Hiển thị các bài đăng có nhãn >150. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn >150. Hiển thị tất cả bài đăng

Suy tư Mùa Chay _ cách chia hai đồng bạc

CÁCH CHIA HAI ĐỒNG BẠC
Chính vì mình đã đưa tay giúp đỡ những người khốn đốn, nên mới đem đến cho mình cơ hội làm thay đổi cuộc đời.

Truyện thánh Savio _ ngày rước lễ lần đầu


 NGÀY RƯỚC LỄ LẦN ĐẦU
Những quyết định anh dũng này, Saviô không phải chỉ viết ra cho vui mà suốt đời cậu đã không ngừng giữ trọn! Và chính vì cậu đã giữ trọn cả 4 điều trên mà cậu đã trở nên một vị pthánh.
Thu Lâm

Truyện thánh Savio _ nếu con là một con chim nhỏ

Nếu con là một con chim nhỏ
Sau khi rước lễ lần đầu, Đa Minh Saviô vẫn tiếp tục theo học ở nhà xứ của Cha Sở họ Murialdô, nhưng tới năm 10 tuổi, cậu phải nghĩ đến việc đi học ở trường làng. Khốn thay trường làng lại ở mãi Castelnuôvô, tức là cách xóm Murialđô những 4 cây số! Ở trọ nhà người ta, Saviô không dám nghĩ đến truyện đó, vì cha cậu phải khó khăn lắm mới nuôi sống nổi một gia đình đông con như vậy.
“ Ôi nếu con là một con chim nhỏ, Saviô than thở, con sẽ bay tới Castelnuôvô mỗi sáng và mỗi chiều… Như thế, con sẽ có thể tiếp tục theo học…”
-         Nhưng con không phải là một con chim! Bà mẹ nói. Vì thế, tốt hơn là con đừng nghĩ tới việc theo học nữa! Với lại, con gầy yếu thế này thì làm gì được! Này, con trông! Những cánh tay của con gầy trơ cả xương ra đây này!

Lời Chúa cntn 5b _ đừng nô lệ cho chính mình

ĐỪNG NÔ LỆ CHO CHÍNH MÌNH
Chúng ta có thể đánh mất chính mình trong khi làm việc. Nhưng chúng ta cũng có thể tìm thấy chính mình trong công việc.  

Xuân Nhâm Thìn _ định hướng

ĐỊNH HƯỚNG

Năm hết tết đến, ai trong chúng ta mà lại chẳng cảm thấy một chút gì náo nức: trẻ em thì mong đợi những bộ quần áo mới và những đồng tiền lì xì mừng tuổi, người lớn thì tính sổ công việc làm ăn trong năm qua và hoạch định chương trình cho thời gian sắp tới. Mọi người đều tạm gác những âu lo thường ngày để thăm viếng, để gặp gỡ và chúc mừng nhau một năm mới nhiều may mắn và hạnh phúc.

Năm Thìn _ tản mạn chuyện rồng

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Năm Thìn tản mạn chuyện Rồng
Tân Mão đã qua, Nhâm Thìn đang đến. Mèo Tân Mão sắp bàn giao cho Rồng Nhâm Thìn.
Trong 12 con giáp chỉ có Rồng là con vật chưa ai thấy tận mắt bao giờ. Rồng là một loài vật xuất hiện trong thần thoại phương Đông và phương Tây. Trong cả phương Đông lẫn phương Tây, hình ảnh loài rồng đều được biểu thị cho loài linh vật huyền thoại có sức mạnh phi thường. Rồng ở các nước châu Á có nhiều khác biệt với rồng ở các nước châu Âu và châu Mỹ. Rồng Á châu được tôn thờ như thần vật. Rồng Tây phương bị coi là loài quái vật có hình tượng hung dữ nên các nước châu Âu coi rồng là biểu tượng của cái ác và sự hung dữ. Theo tự điển Larousse, rồng là một con vật hoang đường, hình rắn nhưng lại có cánh và có đuôi. Nó có hình dáng của khủng long có thêm sừng, cánh, vây lưng và có thể phun ra lửa hoặc nước… Da của nó rắn chắc, không loại vũ khí nào có thể sát thương được nhưng lại có điểm yếu nằm ở mắt và lưỡi, thường sống nơi hẻo lánh,con người ít đặt chân đến.

Một chút suy tư _ những món quà của ba đạo sĩ

NHỮNG MÓN QUÀ CỦA BA ĐẠO SĨ
Maranatha

Giáng sinh lại về. Thời gian này, người ta nghĩ đến việc mua quà tặng nhau. Quà Giáng Sinh đã trở thành một thứ không thể thiếu để bày tỏ  tình cảm của những người thương mến nhau, dù họ có đặt niềm tin vào Thiên Chúa Giáng Trần hay không.
Thế nhưng, người ta quên mất rằng những món quà đầu tiên ngày Giáng Sinh là của ba đạo sĩ dâng lên Hài Nhi Giêsu. Và kể từ đó, những đạo sĩ khác tiếp tục dâng lên Hài Nhi Giêsu những món quà nho nhỏ... Không phải dâng lên Hài Nhi nhập thể ở chuồng bò Bêlem, mà nhập thể lại từng ngày trong những con người quanh ta, đặc biệt là những người nghèo nàn, thiếu thốn, cô đơn. Nếu ta tinh ý một tí, ta sẽ gặp lại nhiều đạo sĩ ấy.
Và sau đây là ba trong số bao nhiêu đạo sĩ của ngày nay đang dâng những món quà Giáng Sinh đầy ý nghĩa. Độc giả sẽ thấy rằng trang phục của họ không giống các vị đạo sĩ xưa kia, nhưng tấm lòng của họ thì vẫn như thế. Maranatha sưu tầm và chuyển ngữ để trao lại độc giả như món quà Giáng Sinh năm nay, với lòng mong ước rằng người đọc những mẩu chuyện này sẽ tự biến mình thành đạo sĩ thứ tư.
NGƯỜI ĐẠO SĨ THỨ I
     Một buổi tối trong mùa Giáng Sinh, một cậu bé độ sáu bảy tuổi đứng trước một cửa hàng. Cậu bé không mang giày và quần áo thì tơi tả. Một phụ nữ trẻ đi ngang qua, nhìn thấy em và đọc được ước mơ trong đôi mắt của em. Cô nắm tay em đưa vào cửa hàng. Cô mua cho em một đôi giày và một bộ đồ mới.
Khi ra lại ngoài đường, người phụ nữ nói với em: “Bây giờ cháu có thể về nhà và sống những ngày Lễ Giáng Sinh thật vui nhé!”
Em bé nhìn lên hỏi cô: “Cô ơi! Cô có phải là Chúa không?”
Người phụ nữ mỉm cười nói: “Không em à. Cô chỉ là một trong những người con của Chúa thôi!”
Cậu bé thốt lên: “Em biết ngay mà! Em biết là cô có họ hàng với Chúa mà!”       
Dan Clark (Are you God?)
NGƯỜI ĐẠO SĨ THỨ II
Một cậu bé từng mong gặp được Chúa. Cậu nghĩ rằng đường đến gặp Chúa hẳn là xa, nên cậu bỏ vào ba-lô nhiều hộp bánh, vài lon nước ngọt và bắt đầu lên đường.
Khi cậu đi được vài ô nhà, cậu thấy một bà lão. Bà ngồi trên ghế đá công viên nhìn những con chim bồ câu đang vui đùa. Cậu bé đến ngồi cạnh bà và mở ba-lô ra. Cậu định lấy một lon nước ngọt để uống, nhưng khi thấy bà lão có vẻ đói, cậu tặng bà vài chiếc bánh. Bà nhận lấy và mỉm cười với cậu.
Nụ cười bà thật tươi nên cậu muốn nhìn thấy một lần nữa, vì thế cậu tặng thêm bà lon nước ngọt. Bà lại mỉm cười và cậu bé cảm thấy sung sướng.
Họ ngồi cạnh nhau suốt buổi chiều mà chẳng nói với nhau một lời.
     Khi hoàng hôn xuống, cậu bé thấm mệt nên muốn về nhà. Cậu đứng đậy bước đi vài bước, rồi bỗng quay mặt chạy lại cạnh bà lão, ôm hôn bà. Bà mỉm cười với cậu với khuôn mặt rạng rỡ hơn bao giờ hết.
Về đến nhà, mẹ cậu ngạc nhiên vì thấy cậu thật vui. Bà hỏi: “Cái gì hôm nay làm con vui như thế?” Cậu đáp: “Con đã ăn trưa với Chúa.”  Mẹ cậu chưa kịp phản ứng thì cậu đã nói thêm: “Mẹ biết không? Chúa có một nụ cười dễ thương nhất trên đời!”
Trong khi đó bà lão cũng về đến nhà, gương mặt rạng rỡ niềm vui. Con của bà ngạc nhiên nhìn gương mặt tươi rói của bà. Cô hỏi: “Mẹ ơi, điều gì hôm nay làm mẹ vui như thế?” Bà đáp: “Mẹ đã ăn bánh với Chúa ngoài công viên!” Người con chưa kịp phản ứng gì thì bà nói tiếp: “Con biết không? Chúa trẻ hơn là mẹ nghĩ nhiều!”
Julie A. Manhan (An Afternoon in the Park)
NGƯỜI ĐẠO SĨ THỨ III
Thoạt nhìn, bà ta cũng giống như bất cứ một bà lão nào khác. Bước đi chậm chạp trên tuyết, một mình, xơ xác, đầu cúi gục. Những người qua lại trên hè phố đông người ngoảnh mặt đi, ít ra là bà cũng nhắc họ rằng đau khổ không hề tạm dừng trong mùa Giáng Sinh
Một đôi vợ chồng trẻ, cười cười nói nói, tay ôm đầy quà Giáng Sinh, không để ý đến bà lão kia.
Một người mẹ hối hả đưa hai đứa con về thăm bà ngoại. Họ cũng không để ý đến bà.
Một mục sư chững chạc bước đi, tay phải cầm chặt quyển Kinh Thánh, như một chiến sĩ cầm vũ khí. Nhưng đầu óc ông đang nghĩ đến những sự trên trời, nên ông cũng không màng lưu ý đến bà.
Nếu những người ấy lưu ý, hẳn họ thấy rằng bà lão không mang giày. Bà đi chân không trên tuyết và nước đá.
Hai bàn tay bà nắm chặt vào cổ áo đứt nút để che cho khỏi gió. Bà đừng lại và đứng lom khom ở trạm xe buýt. Đầu bà quấn một chiếc khăn màu đỏ xanh. Bà đứng chờ xe buýt để đi vào trung tâm thành phố.
Một người đàn ông lịch lãm, tay cầm chiếc cặp da, đứng cạnh bà, nhưng không quá gần. Biết đâu bà chẳng mang một bệnh truyền nhiễm.
Một em thiếu nhi cũng chờ xe buýt. Em nhìn đi nhìn lại chân của bà lão, nhưng không nói tiếng nào.
Xe buýt đến và bà lão chậm chạp, khó khăn bước lên. Bà ngồi trên ghế ngang cạnh người lái xe. Người đàn ông và cậu bé đi vội xuống phía dưới. Người đàn ông ngồi cùng ghế với bà lắc lư khó chịu và xoay mấy ngón tay. “Cái bà già!” ông nghĩ thế!
Người lái xe nhìn thấy chân không của bà, bèn nghĩ: “dân vùng này càng ngày càng nghèo thêm. Tôi ghét nhìn cảnh này, tôi sẽ thích hơn ngày nào họ cho tôi lái tuyến đường Đại Học.”
Một cậu bé chỉ vào bà lão. ”Mẹ ơi! Nhìn kìa, bà già kia đi chân không”
Người mẹ bối rối nắm tay con kéo xuống: “Andrew!  Đừng chỉ tay về người khác. Như vậy là không lịch sự.”  Rồi bà nhìn ra cửa sổ.
“Bà này hẳn có con lớn chứ!” một phụ nữ mặc áo lông cừu thốt lên. “Con bà chắc phải xấu hổ vì bà!”  Phụ nữ này cảm thấy hãnh diện vì cô chăm sóc mẹ mình đàng hoàng.
Một cô giáo ngồi ở giữa xe siết chặt gói quà trên đùi mình. Cô nói với người bạn ngồi bên cạnh: “Chẳng phải là mình đã trả đủ thuế để lo cho những trường hợp này sao?”
Cô bạn trả lời “Đấy là sai lầm quản trị của phe Cộng Hòa; họ ăn cắp của người nghèo để cung cấp cho người giàu”. Một ông tóc muối tiêu can thiệp: “Không phải đâu!  Đấy là do phe Dân Chủ. Các chương trình an sinh xã hội của phe Dân Chủ biến người ta thành kẻ lười biếng và cầm tù người ta trong cái nghèo!”
Một cậu sinh viên ăn mặc bảnh bao lên tiếng: “Người ta phải học cách tiết kiệm!  Nếu bà già này biết tiết kiệm từ hồi còn trẻ, thì bây giờ bà đâu khổ đến thế. Lỗi là do bà ta thôi!”
Tất cả những người ấy cảm thấy tự hào vì mình đã phân tích tình huống thật sắc sảo.
Tuy nhiên, một thương gia có lòng cảm thấy xúc phạm vì sự thờ ơ của các người cùng xe với mình. Ông mở ví rút ra một tờ 20 đô-la nhăn nheo. Ông khẳng khái bước lên và đặt tờ giấy bạc trong bàn tay run run của bà lão. “Bà ơi, tặng bà để mua giày nè.”
Bà lão gật đầu cám ơn. Người thương gia lui về ghế ngồi, hài lòng vì thấy rằng mình là một người biết biến lòng trắc ẩn thành hành động.
Một phụ nữ Kitô giáo nhìn thấy mọi sự. Cô bắt cầu cầu nguyện thinh lặng. “Lạy Chúa, con không có tiền. Con không thể nào giúp được bà ấy. Nhưng lạy Chúa, con có thể dâng lên Chúa những nhu cầu của con người. Con biết Chúa đầy lòng yêu thương. Chúa làm được những điều bất khả. Xin Chúa hãy tỏ hiện vinh quang Người trên bà lão này. Xin cho đôi giày rơi xuống từ trời như man-na xưa, để cho bà lão này có được đôi giày mừng Giáng Sinh.”  Và người phụ nữ cảm thấy mình biết sống đời cầu nguyện.
Đến trạm tiếp theo, một cậu thanh niên lên xe. Cậu mặc một chiếc áo gió màu xanh, thắt một khăn choàng màu nâu quanh cổ, đầu đội chiếc mũ xám che phủ đôi tai. Một sợi dây nghe nhạc chạy luồn dưới nón vào tai nối liền với một máy nghe walkman. Cậu lắc lư thân mình theo điệu nhạc mà chỉ một mình cậu nghe. Cậu trả tiền vé rồi buông người xuống đối diện với bà lão.
Nhìn thấy đôi chân không của bà, cậu ngưng lắc lư. Cậu thẳng người bất động. Cậu đưa mắt nhìn chân bà rồi nhìn chân mình. Cậu mang một đôi giày hiệu, đắt giá, mới toanh. Hẳn cậu đã phải đề dành khá lâu với đồng lương ít ỏi để mua đôi giày ấy. Bạn bè trong nhóm chắc sẽ cho rắng cậu rất ‘bảnh’ khi mang đôi giày này.
Cậu cúi mình xuống, tháo dây giày. Cậu cởi đôi giày mới, cởi đôi vớ đang mang rồi quỳ xuống dưới chân bà lão. “Má ơi!  Con thấy má không có giày. Còn con thì có đây!”  Dịu dàng, anh nhè nhẹ nâng đôi chân khẳng khiu của bà lão lên. Anh mang vớ và giày của anh vào chân bà. Bà lão gật đầu cám ơn.
Xe buýt dừng lại ở một trạm kế tiếp. Cậu thanh niên xuống xe. Hành khách trên xe chồm theo nhìn cậu ta bước đi chân không trên tuyết.
Một người hỏi: “Anh ta là ai vậy hả?”
Một người khác đáp: “Chắc là một ngôn sứ!”
Người khác lên tiếng: “Hẳn là một ông thánh”
Có người hô to lên: “Xem kìa! Có ánh hào quang trên đầu anh ta”
Người phụ nữ Kitô giáo bảo: “Anh ta chắc là Con Chúa.”
Nhưng cậu bé từng chỉ tay vào bà lão lại nói: “Không phải đâu mẹ ơi! Con nhìn kỹ anh ấy rồi... Anh ấy chỉ là một người thôi!”
Earnest Thompson (Only A Man)


Thuở ban đầu, nhân loại đã được dựng nên theo hình ảnh Chúa, giống như Chúa. (x. St 1,26). Thế nhưng sự tự cao tự đại đã tước đoạt khỏi con người các đặc tính thần linh. Từ đó, cùng với mọi người, tôi mất quyền làm chủ, và trở nên nô lệ, nô lệ cho mọi sự, nô lệ cho chính mình.
Hôm nay, chính Chúa đã hạ mình trở nên nô lệ theo hình ảnh con người, giống như con người, để trong thân phận con người yếu hèn đó mà Chúa đồng hành với tôi, Chúa dẫn đầu, là động lực và là kiểu mẫu cho tôi bước vào sự tự do hoàn hảo của tình yêu, bước vào sự sống của Chúa, bước vào hạnh phúc muôn đời Chúa đã dành sẵn cho tôi từ khi tạo thiên lập địa.
Trong ngày sau hết, tình yêu cũng là tiêu chí Chúa dùng để phân định những ai chọn Chúa làm hạnh phúc muôn đời: "Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, (...) Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han."
Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc?Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu?"
Đức Vua sẽ đáp lại rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy."  (Mt 25,31-40)

CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

Thánh Anrê Dũng-Lạc Và Các Bạn 

Tử-Đạo Việt-Nam

I. Theo Gương Thánh Phêrô
Quo vadis, Domine? Lạy Thày, Thày đi đâu vậy?
Trên đường chạy trốn cơn bách hại khủng khiếp của bạo chúa Néron đang giáng xuống kinh thành Roma, vị tông đồ trưởng Phêrô đã bàng hoàng thốt lên câu hỏi trên khi bất ngờ gặp Chúa Giêsu vác Thập Giá đi ngược chiều với mình.
Sau đó là khoảng khắc im lặng ... Sự im lặng tưởng chừng như đến muôn đời sẽ không bao giờ có giây phút nào im lặng như thế. Phêrô như đọc thấy câu trả lời trong ánh mắt của Đức Kitô, có một chút gì giống ánh mắt Ngài đã nhìn mình sau ba lần chối Chúa. Và trong bầu khí thinh lặng đó, chợt vọng tới tai ông giọng nói buồn bã nhưng ngọt ngào:
- Vì anh rời bỏ dân Thày, nên Thày phải đến Roma để chịu đóng đinh một lần nữa.
Phêrô lặng người đi và chợt hiểu.
Vị sứ đồ đã ra đi để xa lánh cơn điên cuồng của một bạo chúa, vì những lời nài nĩ chí tình của đoàn tín hữu. Họ coi ngài là sức mạnh, là hơi thở, là chỗ dựa. Cần phải sống để tiếp tục mưu ích cho đoàn chiên. Giờ đây, Phêrô được ôn lại bài học vĩ đại nhất của vị Tôn Sư Giêsu, người thợ mộc làng Nagiarét đã chết gục vào tuổi 33 trên Thập Tự để cứu chuộc nhân loại.
Thế là trong cái khoảng khắc kỳ diệu đó, thánh Phêrô chợt nhớ ra. Để rồi thay vì những bước chân rời rã, do dự chạy trốn thì giờ đây ngài bước một cách mạnh mẽ, dứt khoát quay lại... để có thể trở nên giống Thày mình. Từ đó, trên đá tảng Phêrô, Roma trở nên kinh thành muôn thưở. Đâu có ai thời đó nghĩ ra như thế. Vâng, đâu có ai thời đó đã hiểu được điều ấy.
Sau lần bị bắt thứ ba, cha Anrê Dũng-Lạc như cảm nhận được bài học của thánh Phêrô xưa. Ý nghĩ con người không hẳn đã phù hợp với ý Chúa. Ngài xin tín hữu đừng chuộc ngài nữa, ngài đã chấp nhận hy sinh chính bản thân để trở nên một ngọn đèn, góp lửa với nhiều ngọn đèn khác làm chứng cho Chúa trên quê hương yêu dấu này.
II. Thánh Anrê TRẦN AN DŨNG-LẠC, Linh Mục (1795-1839)
1/ Ba Lần Bị Bắt
Sinh ra trong một gia đình ngoại giáo ở Bắc Ninh năm 1795, Trần An Dũng theo cha mẹ vào Kẻ Chợ, nay là Hà Nội. Tại đây vì nhà nghèo, cậu được gửi gấm cho một thày giảng nuôi nấng dạy dỗ và rửa tội với tên thánh là Anrê. Ít lâu sau, cậu Dũng xin vào chủng viện Vĩnh Trị, ở với cha chính Lan. Ngay từ đó, cậu Dũng lại siêng năng cần mẫn, có khiếu về thơ phú và giao tiếp với mọi người cách lịch thiệp hòa nhã. Có người nói rằng cậu chỉ đọc qua một đoạn sách hai lần là đã thuộc lòng.
Sau 10 năm làm thày giảng và 3 năm thần học, ngày 15-3-1823, thày Dũng được lãnh chức linh mục (cùng với lớp thánh Ngân và Nghi), rồi được bổ nhiệm làm phó xứ Đồng Chuối giúp cha Khiết. Sau đó về giúp cha Thi ba năm ở xứ Đoài, rồi lại giúp cha Thuyết ở Sơn Miêng. Cuối cùng, khi làm chánh xứ Kẻ Đầm thì bị bắt. Suốt cuộc đời linh mục, cha Dũng sống nhiệm nhặt.
Ngoài những ngày ăn chay theo luật của Giáo Hội, cha còn giữ chay suốt Mùa Chay, và nhiều khi cả các ngày thứ sáu, thứ bảy quanh năm. Thường xuyên cha chỉ dùng những thức ăn đơn giản. Cha Dũng hết mình với nhiệm vụ chủ chăn, chẳng khi nào thấy cha ngại ngùng việc gì. Cha có lòng ưu ái đặc biệt với người nghèo. Có được của cải gì, cha chia xẻ cho họ hầu hết.
Khi lệnh bách hại của vua Minh Mạng trở nên gay gắt qua chiếu chỉ toàn quốc ngày 6-1-1833, cha phải ẩn náu tại các nhà bổn đạo, sau trốn lên Kẻ Roi và lập nhà xứ ở đó. Một hôm, cha dâng lễ vừa xong thì quân lính ập tới, cha liền cởi áo lễ và ngồi lẫn trong tín hữu. Lính bắt cha như một trong 30 giáo hữu hôm đó, vì quan quân không biết cha là linh mục. Ông Tổng Thìn bỏ ra 6 nén bạc, nhận cha là thân nhân đi dự lễ để chuộc về. Từ đấy cha đổi tên là Lạc.
Lần thứ hai cha bị bắt khi đến Kẻ Sông xưng tội với cha Thi theo thói quen hàng tháng. Lý trưởng Pháp bắt được hai linh mục và mặc cả với giáo hữu phải chuộc với giá 200 quan. Các tín hữu gom góp được 100 quan nên viên lý trưởng chỉ tha cha Lạc. Thế nhưng ngay trên đường về, vì gặp mưa gió, thuyền cha phải ghé vào bờ. Căn nhà cha đang trú lại đang bị quân lính khám xét. Thế là cha bị bắt lần thứ ba và bị giải lên huyện Bình Lục cùng với cha Thi.
Một lần nữa, giáo hữu cùng Đức Cha Retord Liêu tìm cách chuộc hai cha về, nhưng lần này cha Lạc thấy ý Chúa đã định cho mình, ngài nhắn về với Đức Cha câu chuyện thánh Phêrô hai lần thoát khỏi ngục, đến lần thứ ba, Chúa Giêsu đã yêu cầu ở lại tử đạo tại Roma, và xin các tín hữu đừng lo liệu tiền chuộc làm chi nữa.
2/ Được Cảm Tình Mọi Giới
Quan huyện Bình Lục đối xử với hai vị linh mục một cách tử tế. Ông truyền dọn cơm cho hai cha bằng mâm bát của mình, bắt lý trưởng trả lại quần áo đã tịch thu và thanh minh rằng: ”Phép triều đình cấm đạo và giết các cụ, chứ không phải tôi. Tôi không có tội gì trong việc này”. Ba ngày sau, quan huyện đưa hai cha xuống thuyền chuyển về Hà Nội. Các tín hữu thương tiếc đi theo rất đông, hoặc bằng thuyền, hoặc đi bộ trên bờ. Quan lấy làm lạ hỏi: ”Đạo trưởng có cái gì mà dân chúng thương tiếc quá vậy?” Một phụ nữ gần đó đáp lại: ”Thưa quan, các cha dạy chúng tôi những điều hay lẽ phải, dạy chồng hiền lành, đừng cờ bạc rượu chè, dạy vợ sống thuận thảo với chồng theo như giáo lý trong đạo”.
Hai vị linh mục khi thấy nhiều người khóc lóc tiễn đưa mình, đã dừng lại an ủi và khích lệ họ sống đạo cho tốt đẹp.
Tại Hà Nội, sau mấy lần tra hỏi, và dọa nạt hai vị chứng nhân Đức Kitô không thành công, các quan làm án xin vua xử trảm.
Thời gian trong tù, hai cha chiếm được tình cảm của lính gác, được tôn trọng và đối xử tử tế. Khi nhận được quà tiếp tế, hai cha chia cho lính canh, chỉ giữ lại những thứ tối thiểu. Mỗi buổi sáng và mỗi buổi tối, hai cha quỳ bên nhau cầu nguyện lâu giờ. Tuy các tín hữu xin được phép đưa cơm vào tù mỗi ngày, hai cha vẫn tìm cách hãm mình dặn họ đừng mang thịt hay cá làm chi, các ngài vẫn tiếp tục giữ chay ngày thứ hai, thứ tư, thứ sáu và thứ bảy. Những ngày đó, hai cha ăn thật ít, vừa đủ.
Lễ Các Thánh (1-11-1839), linh mục Trân đưa Mình Thánh Chúa vào ngục. Vừa thấy ngài, cha Lạc đã ra chào đón: ”Xin chào bác, tôi đợi bác đã lâu vì hết lương thực rồi”. Sau đó, cha cung kính rước lễ, và trao Mình Thánh cho cha già Thi.
Cuối năm 1839, khi quân lính đến công bố lệnh xử án, hai cha vui vẻ đón nhận bản án như một phần thưởng trọng hậu. Trên đường đến pháp trường, hai cha yên lặng cầu nguyện. Lúc ra khỏi cổng thành, cha Lạc chắp tay lại, hát lớn tiếng mấy câu La tinh chúc tụng Chúa. Trước phút hành quyết, người lý hình đến nói với cha: ”Chúng tôi không biết các thày tội gì, chúng tôi chỉ làm theo lệnh trên, xin các thày đừng chấp”.
Cha Lạc tươi cười trả lời: ”Quan đã truyền anh cứ thi hành”. Sau đó, hai cha xin ít phút để cầu nguyện lần chót, rồi nghiêng đầu cho lý hình chém.
Hai vị đã lãnh phúc tử đạo ngày 21-12-1839 tại bãi ngoài cửa ô Cầu Giấy (Hà Nội), giáp đường lên tỉnh Sơn Tây. Thi hài của cha Lạc được đưa về an táng tại nhà bà Lý Quý gần đó.
Nhớ đến thánh Dũng-Lạc, phải nhớ đến những vần thơ ngài tâm sự trong thư viết trong ngục cho cha Thực rằng:
Lạc rầy đã rõ chốn quân quan
Bút chép thơ này gởi thở than
Lòng nhớ bạn, nỗi còn vất vả
Dạ thương khách, chạy chữa yên hàn,
Đông qua tiết lại thì xuân tới
Khổ trảm mai sau hưởng phúc an
Làm kẻ anh hùng chi quản khó
Nguyện xin cùng gặp chốn thiên đàng.

Đức Giáo Hoàng Lêô XIII (1878-1903) suy tôn cha Anrê Trần An Dũng-Lạc lên bậc Chân Phước ngày 27-5-1900.
Chúa Nhật 19-6-1988, trong bối cảnh Năm Thánh Mẫu, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II (1978-2005) đã long trọng nâng Cha Anrê Trần An Dũng-Lạc và 116 Bạn Tử-Đạo Việt-Nam lên hàng hiển thánh. Thánh Lễ diễn ra tại quảng trường Thánh Phêrô. Trong sách nhỏ - phân phát vào dip này - ghi như sau:
LỄ TRỌNG
Do Đức Thánh Cha GIOAN PHAOLÔ II
chủ sự để tôn phong lên bậc Hiển-Thánh
Các Chân Phước
ANRÊ DŨNG-LẠC, Linh-mục
TÔMA THIỆN và EMMANUELE PHỤNG,
Giáo-dân
GIRÔLAMÔ HERMOSILLA
và VALENTINÔ BERRIÔ-OCHOA,
hai Giám-mục OP
và 6 Giám-mục khác
TÊÔPHAN VÉNARD,
Linh-mục Hội Thừa-sai Paris
và 105 Bạn Tử-Đạo Việt-Nam
Quảng-trường Thánh Phêrô, Vaticanô
19-6-1988
III. GIÁO HỘI VIỆT-NAM QUA CÁC THỜI ĐẠI
Công cuộc rao giảng Tin Mừng, khởi sự vào đầu thế kỷ thứ 16 tại hai địa phận đầu tiên ở miền Bắc (Đàng Ngoài) và miền Nam (Đàng Trong) được thiết lập vào năm 1659, qua các thế kỷ, đã biểu lộ sức phát triển lạ lùng, nhờ đó ngày nay có được 26 địa phận (10 ở miền Bắc và 15 ở miền Nam). Hàng Giáo Phẩm đã được thành lập (ngày 24 tháng 11 năm 1960), và trong toàn lãnh thổ Việt-Nam hiện nay có tới 6 triệu người Công Giáo.
Kết quả này có được là nhờ hạt giống đức tin, ngay từ những năm đầu tiên, đã hòa trộn với máu đào lai láng của các vị tử đạo đổ xuống trên mảnh đất Việt-Nam, của các giáo sĩ ngoại quốc, giáo sĩ bản xứ và của giáo dân Việt-Nam. Tất cả đã cùng chấp nhận những lao nhọc do việc tông đồ, đồng thời đã cùng sát cánh đương đầu với cái chết để làm chứng cho chân lý Phúc Âm. Lịch sử Giáo hội Việt-Nam đã ghi nhận 53 sắc lệnh do các Chúa Trịnh và Nguyễn, hay do các Vua hạ bút ký, trong hơn hai thế kỷ, và suốt 261 năm (1625-1886), ra chỉ thị chống lại người Kitô giáo bằng những cuộc bách hại gắt gao cứ mỗi lần thêm dữ dội. Có tới khoảng 130.000 người đã ngã gục khắp nơi trong lãnh thổ Việt-Nam.
Người ta có thể nói rằng trong các thế kỷ trước đây những vị chết vì Đức tin này đã bị chôn vùi một cách lặng lẻ như là cùng nằm trong một ”Ngôi mộ của chiến sĩ vô danh”; tuy nhiên niềm thương nhớ các Ngài vẫn còn sống động trong lòng người Việt-Nam.
Từ đầu thế kỷ 20, có 117 vị trong số các anh hùng trên đây, là những người được coi là đã chịu đựng các thử thách lớn lao hơn, đã được chọn và được Tòa Thánh tôn lên bậc Chân Phước:
- Năm 1900 thời Đức Giáo Hoàng Lêô XIII: 64 vị
- Năm 1906 thời thánh Giáo Hoàng Piô X: 8 vị
- Năm 1909 thời thánh Giáo Hoàng Piô X: 20 vị
- Năm 1951 thời Đức Giáo Hoàng Piô XII: 25 vị
Các vị này được xếp theo các quốc gia như sau:

* 11 vị người Tây-Ban-Nha: tất cả thuộc dòng thánh Đaminh. Gồm 6 giám mục và 5 linh mục.
* 10 vị người Pháp: tất cả thuộc Hội Thừa Sai Paris. Gồm 2 Giám Mục và 8 linh mục.
* 96 vị là người Việt-Nam: Gồm 36 linh mục (trong số đó có 11 linh mục dòng thánh Đaminh), và 59 tín hữu (trong đó có một chủng sinh, 16 thầy giảng và một phụ nữ).
Các vị này là ”những người đến từ cơn thử thách lớn lao: họ đã giặt áo của họ và giủ sạch trong trắng trong máu Con Chiên” (Khải Huyền 7,13-14). Cuộc tử đạo của các Ngài được xếp theo niên biểu sau đây:
 - 2 vị tử đạo dưới thời Chúa Trịnh-Doanh (1740-1767)
- 2 vị tử đạo dưới thời Chúa Trịnh-Sâm (1767-1782)
- 2 vị tử đạo dưới thời Vua Cảnh-Thịnh (1792-1802)
- 58 vị tử đạo dưới thời Vua Minh-Mạng (1820-1840)
- 3 vị tử đạo dưới thời vua Thiệu-Trị (1840-1847)
- 50 vị tử đạo dưới thời Vua Tự-Đức (1847-1883).
Tại pháp trường án lệnh của nhà vua đặt bên mỗi vị, có ghi rõ hình thức mỗi bản án như sau:
* 75 vị bị xử chém đầu;
* 22 vị bị xử bằng thừng thắt cổ;
* 6 vị bị thiêu sống;
* 5 vị bị phân thây từng mảnh;
* 9 vị bị tra tấn và chết rũ tù.
... KINH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
Lạy Chúa là CHA Chí Nhân,
chúng con hân hoan ghi nhớ các ân huệ
Chúa đã ban cho dân tộc Việt Nam.
Nhờ lời rao giảng của Giáo Hội
Cha Ông chúng con đã đón nhận Tin Mừng cứu rỗi.
Các Ngài đã vững tin vào Chúa,
là Đấng tạo thành trời đất,
và Chúa Kitô Đấng Cứu Thế được sai đến trần gian.
Trong cơn gian lao thử thách,
Chúa đã ban cho Các Ngài sức mạnh của Thánh Linh
để Các Ngài can đảm tuyên xưng Đức Tin,
và hiên ngang hy sinh mạng sống,
để làm vinh quang Thập Giá Chúa Kitô.
Các Thánh Tử Đạo là ân huệ
Chúa đã ban cho Giáo Hội Việt Nam.
Vì thế chúng con dâng lời cảm tạ và ca tụng Chúa,
hợp với cuộc hy sinh tử đạo
của các tiền nhân anh dũng chúng con.
Xin dâng lên Chúa lời cảm tạ,
để biểu lộ tình con thảo với Chúa là CHA,
bằng chứng từ đức tin sống động của chúng con.
Vì công nghiệp của Các Thánh Tử Đạo
xin ban cho dân Việt Nam chúng con,
được an vui và thịnh vượng,
cho mọi người đón nhận Tin Mừng cứu rỗi,
và bước theo con đường chân lý.
Xin cho Giáo Hội Việt Nam,
được sống trong hòa thuận và hiệp nhất,
luôn thông hảo trọn vẹn với Đấng kế vị Thánh Phêrô,
và hăng say lo việc tông đồ,
nhiệt thành rao giảng Đức Kitô cho mọi người.
Xin cho chúng con
được trung thành với Chúa ở trần gian
để ngày sau về hưởng vinh quang bất diệt
cùng Các Thánh Tử Đạo chúng con ở trên trời. Amen.
(THIÊN HÙNG SỬ 117 Hiển Thánh Tử Đạo Việt Nam (Uống Nước Nhớ Nguồn), Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam, San Jose, California, Hoa Kỳ, Tái bản lần thứ nhất: Xuân Tân Mùi 1991, trang 503-506 /// Domenica 19 Giugno 1988 - Piazza San Pietro, Anno Mariano, Tipografia Poliglotta Vaticana, trang 106-110).
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt, 23/11/2011

Sống đức tin _ tại sao Chúa để có gian truân

TẠI SAO THIÊN CHÚA  
ĐỂ NHỮNG GIAN TRUÂN XẢY RA?
 Những gian truân bạn gặp phải có thể làm bạn ngã gục hoặc làm bạn thêm trưởng thành tuỳ thuộc cách bạn phản ứng những gian truân đó.  
R. G. Alexander, Pastor (Why God permits problems)

GLCG _ đức mến

Bài 10. ĐỨC MẾN
(ĐIỀU RĂN THỨ I)
66.      Đức mến là gì?
Đức mến là “nhân đức đối thần nhờ đó chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, và vì yêu mến Thiên Chúa, chúng ta yêu thương người khác như chính mình”. [1]      

Sống đức tin _ cát và đá

CÁT VÀ ĐÁ
Tha thứ chính là nền tảng xây dựng hòa bình giữa con người với con người.  

GDNB _ chữ kiệm

BÀI 3. HỌC TẬP CHỮ KIỆM
tiết kiệm tiền của - sức khỏe - thời giờ

SỐNG THA THỨ _ tướng đặng văn quang

ĐỜI BI KỊCH
của một vị tướng VNCH

Ông Đặng Văn Quang được phong Chuẩn tướng và
Thiếu tướng năm 1964, rồi Trung tướng
của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa năm 1965
Trung tướng Đặng Văn Quang, nguyên cố vấn quân sự và an ninh quốc gia của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu qua đời tại Hoa Kỳ, khép lại cuộc đời một vị tướng miền Nam phản ánh của bi kịch chính trường Sài Gòn và quan hệ giữa Hoa Kỳ với Việt Nam Cộng hòa
Ông rời Việt Nam trong những ngày cuối tháng 4-1975, đến trại tị nạn ở bang Arkansas. Sau đó tướng Quang vội vã rời đây vì e ngại nỗi uất hận của đồng hương bột phát sẽ không an toàn cho bản thân ông, vì có một số lời đồn đại không tốt từ thời chiến.
Ông sang Canada thăm con và khi trở lại Hoa Kỳ thì chính phủ Mỹ không cho nhập cảnh mà không nêu lý do. Canada cũng không muốn sự có mặt của tướng Quang trên đất nước họ vì những cáo buộc liên hệ đến ông và muốn trả ông về Việt Nam.
Sự việc đã làm xôn xao dư luận người Việt hải ngoại trong thời gian đầu định cư ở nước ngoài.
Ra đi vất vả
Theo cựu trưởng phân tích gia của CIA Frank Snepp viết trong tác phẩm Decent Interval xuất bản năm 1977, ngày 29-4 tướng Quang đến trước Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn trong lúc đông người đang chen lấn mong được di tản.
Từ trong sân toà đại sứ, giám đốc CIA tại Việt Nam Tom Polgar nhận ra tiếng tướng Quang gọi và ra lệnh cho lính thủy quân lục chiến mở cổng cho vào. Vào bên trong, tướng Quang tiếp tục tìm cách cầu cứu vì đã bỏ lại người con và cháu bên ngoài.
Theo Snepp, lúc này tướng Quang chẳng còn là người quan trọng đối với Hoa Kỳ vì ông đã “phản bội người Mỹ” khi không báo cho CIA biết về kế hoạch bỏ cao nguyên của Tổng thống Thiệu. Chiều hôm đó tướng Quang được di tản ra khỏi Việt Nam bằng trực thăng.
Trong Decent Interval còn ghi chi tiết là trước đó vài hôm tướng Nguyễn Cao Kỳ đã muốn bắt giam tướng Quang khi các tướng có mặt tại Bộ Tổng tham mưu, nhưng ông đã lẩn thoát được.
Những bất đồng giữa tướng Kỳ và Tổng thống Thiệu trong thời gian nắm quyền lãnh đạo miền Nam, trong khi tướng Quang lại được ông Thiệu tín cẩn, đã gây nhiều hiềm khích giữa tướng Kỳ và tướng Quang với nhiều đồn đoán. Có dư luận cho rằng do phe tướng Kỳ đưa ra, về tham nhũng, buôn bán bạch phiến dính tới tướng Quang mà người dân miền Nam có một thời gian được nghe biết.
 
Hai tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Johnson
tại Honolulu năm 1968 trong thời kỳ rất khó khăn của VNCH
Tuy nhiên những ghi nhận trong các tác phẩm Decent Interval xuất bản năm 1977 và CIA and the Generals của Thomas L. Ahern, Jr. xuất bản năm 2009 đưa ra những tài liệu được giải mật cho thấy tướng Quang không liên hệ đến các cáo buộc buôn bạch phiến.
Vì tướng Quang được ông Thiệu tin cẩn và ông còn là người liên lạc giữa Dinh Độc lập với CIA nên cơ quan tình báo Mỹ đã có những điều tra riêng về nhân cách và biết rõ ông không liên quan đến bạch phiến như những tin đồn hay thông tin được nhà báo Mỹ Alfred W. McCoy viết trong tác phẩm The Politics of Heroin in Southeast Asia xuất bản vào đầu thập niên 1970.
Nhiều thông tin trong sách này đã được các nhóm chống đối chính quyền của ông Thiệu, điển hình như phong trào chống tham nhũng của linh mục Trần Hữu Thanh, dịch và phát tán tại Việt Nam trong những năm sau khi Hiệp định Paris được kí kết vào tháng 1-1973.
Tổng thống Thiệu lúc đó cho rằng các phong trào chống chính phủ của các tôn giáo Phật giáo, Công giáo là có người Mỹ đứng sau giật dây.
Theo Frank Snepp, tướng Quang là người giao tiếp giữa Dinh Độc lập và Đại sứ quán Mỹ. Ông đã có rất nhiều cuộc gặp với giám đốc cũng như nhân viên cao cấp của CIA ở Sài Gòn để trao đổi tin tức, phân tích tình hình chính trị, quân sự và chính sách của lãnh đạo Việt Nam Cộng hoà với người Mỹ. Snepp nhận xét tướng Quang có nếp sống với chuẩn mực đạo đức cao, sòng phẳng về tiền bạc.
Vì thế câu chuyện tướng Đặng Văn Quang sau khi rời Việt Nam không được chính phủ Mỹ cho định cư, còn Canada đòi trục xuất đã làm xôn xao dư luận một thời.
Sống tạm dung ở Canada tướng Quang đã làm đủ mọi việc để kiếm sống.
Phục hồi danh tiếng
Năm 1988, một sĩ quan Lực lượng Đặc biệt của Mỹ, cựu Trung tá Dan Marvin từng phục vụ tại Quân đoàn IV khi tướng Quang là tư lệnh, biết được việc chính phủ Hoa Kỳ không cho phép ông vào Mỹ nên đã vận động để trả lại sự thực và đòi công đạo cho một vị tướng Việt Nam Cộng hoà bị quá nhiều tai tiếng.
Marvin coi tướng Quang là người đã cứu mạng ông trong một tranh chấp lúc chiến tranh khi ông làm cố vấn tại làng Hoà hảo An Phú trong vùng đồng bằng sông Cửu Long. Sự kiện này được Dan Marvin ghi trong tác phẩm Expandable Elite xuất bản năm 2003.
Tác giả đưa ra giả thuyết chính phủ Mỹ không cho tướng Quang nhập cư vì ông đã không tán đồng kế hoạch của Hoa Kỳ nhằm ám sát Thái tử Norodom Sihanouk của Cam Bốt vào năm 1966.
Dan Marvin đã kiến nghị đến các dân cử, ban ngành liên hệ và cả với Tổng thống George H.W. Bush (Cha). Cựu giám đốc CIA tại Sài Gòn Tom Polgar, người đã có rất nhiều dịp gặp gỡ, tham khảo với tướng Quang khi còn làm việc trong một bản tường trình ủng hộ cho ông được vào Hoa Kỳ.
Trung tướng Đặng Văn Quang trong
lần đến Austin, Texas hè năm 2010. Hình: Bùi Văn Phú.
Tướng Đặng Văn Quang có cuộc sống khá vất vả kể cả sau khi được định cư tại Hoa Kỳ
Ông Marvin đưa ra nhận xét là tướng Quang và gia đình lúc ở Việt Nam đã không có một cuộc sống giầu sang, phú quý và những cáo buộc liên quan đến chuyện ông buôn bán bạch phiến là không có cơ sở vì theo những điều tra riêng của CIA thời đó, trước khi tổ chức này tin và liên lạc với ông, tướng Quang không có dính líu gì đến bạch phiến.
Sau đó chính quyền Canada hủy bỏ những cáo buộc liên quan đến tướng Quang và chính phủ Mỹ đồng ý cho ông định cư.
Đến Mỹ vào tháng 9-1989, hai ông bà có lúc sống ở Atlanta, khi ở nam California. Ông tiếp tục làm những việc lao động và vợ là bà Đỗ Thị Năm cũng làm bánh bán để kiếm sống.
Sau này vì tuổi già sức yếu, hai ông bà được sự giúp đỡ của cựu Thiếu tá Trần Văn Ngà, nguyên Trưởng ban Thông tin Báo chí Quân đoàn IV, đưa về sống trong một chung cư dành cho người già ở Sacramento, thủ phủ của bang California.
Mùa hè năm ngoái tôi có dịp đến thăm tướng Quang nhân cùng đi với đoàn quay phim của Hội Bảo tồn Lịch sử và Văn hoá Người Mỹ Gốc Việt (VAHF) đang thực hiện phỏng vấn 500 người để lưu lại trong thư viện Đại học Texas ở Austin. Tướng Quang đã yếu và trí nhớ kém nhiều vì tuổi già.
Hỏi ông về những biến cố trong đời có điều ông nhớ, có điều không. Tôi có hỏi ông trong đời ông mang ơn ai nhất, tướng Quang nói đó là Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Đối với những người đã gây phiền lụy, tướng Quang nói ông tha thứ hết.
Cựu Trung tướng Đặng Văn Quang sinh ngày 21-6-1929 tại Sóc Trăng.
Ông là một vị tướng trẻ nhất của quân đội Việt Nam Cộng hoà, từng giữ chức tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh, tư lệnh Quân đoàn IV Vùng IV Chiến thuật. Chức vụ sau cùng của ông là phụ tá đặc biệt về quân sự và an ninh quốc gia cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Ông qua đời hôm 15-7 tại Sacramento, California, hưởng thọ 82 tuổi, để lại vợ, 7 người con và 9 cháu nội ngoại.
Tang lễ cựu Trung tướng Đặng Văn Quang đã được cử hành theo nghi thức công giáo tại nhà thờ Các Thánh Tử đạo Việt Nam ở Sacramento, California vào chiều ngày 20-7-2011 và nghi thức hoả táng diễn ra vào trưa ngày hôm sau.
Bùi Văn Phú (BBCNews)
Tác giả Bùi Văn Phú hiện dạy đại học cộng đồng
và sống tại vùng Vịnh San Francisco.




“Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau.
Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo. Ước gì ơn bình an của Đức Ki-tô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó. Bởi vậy, anh em hãy hết dạ tri ân” (Cl 3,12-15)