Lời Chúa tuần 7 phục sinh _ câu truyện minh họa

LỄ THĂNG THIÊN NĂM A - Hãy đi giảng dạy muôn dân

LỄ THĂNG THIÊN NĂM B - Chúa lên trời

LỄ THĂNG THIÊN NĂM C -

THỨ HAI - Cùng hiệp thông với Chúa

THỨ BA - Ngưỡng cửa vào sự sống

THỨ TƯ - Xin Cha gìn giữ họ

THỨ NĂM - Sức mạnh của hiệp nhất

THỨ SÁU - Cơ hội thứ hai

THỨ BẢY - làm chứng cho Chúa

LỄ HIỆN XUỐNG (lễ vọng)

LỄ HIỆN XUỐNG (lễ ban ngày)

Lễ kính Đức Mẹ Fatima

Lễ Thánh Mat-thi-a

Lễ Đức Mẹ đi viếng bà Isave

 

 

LỜI CHÚA TUẦN 7 PHỤC SINH

LỄ THĂNG THIÊN NĂM A - Hãy đi giảng dạy muôn dân

Lời Chúa: Mt 28, 16-20

Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa, đến núi Chúa Giêsu đã chỉ trước. Khi thấy Người, các ông thờ lạy Người, nhưng có ít kẻ còn hoài nghi.

Chúa Giêsu tiến lại nói với các ông rằng: "Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con , làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế."

TRUYỆN KỂ

1. Bài chia sẻ của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chia sẻ:

"Chúng ta được qui tụ quanh bàn thờ Chúa để cử hành việc Chúa lên trời. Chúng ta đã nghe được Lời Chúa: "Các con sẽ nhận lấy sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ ngự xuống trên các con và các con sẽ là những chứng nhân của Thầy cho đến tận cùng trái đất."

Từ hai ngàn năm qua, những lời này của Chúa Phục Sinh thôi thúc Giáo Hội tiến ra khơi, tiến vào trong lịch sử của con người. Những lời này làm cho Giáo Hội trở nên một người luôn đồng hành với tất cả mọi thế hệ, làm cho Giáo Hội trở nên như men, làm dậy nên những hạt văn hoá trên thế giới. Hôm nay, chúng ta nghe lại những lời trên để với sức mạnh được canh tân, chúng ta đón nhận mệnh lệnh của Chúa "Hãy ra khơi", mệnh lệnh mà Chúa đã nói với thánh Phêrô. Đây là một mệnh lệnh và tôi đã muốn làm vang dội lại trong Giáo Hội qua bức tông thư khởi đầu Ngàn Năm Mới. Và đây là mệnh lệnh mặc lấy một ý nghĩa sâu xa hơn theo ánh sáng của ngày lễ trọng Chúa Thăng Thiên. "Hãy ra khơi" ra nơi mà Giáo Hội cần tiến đến, không phải chỉ là một sự dấn thân truyền giáo mạnh mẽ nhưng nhất là và còn là một sự dấn thân mạnh mẽ sống chiêm niệm.

Như những tông đồ, những kẻ đã được chứng kiến biến cố Chúa lên trời, chúng ta cũng được mời gọi hãy hướng cái nhìn lên dung mạo của Chúa Kitô được hiển vinh trong vinh quang Thiên Chúa Cha. Chắc chắn rằng nhìn ngắm trời cao không có nghĩa là quên đi trần gian này. Và nếu rủi gặp phải cám dỗ, chúng ta chỉ cần lắng nghe lại lời hai người mặc áo trắng của đoạn Phúc Âm hôm nay nói rằng: "Tại sao các ông còn nhìn trời?"

2. “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…”

Fritz Kreisler (1875-1962) là một nhạc sĩ vĩ cầm nổi tiếng khắp thế giới. Ông đã tạo được một cơ nghiệp đồ sộ nhờ các buổi hoà nhạc và soạn nhạc, nhưng lại hào phóng cho đi gần hết của cải. Do đó, trong một chuyến lưu diễn, ông tìm được một cây vĩ cầm thanh tú nhưng không đủ tiền mua.

Đến khi ông kiếm đủ tiền và trở lại, thì cây đờn đã được bán cho một nhà sưu tầm nhạc cụ. Kreisler tìm đến chủ mới của cây vĩ cầm để xin mua lại. Nhà sưu tầm không muốn bán vì theo ông, nó là một bảo vật quí giá. Kreisler buồn bã và sắp sửa ra về, bỗng nảy ra một ý: “Xin đàn một lần trước khi nó bị ký thác cho sự câm lặng."Chủ nhân chấp thuận. Vị nhạc sĩ tài ba đã làm cho nhà sưu tầm thực sự súc động vì tiếng đàn du dương của mình, đến nỗi ông ấy phải kêu lên “Kreisler ơi! Tôi, tôi không có quyền giữ chiếc đàn này. Nó thuộc về ông. Ông hãy đem nó đi khắp thế giới để thiên hạ được thưởng thức âm thanh của nó."

Lạy Chúa, con cũng không có quyền giữ cho mình tất cả hồng ân Người đã ban tặng cho con. Tất cả đã được đón nhận thì tất cả cũng phải được sẻ chia. (Epphata)

3. Sống bác ái

Một bà kia nhìn thấy một bé gái gầy nhom và ăn mặc rách rưới. Bà cảm thấy bất nhẫn và kêu trách Chúa:

- Sao Chúa chẳng làm gì cả để giúp cho đứa bé khốn khổ ấy?

- Ta đã làm rồi đấy thôi. Chúa đáp.

- Nhưng Chúa làm gì đâu nào?

- Ta đã tạo dựng nên con ở bên cạnh đứa bé ấy. (Mark Link, Vision 2000).

4. Ai muốn lên thiên đàng?

Một hôm, trong nguyện đường D.S, một vị giảng thuyết hỏi giáo dân:

- Những ai muốn lên thiên đàng hãy đứng lên.

Tất cả cử tọa đều nhất loạt đứng dậy, chỉ trừ một người: anh ta cứ ngồi yên hàng ghế bên cạnh. Vị giảng thuyết liền hỏi anh ta:

- Thế còn bạn, bạn muốn đi đâu?

Chàng uể oải trả lời:

- Chả đi đâu cả! Tôi muốn được lên Thiên đang ngay ở đây.

Những người muốn một đời sống dễ dàng thường quên mất sự kiện này là: để sống dễ dàng, họ đã ỷ lại nhờ vả kẻ khác làm công việc mà đáng lẽ chính họ phải thực hiện. Nói khác đi, họ muốn đi du lịch mà không mất tiền (J. Keller, báo Thẳng tiến, số 29, th 01/63).

5. Dùng lời nói để làm chứng cho Chúa:

June là một bé gái 5 tuổi có khuôn mặt đẹp như thiên thần và rất lanh lợi. Cha mẹ em đều là nhà giáo có lòng đạo đức. Mẹ thường đem em đi theo mỗi khi bà có việc phải đi ra ngoài. Một hôm, hai mẹ con dắt nhau vào trong bưu điện thành phố. Đang lúc bà mẹ lo gửi thư bảo đảm cho một người thân, thì bé June chạy chơi loanh quanh gần đó quan sát người ta làm việc. Bấy giờ một ông lão ngồi gần đó thấy bé gái kháu khỉnh dễ thương, liền bắt chuyện làm quen như sau: “Này cháu bé. Cháu có mái tóc đẹp lắm! Mà tại sao mái tóc của cháu lại đẹp đến thế nhỉ?” Cô bé liền vui vẻ trả lời: “Thưa ông, mẹ cháu dạy rằng: Chính Thiên Chúa đã ban mọi sự tốt đẹp cho cháu và cháu phải biết tạ ơn Người nhiều lắm đó!” Nói xong em nhìn thẳng vào mặt ông lão, nhoẻn một nụ cười thật dễ thương và hỏi: “Thế ông đã được Chúa ban cho điều gì tốt đẹp chưa? Ông có đươc Chúa ban ơn cứu độ không?" Ông lão kinh ngạc và xúc động trước câu hỏi đơn sơ của cô bé. Ông ngẩn người suy nghĩ giây lát về tình trạng của mình rồi đáp: “Chưa đâu, cháu ạ." Em bé liền nói: “Thế thì ông phải cầu xin Chúa ban ngay đi. Rồi Chúa sẽ cho ông trở thành con của Chúa, và ông sẽ được Chúa biến đổi nên một người mới rất xinh đẹp đó!” Nói xong, bé vội chạy về phía mẹ đang vẫy gọi ở lối đi bên kia. Ít tuần sau, ông lão tìm đến một nhà thờ xin học giáo lý dự tòng. Về sau ông cho biết: chính câu nói đơn sơ của cô bé hôm ấy đã đánh động tâm hồn vốn chai lì của ông, và luôn ám ảnh khiến ông không thể quên được. Cuối cùng ông đã quyết định phải theo đạo để được trở nên con của Thiên Chúa và được biến đổi nên tốt đẹp như em đã nói.

Câu nói của một bé gái tuy đơn sơ nhưng đã có sức mạnh khiến một người già cứng lòng phải suy nghĩ và quay trở về với Chúa. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có dám biểu lộ đức tin trước mặt người khác không? Có dám nói về Chúa cho những người chưa nhận biết Chúa để họ tin Chúa và đi theo làm môn đệ Người hay không?

6. Truyền giáo cách cụ thể

Trong tác phẩm “Hương rượu mới”, tác giả thuật lại về giờ phút cuối cùng của cha mình như sau: Bấy giờ cha tôi đang hấp hối trên giường bệnh. Trong khi tôi chỉ biết ngồi nhìn cha với tâm trạng chán nản thất vọng, thì một nữ tu Công giáo với dáng người nhỏ nhắn đã bước vào phòng. Chị đi vòng qua bên kia giường cha tôi đang nằm, cầm lấy tay ông đưa lên vỗ nhè nhẹ. Sau đó chị hỏi: “Bác có nghe cháu nói không?” Ông cụ gật đầu. Đoạn chị nói với ông: “Trước đây bác đã tin Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế chưa?” Ông cụ lắc đầu. Chị nữ tu liền nói: “Bây giờ bác có muốn tin Chúa không?” Ông cụ đáp: “Dạ có." Thế là chị yêu cầu ông lặp lại theo mình: “Lạy Chúa Giêsu, con tin nhận Chúa là Đấng Cứu Thế của con. Xin Chúa ban cho con được làm môn đệ Chúa và được ơn tái sinh làm con Thiên Chúa trên trời. Lạy Chúa Giêsu, xin đón nhận linh hồn con." Ông cụ lặp lại theo từng câu và sau đó từ từ nhắm mắt qua đời

7. Hướng lòng về quê hương

Những du khách có dịp đi du ngoạn ở miền bắc nước Tô Cách Lan, thường gặp thấy những đống đá chồng chất lên nhau. Những đống đá này hàm chứa một ý nghĩa lịch sử cho dân chúng miền đó. Đây là kỷ niệm của những người dân đã di cư đi nơi khác làm ăn. Người ta kể lại rằng: vì thiếu công ăn việc làm, dân chúng miền này phải tìm đến những nước công nghiệp như Canada, Uc hay Mỹ để tìm kế sinh nhai. Khi ra đi, họ thường nhặt một hòn đá của làng mình và đem theo cho đến khi bóng xóm làng chỉ còn là một chấm mờ ở đàng sau, họ dừng lại, đặt hòn đá xuống như một kỷ niệm yêu thương cuối cùng để lại cho quê hương của họ. Rồi hằng năm, vào dịp lễ thánh An-rê, bổn mạng nước Tô Cách Lan, người dân Tô Cách Lan trên khắp thế giới thường họp nhau lại để tưởng nhớ tới quê hương mình đã cách xa, và cũng để nhớ đến họ hàng thân thuộc còn ở lại quê nhà.

Bất cứ một người dân di cư nào cũng đã gói ghém trong hành trang của mình ít nhiều tình yêu quê hương sâu đậm. Người ta tìm ra hai nguyên nhân chính yếu đã là những động lực thúc đẩy các cuộc ra đi này, đó là một đời sống nghèo nàn, cơ cực, đói khát, với những điều kiện quá khắc khổ, không công ăn việc làm, không bảo đảm tương lai. Và một hấp lực lôi cuốn từ đàng trước, đó là một đời sống no đủ, sung túc hơn, với những hứa hẹn của một tương lai tươi sáng, bảo đảm và vững chắc hơn.

Người Kitô hữu cũng có thể được ví như những người dân di cư đó. Và cuộc ra đi của chúng ta là một cuộc hành hương về nước trời. Chúng ta cũng có một động lực thúc đẩy từ cuộc sống trần gian đầy vất vả này, và một hấp lực lôi cuốn của một quê hương hạnh phúc.

8. ‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm

1- Theo khoa khảo cổ, năm 370, một nhà thờ đã được xây trên sườn núi Ô liu, nơi Chúa Giêsu lên trời, bên trong đền thờ có một tảng đá in dấu chân, người ta tin đó là dấu chân Chúa Giêsu khi lên trời.

Quân Hồi đã phá đổ tường hình bát giác xây chung quanh đền thờ đó. Năm 1100 nghĩa binh Thánh giá đã xây lại tường thành. Năm 1200 quân Hồi chiếm lại, biến thành đền thờ Hồi giáo cho đến ngày nay, nhưng vẫn cho tín hữu Kitô giáo đến kính viếng. Đó là di tích Chúa Giêsu lên trời còn lại trên mặt đất.

Một di tích khác có giá trị lịch sử chắc chắn hơn về biến cố Chúa lên trời được ghi lại trong 3 sách Tin mừng Matthêu, Marcô, Luca và nhất là sách Công vụ Tông đồ và thơ Thánh Phaolô. Ba sách Tin mừng đều nói: Chúa Giêsu lên trời trước sự có mặt của mười một tông đồ. Sách Công vụ nói: “Người lên trời trước mặt các ông”, chứ không nói rõ 11 tông đồ. Sau đó các ông về nhà ở Giêrusalem: “Tất cả đều đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy phụ nữ, Đức Maria, mẹ Chúa Giêsu, với anh em Người." Trong những ngày ấy, Phêrô đứng lên giữa các anh em khoảng 120 người, để chọn một người làm tông đồ thay thế Giuđa. Số 120 người này chắc chắn có mặt lúc Chúa lên trời.

Sau này Phaolô nói với Giáo đoàn Côrintô rằng: “Người đã hiện ra với ông Phêrô, rồi với nhóm mười hai, sau đó Người hiện ra với hơn 500 anh em một lượt, trong số ấy phần đông nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ” (I Cor. 15, 5-6).

Vậy khi Chúa lên trời có rất đông người chứng kiến, đó là lúc: “Người đã hiện ra với hơn 500 anh em một lượt."

9. Quảng cáo

Một người đàn ông khi còn sống chuyên môn làm nghề quảng cáo, đến lúc chết ông ta xuống gặp Diêm Vương. Diêm Vương ân cần hỏi: “Muốn ở thiên đàng hay hỏa ngục."

Người đàn ông ngập ngừng đáp: “Chưa thấy thiên đàng hay hỏa ngục như thế nào thì làm sao mà chọn."

Diêm Vương bèn dẫn ông ta đến một nơi và chỉ cho thấy cảnh thiên đàng: đó là một nơi mát mẻ, yên lặng, người người đi đi lại lại, nói chuyện nhẹ nhàng, chơi cờ thanh thản…

Đoạn dẫn đến một nơi gọi là hỏa ngục thì thấy vui nhộn hơn, có những đám ăn nhậu với đủ thứ thức ăn và rượu ngon, có cả văn nghệ với điệu nhạc xập xình, có các cô đào trẻ đẹp múa hát…

Sau khi đã nhìn thấy hai nơi rồi, ông ta mau mắn trả lời: “Ở thiên đàng buồn quá, tôi thích chọn hỏa ngục vui hơn."

Thế là Diêm Vương sai hai thằng quỉ ném ông ta vào hỏa ngục. Vừa đến nơi ông ta la hoảng lên vì nóng quá, chả có văn nghệ, chả có ăn nhậu gì cả, mà chỉ thấy toàn lũ quỉ đen, nham nhở đang hành hạ các tội nhân. Ông ta sững sờ quay lại hỏi Diêm Vương:

“Thế hỏa ngục lúc nãy Ngài cho tôi thấy nó ở đâu?"

Diêm Vương khoái chí cười ha hả đáp: “Ngu ơi là ngu, quảng cáo mà con!"

Đời là thế đấy! đúng là “sinh ư tử nghiệp” “sống sao thác vậy."

Nói một cách rõ ràng hơn thì người đàn ông trong câu chuyện đã bị “gậy ông đập lưng ông” vì khi còn sống ông ta đã dùng mánh khóe, xảo thuật để quảng cáo đánh lừa người khác làm lợi cho mình. Đến khi chết đi, ông ta vẫn mang dòng máu tham lam, ham lợi nên đã bị Diêm Vương cao tay hơn dùng chính lối quảng cáo đánh lừa ông ta.

LỄ THĂNG THIÊN NĂM B - Chúa lên trời

Lời Chúa: Mc 16, 15-20

Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt.

Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh.”

Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.

TRUYỆN KỂ

1. Ngước mắt nhìn trời

"Thứ hai thì ngắm Đức Chúa Giêsu lên trời, ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời."

Ái mộ những sự trên trời là một ơn ta phải xin, vì dưới đất có nhiều điều làm ta ái mộ: một người, một vật hay một việc nào đó.

Ái mộ quá có thể dẫn đến tôn thờ và làm nô lệ. Trái đất có vẻ đẹp riêng của nó, vẻ đẹp làm dịu lòng ta trong hành trình cuộc đời. Tiếc thay nhiều lúc vẻ đẹp ấy giữ chân ta lại, không cho ta bước nhanh tới đích. Lắm khi vẻ đẹp ấy kéo ghì ta xuống, không cho ta ngước lên cao.

Có vẻ trời ở xa, xa như huyền thoại. Có vẻ chỉ trái đất là có thật, gần gũi. Ta bị hút vào trái đất, đắm đuối mê say, quên mình chỉ là người tạm trú trên mặt đất.

Chúa về trời, về với thế giới của Cha, điều đó nhắc ta nhớ đời là một cuộc hành trình mà đích nằm ở phía bên kia. Trời là đích xa nhưng chi phối những chọn lựa gần. Cần chọn hướng đi, chọn phương tiện sao cho đạt đích.

Không có trời thì chẳng biết đi đâu! Con người cần có một trung tâm nằm ngoài mình, thu hút mình, nâng mình lên, kéo mình ra khỏi cái tầm thường, thực dụng.

Trời là trung tâm của đất. Đất cho con người sự sống. Trời cho con người lẽ sống. Nếu chỉ biết có đất, con người sẽ rơi vào tuyệt vọng, vì đất chẳng thể thoả mãn con người.

Nơi lòng mỗi người đều có một mảnh trời riêng. Mảnh trời này cứ đòi gặp bầu trời cao rộng như gặp lại chốn cũ người xưa. Thế giới luôn gặp nhiều bế tắc khó khăn vì người ta đứng ở trên trái đất mà giải quyết.

Cần nhìn trái đất từ trời, để thấy những giải pháp tận căn, bao quát, hiệu quả. "Sao các ông cứ đứng nhìn trời?" (Cv 1,11)

Kitô hữu không chỉ khoanh tay ngước nhìn trời, vì sứ mạng rao giảng Tin Mừng đang chờ đợi họ, vì trái đất còn bề bộn bao việc phải làm. Sống tận tình cho trái đất mà vẫn ngước lên trời cao, điều đó thật là một thách đố không nhỏ, nhưng lại là cốt lõi của đời sống Kitô hữu.

2. Ánh sáng từ trời

Một đạo sĩ hỏi các đệ tử: Các con có biết khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện, khi nào ánh sáng tới và bóng tối lui đi không? Các đệ tử thi nhau trả lời: Thưa thày, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện là khi từ xa nhìn một đoàn vật người ta có thể phân biệt được con nào là con bò và con nào là con trâu không? Thày lắc đầu: Không phải. Đệ tử khác trả lời: Thưa thày có phải ánh sáng tới và bóng tối lui là khi từ xa nhìn vào vườn cây, người ta có thể phân biệt được cây nào là cây xoài cây nào là cây mít không? Thày vẫn lắc đầu: Không phải. Thấy không ai trả lời được, thày mới giải nghĩa: Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nào ta nhìn vào mặt người xa lạ và nhận ra đó là anh em mình.

Thật là khó hiểu. Tuy trên đời ta thấy có nhiều thứ ánh sáng. Có ánh sáng mặt trăng mặt trời. Có ánh sáng đèn dầu, đèn điện. Có những ánh sáng như tia X, tia hồng ngoại. Nhưng tất cả những ánh sáng đó chỉ giúp ta nhìn rõ sự vật. Không thấy có thứ ánh sáng nào soi vào mặt người xa lạ mà biến người ấy thành người thân của mình.

3. Thắp lên một ngọn đèn

Mẹ Têrêxa là một nữ tu người Anbani, được sai đến phục vụ người nghèo tại Ấn độ. Đến Ấn độ, thấy người nghèo khổ quá tội nghiệp. Biết bao người hấp hối ngoài lề đường. Chết rồi xác bị quẳng vào đống rác như xác thú vật. Biết bao trẻ thơ bị bỏ rơi. Biết bao gia đình chui rúc trong các căn nhà ổ chuột. Biết bao người đói khát không đủ cơm ăn áo mặc. Mẹ lăn xả vào phục vụ người nghèo.

Một hôm Mẹ đi thăm một ông già cô đơn trong căn lều tồi tàn. Bước vào lều Mẹ động lòng thương cảm. Vì tất cả đồ đạc chỉ là một mớ giẻ rách. Căn lều bụi bặm bẩn thỉu ngoài sức tưởng tượng. Và nhất là ông già thu mình lại không muốn giao tiếp với ai. Mẹ chào hỏi ông cũng không buồn trả lời. Mẹ xin phép dọn dẹp căn lều ông cũng làm thinh. Đang khi dọn dẹp, Mẹ thấy trong góc lều có một cây đèn dầu bụi bám đen đủi. Sau khi lau chùi, Mẹ kêu lên: Ô, cây đèn đẹp quá. Ông già nói: Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi ngày cưới. Từ khi bà ấy chết, tôi không bao giờ đốt đèn nữa. Thấy ông đã cởi mở, Mẹ Têrêxa đề nghị: Thế ông có bằng lòng cho các chị nữ tu mỗi ngày đến thăm và đốt đèn cho ông không? Ông đồng ý. Từ đó mỗi buổi chiều, các chị tới thăm ông, dọn dẹp nhà cửa, nói chuyện với ông. Ngọn đèn ấm áp trong căn lều ấm cúng. Ông trở nên vui vẻ hơn. Ông đã đi thăm mọi người. Mọi người đến thăm ông. Cuộc đời ông vui tươi trở lại.

Trước kia cuộc đời ông tăm tối không phải vì ông không thắp đèn. Nhưng vì ngọn đèn trong trái tim ông đã tắt. Trái tim khép kín nên ông mất niềm tin vào con người, vào cuộc sống. Ông nhìn mọi người như thù địch. Từ ngày các nữ tu đến đốt đèn đời ông vui lên, sáng lên. Đời ông sáng lên không phải vì có ngọn đèn dầu hoả soi sáng. Nhưng vì trái tim ông bừng sáng. Ngọn đèn tâm hồn ông rạng rỡ. Tâm hồn ông cởi mở và ông nhìn thấy mọi người là anh em. Thứ ánh sáng ấy ta thấy trong Phúc Âm. Khi người Samaritano nhân hậu cúi xuống săn sóc, băng bó vết thương cho người bị nạn bên đường. Hai người nhìn nhau. Một làn ánh sáng loé lên. Và họ nhận ra nhau là anh em.

4. Lên trời

Chúa Giêsu lên trời. Trời là chốn linh thiêng mầu nhiệm lạ lùng. Con người luôn luôn khao khát được lên trời. Đi dưới đất, bơi trên sông, con người thấy mình thấp hèn quá! Phải làm sao lên được trời cao, con người mới thỏa mãn được những ước mơ lý tưởng của mình.

Vì thế, ngày 04 tháng 06 năm 1783, lần đầu tiên, hai anh em Mongolfiers, bay lên trời bằng khí cầu được 500 mét trước hàng ngàn người. Ngày 12 tháng 04 năm 1961, Gagarine, phi hành gia đầu tiên bay ra khỏi tầng khí quyển của trái đất trong phi thuyền Vostok I của Liên Xô. Đến ngày 16 tháng 07 năm 1969 hai ông Armstrong và Aldrin bay lên tới mặt trăng.

Loài người đã hồi hộp theo dõi: các cuộc bay lên trời của mấy ông đó và mơ ước có ngày cũng được lên trời, nhưng rốt cuộc chuyến bay nào cũng phải trở về đất, lại phải sống kiếp thân phận bụi đất.

Chỉ có cuộc lên trời của Chúa Giêsu mới giải thoát con người khỏi kiếp sống lầm than, mới ban sức mạnh thần lực cho con người lên trời vinh quang muôn đời.

5. Đọc Thánh kinh hằng ngày

Có một người Kitô hữu tầm thường, thấy bên cạnh mình có một người tự xưng mình là vô thần. Lòng nhiệt thành đã thúc đẩy họ tìm cách giới thiệu Chúa cho họ. Người này đi mua một cuốn Thánh kinh biếu cho người láng giềng ấy, hy vọng họ đọc và sẽ nhận ra Thiên Chúa. Người láng giềng vui vẻ đón nhận và hứa sẽ đọc..

Sau một thời gian, người Kitô hữu sang chơi nhà láng giềng. tình cờ thấy cuốn Thánh Kinh nằm trong sọt rác. Người Kitô hữu ngạc nhiên hỏi người láng giềng:

- Sao ông không đọc Kinh thánh? Nếu đọc, ông sẽ nhận ra Thiên Chúa.

Người láng giềng lạnh nhạt trả lời:

- À suốt trong 10 năm qua, mỗi ngày tôi đều đọc cuộc sống của anh!!!

Câu chuyện kết thúc ở đây. Chúng ta hãy suy nghĩ về câu trả lời của người láng giềng vô thần ấy. Chúng ta hãy suy nghĩ xem, người vô thần ấy muốn nói gì?

Có một bài viết ngắn về điều này:

“Tôi là cuốn sách Kinh thánh đối với người hàng xóm của tôi; người đó đọc tôi mỗi khi gặp tôi.

Hôm nay, anh ta đọc tôi trong ngôi nhà của tôi, ngày mai, anh ta đọc tôi trên đường phố.

Anh ta có thể là một người họ hàng, một người bạn, hoặc chỉ là một người quen biết sơ giao mà thôi.

Thậm chí anh ta có thể không biết tên tôi, tuy nhiên, anh ta vẫn đang đọc Kinh thánh qua cuộc đời của tôi” (Flor McCarthy).

6. Chiếc kim may

Trong một tu viện nọ có một tu huynh sắp qua đời. Khi thấy anh em trong nhà quây quần bên mình, thì ngỏ ý:

- Xin anh em đưa cho tôi chìa khoá để vào Thiên đàng.

Nghe vậy, một anh em chạy đi lấy cuốn Kinh thánh trao cho tu huynh, nhưng ông ta lắc đầu.

Một anh em khác trao cho tu huynh cây thánh giá, một anh em nọ lại đem đến tràng hạt Mân côi. Nhưng tu huynh vẫn lắc đầu.

Thế rồi, một anh em kia chợt nhớ ra rằng suốt đời tu huynh ấy đã cặm cụi lo may vá áo dòng cho anh em, bèn chạy đi tìm cây kim may và đem đến cho người anh em sắp ly trần. Vừa trông thấy cây kim may đơn sơ nhỏ bé, vị tu huynh ngồi nhổm dậy, vươn tay ra đón nhận, mân mê cây kim may nhỏ bé, rồi nhẹ nhàng nằm xuống, nhắm mắt lìa trần, nụ cười vẫn lưu lại trên môi.

7. Ngây ngất nhìn ngắm

Sách Tông đồ công vụ kể rằng khi Ðức Giêsu từ từ lên trời thì các môn đệ ngước mắt trông theo, và cứ ngây ngất đứng nhìn về trời như thế, mãi cho đến khi có hai thiên thần từ đám mây hiện ra nhắc cho các ông thì các ông mới hoàn hồn trở lại. Tại sao các môn đệ ngây ngất như vậy? Chắc hẳn là vì cảnh thiên đàng rất là hấp dẫn.

Cũng như một lần kia, 3 tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê cũng được thoáng thấy một chút vinh quang thiên đàng khi Ðức Giêsu biến hình trên núi. Ba ông đó cũng say sưa ngây ngất đến nỗi xin Chúa cho mình cất lều ở lại mãi trên ngọn núi đó.

Còn Thánh Phaolô sau khi được Chúa cho ngất trí chiêm ngưỡng cảnh thiên đàng trong một khoảng khắc ngắn ngủi, đã mô tả lại kinh nghiệm ấy trong bức thư II gửi tín hữu Côrintô như sau "Mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe... "

Ở Lộ Ðức năm 1858, một người từ trời xuống là Ðức Mẹ Maria đã hiện ra cho thánh nữ Bernadette. Sau đó thánh nữ đi tu. Một lần kia có một em bé đơn sơ hỏi thánh nữ "Thưa Ma sơ, Ma sơ đã được thấy Ðức Mẹ, chắc là Ðức Mẹ đẹp lắm nhỉ?" Thánh nữ trả lời với em bé bằng một lời diễn tả cũng rất đơn sơ "Ðẹp lắm con ạ, đẹp đến nỗi ai đã thấy được một lần thì chỉ mong chết để lại được thấy nữa.”

Còn ở Fatima năm 1917, Ðức Mẹ hiện ra cho 3 em Luxia, Phanxicô và Giaxinta. 3 em đó cũng đơn sơ hỏi Ðức mẹ "Thưa Bà, Bà ở đâu đến vậy?" Ðức Mẹ đưa tay lên cao và nói "Từ trời xuống.” 3 em liền xin "Vậy xin Bà cho chúng con cũng được lên trời đi.” Ðức Mẹ mỉm cười đáp "Phanxicô và Giaxinta thì Ta sẽ cho về trời trong một ngày gần đây; còn Luxia thì hãy chịu khó ở lại trần thế này một khoảng thời gian nữa. Kể từ ngày đó 2 em kia lúc nào cũng mơ ước tới ngày được lên trời. Dù sắp chết 2 em cũng chẳng chút lo sợ, lại còn mừng vì mình sắp được lên trời.

8. Con đường về Trời

Thủ lãnh của một bộ tộc kia nằm hấp hối trên giường. Ông cho gọi ba người có thể thay thế ông và nói:

- Ta phải chọn một người kế tục. Các ngươi hãy leo lên đỉnh núi linh thiêng của chúng ta, và mang về cho bộ tộc một món quà quí giá nhất.

Người thứ nhất trở về đem theo một thỏi vàng lớn. Người thứ hai mang về viên ngọc vô giá. Còn người thứ ba trở về với hai bàn tay trắng. Hết sức ngạc nhiên, vị tù trưởng mới hỏi:

- Món quà quí giá của ngươi đâu?

Người này điềm tĩnh trả lời:

- Khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở phía bên kia một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể hưởng một cuộc sống sung túc tốt đẹp.

Người tù trưởng nói:

- Ngươi sẽ nối nghiệp ta. Ngươi đã mang về món quà quí giá nhất: Một viễn tượng tương lai tốt đẹp.

9. Lôi kéo trong tâm hồn

Ngày xưa, một đạo sĩ gọi 6 người đệ tử của mình lại và bảo họ hãy đi khắp nơi chiêu mộ môn đệ. Một thời gian sau, tất cả đều trở về.

- Người thứ nhất trở về với 500 môn đệ. Khi được hỏi bằng cách nào anh chiêu mộ được số môn đệ đông như thế, anh trả lời: "Con rảo khắp mọi nơi nghèo nàn và hứa sẽ chu cấp mọi nhu cầu cần thiết cho ai theo đạo của chúng ta"

- Người thứ hai đem về 400 môn đệ. Anh nói: "Con hứa ai theo đạo thì sẽ được phúc thiên đàng.”

- Người thứ ba đem về 300 môn đệ. Anh nói: "Con đe dọa rằng nếu ai không theo đạo thì sẽ bị phạt trong hỏa ngục. Thế nhưng người ta không tin lắm. Cho đến một hôm con đã nguyền rủa một con chó điên khiến nó chết liền tại chỗ. Thấy thế những người này đã theo con.”

- Người thứ tư đem về 200 môn đệ. Anh nói: "Con tìm đến những người đơn sơ ít học và dùng nhiều lý luận khiến họ say mê và đi theo.”

- Người thứ năm đem về 100 môn đệ. Anh nói: "Ðây là những người trẻ. Họ đang chờ một người lãnh đạo họ. Con đã thuyết phục họ đi theo con và họ đã theo. Con nghĩ rằng nếu mình không chiêu mộ họ thì cũng có những messia giả đến chiêu dụ họ mà thôi.”

- Người thứ sáu chỉ đem về 12 môn đệ. Anh giải thích: "Con không thể gieo những hạt giống ngay mà phải chờ, vì đang là mùa đông, phải đợi đến lúc tuyết tan thì đất mới mềm và gieo mới được. Thế là con chờ. Ðang lúc chờ như thế, con kết bạn với một số người. Con cố gắng sống cho họ thấy cách sống của đạo chúng ta. Và con cũng chia sẻ cuộc sống của họ. Ðang khi chia sẻ cuộc sống như thế, con khám phá rằng họ rất coi trọng tự do đến nỗi nếu tước mất tự do của họ thì cũng là tước đi phẩm giá của họ. Con cũng học được nơi họ những điều tốt, chẳng hạn họ rất quảng đại và không sợ hy sinh. Con thành thật nói cho họ biết cái giá phải trả nếu muốn theo đạo chúng ta, nhưng con nhấn mạnh rằng nếu họ theo đạo chúng ta thì họ có thể làm được nhiều điếu tốt cho tha nhân và cho Thiên Chúa. Xem ra những điều con nói đã làm họ cảm động. Tuy nhiên khi đến lúc phải quyết định thì chỉ có 12 người này chịu theo con.”

Vị đạo sĩ khen người thứ sáu này.

Năm người trước đã giảng đạo bằng cách khai thác sự yếu đuối và sợ hãi của người ta. Những cách đó thật quá dễ, nhưng lại xâm phạm đến tự do nên người ta có theo đạo cũng vì miễn cưỡng. Còn người thứ sáu thì biết kêu gọi thiện chí bằng cách kết bạn với người ta và thuyết phục họ bằng chính gương sống của mình. Cách này tuy chậm và khó nhưng kết quả sẽ vững chắc và lâu bền. (Viết theo Flor McCarthy)

10. Chuyển vị trí hiện diện

Chuyện kể rằng khi Đức Giêsu về trời, Tổng lãnh Thiên thần Gabriel ngạc nhiên vì Ngài trở về sớm quá. Gabriel biết rằng công việc Chúa Cha giao cho Đức Giêsu rất nhiều, không thể kết thúc trọng thời gian chỉ có 3 năm như thế. Bởi vậy Tổng lãnh Thiên Thần hỏi:

- Sao Chúa về sớm vậy?

- Ờ, Ta cũng muốn ở dưới đó lâu hơn. Nhưng mà họ đã đóng đinh ta.

- Đóng đinh Chúa ư? Vậy là Chúa thất bại rồi!

- Không hẳn vậy. Trước đó Ta đã kịp lập một nhóm tín hữu. Từ nay về sau, họ sẽ tiếp tục công việc của Ta.

- Nhưng nếu họ cũng thất bại nữa thì chắc là tiêu tùng luôn rồi!

- Không đến nỗi vậy đâu, vì một đàng Ta đã hứa sẽ ở cùng họ cho đến ngày tận thế, và đàng khác Ta còn phái Thánh Thần đến giúp họ nữa.

- À ra thế. Chắc là sẽ không thất bại nữa.

11. Thiên quốc ở trong lòng

Một tu sĩ sống cuộc đời hạnh phúc và an vui trong bốn bức tường của Tu viện. Đời sống tu trì đã biến đổi cuộc đời và tâm hồn của ông trở nên tốt lành, đến nỗi mọi người đều gọi ông là ông thánh nhỏ.

Ngày nọ, đang lúc ông vừa bắt tay vào rửa chén dĩa, thì một thiên thần hiện ra và nói:

- Thiên Chúa sai ta đến để báo cho ngươi biết là giờ ngươi lìa đời đã đến.

Tu sĩ vẫn điềm nhiên và vui vẻ trả lời:

- Tạ ơn Chúa đã thương nghĩ đến tôi, nhưng như ngài thấy đó, tôi còn phải rửa hàng chồng chén dĩa, tôi không muốn tỏ ra vô ơn với Thiên Chúa, nhưng liệu giờ tôi được hưởng nhan thánh của Người có thể hoãn lại sau khi làm xong bổn phận rửa chén dĩa này không?

Nói xong, Thiên thần biến đi. Tu sĩ trở lại công việc bổn phận một cách hăng say như quên hẳn việc gặp gỡ Thiên thần.

Bẵng đi một thời gian, trong lúc vị tu sĩ đang làm cỏ ngoài vườn, Thiên thần hiện ra. Như đoán trước ý nghĩ của Thiên thần, vị tu sĩ giơ tay chỉ mảnh đất trong vườn và nói:

- Đây ngài xem, cỏ dại mọc đầy vườn, liệu giờ tôi vào cõi đời đời có thể hoãn lại cho đến khi tôi làm xong cỏ không?

Cũng như lần trước, Thiên thần chỉ mỉm cười rồi biến mất.

Một ngày nọ, trong lúc vị tu sĩ đang chăm sóc các bệnh nhân, thì Thiên thần hiện ra. Lần này vị tu sĩ không nói một lời, nhưng chỉ giơ tay chỉ vào các bệnh nhân nằm trên giường. Thiên thần biến đi không nói một lời nào. Chiều đến, vị tu sĩ trở lại căn phòng nhỏ bé đơn sơ của mình, bỗng chốc, ông cảm thấy mình đã già nua, mệt mỏi; ông thốt lên lời cầu nguyện:

- Lạy Chúa, xin sai Thiên thần Chúa đến, con sẽ sẵn sàng theo Ngài.

Lời cầu nguyện vừa dứt, Thiên thần Chúa hiện đến. Vị tu sĩ mừng rỡ:

- Lần này, nếu Thiên thần mang tôi đi, tôi sẵn sàng theo ngài về thiên quốc ngay.

Thiên thần nhìn tu sĩ với tất cả âu yếm và nói:

- Này ông thánh nhỏ ơi, sao còn mơ ước về thiên quốc, những ngày tháng vừa qua, ông nghĩ là mình đã ở đâu vậy?

12. Làm việc cho đời sau

Đền thờ Thánh Phêrô ở Roma là một trong 8 kỳ quan lớn của Thế giới. Trong tháng năm năm thánh 2000 có 3.000.000 người hành hương về nơi đây. Trong ngôi đền thờ này có một nhà nguyện nhỏ: Đó là nhà nguyện Sixtine rất nổi tiếng vì nơi đây được dùng làm nơi bầu Giáo Hoàng. Trên trần ngôi nhà nguyện này có một bức họa rất nổi tiếng của nhà danh họa Michelangelo.

Vào thế kỷ XV, khi đền thờ Thánh Phêrô được xây dựng, thì người ta đã chú trọng một cách đặc biệt đến ngôi nhà nguyện này. Một hôm kia Đức Thánh cha Sixtô thứ IV vào tham quan công trình, thấy Michel Ange đang nằm ngửa lên để tô vẽ bức ảnh, Đức Thánh cha có hỏi ông:

-Này Michel Ange, chừng nào ông mới hoàn thành công việc đây?

Từ trên giàn gỗ, nhà danh họa đáp lại:

-Chừng nào còn có thể!

Vị Giáo Hoàng dường như mất hết kiên nhẫn:

-Thế ông có biết là ông đã bắt đầu mấy năm rồi chưa? Thế mà tôi vẫn chưa thấy gì hết...

Một cách điềm tĩnh, Michelangelo trả lời:

-Thưa Đức Thánh cha, con không làm việc cho đời tạm này, mà cho đời sau...”

13. Tự hào về niềm tin

Một vị tuyên uý quân đội người Mỹ vừa giảng một bài cho các binh sĩ Mỹ trong một thánh lễ tại một giáo đường ở Châu Âu. Chủ đề của bài giảng là: “Hãy tự hào về đức tin công giáo của bạn; Đừng xấu hổ khi phải công khai tuyên xưng nó.”

Sau thánh lễ, một lính thủy do rất xúc động vì bài giảng đã chận vị tuyên uý ngay trước cửa giáo đường và hỏi; “Thưa cha, cha có bằng lòng nghe con xưng tội không?” Vị tuyên uý trả lời: “Tôi rất sung sướng được nghe anh xưng tội.” Thế là chàng lính thủy quì ngay xuống lối đi bên cạnh ngay trước giáo đường. Vị tuyên uý vội nói; “Đừng quì gối kẻo thiên hạ nhìn kìa!” Chàng lính thủy đáp lại: “Kệ họ, thưa cha, cứ để họ nhìn, con hãnh diện về đức tin của con.”

14. Công bố Tin Mừng

Ruddell Norris là một chàng trai cần mẫn. Chỉ tội chàng ta nhút nhát. Nói chuyện với kẻ khác chàng đã thấy là khó khăn rồi, huống chi phải bàn chuyện tôn giáo với họ. Thế rồi một ngày kia chàng nảy ra một ý kiến. Ruddell đọc sách khá nhiều và chàng biết có nhiều cuốn sách nói về đức tin công giáo. Vì vậy chàng quyết định dành riêng một phần tiền tiết kiệm hàng tuần để mua những cuốn sách ấy. Ruddel để những cuốn sách ấy ở những nơi mà chàng nghĩ người ta thường cầm chúng lên đọc. Chẳng hạn, ở những phòng chờ đợi và tiếp khách.

Một hôm, một thiếu phụ vốn là bạn của gia đình chàng kể cho cha mẹ chàng biết cô ấy đã trở lại đạo thế nào và chồng cô đã trở về với Giáo hội thế nào. Cô nói: “Tất cả bắt đầu do một quyển sách nhỏ mà tôi đã tìm thấy tại phòng chờ đợi ở bệnh viện.” Anh chị em có thể tưởng tượng được chàng trai đã phấn khởi biết bao khi biết được tầm ảnh hưỏng mà chỉ một trong những tập sách nhỏ của chàng đã tạo ra.

Câu chuyện của Ruddell Morris nhấn mạnh một điều quan trọng trong việc công bố Tin Mừng: Có nhiều cách để công bố Tin Mừng. Chúng ta có thể công bố một cách trực tiếp như Ruddell đã làm. Hoặc “công bố” một cách gián tiếp, chẳng hạn bằng lời cầu nguyện hoặc gíup đỡ tài chính cho các hoạt động truyền giáo của Giáo hội.

“Các con là muối ướp cho mọi người, nếu muối nhạt, thì chẳng còn cách gì làm cho nó mặn lại được, nó trở thành vô dụng, chỉ còn nước ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó.

Các con là ánh sáng cho toàn thế giới, là một thành phố xây trên một ngọn đồi nên không thể giấu được….

Cũng thế, ánh sáng các con phải sáng lên trước mặt thiên hạ để họ nhìn xem những việc thiện các con làm mà ngợi khen Cha các con ở trên trời” (Mt 5: 13-16).

15. Nơi Chúa hẹn gặp ta

Thời Trung cổ, có hai tu sĩ tình cờ đọc thấy trong một cuốn sách cổ chép rằng: ở tận cùng trái đất sẽ có một nơi mà trơi đất gặp nhau. Họ quyết định ra đi tìm cho bằng được điểm gặp nhau ấy và thề quyết sẽ không trở về nhà nếu không tìm ra nơi ấy, vì họ đã đọc được trong quyển sách cổ rằng tại điểm giao nhau giữa trời và đất, một cánh cửa sẽ mở ra và họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa tỏ tường.

Họ vượt thác băng rừng, không quản ngại hy sinh. Cuối cùng thì họ cũng đứng trước giao điểm ấy. Với tất cả xúc động, họ đưa tay gõ vào cánh cửa hẹn hò, cánh cửa mơ ra và họ bỡ ngỡ nhận ra đó chính là căn phòng của mình. Họ chợt hiểu rằng nơi gặp gỡ giữa trời và đất, nơi hẹn hò giữa Thiên Chúa và con người không gì khác hơn là chính cuộc sống hằng ngày của họ.

16. Bài thơ chứng nhân

Chung lời ngợi khen Chúa Con,

Hân hoan thờ kính sắt son một niềm.

Ứng viên của Chúa tình yêu

Nhiệt tâm, nhiệt huyết, đìu hiu xa rời,

Gần gũi, gắn bó đầy vơi

Nghị lực Thần khí, biển trời cậy trông.

Hoạt động hăng say vun trồng,

Ân sủng chan chứa tình nồng thánh ân

Người người chung sức tảo tần,

Ra đi làm chứng, xếp vần yêu thương. Amen.

17. Rao giảng theo cách của thánh Phanxicô

Thánh Phanxicô gọi một thầy dòng cùng đi giảng với ngài. Hai thầy trò cùng đi các đường phố Assise, cách nghiêm trang, suy tưởng về Chúa… Về nhà, thầy dòng hỏi cha thánh:

– Giảng ở đâu?

Cha thánh trả lời:

– Giảng là đem Chúa đến bằng gương sáng, bằng cách sốt sắng mang Chúa trong tâm hồn.

- Cách rao giảng của bác tài xế xe taxi

Một vị linh mục sau chuyến đi du lịch Đài Bắc trở về đã thuật lại một cách thức làm tông đồ truyền giáo của một bác tài xế xe taxi ở đó như sau:

“Ngày nọ, tôi đón taxi từ khách sạn đi trung tâm thành phố Đài Bắc mua sắm quà lưu niệm. Tôi thấy ngạc nhiên khi thấy trong xe có dán một tờ giấy ghi mấy dòng chữ như sau: “Bạn có thể thấy một vài quyển sách về tôn giáo ở hộc bên hông xe. Trong khi xe đang chạy, bạn có thể đọc sách và nếu thích, bạn có thể mang sách theo khi rời khỏi xe mà không phải trả tiền mua sách.” Tôi tò mò tìm hộc sách và thấy một chục cuốn sách mỏng bằng tranh nội dung về cuộc đời Đức Giêsu in trên giấy trắng khá đẹp, một ít sách truyện về các thánh và các danh nhân tôn giáo, một ít cuốn là những câu chuyện về việc sống đức tin giữa đời thường... Ngoài ra, phía trên tấm kính chiếu hậu trước mặt tài xế cũng có một ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nhỏ. Tôi mở lời hỏi tài xế:

- Này bác tài, xin vui lòng cho tôi biết hành khách đi xe có ai quan tâm đến hộc sách đạo của bác không?

- Ồ, có chứ! Có nhiều người đã lấy ra xem, và có người còn mang về nhà nữa.

Tôi hỏi tiếp:

- Bác có cảm tưởng gì khi thấy người ta đọc sách do bác giới thiệu?

- Tôi cảm thấy rất sung sướng anh à! Anh biết không: tôi không có nhiều giờ đi lễ nhà thờ. Vì tôi phải luôn chạy xe để kiếm tiền nuôi sống gia đình. Do đó, đây là cách làm công tác tông đồ của tôi. Tôi rất mừng vì đã có thể làm hai công việc một lúc: vừa lái xe lại vừa rao giảng Tin Mừng mà không phải tốn thêm thời giờ. Tôi nghĩ rằng tôi đang làm một công việc tuyệt vời!

18. Thánh Gióng

Vào đời Vua Hùng Vương Thứ Sáu có nạn giặc Ân bên Tàu. Chúng cậy thế mạnh nên hay sang quấy nhiễu nước ta. Vua truyền hịch đi khắp nơi để tìm người tài giỏi giúp nước diệt giặc.

Bấy giờ ở làng Phù Đổng có một cậu bé đã 3 tuổi mà chỉ nằm ngửa không nói được một lời nào. Cậu bé được sinh ra do một lần người mẹ nghèo làng Gióng ra đồng, thấy vết chân to lớn lạ thường nên ướm thử, không ngờ về nhà thụ thai. Mười hai tháng sau, bà sinh một bé trai khôi ngô tuấn tú, nhưng thật kỳ lạ là lên ba mà cậu bé vẫn chẳng biết nói, biết cười. Lúc bấy giờ, giặc Ân đang xâm lấn nước ta. Thế giặc mạnh nên vua rất lo, truyền cho sứ giả đi khắp nơi tìm kiếm người tài cứu nước. Cậu bé nghe thấy tiếng loa, liền cất tiếng nhờ mẹ mời sứ giả tới nhà. Gặp sứ giả, cậu bé bảo: “Ông về tâu vua sắm ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt, ta sẽ đánh tan lũ giặc này.” Được lời, sứ giả vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ vội về bẩm báo với nhà vua.

Vua thuận ý. Cậu bé liền vươn vai thành người to lớn, khỏe mạnh. Chuyện càng lạ hơn nữa khi từ hôm gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn bao nhiêu cũng chẳng no, áo vừa may xong đã căng đứt chỉ. Mẹ cậu bé phải nhờ đến sự giúp đỡ của bà con trong làng thì mới lo đủ cho cậu. Khi giặc Ân đến chân núi Châu Sơn (Tiên Du, Bắc Ninh) thì cũng là lúc sứ giả đem kiếm, áo giáp và ngựa tới cho cậu bé. Cậu bé vươn vai thoắt biến thành một tráng sỹ mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt. Tráng sỹ mặc giáp, cầm kiếm và nhảy lên mình ngựa. Ngựa sắt bỗng chuyển động, miệng hý vang. Tráng sỹ thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác. Roi sắt gẫy, tráng sỹ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc.

Sau khi diệt giặt Ân, Gióng bay đến chân núi Sóc Sơn, cởi giáp, bỏ kiếm, rồi cả người và ngựa cùng thăng thiên. Từ đó dân gian mới có câu:

… Làng Phù Đổng có một người

Sinh ra chẳng nói, chẳng cười trơ trơ

Những ngờ oan trái bao giờ

Nào hay thần tướng đợi chờ phong vân….”

Hôm nay chúng ta mừng kỷ niệm ngày Chúa Giê-su vinh thăng về Trời sau khi hoàn thành sứ mạng cứu độ trần gian. Đây không phải là một huyền thoại được dựng nên để thỏa mãn lòng người, mà là một sự kiện lịch sử khẳng định cho chúng ta về một cõi thiên đường..

19. Đời người cần một lẽ sống

Có một gia đình kia: chồng là người ngoại đạo. Ông không tin Chúa. Ông còn luôn miệng nhạo báng, khinh miệt những hành vi thờ phượng kính mến Chúa. Ngược lại, bà vợ lại rất sùng đạo. Ngày nào bà cũng dắt con đi lễ cầu nguyện. Dù sống giữa hai chiều hương trái ngược đối nghịch nhau, đứa con trai duy nhất của họ vẫn hiếu thảo với bố mẹ. Một hôm em lâm bệnh hiểm nghèo, em hỏi bố rằng: "Bố ơi! Trong ít ngày nữa con sẽ không còn sống ở dương gian. Con xin bố dạy con phải tin ai? Theo bố hay theo mẹ? Tin theo bố thì chẳng có thiên đàng, chẳng có Chúa hay có mẹ để được yêu thương ở đời sau! Còn tin theo Mẹ thì có Thiên Chúa là Cha nhân lành. Có cõi trời để hưởng hạnh phúc vĩnh cửu bên Chúa la Cha. Có Đức Mẹ luôn bầu cử chở che?"

Người cha quá sững sờ và kinh ngạc. Ông ôm con vào lòng và nói: "Con hãy tin theo Mẹ. Con cưng của cha! Đứa bé liền nói tiếp: "Nhưng nếu bố không tin theo Mẹ, thì làm sao con có thể chờ đợi bố ở trên thiên đàng được?” Trước lời đơn sơ và chân thành của em bé, người cha đã không kiềm nổi những giọt nước mắt ứ tràn nơi khoé mắt. Ông đã để những giọt nước mắt xót xa tuôn rơi trên gò má già nua của mình. Kể từ ngày đó, người cha đã chọn Chúa là lẽ sống, là Đấng ông tôn thờ.

Vâng, nếu cuộc đời này sinh ra lớn lên rồi chết đi thì cuộc đời chẳng còn ý nghĩa gì! Con người sinh ra để được sống mãi chứ không phải để nhào lộn trong bể khổ và chết là hết kiếp người! Điều quan yếu là chúng ta phải tìm ra lẽ sống, và cùng đích đời người là gì? Sống để làm gì? Và chết rồi đi đâu? Đó là những vấn đề làm nên nhân cách con người. Chúng ta chọn cách sống nào cũng tuỳ thuộc vào việc chúng ta hiểu ý nghĩa và cùng đích đời người ra sao?

20. Quê hương chúng ta ở trên trời

Người ta kể rằng: Năm 1285, quân Nguyên Mông sang xâm chiếm Đại Việt, Trần Bình Trọng được giao coi giữ Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay). Khi giặc đánh xuống, vì lực lượng yếu, Trần Bình Trọng bị bắt, Lý Hằng sai giải đến cho Thoát Hoan. Thoát Hoan thấy Bình Trọng người cao lớn, dáng đi hùng dũng, nét mặt đường hoàng, không có chút gì là sợ sệt thì biết không phải là tướng thường, nên muốn khuyên dỗ về hàng, liền tiếp đãi rất tử tế, mời ăn uống hẳn hoi. Nhưng Bình Trọng không ăn. Hỏi đến việc nước, Bình Trọng cũng không nói. Sau Thoát Hoan lại hỏi: "Tướng quân có muốn làm vương đất Bắc không?”

Bình Trọng trả lời: "Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc. Nay ta đã bị bắt thì chỉ có chết là cùng, can gì phải hỏi lôi thôi.”

Thoát Hoan không thuyết phục nổi Trần Bình Trọng hàng, nhưng vì có ý mến phục, cũng không nỡ giết, cho giải theo quân. Được mấy hôm, lại sợ Bình Trọng trốn mất, mới sai mang ra chém. Trần Bình Trọng bấy giờ mới 26 tuổi.

Bình Trọng không bán nước cầu vinh. Bình Trọng chọn chết vinh hơn sống nhục. Không vì giầu sang hay chức vụ mà sống hèn hạ, sống lệ thuộc, sống mất tự do. Bình Trọng chọn cái chết để trung thành với quê hương đất nước. Rất đáng được người muôn thế hệ noi theo.

Là người ky-tô hữu chúng ta cũng có một vương quốc để yêu mến, để phụng sự. Đó chính là Nước Trời. Đó chính là quê hương đích thực của đời người chúng ta.

21. Thiên đàng và hỏa ngục khác nhau ở chỗ nào

Một người sùng đạo nói chuyện với Chúa “ Thưa Chúa, con rất muốn biết Thiên đường và Địa ngục là như thế nào?” Chúa dẫn anh ta vào hai cái cửa…

Chúa mở cái cửa đầu tiên, người đàn ông nhìn vào.

Ở giữa phòng có một cái bàn tròn lớn. Ở giữa bàn có một nồi nước hầm bốc khói nghi ngút trông thật ngon và hấp dẫn.

Nhưng mọi người ngồi xung quanh bàn thì lại gầy guộc, xanh xao, cứ như là bị bỏ đói từ lâu vậy.

Mỗi người ai cũng đang cầm chiếc thìa có cán dài được buộc vào cánh tay. Họ có thể với chiếc thìa dài tới nồi nước hầm để múc, nhưng vì nó dài quá, và bị buộc vào tay, nên họ không thể cho vào miệng mình được.

Người đàn ông rùng mình trước cảnh tượng khổ sở như vậy. Chúa nói: “Đấy, con vừa nhìn thấy Địa ngục.”

Tiếp tục họ bước sang phòng thứ hai và mở cửa. Mọi thứ xung quanh đều giống phòng đầu tiên. Nhưng mọi người ở đây trông thật to khỏe, no nê, mãn nguyện, cười nói rôm rả.

Chúa nói “Đây chính là Thiên Đường”

Người đàn ông thắc mắc: “Con không hiểu, thưa Chúa.”

“Đơn giản thôi” – Chúa đáp – “Ở nơi này, mọi người biết cách đút cho nhau ăn.”

22. Gậy ông đập lưng ông

Một người đàn ông khi còn sống chuyên làm nghề quảng cáo. Khi ông ta chết, ông ta đến gặp diêm vương. Diêm vương ân cần hỏi ông: "Muốn ở thiên đàng hay hỏa ngục." Ông ta ngập ngừng đáp. Tôi chưa thấy thiên đàng hay hỏa ngục như thế nào thì làm sao tôi có thể chọn! Diêm vương dẫn ông ta đến một nơi và chỉ cho ông ta thấy cảnh thiên đàng. Đó là một nơi mát mẻ, yên lặng, thanh bình, vui chơi..., người ta ăn nói nhẹ nhàng, lịch thiệp.

Sau đó, Diêm vương dẫn ông ta đến xem hỏa ngục, thì ông ta thấy vui nhộn, người ta ăn nhậu, vui vẻ, có các cô gái chân dài, trẻ đẹp múa hát. Thế là ông ta thích thú. Khi nhìn thấy thiên đàng và hỏa ngục rồi, ông ta mau mắn trả lời: ở thiêng đàng buồn quá, tôi thích chọn quả ngục vui sướng hơn.

Thế là Diêm vương sai hai thằng quỷ đưa ông ta vào hỏa ngục. Vừa đến nơi, ông ta hoảng hốt la hét lên: nóng quá làm sao tôi chịu nổi, ông ta la hét lên: sao không có ăn nhậu hay các cô gái đẹp gì cả, toàn là lũ quỷ đen đang hành hạ các tội nhân.

Ông ta tức giận quay lại hỏi Diêm vương. Thế hỏa ngục lúc ông chỉ cho tôi ở đâu? Diêm vương khoái trí cười trả lời: "Đồ ngu, đồ thứ tham lam duc vọng, đó chỉ là quảng cáo thôi." Đời là thế đấy! Và ông cũng làm nghề quảng cáo mà.

Người ta thường nói: "Sinh nghề tử nghiệp.” Khi còn sống ông ta cũng đã dùng nhiều cách mánh khóe, gian lận, sảo huyệt để quảng cáo và đánh lừa người khác để làm lợi cho mình. Đến khi chết rồi, ông ta vẫn còn cái tính tham lam, tính toán, nên bị Diêm vương cao tay đánh lừa ông ta.

23. Nhân chứng cho đức tin

Bài viết có nội dung như sau và trích từ R. Veritas:

“Một phụ nữ tên là Mensi đã đăng quảng cáo trên một tờ báo địa phương như sau: "Nếu bạn cô đơn hay gặp nan đề nào, xin hãy gọi điện thoại cho toi. Tôi bị liệt phải ngồi xe lăn tay, nên rất ít khi ra ngoài. Chúng ta có thể trao đổi nan đề với nhau. Mời bạn cứ gọi. Tôi rất thích nói chuyện với bạn.”

Việc đáp ứng quảng cáo này rất kỳ lạ. Mỗi tuần bà Mensi nhận được khoảng từ 30 cú phôn, và bà rất mừng. Điều gì thúc đẩy một người tàn tật ngồi trên xe lăn tay muốn tiếp xúc nói chuyện với những người khác?

Bà Mensi kể rằng trước khi bị tê liệt bà có sức khỏe hoàn toàn, nhưng rất tuyệt vọng. Bà đã tự tử bằng cách nhảy từ trên gác cao xuống đất. Nhưng thay vì chết, bà bị tê liệt từ thắt lưng trở xuống. Nằm trong nhà thương bà hoàn toàn tuyệt vọng. Nhưng một hôm bà nghe như Chúa Giêsu nói với ba: "Mensi ơi, trước đây con đã có một thân xác hoàn hảo, nhưng linh hồn con lại què quặt, Kể từ nay con sẽ có thân xác què quặt, nhưng linh hồn con kháng kiện.”

Sau khi ra khỏi nhà thương, bà Mensi quyết tâm dâng đời mình cho Chúa. Bà cầu xin Chúa cho bà được chia sẻ niềm tin của mình với người khác. Rồi bà đăng báo như đã kể trên đây.

Công việc của bà Mensi xem ra như không có gì đối với người khác. Nhưng với bà, đó là công việc lớn lao nhất mà một người tàn tật có thể làm để phục vụ Chúa.”

24. Sự sống đời đời

Khi Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ em ở Fatima, thì Fanxicô và Giacinta hỏi Đức Mẹ là các em có được lên Thiên đàng không? Đức Mẹ trả lời hai em sẽ sớm được Đức Mẹ đưa về trời, còn Luxia thì Đức Mẹ cho biết phải ở lại thế gian lâu hơn để phổ biến sứ điệp Fatima cho toàn thế giới. Quả đúng như thế, Fanxicô qua đời khi mới 11 tuổi, Giacinta chết khi 10 t, còn chị Lucia sau vào dòng kín và mãi tới năm 2005 mới qua đời khi đó thọ 98 tuổi

Chị Bernadetta được Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức năm 1858. Người ta hỏi chị: Đức Mẹ có đẹp không? Chị trả lời Đức Mẹ đẹp lắm, nếu ai đã được nhìn thấy Đức Mẹ một lần thì sẵn sàng muốn chết đi để được nhìn thấy Đức Mẹ lần nữa

Bà Emilia Wojtyla là thân mẫu của ĐGH Yoan Phaolô II, khi bà mang thai thì bác sĩ bảo bà phải phá thai, nếu không bà sẽ chết, còn con trẻ thì nguy tới tính mạng nhưng cả hai ông bà đều quyết định không phá thai. Bà sinh rất khó khăn nhưng Chúa cho qua được và khi đứa con 9t bà mới chết, sau này người con đó trở thành vị thánh Giáo hoàng nổi tiếng trong thời đại chúng ta.

25. Các đệ tử tiếp tục và hoàn tất

Nhà soạn nhạc vĩ đại người Ý Giacomo Puccini (1858-1624) đã viết nhiều vở nhạc kịch lừng danh. Năm 1922, lúc ông được 64 tuổi, thì ông mắc bệnh ung thư. Dầu vậy, ông vẫn quyết định hoàn thành vở nhạc kịch cuối cùng của mình, tức vở Turandot mà hiên nay nhiều người xem như vở nhạc kịch hay nhất của ông. Ông miệt mài làm việc ngày đêm. Nhiều người ép ông nghỉ ngơi, vì theo họ nghĩ, ông không thể nào hoàn tất nổi vở nhạc kịch ấy. Khi thấy căn bệnh ngày càng nặng hơn, Puccini nói với các đệ tử: "Nếu ta không hoàn tất được vở Turandot thì các trò hãy cố gắng hoàn tất nó cho ta."

Vào năm 1924, Puccini được học trò đem đến Bruxelles để giải phẫu, nhưng hai ngày sau cuộc giải phẫu đó, thì ông qua đời. Trở về Ý, các đệ tử của Puccini nghiên cứu kỹ lưỡng vở Turandot và tiếp tục viết cho đến lúc hoàn thành trọn vở nhạc kịch đó.

Hai năm sau, vở nhạc kịch được trình diễn lần đầu tiên tại nhà hát lớn La Scala thuộc thành phố Milan, do Arturo Toscanini, người học trò ưu tú của Puccini điều khiển. Mọi sự đều trôi chảy tốt đẹp cho đến khúc nhạc mà Puccini buộc phai ngừng bút. Nước mắt ràn rụa trên khuôn mặt Toscanini. Anh cho giàn nhạc dừng bản nhạc kịch lại, đặt cây gậy điều khiển xuống rồi quay về khán thính giả và nói lớn: "Sư phụ chúng tôi đã viết được đến đây, rồi người qua đời."

Lúc đó toàn thể nhà hát đều im bặt, không cử động. Sau vài phút, Toscanini cúi xuống cầm gập điều khiển lên, quay về cử tọa mỉm cười qua dòng lệ rồi thốt lên: "Nhưng các đệ tử đã hoàn tất công việc của người.” Vở Turandot vừa dứt thì toàn thể khán thính giả vỗ tay ầm ầm như sấm vang. Những người có mặt lúc đó không thể nào quên được giây phút ấy.

26. Giây phút hiện tại

Gerard Manley Hopkins là một thi sĩ người Ai-Nhĩ-Lan. Hồi còn trẻ, ông là một giáo sư dạy học tại một học đường của các cha dòng Tên ơ Wales. Ngày kia ông đang trên đường trở về nhà ở trong cư xá dòng Tên. Lúc bấy giờ là mùa thu. Hopkins đang ở trong một trạng thái rầu rĩ vì mùa hè đã qua, mùa đông sắp tới và thời tiết bắt đầu đổi thay.

Nếu ai đã trải qua mùa đông ở Wales thì sẽ rõ tại sao thi sĩ bị sa sút tinh thần. Tại đây rất nhiều ngày chỉ thỉnh thoảng sương mù hơi mõng một chút, nhưng phần nhiều trong ngày là một màng sương dày đặc ẩm ướt bao trùm và nhìn đâu đâu cũng chỉ thấy mờ mịt. Đang khi ông trên đường trở về nhà, bất chợt Hopkins tự nói với mình: “Hãy thư thả một chút. Mùa hè không còn đây nữa. Hè đã qua rồi. Mùa đông chưa có ở đây. Mùa đông chưa đến. Vậy thì mùa gì đây? Đó là mùa thu, mùa của lá rụng và cũng là mùa gặt hái hoa quả. Hãy mở mắt ra mà xem. Xem vẻ đẹp của hoa lá. Xem mây trôi lơ lững trên nền trời. Hãy thưởng thức gió mát từ bờ biển Ai-Nhĩ-Lan thổi vào. Đừng bận tâm về điều gì không còn ở nơi đây nữa. Đừng bận tâm về điều gì chưa xảy tới nơi đây. Hãy ngắm xem cái gì đang xảy ra bây giờ đây.

“Hãy trân trọng giây phút hiện tại. Hãy trân trọng vẻ đẹp rạng rỡ đang phô bày trước mắt!”

27. Nước Trời thuộc về những ai tìm kiếm

Có một nhà phú hộ, đầy quyền thế danh vọng ở đời bỗng nhiên đột quỵ và qua đời. Gia nhân ai nấy đều xúc động, bỡ ngỡ. Người ta bàn tán xôn xao về cái chết đột tử của nhà phú hộ. Trong đó có một lời bàn gây nhiều tranh cãi từ một người quản gia của nhà phú hộ. Người quản gia nói rằng: Theo các anh thì ông chủ chúng ta sẽ đi về đâu?

Các gia nhân đáp: Ông ấy lên trời chứ đi đâu nữa.

Người quản gia nói: Không đâu. Tôi chắc chắn ông ta không lên trời.

Tất cả đều ngạc nhiên hỏi: Làm sao quản gia biết là ông chủ không lên trời?

Người quản gia nói: Thường thì đi đâu xa, chủ của chúng ta thường nói về nước sẽ đi đến và chuẩn bị rất là cẩn thận. Nước trời là cõi xa xôi, nhưng tôi không bao giờ thấy ông chủ của mình nói gì về nước đó, cũng không thấy ông ta chuẩn bị gì cả. Làm thế nào mà ông ta vào Nước Trời được!

28. Chúa Giêsu là bác sĩ tâm hồn

Ngày 25/3/2003 tại Sàigòn, một bác sĩ có tên thánh là Augustino, 50 tuổi được thụ phong linh mục, điều đáng nói vị linh mục này là một người lương trở lại đạo cách ngày thụ phong 10 năm, lúc đó ngài 40 tuổi, sau khi trở lại đạo, ngài gia nhập tu hội Thánh Vinh Sơn, theo học triết học và thần học. Bề trên thấy có đủ điều kiện đã thụ phong linh mục cho ngài. Hiện cha đang làm việc cho một trung tâm dành cho nhưng người mắc chứng siêu vi đang chờ ngày giờ về thế giới bên kia, trung tâm đó ở Củ Chi cách Sàigòn độ 30 cây số.

Làm sao từ một bác sĩ lương dân có thể trở nên một người tận hiến cuộc đời cho Chúa và anh em như vậy? Thưa ngài đã được thu hút bởi các nữ tu Nữ Tử Bác Ái, nhất là từ một nữ tu người ngoại quốc nhưng tận hiến trọn cuộc đời của mình để yêu thương phục vụ cho người cùi hủi, sau khi tốt nghiệp chuyên về ngành da liễu, sơ ngoại quốc này đã tình nguyện làm việc tại bệnh viện Bến Sắn, một bệnh viện công nhưng có các sơ Nữ Tử Bác Ái cùng làm việc. Trước những hy sinh tận tụy của sơ này và các sơ phục vụ cho các người phong cùi khác với cả tấm lòng, đã đánh động vị bác sĩ - linh mục này, ngài nói:"Tôi tự nghĩ trong lòng, tôi có thể chữa lành các vết thương thân xác, nhưng làm sao tôi có thể chữa lành nỗi lòng cô đơn, bị bỏ rơi của các bệnh nhân cùi hui này? Từ đó tôi đã tìm hiểu niềm tin Công giáo và tôi đã gặp được vị bác sĩ của các tâm hồn là Đức Giêsu Kitô.”

29. Một cõi đi về

Có lẽ trong chúng ta, phần đông đều biết đến một ca khúc của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Ca khúc có tựa đề là "Một cõi đi về":

Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi

Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt

Trên hai vai ta đôi vòng nhật nguyệt

Rọi suốt trăm năm một cõi đi về.

Mây che trên đau và nắng trên cao

Hôm nay ta đi song còn ở lại

Con tim yêu thương vô tình chợt gọi

Lại thấy trong ta hình bóng con người

..............

Nếu cố nhạc sĩ họ Trịnh đã viết nên lời của ca khúc Môt cõi đi về này thì tôi tưởng rằng Trịnh Công Sơn đã có một chiều sâu cảm nghiệm về một cõi, về một nơi nào đó mà người ta phải đi tới, phải đi về. Cõi đó là cõi nào? Nơi đó là nơi nào?

Tin mừng hôm nay mô tả: " Nói xong, Chúa Giêsu được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa"(Mc 16, 19)

Như vậy, nếu Trịnh Công Sơn đã nói về một cõi xa xăm nào đó thì hôm nay, chính Chúa Giêsu đã xác định cõi đó là Thiên Đàng, là Trời cao. Đó là nơi mà sau bao nhiêu năm Đức Giêsu đã long đong, sau bao nhiêu năm nhọc nhằn, sau bao lần nếm cảnh nghèo đói, khổ đau, cay đắng và thậm chí là những thất bại chua cay, giờ đây, Ngài đang bước đến cõi đi về đó. Nơi đó, cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Nơi hạnh phúc không còn khổ đau, nơi mà tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối và viên mãn. Nơi mà con người trở thành bất tử.

30. Lễ Thăng Thiên

Cách đây độ chừng 15 năm, nghĩa là trong những năm thời trung học phổ thông, con có chứng kiến một sự kiện hi hữu như thế này: hôm đó cả lớp cùng đi đám tang của một người bạn trong lớp. Vì nhà tang rất xa, cho nên phải đi khá sớm. Hơn nữa trước khi đi, xe phải chạy vòng ra chợ để lấy vòng hoa phân ưu đã đặt trước, cách chung là mọi việc rất khẩn trương vội vã. Khi đến nhà tang thì mọi người xuống xe, chuẩn bị hàng ngũ chỉnh tề để vào phúng viếng thì mới dở khóc dơ cười khi nhìn thấy trên vòng hoa có hàng chữ "Chúc mừng khai trương - Thành công mỹ mãn.”

Thưa anh chị em! Chắc chắn rằng không ai trong chúng ta muốn cái sai lầm đó xãy ra bao giờ cả, nhất là đối với những người không phai là đạo Công Giáo. Thế nhưng suy nghĩ một chút, chúng ta cũng thấy rằng: cái lầm lẫn đó cũng mang một ý nghĩa khá thú vị. Bởi vì theo đức tin Công Giáo, cái chết là cửa ngỏ để dẫn chúng ta vào đời sau vĩnh cửu, để dẫn chúng ta vào Thiên Đàng, nơi mà theo Thánh Gioan diễn tả: không còn chết chóc, không còn vất vã nhọc nhằn, không còn khóc lóc và đau thương, nhưng chỉ có bình an và hạnh phúc.

31. Ruộng đất trần gian

Có một cái vị địa chủ kia, bán đất cho một cái người đàn ông. Người địa chủ bảo rằng: từ sáng cho tới chiều, tôi bán cho ông miếng đất đó 10₫ bạc, miễn làm sao, ông đi từ sáng cho đến lúc mặt trời lặn, ông cứ đi đi! tới đâu, đó là ranh giới của miếng đất mà ông sẽ được hưởng với giá 10₫.

Thế là cái người đàn ông đó hí ha, hí hửng chạy về nhà suy nghĩ một đêm tính ra bây giờ ngày mai mình phải đi như thế nào đó thật nhanh, thật xa, để đất đai của mình được nhiều.

Thế là ông mua 2 ổ bánh mì, kèm theo 2 chai nước. Ông đi và ông đi, ông đi vội vả đến độ nghỉ trưa mệt nhòa. Ông nghĩ rằng: Nếu bây giờ mình nằm ngủ, mình nghỉ trưa thì mình sẽ bị thiệt thòi mất đi những mét đất mà ông chủ bán.

Thế là với 2 ổ bánh mì và 2 chai nước, ông đã ăn và đã vội vàng đi và đi, đi mãi cho đến lúc chiều tà, đến lúc không còn ánh nắng nữa, thì phần đất mà ông chủ hứa đã dành cho ông như đã hứa.

Thế nhưng rồi, tiếc thay với những cái cơn nắng nóng, cơn khát và sức khỏe giới hạn ông đã kiệt sức và không còn sống được nữa, tới khi người ta phát hiện ra ông, ông đã chết. Người ta đào lỗ chôn cho ông với vừa đủ cái thân hình nhỏ bé của ông.

32. Ham muốn phù vân

Ngày 17-05-2012, Cảnh sát Thái Lan bắt giữ một người Anh gốc Đài Loan, tên Chow Hok Kuen tại Bankok. Trong hành lý của Hok Kuen có chứa 6 bào thai sấy khô, quấn vàng lá theo nghi thức tà thuật. Những bào thai này khoảng 2-8 tháng tuổi. Vụ bắt giữ được tiến hành sau khi cảnh sát nhận được thông tin rằng xác bào thai được giới nhà giàu săn mua trên một trang web chuyên các dịch vụ tà thuật.

Chow Hok Kuen khai rằng đã mua các bào thai nhiều ngày trước với giá 200. 000 baht (6.500USD) và dự kiến sẽ bán chúng sang Đài Loan với giá gấp 6 lần. Nguồn gốc bào thai hiện chưa được rõ. Anh ta cho biết định bán cho những người tin rằng sở hữu các bào thai sẽ làm họ may mắn và giàu có” - tướng Wiwat Kamchamnan, cảnh sát Bangkok cho biết.

33. Cô bé bán diêm

Han Christian Andersen (1805-1875) là nhà văn lớn và là người viết truyện cổ tích nổi tiếng của xứ sở Đan Mạch. Một trong những truyện được ưa thích nhất của ông là truyện “Cô Bé Bán Diêm.” Truyện kể về một bé gái nghèo đói đi bán diêm trong đêm giao thừa lạnh lẽo đầy băng tuyết.

Trong đêm đông rét buốt ấy, cô bé không bán được bao diêm nào, giữa lúc bụng thì đói, thân xác thì giá lạnh. Cô bé đành nép vào một góc tường giữa phố để trốn những cơn gió lạnh. Vì lạnh quá, cô bé đành phải đánh lên những que diêm để sưởi ấm mình. Que diêm thứ nhất sáng lên, cô bé nhìn thấy một cái lò sưởi ấm áp. Que diêm thứ hai bùng lên, cô nhìn thấy một bàn ăn thơm phức. Que diêm thứ ba lóe lên, cô bé nhìn thấy một cây noel rực rỡ. Cứ thế, cô đánh hết que diêm này đến que diêm khác để nhìn thấy những ảo ảnh xuất hiện. Que diêm cuối cùng sáng lên, cô bé nhìn thấy bà nội hiền hậu đã mất của cô hiện ra, cầm lấy tay cô, rồi hai bà cháu bay vút lên cao, cao mãi tới nơi không còn giá lạnh, không còn đói khát, không còn sợ hãi nữa.

Sáng hôm sau, người ta tìm thấy cô bé đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa, bên cạnh là những que diêm cháy dở mà cô đã đánh lên để sưởi ấm mình.

Hình ảnh đẹp nhất trong câu truyện là cảnh hai bà cháu bay lên trời cao để thoát khỏi những đau khổ ở đời này. Có lẽ, đó cũng là ước muốn của nhiều người. Tuy nhiên, hôm nay, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta một chân lý cao cả hơn: lên trời không phải là một cuộc chạy trốn, cũng không phải là một giấc mơ hão huyền, nhưng là một hiện thực đang được khởi đầu ngay từ trần thế này. Con đường lên trời được nối dài từ con đường loan báo Tin Mừng. Đó chính là sứ vụ Chúa trao cho các môn đệ trước khi về trời: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật.”

34. Điều đáng quý đáng trọng nhất

Thánh Tôma More tử đạo, giữ chức chưởng ấn nước Anh, vì muốn trung thành với Giáo Hội, nên đã bị tống giam.

Vợ của ông đến thăm và năn nỉ: “Tại sao mình không lo cứu lấy mạng sống?”

Thánh Tôma More đáp: “Theo em nghĩ, thì anh sống ở trần gian này được bao lâu nữa?”

Bà vợ trả lời: “Sức khỏe của anh cũng hứa hẹn ít nhất 20 năm nữa.”

Thánh nhân trả lời: “Em đề nghị cho anh một hành động hết sức điên dại! Để sống 20 năm, mà phải hy sinh cuộc sống đời đời.”

35. Uy quyền của ông vua và nữ tu

Vua Napoléon III, trong cuộc du lịch qua Elgérie, có vào thăm một nữ tu viện, vua có hỏi một nữ tu: “Sơ có muốn tôi giúp gì không? Sơ có bà con này cần tôi nâng đỡ không?”

Nữ tu đó trả lời: “Thưa hoàng đế, tôi chỉ có một nguyện vọng. Xin nhà vua giúp cho.”

Vua Napoléon băn khoăn hỏi: “Nguyện vọng gì?”

Nữ tu đó đáp: “Tôi tin đức vua đảm bao cho tôi được vào thiên đàng.”

Nhà vua trả lời với cả sự trịnh trọng: “Ôi điều đó ngoài uy quyền của một ông vua dưới đất. Chính Sơ lại có thể dùng lời cầu nguyện để giúp tôi việc đó, hơn là chính tôi có thể làm được cho Sơ.”

36. Cái Kén Bướm

Một chàng trai nọ trông thấy một cái kén bướm, trên cái kén hé một lỗ nhỏ. Chú bướm nhỏ cố thoát mình khỏi cái lỗ nhỏ xíu đó. Anh ta ngồi hàng giờ nhìn và thấy mọi việc diễn tiến có vẻ hết sức khó khăn. Hình như chú bướm không thể cố hơn được nữa. Vì thế, anh ta quyết định giúp chú bướm nhỏ. Anh ta lấy kéo rạch cho cái lỗ to thêm.

Chú bướm dễ dàng thoát ra khỏi cái kén. Nhưng thân mình nó sưng phồng lên, đôi cánh thì nhăn nhúm. Còn chàng thanh niên cứ ngồi quan sát cái kén với hy vọng một lúc nào đó thân mình chú bướm sẽ xẹp lại và đôi cánh xòe rộng hơn đủ để nâng đỡ thân hình chú.

Nhưng chẳng có gì thay đổi cả! Sự thật là chú bướm đã phải bò loanh quanh suốt quãng đời còn lại với đôi cánh nhăn nhúm và thân hình sưng phồng. Nó chẳng bao giờ có thể bay được. Có một điều mà người thanh niên đã không hiểu: cái kén chật chội khiến chú bướm phải nỗ lực mới chui qua được cái lỗ nhỏ xíu kia là quy luật tự nhiên tác động lên đôi cánh và cơ thể của bướm, giúp chú có thể bay ngay khi thoát ra ngoài.

Chúa đã mời gọi tôi theo Chúa bằng một lời mời “chẳng giống ai”: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mt 16,24)

Tại sao Chúa lại mời gọi tôi đi vào con đường chẳng ai muốn đi đó? Vì đó là con đường duy nhất: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không xứng với Thầy.” (Mt 10,38)

Đúng thế, tôi đã dựng nên theo hình ảnh Chúa – là tình yêu – nên càng bỏ mình tôi càng trở nên chính mình. “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13)

Đó mới là nguồn mạch cho hạnh phúc thật, cho sự sống viên mãn: “Thật, Thầy bảo thật anh em: anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui.” (Ga 16,20)

37. Thuốc bất tử

Thời Chiến Quốc có người đem dâng vua nước Sở vị thuốc bất tử.

Người ấy bưng vị thuốc vào, có viên quan canh cửa hỏi rằng: “Vị thuốc này có ăn được không?” Người đáp: “Ăn được.” Tức thì viên quan giật lấy vị thuốc mà ăn.

Chuyện nói đến tai vua. Vua phán bắt viên quan đem giết.

Viên quan kêu lên rằng: “Thần đã hỏi người đem dâng thuốc. Người ấy nói rằng: ‘Ăn được’ nên thần mới dám ăn. Thế là thần vô tội mà lỗi ở người dâng thuốc. Vả chăng người đem dâng nói là ‘bất tử’, nghĩa là ăn vào thì không chết nữa. Thế mà thần mới ăn, đã phải sắp chết, vậy thuốc tử chớ sao gọi là bất tử được? Nhà vua giết thần, thực là bắt tội một người vô tội mà tỏ rằng thiên hạ dối được nhà vua mà nhà vua vẫn tin.”

Vua nghe nói có lý, bèn tha viên quan ấy không giết nữa.

Sẽ không còn sự chết cho người tin! “Nếu chúng ta đã chết với Đức Kitô, chúng ta tin rằng chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, vì biết rằng Đức Kitô một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết nữa, sự chết không làm chủ được Người nữa.” (Rm 6,8-9)

38. Chúc má chết

Trong Thủ Bản Tự Thuật, thánh Têrêxa kể lại rằng: “Suốt đời, Chúa nhân lành đã cưng chìu con: những kỳ niệm đầu tiên của đời con ghi đầy những nụ cười, những mơn trớn êm đềm nhất!… Nhưng nếu Chúa đặt bên con nhiều tình thương thì Ngài cũng cho con một trái tim để yêu và cảm xúc dạt dào, cho nên con yêu Ba Má biết bao và con tìm đủ mọi cách để tỏ lòng yêu Ba Má, vì hễ trong lòng con có gì thì con phải bộc lộ ra ngoài. Có điều là cách con tỏ tâm tình đôi khi kỳ cục lắm, như lời Má chứng minh trong đoạn thư sau đây: “Con bé này tinh nghịch có một, nó đến vuốt ve Má và chúc Má chóng chết: Má à! Con muốn Má chết lắm!…

“Mắng nó thì nó bảo: “Má chết để về thiên đàng. Thế Má chả bảo con là phải chết mới được vào thiên đàng là gì.

“Lúc nào nó yêu Ba quá, nó cũng chúc Ba chết như thế!…”

Đối với Têrêxa, chẳng còn cái chết, mà chỉ còn một cánh cửa mở ra cho hạnh phúc hoàn hảo, trọn vẹn. Ước chi đức tin trong tôi cũng lớn lên để tôi luôn vui mừng đi tìm sự sống thật trong mọi tình huống, kể cả trong những đau khổ của ngày hôm nay, “vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người.” (Rm 8,17)

39. Giàu và Nghèo

Một hôm người cha của một gia đình giàu có dẫn cậu con trai của mình làm một chuyến du lịch về miền quê với mục đích cho cậu thấy người ta nghèo như thế nào. Họ đã qua một ngày và một đêm tại nông trại của một gia đình rất nghèo.

Khi đã trở về nhà, người cha hỏi con trai:

- Con thấy chuyến đi thế nào?

- Tuyệt lắm! Cha!

- Con có thấy người ta có thể nghèo như thế nào không?

- Dạ, có.

- Con học được điều gì?

- Nhà mình có một con chó, họ có tới bốn con. Cậu con trai trả lời, Chúng ta có một cái hồ ra tới giữa vườn, còn họ lại có một con sông con chẳng biết ngừng chỗ nào. Chúng ta có những ngọn đèn đặt trong vườn, họ có những ngôi sao. Hàng hiên của chúng ta dài đến sân trước, còn họ có cả một đường chân trời.

Khi đứa con nói xong, người cha nín lặng.

Cậu con trai nói thêm:

- Con cám ơn cha đã cho con thấy chúng ta nghèo như thế nào!

Phải chăng tất cả tùy thuộc vào cách anh nhìn chúng? Nếu anh có tình yêu, gia đình, bạn bè, sức khỏe, một chút hài hước và một cái nhìn tích cực về đời sống, anh đã có tất cả!

Nhưng đó là những món không thể mua được. Anh có thể có mọi tài sản vật chất mà người ta có thể tưởng tượng ra, mọi dự phòng cho tương lai,… nhưng nếu anh nghèo trong tinh thần, anh chẳng có gì.

“Thiên Chúa bảo ông ta: "Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai? Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó."” (Lc 12,20-21)

40. Chỉ là giấc mộng

Chuyện xưa kể Lư Sinh thi rớt, xấu hổ và buồn rầu, tính đi tự tử. Dọc đường gặp quán chè kê chàng vào nghỉ chân vì mệt mỏi đường xa, lại thức trắng đêm không ngủ. Chủ quán lấy gối bông êm cho ngủ.

Lư Sinh nằm mơ thấy mình có tên trên bảng vàng, được vinh qui, làm quan, lại được phong vương, giàu có, vợ đẹp con khôn đông đủ thật hạnh phúc, người hầu kẻ hạ, khách khứa bạn bè đủ loại tấp nập.

Một hôm vợ chết, con cái ngã bệnh, của cải hao tán, bạn bè phản bội dèm pha khiến anh bị thất sủng, bị cách chức đầy đoạ. Trước sung sướng bao nhiêu thì nay khốn cùng bấy nhiêu. Lư Sinh bứt tóc dậm chân than thở: “Phải chi ta đừng thi đậu, thì đâu đến nông nỗi này.”

Anh đá chân làm đổ nồi cháo kê bên cạnh. Chủ quán tỏ ra thông cảm, ôn tồn nói với anh: “Cậu đã thoả giấc mộng vàng chưa?”

Giấc mơ của Lư Sinh là những gì đang thực sự diễn ra trên thế giới hôm nay, và đôi khi tôi cũng đã phát điên lên vì một giấc mộng vàng!

Giấc mộng chỉ là giấc mộng, chẳng đưa ai lên trời. Ngôi Hai xuống thế để dẫn tôi lên trời. Việc tôi phải làm là bước theo Ngài, không chút lưỡng lự, vì “nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta” (Rm 6,8).

LỄ THĂNG THIÊN NĂM C -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1. truyện

THỨ HAI - Cùng hiệp thông với Chúa

Lời Chúa: Ga 16, 29-33

Khi ấy, các môn đệ thưa Chúa Giêsu rằng: “Đúng thế, bây giờ Thầy nói rõ ràng, và không dùng dụ ngôn nữa. Bây giờ chúng con biết rằng Thầy biết mọi sự, không cần có ai hỏi Thầy nữa. Bởi đó chúng con tin Thầy bởi Thiên Chúa mà ra."

Chúa Giêsu đáp lại các ông: “Bây giờ các con mới tin ư? Này đến giờ, và đã đến rồi, các con sẽ tản mát mỗi người một ngả, bỏ mặc Thầy một mình. Nhưng Thầy không ở một mình đâu, vì có Cha hằng ở với Thầy. Thầy nói với các con những điều đó để các con được bình an trong Thầy. Giữa thế gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian."

TRUYỆN KỂ

1. Can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian

Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, chúng ta thấy suốt 300 năm đầu, cha ông ta lớn lên trong thử thách. Một cuộc thử thách triền miên và kéo dài! Còn ngày nay, tuy rất ít hình khổ như gông cùm, đòn roi và cái chết được trưng ra để tra tấn các Kitô hữu. Tuy nhiên, người Kitô hữu hôm nay phải đối diện với một thử thách mới, một cuộc thử thách mang tính vĩ mô và sâu xa đánh vào tận lương tâm của con người. Phải chăng đây là những thử thách tinh vi và người Kitô hữu khi sống đúng những giá trị của Tin Mừng thì cũng không khác gì một cuộc tử đạo liên lỉ, dai dẳng và kéo dài!

Hôm nay, Đức Giêsu tiên báo cho các môn đệ biết rằng: các ông là những người đi theo Chúa, không có lý do gì các ông không bị bách hại như chính Ngài. Nhưng liền sau đó, Ngài khích lệ các ông: “Giữa thế gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian" (Ga 16, 33).

2. Dũng cảm và tự tin

Henri Shepler là một tân binh. Viên hạ sĩ sai anh xuống làm việc tại nhà ăn. Anh không đi. Viên hạ sĩ cho là anh bướng và dọa sẽ báo cáo lên cấp trên.

- Được, hạ sĩ cứ việc báo cáo. Tôi đăng ký đi lính chứ không phải đi làm bồi bàn.

Buổi chiều, Shepler bị gọi lên bộ chỉ huy. Đôi chân run run, nhưng lòng anh bình thản, vì anh biết mình hành động đúng. Vị sĩ quan hỏi:

- Có phải sáng nay anh không tuân lệnh cấp trên?

- Đúng vậy, thưa ngài.

- Tại sao anh làm vậy?

- Đơn giản là vì tôi cho rằng công việc trao cho tôi là không đúng. Tôi đăng ký làm người lính chứ không phải làm bồi bàn.

 Vị sĩ quan bật dậy, đến bắt tay anh và nói: “Shepler, anh đúng là hạng người chúng tôi cần. Tôi vui mừng khi thấy anh là con người dũng cảm và tự tin ở mình."

3. Can đảm tuyên xưng Chúa.

Trong thời kỳ cách mạng Pháp, có 16 nữ tu dòng Carmel bị kết án tử hình vì tội cuồng tín. Khi tòa tuyên án, một trong số 16 nữ tu rụt rè hỏi: “Thưa quan tòa, tội cuồng tín là gì”?

Vị thẩm phán đáp: “Là tội dại dột và cố chấp tin vào một tên tử tội đã bị kết án đóng đinh ở trên thập giá cách đây cả hơn nghìn năm." Nghe thế, vị nữ tu chắp tay ngước mắt lên trời và nói: “Ôi! Thật tuyệt diệu khi được chết vì Chúa Kitô."

Đến ngày xử án, 16 nữ tu được mang ra pháp trường trên chiếc xe ngựa chuyên dùng chở các tử tội, ai thấy xe ấy cũng sợ, ngoại trừ 16 nữ tu đơn sơ yếu đuối sắp bị hành quyết. Họ cất tiếng thánh thót hát lên những bài thánh ca quen thuộc, trước khi bị đem lên máy chém, từng người một quì trước mặt Mẹ Bề Trên để lặp lại lời khấn vâng lời, sau đó họ cất tiếng hát kinh “Veni Creator: Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy đến."

Với một chiếc đầu rơi, cường độ của âm thanh nhỏ dần, cuối cùng đến phiên Mẹ Bề Trên tên là Têrêsa Augustina, trước khi bị lưỡi dao rơi xuống kết thúc cuộc đới, người môn đệ của Augustinô ấy đã lặp lại lời của thánh nhân: “Tình yêu sẽ luôn chiến thắng, vì tình yêu có sức mạnh vô song."

4. Giữa thế gian, các con sẽ đau khổ. Nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian

Chúng ta hãy nghe một đoạn văn nói về một cuộc hành hình các Kitô hữu đầu tiên dưới thời bạo Chúa Néro năm 64 tại Rôma: “Lúc ấy, mặt trời đã lên cao, ánh mắt của nó chiếu qua tấm che trần màu đỏ tía, khiến cho nhà hát ngập màu máu. Cát nhuộm màu lửa đỏ, và trong thứ ánh sáng ấy, nét kinh hoàng hiện lên khuôn mặt của khán giả cũng như bãi đấu trường mà lát nữa đây sẽ tràn ngập nỗi đau đớn của những con người bị hành hình và nỗi điên cuồng của những dã thú. Cửa hầm mở, đoàn người bị gói trong những tấm da thú được đẩy ra. Toàn nhà hát vang lên những tiếng rì rầm “Bọn Thiên Chúa giáo!… Bọn Thiên Chúa giáo!…”

Nhìn lại lịch sử Giáo Hội VN chúng ta: cũng không có luật trừ. Suốt ba thế kỷ liền, kể từ năm 1553, cùng với Tin Mừng của Chúa đến Việt Nam thì Thánh Giá cũng đến theo.

Lịch sử Giáo Hội đã được khởi đầu với những cuộc bách hại. Và trải qua hơn 2000 năm số phận của người Kitô hữu cũng vẫn luôn là số phận bị nghi ngờ, bị thù ghét và có thể bị bách hại nữa. Tại sao? Lời Chúa Giêsu hôm nay là câu trả lời quý giá cho chúng ta.

5. Thầy chiến thắng

Thời Cách mạng Pháp (1789-1799) không biết bao nhiêu linh mục tu sĩ phải lưu đày, xử giảo hoặc bị nhận chìm xuống lòng biển. Napoléon 1 lên ngôi, ông sang Ý bắt luôn cả Đức giáo hoàng Piô VII đem về cầm tù tại Fontainebleau vì Ngài đã phản đối việc ông ly dị với bà Josephine để cưới Marie Louis làm vợ. Một hôm, vì quá tức giận, Napoléon đã nói thẳng với Hồng Y Consalvi, quốc vụ khanh Tòa Thánh lúc đó:

- Ông không biết sao: tôi có thể tiêu diệt cả Hội Thánh.

Hồng Y Consalvi hóm hỉnh trả lời:

- Thưa Ngài, chính chúng tôi đây là những kẻ ở bên trong Hội Thánh. Dù với bao nhiêu gương xấu, tội lỗi, chia rẽ, khuyết điểm vẫn không phá nổi Hội Thánh suốt 19 thế kỷ qua, thì làm sao mà Ngài có thể phá tan Hội Thánh được.

Về sau Napoléon đã phải tuyên bố:

- Các dân nước qua đi, các ngai vàng sụp đổ, Hội Thánh vẫn tồn tại.

6. Tôi muốn nhập bọn

thời Cách mạng Pháp (1789-1799) không biết bao nhiêu linh mục tu sĩ phải lưu đày, xử giảo hoặc bị nhận chìm xuống lòng biển. Napoléon 1 lên ngôi, ông sang Ý bắt luôn cả Đức giáo hoàng Piô VII đem về cầm tù tại Fontainebleau vì Ngài đã phản đối việc ông ly dị với bà Josephine để cưới Marie Louis làm vợ. Một hôm, vì quá tức giận, Napoléon đã nói thẳng với Hồng Y Consalvi, quốc vụ khanh Tòa Thánh lúc đó:

- Ông không biết sao: tôi có thể tiêu diệt cả Hội Thánh.

Hồng Y Consalvi hóm hỉnh trả lời:

- Thưa Ngài, chính chúng tôi đây là những kẻ ở bên trong Hội Thánh. Dù với bao nhiêu gương xấu, tội lỗi, chia rẽ, khuyết điểm vẫn không phá nổi Hội Thánh suốt 19 thế kỷ qua, thì làm sao mà Ngài có thể phá tan Hội Thánh được.

Về sau Napoléon đã phải tuyên bố:

- Các dân nước qua đi, các ngai vàng sụp đổ, Hội Thánh vẫn tồn tại.

7. Chiến thắng của tình yêu

Ceasar đã ngạo nghễ tuyên bố trước Nguyên Lão Viện Rô-ma: “Veni, vidi, vici” (Ta đã đến, Ta đã thấy, và đã chiến thắng), để nói về chiến thắng thần tốc của ông tại Ponto (năm 47 tCN) trong công cuộc chinh phục các nước. Thế nhưng, ông chỉ triệt hạ được các thành trì, chứ không chinh phục được lòng người. Đức Giê-su cũng đã đến trần gian, đã nhìn thấy những nỗi khổ đau của con người và đã chiến thắng. Ngài chiến thắng thế gian, sự chết, quyền lực sự dữ. Khác với Ceasar, Ngài chinh phục lòng người, chinh phục không bằng phô trương sức mạnh, nhưng bằng cách tỏ tình yêu thương. Ngài chiến thắng cái ác bằng điều lành, thắng hận thù bằng tình thương, và thắng sự chết bằng sự sống lại.

Mời bạn nhớ lại đêm Canh thức Phục sinh, khi thắp ngọn nến của mình từ nến Phục sinh, bạn tuyên xưng niềm tin vào chiến thắng của Đức Giê-su. Bạn tuyên xưng tình thương thắng hận thù, chân lý thắng gian tà, sự sống mạnh hơn sự chết.

THỨ BA - Ngưỡng cửa vào sự sống

Lời Chúa: Ga 17, 1-11a

Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và nói: “Lạy Cha, giờ đã đến, xin hãy làm vinh hiển Con Cha, để Con Cha làm vinh hiển Cha. Vì Cha đã ban cho Con quyền trên mọi huyết nhục, để con cũng ban sự sống đời đời cho mọi kẻ Cha đã giao phó cho Con. Sự sống đời đời chính là chúng nhận biết Cha là Thiên Chúa duy nhất chân thật, và Đấng Cha đã sai, là Giêsu Kitô.

“Con đã làm vinh hiển Cha dưới đất, Con đã chu toàn công việc mà Cha đã giao phó cho Con. Giờ đây, lạy Cha, xin hãy làm cho Con được vinh hiển nơi Cha với sự vinh hiển mà Con đã có nơi Cha, trước khi có thế gian. Con đã tỏ danh Cha cho mọi kẻ Cha đã đưa khỏi thế gian mà ban cho Con. Chúng thuộc về Cha, và Cha đã ban chúng cho Con, và chúng đã tuân giữ lời Cha. Bây giờ chúng biết rằng những gì Cha ban cho Con, đều bởi Cha mà ra. Vì những lời Cha ban cho Con thì Con đã ban cho chúng và chúng đã lãnh nhận, và biết đích thực rằng Con bởi Cha mà ra, và chúng tin rằng Cha đã sai Con.

“Con cầu xin cho chúng, Con không cầu xin cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho Con, bởi vì chúng là của Cha. Và mọi sự của Con là của Cha, và mọi sự của Cha cũng là của Con, và Con đã được vinh hiển nơi chúng. Con không còn ở thế gian nữa, nhưng chúng vẫn còn ở thế gian, phần Con, Con về cùng Cha."

TRUYỆN KỂ

1. Đức Kitô cầu nguyện

Tôi là một linh mục, dâng thánh lễ mỗi ngày. Trong lời nguyện cầu, tôi mang tất cả tâm tình của anh em phó thác cho Thiên Chúa. Tôi tạ ơn Ngài đã ban mọi ơn lành trong cuộc sống của con người, mà tôi là đại diện dâng lời tri ân. Tôi phó thác mọi cái khổ của người anh em tôi, những khắc khoải lo âu mà họ và tôi đang phải chiến đấu bôn ba mà chưa thấy mặt trời giữa đêm tối của cuộc sống của chính tâm hồn...

Trong cuộc sống, tôi yếu đuối, trong thánh lễ tôi dâng chính tôi và dâng mọi nỗi yếu hèn của kiếp nhân sinh xin Chúa chữa lành, thánh hóa. Tôi cảm thấy mình như là cầu nối giữa Thiên Chúa và tha nhân. Tôi đại diện nhân loại để hiến tế, để khẩn cầu... Trong chức vụ linh mục thừa tác, tôi được Thiên Chúa ủy quyền để ban phát cho anh em mình của bánh thần lương và giải thích lời Ngài...

2. Hãy cư xử như pho tượng để hiệp nhất.

Trong những giai thoại về các thánh ẩn tu vào những thế kỷ đầu của Kitô giáo, có câu chuyện như sau: có bảy vị ẩn tu nọ kéo nhau đến sống trong một ngôi đền bỏ hoang của người Ai Cập. Phía trước ngôi đền có một pho tượng. Đây là ngôi đền duy nhất còn sót lại sau khi đã bị tàn phá. Người cao niên nhất trong bảy anh em được bầu làm Bề trên của cộng đoàn. Để dạy anh em qui luật cơ bản của đời sống cộng đoàn, mỗi sáng ông ra trước pho tượng, nhặt một hòn đá ném vào đó. Chiều đến, ông lại ra trước pho tượng và xin lỗi vì hành động ném đá của ông. Cử chỉ khác thường của Bề trên này kéo dài một thời gian khá lâu.

Ngày nọ, không còn nén nổi tính tò mò, một người anh em trong cộng đoàn đã hỏi lý do của hành động khó hiểu ấy. Vị Bề trên trả lời bằng cách hỏi lại người đó như sau:

- Khi ta ném đá vào pho tượng, pho tượng có lung lay không?

Người kia trả lời:

- Không.

Vị Bề trên tiếp tục hỏi:

- Buổi chiều khi ta đến xin lỗi, pho tượng có để lộ xúc động nào không?

Người kia cũng trả lời:

- Không.

Vị Bề trên mới giải thích:

- Anh thân mến, chúng ta có tất cả bảy người trong cộng đoàn, nếu chúng ta muốn sống hiệp nhất yêu thương nhau, chúng ta hãy sống như pho tượng này, đừng ai trong chúng ta tỏ ra giận dữ khi có người anh em xúc phạm đến ta, và cũng đừng có ai trong chúng ta tỏ ra hãnh diện khi có người đến xin lỗi mình.

3. Có ba cháu ở trong nhà

Trên một bãi biển…

Chú ơi! Chú ngồi ghế của cháu, cháu lấy rẻ thôi.

Anh thanh niên lên tiếng:

Nó còn bé, mới học lớp bốn. Chú đừng nghe nó.

Quay sang thằng bé, anh sừng sộ:

Này con nít mà bày đặt, mày muốn gì?

Chú ơi, chú đừng sợ, chú đừng sợ, có ba cháu ở trong nhà mà… Anh thanh niên nghe thấy thế liền bỏ đi.

Quả thật, danh của Cha đã bảo vệ thằng bé kia khi nó đặt trọn niềm tin vào Cha của nó.

Trong cuộc sống hằng ngày, cám dỗ bủa vây tứ phía, nhưng mấy khi tôi chạy đến cùng Cha?

Lạy Cha, xin cho chúng con biết chạy đến cùng với Cha mọi lúc trong cuộc sống.

4. Tình yêu làm cho nên một

Ngày xưa trong gia tộc nhà mèo, có một chú mèo con như lạc loài. Bố chú trắng, mẹ chú trắng, ông nội, ông ngoại chú trắng, bà nội, bà ngoại chú trắng, các anh, các chị, các cậu, các chú, các dì chú đều trắng cả. Chi có chú là đen tuyền. Vâng! Chỉ duy có một mình chú là đen tuyền.

Khi sinh ra đời, chú nằm giữa bốn em nhỏ của chú cứ như là hòn than nằm trong tuyết. Tất cả gia đình mèo trắng ngồi quanh cái ổ 05 chú mèo mới sinh. Ai cũng gãi tai... Bố mẹ chú cũng gãi tai và nói:

- Thằng bé này đáng lẽ trắng thì lại đen tuyền, thật chẳng giống ai! Trái với lẽ tự nhiên.

Mẹ chú liếm cho chú cả ngày, mà rồi chú vẫn đen như thế. Chú lớn lên cùng với lũ em. Cả nhà rất yêu chú, nhưng không sao quen với màu đen lông của chú được.

Về phần chú, càng lớn chú càng ngạc nhiên khi thấy mình chẳng giống ai cả. Điều này gây ra rất nhiều oái oăm. Nếu chú chơi ú tim trên nệm trắng, lũ nhóc tìm ra chú ngay. Nếu chú đuổi bắt trong hầm tối, lũ nhóc không sao tìm thấy chú được. Khi cả nhà uống sữa, vì chú đen nên cả nhà ai cũng tưởng chú uống nhiều hơn. Kể ra thế cũng khổ thật!

Một hôm, chú bỏ cuộc chơi, nằm cuộn tròn trong góc bếp, như một con mèo già. Mẹ chú lo lắng hỏi:

- Con không ốm đấy chứ?

 Chú đáp:

- Không, mẹ ạ con đang nghỉ.

Tối hôm ấy, trong khi chú mèo đen tiếp tục suy nghĩ, thì bố mẹ chú mời tất cả: ông nội, ông ngoại, bà nội, bà ngoại, các anh, các chị, các cậu, các chú, các dì, các bác... Cả gia đình cùng họp lại. Bố chú meo meo một bài diễn văn dài. Ông tuyên bố rằng, không thể để tình trạng này kéo dài mãi như vậy, vì mèo đen ngày càng thêm rầu rĩ. Ông đề ra một phương án để biến đổi tình thế. Cả họ nhà mèo đồng nhất trí. Bấy giờ, bố chú mèo liền lên tiếng:

- Nào, chúng ta đi.

Im lặng nối đuôi nhau, cả họ nhà mèo trắng bước đến cái bồ than, rồi lặng lẽ, nối đuôi nhau, rồi họ ra khỏi cái bồ. Thế là cả ông nội, ông ngoại, bà nội, bà ngoại, các anh, các chị, các cậu, các chú, các dì, các bác đều biến thành đen, đen như hòn than. Họ hàng mèo trắng đã biến thành mèo đen rồi tiến về phía bếp để tìm chú mèo nhỏ. Không ai thấy chú đâu cả, mà chỉ thấy một con mèo trắng, trắng toát từ râu đến đuôi. Mọi người kinh ngạc. Con mèo lạ kêu lên “meo meo." Mẹ mèo mừng rỡ:

- Con trai tôi đây mà!

Bố mèo reo lên:

- Cu cậu đã lăn mình vào bột!

Chú mèo âu yếm gọi

- Bố... ố! Mẹ!

Và một ông chú, vốn hay nói chữ, đùa vui:

- Đã thương yêu nhau thì đen hay trắng có sao đâu!

Cả họ nhà mèo cùng bật cười, thi nhau nhảy vồ nhau. Than và bột bay tứ tung mịt mù. Chẳng còn mèo đen, chẳng còn mèo trắng mà chì còn mèo xám thương nhau...

Vâng, nếu mỗi người chúng ta biết nghĩ đến nhau, biết làm cho cái tôi của mình nhỏ lại, biết bớt đi cái sĩ diện, biết làm vui lòng nhau, thực lòng yêu thương nhau thì cho dù chẳng đi tìm, sự hiệp nhất đoàn kết sẽ đến với chúng ta. Amen.

5. Đời tôi thuộc về Chúa

Edith Stein xuất thân trong một gia đình Do thái ở Phần Lan. Năm 24 tuổi, bà đậu tiến sĩ triết học, trở thành kitô hữu năm 30 tuổi, nữ tu năm 40 tuổi, và chết trong phòng hơi ngạt của Đức Quốc Xã năm 52 tuổi. Năm 1987, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tuyên phong chân phước cho bà. Edith Stein viết về cuộc đời của mình như sau: “Tôi tin rằng chẳng có gì là tình cờ khi nhìn trong ánh sáng Thiên Chúa. Tôi tin rằng cả cuộc đời tôi dành riêng cho chương trình của Thiên Chúa và có ý nghĩa hoàn toàn mạch lạc trong cái nhìn thấu suốt của Ngài.”

Tôi thấy hoặc cảm thấy cuộc đời tôi là một phần trong chương trình rộng lớn của Thiên Chúa như thế nào?

“Ngay đến tóc trên đầu anh em, Ngài cũng đếm cả rồi” (Mt 10,30)

6. Để kết hiệp với Chúa

Ba nhà giảng thuyết đang thảo luận về cách tốt nhất phải áp dụng khi cầu nguyện. Người thứ nhất nói: “Tôi đã thử tất cả, và thấy rằng quỳ cầu nguyện vẫn là cách tốt nhất.” Người thứ hai nói: “Có thể điều đó đúng, nhưng hầu hết các nhà thần bí Đông Phương đều đề nghị ngồi xếp bằng trên sàn là cách tốt nhất.” Người thứ ba nói: “Cách tốt nhất khi cầu nguyện đối với tôi là ngước mắt lên trời.” Một người thợ điện làm việc gần đấy nghe được câu truyện liền nói: “Tư thế cầu nguyện tốt nhất đối với tôi là treo một chân trên cột điện thoại trong cơn sấm sét.”

Tôi có kinh nghiệm tư thế cầu nguyện tốt nhất không? Tôi có bao giờ cầu nguyện lớn tiếng trước hoặc sau khi suy niệm không? Tôi có bao giờ ngước mắt lên trời hoặc quỳ gối giây lát trước khi cầu nguyện không?

Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục, Quỳ trước Tôn Nhan Chúa là Đấng dựng nên ta (Tv 94,6).

7. Chiêm ngắm Chúa cầu nguyện

Hình ảnh Chúa Giêsu cầu nguyện gợi lại câu truyện trong cuộc đời Dorothy Day. Cô nói rằng trước khi hoán cải và làm việc giữa những người nghèo ở Nữu Ứơc, cô thường vui chơi thâu đêm trong các quán rượu. Thế rồi, trên đường về nhà khoảng 6 giờ sáng, cô đã dừng lại ở nhà thờ thánh Giuse trên đại lộ 6. Điều lôi cuốn cô ở nhà thờ ấy là hình ảnh người ta đang cầu nguyện trong Thánh lễ sáng. Cô viết: “Tôi khao khát niềm tin của họ, vì thế tôi thường bước vào và quỳ ở hàng ghế sau.”

Tôi có thể nhớ lại đã lần nào tôi bị xúc động bởi niềm tin của ai đó đang cầu nguyện không?

Nếu các bạn, những kitô hữu ở Ấn độ, ở Anh quốc, ở Hoa kỳ, sống đúng tinh thần Kinh Thánh, thì các bạn có thể chinh phục Ấn độ chỉ trong vòng năm năm. [Một tín đồ Ấn giáo nói với một nhà truyền giáo].

8. Biết Chúa hay không

Tính hài hước và vẻ quyến rũ của Mark Twain làm cho ông nổi tiếng, không những ở Mỹ, mà còn ở Châu Âu. Trong một cuộc hành trình đến Châu Âu, ông được mời ăn tối với một viên thị trưởng. Khi biết được lời mời, đứa con gái nhỏ của ông nói: “Cha ơi, cha biết các nhân vật lớn, ngoại trừ Thiên Chúa.” Cô bé muốn nói đến sự kiện cha cô không phải là người có đạo, ít là theo nghĩa đen của nó.

Một ví dụ cho tính hài hước không tính ngưỡng của Mark Twain là câu này trong sổ tay của ông: “Nếu Chúa Kitô có mặt nơi đây, thì có một điều Ngài không thể là, đó là làm một kitô hữu.”

Quan điểm của Mark Twain là gì? Nó có giá trị cho hôm nay ra sao?

Tôn giáo không phải là cách nhìn về một vấn đề nào đó, mà là cách nhìn về mọi sự. (Robert E.Segal)

9. Cầu nguyện nối kết

Trong mục: “Những ý để suy nghĩ” tạp chí Reader`s Digest đăng câu truyện xúc động của Cy Fey. Một người đàn ông đứng tuổi khóc nức nở khi đứng một mình trước tượng đài cựu chiến binh Mỹ ở Washington. Xúc động trước cảnh tượng này, một thanh niên tiến đến đặt tay trên vai ông và nói: “Trong số đó có con của ông phải không?” Người đàn ông đáp nhỏ: “Không phải chỉ có một, mà là tất cả họ.”

Đó cũng là tinh thần đã khiến Chúa Giêsu xúc động để cầu nguyện, không những cho các môn đệ, mà còn cho các tín hữu.

Lời cầu nguyện của tôi có bao giờ quan tâm đến hết mọi người hay chỉ những người tôi yêu thương?

Không có tình yêu và lòng nhân từ đối với kẻ khác, tình yêu dành cho Chúa Kitô chỉ là tưởng tượng (Thomas Merton).

THỨ TƯ - Xin Cha gìn giữ họ

Lời Chúa: Ga 17, 11b-19

Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: “Lạy Cha chí thánh, xin hãy gìn giữ trong danh Cha những kẻ Cha đã ban cho Con, để chúng được nên một như Ta. Khi Con còn ở với chúng, Con đã gìn giữ chúng trong Cha. Con đã gìn giữ những kẻ Cha đã giao phó cho Con, không một ai trong chúng bị mất, trừ ra con người hư vong, để lời Kinh Thánh được nên trọn. Bây giờ Con về cùng Cha, và Con nói những điều này khi Con còn dưới thế, để chúng được đầy sự vui mừng của Con trong lòng.

“Con đã ban lời Cha cho chúng, và thế gian đã ghét chúng, vì chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. Con không xin Cha đem chúng ra khỏi thế gian, nhưng xin gìn giữ chúng cho khỏi sự dữ. Chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. Xin hãy thánh hoá chúng trong chân lý: lời Cha là chân lý. Cũng như Cha đã sai Con vào thế gian, thì Con cũng sai chúng vào thế gian. Và vì chúng, Con đã tự thánh hoá, để cả chúng cũng được thánh hoá trong chân lý."

TRUYỆN KỂ

1. Xin Cha gìn giữ họ.

(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Có một câu truyện tưởng tượng như sau:

Khi Chúa Giêsu về Trời giữa muôn vàn tiếng tung hô của các thiên thần. Tổng lãnh thiên thần Gabriel đã phỏng vấn Ngài:

- Lạy Chúa, có phải bây giờ cả trần gian đã nhận biết tình yêu Thiên Chúa dành cho họ chăng?

Chúa Giêsu trả lời:

- Không, chỉ có một nhóm nhỏ đếm được trên đầu ngón tay.

Thiên sứ Gabriel giật mình sửng sốt:

- Lạy Chúa, nếu nhóm nhỏ này gặp chống đối khiến họ thất vọng từ bỏ Chúa trong trường hợp này, Chúa có dự định quay trở lại trần gian không?

Chúa Giêsu đáp:

- Không. Ta hy vọng nơi họ và tin chắc họ không bỏ rơi Ta.

Điều gì đã khiến Chúa Giêsu tin tưởng vào sự trung tín của các môn đệ, dù gặp gian truân thử thách? Chúng ta có thể tìm được câu giải đáp trong bài Tin mừng hôm nay.

2. Hiệp nhất giữa các môn đệ của Chúa Kitô

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Tháng Giêng năm 2003, tôi đến Rôma kinh thành muôn thuở để họp tại trụ sở Trung ương Dòng, dành những thời gian rảnh, chúng tôi viếng các Đền thờ Mẹ… Tại đền thánh Phêrô, chúng tôi kính viếng lăng mộ của ngài cùng với các Đấng kế vị. Bất ngờ dịp đó chúng tôi được chiêm ngưỡng xác Đức Giáo hoàng Gioan XXIII, vị mục tử được gọi là Giáo hoàng nhân lành. Đức Gioan XXIII, được phong Chân phước ngày 3/09/2000. Xác được đặt ngay phía dưới một bàn thờ trong đền thờ Thánh Phêrô cho dân chúng kính viếng và cầu nguyện nhân dịp kỷ niệm 30 năm khai mạc Công đồng Vaticanô II, Công đồng chung do Ngài loan báo triệu tập. Thi hài ngài được đặt trong hòm kính, với khuôn mặt nguyên vẹn hồng hào như đang ngủ. Công đồng Vaticanô II được gọi là Công đồng Đại Kết vì hướng hiệp nhất của Giáo hội. Tôi nhớ về lời phát biểu của ngài về Đại kết: “Các anh em tín hữu Kitô khác đều là anh em với chúng ta họ chỉ hết là anh em khi họ hết học kinh Lạy Cha…." Đức Gioan XXIII, vị Giáo hoàng có những nỗ lực phi thường để đối thoại với các tín hữu Kitô để tìm con đường hiệp nhất. Tôi còn nhớ đọc một câu chuyện về Ngài khi trên giường bệnh và giờ hấp hối miệng ngài luôn khẩn nguyện: “Xin cho họ hiệp nhất."

3. Họ không từ bỏ Ta

Truyền thuyết kể lại rằng khi Chúa Giêsu trở về trời, sứ thần Gabriel hỏi Ngài xem mọi người đã nhận biết tình yêu Ngài dành cho họ chưa. Chúa Giêsu trả lời: “Chỉ một số ít thôi.” Sứ thần Gabriel choáng váng và hỏi: “Thế số còn lại sẽ nhận biết bằng cách nào?” Chúa Giêsu đáp: “Số ít kia sẽ nói cho họ biết.” Sứ thần nói: “Nhưng nếu họ từ bỏ Ngài, nếu họ gặp chống đối và nếu họ mất đi can đảm. Ngài không có kế hoạch dự phòng sao?” Chúa Giêsu trả lời: “Không. Ta tin tưởng họ không từ bỏ Ta.”

Điều gì thuyết phục tôi rằng những người đi theo Chúa Giêsu sẽ không từ bỏ Ngài?

Tôi thường nài xin Chúa giúp tôi. Thế rồi tôi tự hỏi: tôi có thể giúp gì cho Ngài. (Hudson Taylor)

4. Ảnh hưởng của gương sáng.

Nhà giáo dục vĩ đại Booker T. Washington có viết như sau trong cuốn tự thuật mang tựa đề: “Từ ách nô lệ đi lên” của ông: “Càng lớn tôi càng tin chắc rằng, không một sự giáo dục nào có thể gặt hái được từ sách vở hay từ những dụng cụ đắt tiền có thể sánh ví được với những gì ta có thể gặt hái được do tiếp xúc với các bậc vĩ nhân."

Cách đây ít lâu một phụ nữ Ấn độ giáo đã trở lại Công giáo, sau một thời gian nghe rao giảng Lời Chúa. Bà chịu nhiều dèm pha, đay nghiến từ người chồng do việc bà trở lại đạo. Có lần cha xứ hỏi bà: “Khi chồng con nổi giận và hành hạ con, thì con làm gì”? Bà đáp: “Thưa Cha, con cố gắng nấu ăn ngon hơn, khi ông than trách, con lau chùi nhà sạch hơn; khi ông ăn nói cộc cằn, con trả lời ôn tồn nhỏ nhẹ. Con cố gắng được chứng tỏ cho ông thấy khi con trở lại đạo, con phải là người vợ và người mẹ tốt hơn."

Một thời gian sau, ông xin trở lại đạo Công giáo, không phải vì lời giảng của cha xứ nhưng chính nhờ gương sáng sống đạo của bà vợ đạo đức của ông.

5. “Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần.”

Khi đọc câu Lời Chúa này, tôi nhớ lại kinh nghiệm của một anh trong nhóm. Vì không thể từ chối, anh đành phải đi đến một nhà hàng không được “trong ánh sáng” cho lắm. Mỗi người vào bàn, và mỗi người đều có một cô “phục vụ” bên cạnh. Thoạt đầu, anh muốn tránh né, vì nghĩ rằng thái độ có thể làm cô ấy tủi, nên anh cố gắng làm một điều gì đó tốt hơn. Sau khi hỏi thăm về gia cảnh của cô, anh mới hỏi: “Tại sao cô phải là nghề này?” Cô gái thinh lặng một lát rồi bật khóc. Mọi người nhìn anh khiến anh lúng túng… Trước khi anh ra về, cô nói nhỏ: “Có lẽ em sẽ không tiếp tục sống bằng nghề này được.”

Lắm khi tôi xa lánh người xấu, những cái phàm tục, trong khi Chúa Giêsu đã không xin Chúa Cha cất tôi khỏi thế gian. Lắm khi tôi lại mải mê tìm kiếm “danh, lợi, thú.” Và vì sợ mất, tôi đã không dám sống như lời Chúa Giêsu đòi hỏi.

6. Cho thì có phúc hơn nhận

Một bà mẹ bảo đứa con trai 7 tuổi đánh bóng giày của bà vào dịp Giáng Sinh. Bà vui mừng vì việc làm của đứa con đến độ bà cho nó 25 xu. Sau đó, khi mang đôi giày đã được đánh bóng vào, ngón chân bà đụng vào một cái gì đó. Tháo giày chân trái ra, bà thấy một đồng 25 xu được gói trong một mẫu giấy nhỏ có ghi: “Đây là 25 xu con trả lại mẹ, con đánh giày cho mẹ vì tình yêu. Richard.”

Tinh thần cho đi của Richard và lời Chúa Giêsu về việc cho đi mời gọi tôi tự hỏi: tôi có tinh thần cho đi thế nào trong đời sống?

Điều tốt nhất để cho kẻ thù là sự tha thứ, cho kẻ đối lập là sự khoan nhượng, cho bạn bè là trái tim, cho con cái là tấm gương sáng, cho chính mình là sự kính trọng, cho mọi người là lòng bác ái (Francis M.Balfour).

7. Bàn tay trắng

Cuốn tiểu thuyết “Quyền lực và vinh quang” của Graham Green nói về những bách hại tôn giáo ở Mêhicô. Một trong các nhân vật của cuốn tiểu thuyết là một vị linh mục cao niên. Sự căng thẳng thường xuyên vì bị cảnh sát săn đuổi đã để lại hậu quả trên ông. Ông quay sang rượu chè và không phục vụ dân chúng một cách đúng đắn. Rốt cuộc, ông bị bắt và bị kết án tử hình. “Buổi sáng ngày bị hành hình, ông thức dậy với nỗi đau khôn xiết. Nước mắt tràn trên khuôn mặt... Ông không sợ bị đọa đày... Ông chỉ cảm thấy vô cùng thất vọng vì phải trở về cùng Thiên Chúa với bàn tay trắng.” Ít ra, trong suy nghĩ của mình, ông đã thất bại. Điều đó thật khác xa với thái độ của Chúa Giêsu!

Tôi có thể tiến hành công việc hàng ngày Thiên Chúa trao phó cách tốt hơn thế nào?

Trung thành trong những điều nhỏ mọn là một điều lớn lao (Thánh Gioan Kim Khẩu).

8. Làm chứng cho sự thật

Truyện thánh Pacôm kể rằng, khi còn ngoại đạo, đã đăng lính trong đạo binh Rôma. Ngày kia, các binh sĩ trong đơn vị của ngài, đã kiệt sức vì đói và khát sau khi đi bộ qua sa mạc dưới cái nóng chết người, thất thểu vào thành Thebes (Tê-bes) ở Ai Cập. Thấy cảnh tượng đó, có nhiều người chạy lại bên họ, cho họ ăn uống, cùng chăm sóc họ chu đáo, tận tình. Pacôm ngạc nhiên hỏi những người tốt lành này là ai và được trả lời rằng: “Họ là các kitô hữu.” Ngài thốt lên: “Một tôn giáo dạy người ta cứu giúp những kẻ khốn khổ hoàn toàn xa lạ với mình là một tôn giáo chỉ có thể đến từ vị Chúa chân thật.” Sau biến cố này, Pacôm, trở lại đạo Công giáo và trở thành một vị sáng lập các đan viện, sống cộng đoàn bác ái huynh đệ. Philatô đã từng hỏi: “Sự Thật là gì?” nhưng không thể hiểu được, còn Pacôm tin nhận Thiên Chúa là Sự Thật nhờ những người kitô hữu ở Thebes đã làm chứng bằng hành động bác ái.

Người kitô hữu được “thánh hiến trong sự thật” nên sống theo sự thật và làm chứng cho sự thật. Sự thật về Chúa Giêsu chỉ có thể được tỏ hiện qua cái chết tự hiến vì yêu thương trên thập giá: “Ông này quả thật là Con Thiên Chúa.” Noi gương Chúa Kitô, người kitô hữu không chỉ làm chứng nhân bằng việc tử đạo mà còn làm chứng cho sự thật bằng chứng từ bác ái nữa.

9. Không thuộc về thế gian

"Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều vua, lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước. Nay hạ thần cam chịu mọi cực hình để nên giống Đức Kitô." Đó là câu trả lời của ông Micae Hồ Đình Hy khi vua Tự Đức mời ông giả vờ bước qua thánh giá.

Ông là người thanh liêm, được nhà vua hết sức tín cẩn, cho phụ trách ngành dệt trong cả nước. Nhưng ông cũng là một Kitô hữu xông xáo làm việc tông đồ. Ông không thấy có gì xung khắc giữa việc phục vụ đất nước với việc phục vụ Giáo Hội.

Khi quân Pháp bắn phá cảng Đà Nẵng thì ông bị bắt, bị kết án là khinh luật nước, chống lại triều đình. Ông Hy đã chấp nhận cái chết một cách bình thản. Trước khi chịu chém, ông còn xin hút một điếu thuốc, hương vị cuối cùng của trần gian mà ông muốn nếm trước khi nếm hương vị của thiên đàng vĩnh cửu.

Cuộc sống và cái chết của thánh Micae Hy soi sáng cho đoạn Lời Chúa hôm nay. Người Kitô hữu có hai đầu dây cần phải giữ. "Như Cha đã sai Con đến trong thế gian, Con cũng sai họ đến trong thế gian" (Ga 17,18).

10. Sức mạnh của tinh thần

Quân nước Tề sang đánh nước Lỗ. Khi đến chỗ giáp giới, trông thấy người đàn bà một tay bồng một đứa bé, một tay dắt đứa nữa. Người đàn bà thấy quân kéo tới, vội vàng bỏ đứa đang bồng trên tay xuống mà bồng đứa bé đang dắt, rồi chạy trốn vào trong núi. Đứa bé kia chạy theo khóc, người đàn bà cứ chạy không ngoảnh lại.

Một viên tướng nước Tề cho bắt đến, hỏi: “Đứa bé nàng bế chạy là con ai? Còn đứa bé nàng bỏ liều là con ai?”

Người đàn bà thưa: “Đứa tôi bế là con anh cả tôi; đứa tôi bỏ lại là con tôi. Tôi thấy quân lính kéo đến, sức tôi không thể bảo toàn được cả hai đứa, cho nên tôi đành phải bỏ con tôi lại."

Viên tướng nước Tề nói: “Con với mẹ kể tình thân yêu thì đau xót lắm. Nay bỏ con mình lại mà chạy lấy con anh là cớ làm sao?”

Người đàn bà nói: “Con tôi là ‘tình riêng’ con anh tôi là ‘nghĩa công’. Con đẻ tuy đau xót thật, nhưng đối với việc nghĩa thì tính làm sao. Cho nên tôi đành bỏ liều con tôi mà làm việc ‘nghĩa’. Tôi không thể nào chịu tiếng vô ‘nghĩa’ mà vác mặt sống ở nước tôi được."

Viên tướng nước Tề dừng quân lại, sai người tâu với vua Tề rằng: “Nước Lỗ chưa thể đánh được. Quân ta mới đến chỗ cương giới, đã thấy con mụ đàn bà xó rừng còn biết làm điều ‘nghĩa’ chẳng chịu đem tình riêng mà hại ‘nghĩa công’ huống chi là những bậc quan lại, sĩ phu trong nước. Xin kéo quân về."

Vua Tề cho là phải.

Sau vua Lỗ biết chuyện này, thưởng người đàn bà một trăm tấm lụa và phong tước.

Câu chuyện cho ta thấy sức mạnh của một quốc gia được biểu lộ nơi những con người biết nghĩ tới người khác, biết hy sinh quyền lợi mình cho quyền lợi người khác. Hiển nhiên là giá trị của một cộng đồng, cũng được biểu lộ nơi những con người biết hành động như vậy.

11. Làm một giọt nước trong

Năm 1979, trên đường về nhà sau khi lãnh giải Nobel, Mẹ Têrêxa đã ghé qua Rôma. Rất nhiều ký giả bao vây để chụp hình và muốn phỏng vấn. Một ký giả táo bạo hỏi Mẹ:

- Năm nay Mẹ đã 70 tuổi. Khi Mẹ qua đời thế giới cũng vẫn như trước! Chẳng có gì thay đổi sau bao nhiêu cực nhọc?

- Anh thấy đó, tôi không bao giờ nghĩ rằng mình có thể thay đổi thế giới. Tôi chỉ tìm cách làm một giọt nước trong, một giọt nước lóng lánh rạng ngời tình yêu Thiên Chúa. Anh cho là quá ít sao? Mẹ trả lời với một nụ cười thật tươi.

Anh ta lúng túng… các ký giả khác lặng thinh. Mẹ nói tiếp:

- Anh hãy cố gắng trở thành một giọt nước trong. Như thế sẽ có hai giọt nước trong. Anh lập gia đình chưa?

- Dạ rồi.

- Vậy anh cũng hãy nói với vợ như thế, và chúng ta sẽ là ba giọt nước trong. Anh có con chưa?

- Thưa Mẹ, ba đứa.

- Tốt lắm. Vậy anh cũng nên nói với các con, và như thế, tất cả chúng ta sẽ là sáu giọt nước trong.

Từ một đến hai, đến ba, rồi đến sáu giọt nước trong. Những giọt nước lóng lánh rạng ngời tình yêu Chúa. Đang dồn sức cho việc tông đồ, tại sao tôi lại không nghĩ đến một cuộc hiện xuống mới của Chúa Thánh Thần theo cách trình bày của Mẹ Têrêxa? Nhỏ bé thôi mà rất vĩ đại!

Giọt nước đầu tiên là tôi. Hãy là giọt nước lóng lánh rạng ngời tình yêu Chúa.

12. Kỳ vọng

Ngày kia, Thomas Edison đem về cho mẹ một tờ giấy; mở ra, đôi mắt bà thất thần, đẫm lệ. Bà đọc lớn tiếng, “Con của bà là một thiên tài; trường này quá nhỏ, không đủ để đào tạo cháu. Bà hãy tự dạy cháu!” Về sau, Edison - đã là một nhà phát minh lớn - ngày kia, lục lại đồ cũ, bỗng tìm thấy mảnh giấy năm xưa. Tờ giấy ghi, “Con bà đần, chúng tôi không nhận nó.” Edison khóc hàng giờ và viết xuống những dòng này, “Edison, một thằng đần, sinh ra bởi một bà mẹ anh hùng. Nó đã trở thành một thiên tài của thế kỷ!” Ông nhớ lại, “Mẹ tôi vẫn luôn kỳ vọng vào tôi; bà là một ai đó để tôi không làm cho thất vọng!”

Nếu bà mẹ của Edison kỳ vọng tuyệt đối vào con, thì Chúa Giêsu còn kỳ vọng vào các môn đệ của Ngài bội phần! Họ không chỉ là những ‘thiên tài’ tạo nên sự khác biệt cho thế giới, nhưng còn là những ‘thiên tài’ cứu độ thế giới! Tin Mừng hôm nay tiết lộ ‘kỳ vọng’ của Ngài, “Như Cha đã sai Con đến thế gian, Con cũng sai họ đến thế gian!”

THỨ NĂM - Sức mạnh của hiệp nhất

Lời Chúa: Ga 17, 20-26

Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: “Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ, nhờ lời chúng mà tin vào Con, để mọi người nên một, cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con.

Con đã ban cho chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để chúng nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong chúng, và Cha ở trong Con, để chúng được hoàn toàn nên một và để thế gian biết rằng Cha đã sai Con, và Con đã yêu mến chúng như Cha đã yêu mến Con.

Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa."

TRUYỆN KỂ

1. Sức mạnh của hiệp nhất.

(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Có một câu truyện cổ như sau:

Trong một buổi hội họp của tất cả các muông thú rừng xanh, dòng giống nhà cọp đã dành được ngôi vị Chúa sơn lâm nhờ vào sức mạnh và bản tính hung dữ của chúng. Ngày kia, cọp gặp người thợ săn. Trước khi phóng mũi tên, bác thợ săn nói với cọp:

- Hỡi Chúa sơn lâm, hãy đón nhận điều mà con người gửi đến các muông thú.

Và mũi tên đã cắm phập vào lưng cọp. Quá đau đớn, cọp đã chạy trốn vào rừng rậm. Thấy cọp bỏ chạy, một con sói già hỏi: tại sao? Cọp lắc đầu đáp:

- Chỉ một lời con người muốn nói với ta, mà đã làm ta đau đớn thế này, thì làm sao chúng ta có thể chống lại bọn họ.

Sói già an ủi cọp:

- Điều suy nghĩ của Chúa sơn lâm thực tế, tuy nhiên, Chúa sơn lâm lại quên một điều là nếu tất cả muông thú rừng xanh đoàn kết lại, chúng ta có thể chống lại con người. Như nhà sói chúng tôi đây tuy sức mạnh không bằng Chúa sơn lâm, nhưng cả một bày sói, với sức mạnh tổng hợp, chúng tôi có thể làm thịt người thợ săn.

2. Nên một trong tình yêu Chúa

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Một người kia có ba người con trai, trước khi qua đời ông muốn dạy các con bài học hiệp nhất: “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”, ông gọi các con đến và nói: Vàng bạc thì cha không có, cha có một gia tài quý giá hơn cả vàng và muốn để lại cho các con. Nói xong, ông lấy ra ba chiếc đũa tre trao cho ba người con mỗi người một chiếc và bảo: “Các con hãy bẻ gãy chiếc đũa cho cha xem." Ba người con vâng lời cha bẻ gãy chiếc đũa dễ dàng.

Sau đó, người cha trao cho ba người con mỗi người một bó đũa và nói: “Các con hãy bẻ gãy bó đũa này cho cha xem." Lúc này ba người con dùng hết sức vẫn không sao bẻ gãy được. Bấy giờ, người cha mới nói: “Nếu các con biết đoàn kết yêu thương nhau thì các con giống như bó đũa kia sẽ không có sức mạnh nào làm gãy được các con. Ngược lại, nếu các con không đoàn kết yêu thương nhau mỗi người một nơi thì các con sẽ như chiếc đũa kia bị bẻ gãy một cách dễ dàng, hiệp nhất: “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết."

Nói xong, người cha ra đi trong vòng tay yêu thương của các con.

3. Hiệp nhất là dấu chứng cho sự hiện diện của Chúa

Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã diễn tả rất sâu sắc về giá trị tông đồ của sự hiệp nhất, ngài đã nói như sau: “Lời di chúc thiêng liêng của Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu rằng sự hiệp nhất giữa các môn đệ không những là bằng chứng chúng ta là môn đệ của Ngài, nhưng còn là bằng chứng Ngài được Chúa Cha sai đến và đó cũng là trắc nghiệm về sự đáng tin của các Kitô hữu và của chính Đức Kitô."

Có hiệp nhất với nhau, các kẻ tin mới tỏ ra mình không phải là những con người bị chia rẽ bởi những tranh chấp, nhưng là những con người trưởng thành trong đức tin, trưởng thành trong lòng mến và có khả năng gặp gỡ nhau nhờ việc cùng tìm kiếm chân lý cách chân thành và vô vị lợi.

Như thế, sự hiệp nhất chứng tỏ chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu, chứng tỏ chúng ta là những người trưởng thành trong đức tin cậy mến, và đó là lý do thu hút người ngoài để họ dễ tin vào lời chứng của chúng ta.

4. Thích được biết đến

Nhạc trưởng Michael Costa đang diễn tập với dàn hợp xướng gồm cả trăm nhạc cụ và nhạc công. Bỗng có tiếng sáo ré lên. Chắc người thổi sáo sợ rằng nhạc trưởng không nghe thấy tiếng sáo của mình. Nhạc trưởng cáu kỉnh quát: “Tiếng sáo nào kì vậy?” Và phải tập lại từ đầu.

5. Lo cho dân

Hoàng đế Fransois Joseph là vua nước Hung gia lợi từ 1848-1916, một triều đại dài nhất trong lịch sử và cũng là một triều đại tiến bộ nhất. Hoàng đế là con người rất nghiêm khắc, nhưng lại trị vì đất nước rất khoan dung.

Khởi đầu triều đại của ông, bệnh dịch tả lan tràn khắp Châu Âu. Triều thần đề nghị với vua Fransois Joseph bỏ kinh đô Vienne nước Áo để sang Salzburg nước Hung Gia Lợi, cho tới khi tai họa qua đi. Vua Fransois Joseph liền hỏi:

- Ở Salzburg có đủ phòng nghỉ cho con cái ta không?

Quan đại thần thưa:

- Tâu đức vua, ở Salzburg chắc chắn có đủ phòng nghỉ cho tất cả hoàng gia.

Vua Fransois Joseph hỏi lại hai lần nữa:

- Có thực sự có phòng đủ cho con cái ta chớ?

Rồi giơ tay chỉ vào dân chúng đông đúc đang đứng ngoài sân mà nói với quan đại thần:

- Quan hãy nhìn đám dân chúng đông đúc kia. Họ là con cái của ta cả. Có người cha nào đang tâm bỏ con cái trong nguy hiểm sao? Không! Những người tại thủ đô Vienne này đã chia sẻ vui buồn với ta. Ta sẽ không bỏ họ trong giờ lo âu. Ta phải quan tâm đến họ, như là lo cho chính ta vậy.

Một ông vua trần thế mà còn biết thương và lo cho dân như thế, huống chi là Chúa Giêsu, Chúa của chúng ta. Làm sao Chúa co thể vui khi con cái của Ngài không được chung hưởng hạnh phúc Thiên đàng với Ngài.

6. Phục vụ cho quê hương

Hồi còn làm tổng thống Hoa Kỳ, ông Roosevelt đã có lần sang mãi tận Phi châu để nghỉ hè. Ông thích săn những con hươu cao cổ tại đó. Sau những ngày nghỉ hè thú vị, tổng thống lên đường trở về. Trong chuyến tàu đem tổng thống trở về, người ta cũng thấy có một nhà truyền giáo sau hơn bốn mươi năm phục vụ những người dân Phi châu cùng có mặt trên con tàu.

Khi tàu sắp cập bến, nhà truyền giáo thấy cảnh dân chúng đứng trên bờ cùng với nhiều nhân vật cấp cao trong chính phủ hân hoan chào đón tổng thống Roosevelt đi săn trở về bình an. Ông cảm thấy tủi thân vì hình như chẳng có ai để ý đến mình. Một thân một phận lủi thủi lên bờ. Tự thâm tâm ông như muốn trách Chúa:

- Đấy, Chúa thấy không, tổng thống đi nghỉ hè về thì được nhiều người ra đón rước như vậy. Còn con, con đã hy sinh chịu cực vì Chúa, phục vụ anh chị em nghèo khổ tại Phi Châu trong suốt bốn mươi năm qua. Thế mà bây giờ trở về đây, không ai thèm nghĩ đến con, thật là bất công và tủi cho thân phận con quá.

Nhưng ngay lúc đó, dường như có tiếng Chúa trả lời cho nhà truyền giáo:

- Này con, đừng vội thất vọng, con chưa trở về quê hương thật của con mà!

7. “Để cả chúng cũng nên một trong Ta” (Ga 17,21).

Trong một buổi thuyết trình về đạo được tổ chức trên boong một du thuyền lớn, tiến sĩ A. Simpson giải thích với cử tọa về vấn đề này như sau: Ông lấy một cái chai quẳng vào lòng biển. Cái chai rơi vào đại dương và đang ở trong đại dương.

Nước biển chui vào chiếm hữu cái chai, nước biển càng vào, cái chai càng từ từ chìm sâu vào lòng đại dương. Ông kết luận:

- Cái chai ở trong đại đương và đại dương ở trong cái chai. Đó là hình ảnh xác thực nhất để chỉ mối tương giao giữa Chúa Giêsu và chúng ta là những môn đệ của Người.

Thánh Gioan Thánh Giá, linh mục, trong bài ca thiêng liêng của ngài, ngài đã diễn tả về vấn đề này thật hay như sau: “Chúa Cha đã thực hiện điều Chúa Con cầu xin khi thông ban cho họ chính tình yêu thương Người hằng thông ban cho Chúa Con. Tuy vậy, Người không thông ban cho họ theo bản tính như khi Người thông ban cho Chúa Con, nhưng đã thông ban cho họ bằng cách lấy tình thương mà kết hợp họ với Người và thần hóa họ. Cũng thế, không nên hiểu rằng Chúa Con xin Chúa Cha cho họ nên một theo yếu tính và bản thể như Chúa Cha với Chúa Con là một, nhưng Người chỉ muốn xin cho họ nên một nhờ kết hợp với nhau trong tình thương, như Chúa Cha và Chúa Con vẫn là một trong Tình Thương duy nhất. Do đó, các linh hồn được thông phần với Thiên Chúa những điều tốt đẹp mà Chúa Cha và Chúa Con vẫn có theo bản tính. Vì vậy, nhờ được thông phần với Thiên Chúa, các linh hồn thực sự là những vị thần. Họ nên giống Thiên Chúa và được chung phần với Người.

Lạy Chúa, xin cho chúng con được nên một với Chúa. Amen.

8. Chia rẽ thì thua

Ông Phaolô lợi dụng sự bất đồng Đức Tin giữa nhóm Biệt phái và phe Sađốc, để ông gây chia rẽ trong họ. Trước tòa án, ông nói: “Thưa quý vị đồng bào, tôi là Biệt phái, con của Biệt phái, tôi bị ra tòa vì mối hy vọng, tức là sự sống lại từ cõi chết." Ông vừa nói thế thì xô xát liền xảy ra giữa Biệt phái và Sađốc, và đám hội bị phân bè. Vì phe Sađốc quyết không tin có sống lại, không có Thiên thần hay ma quỷ gì cả, còn Biệt phái lại tin tất cả các điều ấy. Tiếng la lối ầm lên, có những Ký lục thuộc cánh Biệt phái chỗi dậy gây gổ bảo rằng: “Chúng tôi không thấy chút gì trái nơi đương sự. Biết đâu đã có vị linh thiêng hay Thiên thần phán bảo ông ấy? Cuộc xô xát đã đến độ trầm trọng, viên trưởng cơ sợ ông Phaolô bị xâu xé, thì sai binh đội xuống giựt ông khỏi đám họ mà dẫn về đồn."

Như thế, ông Phaolô vận dụng giáo lý về sự sống lại, có Thiên thần và có ma quỷ để gây chia rẽ giữa Biệt phái và Sađốc. Đó là cách ông Phaolô làm cho những người tin vào Giáo Lý của Đức Giêsu được hiệp nhất trong Chân Lý, đem lại cho họ sự sống hạnh phúc dồi dào muôn đời. Bởi vì bản chất Giáo Lý của Chúa là gây chia rẽ giữa tư tưởng của loài người với tư tưởng của Thiên Chúa, như Đức Giêsu nói: “Đừng tưởng Ta đến đem bình an trên mặt đất, Ta đến không phải để đem lại bình an mà là gươm giáo. Ta đến để chia rẽ người ta với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình, và kẻ thù của người ta là những người nhà mình” (Mt 10, 34-36).

Do đó ta không được nói sự thật một nửa, vì đó là cách nói láo độc hại nhất. Ví dụ: “Hiệp nhất thì sống, chia rẽ là chết." Kìa Biệt phái và Sađốc khi còn hiệp nhất với nhau, mà không dựa trên Chân Lý của Chúa, không bởi Thánh Thần, nên sự hiệp nhất ấy gây ra cái chết cho ông Phaolô, không đem lại sự sống cho ai.

9. Nối kết với Thiên Chúa

Năm 1985, Steve Trotter trở thành người thứ bảy trong lịch sử đã sống sót khi nhảy ở độ cao 50 thước từ thác Niagara trong một chiếc thùng. Trotter nói anh có cảm tưởng như ở trên một thang máy không có dây gắn vào. Khi nghĩ về sự can đảm, chúng ta thường nghĩ đến can đảm thể lý. Một sự can đảm lớn hơn được Phaolô đề cập trong bài đọc hôm nay là sự can đảm luân lý.

Đó là sự can đảm mà các môn đệ Chúa Giêsu phải thể hiện hằng ngày trong thế giới hiện nay.

Làm cách nào tôi có thể xây dựng lại tòa nhà của sự can đảm khi nó suy sụp?

Chúng ta sẽ an toàn vượt qua giông bão, bao lâu niềm tin của chúng ta còn gắn chặt vào Thiên Chúa (Thánh Phanxicô Salêsiô).

10. Cùng sống, cùng chết

Có một câu truyện về một nhóm người bị đắm tàu trôi dạt trong chiếc thuyền cấp cứu hẹp và dài. Chiếc thuyền dài đến độ người phía trước nghĩ chính họ là người “trước hết” và người phía sau tưởng họ là người “sau cùng.” Một hôm, phía trước thuyền bị rò rỉ không thể nào kìm giữ được. Người đàn ông ngồi phía sau nói với người phụ nữ kế bên: “Cám ơn Chúa, thuyền bị rỉ phía trước, nếu nó rỉ phía sau, chắc chúng ta tận số.”

Câu truyện trên hàm chứa một bài học quan trọng cho tất cả chúng ta. Chúng ta quên rằng tất cả chúng ta cùng ở trên một chiếc thuyền. Một đe dọa nghiêm trọng nào xảy ra cho một phần thế giới cũng đe dọa nghiêm trọng đến những phần khác.

Tại sao tôi đồng ý hoặc không đồng ý với nhận định của John Kennedy: “Nếu một xã hội tự do không giúp được nhiều người nghèo, nó cũng chẳng cứu được một số ít người giàu?”

Chúng ta phải học chúng sống với nhau như anh em, hoặc cùng chết với nhau như những kẻ khờ dại (Martin Luther King).

11. Giá trị của lời nguyện

Alexis Carrel, người đoạt giải Nobel, viết: “Khi cầu nguyện, chúng ta liên kết chính mình với quyền lực tạo dựng vũ trụ. Chúng ta nài xin một phần quyền lực ấy được chia sẻ cho nhu cầu của chúng ta. Ngay lúc nài xin, những khiếm khuyết của chúng ta được lấp đầy, và chúng ta trở nên mạnh mẽ, tươi mới... Cầu nguyện chân thành là một lối sống. Cuộc sống đích thực chính là cuộc sống cầu nguyện.”

Việc cầu nguyện tác động thế nào lên cuộc đời tôi khi tôi thường xuyên cầu nguyện?

Cầu nguyện cũng giống như bật công tắc điện. Nó không tạo ra dòng điện, nhưng chỉ cung cấp một đường dẫn cho dòng điện chạy vào. (Max Handel)

THỨ SÁU - Cơ hội thứ hai

Lời Chúa: Ga 21, 15-19

Khi Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho các môn đệ, Người dùng bữa với các ông, và hỏi Simon Phêrô rằng: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy."

Người lại hỏi: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy."

Người hỏi ông lần thứ ba: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Phêrô buồn phiền, vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba “Con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy” Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến." Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy đoạn, Người bảo ông: “Con hãy theo Thầy."

TRUYỆN KỂ

1. Cơ hội thứ hai.

Trong một cuộc phỏng vấn, khi những người trung niên và lớn tuổi được hỏi về những năm tháng đã qua của cuộc đời mình, họ có hối tiếc gì không, và nếu có cơ hội thứ hai, họ sẽ quyết định như thế nào. Một số người cho biết, họ vẫn làm những gì họ đã chọn lựa. Ngược lại, một số đông cho biết họ đã chọn lựa sai ở một số thời điểm quyết định sự thành bại, và nếu bây giờ có cơ hội thứ hai, họ sẽ chọn lựa khác hẳn.

Tin mừng hôm nay cho chúng ta chứng kiến việc Chúa Giêsu trao ban cho Phêrô cơ hội thứ hai.

Thiên Chúa luôn sẵn sàng cho chúng ta cơ hội thứ hai, không phải một lần mà là nhiều lần. Điều quan trọng là chúng ta phải thành tâm nhìn nhận tội lỗi, xin ơn tha thứ và bắt đầu lại. Do đó mối hiểm nguy là do chúng ta tự định giới hạn cho lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa, mà không xin Ngài một cơ hội khác. Đó là sự khác biệt giữa Giuđa và Phêrô: Cả hai đã phản bội Thày trong cùng một ngày, nhưng Giuđa không xin cơ hội thứ hai nên đã thất bại, còn Phêrô đã tận dụng cơ hội được ban cho và đã toàn thắng.

2. Có yêu thì mới chu toàn

Khi nói về tình yêu, nhạc sĩ Nguyễn Duy đã có một bài hát mang tên: “Xin định nghĩa tình yêu”, trong đó có đoạn:

“Yêu là chết đi, là đóng đinh, là biết hy sinh cho người mình yêu [...]. Yêu: xin đừng dối gian, xin đừng trái ngang, dù lắm lo toan, xin đừng ly tan. Hãy yêu như Giêsu, chết đi cho dương gian, đóng đinh cho người mình yêu mến. Hãy yêu trong an vui, thủy chung trong đau thương, sống trong cuộc đời đầy mến yêu."

Lời bài hát trên mang đậm chữ “yêu." Thật vậy, con người nếu không có tình yêu, hỏi rằng chúng ta có thể sống có ý nghĩa được chăng? Thưa không! Chỉ có tình yêu, con người mới làm cho cuộc đời này chan chứa niềm vui, dẫu vẫn còn đó khổ đau, bất hạnh, hiểu lầm...

3. Chăn dắt các chiên của Thầy

Trong thánh lễ an táng Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Đức Hồng y Joseph Ratzinger, tức là Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI sau này, giảng lễ gợi hứng từ Tin Mừng Ga 21,15-19, và tập trung vào lời Chúa Giêsu nói với Phêrô: “Hãy theo Thầy” (Ga 21,19).

Đức Hồng y Joseph Ratzinger, suy tư và khai triển tiếng gọi của Chúa Giêsu cho Phêrô “Hãy theo Thầy”, tiếng gọi này nhưng cũng xuyên suốt cuộc đời Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II, đấng kế vị Phêrô, từ khi lãnh tác vụ linh mục giữa thời chiến tranh, tiếp đến sứ vụ Giám mục trong thời kỳ bức màn sắt, cho đến khi lên ngôi Giáo hoàng như lời Chúa uỷ thác: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy."

4. Tại sao Chúa Giêsu lại hỏi Phêrô tới ba lần như vậy?

Có nhiều nhà giải thích Thánh kinh nói rằng: Chúa Giêsu hỏi Phêrô ba lần như vậy là để tỏ ra tầm quan trọng của nhiệm vụ mà Chúa sắp trao phó cho ông.

Có những tác giả khác cho rằng: Chúa hỏi đi hỏi lại như vậy là muốn cho mọi người biết rõ rệt Chúa trao quyền Tông đồ trưởng cho Phêrô, và quyền ấy phải đi đôi với tình yêu của ông đối với Chúa, quyền lợi đi đôi với tình yêu, tình yêu bao trùm mọi trách nhiệm.

Một số người khác lại cho rằng: Ba câu trao sứ mạng, lần lượt nói “chiên con” ở hai lần đầu và “chiên mẹ”ở lần sau cùng, là Chúa có ý đề cập đến quyền lãnh đạo của Phêrô trên cả giáo dân và các chủ chăn khác,

Có người lại cho rằng Chúa hỏi Phêrô ba lần như vậy là có ý gợi lại ba lần ông đã chối Chúa.

Có người lại cho rằng ba lần hỏi, ba lần trao nhiệm vụ như thế, cũng hiểu là Chúa trao ba quyền cho Phêrô: giảng dạy, tế lễ và cai trị, tức là ba chức vụ: giảng dạy, thánh hóa và lãnh đạo (Lm Phạm văn Phượng).

5. Hãy theo Thầy

Nhà hiền triết Socrate gặp chàng trai trẻ Xenophon lần đầu. Thoạt tiên, ông hỏi chàng có biết ở đâu bán cái này, cái nọ, và ở đâu người ta chế ra vật này, vật kia, Xenophon chỉ cho Socrate những thông tin cần thiết. Rồi Socrate hỏi:

- Anh có biết người ta chế tạo điều lành và nhân đức ở đâu không?

- Không.

- Vậy anh hãy theo ta.

Đó cũng là câu Chúa Giêsu nói với ông Phêrô: “Hãy theo Thầy” (Góp nhặt).

6. “Quo vadis”: Ngài đi đâu đó.

Câu chuyện truyền kỳ về những ngày chót của cuộc đời ông chắc chắn cũng chứa đựng ít nhiều sự thật. Ông đến Rôma trong thời kỳ bắt đạo. Lúc cơn bắt đạo dâng cao, ông đã sợ hãi và muốn lẩn trốn nhưng vừa ra khỏi thành thì ông gặp một người vai mang Thập giá đang đi hướng về phía thành.

Ông hỏi: “Quo vadis”: Ngài đi đâu đó?

Người ấy trả lời: “Ta đi vào Rôma để cho người ta đóng đinh một lần nữa."

Phêrô quay đầu trở lại. Ông vào Rôma và chịu tử đạo tại đó. Truyền thống kể rằng ông cảm thấy không xứng đáng được đóng đinh như Thầy nên ông xin được chết trên Thập giá trong tư thế đầu lộn ngược xuống đất.

Ông thực hiện đúng lời của Chúa: “Khi về già ngươi sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho và lôi ngươi đi đến nơi ngươi không muốn” (Ga 21,18-19).

7. Thầy biết con yêu mến Thầy

Alexander đại đế, khi còn nhỏ là một cậy bé thông minh. Một hôm cha cậu mua phải một con ngựa khó tính, không ai dạy nổi. Thế mà Alerxander thuần phục con ngựa ấy một cách dễ dàng. Có người hỏi cậu bí quyết khắc phục con ngựa ấy, cậu trả lời: “Chẳng có gì lạ. Tôi xét kỹ thấy con ngựa này rất sợ cái bóng của nó. Vì thế chỉ cần quay nó hướng về mặt trời để nó không còn thấy cái bóng của nó nữa.”

Ông Phêrô rất sợ cái bóng của mình, nhưng khi ông hướng về Chúa, Đấng giàu lòng thương xót, sợ hãi như tan biến đi, nhường chỗ cho tín thác xâm chiếm cả tâm hồn ông.

Lạy Chúa, Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con, Chúa biết con hơn con biết con và Chúa yêu con hơn con yêu con. Con tín thác đời con cho Chúa.

8. Điều kiện: Yêu

Trước khi Đức Giêsu trao quyền thủ lãnh cho, Ngài không đòi hỏi ông về kiến thức, cũng không đòi ông phải có tài năng, địa vị, hay giàu có, mà Ngài chỉ tra hỏi ông về tình yêu:

Trước nhất, ta phải phân biệt hai động từ yêu được dùng trong trình thuật này:

* Agapê: Là tình yêu của Thiên Chúa, yêu không tìm lợi nhuận nơi người đời, không phân biệt bạn hay thù, chấp nhận mất mạng vì phục vụ phàm nhân theo ý Cha trên trời.

* Philein: Yêu trong tình bạn, dựa trên công bằng giao hoán.

Ta thấy ba lần Chúa Giêsu hỏi và ông Phêrô trả lời:

- Con có Agapê Thầy không? Dạ, con Philein Thầy. Con hãy chăn chiên (Arnia).

- Con có Agapê Thầy không? Dạ, con Philein Thầy. Con hãy chăn cừu (Probata).

- Con Philein Thầy sao? Dạ, con Agapê Thầy. Con hãy chăn cừu (Probata).

Như vậy,

a- Chỉ khi nào thủ lãnh Phêrô trả lời Agapê, giống như Chúa Giêsu yêu loài người, thì mới đạt.

b- Ba lần Chúa Giêsu hỏi về tình yêu của ông Phêrô, Ngài muốn ông chuộc lại ba lần đã chối Thầy. Vì thế lần thứ nhất Chúa Giêsu hỏi ông: “Phêrô, con có yêu mến Thầy HƠN những người này không?” (Ga 21, 15: Tin Mừng).

9. Thấy Chúa yêu

Một buổi sáng, ông thầy dòng ra vườn cầu nguyện. Đứng trước hàng chôm chôm đầy trái, bên cạnh giàn bí với những quả thật lớn, thầy suy nghĩ: "Chẳng biết Chúa có mắt không. Sao trái chôm chôm bé tí thế kia lại mọc trên cành cây to, còn quả bí khổng lồ lại bám vào dây leo tí tẹo? Chẳng hợp lý chút nào." Đang miên man suy nghĩ, chợt một cơn gió thổi qua, một trái chôm chôm rơi ngay đỉnh đầu. Giật nẩy mình, như vừa tỉnh khỏi cơn mơ, thầy quỳ sụp xuống: «Ôi lạy Chúa, may Chúa có mắt, nếu để trái chôm chôm to bằng quả bí thì đầu con còn đâu!» Thế đấy, Thiên Chúa thấy và biết hết mọi sự. Ngài luôn có lý; và kế hoạch của Ngài luôn tốt đẹp cho chúng ta, vì Ngài YÊU THƯƠNG CHÚNG TA. Dĩ nhiên, Thiên Chúa cũng biết rõ tôi có yêu mến Ngài hay không. Vậy điều quan trọng là tấm lòng của tôi như thế nào đối với Thiên Chúa, cụ thể là đối với Đức Giêsu Kitô, hiện thân của tình yêu Thiên Chúa.

Mời Bạn: Cảm nhận tình yêu của Chúa Giêsu dành cho bạn. Người đã yêu thương bạn đến cùng đó. Và nhìn lại thái độ hững hờ, đôi khi bạc bẽo của mình trước tình Chúa. Ôi, tấm lòng của mình sao chật hẹp quá! Chúa Giêsu cũng đang hỏi bạn có yêu mến Người không. Hãy xin Chúa cho mình có thể thốt lên được với tất cả sự chân thành như Phêrô: «Lạy Thầy, Thầy biết rõ mọi sự. Thầy biết con yêu mến Thầy.»

THỨ BẢY - Làm chứng cho Chúa

Lời Chúa: Ga 21, 20-25

Khi ấy, Phêrô quay lại, thấy môn đệ Chúa Giêsu yêu mến theo sau, cũng là người nằm sát ngực Chúa trong bữa ăn tối và hỏi "Thưa Thầy, ai là người sẽ nộp Thầy?" Vậy khi thấy môn đệ đó, Phêrô hỏi Chúa Giêsu rằng: "Còn người này thì sao?" Chúa Giêsu đáp: "Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến con? Phần con, cứ theo Thầy.” Vì thế, có tiếng đồn trong anh em là môn đệ này sẽ không chết. Nhưng Chúa Giêsu không nói với Phêrô: "Nó sẽ không chết", mà Người chỉ nói: "Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến con.”

Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra, và chúng tôi biết lời chứng của người ấy xác thật. Còn nhiều việc khác Chúa Giêsu đã làm, nếu chép lại từng việc một thì tôi thiết tưởng cả thế giới cũng không thể chứa hết các sách viết ra.

TRUYỆN KỂ

1. Làm chứng cho Chúa.

Trong kỳ nội chiến, Tổng thống Hoa kỳ là Abraham Lincoln có một sĩ quan trẻ làm thư ký. Viên sĩ quan này nổi tiếng là gan dạ, do đó công việc bàn giấy xem ra không thích hợp với anh. Anh chỉ mơ ước trở lại mặt trận và nếu cần sẵn sàng chết cho tổ quốc hơn là làm công việc đơn điệu nhàm chán trên bàn giấy.

Một ngày nọ, sau khi nghe anh than phiền, Tổng thống Lincoln nhìn thẳng mắt anh và nói: “Hỡi anh bạn trẻ, như tôi nhận thấy thì quả thực anh luôn muốn xả thân chết cho tổ quốc, nhưng có lẽ anh không muốn sống cho tổ quốc.”

Tử đạo theo nguyên ngữ là “làm chứng cho đức tin.” Có người dùng cái chết để làm chứng, có người dùng cả cuộc sống.

2. Lời chứng từ máu thịt

Thánh Gio-an lúc bảy mươi tuổi bắt đầu viết Tin mừng làm chứng về Đức Giêsu. Hôm nay, Ngài ký vào lời chứng này.

Được gắn bó sâu sắc với Thầy, Gioan có được đức tin mạnh mẽ cho con đường đặc biệt mà Thầy chuẩn bị và muốn ông đi: Không đổ máu làm chứng cho Chúa dù đã kề cận bên cái chết tử đạo: Người bị cầm tù ở Rôma, còn bị ném vào trong một vạc dầu sôi, nhưng Thiên Chúa gìn giữ ông được bình an vô sự. Sau đó, Gioan bị kết án đi làm hầm mỏ tại trại tù ở đảo Patmos. Tại đây, Ngài đã viết cuốn sách Khải huyền chứa đầy những lời tiên tri.

Ngôn từ cuốn Tin mừng này đôi khi khó hiểu, bí ẩn, sâu kín, mang lại kinh nghiệm dày dạn sâu lắng của đời sống Kitô giáo, đời sống phục sinh. Ngài truyền lại cho chúng ta kiến thức về Đức Kitô sau khi đã cầu nguyện, Suy niệm lâu dài mãi tới già.

3. Cảm nghiệm và làm chứng

Trên các trang báo điện tử thời gian gần đây đăng tin: Một nữ tu “cháy hết mình” trên sân khấu The Voice của Ý.

Nữ tu đó chính là Cristina Scuccia, 25 tuổi, thành viên của Dòng các chị em Ursuline Thánh Gia. Chị đã xuất hiện trên sân khấu của chương trình The Voice tại Ý. Khi sơ xuất hiện, các giám khảo và mọi người thật sự ngỡ ngàng khi thấy trang phục của thí sinh đặc biệt này.

Khi các giám khảo quay lại nhìn sơ Cristina, họ đã không tin vào mắt mình khi thấy một nữ tu trẻ đang hát “No One”, bài hát ruột của Alicia Keys.

Sau khi nghe sơ Cristina hát, Carra là một trong 4 vị giám khảo đã hỏi sơ có thật là một nữ tu không và tại sao sơ chọn tham gia cuộc thi này?

“Vâng, tôi đích thực là một nữ tu,” sơ Cristina trả lời.

“Tôi đến đây bởi vì tôi có một món quà và tôi muốn chia sẻ món quà đó. Tôi đến đây để loan báo Tin Mừng.”

4. Ơn gọi theo Chúa

Khi Thánh Phêrô hỏi Chúa về số phận của Thánh Gioan, Chúa đã nói với Thánh Phêrô: “Việc đó liên quan gì đến con, phần con hãy cứ theo Thầy.”

Tất cả mọi người được kêu gọi để theo Chúa. Có những bậc sống khác nhau. Trong mỗi bậc sống đó lại có từng hoàn cảnh khác nhau. Mỗi người là mỗi phận. Chúa như đang cầm tay từng phận người mà dắt đi theo Chúa. Chúa đang nói với mỗi người: “Phần con hãy cứ theo Thầy.” Chúa đang dẫn mỗi người đi theo Chúa bằng lối đi Chúa dành riêng cho người đó.

Mỗi đời người là một cuộc tình riêng với Chúa. Mỗi đời người đều có đủ thánh giá để vác theo Chúa. Đồng thời mỗi đời người đều được Chúa ban đủ niềm vui và ân sủng để theo Chúa cho nên: “Ơn Ta đủ cho con.”

5. Hãy cứ theo Thầy

Ngày kia, Voltaire nói với một người bạn: “Để lập Kitô giáo, chỉ cần mười hai tên ngư phủ quê mùa, dốt nát. Tôi sẽ cho thế giới thấy rằng chỉ cần một người Pháp cũng đủ tiêu diệt tôn giáo đó.”

Với ý đồ đó, ông phản bác cả Isaac Newton. Newton dựa vào sách Daniel 12,4 và Nahum 2,4 tiên đoán rằng: Một mai, con người có thể di chuyển với tốc độ kỳ diệu là 40 dặm trong một giờ. Voltaire bảo: “Hãy xem Kitô giáo điên rồ đã đầu độc một người thông thái như Newton đến cỡ nào! Ông không biết rằng một người chạy 40 dặm 1 giờ sẽ nghẹt thở, vỡ tim mà chết hay sao?”

25 năm sau khi Voltaire qua đời, căn nhà của ông được bán cho Hội Thánh Kinh Geneva và trở thành kho lưu trữ Thánh Kinh. Còn chiếc máy in của ông cũng được dùng để in Thánh Kinh!

6. Chúa Giêsu là câu trả lời

Bộ phim hoạt hình “Peanuts” mở đầu bằng hình ảnh Shroeder mang một tấm bảng: “Chúa Giêsu là câu trả lời.” Bộ phim kết thúc với hình ảnh Snoopy cầm một tấm bảng: “Câu hỏi là gì?” Những nhà lãnh đạo Do thái biết rõ câu hỏi: Tại sao Đấng Mêsia, “Đấng mà dân Israel hy vọng” không đến?” Phaolô trả lời, thật ra, Chúa Giêsu là lời giải đáp. Ngài là “Đấng mà dân Israel hy vọng.”

Nghe ông nói, một số người được thuyết phục, một số khác thì không chịu tin.

Chúa Giêsu là câu trả lời gì cho những câu hỏi hay những vấn đề trong đời tôi?

Nếu tôi bối rối, Ngài là ánh sáng soi.
Nếu tôi lạc bước, Ngài là đường để theo.
Nếu tôi yếu đuối, Ngài là cánh tay nâng đỡ.
Nếu tôi đói khát, Ngài là của ăn nuôi dưỡng tâm hồn.

7. Chúa thách thức

Rôma bị bao vây nghiêm ngặt vào năm 1849. Garibaldi, nhà ái quốc vĩ đại người Ý đã đưa ra lời thách thức đến giới trẻ. Ông nói: “Tôi không có gì ban tặng các bạn, chỉ có đói khát, khó khăn và cái chết. Nhưng tôi kêu gọi tất cả những ai yêu mến tổ quốc hãy liên kết cùng tôi.” Sự đáp trả thật đáng kinh ngạc.

Chúa Giêsu cũng đưa ra lời thách thức này, đặc biệt với Phêrô, trong bài đọc hôm nay. Ngày hôm nay, Ngài cũng đưa ra lời thách thức tương tự đối với mỗi người chúng.

Chúa Giêsu sẽ nói gì với tôi, nếu tôi hỏi Ngài vì sao nên đón nhận lời thách thức của Ngài?

Dám làm những điều can đảm để dành chiến thắng huy hoàng, dù phải nếm mùi thất bại, còn hơn là bằng lòng với lối sống không hưởng thụ, không đau khổ, vì như thế là sống trong bóng hoàng hôn không biết đến mùi chiến thắng hay thất bại (Theodore Roosevelt).

8. Lời nhập thể trong Thánh Kinh

Một chiếc xe tải nhẹ đậu ở lề đường. Một giọng nói từ buồng lái vang lên cho nhóm hướng đạo sinh ở phía sau: “Đến giờ cầu nguyện rồi. Chúng con hãy lần hạt, trong khi cha đọc sách nguyện.” Cha Joyce ngồi xuống bên đèn lái và bắt đầu đọc sách nguyện. Ngay lúc đó, một chiếc xe khác đến và người tài xế hỏi: “Có cần giúp đỡ gì không?” Cha Joyce đáp: “Không, chỉ đọc sách thôi mà!” Vị linh mục mỉm cười khi chiếc xe rời đi với câu nói tạm biệt của người tài xế: “Chắc là một quyển sách hay tuyệt nhỉ.”

Câu truyện hoặc bản văn nào trong cuốn sách hay tuyệt đó nói với tôi một cách đặc biệt? Tại sao?

Tôi biết Kinh thánh được linh hứng, vì Kinh thánh đã giúp tôi khám phá chiều sâu trong tôi hơn bất cứ cuốn sách nào khác. (Samuel Taylor Coleridge)

LỄ HIỆN XUỐNG (lễ vọng)

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1. truyện

LỄ HIỆN XUỐNG (lễ ban ngày)

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1. truyện

Lễ kính Đức Mẹ Fatima

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1. truyện

Lễ Thánh Mat-thi-a

Lời Chúa: Ga 15, 9-17

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu các con tuân lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy; cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người. Thầy nói với các con điều đó, để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con được trọn vẹn.

"Đây là lệnh truyền của Thầy: Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình. Các con là bạn hữu của Thầy, nếu các con thi hành những điều Thầy truyền.

"Thầy không còn gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm; Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết.

Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt, để các con đi và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại, để những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con. Thầy truyền cho các con điều này là: các con hãy yêu mến nhau.”

TRUYỆN KỂ

1. Ở lại trong tình thương của Thầy

Mẹ Têrêsa, nhà truyền giáo của tình thương bác ái. Mẹ bắt đầu sứ mạng của mình mỗi ngày, trước lúc rạng đông, Mẹ đến trước Thánh Thể Chúa.

Trong thinh lặng của sự chiêm ngắm, găp gỡ Thiên Chúa, Mẹ lắng nghe vang dội lời nói của Chúa Giêsu trên thập giá: “Ta khát.” Lời kêu vang này, được đón nhận trong cõi thâm sâu của tâm hồn, đã thôi thúc Mẹ tiến đi trên các đường phố ở Calcutta, Ấn Độ và khắp nơi trên thế giới, để đi tìm Chúa Giêsu trong người nghèo, người bị bỏ rơi, người hấp hối sắp chết.

Mẹ Têrêsa sống tình yêu, trao ban tình yêu cho những người bất hạnh nhất như lệnh truyền của Chúa Giêsu: Yêu thương anh chị em chung quanh như Ngài đã yêu thương chúng ta.

2. Người thợ giờ thứ mười một

+ Chúa luôn có cách của Ngài, và cách của Ngài không bao giờ giống ai.

+ Thánh Matthia chính là Tông đồ giờ thứ mười một. Không ai nghĩ ông là sẽ Tông đồ nếu không có sự phản bội của ông Giuđa.

+ Ơn gọi mỗi người một cách, mỗi người một vẻ, không ai giống ai nhưng ai cũng đặc biệt và duy nhất.

+ Chúa luôn CHỌN- GỌI- chúng ta mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút.

BÀI HỌC:

+ Đức Hồng Y Thuận đã từng nói: “Thiên Chúa luôn viết thẳng trên những đường cong.”

+ Ông Giuse trong Cựu Ước thì nói: “Thiên Chúa biến sự dữ của anh em làm với tôi thành sự lành.”

+ Thiên Chúa làm cho mọi sự trở nên sinh ích lợi cho những ai yêu mến Người.

+ Trong mọi sự, chúng ta phải nhìn thấy được thánh ý Chúa muốn gì trên cuộc đời của ta? Trên sự việc xảy ra và trên cuộc sống này?

Lạy Chúa, con cảm tạ ơn Chúa đã chọn và gọi chúng con. Xin cho chúng con luôn là những người môn đệ trung tín, dù là người thợ giờ thứ mười một. Amen.

3. Còn trái tim

Năm 1974, ông Jacques Lebreton được 78 tuổi, mới được Đức Giám mục địa phận Beauvais nước Pháp truyền chức Phó tế cho.

Người ta thắc mắc:

- Trước đây ông là một đảng viên cộng sản vô thần, vì một tai nạn xe hơi, ông đã bị cụt hai tay, và mù cả hai mắt! Chức Phó tế cần phải đọc sách mới có khả năng giảng. Mắt đâu? Cần rửa tội cho người ta. Tay đâu? Thế thì truyền chức Phó tế cho ông để làm gì?!

Đức Giám mục trả lời:

- Jacques Lebreton còn trái tim.

Quả thực, sau khi lãnh Phó tế, thầy Jacques Lebreton đã giảng mỗi năm khoảng 200 bài Thánh Kinh trong các trường đại học, được rất nhiều sinh viên ca tụng.

4. Thí mạng vì người mình yêu

Ngày 30 tháng 7 năm 1941, trong trại giam Varsovie (Balan) của Đức Quốc Xã, một tù nhân bỏ trốn, và theo quy luật của trại giam, thì cứ một người bỏ trốn, sẽ có 10 người tù phải chết thay bằng cách để nhịn đói và khát. (Hình khổ đáng sợ nhất là phải chết vì không được uống nước). Ngày hôm sau, khi các tù nhân đã xếp hàng. Viên giám thị nhà giam tuyên bố: không tìm thấy tù nhân đã bỏ trốn. Tuyên bố thế có nghĩa là 10 người sẽ phải chết thay cho tù nhân bỏ trốn đó. Rồi viên giám thị liếc mắt chỉ vào từng người: tên này, tên này, một người bị chỉ kêu lên: “Ôi vợ tôi, ôi con tôi ơi!”

Mười người được sắp hàng riêng, để đi về trại Ausehwitz; các tù nhân khác thoát nạn, thở phào nhẹ nhõm… Bỗng xẩy ra một việc bất ngờ: một người trong nhóm tù thoát chết ra khỏi hàng, và tiến về viên giám thị, mọi người hồi hộp chờ đợi. Viên giám thị quát lớn: “Đứng lại!”

Người đó đứng lại và nói với viên giám thị: “Anh có thể cho tôi chết thay cho một người.”

Viên cai ngục bỡ ngỡ hỏi: “Anh là ai?”

- Tôi là một linh mục công giáo, tôi tên là Maxillianô Kolbe, tôi muốn chết thay cho một người.

- Anh muốn chết thay cho ai?

- Tôi muốn chết thay cho người này (Cha Kolbe chỉ vào người vừa than khóc)

- Tại sao?

- Vì tôi không cần cho ai nữa, trong khi ông này còn cần cho gia đình.

Viên giám thị suy nghĩ, và rồi ngoắc tay đồng ý. Cha Kolbe gia nhập số 10 người lãnh án tử còn ông Gajouwniczek được trở về hàng ngũ những người thoát chết. Nhà tù Auschwitz lần này, khác hẳn với những lần trước, người ta không nghe tiếng la hét, nguyền rủa, thất vọng, nhưng là những câu kinh, cả tiếng ca hát, cho đến lúc chín người tắt thở. Nói chín người, vì tới ngày 14 tháng 8 năm 1941 tức là hai tuần lễ sau, khi quan Phát xít Đức vào dọn các xác chết đem đi hỏa thiêu thì cha Kolbe vẫn còn thoi thóp thở. Người ta đã kết thúc đời Ngài bằng một mũi chích các bon và xác ngài cũng bị đem hỏa thiêu với xác các tử tù kia. Cha Maxillianô được phong Hiển Thánh ngày 10 tháng 10 năm 1982. Chính ông Gajouwniczek cũng có mặt trong hai buổi lễ này.

5. Yêu như Chúa yêu

Đức Cha Roncalli làm đại diện tông tòa tại Bulgari từ năm 1925 tới năm 1934. Trong những năm đó công việc của ngài rất khó khăn phức tạp. Ngài có trách nhiệm cả một vùng rộng lớn đang sôi động về chính trị, chia rẽ về mặt tôn giáo. Có những chia rẽ tầm trọng giữa Công Giáo, Tin Lành, Chính Thống Giáo và Hồi Giáo. Mặt khác trong Giáo Hội địa phương, lại có sự chia rẽ giữa linh mục triều và tu sĩ dòng… Trong thời gian này, Đức Tổng Giám Mục Roncalli nhận được một bức thư nặng lời chê trách, trì trích ngài về mọi mặt, do một linh mục bất mãn viết. Đọc thơ xong, Đức Cha Roncalli không nói một lời, cũng không hề tỏ ra một cử chỉ nào ác cảm với linh mục đó.

Thời gian trôi qua, ngài giữ chức sứ thần tòa thánh tại Paris từ năm 1945 tới 1952 rồi làm Hồng Y Giáo Chủ ở Venise từ năm 1953 tới năm 1958 và sau cùng đắc cử Giáo Hoàng với danh hiệu là Gioan XXIII năm 1958.

Khi ngài đắc cử Giáo Hoàng, thì vị linh mục bất mãn viết thơ cho ngài trước đây, vẫn còn sống. Gặp dịp giáo dân trong vùng tổ chức một cuộc viếng thăm Rôma, để yết kiến Đức Giáo Hoàng là vị tổng giám mục yêu quý của họ ngày xưa, linh mục này, cũng ghi tên trong phái đoàn. Đến Rôma, ngài lại xin đặc ân được tiếp kiến Đức Giáo Hoàng. Lời thỉnh cầu đó được Đức Giáo Hoàng XXIII chấp thuận. Sau đây là lời chính linh mục:

“Trong lúc đứng ở phòng khách trên lầu cao Vatican, để đợi tới phiên được vào triều yết Đức thánh Cha, đầu óc tôi cứ nghĩ tới bức thư bất mãn năm xưa, và lòng tôi vô cùng hối hận, tôi thầm nghĩ đã mấy chục năm trôi qua, giờ đây chắc Đức Thánh Cha không còn nhớ gì. Lòng tôi cảm thấy xao xuyến, hồi hộp, hy vọng nếu ngài còn nhớ, thì chắc lòng nhân hậu ngài cũng bỏ qua cho tôi… Đang lúc suy nghĩ miên man, bỗng cửa mở. Đức Ông phụ tá dẫn tôi vào. Vừa thấy tôi, Đức Thánh Cha đã niềm nở, đưa tay bắt và mời ngồi. Ngài ân cần hỏi thăm công việc mục vụ của tôi, của giáo phận, và bùi ngùi nhắc tới các bạn cũ năm xưa. Ngài thương nhớ tất cả, như thể xứ sở tôi cũng là quê hương ngài vậy.

“Lúc đó lòng tôi khấp khởi mừng thầm, vì chắc Đức Thánh Cha đã quên hẳn bức thư hỗn láo năm nào… Câu truyện vẫn tiếp tục trong bầu không khí vui vẻ thân tình; bỗng tôi thấy ngài đưa tay với lấy cuốn thánh kinh, vừa từ từ mở ra, ngài để trước mắt tôi bức thư, tôi đã trì trích, thóa mạ ngài. Tôi xấu hổ và sợ hãi quá. Có ai ngờ đã mấy chục năm trôi qua, mà bức thư không tốt đẹp gì đó, ngài vẫn còn giữ. Tôi đang lúng túng, âu lo thắc mắc, thì Đức Thánh Cha đã cầm lấy tay tôi và dịu dàng bảo: “Con đừng bận tâm, Cha không bao giờ giận con. Cha cảm ơn con, Cha cũng là người, thì cũng yếu đuối, Cha để lại bức thư con vào cuốn thánh kinh, để khi có dịp, Cha đọc lại là xét mình, hầu có thể dứt khoát với những khuyết điểm còn tồn tại, và xa lánh những lầm lỡ có thể xẩy ra đến trong tương lai. Mỗi lần cha đọc thư này, cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con.

“Tôi lấy lại bình tĩnh, nhận quà ngài trao tặng. Ngài còn chúc lành cho tôi, và ôm hôn từ giã tôi.

“Tôi ra về, lòng không bao giờ quên được chân dung của một vị Giáo Hoàng hiền lành, khiêm nhường đến thế.”

Giữ một bức thư chê bai, trì trích, thóa mạ mình, để rồi coi đi coi lại, qua nhiều năm tháng, nhằm mục đích sửa đổi những khuyết điểm của mình, và cầu cho ngừoi thóa mạ mình, là một hành vi anh hùng, đầy tự chủ, đầy thánh thiện.

Chúng ta chỉ mến Chúa thực sự khi ta biết yêu người, tha thứ lỗi lầm kẻ khác và luôn luôn cư xử độ lượng với nhau.

6. Yêu như Chúa yêu

Gene Stallings, huấn luyện viên bóng đá hàng đầu của trường đại học Alabana đã ngất xỉu khi bác sĩ nói rằng Johnny, đứa con trai duy nhất của ông được sinh ra với hội chứng Down (chậm phát triển). Điều này đã xảy ra cách đây 30 năm. Ngày nay, Stallings xem việc sinh ra Johnny là một trong những món quà lớn của đời ông. Johnny đã dạy ông thế nào là tình yêu đích thực.

Stallings nói về đứa con trai của mình: “Tất cả tình yêu của nó là vô điều kiện. Nó không cần được ghi công. Nó hoàn toàn không vị kỷ.” Stallings nói nếu ông có thể thay đổi số phận và được một đứa bé bình thường, ông cũng không thay đổi: “Johnny là một phần lớn cuộc đời tôi. Tôi không đổi thứ gì. Tôi cảm thấy mình được chúc phúc.”

Tôi học được gì về tình yêu từ một vài thành viên trong gia đình tôi?

Quyết định từ bỏ bản thân để yêu thương là chuyện lâu dài cả đời (Elisabeth Stone).

7. Yêu như Chúa yêu

Thi sĩ người Anh Leigh Hunt viết một bài thơ mang tên: “Abou ben Adhem.” Một đêm nọ, Abou thức giấc và thấy một thiên thần đang viết vào sổ tên những người yêu mến Thiên Chúa nhất. Abou hỏi: “Có tên con không?” Thiên thần đáp: “Không, không có đâu!” Lúc đó, Abou nói với thiên thần hãy viết rằng ông là người yêu thương anh em nhất. Thiên thần liền viết rồi biến mất. Đêm hôm sau, thiên thần lại đến trong ánh quang rực rỡ và chỉ tên những người được Thiên Chúa chúc phúc, và này tên của Ben Adhem đứng đầu sổ.

Nếu tôi hỏi thiên thần như Abou đã hỏi, thiên thần sẽ trả lời tôi như thế nào? Và tôi sẽ đáp lại thiên thần ra sao?

Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong các anh em bé nhỏ nhất... là các ngươi đã làm cho chính Ta (Mt 25,40).

8. Chúa bán hạt giống

Vào một đêm nọ, người phụ nữ nằm mơ. Chị thấy mình bước vào một siêu thị. Khách hàng tấp nập. Có một quày hàng đặc biệt, người ta chen chân không lọt. Chị ngạc nhiên thấy Chúa Giêsu đứng bán ở quày hàng này.

Chờ đợi đến phiên mình, chị hỏi: “Chúa mà cũng bán hàng sao? Chúa bán cái gì ở đây vậy?”

Chúa trả lời: “Ta bán mọi sự con đang ước muốn trong trái tim con.”

Chị nói liền một hồi: “Thưa Chúa, con muốn có bình an, có tình yêu, có hạnh phúc, có khôn ngoan và tự do không sợ hãi. Suy nghĩ một lúc, chị lại thêm: không chỉ cho con mà thôi nhưng còn cho chồng, cho con và cho những người thân yêu của con nữa.”

Chúa mỉm cười và nói: “Hỡi con yêu dấu, ở đây, Ta không bán hoa trái mà chỉ bán hạt giống thôi.” (Anthony de Mello).

Lễ Đức Mẹ đi viếng bà Isave

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1. truyện

Lời Chúa tuần 7 phục sinh
Thường niên V-GS C-PS Ngoại Lịch