LỜI CHÚA TUẦN 7 PHỤC SINH
CÂU TRUYỆN MINH HỌA
lễ thăng thiên năm a - hãy đi giảng dạy muôn
dân
lễ thăng thiên năm b - chúa lên trời
lễ thăng thiên năm c – chúa giêsu lên trời
thứ hai - cùng hiệp thông với chúa
thứ ba - ngưỡng cửa vào sự sống
thứ năm - sức mạnh của hiệp nhất
lễ chúa thánh thần hiện xuống – lễ vọng
lễ chúa thánh thần hiện xuống – lễ trong
ngày
LỄ THĂNG THIÊN
NĂM A - HÃY ĐI GIẢNG DẠY MUÔN DÂN
Lời Chúa: Mt 28, 16-20
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa,
đến núi Chúa Giêsu đã chỉ trước. Khi thấy Người, các ông thờ lạy Người, nhưng
có ít kẻ còn hoài nghi.
Chúa Giêsu tiến lại nói với các ông rằng:
"Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con , làm
phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi
điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận
thế."
TRUYỆN KỂ
1. Bài chia sẻ của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã
chia sẻ:
"Chúng ta được qui tụ quanh bàn
thờ Chúa để cử hành việc Chúa lên trời. Chúng ta đã nghe được Lời Chúa:
"Các con sẽ nhận lấy sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ ngự xuống trên
các con và các con sẽ là những chứng nhân của Thầy cho đến tận cùng trái đất."
Từ hai ngàn năm qua, những lời này của
Chúa Phục Sinh thôi thúc Giáo Hội tiến ra khơi, tiến vào trong lịch sử của con
người. Những lời này làm cho Giáo Hội trở nên một người luôn đồng hành với tất
cả mọi thế hệ, làm cho Giáo Hội trở nên như men, làm dậy nên những hạt văn hoá
trên thế giới. Hôm nay, chúng ta nghe lại những lời trên để với sức mạnh được
canh tân, chúng ta đón nhận mệnh lệnh của Chúa "Hãy ra khơi", mệnh lệnh
mà Chúa đã nói với thánh Phêrô. Đây là một mệnh lệnh và tôi đã muốn làm vang dội
lại trong Giáo Hội qua bức tông thư khởi đầu Ngàn Năm Mới. Và đây là mệnh lệnh
mặc lấy một ý nghĩa sâu xa hơn theo ánh sáng của ngày lễ trọng Chúa Thăng
Thiên. "Hãy ra khơi" ra nơi mà Giáo Hội cần tiến đến, không phải chỉ
là một sự dấn thân truyền giáo mạnh mẽ nhưng nhất là và còn là một sự dấn thân
mạnh mẽ sống chiêm niệm.
Như những tông đồ, những kẻ đã được chứng
kiến biến cố Chúa lên trời, chúng ta cũng được mời gọi hãy hướng cái nhìn lên
dung mạo của Chúa Kitô được hiển vinh trong vinh quang Thiên Chúa Cha. Chắc chắn
rằng nhìn ngắm trời cao không có nghĩa là quên đi trần gian này. Và nếu rủi gặp
phải cám dỗ, chúng ta chỉ cần lắng nghe lại lời hai người mặc áo trắng của đoạn
Phúc Âm hôm nay nói rằng: "Tại sao các ông còn nhìn trời?"
2. “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…”
Fritz Kreisler (1875-1962) là một nhạc
sĩ vĩ cầm nổi tiếng khắp thế giới. Ông đã tạo được một cơ nghiệp đồ sộ nhờ các
buổi hoà nhạc và soạn nhạc, nhưng lại hào phóng cho đi gần hết của cải. Do đó,
trong một chuyến lưu diễn, ông tìm được một cây vĩ cầm thanh tú nhưng không đủ
tiền mua.
Đến khi ông kiếm đủ tiền và trở lại,
thì cây đờn đã được bán cho một nhà sưu tầm nhạc cụ. Kreisler tìm đến chủ mới của
cây vĩ cầm để xin mua lại. Nhà sưu tầm không muốn bán vì theo ông, nó là một bảo
vật quí giá. Kreisler buồn bã và sắp sửa ra về, bỗng nảy ra một ý: “Xin đàn một
lần trước khi nó bị ký thác cho sự câm lặng."Chủ nhân chấp thuận. Vị nhạc
sĩ tài ba đã làm cho nhà sưu tầm thực sự súc động vì tiếng đàn du dương của
mình, đến nỗi ông ấy phải kêu lên “Kreisler ơi! Tôi, tôi không có quyền giữ chiếc
đàn này. Nó thuộc về ông. Ông hãy đem nó đi khắp thế giới để thiên hạ được thưởng
thức âm thanh của nó."
Lạy Chúa, con cũng không có quyền giữ
cho mình tất cả hồng ân Người đã ban tặng cho con. Tất cả đã được đón nhận thì
tất cả cũng phải được sẻ chia. (Epphata)
3. Sống bác ái
Một bà kia nhìn thấy một bé gái gầy
nhom và ăn mặc rách rưới. Bà cảm thấy bất nhẫn và kêu trách Chúa:
- Sao Chúa chẳng làm gì cả để giúp cho
đứa bé khốn khổ ấy?
- Ta đã làm rồi đấy thôi. Chúa đáp.
- Nhưng Chúa làm gì đâu nào?
- Ta đã tạo dựng nên con ở bên cạnh đứa
bé ấy. (Mark Link, Vision 2000).
4. Ai muốn lên thiên đàng?
Một hôm, trong nguyện đường D.S, một vị
giảng thuyết hỏi giáo dân:
- Những ai muốn lên thiên đàng hãy đứng
lên.
Tất cả cử tọa đều nhất loạt đứng dậy,
chỉ trừ một người: anh ta cứ ngồi yên hàng ghế bên cạnh. Vị giảng thuyết liền hỏi
anh ta:
- Thế còn bạn, bạn muốn đi đâu?
Chàng uể oải trả lời:
- Chả đi đâu cả! Tôi muốn được lên
Thiên đang ngay ở đây.
Những người muốn một đời sống dễ dàng
thường quên mất sự kiện này là: để sống dễ dàng, họ đã ỷ lại nhờ vả kẻ khác làm
công việc mà đáng lẽ chính họ phải thực hiện. Nói khác đi, họ muốn đi du lịch
mà không mất tiền (J. Keller, báo Thẳng tiến, số 29, th 01/63).
5. Dùng lời nói để làm chứng cho Chúa:
June là một bé gái 5 tuổi có khuôn mặt
đẹp như thiên thần và rất lanh lợi. Cha mẹ em đều là nhà giáo có lòng đạo đức.
Mẹ thường đem em đi theo mỗi khi bà có việc phải đi ra ngoài. Một hôm, hai mẹ
con dắt nhau vào trong bưu điện thành phố. Đang lúc bà mẹ lo gửi thư bảo đảm
cho một người thân, thì bé June chạy chơi loanh quanh gần đó quan sát người ta
làm việc. Bấy giờ một ông lão ngồi gần đó thấy bé gái kháu khỉnh dễ thương, liền
bắt chuyện làm quen như sau: “Này cháu bé. Cháu có mái tóc đẹp lắm! Mà tại sao
mái tóc của cháu lại đẹp đến thế nhỉ?” Cô bé liền vui vẻ trả lời: “Thưa ông, mẹ
cháu dạy rằng: Chính Thiên Chúa đã ban mọi sự tốt đẹp cho cháu và cháu phải biết
tạ ơn Người nhiều lắm đó!” Nói xong em nhìn thẳng vào mặt ông lão, nhoẻn một nụ
cười thật dễ thương và hỏi: “Thế ông đã được Chúa ban cho điều gì tốt đẹp chưa?
Ông có đươc Chúa ban ơn cứu độ không?" Ông lão kinh ngạc và xúc động trước
câu hỏi đơn sơ của cô bé. Ông ngẩn người suy nghĩ giây lát về tình trạng của
mình rồi đáp: “Chưa đâu, cháu ạ." Em bé liền nói: “Thế thì ông phải cầu
xin Chúa ban ngay đi. Rồi Chúa sẽ cho ông trở thành con của Chúa, và ông sẽ được
Chúa biến đổi nên một người mới rất xinh đẹp đó!” Nói xong, bé vội chạy về phía
mẹ đang vẫy gọi ở lối đi bên kia. Ít tuần sau, ông lão tìm đến một nhà thờ xin
học giáo lý dự tòng. Về sau ông cho biết: chính câu nói đơn sơ của cô bé hôm ấy
đã đánh động tâm hồn vốn chai lì của ông, và luôn ám ảnh khiến ông không thể
quên được. Cuối cùng ông đã quyết định phải theo đạo để được trở nên con của
Thiên Chúa và được biến đổi nên tốt đẹp như em đã nói.
Câu nói của một bé gái tuy đơn sơ
nhưng đã có sức mạnh khiến một người già cứng lòng phải suy nghĩ và quay trở về
với Chúa. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có dám biểu lộ đức tin trước mặt người
khác không? Có dám nói về Chúa cho những người chưa nhận biết Chúa để họ tin
Chúa và đi theo làm môn đệ Người hay không?
6. Truyền giáo cách cụ thể
Trong tác phẩm “Hương rượu mới”, tác
giả thuật lại về giờ phút cuối cùng của cha mình như sau: Bấy giờ cha tôi đang
hấp hối trên giường bệnh. Trong khi tôi chỉ biết ngồi nhìn cha với tâm trạng
chán nản thất vọng, thì một nữ tu Công giáo với dáng người nhỏ nhắn đã bước vào
phòng. Chị đi vòng qua bên kia giường cha tôi đang nằm, cầm lấy tay ông đưa lên
vỗ nhè nhẹ. Sau đó chị hỏi: “Bác có nghe cháu nói không?” Ông cụ gật đầu. Đoạn
chị nói với ông: “Trước đây bác đã tin Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế chưa?” Ông cụ
lắc đầu. Chị nữ tu liền nói: “Bây giờ bác có muốn tin Chúa không?” Ông cụ đáp:
“Dạ có." Thế là chị yêu cầu ông lặp lại theo mình: “Lạy Chúa Giêsu, con
tin nhận Chúa là Đấng Cứu Thế của con. Xin Chúa ban cho con được làm môn đệ
Chúa và được ơn tái sinh làm con Thiên Chúa trên trời. Lạy Chúa Giêsu, xin đón
nhận linh hồn con." Ông cụ lặp lại theo từng câu và sau đó từ từ nhắm mắt
qua đời
7. Hướng lòng về quê hương
Những du khách có dịp đi du ngoạn ở miền
bắc nước Tô Cách Lan, thường gặp thấy những đống đá chồng chất lên nhau. Những
đống đá này hàm chứa một ý nghĩa lịch sử cho dân chúng miền đó. Đây là kỷ niệm
của những người dân đã di cư đi nơi khác làm ăn. Người ta kể lại rằng: vì thiếu
công ăn việc làm, dân chúng miền này phải tìm đến những nước công nghiệp như
Canada, Uc hay Mỹ để tìm kế sinh nhai. Khi ra đi, họ thường nhặt một hòn đá của
làng mình và đem theo cho đến khi bóng xóm làng chỉ còn là một chấm mờ ở đàng
sau, họ dừng lại, đặt hòn đá xuống như một kỷ niệm yêu thương cuối cùng để lại
cho quê hương của họ. Rồi hằng năm, vào dịp lễ thánh An-rê, bổn mạng nước Tô
Cách Lan, người dân Tô Cách Lan trên khắp thế giới thường họp nhau lại để tưởng
nhớ tới quê hương mình đã cách xa, và cũng để nhớ đến họ hàng thân thuộc còn ở
lại quê nhà.
Bất cứ một người dân di cư nào cũng đã
gói ghém trong hành trang của mình ít nhiều tình yêu quê hương sâu đậm. Người
ta tìm ra hai nguyên nhân chính yếu đã là những động lực thúc đẩy các cuộc ra
đi này, đó là một đời sống nghèo nàn, cơ cực, đói khát, với những điều kiện quá
khắc khổ, không công ăn việc làm, không bảo đảm tương lai. Và một hấp lực lôi
cuốn từ đàng trước, đó là một đời sống no đủ, sung túc hơn, với những hứa hẹn của
một tương lai tươi sáng, bảo đảm và vững chắc hơn.
Người Kitô hữu cũng có thể được ví như
những người dân di cư đó. Và cuộc ra đi của chúng ta là một cuộc hành hương về
nước trời. Chúng ta cũng có một động lực thúc đẩy từ cuộc sống trần gian đầy vất
vả này, và một hấp lực lôi cuốn của một quê hương hạnh phúc.
8. ‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
1- Theo khoa khảo cổ, năm 370, một nhà
thờ đã được xây trên sườn núi Ô liu, nơi Chúa Giêsu lên trời, bên trong đền thờ
có một tảng đá in dấu chân, người ta tin đó là dấu chân Chúa Giêsu khi lên trời.
Quân Hồi đã phá đổ tường hình bát giác
xây chung quanh đền thờ đó. Năm 1100 nghĩa binh Thánh giá đã xây lại tường
thành. Năm 1200 quân Hồi chiếm lại, biến thành đền thờ Hồi giáo cho đến ngày
nay, nhưng vẫn cho tín hữu Kitô giáo đến kính viếng. Đó là di tích Chúa Giêsu
lên trời còn lại trên mặt đất.
Một di tích khác có giá trị lịch sử chắc
chắn hơn về biến cố Chúa lên trời được ghi lại trong 3 sách Tin mừng Matthêu,
Marcô, Luca và nhất là sách Công vụ Tông đồ và thơ Thánh Phaolô. Ba sách Tin mừng
đều nói: Chúa Giêsu lên trời trước sự có mặt của mười một tông đồ. Sách Công vụ
nói: “Người lên trời trước mặt các ông”, chứ không nói rõ 11 tông đồ. Sau đó
các ông về nhà ở Giêrusalem: “Tất cả đều đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện
cùng với mấy phụ nữ, Đức Maria, mẹ Chúa Giêsu, với anh em Người." Trong những
ngày ấy, Phêrô đứng lên giữa các anh em khoảng 120 người, để chọn một người làm
tông đồ thay thế Giuđa. Số 120 người này chắc chắn có mặt lúc Chúa lên trời.
Sau này Phaolô nói với Giáo đoàn
Côrintô rằng: “Người đã hiện ra với ông Phêrô, rồi với nhóm mười hai, sau đó
Người hiện ra với hơn 500 anh em một lượt, trong số ấy phần đông nay còn sống,
nhưng một số đã an nghỉ” (I Cor. 15, 5-6).
Vậy khi Chúa lên trời có rất đông người
chứng kiến, đó là lúc: “Người đã hiện ra với hơn 500 anh em một lượt."
9. Quảng cáo
Một người đàn ông khi còn sống chuyên
môn làm nghề quảng cáo, đến lúc chết ông ta xuống gặp Diêm Vương. Diêm Vương ân
cần hỏi: “Muốn ở thiên đàng hay hỏa ngục."
Người đàn ông ngập ngừng đáp: “Chưa thấy
thiên đàng hay hỏa ngục như thế nào thì làm sao mà chọn."
Diêm Vương bèn dẫn ông ta đến một nơi
và chỉ cho thấy cảnh thiên đàng: đó là một nơi mát mẻ, yên lặng, người người đi
đi lại lại, nói chuyện nhẹ nhàng, chơi cờ thanh thản…
Đoạn dẫn đến một nơi gọi là hỏa ngục
thì thấy vui nhộn hơn, có những đám ăn nhậu với đủ thứ thức ăn và rượu ngon, có
cả văn nghệ với điệu nhạc xập xình, có các cô đào trẻ đẹp múa hát…
Sau khi đã nhìn thấy hai nơi rồi, ông
ta mau mắn trả lời: “Ở thiên đàng buồn quá, tôi thích chọn hỏa ngục vui
hơn."
Thế là Diêm Vương sai hai thằng quỉ
ném ông ta vào hỏa ngục. Vừa đến nơi ông ta la hoảng lên vì nóng quá, chả có
văn nghệ, chả có ăn nhậu gì cả, mà chỉ thấy toàn lũ quỉ đen, nham nhở đang hành
hạ các tội nhân. Ông ta sững sờ quay lại hỏi Diêm Vương:
“Thế hỏa ngục lúc nãy Ngài cho tôi thấy
nó ở đâu?"
Diêm Vương khoái chí cười ha hả đáp:
“Ngu ơi là ngu, quảng cáo mà con!"
Đời là thế đấy! đúng là “sinh ư tử
nghiệp” “sống sao thác vậy."
Nói một cách rõ ràng hơn thì người đàn
ông trong câu chuyện đã bị “gậy ông đập lưng ông” vì khi còn sống ông ta đã
dùng mánh khóe, xảo thuật để quảng cáo đánh lừa người khác làm lợi cho mình. Đến
khi chết đi, ông ta vẫn mang dòng máu tham lam, ham lợi nên đã bị Diêm Vương
cao tay hơn dùng chính lối quảng cáo đánh lừa ông ta.
LỄ THĂNG THIÊN NĂM B - CHÚA LÊN
TRỜI
Lời Chúa: Mc 16, 15-20
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một
môn đệ và phán: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi
tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận
phạt.
Và đây là những phép lạ đi theo những
người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, họ đặt
tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh.”
Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa
Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần các ông, các ông đi rao giảng
khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng
những phép lạ kèm theo.
TRUYỆN KỂ
1. Ngước mắt nhìn trời
"Thứ hai thì ngắm Đức Chúa Giêsu
lên trời, ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời."
Ái mộ những sự trên trời là một ơn ta
phải xin, vì dưới đất có nhiều điều làm ta ái mộ: một người, một vật hay một việc
nào đó.
Ái mộ quá có thể dẫn đến tôn thờ và
làm nô lệ. Trái đất có vẻ đẹp riêng của nó, vẻ đẹp làm dịu lòng ta trong hành
trình cuộc đời. Tiếc thay nhiều lúc vẻ đẹp ấy giữ chân ta lại, không cho ta bước
nhanh tới đích. Lắm khi vẻ đẹp ấy kéo ghì ta xuống, không cho ta ngước lên cao.
Có vẻ trời ở xa, xa như huyền thoại.
Có vẻ chỉ trái đất là có thật, gần gũi. Ta bị hút vào trái đất, đắm đuối mê
say, quên mình chỉ là người tạm trú trên mặt đất.
Chúa về trời, về với thế giới của Cha,
điều đó nhắc ta nhớ đời là một cuộc hành trình mà đích nằm ở phía bên kia. Trời
là đích xa nhưng chi phối những chọn lựa gần. Cần chọn hướng đi, chọn phương tiện
sao cho đạt đích.
Không có trời thì chẳng biết đi đâu!
Con người cần có một trung tâm nằm ngoài mình, thu hút mình, nâng mình lên, kéo
mình ra khỏi cái tầm thường, thực dụng.
Trời là trung tâm của đất. Đất cho con
người sự sống. Trời cho con người lẽ sống. Nếu chỉ biết có đất, con người sẽ
rơi vào tuyệt vọng, vì đất chẳng thể thoả mãn con người.
Nơi lòng mỗi người đều có một mảnh trời
riêng. Mảnh trời này cứ đòi gặp bầu trời cao rộng như gặp lại chốn cũ người
xưa. Thế giới luôn gặp nhiều bế tắc khó khăn vì người ta đứng ở trên trái đất
mà giải quyết.
Cần nhìn trái đất từ trời, để thấy những
giải pháp tận căn, bao quát, hiệu quả. "Sao các ông cứ đứng nhìn trời?"
(Cv 1,11)
Kitô hữu không chỉ khoanh tay ngước
nhìn trời, vì sứ mạng rao giảng Tin Mừng đang chờ đợi họ, vì trái đất còn bề bộn
bao việc phải làm. Sống tận tình cho trái đất mà vẫn ngước lên trời cao, điều
đó thật là một thách đố không nhỏ, nhưng lại là cốt lõi của đời sống Kitô hữu.
2. Ánh sáng từ trời
Một đạo sĩ hỏi các đệ tử: Các con có
biết khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện, khi nào ánh sáng tới và bóng tối lui đi
không? Các đệ tử thi nhau trả lời: Thưa thày, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện
là khi từ xa nhìn một đoàn vật người ta có thể phân biệt được con nào là con bò
và con nào là con trâu không? Thày lắc đầu: Không phải. Đệ tử khác trả lời:
Thưa thày có phải ánh sáng tới và bóng tối lui là khi từ xa nhìn vào vườn cây,
người ta có thể phân biệt được cây nào là cây xoài cây nào là cây mít không?
Thày vẫn lắc đầu: Không phải. Thấy không ai trả lời được, thày mới giải nghĩa:
Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nào ta nhìn vào
mặt người xa lạ và nhận ra đó là anh em mình.
Thật là khó hiểu. Tuy trên đời ta thấy
có nhiều thứ ánh sáng. Có ánh sáng mặt trăng mặt trời. Có ánh sáng đèn dầu, đèn
điện. Có những ánh sáng như tia X, tia hồng ngoại. Nhưng tất cả những ánh sáng
đó chỉ giúp ta nhìn rõ sự vật. Không thấy có thứ ánh sáng nào soi vào mặt người
xa lạ mà biến người ấy thành người thân của mình.
3. Thắp lên một ngọn đèn
Mẹ Têrêxa là một nữ tu người Anbani,
được sai đến phục vụ người nghèo tại Ấn độ. Đến Ấn độ, thấy người nghèo khổ quá
tội nghiệp. Biết bao người hấp hối ngoài lề đường. Chết rồi xác bị quẳng vào đống
rác như xác thú vật. Biết bao trẻ thơ bị bỏ rơi. Biết bao gia đình chui rúc
trong các căn nhà ổ chuột. Biết bao người đói khát không đủ cơm ăn áo mặc. Mẹ
lăn xả vào phục vụ người nghèo.
Một hôm Mẹ đi thăm một ông già cô đơn
trong căn lều tồi tàn. Bước vào lều Mẹ động lòng thương cảm. Vì tất cả đồ đạc
chỉ là một mớ giẻ rách. Căn lều bụi bặm bẩn thỉu ngoài sức tưởng tượng. Và nhất
là ông già thu mình lại không muốn giao tiếp với ai. Mẹ chào hỏi ông cũng không
buồn trả lời. Mẹ xin phép dọn dẹp căn lều ông cũng làm thinh. Đang khi dọn dẹp,
Mẹ thấy trong góc lều có một cây đèn dầu bụi bám đen đủi. Sau khi lau chùi, Mẹ
kêu lên: Ô, cây đèn đẹp quá. Ông già nói: Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi ngày cưới.
Từ khi bà ấy chết, tôi không bao giờ đốt đèn nữa. Thấy ông đã cởi mở, Mẹ Têrêxa
đề nghị: Thế ông có bằng lòng cho các chị nữ tu mỗi ngày đến thăm và đốt đèn
cho ông không? Ông đồng ý. Từ đó mỗi buổi chiều, các chị tới thăm ông, dọn dẹp
nhà cửa, nói chuyện với ông. Ngọn đèn ấm áp trong căn lều ấm cúng. Ông trở nên
vui vẻ hơn. Ông đã đi thăm mọi người. Mọi người đến thăm ông. Cuộc đời ông vui
tươi trở lại.
Trước kia cuộc đời ông tăm tối không
phải vì ông không thắp đèn. Nhưng vì ngọn đèn trong trái tim ông đã tắt. Trái
tim khép kín nên ông mất niềm tin vào con người, vào cuộc sống. Ông nhìn mọi người
như thù địch. Từ ngày các nữ tu đến đốt đèn đời ông vui lên, sáng lên. Đời ông
sáng lên không phải vì có ngọn đèn dầu hoả soi sáng. Nhưng vì trái tim ông bừng
sáng. Ngọn đèn tâm hồn ông rạng rỡ. Tâm hồn ông cởi mở và ông nhìn thấy mọi người
là anh em. Thứ ánh sáng ấy ta thấy trong Phúc Âm. Khi người Samaritano nhân hậu
cúi xuống săn sóc, băng bó vết thương cho người bị nạn bên đường. Hai người
nhìn nhau. Một làn ánh sáng loé lên. Và họ nhận ra nhau là anh em.
4. Lên trời
Chúa Giêsu lên trời. Trời là chốn linh
thiêng mầu nhiệm lạ lùng. Con người luôn luôn khao khát được lên trời. Đi dưới
đất, bơi trên sông, con người thấy mình thấp hèn quá! Phải làm sao lên được trời
cao, con người mới thỏa mãn được những ước mơ lý tưởng của mình.
Vì thế, ngày 04 tháng 06 năm 1783, lần
đầu tiên, hai anh em Mongolfiers, bay lên trời bằng khí cầu được 500 mét trước
hàng ngàn người. Ngày 12 tháng 04 năm 1961, Gagarine, phi hành gia đầu tiên bay
ra khỏi tầng khí quyển của trái đất trong phi thuyền Vostok I của Liên Xô. Đến
ngày 16 tháng 07 năm 1969 hai ông Armstrong và Aldrin bay lên tới mặt trăng.
Loài người đã hồi hộp theo dõi: các cuộc
bay lên trời của mấy ông đó và mơ ước có ngày cũng được lên trời, nhưng rốt cuộc
chuyến bay nào cũng phải trở về đất, lại phải sống kiếp thân phận bụi đất.
Chỉ có cuộc lên trời của Chúa Giêsu mới
giải thoát con người khỏi kiếp sống lầm than, mới ban sức mạnh thần lực cho con
người lên trời vinh quang muôn đời.
5. Đọc Thánh kinh hằng ngày
Có một người Kitô hữu tầm thường, thấy
bên cạnh mình có một người tự xưng mình là vô thần. Lòng nhiệt thành đã thúc đẩy
họ tìm cách giới thiệu Chúa cho họ. Người này đi mua một cuốn Thánh kinh biếu
cho người láng giềng ấy, hy vọng họ đọc và sẽ nhận ra Thiên Chúa. Người láng giềng
vui vẻ đón nhận và hứa sẽ đọc..
Sau một thời gian, người Kitô hữu sang
chơi nhà láng giềng. tình cờ thấy cuốn Thánh Kinh nằm trong sọt rác. Người Kitô
hữu ngạc nhiên hỏi người láng giềng:
- Sao ông không đọc Kinh thánh? Nếu đọc,
ông sẽ nhận ra Thiên Chúa.
Người láng giềng lạnh nhạt trả lời:
- À suốt trong 10 năm qua, mỗi ngày
tôi đều đọc cuộc sống của anh!!!
Câu chuyện kết thúc ở đây. Chúng ta
hãy suy nghĩ về câu trả lời của người láng giềng vô thần ấy. Chúng ta hãy suy
nghĩ xem, người vô thần ấy muốn nói gì?
Có một bài viết ngắn về điều này:
“Tôi là cuốn sách Kinh thánh đối với
người hàng xóm của tôi; người đó đọc tôi mỗi khi gặp tôi.
Hôm nay, anh ta đọc tôi trong ngôi nhà
của tôi, ngày mai, anh ta đọc tôi trên đường phố.
Anh ta có thể là một người họ hàng, một
người bạn, hoặc chỉ là một người quen biết sơ giao mà thôi.
Thậm chí anh ta có thể không biết tên
tôi, tuy nhiên, anh ta vẫn đang đọc Kinh thánh qua cuộc đời của tôi” (Flor
McCarthy).
6. Chiếc kim may
Trong một tu viện nọ có một tu huynh sắp
qua đời. Khi thấy anh em trong nhà quây quần bên mình, thì ngỏ ý:
- Xin anh em đưa cho tôi chìa khoá để
vào Thiên đàng.
Nghe vậy, một anh em chạy đi lấy cuốn
Kinh thánh trao cho tu huynh, nhưng ông ta lắc đầu.
Một anh em khác trao cho tu huynh cây
thánh giá, một anh em nọ lại đem đến tràng hạt Mân côi. Nhưng tu huynh vẫn lắc
đầu.
Thế rồi, một anh em kia chợt nhớ ra rằng
suốt đời tu huynh ấy đã cặm cụi lo may vá áo dòng cho anh em, bèn chạy đi tìm
cây kim may và đem đến cho người anh em sắp ly trần. Vừa trông thấy cây kim may
đơn sơ nhỏ bé, vị tu huynh ngồi nhổm dậy, vươn tay ra đón nhận, mân mê cây kim
may nhỏ bé, rồi nhẹ nhàng nằm xuống, nhắm mắt lìa trần, nụ cười vẫn lưu lại
trên môi.
7. Ngây ngất nhìn ngắm
Sách Tông đồ công vụ kể rằng khi Ðức
Giêsu từ từ lên trời thì các môn đệ ngước mắt trông theo, và cứ ngây ngất đứng
nhìn về trời như thế, mãi cho đến khi có hai thiên thần từ đám mây hiện ra nhắc
cho các ông thì các ông mới hoàn hồn trở lại. Tại sao các môn đệ ngây ngất như
vậy? Chắc hẳn là vì cảnh thiên đàng rất là hấp dẫn.
Cũng như một lần kia, 3 tông đồ Phêrô,
Gioan và Giacôbê cũng được thoáng thấy một chút vinh quang thiên đàng khi Ðức
Giêsu biến hình trên núi. Ba ông đó cũng say sưa ngây ngất đến nỗi xin Chúa cho
mình cất lều ở lại mãi trên ngọn núi đó.
Còn Thánh Phaolô sau khi được Chúa cho
ngất trí chiêm ngưỡng cảnh thiên đàng trong một khoảng khắc ngắn ngủi, đã mô tả
lại kinh nghiệm ấy trong bức thư II gửi tín hữu Côrintô như sau "Mắt chưa
từng thấy, tai chưa từng nghe... "
Ở Lộ Ðức năm 1858, một người từ trời
xuống là Ðức Mẹ Maria đã hiện ra cho thánh nữ Bernadette. Sau đó thánh nữ đi
tu. Một lần kia có một em bé đơn sơ hỏi thánh nữ "Thưa Ma sơ, Ma sơ đã được
thấy Ðức Mẹ, chắc là Ðức Mẹ đẹp lắm nhỉ?" Thánh nữ trả lời với em bé bằng
một lời diễn tả cũng rất đơn sơ "Ðẹp lắm con ạ, đẹp đến nỗi ai đã thấy được
một lần thì chỉ mong chết để lại được thấy nữa.”
Còn ở Fatima năm 1917, Ðức Mẹ hiện ra
cho 3 em Luxia, Phanxicô và Giaxinta. 3 em đó cũng đơn sơ hỏi Ðức mẹ "Thưa
Bà, Bà ở đâu đến vậy?" Ðức Mẹ đưa tay lên cao và nói "Từ trời xuống.”
3 em liền xin "Vậy xin Bà cho chúng con cũng được lên trời đi.” Ðức Mẹ mỉm
cười đáp "Phanxicô và Giaxinta thì Ta sẽ cho về trời trong một ngày gần
đây; còn Luxia thì hãy chịu khó ở lại trần thế này một khoảng thời gian nữa. Kể
từ ngày đó 2 em kia lúc nào cũng mơ ước tới ngày được lên trời. Dù sắp chết 2
em cũng chẳng chút lo sợ, lại còn mừng vì mình sắp được lên trời.
8. Con đường về Trời
Thủ lãnh của một bộ tộc kia nằm hấp hối
trên giường. Ông cho gọi ba người có thể thay thế ông và nói:
- Ta phải chọn một người kế tục. Các
ngươi hãy leo lên đỉnh núi linh thiêng của chúng ta, và mang về cho bộ tộc một
món quà quí giá nhất.
Người thứ nhất trở về đem theo một thỏi
vàng lớn. Người thứ hai mang về viên ngọc vô giá. Còn người thứ ba trở về với
hai bàn tay trắng. Hết sức ngạc nhiên, vị tù trưởng mới hỏi:
- Món quà quí giá của ngươi đâu?
Người này điềm tĩnh trả lời:
- Khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở
phía bên kia một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể hưởng một
cuộc sống sung túc tốt đẹp.
Người tù trưởng nói:
- Ngươi sẽ nối nghiệp ta. Ngươi đã
mang về món quà quí giá nhất: Một viễn tượng tương lai tốt đẹp.
9. Lôi kéo trong tâm hồn
Ngày xưa, một đạo sĩ gọi 6 người đệ tử
của mình lại và bảo họ hãy đi khắp nơi chiêu mộ môn đệ. Một thời gian sau, tất
cả đều trở về.
- Người thứ nhất trở về với 500 môn đệ.
Khi được hỏi bằng cách nào anh chiêu mộ được số môn đệ đông như thế, anh trả lời:
"Con rảo khắp mọi nơi nghèo nàn và hứa sẽ chu cấp mọi nhu cầu cần thiết
cho ai theo đạo của chúng ta"
- Người thứ hai đem về 400 môn đệ. Anh
nói: "Con hứa ai theo đạo thì sẽ được phúc thiên đàng.”
- Người thứ ba đem về 300 môn đệ. Anh
nói: "Con đe dọa rằng nếu ai không theo đạo thì sẽ bị phạt trong hỏa ngục.
Thế nhưng người ta không tin lắm. Cho đến một hôm con đã nguyền rủa một con chó
điên khiến nó chết liền tại chỗ. Thấy thế những người này đã theo con.”
- Người thứ tư đem về 200 môn đệ. Anh
nói: "Con tìm đến những người đơn sơ ít học và dùng nhiều lý luận khiến họ
say mê và đi theo.”
- Người thứ năm đem về 100 môn đệ. Anh
nói: "Ðây là những người trẻ. Họ đang chờ một người lãnh đạo họ. Con đã
thuyết phục họ đi theo con và họ đã theo. Con nghĩ rằng nếu mình không chiêu mộ
họ thì cũng có những messia giả đến chiêu dụ họ mà thôi.”
- Người thứ sáu chỉ đem về 12 môn đệ.
Anh giải thích: "Con không thể gieo những hạt giống ngay mà phải chờ, vì
đang là mùa đông, phải đợi đến lúc tuyết tan thì đất mới mềm và gieo mới được.
Thế là con chờ. Ðang lúc chờ như thế, con kết bạn với một số người. Con cố gắng
sống cho họ thấy cách sống của đạo chúng ta. Và con cũng chia sẻ cuộc sống của
họ. Ðang khi chia sẻ cuộc sống như thế, con khám phá rằng họ rất coi trọng tự
do đến nỗi nếu tước mất tự do của họ thì cũng là tước đi phẩm giá của họ. Con
cũng học được nơi họ những điều tốt, chẳng hạn họ rất quảng đại và không sợ hy
sinh. Con thành thật nói cho họ biết cái giá phải trả nếu muốn theo đạo chúng
ta, nhưng con nhấn mạnh rằng nếu họ theo đạo chúng ta thì họ có thể làm được
nhiều điếu tốt cho tha nhân và cho Thiên Chúa. Xem ra những điều con nói đã làm
họ cảm động. Tuy nhiên khi đến lúc phải quyết định thì chỉ có 12 người này chịu
theo con.”
Vị đạo sĩ khen người thứ sáu này.
Năm người trước đã giảng đạo bằng cách
khai thác sự yếu đuối và sợ hãi của người ta. Những cách đó thật quá dễ, nhưng
lại xâm phạm đến tự do nên người ta có theo đạo cũng vì miễn cưỡng. Còn người
thứ sáu thì biết kêu gọi thiện chí bằng cách kết bạn với người ta và thuyết phục
họ bằng chính gương sống của mình. Cách này tuy chậm và khó nhưng kết quả sẽ vững
chắc và lâu bền. (Viết theo Flor McCarthy)
10. Chuyển vị trí hiện diện
Chuyện kể rằng khi Đức Giêsu về trời,
Tổng lãnh Thiên thần Gabriel ngạc nhiên vì Ngài trở về sớm quá. Gabriel biết rằng
công việc Chúa Cha giao cho Đức Giêsu rất nhiều, không thể kết thúc trọng thời
gian chỉ có 3 năm như thế. Bởi vậy Tổng lãnh Thiên Thần hỏi:
- Sao Chúa về sớm vậy?
- Ờ, Ta cũng muốn ở dưới đó lâu hơn.
Nhưng mà họ đã đóng đinh ta.
- Đóng đinh Chúa ư? Vậy là Chúa thất bại
rồi!
- Không hẳn vậy. Trước đó Ta đã kịp lập
một nhóm tín hữu. Từ nay về sau, họ sẽ tiếp tục công việc của Ta.
- Nhưng nếu họ cũng thất bại nữa thì
chắc là tiêu tùng luôn rồi!
- Không đến nỗi vậy đâu, vì một đàng
Ta đã hứa sẽ ở cùng họ cho đến ngày tận thế, và đàng khác Ta còn phái Thánh Thần
đến giúp họ nữa.
- À ra thế. Chắc là sẽ không thất bại
nữa.
11. Thiên quốc ở trong lòng
Một tu sĩ sống cuộc đời hạnh phúc và
an vui trong bốn bức tường của Tu viện. Đời sống tu trì đã biến đổi cuộc đời và
tâm hồn của ông trở nên tốt lành, đến nỗi mọi người đều gọi ông là ông thánh nhỏ.
Ngày nọ, đang lúc ông vừa bắt tay vào
rửa chén dĩa, thì một thiên thần hiện ra và nói:
- Thiên Chúa sai ta đến để báo cho
ngươi biết là giờ ngươi lìa đời đã đến.
Tu sĩ vẫn điềm nhiên và vui vẻ trả lời:
- Tạ ơn Chúa đã thương nghĩ đến tôi,
nhưng như ngài thấy đó, tôi còn phải rửa hàng chồng chén dĩa, tôi không muốn tỏ
ra vô ơn với Thiên Chúa, nhưng liệu giờ tôi được hưởng nhan thánh của Người có
thể hoãn lại sau khi làm xong bổn phận rửa chén dĩa này không?
Nói xong, Thiên thần biến đi. Tu sĩ trở
lại công việc bổn phận một cách hăng say như quên hẳn việc gặp gỡ Thiên thần.
Bẵng đi một thời gian, trong lúc vị tu
sĩ đang làm cỏ ngoài vườn, Thiên thần hiện ra. Như đoán trước ý nghĩ của Thiên
thần, vị tu sĩ giơ tay chỉ mảnh đất trong vườn và nói:
- Đây ngài xem, cỏ dại mọc đầy vườn,
liệu giờ tôi vào cõi đời đời có thể hoãn lại cho đến khi tôi làm xong cỏ không?
Cũng như lần trước, Thiên thần chỉ mỉm
cười rồi biến mất.
Một ngày nọ, trong lúc vị tu sĩ đang
chăm sóc các bệnh nhân, thì Thiên thần hiện ra. Lần này vị tu sĩ không nói một
lời, nhưng chỉ giơ tay chỉ vào các bệnh nhân nằm trên giường. Thiên thần biến
đi không nói một lời nào. Chiều đến, vị tu sĩ trở lại căn phòng nhỏ bé đơn sơ của
mình, bỗng chốc, ông cảm thấy mình đã già nua, mệt mỏi; ông thốt lên lời cầu
nguyện:
- Lạy Chúa, xin sai Thiên thần Chúa đến,
con sẽ sẵn sàng theo Ngài.
Lời cầu nguyện vừa dứt, Thiên thần
Chúa hiện đến. Vị tu sĩ mừng rỡ:
- Lần này, nếu Thiên thần mang tôi đi,
tôi sẵn sàng theo ngài về thiên quốc ngay.
Thiên thần nhìn tu sĩ với tất cả âu yếm
và nói:
- Này ông thánh nhỏ ơi, sao còn mơ ước
về thiên quốc, những ngày tháng vừa qua, ông nghĩ là mình đã ở đâu vậy?
12. Làm việc cho đời sau
Đền thờ Thánh Phêrô ở Roma là một
trong 8 kỳ quan lớn của Thế giới. Trong tháng năm năm thánh 2000 có 3.000.000
người hành hương về nơi đây. Trong ngôi đền thờ này có một nhà nguyện nhỏ: Đó
là nhà nguyện Sixtine rất nổi tiếng vì nơi đây được dùng làm nơi bầu Giáo
Hoàng. Trên trần ngôi nhà nguyện này có một bức họa rất nổi tiếng của nhà danh
họa Michelangelo.
Vào thế kỷ XV, khi đền thờ Thánh Phêrô
được xây dựng, thì người ta đã chú trọng một cách đặc biệt đến ngôi nhà nguyện
này. Một hôm kia Đức Thánh cha Sixtô thứ IV vào tham quan công trình, thấy
Michel Ange đang nằm ngửa lên để tô vẽ bức ảnh, Đức Thánh cha có hỏi ông:
-Này Michel Ange, chừng nào ông mới
hoàn thành công việc đây?
Từ trên giàn gỗ, nhà danh họa đáp lại:
-Chừng nào còn có thể!
Vị Giáo Hoàng dường như mất hết kiên
nhẫn:
-Thế ông có biết là ông đã bắt đầu mấy
năm rồi chưa? Thế mà tôi vẫn chưa thấy gì hết...
Một cách điềm tĩnh, Michelangelo trả lời:
-Thưa Đức Thánh cha, con không làm việc
cho đời tạm này, mà cho đời sau...”
13. Tự hào về niềm tin
Một vị tuyên uý quân đội người Mỹ vừa
giảng một bài cho các binh sĩ Mỹ trong một thánh lễ tại một giáo đường ở Châu
Âu. Chủ đề của bài giảng là: “Hãy tự hào về đức tin công giáo của bạn; Đừng xấu
hổ khi phải công khai tuyên xưng nó.”
Sau thánh lễ, một lính thủy do rất xúc
động vì bài giảng đã chận vị tuyên uý ngay trước cửa giáo đường và hỏi; “Thưa
cha, cha có bằng lòng nghe con xưng tội không?” Vị tuyên uý trả lời: “Tôi rất
sung sướng được nghe anh xưng tội.” Thế là chàng lính thủy quì ngay xuống lối
đi bên cạnh ngay trước giáo đường. Vị tuyên uý vội nói; “Đừng quì gối kẻo thiên
hạ nhìn kìa!” Chàng lính thủy đáp lại: “Kệ họ, thưa cha, cứ để họ nhìn, con
hãnh diện về đức tin của con.”
14. Công bố Tin Mừng
Ruddell Norris là một chàng trai cần mẫn.
Chỉ tội chàng ta nhút nhát. Nói chuyện với kẻ khác chàng đã thấy là khó khăn rồi,
huống chi phải bàn chuyện tôn giáo với họ. Thế rồi một ngày kia chàng nảy ra một
ý kiến. Ruddell đọc sách khá nhiều và chàng biết có nhiều cuốn sách nói về đức
tin công giáo. Vì vậy chàng quyết định dành riêng một phần tiền tiết kiệm hàng
tuần để mua những cuốn sách ấy. Ruddel để những cuốn sách ấy ở những nơi mà
chàng nghĩ người ta thường cầm chúng lên đọc. Chẳng hạn, ở những phòng chờ đợi
và tiếp khách.
Một hôm, một thiếu phụ vốn là bạn của
gia đình chàng kể cho cha mẹ chàng biết cô ấy đã trở lại đạo thế nào và chồng
cô đã trở về với Giáo hội thế nào. Cô nói: “Tất cả bắt đầu do một quyển sách nhỏ
mà tôi đã tìm thấy tại phòng chờ đợi ở bệnh viện.” Anh chị em có thể tưởng tượng
được chàng trai đã phấn khởi biết bao khi biết được tầm ảnh hưỏng mà chỉ một
trong những tập sách nhỏ của chàng đã tạo ra.
Câu chuyện của Ruddell Morris nhấn mạnh
một điều quan trọng trong việc công bố Tin Mừng: Có nhiều cách để công bố Tin Mừng.
Chúng ta có thể công bố một cách trực tiếp như Ruddell đã làm. Hoặc “công bố” một
cách gián tiếp, chẳng hạn bằng lời cầu nguyện hoặc gíup đỡ tài chính cho các hoạt
động truyền giáo của Giáo hội.
“Các con là muối ướp cho mọi người, nếu
muối nhạt, thì chẳng còn cách gì làm cho nó mặn lại được, nó trở thành vô dụng,
chỉ còn nước ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó.
Các con là ánh sáng cho toàn thế giới,
là một thành phố xây trên một ngọn đồi nên không thể giấu được….
Cũng thế, ánh sáng các con phải sáng
lên trước mặt thiên hạ để họ nhìn xem những việc thiện các con làm mà ngợi khen
Cha các con ở trên trời” (Mt 5: 13-16).
15. Nơi Chúa hẹn gặp ta
Thời Trung cổ, có hai tu sĩ tình cờ đọc
thấy trong một cuốn sách cổ chép rằng: ở tận cùng trái đất sẽ có một nơi mà
trơi đất gặp nhau. Họ quyết định ra đi tìm cho bằng được điểm gặp nhau ấy và thề
quyết sẽ không trở về nhà nếu không tìm ra nơi ấy, vì họ đã đọc được trong quyển
sách cổ rằng tại điểm giao nhau giữa trời và đất, một cánh cửa sẽ mở ra và họ sẽ
nhìn thấy Thiên Chúa tỏ tường.
Họ vượt thác băng rừng, không quản ngại
hy sinh. Cuối cùng thì họ cũng đứng trước giao điểm ấy. Với tất cả xúc động, họ
đưa tay gõ vào cánh cửa hẹn hò, cánh cửa mơ ra và họ bỡ ngỡ nhận ra đó chính là
căn phòng của mình. Họ chợt hiểu rằng nơi gặp gỡ giữa trời và đất, nơi hẹn hò
giữa Thiên Chúa và con người không gì khác hơn là chính cuộc sống hằng ngày của
họ.
16. Bài thơ chứng nhân
Chung lời ngợi khen Chúa Con,
Hân hoan thờ kính sắt son một niềm.
Ứng viên của Chúa tình yêu
Nhiệt tâm, nhiệt huyết, đìu hiu xa rời,
Gần gũi, gắn bó đầy vơi
Nghị lực Thần khí, biển trời cậy trông.
Hoạt động hăng say vun trồng,
Ân sủng chan chứa tình nồng thánh ân
Người người chung sức tảo tần,
Ra đi làm chứng, xếp vần yêu thương. Amen.
17. Rao giảng theo cách của thánh Phanxicô
Thánh Phanxicô gọi một thầy dòng cùng
đi giảng với ngài. Hai thầy trò cùng đi các đường phố Assise, cách nghiêm trang,
suy tưởng về Chúa… Về nhà, thầy dòng hỏi cha thánh:
– Giảng ở đâu?
Cha thánh trả lời:
– Giảng là đem Chúa đến bằng gương
sáng, bằng cách sốt sắng mang Chúa trong tâm hồn.
- Cách rao giảng của bác tài xế xe
taxi
Một vị linh mục sau chuyến đi du lịch Đài
Bắc trở về đã thuật lại một cách thức làm tông đồ truyền giáo của một bác tài xế
xe taxi ở đó như sau:
“Ngày nọ, tôi đón taxi từ khách sạn đi
trung tâm thành phố Đài Bắc mua sắm quà lưu niệm. Tôi thấy ngạc nhiên khi thấy
trong xe có dán một tờ giấy ghi mấy dòng chữ như sau: “Bạn có thể thấy một vài
quyển sách về tôn giáo ở hộc bên hông xe. Trong khi xe đang chạy, bạn có thể đọc
sách và nếu thích, bạn có thể mang sách theo khi rời khỏi xe mà không phải trả
tiền mua sách.” Tôi tò mò tìm hộc sách và thấy một chục cuốn sách mỏng bằng
tranh nội dung về cuộc đời Đức Giêsu in trên giấy trắng khá đẹp, một ít sách
truyện về các thánh và các danh nhân tôn giáo, một ít cuốn là những câu chuyện
về việc sống đức tin giữa đời thường... Ngoài ra, phía trên tấm kính chiếu hậu
trước mặt tài xế cũng có một ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nhỏ. Tôi mở lời hỏi tài xế:
- Này bác tài, xin vui lòng cho tôi biết
hành khách đi xe có ai quan tâm đến hộc sách đạo của bác không?
- Ồ, có chứ! Có nhiều người đã lấy ra
xem, và có người còn mang về nhà nữa.
Tôi hỏi tiếp:
- Bác có cảm tưởng gì khi thấy người
ta đọc sách do bác giới thiệu?
- Tôi cảm thấy rất sung sướng anh à!
Anh biết không: tôi không có nhiều giờ đi lễ nhà thờ. Vì tôi phải luôn chạy xe
để kiếm tiền nuôi sống gia đình. Do đó, đây là cách làm công tác tông đồ của
tôi. Tôi rất mừng vì đã có thể làm hai công việc một lúc: vừa lái xe lại vừa
rao giảng Tin Mừng mà không phải tốn thêm thời giờ. Tôi nghĩ rằng tôi đang làm
một công việc tuyệt vời!
18. Thánh Gióng
Vào đời Vua Hùng Vương Thứ Sáu có nạn
giặc Ân bên Tàu. Chúng cậy thế mạnh nên hay sang quấy nhiễu nước ta. Vua truyền
hịch đi khắp nơi để tìm người tài giỏi giúp nước diệt giặc.
Bấy giờ ở làng Phù Đổng có một cậu bé
đã 3 tuổi mà chỉ nằm ngửa không nói được một lời nào. Cậu bé được sinh ra do một
lần người mẹ nghèo làng Gióng ra đồng, thấy vết chân to lớn lạ thường nên ướm
thử, không ngờ về nhà thụ thai. Mười hai tháng sau, bà sinh một bé trai khôi
ngô tuấn tú, nhưng thật kỳ lạ là lên ba mà cậu bé vẫn chẳng biết nói, biết cười.
Lúc bấy giờ, giặc Ân đang xâm lấn nước ta. Thế giặc mạnh nên vua rất lo, truyền
cho sứ giả đi khắp nơi tìm kiếm người tài cứu nước. Cậu bé nghe thấy tiếng loa,
liền cất tiếng nhờ mẹ mời sứ giả tới nhà. Gặp sứ giả, cậu bé bảo: “Ông về tâu
vua sắm ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt, ta sẽ đánh tan lũ giặc này.” Được lời,
sứ giả vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ vội về bẩm báo với nhà vua.
Vua thuận ý. Cậu bé liền vươn vai
thành người to lớn, khỏe mạnh. Chuyện càng lạ hơn nữa khi từ hôm gặp sứ giả, cậu
bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn bao nhiêu cũng chẳng no, áo vừa may xong đã căng
đứt chỉ. Mẹ cậu bé phải nhờ đến sự giúp đỡ của bà con trong làng thì mới lo đủ
cho cậu. Khi giặc Ân đến chân núi Châu Sơn (Tiên Du, Bắc Ninh) thì cũng là lúc
sứ giả đem kiếm, áo giáp và ngựa tới cho cậu bé. Cậu bé vươn vai thoắt biến
thành một tráng sỹ mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt. Tráng sỹ mặc giáp,
cầm kiếm và nhảy lên mình ngựa. Ngựa sắt bỗng chuyển động, miệng hý vang. Tráng
sỹ thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến
lớp khác. Roi sắt gẫy, tráng sỹ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc.
Sau khi diệt giặt Ân, Gióng bay đến
chân núi Sóc Sơn, cởi giáp, bỏ kiếm, rồi cả người và ngựa cùng thăng thiên. Từ
đó dân gian mới có câu:
… Làng Phù Đổng có một người
Sinh ra chẳng nói, chẳng cười trơ trơ
Những ngờ oan trái bao giờ
Nào hay thần tướng đợi chờ phong vân….”
Hôm nay chúng ta mừng kỷ niệm ngày
Chúa Giê-su vinh thăng về Trời sau khi hoàn thành sứ mạng cứu độ trần gian. Đây
không phải là một huyền thoại được dựng nên để thỏa mãn lòng người, mà là một sự
kiện lịch sử khẳng định cho chúng ta về một cõi thiên đường..
19. Đời người cần một lẽ sống
Có một gia đình kia: chồng là người
ngoại đạo. Ông không tin Chúa. Ông còn luôn miệng nhạo báng, khinh miệt những
hành vi thờ phượng kính mến Chúa. Ngược lại, bà vợ lại rất sùng đạo. Ngày nào
bà cũng dắt con đi lễ cầu nguyện. Dù sống giữa hai chiều hương trái ngược đối
nghịch nhau, đứa con trai duy nhất của họ vẫn hiếu thảo với bố mẹ. Một hôm em
lâm bệnh hiểm nghèo, em hỏi bố rằng: "Bố ơi! Trong ít ngày nữa con sẽ
không còn sống ở dương gian. Con xin bố dạy con phải tin ai? Theo bố hay theo mẹ?
Tin theo bố thì chẳng có thiên đàng, chẳng có Chúa hay có mẹ để được yêu thương
ở đời sau! Còn tin theo Mẹ thì có Thiên Chúa là Cha nhân lành. Có cõi trời để
hưởng hạnh phúc vĩnh cửu bên Chúa la Cha. Có Đức Mẹ luôn bầu cử chở che?"
Người cha quá sững sờ và kinh ngạc.
Ông ôm con vào lòng và nói: "Con hãy tin theo Mẹ. Con cưng của cha! Đứa bé
liền nói tiếp: "Nhưng nếu bố không tin theo Mẹ, thì làm sao con có thể chờ
đợi bố ở trên thiên đàng được?” Trước lời đơn sơ và chân thành của em bé, người
cha đã không kiềm nổi những giọt nước mắt ứ tràn nơi khoé mắt. Ông đã để những
giọt nước mắt xót xa tuôn rơi trên gò má già nua của mình. Kể từ ngày đó, người
cha đã chọn Chúa là lẽ sống, là Đấng ông tôn thờ.
Vâng, nếu cuộc đời này sinh ra lớn lên
rồi chết đi thì cuộc đời chẳng còn ý nghĩa gì! Con người sinh ra để được sống
mãi chứ không phải để nhào lộn trong bể khổ và chết là hết kiếp người! Điều
quan yếu là chúng ta phải tìm ra lẽ sống, và cùng đích đời người là gì? Sống để
làm gì? Và chết rồi đi đâu? Đó là những vấn đề làm nên nhân cách con người.
Chúng ta chọn cách sống nào cũng tuỳ thuộc vào việc chúng ta hiểu ý nghĩa và cùng
đích đời người ra sao?
20. Quê hương chúng ta ở trên trời
Người ta kể rằng: Năm 1285, quân
Nguyên Mông sang xâm chiếm Đại Việt, Trần Bình Trọng được giao coi giữ Thiên
Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay). Khi giặc đánh xuống, vì lực lượng yếu,
Trần Bình Trọng bị bắt, Lý Hằng sai giải đến cho Thoát Hoan. Thoát Hoan thấy
Bình Trọng người cao lớn, dáng đi hùng dũng, nét mặt đường hoàng, không có chút
gì là sợ sệt thì biết không phải là tướng thường, nên muốn khuyên dỗ về hàng,
liền tiếp đãi rất tử tế, mời ăn uống hẳn hoi. Nhưng Bình Trọng không ăn. Hỏi đến
việc nước, Bình Trọng cũng không nói. Sau Thoát Hoan lại hỏi: "Tướng quân
có muốn làm vương đất Bắc không?”
Bình Trọng trả lời: "Ta thà làm
quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc. Nay ta đã bị bắt thì chỉ có chết
là cùng, can gì phải hỏi lôi thôi.”
Thoát Hoan không thuyết phục nổi Trần
Bình Trọng hàng, nhưng vì có ý mến phục, cũng không nỡ giết, cho giải theo
quân. Được mấy hôm, lại sợ Bình Trọng trốn mất, mới sai mang ra chém. Trần Bình
Trọng bấy giờ mới 26 tuổi.
Bình Trọng không bán nước cầu vinh.
Bình Trọng chọn chết vinh hơn sống nhục. Không vì giầu sang hay chức vụ mà sống
hèn hạ, sống lệ thuộc, sống mất tự do. Bình Trọng chọn cái chết để trung thành
với quê hương đất nước. Rất đáng được người muôn thế hệ noi theo.
Là người ky-tô hữu chúng ta cũng có một
vương quốc để yêu mến, để phụng sự. Đó chính là Nước Trời. Đó chính là quê
hương đích thực của đời người chúng ta.
21. Thiên đàng và hỏa ngục khác nhau ở chỗ nào
Một người sùng đạo nói chuyện với Chúa
“ Thưa Chúa, con rất muốn biết Thiên đường và Địa ngục là như thế nào?” Chúa dẫn
anh ta vào hai cái cửa…
Chúa mở cái cửa đầu tiên, người đàn
ông nhìn vào.
Ở giữa phòng có một cái bàn tròn lớn. Ở
giữa bàn có một nồi nước hầm bốc khói nghi ngút trông thật ngon và hấp dẫn.
Nhưng mọi người ngồi xung quanh bàn
thì lại gầy guộc, xanh xao, cứ như là bị bỏ đói từ lâu vậy.
Mỗi người ai cũng đang cầm chiếc thìa
có cán dài được buộc vào cánh tay. Họ có thể với chiếc thìa dài tới nồi nước hầm
để múc, nhưng vì nó dài quá, và bị buộc vào tay, nên họ không thể cho vào miệng
mình được.
Người đàn ông rùng mình trước cảnh tượng
khổ sở như vậy. Chúa nói: “Đấy, con vừa nhìn thấy Địa ngục.”
Tiếp tục họ bước sang phòng thứ hai và
mở cửa. Mọi thứ xung quanh đều giống phòng đầu tiên. Nhưng mọi người ở đây
trông thật to khỏe, no nê, mãn nguyện, cười nói rôm rả.
Chúa nói “Đây chính là Thiên Đường”
Người đàn ông thắc mắc: “Con không hiểu,
thưa Chúa.”
“Đơn giản thôi” – Chúa đáp – “Ở nơi
này, mọi người biết cách đút cho nhau ăn.”
22. Gậy ông đập lưng ông
Một người đàn ông khi còn sống chuyên
làm nghề quảng cáo. Khi ông ta chết, ông ta đến gặp diêm vương. Diêm vương ân cần
hỏi ông: "Muốn ở thiên đàng hay hỏa ngục." Ông ta ngập ngừng đáp. Tôi
chưa thấy thiên đàng hay hỏa ngục như thế nào thì làm sao tôi có thể chọn! Diêm
vương dẫn ông ta đến một nơi và chỉ cho ông ta thấy cảnh thiên đàng. Đó là một
nơi mát mẻ, yên lặng, thanh bình, vui chơi..., người ta ăn nói nhẹ nhàng, lịch
thiệp.
Sau đó, Diêm vương dẫn ông ta đến xem
hỏa ngục, thì ông ta thấy vui nhộn, người ta ăn nhậu, vui vẻ, có các cô gái
chân dài, trẻ đẹp múa hát. Thế là ông ta thích thú. Khi nhìn thấy thiên đàng và
hỏa ngục rồi, ông ta mau mắn trả lời: ở thiêng đàng buồn quá, tôi thích chọn quả
ngục vui sướng hơn.
Thế là Diêm vương sai hai thằng quỷ
đưa ông ta vào hỏa ngục. Vừa đến nơi, ông ta hoảng hốt la hét lên: nóng quá làm
sao tôi chịu nổi, ông ta la hét lên: sao không có ăn nhậu hay các cô gái đẹp gì
cả, toàn là lũ quỷ đen đang hành hạ các tội nhân.
Ông ta tức giận quay lại hỏi Diêm
vương. Thế hỏa ngục lúc ông chỉ cho tôi ở đâu? Diêm vương khoái trí cười trả lời:
"Đồ ngu, đồ thứ tham lam duc vọng, đó chỉ là quảng cáo thôi." Đời là
thế đấy! Và ông cũng làm nghề quảng cáo mà.
Người ta thường nói: "Sinh nghề tử
nghiệp.” Khi còn sống ông ta cũng đã dùng nhiều cách mánh khóe, gian lận, sảo
huyệt để quảng cáo và đánh lừa người khác để làm lợi cho mình. Đến khi chết rồi,
ông ta vẫn còn cái tính tham lam, tính toán, nên bị Diêm vương cao tay đánh lừa
ông ta.
23. Nhân chứng cho đức tin
Bài viết có nội dung như sau và trích
từ R. Veritas:
“Một phụ nữ tên là Mensi đã đăng quảng
cáo trên một tờ báo địa phương như sau: "Nếu bạn cô đơn hay gặp nan đề
nào, xin hãy gọi điện thoại cho toi. Tôi bị liệt phải ngồi xe lăn tay, nên rất
ít khi ra ngoài. Chúng ta có thể trao đổi nan đề với nhau. Mời bạn cứ gọi. Tôi
rất thích nói chuyện với bạn.”
Việc đáp ứng quảng cáo này rất kỳ lạ.
Mỗi tuần bà Mensi nhận được khoảng từ 30 cú phôn, và bà rất mừng. Điều gì thúc
đẩy một người tàn tật ngồi trên xe lăn tay muốn tiếp xúc nói chuyện với những
người khác?
Bà Mensi kể rằng trước khi bị tê liệt
bà có sức khỏe hoàn toàn, nhưng rất tuyệt vọng. Bà đã tự tử bằng cách nhảy từ
trên gác cao xuống đất. Nhưng thay vì chết, bà bị tê liệt từ thắt lưng trở xuống.
Nằm trong nhà thương bà hoàn toàn tuyệt vọng. Nhưng một hôm bà nghe như Chúa
Giêsu nói với ba: "Mensi ơi, trước đây con đã có một thân xác hoàn hảo,
nhưng linh hồn con lại què quặt, Kể từ nay con sẽ có thân xác què quặt, nhưng
linh hồn con kháng kiện.”
Sau khi ra khỏi nhà thương, bà Mensi
quyết tâm dâng đời mình cho Chúa. Bà cầu xin Chúa cho bà được chia sẻ niềm tin
của mình với người khác. Rồi bà đăng báo như đã kể trên đây.
Công việc của bà Mensi xem ra như
không có gì đối với người khác. Nhưng với bà, đó là công việc lớn lao nhất mà một
người tàn tật có thể làm để phục vụ Chúa.”
24. Sự sống đời đời
Khi Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ em ở
Fatima, thì Fanxicô và Giacinta hỏi Đức Mẹ là các em có được lên Thiên đàng
không? Đức Mẹ trả lời hai em sẽ sớm được Đức Mẹ đưa về trời, còn Luxia thì Đức
Mẹ cho biết phải ở lại thế gian lâu hơn để phổ biến sứ điệp Fatima cho toàn thế
giới. Quả đúng như thế, Fanxicô qua đời khi mới 11 tuổi, Giacinta chết khi 10
t, còn chị Lucia sau vào dòng kín và mãi tới năm 2005 mới qua đời khi đó thọ 98
tuổi
Chị Bernadetta được Đức Mẹ hiện ra ở Lộ
Đức năm 1858. Người ta hỏi chị: Đức Mẹ có đẹp không? Chị trả lời Đức Mẹ đẹp lắm,
nếu ai đã được nhìn thấy Đức Mẹ một lần thì sẵn sàng muốn chết đi để được nhìn
thấy Đức Mẹ lần nữa
Bà Emilia Wojtyla là thân mẫu của ĐGH
Yoan Phaolô II, khi bà mang thai thì bác sĩ bảo bà phải phá thai, nếu không bà
sẽ chết, còn con trẻ thì nguy tới tính mạng nhưng cả hai ông bà đều quyết định
không phá thai. Bà sinh rất khó khăn nhưng Chúa cho qua được và khi đứa con 9t
bà mới chết, sau này người con đó trở thành vị thánh Giáo hoàng nổi tiếng trong
thời đại chúng ta.
25. Các đệ tử tiếp tục và hoàn tất
Nhà soạn nhạc vĩ đại người Ý Giacomo
Puccini (1858-1624) đã viết nhiều vở nhạc kịch lừng danh. Năm 1922, lúc ông được
64 tuổi, thì ông mắc bệnh ung thư. Dầu vậy, ông vẫn quyết định hoàn thành vở nhạc
kịch cuối cùng của mình, tức vở Turandot mà hiên nay nhiều người xem như vở nhạc
kịch hay nhất của ông. Ông miệt mài làm việc ngày đêm. Nhiều người ép ông nghỉ
ngơi, vì theo họ nghĩ, ông không thể nào hoàn tất nổi vở nhạc kịch ấy. Khi thấy
căn bệnh ngày càng nặng hơn, Puccini nói với các đệ tử: "Nếu ta không hoàn
tất được vở Turandot thì các trò hãy cố gắng hoàn tất nó cho ta."
Vào năm 1924, Puccini được học trò đem
đến Bruxelles để giải phẫu, nhưng hai ngày sau cuộc giải phẫu đó, thì ông qua đời.
Trở về Ý, các đệ tử của Puccini nghiên cứu kỹ lưỡng vở Turandot và tiếp tục viết
cho đến lúc hoàn thành trọn vở nhạc kịch đó.
Hai năm sau, vở nhạc kịch được trình
diễn lần đầu tiên tại nhà hát lớn La Scala thuộc thành phố Milan, do Arturo
Toscanini, người học trò ưu tú của Puccini điều khiển. Mọi sự đều trôi chảy tốt
đẹp cho đến khúc nhạc mà Puccini buộc phai ngừng bút. Nước mắt ràn rụa trên
khuôn mặt Toscanini. Anh cho giàn nhạc dừng bản nhạc kịch lại, đặt cây gậy điều
khiển xuống rồi quay về khán thính giả và nói lớn: "Sư phụ chúng tôi đã viết
được đến đây, rồi người qua đời."
Lúc đó toàn thể nhà hát đều im bặt,
không cử động. Sau vài phút, Toscanini cúi xuống cầm gập điều khiển lên, quay về
cử tọa mỉm cười qua dòng lệ rồi thốt lên: "Nhưng các đệ tử đã hoàn tất
công việc của người.” Vở Turandot vừa dứt thì toàn thể khán thính giả vỗ tay ầm
ầm như sấm vang. Những người có mặt lúc đó không thể nào quên được giây phút ấy.
26. Giây phút hiện tại
Gerard Manley Hopkins là một thi sĩ
người Ai-Nhĩ-Lan. Hồi còn trẻ, ông là một giáo sư dạy học tại một học đường của
các cha dòng Tên ơ Wales. Ngày kia ông đang trên đường trở về nhà ở trong cư xá
dòng Tên. Lúc bấy giờ là mùa thu. Hopkins đang ở trong một trạng thái rầu rĩ vì
mùa hè đã qua, mùa đông sắp tới và thời tiết bắt đầu đổi thay.
Nếu ai đã trải qua mùa đông ở Wales
thì sẽ rõ tại sao thi sĩ bị sa sút tinh thần. Tại đây rất nhiều ngày chỉ thỉnh
thoảng sương mù hơi mõng một chút, nhưng phần nhiều trong ngày là một màng
sương dày đặc ẩm ướt bao trùm và nhìn đâu đâu cũng chỉ thấy mờ mịt. Đang khi
ông trên đường trở về nhà, bất chợt Hopkins tự nói với mình: “Hãy thư thả một
chút. Mùa hè không còn đây nữa. Hè đã qua rồi. Mùa đông chưa có ở đây. Mùa đông
chưa đến. Vậy thì mùa gì đây? Đó là mùa thu, mùa của lá rụng và cũng là mùa gặt
hái hoa quả. Hãy mở mắt ra mà xem. Xem vẻ đẹp của hoa lá. Xem mây trôi lơ lững
trên nền trời. Hãy thưởng thức gió mát từ bờ biển Ai-Nhĩ-Lan thổi vào. Đừng bận
tâm về điều gì không còn ở nơi đây nữa. Đừng bận tâm về điều gì chưa xảy tới
nơi đây. Hãy ngắm xem cái gì đang xảy ra bây giờ đây.
“Hãy trân trọng giây phút hiện tại.
Hãy trân trọng vẻ đẹp rạng rỡ đang phô bày trước mắt!”
27. Nước Trời thuộc về những ai tìm kiếm
Có một nhà phú hộ, đầy quyền thế danh
vọng ở đời bỗng nhiên đột quỵ và qua đời. Gia nhân ai nấy đều xúc động, bỡ ngỡ.
Người ta bàn tán xôn xao về cái chết đột tử của nhà phú hộ. Trong đó có một lời
bàn gây nhiều tranh cãi từ một người quản gia của nhà phú hộ. Người quản gia
nói rằng: Theo các anh thì ông chủ chúng ta sẽ đi về đâu?
Các gia nhân đáp: Ông ấy lên trời chứ
đi đâu nữa.
Người quản gia nói: Không đâu. Tôi chắc
chắn ông ta không lên trời.
Tất cả đều ngạc nhiên hỏi: Làm sao quản
gia biết là ông chủ không lên trời?
Người quản gia nói: Thường thì đi đâu
xa, chủ của chúng ta thường nói về nước sẽ đi đến và chuẩn bị rất là cẩn thận.
Nước trời là cõi xa xôi, nhưng tôi không bao giờ thấy ông chủ của mình nói gì về
nước đó, cũng không thấy ông ta chuẩn bị gì cả. Làm thế nào mà ông ta vào Nước
Trời được!
28. Chúa Giêsu là bác sĩ tâm hồn
Ngày 25/3/2003 tại Sàigòn, một bác sĩ
có tên thánh là Augustino, 50 tuổi được thụ phong linh mục, điều đáng nói vị
linh mục này là một người lương trở lại đạo cách ngày thụ phong 10 năm, lúc đó
ngài 40 tuổi, sau khi trở lại đạo, ngài gia nhập tu hội Thánh Vinh Sơn, theo học
triết học và thần học. Bề trên thấy có đủ điều kiện đã thụ phong linh mục cho
ngài. Hiện cha đang làm việc cho một trung tâm dành cho nhưng người mắc chứng
siêu vi đang chờ ngày giờ về thế giới bên kia, trung tâm đó ở Củ Chi cách
Sàigòn độ 30 cây số.
Làm sao từ một bác sĩ lương dân có thể
trở nên một người tận hiến cuộc đời cho Chúa và anh em như vậy? Thưa ngài đã được
thu hút bởi các nữ tu Nữ Tử Bác Ái, nhất là từ một nữ tu người ngoại quốc nhưng
tận hiến trọn cuộc đời của mình để yêu thương phục vụ cho người cùi hủi, sau
khi tốt nghiệp chuyên về ngành da liễu, sơ ngoại quốc này đã tình nguyện làm việc
tại bệnh viện Bến Sắn, một bệnh viện công nhưng có các sơ Nữ Tử Bác Ái cùng làm
việc. Trước những hy sinh tận tụy của sơ này và các sơ phục vụ cho các người
phong cùi khác với cả tấm lòng, đã đánh động vị bác sĩ - linh mục này, ngài
nói:"Tôi tự nghĩ trong lòng, tôi có thể chữa lành các vết thương thân xác,
nhưng làm sao tôi có thể chữa lành nỗi lòng cô đơn, bị bỏ rơi của các bệnh nhân
cùi hui này? Từ đó tôi đã tìm hiểu niềm tin Công giáo và tôi đã gặp được vị bác
sĩ của các tâm hồn là Đức Giêsu Kitô.”
29. Một cõi đi về
Có lẽ trong chúng ta, phần đông đều biết
đến một ca khúc của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Ca khúc có tựa đề là "Một
cõi đi về":
Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Trên hai vai ta đôi vòng nhật nguyệt
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về.
Mây che trên đau và nắng trên cao
Hôm nay ta đi song còn ở lại
Con tim yêu thương vô tình chợt gọi
Lại thấy trong ta hình bóng con người
..............
Nếu cố nhạc sĩ họ Trịnh đã viết nên lời
của ca khúc Môt cõi đi về này thì tôi tưởng rằng Trịnh Công Sơn đã có một chiều
sâu cảm nghiệm về một cõi, về một nơi nào đó mà người ta phải đi tới, phải đi về.
Cõi đó là cõi nào? Nơi đó là nơi nào?
Tin mừng hôm nay mô tả: " Nói
xong, Chúa Giêsu được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa"(Mc 16, 19)
Như vậy, nếu Trịnh Công Sơn đã nói về một
cõi xa xăm nào đó thì hôm nay, chính Chúa Giêsu đã xác định cõi đó là Thiên
Đàng, là Trời cao. Đó là nơi mà sau bao nhiêu năm Đức Giêsu đã long đong, sau
bao nhiêu năm nhọc nhằn, sau bao lần nếm cảnh nghèo đói, khổ đau, cay đắng và
thậm chí là những thất bại chua cay, giờ đây, Ngài đang bước đến cõi đi về đó.
Nơi đó, cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Nơi hạnh phúc không còn khổ
đau, nơi mà tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối và viên mãn. Nơi mà con
người trở thành bất tử.
30. Lễ Thăng Thiên
Cách đây độ chừng 15 năm, nghĩa là
trong những năm thời trung học phổ thông, con có chứng kiến một sự kiện hi hữu
như thế này: hôm đó cả lớp cùng đi đám tang của một người bạn trong lớp. Vì nhà
tang rất xa, cho nên phải đi khá sớm. Hơn nữa trước khi đi, xe phải chạy vòng
ra chợ để lấy vòng hoa phân ưu đã đặt trước, cách chung là mọi việc rất khẩn
trương vội vã. Khi đến nhà tang thì mọi người xuống xe, chuẩn bị hàng ngũ chỉnh
tề để vào phúng viếng thì mới dở khóc dơ cười khi nhìn thấy trên vòng hoa có
hàng chữ "Chúc mừng khai trương - Thành công mỹ mãn.”
Thưa anh chị em! Chắc chắn rằng không
ai trong chúng ta muốn cái sai lầm đó xãy ra bao giờ cả, nhất là đối với những
người không phai là đạo Công Giáo. Thế nhưng suy nghĩ một chút, chúng ta cũng
thấy rằng: cái lầm lẫn đó cũng mang một ý nghĩa khá thú vị. Bởi vì theo đức tin
Công Giáo, cái chết là cửa ngỏ để dẫn chúng ta vào đời sau vĩnh cửu, để dẫn
chúng ta vào Thiên Đàng, nơi mà theo Thánh Gioan diễn tả: không còn chết chóc,
không còn vất vã nhọc nhằn, không còn khóc lóc và đau thương, nhưng chỉ có bình
an và hạnh phúc.
31. Ruộng đất trần gian
Có một cái vị địa chủ kia, bán đất cho
một cái người đàn ông. Người địa chủ bảo rằng: từ sáng cho tới chiều, tôi bán
cho ông miếng đất đó 10₫ bạc, miễn làm sao, ông đi từ sáng cho đến lúc mặt trời
lặn, ông cứ đi đi! tới đâu, đó là ranh giới của miếng đất mà ông sẽ được hưởng
với giá 10₫.
Thế là cái người đàn ông đó hí ha, hí
hửng chạy về nhà suy nghĩ một đêm tính ra bây giờ ngày mai mình phải đi như thế
nào đó thật nhanh, thật xa, để đất đai của mình được nhiều.
Thế là ông mua 2 ổ bánh mì, kèm theo 2
chai nước. Ông đi và ông đi, ông đi vội vả đến độ nghỉ trưa mệt nhòa. Ông nghĩ
rằng: Nếu bây giờ mình nằm ngủ, mình nghỉ trưa thì mình sẽ bị thiệt thòi mất đi
những mét đất mà ông chủ bán.
Thế là với 2 ổ bánh mì và 2 chai nước,
ông đã ăn và đã vội vàng đi và đi, đi mãi cho đến lúc chiều tà, đến lúc không
còn ánh nắng nữa, thì phần đất mà ông chủ hứa đã dành cho ông như đã hứa.
Thế nhưng rồi, tiếc thay với những cái
cơn nắng nóng, cơn khát và sức khỏe giới hạn ông đã kiệt sức và không còn sống
được nữa, tới khi người ta phát hiện ra ông, ông đã chết. Người ta đào lỗ chôn
cho ông với vừa đủ cái thân hình nhỏ bé của ông.
32. Ham muốn phù vân
Ngày 17-05-2012, Cảnh sát Thái Lan bắt
giữ một người Anh gốc Đài Loan, tên Chow Hok Kuen tại Bankok. Trong hành lý của
Hok Kuen có chứa 6 bào thai sấy khô, quấn vàng lá theo nghi thức tà thuật. Những
bào thai này khoảng 2-8 tháng tuổi. Vụ bắt giữ được tiến hành sau khi cảnh sát
nhận được thông tin rằng xác bào thai được giới nhà giàu săn mua trên một trang
web chuyên các dịch vụ tà thuật.
Chow Hok Kuen khai rằng đã mua các bào
thai nhiều ngày trước với giá 200. 000 baht (6.500USD) và dự kiến sẽ bán chúng
sang Đài Loan với giá gấp 6 lần. Nguồn gốc bào thai hiện chưa được rõ. Anh ta
cho biết định bán cho những người tin rằng sở hữu các bào thai sẽ làm họ may mắn
và giàu có” - tướng Wiwat Kamchamnan, cảnh sát Bangkok cho biết.
33. Cô bé bán diêm
Han Christian Andersen (1805-1875) là
nhà văn lớn và là người viết truyện cổ tích nổi tiếng của xứ sở Đan Mạch. Một
trong những truyện được ưa thích nhất của ông là truyện “Cô Bé Bán Diêm.” Truyện
kể về một bé gái nghèo đói đi bán diêm trong đêm giao thừa lạnh lẽo đầy băng
tuyết.
Trong đêm đông rét buốt ấy, cô bé
không bán được bao diêm nào, giữa lúc bụng thì đói, thân xác thì giá lạnh. Cô
bé đành nép vào một góc tường giữa phố để trốn những cơn gió lạnh. Vì lạnh quá,
cô bé đành phải đánh lên những que diêm để sưởi ấm mình. Que diêm thứ nhất sáng
lên, cô bé nhìn thấy một cái lò sưởi ấm áp. Que diêm thứ hai bùng lên, cô nhìn
thấy một bàn ăn thơm phức. Que diêm thứ ba lóe lên, cô bé nhìn thấy một cây
noel rực rỡ. Cứ thế, cô đánh hết que diêm này đến que diêm khác để nhìn thấy những
ảo ảnh xuất hiện. Que diêm cuối cùng sáng lên, cô bé nhìn thấy bà nội hiền hậu
đã mất của cô hiện ra, cầm lấy tay cô, rồi hai bà cháu bay vút lên cao, cao mãi
tới nơi không còn giá lạnh, không còn đói khát, không còn sợ hãi nữa.
Sáng hôm sau, người ta tìm thấy cô bé
đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa, bên cạnh là những que diêm cháy dở mà
cô đã đánh lên để sưởi ấm mình.
Hình ảnh đẹp nhất trong câu truyện là
cảnh hai bà cháu bay lên trời cao để thoát khỏi những đau khổ ở đời này. Có lẽ,
đó cũng là ước muốn của nhiều người. Tuy nhiên, hôm nay, Chúa Giêsu muốn dạy
chúng ta một chân lý cao cả hơn: lên trời không phải là một cuộc chạy trốn,
cũng không phải là một giấc mơ hão huyền, nhưng là một hiện thực đang được khởi
đầu ngay từ trần thế này. Con đường lên trời được nối dài từ con đường loan báo
Tin Mừng. Đó chính là sứ vụ Chúa trao cho các môn đệ trước khi về trời: “Các
con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật.”
34. Điều đáng quý đáng trọng nhất
Thánh Tôma More tử đạo, giữ chức chưởng
ấn nước Anh, vì muốn trung thành với Giáo Hội, nên đã bị tống giam.
Vợ của ông đến thăm và năn nỉ: “Tại
sao mình không lo cứu lấy mạng sống?”
Thánh Tôma More đáp: “Theo em nghĩ,
thì anh sống ở trần gian này được bao lâu nữa?”
Bà vợ trả lời: “Sức khỏe của anh cũng
hứa hẹn ít nhất 20 năm nữa.”
Thánh nhân trả lời: “Em đề nghị cho
anh một hành động hết sức điên dại! Để sống 20 năm, mà phải hy sinh cuộc sống đời
đời.”
35. Uy quyền của ông vua và nữ tu
Vua Napoléon III, trong cuộc du lịch
qua Elgérie, có vào thăm một nữ tu viện, vua có hỏi một nữ tu: “Sơ có muốn tôi
giúp gì không? Sơ có bà con này cần tôi nâng đỡ không?”
Nữ tu đó trả lời: “Thưa hoàng đế, tôi
chỉ có một nguyện vọng. Xin nhà vua giúp cho.”
Vua Napoléon băn khoăn hỏi: “Nguyện vọng
gì?”
Nữ tu đó đáp: “Tôi tin đức vua đảm bao
cho tôi được vào thiên đàng.”
Nhà vua trả lời với cả sự trịnh trọng:
“Ôi điều đó ngoài uy quyền của một ông vua dưới đất. Chính Sơ lại có thể dùng lời
cầu nguyện để giúp tôi việc đó, hơn là chính tôi có thể làm được cho Sơ.”
36. Cái Kén Bướm
Một chàng trai nọ trông thấy một cái
kén bướm, trên cái kén hé một lỗ nhỏ. Chú bướm nhỏ cố thoát mình khỏi cái lỗ nhỏ
xíu đó. Anh ta ngồi hàng giờ nhìn và thấy mọi việc diễn tiến có vẻ hết sức khó
khăn. Hình như chú bướm không thể cố hơn được nữa. Vì thế, anh ta quyết định
giúp chú bướm nhỏ. Anh ta lấy kéo rạch cho cái lỗ to thêm.
Chú bướm dễ dàng thoát ra khỏi cái
kén. Nhưng thân mình nó sưng phồng lên, đôi cánh thì nhăn nhúm. Còn chàng thanh
niên cứ ngồi quan sát cái kén với hy vọng một lúc nào đó thân mình chú bướm sẽ
xẹp lại và đôi cánh xòe rộng hơn đủ để nâng đỡ thân hình chú.
Nhưng chẳng có gì thay đổi cả! Sự thật
là chú bướm đã phải bò loanh quanh suốt quãng đời còn lại với đôi cánh nhăn
nhúm và thân hình sưng phồng. Nó chẳng bao giờ có thể bay được. Có một điều mà
người thanh niên đã không hiểu: cái kén chật chội khiến chú bướm phải nỗ lực mới
chui qua được cái lỗ nhỏ xíu kia là quy luật tự nhiên tác động lên đôi cánh và
cơ thể của bướm, giúp chú có thể bay ngay khi thoát ra ngoài.
Chúa đã mời gọi tôi theo Chúa bằng một
lời mời “chẳng giống ai”: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập
giá mình mà theo.” (Mt 16,24)
Tại sao Chúa lại mời gọi tôi đi vào
con đường chẳng ai muốn đi đó? Vì đó là con đường duy nhất: “Ai không vác thập
giá mình mà theo Thầy thì không xứng với Thầy.” (Mt 10,38)
Đúng thế, tôi đã dựng nên theo hình ảnh
Chúa – là tình yêu – nên càng bỏ mình tôi càng trở nên chính mình. “Không có
tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu
của mình.” (Ga 15,13)
Đó mới là nguồn mạch cho hạnh phúc thật,
cho sự sống viên mãn: “Thật, Thầy bảo thật anh em: anh em sẽ khóc lóc và than
van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ
trở thành niềm vui.” (Ga 16,20)
37. Thuốc bất tử
Thời Chiến Quốc có người đem dâng vua
nước Sở vị thuốc bất tử.
Người ấy bưng vị thuốc vào, có viên
quan canh cửa hỏi rằng: “Vị thuốc này có ăn được không?” Người đáp: “Ăn được.”
Tức thì viên quan giật lấy vị thuốc mà ăn.
Chuyện nói đến tai vua. Vua phán bắt
viên quan đem giết.
Viên quan kêu lên rằng: “Thần đã hỏi
người đem dâng thuốc. Người ấy nói rằng: ‘Ăn được’ nên thần mới dám ăn. Thế là
thần vô tội mà lỗi ở người dâng thuốc. Vả chăng người đem dâng nói là ‘bất tử’,
nghĩa là ăn vào thì không chết nữa. Thế mà thần mới ăn, đã phải sắp chết, vậy
thuốc tử chớ sao gọi là bất tử được? Nhà vua giết thần, thực là bắt tội một người
vô tội mà tỏ rằng thiên hạ dối được nhà vua mà nhà vua vẫn tin.”
Vua nghe nói có lý, bèn tha viên quan ấy
không giết nữa.
Sẽ không còn sự chết cho người tin! “Nếu
chúng ta đã chết với Đức Kitô, chúng ta tin rằng chúng ta cũng sẽ cùng sống với
Người, vì biết rằng Đức Kitô một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết nữa,
sự chết không làm chủ được Người nữa.” (Rm 6,8-9)
38. Chúc má chết
Trong Thủ Bản Tự Thuật, thánh Têrêxa kể
lại rằng: “Suốt đời, Chúa nhân lành đã cưng chìu con: những kỳ niệm đầu tiên của
đời con ghi đầy những nụ cười, những mơn trớn êm đềm nhất!… Nhưng nếu Chúa đặt
bên con nhiều tình thương thì Ngài cũng cho con một trái tim để yêu và cảm xúc
dạt dào, cho nên con yêu Ba Má biết bao và con tìm đủ mọi cách để tỏ lòng yêu
Ba Má, vì hễ trong lòng con có gì thì con phải bộc lộ ra ngoài. Có điều là cách
con tỏ tâm tình đôi khi kỳ cục lắm, như lời Má chứng minh trong đoạn thư sau đây:
“Con bé này tinh nghịch có một, nó đến vuốt ve Má và chúc Má chóng chết: Má à!
Con muốn Má chết lắm!…
“Mắng nó thì nó bảo: “Má chết để về
thiên đàng. Thế Má chả bảo con là phải chết mới được vào thiên đàng là gì.
“Lúc nào nó yêu Ba quá, nó cũng chúc
Ba chết như thế!…”
Đối với Têrêxa, chẳng còn cái chết, mà
chỉ còn một cánh cửa mở ra cho hạnh phúc hoàn hảo, trọn vẹn. Ước chi đức tin
trong tôi cũng lớn lên để tôi luôn vui mừng đi tìm sự sống thật trong mọi tình
huống, kể cả trong những đau khổ của ngày hôm nay, “vì một khi cùng chịu đau khổ
với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người.” (Rm 8,17)
39. Giàu và Nghèo
Một hôm người cha của một gia đình
giàu có dẫn cậu con trai của mình làm một chuyến du lịch về miền quê với mục
đích cho cậu thấy người ta nghèo như thế nào. Họ đã qua một ngày và một đêm tại
nông trại của một gia đình rất nghèo.
Khi đã trở về nhà, người cha hỏi con
trai:
- Con thấy chuyến đi thế nào?
- Tuyệt lắm! Cha!
- Con có thấy người ta có thể nghèo
như thế nào không?
- Dạ, có.
- Con học được điều gì?
- Nhà mình có một con chó, họ có tới bốn
con. Cậu con trai trả lời, Chúng ta có một cái hồ ra tới giữa vườn, còn họ lại
có một con sông con chẳng biết ngừng chỗ nào. Chúng ta có những ngọn đèn đặt
trong vườn, họ có những ngôi sao. Hàng hiên của chúng ta dài đến sân trước, còn
họ có cả một đường chân trời.
Khi đứa con nói xong, người cha nín lặng.
Cậu con trai nói thêm:
- Con cám ơn cha đã cho con thấy chúng
ta nghèo như thế nào!
Phải chăng tất cả tùy thuộc vào cách
anh nhìn chúng? Nếu anh có tình yêu, gia đình, bạn bè, sức khỏe, một chút hài
hước và một cái nhìn tích cực về đời sống, anh đã có tất cả!
Nhưng đó là những món không thể mua được.
Anh có thể có mọi tài sản vật chất mà người ta có thể tưởng tượng ra, mọi dự
phòng cho tương lai,… nhưng nếu anh nghèo trong tinh thần, anh chẳng có gì.
“Thiên Chúa bảo ông ta: "Đồ ngốc!
Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về
tay ai? Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên
Chúa, thì số phận cũng như thế đó."” (Lc 12,20-21)
40. Chỉ là giấc mộng
Chuyện xưa kể Lư Sinh thi rớt, xấu hổ
và buồn rầu, tính đi tự tử. Dọc đường gặp quán chè kê chàng vào nghỉ chân vì mệt
mỏi đường xa, lại thức trắng đêm không ngủ. Chủ quán lấy gối bông êm cho ngủ.
Lư Sinh nằm mơ thấy mình có tên trên bảng
vàng, được vinh qui, làm quan, lại được phong vương, giàu có, vợ đẹp con khôn
đông đủ thật hạnh phúc, người hầu kẻ hạ, khách khứa bạn bè đủ loại tấp nập.
Một hôm vợ chết, con cái ngã bệnh, của
cải hao tán, bạn bè phản bội dèm pha khiến anh bị thất sủng, bị cách chức đầy
đoạ. Trước sung sướng bao nhiêu thì nay khốn cùng bấy nhiêu. Lư Sinh bứt tóc dậm
chân than thở: “Phải chi ta đừng thi đậu, thì đâu đến nông nỗi này.”
Anh đá chân làm đổ nồi cháo kê bên cạnh.
Chủ quán tỏ ra thông cảm, ôn tồn nói với anh: “Cậu đã thoả giấc mộng vàng
chưa?”
Giấc mơ của Lư Sinh là những gì đang
thực sự diễn ra trên thế giới hôm nay, và đôi khi tôi cũng đã phát điên lên vì
một giấc mộng vàng!
Giấc mộng chỉ là giấc mộng, chẳng đưa
ai lên trời. Ngôi Hai xuống thế để dẫn tôi lên trời. Việc tôi phải làm là bước
theo Ngài, không chút lưỡng lự, vì “nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô,
chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta” (Rm 6,8).
LỄ THĂNG THIÊN NĂM C –
CHÚA GIÊSU LÊN TRỜI
Bài
kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Như đã ghi chép là Ðức Kitô phải
chịu khổ hình và ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; và nhân danh Người mà rao giảng
việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân, bắt đầu từ Giêrusalem. Các con là
nhân chứng những sự việc ấy. Thầy sẽ sai đến với các con Ðấng Cha Thầy đã hứa;
vậy các con hãy ở lại trong thành cho đến khi mặc lấy quyền lực từ trên cao ban
xuống.”
Rồi
Người dẫn các ông ra ngoài, đến làng Bêtania, và giơ tay chúc phúc cho các ông.
Sự
việc xảy ra là đang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà
lên trời. Các ông thờ lạy Người, và trở về Giêrusalem lòng đầy vui mừng.
Các
ông luôn luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. Amen.
TRUYỆN KỂ
1. Sức mạnh từ trời cao
Đức Giêsu được đưa về trời khiến cả
nhân loại hoan hỷ. Con Thiên Chúa làm người, long đong với phận người, nếm cái
nghèo đói, nhọc nhằn, nếm nỗi khổ đau, cay đắng.
Cuộc đời Ngài tưởng như là một thất bại
ê chề. Nhưng rồi Ngài đã được phục sinh, đã hiện ra, và được khải hoàn đưa vào
thế giới của Thiên Chúa.
Ngài từ Cha mà đến và lại trở về với
Cha. Sứ mạng Cha giao, tuy khó khăn, nhưng Ngài đã hoàn tất.
Ta cần chiêm ngắm giây phút Ngài được
siêu thăng. Ngài giơ tay chúc lành cho các môn đệ như vị thượng tế. Ngài về trời
trong tư thế đang chúc lành. Chúc lành cho trái đất mà Ngài đã sống. Chúc lành
cho mọi người là người như Ngài.
Hôm nay chúng ta vui vì biết mình có
người Anh trưởng đã được nâng lên đến tột đỉnh vinh quang thần linh. Con người
đầu tiên với tất cả nhân tính như ta đã được siêu tôn trên trời, dưới đất và
nơi âm phủ.
Sự thành công của Đức Giêsu là niềm hy
vọng cho ta.
2. Cuộc sống chứng nhân (Lc 24,46-53)
Báo "Le Figaro" mới đăng trả
lời phỏng vấn của Tổng thống Nga Putin. Trong đó có câu hỏi như sau:
Hỏi - Trong một cuộc trả lời phỏng vấn
báo chí Nga, ông cho biết là đã đến cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu ở Giêrusalem,
trong tay cầm thánh giá. Nhưng Ông lại là cựu sĩ quan của tình báo KGB. Ông
nghĩ thế nào về sự trái ngược đó?
Trả lời - Cuộc sống được tạo nên bằng
những điều trái ngược. Khi không còn những điều trái ngược thì đó là cái chết.
Nước Nga không phải là một quốc gia giả tạo mà nó có một lịch sử lâu đời. Thời
kỳ còn là nước Liên Xô, đã có nhiều ý đồ làm thay đổi truyền thống, nhưng vẫn
không sao tách nước Nga khỏi những giá trị văn hóa của dân tộc. Nền văn hóa đó,
cũng giống như cây cỏ mọc trên các đại lộ của thành phố, xuyên thủng nhựa đường
để tồn tại.
Mẹ tôi là một phụ nữ theo đạo, mặc dù
đi lễ nhà thờ không phải là không nguy hiểm thời Liên xô trước đây. Mẹ tôi đã
bí mật làm lễ rửa tội cho tôi tại nhà thờ. Vậy tại sao các ông lại có vẻ ngạc
nhiên khi tôi cầm thánh giá cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu?
3. Sứ mệnh của người Kitô hữu
Tháng 7 năm 1972 sau những tháng dài bị
tra tấn trong trại lính, nơi ngài thi hành nghĩa vụ linh mục, cha Vania đã ngã
gục dưới làn mưa đạn. Trong lá thư cuối cùng ngài viết cho cha mẹ già có những
dòng sau đây:
"Cha mẹ yêu dấu! Thiên Chúa đã chỉ
cho con một con đường phải theo. Con không chắc có thể còn sống được để trở về
với cha mẹ nữa hay không, bởi vì những cuộc tra tấn lúc này dã man hơn trước
kia rất nhiều. Thế nhưng con không lo sợ, vì có Chúa ở cùng con. Xin cha mẹ cứ
an tâm, đừng lo lắng cũng đừng buồn phiền về số phận của con nữa. Lúc này con yếu
và kiệt sức lắm rồi. Con xin chào thăm cha mẹ trong tình yêu Chúa Kitô và trong
sự bình an của Thiên Chúa Cha. Người ta cấm cản con không được rao giảng về
Chúa Kitô nữa, và con phải trải qua nhiều thử thách. Thế nhưng, con tuyên bố với
họ là con sẽ không sợ rao giảng Tin Mừng và tình yêu của Chúa Kitô. Đây là một
sứ mệnh cao cả và con hãnh diện được tiến bước theo mệnh lệnh của Chúa. Con
không xấu hổ rao giảng về Chúa Kitô. Các phép lạ Chúa Kitô làm đều minh chứng rằng
có Thiên Chúa, do đó con sẽ mạnh dạn tiếp tục gieo vãi hạt giống Tin Mừng, vì
đó là điều Chúa Thánh Thần phán bảo con."
Rao giảng Tin Mừng là sứ vụ Chúa Giêsu
đã trăn trối lại cho các môn đệ Ngài, cho Giáo hội nói chung và cho mỗi người
chúng ta nói riêng. Trước khi Ngài xa cách con cái Ngài, Ngài đã để lại cho mỗi
người chúng ta lời di chúc qua các tông đồ: Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn
dân trở thành môn đệ, dậy bảo họ luôn giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.
4. Hoàn thành tác phẩm
Nhạc sư sáng tác người Ý, Giacomo
Puccini, để lại cho đời một số những tác phẩm ca nhạc kịch – opera – rất nổi tiếng,
chẳng hạn như La Bohême và Madame Butterly. Năm 1922, lúc 64 tuổi, ông bị ung
thư ác tính. Mặc dù cơn bệnh hành hạ thân thể, Puccini vẫn nhất định phải hoàn
tất vở ca kịch Turandot mà bây giờ nhiều người đánh giá là vở ca kịch hay nhất
của ông.
Ông làm việc ngày đêm. Nhiều người
khuyên can ông phải nghỉ ngơi vì nghĩ rằng ông không thể nào hoàn tất vở ca kịch
này được. Khi con bệnh trở nên trầm trọng, Puccini đã viết cho học trò của
mình: “Nếu thầy không hoàn tất vở ca kịch Turandot được, thầy muốn các con tiếp
tục công việc ấy cho thầy.”
Năm 1924, ngày số phận đã tới, khi
Puccini sang Bỉ giải phẫu, ông qua đời hai ngày sau đó. Trở về Ý, các học trò của
ông qui tụ nhau lại, mỗi người một tài năng khác nhau tiếp tục sáng tác vở ca kịch
Turandot của thầy để lại. Sau khi nghiên cứu và làm việc với tất cả tâm hồn, họ
đã hoàn tất vở ca kịch này.
Năm 1926, lần đầu tiên trên thế giới,
vở ca kịch đã được trình diễn tại nhà hát ca kịch La Scala ở Milan. Vở này đã
được điều khiển bởi người nhạc trưởng môn sinh rất được Puccini ưa thích,
Arturo Toscanini. Tất cả mọi sự diễn tiến tốt đẹp cho đến khi dàn hòa tấu trình
diễn tới khúc nhạc mà Puccini đã sáng tác dang dở. Những giọt nước mắt đã rơi
xuống trên khuôn mặt của người điều khiển. Ông ngưng dàn nhạc lại, buông cây
đũa điều khiển xuốâng, quay ra khán giả và nói lớn: “Nhạc sư đã viết đến đây, rồi
ông qua đời.” Cả nhà hát im lặng một hồi lâu. Không ai nhúc nhích! Không một tiếng
động! Hoàn toàn thinh lặng!
Sau vài phút, người nhạc trưởng cầm
cây đũa điều khiển lên, quay ra khán giả, mỉm cười qua những giọt lệ rơi và nói
lớn: “Nhưng các môn sinh của ông đã hoàn tất tác phẩm này.” Khi vở ca kịch
Turandot kết thúc, cả nhà hát bùng lên tràng pháo tay như sấm nổ vang trời.
Trong rạp hát không còn một con mắt nào khô ráo. Ai cũng rơi lệ và không ai có
thể quên được giây phút ấy (Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, tr
190).
5. Những gì tôi biết về Chúa Kitô.
Sau
đây là một cuộc đối thoại độc đáo giữa một người tân tòng Công giáo và một người
vô thần:
-
Anh đã theo đạo Công giáo rồi sao?
-
Vâng, nói đúng và rõ hơn, tôi đã xin theo Đức Kitô.
-
Thế thì chắc anh biết rất nhiều về ông ta, vậy anh hãy nói cho tôi biết ông ta
sinh ra trong quốc gia nào?
-
Rất tiếc là tôi đã có học những chi tiết này trong một khóa giáo lý, nhưng tôi
lại quên mất.
-
Thế khi chết, ông ta được bao nhiêu tuổi?
-
Tôi không nhớ rõ lắm nên cũng không dám nói.
-
Vậy anh có biết ông ta đã thuyết giảng bao nhiêu bài, có bao nhiêu tác phẩm ông
ta để lại, nói chung, về cuộc đời sự nghiệp của ông ta?
-
Như vậy, anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã thực sự đi
theo ông Kitô.
-
Anh nói đúng một phần. Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết qúa ít về Đức Kitô. Thế
nhưng, điều mà tôi biết rất rõ là thế này: ba năm trước, tôi là một tên nghiện
rượu, sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ. Gia đình tôi xuống dốc một cách
kinh khủng. Mỗi tối khi trở về nhà, vợ và các con tôi đều tức giận và buồn tủi.
Thế mà, bây giờ thì tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ nần,
gia đình tôi đã tìm lại được hạnh phúc, các con tôi ngong ngóng chờ đợi tôi về
nhà mỗi tối sau giờ làm ca. Tất cả những điều này, không ai khác hơn, chính Đức
Kitô đã làm cho tôi. Và đó là tất cả những gì tôi biết về Ngài… (Theo Parole de
vie).
Trong
tông huấn Evangelii nuntiandi, Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã nói lên vai trò của
chứng nhân trong cuộc sống như sau: “Do đó, chính với phẩm cách và đời sống
mình, mà Giáo hội sẽ phúc âm hóa thế giới; nói cách khác, bằng sự “chứng tá” sống
động về lòng trung thành của mình với Chúa Giêsu – chứng tá về sự khó nghèo và
siêu thoát, về sự tự do khi đối đầu với các quyền lực trần gian – nói tóm lại,
là chứng tá của sự thánh thiện” (Evangelii nuntiandi, đoạn 41),
6. Thiên đàng và hỏa ngục là thế nào?
Ngày nọ có một hiệp sĩ Samurai thô lỗ
hung bạo tìm đến với một vị thiền sư. Chàng nói với thiền sư.
- Xin ngài chỉ dạy cho cha biết thiên
đàng và hỏa ngục là gì?
Vị thiền sư đưa mắt nhìn con người thô
bạo từ bàn chân đến đỉnh đầu rồi thất vọng trả lời:
+ Dạy cho ngươi biết thế nào là thiên
đàng, thế nào là hỏa ngục ư? Ta không thể dạy cho ngươi bất cứ điều gì cả.
Ngươi là một con người hung bạo thô lỗ. Ngươi là nỗi nhục cho hàng hiệp sĩ
Samurai. Hãy cút khỏi mặt ta, ta không thể chịu đựng được ngươi nữa.
Nghe những lời sỉ vả ấy, chàng hiệp sĩ
liền rút gươm và định chém đầu vị thiền sư. Nhưng vị thiền sư đã giơ tay cản lại
và nói:
+ Hỏa ngục là thế đó!
Chợt nhận ra bài học cụ thể của nhà
tu hành, chàng hiệp sĩ dừng tay lại. Sự hối hận và cảm thông bỗng trào dâng
lên trong tâm hồn, chàng hiệp sĩ mới hiểu ra rằng vị thiền sư muốn hy sinh cả mạng
sống của mình để dạy cho chàng bài học về hỏa ngục. Từ từ hạ gươm xuống, cho
vào vỏ, rồi chàng đến quì gối trước mặt vị thiền sư với tất cả lòng thành và
sám hối. Đỡ chàng dậy, vị thiền sư nhìn sâu vào đôi mắt của chàng và nói nhỏ:
- Thiên đàng là thế đó.
Thánh Phaolô bảo: Trên Thiên đàng sẽ
chỉ còn một điều duy nhất: Đó là tình yêu. Sống tình yêu thương tức là sống
thiên đàng hôm nay để chuẩn bị cho thiên đàng vĩnh cửu mai sau vậy.
THỨ HAI - CÙNG HIỆP THÔNG VỚI CHÚA
Lời Chúa: Ga 16, 29-33
Khi ấy, các môn đệ thưa Chúa Giêsu rằng:
“Đúng thế, bây giờ Thầy nói rõ ràng, và không dùng dụ ngôn nữa. Bây giờ chúng
con biết rằng Thầy biết mọi sự, không cần có ai hỏi Thầy nữa. Bởi đó chúng con
tin Thầy bởi Thiên Chúa mà ra."
Chúa Giêsu đáp lại các ông: “Bây giờ
các con mới tin ư? Này đến giờ, và đã đến rồi, các con sẽ tản mát mỗi người một
ngả, bỏ mặc Thầy một mình. Nhưng Thầy không ở một mình đâu, vì có Cha hằng ở với
Thầy. Thầy nói với các con những điều đó để các con được bình an trong Thầy. Giữa
thế gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế
gian."
TRUYỆN KỂ
1. Can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian
Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam,
chúng ta thấy suốt 300 năm đầu, cha ông ta lớn lên trong thử thách. Một cuộc thử
thách triền miên và kéo dài! Còn ngày nay, tuy rất ít hình khổ như gông cùm,
đòn roi và cái chết được trưng ra để tra tấn các Kitô hữu. Tuy nhiên, người
Kitô hữu hôm nay phải đối diện với một thử thách mới, một cuộc thử thách mang
tính vĩ mô và sâu xa đánh vào tận lương tâm của con người. Phải chăng đây là những
thử thách tinh vi và người Kitô hữu khi sống đúng những giá trị của Tin Mừng
thì cũng không khác gì một cuộc tử đạo liên lỉ, dai dẳng và kéo dài!
Hôm nay, Đức Giêsu tiên báo cho các
môn đệ biết rằng: các ông là những người đi theo Chúa, không có lý do gì các
ông không bị bách hại như chính Ngài. Nhưng liền sau đó, Ngài khích lệ các ông:
“Giữa thế gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng
thế gian" (Ga 16, 33).
2. Dũng cảm và tự tin
Henri Shepler là một tân binh. Viên hạ
sĩ sai anh xuống làm việc tại nhà ăn. Anh không đi. Viên hạ sĩ cho là anh bướng
và dọa sẽ báo cáo lên cấp trên.
- Được, hạ sĩ cứ việc báo cáo. Tôi
đăng ký đi lính chứ không phải đi làm bồi bàn.
Buổi chiều, Shepler bị gọi lên bộ chỉ
huy. Đôi chân run run, nhưng lòng anh bình thản, vì anh biết mình hành động
đúng. Vị sĩ quan hỏi:
- Có phải sáng nay anh không tuân lệnh
cấp trên?
- Đúng vậy, thưa ngài.
- Tại sao anh làm vậy?
- Đơn giản là vì tôi cho rằng công việc
trao cho tôi là không đúng. Tôi đăng ký làm người lính chứ không phải làm bồi
bàn.
Vị sĩ quan bật dậy, đến bắt tay anh và nói:
“Shepler, anh đúng là hạng người chúng tôi cần. Tôi vui mừng khi thấy anh là
con người dũng cảm và tự tin ở mình."
3. Can đảm tuyên xưng
Chúa.
Trong thời kỳ cách mạng Pháp, có 16 nữ
tu dòng Carmel bị kết án tử hình vì tội cuồng tín. Khi tòa tuyên án, một trong
số 16 nữ tu rụt rè hỏi: “Thưa quan tòa, tội cuồng tín là gì”?
Vị thẩm phán đáp: “Là tội dại dột và cố
chấp tin vào một tên tử tội đã bị kết án đóng đinh ở trên thập giá cách đây cả
hơn nghìn năm." Nghe thế, vị nữ tu chắp tay ngước mắt lên trời và nói:
“Ôi! Thật tuyệt diệu khi được chết vì Chúa Kitô."
Đến ngày xử án, 16 nữ tu được mang ra
pháp trường trên chiếc xe ngựa chuyên dùng chở các tử tội, ai thấy xe ấy cũng sợ,
ngoại trừ 16 nữ tu đơn sơ yếu đuối sắp bị hành quyết. Họ cất tiếng thánh thót
hát lên những bài thánh ca quen thuộc, trước khi bị đem lên máy chém, từng người
một quì trước mặt Mẹ Bề Trên để lặp lại lời khấn vâng lời, sau đó họ cất tiếng
hát kinh “Veni Creator: Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy đến."
Với một chiếc đầu rơi, cường độ của âm
thanh nhỏ dần, cuối cùng đến phiên Mẹ Bề Trên tên là Têrêsa Augustina, trước
khi bị lưỡi dao rơi xuống kết thúc cuộc đới, người môn đệ của Augustinô ấy đã lặp
lại lời của thánh nhân: “Tình yêu sẽ luôn chiến thắng, vì tình yêu có sức mạnh
vô song."
4. Giữa thế gian, các con
sẽ đau khổ. Nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian
Chúng ta hãy nghe một đoạn văn nói về
một cuộc hành hình các Kitô hữu đầu tiên dưới thời bạo Chúa Néro năm 64 tại
Rôma: “Lúc ấy, mặt trời đã lên cao, ánh mắt của nó chiếu qua tấm che trần màu đỏ
tía, khiến cho nhà hát ngập màu máu. Cát nhuộm màu lửa đỏ, và trong thứ ánh
sáng ấy, nét kinh hoàng hiện lên khuôn mặt của khán giả cũng như bãi đấu trường
mà lát nữa đây sẽ tràn ngập nỗi đau đớn của những con người bị hành hình và nỗi
điên cuồng của những dã thú. Cửa hầm mở, đoàn người bị gói trong những tấm da
thú được đẩy ra. Toàn nhà hát vang lên những tiếng rì rầm “Bọn Thiên Chúa
giáo!… Bọn Thiên Chúa giáo!…”
Nhìn lại lịch sử Giáo Hội VN chúng ta:
cũng không có luật trừ. Suốt ba thế kỷ liền, kể từ năm 1553, cùng với Tin Mừng
của Chúa đến Việt Nam thì Thánh Giá cũng đến theo.
Lịch sử Giáo Hội đã được khởi đầu với
những cuộc bách hại. Và trải qua hơn 2000 năm số phận của người Kitô hữu cũng vẫn
luôn là số phận bị nghi ngờ, bị thù ghét và có thể bị bách hại nữa. Tại sao? Lời
Chúa Giêsu hôm nay là câu trả lời quý giá cho chúng ta.
5. Thầy chiến thắng
Thời Cách mạng Pháp (1789-1799) không
biết bao nhiêu linh mục tu sĩ phải lưu đày, xử giảo hoặc bị nhận chìm xuống
lòng biển. Napoléon 1 lên ngôi, ông sang Ý bắt luôn cả Đức giáo hoàng Piô VII
đem về cầm tù tại Fontainebleau vì Ngài đã phản đối việc ông ly dị với bà
Josephine để cưới Marie Louis làm vợ. Một hôm, vì quá tức giận, Napoléon đã nói
thẳng với Hồng Y Consalvi, quốc vụ khanh Tòa Thánh lúc đó:
- Ông không biết sao: tôi có thể tiêu
diệt cả Hội Thánh.
Hồng Y Consalvi hóm hỉnh trả lời:
- Thưa Ngài, chính chúng tôi đây là những
kẻ ở bên trong Hội Thánh. Dù với bao nhiêu gương xấu, tội lỗi, chia rẽ, khuyết
điểm vẫn không phá nổi Hội Thánh suốt 19 thế kỷ qua, thì làm sao mà Ngài có thể
phá tan Hội Thánh được.
Về sau Napoléon đã phải tuyên bố:
- Các dân nước qua đi, các ngai vàng sụp
đổ, Hội Thánh vẫn tồn tại.
6. Tôi muốn nhập bọn
thời Cách mạng Pháp (1789-1799) không
biết bao nhiêu linh mục tu sĩ phải lưu đày, xử giảo hoặc bị nhận chìm xuống
lòng biển. Napoléon 1 lên ngôi, ông sang Ý bắt luôn cả Đức giáo hoàng Piô VII
đem về cầm tù tại Fontainebleau vì Ngài đã phản đối việc ông ly dị với bà
Josephine để cưới Marie Louis làm vợ. Một hôm, vì quá tức giận, Napoléon đã nói
thẳng với Hồng Y Consalvi, quốc vụ khanh Tòa Thánh lúc đó:
- Ông không biết sao: tôi có thể tiêu
diệt cả Hội Thánh.
Hồng Y Consalvi hóm hỉnh trả lời:
- Thưa Ngài, chính chúng tôi đây là những
kẻ ở bên trong Hội Thánh. Dù với bao nhiêu gương xấu, tội lỗi, chia rẽ, khuyết
điểm vẫn không phá nổi Hội Thánh suốt 19 thế kỷ qua, thì làm sao mà Ngài có thể
phá tan Hội Thánh được.
Về sau Napoléon đã phải tuyên bố:
- Các dân nước qua đi, các ngai vàng sụp
đổ, Hội Thánh vẫn tồn tại.
7. Chiến thắng của tình
yêu
Ceasar đã ngạo nghễ tuyên bố trước
Nguyên Lão Viện Rô-ma: “Veni, vidi, vici” (Ta đã đến, Ta đã thấy, và đã chiến
thắng), để nói về chiến thắng thần tốc của ông tại Ponto (năm 47 tCN) trong
công cuộc chinh phục các nước. Thế nhưng, ông chỉ triệt hạ được các thành trì,
chứ không chinh phục được lòng người. Đức Giê-su cũng đã đến trần gian, đã nhìn
thấy những nỗi khổ đau của con người và đã chiến thắng. Ngài chiến thắng thế
gian, sự chết, quyền lực sự dữ. Khác với Ceasar, Ngài chinh phục lòng người,
chinh phục không bằng phô trương sức mạnh, nhưng bằng cách tỏ tình yêu thương.
Ngài chiến thắng cái ác bằng điều lành, thắng hận thù bằng tình thương, và thắng
sự chết bằng sự sống lại.
Mời bạn nhớ lại đêm Canh thức Phục
sinh, khi thắp ngọn nến của mình từ nến Phục sinh, bạn tuyên xưng niềm tin vào
chiến thắng của Đức Giê-su. Bạn tuyên xưng tình thương thắng hận thù, chân lý
thắng gian tà, sự sống mạnh hơn sự chết.
THỨ BA - NGƯỠNG CỬA VÀO SỰ SỐNG
Lời Chúa: Ga 17, 1-11a
Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời
và nói: “Lạy Cha, giờ đã đến, xin hãy làm vinh hiển Con Cha, để Con Cha làm
vinh hiển Cha. Vì Cha đã ban cho Con quyền trên mọi huyết nhục, để con cũng ban
sự sống đời đời cho mọi kẻ Cha đã giao phó cho Con. Sự sống đời đời chính là
chúng nhận biết Cha là Thiên Chúa duy nhất chân thật, và Đấng Cha đã sai, là
Giêsu Kitô.
“Con đã làm vinh hiển Cha dưới đất,
Con đã chu toàn công việc mà Cha đã giao phó cho Con. Giờ đây, lạy Cha, xin hãy
làm cho Con được vinh hiển nơi Cha với sự vinh hiển mà Con đã có nơi Cha, trước
khi có thế gian. Con đã tỏ danh Cha cho mọi kẻ Cha đã đưa khỏi thế gian mà ban
cho Con. Chúng thuộc về Cha, và Cha đã ban chúng cho Con, và chúng đã tuân giữ
lời Cha. Bây giờ chúng biết rằng những gì Cha ban cho Con, đều bởi Cha mà ra.
Vì những lời Cha ban cho Con thì Con đã ban cho chúng và chúng đã lãnh nhận, và
biết đích thực rằng Con bởi Cha mà ra, và chúng tin rằng Cha đã sai Con.
“Con cầu xin cho chúng, Con không cầu
xin cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho Con, bởi vì chúng là của
Cha. Và mọi sự của Con là của Cha, và mọi sự của Cha cũng là của Con, và Con đã
được vinh hiển nơi chúng. Con không còn ở thế gian nữa, nhưng chúng vẫn còn ở
thế gian, phần Con, Con về cùng Cha."
TRUYỆN KỂ
1. Đức Kitô cầu nguyện
Tôi là một linh mục, dâng thánh lễ mỗi
ngày. Trong lời nguyện cầu, tôi mang tất cả tâm tình của anh em phó thác cho
Thiên Chúa. Tôi tạ ơn Ngài đã ban mọi ơn lành trong cuộc sống của con người, mà
tôi là đại diện dâng lời tri ân. Tôi phó thác mọi cái khổ của người anh em tôi,
những khắc khoải lo âu mà họ và tôi đang phải chiến đấu bôn ba mà chưa thấy mặt
trời giữa đêm tối của cuộc sống của chính tâm hồn...
Trong cuộc sống, tôi yếu đuối, trong
thánh lễ tôi dâng chính tôi và dâng mọi nỗi yếu hèn của kiếp nhân sinh xin Chúa
chữa lành, thánh hóa. Tôi cảm thấy mình như là cầu nối giữa Thiên Chúa và tha
nhân. Tôi đại diện nhân loại để hiến tế, để khẩn cầu... Trong chức vụ linh mục
thừa tác, tôi được Thiên Chúa ủy quyền để ban phát cho anh em mình của bánh thần
lương và giải thích lời Ngài...
2. Hãy cư xử như pho tượng
để hiệp nhất.
Trong những giai thoại về các thánh ẩn
tu vào những thế kỷ đầu của Kitô giáo, có câu chuyện như sau: có bảy vị ẩn tu nọ
kéo nhau đến sống trong một ngôi đền bỏ hoang của người Ai Cập. Phía trước ngôi
đền có một pho tượng. Đây là ngôi đền duy nhất còn sót lại sau khi đã bị tàn
phá. Người cao niên nhất trong bảy anh em được bầu làm Bề trên của cộng đoàn. Để
dạy anh em qui luật cơ bản của đời sống cộng đoàn, mỗi sáng ông ra trước pho tượng,
nhặt một hòn đá ném vào đó. Chiều đến, ông lại ra trước pho tượng và xin lỗi vì
hành động ném đá của ông. Cử chỉ khác thường của Bề trên này kéo dài một thời
gian khá lâu.
Ngày nọ, không còn nén nổi tính tò mò,
một người anh em trong cộng đoàn đã hỏi lý do của hành động khó hiểu ấy. Vị Bề
trên trả lời bằng cách hỏi lại người đó như sau:
- Khi ta ném đá vào pho tượng, pho tượng
có lung lay không?
Người kia trả lời:
- Không.
Vị Bề trên tiếp tục hỏi:
- Buổi chiều khi ta đến xin lỗi, pho
tượng có để lộ xúc động nào không?
Người kia cũng trả lời:
- Không.
Vị Bề trên mới giải thích:
- Anh thân mến, chúng ta có tất cả bảy
người trong cộng đoàn, nếu chúng ta muốn sống hiệp nhất yêu thương nhau, chúng
ta hãy sống như pho tượng này, đừng ai trong chúng ta tỏ ra giận dữ khi có người
anh em xúc phạm đến ta, và cũng đừng có ai trong chúng ta tỏ ra hãnh diện khi
có người đến xin lỗi mình.
3. Có ba cháu ở trong nhà
Trên một bãi biển…
Chú ơi! Chú ngồi ghế của cháu, cháu lấy
rẻ thôi.
Anh thanh niên lên tiếng:
Nó còn bé, mới học lớp bốn. Chú đừng
nghe nó.
Quay sang thằng bé, anh sừng sộ:
Này con nít mà bày đặt, mày muốn gì?
Chú ơi, chú đừng sợ, chú đừng sợ, có
ba cháu ở trong nhà mà… Anh thanh niên nghe thấy thế liền bỏ đi.
Quả thật, danh của Cha đã bảo vệ thằng
bé kia khi nó đặt trọn niềm tin vào Cha của nó.
Trong cuộc sống hằng ngày, cám dỗ bủa
vây tứ phía, nhưng mấy khi tôi chạy đến cùng Cha?
Lạy Cha, xin cho chúng con biết chạy đến
cùng với Cha mọi lúc trong cuộc sống.
4. Tình yêu làm cho nên một
Ngày xưa trong gia tộc nhà mèo, có một
chú mèo con như lạc loài. Bố chú trắng, mẹ chú trắng, ông nội, ông ngoại chú trắng,
bà nội, bà ngoại chú trắng, các anh, các chị, các cậu, các chú, các dì chú đều
trắng cả. Chi có chú là đen tuyền. Vâng! Chỉ duy có một mình chú là đen tuyền.
Khi sinh ra đời, chú nằm giữa bốn em
nhỏ của chú cứ như là hòn than nằm trong tuyết. Tất cả gia đình mèo trắng ngồi
quanh cái ổ 05 chú mèo mới sinh. Ai cũng gãi tai... Bố mẹ chú cũng gãi tai và
nói:
- Thằng bé này đáng lẽ trắng thì lại
đen tuyền, thật chẳng giống ai! Trái với lẽ tự nhiên.
Mẹ chú liếm cho chú cả ngày, mà rồi
chú vẫn đen như thế. Chú lớn lên cùng với lũ em. Cả nhà rất yêu chú, nhưng
không sao quen với màu đen lông của chú được.
Về phần chú, càng lớn chú càng ngạc
nhiên khi thấy mình chẳng giống ai cả. Điều này gây ra rất nhiều oái oăm. Nếu
chú chơi ú tim trên nệm trắng, lũ nhóc tìm ra chú ngay. Nếu chú đuổi bắt trong hầm
tối, lũ nhóc không sao tìm thấy chú được. Khi cả nhà uống sữa, vì chú đen nên cả
nhà ai cũng tưởng chú uống nhiều hơn. Kể ra thế cũng khổ thật!
Một hôm, chú bỏ cuộc chơi, nằm cuộn
tròn trong góc bếp, như một con mèo già. Mẹ chú lo lắng hỏi:
- Con không ốm đấy chứ?
Chú đáp:
- Không, mẹ ạ con đang nghỉ.
Tối hôm ấy, trong khi chú mèo đen tiếp
tục suy nghĩ, thì bố mẹ chú mời tất cả: ông nội, ông ngoại, bà nội, bà ngoại,
các anh, các chị, các cậu, các chú, các dì, các bác... Cả gia đình cùng họp lại.
Bố chú meo meo một bài diễn văn dài. Ông tuyên bố rằng, không thể để tình trạng
này kéo dài mãi như vậy, vì mèo đen ngày càng thêm rầu rĩ. Ông đề ra một phương
án để biến đổi tình thế. Cả họ nhà mèo đồng nhất trí. Bấy giờ, bố chú mèo liền
lên tiếng:
- Nào, chúng ta đi.
Im lặng nối đuôi nhau, cả họ nhà mèo
trắng bước đến cái bồ than, rồi lặng lẽ, nối đuôi nhau, rồi họ ra khỏi cái bồ.
Thế là cả ông nội, ông ngoại, bà nội, bà ngoại, các anh, các chị, các cậu, các
chú, các dì, các bác đều biến thành đen, đen như hòn than. Họ hàng mèo trắng đã
biến thành mèo đen rồi tiến về phía bếp để tìm chú mèo nhỏ. Không ai thấy chú
đâu cả, mà chỉ thấy một con mèo trắng, trắng toát từ râu đến đuôi. Mọi người
kinh ngạc. Con mèo lạ kêu lên “meo meo." Mẹ mèo mừng rỡ:
- Con trai tôi đây mà!
Bố mèo reo lên:
- Cu cậu đã lăn mình vào bột!
Chú mèo âu yếm gọi
- Bố... ố! Mẹ!
Và một ông chú, vốn hay nói chữ, đùa
vui:
- Đã thương yêu nhau thì đen hay trắng
có sao đâu!
Cả họ nhà mèo cùng bật cười, thi nhau
nhảy vồ nhau. Than và bột bay tứ tung mịt mù. Chẳng còn mèo đen, chẳng còn mèo
trắng mà chì còn mèo xám thương nhau...
Vâng, nếu mỗi người chúng ta biết nghĩ
đến nhau, biết làm cho cái tôi của mình nhỏ lại, biết bớt đi cái sĩ diện, biết
làm vui lòng nhau, thực lòng yêu thương nhau thì cho dù chẳng đi tìm, sự hiệp
nhất đoàn kết sẽ đến với chúng ta. Amen.
5. Đời tôi thuộc về Chúa
Edith Stein xuất thân trong một gia
đình Do thái ở Phần Lan. Năm 24 tuổi, bà đậu tiến sĩ triết học, trở thành kitô
hữu năm 30 tuổi, nữ tu năm 40 tuổi, và chết trong phòng hơi ngạt của Đức Quốc
Xã năm 52 tuổi. Năm 1987, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tuyên phong chân phước
cho bà. Edith Stein viết về cuộc đời của mình như sau: “Tôi tin rằng chẳng có
gì là tình cờ khi nhìn trong ánh sáng Thiên Chúa. Tôi tin rằng cả cuộc đời tôi
dành riêng cho chương trình của Thiên Chúa và có ý nghĩa hoàn toàn mạch lạc
trong cái nhìn thấu suốt của Ngài.”
Tôi thấy hoặc cảm thấy cuộc đời tôi là
một phần trong chương trình rộng lớn của Thiên Chúa như thế nào?
“Ngay đến tóc trên đầu anh em, Ngài
cũng đếm cả rồi” (Mt 10,30)
6. Để kết hiệp với Chúa
Ba nhà giảng thuyết đang thảo luận về
cách tốt nhất phải áp dụng khi cầu nguyện. Người thứ nhất nói: “Tôi đã thử tất
cả, và thấy rằng quỳ cầu nguyện vẫn là cách tốt nhất.” Người thứ hai nói: “Có
thể điều đó đúng, nhưng hầu hết các nhà thần bí Đông Phương đều đề nghị ngồi xếp
bằng trên sàn là cách tốt nhất.” Người thứ ba nói: “Cách tốt nhất khi cầu nguyện
đối với tôi là ngước mắt lên trời.” Một người thợ điện làm việc gần đấy nghe được
câu truyện liền nói: “Tư thế cầu nguyện tốt nhất đối với tôi là treo một chân
trên cột điện thoại trong cơn sấm sét.”
Tôi có kinh nghiệm tư thế cầu nguyện tốt
nhất không? Tôi có bao giờ cầu nguyện lớn tiếng trước hoặc sau khi suy niệm
không? Tôi có bao giờ ngước mắt lên trời hoặc quỳ gối giây lát trước khi cầu
nguyện không?
Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục, Quỳ
trước Tôn Nhan Chúa là Đấng dựng nên ta (Tv 94,6).
7. Chiêm ngắm Chúa cầu
nguyện
Hình ảnh Chúa Giêsu cầu nguyện gợi lại
câu truyện trong cuộc đời Dorothy Day. Cô nói rằng trước khi hoán cải và làm việc
giữa những người nghèo ở Nữu Ứơc, cô thường vui chơi thâu đêm trong các quán rượu.
Thế rồi, trên đường về nhà khoảng 6 giờ sáng, cô đã dừng lại ở nhà thờ thánh
Giuse trên đại lộ 6. Điều lôi cuốn cô ở nhà thờ ấy là hình ảnh người ta đang cầu
nguyện trong Thánh lễ sáng. Cô viết: “Tôi khao khát niềm tin của họ, vì thế tôi
thường bước vào và quỳ ở hàng ghế sau.”
Tôi có thể nhớ lại đã lần nào tôi bị
xúc động bởi niềm tin của ai đó đang cầu nguyện không?
Nếu các bạn, những kitô hữu ở Ấn độ, ở
Anh quốc, ở Hoa kỳ, sống đúng tinh thần Kinh Thánh, thì các bạn có thể chinh phục
Ấn độ chỉ trong vòng năm năm. [Một tín đồ Ấn giáo nói với một nhà truyền giáo].
Tính
hài hước và vẻ quyến rũ của Mark Twain làm cho ông nổi tiếng, không những ở Mỹ,
mà còn ở Châu Âu. Trong một cuộc hành trình đến Châu Âu, ông được mời ăn tối với
một viên thị trưởng. Khi biết được lời mời, đứa con gái nhỏ của ông nói: “Cha
ơi, cha biết các nhân vật lớn, ngoại trừ Thiên Chúa.” Cô bé muốn nói đến sự kiện
cha cô không phải là người có đạo, ít là theo nghĩa đen của nó.
Một
ví dụ cho tính hài hước không tính ngưỡng của Mark Twain là câu này trong sổ
tay của ông: “Nếu Chúa Kitô có mặt nơi đây, thì có một điều Ngài không thể là,
đó là làm một kitô hữu.”
Quan
điểm của Mark Twain là gì? Nó có giá trị cho hôm nay ra sao?
Tôn
giáo không phải là cách nhìn về một vấn đề nào đó, mà là cách nhìn về mọi sự.
(Robert E.Segal)
9. Cầu nguyện nối kết
Trong
mục: “Những ý để suy nghĩ” tạp chí Reader`s Digest đăng câu truyện xúc động của
Cy Fey. Một người đàn ông đứng tuổi khóc nức nở khi đứng một mình trước tượng
đài cựu chiến binh Mỹ ở Washington. Xúc động trước cảnh tượng này, một thanh
niên tiến đến đặt tay trên vai ông và nói: “Trong số đó có con của ông phải
không?” Người đàn ông đáp nhỏ: “Không phải chỉ có một, mà là tất cả họ.”
Đó
cũng là tinh thần đã khiến Chúa Giêsu xúc động để cầu nguyện, không những cho
các môn đệ, mà còn cho các tín hữu.
Lời
cầu nguyện của tôi có bao giờ quan tâm đến hết mọi người hay chỉ những người
tôi yêu thương?
Không
có tình yêu và lòng nhân từ đối với kẻ khác, tình yêu dành cho Chúa Kitô chỉ là
tưởng tượng (Thomas Merton).
THỨ TƯ - XIN CHA GÌN GIỮ HỌ
Lời Chúa: Ga 17, 11b-19
Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời
cầu nguyện rằng: “Lạy Cha chí thánh, xin hãy gìn giữ trong danh Cha những kẻ
Cha đã ban cho Con, để chúng được nên một như Ta. Khi Con còn ở với chúng, Con
đã gìn giữ chúng trong Cha. Con đã gìn giữ những kẻ Cha đã giao phó cho Con,
không một ai trong chúng bị mất, trừ ra con người hư vong, để lời Kinh Thánh được
nên trọn. Bây giờ Con về cùng Cha, và Con nói những điều này khi Con còn dưới
thế, để chúng được đầy sự vui mừng của Con trong lòng.
“Con đã ban lời Cha cho chúng, và thế
gian đã ghét chúng, vì chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc
về thế gian. Con không xin Cha đem chúng ra khỏi thế gian, nhưng xin gìn giữ
chúng cho khỏi sự dữ. Chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về
thế gian. Xin hãy thánh hoá chúng trong chân lý: lời Cha là chân lý. Cũng như
Cha đã sai Con vào thế gian, thì Con cũng sai chúng vào thế gian. Và vì chúng,
Con đã tự thánh hoá, để cả chúng cũng được thánh hoá trong chân lý."
TRUYỆN KỂ
1. Xin Cha gìn giữ họ.
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Có một câu truyện tưởng tượng như sau:
Khi Chúa Giêsu về Trời giữa muôn vàn
tiếng tung hô của các thiên thần. Tổng lãnh thiên thần Gabriel đã phỏng vấn
Ngài:
- Lạy Chúa, có phải bây giờ cả trần
gian đã nhận biết tình yêu Thiên Chúa dành cho họ chăng?
Chúa Giêsu trả lời:
- Không, chỉ có một nhóm nhỏ đếm được
trên đầu ngón tay.
Thiên sứ Gabriel giật mình sửng sốt:
- Lạy Chúa, nếu nhóm nhỏ này gặp chống
đối khiến họ thất vọng từ bỏ Chúa trong trường hợp này, Chúa có dự định quay trở
lại trần gian không?
Chúa Giêsu đáp:
- Không. Ta hy vọng nơi họ và tin chắc
họ không bỏ rơi Ta.
Điều gì đã khiến Chúa Giêsu tin tưởng
vào sự trung tín của các môn đệ, dù gặp gian truân thử thách? Chúng ta có thể
tìm được câu giải đáp trong bài Tin mừng hôm nay.
2. Hiệp nhất giữa các môn
đệ của Chúa Kitô
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Tháng Giêng năm 2003, tôi đến Rôma
kinh thành muôn thuở để họp tại trụ sở Trung ương Dòng, dành những thời gian rảnh,
chúng tôi viếng các Đền thờ Mẹ… Tại đền thánh Phêrô, chúng tôi kính viếng lăng
mộ của ngài cùng với các Đấng kế vị. Bất ngờ dịp đó chúng tôi được chiêm ngưỡng
xác Đức Giáo hoàng Gioan XXIII, vị mục tử được gọi là Giáo hoàng nhân lành. Đức
Gioan XXIII, được phong Chân phước ngày 3/09/2000. Xác được đặt ngay phía dưới
một bàn thờ trong đền thờ Thánh Phêrô cho dân chúng kính viếng và cầu nguyện
nhân dịp kỷ niệm 30 năm khai mạc Công đồng Vaticanô II, Công đồng chung do Ngài
loan báo triệu tập. Thi hài ngài được đặt trong hòm kính, với khuôn mặt nguyên
vẹn hồng hào như đang ngủ. Công đồng Vaticanô II được gọi là Công đồng Đại Kết
vì hướng hiệp nhất của Giáo hội. Tôi nhớ về lời phát biểu của ngài về Đại kết:
“Các anh em tín hữu Kitô khác đều là anh em với chúng ta họ chỉ hết là anh em
khi họ hết học kinh Lạy Cha…." Đức Gioan XXIII, vị Giáo hoàng có những nỗ
lực phi thường để đối thoại với các tín hữu Kitô để tìm con đường hiệp nhất.
Tôi còn nhớ đọc một câu chuyện về Ngài khi trên giường bệnh và giờ hấp hối miệng
ngài luôn khẩn nguyện: “Xin cho họ hiệp nhất."
3. Họ không từ bỏ Ta
Truyền thuyết kể lại rằng khi Chúa
Giêsu trở về trời, sứ thần Gabriel hỏi Ngài xem mọi người đã nhận biết tình yêu
Ngài dành cho họ chưa. Chúa Giêsu trả lời: “Chỉ một số ít thôi.” Sứ thần
Gabriel choáng váng và hỏi: “Thế số còn lại sẽ nhận biết bằng cách nào?” Chúa
Giêsu đáp: “Số ít kia sẽ nói cho họ biết.” Sứ thần nói: “Nhưng nếu họ từ bỏ
Ngài, nếu họ gặp chống đối và nếu họ mất đi can đảm. Ngài không có kế hoạch dự
phòng sao?” Chúa Giêsu trả lời: “Không. Ta tin tưởng họ không từ bỏ Ta.”
Điều gì thuyết phục tôi rằng những người
đi theo Chúa Giêsu sẽ không từ bỏ Ngài?
Tôi thường nài xin Chúa giúp tôi. Thế
rồi tôi tự hỏi: tôi có thể giúp gì cho Ngài. (Hudson Taylor)
4. Ảnh hưởng của gương
sáng.
Nhà giáo dục vĩ đại Booker T.
Washington có viết như sau trong cuốn tự thuật mang tựa đề: “Từ ách nô lệ đi
lên” của ông: “Càng lớn tôi càng tin chắc rằng, không một sự giáo dục nào có thể
gặt hái được từ sách vở hay từ những dụng cụ đắt tiền có thể sánh ví được với
những gì ta có thể gặt hái được do tiếp xúc với các bậc vĩ nhân."
Cách đây ít lâu một phụ nữ Ấn độ giáo
đã trở lại Công giáo, sau một thời gian nghe rao giảng Lời Chúa. Bà chịu nhiều
dèm pha, đay nghiến từ người chồng do việc bà trở lại đạo. Có lần cha xứ hỏi
bà: “Khi chồng con nổi giận và hành hạ con, thì con làm gì”? Bà đáp: “Thưa Cha,
con cố gắng nấu ăn ngon hơn, khi ông than trách, con lau chùi nhà sạch hơn; khi
ông ăn nói cộc cằn, con trả lời ôn tồn nhỏ nhẹ. Con cố gắng được chứng tỏ cho
ông thấy khi con trở lại đạo, con phải là người vợ và người mẹ tốt hơn."
Một thời gian sau, ông xin trở lại đạo
Công giáo, không phải vì lời giảng của cha xứ nhưng chính nhờ gương sáng sống đạo
của bà vợ đạo đức của ông.
5. “Con không xin Cha cất
họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần.”
Khi đọc câu Lời Chúa này, tôi nhớ lại
kinh nghiệm của một anh trong nhóm. Vì không thể từ chối, anh đành phải đi đến
một nhà hàng không được “trong ánh sáng” cho lắm. Mỗi người vào bàn, và mỗi người
đều có một cô “phục vụ” bên cạnh. Thoạt đầu, anh muốn tránh né, vì nghĩ rằng
thái độ có thể làm cô ấy tủi, nên anh cố gắng làm một điều gì đó tốt hơn. Sau
khi hỏi thăm về gia cảnh của cô, anh mới hỏi: “Tại sao cô phải là nghề này?” Cô
gái thinh lặng một lát rồi bật khóc. Mọi người nhìn anh khiến anh lúng túng…
Trước khi anh ra về, cô nói nhỏ: “Có lẽ em sẽ không tiếp tục sống bằng nghề này
được.”
Lắm khi tôi xa lánh người xấu, những
cái phàm tục, trong khi Chúa Giêsu đã không xin Chúa Cha cất tôi khỏi thế gian.
Lắm khi tôi lại mải mê tìm kiếm “danh, lợi, thú.” Và vì sợ mất, tôi đã không
dám sống như lời Chúa Giêsu đòi hỏi.
6. Cho thì có phúc hơn nhận
Một bà mẹ bảo đứa con trai 7 tuổi đánh
bóng giày của bà vào dịp Giáng Sinh. Bà vui mừng vì việc làm của đứa con đến độ
bà cho nó 25 xu. Sau đó, khi mang đôi giày đã được đánh bóng vào, ngón chân bà
đụng vào một cái gì đó. Tháo giày chân trái ra, bà thấy một đồng 25 xu được gói
trong một mẫu giấy nhỏ có ghi: “Đây là 25 xu con trả lại mẹ, con đánh giày cho
mẹ vì tình yêu. Richard.”
Tinh thần cho đi của Richard và lời
Chúa Giêsu về việc cho đi mời gọi tôi tự hỏi: tôi có tinh thần cho đi thế nào
trong đời sống?
Điều tốt nhất để cho kẻ thù là sự tha
thứ, cho kẻ đối lập là sự khoan nhượng, cho bạn bè là trái tim, cho con cái là
tấm gương sáng, cho chính mình là sự kính trọng, cho mọi người là lòng bác ái
(Francis M.Balfour).
7. Bàn tay trắng
Cuốn tiểu thuyết “Quyền lực và vinh
quang” của Graham Green nói về những bách hại tôn giáo ở Mêhicô. Một trong các
nhân vật của cuốn tiểu thuyết là một vị linh mục cao niên. Sự căng thẳng thường
xuyên vì bị cảnh sát săn đuổi đã để lại hậu quả trên ông. Ông quay sang rượu
chè và không phục vụ dân chúng một cách đúng đắn. Rốt cuộc, ông bị bắt và bị kết
án tử hình. “Buổi sáng ngày bị hành hình, ông thức dậy với nỗi đau khôn xiết.
Nước mắt tràn trên khuôn mặt... Ông không sợ bị đọa đày... Ông chỉ cảm thấy vô
cùng thất vọng vì phải trở về cùng Thiên Chúa với bàn tay trắng.” Ít ra, trong
suy nghĩ của mình, ông đã thất bại. Điều đó thật khác xa với thái độ của Chúa
Giêsu!
Tôi có thể tiến hành công việc hàng
ngày Thiên Chúa trao phó cách tốt hơn thế nào?
Trung thành trong những điều nhỏ mọn
là một điều lớn lao (Thánh Gioan Kim Khẩu).
8. Làm chứng cho sự thật
Truyện thánh Pacôm kể rằng, khi còn
ngoại đạo, đã đăng lính trong đạo binh Rôma. Ngày kia, các binh sĩ trong đơn vị
của ngài, đã kiệt sức vì đói và khát sau khi đi bộ qua sa mạc dưới cái nóng chết
người, thất thểu vào thành Thebes (Tê-bes) ở Ai Cập. Thấy cảnh tượng đó, có nhiều
người chạy lại bên họ, cho họ ăn uống, cùng chăm sóc họ chu đáo, tận tình.
Pacôm ngạc nhiên hỏi những người tốt lành này là ai và được trả lời rằng: “Họ
là các kitô hữu.” Ngài thốt lên: “Một tôn giáo dạy người ta cứu giúp những kẻ
khốn khổ hoàn toàn xa lạ với mình là một tôn giáo chỉ có thể đến từ vị Chúa
chân thật.” Sau biến cố này, Pacôm, trở lại đạo Công giáo và trở thành một vị
sáng lập các đan viện, sống cộng đoàn bác ái huynh đệ. Philatô đã từng hỏi: “Sự
Thật là gì?” nhưng không thể hiểu được, còn Pacôm tin nhận Thiên Chúa là Sự Thật
nhờ những người kitô hữu ở Thebes đã làm chứng bằng hành động bác ái.
Người kitô hữu được “thánh hiến trong
sự thật” nên sống theo sự thật và làm chứng cho sự thật. Sự thật về Chúa Giêsu
chỉ có thể được tỏ hiện qua cái chết tự hiến vì yêu thương trên thập giá: “Ông
này quả thật là Con Thiên Chúa.” Noi gương Chúa Kitô, người kitô hữu không chỉ
làm chứng nhân bằng việc tử đạo mà còn làm chứng cho sự thật bằng chứng từ bác
ái nữa.
9. Không thuộc về thế
gian
"Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới
ba triều vua, lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước. Nay hạ thần cam
chịu mọi cực hình để nên giống Đức Kitô." Đó là câu trả lời của ông Micae
Hồ Đình Hy khi vua Tự Đức mời ông giả vờ bước qua thánh giá.
Ông là người thanh liêm, được nhà vua
hết sức tín cẩn, cho phụ trách ngành dệt trong cả nước. Nhưng ông cũng là một
Kitô hữu xông xáo làm việc tông đồ. Ông không thấy có gì xung khắc giữa việc phục
vụ đất nước với việc phục vụ Giáo Hội.
Khi quân Pháp bắn phá cảng Đà Nẵng thì
ông bị bắt, bị kết án là khinh luật nước, chống lại triều đình. Ông Hy đã chấp
nhận cái chết một cách bình thản. Trước khi chịu chém, ông còn xin hút một điếu
thuốc, hương vị cuối cùng của trần gian mà ông muốn nếm trước khi nếm hương vị
của thiên đàng vĩnh cửu.
Cuộc sống và cái chết của thánh Micae
Hy soi sáng cho đoạn Lời Chúa hôm nay. Người Kitô hữu có hai đầu dây cần phải
giữ. "Như Cha đã sai Con đến trong thế gian, Con cũng sai họ đến trong thế
gian" (Ga 17,18).
10. Sức mạnh của tinh thần
Quân nước Tề sang đánh nước Lỗ. Khi đến
chỗ giáp giới, trông thấy người đàn bà một tay bồng một đứa bé, một tay dắt đứa
nữa. Người đàn bà thấy quân kéo tới, vội vàng bỏ đứa đang bồng trên tay xuống
mà bồng đứa bé đang dắt, rồi chạy trốn vào trong núi. Đứa bé kia chạy theo
khóc, người đàn bà cứ chạy không ngoảnh lại.
Một viên tướng nước Tề cho bắt đến, hỏi:
“Đứa bé nàng bế chạy là con ai? Còn đứa bé nàng bỏ liều là con ai?”
Người đàn bà thưa: “Đứa tôi bế là con
anh cả tôi; đứa tôi bỏ lại là con tôi. Tôi thấy quân lính kéo đến, sức tôi
không thể bảo toàn được cả hai đứa, cho nên tôi đành phải bỏ con tôi lại."
Viên tướng nước Tề nói: “Con với mẹ kể
tình thân yêu thì đau xót lắm. Nay bỏ con mình lại mà chạy lấy con anh là cớ
làm sao?”
Người đàn bà nói: “Con tôi là ‘tình
riêng’ con anh tôi là ‘nghĩa công’. Con đẻ tuy đau xót thật, nhưng đối với việc
nghĩa thì tính làm sao. Cho nên tôi đành bỏ liều con tôi mà làm việc ‘nghĩa’.
Tôi không thể nào chịu tiếng vô ‘nghĩa’ mà vác mặt sống ở nước tôi được."
Viên tướng nước Tề dừng quân lại, sai
người tâu với vua Tề rằng: “Nước Lỗ chưa thể đánh được. Quân ta mới đến chỗ
cương giới, đã thấy con mụ đàn bà xó rừng còn biết làm điều ‘nghĩa’ chẳng chịu
đem tình riêng mà hại ‘nghĩa công’ huống chi là những bậc quan lại, sĩ phu
trong nước. Xin kéo quân về."
Vua Tề cho là phải.
Sau vua Lỗ biết chuyện này, thưởng người
đàn bà một trăm tấm lụa và phong tước.
Câu chuyện cho ta thấy sức mạnh của một
quốc gia được biểu lộ nơi những con người biết nghĩ tới người khác, biết hy
sinh quyền lợi mình cho quyền lợi người khác. Hiển nhiên là giá trị của một cộng
đồng, cũng được biểu lộ nơi những con người biết hành động như vậy.
11. Làm một giọt nước
trong
Năm 1979, trên đường về nhà sau khi
lãnh giải Nobel, Mẹ Têrêxa đã ghé qua Rôma. Rất nhiều ký giả bao vây để chụp
hình và muốn phỏng vấn. Một ký giả táo bạo hỏi Mẹ:
- Năm nay Mẹ đã 70 tuổi. Khi Mẹ qua đời
thế giới cũng vẫn như trước! Chẳng có gì thay đổi sau bao nhiêu cực nhọc?
- Anh thấy đó, tôi không bao giờ nghĩ
rằng mình có thể thay đổi thế giới. Tôi chỉ tìm cách làm một giọt nước trong, một
giọt nước lóng lánh rạng ngời tình yêu Thiên Chúa. Anh cho là quá ít sao? Mẹ trả
lời với một nụ cười thật tươi.
Anh ta lúng túng… các ký giả khác lặng
thinh. Mẹ nói tiếp:
- Anh hãy cố gắng trở thành một giọt
nước trong. Như thế sẽ có hai giọt nước trong. Anh lập gia đình chưa?
- Dạ rồi.
- Vậy anh cũng hãy nói với vợ như thế,
và chúng ta sẽ là ba giọt nước trong. Anh có con chưa?
- Thưa Mẹ, ba đứa.
- Tốt lắm. Vậy anh cũng nên nói với
các con, và như thế, tất cả chúng ta sẽ là sáu giọt nước trong.
Từ một đến hai, đến ba, rồi đến sáu giọt
nước trong. Những giọt nước lóng lánh rạng ngời tình yêu Chúa. Đang dồn sức cho
việc tông đồ, tại sao tôi lại không nghĩ đến một cuộc hiện xuống mới của Chúa
Thánh Thần theo cách trình bày của Mẹ Têrêxa? Nhỏ bé thôi mà rất vĩ đại!
Giọt nước đầu tiên là tôi. Hãy là giọt
nước lóng lánh rạng ngời tình yêu Chúa.
12. Kỳ vọng
Ngày kia, Thomas Edison đem về cho mẹ
một tờ giấy; mở ra, đôi mắt bà thất thần, đẫm lệ. Bà đọc lớn tiếng, “Con của bà
là một thiên tài; trường này quá nhỏ, không đủ để đào tạo cháu. Bà hãy tự dạy
cháu!” Về sau, Edison - đã là một nhà phát minh lớn - ngày kia, lục lại đồ cũ,
bỗng tìm thấy mảnh giấy năm xưa. Tờ giấy ghi, “Con bà đần, chúng tôi không nhận
nó.” Edison khóc hàng giờ và viết xuống những dòng này, “Edison, một thằng đần,
sinh ra bởi một bà mẹ anh hùng. Nó đã trở thành một thiên tài của thế kỷ!” Ông
nhớ lại, “Mẹ tôi vẫn luôn kỳ vọng vào tôi; bà là một ai đó để tôi không làm cho
thất vọng!”
Kính thưa Anh Chị em,
Nếu bà mẹ của Edison kỳ vọng tuyệt đối
vào con, thì Chúa Giêsu còn kỳ vọng vào các môn đệ của Ngài bội phần! Họ không
chỉ là những ‘thiên tài’ tạo nên sự khác biệt cho thế giới, nhưng còn là những
‘thiên tài’ cứu độ thế giới! Tin Mừng hôm nay tiết lộ ‘kỳ vọng’ của Ngài, “Như
Cha đã sai Con đến thế gian, Con cũng sai họ đến thế gian!”
THỨ NĂM - SỨC MẠNH CỦA HIỆP NHẤT
Lời
Chúa: Ga 17, 20-26
Khi
ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: “Con không cầu xin cho chúng
mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ, nhờ lời chúng mà tin vào Con, để mọi
người nên một, cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng
nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con.
Con
đã ban cho chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để chúng nên một như Chúng Ta
là một. Con ở trong chúng, và Cha ở trong Con, để chúng được hoàn toàn nên một
và để thế gian biết rằng Cha đã sai Con, và Con đã yêu mến chúng như Cha đã yêu
mến Con.
Lạy
Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với
Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến
Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết
Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con
đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu
Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa."
TRUYỆN KỂ
1. Sức mạnh của hiệp nhất.
(‘Mỗi
Ngày Một Tin Vui’)
Có
một câu truyện cổ như sau:
Trong
một buổi hội họp của tất cả các muông thú rừng xanh, dòng giống nhà cọp đã dành
được ngôi vị Chúa sơn lâm nhờ vào sức mạnh và bản tính hung dữ của chúng. Ngày
kia, cọp gặp người thợ săn. Trước khi phóng mũi tên, bác thợ săn nói với cọp:
-
Hỡi Chúa sơn lâm, hãy đón nhận điều mà con người gửi đến các muông thú.
Và
mũi tên đã cắm phập vào lưng cọp. Quá đau đớn, cọp đã chạy trốn vào rừng rậm.
Thấy cọp bỏ chạy, một con sói già hỏi: tại sao? Cọp lắc đầu đáp:
-
Chỉ một lời con người muốn nói với ta, mà đã làm ta đau đớn thế này, thì làm
sao chúng ta có thể chống lại bọn họ.
Sói
già an ủi cọp:
-
Điều suy nghĩ của Chúa sơn lâm thực tế, tuy nhiên, Chúa sơn lâm lại quên một điều
là nếu tất cả muông thú rừng xanh đoàn kết lại, chúng ta có thể chống lại con
người. Như nhà sói chúng tôi đây tuy sức mạnh không bằng Chúa sơn lâm, nhưng cả
một bày sói, với sức mạnh tổng hợp, chúng tôi có thể làm thịt người thợ săn.
2. Nên một trong tình yêu Chúa
(Lm
Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu
chuyện
Một
người kia có ba người con trai, trước khi qua đời ông muốn dạy các con bài học
hiệp nhất: “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”, ông gọi các con đến và nói:
Vàng bạc thì cha không có, cha có một gia tài quý giá hơn cả vàng và muốn để lại
cho các con. Nói xong, ông lấy ra ba chiếc đũa tre trao cho ba người con mỗi
người một chiếc và bảo: “Các con hãy bẻ gãy chiếc đũa cho cha xem." Ba người
con vâng lời cha bẻ gãy chiếc đũa dễ dàng.
Sau
đó, người cha trao cho ba người con mỗi người một bó đũa và nói: “Các con hãy bẻ
gãy bó đũa này cho cha xem." Lúc này ba người con dùng hết sức vẫn không
sao bẻ gãy được. Bấy giờ, người cha mới nói: “Nếu các con biết đoàn kết yêu
thương nhau thì các con giống như bó đũa kia sẽ không có sức mạnh nào làm gãy
được các con. Ngược lại, nếu các con không đoàn kết yêu thương nhau mỗi người một
nơi thì các con sẽ như chiếc đũa kia bị bẻ gãy một cách dễ dàng, hiệp nhất:
“Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết."
Nói
xong, người cha ra đi trong vòng tay yêu thương của các con.
3. Hiệp nhất là dấu chứng cho sự hiện diện của Chúa
Đức
Giáo hoàng Phaolô VI đã diễn tả rất sâu sắc về giá trị tông đồ của sự hiệp nhất,
ngài đã nói như sau: “Lời di chúc thiêng liêng của Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu
rằng sự hiệp nhất giữa các môn đệ không những là bằng chứng chúng ta là môn đệ
của Ngài, nhưng còn là bằng chứng Ngài được Chúa Cha sai đến và đó cũng là trắc
nghiệm về sự đáng tin của các Kitô hữu và của chính Đức Kitô."
Có
hiệp nhất với nhau, các kẻ tin mới tỏ ra mình không phải là những con người bị
chia rẽ bởi những tranh chấp, nhưng là những con người trưởng thành trong đức
tin, trưởng thành trong lòng mến và có khả năng gặp gỡ nhau nhờ việc cùng tìm
kiếm chân lý cách chân thành và vô vị lợi.
Như
thế, sự hiệp nhất chứng tỏ chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu, chứng tỏ chúng ta
là những người trưởng thành trong đức tin cậy mến, và đó là lý do thu hút người
ngoài để họ dễ tin vào lời chứng của chúng ta.
4. Thích được biết đến
Nhạc
trưởng Michael Costa đang diễn tập với dàn hợp xướng gồm cả trăm nhạc cụ và nhạc
công. Bỗng có tiếng sáo ré lên. Chắc người thổi sáo sợ rằng nhạc trưởng không
nghe thấy tiếng sáo của mình. Nhạc trưởng cáu kỉnh quát: “Tiếng sáo nào kì vậy?”
Và phải tập lại từ đầu.
5. Lo cho dân
Hoàng
đế Fransois Joseph là vua nước Hung gia lợi từ 1848-1916, một triều đại dài nhất
trong lịch sử và cũng là một triều đại tiến bộ nhất. Hoàng đế là con người rất
nghiêm khắc, nhưng lại trị vì đất nước rất khoan dung.
Khởi
đầu triều đại của ông, bệnh dịch tả lan tràn khắp Châu Âu. Triều thần đề nghị với
vua Fransois Joseph bỏ kinh đô Vienne nước Áo để sang Salzburg nước Hung Gia Lợi,
cho tới khi tai họa qua đi. Vua Fransois Joseph liền hỏi:
-
Ở Salzburg có đủ phòng nghỉ cho con cái ta không?
Quan
đại thần thưa:
-
Tâu đức vua, ở Salzburg chắc chắn có đủ phòng nghỉ cho tất cả hoàng gia.
Vua
Fransois Joseph hỏi lại hai lần nữa:
-
Có thực sự có phòng đủ cho con cái ta chớ?
Rồi
giơ tay chỉ vào dân chúng đông đúc đang đứng ngoài sân mà nói với quan đại thần:
-
Quan hãy nhìn đám dân chúng đông đúc kia. Họ là con cái của ta cả. Có người cha
nào đang tâm bỏ con cái trong nguy hiểm sao? Không! Những người tại thủ đô
Vienne này đã chia sẻ vui buồn với ta. Ta sẽ không bỏ họ trong giờ lo âu. Ta phải
quan tâm đến họ, như là lo cho chính ta vậy.
Một
ông vua trần thế mà còn biết thương và lo cho dân như thế, huống chi là Chúa
Giêsu, Chúa của chúng ta. Làm sao Chúa co thể vui khi con cái của Ngài không được
chung hưởng hạnh phúc Thiên đàng với Ngài.
6. Phục vụ cho quê hương
Hồi
còn làm tổng thống Hoa Kỳ, ông Roosevelt đã có lần sang mãi tận Phi châu để nghỉ
hè. Ông thích săn những con hươu cao cổ tại đó. Sau những ngày nghỉ hè thú vị,
tổng thống lên đường trở về. Trong chuyến tàu đem tổng thống trở về, người ta
cũng thấy có một nhà truyền giáo sau hơn bốn mươi năm phục vụ những người dân
Phi châu cùng có mặt trên con tàu.
Khi
tàu sắp cập bến, nhà truyền giáo thấy cảnh dân chúng đứng trên bờ cùng với nhiều
nhân vật cấp cao trong chính phủ hân hoan chào đón tổng thống Roosevelt đi săn
trở về bình an. Ông cảm thấy tủi thân vì hình như chẳng có ai để ý đến mình. Một
thân một phận lủi thủi lên bờ. Tự thâm tâm ông như muốn trách Chúa:
-
Đấy, Chúa thấy không, tổng thống đi nghỉ hè về thì được nhiều người ra đón rước
như vậy. Còn con, con đã hy sinh chịu cực vì Chúa, phục vụ anh chị em nghèo khổ
tại Phi Châu trong suốt bốn mươi năm qua. Thế mà bây giờ trở về đây, không ai
thèm nghĩ đến con, thật là bất công và tủi cho thân phận con quá.
Nhưng
ngay lúc đó, dường như có tiếng Chúa trả lời cho nhà truyền giáo:
-
Này con, đừng vội thất vọng, con chưa trở về quê hương thật của con mà!
7. “Để cả chúng cũng nên một trong Ta” (Ga 17,21).
Trong
một buổi thuyết trình về đạo được tổ chức trên boong một du thuyền lớn, tiến sĩ
A. Simpson giải thích với cử tọa về vấn đề này như sau: Ông lấy một cái chai quẳng
vào lòng biển. Cái chai rơi vào đại dương và đang ở trong đại dương.
Nước
biển chui vào chiếm hữu cái chai, nước biển càng vào, cái chai càng từ từ chìm
sâu vào lòng đại dương. Ông kết luận:
-
Cái chai ở trong đại đương và đại dương ở trong cái chai. Đó là hình ảnh xác thực
nhất để chỉ mối tương giao giữa Chúa Giêsu và chúng ta là những môn đệ của Người.
Thánh
Gioan Thánh Giá, linh mục, trong bài ca thiêng liêng của ngài, ngài đã diễn tả
về vấn đề này thật hay như sau: “Chúa Cha đã thực hiện điều Chúa Con cầu xin
khi thông ban cho họ chính tình yêu thương Người hằng thông ban cho Chúa Con.
Tuy vậy, Người không thông ban cho họ theo bản tính như khi Người thông ban cho
Chúa Con, nhưng đã thông ban cho họ bằng cách lấy tình thương mà kết hợp họ với
Người và thần hóa họ. Cũng thế, không nên hiểu rằng Chúa Con xin Chúa Cha cho họ
nên một theo yếu tính và bản thể như Chúa Cha với Chúa Con là một, nhưng Người
chỉ muốn xin cho họ nên một nhờ kết hợp với nhau trong tình thương, như Chúa
Cha và Chúa Con vẫn là một trong Tình Thương duy nhất. Do đó, các linh hồn được
thông phần với Thiên Chúa những điều tốt đẹp mà Chúa Cha và Chúa Con vẫn có
theo bản tính. Vì vậy, nhờ được thông phần với Thiên Chúa, các linh hồn thực sự
là những vị thần. Họ nên giống Thiên Chúa và được chung phần với Người.
Lạy
Chúa, xin cho chúng con được nên một với Chúa. Amen.
8. Chia rẽ thì thua
Ông
Phaolô lợi dụng sự bất đồng Đức Tin giữa nhóm Biệt phái và phe Sađốc, để ông
gây chia rẽ trong họ. Trước tòa án, ông nói: “Thưa quý vị đồng bào, tôi là Biệt
phái, con của Biệt phái, tôi bị ra tòa vì mối hy vọng, tức là sự sống lại từ
cõi chết." Ông vừa nói thế thì xô xát liền xảy ra giữa Biệt phái và Sađốc,
và đám hội bị phân bè. Vì phe Sađốc quyết không tin có sống lại, không có Thiên
thần hay ma quỷ gì cả, còn Biệt phái lại tin tất cả các điều ấy. Tiếng la lối ầm
lên, có những Ký lục thuộc cánh Biệt phái chỗi dậy gây gổ bảo rằng: “Chúng tôi
không thấy chút gì trái nơi đương sự. Biết đâu đã có vị linh thiêng hay Thiên
thần phán bảo ông ấy? Cuộc xô xát đã đến độ trầm trọng, viên trưởng cơ sợ ông
Phaolô bị xâu xé, thì sai binh đội xuống giựt ông khỏi đám họ mà dẫn về đồn."
Như
thế, ông Phaolô vận dụng giáo lý về sự sống lại, có Thiên thần và có ma quỷ để
gây chia rẽ giữa Biệt phái và Sađốc. Đó là cách ông Phaolô làm cho những người
tin vào Giáo Lý của Đức Giêsu được hiệp nhất trong Chân Lý, đem lại cho họ sự sống
hạnh phúc dồi dào muôn đời. Bởi vì bản chất Giáo Lý của Chúa là gây chia rẽ giữa
tư tưởng của loài người với tư tưởng của Thiên Chúa, như Đức Giêsu nói: “Đừng
tưởng Ta đến đem bình an trên mặt đất, Ta đến không phải để đem lại bình an mà
là gươm giáo. Ta đến để chia rẽ người ta với cha mình, con gái với mẹ mình,
nàng dâu với mẹ chồng mình, và kẻ thù của người ta là những người nhà mình” (Mt
10, 34-36).
Do
đó ta không được nói sự thật một nửa, vì đó là cách nói láo độc hại nhất. Ví dụ:
“Hiệp nhất thì sống, chia rẽ là chết." Kìa Biệt phái và Sađốc khi còn hiệp
nhất với nhau, mà không dựa trên Chân Lý của Chúa, không bởi Thánh Thần, nên sự
hiệp nhất ấy gây ra cái chết cho ông Phaolô, không đem lại sự sống cho ai.
9. Nối kết với Thiên Chúa
Năm
1985, Steve Trotter trở thành người thứ bảy trong lịch sử đã sống sót khi nhảy ở
độ cao 50 thước từ thác Niagara trong một chiếc thùng. Trotter nói anh có cảm
tưởng như ở trên một thang máy không có dây gắn vào. Khi nghĩ về sự can đảm,
chúng ta thường nghĩ đến can đảm thể lý. Một sự can đảm lớn hơn được Phaolô đề
cập trong bài đọc hôm nay là sự can đảm luân lý.
Đó
là sự can đảm mà các môn đệ Chúa Giêsu phải thể hiện hằng ngày trong thế giới
hiện nay.
Làm
cách nào tôi có thể xây dựng lại tòa nhà của sự can đảm khi nó suy sụp?
Chúng
ta sẽ an toàn vượt qua giông bão, bao lâu niềm tin của chúng ta còn gắn chặt
vào Thiên Chúa (Thánh Phanxicô Salêsiô).
10. Cùng sống, cùng chết
Có
một câu truyện về một nhóm người bị đắm tàu trôi dạt trong chiếc thuyền cấp cứu
hẹp và dài. Chiếc thuyền dài đến độ người phía trước nghĩ chính họ là người
“trước hết” và người phía sau tưởng họ là người “sau cùng.” Một hôm, phía trước
thuyền bị rò rỉ không thể nào kìm giữ được. Người đàn ông ngồi phía sau nói với
người phụ nữ kế bên: “Cám ơn Chúa, thuyền bị rỉ phía trước, nếu nó rỉ phía sau,
chắc chúng ta tận số.”
Câu
truyện trên hàm chứa một bài học quan trọng cho tất cả chúng ta. Chúng ta quên
rằng tất cả chúng ta cùng ở trên một chiếc thuyền. Một đe dọa nghiêm trọng nào
xảy ra cho một phần thế giới cũng đe dọa nghiêm trọng đến những phần khác.
Tại
sao tôi đồng ý hoặc không đồng ý với nhận định của John Kennedy: “Nếu một xã hội
tự do không giúp được nhiều người nghèo, nó cũng chẳng cứu được một số ít người
giàu?”
Chúng
ta phải học chúng sống với nhau như anh em, hoặc cùng chết với nhau như những kẻ
khờ dại (Martin Luther King).
11. Giá trị của lời nguyện
Alexis
Carrel, người đoạt giải Nobel, viết: “Khi cầu nguyện, chúng ta liên kết chính
mình với quyền lực tạo dựng vũ trụ. Chúng ta nài xin một phần quyền lực ấy được
chia sẻ cho nhu cầu của chúng ta. Ngay lúc nài xin, những khiếm khuyết của
chúng ta được lấp đầy, và chúng ta trở nên mạnh mẽ, tươi mới... Cầu nguyện chân
thành là một lối sống. Cuộc sống đích thực chính là cuộc sống cầu nguyện.”
Việc
cầu nguyện tác động thế nào lên cuộc đời tôi khi tôi thường xuyên cầu nguyện?
Cầu
nguyện cũng giống như bật công tắc điện. Nó không tạo ra dòng điện, nhưng chỉ
cung cấp một đường dẫn cho dòng điện chạy vào. (Max Handel)
THỨ SÁU - CƠ HỘI THỨ HAI
Lời
Chúa: Ga 21, 15-19
Khi
Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho các môn đệ, Người dùng bữa với các ông, và hỏi
Simon Phêrô rằng: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người
này không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Người bảo
ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy."
Người
lại hỏi: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy:
Có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các
chiên con của Thầy."
Người
hỏi ông lần thứ ba: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Phêrô buồn
phiền, vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba “Con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa
Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy” Người bảo ông: “Con hãy
chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn
trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay
ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến."
Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa.
Phán những lời ấy đoạn, Người bảo ông: “Con hãy theo Thầy."
TRUYỆN KỂ
1. Cơ hội thứ hai.
Trong
một cuộc phỏng vấn, khi những người trung niên và lớn tuổi được hỏi về những
năm tháng đã qua của cuộc đời mình, họ có hối tiếc gì không, và nếu có cơ hội
thứ hai, họ sẽ quyết định như thế nào. Một số người cho biết, họ vẫn làm những
gì họ đã chọn lựa. Ngược lại, một số đông cho biết họ đã chọn lựa sai ở một số
thời điểm quyết định sự thành bại, và nếu bây giờ có cơ hội thứ hai, họ sẽ chọn
lựa khác hẳn.
Tin
mừng hôm nay cho chúng ta chứng kiến việc Chúa Giêsu trao ban cho Phêrô cơ hội
thứ hai.
Thiên
Chúa luôn sẵn sàng cho chúng ta cơ hội thứ hai, không phải một lần mà là nhiều
lần. Điều quan trọng là chúng ta phải thành tâm nhìn nhận tội lỗi, xin ơn tha
thứ và bắt đầu lại. Do đó mối hiểm nguy là do chúng ta tự định giới hạn cho
lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa, mà không xin Ngài một cơ hội khác. Đó là sự
khác biệt giữa Giuđa và Phêrô: Cả hai đã phản bội Thày trong cùng một ngày,
nhưng Giuđa không xin cơ hội thứ hai nên đã thất bại, còn Phêrô đã tận dụng cơ
hội được ban cho và đã toàn thắng.
2. Có yêu thì mới chu toàn
Khi
nói về tình yêu, nhạc sĩ Nguyễn Duy đã có một bài hát mang tên: “Xin định nghĩa
tình yêu”, trong đó có đoạn:
“Yêu
là chết đi, là đóng đinh, là biết hy sinh cho người mình yêu [...]. Yêu: xin đừng
dối gian, xin đừng trái ngang, dù lắm lo toan, xin đừng ly tan. Hãy yêu như
Giêsu, chết đi cho dương gian, đóng đinh cho người mình yêu mến. Hãy yêu trong
an vui, thủy chung trong đau thương, sống trong cuộc đời đầy mến yêu."
Lời
bài hát trên mang đậm chữ “yêu." Thật vậy, con người nếu không có tình
yêu, hỏi rằng chúng ta có thể sống có ý nghĩa được chăng? Thưa không! Chỉ có
tình yêu, con người mới làm cho cuộc đời này chan chứa niềm vui, dẫu vẫn còn đó
khổ đau, bất hạnh, hiểu lầm...
3. Chăn dắt các chiên của Thầy
Trong
thánh lễ an táng Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Đức Hồng y Joseph
Ratzinger, tức là Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI sau này, giảng lễ gợi hứng từ
Tin Mừng Ga 21,15-19, và tập trung vào lời Chúa Giêsu nói với Phêrô: “Hãy theo
Thầy” (Ga 21,19).
Đức
Hồng y Joseph Ratzinger, suy tư và khai triển tiếng gọi của Chúa Giêsu cho
Phêrô “Hãy theo Thầy”, tiếng gọi này nhưng cũng xuyên suốt cuộc đời Đức cố Giáo
hoàng Gioan Phaolô II, đấng kế vị Phêrô, từ khi lãnh tác vụ linh mục giữa thời
chiến tranh, tiếp đến sứ vụ Giám mục trong thời kỳ bức màn sắt, cho đến khi lên
ngôi Giáo hoàng như lời Chúa uỷ thác: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy."
4. Tại sao Chúa Giêsu lại hỏi Phêrô tới ba lần như vậy?
Có
nhiều nhà giải thích Thánh kinh nói rằng: Chúa Giêsu hỏi Phêrô ba lần như vậy
là để tỏ ra tầm quan trọng của nhiệm vụ mà Chúa sắp trao phó cho ông.
Có
những tác giả khác cho rằng: Chúa hỏi đi hỏi lại như vậy là muốn cho mọi người
biết rõ rệt Chúa trao quyền Tông đồ trưởng cho Phêrô, và quyền ấy phải đi đôi với
tình yêu của ông đối với Chúa, quyền lợi đi đôi với tình yêu, tình yêu bao trùm
mọi trách nhiệm.
Một
số người khác lại cho rằng: Ba câu trao sứ mạng, lần lượt nói “chiên con” ở hai
lần đầu và “chiên mẹ”ở lần sau cùng, là Chúa có ý đề cập đến quyền lãnh đạo của
Phêrô trên cả giáo dân và các chủ chăn khác,
Có
người lại cho rằng Chúa hỏi Phêrô ba lần như vậy là có ý gợi lại ba lần ông đã
chối Chúa.
Có
người lại cho rằng ba lần hỏi, ba lần trao nhiệm vụ như thế, cũng hiểu là Chúa
trao ba quyền cho Phêrô: giảng dạy, tế lễ và cai trị, tức là ba chức vụ: giảng
dạy, thánh hóa và lãnh đạo (Lm Phạm văn Phượng).
5. Hãy theo Thầy
Nhà
hiền triết Socrate gặp chàng trai trẻ Xenophon lần đầu. Thoạt tiên, ông hỏi
chàng có biết ở đâu bán cái này, cái nọ, và ở đâu người ta chế ra vật này, vật
kia, Xenophon chỉ cho Socrate những thông tin cần thiết. Rồi Socrate hỏi:
-
Anh có biết người ta chế tạo điều lành và nhân đức ở đâu không?
-
Không.
-
Vậy anh hãy theo ta.
Đó
cũng là câu Chúa Giêsu nói với ông Phêrô: “Hãy theo Thầy” (Góp nhặt).
6. “Quo vadis”: Ngài đi đâu đó.
Câu
chuyện truyền kỳ về những ngày chót của cuộc đời ông chắc chắn cũng chứa đựng
ít nhiều sự thật. Ông đến Rôma trong thời kỳ bắt đạo. Lúc cơn bắt đạo dâng cao,
ông đã sợ hãi và muốn lẩn trốn nhưng vừa ra khỏi thành thì ông gặp một người
vai mang Thập giá đang đi hướng về phía thành.
Ông
hỏi: “Quo vadis”: Ngài đi đâu đó?
Người
ấy trả lời: “Ta đi vào Rôma để cho người ta đóng đinh một lần nữa."
Phêrô
quay đầu trở lại. Ông vào Rôma và chịu tử đạo tại đó. Truyền thống kể rằng ông
cảm thấy không xứng đáng được đóng đinh như Thầy nên ông xin được chết trên Thập
giá trong tư thế đầu lộn ngược xuống đất.
Ông
thực hiện đúng lời của Chúa: “Khi về già ngươi sẽ giang tay ra, người khác sẽ
thắt lưng cho và lôi ngươi đi đến nơi ngươi không muốn” (Ga 21,18-19).
7. Thầy biết con yêu mến Thầy
Alexander
đại đế, khi còn nhỏ là một cậy bé thông minh. Một hôm cha cậu mua phải một con
ngựa khó tính, không ai dạy nổi. Thế mà Alerxander thuần phục con ngựa ấy một
cách dễ dàng. Có người hỏi cậu bí quyết khắc phục con ngựa ấy, cậu trả lời: “Chẳng
có gì lạ. Tôi xét kỹ thấy con ngựa này rất sợ cái bóng của nó. Vì thế chỉ cần
quay nó hướng về mặt trời để nó không còn thấy cái bóng của nó nữa.”
Ông
Phêrô rất sợ cái bóng của mình, nhưng khi ông hướng về Chúa, Đấng giàu lòng thương
xót, sợ hãi như tan biến đi, nhường chỗ cho tín thác xâm chiếm cả tâm hồn ông.
Lạy
Chúa, Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con, Chúa biết con hơn con biết con và Chúa
yêu con hơn con yêu con. Con tín thác đời con cho Chúa.
8. Điều kiện: Yêu
Trước
khi Đức Giêsu trao quyền thủ lãnh cho, Ngài không đòi hỏi ông về kiến thức,
cũng không đòi ông phải có tài năng, địa vị, hay giàu có, mà Ngài chỉ tra hỏi
ông về tình yêu:
Trước
nhất, ta phải phân biệt hai động từ yêu được dùng trong trình thuật này:
*
Agapê: Là tình yêu của Thiên Chúa, yêu không tìm lợi nhuận nơi người đời, không
phân biệt bạn hay thù, chấp nhận mất mạng vì phục vụ phàm nhân theo ý Cha trên
trời.
*
Philein: Yêu trong tình bạn, dựa trên công bằng giao hoán.
Ta
thấy ba lần Chúa Giêsu hỏi và ông Phêrô trả lời:
-
Con có Agapê Thầy không? Dạ, con Philein Thầy. Con hãy chăn chiên (Arnia).
-
Con có Agapê Thầy không? Dạ, con Philein Thầy. Con hãy chăn cừu (Probata).
-
Con Philein Thầy sao? Dạ, con Agapê Thầy. Con hãy chăn cừu (Probata).
Như
vậy,
a-
Chỉ khi nào thủ lãnh Phêrô trả lời Agapê, giống như Chúa Giêsu yêu loài người,
thì mới đạt.
b-
Ba lần Chúa Giêsu hỏi về tình yêu của ông Phêrô, Ngài muốn ông chuộc lại ba lần
đã chối Thầy. Vì thế lần thứ nhất Chúa Giêsu hỏi ông: “Phêrô, con có yêu mến Thầy
HƠN những người này không?” (Ga 21, 15: Tin Mừng).
9. Thấy Chúa yêu
Một
buổi sáng, ông thầy dòng ra vườn cầu nguyện. Đứng trước hàng chôm chôm đầy
trái, bên cạnh giàn bí với những quả thật lớn, thầy suy nghĩ: "Chẳng biết
Chúa có mắt không. Sao trái chôm chôm bé tí thế kia lại mọc trên cành cây to,
còn quả bí khổng lồ lại bám vào dây leo tí tẹo? Chẳng hợp lý chút nào."
Đang miên man suy nghĩ, chợt một cơn gió thổi qua, một trái chôm chôm rơi ngay
đỉnh đầu. Giật nẩy mình, như vừa tỉnh khỏi cơn mơ, thầy quỳ sụp xuống: «Ôi lạy
Chúa, may Chúa có mắt, nếu để trái chôm chôm to bằng quả bí thì đầu con còn
đâu!» Thế đấy, Thiên Chúa thấy và biết hết mọi sự. Ngài luôn có lý; và kế hoạch
của Ngài luôn tốt đẹp cho chúng ta, vì Ngài YÊU THƯƠNG CHÚNG TA. Dĩ nhiên,
Thiên Chúa cũng biết rõ tôi có yêu mến Ngài hay không. Vậy điều quan trọng là tấm
lòng của tôi như thế nào đối với Thiên Chúa, cụ thể là đối với Đức Giêsu Kitô,
hiện thân của tình yêu Thiên Chúa.
Mời
Bạn: Cảm nhận tình yêu của Chúa Giêsu dành cho bạn. Người đã yêu thương bạn đến
cùng đó. Và nhìn lại thái độ hững hờ, đôi khi bạc bẽo của mình trước tình Chúa.
Ôi, tấm lòng của mình sao chật hẹp quá! Chúa Giêsu cũng đang hỏi bạn có yêu mến
Người không. Hãy xin Chúa cho mình có thể thốt lên được với tất cả sự chân
thành như Phêrô: «Lạy Thầy, Thầy biết rõ mọi sự. Thầy biết con yêu mến Thầy.»
THỨ BẢY -
LÀM CHỨNG CHO CHÚA
Khi ấy, Phêrô quay lại, thấy môn đệ Chúa Giêsu yêu mến theo sau,
cũng là người nằm sát ngực Chúa trong bữa ăn tối và hỏi "Thưa Thầy, ai là
người sẽ nộp Thầy?" Vậy khi thấy môn đệ đó, Phêrô hỏi Chúa Giêsu rằng:
"Còn người này thì sao?" Chúa Giêsu đáp: "Nếu Thầy muốn nó cứ ở
lại mãi cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến con? Phần con, cứ theo Thầy.” Vì
thế, có tiếng đồn trong anh em là môn đệ này sẽ không chết. Nhưng Chúa Giêsu
không nói với Phêrô: "Nó sẽ không chết", mà Người chỉ nói: "Nếu
Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến con.”
Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra, và
chúng tôi biết lời chứng của người ấy xác thật. Còn nhiều việc khác Chúa Giêsu
đã làm, nếu chép lại từng việc một thì tôi thiết tưởng cả thế giới cũng không
thể chứa hết các sách viết ra.
TRUYỆN KỂ
1. Làm chứng cho Chúa.
Trong kỳ nội chiến, Tổng thống Hoa kỳ là Abraham Lincoln có một
sĩ quan trẻ làm thư ký. Viên sĩ quan này nổi tiếng là gan dạ, do đó công việc
bàn giấy xem ra không thích hợp với anh. Anh chỉ mơ ước trở lại mặt trận và nếu
cần sẵn sàng chết cho tổ quốc hơn là làm công việc đơn điệu nhàm chán trên bàn
giấy.
Một ngày nọ, sau khi nghe anh than phiền, Tổng thống Lincoln
nhìn thẳng mắt anh và nói: “Hỡi anh bạn trẻ, như tôi nhận thấy thì quả thực anh
luôn muốn xả thân chết cho tổ quốc, nhưng có lẽ anh không muốn sống cho tổ quốc.”
Tử đạo theo nguyên ngữ là “làm chứng cho đức tin.” Có người dùng
cái chết để làm chứng, có người dùng cả cuộc sống.
2. Lời chứng từ máu thịt
Thánh Gio-an lúc bảy mươi tuổi bắt đầu viết Tin mừng làm chứng về
Đức Giêsu. Hôm nay, Ngài ký vào lời chứng này.
Được gắn bó sâu sắc với Thầy, Gioan có được đức tin mạnh mẽ cho
con đường đặc biệt mà Thầy chuẩn bị và muốn ông đi: Không đổ máu làm chứng cho
Chúa dù đã kề cận bên cái chết tử đạo: Người bị cầm tù ở Rôma, còn bị ném vào
trong một vạc dầu sôi, nhưng Thiên Chúa gìn giữ ông được bình an vô sự. Sau đó,
Gioan bị kết án đi làm hầm mỏ tại trại tù ở đảo Patmos. Tại đây, Ngài đã viết
cuốn sách Khải huyền chứa đầy những lời tiên tri.
Ngôn từ cuốn Tin mừng này đôi khi khó hiểu, bí ẩn, sâu kín, mang
lại kinh nghiệm dày dạn sâu lắng của đời sống Kitô giáo, đời sống phục sinh.
Ngài truyền lại cho chúng ta kiến thức về Đức Kitô sau khi đã cầu nguyện, Suy
niệm lâu dài mãi tới già.
3. Cảm nghiệm và làm chứng
Trên các trang báo điện tử thời gian gần đây đăng tin: Một nữ tu
“cháy hết mình” trên sân khấu The Voice của Ý.
Nữ tu đó chính là Cristina Scuccia, 25 tuổi, thành viên của Dòng
các chị em Ursuline Thánh Gia. Chị đã xuất hiện trên sân khấu của chương trình
The Voice tại Ý. Khi sơ xuất hiện, các giám khảo và mọi người thật sự ngỡ ngàng
khi thấy trang phục của thí sinh đặc biệt này.
Khi các giám khảo quay lại nhìn sơ Cristina, họ đã không tin vào
mắt mình khi thấy một nữ tu trẻ đang hát “No One”, bài hát ruột của Alicia
Keys.
Sau khi nghe sơ Cristina hát, Carra là một trong 4 vị giám khảo
đã hỏi sơ có thật là một nữ tu không và tại sao sơ chọn tham gia cuộc thi này?
“Vâng, tôi đích thực là một nữ tu,” sơ Cristina trả lời.
“Tôi đến đây bởi vì tôi có một món quà và tôi muốn chia sẻ món
quà đó. Tôi đến đây để loan báo Tin Mừng.”
4. Ơn gọi theo Chúa
Khi Thánh Phêrô hỏi Chúa về số phận của Thánh Gioan, Chúa đã nói
với Thánh Phêrô: “Việc đó liên quan gì đến con, phần con hãy cứ theo Thầy.”
Tất cả mọi người được kêu gọi để theo Chúa. Có những bậc sống
khác nhau. Trong mỗi bậc sống đó lại có từng hoàn cảnh khác nhau. Mỗi người là
mỗi phận. Chúa như đang cầm tay từng phận người mà dắt đi theo Chúa. Chúa đang
nói với mỗi người: “Phần con hãy cứ theo Thầy.” Chúa đang dẫn mỗi người đi theo
Chúa bằng lối đi Chúa dành riêng cho người đó.
Mỗi đời người là một cuộc tình riêng với Chúa. Mỗi đời người đều
có đủ thánh giá để vác theo Chúa. Đồng thời mỗi đời người đều được Chúa ban đủ
niềm vui và ân sủng để theo Chúa cho nên: “Ơn Ta đủ cho con.”
5. Hãy cứ theo Thầy
Ngày kia, Voltaire nói với một người bạn: “Để lập Kitô giáo, chỉ
cần mười hai tên ngư phủ quê mùa, dốt nát. Tôi sẽ cho thế giới thấy rằng chỉ cần
một người Pháp cũng đủ tiêu diệt tôn giáo đó.”
Với ý đồ đó, ông phản bác cả Isaac Newton. Newton dựa vào sách
Daniel 12,4 và Nahum 2,4 tiên đoán rằng: Một mai, con người có thể di chuyển với
tốc độ kỳ diệu là 40 dặm trong một giờ. Voltaire bảo: “Hãy xem Kitô giáo điên rồ
đã đầu độc một người thông thái như Newton đến cỡ nào! Ông không biết rằng một
người chạy 40 dặm 1 giờ sẽ nghẹt thở, vỡ tim mà chết hay sao?”
25 năm sau khi Voltaire qua đời, căn nhà của ông được bán cho Hội
Thánh Kinh Geneva và trở thành kho lưu trữ Thánh Kinh. Còn chiếc máy in của ông
cũng được dùng để in Thánh Kinh!
6. Chúa Giêsu là câu trả
lời
Bộ phim hoạt hình “Peanuts” mở đầu bằng hình ảnh Shroeder mang một
tấm bảng: “Chúa Giêsu là câu trả lời.” Bộ phim kết thúc với hình ảnh Snoopy cầm
một tấm bảng: “Câu hỏi là gì?” Những nhà lãnh đạo Do thái biết rõ câu hỏi: Tại
sao Đấng Mêsia, “Đấng mà dân Israel hy vọng” không đến?” Phaolô trả lời, thật
ra, Chúa Giêsu là lời giải đáp. Ngài là “Đấng mà dân Israel hy vọng.”
Nghe ông nói, một số người được thuyết phục, một số khác thì
không chịu tin.
Chúa Giêsu là câu trả lời gì cho những câu hỏi hay những vấn đề
trong đời tôi?
Nếu tôi bối rối, Ngài là ánh sáng soi.
Nếu tôi lạc bước, Ngài là đường để theo.
Nếu tôi yếu đuối, Ngài là cánh tay nâng đỡ.
Nếu tôi đói khát, Ngài là của ăn nuôi dưỡng tâm hồn.
7. Chúa thách thức
Rôma bị bao vây nghiêm ngặt vào năm 1849. Garibaldi, nhà ái quốc
vĩ đại người Ý đã đưa ra lời thách thức đến giới trẻ. Ông nói: “Tôi không có gì
ban tặng các bạn, chỉ có đói khát, khó khăn và cái chết. Nhưng tôi kêu gọi tất
cả những ai yêu mến tổ quốc hãy liên kết cùng tôi.” Sự đáp trả thật đáng kinh
ngạc.
Chúa Giêsu cũng đưa ra lời thách thức này, đặc biệt với Phêrô,
trong bài đọc hôm nay. Ngày hôm nay, Ngài cũng đưa ra lời thách thức tương tự đối
với mỗi người chúng.
Chúa Giêsu sẽ nói gì với tôi, nếu tôi hỏi Ngài vì sao nên đón nhận
lời thách thức của Ngài?
Dám làm những điều can đảm để dành chiến thắng huy hoàng, dù phải
nếm mùi thất bại, còn hơn là bằng lòng với lối sống không hưởng thụ, không đau
khổ, vì như thế là sống trong bóng hoàng hôn không biết đến mùi chiến thắng hay
thất bại (Theodore Roosevelt).
8. Lời nhập thể trong
Thánh Kinh
Một chiếc xe tải nhẹ đậu ở lề đường. Một giọng nói từ buồng lái
vang lên cho nhóm hướng đạo sinh ở phía sau: “Đến giờ cầu nguyện rồi. Chúng con
hãy lần hạt, trong khi cha đọc sách nguyện.” Cha Joyce ngồi xuống bên đèn lái
và bắt đầu đọc sách nguyện. Ngay lúc đó, một chiếc xe khác đến và người tài xế
hỏi: “Có cần giúp đỡ gì không?” Cha Joyce đáp: “Không, chỉ đọc sách thôi mà!” Vị
linh mục mỉm cười khi chiếc xe rời đi với câu nói tạm biệt của người tài xế:
“Chắc là một quyển sách hay tuyệt nhỉ.”
Câu truyện hoặc bản văn nào trong cuốn sách hay tuyệt đó nói với
tôi một cách đặc biệt? Tại sao?
Tôi biết Kinh thánh được linh hứng, vì Kinh thánh đã giúp tôi
khám phá chiều sâu trong tôi hơn bất cứ cuốn sách nào khác. (Samuel Taylor
Coleridge)
LỄ
CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG – LỄ VỌNG
Lời Chúa: Ga 20, 19-23
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ
họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông
và nói rằng: "Bình an cho các con!" Khi nói điều đó, Người cho các
ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa.
Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con!
Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con."
Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con
hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Các
con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại."
TRUYỆN KỂ
1. Vai trò của Chúa Thánh
Thần
Một hôm, vào một buổi sáng mùa hè, trời quang mây tạnh, các sinh
vật, thực vật trong một khu rừng tranh luận với nhau về ý nghĩa đời sống. Một
con họa mi mở đầu, lên tiếng nói: Đối với tôi, cuộc sống chỉ là ca hát, có thế
thôi. Nói rồi nó ngẩng cao cổ, tung lên bầu trời một giọng hát trong trẻo tuyệt
diệu.
Nghe thế, con chuột chũi liền lẩm bẩm: Cuộc sống không phải là
ca hát, không, hoàn toàn không, nhưng cuộc sống là liên tục đấu tranh trong hầm
tối.
Một chị bướm ngắt lời: Như vậy thì thật vô lý. Nhưng cuộc sống
phải là thỏa thích vui chơi bay lượn.
Đến lượt con ong lên tiếng: Chị bướm ơi, chị lầm rồi. Đời sống
không phải là vui chơi bay lượn, nhưng là chăm chỉ làm việc.
Một chú kiến vênh râu, tỏ ý tán thành quan điểm của con ong.
Bỗng một con phượng hoàng từ trời nói vọng xuống: Tất cả các chú
không ai nói đúng cả. Theo ý tôi thì cuộc sống có ý nghĩa nhất là tự do bay bổng
trên mây xanh.
Tới đây, các cây trong rừng cũng nhao nhao lên lên tiếng tham
gia vào cuộc tranh luận: Một cây thông cao vút, cành lá reo vui trong gió, dưới
ánh bình minh , lên tiếng khen ý kiến của con phượng hoàng là đúng: Đời sống là
vươn mình lên không trung, coi thường những cái nhỏ nhen sà sà mặt đất. Cây bìm
leo liền phản đối và đồng tình với chị kiến, chú ong: Đời sống là cần lao phấn
đấu.
Cây hồng thắm và cây huệ trắng thì về phe với cô bướm, đồng
thanh nói: Đời sống chỉ là vui chơi bay lượn.
Lúc ấy, một đám mây bay qua, buông rơi mấy hạt mưa xuống đám
sinh vật, thực vật, đồng thời phát biểu: Đời sống chỉ là giọt lệ cay đắng và nước
mắt.
Một dòng suối chảy ngang qua đó cũng xen vào một câu: Đời sống
chỉ là mau qua biến chuyển không ngừng.
Trong lúc mà cuộc tranh luận về ý nghĩa đời sống giữa các sinh vật,
thực vật và cả mây trời suối nước lên tới cao điểm, nhưng không đi tới kết
thúc, thì chuông nhà thờ lên tiếng ngân vang báo hiệu mừng lễ Hiện Xuống làm
cho cuộc tranmh luận đang sôi nổi bỗng im bặt. Tất cả đều nhất trí rằng câu trả
lời đúng nhất về ý nghĩa đời sống là sự bình an, vui mừng, sức mạnh và hòa hợp
trong Chúa Thánh Thần.
Thưa anh chị em thân mến,
Trên đây chỉ là một câu chuyện biến ngôn, không có thực, nhưng
nói lên sự thực này là Chúa Thánh Thần có một vai trò rất quan trọng, vai trò
chính yếu trong việc điều hòa vũ trụ vạn vật nói chung và loài người nói riêng.
Không có Chúa Thánh Thần thì mọi sự sẽ hỗn độn, mọi loài sẽ bất đồng, loài người
sẽ chia rẽ nhau. Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến tác tạo mọi sự và làm cho mặt
đất này được đổi mới. Amen.
2. Lửa và củi
Hôm nay tôi xin nhắc lại và đào sâu hơn hình tượng Thánh Gioan
Thánh Giá sử dụng. Ngài là người có kinh nghiệm thần bí sâu sắc đồng thời là một
nhà thơ cho nên ngài đã vận dụng ngôn ngữ thi ca để diễn tả kinh nghiệm thần bí
đó. Đó là hình ảnh của lửa, của củi.
Chúng ta thử tưởng tượng cảnh mùa đông băng giá ở Châu Âu, ngoài
vườn có một khúc củi nằm cô đơn giữa tiết trời băng giá. Cái lạnh làm cho làn
da của nó xần xùi, xấu xí. Thế rồi nó được ông chủ nhà đem vào quăng vào lò sưởi.
Hơi nóng làm khúc củi cảm thấy ấm áp, hạnh phúc. Nó cảm nhận được đầy sự an ủi
không tả được.
Nhưng tiếc rằng sự sung sướng kéo dài chẳng được bao lâu. Trong
khỏanh khắc ngọn lửa ôm chặt lấy nó. Sức nóng của lửa nung nấu khiến cho nhựa
cây rỉ ra bên ngoài làm thành một lớp da sần sùi như da cóc. Nó tỏa ra một mùi
thật khó chịu. Khúc củi quằn quại trong than hồng một thời gian. Cuối cùng nó
trở nên một với lửa. Nó không còn là củi mà chỉ là lửa. Lửa đem ánh sáng, lửa
đem hơi ấm cho những người trong phòng.
Gioan Thánh Giá dùng hình ảnh tuyệt vời ấy để diễn tả về tác động
của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta. Hình ảnh ấy giúp chúng ta thấy được
đâu là cùng đích của đời sống trong Thánh Thần. Cái cùng đích ấy là Chúa Thánh
Thần làm cho chúng ta được nên một với Thiên Chúa. Như Thánh Têrêsa Hài đồng
Giêsu nói: "Ta trở thành một giọt nước hoà trong đại dương." Sự nên một
ấy chỉ trở thành trong đời sống vĩnh cữu cho những người mà Chúa ban cho kinh
nghiệm thần bí, những người cảm nghiệm được sự nên một hồng phúc với Thiên
Chúa.
Chúng ta chưa có được kinh nghiệm huyền bí đó. Nhưng tôi nghĩ: Nếu
chúng ta thực hiện đúng những bí tích mà Giáo Hội cử hành là chúng ta đã đi
đúng mục đích của Giáo Hội, dẫn ta đến chỗ nên một với Thiên Chúa. Khi ta rước
mình Thánh Chúa và để Máu Thánh Chúa hoà vào máu thịt ta để ta nên một với
Ngài.
3. Bài giảng biết đi.
Một buổi chiều của năm 1953, các ký giả và một số nhân viên
chính phủ tập trung tại một nhà ga xe lửa ở Chicago, Hoa kỳ để chào đón một người
được giải thưởng Nobel hoà bình năm 1952.
Người vừa xuống khỏi xe lửa là một người đàn ông to lớn, tóc ngắn
và mang một chòm râu cắt gọn ghẽ. Các máy hình chớp liên hồi. Các nhân viên cao
cấp của thành phố đang rộng tay để đón chào vị thượng khách.
Người được giải Nobel hoà bình cám ơn mọi người rồi bỗng đưa mắt nhìn vào một chỗ nào đó trên sân ga. Ông xin kiếu vài phút để đi thẳng về hướng ấy. Mọi người đều tưởng ông đã để quên một hành lý nào chăng.
Ông băng qua đám đông đi thẳng tới một người đàn bà có tuổi đang khệ nệ với hai vali nặng. Ông giơ tay đỡ lấy một chiếc vali, mỉm cười với bà rồi dẫn bà ra một chiếc xe buýt gần đó. Khi giúp người đàn bà lên xe, ông không quên chúc bà thượng lộ bình an. Quay lại với đám đông đang chờ đợi, ông nói: “Xin lỗi quí vị vì đã bắt quí vị chờ đợi."
Người được giải Nobel hoà bình năm 1953 ấy, không ai khác hơn là
bác sĩ Albert Schweitser, nhà truyền giáo nổi tiếng đã hy sinh cả cuộc đời cho
những người nghèo tại Phi châu. Chứng kiến cử chỉ của ông, một người trong ban
tổ chức đón tiếp ông hôm đó, đã nói với một ký giả: “Đây là lần đầu tiên tôi thấy
một bài giảng biết đi." (R.D. Wahrheit, Ánh sáng hy vọÏng, tr 41-42).
4. Tha nhân là chính Chúa
Một bề trên tu viện công giáo đến tìm một ẩn sĩ Ấn giáo tại chân
núi Himalaya. Ông lo âu trình bày về tình trạng bi đát của tu viện ông.
Trước kia tu viện này là một trung tâm thu hút khách hành hương.
Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân đến từ khắp nơi. Trong tu viện
không còn chỗ nhận thêm người vào tu hằng ngày đến gõ cửa nữa. Thế mà bây giờ
tu viện chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng, tu sĩ thì
lèo tèo mấy người. Cuộc sống thật là buồn tẻ.
Vị bề trên hỏi tu sĩ Ấn giáo cho biết nguyên nhân nào hay lỗi lầm
nào đã đưa tu viện tới tình trạng trên đây. Tu sĩ Ấn giáo ôn tồn bảo:
- Các tội đã và đang xảy ra tại cộng đoàn đó là tội vô tình. Và
giải thích: Đấng Cứu thế đã cải trang thành một người trong quý vị, nhưng quý vị
không nhận ra Ngài.
Nhận được câu trả lời giải đáp, vị Bề trên hối hả quay về tu viện.
Ông tập họp cộng đoàn lại, và loan báo cho mọi người biết Đấng Cứu thế đang cải
trang thành một người trong nhà. Các tu sĩ đều mở to đôi mắt và quan sát nhau.
Ai là Đấng Cứu thế cải trang vậy? Nhưng có một điều chắc là một khi Ngài đã cải
trang thì không ai có thể nhận ra Ngài được. Mỗi người trong họ đều có thể là Đấng
Cứu thế.
Vậy là từ đó, mọi người đều đối xử với nhau như với Đấng Cứu thế.
Chẳng bao lâu bầu khí yêu thương huynh đệ, sức sống và niềm vui đã trở lại với
tu viện. Từ khắp nơi người ta lại tìm đến tu viện tĩnh tâm và cầu nguyện. Nhiều
người trẻ cũng đến xin gia nhập cộng đoàn (D. Wahrheit, Món quà Giáng sinh, tr
287).
5. Các nữ tu tại Vendée
Các chị dòng tại tu viện Vendée nước Pháp không quên rằng Chúa
Thánh Thần là quan trọng. Trong thời kỳ cách mạng Pháp, nhiều linh mục và nữ tu
bị giết. Toàn thể các chị ở tu viện Vendée bị kết án lên máy chém. Chị nào cũng
hiểu lên máy chém ghê sợ chừng nào, nhưng không một chị nào tỏ ra sợ sệt chút
gì hết. Trái lại, đứng sát bên nhau, các chị cất tiếng hát bài thực du dương. Đứng
trước cái chết, các chị vẫn ca hát, và bài hát các chị hát là bài thánh ca “Xin
Chúa Thánh Thần ngự đến” (Diamond, Đồng cỏ non, tr 93).
6. Nhà biên kịch Henri
Ghéon
Henri Ghéon là một nhà biên kịch nổi tiếng của Pháp, cũng là một
người tội lỗi trong đệ nhị thế chiến, ông ở trong một tâm trạng bất an, đã quay
trở lại với Chúa. Ông đến xin lãnh bí tích giải tội và ông đã kể lại tâm trạng
của mình lúc xưng tội như sau: “Hai tay tôi ôm đầu, miệng bập bẹ run run, tôi đổ
dòng tội tuôn ra như thác… Tôi cảm thấy một thứ cặn đắng, từng ngụm, từng ngụm
trào ra khỏi các thớ thịt con tim tôi với tất cả khối nặng đó, với tất cả chất
độc đó đã đè nén tôi suốt hai mươi năm nay. Tôi cố cựa quậy đổ dốc nó ra cho
linh mục giải tội. Và Thiên Chúa đã nghe lời tôi: “Hãy về Bình an. Thánh Thần
đã ngự trong con!” Tôi trẻ lại hai mươi tuổi, hai mươi năm tội lỗi. Một niềm
vui sướng mới lạ tràn ngập tâm hồn tôi. Tôi chạy, tôi nhảy, tôi bay, tôi không
còn cảm thấy xác thịt nặng nề của tôi nữa”…
7. Lạy Chúa Thánh Thần,
xin hãy ngự đến!
Trong kho tàng văn chương Ấn giáo có ghi lại câu chuyện như sau:
Có một đệ tử đến thưa với vị linh đạo của mình: “Thưa thầy, con muốn gặp
Chúa." Vị linh đạo chỉ đáp trả bằng một cái mỉm cười thinh lặng.
Ngày hôm sau, người môn sinh trở lại và bày tỏ cũng một ước muốn.
Vị linh đạo vẫn mỉm cười tiếp tục giữ sự im lặng cố hữu của ông.
Một ngày đẹp trời nọ, ông đưa người thanh niên đến một dòng
sông. Thầy trò cùng trầm mình xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn
toàn thoải mái trong dòng nước mát, bất thần, vị linh đạo túm lấy anh và dìm xuống
nước hồi lâu. Người thanh niên cố gắng vùng vẫy đế trồi lên mặt nước. Lúc bấy
giờ vị linh đạo mới hỏi anh: “Khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần
điều gì nhất?" Không một chút suy nghĩ, người đệ tử đáp: “Thưa thầy, con cần
có không khí để thở.""
Lúc bấy giờ vị linh đạo mới dẫn giải: “Con cảm thấy cần gặp Chúa
như con cần khí thở không? Nếu con cảm thấy cần như thế, con sẽ gặp được Ngài tức
khắc. Ngược lại, nếu con không hề cảm thấy cần như thế thì cho dù con có vận dụng
tất cả tài trí và cố gắng, con cũng sẽ không bao giờ gặp được Ngài."
8. Lễ Hiện Xuống mới
Ngày 28 tháng 10 năm 1958, Đức hồng y Angelo Giuseppe Rollcali
lên ngôi giáo hoàng lấy tước hiệu Gioan 23. Một ông lão không tiếng tăm lên
lãnh đạo Giáo hội, nhiều người nghĩ rằng sẽ chẳng có gì mới với một ông lão gần
đất xa trời. Thế nhưng, ông lão này đã làm nên một kỳ diệu được coi là lễ Chúa
Thánh Thần hiện xuống lần thứ hai khi Ngài triệu tập công đồng Vaticano II để
canh tân Giáo Hội. Thiên Chúa vẫn tiếp tục làm những việc kỳ diệu cho dân Người.
Chúng ta hãy hân hoan bước đi trong niềm tín thác vào Chúa. Và với lòng cậy
trông chúng ta cùng thưa lên cùng Chúa Thánh Thần: "Lạy Chúa Thánh Thần,
xin hãy đến thánh hoá chúng con trong chân lý và tình thương." Amen.
9. Tháp Babel.
Bấy giờ thiên hạ chỉ nói một thứ tiếng, sau khi định cư tại đồng
bằng Senna, họ bàn luận với nhau: Ta hãy nung gạch và xây một ngọn tháp chọc trời,
trước khi phân tán tới mọi miền trên mặt đất.
Trước ý định đầy kiêu căng và ngông cuồng đó, Thiên Chúa đã khiến
tiếng nói của họ trở nên lộn xộn, người này không còn hiểu được người kia. Thế
là họ đành phải ngưng việc xây tháp và ra đi mỗi người một ngả.
Hình ảnh tháp Babel mượn từ các tháp Ziggurat miền Lưỡng Hà:
tháp vuông, nhiều tầng, càng cao tầng nhỏ lại. Những tháp này xây trong khu vực
đền thờ với mục đích tôn giáo là để bắt liên lạc với thần trên cao bằng dâng lễ
vật và làm bệ để thần lên xuống với con người. Ngày nay còn có nhiều di tích về
các tháp này. Tác giả Thánh kinh mượn hình ảnh các tháp Ziggurat để cắt nghĩa tại
sao loài người lại chia rẽ và phân tán, từ đó dạy bài học tôn giáo. Babel bởi động
từ balal (làm cho lộn xộn). Tác giả dùng hình ảnh xây tháp Babel để chỉ tội cộng
đồng của con người, muốn dựa vào sức lực và tài năng của mình để chống lại
Chúa, gạt bỏ Chúa mà tự quyết định cho mình. Trong Cựu ước, Babel là kinh đô của
một đế quốc hùng mạnh tượng trưng cho sự kiêu căng.
10. Ngôn ngữ của tình yêu
Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt chia sẽ câu chuyện thật cảm động: Thỉnh thoảng tôi có dịp gặp một ông trùm xứ Long Châu. Long Châu là một giáo xứ thuộc giáo phận Nam ninh. Trước đây, chỉ có gia đình ông tin Chúa. Gia đình ông tích cực rao giảng Lời Chúa. Kết quả là sau 20 năm hầu như cả làng gần 500 khẩu đã tin theo Chúa. Cứ mỗi dịp lễ Phục Sinh và Giáng Sinh có khoảng 20 người xin rửa tội. Tôi hỏi ông nhờ bí quyết nào mà việc truyền giáo của ông có kết quả tốt đẹp như thế.
Ngẫm nghĩ một lát, ông trả lời: “Nhờ đời sống gia đình." Bên Trung quốc, đời sống gia đình trong thời đại mới đang gặp khủng hoảng. Vợ chồng bất hoà với nhau. Con cái không vâng lời cha mẹ, có khi còn hành hung cả cha mẹ. Số gia đình tan vỡ ngày càng tăng lên. Trong khi đó gia đình ông trùm vẫn trên thuận dưới hoà, vợ chồng thương yêu kính trọng nhau, con cái vâng lời cha mẹ, anh chị em thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Thấy thế, người trong làng bảo nhau: “Đây là đạo tốt vì có thể gìn giữ được hạnh phúc gia đình."
Nhờ tấm gương
sống đạo của gia đình ông trùm mà mọi người trong làng tin theo Chúa. Những anh
em ngoài Công giáo cũng nhìn vào đời sống của chúng ta. Nếu người Công giáo thật
sự sống tốt thì không cần rao giảng mọi người cũng tin. Đời sống công bình bác
ái, khiêm nhường nhịn nhục, đoàn kết yêu thương có sức thuyết phục hơn tất cả mọi
lời nói hay đẹp.
Trong đời sống gia đình cũng như trong sinh hoạt xã hội, đừng
nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ của hận thù, hiềm khích. Đừng nói với nhau bằng
ngôn ngữ của chia rẽ, nghi kị. Hãy nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ của tình yêu,
ngôn ngữ của Chúa Thánh Thần. Vì ngôn ngữ của tình yêu chính là ngôn ngữ tạo được
sự cảm thông và bất cứ ai cũng có thể hiểu được.
11. Đinh tặc
Ai đã từng đi xa lộ thì đều kinh hoàng với tệ nạn đinh tặc.
Có gia đình bà Nguyễn Thị Chí ở khu phố 3, phường Tân Chánh Hiệp,
quận 12, gia đình ấy có bảy mẹ con kể cả 3 người con dâu, chẳng ai bảo ai đã đi
chế cái máy thu đinh của bọn đinh tặc rải. Họ cứ lặng lẽ đi thu đinh ở quốc lộ
1A, 52, 22. .. Công việc của họ dưới cái nhãn giới bình thường thì chẳng là cái
gì cả nhưng nhìn vào chiều sâu, nhìn bên dưới cái hành động đấy quả là một hành
động phi thường. Một hành động mà trong đó chất chứa quá lớn cái tình người,
cái tình yêu đồng loại. Vì lẽ họ biết rằng nếu họ không dọn đinh thì những người
khách đi ngang qua đó chẳng may cán vào thì tai nạn sẽ kinh khủng như thế nào
và hậu quả khó mà lường được.
Gia đình đi nhặt đinh này không có đạo, không biết Chúa Thánh Thần
là ai nhưng Chúa Thánh Thần biết họ. Chúa Thánh Thần đã đến và Ngài ở lại trong
họ, Ngài đốt lên trong lòng họ một ngọn lửa, thắp lên trong họ một tình yêu khiến
họ quên mình để giúp anh chị em đồng loại.
12. Thần Khí đổi mới--‘Niềm
Vui Chia Sẻ’
Tại một giáo xứ ở miền Sicilia, thuộc miền Nam nước Ý, có một tập
tục khá ngộ nghĩnh và lý thú. Mỗi năm vào dịp lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống,
sau bài Tin Mừng, cha xứ ra lệnh thả ra trong nhà thờ một con chim bồ câu tượng
trưng cho Chúa Thánh Thần. Khi con chim câu nầy đậu xuống trên vai hay đầu ai
thì người ấy không được tránh né hoặc đuổi đi, nhưng phải quyết tâm thực hiện một
công tác cụ thể, to hoặc nhỏ tùy theo khả năng của mình, để chứng tỏ rằng mình
làm công việc ấy là do sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.
Lịch sử giáo xứ ấy có ghi lại một số sự kiện điển hình như sau:
- Một lần chim câu đã đậu xuống trên vai ông hiệu trưởng. Kết quả
là ông đã quyết tâm thực hiện một cuốn sách giáo khoa rất có giá trị.
- Lần khác, chim câu đáp xuống trên đầu một công tước vùng ấy,
khiến ông ta phải ra tay nghĩa hiệp, bỏ tiền xây một hệ thống dẫn nước được đặt
tên là “hệ thống dẫn nước Chúa Thánh Thần."
- Có một linh mục trẻ được chỉ định đến thay thế cho cha xứ già
đã đến tuổi hưu. Dù không tán thành nhưng cũng chưa dứt khoát bỏ đi tập tục đã
thành truyền thống kia. Vào dịp lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống đầu tiên của ngài
ở xứ mới, vị linh mục trẻ vẫn cho giữ thông lệ thả chim câu, nhưng ra lệnh mở hết
tất cả các cửa chính và cửa sổ với hy vọng là chú chim câu sẽ bay ra ngoài để
tung cánh trong bầu trời cao rộng. Trớ trêu thay, sau khi bay lượn vài vòng từ
đầu này đến đầu kia của nhà thờ, chim câu đã đáp xuống vai phải của cha xứ mới
trong tiếng vỗ tay vang dội của giáo dân. Phải hứa làm gì cụ thể bây giờ đây?
Cha xứ mới chỉ tuyên bố là ngài sẽ đầu tư mọi khả năng và thời giờ để phục vụ tốt
cộng đoàn giáo xứ. Và ngài đã giữ lời hứa.
13. Ấn tòa giải tội
Một điều luôn gắn liền với Bí tích Giải tội là "ấn
tòa" mà tất cả mọi linh mục phải tuân giữ. Không một điều gì nghe trong
toà mà cha giải tội lại được phép nói ra cho người thứ ba, dù tính mạng của
mình bị đe dọa hay an ninh quốc gia được bảo toàn.
Lịch sử Giáo hội ghi nhận biết bao hình ảnh hào hùng của những
con người dám lấy máu đào bảo vệ đức tin, trong đó cũng có hình ảnh của những
linh mục dám lấy mạng sống bảo vệ "ấn tòa giải tội."
Cha Gioan Nepomucene là mẫu gương tiêu biểu trong thế kỷ 14.
Ngài là cha giải tội của Hoàng hậu Jane, nước Bohemia. Vua Wenceslaus là người
đa nghi và ghen tuông. Vì muốn biết Hoàng hậu đã làm điều chi thầm lén nên vua
yêu cầu cha Gioan thuật lại những gì nàng xưng ra với Ngài.
Tưởng rằng quyền lực và uy thế của mình có thể khui được ít nhiều
bí mật nơi miệng cha Gioan, nhưng vua đã lầm. Vị linh mục của Chúa nhất quyết
không hé lộ bất cứ điều gì. Kết quả, ngài bị nhốt vào hầm tối, và một đêm kia,
bị nhận nước cho đến chết.
Ba trăm năm sau, khi khai quật lăng mộ cha Gioan, những người hữu
trách ngỡ ngàng chứng kiến thân thể ngài mục hoàn toàn, ngoại trừ chiếc lưỡi vẫn
nguyên vẹn như lúc còn sống. Ngày nay, trên chỗ ngài bị giết người ta dựng lên
một tượng đài, phía dưới chân có khắc dòng chữ: "Nơi đây vị chứng nhân của
Ấn toà Giải tội đã nằm xuống."
14. Bình an giữa chốn
phong ba--‘Như Thầy Đã Yêu”--Thiên Phúc
Báo Tuổi Trẻ Chúa nhật số ra ngày 29-4-2001 có đăng bài “sự bình
an” như sau: Một vị vua treo giải thưởng cho nghệ sĩ nào vẽ được một bức tranh
đẹp nhất về sự bình an. Nhiều họa sĩ đã cố công. Nhà vua ngắm tất cả các bức
tranh nhưng chỉ thích có hai bức và ông phải chọn lấy một.
Một bức tranh vẽ hồ nước yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ vì
có những ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những
đám mây trắng mịn màng. Tất cả những ai ngắm bức tranh này đều cho rằng đây là
một bức tranh bình an thật hoàn hảo.
Bức tranh kia cũng có những ngọn núi nhưng những ngọn núi này trần
trụi và lởm chởm đá. Ở bên trên là bầu trời giận dữ đổ mưa như trút kèm theo sấm
chớp. Đổ xuống bên vách núi là dòng thác nổi bọt trắng xóa. Bức tranh này trông
thật chẳng bình an chút nào.
Nhưng khi nhà vua ngắm nhìn, ông thấy đằng sau dòng thác là một
bụi cây nhỏ mọc lên từ khe nứt của một tảng đá. Trong bụi cây một con chim mẹ
đang xây tổ. Ở đó, giữa dòng thác trút xuống một cách giận dữ, con chim mẹ đang
an nhiên đậu trên tổ của mình. Bình an thật sự.
Nhà vua công bố: “Ta chấm bức tranh này! Sự bình an không có
nghĩa là một nơi không có tiếng ồn ào, không khó khăn, không cự nhọc. Bình an
có nghĩa ngay chính khi đang ở trong phong ba bão táp ta vẫn cảm thấy sự yên tĩnh
trong trái tim. Đó mới chính là ý nghĩa thật sự của bình an.
15. Chứng tá cho tình yêu
Sống chứng tá cho Tin Mừng là sống bác ái yêu thương; sống bao
dung tha thứ; sống quảng đại hi sinh….
Có câu chuyện kể rằng: hai người Ailen là hàng xóm với nhau, nhưng
cãi nhau suốt. Một người bị bệnh nặng. Bà vợ đón linh mục và nói: “Thưa cha,
anh Pat và Mike cãi nhau luôn. Giờ anh gần chết. Cha có cách nào giúp họ làm
hòa với nhau không?”
Sau nhiều lần thuyết phục, Pat đồng ý cho gọi Mike đến làm hòa.
Và sau ít phút chờ đợi bên giường, Mike nói:
- “Thôi mình huề nghe Pat. Chuyện gì đã qua cho qua đi
nhé."
Pat miễn cưỡng đồng ý. Mike ra về. Nhưng khi Mike ra đến cửa,
Pat nhỏm dậy, giơ nắm đấm nói:
- “Tao chỉ huề, nếu như tao chết thôi à nghe!”
Mừng Lễ Chúa Thánh Thần, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta vai trò quan
trọng của Chúa Thánh Thần trong đời sống đạo của mình. Vậy chúng ta hãy xin
Chúa Thánh Thần đến biến đổi trái tim chúng ta để luôn biết yêu thương, và hãy
cùng cộng tác với Chúa Thánh Thần để đổi mới cuộc sống của mình, nhờ đó cuộc đời
chúng ta trở thành chứng nhân cho tình yêu Thiên Chúa. Amen.
16. Ngôn ngữ tình yêu.
Tôi xin bắt đầu phần chia sẻ sáng hôm nay bằng câu chuyện về ngọn
tháp Babel trong Cựu ước.
Bấy giờ thiên hạ chỉ nói một thứ tiếng, sau khi định cư tại đồng
bằng Senna, họ bàn luận với nhau:
- Ta hãy nung gạch và xây một ngọn tháp chọc trời, trước khi
phân tán tới mọi miền trên mặt đất.
Trước ý định đầy kiêu căng và ngông cuồng này, Thiên Chúa đã khiến
tiếng nói của họ trở nên lộn xộn, người này không còn hiểu được người kia. Thế
là họ đành phải ngưng việc xây tháp và ra đi mỗi người một ngả.
Đây chỉ là một hình ảnh tượng trưng nói lên tính kiêu căng và
tình trạng chia rẽ của con người.
Thế nhưng, nhìn vào ngày lễ hôm nay, chúng ta thấy khác hẳn. Thực
vậy, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, một tình trạng mới đã được nảy sinh.
Sách Tông đồ Công vụ kể lại:
Bấy giờ các môn đệ đang tụ họp ở một nơi, bỗng dưng có tiếng từ
trời đến, ào ào như gió thổi, ùa vào nhà nơi các ông đang hội. Lại thấy có hình
lưỡi lửa tản ra và đỗ trên từng người. Tất cả đều được đầy tràn Chúa Thánh Thần
và bắt đầu nói được nhiều thứ tiếng khác nhau.
Trong thời gian lễ Ngũ tuần, có nhiều người Do thái từ khắp các
nơi trở về Giêrusalem. Nghe tiếng ồn, họ liền tuốn đến. Và ai nấy đều bỡ ngỡ vì
mỗi người đều nghe các tông đồ nói tiếng của mình.
Họ ngạc nhên và bàn tán cùng nhau:
- Phải chăng chúng ta đều nghe họ dùng tiếng thổ âm của mình mà
nói đến những sự cao trọng của Thiên Chúa.
Đây chính là một cuộc tụ họp đông đảo kể từ thời ngọn tháp
Babel, trong đó mọi người đều hiểu được nhau và cảm thông với nhau. Sở dĩ như vậy
là do tác động của Chúa Thánh Thần.
Qua hình ảnh lưỡi lửa và ơn nói nhiều thứ tiếng nơi các tông đồ,
tôi nhận thấy ngôn ngữ Chúa Thánh Thần đã dùng để liên kết và tạo lấy sự cảm
thông chính là thứ ngôn ngữ của tình yêu.
17. Mục đích cuộc sống của
người là gì? Ý nghĩa cuộc sống của người là gì?
Có một nhà hiền triết nọ cũng đã suy tư như thế. Hôm đó, ông đi
lang thang trong rừng, miệng không ngừng lặp lại câu hỏi: Đâu là ý nghĩa của cuộc
sống? Bỗng một con họa mi bay đến và nói: Ý nghĩa cuộc sống ư? Chỉ là tiếng hót
véo von. Rồi nó bay đi nhưng vẫn còn vương lại những âm thanh dễ mến. Nghe vậy,
chú chuột chù phản đối: Đời là một cuộc chiến đấu không ngừng với bóng tối.
Thế nhưng chị bướm lại lắc đầu không chịu: Cuộc sống chỉ là hưởng
thụ và vui thú. Bấy giờ bác ong mật phát biểu: Cuộc sống không chỉ là vui thú,
mà còn là lao động, lao động nhiều hơn vui chơi. Cô phượng hoàng thì vỗ cánh và
nói: Chẳng ai có lý hết, đời sống chính là tự do, được tung bay trên khắp khoảng
trời xanh. Cụ tùng bách thì lắc đầu và bảo: Đời sống là một cố gắng để vươn
cao. Nhưng cô hồng nhung lại quả quyết: Cuộc đời chỉ là những tháng ngày trau
chuốt cho vẻ đẹp được thêm duyên dáng. Còn chàng mây lang thang lại thở dài: Đời
sống chỉ là những lần chia ly, khổ đau, cay đắng và nước mắt. Còn bà sóng thần
thì bảo: Đời là một sự đổi thay không ngừng.
Nhà hiền triết hốt hoảng và chạy trốn khỏi khu rừng để không còn
nghe tiếng nói của muôn loài trước một vấn nạn chưa được giải quyết.
Còn chúng ta thì sao? Rất có thể chúng ta cũng đã băn khoăn như
nhà hiền triết, để rồi cảm thấy như bế tắc, không tìm ra đáp số cho bài toán.
Thế nhưng với biến cố Hiện xuống, các môn đệ đã nhìn rõ vấn đề,
đã thấu suốt được những chân lý mà Chúa Giêsu đã truyền dạy. Với ơn Chúa Thánh
Thần chúng ta cũng sẽ nếm thử được niềm an bình và nỗi mừng vui, bởi vì chúng
ta xác tín rằng: quê hương chúng ta không phải ở mặt đất này, nhưng là ở chốn
trời cao.
LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG – LỄ TRONG NGÀY
Lời Chúa: Ga 20, 19-23
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Gioan.
Vào buổi chiều ngày thứ
nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người
Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho
các con!" Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy
giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa.
Chúa Giêsu lại phán bảo
các ông rằng: "Bình an cho các con! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các
con.”
Nói thế rồi, Người thổi
hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội
cho ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm
lại.”
TRUYỆN KỂ
1. Người thổi hơi vào các
ông
Những vết chân trên cát
cho ta biết có người đã đi qua. Nhìn hàng cây xa lay động, ta biết có gió. Đức
Giêsu đã ví Thánh Thần như cơn gió:
"Gió muốn thổi đâu
thì thổi... Chẳng ai biết gió từ đâu đến và sẽ đi đâu" (Ga 3,8).
Chúng ta chỉ thấy những dấu
vết hoạt động của Thánh Thần, nhưng không thấy được chính Ngài, cũng không nắm
được đường đi nước bước của Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay đã
mô tả Thánh Thần như hơi thở của Chúa Phục Sinh. Hơi thở là dấu hiệu của Sự Sống.
Thiên Chúa đã thở hơi vào Ađam và cho ông sống. Đức Giêsu Phục Sinh đã thở hơi
trên các môn đệ, để họ nhận một sự sống mới hoàn toàn.
Đời sống Kitô hữu là đời
sống trong Thánh Thần.
2. Xin đổi mới
Nhà biên kịch Henri Ghéron, cũng là một người tội lỗi trong thế chiến thứ hai, đã kể lại lúc xưng tội của ông như sau: “Hai tay tôi ôm đầu, miệng bập bẹ run run, tôi đổ dòng tội tuôn ra như thác… Tôi cảm thấy một thứ cặn đắng, từng ngụm, từng ngụm trào ra khỏi các thớ thịt con tim tôi với tất cả khối nặng đó, với tất cả chất độc đó đã đè nén tôi suốt hai mươi năm nay. Tôi cố cựa quậy đổ dốc nó ra cho Linh mục giải tội. Và Thiên Chúa đã nghe lời tôi: “Hãy về bình an, Thánh Thần đã ngự trong con!” Tôi trẻ lại hai mươi tuổi; hai mươi năm tội lỗi. Một niềm vui sướng mới lạ tràn ngập tâm hồn tôi: Tôi chạy, tôi nhảy, tôi bay, tôi không còn cảm thấy xác thịt nặng nề của tôi nữa.”
Bởi đâu người xưng tội này được chan chứa niềm vui như vậy?
Thưa, bởi Đức Giêsu đã
ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ để tha tội cho ai xưng tội, như Người nói:
“Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần anh em tha tội cho ai, thì tội người ấy được
tha.” Lần khác, trong một đêm gió mát trăng thanh, ông Nicôđêmô, một thủ lãnh Do
Thái, đến gặp Đức Giêsu. Người cũng tỏ cho ông biết thế này: “Thật, tôi bảo thật
ông: Không có ai có thể vào nước Thiên Chúa nếu không sinh bởi nước và Thánh Thần.
Cái gì bởi xác thịt mà sinh ra, thì là xác thịt; cái gì mà bởi Thánh Thần mà
sinh ra, thì là linh thánh” (Ga. 3, 5-6).
Xác thịt sinh ra những
cái gì? Thánh Phaolô cho giáo đoàn Galata biết: “Những việc do xác thịt gây ra
thì ai cũng rõ: Đó là dâm bôn, ô uế, phóng đãng, phù phép, thờ quấy, hận thù, bất
hoà, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tị, say sưa, chè
chén và những điều khác giống như vậy” (Galata 5, 19-21) Đó là những thứ làm
cho con người ra ô uế, hư hỏng, hư thối.
Thánh Thần sinh ra những
gì? Là “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền
hòa, tiết độ” (Galata 5, 22-23) Đó là những hoa quả của Thần khí làm cho con
người sống tươi mới, xinh đẹp, thanh khiết thánh thiện.
3. Các nữ tu tại Vendée.
Các chị dòng tại tu viện
Vendée nước Pháp không quên rằng Chúa Thánh Thần là quan trọng. Trong thời kỳ
cách mạng Pháp, nhiều linh mục và nữ tu bị giết. Toàn thể các chị ở tu viện
Vendée bị kết án lên máy chém. Chị nào cũng hiểu lên máy chém ghê sợ chừng nào,
nhưng không một chị nào tỏ ra sợ sệt chút gì hết. Trái lại, đứng sát bên nhau,
các chị cất tiếng hát bài thực du dương. Đứng trước cái chết, các chị vẫn ca
hát, và bài hát các chị hát là bài thánh ca “Xin Chúa Thánh Thần ngự đến”
(Diamond, Đồng cỏ non, tr 93).
4. Đổi mới trái tim
Trong giáo xứ tôi có cụ
già tên là Thomas ngoài trăm tuổi. Cụ thường sống cô đơn vì các bạn cùng tuổi với
cụ đã ra đi. Một hôm cụ lâm bệnh và qua đời. Tôi tự nhủ:
- Chắc không có ai đến dự
đám tang của cụ. Vì thế tôi nhất định đến tiễn cụ đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Hôm ấy lại là ngày xấu trời,
mưa tầm tả. Theo sau xe tang không có một bóng người, đường xá vắng tanh. Khi
xe chạy tới cổng nghĩa trang, tôi thấy có một người đàn ông trong y phục quân đội
đứng đợi. Ông đi theo xe tang đến huyệt và có mặt trong suốt thời gian an táng.
Trước khi hạ huyệt ông đưa tay ngang trán, nghiêm chỉnh chào cụ Thomas như một
vị vua.
Chôn cất xong, tôi đi
theo ông ra cổng nghĩa trang. Một cơn gió mạnh bay tốc áo mưa, để hộ ra mấy cái
huy chương trên áo ông. Thì ra ông không chỉ là một binh lính thường mà còn là
một sĩ quan cao cấp. Như đọc được sự tò mò của tôi, ông nói:
- Có lẽ ông ngạc nhiên vì
sự có mặt của tôi hôm nay trước linh cửu của cụ Thomas. Trước đây cụ là thầy dạy
của tôi. Lúc đó tôi là một đứa trẻ tinh nghịch làm khổ cụ rất nhiều. Tôi được
như ngày hôm nay là nhờ ơn của cụ. Vì thế hôm nay tôi đến tạ ơn và chào vĩnh biệt
cụ, với tất cả tấm lòng trìu mến tri ân của tôi đối với cụ
5. Lạy Chúa Thánh Thần,
xin hãy ngự đến!
Trong kho tàng văn chương
Ấn giáo có ghi lại câu chuyện như sau: Có một đệ tử đến thưa với vị linh đạo của
mình: "Thưa thầy, con muốn gặp Chúa.” Vị linh đạo chỉ đáp trả bằng một cái
mỉm cười thinh lặng.
Ngày hôm sau, người môn
sinh trở lại và bày tỏ cũng một ước muốn. Vị linh đạo vẫn mỉm cười tiếp tục giữ
sự im lặng cố hữu của ông.
Một ngày đẹp trời nọ, ông
đưa người thanh niên đến một dòng sông. Thầy trò cùng trầm mình xuống nước. Chờ
cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng nước mát, bất thần, vị
linh đạo túm lấy anh và dìm xuống nước hồi lâu. Người thanh niên cố gắng vùng vẫy
đế trồi lên mặt nước. Lúc bấy giờ vị linh đạo mới hỏi anh: "Khi bị dìm xuống
nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?” Không một chút suy nghĩ, người đệ
tử đáp: "Thưa thầy, con cần có không khí để thở".”
Lúc bấy giờ vị linh đạo mới
dẫn giải: "Con cảm thấy cần gặp Chúa như con cần khí thở không? Nếu con cảm
thấy cần như thế, con sẽ gặp được Ngài tức khắc. Ngược lại, nếu con không hề cảm
thấy cần như thế thì cho dù con có vận dụng tất cả tài trí và cố gắng, con cũng
sẽ không bao giờ gặp được Ngài.”
6. Ngọn lửa Thánh Linh
soi chiếu--Lm Ignatiô Trần Ngà
Vào năm 1976, ngay xóm
tôi ở có em gái nghèo chừng mười lăm tuổi đi giúp việc nhà cho một gia đình
giàu có. Gia đình nầy vừa mới tậu một bức tranh thêu rất đẹp nên bức hoành phi
sơn son thếp vàng cũ kỹ có mấy chữ mạ vàng khá lớn, lâu nay được treo ở gian giữa
ngôi nhà, giờ đây bị tháo xuống để nhường chỗ cho bức tranh thêu quý giá. Trong
thâm tâm bà chủ nghĩ rằng bức hoành phi nầy có chữ mạ bằng thứ giấy vàng rẻ tiền
nên giá trị chẳng là bao.
Bà chủ giao bức hoành cho
cô gái giúp việc đem về nhà tuỳ nghi sử dụng. Cô gái đem về cho em chơi. Chơi
chán rồi chúng xé vụn phần bằng giấy ra, xé luôn cả những chữ vàng, xả rác đầy
nhà, khiến người mẹ phải mất công quét dọn và đổ ra hố rác.
Khi đốt rác vào lúc trời
tối, bọn trẻ phát hiện những dòng chữ vàng trên bức hoành phi không bị thiêu rụi
mà lại sáng ngời lên trong lửa và kết tụ lại thành những vụn nhỏ ngời sáng ánh
vàng. Hoá ra những dòng chữ trên bức hoành là thứ chữ mạ bằng vàng thật chứ
không phải là giấy mạ vàng!
Thế là người nhà hăm hở
xăm xoi đào bới, sàng sảy đống tro tàn để tìm kiếm và cuối cùng thu lại được
năm sáu chỉ vàng!
Cả gia đình vui mừng quá
đỗi, vì vào thời đó, kiếm được chừng ấy vàng chẳng khác gì trúng lô độc đắc.
Như thế, nếu không nhờ ngọn
lửa, những chữ vàng quý giá kia đã bị xé vụn, quẳng vào đống rác và hoá thành bụi
tro. Nhưng may sao nhờ lửa cháy lên, người ta mới nhận ra những dòng chữ bằng
vàng rất quý báu!
Hôm nay mỗi người chúng
ta cũng được Chúa Giêsu trao tận tay một cuốn sách đáng giá ngàn vàng. Đó là một
kho báu không hề vơi cạn, chứa đựng những điều khôn ngoan ngàn đời của Thiên
Chúa được Chúa Giêsu từ trời mang xuống ban tặng cho thế gian, một cuốn sách chứa
đựng những bí quyết đem lại bình an hạnh phúc cho muôn người, một kiệt tác được
kết tinh bằng tình yêu, bằng trí tuệ, bằng tim óc của Chúa Giêsu và được hình
thành trong suốt 33 năm dương thế của Ngài.
Nhưng tiếc thay, khi nhận
được Tin Mừng trên tay, chúng ta xem đó là thứ quà rẻ mạt, như một cuốn sách tầm
thường, như một mớ chữ không hồn. Thế nên số phận cuốn Tin Mừng cứu độ của Chúa
Giêsu cũng hẩm hiu không kém!
Sở dĩ Kho Tàng Tin Mừng của
Chúa Giêsu không được xem là quan trọng và quý giá vì những dòng chữ nầy chưa
được ngọn lửa của Chúa Thánh Linh soi chiếu.
7. Hãy đáp lại tình yêu
Một ngày kia Napoleon
Bonaparte, với đầy uy quyền, nói với một Đức hồng y rằng: Tôi có thể tiêu diệt
Giáo hội nếu như các ngài không theo mệnh lệnh của tôi. Vị hồng y khiêm tốn trả
lời: Xin chúc mừng ngài, ngài thật uy quyền! Chính chúng tôi, nhiều linh mục của
Giáo hội đã cố gắng thực hiện điều đó qua nhiều thế kỷ. Thật đáng tiếc, họ đã
thất bại. Giáo hội vẫn tồn tại đầy sức sống. Nhưng Napoleon Bonaparte đã thất bại,
bị khổ sai, và chết trong sự nhục nhã! Chúa Thánh Thần có thể biến đổi mọi sự
nên tốt đẹp, kể cả tội lỗi của chúng ta.
Mừng lễ Chúa Thánh Thần
hiện xuống, tôi có vài câu hỏi muốn được đặt ra cho chúng ta. Đã bao nhiêu lễ
hiện xuống tôi đã tham dự? Chúa Thánh Thần đã thực hiện những gì trong cuộc đời
tôi? Làm sao để lễ Hiện xuống năm nay có những thay đổi thực sự trong cuộc đời
tôi?
Chúng ta đã chìm sâu
trong lời cầu nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần từ lễ Chúa lên trời. Tôi nghĩ rằng
Thiên Chúa không ngừng tuôn đổ ơn Chúa Thánh Thần trên chúng ta. Câu trả lời rất
có thể không phải là Chúa Thánh Thần ở một nơi nào đó và Ngài không hoạt động.
Ngài luôn hiện diện và thực thi công việc của Ngài trong thế giới này. Vấn đề
là ở chính chúng ta! Liệu tôi có nghe tiếng Ngài? Tôi có tìm kiếm Ngài không?
Tôi có đón tiếp Ngài không? Tôi có sẵn sàng để Ngài thực hiện công việc thánh
hóa của Ngài qua tôi không? Chúa Thánh Thần sẽ không thể thực hiện điều gì, nếu
như chúng ta từ chối Ngài! Câu trả lời sẽ là của mỗi người chúng ta.
8. Giáo hội là công trình
của Chúa Thánh Thần
Ngày 28
tháng 10 năm 1958, Đức hồng y Angelo Giuseppe Rollcali lên ngôi giáo hoàng lấy
tước hiệu Gioan 23. Một ông lão không tiếng tăm lên lãnh đạo Giáo hội, nhiều
người nghĩ rằng sẽ chẳng có gì mới với một ông lão gần đất xa trời. Thế nhưng,
ông lão này đã làm nên một kỳ diệu được coi là lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống lần
thứ hai khi Ngài triệu tập công đồng Vaticano II để canh tân Giáo Hội. Thiên
Chúa vẫn tiếp tục làm những việc kỳ diệu cho dân Người. Chúng ta hãy hân hoan
bước đi trong niềm tín thác vào Chúa. Và với lòng cậy trông chúng ta cùng thưa
lên cùng Chúa Thánh Thần: "Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến thánh hoá
chúng con trong chân lý và tình thương.” Amen.
9. Nước trong niềm tin
các tôn giáo
Trong niềm tin các tôn
giáo, nước là điều thánh thiêng cùng quan trọng.
Theo niềm tin Hồi giáo,
nước là dấu hiệu khởi nguyên của sự sống, và là mối dây tương quan nối liền với
Thần Thánh.
Theo Phật giáo, nước quan
trọng. Vì nước là một trong bốn yếu tố trong vũ trụ. Dòng nước chảy trong sông
là hình ảnh giáo lý Phật giáo, con đường chiêm niệm đời sống con người cho tới
khi đạt được cứu độ nơi Niết Bàn.
Theo Ấn Độ giáo, nước là
sức mạnh tẩy rửa thân thể cùng tinh thần con người.
Theo Kyto giáo, nước là
khởi nguyên của mọi sự sống. Trong bài tường thuật về sáng tạo vũ trụ, Thần
Linh Thiên Chúa bay là là trên nước, và Thiên Chúa sáng tạo trước tiên vũ trụ
trái đất từ nước. Từ đó phát sinh nẩy nở sức sống mọi loài trong vũ trụ.
10. Khai sinh Giáo Hội
truyền giáo
Giải Nobel Hòa bình năm
2000 đã được trao cho Tổng Thống Hàn Quốc Kim Dae-Jung, một con người đã từ 30
năm nay đấu tranh không mệt mỏi cho công bằng, dân chủ và hòa hợp.
Tổng Thống Kim là một người
Công giáo, được Đức cố TGM Seoul rửa tội vào năm 1956. Trong một đất nước chỉ
có 10% dân số là Công giáo thì sự kiện này cũng đang nhắc nhở về sự dấn thân của
Giáo Hội Công Giáo tại lục địa Á Châu này.
Phần thưởng này đã được các
vị lả đạo và chức sắc tôn giáo ở Hàn Quốc hân hoan chúc mừng. Một vị Hòa thượng
lãnh đạo một Tông phái Phật giáo lớn nhất ở Hàn Quốc nhận định như sau: “Tổng
thống Kim Dae-Jung sẽ được ghi nhớ như một vị lãnh đạo nổi bật của thế giới.”
Lễ Hiện xuống là lễ khai
sinh một Giáo hội truyền giáo. Và nỗ lực đấu tranh cho công bằng, dân chủ và
hòa bình với danh nghĩa là người Công giáo như Tổng thống Kim Dae-Jung chính là
một công cuộc truyền giáo.
“Như Cha đã sai Thầy, thì
Thầy cũng sai anh em.” Rồi Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận
lấy Thánh Thần” (Ga 20, 21-22). Các Tông đồ đã nhận lãnh Thánh Thần để ra đi
truyền giáo. Chính Thánh Thần đã làm cho các ngài hoàn toàn đổi mới.
11. Thần Khí đổi mới
Tại một giáo xứ ở miền
Sicilia, thuộc miền Nam nước Ý, có một tập tục khá ngộ nghĩnh và lý thú. Mỗi
năm vào dịp lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, sau bài Tin Mừng, cha xứ ra lệnh thả
ra trong nhà thờ một con chim bồ câu tượng trưng cho Chúa Thánh Thần. Khi con
chim câu nầy đậu xuống trên vai hay đầu ai thì người ấy không được tránh né hoặc
đuổi đi, nhưng phải quyết tâm thực hiện một công tác cụ thể, to hoặc nhỏ tùy
theo khả năng của mình, để chứng tỏ rằng mình làm công việc ấy là do sự thúc đẩy
của Chúa Thánh Thần.
Lịch sử giáo xứ ấy có ghi
lại một số sự kiện điển hình như sau:
- Một lần chim câu đã đậu
xuống trên vai ông hiệu trưởng. Kết quả là ông đã quyết tâm thực hiện một cuốn
sách giáo khoa rất có giá trị.
- Lần khác, chim câu đáp
xuống trên đầu một công tước vùng ấy, khiến ông ta phải ra tay nghĩa hiệp, bỏ
tiền xây một hệ thống dẫn nước được đặt tên là “hệ thống dẫn nước Chúa Thánh Thần.”
- Có một linh mục trẻ được
chỉ định đến thay thế cho cha xứ già đã đến tuổi hưu. Dù không tán thành nhưng
cũng chưa dứt khoát bỏ đi tập tục đã thành truyền thống kia. Vào dịp lễ Chúa
Thánh Thần hiện xuống đầu tiên của ngài ở xứ mới, vị linh mục trẻ vẫn cho giữ
thông lệ thả chim câu, nhưng ra lệnh mở hết tất cả các cửa chính và cửa sổ với
hy vọng là chú chim câu sẽ bay ra ngoài để tung cánh trong bầu trời cao rộng.
Trớ trêu thay, sau khi bay lượn vài vòng từ đầu này đến đầu kia của nhà thờ,
chim câu đã đáp xuống vai phải của cha xứ mới trong tiếng vỗ tay vang dội của
giáo dân. Phải hứa làm gì cụ thể bây giờ đây? Cha xứ mới chỉ tuyên bố là ngài sẽ
đầu tư mọi khả năng và thời giờ để phục vụ tốt cộng đoàn giáo xứ. Và ngài đã giữ
lời hứa.
12. Mở cửa ra
Người ta nhìn nhận Công đồng
Vatican II như là một cuộc Hiện xuống lần thứ hai cho Hội Thánh Chúa. Khi được
hỏi Công Đồng là gì? Đức cố Giáo Hoàng Gioan XXIII đã mở cách cửa sổ căn phòng
của Ngài và nói: Công Đồng là thế đó. Mở cửa để đón nhận hồng ân Thánh Thần.
Hãy mở cửa ra! Một đòi hỏi dường như mang tính tất yếu để có thể đón nhận hồn
ân Thánh Thần.
Mở cửa ra để tha nhân, để
thế giới nhận rõ, biết rõ con người ta, tập thể ta, Hội thánh ta. Mở cửa ra là
một thái độ thẳng thắn chân thành trong sự khiêm hạ. Người có thể thấy được những
mặt tốt và cả những mặt xấu xa tồi tệ của mình. Người ta có thể biết được sự
thánh thiện và cả tôi lỗi của ta. Mở cửa ra là một động thái can đảm sống trong
sự thật. Dù rằng không một ai có thể che dấu Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn
tâm can, nhưng chúng ta lại có thể che mắt thiên hạ những gì chúng ta muốn che
dấu bằng cách này bằng cách khác, với lý do này với lý do khác, có khi là rất hữu
lý và hợp tình theo nghĩ suy nhân trần. Thế nhưng, đã không can đảm sống trong
sự thật thì e rằng khó mà nhận được Đấng là Thần Chân Lý.
Ngày nay, Giáo Hội vẫn chỉ
có một sức mạnh đặc biệt, đó là quyền năng Chúa Thánh Thần. Với quyền năng này
Giáo Hội không bao giờ chịu đóng chặt cửa để an hưởng hay cố thủ. Nhưng luôn ra
khỏi tháp ngà để rao truyền Tin Mừng, dấn thân vào cuộc sống muôn mặt của thời
đại, đồng hành và thích ứng với nhân loại trong thế giới ngày nay.
Công Đồng Vatican II là một
Lễ Hiện Xuống Mới của Giáo Hội. Chúa Thánh Thần vẫn luôn thổi sinh khí mới và
ban cho Giáo Hội những ân huệ lớn lao. Mẹ Têrêxa Calcutta, Cha Thánh Piô, Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI là những gương mặt vĩ đại
đã và đang làm bừng lên sức sống tình thương, hoà bình của Chúa Thánh Thần
trong thế giới sục sôi vì chiến tranh và hận thù này.
13. Lễ Hiện Xuống mới
Năm Thánh 2000, Đức Hồng
Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận giảng tuần tĩnh tâm cho Giáo Triều Rôma,
trong bài giảng "Hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần", ngài kể về tác động của
Chúa Thánh Thần như một ân ban chuyển thông ánh sáng và niềm tin cho anh chị em
người Hmong.
"Chúa Thánh Thần sống
và hoạt động trong trái tim những kẻ nghèo nàn và khiêm hạ, trong tâm hồn đạo đức
bình dân, trong tình liên đới, trong đau khổ. Ngài ở đó như trạng sư và thông dịch
các ứớc muốn và lời cầu xin của chúng ta.
Tôi còn nhớ câu chuyện
này.
Một ngày nọ, một cha sở
miền Bắc Việt Nam thấy có một nhóm người dân tộc thiểu số Hmong muốn đến gặp
ngài. Cha hỏi họ:
- Anh chị em từ đâu đến?
- Chúng con từ Lai Châu,
(nơi quân đội Pháp đã thua trận Điện Biên Phủ năm 1954). Chúng con đã vượt núi
rừng đi bộ suốt 6 ngày nay.
- Lạy Chúa tôi! Để làm gì
vậy?
- Chúng con muốn được rửa
tội ngay bây giờ.
- Không thể được! Không
có một linh mục hay giáo lý viên nào cả trong vùng của anh chị em, anh chị em
không biết gì về đạo hay kinh nguyện, thì làm sao chịu phép Rửa tội được.
- Chúng con đã học tất cả
từ một đài phát thanh phát đi từ Phi luật tân.
- Mà đài phát thanh nào? Đâu
có đài phát thanh Công giáo nào có chương trình bằng thổ ngữ của anh chị em
đâu!"
- Đó là đài phát thanh
"Chân Lý.”
- Một đài phát thanh GH
công Giáo, và bây giờ anh chị em lặn lội đến đây để xin trở thành Công giáo. Thật
là điều lạ!
- Vị linh mục thật cảm
kích bỗng thốt lên: Đây là một lễ Hiện Xuống mới. Đây chính là tác động của
Chúa Thánh Thần! Chúa Thánh Thần!
Rồi cha lại hỏi nhóm người
Hmong: Anh chị em có thể ở lại đây lâu hơn không?
- Thưa cha, không thể được.
Chúng con chỉ đem theo 14 ngày cơm: 12 ngày đi đường và 2 ngày học hỏi và đọc
kinh cầu nguyện.
Cả nhóm đã được rửa tội
và chịu phép Thêm sức, rồi được dự Thánh lễ đầu tiên trong đời và được rước
Mình Thánh Chúa.
- Anh chị em sẽ không có
Thánh Lễ nào nữa, anh chị em không có nhà thờ. Anh chị em sẽ làm thế nào?
- Ban chiều tối, chúng
con tụ họp nhau từng hai ba gia đình để nghe đài phát thanh và cầu nguyện chung
và cùng nhau học hỏi về đạo. Ngày Chúa Nhật chúng con ra ruộng cày cấy, nhưng
đúng 9 giờ 30, chúng con ngưng làm việc, thả trâu tự do ăn cỏ và chúng con dự
Thánh Lễ qua đài phát thanh Chân Lý phát từ Manila. Một Lễ Hiện Xuống mới của
thế kỷ XX." (Chứng Nhân Hy Vọng, trang 235-237).
14. In God we trust
Khi tổng thống Washington
lên cầm quyền, vào thời điểm nước Mỹ mới được thành lập, ông và 55 nhà ái quốc
đã nhóm họp tại Philadelphia để soạn thảo bản hiến pháp đầu tiên cho quốc gia
này. Sau bốn tuần làm việc cật lực, họ vẫn không đạt được kết qủa nào vì có qúa
nhiều ý kiến bất đồng, thậm chí đối kháng lẫn nhau. Mọi người toan tính bỏ cuộc.
Một nghị viên tên là
Benjamin Franklin đứng lên phát biểu: “Thưa Ngài Tổng thống và thưa toàn thể hội
nghị, sức lực và trí tuệ của con người rất giới hạn và mong manh, cụ thể sau một
tháng làm việc chúng ta vẫn chưa gặt hái được thành quả nào vì đầu óc chúng ta
quá tăm tối. Vậy tôi đề nghị, chúng ta phải xin ơn trên soi sáng để có thể tiếp
tục công việc.” Ý kiến trên được mọi người chấp nhận. Từ ngày hôm ấy trước mỗi
phiên họp, các nghị viên đều đứng lên cung kính cầu nguyện để xin Chúa Thánh Thần
soi dẫn.
Chẳng bao lâu sau, nước Mỹ
đã có được một bản hiến pháp lịch sử mà các sử gia vẫn xem đó là công trình vĩ
đại nhất của nứớc Mỹ, được hoàn thành bởi ơn trên cùng với sự cộng tác của con
người. Bản hiến pháp ấy đã trở thành quy chuẩn để nhiều quốc gia khác trên thế
giới soi chiếu và noi theo. Người ta cho in hàng chữ ‘Chúng tôi tín thác vào
Thiên Chúa’ (In God we trust) trên tờ Đôla Mỹ để ghi nhớ biến cố này. Qủa thật,
nếu không mở lòng cho Thánh Thần tác động, chúng ta sẽ không làm được bất cứ
công việc gì.
15. Chúng tôi phải làm gì?
Một thiếu nữ mới từ thành
phố Paris của nước Pháp trở về. Cả thân xác và tinh thần của Ma-đa-len đã bị
hao mòn tột độ. Cha mẹ cô lấy làm ghê sợ trước những lời nói phạm thượng và thô
tục thường xuyên phát ra từ miệng lưỡi của đứa con hư hỏng.
Một người thuộc làng bên
cạnh chỉ quen biết với gia đình Ma-đa-len sơ qua mà thôi, đó là chị Mônica.
Mônica cảm thấy không thể dửng dưng trước hiện tượng nói trên. Một hôm, Mônica
đến gần căn nhà bi thảm ấy, thì nghe thấy Mađalen đang gào théo một bản nhạc
thô tục và chán đời với những điệp khúc gợi cảm nhớp nhúa và khiêu khích. Chị
Mônica tự nhiên muốn rút lui nhưng bất ngờ nghe thấy chính tiếng của người mẹ của
Mađalen gào thét:
Mày là đồ gái điếm trơ trẽn
- Mày là đồ gái điếm trơ
trẽn... có im cái mồm mày đi không?
Mađalen càng giận dữ hét
lên:
Bà đừng la lối làm chi mất
công! Tôi sẽ tự tử ngay bây giờ đây. Như thế cho tiện. Chẳng phiền hà gì đến
ai, cả bà lẫn tôi.
Chị Mônica đứng sững sờ.
Nghe những tiếng la hét loại đó, chị không thể không rợn tóc gáy. Chị cảm thấy
có bổn phận phải can thiệp. Trước khi gõ cửa, chị hắng giọng để báo trước. Rồi
chị bước qua cánh cửa đã bị mọt ăn một cách thê thảm.
Khi ấy Mađalen đang ngồi
gần lò sưởi với vẻ giận dữ ghê gớm. Cô đang lồng lộn sẵn sàng tuôn ra những lời
thô tục. Nhưng ánh sáng từ cặp mắt của người mới bước vào bao trùm và ngăn cản
Mađalen. Mônica tiến lại bên Mađalen với tất cả sự trìu mến như chưa bao giờ
người thiếu nữ này đã nhận được từ nơi gia đình mình. Mônica nhẹ nhàng lên tiếng:
- Chị đi ngang qua đây...
Em có thể cho chị xin một ly nước được không?
Mađalen đứng dậy lấy nước
cho khách. Khách lặng lẽ uống thứ nước táo rữa ấy rồi nói:
- Em vui lòng đan cho chị
mấy búp len này. Việc này, bình thường chắc chẳng thích thú gì đối với em.
Nhưng chị rất lấy làm quí được có tương quan với em.
Chị Mônica vừa nói vừa tiến
lại ngồi trên chiếc ghế thấp bên cạnh Mađalen. Đột nhiên chị ấp ủ đôi bàn tay của
Mađalen trong bàn tay của chị và nói:
- Mađalen ơi, em đã đau
khổ quá nhiều. Nếu em muốn, em có thể coi chị như một người bạn.
Một sức mạnh tinh thần tỏa
ra từ Mônica. Mađalen nghiệm thấy sức mạnh đó nên chấp nhận để yên đôi bàn tay
đã trở nên ngoan ngoãn của cô trong bàn tay chị Mônica. Mađalen muốn trả lời
nhưng cô nghẹn ngào chỉ còn biết khóc. Những giọt nước mắt lặng lẽ nhỏ dài trên
đôi má cằn cỗi của cô. Cô bắt đầu thổn thức:
- Đã ba năm nay, em không
thể khóc được!
Đứa con bà giờ đây có thể
được cứu
Bà mẹ của Mađalen cũng nức
nở. Bà biết rằng đứa con của bà giờ đây có thể được cứu thoát.
Nhân vật Mônica trong câu
chuyện nói trên thực tỏ ra là một con người có sức thu hút phi thường. Chỉ xuất
hiện trong chốc lát, con người ấy đã hoàn toàn làm chủ được tình hình.
16. Ý nghĩa cuộc sống
Có một nhà hiền triết nọ
cũng đã suy tư như thế. Hôm đó, ông đi lang thang trong rừng, miệng không ngừng
lặp lại câu hỏi: Đâu là ý nghĩa của cuộc sống? Bỗng một con họa mi bay đến và
nói: Ý nghĩa cuộc sống ư? Chỉ là tiếng hót véo von. Rồi nó bay đi nhưng vẫn còn
vương lại những âm thanh dễ mến. Nghe vậy, chú chuột chù phản đối: Đời là một
cuộc chiến đấu không ngừng với bóng tối.
Thế nhưng chị bướm lại lắc
đầu không chịu: Cuộc sống chỉ là hưởng thụ và vui thú. Bấy giờ bác ong mật phát
biểu: Cuộc sống không chỉ là vui thú, mà còn là lao động, lao động nhiều hơn
vui chơi. Cô phượng hoàng thì vỗ cánh và nói: Chẳng ai có lý hết, đời sống
chính là tự do, được tung bay trên khắp khoảng trời xanh. Cụ tùng bách thì lắc
đầu và bảo: Đời sống là một cố gắng để vươn cao. Nhưng cô hồng nhung lại quả
quyết: Cuộc đời chỉ là những tháng ngày trau chuốt cho vẻ đẹp được thêm duyên
dáng. Còn chàng mây lang thang lại thở dài: Đời sống chỉ là những lần chia ly,
khổ đau, cay đắng và nước mắt. Còn bà sóng thần thì bảo: Đời là một sự đổi thay
không ngừng.
Nhà hiền triết hốt hoảng
và chạy trốn khỏi khu rừng để không còn nghe tiếng nói của muôn loài trước một
vấn nạn chưa được giải quyết.
Còn chúng ta thì sao? Rất
có thể chúng ta cũng đã băn khoăn như nhà hiền triết, để rồi cảm thấy như bế tắc,
không tìm ra đáp số cho bài toán.
Thế nhưng với biến cố Hiện
xuống, các môn đệ đã nhìn rõ vấn đề, đã thấu suốt được những chân lý mà Chúa
Giêsu đã truyền dạy. Với ơn Chúa Thánh Thần chúng ta cũng sẽ nếm thử được niềm
an bình và nỗi mừng vui, bởi vì chúng ta xác tín rằng: quê hương chúng ta không
phải ở mặt đất này, nhưng là ở chốn trời cao. Cuộc sống tạm bợ phù du này sẽ kết
thúc để rồi mở ra một chân trời hạnh phúc, kéo dài tới vĩnh cửu. Nhờ đức tin
lãnh nhận, chúng ta có được cái nhìn mới và biết đánh giá đúng mức những thực tại
trần gian, biết xử dụng chúng để xây dựng cuộc sống siêu nhiên.
17. Phép lạ của Chúa Thánh
thần
Giáo hội khởi đầu chỉ là
một nhóm nhỏ gồm mười hai tông đồ. Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần đã hoạt động
trong các ông, thôi thúc các ông ra khơi và thả lưới, lên đường và chinh phục
thế giới về cho Đức Kitô. Ý tưởng này làm cho chúng ta thêm phấn khởi và cảm thấy
được an ủi. Dù hoàn cảnh có đen tối, dù số phận có thê thảm, dù giông tố có nổi
lên, dù bắt bớ có xảy ra, nhưng có Chúa Thánh Thần hoạt động trong cộng đoàn
tín hữu, thì không có một thế lực nào, không một gian nguy thử thách nào có thể
chiến thắng nổi chúng ta. Mọi sự sẽ qua đi, nhưng Chúa Thánh Thần sẽ chẳng qua
đi bao giờ.
Trong thời gian khó khăn
tại Liên Xô, chỉ có một chủng viện nhưng phải sinh hoạt âm thầm và lén lút.
Ngày kia một ký giả may mắn gặp được một thanh niên hơn hai mươi bốn tuổi, với
khuôn mặt sáng sủa và thân hình gầy còm vì đói. Anh cho biết mình là một đại chủng
sinh, đang chuẩn bị lãnh nhận chức phó tế. Ban ngày anh phải đi làm như một người
thợ, một công nhân. Ban đêm mới học. Học không sách vở, học không ánh sáng. Họ
sống và cầu nguyện chung với nhau, nhưng luôn phải canh chừng. Phải chăng Kitô
giáo đã tàn lụi trên đất nước Liên Xô? Không phải thế. Dù chỉ còn một nhóm nhỏ
thì Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động. Để rồi cuối cùng, mọi sự sẽ qua đi, nhưng
Chúa Thánh Thần sẽ chẳng qua đi bao giờ.
18. Chúa làm mọi sự trong
mọi người
“Mười lăm năm, cái chân
giả không rời tôi;
nó đã trở thành một phần
của thân thể của tôi.
Nó gãy. Tôi mang đi sửa,
thấy người ta lấy búa đóng “binh binh”,
chợt đau nhói cái chân bại
liệt hàng chục năm nay không cảm giác.
Lấy điện thoại nhắn cho
em: “Anh bị gãy chân.”
Em hốt hoảng: “Đang ở bệnh
viện nào em vào thăm.”
Tôi phì cười: “Gãy cái
chân giả.”
Em vừa giận vừa tức cười.
Tôi thấy yêu em hơn bao
giờ hết,
thì ra với em, tôi chưa bao giờ là người khuyết
tật.
Bạn tin không?
Cái chân giả, nếu có tình
yêu thì cũng là một cái chân thật.”
Câu truyện ngắn chỉ 119
chữ của Phan Mạnh Tân, sinh viên năm thứ III ngành báo chí Đại học Khoa học và
Xã hội, đã được báo Tuổi Trẻ trao giải I cuộc thi “Cửa sổ Tâm hồn” vào ngày
02/4/2006. Cả ban tổ chức và những người dự thi khác, ai cũng muốn biết bức thông
điệp về tình yêu thương đó là một tâm sự hay chỉ là một tác phẩm hư cấu.
Trong ngày trao giải, những
người dự thi và cả ban giám khảo, ai cũng thấy như trong bóng chiều tà loé lên
một tia nắng đẹp khi thấy Phan Mạnh Tân với đôi chân gỗ tự tin bước lên lãnh giải.
19. Thánh Thần đổi mới
Các bạn trẻ thân mến, có
một cuộc đối thoại độc đáo giữa một người Tân Tòng Công Giáo và một người vô thần:
- Anh đã theo đạo Công
Giáo rồi sao?
- Vâng, nói đúng và rõ
hơn, tôi đã xin theo Đức Kitô.
- Thế thì chắc anh biết rất
nhiều về ông ta, vậy anh hãy nói cho tôi biết ông ta sinh ra trong quốc gia
nào?
- Rất tiếc là tôi đã có học
những chi tiết này trong một khóa Giáo Lý, nhưng tôi lại quên mất!
- Thế khi chết, ông ta được
bao nhiêu tuổi?
- Tôi không nhớ rõ lắm
nên cũng không dám nói.
- Vậy, anh có biết ông ta
đã thuyết giảng bao nhiêu bài, có bao nhiêu tác phẩm ông ta để lại, nói chung,
về cuộc đời sự nghiệp của ông ta?
- Về chuyện này thì tôi
xin chịu thua!
- Anh biết quá ít, quá mơ
hồ như vậy, sao anh có thể quả quyết là mình đã thật sự đi theo ông Kitô!
- Anh nói đúng một phần.
Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết quá ít về Đức Kitô. Thế nhưng, điều mà tôi biết
rất rõ là thế này:
Ba năm trước, tôi là một
tên nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ. Gia đình tôi xuống dốc
một cách kinh khủng. Mỗi tối, khi tôi trở về nhà, vợ và các con tôi đều tức giận
và buồn tủi. Thế mà, bây giờ thì tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được
hết nợ nần, gia đình tôi tìm lại được hạnh phúc, mỗi tối các con tôi ngóng chờ
tôi về nhà sau ca làm. Tất cả những điều này, không ai khác hơn, chính Đức Kitô
đã làm cho tôi. Và đó là tất cả những gì tôi biết về Người...
20. Sự sống thần linh thu
hút
Trong một cuộc bán đấu
giá nhạc cụ, bắt đầu từ một cái đàn violin cũ kỹ. Người điều khiển chương trình
rao: “100 đôla, lần một”
Không thấy ai có phản ứng
gì, người đó rao “100 đôla, lần hai.” Cũng không có gì thay đổi.
Bỗng có một người bước
lên xin thử cây đàn. Sau khi xem lại cung các dây đàn, người đó đặt đàn lên
vai, và bắt đầu cử một khúc nhạc trữ tình. Tiếng đàn ngọt ngào xướng lên làm
say đắm lòng mọi người trong cuộc bán đấu giá đó. Ngay lập tức một người xướng
lên “hai trăm”, rồi người khác, “ba trăm”, “bốn trăm”,…
Người ta không thể đánh
giá cây đàn theo những điều mắt thấy, mà phải theo những gì tai nghe. Một tiếng
đàn ngọt ngào làm cho cây đàn xấu xí mang một giá trị đặc biệt. Đó cũng chính
là phép lạ tình yêu làm cho mỗi người chúng ta. Một trái tim rộng lượng, vui
lòng tha thứ, sẵn lòng phục vụ tạo nên một vẻ đẹp không bút mực nào diễn tả được
cho mỗi người chúng ta, một vẻ đẹp thu hút hết mọi người, vẻ đẹp của chính
Thiên Chúa.
Các bạn trẻ thường có sức
thu hút bởi tuổi trẻ và vẻ đẹp. Đừng quên chăm sóc cho mình vẻ đẹp và tuổi trẻ
không bao giờ tàn lụi, vẻ đẹp và sức trẻ của tình yêu, của sự sống thần linh.
21. Mùa gặt của tình yêu
Hai anh em người Do thái
chia nhau thửa ruộng cha mẹ để lại. Sau ngày gặt đầu, khi đi ngủ, người anh nằm
tính toán: “Mình đã có vợ con giúp sức, còn chú nó chỉ một thân một mình chắc vất
vả hơn mình nhiều. Chi bằng đang lúc đêm hôm, không ai biết, mình san sẻ cho
chú nó một ít bó lúa của mình.”
Cùng lúc đó, người em
cũng tính: “Mình còn độc thân chưa phải lo lắng chi, còn anh Hai có thêm gánh nặng
gia đình chắc là vất vả hơn mình nhiều. Thôi thì mình ra ruộng lấy bớt một ít
lúa của mình để sang phần ruộng của anh vậy.”
Rồi họ kín đáo làm điều
đã định. Sáng hôm sau ra ruộng, cả hai đều ngạc nhiên thấy số bó lúa của mình vẫn
y như hôm trước. Sau ngày gặt thứ hai, họ lại tiếp tục cái việc làm kín đáo của
đêm trước, và hết sức ngạc nhiên vào sáng ngày thứ ba khi thấy số lúa vẫn không
thay đổi.
Thế là vào nửa đêm ngày gặt
thứ ba, họ ra ruộng rình xem cho biết tại sao lại như vậy. Cuối cùng, khi bắt gặp
nhau đang kín đáo san sớt phần mình cho nhau, họ ôm ghì lấy nhau trong niềm vui
và tình yêu!
Một câu chuyện thật đẹp!
Với số lúa gặt được không thay đổi, cả hai gặt thêm được niềm vui bởi tình yêu,
niềm vui lớn hơn cả mùa gặt.
22. Thần Khí làm cho sống
Một nhà sư Phật giáo nói
với Mẹ Têrêxa: “Tôi biết và yêu mến Đức Kitô, nhưng tôi có ác cảm với Hội thánh
của Ngài. Nếu các chị làm điều các chị nói, có lẽ các chị sẽ trở nên nơi hội ngộ
để chúng tôi có thể gặp gỡ Hội thánh của Đức Kitô.”
Sau một năm làm việc với
Mẹ Têrêxa, nhà sư đó nói rằng: “Tôi đã quan sát chị, bây giờ tôi thực sự tin rằng
các chị làm việc chỉ nhằm mục đích giúp những người nghèo khổ, xấu số. Chúng
tôi sẽ hiến các chị một ngôi nhà trong khuôn viên chùa của chúng tôi để làm bệnh
xá miễn phí”
Không ít lần tôi nghĩ rằng
cần có tổ chức tốt, có kỷ luật mạnh, có trí thức cao mà quên rằng điều mà Giáo
hội thực sự cần là được hướng dẫn và thúc đẩy liên tục bởi Thần-Khí-làm-cho-sống
của Đức Kitô.
23. Tiếng nói chung
Theo công lệ của một số
quốc gia Âu Mỹ, sứ thần Tòa Thánh đương nhiên là vị niên trưởng trong ngoại
giao đoàn. Vì thế tướng De Gaulle, khi thành lập xong chính phủ năm 1944, đã
yêu cầu Tòa Thánh gửi sứ thần sang gấp trong dịp đầu năm dương lịch, vì ông ngại
rằng nếu vắng mặt sứ thần Tòa Thánh thì năm đó đại sứ Liên Xô, lúc ấy là niên
trưởng, sẽ đọc diễn văn chúc mừng tổng thống. Thực ra, đại sứ Liên Xô lúc đó đã
soạn sẵn một bài diễn văn, vì ngày đầu năm sắp tới, mà vị sứ thần Tòa Thánh
chưa có mặt.
Ba ngày trước lễ, Đức cha
Roncalli (sau là giáo hoàng Gioan 23) mới có mặt tại Paris, trình quốc thư
xong, ngài phải lo dọn bài diễn văn. Nhưng các đồng nghiệp đến cho ngài hay là
đại sứ Liên Xô đã dọn sẵn bài diễn văn rồi.
Thật là khó xử!
Làm sao cho khỏi chạm tự
ái, nhất là giữa Mát Cơ Va và Vatican?
Đức cha Roncalli sốt sắng
yêu cầu Chúa Thánh Thần soi sáng và giúp đỡ, rồi ngài đến thăm vị đại sứ Liên
Xô. Sau một lúc trò chuyện thân mật, Đức cha Roncalli vui vẻ khai đề: “Thưa đại
sứ, theo thông lệ thì ngày đầu năm, tôi sẽ phải đọc một bài chúc mừng tổng thống,
thế mà tôi nghe đại sứ cũng đã chuẩn bị một bài diễn văn rồi?”
Đại sứ trả lời: “Đúng vậy,
sợ ngài đến không kịp, tôi đã phải soạn sẵn.”
Đức cha Roncalli nói:
“Thưa đại sứ, tôi vừa tới Paris, chưa quen người quen việc, vậy xin đại sứ cho
phép tôi được xem bài diễn văn của ngài.”
Đại sứ Liên Xô trả lời:
“Được lắm, được lắm.”
Đại sứ Liên Xô đưa bài diễn
văn cho đức cha Roncalli coi, và khi đức cha Roncalli đọc xong, đại sứ hỏi:
“Xin ngài cho tôi biết cảm tưởng?”
Đức cha Roncalli đáp: “Tốt
lắm, và có một điều tôi muốn nói, không biết ngài có cho phép không?”
Đại sứ Liên Xô đáp: “Xin
ngài cứ nói, đừng ngại!”
Đức cha Roncalli nói:
“Nói lên điều này tôi thấy rất táo bạo, nhưng với tất cả sự chân thành, nếu
không có gì trở ngại, xin ngài cho được mượn bài diễn văn của ngài để đọc ngày
mai. Tôi khỏi phải dọn, nội dung hoàn toàn tốt đẹp.”
Đại sứ Liên Xô đáp: “Tôi
sẵn lòng và lấy làm vinh dự nữa, nhưng tôi xin được phép hỏi, ‘ngài là sứ thần
Tòa Thánh mà dám dùng diễn văn của đại sứ Liên xô sao, điều này khiến tôi ngạc
nhiên quá?”
Đức cha Roncalli trả lời:
“Được lắm chứ, vì chúng ta đều nói lên tâm tình tốt đẹp cả, xin ngài cho phép
tôi được đọc toàn văn bản của ngài, chỉ xin thêm một câu vắn tắt thôi.”
Đại sứ Liên Xô hỏi: “Câu
nào, xin ngài cho biết?”
Đức cha Roncalli trả lời:
“Tôi muốn thêm câu, ‘xin ơn trên phù hộ tổng thống.”
Đại sứ Liên Xô đáp: “Tôi
hoàn toàn nhất trí, vì đó là phần riêng của ngài.”
Thế là hôm sau, đại diện
cho ngoại giao đoàn, đức cha Roncalli đã đọc bài chúc tết. Đọc xong, mọi người
đến bắt tay chúc mừng đức cha Roncalli. Đức cha mìm cười nói: “Đó là công việc
của Đại sứ Liên Xô, tôi mượn bài của ông. Phần tôi, tôi chỉ có câu cuối cùng.”
Đại sứ Liên Xô rất hân hạnh
và từ đó ông rất có thiện cảm với vị sứ thần Tòa Thánh.
24. Thánh Thần nối kết
Tại Ecuador (Nam Mỹ), có
hai cô gái tên là Consuela và Conchita Perazza, hai cô có chung một cơ thể, chỉ
khác nhau cái đầu, và tính tình trái ngược nhau, do đó thường sinh ra bất hòa!
Nhưng không thể đấu võ với nhau được! Cô Conchita sở hữu một giọng hát oanh
vàng, còn cô Consuela có tài hùng biện. Sau này hai cô nhờ học biết về Thánh
Kinh nên họ trở nên hòa thuận, và nhận ra họ có hình thù khác lạ là ơn Chúa
ban, nên đã tận dụng ơn huệ này để rao giảng về Thiên Chúa. Hai cô đi đến nhất
trí là: Conchita cất giọng hát để thu hút mọi người, lợi dụng lúc đó Consuela sẽ
thuyết giảng Lời Chúa! (Trích báo Kiến Thức số 59, ra ngày 1/5/1991)
Vậy để làm cho Chúa Thánh
Thần đến với mọi người, mỗi Kitô hữu phải biết nối dài và mở rộng nghi thức “đặt
tay” trong ngày lãnh nhận Bí tích Thêm Sức, đặc biệt là Bí tích Truyền Chức
Thánh. Ý nghĩa “đặt tay” khơi nguồn từ Đức Kitô được tôn vinh trên Thập Giá,
như thánh Gioan ghi nhận: “Thánh Thần chỉ xuất hiện khi Đức Kitô được tôn vinh”
(x Ga 7,39), nghĩa là sau khi Đức Giêsu đặt tay vào việc tái tạo con người, dù
phải mất mạng, thì Ngài mới ban Thánh Thần cho ta.Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1. truyện
LỄ
KÍNH ĐỨC MẸ FATIMA
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1. truyện
LỄ THÁNH MAT-THI-A
Lời Chúa: Ga 15, 9-17
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Như Cha đã
yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu
các con tuân lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy; cũng như
Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người.
Thầy nói với các con điều đó, để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui
của các con được trọn vẹn.
"Đây là lệnh truyền của Thầy: Các con hãy yêu mến nhau, như
Thầy đã yêu mến các con. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng
vì bạn hữu mình. Các con là bạn hữu của Thầy, nếu các con thi hành những điều
Thầy truyền.
"Thầy không còn gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết
việc chủ làm; Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết
nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết.
Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các
con, và đã cắt đặt, để các con đi và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con
tồn tại, để những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con.
Thầy truyền cho các con điều này là: các con hãy yêu mến nhau.”
TRUYỆN KỂ
1. Ở lại trong tình
thương của Thầy
Mẹ Têrêsa, nhà truyền giáo của tình thương bác ái. Mẹ bắt đầu sứ
mạng của mình mỗi ngày, trước lúc rạng đông, Mẹ đến trước Thánh Thể Chúa.
Trong thinh lặng của sự chiêm ngắm, găp gỡ Thiên Chúa, Mẹ lắng
nghe vang dội lời nói của Chúa Giêsu trên thập giá: “Ta khát.” Lời kêu vang
này, được đón nhận trong cõi thâm sâu của tâm hồn, đã thôi thúc Mẹ tiến đi trên
các đường phố ở Calcutta, Ấn Độ và khắp nơi trên thế giới, để đi tìm Chúa Giêsu
trong người nghèo, người bị bỏ rơi, người hấp hối sắp chết.
Mẹ Têrêsa sống tình yêu, trao ban tình yêu cho những người bất hạnh
nhất như lệnh truyền của Chúa Giêsu: Yêu thương anh chị em chung quanh như Ngài
đã yêu thương chúng ta.
2. Người thợ giờ thứ mười
một
+ Chúa luôn có cách của Ngài, và cách của Ngài không bao giờ giống
ai.
+ Thánh Matthia chính là Tông đồ giờ thứ mười một. Không ai nghĩ
ông là sẽ Tông đồ nếu không có sự phản bội của ông Giuđa.
+ Ơn gọi mỗi người một cách, mỗi người một vẻ, không ai giống ai
nhưng ai cũng đặc biệt và duy nhất.
+ Chúa luôn CHỌN- GỌI- chúng ta mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây
phút.
BÀI HỌC:
+ Đức Hồng Y Thuận đã từng nói: “Thiên Chúa luôn viết thẳng trên
những đường cong.”
+ Ông Giuse trong Cựu Ước thì nói: “Thiên Chúa biến sự dữ của
anh em làm với tôi thành sự lành.”
+ Thiên Chúa làm cho mọi sự trở nên sinh ích lợi cho những ai
yêu mến Người.
+ Trong mọi sự, chúng ta phải nhìn thấy được thánh ý Chúa muốn
gì trên cuộc đời của ta? Trên sự việc xảy ra và trên cuộc sống này?
Lạy Chúa, con cảm tạ ơn Chúa đã chọn và gọi chúng con. Xin cho
chúng con luôn là những người môn đệ trung tín, dù là người thợ giờ thứ mười một.
Amen.
3. Còn trái tim
Năm 1974, ông Jacques Lebreton được 78 tuổi, mới được Đức Giám mục
địa phận Beauvais nước Pháp truyền chức Phó tế cho.
Người ta thắc mắc:
- Trước đây ông là một đảng viên cộng sản vô thần, vì một tai nạn
xe hơi, ông đã bị cụt hai tay, và mù cả hai mắt! Chức Phó tế cần phải đọc sách
mới có khả năng giảng. Mắt đâu? Cần rửa tội cho người ta. Tay đâu? Thế thì truyền
chức Phó tế cho ông để làm gì?!
Đức Giám mục trả lời:
- Jacques Lebreton còn trái tim.
Quả thực, sau khi lãnh Phó tế, thầy Jacques Lebreton đã giảng mỗi
năm khoảng 200 bài Thánh Kinh trong các trường đại học, được rất nhiều sinh
viên ca tụng.
4. Thí mạng vì người mình
yêu
Ngày 30 tháng 7 năm 1941, trong trại giam Varsovie (Balan) của Đức
Quốc Xã, một tù nhân bỏ trốn, và theo quy luật của trại giam, thì cứ một người
bỏ trốn, sẽ có 10 người tù phải chết thay bằng cách để nhịn đói và khát. (Hình
khổ đáng sợ nhất là phải chết vì không được uống nước). Ngày hôm sau, khi các
tù nhân đã xếp hàng. Viên giám thị nhà giam tuyên bố: không tìm thấy tù nhân đã
bỏ trốn. Tuyên bố thế có nghĩa là 10 người sẽ phải chết thay cho tù nhân bỏ trốn
đó. Rồi viên giám thị liếc mắt chỉ vào từng người: tên này, tên này, một người
bị chỉ kêu lên: “Ôi vợ tôi, ôi con tôi ơi!”
Mười người được sắp hàng riêng, để đi về trại Ausehwitz; các tù
nhân khác thoát nạn, thở phào nhẹ nhõm… Bỗng xẩy ra một việc bất ngờ: một người
trong nhóm tù thoát chết ra khỏi hàng, và tiến về viên giám thị, mọi người hồi
hộp chờ đợi. Viên giám thị quát lớn: “Đứng lại!”
Người đó đứng lại và nói với viên giám thị: “Anh có thể cho tôi
chết thay cho một người.”
Viên cai ngục bỡ ngỡ hỏi: “Anh là ai?”
- Tôi là một linh mục công giáo, tôi tên là Maxillianô Kolbe,
tôi muốn chết thay cho một người.
- Anh muốn chết thay cho ai?
- Tôi muốn chết thay cho người này (Cha Kolbe chỉ vào người vừa
than khóc)
- Tại sao?
- Vì tôi không cần cho ai nữa, trong khi ông này còn cần cho gia
đình.
Viên giám thị suy nghĩ, và rồi ngoắc tay đồng ý. Cha Kolbe gia
nhập số 10 người lãnh án tử còn ông Gajouwniczek được trở về hàng ngũ những người
thoát chết. Nhà tù Auschwitz lần này, khác hẳn với những lần trước, người ta
không nghe tiếng la hét, nguyền rủa, thất vọng, nhưng là những câu kinh, cả tiếng
ca hát, cho đến lúc chín người tắt thở. Nói chín người, vì tới ngày 14 tháng 8
năm 1941 tức là hai tuần lễ sau, khi quan Phát xít Đức vào dọn các xác chết đem
đi hỏa thiêu thì cha Kolbe vẫn còn thoi thóp thở. Người ta đã kết thúc đời Ngài
bằng một mũi chích các bon và xác ngài cũng bị đem hỏa thiêu với xác các tử tù
kia. Cha Maxillianô được phong Hiển Thánh ngày 10 tháng 10 năm 1982. Chính ông
Gajouwniczek cũng có mặt trong hai buổi lễ này.
5. Yêu như Chúa yêu
Đức Cha Roncalli làm đại diện tông tòa tại Bulgari từ năm 1925 tới
năm 1934. Trong những năm đó công việc của ngài rất khó khăn phức tạp. Ngài có
trách nhiệm cả một vùng rộng lớn đang sôi động về chính trị, chia rẽ về mặt tôn
giáo. Có những chia rẽ tầm trọng giữa Công Giáo, Tin Lành, Chính Thống Giáo và
Hồi Giáo. Mặt khác trong Giáo Hội địa phương, lại có sự chia rẽ giữa linh mục
triều và tu sĩ dòng… Trong thời gian này, Đức Tổng Giám Mục Roncalli nhận được
một bức thư nặng lời chê trách, trì trích ngài về mọi mặt, do một linh mục bất
mãn viết. Đọc thơ xong, Đức Cha Roncalli không nói một lời, cũng không hề tỏ ra
một cử chỉ nào ác cảm với linh mục đó.
Thời gian trôi qua, ngài giữ chức sứ thần tòa thánh tại Paris từ
năm 1945 tới 1952 rồi làm Hồng Y Giáo Chủ ở Venise từ năm 1953 tới năm 1958 và
sau cùng đắc cử Giáo Hoàng với danh hiệu là Gioan XXIII năm 1958.
Khi ngài đắc cử Giáo Hoàng, thì vị linh mục bất mãn viết thơ cho
ngài trước đây, vẫn còn sống. Gặp dịp giáo dân trong vùng tổ chức một cuộc viếng
thăm Rôma, để yết kiến Đức Giáo Hoàng là vị tổng giám mục yêu quý của họ ngày
xưa, linh mục này, cũng ghi tên trong phái đoàn. Đến Rôma, ngài lại xin đặc ân
được tiếp kiến Đức Giáo Hoàng. Lời thỉnh cầu đó được Đức Giáo Hoàng XXIII chấp
thuận. Sau đây là lời chính linh mục:
“Trong lúc đứng ở phòng khách trên lầu cao Vatican, để đợi tới
phiên được vào triều yết Đức thánh Cha, đầu óc tôi cứ nghĩ tới bức thư bất mãn
năm xưa, và lòng tôi vô cùng hối hận, tôi thầm nghĩ đã mấy chục năm trôi qua,
giờ đây chắc Đức Thánh Cha không còn nhớ gì. Lòng tôi cảm thấy xao xuyến, hồi hộp,
hy vọng nếu ngài còn nhớ, thì chắc lòng nhân hậu ngài cũng bỏ qua cho tôi… Đang
lúc suy nghĩ miên man, bỗng cửa mở. Đức Ông phụ tá dẫn tôi vào. Vừa thấy tôi, Đức
Thánh Cha đã niềm nở, đưa tay bắt và mời ngồi. Ngài ân cần hỏi thăm công việc mục
vụ của tôi, của giáo phận, và bùi ngùi nhắc tới các bạn cũ năm xưa. Ngài thương
nhớ tất cả, như thể xứ sở tôi cũng là quê hương ngài vậy.
“Lúc đó lòng tôi khấp khởi mừng thầm, vì chắc Đức Thánh Cha đã
quên hẳn bức thư hỗn láo năm nào… Câu truyện vẫn tiếp tục trong bầu không khí
vui vẻ thân tình; bỗng tôi thấy ngài đưa tay với lấy cuốn thánh kinh, vừa từ từ
mở ra, ngài để trước mắt tôi bức thư, tôi đã trì trích, thóa mạ ngài. Tôi xấu hổ
và sợ hãi quá. Có ai ngờ đã mấy chục năm trôi qua, mà bức thư không tốt đẹp gì
đó, ngài vẫn còn giữ. Tôi đang lúng túng, âu lo thắc mắc, thì Đức Thánh Cha đã
cầm lấy tay tôi và dịu dàng bảo: “Con đừng bận tâm, Cha không bao giờ giận con.
Cha cảm ơn con, Cha cũng là người, thì cũng yếu đuối, Cha để lại bức thư con
vào cuốn thánh kinh, để khi có dịp, Cha đọc lại là xét mình, hầu có thể dứt
khoát với những khuyết điểm còn tồn tại, và xa lánh những lầm lỡ có thể xẩy ra
đến trong tương lai. Mỗi lần cha đọc thư này, cha lại nhớ đến con và cầu nguyện
cho con.
“Tôi lấy lại bình tĩnh, nhận quà ngài trao tặng. Ngài còn chúc
lành cho tôi, và ôm hôn từ giã tôi.
“Tôi ra về, lòng không bao giờ quên được chân dung của một vị
Giáo Hoàng hiền lành, khiêm nhường đến thế.”
Giữ một bức thư chê bai, trì trích, thóa mạ mình, để rồi coi đi
coi lại, qua nhiều năm tháng, nhằm mục đích sửa đổi những khuyết điểm của mình,
và cầu cho ngừoi thóa mạ mình, là một hành vi anh hùng, đầy tự chủ, đầy thánh
thiện.
Chúng ta chỉ mến Chúa thực sự khi ta biết yêu người, tha thứ lỗi
lầm kẻ khác và luôn luôn cư xử độ lượng với nhau.
6. Yêu như Chúa yêu
Gene Stallings, huấn luyện viên bóng đá hàng đầu của trường đại
học Alabana đã ngất xỉu khi bác sĩ nói rằng Johnny, đứa con trai duy nhất của
ông được sinh ra với hội chứng Down (chậm phát triển). Điều này đã xảy ra cách
đây 30 năm. Ngày nay, Stallings xem việc sinh ra Johnny là một trong những món
quà lớn của đời ông. Johnny đã dạy ông thế nào là tình yêu đích thực.
Stallings nói về đứa con trai của mình: “Tất cả tình yêu của nó
là vô điều kiện. Nó không cần được ghi công. Nó hoàn toàn không vị kỷ.”
Stallings nói nếu ông có thể thay đổi số phận và được một đứa bé bình thường,
ông cũng không thay đổi: “Johnny là một phần lớn cuộc đời tôi. Tôi không đổi thứ
gì. Tôi cảm thấy mình được chúc phúc.”
Tôi học được gì về tình yêu từ một vài thành viên trong gia đình
tôi?
Quyết định từ bỏ bản thân để yêu thương là chuyện lâu dài cả đời
(Elisabeth Stone).
7. Yêu như Chúa yêu
Thi sĩ người Anh Leigh Hunt viết một bài thơ mang tên: “Abou ben
Adhem.” Một đêm nọ, Abou thức giấc và thấy một thiên thần đang viết vào sổ tên
những người yêu mến Thiên Chúa nhất. Abou hỏi: “Có tên con không?” Thiên thần
đáp: “Không, không có đâu!” Lúc đó, Abou nói với thiên thần hãy viết rằng ông
là người yêu thương anh em nhất. Thiên thần liền viết rồi biến mất. Đêm hôm
sau, thiên thần lại đến trong ánh quang rực rỡ và chỉ tên những người được
Thiên Chúa chúc phúc, và này tên của Ben Adhem đứng đầu sổ.
Nếu tôi hỏi thiên thần như Abou đã hỏi, thiên thần sẽ trả lời
tôi như thế nào? Và tôi sẽ đáp lại thiên thần ra sao?
Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong các anh em bé nhỏ nhất...
là các ngươi đã làm cho chính Ta (Mt 25,40).
8. Chúa bán hạt giống
Vào một đêm nọ, người phụ nữ nằm mơ. Chị thấy mình bước vào một
siêu thị. Khách hàng tấp nập. Có một quày hàng đặc biệt, người ta chen chân
không lọt. Chị ngạc nhiên thấy Chúa Giêsu đứng bán ở quày hàng này.
Chờ đợi đến phiên mình, chị hỏi: “Chúa mà cũng bán hàng sao?
Chúa bán cái gì ở đây vậy?”
Chúa trả lời: “Ta bán mọi sự con đang ước muốn trong trái tim
con.”
Chị nói liền một hồi: “Thưa Chúa, con muốn có bình an, có tình
yêu, có hạnh phúc, có khôn ngoan và tự do không sợ hãi. Suy nghĩ một lúc, chị lại
thêm: không chỉ cho con mà thôi nhưng còn cho chồng, cho con và cho những người
thân yêu của con nữa.”
Chúa mỉm cười và nói: “Hỡi con yêu dấu, ở đây, Ta không bán hoa
trái mà chỉ bán hạt giống thôi.” (Anthony de Mello).
LỄ ĐỨC MẸ ĐI VIẾNG BÀ ISAVE
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1. truyện