CÁC BÀI SUY NIỆM
CHÚA NHẬT LỄ TRUYỀN GIÁO
CHÚA NHẬT LỄ TRUYỀN GIÁO
29. Video Thánh
Vịnh Nhóm thánh vịnh Nauy
31. Rao giảng
tin mừng cứu rôi Catholic.org.tw
32. Hãy loan báo
tin mừng ĐTGM.
Ngô Quang Kiệt
33. Truyền giáo
theo gương Mẹ Têrêxa ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
34. Hạnh phúc
qua việc trao ban Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
35. Hãy đi khắp
thế gian Trích
trong ‘Manna
36. Người Châu Á
truyền giáo ... Niềm
Vui Chia Sẻ
37. Tinh thần
truyền giáo ĐGM.
Vũ Duy Thống
Sứ điệp cho ngày thế giới truyền giáo 2014 ĐTC Phanxicô
Truyền giáo bằng đời sống ĐTGM Ngô Quang Kiệt
Truyền giáo là yêu thương phục vụ ĐGM G.B. Bùi Tuần
Sống tin mừng R. Veritas
Chứng nhân truyền giáo Niềm Vui Chia Sẻ
1. Xin hãy sai con – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Thông thường khi cầu xin bất cứ ân huệ gì, chúng ta tha thiết
cầu xin cho bản thân, cho gia đình mình trước. Thế nhưng, giả như khi đất nước
lâm nguy, cần có người ra biên thuỳ bảo vệ, thì người ta lại sốt sắng cầu xin
cho người khác, ngoại trừ bản thân, được can đảm xông ra chiến trường gìn giữ
giang sơn. Nếu ai cũng cầu như thế và những lời cầu kiểu nầy được chấp nhận,
thì làm gì còn Tổ Quốc!
Trong việc cầu cho công cuộc truyền giáo cũng vậy, chúng ta
thường cầu với Chúa rằng: "Lạy Chúa, xin cho có đông người, ngoại trừ con,
biết quảng đại lên đường đi khắp muôn phương loan báo Tin Mừng cứu độ". Nếu
ai cũng cầu xin kiểu đó, nghĩa là cầu cho người khác lên đường, ngoại trừ bản
thân mình, thì cánh đồng truyền giáo sẽ vắng bóng thợ gặt, tìm đâu ra người đi
loan báo Tin Mừng.
Vậy thì lời cầu xin thiết thực nhất mà mỗi người chúng ta phải
cầu xin với Chúa là: "Lạy Chúa, tuy con bất xứng, nhưng xin hãy sai con đi
làm thợ gặt cho Chúa ngay hôm nay. "
Dù muốn dù không, chúng ta cũng là tông đồ của Chúa ngay từ ngày
lãnh bí tích thanh tẩy. Bí Tích Thanh Tẩy làm cho chúng ta trở thành chi thể
Chúa Giêsu, cho thông dự vào vai trò ngôn sứ của Người, nên chúng ta phải đảm
nhận trách nhiệm loan Tin Mừng cứu độ của Người.
Chính vì thế, trước khi về trời, Chúa Giêsu long trọng chuyển
trao cho chúng ta, là môn đệ Người, tiếp tục thi hành sứ vụ: "Anh em hãy
đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa
Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền
cho anh em. " (Mt 28, 19-20)
Vậy thì sứ mạng loan Tin Mừng là một bổn phận phải làm chứ không
phải là việc tuỳ thích. Thánh Phaolô thú nhận: "đối với tôi rao giảng Tin
mừng không phải là lý do để tự hào, nhưng là một sự cần thiết buộc tôi phải làm.
Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng. " (1 Cr 9,16).
Việc loan Tin Mừng là một bổn phận bắt buộc. Chỉ khi nào chúng
ta tự khai trừ mình ra khỏi Hội Thánh, tự tách mình ra khỏi Thân Thể Chúa
Giêsu, thì chúng ta mới có thể cho phép mình ngừng loan báo Tin Mừng.
Truyền giáo bằng chia sẻ tình thương
Phải truyền giáo cách nào?
Đối với Mẹ Têrêxa Calcutta, truyền giáo là chia sẻ tình thương. Mẹ
không rao giảng Phúc Âm bằng lời nhưng bằng những tâm tình và cử chỉ yêu thương
cụ thể. Mẹ cũng chẳng chủ trương yêu thương đại chúng cách chung chung, nhưng
là yêu thương từng người đang đối diện.
Mẹ nói: "Đối với chúng tôi, điều quan trọng là từng người
một. Để thương yêu một người thì phải đến gần người ấy... Tôi chủ trương một
người đến với một người. Mỗi một người đều là hiện thân Đức Kitô, mà chỉ có một
Chúa Giêsu thôi. Người đó phải là người duy nhất trên thế gian trong giây phút
đó. "
Với tâm tình nầy, Mẹ Têrêxa đã thu phục nhân tâm rất nhiều người
khắp nơi trên thế giới. Cũng bằng phương thức nầy, Giáo Hội công giáo Hàn Quốc
đã làm gia tăng gấp đôi số tín hữu chỉ trong vòng mươi năm!
Theo gương Mẹ Têrêxa, mỗi một người công giáo nên kết thân với
một người lương, coi người đó như anh em ruột thịt và đem hết lòng yêu thương
người đó.
Mỗi gia đình công giáo nên kết thân với một gia đình lương dân,
coi họ như thân quyến của mình, sẵn sàng chia sẻ buồn vui sướng khổ; khi có kỵ
giỗ, cưới xin hay lễ lạc gì trong gia đình, hãy mời họ cùng thông hiệp. Nhờ đó
hai bên thắt chặt mối giây thân ái và qua tình thân nầy, Tin Mừng của Chúa Kitô
sẽ được lan toả.
Giáo Hội Hàn Quốc đã chứng tỏ đây là phương thức truyền giáo rất
hiệu quả mà mỗi tín hữu đều có thể thực hiện trong đời mình.
2. Hãy thả lưới bên phải thuyền
Các Tông đồ đã đánh cá vất vả suốt đêm mà không được con cá nào.
Nay Chúa Giêsu bảo các ngài phải ra khơi một lần nữa. Chắc các ngài phải ngần
ngại lắm. Ngần ngại vì vừa qua một đêm vất vả, thân thể mỏi nhừ vì suốt đêm
phải vật lộn với biển cả, với sóng gió, với chài lưới. Ngần ngại vì đang buồn
ngủ. Mắt chĩu nặng vì suốt đêm không ngủ, đang cần một giấc ngủ để hồi phục
sinh lực. Ngần ngại vì vừa bị thất bại ê chề, đã mất hết ý chí phấn đấu. Thế
nhưng các ngài vẫn vâng lời Chúa, ra khơi, thả lưới. Và kết quả thật là bất ngờ.
Lưới đầy cá chất đầy hai thuyền đến gần chìm.
Qua bài Tin Mừng này Chúa muốn dạy tôi những bài học về việc
truyền giáo.
Bài học thứ nhất: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi vất vả. Phải
lao động đêm ngày. Như các Tông đồ đã chài lưới suốt đêm thâu trong sương đêm
giá lạnh, trong sóng gió biển khơi, trong vất vả cực nhọc. Suốt đêm đã lênh
đênh trên biển cả, sáng sớm vừa mới về tới đất liền, tưởng được nghỉ ngơi,
không ngờ lại phải ra khơi ngay tức khắc. Ra khơi cả lúc đang mệt mỏi cần nghỉ
ngơi. Người muốn truyền giáo cũng phải noi gương các tông đồ. Làm việc không
nghỉ. Phải đầu tư sức lực và trí tuệ. Phải phấn đấu không ngừng. Làm cho hết
việc chứ không làm cho hết giờ. Và phải chấp nhận tất cả những mỏi mệt, những
thử thách.
Bài học thứ hai: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi kiên trì. Vì
việc truyền giáo có nhiều thất bại hơn thành công, có nhiều mệt nhọc hơn vui
thích, nên việc truyền giáo đòi hỏi rất nhiều kiên trì. Kiên trì khi đã gặp
thất bại. Kiên trì khi đã chán nản, mệt mỏi rã rời. Kiên trì khi gặp những trắc
trở. Như lời thánh Phaolô khuyên dạy: “Hãy rao giảng Lời Chúa. Hãy lên tiếng,
lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2Tim 4,2). Các Tông đồ thật kiên
trì, mặc dù đã thất bại sau suốt một đêm vất vả, các ngài vẫn tiếp tục ra khơi
theo lệnh Chúa truyền. Trong quá khứ, ta đã gặp nhiều thất bại trong việc
truyền giáo. Hôm nay Chúa lại mời gọi ta hãy ra khơi, hãy lên đường truyền giáo.
Ta hãy mau mắn đáp lời Chúa mời gọi, kiên nhẫn làm việc trên cánh đồng truyền
giáo, bất chấp mọi thất bại, bất chấp mọi chán nản.
Bài học thứ ba: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi thanh luyện
bản thân. Truyền giáo là công việc thánh thiện nên người truyền giáo phải thánh
thiện. Sự thánh thiện khởi đi từ nhận thức thân phận yếu hèn tội lỗi. Và từ đó
nảy sinh nhu cầu được thanh luyện. Như Phêrô cảm thấy mình tội lỗi không xứng
đáng ở gần Chúa. Như Phaolô ngã ngựa cảm thấy mình lầm lạc. Như Isaia cảm thấy
môi miệng mình ô uế. Sau khi được thanh luyện các ngài đã trở thành những nhà
truyền giáo gương mẫu. Thánh hoá bản thân là một điều kiện quan trọng để truyền
giáo thành công.
Bài học thứ tư: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi lắng nghe
Lời Chúa. Vì truyền giáo là một công việc thiêng liêng. Nên ta không thể cậy
dựa vào sức lực phàm nhân, phương tiện phàm trần. Các tông đồ là những ngư phủ
chuyên nghiệp. Các ngài biết rõ biển hồ Galilê như lòng bàn tay. Thế mà các
ngài đánh cá suốt đêm chẳng được con nào. Đó là bài học dạy ta biết rằng, nếu
cậy dựa vào tài sức riêng, việc truyền giáo sẽ không có kết quả. Việc các tông
đồ vâng lời Chúa ra khơi và vâng lời Chúa thả lưới bên phải mạn thuyền cho ta
thấy một thái độ khiêm nhường lắng nghe. Dù Chúa Giêsu không phải là ngư phủ
chính gốc. Dù Chúa Giêsu không hiểu biết biển hồ, nhưng các ngài vẫn vâng lời
Chúa. Chính nhờ thế, các ngài đã thành công. Người làm việc truyền giáo phải
noi gương các tông đồ biết khiêm nhường nhận biết sự bé nhỏ nghèo hèn của bản
thân để thao thức lắng nghe Lời Chúa. Chỉ làm theo Lời Chúa, làm theo ý Chúa,
làm vì Chúa việc truyền giáo mới có kết quả tốt đẹp.
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta một nghị lực mạnh mẽ để sẵn
sàng chấp nhận những vất vả khổ cực trong việc truyền giáo. Xin cho chúng ta
biết chấp nhận cả những thất bại mà vẫn kiên trì lên đường truyền giáo. Và nhất
là xin cho mọi người chúng ta được Chúa dạy bảo, để biết làm theo ý Chúa. Chỉ
có như thế, việc truyền giáo mới có kết quả tốt đẹp.
Lạy Chúa Giêsu, xin kêu gọi chúng con lên đường truyền giáo. Lạy
Chúa Giêsu, xin thanh luyện chúng con để xứng đáng làm việc truyền giáo. Lạy
Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết cách làm việc truyền giáo. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Truyền giáo là lẽ sống của Hội Thánh, bạn có ý thức điều này
không?
2. Muốn truyền giáo phải có những điều kiện nào?
3. Bạn đã bao giờ bắt tay vào việc truyền giáo chưa?
4. Năm nay bạn đã quyết tâm làm gì để đóng góp vào việc truyền
giáo?
3. Nhân chứng Phúc Âm
(ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên - Bài giảng Lễ Khánh nhật truyền giáo)
Chúa nhật hôm nay là ngày thế giới cầu nguyện cho công cuộc truyền
giáo trong Giáo Hội. Bí tích Thanh Tẩy trao cho mỗi Kitô hữu sứ vụ loan báo Tin
Mừng của Chúa Giêsu cho anh em đồng loại của mình.
Chúa nhật hôm nay là ngày thế giới cầu nguyện cho công cuộc
truyền giáo trong Giáo Hội. Bí tích Thanh Tẩy trao cho mỗi Kitô hữu sứ vụ loan
báo Tin Mừng của Chúa Giêsu cho anh em đồng loại của mình. Sau mỗi Thánh lễ, vị
chủ tế tuyên bố với cộng đoàn tham dự: “Lễ xong, chúc anh em đi bình an!”. Đây
không chỉ là lời chào tạm biệt trước lúc chia tay. Đây chính là lời sai đi, mang
nội dung và ý nghĩa như lời Chúa nói với các tông đồ trước khi về trời: “Anh em
hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo…” (Mc
16,15). Như vậy, vào lúc thánh lễ trong phụng vụ kết thúc, cũng là lúc khởi đầu
cho một cuộc lên đường mới để loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu.
Hội đồng Giám mục Việt Nam vừa tổ chức Đại hội tại Trung tâm Mục
vụ Sài-gòn từ ngày 7 đến ngày 12 tháng 10-2013. Trong Thư Chung gửi cho cộng
đoàn Dân Chúa, các Giám mục đã chọn đề tài Tân Phúc-Âm-Hóa như một định hướng
cho Giáo Hội công giáo tại Việt Nam. Đó cũng là thao thức của các vị Giáo Hoàng
trong thời hiện đại này. Có một nghịch lý hiện nay, đó là ngày càng có nhiều
hiệp hội truyền giáo ở cấp quốc tế cũng như cấp địa phương, nhưng số tín hữu
công giáo thực hành Đức tin lại ngày càng giảm. Phải chăng đó là hậu quả của
não trạng cho rằng việc truyền giáo là của các linh mục và tu sĩ. Chính vì vậy,
Giáo Hội luôn khích lệ người tín hữu tham gia cộng tác trong sứ vụ cao cả này,
với hy vọng công cuộc truyền giáo sẽ đem lại nhiều kết quả tích cực.
Thế nào là Phúc-Âm-hóa? Đó là “mang Tin Mừng đến mọi môi trường
nhân loại và, nhờ sự tác động này, làm biến đổi từ bên trong, đổi mới chính
nhân loại:”Này đây Ta đổi mới mọi sự” (Kh 21,5; ĐGH Phaolô VI,Tônghuấn Loan Báo
Tin Mừng, 18). Phúc-Âm-Hóa là làm cho tinh thần của Phúc Âm được thấm nhuần
trong mọi lãnh vực của cuộc sống, từ việc giải trí đến việc lao động; từ đời
sống gia đình đến xã hội; từ người già đến người trẻ… Tân Phúc-Âm-Hóa là một
cách thức canh tân để loan báo Phúc Âm có hiệu quả hơn. Đức Chân phước Gioan
Phao-lô II đã giải thích khái niệm Tân Phúc-Âm-hóa trong bài diễn từ tại Đại
hội lần thứ 19 của HĐGM Mỹ Châu năm 1983: “Tân Phúc-Âm-Hóa không phải là loan
báo một Phúc Âm mới, nhưng là mới trong nhiệt thành, trong phương cách, trong
cách diễn đạt”’. Như thế, mọi thành phần Dân Chúa, từ giáo sĩ đến giáo dân phải
kiểm điểm lại cách thức truyền giáo của mình. Phải chăng phương pháp truyền
giáo của chúng ta không còn hợp thời, hoặc thiếu lửa truyền giáo nên không đem
lại những kết quả như chúng ta mong muốn.
Trong nhiều định nghĩa về truyền giáo, chúng ta thường hay nghe
nói đến một khái niệm: truyền giáo là làm chứng cho Chúa. Chúng ta dành ít phút
để suy tư về khái niệm này.
“Làm chứng” chính là lệnh truyền của Chúa Giêsu trước khi Chúa
về trời: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền
Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Trong cuộc sống đời
thường, nhiều khi chúng ta đã được mời làm chứng về một vụ việc xảy ra hoặc một
tranh chấp quan trọng. Người làm chứng là nhân vật trung gian giữa hai bên. Muốn
làm chứng, chúng ta phải biết rõ nội dung vụ việc đã xảy ra, với những chi tiết
quan trọng có liên quan. Người làm chứng cũng phải là người có cuộc sống tốt,
có uy tín, đáng tin đối với cả hai bên đang tranh chấp.
Truyền giáo là làm chứng cho Chúa. Để làm chứng cho Chúa, trước
hết chúng ta phải hiểu Chúa, biết Chúa và tin vào Chúa. Một người không tin
Chúa hoặc có một đức tin sơ sài thì không thể “kể về Chúa” được. Tiếp đến,
người làm chứng phải có một cuộc sống tốt lành thì chứng của người đó mới đáng
tin và có giá trị thuyết phục người khác. Một người nói về Chúa mà chính bản
thân họ không sống những lời Chúa dạy thì không thể thuyết phục người khác theo
Chúa, thậm chí họ còn làm biến dạng giáo huấn của Chúa và giáo lý của Giáo Hội.
Trở lại với Thư Chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Các Giám
mục kêu mời các thành phần Dân Chúa, nhất là các linh mục, cộng tác nhiệt thành
để truyền giáo theo những sáng kiến và phương pháp hợp với thời đại, được thúc
đẩy bởi nhiệt tình mới, nhờ đó, chúng ta hy vọng sẽ đem đến cho Giáo Hội Việt
Nam những mùa lúa chín dồi dào. Một cách cụ thể, trong năm 2014 sắp tới, các vị
chủ chăn mong muốn chúng ta dành thời giờ và tâm huyết cho việc “Phúc-Âm-hóa
gia đình”, tức là việc học giáo lý hôn nhân đối với các bạn trẻ; là trách nhiệm
của cha mẹ đối với con cái; là việc cầu nguyện chung thường xuyên trong gia
đình. Những việc làm đó nhằm củng cố tình yêu gia đình và giáo dục Đức tin cho
các thế hệ tương lai.
4. Khánh nhật truyền giáo – Lm Trần Ngà
Mến Chúa và yêu người là hai giới răn trọng nhất. Điều đó thì
trẻ con cũng thuộc. Nhưng điều quan trọng là làm sao thực thi lòng mến Chúa qua
việc yêu thương con người là hiện thân của Thiên Chúa.
Yêu Chúa mà lại ghét người thân cận thì thật là điều trớ trêu
như câu chuyện sau đây:
Có một vị hoàng thái tử vào rừng săn bắn gặp một cô gái hái củi
trong rừng. Không hiểu Trời xui đất khiến làm sao mà họ yêu nhau tha thiết ngay
từ buổi gặp gỡ đầu tiên. Hoàng tử quay về triều như kẻ mất hồn, ngày đêm tương
tư cô gái nghèo mà anh đã đem lòng thương mến và rồi anh khẩn khoản xin vua cha
cưới nàng cho bằng được.
Để tìm hiểu xem cô gái có thực sự yêu thương con trai mình bằng
tình yêu chân thực hay không, vua cha dạy cho hoàng tử cải trang làm nông dân
để thử lòng cô gái... Thế là hoàng tử hoá thành người nông dân, đến cắm lều gần
nhà cô gái, ngày ngày vác cuốc ra đồng làm lụng. Anh lân la đến làm quen với cô
gái trong hình hài một nông dân. Mặc dù cô gái vẫn thầm yêu và mong được kết
hôn với hoàng tử, nhưng cô tạ không nhận ra hoàng tử nơi người nông dân nghèo
khổ nầy. Cô đã đối xử với anh rất lạnh nhạt và cuối cùng đã xua đuổi anh. Tiếc
thay, cô đã đánh mất cơ hội vô cùng quý báu: mất vinh dự trở thành công nương,
thành hoàng hậu tương lai.
Như vị hoàng tử kia hoá thân thành nông dân để thử lòng cô gái,
Thiên Chúa cũng hoá thân thành người phàm để thử thách tình yêu của chúng ta. Ngài
đã từ trời xuống thế, hoá thân làm người, cắm lều ở giữa loài người, trở nên
người thân cận của mỗi người.
Thế nên, khi yêu thương người thân cận là chúng ta yêu thương
Chúa, và khi chúng ta từ khước hay bạc đãi người thân cận là bạc đãi Chúa. Tình
yêu thương người thân cận là thước đo tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa.
Mẹ Têrêxa là người giữ điều răn yêu thương nầy cách tuyệt hảo. Mẹ
nhìn thấy Chúa trong những người phong cùi, trong những người bần cùng khốn khổ
và mẹ tận tình yêu thương săn sóc những người ấy hết sức tận tình. Mẹ dạy nữ tu
của mẹ: "Con thấy linh mục nâng niu trân trọng Mình Thánh Chúa trong thánh
lễ ra sao thì con hãy làm như thế đối với người cùng khổ. "
Mẹ là người vừa yêu mến Thiên Chúa trên trời lại vừa yêu mến
Chúa hịên diện trong những người khốn khổ. Mẹ không tách rời hai giới răn mến
Chúa và yêu người, nhưng mẹ đã yêu Thiên Chúa trong con người.
Khi hỏi tại sao người công giáo chúng ta truyền đạo mà không thu
hút được nhiều người về với Hội Thánh?
Chắc chắn là vì chúng ta chưa sống theo đạo yêu thương. Nếu
chúng ta theo phương cách sống đạo của mẹ Têrêxa Calcutta, tha thiết yêu mến
Thiên Chúa nơi con người, thì đạo chúng ta trở thành hấp dẫn, và bản thân chúng
ta cũng có sức thu hút được nhiều người như mẹ Têrêxa đã minh chứng bằng đời
sống của mẹ: Mẹ được người đời xem là bà thánh sống, được mọi người yêu mến, cả
những người Hồi Giáo, Ấn giáo, Bà La Môn và các đạo khác đều vô cùng quý mến mẹ.
Nhân ngày Truyền Giáo, xin cho chúng ta biết áp dụng phương thế
truyền giáo tuyệt hảo của mẹ Têrêxa là yêu mến Thiên Chúa trong con người, hy
vọng nhờ đó, đạo Chúa trở thành một tôn giáo rất đẹp, rất hấp dẫn và nhiều
người sẽ quay về với đạo yêu thương nầy.
5. Chứng nhân trong sự hiệp nhất yêu thương
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Thế giới ngày hôm qua cũng như hôm nay luôn ngưỡng mộ những
chứng nhân cho tình yêu. Một Tê-rê-sa thành Calcutta nhỏ bé nhưng có một trái
tim lớn lao đã làm cho cả thế giới kính phục. Ở Việt Nam, người công giáo hay
không công giáo họ vẫn nói với nhau về một vị giám mục dám bỏ ngai tòa để đến ở
cùng những người cùi tại trại cùi Di linh. Đó chính là Đức Giám mục Cassien. Ngài
đã dùng tình yêu để xoa dịu những những đau đớn cho người cùng khổ. Ngài đã
chết cho tình yêu, nên tình yêu của Ngài mãi ở lại nơi dương thế qua mọi thời
đại.
Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, thiết tưởng là dịp thuận
lợi để chúng ta nhìn lại tinh thần chứng nhân tin mừng của giáo hội sơ khai. Một
giáo hội non trẻ nhưng có sức mạnh biến đổi trần gian. Một giáo hội bị cấm đoán
nhưng vẫn lan tỏa đến tận cùng thế giới. Một giáo hội nhỏ bé nhưng ai cũng có
tinh thần truyền giáo, khiến thánh Phao-lô đã từng nói rằng: "Tôi trồng,
Apolo tưới, Thiên Chúa mới cho mọc lên". Vậy đâu là điểm son để giáo hội
có thể vượt qua mọi trở ngại để phát triển và canh tân bộ mặt trái đất? Thưa đó
chính là tinh thần hiệp nhất yêu thương.
Theo sách tông đồ công vụ, thời giáo hội sơ khai, các tín hữu
"sống hiệp nhất với nhau, và để mọi sự là của chung. Họ đem bán đất đai
của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu" (Tđcv 2, 44). Họ
hợp nhất với nhau không chỉ về niềm tin mà còn hiệp nhất trong tình liên đới
chia sẻ của cải vật chất cho nhau. Sự liên đới này tạo nên một cộng đoàn bác ái
yêu thương, trong đó mỗi người đều được cộng đồng quan tâm, nâng đỡ và chia sẻ
cho nhau tùy theo nhu cầu của từng người.
Chính đời sống yêu mến nhau nơi các tín hữu mà Giáo hội sơ khai
đã được toàn dân thương mến. Sự thương mến đó đã đem nhiều người về với Chúa. Sự
thương mến đó cũng là nơi bảo vệ các tín hữu khỏi những cuộc tàn sát của bạo
chúa hung tàn. Vâng, nếu ngày xưa cộng đoàn Giáo hội sơ khai đã được "toàn
dân thương mến" (Tđcv 2,47a), thì đời sống của xứ đạo chúng ta hôm nay,
cũng phải là một cộng đoàn được những người chung quanh nhìn bằng ánh mắt trìu
mến thân thương. Đó cũng là cách chúng ta ca tụng Chúa và giúp cho "càng ngày
càng có nhiều người gia nhập Giáo hội" (Tđcv 2, 47b).
Thế nên, tinh thần truyền giáo mời gọi chúng ta hỗ trợ nhau
không chỉ về tinh thần mà còn cả về vật chất, không chỉ là những người có đạo
mà còn cả những người lương dân. Đồng thời sự chia sẻ này cũng nói lên sự xóa
bỏ những tị hiềm, ghen ghét trong cộng đoàn để đón nhận nhau trong tinh thần
bác ái huynh đệ. Lấy "dĩ hòa vi quý" để sống hài hòa, nâng đỡ đùm bọc
lẫn nhau tạo nên một cộng đoàn chan hòa yêu thương, bác ái, chia sẻ, cảm thông.
Đó cũng là dấu chỉ cho thấy chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu, là chứng nhân của
Tin mừng giữa lòng dân tộc Việt Nam.
Vì chưng, giới luật quan trọng nhất của kytô giáo chính là Mến
Chúa - yêu người, thì người người Kitô hữu chúng ta phải thể hiện điều đó qua
từng lời nói, từng việc làm, luôn được cân nhắc cho vừa ý trời và phù hợp với
luân thường đạo lý làm người. Vì vậy, một đời sống chứng nhân Tin mừng cũng
phải thể hiện bằng một đời sống hòa hợp với cộng đồng, với tha nhân. Nhất là
biết thể hiện sự tương thân tương ái nơi cộng đồng giáo xứ, sự hiệp nhất yêu
thương trong tình huynh đệ với tha nhân, nhờ đó mà Tin mừng mới nở hoa trên
từng môi trường sống của người tín hữu. Chúng ta không thể là một người kytô
hữu tốt mà lại đối xử thật tồi tệ với anh chị em chung quanh. Lối sống này
không chỉ là lỗi luật Chúa mà còn là cớ vấp phạm cho những người chưa biết Chúa.
Nhà lãnh tụ Ganhi của An Độ đã từng nói: "Nếu những người kytô giáo sống
đúng tinh thần giáo lý của họ. Tôi sẽ mời gọi cả dân tộc Ấn trở lại". Chúng
ta không thể truyền giáo mà còn mang nặng tính bè phái, tỵ hiềm, chia rẽ. Lối
sống này đã không thu góp về cho giáo hội những tín đồ mới mà còn đẩy biết bao
người ra khỏi giáo hội bởi lối sống ích kỷ, độc đoán của chúng ta. Thực tế đã
có rất nhiều những cộng đoàn, những xứ đạo đổ vỡ vì sự bè phái đã phá đổ tình
hiệp nhất yêu thương. Đã có rất nhiều người bỏ đạo, chối đạo vì sự bất khoan
dung của chúng ta đã đẩy họ ra khỏi Giáo hội, khỏi cộng đoàn. Và cũng có rất
nhiều cái nhìn thiếu thiện cảm của anh em lương dân nhìn đến chúng ta, chỉ vì
chúng ta sống thiếu công bình, thiếu lòng bác ái, thiếu lòng bao dung.
Thế nên mỗi người tín hữu phải biết sống tinh thần truyền giáo
khởi đi từ lòng mến Chúa, yêu người nơi mỗi người chúng ta. Chúng ta mến Chúa
nên chúng ta hăng say truyền giáo. Chúng ta yêu mến tha nhân nên chúng ta muốn
chia sẻ niềm vui với tha nhân. Tình yêu mến mời gọi chúng ta đi đến với tha
nhân bằng một tình yêu chân thành, không khoe khoang, không giả dối. Tình yêu
mến mời gọi chúng ta dấn thân một cách quảng đại để đem tình yêu Chúa nối kết
tình người, đưa con người đến cùng Thiên Chúa và giúp con người xích lại gần
nhau.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng đã từ trời xuống để gieo tin mừng
yêu thương vào cho nhân thế, nâng đỡ và giúp chúng ta sống ơn gọi truyền giáo
bằng một tình yêu mến nồng nàn. Ước gì đời sống chúng ta cũng trở thành một lời
chứng sống động cho tin mừng khi chúng ta dám sống triệt để theo những đòi hỏi
của tin mừng là mến Chúa trên hết mọi sự và yêu mến tha nhân như chính mình. Amen.
6. Lễ Khánh Nhật Truyền Giáo
Chúa Nhật trước Chúa Nhật cuối tháng mười là khánh nhật truyền
giáo. Năm nay cũng là năm thánh truyền giáo của Giáo Hội Việt Nam, đây cũng là
dịp thuận lợi để Kitô hữu Việt Nam tìm hiểu sâu xa về sứ mạng truyền giáo.
Truyền giáo, là giúp người ta tin nhận Đức Giêsu đã chết và đã
sống lại, để họ tin Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, để họ trở nên Kitô hữu. Tại
sao phải truyền giáo?
Một số người cho rằng nếu không truyền giáo, nghĩa là nếu không
giúp người ta trở lại đạo Công Giáo thì người ta không được cứu độ. Họ tưởng
rằng những người ngoại đạo chết sẽ sa hỏa ngục, hoặc ít là không được lên thiên
đàng hưởng hạnh phúc đời đời. Công Đồng Chung Vaticanô II dạy rằng, cả những
người không biết Đức Giêsu, cả những người không biết Thiên Chúa, thậm chí
những người vô thần cũng có thể được cứu độ (Hiến Chế Giáo Hội số 16).
Đứng trên quan điểm của một người không tôn giáo, tất cả các tôn
giáo đều như nhau: tất cả các tôn giáo đều tốt, đều dạy ăn ngay ở lành. Có
nhiều người Công Giáo sống tốt hơn những người không theo đạo nào hoặc sống tốt
hơn một số người theo đạo khác, nhưng cũng có những người sống trong tôn giáo
ngoài Kitô giáo hoặc không theo một tôn giáo nào cũng ăn ngay ở lành và thậm
chí còn sống tốt hơn một số Kitô hữu. Như vậy, Kitô hữu truyền giáo không phải
vì Kitô hữu sống tốt hơn những người không tôn giáo hoặc sống trong các tôn
giáo khác.
Tin Mừng theo thánh Matthêu cho thấy Đức Giêsu truyền lệnh cho
các tông đồ “dạy muôn dân trở thành môn đệ,” dạy bảo người ta tuân giữ những điều
Đức Giêsu đã dạy các môn đệ. Kitô hữu truyền giáo không phải vì sợ người ta nếu
không theo đạo Công Giáo thì phải sa hỏa ngục, nhưng bởi vì Đức Giêsu đã truyền
lệnh.
Một số Kitô hữu không thích chữ truyền giáo, vì họ cho rằng từ
ngữ này mang tính bá quyền, thống trị, độc tôn, tự kiêu, vì nó hàm chứa rằng
Kitô giáo là nhất, chỉ có Kitô giáo là đúng. Nhiều người cho rằng, nếu dùng từ
ngữ truyền giáo thì rất khó có thể đối thoại với những người sống trong các tôn
giáo khác, vì nếu tiếp xúc với ai mà lại nghĩ người đó đang theo một tôn giáo
sai lầm, và rồi chỉ tìm mọi cách làm cho người đó vào đạo của mình, thì làm sao
có thể trân trọng và trao đổi chân tình một vấn đề.
Một số Kitô hữu thích dùng từ ngữ rao giảng Tin Mừng. Từ ngữ này
có thể hiểu khi một người trình bày cho người khác tôn giáo của mình, họ nghĩ
rằng điều họ biết họ tin là đúng, nên họ loan báo cho người khác biết, để nếu
người đó thấy như họ và tin theo, thì người đó sẽ được hạnh phúc như họ cảm
nghiệm. Việc người khác trở lại hay không là tùy do người đó, Kitô hữu chỉ chia
sẻ những gì mình thấy là hay là tuyệt, và để người đó hoàn toàn tự do theo điều
mà họ thấy đúng nhất hay nhất tuyệt nhất. Kitô hữu luôn tôn trọng tự do tôn
giáo của người khác. Tự do tôn giáo là quyền của con người, quyền này đã được
công đồng chung Vatican khẳng định. Kitô hữu không được rửa tội cho ai nếu
người đó không muốn. Thực ra, từ ngữ “truyền giáo” là từ ngữ được sử dụng “nội
bộ” thôi, nghĩa là, chỉ dùng giữa những Kitô hữu với nhau thôi, chứ không thể
dùng để nói với những người theo các tôn giáo khác được. Nếu nói với những
người ngoài Kitô giáo, từ ngữ loan báo Tin Mừng có lẽ dễ được chấp nhận hơn.
Rao giảng Tin Mừng là nói về Đức Giêsu Kitô. Kể cho người ta
nghe Đức Giêsu là ai, Ngài đã làm gì, Ngài thực sự là ai. Tín hữu tin rằng Đức
Giêsu chết và phục sinh là Tin Mừng tuyệt đối cho tất cả mọi người, thế nên, họ
muốn chia sẻ Tin Mừng cho người khác. Tin Mừng Đức Giêsu Phục Sinh làm cho Kitô
hữu hạnh phúc, nên Kitô hữu muốn người khác được bình an, hạnh phúc như họ, nên
họ rao giảng Tin Mừng tuyệt vời này.
Đức Giêsu đã chết và đã phục sinh, ai tin vào Ngài sẽ không phải
chết, và nếu có chết cũng sống lại. Đức Giêsu đã chết và đã sống lại. Đức Giêsu
phải chết, vì Ngài mang thân phận con người. Không có ai là người mà đã không
chết. Đức Giêsu đã phục sinh. Sự Ngài phục sinh trở thành dấu chỉ cho người ta
nhận ra sự thật về chính Ngài: Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Thiên Chúa đã làm
người để chỉ cho con người biết con đường cứu độ, chỉ cho người ta biết cách
sống giúp người ta hạnh phúc đích thực.
Đức Giêsu là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa. Ngài là biểu tượng
tình yêu Thiên Chúa. Đức Giêsu là chính tình yêu Thiên Chúa cho con người. Biết
Đức Giêsu, là biết hơn về Thiên Chúa. Biết Đức Giêsu, là biết Thiên Chúa yêu thương
con người đến độ nào; vì nếu không yêu thương, tại sao Thiên Chúa lại nhập thể,
lại vĩnh viễn làm người! Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Tình yêu của
Thiên Chúa đối với con người như một lời mời gọi con người đáp trả tình yêu
Thiên Chúa. Tình yêu đáp trả tình yêu, ân tình đền đáp ân tình. Con người đáp
trả tình yêu Thiên Chúa bằng việc phó thác tất cả cho Thiên Chúa trong niềm tin
tưởng tuyệt đối.
Bước theo Đức Giêsu, trở nên môn đệ của Ngài, là đã bắt đầu được
giải phóng, được an bình hạnh phúc vì biết Thiên Chúa yêu thương con người vô
cùng. Kitô hữu muốn người khác biết Đức Giêsu, là để họ được bình an và hạnh
phúc thật sự. Đó là lý do tại sao Kitô hữu rao giảng Tin Mừng, rao giảng Đức
Giêsu đã chết và đã phục sinh. Đức Giêsu là chính Thiên Chúa nhập thể. Thiên
Chúa yêu thương con người vô cùng, nên đã sai Con Ngài nhập thể để đưa con
người đến với Thiên Chúa, để con người được hạnh phúc đích thực.
Con người ngày nay dường như được đánh động bởi những việc làm
hơn là những lời nói xuông. Họ được đánh động bởi chứng từ cuộc sống hơn là bài
giảng hay. Nếu Kitô hữu cho người khác thấy niềm tin vào Đức Giêsu chết và sống
lại đã chi phối đời sống của họ, giúp họ vượt qua khó khăn và giúp họ chấp nhận
cuộc sống đích thực như thế nào, thì chắc có nhiều người sẽ tìm hiểu về Đức
Giêsu, Đấng đã làm cho các Kitô hữu những điều tuyệt vời như vậy.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Truyền giáo là gì? Tại sao Kitô hữu phải truyền giáo?
2. Hôm nay tại môi trường bạn sống, phải loan báo Tin Mừng thế
nào để người ta tin nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa?
7. Cách thức truyền giáo – Lm. Giuse Tạ Duy
Tuyền
Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, chúng ta nghe âm vang lời
mời gọi của Chúa vẫn còn vang vọng tới hôm nay: "anh em hãy đi khắp tứ
phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo". Chúa không nói
riêng một ai. Chúa mời gọi tất cả. Chúa không đòi hỏi khả năng, bằng cấp, học
vị mà chỉ cần có nhiệt huyết làm tông đồ cho Chúa. Chúa cũng không đòi hỏi
người truyền giáo phải hiểu biết tín lý thần học sâu xa, hay luân lý uyên thâm,
Chúa chỉ cần có lòng quảng đại dấn thân mở mang nước Chúa. Chúa đã sai 72 môn
đệ ra đi với đôi bàn tay trắng, thế mà khi trở về ai cũng vui mừng vì thành quả
họ đã đạt được. Chúa đã thưởng công cho mỗi người như nhau, không phân biệt
người đến sớm, kẻ đến muộn, người đạo gốc hay mới theo đạo. Từ người thợ giờ
thứ 9 cho tới giờ thứ 11 đều được ân thưởng theo lòng nhân từ của Chúa.
Vậy đâu là cách thức truyền giáo hữu hiệu nhất cho người tông đồ
của Chúa?
Thánh Gioan Tông đồ đã viết: "Ngôi lời đã hoá thành nhục
thể và cư ngụ giữa chúng ta". Chúa Giêsu là Lời hằng sống gieo vào thế
gian, nhưng Lời đã mang lấy xác phàm giống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngôi
Lời đã trở thành nguồn ơn cứu độ để những ai tiếp xúc với Ngài đều có thể nhận
lãnh được sự sống dồi dào cả tinh thần lẫn thể xác. Ngôi Lời đã mặc lấy thân
phận con người, để có thể gần gũi, cảm thông và chia sẻ với những khổ đau của
con người. Cuộc sống của Ngài đã trở thành trở thành lẽ sống cho con người,
"Sống để yêu thương", và Ngài đã đi trọn con đường tình yêu là
"dám chết cho người mình yêu". Vì vậy, cách thức duy nhất mà Chúa
trối lại cho chúng ta là "anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu
thương anh em". Lời Chúa và giáo huấn của Chúa phải trở thành cung cách
sống của người tín hữu. Một đời sống bác ái yêu thương mới thực sự là phương
thế hữu hiệu nhất để giới thiệu về Chúa cho tha nhân. Lời nói và việc làm phải
đi đôi với nhau. Mang danh kytô hữu và sống đời kytô hữu phải nên một trong con
người có đạo mới thực sự trở thành chứng nhân cho Chúa.
Vì vậy, Truyền giáo không thể chỉ đi lễ, đọc kinh cầu nguyện là
xong bổn phận chứng nhân cho Chúa. Nếu như thế mới chỉ là hành vi trả lại công
bằng cho Chúa, vì việc tạ ơn là hành vi đền đáp lại ân ban của Thiên Chúa dành
cho con người. Truyền giáo không phải là việc tuân giữ các giới răn của Chúa. Nếu
như thế mới là giữ đạo chứ chưa truyền đao. Truyền giáo không phải là nói thật
hay, thuyết trình thật hùng hồn là có thể đem nhiều người về với Chúa. Nếu như
thế mới chỉ là tiếp thị chứ chưa mang đạo vào đời như muối như men ướp mặn trần
gian.
Trong thông điệp "khánh nhật truyền giáo 2006", Đức
Thánh Cha Bênedictô 16 đã viết: "Sứ mạng truyền giáo, nếu không được định
hướng bởi Lòng mến, nếu không phát sinh từ một hành động sâu xa của tình yêu
thần thiêng, thì sứ mạng đó liền bị rút gọn về chỉ còn như là một hành vi nhân
ái và xã hội không hơn không kém. Tình yêu mà Thiên Chúa có đối với mỗi người,
kết thành trung tâm của kinh nghiệm sống và loan báo Phúc Âm".
Như vậy, Đức Thánh Cha đã tái khẳng định cách thức mà Chúa Giêsu
muốn chúng ta đi đó là thực hành bác ái. Không có lòng mến thì không thể trở
thành nhân chứng cho niềm tin của mình. Yêu Chúa luôn đi liền với yêu mến tha
nhân. Và thánh Phaolô còn quả quyết "Lòng mến chính là sợi giây ràng buộc
chúng ta nên một với Đức Kytô".
Hôm nay nhân ngày khánh nhật truyền giáo, chúng ta hãy rà xét
lại lòng mến của chúng ta đã trở nên dấu chỉ của người kytô hữu hay chưa? Ngày
xưa cộng đoàn tín hữu tiên khởi họ đã sống thật hiệp nhất với nhau, ngày ngày
họ đến hội đường để nghe các tông đồ rao giảng. Họ chia sẻ đời sống hằng ngày
với nhau, để không ai phải thiếu thốn. Họ được toàn dân thương mến và ngày càng
có thêm nhiều người gia nhập Giáo Hội. Ước gì cộng đoàn xứ đạo chúng ta cũng
được những người chung quanh nhìn bằng ánh mắt trìu mến, đầy thiện cảm và tôn
trọng, và ngày càng có những người muốn sống đời kytô hữu như chúng ta. Amen.
8. Khánh Nhật Truyền Giáo – Lm. G. B. Văn
Hào
Trong cuộc tông du tại Hoa Kỳ vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô đã
chủ sự Thánh lễ ngày 23 tháng Chín năm 2015 tại Đền Thánh Đức Mẹ Vô nhiễm ở
Washington DC để tuyên thánh cho Cha Junipero Serra, một vị thừa sai dòng
Phanxicô gốc Tây Ban Nha. Vị Thánh đã đến Châu Mỹ làm việc cho thổ dân da đỏ và
đã đón nhận cái chết tử đạo để minh chứng đức tin. Trong bài giảng, Đức Thánh
Cha nhắc lại câu châm ngôn của vị thánh, đó là “Hãy luôn tiến lên phía trước để
rao giảng Tin mừng”. Đức Thánh Cha cũng gợi lại tư tưởng mà Ngài đã viết trong
tông huấn ‘Niềm vui của Tin mừng’ (Gaudium Evangelii): “ Từ sâu tận tâm hồn,
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy ra đi. Đừng ở lỳ một chỗ để an hưởng một cuộc
sống nhàn hạ. Đức Giêsu nói với các Tông đồ: Hãy đi rao giảng. Niềm vui Tin
mừng là điều chúng ta phải trải nghiệm cách cụ thể. Chúng ta không có niềm vui
đó nếu chúng ta không biết xả thân và trao ban”. Đây cũng là sứ điệp Giáo hội
gửi trao đến chúng ta trong ngày Chúa nhật truyền giáo hôm nay.
Truyền giáo là lên đường.
Trong thư gửi giáo đoàn Ephêsô, Thánh Phaolô đã nói đến bốn phần
vụ trong Giáo hội để xây dựng nhiệm thể Đức Kitô, đó là: làm tông đồ, làm ngôn
sứ, làm người loan báo Tin mừng, làm người coi sóc và dạy dỗ (Eph 4, 11). Trong
bốn chức năng đó, trở thành người loan báo Tin mừng đòi hỏi sự hi sinh và dấn
thân hơn cả, bởi vì người đó phải ra đi và lên đường. Người đi rao giảng Tin
mừng phải rời bỏ tất cả: từ gia đình, quê hương, đến nơi ăn chốn ở và mọi dính
bén khác. Căn gốc của sự ra đi chính là từ bỏ chính mình. Khi sai các học trò
đi thực tập truyền giáo, Chúa Giêsu chỉ trang bị cho các ông một món hành trang
duy nhất, đó là ‘năng quyền trừ quỷ và chữa lành các bệnh tật’, ngoài ra không
tiền bạc, không bao bị, không mặc hai áo, không giầy dép. . ( Lc 9,3). Vì vậy
truyền giáo trước hết là phải sẵn sàng lên đường và ra đi đến mọi ngõ ngách của
thế giới, đặc biệt đến những vùng ven (peripheries) như lời Đức Thánh Cha
Phanxicô mời gọi. Cuộc ra đi như vậy đòi hỏi phải chấp nhận phiêu lưu cách mạo
hiểm, và cao điểm của cuộc hành trình liều lĩnh đó là chấp nhận cái chết như
Đức Kitô trên Thập giá. Khi phong Thánh cho Cha Serra cuối tháng Chín vừa qua,
Đức Thánh Cha đã nhắc lại đôi nét về sự ra đi của Ngài. Vị Thánh đã quảng đại
từ khước địa vị danh giá là ghế giáo sư đại học ở Tây Ban Nha để lên đường sang
Tân thế giới, phục vụ cho Tin mừng và ơn cứu độ. Cuộc mạo hiểm của Ngài đã phải
trả giá, nhưng là cái giá của vinh thắng. Vừa khi mới đặt chân đến Mexicô, chân
của Ngài đã bị sưng tấy vì dị ứng và đau đớn tột cùng, giống như bị ung thư hay
bị nhện rừng cắn. Cao điểm của cuộc phiêu lưu này là Ngài đã bị giết chết, để
bảo vệ các thổ dân. Một thi sỹ đã viết: “ Ra đi là chết trong lòng một ít”. Nhưng
sự ra đi trong hành trình truyền giáo là sao chép lại tận căn chính cái chết
của Đức Giêsu, vị truyền giáo đầu tiên, và cũng là nguyên mẫu cho chúng ta trong
việc thực thi sứ mệnh rao giảng Tin mừng.
Đức Giêsu, nguyên mẫu của ơn gọi truyền giáo.
Năm mươi năm trước, Công đồng Vaticanô 2 đã ban hành sắc lệnh về
truyền giáo ‘Ad Gentes’. Ngay từ chương đầu tiên của giáo huấn này, Giáo hội
mời gọi chúng ta nhìn về Đức Kitô như là nguyên mẫu cho sứ vụ truyền giáo. Công
đồng đưa dẫn nhiều trích đoạn kinh thánh để cho chúng ta thấy Đức Kitô là Đấng
được Chúa Cha sai đến trần gian hầu thực hiện sứ mạng cứu thế ( Col 1, 13; Cv
10, 38; 2C 8, 9. . ). Vì vậy khi nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta có thể nghiệm ra
rằng, 2000 năm trước Ngài đã đi vào trần thế không phải để sáng lập một tôn
giáo, cũng như không phải để quảng bá một học thuyết chính trị. Ngài đến chỉ
với sứ mạng duy nhất là công bố cho chúng ta một Tin mừng, đó là Tin mừng về
lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người. Đức Giêsu đã lập đi lập lại
sứ điệp này trong suốt ba năm rao giảng công khai, và cái chết của Ngài trên
Thập giá chính là đỉnh điểm của lời công bố Tin mừng vĩ đại ấy. Vì vậy, để sống
tinh thần truyền giáo, chúng ta phải học nơi Thập giá Đức Giêsu. Ngài chính là
vị truyền giáo đầu tiên, và là mẫu gương trọn hảo cho tất cả chúng ta (trích
Tông huấn Evangelii Nuntiandi số 7). Trong các đợt xuất phát truyền giáo, các
hội dòng thường trao cho các vị thừa sai Thánh giá truyền giáo cũng với hướng
đích này.
Truyền giáo là bản chất của Giáo hội
Trong các phiên họp khoáng đại của công đồng chung Vaticanô 2,
Đức Thánh Cha Phaolô đệ lục có nêu ra một câu hỏi rất giản đơn cho các nghị
phụ: “ Ta sống ở đời này để làm gì?” Đây cũng là câu hỏi đầu tiên trong các
sách giáo lý căn bản mà chúng ta đều biết cũng như đã thuộc lòng câu trả lời,
đó là:‘Ta sống ở đời này để nhận biết và kính mến Chúa, cho ngày sau được hưởng
hạnh phúc đời đời’. Các nghị phụ cũng trả lời như thế. Nhưng Đức Thánh Cha nói
rằng câu trả lời còn thiếu. Ngài cắt nghĩa: “ Ta sống ở đời này để nhận biết và
yêu mến Chúa, cho ngày sau được cứu rỗi, nhưng chúng ta cũng sống ở trần gian
này còn để giúp người khác yêu mến và nhận biết Thiên Chúa, để họ cũng được ơn
cứu độ như chúng ta”. Cha Thomas Merton, một tu sỹ dòng Trappist ở Hoa Kỳ có
viết một tác phẩm tựa đề: ‘Không ai là một hòn đảo’. Tư tưởng của Ngài rất thâm
thúy, và trong dịp viếng thăm Hoa Kỳ vừa qua, khi đọc diễn văn tại lưỡng viện
quốc hội, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng gợi nhắc khuôn mặt tiêu biểu này. Cha
Thomas Merton lý luận rằng, không ai trong chúng ta có thể sống cô lẻ một mình
như một ốc đảo. Khi sống hiệp thông trong Hội thánh, chúng ta liên đới với anh
chị em mình trong sự thánh thiện cũng như cả trong tội lỗi. Vì vậy không ai
trong chúng ta sẽ lên thiên đàng một mình hoặc cũng không ai xuống hỏa ngục một
mình. Chúng ta nên thánh bằng cách giúp người khác nên thánh, và đây cũng là ý
nghĩa của sứ mệnh truyền giáo. Sứ mệnh này thuộc bản chất của Giáo hội, gắn
liền với Giáo hội và cũng là bổn phận của mọi Kitô hữu. Trước khi Chúa Giêsu về
trời, Ngài đã chuyển giao sứ mạng cứu thế cho Giáo hội bằng mệnh lệnh: “ Anh em
hãy đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân” (Mc 16,15). ‘Cho muôn dân’ tức “ ad
gentes”, cũng chính là tựa đề của sắc lệnh về truyền giáo mà công đồng Vaticanô
2 đã để lại cho chúng ta.
Chứng nhân hơn là thầy dạy
Trong một sứ điệp ngày truyền giáo, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan
Phaolô 2 cũng viết: “ Truyền giáo là thước đo đức tin của mọi tín hữu”. Lời
khẳng định này cũng tương hợp với giáo huấn của Thánh Giacôbê tông đồ khi Ngài
viết: “ Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Việc làm đó được
thực hiện rõ nét nhất qua sứ vụ truyền giáo. Rao giảng Tin mừng là một bổn phận
của những ai thuộc về Đức Kitô và được Chúa mời gọi trở nên môn đệ Ngài. Thánh
Phaolô xác tín mạnh mẽ bổn phận ấy nên Ngài nói: “ Khốn cho tôi nếu tôi không
rao giảng Tin mừng”(1Cr 9,16). Nhưng, cách thái rao giảng Tin mừng để đạt hiệu
quả mới là điều quan trọng mà chúng ta cần phải lưu tâm.
Có lần, một số các vị truyền giáo đang làm việc ở Ấn Độ đến gặp
ông Mahatma Gandhi và hỏi ông bí quyết làm sao để có thể truyền giáo cho người
dân Hindu ở đây. Ông Gandhi mời gọi các vị truyền giáo hãy suy nghiệm bí quyết
từ cánh hoa hồng. Người ta thích hoa hồng không phải chỉ vì vẻ đẹp bên ngoài mà
còn vì mùi hương quyến rũ từ bên trong tỏa ra. Ông kết luận, muốn truyền giáo
thành công, phải học bí quyết ấy, tức là rao giảng không phải bằng lý thuyết
xuông nhưng bằng gương sáng cụ thể của cuộc sống. Điều ông ta nói tới cũng
giống như giáo huấn của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 khi Ngài diễn tả: “
Ngày nay, Giáo hội cần những chứng nhân hơn là những thầy dạy. ”
Kết luận: Chứng tá Tin mừng
Sau biến cố 30 tháng 04 năm 1975, một cán bộ nhà nước thuộc dạng
cao cấp có hỏi một anh em tu sĩ dòng Tên ở Thủ Đức: “ Các anh là những người
theo tôn giáo, chắc các anh rất sợ chúng tôi là những người vô thần?”. Vị tu sĩ
đó bình thản trả lời: “Vâng thưa ông, chúng tôi rất sợ những người vô thần. Nhưng
nếu các ông là những người vô thần thực sự và sống đúng với lý tưởng của các
ông, thì chẳng có gì đáng sợ cả. Xin chúc mừng các ông nếu các ông thật sự cảm
thấy hạnh phúc trong sự xác tín lý tưởng của mình. Nhưng ngược lại, chúng tôi
rất sợ những người vô thần trong thực hành. Họ mang danh là Kitô hữu, nhưng lại
sống như những người vô thần thực sự và còn tệ hơn cả những con người công khai
chối bỏ Thiên Chúa. Bởi vì, cuộc sống của họ đang tàn phá Giáo hội, làm lung
lạc đức tin người khác và làm cho Giáo hội của chúng tôi ngày càng suy yếu. ”
Nếp sống vô thần trong thực hành như thế chính là một lối sống
phản chứng tá. Thay vì rao giảng Tin mừng, thì cuộc sống như vậy lại cản che và
bóp chết hạt giống Lời Chúa trong những sỏi đá và gai góc nơi chính tâm hồn của
họ. Trong ngày khánh nhật truyền giáo hôm nay, chúng ta hãy nhìn lại cuộc sống
chính mình để duyệt xét xem chúng ta đã thực thi bổn phận quan trọng ấy như thế
nào.
9. Nối bước các Thừa Sai
(Suy niệm của Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Trong tông huấn Ecclesia in Asia, Đức Cố Gioan Hoàng Gioan
Phao-lô II đã kêu gọi: "Thiên niên kỷ thứ nhất truyền giáo cho Châu Âu. Thiên
niên kỷ thứ hai truyền giáo cho Châu Mỹ. Thiên niên kỷ thứ ba phải truyền giáo
cho Á Châu".
Cách riêng với Giáo Hội việt Nam năm 2003 mừng 470 năm Tin Mừng
được rao giảng trên quê hương đất nước chúng ta, các Đức Giám mục Việt Nam đã
hưởng ứng lời kêu gọi của Đức Thánh Cha, công bố thư mục vụ mang tựa đề
"Sứ Mạng Loan báo TinMừng Của Hội Thánh Việt Nam Hôm Nay" đã khẳng
định: "Đầu thiên niên kỷ mới, sứ mạng loan báo Tin mừng được đặc biệt trao
vào tay chúng ta. Chúng ta hãy tiếp bước các vị thừa sai đầy nhiệt tình tông
đồ, hãy phát huy truyền thống kiên cường của các bậc tiền nhân anh hùng tử đạo.
Ta hãy đáp lại kỳ vọng của Hội thánh đem Tin mừng cho anh em trên lục địa mênh
mông này. Và đặc biệt đem Tin mừng cho anh chị em sống ngay trên quê hương Việt
nam". (Thư chung 2003)
Hơn nữa, Giáo hội Việt Nam ngày nay là con cháu của 117 vị thánh
Tử Đạo và của hàng chục ngàn người Việt Nam đã chết vì đạo. Nhưng gần 5 thế kỷ
trôi qua, Giáo hội Việt Nam xem ra vẫn còn bé nhỏ giữa lòng dân tộc Việt nam. Theo
thống kê năm 2006 thì Giáo hội việt nam có 26 Giáo Phận, gồm khoảng 7 triệu
giáo dân, trên tổng số hơn 80 triệu người Việt Nam, chiếm tỉ lệ 6,62%.
Là người con của dân tộc Việt Nam, là dòng máu các anh hùng Tử
đạo Việt Nam chúng ta cần phải có bổn phận loan báo Tin mừng cho chính quê
hương, dân tộc của mình. Đạo làm người dạy chúng ta phải "thương người như
thể thương thân", thì đạo làm con Chúa đòi hỏi chúng ta chia sẻ tất cả
những gì mình có cho tha nhân, cho đồng loại. Các thánh Tông Đồ, các vị Thừa
Sai đã đem niềm vui lớn nhất là Tin mừng Chúa Giêsu được công bố cho toàn thế
giới. Các Ngài đã không quản ngại hy sinh tính mạng để đổi lấy niềm vui ơn cứu
độ được trao ban tới muôn triệu tâm hồn. "Từng đoàn người vượt suối băng
rừng. Từng đoàn người ra khơi giữa biển rộng sóng lớn. Biết bao người bỏ mạng
nơi rừng sâu núi thẳm. Biết bao người bỏ xác ngoài biển khơi. Nhưng lớp này nằm
xuống, lớp khác đứng lên nối tiếp nhau đem Tin mừng đến tận cùng thế giới".
(Thư chung 2003)
Nhờ các vị thừa sai tràn đầy nhiệt huyết, quê hương Việt Nam đã
được đón nhận Tin mừng. Nhờ đời sống đức tin anh dũng của các bậc tiền nhân mà
thế hệ chúng ta được thừa hưởng một gia tài đức tin vô cùng quý giá. Gia sản
này chúng ta không có quyền lưu giữ cho riêng mình, nhưng phải có bỗn phận chia
sẻ cho con người thời đại hôm nay. Chúa Giêsu sau khi phục sinh, Ngài đã uỷ
thác cho Hội Thánh nhiệm vụ loan báo tin mừng khi Ngài nói: "Anh em hãy đi
tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin mừng" (Mc 16,15). Lệnh truyền này đã
trở thành sứ mạng chính yếu của Hội Thánh Chúa Kitô. Hội thánh hiện hữu là để
loan báo Tin mừng và làm cho những ai thành tâm đón nhận Tin mừng trở nên môn
đệ Chúa Kitô, đồng thời quy tụ cho Thiên Chúa mọi con cái tản mác khắp nơi về
một mối (Ga 10,52). Thế nên, là người công dân của Nước Trời, chúng ta phản có
bỗn phận chu toàn sứ vụ đó cho anh chị em chung quanh chúng ta, cụ thề là cho
chình đồng bào và dân tộc Việt Nam.
Vậy, truyền giáo là gì?
Theo công đồng Vat II: "Việc truyền giáo là tất cả những
công tác đặc biệt qua đó các nhà rao giảng Phúc âm được Giáo hội sai đi khắp
thế gian, thi hành nhiệm vụ rao giảng Phúc âm và vun trồng Giáo hội nơi các dân
tộc cũng như giữa những nhóm người chưa tin vào Chúa". (TG 6c)
Trước đó, cha Pierre Charles cũng cho rằng: "mục tiêu
truyền giáo không phải là cứu rỗi các linh hồn", hoặc "làm cho dân
ngoại trở về với Chúa"... ; song là "mở rộng biên cương Giáo hội hữu
hình, nhằm hoàn tất tiến trình lớn lên, hầu bao phủ toàn thế giới với lời cầu
nguyện và việc phụng tự, tức là để mang cho Đấng Cứu Thế toàn bộ gia sản của
Ngài".
Như vậy, việc truyền giáo là "đưa Thiên Chúa đến với con
người và đưa con người trở về với Thiên Chúa". Đó chính là mục tiêu chính
của việc truyền giáo và cũng là sứ mạng cấp bách của Giáo hội Chúa Kitô. Vì
Giáo hội được hình thành để tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, Đấng sang lập Giáo
hội. Khi hoàn tất sứ mạng của mình ở trần gian, Chúa Giêsu đã sai phái các tông
đồ tiếp tục sứ mạng đó cho đến tận cùng trái đất. "Như Cha đã sai Thầy,
Thầy cũng sia anh em" (Ga 20, 21". "Anh em hãy làm chứng cho
Thầy khởi đầu từ Giê-ru-sa-lem đến tận cùng trái đất" (Lc 24, 47)
Vì vậy, là người công giáo chúng ta phải có bổn phận mang Tin
mừng của Chúa đến cho anh em minh. Hãy tiếp nối sứ mạng của Chúa Kitô đưa muôn
người đang còn tản mác khắp nơi về với Chúa. Hãy tiếp nối truyền thống của các
Thừa sai Việt Nam mang Tin mừng đến cho những anh em nghèo đói, đến những phận
người bị bỏ rơi. . # Hãy tiếp nối tinh thần quả cảm hy sinh, kiên cường của các
tiền nhân mà mạnh dạn làm chứng cho Chúa, cho dù có bị thua thiệt trước mặt
người đời, cho dù có bị hiểu lầm, ngược đãi... nhưng cùng chịu chết với Đức
Kitô là một mối lợi mà không có một gia sản nào trên trần gian có thể sánh bằng.
Nguyện xin Chúa Giêsu là người thợ lành nghề được sai đến trần
gian để gặt lúa của Người, xin giúp chúng con biết dấn thân quảng đại vào cánh
đồng truyền giáo Việt Nam hôm nay. Amen.
10. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Truyền giáo bằng chứng tá: Ai cũng có thể làm được
Có lẽ chúng ta đã nghe nói nhiều đến việc truyền giáo. Và thường
chúng ta nghĩ rằng đó là việc của các linh mục, các nam nữ tu sĩ, của tiểu ban
truyền giáo, hay của một số người có ơn gọi đặc biệt như Thánh Phaolô, Thánh
Phanxicô Xaviê,… chứ chẳng phải là việc của mình. Tuy nhiên, truyền giáo là ơn
gọi, là trách nhiệm gắn liền với mọi người Kitô hữu. Bao lâu còn là Kitô hữu,
bấy lâu còn phải loan báo Tin Mừng. Có thể chúng ta không có khả năng lôi kéo,
thuyết phục để cho người khác theo đạo, nhưng “nói” cho người khác biết về đạo
bằng chứng tá đời sống thì ai ai cũng có thể làm được. Vậy chứng tá cụ thể đó
là gì?
- Trước hết là chứng tá bằng đời sống cầu nguyện hy sinh
Đây là hoạt động đi đầu và không thể thiếu trong việc loan báo
Tin Mừng. Nhìn thấy gương chúng ta cầu nguyện, gương chúng ta hy sinh, người ta
sẽ được đánh động, được cảm hoá. Nếu đời sống tâm linh của chúng ta được cắm rễ
sâu trong đời sống cầu nguyện hy sinh, thì mọi việc ta làm đều có giá trị
truyền giáo, đều có khả năng làm cho người khác nhận biết Chúa và đem lại rất
nhiều lợi ích cho các linh hồn. Như vậy, ngồi ở nhà, chúng ta vẫn có thể truyền
giáo. Về điểm này, Thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu là mẫu gương tuyệt vời cho
chúng ta noi theo. Ngài nói: “Dù cúi xuống nhặt một cây kim vì lòng yêu mến
Chúa, tôi cũng có thể cứu được một linh hồn”.
Không ai có thể nói là tôi không có thì giờ để cầu nguyện. Không
ai có thể nói là tôi không có cơ hội để hy sinh. Và để rèn luyện được nếp sống
thấm nhuần tinh thần cầu nguyện hy sinh, có sức giới thiệu Đức Kitô cho người
khác, thiết tưởng chúng ta có thể nhờ đến Chuỗi Kinh Mân Côi. Nhờ Mẹ dẫn chúng
ta bước đi từng bước nhỏ trên đường vâng phục thánh ý Chúa và phục vụ các linh
hồn.
- Thứ đến là chứng tá bằng lối sống hiệp nhất yêu thương
Truyền giáo bằng việc giảng dạy, bằng sách báo, bằng các lớp
Giáo lý, bằng các lễ nghi, bằng các hoạt động tôn giáo, thực tế là rất cần. Nhưng
cách truyền giáo hữu hiệu nữa là chính nếp sống đạo đức nổi trội của chúng ta
về sự hiệp nhất yêu thương: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ
của Thầy: là anh em hãy thương yêu nhau”. Tình yêu thương hiệp nhất ấy được thể
hiện qua cách suy nghĩ, cách phán đoán, cách chọn lựa, cách đối xử, cách phản
ứng, cách hiện diện, cách phục vụ nói năng, ăn uống, giải trí, cách dùng thời
giờ, sức khoẻ, của cải,…
Những dấu chỉ yêu thương hiệp nhất giữa mọi người trong gia
đình, trong hội đoàn, trong giáo họ, giáo xứ là dấu chỉ loan báo Tin Mừng hữu
hiệu nhất, giá trị nhất. Ngược lại, nếu thiếu tình bác ái yêu thương thì những
việc tông đồ truyền giáo sẽ phản tác dụng. Xin dẫn chứng:
Một cô gái ngoại giáo lấy người Công giáo, láng giềng, bà con
thấy cô ta đẹp người đẹp nết, nên giục cô ta vào đạo. Cô ta trả lời: “Khi nào
cháu thấy đạo Chúa hơn đạo Phật, cháu mới vào”. Tìm hiểu, người ta mới biết
được bà mẹ chồng dù rất siêng năng đọc kinh, dự lễ và đã từng bỏ ra gần cả một
chục triệu bạc cùng với nhiều bà khác giúp cha sở đi Roma xin ơn Đức Giáo
hoàng, nhưng bà đã từng sang giật nồi, lấy niêu của một bà hàng xóm nghèo chưa
có tiền trả nợ cho bà. Cô dâu in trong lòng hình ảnh không tốt về mẹ chồng và
về đạo. Do đó cô nhất quyết không theo đạo bao lâu chưa thấy người theo đạo
sống tốt hơn.
Một khi tất cả nếp sống của chúng ta phảng phất hương thơm của
tình hiệp nhất yêu thương thì dù ở đâu, nếp sống ấy cũng là truyền giáo.
- Sau nữa là chứng tá bằng nếp sống có văn hoá, văn minh
Ngày hôm nay, xã hội đang phải đối diện với biết bao tệ nạn, môi
trường sống bị ô nhiễm trầm trọng, các giá trị đạo đức luân lý bị băng hoại. Chính
vì thế, nỗ lực của xã hội là xây dựng nếp sống lành mạnh, có văn hoá, văn minh.
Đi đâu chúng ta cũng thấy có các bảng hiệu “khu phố văn hoá”, “thôn văn hoá, ấp
văn hoá”…, lẽ nào chúng ta lại đứng ngoài, lẽ nào chúng ta lại không chung tay
góp sức mình vào việc đó. Dĩ nhiên, nền văn hoá mà chúng ta phải xây dựng không
phải là văn hoá sự chết, văn hoá tiêu diệt sự sống, mà là nền văn hoá bảo vệ và
thăng tiến sự sống, sự sống ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Nền văn minh mà
chúng ta phải kiến tạo không phải là văn minh của nền khoa học kỹ thuật khô
cứng hay của chủ nghĩa duy vật hưởng thụ cực đoan, mà là nền văn minh của tình
thương, nền văn minh của lòng bao dung tha thứ.
Như mọi người khác, người Công giáo cũng đang hiện diện tại mọi
môi trường xã hội hôm nay. Chúng ta cũng làm ăn sinh sống trong mọi lĩnh vực:
kinh doanh, sản xuất, buôn bán… với mọi hoàn cảnh từ thương gia đến kỹ sư, bác
sĩ, giáo viên, công nhân viên. Cũng làm việc, cũng mưu sinh, nhưng chúng ta làm
việc với tinh thần khác: tinh thần công bình bác ái và phục vụ hy sinh.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn ý thức được sứ mạng truyền
giáo bằng chứng tá của mình, đặc biệt trong Năm Đức Tin, để ra sức sống tinh
thần cầu nguyện hy sinh, yêu thương hiệp nhất, đồng thời nỗ lực xây dựng một
cuộc sống tốt đạo đẹp đời hầu cho danh Chúa được ngày một cả sáng hơn. Amen.
11. Truyền giáo.
Công đồng Vat. II trong sắc lệnh về truyền giáo có viết: Được
Thiên Chúa sai đến với muôn dân để nên bí tích cứu độ phổ quát, Giáo Hội vì
những đòi hỏi căn bản của mình và vì mệnh lệnh của Đấng sáng lập, nhất quyết
loan báo Tin Mừng cho mọi người. Việc loan báo này được thực hiện bằng nhiều
phương thế khác nhau của toàn thể dân Chúa vẫn luôn được Giáo Hội cổ võ, khuyến
khích và chỉ dẫn. Vì vậy hàng năm Giáo Hội đã chọn một ngày vào Chúa nhập áp
cuối tháng 10 để thúc đẩy mọi linh mục tu sĩ và giáo dân ý thức hơn về việc rao
giảng Tin Mừng. Việc này không dành cho riêng ai và không thể một cá nhân, một
đoàn thể nào làm được hết. Trái lại mọi thành phần dân Chúa phải có trách nhiệm
để thực hiện lời Chúa đã truyền dạy trước khi về trời: Các con hãy đi rao giảng
Tin Mừng cho muôn dân.
Vì thế, theo lệnh truyền của Chúa, từ ngày chịu bí tích Rửa Tội,
chúng ta đã trở nên con cái Chúa, rồi từ ngày lãnh nhận bí tích Thêm Sức, chúng
ta đã lãnh nhận sứ vụ tông đồ để thi hành đúng chức năng ngôn sứ của mình. Vì
vậy, bổn phận đòi buộc hết mọi người giáo dân trong bất kỳ lãnh vực nào cũng
phải là chứng nhân cho Đức Kitô. Hơn thế nữa, người giáo dân có một lợi thế hơn
hẳn hàng giáo sĩ là sống giữa các môi trường xã hội khác nhau với đủ ngành
nghề, địa vị xã hội để có thể cảm hoá cảnh vực và trở nên như men, như ánh
sáng, như muối cho những người chung quanh.
Lời thánh Phaolô tông đồ mời gọi chúng ta suy nghĩ: Khốn cho tôi
nếu tôi không rao giảng Tin Mừng. Giáo Hội luôn ý thức điều đó và hôm nay nhắc
nhở chúng ta luôn tích cực thi hành sứ mạng truyền giáo cả những lúc bận tâm lo
lắng công việc trần thế. Tất cả mọi người đều phải cộng tác vào việc mở mang
Nước Chúa trên trần gian và trở thành chứng nhân cho Ngài. Lời Chúa nói: Lúa
chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít, sẽ nhắc nhở chúng ta phải trở nên là những
thợ gặt trên cánh đồng nhân loại, và trở nên ngư phủ trên đại dương trần thế.
Tuy nhiên, như chúng ta đã nói, có nhiều phương thế để góp phần
vào công cuộc trọng đại này, chẳng hạn cầu nguyện và rao giảng như các tông đồ,
các vị thừa sai, sống đức tin và đức ái phục vụ như Mẹ Têrêsa Calcutta. Thực
vậy, tục ngữ cũng đã bảo: Lời nói như gió lung lay việc làm như tay lôi kéo. Chính
đời sống gương mẫu của chúng ta mới là một bài giảng hùng hồn nhất có sức lôi
cuốn và hấp dẫn người khác đến cùng Chúa. Chính nhờ những việc làm cụ thể trong
khi dấn thân để phục vụ, chúng ta sẽ trở nên là những chứng nhân sống động cho
Đức Kitô.
Để kết luận, chúng ta hãy ghi nhớ lời nói sau đây của Đức Phaolô
VI: Con người thời đại thích lắng nghe các nhân chứng hơn là những nhà giảng
thuyết. Và nếu họ có nghe những nhà giảng thuyết chỉ vì những nhà giảng thuyết
này đã là những chứng nhân.
12. Sứ điệp Truyền giáo năm 2012.
“Được kêu gọi làm rạng ngời Lời Chân Lý”
(Tông Thư Porta Fidei, 6)
Anh chị em thân mến!
Cuộc cử hành Ngày Thế giới Truyền giáo năm nay mang một ý nghĩa
hoàn toàn đặc biệt. Việc kỷ niệm 50 năm Sắc Lệnh Ad Gentes của Công đồng, việc
khai mạc Năm Đức Tin và Thượng Hội đồng Giám mục về đề tài Tân Phúc Âm Hoá là
các sự kiện cùng diễn ra trong năm nay để tái xác nhận ý muốn của Hội Thánh là
dấn thân một cách hăng say và can đảm hơn vàomissio ad gentes (sứ vụ đến với
muôn dân) hầu đem Tin Mừng đến tận cùng trái đất.
Với sự tham dự của các Giám mục Công giáo từ khắp nơi trên thế
giới, Công đồng Chung Vatican II đã là một dấu chỉ sáng ngời về tính phổ quát
của Hội Thánh, qua việc lần đầu tiên quy tụ một con số đông đảo như thế các
Nghị phụ đến từ Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ Latinh, và Châu Đại Dương. Các giám
mục truyền giáo và các giám mục bản xứ, các mục tử của các cộng đoàn rải rác
khắp nơi giữa các dân không Kitô giáo, tất cả các vị ấy đã đem đến cho các
phiên họp của Công đồng hình ảnh của một Hội Thánh hiện diện trên mọi châu lục
và đã trở thành những người cắt nghĩa về thực tại phức tạp mà thời ấy được gọi
là “Thế Giới Thứ Ba”. Là những người giàu kinh nghiệm thực thi sứ vụ mục tử tại
các giáo hội non trẻ đang hình thành, và đầy nhiệt huyết loan truyền Nước Thiên
Chúa, các ngài đã góp phần rất quan trọng vào việc tái xác nhận nhu cầu và sự
cấp bách của việc loan báo Tin Mừng cho các dân tộc, từ đó đưa bản chất truyền giáo
của Giáo Hội vào trung tâm của khoa Giáo hội học.
Khoa Giáo hội học hướng đến truyền giáo
Ngày nay, quan điểm trên vẫn còn nguyên giá trị, hơn nữa còn
được tiếp nhận những suy tư thần học và mục vụ phong phú, và đồng thời lại càng
tỏ ra cấp bách, vì số người chưa biết Chúa Kitô ngày càng nhiều thêm. “Những
người mong chờ Đức Kitô vẫn còn đông vô kể”, như lời khẳng định của Chân phước
Gioan Phaolô II trong Thông điệp Redemptoris Missio về giá trị muôn đời của
huấn lệnh truyền giáo, và ngài thêm: “Chúng ta không thể ngồi yên khi nghĩ tới
hàng triệu anh chị em chúng ta đang sống trong tình trạng không biết đến tình
yêu của Thiên Chúa, chính họ cũng được cứu chuộc bằng máu Chúa Kitô” (số 86). Phần
tôi, khi công bố Năm Đức Tin, tôi đã viết rằng Đức Kitô “hôm nay cũng như hồi
ấy, sai chúng ta đi khắp các nẻo đường trên thế giới để loan báo Tin Mừng của
Người cho mọi dân tộc trên mặt đất” (Tông Thư Porta Fidei, 7); việc loan báo
này, như lời Vị Tôi tớ Chúa Phaolô VI trong Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, “đối
với Hội Thánh không phải là một sự cống hiến tuỳ ý, nhưng là một bổn phận Hội
Thánh phải thực thi theo lệnh truyền của Chúa Giêsu, để loài người có thể tin
và được cứu rỗi. Quả thế, đây là sứ điệp cần thiết. Đây là sứ điệp độc nhất. Sứ
điệp không thể thay thế” (số 5). Vì vậy chúng ta cần phải lấy lại cùng một
nhiệt huyết tông đồ như các cộng đoàn Kitô hữu sơ khởi, tuy chỉ là một nhóm ít
người và không thể tự vệ, nhưng bằng lời loan báo và chứng tá, họ đã có thể
loan truyền Tin Mừng trên toàn thế giới được biết đến thời bấy giờ.
Vì vậy không lạ gì khi Công đồng Vaticanô II và Huấn quyền sau
Công Đồng của Hội Thánh luôn nhấn mạnh một cách đặc biệt về nhiệm vụ truyền
giáo mà Đức Kitô đã uỷ thác cho các môn đệ của Người, và là nhiệm vụ mà toàn
thể Dân Thiên Chúa: các giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ và giáo dân phải dấn
thân thực hiện. Nhiệm vụ loan báo Tin Mừng trên khắp thế giới trước tiên là
nhiệm vụ của các giám mục, vì trong tư cách là thành viên của Giám mục đoàn
cũng như là Mục tử của các Giáo Hội địa phương, các ngài là những người chịu
trách nhiệm trực tiếp về việc rao giảng Tin Mừng trên thế giới. Thực vậy, các
ngài “đã được tấn phong không chỉ cho một giáo phận, mà cho sự cứu rỗi của toàn
thế giới” (Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Missio, 63), “các ngài là
những người rao giảng đức tin dẫn đến cho Đức Kitô những người môn đệ mới” (Ad
Gentes, 20) và làm cho mọi người “thấy được tinh thần và nhiệt huyết truyền
giáo của Dân Chúa, để toàn giáo phận trở thành những nhà truyền giáo” (nt. ,
38).
Địa vị ưu tiên của rao giảng Tin Mừng
Vì vậy, đối với một Chủ Chăn, nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng không
chỉ giới hạn vào việc chăm lo cho thành phần Dân Chúa được giao phó cho ngài
chăm sóc về mục vụ, cũng không chỉ là sai một số linh mục hay giáo dân đi
truyền giáo như là fidei donum (quà tặng đức Tin). Nhiệm vụ ấy phải bao gồm
toàn thể hoạt động của Hội Thánh địa phương, mọi lĩnh vực của Hội Thánh ấy, tóm
lại, phải bao gồm toàn thể đời sống và hoạt động của Hội Thánh ấy. Công đồng
Vaticanô II đã nói rõ điều này và Huấn quyền sau Công đồng đã mạnh mẽ xác nhận
lại. Điều này đòi hỏi rằng các bậc sống, các kế hoạch mục vụ và việc tổ chức
giáo phận phải không ngừng được thích nghi với chiều kích nền tảng này của Hội
Thánh, đặc biệt trong thế giới không ngừng biến đổi của chúng ta ngày nay. Điều
này cũng đúng với các Hội Dòng và các Tu đoàn Tông đồ, cũng như các Phong trào
trong Giáo Hội: mọi thành phần trong bức tranh lớn của Hội Thánh phải cảm thấy
lệnh truyền rao giảng Tin Mừng của Chúa chất vấn mình mãnh liệt, để Đức Kitô
được rao giảng khắp nơi. Là những mục tử, tu sĩ nam nữ và tất cả các tín hữu
trong Đức Kitô, chúng ta phải tiếp bước Thánh Phaolô Tông Đồ, là “tù nhân của
Đức Kitô vì anh em, những người dân ngoại” (Ep 3, 1), ngài đã chịu đau khổ và
chiến đấu để đem Tin Mừng đến giữa dân ngoại (x. Cl 1, 24-29), không ngại tiêu
hao sức lực, thời giờ và của cải để loan báo Sứ điệp của Đức Kitô.
Ngày nay cũng thế, sứ mạng ad gentes –đến với muôn dân– phải
không ngừng là chân trời và khuôn mẫu cho mọi hoạt động của Hội Thánh, vì chính
căn tính của Hội Thánh được tạo thành bởi đức tin vào Mầu Nhiệm Thiên Chúa,
Đấng đã tỏ mình ra cho chúng ta trong Đức Kitô để đưa chúng ta đến ơn cứu độ,
và bởi sứ mạng làm chứng và loan báo Người cho thế giới, cho tới khi Người trở
lại. Cũng như Thánh Phaolô, chúng ta phải quan tâm tới những người ở xa, những
người chưa biết Đức Kitô và chưa cảm nghiệm được tình phụ tử của Thiên Chúa, và
chúng ta phải ý thức rằng “sự hợp tác truyền giáo hôm nay phải mở ra những hình
thức mới để bao gồm không chỉ việc trợ giúp kinh tế, mà cả sự tham gia trực
tiếp vào việc rao giảng Tin Mừng” (Gioan Phaolô II, Thông Điệp Redemptoris
Missio, 82). Việc cử hành Năm Đức Tin và Thượng Hội đồng Giám mục về Tân Phúc
Âm hoá sẽ là những cơ hội thuận lợi để phát động sự hợp tác truyền giáo, nhất
là trong khía cạnh thứ hai này.
Đức Tin và việc loan báo
Mối quan tâm loan báo Đức Kitô cũng thúc đẩy chúng ta đọc lịch
sử để từ đó nhận ra những vấn đề, những khát vọng và hi vọng của nhân loại mà
Đức Kitô phải chữa lành, thanh tẩy và kiện toàn bằng sự hiện diện của Người. Thực
vậy, Sứ điệp của Người luôn mang tính thời sự, đi vào giữa lòng lịch sử và có
khả năng đáp lại những mối lo lắng thâm sâu nhất của mỗi người. Vì vậy mọi
thành phần trong Hội Thánh phải ý thức rằng “các chân trời bao la của sứ mạng
Hội Thánh và tình hình phức tạp hiện nay đòi hỏi những phương thức mới để có
thể truyền đạt hiệu quả Lời Thiên Chúa” (Bênêđictô XVI, Tông huấn hậu
THĐGM,Verbum Domini, 97). Điều này trước hết đòi hỏi phải gắn bó với Tin Mừng
của Chúa Giêsu Kitô bằng đức Tin được canh tân nơi mỗi cá nhân cũng như các
cộng đoàn “lúc nhân loại đang sống giữa những thay đổi sâu xa như hiện nay”
(Tông thư Porta Fidei, 8).
Thực vậy, một trong các trở ngại cho việc đẩy mạnh hoạt động rao
giảng Tin Mừng chính là cơn khủng hoảng đức tin, không chỉ của thế giới phương
Tây, mà của phần lớn nhân loại; họ cũng đói khát Thiên Chúa và phải được mời
gọi và dẫn đưa tới bánh sự sống và nước hằng sống, như người phụ nữ Samaria đến
giếng Giacóp và nói chuyện với Đức Kitô. Như tác giả Tin Mừng Gioan đã kể lại,
câu chuyện về người phụ nữ này có một ý nghĩa đặc biệt (x. Ga 4,1-30): bà gặp
Chúa Giêsu, Người xin bà nước uống, nhưng sau đó Người nói về một thứ nước mới,
có khả năng làm cho bà không bao giờ còn khát nữa. Thoạt đầu bà không hiểu, bà
vẫn dừng lại trên bình diện vật chất, nhưng dần dần bà được Chúa dẫn đi trên
con đường đức tin giúp bà nhận ra Người chính là Đấng Mêsia. Về điểm này, Thánh
Augustinô quả quyết: “Sau khi đã đón nhận Chúa Kitô vào tâm hồn mình, [người phụ
nữ này] còn có thể làm gì khác hơn là bỏ lại thùng nước ở đó để chạy đi loan
báo Tin Mừng?” (Bài giảng 15, 30). Một khi gặp được Đức Kitô hằng sống, là Đấng
làm thỏa cơn khát của trái tim, người ta không thể không mong muốn chia sẻ với
người khác niềm vui có Đức Kitô đang hiện diện và giúp họ nhận ra Người để tất
cả đều cảm nghiệm được sự hiện diện ấy. Cần phải đổi mới niềm hăng say loan
truyền đức tin để cổ vũ một cuộc tân phúc âm hoá các cộng đoàn và các nước vốn
có truyền thống Kitô giáo lâu đời mà nay chẳng còn màng đến Chúa, để họ tìm lại
được niềm vui của đức tin. Không bao giờ được gạt mối quan tâm loan báo Tin
Mừng ra khỏi mọi hoạt động của Giáo Hội cũng như đời sống cá nhân của người
Kitô hữu, nhưng phải ý thức rõ mình là đối tượng đón nhận Tin Mừng, đồng thời
cũng là những thừa sai của Tin Mừng. Tâm điểm của lời loan báo vẫn luôn như
thế: đó là Kerygma (lời rao giảng cơ bản) về Đức Kitô chịu chết và phục sinh để
cứu độ thế giới,Kerygma về tình yêu tuyệt đối và trọn vẹn của Thiên Chúa đối
với mọi người nam cũng như nữ, đạt đến tột đỉnh trong việc Thiên Chúa sai Con
Một hằng hữu của Người là Chúa Giêsu, Đấng không ngại nhận thân phận nghèo hèn
của bản tính loài người chúng ta, yêu thương và cứu chuộc bản tính ấy khỏi tội
lỗi và sự chết, bằng việc hiến mình trên thập giá.
Trong kế hoạch yêu thương được thể hiện nơi Đức Kitô, đức tin
vào Thiên Chúa trước hết là một hồng ân và một mầu nhiệm mà chúng ta phải đón
nhận trong lòng và trong cuộc sống, và phải luôn luôn tạ ơn Chúa vì hồng ân ấy.
Đồng thời đức Tin còn là một ân huệ được ban cho chúng ta để chia sẻ cho người
khác; là một nén bạc chúng ta nhận được để sinh lời; là ánh sáng không được đem
giấu đi, nhưng phải soi sáng cho cả nhà. Đức Tin là ân huệ quan trọng nhất được
ban cho cuộc đời chúng ta mà chúng ta không được phép giữ lại cho riêng mình.
Loan báo trở thành bác ái
“Khốn thân tôi nếu tôi không loan báo Tin Mừng!”, Thánh Phaolô
nói như thế (1 Cr 9, 16). Lời này vang dội với sức thúc bách mỗi người Kitô hữu
và mỗi cộng đoàn Kitô hữu trên mọi châu lục. Ngay cả đối với các giáo hội tại
các xứ truyền giáo, phần lớn là các giáo hội non trẻ, mới lập, hoạt động truyền
giáo đã trở thành một chiều kích tự nhiên, cho dù chính các giáo hội này vẫn
còn cần đến các nhà truyền giáo. Nhiều linh mục, tu sĩ nam nữ từ khắp nơi trên
thế giới, rất đông giáo dân và thậm chí cả gia đình sẵn lòng rời bỏ quê hương
mình, rời bỏ các cộng đoàn mình và đi đến các giáo hội khác để làm chứng và
loan báo Danh Chúa Kitô, nhờ Người mà nhân loại tìm được ơn cứu độ. Đây là một
biểu hiện của sự hiệp thông sâu xa, sự chia sẻ và bác ái giữa các giáo hội, để
mọi người có thể nghe và nghe lại lời loan báo có sức chữa lành, và có thể đến
với các Bí Tích, nguồn mạch đời sống đích thực.
Cùng với dấu chỉ siêu vời của đức tin được biến đổi thành đức ái
này, tôi ghi nhận và biết ơn các Hội Giáo hoàng Truyền giáo, công cụ của sự hợp
tác trong sứ vụ phổ quát của Hội Thánh trên thế giới. Qua hoạt động của các Hội
truyền giáo này, việc loan báo Tin Mừng còn trở thành hành động giúp đỡ tha
nhân, thúc đẩy đối xử công bằng với những người nghèo khổ nhất, đưa giáo dục về
tận những thôn làng xa xôi nhất, trợ giúp y tế tại các vùng sâu vùng xa, giải
phóng khỏi cảnh khốn cùng, giúp những người bị gạt ra lề xã hội tìm lại được
quyền sống, nâng đỡ sự phát triển các dân tộc, khắc phục những chia rẽ sắc tộc,
tôn trọng sự sống ở mọi giai đoạn của nó.
Anh chị em thân mến, tôi khẩn cầu Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy
trên việc rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc, đặc biệt trên những ai đang loan
báo Tin Mừng, để Ân Sủng của Thiên Chúa làm cho công cuộc rao giảng Tin Mừng
tiến bước vững vàng trong lịch sử thế giới. Cùng với Chân phước John Henry
Newman, tôi muốn cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, xin đồng hành với các nhà truyền
giáo tại các xứ truyền giáo, xin đặt trên môi miệng họ những lời lẽ chính đáng,
xin làm cho công lao khó nhọc của họ sinh nhiều hoa trái. ” Lạy Trinh Nữ Maria,
Mẹ là Mẹ Hội Thánh và là Ngôi Sao dẫn đường loan báo Tin Mừng, xin đồng hành
với tất cả các thừa sai Tin Mừng.
Vatican, ngày 6 tháng 1 năm 2012.
Đại lễ Chúa Hiển Linh
Bênêđictô XVI, giáo hoàng
(Bản dịch của Ủy ban Loan Báo Tin Mừng / HĐGMVN)
13. Hãy đi khắp thế gian.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
"Hãy đi khắp thế giới, loan báo Tin Mừng... "
Lời Đức Giêsu mời gọi làm chúng ta nhức nhối.
Thế giới chẳng phải ở đâu xa. Thế giới là quê hương tôi với gần
80 triệu dân. Thế giới là những người tôi vẫn gặp, những nơi tôi vẫn sống. Thế
giới ấy, chân tôi chưa một lần đi hết, miệng tôi chưa một lần loan báo tin vui.
Tôi có lòng tin không? Tôi có dám tin Lời Chúa không?
Chúa hứa cho những ai tin được khả năng trừ quỷ, nghĩa là giải
phóng con người khỏi mọi hình thức nô lệ, khả năng chữa bệnh để xoa dịu nỗi đau
của trần gian, khả năng nói những ngôn ngữ mới để đem lại hiệp nhất. Các tông
đồ đã tin và thấy Chúa cùng làm việc với mình. Họ chẳng bao giờ cô đơn trên
bước đường rao giảng.
Có nhiều cách loan Tin Mừng, nhiều cách truyền giáo.
Cách thứ nhất là bằng chính cuộc sống bản thân. Nếu các Kitô hữu
đều siêu thoát danh lợi, sống trung thực, thanh khiết, sống chung thủy, yêu
thương... Một Kitô hữu nghèo mà vui tươi, hạnh phúc, thì đó là một lời chứng
đáng tin cậy.
Làm cho xã hội được tốt đẹp hơn, đó cũng là một cách loan báo
Tin Mừng rất hiệu quả. Kitô giáo phải góp phần xây dựng một thế giới hòa bình
và huynh đệ, công bằng và ấm no, nơi nhân phẩm của từng người được tôn trọng,
nơi bóng tối của sự ích kỷ tàn nhẫn bị đẩy lui.
Mẹ Têrêxa Calcutta đã âm thầm loan báo Tin Mừng bằng những cử
chỉ nhân ái với bao người cùng khổ. Mẹ đã đi nhiều nơi trên thế giới để lập các
cộng đoàn.
Còn thánh Têrexa nhỏ đã truyền giáo tại chỗ bằng lời cầu nguyện
và những hy sinh nhỏ bé. Chị là nữ tu dòng Kín, sống trong bốn bức tường, nhưng
lại được phong làm bổn mạng các xứ truyền giáo. Chị đã đi khắp thế giới, không
phải bằng đôi chân, nhưng bằng lòng ước ao của một trái tim cháy bỏng.
Phải sống sao để người ta thắc mắc, đặt câu hỏi. Nhưng cũng phải
sẵn sàng trình bày câu trả lời.
Dù bạn chẳng uyên thâm về giáo lý nhưng hãy bập bẹ nói về Chúa
bằng kinh nghiệm của bạn.
Truyền giáo là giới thiệu cho người khác Đấng tôi đã quen. Có
thể người ấy đã biết Đấng này từ lâu rồi.
Anrê đã gọi Simon, Philipphê đã gọi Nathanaen đến gặp Chúa. Cần
tập đến với người khác như Đức Giêsu đã đến với người phụ nữ Samari. Hãy xin
nước uống, trước khi nói về Nước Hằng Sống. Hãy tìm hiểu người đối diện trước
khi loan báo Tin Mừng. Chúng ta cần thấm nhuần văn hóa dân tộc thì mới biết
cách nói về Chúa Cha cho đồng bào mình.
Nếu cả đời, mỗi Kitô hữu mời được một người theo đạo, thì nguyện
ước của Đấng Phục Sinh được thành tựu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thánh Têrêxa nhỏ đã được tôn phong làm tiến sĩ Hội Thánh. Bạn
nghĩ gì về kiểu truyền giáo bằng cầu nguyện và hy sinh của chị? Bây giờ có hợp
thời không?
Mẹ Têrêxa hiến đời mình cho người cùng khổ, bệnh tật, không phân
biệt tôn giáo, màu da... Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo này? Nó có đánh động
trái tim con người hôm nay không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con, nếu Hội Thánh được ví như một
thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu một chi
thể cần thiết nhất và cao quý nhất. Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình
yêu.
Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động. Nếu trái tim Hội
Thánh vắng bóng tình yêu, thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng, các vị tử đạo sẽ
chẳng chịu đổ máu mình...
Lạy Chúa Giêsu, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con, ơn gọi
của con chính là tình yêu. Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội Thánh:
nơi Trái Tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu, và như thế con sẽ là tất cả, vì
tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh. Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban
cho con, mọi ước mơ của con được thực hiện. (dựa theo lời của thánh Têrêxa)
14. Hãy loan báo Tin Mừng – Mc 16,15-20.
(Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt)
Một đạo sĩ hỏi các đệ tử: Các con có biết khi nào đêm tàn và
ngày xuất hiện, khi nào ánh sáng tới và bóng tối lui đi không? Các đệ tử thi
nhau trả lời: Thưa thày, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện là khi từ xa nhìn
một đoàn vật người ta có thể phân biệt được con nào là con bò và con nào là con
trâu không? Thày lắc đầu: Không phải. Đệ tử khác trả lời: Thưa thày có phải ánh
sáng tới và bóng tối lui là khi từ xa nhìn vào vườn cây, người ta có thể phân
biệt được cây nào là cây xoài cây nào là cây mít không? Thày vẫn lắc đầu: Không
phải. Thấy không ai trả lời được, thày mới giải nghĩa: Đêm tàn và ngày xuất
hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nào ta nhìn vào mặt người xa lạ và
nhận ra đó là anh em mình.
Thật là khó hiểu. Tuy trên đời ta thấy có nhiều thứ ánh sáng. Có
ánh sáng mặt trăng mặt trời. Có ánh sáng đèn dầu, đèn điện. Có những ánh sáng
như tia X, tia hồng ngoại. Nhưng tất cả những ánh sáng đó chỉ giúp ta nhìn rõ
sự vật. Không thấy có thứ ánh sáng nào soi vào mặt người xa lạ mà biến người ấy
thành người thân của mình.
Mẹ Têrêxa dường như đã tìm ra thứ ánh sáng ấy.
Mẹ Têrêxa là một nữ tu người Anbani, được sai đến phục vụ người
nghèo tại Ấn độ. Đến Ấn độ, thấy người nghèo khổ quá tội nghiệp. Biết bao người
hấp hối ngoài lề đường. Chết rồi xác bị quẳng vào đống rác như xác thú vật. Biết
bao trẻ thơ bị bỏ rơi. Biết bao gia đình chui rúc trong các căn nhà ổ chuột. Biết
bao người đói khát không đủ cơm ăn áo mặc. Mẹ lăn xả vào phục vụ người nghèo.
Một hôm Mẹ đi thăm một ông già cô đơn trong căn lều tồi tàn. Bước
vào lều Mẹ động lòng thương cảm. Vì tất cả đồ đạc chỉ là một mớ giẻ rách. Căn
lều bụi bặm bẩn thỉu ngoài sức tưởng tượng. Và nhất là ông già thu mình lại
không muốn giao tiếp với ai. Mẹ chào hỏi ông cũng không buồn trả lời. Mẹ xin
phép dọn dẹp căn lều ông cũng làm thinh. Đang khi dọn dẹp, Mẹ thấy trong góc
lều có một cây đèn dầu bụi bám đen đủi. Sau khi lau chùi, Mẹ kêu lên: Ô, cây
đèn đẹp quá. Ông già nói: Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi ngày cưới. Từ khi bà ấy
chết, tôi không bao giờ đốt đèn nữa. Thấy ông đã cởi mở, Mẹ Têrêxa đề nghị: Thế
ông có bằng lòng cho các chị nữ tu mỗi ngày đến thăm và đốt đèn cho ông không?
Ông đồng ý. Từ đó mỗi buổi chiều, các chị tới thăm ông, dọn dẹp nhà cửa, nói
chuyện với ông. Ngọn đèn ấm áp trong căn lều ấm cúng. Ông trở nên vui vẻ hơn. Ông
đã đi thăm mọi người. Mọi người đến thăm ông. Cuộc đời ông vui tươi trở lại.
Trước kia cuộc đời ông tăm tối không phải vì ông không thắp đèn.
Nhưng vì ngọn đèn trong trái tim ông đã tắt. Trái tim khép kín nên ông mất niềm
tin vào con người, vào cuộc sống. Ông nhìn mọi người như thù địch. Từ ngày các
nữ tu đến đốt đèn đời ông vui lên, sáng lên. Đời ông sáng lên không phải vì có
ngọn đèn dầu hoả soi sáng. Nhưng vì trái tim ông bừng sáng. Ngọn đèn tâm hồn
ông rạng rỡ. Tâm hồn ông cởi mở và ông nhìn thấy mọi người là anh em. Thứ ánh
sáng ấy ta thấy trong Phúc Âm. Khi người Samaritano nhân hậu cúi xuống săn sóc,
băng bó vết thương cho người bị nạn bên đường. Hai người nhìn nhau. Một làn ánh
sáng loé lên. Và họ nhận ra nhau là anh em.
Cứ như thế Mẹ Têrêxa miệt mài phục vụ người nghèo. Lập những
trung tâm đón tiếp những người hấp hối, săn sóc để họ được chết, được chôn cất
như một con người. Nuôi trẻ mồ côi. Xây bệnh viện. Xây trường học. Công việc
càng ngày càng mở rộng. Số người theo Mẹ ngày càng đông và Mẹ đã lập dòng Nữ tử
Thừa sai Bác ái chuyên phục vụ người nghèo. Hiện nay nhà dòng đã có mặt trên
132 quốc gia. Mẹ được thế giới biết tiếng. Mẹ được nhiều giải thưởng trong đó
có giải Nobel Hoà bình. Năm 1997, khi Mẹ qua đời, 80 nguyên thủ quốc gia, trong
đó có phu nhân tổng thống Mỹ Bill Cliton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques
Chirac đã đến dự đám tang. Và nước Ấn độ, đa số dân theo Ấn độ giáo, vốn không
ưa đạo Công giáo, đã chôn cất Mẹ theo nghi thức quốc táng. Hai mươi mốt phát
súng đại bác tiễn đưa linh hồn Mẹ về trời.
Mẹ Têrêxa là một nhà truyền giáo thành công của thế kỷ 20. Vì Mẹ
đã biết thắp lên ngọn đèn soi trong đêm tối. Giữa đêm tối vật chất hưởng thụ,
Mẹ đã thắp lên ngọn đèn siêu nhiên của thiên đàng. Giữa đêm tối rụt rè nghi kỵ
Mẹ đã thắp lên ngọn đèn cởi mở tin yêu. Giữa đêm tối lạnh lẽo cô đơn. Mẹ đã
thắp lên một ngọn đèn ấm áp tình người. Trái tim Mẹ là một ngọn đèn sáng. Ánh
sáng ấy toả lan tới muôn người làm cho mọi người nhận biết khuôn mặt hiền lành
khiêm nhường của Đức Kitô và làm cho mọi người nhìn nhau là anh em.
Vào thời Cộng sản còn mạnh và còn chống đối Công giáo kịch liệt.
Mẹ Têrêxa vẫn có thể lập nhà ở Nga, ở Cuba và cả ở Việt Nam. Với tấm lòng bác
ái, Mẹ đã chiếu toả ánh sáng Tin Mừng khắp thế giới.
Hôm nay Giáo Hội cầu nguyện cho việc truyền giáo. Hôm nay Giáo
Hội mời gọi chúng ta góp phần vào việc truyền giáo. Không gì bằng ta hãy noi
gương Mẹ Têrêxa, thắp lên ngọn lửa tin yêu trong lòng mình, đem ngọn lửa yêu
thương phục vụ soi sáng khắp nơi. Thế giới sẽ bừng sáng và mọi người sẽ nhìn
nhận nhau là anh em.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Nhờ đâu Mẹ Têrêxa đến được cả những nước Cộng sản?
2- Nhờ đâu việc truyền giáo của Mẹ Têrêxa thành công tốt đẹp?
3- Đời sống bạn là ánh sáng hay là bóng tối cho những người
chung quanh?
4- Bạn quyết tâm làm gì để loan báo Tin Mừng cho mọi người?
15. Ưu tiên bốn hạng người
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Thư mục vụ Năm Đức Tin của HĐGMVN viết:
Cùng một nhịp bước với Giáo Hội toàn cầu, Năm Đức Tin phải là cơ
hội thuận lợi cho mọi thành phần Dân Chúa tại Việt Nam củng cố đức tin của
mình, hoán cải và đổi mới đời sống, trở về với Chúa là Đấng Cứu độ duy nhất của
thế giới. Khi chúng ta tái khám phá niềm vui đức tin, chúng ta sẽ hăng say dấn
thân cho công cuộc Tân Phúc Âm hoá loan báo Tin Mừng cho 93% người Việt Nam
chưa biết Chúa, đem tinh thần Phúc Âm thấm nhập mọi lĩnh vực đời sống, góp phần
xây dựng một xã hội lành mạnh theo những giá trị Tin Mừng và truyền thống văn
hoá của dân tộc. (Số 5).
Năm Đức Tin giúp cho Giáo Hội trở về cội nguồn của mình là chính
Chúa Kitô và Tin Mừng của Chúa. Nhờ đó có thể canh tân đời sống và cách làm
việc, nhằm thể hiện tốt đẹp hơn Sứ vụ Loan báo Tin Mừng.
Truyền giáo là chia sẻ cuộc sống, một cuộc sống như chính Chúa
Giêsu đã sống, là yêu thương mọi người, và yêu thương đến cùng (x. Ga 13,11),
yêu thương đến nỗi dám chấp nhận hy sinh tính mạng cho những người mình yêu (x.
Ga 15,13). Truyền giáo đồng nghĩa với làm chứng cho Chúa Kitô (x. Lc 24, 47,
48, Cv 1,8) bằng đời sống theo gương của Người.
A. Truyền Giáo theo gương Chúa Giêsu
Giáo Hội luôn trong nỗ lực loan báo Tin mừng của Chúa Giêsu cho
toàn thể thế giới. Công đồng Vatican II đã phác họa hướng đi mục vụ truyền
giáo: "Vui mừng và hy vọng, buồn sầu và lo sợ của con người ngày hôm nay,
nhất là của người nghèo khổ, bị ruồng bỏ quên lãng, cũng là niềm vui, hy vọng,
nỗi buồn sầu lo lắng của môn đệ Chúa Kitô... "( Hiến chế Giáo hội, số 1).
Sứ vụ truyền giáo của Giáo hội thời nào và ở đâu cũng bắt đầu từ
mẫu gương Chúa Giêsu.
Khi đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu ưu tiên để ý đến những
người nghèo, người tội lỗi, người ngoại và những người bệnh tật. Chúa Giêsu áp
dụng vào chính mình những lời tiên tri Isaia xưa đã nói: "Thần Khí Chúa
ngự trên tôi, Chúa đã xức dầu tấn phong tôi. Sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho
kẻ nghèo hèn" (Lc 4,17-20). Chúa Giêsu cũng đã xác định: "Thầy đến
không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi"
(Mt 9,13).
Chúa Giêsu nói với người phụ nữ ngoại giáo Samaria: "Này
chị, hãy tin tôi: Đã đến giờ, các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên
núi này hay tại Giêrusalem... Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ
những người thờ phượng đích thực sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và trong sự
thực. Vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế" (Ga 4,21-24).
Suốt đời, Chúa Giêsu đã sống gần gũi với 4 hạng người: người
nghèo, người tội lỗi, người ngoại và những người bệnh tật. Chúa Giêsu đến với
họ, cho họ thấy, Người rất thương họ, và tình thương đó là vô hạn, vô cùng. Thương
đến đổ máu mình ra, chết cho họ, chết thay cho họ, và cho mọi người. Chúa Giêsu
hiến thân đến tột cùng vì tình yêu. Chính ở điểm hiến thân trên thánh giá mà
Người làm vinh danh Chúa Cha, và chính Người được tôn vinh. Chúa Giêsu đã nói
trước khi hiến tế: "Lạy Cha, giờ đã đến. Xin Cha tôn vinh Con Cha, để con
Cha tôn vinh Cha" (Ga 17,1).
Chúa Giêsu muốn các môn đệ cũng hãy theo gương Thầy, đem Tin
Mừng đến cho 4 hạng người đó.
Đây cũng là sứ mạng truyền giáo của mỗi kitô hữu.
ĐGH Gioan Phaolô II đã khẳng định trong Thông điệp 'Sứ Vụ Đấng
Cứu Độ': "Truyền giáo là trình bày tình yêu của Thiên Chúa được tỏ bày
trong Đức Giêsu Kitô. " (số 2)
Nói cách khác, truyền giáo là yêu như Chúa Giêsu yêu. Chúa dành
tình yêu đặc biệt cho 4 hạng người: người ngoại, người tội lỗi, người bệnh tật
và người nghèo. (x. Nhật ký truyền giáo, Lm Piô Phúc Hậu).
1) Yêu thương Lương dân
Chúng ta phải yêu thương và kính trọng Lương dân theo gương Chúa
Giêsu.
- Chúa Giêsu về thăm quê hương Nazareth. Đồng hương đang niềm nở
đón tiếp Chúa thì bổng dưng đổi thái độ. Họ đã đảo và đòi giết Chúa vì Chúa đề
cao người ngoại, coi người ngoại hơn người đạo (Do Thái Giáo). "Vào thời
Êlia, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội,
thiếu gì bà góa trong nước Itrael, thế mà ông không được sai đến giúp một bà
nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà góa thành Sarépta miền Siđôn. Cũng vậy,
vào thời ngôn sứ Êlisa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Itrael, nhưng
không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman người xứ Syri thôi" (Lc 4,
25-37).
- Tại Caphanaum, Chúa đã đề cao một viên sĩ quan người ngoại, đề
cao đến mức độ có thể bị hiểu lầm: "Tôi chưa thấy một niềm tin nào như thế
trong dân tộc Israel" (Lc 7,9). Tại miền Tia và Xiđon, Chúa đề cao niềm
tin người đàn bà xứ Canaan: "Này bà, lòng tin của bà lớn thật. "(Mt
15,21-28). Chúa Giêsu từng ngỡ ngàng trước lòng tin của viên bách quản (Mt
8,10-11). Giờ đây Chúa đối diện với lòng tin của một người mẹ thương con. Chính
tình thương thêm sức mạnh cho lòng tin, khiến lòng tin trở nên kiên trì, bất chấp
thinh lặng và từ chối. Lòng tin không mất hy vọng ngay khi có vẻ chẳng còn gì
để hy vọng. Lòng tin mạnh mẽ và khiêm hạ của người mẹ đã chinh phục Chúa
Giêsu,và cuối cùng đã chạm được vào trái tim của Chúa.
Thật ra ttrong nước Israel có nhiều người có niềm tin lớn hơn
ông sĩ quan, người mẹ Canaan ấy nhiều. Bà Êlisabeth, Gioan Tẩy Giả, thánh Giuse
và Đức Mẹ đều là người Israel. Chúa cường điệu lời khen để ta thấy Người thương
người ngoại đến mức độ nào.
- Dụ ngôn người Samari tốt lành (Lc 10, 29-37) đề cao người
ngoại hơn cả mấy ông trợ tế và tư tế. Đặc biệt là khi Chúa nói với ông kinh sư
bậc thầy của Do Thái giáo: "Ông hãy về và làm như thế!". Làm như thế
tức là noi gương một người ngoại.
- Khi Chúa cho 10 người phong cùi được khỏi, chỉ có một người trở
lại cám ơn Chúa. Chúa bảo: "Không phải cả mười người được sạch sao? Thế
thì 9 người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có
người ngoại đạo này?" (Lc 17,17-18).
2) Yêu thương người tội lỗi.
Trong lịch sử loài người, từ trong gia đình ra ngoài xã hội, từ
trong đạo ra tới ngoài đời, Chúa Giêsu yêu thương trìu mến người tội lỗi nhất.
Thánh vịnh 100, đòi "quét sạch thành đô, những đứa làm điều
ác, không sót một tên". Luật Do Thái loại trừ người tội lỗi, không cho tín
đồ liên hệ với họ.
Còn Chúa Giêsu:
- Đề cao người phụ nữ tội lỗi hơn ông Simon biệt phái.
- Dụ ngôn con chiên bị mất (Lc 15,4-7) cho thấy chủ chăn khi tìm
được con chiên lạc (người tội lỗi), không mắng, không đánh, mà còn âu yếm vác
lên vai đưa về và còn mở tiệc mừng.
- Dụ ngôn người cha nhân từ (Lc 15,11-32) cho thấy, Chúa yêu
người tội lỗi tới mức nào. Chỉ thấy đứa con sám hối và trở về mà người cha quên
hết bao tội lỗi của nó. Cha làm tiệc mừng vì con trở về. Cha đã quên con ngỗ
nghịch phá tan tài sản với bọn đàng điếm.
- Yêu người tội lỗi, để cứu họ, Chúa đã phải trả giá rất cao. Khi
Chúa vào nhà ông Giakêu, thánh Luca đã ghi lại: "mọi người xầm xì với
nhau: ông này lại vào trong nhà người tội lỗi".
3) Yêu người bệnh tật
Bệnh tật là một trong bốn nỗi khổ của kiếp người. Nó gắn liền
với đời người vốn là hữu hạn.
Chúa Giêsu luôn tỏ ra đặc biệt quan tâm tới những người yếu đau.
Nhiều câu chuyện chữa lành tuyệt vời được kể lại:
- "Thiên hạ đem đến cho người mọi kẻ ốm đau, mắc đủ thứ
bệnh hoạn tật nguyền, những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt; và Người đã
chữa họ. " (Mt 4, 24).
- "Chúa Giêsu trên núi đi xuống, đám đông lũ lượt đi theo
Người. Và kìa, một người phong hũi tiến lại... Người giơ tay đụng vào anh và
bảo, tôi muốn, anh sạch đi. Lập tức, anh được sạch bệnh phong hủi. " (Mt
8, 1-3) -"Chúa Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các
hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa các bệnh hoạn tật nguyền.
" (Mt 9, 35) -"Ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy một đoàn người đông
đảo thì chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân của họ". (Mt 14, 14)
-"Có những đám người đông đảo kéo đến cùng Người, đem theo những kẻ què
quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc và nhiều bệnh nhân khác nữa. Họ đặt những kẻ ấy
dưới chân Người và Người chữa lành... (Mt 15, 30) -"Chúa Giêsu chữa nhiều
kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì
chúng biết Người là ai. " (Mc 1, 34)
- "Chính giờ ấy, Chúa Giêsu chữa nhiều người khỏi bệnh hoạn
tật nguyền, khỏi quỷ ám và ban cho nhiều người mù được thấy... " (Lc 7,
21)
Quan niệm của Cựu Ước cho rằng bệnh gắn liền với tội. Bệnh tật
như là một sự trừng phạt bởi tội lỗi gây ra. Vì thế, người ta xa lánh bệnh
nhân, nhất là bệnh phong cùi. Đó là một bệnh nan y bị mọi người kinh tởm, không
chỉ vì sự dơ bẩn "ô uế theo luật Do thái", hay lây nhiễm, mà còn bị
xa lánh như kẻ tội lỗi. Chính các Tông đồ vẫn còn mang cái nhìn ấy khi hỏi
Chúa, người mù từ khi mới sinh là do tội của anh hay gia đình anh. (x. Ga 9,
2-3). Chúa đã trả lời không bởi tội, nhưng để làm vinh danh Thiên Chúa.
Chúa yêu người bệnh tật, và cứu họ khỏi nỗi đau thân xác tâm hồn.
Thần học Do thái giáo cho rằng bệnh tật là hậu quả của tội. Chúa phản đối điều
đó. Cứ mỗi lần Chúa chữa bệnh, Chúa lại gánh lấy nỗi khổ nhân loại.
Chúa đã thông truyền khả năng chữa lành cho các tông đồ:
"Rồi Chúa Giêsu gọi mười hai môn đệ lại, ban cho các ông được quyền trên
các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền"
(Mt 10, 1). Khi sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, Chúa cũng ra lệnh chăm
sóc bệnh nhân: "Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống
lại, cho người phong hủi được sạch và khử trừ ma quỷ". (Mt 10, 8). Sứ vụ
loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu gắn liền với sứ vụ chăm sóc bệnh nhân. Chính
các tông đồ nối tiếp công việc của Chúa Giêsu, vừa truyền giáo vừa chữa lành.
4) Yêu người nghèo
Chúa yêu người nghèo và kêu gọi người giàu chia cơm sẻ áo cho
người nghèo. Ai giúp người nghèo thì Chúa bảo là đã giúp Chúa. Ai từ chối người
nghèo, thì Chúa bảo là từ chối Chúa (Mt 25, 31-46). Người giàu mà chỉ lo ăn
xài, chứ không lo chia cơm xẻ áo thì Chúa gọi là đồ ngốc (Lc 12,20).
Yêu người ngoại, yêu người tội lỗi, yêu người nghèo và người
bệnh tật như thế là truyền giáo theo gương Chúa Giêsu.
B. Truyền Giáo như Mẹ Maria
Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Hội Thánh và là Ngôi Sao dẫn đường loan
báo Tin Mừng (x. Sứ điệp Truyền Giáo 2012).
Truyền giáo là đem Chúa Giêsu đến cho tha nhân. Mẹ Maria là nhà
truyền giáo đúng nghĩa nhất. Mẹ đã đón nhận Con Thiên Chúa và đưa Người vào
trong thế gian. Đó là Tin Mừng.
Sứ vụ truyền giáo là sứ vụ của người mang tin vui, tin cứu độ,
tin được Thiên Chúa đoái thương.
Người truyền giáo là người được Chúa Thánh Thần tác động và làm
trổ sinh hoa trái giống như Mẹ: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền
năng Đấng Tối Cao sẽ ngự xuống trên Bà" (Lc 1, 35). Hoa trái của Chúa
Thánh Thần là "hoan lạc, bình an... ". Hân hoan trong Thánh Thần, từ
đó: "Đức Maria lên đường vội vã" thăm Êlisabet (Lc 1,39), gợi lại
hình ảnh ngôn sứ Isaia tiên báo: "Đẹp thay trên núi đồi bước chân người
loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ
và nói với Sion rằng: "Thiên Chúa ngươi là vua hiển trị" (Is 52,7). Đức
Maria mang trọn niềm vui Đấng Cứu Độ mà nhân loại đón đợi. Đức Maria trở nên
người loan báo Tin Mừng vì Mẹ mang trọn niềm vui Chúa Thánh Thần. Ai để cho
Chúa Thánh Thần hoạt động trong cuộc đời của mình cũng là người mang trọn niềm
vui loan báo.
Đức Maria còn là người công bố Tin Mừng: "Đấng Toàn Năng đã
làm cho tôi những điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn" (Lc 1,
49). Thấy được tình thương Thiên Chúa thể hiện trong cuộc đời mình nên lời công
bố mang một niềm tin xác tín, đã gặp và đã thấy.
Để trở thành người loan Tin Mừng, Đức Maria đã "hằng ghi
nhớ tất cả những điều ấy trong lòng" (Lc 3,51). Cầu nguyện là chiêm ngắm
những điều Thiên Chúa đã thực hiện nơi mình. Cầu nguyện là cuộc trao đổi, đối
thoại giữa những khó khăn và thử thách. Đức Maria trở thành người công bố Tin
Mừng, bởi Mẹ đã chiêm ngắm công trình của Thiên Chúa thực hiện cho dân tộc, cho
chính Mẹ.
Đối với Đức Maria, truyền giáo là đem chính Chúa Giêsu cho nhân
loại.
Chúa Giêsu là lẽ sống, là hạnh phúc, là niềm vui của cuộc đời
mỗi kitô hữu. Chúng ta phải xác tín như Đức Maria: "Linh hồn tôi ngợi khen
Đức Chúa" (Lc 1, 46). Tràn ngập niềm hân hoan bởi Mẹ đã gặp thấy và cưu
mang chính niềm vui có Chúa Giêsu trong lòng Mẹ. Đức Maria reo ca: "Thần
trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi" (Lc 1, 47). Đức
Maria đã cưu mang chính Chúa Giêsu, quà tặng tuyệt hảo nhất của Thiên Chúa,
nguồn ơn cứu rỗi duy nhất, công bố, trao tặng cho nhân loại.
Đức Maria luôn đặt mình dưới sự bảo trợ hoạt động của Chúa Thánh
Thần.
Đức Maria là công trình tuyệt hảo của Chúa Thánh Thần.
Người truyền giáo cũng như thế, không thể tách rời Chúa Thánh
Thần với hoạt động của mình được. Ai có thể chinh phục sự sâu thẳm của lòng
người quy hướng về Thiên Chúa, nếu đó không phải là tác động của Chúa Thánh
Thần?
Giáo Hội không truyền giáo bằng cách áp đặt, cưỡng chế những
người khác theo mình. Giáo Hội cũng không mua chuộc bằng tiền của bằng quyền
lợi hay bằng những hứa hẹn. Giáo Hội cũng không dụ dỗ người khác theo đạo.
Truyền giáo hôm nay phải là giới thiệu, là trình bày, là minh
họa, là thuyết phục. Chúng ta giới thiệu Chúa Giêsu cho những anh chị em mà
mình gặp gỡ hàng ngày nơi môi trường mính sống và làm việc.
Truyền giáo là giới thiệu Chúa cho anh chị em mình bằng chính
đời sống chứng tá yêu thương dưới sự bảo trợ của Mẹ Maria. Hy vọng mỗi người
chúng ta cũng có thể nói được như người Công Giáo Hàn Quốc với đồng bào lương
dân của mình: "Anh chị em cứ nhìn chúng tôi sống thế nào, thì anh chị em
bắt chước mà sống như thế".
C. Vài gợi ý thực hành.
Đức Tin là một ân huệ được ban cho chúng ta để chia sẻ cho người
khác; là một nén bạc chúng ta nhận được để sinh lời; là ánh sáng không được đem
giấu đi, nhưng phải soi sáng cho cả nhà. Đức Tin là ân huệ quan trọng nhất được
ban cho cuộc đời chúng ta mà chúng ta không được phép giữ lại cho riêng mình. (Sứ
điệp Truyền Giáo 2012).
Cách riêng, trong hoàn cảnh xã hội ngày nay, đức tin của người
Công giáo cần được thể hiện qua việc thực thi bác ái. Đức Tin và Đức Mến cần
đến nhau và hỗ trợ cho nhau: "Chính đức Tin giúp chúng ta nhận ra Chúa
Kitô và chính tình yêu Chúa thôi thúc chúng ta chạy đến phục vụ Chúa mỗi khi
Người trở thành người thân cận của chúng ta trên nẻo đường cuộc sống". Được
Lời Chúa soi sáng và tình yêu Chúa thấm nhập trong suy nghĩ cũng như hành động,
chúng ta sẽ trở nên những chứng tá đáng tin trong xã hội ngày nay. (Thư Năm Đức
Tin HĐGMVN, số 7).
Thực thi sứ vụ truyền giáo trong Năm Đức Tin bằng cách:
- Mỗi Giáo xứ khởi động phong trào: mỗi thành viên phải làm sao
giúp cho một người khác theo đạo.
- Mỗi giáo dân nên kết thân với một Lương dân. Mỗi gia đình kết
thân với một gia đình bên Lương. Kết thân để cầu nguyện, nâng đỡ nhau.
- Các hội đoàn đi tìm người tội lỗi và người nghèo trong địa
phương của mình. Nên có một danh sách cụ thể. Sau đó sẽ cùng nhau thăm viếng,
an ủi và giúp đỡ.
16. Truyền giáo theo gương Mẹ Têrêsa.
(Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt)
Hôm nay, toàn thể Giáo Hội cầu nguyện cho việc truyền giáo. Ngày
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ nhị tuyên phong Mẹ Têrêxa lên bậc Chân Phúc mà ta
quen gọi là Á thánh cũng là ngày cầu nguyện cho việc truyền giáo. Và Đức Thánh
Cha khuyên nhủ chúng ta hãy truyền giáo theo gương Mẹ Têrêxa. Vậy Mẹ Têrêxa là
ai và Mẹ đã truyền giáo như thế nào?
1- CUỘC ĐỜI
Mẹ Têrêxa sinh tại nước Anbani cũ. Mẹ đã xin gia nhập dòng Đức
Mẹ Loretto và được sai đi Ấn độ để phục vụ nguơì nghèo. Khi đến Ấn độ, Mẹ được
chứng kiến cả một đại dương mênh mông những người nghèo đói. Trẻ sơ sinh bị bỏ
rơi nằm la liệt ngoài đường. Những người già cả bệnh tật nằm chờ chết bên những
đống rác, và khi chết, bị vất vào đống rác như một con thú vật. Xúc động trước
cảnh nghèo khổ. Mẹ lăn xả vào phục vụ người nghèo. Việc đầu tiên là mở những
trung tâm đón tiếp, đưa những người hấp hối ngoài đường về, săn sóc để họ được
chết như một con người. Rồi mở cửa nhà cô nhi nuôi dưỡng trẻ em bị bỏ rơi. Rồi
mở bệnh viện chăm sóc chữa trị những người nghèo khổ. Rồi mở trường cho trẻ em
nghèo đến học. Công việc càng ngày càng phát triển. Số người theo giúp Mẹ càng
ngày càng đông. Chẳng bao lâu, một dòng mới được thành hình với tên Nữ tử Thừa
sai Bác ái. Ngoài 3 lời khấn như những nữ tu khác, còn có lời khấn phục vụ
người nghèo. Mẹ được thế giới biết tiếng. Cả thế giới gọi Mẹ là Mẹ Têrêxa. Khi
Mẹ qua đời, 80 nhà lãnh đạo quốc gia trên toàn thế giới, trong đó có phu nhân
tổng thống Mỹ Bill Cliton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac đã đến
nghiêng mình kính cẩn trước thi hài của Mẹ. Nước Ấn độ có đa số dân theo Ấn độ
giáo, vốn không ưa đạo Công giáo, thế mà đã nghi thức quốc táng cho Mẹ,đã bắn
hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn Mẹ về thiên đàng.
2- TRUYỀN GIÁO
Mẹ Têrêxa đã truyền giáo cách nào mà thành công như thế? Thưa,
Mẹ đã dùng 4 phương cách sau:
Phương cách thứ nhất: cầu nguyện. Có nhiều người tưởng Mẹ Têrêxa
là con người hoạt động. Không phải thế. Trước hết Mẹ là con người cầu nguyện. Những
giờ cầu nguyện triền miên phát xuất từ nỗi niềm khao khát Chúa. Cầu nguyện đã
đưa Mẹ đến phục vụ người nghèo. Rồi việc phục vụ người nghèo đã đưa Mẹ trở về
với kinh nguyện. Dòng chảy cầu nguyện liên lỷ không bao giờ ngừng. Có thể nói
cuộc đời Mẹ là cuộc đời chiêm niẹm trong hoạt động.
Phương cách thứ hai: thấm nhuần Lời Chúa. Mẹ tha thiết yêu mến
Lời Chúa. Lời Chúa thấm vào tận mạch máu thớ thịt, để Mẹ suy nghĩ, nói năng và
hành động theo Lời Chúa. Mẹ thường nói: Lời Chúa phải ở trên đầu ngón tay ta. Theo
Mẹ 5 từ ngữ quan trọng khắc ghi tên 5 đầu ngón tay của Mẹ là: You did it for me.
Đó là 5 từ tóm tắt 25 chương Tin Mừng theo thánh Mátthêu: “Mỗi lần các con làm
những việc này cho một trong những anh em bé nhỏ nhất, đó là các con làm cho
Thày”.
Phương cách thứ ba: yêu mến người nghèo. Nơi Mẹ, yêu mến người
nghèo không phải là cảm tính nhất thời. Yêu mến người nghèo thực sự phát xuất
từ một đức tin sâu xa. Tin thật Thiên Chúa đang ở trong nhưng người nghèo. Vì
yêu mến người nghèo Mẹ đã tự nguyện sống nghèo. Mẹ sống trong một căn phòng đơn
sơ, chỉ có một chiếc giường, một bàn nhỏ, một ngọn đèn và một chậu nước.
Phương cách thứ tư: phục vụ bằng tình yêu. Vì tin Chúa đang ngự
trong người nghèo, nên phục vụ người nghèo chính là phục vụ Chúa. Vì thế, phục
vụ người nghèo là một bổn phận phải thực hiện trong khiêm nhường. Phải phục vụ
một cách kính cẩn. Phải phục vụ bằng tình yêu.
Giữa thế kỷ 20 tôn trọng vật chất, quay lưng lại với đời sống
tâm linh, Mẹ Têrêxa đã trở nên một nhân chứng sống động của thế giới thần linh.
Giữa nước Ấn độ xa lạ với Kitô giáo, Mẹ Têrêxa đã trình bày được khuôn mặt dễ
thương dễ mến của Chúa, làm cho mọi người yêu mến đạo Cháu. Mẹ xứng danh là nhà
truyền giáo của thế kỷ 20. Giữa những bế tắc Mẹ đã khai thông một lối đi. Lối
đi vào thẳng trái tim con người. Trong bóng tối dày đặc, Mẹ đã thắp lên một
ngọn đèn. Ngọn đèn đó chiếu lên ánh sáng niềm tin. Giữa trần gian lạnh lẽo, Mẹ
đã đốt lên ánh lửa yêu mến. Ánh lửa đó sưởi ấm tình người.
Năm 2004 sắp tới được Hội đồng Giám mục Việt Nam chọn làm Năm
Truyền Giáo. Chúng ta hãy noi gương Mẹ Têrêxa, biết tha thiết cầu nguyện, biết
yêu mến Lời Chúa, nhất là biết yêu mến người nghèo và biết phục vụ bằng tình
yêu. Để mỗi người Công giáo thực sự là một ngọn đèn chiếu toả ánh sáng của Chúa.
Để mỗi người Công giáo là một niềm vui cho những người chung quanh.
Lạy Chân Phúc Têrêxa, xin cầu cho chúng con. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Mẹ Têrêxa đã truyền giáo bằng những phương cách nào?
2- Trong hoàn cảnh của bạn, bạn có thể thực hiện phương cách nào
trong 4 phương cách của Mẹ Têrêxa để truyền giáo?
3- Qua cuộc đời Mẹ Têrêxa, bạn thấy ngày nay còn có thể truyền
giáo được không?
17. Tinh thần truyền giáo (Lc 18, 1-8)
(Trích trong ‘Với Cả Tâm Tình’ – ĐGM. Vũ Duy Thống)
“Không biết khi Con Người đến, liệu còn gặp thấy niềm tin trên
mặt đất nữa không?”. Trang Tin Mừng hôm nay được kết thúc như thế.
Có thể đó là câu hỏi một thoáng bâng khuâng Chúa Giêsu thốt lên
cho riêng mình Người. Cũng có thể đó là câu hỏi dự báo một tình huống không vui
Chúa Giêsu cảnh giác cho các môn đệ. Có khi câu hỏi đó đợi chờ một lời đáp tích
cực mở ra cho lối sống đức tin lạc quan. Và biết đâu, câu hỏi đó lại chẳng tố
giác một thực trạng tiêu cực đang dần dà bào mòn niềm tin tôn giáo?
Nhưng đặt trong bối cảnh của Chúa Nhật cầu cho việc truyền giáo,
theo tinh thần của các bài đọc, câu hỏi ấy đã ẩn chứa một lời giải đáp. Đó là:
để lòng tin còn mãi trên mặt đất, mọi thành phần của Dân Chúa cần phải sống
tinh thần truyền giáo.
1) Tinh thần truyền giáo ấy được nuôi dưỡng bằng sự dung hòa
giữa cầu nguyện và hoạt động.
Nói đến truyền giáo người ta thường nghĩ là phải dấn thân làm
việc truyền giáo, và ai càng làm được nhiều, người ấy lại càng được xem là nhà
truyền giáo lớn. Thực ra, quan niệm ấy cũng đúng, nhưng không đủ, bởi dù không
phủ nhận những kết quả lớn lao trong lịch sử Giáo Hội do hoạt động truyền giáo
mang lại, nhưng bao giờ cũng thế, bên trong những hoạt động ấy còn là cả một
tinh thần cầu nguyện tích cực của bản thân các nhà truyền giáo cũng như của mọi
thành phần Dân Chúa.
Thiếu cầu nguyện, hoạt động sẽ không kết quả, hoặc sẽ lái kết
quả sang một hướng khác có nguy cơ “sáng danh tôi, tối Danh Chúa”. Vắng cầu
nguyện, hoạt động có thể trở thành nguy hại, nó đồng nghĩa với náo động nếu
không muốn nói là khua động ầm ĩ hoặc khuấy động ồn ào. Quên cầu nguyện, hoạt
động chỉ là hời hợt mang tính phong trào bùng lên đó nhưng rồi cũng lịm tắt đó.
Bạo phát bạo tàn, mau xộp mau xẹp! Bỏ cầu nguyện, hoạt động coi chừng chỉ còn
là một việc cá nhân, dẫu bỏ ra nhiều công sức, nhưng vẫn không phải là hoạt
động của Hội Thánh vốn luôn được nuôi dưỡng phong phú bởi nguồn ơn Chúa Thánh
Thần.
Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động truyền giáo. Nó đem đến cho
những hoạt động một sức sống kín múc tận nguồn sứ mạng.
Bài đọc thứ nhất kể lại một hình ảnh sống động cho thấy mối tương
liên không thể tách rời giữa việc Môsê giơ tay cầu nguyện và việc Giosuê đánh
bại quân Amalếch. Khi Môsê hạ tay xuống, sức mạnh của ông Giosuê không còn nữa,
nhưng khi ông giơ tay lên, phần thắng đã nghiêng về phía Giosuê. Chiến thắng ấy
không riêng của Môsê hay riêng của Giosuê, mà là của Môsê cùng với Giosuê, là
dung hòa của cầu nguyện và hoạt động, là tổng hợp của ơn thánh Chúa và nỗ lực
con người.
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã được mừng kính vào đầu tháng
mười này cũng là một hình ảnh khác minh họa cho sự dung hòa giữa cầu nguyện và
hoạt động truyền giáo. Chín năm khuôn mình trong nhà kín Lisieux, chưa hề làm
việc truyền giáo bên ngoài, thế nhưng chỉ bằng hy sinh cầu nguyện cho các vị
thừa sai và cho công cuộc rao giảng Tin Mừng, thánh nữ đã được Giáo Hội đặt làm
Bổn Mạng các xứ truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê một đời bươn
chải giảng giải đạo Chúa đến tận miền xa Châu Á.
Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo, nên có thể nói được rằng
không bao giờ Giáo Hội thôi truyền giáo. Bốn phần năm dân số địa cầu chưa biết
Chúa, nên Giáo Hội phải truyền giáo đã đành, nhưng ngay cả một phần năm đã biết
Chúa, Giáo Hội cũng phải tái truyền giáo nữa. Xem như thế, truyền giáo vừa là
sứ mạng, vừa là số mạng, tức là sự sống còn của Giáo Hội. Và tinh thần truyền
giáo ấy một khi được hun đúc đều đặn bằng cầu nguyện và hoạt động, ta có quyền
hy vọng khi Chúa Kitô đến, Người vẫn thấy niềm tin trên mặt đất.
2) Tinh thần truyền giáo ấy được thể hiện khi thuận tiện cũng
như lúc không thuận tiện.
Được nuôi dưỡng bằng cầu nguyện dung hòa với hoạt động cây
truyền giáo nhất định sẽ vươn lên, nhưng không thể không biết đến yếu tố thời
tiết, mưa thuận gió hòa, hoặc nắng hạn mưa giông. “Nhất nước nhì phân tam cần
tứ giống”, đó là kinh nghiệm trồng cây. Song một cây lành như cây truyền giáo
phải biết chứng minh bằng phẩm chất của mình. Nói khác đi, tinh thần truyền
giáo cũng phải được chứng minh bằng chí bền sứ mạng, nghĩa là vừa kiên tâm thực
hiện những điều tốt, vừa kiên gan chịu đựng ngay cả những điều xấu nữa (thánh
Augustinô), phải bền chí khi thuận tiện cũng như khi không thuận tiện.
Khi thuận tiện là khi chí bền truyền giáo giúp ta tỉnh táo đừng
để mất mình trong hoạt động đến nỗi quên đi cầu nguyện, giúp ta phân biệt rõ
ràng đâu là đóng góp nhỏ nhoi của mình và đâu là ơn ban vô cùng to lớn của
Thiên Chúa, và còn mãi giúp ta không chạy theo những thành công trước mắt để
sau này khỏi phải trả giá đắng cay trắng tay thất vọng. Trong một chừng mực nào
đó, biết đâu lối sống của ông thẩm phán bạo ngược “chẳng kính sợ Thiên Chúa mà
cũng chẳng coi ai ra gì” trong bài Phúc Âm lại chẳng có vài tương đồng với quan
niệm háo thắng hoặc đắc thắng của cách truyền giáo thời Trung cổ, vốn xem Kitô
giới như một xã hội lý tưởng, nên cố mà đưa người ta vào bằng chinh phục (truyền
giáo) hoặc gắng mà ép người ta về bằng cả chinh phạt nữa (thập tự chinh)?
Xem ra kiên tâm thực hiện những điều tốt trong truyền giáo vào
thời thuận tiện cũng không ít vấn đề.
Khi không thuận tiện là khi chí bền truyền giáo không chỉ giúp
ta chịu đựng những khắc nghiệt thường xuyên, mà còn giúp ta biết tận dụng hoàn
cảnh để mà thanh luyện tâm hồn. Nếu những hoạt động phải chấp nhận giới hạn
ngoài ý muốn, thì chí bền như một mạch điện tự động “kiểm soát lợi suất” sẽ bù
lại những giới hạn ấy bằng một thao thức phong phú của lời nguyện cầu. Và nếu
như hoàn cảnh cụ thể không cho phép có một hoạt động bên ngoài nào nữa, thì vẫn
còn đó mênh mông một phương tiện truyền giáo bằng gương sáng tình mến, bằng
chứng tá đức tin và bằng cách sống tốt đẹp đời Kitô của mình.
Điều đáng sợ không phải là hoàn cảnh khắc nghiệt, mà là chính
mình không đủ chí bền mà vượt qua những khắc nghiệt ấy. Trong ý tưởng này, có
lẽ rất thích hợp khi đặt hình ảnh người đàn bà góa bụa của bài Phúc Âm, nhiều
lần đến quấy rầy ông thẩm phán mong được minh xét minh định minh oan, ở đây như
một cổ võ sống động cho chí kiên bền.
Và dầu hoàn cảnh thuận tiện hay không (bài đọc thứ hai), chí
truyền giáo thiết tưởng cũng là biểu tỏ của niềm hy vọng, là tình mến khởi đi
từ một đức tin sống động vào Thiên Chúa là Cha nhân ái luôn muốn sự tốt lành
trong ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Được như thế, chắc chắn khi Chúa Kitô trở
lại vẫn thấy niềm tin còn trên mặt đất trong chí bền của Giáo Hội là thân mình
Người.
Ước mong rằng suy nghĩ trên sẽ trở nên ý lực cho cuộc sống và
trở nên ý nguyện trong Ngày Thế Giới Truyền Giáo hôm nay.
18. Sứ mạng truyền giáo
(ĐTGM. Phaolô Bùi Văn Đọc - Bài Giảng Thánh Lễ Đại Hội Truyền
Giáo - tại Trung Tâm Mục vụ Sài Gòn)
1. Giáo Hội tự bản chất có sứ vụ truyền giáo (x. AG,2). Chúa
Giêsu Phục Sinh, khi hiện ra với các Tông đồ, đã trao sứ vụ của Người lại cho
Giáo hội: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy sai anh em” (Ga 20,21). “Nói xong, Người
thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hay nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22).
Chúa Giêsu đã trao sứ vụ truyền giáo lại cho chúng ta, và Người
cũng đã ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta, cho tất cả chúng ta, không trừ một
ai, cho mọi thành viên của Giáo hội, mọi người đã chịu Phép Rửa và trở thành
môn đệ của Chúa.
2. Có lẽ một số đông người Công giáo Việt Nam chưa hiểu mình có
sứ mạng truyền giáo, chưa xác tín về sứ mạng, chưa đón nhận sứ mạng từ nơi Chúa.
Dịp Đại hội Truyền giáo của Giáo phận Sài Gòn hôm nay, chúng ta hãy nhắc lại
cho nhau lệnh truyền của Chúa:
- “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho
mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ” (Mc 16,15-16).
- “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép
rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều
Thầy đã truyền dạy cho anh em” (Mt 28,19-20).
- “Chúa Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thư ba, từ cõi chết
sống lại và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân. Chính anh em là
chứng nhân về những điều ấy” (Lc 24,46-48).
3. Cả bốn sách Tin Mừng cho chúng ta thấy rõ ý nghĩa của việc
truyền giáo, thấy nội dung sứ vụ mà Chúa Giêsu trao cho Giáo hội.
Trước hết, truyền giáo là loan báo Tin Mừng về tình yêu của
Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đã làm. Ngài không những đã hăng say loan báo
tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người Ngài gặp gỡ, mà còn hy sinh mạng sống để
làm chứng cho tình yêu đó. Hơn thế nữa, Ngài mạc khải tình yêu đó, nhập thể
tình yêu đó nơi chính bản thân mình. Ngài là hiện thân của Tình Yêu Thiên Chúa.
Nơi Ngài tình yêu đó đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vì thế sứ điệp Tin Mừng
Nước Thiên Chúa trở thành Tin Mừng Phục Sinh, Niềm Hy vọng cho toàn thể nhân
loại.
4. Truyền giáo còn bao gồm việc thiết lập và xây dựng Giáo hội,
bắt đầu bằng việc gầy dựng những cộng đoàn các môn đệ của Chúa. Rồi mạnh dạn
thúc đẩy các cộng đoàn ấy “làm chứng cho Chúa” hoặc bằng lời nói, hay bằng
những việc lành, bằng chính đời sống huynh đệ, đời sống bác ái yêu thương, như
lời Chúa dạy: “Cứ dấu này, người ta nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh
em yêu thương nhau” (Ga 13,35).
5. Dĩ nhiên cách truyền giáo trong thế giới hôm nay không thể
nào rập khuôn với những cách làm của cha ông, vì sứ vụ của chúng ta là đưa Tin
Mừng của Chúa vào các môi trường khác nhau của xã hội hôm nay. Có những môi
trường rất khó thâm nhập, mặc dù chính những nơi ấy rất cần những hạt giống Tin
Mừng, như môi trường giáo dục, môi trường y tế, môi trường kinh doanh, môi
trường xã hội đen, môi trường của những con người khốn khổ…, cả môi trường
chính trị nữa.
Chúng ta không truyền giáo bằng cách áp đặt, cưỡng chế những
người khác theo chúng ta. Chúng ta cũng không mua chuộc bằng tiền của, hay bằng
quyền lợi, bằng những hứa hẹn. Chúng ta cũng không dụ dỗ, như người ta dụ dỗ vị
thành niên.
6. Truyền giáo hôm nay phải là giới thiệu, là trình bày, là minh
họa, là thuyết phục. Chúng ta giới thiệu Chúa Giêsu cho những người chúng ta
gặp. Chúng ta đừng sợ: sự nhút nhát của chúng ta có hậu quả rất lớn. Nhiều
người mất cơ hội để biết Chúa. Hãy mạnh dạn như anh em Tin Lành. Họ ít khi bỏ
lỡ cơ hội để nói về Chúa.
Một thống kê khá chính xác ở Trung Quốc cho thấy một sự khác
biệt quá lớn giữa sự dấn thân truyền giáo của anh em Tin Lành và người Công
Giáo: năm 1815, cách đây gần 200 năm, số người công giáo ở Trung Quốc là 215. 000
người, số người Tin lành chỉ có 20 người. Hơn 10. 000 người Công giáo mới có 1
người Tin Lành. Nhưng thống kê năm 2006 cho biết ở Trung Quốc có 12 triệu người
Công giáo, và có tới 36 triệu người Tin Lành, có nghĩa là 3 người Tin Lành mới
có 1 người Công giáo.
7. Hãy dùng mọi phương tiện lành mạnh chúng ta có được để loan
báo Tin Mừng, phần còn lại Chúa Thánh Thần sẽ bổ túc cho, vì Chúa Thánh Thần
mới là tác nhân chính của việc truyền giáo. Ngài sẽ làm những việc lớn lao mà
chúng ta không ngờ, miễn là chúng ta tự nguyện trở nên khí cụ trong tay Ngài. Chính
Chúa Giêsu, khi hứa ban Thánh Thần cho các môn đệ đã nói về sứ mạng làm chứng
của Chúa Thánh Thần: “Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Cha. Người sẽ làm
chứng về Thầy. Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay
từ đầu” (Ga 15, 26-27).
8. Chúng ta chỉ có thể cùng với Chúa Thánh Thần làm chứng cho
Chúa Giêsu, khi chúng ta có “ở với Người”, gần gũi với Người, mặc dù chúng ta
không thấy Người. Chính vì thế mà đời sống cầu nguyện rất cần thiết để chúng ta
có thể loan báo Tin Mừng. Tất cả chúng ta đều là những con người yếu đuối tội
lỗi, hãy cầu nguyện cách khiêm nhường như người thu thuế (Publicano) trong Tin
Mừng Luca hôm nay, chắc chắn Thiên Chúa sẽ nhậm lời chúng ta, vì như sách Huấn
Ca viết: “Lời cầu nguyện của kẻ khiêm nhường vọng lên tới các từng mây” (Hc
35,16).
Hãy làm sao để có thể nói được ít nhất là một phần nào như
Phaolô: “Chúa đã phù hộ cha và ban sức mạnh cho cha, để nhờ cha mà lời rao
giảng được hoàn tất, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng” (2 Tm
4,17).
19. Thầy Ở Cùng Anh Em.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Truyền giáo là một mệnh lệnh và cũng là một ước mơ của Chúa Phục
Sinh: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ. "
Ngài đòi ta phải ra đi loan báo Tin Mừng, nhưng cuối cùng là phải
giúp người khác trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, nghĩa là có tương quan thân
thiết với Ngài, dám sống như Ngài, sống cho Cha và con người.
Đấng Phục Sinh nắm quyền trên cả thế giới, nên Ngài sai chúng ta
đến với mọi dân tộc. Tin Mừng không còn bị giới hạn trong mảnh đất Israel,
nhưng lan rộng khắp trái đất (x. Mt 10,5). Ngày nào còn một người chưa trở
thành môn đệ, ngày ấy trách nhiệm chúng ta vẫn còn.
"Bằng cách làm phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con
và Chúa Thánh Thần". Phép Rửa khiến người ta trở thành môn đệ Đức Kitô, và
đi vào tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa.
"Bằng cách dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy truyền cho anh
em", như thế các môn đệ thuộc bất cứ thời đại nào đều có một điểm chung,
đó là cùng tuân giữ toàn bộ giáo huấn của Chúa.
"Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế"
Đây không phải là một lời hứa cho tương lai, nhưng là một điều đang xảy ra
trong hiện tại. Chúa Giêsu thật là Emmanuel (Mt 1,23), Ngài ở cùng Giáo Hội, ở
cùng các môn đệ, Ngài ở bên họ trong mọi bước đường rao giảng (Mc 16,20).
Khi nhìn đến quê hương Việt Nam, chúng ta thấy hơn 70 triệu
người chưa biết Chúa. Chúng ta có trách nhiệm loan báo Tin Mừng, có bổn phận
nói về Chúa cho họ, nói bằng lời và nói bằng cuộc sống cụ thể. Làm sao qua cuộc
sống của tôi: yêu thương, tha thứ, hy sinh phục vụ, bình an vui tươi, người ta
gặp được Đấng Vô Hình mà gần gũi? Làm sao tôi có thể trả lời được những câu
hỏi, soi sáng được những vấn đề nhức nhối của họ bằng ánh sáng Tin Mừng?
Truyền giáo không phải là tuyên truyền hay mua chuộc, cũng không
phải là áp đặt một cách tinh vi, Truyền giáo là hát lên niềm vui chất chứa nơi
lòng mình, là tỏa hương tự nhiên như đoá hoa. Truyền giáo là hơi thở của một
Giáo Hội đầy sức sống Thánh Thần.
Chúng ta phải biếu Chúa Giêsu cho con người hôm nay. Nhưng trước
hết chúng ta phải có Chúa Giêsu, và phải biết lắng nghe con người.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, tại sao ít người Việt Nam theo đạo Công Giáo? Có gì
cần sửa đổi để người khác dễ chấp nhận đạo chúng ta hơn không?
Cha Đắc Lộ đã đi truyền giáo ở Việt Nam và đã đóng góp nhiều cho
việc hình thành chữ Quốc Ngữ. Theo bạn, người Công Giáo Việt Nam hôm nay có thể
làm được điều gì cho quê hương Cha Đắc Lộ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Chúa đã muốn trở nên con của
loài người, con của trái đất, con của một dân tộc. Chúa vẫn yêu mến dân tộc của
Chúa dù họ từ khước Tin Mừng và đóng đinh Chúa vào thập giá. Xin cho chúng con
biết yêu mến quê hương, một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu sau những năm dài
chiến tranh, một quê hương đang mở ra trước thế giới nhưng lại muốn giữ gìn bản
sắc dân tộc và bảo vệ nền đạo lý của cha ông.
Xin cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên trong sự an toàn và tiện
nghi vật chất, nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau, và làm một điều gì đó
thật cụ thể cho những đồng bào quanh chúng con. Ước gì chúng con biết phục vụ
đất nước bằng khối óc, quả tim và đôi tay. Và ước gì chúng con biết khiêm tốn
cộng tác với muôn người thiện chí.
20. Truyền giáo.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến viếng thăm Ấn Độ hồi tháng 11.
1999. Cao điểm của chuyến viếng thăm này là nghi thức công bố Tông Huấn về Giáo
Hội Tại Á Châu. Tông Huấn này là một đúc kết kết quả của Thượng Hội Đồng Giám
Mục tại Á Châu nhóm họp tại Rôma hồi tháng 4. 1999. Việc chọn Ấn Độ làm nơi
công bố Tông Huấn mang một ý nghĩa đặc biệt. Những nơi mà Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II mong mỏi đến viếng thăm nhất hẳn phải là Đài Loan, Hồng Kông, Trung
Hoa Lục Địa và đặc biệt là Việt Nam. Thế nhưng, cho đến nay người ta vẫn cứ nại
đến lý do chính trị và quan hệ ngoại giao để không cho Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II đến viếng thăm Giáo Hội ở phần đất này. Dĩ nhiên đằng sau những lý do
chính trị và quan hệ ngoại giao ấy, ai cũng thấy rõ chủ trương bài trừ tôn giáo
và nhất là chống lại Giáo Hội. Tựu trung linh hồn của bất cứ một chế độ độc tài
ý thức hệ nào cũng là tinh thần bất khoan nhượng. Người dân không những bị
cưỡng bách phải tuyên xưng ý thức hệ của chế độ mà còn bị kỳ thị loại trừ và
bách hại về niềm tin tôn giáo của mình.
Tuy là một quốc gia có nền dân chủ lớn nhất thế giới hiện nay,
Ấn Độ đang bị xâu xé vì tinh thần bất khoan nhượng. Tại một quốc gia với một tỷ
dân này, liên minh cầm quyền gồm những người theo chủ nghĩa Ấn Giáo, trong đó
có một số thành phần cực đoan lại tái cử thêm nhiệm kỳ nữa, tinh thần bất khoan
nhượng ngày càng gia tăng tại Ấn Độ. Trong những năm gần đây, người ta ước tính
là đã có gần 150 vụ tấn công nhắm vào nhân sự và các cơ sở của Kitô Giáo, nhiều
vị mục sư và linh mục bị sát hại, nhiều nữ tu bị bạo hành, nhiều nhà thờ bị đốt
phá.
Một nhóm Ấn Giáo cực đoan đã tổ chức cuộc biểu tình phản đối
nhân dịp Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Ii viếng thăm Ấn Độ. Họ đòi Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II lên án các cuộc trở lại Công Giáo cũng như xin lỗi người Ấn Độ
về những phương pháp truyền giáo cho người Ấn trong quá khứ. Chính trong bầu
khí đầy bất khoan nhượng ấy mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đến viếng thăm
Ấn Độ, đúng hơn chính bầu khí bất khoan nhượng ấy đã khiến Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II chọn Ấn Độ làm nơi để công bố Tông Huấn về Giáo Hội Tại Á Châu.
Trong bầu khí đó chúng ta thấy rằng, sứ điệp mà Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II đã ngỏ với các tín hữu Kitô tại Ấn Độ và toàn thể Á Châu, cũng
như với tất cả mọi người Ấn Độ là sứ điệp về lòng khoan nhượng. Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II trưng dẫn cuộc cách mạng bất bạo động vĩ đại nhất trong lịch sử
nhân loại do Mahatma Gandhi chủ xướng, Ngài cũng nói đến tấm lòng khoan dung độ
lượng của biết bao nhiêu nhà hiền triết Ấn Độ.
Quả thật, tôn giáo nào cũng tốt trong một mức độ nào đó, câu nói
này nói lên tinh thần khoan nhượng vốn là yếu tính của tất cả mọi tôn giáo. Thật
thế, tôn giáo nào cũng dạy con người ăn ngay ở lành; tôn giáo nào cũng lên án
ích kỷ, bạo động, hận thù và tinh thần bất khoan nhượng.
Trong tuyển tập có tựa đề "Con Đường Đơn Sơ" của Mẹ Têrêsa
Calcutta, vị Sáng Lập Dòng Nữ Tu Thừa Sai Bác Ái đã viết như sau: "Chỉ có
một Thiên Chúa và Ngài là Thiên Chúa của tất cả mọi người. Do đó, cần phải nhận
ra mọi người bình đẳng trước mặt Chúa. Tôi vẫn luôn luôn nói rằng, chúng ta
phải giúp cho một người Ấn Giáo trở thành người Ấn Giáo tốt hơn; một người Hồi
Giáo được trở thành một người Hồi Giáo tốt hơn và một người Công Giáo trở thành
một người Công Giáo tốt hơn. " Lễ quốc táng mà chính phủ Ấn Độ đã dành cho
Mẹ cách đây 4 năm chứng tỏ rằng, sứ điệp mà Mẹ mang đến cho dân tộc này đã được
mọi người đón nhận. Sứ điệp ấy không chỉ được Mẹ Têrêsa nói lên bằng những lời
nói suông mà còn bằng cả cuộc sống của Mẹ nữa.
Hôm nay là ngày thế giới truyền giáo, chúng ta hiệp nhau cầu
nguyện cho công việc truyền giáo của Giáo Hội, chúng ta cầu nguyện cách đặc
biệt cho các nhà thừa sai trên cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội. Chúng ta
tuyên xưng rằng, Chúa Giêsu Kitô là Đấng duy nhất cứu rỗi nhân loại, nhưng quan
trọng hơn cả là chúng ta được Giáo Hội mời gọi mỗi người ý thức về sứ mệnh
truyền giáo của mình, nhất là hiểu được ý nghĩa đích thực của việc truyền giáo
trong thế giới hôm nay.
Mẹ Têrêsa Calcutta đã định nghĩa về một nhà truyền giáo:
"Đó là một tín hữu Kitô say mê Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn nào
khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Ngài". Mẹ Têrêsa không
những chỉ làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu bằng những lời nói suông,
nhưng Mẹ nói về Chúa Giêsu, Mẹ tỏ bày gương mặt của Chúa Giêsu bằng chính cuộc
sống yêu thương phục vụ của Mẹ. Do đó, truyền giáo thiết yếu đối với Mẹ Têrêsa
là dùng cả cuộc sống của mình để làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu.
Truyền giáo không chỉ là rao giảng một giáo lý mà thiết yếu là
chia sẻ một cuộc sống yêu thương. Đây chính là cốt lõi mà Chúa Giêsu cô đọng
trong giới răn mến Chúa và yêu người được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe trong
Tin Mừng hôm nay. Trong xã hội mà Kitô giáo chỉ là thiểu số thì truyền giáo đối
với Kitô hữu hiện nay là quyết tâm sống như thế nào để cho mọi người nhận biết
Chúa Giêsu là Đấng đã đến chỉ để rao giảng một thứ đạo, đó là đạo của tình
thương. Trong một chế độ chối bỏ những quyền tự do cơ bản nhất của con người,
thì truyền giáo đối với các tín hữu Kitô hiện nay chính là biểu lộ được bộ mặt
đích thực của Đạo là yêu thương và khoan nhượng.
21. Chứng tá.
Truyền giáo là nhiệm vụ của mọi Kitô hữu. Đây là điều công đồng
Vaticanô II nhắc đi nhắc lại nhiều lần: việc rao giảng Tin Mừng là bổn phận
chính yếu. Bổn phận căn bản của Giáo hội và mỗi Kitô hữu. Công đồng đã làm nổi
bật vấn đề truyền giáo và đã định nghĩa Giáo hội là Giáo hội truyền giáo và coi
việc truyền giáo là nghĩa vụ tông đồ của mỗi Kitô hữu. Theo công đồng, không
một tín hữu nào đáng gọi là tín hữu mà có thể khước từ nhiệm vụ truyền giáo. Việc
truyền giáo không thể là một việc tùy sở thích, nhưng mỗi tín hữu phải coi đây
là vấn đề sống đạo, vấn đề sinh tồn của Giáo hội và là trách nhiệm của chính
mình.
Đối với người giáo dân, qua sắc lệnh về tông đồ giáo dân. Công
đồng còn cho thấy vai trò quan trọng của người giáo dân trong việc truyền giáo,
vai trò là men, là muối, là ánh sáng, là chứng nhân giữa đời. Bởi vì giáo sĩ
không thể sống chân bùn tay lấm nơi đồng ruộng với những nông dân; giáo sĩ
không thể gồng gánh theo chân những người buôn bán đi vào đầu đường xó chợ;
giáo sĩ không thể đầu tắt mặt tối làm việc trong những cơ xưởng, nhà máy, công
trường… nhưng chính những giáo dân nhà nông, những giáo dân buôn bán, những
giáo dân công nhân, có nhiệm vụ đem Chúa đến cho anh em mình nơi đồng ruộng,
chợ búa, xí nghiệp, nhà máy, nghĩa là những nơi mà giáo sĩ không thể có mặt và
không thể đi đến, thì giáo dân sẽ đóng vai trò chủ chốt và chủ động. Bởi đó,
không những giáo dân đóng vai trò yểm trợ cho giáo sĩ mà còn đóng vai trò chính
yếu, thay thế cho giáo sĩ trong những nơi hay những hoàn cảnh đó.
Như vậy cách truyền giáo tốt nhất và có hiệu quả nhất là đời
sống gương mẫu, đời sống Công giáo đích thực, nhất là đời sống thể hiện tình
yêu thương của chúng ta. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh
giá sai lầm về đạo, khi chúng ta chứng minh tình yêu bằng đời sống tốt thì
chúng ta thực sự trở nên những bạn tốt, những công nhân gương mẫu trong nhà
máy, những công nhân gương mẫu ngoài công trường. Tóm lại, chúng ta hãy nắm lấy
những cơ hội đi lại đây đó, khi thi hành công tác, khi làm ăn sản xuất, khi xê
dịch thăm viếng… để nói hay làm chứng về Chúa qua lời nói, thái độ và cách đối
xử đầy tình yêu thương của chúng ta.
Mẹ Têrêxa Cancutta đã định nghĩa về một nhà truyền giáo như sau:
đó là “một tín hữu Kitô say mê Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn nào khác
hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Ngài”. Mẹ Têrêxa không chỉ làm
cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu bằng những lời nói suông, nhưng Mẹ nói
về Chúa Giêsu, Mẹ tỏ bày gương mặt của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống yêu
thương phục vụ của Mẹ. Do đó, truyền giáo thiết yếu đối với Mẹ Têrêxa là dùng
cả cuộc sống của mình để làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu, truyền
giáo không chỉ là rao giảng một giáo lý mà thiết yếu là chia sẻ một cuộc sống
yêu thương.
Có người đã kể lại lý do và động lực thúc đẩy ông theo đạo như
sau: “Tôi đau rất nặng, người ta đưa tôi vào bệnh viện, không ai chăm sóc tôi
cả ngoài một chị y tá, chị tỏ ra rất tốt và tận tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia,
trời đã rất khuya, tôi thấy chị quỳ gối im lặng trong phòng, tôi hỏi: “Chị quỳ
làm gì thế?”. Chị trả lời: “Tôi cầu nguyện cho ông”. Chỉ mấy tiếng đó thôi đủ
làm cho tôi bấy lâu không biết Chúa, bây giờ được biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi
người chị y tá ấy. Giữa những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy
tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp
Chúa”.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy gương sáng và tình yêu thương
là bằng chứng cho người ta nhận ra Thiên Chúa. Có nhiều người không bao giờ
thấy chúng ta cầu nguyện sốt sắng ở nhà thờ, vì họ có đạo đâu mà đến nhà thờ,
nhưng họ thấy cách chúng ta biểu lộ tình thương với họ hay với những người
chung quanh mà họ nhận ra Thiên Chúa của tình yêu. Nếu chúng ta sống thực sự
yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo Chúa, khi chúng ta chứng minh
tình yêu bằng đời sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên những người bạn tốt của
nhau.
Trong thư mục vụ năm 2003 của các Giám mục Việt Nam, số 10 cũng
nói đến cách truyền giáo này: cầu nguyện cho việc truyền giáo là việc quan
trọng hàng đầu, việc truyền giáo phải đặt nền tảng trên lời cầu nguyện: cá
nhân, gia đình, cộng đoàn, giáo xứ. Trước khi rao giảng bằng lời nói, hãy rao
giảng bằng đời sống, chúng ta hãy nêu gương về đời sống hiệp nhất yêu thương,
không có lời rao giảng nào có sức thuyết phục bằng sự hiệp nhất yêu thương
trong gia đình, xóm làng, trong giáo xứ, trong giáo phận, như lời Chúa phán:
“Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết anh em là môn đệ của Thầy, ấy là nếu
anh em thương yêu nhau”.
Tóm lại, ngày thế giới truyền giáo hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy
luôn ý thức về sự quan trọng của việc truyền giáo và nhắc nhở chúng ta hãy góp
phần mình vào công cuộc truyền giáo của Giáo hội bằng việc cầu nguyện và bằng
đời sống tốt đẹp của chúng ta.
22. Đời sống chứng nhân.
Hôm nay, ngày thế giới truyền giáo. Chúng ta cùng tìm hiểu xem:
Truyền giáo là gì? Chúng ta phải truyền giáo thế nào?
Trước hết, truyền giáo là gì? Truyền là tuyền bá, truyền thông,
chuyển giao, rao giảng, loan truyền… Giáo là giáo lý, đạo giáo, Tin Mừng, Phúc
âm… Truyền giáo là truyền bá đạo, là rao giảng Phúc âm, là loan truyền chân lý
của Chúa cho người khác. Đó là ý nghĩa thứ nhất, nghĩa hẹp, nghĩa chặt và chính
xác. Đàng khác, truyền giáo còn có nghĩa là lập những cộng đoàn Kitô hữu trong
đức tin, trong phụng tự Thánh Thể, bác ái như Giáo hội mong muốn. Nói khác đi,
truyền giáo là “trồng” Giáo hội vào các dân tộc, các địa phương, cho đến khi
những người trong địa phương ấy trở nên tín hữu, thành một đoàn chiên. Theo ý
nghĩa này, truyền giáo không phải chỉ là truyền bá một số giáo lý, nhưng là
truyền thông sự sống của Chúa cho anh em khác, vì Thiên Chúa là Đấng hằng sống,
đạo Chúa là đạo sự sống, là nguồn sống, có khả năng thay đổi, biến cải những
con người từ không có Chúa trở thành có Chúa, từ mất Chúa trở thành tìm lại
được Chúa. Truyền giáo theo nghĩa này là truyền sự sống của Chúa Kitô mà chúng
ta đã có sang cho anh em mình, như thân cây nho chuyển nhựa sống sang cho cành
nho. Sau hết, truyền giáo còn có một nghĩa nữa là củng cố, tăng cường, huấn
luyện đức tin cho một cộng đoàn, cho các tín hữu, để họ lại ra đi truyền giáo
cho những người khác.
Những ý nghĩa trên đây cho thấy hai chiều của việc truyền giáo:
chiều rộng và chiều sâu. Nếu làm cho những người chưa biết Chúa hoặc những
người biết mà đã bỏ Chúa, được nhận biết và yêu mến Chúa. Đó là truyền giáo
theo chiều rộng, là mở rộng nước Chúa và làm tăng thêm số người thờ phượng Chúa.
Còn nếu làm cho những người đã biết và yêu mến Chúa được hiểu biết và yêu mến Chúa
hơn, để rồi họ lại tiếp tục làm những công việc ấy nơi những người khác. Đó là
truyền giáo theo chiều sâu, vì làm cho nước Chúa được vững chắc hơn và làm tăng
thêm số người Công giáo sốt sắng, đạo đức.
Việc phân biệt ý nghĩa như trên đây rất quan trọng để chúng ta
hiểu rõ hơn việc truyền giáo, vì truyền giáo không phải chỉ có nghĩa là làm cho
những người ngoại, những người lương, những người chưa biết được biết và yêu
mên Chúa, nhưng còn có nghĩa là truyền giáo cho cả những người Công giáo sống
trong một họ, một xứ với chúng ta nữa. Chúng ta phải sống một đời đạo đức, sốt
sắng, thánh thiện để làm gương tốt cho họ, để giúp cho họ thêm lòng yêu mến và
tôn kính Chúa.
Đó là ý nghĩa của việc truyền giáo. Và như vậy tất cả chúng ta
đều có nhiệm vụ truyền giáo. Việc truyền giáo không của riêng ai và không phải
là một việc làm tùy sở thích, muốn làm hay không cũng được. Nhưng đây là một
bổn phận, một nhiệm vụ bắt buộc. Mỗi người chúng ta phải coi đây là vấn đề sống
đạo, là vấn đề sinh tồn của Giáo Hội và là trách nhiệm của chính mình.
Vậy chúng ta phải truyền giáo thế nào? Có rất nhiều cách. Chúng
ta muốn dùng cách nào cũng được, nhưng nhất thiết phải thi hành hai cách này là
cầu nguyện và đời sống chứng nhân: Cầu nguyện cho việc truyền giáo là cách thức
rất quan trọng: cầu nguyện cho những người đi truyền giáo, cầu nguyện cho mọi
người mở rộng lòng sẵn sàng đón nhận ơn Chúa, Lời Chúa. Cụ thể như thánh Têrêxa
Hài Đồng Giêsu, cả đời không đi đâu truyền giáo, chỉ ở trong bốn bức tường dòng
kín cầu nguyện cho việc truyền giáo. Thế mà Giáo Hội đã tôn phong ngài là quan
thầy các nơi truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê. Xin anh chị em
hãy suy nghĩ: Chúng ta có thường xuyên thi hành việc này không? Chúng ta có cầu
nguyện cho việc truyền giáo không? Nếu không thì đó là tội thiếu sót, bỏ việc
phải làm. Thứ hai là truyền giáo bằng chính đời sống chứng nhân của mình: Đây
là cách truyền giáo tốt nhất và hữu hiệu nhất, đó là truyền giáo bằng đời sống
tốt đẹp của chúng ta. Một đời sống đạo đức, chân thành, cởi mở, yêu thương là
một tấm gương sáng trước mặt mọi người. Một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn
hơn những lời nói hay, vì “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo". Chúng ta
hãy suy nghĩ: đời sống chúng ta hiện nay có làm chứng cho Chúa, cho đạo không?
23. Tin Mừng cho người ngoại biên.
(Suy niệm của ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần)
Thuở còn nhỏ, tôi đã sớm nhận thấy sự khác biệt giữa người giàu
và người nghèo.
Lớn lên, tôi cảm được sâu sắc cảnh nghèo. Nghèo thì hèn. Nghèo
thì khổ. Cái Nghèo, cái Hèn, cái Khổ dính vào nhau khăng khít. Đồng thời, tôi
cũng nhìn được cảnh giàu. Giàu thì sang. Giàu thì có. Cái Giàu, cái Sang, cái
Co đồng hành ung dung.
Khi đi qua nhiều nơi, ở lại nhiều nước, tôi lại thấy giàu nghèo
làm thành những giai cấp. Giàu là giai cấp cao. Nghèo thuộc giai cấp thếp. Cấp
cao, cấp thấp đều có nhiều bậc. Đôi khi, người nghèo khổ bậc dưới không thể và
cũng không dám nhìn người giàu sang ở bậc trên. Vì khoảng cách quá xa về địa
lý, nhất là về tâm lý.
Trung tâm và ngoại biên.
Để đơn giản hoá tình trạng chênh lệch giữa giàu và nghèo, tôi
tạm chọn cho mình một hình ảnh gợi ý. Hình ảnh đó là Trung tâm và Ngoại biên.
Trung tâm có thể áp dụng về nhiều mặt. Như trung tâm kinh tế,
trung tâm văn hoá, trung tâm chính trị, trung tâm tôn giáo. Những ai được ở
trong hoặc gần những trung tâm đó thường được coi là những người hưởng nhiều
may mắn về phát triển, về danh dự, về cuộc sống.
Ngoại biên cũng được hiểu về nhiều lãnh vực như trên. Những ai ở
ngoại biên kinh tế, văn hoá, xã hội, tôn giáo thường phải chịu nhiều mất mát,
thua thiệt, kém cỏi.
Trung tâm và ngoại biên không hẳn chỉ là địa lý, mà còn là tâm
lý và pháp lý.
Thời Chúa Giêsu giáng thế, theo truyền thống lâu đời, thì
Giêrusalem là trung tâm chính trị, văn hoá và kinh tế, còn đền thờ là trung tâm
tôn giáo. Đền thờ này cũng toạ lạc tại Giêrusalem.
Giêrusalem là nơi tập trung những người có địa vị, nắm quyền
lực, sống trong phẩm trật và được ưu đãi.
Đền thờ là nơi thờ phượng của người có đạo. Gian trên dành cho
các chức sắc. Gian giữa dành cho các đàn ông Do Thái. Gian cuối dành cho phụ nữ
và trẻ con. Ngoài hè dành cho các người ngoại giáo, các kẻ tội lỗi và những ai
tàn tật.
Chúa Giêsu đi về ngoại biên.
Trong một tình hình như thế, Thiên Chúa có những lựa chọn lạ
lùng.
Thực vậy, Chúa Giêsu xuất hiện ở Galilêa. Xứ này là vùng biên,
xa trung tâm Giêrusalem.
Người sinh ra trong một gia đình làm nghề mộc, thuộc dạng nghèo.
Như vậy, Người mang thân phận kẻ nghèo để chia sẻ với thế giới
những người ngoại biên.
Khi đi rao giảng Tin Mừng, Người ưu tiên để ý đến những người
nghèo, người người tội lỗi và những người cùng khổ. Người áp dụng vào chính
mình những lời tiên tri Isaia xưa đã nói:
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Chúa đã xức dầu tấn phong tôi. Sai
tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4,17-20).
Người cũng đã xác định: “Thầy đến không phải để kêu gọi người
công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13).
Người muốn dạy cho mọi người thấy: Trước mặt Chúa không có vấn
đề ưu đãi cho trung tâm và bỏ quên hoặc loại trừ những ngoại biên. Người nói rõ
ràng với người phụ nữ ngoại giáo xứ Samaria:
“Này chị, hãy tin tôi: Đã đến giờ, các người sẽ thờ phượng Chúa
Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem... Nhưng giờ đã đến, và chính
là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ Chúa Cha trong tinh
thần và trong sự thực. Vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế”
(Ga 4,21-24).
Suốt đời, Chúa Giêsu đã sống gần gũi những người ngoại biên,
Người đến với họ, Người chia sẻ những nỗi đau của họ, Người được kể như người
ngoại biên. Người cho họ thấy Người rất thương họ, và tình thương đó là vô hạn,
vô cùng. Thương đến đổ máu mình ra, chết cho họ, chết thay cho họ, và cho mọi
người.
Người hiến thân đến tột cùng vì tình yêu. Chính ở điểm hiến thân
trên thánh giá, mà Người làm vinh danh Chúa Cha, và chính Người được tôn vinh. Người
đã nói trước khi tự nạp mình chịu chết: “Lạy Cha, giờ đã đến. Xin Cha tôn vinh
Con Cha, để con Cha tôn vinh Cha” (Ga 17,1).
Người muốn các môn đệ Người cũng hãy theo gương Người, mà đem
Tin Mừng đến cho người nghèo khổ như vậy. Muốn được thế, các ngài cần đón nhận
sẵn tình thương cứu độ của Người. Để đón nhận, các môn đệ phải rất khiêm nhường
trong phục vụ. Gương phục vụ khiêm nhường sau cùng Nguời trối lại là chính
Người quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Sau đó, Người truyền dạy: “Thầy đã nêu
gương cho các con, để các con cũng làm như Thầy đã làm cho các con » (Ga 13,15).
Phục vụ rất khiêm nhường là một cách tốt nhất để mở cửa lòng,
đón nhận lửa tình yêu của Chúa, một thứ lửa đầy ánh sáng chân lý và yêu thương.
Nhờ đó, môn đệ Chúa có thể ra đi ngoại biên, đem Tin Mừng cho mọi người, ưu
tiên cho những người nghèo khổ.
Vui buồn về thực tế truyền giáo.
Đem mấy tư tưởng Phúc Âm trên đây chiếu dọi vào thực tế truyền
giáo tại địa phương, tôi thấy có những điều đáng mừng và có những điểm đáng lo
ngại.
Những điểm đáng mừng là từng triệu những người nghèo khổ vẫn đón
chờ Tin Mừng, và vẫn sẵn sàng đón nhận Tin Mừng. Nhiều nơi, nhiều người đã gặp
được Tin Mừng, nhờ gặp được những người môn đệ Chúa đến với họ, thương cảm đời
họ, phục vụ họ một cách khiêm nhường, và dấn thân hy sinh vì họ. Các môn đệ như
thế thuộc mọi thành phần, trong đó các nữ tu và giáo dân giữ một vai trò quan
trọng.
Những điểm đáng buồn là ở nhiều nơi còn thiếu gương sáng về
truyền giáo.
Trên đường đời, không thiếu trường hợp, người có đạo chúng ta
thuộc đủ cấp bậc, đã xử sự lạnh lùng với người ngoại biên. Thái độ của ta cũng
giống thái độ thầy tư tế và Lêvi xưa trước nạn nhân nằm quằn quại bên vệ đường.
Mặc người ngoại Samaria lo cho người ngoại biên (Mt 12,41-44). Ta cứ an tâm đi
về đền thờ là trung tâm.
Trong cuộc sống, không thiếu trường hợp, người có đạo chúng ta
thuộc đủ cấp bậc, cũng đã xua đuổi người ngoại biên, không cho họ đến gần Chúa.
Giống như các môn đệ Chúa xưa đã muốn xua đuổi người đàn bà xứ Canaan. Khi bà
cứ lẽo đẽo sát lại bên Chúa Giêsu, để xin Người chữa con bà bị quỉ ám (Mt
15,21-28). Ta bảo vệ Chúa là trung tâm bằng cách loại trừ ngoại biên, tức những
ai ta coi là bất xứng.
Trong những công việc chung, không thiếu trường hợp người có đạo
chúng ta thuộc đủ cấp bậc, cũng đã đánh giá thấp người ngoại biên. Không giống
cách Chúa Giêsu xưa đã đánh giá rất cao người đàn bà goá nghèo, đã dâng cúng
vào đền thờ chỉ một đồng xu (Mt 12,41-44). Ta tôn vinh con người theo tiêu
chuẩn tiền bạc và địa vị, như thể tiền bạc và địa vị là giá trị của trung tâm
đạo.
Hiện nay, Mẹ thánh Têrêsa Calcutta đang được đề cao như một
gương mẫu rao giảng Tin Mừng cho người ngoại biên. Mẹ không làm việc gì khác
ngoài đi theo đường lối mà Chúa Giêsu đã đi trước. Điều đáng ngợi khen nhất nơi
Mẹ là Mẹ làm, chứ không chỉ nói. Với những việc làm yêu thương cụ thể, Mẹ là
một người mẹ âm thầm hy sinh, trước khi là thánh vinh quang.
Khi tôn vinh Mẹ Têrêsa, Toà Thánh muốn tôn vinh một tinh thần
truyền giáo sáng ngời, một phương cách truyền giáo khôn ngoan, đã rất hữu hiệu,
đã gây được nhiều thiện cảm ở các xã hội và tôn giáo đa dạng, tại Ấn Độ nói
riêng và Á châu nói chung.
Qua đời sống của mình, Mẹ Têrêsa Calcutta đã giới thiệu dung mạo
một Hội Thánh dễ thương, dễ mến. Một Hội Thánh dịu dàng, khiêm tốn phục vụ, đầy
tình xót thương, luôn đi tìm những người nghèo khổ, tội lỗi, bị loại trừ, sống
trong bế tắc, để đưa họ vào tình Chúa bao la.
Ước gì mọi người truyền giáo chúng ta cũng theo gương Mẹ, để bất
cứ ai, nhất là các người ngoại biên, đón nhận được hy vọng là Tin Mừng nơi Chúa
là Cha giàu lòng thương xót.
24. Kitô hữu, chứng nhân truyền giáo
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
“Anh chị em đi khắp thế giới, loan báo Tin Mừng cho muôn dân”. Thưa
anh chị em, đó là mệnh lệnh cuối cùng của Chúa Giêsu. Giáo Hội từ thời các Tông
đồ trải qua các thời đại cuối cùng của Chúa, bất chấp mọi trở ngại.
Thế nhưng, qua 20 thế kỷ truyền giáo, số người tin theo Chúa
Kitô vẫn là một thiểu số đáng lo ngại so với dân số thế giới ngày càng gia tăng.
Hiện nay, dân số thế giới đã lên đến trên 5 tỷ người, thế mà số tín hữu công
giáo chỉ được 900 triệu, nhưng 50 phần trăm là ở Nam Mỹ, còn triệu kia rải rác
ở Châu Âu, Bắc Mỹ, Châu Á, Châu Úc và Châu Phi.
Riêng tại Châu Á của chúng ta, một lục địa với hơn 3 tỷ người,
trong số đó chỉ có 3% là người Công giáo. Tại Trung Quốc chỉ có 4 triệu người
Công giáo giữa một tỷ dân. Tại Nhật Bản có lối 500 ngàn người Công giáo giữa
123 triệu dân. Ở Nam Triều Tiên, 5 triệu người Công giáo trên 42 triệu dân. Tại
đất nước Việt Nam chúng ta chỉ có hơn 4 triệu rưỡi người Công giáo trên 72
triệu dân, tỷ lệ hơn 6%. Tại TP. Hồ Chí Minh chúng ta có khoảng hơn 450 ngàn
(485. 584) người Công giáo trên hơn 5 triệu dân, tỷ lệ 13%. (Tại Hạt Tân Định,
có 41. 105 người Công giáo trên 266,000 dân). Đó là những con số trên giấy tờ,
trong sổ Rửa Tội, còn trên thực tế, họ có sống đạo hay không là chuyện khác.
Như chúng ta được biết, ở những miền có đông giáo dân Công Giáo-
ở Nam Mỹ chẳng hạn- đời sống dân chúng ở đó lại nghèo đói và thiếu linh mục. Ở
Braxil, một nước lớn nhất Nam Mỹ, dân số 107 triệu, đại đa số là Công giáo. Thế
mà gần đây người Công giáo đã bỏ Giáo Hội để sang Hội Thánh Tin Lành tính ra có
trên 17 triệu người (lý do có lẽ là để được hưởng trợ cấp). Trái lại, ở các
nước giàu có, phồn thịnh về vật chất- như ở Châu Âu và Bắc Mỹ- người Công giáo
lại đánh mất niềm tin và không còn tôn trọng các giá trị đạo đức tinh thần nữa,
coi thường các luật luân lý của Giáo Hội về đời sống hôn nhân gia đình. Sự kiện
đó đang trở nên mối lo âu và là một vết thương đau nhức nhối nhất của Giáo Hội
ngày nay.
Xin đan cử ra đây một dấu chỉ của thời đại: Đầu năm 1998, tại
thành phố Amsterdam ở Hà Lan, Hội Đồng Giáo Mục đã quyết định đóng cửa một loạt
5 ngôi thánh đường đồ sộ của thành phố, vì không có giáo dân lui tới nữa, trong
khi đó phí khoản 9dê3 bảo trì các ngôi thánh đường này lại quá lớn. Tại Bắc Mỹ
cũng thế, Đức Hồng Y Josef Bernardin, Tổng Giáo Mục Chicago tuyên bố: ngài buộc
lòng phải đóng cửa 13 giáo xứ, 2 cơ sở truyền giáo và 6 trường tiểu học Công
giáo trong giáo phận của ngài. Còn Đức Hồng y Szoka, Tổng Giám Mục Giáo phận
Detroit cũng tuyên bố quyết định đóng cửa 30 giáo xứ thuộc giáo phận của ngài. Lý
do đóng cửa là vì thiếu người và thiếu tiền (x. Bùi Tuần, Ơn Trở Về, tr. 85).
Nói lên những dấu chỉ thời đại ấy để chúng ta thấy rằng: Con
người ngày nay đã bỏ Chúa, không còn tin vào Chúa nữa, hoặc có nhiều người tin,
nhưng với một niềm tin hời hợt, hững hờ. Chính vì thảm trạng nầy mà Đức Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II đã ban hành thông điệp “Sứ Vụ Đấng Cứu Độ” (Redemptoris
Missio, 1990) để đặt toàn thể Giáo Hội trước sứ mạng truyền giáo và tái truyền
trong Thiên Niên Kỷ Thứ III.
Hôm nay, ngày Thế Giới Truyền Giáo, Đức Thánh Cha lại gởi đến
toàn thể Dân Chúa một sứ điệp với chủ đề: “Tất cả các kitô hữu đều được mời gọi
làm người truyền giáo và chứng nhân”. Đức Thánh Cha nói: “Trước thềm thiên niên
kỷ thứ ba, Chúa Giêsu quyết liệt lập lại những lời Ngài đã nói với các Tông đồ
trước khi về trời, những lời hàm chứa bản chất sứ vụ của người Kitô hữu: “Anh
em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari
và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Quả thực, Kitô hữu là ai? Thưa họ là
người được Chúa Kitô “chiếm đoạt” (x. Pl 3,12), và vì thế, là người khao khát
làm cho Chúa Kitô được mọi người nhận biết và yêu mến ở khắp mọi nơi “cho đến
tận cùng trái đất”. Chính niềm tin vào Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta trở thành
những nhà truyền giáo, những chứng nhân của Ngài. Nếu không thực hiện được điều
đó, có nghĩa là niềm tin củ chúng ta còn bất toàn, khiếm khuyết và chưa trưởng
thành.
Do đó, “Truyền giáo là vấn đề của niềm tin, nó là thước đo niềm
tin của chúng ta nơi Chúa Giêsu và nơi tình yêu của Ngài dành cho chúng ta” (RM
số 11). Đức tin và truyền giáo đi đôi với nhau: đức tin càng mạnh càng sâu thì
nhu cầu truyền thông, chia sẻ và làm chứng niềm tin càng bức thiết. Ngược lại,
nếu đức tin suy yếu thì nhiệt tình truyền giáo cũng suy giảm và khả năng làm
chứng cũng mất đi sức mạnh. Đó là điều vẫn xảy ra trong lịch sử Giáo Hội: sự
sút giảm lòng nhiệt thành truyền giáo là triệu chứng của sự khủng hoảng đức tin.
Điều này phải chăng xảy ra khi người ta đánh mất xác tín sâu xa là: “Đức tin
càng vững mạnh khi đem chia sẻ” (RM. 2). Vì chính khi loan báo Chúa Giêsu Kitô
và làm chứng về Ngài mà đức tin của chúng ta được củng cố và tái khám phá con
đường đưa đến một nếp sống đúng theo Tin Mừng của Ngài. Như thế, chúng ta có
thể nói: “Truyền giáo là một phương thuốc chắc chắn nhất chống lại cuộc khủng
hoảng đức tin. Chính nhờ dấn thân truyền giáo mà mỗi thành phần Dân Chúa củng
cố căn tính mà mình và hiểu rõ là: không ai có thể là Kitô hữu đích thực nếu
không là chứng nhân” (số 2).
“Mỗi Kitô hữu được sáp nhập vào Giáo Hội nhờ Bí tích Thanh Tẩy,
đều được mời gọi làm nhà truyền giáo và chứng nhân. Đó là sự ủy nhiệm rõ ràng
của Chúa Kitô. Và Thánh Thần sai mỗi người kitô hữu ra đi loan báo và làm chứng
về Chúa Kitô cho muôn dân: đó là nhiệm vụ và đặc ân, bởi vì đó là một lời mời
gọi cộng tác với Thiên Chúa để cứu độ mỗi người và cả nhân loại” (số 3).
Truyền giáo bằng đời sống chứng tá Tin Mừng giữa đời, làm chứng
cho Chúa Kitô bằng đời sống yêu thương, bác ái, công bình, cụ thể trong gia
đình, ngoài xã hội, là sứ vụ của mọi người giáo dân. Làm chứng cho sự thánh
thiện, như những người sống các Mối Phúc của Tin Mừng, đó là căn tính của người
Kitô-hữu-chứng-nhân. Con người ngày nay có vẻ dửng dưng không muốn tìm về Thiên
Chúa, nhưng trong thực tế, họ cảm thấy cần đến Thiên Chúa và họ bị các Thánh
thu hút và đánh động, những vị thánh đã biểu lộ khuôn mặt của Thiên Chúa trong
đời sống của mình, như những ánh sao trong đêm tối.
Giáo Hội Việt Nam chúng ta ngày nay phải truyền giáo trong môi
trường cụ thể chúng ta đang sống, với những con người cụ thể chúng ta đang gặp.
Chúa Kitô cần đến chúng ta để đem Tin Mừng vào lòng dân tộc. Chúa Kitô cần đến
tâm hồn quảng đại và sẵn sàng của chúng ta, cần đến đời sống nhân chứng của
chúng ta để bày tỏ cho anh em đồng bào tình yêu thương vô biên của Ngài. Tích
cực tham gia vào công cuộc Phúc-âm-hóa mới, đó là công việc đặc trưng của những
năm chuẩn bị tiến đến Thiên Niên Kỷ Thứ Ba của Hồng Ân Cứu Độ.
25. Anh em là chứng nhân
(Trích trong ‘Manna’)
Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu đã làm một điều quan trọng, đó là
đào tạo những chứng nhân. Hội Thánh tương lai phải được xây nền vững chắc trên
những con người có kinh nghiệm cá nhân về cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Chính vì thế Ngài đã hiện ra cho Simon, cho hai môn đệ về Emmau,
cho các tông đồ. Ngài cho họ xem chân tay và Ngài đã ăn bánh để họ đừng nghi Ngài
là ma.
Hơn nữa Ngài còn soi sáng cho họ để họ hiểu những lời Kinh Thánh
nói về Ngài. Các môn đệ đã là chứng nhân, đã tử đạo để làm chứng cho điều mình
xác tín.
Mỗi năm Hội Thánh dành một ngày Chúa Nhật để nhắc chúng ta nhớ
đến bổn phận của mình, bổn phận truyền giáo cho thế giới. "Phải nhân danh
Người mà rao giảng cho muôn dân" Chúng ta phải tiếp tục sứ mạng của các
tông đồ, vinh dự đứng vào hàng ngũ các chứng nhân.
Để truyền giáo, chúng ta phải quen thân với Chúa Giêsu, có kinh
nghiệm gặp gỡ Ngài thật sâu lắng, sống cái chết của Ngài mỗi ngày và nếm được
niềm vui phục sinh Ngài ban tặng.
Để truyền giáo cần có nhiều tình yêu: tình yêu đối với Chúa
Giêsu và đối với con người. Chính vì mến yêu Ngài mà ta muốn Ngài được mọi
người nhận biết. Chính vì mến yêu mọi người mà ta muốn chia sẻ hạnh phúc mình
đang hưởng.
Thế giới hôm nay đầy lạc thú và hưởng thụ, nhưng vẫn là một thế
giới buồn. Buồn vì nạn phá thai, ly dị, tự tử; buồn vì hận thù, thất vọng và lo
âu. Nhiều bạn trẻ tìm quên trong vui chơi, nghiện ngập, vì không thấy cuộc sống
có ý nghĩa. Như thế truyền giáo là loan báo tin vui cho một thế giới buồn.
Đức Thánh Cha đã nhắn nhủ giới trẻ: "Hội Thánh ủy thác cho
giới trẻ nhiệm vụ hô to lên cho thế giới biết niềm vui vì gặp được Đức Kitô... Hãy
đi rao giảng Tin Mừng giải thoát. Hãy là những điều ấy với tâm hồn hân hoan.
"
Chúng ta không thể là những chứng nhân buồn. Chính cuộc sống của
ta phải đầy ắp niềm vui, sự lạc quan và sự sống của Chúa Phục Sinh. Chỉ như thế
chúng ta mời hy vọng đáp ứng những đòi hỏi gay gắt của thế giới đang bước vào
đệ tam thiên niên kỷ.
Gợi Ý Chia Sẻ Có
khi nào bạn nói về Chúa cho một người bạn không? Bạn có thấy mình cần học giáo
lý và cầu nguyện để có thể truyền giáo tốt hơn không? Hơn 90% người Việt Nam
chưa tin Chúa. Theo ý bạn, chúng ta có truyền giáo đủ chưa? Phải sửa đổi gì để
việc truyền giáo có hiệu quả hơn?
Cầu Nguyện Lạy
Cha, Cha muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý, chân lý mà Cha đã
bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha. Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người chưa nhận biết
Đức Giêsu, họ cũng là những người đã được cứu chuộc. Xin Cha thôi thúc nơi
chúng con khát vọng truyền giáo, khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc,
niềm vui và bình an của mình cho tha nhân, và khát vọng muốn giới thiệu Đức
Giêsu cho thế giới. Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực trước sứ mạng đi đến
tận cùng trái đất để loan báo Tin Mừng. Chúng con chỉ xin đến với những người
bạn gần bên, giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài, qua đời sống yêu
thương cụ thể của chúng con. Chúng con cũng cầu nguyện cho tất cả những ai đang
xả thân lo việc truyền giáo. Xin Cha cho những cố gắng của chúng con sinh nhiều
hoa trái. Amen.
26. Chúa sai tôi đi – ĐTGM. Giuse Ngô Quang
Kiệt
Ta thường nghĩ rằng: Việc truyền giáo là dành cho các Giám mục,
các Linh mục, Tu sĩ. Giáo dân không được học hỏi gì nhiều làm sao có thể truyền
giáo được? Truyền giáo phải có nhiều phương tiện vật chất. Thiếu phương tiện
không có thể làm gì được. Đó là những quan niệm sai lầm mà Chúa vạch cho ta
thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giêsu cho ta thấy truyền giáo là công việc của mọi người
khi Người sai 72 môn đệ lên đường. Mười hai Tông đồ có tên tuổi rõ ràng. Đó là
thành phần ưu tuyển. Đó là các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ. Còn 72 môn đệ không
có tên tuổi rõ ràng. Đó là một đám đông không xác định. Đó là tất cả mọi người
giáo dân. Khi sai 72 môn đệ, Chúa Giêsu muốn huy động tất cả mọi người thuộc đủ
mọi thành phần tham gia vào việc truyền giáo.
Giáo dân tham gia vào việc truyền giáo bằng cách nào?
- Trước hết phải ý thức sự cấp thiết của việc truyền giáo: “Lúa
chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Lúa đã chín vàng, phải nhanh chóng gặt về
không được chậm trễ, nếu không lúa sẽ hư hỏng. Biết bao anh em đang chờ đợi
được nghe Lời Chúa. Biết bao anh em đang tìm kiếm Chúa. Biết bao tâm hồn đang
mở cửa đón Chúa. Ta phải mau mắn để khỏi lở mất cơ hội.
- Thứ đến ta phải cầu nguyện. Sau khi đã chỉ cho thấy đồng lúa
chín vàng, Chúa Giêsu không bảo lên đường ngay, nhưng Người dạy phải cầu nguyện
trước. Cầu nguyện là nền tảng của việc truyền giáo. Vì truyền giáo phát xuất từ
ý định của Thiên chúa. Ơn hoán cải tâm hồn là ơn Chúa ban. Nên cầu nguyện chính
là truyền giáo và kết quả của việc truyền giáo bằng cầu nguyện sẽ rất sâu xa. Ta
hãy noi gươngThánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu. Vị Thánh sống âm thầm, suốt đời
chôn vùi trong 4 bức tường Dòng Kín. Thế mà nhờ lời cầu nguyện, Thánh nữ đã đem
được nhiều linh hồn về với Chúa không kém thánh Phanxicô Xaviê, người suốt đời
bôn ba khắp nơi để rao giảng Lời Chúa.
- Khi đi truyền giáo, hãy trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chúa
dạy ta: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép” để ta biết sống khó nghèo. Để
ta đừng cậy dựa vào tài sức riêng mình. Để ta đừng cậy dựa vào những phương
tiện vật chất. Biết mình nghèo hèn yếu kém, biết những phương tiện vật chất chỉ
có giá trị tương đối, ta sẽ biết trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chính Chúa sẽ
làm cho việc truyền giáo có kết quả.
- Sau cùng, truyền giáo là đem bình an đến cho mọi người. Niềm
bình an đến từ thái độ quên mình, sống chan hoà với những người chung quanh. Niềm
bình an đến từ sự hiệp thông, có cho đi, có nhận lãnh. Và nhất là, niềm bình an
vì được làm con cái Chúa, luôn sống dưới ánh mắt yêu thương của Chúa.
Như thế việc truyền giáo hoàn toàn nằm trong tầm tay của mọi
người giáo dân. Mọi người đều có thể ý thức việc truyền giáo. Mọi người đều có
thể cầu nguyện. Mọi người đều có thể trông cậy vào Thiên chúa. Và mọi người đều
có khả năng cho đi, nhận lãnh, sống chan hoà với người khác
Như thế mọi người, từ người già tới em bé, từ người bình dân ít
học đến những bậc trí thức tài cao học rộng, từ người khoẻ mạnh đến những người
đau yếu bệnh tật, tất cả đều có thể làm việc truyền giáo theo ý Chúa muốn.
Hôm nay, Chúa đang than thở với mọi người chúng ta: “Lúa chín
đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Chúng ta hãy bắt chước tiên tri Isaia thưa với
Chúa: “Lạy Chúa, này con đây, xin hãy sai con đi”.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Bạn có thấy việc truyền giáo là cấp thiết không?
2) Theo ý bạn, muốn truyền giáo thành công trong vùng này, người
tông đồ cần có những đức tính nào?
3) Bạn có bao giờ cầu nguyện cho việc truyền giáo, cho người làm
việc truyền giáo, cho những người chưa biết Chúa ở chung quanh bạn không? Bạn
đã bao giờ tham gia vào việc truyền giáo trong Giáo xứ, trong Giáo phận chưa?
27. Cánh cửa truyền giáo
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Trong bài báo: “Khi các sao Việt quy y cửa Phật”, tác giả Ngọc
Hoa đã viết: là một trong những nữ diễn viên hàng đầu thời phim "Mỳ ăn
liền" còn hoàng kim. Thế nhưng, Việt Trinh lại luôn lận đận về chuyện tình
duyên. Những người đàn ông đã từng yêu Việt Trinh sau này đều dính đến pháp
luật, chính điều đó đã khiến có người dành những lời không thiện cảm cho người
đẹp này. Cùng thời gian đó, dòng phim "mỳ ăn liền" xuống dốc, Việt
Trinh trở nên hụt hẫng, tuyệt vọng, có những lúc chị cảm thấy bi quan và chán
nản cuộc sống.
Thế nhưng, chính trong những lúc tuyệt vọng nhất, một cánh cửa
khác đã mở ra cho người phụ nữ đa truân này. Đó chính là Phật pháp. Vô tình đến
với đạo Phật, Việt Trinh ngộ ra nhiều điều, chị tìm hiểu rõ hơn về đạo Phật, về
nhân quả, nghiệp báo, bỏ tính nóng này, thậm chí còn làm phim liên quan đến đề
tài này. Chính xác là từ năm 2001, chị quyết định đi theo đạo Phật bằng sự
thành kính. Cô tâm sự:
"Cách đây không lâu, trong lúc tôi đang còn ngụp lặn trong
biển khổ ái tình, tôi rất buồn, lúc nào cũng chỉ biết khóc, không biết làm sao
để giải thoát khỏi mối tình cay nghiệt. Khi lồng tiếng cho phim Duyên Trần
Thoát Tục, đọc tới đoạn Hòa thượng dạy cho Thường Chiếu: “Còn duyên thì hợp hết
duyên thì tan”, tự nhiên tôi rùng mình, tự hỏi rằng tại sao mình phải ngụp lặn
trong sự đau khổ của ái tình? Từ đó, tôi không vướng bận vào chuyện tình cảm
đau khổ nữa"
Đối với những người theo đạo Phật thì Cửa Phật là nơi ẩn náu
bình yên sau những vật lộn của thế gian. Họ sẽ tìm đến cửa Phật một khi không
còn thấy hạnh phúc nơi phong trần. Họ quy y cửa Phật như nói lên quyết tâm của
họ rũ bỏ đường trần để tìm sự thanh thoát bình yên nơi cửa Phật.
Còn đối với đạo Công giáo thì lý do nào khiến người ta trở về
với Chúa? Chúng ta sẽ giới thiệu Chúa như thế nào để những người ngoại trở lại
để náu nương, và những người lạc bước được sớm quay trở về? Chúng ta có con
đường nào cho anh em quay trở về như cửa Phật đã từng rộng mở cho thiện nam tín
nữ của họ?
Có lẽ điều này thì nơi đạo Phật dễ dàng hơn. Cửa Phật luôn rộng
mở miễn là con người muốn quay trở về. Còn với đạo Công Giáo chúng ta thì còn
phải trải qua rất nhiều thử thách trong thời kỳ dự tòng, phải học giáo lý, phải
thể hiện ý hướng ngay lành, phải có lý lịch rõ ràng ...
Có một người bạn ngoại đạo hỏi tôi: Người ta ai cũng muốn tự do
thoải mái, vậy đi đạo làm gì cho mệt vì phải giữ quá nhiều luật lệ?
Và anh ta còn thêm: Luật lương tâm là đủ rồi, tại sao còn phải
thêm biết bao luật do con người quy định hoặc thêm thắt vào?
Thực ra, ở đời, ai cũng muốn được tự do thoải mái, nhưng không
phải vì thế mà mình muốn làm gì thì làm. Đối với chính bản thân, mình cũng cần
có những nguyên tắc phải tuân thủ để bảo vệ và phát triển sự sống; trong tương
quan với tha nhân (gia đình và xã hội) mình có những bổn phận, những trách
nhiệm phải chu toàn nên cũng cần có những quy định ràng buộc. Đạo Thiên Chúa
qui định những luật lệ đối với bản thân, gia đình, xã hội và Giáo hội là để
giúp cho mọi người được sống an vui hạnh phúc. Ngoài ra, chúng ta còn có bổn
phận tôn thờ Thiên Chúa, nên mỗi ngày bỏ ra 10 phút, mỗi tuần bỏ ra một tiếng
đồng hồ để thờ phượng Thiên Chúa và cứu rỗi linh hồn thì đâu có gì là quá đáng,
là mất tự do!
Phân tích như vậy thì đúng lắm! Nhưng làm sao để cho anh em
lương dân cảm thấy nhẹ nhàng khi theo đạo thay vì sợ hãi vì cha quá khó, luật
quá nhiều ... ? Luật Chúa, luật Giáo hội thì ít mà luật giáo xứ lại quá nhiều?
Chúa luôn mời gọi con người hãy đến với Chúa vì “ách của Chúa
thì êm ái và gánh của Chúa thì nhẹ nhàng”, sao chúng ta lại chồng chất lên nhau
quá nhiều những gánh nặng khiến đạo trở thành nặng nề, khó khăn cho biết bao
người. Chúng ta sợ quá dễ dãi người ta sẽ bỏ đạo. Thế nhưng, quá khó khăn có
chắc để họ giữ được đạo hay không? Bởi vì có rất nhiều người “nín thở qua
sông”, học giáo lý, học kinh cho thật thuộc để lấy được vợ là thôi nhà thờ! Vậy
phải làm thế nào để những người lương dân cảm thấy bình an khi đến với Chúa mà
không cảm thấy khó khăn bởi những yếu tố bên ngoài tác động?
Hãy nhìn vào cung cách sống của Chúa Giêsu, Ngài đã sống hòa
mình vào mọi hạng người để nâng đỡ, cảm thông và chia sẻ với họ. Ngài tạo mọi
điều kiện cho con người đến với Chúa từ trẻ nhỏ, người già, người tội lỗi, tật
nguyền đều có thể tìm thấy bình an khi đến với Chúa. Chính vì thế, mà Ngài luôn
có một số rất đông đi theo Người.
Hãy nhìn vào Giáo hội sơ khai họ đã thành công khi sống bác ái
huynh đệ với nhau, họ gom của cải vào của chung và chia sẻ cho nhau đến nỗi
không một ai thiếu thốn trong cộng đoàn của họ, nhờ đó mà họ được toàn dân
thương mến.
Cánh cửa Giáo hội công giáo luôn rộng mở nhưng quan yếu vẫn là
thái độ của từng người công giáo chúng ta có rộng mở với anh em qua đời sống
bác ái huynh đệ, luôn chia sẻ, cảm thông với mọi hạng người, luôn sẵn lòng đến
với anh em trong tinh thần hiệp thông bác ái? Cuộc sống của người tín hữu chúng
ta phải là cánh cửa của hiệp thông, của bác ái để có thể đón nhận và hòa nhập
với mọi hạng người. Cuộc đời của chúng ta thực sự có bình an khi sống đạo mới
có thể mang bình an chia sẻ cho tha nhân.
Nét son của đạo Phật là tại tâm. Nét son của Kytô giáo là yêu
thương. Liệu rằng chúng ta có trở thành dấu chỉ tình yêu, của bình an và hy
vọng cho anh em mình không?
Xin cho đời truyền giáo của chúng ta phải khởi đi từ những nghĩa
cử yêu thương nhân hậu với tha nhân. Xin đừng là vật cản trở anh em đến với
Chúa vì đời sống thiếu bác ái, thiếu lòng nhân từ của chúng ta. Amen.