Lễ Tro _ các bài suy niệm

LỄ TRO
 Những suy niệm Thứ Tư Lễ Tro
(Ge 2,12-18; 2Cr 5,20-6,2; Mt 6,1-6.16-18)
MỤC LỤC
13. Ý nghĩa Mùa Chay Thánh của Giáo Hội Công Giáo
14. Chủ Đề Các Bài Đọc
15. SCĐ/128- Lễ Tro
16. Suy Niệm của Lm. Jude Siciliano
17. Hân hoan trở về - Lm. Jude Siciliano
18. Suy Niệm của Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn
19. Hãy sám hối và đổi mới - Lm. Jos. Nguyễn Hưng Lợi
21. Thứ Năm sau Lễ Tro - Lc 9,22-25
21. Thứ Sáu sau Lễ Tro - Mt 9,14-15
22. Thứ Bảy sau Lễ Tro - Lc 5,27-32
23. Tro   Charles Singer
24. Chay tịnh   Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
25. Hỡi người hãy nhờ mình là tro bụi  GB. Đào Thiện Hải op
26. Cùng chiến đấu với Chúa Giêsu   Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
27. Sống tinh thần mùa chay   LM An-rê Đỗ xuân Quế O.P.
28. Trở về   Giuse Nguyễn Phong Phú  op


1. HOA VÀ RÁC
 Những ngày gần Tết, hoa và cây cảnh được bày bán khắp mọi nẻo đường phố thị. Đủ mọi loại hoa kiểng, lắm màu hương sắc. Gia đình nào cũng mua hoa chưng Tết. Tôi cũng mua cây mai nhiều nụ và mấy chậu hoa hồng hoa cúc để làm đẹp phòng khách. Nâng niu, chăm sóc thật kỹ lưỡng. Đến Mồng Ba Tết, hoa đã héo rụng đầy phòng. Phải quét rác thôi, gom cả mai cả hoa đi đốt. Ôi Hương sắc của hoa! Hôm qua tươi đẹp, hôm nay héo tàn rụng úa. Hôm qua “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”, hôm nay quét bỏ như rác rưởi.
Thứ Tư Lễ Tro, nghĩ về hoa và rác như nghĩ về thân phận tro bụi của kiếp người theo lời Thánh Vịnh 102:
Đời sống con người giống như hoa cỏ
Như bông hoa nở trên cách đồng
Một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi
Nơi nó mọc không còn mang vết tích.
Đời người cũng tựa đời hoa. Khi tươi nở, hoa rực rỡ khoe sắc, hoa ngào ngạt toả hương, ai cũng yêu cũng quý. Khi ủ rũ héo tàn, hương sắc của hoa rụng úa tàn tạ, chỉ mau vứt vào thùng rác. Hôm trước nâng niu, hôm sau vứt bỏ. Một đời hoa chóng tàn phai như lời sách Giảng viên:
“Phù hoa nối tiếp phù hoa,
chi chi chăng nữa cũng là phù hoa”
(Gv 1,2).
Mùa Chay được khởi đầu bằng nghi thức xức tro trên đầu. Linh mục đọc "Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro” và xức tro trên trán tín hữu. Đây là lời Thiên Chúa báo cho Ađam biết khi ông vừa phạm tội. Giáo Hội cũng sẽ lặp lại những lời ấy trong phần xức tro đễ nhắc nhở về thân phận cát bụi của con người.
Nghi thức xức tro bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của dân Do thái. Trong Cựu ước, mỗi khi muốn tỏ lòng ăn năn hối cải, người Do thái thường xức tro trên đầu, ngồi trên đống tro và mặc áo vải thô hoặc xé áo ra. Việc xức tro và xé áo trước hết nói lên sự buồn phiền đau đớn vì đã phạm nhiều tội lỗi. Việc xức tro và xé áo cũng làm cho tội nhân ý thức thân phận con người bọt bèo, cuộc đời mau chóng tàn phai như giấc mộng. Đời người như một nắm tro bụi, chỉ một làn gió nhẹ thoảng qua đủ xoá sạch vết tích.
Sách Giảng Viên viết rằng: "Tất cả chỉ là phù vân". Phù là trôi nổi, huyền ảo. Vân là mây. Phù vân là bèo dạt mây trôi, là hay thay đổi, mau qua, tàn phai. Mọi của cải vật chất trên trần gian này, kể cả cuộc sống của mỗi người đều là phù vân. Văn chương Việt nam khi nói tới cái gì bấp bênh, vô định, chóng tàn, thường dùng hình ảnh bọt bèo:
"Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau"
(Nguyễn Du).
Bọt là bong bóng nước mong manh, tan trong chốc lát. Hình ảnh bọt diễn tả cái vắn vỏi của cuộc đời. Bèo gợi lên ý tưởng về sự lênh đênh, trôi nổi, vô định:
”Lênh đênh duyên nổi phận bèo.
 Tránh sao cho khỏi nước triều đầy vơi”
(Ca dao).
“Bèo dạt, mây trôi đành với phận”
(Chu Mạnh Trinh)
Cuộc đời làm sao mà không bi đát khi nó là phù vân, khi nó vừa là bọt chóng tan, vừa là bèo trôi nổi, dật dờ không bến?
Cuộc đời tuy có là bèo bọt. Phận người dù phù hoa, mau chóng tàn phai trở về bụi đất. Con người bởi đất nhưng con người không bằng đất, con người có sinh khí, có hơi thở. Con người là hoạ ảnh và hình ảnh của Đấng dựng nên mình. Sự cao cả của con người là bắt nguồn từ chính Đấng là Sự Sống, Đấng Hằng Sống, con người là hình ảnh và hoạ ảnh của Đấng vô thuỷ vô chung, nên sự sống con người mang hình thái bất diệt, vượt xa các loài được tạo dựng. Lòng thương xót của Thiên Chúa không dựng nên con người, theo cái bên ngoài của Thiên Chúa, nhưng cho con người mang hoạ ảnh và hình ảnh của Người. Theo quan niệm của Nho Giáo, con người là sự tích tụ của tinh thần và khí chất nên con người có sự sáng suốt để hiểu các sự vật. Là hoạ ảnh và hình ảnh của Thiên Chúa, con người có một phẩm giá trổi vượt trên các loài được tạo dựng, con người một phần giống Thiên Chúa bởi quyền cai quản trên vạn vật và bởi con người có trí khôn, tự do.
Ba việc đạo đức được nhắc nhở rất nhiều trong mùa chay là: Bố thí, ăn chay và cầu nguyện. Đây là ba vũ khí tuyệt hảo để chống lại sự tấn công của ma quỷ và đền bù tội lỗi mình. Những việc lành phúc đức này, khi được thi hành thì hãy làm với tất cả tấm lòng của mình; không làm để khoe khoang. Chỉ cần Thiên Chúa thấu hiểu và biết cho chúng ta là đã đủ rồi. Đừng làm để được người đời khen và vì thế mà chúng ta mất đi lời khen tặng của Thiên Chúa. (x.Mt 6,1-6).
Ăn chay và kiêng thịt, chịu tro chỉ là hình thức bên ngoài mà thôi. Canh tân nội tâm vẫn là trọng tâm của mùa chay. Kiêng bớt các tội là điều mà Thiên Chúa mong muốn. Sửa đổi tính nết để trở thành người tốt hơn, đạo đức hơn, thánh thiện hơn. Bớt nói hành, nói xấu, lười biếng việc đạo đức là điều phải thực hành.
Nói một cách hình tượng, thì con người của Mùa Vọng là một con người ÐI, con người hành hương, lòng tràn trề hy vọng đang tiến về cùng đích tối hậu của cuộc đời; con người của Mùa Phục Sinh là một con người ÐỨNG, tự do, chủ động và tự tín đối diện với thế giới, còn con người của Mùa Chay thì NGỒI trong thái độ chiêm nghiệm, trầm tư. (Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống).
Ngay đầu Mùa Chay, Phụng vụ đã nhắc nhở ta cần phải trầm tư để chiêm niệm về thân phận: "Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về tro bụi". Ý nghĩa của lời đó quá rõ ràng: mọi người sẽ phải chết. Vậy anh lao tâm khổ trí, vất vả ngược xuôi, ganh đua tranh dành để tìm kiếm của cải, danh vọng, thú vui..., anh nỗ lực học hỏi, tìm tòi, phát minh, xây dựng v.v. nhưng khi chết đến, anh mang theo được thứ gì, tất cả có nghĩa gì cho anh? Cuối cùng thì cái gì là đáng quan tâm nhất trong đời? Ðâu là bậc thang giá trị đời anh?
Có ba quan niệm sống có thể tạo ra một thái độ tiêu cực trước cuộc đời.
Một là cho rằng chết là hết, không còn gì tồn tại. Nếu quả thực mọi sự sẽ chấm dứt với cái chết, nếu số phận người tốt kẻ xấu đều sẽ như nhau sau khi chết, thì người ta sẽ có lý mà lập luận rằng: Ta hãy ăn uống, vui chơi, hãy hưởng thụ giây phút hiện tại cho thoả thích, vì chết rồi sẽ chẳng còn gì!
Hai là tin vào thuyết định mệnh, nghĩa là tin rằng mọi sự đã được an bài sẵn và số phận của mỗi người đã được thần thánh định đoạt. Nếu thế thì con người chẳng cần và chẳng có thể làm gì nữa, mọi cố gắng đều vô ích.
Ba là tin vào thuyết luân hồi, cuộc sống là một vòng luân chuyển, hết kiếp này qua kiếp khác. Nếu kiếp này chưa đạt cõi phúc thì sẽ chờ kiếp sau, khi được đầu thai lại, luân hồi theo vòng nghiệp chướng. Dĩ nhiên thuyết luân hồi không đương nhiên dẫn tới tiêu cực, nhưng dù sao cũng không dành cho cuộc sống hiện tại một giá trị và tầm quan trọng quyết định đối với số phận mỗi người.
Khác với ba quan niệm trên, Kitô giáo dạy rằng: Thiên Chúa thực sự giao cho ta chịu trách nhiệm về thế giới này và về sự thành công của cuộc đời chúng ta. Thời gian hiện tại là thời gian quyết định đối với số phận đời đời của con người. Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý báu, đây là lúc gieo mầm cho đời vĩnh cữu. Chúa Giêsu khuyên chúng ta “phải lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa” bằng cách “ Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá”.
Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn minh hoạ bài học tỉnh thức của Mùa Chay.
Dụ ngôn người đầy tớ đợi chủ về: tỉnh thức như người đầy tớ đợi chủ đi ăn cưới không biết về lúc nào. Thái độ tỉnh thức là “thắt lưng cho gọn” và “thắp đèn cho sẵn”. Luôn sẵn sàng để khi chủ về thì mở cửa và ân cần phục vụ. Tỉnh thức để đợi chủ về. Người Kitô hữu chờ đợi Chúa đến trong vinh quang ngày quang lâm, chờ đợi Chúa đến trong giờ sau hết đời mình. Vì thế người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại một cách rất nghiêm chỉnh, họ cố gắng làm phận sự ở đời một cách hết sức tích cực vì biết rằng đó là Thánh ý của Chúa và vì biết rằng hạnh phúc đời đời của mình đang được chuẩn bị ngay bây giờ. Dụ ngôn người quản gia trung thành. Quản gia chỉ là quản lý mà “ ông chủ đặt lên coi sóc gia nhân, cấp phát thóc gạo đúng giờ đúng lúc”. Mỗi người chúng ta là người quản lý của Thiên Chúa. Sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ, sắc đẹp…tất cả đều là do Chúa ban tặng. Những gì mà ta có đều là của Chúa. Người quản lý khôn ngoan phải biết nhìn xa, làm sao cho sự sống, trí tuệ, tài năng… giúp ta hướng tới những giá trị vĩnh cửu.
Tỉnh thức là thái độ của một gia nhân trung thành. Tỉnh thức và đợi chờ với niềm hy vọng là chủ sẽ trở về.
Kitô giáo là tôn giáo của hy vọng vì dựa trên lời hứa của Thiên Chúa. Thiên Chúa hứa và Ngài sẽ thành tín thực hiện lời hứa.Thiên Chúa thực hiện từng giai đoạn và ngày càng trọn vẹn hơn.Vì thế người Kitô hữu luôn hướng về tương lai chờ đợi lời hứa cứu độ đã được thực hiện trong lịch sử và sẽ hoàn tất sau lịch sử.
Chờ đợi hướng về tương lai tức là hy vọng. Hy vọng luôn gắn liền với lòng tin. Không có đức tin hy vọng chỉ là ảo tưởng. Không có hy vọng đức tin sẽ chết khô. Nhờ đức tin chúng ta chọn đúng hướng. Nhưng chỉ có hy vọng mới làm cho ta đi tới cùng đường.
Biết mình đang đi về đâu, người có lòng tin không vì thế mà đương nhiên hết còn cảm nhận tính bi đát của cuộc đời “ phù vân, bèo bọt” vì họ vẫn là con người như mọi người, nhưng họ có một niềm hy vọng giúp họ giữ được thái độ lạc quan và an bình.
Biết rằng mình được cứu chuộc bằng giá máu Chúa Kitô, người Kitô hữu luôn có đựơc điểm tựa an toàn cho hạnh phúc đích thực.
Con người là “hoa” và cũng là “rác”, nhưng với tình yêu Chúa Kitô, con người không còn là bèo bọt, không là phù hoa mà là con người của thần khí, trổ sinh những hoa quả của Thánh Linh (Gal 5,22). Làm việc thiện, luôn bình an, thư thái, tự chủ. Nhờ đó, chúng ta sống một Mùa Chay thánh thiện.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
2. SỨ ĐIỆP CỦA TRO
Lễ Tro mọi người tín hữu tiếp nhận tro xức trên trán, trên đỉnh đầu. Ðây là tập tục tôn giáo đạo đức có từ thời xa xưa trong Cựu ước.
Nhưng tro nói lên dấu chỉ ý nghĩa gì cho đời sống niềm tin đạo giáo?
1. Sau buổi lửa trại một đống củi được đốt thắp sáng lên lúc chiều tối, sáng hôm sau chỉ còn lại một nắm tro tàn nguội.
Ngày tháng đời sống con người cũng như vậy. Những lời chân tình trao cho nhau như than hồng nồng cháy, những ước vọng nhiệt huyết hăng say làm sưởi ấm lòng người, sau cùng cũng biến thành tro tàn.
Lời kinh Thánh nhắn nhủ: Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro!
2. Tro tàn còn lại sau trận hỏa hoạn
Tro tàn từ đống sách báo bị thiêu đốt hủy diệt.
Tro tàn sau trận chiến chém giết nhau bên Sarajevo, bên Irak, bên Haiiti, bên Congo, bên Hiroshima, bên Afghanistan...
Tro tàn gắn liền với lịch sử đời sống con người: tro tàn của tội lỗi.
Và tro tàn cũng do tội lỗi, thiếu xót của lịch sử từng cá nhân còn lưu lại: một tâm hồn tan hoang chán chường thất vọng, đổ vỡ không còn muốn nhìn về đằng trước. Vì niềm tin, niềm hy vọng đã cạn, như lời Ðức Mẹ Maria nói với Chúa Giêsu: Họ hết rượu rồi!
Lời kinh Thánh nhắn nhủ. Hỡi người hãy nhớ mình là người tội lỗi. Tội lỗi là đống tro tàn trong tâm hồn đời sống.
3. Sau mùa gặt hái, rơm rạ cây khô cỏ dại ngoài đồng ruộng được đốt cháy chỉ còn lại tro bụi. Bụi tro đó thẩm thấu xuống lòng đất, và biến thành chất phân bón sức sống cho cây lúa, cho hạt giống nẩy mầm đời sống mới của mùa gieo trồng kế tiếp.
Trong lò lửa, than củi bị đốt cháy, tạo nên sức nóng cực mạnh làm nung chảy vàng bạc kim loại và từ đấy lọc tẩy ra, đúc thành khuôn mẫu hình thù mới.
Ðời sống con người cũng bị thử thách trôi luyện như vậy, để trở thành một „người mới khác“.
Hỡi người hãy biết mình được tạo dựng sinh ra cho sự sống, cho tốt lành thiện hảo. Hãy trở về với niềm tin và đặt tin tưởng vào Thiên Chúa, Ðấng là nguồn sự sống đời mình!
Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
3. Ý NGHĨA CỦA LỬA VÀ TRO
Lửa và tro là hai biểu tượng ghi dấu để bước vào Mùa Chay. Nhúm tro tàn một cách bột phát gợi lên sự sầu khổ thiêng liêng, sự điêu tàn. Nhưng ở đây, người ta thấy sự khởi đầu một sự bắt đầu lại, một sự sám hối. Đó là nội dung bài chia sẻ của Đức Hồng Y Pierre Eyt cho các bạn trẻ về ý nghĩa Mùa Chay tại nhà thờ chính tòa Thánh Anrê, giáo phận Bordeaux, Pháp.
Thứ Tư lễ Tro không phải chỉ là ngày hôm sau của Thứ Ba Béo. Trước tiên, nó không phải là một ngày mang nét dân gian. Thứ Tư lễ Tro đối với các Kitô hữu là dịp bước vào Mùa Chay. Nó diễn tả một con đường thiêng liêng, được biểu hiện và hỗ trợ bởi những dấu chỉ, những biểu tượng như lửa và nhúm tro xức trên trán.
Hình ảnh lửa mà chúng ta sẽ lại thấy trong đêm Vọng Phục Sinh có ý nghĩa là chúng ta muốn thiêu đốt những gì cản bước chúng ta, và rồi chúng ta muốn hủy diệt tội lỗi vốn làm cho con người bị tổn thương và dị dạng. Thánh Phaolô nói rằng cần phải phá bỏ trong chúng ta con người cũ để mang lấy con người mới (x. Col 3,1-11). Lời gọi thật rõ ràng. Nó chứa đựng lời rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu là: « Hãy sám hối ». Điều này còn có nghĩa là thay đổi tinh thần, thay đổi tâm hồn, thay đổi não trạng. Tất cả những ích kỷ, lười biếng, lề mề, tham lam, giận dữ, bạo hành, kiêu ngạo là những thứ cần phá hủy và thiêu rụi.
Tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm về tội. Làm thế nào để dũ bỏ nó? Chúa Giêsu dạy bảo trong Tin Mừng rằng chúng ta sẽ là những kẻ chiến thắng tội lỗi khi biết thay thế lửa của sự xấu bằng lửa của Tình Yêu. Bởi vì, trước tiên lửa ở đây bừng cháy để thiêu hủy, nhưng cùng lúc nó còn chiếu sáng, sưởi ấm, củng cố, hướng dẫn và động viên. Như một ngọn lửa sống động, Đức Kitô là ánh sáng, là hơi ấm, là tiếng gọi, là sự an ủi. Ước chi ngọn lửa này tiếp tục bừng cháy trong tâm hồn chúng ta.
Tro được xức trên trán đối với chúng ta còn minh nhiên kêu gọi sám hối, nói cách chính xác là bằng con đường khiêm nhường. Nắm tro là những gì còn lại sau khi ngọn lửa thiêu rụi chất liệu mà nó đã chiếm lĩnh hoàn toàn. Chúng ta nhận thấy rằng khi có những nắm tro tàn, điều đó hẳn là không còn gì nữa từ cái mà đã bị lửa thiêu hủy. Đó còn là hình ảnh về sự nghèo khó của chúng ta. Nhưng tro cũng còn có thể làm cho đất đai màu mỡ, giúp tái tạo thiên nhiên và sự sống có thể tái sinh dưới đống tro tàn.
Khi chúng ta lưu ý đến những gì mang ý nghĩa từ tro tàn là chúng ta được dẫn vào bí tích giao hòa và thống hối. Nói rằng mình có tội là để được đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa. Nói rằng chúng ta hung bạo và hối tiếc về điều ấy, rồi ăn năn hối lỗi là để đến lượt mình chúng ta cũng biết bắt chước Thiên Chúa trong việc tha thứ. Bí tích giao hòa định hướng nội tâm, cũng giống như ngọn lửa có thể soi tỏ cho chúng ta từ bên ngoài trước bóng đêm tội lỗi. Do đó, con đường Phục Sinh nhìn bề ngoài gồm sáu tuần lễ và bốn mươi ngày của Mùa Chay, nhưng cách đặc biệt còn là con đường của trái tim, con đường của nội tâm, con đường của sám hối.
Lửa, tro, thống hối…nói lên sự phá bỏ và thiêu rụi « con người cũ », nhưng một điều rất rõ ràng, người ta chỉ hủy bỏ và thiêu rụi để thay thế bằng cái khác. Vậy thì tất cả nghĩa cử, hành động, và dấn thân mà Giáo Hội đề nghị thực hành cho Mùa Chay mà trong Tin Mừng chính Đức Giêsu đã giảng giải cho chúng ta về tính khẩn thiết như: bố thí, cầu nguyện, ăn chay. Điều này đề cập đến việc xây dựng lại những gì đã bị phá hủy. Đó chính là xây dựng bằng ân sủng của Đức Kitô, và bằng cách đưa bàn tay của mình cho Ngài dẫn dắt. Đó còn là xây dựng bằng Thần Khí của Đức Kitô tác tạo nên con người mới. Ở đó hội tụ ba phương hướng mà Tin Mừng nói với chúng ta: bố thí, cầu nguyện và chay tịnh.
Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng
4. CON LÀ THÂN TRO BỤI
Hôm nay là Thứ Tư lễ Tro, ngày khai mạc Mùa Chay thánh. Theo lời thánh Phaolô: ”Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ” (2Cr 6,2b)). Mùa Chay giúp chúng ta thực hành tinh thần thống hối, điều chỉnh lại hướng đi của mình và biết quay trở về với Chúa.
Mỗi người được xức tro trên đầu để chỉ sự khiêm nhường thống hối. Chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa việc xức tro, đồng thời cầu xin Chúa giúp sức để thi hành trong Mùa Chay này những lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay là cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí.
I. TÓM TẮT VỀ LỄ TRO
Ngày Thứ Tư lễ Tro, chúng ta nghe văng vẳng lời thánh ca từ sách Sáng thế: ”Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về bụi tro”. Lời Kinh Thánh này nhắc nhở chúng ta ý thức về thân phận con người, biểu hiệu “bụi tro” được dùng trong Kinh Thánh và trong lễ nghi Thứ Tư đầu Mùa Chay.
Về nghi thức làm phép tro và xức tro, qua thời gian lễ nghi này đã có sự biến đổi từ một nghi thức thống hối trong định chế về tập tục thống hối công cộng ngày xưa. Theo đó, những người đã phạm một số tội nặng công khai, mà mọi người biết, như chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình… là những người bị loại ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Để được nhận lại trong cộng đoàn, họ phải làm việc thống hối công cộng: vào ngày thứ tư trước Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, họ tập trung tại nhà thờ chính tòa để, sau khi xưng thú tội mình, Đức Giám mục trao cho chiếc áo nhâm mang trên mình, rồi lãnh nhận tro trên đầu và trên mình.
Sau đó họ bị đuổi ra khỏi nhà thờ và được chỉ định tới một tu viện để ở đó và thi hành một số việc thống hối đã ra cho họ. Vào sáng thư Năm Tuần thánh, các hối nhân này tụ tập tại nhà thờ chính tòa, được Đức Giám mục xem xét việc thực hành sám hối của họ trong Mùa Chay, sau đó ngài đọc lời xá giải tội lỗi của họ để giao hòa với cộng đoàn. Từ dây, họ được quyền tham dự các buổi cử hành bí tích.
Sau một thời gian lễ nghi tiếp tục biến chuyển. Vào năm 1091, công đồng Benevento (Nam Italia) đã truyền cử hành nghi lễ xức tro cho tất cả các nơi trong Giáo hội. Trong khi xức tro, vị Linh mục đọc: ”Ta là thân cát bụi và sẽ trở về cát bụi” (St 3,19). Tro này lấy từ những cành lá đã được làm phép trong ngày Lễ Lá năm trước để lại.
Trước công cuộc canh tân phụng vụ của công đồng Vatican II, lễ nghi làm phép tro và xức tro được cử hành trước lễ. Vào năm 1970, khi công bố sách lễ Rôma được tu chỉnh, thì lễ nghi này được cử hành sau phần phụng vụ Lời Chúa. Ngoài câu trích từ sách Sáng thế, còn có thêm một công thức khác dùng khi xức tro, lấy từ Phúc âm: ”Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng”(Mc 1,15).
II. Ý NGHĨA VIỆC XỨC TRO
1. Tro chỉ sự thống hối.
Trong Cựu ước, việc xức tro và mặc áo nhâm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân Israel.
Ngày xưa, khi ai làm việc gì không chính đáng, họ thường xức tro trên đầu để tỏ dấu chỉ ăn năn hối lỗi, quyết tâm làm điều lành, lánh sự dữ.
Tro là tập tục biểu hiệu của lòng ăn năn sám hối bên Trung Đông. Theo tập tục bên Do thái, trong Kinh Thánh còn ghi lại: Tro được dự trữ làm nước tẩy uế (Ds 19,9). Ông Abraham đã khiêm hạ trước mặt Thiên Chúa nhận mình là thân tro bụi (St 18,27). Rắc tro trên đầu cũng là lễ nghi sám hối trong niềm tin đạo giáo văn hóa thời xa xưa bên Do thái (2Sm 13,19; Mac 3,47). Mặc áo vải thô và rắc tro trên đầu là dấu chỉ lòng ăn năn thống hối của con người với Thiên Chúa (Eth 4,1; Mt 11,21).
Từ đây chúng ta nhận ra, trước tiên Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tổ, và hậu quả là con người xa Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con ngươi sẽ phải chết như là hậu quả của tội lỗi. Vì thế cần phải “quay trở lại” một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ “canh tân” trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ.
2. Tro chỉ sự chóng qua.
Việc xức tro mời gọi chúng ta ý thức về thân phận nhỏ nhoi mỏng dòn nơi bản tính con người của mình, vốn dễ bị tội lỗi thống trị. Nghi thức xức tro chính là nghi thức khai mạc Mùa Chay, nó là hành động hữu hiệu và cụ thể nhất nhắc nhở ta về thân phận và kiếp người mỏng dòn ấy: thân phận con người là tro bụi.
Trong lễ an táng, chúng ta thường hát bài thánh vịnh đáp ca 102. Bài thánh vịnh nói lên sự mong manh của kiếp con người, đời sống con người giống như loài hoa sớm nở chiều tàn, không có gì là bền vững:
Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi,
 Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
 Một cơn gió thoảng là xong
 Chốn xưa mình ở cũng không biết mình.
(Tv 102, 15-16)
Thi sĩ Nguyễn Khuyến, nhìn cuộc đời chóng qua của kiếp người cũng phải kêu lên bằng những hình ảnh sống động:
Ôi! nhân sinh là thế ấy!
 Như bóng đèn, như mây nổi,
 Như gió thổi, như chiêm bao!
Trong bài “Cát bụi” nhạc sĩ Trịnh công Sơn cũng nói lên kiếp mong manh của con người: Cát bụi, con người chỉ là cát bụi. Hạt bụi tuyệt vời khi hóa kiếp thân tôi. Hạt bụi mệt nhoài khi tôi trở về làm cát bụi. Một vòng quay. Trăm năm một kiếp người có là mấy: ”Chợt một chiều tóc trắng như vôi”…
Trịnh công Sơn không bi quan. Ông chỉ nói lên điều ông cảm nghiệm thấm thía về sự mong manh của kiếp người. Cuộc đời đẹp biết bao! Sự sống cao quí biết bao! Nhưng cũng chỉ như một “đóa hoa vô thường” như tên gọi của một bài hát khác của ông. Đó là thực tế, nhìn nhận đúng thực tế đó, đối diện với nó một cách can đảm có thể đưa đến một cuộc sống tốt đẹp và hữu ích hơn.
Tro không những chỉ được dùng trong lễ nghi thống hối xức tro hằng năm, mà còn được dùng trong nghi lễ nhậm chức đăng quang của Đức Giáo hoàng mới được bầu lên. Theo tập tục lễ nghi, vị hồng y niên trưởng đốt những sợi chỉ ra tro để nhắc nhở vị tân Giáo hoàng với câu: ”Sic transit mundi gloria”: vinh quang thế gian cũng mau qua như thế.
3. Tro nhắc nhở về sự chết.
Trong Cựu ước, tro chỉ thân xác chúng ta là tro bụi và sẽ phải chết: ”Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,19. x. Gb 34,4; Gr 6,26; Is 58,5).
Chết là án lệnh của Thiên Chúa sau khi nguyên tổ phạm tội: ”Người sẽ trở về với bụi đất”(St 3,19). Vì thế không ai có thể tránh được cái chết.
Người Á Đông quan niệm: con người phải trải qua 4 giai đoạn là sinh, lão, bệnh, tử. Có người thoát được lão và bệnh vì chết quá sớm, còn không ai thoát được tử, vì đã có sinh thì phải có tử, sinh tử luôn nối kết với nhau.
Kinh nghiệm ngàn đời đã giúp ông Văn Thiên Trường suy nghĩ về cuộc sống mong manh của con người nên đã phát biểu ý kiến bằng một câu để đời:
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
 Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
Ngàn xưa, người thế ai không chết,
 Chết, để lòng son rạng sử xanh.
Vì thế, trong truyền thống các đan sĩ và tu viện, tro được dùng để nói lên mối liên hệ với sự chết và khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Do đó, các tu sĩ, các đan sĩ có tục lệ tại một số nơi, muốn nằm trên đống tro với chiếc áo nhặm để chết. Thánh Martinô thành Tours ở bên Pháp đã nói: ”Không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm chết trên đống tro bụi”. Các vị này lấy tro đã được làm phép trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó con trải thêm áo nhặm và rồi các vị nằm trên đó khi hấp hối và khi chết.
Chớ gì việc xức tro trên đầu khiến cho chúng suy nghĩ về sự chết để biết dọn mình sẵn sàng vì giờ chết đến như kẻ trộm, luôn có tinh cách bất ngờ như người ta nói:
Sinh hữu hạn, tử bất kỳ.
Ai cũng mong đời sống của mình được trở thanh “cây bách niên” (agavé). Người ta cho biết: cứ một trăm năm một lần nở hoa, nhưng hoa đẹp lạ lùng. Trong một thế kỷ cây ấy đã sửa soạn cho cái ngày tươi đẹp ấy, nó dồn sức lực, nó trang điểm, nó làm cho đẹp, bằng công việc kín đáo, không ai trông thấy. Cả một thế kỷ! Và khi đã hết thời nó nở những cánh hoa trắng muốt để làm đẹp lòng người đến xem cái phi thường của nó.
III. MÙA CHAY VÀ THÂN TRO BỤI
Trong việc xức tro hôm nay Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tổ, và hậu quả là con người lìa xa Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con người sẽ phải chết như là hậu quả của tội lỗi. Vì thế, phải “quay trở lại” một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ “canh tân” trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ.
Để thể hiện sự thống hối trong Mùa Chay, chúng ta phải làm gì? Chắc chắn có nhiều việc phải làm và mỗi người có một chương trình riêng, nhưng thiết tưởng chúng ta phải thực hiện 3 điều mà Chúa Giêsu muốn cho chúng ta thực hành theo bài Tin Mừng hôm nay: đó là cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí.
1. Hãy cầu nguyện.
Cầu nguyện là một việc làm đẹp ý Chúa, mà ai cũng có thể làm được, ở đâu ta cũng có thể cầu nguyện được; chính vì thế Chúa Giêsu đã dạy: ”Các con hãy cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ”(Lc 22,40). Mà không những Chúa chỉ dạy chúng ta cầu nguyện, mà Chúa còn làm gương cầu nguyện nữa, nhiều chỗ trong Tin Mừng đã nói rõ (Lc 22,42; Ga 11,41-42). Còn rất nhiều đoạn khác trong Tin Mừng nói về việc Chúa Giêsu cầu nguyện, đặc biệt Chúa dạy chúng ta kinh Lạy Cha (Mt 6,9-13).
Cầu nguyện là một vấn đề cần thiết và rất quan trọng, nó là vấn đề sinh tử.
Thánh Gioan Kim Khẩu đã so sánh sự cần thiết của lời cầu nguyện với chuyện cá trong nước. Bao lâu cá ở trong nước, nó vẫn sống, hoạt động và tăng trưởng, nhưng nếu nó bị bắt ra ngoài, chắc chắn nó sẽ chết. Cũng vậy, con người muốn sống siêu nhiên thì phải cầu nguyện, nếu không cầu nguyện họ sẽ mất ơn Chúa giúp, rồi dần dà họ sẽ mất sự sống siêu nhiên không khác nào cá phải chết vì không có nước.
Thánh Bênađô cũng đã so sánh sự hô hấp cần thiết cho con người như thế nào, thì lời cầu nguyện cũng cần thiết cho con người như vậy. Đối với linh hồn, cầu nguyện cần thiết cũng như hô hấp cần cho cơ thể con người. Nếu con người hô hấp khó khăn thì thân xác sẽ trở thành tiều tụy, và nếu hô hấp đình chỉ thì con người sẽ chết. Cũng thế, khi ta ít cầu nguyện, thì linh hồn biến thành bạc nhược, và khi ta không cầu nguyện tí nào, thì linh hồn ta sẽ chết trước mặt Chúa.
Thế nào là cầu nguyện?
Các nhà tu đức học thường định nghĩa cầu nguyện là nâng tâm hồn lên cùng Chúa, hay cầu nguyện là cuộc trò chuyện giữa ta với Chúa. Thật thế, cầu nguyện là tâm tình với Chúa, thưa truyện với Chúa bằng tâm tư và ngôn ngữ của chính ta, như con cái thỏ thẻ với cha mẹ những tình cảm yêu mến, những nhu cầu xin Chúa thương ban, hoặc kể cho Chúa nghe những tâm sự vui buồn, lòng biết ơn…
Có những khi ta vui quá, hay buồn quá tự lòng ta không biết nói gì với Chúa, hoặc khi có đông người muốn có chung một lời cầu nguyện thì Giáo hội mới lập nên những lời kinh chung giúp chúng ta cùng nhau cầu nguyện. Do đó, cầu nguyện không chỉ là đọc kinh, đọc những công thức một cách máy móc, còn lòng trí thì để vào chuyện đâu đâu. Với kinh nguyện thì miệng đọc lòng ta phải kết hợp với lời kinh để suy gẫm với Chúa, với Đức Mẹ, các thánh… theo nguyên tắc “khẩu tụng tâm suy”.
Chúng ta thường nghe rất nhiều, đôi khi đã tham dự buổi cầu nguyện nhờ những kỹ thuật như: thiền, yoga, cầu nguyện theo cách của cộng đoàn Taizé, Béatitude (cộng đoàn Phúc thật), Chemin neuf (Con đường mới)… Những buổi tổ chức cầu nguyện như thế càng ngày càng được nhiều nơi tổ chức và hấp dẫn nhiều người vì những lợi ích sau: làm cho chúng ta “dễ nâng lòng lên với Chúa”, tạo cho chúng ta những bầu khí và tâm tình sốt sắng, ham thích cầu nguyện và thấy như Thiên Chúa ở bên chúng ta, lắng nghe chúng ta và an ủi chúng ta thật nhiều. Tóm lại, những kỹ thuật này góp phần tích cực vào cho buổi cầu nguyện. Điều này không ai có thể chối cãi được.
Nhưng nếu, cầu nguyện là trò chuyện với Chúa như bạn bè, cũng như tình bạn bè không cần kỹ thuật, thì cầu nguyện cũng không cần theo một kỹ thuật nào mà nó phải phát xuất tự trong lòng với những tâm tình riêng tư một cách tự nhiên và chân thành.
Truyện: Con chỉ nghe.
Một cụ già có thói quen ngồi bất động hằng giờ ở cuối nhà thờ. Một ngày nọ, cha xứ hỏi cụ là Chúa đã nói gì với cụ. Cụ trả lời:
- Thưa cha, Chúa chả nói gì cả, Ngài chỉ nghe con.
 - Vậy à? Thế thì cụ nói gì với Chúa?
 - Dạ, con cũng chẳng nói gì, con chỉ nghe Chúa!
Thực ra, đỉnh cao của cầu nguyện là hoàn toàn kết hợp với Chúa, lúc đó không còn ai nói ai nghe mà chỉ có sự im lặng, để con tim nói với nhau. Chúng ta có thể nói đây là một sự thinh lặng hùng biện, không nói gì mà lại nói rất nhiều. Vì thế cầu nguyện có 4 mức độ:
- Tôi nói, Chúa nghe.
 - Chúa nói, tôi nghe.
 - Không ai nói, cả hai cùng nghe.
 - Không ai nói, không ai nghe. Đây là sự thinh lặng tuyệ đối.
Phải chăng người đời cũng hiểu sự thinh lặng hùng biện là thế nào:
Nước mắt nói lời của mắt,
 Hương hoa nói lời của hoa,
 Lặng im nói lời đôi ta!
Ngoài ra chúng ta còn thực hiện lời Chúa dạy: ”Các con hãy cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ”(Lc 22,40). Làm sao chúng ta có thể cầu nguyện luôn khi chúng ta có trăm ngàn công việc phải làm? Cầu nguyện ở đây là biến mọi công việc thành lời nguyện.
Cầu nguyện đẹp lòng Chúa nhất là trong mọi công việc hằng ngày, ta hãy có tâm lòng cùng làm việc với Chúa, và làm vì yêu mến Chúa và phục vụ tha nhân. Qua đó những việc ta làm, những lời ta nói luôn luôn hướng về Chúa, cho Chúa và cho tha nhân… biến những lời nói việc làm của ta thành những việc lành, việc thiện như thánh nữ Têrêsa Hài Đồng nhặt một cọng rác, khâu một mũi kim cũng làm vì mến Chúa. Chúa muốn ta cầu nguyện liên tục là như vậy, chứ Chúa không bảo ta đọc kinh liên tục để khỏi sa chước cám dỗ đâu!
2. Hãy ăn chay.
Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Chay, đã là Mùa Chay thì phải ăn chay. Nhưng phải ăn chay như thế nào thì mới đúng cách và hữu ích?
Mùa Chay gợi nhớ 40 ngày chay tịnh của Chúa Giêsu trong hoang địa, mà Ngài đã trải qua trước khi đi vào sứ vụ công khai. Chúng ta đọc thấy trong Tin mừng: ”Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào trong hoang địa, để chịu quỉ cám dỗ. Ngài ăn chay ròng rã 40 đêm ngày, và sau đó, Ngài thấy đói” (Mt 4,1-2).
Giống như ông Maisen đã ăn chay trước khi đón nhận những tấm bia lề luật (x.Xh 34,28), và việc ông Êlia ăn chay trước khi gặp Chúa ở núi Horép (x. 1V 19,8). Đức Giêsu cũng vậy, qua việc cầu nguyện và ăn chay, đã chuẩn bị cho sứ vụ đặt trước mặt Ngài, sứ vụ được đánh dấu vào lúc khởi đầu, bằng một cuộc chiến đấu nghiêm trọng với kẻ cám dỗ.
Tôn giáo nào cũng có ăn chay như Do thái giáo, Hồi giáo, Phật giáo… nhưng phương cách và mục đích của họ lại khác nhau.
Người Do thái ăn chay bằng cách nhịn ăn từ sáng đến chiều (Giona 3,7-8; Samuel 14,24). Tập tục ăn chay bằng cách nhịn ăn từ rạng đông cho đến khi mặt trời lặn, ngày nay vẫn còn được anh chị em Hồi giáo tuân giữ trong suốt tháng Ramadan. Trong khi ấy, anh chị em Phật giáo lại ăn chay vào mồng một và ngày rằm, bằng cách vẫn ăn no, nhưng kiêng không ăn thịt của bất cứ động vật nào, chỉ ăn thực vật.
Ngày xưa, người Công giáo cũng ăn chay giống như người Do thái là nhịn ăn từ sáng cho đến chiều. Ngày nay người Công giáo chúng ta ăn chay một năm có hai lần vào ngày thứ Tư Lễ Tro và Thứ sáu Tuần thanh, và chỉ cần ăn ít đi vào buổi sáng và buổi chiều, đồng thời kiêng thịt vào hai ngày đó.
Chúng ta thấy việc ăn chay ngày nay rất đơn giản, đơn giản hơn các tôn giáo khác, nhưng việc ăn chay này có ý nghĩa nào đối với người Kitô hữu? Thánh Tôma tiến sĩ đã giải thích cho chúng ta:
- Thứ nhất: để kềm chế sự thèm muốn của xác thịt. Nhờ chay tịnh, sẽ giữ được sự trong sạch. Trong Cựu ước cũng đề cập đến: ”Sự thèm muốn bị kềm chế lại bởi kiêng rượu, thịt”.
- Thứ hai: nhờ vào sự chay tịnh để tâm hồn chúng ta gia tăng một cách tự do, hướng đến sự chiêm niệm về những điều thiện hảo của thiên đàng. Tiên tri Daniel cũng được Thiên Chúa mạc khải sau khi ăn chay ba tuần lễ.
- Thứ ba: ăn chay để đến bù cho những tội lỗi của mình. “Hãy đến với ta bằng cách thay đổi hoàn toàn tâm hồn ngươi, trong chay tịnh và trong khóc lóc”.
Thánh Augustinô cũng đã nhấn mạnh trong một bài giảng về cầu nguyện và ăn chay: ”Chay tịnh làm sạch sẽ tâm hồn, gia tăng trí khôn, hướng xác thịt đến thần linh, thể hiện con tim thống hối và khiêm nhường, chẻ nhỏ những đám mây thèm muốn, dập tắt đám lửa dâm dục và đốt lên ánh sáng thật sự của đức ái”.
Từ xa xưa, tiên tri Isaia đã có ý kiến về việc ăn chay và đã vạch vẽ cho dân Do thái biết cách ăn chay cho đẹp lòng Thiên Chúa: ”Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các người kêu tới trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày các ngươi phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa”?
“Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ, thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục? Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành”(Is 58,4-8).
Trong sứ điệp Mùa Chay 2009, Đức Thánh Cha bênêdictô XVI đã nói: ”Trong thời đại chúng ta, chay tịnh dường như đã đánh mất điều gì thuộc về ý nghĩa thiêng liêng, và trong một nền văn hóa có đặc điểm là tìm kiếm hạnh phúc vật chất, nó đảm nhiệm vai trò chữa bệnh để chăm sóc thân thể. Chắc hẳn chay tịnh đem lại lợi ích cho hạnh phúc thể lý, nhưng đối với người tín hữu, trước tiên nó là “một phương thế chữa trị” để chữa lành tất cả những gì ngăn cản họ sống phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Trong tông hiến Paenitemini năm 1966, Người Tôi Tớ Thiên Chúa Phaolô VI thấy nhu cầu trình bầy chay tịnh trong khuôn khổ ơn gọi của mọi Kito hữu “không còn sống cho chính mình, nhưng cho Đấng đã yêu thương và hiến thân vì mình, và sống cho anh chị em của mình”(x. Ch. 1).
Như vậy ăn chay thể xác không quan trọng bằng ăn chay tinh thần, nghĩa là từ bỏ ý riêng của mình để sống theo ý Chúa, loại bỏ tính ích kỷ và mở rộng con tim để yêu mến và đón nhận tha nhân, phục vụ anh chị em và đem hạnh phúc đến cho mọi người. Đúng là:
“An mặn nói ngay, còn hơn ăn chay nói dối”
(Tục ngữ).
3. Hãy làm phúc bố thí.
Mùa Chay là thời gian khám phá ra các nhu cầu của anh chị em mình và nhắc nhở chúng ta tìm mọi cách để gặp gỡ và giúp đỡ những người đau khổ thể xác cũng như tinh thần.
Trong sứ đệp Mùa Chay năm 2002, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II trích dẫn câu nói của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi cho tín hữu Côrintô: ”Bạn có gì mà bạn đã không lãnh nhận (1Cr 4,7). Và ngài tiếp: ”Một khi đã nhìn nhận như thế thì bạn phải yêu mến anh chị em và hy sinh cho họ”.
Làm phúc bố thí và ăn chay là những phương thế liên hệ mật thiết với nhau để giúp chúng ta ăn năn hối cải. Làm phúc bố thí có nghĩa là chia vui sẻ buồn với người khác, giúp đỡ người ta, nhất là những ai lâm cảnh thiếu thốn, phân phát cho người ta không nguyên của cải vật chất mà cả tinh thần nữa. Chính vì thế, chúng ta phải tỏ ra cởi mở đối với người khác, biết nhận ra những nhu cầu của họ và cảm thông những nỗi đau buồn của họ, đồng thời tìm cách đáp ứng những nhu cầu đó và làm cho những đau thương của họ vơi nhẹ đi.
Như vậy, cầu nguyện để kết hợp với Thiên Chúa đồng thời cũng hướng chúng ta tới tha nhân. Khi chúng ta đòi hỏi đối với bản thân và quảng đại đối với tha nhân, nhất là đối với những ai đau khổ và thiếu thốn là chúng ta sống kết hợp với Đức Kitô chịu đau khổ và bị đóng đinh vì Người tự đồng hóa với họ như Người nói: ”Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi từ thưở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát các ngươi đã cho uống; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm; Ta ngồi tù, các ngươi đã hỏi han”(Mt 25,35-36).
Truyện: Cho đi tất cả.
Một người kia rất nghèo và vẫn thường nghĩ mình là người nghèo khổ nhất trên khắp mặt đất này. Thế rồi, một hôm ông ta lên đường và gặp một người hành khất khác còn nghèo khổ hơn mình hơn nữa. Ông dừng lại chào hỏi và nói:
- Từ trước tới nay tôi vẫn tưởng mình là người nghèo khổ nhất trong thiên hạ, thế mà hôm nay gặp anh tôi thấy anh còn nghèo hơn tôi nữa, vì đến cái che nắng che mưa trên đầu anh cũng không có.
Người hành khất đáp:
- Này ông bạn ơi, xin ông đừng quên rằng mỗi người nghèo trên đường đi của mình đều gặp thấy những người khác còn nghèo khổ hơn nữa. Đó là điều duy nhất an ủi chúng ta hơn cả, bởi vì mình vẫn còn có thể cho đi người khác một cái gì đó.
Nghe vậy, người ấy liền giơ tay lên đầu lấy mũ trao cho người nghèo không có mũ. Dọc đường, người ấy lại gặp một người khác nghèo hơn nữa không có manh áo che thân, và người ấy liền cởi áo mình ra trao cho người kia. Tiếp tục con đường hành trình, người ấy lại gặp những người khác nghèo hơn nữa và trao cho mỗi người một chút cái mình có. Sau cùng, người ấy chỉ còn đôi dép trong chân và cảm thấy hài lòng sung sướng vì còn có thể tiếp tục đường đi.
Khi hoàn tất cuộc hành trình, người nghèo ấy thấy mình đến trước cửa thiên đàng và nhận ra mình chỉ còn hai bàn chân đi đất, thân mình hoàn toàn ở trần
Mẩu truyện trên đây nói lên ý nghĩa sâu xa của tinh thần nghèo khó là gì. Thật vậy, chúng ta thường nghe nói: ”Không ai nghèo khó đến nỗi không có gì để cho đi và cũng không ai giầu có đến nỗi không có thể lãnh nhận được gì thêm nữa”.
Cái phải cho đi khó hơn là chính bản thân mình, khi nào chúng ta chưa biết cho đi chính mình chúng ta vẫn chưa phải là người nghèo khó nhất. Cho đi chính bản thân mình mới là điều kiện căn bản không thể thiếu sót để nhận lãnh tất cả, tức là nhận lấy tình yêu và chọn con đường yêu thương.
Làm sao có thể chọn yêu thươngkhi chúng ta cảm nghiệm được tình thương quá ít ỏi, khi chung quanh chúng ta vẫn còn nhiều hận thù và mọi hình thức ích kỷ?
Phải, chúng ta vẫn có thể chọn yêu thương bắt đầu từ những bước nho nhỏ có thể được. Có thể bắt đầu từ một nụ cười, từ một lời nói âu yếm, một lời khích lệ cảm thông, một lời chào hỏi thân tình, một sự quan tâm chú ý, một đồng tiền nhỏ bé, một món quà đơn sơ. Đó là những bước tiến nho nhỏ trên con đường yêu thương, như những cái chấm nối lại thành một đường thẳng. Cũng vậy, những hành động yêu thương nho nhỏ sẽ ghép lại thành con đường yêu thương dài cho đến khi đạt tới nguồn tình yêu là chính Thiên Chúa (R. Veritas).
Mùa Chay đòi hỏi chúng ta thống hối để kết hiệp mật thiết vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, để cùng hưởng sự Phục sinh vinh hiển của Người. Vì vậy, cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí là thực hành sống những điều cốt yếu của tinh thần Mùa Chay.
Lm. Giuse Đinh lập Liễm
5. HÃY XÉ LÒNG
Mùa Chay được khởi đầu bằng nghi thức xức tro trên đầu. Nghi thức này bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của dân Do Thái. Trong Cựu Ước, mỗi khi muốn tỏ lòng ăn năn hối cải, người Do Thái thường xức tro trên đầu, ngồi trên đống tro và mặc áo vải thô hoặc xé áo ra.
Cựu Ước nói nhiều đến tập tục này. Nhưng dễ nhớ nhất là truyện dân thành Ninivê. Ninivê là một thành phố lớn. Nhưng dân chúng ăn chơi truỵ lạc, phạm nhiều tội lỗi. Thiên Chúa muốn tiêu diệt thành này. Trước khi phạt, Chúa sai ngôn sứ Giona đến báo động. Ngh vị ngôn sứ này nói Chúa sắp trừng phạt, dân thành sợ hãi bảo nhau bỏ đàng ăn chơi tội lỗi, tha thiết ăn chay cầu nguyện, mặc áo vải thô, ngồi trên đống tro. Thấy dân chúng có lòng ăn năn sám hối, Chúa đã tha phạt cho thành.
Việc xức tro và xé áo trước hết nói lên sự buồn phiền đau đớn vì đã phạm nhiều tội lỗi. Tội nhân tự nhận mình không xứng đáng được kính trọng, chỉ xứng đáng với tro bụi nhơ bẩn, với áo rách tồi tàn, đáng bị khinh miệt, bị chà đạp như cát bụi bên đường.
Việc xức tro và xé áo cũng làm cho tội nhân ý thức thân phận con người bọt bèo, cuộc đời mau chóng tàn phai như giấc mộng. Đời người như một nắm tro bụi, chỉ một làn gió nhẹ thoảng qua đủ xoá sạch vết tích. Cuộc đời giống như manh áo, hôm qua còn mới đẹp, hôm nay đã cũ kỹ xấu xí, hôm qua còn lành lặn, hôm nay đã sờn rách.
Như thế, việc xức tro và xé áo có một nội dung ý nghĩa rất sâu xa. Nhưng với thời gian, do những cử hành máy móc, các việc này dần dần rơi vào thái độ hình thức bên ngoài. Người ta làm cho qua lần chiếu lệ, chẳng còn có ý thức thống hối. Chính vì thế, ngôn sứ Giôen đã kêu gọi dân chúng: “Hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Hãy xé lòng chứ đừng xé áo” (Ge 2,12b-13a).
Nghi thức phải diễn tả tâm tình thì việc cử hành mới có ích lợi. Việc xức tro sẽ vô ích nếu trong lòng ta không dâng lên tâm tình sám hối. Việc xé áo sẽ trở thành giả dối nếu tâm hồn ta không tan nát vì hối hận tội lỗi.
Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn. Hãy xức tro vào tâm hồn cho tâm hồn xót xa đau đớn vì tội lỗi. Hãy xức tro vào thói kiêu căng để nó biết hạ mình xuống trong khiêm nhường bé nhỏ. Hãy xức tro vào thói phô trương để nó biết chìm vào âm thầm nghèo hàn. Hãy xức tro vào thói hận thù ghen ghét để nó đau đớn vì đã không biết yêu thương. Hãy xức tro vào những mối chia rẽ bất hoà để tẩy sạch vết thương, hàn gắn tình hiệp nhất. Hãy xức tro vào tính ích kỷ để nó biết mở ra chia sẻ. Hãy xức tro vào thói lười biếng để nó tỉnh thức chăm lo việc đạo đức. Xức tro như thế có khác gì xát muối vào lòng, sẽ gây nên đau đớn xót xa, nhưng sẽ tẩy rửa linh hồn nên trong trắng.
Xé áo chẳng có ích lợi gì nếu ta không xé lòng ra. Lòng ta bấy lâu đã gắn bó với tội lỗi. Tội lỗi ăn sâu dính chặt hầu như trở thành một phần của tâm hồn. Muốn dứt lìa tội lỗi, phải xé nó ra. Hãy xé lòng ra khỏi những đam mê dục vọng bất chính. Hãy xé lòng ra khỏi thói tham lam tiền bạc. Hãy xé lòng ra khỏi thói nô lệ danh vọng chức quyền. Hãy xé lòng ra khỏi thói ham mê ăn uống, rượu chè, cờ bạc. Hãy xé lòng ra khỏi thói tự mãn tự tôn. Biết bao thứ đã trở thành thiết thân. Những quan hệ, những tiền bạc của cải, những chức tước danh vị, những thú ăn chơi, những tự ái, những giận hờn, tất cả đã gắn chặt vào đời ta. Giờ đây phải xé nó ra. Đau đớn lắm. Vết thương sẽ nặng lắm. Máu sẽ chảy nhiều lắm. Nhưng khi đã cắt bỏ được hết những ung nhọt độc hại, linh hồn sẽ nhẹ nhàng, trong sạch và lớn mạnh vì được đầy tràn ơn phúc và tình yêu của Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy ban thêm sức mạnh cho con, để mùa Chay năm nay con thực sự biết xức tro vào tâm hồn, biết xé tâm hồn trong đau đớn vì tội lỗi. Lạy Chúa, xin đổi mới tâm hồn con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Mỗi lần dự lễ tro, bạn có ý thức ý nghĩa sâu xa của việc xức tro không?
2. Mỗi khi mùa Chay về, bạn có quyết tâm đổi mới đời sống không?
3. Hôm nay nếu phải xức tro vào tâm hồn, bạn sẽ xức vào nết xấu nào trong bạn?
4. Hôm nay nếu phải xé lòng mình, vết thương nào sẽ làm bạn đau đớn nhất. Bạn có dám xé nó ra không?
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

6. LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA THỨ TƯ LỄ TRO
LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA THẦN HỌC PHỤNG VỤ
Ngày Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta nghe văng vẳng lời thánh ca từ Sách Sáng thế: Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro. Lời Kinh thánh này nhắc nhở chúng ta ý thức về thân phận con người qua biểu hiệu "bụi tro" được dùng trong Kinh thánh và trong nghi lễ ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay. Trong bài viết này tôi sẽ nói qua về lịch sử và ý nghĩa thần học phụng vụ của Ngày Thứ Tư Lễ Tro.
1. Lịch sử Thứ Tư Lễ Tro
Những Quy luật tổng quát của Năm phụng vụ nói về ngày Thứ Tư Lễ Tro như sau: "Mùa Chay bắt đầu từ Thư Tư Lễ Tro và kết thúc ngay trước Thánh lễ Tiệc Ly. Ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay có xức tro; ngày đó khắp nơi ăn chay" (số 28 và 29). Lời chỉ dẫn này cho chúng ta biết ý nghĩa của Ngày Thứ Tư Lễ Tro trong Năm phụng vụ, cũng như trong suốt Mùa Chay thánh. Với Thứ Tư Lễ Tro, Giáo hội bắt đầu Mùa Chay. Ngoài ra trong cơ cấu phụng vụ của ngày này, Giáo hội cử hành lễ nghi làm phép tro và xức tro.
Trong truyền thống phụng vụ từ thế kỷ thứ 7, Ngày Thứ Tư Lễ Tro là một ngày quan trọng, và không một lễ nào có thề vượt lên trên. Người ta cũng gọi ngày này là "Đầu Mùa Chay" (Caput ieiunii), hay " Đầu Mùa ăn chay 40 ngày" (Caput Quadragesimalis). Việc ăn chay trong Mùa này đã có từ thời Đức Giáo Hoàng Gregoriô Cả (590-604).
Về nghi thức làm phép tro và xức tro, qua thời gian lễ nghi này đã có sự biến đổi từ một nghi thức nghi thức thống hối trong định chế về tập tục thống hối công cộng thời xưa. Lịch sử phụng vụ về việc thành hình Nghi thức cử hành bí tích thống hối và hoà giải, cũng như định chế Giáo hội về một số sinh hoạt đặc biệt, đã có tục lệ bỏ tro cho hối nhân công cộng đã phạm một số tội nặng cách công khai, mà mọi người đều biết, như chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình... Những người này bị loại ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Để được nhận lại trong cộng đoàn, họ phải làm việc thống hối công cộng theo định chế Giáo hội đưa ra. Vào ngày thứ tư trước Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay, những hối nhân công cộng này sẽ tụ tập lại tại nhà thờ chính toà, và sau khi xưng thú tội của mình, họ sẽ được Đức Giám mục trao cho chiếc áo nhặm mang trên mình, rồi lãnh nhận tro trên đầu và trên mình. Sau đó họ bị đưởi ra khỏi nhà thờ và được chỉ định đi tới một tu viện để ở đó và thi hành một số việc thống hối đã ra cho họ. Vào sáng thứ năm Tuần thánh, các hối nhân này tụ tập lại tại nhà thờ chính toà, được Đức Giám mục xem xét việc thực hành thống hối của họ trong Mùa Chay, sau đó ngài đọc lời xá giải tội lỗi của họ để giao hoà với cộng đoàn. Từ đây họ được quyền tham dự các buổi cử hành bí tích. Tại Rôma, vào thế kỷ thứ 7, các hối nhân công cộng tập họp tại một số nhà thờ tước hiệu (tituli) của thành phố, cũng như tại 4 Đại Vương cung thánh đường thánh Phêrô, thánh Phaolô ngoại thành, thánh Gioan Lateranô và Đức Bà Cả, để cử hành nghi lễ như vừa nói trên đây.
Về sau định chế thống hối công cộng không còn nữa, tuy nhiên lễ nghi bỏ tro vẫn còn giữ lại trong ngày Thứ Tư Lễ Tro. Đầu tiên chỉ có các tín hữu lãnh nhận tro trên mình. Về sau các Đức Giáo hoàng và tín hữu đều lãnh tro, để tỏ lòng thống hối. Sang thế kỷ thứ 10, thì có việc làm phép tro và một lời nguyện kèm theo bắt chước cơ cấu thánh lễ, nghĩa là có lời nguyện giống như Kinh nguyện thánh thể, và việc lãnh nhận tro như khi cử hành việc rước lễ.
Vào thế kỷ thứ 11, cũng tại Rôma, Đức Giáo hoàng tập họp các giáo sĩ, giáo dân tại nhà thờ thánh Anastasia. Ngài làm phép tro, bỏ tro cho mọi người, sau đó tất cả đi kiệu về nhà thờ thánh nữ Sabina ở đồi Aventino. Trong khi đ kiệu, Đức Giáo hoàng và cộng đoàn hát kinh cầu các thánh. Tất cả đều mặc áo nhặm, đi chân không, để tỏ lòng thống hối ăn năn. Khi đoàn kiệu đến nhà thờ thánh Sabina, Đức Giáo hoàng đọc lời xá giải và cộng đoàn cùng hát bài "Chúng ta hãy thay đổi đời sống, Xức tro và ăn chay hãm mình, khóc than vì lỗi lầm đã phạm. Hãy khẩn cầu Thiên Chúa chúng ta. Vì Người rất từ bi nhân hậu sẵn sàng tha thứ mọi tội khiên" (Immutemur, xc. Ge 2, 13). Sau đó ngài cử hành thánh lễ. Đó là trạm đầu tiên (statio) của Mùa Chay. Ngày nay vào Thứ Tư Lễ Tro, Đức Giáo hoàng cũng đến làm phép tro và bỏ tro tại nhà thờ thánh nữ Sabina theo truyền thống xưa. Trước đó có cuộc rước kiệu từ nhà thờ thánh Anselmô cũng trên dồi Aventino. Tại nhà thờ thánh nữ Sabina, ngài công bố sứ điệp Mùa Chay cho toàn thể Giáo hội (Sứ điệp Mùa Chay năm 2002 mang tựa đề: Anh em đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho đi nhưng không [Mt 10,8]).
Vào năm 1091, Công đồng Benevento (Nam Italia) đã truyền cử hành nghi lễ bỏ tro cho tất cả các nơi trong Giáo hội. Trong khi bỏ tro, vị linh mục đọc lời: "Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi" (St 3, 19). Tro này lấy từ những cành lá đã được làm phép trong ngày Chúa nhật Lễ Lá năm trước để lại. Trước công cuộc canh tân phụng vụ của Công đồng chung Vaticanô II, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro được cử hành trước thánh lễ. Vào năm 1970, khi công bố Sách Lễ Rôma được tu chính, thì lễ nghi này được cử hành sau phần phụng vụ lời Chúa. Ngoài câu trích từ Sách Sáng thế, còn có thêm một công thức dùng khi bỏ tro, lấy từ Phúc âm: "Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng" (Mc 1,15). Với công thức mới này được thêm vào, thì biểu hiệu "tro" đã mang thêm một ý nghĩa mới nữa đó là việc canh tân đời sống trong suốt Mùa Chay thánh. Sau đây là một trong hai lời nguyện làm phép tro: "Lạy Chúa, Chúa nhân từ đối với ai khiêm tốn, và tha thứ cho kẻ biết ăn năn. Xin nghe lời chúng con khẩn nguyện và rộng tay giáng phúc cho hết thảy chúng con sắp nhận lấy tro này, để chúng con kiên trì giữ bốn mươi ngày chay thánh, và nhờ đó được nên tinh tuyền, xứng đáng cử hành mầu nhiệm Vượt qua của Đức Kitô, Con Một Chúa, Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời" (còn có một lời kinh khác trong Sách Lễ Rôma).
2. Ý nghĩa việc bỏ tro và ngày Thứ Tư Lễ Tro
Trong Cựu Ước, việc xức tro và mặc áo nhặm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân Israel. Tro chỉ thân xác chúng ta là bụi tro, sẽ phải chết (xc. St 3,18.27; Giob 34, 17; Gr 6, 26; 25, 34; Est 4,13; Is 58, 5; Dn 9,3; Giona 3,6; Giudith 4,16; 9,1).
Trong truyền thống các đan sĩ và tụ viện, tro được dùng để nói lên mối liên hệ với sự chết và sự khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Vì thế, các tu sĩ, các đan sĩ có tục lệ tại một số nơi, muốn nằm trên đống tro với chiếc áo nhặm để chết. Thánh Martino thành Tours bên Pháp đã nói: "Không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm chết trên đống tro bụi". Các vị này lấy tro đã được làm phép trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó còn trải thêm áo nhặm và rồi các vị nằm trên đó khi hấp hối và khi chết. Các tu sĩ cũng có thói quen trộn tro vào bánh như của ăn. Đó là một hình thức hãm mình nhiệm nhặt mà các tu sĩ phải giữ.
Từ đây chúng ta nhận ra, trước tiên Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tổ, và hậu quả là con người xa Thiên Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con người sẽ phải chết như là một hậu quả của tội lỗi. Vì thế cần phải "quay trở lại" một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ "canh tân" trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ. Đàng khác suy tư về bụi tro, để cho thấy sự yếu hèn của mình và tính cách tuỳ thuộc vào Thiên Chúa vì con người được Ngài tạo dựng. Nhưng Thiên Chúa đoái thương và ban ơn cứu rỗi. Phụng vụ đã diễn tả nền tảng này qua các biểu hiệu và các lời kinh của ngày Thứ tư Lễ Tro.
Cùng với một số biểu hiệu khác được Giáo hội dùng trong Mùa Chay, như mầu áo lễ tím, không đọc Kinh Vinh Danh, không trưng bông hoa trên bàn thờ, không dùng đàn trong thánh lễ, bụi tro cũng được dùng để cho thấy tính cách thống hối của Mùa Chay và thân phận của con người hay chết.
Nói tóm lại, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro trong ngày Thứ Tư Lễ Tro gợi ra cho tín hữu về một thời điểm quan trọng đang bắt đầu liên hệ tới ơn cứu rỗi của họ, đó là Mùa Chay. Đồng thời, lễ nghi khởi đầu này cũng đề ra cho tín hữu một hành trình phải đi theo trong thời gian suốt Mùa Chay.
Hành trình đó là thực hành các việc làm biểu lộ sự thống hối, sống bác ái; đàng khác, tín hữu cũng phải đi sâu vào tâm tình thống hối, khi suy tư về thân phận con người, về lỗi lầm của mình và nhu cầu khẩn thiết phải trở về, phải canh tân cuộc sống. Tuy nhiên, tín hữu không làm những việc này trong ý thức khổ hạnh cá nhân, nhưng là để hướng về ơn cứu rỗi Chúa Kitô đã thực hiện và Giáo hội đang chuẩn bị mừng trong đại lễ Phục sinh. Ngày nay các biểu hiệu bên ngoài, như thống hối công cộng, như mặc áo nhặm, như đi chân không trong cuộc hành hương, vv. không còn được thực hiện như xưa, vì hoàn cảnh xã hội đổi thay, nhưng thái độ và ý chí thống hối, canh tân trở về vẫn phải in khắc sâu đậm trong thâm tâm mỗi người. Mỗi người sẽ tự đưa ra cho mình một số những thực hành thống hối trong cuộc sống cụ thể để biểu lộ ý nghĩa và tinh thần của lễ nghi xức tro.

7. MÙA CHAY VÀ ƠN CỨU ĐỘ
Mùa Chay là thời gian nhắc nhở đặc biệt đến ơn cứu độ.
Hầu như ngày nào Phụng vụ cũng có lời giục giã. Thí dụ:
Hãy khát khao tìm ơn cứu độ,
Hãy sốt sắng cầu xin ơn cứu độ,
Hãy khiêm tốn đón nhận ơn cứu độ,
Hãy tích cực cộng tác vào công trình cứu độ,
Hãy cảm tạ Chúa vì ơn cứu độ,
Hãy xin Chúa thương ban ơn cứu độ cho thế giới vv…
Tất cả chứng tỏ ơn cứu độ là hết sức quan trọng.
Vậy ơn cứu độ là gì?
Tôi không đưa ra một định nghĩa thần học. Chỉ xin nêu lên một số yếu tố gần gũi, vừa rút ra từ Kinh Thánh, vừa sát với kinh nghiệm cuộc đời.
Yếu tố thứ nhấtlà con người cần được cứu khỏi tình trạng tội lỗi. Tội lỗi bám vào con người. Tội lỗi đeo đẳng cuộc đời. Tội lỗi tước đoạt tự do con người.
Đây là một kinh nghiệm bản thân, mà mỗi người đều có thể nói lên cách này hay cách khác. Riêng thánh Phaolô dám viết ra kinh nghiệm của mình một cách khiêm nhường và xác thực. Thiết nghĩ đây là một sự thực mà mỗi người nên coi là của chính mình. Ngài viết: “Vẫn biết rằng Lề Luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: Vì điều tôi muốn, thì tôi không làm. Nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì tức là tôi đồng ý với Lề Luật và nhận rằng Lề Luật là tốt. Vậy thật ra không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm. Nhưng sự ác tôi không muốn, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi.
Bởi đó, tôi khám phá ra luật này: Khi tôi muốn làm sự thiện, thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa. Nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi.
Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 7,14-25). Nói lên được sự thực bi đát đó như thánh Phaolô là điều đáng mừng. Phải nhận sự thực này một cách khiêm nhường mới hiểu được sự cần thiết đi tìm ơn cứu độ.
Hiện nay, ý thức về tội đã và đang suy giảm một cách mau lẹ và rất đáng lo ngại. Có người mất hẳn ý thức về tội. Vì thế mà tình hình đạo đức xuống dốc rõ ràng. Nguy cơ đe doạ phần rỗi là rất trầm trọng.
Do đó, Mùa Chay nói về ơn cứu độ, mà nếu quên nhắc đến xiềng xích tội lỗi, thì sẽ là một thiếu sót lớn. Đối với những ai có trách nhiệm loan báo ơn cứu độ, sự thiếu sót đó sẽ là một bất trung đối với Đấng Cứu độ, làm lạc đi ý nghĩa mùa chay.
Yếu tố thứ hailà con người cần được cứu khỏi nguy cơ làm tôi ma quỉ. Quyền lực ma quỉ trên thế gian này là rất lớn, rất rộng.
· Có trường hợp con người vâng phục ma quỉ một cách ngoan ngoãn và tự nhiên như thể họ là con cái đối với ma quỉ là cha mẹ họ. Chúa Giêsu có lần đã nói rõ về một đám đông: “Cha các ông là ma quỉ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thực, vì sự thực không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối” (Ga 8,44).
· Có trường hợp con người phải vâng phục ma quỉ một cách miễn cưỡng như kẻ bị xiềng xích dưới quyền bạo lực.
Thánh Luca thuật lại hình ảnh kẻ bị quỉ ám tại Ghêraxa như một người bị cả một cơ binh hành hạ khống chế một cách ác độc. “Chúa Giêsu hỏi: “Tên anh là gì? Anh thưa: Đạo binh. Vì rất nhiều quỉ nhập vào anh” (Lc 8,30-31).
· Có trường hợp con người đi theo sự dụ dỗ của ma quỉ, như một người liên minh thân thích vốn cùng chung mưu tìm sự tội. Kinh Thánh nói: Khi Giuđa vừa ăn xong tấm bánh Chúa Giêsu trao cho, “Satan liền nhập vào y” (Ga 13,27).
Sự ma quỉ luôn mưu tìm cách lôi kéo con người vào đường tội lỗi là điều chắc chắc. Chúa Giêsu phán: “Simon, Simon, kìa Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo” (Lc 22,31).
Chính thánh Phêrô sau này cũng đã trải qua kinh nghiệm đó, nên đã khuyên bảo giáo đoàn mình: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỉ là thù địch anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé anh em” (1 Pr 5,8).
Trước một nguy cơ đáng sợ như thế đang xảy ra xung quanh chúng ta, chúng ta rất cần đến Đấng cứu độ. Phúc Âm cho thấy Đức Giêsu đã nhiều lần trừ quỉ, và ma quỉ rất sợ Ngài. Chính Ngài là Đấng cứu độ con người khỏi quyền lực ma quỉ.
Yếu tố thứ balà con người cần được hiệp thông với Thiên Chúa. Hai yếu tố trên chỉ là mặt tiêu cực. Mặt tích cực của ơn cứu độ là được hiệp thông với Thiên Chúa Cha, qua Đức Kitô. Thiên Chúa thường được trình bày như nguồn sự sống. Chúa Giêsu phán: “Quả thực, Chúa Cha có sự sống nơi mình thể nào, thì cũng ban cho người con được sự sống nơi mình như vậy” (Ga 5,26). Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu cầu nguyện: “Xin Cha tôn vinh Con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha, theo quyền năng đã ban cho Người trên mọi phàm nhân, để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người” (Ga 17,2).
Tham dự vào sự sống đời đời của Chúa được hiểu là được cứu độ. Vì thế, Chúa Giêsu hay nói về sự tham dự này nơi chính Ngài: “Ta là đường, là sự thực và là sự sống” (Ga 14,6). “Ta đến để họ được sống và sự sống dồi dào” (Ga 10,10). Theo chính Chúa Giêsu giải thích, thì tham dự sự sống của Chúa là nhận biết Thiên Chúa. Trong bữa tiệc ly Ngài nói với Chúa Cha: “Sự sống đời đời, đó là nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến là Giêsu Kitô” (Ga 17,3).
Theo Kinh Thánh, nhận biết Chúa thường mang một ý nghĩa riêng biệt, đó là tiếp xúc trực tiếp với Ngài, đón nhận Ngài, dấn thân theo Ngài, chọn Ngài một cách dứt khoát như chọn sự sống.
Như thế nhận biết Chúa cũng là một cách xin vâng trọn vẹn ơn gọi Chúa gởi đến cùng với mọi trách nhiệm đi kèm ơn gọi đó. Nhận biết Chúa là chọn điều Chúa chọn, nghĩ điều Chúa nghĩ, muốn điều Chúa muốn, cảm điều Chúa cảm. Nhận biết Chúa như thế là một cách cảm nghiệm được sự Chúa ở bên mình, ở trong mình, ở với mình. Ngài sống động như một tình yêu tác tạo và cứu độ, an ủi và đỡ nâng.
Ba yếu tố tôi vừa nêu lên chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Nhưng tôi hy vọng, với ơn Chúa, những người thiện chí sẽ có thể dùng như một gợi ý đơn sơ dễ hiểu, để đi vào Mùa Chay theo phương hướng rõ ràng. Họ sẽ cầu nguyện, sám hối, hãm mình, sửa tính theo ý Chúa một cách có ý thức hơn.
Tôi cầu mong: Những tâm hồn bé nhỏ, con cái Đức Mẹ, trong Năm Mân Côi này, sẽ đáp ứng lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng, biến Mùa Chay này thành khí cụ bình an, mang ơn cứu độ đến cho một mảng lớn nhân loại, đầy những xung khắc, đầy những sợ hãi, đầy những bất ổn, đầy những ảo tưởng đang chuẩn bị cho những chết chóc tang thương và những hận thù sâu sắc lâu dài.
ĐGM. Bùi Tuần

8. BỤI TRO
Hôm nay, khi bỏ tro trên đầu chúng ta, vị linh mục chủ sự đọc:
- Hời người, hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro.
Cũng một lời ấy được lặp lại cho mọi người, không phân biệt nam nữ, tuổi tác và địa vị.
Trong ngày đăng quang, trước đông đảo quần chúng từ khắp nơi kéo về công trường thánh Phêrô, vị Hồng Y niên trưởng tiến tới trước mặt Đức Tân Giáo Hoàng, tay cằm một miếng vải mỏng, vừa đốt vừa nói:
- Thưa Đức Thánh Cha, mọi chức sang quyền trọng cũng sẽ qua đi như thế.
Đó là một sự thật, mà không ai có quyền chối cãi.
Ngoài nghĩa địa có biết bao nhiêu ngôi mộ, cái thì to, cái thì nhỏ, cái thì đơn sơ một nắm đất, cái thì được xây cất lộng lẫy như một biệt thự, nhưng bên trong cũng chỉ là xương khô và tro bụi. Người đi trước thế nào, thì chúng ta những kẻ đi sau cũng thế, một ngày kia chúng ta sẽ phải cúi đầu vâng theo định luật chung ấy mà thôi:
- Danh vọng là mây khói và con người là bụi tro.
Bởi đó chúng ta phải nhìn rõ con người bởi đâu mà đến và rồi sẽ đi về đâu? Mục đích của cuộc đời chúng ta là gì?
Đức tin trả lời cho chúng ta rằng: cuộc đời là một chuyến đi tìm về cùng Thiên Chúa, mục đích cuối cùng của chúng ta phải là chính Thiên Chúa. Và để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ định mệnh này, Giáo Hội trong mùa chay luôn kêu gọi chúng ta hãy hy sinh hãm mình và làm việc lành phúc đức, đó là những cái chúng ta có thể đem theo trong cuộc hành trình cô đơn là cái chết.
Tuy nhiên, trong khi chấp nhận hy sinh hãm mình và làm việc lành phúc đức, chúng ta cần phải tránh đi thói kiêu căng và háo danh. Có nghĩa là chúng ta phải âm thầm và kín đáo, để chỉ mình Chúa biết và Ngài sẽ ân thưởng bội hậu cho chúng ta mà thôi.
Jacopone là một luật sư nổi tiếng, trong cuộc chạy đua vào thượng viện, ông trúng ghế nghị sĩ. Vào ngày ăn khao, đang lúc xem trình diễn văn nghệ thì rạp hát bị sụp đổ, khiến bà Jacopone bị vùi dưới đống gạch vụn. Người ta phải đào bới mãi mới kéo được bà lên. Khi ấy bà đã bị thương nặng và đang thoi thóp gần chết. Lúc bấy giờ người ta mới khám phá ra, bên trong chiếc áo dạ hội, bà mặc một chiếc áo nhặm, kết bằng lông ngựa cứng.
Ông Jacopone phàn nàn trách bà là đã đày đoạ thân xác, nhưng bà trả lời:
- Tôi khuyên răn mà ông không nghe. Ông vẫn cứ sống bê tha. Vì thế, tôi mặc áo này, để hy sinh và cầu nguyện cho ông.
Bà đã hy sinh hãm mình một cách âm thầm lặng lẽ để cầu nguyện cho ông và chỉ có một mình Chúa hay biết mà thôi.
Việc bỏ tro trên đầu nhắc cho chúng ta nhớ rằng mình chỉ là tro bụi, nhưng đừng trở về bụi tro với hai bàn tay trắng.
Bởi đó, ngay từ giây phút này chúng ta hãy lo thực thi tình bác ai yêu thương, nhờ đó chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương nước trời. Bởi vì, đứng trước cái chết thì: Những gì chúng ta ta có hôm nay, ngày mai sẽ thuộc về người khác. Những gì chúng ta mua sắm hôm nay, ngày mai người khác sẽ hưởng dùng. Chỉ những gì chúng ta cho đi mới mãi mãi thuộc về chúng ta mà thôi.

9. HOÁN CẢI
Có hai anh em ruột kia rất thương nhau, thông cảm nhau, và cùng có một mơ ước cao đẹp là sẽ sống một cuộc đời hết sức thánh thiện.
Lớn lên, người anh cưới vợ, sinh con, chăm chỉ làm ăn và cũng không quên những bổn phận đạo đức hàng ngày. Còn người em thì đi tu, thành một thầy dòng ngày ngày đi khắp nơi giảng đạo và giúp đỡ những người nghèo.
Rồi một ngày kia người em làm thầy dòng trở về quê thăm lại anh mình. Hai anh em nói chuyện với nhau thật nhiều về cuộc sống và tâm tư của mình. Người anh khám phá ra rằng ngày xưa hai anh em tâm đầu ý hiệp như thế, mà sao bây giờ lại khác nhau quá xa: người em thì vẫn thích thánh thiện như xưa và còn thánh thiện hơn xưa nữa, còn mình thì sao quá tầm thường không còn chút mơ ước nào về lý tưởng thánh thiện ngày xưa nữa.
Người anh tìm đến một vị ẩn sĩ để hỏi cho biết nguyên do sự khác biệt ấy. Vị ẩn sĩ không trả lời thẳng mà dùng những hình ảnh thiên nhiên để giải thích cho anh:
- Trước tiên là đám mây trên trời: thường thường bầu trời ngày nào cũng có những đám mây, nhưng không có đám mây ngày nào giống đám mây ngày trước. Cũng là mây, nhưng mây ngày nay khác mây ngày hôm qua.
- Kế đến là một cái cây xanh: nó vẫn luôn luôn là cây thông xanh rì, nhưng năm trước nó nhỏ hơn, năm nay nó đã lớn hơn và cao hơn một tí, năm sau nó sẽ lớn và cao hơn tí nữa. Có nhiều cái lá của năm trước mà năm nay không còn, và có nhiều chiếc lá của năm nay sẽ rụng vào năm tới để thay bằng những chiếc lá khác.
- Và sau cùng chính là thân xác con người: các tế bào trong thân xác con người luôn luôn thay đổi: có cái chết đi và có cái sinh ra thêm. Khoa học tính rằng cứ sau 7 năm thì thân xác ta hoàn toàn đổi mới không còn một tế bào nào của 7 năm trước đây nữa: sợi tóc, móng tay, làn da của ta năm nay hoàn toàn không chứa một tế bào nào của sợi tóc, móng tay và làn da của 7 năm trước.
Và tới lúc đó vị ẩn sĩ mới kết luận: tâm hồn con người cũng thế: muốn lớn lên, muốn tươi trẻ mãi, muốn hăng say sinh động thì mỗi ngày cũng phải bỏ những yếu tố xấu và đồng thời thu vào những yếu tố tốt. Không đào thải đi và không thu nhận vào thì nó sẽ chết khô như một thân cây chết cứng chứ không còn là một thân cây sống động vươn lên nữa. Cái diễn trình đào thải và tiếp nhận ấy chính là cuộc hoán cải, cần phải hoán cải liên tục. Sở dĩ người anh cảm thấy mình tầm thường, khô cằn vì anh ta bấy lâu nay đã tự mãn với những cái mình đang có, không muốn bỏ đi cái nào và cũng không mong thu thêm cái nào nữa.
Câu chuyện tới đây kể ra cũng đủ kết thúc. Nhưng người anh còn muốn tìm hiểu rõ ràng hơn nên hỏi tiếp:
- Làm thế nào để loại bỏ những cái xấu trong tôi? Nó nhiều quá và nó đã bám quá chặt vào con người tôi? Vị ẩn sĩ trả lời: quan hệ nhất là đức tin và tư tưởng: tuy đời mình có nhiều tội lỗi, nhưng ta đừng quá chú ý tới nó, đừng để mình bị nó ám ảnh, đừng nghĩ nhiều tới nó. Nếu lỡ phạm tội hãy sám hối, tin tưởng vào sự tha thứ của Chúa, rồi bỏ quên nó đi, phải coi thường nó. Đầu óc mình sẽ được thanh thản khỏi những điều xấu.
- Còn làm thế nào để thu nhận những điều tốt, người anh hỏi tiếp? Vị ẩn sĩ cũng trả lời: cũng quan trọng ở đức tin và tư tưởng: phải quí chuộng những điều tốt, phải luôn nghĩ tới nó, phải để cho nó ám ảnh tâm trí mình và phải mơ ước thực hiện cho kỳ được những điều tốt, và tin rằng Thiên Chúa sẽ giúp mình thực hiện được.
Người anh trong câu chuyện trên phản ảnh tâm trạng của chúng ta:
- Cuộc sống của chúng ta có thể nói là cứ mãi mãi ở thế bình bình: chúng ta không đến nỗi xấu lắm mà cũng không được tốt lắm. Cái thế lình bình đó khiến chúng ta giống như một thân cây bị chai: không chết khô mà cũng không có sức sống vươn lên.
- Tại vì mỗi ngày chúng ta không biết cố gắng loại bớt khỏi ta những gì là xấu, là khuyết điểm, là tội lỗi và đồng thời cũng không cố gắng đón nhận những gì là tốt, là cao, là lý tưởng hơn. Nghĩa là vì chúng ta không chú ý thực hiện sự hoán cải hằng ngày cho nên hết ngày này sang ngày khác cuộc đời của chúng ta vẫn cứ chai lì, tầm thường, vô vị.
- Muốn cho cuộc sống có đà vươn lên thì phải thực hiện sự hoán cải ấy:
Mỗi ngày loại dần những cái xấu bằng cách đừng nghĩ tới nó, đừng tiếp xúc với nó, đừng mơ tưởng tới nó.Mỗi ngày đón nhận thêm những điều tốt bằng cách đi tìm nó, chú trọng tới nó, mơ ước nó và cố gắng chiếm đoạt nó.
Bấy nhiêu thôi xét ra cũng đủ là một chương trình dài hạn cho chúng ta chẳng những trong mùa chay này mà còn trong suốt cả cuộc đời chúng ta.
(Trích trong Sợi Chỉ Đỏ)

10. ĂN CHAY CÁCH NÀO MỚI ĐẸP LÒNG THIÊN CHÚA?
Câu hỏi gợi ý:
1. Trong các tôn giáo, đặc biệt trong Kitô giáo, ăn chay có những ý nghĩa và tác dụng nào?
2. Ăn chay như thế nào mới đẹp lòng Thiên Chúa? Mới đem lại ích lợi đích thực cho tâm linh ta? Hình thức ăn chay và tinh thần chay tịnh, cái nào quan trọng hơn?
3. Tại sao nên ăn chay và cầu nguyện một cách kín đáo?
Suy tư gợi ý:
1. Ăn chay trong đời sống tâm linh và tôn giáo
Bất kỳ tôn giáo nào cũng đề cao việc ăn chay và cầu nguyện, vì ăn chay và cầu nguyện có nhiều tác dụng tốt đẹp về mặt tâm linh.
a. Trước hết, ăn chay - thường đi đôi với hãm mình - là để tỏ lòng thống hối và đền tội, làm hoà với Thiên Chúa, quyết tâm trở về với đường ngay nẻo chính, với công lý và tình thương. Câu chuyện thành Ninivê là một điển hình (x. Gn 3,1-10). Đây là một thành phố tội lỗi, Thiên Chúa dự định trừng phạt bằng cách phá huỷ thành. Dân thành biết vậy nên đồng lòng ăn chay và quyết tâm thống hối. Vì thế, Thiên Chúa đã từ bỏ dự định phá huỷ thành ấy.
b. Ăn chay - phối hợp với những việc thực thi công bình và bác ái - là một cách thể hiện lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, muốn chia sẻ những nỗi thống khổ mà Đức Giêsu hay người nghèo, người bị áp bức phải chịu. Đây là một việc làm rất đẹp lòng Thiên Chúa. Người ăn chay nên dùng tiền tiết kiệm được do việc ăn chay để thực hành đức ái: giúp đỡ người nghèo túng, ủng hộ những việc làm từ thiện, những công trình cải thiện xã hội hoặc Giáo Hội…
c. Ăn chay - phối hợp với cầu nguyện, tĩnh tâm, chiêm niệm - để có một sức mạnh tâm linh. Khi ăn chay, ta phải chống lại sự đòi hỏi của bản năng thèm ăn, nhờ đó sự tự chủ lên cao, sức mạnh tâm linh cũng tăng lên. Ăn chay cũng lôi kéo ơn Chúa và sức mạnh thần linh xuống trên ta. Nhờ đó ta có thể thực hiện những việc làm hay những tiến bộ về tâm linh. Điều đó được Đức Giêsu đề cập đến qua câu nói: «Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện» (Mt 17,21). Vì để trừ quỉ, cần có một sức mạnh tâm linh rất cao, tức sự thánh thiện, và để đạt được sức mạnh ấy, ăn chay cầu nguyện là một phương cách hữu hiệu.
Chính Đức Giêsu đã ăn chay 40 đêm ngày trước khi bắt đầu cuộc đời công khai của mình. Đó là một mẫu gương cho ta: khi bắt đầu thực hiện hay quyết định một việc gì quan trọng về tâm linh, ta nên ăn chay và cầu nguyện để được nhiều ơn Chúa hầu quyết định sáng suốt và thực hiện công việc có hiệu quả.
2. Tinh thần chay tịnh
Cốt yếu của việc ăn chay không hệ tại việc nhịn ăn, kiêng ăn hay ăn ít đi, mà hệ tại tinh thần mà việc ăn chay muốn biểu lộ. Ăn chay chỉ là một hình thức cụ thể để biểu lộ tâm tình bên trong: thống hối, muốn đền tội, quyết tâm trở về với Thiên Chúa, hay muốn thể hiện tinh thần bác ái, thông cảm với những người đau khổ, hay muốn tăng cường sức mạnh tâm linh… Nếu không có những tâm tình bên trong ấy làm nội dung, thì việc ăn chay chỉ là một hình thức trống rỗng, không có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Ngôn sứ Giêrêmia cho biết Thiên Chúa không đoái hoài đến việc ăn chay theo kiểu thuần hình thức ấy: «Chúng có ăn chay, cầu khẩn, Ta cũng chẳng thèm nghe tiếng; có dâng lễ toàn thiêu và lễ phẩm, Ta cũng chẳng tỏ lòng xót thương» (Gr 14,12).
Như vậy ăn chay cốt yếu là một việc làm trong nội tâm, không ai thấy được hơn là việc thể hiện ra bên ngoài ai cũng thấy được. Điều này phù hợp với lời khuyên của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: «Khi ăn chay, hãy rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh». Ngôn sứ Giôen trong bài đọc 1 hôm nay cũng nhấn mạnh cái cốt tuỷ bên trong của việc chay tịnh: «Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em» (Ge 2,13). Điều quan trọng là trở về với Thiên Chúa hơn là ăn chay bên ngoài.
Ngôn sứ Isaia lại nhấn mạnh đến cốt lõi của việc ăn chay là tinh thần yêu thương và tôn trọng công lý, chứ không phải là hình thức khổ chế bên ngoài: «Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn. Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa? Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?» (Is 58,3-7). Như vậy, ăn chay bằng những việc làm bác ái, bằng việc lên tiếng cho công lý, để đập tan những bất công, để bênh vực kẻ nghèo khổ, sống ngoài lề xã hội, những kẻ bị áp bức, thì thực tế và đẹp lòng Thiên Chúa hơn là việc nhịn ăn một cách hình thức.
Nói như thế không có nghĩa là không cần ăn chay mà chỉ cần đối xử với nhau cho có tình nghĩa, hay chỉ cần thực hiện công lý và bác ái thôi. Thiên Chúa muốn rằng «các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ» (Mt 23,23). Vì hình thức và nội dung phải đi đôi với nhau: hình thức đòi buộc phải có nội dung, nhưng nội dung cũng đòi hỏi phải có hình thức. Vì thế, khi ăn chay, chúng ta vừa nhịn ăn hoặc ăn ít để thực hiện mặt hình thức, mà vừa phải có những tâm tình thâm sâu bên trong, được thể hiện cụ thể bằng việc thực thi công bằng và bác ái để thực hiện mặt nội dung. Tuy nhiên, ta cần biết là tâm tình thâm sâu bên trong làm cho hình thức thể hiện bên ngoài có giá trị. Nếu chỉ có hình thức bên ngoài, thì hình thức đó hoàn toàn vô giá trị.
3. Ăn chay và cầu nguyện một mình với Thiên Chúa
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh đến sự kín đáo khi ăn chay và cầu nguyện. Ăn chay và cầu nguyện là những hành vi đối thoại với Thiên Chúa, vì thế, nó cần được thực hiện một cách riêng tư, trong thầm lặng với Ngài. Nó củng cố tình thân hay sự thân mật giữa ta với Thiên Chúa. Thật ngược đời và quái dị nếu sự thân mật riêng tư giữa vợ chồng hay bạn bè với nhau lại được phơi bày ra trước mặt mọi người. Cũng vậy, sự thân mật riêng tư giữa ta với Thiên Chúa thì chỉ nên giữa Thiên Chúa với ta biết với nhau, không nên cố ý thực hiện trước công chúng để ai cũng biết. Cố ý ăn chay và cầu nguyện trước mặt mọi người thì đó không còn là sự đối thoại thật sự với Thiên Chúa nữa, mà nó đã bị biến chất thành một hành vi đóng kịch. Như thế có khác gì hai người hôn nhau để người khác chụp hình.
Càng muốn cho mọi người thấy tình yêu riêng tư của mình thì tình yêu ấy chỉ là «tình yêu biểu diễn», «có vẻ yêu thương», mang nặng tính hình thức và giả dối, chứ không phải tình yêu đích thực. Chỉ những người đạo đức giả mới thích biểu diễn việc ăn chay và cầu nguyện của mình trước mặt người khác. Trái với tinh thần giả hình ấy, Đức Giêsu khuyên ta nên cố ý dấu không cho người khác biết mình ăn chay, thậm chí nên đánh lạc hướng để người khác không thể đoán ra hay nghi ngờ mình ăn chay: «Khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo».
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, hôm nay là ngày mở đầu mùa Chay, Cha muốn con ăn chay trong mùa này như thế nào? Suy gẫm lời của ngôn sứ Isaia, con biết rằng lối ăn chay mà Cha thích nhất nơi con, đó là con biết quan tâm đến hạnh phúc và đau khổ của tha nhân, đến những vấn đề xã hội, đến những người nghèo khổ, người bị áp bức chung quanh con. Cha muốn con ăn chay bằng cách làm một điều gì đó thật cụ thể và thực tế để những người đang đau khổ ấy được hạnh phúc hơn, giảm được phần nào đau khổ của mình. Cha muốn con ăn chay bằng cách nỗ lực làm cho xã hội trở nên công bằng và tốt đẹp hơn, bằng sự lên tiếng, can thiệp, hỗ trợ… trong khả năng của mình. Xin cho con quảng đại và can đảm thực thi tinh thần ăn chay ấy trong mùa chay này, để chuẩn bị đón mừng mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu, Con Cha trong những tháng sắp tới. Amen.
JKN

11. HÃY XÉ LÒNG
Một vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao. Ngày đêm ông ăn chay cầu nguyện. ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết. Để thưởng công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi. Khi ông ăn chay và cầu nguyện ít, ngôi sao mờ đi. Khi ông ăn chay nhiều và cầu nguyện nhiều thì ngôi sao càng sáng lên. Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi. Khi ông chuẩn bị lên đường thì một bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng ông. Thày trò hăng hái lên đường. đường càng lên càng dốc dác khó đi. Mặt trời càng lúc càng nóng gắt. Cả hai thày trò ướt đẫm mồ hôi và cảm thấy khát nước. Nhưng không ai dám uống. Em bé không dám uống trước khi thày uống. Vị ẩn tu không dám uống vì sợ mất công phúc trước mặt Chúa. Nhưng nhìn thấy bé gái mỗi lúc mệt thêm, thày ẩn tu thấy thương, nên mở nước ra uống. Lúc ấy cô bé mới dám uống. Uống nước xong, cô bé mỉm cười rất tươi và cám ơn thày. Thày ẩn tu len lén nhìn lên đầu núi. Thầy sợ ngôi sao biến mất vì thày đã không biết hãm mình. Nhưng lạ chưa, trên đầu núi thày thấy không phải một mà có đến hai ngôi sao xuất hiện. Thì ra, để thưởng công vì thày biết nghĩ đến người khác, Chúa đã cho xuất hiện một ngôi sao nữa, sáng không kém gì ngôi sao kia.
Mùa chay được mở đầu bằng nghi thức xức tro và một ngày ăn chay kiêng thịt. Có lẽ có nhiều người thắc mắc tại sao ngày xưa người Do Thái rắc đầy tro trên đầu, ngồi cả trên đống tro, mà ngày nay ta chỉ xức một chút ít tro, và tại sao ngày xưa ăn chay trong bốn mươi ngày, mà ngày nay chỉ còn ăn chay có 2 ngày Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu tuần thánh? Thưa vì Giáo hội muốn ta càng ngày càng đi vào tinh thần hơn là chỉ giữ hình thức bên ngoài.
Mục đích của Mùa Chay là giúp ta trở về với Chúa và với anh em bằng sám hối nhìn nhận tội lỗi của chính mình. Việc xức tro, ăn chay, cầu nguyện, làm việc thiện, chỉ là những phương tiện.
Xức tro là để tỏ lòng sám hối. Xức nhiều tro mà trong lòng không thật tình sám hối thì có ích gì. Ngày nay, Giáo hội chỉ dùng một chút tro tượng trưng để nhắc nhớ ta. Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy tâm hồn mình đã ra hoen ố vì tội lỗi. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã bôi tro trát trấu vào khuôn mặt Thiên chúa, làm lem luốc khuôn mặt Giáo hội, làm ô danh cho đạo thánh của Chúa. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã làm cho mối quan hệ với tha nhân bị vẩn đục vì những tham vọng, những ích kỷ, những nhỏ nhen của ta. Hãy xức tro vào tâm hồn để lòng ta xót xa, đau đớn, hối hận vì những tội lỗi đã phạm.
Ăn chay không phải là một hình thức làm cho qua lần, chiếu lệ. Ăn chay không phải chỉ là nhịn ăn một hai bữa cơm. Ăn chay có mục đích nhắc nhớ ta hãy biết hãm dẹp thân xác, hãm dẹp những tính mê tật xấu, hãm dẹp những gì làm mất lòng Chúa và làm phiền lòng anh em. Giáo hội giản lược việc ăn chay vào 2 ngày trong một năm, không phải vì coi nhẹ việc ăn chay, nhưng vì Giáo hội muốn tránh thái độ ăn chay hình thức, để tập trung vào việc ăn chay trong tâm hồn. Nhịn ăn một bát cơm không bằng nhịn nói một lời có thể làm buồn lòng người khác. Nhịn ăn một miếng thịt không bằng nhịn đi một cử chỉ xúc phạm đến anh em. Nhịn một bữa cơm ngon không bằng nhường nhịn, tha thứ, làm hoà với nhau. Kềm chế cơn đói không bằng kềm chế cơn nghiện rượu, nghiện ma tuý, nghiện cờ bạc. Kềm chế cơn khát không bằng kềm chế dục vọng, tính tham lam, thói kiêu ngạo.
Chính vì thế mà tiên tri Dô-el đã kêu gọi dân chúng: "Hãy xé lòng chứ đừng xé áo". Người Do thái có tục lệ khi ăn chay, thống hối thì xé áo ra. Đó là một hình thức biểu lộ sự thống hối. Điều quan trọng là có tâm hồn thực sự sám hối. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những tham lam, bất công. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói lười biếng, khô khan, nguội lạnh. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những dính bén trần tục. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói gian dối, giả hình. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới gạt bỏ được những chướng ngại ngăn cản ta đến với Chúa. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới đến gần Chúa, sống tình thân mật với Chúa, hưởng được tình yêu thương của Chúa.
Để ăn chay trong tinh thần và để thực sự hướng về tha nhân, nhiều nước trên thế giới đã biến việc ăn chay thành những hành động bác ái cụ thể. Mỗi ngày trong mùa chay, họ bớt chi tiêu một chút, gửi tiền tiết kiệm giúp những nơi nghèo khổ, bị thiên tai. Nhờ thế, việc ăn chay của họ không còn là hình thức, nhưng là những hi sinh thực sự và trở nên những việc làm đầy tình bác ái huynh đệ.
Bây giờ thì chúng ta đã hiểu thế nào là ăn chay và sám hối đẹp lòng Chúa. Mỗi người hãy tự đặt ra cho mình, cho gia đình mình một chương trình sống Mùa Chay. Ước gì mùa Chay năm nay sẽ là khởi điểm của một đời sống mới, giúp mỗi người chúng ta thực sự thay đổi đời sống, mến Chúa hơn, yêu người hơn.
Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con là kẻ tội lỗi. Amen.
ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

12. MẦU TÍM TRONG PHỤNG VỤ MÙA CHAY
Suốt năm tuần lễ mùa chay bắt đầu từ thứ Tư lễ Tro đến Chúa nhật lễ Lá, trong các lễ nghi phụng vụ đều dùng mầu tím từ khăn phủ bàn thờ đến áo lễ linh mục mặc.
Suốt năm tuần lễ mùa chay bắt đầu từ thứ Tư lễ Tro đến Chúa nhật lễ Lá, trong các lễ nghi phụng vụ đều dùng mầu tím từ khăn phủ bàn thờ đến áo lễ linh mục mặc.
Mầu tìm có ý nghĩa gì trong đời sống đức tin chúng ta?
Mầu tím là hỗn hợp pha trộn của hai mầu đỏ và xanh chung nhau.
Mầu tím nói về sự ăn năn thống hối trở về đường ngay lối chính.
Mầu tím dùng trong Phụng vụ cho mùa Vọng chuẩn bị đón mừng lễ Chúa Giáng sinh nhập thể làm người, cho mùa chay chuẩn bị đón mừng lễ Chúa sống lại từ cõi chết, cho nghi lễ cử hành bí tích hòa giải thống hối, cho lễ nghi rước kiệu cầu mùa ba ngày trước lễ Chúa Giêsu lên trời, và cho nghi lễ an táng người qua đời.
Trong mùa chay, phẩm phục phụng vụ dùng mầu tím muốn diễn tả: đời sống cũ của con người sụp tàn qua đi, và đời sống mới trong con người nẩy mầm mọc lên.
Đúng như vậy, mầu tím diễn tả sâu xa khía cạnh sụp đổ suy tàn, sự qua đi, sự cởi bỏ của con người cũ, nó khơi lên sự sầu buồn, nhớ nhung mong chờ.
Nhiều người nghĩ rằng mầu tím gợi lên tâm tưởng bất an, gây suy nghĩ bối rối. Có người cho rằng mầu tím đóng vai trò trung gian trình bày giữa trời và đất, giữa đam mê khát vọng và thông minh của trí khôn, giữa tình yêu mến và sự khôn ngoan.
Giáo Hội nhìn nơi mầu tím là mầu nối kết giữa mầu xanh và mầu đỏ. Mầu xanh nói chỉ về trời, còn mầu đỏ nói chỉ về con người.
Mầu tím dùng trong phụng vụ mùa chay muốn nói lên ý nghĩa: Thần linh Thiên Chúa liên kết với con người, cùng tìm cách thấm nhập vào thân xác máu mủ của họ.
Mùa chay không chỉ nguyên là thời thời gian hãm mình kiêng khem, nhưng còn là thời gian tinh luyện tẩy rửa cho trở nên tinh ròng thanh sạch, thân xác hướng về Thiên Chúa nơi trời cao, như mầu đỏ hoà lẫn chung hợp với mầu xanh.
Trong lễ an táng người qúa cố vị chủ tế mặc phẩm phục lễ nghi mầu tím muốn nói lên niềm hy vọng, người qúa cố với cả thân xác linh hồn đi về với Thiên Chúa, trời và đất liên kết lại với nhau, đất được cất nhắc đưa lên trời cao.
Mầu tím trong phụng vụ mùa chay nói lên ý nghĩa cánh cửa mầu nhiệm chết, sự đau buồn mở sang nếp sống mới: sự sống lại của Chúa Giêsu là ơn cứu chuộc cho con người.
Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long


13. Ý NGHĨA MÙA CHAY THÁNH CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO
Giáo hội bước vào Mùa Chay thánh. Vậy Mùa Chay là gì?
Trong tiếng Latinh, Mùa Chay thánh được gọi là "Quadragesima" (ngày thứ 40), tức là thời kỳ gồm 40 ngày, (thực sự là 46 ngày, nếu tính từ Thứ tư lễ Tro cho đến Chúa nhật Phục sinh), nhưng theo nghĩa hẹp, Mùa Chay tính từ Chúa nhật thứ nhất đến chiều Thứ Năm Tuần Thánh, nghĩa là cho tới lúc cử thành thánh lễ Tiệc Ly vào ban chiều "in Caena Domini", trong đó Chúa lập Bí tích Thánh Thể, rửa chân cho 12 môn đệ và truyền lại Giới răn mới.
Mùa Chay kéo dài 40 ngày, trước hết để nhớ lại 40 ngày Chúa Giêsu ăn chay và cầu nguyện trên Núi. Núi này cao 500 thước, ở mạn bắc cánh đồng Gerico, cách thành phố này 4 cây số. Theo truyền thống từ lâu, Núi nầy được coi là nơi Chúa Giêsu ăn chay và cầu nguyện trong 40 đêm ngày và sau đó bị Satan cám dỗ (Mt 4,1-11; Lc 4,1-15). Hiện nay, trên đỉnh núi có một nhà nguyện được xây cất tại chính nơi Satan cho Chúa nhìn thấy "tất cả các nước trên thế giới và sự huy hoàng của các nước này (Mt 4,8).
Thời gian 40 ngày cũng để nhớ lại 40 đêm ngày Maisen cầu nguyện trên Núi Sinai và được Chúa trao cho 10 Giới răn. Rồi 40 ngày còn để nhớ lại cuộc hành trình 40 ngày trong sa mạc của Tiên tri Elia, lúc ông trốn khỏi cơn thịnh nộ của Hoàng hậu Gezabele, để tiến về Núi Oreb (cũng là núi Sinai, kế Biển Đỏ và Kênh đào Suez), nơi đây Chúa mạc khải và trao cho ông sứ vụ mới (1 Vua 19).
Mùa Chay của Giáo hội Công giáo là thời kỳ chuẩn bị trong cầu nguyện, trong sám hối, trong suy tư , trong thanh vắng và bằng những hy sinh, những công việc bác ái, cách riêng đối với các anh chị em nghèo khổ, để có thể được tái sinh thiêng liêng trong ngày Chúa Phục sinh.
Việc ăn chay và kiêng thịt ngày nay được giảm bớt rất nhiều, chỉ còn buộc có hai ngày: Thứ tư Lễ Tro, bắt đầu Mùa Chay và Thứ Sáu Tuần Thánh, ngày kính nhớ Cuộc Tử nạn của Chúa trên Thánh giá. Dù sao cũng nên kiêng thịt các ngày thứ sáu Mùa Chay. Trong Mùa Chay thánh, các tín hữu nên nhớ lại ba mệnh lệnh: ăn chay, sám hối và cầu nguyện. Việc ăn chay đẹp lòng Chúa hệ tại giải thoát mình khỏi tính ích kỷ và ở tại việc an ủi và giúp đỡ tha nhân, cách riêng những người sống trong cảnh cùng cực. Giáo hội giảm bớt rất nhiều việc ăn chay bên ngoài, có mục đích thúc giục con cái mình dấn thân nhiều hơn trong việc giúp đỡ các người đau khổ, cùng cực. Mùa Chay là thời giờ khám phá ra những nhu cầu của anh chị em mình và nhắc nhở hết thảy chúng ta tìm mọi cách để đến gặp gỡ các người đau khổ tinh thần và thể xác, bằng việc từ bỏ chính bản thân và những gì có thể ngăn trở việc tiến về Chúa. Việc ăn chay được thực hiện với lòng yêu mến Chúa và với tình yêu đối với tha nhân là dấu chỉ của ý chí thành thực muốn trở về với Thiên Chúa, muốn thay đổi cuộc đời. Theo ý nghĩa sâu xa này, việc ăn chay vẫn giữ toàn vẹn giá trị của nó.
Phụng vụ Mùa Chay rất giúp ích cho việc suy gẫm Lời Chúa. Mỗi ngày trong Mùa Chay đều có những bài Sách thánh riêng, giúp chúng ta thực hiện giáo huấn của Chúa: "Con người không phải chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng những lời phát xuất bởi miệng Chúa nữa". Trong Mùa này, các tín hữu được mời gọi tham dự thánh lễ hằng ngày, nếu có thể và các vị chủ chăn được mời gọi giải thích Lời Chúa cho cộng đồng tham dự thánh lễ.
Phụng vụ Lời Chúa trong Mùa Chay còn giúp các anh chị em tân tòng chuẩn bị trực tiếp, để lãnh Bí tích Rửa tội và giúp những ai đã được rửa tội rồi, củng cố đức tin để tiến mạnh trên con đường thánh thiện. Trong Đêm Vọng Phục sinh, anh chị em tân tòng và các tín hữu sẽ cùng nhau, cầm nến sáng trong tay, tuyên xưng lại lời hứa Phép rửa tội. Trong lễ nghi rửa tội, các tín hữu đã thề từ bỏ ma quỉ và các việc của chúng, cam đoan tin kính Chúa Ba Ngôi và trung thành với Giáo hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Vì thế, càng gần lễ Phục sinh, các tín hữu càng được mời gọi suy ngắm cuộc Tử nạn và Phục sinh của Chúa, để cùng với cuộc Tử nạn, các tín hữu chôn vùi tội lỗi trong mồ và sau đó cùng sống lại trong vinh quang phục sinh với Chúa Kitô.
Tiếp liền sau Mùa Chay, là TAM NHẬT THÁNH, bắt đầu từ Thánh lễ Tiệc Ly (in Caena Domini) và được kết thúc với giờ Kinh chiều Chúa nhật Phục sinh. Trong ba ngày Thánh này, Giáo hội suy ngắm cách riêng Cuộc Tử nạn của Chúa và chờ đợi ngày Phục sinh của Người, với những nghi thức phụng vụ rất ý nghĩa cảm động.
Mùa Chay là lúc trở về với nguồn gốc đức tin, bởi vì, trong khi suy ngắm về ơn thánh vô cùng lớn lao của Mầu nhiệm cứu chuộc, chúng ta không thể không ý thức được rằng: tất cả những gì đã ban cho chúng ta là do sáng kiến yêu thương của Thiên Chúa. Mùa Chay, trong khi đặt gương Chúa Kitô hy sinh trên Đồi Calvario, giúp chúng ta cách riêng hiểu rằng: sự sống đã được chuộc lại nơi Người. Qua trung gian Chúa Thánh Thần, Người canh tân cuộc sống chúng ta và làm cho chúng ta thông phần vào chính sự sống Thiên Chúa; sự sống này dẫn đưa chúng ta vào trong sự thân mật của Thiên Chúa Ba Ngôi và làm cho chúng ta cảm nghiệm tình yêu thương của Người đối với chúng ta. Đây là một ơn cao cả, mọi tín hữu chỉ biết tuyên xưng ơn này và cảm tạ Chúa với niềm hân hoan mà thôi.


14. CHỦ ĐỀ CÁC BÀI ĐỌC
Bài đọc 1: Joel 2:12-18;
Bài đọc 2: 2 Cor 5:20-6:2;
Tin Mừng: Mt 6:1-6, 16-18
Hôm nay bắt đầu Mùa Chay, mùa sám hối và hòa giải. Các bài đọc của Lễ Tro nhấn mạnh trước hết đến việc trở về, sám hối và tha thứ. Trong phần phụng vụ sám hối hôm nay, Chúa nói với ta qua lời ngôn sứ Gioen: “Các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta…Đừng xé áo nhưng hãy xé lòng.” Trong bài tin Mừng Đức Giêsu kêu mời chúng ta hãy bỏ những việc bề ngoài và hãy thực hành cầu nguyện, ăn chay và bố thí trong sâu thẳm tâm hồn. Thánh Phaolô nói về tình yêu vĩnh cữu của Đức Kitô, Đấng trở thành tội nhân để cứu chuộc chúng ta để giao hòa chúng ta với Thiên Chúa và với anh em. Đó là điều Đức Kitô đòi hỏi chúng ta trong Tin Mừng hôm nay. Nhưng chỉ thông hiệp thân tình một mình ta với Đức Kitô thì chưa đủ, cần phải chia sẻ tình hiệp thông này với các anh chị em khác nữa. Ta cần loan truyền cho các anh em ta sứ điệp hoán cải và cứu độ của Đức Kitô. Tuy nhiên, cách thức chúng ta chống lại tội không nhất thiết buộc chúng ta đi đến quá khích hoặc chống đối những kẻ không chia sẻ cùng niềm tin và luân lý như ta. Ta cần tìm hiểu họ, phó thác họ cho Chúa, và làm chứng nhân bằng đời sống kitô hữu để mong trở thành nẻo đường dẫn họ đi theo Chúa.
Thần Khí của tự do.
Mỗi kitô hữu khi sử dụng sự tự do của mình một cách đúng đắn, luôn hành động dưới sự thúc đẩy của Thánh Thần. Dưới tác động của Thánh Thần, sự sáng suốt và sự tuân phục giúp người kitô hữu sử dụng sự tự do một cách hoàn hảo. Ngài giúp ta lựa chọn điều tốt nhất. Tâm hồn mềm mại biết nghe theo tiếng nói của Chúa trong tâm hồn họ và không nghe theo vui thú của trần đời. Họ tự do khỏi mọi ràng buộc để đạt đến sự hoàn hảo trong tình yêu Chúa Cha, như Đức Kitô kêu mời chúng ta.
Sứ Điệp Niềm tin
Sự cao cả hoặc sự chật hẹp của tấm lòng là thước đo của một con người. Một con người được đánh giá bằng chính tâm hồn, trong những suy tư xấu hoặc tốt, trong những quyết định xấu hoặc tốt, trong cách sống đúng đắn hay không đúng đắn, trong những lời nói chân thật hay dối trá. Đức Giêsu Kitô đã đến trong thế gian để đổi mới nhân loại từ bên trong, để những việc làm của Ngài diễn tả tâm hồn của Ngài. Đứng trước cách xử thế của những người đương thời thích phô trương, khoe khoang, Đức Giêsu chọn một thái độ hoàn hảo phù hợp với cung cách và lời dạy của Ngài. Những việc Đức Giêsu nhắc đến là việc thiện hảo và đạo đức. Nhưng, bất cứ hình thức phô trương nào cũng đều bị lên án. Vì họ làm không phải cho Chúa mà là nhằm để được người khác khen. Bố thí là việc tốt khi được thực hiện vì tình yêu đối với Chúa và đối với anh em. Nhưng một khi bố thí được thực hiện để thu hút sự chú ý của kẻ khác và để được khen tặng là quảng đại, thì nó không còn mang tính kitô nữa. “Đừng để tay trái biết việc tay phải làm”, Đức Giêsu cảnh báo ta. Hãy làm tốt vì tình yêu đối với Chúa Cha, hãy nhận khuôn mặt của Ngài nơi người nghèo cần giúp đỡ bằng những phương tiện mưu sinh và tình thương huynh đệ. Cầu Nguyện và Ăn chay là hai việc lớn, nếu được thực hiện với ý ngay lành. Bằng những việc làm như thế, người kitô hữu làm đẹp lòng Chúa Cha và phục vụ anh em. Sự trở về không nằm trong hành động ăn chay, cầu nguyện, bố thí, nhưng khi làm những việc ấy với tâm lòng đổi mới, ta được giải thoát khỏi ích kỷ và vụ lợi.
Đức Kitô là Đấng làm trọn các lời sứ ngôn trong Cựu Ước, đưa việc thực hành sám hối đến đỉnh cao hơn. Cac hối nhân của thời đó, họ xé áo mình ra để chỉ dấu hối tiếc và sám hối. Ngôn sứ Gioen nói với họ cần phải xé lòng, hối hận vì lỗi phạm của mình. Cũng như Thánh Phaolô đã chỉ trong bài đọc 2, Hội Thánh tiên khởi làm theo cung cách và lời dạy của Đức Giêsu Kitô. Thánh nhân khuyên nhủ: “Tôi khuyên anh em đừng nhận lãnh ơn Chúa cách vô ích.” Trở nên tạo vật mới, từ dòng nước rửa tội, người kitô hữu giao hòa với Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô. Họ phải trung thành với lời mời ngày lãnh nhận bí tích rửa tội. Các Tông đồ, tiếp tục công việc của Đức Kitô, trong tư cách những thừa tác viên của việc giao hòa.

15. SCĐ/128- LỄ TRO
Trong Cựu ước, việc xức tro và mặc áo nhậm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân Israel. Tro chỉ thân xác chúng ta là bụi tro, sẽ phải chết.
Trong truyền thống các đan sĩ và tu viện, tro được dùng để nói lên mối liên hệ với sự chết và sự khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Vì thế, các tu sĩ, các đan sĩ có tục lệ tại một số nơi, muốn nằm trên đống tro với chiếc áo nhặm để chết. Thánh Martino thành Tours bên Pháp đã nói: “Không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm chết trên đống tro”. Các vị này lấy tro đã được làm phép trong ngày thứ tư lễ tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó còn trải thêm áo nhặm và rồi các vị nằm trên đó khi hấp hối và khi chết. Các tu sĩ cũng có thói quen trộn tro vào bánh như của ăn. Đó là một hình thức hãm mình nhiệm nhặt mà các tu sĩ phải giữ.
Từ đây chúng ta nhận ra, trước tiên Giáo Hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tổ, và hậu quả là con người xa Thiên Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con người sẽ phải chết như là một hậu quả của tội lỗi. Vì thế cần phải “quay trở lại” một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ “canh tân” trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ. Đàng khác suy tư về bụi tro, để cho thấy sự yếu hèn của mình và tính cách tùy thuộc vào Thiên Chúa vì con người được Ngài tạo dựng. Nhưng Thiên Chúa đoái thương và ban ơn cứu rỗi. Phụng vụ đã diễn tả nền tảng này qua các biểu hiệu và các lời kinh của ngày thứ tư lễ tro.
Cùng với một số biểu hiệu khác được Giáo Hội dùng trong mùa chay, như mầu áo lễ tím, không đọc kinh Vinh Danh, không trưng bông hoa trên bàn thờ, không dùng đàn trong thánh lễ, bụi tro cũng được dùng để cho thấy tính cách thống hối của mùa chay và thân phận của con người hay chết.
Nói tóm lại, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro trong ngày thứ tư lễ tro gợi ra cho tín hữu về một thời điểm quan trọng đang bắt đầu liên hệ tới ơn cứu rỗi của họ, đó là mùa chay. Đồng thời, lễ nghi khởi đầu này cũng đề ra cho tín hữu một hành trình phải đi theo trong thời gian suốt mùa chay.
Hành trình đó là thực hành các việc làm biểu lộ sự thống hối, sống bác ái; đàng khác, tín hữu cũng phải đi sâu vào tâm tình thống hối, khi suy tư về thân phận con người, về lỗi lầm của mình và nhu cầu khẩn thiết phải trở về, phải canh tân cuộc sống. Tuy nhiên, tín hữu không làm những việc này trong ý thức khổ hạnh cá nhân, nhưng là để hướng về ơn cứu rỗi Chúa Kitô đã thực hiện và Giáo Hội đang chuẩn bị mừng trong đại lễ Phục sinh. Ngày nay các biểu hiệu bên ngoài, như thống hối công cộng, như mặc áo nhậm, như đi chân không trong cuộc hành hương v.v… không còn được thực hiện như xưa, vì hoàn cảnh xã hội đổi thay, nhưng thái độ và ý chí thống hối, canh tân trở về vẫn phải in khắc sâu đậm trong thâm tâm mỗi người. Mỗi người sẽ tự đưa ra cho mình một số những thực hành thống hối trong cuộc sống cụ thể để biểu lộ ý nghĩa và tinh thần của lễ nghi xức tro.

16. SUY NIỆM CỦA LM. JUDE SICILIANO
Tin cậy vào lòng thương xót của Thiên Chúa
Tác giả Walter Brueggman có ý kiến như sau: Không nên nhìn công thức “Con là bụi tro, con sẽ trở về với bụi tro”, như một lời tuyên án hoặc nguyền rủa, hay việc rắc tro lên đầu chỉ nguyên liên hệ với tội luỵ. Ông muốn suy tư nó trong ánh sáng các câu châm ngôn đầy khôn ngoan. Nó khích lệ chúng ta nhìn lại số phận hay chết của nhân loại. Có bốn điều luôn phải ghi nhớ:
1- Về căn bản và gốc gác, loài người là một tạo vật phát xuất từ bùn đất, lệ thuộc chặt chẽ vào thực tại và giới hạn của vật chất.
2- Nó chia sẻ với đất mẹ và các thụ tạo khác bởi đất mà ra những phẩm chất giống nhau của đời sống thực vật.
3- Đất chẳng thể tự khởi động. Nắm thân tro bụi của con người cũng vậy. Tự thân nó bất động và không có sự sống. “Tro bụi” đâu có tính nhân loại?
4- Vậy thì tính “sống động” của mỗi cá nhân hoàn toàn lệ thuộc vào “hơi thở” của Thượng Đế. Hơi thở này được Thiên Chúa ban cho một cách nhưng không, tuỳ vào lượng hải hà của Ngài, chẳng cần một lý do nào cả. Tuy nhiên con người không bao giờ có thể chiếm đoạt làm tài sản riêng. Nó là của Thiên Chúa.
Do đó, nhân loại là những chủ thể lệ thuộc, dễ bị thương tổn, từng giây từng phút phụ thuộc vào “hơi thở” của Thiên Chúa mà sống. Nói cách khác, khả năng “sống còn” của loài người đến từ Thượng Đế. Chúng ta không có quyền lựa chọn tình trạng này, nhưng cũng không phải là hình phạt có liên hệ với tội lỗi. Đây là ý nghĩa cơ bản của từ “nhân loại”. Chúng ta sống từng giây từng phút bằng lượng hải hà của Đức Chúa Trời. Hai ông bà Nguyên tổ trong Vườn địa đàng đã muốn thoát ra khỏi số phận này để trở nên giống Tạo hoá. Lễ tro kêu gọi chúng ta nhớ lại tính chất “thụ tạo” của mình mà chúng ta thường xuyên lãng quên. Chúng ta phải luôn hồi tâm xác định lại căn tính, tôn trọng những giới hạn tự nhiên, không ngang ngược vượt qua để trở thành Thượng Đế!
Lễ tro cũng là ngày để chúng ta suy ngẫm về Thiên Chúa. Thánh vịnh 103, 14 phát biểu như sau: “Người quá biết ta được nhồi nắn bằng gì, hẳn Người nhớ ta chỉ là cát bụi”. Hành động rắc tro lên đầu thể hiện nội dung trên. Thiên Chúa vẫn thấu rõ từ thuở ban đầu, chúng ta được Ngài tạo lên từ cát bụi. Ngài nhớ rõ và chúng ta cũng được bảo cho biết như vậy. Bởi đó Ngài trung tín với ý định của mình, không từ bỏ chúng ta, dù rằng chúng ta đã phạm tội. Một khi tội lỗi được nhận ra như mối nguy hiểm gây chết chóc, luôn đe doạ loài người thì Ngài đã phát minh ra phương thế xoá bỏ. Cho nên điều quan trọng hiện thời trong ngày lễ hôm nay là hành động tha thứ vô biên của lòng Thiên Chúa trung tín và xót thương. Chúng ta là cát bụi và sẽ chết trong tọi luỵ của mình là điều làm cho Ngài quan tâm hơn cả. Các câu thơ Thánh vịnh 103 chung quanh câu 14 đều nói lên cùng tư tưởng đó. Ví dụ: “Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta” (103, 12).
Cho nên công thức xức tro kêu gọi chúng ta tin cậy vào lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng thấu rõ nhu cầu thiêng liêng mỗi người và định vị rõ ràng số phận loài người trước tôn nhan Ngài. Nhân loại thường mắc thứ bệnh tai hại là mất trí nhớ. Thế giới tiêu thụ hiện thời có khuynh hướng làm cho căn bệnh thêm nạng hơn. Chúng ta mau quên quá khứ và không nhớ ơn gọi của tương lai. Quên tính chất thụ tạo căn bản. Quên hình hài mỏng manh của mình. Tưởng mình quyền năng hơn thực tại, có thể thu quén cho mình mọi thứ, bởi trên đầu không có ai lo liệu cho. Tưởng mình tránh lé được tử thần bằng sức riêng. Tưởng mình đã chiến thắng sự chết. Chúng ta mắc bệnh quên lãng nặng nề, đã lạc xa ơn kêu gọi nguyên thuỷ của mình, tức phục vụ. Vườn địa đàng, các thú vật và cây cối được trao phó cho loài người trông nom.
Hơn nữa, chúng ta còn hay quên rằng Thiên Chúa vẫn nhớ. Ngài liên tục tạo dựng, liên tục săn sóc, liên tục thở hơi để chúng ta được sống. Ngài luôn luôn kêu mời, bảo vệ và nuôi sống muôn loài. Thực tế, hàng ngày chúng ta được tình yêu dịu ngọt của Thiên Chúa bao bọc, Đấng mong muốn điều lành cho chúng ta hơn lòng chúng ta khao khát. Chủ đề của lễ tro là “hãy nhớ” về cả hiện tại, quá khứ và tương lại. Đây không phải là mệnh lệnh nhẹ ký mà là rất nghiêm chỉnh, không phải để gây thoải mái, dễ chịu mà để chúng ta đổi mới cuộc đời.
Hôm nay, một cuộc chiến không khoan nhượng đã khởi sự, ngõ hầu xác định lại căn cước mỗi người. Căn cước hay bị bỏ bê hoặc lãng quên. Một cuộc chiến tranh giữa não trạng hối cải với não trạng tiêu thụ, tinh thần thần phục gặp rắn già kiêu ngạo, lòng trung thành gặp nết xấu phản bội. Với tro bụi trên đầu, chúng ta được lôi kéo về những điều căn bản, ấp ủ những lý tưởng cao thượng, bỏ đi những ích kỷ nhỏ nhen. Tro bụi trên đầu sẽ ghi khắc nội dung Tin mừng vào da thịt, sức mạnh thiêng liêng trong yếu đuối, vinh quang trong thân phận thấp hèn. Amen.

17. HÂN HOAN TRỞ VỀ - Lm. Jude Siciliano
Thứ Tư Lễ Tro! Nghe sao mà hắc ám quá! Tro rắc trên đầu trong khi tai được nghe những lời buồn thảm:”Hãy nhớ rằng con là bụi tro và con sẽ trở về bụi tro!” hoặc một lời khác: “ Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”. Tôi muốn trung thành với Tin Mừng. Nhưng tôi lại thích chỉ nghe thoáng qua câu mở đầu: “Hãy ăn năn sám hối”. Câu này nhắc tôi thống hối lỗi lầm! Lại phải nghe lần nữa lời khuyên đau xót! Nói thế nào thì nói chứ sự thực vẫn là: “Ngươi là bụi đất, người phải ăn năn!” chạy quanh quẩn cũng chẳng sao thoát khỏi các lễ nghi mùa chay! Trước thứ Tư Lễ Tro là ngày thứ ba béo, bởi vì ai cũng sợ mùa chay ảm đạm. Vậy thì hãy no lòng hả dạ lần cuối trước khi chui vào đường hầm tối tăm của mùa chay hãm mình! Đó là quan niệm phổ thông về mùa chay! Nhưng gỉa dụ mùa chay chẳng phải là mùa khốn khổ như thế có hợp lý không? Gỉa dụ như nó là mùa vui mừng và phấn khởi có được không? Nói cách khác nó là thời khắc để cộng đoàn chúng ta canh tân lại sứ vụ rao giảng tin mừng bằng lời nói và việc làm. Hơn nữa, gỉa dụ đó là một lời mời gọi sống cộng đoàn hòa giải như chúng ta vẫn khăng khăng tự nhận. Phải chăng mùa chay là một thông điệp mạnh mẽ kêu mời thiên hạ chung sống hạnh phúc với chúng ta?
Thực ra, chúng ta chẳng cần đến thứ Tư Lễ Tro để nhắc nhớ rằng chúng ta là bụi đất. Bụi đất luôn luôn đầy dẫy chung quanh chúng ta. Đất là cái gì chúng ta sẽ phải trở về sau cái chết! Nhưng rất lâu trước khi chết,chính cuộc sống này đã cho chúng ta thấy mọi sự rồi sẽ có ngày tan rã! Đa phần những gì mà chúng ta đặt lòng tín nhiệm hằng trăm năm rồi cũng đổ vỡ, cũng rữã nát tơi bời. Mới ư? Bóng lộn ư? Lấp lánh ư? Chẳng bền vững được bao lâu! Tử thần có mặt khắp mọi nơi! Cả đến những kho tàng qúi báu nhất của loài người cũng có mặt. Người thân chết,bệnh tật quật ngã, tuổi tác làm khô cạn mọi nghị lực, mọi cố gắng rồi cũng sẽ đến ngày mệt mỏi. Có chi bền vững đâu? Nghi thức phụng vụ của ngày hôm nay rắc tro trên đầu chúng ta, bụi đất trước mắt chúng ta. Nhưng tro và đất chỉ là những điều nhắc nhớ, chính cuộc sống mới thường xuyên cho chúng ta thấy cuộc đời là gì: “như gió thổi, như mây nổi,như chiêm bao!” Nó dí tro vào trán chúng ta và nói: “Này ngươi là bụi tro!” Thật là dễ sợ khi tỉnh mộng nhận ra rằng chúng ta dễ quên và dễ chạy trốn cái thực tại phũ phàng của cuộc đời! Thiên hạ trầm trồ khen ngợi, đánh gía cao về căn tính của chúng ta,về những gì chúng ta đã thành tựu, chúng ta đang chiếm hữu. Nhưng nghi thức thánh lễ hôm nay chỉ nói ngắn gọn: “Hãy nhớ rằng,những thứ đó chỉ là bụi đất!”
Sau khi đã nhắc nhớ chúng ta ăn năn, nghi thức kêu mời chúng ta trung thành với Tin mừng. Chúng ta là những tín hữu đã lãnh nhận bí tích thanh tẩy, được kêu gọi vào sống trong thế gian này một cách đặc biệt. Thế giới sa đọa được hướng dẫn bằng các tiêu chuẩn khác nhau, những luật lệ luân lý khác nhau. Vậy tro và đất của ngày hôm nay còn nhắc nhớ rằng lối sống cũ của chúng ta phải chết, phải trở về cát bụi. Chúng ta chẳng còn thuộc về thế giới cũ nữa,vì vậy chúng ta phải ngưng sống theo lối cũ. Chúng ta đã được sinh lại vào sự sống mới. Và cuộc đời chúng ta trong cộng đoàn tín hữu phải phản ảnh được lối sống mới này, và trợ giúp thiên hạ nghe được sứ điệp ngày hôm nay:”Tất cả mọi sự khác đều là bụi đất”. Theo như Thánh Phaolô: “Cuộc đời các tín hữu là một lời mời gọi mọi người hòa giải với Thiên Chúa. Bởi vì chúng ta cũng là những “đại sứ của Chúa Kitô”.
Walter Brueggeman, khi nhắc lại đoạn văn nói về bụi đất trong St.2,7đã viết: “Thiên Chúa dựng nên một người từ bụi đất và thở hơi vào mũi nó và nó trở nên một tạo vật sống động”, có ý kiến sau: “Công thức xức tro của ngày hôm nay nhắc nhớ mọi tín hữu rằng về căn bản loài người có nguồn gốc là vật chất, gánh chịu mọi thực tại của “đất”, tan rã như đất, bất động như đất, vô tri như đất, thối như đất. Đất chẳng thể tự khởi động, cho nên loài người phải hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa để có sự sống. Sự tồn tại của chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa từng giây từng phút. Điều này không phải là lời nguyền rủa, chúc dữ. Nhưng đơn giản nó có nghĩa nhân loại là như thế đó: “Bởi đất”.
Vì thế, hôm nay chúng ta được nhắc nhớ là bụi tro, thì cũng ngụ ý chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa. Chúng ta như thầm nói rằng: Lạy Chúa, xin nhớ đến nguồn gốc của chúng con. Chúng con chỉ là bụi đất nếu như không có Ngài. Mọi sự chúng con làm chỉ là bụi đất nếu như chúng con không làm trong danh Chúa! Từng giây từng phút xin nâng đỡ chúng con và qua cái chết của Con Chúa xin giải thoát chúng con khỏi vòng tội lỗi! Loài người là cái gì? Là tạo vật được Chúa ban ơn từng giây từng phút. Điều đó chẳng phải là hành trang xấu, hành trang yếm thế để bước vào mùa chay!
Bài đọc trích từ thư thứ 2 Th. Phaolô gởi giáo đoàn Cô-rin-tô tập trung vào sự canh tân trong sứ vụ. Lá thư của Ngài tỏ lộ rằng cộng đoàn Cô-rin-tô cũng có những yếu kém, khuyết điểm như các cộng đoàn ngày nay.( Điều đầu tiên chúng ta đọc trong thánh lễ hôm nay là: Xin Chúa thương xót chúng con, xin Chúa Kitô thương xót chúng con,xin Chúa thương xót chúng con). Chúng ta thường có khuynh hướng lý tưỡng hóa cộng đoàn các tín hữu tiên khởi. Đúng thế, chúng ta coi họ như những gương mẫu hoàn hảo và chúng ta kém xa họ. Nhưng thực sự mà nói, họ cũng như chúng ta,luôn luôn có những thiếu sót, luôn luôn cần đến việc hòa giải. Th.Phaolô nhân danh Chúa đề cập thẳng đến sự hòa giải với chúng ta. Vì thế, hòa giải là điều khẩn thiết trong lúc này: “Đây là thời thuận tiện”. Sự việc có lẽ cũng rối bời ở trong giáo đoàn Cô-rin-tô. Chúng ta thường hay chống lại Thiên Chúa và không chịu từ bỏ đường lối cũ của mình,”hãy tránh xa tội lỗi và trung thành với Tin mừng”. Nhưng một lần nữa Thiên Chúa lại đi bước trước hòa giải chúng ta với Ngài.
Suốt 7 chương đầu của thư này,Thánh Phaolô tập chú thông điệp hòa giải Tin mừng vào bản tính sứ vụ Tin mừng. Giáo đoàn Cô-rin-tô đã chia năm sẻ bảy, chống đối nhau. Có lẽ Thánh Phaolô đã hơi cọc cằn khi chỉ trích họ. Chúa Giêsu đã chết để giao hòa chúng ta với Chúa Cha. Từ chối sống hòa thuận là từ chối Tin mừng và thất bại không cùng với Th.Phaolô làm đại sứ của Chúa Kitô trên thế giới. Mùa chay kêu gọi chúng ta trở về với Chúa, với anh em trong cộng đoàn. Sứ điệp mà chúng ta rao giảng là sứ điệp của toàn thể cộng đoàn khi cùng nhau sống hoan hỉ, bởi ý thức được những gì Thiên Chúa đã thực hiện cho chúng ta. Amen.

18. SUY NIỆM CỦA  LM PHẠM NGỌC NGÔN
Nền đạo đức mới của người môn đệ
Hôm nay, toàn thể Giáo hội bước vào Mùa Chay Thánh. Chúa Giêsu trình bày cho các môn đệ giáo huấn về nền đạo đức mới của người môn đệ được diễn tả trong ba trụ cột chính, đó là Chia sẻ, Cầu nguyện và Chay tịnh.
1. Chia sẻ: Chúa Giêsu mời gọi mỗi người thực thi công việc bác ái. Chúng ta biết, ngày xưa trong xã hội Dothái, bố thí hay chia sẻ là một cơ chế quan trọng giống như dịch vụ từ thiện xã hội ngày nay, nhằm tỏ rõ tình huynh đệ do Giao ước đòi buộc. Vì họ cho rằng mỗi khi cứu giúp người nghèo khổ, điều đó sẽ có sức xóa sạch tội lỗi (x. Tb 12,9). Chúa Giêsu không “tẩy chay” tinh thần tu đức này, nhưng Ngài cảnh báo cách làm mày móc, phô trương. Bởi việc chia sẻ không phải để vinh vang, đề cao chính mình cho người ta thấy, mà là công việc thực hiện trong nơi kín đáo, và để hoàn toàn một mình Thiên Chúa đánh giá nghĩa cử đó:“Cha anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh”.
Điều mà chúng ta chia sẻ, không giữ lại cho mình, thì chính Thiên Chúa sẽ đón nhận. Cả đến lòng quảng đại cũng vậy. Cử chỉ chia sẻ được đầy đủ ý nghĩa khi vì yêu mà chúng ta tặng cách nhưng không. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể “ghi sổ Tình yêu”, bởi như Thánh Bênađô: “Giới hạn của Tình yêu là yêu không giới hạn”.
2. Cầu nguyện: Chúa Giêsu dạy các môn đệ ngay cả việc cầu nguyện cũng không làm như bọn đạo đức giả, nghĩa là thi hành việc cầu nguyện cốt để “biểu diễn” để “tỏ cho người ta thấy”. Đối với Chúa Giêsu, cầu nguyện chính là thời gian thích hợp để tâm tình với Chúa Cha, thổ lộ, tâm sự với Người về bất cứ điều gì mình thấy cần phải sẻ chia. Vì nhờ đó, hiệu quả của việc tâm tình này sẽ được Chúa Cha đón nhận, sẽ được “Đấng thấu suốt những gì kín đáo sẽ trả công cho”.
 “Đức Giêsu đã không ngừng mời gọi người ta sống chân thành với lương tâm, sống hướng nội. Cần phải chủ động để tìm mọi cách để đừng làm quấy rầy cuộc gặp gỡ thân mật, cá nhân với Cha… Cầu nguyện cốt cho người ta thấy, thay vì cầu nguyện với Cha trên trời, tức là bôi nhọ việc cầu nguyện, là nhắm sai mục đích, là một dạng thờ ngẫu tượng, vì nó hướng lời cầu nguyện thay vì vào Đấng mà lời cầu nguyện nhắm tới, thì hướng tới lợi lộc của người giả bộ cầu nguyện” (L’Evangle de Matthieu, Centurion, 1991, tr. 66)
3. Chay tịnh: Còn về việc Chay tịnh, chúng ta biết, đối với người Do thái, ăn chay có nhiều ý nghĩa:
- Ăn chay là dấu hiệu để tang, thương nhớ người quá cố. Thường người ta ăn chay 7 ngày khi có tang. Điển hình là dân thành Giavết, miền Galaát khi nghe tin vua Saolê tử trận, họ đã ăn chay 7 ngày sau khi đã hỏa táng xác ông (x. 1 Sm 31, 11-13)
- Ăn chay còn là dịp để chuẩn bị gặp gỡ Thiên Chúa như ngôn sứ Đaniel ăn chay 3 tuần lễ để chuẩn bị gặp Thiên Chúa, như đoàn quân sắp giao chiến, họ phải ăn chay để “gặp Thiên Chúa giao chiến thay cho mình”.
- Ăn chay còn mang ý nghĩa sám hối, đền tội và luyện tập nhân đức.
Luật Do thái chỉ dạy ăn chay trong ngày lễ Đền tội (x. Lv 23, 27) và ăn chay để hãm mình và không làm việc (x. Lv 16, 29), thế nhưng những người đạo đức Do thái thường ăn chay một tuần hai ngày, thứ hai và thứ năm. Thời Chúa Giêsu, người Do thái rất đề cao việc ăn chay, và họ ăn chay nhiều lần. Chính Gioan Tẩy giả đã tự buộc mình trong chay trường, chỉ ăn châu chấu và mật ong và có lẽ Ngài cũng dạy các môn đệ mình giữ chay cách nghiêm nhặt (x. Mt 11, 18).
Chay tịnh, tự thân là một dấu hiệu của tang chế. Chúng ta biết, để kỷ niệm ngày đền thờ bị phá hủy, người ta ăn chay. Thế nhưng, lớn hơn cả việc phá hủy đền thờ, những người Dothái tuân giữ Lề luật Thiên Chúa cách ngay thẳng, chính trực còn biết đến một nguyên nhân khác để họ thực thi việc chay tịnh, đó là tội lỗi, là sự chết thật sự đối với mối liên hệ sống động với Thiên Chúa. Chính vì thế, trong xã hội Dothái có những nhóm thích gia tăng việc ăn chay đền tội. Nhóm Pharisêu ăn chay một tuần hai lần vào ngày thứ 2 và thứ 5. Chưa hết, họ còn thêm vào những dấu hiệu của sự tang chế cho thích hợp như không tắm rửa, không xức dầu thơm,…
Như thế, Chay tịnh chân thật “xô” chúng ta rời bỏ lỗi bản thân, lột trần chúng ta trước Thiên Chúa. Không phải là một cuộc biểu diễn tâm linh nhưng là một phương thế giúp chúng ta sống nghèo trước Thiên Chúa, là một của lễ hiến dâng bản thân nhờ sức mạnh của khổ chế, trong ân huệ mà Thiên Chúa sẽ ban cho ta nếu ta biết phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa.
Mùa Chay Thánh chỉ thực sự ý nghĩa nếu mỗi người trong chúng ta biết quay về với Thiên Chúa trong chia sẻ, cầu nguyện và Chay tịnh. Ước mong mỗi người chúng ta biết tận dụng mùa hồng ân này để từ trong cầu nguyện, chúng ta đến sống với Chúa Cha trong tình thân; từ trong chay tịnh, chúng ta ra khỏi “con người cũ” với những lầm lỗi thiếu sót của mình, để mặc lấy con người mới trong Đức Kytô; và từ trong sẻ chia, chúng ta đến với tha nhân để mang đến cho họ hơi ấm và tình yêu của Thánh Thần Thiên Chúa.

19. HÃY SÁM HỐI VÀ ĐỔI MỚI _ LM. NGUYỄN HƯNG LỢI
“Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro, một mai mình sẽ trở về bụi tro”, lời ca ấy cứ cất lên mỗi lần đi vào mùa chay, đặc biệt ngày thứ tư lễ tro. Nhớ mình là cát bụi, là đất vì con người được tác tạo nên theo hình ảnh của Thiên Chúa như những trang đầu của sách Khởi Nguyên thuật lại. Con người một lúc nào đó sẽ nhắm mắt lìa đời, thân cát bụi sẽ trở về với bụi đất. Đi vào mùa chay, con người hãy mặc lấy tâm tình của Chúa Kitô, hãy khởi sự bằng những việc tốt. Nhận lấy tro trên đầu là sống tâm tình Con Chiên Thiên Chúa gánh tội trần gian và tuyên xưng niềm tin vào Chúa Kitô, Đấng mang ơn cứu độ, thú nhận tội lỗi yếu hèn của mình để đi vào mùa sám hối, đổi mới.
NGUỒN GỐC CỦA VIỆC SÁM HỐI:
Mọi tôn giáo đều coi tro bụi là hình ảnh của sự hư nát, mau qua, hoa nở sớm tàn, hư vô, sự chết. Tro bụi cũng còn là dấu chỉ của sự u buồn và sự ăn năn, cải hóa nội tâm. Đọc ngôn sứ Yôna 3, 5-9 và sách 2Sam 12, 16-17,ta thấy rất rõ điều đó. Thánh Matthêu1, 21 cũng diễn tả việc mặc bao bị, rắc tro trên đầu để chỉ sự ăn năn sám hối. Thánh vịnh 102, 5 cũng viết:” Tro là bánh tôi ăn, của uống tôi, hòa với lệ”. Tất cả những đoạn văn trên đều nói lên dấu chỉ u buồn, sầu não, tang chế và là dấu chỉ của việc sám hối ăn năn. Từ thế kỷ 7, Giáo Hội xem nghi thức xức tro là nghi thức khai mở mùa ăn chay, sám hối, đặc biệt cho những người thú tội và đền tội công khai. Các hối nhân phải đi chân đất, sau đó họ phải ra khỏi nhà thờ và cửa nhà thờ đóng lại từ ngày họ bị đuổi ra khỏi đền thờ cho tới ngày thứ năm tuần thánh, họ không được tham dự thánh lễ và phải kiêng chay nghiêm nhặt để đền những tội công khai như lăng loàn, giết người, ngoại tình và lạc đạo”. Dần dần việc đền tội công khai mất đi cả ý nghĩa và cả hình thức thì việc rắc tro trên đầu trong ngày khai mạc mùa chay vẫn được giữ lại vì đây là hình thức tỏ vẻ khiêm nhượng hối cải, ăn năn. Do đó, Đức Giáo Hoàng Urban II vào năm 1091 đã công bố tại công đồng Benevent:” Xem việc xức tro như là bổn phận của mỗi tín hữu phải lãnh nhận ở đầu mùa chay “.
HÃY SÁM HỐI VÀ TIN VÀO TIN MỪNG:
Lời kêu gọi của Chúa Giêsu khi khai mạc sứ vụ công khai của Ngài là hãy quay trở về với Thiên Chúa. Ở đây ta thấy có sự khác biệt rõ ràng giữa lời kêu gọi sám hối của các ngôn sứ, của Gioan Tẩy Giả và của Chúa Giêsu. Lời kêu gọi sám hối của Cựu Ước và lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả là lời kêu gọi từ bỏ đàng tội lỗi, để biết đâu Thiên chúa thương sẽ cho Đấng cứu độ tới. Đây là lời kêu gọi chuẩn bị dọn đường cho Đấng Messia.Sám hối của Tân ước phải mang tính chất của Nước Trời, có một đích điểm là Chúa Giêsu. Sám hối của Tân ước mang lấy tinh thần khó nghèo của Chúa Giêsu vì thế từ Métanoia có nghĩa là quay trở về với Thiên Chúa. Mặc lấy Đức Kitô và sống tinh thần nghèo khó của Ngài. Khó nghèo mà Chúa Giêsu kêu gọi chính là nhận thức thân phận tạo vật của con người trước mặt Thiên Chúa. Tất cả mọi sự đều là quà tặng, là ân ban của Thiên Chúa. Con người phải trở nên quà tặng cho người khác vì mình là tạo vật, là ân huệ của Thiên Chúa ban cho. Nhận ra mình là không, là yếu hèn trước mặt Thiên Chúa, con người mới lãnh hội ra Tin Mừng, được công chính hóa trong Chúa Giêsu để rồi hoàn toàn mặc lấy Đức Kitô sống hoàn toàn cho tình yêu thương của Ngài.
SỐNG TINH THẦN TÁM MỐI PHÚC:
Người Kitô hữu không thể tự thánh hóa mình bằng những nỗ lực riêng tư, nhưng cần sự công chính hóa của Chúa từ Thiên Chúa Cha bằng một tinh thần khiêm tốn như Mẹ Maria và đón nhận với cung cách khiêm nhượng như tinh thần hiến chương nước trời. Người Kitô hữu muốn làm đẹp lòng Chúa phải tuân theo thánh ý Chúa và làm theo ý Chúa. Không phải nói ngoài môi miệng:” Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào nước Thiên Chúa”, nhưng phải làm theo ý Cha và sống tình con thảo đối với Cha. Để đạt được nước trời, người Kitô hữu phải loại trừ quỉ ra khỏi con người mình, ra khỏi thế gian: quỉ theo nghĩa Tân ước là biểu trưng cho sự xấu, cho sự đi ngược lại với ý muốn của Thiên Chúa. Nước Trời là ý muốn của Thiên Chúa. Muốn vào Nước Trời phải loại bỏ quỉ, phải trừ khử tội lỗi ra khỏi con người mình và mặc lấy chính Đức Kitô. Mọi hình thức ăn chay, cầu nguyện, hối cải, bố thí là cần thiết, nhưng phải làm với tinh thần khiêm tốn và tỏa sáng để mọi người nhìn thấy việc mình làm, nhận ra Thiên chúa và tới với Ngài. Mọi hình thức giả hình, phô trương, xưng hùng xưng bá( triumphalisme ) đều bị Chúa kết án. Những phương thế chay tịnh, bố thí, cầu nguyện, hãm mình đều là những nấc thang giá trị giúp người Kitô hữu lột xác để cải hóa nội, phấn đấu đạt cho được Nước Trời và sống cho Chúa Giêsu. Sống tinh thần tám mối phúc thật là nẻo đường dẫn tới Nước Thiên Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ:
1. Tại sao lại phải sám hối?
2. Métanoia theo Tân ước là gì?
3. Các hình thức ăn chay, cầu nguyện, bố thí có cần không? tại sao?

20. THỨ NĂM SAU LỄ TRO - Lc 9,22-25
Thập giá của con nặng quá!
Có một người ngoài Kitô giáo đã chỉ vào thánh giá và hỏi rằng: "Tại sao người Công giáo thờ một hình tượng ghê rợn và thê thảm như vậy?" Quả thật, đối vơi người đời thì hình khổ thập giá là một điều đáng kinh hãi. Tuy nhiên Chúa Giê-su lại coi đó là phương thế duy nhất dẫn đến sự sống. Khi Chúa Giê-su hỏi các môn đệ: "Đám đông nói Thầy là ai?", ông Phê-rô tuyên xưng Người là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa. Chắc hẳn khi nói câu này, ông Phê-rô nghĩ rằng Chúa Giê-su sẽ dùng quyền uy của Đấng Thiên Sai để tái lập thịnh vượng cho đất nước Do Thái. Nhưng trái với điều ông nghĩ, Chúa Giê-su báo cho các môn đệ biết trước Người sẽ hoàn thành sứ mạng thiên sai bằng con đường đau khổ và thập giá. Chúng ta cùng nhau nghe lại đoạn Tin Mừng theo thánh Luca 9, 22-25 thuật lại câu chuyện này:
"Đức Giê-su bảo rằng: "Con Người phải chịu khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sống lại". Rồi Người nói với mọi người: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, váv thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi ích gì?"
* * *
Thích sướng ngại khổ, tham sống sợ chết là lẽ thường tình của con người. Ai lại chẳng muốn đời mình xuôi chèo mát mái, khỏi phải đương đầu với gian nan trắc trở. Là Kitô hữu, chúng ta cũng không ra ngoài tâm trạng đó. Lắm lúc chúng ta muốn sống đạo một cách khỏe khắn, không phải nhọc công gắng sức, không phải hy sinh khổ chế. Chúng ta mong ước quê trời, và chúng ta cũng mong ước đường lên quê trời cho thật êm ả! Lời Chúa ngày hôm nay đánh thức chúng ta khỏi tâm trạng cầu an đó. Lời đầu tiên mà Chúa Giê-su muốn gởi đến cho mỗi người chúng ta trong mùa Chay năm nay là: "Ai muốn theo tôi".
Qua lời mời gọi trên đây, Chúa Giê-su muốn chúng ta xét lại cách chúng ta vẫn sống đạo hàng ngày. Chúng ta có thật sự sống theo tinh thần Tin mừng không, hay chúng ta chỉ là những Ki-tô hữu trên danh xưng? Chúng ta có thật sự sống chết vì đức tin không, hay đức tin cũng chỉ là một thứ gia vị thêm vào trong cuộc sống của chúng ta? Hôm nay, Chúa Giê-su muốn mỗi người chúng ta lựa chọn và xác định lại lập trường của mình trong việc sống đạo. Người muốn chúng ta có một quyết định dấn thân quyết liệt và dứt khoát, chứ không chỉ giữ đạo ngoài đầu môi chót lưỡi, hoặc giữ đạo theo thói quen. Người muốn chúng ta thật sự lên đường theo Người tiến về quê trời.
Tiếp theo lời mời gọi lên đường, Chúa Giê-su đưa ra cho chúng ta các điều kiện để vững vàng tiến bước. Người đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.
Người ta kể một câu chuyện vui như sau: Có một người nọ than vãn với Chúa Giê-su rằng cây thập giá mình đang vác nặng nề quá, còn những cây thập giá của một số người khác thì lại nhẹ nhàng hơn. Chúa Giê-su bảo người ấy đem cây thập giá kia vào kho, rồi cho người ấy tự do lựa chọn một cây khác thích hợp với mình. Sau một thời gian lựa lọc, người ấy chọn được cây thập giá ưng ý và hí hửng đem tới khoe với Chúa Giê-su. Ngài mĩm cười và nói: "Đây chính là cây thập giá mà con đã bỏ vào kho hồi nãy!"
* * *
Sau khi nguyên tổ loài người phạm tội, con người đánh mất niềm an vui hạnh phúc mà Thiên Chúa ban cho thuở ban đầu. Vì phạm tội, con người bị đuổi khỏi vườn địa đàng, là nơi họ được hưởng hạnh phúc bên Chúa. Ở ngoài vườn địa đàng, con người phải tự lực cánh sinh. Đàn ông phải đổ mồ hôi sôi nước mắt để có cơm ăn áo mặc. Đàn bà phải mang nặng đẻ đau để lưu truyền nòi giống. Kể từ đó, con người phải liên tục đối đầu với những khó khăn và trở ngại trong cuộc sống. Đau khổ và thập giá là hậu quả của tội lỗi. Con người tìm mọi cách, nhưng không tài nào thoát ra được. Nếu Thiên Chúa không ra tay cứu vớt thì nhân loại phải muôn đời sống trong khổ ải.
Vì yêu thương, Đức Giê-su Ki-tô đã xuống thế làm người. Ngài đã mang lấy thân phận con người như chúng ta, để chia sẻ những đau khổ và thập giá của chúng ta. Sau cùng, Người đã dùng chính cái chết và sự sống lại của mình để đánh bại tội lỗi và sự chết. Nhờ sự phục sinh của Đức Giê-su, đau khổ và thập giá mang một ý nghĩa mới. Vất vả cực nhọc vẫn còn đấy. Nhưng chúng không đè bẹp được những ai tin vào ơn cứu độ của Người. Trái lại, chúng trở nên những cơ hội giúp con người thanh luyện và thăng tiến bản thân. Như một vận động viên leo núi, để lên cao, người ấy phải tốn nhiều sức lực và mồ hôi, có khi còn kèm thêm máu và nước mắt. Nhưng đổi lại, người ấy được hưởng niềm vui chinh phục đỉnh cao. Nếu ngại khổ ngại khó, người ấy sẽ đứng mãi dưới chân núi mà ôm ấp giấc mộng không thành!
Cuộc sống đạo của chúng ta cũng tương tự như thế. Để theo chân Đức Giê-su tiến lên đỉnh Can-vê, chúng ta cũng phải trải qua bao gian lao vất vả. Hành trình đức tin là một hành trình leo ngược lên con dốc sa ngã mà ngày xưa tổ tông chúng ta đã lao xuống. Con đường đi lên đòi hỏi phải nỗ lực không ngừng. Có khi phải chấp nhận tủi nhục, phải gánh chịu thiệt thòi. Thoạt nhìn từ bên ngoài, thập giá mà mỗi người chúng ta đang vác đôi khi nặng nề quá sức mình, và đôi lúc có vẻ phi lý. Thế nhưng câu chuyện vui mà chúng ta vừa nghe trên đây nhắc chúng ta nhớ rằng: những gian khổ mà chúng ta phải trải qua chính là những phương tiện thích hợp giúp chúng ta nên thánh. Chúa không trao cho chúng ta những thập giá vượt quá sức của chúng ta. Khi trao thập giá, Người luôn ban cho chúng ta các ơn cần thiết giúp chúng ta vác được nó mà đi theo Người. Nếu chúng ta thấy thập giá của mình quá nặng nề, ấy là vì chúng ta chỉ vác nó với sức riêng của chúng ta thôi. Chúa Giê-su biết rõ điều này nên Người dạy chúng ta phải từ bỏ chính mình trước đã rồi mới vác thập giá. Khi từ bỏ chính mình, chúng ta sẽ cậy dựa vào Chúa, sẽ bước đi dưới sự nâng đỡ của Chúa. Nhờ ơn phù trợ ấy, chúng ta sẽ vác được thập giá của mình và mạnh dạnh theo Chúa lên đỉnh đồi Can-vê, can đảm chịu đóng đinh với Người để được cùng sống lại với Người.
Lạy Chúa, đứng trước thập giá, ai mà không ngại ngùng run sợ. Có ai dám tự hào là mình sẽ hiên ngang vui vẻ vác lấy nó? Chúa biết rõ con là con người yếu đuối, hay ngại khổ ngại khó. Xin ban cho con ơn can đảm và quảng đại, để con hăng hái vác thập giá hằng ngày mà tiến bước theo Chúa. Xin Chúa cho con hiểu và sống lời Chúa dạy: "Ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy". A-men..

21. THỨ SÁU SAU LỄ TRO - Mt 9,14-15
Trên đường đến tiệc cưới Nước Trời
Ăn chay là một trong ba việc làm chính để tỏ lòng sám hối ăn năn. Thế nhưng, trong bài Tin mừng mà chúng ta sắp nghe sau đây, ăn chay lại là một đề tài tranh luận giữa các môn đệ của ông Gio-an và Chúa Giê-su. Bài Tin mừng theo thánh Mát-thêu 9,14-15 thuật lại việc này như sau:
"Bấy giờ, các môn đệ ông Gio-an tiến lại hỏi Đức Giê-su rằng: "Tại sao chúng tôi và các người Pha-ri-sêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?" Đức Giê-su trả lời: "Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc, khi chàng rể còn ở với họ? Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay."
* * *
Để có thể hiểu cuộc tranh luận này một cách rõ ràng hơn, chúng ta cùng nhau tìm hiểu sơ qua về việc ăn chay của thời bấy giờ: theo sách Lê-vi 16,19-31 thì luật cũ chỉ buộc người Do Thái ăn chay mỗi năm một lần vào ngày đền tội. Đến thời Chúa Giê-su, ngoài việc giữ chay mỗi năm một lần này, người ta còn tự nguyện giữ những ngày chay chung vì những lý do khác. Ngoài ra, một số người đạo đức còn giữ thêm những ngày chay riêng, như nhóm Pha-ri-sêu ăn chay một tuần hai lần.
Như vậy, việc ăn chay mà các môn đệ ông Gio-an thắc mắc ở đoạn Tin mừng trên đây là việc giữ chay riêng vì lòng đạo đức, chứ không phải vì luật buộc. Đức Giê-su và các môn đệ của Người không phủ nhận giá trị của việc ăn chay theo truyền thống, bởi chính Người cũng đã vào hoang địa ăn chay bốn mươi đêm ngày trước khi ra đi rao giảng. Tuy nhiên, trong bối cảnh mới của thời Đấng Thiên Sai, Đức Giê-su muốn nhắc lại rằng mục đích chính của việc ăn chay trong thời Cựu ước là để chờ đón Đấng Mê-si-a. Hiện nay, việc họ tự nguyện ăn chay là tốt, nhưng có một việc còn tốt hơn: đó là nhận biết Đức Giê-su Na-da-rét chính là Đấng Mê-si-a mà Chúa Cha sai đến để cứu độ trần gian.
Để giúp các môn đệ ông Gio-an có thể mở lòng ra mà nhận biết Người, Đức Giê-su trả lời họ bằng một câu hỏi gợi ý: "Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc, khi chàng rể còn ở với họ?" Nếu những người môn đệ này của ông Gio-an đã có mặt khi xảy ra cuộc tranh luận trước đây giữa các bạn đồng môn và một người Do Thái về việc thanh tẩy, hẳn họ sẽ nhớ ngay lại lời thầy mình đã nói về Đức Giê-su như sau: "Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn chú rể, đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của Thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn". Phải, Đức Giê-su chính là chú rể trong tiệc cưới Nước Trời. Bao lâu có Đức Giê-su ở cạnh, thì bấy lâu họ không phải âu sầu phiền não. Chỉ khi nào mất Chúa họ mới phải ăn năn khóc lóc thôi!
* * *
Chúa Giê-su đã rất sát với đời thường khi đưa ra hình ảnh tiệc cưới và chú rể để nói về Nước Trời và bản thân Người. Vâng, tiệc cưới là một hình ảnh quá quen thuộc với chúng ta. Ở bất cứ nơi nào thời nào, ngày cưới luôn luôn là một ngày trọng đại, một ngày vui vẻ cho gia đình. Và các nhân vật chính luôn là chú rể và cô dâu. Phải, Nước Trời là một bữa tiệc cưới, trong đó Đức Giê-su chính là chàng rể, và Giáo Hội chính là cô dâu. Sự kết hợp giữa Đức Giê-su và Giáo Hội mang lại hạnh phúc và hoan lạc đời đời cho những ai tham dự tiệc cưới đó, tức là cho những ai gia nhập vào gia đình Giáo Hội. Khi một gia đình có tiệc cưới, mọi thành viên trong gia đình đều vui mừng phấn khởi. Ai cũng muốn bắt tay vào việc, mỗi người tùy sức mình mà đóng góp cho niềm vui chung. Trong ngày đó, ai cũng trở nên dễ mến dễ thương, ai cũng trở nên ân cần tử tế. Nhờ sự hiện diện của chú rể, không khí trong nhà đượm nét đầm ấm và vui tươi. Tất cả mọi ưu tư phiền muộn đều tạm gác lại. Mọi người tập trung tận hưởng niềm vui của ngày hôn lễ. Đâu cũng nghe tiếng cười. Đâu cũng thấy đèn hoa.
Là con cái của Giáo Hội, chúng ta đang được tham dự tiệc cưới của Đức Ki-tô và Giáo Hội. Đức Ki-tô đã phục sinh vinh hiển, đã được Chúa Cha trao ban danh dự và vinh quang. Còn Giáo Hội, vì đang lữ hành dưới trần gian, nên vẫn còn mang nơi mình những tì tích và khuyết điểm của con cái. Giáo Hội đang cố gắng thanh tẩy và canh tân để ngày càng trở nên hiền thê xứng đáng của Đức Ki-tô. Trong nỗ lực này, Giáo Hội luôn kêu gọi chúng ta sám hối và canh tân. Vào những năm cuối thế kỷ 20, Đức thánh cha Gio-an Phao-lô 2 đã liên tục đưa ra những sáng kiến táo bạo để thúc đẩy Giáo Hội tiến sâu và tiến nhanh hơn trong công cuộc sám hối và canh tân này. Chính trong năm Đại thánh 2000 vừa qua, Ngài đã cùng Giáo Hội thực hiện rất nhiều việc cụ thể, đáng lưu ý là việc tổ chức những ngày thánh cho các ngành giới. Trong những ngày ấy, tất cả mọi con cái Giáo Hội đều được mời gọi tham gia tích cực vào việc thanh tẩy bản thân để trở nên con người mới. Qua các phương tiện thông tin, chúng ta đã cùng hiệp thông với nhau, đã chia sẻ cho nhau những hồng ân mà mình nhận được trong những ngày trọng đại ấy.
Hình ảnh Giáo Hội lữ hành chen vai sát cánh trên hành trình về quê trời là một hình ảnh tuyệt đẹp. Trong đoàn lữ hành này, mỗi người nương tựa vào Chúa Ki-tô và vào nhau để tiến bước. Chúng ta cũng có thể liên tưởng đến hình ảnh một gia đình đang nắm tay nhau đi dự tiệc cưới Nước Trời. Con đường đến nơi dự tiệc còn xa. Những gian nan trắc trở còn nhiều. Trên con đường lữ hành này, chúng ta cần nhiều trạm dừng chân để bồi bổ dưỡng sức. Những ai đau yếu cần được thuốc thang chữa trị. Những ai yếu mệt cần được nghỉ ngơi tĩnh dưỡng. Mùa Chay năm nay là một trong những trạm dừng chân đó. Các việc bố thí, cầu nguyện và ăn chay là những phương thế để chúng ta chữa trị và bồi bổ cho linh hồn mình thêm mạnh khỏe. Ước mong sao mỗi người chúng ta vận dụng được những phương thế này một cách hữu hiệu, để sau chặng nghỉ chân, chúng ta tiếp tục hành trình một cách vững vàng hơn.
Lạy Chúa Giê-su, ngôn sứ Ê-li-a kiên cường biết bao mà cũng đã có lúc mệt lả đuối sức trên đường lên núi Khô-rếp, huống chi con là những kẻ yếu hèn. Xin Chúa giúp con sống mùa Chay năm nay một cách nghiêm túc, để nhờ được chữa trị và bồi bổ bằng các việc bố thí, cầu nguyện và ăn chay, con hân hoan tiến bước theo Chúa trên hành trình đến dự tiệc vui Nước Trời. A-men

22. THỨ BẢY SAU LỄ TRO - Lc 5,27-32
Cuộc gặp gỡ định mệnh
Trong cuộc sống, gặp gỡ nhau là việc thường tình. Tuy nhiên, có những cuộc gặp gỡ làm thay đổi vận mệnh của một đời người. Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giê-su và ông Lê-vi là một trong những trường hợp đó Chúng ta cùng nghe câu chuyện này trong Tin mừng theo thánh Lu-ca 5,27-32:
"Sau đó, Đức Giê-su đi ra và trông thấy một người thu thuế, tên là Lê-vi, đang ngồi ở trạm thu thuế. Người bảo ông: "Anh hãy theo tôi!" Ông bỏ tất cả, đứng dậy đi theo Người. Ông Lê-vi làm tiệc lớn đãi Người tại nhà ông. Có đông đảo người thu thuế và những người khác cùng ăn với các ngài. Những người Pha-ri-sêu và những kinh sư thuộc nhóm của họ mới lẩm bẩm trách các môn đệ Đức Giê-su rằng: "Sao các ông lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi?" Đức Giê-su đáp lại họ rằng: "Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn".
* * *
Trong tất cả các cuộc hoán cải được thuật lại trong Kinh Thánh, chúng ta thấy Thiên Chúa luôn là Đấng ngỏ lời đầu tiên. Trong thời Cựu ước, Gia-vê Thiên Chúa thường khiển trách nặng lời và đe dọa trừng phạt để thức tỉnh kẻ tội lỗi. Còn trong thời Tân ước, Đức Giê-su thường kêu gọi một cách khoan dung nhân từ để giúp người có tội sám hối canh tân.
Trở lại với câu chuyện ông Lê-vi, chúng ta biết rằng trong xã hội Do Thái thời Chúa Giê-su, những người làm nghề thu thuế bị dân chúng ghét bỏ và liệt vào hạng tội lỗi. Ông Lê-vi là một nhân viên thu thuế, và người ta nhìn ông với cặp mắt đầy ác cảm. Sự ác cảm này không phải là vô cớ, vì khi làm nghề thu thuế, hầu chắc ông khó tránh được những lần lem nhem tiền bạc, đút lót đầu này ăn chận đầu kia. Sống chung với những người thu thuế , làm sao ông có thể tránh được những thói hư tật xấu của họ? Ông cha ta có nói: "Gần mực thì đen", câu nói này chắc cũng không ngoa! Có tiền có quyền thì dễ có cơ hội giao du với những người xa hoa phóng đãng. Số bạn bè mang tiếng là "bọn thu thuế và quân tội lỗi" đến dự tiệc tại nhà ông hôm ấy có thể minh chứng phần nào cho điều này.
Tuy hành nghề thu thuế, tuy sống lăn lộn với giới bất lương tội lỗi, nhưng thâm tâm ông luôn cảm thấy bất an. Ông cảm thấy đời mình có cái gì đó không ổn, có cái gì đó cần phải bỏ đi, có cái gì đó cần phải sửa sang chỉnh đốn lại. Ban ngày ông ra bàn thu thuế loay hoay với tiền bạc, với những kẻ trên cúi dưới lòn. Nhưng đêm về, đối diện với chính mình, ông thấy buồn da diết: tiền bạc không mang lại cho ông niềm vui đích thật! Từng đêm rồi lại từng đêm, ông dằn vặt khổ sở vì những ý nghĩ tốt xấu cứ đấu tranh dai dẳng trong tâm hồn. Ông muốn tìm cho mình một lối thoát, thế nhưng cái thòng lọng của nghề nghiệp, của lợi nhuận vẫn cứ xiết chặt lấy ông.
Mấy hôm rồi, quanh bàn thuế, ông nghe người ta nói nhiều đến một Thầy Giê-su nào đó đã mang lại an vui cho nhiều người. Lê-vi nửa tin nửa ngờ: Thầy Giê-su là ai mà có thể làm được điều đó? Ông tò mò tìm hiểu và nghe được rất nhiều điều thú vị. Ông thầm ước mong mình có cơ hội gặp được vị Thầy có sức cảm hóa ấy, nhưng công việc bàn thuế và các mối giao lưu nghề nghiệp cứ chiếm hết giờ của ông!
Thế rồi hôm nay, một ngày định mệnh của đời ông: Thầy Giê-su đi ngang trạm thu thuế, thấy ông và gọi ông. Không chần chừ, ông đứng dậy đi theo Người, liều mất cả việc làm béo bở, liều chịu mọi hậu quả rắc rối có thể xảy đến sau này.
Lê-vi đã khởi sự tiến trình hoán cải. Ông đã cương quyết rời bỏ bóng tối để đi ra miền đất ánh sáng. Ông cương quyết làm lại cuộc đời. Cơ hội đã tới, ông phải bám lấy nó, không thể để cơ hội hiếm hoi này vuột khỏi tay ông. Ông đã quá ngán ngẩm những đêm dài trằn trọc. Phải cương quyết ra đi thôi. Ông về nhà tổ chức một bữa tiệc lớn, mời Thầy Giê-su, các môn đệ của Thầy và các thân bằng quyến thuộc của mình đến chung vui, để nói lên quyết định trọng đại của mình, để từ giả họ mà đi theo vị thầy mà ông tin là sẽ mang lại cho đời mình niềm hạnh phúc an vui đích thật.
Bữa tiệc vui này lại làm xốn xang những người Pha-ri-sêu và những kinh sư thuộc nhóm của họ. Vốn tự xưng là công chính, những người này mới lẩm bẩm trách tại sao các môn đệ của Chúa Giê-su lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi! Những người Pha-ri-sêu và những kinh sư này không muốn hoán cải và cũng không muốn thấy những người khác hoán cải! Chúa Giê-su điềm tĩnh trả lời: "Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn " .
* * *
Tiến trình hoán cải là con đường trở về được Thiên Chúa vạch ra cho chúng ta, là những tội nhân. Tiến trình này cho chúng ta thấy lòng thương xót bao la của Thiên Chúa biểu lộ qua Đức Giê-su Ki-tô. Người không đến để luận tội chúng ta, nhưng để vạch cho chúng ta thấy tội lỗi của mình mà hoán cải, hầu được giải thoát khỏi vòng cương tỏa của tội lỗi và được sống an vui thanh thản. Qua các câu chuyện thuật lại trong các sách Tin mừng, chúng ta thấy Đức Giê-su luôn tìm dịp đến với những người tội lỗi. Người lân la chuyện trò với họ. Người cùng ăn cùng uống với họ, để khơi dậy nơi họ niềm hy vọng vươn lên khỏi tình cảnh đáng thương của mình. Và khi kẻ tội lỗi đã có thiện chí hoán cải, Người luôn tạo cơ hội thuận tiện để giúp họ làm lại cuộc đời.
Chúng ta là những tội nhân trước mặt Thiên Chúa và trước mặt anh chị em. Vì là người có tội, chúng ta thường mang nhiều mặc cảm. Chúng ta muốn vươn lên, muốn thoát ra khỏi tình trạng đáng buồn của mình. Nhưng có lúc chúng ta không đủ can đảm, có lúc lại chẳng có ai chìa tay ra nâng đỡ chúng ta! Chúa Giê-su hiểu rõ tâm trạng này. Người là vị Lương Y từ ái sẵn sàng ra tay cứu chữa mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền. Người là vị Mục Tử nhân lành biết rõ từng con chiên của mình. Người sẵn sàng tạm rời chín mươi chín con chiên đã yên ổn trong đàn để đi tìm một con chiên lạc, và đưa nó trở về sum họp với đàn .
Lạy Chúa, con là một tội nhân hư hỏng. Những tội lỗi mà con quen phạm cứ mãi dằn vặt trong tâm hồn con. Con rất muốn dứt bỏ những tội lỗi ấy. Nhưng rồi con cứ sa đi ngã lại mãi, khiến nhiều lúc con nản chí muốn buông xuôi. Nhân mùa Chay này, xin Chúa giúp con đảm đứng dậy như ông Lê-vi, đi ra khỏi vùng đất tối tăm của sự chết, để theo Chúa tiến về miền đất ánh sáng của sự sống muôn đời. Amen.