực trong
đời sống hằng ngày của ông tại thành Yêricô.
Nhìn vào bối cảnh của
đời ông, chúng ta có thể hiểu được phần nào Đức Kitô đã cứu giúp ông như thế
nào. Phúc Âm nói: “Ông là một trưởng ty thuế vụ vùng Yêricô, tức là người cầm
đầu các nhân viên thu thuế. Điều nầy làm cho ông Giakêu trở thành một người bị
đồng hương ghét bỏ hoàn toàn. Người thu thuế là hạng người đáng ghét nhứt, đáng
khinh bỉ nhất trong dân Israel thời bấy giờ.
Người thu thuế trong
Phúc âm với người có tội cũng là một. Họ có tội thứ nhất, là tội phản quốc.
Cộng tác với kẻ thù là dân cai trị Rôma, để thâu tiền về cho đế quốc. Họ có tội
thứ hai là tội lỗi phép công bằng. Họ thâu đa mà nộp thiểu. Họ thâu mười mà
không biết có nộp cho chính phủ được bốn năm hay không? Họ được chính phủ cho
phép tha hồ làm giàu trên dân chúng.
Người thu thuế quả là
người có tội. Mà ông Giakêu không những là người thu thuế, mà còn là cầm đầu
các người thu thuế. Với cương vị trưởng ty thuế vụ, ông còn bốc lột hơn các
đồng nghiệp. Người thu thuế đã đáng ghét rồi, ông trưởng ty phải đáng ghét gấp
bội. Không ai muốn nói chuyện với ông. Trên đường phố, ai cũng xa lánh ông. Ông
bị cấm tham dự các buổi lễ nghi tôn giáo.
Sự khinh khi ghét bỏ
của xã hội chung quanh đó hẳn gây ảnh hưởng tai hại lớn lao cho tính tình ông,
cho đời sống hằng ngày của ông. Ông chỉ là cái đích cho thiên hạ phỉ nhổ.
Tôi sẽ không thể có
được một chút tự tin hay hãnh diện nào về bản thân tôi, nếu không có một người
nào khác giúp tôi có đuợc sự tự tín hay hãnh diện về tôi.
Đức Giêsu chính là
người khác đó của ông Giakêu. Trong khi những người đồng hương xa lánh ông, coi
ông như phẩn thổ, thì Đức Kitô nhận biết ông, gọi ông đích danh: “Hỡi Za khê”.
Trong khi những người khác khinh thị ông, thì Đức Kitô kính nể ông. Ngài không
sợ người chung quanh thấy Ngài chuyện vãn với ông. Hơn nữa, Ngài muốn lưu lại
nhà ông hôm đó, dường như là bạn cố tri của ông Giakêu vậy.
Sự Đức Kitô chấp nhận
ông là khởi điểm ơn cứu độ của ông. Ngài cho ông chỗ đứng trong đời sống mới.
Người chung quanh chỉ
thấy ông là một người tham lam bất lương. Và hình như ông Giakêu cũng mặc nhận
như vậy. Nhưng Đức Kitô nhìn thấy trong ông những đức tính tiềm tàng có thể làm
ông trở nên một ngưới lương thiện.
Thái độ của Đức Kitô
đối với ông đã làm cho những đức tính tiềm tàng kia hiện ra và đáp ứng với
những thách đố của một đời sống cao thượng.
Trước đây ông vốn tham
lam, bất lương. Nhưng hôm nay ông đã đổi đời, không đi theo con đường cũ nữa.
Lòng quảng đại của ông đã bị chôn vùi trong bao nhiêu năm, hôm nay, với sự hiện
diện của Đức Kitô, lòng quảng đại đó đã bộc phát một cách thật rõ ràng.
“Tôi xin bố thí nữa
phần của cải tôi cho người nghèo. Nếu xưa nay tôi có làm thiệt hại ai, tôi xin
bù lại gấp bốn.”
Quả là một sự lạ lùng.
Rất lạ lùng: “Hôm nay đây nhà nầy được ơn cứu độ.”
Hôm nay đây ông Giakêu
đã trở nên người hiền lương, một người bạn dân. Ông sẽ được các đồng hương kính
nể, yêu vì. Khi cần, họ sẽ cầu bàu cùng Đức Giêsu cho ông như họ đã cầu bàu
cùng Ngài cho viên sĩ quan Rôma rằng: “Ông nầy đáng được Ngài giúp đỡ, vì ông
quí mến dân ta.” (Lc 7:5). Phải: “Hôm nay đây, chính hôm nay đây, nhà nầy được
ơn cứu độ.”
Phương pháp Đức Kitô
dùng để cứu đời là giúp người ta khai thác những khả năng tiềm tàng của mình:
Ngài nhìn họ như người điêu khắc nhìn thấy một pho tượng tốt đẹp trong khối đá
cẩm thạch sù sì. Ngài giúp họ khai thác các đức tính của họ như thầy giáo giúp
học trò khai thác các tài năng của mình. Lòng ưu ái của Ngài đã làm cho những
đức tính vốn tiềm tàng của họ được hiện ra sống động.
Một người khác tên
Simon, vốn rất yếu đuối và nhu nhược, đến nỗi run sợ trước một cô sen, chối bỏ
Thầy đến những ba lần. Thế mà lòng ưu ái của Ngài đã biến đổi con người yếu
đuối dễ thất trung thất tín ấy thành Phêrô, hòn đá tảng của Giáo hội. Ông được
cứu độ hoàn toàn trong đêm thứ Sáu Tuần thánh.
Một người khác nữa tên
Saolô, thuộc nhóm biệt phái, cuồng tín, hung hăng dữ tợn, bắt bớ đạo Chúa không
ai bằng. Thế mà Ngài đã cảm hóa được. Và Saolô đã trở thành Phaolô, vị tông đồ
thượng thặng của các dân ngoại. Phaolô đã được cứu độ hoàn toàn trên đường Damas.
Đối với chúng ta hôm
nay thì sao? Chúng ta có thể quả quyết rằng tất cả những gì là tốt lành, là
lương thiện trong chúng ta, một phần lớn là do nơi lòng tin tưởng một cách nào
đó, một lúc nào đó, của một người nào đó đối với chúng ta.
Cũng như sự nghi ngờ,
khinh khi của người khác đối với tôi sẽ làm cho mất tinh thần, bế tắc, bại
hoại, xuống giốc, thì lòng tin tưởng, ưu ái của người khác đối với tôi, là một
động lực thúc đẩy tôi trở thành người tốt, hầu đáp lại lòng tin tưởng và ưu ái
của họ.
Đức Kitô đã tin tưởng
vào ông Giakêu. Ngài giúp ông tìm ra thế giá của mình.
Rồi Ngài đi một bước
xa hơn. Ngài đã giúp ông ý thức được trách nhiệm đối với người khác. “Tôi sẽ
chia sẻ nửa phần của cải tôi cho người nghèo. Nếu tôi đã làm thiệt hại ai, tôi
sẽ đền bù cho họ gấp bốn.”
Trau dồi các nhân đức
nơi bản thân và lưu tâm giúp đỡ kẻ khác, là như đôi ngựa song phi. Hai điều
kiện hình thành ơn cứu độ. Người chỉ lo cứu linh hồn mình, mà không quan tâm gì
đến việc giúp đỡ kẻ khác, người đó tự lừa dối mình.
Một buổi sáng bêm bờ
hồ Galilê, Đức Giêsu hỏi Simon Phêrô:
- Con có yêu mến Thầy
không?
Phêrô trả lời:
- Lạy Thầy, Thầy biết
con yêu mến Thầy.
Không đợi cho Phêrô
nói gì thêm, Đức Giêsu tiếp liền:
- Hãy chăn dắt các con
chiên Ta. (Yo 21:16)
Cứu độ là một danh từ
vĩ đại trong tất cả các ngôn ngữ của thế giới. Toàn bộ sách Phúc âm được cấu
tạo chung quanh hai tiếng cứu độ. Một ơn cứu độ torng đời sống thường ngày ngay
trên trần gian. Nhưng ơn Cứu độ bao giờ cũng có hai chiều song song. Chúa cứu
độ tôi. Và đến lượt tôi, tôi phải thực hành ơn cứu độ đó nơi kẻ khác, bằng cách
bớt thời giờ, bớt sức lực, bớt tài năng, bớt của cải, để phục vụ Chúa nơi kẻ
khác. Chỉ có lúc bấy giờ, lời Chúa phán hôm nay mới được đầy đủ thể hiện nơi
tôi:
“Hôm nay đây, nhà nầy
được ơn cứu độ.”
Tục ngữ Việt Nam có
câu: “Nhất lé nhì lùn”. Đó là hai hạng người mà dân gian có thành kiến rằng
“chẳng ra gì”. Nhưng không riêng gì Việt Nam mà có lẽ nhiều nước trên thế giới
như Do Thái cũng không coi trọng hạng người thiếu thước này.
Phúc Âm hôm nay thuật
lại một câu chuyện ngộ nghĩnh của một “chú lùn” lọt mắt xanh Chúa Giêsu đó là
ông Giakêu, một người vừa lùn lại vừa làm nghề thu thuế là nghề được coi là bất
chính dưới cái nhìn của dân Do thái.
Nhận biết thân phận
lùn của mình, nên Giakêu đã làm một công việc có vẻ “ấu trĩ”, đó là trèo lên
một cây cao để có thể nhìn thấy Đức Chúa Giêsu đi ngang qua, vì dân chúng đông
đúc. Ông giật mình hoảng sợ vì không ngờ Đức Chúa Giêsu đã ngước nhì lên và gọi
đích danh cùng ngỏ ý muốn trọ tại nhà ông. Ông vội vàng tụt xuống khỏi cành
cây, lòng tràn ngập vui mừng đón rước Chúa vào nhà và khoản đãi trịnh trọng.
Trước mặt Chúa Cứu
Thế, ông đã tà quy chính và hứa sẽ bồi thường thiệt hại gấp bội cho những ai mà
mình đã làm thiệt hại. Đáp lại Chúa Giêsu đã tuyên phúc: “Hôm nay nhà được ơn
cứu độ... Con Người đến để tìm kiếm và cứu chuộc những gì đã mất”. Vì lòng chân
thành mà ông Giakêu đã được tha thứ vá chúc phúc, còn gì hạnh phúc hơn.
“Thiên Chúa là Đấng từ
bi và nhân hậu: Người đại lượng và chan chứa tình thương, Người không nỡ với ta
như ta đáng tội và không trả cho ta theo lỗi của ta.” (Tv 102:8.10).
Sách khôn ngoan nói
bài đọc thứ nhất đã nói đến phẩm tính nầy của Thiên Chúa. Trong Phúc âm, đã
nhiều lần Đức Chúa Giêsu dùng hình ảnh dụ ngôn để diễn tả tình yêu của Thiên
Chúa và sứ mạng của Ngài như: Người cha và đứa con hoang đàng, người mục tử đi
tìm con chiên lạc, bà goá tìm một đồng bạc bị mất v..v..
Dĩ nhiên Thiên Chúa
yêu thích những người thánh thiện công chính, nhưng cũng không bỏ rơi những kẻ
lầm đường lạc lối. Chúng ta hãy cố gắng sống đạo đức thánh thiện nhưng đừng ngã
lòng khi sa chân lỡ bước vì “Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu.”
Đi hành hương Đất
Thánh, ai cũng muốn đến Giêricô thăm “Cây sung Giakêu” và thưởng thức trái chà
là. “Cây sung Giakêu” to lớn khoảng hai người ôm. Cây sung này được trồng lại
cách đây hơn 700 năm. Tôi đi dịp tháng 4 nên sung nhiều trái. Các bà thích lắm,
hái ăn và tin rằng trái từ “cây sung Giakêu” chữa lành mọi thứ bệnh.
Giêricô trở nên nổi
tiếng với câu chuyện ông Giakêu trèo lên cây sung để nhìn cho được Chúa Giêsu
đi ngang qua.
Giêricô chính là miến
Đất Hứa, khi xưa Môsê từ trên núi Nebô đã được nhìn thấy. Sách Giosuê chương 6
kể lại cuốn đánh chiếm thành Giêricô.
Giêricô là một thành
rất giàu có và quan trọng, nằm trong vùng thung lũng sông Giođan, là giao điểm
của đường lên Giêrusalem và các lối qua sông Giođan để tỏa về các vùng đất phía
sông Giođan.
Giêricô có một rừng
chà là rất lớn, những vườn cây thuốc thơm nổi tiếng quốc tế, cách xa mấy dặm
vẫn ngửi thấy mùi thuốc thơm. Các vườn hoa hồng ở đó cũng rất nổi tiếng. Người
ta gọi Giêricô là “thành cây chà là”. Sử gia Do thái Josephus gọi là “Khu đất
thần tiên, khu đất màu mỡ nhất của Phalettin”. Người La mã chở trái chà là và
dầu thơm từ đó đi bán khắp nơi trên thế giới.
Chúa Giêsu đi qua
Giêricô, tiến về Giêrusalem với đoàn người hành hương đông đảo, chuẩn bị bước
vào khổ nạn. Ông Giakêu leo lên cây sung để nhìn cho được Chúa sắp đi ngang
qua. Chúa nhìn lên cây sung thấy Giakêu. Chúa nhìn ông bằng ánh mắt yêu
thương.Trái tim Giakêu bừng lên ngọn lửa yêu thương. Ông đáp lại tình thương
của Chúa và thể hiện bằng việc đền bù thiệt hại, chia sẻ chân thành cho tha
nhân. Tình thương của Chúa đã cảm hóa Giakêu và biến đổi cuộc đời ông.
1. Tình thương biến
đổi.
Giakêu là một người
thu thuế và là một người giàu có. Ông đã từng nghe biết Chúa Giêsu đã chọn ông
Lêvi, một nhân viên ngành thuế như ông làm môn đệ (Mt 9,9). Nay ông rất muốn có
dịp nhìn thấy con người kỳ lạ này.
Lần kia, biết Người
sắp đi ngang Giêricô quê hương ông, Giakêu ra xem, nhưng vì dân chúng quá đông
mà ông lại lùn, nên ông leo lên một cây sung để nhìn cho rõ. Đường đường một
người "đứng đầu những người thu thuế", một công chức có địa vị, nhưng
ông vẫn không sợ mất mặt, vẫn trèo lên cây cao.
Chúa ngước mắt lên cây
sung, ánh mắt Chúa và ánh mắt Giakêu gặp nhau. Ánh mắt Giakêu bộc bạch tất cả
tấm lòng và cuộc đời của mình: một người thu thuế, một người bị vạ tuyệt thông
cách ly, một tâm hồn khát khao muốn gặp Chúa, một con chiên lạc đang tìm lối
về. Lòng Chúa xao xuyến, thương mến vô vàn, một tâm hồn mà Chúa đang muốn tìm
về đây. Chúa nói: "Hỡi Giakêu hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại
tại nhà ông". Giakêu cười sung sướng, nhảy xuống đất, chạy mau về nhà, làm
tiệc tiếp đãi khách quý. Và đó phải là một bữa tiệc linh đình, có đông bạn bè
trong ngành thuế tham dự, giống như ông Lêvi đã làm trước kia (x. Lc 5,29).
Không phải bốc đồng,
nhưng từ đáy lòng Giakêu cuộn lên một niềm sám hối mãnh liệt khiến ông cất
tiếng thưa với Chúa: "Thưa Ngài, này đây phần nửa tài sản tôi, tôi cho
người nghèo; và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn".
Ông Giakêu tự buộc mình làm một việc đền bù rộng rãi phi thường, vượt xa mức
đòi hỏi của luật lệ. Điều ấy chứng tỏ ông đã thật lòng hoán cải và hơn nữa ông
biết mình đã được tha thứ và cứu độ. Chính Chúa Giêsu xác nhận như thế khi
Ngưới phán: "Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này".
Trước đây Giakêu chỉ
nghĩ đến tiền và sống ích kỷ cho riêng mình, không nghĩ đến người khác.Trước
đây Giakêu vốn tham lam, bất lương, lòng quảng đại bị chôn vùi qua bao năm
tháng. Hôm nay, gặp được Chúa Giêsu, ông đã biết sống trao ban cho người khác,
quan tâm đến người nghèo, sống công bằng với mọi người. Lòng quảng đại đó được
bộc phát cách rõ ràng: "Tôi xin bố thí phần nữa của cải của tôi cho người
nghèo, và nếu tôi có gian lận gì của ai, tôi xin đền lại gấp bốn". Quả là
mùa xuân về trong tâm hồn Giakêu. Ngập tràn ánh nắng. Ngây ngất niềm vui. Bình
minh Ơn Cứu Độ chan hoà lòng trí ông, gia đình ông.
1. Tình thương hoán
cải.
Trong sách (Lv 5,
20-26; Xh 21, 37; Ds 5, 6) đều nói đến khoản luật phải trả lại, đền bù cho
người nghèo, cho kẻ bị thiệt hại một số của cải. Đó là luật trong Cựu Ước.
Giakêu trình bày ngay vấn đề, điều đó cho thấy có lẽ ông đã nghiên cứu Thánh
Kinh, biết được các luật lệ đó. Tiếng lòng hồi sinh và như vậy ông đã có thao
thức thầm kín, có băn khoăn và chờ đợi. Trong cuộc sống dư giả vật chất, bân
rộn với công việc làm ăn, ông vẫn thấy lòng trĩu nặng ưu tư, để rồi hôm nay có
cơ hội ông tìm kiếm Chúa mong làm lại cuộc đời mới.
Thánh Luca đã nói rõ:
ông là thủ lãnh của những người thu thuế. Giêricô bấy giờ là hải cảng, thu thuế
nơi xuất nhập cảng phồn thịnh phải là một tay có thế lực. Trong nghề nghiệp đó,
bạn bè của ông phải là những người thu thuế, các sĩ quan Rôma. Vậy tại sao ông
lại vất vả chen lấn với đám đông để mong gặp một người tên là Giêsu, kẻ hoàn
toàn khác địa vị xã hội với ông? Là người giàu có, sang trọng, tại sao ông bỏ cả
thể hiện sẵn sàng trèo lên cây sung như một đứa trẻ để nhìn cho được Chúa Giêsu
đi qua? Hơn nữa, vốn bị dân chúng thù ghét, ông có thể bị nguy hiểm tính mạng
khi đối diện với quần chúng giữa đám đông. Như thế ông phải liều, và bỏ ngoài
tai mọi phê bình.
Động lực nào thúc đẩy
ông đi tìm Chúa Giêsu? Chắc chắn không phải vì sự tò mò, nhưng có lẽ nhờ lời
Thánh Kinh đánh động.Tâm hồn mong hoán cải đã thúc bách ông lên đường tìm Chúa
! Hoán cải là kết quả của một cảm nhận về tình yêu, một ưu tư thao thức tìm kiếm.
Hoán cải là từ bỏ. Bất cứ cuộc trở lại nào, dù lớn dù nhỏ, cũng đòi phải từ bỏ.
Hoán cải bởi tình thương bao giờ cũng có kết quả tốt. Giakêu tích cực đi tìm
Chúa: "Ông chạy tới phía trước, leo lên một cây sung". Khi nghe tiếng
Chúa gọi, ông đã nhanh chóng và vui mừng đáp lại: "Ông vội vàng tụt
xuống". Ông còn "vui mừng đón rước Ngài về nhà". Ông nhìn nhận
tội lỗi của mình.Ông đền bù những thiệt hại mình gây cho kẻ khác. Ông còn lấy
tài sản bố thí cho người nghèo. Hoán cải là một hành trình: từ bỏ những tội
lỗi, quảng đại đáp lại tiếng Chúa và canh tân đời sống. Giakêu hoán cải đem lại
niềm vui cho chính ông và hai nhóm người, đó là nhóm nghèo được ông san sẻ cho
phân nửa tài sản, nhóm bị oan ức (nếu có) được giải oan và nhận huê lợi hơn bốn
lần thiệt hại. Việc hoán cải của một người mang lại niềm vui cho nhiều người.
Giakêu lùn về thể lý
nhưng tâm hồn không thấp chút nào. Giá trị một người hệ tại nơi tâm hồn. Gía
trị của một việc làm ở nơi lòng mến. Đối với Chúa Giêsu, giờ đây, Giakêu, đã
trở nên cao thượng nhờ ông biết hoán cải và sống có tình người. Chiều cao thân
xác Giakêu vẫn thấp nhưng chiều cao tâm hồn bây giờ ngất cao nhờ tình thương
chiếu rọi.
2. Tình thương cảm
hóa.
Chúa Giêsu là bậc Thầy
cảm hoá lòng người. Tôn trọng, yêu thương có sức cảm hoá đến kỳ diệu. Ánh mắt,
lời nói và thái độ của Chúa Giêsu đem mùa xuân về cho tâm hồn Giakêu. Những gì
xưa nay trói buộc ông, làm cho ông say mê kiếm tìm giờ trở nên vô vị. Giakêu
trở nên nghèo hơn trước, nhưng ông lại hạnh phúc hơn xưa nhiều lần. Thân xác ông
vẫn lùn như xưa, nhưng tâm hồn ông đã cao thượng hơn gấp bội. Từ một người đáng
khinh, Giakêu bỗng trở thành một người đáng khâm phục. Bởi lẽ, Ông đã gặp được
Chúa, được nhận lãnh Ơn Cứu Độ của người Mục Tử Nhân Lành đi tìm con chiên lạc.
Kho tàng văn học Thiền
có ghi lại câu chuyện sau đây. Thiền sư Sengai có một anh đệ tử hư hỏng, đêm
đêm thường leo tường trốn ra ngoài chơi đêm. Vị thiền sư biết được điều đó nên
vào đêm nọ, sau khi phát hiện người đệ tử vượt tường bằng cách leo lên một
chiếc ghế khá cao, vị thiền sư đi đến vị trí đặt ghế, nhắc chiếc ghế bỏ sang
bên rồi đứng vào chỗ đó.Trong đêm tối, người học trò leo tường trở vào, rồi
theo thói quen đặt chân lên ghế để nhảy xuống, không dè lại đặt chân lên lưng
thầy. Khi phát hiện thầy đứng ngay trước mặt, anh học trò hoảng sợ chờ đợi
những lời khiển trách nặng nề. Thế nhưng cuối cùng vị thầy chỉ nói mấy lời yêu
thương: “Áo con ướt đẫm sương đêm rồi! Mau vào thay áo ngay kẻo cảm lạnh!”. Thế
là từ đó, người học trò không bao giờ còn đi chơi đêm nữa.
Những lời trách móc,
lên án, những thái độ khinh bỉ hay loại trừ chỉ tạo nên nguy cơ làm cho những
con người tội lỗi lún sâu vào con đường lầm lạc.Nhưng chính thái độ tôn trọng
và tấm lòng yêu thương sẽ tạo nên sức cảm hoá diệu kỳ. Câu chuyện về ông Giakêu
cho thấy, thái độ lên án và tẩy chay thường chỉ khiến người có tội thu mình lại
và càng dễ dấn sâu hơn vào con đường sai trái của mình; chỉ có một thái độ tích
cực có thể giúp họ hồi tâm hoán cải, đó là cởi mở, cảm thông, kính trọng và tùy
hoàn cảnh mà nhắc nhở hay sửa dạy với đầy lòng yêu mến.
Giakêu rất cảm động
trước sự trân trọng và yêu thương của Chúa Giêsu.Giakêu quyết tâm trở về con
đường ngay chính, trước tiên bằng việc thực thi bác ái và công bằng. Cung cách
đối xử chan chứa tình người mới là yếu tố chính yếu đem lại thành công trong
công việc tông đồ. Đó là nghệ thuật cảm hoá lòng người mà Chúa Giêsu đã sử dụng
để làm nên phép lạ nơi con người Giakêu.
Lạy Chúa Giêsu, tình
thương của Chúa đã làm nên bao điều kỳ diệu. Xin dạy chúng con nhìn tha nhân
bằng ánh mắt của Chúa, sống với người khác bằng tình thương, hy vọng vào lòng
tốt của mỗi người và tin tưởng vào sự quảng đại của họ, nhờ đó thế giới của
chúng con trở nên nhân bản hơn và thần linh hơn. Amen.
Câu chuyện ông Giakêu
là một minh họa cụ thể những khẳng định của sách Khôn Ngoan: “Chúa xót thương
mọi người và tạo điều kiện cho họ ăn năn hối cải”.
Giakêu là một người
đứng đầu những người thu thuế, ông rất giầu. Ông muốn tìm cách để biết xem Đức
Giêsu là người thế nào. Thiện chí của ông đã được đáp ứng: Đức Giêsu hứa sẽ đến
nhà thăm ông. Việc này đã làm cho nhiều người khó chịu, họ xầm xì với nhau:
“Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ”!
Được Chúa thương vào
nhà thăm, ông rất phấn khởi và tỏ ra quảng đại, ông đã tự nguyện hứa với Chúa:
lấy nửa tài sản mà phân phát cho người nghèo và nếu làm hại đến ai thì xin đền
gấp bốn.
Đức Giêsu đã chấp nhận
lòng quảng đại của ông và đã tuyên bố: “Hôm nay, nhà này được ơn cứu độ”. Lời
tuyên bố này phù hợp với lời Ngài đã phán: “Con Người đến để tìm và cứu những
gì đã mất”. Nhờ Đức Kitô, ông Giakêu không những đã được giải hòa cùng Thiên
Chúa mà còn được làm hòa cùng anh em đồng loại nữa.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Xanh vỏ đỏ lòng.
I. ĐỨC GIÊSU KÊU GỌI
ÔNG GIAKÊU.
Bài Tin mừng hôm nay nhằm
nói lên sứ mạng của Đức Giêsu là “tìm và cứu chữa những gì đã hư mất”. Ông
Giakêu đã là người được cứu chữa. Ông là thủ lãnh những người thu thuế ở
Giêricô, nhờ gặp được Đức Giêsu nên đã được ơn hoán cải. Do thành tâm đi tìm
biết Đức Giêsu, nên ông đã được gặp và còn được Ngài đến thăm nhà mình nữa.
Trước tình thương của Đức Giêsu, ông đã tỏ ra quảng đại, chia nửa phần tài sản
cho kẻ khó và đền bù gấp bốn những ai ông đã làm hại. Vì thế Đức Giêsu đã tuyên
bố: “Hôm này, nhà này được ơn cứu độ”.
1. Hoàn cảnh
Giêricô có biệt danh
thật thơ mộng và đẹp đẽ là “Moon city”: thành phố Nguyệt Nga, một thành phố
quan trọng ở phía Bắc của Biển chết, ở cách Giêrusalem 37 km, thấp hơn mặt biển
256 mét. Giêricô là thành phố cuối cùng trong cuộc hành trình của những người
hành hương lên Giêrusalem.
Trên con đường dẫn vào
thành phố Giêricô có hai hàng cây đổ bóng mát. Loại cây thường được trồng có
tên là sycamore – cây sung. Sung là một loại cây kết hợp hình thù của cây vả và
cây dâu, với những cành to lớn không cách xa khỏi mặt đất, rất dễ trèo lên, dù
người thấp bé và lùn như Giakêu.
“Đức Giêsu đi ngang
qua thành phố ấy” để đi lên Giêrusalem và đây là giai đoạn cuối cùng của cuộc
hành trình. Ngài lên Giêrusalem và chịu tử nạn ở đó. Trong cuộc hành trình này,
tình cờ Ngài đã gặp ông Giakêu.
2. Con người ông
Giakêu.
Ông là người Do thái,
tên Giakêu tiếng Do thái là “Zakkay” có nghĩa là “người thanh khiết – người
công chính”. Phải chăng là một sự hài hước, hoặc chế diễu? Ông không thanh
khiết tí nào vì lòng ham mê tiền bạc, tham nhũng, hối lộ, và hà hiếp dân lành?
Nhưng chúng ta hãy chờ
cho câu chuyện chấm dứt.
Giakêu là trưởng ty
thuế vụ giầu có ở Giêricô. Thu thuế là một nghề bị người Do thái khinh chê,
ghét bỏ. Ngay cả những người Rôma cũng không muốn làm nghề này, nên họ mướn
những người Do thái làm. Kẻ làm nghề thu thuế bị coi là người phản bội lại dân
tộc, chạy theo đế quốc Rôma. Họ bóc lột tiền bạc của dân chúng càng nhiều càng
tốt để chính họ có thể tránh né khỏi phải trả thuế.
Giakêu, một con người
bị tránh xa như dịch. Kẻ tội lỗi hoàn toàn bị hư mất. Đồ thối tha. Cấm không
được giao du với con người hư hỏng ấy. Người ta nhổ xuống đất và quay mặt đi
khi đi ngang qua con người ấy.
Ta thử tưởng tượng
điều gì có thể thúc đẩy Giakêu bất chấp sự chế diễu, đã xắn chiếc áo thụng của
một ông trưởng giả Do thái và có lẽ cái áo choàng La mã để leo lên cây sung như
một thằng nhóc tầm thường. Vì tính tò mò chăng? Vì sự lôi cuốn mầu nhiệm chăng?
Vì nỗi khắc khoải mơ hồ và chán chường cuộc sống của mình chăng? Phải nói rằng
đây là cử chỉ nói lên lòng khao khát của Giakêu muốn nhìn thấy Đức Giêsu tận
mắt, chứ không chỉ nghe thấy tiếng vang của Ngài đối với người bình thường. Cử
chỉ này không có gì đáng nói, nhưng đối với Giakêu, một người thu thuế tội lỗi
bị người ta khinh bỉ và sống cách biệt, mà lại có lòng khao khát như vậy thì
quả là một người có thiện chí và lòng ngay.
3. Đức Giêsu gọi tên
ông.
Đứng trên cây sung,
Giakêu đang trố mắt nhìn xuống Đức Giêsu, nhưng đồng thời Đức Giêsu cũng trố
mắt nhìn lên Giakêu. Bốn con mắt nhìn nhau thật thắm tình. Đức Giêsu lên tiếng
gọi: “Hỡi Giakêu hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi”. Một
lời kêu gọi bất ngờ đối với Giakêu vì Ngài gọi tên riêng ông, nhưng đối với
Chúa thì không. Ta nhận thấy Đức Giêsu biết rõ con người của ông, chứ không
phải là một cuộc gặp gỡ tình cờ, ngẫu nhiên, Chúa đã gọi đúng tên ông như đã
quen biết ông từ lâu rồi. Chúa tỏ ý muốn vào nhà thăm và ở lại với ông như
người bạn thân.
Nghe được lời mời gọi
này, Giakêu quá sung sướng nên vội vã tụt xuống. Vì quá lòng mong ước, nên
Giakêu cũng có một lòng hiếu khách, một đức tính sẵn có trong dòng máu Do thái,
ông đã mời Đức Giêsu vào nhà và tiếp đãi rất ân cần.
Việc Đức Giêsu vào nhà
ông Giakêu ăn tiệc, lại còn muốn trọ tại nhà ông mấy bữa làm cho mấy người biệt
phái ưa chỉ trích rất bất mãn; vì theo quan niệm của người Do thái, việc giao
thiệp với người tội lỗi đưa đến sự dơ bẩn (Lc 5,30; 7,34; 15,2). Việc lẩm bẩm
chỉ trích như vậy tỏ thái độ khắt khe của con người đối với tội nhân, nhưng cử
chỉ đón nhận của Đức Giêsu đối với tấm lòng ngay và thiện chí của Giakêu lại là
thái độ đầy tình thương và cứu độ của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Thấy thái độ thành
thực của Giakêu, Đức Giêsu đã tuyên bố: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi
người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”. Giakêu trở thành kiểu mẫu đón nhận
ơn cứu độ và là cơ hội để Đức Giêsu khẳng định sứ mạng của Ngài: “Con Người đến
đi tìm và cứu những gì đã hư mất”. Giakêu là con cái Abraham, nhưng đối với
Giakêu, người Do thái cho là tội lỗi, không thuộc về dòng dõi Abraham nữa, thì
nay nhờ ơn cứu độ lại là con cái Abraham một cách đúng nghĩa: Con cái Abraham
không phải theo xác thịt nhưng là người được Thiên Chúa cứu độ.
II. CON NGƯỜI ĐƯỢC ĐỔI
MỚI.
1. Tiếng gọi của Thiên
Chúa.
Người ta nói: “Con mắt
là cửa sổ của tâm hồn”. Câu nói văn hoa và thâm thúy này chắc hẳn bắt nguồn từ
Lời Đức Kitô: “Đèn của thân thể là con mắt…” (Mt 6,22t; Lc 11,34t). Hiểu được
ánh mắt của một người quả là không mấy dễ dàng (có chăng là ánh mắt tuổi thơ).
Vì ánh mắt của một người là biểu lộ của chính tâm hồn người đó… Mà mấy ai trong
chúng ta dám cho rằng mình hiểu được tâm hồn ai? Dĩ nhiên là tùy vào cách xử sự
và hành động… Như qua bài Tin mừng Chúa nhật hôm nay, trong khi những người
biệt phái chỉ nhìn các người thu thuế (như Giakêu) bằng cái nhìn khinh thị kết
án – Thì Đức Kitô, với cái nhìn tuyệt vời không những đã làm đổi mới cuộc đời
ông và gia đình, mà còn bao điều tốt đẹp cho những người từng bị điêu đứng vì
Giakêu. Cao qúi biết bao chỉ một cái nhìn…
Cái nhìn của Đức Giêsu
là cái nhìn chinh phục, cái nhìn của tình thương muốn cứu vớt, một cái nhìn có
sức cảm hóa tâm hồn, một cái nhìn nhân từ, như không thấy tội gì trong ông.
Chính cái nhìn đầu tiên chân tình và yêu thương ấy đã khiến ông nhìn lại chính
mình và quyết tâm đổi mới.
Thiên Chúa luôn luôn
đi bước trước, con người theo sau. Người ta có thể gọi cây sung là “nơi hai ánh
mắt gặp nhau”. Bề ngoài, cái nhìn đầu tiên là của Giakêu, đang cháy bỏng ước
muốn xem Đức Giêsu. Nhưng sẽ không có gì xẩy ra nếu Đức Giêsu không ngước mắt
nhìn lên Giakêu ở cây sung. Chúng ta tưởng rằng chúng ta tìm kiếm Chúa trong
khi mà chính Ngài tìm kiếm chúng ta trước, tự muôn đời.
2. Sự đáp trả của con
người.
Được đón nhận lòng
nhân hậu và thương xót của Đức Giêsu, Giakêu đã tỏ bầy một tâm trạng muốn hoán
cải đời sống bằng cách ông muốn thực hiện ngay việc bác ái và công bằng. Ông
quyết định đem nửa phần gia tài mình phân phát cho người nghèo, và nửa phần còn
lại ông cũng không định giữ riêng cho ông, song ông sẽ dùng để đền bù cho tất
cả những gian lận mà ông tự thú đã phạm.
Trong việc đền trả này
ông lại còn đi xa hơn điều luật pháp đòi hỏi. Chỉ khi nào trộm là một hành động
bạo lực và dụng tâm gây tàn hại, bấy giờ mới phải đền bù gấp bốn (x. Xh 22,1).
Nếu chỉ là việc trộm cắp thường và nguyên vật không thể hoàn trả, thì phải tính
gấp đôi mà đền (x. Xh 22,4.7). Nếu bị can tự thú và tình nguyện hoàn trả thì
chỉ phải trả theo giá nguyên vật, cộng thêm một phần năm nữa thôi (x. Lv 6,5;
Ds 5,7). Giakêu nhất định làm nhiều hơn điều luật pháp đòi hỏi. Bằng hành động,
ông tỏ ra đã được biến cải.
Giakêu đã tỏ ra là con
người quảng đại sau khi đã hoán cải. Việc bố thí cho người nghèo sinh ích lợi
nhiều cho ông. Thánh Kinh đã làm chứng: “Bố thí thì cứu cho khỏi tội và khỏi
chết” (Tb 4,11).
Tiên tri Đaniel viết
theo: “Hãy chuộc tội con bằng bố thí, và bằng sự thương yêu kẻ khó nghèo” (Dn
4,24).
Nơi khác lại khen:
“Của bố thí bay lên như hương thơm trước mặt Chúa” (Cv 11,4).
Đức Giêsu hứa: “Hãy bố
thí, rồi mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các con”(Lc 11,41).
Khi ở thành Rages về,
sứ thần Raphael bảo cha con ông Tobia: “Nước mắt ông chảy ra cũng như của làm
phúc bố thí với những lần bỏ bữa ăn đi chôn xác kẻ chết, Ta đã thu lượm và dâng
lên trước mặt Thiên Chúa… bây giờ Ta về với Đấng đã sai Ta, ông hãy tạ ơn Thiên
Chúa” (Tb 12,12-13).
3. Khả năng đổi mới
của con người.
Sách Tam tự kinh có
viết: “Nhân chi sơ tính bản thiện, tính tương cận tập tương viễn”. Bản tính của
con người lúc đầu là tốt nhưng vì hoàn cảnh mà trở nên xấu. Đây là chủ trương
lạc quan của Mạnh Tử. Trái lại, Mặc Tử lại chủ trương: “Nhân chi sơ tính bản
ác”. Nếu bản tính con người vốn tốt mà vì hoàn cảnh mà trở nên xấu thì dễ sửa
hơn, còn nếu bản tính mà xấu rồi thì sẽ sửa làm sao?
Chúng ta phải khẳng
định rằng con người xấu có thể trở nên tốt được bởi vì bản tính vốn là tốt, và
nếu có ơn Chúa trợ giúp nữa thì sẽ dễ dàng. Chúng ta hãy lấy trường hợp ông
Giakêu ra làm điển hình. Người Do thái coi ông là một người tội lỗi, ô uế, phải
tránh xa, đã xấu thì cho xấu luôn, không thương tiếc.
Nhưng sau cuộc gặp gỡ
Đức Giêsu, Giakêu đã nhận thấy tình yêu và lòng thương xót của Chúa đối với
mình, ông nhận ra con người thật của ông: một con người xấu xa tội lỗi, đáng bị
nguyền rủa. Nhưng ông thấy rằng mình có thể sửa đổi được, có thể cải tà qui
chính, và ông thực sự đã hoán cải. Do đó, Đức Giêsu đã tuyên bố rằng: “Hôm nay
nhà này được ơn cứu độ”. Nhìn vào cuộc đời của Giakêu lúc này chúng ta phải lấy
câu tục ngữ Việt nam mà khen ông:
Xanh vỏ đỏ lòng (Tục ngữ)
Câu tục ngữ này có ý
nói những cái bề ngòai xem ra xấu xa nhưng bên trong thì tốt. Người ta chỉ có
thể thấy cái bên ngoài của một người mà không biết được lòng người ta.
Người ta muốn đánh giá
Giakêu thế nào cũng được, nhưng Đức Giêsu có cái nhìn thấu suốt, không nhìn cái
vẻ bề ngoài của con người mà Ngài nhìn rõ cả bên trong, cho nên Đức Giêsu sẽ
khen cho Giakêu một câu chắc nịch như đinh đóng cột:
Xù xì da cóc trong bọc
trứng tiên (câu đố).
Đây là một câu đố bình
dân mà người ta thường đố nhau. Vậy “xù xì da cóc trong bọc trứng tiên” là cái
gì? Chúng ta hãy giải đáp xem nó là cái gì. Nhưng cho dù nó là cái gì thì lúc
nào cũng có ý nói rằng bề ngoài xem ra xấu xa nhưng bên trong thì tốt, giống
như câu “Xanh vỏ đỏ lòng” vậy.
Nếu chúng ta có gặp
được Giakêu sau khi nhờ ơn Chúa trở lại rồi thì ông sẽ tâm sự cho chúng ta
nghe. Ông cho biết nhờ ơn Chúa ông đã thực sự sửa đổi con người của mình. Đời
ông không còn như xưa nữa, nay đã trở nên con người mới hoàn toàn. Có thể bề
ngòai không giống nhau, nhưng thực sự bề trong đã được đổi mới hoàn toàn:
Thân em như quả ấu
gai,
Ruột trong thì trắng
vỏ ngoài thì đen.
Ai ơi, nếm thử mà xem,
Nếm ra mới biết rằng
em ngọt bùi.
(Ca dao)
Truyện: Harold Hughes
trở lại.
Harold Hughes xưa kia
là Thống đốc tiểu bang Iowa, và là một nghị sĩ của Hoa kỳ. Nhưng cuộc đời của
ông đã không luôn luôn thành công. Trong tập tự truyện, Hughes kể lại rằng thời
trai trẻ ông đã là “một người nghiện rượu, dối trá và lừa đảo”. Vào một thời
điểm trong đời ông, đã phá hủy tất cả mọi sự, và mất tất cả.
Một đêm nọ ông nhảy
vào bồn tắm và chuẩn bị tự tử. Ông dí khẩu súng shotgun vào bụng, rồi nhốt cái
chùi giẻ vào miệng. Khi ông sắp sửa bóp cò súng, thình lình ông nhớ lại Thánh
Kinh đã nói giết mạng sống mình là sai. Và ông đã cố cắt nghĩa với Chúa lý do
tại sao ông lại làm điều kinh tởm này. Ông trèo ra khỏi bồn tắm, qùi xuống nền
gạch lạnh lẽo, và gục đầu trên thành bồn tắm. Trong tư thế đó, ông nói chuyện
với Chúa đang khi khóc nức nở. Sau đó có một điều gì đã xẩy ra mà ông chưa bao
giờ cảm nghiệm thấy trong đời. Ông viết trong cuốn tự truyện như sau:
“Một sự bình an ấm áp
dường như bao phủ lấy tôi. Những tội lỗi của tôi dường như tan biến. Thiên Chúa
cúi xuống và ôm lấy tôi. Giống như một đứa trẻ bị thất lạc trong cơn giông bão,
thình lình tôi bị vấp chân ngã vào cánh tay ấm áp của Cha tôi. Đang khi quì gối
trên nền nhà tắm, tôi đã hiến dâng hoàn toàn con người của tôi cho Thiên Chúa,
và tôi nói với Ngài,”Bất cứ việc gì Ngài sai con làm, lạy Cha, con sẽ thực thi
thánh ý Cha”.
Kinh nghiệm đáng nhớ
muôn đời đó đã bắt đầu một sự biến đổi hoàn toàn đối với Harold Hughes. Mười
năm sau, ông được bầu làm Thống đốc tiểu bang Iowa. Bảy năm sau nữa, ông được
bầu vào Thượng viện của Hoa kỳ. Sau cùng, vào năm 1975, ông rút lui khỏi hậu
trường chính trị, về hưu và làm việc trọn ngày cho chương trình giúp đỡ những
người cai thuốc phiện và nghiện rượu (Nguyễn Văn Thái).
4. Thái độ với kẻ tội
lỗi.
Vấn đề chính của con
người là ở chỗ chúng ta có thể thay đổi tâm hồn và học yêu thương người khác
như thế nào. Phải có một tâm hồn cảm kích, mềm mại xúc động mới làm cho tâm hồn
ấy mở ra và sau cùng chia sẻ sự phong phú, cảm thông. Một sự tiếp cận khắt khe
làm cho tâm hồn khép kín và chai cứng. Một sự tiếp cận nhân từ, như cách Đức
Giêsu thực hiện với Giakêu làm cho tâm hồn mềm mại và cởi mở không có gì có thể
làm thay đổi tâm hồn bằng chính tâm hồn. Theo cách thức đó, ông Goethe đã phát
biểu: “Đối xử với một người như người đang là sẽ làm cho người ấy trở nên tệ
hơn, đối xử với người ấy như người ấy phải trở thành hoặc như người ấy mong ước
trở thành sẽ làm cho người ấy trở nên tốt hơn, bởi vì khát vọng của chúng ta là
phần chúng ta thật sự đã đóng góp”.
Như vậy, gần gũi và
biểu lộ tình thương với người tội lỗi là tốt nhất. Đây là thái độ Đức Giêsu
thường xử sự đối với người tội lỗi, và hầu như luôn luôn có tác dụng tốt. Ngài
không hề xa tránh những người thu thuế, bọn đĩ điếm, vốn bị coi là hạng người
tội lỗi, như những biệt phái và luật sĩ thường làm. Kết quả của thái độ nhân từ
đó là biết bao người tội lỗi trở lại con đường ngay chính, say mê nghe Ngài rao
giảng Tin mừng, mà bài Tin mừng hôm nay kể ra một trường hợp điển hình. Chính
vì Đức Giêsu sẵn sàng vào nhà ông Giakêu, một kẻ bị coi là tội lỗi, ăn uống và
trọ lại nhà ông, mà con người ông đã hoàn toàn thay đổi. Thử tưởng tượng xem,
nếu Ngài cũng đối xử với Giakêu như cách mà người Do thái thường làm là tẩy
chay và xa lánh ông, thì kết quả ra sao !
Truyện: Thiền sư
Sengai và đệ tử.
Nhiều đệ tử đang theo
học thiền định dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Một người trong bọn họ
thường hay thức dậy ban đêm, vượt tường ra phố để dạo mát cho thỏa thích.
Một đêm kia, Sengai đi
giám thị phòng ngủ, thấy một đệ tử vắng mặt và cũng khám phá ra được chiếc ghế
đẩu cao mà anh ta thường dùng để leo qua tường. Sengai dời chiếc ghế đi chỗ
khác và đứng thay vào chỗ đó. Khi anh chàng rong chơi trở về, không biết rằng
Sengai là chiếc ghế, anh ta đặt chân lên đầu thầy và nhảy xuống đất. Lúc khám
phá ra việc mình đã làm, anh ta hoảng sợ, nhưng Sengai nhẹ nhàng bảo:
- Sáng sớm hôm nay
trời lạnh lắm. Con hãy cẩn thận kẻo bị cảm đấy.
Từ đó, người đệ tử ấy
không bao giờ bỏ ra ngoài ban đêm nữa. Anh chuyên tâm học tập và trở thành
người đệ tử gương mẫu của thầy Sengai.
5. Công cuộc đổi mới
của mỗi người.
Như ở trên chúng ta đã
nói: “Nhân chi sơ tính bản thiện” thì con người có hư hỏng rồi cũng có thể cải
thiện được. Khi chịu phép Rửa tội, chúng ta đã được trở nên tinh tuyền, đã được
mặc lấy Chúa Kitô và có thể nói là trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, nhưng
chúng ta phải nhớ rằng chúng ta đã được tha tội nguyên tổ nhưng không thể tránh
được hậu quả của tội ấy, do đó con người chúng ta trở nên yếu đuối, dễ sa ngã
phạm tội. Vì vậy, thánh Phaolô cảnh giác chúng ta: “Ai đang đứng ý tứ kẻo ngã”.
“Sai phạm là bản tính
của con người, còn tha thứ là bản tính của Thiên Chúa”(A. Pope). Vì thế chúng
ta có thể nói: sai lỗi là chuyện bình thường, sa ngã mà không biết chỗi dậy mới
là bất bình thường. Có biết bao nhiêu gương sa ngã mà đã chỗi dậy nhờ ơn Chúa.
Người lành thánh mà còn sai phạm một ngày ít là 7 lần, chúng ta chưa lành thánh
là bao, có sai lỗi thì cũng là chuyện bình thường, không đáng lo, cứ cậy trông
vào ơn Chúa và quyết tâm hoán cải.
Truyện: Leonard da
Vinci vẽ hình.
Danh họa Leonard de
Vinci đang thực hiện tuyệt tác “Bữa Tiệc ly”. Nhưng để diễn tả một phần nào
đúng chân dung của Chúa và 12 vị tông đồ, danh họa phải đi tìm những nét mặt đó
nơi những người đương thời. Một hôm, họa sĩ bắt gặp trong thánh đường ở Rôma,
một vị kinh sĩ trẻ tuổi có gương mặt thanh tú, trong sạch tuyệt vời hợp với
chân dung thánh Gioan. Thế là ông đi theo và xin vị Kinh sĩ ngồi làm mẫu cho
mình vẽ. Vị Kinh sĩ bằng lòng và họa sĩ đã vẽ được một gương mặt đẹp như Thiên
thần.
Vài năm sau, bức tranh
“Bữa Tiệc ly” vẫn chưa hoàn thành vì không tìm ra người mẫu để vẽ chân dung độc
đáo của Giuđa. Tình cờ, trên đường phố, họa sĩ gặp một người ăn mày, áo quần
rách tả tơi với vẻ mặt quái đản, gian ác đến độ vừa kinh ngạc vừa mừng thầm tự
chủ: “Trời ơi, người mẫu này thật lý tưởng, ta sẽ vẻ mặt gian xảo này cho thật
mâu thuẫnvới vẻ mặt Thiên thần của chàng trai trước đây”. Sau khi thương lượng
với giá cao, người ăn mày bằng lòng làm mẫu cho họa sĩ vẽ. Vẽ xong, họa sĩ sung
sướng lấy chân dung chàng trai trẻ đặt bên chân dung người ăn mày mà ngắm
nghía. Còn người hành khất giật mình chết lặng, rồi hai dòng nước mắt chảy dài
trên hai gò má đen đủi và nghẹn ngào nói: “Bức chân dung người trẻ kia chính là
tôi mà ông đã vẽ cách đây mấy năm. Khi đó trông tôi tốt lành, trong trắng dường
nào, nhưng bây giờ tôi là một tên ăn mày, cờ bạc rượu chè say sưa”. Nói xong,
anh ta bỏ đi thật tội nghiệp.
Nếu chẳng may chúng ta
đã để cho mình trở nên xấu như chàng ăn mày kia, chúng ta hãy bắt chước ông
Giakêu tìm đến gặp gỡ Đức Giêsu. Phía Chúa Ngài luôn khẳng định là Ngài xuống
thế cốt tìm kiếm và cứu kẻ tội lỗi, nên Ngài luôn luôn hiện diện mọi nơi mọi
lúc, sẵn sàng theo dõi, đợi chờ con người tỏ dấu ăn năn thì Ngài sẽ hành động
ngay.
Nhưng nếu chỉ gặp Chúa
mà thôi thì chưa đủ, cần phải có hành động cụ thể. Muốn biến cuộc gặp gỡ thành
một cuộc tình gắn bó, một cuộc liên kết chặt chẽ, lâu dài thì phải thực hiện
một công đoạn tiếp theo là đổi mới cuộc sống. Như Giakêu, ông ta không dừng lại
ở chỗ gặp Chúa, trái lại ông ta muốn tiến xa hơn là thay đổi cuộc sống bằng
cách bố thí và thực hiện đức công bằng. Cũng thế, để nhận được sự tha thứ và sự
bình an của Chúa trao tặng, mỗi người chúng ta phải đổi mới ngay cuộc sống của
mình bằng những cố gắng thực tế như: bỏ dần những tính hư tật xấu, cắt đứt ngay
những liên hệ xấu xa, sửa lại những lầm lạc sai phạm, rồi dũng cảm thực hiện
các việc đạo đức bình thường như đọc kinh, xem lễ, lần hạt và đi xưng tội, rước
lễ…
Tin mừng của Thánh
Luca được gọi là Tin mừng về Lòng thương xót của Thiên Chúa. Thánh Luca có
nhiều tường thuật và những dụ ngôn rất tuyệt vời về lòng thương xót của Thiên
Chúa dành cho con người. Đoạn Tin mừng hôm nay là một bức tranh tuyệt đẹp về
lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho người tội lỗi, và cũng mở rộng cho tất
cả chúng ta nữa.
1. Thành tâm tìm Chúa
sẽ được gặp Chúa:
Dakêu lại là thủ lãnh
của những người thu thuế nên chắc chắn ông phải giàu có lắm. Dù vậy, Dakêu vẫn
thấy còn thiếu một điều gì đó mà lương tâm của ông mách bảo ông phải đi tìm.
Nhưng biết tìm gì đây? Chắc chắn là không phải đi tìm cách để làm giàu hơn nữa
rồi. Và cơ may như tình cờ đã đến Dakêu. Đức Giêsu đi ngang qua làng quê của
ông. Ông đã nghe danh tiếng Đức Giêsu đã lâu rồi nhưng chưa được dịp gặp. Hôm
nay, Dakêu nhất định phải tìm cách để nhìn thấy mặt Đức Giêsu một lần cho biết.
Hành động leo lên cây sung để nhìn ngắm Đức Giêsu cho thấy Dakêu rất quyết liệt
trong việc tìm kiếm Chúa. Ta thử hỏi động lực nào thúc đẩy Dakêu như thế? Câu
trả lời là vì ông đang thiếu Chúa nên mới tìm kiếm quyết liệt như thế dù là để
thấy Ngài thôi. Phúc âm ghi là “Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai”
mà thôi. Sự thành tâm của ông đã được Đức Giêsu đáp lại vượt quá sức tưởng
tượng của ông. “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà
ông.” Chúa Giêsu muốn cứu ông nên mới hối thúc ông như thế “xuống mau đi”. Câu
nói của Chúa Giêsu cho ta thấy được rằng: việc Chúa đến để cứu giúp ông là điều
cần thiết vì nó nằm trong chương trình của Thiên Chúa “Tôi phải”.
Vậy là Dakêu đã gặp
được điều mà ông còn thiếu, còn trống vắng trong tâm hồn ông. Ông đi tìm và ông
đã gặp. Nhưng trên hết là lòng thương xót của Thiên Chúa, là tình yêu nhưng
không của Ngài dành cho con người. Nói là con người đi tìm Thiên Chúa nhưng
thật ra là Thiên Chúa đi tìm và cứu lấy con người. Thiên Chúa làm nên những
việc vượt quá ước muốn của con người. Tấm lòng của Thiên Chúa là như thế: đi
tìm và cứu chữa những gì xem ra đã hư mất dưới cái nhìn của nhân loại. Phần
chúng ta, để được Thiên Chúa cứu độ, chúng ta cần có lòng ước muốn và khao khát
đến với Chúa dù động lực chưa rõ ràng hay còn lệch lạc đi chăng nữa. Chúa hiểu
tấm lòng của con người. Và khi gặp được Chúa rồi, chúng ta cần làm theo những
gì Chúa đã ân cần hướng dẫn và ngoan ngoãn bước theo đường lối của Ngài.
2. Dakêu, kiểu mẫu của
người môn đệ Chúa Kitô:
Như một điều mỉa mai
đối với Dakêu. Tên của ông có nghĩa là “trong sạch” nhưng ông lại làm nghề thu
thuế, một nghề tội lỗi và bất công. Nhưng sự mỉa mai này chấm dứt khi ông gặp
được Đức Giêsu. Nhờ biết chia sẻ, ông đã trở nên trong sạch đúng với tên gọi
của ông.
Có thể nói cách mạnh
mẽ rằng: Dakêu là người đầu tiên thực hiện lời mời gọi chia sẻ của Chúa Giêsu.
Theo Tin mừng của thánh Luca, người môn đệ đích thực của Chúa là người biết
sống chia sẻ, cả vật chất lẫn tinh thần cho người khác, đặc biệt là cho những
người nghèo khổ và túng thiếu.
Những ai sống giàu có
dư đầy mà không biết chia sẻ cho người khác thì sẽ có một kết cục thật bi thảm:
đảo lộn số phận trong cuộc sống mai sau. Câu chuyện về “người phú hộ và anh
Lazarô nghèo khổ” hay câu chuyện “anh thanh niên giàu có buồn rầu bỏ đi trước lời
mời gọi sống chia sẻ của Chúa Giêsu” là những điển hình. Số phận của những kẻ
như thế sẽ bị đạo lộn và sẽ rất tối tâm. Nếu giàu có ở đời này thì sẽ nghèo khổ
ở đời sau muôn ngàn kiếp, “người giàu có trở về tay không”.
Còn ở đây, Ông Dakêu
tuy giàu có nhưng ông biết sẵn sàng và tự nguyện chia sẻ của cải của mình cho
người nghèo khổ, nên ông sẽ không bị đảo lộn số phận mà còn trở nên kiểu mẫu
cho hình ảnh người môn đệ Đức Giêsu, trở thành công dân trong Israel mới do
chính Chúa lập nên. “Tôi xin bố thí nửa tài sản của tôi cho kẻ khốn khó, và nếu
tôi làm thiệt hại ai điều gì, tôi xi đền gấp bốn”. Thật là một hình ảnh tuyệt
đẹp của những con người hoán cải tận căn sau khi gặp được Chúa. Gặp Chúa thật
sự thì không thể không hoán cải và không thể không thay đổi trong mọi sự, từ
suy nghĩ cho đến hành động. Dakêu thật là một kiểu mẫu cho chúng ta noi theo.
Từ một người chỉ biết thu góp, nay trở thành người cho đi; từ một người sống
trong bất công nay trở thành người thực thi sự công bằng và trả lại sự công
bằng cho người khác.
Chúng ta hãy nhìn vào
sự biến đổi của Dakêu mà xét mình lại. Chúng ta giữ đạo đã nhiều năm, nhưng
chúng ta đã gặp được Chúa chưa? Chúng ta đi lễ quá nhiều, rước Chúa vào lòng
quá nhiều đến mức không nhớ nổi, chúng ta nghe lời Chúa đến mức có thể thuộc
lòng được... nhưng thử hỏi chúng ta đã thật sự gặp được Chúa chưa? Nếu ta chưa
biết hoán cải, chưa biến đổi gì hết trong thái độ sống, trong suy nghĩ và hành
động của ta cho tốt hơn thì có thể nói: Chúng ta chưa gặp được Chúa.
Sẽ thật là vô phúc cho
chúng ta nếu chúng ta lo giữ đạo, giữ luật Chúa mà không lo gặp Chúa. Không có
Chúa trong cuộc đời ta thì ta là những kẻ đáng thương vô cùng. Coi chừng chúng
ta đang biến thành những Biệt Phái của thời đại mới này mà chúng ta không hề
hay biết.
Hãy noi gương Dakêu để
trở thành người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu: biết sống chia sẻ, biết hoán
cải nội tâm, biết đi tìm Chúa cách thành tâm thiện chí, để khi hoàn tất cuộc
đời tại thế này, chúng ta sẽ được Chúa cho vào dự tiệc cưới Nước Trời dành cho
những tâm hồn thiện chí và trung tín của Chúa. Ước gì trong ngày sau hết, ta
được Chúa nói với ta như đã nói với Dakêu rằng: “người này cũng là con cháu tổ
phụ Abraham” và “hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này”. Amen.
48. Gặp gỡ ơn cứu độ – Lm. FX Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Phần thứ tư (phần cuối
của hành trình lên Giêrusalem) được tác giả Luca trình bày trong phân đoạn
18,15–19,28: phần này tương ứng với bài tường thuật về hành trình của các Tin
Mừng Nhất Lãm. Nhưng trong khối chất liệu này, ngài thêm vào câu truyện cuộc
gặp gỡ của Đức Giêsu với ông Dakêu, thủ lãnh người thu thế ở Giêrikhô. Ngài
thấy khối người bị đẩy ra bên lề xã hội Paléttina này cũng là “cái đã mất” mà
Đức Giêsu đến để cứu.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia
thành năm đơn vị:
1) Ghi chú về chuyến
đi của Đức Giêsu (19,1);
2) Giới thiệu Dakêu
trong quan hệ với Đức Giêsu (19,2-4);
3) Đức Giêsu chủ động
gặp Dakêu (19,5-7):
- Đề nghị của Đức
Giêsu (cc. 5-6),
- Phản ứng của dân
chúng (phản đối Đức Giêsu) ( c. 7);
4) Dakêu chủ động hoán
cải (19,8-9):
- Đề nghị của Dakêu
(c. 8),
- Phản ứng của Đức
Giêsu (trả lời cho dân chúng) (c. 9);
5) Ghi chú về sứ mạng
của Đức Giêsu (việc Ngài “đến”) (19,10).
3.- Vài điểm chú giải
- Giêrikhô (1): Giêrikhô là chặng
cuối trước khi “lên” Giêrusalem. Thành này nằm kề ranh giới miền Pêrê, dọc theo
một tuyến đường giao thông quan trọng, là một điểm chiến lược mà đế quốc Rôma
quan tâm trong việc cai trị Giuđê. Tại đây người ta dễ gặp các nhân viên của đế
quốc hoăc các sĩ quan, binh lính Rôma.
- Dakêu (2): Tiếng Híp-ri là
zakkai, có nghĩa là “trong sạch và vô tội” (x. Er 2,9; Nkm 7,14).
- người thu thuế (2): x. 3,12. Tên gọi
này dịch từ tiếng Hy Lạp telônês (do từ telos có nghĩa là “thuế”); La-tinh:
publicanus (Ngày xưa, các cố Tây dịch là “người púp-li-ca-nô” do lấy từ chữ
La-tinh publicanus (do chữ publicus có nghĩa là “tiền của công”); Pháp:
collecteur d’impôts, Anh: tax collector. Nền hành chánh Rôma qui định nhiều
loại thuế: thuế thổ trạch, thuế động sản, thuế gián thu, đặc biệt đánh trên
việc nhập cảng muối. Những “người thu thuế” thường được giao cho nhiệm vụ thu
khoản thuế cuối cùng này. Vì thế họ thường có mặt tại các trạm quan thuế
(Caphácnaum: Mc 2,14; Giêrikhô: Lc 19,2). Vì do nghề nghiệp, họ phải tiếp xúc
thường xuyên với mọi hạng người, kể cả người ngoại giáo, nên họ bị coi là những
người ô uế. Quy định mức thuế là quyền của chính quyền, nhưng thường được người
thu thuế áp dụng cách võ đoán, nên họ bị dân chúng khinh bỉ, và danh từ “người
thu thuế” tương đương với “hạng tội lỗi” công khai (x. Mt 9,10-11; Mc 2,16; Lc
5,30; 7,34; 15,1; 19,2-7), hạng ngoại đạo (x. Mt 18,17; 21,31), và hạng trộm
cướp (x. Lc 3,2t). Một người Do Thái đạo đức tuân giữ lề luật thì chẳng có gì
phải giao dịch với người thu thuế. Dakêu “đứng đầu những người thu thuế”
(architelônês), tức là ông phụ trách cả vùng. Như thế, Dakêu càng ở bên lề cộng
đồng Do Thái hơn nữa.
- tìm cách để xem cho
biết... (3): Dakêu là người giàu có và có địa vị cao, nhưng trong lòng
ông vẫn không cảm thấy thỏa mãn. Hai động từ “tìm” (HL: zêtein) và “xem” (HL:
idein) cho dù không có tầm mức quan trọng như trong TM Gioan, vẫn cho thấy là
Dakêu không chỉ tò mò muốn “xem cho biết” (như kiểu nói của chúng ta). Đây là
một “cuộc điều tra mang tính Kitô học” của một người tội lỗi công khai đối lại
với thái độ lãnh đạm và thù nghịch của giới lãnh đạo dân Chúa.
- cây sung (4), tiếng Hy Lạp là
sykomorea. Đây là loại cây có thân thấp, các cành ngang cứng chắc.
- phải ở lại (5): Câu này dịch sát
là “hôm nay điều cần thiết đối với tôi là ở lại nhà ông”. Động từ Hy Lạp dei
diễn tả một điều nằm trong chương trình, ý muốn của Thiên Chúa, nằm trong sứ
mạng của Đức Giêsu (x. 2,49; 4,43; 12,12; 13,33; 15,32; 22,37; 24,44).
- mừng rỡ (6): do động từ Hy Lạp
chairein. Lc là Tin Mừng về niềm vui (Dacaria: 1,14; Đức Maria: 1,28; bà con
Gioan Tẩy Giả: 1,58; Đức Giêsu chào đời: 2,10; Đức Giêsu: 10,20; đám đông:
13,17...). Đây là niềm vui do Đấng Mêsia mang đến.
- nhà người tội lỗi (7): Luật luân lý cấm
vào nhà kẻ tội lỗi.
- phân nửa tài sản của
tôi (8): Mức bồi thường này vượt qua mức Luật đòi hỏi (x. Xh 21,37;
Ds 5,5-7; Lv 5,21-24: trả lại món tài sản đã lấy cộng với 1/5 giá trị món đó).
- Đức Giêsu nói về ông (9), có nghĩa là Đức
Giêsu nói với những người khác. Tập tục Đông phương cho phép người ta tự do ra
vào nhà một người và vây quanh bàn ăn của những khách được mời (x. 7,37).
- Hôm nay (9, cả c. 5; HL:
sêmeron, x. 2,11; 4,21; 13,32.33; 23,43): Đây là từ ngữ quan trọng của TM Lc,
có nghĩa là: Sau một thời gian dài chờ đợi và hy vọng, lịch sử cứu độ đã tới
đỉnh cao hoàn tất. Tất cả những gì các ngôn sứ nói đã thành sự trong các hành
động và các lời nói của Đức Giêsu (x. 4,18.19; 5,26).
4.- Ý nghĩa của bản
văn
* Ghi chú về chuyến đi
của Đức Giêsu (1)
Đến Giêrikhô, chuyến
đi của Đức Giêsu lên Giêrusalem đã đến chặng cuối cùng. Tại đây người ta bắt
đầu chuyến đi lên: từ thung lũng sông Giođan, người ta băng qua sa mạc Giuđa để
đến Giêrusalem. Toàn thể cuộc hành trình của Đức Giêsu sau này được Phêrô mô
tả: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó” (Cv 10,38). Điều này đặc
biệt đúng cho những điểm cuối cùng: mỗi chặng lại trở thành mộtchặng để trợ
giúp và cứu chữa. Gặp anh mù ngồi bên vệ đường tin tưởng kêu cầu: “Lạy ông
Giêsu, Con vua Đavít, xin thương xót tôi!”, Đức Giêsu đã cho anh xem thấy, ban
khả năng ca tụng Thiên Chúa và đi theo Người (18,38). Gặp Dakêu ngồi trên một cây
sung bên lề đường để nhìn xem Người, Đức Giêsu cho ông cơ hội tiếp đón Người về
nhà và hoán cải, tức nhận được ơn cứu độ. Dù hoàn cảnh hai người rất khác nhau,
cả hai đã được Thiên Chúa trợ giúp nhờ trung gian Đức Giêsu.
* Giới thiệu Dakêu trong
quan hệ vớiĐức Giêsu (2-4)
Dakêu là mộtngười giàu
có. Nhưng trong tư cách là thủ lãnh của những người thu thuế, ông thuộc về hạng
người bị xã hội Do Thái khinh bỉ. Do nghề nghiệp, vì họ phải thường xuyên liên
hệ với mọi hạng người, kể cả ngoại giáo, họ bị nhiễm uế. Và bởi vì xã hội
thường gán cho người thu thuế tính tham lam và những lối cư xử không công bình
(x. 3,12t), Dakêu bị ghét bỏ và khinh bỉ. Một người Do Thái tuân giữ Lề Luật
nghiêm túc thì không có gì phải liên hệ với người thu thuế cả. Do đó, Dakêu đứng
ở bên lề cộng đồng. Ông là người giàu có và có địa vị cao, nhưng ông không được
những người có thế giá trong xã hội trân trọng.
Ông hết sức ao ước
được gặp Đức Giêsu. Ước muốn này có thể phần lớn được nhen lên do tính tò mò.
Dù sao ước muốn này đã thúc đẩy ông tìm mọi cách để thấy được Đức Giêsu. Tuy
nhiên, dân chúng đi theo Đức Giêsu thì quá đông mà vóc người ông thì thấp bé.
Nhưng Dakêu có óc sáng tạo: ông chạy đi trước và leo lên mộtcây sung. Chạy và
trèo lên cây là những chuyện chỉ hợp với các trẻ em, chứ không phù hợp với tư
cách mộtngười giàu có; nhưng Dakêu chấp nhận trở thành lố bịch để được thấy Đức
Giêsu, điều này cho thấy ông ao ước thấy Người đến đâu!
* Đức Giêsu chủ động gặp
Dakêu (5-7)
Trong khi mọi người
khác không màng tới Dakêu đang ở trong thế rất khôi hài, Đức Giêsu đã bày tỏ sự
quan tâm đến ông bằng những cử chỉ và thái độ rất đơn giản, rất “người”: “đi
tới chỗ ấy”, “nhìn lên”, “nói với ông”. Người còn cho hiểu đấy không chỉ là một
cuộc thăm viếng xã giao, mà là một cuộc gặp gỡ nằm trong ý muốn của Thiên Chúa
(“hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”), nằm trong sứ mạng của Người. Cái “ngày hôm
nay” mà Đức Giêsu nhắc tới không chỉ là một chi tiết chỉ thời gian, mà là một
chặng trong hành trình ban ơn cứu độ mà Người đã khai mạc tại Nadarét (x. 4,18-22).
Trong cuộc hành trình này, Người quan tâm ưu tiên tới những người nghèo, và cả
những người tội lỗi.
Nỗi băn khoăn, căng
thẳng của Dakêu biến thành niềm vui: không chỉ là sự thỏa mãn, sự thoải mái về
thể lý, mà là việc tham dự vào hạnh phúc do Đấng Cứu thế mang đến. Nhờ gặp gỡ
Đức Giêsu, ông được giải thoát khỏi các lầm lỗi, hoang mang, và lòng được chan
hòa bình an và niềm vui. Đi ngược lại mọi chỉ trích, và một cách rõ ràng, Đức
Giêsu cho mọi người thấy rằng không ai bị loại khỏi ơn cứu độ Người ban. Người
cũng cho thấy Người từ chối mọi kiểu đánh giá tổng quát về một hạng người.
* Dakêu chủ động hoán
cải (8-9)
Bữa tiệc tại nhà Dakêu
là một cử hành thống hối, đưa tới một sự hiệp thông huynh đệ. Qua bữa tiệc,
Dakêu hiểu là ông được kêu gọi đi vào hiệp thông với Thiên Chúa. Bởi vì Đức
Giêsu đã chấp nhận con người thật của ông, bởi vì ông được mời gọi sống như
thế, Dakêu chẳng phải tránh né gì nữa, trái lại ông vui mừng đón tiếp Người về
nhà và bày tỏ quyết định đổi mới cuộc đời. Ông đã trả lời thắc mắc: “Thế thì ai
có thể được cứu?” (18,26) khi Đức Giêsu nhận định: “Những người có của thì khó
vào Nước Thiên Chúa biết bao” (18,24). Dakêu giàu có đã nhận được ơn cứu độ nhờ
trung gian Đức Giêsu (19,9), bởi vì ông không chỉ bằng lòng với việc trông thấy
Đức Giêsu, mà còn hành động theo ý muốn của Người nữa. Trong ngày hôm ấy, Dakêu
đã cảm nghiệm một sự biến đổi lạ thường. Đó chính là điều được Đức Giêsu diễn
tả trong câu tuyên bố: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này
cũng là con cháu ông Abraham”. Khi tuyên bố như thế, Đức Giêsu đã bác bỏ nhận
định của mọi người: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!”. Phán đoán của
đám đông là một phê phán quá cứng rắn. Qua lối cư xử của Người, Đức Giêsu loại
bỏ sự cứng rắn đó và cho thấy rằng thái độ của Thiên Chúa hoàn toàn khác với
thái độ của đám đông.
* Ghi chú về sứ mạng của
Đức Giêsu (việc Ngài “đến”) (10)
Những lời Đức Giêsu
kết luận (c. 10) có thể khuyến khích mỗi người bởi vì “Con Người đến để tìm và
cứu những gì đã mất”. Người không đến để kết án hoặc loại trừ. Lại chính những
kẻ bị lạc, những kẻ sai lầm mà Người đã muốn tìm và cứu chữa; chính là những kẻ
đang đi vào ngõ cụt mà Người muốn dẫn ra.
+ Kết luận
Bản văn với câu kết
luận (c. 10) không những tóm tắt giai thoại về Dakêu, mà còn làm nổi rõ hơn nữa
cứu-độ-học của toàn thể cuộc hành trình của Đức Giêsu lên Giêrusalem cũng như
của TM Lc: trong tư cách là Con Người, Đức Giêsu đã đến để tìm và cứu những gì
đã mất, và như thế là gợi ý tới câu Ed 34,16 trong đó Đức Chúa tự mô tả mình
như là Người mục tử: “Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa
về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con
nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà
chăn dắt chúng”.
Khi đọc bản văn này,
ta cũng nhận ra những ý nhắc lại các đoạn khác trong TM III: những yếu tố thuộc
lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả (3,10-14); dụ ngôn người Pharisêu và người thu
thuế (18,9-14); người thủ lãnh giàu có (18,18-23); anh mù (18,35-43). Dakêu
được giới thiệu như là mộtngười giàu gương mẫu đã hiểu sứ điệp cũng như mối
quan tâm của Đức Giêsu đối với người nghèo, nên đã biết lấy những quyết định
tương xứng. Bản văn cũng cho thấy có những điểm gặp gỡ với giai thoại anh mù:
Dakêu đã thực hiện những bước không thông thường để nhìn thấy Đức Giêsu khi
Người đi ngang qua. Hai bản văn cuối cùng này trực tiếp đưa độc giả đi theo Đức
Giêsu vào Giêrusalem trong tư cách là “Con vua Đavít” để thực hiện chương trình
cứu lấy những gì đã mất.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Dakêu đã bị xã hội
đẩy ra bên lề và khép lại với chính ông. Nhưng ông đã không chịu ở lại trong
vòng tròn khép kín mà xã hội đã nhốt ông vào, đó là thế giới của tiền bạc và
những quan hệ không lương thiện; ông tìm cách “thấy” Đức Giêsu, và thế là ông
được cứu. Khép kín vào chính mình, con người không bao giờ thoát khỏi tội lỗi
của mình; muốn được cứu, ta cần phải mở ra với Đức Giêsu. Trong đời sống thiêng
liêng, chúng ta hiểu: Đức Giêsu chờ đợi chúng ta đến với Người, nhưng Người
cũng chờ đợi chúng ta sẵn sàng đón tiếp Người vào nhà.
2. Trong bất cứ cộng
đoàn nào, bao giờ cũng có những người sợ đến gần những “người thu thuế”, những
“kẻ tội lỗi”, những người không có danh thơm tiếng tốt... Bạn thử hình dung xem
mình đang nghĩ về người khác thế nào? Đức Giêsu không làm như thế. Người đã nắm
lấy bàn tay Dakêu đang rụt rè đưa ra về phía Người. Người lấy sáng kiến và đặt
Dakêu trên mộtnẻo đường mới.
3. Tất cả những thái
độ và lời nói rất “người” (sự quan tâm, cử chỉ thân ái, lời nói dịu dàng...) có
thể đưa người khác đến những biến đổi rất “thánh”. Môn đệ Đức Giêsu phải sống
thế nào để bằng sự hiện diện và lối sống của mình, ngày “hôm nay” của Thiên
Chúa xuất hiện cho anh chị em mình. Hôm nay Đức Giêsu vẫn đang ban ơn cứu độ
qua Lời Người, các bí tích, qua Giáo Hội. Nếu bạn là thừa tác viên Lời Chúa
hoặc bí tích, bạn đã có ý thức về cung cách cử hành thế nào để Đức Giêsu đến
được với anh chị em của bạn?
4. Tấm gương của người
môn đệ chính là thầy Giêsu: Người đã không ngại bị đánh giá tiêu cực để khỏi
phản bội sứ mạng cứu thế. Người môn đệ của Đức Giêsu sẽ có những lúc phải chọn
lựa như thế. Tuy nhiên, ngay trong đời thường, qua các sinh hoạt nghề nghiệp,
thăm viếng, có khi nào bạn nghĩ là bạn sinh hoạt, thăm viếng theo ý muốn của
Thiên Chúa?
Sau khi vào
Giê-ri-khô, Đức Giêsu đi ngang qua thành phố ấy.
Giê-ri-khô, một địa
danh bất thường trong môn địa lý của hành tinh này: thành phố thấp nhất của
trái đất; thấp hơn mặt nước biển 250 mét! Khi những người sống ở mức thấp đó;
ngay khi họ quyết định đi từ nới họ ở, họ chỉ có thể đi lên cao; Giakêu sẽ khởi
hành ở chỗ rất là thấp.
Giê-ri-khô, một biểu
tượng cho nhân loại già nua: nó là một trong những thành phố cổ nhất trái đất;
có những di tích mà số tuổi lên đến tám ngàn năm trước Đức Giêsu Kitô. Khi Abraham
dẫn đàn súc vật đi ngang qua thì nơi đó đã là một thành phố có số tuổi hơn sáu
ngàn năm; Giakêu sẽ rất giống với nhân loại từ muôn thuở.
Giêrikhô thành phố
cuối cùng trong cuộc hành trình của những người hành hương lên Giêrusalem. Đối
với Đức Giêsu ngày hôm đó là một ngày leo dốc mệt nhọc! Đồi cái Sọ (tiếng Do
Thái là Golgotha) ở đàng kia, gần cổng Épraim, cách đó hai mươi kilô mét, ở đầu
một con dốc dài bất tận và ở đó cao hơn một ngàn mét so với ốc đảo Giêrikhô.
“Đức Giêsu đi ngang
qua thành phố ấy” Giai đoạn cuối cùng của cuộc hành trình cuối cùng.
Đức Giêsu hoàn toàn
sáng suốt về điều đang chờ đợi Người trên kia, ở Giêrusalem. Hôm qua có lẽ hoặc
hôm kia, Người đã gọi riêng các bạn hữu. Người đã loan báo cho họ điều sắp xảy
đến: “Này chúng ta lên Giêrusalem, và tất cả những gì các ngôn sứ đã viết về
Con Người sẽ được hoàn tất. Quả vậy, Người sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo
báng, nhục mạ, khạc nhổ. Sau khi đánh đòn, họ sẽ giết Người và ngày thứ ba
Người sẽ sống lại” (Lc 18, 31.34). Nhưng thánh Luca nói với chúng ta, mười hai
Tông Đồ của Đức Giêsu không hiểu gì cả. Chỉ mình Đức Giêsu sáng suốt, lòng tràn
ngập những mối suy tư.
Ở đó có một người tên
là Giakêu
Phải chăng là sự hài
hước? hoặc là sự chế giễu? Cái tên “Zakkay” này trong tiếng Do Thái có nghĩa
“Người Thanh Khiết, Người Công Chính”. Con người tội lỗi công khai ấy lại có
tên “thanh khiết, trong sạch” làm chúng ta nghĩ tới một kẻ lừa bịp ác tâm mà
người ta đặt cho biệt danh là “người vô tội, dịu dàng”!
Nhưng chúng ta hãy chờ
cho câu chuyện chấm dứt.
Ai mà biết được ông ta
sẽ không mang tên thật của mình… vào lúc cuối.
Ông đứng đầu những
người thu thuế, và là người giàu có.
Giakêu, người tội lỗi
bởi nghề nghiệp, trong lúc này đúng ra đáng có cái tên “kẻ bị tuyệt thông”. Một
con người ghê tởm, bị mọi người ghét bỏ. Phục vụ cho đoàn quân chiếm đóng La
Mã. Thỏa hiệp với ngẫu tượng, Hoàng Đế Bóc Lột! Kẻ bóc lột những người nghèo!
Một Thủ trưởng vô liêm sỉ của những người thu thuế, đã thu những món lại to lớn
khi bỏ đói dân nghèo và phô trương sự giàu sang, xa hoa trong ngôi biệt thự
sang trọng nhất thành phố. Cách đó ít lâu Đức Giêsu đã nói về điều đó: “Con lạc
đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (Lc 18,25).
Giakêu, một con người
bị tránh xa như bệnh dịch. Kẻ tội lỗi hoàn toàn bị hư mất. Đồ thối tha. Cấm
không được giao du với hạng người hư hỏng ấy. Người ta nhổ xuống đất và quay
mặt đi khi đi ngang qua con người ấy.
Ông ta tìm cách để xem
cho biết Đức Giêsu là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta
lại lùn. Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giêsu,
vì Người sắp đi qua đó.
Một chuỗi những “biểu
tượng: A! ông ta lùn quá lùn nên không nhìn thấy Đức Kitô; đám đông thù nghịch;
cả một dư luận phải vượt qua, để xem Đức Kitô; leo lên một cây (cây nào lạ lùng
bằng cây thập giá!) để xem Đức Giêsu. Những sự giải thích tượng trưng không làm
mất đi sử tính của các chi tiết cụ thể: người ta phải nhớ lại ở Giêrikhô, vào
thời của Luca đã xảy ra một biến cố khó tin là sự hoán cải của ‘kẻ đứng đầu những
Người thu thuế’. Vả lại mọi chi tiết hoàn toàn tự nhiên. Lúc mới vào thành phố,
Đức Giêsu đã chữa lành một người mù (Lc 18, 35.42). Tiếng vang của việc chữa
lành này lan ra nhanh chóng như vệt thuốc súng. Người ta biết rằng Giakêu đã có
ước muốn “xem” Đức Giêsu đó, leo lên một cây sung dưới ánh mắt châm biếm của
đám đông; mà không còn quan tâm đến phẩm giá của một thủ trưởng nhân sự Tổng
Kho Bạc của Đế quốc!
Tôi thử tưởng tượng
điều gì có thể thúc đẩy Giakêu, bất chấp sự chế giễu đã xắn chiếc áo thụng của
một ông trưởng giả Do Thái và có lẽ cái áo choàng La Mã để leo lên cây sung như
một thằng nhóc tầm thường? Vì tính tò mò chăng? Vì sự lôi cuốn mầu nhiệm chăng?
Vì nỗi khắc khoải mơ hồ và chán chường cuộc sống của mình chăng? ông ta đã sống
để đếm tiền và khuấy động thành phố của ông. Mọi người tránh xa ông; ông biết
rõ tại sao: nhân danh pháp luật, ông bức bách họ. Nhưng rồi khi người ta nói
Đức 'Giêsu đi qua đó và Người là bạn của những người không được ai yêu thương.
Lúc đó, ông giữ cửa kho bạc đã leo lên một cây đang trổ hoa để xem Đức Chúa.
Khi Đức Giêsu tới chỗ
ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông
Người ta có thể gọi
chỗ ấy là “nơi hai ánh mắt gặp nhau”. Bề ngoài, cái nhìn đầu tiên là của
Giakêu, đang cháy bỏng ước muốn xem Đức Giêsu. Nhưng sẽ không có gì xảy ra nếu
như Đức Chúa đã không ngước mắt nhìn lên người ở trọ lạ lùng, trên cây sung.
Tôi ở yên một lúc để tưởng tượng, để chiêm niệm hai ánh mắt gặp nhau đó. Đức
Giêsu và ông Giakêu đang nhìn nhau!
Chúng ta tiếng rằng
chúng ta tìm kiếm Thiên Chúa, trong khi mà chính Người “tìm kiếm” chúng ta
trước, tự muôn đời! ôi chào! Ngày hôm đó, Đức Giêsu đã phải sung sướng hạnh
phúc! Còn vài cây số nữa là đến Giêrusalem, còn vài ngày nữa là cuộc khổ nạn
được hiến dâng để cứu chuộc nhân loại. Công cuộc cứu chuộc cao đẹp nhất của
Người sẽ thành công? Mọi nỗi chơi vơi cô quạnh của thập giá mọi hình phạt mà
Người sẽ gánh trên lưng, mọi vết thương xé ra ở tay chân đẫm máu của người.
Người biết, biết chắc chắn là điều đó có ích. Người đã cứu thế gian, khi tiến
lên ‘Giêrusalem’. Giakêu là hoa trái đầu mùa. Hỡi hạn, là người tội lỗi, bạn đã
được Thiên Chúa tạo dựng chỉ để ‘xem’ khuôn mặt của Người. Hỡi bạn, là người
tội lỗi, hay nhận ra mình được tha thứ khi ánh mắt bạn gặp ánh mắt của Đấng yêu
thương bạn.
“Này ông Giakêu, xuống
mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!”
Qua những lời ấy,
chúng ta đoán ra rang chính Đức Giêsu đã tìm kiếm Giakêu. Mọi sụ diễn ra như
thể Đức Giêsu đã dự kiến hành động của Người: Đức Giêsu được mời đến nhà ông và
ông được ưu tiên chọn lựa đối với mọi người khác ở Giêrikhô. Người đã chọn lựa
kẻ thấp hèn nhất, kẻ bị khinh bỉ nhất.
Đó là cách mà Đức
Giêsu dùng để yêu cầu một người nào đó phục vụ Người để rồi Người ban cho họ
một ân sủng của bậc đế vướng: hoàng tử trở thành người ăn xin để ban cho mà
không làm thương tổn.
Đức Giêsu dường như
chỉ là một người giảng thuyết lưu động tìm một bữa ăn và một 'cái giường để
nghỉ qua đêm. Và thân mật biết bao trong sự vội vàng ấy! “Này ông Giakêu xuống
mau đi!” như thể Đức Giêsu muốn nói: Này ông Giakêu, tôi rất đói, mau lên nào!
Cũng thế, Đức Giêsu đã xin nước uống của một phụ nữ Samari bị bỏ rơi, bên bờ
giảng. Cũng thế Người đã chấp nhận việc xức dầu thơm của người đàn bà tội lỗi
nhân ông Simon, một người Pharisêu.
Ông vội vàng tụt
xuống, và mừng rỡ đón rước Người.
Sự vội vàng khi ông từ
cây nhào bổ xuống tương ứng với sự vội vàng của Đức Giêsu.
Niềm vui là dấu chỉ sự
gặp gỡ với Đức Giêsu. Một khoảnh khắc vui mừng và hân hoan ngắn ngủ, kể từ Bài
ca Ngợi khen (Magnificat) của Đức Maria qua niềm vui của hai môn đệ trở về
Emmau.
Còn bạn, là người tội
lỗi, bạn có những lúc vui mừng không?
Thấy vậy, mọi người
xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!”
Đức Giêsu đã từng đòi
hỏi không được gây ra những cớ làm cho người ta vấp ngã (Lc 17,1.3) nhưng chính
Người đôi lúc không ngần ngại gây ra bởi những thái độ không phù hớp với dư
luận của thời đại Người; đặc biệt vì lòng nhân từ khác thường của Người đối với
những tội lỗi! Đức Giêsu là “Cứu Chúa” đến độ làm người ta vì thế mà khó chịu.
Người tha thứ đến độ gây cớ vấp ngã cho những người công chính.
Ông Giakêu đứng đó
thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người
nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.”
Thánh Ambrosiô trong
bài thuyết giảng của ngài ở Milan đã nói “Không có lỗi khi mình giàu, nhưng khi
mình không biết sử dụng tài sản của mình... “ Và toàn bộ Tin Mừng của Thánh
Luca dường như muốn nói rằng cách duy nhất sử dụng hợp lý tài sản của thế gian
này là chi dùng nó, đem cho nó đi! “Hãy bán của cải mình đi mà bố thí” (Lc
12,33). “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn hữu (Lc 16,9).
Giakêu đã bị đảo lộn
bởi lòng quảng đại của Đức Giêsu đối với ông. Ông muốn đem lại cũng niềm vui ấy
cho những Người khác.
Giakêu khốn khổ với
tất cả vàng bạc của mình.
Giakêu hoàn toàn sung
sướng khi chia sẻ niềm vui.
Đức Giêsu mới nói về
ông ta rằng: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con
cháu tổ phụ Abraham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.”
Đức Giêsu đã qua những
giờ nói chuyện trực diện với Giakêu. Họ đã nói với nhau điều gì? Họ đã ăn uống
cùng bàn... mặt giáp mặt. Trong mọi tôn giáo kể cả tôn giáo ở Israel, Thiên
Chúa là Đấng đáng sợ mà Đền thờ khuyến khích sự kính sợ linh thiêng đó.
Trong Đức Giêsu, chính
Thiên Chúa di chuyển và đến ở nhà kẻ tội lỗi; vậy từ ngày đó, các nhà thờ, kể
cả những đại thánh đường chỉ là ngôi nhà khiêm tốn của Giakêu; nơi mà những lũ
tội nhân và các thánh tìm gặp nhau với Thiên Chúa trong tình huynh đệ. Giáo Hội
chuộc “những gì đã mất”.
Giờ đây, Giakêu có thể
mang tên thật của mình: “Người thanh khiết”, người được thanh khiết hóa.
(Suy niệm của Lm.
Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Đọc câu chuyện ông Gia
kêu có lẽ ai cũng phải nực cười xen lẫn cảm động. Cái nực cười thứ nhất là Gia
kêu thấp bé, vóc người không giống ai. Cái nực cười thứ hai, ông Gia kêu làm
trưởng ban thu thuế thời Chúa Giêsu. Gia kêu lúc nào xem ra cũng rổn rẻng với
tiền bạc, với việc làm giầu vv…Con người bề ngoài khác thường về vóc dáng,
nhưng thực tế lại là một con người đầy lòng nhân từ, biết sám hối, biết hối
cải. Chúa Nhật 31 thường niên cho chúng ta một cái nhìn rất thực tế, đầy an ủi
về lòng nhân từ bao la của Chúa:” Lạy Chúa, Chúa sẽ dạy con đường về cõi sống:
Trước Thanh Nhan, ôi vui sướng tràn trề “( Tv 15, 11 ).
Gia kêu nếu xét theo
một nghĩa nào đó thực là một người đáng ghét, đáng khinh vì ông làm việc cho đế
quốc Roma, làm nghề thuế vụ, làm trưởng ban thuế, làm cái nghề tiếp tay với
ngọai bang bóc lột dân chúng. Gia kêu giầu có, có quyền lực vì ông làm việc cho
đế quốc Roma. Dân Do Thái không ưa ông, ghét ông, xếp ông vào hàng tội lỗi và
đặt ông ngang hàng với bọn điếm đàng. Đối với dân Do Thái, ông không thể ăn
năn, không thể hối cải. Ông đáng sa vào hỏa ngục lửa thiêu. Thế nhưng, Chúa Giêsu
lại chọn nhà ông Gia kêu để ghé thăm nhà ông. Gia kêu chỉ muốn nhìn Chúa Giêsu
đi ngang chứ làm sao dám mời Chúa Giêsu ghé thăm nhà ông được. Chúa Giêsu đã
làm một việc không ai ngờ được. Chúa đã chọn nhà ông Gia kêu. Chúa Giêsu đã
chứng tỏ Người được Thánh Thần hướng dẫn khi thấy ông Gia kêu giữa đám đông.
Chúa Giêsu minh chứng Người đã tới Giê-ri-khô để cứu một người giầu có.Tuy
nhiên, người Do Thái vẫn dị nghị, vẫn hiểu lầm Chúa và hiểu lầm cả ông Gia kêu.
Họ cho rằng “ Chúa lại vào ở nhà người tội lỗi “. Nhưng thực ra Chúa Giêsu hiểu
mọi người và hiểu ông Gia kêu. Chúa đến nhà của Gia kêu không phải vì miếng ăn,
vì bữa tiệc, vì chén rượu, chén trà, nhưng vì ơn cứu rỗi của ông và của gia
quyến ông. Dịp này, ông Gia kêu và cả gia đình ông đã công khai thú tội trước
mặt Chúa Giêsu và trước mặt mọi người dự tiệc, và hứa “ xin bán đi nửa gia tài,
phân chia cho kẻ nghèo khó, và đền trả một gấp bốn cho những ai ông gây thiệt
hại”( Lc 19, 8 ). Chúa Giêsu đã nói về ông:” Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà
này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham” (Lc 19, 9 ).
Tự sức con người, con
người không thể làm lành, nhưng Thiên Chúa có thể làm được tất cả. Chúng ta hãy
đọc các đọan Tin Mừng như:” Con chiên lạc. Đồng bạc đánh mất. Người con hoang
đàng. Người phụ nữ ngọai tình vv…” để thấy lòng nhân từ của Thiên Chúa như thế
nào. Con người phản nghịch, con người tội lỗi nhưng Thiên Chúa không bao giờ bỏ
rơi con người. Thiên Chúa yêu con người và không muốn để bất cứ ai bị hư mất.
Ông Gia kêu dư biết thiên hạ ganh ghét ông và thèm được như ông. Gia kêu đâu có
phải là người xấu bụng dù rằng ông đã nhúng tay vào việc thật xấu xa, nhưng
trong cõi lòng sâu kín của ông vẫn còn chứa chất điều thiện, ông thầm tin tưởng
và cám ơn Chúa Giêsu mà ông coi như một vị ngôn sứ lớn. Ông tha thiết muốn gặp
gỡ Chúa Giêsu, do đó ông và cả gia đình ông đã được ơn cứu độ. Chúa đã giải
thoát cho ông và gia đình ông khỏi tội lỗi, khỏi hư đi. Ân huệ cao vời Chúa ban
cho ông khiến ông đã bộc lộ tất cả những gì là tốt lành, là nhân ái, còn chứa
trong nỗi lòng sâu kín nhất của ông. Gia kêu đã trở nên mẫu gương cho những ai
biết đón nhận ơn tha thứ bằng việc thật tâm hối cải, quay trở về với Chúa. Đúng
thật, Chúa tới để tìm kiếm những gì đã hư mất.
Bí Tích Giải Tội là Bí
Tích do Chúa Giêsu thiết lập và là một hồng ân cao vời Chúa ban cho nhân lọai.
Đây là phươn thế giúp chúng ta làm hòa với Chúa, với Giáo Hội và với anh chị
em,là phương thế Chúa ban lại sự an bình tâm hồn cho con người và thêm sức mạnh
cho tương lai, trả lại tình trạng trong sáng đã bị tội lỗi làm lu mờ. Bí Tích
Giải Tội nối những gì tội lỗi đã làm con người xa lìa Thiên Chúa. Do đó, chúng
ta phải yêu mến Bí Tích Giải Tội và luôn siêng năng lãnh nhận Bí Tích Giao Hòa
để được gần gũi Thiên Chúa, gần gũi Giáo Hội và gần gũi anh chị em.
Lạy Chúa xin cho chúng
con có tấm lòng như Chúa, có đôi mắt của Chúa để chúng con luôn biết cảm thông
với những yếu hèn của người khác. Amen.