LỄ THĂNG THIÊN NĂM A - Hãy đi giảng
dạy muôn dân
LỄ THĂNG THIÊN NĂM B - Chúa lên trời
THỨ HAI - Cùng hiệp thông với Chúa
THỨ BA - Ngưỡng cửa vào sự sống
THỨ NĂM - Sức mạnh của hiệp nhất
LỄ THĂNG THIÊN NĂM A - Hãy đi giảng dạy muôn dân
Lời Chúa: Mt 28, 16-20
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Matthêu.
Khi ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa, đến núi
Chúa Giêsu đã chỉ trước. Khi thấy Người, các ông thờ lạy Người, nhưng có ít kẻ
còn hoài nghi.
Chúa Giêsu tiến lại nói với các ông rằng:
"Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con , làm
phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi
điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận
thế."
TRUYỆN KỂ
1. Bài chia sẻ của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chia sẻ:
"Chúng ta được qui tụ quanh bàn thờ Chúa
để cử hành việc Chúa lên trời. Chúng ta đã nghe được Lời Chúa: "Các con sẽ
nhận lấy sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ ngự xuống trên các con và các
con sẽ là những chứng nhân của Thầy cho đến tận cùng trái đất."
Từ hai ngàn năm qua, những lời này của Chúa Phục
Sinh thôi thúc Giáo Hội tiến ra khơi, tiến vào trong lịch sử của con người. Những
lời này làm cho Giáo Hội trở nên một người luôn đồng hành với tất cả mọi thế hệ,
làm cho Giáo Hội trở nên như men, làm dậy nên những hạt văn hoá trên thế giới.
Hôm nay, chúng ta nghe lại những lời trên để với sức mạnh được canh tân, chúng
ta đón nhận mệnh lệnh của Chúa "Hãy ra khơi", mệnh lệnh mà Chúa đã
nói với thánh Phêrô. Đây là một mệnh lệnh và tôi đã muốn làm vang dội lại trong
Giáo Hội qua bức tông thư khởi đầu Ngàn Năm Mới. Và đây là mệnh lệnh mặc lấy một
ý nghĩa sâu xa hơn theo ánh sáng của ngày lễ trọng Chúa Thăng Thiên. "Hãy
ra khơi" ra nơi mà Giáo Hội cần tiến đến, không phải chỉ là một sự dấn
thân truyền giáo mạnh mẽ nhưng nhất là và còn là một sự dấn thân mạnh mẽ sống
chiêm niệm.
Như những tông đồ, những kẻ đã được chứng kiến
biến cố Chúa lên trời, chúng ta cũng được mời gọi hãy hướng cái nhìn lên dung mạo
của Chúa Kitô được hiển vinh trong vinh quang Thiên Chúa Cha. Chắc chắn rằng
nhìn ngắm trời cao không có nghĩa là quên đi trần gian này. Và nếu rủi gặp phải
cám dỗ, chúng ta chỉ cần lắng nghe lại lời hai người mặc áo trắng của đoạn Phúc
Âm hôm nay nói rằng: "Tại sao các ông còn nhìn trời?"
2. “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…”
Fritz Kreisler (1875-1962) là một nhạc sĩ vĩ cầm
nổi tiếng khắp thế giới. Ông đã tạo được một cơ nghiệp đồ sộ nhờ các buổi hoà
nhạc và soạn nhạc, nhưng lại hào phóng cho đi gần hết của cải. Do đó, trong một
chuyến lưu diễn, ông tìm được một cây vĩ cầm thanh tú nhưng không đủ tiền mua.
Đến khi ông kiếm đủ tiền và trở lại, thì cây đờn
đã được bán cho một nhà sưu tầm nhạc cụ. Kreisler tìm đến chủ mới của cây vĩ cầm
để xin mua lại. Nhà sưu tầm không muốn bán vì theo ông, nó là một bảo vật quí
giá. Kreisler buồn bã và sắp sửa ra về, bỗng nảy ra một ý: “Xin đàn một lần trước
khi nó bị ký thác cho sự câm lặng."Chủ nhân chấp thuận. Vị nhạc sĩ tài ba
đã làm cho nhà sưu tầm thực sự súc động vì tiếng đàn du dương của mình, đến nỗi
ông ấy phải kêu lên “Kreisler ơi! Tôi, tôi không có quyền giữ chiếc đàn này. Nó
thuộc về ông. Ông hãy đem nó đi khắp thế giới để thiên hạ được thưởng thức âm
thanh của nó."
Lạy Chúa, con cũng không có quyền giữ cho mình
tất cả hồng ân Người đã ban tặng cho con. Tất cả đã được đón nhận thì tất cả
cũng phải được sẻ chia. (Epphata)
3. Sống bác ái
Một bà kia nhìn thấy một bé gái gầy nhom và ăn
mặc rách rưới. Bà cảm thấy bất nhẫn và kêu trách Chúa:
- Sao Chúa chẳng làm gì cả để giúp cho đứa bé
khốn khổ ấy?
- Ta đã làm rồi đấy thôi. Chúa đáp.
- Nhưng Chúa làm gì đâu nào?
- Ta đã tạo dựng nên con ở bên cạnh đứa bé ấy.
(Mark Link, Vision 2000).
4. Ai muốn lên thiên đàng?
Một hôm, trong nguyện đường D.S, một vị giảng
thuyết hỏi giáo dân:
- Những ai muốn lên thiên đàng hãy đứng lên.
Tất cả cử tọa đều nhất loạt đứng dậy, chỉ trừ
một người: anh ta cứ ngồi yên hàng ghế bên cạnh. Vị giảng thuyết liền hỏi anh
ta:
- Thế còn bạn, bạn muốn đi đâu?
Chàng uể oải trả lời:
- Chả đi đâu cả! Tôi muốn được lên Thiên đang
ngay ở đây.
Những người muốn một đời sống dễ dàng thường
quên mất sự kiện này là: để sống dễ dàng, họ đã ỷ lại nhờ vả kẻ khác làm công
việc mà đáng lẽ chính họ phải thực hiện. Nói khác đi, họ muốn đi du lịch mà
không mất tiền (J. Keller, báo Thẳng tiến, số 29, th 01/63).
5. Dùng lời nói để làm chứng cho Chúa:
June là một bé gái 5 tuổi có khuôn mặt đẹp như
thiên thần và rất lanh lợi. Cha mẹ em đều là nhà giáo có lòng đạo đức. Mẹ thường
đem em đi theo mỗi khi bà có việc phải đi ra ngoài. Một hôm, hai mẹ con dắt
nhau vào trong bưu điện thành phố. Đang lúc bà mẹ lo gửi thư bảo đảm cho một
người thân, thì bé June chạy chơi loanh quanh gần đó quan sát người ta làm việc.
Bấy giờ một ông lão ngồi gần đó thấy bé gái kháu khỉnh dễ thương, liền bắt chuyện
làm quen như sau: “Này cháu bé. Cháu có mái tóc đẹp lắm! Mà tại sao mái tóc của
cháu lại đẹp đến thế nhỉ?” Cô bé liền vui vẻ trả lời: “Thưa ông, mẹ cháu dạy rằng:
Chính Thiên Chúa đã ban mọi sự tốt đẹp cho cháu và cháu phải biết tạ ơn Người
nhiều lắm đó!” Nói xong em nhìn thẳng vào mặt ông lão, nhoẻn một nụ cười thật dễ
thương và hỏi: “Thế ông đã được Chúa ban cho điều gì tốt đẹp chưa? Ông có đươc
Chúa ban ơn cứu độ không?" Ông lão kinh ngạc và xúc động trước câu hỏi đơn
sơ của cô bé. Ông ngẩn người suy nghĩ giây lát về tình trạng của mình rồi đáp:
“Chưa đâu, cháu ạ." Em bé liền nói: “Thế thì ông phải cầu xin Chúa ban ngay
đi. Rồi Chúa sẽ cho ông trở thành con của Chúa, và ông sẽ được Chúa biến đổi
nên một người mới rất xinh đẹp đó!” Nói xong, bé vội chạy về phía mẹ đang vẫy gọi
ở lối đi bên kia. Ít tuần sau, ông lão tìm đến một nhà thờ xin học giáo lý dự
tòng. Về sau ông cho biết: chính câu nói đơn sơ của cô bé hôm ấy đã đánh động
tâm hồn vốn chai lì của ông, và luôn ám ảnh khiến ông không thể quên được. Cuối
cùng ông đã quyết định phải theo đạo để được trở nên con của Thiên Chúa và được
biến đổi nên tốt đẹp như em đã nói.
Câu nói của một bé gái tuy đơn sơ nhưng đã có
sức mạnh khiến một người già cứng lòng phải suy nghĩ và quay trở về với Chúa.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có dám biểu lộ đức tin trước mặt người khác
không? Có dám nói về Chúa cho những người chưa nhận biết Chúa để họ tin Chúa và
đi theo làm môn đệ Người hay không?
6. Truyền giáo cách cụ thể
Trong tác phẩm “Hương rượu mới”, tác giả thuật
lại về giờ phút cuối cùng của cha mình như sau: Bấy giờ cha tôi đang hấp hối
trên giường bệnh. Trong khi tôi chỉ biết ngồi nhìn cha với tâm trạng chán nản
thất vọng, thì một nữ tu Công giáo với dáng người nhỏ nhắn đã bước vào phòng.
Chị đi vòng qua bên kia giường cha tôi đang nằm, cầm lấy tay ông đưa lên vỗ nhè
nhẹ. Sau đó chị hỏi: “Bác có nghe cháu nói không?” Ông cụ gật đầu. Đoạn chị nói
với ông: “Trước đây bác đã tin Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế chưa?” Ông cụ lắc đầu.
Chị nữ tu liền nói: “Bây giờ bác có muốn tin Chúa không?” Ông cụ đáp: “Dạ
có." Thế là chị yêu cầu ông lặp lại theo mình: “Lạy Chúa Giêsu, con tin nhận
Chúa là Đấng Cứu Thế của con. Xin Chúa ban cho con được làm môn đệ Chúa và được
ơn tái sinh làm con Thiên Chúa trên trời. Lạy Chúa Giêsu, xin đón nhận linh hồn
con." Ông cụ lặp lại theo từng câu và sau đó từ từ nhắm mắt qua đời
7. Hướng lòng về quê hương
Những du khách có dịp đi du ngoạn ở miền bắc
nước Tô Cách Lan, thường gặp thấy những đống đá chồng chất lên nhau. Những đống
đá này hàm chứa một ý nghĩa lịch sử cho dân chúng miền đó. Đây là kỷ niệm của
những người dân đã di cư đi nơi khác làm ăn. Người ta kể lại rằng: vì thiếu
công ăn việc làm, dân chúng miền này phải tìm đến những nước công nghiệp như
Canada, Uc hay Mỹ để tìm kế sinh nhai. Khi ra đi, họ thường nhặt một hòn đá của
làng mình và đem theo cho đến khi bóng xóm làng chỉ còn là một chấm mờ ở đàng
sau, họ dừng lại, đặt hòn đá xuống như một kỷ niệm yêu thương cuối cùng để lại
cho quê hương của họ. Rồi hằng năm, vào dịp lễ thánh An-rê, bổn mạng nước Tô
Cách Lan, người dân Tô Cách Lan trên khắp thế giới thường họp nhau lại để tưởng
nhớ tới quê hương mình đã cách xa, và cũng để nhớ đến họ hàng thân thuộc còn ở
lại quê nhà.
Bất cứ một người dân di cư nào cũng đã gói
ghém trong hành trang của mình ít nhiều tình yêu quê hương sâu đậm. Người ta
tìm ra hai nguyên nhân chính yếu đã là những động lực thúc đẩy các cuộc ra đi
này, đó là một đời sống nghèo nàn, cơ cực, đói khát, với những điều kiện quá khắc
khổ, không công ăn việc làm, không bảo đảm tương lai. Và một hấp lực lôi cuốn từ
đàng trước, đó là một đời sống no đủ, sung túc hơn, với những hứa hẹn của một
tương lai tươi sáng, bảo đảm và vững chắc hơn.
Người Kitô hữu cũng có thể được ví như những
người dân di cư đó. Và cuộc ra đi của chúng ta là một cuộc hành hương về nước
trời. Chúng ta cũng có một động lực thúc đẩy từ cuộc sống trần gian đầy vất vả
này, và một hấp lực lôi cuốn của một quê hương hạnh phúc.
8. ‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
1- Theo khoa khảo cổ, năm 370, một nhà thờ đã
được xây trên sườn núi Ô liu, nơi Chúa Giêsu lên trời, bên trong đền thờ có một
tảng đá in dấu chân, người ta tin đó là dấu chân Chúa Giêsu khi lên trời.
Quân Hồi đã phá đổ tường hình bát giác xây
chung quanh đền thờ đó. Năm 1100 nghĩa binh Thánh giá đã xây lại tường thành.
Năm 1200 quân Hồi chiếm lại, biến thành đền thờ Hồi giáo cho đến ngày nay,
nhưng vẫn cho tín hữu Kitô giáo đến kính viếng. Đó là di tích Chúa Giêsu lên trời
còn lại trên mặt đất.
Một di tích khác có giá trị lịch sử chắc chắn
hơn về biến cố Chúa lên trời được ghi lại trong 3 sách Tin mừng Matthêu, Marcô,
Luca và nhất là sách Công vụ Tông đồ và thơ Thánh Phaolô. Ba sách Tin mừng đều
nói: Chúa Giêsu lên trời trước sự có mặt của mười một tông đồ. Sách Công vụ
nói: “Người lên trời trước mặt các ông”, chứ không nói rõ 11 tông đồ. Sau đó
các ông về nhà ở Giêrusalem: “Tất cả đều đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện
cùng với mấy phụ nữ, Đức Maria, mẹ Chúa Giêsu, với anh em Người." Trong những
ngày ấy, Phêrô đứng lên giữa các anh em khoảng 120 người, để chọn một người làm
tông đồ thay thế Giuđa. Số 120 người này chắc chắn có mặt lúc Chúa lên trời.
Sau này Phaolô nói với Giáo đoàn Côrintô rằng:
“Người đã hiện ra với ông Phêrô, rồi với nhóm mười hai, sau đó Người hiện ra với
hơn 500 anh em một lượt, trong số ấy phần đông nay còn sống, nhưng một số đã an
nghỉ” (I Cor. 15, 5-6).
Vậy khi Chúa lên trời có rất đông người chứng
kiến, đó là lúc: “Người đã hiện ra với hơn 500 anh em một lượt."
9. Quảng cáo
Một người đàn ông khi còn sống chuyên môn làm
nghề quảng cáo, đến lúc chết ông ta xuống gặp Diêm Vương. Diêm Vương ân cần hỏi:
“Muốn ở thiên đàng hay hỏa ngục."
Người đàn ông ngập ngừng đáp: “Chưa thấy thiên
đàng hay hỏa ngục như thế nào thì làm sao mà chọn."
Diêm Vương bèn dẫn ông ta đến một nơi và chỉ
cho thấy cảnh thiên đàng: đó là một nơi mát mẻ, yên lặng, người người đi đi lại
lại, nói chuyện nhẹ nhàng, chơi cờ thanh thản…
Đoạn dẫn đến một nơi gọi là hỏa ngục thì thấy
vui nhộn hơn, có những đám ăn nhậu với đủ thứ thức ăn và rượu ngon, có cả văn
nghệ với điệu nhạc xập xình, có các cô đào trẻ đẹp múa hát…
Sau khi đã nhìn thấy hai nơi rồi, ông ta mau mắn
trả lời: “Ở thiên đàng buồn quá, tôi thích chọn hỏa ngục vui hơn."
Thế là Diêm Vương sai hai thằng quỉ ném ông ta
vào hỏa ngục. Vừa đến nơi ông ta la hoảng lên vì nóng quá, chả có văn nghệ, chả
có ăn nhậu gì cả, mà chỉ thấy toàn lũ quỉ đen, nham nhở đang hành hạ các tội
nhân. Ông ta sững sờ quay lại hỏi Diêm Vương:
“Thế hỏa ngục lúc nãy Ngài cho tôi thấy nó ở
đâu?"
Diêm Vương khoái chí cười ha hả đáp: “Ngu ơi
là ngu, quảng cáo mà con!"
Đời là thế đấy! đúng là “sinh ư tử nghiệp” “sống
sao thác vậy."
Nói một cách rõ ràng hơn thì người đàn ông
trong câu chuyện đã bị “gậy ông đập lưng ông” vì khi còn sống ông ta đã dùng
mánh khóe, xảo thuật để quảng cáo đánh lừa người khác làm lợi cho mình. Đến khi
chết đi, ông ta vẫn mang dòng máu tham lam, ham lợi nên đã bị Diêm Vương cao
tay hơn dùng chính lối quảng cáo đánh lừa ông ta.
LỄ THĂNG
THIÊN NĂM B - Chúa lên trời
Lời Chúa: Mc 16, 15-20
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ
và phán: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật.
Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt.
Và đây là những phép lạ đi theo những người đã
tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, họ đặt tay trên
những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh.”
Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên
trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi
nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những
phép lạ kèm theo.
TRUYỆN KỂ
1. Ngước mắt nhìn trời
"Thứ hai thì ngắm Đức Chúa Giêsu lên trời,
ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời."
Ái mộ những sự trên trời là một ơn ta phải
xin, vì dưới đất có nhiều điều làm ta ái mộ: một người, một vật hay một việc
nào đó.
Ái mộ quá có thể dẫn đến tôn thờ và làm nô lệ.
Trái đất có vẻ đẹp riêng của nó, vẻ đẹp làm dịu lòng ta trong hành trình cuộc đời.
Tiếc thay nhiều lúc vẻ đẹp ấy giữ chân ta lại, không cho ta bước nhanh tới
đích. Lắm khi vẻ đẹp ấy kéo ghì ta xuống, không cho ta ngước lên cao.
Có vẻ trời ở xa, xa như huyền thoại. Có vẻ chỉ
trái đất là có thật, gần gũi. Ta bị hút vào trái đất, đắm đuối mê say, quên
mình chỉ là người tạm trú trên mặt đất.
Chúa về trời, về với thế giới của Cha, điều đó
nhắc ta nhớ đời là một cuộc hành trình mà đích nằm ở phía bên kia. Trời là đích
xa nhưng chi phối những chọn lựa gần. Cần chọn hướng đi, chọn phương tiện sao
cho đạt đích.
Không có trời thì chẳng biết đi đâu! Con người
cần có một trung tâm nằm ngoài mình, thu hút mình, nâng mình lên, kéo mình ra
khỏi cái tầm thường, thực dụng.
Trời là trung tâm của đất. Đất cho con người sự
sống. Trời cho con người lẽ sống. Nếu chỉ biết có đất, con người sẽ rơi vào tuyệt
vọng, vì đất chẳng thể thoả mãn con người.
Nơi lòng mỗi người đều có một mảnh trời riêng.
Mảnh trời này cứ đòi gặp bầu trời cao rộng như gặp lại chốn cũ người xưa. Thế
giới luôn gặp nhiều bế tắc khó khăn vì người ta đứng ở trên trái đất mà giải
quyết.
Cần nhìn trái đất từ trời, để thấy những giải
pháp tận căn, bao quát, hiệu quả. "Sao các ông cứ đứng nhìn trời?"
(Cv 1,11)
Kitô hữu không chỉ khoanh tay ngước nhìn trời,
vì sứ mạng rao giảng Tin Mừng đang chờ đợi họ, vì trái đất còn bề bộn bao việc
phải làm. Sống tận tình cho trái đất mà vẫn ngước lên trời cao, điều đó thật là
một thách đố không nhỏ, nhưng lại là cốt lõi của đời sống Kitô hữu.
2. Ánh sáng từ trời
Một đạo sĩ hỏi các đệ tử: Các con có biết khi
nào đêm tàn và ngày xuất hiện, khi nào ánh sáng tới và bóng tối lui đi không?
Các đệ tử thi nhau trả lời: Thưa thày, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện là khi
từ xa nhìn một đoàn vật người ta có thể phân biệt được con nào là con bò và con
nào là con trâu không? Thày lắc đầu: Không phải. Đệ tử khác trả lời: Thưa thày
có phải ánh sáng tới và bóng tối lui là khi từ xa nhìn vào vườn cây, người ta
có thể phân biệt được cây nào là cây xoài cây nào là cây mít không? Thày vẫn lắc
đầu: Không phải. Thấy không ai trả lời được, thày mới giải nghĩa: Đêm tàn và
ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nào ta nhìn vào mặt người
xa lạ và nhận ra đó là anh em mình.
Thật là khó hiểu. Tuy trên đời ta thấy có nhiều
thứ ánh sáng. Có ánh sáng mặt trăng mặt trời. Có ánh sáng đèn dầu, đèn điện. Có
những ánh sáng như tia X, tia hồng ngoại. Nhưng tất cả những ánh sáng đó chỉ
giúp ta nhìn rõ sự vật. Không thấy có thứ ánh sáng nào soi vào mặt người xa lạ
mà biến người ấy thành người thân của mình.
3. Thắp lên một ngọn đèn
Mẹ Têrêxa là một nữ tu người Anbani, được sai
đến phục vụ người nghèo tại Ấn độ. Đến Ấn độ, thấy người nghèo khổ quá tội nghiệp.
Biết bao người hấp hối ngoài lề đường. Chết rồi xác bị quẳng vào đống rác như
xác thú vật. Biết bao trẻ thơ bị bỏ rơi. Biết bao gia đình chui rúc trong các
căn nhà ổ chuột. Biết bao người đói khát không đủ cơm ăn áo mặc. Mẹ lăn xả vào
phục vụ người nghèo.
Một hôm Mẹ đi thăm một ông già cô đơn trong
căn lều tồi tàn. Bước vào lều Mẹ động lòng thương cảm. Vì tất cả đồ đạc chỉ là
một mớ giẻ rách. Căn lều bụi bặm bẩn thỉu ngoài sức tưởng tượng. Và nhất là ông
già thu mình lại không muốn giao tiếp với ai. Mẹ chào hỏi ông cũng không buồn
trả lời. Mẹ xin phép dọn dẹp căn lều ông cũng làm thinh. Đang khi dọn dẹp, Mẹ
thấy trong góc lều có một cây đèn dầu bụi bám đen đủi. Sau khi lau chùi, Mẹ kêu
lên: Ô, cây đèn đẹp quá. Ông già nói: Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi ngày cưới.
Từ khi bà ấy chết, tôi không bao giờ đốt đèn nữa. Thấy ông đã cởi mở, Mẹ Têrêxa
đề nghị: Thế ông có bằng lòng cho các chị nữ tu mỗi ngày đến thăm và đốt đèn
cho ông không? Ông đồng ý. Từ đó mỗi buổi chiều, các chị tới thăm ông, dọn dẹp
nhà cửa, nói chuyện với ông. Ngọn đèn ấm áp trong căn lều ấm cúng. Ông trở nên
vui vẻ hơn. Ông đã đi thăm mọi người. Mọi người đến thăm ông. Cuộc đời ông vui
tươi trở lại.
Trước kia cuộc đời ông tăm tối không phải vì
ông không thắp đèn. Nhưng vì ngọn đèn trong trái tim ông đã tắt. Trái tim khép
kín nên ông mất niềm tin vào con người, vào cuộc sống. Ông nhìn mọi người như
thù địch. Từ ngày các nữ tu đến đốt đèn đời ông vui lên, sáng lên. Đời ông sáng
lên không phải vì có ngọn đèn dầu hoả soi sáng. Nhưng vì trái tim ông bừng
sáng. Ngọn đèn tâm hồn ông rạng rỡ. Tâm hồn ông cởi mở và ông nhìn thấy mọi người
là anh em. Thứ ánh sáng ấy ta thấy trong Phúc Âm. Khi người Samaritano nhân hậu
cúi xuống săn sóc, băng bó vết thương cho người bị nạn bên đường. Hai người
nhìn nhau. Một làn ánh sáng loé lên. Và họ nhận ra nhau là anh em.
4. Lên trời
Chúa Giêsu lên trời. Trời là chốn linh thiêng
mầu nhiệm lạ lùng. Con người luôn luôn khao khát được lên trời. Đi dưới đất,
bơi trên sông, con người thấy mình thấp hèn quá! Phải làm sao lên được trời
cao, con người mới thỏa mãn được những ước mơ lý tưởng của mình.
Vì thế, ngày 04 tháng 06 năm 1783, lần đầu
tiên, hai anh em Mongolfiers, bay lên trời bằng khí cầu được 500 mét trước hàng
ngàn người. Ngày 12 tháng 04 năm 1961, Gagarine, phi hành gia đầu tiên bay ra
khỏi tầng khí quyển của trái đất trong phi thuyền Vostok I của Liên Xô. Đến
ngày 16 tháng 07 năm 1969 hai ông Armstrong và Aldrin bay lên tới mặt trăng.
Loài người đã hồi hộp theo dõi: các cuộc bay
lên trời của mấy ông đó và mơ ước có ngày cũng được lên trời, nhưng rốt cuộc chuyến
bay nào cũng phải trở về đất, lại phải sống kiếp thân phận bụi đất.
Chỉ có cuộc lên trời của Chúa Giêsu mới giải
thoát con người khỏi kiếp sống lầm than, mới ban sức mạnh thần lực cho con người
lên trời vinh quang muôn đời.
5. Đọc Thánh kinh hằng ngày
Có một người Kitô hữu tầm thường, thấy bên cạnh
mình có một người tự xưng mình là vô thần. Lòng nhiệt thành đã thúc đẩy họ tìm
cách giới thiệu Chúa cho họ. Người này đi mua một cuốn Thánh kinh biếu cho người
láng giềng ấy, hy vọng họ đọc và sẽ nhận ra Thiên Chúa. Người láng giềng vui vẻ
đón nhận và hứa sẽ đọc..
Sau một thời gian, người Kitô hữu sang chơi
nhà láng giềng. tình cờ thấy cuốn Thánh Kinh nằm trong sọt rác. Người Kitô hữu
ngạc nhiên hỏi người láng giềng:
- Sao ông không đọc Kinh thánh? Nếu đọc, ông sẽ
nhận ra Thiên Chúa.
Người láng giềng lạnh nhạt trả lời:
- À suốt trong 10 năm qua, mỗi ngày tôi đều đọc
cuộc sống của anh!!!
Câu chuyện kết thúc ở đây. Chúng ta hãy suy
nghĩ về câu trả lời của người láng giềng vô thần ấy. Chúng ta hãy suy nghĩ xem,
người vô thần ấy muốn nói gì?
Có một bài viết ngắn về điều này:
“Tôi là cuốn sách Kinh thánh đối với người
hàng xóm của tôi; người đó đọc tôi mỗi khi gặp tôi.
Hôm nay, anh ta đọc tôi trong ngôi nhà của
tôi, ngày mai, anh ta đọc tôi trên đường phố.
Anh ta có thể là một người họ hàng, một người
bạn, hoặc chỉ là một người quen biết sơ giao mà thôi.
Thậm chí anh ta có thể không biết tên tôi, tuy
nhiên, anh ta vẫn đang đọc Kinh thánh qua cuộc đời của tôi” (Flor McCarthy).
6. Chiếc kim may
Trong một tu viện nọ có một tu huynh sắp qua đời.
Khi thấy anh em trong nhà quây quần bên mình, thì ngỏ ý:
- Xin anh em đưa cho tôi chìa khoá để vào
Thiên đàng.
Nghe vậy, một anh em chạy đi lấy cuốn Kinh
thánh trao cho tu huynh, nhưng ông ta lắc đầu.
Một anh em khác trao cho tu huynh cây thánh
giá, một anh em nọ lại đem đến tràng hạt Mân côi. Nhưng tu huynh vẫn lắc đầu.
Thế rồi, một anh em kia chợt nhớ ra rằng suốt
đời tu huynh ấy đã cặm cụi lo may vá áo dòng cho anh em, bèn chạy đi tìm cây
kim may và đem đến cho người anh em sắp ly trần. Vừa trông thấy cây kim may đơn
sơ nhỏ bé, vị tu huynh ngồi nhổm dậy, vươn tay ra đón nhận, mân mê cây kim may
nhỏ bé, rồi nhẹ nhàng nằm xuống, nhắm mắt lìa trần, nụ cười vẫn lưu lại trên
môi.
7. Ngây ngất nhìn ngắm
Sách Tông đồ công vụ kể rằng khi Ðức Giêsu từ
từ lên trời thì các môn đệ ngước mắt trông theo, và cứ ngây ngất đứng nhìn về
trời như thế, mãi cho đến khi có hai thiên thần từ đám mây hiện ra nhắc cho các
ông thì các ông mới hoàn hồn trở lại. Tại sao các môn đệ ngây ngất như vậy? Chắc
hẳn là vì cảnh thiên đàng rất là hấp dẫn.
Cũng như một lần kia, 3 tông đồ Phêrô, Gioan
và Giacôbê cũng được thoáng thấy một chút vinh quang thiên đàng khi Ðức Giêsu
biến hình trên núi. Ba ông đó cũng say sưa ngây ngất đến nỗi xin Chúa cho mình
cất lều ở lại mãi trên ngọn núi đó.
Còn Thánh Phaolô sau khi được Chúa cho ngất
trí chiêm ngưỡng cảnh thiên đàng trong một khoảng khắc ngắn ngủi, đã mô tả lại
kinh nghiệm ấy trong bức thư II gửi tín hữu Côrintô như sau "Mắt chưa từng
thấy, tai chưa từng nghe... "
Ở Lộ Ðức năm 1858, một người từ trời xuống là
Ðức Mẹ Maria đã hiện ra cho thánh nữ Bernadette. Sau đó thánh nữ đi tu. Một lần
kia có một em bé đơn sơ hỏi thánh nữ "Thưa Ma sơ, Ma sơ đã được thấy Ðức Mẹ,
chắc là Ðức Mẹ đẹp lắm nhỉ?" Thánh nữ trả lời với em bé bằng một lời diễn
tả cũng rất đơn sơ "Ðẹp lắm con ạ, đẹp đến nỗi ai đã thấy được một lần thì
chỉ mong chết để lại được thấy nữa.”
Còn ở Fatima năm 1917, Ðức Mẹ hiện ra cho 3 em
Luxia, Phanxicô và Giaxinta. 3 em đó cũng đơn sơ hỏi Ðức mẹ "Thưa Bà, Bà ở
đâu đến vậy?" Ðức Mẹ đưa tay lên cao và nói "Từ trời xuống.” 3 em liền
xin "Vậy xin Bà cho chúng con cũng được lên trời đi.” Ðức Mẹ mỉm cười đáp
"Phanxicô và Giaxinta thì Ta sẽ cho về trời trong một ngày gần đây; còn
Luxia thì hãy chịu khó ở lại trần thế này một khoảng thời gian nữa. Kể từ ngày
đó 2 em kia lúc nào cũng mơ ước tới ngày được lên trời. Dù sắp chết 2 em cũng
chẳng chút lo sợ, lại còn mừng vì mình sắp được lên trời.
8. Con đường về Trời
Thủ lãnh của một bộ tộc kia nằm hấp hối trên giường.
Ông cho gọi ba người có thể thay thế ông và nói:
- Ta phải chọn một người kế tục. Các ngươi hãy
leo lên đỉnh núi linh thiêng của chúng ta, và mang về cho bộ tộc một món quà
quí giá nhất.
Người thứ nhất trở về đem theo một thỏi vàng lớn.
Người thứ hai mang về viên ngọc vô giá. Còn người thứ ba trở về với hai bàn tay
trắng. Hết sức ngạc nhiên, vị tù trưởng mới hỏi:
- Món quà quí giá của ngươi đâu?
Người này điềm tĩnh trả lời:
- Khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở phía
bên kia một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể hưởng một cuộc sống
sung túc tốt đẹp.
Người tù trưởng nói:
- Ngươi sẽ nối nghiệp ta. Ngươi đã mang về món
quà quí giá nhất: Một viễn tượng tương lai tốt đẹp.
9. Lôi kéo trong tâm hồn
Ngày xưa, một đạo sĩ gọi 6 người đệ tử của
mình lại và bảo họ hãy đi khắp nơi chiêu mộ môn đệ. Một thời gian sau, tất cả đều
trở về.
- Người thứ nhất trở về với 500 môn đệ. Khi được
hỏi bằng cách nào anh chiêu mộ được số môn đệ đông như thế, anh trả lời:
"Con rảo khắp mọi nơi nghèo nàn và hứa sẽ chu cấp mọi nhu cầu cần thiết
cho ai theo đạo của chúng ta"
- Người thứ hai đem về 400 môn đệ. Anh nói:
"Con hứa ai theo đạo thì sẽ được phúc thiên đàng.”
- Người thứ ba đem về 300 môn đệ. Anh nói:
"Con đe dọa rằng nếu ai không theo đạo thì sẽ bị phạt trong hỏa ngục. Thế
nhưng người ta không tin lắm. Cho đến một hôm con đã nguyền rủa một con chó
điên khiến nó chết liền tại chỗ. Thấy thế những người này đã theo con.”
- Người thứ tư đem về 200 môn đệ. Anh nói:
"Con tìm đến những người đơn sơ ít học và dùng nhiều lý luận khiến họ say
mê và đi theo.”
- Người thứ năm đem về 100 môn đệ. Anh nói:
"Ðây là những người trẻ. Họ đang chờ một người lãnh đạo họ. Con đã thuyết
phục họ đi theo con và họ đã theo. Con nghĩ rằng nếu mình không chiêu mộ họ thì
cũng có những messia giả đến chiêu dụ họ mà thôi.”
- Người thứ sáu chỉ đem về 12 môn đệ. Anh giải
thích: "Con không thể gieo những hạt giống ngay mà phải chờ, vì đang là
mùa đông, phải đợi đến lúc tuyết tan thì đất mới mềm và gieo mới được. Thế là
con chờ. Ðang lúc chờ như thế, con kết bạn với một số người. Con cố gắng sống
cho họ thấy cách sống của đạo chúng ta. Và con cũng chia sẻ cuộc sống của họ.
Ðang khi chia sẻ cuộc sống như thế, con khám phá rằng họ rất coi trọng tự do đến
nỗi nếu tước mất tự do của họ thì cũng là tước đi phẩm giá của họ. Con cũng học
được nơi họ những điều tốt, chẳng hạn họ rất quảng đại và không sợ hy sinh. Con
thành thật nói cho họ biết cái giá phải trả nếu muốn theo đạo chúng ta, nhưng
con nhấn mạnh rằng nếu họ theo đạo chúng ta thì họ có thể làm được nhiều điếu tốt
cho tha nhân và cho Thiên Chúa. Xem ra những điều con nói đã làm họ cảm động.
Tuy nhiên khi đến lúc phải quyết định thì chỉ có 12 người này chịu theo con.”
Vị đạo sĩ khen người thứ sáu này.
Năm người trước đã giảng đạo bằng cách khai
thác sự yếu đuối và sợ hãi của người ta. Những cách đó thật quá dễ, nhưng lại
xâm phạm đến tự do nên người ta có theo đạo cũng vì miễn cưỡng. Còn người thứ
sáu thì biết kêu gọi thiện chí bằng cách kết bạn với người ta và thuyết phục họ
bằng chính gương sống của mình. Cách này tuy chậm và khó nhưng kết quả sẽ vững
chắc và lâu bền. (Viết theo Flor McCarthy)
10. Chuyển vị trí hiện diện
Chuyện kể rằng khi Đức Giêsu về trời, Tổng
lãnh Thiên thần Gabriel ngạc nhiên vì Ngài trở về sớm quá. Gabriel biết rằng
công việc Chúa Cha giao cho Đức Giêsu rất nhiều, không thể kết thúc trọng thời
gian chỉ có 3 năm như thế. Bởi vậy Tổng lãnh Thiên Thần hỏi:
- Sao Chúa về sớm vậy?
- Ờ, Ta cũng muốn ở dưới đó lâu hơn. Nhưng mà
họ đã đóng đinh ta.
- Đóng đinh Chúa ư? Vậy là Chúa thất bại rồi!
- Không hẳn vậy. Trước đó Ta đã kịp lập một
nhóm tín hữu. Từ nay về sau, họ sẽ tiếp tục công việc của Ta.
- Nhưng nếu họ cũng thất bại nữa thì chắc là
tiêu tùng luôn rồi!
- Không đến nỗi vậy đâu, vì một đàng Ta đã hứa
sẽ ở cùng họ cho đến ngày tận thế, và đàng khác Ta còn phái Thánh Thần đến giúp
họ nữa.
- À ra thế. Chắc là sẽ không thất bại nữa.
11. Thiên quốc ở trong lòng
Một tu sĩ sống cuộc đời hạnh phúc và an vui
trong bốn bức tường của Tu viện. Đời sống tu trì đã biến đổi cuộc đời và tâm hồn
của ông trở nên tốt lành, đến nỗi mọi người đều gọi ông là ông thánh nhỏ.
Ngày nọ, đang lúc ông vừa bắt tay vào rửa chén
dĩa, thì một thiên thần hiện ra và nói:
- Thiên Chúa sai ta đến để báo cho ngươi biết
là giờ ngươi lìa đời đã đến.
Tu sĩ vẫn điềm nhiên và vui vẻ trả lời:
- Tạ ơn Chúa đã thương nghĩ đến tôi, nhưng như
ngài thấy đó, tôi còn phải rửa hàng chồng chén dĩa, tôi không muốn tỏ ra vô ơn
với Thiên Chúa, nhưng liệu giờ tôi được hưởng nhan thánh của Người có thể hoãn
lại sau khi làm xong bổn phận rửa chén dĩa này không?
Nói xong, Thiên thần biến đi. Tu sĩ trở lại
công việc bổn phận một cách hăng say như quên hẳn việc gặp gỡ Thiên thần.
Bẵng đi một thời gian, trong lúc vị tu sĩ đang
làm cỏ ngoài vườn, Thiên thần hiện ra. Như đoán trước ý nghĩ của Thiên thần, vị
tu sĩ giơ tay chỉ mảnh đất trong vườn và nói:
- Đây ngài xem, cỏ dại mọc đầy vườn, liệu giờ
tôi vào cõi đời đời có thể hoãn lại cho đến khi tôi làm xong cỏ không?
Cũng như lần trước, Thiên thần chỉ mỉm cười rồi
biến mất.
Một ngày nọ, trong lúc vị tu sĩ đang chăm sóc
các bệnh nhân, thì Thiên thần hiện ra. Lần này vị tu sĩ không nói một lời,
nhưng chỉ giơ tay chỉ vào các bệnh nhân nằm trên giường. Thiên thần biến đi
không nói một lời nào. Chiều đến, vị tu sĩ trở lại căn phòng nhỏ bé đơn sơ của
mình, bỗng chốc, ông cảm thấy mình đã già nua, mệt mỏi; ông thốt lên lời cầu
nguyện:
- Lạy Chúa, xin sai Thiên thần Chúa đến, con sẽ
sẵn sàng theo Ngài.
Lời cầu nguyện vừa dứt, Thiên thần Chúa hiện đến.
Vị tu sĩ mừng rỡ:
- Lần này, nếu Thiên thần mang tôi đi, tôi sẵn
sàng theo ngài về thiên quốc ngay.
Thiên thần nhìn tu sĩ với tất cả âu yếm và
nói:
- Này ông thánh nhỏ ơi, sao còn mơ ước về
thiên quốc, những ngày tháng vừa qua, ông nghĩ là mình đã ở đâu vậy?
12. Làm việc cho đời sau
Đền thờ Thánh Phêrô ở Roma là một trong 8 kỳ
quan lớn của Thế giới. Trong tháng năm năm thánh 2000 có 3.000.000 người hành
hương về nơi đây. Trong ngôi đền thờ này có một nhà nguyện nhỏ: Đó là nhà nguyện
Sixtine rất nổi tiếng vì nơi đây được dùng làm nơi bầu Giáo Hoàng. Trên trần
ngôi nhà nguyện này có một bức họa rất nổi tiếng của nhà danh họa Michelangelo.
Vào thế kỷ XV, khi đền thờ Thánh Phêrô được
xây dựng, thì người ta đã chú trọng một cách đặc biệt đến ngôi nhà nguyện này.
Một hôm kia Đức Thánh cha Sixtô thứ IV vào tham quan công trình, thấy Michel
Ange đang nằm ngửa lên để tô vẽ bức ảnh, Đức Thánh cha có hỏi ông:
-Này Michel Ange, chừng nào ông mới hoàn thành
công việc đây?
Từ trên giàn gỗ, nhà danh họa đáp lại:
-Chừng nào còn có thể!
Vị Giáo Hoàng dường như mất hết kiên nhẫn:
-Thế ông có biết là ông đã bắt đầu mấy năm rồi
chưa? Thế mà tôi vẫn chưa thấy gì hết...
Một cách điềm tĩnh, Michelangelo trả lời:
-Thưa Đức Thánh cha, con không làm việc cho đời
tạm này, mà cho đời sau...”
13. Tự hào về niềm tin
Một vị tuyên uý quân đội người Mỹ vừa giảng một
bài cho các binh sĩ Mỹ trong một thánh lễ tại một giáo đường ở Châu Âu. Chủ đề
của bài giảng là: “Hãy tự hào về đức tin công giáo của bạn; Đừng xấu hổ khi phải
công khai tuyên xưng nó.”
Sau thánh lễ, một lính thủy do rất xúc động vì
bài giảng đã chận vị tuyên uý ngay trước cửa giáo đường và hỏi; “Thưa cha, cha
có bằng lòng nghe con xưng tội không?” Vị tuyên uý trả lời: “Tôi rất sung sướng
được nghe anh xưng tội.” Thế là chàng lính thủy quì ngay xuống lối đi bên cạnh
ngay trước giáo đường. Vị tuyên uý vội nói; “Đừng quì gối kẻo thiên hạ nhìn kìa!”
Chàng lính thủy đáp lại: “Kệ họ, thưa cha, cứ để họ nhìn, con hãnh diện về đức
tin của con.”
14. Công bố Tin Mừng
Ruddell Norris là một chàng trai cần mẫn. Chỉ
tội chàng ta nhút nhát. Nói chuyện với kẻ khác chàng đã thấy là khó khăn rồi,
huống chi phải bàn chuyện tôn giáo với họ. Thế rồi một ngày kia chàng nảy ra một
ý kiến. Ruddell đọc sách khá nhiều và chàng biết có nhiều cuốn sách nói về đức
tin công giáo. Vì vậy chàng quyết định dành riêng một phần tiền tiết kiệm hàng
tuần để mua những cuốn sách ấy. Ruddel để những cuốn sách ấy ở những nơi mà
chàng nghĩ người ta thường cầm chúng lên đọc. Chẳng hạn, ở những phòng chờ đợi
và tiếp khách.
Một hôm, một thiếu phụ vốn là bạn của gia đình
chàng kể cho cha mẹ chàng biết cô ấy đã trở lại đạo thế nào và chồng cô đã trở
về với Giáo hội thế nào. Cô nói: “Tất cả bắt đầu do một quyển sách nhỏ mà tôi
đã tìm thấy tại phòng chờ đợi ở bệnh viện.” Anh chị em có thể tưởng tượng được
chàng trai đã phấn khởi biết bao khi biết được tầm ảnh hưỏng mà chỉ một trong
những tập sách nhỏ của chàng đã tạo ra.
Câu chuyện của Ruddell Morris nhấn mạnh một điều
quan trọng trong việc công bố Tin Mừng: Có nhiều cách để công bố Tin Mừng.
Chúng ta có thể công bố một cách trực tiếp như Ruddell đã làm. Hoặc “công bố” một
cách gián tiếp, chẳng hạn bằng lời cầu nguyện hoặc gíup đỡ tài chính cho các hoạt
động truyền giáo của Giáo hội.
“Các con là muối ướp cho mọi người, nếu muối
nhạt, thì chẳng còn cách gì làm cho nó mặn lại được, nó trở thành vô dụng, chỉ
còn nước ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó.
Các con là ánh sáng cho toàn thế giới, là một
thành phố xây trên một ngọn đồi nên không thể giấu được….
Cũng thế, ánh sáng các con phải sáng lên trước
mặt thiên hạ để họ nhìn xem những việc thiện các con làm mà ngợi khen Cha các
con ở trên trời” (Mt 5: 13-16).
15. Nơi Chúa hẹn gặp ta
Thời Trung cổ, có hai tu sĩ tình cờ đọc thấy
trong một cuốn sách cổ chép rằng: ở tận cùng trái đất sẽ có một nơi mà trơi đất
gặp nhau. Họ quyết định ra đi tìm cho bằng được điểm gặp nhau ấy và thề quyết sẽ
không trở về nhà nếu không tìm ra nơi ấy, vì họ đã đọc được trong quyển sách cổ
rằng tại điểm giao nhau giữa trời và đất, một cánh cửa sẽ mở ra và họ sẽ nhìn
thấy Thiên Chúa tỏ tường.
Họ vượt thác băng rừng, không quản ngại hy
sinh. Cuối cùng thì họ cũng đứng trước giao điểm ấy. Với tất cả xúc động, họ
đưa tay gõ vào cánh cửa hẹn hò, cánh cửa mơ ra và họ bỡ ngỡ nhận ra đó chính là
căn phòng của mình. Họ chợt hiểu rằng nơi gặp gỡ giữa trời và đất, nơi hẹn hò
giữa Thiên Chúa và con người không gì khác hơn là chính cuộc sống hằng ngày của
họ.
16. Bài thơ chứng nhân
Chung lời ngợi khen Chúa Con,
Hân hoan thờ kính sắt son một niềm.
Ứng viên của Chúa tình yêu
Nhiệt tâm, nhiệt huyết, đìu hiu xa rời,
Gần gũi, gắn bó đầy vơi
Nghị lực Thần khí, biển trời cậy trông.
Hoạt động hăng say vun trồng,
Ân sủng chan chứa tình nồng thánh ân
Người người chung sức tảo tần,
Ra đi làm chứng, xếp vần yêu thương. Amen.
17. Rao giảng theo cách của thánh Phanxicô
Thánh Phanxicô gọi một thầy dòng cùng đi giảng
với ngài. Hai thầy trò cùng đi các đường phố Assise, cách nghiêm trang, suy tưởng
về Chúa… Về nhà, thầy dòng hỏi cha thánh:
– Giảng ở đâu?
Cha thánh trả lời:
– Giảng là đem Chúa đến bằng gương sáng, bằng
cách sốt sắng mang Chúa trong tâm hồn.
- Cách rao giảng của bác tài xế xe taxi
Một vị linh mục sau chuyến đi du lịch Đài Bắc
trở về đã thuật lại một cách thức làm tông đồ truyền giáo của một bác tài xế xe
taxi ở đó như sau:
“Ngày nọ, tôi đón taxi từ khách sạn đi trung
tâm thành phố Đài Bắc mua sắm quà lưu niệm. Tôi thấy ngạc nhiên khi thấy trong
xe có dán một tờ giấy ghi mấy dòng chữ như sau: “Bạn có thể thấy một vài quyển
sách về tôn giáo ở hộc bên hông xe. Trong khi xe đang chạy, bạn có thể đọc sách
và nếu thích, bạn có thể mang sách theo khi rời khỏi xe mà không phải trả tiền
mua sách.” Tôi tò mò tìm hộc sách và thấy một chục cuốn sách mỏng bằng tranh nội
dung về cuộc đời Đức Giêsu in trên giấy trắng khá đẹp, một ít sách truyện về
các thánh và các danh nhân tôn giáo, một ít cuốn là những câu chuyện về việc sống
đức tin giữa đời thường... Ngoài ra, phía trên tấm kính chiếu hậu trước mặt tài
xế cũng có một ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nhỏ. Tôi mở lời hỏi tài xế:
- Này bác tài, xin vui lòng cho tôi biết hành
khách đi xe có ai quan tâm đến hộc sách đạo của bác không?
- Ồ, có chứ! Có nhiều người đã lấy ra xem, và
có người còn mang về nhà nữa.
Tôi hỏi tiếp:
- Bác có cảm tưởng gì khi thấy người ta đọc
sách do bác giới thiệu?
- Tôi cảm thấy rất sung sướng anh à! Anh biết
không: tôi không có nhiều giờ đi lễ nhà thờ. Vì tôi phải luôn chạy xe để kiếm
tiền nuôi sống gia đình. Do đó, đây là cách làm công tác tông đồ của tôi. Tôi rất
mừng vì đã có thể làm hai công việc một lúc: vừa lái xe lại vừa rao giảng Tin Mừng
mà không phải tốn thêm thời giờ. Tôi nghĩ rằng tôi đang làm một công việc tuyệt
vời!
18. Thánh Gióng
Vào đời Vua Hùng Vương Thứ Sáu có nạn giặc Ân
bên Tàu. Chúng cậy thế mạnh nên hay sang quấy nhiễu nước ta. Vua truyền hịch đi
khắp nơi để tìm người tài giỏi giúp nước diệt giặc.
Bấy giờ ở làng Phù Đổng có một cậu bé đã 3 tuổi
mà chỉ nằm ngửa không nói được một lời nào. Cậu bé được sinh ra do một lần người
mẹ nghèo làng Gióng ra đồng, thấy vết chân to lớn lạ thường nên ướm thử, không
ngờ về nhà thụ thai. Mười hai tháng sau, bà sinh một bé trai khôi ngô tuấn tú,
nhưng thật kỳ lạ là lên ba mà cậu bé vẫn chẳng biết nói, biết cười. Lúc bấy giờ,
giặc Ân đang xâm lấn nước ta. Thế giặc mạnh nên vua rất lo, truyền cho sứ giả
đi khắp nơi tìm kiếm người tài cứu nước. Cậu bé nghe thấy tiếng loa, liền cất
tiếng nhờ mẹ mời sứ giả tới nhà. Gặp sứ giả, cậu bé bảo: “Ông về tâu vua sắm ngựa
sắt, roi sắt, áo giáp sắt, ta sẽ đánh tan lũ giặc này.” Được lời, sứ giả vừa
kinh ngạc, vừa mừng rỡ vội về bẩm báo với nhà vua.
Vua thuận ý. Cậu bé liền vươn vai thành người
to lớn, khỏe mạnh. Chuyện càng lạ hơn nữa khi từ hôm gặp sứ giả, cậu bé lớn
nhanh như thổi, cơm ăn bao nhiêu cũng chẳng no, áo vừa may xong đã căng đứt chỉ.
Mẹ cậu bé phải nhờ đến sự giúp đỡ của bà con trong làng thì mới lo đủ cho cậu.
Khi giặc Ân đến chân núi Châu Sơn (Tiên Du, Bắc Ninh) thì cũng là lúc sứ giả
đem kiếm, áo giáp và ngựa tới cho cậu bé. Cậu bé vươn vai thoắt biến thành một
tráng sỹ mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt. Tráng sỹ mặc giáp, cầm kiếm
và nhảy lên mình ngựa. Ngựa sắt bỗng chuyển động, miệng hý vang. Tráng sỹ thúc
ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp
khác. Roi sắt gẫy, tráng sỹ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc.
Sau khi diệt giặt Ân, Gióng bay đến chân núi
Sóc Sơn, cởi giáp, bỏ kiếm, rồi cả người và ngựa cùng thăng thiên. Từ đó dân
gian mới có câu:
… Làng Phù Đổng có một người
Sinh ra chẳng nói, chẳng cười trơ trơ
Những ngờ oan trái bao giờ
Nào hay thần tướng đợi chờ phong vân….”
Hôm nay chúng ta mừng kỷ niệm ngày Chúa Giê-su
vinh thăng về Trời sau khi hoàn thành sứ mạng cứu độ trần gian. Đây không phải
là một huyền thoại được dựng nên để thỏa mãn lòng người, mà là một sự kiện lịch
sử khẳng định cho chúng ta về một cõi thiên đường..
19. Đời người cần một lẽ sống
Có một gia đình kia: chồng là người ngoại đạo.
Ông không tin Chúa. Ông còn luôn miệng nhạo báng, khinh miệt những hành vi thờ
phượng kính mến Chúa. Ngược lại, bà vợ lại rất sùng đạo. Ngày nào bà cũng dắt
con đi lễ cầu nguyện. Dù sống giữa hai chiều hương trái ngược đối nghịch nhau,
đứa con trai duy nhất của họ vẫn hiếu thảo với bố mẹ. Một hôm em lâm bệnh hiểm
nghèo, em hỏi bố rằng: "Bố ơi! Trong ít ngày nữa con sẽ không còn sống ở
dương gian. Con xin bố dạy con phải tin ai? Theo bố hay theo mẹ? Tin theo bố
thì chẳng có thiên đàng, chẳng có Chúa hay có mẹ để được yêu thương ở đời sau!
Còn tin theo Mẹ thì có Thiên Chúa là Cha nhân lành. Có cõi trời để hưởng hạnh
phúc vĩnh cửu bên Chúa la Cha. Có Đức Mẹ luôn bầu cử chở che?"
Người cha quá sững sờ và kinh ngạc. Ông ôm con
vào lòng và nói: "Con hãy tin theo Mẹ. Con cưng của cha! Đứa bé liền nói
tiếp: "Nhưng nếu bố không tin theo Mẹ, thì làm sao con có thể chờ đợi bố ở
trên thiên đàng được?” Trước lời đơn sơ và chân thành của em bé, người cha đã
không kiềm nổi những giọt nước mắt ứ tràn nơi khoé mắt. Ông đã để những giọt nước
mắt xót xa tuôn rơi trên gò má già nua của mình. Kể từ ngày đó, người cha đã chọn
Chúa là lẽ sống, là Đấng ông tôn thờ.
Vâng, nếu cuộc đời
này sinh ra lớn lên rồi chết đi thì cuộc đời chẳng còn ý nghĩa gì! Con người
sinh ra để được sống mãi chứ không phải để nhào lộn trong bể khổ và chết là hết
kiếp người! Điều quan yếu là chúng ta phải tìm ra lẽ sống, và cùng đích đời người
là gì? Sống để làm gì? Và chết rồi đi đâu? Đó là những vấn đề làm nên nhân cách
con người. Chúng ta chọn cách sống nào cũng tuỳ thuộc vào việc chúng ta hiểu ý
nghĩa và cùng đích đời người ra sao?
20. Quê hương chúng ta ở trên trời
Người ta kể rằng: Năm 1285, quân Nguyên Mông
sang xâm chiếm Đại Việt, Trần Bình Trọng được giao coi giữ Thiên Trường (thuộc
tỉnh Nam Định ngày nay). Khi giặc đánh xuống, vì lực lượng yếu, Trần Bình Trọng
bị bắt, Lý Hằng sai giải đến cho Thoát Hoan. Thoát Hoan thấy Bình Trọng người
cao lớn, dáng đi hùng dũng, nét mặt đường hoàng, không có chút gì là sợ sệt thì
biết không phải là tướng thường, nên muốn khuyên dỗ về hàng, liền tiếp đãi rất
tử tế, mời ăn uống hẳn hoi. Nhưng Bình Trọng không ăn. Hỏi đến việc nước, Bình
Trọng cũng không nói. Sau Thoát Hoan lại hỏi: "Tướng quân có muốn làm
vương đất Bắc không?”
Bình Trọng trả lời: "Ta thà làm quỷ nước
Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc. Nay ta đã bị bắt thì chỉ có chết là
cùng, can gì phải hỏi lôi thôi.”
Thoát Hoan không thuyết phục nổi Trần Bình Trọng
hàng, nhưng vì có ý mến phục, cũng không nỡ giết, cho giải theo quân. Được mấy
hôm, lại sợ Bình Trọng trốn mất, mới sai mang ra chém. Trần Bình Trọng bấy giờ
mới 26 tuổi.
Bình Trọng không bán nước cầu vinh. Bình Trọng
chọn chết vinh hơn sống nhục. Không vì giầu sang hay chức vụ mà sống hèn hạ, sống
lệ thuộc, sống mất tự do. Bình Trọng chọn cái chết để trung thành với quê hương
đất nước. Rất đáng được người muôn thế hệ noi theo.
Là người ky-tô hữu chúng ta cũng có một vương
quốc để yêu mến, để phụng sự. Đó chính là Nước Trời. Đó chính là quê hương đích
thực của đời người chúng ta.
21. Thiên đàng và hỏa ngục khác nhau ở chỗ nào
Một người sùng đạo nói chuyện với Chúa “ Thưa
Chúa, con rất muốn biết Thiên đường và Địa ngục là như thế nào?” Chúa dẫn anh ta
vào hai cái cửa…
Chúa mở cái cửa đầu tiên, người đàn ông nhìn
vào.
Ở giữa phòng có một cái bàn tròn lớn. Ở giữa
bàn có một nồi nước hầm bốc khói nghi ngút trông thật ngon và hấp dẫn.
Nhưng mọi người ngồi xung quanh bàn thì lại gầy
guộc, xanh xao, cứ như là bị bỏ đói từ lâu vậy.
Mỗi người ai cũng đang cầm chiếc thìa có cán
dài được buộc vào cánh tay. Họ có thể với chiếc thìa dài tới nồi nước hầm để
múc, nhưng vì nó dài quá, và bị buộc vào tay, nên họ không thể cho vào miệng
mình được.
Người đàn ông rùng mình trước cảnh tượng khổ sở
như vậy. Chúa nói: “Đấy, con vừa nhìn thấy Địa ngục.”
Tiếp tục họ bước sang phòng thứ hai và mở cửa.
Mọi thứ xung quanh đều giống phòng đầu tiên. Nhưng mọi người ở đây trông thật
to khỏe, no nê, mãn nguyện, cười nói rôm rả.
Chúa nói “Đây chính là Thiên Đường”
Người đàn ông thắc mắc: “Con không hiểu, thưa
Chúa.”
“Đơn giản thôi” – Chúa đáp – “Ở nơi này, mọi
người biết cách đút cho nhau ăn.”
22. Gậy ông đập lưng ông
Một người đàn ông khi còn sống chuyên làm nghề
quảng cáo. Khi ông ta chết, ông ta đến gặp diêm vương. Diêm vương ân cần hỏi
ông: "Muốn ở thiên đàng hay hỏa ngục." Ông ta ngập ngừng đáp. Tôi
chưa thấy thiên đàng hay hỏa ngục như thế nào thì làm sao tôi có thể chọn! Diêm
vương dẫn ông ta đến một nơi và chỉ cho ông ta thấy cảnh thiên đàng. Đó là một
nơi mát mẻ, yên lặng, thanh bình, vui chơi..., người ta ăn nói nhẹ nhàng, lịch
thiệp.
Sau đó, Diêm vương dẫn ông ta đến xem hỏa ngục,
thì ông ta thấy vui nhộn, người ta ăn nhậu, vui vẻ, có các cô gái chân dài, trẻ
đẹp múa hát. Thế là ông ta thích thú. Khi nhìn thấy thiên đàng và hỏa ngục rồi,
ông ta mau mắn trả lời: ở thiêng đàng buồn quá, tôi thích chọn quả ngục vui sướng
hơn.
Thế là Diêm vương sai hai thằng quỷ đưa ông ta
vào hỏa ngục. Vừa đến nơi, ông ta hoảng hốt la hét lên: nóng quá làm sao tôi chịu
nổi, ông ta la hét lên: sao không có ăn nhậu hay các cô gái đẹp gì cả, toàn là
lũ quỷ đen đang hành hạ các tội nhân.
Ông ta tức giận quay lại hỏi Diêm vương. Thế hỏa
ngục lúc ông chỉ cho tôi ở đâu? Diêm vương khoái trí cười trả lời: "Đồ
ngu, đồ thứ tham lam duc vọng, đó chỉ là quảng cáo thôi." Đời là thế đấy!
Và ông cũng làm nghề quảng cáo mà.
Người ta thường nói: "Sinh nghề tử nghiệp.”
Khi còn sống ông ta cũng đã dùng nhiều cách mánh khóe, gian lận, sảo huyệt để
quảng cáo và đánh lừa người khác để làm lợi cho mình. Đến khi chết rồi, ông ta
vẫn còn cái tính tham lam, tính toán, nên bị Diêm vương cao tay đánh lừa ông
ta.
23. Nhân chứng cho đức tin
Bài viết có nội dung như sau và trích từ R.
Veritas:
“Một phụ nữ tên là Mensi đã đăng quảng cáo
trên một tờ báo địa phương như sau: "Nếu bạn cô đơn hay gặp nan đề nào,
xin hãy gọi điện thoại cho toi. Tôi bị liệt phải ngồi xe lăn tay, nên rất ít
khi ra ngoài. Chúng ta có thể trao đổi nan đề với nhau. Mời bạn cứ gọi. Tôi rất
thích nói chuyện với bạn.”
Việc đáp ứng quảng cáo này rất kỳ lạ. Mỗi tuần
bà Mensi nhận được khoảng từ 30 cú phôn, và bà rất mừng. Điều gì thúc đẩy một
người tàn tật ngồi trên xe lăn tay muốn tiếp xúc nói chuyện với những người
khác?
Bà Mensi kể rằng trước khi bị tê liệt bà có sức
khỏe hoàn toàn, nhưng rất tuyệt vọng. Bà đã tự tử bằng cách nhảy từ trên gác
cao xuống đất. Nhưng thay vì chết, bà bị tê liệt từ thắt lưng trở xuống. Nằm
trong nhà thương bà hoàn toàn tuyệt vọng. Nhưng một hôm bà nghe như Chúa Giêsu
nói với ba: "Mensi ơi, trước đây con đã có một thân xác hoàn hảo, nhưng
linh hồn con lại què quặt, Kể từ nay con sẽ có thân xác què quặt, nhưng linh hồn
con kháng kiện.”
Sau khi ra khỏi nhà thương, bà Mensi quyết tâm
dâng đời mình cho Chúa. Bà cầu xin Chúa cho bà được chia sẻ niềm tin của mình với
người khác. Rồi bà đăng báo như đã kể trên đây.
Công việc của bà Mensi xem ra như không có gì
đối với người khác. Nhưng với bà, đó là công việc lớn lao nhất mà một người tàn
tật có thể làm để phục vụ Chúa.”
24. Sự sống đời đời
Khi Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ em ở Fatima, thì
Fanxicô và Giacinta hỏi Đức Mẹ là các em có được lên Thiên đàng không? Đức Mẹ
trả lời hai em sẽ sớm được Đức Mẹ đưa về trời, còn Luxia thì Đức Mẹ cho biết phải
ở lại thế gian lâu hơn để phổ biến sứ điệp Fatima cho toàn thế giới. Quả đúng
như thế, Fanxicô qua đời khi mới 11 tuổi, Giacinta chết khi 10 t, còn chị Lucia
sau vào dòng kín và mãi tới năm 2005 mới qua đời khi đó thọ 98 tuổi
Chị Bernadetta được Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức
năm 1858. Người ta hỏi chị: Đức Mẹ có đẹp không? Chị trả lời Đức Mẹ đẹp lắm, nếu
ai đã được nhìn thấy Đức Mẹ một lần thì sẵn sàng muốn chết đi để được nhìn thấy
Đức Mẹ lần nữa
Bà Emilia Wojtyla là thân mẫu của ĐGH Yoan
Phaolô II, khi bà mang thai thì bác sĩ bảo bà phải phá thai, nếu không bà sẽ chết,
còn con trẻ thì nguy tới tính mạng nhưng cả hai ông bà đều quyết định không phá
thai. Bà sinh rất khó khăn nhưng Chúa cho qua được và khi đứa con 9t bà mới chết,
sau này người con đó trở thành vị thánh Giáo hoàng nổi tiếng trong thời đại
chúng ta.
25. Các đệ tử tiếp tục và hoàn tất
Nhà soạn nhạc vĩ đại người Ý Giacomo Puccini
(1858-1624) đã viết nhiều vở nhạc kịch lừng danh. Năm 1922, lúc ông được 64 tuổi,
thì ông mắc bệnh ung thư. Dầu vậy, ông vẫn quyết định hoàn thành vở nhạc kịch
cuối cùng của mình, tức vở Turandot mà hiên nay nhiều người xem như vở nhạc kịch
hay nhất của ông. Ông miệt mài làm việc ngày đêm. Nhiều người ép ông nghỉ ngơi,
vì theo họ nghĩ, ông không thể nào hoàn tất nổi vở nhạc kịch ấy. Khi thấy căn bệnh
ngày càng nặng hơn, Puccini nói với các đệ tử: "Nếu ta không hoàn tất được
vở Turandot thì các trò hãy cố gắng hoàn tất nó cho ta."
Vào năm 1924, Puccini được học trò đem đến
Bruxelles để giải phẫu, nhưng hai ngày sau cuộc giải phẫu đó, thì ông qua đời.
Trở về Ý, các đệ tử của Puccini nghiên cứu kỹ lưỡng vở Turandot và tiếp tục viết
cho đến lúc hoàn thành trọn vở nhạc kịch đó.
Hai năm sau, vở nhạc kịch được trình diễn lần
đầu tiên tại nhà hát lớn La Scala thuộc thành phố Milan, do Arturo Toscanini,
người học trò ưu tú của Puccini điều khiển. Mọi sự đều trôi chảy tốt đẹp cho đến
khúc nhạc mà Puccini buộc phai ngừng bút. Nước mắt ràn rụa trên khuôn mặt
Toscanini. Anh cho giàn nhạc dừng bản nhạc kịch lại, đặt cây gậy điều khiển xuống
rồi quay về khán thính giả và nói lớn: "Sư phụ chúng tôi đã viết được đến
đây, rồi người qua đời."
Lúc đó toàn thể nhà hát đều im bặt, không cử động.
Sau vài phút, Toscanini cúi xuống cầm gập điều khiển lên, quay về cử tọa mỉm cười
qua dòng lệ rồi thốt lên: "Nhưng các đệ tử đã hoàn tất công việc của người.”
Vở Turandot vừa dứt thì toàn thể khán thính giả vỗ tay ầm ầm như sấm vang. Những
người có mặt lúc đó không thể nào quên được giây phút ấy.
26. Giây phút hiện tại
Gerard Manley Hopkins là một thi sĩ người
Ai-Nhĩ-Lan. Hồi còn trẻ, ông là một giáo sư dạy học tại một học đường của các
cha dòng Tên ơ Wales. Ngày kia ông đang trên đường trở về nhà ở trong cư xá dòng
Tên. Lúc bấy giờ là mùa thu. Hopkins đang ở trong một trạng thái rầu rĩ vì mùa
hè đã qua, mùa đông sắp tới và thời tiết bắt đầu đổi thay.
Nếu ai đã trải qua mùa đông ở Wales thì sẽ rõ
tại sao thi sĩ bị sa sút tinh thần. Tại đây rất nhiều ngày chỉ thỉnh thoảng
sương mù hơi mõng một chút, nhưng phần nhiều trong ngày là một màng sương dày đặc
ẩm ướt bao trùm và nhìn đâu đâu cũng chỉ thấy mờ mịt. Đang khi ông trên đường
trở về nhà, bất chợt Hopkins tự nói với mình: “Hãy thư thả một chút. Mùa hè
không còn đây nữa. Hè đã qua rồi. Mùa đông chưa có ở đây. Mùa đông chưa đến. Vậy
thì mùa gì đây? Đó là mùa thu, mùa của lá rụng và cũng là mùa gặt hái hoa quả.
Hãy mở mắt ra mà xem. Xem vẻ đẹp của hoa lá. Xem mây trôi lơ lững trên nền trời.
Hãy thưởng thức gió mát từ bờ biển Ai-Nhĩ-Lan thổi vào. Đừng bận tâm về điều gì
không còn ở nơi đây nữa. Đừng bận tâm về điều gì chưa xảy tới nơi đây. Hãy ngắm
xem cái gì đang xảy ra bây giờ đây.
“Hãy trân trọng giây phút hiện tại. Hãy trân
trọng vẻ đẹp rạng rỡ đang phô bày trước mắt!”
27. Nước Trời thuộc về những ai tìm kiếm
Có một nhà phú hộ, đầy quyền thế danh vọng ở đời
bỗng nhiên đột quỵ và qua đời. Gia nhân ai nấy đều xúc động, bỡ ngỡ. Người ta
bàn tán xôn xao về cái chết đột tử của nhà phú hộ. Trong đó có một lời bàn gây
nhiều tranh cãi từ một người quản gia của nhà phú hộ. Người quản gia nói rằng:
Theo các anh thì ông chủ chúng ta sẽ đi về đâu?
Các gia nhân đáp: Ông ấy lên trời chứ đi đâu nữa.
Người quản gia nói: Không đâu. Tôi chắc chắn
ông ta không lên trời.
Tất cả đều ngạc nhiên hỏi: Làm sao quản gia biết
là ông chủ không lên trời?
Người quản gia nói: Thường thì đi đâu xa, chủ
của chúng ta thường nói về nước sẽ đi đến và chuẩn bị rất là cẩn thận. Nước trời
là cõi xa xôi, nhưng tôi không bao giờ thấy ông chủ của mình nói gì về nước đó,
cũng không thấy ông ta chuẩn bị gì cả. Làm thế nào mà ông ta vào Nước Trời được!
28. Chúa Giêsu là bác sĩ tâm hồn
Ngày 25/3/2003 tại Sàigòn, một bác sĩ có tên
thánh là Augustino, 50 tuổi được thụ phong linh mục, điều đáng nói vị linh mục
này là một người lương trở lại đạo cách ngày thụ phong 10 năm, lúc đó ngài 40
tuổi, sau khi trở lại đạo, ngài gia nhập tu hội Thánh Vinh Sơn, theo học triết
học và thần học. Bề trên thấy có đủ điều kiện đã thụ phong linh mục cho ngài.
Hiện cha đang làm việc cho một trung tâm dành cho nhưng người mắc chứng siêu vi
đang chờ ngày giờ về thế giới bên kia, trung tâm đó ở Củ Chi cách Sàigòn độ 30
cây số.
Làm sao từ một bác sĩ lương dân có thể trở nên
một người tận hiến cuộc đời cho Chúa và anh em như vậy? Thưa ngài đã được thu
hút bởi các nữ tu Nữ Tử Bác Ái, nhất là từ một nữ tu người ngoại quốc nhưng tận
hiến trọn cuộc đời của mình để yêu thương phục vụ cho người cùi hủi, sau khi tốt
nghiệp chuyên về ngành da liễu, sơ ngoại quốc này đã tình nguyện làm việc tại bệnh
viện Bến Sắn, một bệnh viện công nhưng có các sơ Nữ Tử Bác Ái cùng làm việc.
Trước những hy sinh tận tụy của sơ này và các sơ phục vụ cho các người phong
cùi khác với cả tấm lòng, đã đánh động vị bác sĩ - linh mục này, ngài
nói:"Tôi tự nghĩ trong lòng, tôi có thể chữa lành các vết thương thân xác,
nhưng làm sao tôi có thể chữa lành nỗi lòng cô đơn, bị bỏ rơi của các bệnh nhân
cùi hui này? Từ đó tôi đã tìm hiểu niềm tin Công giáo và tôi đã gặp được vị bác
sĩ của các tâm hồn là Đức Giêsu Kitô.”
29. Một cõi đi về
Có lẽ trong chúng ta, phần đông đều biết đến một
ca khúc của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Ca khúc có tựa đề là "Một cõi đi về":
Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Trên hai vai ta đôi vòng nhật nguyệt
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về.
Mây che trên đau và nắng trên cao
Hôm nay ta đi song còn ở lại
Con tim yêu thương vô tình chợt gọi
Lại thấy trong ta hình bóng con người
..............
Nếu cố nhạc sĩ họ Trịnh đã viết nên lời của ca
khúc Môt cõi đi về này thì tôi tưởng rằng Trịnh Công Sơn đã có một chiều sâu cảm
nghiệm về một cõi, về một nơi nào đó mà người ta phải đi tới, phải đi về. Cõi
đó là cõi nào? Nơi đó là nơi nào?
Tin mừng hôm nay mô tả: " Nói xong, Chúa
Giêsu được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa"(Mc 16, 19)
Như vậy, nếu Trịnh Công Sơn đã nói về một cõi
xa xăm nào đó thì hôm nay, chính Chúa Giêsu đã xác định cõi đó là Thiên Đàng,
là Trời cao. Đó là nơi mà sau bao nhiêu năm Đức Giêsu đã long đong, sau bao
nhiêu năm nhọc nhằn, sau bao lần nếm cảnh nghèo đói, khổ đau, cay đắng và thậm
chí là những thất bại chua cay, giờ đây, Ngài đang bước đến cõi đi về đó. Nơi
đó, cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Nơi hạnh phúc không còn khổ đau,
nơi mà tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối và viên mãn. Nơi mà con người
trở thành bất tử.
30. Lễ Thăng Thiên
Cách đây độ chừng 15 năm, nghĩa là trong những
năm thời trung học phổ thông, con có chứng kiến một sự kiện hi hữu như thế này:
hôm đó cả lớp cùng đi đám tang của một người bạn trong lớp. Vì nhà tang rất xa,
cho nên phải đi khá sớm. Hơn nữa trước khi đi, xe phải chạy vòng ra chợ để lấy
vòng hoa phân ưu đã đặt trước, cách chung là mọi việc rất khẩn trương vội vã.
Khi đến nhà tang thì mọi người xuống xe, chuẩn bị hàng ngũ chỉnh tề để vào
phúng viếng thì mới dở khóc dơ cười khi nhìn thấy trên vòng hoa có hàng chữ
"Chúc mừng khai trương - Thành công mỹ mãn.”
Thưa anh chị em! Chắc chắn rằng không ai trong
chúng ta muốn cái sai lầm đó xãy ra bao giờ cả, nhất là đối với những người
không phai là đạo Công Giáo. Thế nhưng suy nghĩ một chút, chúng ta cũng thấy rằng:
cái lầm lẫn đó cũng mang một ý nghĩa khá thú vị. Bởi vì theo đức tin Công Giáo,
cái chết là cửa ngỏ để dẫn chúng ta vào đời sau vĩnh cửu, để dẫn chúng ta vào
Thiên Đàng, nơi mà theo Thánh Gioan diễn tả: không còn chết chóc, không còn vất
vã nhọc nhằn, không còn khóc lóc và đau thương, nhưng chỉ có bình an và hạnh
phúc.
31. Ruộng đất trần gian
Có một cái vị địa chủ kia, bán đất cho một cái
người đàn ông. Người địa chủ bảo rằng: từ sáng cho tới chiều, tôi bán cho ông
miếng đất đó 10₫ bạc, miễn làm sao, ông đi từ sáng cho đến lúc mặt trời lặn,
ông cứ đi đi! tới đâu, đó là ranh giới của miếng đất mà ông sẽ được hưởng với
giá 10₫.
Thế là cái người đàn ông đó hí ha, hí hửng chạy
về nhà suy nghĩ một đêm tính ra bây giờ ngày mai mình phải đi như thế nào đó thật
nhanh, thật xa, để đất đai của mình được nhiều.
Thế là ông mua 2 ổ bánh mì, kèm theo 2 chai nước.
Ông đi và ông đi, ông đi vội vả đến độ nghỉ trưa mệt nhòa. Ông nghĩ rằng: Nếu
bây giờ mình nằm ngủ, mình nghỉ trưa thì mình sẽ bị thiệt thòi mất đi những mét
đất mà ông chủ bán.
Thế là với 2 ổ bánh mì và 2 chai nước, ông đã
ăn và đã vội vàng đi và đi, đi mãi cho đến lúc chiều tà, đến lúc không còn ánh
nắng nữa, thì phần đất mà ông chủ hứa đã dành cho ông như đã hứa.
Thế nhưng rồi, tiếc thay với những cái cơn nắng
nóng, cơn khát và sức khỏe giới hạn ông đã kiệt sức và không còn sống được nữa,
tới khi người ta phát hiện ra ông, ông đã chết. Người ta đào lỗ chôn cho ông với
vừa đủ cái thân hình nhỏ bé của ông.
32. Ham muốn phù vân
Ngày 17-05-2012, Cảnh sát Thái Lan bắt giữ một
người Anh gốc Đài Loan, tên Chow Hok Kuen tại Bankok. Trong hành lý của Hok
Kuen có chứa 6 bào thai sấy khô, quấn vàng lá theo nghi thức tà thuật. Những
bào thai này khoảng 2-8 tháng tuổi. Vụ bắt giữ được tiến hành sau khi cảnh sát
nhận được thông tin rằng xác bào thai được giới nhà giàu săn mua trên một trang
web chuyên các dịch vụ tà thuật.
Chow Hok Kuen khai rằng đã mua các bào thai
nhiều ngày trước với giá 200. 000 baht (6.500USD) và dự kiến sẽ bán chúng sang
Đài Loan với giá gấp 6 lần. Nguồn gốc bào thai hiện chưa được rõ. Anh ta cho biết
định bán cho những người tin rằng sở hữu các bào thai sẽ làm họ may mắn và giàu
có” - tướng Wiwat Kamchamnan, cảnh sát Bangkok cho biết.
33. Cô bé bán diêm
Han Christian Andersen (1805-1875) là nhà văn
lớn và là người viết truyện cổ tích nổi tiếng của xứ sở Đan Mạch. Một trong những
truyện được ưa thích nhất của ông là truyện “Cô Bé Bán Diêm.” Truyện kể về một
bé gái nghèo đói đi bán diêm trong đêm giao thừa lạnh lẽo đầy băng tuyết.
Trong đêm đông rét buốt ấy, cô bé không bán được
bao diêm nào, giữa lúc bụng thì đói, thân xác thì giá lạnh. Cô bé đành nép vào
một góc tường giữa phố để trốn những cơn gió lạnh. Vì lạnh quá, cô bé đành phải
đánh lên những que diêm để sưởi ấm mình. Que diêm thứ nhất sáng lên, cô bé nhìn
thấy một cái lò sưởi ấm áp. Que diêm thứ hai bùng lên, cô nhìn thấy một bàn ăn
thơm phức. Que diêm thứ ba lóe lên, cô bé nhìn thấy một cây noel rực rỡ. Cứ thế,
cô đánh hết que diêm này đến que diêm khác để nhìn thấy những ảo ảnh xuất hiện.
Que diêm cuối cùng sáng lên, cô bé nhìn thấy bà nội hiền hậu đã mất của cô hiện
ra, cầm lấy tay cô, rồi hai bà cháu bay vút lên cao, cao mãi tới nơi không còn
giá lạnh, không còn đói khát, không còn sợ hãi nữa.
Sáng hôm sau, người ta tìm thấy cô bé đã chết
vì giá rét trong đêm giao thừa, bên cạnh là những que diêm cháy dở mà cô đã
đánh lên để sưởi ấm mình.
Hình ảnh đẹp nhất trong câu truyện là cảnh hai
bà cháu bay lên trời cao để thoát khỏi những đau khổ ở đời này. Có lẽ, đó cũng
là ước muốn của nhiều người. Tuy nhiên, hôm nay, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta một
chân lý cao cả hơn: lên trời không phải là một cuộc chạy trốn, cũng không phải
là một giấc mơ hão huyền, nhưng là một hiện thực đang được khởi đầu ngay từ trần
thế này. Con đường lên trời được nối dài từ con đường loan báo Tin Mừng. Đó
chính là sứ vụ Chúa trao cho các môn đệ trước khi về trời: “Các con hãy đi khắp
thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật.”
34. Điều đáng quý đáng trọng nhất
Thánh Tôma More tử đạo, giữ chức chưởng ấn nước
Anh, vì muốn trung thành với Giáo Hội, nên đã bị tống giam.
Vợ của ông đến thăm và năn nỉ: “Tại sao mình không
lo cứu lấy mạng sống?”
Thánh Tôma More đáp: “Theo em nghĩ, thì anh sống
ở trần gian này được bao lâu nữa?”
Bà vợ trả lời: “Sức khỏe của anh cũng hứa hẹn
ít nhất 20 năm nữa.”
Thánh nhân trả lời: “Em đề nghị cho anh một
hành động hết sức điên dại! Để sống 20 năm, mà phải hy sinh cuộc sống đời đời.”
35. Uy quyền của ông vua và nữ tu
Vua Napoléon III, trong cuộc du lịch qua
Elgérie, có vào thăm một nữ tu viện, vua có hỏi một nữ tu: “Sơ có muốn tôi giúp
gì không? Sơ có bà con này cần tôi nâng đỡ không?”
Nữ tu đó trả lời: “Thưa hoàng đế, tôi chỉ có một
nguyện vọng. Xin nhà vua giúp cho.”
Vua Napoléon băn khoăn hỏi: “Nguyện vọng gì?”
Nữ tu đó đáp: “Tôi tin đức vua đảm bao cho tôi
được vào thiên đàng.”
Nhà vua trả lời với cả sự trịnh trọng: “Ôi điều
đó ngoài uy quyền của một ông vua dưới đất. Chính Sơ lại có thể dùng lời cầu
nguyện để giúp tôi việc đó, hơn là chính tôi có thể làm được cho Sơ.”
36. Cái Kén Bướm
Một chàng trai nọ trông thấy một cái kén bướm,
trên cái kén hé một lỗ nhỏ. Chú bướm nhỏ cố thoát mình khỏi cái lỗ nhỏ xíu đó.
Anh ta ngồi hàng giờ nhìn và thấy mọi việc diễn tiến có vẻ hết sức khó khăn.
Hình như chú bướm không thể cố hơn được nữa. Vì thế, anh ta quyết định giúp chú
bướm nhỏ. Anh ta lấy kéo rạch cho cái lỗ to thêm.
Chú bướm dễ dàng thoát ra khỏi cái kén. Nhưng
thân mình nó sưng phồng lên, đôi cánh thì nhăn nhúm. Còn chàng thanh niên cứ ngồi
quan sát cái kén với hy vọng một lúc nào đó thân mình chú bướm sẽ xẹp lại và
đôi cánh xòe rộng hơn đủ để nâng đỡ thân hình chú.
Nhưng chẳng có gì thay đổi cả! Sự thật là chú
bướm đã phải bò loanh quanh suốt quãng đời còn lại với đôi cánh nhăn nhúm và
thân hình sưng phồng. Nó chẳng bao giờ có thể bay được. Có một điều mà người
thanh niên đã không hiểu: cái kén chật chội khiến chú bướm phải nỗ lực mới chui
qua được cái lỗ nhỏ xíu kia là quy luật tự nhiên tác động lên đôi cánh và cơ thể
của bướm, giúp chú có thể bay ngay khi thoát ra ngoài.
Chúa đã mời gọi tôi theo Chúa bằng một lời mời
“chẳng giống ai”: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình
mà theo.” (Mt 16,24)
Tại sao Chúa lại mời gọi tôi đi vào con đường
chẳng ai muốn đi đó? Vì đó là con đường duy nhất: “Ai không vác thập giá mình
mà theo Thầy thì không xứng với Thầy.” (Mt 10,38)
Đúng thế, tôi đã dựng nên theo hình ảnh Chúa –
là tình yêu – nên càng bỏ mình tôi càng trở nên chính mình. “Không có tình
thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của
mình.” (Ga 15,13)
Đó mới là nguồn mạch cho hạnh phúc thật, cho sự
sống viên mãn: “Thật, Thầy bảo thật anh em: anh em sẽ khóc lóc và than van, còn
thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành
niềm vui.” (Ga 16,20)
37. Thuốc bất tử
Thời Chiến Quốc có người đem dâng vua nước Sở
vị thuốc bất tử.
Người ấy bưng vị thuốc vào, có viên quan canh
cửa hỏi rằng: “Vị thuốc này có ăn được không?” Người đáp: “Ăn được.” Tức thì
viên quan giật lấy vị thuốc mà ăn.
Chuyện nói đến tai vua. Vua phán bắt viên quan
đem giết.
Viên quan kêu lên rằng: “Thần đã hỏi người đem
dâng thuốc. Người ấy nói rằng: ‘Ăn được’ nên thần mới dám ăn. Thế là thần vô tội
mà lỗi ở người dâng thuốc. Vả chăng người đem dâng nói là ‘bất tử’, nghĩa là ăn
vào thì không chết nữa. Thế mà thần mới ăn, đã phải sắp chết, vậy thuốc tử chớ
sao gọi là bất tử được? Nhà vua giết thần, thực là bắt tội một người vô tội mà
tỏ rằng thiên hạ dối được nhà vua mà nhà vua vẫn tin.”
Vua nghe nói có lý, bèn tha viên quan ấy không
giết nữa.
Sẽ không còn sự chết cho người tin! “Nếu chúng
ta đã chết với Đức Kitô, chúng ta tin rằng chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người,
vì biết rằng Đức Kitô một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết nữa, sự chết
không làm chủ được Người nữa.” (Rm 6,8-9)
38. Chúc má chết
Trong Thủ Bản Tự Thuật, thánh Têrêxa kể lại rằng:
“Suốt đời, Chúa nhân lành đã cưng chìu con: những kỳ niệm đầu tiên của đời con
ghi đầy những nụ cười, những mơn trớn êm đềm nhất!… Nhưng nếu Chúa đặt bên con
nhiều tình thương thì Ngài cũng cho con một trái tim để yêu và cảm xúc dạt dào,
cho nên con yêu Ba Má biết bao và con tìm đủ mọi cách để tỏ lòng yêu Ba Má, vì
hễ trong lòng con có gì thì con phải bộc lộ ra ngoài. Có điều là cách con tỏ
tâm tình đôi khi kỳ cục lắm, như lời Má chứng minh trong đoạn thư sau đây: “Con
bé này tinh nghịch có một, nó đến vuốt ve Má và chúc Má chóng chết: Má à! Con
muốn Má chết lắm!…
“Mắng nó thì nó bảo: “Má chết để về thiên
đàng. Thế Má chả bảo con là phải chết mới được vào thiên đàng là gì.
“Lúc nào nó yêu Ba quá, nó cũng chúc Ba chết
như thế!…”
Đối với Têrêxa, chẳng còn cái chết, mà chỉ còn
một cánh cửa mở ra cho hạnh phúc hoàn hảo, trọn vẹn. Ước chi đức tin trong tôi
cũng lớn lên để tôi luôn vui mừng đi tìm sự sống thật trong mọi tình huống, kể
cả trong những đau khổ của ngày hôm nay, “vì một khi cùng chịu đau khổ với Người,
chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người.” (Rm 8,17)
39. Giàu và Nghèo
Một hôm người cha của một gia đình giàu có dẫn
cậu con trai của mình làm một chuyến du lịch về miền quê với mục đích cho cậu
thấy người ta nghèo như thế nào. Họ đã qua một ngày và một đêm tại nông trại của
một gia đình rất nghèo.
Khi đã trở về nhà, người cha hỏi con trai:
- Con thấy chuyến đi thế nào?
- Tuyệt lắm! Cha!
- Con có thấy người ta có thể nghèo như thế
nào không?
- Dạ, có.
- Con học được điều gì?
- Nhà mình có một con chó, họ có tới bốn con.
Cậu con trai trả lời, Chúng ta có một cái hồ ra tới giữa vườn, còn họ lại có một
con sông con chẳng biết ngừng chỗ nào. Chúng ta có những ngọn đèn đặt trong vườn,
họ có những ngôi sao. Hàng hiên của chúng ta dài đến sân trước, còn họ có cả một
đường chân trời.
Khi đứa con nói xong, người cha nín lặng.
Cậu con trai nói thêm:
- Con cám ơn cha đã cho con thấy chúng ta
nghèo như thế nào!
Phải chăng tất cả tùy thuộc vào cách anh nhìn
chúng? Nếu anh có tình yêu, gia đình, bạn bè, sức khỏe, một chút hài hước và một
cái nhìn tích cực về đời sống, anh đã có tất cả!
Nhưng đó là những món không thể mua được. Anh
có thể có mọi tài sản vật chất mà người ta có thể tưởng tượng ra, mọi dự phòng
cho tương lai,… nhưng nếu anh nghèo trong tinh thần, anh chẳng có gì.
“Thiên Chúa bảo ông ta: "Đồ ngốc! Nội đêm
nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay
ai? Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên
Chúa, thì số phận cũng như thế đó."” (Lc 12,20-21)
40. Chỉ là giấc mộng
Chuyện xưa kể Lư Sinh thi rớt, xấu hổ và buồn
rầu, tính đi tự tử. Dọc đường gặp quán chè kê chàng vào nghỉ chân vì mệt mỏi đường
xa, lại thức trắng đêm không ngủ. Chủ quán lấy gối bông êm cho ngủ.
Lư Sinh nằm mơ thấy mình có tên trên bảng
vàng, được vinh qui, làm quan, lại được phong vương, giàu có, vợ đẹp con khôn
đông đủ thật hạnh phúc, người hầu kẻ hạ, khách khứa bạn bè đủ loại tấp nập.
Một hôm vợ chết, con cái ngã bệnh, của cải hao
tán, bạn bè phản bội dèm pha khiến anh bị thất sủng, bị cách chức đầy đoạ. Trước
sung sướng bao nhiêu thì nay khốn cùng bấy nhiêu. Lư Sinh bứt tóc dậm chân than
thở: “Phải chi ta đừng thi đậu, thì đâu đến nông nỗi này.”
Anh đá chân làm đổ nồi cháo kê bên cạnh. Chủ
quán tỏ ra thông cảm, ôn tồn nói với anh: “Cậu đã thoả giấc mộng vàng chưa?”
Giấc mơ của Lư Sinh là những gì đang thực sự
diễn ra trên thế giới hôm nay, và đôi khi tôi cũng đã phát điên lên vì một giấc
mộng vàng!
Giấc mộng chỉ là giấc mộng, chẳng đưa ai lên
trời. Ngôi Hai xuống thế để dẫn tôi lên trời. Việc tôi phải làm là bước theo
Ngài, không chút lưỡng lự, vì “nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, chúng
ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta” (Rm 6,8).
LỄ THĂNG
THIÊN NĂM C -
TRUYỆN KỂ
1. truyện
THỨ HAI - Cùng
hiệp thông với Chúa
Lời Chúa: Ga 16, 29-33
Khi ấy, các môn đệ thưa Chúa Giêsu rằng: “Đúng
thế, bây giờ Thầy nói rõ ràng, và không dùng dụ ngôn nữa. Bây giờ chúng con biết
rằng Thầy biết mọi sự, không cần có ai hỏi Thầy nữa. Bởi đó chúng con tin Thầy
bởi Thiên Chúa mà ra."
Chúa Giêsu đáp lại các ông: “Bây giờ các con mới
tin ư? Này đến giờ, và đã đến rồi, các con sẽ tản mát mỗi người một ngả, bỏ mặc
Thầy một mình. Nhưng Thầy không ở một mình đâu, vì có Cha hằng ở với Thầy. Thầy
nói với các con những điều đó để các con được bình an trong Thầy. Giữa thế
gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian."
TRUYỆN KỂ
1. Can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian
Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, chúng ta thấy
suốt 300 năm đầu, cha ông ta lớn lên trong thử thách. Một cuộc thử thách triền
miên và kéo dài! Còn ngày nay, tuy rất ít hình khổ như gông cùm, đòn roi và cái
chết được trưng ra để tra tấn các Kitô hữu. Tuy nhiên, người Kitô hữu hôm nay
phải đối diện với một thử thách mới, một cuộc thử thách mang tính vĩ mô và sâu
xa đánh vào tận lương tâm của con người. Phải chăng đây là những thử thách tinh
vi và người Kitô hữu khi sống đúng những giá trị của Tin Mừng thì cũng không
khác gì một cuộc tử đạo liên lỉ, dai dẳng và kéo dài!
Hôm nay, Đức Giêsu tiên báo cho các môn đệ biết
rằng: các ông là những người đi theo Chúa, không có lý do gì các ông không bị
bách hại như chính Ngài. Nhưng liền sau đó, Ngài khích lệ các ông: “Giữa thế
gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế
gian" (Ga 16, 33).
2. Dũng cảm và tự tin
Henri Shepler là một tân binh. Viên hạ sĩ sai
anh xuống làm việc tại nhà ăn. Anh không đi. Viên hạ sĩ cho là anh bướng và dọa
sẽ báo cáo lên cấp trên.
- Được, hạ sĩ cứ việc báo cáo. Tôi đăng ký đi
lính chứ không phải đi làm bồi bàn.
Buổi chiều, Shepler bị gọi lên bộ chỉ huy. Đôi
chân run run, nhưng lòng anh bình thản, vì anh biết mình hành động đúng. Vị sĩ
quan hỏi:
- Có phải sáng nay anh không tuân lệnh cấp
trên?
- Đúng vậy, thưa ngài.
- Tại sao anh làm vậy?
- Đơn giản là vì tôi cho rằng công việc trao
cho tôi là không đúng. Tôi đăng ký làm người lính chứ không phải làm bồi bàn.
Vị sĩ
quan bật dậy, đến bắt tay anh và nói: “Shepler, anh đúng là hạng người chúng
tôi cần. Tôi vui mừng khi thấy anh là con người dũng cảm và tự tin ở mình."
3. Can đảm tuyên xưng Chúa.
Trong thời kỳ cách mạng Pháp, có 16 nữ tu dòng
Carmel bị kết án tử hình vì tội cuồng tín. Khi tòa tuyên án, một trong số 16 nữ
tu rụt rè hỏi: “Thưa quan tòa, tội cuồng tín là gì”?
Vị thẩm phán đáp: “Là tội dại dột và cố chấp tin
vào một tên tử tội đã bị kết án đóng đinh ở trên thập giá cách đây cả hơn nghìn
năm." Nghe thế, vị nữ tu chắp tay ngước mắt lên trời và nói: “Ôi! Thật tuyệt
diệu khi được chết vì Chúa Kitô."
Đến ngày xử án, 16 nữ tu được mang ra pháp trường
trên chiếc xe ngựa chuyên dùng chở các tử tội, ai thấy xe ấy cũng sợ, ngoại trừ
16 nữ tu đơn sơ yếu đuối sắp bị hành quyết. Họ cất tiếng thánh thót hát lên những
bài thánh ca quen thuộc, trước khi bị đem lên máy chém, từng người một quì trước
mặt Mẹ Bề Trên để lặp lại lời khấn vâng lời, sau đó họ cất tiếng hát kinh “Veni
Creator: Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy đến."
Với một chiếc đầu rơi, cường độ của âm thanh
nhỏ dần, cuối cùng đến phiên Mẹ Bề Trên tên là Têrêsa Augustina, trước khi bị
lưỡi dao rơi xuống kết thúc cuộc đới, người môn đệ của Augustinô ấy đã lặp lại
lời của thánh nhân: “Tình yêu sẽ luôn chiến thắng, vì tình yêu có sức mạnh vô
song."
4. Giữa thế gian, các con sẽ đau khổ. Nhưng hãy can đảm lên, Thầy
đã thắng thế gian
Chúng ta hãy nghe một đoạn văn nói về một cuộc
hành hình các Kitô hữu đầu tiên dưới thời bạo Chúa Néro năm 64 tại Rôma: “Lúc ấy,
mặt trời đã lên cao, ánh mắt của nó chiếu qua tấm che trần màu đỏ tía, khiến
cho nhà hát ngập màu máu. Cát nhuộm màu lửa đỏ, và trong thứ ánh sáng ấy, nét
kinh hoàng hiện lên khuôn mặt của khán giả cũng như bãi đấu trường mà lát nữa
đây sẽ tràn ngập nỗi đau đớn của những con người bị hành hình và nỗi điên cuồng
của những dã thú. Cửa hầm mở, đoàn người bị gói trong những tấm da thú được đẩy
ra. Toàn nhà hát vang lên những tiếng rì rầm “Bọn Thiên Chúa giáo!… Bọn Thiên
Chúa giáo!…”
Nhìn lại lịch sử Giáo Hội VN chúng ta: cũng
không có luật trừ. Suốt ba thế kỷ liền, kể từ năm 1553, cùng với Tin Mừng của
Chúa đến Việt Nam thì Thánh Giá cũng đến theo.
Lịch sử Giáo Hội đã được khởi đầu với những cuộc
bách hại. Và trải qua hơn 2000 năm số phận của người Kitô hữu cũng vẫn luôn là
số phận bị nghi ngờ, bị thù ghét và có thể bị bách hại nữa. Tại sao? Lời Chúa
Giêsu hôm nay là câu trả lời quý giá cho chúng ta.
5. Thầy chiến thắng
Thời Cách mạng Pháp (1789-1799) không biết bao
nhiêu linh mục tu sĩ phải lưu đày, xử giảo hoặc bị nhận chìm xuống lòng biển.
Napoléon 1 lên ngôi, ông sang Ý bắt luôn cả Đức giáo hoàng Piô VII đem về cầm
tù tại Fontainebleau vì Ngài đã phản đối việc ông ly dị với bà Josephine để cưới
Marie Louis làm vợ. Một hôm, vì quá tức giận, Napoléon đã nói thẳng với Hồng Y
Consalvi, quốc vụ khanh Tòa Thánh lúc đó:
- Ông không biết sao: tôi có thể tiêu diệt cả
Hội Thánh.
Hồng Y Consalvi hóm hỉnh trả lời:
- Thưa Ngài, chính chúng tôi đây là những kẻ ở
bên trong Hội Thánh. Dù với bao nhiêu gương xấu, tội lỗi, chia rẽ, khuyết điểm
vẫn không phá nổi Hội Thánh suốt 19 thế kỷ qua, thì làm sao mà Ngài có thể phá
tan Hội Thánh được.
Về sau Napoléon đã phải tuyên bố:
- Các dân nước qua đi, các ngai vàng sụp đổ, Hội
Thánh vẫn tồn tại.
6. Tôi muốn nhập bọn
thời Cách mạng Pháp (1789-1799) không biết bao
nhiêu linh mục tu sĩ phải lưu đày, xử giảo hoặc bị nhận chìm xuống lòng biển.
Napoléon 1 lên ngôi, ông sang Ý bắt luôn cả Đức giáo hoàng Piô VII đem về cầm
tù tại Fontainebleau vì Ngài đã phản đối việc ông ly dị với bà Josephine để cưới
Marie Louis làm vợ. Một hôm, vì quá tức giận, Napoléon đã nói thẳng với Hồng Y
Consalvi, quốc vụ khanh Tòa Thánh lúc đó:
- Ông không biết sao: tôi có thể tiêu diệt cả
Hội Thánh.
Hồng Y Consalvi hóm hỉnh trả lời:
- Thưa Ngài, chính chúng tôi đây là những kẻ ở
bên trong Hội Thánh. Dù với bao nhiêu gương xấu, tội lỗi, chia rẽ, khuyết điểm
vẫn không phá nổi Hội Thánh suốt 19 thế kỷ qua, thì làm sao mà Ngài có thể phá
tan Hội Thánh được.
Về sau Napoléon đã phải tuyên bố:
- Các dân nước qua đi, các ngai vàng sụp đổ, Hội
Thánh vẫn tồn tại.
7. Chiến thắng của tình yêu
Ceasar đã ngạo nghễ tuyên bố trước Nguyên Lão
Viện Rô-ma: “Veni, vidi, vici” (Ta đã đến, Ta đã thấy, và đã chiến thắng), để
nói về chiến thắng thần tốc của ông tại Ponto (năm 47 tCN) trong công cuộc
chinh phục các nước. Thế nhưng, ông chỉ triệt hạ được các thành trì, chứ không
chinh phục được lòng người. Đức Giê-su cũng đã đến trần gian, đã nhìn thấy những
nỗi khổ đau của con người và đã chiến thắng. Ngài chiến thắng thế gian, sự chết,
quyền lực sự dữ. Khác với Ceasar, Ngài chinh phục lòng người, chinh phục không
bằng phô trương sức mạnh, nhưng bằng cách tỏ tình yêu thương. Ngài chiến thắng
cái ác bằng điều lành, thắng hận thù bằng tình thương, và thắng sự chết bằng sự
sống lại.
Mời bạn nhớ lại đêm Canh thức Phục sinh, khi
thắp ngọn nến của mình từ nến Phục sinh, bạn tuyên xưng niềm tin vào chiến thắng
của Đức Giê-su. Bạn tuyên xưng tình thương thắng hận thù, chân lý thắng gian
tà, sự sống mạnh hơn sự chết.
THỨ BA - Ngưỡng
cửa vào sự sống
Lời Chúa: Ga 17, 1-11a
Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và nói:
“Lạy Cha, giờ đã đến, xin hãy làm vinh hiển Con Cha, để Con Cha làm vinh hiển Cha.
Vì Cha đã ban cho Con quyền trên mọi huyết nhục, để con cũng ban sự sống đời đời
cho mọi kẻ Cha đã giao phó cho Con. Sự sống đời đời chính là chúng nhận biết
Cha là Thiên Chúa duy nhất chân thật, và Đấng Cha đã sai, là Giêsu Kitô.
“Con đã làm vinh hiển Cha dưới đất, Con đã chu
toàn công việc mà Cha đã giao phó cho Con. Giờ đây, lạy Cha, xin hãy làm cho
Con được vinh hiển nơi Cha với sự vinh hiển mà Con đã có nơi Cha, trước khi có
thế gian. Con đã tỏ danh Cha cho mọi kẻ Cha đã đưa khỏi thế gian mà ban cho
Con. Chúng thuộc về Cha, và Cha đã ban chúng cho Con, và chúng đã tuân giữ lời
Cha. Bây giờ chúng biết rằng những gì Cha ban cho Con, đều bởi Cha mà ra. Vì những
lời Cha ban cho Con thì Con đã ban cho chúng và chúng đã lãnh nhận, và biết
đích thực rằng Con bởi Cha mà ra, và chúng tin rằng Cha đã sai Con.
“Con cầu xin cho chúng, Con không cầu xin cho
thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho Con, bởi vì chúng là của Cha. Và mọi
sự của Con là của Cha, và mọi sự của Cha cũng là của Con, và Con đã được vinh
hiển nơi chúng. Con không còn ở thế gian nữa, nhưng chúng vẫn còn ở thế gian,
phần Con, Con về cùng Cha."
TRUYỆN KỂ
1. Đức Kitô cầu nguyện
Tôi là một linh mục, dâng thánh lễ mỗi ngày.
Trong lời nguyện cầu, tôi mang tất cả tâm tình của anh em phó thác cho Thiên
Chúa. Tôi tạ ơn Ngài đã ban mọi ơn lành trong cuộc sống của con người, mà tôi
là đại diện dâng lời tri ân. Tôi phó thác mọi cái khổ của người anh em tôi, những
khắc khoải lo âu mà họ và tôi đang phải chiến đấu bôn ba mà chưa thấy mặt trời
giữa đêm tối của cuộc sống của chính tâm hồn...
Trong cuộc sống, tôi yếu đuối, trong thánh lễ
tôi dâng chính tôi và dâng mọi nỗi yếu hèn của kiếp nhân sinh xin Chúa chữa
lành, thánh hóa. Tôi cảm thấy mình như là cầu nối giữa Thiên Chúa và tha nhân.
Tôi đại diện nhân loại để hiến tế, để khẩn cầu... Trong chức vụ linh mục thừa
tác, tôi được Thiên Chúa ủy quyền để ban phát cho anh em mình của bánh thần
lương và giải thích lời Ngài...
2. Hãy cư xử như pho tượng để hiệp nhất.
Trong những giai thoại về các thánh ẩn tu vào
những thế kỷ đầu của Kitô giáo, có câu chuyện như sau: có bảy vị ẩn tu nọ kéo
nhau đến sống trong một ngôi đền bỏ hoang của người Ai Cập. Phía trước ngôi đền
có một pho tượng. Đây là ngôi đền duy nhất còn sót lại sau khi đã bị tàn phá.
Người cao niên nhất trong bảy anh em được bầu làm Bề trên của cộng đoàn. Để dạy
anh em qui luật cơ bản của đời sống cộng đoàn, mỗi sáng ông ra trước pho tượng,
nhặt một hòn đá ném vào đó. Chiều đến, ông lại ra trước pho tượng và xin lỗi vì
hành động ném đá của ông. Cử chỉ khác thường của Bề trên này kéo dài một thời
gian khá lâu.
Ngày nọ, không còn nén nổi tính tò mò, một người
anh em trong cộng đoàn đã hỏi lý do của hành động khó hiểu ấy. Vị Bề trên trả lời
bằng cách hỏi lại người đó như sau:
- Khi ta ném đá vào pho tượng, pho tượng có
lung lay không?
Người kia trả lời:
- Không.
Vị Bề trên tiếp tục hỏi:
- Buổi chiều khi ta đến xin lỗi, pho tượng có
để lộ xúc động nào không?
Người kia cũng trả lời:
- Không.
Vị Bề trên mới giải thích:
- Anh thân mến, chúng ta có tất cả bảy người
trong cộng đoàn, nếu chúng ta muốn sống hiệp nhất yêu thương nhau, chúng ta hãy
sống như pho tượng này, đừng ai trong chúng ta tỏ ra giận dữ khi có người anh
em xúc phạm đến ta, và cũng đừng có ai trong chúng ta tỏ ra hãnh diện khi có
người đến xin lỗi mình.
3. Có ba cháu ở trong nhà
Trên một bãi biển…
Chú ơi! Chú ngồi ghế của cháu, cháu lấy rẻ
thôi.
Anh thanh niên lên tiếng:
Nó còn bé, mới học lớp bốn. Chú đừng nghe nó.
Quay sang thằng bé, anh sừng sộ:
Này con nít mà bày đặt, mày muốn gì?
Chú ơi, chú đừng sợ, chú đừng sợ, có ba cháu ở
trong nhà mà… Anh thanh niên nghe thấy thế liền bỏ đi.
Quả thật, danh của Cha đã bảo vệ thằng bé kia
khi nó đặt trọn niềm tin vào Cha của nó.
Trong cuộc sống hằng ngày, cám dỗ bủa vây tứ
phía, nhưng mấy khi tôi chạy đến cùng Cha?
Lạy Cha, xin cho chúng con biết chạy đến cùng
với Cha mọi lúc trong cuộc sống.
4. Tình yêu làm cho nên một
Ngày xưa trong gia tộc nhà mèo, có một chú mèo
con như lạc loài. Bố chú trắng, mẹ chú trắng, ông nội, ông ngoại chú trắng, bà
nội, bà ngoại chú trắng, các anh, các chị, các cậu, các chú, các dì chú đều trắng
cả. Chi có chú là đen tuyền. Vâng! Chỉ duy có một mình chú là đen tuyền.
Khi sinh ra đời, chú nằm giữa bốn em nhỏ của
chú cứ như là hòn than nằm trong tuyết. Tất cả gia đình mèo trắng ngồi quanh
cái ổ 05 chú mèo mới sinh. Ai cũng gãi tai... Bố mẹ chú cũng gãi tai và nói:
- Thằng bé này đáng lẽ trắng thì lại đen tuyền,
thật chẳng giống ai! Trái với lẽ tự nhiên.
Mẹ chú liếm cho chú cả ngày, mà rồi chú vẫn
đen như thế. Chú lớn lên cùng với lũ em. Cả nhà rất yêu chú, nhưng không sao
quen với màu đen lông của chú được.
Về phần chú, càng lớn chú càng ngạc nhiên khi
thấy mình chẳng giống ai cả. Điều này gây ra rất nhiều oái oăm. Nếu chú chơi ú
tim trên nệm trắng, lũ nhóc tìm ra chú ngay. Nếu chú đuổi bắt trong hầm tối, lũ
nhóc không sao tìm thấy chú được. Khi cả nhà uống sữa, vì chú đen nên cả nhà ai
cũng tưởng chú uống nhiều hơn. Kể ra thế cũng khổ thật!
Một hôm, chú bỏ cuộc chơi, nằm cuộn tròn trong
góc bếp, như một con mèo già. Mẹ chú lo lắng hỏi:
- Con không ốm đấy chứ?
Chú
đáp:
- Không, mẹ ạ con đang nghỉ.
Tối hôm ấy, trong khi chú mèo đen tiếp tục suy
nghĩ, thì bố mẹ chú mời tất cả: ông nội, ông ngoại, bà nội, bà ngoại, các anh,
các chị, các cậu, các chú, các dì, các bác... Cả gia đình cùng họp lại. Bố chú
meo meo một bài diễn văn dài. Ông tuyên bố rằng, không thể để tình trạng này
kéo dài mãi như vậy, vì mèo đen ngày càng thêm rầu rĩ. Ông đề ra một phương án
để biến đổi tình thế. Cả họ nhà mèo đồng nhất trí. Bấy giờ, bố chú mèo liền lên
tiếng:
- Nào, chúng ta đi.
Im lặng nối đuôi nhau, cả họ nhà mèo trắng bước
đến cái bồ than, rồi lặng lẽ, nối đuôi nhau, rồi họ ra khỏi cái bồ. Thế là cả
ông nội, ông ngoại, bà nội, bà ngoại, các anh, các chị, các cậu, các chú, các
dì, các bác đều biến thành đen, đen như hòn than. Họ hàng mèo trắng đã biến
thành mèo đen rồi tiến về phía bếp để tìm chú mèo nhỏ. Không ai thấy chú đâu cả,
mà chỉ thấy một con mèo trắng, trắng toát từ râu đến đuôi. Mọi người kinh ngạc.
Con mèo lạ kêu lên “meo meo." Mẹ mèo mừng rỡ:
- Con trai tôi đây mà!
Bố mèo reo lên:
- Cu cậu đã lăn mình vào bột!
Chú mèo âu yếm gọi
- Bố... ố! Mẹ!
Và một ông chú, vốn hay nói chữ, đùa vui:
- Đã thương yêu nhau thì đen hay trắng có sao
đâu!
Cả họ nhà mèo cùng bật cười, thi nhau nhảy vồ nhau.
Than và bột bay tứ tung mịt mù. Chẳng còn mèo đen, chẳng còn mèo trắng mà chì
còn mèo xám thương nhau...
Vâng, nếu mỗi người chúng ta biết nghĩ đến
nhau, biết làm cho cái tôi của mình nhỏ lại, biết bớt đi cái sĩ diện, biết làm
vui lòng nhau, thực lòng yêu thương nhau thì cho dù chẳng đi tìm, sự hiệp nhất
đoàn kết sẽ đến với chúng ta. Amen.
5. Đời tôi thuộc về Chúa
Edith Stein xuất thân trong một gia đình Do
thái ở Phần Lan. Năm 24 tuổi, bà đậu tiến sĩ triết học, trở thành kitô hữu năm
30 tuổi, nữ tu năm 40 tuổi, và chết trong phòng hơi ngạt của Đức Quốc Xã năm 52
tuổi. Năm 1987, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tuyên phong chân phước cho bà.
Edith Stein viết về cuộc đời của mình như sau: “Tôi tin rằng chẳng có gì là
tình cờ khi nhìn trong ánh sáng Thiên Chúa. Tôi tin rằng cả cuộc đời tôi dành
riêng cho chương trình của Thiên Chúa và có ý nghĩa hoàn toàn mạch lạc trong
cái nhìn thấu suốt của Ngài.”
Tôi thấy hoặc cảm thấy cuộc đời tôi là một phần
trong chương trình rộng lớn của Thiên Chúa như thế nào?
“Ngay đến tóc trên đầu anh em, Ngài cũng đếm cả
rồi” (Mt 10,30)
6. Để kết hiệp với Chúa
Ba nhà giảng thuyết đang thảo luận về cách tốt
nhất phải áp dụng khi cầu nguyện. Người thứ nhất nói: “Tôi đã thử tất cả, và thấy
rằng quỳ cầu nguyện vẫn là cách tốt nhất.” Người thứ hai nói: “Có thể điều đó
đúng, nhưng hầu hết các nhà thần bí Đông Phương đều đề nghị ngồi xếp bằng trên
sàn là cách tốt nhất.” Người thứ ba nói: “Cách tốt nhất khi cầu nguyện đối với
tôi là ngước mắt lên trời.” Một người thợ điện làm việc gần đấy nghe được câu
truyện liền nói: “Tư thế cầu nguyện tốt nhất đối với tôi là treo một chân trên
cột điện thoại trong cơn sấm sét.”
Tôi có kinh nghiệm tư thế cầu nguyện tốt nhất
không? Tôi có bao giờ cầu nguyện lớn tiếng trước hoặc sau khi suy niệm không?
Tôi có bao giờ ngước mắt lên trời hoặc quỳ gối giây lát trước khi cầu nguyện
không?
Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục, Quỳ trước
Tôn Nhan Chúa là Đấng dựng nên ta (Tv 94,6).
7. Chiêm ngắm Chúa cầu nguyện
Hình ảnh Chúa Giêsu cầu nguyện gợi lại câu
truyện trong cuộc đời Dorothy Day. Cô nói rằng trước khi hoán cải và làm việc
giữa những người nghèo ở Nữu Ứơc, cô thường vui chơi thâu đêm trong các quán rượu.
Thế rồi, trên đường về nhà khoảng 6 giờ sáng, cô đã dừng lại ở nhà thờ thánh
Giuse trên đại lộ 6. Điều lôi cuốn cô ở nhà thờ ấy là hình ảnh người ta đang cầu
nguyện trong Thánh lễ sáng. Cô viết: “Tôi khao khát niềm tin của họ, vì thế tôi
thường bước vào và quỳ ở hàng ghế sau.”
Tôi có thể nhớ lại đã lần nào tôi bị xúc động
bởi niềm tin của ai đó đang cầu nguyện không?
Nếu các bạn, những kitô hữu ở Ấn độ, ở Anh quốc,
ở Hoa kỳ, sống đúng tinh thần Kinh Thánh, thì các bạn có thể chinh phục Ấn độ
chỉ trong vòng năm năm. [Một tín đồ Ấn giáo nói với một nhà truyền giáo].
Tính hài hước và
vẻ quyến rũ của Mark Twain làm cho ông nổi tiếng, không những ở Mỹ, mà còn ở
Châu Âu. Trong một cuộc hành trình đến Châu Âu, ông được mời ăn tối với một
viên thị trưởng. Khi biết được lời mời, đứa con gái nhỏ của ông nói: “Cha ơi,
cha biết các nhân vật lớn, ngoại trừ Thiên Chúa.” Cô bé muốn nói đến sự kiện
cha cô không phải là người có đạo, ít là theo nghĩa đen của nó.
Một ví dụ cho
tính hài hước không tính ngưỡng của Mark Twain là câu này trong sổ tay của ông:
“Nếu Chúa Kitô có mặt nơi đây, thì có một điều Ngài không thể là, đó là làm một
kitô hữu.”
Quan điểm của
Mark Twain là gì? Nó có giá trị cho hôm nay ra sao?
Tôn giáo không phải
là cách nhìn về một vấn đề nào đó, mà là cách nhìn về mọi sự. (Robert E.Segal)
9. Cầu nguyện nối kết
Trong mục: “Những
ý để suy nghĩ” tạp chí Reader`s Digest đăng câu truyện xúc động của Cy Fey. Một
người đàn ông đứng tuổi khóc nức nở khi đứng một mình trước tượng đài cựu chiến
binh Mỹ ở Washington. Xúc động trước cảnh tượng này, một thanh niên tiến đến đặt
tay trên vai ông và nói: “Trong số đó có con của ông phải không?” Người đàn ông
đáp nhỏ: “Không phải chỉ có một, mà là tất cả họ.”
Đó cũng là tinh
thần đã khiến Chúa Giêsu xúc động để cầu nguyện, không những cho các môn đệ, mà
còn cho các tín hữu.
Lời cầu nguyện của
tôi có bao giờ quan tâm đến hết mọi người hay chỉ những người tôi yêu thương?
Không có tình yêu
và lòng nhân từ đối với kẻ khác, tình yêu dành cho Chúa Kitô chỉ là tưởng tượng
(Thomas Merton).
THỨ TƯ - Xin
Cha gìn giữ họ
Lời Chúa: Ga 17, 11b-19
Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện
rằng: “Lạy Cha chí thánh, xin hãy gìn giữ trong danh Cha những kẻ Cha đã ban
cho Con, để chúng được nên một như Ta. Khi Con còn ở với chúng, Con đã gìn giữ
chúng trong Cha. Con đã gìn giữ những kẻ Cha đã giao phó cho Con, không một ai
trong chúng bị mất, trừ ra con người hư vong, để lời Kinh Thánh được nên trọn.
Bây giờ Con về cùng Cha, và Con nói những điều này khi Con còn dưới thế, để
chúng được đầy sự vui mừng của Con trong lòng.
“Con đã ban lời Cha cho chúng, và thế gian đã
ghét chúng, vì chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế
gian. Con không xin Cha đem chúng ra khỏi thế gian, nhưng xin gìn giữ chúng cho
khỏi sự dữ. Chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế
gian. Xin hãy thánh hoá chúng trong chân lý: lời Cha là chân lý. Cũng như Cha
đã sai Con vào thế gian, thì Con cũng sai chúng vào thế gian. Và vì chúng, Con
đã tự thánh hoá, để cả chúng cũng được thánh hoá trong chân lý."
TRUYỆN KỂ
1. Xin Cha gìn giữ họ.
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Có một câu truyện tưởng tượng như sau:
Khi Chúa Giêsu về Trời giữa muôn vàn tiếng
tung hô của các thiên thần. Tổng lãnh thiên thần Gabriel đã phỏng vấn Ngài:
- Lạy Chúa, có phải bây giờ cả trần gian đã nhận
biết tình yêu Thiên Chúa dành cho họ chăng?
Chúa Giêsu trả lời:
- Không, chỉ có một nhóm nhỏ đếm được trên đầu
ngón tay.
Thiên sứ Gabriel giật mình sửng sốt:
- Lạy Chúa, nếu nhóm nhỏ này gặp chống đối khiến
họ thất vọng từ bỏ Chúa trong trường hợp này, Chúa có dự định quay trở lại trần
gian không?
Chúa Giêsu đáp:
- Không. Ta hy vọng nơi họ và tin chắc họ
không bỏ rơi Ta.
Điều gì đã khiến Chúa Giêsu tin tưởng vào sự
trung tín của các môn đệ, dù gặp gian truân thử thách? Chúng ta có thể tìm được
câu giải đáp trong bài Tin mừng hôm nay.
2. Hiệp nhất giữa các môn đệ của Chúa Kitô
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Tháng Giêng năm 2003, tôi đến Rôma kinh thành
muôn thuở để họp tại trụ sở Trung ương Dòng, dành những thời gian rảnh, chúng
tôi viếng các Đền thờ Mẹ… Tại đền thánh Phêrô, chúng tôi kính viếng lăng mộ của
ngài cùng với các Đấng kế vị. Bất ngờ dịp đó chúng tôi được chiêm ngưỡng xác Đức
Giáo hoàng Gioan XXIII, vị mục tử được gọi là Giáo hoàng nhân lành. Đức Gioan
XXIII, được phong Chân phước ngày 3/09/2000. Xác được đặt ngay phía dưới một
bàn thờ trong đền thờ Thánh Phêrô cho dân chúng kính viếng và cầu nguyện nhân dịp
kỷ niệm 30 năm khai mạc Công đồng Vaticanô II, Công đồng chung do Ngài loan báo
triệu tập. Thi hài ngài được đặt trong hòm kính, với khuôn mặt nguyên vẹn hồng
hào như đang ngủ. Công đồng Vaticanô II được gọi là Công đồng Đại Kết vì hướng
hiệp nhất của Giáo hội. Tôi nhớ về lời phát biểu của ngài về Đại kết: “Các anh
em tín hữu Kitô khác đều là anh em với chúng ta họ chỉ hết là anh em khi họ hết
học kinh Lạy Cha…." Đức Gioan XXIII, vị Giáo hoàng có những nỗ lực phi thường
để đối thoại với các tín hữu Kitô để tìm con đường hiệp nhất. Tôi còn nhớ đọc một
câu chuyện về Ngài khi trên giường bệnh và giờ hấp hối miệng ngài luôn khẩn
nguyện: “Xin cho họ hiệp nhất."
3. Họ không từ bỏ Ta
Truyền thuyết kể lại rằng khi Chúa Giêsu trở về
trời, sứ thần Gabriel hỏi Ngài xem mọi người đã nhận biết tình yêu Ngài dành
cho họ chưa. Chúa Giêsu trả lời: “Chỉ một số ít thôi.” Sứ thần Gabriel choáng
váng và hỏi: “Thế số còn lại sẽ nhận biết bằng cách nào?” Chúa Giêsu đáp: “Số
ít kia sẽ nói cho họ biết.” Sứ thần nói: “Nhưng nếu họ từ bỏ Ngài, nếu họ gặp
chống đối và nếu họ mất đi can đảm. Ngài không có kế hoạch dự phòng sao?” Chúa
Giêsu trả lời: “Không. Ta tin tưởng họ không từ bỏ Ta.”
Điều gì thuyết phục tôi rằng những người đi
theo Chúa Giêsu sẽ không từ bỏ Ngài?
Tôi thường nài xin Chúa giúp tôi. Thế rồi tôi
tự hỏi: tôi có thể giúp gì cho Ngài. (Hudson Taylor)
4. Ảnh hưởng của gương sáng.
Nhà giáo dục vĩ đại Booker T. Washington có viết
như sau trong cuốn tự thuật mang tựa đề: “Từ ách nô lệ đi lên” của ông: “Càng lớn
tôi càng tin chắc rằng, không một sự giáo dục nào có thể gặt hái được từ sách vở
hay từ những dụng cụ đắt tiền có thể sánh ví được với những gì ta có thể gặt
hái được do tiếp xúc với các bậc vĩ nhân."
Cách đây ít lâu một phụ nữ Ấn độ giáo đã trở lại
Công giáo, sau một thời gian nghe rao giảng Lời Chúa. Bà chịu nhiều dèm pha,
đay nghiến từ người chồng do việc bà trở lại đạo. Có lần cha xứ hỏi bà: “Khi chồng
con nổi giận và hành hạ con, thì con làm gì”? Bà đáp: “Thưa Cha, con cố gắng nấu
ăn ngon hơn, khi ông than trách, con lau chùi nhà sạch hơn; khi ông ăn nói cộc
cằn, con trả lời ôn tồn nhỏ nhẹ. Con cố gắng được chứng tỏ cho ông thấy khi con
trở lại đạo, con phải là người vợ và người mẹ tốt hơn."
Một thời gian sau, ông xin trở lại đạo Công
giáo, không phải vì lời giảng của cha xứ nhưng chính nhờ gương sáng sống đạo của
bà vợ đạo đức của ông.
5. “Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ
họ khỏi ác thần.”
Khi đọc câu Lời Chúa này, tôi nhớ lại kinh
nghiệm của một anh trong nhóm. Vì không thể từ chối, anh đành phải đi đến một
nhà hàng không được “trong ánh sáng” cho lắm. Mỗi người vào bàn, và mỗi người đều
có một cô “phục vụ” bên cạnh. Thoạt đầu, anh muốn tránh né, vì nghĩ rằng thái độ
có thể làm cô ấy tủi, nên anh cố gắng làm một điều gì đó tốt hơn. Sau khi hỏi
thăm về gia cảnh của cô, anh mới hỏi: “Tại sao cô phải là nghề này?” Cô gái
thinh lặng một lát rồi bật khóc. Mọi người nhìn anh khiến anh lúng túng… Trước
khi anh ra về, cô nói nhỏ: “Có lẽ em sẽ không tiếp tục sống bằng nghề này được.”
Lắm khi tôi xa lánh người xấu, những cái phàm
tục, trong khi Chúa Giêsu đã không xin Chúa Cha cất tôi khỏi thế gian. Lắm khi
tôi lại mải mê tìm kiếm “danh, lợi, thú.” Và vì sợ mất, tôi đã không dám sống
như lời Chúa Giêsu đòi hỏi.
6. Cho thì có phúc hơn nhận
Một bà mẹ bảo đứa con trai 7 tuổi đánh bóng
giày của bà vào dịp Giáng Sinh. Bà vui mừng vì việc làm của đứa con đến độ bà
cho nó 25 xu. Sau đó, khi mang đôi giày đã được đánh bóng vào, ngón chân bà đụng
vào một cái gì đó. Tháo giày chân trái ra, bà thấy một đồng 25 xu được gói
trong một mẫu giấy nhỏ có ghi: “Đây là 25 xu con trả lại mẹ, con đánh giày cho
mẹ vì tình yêu. Richard.”
Tinh thần cho đi của Richard và lời Chúa Giêsu
về việc cho đi mời gọi tôi tự hỏi: tôi có tinh thần cho đi thế nào trong đời sống?
Điều tốt nhất để cho kẻ thù là sự tha thứ, cho
kẻ đối lập là sự khoan nhượng, cho bạn bè là trái tim, cho con cái là tấm gương
sáng, cho chính mình là sự kính trọng, cho mọi người là lòng bác ái (Francis
M.Balfour).
7. Bàn tay trắng
Cuốn tiểu thuyết “Quyền lực và vinh quang” của
Graham Green nói về những bách hại tôn giáo ở Mêhicô. Một trong các nhân vật của
cuốn tiểu thuyết là một vị linh mục cao niên. Sự căng thẳng thường xuyên vì bị
cảnh sát săn đuổi đã để lại hậu quả trên ông. Ông quay sang rượu chè và không
phục vụ dân chúng một cách đúng đắn. Rốt cuộc, ông bị bắt và bị kết án tử hình.
“Buổi sáng ngày bị hành hình, ông thức dậy với nỗi đau khôn xiết. Nước mắt tràn
trên khuôn mặt... Ông không sợ bị đọa đày... Ông chỉ cảm thấy vô cùng thất vọng
vì phải trở về cùng Thiên Chúa với bàn tay trắng.” Ít ra, trong suy nghĩ của
mình, ông đã thất bại. Điều đó thật khác xa với thái độ của Chúa Giêsu!
Tôi có thể tiến hành công việc hàng ngày Thiên
Chúa trao phó cách tốt hơn thế nào?
Trung thành trong những điều nhỏ mọn là một điều
lớn lao (Thánh Gioan Kim Khẩu).
8. Làm chứng cho sự thật
Truyện thánh Pacôm kể rằng, khi còn ngoại đạo,
đã đăng lính trong đạo binh Rôma. Ngày kia, các binh sĩ trong đơn vị của ngài,
đã kiệt sức vì đói và khát sau khi đi bộ qua sa mạc dưới cái nóng chết người,
thất thểu vào thành Thebes (Tê-bes) ở Ai Cập. Thấy cảnh tượng đó, có nhiều người
chạy lại bên họ, cho họ ăn uống, cùng chăm sóc họ chu đáo, tận tình. Pacôm ngạc
nhiên hỏi những người tốt lành này là ai và được trả lời rằng: “Họ là các kitô
hữu.” Ngài thốt lên: “Một tôn giáo dạy người ta cứu giúp những kẻ khốn khổ hoàn
toàn xa lạ với mình là một tôn giáo chỉ có thể đến từ vị Chúa chân thật.” Sau
biến cố này, Pacôm, trở lại đạo Công giáo và trở thành một vị sáng lập các đan
viện, sống cộng đoàn bác ái huynh đệ. Philatô đã từng hỏi: “Sự Thật là gì?”
nhưng không thể hiểu được, còn Pacôm tin nhận Thiên Chúa là Sự Thật nhờ những
người kitô hữu ở Thebes đã làm chứng bằng hành động bác ái.
Người kitô hữu được “thánh hiến trong sự thật”
nên sống theo sự thật và làm chứng cho sự thật. Sự thật về Chúa Giêsu chỉ có thể
được tỏ hiện qua cái chết tự hiến vì yêu thương trên thập giá: “Ông này quả thật
là Con Thiên Chúa.” Noi gương Chúa Kitô, người kitô hữu không chỉ làm chứng
nhân bằng việc tử đạo mà còn làm chứng cho sự thật bằng chứng từ bác ái nữa.
9. Không thuộc về thế gian
"Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều
vua, lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước. Nay hạ thần cam chịu mọi
cực hình để nên giống Đức Kitô." Đó là câu trả lời của ông Micae Hồ Đình
Hy khi vua Tự Đức mời ông giả vờ bước qua thánh giá.
Ông là người thanh liêm, được nhà vua hết sức
tín cẩn, cho phụ trách ngành dệt trong cả nước. Nhưng ông cũng là một Kitô hữu
xông xáo làm việc tông đồ. Ông không thấy có gì xung khắc giữa việc phục vụ đất
nước với việc phục vụ Giáo Hội.
Khi quân Pháp bắn phá cảng Đà Nẵng thì ông bị
bắt, bị kết án là khinh luật nước, chống lại triều đình. Ông Hy đã chấp nhận
cái chết một cách bình thản. Trước khi chịu chém, ông còn xin hút một điếu thuốc,
hương vị cuối cùng của trần gian mà ông muốn nếm trước khi nếm hương vị của
thiên đàng vĩnh cửu.
Cuộc sống và cái chết của thánh Micae Hy soi
sáng cho đoạn Lời Chúa hôm nay. Người Kitô hữu có hai đầu dây cần phải giữ.
"Như Cha đã sai Con đến trong thế gian, Con cũng sai họ đến trong thế
gian" (Ga 17,18).
10. Sức mạnh của tinh thần
Quân nước Tề sang đánh nước Lỗ. Khi đến chỗ
giáp giới, trông thấy người đàn bà một tay bồng một đứa bé, một tay dắt đứa nữa.
Người đàn bà thấy quân kéo tới, vội vàng bỏ đứa đang bồng trên tay xuống mà bồng
đứa bé đang dắt, rồi chạy trốn vào trong núi. Đứa bé kia chạy theo khóc, người
đàn bà cứ chạy không ngoảnh lại.
Một viên tướng nước Tề cho bắt đến, hỏi: “Đứa
bé nàng bế chạy là con ai? Còn đứa bé nàng bỏ liều là con ai?”
Người đàn bà thưa: “Đứa tôi bế là con anh cả
tôi; đứa tôi bỏ lại là con tôi. Tôi thấy quân lính kéo đến, sức tôi không thể
bảo toàn được cả hai đứa, cho nên tôi đành phải bỏ con tôi lại."
Viên tướng nước Tề nói: “Con với mẹ kể tình
thân yêu thì đau xót lắm. Nay bỏ con mình lại mà chạy lấy con anh là cớ làm
sao?”
Người đàn bà nói: “Con tôi là ‘tình riêng’ con
anh tôi là ‘nghĩa công’. Con đẻ tuy đau xót thật, nhưng đối với việc nghĩa thì
tính làm sao. Cho nên tôi đành bỏ liều con tôi mà làm việc ‘nghĩa’. Tôi không
thể nào chịu tiếng vô ‘nghĩa’ mà vác mặt sống ở nước tôi được."
Viên tướng nước Tề dừng quân lại, sai người
tâu với vua Tề rằng: “Nước Lỗ chưa thể đánh được. Quân ta mới đến chỗ cương giới,
đã thấy con mụ đàn bà xó rừng còn biết làm điều ‘nghĩa’ chẳng chịu đem tình
riêng mà hại ‘nghĩa công’ huống chi là những bậc quan lại, sĩ phu trong nước.
Xin kéo quân về."
Vua Tề cho là phải.
Sau vua Lỗ biết chuyện này, thưởng người đàn
bà một trăm tấm lụa và phong tước.
Câu chuyện cho ta thấy sức mạnh của một quốc
gia được biểu lộ nơi những con người biết nghĩ tới người khác, biết hy sinh
quyền lợi mình cho quyền lợi người khác. Hiển nhiên là giá trị của một cộng đồng,
cũng được biểu lộ nơi những con người biết hành động như vậy.
11. Làm một giọt nước trong
Năm 1979, trên đường về nhà sau khi lãnh giải
Nobel, Mẹ Têrêxa đã ghé qua Rôma. Rất nhiều ký giả bao vây để chụp hình và muốn
phỏng vấn. Một ký giả táo bạo hỏi Mẹ:
- Năm nay Mẹ đã 70 tuổi. Khi Mẹ qua đời thế giới
cũng vẫn như trước! Chẳng có gì thay đổi sau bao nhiêu cực nhọc?
- Anh thấy đó, tôi không bao giờ nghĩ rằng
mình có thể thay đổi thế giới. Tôi chỉ tìm cách làm một giọt nước trong, một giọt
nước lóng lánh rạng ngời tình yêu Thiên Chúa. Anh cho là quá ít sao? Mẹ trả lời
với một nụ cười thật tươi.
Anh ta lúng túng… các ký giả khác lặng thinh.
Mẹ nói tiếp:
- Anh hãy cố gắng trở thành một giọt nước
trong. Như thế sẽ có hai giọt nước trong. Anh lập gia đình chưa?
- Dạ rồi.
- Vậy anh cũng hãy nói với vợ như thế, và
chúng ta sẽ là ba giọt nước trong. Anh có con chưa?
- Thưa Mẹ, ba đứa.
- Tốt lắm. Vậy anh cũng nên nói với các con,
và như thế, tất cả chúng ta sẽ là sáu giọt nước trong.
Từ một đến hai, đến ba, rồi đến sáu giọt nước
trong. Những giọt nước lóng lánh rạng ngời tình yêu Chúa. Đang dồn sức cho việc
tông đồ, tại sao tôi lại không nghĩ đến một cuộc hiện xuống mới của Chúa Thánh
Thần theo cách trình bày của Mẹ Têrêxa? Nhỏ bé thôi mà rất vĩ đại!
Giọt nước đầu tiên là tôi. Hãy là giọt nước
lóng lánh rạng ngời tình yêu Chúa.
12. Kỳ vọng
Ngày kia, Thomas Edison đem về cho mẹ một tờ giấy; mở ra, đôi mắt bà thất thần, đẫm lệ. Bà đọc lớn tiếng, “Con của bà là một thiên tài; trường này quá nhỏ, không đủ để đào tạo cháu. Bà hãy tự dạy cháu!” Về sau, Edison - đã là một nhà phát minh lớn - ngày kia, lục lại đồ cũ, bỗng tìm thấy mảnh giấy năm xưa. Tờ giấy ghi, “Con bà đần, chúng tôi không nhận nó.” Edison khóc hàng giờ và viết xuống những dòng này, “Edison, một thằng đần, sinh ra bởi một bà mẹ anh hùng. Nó đã trở thành một thiên tài của thế kỷ!” Ông nhớ lại, “Mẹ tôi vẫn luôn kỳ vọng vào tôi; bà là một ai đó để tôi không làm cho thất vọng!”
Nếu bà mẹ của
Edison kỳ vọng tuyệt đối vào con, thì Chúa Giêsu còn kỳ vọng vào các môn đệ của
Ngài bội phần! Họ không chỉ là những ‘thiên tài’ tạo nên sự khác biệt cho thế
giới, nhưng còn là những ‘thiên tài’ cứu độ thế giới! Tin Mừng hôm nay tiết lộ
‘kỳ vọng’ của Ngài, “Như Cha đã sai Con đến thế gian, Con cũng sai họ đến thế
gian!”
THỨ NĂM - Sức mạnh của hiệp nhất
Lời Chúa: Ga 17,
20-26
Khi ấy, Chúa
Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: “Con không cầu xin cho chúng mà thôi,
nhưng còn cho tất cả những kẻ, nhờ lời chúng mà tin vào Con, để mọi người nên một,
cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một trong Ta,
để thế gian tin rằng Cha đã sai Con.
Con đã ban cho
chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để chúng nên một như Chúng Ta là một.
Con ở trong chúng, và Cha ở trong Con, để chúng được hoàn toàn nên một và để thế
gian biết rằng Cha đã sai Con, và Con đã yêu mến chúng như Cha đã yêu mến Con.
Lạy Cha, những kẻ
Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con, để chúng
chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo
thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết
Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết
danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và
Con cũng ở trong chúng nữa."
TRUYỆN KỂ
1. Sức mạnh của hiệp nhất.
(‘Mỗi Ngày Một
Tin Vui’)
Có một câu truyện
cổ như sau:
Trong một buổi hội
họp của tất cả các muông thú rừng xanh, dòng giống nhà cọp đã dành được ngôi vị
Chúa sơn lâm nhờ vào sức mạnh và bản tính hung dữ của chúng. Ngày kia, cọp gặp
người thợ săn. Trước khi phóng mũi tên, bác thợ săn nói với cọp:
- Hỡi Chúa sơn
lâm, hãy đón nhận điều mà con người gửi đến các muông thú.
Và mũi tên đã cắm
phập vào lưng cọp. Quá đau đớn, cọp đã chạy trốn vào rừng rậm. Thấy cọp bỏ chạy,
một con sói già hỏi: tại sao? Cọp lắc đầu đáp:
- Chỉ một lời con
người muốn nói với ta, mà đã làm ta đau đớn thế này, thì làm sao chúng ta có thể
chống lại bọn họ.
Sói già an ủi cọp:
- Điều suy nghĩ của
Chúa sơn lâm thực tế, tuy nhiên, Chúa sơn lâm lại quên một điều là nếu tất cả
muông thú rừng xanh đoàn kết lại, chúng ta có thể chống lại con người. Như nhà
sói chúng tôi đây tuy sức mạnh không bằng Chúa sơn lâm, nhưng cả một bày sói, với
sức mạnh tổng hợp, chúng tôi có thể làm thịt người thợ săn.
2. Nên một trong tình
yêu Chúa
(Lm Nguyễn Vinh
Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một người kia có
ba người con trai, trước khi qua đời ông muốn dạy các con bài học hiệp nhất:
“Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”, ông gọi các con đến và nói: Vàng bạc thì
cha không có, cha có một gia tài quý giá hơn cả vàng và muốn để lại cho các
con. Nói xong, ông lấy ra ba chiếc đũa tre trao cho ba người con mỗi người một
chiếc và bảo: “Các con hãy bẻ gãy chiếc đũa cho cha xem." Ba người con
vâng lời cha bẻ gãy chiếc đũa dễ dàng.
Sau đó, người cha
trao cho ba người con mỗi người một bó đũa và nói: “Các con hãy bẻ gãy bó đũa
này cho cha xem." Lúc này ba người con dùng hết sức vẫn không sao bẻ gãy
được. Bấy giờ, người cha mới nói: “Nếu các con biết đoàn kết yêu thương nhau
thì các con giống như bó đũa kia sẽ không có sức mạnh nào làm gãy được các con.
Ngược lại, nếu các con không đoàn kết yêu thương nhau mỗi người một nơi thì các
con sẽ như chiếc đũa kia bị bẻ gãy một cách dễ dàng, hiệp nhất: “Đoàn kết thì sống,
chia rẽ thì chết."
Nói xong, người
cha ra đi trong vòng tay yêu thương của các con.
3. Hiệp nhất là dấu chứng
cho sự hiện diện của Chúa
Đức Giáo hoàng
Phaolô VI đã diễn tả rất sâu sắc về giá trị tông đồ của sự hiệp nhất, ngài đã
nói như sau: “Lời di chúc thiêng liêng của Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu rằng sự
hiệp nhất giữa các môn đệ không những là bằng chứng chúng ta là môn đệ của
Ngài, nhưng còn là bằng chứng Ngài được Chúa Cha sai đến và đó cũng là trắc
nghiệm về sự đáng tin của các Kitô hữu và của chính Đức Kitô."
Có hiệp nhất với
nhau, các kẻ tin mới tỏ ra mình không phải là những con người bị chia rẽ bởi những
tranh chấp, nhưng là những con người trưởng thành trong đức tin, trưởng thành
trong lòng mến và có khả năng gặp gỡ nhau nhờ việc cùng tìm kiếm chân lý cách
chân thành và vô vị lợi.
Như thế, sự hiệp
nhất chứng tỏ chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu, chứng tỏ chúng ta là những người
trưởng thành trong đức tin cậy mến, và đó là lý do thu hút người ngoài để họ dễ
tin vào lời chứng của chúng ta.
4. Thích được biết đến
Nhạc trưởng
Michael Costa đang diễn tập với dàn hợp xướng gồm cả trăm nhạc cụ và nhạc công.
Bỗng có tiếng sáo ré lên. Chắc người thổi sáo sợ rằng nhạc trưởng không nghe thấy
tiếng sáo của mình. Nhạc trưởng cáu kỉnh quát: “Tiếng sáo nào kì vậy?” Và phải
tập lại từ đầu.
5. Lo cho dân
Hoàng đế Fransois
Joseph là vua nước Hung gia lợi từ 1848-1916, một triều đại dài nhất trong lịch
sử và cũng là một triều đại tiến bộ nhất. Hoàng đế là con người rất nghiêm khắc,
nhưng lại trị vì đất nước rất khoan dung.
Khởi đầu triều đại
của ông, bệnh dịch tả lan tràn khắp Châu Âu. Triều thần đề nghị với vua
Fransois Joseph bỏ kinh đô Vienne nước Áo để sang Salzburg nước Hung Gia Lợi,
cho tới khi tai họa qua đi. Vua Fransois Joseph liền hỏi:
- Ở Salzburg có đủ
phòng nghỉ cho con cái ta không?
Quan đại thần
thưa:
- Tâu đức vua, ở
Salzburg chắc chắn có đủ phòng nghỉ cho tất cả hoàng gia.
Vua Fransois
Joseph hỏi lại hai lần nữa:
- Có thực sự có
phòng đủ cho con cái ta chớ?
Rồi giơ tay chỉ
vào dân chúng đông đúc đang đứng ngoài sân mà nói với quan đại thần:
- Quan hãy nhìn
đám dân chúng đông đúc kia. Họ là con cái của ta cả. Có người cha nào đang tâm
bỏ con cái trong nguy hiểm sao? Không! Những người tại thủ đô Vienne này đã
chia sẻ vui buồn với ta. Ta sẽ không bỏ họ trong giờ lo âu. Ta phải quan tâm đến
họ, như là lo cho chính ta vậy.
Một ông vua trần
thế mà còn biết thương và lo cho dân như thế, huống chi là Chúa Giêsu, Chúa của
chúng ta. Làm sao Chúa co thể vui khi con cái của Ngài không được chung hưởng hạnh
phúc Thiên đàng với Ngài.
6. Phục vụ cho quê
hương
Hồi còn làm tổng
thống Hoa Kỳ, ông Roosevelt đã có lần sang mãi tận Phi châu để nghỉ hè. Ông
thích săn những con hươu cao cổ tại đó. Sau những ngày nghỉ hè thú vị, tổng thống
lên đường trở về. Trong chuyến tàu đem tổng thống trở về, người ta cũng thấy có
một nhà truyền giáo sau hơn bốn mươi năm phục vụ những người dân Phi châu cùng
có mặt trên con tàu.
Khi tàu sắp cập bến,
nhà truyền giáo thấy cảnh dân chúng đứng trên bờ cùng với nhiều nhân vật cấp
cao trong chính phủ hân hoan chào đón tổng thống Roosevelt đi săn trở về bình
an. Ông cảm thấy tủi thân vì hình như chẳng có ai để ý đến mình. Một thân một
phận lủi thủi lên bờ. Tự thâm tâm ông như muốn trách Chúa:
- Đấy, Chúa thấy
không, tổng thống đi nghỉ hè về thì được nhiều người ra đón rước như vậy. Còn
con, con đã hy sinh chịu cực vì Chúa, phục vụ anh chị em nghèo khổ tại Phi Châu
trong suốt bốn mươi năm qua. Thế mà bây giờ trở về đây, không ai thèm nghĩ đến
con, thật là bất công và tủi cho thân phận con quá.
Nhưng ngay lúc
đó, dường như có tiếng Chúa trả lời cho nhà truyền giáo:
- Này con, đừng vội
thất vọng, con chưa trở về quê hương thật của con mà!
7. “Để cả chúng cũng
nên một trong Ta” (Ga 17,21).
Trong một buổi
thuyết trình về đạo được tổ chức trên boong một du thuyền lớn, tiến sĩ A.
Simpson giải thích với cử tọa về vấn đề này như sau: Ông lấy một cái chai quẳng
vào lòng biển. Cái chai rơi vào đại dương và đang ở trong đại dương.
Nước biển chui
vào chiếm hữu cái chai, nước biển càng vào, cái chai càng từ từ chìm sâu vào
lòng đại dương. Ông kết luận:
- Cái chai ở
trong đại đương và đại dương ở trong cái chai. Đó là hình ảnh xác thực nhất để
chỉ mối tương giao giữa Chúa Giêsu và chúng ta là những môn đệ của Người.
Thánh Gioan Thánh
Giá, linh mục, trong bài ca thiêng liêng của ngài, ngài đã diễn tả về vấn đề
này thật hay như sau: “Chúa Cha đã thực hiện điều Chúa Con cầu xin khi thông
ban cho họ chính tình yêu thương Người hằng thông ban cho Chúa Con. Tuy vậy,
Người không thông ban cho họ theo bản tính như khi Người thông ban cho Chúa
Con, nhưng đã thông ban cho họ bằng cách lấy tình thương mà kết hợp họ với Người
và thần hóa họ. Cũng thế, không nên hiểu rằng Chúa Con xin Chúa Cha cho họ nên
một theo yếu tính và bản thể như Chúa Cha với Chúa Con là một, nhưng Người chỉ
muốn xin cho họ nên một nhờ kết hợp với nhau trong tình thương, như Chúa Cha và
Chúa Con vẫn là một trong Tình Thương duy nhất. Do đó, các linh hồn được thông
phần với Thiên Chúa những điều tốt đẹp mà Chúa Cha và Chúa Con vẫn có theo bản
tính. Vì vậy, nhờ được thông phần với Thiên Chúa, các linh hồn thực sự là những
vị thần. Họ nên giống Thiên Chúa và được chung phần với Người.
Lạy Chúa, xin cho
chúng con được nên một với Chúa. Amen.
8. Chia rẽ thì thua
Ông Phaolô lợi dụng
sự bất đồng Đức Tin giữa nhóm Biệt phái và phe Sađốc, để ông gây chia rẽ trong
họ. Trước tòa án, ông nói: “Thưa quý vị đồng bào, tôi là Biệt phái, con của Biệt
phái, tôi bị ra tòa vì mối hy vọng, tức là sự sống lại từ cõi chết." Ông vừa
nói thế thì xô xát liền xảy ra giữa Biệt phái và Sađốc, và đám hội bị phân bè.
Vì phe Sađốc quyết không tin có sống lại, không có Thiên thần hay ma quỷ gì cả,
còn Biệt phái lại tin tất cả các điều ấy. Tiếng la lối ầm lên, có những Ký lục
thuộc cánh Biệt phái chỗi dậy gây gổ bảo rằng: “Chúng tôi không thấy chút gì
trái nơi đương sự. Biết đâu đã có vị linh thiêng hay Thiên thần phán bảo ông ấy?
Cuộc xô xát đã đến độ trầm trọng, viên trưởng cơ sợ ông Phaolô bị xâu xé, thì
sai binh đội xuống giựt ông khỏi đám họ mà dẫn về đồn."
Như thế, ông
Phaolô vận dụng giáo lý về sự sống lại, có Thiên thần và có ma quỷ để gây chia
rẽ giữa Biệt phái và Sađốc. Đó là cách ông Phaolô làm cho những người tin vào
Giáo Lý của Đức Giêsu được hiệp nhất trong Chân Lý, đem lại cho họ sự sống hạnh
phúc dồi dào muôn đời. Bởi vì bản chất Giáo Lý của Chúa là gây chia rẽ giữa tư
tưởng của loài người với tư tưởng của Thiên Chúa, như Đức Giêsu nói: “Đừng tưởng
Ta đến đem bình an trên mặt đất, Ta đến không phải để đem lại bình an mà là
gươm giáo. Ta đến để chia rẽ người ta với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng
dâu với mẹ chồng mình, và kẻ thù của người ta là những người nhà mình” (Mt 10,
34-36).
Do đó ta không được
nói sự thật một nửa, vì đó là cách nói láo độc hại nhất. Ví dụ: “Hiệp nhất thì
sống, chia rẽ là chết." Kìa Biệt phái và Sađốc khi còn hiệp nhất với nhau,
mà không dựa trên Chân Lý của Chúa, không bởi Thánh Thần, nên sự hiệp nhất ấy
gây ra cái chết cho ông Phaolô, không đem lại sự sống cho ai.
9. Nối kết với Thiên
Chúa
Năm 1985, Steve
Trotter trở thành người thứ bảy trong lịch sử đã sống sót khi nhảy ở độ cao 50
thước từ thác Niagara trong một chiếc thùng. Trotter nói anh có cảm tưởng như ở
trên một thang máy không có dây gắn vào. Khi nghĩ về sự can đảm, chúng ta thường
nghĩ đến can đảm thể lý. Một sự can đảm lớn hơn được Phaolô đề cập trong bài đọc
hôm nay là sự can đảm luân lý.
Đó là sự can đảm
mà các môn đệ Chúa Giêsu phải thể hiện hằng ngày trong thế giới hiện nay.
Làm cách nào tôi
có thể xây dựng lại tòa nhà của sự can đảm khi nó suy sụp?
Chúng ta sẽ an
toàn vượt qua giông bão, bao lâu niềm tin của chúng ta còn gắn chặt vào Thiên
Chúa (Thánh Phanxicô Salêsiô).
10. Cùng sống, cùng chết
Có một câu truyện
về một nhóm người bị đắm tàu trôi dạt trong chiếc thuyền cấp cứu hẹp và dài.
Chiếc thuyền dài đến độ người phía trước nghĩ chính họ là người “trước hết” và
người phía sau tưởng họ là người “sau cùng.” Một hôm, phía trước thuyền bị rò rỉ
không thể nào kìm giữ được. Người đàn ông ngồi phía sau nói với người phụ nữ kế
bên: “Cám ơn Chúa, thuyền bị rỉ phía trước, nếu nó rỉ phía sau, chắc chúng ta tận
số.”
Câu truyện trên
hàm chứa một bài học quan trọng cho tất cả chúng ta. Chúng ta quên rằng tất cả
chúng ta cùng ở trên một chiếc thuyền. Một đe dọa nghiêm trọng nào xảy ra cho một
phần thế giới cũng đe dọa nghiêm trọng đến những phần khác.
Tại sao tôi đồng
ý hoặc không đồng ý với nhận định của John Kennedy: “Nếu một xã hội tự do không
giúp được nhiều người nghèo, nó cũng chẳng cứu được một số ít người giàu?”
Chúng ta phải học
chúng sống với nhau như anh em, hoặc cùng chết với nhau như những kẻ khờ dại (Martin
Luther King).
11. Giá trị của lời
nguyện
Alexis Carrel,
người đoạt giải Nobel, viết: “Khi cầu nguyện, chúng ta liên kết chính mình với
quyền lực tạo dựng vũ trụ. Chúng ta nài xin một phần quyền lực ấy được chia sẻ
cho nhu cầu của chúng ta. Ngay lúc nài xin, những khiếm khuyết của chúng ta được
lấp đầy, và chúng ta trở nên mạnh mẽ, tươi mới... Cầu nguyện chân thành là một
lối sống. Cuộc sống đích thực chính là cuộc sống cầu nguyện.”
Việc cầu nguyện
tác động thế nào lên cuộc đời tôi khi tôi thường xuyên cầu nguyện?
Cầu nguyện cũng
giống như bật công tắc điện. Nó không tạo ra dòng điện, nhưng chỉ cung cấp một
đường dẫn cho dòng điện chạy vào. (Max Handel)
THỨ SÁU - Cơ hội thứ hai
Lời Chúa: Ga 21,
15-19
Khi Chúa Giêsu đã
tỏ mình ra cho các môn đệ, Người dùng bữa với các ông, và hỏi Simon Phêrô rằng:
“Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?” Ông đáp:
“Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Người bảo ông: “Con hãy chăn
dắt các chiên con của Thầy."
Người lại hỏi:
“Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy
biết con yêu mến Thầy." Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của
Thầy."
Người hỏi ông lần
thứ ba: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Phêrô buồn phiền, vì
thấy Thầy hỏi lần thứ ba “Con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy
biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy” Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các
chiên mẹ của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt
lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ
thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến." Chúa nói thế có
ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy
đoạn, Người bảo ông: “Con hãy theo Thầy."
TRUYỆN KỂ
1. Cơ hội thứ hai.
Trong một cuộc phỏng
vấn, khi những người trung niên và lớn tuổi được hỏi về những năm tháng đã qua
của cuộc đời mình, họ có hối tiếc gì không, và nếu có cơ hội thứ hai, họ sẽ quyết
định như thế nào. Một số người cho biết, họ vẫn làm những gì họ đã chọn lựa.
Ngược lại, một số đông cho biết họ đã chọn lựa sai ở một số thời điểm quyết định
sự thành bại, và nếu bây giờ có cơ hội thứ hai, họ sẽ chọn lựa khác hẳn.
Tin mừng hôm nay
cho chúng ta chứng kiến việc Chúa Giêsu trao ban cho Phêrô cơ hội thứ hai.
Thiên Chúa luôn sẵn
sàng cho chúng ta cơ hội thứ hai, không phải một lần mà là nhiều lần. Điều quan
trọng là chúng ta phải thành tâm nhìn nhận tội lỗi, xin ơn tha thứ và bắt đầu lại.
Do đó mối hiểm nguy là do chúng ta tự định giới hạn cho lòng nhân từ vô biên của
Thiên Chúa, mà không xin Ngài một cơ hội khác. Đó là sự khác biệt giữa Giuđa và
Phêrô: Cả hai đã phản bội Thày trong cùng một ngày, nhưng Giuđa không xin cơ hội
thứ hai nên đã thất bại, còn Phêrô đã tận dụng cơ hội được ban cho và đã toàn
thắng.
2. Có yêu thì mới chu
toàn
Khi nói về tình
yêu, nhạc sĩ Nguyễn Duy đã có một bài hát mang tên: “Xin định nghĩa tình yêu”,
trong đó có đoạn:
“Yêu là chết đi,
là đóng đinh, là biết hy sinh cho người mình yêu [...]. Yêu: xin đừng dối gian,
xin đừng trái ngang, dù lắm lo toan, xin đừng ly tan. Hãy yêu như Giêsu, chết
đi cho dương gian, đóng đinh cho người mình yêu mến. Hãy yêu trong an vui, thủy
chung trong đau thương, sống trong cuộc đời đầy mến yêu."
Lời bài hát trên
mang đậm chữ “yêu." Thật vậy, con người nếu không có tình yêu, hỏi rằng
chúng ta có thể sống có ý nghĩa được chăng? Thưa không! Chỉ có tình yêu, con
người mới làm cho cuộc đời này chan chứa niềm vui, dẫu vẫn còn đó khổ đau, bất
hạnh, hiểu lầm...
3. Chăn dắt các chiên của
Thầy
Trong thánh lễ an
táng Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Đức Hồng y Joseph Ratzinger, tức là Đức
Giáo hoàng Bênêđictô XVI sau này, giảng lễ gợi hứng từ Tin Mừng Ga 21,15-19, và
tập trung vào lời Chúa Giêsu nói với Phêrô: “Hãy theo Thầy” (Ga 21,19).
Đức Hồng y Joseph
Ratzinger, suy tư và khai triển tiếng gọi của Chúa Giêsu cho Phêrô “Hãy theo Thầy”,
tiếng gọi này nhưng cũng xuyên suốt cuộc đời Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II,
đấng kế vị Phêrô, từ khi lãnh tác vụ linh mục giữa thời chiến tranh, tiếp đến sứ
vụ Giám mục trong thời kỳ bức màn sắt, cho đến khi lên ngôi Giáo hoàng như lời
Chúa uỷ thác: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy."
4. Tại sao Chúa Giêsu lại
hỏi Phêrô tới ba lần như vậy?
Có nhiều nhà giải
thích Thánh kinh nói rằng: Chúa Giêsu hỏi Phêrô ba lần như vậy là để tỏ ra tầm
quan trọng của nhiệm vụ mà Chúa sắp trao phó cho ông.
Có những tác giả
khác cho rằng: Chúa hỏi đi hỏi lại như vậy là muốn cho mọi người biết rõ rệt
Chúa trao quyền Tông đồ trưởng cho Phêrô, và quyền ấy phải đi đôi với tình yêu
của ông đối với Chúa, quyền lợi đi đôi với tình yêu, tình yêu bao trùm mọi
trách nhiệm.
Một số người khác
lại cho rằng: Ba câu trao sứ mạng, lần lượt nói “chiên con” ở hai lần đầu và
“chiên mẹ”ở lần sau cùng, là Chúa có ý đề cập đến quyền lãnh đạo của Phêrô trên
cả giáo dân và các chủ chăn khác,
Có người lại cho
rằng Chúa hỏi Phêrô ba lần như vậy là có ý gợi lại ba lần ông đã chối Chúa.
Có người lại cho
rằng ba lần hỏi, ba lần trao nhiệm vụ như thế, cũng hiểu là Chúa trao ba quyền
cho Phêrô: giảng dạy, tế lễ và cai trị, tức là ba chức vụ: giảng dạy, thánh hóa
và lãnh đạo (Lm Phạm văn Phượng).
5. Hãy theo Thầy
Nhà hiền triết
Socrate gặp chàng trai trẻ Xenophon lần đầu. Thoạt tiên, ông hỏi chàng có biết ở
đâu bán cái này, cái nọ, và ở đâu người ta chế ra vật này, vật kia, Xenophon chỉ
cho Socrate những thông tin cần thiết. Rồi Socrate hỏi:
- Anh có biết người
ta chế tạo điều lành và nhân đức ở đâu không?
- Không.
- Vậy anh hãy
theo ta.
Đó cũng là câu
Chúa Giêsu nói với ông Phêrô: “Hãy theo Thầy” (Góp nhặt).
6. “Quo vadis”: Ngài đi
đâu đó.
Câu chuyện truyền
kỳ về những ngày chót của cuộc đời ông chắc chắn cũng chứa đựng ít nhiều sự thật.
Ông đến Rôma trong thời kỳ bắt đạo. Lúc cơn bắt đạo dâng cao, ông đã sợ hãi và
muốn lẩn trốn nhưng vừa ra khỏi thành thì ông gặp một người vai mang Thập giá
đang đi hướng về phía thành.
Ông hỏi: “Quo
vadis”: Ngài đi đâu đó?
Người ấy trả lời:
“Ta đi vào Rôma để cho người ta đóng đinh một lần nữa."
Phêrô quay đầu trở
lại. Ông vào Rôma và chịu tử đạo tại đó. Truyền thống kể rằng ông cảm thấy
không xứng đáng được đóng đinh như Thầy nên ông xin được chết trên Thập giá
trong tư thế đầu lộn ngược xuống đất.
Ông thực hiện
đúng lời của Chúa: “Khi về già ngươi sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng
cho và lôi ngươi đi đến nơi ngươi không muốn” (Ga 21,18-19).
7. Thầy biết con
yêu mến Thầy
Alexander đại đế,
khi còn nhỏ là một cậy bé thông minh. Một hôm cha cậu mua phải một con ngựa khó
tính, không ai dạy nổi. Thế mà Alerxander thuần phục con ngựa ấy một cách dễ dàng.
Có người hỏi cậu bí quyết khắc phục con ngựa ấy, cậu trả lời: “Chẳng có gì lạ.
Tôi xét kỹ thấy con ngựa này rất sợ cái bóng của nó. Vì thế chỉ cần quay nó hướng
về mặt trời để nó không còn thấy cái bóng của nó nữa.”
Ông Phêrô rất sợ
cái bóng của mình, nhưng khi ông hướng về Chúa, Đấng giàu lòng thương xót, sợ
hãi như tan biến đi, nhường chỗ cho tín thác xâm chiếm cả tâm hồn ông.
Lạy Chúa, Chúa
ngàn lần khôn ngoan hơn con, Chúa biết con hơn con biết con và Chúa yêu con hơn
con yêu con. Con tín thác đời con cho Chúa.
8. Điều kiện: Yêu
Trước khi Đức
Giêsu trao quyền thủ lãnh cho, Ngài không đòi hỏi ông về kiến thức, cũng không
đòi ông phải có tài năng, địa vị, hay giàu có, mà Ngài chỉ tra hỏi ông về tình
yêu:
Trước nhất, ta phải
phân biệt hai động từ yêu được dùng trong trình thuật này:
* Agapê: Là tình
yêu của Thiên Chúa, yêu không tìm lợi nhuận nơi người đời, không phân biệt bạn
hay thù, chấp nhận mất mạng vì phục vụ phàm nhân theo ý Cha trên trời.
* Philein: Yêu
trong tình bạn, dựa trên công bằng giao hoán.
Ta thấy ba lần
Chúa Giêsu hỏi và ông Phêrô trả lời:
- Con có Agapê Thầy
không? Dạ, con Philein Thầy. Con hãy chăn chiên (Arnia).
- Con có Agapê Thầy
không? Dạ, con Philein Thầy. Con hãy chăn cừu (Probata).
- Con Philein Thầy
sao? Dạ, con Agapê Thầy. Con hãy chăn cừu (Probata).
Như vậy,
a- Chỉ khi nào thủ
lãnh Phêrô trả lời Agapê, giống như Chúa Giêsu yêu loài người, thì mới đạt.
b- Ba lần Chúa
Giêsu hỏi về tình yêu của ông Phêrô, Ngài muốn ông chuộc lại ba lần đã chối Thầy.
Vì thế lần thứ nhất Chúa Giêsu hỏi ông: “Phêrô, con có yêu mến Thầy HƠN những
người này không?” (Ga 21, 15: Tin Mừng).
9. Thấy Chúa yêu
Một buổi sáng,
ông thầy dòng ra vườn cầu nguyện. Đứng trước hàng chôm chôm đầy trái, bên cạnh
giàn bí với những quả thật lớn, thầy suy nghĩ: "Chẳng biết Chúa có mắt
không. Sao trái chôm chôm bé tí thế kia lại mọc trên cành cây to, còn quả bí khổng
lồ lại bám vào dây leo tí tẹo? Chẳng hợp lý chút nào." Đang miên man suy
nghĩ, chợt một cơn gió thổi qua, một trái chôm chôm rơi ngay đỉnh đầu. Giật nẩy
mình, như vừa tỉnh khỏi cơn mơ, thầy quỳ sụp xuống: «Ôi lạy Chúa, may Chúa có mắt,
nếu để trái chôm chôm to bằng quả bí thì đầu con còn đâu!» Thế đấy, Thiên Chúa
thấy và biết hết mọi sự. Ngài luôn có lý; và kế hoạch của Ngài luôn tốt đẹp cho
chúng ta, vì Ngài YÊU THƯƠNG CHÚNG TA. Dĩ nhiên, Thiên Chúa cũng biết rõ tôi có
yêu mến Ngài hay không. Vậy điều quan trọng là tấm lòng của tôi như thế nào đối
với Thiên Chúa, cụ thể là đối với Đức Giêsu Kitô, hiện thân của tình yêu Thiên
Chúa.
Mời Bạn: Cảm nhận
tình yêu của Chúa Giêsu dành cho bạn. Người đã yêu thương bạn đến cùng đó. Và
nhìn lại thái độ hững hờ, đôi khi bạc bẽo của mình trước tình Chúa. Ôi, tấm
lòng của mình sao chật hẹp quá! Chúa Giêsu cũng đang hỏi bạn có yêu mến Người
không. Hãy xin Chúa cho mình có thể thốt lên được với tất cả sự chân thành như
Phêrô: «Lạy Thầy, Thầy biết rõ mọi sự. Thầy biết con yêu mến Thầy.»
THỨ BẢY - Làm chứng cho Chúa
Lời Chúa: Ga 21, 20-25
Khi ấy, Phêrô quay lại, thấy môn đệ Chúa
Giêsu yêu mến theo sau, cũng là người nằm sát ngực Chúa trong bữa ăn tối và hỏi
"Thưa Thầy, ai là người sẽ nộp Thầy?" Vậy khi thấy môn đệ đó, Phêrô hỏi
Chúa Giêsu rằng: "Còn người này thì sao?" Chúa Giêsu đáp: "Nếu Thầy
muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến con? Phần con, cứ
theo Thầy.” Vì thế, có tiếng đồn trong anh em là môn đệ này sẽ không chết.
Nhưng Chúa Giêsu không nói với Phêrô: "Nó sẽ không chết", mà Người chỉ
nói: "Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến
con.”
Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó
và đã viết ra, và chúng tôi biết lời chứng của người ấy xác thật. Còn nhiều việc
khác Chúa Giêsu đã làm, nếu chép lại từng việc một thì tôi thiết tưởng cả thế
giới cũng không thể chứa hết các sách viết ra.
TRUYỆN KỂ
1. Làm chứng cho Chúa.
Trong kỳ nội chiến, Tổng thống Hoa kỳ là
Abraham Lincoln có một sĩ quan trẻ làm thư ký. Viên sĩ quan này nổi tiếng là
gan dạ, do đó công việc bàn giấy xem ra không thích hợp với anh. Anh chỉ mơ ước
trở lại mặt trận và nếu cần sẵn sàng chết cho tổ quốc hơn là làm công việc đơn
điệu nhàm chán trên bàn giấy.
Một ngày nọ, sau khi nghe anh than phiền, Tổng
thống Lincoln nhìn thẳng mắt anh và nói: “Hỡi anh bạn trẻ, như tôi nhận thấy
thì quả thực anh luôn muốn xả thân chết cho tổ quốc, nhưng có lẽ anh không muốn
sống cho tổ quốc.”
Tử đạo theo nguyên ngữ là “làm chứng cho đức
tin.” Có người dùng cái chết để làm chứng, có người dùng cả cuộc sống.
2. Lời chứng từ máu thịt
Thánh Gio-an lúc bảy mươi tuổi bắt đầu viết
Tin mừng làm chứng về Đức Giêsu. Hôm nay, Ngài ký vào lời chứng này.
Được gắn bó sâu sắc với Thầy, Gioan có được
đức tin mạnh mẽ cho con đường đặc biệt mà Thầy chuẩn bị và muốn ông đi: Không đổ
máu làm chứng cho Chúa dù đã kề cận bên cái chết tử đạo: Người bị cầm tù ở
Rôma, còn bị ném vào trong một vạc dầu sôi, nhưng Thiên Chúa gìn giữ ông được
bình an vô sự. Sau đó, Gioan bị kết án đi làm hầm mỏ tại trại tù ở đảo Patmos.
Tại đây, Ngài đã viết cuốn sách Khải huyền chứa đầy những lời tiên tri.
Ngôn từ cuốn Tin mừng này đôi khi khó hiểu,
bí ẩn, sâu kín, mang lại kinh nghiệm dày dạn sâu lắng của đời sống Kitô giáo, đời
sống phục sinh. Ngài truyền lại cho chúng ta kiến thức về Đức Kitô sau khi đã cầu
nguyện, Suy niệm lâu dài mãi tới già.
3. Cảm nghiệm và làm chứng
Trên các trang báo điện tử thời gian gần
đây đăng tin: Một nữ tu “cháy hết mình” trên sân khấu The Voice của Ý.
Nữ tu đó chính là Cristina Scuccia, 25 tuổi,
thành viên của Dòng các chị em Ursuline Thánh Gia. Chị đã xuất hiện trên sân khấu
của chương trình The Voice tại Ý. Khi sơ xuất hiện, các giám khảo và mọi người
thật sự ngỡ ngàng khi thấy trang phục của thí sinh đặc biệt này.
Khi các giám khảo quay lại nhìn sơ
Cristina, họ đã không tin vào mắt mình khi thấy một nữ tu trẻ đang hát “No
One”, bài hát ruột của Alicia Keys.
Sau khi nghe sơ Cristina hát, Carra là một
trong 4 vị giám khảo đã hỏi sơ có thật là một nữ tu không và tại sao sơ chọn
tham gia cuộc thi này?
“Vâng, tôi đích thực là một nữ tu,” sơ
Cristina trả lời.
“Tôi đến đây bởi vì tôi có một món quà và
tôi muốn chia sẻ món quà đó. Tôi đến đây để loan báo Tin Mừng.”
4. Ơn gọi theo Chúa
Khi Thánh Phêrô hỏi Chúa về số phận của
Thánh Gioan, Chúa đã nói với Thánh Phêrô: “Việc đó liên quan gì đến con, phần
con hãy cứ theo Thầy.”
Tất cả mọi người được kêu gọi để theo Chúa.
Có những bậc sống khác nhau. Trong mỗi bậc sống đó lại có từng hoàn cảnh khác
nhau. Mỗi người là mỗi phận. Chúa như đang cầm tay từng phận người mà dắt đi
theo Chúa. Chúa đang nói với mỗi người: “Phần con hãy cứ theo Thầy.” Chúa đang
dẫn mỗi người đi theo Chúa bằng lối đi Chúa dành riêng cho người đó.
Mỗi đời người là một cuộc tình riêng với
Chúa. Mỗi đời người đều có đủ thánh giá để vác theo Chúa. Đồng thời mỗi đời người
đều được Chúa ban đủ niềm vui và ân sủng để theo Chúa cho nên: “Ơn Ta đủ cho
con.”
5. Hãy cứ theo Thầy
Ngày kia, Voltaire nói với một người bạn:
“Để lập Kitô giáo, chỉ cần mười hai tên ngư phủ quê mùa, dốt nát. Tôi sẽ cho thế
giới thấy rằng chỉ cần một người Pháp cũng đủ tiêu diệt tôn giáo đó.”
Với ý đồ đó, ông phản bác cả Isaac Newton.
Newton dựa vào sách Daniel 12,4 và Nahum 2,4 tiên đoán rằng: Một mai, con người
có thể di chuyển với tốc độ kỳ diệu là 40 dặm trong một giờ. Voltaire bảo: “Hãy
xem Kitô giáo điên rồ đã đầu độc một người thông thái như Newton đến cỡ nào!
Ông không biết rằng một người chạy 40 dặm 1 giờ sẽ nghẹt thở, vỡ tim mà chết
hay sao?”
25 năm sau khi Voltaire qua đời, căn nhà của
ông được bán cho Hội Thánh Kinh Geneva và trở thành kho lưu trữ Thánh Kinh. Còn
chiếc máy in của ông cũng được dùng để in Thánh Kinh!
6. Chúa Giêsu là câu trả
lời
Bộ phim hoạt hình “Peanuts” mở đầu bằng
hình ảnh Shroeder mang một tấm bảng: “Chúa Giêsu là câu trả lời.” Bộ phim kết
thúc với hình ảnh Snoopy cầm một tấm bảng: “Câu hỏi là gì?” Những nhà lãnh đạo
Do thái biết rõ câu hỏi: Tại sao Đấng Mêsia, “Đấng mà dân Israel hy vọng” không
đến?” Phaolô trả lời, thật ra, Chúa Giêsu là lời giải đáp. Ngài là “Đấng mà dân
Israel hy vọng.”
Nghe ông nói, một số người được thuyết phục,
một số khác thì không chịu tin.
Chúa Giêsu là câu trả lời gì cho những câu
hỏi hay những vấn đề trong đời tôi?
Nếu tôi bối rối, Ngài là ánh sáng soi.
Nếu tôi lạc bước, Ngài là đường để theo.
Nếu tôi yếu đuối, Ngài là cánh tay nâng đỡ.
Nếu tôi đói khát, Ngài là của ăn nuôi dưỡng tâm hồn.
7. Chúa thách thức
Rôma bị bao vây nghiêm ngặt vào năm 1849. Garibaldi,
nhà ái quốc vĩ đại người Ý đã đưa ra lời thách thức đến giới trẻ. Ông nói: “Tôi
không có gì ban tặng các bạn, chỉ có đói khát, khó khăn và cái chết. Nhưng tôi
kêu gọi tất cả những ai yêu mến tổ quốc hãy liên kết cùng tôi.” Sự đáp trả thật
đáng kinh ngạc.
Chúa Giêsu cũng đưa ra lời thách thức này,
đặc biệt với Phêrô, trong bài đọc hôm nay. Ngày hôm nay, Ngài cũng đưa ra lời
thách thức tương tự đối với mỗi người chúng.
Chúa Giêsu sẽ nói gì với tôi, nếu tôi hỏi
Ngài vì sao nên đón nhận lời thách thức của Ngài?
Dám làm những điều can đảm để dành chiến thắng
huy hoàng, dù phải nếm mùi thất bại, còn hơn là bằng lòng với lối sống không hưởng
thụ, không đau khổ, vì như thế là sống trong bóng hoàng hôn không biết đến mùi
chiến thắng hay thất bại (Theodore Roosevelt).
8. Lời nhập thể trong
Thánh Kinh
Một chiếc xe tải nhẹ đậu ở lề đường. Một giọng
nói từ buồng lái vang lên cho nhóm hướng đạo sinh ở phía sau: “Đến giờ cầu nguyện
rồi. Chúng con hãy lần hạt, trong khi cha đọc sách nguyện.” Cha Joyce ngồi xuống
bên đèn lái và bắt đầu đọc sách nguyện. Ngay lúc đó, một chiếc xe khác đến và
người tài xế hỏi: “Có cần giúp đỡ gì không?” Cha Joyce đáp: “Không, chỉ đọc
sách thôi mà!” Vị linh mục mỉm cười khi chiếc xe rời đi với câu nói tạm biệt của
người tài xế: “Chắc là một quyển sách hay tuyệt nhỉ.”
Câu truyện hoặc bản văn nào trong cuốn sách
hay tuyệt đó nói với tôi một cách đặc biệt? Tại sao?
Tôi biết Kinh thánh được linh hứng, vì Kinh thánh đã giúp tôi khám phá chiều sâu trong tôi hơn bất cứ cuốn sách nào khác. (Samuel Taylor Coleridge)
LỄ
HIỆN XUỐNG (lễ vọng)
TRUYỆN KỂ
1. truyện
LỄ
HIỆN XUỐNG (lễ ban ngày)
TRUYỆN KỂ
1.
truyện
Lễ
kính Đức Mẹ Fatima
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1. truyện
Lễ Thánh Mat-thi-a
Lời Chúa: Ga 15, 9-17
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Như Cha đã yêu mến
Thầy, Thầy cũng yêu mến các con. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu các con
tuân lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy; cũng như Thầy đã
giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người. Thầy nói
với các con điều đó, để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các
con được trọn vẹn.
"Đây là lệnh truyền của Thầy: Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã
yêu mến các con. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn
hữu mình. Các con là bạn hữu của Thầy, nếu các con thi hành những điều Thầy
truyền.
"Thầy không còn gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ
làm; Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha
Thầy, thì Thầy đã cho các con biết.
Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, và đã
cắt đặt, để các con đi và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại, để
những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con. Thầy truyền
cho các con điều này là: các con hãy yêu mến nhau.”
TRUYỆN KỂ
1. Ở lại trong tình thương của Thầy
Mẹ Têrêsa, nhà truyền giáo của tình thương bác ái. Mẹ bắt đầu sứ mạng của
mình mỗi ngày, trước lúc rạng đông, Mẹ đến trước Thánh Thể Chúa.
Trong thinh lặng của sự chiêm ngắm, găp gỡ Thiên Chúa, Mẹ lắng nghe vang
dội lời nói của Chúa Giêsu trên thập giá: “Ta khát.” Lời kêu vang này, được đón
nhận trong cõi thâm sâu của tâm hồn, đã thôi thúc Mẹ tiến đi trên các đường phố
ở Calcutta, Ấn Độ và khắp nơi trên thế giới, để đi tìm Chúa Giêsu trong người
nghèo, người bị bỏ rơi, người hấp hối sắp chết.
Mẹ Têrêsa sống tình yêu, trao ban tình yêu cho những người bất hạnh nhất
như lệnh truyền của Chúa Giêsu: Yêu thương anh chị em chung quanh như Ngài đã
yêu thương chúng ta.
2. Người thợ giờ thứ mười một
+ Chúa luôn có cách của Ngài, và cách của Ngài không bao giờ giống ai.
+ Thánh Matthia chính là Tông đồ giờ thứ mười một. Không ai nghĩ ông là
sẽ Tông đồ nếu không có sự phản bội của ông Giuđa.
+ Ơn gọi mỗi người một cách, mỗi người một vẻ, không ai giống ai nhưng
ai cũng đặc biệt và duy nhất.
+ Chúa luôn CHỌN- GỌI- chúng ta mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút.
BÀI HỌC:
+ Đức Hồng Y Thuận đã từng nói: “Thiên Chúa luôn viết thẳng trên những
đường cong.”
+ Ông Giuse trong Cựu Ước thì nói: “Thiên Chúa biến sự dữ của anh em làm
với tôi thành sự lành.”
+ Thiên Chúa làm cho mọi sự trở nên sinh ích lợi cho những ai yêu mến
Người.
+ Trong mọi sự, chúng ta phải nhìn thấy được thánh ý Chúa muốn gì trên
cuộc đời của ta? Trên sự việc xảy ra và trên cuộc sống này?
Lạy Chúa, con cảm tạ ơn Chúa đã chọn và gọi chúng con. Xin cho chúng con
luôn là những người môn đệ trung tín, dù là người thợ giờ thứ mười một. Amen.
3. Còn trái tim
Năm 1974, ông Jacques Lebreton được 78 tuổi, mới được Đức Giám mục địa
phận Beauvais nước Pháp truyền chức Phó tế cho.
Người ta thắc mắc:
- Trước đây ông là một đảng viên cộng sản vô thần, vì một tai nạn xe
hơi, ông đã bị cụt hai tay, và mù cả hai mắt! Chức Phó tế cần phải đọc sách mới
có khả năng giảng. Mắt đâu? Cần rửa tội cho người ta. Tay đâu? Thế thì truyền
chức Phó tế cho ông để làm gì?!
Đức Giám mục trả lời:
- Jacques Lebreton còn trái tim.
Quả thực, sau khi lãnh Phó tế, thầy Jacques Lebreton đã giảng mỗi năm
khoảng 200 bài Thánh Kinh trong các trường đại học, được rất nhiều sinh viên ca
tụng.
4. Thí mạng vì người mình yêu
Ngày 30 tháng 7 năm 1941, trong trại giam Varsovie (Balan) của Đức Quốc
Xã, một tù nhân bỏ trốn, và theo quy luật của trại giam, thì cứ một người bỏ trốn,
sẽ có 10 người tù phải chết thay bằng cách để nhịn đói và khát. (Hình khổ đáng
sợ nhất là phải chết vì không được uống nước). Ngày hôm sau, khi các tù nhân đã
xếp hàng. Viên giám thị nhà giam tuyên bố: không tìm thấy tù nhân đã bỏ trốn.
Tuyên bố thế có nghĩa là 10 người sẽ phải chết thay cho tù nhân bỏ trốn đó. Rồi
viên giám thị liếc mắt chỉ vào từng người: tên này, tên này, một người bị chỉ
kêu lên: “Ôi vợ tôi, ôi con tôi ơi!”
Mười người được sắp hàng riêng, để đi về trại Ausehwitz; các tù nhân
khác thoát nạn, thở phào nhẹ nhõm… Bỗng xẩy ra một việc bất ngờ: một người
trong nhóm tù thoát chết ra khỏi hàng, và tiến về viên giám thị, mọi người hồi
hộp chờ đợi. Viên giám thị quát lớn: “Đứng lại!”
Người đó đứng lại và nói với viên giám thị: “Anh có thể cho tôi chết
thay cho một người.”
Viên cai ngục bỡ ngỡ hỏi: “Anh là ai?”
- Tôi là một linh mục công giáo, tôi tên là Maxillianô Kolbe, tôi muốn
chết thay cho một người.
- Anh muốn chết thay cho ai?
- Tôi muốn chết thay cho người này (Cha Kolbe chỉ vào người vừa than
khóc)
- Tại sao?
- Vì tôi không cần cho ai nữa, trong khi ông này còn cần cho gia đình.
Viên giám thị suy nghĩ, và rồi ngoắc tay đồng ý. Cha Kolbe gia nhập số
10 người lãnh án tử còn ông Gajouwniczek được trở về hàng ngũ những người thoát
chết. Nhà tù Auschwitz lần này, khác hẳn với những lần trước, người ta không
nghe tiếng la hét, nguyền rủa, thất vọng, nhưng là những câu kinh, cả tiếng ca
hát, cho đến lúc chín người tắt thở. Nói chín người, vì tới ngày 14 tháng 8 năm
1941 tức là hai tuần lễ sau, khi quan Phát xít Đức vào dọn các xác chết đem đi
hỏa thiêu thì cha Kolbe vẫn còn thoi thóp thở. Người ta đã kết thúc đời Ngài bằng
một mũi chích các bon và xác ngài cũng bị đem hỏa thiêu với xác các tử tù kia.
Cha Maxillianô được phong Hiển Thánh ngày 10 tháng 10 năm 1982. Chính ông
Gajouwniczek cũng có mặt trong hai buổi lễ này.
5. Yêu như Chúa yêu
Đức Cha Roncalli làm đại diện tông tòa tại Bulgari từ năm 1925 tới năm
1934. Trong những năm đó công việc của ngài rất khó khăn phức tạp. Ngài có
trách nhiệm cả một vùng rộng lớn đang sôi động về chính trị, chia rẽ về mặt tôn
giáo. Có những chia rẽ tầm trọng giữa Công Giáo, Tin Lành, Chính Thống Giáo và
Hồi Giáo. Mặt khác trong Giáo Hội địa phương, lại có sự chia rẽ giữa linh mục
triều và tu sĩ dòng… Trong thời gian này, Đức Tổng Giám Mục Roncalli nhận được
một bức thư nặng lời chê trách, trì trích ngài về mọi mặt, do một linh mục bất
mãn viết. Đọc thơ xong, Đức Cha Roncalli không nói một lời, cũng không hề tỏ ra
một cử chỉ nào ác cảm với linh mục đó.
Thời gian trôi qua, ngài giữ chức sứ thần tòa thánh tại Paris từ năm
1945 tới 1952 rồi làm Hồng Y Giáo Chủ ở Venise từ năm 1953 tới năm 1958 và sau
cùng đắc cử Giáo Hoàng với danh hiệu là Gioan XXIII năm 1958.
Khi ngài đắc cử Giáo Hoàng, thì vị linh mục bất mãn viết thơ cho ngài
trước đây, vẫn còn sống. Gặp dịp giáo dân trong vùng tổ chức một cuộc viếng
thăm Rôma, để yết kiến Đức Giáo Hoàng là vị tổng giám mục yêu quý của họ ngày
xưa, linh mục này, cũng ghi tên trong phái đoàn. Đến Rôma, ngài lại xin đặc ân
được tiếp kiến Đức Giáo Hoàng. Lời thỉnh cầu đó được Đức Giáo Hoàng XXIII chấp
thuận. Sau đây là lời chính linh mục:
“Trong lúc đứng ở phòng khách trên lầu cao Vatican, để đợi tới phiên được
vào triều yết Đức thánh Cha, đầu óc tôi cứ nghĩ tới bức thư bất mãn năm xưa, và
lòng tôi vô cùng hối hận, tôi thầm nghĩ đã mấy chục năm trôi qua, giờ đây chắc
Đức Thánh Cha không còn nhớ gì. Lòng tôi cảm thấy xao xuyến, hồi hộp, hy vọng nếu
ngài còn nhớ, thì chắc lòng nhân hậu ngài cũng bỏ qua cho tôi… Đang lúc suy
nghĩ miên man, bỗng cửa mở. Đức Ông phụ tá dẫn tôi vào. Vừa thấy tôi, Đức Thánh
Cha đã niềm nở, đưa tay bắt và mời ngồi. Ngài ân cần hỏi thăm công việc mục vụ
của tôi, của giáo phận, và bùi ngùi nhắc tới các bạn cũ năm xưa. Ngài thương nhớ
tất cả, như thể xứ sở tôi cũng là quê hương ngài vậy.
“Lúc đó lòng tôi khấp khởi mừng thầm, vì chắc Đức Thánh Cha đã quên hẳn
bức thư hỗn láo năm nào… Câu truyện vẫn tiếp tục trong bầu không khí vui vẻ
thân tình; bỗng tôi thấy ngài đưa tay với lấy cuốn thánh kinh, vừa từ từ mở ra,
ngài để trước mắt tôi bức thư, tôi đã trì trích, thóa mạ ngài. Tôi xấu hổ và sợ
hãi quá. Có ai ngờ đã mấy chục năm trôi qua, mà bức thư không tốt đẹp gì đó,
ngài vẫn còn giữ. Tôi đang lúng túng, âu lo thắc mắc, thì Đức Thánh Cha đã cầm
lấy tay tôi và dịu dàng bảo: “Con đừng bận tâm, Cha không bao giờ giận con. Cha
cảm ơn con, Cha cũng là người, thì cũng yếu đuối, Cha để lại bức thư con vào cuốn
thánh kinh, để khi có dịp, Cha đọc lại là xét mình, hầu có thể dứt khoát với những
khuyết điểm còn tồn tại, và xa lánh những lầm lỡ có thể xẩy ra đến trong tương
lai. Mỗi lần cha đọc thư này, cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con.
“Tôi lấy lại bình tĩnh, nhận quà ngài trao tặng. Ngài còn chúc lành cho
tôi, và ôm hôn từ giã tôi.
“Tôi ra về, lòng không bao giờ quên được chân dung của một vị Giáo Hoàng
hiền lành, khiêm nhường đến thế.”
Giữ một bức thư chê bai, trì trích, thóa mạ mình, để rồi coi đi coi lại,
qua nhiều năm tháng, nhằm mục đích sửa đổi những khuyết điểm của mình, và cầu
cho ngừoi thóa mạ mình, là một hành vi anh hùng, đầy tự chủ, đầy thánh thiện.
Chúng ta chỉ mến Chúa thực sự khi ta biết yêu người, tha thứ lỗi lầm kẻ
khác và luôn luôn cư xử độ lượng với nhau.
6. Yêu như Chúa yêu
Gene Stallings, huấn luyện viên bóng đá hàng đầu của trường đại học
Alabana đã ngất xỉu khi bác sĩ nói rằng Johnny, đứa con trai duy nhất của ông
được sinh ra với hội chứng Down (chậm phát triển). Điều này đã xảy ra cách đây
30 năm. Ngày nay, Stallings xem việc sinh ra Johnny là một trong những món quà
lớn của đời ông. Johnny đã dạy ông thế nào là tình yêu đích thực.
Stallings nói về đứa con trai của mình: “Tất cả tình yêu của nó là vô điều
kiện. Nó không cần được ghi công. Nó hoàn toàn không vị kỷ.” Stallings nói nếu
ông có thể thay đổi số phận và được một đứa bé bình thường, ông cũng không thay
đổi: “Johnny là một phần lớn cuộc đời tôi. Tôi không đổi thứ gì. Tôi cảm thấy
mình được chúc phúc.”
Tôi học được gì về tình yêu từ một vài thành viên trong gia đình tôi?
Quyết định từ bỏ bản thân để yêu thương là chuyện lâu dài cả đời
(Elisabeth Stone).
7. Yêu như Chúa yêu
Thi sĩ người Anh Leigh Hunt viết một bài thơ mang tên: “Abou ben Adhem.”
Một đêm nọ, Abou thức giấc và thấy một thiên thần đang viết vào sổ tên những
người yêu mến Thiên Chúa nhất. Abou hỏi: “Có tên con không?” Thiên thần đáp:
“Không, không có đâu!” Lúc đó, Abou nói với thiên thần hãy viết rằng ông là người
yêu thương anh em nhất. Thiên thần liền viết rồi biến mất. Đêm hôm sau, thiên
thần lại đến trong ánh quang rực rỡ và chỉ tên những người được Thiên Chúa chúc
phúc, và này tên của Ben Adhem đứng đầu sổ.
Nếu tôi hỏi thiên thần như Abou đã hỏi, thiên thần sẽ trả lời tôi như thế
nào? Và tôi sẽ đáp lại thiên thần ra sao?
Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong các anh em bé nhỏ nhất... là
các ngươi đã làm cho chính Ta (Mt 25,40).
8. Chúa bán hạt giống
Vào một đêm nọ, người phụ nữ nằm mơ. Chị thấy mình bước vào một siêu thị.
Khách hàng tấp nập. Có một quày hàng đặc biệt, người ta chen chân không lọt. Chị
ngạc nhiên thấy Chúa Giêsu đứng bán ở quày hàng này.
Chờ đợi đến phiên mình, chị hỏi: “Chúa mà cũng bán hàng sao? Chúa bán
cái gì ở đây vậy?”
Chúa trả lời: “Ta bán mọi sự con đang ước muốn trong trái tim con.”
Chị nói liền một hồi: “Thưa Chúa, con muốn có bình an, có tình yêu, có hạnh
phúc, có khôn ngoan và tự do không sợ hãi. Suy nghĩ một lúc, chị lại thêm: không
chỉ cho con mà thôi nhưng còn cho chồng, cho con và cho những người thân yêu của
con nữa.”
Chúa mỉm cười và nói: “Hỡi con yêu dấu, ở đây, Ta không bán hoa trái mà
chỉ bán hạt giống thôi.” (Anthony de Mello).
Lễ Đức Mẹ đi viếng bà Isave
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1. truyện