MÙA ĐÔNG
NĂM ẤY - MÙA XUÂN NĂM NAY
“Nhân loại ngày nay chỉ tìm được bình an
đích thật, khi đến với lòng Chúa thương xót và thực hành lòng xót thương”
Người đàn bà đang ngơ ngác ở khoảng sân hẹp reo lên mừng rỡ khi thấy
có tiếng xe lịch kịch vô cổng. Thiện nguyện viên ríu rít: “Dì Cúc! Dì Cúc! Tụi con quay lại thăm dì nè!”
Từ trong nhà có riếng rột rẹt, và ào ào lao ra một bầy chó lẫn mèo.
Khách ngạc nhiên bởi chó thì gần chục con, mèo thì cũng không thua kém, chừng...
nửa chục. Con nào con nấy xinh xắn dễ thương, khác hẳn gia chủ tiều tụy và có
nét hơi lẩn thẩn.
- Để tui ra đón má, nói cho
má mừng. Đợi tui! Đợi tui...
- Dạ, hồi nãy tụi con có thấy,
có chào má, nhưng hình như má không nghe thấy.
- Ờ... ờ... má tui... lẫn tới
nơi rùi! Bà sắp chín mươi rồi còn gì. Đợi tui chút!... suỵt!... Mấy con, im! Đừng
có làm rộn.
Bầy chó và mèo chạy lung tung. Con thì cụp đuôi nép vào nhau. Có
chú mèo khoang phi lên nóc cái tủ cũ rụng chân, ngơ ngác ngó xuống đám người lạ
huơ lạ hoắc.
Ở rìa con đường lầm bụi, má Tư lập cập đứng lên, bỏ lại cái mẹt có
ba quả xoài héo queo và một cây bắp cải. Má run run hỏi: “Họ thăm má thiệt hả con? Đi về! Ừ thì đi về!”
Hai người đàn bà: già đã sắp chín mươi, trẻ cũng đã sáu lăm tuổi,
cùng ốm yếu và cùng hơi... ngơ ngác.
Người mẹ là cụ Tư, xóm gọi là cụ Tư ve chai. Người con là dì Cúc. Nếu
tìm bà con ở xóm nhỏ Tân Thới Nhì mà hỏi thăm người ta sẽ cho bạn biết vốn dĩ
hai người không phải là dân gốc ở địa phương. Hồi chiến tranh họ từ đâu đó trôi
dạt về đây, làng xóm cho họ miếng đất cất cái chòi.
Dì Cúc thở dài: “Lúc tôi có
thai, sảy chân, mất đứa con. Thời chiến tranh không có thuốc thang. Tôi bệnh miết,
không sinh nở. Ổng đánh tôi chán tay thì bỏ đi. Nhà chỉ có hai mẹ con từ dạo ấy...
”
Từ dạo lâu lắc ấy, hai mẹ con họ sống với nhau. Người con bệnh rề rề
và tính tình ngơ ngác. Theo năm theo tháng, bà mẹ cũng thành già nua, và cũng bệnh
te tua. Cụ Tư bị tiểu đường, hai cẳng chân bầm đen, và cụ cũng thành ra lẫn cẫn
tự khi nào, vậy nhưng cụ vẫn làm một người mẹ nuôi con tần tảo.
Cụ đi lụm rác, nhặt tất cả những gì có thể nhặt đem về. Khi chân
đau không đi xa được, cụ ra chợ gần nhà, bà con biết thường cho cụ tí quà, khi
quả xoài, khi mớ rau. Cụ mang về, để ở cái mẹt ngay rìa đường gần nhà, bà con
thương lại mua dùm cho cụ.
Còn dì Cúc, cứ mang mãi nỗi đau mất con. Dì bỗng có cái thú nuôi
chó nuôi mèo. Từ chú chó con dì nhặt ở ven đường hồi nào đưa về nhà, giờ bầy
chó đã lủ khủ cả chục con. Có chó bà, chó mẹ, và cả con chó con mới sinh thuộc
vai... chó cháu!
Thiện nguyện viên không thể quên hồi mùa đông năm ngoái khi được một
cô sinh viên gần nhà cụ cho tin, tìm tới thăm đã không cầm được nước mắt khi thấy
cảnh cô Cúc ngồi nựng con chó cái ốm o: “Ráng
đi, ráng đi con. Chút ngoại về, ngoại mang gạo nấu cơm, má con mình ăn con
nhé!”
Khi có người tới thăm hỏi, cô sụt sịt không phải vì thương cái phận
khổ của cô, mà là: “Thương con chó Vàng
quá đi! Nó khổ giống tui nè! Nó có bầu mà bị hư thai. Bữa rày nó ốm quá!”
Kể từ mùa đông ấy, căn nhà tình thương hắt hiu buồn của hai mẹ con
lại thi thoảng có khách tới thăm. Trên tường nhà cụ Tư có một thứ mà cụ quý vô
cùng. Đó là bức hình một đám thanh niên thiện nguyện tới dọn nhà cho hai mẹ con
vào một mùa hè. Cụ Tư cứ chép miệng: “Vui
đến là vui! Vui quá!”
Mùa đông năm nay trời hơi lạnh, và ngày Tết thì sắp đến nơi. Cụ Tư
với hai cẳng chân bầm đen vẫn ngồi bên bờ đường với ba quả xoài và cây rau cải.
Trong gian nhà toàn những đồ phế thải, cô Cúc vẫn thì thầm với bầy
chó mèo lủ khủ của mình. Cô muốn tiếng thì thầm yêu thương của mình lấp đầy cái
bụng của bầy con chó mèo. Bà ngoại mà không bán được mấy trái xoài là cả nhà
mình đói!
Và có khách tới, là khách của mùa đông năm trước từng qua đây, là
những thiện nguyện viên của cộng đoàn lòng thương xót. Mùa đông năm ấy, rồi mùa
đông năm nay, có một người linh mục vẫn không quên thông tin ông nhận được từ
nhóm thiện nguyện vẫn lặng lẽ âm thầm đi tìm những mảnh đời rách nát cần được
xót thương. Ông hỏi các học trò đã làm gì cho mẹ con người đàn bà cô đơn cùng bầy
chó lũ mèo.
Và thế là các thiện nguyện viên lại tiếp tục lên đường. Họ miệt mài
đi và đến mà học lấy những câu chuyện sống động của lòng xót thương. Người
nghèo khổ vì thiếu thốn vật chất đã đành, lại thêm nỗi khổ vì cô đơn nữa thì thật
là cùng khổ! Hai người phụ nữ yêu thương nhau và sẻ chia tình thương cho bầy
chó lũ mèo. Bầy chó lũ mèo không tư duy giỏi giang, không quyền cao chức trọng,
ấy vậy mà lại tỏa hơi ấm sưởi cho người. Không phải học ở đâu xa, học ngay
trong ngõ ngách cuộc đời, chữ “xót thương” đơn sơ mà vô vàn sâu sắc.
Người linh mục và nhóm thiện nguyện đã chuẩn bị chu đáo quà Noel và
Tết cho hai mẹ con đơn chiếc ốm đau cùng với bầy chó lũ mèo, cũng như cho những
người khuyết tật, nhưng con người nghèo khó bị bỏ quên nơi vùng sâu vùng xa.
Mùa xuân này họ sẽ có khách của lòng Chúa xót thương đến thăm với những món quà
làm ấm lên tình người.
Lòng xót thương nằm ngay trong những hành động cụ thể như thế, chứ
không phải nơi những phong trào rầm rộ, hay những bài diễn văn hào nhoáng văn
chương bóng bẩy bên ngoài.
“Bình an dưới thế cho người thiện tâm…”
“Nhân loại ngày nay chỉ tìm được bình an
đích thật, khi đến với lòng Chúa thương xót và thực hành lòng xót thương”
Thu Hương