Lời Chúa cntn 31c _ cac bài suy niệm

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN C
Kn 11,22–12,2; 2Tx 1,11–2,2; Lc 19, 1-10

MỤC LỤC


1. Đấng đổi mới cuộc đời
2. Vòng tay tha thứ
3. Đổi đời
4. Ánh mắt yêu thương _ TGM Ngô Quang Kiệt
5. Chúa Nhật 31 TN
6. Có một cái nhìn như thế – Thiên Phúc
7. Tình thương làm thay đổi lòng người
8. Hôm nay nhà này được giải thoát.
9. Trở về – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
10. Hoán cải đích thực – Radio Veritas Asia
11. Chúa Nhật 31 TN C
12. Giakêu, một con lừa chui qua lỗ kim – RC.
13. Chia sẻ – Lm Giuse Lê Minh Thông
14. Niềm vui của Thiên Chúa
15. Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
16. Sám hối
17. Thiên Chúa là Đấng Cứu độ – An Phong
18. Nghệ thuật cảm hóa lòng người của Chúa Giêsu
19. Biến đổi
20. Đổi mới cuộc đời – Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
21. Hoán cải từ con tim
22. Tôi phải lưu lại nhà anh
23. Sống đức ái – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
24. Viếng thăm nhau – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
25. Tầm cao của Phúc Âm Achille Degeest
26. Con Người đến để tìm và cứu
27. Chúng ta thì giống như Giakêu
28. Gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình
29. Tình yêu làm kinh ngạc - McCarthy
30. Từ khán giả đến người tiếp cận - McCarthy
31. Người tội lỗi - R. Gutzwiller
32. Hôm nay nhà này được giải thoát.
33. Tiền bạc
34. Người tội lỗi hay người công chính
35. Đền tội
36. Đổi đời
37. Hoán cải
38. Hoán cải
39. Thiên Chúa yêu thương
40. Biến đổi nhờ nhận ra Chúa yêu thương và tin tưởng
41. Chúa Nhật 31 TN
42. Gặp Chúa - Khơi nguồn cho đổi mới
43. Ơn cứu độ – Lm. Vũ Minh Nghiễm
44. Thiên Chúa từ bi và nhân hậu – Lm. Thanh Minh
45. Tình thương biến đổi – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
46. Suy niệm Tin Mừng Lc 19, 1-10
47. Kiểu mẫu người môn đệ Chúa Kitô: sống chia sẻ
48. Gặp gỡ ơn cứu độ – Lm. FX Vũ Phan Long
49. Chú giải của Noel Quesson
50. Lùn thấp bé nhưng …

Hôm nay ơn cứu độ Lm Giuse Đinh tất Quý
Để tìm và cứu những gì đã mất...Lm Giuse Đinh tất Quý
Sám hối cụ thể như Za kêu Lm. Phêrô Lê văn Chính
Hãy xuồng để đón nhận... Lm. Đaminh Lâm Quang Khánh
Thánh vịnh & Đáp- ca Nhóm Thánh Vịnh Nauy
Chúa vào nhà kẻ tội lỗi Catholic.org.tw
Chúa cứu vớt người tội lỗi Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Con người được đổi mới Lm Giuse Đinh lập Liễm
Nghệ thuật cảm hóa long người... Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Thiên Chúa đi tìm Lm Gioan M. Thiên Khải, CMC
Chúng ta giống như Gia kêu Charles E. Miller
Gặp gỡ Đức Ki tô... Niềm Vui Chia Sẻ
Cái hố Cha Mark Link, S.J.
Đi tìm và cứu những gì đã mất William Barclay
Hoán cải và quảng đại Lm. Đan Vinh
Lòng thương xót Lm. Trần thanh Sơn
Thiên Chúa từ bi và nhân hậu Lm. Thanh Minh
Ơn cứu độ Lm. Vũ minh Nghiễm
Gặp gỡ Đức Ki tô Lm. Bùi quang Tuấn
Trân trọng và yêu thương Suy Niệm của JKN
Ơn cứu độ đã đến cho nhà này Đinh ngọc Thiệu
Cần tình thương và gương sáng Suy Niệm của JKN
Giải thoát  Sưu tầm
Sẵn sàng đáp trả  Sưu tầm
Tình yêu  Sưu tầm
Tham dự  Sưu tầm
Cái nhìn  Sưu tầm
Đời đời  Sưu tầm
Tôi muốn bạn yêu tôi  Sưu tầm
Nơi chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa  Sưu tầm
Cấm vào nhà kẻ có tội PM. CAO HUY HOÀNG

 



Giakêu là người thu thuế giàu có tại Giêricô. Và như chúng ta đã biết, dân chúng, nhất là những người đạo đức thường khinh bỉ những làm làm nghề thu thuế, nối giáo cho quân đội Rôma để bóc lột đồng bào của mình. Họ thường bị đồng hoá với những kẻ độc ác, bất công và tội lỗi, do đó bị loại trừ khỏi cộng đồng dân Chúa.
Ông Giakêu hẳn đã từng được nghe nói nhiều về Chúa Giêsu. Và quả thực lúc này Chúa Giêsu đã trở thành một nhân vật được đông đảo quần chúng biết đến, vì những lời Ngài giảng dạy và những việc Ngài làm, nhất là về lập trường và thái độ của Ngài. Phúc Âm kể lại: Rất đông người vây quanh Chúa Giêsu khiến cho ông Giakêu muốn được nhìn thấy Ngài nhưng không sao được, vì ông thấp bé. Nhưng ông không chịu thua. Ông chạy lên phía trước, đón đường Chúa và để chắc ăn, ông đã trèo lên một cây sung. Thái độ của Giakêu có thể là vì tò mò nhưng lại cũng là một điều thuận lợi để ông đi vào quan hệ với Chúa Giêsu.
Thế nhưng, Chúa Giêsu vẫn là người đi bước trước. Vừa thấy Giakêu, trước cả khi ông kịp nói lên một lời nào đó, Chúa Giêsu đã ngỏ lời với ông và trong lời ngỏ cùng Giakêu, Ngài đã dành cho ông một ân huệ lớn lao hơn cả điều ông có thể tưởng tượng ra. Ngài ngỏ ý muốn lưu lại tại nhà ông. Đó quả là điều ông không hề nghĩ tới. Ông phải là người hiểu rõ địa vị của ông hơn ai hết, vì ngay cả khi Ngài đến tại nhà ông, thì mọi người vẫn còn lẩm bẩm: Ông này lại đến trọ nhà một kẻ tội lỗi.
Nhưng điều bất ngờ lớn nhất đã xảy ra đó là cuộc viếng thăm của Chúa Giêsu đã hoàn toàn biến đổi con người ông. Cuộc viếng thăm ấy đã đánh dấu một khúc quanh trong cuộc đời một người thu thuế. Trước cả khi Chúa Giêsu nói một lời nào về tội lỗi của ông, thì ông đã tự động đề ra biện pháp để sửa đổi những lầm lỗi ông đã phạm. Biện pháp đó gồm hai phần: Phần thứ nhất là bố thí cho kẻ khó, và ông bố thí tới nửa phần ba gia tài của ông. Ông làm việc bố thí này hoàn toàn vì lòng đại lượng. Phần thứ hai là đền bù cho những người ông đã gây thiệt hại. Ông sẵn sàng đền bù gấp bốn lần, nghĩa là vượt quá điều luật buộc của người Do Thái, nhưng lại phù hợp với hình phạt của luật Rôma dành cho tội ăn cắp tỏ tường. Ông Giakêu quả là đã có được một sự độ lượng.
Lời Chúa Giêsu kết thúc có một ý nghĩa đặc biệt. Trước hết đó là lời tuyên bố ơn cứu độ được ban cho nhà, nơi Chúa Giêsu lưu lại, dù đó là nhà của Giakêu, người thu thuế. Đồng thời đây cũng là lời đặt ông Giakêu vào lại vị trí của ông trong cộng đồng dân Chúa, trong dòng dõi Abraham. Và cuối cùng Ngài đã mạc khải cho chúng ta chân lý lạ lùng này, đó là Ngài đến tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư đi.
Giakêu đã được gặp Chúa và cuộc gặp gỡ này đã đổi mới cuộc đời ông. Trong sự đổi mới này, ông đã không chỉ trở lại với Chúa mà còn trở lại với anh em, với những người chung quanh, nhất là với những người ông đã làm thiệt hại. Liệu chúng ta đã thực sự gặp gỡ Chúa hay chưa, và nhất là chúng ta đã thực sự đổi mới cuộc đời chúng ta hay chưa.


Nhiều người trong chúng ta có một cái nhìn sai lạc về Thiên Chúa. Đối với họ Thiên Chúa thường là một ông cảnh sát đầy quyền năng, luôn đứng bên lề cuộc đời để biên phạt những hành động sai trái. Trong khi đó Đức Kitô đã tỏ lộ cho chúng ta thấy Thiên Chúa là một người Cha nhân từ hằng yêu thương chăm sóc chúng ta, và đặc biệt Ngài sẵn sàng tha thứ những lầm lỗi của chúng ta. Ngài hằng mong ước cho chúng ta, những người con của Ngài được hạnh phúc.
Sách Khôn Ngoan đã viết: Chúa thương xót mọi người và Ngài nhắm mắt trước những tội lỗi của những kẻ thực lòng sám hối. Lòng nhân từ và thương xót ấy ngày hôm nay được biểu lộ một cách cụ thể qua câu chuyện về ông Giakêu. Ông ta là một người thu thuế giàu có tại Giêricô. Dưới mắt những người Do Thái, thì những kẻ làm nghề thu thuế bị đồng hoá với phường tội lỗi, vì họ tiếp tay với đế quốc Lamã, bóc lột đồng bào của mình, để nuôi sống kẻ thù và làm giàu cho bản thân. Chính vì thế mà họ bị loại trừ khỏi cộng đồng dân Chúa.
Từ lâu Giakêu hẳn thường nghe nói nhiều về Chúa Giêsu và ao ước được gặp gỡ với Người. Vì thế khi hay biết Người sắp đi qua nơi đó, Giakêu đã trèo lên một cây sung vì ông là một người thấp bé, và dân chúng thì lại đông đảo vây quanh Người. Thế rồi, Chúa Giêsu đã nhận ra ông, Ngài nói: Hỡi Giakêu hãy xuống mau vì hôm nay Ta muốn lưu lại tại nhà ngươi.
Hẳn chúng ta sẽ ngạc nhiên trước một lời nói như thế. Ngài đã dành cho ông một vinh dự quá to lớn, phải chăng Ngài đã đảo lộn bậc thang giá trị? Phải chăng Ngài khích lệ những kẻ bóc lột, gian tham và độc ác? Chính Giakêu cũng ngạc nhiên không kém trước tình yêu Ngài dành cho ông. Trong khi mọi người thù ghét ông thì Ngài lại yêu thương ông. Chính tình yêu này đã chuyển hướng cuộc đời ông, đưa ông vào một khúc quanh mới, thắp lên trong tâm hồn ông một ngọn lửa nhiệt thành.
Từ thẳm sâu cõi lòng, ông cảm thấy chính mình cần phải uốn nắn sửa đổi lại những sai lỗi khuyết điểm, đền bù những thiệt hại trong dĩ vãng để xứng đáng với tình thương yêu ấy. Lập tức ông đã quyết định: Thưa Thầy, con sẽ bố thí một nửa phần sản nghiệp của con. Và nếu như con đã làm thiệt hại ai thì con sẽ đền trả gấp bốn. Chúa Giêsu thấu suốt cõi lòng ông, Ngài đã cảm động khi nói với ông: Ngày hôm nay nhà này được ơn cứu độ vì cũng là con cháu Abraham. Chúa Giêsu đã chống lại những thiên kiến của người đời, Ngài đã xác quyết: Con Người đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì đã hư đi.
Dù cuộc đời chúng ta có chồng chất tội lỗi, chúng ta đừng vội thất vọng, hãy ngước nhìn Chúa, hãy tìm gặp Ngài với lòng yêu mến chân thành, bởi vì lúc nào Ngài cũng mở rộng vòng tay chờ đón để tha thứ cho chúng ta.


Trong cuộc sống, có nhiều người đã thoát xác, đã đổi đời một cách bất ngờ để trở nên tốt lành và thánh thiện.
Phanxicô Borgia đã từ bỏ chức vị tại triều đình khi đứng trước thi thể rữa thối của hoàng hậu Isabella. Phanxicô Xaviê đã trở nên một vị tông đồ Á châu chỉ vì lời Kinh Thánh mà Ignatio không ngừng nhắc đến mỗi khi gặp gỡ: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi chi. Magueritte de Cortone đã xa lìa nếp sống tội lỗi và trở nên một vị thánh trước cái chết của người tình. Và ngày hôm nay, ông Giakêu cũng đã thực hiện một cuộc đổi đời, một cuộc thoát xác như thế.
Thực vậy, khi trèo lên cây sung để nhìn xem Chúa Giêsu, có lẽ ông chỉ muốn thoả mãn tính tò mò của mình cứ chẳng có nghĩ ngợi xa xôi gì. Thế nhưng thật bất ngờ là sự việc tưởng như vô nghĩa này đã đưa ông đi rất xa, đánh dấu một khúc quanh, mở ra một huyết mới có tính cách quyết định toàn bộ cuộc đời của ông.
Từ đó chúng ta nhận thấy Chúa thường đến với chúng ta, thường bước vào cuộc đời chúng ta một cách bất ngờ, bằng những con đường đầy bí ẩn, hầu dẫn chúng ta tới những nơi thật xa lạ. Ngài luôn chủ động, đưa ra sáng kiến và chọn lựa chúng ta như lời Ngài đã phán: Không phải các con chọn Thầy nhưng chính Thầy đã chọn các con.
Phần chúng ta là phải nắm lấy cơ hội một cách đúng lúc, chấp nhận sáng kiến của Chúa và cùng bước đi với Ngài trên nẻo đường Ngài đã mở ra. Điều quan trọng đó là đừng lỡ hẹn với Ngài. Bởi vì cơ hội bỏ qua sẽ không bao giờ trở lại.
Nếu như ngày hôm nay, ông Giakêu không muốn xem thấy Chúa hay không đón nhận Ngài đến thăm nhà ông, thì có lẽ đã chẳng xảy ra sự gì, để rồi ông mãi mãi vẫn là một người thu thuế, mải mê làm giàu một cách bất chính. Thế nhưng ngày hôm nay, một con đường mới đã mở ra cho ông, một cuộc sống mới đã bùng lên trong ông và một con người mới được khai sinh nơi cõi lòng ông. Cuộc đổi đời của ông đã diễn ra tức khắc và triệt để.
Tức khắc bởi vì ông không xin được gia hạn, được trì hoãn, và bởi vì ông biết rằng nếu không thực hiện ngay hôm nay, ngay lúc này thì cũng sẽ chẳng bao giờ thực hiện được.
Triệt để bởi vì ông sẵn sàng chấp nhận mọi hậu quả của cuộc hoán cải: chia tài sản cho người nghèo túng, đền bù gấp bốn cho những thiệt hại mình đã gây nên. Cuộc hoán cải nào cũng có cái giá phải trả. Có sẵn lòng trả thì mới là hoán cải thực sự.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã quyết tâm trở lại với Chúa biết bao nhiêu lần, nhưng có lẽ chưa một lần chúng ta đã trở lại thật sự với Ngài. Phải chăng, vì sợ phải trả cái giá đắt ấy mà chúng ta cứ còn trì hoãn, và thoái thác mãi.


(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Mỗi khi đọc câu chuyện ông Giakêu, tôi ngỡ ngàng trước ánh mắt của Chúa Giêsu khi Ngài nhìn lên ông Giakêu trên cây sung. Ánh mắt ấy có sức mạnh kỳ lạ. Ánh mắt ấy chất chứa bao tâm tình. Chỉ trong một ánh mắt cuộc đời Giakêu hoàn toàn biến đổi.
Đó là ánh mắt quan tâm. Chúa Giêsu vào thành Giêricô. Giêricô là một thành phố rộng lớn, người đông đúc, buôn bán sầm uất. Một đám đông lớn đi theo Chúa Giêsu. Trong khi đó ông Giakêu thật bé nhỏ. Nên ông phải leo lên cây sung để nhìn Chúa. Thật lạ lùng. Giữa đám đông mênh mông ấy, Chúa vẫn nhìn thấy ông Giakêu, dù ông thấp lùn. Giữa muôn người, Chúa chỉ tìm Giakêu. Lại còn biết rõ tên ông. Điều đó chứng tỏ Chúa quan tâm tới Giakêu, dù ông bé nhỏ trong một đám đông hỗn độn. Giakêu chắc chắn cảm thấy ấm lòng vì ánh mắt quan tâm của Chúa.
Đó là ánh mắt khiêm nhường. Hãy tưởng tượng cảnh Chúa ngước lên nhìn Giakêu. Chúa nhìn lên. Giakêu nhìn xuống. Thật là một cảnh tượng phi thường. Người có tầm vóc cao lớn phải ngước nhìn lên mới gặp ánh mắt người thấp bé. Thiên Chúa phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được phàm nhân. Đấng vô cùng thánh thiện phải ngước mắt nhìn lên mới gặp kẻ tội lỗi tầy trời. Tạo hóa phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được thụ tạo. Đấng Cứu Độ phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được kẻ cần được cứu. Đấng tha tội phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được kẻ cần được thứ tha. Thật là một sự khiêm nhường thẳm sâu. Giakêu chắc chắn phải choáng váng vì ánh mắt khiêm nhường của Chúa.
Đó là ánh mắt tha thứ. Nguyên một việc quan tâm tìm kiếm cũng đã chứng tỏ Chúa tha thứ cho ông rồi. Huống hồ Chúa còn khiêm tốn ngước nhìn lên. Hơn thế nữa Chúa còn ngỏ lời muốn đến thăm nhà ông. Giakêu chưa tìm Chúa thì Chúa đã tìm Giakêu. Giakêu chưa gọi Chúa thì Chúa đã gọi Giakêu. Giakêu chưa mời thì Chúa đã ngỏ ý đến nhà. Giakêu chưa xin lỗi thì Chúa đã tha thứ. Ánh mắt tha thứ mới khoan dung độ lượng và ấm áp làm sao. Giakêu chắc chắn tràn đầy niềm hối cải khi nhìn vào ánh mắt tha thứ của Chúa.
Đó là ánh mắt tin tưởng. Chúa Giêsu nhìn Giakêu bằng ánh mắt tin tưởng. Tin tưởng nên không nhìn về quá khứ mà chỉ hướng về tương lai. Chúa quên hết tội lỗi của ông. Hơn thế nữa Chúa tin rằng ông sẽ nên người tốt. Chúa tin rằng ông sẽ làm lại cuộc đời. Chúa tin vào tương lai của ông. Nên Chúa đã nhìn ông. Nên Chúa tha thứ cho ông. Nên Chúa kết thân với ông. Trước ánh mắt tin tưởng của Chúa, chắc chắn Giakêu sẽ cương quyết làm lại cuộc đời.
Đó là ánh mắt yêu thương. Tất cả sẽ không thể giải thích được nếu không có tình yêu. Chúa quan tâm tới Giakêu vì Chúa yêu thương ông, như người mục tử tốt lành đi tìm con chiên lạc. Chúa khiêm nhường vì Chúa yêu thương ông, như người cha cõng con trên vai. Chúa tha thứ vì Chúa yêu thương ông, như người cha sẵn sàng chờ đón đứa con hoang đàng. Chúa tin tưởng vì Chúa yêu thương ông, như người mẹ không khi nào nói rằng con mình xấu, dù nó phạm tội trăm lần. Chúa nhìn ông bằng ánh mắt yêu thương. Ngập tràn trong yêu thương, trái tim Giakêu bừng lên ngọn lửa yêu thương. Đời ông được đốt cháy trong yêu thương. Nên ông đã đáp lại tình yêu thương của Chúa. Vì yêu mến Chúa mà ông yêu thương đồng loại. Yêu thương nên đền bù thiệt hại. Yêu thương nên chia sẻ chân thành.
Lạy Chúa, Chúa luôn nhìn con bằng ánh mắt yêu thương. Xin cho con biết nhìn vào mắt Chúa, nhận ra tình yêu thương của Chúa và biến đổi cuộc đời như ông Giakêu.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Chúa nhìn Giakêu bằng ánh mắt thế nào?
2) Giakêu đã đáp lại ánh mắt của Chúa ra sao?
3) Bạn có bao giờ nhìn thấy ánh mắt Chúa nhìn bạn chưa?
4) Bạn có muốn nhìn tha nhân bằng ánh mắt của Chúa không?


Anh chị em thân mến.
Nhạc sĩ Trần Tiến có một bài hát đi vào lòng người, không phải chỉ những người Việt Nam, nhưng cả người ngoại quốc đến Việt Nam và biết tiếng Việt khá một chút, cũng biết bài hát này.
Bài hát diễn tả tâm tình của một chú bé miền quê, mê tiếng đàn của anh lính xa nhà. Không biết “Đàn anh hát câu gì mà sao chú bé cười ngộ ghê, cũng không biết đàn anh hát câu gì, mà sao chú bé ngồi mơ màng. Hạnh phúc quá đơn sơ....”
Hạnh phúc quá đơn sơ thật, với tiếng đàn nghiệp dư, tiếng đàn để giải sầu cho riêng mình, mà cũng có người tìm được niềm vui. Chú bé tìm đến tiếng đàn của anh lính, chú bé ngất ngây dường như bước vào một cỏi thần tiên.
Cũng một cuộc đi tìm, một biến cố không chỉ làm ngất ngây lòng người trong phút chốc, nhưng cái tìm gặp nầy làm thay đổi cả một đời người. Đó là sự tìm gặp giữa Chúa Giêsu và Giakêô.
Giakêô muốn tìm Chúa, muốn nhìn thấy Chúa Giêsu. Nhưng lực bất tòng tâm, tầm vóc của ông không đủ để vượt qua đám đông để cho ông có thể nhìn thấy Chúa Giêsu. Thân phận của ông cũng khó công khai đến gần những người được gọi là đạo đức, vì ông là thủ lãnh người thu thuế, là người mang tội với dân tộc. Nhưng ông không chịu thua số phận, ông vượt lên số phận, tìm cách vượt qua những trở ngại.
Với những cố gắng như thế, ông đã nhận được hơn cái mình mơ ước. Ong chưa nhìn thấy Chúa Giêsu thì Ngài đã nhìn thấy ông, không chỉ thế, Ngài còn gọi đúng tên ông, ngoài sức tưởng tượng, Ngài còn nhả ý ngụ tại nhà ông. Niềm vui tràn ngập cỏi lòng, ông bất chấp những người chung quanh, bất chấp hoàn cảnh sống, cái hoàn cảnh không cho ông có cơ hội đỗi đời. Giờ đây ông ông không bỏ lở cơ hội mà ông có được. Ong làm một cuộc đỗi mới ngoạn mục, việc làm của ông còn hơn việc làm của một người đạo đức bình thường, ông đã sẵn sàng và Chúa Giêsu nhìn thấy sự đỗi mới này nên Ngài thốt lên: “Hôm nay nàh này được ơn cứu độ, vì ông cũng là con cái Abraham”.
Một sự tìm kiếm, một cái nhìn thông cảm, hơn cả tiếng sét ái tình, một cuộc chạm trán làm thay đổi đời người. Giakêô đi tìm và đã tìm được hơn cái mình muốn tìm, ông không thể nào ngồi yên bất động, nhưng ông nghe tiếng Chúa nên ông phải đi, phải hành động. Không phải chỉ hành động bằng đôi tay, nhưng bằng cả con người của ông. Ong không để cho con người mình bất động trong những gì mà người khác gọi là tội lỗi, ông đã bước ra khỏi đó, để trở thành một người mới hoàn toàn.
Câu chuyện của ngày xưa, nhưng không xưa, câu chuyện vẫn còn mang tính cách hiện đại cho những người thời nay, cho mỗi người trong chúng ta. Giakêô chỉ ao ước nhìn thấy Chúa, nhưng ông được Chúa đến ở tại nhà và như thế sự đỗi mới đã xẩy ra. Cũng như chú bé trong bài hát Mặt Trời Bé Con của nhạc sĩ Trần Tiến, chỉ cần tìm đến nghe tiếng đàn, chú bé có thể đỗi đời được từ buồn, đã đỗi sang vui và mơ màng. Còn chúng ta, chúng ta có tìm và chúng ta có gặp được gì chưa?
Mỗi người để ra một giây phút nhìn lại mình, xem đời sống mình có gì mới hơn so với những ngày tháng trước đó. Hay chúng ta vẫn tự hào về đời sống của mình, rồi tự cho là thánh thiện đạo đức, nên không cần phải thay đổi gì nữa. Nếu có thay đổi thì người khác, những người tội lỗi, những người mà chúng ta đã từng chỉ trích và khinh dể họ, vì họ có đời sống mà chúng ta cho là không xứng đáng. Như thế thì chúng ta đang đứng về phía đám đông đi theo Chúa Giêsu, họ cũng cho mình là đạo đức thánh thiện xứng đáng hơn Giakêô, họ đã che khuất tầm nhìn của ông, họ đã khinh dể chỉ trích ông và chỉ trích cả Chúa Giêsu. Họ cũng đã tự hào về chính mình. Nhưng Chúa Giêsu không ghé vào nhà của người nào trong họ, mà lại ghé nhà người mà họ khinh dể, vì ông ta nhìn thấy chính mình và biết thay đổi cuộc sống.
Còn chúng ta, không phải Chúa Giêsu chỉ ghé qua, nhưng Ngài luôn ở trongtâm hồn mỗi người. Ngài không chỉ nhìn và kêu gọi, nhưng Ngài hằng hoạt động và kêu mời liên tục. Nếu chúng ta biết lắng nghe, biết từ bỏ những gì làm cho chúng ta trở thành không xứng đáng, khi đó chúng ta cũng được nghe Chúa Giêsu nói như đã nói với Giakêô: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ”.
Xin Chúa chúc lành cho cuộc sống chúng ta mỗi ngày biết thay đổi cho tốt hơn.


(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Nhiều đệ tử đang theo học Thiền định dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Một người trong bọn họ thường hay thức dậy ban đêm, vượt tường ra phố để dạo mát cho thỏa thích.
Một đêm kia, Sengai đi giám thị phòng ngủ, thấy một đệ tử vắng mặt và cũng khám phá ra được chiếc ghế đẩu cao mà anh ta thường dùng để leo qua tường. Sengai dời chiếc ghế đi chỗ khác và đứng thay vào chỗ đó. Khi anh chàng rong chơi trở về, không biết rằng Sengai là chiếc ghế, anh ta đặt chân lên đầu thầy và nhảy xuống đất. Lúc khám phá ra việc mình đã làm, anh ta hoảng sợ, nhưng Sengai nhẹ nhàng bảo:
- Sáng sớm hôm nay trời lạnh lắm. Con hãy cẩn thận kẻo bị cảm đấy?
Từ đó, người đệ tử ấy không bao giờ bỏ ra ngoài ban đêm nữa. Anh chuyên tâm học tập và trở thành người đệ tử gương mẫu của thầy Sengai.
Thiên Chúa không những tế nhị, dịu dàng, và nhân từ như thầy Sengai mà Người còn khoan dung, tha thứ và yêu thương những con người tội lỗi.
Ông Giakêu là một trưởng ty thuế vụ thành Giêricô, một người giàu có vì lạm thu bất chính. Ông bị liệt vào số những kẻ tội lỗi, bị khai trừ và khinh bỉ. Chúa Giêsu không nhìn ông bằng con mắt ấy, Người ngước nhìn ông đang ngồi trên cây sung; một cái nhìn nhân từ như không thấy tội gì trong ông. Chính cái nhìn đầy chân tình và yêu thương ấy đã khiến ông nhìn lại chính mình và quyết tâm đổi mới.
Người nói với ông: “Này Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!”. Hạnh phúc quá bất ngờ: Người không chỉ biết ông đang ở trên cây mà còn biết cả tên ông. Người không chỉ muốn đến thăm mà còn xin ở lại nhà ông. Ông chỉ có một ao ước nhỏ nhoi là được nhìn thấy Người, nhưng Người lại cho ông cả một ân huệ lớn lao vượt quá lòng ông mong ước. Ông chỉ muốn thấy kẻ đã chữa cho anh mù Báctimê là người thế nào, nhưng chính Đấng ấy lại chữa lành đôi mắt tâm hồn ông.
Vâng, chính đôi mắt tâm hồn ông đã bừng sáng, để ông không chỉ thấy một con người bình thường trước mặt, nhưng còn thấy Người chính là Đấng ban ơn cứu độ, đầy lòng nhân từ và xót thương; để ông không chỉ thấy tiền bạc là tất cả nhưng còn thấy cần chia sẻ và trao ban. Ông đã quá vui mừng hứa với Chúa: “Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đến gấp bốn”. Và Chúa chỉ chờ có thế, để nói với mọi người: “Ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”. Thật vậy ở đâu có Chúa hiện diện là có ơn cứu độ, ở đâu có ơn cứu độ là có sự tha thứ. Ông Giakêu đã được thứ tha để được nhận lại làm con cái Abraham, con cái của lòng tin, con cái của Thiên Chúa.
Và chắc chắn, không ai có thể ngăn cản ông ngồi đồng bàn với Chúa, trong bữa tiệc hân hoan ngay sau đó. Chắc chắn, ông Giakêu không còn giàu có như trước nữa, nhưng ông sẽ hạnh phúc hơn nhiều. Chắc chắn thân xác ông vẫn lùn như xưa, nhưng tâm hồn ông đã cao thượng hơn gấp bội. Những người được Chúa “tìm đến và cứu chữa” bao giờ cũng trổi vượt trong nhân cách và kiên vững trong lòng tin.
Lạy Chúa, có rất nhiều người cần chúng con nhìn họ với cái nhìn của Chúa, có rất nhiều người mong chúng con ghé thăm.
Xin cho chúng con một tấm lòng khoan dung như Chúa, và một tâm hồn quảng đại như Giakêu, để cả thế giới này trở nên con cái Abraham, và được hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa. Amen.


“Giang sơn dễ đổi bản tính khó dời”. Đó là cái nhìn của nhiều người. Thế nhưng dù sao thì “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Bản tính đó nhiều khi được hình thành do nhiều yếu tố khác nhau. Chính vì thế chúng ta có cơ sở để nói rằng lòng người có thể thay đổi. Sự thay đổi ấy sẽ tùy thuộc vào cố gắng nỗ lực của bản thân đương sự và nhất là nhờ vào tình yêu thương của tác nhân bên ngoài.
Điều khẳng định trên đây được minh chứng qua hình ảnh ông Dakêu trong đoạn Tin mừng hôm nay. Trước hết chúng ta tìm hiểu những chi tiết cho thấy sự cố gắng nỗ lực của ông. Ông là thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có (Lc 19, 2). Có lẽ, bấy nhiêu vẫn chưa đủ đối với ông, tự đáy lòng mình ông vẫn còn khao khát một điều gì đó và ông nghĩ là chỉ có Chúa Giêsu mới có thể làm cho ông được thỏa lòng. Nghe biết có Chúa Giêsu đi ngang qua thành Giêricô nên ông tìm cách thấy mặt cho được Người. Là thủ lãnh những người thu thuế và do dáng thấp bé quá nên chắc ông không được mọi người ủng hộ. Dầu vậy, ông không chịu đầu hàng với số phận. Đúng như ông bà chúng ta nói cái khó nó ló cái khôn nên: “Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giêsu, vì Người sắp đi qua đó”. (Lc 19, 4).
Những nỗ lực của ông đã được Chúa Giêsu đền bù thỏa lòng vượt khỏi những gì ông mong đợi. “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” (Lc 19, 5b). Câu nói này xuất phát từ một tình thương vô bờ bến của Chúa Giêsu dành cho ông. Một con người dường như không còn giá trị, không còn ích lợi gì cho đời nữa. Thể lý thì thấp bé, đã vậy còn là thủ lãnh những người thu thuế. Đối với xã hội Do thái nghề thu thuế được coi là nghề tội lỗi công khai. Cho nên, không ai còn ưa thích ông, mọi người đều tìm cách xa lánh. Thiết nghĩ ông sẽ rất đau khổ. Nỗi thống khỗ ấy không ai nhìn thấy nhưng Chúa Giêsu đã nhìn thấy.
Chi tiết hết sức đẹp trong đoạn Tin mừng hôm nay là sự thay đổi của ông Dakêu: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” (Lc 19,8b). Từ một con người chỉ biết thu góp tích trữ cho mình bây giờ ông đã thay đổi trở thành một con người biết mở ra cho người khác.
Có nhiều lúc chúng ta cảm thấy mình như lạc lỏng giữa cộng đoàn vì tội lỗi hay vì lý do nào đó. Không còn ai hiểu mình, mọi người đều xa lánh. Những lúc ấy chúng ta hãy tin tưởng đặt trọn con người mình vào vòng tay yêu thương của Chúa Giêsu. Hãy noi gương ông Dakêu vượt qua số phận và dự luận để đến múc lấy nguồn ơn của Chúa Giêsu. Và rồi chúng ta cũng được kêu mời noi guơng Chúa Giêsu dùng tình thương mà đến với anh chị em mình. Biết đâu nhờ tình thương của mình mà họ được thay đổi tốt hơn.


(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’ – Veritas)
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một hình ảnh sinh động và thú vị về thái độ của một tay trùm thu thuế có tên là Giakêu. Giakêu là một con người khá đặc biệt. Đặc biệt vì ông ta có vóc dáng quá khiêm tốn, vừa nhỏ vừa lùn. Đặc biệt vì ông ta là một người giàu có ai cũng biết, nhưng sự giàu có của ông là do nghề nghiệp thu thuế, một nghề mà đối với người Do thái bấy giờ là nghề tội lỗi. Tội lỗi với dân tộc vì làm tay sai cho ngoại bang, cho đế quốc đàn áp và bóc lột đồng bào. Tội lỗi với Gia vê Thiên Chúa và với lề luật, vì đã tham nhũng và thủ lận tiền chung bỏ vào túi riêng.
Một người như ông mà lại tò mò đến nỗi phải leo lên cây sung, vì ao ước chỉ được xem thấy Chúa Giêsu và cuối cùng không những được xem thấy mà còn đối diện với Ngài, tiếp đón Ngài vào nhà. Cuộc tiếp xúc này dẫn ông đến việc tự nộp mình vào cuộc đánh tư sản mại bản của chính bản thân ông: “Này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi sẽ phân phát cho người nghèo và nếu tôi có gian lận của ai, tôi sẽ đền gấp bốn”.
Thái độ của Giakêu không phải là thái độ rửa tiền hay chạy tội của một kẻ quan chức tham ô thủ đoạn. Nhưng là một thái độ chân thành hối cải, một thái độ của người nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa và đón nhận ơn cứu độ của Ngài. Một lần và chỉ một lần giữa Đức Giêsu và Giakêu đã làm biến đổi cả cuộc đời. Nhưng dầu sao đi nữa, điều làm cho chúng ta lưu ý chính là dung mạo đích thực của Đức Giêsu, Đấng cứu chuộc đã đến và đang hiện diện giữa nhân loại.
Giakêu hôm nay tôi lưu lại nhà ông và hôm nay ơn được cứu độ đã đến cho nhà này.Vì Con Người đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã mất. Chúa Giêsu không những đã vượt qua và còn phá đổ những giới hạn và những gía trị của tập tục Do thái và những quan niệm của những người biệt phái. Ngài la cà tiếp xúc với những người tội lỗi, Ngài vào nhà và ăn cơm với những người thu thuế. Ngài để cho người đàn bà tội lỗi quấn quít rồi để cho bà lấy tóc lau chân Ngài. Ngài đã cứu chữa những người bệnh tật trong ngày Sabbat.
Hình ảnh của Đức Giêsu cho thấy một Thiên Chúa giống như bài đọc 1 sách Khôn Ngoan: “Thiên Chúa chẳng từ nan để vượt qua những ranh giới ứng kỵ giữa thanh sạch và nhơ uế, giữa thánh thiện và tội lỗi, giữa luật lệ và cứu sống. Ngài đến để gặp gỡ những người mà Ngài yêu thương, Ngài tìm kiếm và cứu độ họ”.
Thái độ của Chúa Giêsu cho thấy một nguồn mạch mới của đời sống Kitô hữu chúng ta, điều cốt uếu của Tin Mừng Đức Kitô chính là ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa chứ không phải do nỗ lực luân lý của con người. Chính thái độ đi bước trước của Chúa Giêsu đã giúp ông Giakêu sám hối và tìm lại được đời sống luân lý tốt đẹp hơn. Chính Thiên Chúa đã đi tìm Giakêu, trước khi ông tìm kiếm Ngài. Ngài đã mời gọi ông trước khi ông thấy gặp Ngài. Quả thực, đúng như điều thánh Phaolô đã xác tín trong thơ Rôma như sau: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là tội nhân”. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.
Thiên Chúa đã luôn luôn tìm kiếm chúng ta, mọi người và từng người, chỉ có điều chúng ta có ao ước gặp Ngài hay không? Chúng ta có dám vượt qua đám đông xô bồ đang bon chen xô lấn cuộc đời để đến với Ngài hay không? Có dám mạnh dạn để đáp trả lời mời gọi của Ngài và đón tiếp Ngài hay không? Nếu chỉ một lần gặp gỡ Đức Giêsu mà Giakêu đã đánh đổi tất cả thì chúng ta hằng ngày đến nhà thờ để hiệp dâng Thánh Lễ, chúng ta có sẵn sàng đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể vào trong tâm hồn và có dám để Thiên Chúa biến đổi chúng ta hay không? Điều còn lại của chúng ta là biết lắng nghe và sẵn sàng đáp trả, dám can đảm sám hối và canh tân đời sống để được ơn cứu độ.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta vững mạnh trong đời sống đức tin để nhận ra tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa đang trao ban cho chúng ta. Xin cho chúng ta can đảm để sẵn sàng đáp trả và đón nhận ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta. Vậy chúng ta hãy cùng nhau tuyên xưng đức tin của mình qua Kinh Tin Kính.


Truyện kể: Công tước D’Ossome, phó vương xứ Napoli, nước Ý. Một hôm, ông đi thị sát chiến thuyền Galère được chèo chống bởi một đội tù nhân đông đảo. Khi gặp các tù nhân, ai cũng kêu ca bào chữa rằng họ là những người vô tội. Chỉ có một tù nhân ngồi ở phía góc cúi đầu, chẳng nói chẳng rằng. Công tước bước đến và dịu dàng hỏi han. Anh nói: Thưa ngài, tôi chẳng có gì để bào chữa. Tôi chịu xứng với tội tôi đã phạm. Công tước quay ra nói với mọi người: Anh này là phạm nhân, hắn không xứng đáng ngồi nơi đây chung đụng với những người vô tội. Ta ra lệnh trục xuất ngay hắn ra khỏi chỗ này. Và thế là, chỉ nhờ vào lòng chân thành biết nhận lỗi. Người tù nhân đã được giải phóng khỏi kiếp nô lệ.
Thiên Chúa là Đấng thánh thiện tốt lành vô cùng. Vì yêu thương, Chúa tạo dựng muôn loài và muôn vật để cùng chung hưởng hạnh phúc. Nhìn ngắm vũ trụ muôn loài thật quá vĩ đại nhưng tình thương của Chúa còn bao la vĩ đại tuyệt vời hơn. Tác giả sách Khôn Ngoan viết: Trước nhan thánh, toàn thể vũ trụ ví tựa hạt cát trên bàn cân, tựa giọt sương mai rơi trên mặt đất (Kn 11, 22). Thụ tao do Chúa dựng nên đều tùy thuộc vào sự an bài của Chúa. Sự hiện hữu của những mầm sống từ loài thực vật nhỏ li ti cho đến những loài vật khổng lồ đều sống dưới sự chở che quan phòng của Thiên Chúa. Mọi loài thọ tạo đều chia sẻ một nguồn sống từ Đấng Tạo Hóa: Lạy Chúa tể là Đấng yêu sự sống, Chúa xử khoan dung với mọi loài, vì mọi loài đều là của Chúa (Kn 11, 26). Mỗi loài thụ tạo đều góp phần làm vinh danh Thiên Chúa từ đời này tới đời kia.
Luật Chúa như kim chỉ nam giúp cho chúng ta tìm ra con đường chính thật. Giống như luật lệ giao thông, trên mọi con đường lớn nhỏ đều có các bảng dẫn lối chỉ đường, vậy mà nhiều người cũng vẫn bị lạc hoặc phạm lỗi. Những ai có bằng lái xe đều phải học biết luật lệ, khi phạm luật thì bị phạt. Chúng ta không thể kêu ca trách móc ai cả. Đời sống đạo cũng thế, có luật Chúa và luật Giáo Hội, chúng ta cố gắng soi mình để sống tốt và sống cho phù hợp với luật dạy. Chúng ta được nhắc nhở canh thức và thức tỉnh lương tâm sống đạo. Sách Khôn Ngoan dậy rằng: Vì thế, những ai sa ngã, Chúa sửa dạy từ từ. Chúa cảnh cáo họ, nhắc cho họ nhớ họ đã phạm tội gì, để họ bỏ điều ác mà tin vào Chúa (Kn 12, 2). Đừng coi thường những huấn lệnh, giới răn và lời khuyên dạy. Có đôi khi chúng ta đang dìm mình trong vũng lầy mà không nhận ra. Sống trong u mê lầm lạc lại tưởng là đang sống trong hoan lạc.
Phúc âm kể câu truyện Chúa Giêsu đi ngang qua làng, thấy ông Giakêu trèo lên cây sung để nhìn xem Chúa. Chúa ngước nhìn lên, ông cúi xuống và hai ánh mắt chạm nhau. Trái tim Chúa xót thương và lòng người thổn thức. Chúa đề nghị ghé thăm nhà ông. Giakêu vui mừng đón tiếp Chúa và ông tự xưng thú tội lỗi mình trước mọi người. Ông Dakêu đứng đó thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, đay phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19, 8). Ánh mắt nhân từ của Chúa đã cải hóa được một tâm hồn tội lỗi. Với lòng chân thành hối lỗi đền bù, Chúa đã cứu ông ra khỏi vũng lầy của gian tham tội lỗi.
Chúa Giêsu rong ruổi đi tìm những con chiên bị lạc. Có nhiều con chiên xa lạc chưa biết đường trở về. Chúa đã tìm và đi cứu: Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất (Lc 19, 10). Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy xin Chúa Cha ban thêm các thợ gặt tâm hồn. Cánh đồng lúa chín bao la nhưng thiếu thợ gặt. Còn biết bao nhiêu người đang bị mê lầm trong tội lỗi mà không nhận biết tin mừng cứu độ. Đôi khi chính chúng ta qúa quen với lối sống ấm êm hưởng thụ và cách sống dung túng trụy lạc, chúng ta không muốn từ bỏ con đường cũ và không muốn bước ra khỏi vũng bùn nhơ nhớp. Buông bỏ tội lỗi thì tiếc xót, vì tội là một cái thú. Chúa thường gởi đến những nhân chứng để đánh động tâm hồn. Chúng ta rất may mắn được lắng nghe lời Chúa chỉ dậy và được Giáo Hội nhắc nhở luôn. Chúng ta cần cầu nguyện xin ơn can đảm để có thái độ dứt khoát với tội lỗi qúa khứ.
Khi đọc Kinh Lạy Cha, chúng ta cầu xin rằng xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Mỗi ngày sống, chúng ta phải đối diện với rất nhiều cơn cám dỗ. Cám dỗ về danh, lợi và thú. Có nghĩa là khi còn sống, thân xác luôn đòi hỏi những nhu cầu rất tự nhiên. Chúng ta luôn có cơ hội để chọn lựa thái độ sống tốt. Cái danh cái lợi, ai mà không thích. Tiền bạc và lạc thú, mấy ai từ chối. Những thói đời tham sân si kéo ghì con người chúng ta lại. Người ta thường nói tới cái ‘thú’ ở đời. Lạc thú dẫn chúng ta vào những si mê quay cuồng trong thú vui nhục dục, tham lam danh lợi, tiền bạc, gian lận bài bạc và buông thả cuộc sống.
Tội lỗi cứ bám sát cuộc đời của chúng ta. Nếu chúng ta không dứt khoát khước từ và dũ bỏ, nó sẽ không buông tha chúng ta. Chúng ta cần tự xét, nhận lỗi và sửa lỗi mình mỗi ngày. Cũng giống như ngày hôm qua chúng ta đã ăn no, ngày hôm nay đói, lại muốn ăn. Hôm qua, chúng ta tắm rửa sạch sẽ mát mẻ, hôm nay lại thấy dơ, nên phải tắm. Sáng thức dậy ra khỏi nhà và đi làm việc. Chiều lại trở về xum họp gia đình. Ai ra đi cũng mong trở về. Kẻ đi lạc, mong tìm được lối ra. Người rơi vào đường lầm, nên tìm đường trở lại. Khi sa ngã phạm tội, cần phải sám hối ăn năn. Tội hôm qua khác tội hôm nay. Cần xưng thú và lãnh ơn tha tội và xin hứa quyết lòng chừa. Mỗi lần phạm tội đều là tội mới trong hoàn cảnh mới. Chúng ta cần tiếp tục sám hối và trở về. Sống mỗi ngày cho trọn vẹn. Mỗi người được mời gọi đổi thay để sống tốt, thánh thiện và hoàn hảo hơn mỗi ngày.
Chúng ta có trí khôn để nhận biết giá trị của không gian và thời gian. Thời gian thuộc về Chúa. Mỗi ngày là một ngày mới hoàn toàn. Những điều chúng ta xem như cũ, cứ lập đi lập lại, nhưng không phải thế. Lời khuyên cũ được nhắc lại trong hoàn cảnh mới và với tâm tình mới. Mười năm trước chúng ta đã nghe câu truyện đó, hôm nay chúng ta được nghe lại cùng câu truyện nhưng đã có nhiều đổi thay. Khi xưa, chúng ta còn trẻ, còn hăng say và còn nhiều vấp ngã. Hôm nay, chúng ta trưởng hơn một chút, chững chạc hơn một tí và có thể nhẫn nại hơn. Điều quan trọng là chúng ta có tốt lành thánh thiện hơn không, hay vẫn dậm chân tại chỗ và đôi khi còn bị thụt lùi. Cho nên lời khuyên răn mời gọi đổi đời, trở về và sửa sai vẫn là cần thiết.
Trong thơ gởi cho giáo đoàn Thessalônica, thánh Phaolô vừa mời gọi và vừa cảnh báo rằng: Nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mạc khải, hoặc đã nói, đã viết thư qủa quyết rằng ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ (2Thes 2, 2). Hãy sống thanh thản trong tư thế chuẩn bị sẵn sàng, chúng ta không phải bồn chồn lo lắng truyện gì sẽ xảy đến. Đừng để lòng bận vướng những oán thù đã qua. Cố gắng sống trọn vẹn giây phút hiện tại trong ân tình với Chúa và với anh chị em.
Lạy Chúa, thân con mỏi mệt, tâm con yếu đuối, lòng con tội lỗi và hồn con lạc xa Chúa. Con xin thành tâm hối lỗi, xin Chúa thứ tha và đưa dắt con về nẻo chính đường ngay.


(Trích dẫn từ ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Gặp gỡ Chúa Giêsu là một biến cố hồng phúc cho con người, nếu người đó không lo sợ hoặc tránh né cuộc gặp gỡ này.
Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Giakêu. Chúng ta có thể ghi nhận hai thái độ trong cuộc gặp gỡ này.
Trước hết là thái độ của những kẻ tự cho mình là công chính mà khinh dễ kẻ khác, không muốn cho kẻ khác đến gặp Chúa và nhận lãnh ơn lành của Chúa. Đó là thái độ của những kẻ lẩm bẩm trách Chúa đã niềm nở đón tiếp những người tội lỗi và ăn uống với họ, bởi vì đối với Chúa không có ai xấu xa tội lỗi đến độ không đáng được hưởng lòng nhân từ tha thứ của Chúa. Liệu chúng ta có thái độ của những kẻ tự cho mình là công chính và khinh dễ người khác không?
Thái độ thứ hai là thái độ của ông Giakêu, người thu thuế trưởng và giầu có. Đối với người Do thái, người thu thuế là kẻ tội lỗi công khai: đó là tội phản bội quê hương cộng tác với ngoại bang, và tội gian lận tiền thuế quá mức qui định. Giakêu là người thu thuế trưởng và giầu có, sự giầu có này theo lý luận của người Do thái, chứng tỏ ông có những hành vi bất chính để làm giầu: thu nhiều, nộp ít, và như vậy ông là một người tội lỗi. Đối với người đồng hương với Giakêu, thì tội của ông không thể tha thứ được; nhưng đối với Chúa Giêsu, Đấng đến tìm và cứu những gì đã hư mất, thì đây là dịp để thể hiện tình thương nhân từ của Thiên Chúa.
Nơi con người tội lỗi Giakêu vẫn còn một khát vọng hướng về Chúa: ông muốn nhìn xem Chúa Giêsu đi qua, và đây là yếu tố căn bản để được Chúa thi ân. Từ một khát khao gặp Chúa đến việc ăn năn trở lại không có khoảng cách không vượt qua được, vì Chúa Giêsu có thể vượt qua khoảng cách này một khi con người đã có sẵn thái độ chờ mong Ngài đến. Thái độ của Giakêu có thể khuyến khích chúng ta trở về với Chúa. Ông đã thể hiện sự trở lại của mình bằng một hành động cụ thể thiết thực: phân chia nửa phần tài sản cho người nghèo và đền bù gấp bốn cho những thiệt hại ông đã gây ra cho kẻ khác.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta thể hiện một cách cụ thể sự hoán cải của mình. Xin cho chúng ta đừng bao giờ đùa giỡn hay lạm dụng lòng nhân từ của Chúa, nhưng luôn biết cộng tác với ơn Chúa và thành tâm trở về với Chúa.


Suốt mấy tuần lễ vừa qua, Lời Chúa nhấn mạnh đến tầm quan trọng của lời cầu nguyện trong đời sống người Kitô hữu chúng ta. Trong Chúa Nhật 29, Đức Giêsu mời gọi chúng ta cầu nguyện kiên trì, như bà goá kiên trì trước vị Thẩm phán bất lương. Còn trong Chúa Nhật vừa rồi, Đức Giêsu lại mời gọi chúng ta cầu nguyện với một tấm lòng khiêm tốn, biết nhận ra những lỗi lầm, yếu đuối của mình, để nhờ đó chúng ta nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa, như người thu thuế cầu nguyện trong Đền Thờ. Sở dĩ Đức Giêsu luôn kêu mời chúng ta cầu nguyện, vì Thiên Chúa, Đấng chúng ta tôn thờ là một người Cha đầy lòng nhân ái. Ngài yêu thương chúng ta “đến nỗi đã ban Con Một của Người, ngõ hầu phàm ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi, nhưng được sự sống đời đời” (Ga 3, 16). Người Con đó chính là Đức Giêsu Kitô, Ngài đã được Chúa Cha sai đến thế gian, không phải để xét xử, nhưng là để chứng tỏ lòng thương xót của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã đến trong thế gian là để ban ơn cứu độ, hay nói như lời Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay, Ngài đến để “tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất”.
Đời sống con người gắn liền với những cuộc gặp gỡ. Có những cuộc gặp gỡ mà người ta háo hức như gặp người yêu, gặp một nhân vật nổi tiếng, gặp một người thân xa cách đã lâu... Tuy nhiên, gặp kẻ khó ưa, gặp tên trấn lột, tên lường gạt... thì chẳng ai mong muốn. Ngoài ra lại có những cuộc gặp gỡ đầy ý nghĩa, có sức hoán cải, làm thay đổi cả con người. Cuộc gặp gỡ như thế không chỉ dừng lại ở gặp mặt, gặp gỡ xã giao, nhưng là cuộc gặp gỡ thâm sâu, gặp gỡ giữa hai tâm hồn. Trang Tin Mừng hôm nay kể lại cho húng ta cuộc gặp gỡ hết sức thú vị giữa Đức Giêsu và Giakêu. Đức Giêsu lại muốn kết thân với Giakêu, kẻ tội lỗi bị mọi người xa lánh. Thế nhưng trong cuộc kết giao này, Đức Giêsu đã cứu được một tội nhân khỏi vòng tội lụy; còn Giakêu, dù là chia nửa gia tài của mình cho người nghèo, nhưng lại được mối lợi thật to. Ông và cả gia đình đón nhận được hồng ân cứu độ. Quả là một cuộc gặp gỡ diệu kỳ đưa đến hoán cải tận căn. Ông Giakêu không những là một người thu thuế, mà còn là thủ lãnh những người thu thuế, tức là một chủ thầu thuế má, nên ông cũng là một người rất giàu có. Người Do thái rất ghét những người thu thuế, coi họ là những người tội lỗi, không thể ăn năn hối cải, không thể tha thứ, làm tay sai cho ngoại bang: thu thế cho đế quốc Rôma. Trong nghề đó, người ta có thể bày rất nhiều trò ma giáo để ăn hối lộ những kẻ muốn trốn thuế, hay muốn giảm thuế phải đóng. Bởi đó, người Do thái ghê tởm những người thu thuế. Ông Giakêu là người như thế. Không những ông bị thiên hạ khinh dể mà còn có thân hình thấp lùn. Tuy nhiên, Ông muốn tìm cách để xem Chúa Giêsu là người như thế nào. Nhưng dân chúng chen chúc chung quanh Chúa đông quá. Ông quyết không bỏ lỡ cơ hội. Một người chủ thầu phải có nhiều sáng kiến. Ông chạy tới trước và leo lên một cây sung bên đường. Ông yên tâm chờ đợi, vì Chúa Giêsu sắp đi ngang qua đó. Lòng ước muốn của ông thật là mãnh liệt, vì ông không sợ đám đông chế diễu. Ông chỉ còn biết một điều là làm sao thấy được mặt Chúa Giêsu. Quả thực, ông đã có thiện chí. Bấy nhiêu đã đủ để Chúa trọng thưởng tấm lòng chân thành của ông.
Giakêu muốn gặp mặt Đức Giêsu, không kèn, không trống, không kẻ hầu người hạ. Ông đi một mình trơ trụi, bị đẩy lại sau những kẻ tò mò, và điều hạ nhục ông là ông phải làm một chuyện kỳ dị đối với một viên chức cao cấp. Có thể nói ông đã làm một bước nhảy vọt, vượt trên mọi dư luận, mọi thành kiến. Ông làm tất cả những điều đó cốt để tận mắt thấy Đức Giêsu. Quả là đáng khâm phục! Thế nhưng, Đức Giêsu lại làm một cử chỉ đáng kinh ngạc hơn. Trong lúc được đám đông dân chúng vây quanh và hết lòng ngưỡng mộ, Người lại tách mình ra khỏi đám đông hỗn độn ấy để đến với một kẻ tội lỗi. Vì lòng thương xót đối với tội nhân, Người chẳng màng đến những lời xì xầm, bàn tán hay dị nghị. Đấng Thánh của Thiên Chúa hạ mình xuống làm bạn với một người tội lỗi. Tình yêu vượt lên mọi thành kiến, mọi trở ngại, mọi rào cản.
Chúa Giêsu đi tới, Ngài nhìn lên và gọi đích danh ông. Điều quan trọng là Chúa không chỉ đi ngang qua cho ông Giakêu nhìn Chúa, chính Chúa nhìn lên và gọi tên ông: “Giakêu! xuống mau, hôm nay ta đến nhà ông”. Chúa muốn đến với ông và đến tận nhà ông. Được đáp ứng quá sự trông mong. Ông muốn thấy Chúa thì Chúa đến tận nhà để ông nhìn cho đã. Chúa quảng đại vô cùng. Ông vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Ngài. Nhưng đám đông lại xầm xì với nhau. Họ khó chịu với Chúa Giêsu, vì Chúa vào trọ nhà một người tội lỗi. Ông Giakêu đã tìm ra giải pháp để vượt qua cái giới hạn của tấm thân lùn. Liệu ông có tìm được giải pháp cho thân phận tội lỗi của ông để thắng được lời xì xầm kia không? Ông không sợ đám đông chế diễu khi leo lên cây sung để nhìn mặt Chúa, thì Chúa đã đáp lại, Ngài không sợ đám đông xầm xì khi yêu cầu ông đón Ngài về ở nhà ông. Đứng trước tình thương của Chúa, ông đã mở rộng tâm hồn. Ông sẵn sàng chuộc lại tội lỗi, ông thưa với Chúa là đem nửa gia tài phân phát cho người nghèo. Không những thế, ông thấy mình còn phải thực hiện sự công bình nữa: làm thiệt ai ông sẽ đền gấp bốn. Lòng quảng đại của ông sánh với lòng quảng đại của người đàn bà tội lỗi: ông yêu mến nhiều vì đã được tha nhiều. Lòng yêu mến của ông đối với Chúa Giêsu diễn tả thành lòng yêu mến người nghèo và những người đã bị ông bóc lột.
Sau khi ông Giakêu tuyên bố quyết định của ông, thì Chúa Giêsu nói: “Hôm nay nhà này được cứu độ, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”. Ông Giakêu trở thành kiểu mẫu đón nhận ơn cứu độ và là cơ hội để Chúa Giêsu khẳng định sứ mạng của Ngài: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã hư mất”. Ông Dakêu đã bị đám đông loại trừ, vì thân ông lùn và phận ông tội lỗi. Nhưng Chúa đã rời đám đông kiêu hãnh kia để đi tìm ông và đem ơn cứu độ cho ông. Chúa đã nhìn ông và cứu ông. Cái nhìn của Chúa, cái nhìn chinh phục, cái nhìn của tình thương muốn cứu vớt. Ông Giakêu đã tìm cách nhìn thấy Chúa, nhưng ông cũng đã để cho Chúa nhìn ông và chinh phục ông. Ông được cứu độ.
Thái độ của Chúa Giêsu cho thấy một nguồn mạch mới của đời sống Kitô hữu chúng ta, điều cốt yếu của Tin Mừng Đức Kitô chính là ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa chứ không phải do nỗ lực luân lý của con người. Chính thái độ đi bước trước của Chúa Giêsu đã giúp ông Giakêu sám hối và tìm lại được đời sống luân lý tốt đẹp hơn. Chính Thiên Chúa đã đi tìm Giakêu, trước khi ông tìm kiếm Ngài. Ngài đã mời gọi ông trước khi ông thấy gặp Ngài. Quả thực, đúng như điều thánh Phaolô đã xác tín trong thơ Rôma như sau: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là tội nhân”. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.
Thiên Chúa đã luôn luôn tìm kiếm chúng ta, mọi người và từng người, chỉ có điều chúng ta có ao ước gặp Ngài hay không? Chúng ta có dám vượt qua đám đông xô bồ đang bon chen xô lấn cuộc đời để đến với Ngài hay không? Có dám mạnh dạn để đáp trả lời mời gọi của Ngài và đón tiếp Ngài hay không? Nếu chỉ một lần gặp gỡ Đức Giêsu mà Giakêu đã đánh đổi tất cả thì chúng ta hằng ngày đến nhà thờ để hiệp dâng Thánh Lễ, chúng ta có sẵn sàng đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể vào trong tâm hồn và có dám để Thiên Chúa biến đổi chúng ta hay không? Điều còn lại của chúng ta là biết lắng nghe và sẵn sàng đáp trả, dám can đảm sám hối và canh tân đời sống để được ơn cứu độ.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta vững mạnh trong đời sống đức tin để nhận ra tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa đang trao ban cho chúng ta. Xin cho chúng ta can đảm để sẵn sàng đáp trả và đón nhận ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta.


Ông Giakêu thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo”. “Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc. 19, 8b-10)
Ông Giakêu thân hình thấp bé, đứng đầu những người thâu thuế ở thành Giêricô, những đoàn người buôn bán từ Ả-rập qua thành đều phải chịu thuế nhập thị. Như thế, ông là người rất giàu, nhưng bị người Do thái khinh chê là hạng người tội lỗi công khai và cộng tác với quân xâm lăng. Tuy nhiên, chính ông là người được Thiên Chúa gửi Thánh Thần đến lôi kéo ông về cùng Đức Giêsu.
Ông “Sếp” trở nên trẻ nhỏ
Các trẻ nhỏ sẵn lòng trèo lên cây cao quá tầm đám đông để xem. Ông Giakêu, mặc dầu là “xếp”, địa vị cao và giàu sang đã nên giống trẻ nhỏ. Ông không sợ thiên hạ nhạo cười và hạ nhục. Được tiếng nội tâm thúc đẩy, ông tò mò trèo lên cây nhìn xem Đức Giêsu bất kể ra sao thì sao.
Đức Giêsu vị ngôn sứ tuyệt vời, rất nhạy bén với hành động của Thánh Thần nơi người khác. Người nhìn lên và thấu suốt tận con tim của Giakêu. Người gọi tên ông, đó là tiếng gọi của tình yêu. Người ra lệnh cho ông: “Hãy xuống mau đi, vì hôm nay tôi ở lại nhà ông”. Sứ điệp của Đức Giêsu đã kêu gọi ông. Người phải dắt đưa chiên lạc của nhà Israel về.
Đoàn hành hương theo Đức Giêsu chẳng hiểu gì sứ điệp của Người. Đức Giêsu vừa tỏ quyền phép của Thiên Chúa chữa người mù được thấy và bây giờ tự mời mình vào ở nhà một người tội lỗi. Vậy Người không thể là Đấng Thiên sai Cứu thế. Người trong sạch không thể đồng cư với kẻ ô uế. Như thế, Đức Giêsu đã nên cớ cho người ta vấp phạm trong suốt cuộc đời cứu thế của Người đúng như ông Si-mê-on nói tiên tri: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm cớ cho nhiều người Israel vấp ngã hay được chỗi dậy” (Lc. 2, 34).
Và tự hủy mình đi
Niềm vui đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa để trở về thật chứa chan, Giakêu đã vui mừng đón rước Đức Giêsu vào nhà. Ông vui mừng chính thức công bố trở về và hứa bồi thường đầy đủ gấp bốn lần luật buộc, cùng hiến nửa gia tài làm việc bác ái giúp người nghèo. Ơn Chúa đầy tràn, ông đáp lại bằng tấm lòng thiện chí đầy tràn.
Đức Giêsu quay lại phía đám đông giúp họ hiểu rằng Giakêu đã tỏ ra xứng đáng là con cháu thật của tổ phụ Áp-ra-ham, có lòng quảng đại đặc biệt, mặc dầu nghề nghiệp ông thuộc lớp người tội lỗi. Đức Giêsu đem ơn cứu độ đến nơi nào biết tiếp đón Người đến ở.


Câu chuyện Giakêu quá quen thuộc, nhưng lại là một bức tranh sống động, phong phú, tinh tế và là lời chất vấn và mời gọi qua mọi thời đại. Trong hành trình lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu đi ngang qua Giê-ri-khô và xảy ra câu chuyện ông Giakêu với những nét tương phản hài hước và độc đáo. Nhân vật chính được giới thiệu qua bốn chi tiết: (1) Tên gọi: Giakêu, (2) Nghề nghiệp: Đứng đầu những người thu thuế, (3) Địa vị xã hội: Người giàu có, (4) Ngoại hình: thấp bé, ngôn ngữ bình dân gọi là lùn.
Trong câu chuyện, nhân vật Giakêu có những nét tương phản vừa theo quan điểm người đời, vừa theo quan điểm tâm linh. Theo người đời, Giakêu là người có địa vị, có quyền và có tiền, ba yếu tố này làm nên sức mạnh và uy thế của một con người. Ông ở cao hơn những người bình thường, nhưng ông lại thua kém họ về chiều cao, nên tầm nhìn bị thu hẹp và bị hạn chế. Ông muốn thấy Đức Giêsu, nhưng đám đông trở thành chướng ngại cho điều ông ước muốn. Tuy nhiên, con người không hơn nhau ở chiều cao mà hơn nhau ở cái đầu; Giakêu quyết định thực hiện ước muốn thấy Đức Giêsu bằng cách trèo lên cây sung. Quyết định này tạo nên tương phản giữa việc ông đạt được mục đích là thấy Đức Giêsu, nhưng phải hy sinh thể diện. Một người có quyền hành và địa vị như ông mà lại leo lên cây sung, mượn cây sung để cải thiện chiều cao của mình, thì chẳng gì đề cao cái sự thấp bé của ông trước mọi người.
Đáng chú ý hơn là tương phản theo quan điểm tâm linh. Ông Giakêu là người quyền thế trong xã hội, nhưng đám đông lại gọi ông là “người tội lỗi”, vì khi Đức Giêsu quyết định ở lại nhà ông, mọi người xầm xì: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!” Câu kết của Đức Giêsu: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” đã xếp Giakêu vào loại những người đã mất, nhưng được Đức Giêsu cứu.
Tương phản trên bình diện tâm linh và cách xử sự của Giakêu để xem thấy Đức Giêsu đã được Người đánh giá cao. Việc ông dám trở trên trò cười cho thiên hạ để tiếp cận được Đức Giêsu cho thấy thiện chí của ông. Nhờ hành động này, ông trở thành nhân vật chính của câu chuyện với những chuyển biến tích cực và nhanh chóng. Khi Đức Giêsu nhìn lên và nói với ông: “Này ông Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” (19,5) Bản văn chơi chữ khi viết Đức Giêsu nhìn lên và bảo ông xuống, nghĩa là trở về với chiều cao đích thực của mình, trở về với con người thực của mình, để không những thấy Đức Giêsu mà còn để đối thoại với Người, để quyết định bán nửa tài sản cho người nghèo và đền gấp bốn cho những ai mình đã làm họ bị thiệt.
Điều mới mẻ so với trình thuật người thu thuế Lê-vi ở chỗ Lê-vi đã bỏ nghề thu thuế và đi theo Đức Giêsu, còn ông Giakêu có bỏ nghề đứng đầu những người thu thuế hay không, bản văn không cho biết. Trình thuật chỉ nhấn mạnh tấm lòng của ông đối với người nghèo và việc ông chú trọng sự công bằng. Có thể hiểu Giakêu có thể tiếp tục đứng đầu những người thu thuế mà vẫn được cứu. Điều quan trọng là ước muốn gặp Đức Giêsu, thực hiện ước muốn này, và khi gặp thì mừng rỡ đón tiếp Người.
Trình thuật nói đến sự gặp gỡ tốt đẹp giữa hai con người với hai sự tìm kiếm. Giakêu tìm cách để thấy Đức Giêsu còn Đức Giêsu đang tìm và cứu những gì đã mất. Chính sự gặp gỡ giữa hai con người đang tìm kiếm này làm cho Giakêu trở thành người được cứu và làm tỏ lộ sứ vụ của Đức Giêsu.
Điểm độc đáo của bản văn ở ngay trong trong cách trình bày nhân vật Giakêu. Ông là người vừa thấp vừa cao. Cao về địa vị xã hội, nhưng thấp bé về chiều cao. Thấp bé thể lý nhưng cao quý trong thiện chí tìm gặp Đức Giêsu. Ông có quyền hành và giàu có trong xã hội nhưng bị coi là người tội lỗi, là người đã mất, cần được cứu. Nhân vật Giakêu trở thành điển hình cho hành trình tìm kiếm và gặp gỡ Đức Giêsu là Người mang lại ơn cứu độ cho ông.
Đầu câu chuyện, Giakêu được giới thiệu như là người có mọi thứ: Chức vị, tiền bạc và quyền hành; nhưng ông đang thiếu và đang đi tìm cái mà tiền bạc và chức quyền không đem lại cho ông. Ông tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai, mục đích trước tiên là xem cho biết con người mà ông chưa biết.
Điểm độc đáo thứ hai là Đức Giêsu không dạy giáo lý cho Giakêu, Người không bày tỏ tư cách Con Thiên Chúa của Người. Ngược lại Người chỉ nói một câu tỏ bày sự thân thiện và ưu ái của Người dành cho ông: “Này ông Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”.
Bài học cho chúng ta hôm nay là liệu sự ở lại của Đức Giêsu có khả năng làm cho chúng ta hoán cải, có khả năng làm cho chúng ta thuộc về Người, làm cho chúng ta biết chia sẻ với người nghèo và tôn trọng sự công bằng hay không. Câu chuyện Giakêu vẫn là lời chất vấn, lời mời gọi chúng ta trong cách chúng ta tìm gặp và đón tiếp Đức Giêsu, trong cách chúng ta sống niềm tin và thể hiện niềm tin của mình.


(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)
Vẫn có một khát vọng
Đức Giêsu sắp đi ngang qua Giê-ri-khô, chặng cuối cùng trước khi băng qua sa mạc để lên Giê-ru-sa-lem. Cuộc đi qua này xác định thêm một lần nữa sứ vụ của Đức Giêsu ; đó là tìm kiếm những gì đã hư mất.
Ông Da-kêu là một người bị dân chúng coi thường, vì ông là người cộng tác với quân chiếm đóng Rô-ma. Ông là một nhân viên thuế vụ luôn tìm cách thu lợi cho quân chiếm đóng và nhờ vậy mình được giàu thêm. Trước mắt dân chúng, đó là một con người bị khinh bỉ, mặc dù tên gọi của ông có nghĩa là trong sạch, là công chính.
Tuy nhiên, con người này lại muốn nhìn thấy Đức Giêsu. Trong tâm hổn ông đang trào lên một khát vọng gặp được Đức Giêsu, một con người lừng danh vì các phép lạ, và cả vì lời giảng của Người. Nhưng ông lại là một người thấp bé. Ông chen chúc trong đám đông. Ông nghển cỗ, kiểng chân, nhưng vô ích! Ông chẳng nhìn thấy Đức Giêsu, ông thật là một con người nhỏ mọn, không giá trị. Ông không dám chịu đến gần Đức Giêsu. Ông không dám tỏ mình ra.
Vậy là ông bỏ qua mọi chuyện: viên chức cao cấp này tìm cách trèo lên một cây sung. Một hấp lực nào đó từ bên trong thôi thúc ông. Ông hy vọng từ trên cành cây ông có thể nhìn thấy Đức Giêsu mà không bị phát giác. Những người dân ở đó nhìn thấy cảnh này hẳn phải bật cười: quả là kỳ cục, một đứa trẻ cũng không làm như thế.
Quả thật, vì Đức Giêsu, ông Da-kêu chẳng kể gì đến địa vị của mình. Ông chấp nhận tầm vóc nhỏ bé đích thực của mình. Ông chỉ là một người bé nhỏ khốn khỗ, và ông chấp nhận tình trạng này. Ông khiêm tốn, và bỏ hết mọi sự che đậy, mọi vẻ bên ngoài giả tạo. Ông trở về với sự giản dị của mình. Những gì vẫn bao phủ ông từ trước tới nay, lúc này rơi xuống hết. Đối với người khác, có thể chẳng có gì thay đỗi, nhưng đối với ông tất cả đang bắt đầu!
Tất cả đã thay đỗi - như phần sau của câu chuyện cho thấy. Ông Da-kêu được tái tạo, khi ông khiêm tốn hạ mình. Ông đã leo lên cây (hình bóng của thập giá) và con người cũ đã chết trên đó. Một đời sống mới được khởi đầu, một con người mới được nảy sinh.
Người đến để đem niềm vui
Đức Giêsu đi ngang qua và thấy có gì khác lạ. Ngước mắt lên, Người nhìn thấy ông và ngỏ lời với ông, một con người bị dân Do-thái coi là kẻ bất lương. Người nhận ra nơi con người này có điều gì đó đặc biệt: hành động leo lên cây của ông là một tiếng kêu gửi đến Người.
Người đòi lòng hiếu khách của ông và tỏ ý muốn dùng bữa tại nhà ông. Ông cảm thấy quá hạnh phúc và "vội vàng tụt xuống". Từ đây cuộc sống của ông hoàn toàn thay đỗi: từ một người bị cộng đoàn khinh chê ruổng bỏ, ông được Đức Giêsu đưa nhập vào cộng đoàn con cháu tỗ phụ Áp-ra-ham.
Ông Da-kêu đã bị bất ngờ, nhưng phải nói là dân chúng Giê-ri-khô còn bị bất ngờ hơn: "Nhà người tội lôỵi mà ông ấy cũng vào trọ." Thật là xúc phạm, không thể nào chấp nhận nỗi. Vậy mà Đức Giêsu còn tuyên bố rõ ràng: "Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tỗ phụ Áp-ra-ham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất."
Như thế, từ cái nhìn yêu thương và mời gọi yêu thương, Đức Giêsu không loại trừ ai cả, dù người đó thế nào chăng nữa. Lòng thương xót của Người đủ rộng để bao phủ mọi tội lôỵi của con người. Ông Da-kêu đã lọt vào trong tấm lưới là lòng từ ái của Thiên Chúa. Ông tìm lại được niềm tin nơi người đã cứu ông, và ông đã trở thành người được tha thứ. Còn niềm vui nào lớn lao hơn nữa! Niềm vui chính là câu trả lời của Thiên Chúa cho con người chấp nhận để mình được cứu thoát khỏi chính bản thân mình và khỏi tội lôỵi.
Ông Da-kêu vui và làm cả nhà rối loạn lên vì niềm vui. Ông thúc giục gia nhân chuẩn bị đón tiếp Đức Giêsu. Từ trước đến nay do bản tính keo kiệt, chưa bao giờ ông tỗ chức một cuộc tiếp đón tưng bừng như thế.
Nhưng chưa hết, do sức mạnh của ơn giải thoát, của niềm vui đang dào dạt trong lòng, ông đã sẵn sàng chia một nửa tài sản cho người nghèo, và hứa đền gấp bốn cho những người đã bị ông cưỡng đoạt tài sản.
Ông Da-kêu đã bị tình yêu Đức Giêsu chinh phục, ông sẵn sàng bỏ mọi sự để sống đời sống mới do Đức Giêsu đem lại. Nhờ lòng thương xót của Người, tâm hổn ông đã hoán cải. Ông không nhận ra chính mình nữa, người khác cũng không nhận ra ông: đó là phép lạ lớn nhất. Có lẽ có người nghĩ rằng ông đã mất trí. Thực ra, sự quảng đại khó tin nỗi này là hệ quả đơn giản do lòng rộng rãi của Thiên Chúa, là dấu chỉ bên ngoài của sự hoán cải bên trong. Khi người ta thực sự được thứ tha, làm sao người ta lại không ước muốn trao tặng tất cả? Bởi vì lúc ấy người ta là một người khác: một con cháu của tỗ phụ Áp-ra-ham, một người được cứu thoát, một người tin vào tình yêu đầy bất ngờ do Thiên Chúa đem lại.
Thiên Chúa cần đến chúng ta
Qua khát vọng của ông Da-kêu, Đức Giêsu đã mở một con đường. Chính Người đã đưa ra sáng kiến, đã lôi ông từ trên cành cây xuống, đã làm vỡ tung những vỏ bọc bên ngoài con người ông. Người cần đến ông Da-kêu, như đã cần đến các ông Phê-rô, An-rê, và những người khác nữa như các cô Mác-ta, Ma-ri-a. Người cần đến họ để ở trong nhà họ, để sống với họ, biến họ thành những người bạn, những người anh em. Người cũng cần đến môỵi người chúng ta, Người muốn đến cư ngụ nơi chúng ta.
Thế nhưng, môỵi lần Đức Giêsu đến với một người nào thì Người trở thành người quấy rầy, người phá vỡ những tình trạng an toàn sẵn có. Những chuyện như thế không chỉ xảy ra nơi ông Da-kêu, nhưng còn nơi nhiều người khác như chúng ta đọc thấy trong Tin Mừng. Chẳng hạn như Mác-ta, cô phải thay đỗi cách nhìn ; như ông Phê-rô buộc lòng phải thả lưới, như Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se phải lên đường về Bét-lem, rổi sau đó từ Bét-lem sang Ai-cập. Luôn là những con đường hướng đến nơi không biết trước, không an toàn, kèm theo một thái độ từ bỏ quyết liệt buộc con người phải ra khỏi mình để lao vào trong tấm lòng của Thiên Chúa.
Đức Giêsu cũng đang ở trong chúng ta: Người muốn lôi chúng ta xuống khỏi cái cây của chúng ta. Người muốn phá vỡ sự phòng vệ cá nhân của ta, Người muốn đập tan những gì chúng ta coi là cần thiết để giữ thể diện. Người đang nhìn chúng ta và thôi thúc chúng ta môỵi ngày. Để đáp lại, chúng ta phải để cho lòng thương xót của Người xâm chiếm, đổng thời cũng để niềm vui của chính Thiên Chúa tràn ngập tâm hổn chúng ta.
Nhưng Đức Giêsu ngỏ lời với chúng ta bằng cách nào? Nên nhớ rằng Thiên Chúa đã làm người để nói với chúng ta bằng ngôn ngữ loài người, ngôn ngữ bình thường của cuộc sống. Chúng ta có khát mong được nghe lời ấy không?
* * *
Con chẳng biết làm thế nào
để kính chào Chúa,
phải chăng là dùng luật lệ của con?
Lạy Chúa, xin chỉ dạy con đường nẻo của Chúa,
xin giải thoát con khỏi cảnh nô lệ
là sự điên rổ của con.
Xin hướng dẫn con, con vẫn còn đủ sức hạ mình,
trước khi chính con trở thành gánh nặng cho con.
theo J. Halevy


Cách đây không lâu, trên trang “Tuổi Biết Buồn”, tôi có đọc được đôi dòng tâm sự như sau: “Em năm nay 21 tuổi. Sang Mỹ được 3 năm. Năm đầu sống rất vui vẻ hồn nhiên, không buồn phiền gì về vấn đề tình cảm. Năm thứ hai thì con tim bắt đầu lúc lắc. Năm thứ ba em bắt đầu yêu thật. Em đã quen một anh tên A. Lúc đầu chỉ coi anh là anh trai, nhưng tình cảm len lỏi vào tim lúc nào không biết. Anh lo cho em từng li từng tí. Càng ngày em càng cảm thấy mến anh. Nhưng có điều anh hơn em đến cả 18 tuổi. Lấy anh thì cũng được, nhưng em lại sợ cái cảnh ‘cha già con mọn’. Thế rồi em lại quen một anh khác tên B. Anh này thương em, cũng lo lắng cho em. Hơn em chừng 7, 8 tuổi. Nhưng có điều cũng khó nghĩ vì B lại thấp hơn em, lại không có đạo nữa. Không trở lại, bố em không chấp nhận là cái chắc. Không lớn hơn vài 'inches' nữa thì tương lai của em sẽ không biết giầy, guốc cao gót là gì?”.
Đọc qua tâm sự đó, tôi chợt nhớ đến hình ảnh của một người rất thấp trong Phúc âm: Giakêu, một ty trưởng quan thuế tại thành phố Giêricô, nằm cách Giêrusalem 15 dặm về hướng đông bắc.
Giakêu không những được mô tả như một người thiếu thước tấc về thể xác, nhưng còn là kẻ quá thấp bé về tâm hồn, dưới cái nhìn của người Do thái. Không “thấp” lắm sao khi cấu kết với ngoại bang Rôma để vơ vét tài sản của dân tộc, đất nước! Không “bé” lắm sao khi đi làm giàu trên bao mồ hôi xương máu của những người lầm than khốn khổ!
Từ xưa đến nay, chẳng mấy ai ưa thích chuyện thuế má. Người Do thái lại càng chán ghét chế độ sưu thuế do chính sách đô hộ Rôma áp đặt. Số là tại các thuộc địa, để không phải trực tiếp bóc lột, chính quyền cai trị Rôma thường cho đấu thầu việc thu thuế tại từng khu vực. Tất nhiên chỉ có kẻ giàu mới có khả năng và mới có cơ may trúng thầu. Khi trúng, họ có quyền qui định mặt hàng cũng như giá thuế phải đóng. Lắm khi người trúng thầu phải ra giá thật cao để gỡ vốn. Và không ít khi cao thêm tí nữa để có lời. Thế nên, dân Do thái tự động xem hạng thu thuế là phường bán rẻ lương tâm, phá nước hại dân, làm giàu bất chính. Người ta tránh xa như gặp phải những con vật dơ nhớp, nguy hiểm. Thậm chí còn coi họ như quân ngoại đạo và tội lỗi.
Thành ra con người Giakêu hẳn là quá thấp bé trong tầm nhìn luân lý của những kẻ “đang bị bóc lột”. Đã vậy vóc dạng của ông cũng chẳng cao ráo sáng sủa gì. Lùn quá! Có nhón gót cũng chẳng thấy Đức Giêsu đâu. Đám đông che mất tầm nhìn của ông.
Mặt khác, danh xưng của ông còn khơi lên ý tưởng mỉa mai châm biếm khi nó tương phản với công luận. Giakêu là phiên âm từ chữ “Zakkay”, trong tiếng Do thái có nghĩa là “người công chính” hay “người thanh khiết”. Gọi một kẻ tội lỗi, nhơ uế là “công chính” và “thanh khiết”, nếu không phải là chế giễu và khinh bỉ thì là gì?
Nhưng dù thân xác và tinh thần có bị bao quanh bằng những hàng rào của mặc cảm tự ti, hay sự khinh thường ghét bỏ của dân chúng, lòng khát mong gặp Đức Giêsu đã như tác động đầu tiên đưa đến biến đổi và thăng hoa con người.
Ước ao nhìn mặt Đức Giêsu, đó là sự tò mò tự nhiên hay lời mời gọi của tình thương? Cứ tưởng tượng Giakêu xắn chiếc áo rộng thùng thình của một bậc trưởng giả để leo lên cây sung như một đứa con nít cũng đủ thấy đó là một khát khao vượt tính tự nhiên rồi. Phải chăng khi bị mọi người tránh xa, khi nghe đồn Đức Giêsu hay đến làm bạn với những kẻ không được thương yêu, trong ông đã hình thành nỗi niềm đi tìm yêu thương vỗ về.
Lòng khát khao mãnh liệt làm cho lòng Giakêu “cao lên” so với bao người chen chúc trong đám đông hiếu kỳ. Oâng muốn nhìn Chúa, nhưng đúng hơn, Chúa lại muốn tìm ông. Khi vừa đến chỗ cây sung có Giakêu đang trèo trên đó, Đức Giêsu “nhìn lên và trông thấy ông”. Giả như không có ánh mắt nhìn lên đó thì chuyện gì sẽ sảy ra? Có lẽ Giakêu cũng tuột xuống ra về trong âm thầm. Cái nhìn của Chúa làm biến đổi cuộc đời.
Nhìn và thấy diễn tả một sự chú ý kiếm tìm. Nhìn vào bao con người chen chúc chung quanh, với đủ mọi thành phần, trình độ, sang hèn, tuổi tác, nhưng Đức Giêsu lại chỉ thấy có một tâm hồn mà Ngài đang muốn tìm về. Niềm vui rạng rỡ đã bật thành lời: “Hỡi Giakêu hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi” (Lc 19,5). Ngài đã tìm thấy “con chiên lạc” đang vướng trên cành, và lòng Ngài ngập tràn hân hoan.
Một nhà chú giải suy niệm: “Ôi chao! Ngày hôm đó, chắc là Đức Giêsu phải sung sướng hạnh phúc lắm! Còn vài cây số nữa là đến Giêrusalem. Còn vài ngày nữa là cuộc khổ nạn được dâng hiến để cứu chuộc con người. Mọi nỗi đơn độc chơ vơ của thập giá, mọi hình khổ Ngài sẽ gánh chịu, mọi vết thương xé nát bàn tay và đôi chân đẫm máu sẽ mang lại ơn ích cho nhân loại. Ngài biết điều đó. Ngài đã cứu thế gian khi tiến lên Giêrusalem. Và Giakêu là hoa trái đầu mùa”. (Noel Quesson)
Con tim cháy lửa yêu thương đã tìm gặp được tâm hồn khao khát thương yêu. Và thương yêu đã biến đổi phận người! Đúng là “gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình; Gặp gỡ Đức Kitô, nảy sinh tình đệ huynh”. Tình huynh đệ nảy sinh khi Giakêu tự nguyện “bố thí nửa phần gia tài cho người khổ đau”. Tình đệ huynh lại được hàn gắn khi Giakêu can đảm “đền trả gấp bốn cho người bị ông làm thiệt hại”.
Không gặp được Đức Kitô chẳng ai có đủ sức đền bù, chia sẻ, hay trao ban. Không có tình thương sưởi ấm chắc chắn chẳng ai có thể đổi đời. Nhưng khi có tình Chúa chiếu soi, người ta sẽ “cao lên” trong tình người. Và như thế, không ai có quyền kỳ thị hay gạt bỏ, vì họ cũng là “con cái của Abraham”. Không ai được phép xem họ như người ngoại hay kẻ lầm lạc, vì họ cũng là môn đệ của Tình Yêu Thiên Chúa.
Trở lại với lời tâm sự ban đầu. Thiết tưởng cao to thân xác mà thấp bé cõi lòng thì ăn thua gì. Mang danh có đạo mà không bác ái hy sinh thì cũng thiếu xót lắm thay. Thế nên, việc cần thiết nhất không phải là cao lùn, mập ốm, rửa tội hay chưa, nhưng là có được tình yêu đúng nghĩa chiếm ngự tâm hồn hay không.
Tình yêu đúng nghĩa chỉ có khi được Đức Giêsu lưu lại trong đời. Và như Lệ Vũ, người phụ trách “Tuổi Biết Buồn” xác quyết: “Tìm được tình yêu và yêu thật lòng, ba cái chuyện cao gầy, lùn mập, miệng méo, mắt Sài gòn, mắt Chợ Lớn, sẽ không thành vấn đề quan trọng”.
Xin tình yêu của Đức Kitô gặp gỡ đời con và đời người.


Khi còn học giáo lý rước lễ ở họ đạo, tôi được cha sở dạy rất kỹ về những việc mà hối nhân phải làm trước khi xưng tội gồm có: thật lòng ăn năn, xưng tội và thành tâm đền tội. Nhưng trong 3 việc đó thì ăn năn tội là điều quan trọng nhất. Ví ăn năn tội là đau đớn trong lòng và chê ghét tội đã phạm, dốc lòng chừa từ nay không phạm tội nữa. Tương tự như thế hình ảnh Giakêu trong bài Tin Mừng hôm nay cũng cho chúng ta một bài học về “sám hối”. Đó chính là tấm lòng mà Thiên Chúa luôn cần nơi mỗi người và đặc biệt trong cuộc sống mỗi người phải biết sám hối vì “nhân vô thập toàn”.
Có câu chuyện kể rằng một cha sở nọ nằm mơ, thấy Đức Giêsu thăm giáo dân đang tụ họp trong nhà thờ. Khi Đức Giêsu ra về khuôn mặt Ngài rất vui và hớn hở. Cha mới chạy theo hỏi Đức Giêsu tại sao thế? Và Chúa đáp: vì có những người nói những lời hết sức đẹp ý Ta. Thưa Chúa đó là những lời nào vậy, những lời chúc tụng ngợi khen ư? Không phải. Vậy những lời ta ơn tri ân cảm tạ phải không? Chúa trả lời cũng không đúng nữa. Không chịu thua cha sở nọ lại hỏi tiếp: hay là những lời cầu xin Chúa ban ơn này ơn no cho họ? Chúa Giêsu lắc đầu: con đoán sai cả rồi họ đã nói với ta: “Lạy Chúa xin hãy tha thứ tội lỗi chúng con”. Câu nói của Giakêu trong bài Tin mừng hôm nay, cũng có nội dung tương tự như thế và nó còn thể hiện việc sám hối bằng cả hành động nữa “thưa Ngài, này đây là phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Do đâu mà những người giáo dân trong câu chuyện lại mau mắn sám hối như vậy. Vì lí do gì mà Giakêu lại quyết tâm hoán cải nhanh đến như thế. Chúng ta thấy cả hai đều có điểm chung là đã gặp được Chúa. Vậy để có thể sám hối tôi thiết tưởng phải cần có những yếu tố sau:
1. Thiên Chúa mời gọi
Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Giakêu đặt chúng ta vào trung tâm vấn đề cơ bản của lòng chúng ta, làm sao nối lại tình thân với Thiên Chúa sau khi tội lỗi đã làm ta xa cách Ngài? Làm sao nhìn thấy Chúa Giêsu khi giữa ta và Ngài còn một “khoảng đám đông” đang chen lấn, mà ta lại là người đang “nhỏ bé như Giakêu”. Chúng ta không nên quá lo lắng về điều đó, vì Thiên Chúa luôn quan tâm đến mỗi người, nhất là những người tội lỗi “vì con người đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất” (Mt 19,10). Thiên Chúa không chờ ta quyết định đến với Ngài, Ngài đi bước trước và đến với ta trước. Hầu hết các sách Tin Mừng không trình bày việc gì khác ngoài việc Thiên Chúa đến với loài người và gặp gỡ họ. Như trong Bài Tin Mừng không phải Giakêu đã nhận ra Đức Giêsu trước, nhưng chính Đức Giêsu đã nhân ra Giakêu trên cây. Điều đó chứng tỏ Đức Giêsu đã quan tâm đến chúng ta hơn là chính Người. Đức Giêsu chỉ đi ngang qua Giêrikhô một lần thôi, Ngài cũng chỉ gặp Giakêu ở đó một lần thôi, nhưng trong đời chúng ta Ngài sẽ đến mãi trong từng giây phút, nếu ta chưa tiếp xúc được với Ngài.
Kinh nghiệm gặp gỡ Đức Giêsu của Giakêu như bài học kêu gọi mỗi người chúng ta hãy làm một cuộc sám hối như thế, và biết rằng sám hối là một đặc ân Chúa ban, chính Chuá là người đi bước trước và có sáng kiến chứ không phải nơi chúng ta, đó là tiếng gọi của Chúa mà chúng ta có bổn phận phải đáp lại.
2. Con người đáp trả
Thánh Augustinô đã nói: “Khi dựng nên con Chúa không hỏi con, nhưng khi dựng nên con Chúa phải hỏi con”, nghĩa là Thiên Chúa luôn cần đến sự cộng tác nơi con người, không những thế Thiên Chúa còn muốn con người cộng tác một cách chủ động và trưởng thành. Chúa không đòi ai cũng phải chờ đợi để leo lên cây sung, nhưng quan trọng là phải đi gặp Chúa trong chính hành động của mình. Giakêu luôn ao ước được gặp Chúa và chính lòng khao khát đó đã được Chúa cho thoã mãn. Nhưng để phá rào cản tội tội, rào cản mă#c cảm, và nhất là rào cản giữa con người với nhau thật sự không dễ chút nào. Chắc chắn Giakêu đã nghe Danh Đức Giêsu từ lâu và hằng ao ước đến chỉ để nhìn mặt thôi, nhưng kết quả thật không ngờ, ông được hưởng hơn những gì mà ông mong đợi và hơn thề nữa “ơn cứu độ đã đến cho nhà này”.
Giakêu được như vậy không phải do ông này nỉ, van xin, cũng không do công trạng lập được, lại không phải là một người tốt đáng khen, nhưng điều quan trọng là ông biết “đáp trả” lời Chúa mời gọi, trong khi những người được cho là tốt thì lại không biết làm. Như Giakêu chúng ta cũng hãy biết đáp trả tình yêu Chúa băng cách sám hối để được tha thứ và đổi mới cuộc đời, vì tình yêu Thiên Chúa luôn bai la rộng mở, dù chúng ta là ai, dù chúng ta đang sống trong hoàn cảnh nào, cuộc đời chúng ta có xấu đến đâu cũng không sao. Chúa sẽ tẩy xoá hết để mỗi người chúng ta sẽ là một giọt tình thường trong bể tình thương bao la của Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con biết ăn năn sám hối mỗi ngày, để con xứng đáng đáp trả tình yê mà Thiên Chúa đã ban cho con. Amen.


Ranh giới giữa nhơ uế và thanh sạch
Trong đạo Do Thái, có một ranh giới giữa thanh sạch và nhơ uế, giữa tội lỗi và công chính... một ranh giới rất "thiêng liêng", mà chỉ có một đời sống luân lý nghiêm khắc mới có thể giúp người ta vượt qua được. Như thế, yếu tố luân lý trở thành yếu tố quan trọng nhất. Họ quan niệm cuộc đời con người như một cuộc thi cử, ai đủ điểm trung bình thì vượt qua được ngưỡng cửa thi cử, đó là thi đậu; ai không đủ điểm thì không thể vượt qua và là thi rớt. Cách phân chia này làm cho người nào chưa vượt qua được mức trung bình thì sợ hãi; người nào vượt qua được mức trung bình thì yên tâm, an nghĩ và thỏa mãn với đời sống của mình.
Chúa Giêsu nhiều lần phá bỏ ranh giới "siêu hình" này, vượt qua ranh giới giữa thanh sạch và nhơ uế. Chúa Giêsu tiếp xúc với những người thu thuế, ăn cơm với họ, Ngài để cho người đàn bà tội lỗi lấy tóc lau chân. Chúa Giêsu cho thấy Thiên Chúa chẳng từ nan để vượt qua những ranh giới úy kỵ giữa thanh sạch và nhơ uế, giữa thánh thiện và tội lỗi... để gặp gỡ những người Ngài yêu thương và kiếm tìm.
Không phải luân lý nhưng là ơn cứu độ
Ở đây cũng thế, Chúa Giêsu đã đi bước trước, Ngài vượt qua cái úy kỵ của người biệt phái: bị nhơ uế vì tiếp xúc với người tội lỗi, Ngài thân hành đề nghị trú ngụ ở nhà ông Giakêu, dù lúc đó ông chưa có "hành vi sám hối".
"Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã hư mất"
Thái độ của Chúa Giêsu cho thấy một nguồn mạch mới của đời sống đạo: điều chính yếu của Tin Mừng Đức Giêsu chính là ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa chứ không phải nỗ lực luân lý của con người. Chính thái độ đi bước trước của Chúa Giêsu đã giúp cho ông Giakêu sám hối và tìm được một đời sống luân lý tốt đẹp, chứ không phải ngược lại.
Chính vì thế, Luca hay nêu lên cái ngày hôm nay của ơn cứu độ; và mỗi khi Kinh Thánh nói tới "hôm nay", thì có nghĩa là một điều gì mới của Thiên Chúa được thực hiện trong cuộc sống con người.
"Hôm nay nhà này được cứu độ"
Ơn Cứu độ tặng-không
Trong thư Roma (5, 8), thánh Phaolô đã từng nói rằng: "Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta"
Điều đó được thể hiện trong trình thuật Chúa Giêsu đến với Giakêu hôm nay. Điều "cần thiết" của Giakêu chỉ thái độ sẵn sàng để đón nhận hồng ân của Chúa. Một thái độ sẵn sàng, một lòng tin đơn thành, một sự chân nhận tình yêu của Thiên Chúa, đó là những điều thuộc về tự do của con người mà Thiên Chúa không muốn ép buộc. Với những ai sẵn sàng, Chúa Giêsu nhìn thấy con người đó trong dòng dõi những người tin; "bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham", và Ngài nhận thấy họ chính là đối tượng sứ vụ Ngài; bởi vì: "Con Người đến là để tìm và cứu vớt những gì hư hỏng".
Lời nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Không phải con đến với Chúa,
nhưng là Chúa đến với con trong bí tích Thánh Thể hôm nay.
Con đến nhà thờ hôm nay như bày tỏ một chút thiện chí của con;
những gì còn lại, là ơn cứu độ, là sự thay đổi đời sống,
xin Chúa rộng lòng ban cho con
như Chúa đã ban cho ông Giakêu khi xưa.


(Suy niệm của Lm. Ignatio Trần Ngà)
Đứng trước tội nhân hay những người sa ngã, hư hỏng, dư luận xã hội thường lên án, khinh miệt, loại trừ… Đó là thái độ vốn có của những người Do-thái có tiếng là đạo đức như các thầy tư tế, các luật sĩ và biệt phái đối với những người tội lỗi như Giakêu.
Ngay cả Chúa Giêsu, dù Người chỉ tiếp đón những người tội lỗi thôi thì cũng đã bị tai tiếng rồi. Khi “Các người thu thuế và các người tội lỗi lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng." (Lc 15, 1-2)
Chính thái độ khinh thị và loại trừ người tội lỗi như thế lại càng xô đẩy người sa ngã lún sâu hơn trong tội lỗi của mình. Cư xử như thế là dìm xuống chứ không phải là nâng lên. Còn về phần Chúa Giêsu, Người có cách cư xử rất đẹp đối với người tội lỗi và chính cách cư xử cao nhã nầy có một sức cảm hoá thần diệu. Cung cách đối xử của Chúa Giêsu là niềm nở tiếp đón và trân trọng họ, coi họ như bạn bè. Thế nên dư luận hồi ấy đã xem Ngài “là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.” (Mt 11,19)
Chúa Giêsu thừa biết Giakêu là ai và thuộc hạng người nào, nhưng Chúa Giêsu không nhìn Giakêu bằng ánh mắt khinh miệt của người Do-thái, nhưng đối xử với ông bằng tấm lòng trân trọng và yêu thương.
Khi thấy Giakêu vắt vẻo trên cành cây chờ xem Chúa Giêsu đi qua, Chúa vui vẻ thân mật vẫy chào ông trước: "Này ông Giakêu…”
Chúa Giêsu gọi đích danh ông như đã từng quen biết từ lâu. Việc gọi tên thân mật nầy khiến ta nhớ lại lời Chúa Giêsu nói về quan hệ gắn bó giữa người chăn chiên tốt và đoàn chiên của mình: “Chiên nghe tiếng của anh và anh gọi tên từng con chiên” (Ga 10,3).
Rồi Chúa Giêsu tiếp: “Xuống mau đi!” Đây không hẳn là lời thúc giục mà chỉ là lời thân mật giữa bạn bè. Rồi Chúa Giêsu lại muốn thắt chặt mối tình bằng hữu qua việc cùng ăn uống đồng bàn với Giakêu, và hơn thế nữa, đề nghị ở lại tại nhà ông để rộng giờ hàn huyên tâm sự: “Hôm nay, tôi sẽ ở lại nhà ông.”
Sáng kiến tình yêu của Chúa Giêsu lúc đó chắc hẳn phải khiến cho Giakêu sửng sốt. Một bậc thầy khả kính và danh tiếng như Đức Giêsu mà lại đến trọ tại nhà một người tội lỗi như Giakêu ư? Chuyện thực mà tưởng như mơ! Thế là Giakêu vô cùng sung sướng đón tiếp Đức Giêsu vào nhà mình.
Thái độ yêu thương, trân trọng và quý mến của Đức Giêsu đối với Giakêu đã làm cho ông đổi đời thật sự, một sự thay đổi tận căn ít ai ngờ tới.
Bấy giờ Ông Giakêu đứng lên thưa với Chúa rằng : "Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn."
Dám đem nửa phần gia sản lớn lao của mình trao ban cho người nghèo khó, lại chấp nhận đền gấp bốn những thiệt hại đã gây ra… quả là một quyết định anh hùng! Thế là từ một người đáng khinh, Giakêu bỗng trở thành một người rất đáng khâm phục!
Kho tàng văn học thiền có ghi lại câu chuyện sau đây. Thiền sư Sengai có một anh đệ tử hư hỏng, đêm đêm thường leo tường trốn ra ngoài chơi đêm. Vị thiền sư biết được điều đó nên vào đêm nọ, sau khi phát hiện người đệ tử vượt tường bằng cách leo lên một chiếc ghế khá cao, vị thiền sư đi đến vị trí đặt ghế, nhắc chiếc ghế bỏ sang bên rồi đứng vào chỗ đó.
Trong đêm tối, người học trò leo tường trở vào, rồi theo thói quen đặt chân lên ghế để nhảy xuống, không dè lại đặt chân lên lưng thầy. Khi phát hiện thầy đứng ngay trước mặt, anh học trò hoảng sợ chờ đợi những lời khiển trách nặng nề. Thế nhưng cuối cùng vị thầy chỉ nói mấy lời yêu thương: “Áo con ướt đẫm sương đêm rồi! Mau vào thay áo ngay kẻo cảm lạnh!” Thế là từ đó, người học trò không bao giờ còn đi chơi đêm nữa.
Những lời trách móc, lên án, những thái độ khinh bỉ hay loại trừ chỉ tạo nên nguy cơ làm cho những con người tội lỗi lún sâu vào con đường lầm lạc.
Nhưng chính thái độ tôn trọng và tấm lòng yêu thương sẽ tạo nên sức cảm hoá diệu kỳ. Đó là nghệ thuật cảm hoá lòng người rất khôn khéo mà Chúa Giêsu đã sử dụng để làm nên phép lạ nơi con người Giakêu, biến cải một con người tưởng là ‘hết thuốc chữa’ trở thành một người mới rất đáng khâm phục.
Lạy Chúa Giêsu, trước người lầm lỗi,
Xin cho chúng con thay thế những lời kết án bằng những lời lẽ yêu thương;
Xin cho chúng con biết thay đổi cái nhìn khinh khi bằng cái nhìn tôn trọng;
Xin cho chúng con biết thay thế thái độ xa lánh bằng thái độ tiếp đón ân cần…
Nhờ đó, chúng con sẽ tạo cơ hội cho nhiều anh em lầm lỗi có cơ may phục thiện và đổi mới cuộc đời.


Người ta thường nói: “Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời”, Để sửa chữa hay thay đổi một người nào đó là một điều rất khó. Ngược lại nếu không khéo chúng ta lại càng làm cho ra thêm tệ hơn. Trong thực tế, có những người nói hay, nói khéo, khuyên giỏi... nhưng kết qủa không mấy khả quan, mà còn làm cho cho họ càng khép kín, bảo thủ, trở nên oán hận và chai cứng tâm hồn.
Hôm nay, Đức Giêsu với đường lối sư phạm đại tài, Ngài đã từng bước hoán cải một người thu thuế bị xếp chung với hạng trộm cắp, giết người và đĩ điếm. Vậy Đức Giêsu đã làm gì mà lại có sực mạnh biến đổi kỳ lạ như thế?
Thông thường người có tội hay lẫn trốn, tránh xa những người được cho là công chính. Ở đây Giakêu lại càng không dám trực tiếp gặp thầy Giêsu, ông cũng không hoà nhập được với dân, ông như bị cô đơn giữa một rừng người xa cách không ai quan tâm đến ông. Lúc mà mọi người không ai để ý đến, không ai quan tâm đến thì Đức Giêsu lại quan tâm. Điều đó quá lạ đối với suy nghĩ của ông, từ trước đến giờ ông không bao giờ dám nghĩ đến: Chúa lại tìm một người “đứng đầu những người thu thuế” như mình. Dù đang mang mặc cảm tội lỗi, dù đang bơ vơ lạnh lẽo, ông vẫn cảm thấy ấm lòng vì được Thiên Chúa quan tâm, trong cuộc sống những người tội lỗi vẫn thường hay tự ty xa cách, họ không thể hòa mình với mọi người, họ vẫn cảm thấy cô đơn vì bị người khác bỏ rơi. Những điều đó càng làm cho họ ngày càng lún sâu vào vũng lầy tội lỗi, không có ai đưa bàn tay để kéo họ lên. Vậy những lúc tuyệt vọng, những lúc chúng ta không còn chỗ nương tựa chúng ta hãy biết chạy đến cùng Chuá, cho dù tất cả bỏ rơi chúng ta thì Thiên Chúa vẫn cưu mang chúng ta, vì lúc nào Ngài cũng đang “nhìn” chúng ta, quan tâm chúng ta
Dân chúng cứ nghĩ Đức Giêsu sẽ quở trách Giakêu về những việc làm xấu xa của ông. Nhưng Đức Giêsu không những không quở trách mà còn muốn dùng cơm tối ở nhà ông. Việc làm đó không chỉ làm cho dân chúng kinh ngạc về cách hành xử của Đức Giêsu, mà cả Giakêu nữa cũng bị bất ngờ. Ông đã thay đổi tâm hồn từng bước một, bắt đầu từ lúc Đức Giêsu nhìn thấy ông, gọii ông rồi còn lưu lại nhà ông. Đáng lẽ ông là tội nhân đáng bị trừng phạt và lên án, thì Đức Giêsu lại đến với ông bằng sự tín nhiệm yêu thương, vì Người đến không phải để lến án nhưng là để cứu chuộc.
Thiên Chúa luôn nhìn người tội lỗi với một cắp mắt bao dung, Ngài không để tội nhân đi vào con đường bế tắc mà mở cho họ một hướng đi trong tương lai, Ngài tin ở sự hoán cải, nơi người tội nhân. Chính đường lối sư phạm này mà Thiên chúa đã làm cho Giakêu quay lại 180 độ. Từ một người tội lỗi trở thành tốt, nhưng để được thay đổi tâm hồn con người không phải “ngồi để chờ xung rụng”, mà phải có thiên chí, có lòng hoán cải ao ước thật sự... Vậy chúng ta hãy đến xin Chúa để người thay đổi cuộc đời, vì con người chỉ có thể đổi mới khi có ơn Chúa ban. Hơn nữa, Thiên Chúa lại luôn quan tâm đến tội nhân. Vì thế, chúng ta phải đáp lại tiếng gọi của Chúa, sự trông đợi của Người... thì công việc mới hoàn thành cho dù chúng ta có tội lỗi xấu xa có đáng ghét đến dâu đi nữa thì thiên Chúa vẫn chờ đợi chúng ta
Lạy Chúa, “không có một ông thánh nào mà không có quá khứ, không có tội nhân nào lại không có tương lai”. Xin Chúa cho con đừng vì quá khứ mà trở nên xấu xa. Nhưng cho con giống Giakêu biết hướng đến tương lai, nhờ ơn Chúa tất cả chúng con trở thành con người mới.


Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng
Chúng ta đổi công việc, đổi nhà, thay xe…, nhưng nói đến đổi mới cuộc đời thì ít ai muốn thực hiện. Có nhiều lý do, nhưng có lẽ lý do đáng kể nhất đó là người ta không muốn mạo hiểm và cố gắng. Câu chuyện Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy một cuộc đổi đời đầy mạo hiểm và nỗ lực về phía ông Giakêu, nhưng quan trọng hơn chính là vai trò và ảnh hưởng của Chúa Giêsu trong cuộc thay đổi này.
Câu chuyện xảy ra tại Giê-ri-khô, một thành phố nằm phía đông Giê-ru-sa-lem và gần Biển Chết. Thành phố đông dân cư, buôn bán phồn thịnh. Cho nên ông Giakêu đứng đầu những người thu thuế ở đây thì nhất định phải là người giàu có rồi. Dân chúng khinh dể ông, còn gọi nhà ông ở là “nhà người tội lỗi”. Chúng ta không rõ lý do nào khiến ông “tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai”. Rất có thể vì ông đã nghe nói “các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng” và Người còn “đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (Lu-ca 15:1-2). Tuy nhiên lần này cộng thêm với việc ông tìm cách gặp Chúa, thì chính Chúa lại chủ ý đi tìm ông. Ông nấp ở trên cây sung, không ai nhìn thấy ông. Nhưng Chúa Giêsu không cần ai mách bảo, Người chủ động nhìn lên và kêu ông xuống. Trong cuộc đổi đời này, cả ông Giakêu lẫn Chúa Giêsu đều đích thân tìm đến với nhau. Chúa Giêsu đã mở đầu diễn tiến cho cuộc thay đổi khi Người đề nghị trước: “Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” Dường như Chúa muốn ngầm bảo ông: Tôi đã tóm được ông rồi. Giả như ông có đuổi, tôi cũng không đi! Hôm nay tôi ở lại với ông, để bắt đầu cho việc ở lại vĩnh viễn suốt cuộc đời ông! Đúng vậy, chỉ có sự hiện diện của Chúa mới giúp cho cuộc đổi đời thành công. Khi người ta có mối tương quan với Chúa, tương quan ấy sẽ có sức mạnh biến đổi họ. Gần đèn thì rạng là thế. Đáp lại đề nghị của Chúa, ông Giakêu “vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người”.
Trong cảnh kế tiếp của câu chuyện, thánh Luca mô tả một ông Giakêu mới. Chúa và ông Giakêu đứng đó trước mặt mọi người. Mặc cho bao con mắt soi mói, ông chỉ biết có Chúa Giêsu hiện diện mà thôi. Ông công khai “xưng tội” với Chúa và trước mặt mọi người. “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em”. Ông nhìn nhận mình đã ăn cướp của người nghèo nên giờ đây ông lấy phân nửa tài sản để trả lại cho người nghèo. Ông thú nhận đã chiếm đoạt nhiều thứ của người khác nên ông tự nguyện xin đền gấp bốn. Quả thực ông đã trở thành con người mới rồi, tất cả là nhờ gặp gỡ Chúa Giêsu! Về phần Chúa Giêsu, Người trang trọng nhìn nhận sự thay đổi của con người Giakêu. Chúa Giêsu trước hết nói về cuộc biến đổi của cái nhà: “nhà người tội lỗi” giờ trở thành “nhà tiếp nhận ơn cứu độ”. Rồi Chúa nói đến sự biến đổi con người. Từ một “người tội lỗi” và bị đồng bào loại trừ khỏi cộng đồng con cháu Áp-ra-ham, bây giờ ông Giakêu được Chúa phục hồi quyền làm “con cháu tổ phụ Áp-ra-ham”.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Sau khi nhìn nhận cuộc đổi đời của ông Giakêu, Chúa Giêsu đã khẳng định lại vai trò của Người: “Con Người đến để tìm và cứu chữa những gì đã mất”. Lời này của Chúa làm cho chúng ta vững tâm thay đổi cuộc sống. Chúng ta “đã mất” trong nhiều phương diện, nhất là mất đi căn tính làm con cái Chúa. Thường chúng ta không đổi đời một cách nhanh chóng và ấn tượng như trường hợp ông Giakêu, nhưng là cuộc biến đổi từ từ, liên tục và kéo dài cả một đời. Dù thế nào đi nữa, vai trò sự hiện diện của Chúa Giêsu và cố gắng của chúng ta vẫn là những yếu tố chính để việc biến đổi được tiếp tục. Hơn lúc nào hết, hình ảnh “trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô” (Philípphê 4,10) mà thánh Phaolô nêu lên luôn là hình ảnh sống động nhất diễn tả tiến trình thay đổi. Có lẽ chúng ta sử dụng hình ảnh này mỗi ngày trong cuộc xét mình buổi tối, nhìn lại một ngày sống để xem cuộc đổi đời của chúng ta tiến triển như thế nào.
Chúa Giêsu lúc nào cũng muốn đến để tìm và cứu chữa chúng ta. Cũng như ông Giakêu, chúng ta chỉ cần mở tâm hồn đón Chúa. Chúa muốn ở lại với chúng ta, nên chúng ta hãy để cho người tiếp tục ở lại và thực hiện cuộc tìm và cứu chữa này.


Nếu như tuần trước Chúa Giêsu kể dụ ngôn người Biệt phái và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện để cho chúng ta thấy lòng nhân từ hay thương xót của Thiên Chúa. Thì hôm nay, qua câu chuyện ông Giakêu muốn thể hiện cách cụ thể lòng thương xót đó bằng việc Ngài thương xót và an ủi cho Giakêu khi đến viếng và ở lại nhà ông, một người tội lỗi.
Thế giới và những những gì chứa đựng trong nó chỉ là những hạt cát nhỏ bé, mong manh so với sự vĩ đại lớn lao của Thiên chúa. Nhưng Thiên Chúa yêu thương tất cả các tạo vật ấy. Vì Chúa tạo dựng vũ trụ này chỉ vì tình yêu. Chúa không hề chê bất cứ tạo vật nhỏ bé nào. Vì nếu ngài chê ghét thì không một tạo vật nào có thể tồn tại. Vì thế, mọi vật hiện hữu quanh ta điều có giá trị trước mặt Thiên Chúa cho dù một vài thụ tạo không đi đúng đường lối Ngài thì ngài vẫn tỏ lòng khoan dung để nhắc nhở, sửa dạy hầu chúng biết được lỗi lầm mà bỏ đường gian ác. Đó là tư tưởng của bài đọc I
Bài Tin Mừng sẽ cho chúng ta một ví dụ về lòng thương xót Chúa qua việc Chúa Giêsu tìm được một người thu thuế tội lỗi Giakêu để kêu gọi ông ta sám hối. Sự sám hối này được ông ấm ủ trong lòng bấy lâu qua sự khao khát muốn gặp Chúa Giêsu.
Chắc chắn Chúa Giêsu không xa lạ gì đối với dân thành Giêricô. Vì tại đây, Ngài đã chửa cho một người mù tên Bartimê. Và không biết tình cờ hay ngẫu nhiên mà chúa Giêsu người Samaria nhân hậu xuất phát từ Giêricô. Vì thế, là người giàu có trong thành, Giakêu cũng đã nghe đồn đây đó về Chúa Giêsu và ông muốn gặp Ngài.
Dẫu biết sự khao ấy nơi ông có nhiều khó khăn cản trở: giới hạn về thân xác, là một người lùn “đừng chơi với thằng lé đừng ghé nhà thằng lùn”; giới hạn về tâm hồn, là người không có uy tín mấy, bị khinh khi. Nhưng tất cả những cản trở, những khó khăn đó không ngăn được ước muốn gặp Chúa và ngăn cản đôi chân ông cất bước đi tìm. Bấy nhiêu đó cũng đủ thấy sự cố gắng nổ lực khát khao gặp Chúa xuất phát từ tấm lòng chân thành của ông.
Nhưng sự quảng đại và lòng thương xót của Chúa Giêsu cũng đâu chịu thua sự nỗ lực và cố gắng của Giakêu. Vì Chúa Giêsu đã biết trước Ngài sẽ phải làm gì cho ông hôm nay. Giữa đám đông chen lấn vây quanh Chúa Giêsu. Nhưng Ngài không mấy quan tâm. Vì ánh mắt của Ngài đã hướng lên ngọn cây sung cao chót vót, nơi Giakêu đang ngồi chờ đợi. Điều này chứng tỏ Chúa Giêsu đã quan tâm đến ông cách đặc biệt. Vì thế nếu chúng ta cảm phục trước tấm lòng khao khát Chúa Giêsu cách chân thật nơi Giakêu bao nhiêu thì chúng ta càng phải thán phục trước sự quảng đại và lòng khoan dung của Chúa gấp bội.
Vì Ngài đã không mấy quan tâm đến đám đông reo hò đón rước vây quanh mà lại đoái nhìn đến Giakêu, một người bị xã hội loại trừ khinh bỉ. “Này ông Giakêu hãy xuống mau đi vài hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”. Cách đối xử của Thiên Chúa hoàn toàn khác và vượt xa với suy nghĩ của con người. Việc Chúa Giêsu đến trọ nhà ông đã nói lên ơn cứu độ của Thiên Chúa không loại trừ một ai. Vì Chúa không nhìn con người với những lầm lỗi của họ. Nhưng Ngài chỉ để ý đến phẩm giá cao quý được đặt để nơi người đó. Và chính cái nhìn thông cảm thấu suốt tâm can của Chúa Giêsu đã làm cho Giakêu cảm phục và hoán cải đời sống. Một sự hoán cải chân thật xuật phát từ con tim bị đánh động bởi lòng quảng đại của Chúa Giêsu.
Chính khi cảm nhận được tấm lòng bao la quảng đại và tình thương của Chúa Giêsu dành cho mà Giakêu đã nhận ra, ý thức được chính mình. Con tim của ông đã bị đánh động và bị chinh phục. Chính sự khao khát của ông đã được đáp đền. Giakêu đã thật sự mặt chạm mặt và lòng gặp lòng với Chúa Giêsu.
Sự hoán cải liền xảy ra ngay lập tức, có thể thấy được và chắc chắn là sự hoán cải này sẽ chi phối suốt cuộc đời Giakêu. Đây không chỉ hoàn toàn là sự hoán cải theo lý trí mà bao gồm cả con tim. Đây mới là sự hoán cải thật sự, đúng nghĩa và là sự hoán cải quan trọng. Nó vượt ra ngoài những suy nghĩ của lý trí và đi đến một hiệu quả sâu xa. Sự sợ hãi của con người không thể có được sự hoán cải này mà chỉ có con tim, chỉ có gặp gỡ và tình yêu.
Chính sự hoán cải này mới có thể thay đổi được lòng người, thay đổi được cái nhìn, biết yêu thương người khác và biết chia sẻ cho nhau. Kỳ thị, ghen ghét... chỉ có thể làm cho con tim đóng kín và trở nên chai đá. Sự thông cảm đón nhận và cách đối xử thân tình của Chúa Giêsu sẽ làm cho con tim nhân lọai trở nên mềm mại và rộng mở. Không có gì có thể làm thay đổi hay có thể hoán cải một con người nếu không phải là con tim.
Để tỏ lòng sám hối thật sự và để Chúa Giêsu không phải thất vọng, Giakêu đã chứng minh bằng một sự từ bỏ và hứa hẹn một cuộc đời công chính. Danh lợi và vật chất giờ đây đối với ông chỉ là phù vân. Vì bấy lâu nay có nó nhưng đâu có ngày nào ông cảm thấy hạnh phúc, bình an. Sống trong nhung lụa nhưng tâm hồn ông vẫn cứ khắc khoải, lo lắng như còn thiếu một điều gì đó. Và Chúa Giêsu đã lấp đầy mọi khoảng trống trong tâm hồn và thỏa mãn mọi khát vọng cuả ông.
Giờ đây ông cảm thấy thư thái, bình an trước cuộc. Đây quả là một sự hoán cải sâu xa xuất phát từ nội tâm của Giakêu. Tất cả chúng ta cũng đang cần sự hoán cải đó. Mỗi người chúng ta cũng có khả năng hoán cải như Giakêu nhưng khả năng đó còn đang bị đóng kín và chưa được khơi dậy. Chúng ta đang sống trong sự khao khát hoán cải mỗi ngày để biến đổi một con tim hẹp hòi thành con tim quảng đại, từ một con tim chai đá cho đến một con tim bằng thịt biết yêu thương.


(Suy niệm của Lm. Louis Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Luca thuật lại hai câu chuyện liên quan đến thành Giêricô: người mù được chữa lành khi Chúa Giêsu đến gần đó (18,35-43), và ông Giakêu khi Người đi ngang qua thành (19,1-9). Câu chuyện Giakêu được đặt ở cuối hành trình lên Giêrusalem (9,51-19,27). Hành trình tạm ngưng khi Người dừng chân ở lại nhà người thu thuế nầy (x. 17,11;18,31). Có thể phân chia bố cục của đoạn như sau: - Bối cảnh dẫn nhập (c. 1); - Giakêu tìm và gặp Chúa Giêsu (cc. 2-6); - Chúa Giêsu đến nhà Giakêu và ban ơn cứu độ cho ông, và kết luận (cc. 7-10). Hai phần chính có cấu trúc hình thức tương tự nhau. Trong phần đầu (cc. 2-6), Giakêu tìm gặp Chúa Giêsu, và bị dân chúng cản trở. Họ che ông khỏi thấy Người, vì ông thấp bé (c. 3). Ông tìm cách vượt qua trở ngại bằng cách trèo lên cây sung (c. 4). Chúa Giêsu đáp lại sự tìm kiếm của ông là đi ngang qua chỗ ông và nói với ông (c. 5). Người đến nhà ông và ông đón tiếp trong vui mừng (c. 6). Trong phần thứ hai (cc. 7-10), Chúa Giêsu đến nhà Giakêu, và bị dân chúng cản trở bằng những lời lẩm bẩm (c. 7). Người vẫn đến và Giakêu đáp lại bằng sự sửa mình của ông (c. 8). Chúa Giêsu vui mừng vì đã cứu vớt được một người con của Abraham (cc. 9-10). Những từ quan trọng liên kết hai phần với nhau đều nằm ở câu 5 và 9 là “hôm nay”, “ nhà” và “Giêsu”. Hai câu nầy là chìa khóa giúp hiểu ý nghĩa của mỗi phần. Từ eis-erchomai “đi vào”(c. 1) và erchomai “đi” “đến” (c. 10) đóng khung đoạn (inclusio), đánh dấu việc cứu độ Chúa Giêsu làm cho Giakêu đã xong tại Giêricô. Dựa trên câu chuyện của Giakêu, có thể thấy việc Giakêu tìm kiếm Chúa (c. 3) đã kết thúc với việc Chúa Giêsu tìm kiếm ông theo chiều ngược lại, và đã cứu vớt ông (c. 10).
Chúa Giêsu vội vã đi ngang qua Giêricô để lên Giêrusalem (c. 1). Động từ “đi ngang qua”, dia-erchomai, gợi lên ý tưởng đi xuyên lãnh thổ, và đi vội vã (x. 2,15; 4,30; 5,15). Người nhắm đến Giêrusalem và không muốn chậm trễ. Tuy nhiên, Người đã tự cầm chân mình lại trong nhà Giakêu để cứu vớt người nầy.
Giakêu tìm và gặp Chúa Giêsu (cc. 2-6). Phân đoạn nầy tập trung vào Giakêu: - Con người và ước muốn (cc. 2-3); - Thực hiện ước muốn và kết quả đến hơn cả lòng mong muốn (cc. 4-6). Cụm từ “Và nầy” mở đầu, dùng để kéo sự chú ý vào điều sắp được trình bày; tương tự như thế khi nói về Simêon (2,25). Luca giới thiệu tên, nghề nghiệp và thân thế của Giakêu (c. 2). Zacchaeus là hy lạp hoá tên hipri Zakkay (Nêh 7,14; Esdra 2,9), có nghĩa là “sạch, vô tội”. Là trưởng thu thuế, nên ông giàu có. Giêricô là trụ sở quan thuế thường được nhắc đến, và đây là thí dụ điển hình.
Giakêu tìm thấy cho bằng được Chúa Giêsu là ai (c. 3). Động từ “tìm kiếm” được dùng rất nhiều lần trong Luca; nhưng ở thể quá khứ chưa hoàn thành, chỉ được dùng cho Giakêu, cho Hêrôđê (9,9) và Giuđa (22,6). Khó có thể nghĩ là độ dài, sự lập lại của việc tìm kiếm của Giakêu chỉ xảy ra cách ngắn ngủi khi Chúa Giêsu vội vã ngang qua thành Giêricô. Nếu như thế, tìm kiếm ấy chỉ là một sự tò mò nhất thời. Sự tìm kiếm nầy phải là đã từ lâu, bây giờ là cơ hội để tìm thấy, như trường hợp của Hêrôđê (x. 23,7-8) và Giuđa (22,47). Động từ nầy thường hàm ý là tìm cho đến khi nào thấy được (2,48.49; 9,9). Tuy Giakêu đã đi tìm, chính Chúa Giêsu mới là người tìm thấy ông (c. 5). Người tỏ mình ra cho ông, như trong khẳng định “Ai tìm sẽ được cho” (11,9-10; 12,31). Sự thấp bé của Giakêu là sự kiện chứ không phải là nguyên nhân. Dân chúng mới là nguyên nhân “vì dân chúng” (c. 3). Họ cản trở không cho ông nhìn thấy Chúa Giêsu, cũng như họ không muốn Người đến nhà ông (c. 7). Đáng ngạc nhiên là Luca trình bày phản ứng của dân chúng tương tự như phản ứng của những người Pharisêô (x. 5,30; 15,2).
Khung cảnh thu nhỏ lại hơn. Chúa Giêsu “đi ngang qua Giêricô” đến “đi đến” chỗ cây vả nơi có Giakêu (c. 4). Chúa Giêsu dừng lại ở đó. Tên “Giêsu” được nêu rõ ở đây, cũng như ở câu 9, chỉ sự quan trọng của điều Người sắp nói: “Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà anh” (c. 5). Chúa Giêsu lên chương trình cho Giakêu. Ông phải “xuống mau” vì Người đang vội vã đi lên Giêrusalem. Nhưng Người “phải” ở lại, vì đó là sứ mệnh cứu độ của Người (x. 2,49; 4,43; 9,22…). “Hôm nay” sẽ được lập lại trong c. 9 chỉ thời điểm ơn cứu độ được thực hiện (2,11; 4,21; 5,26; 23,43). “Nhà của anh” đại từ chỉ ngôi “của anh” đặt sau “nhà” là vị trí nhấn mạnh. “Ở lại” là một phần của việc tông đồ (x. 1,56; 9,4; 10,7; 19,5; 24,29). Giakêu đã trèo lên để tìm xem Chúa (c. 4). Bây giờ ông trèo xuống vì đã gặp Người (c.6). “Vội vã” chỉ sự khao khát (x. 2,16). Động từ “đón tiếp” hàm ý sự hiếu khách (x. 10,38). Ông vui mừng vì Chúa ở lại nhà ông. Luca thường nói đến niềm vui của những người được Thiên Chúa can thiệp và cứu độ (x. 1,14; 1,28; 6,23; 10,20; 13,17; 19,6). Như thế, Giakêu đã nhận được nhiều hơn cả điều ông mong ước.
Chúa Giêsu đến nhà Giakêu và ban ơn cứu độ cho ông (cc. 7-10). Động từ “cho” và “hoàn trả” (c. 8) ở thì hiện tại hiểu như là tương lai gần: “tôi sẽ cho”, “tôi sẽ hoàn trả lại” (x. 4,6; Cv 3,6). Giakêu đã không làm điều nầy trong quá khứ. Ông đã đặt giả thiết là ông có thể đã làm thiệt hại ai đó trong quá khứ (c. 8). Nên không lạ gì dân chúng nghĩ ông là “người tội lỗi” (c. 7). Do đó, quyết định nầy chứng tỏ ông đã hoán cải. Và Chúa Giêsu mới tuyên bố là “hôm nay ơn cứu độ đến với nhà nầy” (c. 9), và “Người đến để cứu vớt những người hư mất” (c. 10). Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu đã biến đổi đời ông. Động từ “sykophante” có nghĩa là “gian lận”, “áp bức”, “hăm dọa tống tiền” (x. 3,14). Làm nghề thu thuế, Giakêu gian lận tiền bạc của người khác cho chính mình. Dựa vào luật Môse, phải đền trả lại “gấp bốn” (x. Xh 21,37; 2 Sam 12,6) hay “gấp năm” (x. Lv 6,5; Ds 5,6-7).
Như câu 5 ở trên, Chúa Giêsu lại tuyên bố (c. 9), và lần nầy Người nói đến sự cứu độ cho Giakêu, “người con của Abraham.” “Cứu độ” được gắn liền với “hôm nay”; xem ở trên. “Con cháu của Abraham” không phải chỉ do bởi sự thuộc về dân tộc Do thái. Chúa Giêsu đã phê bình những người tự hào là họ có Abraham là tổ tiên, nhưng thiếu lòng hoán cải (x. 3,8). Chính sự hoán cải trở về với Thiên Chúa mới chứng thực ai là con cái của Abraham. Giakêu đã làm điều nầy và đáng được gọi là con cái của Abraham. Câu 10 lấy lại ý tưởng của câu 5,32 với nhiều thay đổi từ ngữ. Đó là “đến tìm kiếm” và “những người hư mất”, thay vì nói đến việc kêu gọi “người tội lỗi hoán cải”. Việc thay đổi từ ngữ nấy nhằm nhấn mạnh sứ vụ mục tử của Chúa Giêsu; xem dụ ngôn đi tìm chiên lạc (15,4-7). Tước hiệu “Người Con của Nhân Loại” gắn liền với cuộc thương khó, sự chết và vinh quang (9,26.44; 12,8; 22,69); đồng thời cũng gắn liền với những người thu thuế và tội lỗi (7,34; 19,10). Họ là những người đầu tiên “phải” được tìm đến và cứu chuộc. Vậy như lời hứa với Abraham (1,73), Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót với con cháu của ông (1,55) qua việc ban ơn cứu độ cho Giakêu.
Thiên Chúa vẫn còn đi ngang qua trần gian nầy để tìm kiếm và cứu độ những người đã hư mất. Hãy mở cửa nhà cho Chúa. Mời Người vào và lãnh nhận ơn cứu độ.


Một ngày nọ, Mẹ Têrêsa nhận được 15 đôla do một người bị bất toại đã 20 năm gửi tặng. Ông ta bị toàn thân bất toại chỉ còn bàn tay phải là có thể cử động được. Ông sống trong cô đơn và chỉ có một người bạn duy nhất là điếu thuốc lá.
Hôm ấy, Mẹ Têrêsa đến thăm, an ủi ông và ông đã nói với Mẹ:
- Thưa Mẹ, con đã ngừng hút thuốc từ một tuần nay, và đây là số tiền con dành dụm được. Con xin biếu Mẹ để Mẹ mua cơm bánh cho những kẻ nghèo khó.
Thật quý hóa cho một tâm hồn cao thượng. Biết tích góp từ những đồng tiền ít ỏi của mình để trao tặng tha nhân. Người ta nói rằng: trên đời này, không ai nghèo đến nỗi không có gì để chia sẻ với người khác và cũng không ai giàu đến độ không thể nhận thêm được cái gì của người khác ! Với số tiền nhỏ bé 15 đôla kia, Mẹ Têrêsa đã mua cơm bánh cho người nghèo đói, và cả hai -người bất toại trong việc cho  đi và người nghèo đói trong việc nhận lãnh- đều cảm nhận được một niềm vui sâu xa. Có lẽ nhiều lần chúng ta đã dễ dàng quên đi một sự thật căn bản này là: mỗi một dịp chia sẻ với người khác tức là một lần đón nhận niềm vui của một tâm hồn biết cho đi. Thế nhưng, chúng ta vẫn để cuộc đời trôi qua trong tẻ nhạt vì lạnh vắng tình người.
Thực ra, giá trị cuộc đời con người nằm ở chỗ có khả năng trao ban. Người càng trao ban nhiều thì càng có giá trị với cộng đoàn, với xã hội. Ai không biết trao ban sẽ trở thành vô ích với xã hội loài người. Cho dù họ có lắm tiền nhiều của hay chức vọng cao sang thì cũng vô giá trị với anh em nếu không biết sống trao ban. Trao ban còn cho ta niềm vui của cuộc sống khi nhận ra mình thật có ích với tha nhân. Chúng ta có thể trao ban cho tha nhân tiền tài, tình yêu, sự chia sẻ, lòng cảm thông. Chúng ta có thể trao ban lời nói và hành động ngay cả ánh mắt của sự đồng cảm yêu thương. Trao ban sẽ tạo cho ta mối giây liên hệ gắn kết với tha nhân, cộng đoàn. Trao ban sẽ tạo cho ta niềm vui vì thấy người khác vui nhờ sự chia sẻ của chúng ta.
Đây là niềm vui của Gia-kêu khi ông biết cho đi. Có lẽ cuộc đời ông trước kia chỉ đón nhận, chỉ biết vun quén, có khi vun quén bằng những hành vi bất chính. Ông có tiền và rất giầu. Ông có kho lẫm tích trữ rất nhiều nhưng ông không có niềm vui tâm hồn. Ông biết rằng khi trao ban mới có niềm vui nhưng ông không tìm được lý do để trao ban. Cho tới khi ông gặp Thầy Giê-su, ông mới mạnh dạn làm cái điều mà mình hằng thổn thức, hằng ước mong. Thầy Giê-su là động lực để ông dám trao ban cả một khối gia tài mà trước đây ông vun quén, ông xây kho lẫm để chất cho đầy. Khi có Thầy Giê-su, ông chỉ muốn dùng tài sản của mình để đền bù cho những ngày tháng mình quá ích kỷ. Ông muốn làm việc nghĩa. Ông sẵn sàng làm tất cả để chuộc lại lỗi lầm. Giờ đây ông biết rằng: tiền bạc chẳng mua được hạnh phúc và càng không mua được Nước trời.
Cuộc đời quanh ta cũng có biết bao cơ hội để ta trao ban nhưng dường như chúng ta vẫn để cơ hội ấy lặng lẽ trôi qua. Chúng ta vẫn sợ cho đi mình sẽ thiệt thòi. Chúng ta vẫn ích kỷ không dám cho đi vì sợ người ta hơn mình. Chúng ta vẫn cố nắm giữ cho mình mà ít nghĩ tới việc trao ban. Thế nên, cuộc đời chúng ta vẫn lặng lẽ trôi qua trong âm thầm tẻ nhạt.
Ước gì mỗi lần chúng ta đến với Chúa sẽ cho chúng ta cơ hội để trao ban. Có Chúa là gia nghiệp, là hạnh phúc vượt trội hơn mọi danh vọng, vật chất trần gian. Có Chúa là lẽ sống sẽ giúp chúng ta làm một điều gì đó cho Chúa vui lòng như Gia-kêu đã thành tâm sám hối chuộc lại lỗi lầm. Ông đã bố thí, đã trao ban nhờ đó ông ngập tràn niềm vui trong tâm hồn. Xin cho chúng ta cũng biết noi gương Chúa biết sống cho đi mà không tính toán, cho đi cả mạng sống mình vì hạnh phúc tha nhân để nhờ đó chúng ta được sống mãi trong tình thương của Chúa. Amen.


Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo II được coi là sứ giả của Thiên Chúa, và là con người của muôn người. Ngài là vị giáo hoàng đầu tiên đã thực hiện trên 100 chuyến công du đến 129 quốc gia để gặp gỡ và chung sống với đủ mọi thành phần trong xã hội, đủ mọi dân tộc trên khắp Năm Châu. Dù tuổi già sức yếu, hai lần té gãy xương, thậm chí cuộc ám sát năm 1981 đã khiến ngài từng ngã qụy vì viên đạn bắn gần vào tim, nhưng tất cả vẫn không làm chùn bước chân của người mục tử đi đến với đoàn chiên và tìm chiên lạc trở về.
Ngài đã thực hiện một chuyến viếng thăm lịch sử, một chuyến viếng thăm đã chinh phục được toàn thể luơng tâm nhân loại. Đó là khi Ngài dừng chân bên bức tường Than Khóc. Tại đây, ngài lập lại lời xin lỗi cho cả một quá khứ hiểu lầm đầy đau thương. Đây quả thực là một cuộc viếng thăm đã san bằng con đường gồ ghề gai góc và mở ra một chân trời mới.
Chân trời của sự tha thứ lẫn nhau.
Chân trời của sự tin tưởng lẫn nhau
Chân trời của những chân lý chung
Chân trời của những trách nhiệm chung
Và chân trời của sự cầu nguyện chung.
Đức thánh Cha Đức Bênêdicto 16 cũng ra đi, để đến với muôn dân. Đặc biệt trong chuyến viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ vào cuối tháng 11/2006, ngài đã thực hiện một chuyến viếng thăm đầy mạo hiểm theo cái nhìn người đời, nhưng là bước đi đầy lòng cậy trông và phó thác vào Thiên Chúa quan phòng. Ngài đã đánh đổ mọi cái nhìn lệch lạc về ngài khi ôm chúc bình an với Đức Thượng phụ Bathôlômêô I, và khi ngài bước vào Đền Thờ Xanh trong sự kính trọng và đầy thiện cảm của anh em Hồi Giáo. Chính chuyến tông du có tính lịch sử này, giới truyền thông trên toàn thế giới cho rằng ngài đã đóng góp: “cho việc xây dựng một thế giới có khả năng nhận ra những chân lý chung trong tình huynh đệ và đối thoại, và không chiều theo đối kháng hay đầu hàng quyền lực sự chết”.
Trong cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu luôn đi đến với mọi người. Mỗi bước đi của Ngài luôn để lại dấu ấn đầy yêu thương cho những ai được tiếp xúc với Ngài. Hôm nay, Giakêu đã được Chúa viếng thăm. Đây là một hồng phúc dành cho Giakêu. Gia Kêu không ngờ mình lại được Thiên Chúa viếng thăm. Những người Do Thái năm xưa càng không ngờ Thầy Giêsu, một vị Thầy đáng kính, một người thánh thiện lại ghé thăm kẻ tội lỗi. Nhưng đây lại là đường lối của Chúa. Chúa đã dùng cách này để mang tình yêu đổi lấy cuộc đời Gia Kêu. Chúa dùng tình yêu để cải hoá người tội lỗi. Chúa đến để tìm kiếm, để cứu chữa những gì đã mất. Chính trong chuyến viếng thăm lịch sử này, Chúa đã đổi đời Gia Kêu để từ đây ông không còn tham lam quyền bính hay tham lam tiền bạc. Gia Kêu đã sám hối và chuộc lại lỗi lầm. Ông đã cho đi những của phù vân. Ông đã biết dùng của cải đời này mà mua lấy bạn hữu Nước Trời mai sau. Ông còn bỏ tiền để đền bù những việc lỗi công bằng bác ái mà ông đã gây ra. Ông đã tìm được sự bình an của tâm hồn sau một lần được Chúa viếng thăm.
Con đường đến với anh em phải là con đường của các môn đệ Thầy Giêsu. Hãy ra khỏi chính mình để đến với anh em. Hãy tìm đến các con chiên lạc mà đưa về ràn. Hãy hội nhập với đời để đem đạo vào đời. Chúa đã đi vào đời để gieo chân lý, niềm tin và hy vọng. Là môn đệ của Chúa cũng cần bước theo dấu chân của Thầy Giêsu. Dấu chân luôn rong ruổi khắp mọi nẻo đường. Dấu chân của người môn đệ đi đến đâu, sẽ để lại cho đời một màu xanh của yêu thương và hạnh phúc bình an. Ước mong mỗi người chúng ta hãy can đảm vượt qua những trở ngại từ bản thân, từ môi trường để dấn thân cho Tin mừng của Chúa được đến với muôn người. Hãy xoá mọi thành kiến xấu nơi anh em để có thể hoà hợp với anh em. Hãy xoá bỏ mọi ngăn cách giầu nghèo hay địa vị cao thấp mà sống hoà đồng với anh em. Hãy xoá bỏ mọi hiềm khích hận thù để sống bác ái yêu thương nhau ngõ hầu làm sáng danh Chúa qua những dấu chỉ của tình yêu thương.
Nguyện xin Chúa là Đấng đã viếng thăm Giakêu xin cũng lưu lại nơi cuộc đời chúng con để biến đổi chúng con thành những tín hữu biết sống công bình bác ái và dấn thân hết mình phục vụ tha nhân. Amen.


(Suy niệm của Achille Degeest)
Giakêu là một người giàu có. Sự giàu có của ông có thể khiến cho người ta có lý do chính đáng nghi ngờ ông tham nhũng. Thật vậy, phụ trách thu thuế cho người La mã chiếm đóng xứ sở mình, ông trích ra những khoản đáng kể làm của riêng, lấy ở những số tiền thuế do ông quản lý. Vậy mà Đức Giêsu đã không nề hà đến thăm, lưu lại nhà ông, đem đến cho ông ơn cứu rỗi. Đoạn kết bài tường thuật nhấn vào ý nghĩa sứ vụ của Chúa là đến cứu rỗi nhân loại. Vấn đề đặt ra ở đây là gì? Ơn cứu rỗi đối với ông Giakêu phải chăng là bố thí rộng rãi và hoàn trả gấp bội số tiền phù thu lạm bổ? Chúng ta không nên tách riêng đoạn Phúc Âm hôm nay với giáo huấn tổng quát của Đức Kitô về của cải thế gian. Mọi của cải thế gian, mọi sự giàu có, bất lương hay lương thiện cũng vậy, đều có xu thế chiếm đoạt tâm hồn, đều được chứa đựng hiểm họa gây thiệt hại cho kẻ khác. Muốn được cứu rỗi thì phải cố lên tới tầm mức Nước Thiên Chúa, ở độ cao ấy tâm hồn tự giải thoát khỏi sự chi phối của tiền bạc để có thể thờ phụng Thiên Chúa và đối xử với đồng loại bằng một tình huynh đệ thực tế và công bằng. Tình thương công bằng cho đồng loại, ưu tiên tuyệt đối cho Thiên Chúa, đó là tầm cao ơn cứu rỗi của Phúc Âm. Thế mới biết, những viễn ảnh muốn nhìn Phúc Âm như một hệ thống bình đẳng đáng ngờ trong hưởng thụ của cải đời này, quả là một lối nhìn thiển cận biết chừng nào. Phúc âm trong thực tế chủ trương công bằng xã hội, chính là vì Phúc Âm nhắm một mục tiêu vượt xa đời này vô cùng. Ơn cứu rỗi của Phúc Âm ở tầm cao của đức tin và trong trật tự đức tin. Do đó có hai câu hỏi:
1)   Ai dám tự phụ hoàn toàn không mắc cái “tội” của ông Giakêu?
Kitô hữu nào thật sự giàu hoặc thèm muốn giàu mà không cần lo giải thoát tâm hồn mình khỏi sức hấp dẫn của tiền bạc? Tới đây, chúng ta phải đề phòng kẻo rơi vào một ảo tưởng. Sống trong hoàn cảnh đầy đủ, người ta có thể ngay lòng xác nhận mình không bận tâm về của cải thế gian. Nhưng trong hoàn cảnh may mắn ấy, người ta có đặt ưu tiên cho việc thờ phụng Thiên Chúa không? Vì ở đây không chỉ là giá trị của sự từ bỏ những điều giam hãm tâm hồn, ở đây là giá trị của sự thờ phụng và kính mến Thiên Chúa hằng sống.
2) Đức Giêsu có ghét bỏ Giakêu kẻ giàu có không?
Chúng ta biết rõ Đức Giêsu nghĩ gì về sự giàu có. Thế mà Người đối thoại với những kẻ giàu. Chúa đứng về phía những kẻ hèn mọn, nghèo khổ, Chúa bênh vực quyền lợi họ, nhưng không lấy đó làm vũ khí chống kẻ giàu có. Chúa không hô hào bần cùng hóa nhà giàu và tư hữu hóa kẻ nghèo. Tất nhiên Đức Giêsu tiếp lời các ngôn sứ giảng dạy về sự Thiên Chúa đòi hỏi gắt gao phải đối xử công bằng. Nhưng Đức Giêsu đi xa hơn nữa, Người nhắm vấn đề cơ bản. ‘Người này cũng là con cái Abraham’, Chúa nói như thế về ông Giakêu ăn năn trở lại. Vậy thì, con cái Abraham, nghĩa là gì? Là đặt niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa và tin cậy sắt đá vào Thiên Chúa. Dòng dõi thiêng liêng Abraham tập hợp và liên kết chặt chẽ với nhau trong niềm tin vào Đức Kitô. Kẻ nào thành thật sống niềm tin ấy thì tìm được thái độ thích đáng là không gắn bó thiết tha với sự giàu có, giàu có thật sự hoặc giàu có trong mơ ước thèm khát cũng vậy.


(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Giakêu là một người thu thuế giàu có. Tuy không thiếu gì, nhưng lòng ông vẫn khắc khoải không yên. Ông vẫn tìm kiếm một Ai đó có thể nâng đỡ ông dậy. Hẳn ông đã nghe người ta bàn tán về Đức Giêsu. Ngài chẳng sợ làm bạn với những người bị khinh như ông. Giakêu mong có ngày thấy Đức Giêsu.
Dịp may đã tới, ông đi với đám đông theo sau Ngài, nhưng vẫn không sao thấy được Ngài, vì dân chúng thì đông, còn ông lại thấp bé. Giakêu không thất vọng. Lòng khát mong đích thực chẳng bao giờ chịu bó tay.
Ông chạy trước đám đông và leo lên một cây sung. Ông hí hửng với sáng kiến khôn ngoan của mình, và tin chắc mình sẽ toại nguyện. Giakêu núp ở trên cây, tưởng không ai trông thấy. Nào ngờ Đức Giêsu ngừng lại, nhìn lên và gọi tên ông.
Ngài thấy ông trước khi ông thấy Ngài. Ánh mắt Ngài làm ông luống cuống, nhưng lời của Ngài lại làm ông sung sướng, ngỡ ngàng: Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông. Niềm hạnh phúc bất ngờ làm ông ngây ngất.
Đường từ gốc sung về nhà ông bao xa, ta không rõ, nhưng chắc chắn đó là đường đầy ắp niềm vui.
Giakêu thấy mình mất đi những mặc cảm thấp kém. Ông như lấy lại được danh dự trước đám đông, bởi lẽ Đức Giêsu sắp đến thăm nhà ông, bất chấp những lời xầm xì phản đối.
Ông chỉ ao ước thấy mặt Ngài, còn Ngài lại muốn bày tỏ cả bề sâu của lòng mình: dịu dàng, tha thứ, yêu thương, tế nhị.
Hoán cải là kết quả của một cảm nhận về Tình Yêu.
Ánh mắt, lời nói, thái độ của Đức Giêsu đã thổi bùng lên ngọn lửa leo lét nơi Giakêu, và khiến lòng ông tan chảy.
Bỗng chốc Giakêu thấy mình được tự do thanh thoát.
Những gì xưa nay trói buộc ông, làm ông say mê, bây giờ trở nên vô vị. Một cách hồn nhiên, ông dâng nửa gia sản cho người nghèo, và xin đền gấp bốn những gì đã lường gạt.
Giakêu sẽ trở nên nghèo hơn trước, nhưng ông hạnh phúc hơn xưa nhiều, vì ông cũng là con cháu tổ phụ Apraham.
Ước gì chúng ta bao dung như Đức Giêsu và quảng đại như Giakêu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Giakêu muốn thấy Đức Giêsu và ông đã được quá lòng mình mong ước. Theo ý bạn, để thấy Đức Giêsu trong đời mình, cần có thái độ nào? Mẫu gương của Giakêu có giúp gì cho bạn không?
Xã hội hôm nay vẫn có nhiều Giakêu: những người bị coi thường hay loại trừ, những thanh niên đã có tiền án, trẻ bụi đời, gái điếm, những người nghiện ma túy... Họ cần những người có trái tim của Đức Giêsu. Bạn nghĩ mình có thể giúp gì để họ thay đổi cuộc sống không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, khi đến với chúng con Chúa thường đến như một người hành khất.
Chúa cần chút nước của người phụ nữ Samari.
Chúa cần năm chiếc bánh và hai con cá,
Chúa cần nhà ông Giakêu để nghỉ chân.
Chúa khiêm tốn cúi xuống xin chúng con, để rồi tuôn đổ trên chúng con nhiều gấp bội.
Xin dạy chúng con biết cách đến với mọi người, và khám phá ra đốm lửa nhỏ của sự thiện vẫn cháy sáng nơi lòng người tội lỗi.
Ước gì chúng con nhìn tha nhân bằng ánh mắt của Chúa, dám hy vọng không ngơi vào lòng tốt của mỗi người, và can đảm tin tưởng vào sự quảng đại của họ, nhờ đó thế giới của chúng con trở nên nhân bản hơn và thần linh hơn.


(Trích dẫn từ ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller)
Một số người khiếp hãi về cách cư xử của Chúa Giêsu. Bài Phúc Âm ngày hôm nay cho chúng ta thấy những người bàng quan đã không bằng lòng với chú ý đặc biệt mà Chúa Giêsu đã dành cho Giakêu. Bài Phúc Âm ngày hôm nay cho chúng ta thấy những người bàng quan đã không bằng lòng với chú ý đặc biệt mà Chúa Giêsu đã dành cho Giakêu, người bị đóng nhãn như một người tội lỗi. Thật ra họ đã bị sốc và họ phải xì xào bàn tán chống lại Chúa Giêsu.
Mặc dầu không được chuẩn nhận từ đám đông, Giakêu đã làm một quyết định đúng. Ông nhận thấy rằng Chúa Giêsu, Đấng có thể làm cho ông trở lại đường ngay chính bằng cuộc sống của mình. Ông hiểu rằng, Chúa Giêsu có đầy đủ tình yêu và lòng nhân từ. Giakêu cũng đã xác định được, ông ta sẽ không đi đến với bất cứ ai hoặc bất cứ điều gì có thể ngăn cản ông gặp gỡ Chúa Giêsu, không phải sự bất bình của những kẻ phán xét ông không có giá trị gì, và hình hài nhỏ bé của ông cũng không thể ngăn cách ông thấy Chúa Giêsu từ trên đầu của đám đông.
Tôi tưởng tượng ra Giakêu giống như một đứa trẻ khi cha mẹ chúng đang đi ngang qua. Ông bị những người trưởng thành che khuất tầm nhìn. Ông đã nhảy lên nhảy xuống nhưng vẫn không thể thấy những gì đang xảy ra. Giakêu biết rằng không một người nào giúp ông nhưng ông có một ý tưởng để tự giúp mình. Ông đã chạy tới phía trước để trèo lên một cây vả và ở đó ông có thể thấy Chúa Giêsu, khi ở trên đám đông ông cố gắng nín thở để quan sát một cách cẩn thận, nhưng sự kinh ngạc của ông thì không phải ông chỉ thấy có Chúa Giêsu nhưng ông đã thật sự nghe Ngài nói. Chúa Giêsu đã gọi đích danh tên ông, Giakêu đã ngạc nhiên làm sao Chúa Giêsu biết ông là ai. Có phải Chúa Giêsu đã nghe về những tội lỗi khủng khiếp của ông không? Một người nào đó đã chỉ ông cho Chúa Giêsu phải không? Tiếp đó, ông nhận ra những gì Chúa Giêsu đang nói: “Giakêu, hãy xuống nhanh lên, Ta sẽ lưu lại nhà ngươi hôm nay”. Ông vội vàng trèo xuống khi biết rằng ông đang ở trên cây và ông đã hộ tống Chúa Giêsu đến nhà ông. Ông hứa sẽ thống hối, sẽ thay đổi để theo những lời giáo huấn của Chúa Giêsu, đó là một ngày hạnh phúc trong đời ông.
Những gì Chúa Giêsu đã làm cho Giakêu, nay Ngài cũng làm cho chúng ta. Ngài đã bước vào trong thế giới của chúng ta, thế giới mà sự thật là nhà của người tội lỗi. Chúng ta đã được chúc phúc bằng cách cư xử bất ngờ của Con Thiên Chúa. Cho dù những người khác có thấy đó là gương mù hay không, chúng ta phải làm một quyết định đúng là tìm kiếm Chúa Giêsu, nâng tầm nhìn của chúng ta lên trên những người loại bỏ Chúa Giêsu hoặc nhìn Giáo Hội một cách khinh miệt. Với đôi mắt của đức tin, chúng ta tháy Chúa Giêsu như là Đấng cứu độ của chúng ta, và với đôi tai đức tin chúng ta nghe Ngài nói với chúng ta. Vào ngày chúng ta chịu phép rửa Ngài đã gọi tên chúng ta, Ngài đã biết chúng ta là ai bởi vì Cha Ngài là Đấng Sáng Tạo chúng ta, đã chỉ định chúng ta cho Ngài. Chúng ta đã trở thành con cái của Thiên Chúa.
Trở lại vấn đề, Chúa Giêsu đã không trở thành người khách của chúng ta như Ngài đã là khách của Giakêu, nhưng chúng ta đã trở thành khách của Người. Phép rửa đã mở ra cho chúng ta cánh cửa vào nhà Người là Giáo Hội, nơi mà Chúa Giêsu, chủ của chúng ta đang mời gọi chúng ta tới bàn tiệc thánh, là Thân Mình và Máu Người trong bí tích Thánh Thể. Chúng ta có một đặc ân kỳ diệu vào mỗi ngày Chúa Nhật và mọi ngày nếu chúng ta muốn.
Chúa Giêsu trông đợi chúng ta sẽ thay đổi bất cứ những gì phải xếp đặt lại để theo giáo huấn của Ngài, như Giakêu đã làm. Vào lúc kết Thánh Lễ, chúng ta đã nghe nói: “Hãy đi trong bình an, để yêu thương và phục vụ Thiên Chúa”. Đó là lời hứa của chúng ta trung thành với ý muốn của Thiên Chúa.
Chúng ta không bị sốc bởi cách cư xử của Chúa Giêsu, chúng ta phải sung sướng nghĩ rằng Ngài đã đến để tìm kiếm chúng ta và cứu thoát những gì đã hư mất. Giống như Giakêu chúng ta phải là những kẻ được chúc phúc bởi tình yêu Thiên Chúa và lòng nhân từ của Người.


(Trích dẫn từ ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Tại Boston ở Hoa Kỳ có một đại hội đặc biệt. Đó là đại hội người lùn. 400 người trong 3000 hội viên đã đến tham dự đại hội người lùn của nước Mỹ. Người cao nhất của hội chỉ có 4 feet (=1m40) và người lùn nhất chỉ có 2 feet (=0m70). Đây là đại hội thứ 25, có mục đích để người lùn gặp gỡ vui chơi với nhau và để cho mọi người bớt thiên kiến với thế giới người lùn.
Tin Mừng hôm nay nói đến một người lùn, một người lùn nổi tiếng trong thành Giêricô có tên là Giakêu. Con người lùn tịt ấy đã đi vào lịch sử vì đã được gặp Đức Giêsu. Giakêu là trưởng phòng thuế vụ của thành phố và là một người giàu có, do chức vụ, do việc làm của mình và cũng có thể do đã ăn của đút lót, đã bớt xén của công… Ông là người có tiếng tăm vừa được nể sợ, vừa bị chê ghét trong dân chúng. Có thể chỉ vì tò mò muốn biết Đức Giêsu là người thế nào, có thể trong lòng ông có sẵn một tâm tình ngưỡng mộ, yêu mến. Điều đáng ngạc nhiên là ông tìm bằng được mọi cách để có thể ngó mặt Đức Giêsu khi Ngài đi qua đường phố. Vì lùn, bị đám đông vây kín, Chúa khuất tầm nhìn, ông phải chui ra khỏi đám đông, chạy lên phía trước, leo lên một cây sung để xem thấy Đức Giêsu.
Kìa Giakêu đang ngồi trêng chạng hai của cây sung, ẩn mình trong cành lá. Trăm ngàn người đi theo Chúa Giêsu nào có ai để ý? Và nếu có bị để ý thì ông cứ để mặc. Nhưng Chúa Giêsu thì khác: Đến nơi gốc cây, chân Ngài dừng lại như thể đã hẹn hò; mắt Ngài ngước lên như âu yếm chào; miệng Ngài khẽ kêu đúng tên như người thân đã từng quen biết: “Ông Giakêu ơi! Hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ông”. Hạnh phúc của Giakêu thật tràn đầy vượt quá lòng mong ước. “Ông vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Chúa Giêsu”.
Giakêu đã ngỡ ngàng, nhưng phải nói là dân chúng thành Giêricô còn bị bất ngờ hơn nữa. Mọi người xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!”. Thật quá sức, thật không thể chấp nhận được. Họ cùng trao đổi với nhau như người Pharisêu đã mời Chúa dùng bữa tại nhà ông: “Nếu quả thật ônt nầy là Ngôn sứ, thì ông phải biết người kia là hạng người nào chứ: Hắn là hạng người tội lỗi” (Lc 7,39).
Gặp Đức Giêsu, Giakêu thấy mỉnh phải thay đổi cách sống, phải chuộc lại những lỗi lầm, phải đền bù những bất công đã gây ra trong quá khứ. “Tôi xin lấy phân nửa tài sản của tôi mà cho người nghèo; và nếu tôi đã lường gạt ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Dân chúng càng bàng hoàng kinh ngạc khi Chúa Giêsu chẳng những đến nhà Giakêu trú ngụ ở đó ít ngày, mà lại còn tuyên bố minh bạch: “Hôm nay nhà nầy đã được ơn cứu độ, bởi vì người nầy cũng là con cháu tổ phụ Abraham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã hư mất”. Chỉ có một cái dừng chân do tình thương và lòng nhân hậu thúc đẩy, Chúa Giêsu đã biến đổi một con người tội lỗi trở thành người công chính. Từ giây phút gặp gỡ ấy, cuộc sống của Giakêu đã hoàn toàn đổi mới: từ một người bị cộng đoàn khinh chê ruồng bỏ, ông được Chúa Giêsu cho hội nhập vào cộng đoàn con cháu tổ phụ Abraham.
Thưa anh chị em,
Lời Chúa hôm nay khẳng định với chúng ta về tình yêu thương của Thiên Chúa. Tình yêu thương đó là tinh yêu thương không giới hạn, không phân biệt tình trạng của đối tượng. Tình yêu thương ấy dường như ngả về người tội lỗi, nghiêng về những người sống bên lề xã hội, bên ngoài tôn giáo.
Qua đời sống trần thế của Chúa Giêsu, chúng ta thấy rõ Chúa Giêsu dành tấm lòng yêu thương, ưu ái cho những hạng người mà xã hội tôn giáo Do Thái lúc bấy giờ gạt ra ngoài lề. Đó là những dân ngoại, những người nghèo, những cô gái điếm, những phụ nữ, trẻ em, những người bênh phong cùi, bỉ quỷ ám, những người thu thuế cộng tác và phục vụ ngoại bang… như Matthêu, như Giakêu hôm nay. Chính những hạng người đó lại là đối tượng của Thiên Chúa tình yêu. Vì, như Chúa Giêsu đã nói: “Không phải người khỏe mạnh cần thầy thuốc, nhưng là những người đau bênh”. Và họ cần Chúa là thấy thuốc vạn năng, chữa bá bệnh, có thể làm hồi sinh người đã chết, có thể chữa lành mọi vết thương thân xác cũng như tâm hồn. Chính vì những người tội lỗi, những người yếu đuối, những người bệnh tật mà Chúa Giêsu đã đến.
Giakêu là một thí dụ, Madalenna là một thí dụ khác. Người phụ nữ ngoại tình, người trộm lành lại là một thí dụ khác nữa. Trong bốn sách Tin Mừng, chúng ta gặp được nhiều khuôn mặt méo mó đã được trả lại vẻ đẹp, chúng ta thấy nhiều tâm hồn tan nát đã được ban đầy sức sống mới. Công trình cứu độ là như thế. Tình yêu thương của Thiên Chúa không bị chi phối bở sự trong sáng hay vẫn đục trong lý lịch con người. Trái lại, ai có một lý lịch càng nhiều vết đen, càng phức tạp thì tâm hồn lại càng được yêu thương cứu chữa. Điều cần thiết trước nhất là chúng ta dám mạnh dạn tin tưởng và tiến lại gần tình yêu thân linh vô vị lợi của Thiên Chúa. Và chúng ta hãy cảnh giác, bao lâu chúng ta tưởng mình đã là người khỏe mạnh, đã là người đạo đức thánh thiện… thì lúc đó coi chừng, chúng ta khước từ tình yêu của Thiên Chúa đang nâng đỡ chúng ta từng giây từng phút.
Chúng ta cho rằng mình chẳng có tội gì ư? Có thể nhiều người nghĩ như thế, vì trong cuộc đời nhiều người không hề giết người, không hề gian dâm, không hề trộm cắp. Thế nhưng chãy coi chừng! Tội vì làm những điều ác thì có lẽ phần đông chúng ta không có, nhưng tội vì không làm những điều tốt mà Thiên Chúa truyền dạy thì chẳng ai cò thể vỗ ngực là mình không sai phạm. Vậy thì chúng ta cũng trở thành đối tượng của lòng yêu thương vô bờ của Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến,
Gặp được Chúa Giêsu là cuộc đời chúng ta được biến đổi. Chúng ta phải biết tìm đến gặp cho bằng được Chúa Giêsu. Nếu thực sự chúng ta gặp Chúa như Giakêu, thì thế nào đời sống chúng ta cũng sẽ được đổi mới, tội lỗi chúng ta sẽ được xóa sạch và tâm hồn chúng ta sẽ trở nên trong sáng hơn. Càng gặp gỡ Chúa trong thâm sâu của cõi lòng, chúng ta càng được biến đổi. Nếu chung quanh chúng ta có bao người vẫn mang một nếp sống cũ rích, sói mòn, càng ngày càng nghèo nàn hơn về mặt chất lượng, thì đó là dấu chứng họ chưa thực sự gặp được Đức Kitô Giêsu. Nếu cuộc sống của chúng ta chưa thể hiện được một thay đổi quyết liệt, thì đó là dấu chứng chúng ta chưa gặp Đức Kitô thực sự. Bởi vì bất kỳ một cuộc gặp gỡ nào với Đức Kitô thì đều phát sinh một hiệu quả là thay đổi cuộc sống.
Nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã thực sự ở giữa loài người chúng ta và Ngài mong ước mỗi người chúng ta gắt chước Giakêu mở rộng cõi lòng ra để đón nhận ngài. Khi gặp gỡ Chúa cách chân thành như thế thì chính Chúa sẽ ban ơn hoán cải cho ta và biến đổi ta thành những con người mới: trong sạch, liêm chính theo thánh ý Ngài.


Khi sửa chữa người khác, cách tiếp cận mà chúng ta chọn rất quan trọng. Nếu chúng ta tiếp cận họ chỉ để chất vấn những lỗi lầm của họ thì có nhiều khả năng, chúng ta không làm được gì. Thật vậy, chúng ta hầu như làm cho vấn đề trở nên tồi tệ. Họ sẽ khép kín, trở nên oán hận và chai cứng tâm hồn.
Một người quản lý nhà tù nói rằng cách duy nhất để thay đổi người ta phải thông qua một tương quan với người ấy. Bạn không thể cải thiện người khác bằng cách tránh xa hoặc bỏ rơi họ. Một bầu khí lạnh lùng không khích lệ sự trưởng thành.
Nếu bạn làm bẽ mặt một người, bạn chỉ làm cho tâm hồn người ấy chai cứng. Bạn chỉ tìm cách nào để tâm hồn người ấy cảm động. Mọi người, kể cả người có máu lạnh nhất đều có cái cốt lõi của sự lễ nghĩa, và có khả năng thay đổi, nếu tâm hồn họ cảm động.
Chúng ta phải tiếp cận những người khác cách nào để họ thấy rằng chúng ta tin tưởng và tín nhiệm họ. Kết quả là họ sẽ dẹp bỏ sự thủ thế, dè chừng và cởi mở lòng họ. Một khi họ cởi mở thì một điều gì đó có thể xảy ra. Chúng ta thấy điều đó trong trường hợp của Giakêu.
Đức Giêsu nhìn thấy Giakêu trên cây. Lúc đó cách sống của Giakêu hoàn toàn trái ngược với những điều mà Đức Giêsu bảo vệ. Chắc chắn đám đông chờ đợi và hy vọng Đức Giêsu sẽ quở trách và cấm ông ta không được làm bậy. Làm như thế, Người sẽ làm cho dân chúng trong thành thêm yêu thích Người.
Nhưng Đức Giêsu từ chối quở trách Giakêu. Trái lại, Người đã làm một điều khiến dân chúng lập tức không còn yêu thích Người. Người nói với Giakêu Người muốn dùng cơm tối ở nhà ông và với sự kinh ngạc. Giakêu vui mừng đón tiếp Người. Dân chúng than phiền: “Ông ấy đến ở lại nhà người tội lỗi”. Họ ghét Giakêu. Họ không muốn nhìn thấy ông được cứu. Họ muốn nhìn thấy ông bị lên án và trừng phạt.
Nhưng Đức Giêsu đã không nghĩ như thế, Người thấy rằng điều mà Giakêu cần không phải là sự lên án mà là sự cứu chuộc. Vấn đề không phải là ông ta có xứng đáng với sự cứu chuộc hay không. Ông ta cần có – đối với Đức Giêsu, như thế đã đủ. Với việc đi đến nhà ông, đối đầu với sự bất mãn và giận dữ của dân chúng trong thành, Đức Giêsu cho Giakêu thấy rằng Người quan tâm đến ông. Nếu Người tránh xa ông hoặc lên án ông, phép lạ hẳn không bao giờ xảy ra.
Giakêu đã cảm nghiệm tình yêu thương của Đức Giêsu. Điều này đã là một kinh nghiệm kỳ diệu đối với một người mà cho tới nay chỉ có kinh nghiệm về sự oán ghét. Được một người tín nhiệm chúng ta, người ấy không phán xét hoặc lên án chúng ta nhưng yêu thương chúng ta, đó là một cảm giác tuyệt vời. Tâm hồn Giakêu nở bung ra với sự sống như một sa mạc sau trận mưa to.
Được người ta yêu thương vì mình tốt lành không có gì là to lớn, khác thường. Cũng như khi mình xứng đáng. Nhưng được yêu thương khi mình xấu xa – như trường hợp của Giakêu quả là kỳ diệu. Giakêu đã cảm nghiệm sự kinh ngạc ấy vì được yêu. Điều này khiến cho những điều tốt đẹp nhất trong ông được triển nở. Sự hoán cải của ông là một sự hoán cải hướng đến điều thiện hảo. Với mức độ nhiều hơn hoặc ít hơn, tất cả chúng ta cần có sự hoán cải ấy.


Truyền hình đang đe dọa biến tất cả chúng ta thành những khán giả, kẻ bàng quan, người ngoài cuộc. Giả sử bạn là một người yêu thích thiên nhiên. Giờ đây, bạn không cần phải để cho giày mình bị bẩn, hoặc bạn phải đội mưa. Bạn cũng không cần phải ra khỏi phòng khách hoặc đi xa lò sưởi. Truyền hình đem lại cho bạn lễ hội với quang cảnh và âm thanh. Không nguy hiểm, không mệt nhọc, không rắc rối. Tuy nhiên, đó là một sự thay thế quá nghèo nàn so với cảnh vật.
Có những người tuyên bố rằng mình yêu thiên nhiên nhưng hiếm khi hoặc không bao giờ họ đi dạo trong rừng, băng qua các cánh đồng hoặc đi dọc theo bờ biển. Nói cách khác, họ chỉ là những khán giả. Họ không thật sự bị lôi kéo để tham gia. Tham gia là góp phần mình vào việc đó. Nhưng bạn sẽ thu hoạch nhiều hơn điều bạn cho đi.
Tuy nhiên, khi làm khán giả, ít nhất, người ta cũng có sự quan tâm. Và nơi nào có sự quan tâm, ở đó có khả năng người ta sẽ thật sự tham gia.
Trường hợp của Giakêu là như thế. Lúc bắt đầu câu chuyện ông chỉ là một khán giả. Ông có thể nhìn thấy mà không bị nhìn thấy, ông chỉ là một người đi xem. Ông cảm thấy thuận tiện khi bị quan sát. Tất cả chúng ta chẳng như thế sao?
Ông không hòa nhập vào đám đông. Ông trèo lên cây sung giữa những cành cây. Và bằng cách đó, ông chơ vơ, không có chỗ để bám. Ông đứng bên lề, không phải vì nghèo nàn mà vì giàu có. Sự giàu sang đã cô lập ông với những đồng bào ông trong thành mà phần lớn đều nghèo khó.
Là một người đi xem, ông chỉ tham dự một cách thụ động. Ông ở đó trong những giới hạn của mình. Hẳn ông phải có một sự quan tâm nào đó, nhưng không liều lĩnh, không dấn thân. Khi mọi việc qua đi, ông có thể trở về nhà, và nếu ông muốn, ông sẽ quên hết mọi chuyện.
Nhưng điều gì đã xảy ra? Đức Giêsu đã nhìn thấy ông và mời gọi ông trở thành một người tham dự. Thình lình Giakêu bị lôi từ đường biên vào thẳng trung tâm của hành động. Ông giống như một khán giả đi xem bóng đá và thình lình giám đốc đội banh phát hiện anh ta, thẩy cho anh ta một bộ đồ cầu thủ và nói: “Anh ra sân đi?” Và anh thấy mình đang chơi banh.
Điều làm ngạc nhiên là không những Giakêu đáp lại một cách tích cực mà còn hân hoan làm như thế ngay lập tức. Có niềm vui khi đi xem nhưng niềm vui còn lớn hơn khi tham dự. Kết quả đối với ông thật là to lớn, nó biến đổi cuộc đời ông. Đời sống hoạt động theo ơn gọi Kitô hữu của chúng ta sẽ thay đổi đời sống của chúng ta.
Giakêu đã cảm nghiệm một ơn hoán cải – hoán cải hướng về sự thiện hảo. Với mức độ lớn hơn hoặc nhỏ hơn, tất cả chúng ta cần có loại hoán cải ấy.


Đức Giêsu vừa chữa lành người mù, bây giờ Ngài lại gặp một người tội lỗi, một người vị vọng ở Giêricô. Ở thị trấn gần biên giới này, thu thuế là nghề rất phát tài. Giakêu thi hành công việc này nhiều nơi nên ông đã thu tích được một gia sản đáng kể, tuy phải dùng đến những phương sách mà người Do thái coi là bất chính. Thực thế, vì nghề nghiệp, ông luôn phải giao tiếp với lương dân và còn phải chi li từng đồng với bọn thuộc hạ, rồi với dân chúng qua những người trung gian. Thế cho nên người Do thái cứ yên trí rằng bọn thu thuế khỏi cần nói cũng là người tội lỗi. Tội lỗi đã nên như đặc điểm nơi ông Giakêu.
Tuy nhiên đó chỉ là dáng vẻ cuộc đời ‘dân sự’ bình thường của Giakêu, nhưng bên trong ông có cả một chiều sâu. Ông muốn gặp gỡ Đức Giêsu. Không phải ông là người hiếu kỳ, vì cứ theo lời ông người ta sẽ nhận ra nỗi lòng hối tiếc trong tâm tư con người dư dật đó. Ông sẵn sàng dành phân nửa tài sản để bố thí cho người nghèo và nếu có lỡ gian lận của ai thì bồi thường gấp bốn. Giakêu không thoả mãn vơí chính mình, với đời sống, địa vị và thành công của mình. Tự đáy lòng ông cảm nghiệm được sự trống vắng. Tiền của có thể dư giả, nhưng không bù lấp được tâm tư. Uy thế có thể củng cố địa vị xã hội của ông, nhưng không cứu vãn được linh hồn ông trước mặt Thiên Chúa. Với tuổi đời như Giakêu, con người không còn ảo tưởng nữa và sự vĩnh cửu bắt đầu là một cái gì có ý nghĩa. Trên đời vẫn còn có nhiều người xử sự như Giakêu.
Cái nhìn và lời nói của Chúa đến với ông thật đúng lúc. Đức Kitô không bị ràng buộc với phán đoán của con người. người thường mai mỉa những ai ra vẻ đạo đức, rồi Người luôn kêu gọi người tội lỗi trở lại đường lành. Người không hề mị dân. Trong trình thuật này, Người đã chọn Giakêu-một con người dị dạng giữa đám dân chúng. Người không chỉ trao đổi hay gặp gỡ qua loa nhưng còn đem lại niềm vui và cho ông vinh dự đón tiếp Người tại nhà cho đến ngày hôm sau. Người biết rõ, theo quan niệm đạo đức thông thường, vào nhà một người tội lỗi là làm một cái gương xấu. Nhưng Đức Giêsu đến ‘để tìm và cứu chữa những gì đã hư mất’. Suốt cuộc hành trình cuối cùng đi lên Giêrusalem, Người đã nghĩ đến những kẻ lầm đường lạc lối; vì tha nhân quên mình, bất chấp quan niệm thường tình, Người đến với Giakêu vì Người đáp ứng được niềm ông mong đợi, đưa ông trở về với Thiên Chúa khoả lấp tâm hồn ông bằng sự sung mãn tinh thần, ban ân sủng, thức tỉnh và hướng dẫn tâm hồn con người để họ lắng nghe lời Ngài. Kẻ tội lỗi sẵn sàng hoàn lương ấy chính là điều Đức Giêsu lấy làm mãn nguyện.


Đoạn Tin Mừng hôm nay được đặt vào đoạn cuối của lần sau cùng khi Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, nơi đây Người sẽ chịu khổ nạn và sẽ bị giết bởi tay người Do thái, rồi ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Câu chuyện ông Giakêu được đặt kế tiếp sau phép lạ Chúa Giêsu chữa lành người mù thành Giêricô. Người mù được Thiên Chúa chữa lành, vì tin vào Chúa Giêsu mà ông ta được sáng mắt. Phép lạ của người mù chuẩn bị cho thính giả hiểu được sâu xa cuộc cách mạng tinh thần của ông Giakêu, một cuộc cách mạng tận gốc rễ, đổi mới hoàn toàn. Từ bóng tối của cảnh mù lòa bước vào ánh sáng của người được chữa lành. Từ bóng tối của tội lỗi bước sang con đường sáng của cuộc đời mới, của cuộc sống thánh thiện. Từ cuộc gian tham khéo léo bước sang con đường ngay chính chân thật và quảng đại. Từ cuộc sống xa Chúa được xích lại gần Chúa hơn, được kết hợp với Chúa Giêsu và hòa giải với tha nhân.
Do đó, trọng tâm bài Tin Mừng hôm nay nêu bật một khía cạnh sâu xa nhất của tình yêu, đó là sự tha thứ, một sự tha thứ được gói gọn trong tình yêu khoan dung. Vì tình yêu này không đóng khung kẻ mình yêu trong những ngụ ý của lỗi lầm, của tha thứ. Tình yêu này cũng không giới hạn kẻ mình yêu trong hiện tại đen tối của người ấy, nhưng còn phóng tầm mắt nhìn về những điều họ có thể trở nên tương lai. Trong cách hành sử của Chúa Giêsu, Ngài luôn sẵn sàng tha thứ. Để biểu lộ một tình yêu chân thành trên, Chúa Giêsu đã tiếp xúc với người thu thuế, làm bạn với những người bị xã hội bấy giờ gán cho là những kẻ tội lỗi. Ngài không cấm họ không được lui tới nghe Ngài giảng dạy, hơn nữa Ngài cùng ăn uống và đồng bàn với họ.
Vì thế, những cuộc gặp gỡ và giao tiếp này minh chứng rằng, Chúa Giêsu nhìn những kẻ thu thuế và những người tội lỗi trong hai trạng thái: Trạng thái hiện tại của họ và những trạng thái họ có thể trở nên tốt trong tương lai. Trong hiện tại, mặc dầu họ đang sống trong tình trạng tội lỗi, nhưng họ biết lắng nghe lời Chúa để khởi sự tiến những bước đầu tiên trên con đường hoán cải. Và những điều họ có thể trở nên tốt được minh chứng qua những hành động cụ thể, ví dụ như hành động dứt khoát với quá khứ tội lỗi để đi theo Chúa Giêsu như trường hợp của Ông Gia kêu. Ông là một người thu thuế nhưng khi nghe Chúa Giêsu gọi, ông liền bỏ bàn thu thuế đứng dậy và theo làm môn đệ của một người tự nhiên tả: “Con cáo có hang, con chồn có tổ nhưng Con Người không có chỗ dựa đầu”.
Do đó, sự cải tạo xã hội tận căn phải bắt đầu bằng ý thức về tội lỗi và sám hối, và đây có thể là ý tưởng mà Tin Mừng hôm nay gợi lên cho chúng ta. Vào thời Chúa Giêsu, nghề thu thuế được hiểu như là cấu kết với ngoại bang để hà hiếp và bóc lột người đồng hương, nên cũng đồng nghĩa với tham lam bất chính. Một cách nào đó, phường thu thuế là một ung nhọt của xã hội, trong khi xa lánh là biện pháp thanh trừng đối với nhà lãnh đạo Do thái dành cho những người thu thuế thì trái lại Chúa Giêsu đến với họ, ngồi đồng bàn với họ. Chúa Giêsu không làm như thế để biện minh cho hành động tham lam bất chính đối với những người thu thuế cũng như đối với các cô gái điếm. Ngài đến gần họ, trước hết là để cảm thông với thân phận bị đẩy ra bên lề xã hội của họ, đồng thời Ngài mời gọi họ ý thức về hành động tội lỗi của họ.
Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và viên chức giàu có tên là Giakêu tại thành phố Giêricô cho thấy cuộc cách mạng ấy bắt đầu bằng việc sám hối và cải thiện cuộc sống. Thật ra, sám hối đích thật luôn đi liền với cải thiện. Ánh mắt của Chúa Giêsu đã đi xuyên suốt tâm hồn ông, khiến ông nhận ra được những lỗi lầm của mình. Ánh mắt ấy lại từ nhân và mời gọi, đến nỗi đã làm cho ông cảm thấy thôi thúc và cải thiện đời sống. Vì thế, ơn cứu độ đã thực sự đến nhà ông và cuộc tái sinh đã khởi đầu: Này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, mà nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn lần”. Ông Giakêu không chỉ sám hối và cải thiện cuộc sống bản thân, nhưng ông còn góp phần vào việc cải tạo xã hội, đúng hơn nữa sự hoán cải cá nhân của ông ảnh hưởng sâu đậm đến cuộc sống xã hội. Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy được chiều kích xã hội của lòng sám hối. Vì thế, không những người tín hữu Kitô đóng góp tài trí của mình cho công cuộc cải tạo xã hội, nhưng niềm tin của họ được thể hiện bằng lòng sám hối và cải thiện cuộc sống làm trọng tâm và cũng là linh hồn của bất cứ một cuộc cách mạng và cải tạo xã hội nào.


Qua thái độ đền bù rộng rãi của ông Giakêu tôi muốn chia sẻ một vài ý tưởng nhỏ mọn về vấn đề tiền bạc.
Người xưa đã nói: của đồng lần thiên hạ tiêu chung. Thực ra tiền bạc có mục đích là để phục vụ con người. Nó được dùng để nuôi sống và thăng tiến con người toàn diện. Vì thế của cải phải được phân chia công bằng, và mọi người phải chung tay đóng góp vào đó. Kẻ giàu phải biết mở rộng con tim và bàn tay cứu giúp người nghèo túng. Còn người nghèo, không có gì phải mặc cảm khi nhận lãnh sự giúp đỡ của họ, dù giá nào mình vẫn sống khiêm hạ và công chính. Nào có ai giàu ba họ khó ba đời đâu mà lo!.
Trên thực tế, chúng ta thấy có điều đáng buồn, đó là số người nghèo quá đông, chiếm tới 3/4 nhân loại. Còn kẻ giàu lại làm giàu trên sự túng cực của người nghèo. Kẻ giàu thì như chuột sa chĩnh gạo, còn người nghèo thì lại bị chó cắn áo rách. Giàu nghèo mãi mãi trở thành hai phe chống đối nhau, gieo tai họa cho nhau.
Kinh Thánh đã lên án những kẻ giàu bất công và ích kỷ. Đồng thời tục ngữ Việt Nam cũng xác quyết:
- Của thiên trả địa.
- Của phù vân thì vần xuống biển.
Của cải dành cho một số người có nghĩa là nó sẽ loại trừ hạnh phúc của một số đông. Của cải sẽ làm cho chúng ta xa lìa Thiên Chúa là Đấng ban phát cho chúng ta. Một xứ đầy vàng bạc sẽ chóng biến thành ngẫu tượng. Vì khi đã mãn nguyện rồi, họ sẽ kiêu căng mà lãng quên Thiên Chúa. Và chính Chúa Giêsu cũng đã cảnh cáo: Không ai có thể làm tôi hai chủ, hoặc yêu chủ này mà ghét chủ kia, cũng vậy không ai có thể làm tôi Thiên Chúa và vừa làm tôi tiền bạc. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời.
Bởi đó, vấn đề là phải biết san sẻ cho nhau, bởi vì không ai có thể tự sống tự lập một mình, không cần nhờ cậy ai. Ngay như kẻ giàu có, cũng phải nhờ vào người nghèo túng mà trở nên khấm khá. Cho nên chia sẻ là điều hợp tình và hợp ý.
Trước hết là cùng nhau chia sẻ những gì mình có. Chẳng hạn cùng là người Việt Nam, chúng ta hãy chia sẻ gia tài quí giá cũng như phúc lộc do tổ tiên để lại về luân lý và văn hóa. Cùng là con cái Thiên Chúa, chúng ta hãy chia sẻ với nhau trong Giáo Hội những việc lành thánh và ơn cứu rỗi. Còn về của cải, chúng ta thấy các tín hữu đầu tiên ở Giêrusalem đã chia sẻ cơm áo cho nhau không để của mình là của riêng.
Tiếp đến là chia sẻ cái mình hơn cho người kém, cái mình có mà người khác không có và ngược lại người khác cũng làm như thế. Đó là lá lành đùm lá rách, có đi có lại, chị ngã em nâng.
Thật ra chúng ta luôn luôn có những cái để chia sớt và luôn có những người để lãnh nhận, vì chính chúng ta cũng đang ở trong tình trạng như thế. Cùng là chi thể của một thân thể, chúng ta có trách nhiệm lẫn nhau như câu nói: ‘Môi hở răng lạnh, một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ’.
Và sau cùng, chúng ta phải sống thế nào để đem lại hạnh phúc cho người khác, nhất là những người túng thiếu hơn mình. Chúng ta phải coi hạnh phúc của người khác là hạnh phúc của mình. Khóc cùng kẻ khóc, vui cùng kẻ vui.
Sự chia sẻ cho người khác hàm ý cho đi mà không đòi lại, cho đi thì có phúc hơn là nhận lãnh. Hãy coi sự cho đi của tre già cho măng mọc, của cha mẹ cho con cái được phát triển. Chúng ta hãy nối rộng vòng tay tình thương đến những ai đang cần tới chúng ta để họ thuộc về gia đình của Chúa sớm hơn.
Hãy coi Chúa Giêsu, Đấng giàu có đã trở nên nghèo khó để nhờ Ngài mà chúng ta được trở nên giàu có, thì đến lượt chúng ta, chúng ta không có quyền sống ích kỷ hưởng thụ cho riêng mình. Tất nhiên cho đi là tiếc xót và thiệt hại, nhưng khi chúng ta đã chọn Chúa làm gia nghiệp thì Ngài sẽ là tất cả cho chúng ta.


Chuyện kể rằng, một hôm có vị Quận công vào thăm trại tù. Ông là người tốt lành, nhân hậu. Khi ông đến, ông hỏi thăm các tù nhân về tội trạng của họ. Ông lấy làm ngạc nhiên vì các tù nhân ông hỏi đến đều nói mình vô tội. Người thì nói bị cáo gian, kẻ thì nói vì lòng ghen tỵ mà người ta thêu dệt tội trạng để bỏ tù mình, có người còn nói tại quan toà thích bỏ tù thì kết án chứ anh có làm gì sai đâu! Nhưng có một người đứng lên thú nhận tội mình: thưa quận công, tôi là người có tội, trong lúc cần tiền, tôi đã đi ăn trộm, tôi thấy mình đáng bị phạt nơi này. Lúc đó các bạn tù xỉ vả anh: anh thật tệ, anh không xứng đáng ở chung với những người vô tội. Lúc đó, vị quận công nhìn anh với lòng thương xót và tuyên bố tha bổng cho anh. Còn những người kia thì tiếp tục ở lại trong tù để có thời giờ suy nghĩ về sự công chính giả hiệu của mình.
Chúa Giêsu đến không phải để cứu chữa người công chính, nhưng để cứu người tội lỗi. Hay nói một cách khác: ai khiêm tốn và nhận lỗi, sẵn sàng để cho Chúa khám và điều trị thói hư, lầm lạc của mình thì Chúa mới chữa được. Vì Chúa luôn tôn trọng tự do của con người. Những người xưng mình là công chính, tự cho mình là đúng, không muốn nghe dư luận, không sửa mình, kể cả lời nhắc bảo của Chúa họ cũng để ngoài tai thì làm sao Chúa chữa lành được họ. Chúng ta biết, Chúa Giêsu khi muốn chữa bệnh cho ai, thì Ngài hỏi: “Con muốn ta làm gì cho con?” Chắc chắn Chúa biết người đó phạm tội gì, bệnh tật gì. Nhưng Ngài muốn người đó tự thú nhận, cầu xin ơn tha thứ. Kế đó Ngài mới giải tội, ra tay chữa trị cho lành cả hồn lẫn xác.
Giakêu là mẫu gương về lòng hoán cải. Giakêu biết tội mình, nhưng vì ông thấy nhiều luật sĩ và biệt phái hữu danh vô thực. Tuy mang danh là đạo đức nhưng thật ra nhiều người biệt phái luật sĩ cũng tham lam đâu thua gì ông, họ cũng ỷ quyền, áp bức kẻ khác, lạm quyền đâu kém gì ông mà có khi, ông nghĩ, họ còn tệ hơn ông nữa! Vì vậy, ông tuy biết việc mình làm là không đúng nhưng nhất định không đến thú tội với bọn người giả hình kia.
Tuy nhiên, thật may mắn cho ông, xu hướng trở về với Chúa vẫn thôi thúc lòng ông đêm ngày. Ông là người thức thời, ông nghe người ta đồn về một ông Giêsu, là một vị tiên tri đầy quyền năng, đối xử nhân từ với người thu thuế và tội lỗi chứ không như bọn Luật sĩ, Biệt phái giả hình, khinh khi và loại trừ người thu thuế. Vì thế, ông đã hỏi thăm kỹ càng ngày giờ Thầy Giêsu sẽ đi ngang qua đó. Đúng lúc đám đông theo Chúa Giêsu đi ngang, ông vội vàng trèo lên cây sung để mong được nhìn Thầy Giêsu, một người đầy lòng thương xót đối với tội nhân, và ông đã nhìn thấy Chúa. Hay đúng hơn Ánh Mắt Nhân Từ đã nhìn thấy ông trước khi ông nhận ra Ngài. Ngài đã gọi đúng tên ông. Thật ngỡ ngàng quá. Ông những tưởng chỉ có lòng ông khao khát tìm gặp Chúa, ai ngờ Chúa lại thao thức đi tìm ông. Dường như Chúa biết tất cả về ông về những tội lỗi và lòng chân thành sám hối của ông.
Thật quả đúng như lời người ta đồn đại và còn hơn thế nữa, Giêsu là Đấng Cứu Thế, Giakêu xúc động vô cùng trước tấm lòng của vị chủ chăn đi tìm chiên lạc. Ông chỉ còn biết thốt lên: tôi làm thiệt ai trong thời gian qua thì xin đền gấp 4 lần, còn phân nửa tài sản tôi xin chia cho kẻ khó. Đối với Giakêu, cuộc đời ông đã được Chúa Giêsu cứu chuộc rồi, của cải tài sản ông coi như phân phát hết cũng được, ông không cần gì khác nữa. Ông nhận ra tình thương của Chúa rồi. Cuộc đời ông tràn đầy ý nghĩa. Ông thấy cuộc đời mình đáng sống và hạnh phúc trong tình thương cứu chuộc của Chúa.
Trong ngày Chúa Nhật hôm nay, chúng ta hãy suy nghĩ đến tình thương của Chúa. Dù chúng ta thấy mình là công chính thì chúng ta hãy xét mình thêm xem mình đã đáp trả lại tình thương của Chúa đúng mức chưa? Chúng ta có dám nói như Giakêu: nếu tôi có làm thiệt hại danh giá hay vật chất của ai thì tôi xin đền gấp 4 và phân nửa tài sản của tôi xin chia cho kẻ khó. Rõ ràng, chúng ta chưa dám nói như vậy. Điều này cũng cho thấy là chúng ta chưa yêu mến Chúa bằng Giakêu. Vì vậy chúng ta phải dành thời giờ lưu lại với Chúa nhiều hơn sau thánh lễ và thiết tha cầu xin Chúa cho đời mình gắn bó Chúa hơn nữa. Ước gì chúng ta luôn biết nhận ra sự thật về chính mình để được Chúa gột rửa nên hoàn hảo, xứng đáng là môn đệ của Thầy chí thánh Giêsu. Amen.


Sau khi được Chúa tha thứ, ông Giakêu đã thưa lên cho mọi người được biết:
- Tôi sẽ lấy nửa gia tài để làm phúc bố thí cho người nghèo và nếu đã làm thiệt hại ai, tôi xin đền bù gấp bốn.
Lời nói này biểu lộ thái độ sẵn sàng đền bù và sửa lại những sai lỗi của mình. Đã có một chuyển biến, đã có một đổi thay nơi con người Giakêu. Vì thế, chúng ta cùng nhau chia sẻ một vai ý nghĩ đơn sơ về sự đền bù.
Có một người bỏ xưng tội lâu năm, tìm gặp vị ẩn tu trong sau mạc để xưng tội. Vị ẩn tu ra việc đền tội là một kinh Lạy Cha, khiến người ấy hết sức ngạc nhiên. Vị ẩn tu trả lời:
- Chỉ có vậy mà thôi, nhưng con phải đọc cho thật sốt sắng.
Người tội lỗi quì gối giữa vùng sa mạc cát nóng, đôi tay giang rộng, mắt ngước nhìn lên trời và bắt đầu đọc chậm chậm kinh Lạy Cha với tất cả sự trang nghiêm của mình. Và khi đọc tới những chữ cuối cùng, người ấy cảm thấy mệt mỏi rã rời, hơi thở đứt đoạn, rồi ngã gục xuống và nhẹ nhàng từ bỏ cuộc sống. Vị ẩn tu nhìn thấy linh hồn người ấy bay lên trời như một cánh chim bồ câu trắng.
Nhờ việc xưng thú, tội lỗi chúng ta đã được tha thứ, nhưng nhờ việc đền bù, những hình phạt do tội lỗi gây ra cũng được xóa bỏ. Chính vì thế, linh hồn có thể không phải qua luyện ngục, mà tiến thẳng đến cùng Chúa. Do đó, chúng ta hiểu được tại sao vị linh mục bao giờ cũng ra việc đền tội cho chúng ta sau mỗi làng xưng thú. Ngài muốn hoàn tất trọn vẹn công việc của ngài: xóa bỏ tội lỗi cũng như những hình phát bởi tội mà ra. Ngài muốn cho chúng ta thoát khỏi những tháng ngày đày đọa nơi luyện ngục. Bởi đó, hãy chu toàn việc đền tội của mình.
Tuy nhiên, những người thiện chí như muốn nói:
- Xin cha hãy ra việc đền tội nặng hơn một chút.
Tốt lắm! Chúng ta cứ việc hoàn tất việc đền tội linh mục đã chỉ định, rồi sau đó tự ý làm thêm những việc khác, chẳng hạn như lần chuỗi hay đi chặng đàng Thánh giá…
Sau khi xưng tội, đừng vội vã rời bỏ nhà thờ, nhưng hãy ở lại ít phút để cầu nguyện với Chúa bằng tất cả tâm hồn trong sạch của mình. Chúa sẽ lắng nhge lời chúng ta trong những phút giây ấy.
Tuy nhiên, việc đền tội không nhất thiết phải là đọc kinh nọ, kinh kia, nhưng có thể là những hy sinh và hãm mình. Hãy sống tinh thần sám hối trong chính cuộc sống hằng ngày của chúng ta.
Thánh Louis đã kể lại rằng: trong suốt cuộc sống mình chỉ phạm có hai tội nhẹ mà thôi. Tội thứ nhất, đó là hồi còn bé ngài đã ăn cắp mấy xu của một người lính. Tội thứ hai, đó là ngài đã nói lời tục tĩu một lần. Ngài đã làm nhiều việc hãm nình để đền bù hai sai lỗi nhỏ bé ấy. Là hoàng tử, nhưng ngài luôn vui vẻ giúp đỡ người khác. Mỗi khi cầu nguyện, ngài đều quì trên đất cứng, thay vì quì trên nhung lụa. Mỗi tuần, ngài ăn chay hai ngày. Ban đêm, thay vì ngủ trên chăm ấm nệm êm, thì ngài lại nằm trên một tấm ván.
Sau này, ngài đã rời bỏ cung điện để vào tu trong một nhà dòng. Tại đây, ngài vui mừng vì được làm những công việc tầm thường như quét nhà, rửa bát… Khi cơn dịch bộc phát, ngài đã hăng say đi giúp đỡ các bệnh nhân và sau cùng, ngài cũng đã mắc phải bệnh dịch.
Mặc dù đớn đau, ngài không bao giờ than van oán trách. Ngài chấp nhận tất cả để đền bù tội lỗi. Tại sao thế? Vì ngài biết Thiên Chúa là Đấng công bằng vô cùng và sẽ trừng phạt cả những sai lỗi nhỏ bé nhất. Ngài muốn bị trừng phạt ở đời này, còn hơn là bị trừng phạt ở đời sau.
Tuy nhiên, có một cách đền tội thật tốt đẹp, đó là hãy uốn nắn những sai lỗi, sửa đổi những khuyết điểm, để thăng tiến bản thân, mỗi ngày một trở nên tốt lành và thánh thiện hơn.
Chúng ta hãy noi gương thánh Phêrô, ông đã chối Chúa ba lần, nhưng sau đó, ông đã ăn năn sám hối, đã làm lại cuộc đời và đã trở nên một vị thánh.
Trước khi xưng thú, chúng ta là những kẻ tội lỗi. Còn sau khi xưng thú, chúng ta phải trở nên những vị thánh.


Câu chuyện trong bài Tin Mừng do thánh Luca kể lại. Ngài được mệnh danh là “Thư ký của lòng thương xót”, vì trong Tin Mừng của ngài đã kể lại nhiều giáo huấn và công việc Chúa Giêsu làm để bày tỏ lòng Chúa xót thương loài người tội lỗi. Bài Tin Mừng hôm nay là một bằng chứng điển hình rõ ràng. Trên đường lên Giêrusalem, khi đi ngang qua thành Giêricô, Chúa Giêsu đã gặp một người tội lỗi, nhưng đầy thiện chí, là ông Giakêu. Chúa đã ghé vào trọ nhà ông và ban ơn cứu độ cho cả gia đình ông, bất chấp mọi lời dị nghị, gièm pha.
Ông Giakêu không những là một người thu thuế, mà còn là thủ lãnh những người thu thuế, tức là một chủ thầu thuế má, nên ông cũng là một người rất giàu có. Dân Do thái rất ghét những người thu thuế, coi họ là những người tội lỗi, không thể ăn năn hối cải, không thể tha thứ, làm tay sai cho ngoại bang: thu thế cho nhà nước bảo hộ, tức đế quốc Rôma. Trong nghề đó, người ta có thể bày rất nhiều trò ma giáo để ăn hối lộ những kẻ muốn trốn thuế, hay muốn giảm thuế phải đóng. Bởi đó, người Do thái ghê tởm những người thu thuế. Ông Giakêu là người như thế. Không những ông bị thiên hạ khinh dể mà còn có thân hình thấp lùn.
Ông muốn tìm cách để xem Chúa Giêsu là người như thế nào. Nhưng dân chúng chen chúc chung quanh Chúa đông quá. Ông quyết không bỏ lỡ cơ hội. Một người chủ thầu phải có nhiều sáng kiến. Ông chạy tới trước và leo lên một cây sung bên đường. Ông yên tâm chờ đợi, vì Chúa Giêsu sắp đi ngang qua đó. Lòng ước muốn của ông thật là mãnh liệt, vì ông không sợ đám đông chế diễu. Ông chỉ còn biết một điều là làm sao thấy được mặt Chúa Giêsu. Quả thực, ông đã có thiện chí. Bấy nhiêu đã đủ để Chúa trọng thưởng tấm lòng chân thành của ông.
Chúa Giêsu đi tới, Ngài nhìn lên và gọi đích danh ông. Điều quan trọng là Chúa không chỉ đi ngang qua cho ông Giakêu nhìn Chúa, chính Chúa nhìn lên và gọi ông đúng như có lần Chúa đã nói: “Ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho”. Ông Giakêu đi tìm và ông đã thấy, ông đã gõ cửa và Chúa đã mở cho ông, bằng cách xin ông mở cửa nhà ông cho Ngài vào. Chúa muốn đến với ông và đến tận nhà ông.
Được đáp ứng quá sự trông mong. Ông muốn thấy Chúa thì Chúa đến tận nhà để ông nhìn cho đã. Chúa quảng đại vô cùng. Ông vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Ngài. Nhưng đám đông lại sầm xì với nhau. Họ khó chịu với Chúa Giêsu, vì Chúa vào trọ nhà một người tội lỗi. Ông Giakêu đã tìm ra giải pháp để vượt qua cái giới hạn của tấm thân lùn. Liệu ông có tìm được giải pháp cho thân phận tội lỗi của ông để thắng được lời xì sầm kia không? Ông không sợ đám đông chế diễu khi leo lên cây sung để nhìn mặt Chúa, thì Chúa đã đáp lại, Ngài không sợ đám đông sầm xì khi yêu cầu ông đón Ngài về ở nhà ông.
Đứng trước tình thương của Chúa, ông đã mở rộng tâm hồn. Ông sẵn sàng chuộc lại tội lỗi, ông thưa với Chúa là đem nửa gia tài phân phát cho người nghèo. Không những thế, ông thấy mình còn phải thực hiện sự công bình nữa: làm thiệt ai ông sẽ đền gấp bốn. Lòng quảng đại của ông sánh với lòng quảng đại của người đàn bà tội lỗi: ông yêu mến nhiều vì đã được tha nhiều. Lòng yêu mến của ông đối với Chúa Giêsu diễn tả thành lòng yêu mến người nghèo và những người đã bị ông bóc lột.
Sau khi ông Giakêu tuyên bố quyết định của ông, thì Chúa Giêsu nói: “Hôm nay nhà này được cứu độ, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”. Ông Giakêu trở thành kiểu mẫu đón nhận ơn cứu độ và là cơ hội để Chúa Giêsu khẳng định sứ mạng của Ngài: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã hư mất”. Ông Giakêu đã bị đám đông loại trừ, vì thân ông lùn và phận ông tội lỗi. Nhưng Chúa đã rời đám đông kiêu hãnh kia để đi tìm ông và đem ơn cứu độ cho ông. Chúa đã nhìn ông và cứu ông. Cái nhìn của Chúa, cái nhìn chinh phục, cái nhìn của tình thương muốn cứu vớt. Ông Giakêu đã tìm cách nhìn thấy Chúa, nhưng ông cũng đã để cho Chúa nhìn ông và chinh phục ông. Ông được cứu độ.
Qua những điều trên, chúng ta hãy ghi nhớ hai điều sau đây: Thứ nhất, những tội bất công hay tham nhũng mà ông Giakêu phạm, đã làm cho ông mất tước hiệu là con cái Abraham. Nhưng với sự ăn năn sám hối, muốn làm lại cuộc đời, sửa lại những lỗi lầm, ông Giakêu đã được chính Chúa Giêsu tha tội và trả lại cho ông tước vị đó. Tước vị con cái Abraham là một vinh dự của người Do thái. Nhưng người Công giáo, ngoài tước vị đó ra, chúng ta còn là con cái Thiên Chúa. Người Do thái rất hãnh diện về tước vị đó. Còn chúng ta, chúng ta có hãnh diện về tước vị làm con Thiên Chúa không? Nếu làm mất danh hiệu con cái Thiên Chúa, chúng ta cũng cần bắt chước Giakêu mà sửa lại những lỗi lầm gây nên sự mất mát kia, để Chúa cũng trả lại danh hiệu nghĩa tử Thiên Chúa cho chúng ta và tuyên bố về chúng ta rằng: “Người này cũng là con cái Thiên Chúa”.
Thứ hai, nhiều người Công giáo quên mất rằng: Đạo Chúa là đạo cứu thế chứ không phải đạo phán xét. Do đó, người Công giáo cũng phải có tinh thần cứu thế, không phán xét, khinh dể những người tội lỗi… Chúa Giêsu đã không hùa theo người Do thái mà khinh dể, loại trừ ông Giakêu. Trái lại, đã đến với ông để cứu ông và cả gia đình ông, làm cho họ trở thành con cái thực thụ của Abraham. Thế thì người Công giáo cũng vậy, phải yêu thương tội nhân, đến với họ, mang ơn cứu độ cho họ và làm cho họ lấy lại tước vị “con cái Abraham” trong đức tin và “con cái Thiên Chúa” trong tình yêu thương bác ái.


Đời sống con người gắn liền với những cuộc gặp gỡ. Có những cuộc gặp gỡ mà người ta háo hức như gặp người yêu, gặp một nhân vật nổi tiếng, gặp một người thân xa cách đã lâu… Tuy nhiên, gặp kẻ khó ưa, gặp tên trấn lột, tên lường gạt… thì chẳng ai mong muốn. Ngoài ra lại có những cuộc gặp gỡ đầy ý nghĩa, có sức hoán cải, làm thay đổi cả con người. Cuộc gặp gỡ như thế không chỉ dừng lại ở gặp mặt, gặp gỡ xã giao, nhưng là cuộc gặp gỡ thâm sâu, gặp gỡ giữa hai tâm hồn.
Trang Tin Mừng hôm nay kể lại cho chúng ta cuộc gặp gỡ hết sức thú vị giữa Đức Giêsu và Giakêu. Đức Giêsu, Đấng Thánh của Thiên Chúa, lại muốn kết thân với Giakêu, kẻ tội lỗi bị mọi người xa lánh. Thế nhưng trong cuộc kết giao này. Đức Giêsu chẳng mất mát gì, trái lại Ngài đã cứu được một tội nhân khỏi vòng tội lụy; còn Giakêu, dù là chia nửa gia tài của mình cho người nghèo, nhưng lại được mối lợi thật to. Ông và cả gia đình đón nhận được hồng ân cứu độ. Quả là một cuộc gặp gỡ diệu kỳ đưa đến hoán cải tận căn.
Phải chăng là sự hài hước, chế giễu hoặc là một nghịch lý? Danh xưng “Giakêu” trong tiếng Do thái có nghĩa là “người thanh khiết, người công chính”. Con người tội lỗi công khai ấy lại có tên “thanh khiết, trong sạch” làm chúng ta nghĩ tới một kẻ lừa bịp ác tâm mà người ta đặt cho là “người vô tội”.
Bạn của Giakêu là “tiền”, còn phương châm sống là “bất chấp dư luận”. Thế nên, dù có vóc dáng nhỏ thó với chiều cao khiêm tốn, ông cũng leo lên được nấc thang xã hội, đã đạt được vị trí ước mong, đã thu tích được một gia tài. Có được gia tài này, một phần là nhờ trí tuệ, sự miệt mài làm việc, một phần cũng là nhờ bòn mót và kiếm chác của người khác. Bởi lẽ ông đứng đầu những người thu thuế. Ông coi những người khác là bần cùng, khố rách áo ôm. Còn người ta lại khinh bỉ ông là kẻ tội lỗi. Giakêu, một con người bị tránh xa như bệnh dịch, kẻ tội lỗi hoàn toàn hư mất. Cấm không được giao du với hạng người hư hỏng đó. Người ta nhổ xuống đất và quay mặt đi khi đi ngang qua con người ấy.
Ông đã sống để kiếm tiền và khuấy động thành phố. Nhân danh pháp luật, ông bức bách người ta. Nhưng khi nghe nói Đức Giêsu đi qua đó, và Người là bạn của những kẻ không được ai yêu thương, ông đã leo lên một cây sung bên đường để xem cho biết mặt Đấng ấy. Khi tới chỗ ấy, Đức Giêsu dừng lại và đưa mắt nhìn lên. Chẳng biết Người muốn nói gì nơi ông?
Chúng ta có thể gọi chỗ này là “nơi hai ánh mắt gặp nhau”. Bề ngoài, cái nhìn đầu tiên là của Giakêu, đang cháy bỏng ước muốn xem Đức Giêsu. Nhưng sẽ không có gì xảy ra nếu như Đức Giêsu đã không ngước mắt nhìn lên kẻ ở trọ lạ lùng – trên cây sung. Người “nhìn lên” Giakêu. Người không xem thường ông, nhưng nhận ra nơi ông một con người sẵn sàng hoán cải. Anh mắt, thái độ và lời nói của Người không ngừng biểu lộ sáng kiến lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Giakêu muốn gặp mặt Đức Giêsu, không kèn, không trống, không kẻ hầu người hạ. Ông đi một mình trơ trụi, bị đẩy lại sau những kẻ tò mò, và điều hạ nhục ông là ông phải làm một chuyện kỳ dị đối với một viên chức cao cấp. Có thể nói ông đã làm một bước nhảy vọt, vượt trên mọi dư luận, mọi thành kiến. Ông làm tất cả những điều đó cốt để tận mắt thấy Đức Giêsu. Quả là đáng khâm phục! Thế nhưng, Đức Giêsu lại làm một cử chỉ đáng kinh ngạc hơn. Trong lúc được đám đông dân chúng vây quanh và hết lòng ngưỡng mộ, Người lại tách mình ra khỏi đám đông hỗn độn ấy để đến với một kẻ tội lỗi. Vì lòng thương xót đối với tội nhân, Người chẳng màng đến những lời xì sầm, bàn tán hay dị nghị. Đấng Thánh của Thiên Chúa hạ mình xuống làm bạn với một người tội lỗi.
Tình yêu vượt lên mọi thành kiến, mọi trở ngại, mọi rào cản.
Hiển nhiên, đám đông chờ đợi và hy vọng Đức Giêsu sẽ cho Giakêu một bài học đích đáng. Và nếu Người làm như vậy, Người sẽ được dân chúng tán dương. Nhưng Đức Giêsu từ chối đối xử với ông như vậy. Thay vào đó, Người lại muốn trọ tại nhà ông. Dân chúng lập tức đâm ra ghét Người; còn Giakêu thì vô cùng bỡ ngỡ, ông vui vẻ đón tiếp Người.
Người ta ghét Giakêu. Họ không muốn thấy ông được cứu độ. Họ chỉ muốn ông bị kết án và bị trừng phạt. Nhưng Đức Giêsu không nghĩ như vậy. Người thấy rằng điều Giakêu cần không phải là bị kết án nhưng là ơn cứu độ. Giakêu có xứng đáng hay không xứng đáng lãnh ơn cứu độ – điều đó không quan trọng – Giakêu cần ơn cứu độ, như thế là đủ đối với Đức Giêsu. Nếu Người cũng như đám đông dân chúng kết án, hạ nhục hay tránh né ông, thì chắc chắn phép lạ hoán cải đã chẳng xảy ra.
Nghịch lý trong tên gọi của Giakêu lúc đầu giờ đây lại hoàn toàn hữu lý. Chúng ta thấy rằng niềm vui của cuộc gặp gỡ làm nảy sinh nơi người tội lỗi ước vọng thiết tha được khởi đầu một cuộc sống mới: “Thưa Ngài, này đây là phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”.
Ban đầu, Giakêu chỉ muốn xem cho biết Đức Giêsu là người thế nào. Thay vì chỉ thoáng thấy Chúa đi ngang, ông được diễm phúc diện đối diện, và còn hơn thế nữa tâm hồn ông gặp được tấm lòng bao dung của Thiên Chúa. Tâm hồn Giakêu giờ đây giống như vùng đất sa mạc được tưới mát sau cơn mưa lớn.
Cuộc hoán cải của Giakêu đã xảy ra tức khắc, tỏ tường và chúng ta có thể chắc chắn về điều đó. Tuy nhiên, đây không phải chỉ là cuộc hoán cải thuộc lãnh vực trí tuệ. Ông đã thay đổi cõi lòng. Trên quan điểm của Tin Mừng, đây là cuộc hoán cải có tầm quan trọng nhất và cũng để lại những dấu ấn sâu đậm nhất. Sợ hãi chẳng thể nào làm nảy sinh được cuộc hoán cải nội tâm. Chỉ có tình thương và lòng bao dung mới có thể làm được điều đó. Một sự tiếp cận cứng cỏi sẽ đưa tới một con tim khép kín và chai đá. Một sự tiếp xúc dịu hiền, như Đức Giêsu đã cư xử với Giakêu, sẽ dẫn đến một con tim mềm mại và cởi mở.
Lời tuyên bố của Đức Giêsu cho thấy phép lạ thật sự đã xảy ra ngay trong cuộc gặp gỡ giữa Người và Giakêu: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”. Giờ đây, Giakêu không còn mang danh hiệu kẻ tội lỗi nữa, nhưng ông có thể mang tên thật của mình là “người thanh khiết”.
Đức Giêsu không chỉ muốn gặp gỡ Giakêu nhưng Người cũng muốn gặp gỡ mỗi người chúng ta. Trước mặt Thiên Chúa chúng ta cũng là những kẻ tội lỗi đáng thương như Giakêu, cũng cần đến sự hoán cải và ơn tha thứ.
Thiên Chúa không chờ ta quyết định đến với Người. Người luôn đi bước trước. Bao giờ cũng chính Người đến với ta, và Người vẫn còn đến mãi bao lâu chưa tiếp xúc được với chúng ta.
Thế nên chúng ta phải hành động để tìm gặp Thiên Chúa. Người không đòi ta phải leo lên cây sung như Giakêu, nhưng quan trọng là phải đi gặp Người bằng chính hành động của mình. Cũng như Giakêu, Thiên Chúa không đòi ta phải bỏ nhiệm vụ của mình mà lánh vào sa mạc. Người giúp Giakêu khám phá ra rằng ông phải chu toàn nhiệm vụ của mình một cách công bằng và đền bù những lạm dụng. Do đó, chúng ta cũng nên xét lại những bổn phận và cách cư xử của mình có hợp với lẽ công bằng hay chưa. Có thể chúng ta chẳng lấy cắp hay chiếm cứ tài sản của ai cách công khai, nhưng chúng ta lại thỏa hiệp với việc lấy cắp của công, tham ô, hối lộ, bớt xén thời gian làm việc, đầu cơ trục lợi hoặc cho vay nặng lãi. Bên cạnh đó, có bao giờ chúng ta đã để tâm sống đức công bằng qua việc tôn trọng danh dự, phẩm giá người khác; hay chúng ta coi việc gièm pha, vu khống, hỗn láo, nói xấu người khác… là chuyện bình thường?
Sự hoán cải của Giakêu là một cuộc hoàn lương. Tất cả chúng ta cũng cần một cuộc hoán cải như vậy. Mỗi người đều có khả năng mà Giakêu đã có, cho dẫu nó có thể bị che khuất hay chưa được tỏ lộ. Thế nên, chúng ta cũng cần hoán cải hằng ngày để từ một quả tim khép kín trở nên rộng mở, từ một quả tim chai đá, bất công trở thành thịt mềm, ngời sáng đức công bằng.


Chắc hẳn Giakêu đã nghe người ta nói nhiều điều tốt về Chúa Giêsu. Nhưng ông muốn chính mình gặp Ngài, lý do thứ nhất là để xem tướng mạo Ngài ra sao, và lý do thứ hai quan trọng hơn là để biết con người của Ngài thế nào.
Hôm đó cũng có rất đông người muốn nhìn thấy Chúa Giêsu. Họ ở cạnh Ngài, họ bao quanh Ngài. Còn Giakêu thì không đến gần được, ông phải trèo lên một cây sung. Thế mà Chúa Giêsu lại đặc biệt để ý tới ông. Thật sung sướng khi được người khác để ý tới.
Tuy nhiên, để ý tới ai không hẳn chỉ là để chăm sóc hay khen ngợi người đó. Nếu người đó là kẻ xấu thì có thể người ta để ý tới để mà dò xét hay khiển trách. Giakêu là người xấu, nhưng Chúa Giêsu để ý tới ông không phải là để khiển trách. Ngài dừng lại và nhìn lên ông. Giakêu hiểu là Chúa Giêsu quan tâm đến ông. Được để ý tới là sung sướng, được quan tâm lại càng sung sướng hơn.
Chúa Giêsu còn nói với Giakêu nữa. Đặc biệt là Ngài không nói một lời nào về những tội lỗi của ông. Thay vào đó Ngài gọi đích danh ông “Này ông Giakêu”. Rồi Ngài gọi ông xuống “Xuống mau đi”. Ngài còn ngỏ ý muốn đến trọ nhà ông “Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”. Điều này không ai ngờ. Giakêu không ngờ, mà tất cả mọi người có mặt ở đó cũng không thể ngờ một người đạo đức như thế mà lại đến trọ nhà một người tội lỗi công khai. Giakêu sung sướng quá. “Ông vội vàng trèo xuống và mừng rỡ đón tiếp ngài”. Ban đầu ông chỉ mong nhìn được Chúa Giêsu một cái thôi. Bây giờ ông được nhìn Ngài mặt đối mặt và sắp được ở chung với Ngài ngay trong nhà của ông nữa.
Giakêu đã biết chẳng những tướng mạo mà cả con người của Chúa Giêsu. Ông còn biết được tâm hồn dạt dào yêu thương của Ngài nữa.
Và khi nhìn thấy tâm hồn Chúa Giêsu rồi, Giakêu cũng nhìn lại tâm hồn của ông: một tâm hồn đầy tội lỗi. Ông thấy đời mình bấy lâu nay như một sa mạc khô cằn, thế mà hôm nay Chúa Giêsu lại đến, như một cơn mưa rào.
Thế là Giakêu hoán cải. Cuộc hoán cải thể hiện bằng những hành động cụ thể: đền bồi tất cả những thiệt hại đã gây ra cho người khác, và phân chia tài sản mình cho những người nghèo. Đây không phải là hoán cải chỉ bằng ý muốn mà bằng cả con tim. Giakêu đã biết xót xa cho những người bị ông làm thiệt hại, và biết yêu thương những người nghèo khổ. Đây chính là sự hoán cải thật, vì con tim có hoán cải thì cuộc đời mới hoán cải thật.
Con tim của Giakêu hoán cải nhờ Chúa Giêsu đã để ý tới ông, quan tâm ông, đối xử nhẹ nhàng với ông. Goethe đã viết: “Hãy đối xử với một người như người ấy là, và người ấy sẽ xấu hơn. Hãy đối xử với người ấy như người ấy phải là, hoặc như người ấy muốn là, và người ấy sẽ tốt hơn. Bởi vì những ước muốn trong chúng ta chính là phần tốt nhất của con người chúng ta”.
Chúa Giêsu hiểu rằng những việc làm xấu của Giakêu không phải là toàn phần con người của ông; Ngài hiểu trong ông còn có phần tốt, phần muốn làm điều tốt và có khả năng làm những điều tốt ấy. Ngài đã khơi lên chính cái phần tốt ấy.
Cuộc hoán cải của Giakêu là hoán cải con tim, là hướng con tim về điều tốt.
Cũng giống như Giakêu, trong con người chúng ta cũng có phần tốt mặc dù có thể phần tốt ấy xưa nay bị những việc xấu chèn ép và chưa phát huy ra. Hãy hoán cải con tim bằng cách để Chúa để ý đến ta, quan tâm ta, nói với ta, trọ trong tim ta và đánh động con tim ta.


Thiên Chúa là tình yêu. Ngài yêu thương con người, và luôn đi tìm tội nhân để dẫn đưa họ về với Ngài.
Thiên Chúa luôn đi bước trước
Thiên Chúa đã đánh động Giakêu, để ông có lòng khao khát gặp Đức Giêsu. Thiên Chúa đã thúc đẩy để Giakêu, người trưởng của những người thu thuế, nhiều tiền, dám trèo lên cây để nhìn ngắm Đức Giêsu. Đây là thái độ của người khiêm nhường, không tự phụ vì tiền bạc mình có, không kiêu căng vì chức vụ trưởng thu thuế của mình, nhưng can đảm làm điều như một em bé, trèo lên cây để nhìn Đức Giêsu. Thái độ này đã đánh động Đức Giêsu. Đức Giêsu đã dừng lại, ngó lên, và gọi Giakêu, đề nghị được ở lại nhà ông. Giakêu đã trèo xuống, vui vẻ chấp nhận đề nghị của Đức Giêsu. Và không chỉ vậy, ông hứa sẽ bố thí cho người nghèo nửa gia tài của ông, và bồi thường gấp bốn những gì ông đã làm hại người khác.
Giakêu đã làm điều vượt khỏi quan niệm “thế gian thường tình”. Ông đã trở lại với Chúa và với con người, với những anh em cụ thể sống xung quanh ông. Và với điều này, cả trời đất vui mừng. Con người vui và Thiên Chúa cũng vui.
Thiên Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu
Thiên Chúa, Đấng đánh động Giakêu, là Thiên Chúa hay thương xót và yêu thương. Thiên Chúa vẫn yêu thương tất cả mọi loài, cho dù trước nhan Thiên Chúa, toàn thể vũ trụ chỉ như hạt cát dính bàn cân, như giọt sương mai rơi trên đất.
Tương tự như cha mẹ yêu thương con cái vì con cái do cha mẹ sinh ra, Thiên Chúa cũng yêu thương tất cả mọi loài vì tất cả mọi loài đều được Thiên Chúa tạo dựng. Thiên Chúa tạo dựng con người qua cha mẹ mỗi người. Thiên Chúa là Cha của tất cả. Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người, Ngài là Cha của người con trưởng lẫn người con thứ trong dụ ngôn người cha nhân từ. Thiên Chúa là Cha của người công chính cũng như của người tội lỗi.
Chính vì yêu thương, mà Thiên Chúa đã tạo dựng mỗi người. Nếu không yêu thương, Ngài đâu tạo dựng họ. Hiện hữu là một hồng ân vô cùng lớn, mà chỉ những người cảm nhận tình yêu mới nhận ra.
Thiên Chúa yêu thương cả những tội nhân
Thiên Chúa vẫn yêu thương, cả những người tội lỗi. Ngài yêu thương qua việc Ngài kiên nhẫn và không trừng phạt tội nhân ngay khi họ phạm tội.
Hình ảnh Đức Giêsu chết trên thập giá và những người chủ mưu giết Ngài, những người hành hình Ngài, giúp con người thấy Thiên Chúa yêu thương con người đến độ nào! Tại sao Thiên Chúa Cha không hủy diệt những người âm mưu giết Con Ngài, tại sao Thiên Chúa không làm cánh tay của những kẻ đóng đinh Đức Giêsu phải tê liệt, tại sao Ngài không làm những người đánh Người Con yêu của Ngài phải chết! Vì Ngài nhân từ yêu thương, Ngài yêu thương cả những kẻ giết Con Ngài. Ngài nhân từ để chờ họ nhận biết chân lý và trở lại với Ngài.
Ai cũng phạm tội, và có lẽ mỗi người đều cảm nghiệm tình yêu thương nhân từ và kiên nhẫn của Thiên Chúa. Ngài luôn mời gọi con người trở lại với Ngài, để Ngài tha thứ và để con người được chia sẻ sự sống với Ngài.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Trong cách hành xử của Giakêu, có điều gì hay mà bạn thiếu?
2. Bạn thường nhìn người tội lỗi thế nào? Bạn có “phân biệt đối xử” hông? Bạn có thái độ (như người con) của Thiên Chúa không?
3. Thiên Chúa là ai đối với bạn?


40. Biến đổi nhờ nhận ra Chúa yêu thương và tin tưởng
Có lẽ trong cuộc sống ít nhiều chúng ta đã chứng kiến nhiều sự biến đổi. Biến đổi cảnh vật, biến đổi nơi chốn và nhất là con người được biến đổi. Sau khi biến đổi những cảnh vật, những nơi chốn và những con người có thể tốt hơn hay có khi cũng xấu hơn. Dường như ai trong chúng ta cũng đều mong muốn với sự biến đổi đó mọi sự sẽ trở nên tốt hơn và có giá trị hơn.
Mỗi sự biến đổi đều có động lực của nó. Chẳng hạn, một bạn trẻ sau khi đi làm xa một thời gian, nhờ có được nhiều tiền trở về quê biết quan tâm và giúp đỡ đến bà con của mình. Đoạn Tin mừng Giáo hội cho chúng ta suy niệm hôm nay cũng cho thấy một sự biến đổi. Đó là ông Dakêu đã biến đổi cách sống của mình. Chúng ta xem ông đã biến đổi như thế nào và do đâu khiến ông đã được biến đổi.
Chúng ta biết, trong xã hội Do thái lúc đó những ai làm nghề thu thuế được liệt vào một trong những người tội lỗi đáng sợ. Ai tiếp xúc với những hạng người như thế sẽ bị ô uế. Những ai được xem là công chính rất sợ phải tiếp xúc với những người tội lỗi như thế. Mà ông Dakêu là một người thu thuế. Hơn nữa, ông lại còn là người đứng đầu trong các người thu thuế. Như thế, với cái nhìn ấy ông Dakêu thật là một người tội lỗi rất đáng sợ.
Ngày kia, nghe tin Chúa Giêsu đi ngang thành Giêricô ông chỉ muốn tìm cách xem Người là ai. Vì quá lùn nên ông đã trèo lên cây sung để xem mặt Người. Biết thế, không những Chúa Giêsu cho ông thấy mặt mà Chúa Giêsu còn bảo ông: “ Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông! “. Nghe lời ấy ông quá đỗi vui mừng: “ vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người “.
Vì yêu thương và tin tưởng Dakêu nên Chúa Giêsu đã không ngại gợi ý để vào nhà ông và dùng bửa với ông. Đến nổi những người khác bàn tán xầm xì: “ Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ! “. Chắc chắn ông Dakêu đã nhận ra được điều ấy nên ông đã hoàn toàn thay đổi cách sống của mình: “ Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn “. Từ một con người chỉ biết thu vào cho mình giờ đây nhờ tình yêu và sự tin tưởng của Chúa Giêsu nên ông đã trở thành con người biết mở ra cho người khác.
Ai trong chúng ta cũng được Thiên Chúa yêu thương và tin tưởng như thế. Vì yêu thương và tin tưởng nên Thiên Chúa đã trao phó cho chúng ta quản lý mạng sống của mình. Vì yêu thương và tin tưởng nên Thiên Chúa đã trao cho chúng ta những sứ mạng. Có người làm giáo sĩ, có người làm tu sĩ, có người làm cha làm mẹ trong gia đình, có người lãnh trách nhiệm này trách nhiệm nọ trong họ đạo...
Nếu chúng ta nhận ra được Thiên Chúa đang yêu thương và tin tưởng mình chắc chắn đời sống chúng ta sẽ thay đổi nhiều. Chúng ta sẽ biết phục vụ tốt trong vài trò bổn phận của mình.


41. Chúa Nhật 31 TN
(Suy niệm của Lm. Gioakim Nguyễn Tấn Đạt)
Kính thưa quí ông bà và anh chị em,
Hết thảy chúng ta đã từng nghe những tin đồn về ngày tận thế diễn ra trong lịch sử. Và có rất nhiều người cảm thấy hoang mang, sợ hãi. Họ lo chuẩn bị mọi thứ để có thể đối phó. Có người che chắn nhà cửa để tránh phải khí độc, có người vội vàng xin thôi việc, bán tài sản, có người lại tuyên truyền tận dụng thời giờ để tận hưởng những giây phút còn lại. Mới đây nhất là tin đồn về ngày 21/12/2012, ngày diệt vong của nhân loại dựa theo sự kết thúc lịch của người Maya. Tin đồn này khiến nhiều người trên thế giới lo sợ. Họ đã tích cực mua nến, tích đồ lương thực, xây dựng hầm trú ấn… Họ chuẩn bị trong sợ hãi và vô vọng.
Cộng đoàn thân mến,
Hành trình của đời sống Kitô hữu là chuẩn bị đón chờ ngày Chúa đến. Trong niềm hy vọng, người Kitô hữu không phải lo sợ ngày này như những người vô thần. Ngày Chúa đến không phải để kết thúc nhưng là sự bắt đầu. Đó không phải là thời khắc của trừng phạt nhưng là thời khắc của lòng xót thương và ơn cứu độ. Và thật hạnh phúc hơn nữa là Chúa vẫn đang đến với con người trong từng giây phút sống hiện tại.
Chúa đã đến với con người từ thuở khai thiên lập địa qua công trình tạo dựng. Thiên chúa sáng tạo để đem lại cho nhân loại được hạnh phúc. Một cuộc sáng tạo vì lòng xót thương, muốn cho muôn loài muôn vật được chia sẻ vinh quang, hạnh phúc với Ngài. Chúa yêu thương, Chúa mới tạo dựng, như trong bài đọc thứ I, trích từ sách Khôn Ngoan, chúng ta vừa nghe.
Chúa dựng nên muôn loài không phải để bỏ mặc theo kiểu đem con bỏ chợ nhưng luôn quan phòng hết tất cả. Chúa vẫn đến và tiếp tục cuộc sáng tạo của Ngài qua việc sửa dạy từ từ, nhắc nhở, cảnh báo để những ai phạm tội, những người sa ngã trở về với Ngài.
Điều này để thể hiện rõ trong bài Tin Mừng hôm nay, qua hình ảnh của ông Giakêu. Ông là người đứng đầu những người thu thuế, cũng đồng nghĩa với hạng nhất về phương diện tội lỗi trước mặt mọi người. Ông chỉ ước mong một lần được gặp con người nổi danh lúc bấy giờ, dù chỉ tò mò, và như thế là ông mãn nguyện lắm. Nhưng ông đâu có biết rằng Con Người đó bấy lâu nay vẫn tìm kiếm những người như ông. Thiện chí của Giakêu đã được đền đáp khi Chúa gọi đúng tên ông và muốn ngụ lại nhà ông. Một biến cố không thể ngờ được đối với ông lùn này. Chúa đã tìm đến với Giakêu hơn là Giakêu tìm Chúa. Thiên Chúa viếng thăm nhà ông, đem lại cho ông một niềm vui khôn tả, một niềm hạnh phúc vô biên.
Và càng hạnh phúc hơn nữa đối với Chúa và đối với mọi người khi một người tội lỗi ăn năn sám hối. Với đôi mắt nhân từ, cử chỉ đầy yêu thương của Chúa, lúc đó ông không chỉ muốn gặp Chúa vì tò mò, mà muốn gặp Chúa trong tâm hồn, một cuộc gặp gỡ Thiên Chúa đúng nghĩa là biến đổi tận căn con người của ông. Chúa đến không phải để giáng phạt vì những hành vi sai trái của Giakêu nhưng để đưa ông trở về. Đó là một cuộc sáng tạo mới. Chúa đến để đem lại cho ông được sự bình an, và cả nhà ông được ơn cứu độ. Chúa đến để mang lại một sự bắt đầu, một cuộc sống mới. Chúa đến không phải để tiêu diệt nhưng “để tìm và cứu những gì đã mất”.
Anh chị em thân mến,
Nói không sai rằng, ai trong chúng ta cũng đã từng mất. Nếu chúng ta không mất tiền, mất bạc, mất danh dự, mất địa vị thì cũng mất chính con người của mình bởi tội lỗi gây nên. Sống đạo là theo một con đường, con đường đó mang tên Giêsu Kitô. Nơi mỗi người ai cũng có dư những thiện chí, vẫn luôn khao khát để sống tốt hơn. Đừng tưởng rằng như thế là chúng ta đã tìm Chúa, mà kỳ thực Chúa đang và luôn tìm đến với chúng ta. Chừng nào chúng ta chưa đáp lại, chưa đón tiếp Chúa thì thiện chí ấy chỉ là thiện chí suông, khao khát ấy vẫn là một giấc mơ hão huyền. Con đường mang tên Giêsu ấy vẫn chỉ ở trước mặt, chứ chúng ta chưa hề bước lên một bước.
Vẫn biết rằng, chúa không bỏ mặc ai, trái lại, Người tìm đến để cứu từng người chúng ta. Nhưng đã biết bao lần Chúa đến trong cuộc đời mỗi người. Chúa đến qua những biến cố trong cuộc sống, kể cả những thất bại ê chề, những nỗi buồn tê tái, những đau khổ triền miên. Chúa đến qua tha nhân, những người nghèo, ngay cả những người làm chúng ta buồn bực, đau khổ. Chúa đến qua các Bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể. Nhưng thử hỏi liệu chúng ta đã đón tiếp Chúa như thế nào. Cứ nhìn vào thái độ, nhìn vào cách hành xử của mình, chúng ta có thể lượng giá được rằng mình đã gặp Chúa chưa?
Một khi tôi có thái độ như Giakêu, chắc chắn tôi sẽ không thất vọng, không đánh mất niềm tin, không buồn bực, giận dữ. Nếu tôi được như Giakêu, chắc chắc tôi không lơ là với các Bí tích, không để Chúa phải cô đơn, lãnh lẽo với những băng ghế trống không trong nhà thờ, với tòa giải tội bị phủ đầy mạng nhện, được gán là nơi yên tĩnh nhất cho loài chuột trú ngụ. Coi ra chúng ta còn thua Giakêu xa lắm vì vẫn cứ ù lì, không sửa đổi, canh tân đời sống.
Cũng như Giakêu, Chúa viếng thăm là đem lại ơn cứu độ, chứ không phải đem lại những điều theo ý mình muốn. Chính Người, trước khi chịu khổ nạn cũng cầu nguyện rằng: “Áp-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn” (Mc 14,36). Chừng nào chúng ta vẫn còn muốn làm theo ý mình, chúng ta vẫn lẩn tránh Chúa, chạy trốn Thiên Chúa, vẫn còn chìm trong bóng đêm tội lỗi. Khi đó ơn cứu độ còn xa tầm với của mỗi người chúng ta. Thiên Chúa vẫn đến, gõ cửa và kiên nhẫn đợi. Hãy mở cửa và đón tiếp Người! “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3,20).
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, mỗi chúng ta ý thức lại ơn gọi của mình. Ơn gọi làm người, ơn gọi làm Con Chúa. Mỗi người đáng trọng, đáng quí trước mặt Chúa. Chúa luôn đến với chúng ta, làm cho chúng ta đổi mới. Hãy mau đón tiếp Người. Hãy chuẩn bị vì không biết giờ nào, ngày nào Con Người đến. Amen.


Thấp bé trước mặt người đời có thể không ảnh hưởng đến cuộc sống chúng ta, nhưng thấp bé trước mặt Thiên Chúa đòi buộc chúng ta phải nỗ lực vươn lên. Tình yêu Thiên Chúa dẫn đưa chúng ta đến với Ngài. Chúng ta hãy đến với Chúa để được thanh luyện và được ơn hoán cải đích thực. Đó chính là sứ điệp của Lời Chúa hôm nay.
Thiên Chúa đầy lòng khoan dung
Khởi đi từ bài đọc Cựu Ước, tác giả sách Khôn Ngoan cho thấy hình ảnh một Thiên Chúa đầy lòng khoan dung trước những sai lỗi của con người. Theo thói thường, “ác giả ác báo”, tội nhân ắt phải bị trừng trị. Chúng ta thường lên tiếng phản đối trước những hình phạt chưa xứng với tội. Chuyện toà án để “lọt người, sót tội” xuất hiện hằng ngày trên các phương tiện truyền thông. Luật lệ là thước đo cho sự công bằng giữa người với người, nhưng đôi lúc cũng là công cụ gây nên biết bao đau khổ cho con người.
Thiên Chúa thì lại khác, Ngài làm ngơ trước tội lỗi của con người. Phải chăng Ngài “bó tay”? Không. Mọi vật đối với Ngài như hạt sương nhỏ. Ngài thừa khả năng đánh phạt những ai lầm lỗi. Nhưng nếu Ngài làm thế, biết còn mấy ai tồn tại trước nhan Ngài? Ngược lại, vì yêu thương mà Ngài dễ dàng kiên nhẫn chờ đợi. Ngài là Thiên Chúa sáng tạo chứ không phải là kẻ huỷ diệt, mang đến sự sống chứ không rắc gieo cái chết. Ngài tạo dựng muôn loài vì yêu mến thì cũng vì yêu mến mà Ngài khoan dung tha thứ cho tội nhân. Ngài để cho tội nhân có cơ hội hoán cải. Chúng ta thay vì nhìn vào sự dữ thì hãy nhìn vào lòng khoan dung của Thiên Chúa, chạy đến với Ngài để được Thánh Thần Ngài an ủi, biến đổi như Giakêô trong bài Phúc Âm hôm nay.
Gặp Chúa để được biến đổi
Giakêô - một người tội lỗi công khai. Ông là thủ lãnh những người thu thuế, thủ lãnh của những kẻ “cõng rắn cắn gà nhà”, chỉ làm lợi cho đế quốc Rôma mà gây hại cho dân cho nước.
Ông là người thấp bé nhưng ông chẳng mảy may lo lắng, vì ông sang giàu và có địa vị. Ông đã “quên” lớn lên trong lòng mọi người, và cũng “quên” lớn lên trước mặt Thiên Chúa. Cuộc sống của ông đang đẩy ông rời xa Nước Thiên Chúa.
Cho đến một ngày, cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu đã biến đổi cuộc đời ông. Cuộc gặp gỡ xuất phát từ cái nhìn và tiếng gọi của Chúa Giêsu, đồng thời cũng là thành quả của sự nỗ lực vươn lên từ chính Giakêô. Sáng kiến của Thiên Chúa gặp gỡ thái độ thành tâm thiện chí của con người đã đem đến cho con người một sự biến đổi. Cuộc gặp gỡ phát sinh ơn cứu độ!
Hoán cải nhằm thực thi công bằng - bác ái
Giakêô đã trở lại! Niềm vui đã đến với ông, với gia đình ông. Chúa đến viếng thăm nhà ông thì cuộc sống của ông ngày mai hẳn sẽ phải khác với nếp sống hôm nay. Ông đã lớn tiếng tuyên bố rằng từ nay ông sẽ sống đời sống mới và sẽ sửa chữa những lỗi lầm của mình. Ông vui vẻ từ bỏ sản nghiệp, sẵn sàng từ bỏ tất cả để ông được lớn lên trong Chúa.
Ơn hoán cải mà Chúa ban cho mỗi người không chỉ dừng lại ở lời cầu nguyện và lòng sám hối, nhưng còn nhằm thực thi công bằng bác ái, từ bỏ của cải theo tinh thần Phúc Âm. Giakêô có thể còn nhiều của cải sau cuộc biến đổi, nhưng là một người giàu có với tinh thần nghèo khó, sẵn sàng cho đi nếu Chúa cần.
Ngày nay, Chúa Giêsu vẫn đứng trước cửa ngõ tấm lòng chúng ta. Ngài mời gọi chúng ta mở rộng cửa lòng để Ngài ngự vào. Còn thái độ của chúng ta thì sao? Đón tiếp với thái độ của đám đông hay của Giakêô? Thờ ơ, lạnh nhạt hay thành tâm, thiện chí? Hãy nhìn vào những bất công, những cảnh đời bất hạnh của tha nhân, rồi nhìn lại thái độ của chúng ta trước những nghịch cảnh như thế, chúng ta sẽ biết mình đón tiếp Chúa thế nào. Chúa đến với ta không như một ông vua uy quyền, mà trong hình hài của những người đói khát, bệnh tật, buồn phiền, ngu dốt... Chúa Giêsu là chính tha nhân và “những gì các con làm cho họ là các con làm cho ta” (Mt25,40).
Ước mong mỗi người chúng ta như Giakêô, luôn sẵn sàng đón tiếp Chúa trong từng giây phút cuộc đời. “Lạy Chúa, đây là nhà của Chúa, xin hãy ngự đến”.


“Hôm nay nhà nầy được ơn cứu độ.”
Toàn bộ sách Tin Mừng được viết ra tập trung vào một chủ đề: Đức Kitô là Đấng cứu độ trần gian. Đó là quan niệm của các môn đồ tiên khởi về thân thế và sự nghiệp của Ngài.
Trên thực tế, Ngài đã cứu họ. Ngài rất hiểu sứ mạng cứu thế của Ngài. Ngài nói: “Con Người đến trong thế gian để tìm cứu những gì đã hư mất” (Lc 19:10)
Điều đáng tiếc là trong Giáo hội, đề tài này chỉ mặc được một ý nghĩa rất giới hạn. Gần như chỉ giới hạn vào những gì sẽ xảy đến cho chúng ta sau khi chết mà thôi. Được cứu rỗi có nghĩa là đời sau, tại bên kia thế giới, chúng ta được vào thiên đàng, sống bên cạnh Chúa muôn đời.
Điều này thật sự thì rất dễ hiểu. Một ngày nào đó chúng ta sẽ chết. Thiên đàng là nơi cực lạc, thoát ra ngoài những truân chuyên buồn khổ của trần gian. Dĩ nhiên, ai trong chúng ta cũng ước được vào thiên đàng.
Nhưng đây không phải là điều mà sách Phúc âm nhấn mạnh trước hết trong công cuộc cứu độ trần gian của Đức Kitô. Trong Phúc ân, các thánh sử đã trình bày Ngài như một vị Tôn sư giúp con người ta đối phó với những thử thách của cuộc đời, giải thoát con người ngay trên dương thế.
Bài Phúc âm hôm nay là một ví dụ điển hình. Đức Giêsu đến thăm nhà một ông trưởng thuế vụ. Chúng ta biết câu chuyện đã bắt đầu như thế nào, và đã kết thúc làm sao. Nhưng giữa đó những gì đã xảy ra? Chúng ta không được biết rõ. Đầu hết, Đức Giêsu trên đường đi ngang qua thành Yêricô, nhìn thấy trên cây sung một người thấp bé. Ngài liền nói:
“Hỡi Giakêu, hãy xuống mau. Hôm nay Ta phải lưu lại nhà ngươi.”
Kết thúc là ông Giakêu hứa cùng Chúa sẽ lấy nửa phần của cải to lớn của ông bố thí cho người nghèo. Sẽ đền bù gấp bốn cho những người ông đã gian lận. Gian lận ai 100, ông sẽ bù lại cho 400. Chúng ta có thể đoán được sự Chúa viếng thăm ông đã làm cho ông được vui mừng hạnh phúc như thế nào, đã đổi mới đời ông, giải thoát ông như thế nào.
Và Đức Kitô đã tỏ mình là đấng cứu độ loài người ngay trên trần gian nầy như thế nào.
Đây lời Ngài phán trong cuộc tiếp xúc với ông Giakêu:
“Hôm nay đây, nhà này được ơn cứu độ.”
Lời Chúa vừa nói có nghĩa gì? Chúng ta có thể nghĩ rằng hôm nay ông Giakêu đang được ở trên thiên đàng?
Nhưng đó không phải là điều mà bài Phúc âm muốn nhắm. Chúa đang nói về kinh nghiệm cứu độ xảy đến ngay ngày hôm đó tại nhà ông Giakêu. Ông đã được cứu độ cách rất thiệt thực trong đời sống hằng ngày của ông tại thành Yêricô.
Nhìn vào bối cảnh của đời ông, chúng ta có thể hiểu được phần nào Đức Kitô đã cứu giúp ông như thế nào. Phúc Âm nói: “Ông là một trưởng ty thuế vụ vùng Yêricô, tức là người cầm đầu các nhân viên thu thuế. Điều nầy làm cho ông Giakêu trở thành một người bị đồng hương ghét bỏ hoàn toàn. Người thu thuế là hạng người đáng ghét nhứt, đáng khinh bỉ nhất trong dân Israel thời bấy giờ.
Người thu thuế trong Phúc âm với người có tội cũng là một. Họ có tội thứ nhất, là tội phản quốc. Cộng tác với kẻ thù là dân cai trị Rôma, để thâu tiền về cho đế quốc. Họ có tội thứ hai là tội lỗi phép công bằng. Họ thâu đa mà nộp thiểu. Họ thâu mười mà không biết có nộp cho chính phủ được bốn năm hay không? Họ được chính phủ cho phép tha hồ làm giàu trên dân chúng.
Người thu thuế quả là người có tội. Mà ông Giakêu không những là người thu thuế, mà còn là cầm đầu các người thu thuế. Với cương vị trưởng ty thuế vụ, ông còn bốc lột hơn các đồng nghiệp. Người thu thuế đã đáng ghét rồi, ông trưởng ty phải đáng ghét gấp bội. Không ai muốn nói chuyện với ông. Trên đường phố, ai cũng xa lánh ông. Ông bị cấm tham dự các buổi lễ nghi tôn giáo.
Sự khinh khi ghét bỏ của xã hội chung quanh đó hẳn gây ảnh hưởng tai hại lớn lao cho tính tình ông, cho đời sống hằng ngày của ông. Ông chỉ là cái đích cho thiên hạ phỉ nhổ.
Tôi sẽ không thể có được một chút tự tin hay hãnh diện nào về bản thân tôi, nếu không có một người nào khác giúp tôi có đuợc sự tự tín hay hãnh diện về tôi.
Đức Giêsu chính là người khác đó của ông Giakêu. Trong khi những người đồng hương xa lánh ông, coi ông như phẩn thổ, thì Đức Kitô nhận biết ông, gọi ông đích danh: “Hỡi Za khê”. Trong khi những người khác khinh thị ông, thì Đức Kitô kính nể ông. Ngài không sợ người chung quanh thấy Ngài chuyện vãn với ông. Hơn nữa, Ngài muốn lưu lại nhà ông hôm đó, dường như là bạn cố tri của ông Giakêu vậy.
Sự Đức Kitô chấp nhận ông là khởi điểm ơn cứu độ của ông. Ngài cho ông chỗ đứng trong đời sống mới.
Người chung quanh chỉ thấy ông là một người tham lam bất lương. Và hình như ông Giakêu cũng mặc nhận như vậy. Nhưng Đức Kitô nhìn thấy trong ông những đức tính tiềm tàng có thể làm ông trở nên một ngưới lương thiện.
Thái độ của Đức Kitô đối với ông đã làm cho những đức tính tiềm tàng kia hiện ra và đáp ứng với những thách đố của một đời sống cao thượng.
Trước đây ông vốn tham lam, bất lương. Nhưng hôm nay ông đã đổi đời, không đi theo con đường cũ nữa. Lòng quảng đại của ông đã bị chôn vùi trong bao nhiêu năm, hôm nay, với sự hiện diện của Đức Kitô, lòng quảng đại đó đã bộc phát một cách thật rõ ràng.
“Tôi xin bố thí nữa phần của cải tôi cho người nghèo. Nếu xưa nay tôi có làm thiệt hại ai, tôi xin bù lại gấp bốn.”
Quả là một sự lạ lùng. Rất lạ lùng: “Hôm nay đây nhà nầy được ơn cứu độ.”
Hôm nay đây ông Giakêu đã trở nên người hiền lương, một người bạn dân. Ông sẽ được các đồng hương kính nể, yêu vì. Khi cần, họ sẽ cầu bàu cùng Đức Giêsu cho ông như họ đã cầu bàu cùng Ngài cho viên sĩ quan Rôma rằng: “Ông nầy đáng được Ngài giúp đỡ, vì ông quí mến dân ta.” (Lc 7:5). Phải: “Hôm nay đây, chính hôm nay đây, nhà nầy được ơn cứu độ.”
Phương pháp Đức Kitô dùng để cứu đời là giúp người ta khai thác những khả năng tiềm tàng của mình: Ngài nhìn họ như người điêu khắc nhìn thấy một pho tượng tốt đẹp trong khối đá cẩm thạch sù sì. Ngài giúp họ khai thác các đức tính của họ như thầy giáo giúp học trò khai thác các tài năng của mình. Lòng ưu ái của Ngài đã làm cho những đức tính vốn tiềm tàng của họ được hiện ra sống động.
Một người khác tên Simon, vốn rất yếu đuối và nhu nhược, đến nỗi run sợ trước một cô sen, chối bỏ Thầy đến những ba lần. Thế mà lòng ưu ái của Ngài đã biến đổi con người yếu đuối dễ thất trung thất tín ấy thành Phêrô, hòn đá tảng của Giáo hội. Ông được cứu độ hoàn toàn trong đêm thứ Sáu Tuần thánh.
Một người khác nữa tên Saolô, thuộc nhóm biệt phái, cuồng tín, hung hăng dữ tợn, bắt bớ đạo Chúa không ai bằng. Thế mà Ngài đã cảm hóa được. Và Saolô đã trở thành Phaolô, vị tông đồ thượng thặng của các dân ngoại. Phaolô đã được cứu độ hoàn toàn trên đường Damas.
Đối với chúng ta hôm nay thì sao? Chúng ta có thể quả quyết rằng tất cả những gì là tốt lành, là lương thiện trong chúng ta, một phần lớn là do nơi lòng tin tưởng một cách nào đó, một lúc nào đó, của một người nào đó đối với chúng ta.
Cũng như sự nghi ngờ, khinh khi của người khác đối với tôi sẽ làm cho mất tinh thần, bế tắc, bại hoại, xuống giốc, thì lòng tin tưởng, ưu ái của người khác đối với tôi, là một động lực thúc đẩy tôi trở thành người tốt, hầu đáp lại lòng tin tưởng và ưu ái của họ.
Đức Kitô đã tin tưởng vào ông Giakêu. Ngài giúp ông tìm ra thế giá của mình.
Rồi Ngài đi một bước xa hơn. Ngài đã giúp ông ý thức được trách nhiệm đối với người khác. “Tôi sẽ chia sẻ nửa phần của cải tôi cho người nghèo. Nếu tôi đã làm thiệt hại ai, tôi sẽ đền bù cho họ gấp bốn.”
Trau dồi các nhân đức nơi bản thân và lưu tâm giúp đỡ kẻ khác, là như đôi ngựa song phi. Hai điều kiện hình thành ơn cứu độ. Người chỉ lo cứu linh hồn mình, mà không quan tâm gì đến việc giúp đỡ kẻ khác, người đó tự lừa dối mình.
Một buổi sáng bêm bờ hồ Galilê, Đức Giêsu hỏi Simon Phêrô:
- Con có yêu mến Thầy không?
Phêrô trả lời:
- Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy.
Không đợi cho Phêrô nói gì thêm, Đức Giêsu tiếp liền:
- Hãy chăn dắt các con chiên Ta. (Yo 21:16)
Cứu độ là một danh từ vĩ đại trong tất cả các ngôn ngữ của thế giới. Toàn bộ sách Phúc âm được cấu tạo chung quanh hai tiếng cứu độ. Một ơn cứu độ torng đời sống thường ngày ngay trên trần gian. Nhưng ơn Cứu độ bao giờ cũng có hai chiều song song. Chúa cứu độ tôi. Và đến lượt tôi, tôi phải thực hành ơn cứu độ đó nơi kẻ khác, bằng cách bớt thời giờ, bớt sức lực, bớt tài năng, bớt của cải, để phục vụ Chúa nơi kẻ khác. Chỉ có lúc bấy giờ, lời Chúa phán hôm nay mới được đầy đủ thể hiện nơi tôi:
“Hôm nay đây, nhà nầy được ơn cứu độ.”


Tục ngữ Việt Nam có câu: “Nhất lé nhì lùn”. Đó là hai hạng người mà dân gian có thành kiến rằng “chẳng ra gì”. Nhưng không riêng gì Việt Nam mà có lẽ nhiều nước trên thế giới như Do Thái cũng không coi trọng hạng người thiếu thước này.
Phúc Âm hôm nay thuật lại một câu chuyện ngộ nghĩnh của một “chú lùn” lọt mắt xanh Chúa Giêsu đó là ông Giakêu, một người vừa lùn lại vừa làm nghề thu thuế là nghề được coi là bất chính dưới cái nhìn của dân Do thái.
Nhận biết thân phận lùn của mình, nên Giakêu đã làm một công việc có vẻ “ấu trĩ”, đó là trèo lên một cây cao để có thể nhìn thấy Đức Chúa Giêsu đi ngang qua, vì dân chúng đông đúc. Ông giật mình hoảng sợ vì không ngờ Đức Chúa Giêsu đã ngước nhì lên và gọi đích danh cùng ngỏ ý muốn trọ tại nhà ông. Ông vội vàng tụt xuống khỏi cành cây, lòng tràn ngập vui mừng đón rước Chúa vào nhà và khoản đãi trịnh trọng.
Trước mặt Chúa Cứu Thế, ông đã tà quy chính và hứa sẽ bồi thường thiệt hại gấp bội cho những ai mà mình đã làm thiệt hại. Đáp lại Chúa Giêsu đã tuyên phúc: “Hôm nay nhà được ơn cứu độ... Con Người đến để tìm kiếm và cứu chuộc những gì đã mất”. Vì lòng chân thành mà ông Giakêu đã được tha thứ vá chúc phúc, còn gì hạnh phúc hơn.
“Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu: Người đại lượng và chan chứa tình thương, Người không nỡ với ta như ta đáng tội và không trả cho ta theo lỗi của ta.” (Tv 102:8.10).
Sách khôn ngoan nói bài đọc thứ nhất đã nói đến phẩm tính nầy của Thiên Chúa. Trong Phúc âm, đã nhiều lần Đức Chúa Giêsu dùng hình ảnh dụ ngôn để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa và sứ mạng của Ngài như: Người cha và đứa con hoang đàng, người mục tử đi tìm con chiên lạc, bà goá tìm một đồng bạc bị mất v..v..
Dĩ nhiên Thiên Chúa yêu thích những người thánh thiện công chính, nhưng cũng không bỏ rơi những kẻ lầm đường lạc lối. Chúng ta hãy cố gắng sống đạo đức thánh thiện nhưng đừng ngã lòng khi sa chân lỡ bước vì “Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu.”


45. Tình thương biến đổi – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Đi hành hương Đất Thánh, ai cũng muốn đến Giêricô thăm “Cây sung Giakêu” và thưởng thức trái chà là. “Cây sung Giakêu” to lớn khoảng hai người ôm. Cây sung này được trồng lại cách đây hơn 700 năm. Tôi đi dịp tháng 4 nên sung nhiều trái. Các bà thích lắm, hái ăn và tin rằng trái từ “cây sung Giakêu” chữa lành mọi thứ bệnh.
Giêricô trở nên nổi tiếng với câu chuyện ông Giakêu trèo lên cây sung để nhìn cho được Chúa Giêsu đi ngang qua.
Giêricô chính là miến Đất Hứa, khi xưa Môsê từ trên núi Nebô đã được nhìn thấy. Sách Giosuê chương 6 kể lại cuốn đánh chiếm thành Giêricô.
Giêricô là một thành rất giàu có và quan trọng, nằm trong vùng thung lũng sông Giođan, là giao điểm của đường lên Giêrusalem và các lối qua sông Giođan để tỏa về các vùng đất phía sông Giođan.
Giêricô có một rừng chà là rất lớn, những vườn cây thuốc thơm nổi tiếng quốc tế, cách xa mấy dặm vẫn ngửi thấy mùi thuốc thơm. Các vườn hoa hồng ở đó cũng rất nổi tiếng. Người ta gọi Giêricô là “thành cây chà là”. Sử gia Do thái Josephus gọi là “Khu đất thần tiên, khu đất màu mỡ nhất của Phalettin”. Người La mã chở trái chà là và dầu thơm từ đó đi bán khắp nơi trên thế giới.
Chúa Giêsu đi qua Giêricô, tiến về Giêrusalem với đoàn người hành hương đông đảo, chuẩn bị bước vào khổ nạn. Ông Giakêu leo lên cây sung để nhìn cho được Chúa sắp đi ngang qua. Chúa nhìn lên cây sung thấy Giakêu. Chúa nhìn ông bằng ánh mắt yêu thương.Trái tim Giakêu bừng lên ngọn lửa yêu thương. Ông đáp lại tình thương của Chúa và thể hiện bằng việc đền bù thiệt hại, chia sẻ chân thành cho tha nhân. Tình thương của Chúa đã cảm hóa Giakêu và biến đổi cuộc đời ông.
1. Tình thương biến đổi.
Giakêu là một người thu thuế và là một người giàu có. Ông đã từng nghe biết Chúa Giêsu đã chọn ông Lêvi, một nhân viên ngành thuế như ông làm môn đệ (Mt 9,9). Nay ông rất muốn có dịp nhìn thấy con người kỳ lạ này.
Lần kia, biết Người sắp đi ngang Giêricô quê hương ông, Giakêu ra xem, nhưng vì dân chúng quá đông mà ông lại lùn, nên ông leo lên một cây sung để nhìn cho rõ. Đường đường một người "đứng đầu những người thu thuế", một công chức có địa vị, nhưng ông vẫn không sợ mất mặt, vẫn trèo lên cây cao.
Chúa ngước mắt lên cây sung, ánh mắt Chúa và ánh mắt Giakêu gặp nhau. Ánh mắt Giakêu bộc bạch tất cả tấm lòng và cuộc đời của mình: một người thu thuế, một người bị vạ tuyệt thông cách ly, một tâm hồn khát khao muốn gặp Chúa, một con chiên lạc đang tìm lối về. Lòng Chúa xao xuyến, thương mến vô vàn, một tâm hồn mà Chúa đang muốn tìm về đây. Chúa nói: "Hỡi Giakêu hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ông". Giakêu cười sung sướng, nhảy xuống đất, chạy mau về nhà, làm tiệc tiếp đãi khách quý. Và đó phải là một bữa tiệc linh đình, có đông bạn bè trong ngành thuế tham dự, giống như ông Lêvi đã làm trước kia (x. Lc 5,29).
Không phải bốc đồng, nhưng từ đáy lòng Giakêu cuộn lên một niềm sám hối mãnh liệt khiến ông cất tiếng thưa với Chúa: "Thưa Ngài, này đây phần nửa tài sản tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn". Ông Giakêu tự buộc mình làm một việc đền bù rộng rãi phi thường, vượt xa mức đòi hỏi của luật lệ. Điều ấy chứng tỏ ông đã thật lòng hoán cải và hơn nữa ông biết mình đã được tha thứ và cứu độ. Chính Chúa Giêsu xác nhận như thế khi Ngưới phán: "Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này".
Trước đây Giakêu chỉ nghĩ đến tiền và sống ích kỷ cho riêng mình, không nghĩ đến người khác.Trước đây Giakêu vốn tham lam, bất lương, lòng quảng đại bị chôn vùi qua bao năm tháng. Hôm nay, gặp được Chúa Giêsu, ông đã biết sống trao ban cho người khác, quan tâm đến người nghèo, sống công bằng với mọi người. Lòng quảng đại đó được bộc phát cách rõ ràng: "Tôi xin bố thí phần nữa của cải của tôi cho người nghèo, và nếu tôi có gian lận gì của ai, tôi xin đền lại gấp bốn". Quả là mùa xuân về trong tâm hồn Giakêu. Ngập tràn ánh nắng. Ngây ngất niềm vui. Bình minh Ơn Cứu Độ chan hoà lòng trí ông, gia đình ông.
1. Tình thương hoán cải.
Trong sách (Lv 5, 20-26; Xh 21, 37; Ds 5, 6) đều nói đến khoản luật phải trả lại, đền bù cho người nghèo, cho kẻ bị thiệt hại một số của cải. Đó là luật trong Cựu Ước. Giakêu trình bày ngay vấn đề, điều đó cho thấy có lẽ ông đã nghiên cứu Thánh Kinh, biết được các luật lệ đó. Tiếng lòng hồi sinh và như vậy ông đã có thao thức thầm kín, có băn khoăn và chờ đợi. Trong cuộc sống dư giả vật chất, bân rộn với công việc làm ăn, ông vẫn thấy lòng trĩu nặng ưu tư, để rồi hôm nay có cơ hội ông tìm kiếm Chúa mong làm lại cuộc đời mới.
Thánh Luca đã nói rõ: ông là thủ lãnh của những người thu thuế. Giêricô bấy giờ là hải cảng, thu thuế nơi xuất nhập cảng phồn thịnh phải là một tay có thế lực. Trong nghề nghiệp đó, bạn bè của ông phải là những người thu thuế, các sĩ quan Rôma. Vậy tại sao ông lại vất vả chen lấn với đám đông để mong gặp một người tên là Giêsu, kẻ hoàn toàn khác địa vị xã hội với ông? Là người giàu có, sang trọng, tại sao ông bỏ cả thể hiện sẵn sàng trèo lên cây sung như một đứa trẻ để nhìn cho được Chúa Giêsu đi qua? Hơn nữa, vốn bị dân chúng thù ghét, ông có thể bị nguy hiểm tính mạng khi đối diện với quần chúng giữa đám đông. Như thế ông phải liều, và bỏ ngoài tai mọi phê bình.
Động lực nào thúc đẩy ông đi tìm Chúa Giêsu? Chắc chắn không phải vì sự tò mò, nhưng có lẽ nhờ lời Thánh Kinh đánh động.Tâm hồn mong hoán cải đã thúc bách ông lên đường tìm Chúa ! Hoán cải là kết quả của một cảm nhận về tình yêu, một ưu tư thao thức tìm kiếm. Hoán cải là từ bỏ. Bất cứ cuộc trở lại nào, dù lớn dù nhỏ, cũng đòi phải từ bỏ. Hoán cải bởi tình thương bao giờ cũng có kết quả tốt. Giakêu tích cực đi tìm Chúa: "Ông chạy tới phía trước, leo lên một cây sung". Khi nghe tiếng Chúa gọi, ông đã nhanh chóng và vui mừng đáp lại: "Ông vội vàng tụt xuống". Ông còn "vui mừng đón rước Ngài về nhà". Ông nhìn nhận tội lỗi của mình.Ông đền bù những thiệt hại mình gây cho kẻ khác. Ông còn lấy tài sản bố thí cho người nghèo. Hoán cải là một hành trình: từ bỏ những tội lỗi, quảng đại đáp lại tiếng Chúa và canh tân đời sống. Giakêu hoán cải đem lại niềm vui cho chính ông và hai nhóm người, đó là nhóm nghèo được ông san sẻ cho phân nửa tài sản, nhóm bị oan ức (nếu có) được giải oan và nhận huê lợi hơn bốn lần thiệt hại. Việc hoán cải của một người mang lại niềm vui cho nhiều người.
Giakêu lùn về thể lý nhưng tâm hồn không thấp chút nào. Giá trị một người hệ tại nơi tâm hồn. Gía trị của một việc làm ở nơi lòng mến. Đối với Chúa Giêsu, giờ đây, Giakêu, đã trở nên cao thượng nhờ ông biết hoán cải và sống có tình người. Chiều cao thân xác Giakêu vẫn thấp nhưng chiều cao tâm hồn bây giờ ngất cao nhờ tình thương chiếu rọi.
2. Tình thương cảm hóa.
Chúa Giêsu là bậc Thầy cảm hoá lòng người. Tôn trọng, yêu thương có sức cảm hoá đến kỳ diệu. Ánh mắt, lời nói và thái độ của Chúa Giêsu đem mùa xuân về cho tâm hồn Giakêu. Những gì xưa nay trói buộc ông, làm cho ông say mê kiếm tìm giờ trở nên vô vị. Giakêu trở nên nghèo hơn trước, nhưng ông lại hạnh phúc hơn xưa nhiều lần. Thân xác ông vẫn lùn như xưa, nhưng tâm hồn ông đã cao thượng hơn gấp bội. Từ một người đáng khinh, Giakêu bỗng trở thành một người đáng khâm phục. Bởi lẽ, Ông đã gặp được Chúa, được nhận lãnh Ơn Cứu Độ của người Mục Tử Nhân Lành đi tìm con chiên lạc.
Kho tàng văn học Thiền có ghi lại câu chuyện sau đây. Thiền sư Sengai có một anh đệ tử hư hỏng, đêm đêm thường leo tường trốn ra ngoài chơi đêm. Vị thiền sư biết được điều đó nên vào đêm nọ, sau khi phát hiện người đệ tử vượt tường bằng cách leo lên một chiếc ghế khá cao, vị thiền sư đi đến vị trí đặt ghế, nhắc chiếc ghế bỏ sang bên rồi đứng vào chỗ đó.Trong đêm tối, người học trò leo tường trở vào, rồi theo thói quen đặt chân lên ghế để nhảy xuống, không dè lại đặt chân lên lưng thầy. Khi phát hiện thầy đứng ngay trước mặt, anh học trò hoảng sợ chờ đợi những lời khiển trách nặng nề. Thế nhưng cuối cùng vị thầy chỉ nói mấy lời yêu thương: “Áo con ướt đẫm sương đêm rồi! Mau vào thay áo ngay kẻo cảm lạnh!”. Thế là từ đó, người học trò không bao giờ còn đi chơi đêm nữa.
Những lời trách móc, lên án, những thái độ khinh bỉ hay loại trừ chỉ tạo nên nguy cơ làm cho những con người tội lỗi lún sâu vào con đường lầm lạc.Nhưng chính thái độ tôn trọng và tấm lòng yêu thương sẽ tạo nên sức cảm hoá diệu kỳ. Câu chuyện về ông Giakêu cho thấy, thái độ lên án và tẩy chay thường chỉ khiến người có tội thu mình lại và càng dễ dấn sâu hơn vào con đường sai trái của mình; chỉ có một thái độ tích cực có thể giúp họ hồi tâm hoán cải, đó là cởi mở, cảm thông, kính trọng và tùy hoàn cảnh mà nhắc nhở hay sửa dạy với đầy lòng yêu mến.
Giakêu rất cảm động trước sự trân trọng và yêu thương của Chúa Giêsu.Giakêu quyết tâm trở về con đường ngay chính, trước tiên bằng việc thực thi bác ái và công bằng. Cung cách đối xử chan chứa tình người mới là yếu tố chính yếu đem lại thành công trong công việc tông đồ. Đó là nghệ thuật cảm hoá lòng người mà Chúa Giêsu đã sử dụng để làm nên phép lạ nơi con người Giakêu.
Lạy Chúa Giêsu, tình thương của Chúa đã làm nên bao điều kỳ diệu. Xin dạy chúng con nhìn tha nhân bằng ánh mắt của Chúa, sống với người khác bằng tình thương, hy vọng vào lòng tốt của mỗi người và tin tưởng vào sự quảng đại của họ, nhờ đó thế giới của chúng con trở nên nhân bản hơn và thần linh hơn. Amen.


Câu chuyện ông Giakêu là một minh họa cụ thể những khẳng định của sách Khôn Ngoan: “Chúa xót thương mọi người và tạo điều kiện cho họ ăn năn hối cải”.
Giakêu là một người đứng đầu những người thu thuế, ông rất giầu. Ông muốn tìm cách để biết xem Đức Giêsu là người thế nào. Thiện chí của ông đã được đáp ứng: Đức Giêsu hứa sẽ đến nhà thăm ông. Việc này đã làm cho nhiều người khó chịu, họ xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ”!
Được Chúa thương vào nhà thăm, ông rất phấn khởi và tỏ ra quảng đại, ông đã tự nguyện hứa với Chúa: lấy nửa tài sản mà phân phát cho người nghèo và nếu làm hại đến ai thì xin đền gấp bốn.
Đức Giêsu đã chấp nhận lòng quảng đại của ông và đã tuyên bố: “Hôm nay, nhà này được ơn cứu độ”. Lời tuyên bố này phù hợp với lời Ngài đã phán: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”. Nhờ Đức Kitô, ông Giakêu không những đã được giải hòa cùng Thiên Chúa mà còn được làm hòa cùng anh em đồng loại nữa.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Xanh vỏ đỏ lòng.
I. ĐỨC GIÊSU KÊU GỌI ÔNG GIAKÊU.
Bài Tin mừng hôm nay nhằm nói lên sứ mạng của Đức Giêsu là “tìm và cứu chữa những gì đã hư mất”. Ông Giakêu đã là người được cứu chữa. Ông là thủ lãnh những người thu thuế ở Giêricô, nhờ gặp được Đức Giêsu nên đã được ơn hoán cải. Do thành tâm đi tìm biết Đức Giêsu, nên ông đã được gặp và còn được Ngài đến thăm nhà mình nữa. Trước tình thương của Đức Giêsu, ông đã tỏ ra quảng đại, chia nửa phần tài sản cho kẻ khó và đền bù gấp bốn những ai ông đã làm hại. Vì thế Đức Giêsu đã tuyên bố: “Hôm này, nhà này được ơn cứu độ”.
1. Hoàn cảnh
Giêricô có biệt danh thật thơ mộng và đẹp đẽ là “Moon city”: thành phố Nguyệt Nga, một thành phố quan trọng ở phía Bắc của Biển chết, ở cách Giêrusalem 37 km, thấp hơn mặt biển 256 mét. Giêricô là thành phố cuối cùng trong cuộc hành trình của những người hành hương lên Giêrusalem.
Trên con đường dẫn vào thành phố Giêricô có hai hàng cây đổ bóng mát. Loại cây thường được trồng có tên là sycamore – cây sung. Sung là một loại cây kết hợp hình thù của cây vả và cây dâu, với những cành to lớn không cách xa khỏi mặt đất, rất dễ trèo lên, dù người thấp bé và lùn như Giakêu.
“Đức Giêsu đi ngang qua thành phố ấy” để đi lên Giêrusalem và đây là giai đoạn cuối cùng của cuộc hành trình. Ngài lên Giêrusalem và chịu tử nạn ở đó. Trong cuộc hành trình này, tình cờ Ngài đã gặp ông Giakêu.
2. Con người ông Giakêu.
Ông là người Do thái, tên Giakêu tiếng Do thái là “Zakkay” có nghĩa là “người thanh khiết – người công chính”. Phải chăng là một sự hài hước, hoặc chế diễu? Ông không thanh khiết tí nào vì lòng ham mê tiền bạc, tham nhũng, hối lộ, và hà hiếp dân lành?
Nhưng chúng ta hãy chờ cho câu chuyện chấm dứt.
Giakêu là trưởng ty thuế vụ giầu có ở Giêricô. Thu thuế là một nghề bị người Do thái khinh chê, ghét bỏ. Ngay cả những người Rôma cũng không muốn làm nghề này, nên họ mướn những người Do thái làm. Kẻ làm nghề thu thuế bị coi là người phản bội lại dân tộc, chạy theo đế quốc Rôma. Họ bóc lột tiền bạc của dân chúng càng nhiều càng tốt để chính họ có thể tránh né khỏi phải trả thuế.
Giakêu, một con người bị tránh xa như dịch. Kẻ tội lỗi hoàn toàn bị hư mất. Đồ thối tha. Cấm không được giao du với con người hư hỏng ấy. Người ta nhổ xuống đất và quay mặt đi khi đi ngang qua con người ấy.
Ta thử tưởng tượng điều gì có thể thúc đẩy Giakêu bất chấp sự chế diễu, đã xắn chiếc áo thụng của một ông trưởng giả Do thái và có lẽ cái áo choàng La mã để leo lên cây sung như một thằng nhóc tầm thường. Vì tính tò mò chăng? Vì sự lôi cuốn mầu nhiệm chăng? Vì nỗi khắc khoải mơ hồ và chán chường cuộc sống của mình chăng? Phải nói rằng đây là cử chỉ nói lên lòng khao khát của Giakêu muốn nhìn thấy Đức Giêsu tận mắt, chứ không chỉ nghe thấy tiếng vang của Ngài đối với người bình thường. Cử chỉ này không có gì đáng nói, nhưng đối với Giakêu, một người thu thuế tội lỗi bị người ta khinh bỉ và sống cách biệt, mà lại có lòng khao khát như vậy thì quả là một người có thiện chí và lòng ngay.
3. Đức Giêsu gọi tên ông.
Đứng trên cây sung, Giakêu đang trố mắt nhìn xuống Đức Giêsu, nhưng đồng thời Đức Giêsu cũng trố mắt nhìn lên Giakêu. Bốn con mắt nhìn nhau thật thắm tình. Đức Giêsu lên tiếng gọi: “Hỡi Giakêu hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi”. Một lời kêu gọi bất ngờ đối với Giakêu vì Ngài gọi tên riêng ông, nhưng đối với Chúa thì không. Ta nhận thấy Đức Giêsu biết rõ con người của ông, chứ không phải là một cuộc gặp gỡ tình cờ, ngẫu nhiên, Chúa đã gọi đúng tên ông như đã quen biết ông từ lâu rồi. Chúa tỏ ý muốn vào nhà thăm và ở lại với ông như người bạn thân.
Nghe được lời mời gọi này, Giakêu quá sung sướng nên vội vã tụt xuống. Vì quá lòng mong ước, nên Giakêu cũng có một lòng hiếu khách, một đức tính sẵn có trong dòng máu Do thái, ông đã mời Đức Giêsu vào nhà và tiếp đãi rất ân cần.
Việc Đức Giêsu vào nhà ông Giakêu ăn tiệc, lại còn muốn trọ tại nhà ông mấy bữa làm cho mấy người biệt phái ưa chỉ trích rất bất mãn; vì theo quan niệm của người Do thái, việc giao thiệp với người tội lỗi đưa đến sự dơ bẩn (Lc 5,30; 7,34; 15,2). Việc lẩm bẩm chỉ trích như vậy tỏ thái độ khắt khe của con người đối với tội nhân, nhưng cử chỉ đón nhận của Đức Giêsu đối với tấm lòng ngay và thiện chí của Giakêu lại là thái độ đầy tình thương và cứu độ của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Thấy thái độ thành thực của Giakêu, Đức Giêsu đã tuyên bố: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”. Giakêu trở thành kiểu mẫu đón nhận ơn cứu độ và là cơ hội để Đức Giêsu khẳng định sứ mạng của Ngài: “Con Người đến đi tìm và cứu những gì đã hư mất”. Giakêu là con cái Abraham, nhưng đối với Giakêu, người Do thái cho là tội lỗi, không thuộc về dòng dõi Abraham nữa, thì nay nhờ ơn cứu độ lại là con cái Abraham một cách đúng nghĩa: Con cái Abraham không phải theo xác thịt nhưng là người được Thiên Chúa cứu độ.
II. CON NGƯỜI ĐƯỢC ĐỔI MỚI.
1. Tiếng gọi của Thiên Chúa.
Người ta nói: “Con mắt là cửa sổ của tâm hồn”. Câu nói văn hoa và thâm thúy này chắc hẳn bắt nguồn từ Lời Đức Kitô: “Đèn của thân thể là con mắt…” (Mt 6,22t; Lc 11,34t). Hiểu được ánh mắt của một người quả là không mấy dễ dàng (có chăng là ánh mắt tuổi thơ). Vì ánh mắt của một người là biểu lộ của chính tâm hồn người đó… Mà mấy ai trong chúng ta dám cho rằng mình hiểu được tâm hồn ai? Dĩ nhiên là tùy vào cách xử sự và hành động… Như qua bài Tin mừng Chúa nhật hôm nay, trong khi những người biệt phái chỉ nhìn các người thu thuế (như Giakêu) bằng cái nhìn khinh thị kết án – Thì Đức Kitô, với cái nhìn tuyệt vời không những đã làm đổi mới cuộc đời ông và gia đình, mà còn bao điều tốt đẹp cho những người từng bị điêu đứng vì Giakêu. Cao qúi biết bao chỉ một cái nhìn…
Cái nhìn của Đức Giêsu là cái nhìn chinh phục, cái nhìn của tình thương muốn cứu vớt, một cái nhìn có sức cảm hóa tâm hồn, một cái nhìn nhân từ, như không thấy tội gì trong ông. Chính cái nhìn đầu tiên chân tình và yêu thương ấy đã khiến ông nhìn lại chính mình và quyết tâm đổi mới.
Thiên Chúa luôn luôn đi bước trước, con người theo sau. Người ta có thể gọi cây sung là “nơi hai ánh mắt gặp nhau”. Bề ngoài, cái nhìn đầu tiên là của Giakêu, đang cháy bỏng ước muốn xem Đức Giêsu. Nhưng sẽ không có gì xẩy ra nếu Đức Giêsu không ngước mắt nhìn lên Giakêu ở cây sung. Chúng ta tưởng rằng chúng ta tìm kiếm Chúa trong khi mà chính Ngài tìm kiếm chúng ta trước, tự muôn đời.
2. Sự đáp trả của con người.
Được đón nhận lòng nhân hậu và thương xót của Đức Giêsu, Giakêu đã tỏ bầy một tâm trạng muốn hoán cải đời sống bằng cách ông muốn thực hiện ngay việc bác ái và công bằng. Ông quyết định đem nửa phần gia tài mình phân phát cho người nghèo, và nửa phần còn lại ông cũng không định giữ riêng cho ông, song ông sẽ dùng để đền bù cho tất cả những gian lận mà ông tự thú đã phạm.
Trong việc đền trả này ông lại còn đi xa hơn điều luật pháp đòi hỏi. Chỉ khi nào trộm là một hành động bạo lực và dụng tâm gây tàn hại, bấy giờ mới phải đền bù gấp bốn (x. Xh 22,1). Nếu chỉ là việc trộm cắp thường và nguyên vật không thể hoàn trả, thì phải tính gấp đôi mà đền (x. Xh 22,4.7). Nếu bị can tự thú và tình nguyện hoàn trả thì chỉ phải trả theo giá nguyên vật, cộng thêm một phần năm nữa thôi (x. Lv 6,5; Ds 5,7). Giakêu nhất định làm nhiều hơn điều luật pháp đòi hỏi. Bằng hành động, ông tỏ ra đã được biến cải.
Giakêu đã tỏ ra là con người quảng đại sau khi đã hoán cải. Việc bố thí cho người nghèo sinh ích lợi nhiều cho ông. Thánh Kinh đã làm chứng: “Bố thí thì cứu cho khỏi tội và khỏi chết” (Tb 4,11).
Tiên tri Đaniel viết theo: “Hãy chuộc tội con bằng bố thí, và bằng sự thương yêu kẻ khó nghèo” (Dn 4,24).
Nơi khác lại khen: “Của bố thí bay lên như hương thơm trước mặt Chúa” (Cv 11,4).
Đức Giêsu hứa: “Hãy bố thí, rồi mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các con”(Lc 11,41).
Khi ở thành Rages về, sứ thần Raphael bảo cha con ông Tobia: “Nước mắt ông chảy ra cũng như của làm phúc bố thí với những lần bỏ bữa ăn đi chôn xác kẻ chết, Ta đã thu lượm và dâng lên trước mặt Thiên Chúa… bây giờ Ta về với Đấng đã sai Ta, ông hãy tạ ơn Thiên Chúa” (Tb 12,12-13).
3. Khả năng đổi mới của con người.
Sách Tam tự kinh có viết: “Nhân chi sơ tính bản thiện, tính tương cận tập tương viễn”. Bản tính của con người lúc đầu là tốt nhưng vì hoàn cảnh mà trở nên xấu. Đây là chủ trương lạc quan của Mạnh Tử. Trái lại, Mặc Tử lại chủ trương: “Nhân chi sơ tính bản ác”. Nếu bản tính con người vốn tốt mà vì hoàn cảnh mà trở nên xấu thì dễ sửa hơn, còn nếu bản tính mà xấu rồi thì sẽ sửa làm sao?
Chúng ta phải khẳng định rằng con người xấu có thể trở nên tốt được bởi vì bản tính vốn là tốt, và nếu có ơn Chúa trợ giúp nữa thì sẽ dễ dàng. Chúng ta hãy lấy trường hợp ông Giakêu ra làm điển hình. Người Do thái coi ông là một người tội lỗi, ô uế, phải tránh xa, đã xấu thì cho xấu luôn, không thương tiếc.
Nhưng sau cuộc gặp gỡ Đức Giêsu, Giakêu đã nhận thấy tình yêu và lòng thương xót của Chúa đối với mình, ông nhận ra con người thật của ông: một con người xấu xa tội lỗi, đáng bị nguyền rủa. Nhưng ông thấy rằng mình có thể sửa đổi được, có thể cải tà qui chính, và ông thực sự đã hoán cải. Do đó, Đức Giêsu đã tuyên bố rằng: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ”. Nhìn vào cuộc đời của Giakêu lúc này chúng ta phải lấy câu tục ngữ Việt nam mà khen ông:
Xanh vỏ đỏ lòng (Tục ngữ)
Câu tục ngữ này có ý nói những cái bề ngòai xem ra xấu xa nhưng bên trong thì tốt. Người ta chỉ có thể thấy cái bên ngoài của một người mà không biết được lòng người ta.
Người ta muốn đánh giá Giakêu thế nào cũng được, nhưng Đức Giêsu có cái nhìn thấu suốt, không nhìn cái vẻ bề ngoài của con người mà Ngài nhìn rõ cả bên trong, cho nên Đức Giêsu sẽ khen cho Giakêu một câu chắc nịch như đinh đóng cột:
Xù xì da cóc trong bọc trứng tiên (câu đố).
Đây là một câu đố bình dân mà người ta thường đố nhau. Vậy “xù xì da cóc trong bọc trứng tiên” là cái gì? Chúng ta hãy giải đáp xem nó là cái gì. Nhưng cho dù nó là cái gì thì lúc nào cũng có ý nói rằng bề ngoài xem ra xấu xa nhưng bên trong thì tốt, giống như câu “Xanh vỏ đỏ lòng” vậy.
Nếu chúng ta có gặp được Giakêu sau khi nhờ ơn Chúa trở lại rồi thì ông sẽ tâm sự cho chúng ta nghe. Ông cho biết nhờ ơn Chúa ông đã thực sự sửa đổi con người của mình. Đời ông không còn như xưa nữa, nay đã trở nên con người mới hoàn toàn. Có thể bề ngòai không giống nhau, nhưng thực sự bề trong đã được đổi mới hoàn toàn:
Thân em như quả ấu gai,
Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen.
Ai ơi, nếm thử mà xem,
Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi.
(Ca dao)
Truyện: Harold Hughes trở lại.
Harold Hughes xưa kia là Thống đốc tiểu bang Iowa, và là một nghị sĩ của Hoa kỳ. Nhưng cuộc đời của ông đã không luôn luôn thành công. Trong tập tự truyện, Hughes kể lại rằng thời trai trẻ ông đã là “một người nghiện rượu, dối trá và lừa đảo”. Vào một thời điểm trong đời ông, đã phá hủy tất cả mọi sự, và mất tất cả.
Một đêm nọ ông nhảy vào bồn tắm và chuẩn bị tự tử. Ông dí khẩu súng shotgun vào bụng, rồi nhốt cái chùi giẻ vào miệng. Khi ông sắp sửa bóp cò súng, thình lình ông nhớ lại Thánh Kinh đã nói giết mạng sống mình là sai. Và ông đã cố cắt nghĩa với Chúa lý do tại sao ông lại làm điều kinh tởm này. Ông trèo ra khỏi bồn tắm, qùi xuống nền gạch lạnh lẽo, và gục đầu trên thành bồn tắm. Trong tư thế đó, ông nói chuyện với Chúa đang khi khóc nức nở. Sau đó có một điều gì đã xẩy ra mà ông chưa bao giờ cảm nghiệm thấy trong đời. Ông viết trong cuốn tự truyện như sau:
“Một sự bình an ấm áp dường như bao phủ lấy tôi. Những tội lỗi của tôi dường như tan biến. Thiên Chúa cúi xuống và ôm lấy tôi. Giống như một đứa trẻ bị thất lạc trong cơn giông bão, thình lình tôi bị vấp chân ngã vào cánh tay ấm áp của Cha tôi. Đang khi quì gối trên nền nhà tắm, tôi đã hiến dâng hoàn toàn con người của tôi cho Thiên Chúa, và tôi nói với Ngài,”Bất cứ việc gì Ngài sai con làm, lạy Cha, con sẽ thực thi thánh ý Cha”.
Kinh nghiệm đáng nhớ muôn đời đó đã bắt đầu một sự biến đổi hoàn toàn đối với Harold Hughes. Mười năm sau, ông được bầu làm Thống đốc tiểu bang Iowa. Bảy năm sau nữa, ông được bầu vào Thượng viện của Hoa kỳ. Sau cùng, vào năm 1975, ông rút lui khỏi hậu trường chính trị, về hưu và làm việc trọn ngày cho chương trình giúp đỡ những người cai thuốc phiện và nghiện rượu (Nguyễn Văn Thái).
4. Thái độ với kẻ tội lỗi.
Vấn đề chính của con người là ở chỗ chúng ta có thể thay đổi tâm hồn và học yêu thương người khác như thế nào. Phải có một tâm hồn cảm kích, mềm mại xúc động mới làm cho tâm hồn ấy mở ra và sau cùng chia sẻ sự phong phú, cảm thông. Một sự tiếp cận khắt khe làm cho tâm hồn khép kín và chai cứng. Một sự tiếp cận nhân từ, như cách Đức Giêsu thực hiện với Giakêu làm cho tâm hồn mềm mại và cởi mở không có gì có thể làm thay đổi tâm hồn bằng chính tâm hồn. Theo cách thức đó, ông Goethe đã phát biểu: “Đối xử với một người như người đang là sẽ làm cho người ấy trở nên tệ hơn, đối xử với người ấy như người ấy phải trở thành hoặc như người ấy mong ước trở thành sẽ làm cho người ấy trở nên tốt hơn, bởi vì khát vọng của chúng ta là phần chúng ta thật sự đã đóng góp”.
Như vậy, gần gũi và biểu lộ tình thương với người tội lỗi là tốt nhất. Đây là thái độ Đức Giêsu thường xử sự đối với người tội lỗi, và hầu như luôn luôn có tác dụng tốt. Ngài không hề xa tránh những người thu thuế, bọn đĩ điếm, vốn bị coi là hạng người tội lỗi, như những biệt phái và luật sĩ thường làm. Kết quả của thái độ nhân từ đó là biết bao người tội lỗi trở lại con đường ngay chính, say mê nghe Ngài rao giảng Tin mừng, mà bài Tin mừng hôm nay kể ra một trường hợp điển hình. Chính vì Đức Giêsu sẵn sàng vào nhà ông Giakêu, một kẻ bị coi là tội lỗi, ăn uống và trọ lại nhà ông, mà con người ông đã hoàn toàn thay đổi. Thử tưởng tượng xem, nếu Ngài cũng đối xử với Giakêu như cách mà người Do thái thường làm là tẩy chay và xa lánh ông, thì kết quả ra sao !
Truyện: Thiền sư Sengai và đệ tử.
Nhiều đệ tử đang theo học thiền định dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Một người trong bọn họ thường hay thức dậy ban đêm, vượt tường ra phố để dạo mát cho thỏa thích.
Một đêm kia, Sengai đi giám thị phòng ngủ, thấy một đệ tử vắng mặt và cũng khám phá ra được chiếc ghế đẩu cao mà anh ta thường dùng để leo qua tường. Sengai dời chiếc ghế đi chỗ khác và đứng thay vào chỗ đó. Khi anh chàng rong chơi trở về, không biết rằng Sengai là chiếc ghế, anh ta đặt chân lên đầu thầy và nhảy xuống đất. Lúc khám phá ra việc mình đã làm, anh ta hoảng sợ, nhưng Sengai nhẹ nhàng bảo:
- Sáng sớm hôm nay trời lạnh lắm. Con hãy cẩn thận kẻo bị cảm đấy.
Từ đó, người đệ tử ấy không bao giờ bỏ ra ngoài ban đêm nữa. Anh chuyên tâm học tập và trở thành người đệ tử gương mẫu của thầy Sengai.
5. Công cuộc đổi mới của mỗi người.
Như ở trên chúng ta đã nói: “Nhân chi sơ tính bản thiện” thì con người có hư hỏng rồi cũng có thể cải thiện được. Khi chịu phép Rửa tội, chúng ta đã được trở nên tinh tuyền, đã được mặc lấy Chúa Kitô và có thể nói là trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, nhưng chúng ta phải nhớ rằng chúng ta đã được tha tội nguyên tổ nhưng không thể tránh được hậu quả của tội ấy, do đó con người chúng ta trở nên yếu đuối, dễ sa ngã phạm tội. Vì vậy, thánh Phaolô cảnh giác chúng ta: “Ai đang đứng ý tứ kẻo ngã”.
“Sai phạm là bản tính của con người, còn tha thứ là bản tính của Thiên Chúa”(A. Pope). Vì thế chúng ta có thể nói: sai lỗi là chuyện bình thường, sa ngã mà không biết chỗi dậy mới là bất bình thường. Có biết bao nhiêu gương sa ngã mà đã chỗi dậy nhờ ơn Chúa. Người lành thánh mà còn sai phạm một ngày ít là 7 lần, chúng ta chưa lành thánh là bao, có sai lỗi thì cũng là chuyện bình thường, không đáng lo, cứ cậy trông vào ơn Chúa và quyết tâm hoán cải.
Truyện: Leonard da Vinci vẽ hình.
Danh họa Leonard de Vinci đang thực hiện tuyệt tác “Bữa Tiệc ly”. Nhưng để diễn tả một phần nào đúng chân dung của Chúa và 12 vị tông đồ, danh họa phải đi tìm những nét mặt đó nơi những người đương thời. Một hôm, họa sĩ bắt gặp trong thánh đường ở Rôma, một vị kinh sĩ trẻ tuổi có gương mặt thanh tú, trong sạch tuyệt vời hợp với chân dung thánh Gioan. Thế là ông đi theo và xin vị Kinh sĩ ngồi làm mẫu cho mình vẽ. Vị Kinh sĩ bằng lòng và họa sĩ đã vẽ được một gương mặt đẹp như Thiên thần.
Vài năm sau, bức tranh “Bữa Tiệc ly” vẫn chưa hoàn thành vì không tìm ra người mẫu để vẽ chân dung độc đáo của Giuđa. Tình cờ, trên đường phố, họa sĩ gặp một người ăn mày, áo quần rách tả tơi với vẻ mặt quái đản, gian ác đến độ vừa kinh ngạc vừa mừng thầm tự chủ: “Trời ơi, người mẫu này thật lý tưởng, ta sẽ vẻ mặt gian xảo này cho thật mâu thuẫnvới vẻ mặt Thiên thần của chàng trai trước đây”. Sau khi thương lượng với giá cao, người ăn mày bằng lòng làm mẫu cho họa sĩ vẽ. Vẽ xong, họa sĩ sung sướng lấy chân dung chàng trai trẻ đặt bên chân dung người ăn mày mà ngắm nghía. Còn người hành khất giật mình chết lặng, rồi hai dòng nước mắt chảy dài trên hai gò má đen đủi và nghẹn ngào nói: “Bức chân dung người trẻ kia chính là tôi mà ông đã vẽ cách đây mấy năm. Khi đó trông tôi tốt lành, trong trắng dường nào, nhưng bây giờ tôi là một tên ăn mày, cờ bạc rượu chè say sưa”. Nói xong, anh ta bỏ đi thật tội nghiệp.
Nếu chẳng may chúng ta đã để cho mình trở nên xấu như chàng ăn mày kia, chúng ta hãy bắt chước ông Giakêu tìm đến gặp gỡ Đức Giêsu. Phía Chúa Ngài luôn khẳng định là Ngài xuống thế cốt tìm kiếm và cứu kẻ tội lỗi, nên Ngài luôn luôn hiện diện mọi nơi mọi lúc, sẵn sàng theo dõi, đợi chờ con người tỏ dấu ăn năn thì Ngài sẽ hành động ngay.
Nhưng nếu chỉ gặp Chúa mà thôi thì chưa đủ, cần phải có hành động cụ thể. Muốn biến cuộc gặp gỡ thành một cuộc tình gắn bó, một cuộc liên kết chặt chẽ, lâu dài thì phải thực hiện một công đoạn tiếp theo là đổi mới cuộc sống. Như Giakêu, ông ta không dừng lại ở chỗ gặp Chúa, trái lại ông ta muốn tiến xa hơn là thay đổi cuộc sống bằng cách bố thí và thực hiện đức công bằng. Cũng thế, để nhận được sự tha thứ và sự bình an của Chúa trao tặng, mỗi người chúng ta phải đổi mới ngay cuộc sống của mình bằng những cố gắng thực tế như: bỏ dần những tính hư tật xấu, cắt đứt ngay những liên hệ xấu xa, sửa lại những lầm lạc sai phạm, rồi dũng cảm thực hiện các việc đạo đức bình thường như đọc kinh, xem lễ, lần hạt và đi xưng tội, rước lễ…


Tin mừng của Thánh Luca được gọi là Tin mừng về Lòng thương xót của Thiên Chúa. Thánh Luca có nhiều tường thuật và những dụ ngôn rất tuyệt vời về lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho con người. Đoạn Tin mừng hôm nay là một bức tranh tuyệt đẹp về lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho người tội lỗi, và cũng mở rộng cho tất cả chúng ta nữa.
1. Thành tâm tìm Chúa sẽ được gặp Chúa:
Dakêu lại là thủ lãnh của những người thu thuế nên chắc chắn ông phải giàu có lắm. Dù vậy, Dakêu vẫn thấy còn thiếu một điều gì đó mà lương tâm của ông mách bảo ông phải đi tìm. Nhưng biết tìm gì đây? Chắc chắn là không phải đi tìm cách để làm giàu hơn nữa rồi. Và cơ may như tình cờ đã đến Dakêu. Đức Giêsu đi ngang qua làng quê của ông. Ông đã nghe danh tiếng Đức Giêsu đã lâu rồi nhưng chưa được dịp gặp. Hôm nay, Dakêu nhất định phải tìm cách để nhìn thấy mặt Đức Giêsu một lần cho biết. Hành động leo lên cây sung để nhìn ngắm Đức Giêsu cho thấy Dakêu rất quyết liệt trong việc tìm kiếm Chúa. Ta thử hỏi động lực nào thúc đẩy Dakêu như thế? Câu trả lời là vì ông đang thiếu Chúa nên mới tìm kiếm quyết liệt như thế dù là để thấy Ngài thôi. Phúc âm ghi là “Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai” mà thôi. Sự thành tâm của ông đã được Đức Giêsu đáp lại vượt quá sức tưởng tượng của ông. “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông.” Chúa Giêsu muốn cứu ông nên mới hối thúc ông như thế “xuống mau đi”. Câu nói của Chúa Giêsu cho ta thấy được rằng: việc Chúa đến để cứu giúp ông là điều cần thiết vì nó nằm trong chương trình của Thiên Chúa “Tôi phải”.
Vậy là Dakêu đã gặp được điều mà ông còn thiếu, còn trống vắng trong tâm hồn ông. Ông đi tìm và ông đã gặp. Nhưng trên hết là lòng thương xót của Thiên Chúa, là tình yêu nhưng không của Ngài dành cho con người. Nói là con người đi tìm Thiên Chúa nhưng thật ra là Thiên Chúa đi tìm và cứu lấy con người. Thiên Chúa làm nên những việc vượt quá ước muốn của con người. Tấm lòng của Thiên Chúa là như thế: đi tìm và cứu chữa những gì xem ra đã hư mất dưới cái nhìn của nhân loại. Phần chúng ta, để được Thiên Chúa cứu độ, chúng ta cần có lòng ước muốn và khao khát đến với Chúa dù động lực chưa rõ ràng hay còn lệch lạc đi chăng nữa. Chúa hiểu tấm lòng của con người. Và khi gặp được Chúa rồi, chúng ta cần làm theo những gì Chúa đã ân cần hướng dẫn và ngoan ngoãn bước theo đường lối của Ngài.
2. Dakêu, kiểu mẫu của người môn đệ Chúa Kitô:
Như một điều mỉa mai đối với Dakêu. Tên của ông có nghĩa là “trong sạch” nhưng ông lại làm nghề thu thuế, một nghề tội lỗi và bất công. Nhưng sự mỉa mai này chấm dứt khi ông gặp được Đức Giêsu. Nhờ biết chia sẻ, ông đã trở nên trong sạch đúng với tên gọi của ông.
Có thể nói cách mạnh mẽ rằng: Dakêu là người đầu tiên thực hiện lời mời gọi chia sẻ của Chúa Giêsu. Theo Tin mừng của thánh Luca, người môn đệ đích thực của Chúa là người biết sống chia sẻ, cả vật chất lẫn tinh thần cho người khác, đặc biệt là cho những người nghèo khổ và túng thiếu.
Những ai sống giàu có dư đầy mà không biết chia sẻ cho người khác thì sẽ có một kết cục thật bi thảm: đảo lộn số phận trong cuộc sống mai sau. Câu chuyện về “người phú hộ và anh Lazarô nghèo khổ” hay câu chuyện “anh thanh niên giàu có buồn rầu bỏ đi trước lời mời gọi sống chia sẻ của Chúa Giêsu” là những điển hình. Số phận của những kẻ như thế sẽ bị đạo lộn và sẽ rất tối tâm. Nếu giàu có ở đời này thì sẽ nghèo khổ ở đời sau muôn ngàn kiếp, “người giàu có trở về tay không”.
Còn ở đây, Ông Dakêu tuy giàu có nhưng ông biết sẵn sàng và tự nguyện chia sẻ của cải của mình cho người nghèo khổ, nên ông sẽ không bị đảo lộn số phận mà còn trở nên kiểu mẫu cho hình ảnh người môn đệ Đức Giêsu, trở thành công dân trong Israel mới do chính Chúa lập nên. “Tôi xin bố thí nửa tài sản của tôi cho kẻ khốn khó, và nếu tôi làm thiệt hại ai điều gì, tôi xi đền gấp bốn”. Thật là một hình ảnh tuyệt đẹp của những con người hoán cải tận căn sau khi gặp được Chúa. Gặp Chúa thật sự thì không thể không hoán cải và không thể không thay đổi trong mọi sự, từ suy nghĩ cho đến hành động. Dakêu thật là một kiểu mẫu cho chúng ta noi theo. Từ một người chỉ biết thu góp, nay trở thành người cho đi; từ một người sống trong bất công nay trở thành người thực thi sự công bằng và trả lại sự công bằng cho người khác.
Chúng ta hãy nhìn vào sự biến đổi của Dakêu mà xét mình lại. Chúng ta giữ đạo đã nhiều năm, nhưng chúng ta đã gặp được Chúa chưa? Chúng ta đi lễ quá nhiều, rước Chúa vào lòng quá nhiều đến mức không nhớ nổi, chúng ta nghe lời Chúa đến mức có thể thuộc lòng được... nhưng thử hỏi chúng ta đã thật sự gặp được Chúa chưa? Nếu ta chưa biết hoán cải, chưa biến đổi gì hết trong thái độ sống, trong suy nghĩ và hành động của ta cho tốt hơn thì có thể nói: Chúng ta chưa gặp được Chúa.
Sẽ thật là vô phúc cho chúng ta nếu chúng ta lo giữ đạo, giữ luật Chúa mà không lo gặp Chúa. Không có Chúa trong cuộc đời ta thì ta là những kẻ đáng thương vô cùng. Coi chừng chúng ta đang biến thành những Biệt Phái của thời đại mới này mà chúng ta không hề hay biết.
Hãy noi gương Dakêu để trở thành người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu: biết sống chia sẻ, biết hoán cải nội tâm, biết đi tìm Chúa cách thành tâm thiện chí, để khi hoàn tất cuộc đời tại thế này, chúng ta sẽ được Chúa cho vào dự tiệc cưới Nước Trời dành cho những tâm hồn thiện chí và trung tín của Chúa. Ước gì trong ngày sau hết, ta được Chúa nói với ta như đã nói với Dakêu rằng: “người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham” và “hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này”. Amen.


48. Gặp gỡ ơn cứu độ – Lm. FX Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Phần thứ tư (phần cuối của hành trình lên Giêrusalem) được tác giả Luca trình bày trong phân đoạn 18,15–19,28: phần này tương ứng với bài tường thuật về hành trình của các Tin Mừng Nhất Lãm. Nhưng trong khối chất liệu này, ngài thêm vào câu truyện cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với ông Dakêu, thủ lãnh người thu thế ở Giêrikhô. Ngài thấy khối người bị đẩy ra bên lề xã hội Paléttina này cũng là “cái đã mất” mà Đức Giêsu đến để cứu.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành năm đơn vị:
1) Ghi chú về chuyến đi của Đức Giêsu (19,1);
2) Giới thiệu Dakêu trong quan hệ với Đức Giêsu (19,2-4);
3) Đức Giêsu chủ động gặp Dakêu (19,5-7):
- Đề nghị của Đức Giêsu (cc. 5-6),
- Phản ứng của dân chúng (phản đối Đức Giêsu) ( c. 7);
4) Dakêu chủ động hoán cải (19,8-9):
- Đề nghị của Dakêu (c. 8),
- Phản ứng của Đức Giêsu (trả lời cho dân chúng) (c. 9);
5) Ghi chú về sứ mạng của Đức Giêsu (việc Ngài “đến”) (19,10).
3.- Vài điểm chú giải
- Giêrikhô (1): Giêrikhô là chặng cuối trước khi “lên” Giêrusalem. Thành này nằm kề ranh giới miền Pêrê, dọc theo một tuyến đường giao thông quan trọng, là một điểm chiến lược mà đế quốc Rôma quan tâm trong việc cai trị Giuđê. Tại đây người ta dễ gặp các nhân viên của đế quốc hoăc các sĩ quan, binh lính Rôma.
- Dakêu (2): Tiếng Híp-ri là zakkai, có nghĩa là “trong sạch và vô tội” (x. Er 2,9; Nkm 7,14).
- người thu thuế (2): x. 3,12. Tên gọi này dịch từ tiếng Hy Lạp telônês (do từ telos có nghĩa là “thuế”); La-tinh: publicanus (Ngày xưa, các cố Tây dịch là “người púp-li-ca-nô” do lấy từ chữ La-tinh publicanus (do chữ publicus có nghĩa là “tiền của công”); Pháp: collecteur d’impôts, Anh: tax collector. Nền hành chánh Rôma qui định nhiều loại thuế: thuế thổ trạch, thuế động sản, thuế gián thu, đặc biệt đánh trên việc nhập cảng muối. Những “người thu thuế” thường được giao cho nhiệm vụ thu khoản thuế cuối cùng này. Vì thế họ thường có mặt tại các trạm quan thuế (Caphácnaum: Mc 2,14; Giêrikhô: Lc 19,2). Vì do nghề nghiệp, họ phải tiếp xúc thường xuyên với mọi hạng người, kể cả người ngoại giáo, nên họ bị coi là những người ô uế. Quy định mức thuế là quyền của chính quyền, nhưng thường được người thu thuế áp dụng cách võ đoán, nên họ bị dân chúng khinh bỉ, và danh từ “người thu thuế” tương đương với “hạng tội lỗi” công khai (x. Mt 9,10-11; Mc 2,16; Lc 5,30; 7,34; 15,1; 19,2-7), hạng ngoại đạo (x. Mt 18,17; 21,31), và hạng trộm cướp (x. Lc 3,2t). Một người Do Thái đạo đức tuân giữ lề luật thì chẳng có gì phải giao dịch với người thu thuế. Dakêu “đứng đầu những người thu thuế” (architelônês), tức là ông phụ trách cả vùng. Như thế, Dakêu càng ở bên lề cộng đồng Do Thái hơn nữa.
- tìm cách để xem cho biết... (3): Dakêu là người giàu có và có địa vị cao, nhưng trong lòng ông vẫn không cảm thấy thỏa mãn. Hai động từ “tìm” (HL: zêtein) và “xem” (HL: idein) cho dù không có tầm mức quan trọng như trong TM Gioan, vẫn cho thấy là Dakêu không chỉ tò mò muốn “xem cho biết” (như kiểu nói của chúng ta). Đây là một “cuộc điều tra mang tính Kitô học” của một người tội lỗi công khai đối lại với thái độ lãnh đạm và thù nghịch của giới lãnh đạo dân Chúa.
- cây sung (4), tiếng Hy Lạp là sykomorea. Đây là loại cây có thân thấp, các cành ngang cứng chắc.
- phải ở lại (5): Câu này dịch sát là “hôm nay điều cần thiết đối với tôi là ở lại nhà ông”. Động từ Hy Lạp dei diễn tả một điều nằm trong chương trình, ý muốn của Thiên Chúa, nằm trong sứ mạng của Đức Giêsu (x. 2,49; 4,43; 12,12; 13,33; 15,32; 22,37; 24,44).
- mừng rỡ (6): do động từ Hy Lạp chairein. Lc là Tin Mừng về niềm vui (Dacaria: 1,14; Đức Maria: 1,28; bà con Gioan Tẩy Giả: 1,58; Đức Giêsu chào đời: 2,10; Đức Giêsu: 10,20; đám đông: 13,17...). Đây là niềm vui do Đấng Mêsia mang đến.
- nhà người tội lỗi (7): Luật luân lý cấm vào nhà kẻ tội lỗi.
- phân nửa tài sản của tôi (8): Mức bồi thường này vượt qua mức Luật đòi hỏi (x. Xh 21,37; Ds 5,5-7; Lv 5,21-24: trả lại món tài sản đã lấy cộng với 1/5 giá trị món đó).
- Đức Giêsu nói về ông (9), có nghĩa là Đức Giêsu nói với những người khác. Tập tục Đông phương cho phép người ta tự do ra vào nhà một người và vây quanh bàn ăn của những khách được mời (x. 7,37).
- Hôm nay (9, cả c. 5; HL: sêmeron, x. 2,11; 4,21; 13,32.33; 23,43): Đây là từ ngữ quan trọng của TM Lc, có nghĩa là: Sau một thời gian dài chờ đợi và hy vọng, lịch sử cứu độ đã tới đỉnh cao hoàn tất. Tất cả những gì các ngôn sứ nói đã thành sự trong các hành động và các lời nói của Đức Giêsu (x. 4,18.19; 5,26).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Ghi chú về chuyến đi của Đức Giêsu (1)
Đến Giêrikhô, chuyến đi của Đức Giêsu lên Giêrusalem đã đến chặng cuối cùng. Tại đây người ta bắt đầu chuyến đi lên: từ thung lũng sông Giođan, người ta băng qua sa mạc Giuđa để đến Giêrusalem. Toàn thể cuộc hành trình của Đức Giêsu sau này được Phêrô mô tả: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó” (Cv 10,38). Điều này đặc biệt đúng cho những điểm cuối cùng: mỗi chặng lại trở thành mộtchặng để trợ giúp và cứu chữa. Gặp anh mù ngồi bên vệ đường tin tưởng kêu cầu: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin thương xót tôi!”, Đức Giêsu đã cho anh xem thấy, ban khả năng ca tụng Thiên Chúa và đi theo Người (18,38). Gặp Dakêu ngồi trên một cây sung bên lề đường để nhìn xem Người, Đức Giêsu cho ông cơ hội tiếp đón Người về nhà và hoán cải, tức nhận được ơn cứu độ. Dù hoàn cảnh hai người rất khác nhau, cả hai đã được Thiên Chúa trợ giúp nhờ trung gian Đức Giêsu.
* Giới thiệu Dakêu trong quan hệ vớiĐức Giêsu (2-4)
Dakêu là mộtngười giàu có. Nhưng trong tư cách là thủ lãnh của những người thu thuế, ông thuộc về hạng người bị xã hội Do Thái khinh bỉ. Do nghề nghiệp, vì họ phải thường xuyên liên hệ với mọi hạng người, kể cả ngoại giáo, họ bị nhiễm uế. Và bởi vì xã hội thường gán cho người thu thuế tính tham lam và những lối cư xử không công bình (x. 3,12t), Dakêu bị ghét bỏ và khinh bỉ. Một người Do Thái tuân giữ Lề Luật nghiêm túc thì không có gì phải liên hệ với người thu thuế cả. Do đó, Dakêu đứng ở bên lề cộng đồng. Ông là người giàu có và có địa vị cao, nhưng ông không được những người có thế giá trong xã hội trân trọng.
Ông hết sức ao ước được gặp Đức Giêsu. Ước muốn này có thể phần lớn được nhen lên do tính tò mò. Dù sao ước muốn này đã thúc đẩy ông tìm mọi cách để thấy được Đức Giêsu. Tuy nhiên, dân chúng đi theo Đức Giêsu thì quá đông mà vóc người ông thì thấp bé. Nhưng Dakêu có óc sáng tạo: ông chạy đi trước và leo lên mộtcây sung. Chạy và trèo lên cây là những chuyện chỉ hợp với các trẻ em, chứ không phù hợp với tư cách mộtngười giàu có; nhưng Dakêu chấp nhận trở thành lố bịch để được thấy Đức Giêsu, điều này cho thấy ông ao ước thấy Người đến đâu!
* Đức Giêsu chủ động gặp Dakêu (5-7)
Trong khi mọi người khác không màng tới Dakêu đang ở trong thế rất khôi hài, Đức Giêsu đã bày tỏ sự quan tâm đến ông bằng những cử chỉ và thái độ rất đơn giản, rất “người”: “đi tới chỗ ấy”, “nhìn lên”, “nói với ông”. Người còn cho hiểu đấy không chỉ là một cuộc thăm viếng xã giao, mà là một cuộc gặp gỡ nằm trong ý muốn của Thiên Chúa (“hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”), nằm trong sứ mạng của Người. Cái “ngày hôm nay” mà Đức Giêsu nhắc tới không chỉ là một chi tiết chỉ thời gian, mà là một chặng trong hành trình ban ơn cứu độ mà Người đã khai mạc tại Nadarét (x. 4,18-22). Trong cuộc hành trình này, Người quan tâm ưu tiên tới những người nghèo, và cả những người tội lỗi.
Nỗi băn khoăn, căng thẳng của Dakêu biến thành niềm vui: không chỉ là sự thỏa mãn, sự thoải mái về thể lý, mà là việc tham dự vào hạnh phúc do Đấng Cứu thế mang đến. Nhờ gặp gỡ Đức Giêsu, ông được giải thoát khỏi các lầm lỗi, hoang mang, và lòng được chan hòa bình an và niềm vui. Đi ngược lại mọi chỉ trích, và một cách rõ ràng, Đức Giêsu cho mọi người thấy rằng không ai bị loại khỏi ơn cứu độ Người ban. Người cũng cho thấy Người từ chối mọi kiểu đánh giá tổng quát về một hạng người.
* Dakêu chủ động hoán cải (8-9)
Bữa tiệc tại nhà Dakêu là một cử hành thống hối, đưa tới một sự hiệp thông huynh đệ. Qua bữa tiệc, Dakêu hiểu là ông được kêu gọi đi vào hiệp thông với Thiên Chúa. Bởi vì Đức Giêsu đã chấp nhận con người thật của ông, bởi vì ông được mời gọi sống như thế, Dakêu chẳng phải tránh né gì nữa, trái lại ông vui mừng đón tiếp Người về nhà và bày tỏ quyết định đổi mới cuộc đời. Ông đã trả lời thắc mắc: “Thế thì ai có thể được cứu?” (18,26) khi Đức Giêsu nhận định: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao” (18,24). Dakêu giàu có đã nhận được ơn cứu độ nhờ trung gian Đức Giêsu (19,9), bởi vì ông không chỉ bằng lòng với việc trông thấy Đức Giêsu, mà còn hành động theo ý muốn của Người nữa. Trong ngày hôm ấy, Dakêu đã cảm nghiệm một sự biến đổi lạ thường. Đó chính là điều được Đức Giêsu diễn tả trong câu tuyên bố: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu ông Abraham”. Khi tuyên bố như thế, Đức Giêsu đã bác bỏ nhận định của mọi người: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!”. Phán đoán của đám đông là một phê phán quá cứng rắn. Qua lối cư xử của Người, Đức Giêsu loại bỏ sự cứng rắn đó và cho thấy rằng thái độ của Thiên Chúa hoàn toàn khác với thái độ của đám đông.
* Ghi chú về sứ mạng của Đức Giêsu (việc Ngài “đến”) (10)
Những lời Đức Giêsu kết luận (c. 10) có thể khuyến khích mỗi người bởi vì “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”. Người không đến để kết án hoặc loại trừ. Lại chính những kẻ bị lạc, những kẻ sai lầm mà Người đã muốn tìm và cứu chữa; chính là những kẻ đang đi vào ngõ cụt mà Người muốn dẫn ra.
+ Kết luận
Bản văn với câu kết luận (c. 10) không những tóm tắt giai thoại về Dakêu, mà còn làm nổi rõ hơn nữa cứu-độ-học của toàn thể cuộc hành trình của Đức Giêsu lên Giêrusalem cũng như của TM Lc: trong tư cách là Con Người, Đức Giêsu đã đến để tìm và cứu những gì đã mất, và như thế là gợi ý tới câu Ed 34,16 trong đó Đức Chúa tự mô tả mình như là Người mục tử: “Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng”.
Khi đọc bản văn này, ta cũng nhận ra những ý nhắc lại các đoạn khác trong TM III: những yếu tố thuộc lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả (3,10-14); dụ ngôn người Pharisêu và người thu thuế (18,9-14); người thủ lãnh giàu có (18,18-23); anh mù (18,35-43). Dakêu được giới thiệu như là mộtngười giàu gương mẫu đã hiểu sứ điệp cũng như mối quan tâm của Đức Giêsu đối với người nghèo, nên đã biết lấy những quyết định tương xứng. Bản văn cũng cho thấy có những điểm gặp gỡ với giai thoại anh mù: Dakêu đã thực hiện những bước không thông thường để nhìn thấy Đức Giêsu khi Người đi ngang qua. Hai bản văn cuối cùng này trực tiếp đưa độc giả đi theo Đức Giêsu vào Giêrusalem trong tư cách là “Con vua Đavít” để thực hiện chương trình cứu lấy những gì đã mất.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Dakêu đã bị xã hội đẩy ra bên lề và khép lại với chính ông. Nhưng ông đã không chịu ở lại trong vòng tròn khép kín mà xã hội đã nhốt ông vào, đó là thế giới của tiền bạc và những quan hệ không lương thiện; ông tìm cách “thấy” Đức Giêsu, và thế là ông được cứu. Khép kín vào chính mình, con người không bao giờ thoát khỏi tội lỗi của mình; muốn được cứu, ta cần phải mở ra với Đức Giêsu. Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta hiểu: Đức Giêsu chờ đợi chúng ta đến với Người, nhưng Người cũng chờ đợi chúng ta sẵn sàng đón tiếp Người vào nhà.
2. Trong bất cứ cộng đoàn nào, bao giờ cũng có những người sợ đến gần những “người thu thuế”, những “kẻ tội lỗi”, những người không có danh thơm tiếng tốt... Bạn thử hình dung xem mình đang nghĩ về người khác thế nào? Đức Giêsu không làm như thế. Người đã nắm lấy bàn tay Dakêu đang rụt rè đưa ra về phía Người. Người lấy sáng kiến và đặt Dakêu trên mộtnẻo đường mới.
3. Tất cả những thái độ và lời nói rất “người” (sự quan tâm, cử chỉ thân ái, lời nói dịu dàng...) có thể đưa người khác đến những biến đổi rất “thánh”. Môn đệ Đức Giêsu phải sống thế nào để bằng sự hiện diện và lối sống của mình, ngày “hôm nay” của Thiên Chúa xuất hiện cho anh chị em mình. Hôm nay Đức Giêsu vẫn đang ban ơn cứu độ qua Lời Người, các bí tích, qua Giáo Hội. Nếu bạn là thừa tác viên Lời Chúa hoặc bí tích, bạn đã có ý thức về cung cách cử hành thế nào để Đức Giêsu đến được với anh chị em của bạn?
4. Tấm gương của người môn đệ chính là thầy Giêsu: Người đã không ngại bị đánh giá tiêu cực để khỏi phản bội sứ mạng cứu thế. Người môn đệ của Đức Giêsu sẽ có những lúc phải chọn lựa như thế. Tuy nhiên, ngay trong đời thường, qua các sinh hoạt nghề nghiệp, thăm viếng, có khi nào bạn nghĩ là bạn sinh hoạt, thăm viếng theo ý muốn của Thiên Chúa?


Sau khi vào Giê-ri-khô, Đức Giêsu đi ngang qua thành phố ấy.
Giê-ri-khô, một địa danh bất thường trong môn địa lý của hành tinh này: thành phố thấp nhất của trái đất; thấp hơn mặt nước biển 250 mét! Khi những người sống ở mức thấp đó; ngay khi họ quyết định đi từ nới họ ở, họ chỉ có thể đi lên cao; Giakêu sẽ khởi hành ở chỗ rất là thấp.
Giê-ri-khô, một biểu tượng cho nhân loại già nua: nó là một trong những thành phố cổ nhất trái đất; có những di tích mà số tuổi lên đến tám ngàn năm trước Đức Giêsu Kitô. Khi Abraham dẫn đàn súc vật đi ngang qua thì nơi đó đã là một thành phố có số tuổi hơn sáu ngàn năm; Giakêu sẽ rất giống với nhân loại từ muôn thuở.
Giêrikhô thành phố cuối cùng trong cuộc hành trình của những người hành hương lên Giêrusalem. Đối với Đức Giêsu ngày hôm đó là một ngày leo dốc mệt nhọc! Đồi cái Sọ (tiếng Do Thái là Golgotha) ở đàng kia, gần cổng Épraim, cách đó hai mươi kilô mét, ở đầu một con dốc dài bất tận và ở đó cao hơn một ngàn mét so với ốc đảo Giêrikhô.
“Đức Giêsu đi ngang qua thành phố ấy” Giai đoạn cuối cùng của cuộc hành trình cuối cùng.
Đức Giêsu hoàn toàn sáng suốt về điều đang chờ đợi Người trên kia, ở Giêrusalem. Hôm qua có lẽ hoặc hôm kia, Người đã gọi riêng các bạn hữu. Người đã loan báo cho họ điều sắp xảy đến: “Này chúng ta lên Giêrusalem, và tất cả những gì các ngôn sứ đã viết về Con Người sẽ được hoàn tất. Quả vậy, Người sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, nhục mạ, khạc nhổ. Sau khi đánh đòn, họ sẽ giết Người và ngày thứ ba Người sẽ sống lại” (Lc 18, 31.34). Nhưng thánh Luca nói với chúng ta, mười hai Tông Đồ của Đức Giêsu không hiểu gì cả. Chỉ mình Đức Giêsu sáng suốt, lòng tràn ngập những mối suy tư.
Ở đó có một người tên là Giakêu
Phải chăng là sự hài hước? hoặc là sự chế giễu? Cái tên “Zakkay” này trong tiếng Do Thái có nghĩa “Người Thanh Khiết, Người Công Chính”. Con người tội lỗi công khai ấy lại có tên “thanh khiết, trong sạch” làm chúng ta nghĩ tới một kẻ lừa bịp ác tâm mà người ta đặt cho biệt danh là “người vô tội, dịu dàng”!
Nhưng chúng ta hãy chờ cho câu chuyện chấm dứt.
Ai mà biết được ông ta sẽ không mang tên thật của mình… vào lúc cuối.
Ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có.
Giakêu, người tội lỗi bởi nghề nghiệp, trong lúc này đúng ra đáng có cái tên “kẻ bị tuyệt thông”. Một con người ghê tởm, bị mọi người ghét bỏ. Phục vụ cho đoàn quân chiếm đóng La Mã. Thỏa hiệp với ngẫu tượng, Hoàng Đế Bóc Lột! Kẻ bóc lột những người nghèo! Một Thủ trưởng vô liêm sỉ của những người thu thuế, đã thu những món lại to lớn khi bỏ đói dân nghèo và phô trương sự giàu sang, xa hoa trong ngôi biệt thự sang trọng nhất thành phố. Cách đó ít lâu Đức Giêsu đã nói về điều đó: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (Lc 18,25).
Giakêu, một con người bị tránh xa như bệnh dịch. Kẻ tội lỗi hoàn toàn bị hư mất. Đồ thối tha. Cấm không được giao du với hạng người hư hỏng ấy. Người ta nhổ xuống đất và quay mặt đi khi đi ngang qua con người ấy.
Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn. Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giêsu, vì Người sắp đi qua đó.
Một chuỗi những “biểu tượng: A! ông ta lùn quá lùn nên không nhìn thấy Đức Kitô; đám đông thù nghịch; cả một dư luận phải vượt qua, để xem Đức Kitô; leo lên một cây (cây nào lạ lùng bằng cây thập giá!) để xem Đức Giêsu. Những sự giải thích tượng trưng không làm mất đi sử tính của các chi tiết cụ thể: người ta phải nhớ lại ở Giêrikhô, vào thời của Luca đã xảy ra một biến cố khó tin là sự hoán cải của ‘kẻ đứng đầu những Người thu thuế’. Vả lại mọi chi tiết hoàn toàn tự nhiên. Lúc mới vào thành phố, Đức Giêsu đã chữa lành một người mù (Lc 18, 35.42). Tiếng vang của việc chữa lành này lan ra nhanh chóng như vệt thuốc súng. Người ta biết rằng Giakêu đã có ước muốn “xem” Đức Giêsu đó, leo lên một cây sung dưới ánh mắt châm biếm của đám đông; mà không còn quan tâm đến phẩm giá của một thủ trưởng nhân sự Tổng Kho Bạc của Đế quốc!
Tôi thử tưởng tượng điều gì có thể thúc đẩy Giakêu, bất chấp sự chế giễu đã xắn chiếc áo thụng của một ông trưởng giả Do Thái và có lẽ cái áo choàng La Mã để leo lên cây sung như một thằng nhóc tầm thường? Vì tính tò mò chăng? Vì sự lôi cuốn mầu nhiệm chăng? Vì nỗi khắc khoải mơ hồ và chán chường cuộc sống của mình chăng? ông ta đã sống để đếm tiền và khuấy động thành phố của ông. Mọi người tránh xa ông; ông biết rõ tại sao: nhân danh pháp luật, ông bức bách họ. Nhưng rồi khi người ta nói Đức 'Giêsu đi qua đó và Người là bạn của những người không được ai yêu thương. Lúc đó, ông giữ cửa kho bạc đã leo lên một cây đang trổ hoa để xem Đức Chúa.
Khi Đức Giêsu tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông
Người ta có thể gọi chỗ ấy là “nơi hai ánh mắt gặp nhau”. Bề ngoài, cái nhìn đầu tiên là của Giakêu, đang cháy bỏng ước muốn xem Đức Giêsu. Nhưng sẽ không có gì xảy ra nếu như Đức Chúa đã không ngước mắt nhìn lên người ở trọ lạ lùng, trên cây sung. Tôi ở yên một lúc để tưởng tượng, để chiêm niệm hai ánh mắt gặp nhau đó. Đức Giêsu và ông Giakêu đang nhìn nhau!
Chúng ta tiếng rằng chúng ta tìm kiếm Thiên Chúa, trong khi mà chính Người “tìm kiếm” chúng ta trước, tự muôn đời! ôi chào! Ngày hôm đó, Đức Giêsu đã phải sung sướng hạnh phúc! Còn vài cây số nữa là đến Giêrusalem, còn vài ngày nữa là cuộc khổ nạn được hiến dâng để cứu chuộc nhân loại. Công cuộc cứu chuộc cao đẹp nhất của Người sẽ thành công? Mọi nỗi chơi vơi cô quạnh của thập giá mọi hình phạt mà Người sẽ gánh trên lưng, mọi vết thương xé ra ở tay chân đẫm máu của người. Người biết, biết chắc chắn là điều đó có ích. Người đã cứu thế gian, khi tiến lên ‘Giêrusalem’. Giakêu là hoa trái đầu mùa. Hỡi hạn, là người tội lỗi, bạn đã được Thiên Chúa tạo dựng chỉ để ‘xem’ khuôn mặt của Người. Hỡi bạn, là người tội lỗi, hay nhận ra mình được tha thứ khi ánh mắt bạn gặp ánh mắt của Đấng yêu thương bạn.
“Này ông Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!”
Qua những lời ấy, chúng ta đoán ra rang chính Đức Giêsu đã tìm kiếm Giakêu. Mọi sụ diễn ra như thể Đức Giêsu đã dự kiến hành động của Người: Đức Giêsu được mời đến nhà ông và ông được ưu tiên chọn lựa đối với mọi người khác ở Giêrikhô. Người đã chọn lựa kẻ thấp hèn nhất, kẻ bị khinh bỉ nhất.
Đó là cách mà Đức Giêsu dùng để yêu cầu một người nào đó phục vụ Người để rồi Người ban cho họ một ân sủng của bậc đế vướng: hoàng tử trở thành người ăn xin để ban cho mà không làm thương tổn.
Đức Giêsu dường như chỉ là một người giảng thuyết lưu động tìm một bữa ăn và một 'cái giường để nghỉ qua đêm. Và thân mật biết bao trong sự vội vàng ấy! “Này ông Giakêu xuống mau đi!” như thể Đức Giêsu muốn nói: Này ông Giakêu, tôi rất đói, mau lên nào! Cũng thế, Đức Giêsu đã xin nước uống của một phụ nữ Samari bị bỏ rơi, bên bờ giảng. Cũng thế Người đã chấp nhận việc xức dầu thơm của người đàn bà tội lỗi nhân ông Simon, một người Pharisêu.
Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người.
Sự vội vàng khi ông từ cây nhào bổ xuống tương ứng với sự vội vàng của Đức Giêsu.
Niềm vui là dấu chỉ sự gặp gỡ với Đức Giêsu. Một khoảnh khắc vui mừng và hân hoan ngắn ngủ, kể từ Bài ca Ngợi khen (Magnificat) của Đức Maria qua niềm vui của hai môn đệ trở về Emmau.
Còn bạn, là người tội lỗi, bạn có những lúc vui mừng không?
Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!”
Đức Giêsu đã từng đòi hỏi không được gây ra những cớ làm cho người ta vấp ngã (Lc 17,1.3) nhưng chính Người đôi lúc không ngần ngại gây ra bởi những thái độ không phù hớp với dư luận của thời đại Người; đặc biệt vì lòng nhân từ khác thường của Người đối với những tội lỗi! Đức Giêsu là “Cứu Chúa” đến độ làm người ta vì thế mà khó chịu. Người tha thứ đến độ gây cớ vấp ngã cho những người công chính.
Ông Giakêu đứng đó thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.”
Thánh Ambrosiô trong bài thuyết giảng của ngài ở Milan đã nói “Không có lỗi khi mình giàu, nhưng khi mình không biết sử dụng tài sản của mình... “ Và toàn bộ Tin Mừng của Thánh Luca dường như muốn nói rằng cách duy nhất sử dụng hợp lý tài sản của thế gian này là chi dùng nó, đem cho nó đi! “Hãy bán của cải mình đi mà bố thí” (Lc 12,33). “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn hữu (Lc 16,9).
Giakêu đã bị đảo lộn bởi lòng quảng đại của Đức Giêsu đối với ông. Ông muốn đem lại cũng niềm vui ấy cho những Người khác.
Giakêu khốn khổ với tất cả vàng bạc của mình.
Giakêu hoàn toàn sung sướng khi chia sẻ niềm vui.
Đức Giêsu mới nói về ông ta rằng: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.”
Đức Giêsu đã qua những giờ nói chuyện trực diện với Giakêu. Họ đã nói với nhau điều gì? Họ đã ăn uống cùng bàn... mặt giáp mặt. Trong mọi tôn giáo kể cả tôn giáo ở Israel, Thiên Chúa là Đấng đáng sợ mà Đền thờ khuyến khích sự kính sợ linh thiêng đó.
Trong Đức Giêsu, chính Thiên Chúa di chuyển và đến ở nhà kẻ tội lỗi; vậy từ ngày đó, các nhà thờ, kể cả những đại thánh đường chỉ là ngôi nhà khiêm tốn của Giakêu; nơi mà những lũ tội nhân và các thánh tìm gặp nhau với Thiên Chúa trong tình huynh đệ. Giáo Hội chuộc “những gì đã mất”.
Giờ đây, Giakêu có thể mang tên thật của mình: “Người thanh khiết”, người được thanh khiết hóa.


50. Lùn thấp bé nhưng …
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Đọc câu chuyện ông Gia kêu có lẽ ai cũng phải nực cười xen lẫn cảm động. Cái nực cười thứ nhất là Gia kêu thấp bé, vóc người không giống ai. Cái nực cười thứ hai, ông Gia kêu làm trưởng ban thu thuế thời Chúa Giêsu. Gia kêu lúc nào xem ra cũng rổn rẻng với tiền bạc, với việc làm giầu vv…Con người bề ngoài khác thường về vóc dáng, nhưng thực tế lại là một con người đầy lòng nhân từ, biết sám hối, biết hối cải. Chúa Nhật 31 thường niên cho chúng ta một cái nhìn rất thực tế, đầy an ủi về lòng nhân từ bao la của Chúa:” Lạy Chúa, Chúa sẽ dạy con đường về cõi sống: Trước Thanh Nhan, ôi vui sướng tràn trề “( Tv 15, 11 ).
Gia kêu nếu xét theo một nghĩa nào đó thực là một người đáng ghét, đáng khinh vì ông làm việc cho đế quốc Roma, làm nghề thuế vụ, làm trưởng ban thuế, làm cái nghề tiếp tay với ngọai bang bóc lột dân chúng. Gia kêu giầu có, có quyền lực vì ông làm việc cho đế quốc Roma. Dân Do Thái không ưa ông, ghét ông, xếp ông vào hàng tội lỗi và đặt ông ngang hàng với bọn điếm đàng. Đối với dân Do Thái, ông không thể ăn năn, không thể hối cải. Ông đáng sa vào hỏa ngục lửa thiêu. Thế nhưng, Chúa Giêsu lại chọn nhà ông Gia kêu để ghé thăm nhà ông. Gia kêu chỉ muốn nhìn Chúa Giêsu đi ngang chứ làm sao dám mời Chúa Giêsu ghé thăm nhà ông được. Chúa Giêsu đã làm một việc không ai ngờ được. Chúa đã chọn nhà ông Gia kêu. Chúa Giêsu đã chứng tỏ Người được Thánh Thần hướng dẫn khi thấy ông Gia kêu giữa đám đông. Chúa Giêsu minh chứng Người đã tới Giê-ri-khô để cứu một người giầu có.Tuy nhiên, người Do Thái vẫn dị nghị, vẫn hiểu lầm Chúa và hiểu lầm cả ông Gia kêu. Họ cho rằng “ Chúa lại vào ở nhà người tội lỗi “. Nhưng thực ra Chúa Giêsu hiểu mọi người và hiểu ông Gia kêu. Chúa đến nhà của Gia kêu không phải vì miếng ăn, vì bữa tiệc, vì chén rượu, chén trà, nhưng vì ơn cứu rỗi của ông và của gia quyến ông. Dịp này, ông Gia kêu và cả gia đình ông đã công khai thú tội trước mặt Chúa Giêsu và trước mặt mọi người dự tiệc, và hứa “ xin bán đi nửa gia tài, phân chia cho kẻ nghèo khó, và đền trả một gấp bốn cho những ai ông gây thiệt hại”( Lc 19, 8 ). Chúa Giêsu đã nói về ông:” Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham” (Lc 19, 9 ).
Tự sức con người, con người không thể làm lành, nhưng Thiên Chúa có thể làm được tất cả. Chúng ta hãy đọc các đọan Tin Mừng như:” Con chiên lạc. Đồng bạc đánh mất. Người con hoang đàng. Người phụ nữ ngọai tình vv…” để thấy lòng nhân từ của Thiên Chúa như thế nào. Con người phản nghịch, con người tội lỗi nhưng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con người. Thiên Chúa yêu con người và không muốn để bất cứ ai bị hư mất. Ông Gia kêu dư biết thiên hạ ganh ghét ông và thèm được như ông. Gia kêu đâu có phải là người xấu bụng dù rằng ông đã nhúng tay vào việc thật xấu xa, nhưng trong cõi lòng sâu kín của ông vẫn còn chứa chất điều thiện, ông thầm tin tưởng và cám ơn Chúa Giêsu mà ông coi như một vị ngôn sứ lớn. Ông tha thiết muốn gặp gỡ Chúa Giêsu, do đó ông và cả gia đình ông đã được ơn cứu độ. Chúa đã giải thoát cho ông và gia đình ông khỏi tội lỗi, khỏi hư đi. Ân huệ cao vời Chúa ban cho ông khiến ông đã bộc lộ tất cả những gì là tốt lành, là nhân ái, còn chứa trong nỗi lòng sâu kín nhất của ông. Gia kêu đã trở nên mẫu gương cho những ai biết đón nhận ơn tha thứ bằng việc thật tâm hối cải, quay trở về với Chúa. Đúng thật, Chúa tới để tìm kiếm những gì đã hư mất.
Bí Tích Giải Tội là Bí Tích do Chúa Giêsu thiết lập và là một hồng ân cao vời Chúa ban cho nhân lọai. Đây là phươn thế giúp chúng ta làm hòa với Chúa, với Giáo Hội và với anh chị em,là phương thế Chúa ban lại sự an bình tâm hồn cho con người và thêm sức mạnh cho tương lai, trả lại tình trạng trong sáng đã bị tội lỗi làm lu mờ. Bí Tích Giải Tội nối những gì tội lỗi đã làm con người xa lìa Thiên Chúa. Do đó, chúng ta phải yêu mến Bí Tích Giải Tội và luôn siêng năng lãnh nhận Bí Tích Giao Hòa để được gần gũi Thiên Chúa, gần gũi Giáo Hội và gần gũi anh chị em.
Lạy Chúa xin cho chúng con có tấm lòng như Chúa, có đôi mắt của Chúa để chúng con luôn biết cảm thông với những yếu hèn của người khác. Amen.