THỨ HAI - SỰ HIỆN DIỆN CỦA CHÚA THÁNH THẦN
THỨ BA - HOẠT ĐỘNG CỦA THÁNH THẦN
THỨ TƯ - CẢM NGHIỆM SỰ HIỆN DIỆN CỦA ĐẤNG
PHỤC SINH
THỨ NĂM - NỖI BUỒN SẼ THÀNH NIỀM VUI
CNPS 6A - ĐẤNG PHÙ TRỢ KHÁC
Lời Chúa: Ga 14, 15-21
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: "Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy. Và Thầy
sẽ xin Cha, và Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác, để Ngài ở với
các con luôn mãi.
Ngài là Thần Chân Lý mà thế gian
không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết được Ngài; còn
các con, các con biết Ngài, vì Ngài sẽ ở nơi các con và ở trong các con. Thầy sẽ
không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con. Một ít nữa, thế gian sẽ không
còn thấy Thầy. Phần các con, các con thấy Thầy vì Thầy sống và các con cũng sẽ
sống. Trong ngày đó, các con sẽ hiểu biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, và các
con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con.
Ai nhận các luật Thầy truyền và
giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ mến Thầy. Và ai mến Thầy sẽ được Cha Thầy
yêu mến, và Thầy sẽ yêu nó, và sẽ tỏ mình ra cho nó."
TRUYỆN
KỂ
1.
Anh em cũng sẽ sống
Marina Picasso là cháu của họa
sĩ nổi tiếng Pablo Picasso. Từ năm 73-75, bà phải chịu nhiều cái tang lớn: ông
nội mất, anh ruột tự tử, cha đột ngột qua đời.
Đây thật là những mất mát không
sao bù đắp, dù bà năm trong tay một gia sản khổng lồ. Năm 1990, bà nhận các em
bé Việt Nam làm con nuôi, và giúp cho các trẻ mồ côi được có nơi ăn học. Từ lúc
ấy, bà thấy một sự thay đổi nơi nội tâm:
“Nhờ giúp đỡ con em của nước này
mà tôi đã tìm lại được chính mình. Giờ đây tôi cảm thấy mình như sống lại, và
tôi muốn phân phát sự sống đó cho các em.”
Hẳn có những Kitô hữu đã trải
qua kinh nghiệm của Marina, kinh nghiệm thấy mình được sống lại nhờ biết ra khỏi
nỗi đau của mình để cúi xuống trên nỗi đau của người khác.
Kinh nghiệm tìm lại được chính
mình trong bình an, khi không còn bận tâm lo cho mình nữa, kinh nghiệm thấy sự
sống được nhân lên gấp bội khi được đem chia sẻ tận tình.
Kitô giáo là tôn giáo của Đấng
đã sống lại, Đấng đang sống sự sống tràn trề của Thiên Chúa. Đức Giêsu phục sinh
không chỉ hiện ra một đôi lần, Ngài muốn ở mãi bên chúng ta cho đến tận thế.
2.
Tinh yêu sống bằng việc làm
Trong cuốn sách The Living Stone
có một câu truyện như sau: Jonathan làm được những việc phi thường, phần lớn vì
hấp thụ được từ vị thầy khả kính. Ngày vị thầy này sắp lìa trần, ông cho gọi
Jonathan trở về để gặp thầy lần cuối. Jonathan hy vọng thầy sẽ truyền cho bí
quyết đặc biệt mà suốt đời thầy còn cất giữ. Nhưng lời trăn trối cuối cùng của
ông chỉ vỏn vẹn mấy chữ: “Hãy hành động vì lòng mến."
Trong Tin Mừng mà Giáo hội cho
chúng ta lắng nghe hôm nay, Đức Giêsu trước khi giã biệt các môn đệ, Ngài cũng
nhắn nhủ các ông về điều căn bản của lòng mến: “Ai nghe và vâng giữ giới răn của
Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy." Đức Giêsu không đòi những kẻ yêu mến
Ngài phải có những rung động thuộc cảm tính, dù rằng đó cũng là điều qúi gía
cho phép chúng ta tin tưởng rằng chúng ta đang yêu mến Chúa. Tuy nhiên một tình
yêu đúng nghĩa là luôn tìm cách làm đẹp lòng người yêu, sẵn sàng cho đi tất cả,
chứ không dừng lại ở những rung cảm của thân xác phần nào nói lên tính vị kỷ của
mình
3.
Hành động như thế nào.
Một người nọ đã từng trông thấy
một thiên thần đi bộ xuống phố, tay cầm bó đuốc, tay kia cầm xô nước. Người ấy
liền hỏi: “Ngài làm gì với bó đuốc và xô nước vậïy”? Vị thiên thần đột ngột đứng
lại nhìn vào người ấy nói: “Ta sẽ thiêu rụi các tòa nhà trên trời bằng bó đuốc
và sẽ dập tắt lửa hoả ngục bằng xô nước. Lúc đó chúng ta sẽ thấy được ai là kẻ
thực sự yêu mến Thiên Chúa." Chủ ý của vị thiên thần muốn nói là nhiều người
vâng theo lệnh Chúa là vì sợ hỏa ngục hoặc vì hy vọng phần thưởng Nước Trời. Họ
không giữ huấn lệnh ấy vì yêu thương như Đức Giêsu đã nêu ra trong Tin Nừng hôm
nay: “Nếu các con yêu mến Thầy, các con sẽ vâng giữ lời Thầy."
Có hai loại tình yêu: tình yêu
vô vị lợi hay vị tha và tình yêu vị lợi hay vị kỷ.
4.
Cha Maximilien Kolbe
Cha Maximilien Kolbe làm gương
cho chúng ta về cung cách sống của người môn đệ Chúa: Một buổi sáng cuối tháng
7 năm 1941 tại trại tập trung Oswiccim của Đức quốc xã, có một người vượt ngục,
10 người khác bị xử thay vào. Các nạn nhân run rẩy bước ra, đứng không vững,
khiếp đảm, không dám kêu la, trừ một người kêu ré lên “Ôi vợ và các con
tôi."
Hàng trăm dẫy tù nhân xếp hàng
dài im thin thít, hú hồn vì chưa phải tên mình, không một ai dám cựa quậy. Bỗng
từ dãy tù nhân bên trái, một người gầy guộc rời hàng bước về phía viên trưởng
trại. Mọi người nín thở: chuyện chưa từng có! Viên trưởng trại đặt tay lên
súng:
- Anh muốn gì?
- Tôi muốn chết thay một người
trong bọn họ.
Viên trưởng trại sửng sốt. Y tưởng
mình nghe lầm. Nhưng không, người kia thực sự xin được chết thay cho người có vợ
và các con đang đợi ở nhà. Sau mấy câu gượng gạo, viên trưởng trại nhượng bộ,
chấp nhận lời yêu cầu. Kẻ tình nguyện đó chính là Maximilien Kolbe, một Linh mục
công giáo. Cha đã được Đức thánh Cha Gioan-Phaolô II phong thánh ngày
10.10.1982 tại Roma.
5.
Tình yêu vị lợi (vị kỷ).
Đây là thứ tình yêu trá hình, Đối
tượng của tình yêu không phải là người được yêu mà là chính mình. Người yêu chỉ
lợi dụng người được yêu để tìm lợi ích cho mình, cho hạnh phúc của riêng mình;
còn người được yêu chỉ là phương tiện được dùng để người yêu khai thác. Tình
yêu trá hình này đã được nhà thơ ngụ ngôn La Fontaine diễn tả trong câu truyện
con thỏ và con cọp.
Câu truyện đó là con cáo không
may bị rơi xuống hố sâu, không cách nào lên được. May thay, một con cọp đi qua,
con cáo xin cứu đưa lên. Con cọp tỏ ra thương hại muốn cứu vớt nhưng với điều
kiện: khi lên bờ cáo phải chịu cho cọp ăn thịt. Cáo đồng ý. Cọp nhảy xuống hố.
Cáo nhảy lên lưng cọp và nhảy ngay lên bờ, biến mất. Cọp lên bờ buồn rầu than:
“Chị đã thương em đến thế mà em không biết ơn."
Như vậy, cọp đâu có thương con
cáo, chỉ biết thương mình thôi, đã thương sao lại còn đòi ăn thịt cáo? Con người
chúng ta đôi lúc cũng vậy. Nhiều khi việc làm của chúng ta có vẻ lo cho người
khác, nhằm ích lợi cho người khác, tạo hạnh phúc cho họ, nhưng trong thực tế, họ
chỉ có một tình yêu giả tạo. Tình yêu đó được người ta gói ghém trong câu ca
dao:
Thương thay những kẻ quạt mồ,
Hại thay những kẻ lấy vồ đập
săng.
6.
Thái độ của ta đối với Chúa.
Nếu thánh Giacobê nói: “Đức tin
không có việc làm là đức tin chết” thì chúng ta cũng có thểû nói được: tình yêu
mà không được thể hiện ra bằng hành động cụ thể thì chỉ là thứ tình yêu trên
mây gió, một tình yêu èo uột, một tình cảm phớt qua, có khi là một tình yêu trá
hình, giả tạo. Tình yêu chân thật đòi hỏi hy sinh như Pierre l’Ermite nói: “nếu
biết tình yêu có chân thật hay không, hãy bỏ tình yêu vào máy ép, nếu nó tiết
ra chất hy sinh vô vị lợi, đó là tình yêu thật."
Thánh Gioan tông đồ nói: “Căn cứ
vào điều này, chúng ta biết tình yêu là gì: đó là Đức Kitô đã phó mạng vì chúng
ta”(1Ga 3,16). Nếu yêu là hy sinh, mà giữ luật Chúa là hy sinh, thì yêu là giữ
luật Chúa. Tam đoạn luận này rất chặt chẽ, nó nối kết giữa việc yêu Chúa và giữ
luật Chúa lại với nhau.
7.
Đạo nào cũng tốt?—Lm. JB Lê Ngọc Dũng
Thỉnh thoảng chúng ta nghe người
ta nói: “Đạo nào cũng tốt." Thử hỏi: Có đúng là đạo nào cũng tốt không?
Thực ra, chỉ trong một số trường
hợp người nói câu này là để biện minh cho một hành vi, hay một quyết định của
mình. Ví dụ, một anh chàng yêu cô gái Công giáo. Bên nhà nữ Công giáo đòi anh
phải theo đạo mới cho kết hôn. Anh tuy không thích đạo Công Giáo nhưng vì muốn
kết hôn nên đành phải theo đạo. Anh tự nhủ “Thôi thì, đạo nào cũng tốt, ta theo
đạo có sao đâu." Anh cũng thuyết phục cha mẹ anh: “Cho con theo đạo đi, vì
đạo nào cũng tốt, cũng dạy ăn ngay ở lành."
Sau khi học giáo lý và được Rửa
tội anh chàng người lương đó có đức tin và sống đức tin hay không thì ta không
biết. Nhưng rõ ràng là người nói “Đạo nào cũng tốt”, nhiều khi cũng là nói để
biện minh cho một hành vi hay một quyết định của mình. Thực ra, mỗi người theo
một đạo nào đó, đều cho rằng đạo mình là tốt nhất. Họ có thể nói rằng đạo khác
cũng tốt, không xấu, nhưng đạo mình theo vẫn là tốt nhất.
Tôi cũng như vậy, chúng ta cũng
vậy, vẫn tin rằng đạo Công Giáo là tốt nhất, vì không ai lại đi theo đạo tốt thứ
nhì, thứ ba; vì chọn đạo là phải chọn đạo nào tốt nhất để mình sống cả đời.
Có nhiều lý do khiến chúng ta
tin rằng đạo của mình là tốt nhất.
Riêng bài Tin Mừng hôm nay giúp
tôi xác tín thêm rằng đạo Công Giáo là tốt nhất. Vì sao vậy?
Vì Lời Chúa dạy: “Ai có và giữ
các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì
được Cha Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy”
(Ga 14,21).
8.
Tình yêu trong lời nói
Muốn biết chúng ta yêu Chúa thế
nào thì chỉ cần xét xem chúng ta đã yêu người ra sao. Và tình yêu đó phải được
thể hiện bằng những việc làm, những hành động cụ thể.
Truyện cổ tích Ả Rập kể rằng: có
một người bán thịt nướng rất keo kiệt và khó tính, vì tính khí khó chịu của anh
ta nên cửa hàng luôn bị ế ẩm, anh đã làm đủ mọi cách để câu khách nhưng chẳng
ai thèm mua. Có một người ăn xin ngồi bên lề đường, thèm thuồng nhìn những miếng
thịt nướng treo lủng lẳng, rồi ông móc trong bị ra một khúc bánh mì, lẳng lặng
đem hơ nóng trên khói, hy vọng khói thịt sẽ ướp vào miếng bánh. Sau đó, ông ngồi
ăn miếng bánh cách ngon lành. Anh chàng bán thịt nhìn thấy, chạy ra túm lấy áo
người ăn xin đòi tiền. Người ăn xin phân trần: “Tôi đâu có mua thịt của anh,
khói thịt đâu có phải là thịt." Anh bán thịt quát lên: “Khói thịt cũng thuộc
về miếng thịt, ông phải trả tiền cho tôi." Hai người cãi nhau, không ai chịu
ai và đưa nhau đến quan tòa xét xử. Vị quan toà truyền cho người ăn xin móc ra
một đồng tiền cắc và ném xuống nền nhà phát ra tiếng kêu, ông nói: “Đây là giải
pháp công bằng nhất, người ăn xin hưởng khói thịt của anh, và anh thì hưởng âm
thanh đồng tiền của ông ta. Thế là công bằng nhé."
9.
Mối tình Châu Long--‘Cùng Nhau Suy Niệm’--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Chuyện cổ tích Việt Nam kể rằng:
Có đôi bạn chí thân là Lưu Bình và Dương Lễ. Lưu Bình cùng họ với Lưu Linh. Ham
chơi hơn ham học. Dòng dõi giầu sang phú quý nhưng lêu lổng ăn chơi trác táng.
Dương Lễ nhà nghèo nhưng ham học. Lấy đèn sách làm thú vui. Nhờ chí thú học
hành mà Dương Lễ đã đỗ trạng nguyên làm quan lớn triều đình. Ngược lại, Lưu
Bình vì ham chơi nên công không thành và danh thì bại. Thân xác tiều tuỵ và đói
khổ bần hàn. Dương Lễ nhìn cảnh bạn sa cơ thất thế nên động lòng trắc ẩn, dầu vậy,
bên ngoài ông vẫn làm như không nhìn nhận tình bạn. Ông đã ngầm cho vợ là Châu
Long giả dạng là người con gái đến giúp Lưu Bình làm lại cuộc đời. Châu Long đã
theo lời chồng đến ở với Lưu Bình để động viên, giúp đỡ Lưu Bình. Nhờ đó mà Lưu
Bình đã cố gắng ăn học và sau này cũng thành tài. Về phần Châu Long tuy sống với
Lưu Bình nhưng lại không thuộc về Lưu Bình. Nàng vẫn thuộc về Dương Lễ. Nàng vẫn
phải trung thành tuyệt đối với Dương Lễ. Cho dù Lưu Bình đã nhiều lần đề nghị
nàng kết mối duyên tình, nhưng nàng đã khéo léo từ chối. Nàng khuyên nhủ Lưu
Bình hãy chuyên chăm học hành để công thành danh toại mới tính đến chuyện trăm
năm. Cho đến khi Lưu Bình thi đỗ mới vỡ lẽ ra: Châu Long chính là vợ của bạn được
gởi đến để giúp đỡ mình.
Cuộc đời ky-tô hữu chúng ta cũng
giống như nàng Châu Long. Sống giữa thế gian để canh tân đổi mới thế gian nhưng
không thuộc về thế gian. Sống giữa thế gian nhưng phải trung thành với thầy Chí
Thánh Giêsu.
10.
Thần tình yêu và chân lý--Lm Bùi Quang Tuấn, CSsR
Henry Manning vốn là một mục sư
Anh giáo, nổi tiếng về giảng thuyết. Ngài xuất bản một cuốn sách về các bài giảng
và được dân chúng hưởng ứng nồng nhiệt.
Một hôm, có người bạn thân ghé
thăm và bình luận về tác phẩm mới phát hành của Henry. Trong câu chuyện, người
bạn đề cập đến việc tác giả đã không có một lời nói nào về Chúa Thánh Thần
trong cuốn sách rất "giá trị" của mình.
Đây là một sự thiếu sót ngoài ý
muốn của Henry. Ngài cám ơn ý kiến chân tình của người bạn. Thế rồi suốt hai
năm tiếp theo, người ta thấy mục sự Henry Manning miệt mài học hỏi về Chúa
Thánh Thần. Ngài đọc và nghiên cứu tất cả những cuốn sách liên quan đến đề tài
Chúa Thánh Thần. Kết quả của sự học hỏi chân thành này là việc khám phá Ánh
Sáng do Thần Chân Lý mang lại. Henry đã trở về với Giáo hội Công giáo vào năm
1851. Hai tháng sau ngài được phong chức Linh mục. Năm 1865, ngài trở thành Tổng
giám mục Giáo phận Westminter, Anh quốc.
Tại Công đồng Vaticanô I
(1869-1870), Giám mục Henry Manning nổi bật trong vai trò bảo vệ vững chắc tính
chất Vô ngộ của Đức giáo hoàng. Năm 1875, ngài được tấn phong Hồng y. Từ khi trở
lại Công giáo cho đến lúc qua đời năm 1892, Đức Hồng y Manning luôn có lòng yêu
mến Chúa Thánh Thần cách đặc biệt.
"Thầy sẽ xin Cha, và Người
sẽ ban cho các con một Đấng Bàu Chữa khác để ở cùng các con luôn mãi. Ngài là
Thần Chân Lý mà thế gian không thể đón nhận, vì nó không thấy cũng không biết
Ngài; còn các con, các con biết Ngài, vì Ngài sẽ ở mãi nơi các con và trong các
con" (Ga 14,16-17).
11.
Muốn điều tốt cho người
Cha Flor McCarthy, một linh mục
Dòng Don Boscô có kể lại rằng:
Steve, cậu bé 12 tuổi, đã bị teo
hai chân sau một cơn sốt tê liệt. Steve có đức em 10 tuổi tên Mark. Như bao đức
trẻ khác, Steve và Mark cũng hay cãi nhau, đánh nhau, và đôi khi Steve còn cảm
thấy ghen tị với đôi chân khỏe mạnh của em mình.
Một đêm kia Steve mơ thấy mình
đi lạc vào một khu rừng vắng. Cậu bắt gặp một chiếc hang. Bị thúc đẩy bởi lòng
mạo hiểm và tính tò mò, Steve tiến sâu vào bên trong. Bất ngờ một ông già xuất
hiện. Ông ta tự xưng là phù thủy, và để thưởng cho ai đầu tiên khám phá ra chiếc
hang, ông sẽ ban cho người đó được những gì họ mong ước, nhưng chỉ một lần
thôi.
Không cần suy nghĩ, Steve xin
ngay cho đôi chân được khỏe mạnh như xưa. Lão phù thủy liền tung chiếc áo
choàng lên và trong nháy mắt Steve thấy mình đang nằm trên giường, bên cạnh
Mark đang ngủ say như chết.
Lão phù thủy mở tấm mền che đôi
chân của Mark ra. Steve thấy vậy thì ngạc nhiên hỏi:
- "Ông làm gì thế?"
- "Ta phải giải phẫu để
thay cho ngươi đôi chân tốt."
- "Thế ông tính thay đôi
chân của Mark cho tôi à?" Steve ngạc nhiên hỏi lại.
Ông già đáp:
- "Vậy chứ ngươi tưởng ta lấy
nó từ trong không khí ra à? Nhưng không sao đâu. Chẳng ai biết chuyện gì xảy ra
đâu. Mọi người sẽ coi như đãxảy ra như từ lúc mới sinh vậy."
Steve cảm thấy sửng sốt. Nó đâu
ngờ là ông già phải lấy đôi chân của Mark để đổi cho nó. Cậu bé nghĩ đến giây
phút mình chạy nhảy với đôi chân tốt, trong khi Mark em cậu sẽ lê lết với đôi
chân bại liệt. Như thế là không thể được! Rồi Steve hét lớn: "Tôi không muốn
như vậy đâu." Nghe thế lão phù thủy bực mình bỏ đi.
Sáng hôm sau, thức dậy nhìn qua
em mình, nhớ lại những gì thấy được trong giấc mơ đêm qua, Steve đã nở một nụ
cười rất vui.
Điều tôi đọc được trong nụ cười
của Steve là một tình yêu song hành với chân lý. Từ trong tiềm thức, cậu đã
không muốn làm điều xấu, dù rằng phần lợi sẽ về mình và dù rằng không ai biết.
Nhưng chấp nhận cuộc sống trong một tình yêu chân thành, Steve đã không những
không hủy diệt sự sống của người khác, những còn làm phát sinh trong tim mình
bình an và niềm vui thẳm sâu.
12.
Mười cách thoát buồn khổ
Khi chúng ta yêu thương giúp đỡ
người khác, Chúa sẽ làm chúng ta hết lo buồn và sẽ ban ơn cho chúng ta. Mục sư
King Duncun nói với những người buồn khổ là họ hãy tìm giúp đỡ những người đang
buồn khổ thì tự nhiên mình sẽ thấy tươi vui. Ông thường nói: "Có 10 cách để
thoát khỏi buồn khổ. Thứ nhất là giúp người khác, và tiếp tục làm như vậy chín
lần." Mẹ Têrêsa Calcuta đã chứng kiến nhiều về lòng người của những người
đau khổ. Một lần Mẹ đem cho một gia đình đã nhịn đói mấy ngày 5 ký gạo. Vừa nhận
được gạo, người đàn bà đó chia làm đôi và mang đi khỏi nhà và một lát sau trở lại
tay không. Mẹ Têrêsa hỏi thì bà trả lời: "Gia đình bên cạnh đây cũng không
có gì ăn mấy hôm nay, nên con chia cho họ một nửa." Chúng ta hãy yêu
thương, quan tâm đến tha nhân vì Chúa muốn chúng ta làm vậy. Chúa dạy chúng ta
yêu tha nhân như Chúa đã yêu chúng ta.
Chúng ta hãy xem huấn lệnh của
Chúa Giêsu như lời mời gọi yêu thương. Để chứng tỏ chúng ta yêu Chúa, chúng ta
hãy yêu thương anh chị em chúng ta. Nếu chúng ta yêu Chúa và chu toàn giới răn
yêu thương, Chúa Thánh Thần sẽ luôn ở với chúng ta, chúng ta không còn mồ côi,
buồn khổ.
13.
Hãy vì Chúa mà yêu mến tha nhân--‘Cùng Đọc Tin Mừng’
Người mẹ đang thoi thóp nhìn năm
đứa con khóc thút thít quanh giường, mắt bà nhoà lệ. Cha của chúng đã lìa thế từ
lâu, để lại cho bà gánh nặng một mình tần tảo nuôi năm đứa con thơ. Giờ đây lại
đến lượt bà nối gót chồng ra đi, vĩnh viễn xa lìa đàn con nheo nhóc. Bà không
an tâm chút nào khi thấy lâu nay các con hay kình cãi, tranh chấp nhau từ chuyện
nhỏ cho đến chuyện lớn, từ việc chia cá, chia cơm trong mỗi bữa ăn cho đến việc
tranh nhau tấm áo manh quần. Đứa nào cũng ích kỷ chỉ nghĩ đến mình mà quên tình
anh em ruột thịt. Đứa nào cũng mong chiếm cho được phần hơn mà không màng gì đến
quyền lợi các em. Mai đây bà ra đi, ai sẽ là nhịp cầu nối kết chúng lại với
nhau trong tình huynh đệ? Ai sẽ là trọng tài phân xử những tranh chấp bất hoà
thường xuyên nổ ra giữa chúng?
Tuy nhiên, điều an ủi lớn lao
cho bà là mặc dù chúng không thương nhau, nhưng đứa nào cũng thương mẹ; tuy
chúng không hề biết hy sinh cho nhau, nhưng nếu vì mẹ thì chúng sẵn sàng hy
sinh và làm cho mẹ bất cứ chuyện gì.
Thế nên, cậy dựa vào tình thương
chúng dành cho mình, bà lấy chút hơi tàn thều thào mấy lời trăn trối: “Các con
yêu của mẹ, mẹ rất buồn, rất khổ tâm khi thấy các con bất hoà bất thuận với
nhau. Chốc lát nữa, mẹ sẽ vĩnh viễn xa lìa các con. Nếu mỗi người trong các con
còn thương mẹ thì hãy vì mẹ mà thương yêu các anh em mình!”
Nói xong, bà ra hiệu cho từng đứa
cúi xuống cho bà hôn lên trán rồi lịm vào giấc ngủ ngàn thu.
Chính Chúa Giêsu cũng có cùng
tâm trạng đó. Ngài đến thế gian để nhen lửa yêu thương trên mặt đất và Ngài
mong mỏi ngày đêm cho lửa ấy cháy lên. Ngài đã truyền cho các môn đệ điều răn mới
là hãy yêu thương nhau như Ngài đã hết lòng yêu mến họ. Nhưng ngọn lửa yêu
thương Ngài đã nhọc công nhen lên lại hắt hiu như đèn trước gió, dễ dàng bị
lòng tham lam ích kỷ hận thù dập tắt đi.
14.
Giảng bằng đời sống
Theo nhật báo Chứng Nhân kitô hữu
(Témoignage Chrétien), vào năm 1941 có một vị linh mục bị Đức Quốc Xã giam
trong trại tập trung dành cho người gốc Do thái. Như bao tù nhân khác, ngài
cũng bị hành hạ và ngược đãi thậm tệ. Tuy nhiên ngài vẫn vui vẻ và luôn sẵn
sàng giúp đỡ anh em đồng cảnh ngộ đang lâm vào tình trạng khủng hoảng và tuyệt
vọng.
Trong cảnh tù đày đói khát, một
vụn bánh còn quý hơn vàng, vậy mà ngài dám chia sớt phần ăn ít ỏi của mình cho
những bạn tù yếu sức hơn.
Những lúc trời rét buốt xương, tấm
áo len được xem là kho tàng vô giá, thế mà có lần ngài tặng không chiếc áo len
đang mặc cho bạn tù đang lâm trọng bệnh nằm run cầm cập trong xó nhà.
Ngài là nhịp cầu yêu thương giữa
những kẻ bất hoà, đem sự khích lệ tinh thần cho những tâm hồn sầu muộn... Ngài
đã cứu được mấy bạn tù tuyệt vọng khỏi tự huỷ mình nhờ những khuyên lơn an ủi...
Vì thế, các tù nhân trong trại rất yêu quý và xem ngài như người cha thứ hai. Họ
đều gọi ngài cách thân thương là... Bố.
Trong trại tù còn có một thanh
niên bụi đời, lớn lên nơi đầu đường xó chợ, căm hờn mọi người, không ngần ngại
phạm bất kỳ tội ác nào.
Vị linh mục khả ái từng bước tiếp
cận, trò chuyện, giúp đỡ, khuyên răn, và cuối cùng đã cảm hoá được chàng thanh
niên chai đá và tưởng chừng như vô phương cứu chữa nầy. Ngài cũng mong ước dần
dần dẫn dắt cậu về với đạo thánh Chúa.
Thế rồi, một hôm, có lệnh chuyển
cha sang trại Ao-sơ-vích (Auschwitz), một trại tập trung mà chỉ mới nghe danh
xưng, mọi trại viên đều phải kinh hoàng. Đó là lò hủy diệt con người bằng những
hầm hơi ngạt và lò thiêu xác.
Trước khi chia tay với các bạn
tù và đặc biệt với cậu thanh niên mới hoàn lương, ngài quyết định phải giới thiệu
đôi nét về Chúa Giêsu cho cậu với hy vọng cậu sẽ trở thành người con Chúa.
Ngài vỗ vai cậu và ôn tồn nói
"Này, con yêu của Bố, đã từ lâu Bố rất mong con nhận biết và trở thành môn
đệ Chúa Giêsu."
Cậu thanh niên thưa lại:
"Nhưng con chưa biết gì về Chúa Giêsu cả. Bố có thể kể sơ lược về Ngài cho
con biết được không?"
Biết mình không còn thời gian để
giới thiệu dông dài vì giờ chuyển trại sắp đến, vị linh mục già thinh lặng cúi
đầu, cầu nguyện giây lát, rồi ngài ngẩng lên khiêm tốn đáp: "Chúa Giêsu mà
Bố muốn cho con tin và yêu mến, Ngài giống như Bố đây!"
Bấy giờ cậu thanh niên nhìn thẳng
vào mắt ngài cách trìu mến và chân thành đáp lại: "Nếu Chúa Giêsu mà giống
Bố thì có thể một ngày nào đó, con sẽ tin và yêu mến Chúa Giêsu!"
Sau thế chiến thứ hai, người ta
không còn gặp lại vị linh mục nầy nữa. Còn cậu thanh niên thì được sống sót qua
các trại tập trung trở về với gia đình và đã thuật lại câu chuyện trên đây về một
mục tử đã thực sự trở thành hình ảnh trung thực của Chúa Cứu Thế. Cũng chính nhờ
hình ảnh Chúa Giêsu ngời sáng lên nơi con người và cuộc đời của vị mục tử tốt
lành nầy, chàng thanh niên được cảm hoá và trở thành người con Chúa.
15.
Thần Khí hướng dẫn--Lm. Jos. Quốc Phong
“Người đã chết theo thể xác,
nhưng đã nhờ Thần Linh mà sống lại”
Tất cả mọi người chúng ta hẳn đã
có kinh nghiệm ít nhiều về cuộc sống, và mỗi người trong chúng ta đều có kinh
nghiệm và sự đau khổ và mất mát. Sự đau khổ có thể đến từ nhiều con đường khác
nhau: có thể từ gia đình, trường học, sở làm việc, và có thể đến từ chính nội
tâm chúng ta. Tất cả những sự đau khổ và cùng cực đó làm cho trái tim chúng ta
đau đớn, làm cho cuộc sống chúng ta cảm thấy bất hạnh, làm cho tương lai của
chúng ta mù mịt, khiến những bước đi trong hiện tại trở nên nặng nề, và đôi khi
trái tim đau đến nghẹn thở… nó làm chúng ta cảm thấy sợ hãi và căng thẳng, lo lắng
và bất an…
Có một anh chàng cử nhân nọ, sau
khi tốt nghiệp và cầm trên tay một mảnh bằng ngon lành với một chút tự hào và hạnh
phúc. Anh càng tự hào hơn khi anh nghĩ rằng mình từ bỏ danh vọng để dấn thân đi
theo Chúa trên con đường thánh hiến. Cuộc sống ơn gọi của anh trong những năm đầu
rất thuận lợi, tất cả dường như đi theo đúng kế hoạch và chỉ tiêu do anh ta suy
nghĩ và phác thảo, như thể sự vận hành của một cỗ máy cho ra sản phẩm đúng như bản
vẽ. Nhưng một ngày nào đó, một số vấn đề đã xảy ra, những kế hoạch bị đảo lộn,
và không còn vận hành theo ý của anh được nữa, thậm chí anh đã thất bại, và thất
bại rất thảm hại. Và đã có lúc anh đã muốn bỏ cuộc vì không thể chấp nhận nổi
chính mình. Tất cả các chương trình và kế hoạch của anh ta dường như tan tành
theo mây khói, không có chi cứu nổi. Anh tự suy nghĩ phương pháp để sửa chữa
thì nó càng sai lầm và bế tắc. Anh đã vô cùng đau khổ và khủng hoảng…
Sau đó anh cầu nguyện và cầu
nguyện thật nhiều, ngày này sang ngày kia, tháng này qua tháng nọ, ròng rã
trong suốt 2 năm trời … anh mới nhận ra được một chút ánh sáng. Một trong những
sai lầm của anh là đã dựa vào mình quá nhiều, đã tin tưởng vào khả năng của
mình, vào những kế hoạch do ý muốn của riêng mình. Đời sống cầu nguyện của anh
đó là gần gũi với Chúa để xin Chúa chúc lành và giúp đỡ để kế hoạch của anh ta
được toại nguyện, “kế hoạch nên thánh” của anh. Sau khi bị khủng hoảng, anh mới
hiểu ra rằng, anh phải thay đổi lại cách thế suy nghĩ, và nhất là thay đổi lại
tương quan với Thiên Chúa. Anh phải lắng nghe và nhận ra được kế hoạch mà Chúa
muốn mời gọi anh, và việc anh phải làm là dấn thân vào kế hoạch của Ngài: “Xin
cho Ý của Cha được nên trọn." Sau khi đã chết đi cho chính mình, chết đi
cho một tinh thần cũ, anh đã được phục sinh, bắt đầu lại một cuộc sống mới, một
bước đường mới với một ánh sáng mới “xin cho Ý của Cha được thể hiện."
16.
Lệnh truyền lớn nhất
Trong truyện thánh Tử đạo
Martinô Thọ có chép: “Ông Thọ là người rất đạo đức. Vì được tín nhiệm, ông làm
việc thu thuế trong một thời gian rồi xin nghỉ vì thấy có nhiều cheo leo khó
công minh luôn mãi được. Ông khuyên các con cứ đúng luật Chúa mà làm chứ đừng
phạm tội vì muốn đẹp lòng người khác.... Ông làm việc rất siêng năng và cũng rất
rộng rãi với người nghèo khó: không bao giờ ông để họ ra về mà không cho của gì
ăn. Nếu con cái đi vắng, ông mời người ăn xin cùng ngồi ăn cơm chung, nếu con
cái ở nhà, ông bắt chúng xẻ cơm cho họ." Thánh Martinô Thọ đã tuân giữ giới
răn Chúa dạy là mến Chúa yêu người, sống công bằng bác ái. Thánh nhân là người
yêu mến Chúa thật và xứng đáng được Chúa trọng thưởng hạnh phúc đời đời. Chỉ
tình yêu biết trao đi mới đem lại niềm vui chân thật và lâu bền. Hãy ở lại
trong tình yêu của Thầy! Hãy tuân giữ các lệnh truyền của Thầy! Lệnh truyền lớn
nhất là yêu thương như Thầy đã yêu. Chúng ta sẽ nếm được thứ niềm vui khôn tả của
thiên quốc ngay trong cuộc sống ở đời này.
17.
Điều Chúa mong ước
Một người mẹ đang thoi thóp nhìn
năm đứa con khóc thút thít quanh giường, mắt bà nhoà lệ. Cha của chúng đã lìa
thế từ lâu, để lại cho bà gánh nặng một mình tần tảo nuôi năm đứa con thơ. Giờ
đây lại đến lượt bà nối gót chồng ra đi, vĩnh viễn xa lìa đàn con nheo nhóc. Bà
không an tâm chút nào khi thấy lâu nay các con hay kình cãi, tranh chấp nhau từ
chuyện nhỏ cho đến chuyện lớn, từ việc chia cá, chia cơm trong bữa ăn cho đến
việc tranh nhau tấm áo manh quần. Đứa nào cũng ích kỷ chỉ nghĩ đến mình mà quên
tình anh em ruột thịt. Đứa nào cũng mong chiếm cho được phần hơn mà không màng gì
đến quyền lợi các em. Mai đây bà ra đi, ai sẽ là nhịp cầu nối kết chúng lại với
nhau trong tình huynh đệ?
Ai sẽ là trọng tài phân xử những
tranh chấp bất hoà thường xuyên xảy ra giữa chúng?
Tuy nhiên, điều an ủi lớn lao
cho bà là mặc dù chúng không thương nhau, nhưng đứa nào cũng thương mẹ.
Tuy chúng không hề biết hy sinh
cho nhau, nhưng nếu vì mẹ thì chúng sẵn sàng hy sinh và làm cho mẹ bất cứ điều
gì mẹ muốn. Thế nên, dựa vào tình thương chúng dành cho mình, bà lấy chút hơi
tàn thều thào mấy lời trăn trối: “Các con yêu của mẹ, mẹ rất buồn, rất khổ tâm
khi thấy các con bất hoà bất thuận với nhau. Lát nữa, mẹ sẽ vĩnh viễn xa lìa
các con. Nếu mỗi người trong các con còn thương mẹ thì hãy vì mẹ mà thương yêu
các anh em mình!”
Nói xong, bà ra hiệu cho từng đứa
cúi xuống cho bà hôn lên trán rồi lịm vào giấc ngủ ngàn thu.[1]
Chính Chúa Giêsu cũng có cùng
tâm trạng đó. Ngài đến thế gian để nhen lửa yêu thương trên mặt đất và Ngài
mong mỏi ngày đêm cho lửa ấy cháy lên. Ngài đã truyền cho các môn đệ điều răn mới
là hãy yêu thương nhau như Ngài đã hết lòng yêu mến họ.
18.
Giữ đạo hay sống đạo
Một Giáo xứ toàn tòng Công Giáo,
tức là 100% người theo đạo, nhưng nếu giữ đạo được khoảng 60% là tốt lắm rồi,
con sống đạo đúng nghĩa, có lẽ đếm trên đầu ngón tay!
Đây là một thực trạng thật tại
Việt Nam chúng ta.
Đến đây, xin được kể một câu
chuyện có thật của một vị linh mục đã trọng tuổi, ngài sống ở Mỹ. Sau 50 năm,
ngài mới trở về Việt Nam lần đầu, và nhân dịp gặp gỡ chúng tôi, ngài kể: “Cách
đây 50 năm, tại đất nước Mỹ, người ta có lòng sùng đạo. Nhà thờ được xây cất rất
nhiều, các cuộc rước linh đình, lòng sùng đạo rất tốt. Nhìn chung, tình hình giữ
đạo rất giống Việt Nam hiện nay.
Tuy nhiên, vào thời điểm này,
sau 50 năm, nhiều nhà thờ đã không còn có người đi lễ nữa. Nhiều dòng tu cũng vắng
dần các ơn gọi trẻ. Đã có những nhà thờ và dòng tu phải bán đi vì không có tiền
đóng thuế. Các linh mục phải đi theo họ đến những nơi du lịch để giải tội và
dâng lễ. Nhiều Chủng Viện gom lại thành một, mà số lượng chủng sinh vẫn chỉ đếm
trên đầu ngón tay. Nếu có ai siêng đi lễ thì đôi khi nhận được những lời dè bửu
và cho là bất thường. Những người được coi bình thường là cả đời người ta đến
nhà thờ 3 lần: một lần Rửa Tội; lần khác là lễ cưới; và lần cuối cùng là chết.
Trong ba lần đó, hai lần thụ động, tức là lúc Rửa Tội và lúc chết, còn một lần
chủ động là lễ cưới. Điều đáng nói là dân Mỹ coi đây như là một thủ tục phải có
trong đời mà thôi, và họ cho rằng mình thuộc thành phần bình thường."
Sau đó, ngài đưa ra nhận xét: “Nếu
Giáo Hội Việt Nam không coi đó là kinh nghiệm cho chính mình, không tập trú vào
việc đào tạo lương tâm, không có những hoạt động phù hợp... nhằm giúp cho con
cái mình sống đạo chứ không chỉ giữ đạo, thì tình trạng của Giáo Hội Mỹ cũng là
hình ảnh, thực trạng của Giáo Hội chúng ta trong tương lai???"
Đến đây, xin để lại nơi bạn và
tôi câu hỏi: “Bấy lâu nay, chúng ta đã thực sự sống đạo hay chỉ là giữ đạo vì sợ
tội, sợ mất linh hồn, sợ mất danh dự, sợ bị mang tiếng...?”; “Phải chăng chúng
ta đã, đang an tâm với những thành quả về số lượng, mà quên đi, hay không cú
tâm đến chất lượng tâm linh?" Tưởng cũng nên nói thêm: giữ đạo là điều tốt,
nhưng sống đạo mới là người trưởng thành.
19.
Cặp mắt của trái tim--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Thánh Phanxicô Assisi có lòng mến
Chúa và yêu người rất sâu xa. Một hôm ngài gặp một người bạn, người này nói với
thánh nhân rằng ông ta không thể nào yêu mến Thiên Chúa được. Đang khi hai người
đi đường thì gặp một người hành khất vừa mù vừa què. Thánh nhân hỏi người hành
khất:
- Nếu tôi chữa cho anh thấy và
đi được thì anh có yêu mến tôi không?
Người hành khất trả lời:
- Dạ thưa ngài, không những tôi
yêu mến ngài mà tôi xin dâng hiến trọn phần còn lại của đời tôi để phục vụ
ngài.
Nghe câu trả lời của người hành
khất xong, thánh nhân quay sang người bạn đang đứng bên ngài nói:
- Đấy anh thấy không, người hành
khất này chỉ thấy được, đi được, thế mà còn hứa với tôi như thế, huống hồ là
anh, anh không những được Chúa dựng nên với chân tay mắt mũi lành lặn. Ngài lại
còn chịu chết để cứu chuộc anh nữa, đang khi đáng lý ra anh phải chết vì tội của
anh. Vậy mà anh lại không yêu mến Chúa sao?
Thưa anh chị em, yêu mến Chúa là
bổn phận của mỗi người chúng ta. Nhưng thế nào là yêu mến Chúa? trong Tin Mừng
hôm nay, chính Chúa Giêsu đã trả lời cho chúng ta câu hỏi này. Trước hết, yêu
là thấy.
20.
Bừng lên sự sống mới--“Như Thầy Đã Yêu”--Thiên Phúc
Câu lạc bộ “bạn giúp bạn” hình
thành tại Sài gòn năm 1996, do bác sĩ Nguyễn Bửu Hiền điều hành với 6 thành
viên đều đã nhiễm HIV. Những “người bạn” này tự suy nghĩ: Cuộc đời mình dù đã tới
dấu chấm hết, nhưng vẫn còn có thể có ích cho xã hội, họ đã dấn thân phục vụ bằng
những việc đơn giản như an ủi, động viên và chăm sóc các bệnh nhân khác để
chính họ cũng sẽ tìm thấy ý nghĩa cuộc đời.
Hiện nay, câu lạc bộ “bạn gíup bạn”
đã có khoảng 500 thành viên tỏa mạng lưới ở khắp quận huyện. Ban điều hành gồm
12 người, trong đó có 3 người Công giáo, riêng nữ tu Trần Thị Kim Loan, dòng Đa
minh Tam Hiệp là phó chủ nhiệm phụ trách hoạt động xã hội và tham vấn cho người
nhiễm HIV. Trụ sở đặt tại 43 đường Lam Sơn, quận Bình Thạnh.
Chị Kim Loan kể lại một kỷ niệm
về một nhạc sĩ mất vào tháng 8 năm 1998. Trước đó, anh đã xin được chịu Bí tích
Thánh Tẩy với một Đức Tin mạnh mẽ: “Mỗi lần cùng với tôi ra vào bệnh viện Nhiệt
Đới ở Chợ Quán, khi ngang qua tượng đài Đức Mẹ, anh thường đề nghị dừng lại cầu
nguyện. Khi trước, mỗi đêm chơi nhạc, được bao nhiêu tiền anh đều phung phí hết.
Bây giờ, anh đưa hết cho tôi vì muốn góp một phần khiêm tốn cho những bệnh nhân
nghèo. Chính việc này đã giúp anh tìm thấy ý nghĩa cuộc đời còn lại, và anh đã
ra đi bình an trong tình yêu của Chúa."
***
Đứng trước căn bệnh thế kỷ đầy
nghiệt ngã, người nhạc sĩ này vẫn mang một phong thái an nhiên tự tại, chính là
vì anh đã biết thoát ra khỏi nỗi đau của mình để hôn lên nỗi đau của kẻ khác.
Anh dường như đã chết đi mà nay được sống lại, chỉ vì anh không còn loay hoay với
nỗi bận tâm về mình, nhưng lại biết chia sẻ với nỗi đau của những con người bất
hạnh hơn anh.
21.
Đấng Bảo Trợ--‘Sống Tin Mừng’--R. Veritas
Cuốn phim có tựa đề: “Đời Vẫn Đẹp”
do Roberto đạo diễn và thủ diễn. Cuốn phim đã nêu lên câu truyện của người Do
Thái cùng với vợ và đứa con trai nhỏ bị Đức Quốc Xã đưa vào trại. Nhờ tài khôi
hài, ông đã giữ vững được tinh thần của đứa con khi quân đội đồng minh đến giải
thoát.
Cuốn phim hẳn gợi lại kinh nghiệm
của bác sĩ Victo Rey, ba năm lưu đày tại Ba-Lan và nhiều trại tập trung khác của
Đức Quốc Xã, đã giúp cho vị bác sĩ chuyên gia tâm lý này khám phá được một chân
lý quan trọng trong cuộc sống của con người, chân lý đó là, trong những hoàn cảnh
nghiệt ngã đau thương nhất con người vẫn có thể tồn tại nếu họ có niềm tin và
tìm được ý nghĩa của cuộc sống.
Bác sĩ Brand đã quan sát những
phản ứng khác nhau của các bạn tù của ông, có những người trước khi vào tù thì
được mọi người trọng vọng, ngưỡng mộ, thế nhưng bỗng chốc lộ nguyên hình của những
kẻ hèn hạ có thể bán đứng anh em vì một chút lợi lộc nhỏ mọn. Một số khác thoạt
tiên thể hiện bản lĩnh của những nhà lãnh đạo, thế nhưng liền sau đó thất vọng
và ngã gục chỉ trong vài ngày. Trái lại, cũng không thiếu những người rất ít được
mọi người chú ý đến, họ đã âm thầm chịu đựng cho đến cùng và được sống còn.
Tìm hiểu sự khác biệt giữa những
hạng người trên đây, bác sĩ Brand khám phá ra rằng, chính mục đích và ý nghĩa của
cuộc sống là sức mạnh làm cho con người tồn tại trong những điều kiện tột cùng
khốn khổ của cuộc sống. Trong kinh nghiệm bản thân, bác sĩ Brand cho biết,
chính tình yêu đối với vợ ông đã giúp cho ông tiếp tục tìm thấy ý nghĩa và lẽ sống
trong tận đáy của hỏa ngục. Mặc dù không biết vợ mình bị giam giữ ở đâu, còn sống
hay đã chết, bác sĩ Brand đã chia sẻ kinh nghiệm như sau:
Không có gì có thể tách tôi ra
khỏi tình yêu, những ý nghĩ và hình ảnh người vợ yêu dấu của tôi, cho dẫu người
ta có báo tin rằng vợ tôi đã chết thì tôi sẽ không bao giờ ngưng chiêm ngắm
hình ảnh của nàng và thôi không chuyện vãn với nàng nữa. Càng lúc tôi càng cảm
nghiệm được hình ảnh của vợ tôi; vợ tôi vẫn luôn ở bên cạnh tôi. Chính tình yêu
đối với vợ đã mang lại hy vọng và sức mạnh giúp cho bác sĩ Brand chịu đựng mọi
nghịch cảnh và tồn tại cho đến ngày được giải cứu khỏi các trại tập trung. Khám
phá được ý nghĩa của cuộc sống, đây hẳn không phải là một điều xa xỉ hay phụ
thuộc trong cuộc sống con người, mà là một nhu cầu hiện sinh còn quan trọng hơn
cả các ăn thức uống của con người.
Ý nghĩa lẽ sống của người Kitô
chúng ta chính là Chúa Giêsu Kitô, đây là điều một lần nữa hôm nay Giáo Hội muốn
nhắc nhở chúng ta.
22.
Hiện diện của kẻ vắng mặt--“Như Thầy Đã Yêu”--Thiên Phúc
Có một nhà chuyên môn sưu tầm
các loài bướm. Ngày nọ, khi bước vào một công viên, ông đã gặp tổ kén lạ. Ông
liền bứt cành cây đem kén bướm về nhà. Ít ngày sau, ông thấy nhúc nhích bên
trong kén, nhưng con bướm vẫn chưa phá kén bay ra.
Hôm sau, kén lại nhúc nhích,
nhưng chẳng có gì khác lạ. Lần thứ ba, vẫn thấy như trước, ông liền lấy giao rạch
kén, thế là con bướm bò ra ngoài. Tuy nhiên, bướm không tăng trưởng và chẳng
bao lâu thì chết.
Sau này, ông được người bạn là
nhà sinh vật học cắt nghĩa như sau: Thiên nhiên đã xếp đặt cho con bướm phải đấu
tranh mới thoát ra khỏi cái kén, vì nhờ đấu tranh gian khổ mà nó có thể phát
triển mạnh mẽ để sinh tồn.
Muốn làm cánh bướm bay trên ngàn
hoa rực rỡ, bướm phải làm kiếp sâu lặng lẽ, cô tịch trong vỏ kén lặng lờ, khuất
nẻo. Muốn là con bướm bay trong bầu trời xanh ngắt, bướm phải là con sâu đen đủi
xấu xa, vặn vẹo đau đớn trong tổ kén đợi chờ.
Để trở nên những tín hữu Kitô vững
mạnh, tăng triển về đường thiêng liêng, chúng ta phải trải qua một thời kỳ gian
khổ để tiến triển về mặt tâm linh, chúng ta cũng phải vượt qua đấu tranh thử
thách. Nhưng trong những thời điểm ấy, Thiên Chúa luôn bên cạnh chúng ta, cho
dù chúng ta không nhìn thấy Người.
23.
Mồ côi
Mỗi khi đi tham dự đám tang của
một người cha, hay của một người mẹ trẻ vừa mới nằm xưống, nhìn giải khăn xô buộc
hờ hững trên mái đầu xanh, chúng ta cảm động như muốn khóc lên được. Đứa bé
ngây thơ nhìn những nắm đất được ném xuống lòng huyệt lạnh. Nó chẳng hiểu gì cả.
Nó đâu có biết rằng chết là ra đi vĩnh viễn, hai bờ bến ngàn trùng xa cách. Nó
tưởng rằng ba nó hay mẹ nó đi thăm ông bà nội ngoại, mai mốt sẽ về và cho nó thật
nhiều quà. Người khác nhìn vào sẽ cảm thấy chua xót và khóc thầm cho cuộc đời của
nó. Ngày mai nó sẽ ra sao? Lớn lên, nó mới hiểu được rằng: mất cha, mất mẹ là một
nỗi bất hạnh quá lớn không thể lalm cho vơi giảm, là một mất mát quá to không
thể nào bù đắp.
Vì thế, người Âu châu có một
ngày lễ rất đẹp vào Chúa nhật thứ hai trong tháng năm, đó là là ngày lễ của những
người mẹ. Ngày lễ này được tổ chức để ghi nhớ công ơn mẹ hiền. Và những ai còn
mẹ, khi đi ra ngoài đường sẽ được cài một bông hồng trên áo, để nói lên rằng
người ấy thật hạnh phúc vì còn được sống bên người mẹ của mình.
Nếu có dịp ghé thăm một cô nhi
viện, chúng ta sẽ thấy những em bé mồ côi quấn quít bên chúng ta, mong muốn được
nói chuyện với chúng ta vì các em thiếu vắng một tình yêu thương chăm sóc.
Từ những kinh nghiệm cụ thể ấy,
chúng ta dễ dàng hiểu được lời Chúa phán:
- Thầy không bỏ các con mồ côi.
Thực vậy. Trước khi từ giã các
môn đệ, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho các ông, đã căn dặn các ông những điều cuối
cùng và nhất là đã trăn trối cho các ông bổn phận phải yêu thương nhau.
24.
Chúng ta không mồ côi
Người ta kể lại rằng: Sau nghi lễ
đăng quang, Đức Piô XI đã trở về phòng riêng, ngồi vào chiếc ghế vị tiền nhiệm
là Đức Bênêdictô XV, tự nhiên một nỗi lo âu xâm chiếm. Ngài nhìn thấy con đường
trước mặt thật tăm tối: Một Giáo hội bị tấn công về mọi mặt. Cuộc chiến tranh
thế giới lần thứ nhất vừa chấm dứt, nhưng chiếc ngòi nổ vẫn còn âm ỉ. Trong lúc
chán nản, ngài đã làm công việc duy nhất mà một người lo âu có thể làm, đó là
quì xuống cầu nguyện. Trong khi cầu nguyện như thế, tay ngài đưa ra và chạm vào
một bức ảnh còn lại trên bàn giấy của đức Bênêdictô. Ngài cầm bức ảnh ấy lên
xem và bổng nỗi lo sợ tan dần. Tâm hồn ngài tràn ngập an bình. Đó là bức ảnh
Chúa Giêsu đang truyền cho sóng gió yên lặng. Từ đó, ngài luôn để bức ảnh ấy
trên bàn và mỗi khi lo âu chuyện gì, ngài liền nhìn vào và nhớ lại rằng: Chúa
Giêsu chỉ cần phán một lời là sóng yên biển lặng.
Chúa Giêsu ở trong chúng ta và
Ngài đã mang lại sự bình an cho tâm hồn. Bởi đó, giữa những cơn sóng gió của cuộc
đời, chúng ta hãy bắt chước các môn đệ, chạy đến với Ngài và nài xin: Lạy Chúa,
xin cứu chúng con, kẻo chúng con chết mất.
25.
Yêu là vâng lời
Có lần đi shopping sắm đồ, tôi
quan sát được câu chuyện về một bà mẹ và đứa bé trai của bà trong cửa tiệm tạp
hóa. Bé trai theo mẹ đi chọn lựa hàng hóa, gặp thấy bất kỳ món đồ nào, nó cũng
với lên lấy xuống, lôi ra khỏi kệ, làm rơi rớt tung tóe. Lúc đầu, người mẹ cầm
chặt tay đứa bé lại, rồi nhẹ nhàng nói: “Đừng làm như thế nghe con!” Nó ngoan
ngoãn đáp lại: “Dạ vâng!”
Nhưng được một lúc, nó lại nghịch.
Người mẹ vẫn kiên nhẫn dạy con: “Đừng làm như thế nữa nghe con!” Nó lại hứa: “Dạ
vâng!” Sau đó một lúc, nó lại làm y như thế. Bà mẹ cầm chặt lấy tay nó, nhìn thẳng
vào mặt, dùng ngón tay trỏ chỉ vào giữa trán, và nói bằng một giọng nghiêm khắc:
“Đừng làm như thế nữa nghe chưa?” Em bé biết rằng không thể tiếp tục làm như vậy
được nữa. Nó nhìn thẳng vào mẹ với cái miệng mếu mếu và những giọt nước mắt
lưng tròng: “Mẹ, con thương mẹ mà." Bà mẹ mỉm cười rồi nói “Nếu con thương
mẹ, tại sao con không nghe lời mẹ?” Em bé im lặng, chẳng nói tiếng nào.
Sự liên hệ của chúng ta với
Thiên Chúa cũng giống như sự vâng lời của con cái đối với cha mẹ. Trong bài
Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Nếu các con yêu mến Thầy, thì
hãy giữ giới răn Thầy."
26.
Tình yêu là liên đới
Nói đến bản chất của tình yêu
đích thực làm tôi nhớ đến chàng thanh niên tôi đã gặp khi vừa thụ phong linh mục.
Anh có một người vợ rất dễ thương, ba đứa con thật ngộ nghĩnh. Mới gặp họ ở cuối
nhà thờ sau thánh lễ tạ ơn, tôi cứ tưởng họ là một gia đình hạnh phúc với nếp sống
đạo đức. Tôi cảm thấy rất thoải mái chuyện trò với họ. Rồi họ mời tôi ghé thăm
gia đình vài lần. Một bữa nọ, một mình người chồng đến gặp tôi và nói: “Cha ơi!
Con đang tính bỏ vợ con."
Vừa nghe những lời đó, tôi hoảng
hốt, hỏi anh lý do tại sao muốn bỏ vợ: Có đánh nhau không? Vợ hay chồng có người
yêu khác? Vấn đề tiền bạc? Vấn đề sinh lý? Chuyện gia đình cha mẹ hai bên? Nghiện
ngập thuốc phiện, xì ke, nhậu nhẹt, bài bạc casino… hay vấn đề gì?
Người chồng trả lời “Không có vấn
đề gì cả!” “Thế tại sao muốn bỏ vợ?” Tôi hỏi. “Con cũng chẳng biết nữa”, anh
đáp “con chỉ đoán là con không còn cảm thấy yêu thương vợ con như khi xưa!”
Vào thập niên 70, xã hội Tây
phương bắt đầu tiếp nhận một quan niệm cho rằng nếu phải làm một điều gì mà
không cảm thấy thích hay muốn làm, đều là giả hình. Cảm giác thích thú và sự ước
muốn là động lực cho mọi hành động. “Nếu cảm thấy vui vẻ, thoải mái, cứ
làm." Những câu hỏi: “How are you? How do you feel?” “Bạn cảm thấy thế
nào?” đã trở nên khuôn mẫu trong cuộc đàm thoại hằng ngày.
Cách suy nghĩ theo cảm giác bắt
nguồn từ triết gia người Đức, Nietzsche, người đã coi “Ước muốn” là căn bản tối
thượng của thực tại. Năm 1973, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ hợp pháp hóa việc phá
thai có thể được hiểu trong quan niệm này. Họ lý luận rằng ngay cả việc giết chết
một em bé chưa sinh ra cũng được phép miễn là người mẹ lựa chọn một cách tự do
theo ý muốn của mình!
Tôi không muốn lý sự với anh bạn
này. Tốt hơn, tôi hỏi anh: “Anh có nghĩ rằng một ngày nào đó anh sẽ không còn
yêu thương con cái của anh nữa không?” Bàng hoàng, anh trả lời ngay: “Không. Không
bao giờ có chuyện đó. Con sẽ luôn luôn yêu thương con cái của con, bất kể trong
hoàn cảnh nào." Rồi tôi hứa sẽ cầu nguyện cho anh, cho vợ anh và gia đình.
Hai năm sau, tôi gặp lại gia
đình anh. Dĩ nhiên là họ vẫn còn chung sống với nhau. Tôi không biết họ có thật
sự hạnh phúc không, nhưng tôi biết rõ họ lại có thêm một người con nữa!
27.
Yêu như Chúa yêu
Cách đây không lâu, một bác sĩ
giải phẫu người Mỹ đã vâng theo tiếng gọi của Chúa Giêsu, yêu thương tha nhân bằng
cách ban tặng chính bản thân mình cho họ. Ông đã trở nên một nhà truyền giáo phục
vụ trong ngành y khoa. Từ bỏ quê hương, ông đi tới một hòn đảo xa xôi trên biển
Thái Bình dương, nơi dân chúng sống nghèo khổ, bệnh tật vì thiếu thuốc. Sau một
thời gian, để tạo sự bất ngờ cho bác sĩ, vị mục sư ở Mỹ đã đến thăm ông mà
không báo trước. Khi mục sư đến, ông bác sĩ đang sửa soạn giải phẫu cặp mắt của
một em bé gái 8 tuổi. Vị mục sư đã quan sát cuộc giải phải xảy ra qua cái cửa sổ
của một căn chòi nhỏ. Sau ba giờ đồng hồ, bác sĩ đi ra khỏi phòng mổ và nói:
“Đôi mắt của cô bé rất tốt. Em sẽ mau khỏi bệnh." Rồi ông đi ra gặp mục sư
của mình. Khi bàn về cuộc giải phẫu vừa mới xảy ra, mục sư hỏi: “Ông sẽ được trả
bao nhiêu tiền cho cuộc giải phẫu đó nếu ông giải phẫu ở Mỹ?” “Chừng 3000 đô
la, tôi đoán như vậy”, bác sĩ trả lời. “Vậy ở đây người ta trả ông bao nhiêu?”
mục sư hỏi. “Tôi không biết nữa, chỉ vài xu và nụ cười của Thiên Chúa” ông bác
sĩ nói. Rồi đặt tay lên vai mục sư, ông lay nhẹ và nói, “Nhưng lạy Chúa, cuộc sống
ở đây thật tuyệt vời!”
Món quà tình yêu của Thiên Chúa
ban nhưng không cho ta qua Đức Giêsu Kitô, mặc dù là vô giá, nhưng không phải
là không có điều kiện. Giống như tất cả các loại tình yêu, Tình Yêu Thiên Chúa
cũng có những đòi hỏi. Và một trong những đòi hỏi nặng nề nhất của Người, một
đòi hỏi thường xuyên, đó là chia sẻ tình yêu thương đó cho tha nhân. Khi chúng
ta đáp lại lời mời gọi: “Hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu thương các con”
28.
Sự sống mới
Câu lạc bộ “Bạn giúp bạn” hình
thành tại Sài gòn năm 1996, do bác sĩ Nguyễn Bửu Hiền điều hành với sáu thành
viên đều đã nhiễm HIV. Những “người bạn” này tự nghĩ: Cuộc đời mình dù đã tới dấu
chấm hết, nhưng vẫn còn có thể có ích cho xã hội, họ đã dấn thân phục vụ bằng
những việc đơn giản như an ủi, động viên và chăm sóc các bệnh nhân khác để
chính họ cũng sẽ tìm thấy ý nghĩa cuộc đời.
Hiện nay, câu lạc bộ “Bạn giúp Bạn”
đã có khoảng 500 thành viên tỏa mạng lưới ở khắp quận huyện. Ban điều hành gồm
12 người, trong đó có ba người Công giáo, riêng nữ tu Trần thị Kim Loan, dòng
Da minh Tam Hiệp là phó chủ nhiệm phụ trách hoạt động xã hội và tham vấn cho
người nhiễm HIV. Trụ sở đặt tại 43 đường Lam Sơn, quận Bình Thạnh.
Chị Kim Loan kể lại một kỷ niệm
về một nhạc sĩ mất vào tháng 8 năm 1998. Trước đó, anh đã xin được chịu Bí tích
Thánh tẩy với một đức tin mạnh mẽ: “Mỗi lần cùng với tôi ra vào bệnh viện Nhiệt
Đới ở Chợ Quán, khi ngang qua tượng đài Đức Mẹ, anh thường đề nghị dừng lại cầu
nguyện. Khi trước, mỗi đêm chơi nhạc, được bao nhiêu tiền anh đều phung phí hết.
Bây giờ, anh đưa hết cho tôi vì muốn góp một phần khiêm tốn cho những bệnh nhân
nghèo. Chính việc này đã giúp anh tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời còn lại, và anh
đã ra đi bình an trong tình yêu của Chúa."
Đứng trước căn bệnh thế kỷ đầy
nghiệt ngã, người nhạc sĩ này vẫn mang một phong thái an nhiên tự tại, chính là
vì anh đã biết thoát ra khỏi nỗi đau của mình để hôn lên nỗi đau của kẻ khác.
Anh dường như đã chết đi mà nay được sống lại, chỉ vì anh không còn loay hoay với
nỗi bận tâm về mình, nhưng lại biết chia sẻ với nỗi đau của những con người bất
hạnh hơn anh.
Kitô hữu là người tin vào Đấng
đã chết và đã sống lại. Đấng đang sống sự sống tràn đầy sung mãn của Thiên
Chúa, và Người mời gọi các tín hữu hãy ở lại trong Người cũng là ở trong Cha,
và Thầy ở trong anh em."
29.
Tình yêu là ánh nắng trên giọt sương
Ta hãy nhìn vào gương thánh
Têrêsa Hài Đồng Giêsu, ngài chu toàn mọi bổn phận cách thật hoàn hảo. Dù quét
nhà, dù giặt dủ, dù làm vườn, dù dọn áo lễ, thánh nữ làm tất cả vì lòng yêu mến
Chúa. Ngài thường nói: “Hãy nhìn hạt sương buổi sáng. Hạt sương tầm thường chẳng
có giá trị gì. Nhưng khi ánh nắng mặt trời chiếu vào, hạt sương toả sáng lóng
lánh như hạt ngọc quí giá. Những việc chúng ta làm chỉ là những hạt sương tầm
thường. Nhưng tình yêu là ánh sáng mặt trời làm cho những việc tầm thường trở
nên giá trị." Việc giữ luật của chúng ta sẽ là tầm thường, nặng nề nếu
không xuất phát từ tình yêu.
30.
Lề luật yêu thương
Fort Hancock ở đầu xa nhất của
miền đất Sandyhock chạy dài tới bờ biển New Jersey. Trong thời kỳ thế chiến thứ
hai, nơi này là trung tâm huấn luyện quân đội. Tại khu vực này, có một thường
dân rất hăng say đem Tin Mừng Chúa Kitô cho hàng ngàn thanh niên đóng ở đó,
nhưng các Vị chỉ huy quân đội không cho phép người đó vào gặp các thanh niên.
Anh liền nghĩ ra một phương pháp truyền giáo thực hay: anh đặt một hãng chuyên
môn về những hàng mới, làm cho anh vài ngàn tấm gương soi, có đường kính chừng
8 centimet. Ở mặt sau tấm gương, người đó in những lời Tin Mừng theo thánh
Gioan 3, 16: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con
của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời." Bên dưới những lời
này, người đó chỉ dẫn: “Nếu bạn muốn nhìn người mà Thiên Chúa yêu thì hãy nhìn ở
mặt kia." Thật là ý nghĩa tuyệt vời, mỗi quân nhân nhìn ngắm mình là họ
nhìn thấy người mà Thiên Chúa yêu.
Trên tấm gương soi đó, ta có thể
in Mười giới răn như là bằng chứng Thiên Chúa yêu chúng ta. Chúa Giêsu vừa nói
với chúng ta: “Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn thầy."
31.
Tình yêu nhập thể
Có hai bạn trẻ chơi thân với
nhau, một da đen ở miền quê nghèo nàn, một da trắng ở chốn đô hội xa hoa. Một
hôm anh da đen lên thành phố thăm bạn. Cả hai vừa đi dạo vừa trò chuyện dưới
ánh nắng chiều, bỗng anh da trắng ngạc nhiên thấy bạn mình đứng khựng lại,
không nói gì nữa và trông như đang cố lắng nghe một tiếng gì ở đàng xa.
- Cái gì thế?
- Có tiếng chim sâu ở gần đây!
- Làm sao thành phố mà có chim
sâu được, chỉ toàn là tiếng xe cộ ồn ào.
Đi thêm một quãng, anh da đen chỉ
cho bạn thấy con chim sâu đang hót trong vườn cây một khu nhà cũ. Anh da trắng
khen bạn:
- Tai anh tốt quá!
- Không đâu, tai tôi chẳng hơn
gì tai anh nhưng vì tôi ở miền quê, quen với tiếng chim và thích nghe chim hót
mà thôi.
Nói đoạn anh lấy mấy đồng bạc cắc
thảy xuống đường. Lập tức có mấy người đi trước quay lại, tưởng có ai đánh rơi
tiền. Anh da đen nói:
- Thính tai nhỉ! Thế mà tiếng
chim hót lại chẳng mấy ai nghe thấy!
Người ta không chỉ đánh mất một
nét đẹp của cuộc sống, mà mất cả cuộc sống khi không biết đến tình yêu. Với
nhân loại tội lỗi, Thiên Chúa là tình yêu đã đích thân đến sống giữa thế gian,
để “ban cho họ một trái tim và đặt thần khí mới vào lòng họ ... lấy khỏi mình họ
trái tim chai đá và ban cho họ một trái tim bằng thịt” (Ed 11,19).
Thiên Chúa không yêu bằng một
tình yêu trừu tượng, xa vời, mà là một tình yêu nhập thể trong một con người cụ
thể, sống động và gần gũi với cuộc sống mỗi người.
32.
Vì Ngài là Tình Yêu
Năm thánh 2000 ghi dấu một niềm
vinh hạnh cho người Việt Nam khi ĐHY Nguyễn Văn Thuận được mời giảng phòng Mùa
Chay cho giáo triều Rô-ma. Những bài giảng của ngài được in thành cuốn ‘Chứng
nhân hy vọng’ được nhiều người yêu thích.
ĐHY đã có một bắt đầu gây ngạc
nhiên: "Tôi đã bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu, vì tôi yêu thích những khuyết
điểm của Ngài."
Rồi ngài kể “các khuyết điểm của
Chúa” mà ngài yêu thích, như Chúa không có trí nhớ tốt – quên hết tội người ta;
làm toán kém - bỏ 99 con chiên để đi tìm con chiên lạc; luận lý dở - tìm được một
đồng bạc mà mở tiệc ăn mừng; có tính phiêu lưu - Chúa kêu gọi nhiều người theo
Chúa đi loan báo Tin Mừng mà chẳng có gì bảo đảm cho cuộc sống của họ và của
chính Chúa: "Con Người không có chỗ gối đầu" !!!
Sau khi kể ra các khuyết điểm của
Chúa Giêsu, ĐHY đặt câu hỏi cho mọi người: “Nhưng chúng ta tự hỏi: tại sao Chúa
Giêsu có những khuyết điểm như thế?"
Để đi đến kết luận: "Vì
Ngài là Tình Yêu (Cf 1Ga 4,16). Tình yêu đích thực không lý luận, không đo lường,
không dựng lên những hàng rào, không tính toán, không nhớ đến những xúc phạm và
không đặt điều kiện. Nói theo kiểu thời nay: tình yêu không cân, đo, đong, đếm."
Kết luận của ĐHY thực là một tiếng
chuông gióng lên nhắc tôi chớ để có sự tương phản giữa niềm tin và cuộc sống
mình khi bỏ quên Thần Khí tình yêu của Đức Kitô, để Chúa ở trong tôi, món quà
quí giá nhất Chúa để lại cho mọi người.
Chúa đã kết án thế gian là không
thấy và cũng chẳng biết được Thần Khí tình yêu của Chúa; nhưng tôi có thấy và để
Thần Khí tình yêu của Chúa điều khiển cuộc sống của tôi không?
Đây
là câu chuyện có thật của một linh mục. Một hôm xe tôi bị chặn lại vì chạy quá
tốc độ. Tôi biết tôi đã sai. Tôi đã trễ làm lễ ở một nhà thờ truyền giáo xa
xôi. Tôi đang lái xe trên một đường cao tốc bốn làn hoàn toàn mới và hầu như
không có phương tiện lưu thông. Khi tôi nhìn thấy những ánh đèn xanh và vàng nhấp
nháy sau lưng, tôi biết rằng mình sẽ cử hành Thánh lễ muộn hơn.
Sau
khi cảnh sát tuần tra lấy bằng lái xe của tôi, anh ta quay trở lại xe của mình.
Tôi đợi anh trở lại để tuyên bố lỗi lầm của tôi. Trong khi tôi chờ đợi, một chiếc
xe cảnh sát khác dừng lại phía sau chiếc đầu tiên. Người lính cầm bằng lái của
tôi đi đến chiếc xe thứ hai. Mức độ lo lắng của tôi tăng lên.
Anh
ấy rời chiếc xe thứ hai và trở lại xe của tôi. Anh ta đưa bằng lái cho tôi và
nói: “Trung sĩ nói rằng ông là bạn của anh ta. Hãy giảm tốc độ và lái xe cẩn thận.”
Anh trở lại xe của mình và chạy đi. Và tôi đã làm như vậy.
*
Tôi đã phạm luật. Tôi đáng phải nộp phạt, nhưng vì tình bạn, lỗi lầm của tôi đã
được tha và quên đi. Tôi không bị phạt. Đây là cách ơn Chúa hoạt động. Chúng ta
được cứu vì Chúa Giêsu coi chúng ta là bạn hữu của Người, như bài Tin Mừng hôm
nay đã nói.
34. Hoạt động của Chúa Thánh Thần
Một
phi công, một giám đốc doanh nghiệp, một mục sư và một hướng đạo sinh đang cùng
nhau bay trên một chiếc máy bay nhỏ thì họ đột nhiên gặp sự cố động cơ. Chỉ
trong vòng vài phút, viên phi công nói: “Chiếc máy bay này đang lao xuống. Và
tôi nhận thấy chúng ta chỉ có ba chiếc dù. Tôi có vợ con ở nhà. Họ đang đợi tôi
ăn tối.” Nói xong, viên phi công lấy dù và nhảy xuống.
Ngay
lập tức giám đốc doanh nghiệp lên tiếng: “Mọi người nghĩ tôi là người thông
minh nhất trên trái đất. Nếu tôi chết trên chiếc máy bay này, đó sẽ là một tổn
thất lớn không chỉ đối với công ty của tôi mà còn đối với thế giới.” Nói xong,
anh chộp lấy một chiếc dù và nhảy xuống.
Rồi
vị mục sư quay sang hướng đạo sinh và nói: “Con trai, con còn trẻ, còn cha thì
đã già. Con còn có cuộc sống phía trước. Tôi đã hoàn thành cuộc đời của tôi.
Hãy lấy chiếc dù còn lại và nhảy đi.” Nhưng hướng đạo sinh nói: “Xin cha yên
tâm, người đàn ông thông minh nhất thế giới vừa chộp lấy ba lô của con và nhảy
xuống!”
*
“Khi Thánh Thần đến, Ngài sẽ dạy dỗ anh em mọi điều” (c. 26). Bạn đã gặp được một
giáo viên giỏi? Ông ấy hoặc cô ấy như thế nào? Những người thầy vĩ đại đánh thức
khả năng, khai sáng chúng ta để chúng ta trở thành một con người tốt. Chúa
Thánh Thần giống như một người thầy tốt.
35. Món súp vịt
Đây
là một câu chuyện về Nasruddin do cha Anthony de Mello, SJ kể lại. Một lần kia,
một người họ hàng đến thăm Nasruddin, mang theo một con vịt làm quà. Con vật được
làm thịt và dọn món ăn. Chẳng mấy chốc, hết người này đến người khác bắt đầu gọi
điện, mỗi người đều tự xưng là bạn thân của “người đã mang vịt đến cho
ông." Tất nhiên, mỗi người đều mong đợi được ăn uống và ở lại vui chơi vì
bữa tiệc của con vật đó. Cuối cùng, vị giáo sĩ không thể chịu đựng được nữa.
Nhưng một hôm, có một người lạ đến nhà ông và nói: “Tôi là bạn thân của người
bà con đã mang vịt đến cho ông.” Và cũng giống như những người khác, anh ta ngồi
xuống mong được cho ăn. Nasruddin đặt một bát nước bốc khói trước mặt anh. Người
lạ hỏi: “Cái này là cái gì vậy?” Giáo sĩ nói: “Cái này là món xúp vịt do bạn
anh mang đến cho tôi.”
*
De Mello muốn nói: “Người ta nghe nói về những người trở thành đệ tử của đệ tử
của đệ tử của một người đã trải nghiệm Thần Linh. Làm thế nào bạn có thể hôn ai
thông qua một sứ giả? Bài Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta phải
có trải nghiệm trực tiếp về Thần Khí của Thiên Chúa Ba Ngôi đang sống trong
chúng ta và chia sẻ với những người khác như Philipphê đã làm (Cv 8,5-8).
36. Bị thuần hóa
Một
lần kia, một người dân tộc sống trong rừng đã tìm được quả trứng của một con đại
bàng, mang nó về nhà và cho ấp cùng với những quả trứng gà khác.
Con
đại bàng bắt đầu nở ra và lớn lên cùng với những con gà khác trong trang trại.
Nó tập ăn sâu bọ, mổ thóc và đi đây đó như những con gà con khác. Nhưng nó chưa
bao giờ học cách bay như đại bàng.
Một
hôm, khi đang bới đất kiếm ăn, nó nhìn thấy một con đại bàng bay cao trên bầu
trời một cách oai vệ. Con đại bàng nhỏ bắt đầu nhìn vào nó và ngưỡng mộ sự hùng
vĩ của nó. Những chú gà con khác đến chỗ đại bàng con và nói: “Hãy nhìn xem,
con đó là đại bàng, vua của các loài chim. Bạn và tôi là gà và chúng ta không
thể bay như đại bàng đó. Hãy để anh ấy yên còn chúng ta đi tìm thức ăn."
Con đại bàng tội nghiệp từ đó cứ tưởng nó là gà và sống kiếp như một con gà và
không bao giờ học bay.
*
Kitô hữu nào không để cho Chúa Thánh Thần sống và hoạt động trong mình thì giống
như con đại bàng trong câu chuyện, không nhận ra nó là ai và nó có khả năng gì
(Cha Eugene Lobo SJ).
37. Chuyện vui
1.Luật
sư và Giáo hoàng chết cùng một lúc và cùng lên Thiên đàng. Sau khi họ ở đó một
lúc, Giáo hoàng nhận thấy rằng luật sư được đối xử tốt hơn ngài một chút. Vì vậy,
ngài đến gặp thánh Phêrô và hỏi: “Ngài có biết vị luật sư mới cùng đến đây với
con không? Vâng, con không phàn nàn gì lắm, nhưng anh ấy có vẻ được đối xử tốt
hơn con một chút…Anh ấy có một ngôi nhà tốt hơn và nhiều người hầu hơn. Con
không hiểu. Con đã từng là Giáo hoàng và phụng sự Chúa cả đời; anh chàng này chỉ
là một luật sư. Tại sao vậy?” Thánh Phêrô trả lời: “Ngài phải hiểu rằng chúng
ta luôn có các Giáo hoàng; đây là luật sư đầu tiên mà chúng ta từng có.”
2.
Một luật sư đi nghỉ ở một thị trấn nông nghiệp nhỏ. Khi đang đi bộ qua các con
đường, anh nhận thấy một chiếc ô tô đã bị tai nạn. Vẫn thường như vậy, một đám
đông lớn đã tụ tập chặt kín. Luật sư rất muốn đến chỗ người bị thương, nhưng
anh ta không thể đến gần chiếc xe. Là một người khá thông minh, anh ta bắt đầu
hét lớn: “Cho tôi qua! Cho tôi qua! Tôi là con trai của nạn nhân.” Đám đông nhường
đường cho anh. Nằm phía trước xe là một con lừa!
3.
Trong xưởng in tiền, tờ năm ngàn đồng và tờ hai trăm ngàn trở thành bạn của
nhau. Rồi chúng được tách ra và đưa vào lưu hành. Sáu năm sau, chúng tình cờ nằm
trong cùng một đống tiền được trả lại cho ngân hàng để tiêu hủy. Vì vậy, một
người hỏi tờ hai trăm ngàn: “Cuộc sống của bạn thế nào?” Tờ hai trăm ngàn đáp:
“Ồ, thật tuyệt vời! Tôi đã được đến Đà Nẵng, đến Quảng Ninh, năm ngoái đến xem
nhạc nước ở Phú Quốc, thật tuyệt vời. Còn bạn, cuộc sống của bạn thì sao?” Tờ
năm ngàn đáp: “Tệ thật! Tuần nào cũng vậy: nhà thờ, nhà thờ, nhà thờ.” Hừm!
38. Tin vào sức mạnh
Trên
bờ sông có một ẩn sĩ. Hơn ba mươi năm ông ta đã thực hiện ‘Sadhana’ để đi trên
mặt nước. Ông là một tín đồ trung thành của Giáo chủ Krishna. Ông ta duy trì sự
sống của mình chỉ bằng sữa bò được cung cấp bởi một cô bé mười một tuổi, sống ở
bờ bên kia sông. Một ngày nọ, mẹ cô nói với con gái: “Có những đám mây dày đặc
và sắp có một trận mưa như trút nước và dòng sông sẽ bị ngập lụt. Hãy nói với ẩn
sĩ rằng con sẽ không thể đến vào ngày mai. Cô gái đã làm như mẹ dạy. Nhưng vị ẩn
sĩ nói với cô gái: “Đừng lo lũ lụt. Ta sẽ dạy cho con một câu ‘thần chú’ và con
có thể đi trên mặt nước. Nhắm mắt lại và lặp lại ‘Krishna, Krishna, Krishna’ và
con có thể thoải mái bước đi trên mặt nước.” Đúng như dự đoán, trời đổ mưa xối
xả và nước sông tràn bờ. Cô gái chuẩn bị mang sữa đến cho ẩn sĩ. Người mẹ ngăn
cản. Nhưng cô gái nói với mẹ rằng vị ẩn sĩ đã dạy cho cô một câu thần chú để đi
trên mặt nước. Tin lời cô, người mẹ cho phép cô đi. Cô gái đi ra sông, nhắm mắt
lại, lặp đi lặp lại ‘Krishna, Krishna, Krishna’ và bước đi trên mặt nước dễ
dàng. Vị ẩn sĩ nhìn cô với sự kinh ngạc. Lặp lại ‘câu thần chú’, cô gái lại bước
đi trên mặt nước trở về nhà. Vị ẩn sĩ tự nghĩ: “Thật tuyệt vời, tôi đã giúp cô
gái đó đi trên mặt nước. Tôi có sức mạnh. Bây giờ hãy để tôi thử cho chính
mình.” Một cách tự tin, ông ta bước xuống nước và chết đuối ngay lập tức.
*
Cô gái trẻ có niềm tin mãnh liệt vào câu thần chú do vị ẩn sĩ truyền đạt, một
niềm tin mà bản thân vị ẩn sĩ không có. Đó là niềm tin tiềm ẩn có thể làm nên
những điều kỳ diệu trên thế giới này. [G. Francis Xavier trong Những câu chuyện
truyền cảm hứng hay nhất thế giới; được trích dẫn bởi cha Botelo).
39. Không mồ côi
Margaret
Fishback, một phụ nữ trẻ, người đã tìm kiếm hướng đi ở ngã ba đường của cuộc đời
mình, đã sáng tác một bài thơ hay với tựa đề “Dấu chân,” đã xuất hiện trên các
tấm bảng, thẻ, lịch, và áp phích và được hàng triệu người trên khắp thế giới
trân trọng. “Một đêm nọ, tôi có một giấc mơ. Tôi mơ thấy mình đang đi bộ dọc
theo bãi biển với Chúa; và trên bầu trời lóe lên những cảnh tượng trong cuộc đời
tôi. Trong mỗi cảnh, tôi nhìn thấy hai cặp dấu chân, một cặp thuộc về tôi và cặp
kia thuộc về Chúa. Khi cảnh cuối cùng của cuộc đời vụt hiện ra trước mắt, tôi
nhìn lại, tôi nhìn những dấu chân trên cát. Tôi nhận thấy rằng nhiều khi trên
đường đời chỉ có một dấu chân. Tôi cũng nhận thấy rằng nó xảy ra vào những thời
điểm tồi tệ nhất và buồn bã nhất trong cuộc đời tôi. Điều này thực sự làm tôi
thắc mắc, và tôi đã hỏi Chúa về điều đó. “Lạy Chúa, Ngài nói rằng một khi con
đã quyết định theo Ngài, Ngài sẽ cùng con đi suốt quãng đường, nhưng con đã nhận
thấy rằng trong những lúc khó khăn nhất của cuộc đời, chỉ có một dấu chân. Con
không hiểu tại sao trong lúc con cần Chúa nhất thì Chúa lại bỏ con một mình.”
Chúa trả lời: “Hỡi đứa con bé bỏng yêu quý của Ta, Ta yêu con và sẽ không bao
giờ rời xa con trong lúc con gặp thử thách và đau khổ. Khi con chỉ nhìn thấy một
cặp dấu chân, đó là lúc Ta đang ẵm con."
*
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết rằng mặc dù hành trình cuộc đời chúng ta
không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng nó không đơn độc một mình. [John
Picchappilly in The Table of the Word; được trích dẫn bởi cha Botelo).
40. Niềm tin tưởng
Có
một câu chuyện cảm động kể về một mục sư khiêm nhường, tận tụy, có đứa con trai
nhỏ bị bệnh nặng. Sau khi cậu bé trải qua một loạt các xét nghiệm toàn diện,
người cha được thông báo một tin sốc rằng con trai mình mắc bệnh nan y. Cậu bé
đã nhận Chúa Kitô làm Cứu Chúa của mình, vì vậy mục sư tin rằng cái chết sẽ đưa
cậu vào vinh quang. Tuy nhiên ông tự hỏi làm thế nào để báo tin cho một người
đang trong độ tuổi thiếu niên rằng cậu sẽ sớm qua đời. Sau khi sốt sắng cầu nguyện
tìm sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, ông đi qua khu bệnh viện với tấm lòng nặng
trĩu để đến bên giường cậu bé. Đầu tiên, ông đọc một đoạn Kinh Thánh và dành thời
gian cầu nguyện với đứa con thân yêu của mình. Rồi ông nhẹ nhàng nói với cậu rằng
các bác sĩ đã nói rằng cậu chỉ còn sống được vài ngày nữa. Người cha sùng đạo hỏi:
“Con có sợ gặp Chúa không, con trai?” Chớp mắt gạt đi vài giọt nước mắt, cậu bé
dũng cảm nói: “Không, không đâu nếu Ngài giống bố!”
41. Niềm hi vọng
Tác
giả và nhà viết kịch, Václav Havel đã bị kết án bốn năm rưỡi tù giam vào năm
1979 vì tham gia vào phong trào nhân quyền ở Séc. Mặc dù sau này trở thành tổng
thống của đất nước mình (1989), nhưng ông đã phải chịu đựng nhiều năm bị từ chối
và ngược đãi vì niềm tin của mình. Khi được hỏi lý do tại sao ông vẫn hy vọng
khi đối mặt với quá nhiều sự thù địch, ông trả lời: “Hy vọng là định hướng của
tinh thần, định hướng của trái tim; nó vượt qua thế giới được trải nghiệm trực
tiếp và nó được neo đậu ở một nơi nào đó ngoài tầm nhìn của nó. Hy vọng, theo
nghĩa sâu sắc và mạnh mẽ này, không giống như niềm vui khi mọi việc đang diễn
ra tốt đẹp, hay sự sẵn lòng đầu tư vào những doanh nghiệp rõ ràng đang phát triển
thành công, mà là khả năng làm việc vì điều gì đó tốt đẹp, không chỉ vì nó có
cơ hội thành công” (Disturbing the Peace, Alfred A. Knopf, New York: 1990).
*
Trong bài đọc thứ hai trích thư 1 Phêrô, tác giả khuyên các tín hữu hãy tràn đầy
niềm hy vọng tương tự, bất chấp sự thù địch và bách hại mà họ phải chịu vì dấn
thân theo Chúa Kitô. (Hồ sơ Sanchez).
CNPS 6B - TÌNH YÊU CAO CẢ
Lời Chúa: Ga 15, 9-17
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: "Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con. Hãy ở lại
trong tình yêu của Thầy. Nếu các con tuân lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong
tình yêu của Thầy, cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại
trong tình yêu của Người. Thầy nói với các con điều đó để niềm vui của Thầy ở
trong các con, và niềm vui của các con được trọn vẹn.
Đây là lệnh truyền của Thầy: Các
con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con. Không có tình yêu nào lớn
hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình. Các con là bạn hữu của Thầy, nếu
các con thi hành những điều Thầy truyền. Thầy không còn gọi các con là tôi tớ,
vì tôi tớ không biết việc chủ làm; Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những
gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết.
Không phải các con đã chọn Thầy,
nhưng chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt để các con đi và mang lại hoa
trái, và để hoa trái các con tồn tại, để những gì các con xin Cha nhân danh Thầy,
Người sẽ ban cho các con.
Thầy truyền cho các con điều này
là các con hãy yêu mến nhau.”
TRUYỆN
KỂ
1. Ở
lại trong tình thương
"Tôi là một linh mục công
giáo Ba Lan, tôi đã già, tôi muốn chết thay cho ông này, vì ông có vợ con.” Quyết
định của Cha Maximilianus Maria Kolbe đã cứu được ông Francis. Không phải chỉ
mình ông và gia đình ông, cha còn cứu được 9 người khác, khỏi nỗi tuyệt vọng,
những người sẽ cùng bị bỏ đói đến chết với cha. Từ hầm giam, không còn nghe thấy
tiếng khóc than nguyền rủa. Chỉ có tiếng hát và lời kinh.
Cái chết của cha làm mọi người
kinh ngạc, vì nó là bằng chứng của một tình yêu. Không có tình yêu nào lớn bằng
tình yêu hiến mạng cho người bạn của mình. Ông Francis chẳng phải là bạn của
cha Kolbe, nhưng ông thành bạn của cha vì được cha hiến mạng.
Hãy ở lại trong Thầy, ở lại
trong tình yêu của Thầy. Đây không phải là một lời mời đầy tính lãng mạn của một
người đang yêu. Đây cũng không phải là một mệnh lệnh cao siêu dành cho những
nhà thần bí. Đức Giêsu dạy ta biết cách ở lại trong Ngài.
2.
Hai biển hồ.
Palestine có hai biển hồ... Hai
biển hồ này hoàn toàn khác nhau. Một biển hồ thường được gọi là biển hồ
Galilêa. Đây là một biển hồ rộng lớn với nước trong xanh mà người ta có thể uống
và cá cũng có thể sống trong đó. Chung quanh hồ là những vườn cây và thảm cỏ
xanh tươi.
Biển hồ thứ hai tại Palestine là
Biển Chết. Đúng như tên gọi của nó, không có sự sống nào ở trong cũng như chung
quanh biển hồ này. Nước mặn đến nỗi cá không thể sống nổi mà người cũng có thể
trở nên bệnh hoạn nếu uống phải. Mùi hôi thối từ Biển Chết xông lên, khiến
không ai muốn sống gần đó.
Có điều kỳ lạ là hai biển hồ này
đều nhận nước từ cùng một nguồn là sông Jordan. Nước sông Jordan chảy vào Biển
hồ Galilêa rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch khác. Hồ Galilêa nhận
lãnh để rồi chia sẻ cho những hồ nhỏ khác, nhờ đó nước của nó luôn trong sạch
và mang lại sức sống cho cây cỏ, muông thú cũng như con người.
Biển Chết cũng nhận nước từ sông
Jordan, nhưng nó giữ lấy riêng cho mình, do đó nước của nó trở thành mặn chát
và hôi thối.
"Cho thì có phúc hơn nhận.”
Càng trao ban, càng được nhận lãnh. Chúa đã yêu thương chúng ta vô bờ bến, và
Ngài không muốn cho chúng ta giữ lại cho riêng mình, nhưng là chia sẻ tình yêu ấy
cho mọi người chung quanh.
3.
Yêu là hy sinh.
Tình yêu chân thật đòi phải hy
sinh, mà hy sinh càng lớn thì tình yêu càng sâu đậm, càng tha thiết:"Nếu
biết tình yêu có chân thật hay không, hãy bỏ tình yêu vào máy ép, nếu nó tiết
ra chất nước hy sinh vô vị lợi, đó là tình yêu thật"(Pierre l'Ermite).
Yêu là hy sinh và hy sinh lớn nhất
là cho đi chính mạng sống của mình như Đức Giêsu đã nói:"Không có tình yêu
nào lớn hơn tình yêu của kẻ hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình"(Ga 15,13).
Nếu đọc cuốn tiểu thuyết "Anh phải sống" của nhà văn Khái Hưng, ta thấy
cũng có một nhân vật dám thực hiện lời khuyên trên của Đức Giêsu. Câu truyện ấy
gồm tóm như sau: Hai vợ chồng nghèo đi kiếm củi trên ngàn để bán lấy tiền nuôi
con. Hôm đó trời giông bão, họ bị nước cuốn trôi. Chỉ có một khúc cây đủ sức
cho một người bám. Người chồng bảo vợ hãy bám vào khúc cây, vì"em phải sống
để lo cho các con.” Người vợ cũng bảo chồng "Anh phải sống.” Cuối cùng người
vợ buông tay, tự tìm lấy cái chết cho mình, để nhường sự sống lại cho chồng và
các con.
Tình yêu có cái giá của nó. Yêu
là chấp nhận rằng chúng ta có thể phải chết đi bằng một cái chết khác, trước
khi chúng ta chết thật. Con đường yêu thương là con đường của thánh giá, và chỉ
thông qua con đường thánh giá, mà chúng ta mới đến được với sự sống lại. Nếu nỗi
đau khổ dạy chúng ta về cách thức yêu thương, thì không có gì là khủng khiếp,
khi phải chịu đôi chút đau khổ trên trái đất này.
4.
Cớ sao ông lại chết?
Trong một bãi tha ma tối đen như
mực, có một người đàn ông đã 5 ngày liền ngồi buồn rầu trên một nấm mồ và luôn
miệng nói một câu thảm thiết "Cớ sao ông lại chết? Cớ sao ông lại chết để
tôi khổ thế này"?
Người hầu tìm thấy ông ta, muốn
an ủi, bèn hỏi:
- Người quá cố là cha hay anh
ông vậy?
Con người khốn khổ rên rỉ:
- Không phải cha, không phải
anh. Đó là người chồng trước của vợ tôi đấy!!!
5.
Nơi có Chúa hiện diện
Trong dãy núi Alps ở Thuỵ Sĩ có
một ngôi làng, và trong làng có một nhà thờ nhỏ. Mặc dù nhà thờ này chẳng có một
tác phẩm nghệ thuật nào cả nhưng lại được dân làng quý mến một cách hết sức đặc
biệt. Câu chuyện sau đây sẽ cho biết lý do.
Có hai anh em cùng canh tác mảnh
vườn của gia đình và chia lợi tức đồng đều cho nhau. Người anh đã có gia đình,
người em còn độc thân. Năm đó thời tiết khắc nghiệt nên thu hoạch rất kém. Một
hôm, người em tự nhủ: "Nếu chia đều phần thu hoạch thì không công bình, vì
mình thì độc thân, còn anh mình thì còn phải lo cho gia đình.” Thế là mỗi đêm
người em vào kho nhà mình lấy một bao lúa, đi ngang qua miếng ruộng giữa hai
nhà và mang đến bỏ vào kho của người anh.
Trong lúc đó, người anh cũng tự
nhủ: "Nếu chia đều phần thu hoạch thì không công bình, vì mình thì đã có
gia đình đỡ đần, còn em mình thì độc thân không ai giúp đỡ.” Thế là mỗi đêm người
anh vào kho nhà mình lấy một bao lúa, đi ngang qua miếng ruộng giữa hai nhà và
mang đến bỏ vào kho của người em. Đêm nào hai anh em cũng làm như thế. Nhưng lạ
thay ai cũng thấy kho lúa nhà mình chẳng vơi đi tí nào cả.
Một đêm kia, hai anh em gặp nhau
giữa miếng ruộng. Họ cảm động quá, vất bao lúa xuống đất và ôm nhau khóc. Thình
lình, một tiếng từ trời vọng xuống: "Tại đây Ta sẽ xây nhà thờ của Ta, vì
nơi nào người ta thương yêu nhau thì Ta sẽ ngự ơ đó.” Thế là có một ngôi nhà thờ
mọc lên tại nơi đó.
6.
Rửa tội cho Corneliô
Việc Phêrô rửa tội cho Cornêliô
đánh dấu một bước ngoặc rất quan trọng trong cuộc sống của Giáo Hội.
- Do thái giáo xưa nay coi ơn cứu
rỗi là độc quyền của dân do thái, cho nên không bao giờ chấp nhận cho một người
dân ngoại làm tín hữu chính thức. Cùng lắm, nhưng người "ngoại" ấy chỉ
được làm "kẻ kính sợ Chúa" mà thôi.
- Cornêliô là một người ngoại.
Còn Phêrô đang là lãnh đạo của Giáo Hội. Việc Phêrô rửa tội cho Cornêliô đã mở
toang cánh cửa Giáo Hội để từ nay bất cứ người nào cũng có thể gia nhập Giáo Hội.
Bước ngoặc quan trọng này do
Chúa Thánh Thần thúc đẩy (chính Chúa Thánh Thần đã khuyến khích Phêrô đến nhà
ông Cornêliô) và Chúa Thánh Thần chuẩn nhận (Khi Phêrô đang nói thì Thánh Thần
ngự xuống trên tất cả những người đang có mặt trong nhà ông Cornêliô).
7.
Thiên Chúa là tình yêu
Ngày xưa có một chàng thanh niên
hồ nghi về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Một hôm anh tìm đến một tu sĩ nổi tiếng
là đạo đức và hỏi:
- Ngài có tin Thiên Chúa không?
- Vâng, tôi tin. Vị tu sĩ trả lời.
- Nhưng dựa vào đâu mà ngài tin
như thế?
- Tôi tin Thiên Chúa vì tôi biết
Ngài. Tôi cảm nhận được sự hiện diện của Ngài trong tôi mỗi ngày.
- Nhưng làm sao ma cảm nhận được
như thế?
- Khi ta yêu thì ta sẽ cảm nghiệm
được Thiên Chúa, và những nỗi hồ nghi sẽ tan biến như sương mai phải tan biến
lúc mặt trời mọc.
Chàng thanh niên suy nghĩ một hồi,
rồi hỏi tiếp:
- Xin Ngài chỉ rõ cho tôi phải
làm điều đó bằng cách nào?
- Bằng cách thực hiện những việc
yêu thương. Anh hãy cố gắng yêu thương những người chung quanh anh, yêu thương
tích cực và không ngừng. Khi anh học biết yêu thương ngày càng nhiều hơn thì
anh cũng sẽ càng ngày càng xác tín hơn về sự hiện hữu của Thiên Chúa và sự bất
tử của linh hồn. Việc này đã được thử nghiệm rồi đấy. Đó là sự thật.
Vị tu sĩ trên chẳng nói gì khác
hơn điều Thánh Gioan viết trong bài đọc II hôm nay: "Anh em thân mến,
chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu
thương thì được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu
thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình yêu"
8.
Yêu thương và tôn trọng
Nhà văn nữ Harriet Beecher Stove
có viết một quyển tiểu thuyết nhan đề "Túp lều Bác Tôm" kể chuyện đời
của một người nô lệ da đen tên là Tôm.
Chủ của bác Tôm là một trong số
rất ít những người chủ da trắng biết thương yêu những người nô lệ da đen của
mình. Đáp lại Bác Tôm cũng rất yêu thương chủ và tận tụy hết lòng phục vụ chủ.
Nhưng ông chủ này vì làm ăn thua lỗ nên đã nợ một món tiền rất lớn. Một tên da
trắng khác chuyên buôn bán nô lệ đã tìm cách nắm được các giấy nợ và dùng chúng
để làm áp lực với ông Senbi, tên của ông chủ da trắng nhân hậu ấy. Hắn buộc ông
phải bán bác Tôm cho hắn để trừ nợ.
Lúc đầu ông Senbi nhất định
không chịu. Nhưng vì tên lái buôn hăm doạ sẽ tịch thu tất cả tài sản của ông,
nên cuối cùng ông đành phải bán bác Tôm. Sau đó cuộc đời bác Tôm đã phải lao
đao lận đận chịu đủ thứ khổ sở và cuối cùng phải chết.
Chi tiết đáng chú ý trong câu
truyện là ông Senbi không coi Tôm là tôi mọi nhưng coi như người nhà. Đối lại
Tôm cũng rất thương ông Senbi. Người ta đã xúi bác Tôm trốn đi trước khi bị tên
lái buôn bắt đi bán. Nhưng Bác đã từ chối "Nếu ông chủ buộc lòng phải bán
tôi để khỏi phải bán tất cả những người khác và để khỏi phải phá sản thì thôi
cũng được.” Tóm lại, người da trắng và người da đen này thương nhau vì hai người
đã biết rõ tấm lòng của nhau, vì họ tôn trọng nhau.
Đây
là câu truyện do nhà văn Nguyễn Hiến Lê kể lại:
Hôm
đó khi vừa mới ở trường về đứa bé hỏi mẹ nó: “Mẹ, thế nào là trật đường rầy hả
mẹ?
Bà
cụ phì cười trả lời:
+ Một
chuyến xe lửa trật đường rầy mà con không biết sao?
-
Hiểu chứ mẹ, nhưng một đứa nhỏ trật đường rầy nghĩa là làm sao hả mẹ?
+
Nghĩa là nó hơi khùng khùng chứ làm sao.
-
Và thế nào là “không bình thường” hả mẹ?
+ Không
bình thường?Nghĩa là....Nhưng con nghe ai nói vậy?
-
Chiều nay Ông Thanh tra tới thăm trường của con. Ông có vô thăm lớp con. Ông có
hỏi thầy về tình hình học tập trong lớp. Thầy lấy tay chỉ vào con và nói với
ông thanh tra là “nó là đứa bé trật đường rầy”- nó là đứa bé bất bình thường,
có dạy dỗ nó cũng chỉ tốn công vô ích.”
Tức
quá bà cụ nhảy choi choi lên và la lớn lớn:
“A
thầy giáo bảo con vậy hả? - Đi đi ngay với mẹ. Mẹ sẽ cho ông thầy ấy biết tay
con mụ này.”
Nói
xong bà nắm tay con lôi đi - đôi mắt long lên, đôi môi mím lại, hùng dũng đi đến
nhà ông giáo. Tới nơi bà lấy tay chỉ thẳng vào mặt ông giáo và nói dằn từng tiếng:
“
Nè, thấy nói gì với ông thanh tra về thằng Al của tôi ?- Tôi biết hết. Thầy bảo
nó là “trật đường rầy” là “bất bình thường” hả? Tôi nói thật cho cái mặt thầy
biết: Có kẻ nào đó trật đường rầy thì kẻ đó chính là thầy chứ không phải là con
của tôi. Tôi cầu cho thầy được thông mình bằng một nửa nó thì cũng là phúc lắm
rồi.
Rồi
bà nắm tay đập lên bàn nhà thầy giáo...vừa đập vừa hét lớn:
-
Thấy nhớ kỹ nghe chưa? Một ngày kia người ta sẽ nhắc đến tên tuổi của nó - Còn
cái mặt của thầy không ai thèm biết tới đâu.
Tội
nghiệp cho ông giáo cứ nín thinh không dám hé môi nói một lời.
Nói
xong bà bảo cậu con.
-
Thôi từ nay con khỏi tới trường nữa. Ở nhà mẹ dạy cho con.
Rồi
bà dắt con quay gót bước ra.
Rồi
bằng một tình yêu với những hy sinh không biết mệt mỏi, bằng một lòng quí trọng
không bờ không bến, và nhất là bằng một niềm tin rắn chắc và vững vàng như sắt
đá bà thổi vào trong tâm hồn đứa con của bà sự tự trọng, ý chí muốn vươn lên và
sự kiên trì không biết mệt mỏi.
Cuối
cùng bà đã biến một đứa bé bất bình thường, đứa bé trật đường rầy, đứa bé có lần
ông thầy mắng là “dốt như bò” thành một nhà bác học đã đóng góp cho nhân loại một
số bằng phát minh nhiều hơn bất cứ một nhà bác học nào ở trên thế giới này từ
trước cho đến hôm nay: 2500 bằng phát minh, vâng 2500 bằng phát minh...trong đó
có bằng phát minh rất quan trọng về điện mà chúng ta đang được thừa hưởng hôm
nay. Đó là nhà bác học Thomas Alva Edison.
Sau
này khi ông thành đạt thì mẹ đã chết, ông hay nói với mọi người: “Tôi được như
thế này là nhờ mẹ của tôi.”
Vâng chúng ta hãy biết yêu như
Chúa đã yêu để tình yêu làm nên những điều kỳ diệu cho cuộc sống của chúng ta.
Amen.
10.
Thương người nhưng sợ lòng người
Dọc theo triền núi Trường Sơn,
có một ngôi mộ đã lâu đời, trên bia mộ có khắc giòng chữ: “Tôi thương người,
nhưng rất sợ lòng người.” Đây là câu nói của Hy Thanh, người nằm trong mộ. Tại
sao lại khắc giòng chữ đó trên mộ của anh ta? Câu chuyện như sau: thời bấy giờ,
Hy Thanh chịu khó đi học nghề tìm mạch nươc. Bạn bè khinh chê: “Dưới đất lúc
nào chẳng có nước, học chi cái nghề vô dụng ấy”, gia đình cũng rủa chàng: “Học
cái nghề vô ích ấy làm gì, đi đâu thì đi” Hy Thanh ra đi, ngày kiếm ăn, đêm tìm
đến chùa nghỉ, cắn răn chịu đựng và vẫn tiếp tục theo đuổi cái nghề ấy. Hai
mươi năm trôi qua, gặp thời đại hạn, giếng khô cạn, nhiều người chết vì khát.
Lúc bấy giờ người ta chợt nhớ đến chàng, chạy tới cầu cứu. Hy Thanh tìm ra mạch
nước, nước chảy lênh láng khắp nơi. Dân chúng từ bốn phương hay tin đến uống, họ
vui mừng ca ngợi chàng. Tuy nhiên, có kẻ vì khát lâu ngày, nay uống quá độ nên
ngã lăn ra chết. Người ta quay lại mạt sát chàng, đám người có thân nhan bị chết
xông vào đánh đập chàng cho đến chết. Trước khi chết, chàng nói: “Tôi thương
người, nhưng rất sợ lòng người.”
Đó là chuyện ngày xưa, sau đây
là chuyện ngày nay: Trên báo Tuổi Trẻ Chúa Nhật số 18 năm 1989 có một câu chuyện
tựa đề là “Máu Cá”, tức là máu lạnh, trích trong tập “ngồi buồn viết mà chơi” của
nhà văn Nguyễn Minh Châu như sau: Tại sân ga Hàng Cỏ vào lúc tờ mờ sáng, khách
đứng xếp hàng chuẩn bị lên tàu, khách ngồi chờ đợi rất đông, cùng với số lượng
hàng hóa chất cao từng đống. Giữa cảnh đông đúc chen chúc như vậy, có một người
đàn bà còn trẻ, y như một người mất trí, cứ hét vang cả sân: “Các ông các bà,
có ai thương tôi, cứu tôi với.” Chị ta kêu đến khản cả giọng mà chung quanh chẳng
ai đoái hoài. Người ta chỉ quay nhìn chị một cách thờ ơ. Có chuyện gì xảy ra vậy?
Thì ra thế này: chị ta xuống tàu trong đêm với hai đứa con: đứa ba tuổi, đứa nửa
tuoi, ngồi chờ sáng. Lúc trời gần sáng, chị bảo đứa con lớn ngồi trông em để đi
giặt đồ. Giặt xong, quay trở lại thì mẹ mìn đã dụ dỗ đem đứa lớn đi, chỉ còn đứa
nhỏ nằm ngửa giữa sân ga một mình. Nghe xong câu chuyện, tôi (tác giả Nguyễn
Minh Châu) chạy đến gặp một đồng chí công an đề nghị: “Các đồng chí nói loa đi,
yêu cầu hành khách thấy ai khả nghi thì giữ lại, đứa dụ dỗ đứa trẻ, thế nào
cũng có vẻ khả nghi, biết đâu nó còn quanh quẩn đâu đây, yêu cầu mọi người giúp
chị ta.” Đồng chí công an chẳng nói chẳng rằng, chẳng trả lời tôi lấy một lời,
còn hàng ngàn con người thì vẫn dửng dưng. Người đàn bà đau khổ vẫn kêu gào giữa
hàng ngàn hành khách ở cai sân ga Hàng Cỏ như kêu gào giữa sa mạc.
11.
Tình yêu mạnh hơn sự chết.
Có hai anh em nhà kia, cậu
bé trai 8 tuổi và cô em gái của cậu 6 tuổi. Cả hai đều gầy yếu và
thường đau ốm luôn. Một hôm cậu bé bị một cơn đau gan cấp tính, được
cha mẹ đưa vào cấp cứu tại bệnh viện gần nhà. Sau thời gian hai tuần
lễ điều trị, cậu bé đã thoát khỏi tình trạng nguy hiểm và đang nằm
viện thêm ít ngày để hồi sức.
Nhưng sau đó, lại đến lượt
cô em gái bị chứng xuất huyết nội và được mang đi cấp cứu tại cùng
bệnh viện với anh. Cô bé bị mất máu khá nhiều cần được mau chóng
tiếp máu. Thế nhưng bệnh viện lại không có sẵn máu cùng nhóm để
truyền. Rất may là máu của cậu bé cùng nhóm máu với cô em.
Khi được hỏi có muốn cho
máu để cứu sống em gái không, thì lúc đầu cậu bé hơi ngần ngại và
lo lắng một chút. Nhưng ngay sau đó, cậu ta đã lấy lại bình tĩnh và
trả lời bác sĩ rằng: "Vâng, con bằng lòng hiến máu cho em con.
Xin bác sĩ hãy cố gắng cứu sống nó. Vì con thương em con lắm.” Sau
đó bác sĩ đã lấy máu của cậu truyền cho cô em. Một lúc sau tỉnh
dậy, cậu bé đã làm cho mọi người trong phòng ngạc nhiên và buồn cười
khi nói: "Ô hay! Con chưa bị chết hay sao? Vậy bác sĩ đã tiếp máu
cho em con chưa? Em con bây giờ ra sao rồi?"
Thì ra cậu bé đã tưởng lầm
rằng khi bằng lòng hiến máu cho em, là cậu phải cho em tất cả số máu
trong con người mình! Nhưng vì quá thương em và không muốn cho em bị
chết, nên sau khi ngần ngại một chút, cậu đã quyết định hy sinh chịu
chết để cho em gái mình được sống!
12.
Hiểu biết ta
Bão Thúc (tức Bão Thúc Nha, còn
có tên là Bão Tử, người tài giỏi việc nước của nước Tề) đã cắt cử Quản Trọng
cho Hoàn Công dùng. Quản Trọng tên thật là Di Ngô, người nước Tề, một tướng giỏi.
Bão Thúc chết, Quảng trọng
thương tiếc, khóc như mưa, ướt đầm cả vạt áo. Có người hỏi:
- Ông với Bão Thúc không phải là
người họ hàng thân thích, sao ông thương tiếc ông ta quá vậy?
Quản Trọng giải thích:
- Ngươi không rõ ngọn ngành đâu!
Để ta nói cho mà nghe. Ta lúc nhỏ khốn khổ, thường buôn bán chung với Bão Thúc;
lúc chia lãi, bao giờ ta cũng lấy phần hơn, nhưng Bão Thúc không cho ta là
tham, biết ta gặp cảnh túng bấn không biết xoay xở thế nào cho đủ tiền để tiêu
dùng nên mới làm thế. Ta ở chỗ chợ búa thường hay bị lắm kẻ bắt nạt, Bão Thúc
không coi ta là người hèn nhát, nhưng biết ta rộng lượng, không chấp những điều
người ta đối xử với mình. Ta bàn việc với Bão Thúc, nhiều lúc việc hỏng, Bão
Thúc không cho ta là ngu, mà cho là việc thành công hay thất bại là do có lúc
may mắn, có lúc không. Ta, ba lần ra làm quan, ba lần bị bãi nhiệm, Bão Thúc
không cho ta là người chẳng ra gì, mà lại coi ta là người chưa gặp thời, chưa
tìmđược vua giỏi. Ta ra trận ba lần, đánh thua cả ba, Bão Thúc không cho ta là
bất tài, nhưng biết ta còn có mẹ già phải phụng dưỡng. Ta nhịn nhục thờ vua
Hoàn Công, Bão Thúc không cho ta là người vô liêm sĩ, người không biết xấu hổ,
mà biết ta không giữ những chuyện nhỏ mọn, có chí làm lợi ích cho cả thiên hạ...
Sinh ra ta là cha mẹ, hiểu biết
ta là Bão Thúc. Với người hiểu biết mình, thì đem cả tính mạng ra mà đền đáp
còn chưa đủ huống chi thương khóc thế này thì đã thấm vào đâu!
13.
Gieo và gặt
Có một người đàn ông rất giầu có
đã đến tuổi về hưu. Ông trao ban gia tài cho đứa con trai duy nhất, chỉ mong được
sống an nhàn tuổi già bên con cháu cho đến hết cuộc đời. Thế nhưng, người con
dâu lại không muốn bố chồng ở mãi trong nhà. Cô đã đề nghị chồng phải đưa bố đi
ở nơi khác. Người con không muốn mất tình cảm với vợ, nên đã quyết định đưa cha
vào viện dưỡng lão, nhưng lại là nơi rẻ tiền nhất theo lời căn dặn của vợ.
Một tuần sau đó, hai cha con đi
bộ đến nơi mà người cha sẽ ở. Đi được một lúc bỗng nhiên người cha già bật
khóc. Lương tâm người con không chịu nổi, anh nghẹn ngào nói lời xin lỗi cha.
Sau một vài phút, người cha bị hắt hủi nghẹn ngào nói: “Con ơi! Cha không khóc
vì con đưa cha vào đây. Cha khóc vì cách đây bốn mươi năm trước, cha cũng bước
đi trên lối này với ông nội của con, và cũng đưa ông nội con vào viện dưỡng lão
tồi tàn này. Cha chỉ “gieo gì gặt nấy thôi!”
14.
Giấc mơ của Martin Luther King
Nhân loại hôm nay rất biết ơn những
con người biết xây dựng hoà bình từ yêu thương. Năm 1963, tại Washington, khoảng
200.000 người đã lắng nghe Martin Luther King, vị mục sư da đen, người đoạt giải
Nobel hoà bình nói chuyện. Ông nói rằng: “Tôi ước mơ một ngày kia, trên những
cánh đồng miền Georgia, con cháu của những người nô lệ và của những chủ nô sẽ
ngồi chung với nhau trong một bàn tiệc huynh đệ. Tôi ước mơ một ngày kia, 4 người
con của tôi về sống trong một nước mà chúng không còn bị xét xử vì màu da nữa,
nhưng vì công lao...”
Ước mơ của ông cũng là ước mơ của
hàng triệu con người trên thế giới. Nhưng khao khát hoà bình thì nhiều, còn
gieo vãi niềm an bình hạnh phúc thì chẳng có mấy ai! Người ta nặng lời kết án
nhau thì nhiều mà nói lời xin lỗi thì còn quá ít. Người ta nói xấu thì nhiều mà
nói tốt cho nhau vẫn còn khiêm tốn. Thế nên, thế giới vẫn còn đó sự nghi kỵ, hiểu
lầm và thù oán. Thể giới vẫn phải đón nhận đoạ đầy khổ đau bởi sự dữ do chính
con người đã gieo vào trần gian.
Nhìn lại những gì đang diễn ra
nơi gia đình, nơi xứ đạo và trên thế giới, dường như những nghĩa cử yêu thương
đang thiếu dần, mà thay vào đó là sự ích kỷ, là độc đoán, là lỗi bác ái yêu
thương tràn lan. Có mấy ai đã tự vấn lương tâm để thấy rằng mình làm hại anh em
thì nhiều mà làm điều tốt thì ít? Có mấy ai dám tự trách mình vì những lời mình
nói, vì những việc mình làm đã mang lại khổ đau cho anh em? Có mấy ai đã dám
noi lời xin lỗi với gia đình, với cộng đoàn vì sự tắc trắc của mình mà làm cho
gia đình xào xáo, bất đồng ý kiến, đố kỵ và ghen tương? Có mấy ai đã thực sự dấn
thân để xây dựng hoà bình khởi đi từ những nghĩa cử yêu thương và tôn trọng tha
nhân?
15.
Mùi cọp
Có đôi vợ chồng trẻ nọ, chồng là
giảng viên Đại học, vợ là diễn viên và là người dạy thú của đoàn xiếc. Hai con
người, hai nghề nghiệp và hai tính khí hoàn toàn khác nhau. Trước khi lấy nhau,
hai người đã nghe không biết bao nhiêu người khuyên rằng:
- "Họ sẽ không bao giờ hạnh
phúc bên nhau.”
Chồng thì ngồi nghế giảng viên Đại
học, vợ suốt ngày cầm roi dạy cọp trong chuồng thú của đoàn xiếc, nhưng tình
yêu đưa họ bay lên với những giấc mơ tuyệt đẹp. Người chồng giảng viên Đại học
mặc dù thấy nghề dạy thú của vợ mình có một cái gì đó không xứng đáng lắm, nhất
là mùi cọp lúc nào cũng hăng hắc toả ra từ thân thể của vợ, nhưng anh vẫn yêu vợ
tha thiết. Cái mùi cọp thật khó chịu nhưng người diễn viên dạy thú thì không
the không cần đến cái mùi ấy. Chính cái mùi ấy mà bầy cọp dữ mới nhận ra cô và
vâng lời ngoan ngoãn.
Cho đến một hôm, hai người giận
nhau, tình trạng ấy kéo dài nhiều ngày. Cuối cùng, người vợ chủ động làm lành.
Cô chọn một giải pháp rất bất ngờ đối với người chồng và cũng rất xa lạ đối với
cô. Đó là tẩy sạch mùi cọp và thay vào đó mùi nước hoa thơm phức. Thế là họ đã
làm hòa với nhau. Thế nhưng, một hậu quả thật bi đát đến vơi cô: Đêm hôm sau
người vợ ấy chết!
Người nữ diễn viên dạy thú ấy đã
chết dưới nanh vuốt của con cọp dữ mà chính cô đã thuần hoá. Nó không nhận ra
cô nữa vì mùi cọp quen thuộc không còn mà chỉ có mùi nước hoa hồng xa lạ. Con cọp
hốt hoảng trước mùi lạ lẫm đó và đã tự vệ bằng cách tấn công. Chỉ trong khoảnh
khắc người nữ diễn viên dạy thú đã tan xác vì những móng vuốt sắc nhọn của con
cọp mà cô đã hết lòng thương yêu.
16.
Dấu hiệu của môn đệ Chúa
Ngày 10/10/1982, Đức Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II đã tôn phong Cha Maximilien Kolbe lên bậc hiển thánh, vì Cha đã
thực hiện từng chữ lệnh truyền của Chúa Giêsu: "Anh em hãy yêu thương nhau
như Thầy yêu thương anh em.” Trong lễ phong thánh, Đức Thánh Cha đã nói:
"Như anh chị em đã biết, giữa những thử thách bi đát nhất, vốn làm cho thời
đại chúng ta chìm trong vũng máu, Thánh M.Kolbe đã tự nguyện hiến mình chịu chết
để cứu một người anh em mà chính Ngài không thân thuộc, đó là ông Francis
Gajouniseck.
“Ông là một người vô tội bị kết
án tử hình để trả thù cho một người tù đã vượt ngục. Vị tử đạo anh hùng đã bị kết
án chết đói ngày 14/8/1941 tại trại tập trung Đức Quốc Xã ở Auschwitz, Ba lan.
Linh hồn tốt lành của Ngài đã về cùng Chúa sau khi đã nâng đỡ ủi an các bạn tù
cùng số phận khốn khổ như Ngài…
“Chính tình yêu cao cả đã giúp
Ngài vượt qua cơn thử thách rùng rợn khủng khiếp và đã để lại chứng tích lạ
lùng của tình yêu thương anh em, của lòng tha thứ cho kẻ giết hại mình. Ước gì
gương sáng và sự hộ giúp của Thánh Maximilien Kolbe hướng dẫn chúng ta biết yêu
thương chân thành, yêu thương vô vị lợi, xứng đáng người kitô hữu, đối với tất cả
các anh chị em trong một thế giới mà hận thù không ngừng giày xéo cuộc sống con
người…"
Người ta cứ dấu này mà nhận biết
chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau.”
17.
Thầy gọi các con là bạn hữu
Chuyện kể rằng: Nạn đói xảy ra
trong vùng. Một người ăn xin bên góc đường bước đến bên đại văn hào Nga,
Tolstôi, đang đi ngang qua đó. Tolstôi dừng lại, lấy tiền cho người ăn xin,
nhưng không còn đồng nào. Ông nói với sự nuối tiếc: "Này anh bạn, đừng giận
tôi. Tôi chẳng mang theo gì.”
Mặt người ăn xin sáng lên và
nói: "Ông gọi tôi là bạn, đó đã là món quà lớn nhất rồi.”
18.
Như Thầy đã yêu-
Wiliam Oscar Wilde đã viết về
mot huyền thoại tình yêu: "Hoạ mi và bông hồng đỏ.”
Một sớm mùa hè, con hoạ mi làm tổ
trên cành dương đã nghe trọn lời than thở của một chàng trai bên cửa sổ:Nếu anh
không kiếm nổi bông hồng đỏ để em cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ
xa anh mãi mãi. Hoạ mi dư hiểu chàng trai đã lang thang khắp các nương đồng.
Nhưng tìm đâu một bông hồng màu đỏ dưới nắng cháy mùa hạ này? Trời ơi, người
tình sẽ chắp cánh bay xa mất thôi. Hoạ mi không chịu nổi dằn vặt bi thương của
chàng. Hoạ mi phải ra tay giúp đỡ. Họa mi khép cánh trước cây hoa hồng bên giếng
nước nài xin: - Chị hồng ơi, chị có vui lòng tặng em một bông hồng đỏ thắm
không?
- Hoạ mi ơi! em vô tâm như những
chiếc gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ?
Chị hồng rung rung cành lá giận
dỗi. Hoạ mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa
hàng dậu.
- Chị hồng ơi, có phép mầu nào
làm nở cho em một bông hồng đỏ chăng?
- Hoạ mi ơi, đời cần hoa chi cho
thương đau?
- Sao cũng được, miễn em kết chặt
một mối tình
- Được, những phép mầu cần phải
có máu đỏ.
- Bằng mọi giá chị ạ.
- Bằng giá sinh mạng?
- Kể cả sinh mạng em.
- Hoạ mi ơi! Hãy đặt cổ em trên
gai nhọn của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm
thiết nhất đời em. Hãy đổ máu đỏ cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông hồng
đỏ. Mình sẽ có một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần gian.
Hoạ mi đã hót say mê đến giây
phút cuối cuộc đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng bên
cạnh đoá hồng bí nhiệm đỏ thắm nở tươi.
Chàng trai mừng vui tiếng cười mở
hội. Bông hồng được hái về trau chuốt cẩn thận trước khi có mặt trong dạ hội.
Điều lạ lùng nhất và cũng phi lý nhất, phi lý như chính cuộc đời phi lý, là người
tình đã khước từ đoá hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo cô gái một bông hồng giả
đang ngự trị … Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đoá hồng bị nghiền nát, nằm tả
tơi dưới vết bánh xe bò.
Hoạ mi yêu người,đã lấy máu và
sinh mạng đổi lấy bông hồng. Người thiếu nữ nhận bông hồng giả để chối từ một
tình yêu chân thật.
19.
Anh đã chết cho tôi
Sau cuộc chiến phân tranh Bắc
Nam ở Hoa Kỳ, một du khách đến thăm nghĩa trang quân đội ở Nashville và gặp một
người đang trồng hoa bên ngôi mộ. Du khách liền hỏi:
- Con ông an nghỉ tại đây à?
- Không.
- Hay là thân nhân của ông?
- Cũng không.
- Thế tại sao ông lại trồng hoa
bên ngôi mộ này?
- Đây là ngôi mộ của "một
người chết thay tôi"
Rồi ông kể: Khi chiến tranh xảy
ra, tôi được lệnh phải nhập ngũ. Khi chuẩn bị xong đồ đạc, từ biệt vợ con để
lên đường, thì một người bạn của tôi đến nói với tôi: "Gia đình anh đông
con, và anh là lao động chính, nếu như anh đi thì e rằng vợ con anh sẽ không đủ
khả năng mưu sinh, các con anh sẽ đói khổ và giả như anh có chết thì các con
anh sẽ mất cha, đời chúng nó sẽ khổ. Thôi! Tôi sẽ đi thay cho anh, vì tôi chưa
có gia đình.” Tôi rất xúc động và lưỡng lự, nhưng rồi tôi cũng đồng ý. Và trong
một trận chiến, anh ta bị trọng thương và qua đời. Tôi rất đau xót và bàng
hoàng khi có người dám hy sinh cho tôi. Tôi rất cảm phục tam lòng cao cả đó.
Hôm nay tôi đến viếng và trang hoàng lại nấm mộ cho bạn tôi. Nói xong, ông cắm
một tấm bảng nhỏ với dòng chữ: Anh đã chết cho tôi.
20.
Phép lạ của tình yêu
Chủ đề: "Tình yêu làm nên
những phép lạ nơi những kẻ tin vào tình yêu và thực hiện tình yêu"
Cách đây mấy năm tập san Readers
Digest có thuật lại một câu chuyện cảm động về một em bé trong bệnh viện
Milwaukee. Em này bị mù, đần độn, lại còn bị liệt não nữa. Em chỉ khá hơn loài
thảo mộc một chút là biết đáp ứng lại âm thanh và sự ve vuốt mà thôi. Cha mẹ em
đã bỏ rơi em. Nhưng bệnh viện cũng chả biết xử lý thế nào với trường hợp của
em. Thế rồi có một người nhớ đến May Lempke, bà y tá 52 tuổi sống gần đấy. Bà nầy
đã từng nuôi nấng năm đứa con của chính mình, nên bà sẽ biết cách chăm sóc cho
một đứa trẻ như thế. Họ yêu cầu bà chăm sóc đứa bé và bảo: "Thằng bé có lẽ
sẽ chết yểu!” Bà May trả lời: "Nếu tôi chăm sóc đứa bé, nó sẽ không chết yểu
đâu, và tôi rất sung sướng được chăm sóc cho nó.”
Thế là bà May đặt tên cho cậu bé
là Leslie. Chăm sóc cho cậu bé quả thật không dễ dàng chút nào. Ngày nào bà
cũng phải xoa bóp toàn thân đứa bé, bà đã cầu nguyện cho nó, đã khóc vì nó, bà
đã đặt đôi tay nó lên những giọt lệ của bà. Một hôm, có người nói với bà:
"Tại sao bà không gởi đứa bé ấy vào viện? Nó chỉ làm phí cuộc đời của bà
thôi?
Leslie càng lớn thì càng có nhiều
vấn đề phải đặt ra cho bà May. Bà phải giữ nó chặt vào một chiếc ghế để nó khỏi
bị té xuống. Thời gian trôi qua, năm mười, mười lăm năm. Mãi đến khi Leslie 16
tuổi, bà May mới có thể tập cho nó đứng một mình được. Suốt thời gian đó, bà
May vẫn tiếp tục yêu thương và cầu nguyện cho cậu bé. Ngoài ra bà còn kể cho cậu
bé nghe những mẩu chuyện về Chúa Giêsu dù xem ra cau chẳng nghe được tiếng bà.
Thế rồi một ngày nọ, bà May chợt
nhận thấy Leslie dùng ngón tay của mình búng vào một sợi dây căng thẳng trên một
gói đồ. Bà tự hỏi; điều ấy có ý nghĩa gì? biết đâu Leslie lại nhạy cảm với âm
nhạc chăng? Và bà May bắt đầu cho Leslie nghe âm nhạc. Bà chơi đủ loại hình âm
nhạc mà bà tưởng tượng ra được với hy vọng có một loại nào đó có thể lôi cuốn cậu
bé. Cuối cùng, bà May và chồng mua được một chiếc dương cầm cũ kỹ. Họ đặt nó
vào giường ngủ của Lislie. Bà May cầm những ngón tay của Leslie đặt vào tay bà
và tập cho cậu bé biết cách nhấn phím xuống, nhưng xem ra cậu ta chả hiểu.
Thế rồi vào một đêm đông năm
1971, bà May bừng thức giấc vì nghe có tiếng đờn của ai đó đang chơi bản hoà tấu
dương cầm số 1 của Tchaikovsky. Bà lay lay chồng đánh thức ông dậy, và hỏi xem
ông có quên tắt radio không. Ông ta nói rằng không, nhưng họ quyết định tốt hơn
là nên xem xét lại. Và họ khám phá ra một điều vượt khỏi mọi giấc mơ kỳ quái nhất
của họ. Cậu Leslie đang ngồi tại chiếc dương cầm. Cậu đang mỉm cười và chơi đàn
một cách ngẫu hứng không thể nào tin được đây la sự thật!
Trước đây Leslie chưa bao giờ bước
ra khỏi giường một mình. Trước đây cậu bé chưa bao giờ tự mình ngồi vào chiếc
dương cầm được, cậu cũng chưa bao giờ tự dùng tay ấn được vào phím đàn. Thế mà
bây giờ đây cậu lại đang chơi đàn tuyệt vời như thế! Bà May vội quì gối xuống
và thốt lên: "Lạy Chúa! Con xin cảm tạ Ngài, Ngài đã không bỏ quên
Leslie.”
Chẳng bao lâu, Leslie bắt đầu kiếm
sống bằng cây dương cầm. Cậu chơi được nhạc cổ điển, nhạc đồng quê miền tây, nhạc
trữ tình, nhạc dạo và cả nhạc Rock nữa. Hoàn toàn không thể nào tin nổi. Tất cả
những bài nhạc bà May đã từng chơi cho cậu nghe đều tồn trữ trong óc cậu và giờ
đây tuôn trào ra trên phím dương cầm qua đôi tay cậu. Giờ đây ở tuổi 28, Leslie
bắt đầu nói chuyện. Tuy không thể đối thoại lâu giờ. Nhưng cậu có thể đặt câu hỏi,
trả lời những câu đơn giản và phát biểu được những lời phê bình ngắn gọn. Chẳng
hạn, một buổi tối kia, đang xem một vở hài kịch trên truyền hình, cậu cảm thấy
cuộc đối thoại chán ngắt, cậu bèn nói:
"Tốt hơn là chúng ta nên tắt
nó đi, cả bọn chỉ toàn là lũ điên!”
Dạo này, Leslie chơi nhạc hoà tấu
cho những ca đoàn nhà thờ, cho các cơ quan dân sự, cho các nạn nhân liệt não và
cha mẹ họ, cậu còn xuất hiện cả trên đài truyền hình quốc gia nữa! Các bác sĩ
mô tả Leslie như là một người thông thái bị mắc một loại tâm bệnh, nghĩa là một
người chậm phát triển về trí tuệ do tổn thất nơi não nhưng lại cực kỳ tài năng.
Họ không thể cắt nghĩa được hiện tượng dị thường này cho dù họ biết về nó gần
200 năm rồi. Bà May Lempke cũng không the cắt nghĩa được điều ấy nhưng bà biết
chắc rằng nhờ tình yêu mà tài năng ấy được khai mở.
21.
Hãy yêu thương nhau
Sau cuộc thi “Viết về cha tôi”
đó, báo Tuổi Trẻ đã gom những bài viết hay thành cuốn sách với tựa đề: “Cao hơn
đỉnh Thái.” Trong đó tác giả Nguyên Hương kể về kỷ niệm thời chiến tranh của
mình. Giữa lúc bom đạn khói lửa như mưa của tháng 3. 1975, để cứu lấy mạng sống
của chính mình, gia đình phải chạy loạn. Chắc lúc đó Nguyên Hương chỉ mới là
chú bé 12 hay 13 tuổi gì đó, cũng theo gia đình chạy loạn vào chùa. Trong chùa
có vô số người chạy giặc. Sân chùa lớn là thế, bỗng chốc trở thành cả sân người.
Ai cũng lộ rõ nét hồi hộp lo sợ trên gương mặt mình. Hình như nỗi hoảng sợ khiến
con người ta ít nói hơn. Cả sân người đông đúc nhưng tiếng ồn ào không lớn,
nghe như tiếng rì rào của gió.
Giữa lúc mọi người đang nơm nớp
sợ hãi, bỗng nhiên tiếng khóc của một đứa bé trên tay mot người mẹ trẻ ré lên
xé không gian. Tiếng khóc ré đòi sữa của đứa bé bất chấp tiếng đạn réo ngang trời
và khói xám mịt mù. Bên cạnh người mẹ trẻ ấy là người cha của đứa bé cũng còn
trẻ lắm, đang cố gắng đổ từng muỗng sữa vào miệng con. Người cha đã toát cả mồ
hôi mà đứa bé vẫn không chịu uống một giọt nào. Bao nhiêu sữa đổ vào lại trào
ra đầy mặt, chảy xuống cổ. Nó nhất định không chịu uống sữa bằng cách đổ từng
muỗng vào miệng, chỉ đòi cho được cái chai và núm cao su mà nó vẫn thường mút,
vì vội chạy nên cha mẹ của nó đã bỏ quên ở nhà. Tiếng khóc đòi hỏi rất quyền
hành, càng lúc càng lớn. Một lúc sau, đứa trẻ đã hết hơi để khóc. Thấy con mình
càng lúc càng tái đi vì đói và khóc, người mẹ cũng khóc theo. Thấy vậy, người
cha đứng bật dậy, nói với vợ: “Để anh về lấy chai sữa cho con.” Người cha cúi
xuống hôn con, rồi nắm tay vợ. Biết đâu đây là lần cuối cùng, anh nựng con, vì
ngoài kia, tiếng đạn vẫn cứ réo ngang réo dọc. Người vợ nước mắt chảy dài
thương chồng. Chị ôm chân chồng, miệng lắp bắp: “Lỡ có gì….” Nhưng người chồng
gỡ tay vợ ra. Anh chạy đi trong làn đạn mịt mù, ai nhìn thấy cũng thương tâm, hồi
hộp lo lắng cho anh…
Mọi người chờ đợi, chờ đợi. Rất
lâu, rất lâu sau… Thật may mắn, anh đã trở lại: Và chai sữa trên tay. Tác giả kết
luận bằng một câu thật ý nghĩa: “Người cha có còn nhớ lúc liều mình chạy về
phía khói lửa hay đã lãng quyên như bao điều cha mẹ đã quyên mình cho con được
bình yên.”
22.
Dung mạo của tình yêu
Dẫu cho tình yêu xem ra trừu tượng,
khó định nghĩa nhưng việc biểu lộ tình yêu lại rất cụ thể. Vào đầu tháng
5/2021, trên mạng xã hội và nhiều tờ báo đều đăng về nghĩa cử cao đẹp quên mình
cứu bạn của cậu sinh viên năm thứ 4 khoa Công nghệ thông tin trường Đại học
Khoa học Huế Nguyễn Văn Nhã.
Nhã đang tắm ở ngoài xa, và ánh
chiều dần buông, cậu bơi vào bờ. Đang lúc bơi vào thì phát hiện ba bạn nữ đuối
sức, chới với bị sóng đánh ra xa bờ. Với mọi nỗ lực, anh đẩy ba bạn nữ vào,
song khi lúc các bạn qua khỏi hiểm nguy thì cũng là lúc cậu bị đuối sức, gặp
sóng lớn đã cướp đi sinh mạng của cậu. Nghĩa cử cao đẹp của cậu được Chủ tịch
nước Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc ký Quyết định truy tặng Huân chương Dũng cảm, cộng
đồng mạng ghi nhận như một hành động anh hùng giữa đời thường. Sự quên mình để
cứu bạn của Nhã khiến tôi càng muốn tìm hiểu thêm. Và quả thật không ngoài dự
đoán, Phêrô-Khoa Nguyễn Văn Nhã là một người Công Giáo sống đạo nhiệt thành, một
con người noi gương Thầy Chí Thánh đã chết để cho người khác được sống sót. Tấm
gương của Phêrô-Khoa Nguyễn Văn Nhã đánh thức nhiều trái tim người trẻ tiếc
thương cũng như cảm phục nam sinh viên có nụ cười, gương mặt hồn hậu, đã truyền
cảm hứng, niềm tin về cái đẹp, sự tử tế vẫn còn có trong cuộc đời này.
Trước lúc mất ở tuổi 88, vua hề
Charlie Chaplin phát biểu như sau: “Nếu bạn nhìn thấy mặt trăng, bạn nhìn thấy
vẻ đẹp của Thiên Chúa; nếu bạn nhìn thấy mặt trời, bạn nhìn thấy sức mạnh của
Thiên Chúa, và nếu bạn nhìn thấy tấm gương, bạn nhìn thấy tác phẩm đẹp nhất của
Ngài.
23.
Giúp nhau cùng lên thiên đàng
Đức Thánh Cha Gioan 23 trong
phiên họp Hội Đồng Giám Mục để bàn luận về nền tảng Đức Ái của đời sống Kitô
Giáo. ngài hỏi: "Chư Huynh nghĩ xem đâu là cùng đích của đời sống Kitô
Giáo?"
Các ngài trả lời hầu như giống
nhau rằng: " Cùng đích của đời sống Công giáo là: Nhận biết - Yêu mến - Phụng
sự Chúa ở đời này để được nước Thiên đàng đời sau."
Đức Thánh Cha nói cười vui vẻ:
"Chư Huynh nghĩ vậy chưa đủ, còn có phần ích kỷ. Phải có phần giúp đỡ người
khác cùng nhận biết, cùng yêu mến, cùng phụng sự Chúa, cùng vui hưởng thiên
đàng.”
Đó là khía cạnh rộng lớn Chúa
truyền dạy qua bài Phúc âm hôm nay "Các con hãy yêu thương nhau.”
24.
Ở lại trong Thầy – cha Minh Trân CRM
Ở lại trong Thầy có nghĩa là
"tuân lệnh Thầy truyền." Và lệnh truyền đó không gì khác hơn chính
là: "hãy yêu mến nhau." Nói ngược lại, không yêu mến nhau là không
tuân lệnh Thầy truyền, không ở lại trong Thầy... và hậu quả của nó sẽ dẫn đến sự
chết.
Yêu mến nhau bằng cách nào? Yêu
làm sao? Hiến mạng sống mình? Thượng tuần tháng 3 vừa qua, trong chuyến đi mục
vụ tại Houson, Texas, tôi có được nghe câu chuyện thật cảm động và đầy ý nghĩa
của một chị trong ca đoàn thuộc Giao xứ các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Chị bị tai nạn
xe hơi, gãy xương vai và què chân... và trong lúc này, chị đang mang thai được
5 tháng. Chị được đưa vào phòng cấp cứu. Bác sĩ nói chị cần giải phẫu để đưa đứa
bé ra. Tại vì, để chữa trị cho chị cần phải chích thuốc mê và do đó sẽ ảnh hưởng
đến mạng sống của đứa bé. Chị nói bác sĩ cứ việc chữa trị, không có thuốc mê
cũng không sao. Chị không muốn mất con. Chị kể lại rằng những lần con dao mổ
rach xuống thân mình, "nó đau... đau không thể tả được... đau muốn chết được...
nhưng tất cả vì con."
25.
Yêu như Chúa yêu
Đúng như thế, trong trận động đất
sóng thần xảy ra ở Nhật Bản vào tháng năm 2010, khi đội cứu hộ tiếp cận một
ngôi nhà của một phụ nữ trẻ, họ trông thấy thi thể bất động của cô qua các khe
nứt.
Nhưng tư thế của cô thật kì lạ,
trông cô như đang quỳ xuống như khi cầu nguyện, thân cô hướng về phía trước, và
hai tay cô như đang bọc lấy thứ gì đó. Ngôi nhà đổ nát đã đè quỵ hoàn toàn lưng
và đầu của cô. Dù rất khó khăn, người đội trưởng vẫn cố gắng đưa tay qua các
khe nứt để chạm tới thân người phụ nữ. Ông hy vọng mong manh rằng cô vẫn sống.
Khi chạm đến làn da lạnh và cơ thể cứng ông biết người phụ nữ này đã chết.
Ông lại lần mò bên dưới không
gian chật hẹp cơ thể đã lạnh của người phụ nữ, ông reo lên:"Một đứa trẻ,
là một đứa trẻ!" Cả đội đã cẩn thận di dời từng mảnh đổ vỡ của căn nhà
chung quanh người cô. Một cậu bé 3 tháng tuổi đã được tìm thấy trong tấm chăn
hoa bên dưới thân người mẹ đã mất của mình. Người mẹ đã hy sinh thân mình để cứu
lấy cậu bé, khi căn nhà sụp đổ, cô đã ôm trọn đứa trẻ và gánh lấy toàn bộ sức nặng
của tòa nhà, đứa trẻ vẫn ngủ, một cách bình yên khi người đội trưởng đưa ra.
Bác sỹ nhanh chóng kiểm tra cậu
bé, khi mở tấm chăn ông thấy một chiếc điện thoại. Một dòng chữ vẫn sáng trên
màn hình: "Nếu con có thể sống, con phải nhớ rằng mẹ luôn yêu con."
26.
Bầu trời bé nhỏ
Ngày kia, tại một ngôi làng nhỏ
bên Tàu, có một em bé đói rách, tiều tụy và mắc bênh phong cùi. Em bị dân chúng
đánh đập và đuổi ra khỏi làng. Trước cảnh tượng ấy, một nhà truyền giáo phương
xa đã bế em trên tay, che chở em khỏi gậy gộc phũ phàng.
Thấy có người chịu mang em đi,
dân làng mới thôi không đánh đập em nữa, nhưng miệng thì vẫn không ngớt rủa xả.
Giờ đây, những giọt nước mắt chảy
xuống trên gò má em. Không phải là những giọt nước mắt đau buồn và tủi hận,
nhưng là những giọt nước mắt vui mừng và tin tưởng. Em đã hỏi:
- Tại sao ông lại lo lắng cho
tôi?
Nhà truyền giáo trả lời:
- Vì ông trời đã tạo nên cả hai
chúng ta. Em là em gái của tôi và từ nay em sẽ không còn phải đói khổ, long
đong vất vả nữa.
Suy nghĩ một hồi, em hỏi tiếp:
- Vậy tôi phải làm gì?
Nhà truyền giáo trả lời:
- Em hãy trao tặng cho người
khác tình yêu của em, càng nhiều càng tốt.
Từ đó cho đến khi qua đời, trong
suốt ba năm, em luôn chăm sóc, giúp đỡ, băng bó vết thương và đút cơm cho các bệnh
nhân trong trại cùi mà nhà truyền giáo đã đưa em vào.
Tới năm mười một tuổi, khi em
qua đời, các bệnh nhân đã khóc và nói với nhau vói tất cả niềm thương nhớ:
- Bầu trời bé nhỏ đang xa lìa
chúng ta.
Lề luật của Chúa được gồm tóm
trong hai điều, đó là mến Chúa và yêu người. Chúng ta hãy cố gắng thực thi hai
điều ấy với niềm xác tín rằng: qua những yêu thương nho nhỏ, chẳng hạn như một
ánh mắt dịu hiền, một nụ cười cảm thông, một lời nói an ủi, một việc làm giúp đỡ…
chúng ta sẽ trở nên là những môn đệ đích thực của Chúa.
Bởi vì như lời Chúa đã xác quyết:
“Người ta cứ dấu này mà nhận biết
các con là môn đệ Thày, là các con yêu thương nhau.”
27.
Anh phải sống
"Có hai vợ chồng nhà kia, hằng
ngày cùng nhau vào rừng kiếm củi bó thành từng bó rồi chất lên một chiếc thuyền,
xuôi dòng ra chợ bán. Họ phải vất vả kiếm tiền nuôi một gia đình gồm bốn miệng
ăn. Hai vợ chồng và hai đứa con thơ.
Một hôm, trên đường chèo thuyền
về nhà thì trời bổng tối sầm và đổ mưa tầm tả, mặt sông dậy sóng. Chiếc thuyền
nhỏ bé của họ đầy nước đang trôi nhanh giữa dòng sông và rồi bị lật úp. Hai vợ
chồng bị văng ra khỏi thuyền. Rất may là họ đã bám được vào một thân cây đang
trôi gần đó. Tuy nhiên thân cây chỉ đủ cho một người bám. Bấy giờ chị vợ ôm chặt
lấy cổ chồng đang khi anh chồng môt tay bám vào thân cây, tay còn lại cố bơi
vào bờ. Nhưng phần vì bị sóng gió vùi dập, phần phải đỡ vợ nên anh dần dần đuối
sức. Cảm thấy mình quá mệt và có nguy cơ cả hai vợ chồng có thể bị chết chìm.
Người chồng nói với vợ rằng: "Em hãy buông anh ra và bám vào khúc cây rồi
cố bơi vào bờ. Em phải sống để nuôi các con em nhé!" Nhưng chị vợ đáp:
"Không! Anh phải sống và nuôi con!" Rồi chị đã buông tay ra cho chìm
xuống để anh chồng đủ sức bơi vào bờ.
Sáng sớm hôm sau, người ta thấy
người chồng và hai đứa con thơ, đầu chít khăn tang, dắt dìu nhau ra bờ sông lập
bàn thờ và thành tâm khấn vái cầu xin hương hồn phù hộ cho ba cha con.
28.
Hoa dại
Trong một lớp học kia,một thầy
giáo bất ngờ ra bài làm cho các học sinh như sau: “Từ nay đến cuối tuần, mỗi em
hãy tìm quan sát một loại hoa tầm thường nở bên vệ đường hay ngoài đồng nội. Những
bông hoa không được ai để ý và đặt tên cho đàng hoàng, nhưng chỉ được gọi bằng
một tên chung là “hoa dại.” Không có giá trị gì cả.” Cả lớp học hăng say thực
hiện điều thầy giáo muốn. Mỗi em cầm theo một cái kính lup để quan sát thật kỹ
những bông hoa dại. Sau đó từng em đã mô tả những nét đẹp của những bông hoa dại
mà các em đã quan sát; và cả lớp đều công nhận: những bông hoa dại bị khinh thường
đều có những vẻ đẹp riêng tuyệt vời không ngờ được.
Cuối cùng, thầy giáo lên tiếng kết
luận: “Các em đã có kinh nghiệm rồi đó. Nếu chúng ta chú ý quan sát, và dành thời
giờ để quan sát đi quan sát lại, thì cả vật tầm thường nhất như bông hoa dại
kia cũng sẽ xuất hiện vẻ đẹp trước mắt chúng ta.
Áp dụng vào mối tương quan giữa
người với người, các em hãy nhớ điều này: mỗi người là một kỳ công tuyệt đẹp của
Đấng Tạo Hóa. Nét đẹp của mỗi người khác nhau mà chúng ta không thể quan sát
cho hết được. Thế nhưng, mỗi người chúng ta không có thời giờ dành cho nhau để
tìm hiểu nhau, chúng ta chỉ biết nhau một cách hời hợt bên ngoài.
Chúng ta chỉ nhớ ghi nhận những
tật xấu, những khuyết điểm, những lỗi lầm… mà quên đi hay không muốn nhìn đến
cái hay cái đẹp nơi người chúng ta gặp. Chúng ta không thể có tất cả những gì,
những ai chúng ta thích, nhưng hãy yêu thích những gì chúng ta có; hãy yêu mến
những ai chúng ta gặp hằng ngày.”
29.
Chuyện nổi bật
Có một câu truyện được truyền tụng
qua nhiều năm kể về một vị chức sắc chính trị đến dự cuộc lễ đăng quang của Vua
Edward VII tại Anh Quốc năm 1901.
Vị chức sắc này chứng kiến một
giây phút lịch sử khi chiếc triều thiên được đặt trên đầu vua. Ông đã nhảy múa
tại cuộc dạ vũ đăng quang vĩ đại này. Sau cùng, ông đã hòa nhập với các vương
tôn và tiếp chuyện với những nhân vật nổi tiếng.
Khi ông trở về nhà, có người hỏi
ông có một giây phút hay một dữ kiện nào trong cuộc hành trình thăm viếng của
ông tại Anh Quốc đặc biệt nổi bật hơn hết không.
"Có," ông nói,
"thật sự có giây phút đó." Ông tiếp tục nói rằng lúc đó xảy ra vào một
đêm nọ khi ông trở về khách sạn của ông.
Ngoài trời thì lạnh rét. Và
trong khi ông đi qua một căn nhà bỏ hoang, ông đã thấy hai đứa bé nhỏ tội nghiệp
đang nằm co với nhau tại cửa nhà.
Một trong hai đứa là cậu bé khoảng
12 tuổi; còn đứa kia là bé gái khoảng 4 tuổi, rõ ràng là em gái của cậu bé.
Cậu bé đã cởi áo choàng của mình
ra và quàng quanh bờ vai bé bỏng của người em gái. Và cậu lấy chiếc mũ len của
cậu mà bọc quanh chân của cô em.
Nhà chức sắc nói rằng hình ảnh của
hai đứa trẻ, đang nằm co bên cửa nhà, nổi bật hơn hết. Nó hoàn toàn làm lu mờ vẻ
tráng lệ và nghi thức đăng quang, sự nhộn nhịp của cuộc dạ vũ đăng quang, cũng
như những cuộc đối thoại với các nhân vật nổi danh.
Đó chính là hình ảnh mà ông
không bao giờ quên được bao lâu ông còn sống.
30.
Đấng Cứu Thế giả trang
Có một cái Đan viện kia, ngày
xưa thì người ta tới đan viện tấp nập, vui lắm! Nhiều người tới với Đan viện.
Thế rồi, bỗng dưng một thời gian đan viện vắng lặng.
Thế rồi, vị đan viện trưởng cảm
thấy buồn và thắc mắc đi tìm đến một vị thánh và cái người thánh thiện này trả
lời rằng là không phải rằng là ở cái đan viện này do tội lỗi của một người nào
đó để mà gây ra cái chuyện rằng là người ta không đến đan viện, nữa, nhưng mà tội
của Đan viện đó là tội tập thể, chính vì đan viện đã không nhận ra một Đấng Cứu
Thế ở trong đan viện.
Đấng Cứu Thế đó đã đến với đan
viện và đã ẩn thân trong một ông thầy. Nhưng mà chính vì nhà dòng đã đối xử tệ
với ông thầy đó, và rồi không ai đến với đan viện nữa!
Đan viện trưởng về kể cho anh em
nghe lời của một người thánh thiện đó! và thuật lại rằng có một Đấng Cứu Thế giả
trang trong anh em và chính anh em đã cư xử không ra gì với cái Đấng đó! nên là
người ta không đến với đan viện được.
Nghe như vậy thì người này nhìn
người kia và tự hỏi rằng là không biết ai đối diện với mình là Đấng Cứu Thế và
từ đó người ta đã dành cho nhau sự kính trọng và lòng yêu thương lẫn nhau. Cứ
người này nhìn người kia không biết, Đây có phải là Đấng Cứu Thế hay không?
Và rồi người ta thay đổi cái
nhìn, người ta thay đổi cái cách sống và từ đó bầu khí của Đan viện nó khác hẳn:
bình an, vui tươi. Sau đó thì niềm vui nó trở về với đan viện. Và rất nhiều người
đến thăm với đan viện.
31.
Tha thứ và độ lượng
Đức Cha Roncalli làm đại diện
tông tòa tại Bulgari từ năm 1925 tới năm 1934. Trong những năm đó công việc của
ngài rất khó khăn phức tạp. Ngài có trách nhiệm cả một vùng rộng lớn đang sôi động
về chính trị, chia rẽ về mặt tôn giáo. Có những chia rẽ tầm trọng giữa Công
Giáo, Tin Lành, Chính Thống Giáo và Hồi Giáo. Mặt khác trong Giáo Hội địa
phương, lại có sự chia rẽ giữa linh mục triều và tu sĩ dòng… Trong thời gian
này, Đức Tổng Giám Mục Roncalli nhận được một bức thư nặng lời chê trách, trì
trích ngài về mọi mặt, do một linh mục bất mãn viết. Đọc thơ xong, Đức Cha
Roncalli không nói một lời, cũng không hề tỏ ra một cử chỉ nào ác cảm với linh
mục đó.
Thời gian trôi qua, ngài giữ chức
sứ thần tòa thánh tại Paris từ năm 1945 tới 1952 rồi làm Hồng Y Giáo Chủ ở
Venise từ năm 1953 tới năm 1958 và sau cùng đắc cử Giáo Hoàng với danh hiệu là
Gioan XXIII năm 1958.
Khi ngài đắc cử Giáo Hoàng, thì
vị linh mục bất mãn viết thơ cho ngài trước đây, vẫn còn sống. Gặp dịp giáo dân
trong vùng tổ chức một cuộc viếng thăm Rôma, để yết kiến Đức Giáo Hoàng là vị tổng
giám mục yêu quý của họ ngày xưa, linh mục này, cũng ghi tên trong phái đoàn. Đến
Rôma, ngài lại xin đặc ân được tiếp kiến Đức Giáo Hoàng. Lời thỉnh cầu đó được
Đức Giáo Hoàng XXIII chấp thuận. Sau đây là lời chính linh mục:
“Trong lúc đứng ở phòng khách
trên lầu cao Vatican, để đợi tới phiên được vào triều yết Đức thánh Cha, đầu óc
tôi cứ nghĩ tới bức thư bất mãn năm xưa, và lòng tôi vô cùng hối hận, tôi thầm
nghĩ đã mấy chục năm trôi qua, giờ đây chắc Đức Thánh Cha không còn nhớ gì.
Lòng tôi cảm thấy xao xuyến, hồi hộp, hy vọng nếu ngài còn nhớ, thì chắc lòng
nhân hậu ngài cũng bỏ qua cho tôi… Đang lúc suy nghĩ miên man, bỗng cửa mở. Đức
Ông phụ tá dẫn tôi vào. Vừa thấy tôi, Đức Thánh Cha đã niềm nở, đưa tay bắt và
mời ngồi. Ngài ân cần hỏi thăm công việc mục vụ của tôi, của giáo phận, và bùi
ngùi nhắc tới các bạn cũ năm xưa. Ngài thương nhớ tất cả, như thể xứ sở tôi
cũng là quê hương ngài vậy.
“Lúc đó lòng tôi khấp khởi mừng
thầm, vì chắc Đức Thánh Cha đã quên hẳn bức thư hỗn láo năm nào… Câu truyện vẫn
tiếp tục trong bầu không khí vui vẻ thân tình; bỗng tôi thấy ngài đưa tay với lấy
cuốn thánh kinh, vừa từ từ mở ra, ngài để trước mắt tôi bức thư, tôi đã trì
trích, thóa mạ ngài. Tôi xấu hổ và sợ hãi quá. Có ai ngờ đã mấy chục năm trôi
qua, mà bức thư không tốt đẹp gì đó, ngài vẫn còn giữ. Tôi đang lúng túng, âu
lo thắc mắc, thì Đức Thánh Cha đã cầm lấy tay tôi và dịu dàng bảo: “Con đừng bận
tâm, Cha không bao giờ giận con. Cha cảm ơn con, Cha cũng là người, thì cũng yếu
đuối, Cha để lại bức thư con vào cuốn thánh kinh, để khi có dịp, Cha đọc lại là
xét mình, hầu có thể dứt khoát với những khuyết điểm còn tồn tại, và xa lánh những
lầm lỡ có thể xẩy ra đến trong tương lai. Mỗi lần cha đọc thư này, cha lại nhớ
đến con và cầu nguyện cho con.
“Tôi lấy lại bình tĩnh, nhận quà
ngài trao tặng. Ngài còn chúc lành cho tôi, và ôm hôn từ giã tôi.
“Tôi ra về, lòng không bao giờ
quên được chân dung của một vị Giáo Hoàng hiền lành, khiêm nhường đến thế.”
Giữ một bức thư chê bai, trì
trích, thóa mạ mình, để rồi coi đi coi lại, qua nhiều năm tháng, nhằm mục đích
sửa đổi những khuyết điểm của mình, và cầu cho ngừoi thóa mạ mình, là một hành
vi anh hùng, đầy tự chủ, đầy thánh thiện.
Chúng ta chỉ mến Chúa thực sự
khi ta biết yêu người, tha thứ lỗi lầm kẻ khác và luôn luôn cư xử độ lượng với
nhau.
32.
Khao khát yêu và được yêu
Chí Phèo là một đứa con hoang bị
bỏ rơi tại một lò gạch bỏ không khi mới lọt lòng mẹ. Được người ta nhặt về
nuôi, lớn lên đi ở đợ hết nhà này sang nhà khác. Vì lòng ghen ghét của tay điền
chủ Lý Kiến, Chí Phèo phải đi tù 7 năm. Mãn hạn tù, Chí Phèo trở về nhà thành một
tay nát rượu, thường đến cổng nhà Lý Kiến chửi bới, tự rạch mặt và nằm ăn vạ.
Dưới mắt dân làng Vũ Đại, Chí Phèo như một con quỷ dữ, ai thấy cũng tránh xa.
Thế rồi, vào một đêm kia, trong
cơn say, Chí Phèo gặp Thị Nở, một người đàn bà xấu xí đến cùng cực, tâm thần
không ổn định, bị mọi người hắt hủi. Trong cảnh khốn cùng ấy, hai người đã yêu
nhau. Chí Phèo muốn lấy Thị Nở làm vợ và muốn trở thành người lương thiện.
Nhưng bà cô già của Thị Nở không đồng ý. Thế là trong cơn tuyệt vọng, Chí Phèo
đến nhà Bá Kiến, rút dao đâm chết Bá Kiến, sau đó tự đâm vào cổ mình tự sát.
Câu truyện “Chí Phèo” cho chúng
ta thấy: Con người dù xấu xa đê hèn đến mấy cũng khao khát yêu và được yêu.
Nhưng tiếc thay, Chí Phèo và Thị Nở đã bị người đời từ chối quyền được làm người
lương thiện, nhất là quyền yêu và được yêu.
33.
Yêu như Chúa yêu
Gene Stallings, huấn luyện viên
bóng đá hàng đầu của trường đại học Alabana đã ngất xỉu khi bác sĩ nói rằng
Johnny, đứa con trai duy nhất của ông được sinh ra với hội chứng Down (chậm
phát triển). Điều này đã xảy ra cách đây 30 năm. Ngày nay, Stallings xem việc
sinh ra Johnny là một trong những món quà lớn của đời ông. Johnny đã dạy ông thế
nào là tình yêu đích thực.
Stallings nói về đứa con trai của
mình: “Tất cả tình yêu của nó là vô điều kiện. Nó không cần được ghi công. Nó
hoàn toàn không vị kỷ.” Stallings nói nếu ông có thể thay đổi số phận và được một
đứa bé bình thường, ông cũng không thay đổi: “Johnny là một phần lớn cuộc đời
tôi. Tôi không đổi thứ gì. Tôi cảm thấy mình được chúc phúc.”
Tôi học được gì về tình yêu từ một
vài thành viên trong gia đình tôi?
Quyết định từ bỏ bản thân để yêu
thương là chuyện lâu dài cả đời (Elisabeth Stone).
34.
Yêu Chúa nhất
Thi sĩ người Anh Leigh Hunt viết
một bài thơ mang tên: “Abou ben Adhem.” Một đêm nọ, Abou thức giấc và thấy một
thiên thần đang viết vào sổ tên những người yêu mến Thiên Chúa nhất. Abou hỏi:
“Có tên con không?” Thiên thần đáp: “Không, không có đâu!” Lúc đó, Abou nói với
thiên thần hãy viết rằng ông là người yêu thương anh em nhất. Thiên thần liền
viết rồi biến mất. Đêm hôm sau, thiên thần lại đến trong ánh quang rực rỡ và chỉ
tên những người được Thiên Chúa chúc phúc, và này tên của Ben Adhem đứng đầu sổ.
Nếu tôi hỏi thiên thần như Abou
đã hỏi, thiên thần sẽ trả lời tôi như thế nào? Và tôi sẽ đáp lại thiên thần ra
sao?
Mỗi lần các ngươi làm như thế cho
một trong các anh em bé nhỏ nhất... là các ngươi đã làm cho chính Ta (Mt
25,40).
35.
Tình yêu tinh tuyền
Báo Công giáo và dân tộc số 1558
có đăng câu truyện “Mẹ tôi” của một tác giả vô danh, với vài câu dẫn vào câu
truyện rất dễ gây ấn tượng: “Suốt thời thơ ấu và cả khi lớn lên, lúc nào tôi
cũng ghét mẹ tôi. Lý do chính có lẽ vì bà chỉ có một con mắt. Bà là đầu đề để bạn
bè trong lớp chế giễu, châm chọc tôi.”
Xấu hổ vì mẹ, anh chỉ muốn thoát
khỏi nhà, cố học hành chăm chỉ và sau cùng có một học bổng du học Singapore.
Sau khi lập gia đình, có vợ và mấy đứa con, anh mua cho mẹ một căn nhà nhỏ ở
quê nhà, đôi lúc lén lút gửi cho mẹ một ít tiền để không ai biết đó là mẹ mình.
Một hôm anh ghé về nhà mẹ thì
hàng xóm cho biết bà đã mất mấy ngày trước, và được sở an sinh xã hội lo mai
táng chu đáo do không có thân nhân. Đang lúc thấy nhẹ cả người, yên trí từ nay
không sợ phải xấu hổ vì mẹ nữa, thì hàng xóm trao cho anh bức thư của mẹ anh:
“Con yêu quí,
“Lúc nào mẹ cũng nghĩ đến con.
(…) Mẹ buồn vì đã làm con xấu hổ với bạn bè trong suốt thời gian con đi học ở
đây.
“Con biết không, hồi con còn nhỏ
xíu, con bị tai nạn và hỏng mất một bên mắt. Mẹ không thể ngồi yên nhìn con lớn
lên mà chỉ có một mắt, nên mẹ đã cho con con mắt của mẹ. Mẹ đã bán tất cả những
gì mẹ có để bác sĩ có thể thay mắt cho con, nhưng chưa bao giờ mẹ hối hận vì việc
đó. Mẹ rất hãnh diện vì con đã nên người, và mẹ kiêu hãnh vì những việc mẹ đã
làm được cho con. Con đã nhìn thấy cả một thế giới mới, bằng con mắt của mẹ,
thay cho mẹ…
“Mẹ yêu con lắm.”
Người con đó không thể nói được
điều gì ngoài một chữ “Mẹ” đơn sơ, nhưng với cả tấm lòng, khi anh thấm thía
trong từng thớ thịt tình yêu của người mẹ như một câu danh ngôn diễn tả: “Với
thế giới, bạn chỉ là một ai đó, nhưng có thể với một ai đó, bạn là cả thế giới.”
36.
Tình yêu hiến mạng
Năm 1880, tại nước Ý, một cậu bé
tên là Giuse Moscati được sinh ra. Ngay từ những ngày thơ ấu cậu đã va chạm với
nhiều nghịch cảnh: năm 12 tuổi là cái chết bất ngờ của người anh, năm 17 tuổi
là sự ra đi vĩnh viễn của người cha, rồi đến căn bệnh tiểu đường sớm xuất hiện
nơi người mẹ. Tất cả thúc đẩu cậu theo học y khoa với lý tưởng làm bác sĩ để
xoa dịu nỗi khổ đau và đem con người tới Thiên Chúa.
Bác sĩ Moscati đã không quản ngại
chen chân vào tận hang cùng ngõ hẻm để săn sóc bệnh nhân. Người ta đến với ngài
với tất cả niềm hy vọng. Rất nhiều bệnh nhân không những được khỏi bệnh thể
xác, nhưng họ còn được giải toả tâm hồn. Từ đâu ông có sức mạnh đó?
Sức mạnh đó ông kín múc được nơi
tình yêu Chúa. Mỗi giây phút đời ông đều là những giây phút kết hợp với Thiên
Chúa. Trên tường cao trong phòng làm việc, luôn có Tượng Thánh gía bên cạnh đó
có khắc câu: “Ôi thần chết, ta sẽ là tử thần của ngươi.”
Đang được mọi người quí mến thì
ông đột ngột ra đi năm 47 tuổi. Dân chúng trong vùng vô cùng thương tiếc. Trước
đây họ đến nhờ ông giúp chữa bệnh thì nay họ đến cầu xin ông cầu bầu trong nhiều
hoàn cảnh khác nhau. Trong thời gian điều tra phong thánh đã có hai phép lạ chữa
bệnh xảy ra. Cuối cùng, bác sĩ Moscati đã được phong chân phước ngày
16.11.1975, và phong hiển thánh ngày 25.10.1987.
Tình yêu hiến mạng của Đức Kitô
là nguồn cho sức mạnh và vẻ đẹp cao cả của đời ngài. Tôi cũng muốn cuộc đời
mình thật mạnh mẽ và cao đẹp, sao tôi chưa yêu người khác như Chúa yêu tôi?
CNPS 6C – BÌNH AN CỦA THẦY
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy,
và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. Kẻ
không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy.
Lời
các con nghe, không phải là của Thầy, nhưng là của Cha, Ðấng đã sai Thầy. Thầy
đã nói với các con những điều này khi còn ở với các con. Nhưng Ðấng Phù Trợ là
Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều,
và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con.
Thầy
để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho
các con không như thế gian ban tặng. Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ
hãi. Các con đã nghe Thầy nói với các con rằng: Thầy đi, rồi Thầy trở lại với
các con. Nếu các con yêu mến Thầy, thì các con hãy vui mừng vì Thầy về với Cha,
bởi lẽ Cha trọng hơn Thầy. Giờ đây Thầy nói với các con trước khi việc xảy ra,
để khi việc xảy ra, thì các con tin.”
TRUYỆN KỂ
1. Bình an là thông hiệp với Thiên
Chúa
Trong
cuốn sách Go Down to the Potter’s House của Donagh O'Shea, ông có một câu chuyện
về một ông vua có hai hoạ sĩ trong triều là hai đối thủ gay gắt. Một ngày nọ,
nhà vua nói: “trẫm quyết định một lần cho xong để biết ai trong hai là hoạ sĩ
giỏi nhất. Hai khanh phải vẽ cùng một đề tài và như vậy, trẫm sẽ ở giữa để phán
quyết. Và đề tài là sự bình an.”
Hai
hoạ sĩ đồng ý, và một tuần sau trở lại với các bức tranh của họ. Hoạ sĩ thứ nhất
giới thiệu bức tranh của mình. Nó cho thấy một phong cảnh thơ mộng với những ngọn
đồi trập trùng bên nhau và một mặt hồ không gợn sóng. Toàn bộ phong cảnh nói
lên sự hài hòa, bình an và tĩnh lặng. Nhưng khi nhìn vào bức tranh, quay lại
nói với hoạ sĩ, “bức tranh của khanh đẹp thật, nhưng nó làm ta buồn ngủ.”
Kế
đó, hoạ sĩ thứ hai đã trình bày công trình của mình. Nó cho thấy một thác nước
chảy ầm ầm. Lối vẽ hiện thực làm cho người ta như nghe thấy tiếng gầm của thác
nước khi va vào các tảng đá ở bên dưới hàng trăm thước.
Nhà
vua tức giận nói: “nhưng đây không phải là một cảnh bình an như trẫm đã ra lệnh.”
Hoạ sĩ không đáp lại nhưng xin nhà vua tiếp tục xem. Sau ít phút, nhà vua nhận
ra một chi tiết quan trọng: ở giữa các tảng đá bên dưới thác nước, có một bụi
cây mọc lên với một tổ chim trên cành. Khi nhìn kỹ, nhà vua thấy có một con
chim trong tổ: một con se sẻ đang ấp trứng, đôi mắt lim dim. Nó đang chờ các
con nó được sinh ra, một hình ảnh bình an thật hoàn hảo.
Nhà
vua rất thích thú khi nhìn ra điều đó. Quay lại người hoạ sĩ thứ hai, ngài nói:
“trẫm rất thích bức tranh khanh đã chuyển tải một điều rất quan trọng về bình
an, đó là có thể sống trong bình an cả khi ở giữa cảnh ồn ào hỗn loạn của cuộc
sống.”
Đức
Giêsu đã nói về sự Bình An của Chúa: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban
cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng.
Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.”
Bởi
vì bình an là thông hiệp với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đang hiệp thông mật thiết với
Thiên Chúa nên Ngài vẫn có thể nói về bình an ngay cả khi kẻ thù của Ngài đã đến
gần và sắp giết chết Ngài.
2. Để cho đi
Trong
bữa Tiệc ly, Chúa Giêsu nói cho các môn đệ hai Ngài sắp ra đi. Chẳng lạ gì khi
các ông buồn. Họ không muốn Ngài ra đi. Họ muốn giữ Ngài lại mãi bên họ. Thật
không dễ chịu chút nào khi một người thân yêu ra đi. Cũng không dễ chịu gì khi
để mất đi một món đồ hay một con vật mà mình yêu thích.
Một
cậu bé nhìn thấy một chú chim non rơi từ chiếc tổ trên cành xuống nằm trên mặt
đất. Cậu lượm nó lên, sưởi ấm nó. Một lát sau chú chim tỉnh dậy. Nhưng thay vì
đặt chú chim trở về tổ, cậu đem nó để trong một chiếc lồng. Hằng ngày cậu mang
cho nó rất nhiều thức ăn và nước. Chú chim ngày càng khoẻ mạnh. Nó bắt đầu bay
và hót. Cậu bé rất thích. Nhưng một hôm chú chim cứ đập cánh xành xạch vào
thành chiếc lồng. Cậu bé không hiểu nên hỏi cha mình. Người cha giải thích:
- Tại
vì nó không hạnh phúc đó.
Cậu
bé cãi lại:
-
Con đã đặt vào lồng cho nó tất cả những gì nó cần rồi kia mà.
-
Nhưng vẫn còn thiếu cái điều mà chim yêu quý nhất.
-
Điều gì?
-
Đó là tự do.
- Bộ
cha muốn con thả cho nó đi sao?
-
Đúng thế.
-
Nhưng con không thể cho nó đi. Nó đâu có biết là bên ngoài chiếc lồng này có rất
nhiều hiểm nguy đang rình rập nó.
-
Nhưng con phải chấp nhận như thế.
Cậu
bé nài nỉ:
-
Cha ơi, con thương nó lắm.
- Nếu
con thương nó thì con phải để cho nó đi.
Cậu
bé đành mở cửa lồng cho chú chim bay đi. Lòng cậu rất buồn. Nhưng chú chim vừa
ra khỏi lồng đã cất tiếng hót líu lo, tỏ vẻ như trước đây chưa bao giờ vui vẻ
và hạnh phúc như thế. Khi đó cậu bé không buồn nữa mà cảm thấy vui trong lòng.
3. Bình an là hoa trái của sự thật
và tình yêu
Ngày
8.10.1952, một vụ án xảy ra tại Bavière, một thiếu nữ 18 tuổi tên là Emma bị thảm
sát cách tất tưởi. Chuyến xe lửa vừa tới nhà ga, các chị em đồng hành ngạc
nhiên vì không thấy Emma đâu, nên báo cho "Ông Xếp" nhà ga hay tin.
Thế là lập tức các nhân viên hỏa xa chia nhau đi tìm kiếm doc theo đường xe lửa
suốt hai tiếng đồng hồ mới phác giác ra xác Emma đang nằm xõng xượt trong vũng
máu, chân tay bị chặt cụt.. Xếp ga mở cuộc điều tra. Tất cả mọi người hành
khách bị thẩm vấn đều trả lời là không biết gì cả. Trong số đó có một chàng
thanh niên 24 tuổi. Khi được hỏi thì anh trả lời ấp úng là không biết gì cả.
Nhưng vì có vẻ ngây ngô thành thật nên người ta cũng bỏ qua.
Hai
tuần sau, chàng trai này đến gõ cửa Tu viện các Cha dòng Bênêđitô xin nhập
Dòng. Anh được nhận. Sau hai năm thử luyện thấy không có gì ngăn trở, Bề Trên
nhận anh vào Tập viện. Khoảng tháng 10, trước ngày vào Tập viện, anh đến chỗ đường
sắt nơi đã tìm thấy xác Emma nằm trong vũng máu. Anh quỳ chắp tay cầu nguyện.
Ngày hôm sau, lúc sáng sớm tinh sương, anh tới mồ Emma, người mà chính anh đã
giết chết. Anh đã la lên trong tiếng khóc nức nở: "Tôi không chịu được nữa.”
Rồi anh đi tự nộp mình cho cảnh sát và thú tất cả tội lỗi của anh. Cái tội mà
người ta đã quên đi vì không điều tra manh mối gì. Anh thú nhận là anh đã xô
Emma xuống và đâm chết vì nghe cô ta nói là cô ta không biết đến anh nữa. Vì thế
nên anh đã nổi cơn điên nên đã hành động độc ác như thế.
Câu
truyện trên cho chúng ta thấy, dù bốn bức tường kín nơi Tu Viện cũng không trấn
an được tiếng lương tâm ray rứt, không làm cho người thanh niên phạm tội ác được
bình an tâm hồn, cho dầu không một ai hay biết tội lỗi của anh ta.
Vậy
muốn được bình an hạnh phúc thật, con người cần phải có tâm hồn trong sạch, sống
trong ơn nghĩa Chúa. Tâm hồn biết hối cải, biết sống nhân từ, biết yêu thương
và tha thứ, như chính Chúa đã làm gương và dạy chúng ta noi theo bắt chước.
4. Thầy đã vác con trên vai
Chúa
Giêsu và một thanh niên cùng đồng hành trên một bãi cát dài trên biển. Bốn vết
bàn chân hằn lên rõ trên mặt cát. Nhưng khi chàng thanh niên chẳng may gặp phải
khó khăn thử thách, anh ta liền nhìn xuống mặt cát thì chỉ thấy còn lại hai dấu
bàn chân. Anh kinh ngạc thất vọng kêu lên: “
-
Thưa Thầy, lúc nãy Thầy trốn đi đâu để con bước đi một mình?
Chúa
Giêsu nhỏ nhẹ bảo anh ta:
-
Con thử nhìn kỹ xem, coi đó là những vết chân của ai?
Nghe
lời Chúa, anh thanh niên nhìn kỹ lại thì mới tỉnh ngộ ra, đó là những dấu chân
của Chúa. Anh ta vội thắc mắc la lên:
- Vậy
thưa thầy, lúc đó con ở đâu?
Chúa
âu yếm trả lời:
-
Con ạ, những lúc con gặp khó khăn gian nan, chính khi đó Thầy biết con không đủ
sức chịu đựng nên Thầy đã vác con trên vai Thầy để cứu giúp con khỏi hoạn nạn đấy.
5. Con kén và con bướm.
Ngày
nọ, một chuyên gia sưu tầm các loài bướm vào một công viên, thấy một cái kén lạ
treo lơ lửng trên cành cây, ông ta liền bứt lấy cành cây ấy và đem kén bướm về
nhà nghiên cứu. Ít ngày sau, ông thấy có cái gì động đậy bên trong kén. Ông biết
là sắp tới lúc con bướm nở. Hôm sau, cái kén lại nhúc nhích, nhưng cũng chẳng
có gì khác xẩy ra. Ngày thứ ba vẫn thấy kén nhúc nhích mà con bướm bên trong cũng
không ra được. Nghĩ rằng tại cái kén mà bướm không ra được, ông lấy con dao sắc
ra rạch vỏ kén giúp nó ra ngoài. Có điều sau một ngày mà con bướm vẫn không bay
ra được, và cuối cùng chết.
Về
sau, ông được một người bạn thân là nhà côn trùng học cho biết lý do con bướm
không bay ra được, là do thiên nhiên đã xếp đặt cho nó phải tự phấn đấu để
thoát ra khỏi cái kén. Ngày nào nó phát triển đến độ tự mình đạp bể cái kén
chui ra ngoài thì mới chứng tỏ nó phát triển đầy đủ và mới có khả năng sinh tồn
được trong thiên nhiên. Muốn làm con bướm bay trên ngàn hoa rực rỡ, thì bướm phải
trải qua thời kỳ làm con sâu lặng lẽ, rồi phải ẩn mình trong cái kén một thời
gian, đợi ngày phát triển đầy đủ. Còn nếu ông rạch cái kén giúp nó ra ngoài trước
thời hạn, là ông vô tình tiêu hủy khả năng phát triển và sinh tồn của nó.
Chúng
ta chẳng khác gì con bướm nọ: Thiên Chúa đã hoạch định cho chúng ta phải đấu
tranh gian khổ để nhờ đó chúng ta được tiến triển về mặt tâm linh. Chúa đã an
bài mọi sự để vào một số thời điểm trong cuộc sống chiêm niệm của chúng ta, vào
một số thời điểm trong cuộc sống tín trung của chúng ta, vào một số thời điểm
trong cuộc sống thiêng liêng của chúng ta, chúng ta phải nỗ lực gian khổ. Vào
những thời điểm ấy, Thiên Chúa ở rất gần chúng ta. Chúa biết rõ chúng ta cần phải
chịu gian khổ một thời gian vì lợi ích riêng của chúng ta, vì nhờ những gian khổ
này chúng ta mới được tăng triển về mặt thiêng liêng để trở thành những Kitô hữu
vững mạnh.
6. Tình yêu sống mãi
Vào
tháng 4 năm 2014, vụ tai nạn chìm phà Sewol, Hàn Quốc làm chấn động không chỉ đất
nước xứ Kim Chi mà cả thế giới. Thế nhưng, bên cạnh đó cũng có những con người
sống mãi với thời gian.
Jung
Chawoong, nam sinh 17 tuổi tạo nên một câu chuyện cảm động đầy nước mắt khi
đóng vai anh hùng, xả thân cứu bạn bè trong tai nạn chìm phà. Theo lời kể của
những người thoát nạn, vào lúc nguy ngập, Jung Chawoong đã đưa áo phao của mình
cho một người bạn đang chìm, thậm chí chàng trai trẻ còn lao xuống nước để cứu
những người khác. Tại nạn chìm phà xảy ra hôm 17/4, đúng vào ngày sinh nhật của
Jung Chawoong. Hành động cao đẹp, hi sinh vì người khác của chàng trai trẻ được
lan truyền trên mạng Hàn Quốc. Cộng đồng vô cùng tiếc thương và cảm phục chàng
nam sinh anh hùng.
Khá
nhiều trong số những người sống sót trên chuyến phà Sewol năm 2014 sẽ luôn nhớ
về một vị thần hộ mệnh trong hình hài nhỏ bé của một cô gái tên Park Jiyoung.
Jiyoung là một trong số các thuyền viên trên chuyến phà Sewol, là người đã
không màng đến tính mạng của chính bản thân mình mà chỉ cố gắng để giúp càng
nhiều hành khách có thể thoát ra khỏi chiếc phà càng tốt. Giữa lúc mọi người hoảng
loạn, Nữ thuyền viên 22 tuổi bình tĩnh và dung cảm hướng dẫn các hành khách mặc
áo phao và đi đến cửa thoát hiểm. Ngay cả khi nước đã ngập ngang ngực cô vẫn
kiên quyết ở lại cứu cho bằng được càng nhiều người càng tốt. Theo lời kể của một
người thoát chết, Park Ji Young nói rằng cô sẽ chỉ mặc áo phao khi các hành
khách có đủ áo mặc. Cô tuyên bố mình và thủ thủy đoàn sẽ là những người cuối
cùng rời khỏi tàu. Nhưng rồi cô chỉ không thực hiện được lời hứa cuối cùng với
các hành khách cuối cùng, đó là cùng thoát ra ngoài với họ. Park Jiyoung, biểu
tượng đẹp cho sự kiện thảm khốc năm 2014 ấy.
7. Bình an của Phúc âm
Vào
trung tuần tháng 11 năm 2000, đang khi các giám mục Công giáo Hoa kỳ tiến hành
cuộc họp thường niên, một số các nhà hoạt động bênh vực “quyền lợi” của những
người đồng tính luyến ái đã đột nhập và phản đối ồn ào, chống lại những giáo huấn
của giáo hội liên quan đến “quyền lợi” của những người đồng tính.
Được
biết trong cuộc họp lần này, các giám mục Hoa kỳ đã đưa ra bản tuyên ngôn về
hôn nhân, kêu gọi một sự tín trung hơn trong giao ước hôn nhân giữa nam và nữ.
Bản tuyên ngôn xác định rõ ràng hôn phối là sự kết hiệp thánh thiện giữa một
người đàn ông và một người đàn bà. Không thể chấp nhận chuyện những người cùng
phái lấy nhau.
Đã
có khoảng 200 người tụ tập biểu tình đòi giáo hội chấm dứt tình trạng “khủng bố
tinh thần” chống lại những người đồng tính hay đổi phái. Sau đó có khoảng 100
người biểu tình bị bắt giữ vì đã có hành vi bạo động quá đáng. Một số người
trong tổ chức “Dignity and Soul Force” cho rằng Giáo hội không đi đúng đường lối
Phúc âm khi không mang lại an bình cho tâm hồn người ta, lại còn tạo nên bầu
khí phân cách đối với người đồng tính.
Đức
Cha Joseph A. Galante, Giám mục Phó của địa phận Dallas đã trả lời những người
trong tổ chức Dignity and Soul Force rằng: “Phúc âm vẫn là Phúc âm. Trong đó
luôn có thách đố, nhưng chắc chắn không có việc khơi mào bạo động hay thù hận đối
với ai. Tuy nhiên có những người dùng Thánh kinh như để phục vụ cho mục đích
riêng của mình chứ không phải để trung tín bước theo ý nghĩa xác thực của Tin Mừng.”
Hoa
trái của Tin Mừng là bình an, thứ bình an do Thiên Chúa ban tặng chứ không phải
đến từ thế gian. Có nhiều người lầm tưởng bình an là những cảm giác yên hàn, mọi
chuyện xuôi đẹp, không có chông gai, chiến tranh, thập giá. Đây không phải là
thứ bình an đích thực. Nó tuỳ thuộc vào ngoại cảnh. Nó không phải là thứ bình
an mà Đức Giêsu đã hứa ban cho các môn đệ trong bữa tiệc ly. Bình an Chúa ban
luôn có bóng hình thập giá.
8. Bình an của Chúa
Những
lời sau đây trích trong sách “Gương Chúa Giêsu” đáng để chúng ta suy gẫm giữa
bao vinh nhục, thăng trầm của cuộc sống:
Đời
hứa bình an cho những ai phụng sự đời. Nhưng thứ bình an nền tảng ở tiền tài, sắc
dục, kiêu ngạo… đã đánh lừa những người theo đuổi nó, và nó đã tiêu tan đi như
giấc mộng đẹp.
Trái
lại, bình an thực nền tảng ở một lương tâm thanh thản. Nó hệ tại biết kìm hãm ước
muốn, biết tự thoát, khiêm nhường, hơn là thoả mãn dục vọng, ăn trên ngồi trốc.
Lạy
Chúa, xin ban cho chúng con thứ Bình an của Chúa, thứ bình an mà người đời
không thể cho được, để chúng con được thư thả mà phụng thờ Chúa và được hạnh
phúc an nghỉ trong Chúa cho đến muôn đời.
9. Hãy giữ lời Thầy--Lm. Nguyễn
Đức Trung
Trong
một lần đi thăm trung tâm xã hội Campuchia cách đây gần chục năm, chúng tôi có
đến một nơi chăm sóc các anh chị em đang mang căn bệnh thể kỷ thời kỳ chót.
Không khí ảm đạm, những cái nhìn vô vọng về một nơi xa xăm, nhưng tôi bắt gặp
nhiều ánh mắt, những ánh mắt long lanh đan xen giữa hy vọng và sự sợ hãi. Chúng
tôi ngỏ lời hỏi thăm vì biết rất nhiều người ở đó là người Việt Nam. Có một anh
đã thì thào và ghi lại cho tôi một địa chỉ xin hãy chuyển tên và lời xin lỗi đến
người thân ở phía Bắc, vì anh không có thể thư về cho họ được nữa, và anh hiểu
trung tâm này sẽ là nơi anh yên nghỉ. Anh như năn nỉ tôi hãy nhớ đừng quên. Khi
sửa soạn rời khỏi trung tâm, những ánh mắt đó lại như van lơn, mong muốn chúng
tôi đừng đi và mong muốn chúng tôi đừng quên những gì họ đã ký gởi. Chắc đến
nay nắm tro tàn của anh đã im lặng nơi lòng đất lạ, nhưng những hình ảnh và những
lời ký thác của anh vẫn vấn vương đâu đó trong ký ức của tôi.
Là
Kitô hữu từ thuở bé tới giờ, chắc chắn đã nhiều lần chúng ta nghe những lời tâm
tình ký gởi của Chúa Giêsu đã tín nhiệm giao cho chúng ta, những lời tâm huyết
mà chính Ngài đã xác nhận, không nhẹ ký vì nó chuyển tải một kho tàng thiêng
liêng. Những lời Ngài nói không chỉ là của Ngài mà là của Cha, Đấng đã sai Ngài
và chính trong tình yêu thông hiệp của Ba Ngôi, Chúa Thánh Thần sẽ dạy dỗ và
làm chúng ta hiểu.
10. Đền thờ cao quý nhất
Một
hôm, đang lúc đùa vui với các thiên thần, Thiên Chúa ra cho họ câu đố vui có
thưởng. Ngài nói: "Ta muốn chơi trò chơi cút bắt với loài người. Các con
nghĩ xem đâu là nơi ẩn trốn tốt nhất mà con người khó tìm ra Ta được?"
Thế
là các thiên thần tranh nhau trả lời. Vị thì nói là Chúa hãy ẩn trốn ở đáy biển
khơi, khó tìm lắm! Vị khác lại nói là Chúa hãy ẩn mình trên những đỉnh núi cao,
chẳng ai leo tới đó được! Vị thì nói là Chúa hãy ẩn khuất giữa những lớp mây trời,
loài người không ai nghĩ tới..." Thế nhưng Chúa chỉ cười và cuối cùng,
Ngài nói: "Sai bét hết. Chỗ ẩn nấp tốt nhất Ta có thể chọn để loài người
không phát hiện được Ta, đó là ngay trong tâm hồn của họ!" (phỏng theo Cha
Anthony de Mello)
Ngày
xưa thánh Augustino cũng khắc khoải đi tìm Chúa suốt ba mươi năm đầu đời. Ngài
miệt mài tìm Chúa trong văn chương, trong triết lý, trong những học thuyết sai
lầm và cả trong những đam mê thế tục... nhưng chẳng gặp được nên cảm thấy khắc
khoải buồn sầu. Mãi đến tuổi ba mươi, ngài mới được ánh sáng chân lý chiếu soi
và được đón nhận Chúa. Bấy giờ ngài cảm thấy an bình hạnh phúc nhưng đồng thời
cũng lấy làm hối tiếc vì biết Chúa quá muộn: "Lạy Chúa, con yêu Chúa quá
muộn màng. Chúa vẫn ở trong con, đang khi con mải lo tìm Chúa bên ngoài.”
Chúa
ở trong con, còn con thì đi tìm Chúa bên ngoài! Thật là trớ trêu và trái khoáy,
giống như ta đang để chùm chìa khoá trong túi mà lại lục lọi tìm kiếm khắp nơi.
11. Tiền bạc và bình an
Cặp
vợ chồng Lara và Roger Griffiths: Vợ chồng nhà Griffiths chung sống rất hòa thuận
cho đến khi họ trúng giải thưởng sổ xố trị giá 2,76 triệu USD vào năm 2005. Năm
năm sau khi trúng giải, căn nhà triệu đô mua được từ tiền sổ xố bỗng dưng bốc
cháy, thiêu trụi toàn bộ tài sản. Cuộc hôn nhân 14 năm giữa hai người cũng chấm
dứt, sau khi Lara buộc tội Roger ngoại tình với người phụ nữ khác. Cứ ngỡ tiền
sẽ mua được sự bằng yên cho cuộc sống, cô Ibi Roncaioli: Chủ nhân giải thưởng
loto trị giá 5 triệu USD vào năm 1991 bị đầu độc bởi chính người chồng của mình
bằng thuốc giảm đau khi anh phát hiện Ibi bí mật trợ cấp 2 triệu USD cho đứa
con với người đàn ông khác.
Vâng,
tiền bạc luôn là một thách đố lớn lao cho sự an toàn của cuộc sống, cô Vivian
Nicholson từng được coi là người phụ nữ may mắn nhất nhì nước Anh khi thắng 152
nghìn Bảng Anh nhờ cá độ bóng đá vào năm 1961, nhưng vài năm sau đó, cô đã rơi
vào cảnh không xu dính túi vì đổ quá nhiều tiền vào sắm quần áo. Ngoài ra, hôn
nhân của Vivian cũng không mấy suôn sẻ. Cô kết hôn đến 5 lần nhưng vẫn không thực
sự hạnh phúc. Năm 2011, Vivan qua đời bởi nghiện chất cồn và áp lực tâm lý.
Đức
Phanxicô đã nói: Khi một người sống bám víu vào tiền của, niềm kiêu hãnh hay
quyền lực, người ấy không thể có hạnh phúc và bình an thật.”
Vậy
ở đâu có sự bình an? Xin thưa, bình an đích thận chỉ đến từ tình yêu dành cho
Chúa. Quả thật người ta chỉ có thể kín múc sự bình an từ nơi Chúa Giêsu, bởi ở
nơi Người không có tham sân si, nơi Người chỉ có một tình yêu thanh khiết, Người
ở giữa mọi người như ngừoi mục tử nhân lành ở giữa đàn chiên, Người không sống
cho mình, nhưng cho đàn chiên.
12. Bình an của Chúa
Caryn,
một sinh viên ở Virgina, chia sẻ con đường cô tìm được bình an như sau:
"Tôi nghĩ mình là một Kitô hữu bởi vì tôi đi đến nhà thờ vào mỗi Chúa Nhật,
nhưng tôi không biết Chúa là ai. Năm cuối trung học của tôi cũng trôi qua giống
như ba năm trước đây. Tôi giành hầu hết thời gian của mình vào chuyện nhậu nhẹt,
thăng tiến hay cố tìm cách để làm cho ai đó yêu mình. Tâm tôi chết dần chết mòn
và tôi không thể kiểm soát được cuộc sống của mình nữa. Khi tôi nhận ra tôi muốn
kết liễu cuộc đời của mình nhiều thể nào thì cũng là lúc tôi biết rằng tôi phải
tìm cho mình một niềm hy vọng nào đó sau khi ra trường. Thế rồi, tôi đến xin
Chúa bước vào đời sống của tôi. Ngài đã cho tôi thấy tình yêu thương, sự yên
ninh, sự tha thứ, sự nâng đỡ, niềm an ủi, sự chấp nhận và mục đích sống. Chúa
là sức mạnh của tôi, và tôi đã tìm thấy được sự bình an. Hôm nay, nếu không có
Người, thì có lẽ tôi sẽ không thể có mặt ở đây.”
Do
đó. để tìm thấy sự bình an trong cuộc sống không có cách thế nào khác ngoài việc
đến cùng Giêsu và học nơi Người, như Người đã mời gọi: hãy học cùng Ta, vì Ta
hiền lành và khiêm nhường trong lòng (Mt 11, 29)
13. Chìa khóa đổi đời
Trong
một Khóa Thánh Linh, một bà VN trên 60 tuổi, ở Garden Grove, Cali, đã kể lại
cho Linh mục hướng dẫn Khóa: “Sáng nay, con nghe lời cha tối qua, con dậy thật
sớm, rồi quì gối dang tay để mở lòng con ra bằng: tha thiết thống hối, tha thứ
cho “kẻ thù”, tin Chúa thương con, nhìn nhận Chúa là Chúa của con, và con tha
thiết nài xin Đức Mẹ bầu cử (3 lần kinh Hãy Nhớ rất chậm và tin tưởng), cuối
cùng như cha bảo, con dang tay tha thiết nài xin Đức Chúa Thánh Thần:
“Chúng
con lạy ơn Đức Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng láng vô cùng: (1) Chúng con
xin Đức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con, là kẻ tin cậy Đức Chúa Trời,
(2) và đốt lửa kính mến Đức Chúa Trời trong lòng chúng con” chúng con xin Đức
Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần xuống (3) sửa lại mọi sự trong ngoài chúng
con.”
“Con
tha thiết hết sức đọc kinh Chúa thánh Thần, như cha bảo. Lần thứ Nhất 10 lần, rồi
lần thứ Hai 10 lần, và lần thứ Ba cũng 10 lần nữa... Thế mà cha ôi, con tha thiết
cầu xin cả 30 lần rồi, mà “nòng (lòng) con nó cứ tơ tơ (trơ trơ)”!!! Sau đó,
con nhớ cha bảo đừng có nản, nên con lại quyết tâm, lần này, con sẽ tha thiết hết
lòng cầu nguyện như thế, không phải 10 lần, 10 lần, 10 lần, nhưng là 50 lần nữa!
“Lần
quyết tâm 50 này, con vừa đọc đến lần thứ Ba, thì Chúa Thánh Thần đã xuống tràn
đầy linh hồn con: Toàn thể con người con run lên, trái tim con đập mạnh, làm
nóng ran khắp người” linh hồn con tràn ngập bình an, vui mừng và lạ lùng” rồi
miệng con cảm thấy ngọt ngào đầy hương vị khi đọc kinh Chúa Thánh Thần!.. Thế
là từ lúc ấy cho đến sáng, con cứ cầu nguyện kinh Chúa Thánh Thần, không biết mấy
trăm lần... Lúc này con nói với cha mà lòng con đang nóng ran lên!”..
Truyện
bà cụ đây là một trong hàng 100 triệu trường hợp hiện đang xẩy ra, ngay giữa
người VN hải ngoại, và trong cả thế giới Công giáo (1967-2001). Đúng như lời
Chúa Giêsu đã loan báo trong Phúc âm hôm nay:”Đấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà
Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc
nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con” (Ga 14:26).
14. Sứ giả cho sự bình an Nước
Trời
Tại
thành phố Tokyo Nhật Bản, có một khu vực thật nghèo nàn, dơ dáy, bẩn thỉu với
biết bao tệ đoan thương luân bại lý, khiến ai cũng chán ghét khinh bỉ; không ai
muốn nhòm ngó quan tâm đến, ngoại trừ những cảnh sát giữ an ninh, luôn rình rập
để thộp cổ những con người phạm pháp, những băng đảng giết người cướp của... Vì
thế, nơi đây người ta thường gọi bằng cái tên là "khu ổ chuột" hay
"sào huyệt trộm cướp.”
Trong
lúc mọi người đều khinh bỉ, thì cô Maria, một nữ sinh viên đại học y khoa, lại
thường hay lui tới quan sát, thăm hỏi trong những lúc rảnh rỗi của những ngày
cuối tuần... Động lòng thương những con người xấu số, cô đã quyết định bỏ học,
bỏ cả một tương lai đầy mộng mơ với nhiều hy vọng, để đến đây chung sống với họ
trong cảnh nghèo nàn. Cô đã đi gõ cửa từng gia đình, các nhà hảo tâm, các cơ
quan từ thiện, xin quần áo, đồ dùng, thuốc men, tiền bạc đem về giúp đỡ họ. Sau
một thời gian vắn, cái "khu ổ chuột" và "sào huyệt trộm
cưóp" này đã được biến đổi, cảnh nghèo nàn bớt dần, những tội ác không còn
nữa, và điều đáng vui mừng hơn cả là nhiều người đã tìm thấy chân lý, tự nguyện
xin học giáo lý trở lại Đạo Công Giáo. Mọi người đều cảm phục trước tấm lòng hy
sinh bác ái cao cả của cô nữ sinh viên trẻ tuổi, đến nỗi họ đã tôn cô như vị đại
ân nhân và như một người mẹ hiền của họ, ai ai cũng mến phục, tôn trọng và nghe
lời chỉ giáo của cô. Nhưng mới chỉ một thời gian chưa đầy một năm, vì quá lao
tâm lao lực lo cho họ, cô đã lâm trọng bệnh và qua đời cách thánh thiện. Mọi
người đều thương tiếc và tôn trọng cô như một vị Thánh, như một sứ giả của Tình
Thương Chúa gởi đến trong xã hội hận thù giữa thời đại hôm nay. Đức Tổng Giám Mục
Giáo Phận Tokyo đã đích thân đến chủ tọa Lễ An Táng và ca ngợi công đức của cô,
cùng với nhiều vị quan khách trong Giáo Quyền cũng như trong Chính Quyền, và một
số đông đảo quần chúng từ khắp nơi tuôn về tham dự, vì đã từng được nghe biết
và ngưỡng mộ cô.
15. Vĩ đại khi cầu nguyện
Hôm
ấy Frédéric Ozanam bước vào một nhà thờ cổ ở thủ đô Paris để tìm một chút thanh
thản cho tâm hồn. Đứng cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quì cầu
nguyện nơi hàng ghế đầu. Đến gần, Ô-da-man mới nhận ra đó chính là nhà bác học
Ampe (André Marie Ampère 1775-1836). Chàng sinh viên không ngừng theo dõi cử chỉ
cầu nguyện của vị giáo sư vật lý và hoá học nói trên. Khi ông đứng dậy ra về,
chàng liền bước tới phòng làm việc của ông.
Thấy
chàng thanh niên đứng trước cửa phòng dáng vẻ rụt rè, giáo sư Ampe liền cất tiếng
hỏi:
-
Này, người bạn trẻ, anh cần gì đó? Tôi có thể giúp anh giải một bài toán vật lý
nào không?
Chàng
thanh niên nhỏ nhẹ trả lời:
-
Thưa giáo sư, con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm. Xin
giáo sư cho phép con được hỏi một chút về vấn đề đức tin mà thôi.
Giáo
sư Ampe khiêm tốn đáp lại:
- Đức
tin là môn yếu nhất của tôi. Nhưng nếu được giúp ích cho anh về điều gì, tôi sẽ
lấy làm hân hạnh.
-
Thưa giáo sư, người ta có thể vừa là nhà bác học vĩ đại vừa là một tín hữu cầu
nguyện bình thường được chăng?
Giáo
sư Ampe ngỡ ngàng trước câu hỏi vừa nêu. Với cặp môi run rẩy đầy cảm xúc, ông
trả lời:
Chúng
ta chỉ vĩ đại khi cầu nguyện
-
Con ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi!
Câu
trả lời vừa nêu của giáo sư Ampe gợi lại câu nói thời danh của nhà toán học
kiêm triết gia Pascal (Blaise Pascal 1623-1662), khi ông nói: “Con người vĩ đại
khi quì cầu nguyện.” Thực ra, câu nói đó chỉ có ý nghĩa nhờ ánh sáng đức tin do
chính Chúa Giêsu chiếu dãi khi Người trả lời một loạt những câu hỏi do các môn
đệ nêu nơi bữa Tiệc Ly.
16. Bình an của Chúa
Một
ngày nọ, một Linh mục kia đang nằm trị tại Bệnh Viện, có một chị giáo dân đến
nói với Ngài rằng: “Thưa Cha, Cha bệnh tình của Cha có đỡ không, chứ con nằm trị
bệnh đây lâu rồi mà bệnh tình chẳng bớt gì cả. Con buồn lắm Cha ơi, con cầu
nguyện xin Chúa mãi mà Chúa chẳng cho con hết bệnh. Con lo sợ quá vì nếu bệnh
con mà không hết thì mai mốt có hết không, không hết thì khốn khổ lắm! Con cũng
đi hết bác sĩ từ nam chí bắc, rồi cũng uống hết thuốc từ thuốc bắc, thuốc nam,
rồi tây y, con thấy nó chẳng bớt gì hết, nhiều khi con muốn tự tử chết cho rồi.”
Vị
linh mục ấy nói: “Chị ơi, thứ nhất chị là người Công giáo, theo Chúa mà chẳng
tin vào lòng thương xót của Chúa tý nào, mà không có đức tin thì làm sao Chúa
ban ơn được. Chị nhớ không trang Tin Mừng Mác-cô kể rằng: “Có một bà kia bị
băng huyết đã mười hai năm, bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều đến
tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác. Được nghe
đồn về Đức Giê-su, bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo
của Người. Vì bà tự nhủ: "Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu."
Tức khắc, máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Người nói với
bà ta: "Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và
khỏi hẳn bệnh” (Mc 5,25-30.31).
Thứ
hai, chị có bình an của Chúa phục sinh nhưng không tín thác vào Chúa trong gian
nan thử thách bệnh hoạn ốm đau, không bình an đón nhận Thánh ý của Chúa trong
tin tưởng và hy vọng cho nên chị còn sợ hãi, còn mặc cảm, tự ti, tự kỷ và tự tử
là vậy.
17. Thiên Chúa là nguồn mạch của
bình an
Ngày
kia, Đức Khổng tử đã hỏi các học trò của mình:
-
Các con có nguyện vọng gì về tương lai, thì hãy nói lên để chia sẻ cho mọi người
cùng biết.
Trước
hết, Tử cống liền nói:
-
Con muốn làm một vị tướng đem quân tiêu diệt hết mọi kẻ thù cho đất nước được
an bình thịnh vượng,
Tiếp
đến, Tử lộ bèn thưa:
-
Con muốn làm một nhà ngoại giao, đem ba tấc lưỡi đi giàn xếp mọi nỗi bất hòa giữa
các dân các nước trong thiên hạ.
Còn
Nhan tử, chần chừ một lúc rồi mới nói:
-
Nguyện vọng của con là đem nhân nghĩa truyền bá sâu rộng, để mọi người thực thi
câu tứ hải giai huynh đệ, bốn bể đều là anh em. Một khi đã yêu thương nhau, thì
khỏi phải đem quân đi dẹp loạn, cũng như khỏi phải mang ba tấc lưỡi đi hòa giải…
Với
chúng ta cũng thế. Hãy lắng nghe và thực thi Lời Chúa, nhất là tuân giữ giới luật
yêu thương, nhờ đó bản thân chúng ta được hạnh phúc, gia đình chúng ta được hòa
thuận, xã hội chúng ta được an vui, đồng thời nhờ đó chúng ta còn biểu lộ được
lòng yêu mến và trung thành của chúng ta đối với Chúa như lời Ngài đã phán: Ai
yêu mến Thày thì tuân giữ lời Thày.
18. Chơi trò hoà bình
Một
ông nhà văn ngồi trên ghế đá công viên, đưa mắt quan sát nhìn xem mấy em nhỏ
đang chơi đùa với nhau nơi thảm cỏ. Ông lên tiếng hỏi:
-
Này các em, các em đang chơi trò gì thế?
Các
em trả lời:
-
Chúng cháu đang chơi trò chiến tranh. Chúng cháu đang chơi trò đánh nhau.
Nghe
thế, ông hơi cau mặt, gọi các em lại và giải thích:
- Tại
sao các em lại cứ thích chơi tró chiến tranh, chơi trò đánh nhau. Chiến tranh
và đánh nhau thì có gì là tốt đẹp. Vậy tại sao các em lại không chơi trò hoà
bình.
Cả
bọn tụm đầu vào nhau và bàn tán. Thấy chúng đón nhận ý kiến của mình, ông nhà
văn mỉm cười hài lòng và bước đi. Tuy nhiên, chưa bước đi được bao xa, các em
đã đuổi theo và hỏi:
-
Bác ơi! Chơi trò hoà bình là như thế nào? Chúng cháu không biết.
Phải,
làm sao các em có thể chơi trò hoà bình, trong khi các em chỉ thấy người lớn
chơi trò chiến tranh. Làm sao các em có thể chơi trò hoà bình, trong khi trên
báo chí, truyền thanh và truyền hình, các em chỉ thấy hình ảnh những người lớn
bắn giết nhau. Làm sao các em có thể chơi trò hoà bình, trong khi tại gia đình
các em chỉ thấy các anh các chị và đôi khi ngay cả cha mẹ cũng lớn tiếng cãi cọ
và mắng chửi lẫn nhau, nhiều lúc còn thượng cẳng chân hạ cẳng tay với nhau nữa.
19. Yêu mến thì giữ lời
Trong
truyện cổ Việt Nam, có kể lại chuyện của một gia đình kia có một bà mẹ rất
nghèo, do chồng mất sớm nên bà phải tần tảo khó nhọc để nuôi dạy con, hằng ngày
bà phải đi tìm ao vớt bèo về nuôi lợn, vậy mà bà cho con được đi học rất tử tế,
lại còn dạy con phải có phép tắc với mọi người, không được ăn cắp của ai, cũng
không được tham lam của người khác.
Năm
đó, con bà đi thi đỗ được trạng nguyên, dân làng đón quan trạng và mở tiệc ăn mừng,
còn bà thì thản nhiên như không có việc gì xảy ra. Hôm rước quan trạng về làng,
bà cũng đi vớt bèo, ai gọi bà cũng không chịu bước lên, thế là quan trạng phải
nhảy đùng xuống ao vớt bèo tiếp mẹ cho đủ một bao bèo rồi bà mới chịu lên.
Nhiều
người thấy vậy thì nói rằng: Có một người mẹ như thế, thì con mới nên người được.
Một năm sau, quan trạng mau về biếu mẹ một chiếc áo dài gấm thật đẹp, bà mẹ
không vừa lòng, lấy lửa đốt chiếc áo dài gấm đó trước mặt quan và nói: Mới làm
quan, có tiền đâu mà mua áo, chắc là nhận tiền hối lộ của ai rồi, mới làm quan
mà còn như vậy, nếu làm quan lâu thì sẽ làm khổ cho dân biết chừng nào nữa,
Thế
là từ đó, vị quan kia luôn nhớ lời mẹ, sống một đời làm quan thật trong sạch,
và về sau ông được vua cho làm tể tướng.
20. Sống lời Chúa - tuân giữ lời
Chúa
Vào
một buổi chiều mùa đông, thánh Antôn đang quì cầu nguyện trong căn phòng nhỏ bé
của mình, thì bỗng nghe thấy tiếng gõ cửa. Thánh nhân đứng dậy và ra mở cửa. Thấy
một em bé có khuôn mặt sáng sủa đang đứng đó với chiếc bị trên vai. Thánh nhân
liền hỏi:
-
Em là ai?
Em
bé trả lời:
-
Ta là con của đức vua.
Thánh
nhân hỏi tiếp:
- Vậy
em từ đâu mà đến?
Em
nói:
-
Ta từ trời cao mà đến.
Thánh
nhân tò mò:
-
Thế em định tìm gì trên mặt đất này?
Em
be chớp chớp đôi mắt và trả lời:
-
Ta đi ăn xin tình yêu của loài người.
Em
bé ấy chính Chúa Giêsu Hài đồng, đã hiện ra với thánh Antôn. Với chúng ta cũng
vậy. Mặc dù Chúa Giêsu Hài đồng không hiện ra một cách cụ thể dưới hình ảnh một
em bé với khuôn mặt sáng sủa và chiếc bị trên vai, nhưng Ngài hiện ra trong tâm
hồn chúng ta. Ngài đang đứng đó và gõ cửa. Ngài chờ chúng ta đứng dậy và ra mở
cửa để van xin chúng ta một tấm tình yêu. Ngài sẽ hỏi chúng ta như ngày xưa đã
hỏi Phêrô:
-
Con có yêu mến Thầy không?
Dĩ
nhiên, chúng ta cũng sẽ hăng hái thưa lên với Chúa như Phêrô ngày xưa:
-
Có chứ, con yêu mến Chúa là cái chắc.
Thế
nhưng, chúng ta phải làm thế nào để biểu lộ được tình yêu chúng ta dành cho
Chúa? May mắn thay, qua đoạn Tin mừng hôm nay, chính Ngài đã chỉ cho chúng ta một
phương thế chắc chắn nhất và bảo đảm nhất. Ngài nói:
-
Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ những lời Thầy truyền dạy.
Thực
vậy, có lần Ngài đã kể lại câu chuyện về một người cha có hai đứa con trai. Vào
một buổi sáng đẹp trời, ông nói với đứa anh:
-
Con hãy vác cuốc ra làm vườn nho cho cha.
Đứa
anh vâng vâng dạ dạ, nhưng sau đó nó vào trong buồng và nằm ngủ miết. Ông lại
nói với đứa em:
-
Con hãy vác cuốc ra làm vườn nho cho cha.
Đứa
em lúc đầu tỏ ra ngần ngại, nhưng sau đó nó đã vác cuốc ra vườn làm cỏ. Như thế,
đứa em đã yêu thương cha nó hơn đứa anh. Một người con ngoan trong gia đình chắc
chắn không phải là một đứa con vùng vằng cãi trả mỗi khi cha mẹ sai bảo điều
gì, trái lại phải là một đứa con mai mắn, vui vẻ vâng lời cha mẹ. Đối với Chúa
cũng vậy. Để yêu mến Chúa, chúng ta phải tuân giữ những điều Ngài truyền dạy.
21. Kết hiệp sinh bình an
Trong
cuốn “Người lữ hành trên đường hy vọng", ĐHY F.X. Nguyễn văn Thuận đã kể về
điểm xuất phát của Công đồng Vatican II như sau:
Chính
Đức Gioan XXIII đã dùng danh từ ‘Lễ Hiện xuống mới’ để diễn tả Công đồng
Vatican II, một biến cố vĩ đại nhất của Hội thánh trong thế kỷ XX này, một biến
cố không ai ngờ trước, ngay cả vị giáo hoàng khả kính. Ta hãy đọc chính những
dòng do tay ngài đã viết sau đây:
“Tôi
không nghĩ chi trước. Bất ngờ hôm nay 20-1-1959, khi bàn chuyện với vị thư ký,
tôi nói đến Công đồng chung, Hội đồng Rôma, sửa lại Giáo luật. Thực ra lúc đó
tôi không có dự ước hoặc một kế hoạch nào.
“Công
đồng làm cho chính tôi cũng bỡ ngỡ và không ai ngờ rằng con người tôi lại nghĩ
đến việc lớn lao đó.
“Rồi
sau đó, mọi diễn biến tự nhiên xảy đến êm đẹp …”
Sự
hiện diện của Chúa làm cho đời sống Giáo hội có vẻ có nhiều bất ngờ trong con mắt
trần gian; và rất đáng ngạc nhiên là dù sống giữa một thế giới có nhiều thay đổi,
Giáo hội vẫn có một sự bình an linh thánh.
Sự
bình an Đức Kitô để lại khác với bình an của thế gian. Nó đặt nền tảng trên sự
kết hiệp với Thiên Chúa, chứ không nhằm giúp ai tránh được khổ đau hay thiếu thốn
trong cuộc sống trần gian: “Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho
các con không như thế gian ban tặng.”
Nơi
Đức Kitô, sống là kết hiệp với Chúa Cha: “Các lời Thầy nói với anh em, Thầy
không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm
những việc của mình” (Ga 14,10).
22. Thánh Thần điều khiển Giáo hội
Một
thanh niên theo học một nghệ nhân nổi tiếng trong ngành sản xuất kính màu. Từ
đôi tay của nghệ sĩ bậc thầy đó sản sinh ra không biết bao nhiêu những tác phẩm
tuyệt hảo. Muốn đạt tới trình độ điêu luyện mà thấy khó quá, anh mới hỏi mượn bộ
đồ nghề của thầy, với hy vọng sẽ tự mình tạo được những tuyệt phẩm… Vài tuần
sau, anh đem trả lại bộ đồ nghề, thưa rằng: “Thưa thầy, con chẳng thấy khá hơn
chút nào với bộ đồ nghề của thầy.” Người thầy trả lời: “Cái mà anh cần không phải
là bộ đồ nghề, mà là tinh thần của thầy.”
Trước
khi về với Cha, để bảo vệ và làm trọn sự kết-hiệp-ban-bình-an nơi những kẻ theo
Ngài, Đức Kitô đã hứa ban Thần Khí của Ngài: “chính Người sẽ dạy các con mọi điều
và sẽ nhắc nhở các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con.”
Thánh
Thần được sai đến để hướng dẫn và giữ gìn Giáo hội đi trong đường lối Chúa;
Thánh Thần là bảo đảm cho sự bình an của Giáo hội, vì nhờ Thánh Thần mà Giáo hội
luôn kết hiệp với Thiên Chúa. Đặc điểm của Giáo hội từ xưa đến nay là luôn kết
hiệp với Thiên Chúa, nhờ Thánh Thần: “Thánh Thần và chúng tôi xét rằng …”
Giáo
hội được sai đi rao giảng Tin Mừng hầu xây dựng một thế giới mới. Một thế giới
thật tốt đẹp mà chỉ những ai sống trong sự bình an Đức Kitô để lại - kết hợp
sâu xa với Thiên Chúa, qua việc tuân giữ lời Ngài trong Thần Khí của Đức Kitô -
thì mới cảm nghiệm được.
Đứng
trước cuộc sống luôn thay đổi, với nhiều nhu cầu cần được thoả mãn, tôi thường
nói: “Tôi có quá nhiều việc phải làm nên không còn giờ để cầu nguyện”;
23. Công việc của Thiên Chúa
Người
xưa kể chuyện có một vị thánh đã làm cả các thiên thần cũng phải kinh ngạc, và
các ngài phải đến tìm hiểu cho biết cái bí mật của sự thánh thiện nơi ông. Như
hoa toả hương thơm, các nhân đức toả lan bất cứ chỗ nào ông đến dù ông không nhận
biết điều ấy.
Các
thiên thần mới hỏi xin Chúa ban cho ông làm được những phép mầu. Khi được Chúa
chấp thuận, các thiên thần đến hỏi ông:
- Ông
có muốn chạm tay để chữa người bệnh không?
- Không,
tôi muốn để Chúa làm việc ấy hơn, ông trả lời.
- Vậy
ông có muốn biến đổi những tâm hồn tội lỗi và đem họ về đường ngay không? Các
thiên thần hỏi tiếp.
- Không,
Thánh Thần mới biến đổi, tôi chỉ cầu nguyện.
- Ông
có muốn nên kiểu mẫu cho đức kiên nhẫn, và bởi lòng đạo đức mà lôi kéo được nhiều
người không?
- Không,
vì nếu ai bị tôi lôi cuốn, người ấy sẽ xa Chúa ra.
- Vậy
thì ông ao ước điều gì?
- Ước
gì Chúa ban cho tôi ân huệ của Ngài để tôi làm được nhiều điều lành mà không
hay biết gì.
24. Các thánh là ai?
Một
bà mẹ dẫn con vào đền thờ. Ở bên ngoài, cô bé ngước lên cao và chỉ nhìn thấy
nơi các cửa kính trên cao một mầu đen xám ảm đạm, nhưng khi bước vào bên trong
thì lại thấy đó là những cửa kính lộng hình các thánh với những gam màu rực rỡ
dưới ánh mặt trời.
- Mẹ
ơi, hình của ai vậy? em hỏi mẹ.
- Đó
là hình các thánh, mẹ em trả lời.
Hôm
sau, trong giờ học giáo lý, khi giáo lý viên hỏi:
- Các
thánh là những ai?
- Thưa
cô, các thánh là những người được ánh sáng chiếu qua, em giơ tay trả lời ngay.
Tôi
có muốn Ánh Sáng chiếu qua đời tôi không?
Hãy
nghe Đức Kitô dạy cách thức để Ánh Sáng ở cùng tôi: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ
lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với
người ấy.”
25. Bình an chỉ có nơi Chúa
Thượng
tọa Thích Nhất Hạnh – một vị sư có tài giảng thuyết rất nổi tiếng ở hải ngoại.
Trong một lần thuyết pháp ông đã kể câu chuyện sau:
Ngày
nọ, đức Phật bận việc trong nhà, sai đệ tử là Annada gác cổng, để đề phòng quỷ
sứ đến quấy rầy. Thình lình ác thần Mara xuất hiện, muốn gặp đức Phật, đệ tử
Annada mắng:
- Đồ
khốn kiếp, đức Phật đã đập cho ngươi những đòn chí tử ở gốc cây bồ đề mà ngươi
vẫn chưa tởn sao, lại không biết xấu hổ còn đến đây làm gì, cút đi! Đức Phật
thù ghét ngươi lắm!
Thần
dữ Mara cười sặc sụa và nói:
- Té
ra sư phụ ngươi vẫn còn nuôi lòng thù ghét à?!
Annada
biết mình nói lỡ miệng, vì có bao giờ đức Phật nói thù ghét ai đâu, nên Annada
đuối lý, vội vào tâu với đức Phật:
- Thưa
Thầy, tên khốn kiếp Mara muốn được gặp Thầy.
Annada
thầm nghĩ thế nào Thầy mình cũng từ chối khéo: Ta đang bận việc không tiếp ai
được. Nhưng thật ngạc nhiên, Ngài lại tỏ ra hớn hở như gặp một vị thượng khách.
Ngài mau mắn đón Mara vào với đầy vẻ cung kính và hỏi:
- Sao
bạn, kỳ này làm ăn có khá không?
Nhưng
Mara không thèm trả lời. Đức Phật bảo Annada pha trà mời khách, Annada tỏ vẻ
không vui, nhưng vì vâng lời Thầy, anh không dám cãi lại.
Khi
mang trà ra mời khách, Manada nghe Mara than với đức Phật:
- Làm
ăn khá thế nào được! Lúc nào tôi cũng muốn phát điên lên: nói thì phải nói dối,
làm thì phải làm ác cho kẻ khác, lại còn nghe đầy tớ tôi cứ hay bàn chuyện nhân
ái, tha thứ, yêu thương…! Tôi chỉ muốn được thoát ra khỏi kiếp này, để thành Phật
như ông!
Nghe
Mara nói thế, đức Phật tỏ ra rất cảm thông, Ngài nói:
- Bạn
tưởng tôi là Phật sướng lắm sao? Các đồ đệ của tôi lợi dụng tôi xây chùa, tạc
hình tôi cho chúng sinh đến cúng bái, khuyến khích chúng sinh dâng nhiều lễ vật:
nào gà, nào xôi…, ôi thì đủ thứ… nhưng nào tôi có ăn đâu. Chúng đem về nhà
chúng hết! Rõ ràng chúng lợi dụng tôi để làm giàu! Còn tôi phải ngửi khói nhang
cứ bay thọc vào mặt, vào mũi, nên da tôi giống da bò thui, mũi tôi như hai ống
khói, miệng tôi thì khói bám thâm đen!!
Nghe
tôi nói thế, bạn còn muốn làm Phật nữa không?!
Rõ
ràng quỷ đã mất bình an, mà cả đến đức Phật cũng than thở không được an lòng.
Nhưng chỉ duy những ai đến với Chúa Giê-su, mới
được Ngài thực hiện lời đã hứa: “Thầy để lại bình an cho anh em, bình an của Thầy
ban không như thế gian ban, lòng anh em đừng xao xuyến!” (Ga 14,27).
26. Thầy để lại bình an cho anh
em
Albert
Schweitzer bỏ nghề âm nhạc đang rất thành công ở Châu Âu để trở thành một bác
sĩ truyền giáo ở Châu Phi. Một hôm, có người hỏi ông khởi đầu ông đã làm gì để
giới thiệu Chúa Giêsu và sứ điệp của Ngài cho các thành viên của những bộ lạc
Châu Phi. Ông trả lời: “Khi tôi nói về sự khác nhau giữa những tâm hồn bất an
và những tâm hồn bình thản, những người hoang dã nhất trong họ cũng biết được
điều đó có ý gì. Và họ cũng hiểu khi tôi phác họa chân dung Chúa Giêsu với tư
cách là người đem đến sự bình an của Thiên Chúa.”
Chúa
Giêsu đem lại bình an cho tâm hồn giao động của tôi thế nào?
Tôi
sẽ cố xua đuổi những gì xấu xa ra khỏi tâm hồn và yêu thương những bông hoa,
lúc đó tôi biết rằng Ngài có chỗ trong nơi sâu thẳm của tâm hồn tôi (R.Tagore).
THỨ HAI - SỰ HIỆN DIỆN CỦA CHÚA
THÁNH THẦN
Lời Chúa: Ga 15, 26-16, 4
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: "Khi Đấng Phù Trợ đến, Đấng Thầy sẽ từ nơi Cha Thầy sai đến với
các con, Người là Thần Chân lý bởi Cha mà ra, Người sẽ làm chứng về Thầy. Và
các con cũng sẽ làm chứng, vì các con đã ở với Thầy từ ban đầu.
Thầy đã nói với các con điều đó
để các con khỏi vấp ngã. Người ta sẽ loại các con ra khỏi hội đường. Đã đến giờ
kẻ giết các con tưởng làm thế là phụng sự Thiên Chúa. Họ sẽ làm những điều đó
cho các con, vì họ không biết Cha, cũng không biết Thầy. Nhưng Thầy đã nói với
các con như vậy, để khi đến giờ của họ, các con nhớ lại là Thầy đã bảo các
con."
TRUYỆN
KỂ
1.
Thập Giá và Đức Kitô
Tại một trung tâm truyền giáo bên
Italia, người ta đọc thấy một bài thơ với nội dung như sau: Bạn thân mến, tôi
đã tìm một Thập giá. Một hôm tại tiệm bán đồ cổ, tôi đã mua được một tượng Đức
Kitô, đây là Đức Kitô tuyệt đẹp nhưng sứt mẻ và bơ vơ vì bị tách lìa khỏi Thập
Giá.
Tôi chợt nghĩ không chừng bạn
đang có một Thập giá, nhưng là một Thập giá trơ trụi không có Đức Kitô. Đức
Kitô của tôi không có nơi ngơi nghỉ vì thiếu Thập giá, còn Thập giá của bạn thì
lại thiếu Đức Kitô. Đức Kitô không Thập giá và Thập giá không Đức Kitô.
Tôi xin đề nghị với bạn: tại sao
chúng ta không liên kết cả hai lại? Tại sao bạn không trao Thập giá trống trơn
của bạn cho Đức Kitô? Bạn chỉ có một thập giá đơn độc trống rỗng lạnh giá vô
nghĩa, một Thập giá không có Đức Kitô. Hẳn bạn đã hiểu đau khổ như thế là vô
lý, tôi không hiểu được tại sao bạn lại chịu đau khổ như thế từ bao lâu nay. Một
thập giá không có Đức Kitô là một tra tấn, là nguyên nhân dẫn đến thất vọng.
Giờ đây bạn đã có liều thuốc
trong tay, bạn sẽ không còn đơn phương chịu đau khổ nữa. Bạn hãy trao cho tôi
Thập giá trống không của bạn, tôi sẽ trao cho bạn Đức Kitô sứt mẻ của tôi. Bạn
hãy trao Thập giá và hãy đón nhận Đức Kitô, rồi bạn sẽ thấy mọi sự đổi thay, bạn
sẽ không còn đơn độc trong đau khổ, bởi vì trong Thập giá của bạn có Đức Kitô.
Bách hại, khổ đau là phần số gắn
liền với ơn gọi Kitô hữu.
2.
Thần Khí sự thật
Cha Paul Wharton có kể lại câu
chuyện: Một chàng thanh niên trẻ xin học một người thợ cả tài năng chuyên làm
những bức tranh kiếng mầu như chúng ta thấy tại các nhà thờ Âu Mỹ. Sau thời
gian thụ huấn cần thiết, người học trò vẫn không thể đạt được những tác phẩm
mang dấu ấn như thầy. Anh nghĩ có lẽ dụng cụ làm việc của thầy đặc biệt hơn nên
anh xin thầy cho mượn dụng cụ của thầy.
Sau bảy tuần lễ, chàng trai đến
nói với sư phụ: “Thưa thầy, con không thể làm được bất cứ tác phẩm nào đẹp đạt
được với những dụng cụ mà thầy đưa.” Vị sư phu điềm đạm trả lời: “Không phải dụng
cụ của thầy mà con cần để làm nên tác phẩm, nhưng đó là “spirit of master you
need”, chúng ta có thể hiểu đó là “tinh thần, linh hồn, nghị lực” của người thầy
mà người học trò cần phải có (Theo Discipleship, Stories and Parables, Paulist
Presse).
Chúa Thánh Linh luôn ở trong người
môn đệ, thánh Phaolô nhấn mạnh người môn đệ có Thần Khí như cây tươi tốt kết
tinh hoa trái. Hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục,
nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ… (x. Gl 5,22-23).
3.
Đấng Phù Trợ
“Đấng phù trợ” dịch từ chữ hy lạp
Parakletos, chỉ một nhân vật thế giá đến đứng bên cạnh người bị cáo trong một phiên
tòa. Khi nhân vật thế giá đến đứng bên cạnh người bị cáo thì tình hình đổi khác
rất nhiều: đối với người bị cáo thì người này bớt sợ và an tâm hơn vì đã có người
hỗ trợ tinh thần mình, đồng minh với mình, giúp mình biết trả lời sao cho khéo
léo, và khi cần thì đích thân lên tiếng bênh vực mình. Đối với quan tòa thì sự
hiện diện của Parakletos bên cạnh bị cáo cũng khiến họ phải nể nang hơn, xét xử
khoan hồng hơn.
Thánh Kinh cũng dùng chữ này
theo nghĩa rộng, vượt qua khỏi khung cảnh toà án, áp dụng cho nhiều hoàn cảnh
khác trong cuộc đời. Thí dụ ngôn sứ Đanien Parakletos bà Susanna khi bà bị hai
ông già dê âm mưu kết án oan; Chúa Giêsu là Parakletos của người phụ nữ ngoại
tình khi chị bị lôi ra xử án ném đá vì phạm tội ngoại tình.
4.
Giảng thuyết bằng đời sống
Sau những ngày làm đầy tớ cho một
gia đình quý tộc, Sophie Berdanska phải thất nghiệp, đói rách, lanh thang. Nàng
được một gia đình Do Thái thuê về chăm sóc cho mấy đứa con nhỏ của họ.
Nhưng ngay hôm đầu tiên, khi biết
nàng là người Công giáo, ông chủ đặt điều kiện là “Nàng không được giảng đạo”
cho các con ông. Nàng nhận lời và bắt đầu công việc của mình bằng hết khả năng.
Có điều trên cổ nàng luôn đeo một chiếc huy chương của cha nàng để lại, bên
trong có nhét một mảnh giấy nhỏ, mà nàng nhất định không cho ai coi.
Rồi đến khi lũ trẻ lâm bệnh,
nàng ra sức chăm sóc, phục vụ. Lúc chúng được lành bệnh thì cũng là lúc nàng
ngã bệnh và từ trần. Giờ đây người ta có thể đọc tấm giấy nhỏ trong tấm huy
chương: “Khi người ta cấm tôi nói về đạo của tôi, tôi quyết sống đạo đức trước
mặt họ như một chứng từ hùng hồn nhất.”
Bàng hoàng rồi cảm phục, gia
đình người chủ Do Thái xin nhận Bí tích Thánh Tẩy.
5.
Truyền giáo là sống niềm tin
Trong cuốn sách “Linh mục và cái
nhìn về thế giới” James Keller đã trích dẫn một câu nói của giáo viên người Nhật:
“Tôi đã nghiên cứu tôn giáo của các bạn, và tôi xác tín rằng triết lý về cuộc sống
của nó có thể đem lại bình an lâu dài cho mọi quốc gia. Nhưng các bạn chưa hoàn
thành lệnh truyền của Chúa Giêsu. Ngài nói rằng phải mang giáo huấn và Tin mừng
của Ngài đến cho mọi dân tộc. Các bạn chưa làm điều này, ngay cả chưa có một nỗ
lực đáng kể nào để thực hiện nó.”
Những lời của giáo viên người Nhật
và câu truyện về Lydia mời gọi tôi tự hỏi: tôi có thể làm gì hơn để đem giáo huấn
của Chúa Giêsu đến cho mọi dân tộc?
Ai không đi với tôi, là chống lại
tôi (Mt 12,30).
6.
Ơn gọi truyền giáo
Cựu ngôi sao bóng đá Dozier của
đội Penn State quỳ gối cầu nguyện sau khi anh ghi bàn thắng vào lưới Fiesta
Bowl. Hành động này gợi lên những lời chỉ trích tức thời. Đứng về phía bảo vệ
cho anh, R.D.Lasha, một ngôi sao bóng đá học đường, đã nói: “Trước và sau mỗi
trận đấu, tôi quỳ gối cầu nguyện. Ngày mà một ai đó bảo tôi không thể cầu nguyện
là ngày tôi không chơi nữa. Đây là một đất nước tự do.” Ủng hộ viên thể thao
Mark Roberts viết: “Tôi cảm thấy thật dễ chịu khi thấy ai làm điều đó, chứ
không nhảy múa và khoe khoang cái tôi của mình quá mức.”
Được mời gọi làm chứng cho Chúa
Giêsu là một chuyện, còn làm chứng thế nào lại là một chuyện khác. Cách tốt nhất
để tôi làm chứng cho Chúa Giêsu là gì?
Mỗi tín hữu trong thế giới này
phải trở nên một tia sáng (Đức Giaó Hoàng Gioan XXIII).
7.
Bạn hay kẻ thù âm thầm của đạo
Cha Giuse Đinh Quang Thịnh kể
truyện: Tôi không quên vào dịp Tất Niên năm 2003, Linh mục Hạt trưởng mời chính
quyền các cấp đến dự bữa tiệc cuối năm với các Linh mục trong Hạt, và Hội Đồng
Mục Vụ thuộc các giáo xứ trong Hạt.
Trước khi nhập tiệc, mọi người
lương giáo đều vào Nhà Thờ để Chúa làm chứng và chúc bình an cho buổi gặp gỡ giữa
chính quyền vô thần và những người có Đạo. Phía chính quyền tặng các Linh mục một
lẳng hoa chúc mừng Xuân mới; Linh mục Hạt trưởng tuyên bố lý do họp mặt: “Trong
năm vừa qua mọi sinh hoạt tôn giáo của các giáo xứ đã đạt được “tốt đời đẹp Đạo”,
nên tôi đại diện cho các Linh mục và toàn thể giáo dân trong Hạt cám ơn chính
quyền đã giúp đỡ chúng tôi, hy vọng tình hữu nghị này tồn tại và gia tăng, để
mãi mãi các xứ đạt chỉ tiêu “tốt đời đẹp Đạo”!
Thế là ông Bí thư, đại diện
chính quyền xin mượn chiếc micro đang trên tay Linh mục Hạt trưởng, và ông
nghiêm túc nói: “Phía chính quyền chúng tôi không muốn người Công Giáo sống “tốt
đời đẹp Đạo”, mà phải là sống “tốt Đạo đẹp đời”, tức khắc mọi người có mặt ai
cũng hớn hở nổ tràng pháo tay thật dòn dã và thật dài! Tôi lấy làm sung sướng
vì Chúa Thánh Thần đã dùng miệng anh em vô thần để loan báo Tin Mừng,dạy người
Công Giáo, nhất là chủ chăn sửa lại quan điểm sống Đạo của mình.
Bởi vậy anh em vô thần không phải
là mối lo sợ của người Công Giáo,mà là những người Công Giáo mất ý thức sống niềm
tin. Đức Giáo hoàng Pio XII nói với các chủng sinh trong trường Truyền Giáo
Roma: “Kẻ thù số một phá Hội Thánh không phải là Satan mà là người Công Giáo
ngu dốt về Giáo Lý."
Loại kẻ thù số hai phá Hội Thánh
đó là người Công Giáo vô cảm về niềm tin của mình, chẳng cần quan tâm đến tôn
giáo là gì, chẳng bao giờ thắc mắc tìm hiểu những điều trong Đức Tin. Loại người
này không bao giờ tỏ ra chống đối Đạo, họ sống Đạo theo thói quen, kiểu “đạo
ông bà”, nghĩa là người ta sống Đạo làm sao thì bắt chước như vậy, chẳng cần
tìm hiểu đúng hay sai.
8.
Trái tim của nhà truyền giáo
Một thủ lãnh bộ lạc kia nằm hấp
hối. Ông gọi ba người lại và nói: “Ta phải chọn một người kế tục. Hãy leo lên
ngọn núi linh thiêng của chúng ta và trở về với những món quà quý giá nhất.”
Người thứ nhất trở về mang theo thỏi vàng lớn. Người thứ hai mang về một viên
ngọc vô giá. Còn người thứ ba trở về tay không, mà rằng: “Khi tôi đến đỉnh núi,
tôi thấy ở bên kia một vùng đất rất đẹp, tại đó dân có thể hưởng một cuộc sống
tốt hơn.” Người tù trưởng nói: “Ngươi sẽ nối nghiệp Ta. Ngươi đã mang về món
quà quý giá nhất: một viễn tượng tương lai tốt hơn.”
Đó cũng là viễn tượng Chúa Giêsu
mời gọi ta đem lại cho thế giới. Tôi thực hiện điều đó ra sao?
[Chúa Giêsu nói:] “Điều Thầy nói
với anh em lúc đêm hôm hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai,
hãy lên mái nhà mà rao giảng” (Mt 10,27).
9.
Việc làm của Chúa Thánh Thần
Chúa Thánh Thần làm những việc
nhiều khi chúng ta không thể hiểu nổi.
Tại một tỉnh thuộc miền Trung Ấn
Độ, một tín hữu Kitô có tên là Sacdu-Sundasi tự nguyện tham gia công tác truyền
giáo bằng cách phổ biến sách Tin Mừng. Ngày kia, trên một chuyến xe lửa, anh
can đảm lấy ra một số sách Tin Mừng của thánh Gioan đựng trong cặp và trao cho
hành khách không phải là Kitô hữu cùng đi trên xe. Một hành khách, thay vì chỉ
từ chối không nhận, lại còn giận dữ chộp lấy một quyển Tin Mừng xé nát ra và
quăng những mảnh giấy vụn qua cửa sổ. Thiện chí truyền giáo của Sacdu tưởng chừng
như tan biến theo gió. Nhưng cũng vào lúc ấy, có một người tình cờ đi dọc theo
đường ray, anh ta tò mò cúi xuống nhặt mảnh giấy bị gió cuốn trước mặt, và anh
đọc được hàng chữ “Bánh Hằng Sống” được in bằng tiếng địa phương. Tuy không hiểu
rõ những chữ trên có ý nghĩa gì nhưng anh cứ giữ lấy mảnh giấy để dò hỏi các bạn
quen biết. Một trong bọn họ bảo: Đây là mảnh giấy trong sách đạo Kitô, anh
không nên đọc nó nếu không muốn bị ô uế.
Suy nghĩ trong khoảnh khắc, người
đã nhặt được mảnh giấy, nói:
- Tôi không sợ bị ô uế, ngược lại,
tôi muốn đọc trọn quyển sách mang dòng chữ tuyệt vời này.
Sau đó, anh tìm mua một quyển
Tân Ước và được chỉ chỗ của câu trong mảnh giấy lời Đức Giêsu tuyên bố: “Ta là
Bánh Hằng Sống.” Anh say mê đọc và thấy con tim được chiếu sáng. Rồi sau khi
lãnh nhận phép thanh tẩy, chính anh đã trở nên một giáo lý viên.
Người đã ghi lại câu chuyện trên
ghi chú: qua Chúa Thánh Thần, mảnh giấy nhỏ đã thực sự trở nên Bánh Hằng Sống
cho anh.
10.
Rao giảng bằng cuộc sống
Đây là một câu chuyện đã xảy ra
trong một giáo xứ ở một vùng sâu vùng xa. Khi về nhận xứ, linh mục chánh xứ được
biết ở đây có nhiều người đã được ơn trở lại với Chúa. Trong một buổi họp mặt tại
nhà thờ, sau khi giảng, vị linh mục hỏi mọi người:
- Ở đây ai là người có nhiều
công nhất trong việc giúp cho anh chị em trở thành con cái của Chúa? Rồi ngài gợi
ý: Người đó có thể là một bà mẹ, là người rao giảng, là giáo viên, là người
hàng xóm của anh chị em. Và bây giờ tôi mời anh chị em đứng lên và tiến đến bắt
tay người nào có ảnh hương nhất đối với anh chị em trong việc đem Đức Kitô như
là Đấng cứu Độ đến với mình.
Sau lời của vị linh mục hầu như
mọi người đổ dồn cặp mắt về phía một cụ già đã ngoài 75 tuổi ngồi bên phải vị
linh mục. Bà cụ chưa bao giờ nói trước công chúng. Bà cũng không phải là một
nhà giảng thuyết, hoặc một người làm việc trong nhà thờ, bà cụ chỉ là một người
mẹ, một người vợ Công giáo đầy lòng tin, hết lòng tận tụy với bổn phận hằng
ngày mà thôi.
Thế mà cả một chuỗi dài những
người nối tiếp nhau tiến đến bắt tay bà cụ. Họ nói:
- Cuộc sống âm thầm, tận tụy, đầy
lòng tin của cụ, những hành động và chứng từ của cụ đối với Chúa Giêsu đã đưa dẫn
chúng tôi đến với Đức Kitô Đấng cứu Độ.
Chính nhờ đời sống tươi đẹp,
thánh thiện đó mà người phụ nữ Công giáo này đã đưa nhiều người đến với Đấng Cứu
Thế có thể hơn cả một nhà giảng thuyết tài giỏi.
11.
Cả làng theo đạo (ĐGM Ngô Quang Kiệt)
Người thời nay không còn tin vào
những lý thuyết đẹp, những lời nói hay, những hứa hẹn xa rời thực tế. Những lý
thuyết đẹp phải được kiểm nghiệm bằng những kết quả đẹp. Những lời nói hay chỉ
có giá trị khi đi đôi với những việc làm tốt. Vì thế, muốn làm chứng cho Chúa,
người tín hữu phải có một đời sống đạo gương mẫu. Đời sống đạo gương mẫu không
phải chỉ là siêng năng đi đọc kinh, đi lễ. Nhưng nhất là phải gương mẫu trong
cách ăn nết ở.
- Làm sao người ngoài đạo mến đạo
nếu những người trong đạo cũng chia rẽ, bất hoà?
- Làm sao đạo có sức thuyết phục
khi người theo đạo vẫn còn ham hố danh vọng, chức quyền, đến nỗi bán rẻ cả
lương tâm của mình và tìm cách chà đạp bôi nhọ người khác?
- Làm sao làm chứng được đạo là
tốt, trong khi những người tin đạo vẫn còn bất công, gian tham của cải không phải
là của mình.
Thỉnh thoảng tôi có dịp gặp một
ông trùm xứ Long Châu. Long Châu là một giáo xứ thuộc giáo phận Nam Ninh. Trước
đây, chỉ có gia đình ông tin Chúa. Gia đình ông tích cực rao giảng Lời Chúa. Kết
quả là sau 20 năm, hầu như cả làng gần 500 khẩu đã tin theo Chúa. Cứ mỗi dịp lễ
Phục Sinh và Giáng Sinh có khoảng 20 người xin rửa tội. Tôi hỏi ông nhờ bí quyết
nào mà việc truyền giáo của ông có kết quả tốt đẹp như thế. Ngẫm nghĩ một lát,
ông trả lời: “Nhờ đời sống gia đình.”
Bên Trung Quốc, đời sống gia
đình trong thời đại mới đang gặp khủng hoảng. Vợ chồng bất hoà với nhau. Con
cái không vâng lời cha mẹ, có khi còn hành hung cả cha mẹ. Số gia đình tan vỡ
ngày càng tăng lên. Trong khi đó gia đình ông trùm vẫn trên thuận dưới hoà, vợ
chồng thương yêu kính trọng nhau, con cái vâng lời cha mẹ, anh chị em thương
yêu đùm bọc lẫn nhau. Thấy thế, người trong làng bảo nhau: “Đây là đạo tốt, vì
có thể gìn giữ được hạnh phúc gia đình.” Nhờ tấm gương sống đạo của gia đình
ông trùm mà mọi người trong làng tin theo Chúa.
Những anh em ngoài Công giáo cũng nhìn vào đời sống của chúng ta. Nếu người Công giáo thật sự sống tốt thì không cần rao giảng, mọi người cũng tin. Đời sống công bình bác ái, khiêm nhường nhịn nhục, đoàn kết yêu thương có sức thuyết phục hơn tất cả mọi lời nói hay đẹp.
12. Chiếc
áo lông thú
Một ngày nọ, một chàng thanh
niên quý tộc trẻ tuổi đến tìm thánh Philipphê Neri để xin được thánh hướng và sống
đời đạo đức hơn. Anh ta ăn mặc rất sang trọng, chỉnh tề, đầu tóc chải chuốt,
giày da bóng loáng – rõ ràng là rất tự hào về vẻ ngoài của mình.
Thánh Philipphê Neri chăm chú
nhìn chàng trai một lúc, rồi nhẹ nhàng bảo:
–
“Con có thật sự muốn theo Chúa và sống khiêm nhường không?”
– “Dạ
có, thưa cha!”
Ngài gật đầu và nói:
– “Tốt.
Vậy thì ngày mai, con hãy mặc chiếc áo lông thú lộn trái, đội một chiếc mũ có
lông gà, và đi rảo quanh quảng trường trung tâm, vừa đi vừa hô to: ‘Hãy nhìn
xem một thằng ngốc kiêu ngạo đang cố gắng học khiêm nhường đây!’”
Chàng quý tộc tái mặt, lắp bắp:
–
“Thưa cha… con… con không thể làm thế! Con sẽ bị cười vào mặt!”
Thánh Philipphê cười hóm hỉnh:
– “À,
thì ra con chưa thật sự sẵn sàng đâu. Khi nào con dám bị cười mà không giận, bị
chê mà không nhụt chí, thì khi đó, Chúa mới thật sự có thể dùng con.”
Thánh Philipphê Neri nổi tiếng
vì sự dí dỏm, gần gũi và đầy khôn ngoan của ngài. Ngài thường dùng những cách bất
ngờ và hài hước để giúp người ta học sống khiêm nhường, bỏ cái tôi và đến gần
Chúa hơn – nhưng luôn trong tinh thần vui tươi, chứ không buồn rầu.
Lời Chúa nói về tiêu chuẩn của Chúa khác với tiêu chuẩn của người đời. Bị coi thường là thách đố và niềm tự hào của môn đệ Chúa Kitô: “Người ta sẽ loại các con ra khỏi hội đường. Đã đến giờ kẻ giết các con tưởng làm thế là phụng sự Thiên Chúa. Họ sẽ làm những điều đó cho các con, vì họ không biết Cha, cũng không biết Thầy.”
THỨ BA - HOẠT
ĐỘNG CỦA THÁNH THẦN
Lời
Chúa: Ga 16, 5b-11
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Bây giờ Thầy về với Đấng đã sai Thầy,
mà các con không ai hỏi Thầy: Thầy đi đâu? Nhưng vì Thầy đã nói với các con điều
đó, nên lòng các con tràn ngập u sầu.
Dầu
vậy Thầy phải nói sự thật cho các con: Thầy đi thì ích lợi cho các con, vì nếu
Thầy không đi, thì Đấng Phù Trợ sẽ không đến với các con, nhưng nếu Thầy ra đi,
Thầy sẽ sai Người đến với các con.
Khi
Người đến, Người sẽ tố cáo thế gian về tội lỗi, về sự công chính và về án phạt.
Về tội lỗi vì họ đã không tin vào Thầy. Về sự công chính, vì Thầy về cùng Cha,
và các con sẽ không còn thấy Thầy. Về án phạt, vì thủ lãnh thế gian này đã bị
xét xử."
TRUYỆN KỂ
1. Hình ảnh chim bồ câu
Khi
Nansen lần đầu tiên thám hiểm Bắc Cực, ông đem theo một con chim bồ câu khỏe mạnh,
có đôi cánh dài. Sau hai năm làm việc giữa băng tuyết, ông viết một lá thư, buộc
vào chân chim và thả nó ra. Con chim chao liệng mấy vòng rồi bay thẳng về
phương Nam, vượt hàng ngàn dặm giữa đại dương và cuối cùng đến bên đầu giường vợ
của nhà thám hiểm. Nhờ đó, bà biết được chồng mình vẫn bình an.
Thánh Linh cũng tựa như chim bồ câu, một loại
bồ câu thần thiêng, báo cho ta biết Chúa Kitô vẫn đang sống và hành động giữa
thế giới này.
2. Con hiểu làm sao được.
Chú
bé bị mù từ bẩm sinh. Nhờ cuộc giải phẫu, mắt chú được trông thấy những cảnh vật
chúng quanh sao mà đẹp thế. Chú liền nói với mẹ: “Sao bao lâu nay mẹ không nói
cho con hay đất trời đẹp quá." Bà mẹ bật khóc nói: “Con ạ, mẹ đã cố gắng
nói cho con hay đấy chứ, nhưng lúc đó con làm sao hiểu được”!
Nếu
Thánh Linh không gỡ màn che, mở con mắt tâm linh cho ta, thì ta cũng chẳng thấy
sự hiện diện của Chúa (Góp nhặt).
3. Thánh Thần chứng minh thế
gian sai lầm
Có
một anh nông dân chất phác nọ, ngày kia lượm được quả trứng chim phượng hoàng.
Lòng tốt thôi thúc anh đi tìm tổ chim phượng hoàng để trả lại. Không tìm được,
anh đem trứng đó đặt vào ổ vịt. Vịt nở trứng và trứng phượng hoàng cũng nở. Phượng
hoàng con sống giữa đàn vịt, lặn lội trong nước, ăn uống, đi đứng, kêu cạp cạp...
tất cả đều giống như bao con vịt chung quanh.
Phượng
hoàng con không bao giờ đặt vấn đề mình là ai. Nó cứ nghĩ, mình là vịt như bao
con vịt khác và hành động giống như vịt vậy. Ngày này qua ngày khác, phượng
hoàng con sống kiếp vịt! Nhưng một ngày kia, trong một lần đi ăn chung với các
bạn, phượng hoàng con bỗng nhìn lên trời và thấy một phượng hoàng nghiêng cánh
bay lượn qua lại... Phượng hoàng ở dưới đất bỗng cảm thấy mình như muốn bay lên
cao, bay nghiêng như vậy. Nhưng khi nó vừa vỗ cánh muốn bay lên cao thì mấy con
vịt đứng bên cạnh mắng nó rằng:
- Đừng
làm kiểu muốn bắt chước kẻ khác. Mày chỉ là một con vịt mà thôi, không thể bay
cao như con phượng hoàng đang bay lượn trên kia được đâu.
Thế
là con phượng hoàng lạc loài sống và chết trong xác tín sai lầm: “Mình chỉ là
con vịt”
Thái
độ của chúng ta đối với chính mình nhiều khi cũng như thế. Mình sai nhưng không
biết là mình sai, không thấy được cái sai lầm của mình.
4. Sợ sự thật
Nhà
hiền triết Mạnh Tử sang nước Tề. Một hôm nhân cuộc nói chuyện thân tình, ngài
đánh bạo hỏi vua Tề Tuyên Vương mấy câu:
-
Giả sử có người bầy tôi nhà vua đem đời sống của vợ con gửi gắm một người bạn
thân, nhờ trông nom giúp để sang chơi nước Sở có việc. Tới khi về mới hay bạn để
vợ con mình đói rét, người ấy phải xử trí thế nào?
Tuyên
Vương đáp:
-Tuyệt
giao ngay.
Mạnh
Tử lại hỏi:
-
Giả sử có người làm quan sĩ sư (coi việc hình ngục) không chăm nom mỗi thuộc
viên để hình ngục sai lầm, công việc lộn xộn, nhà vua xử sao?
-
Đuổi cổ đi!
Mạnh
Tử luôn dịp hỏi thêm một câu nữa:
-
Thế làm vua một nước mà không lo việc triều chính để đến nỗi ở trong nước không
bình trị thì trách nhiệm về ai và nên xử ra sao?
Tề
Tuyên Vương nghe nói, ngoảnh ngay sang tả hữu, nói lảng qua việc khác, vừa có ý
chữa thẹn, vừa tránh không trả lời.
Giả
như Chúa hỏi chúng ta “Thế làm cha… làm mẹ một gia đình mà không lo cho gia
đình để đến nỗi gia đình không còn giữ được thế giá gia phong, không còn giữ được
phẩm chất đạo đức của gia đình nữa thì trách nhiệm về ai và nên xử ra sao?
5. Có Chúa ở cùng
Năm
16 tuổi, thánh Patrick của Ailen bị cướp biển bắt. Ngài bị giữ làm nô lệ suốt 6
năm trời. Trong những ngày tháng chăm sóc bầy cừu của chủ, ngài tự học cầu nguyện
và suy gẫm. Thánh nhân viết: “Tôi thường ở trong rừng và trên núi. Trước lúc
bình minh, tôi thường thức dậy cầu nguyện, trong tuyết sương mưa gió... bởi vì
sau đó tinh thần tôi được nồng nhiệt bên trong.”
Cuối
cùng, Patrick trốn được và trở thành nhà truyền giáo rao giàng Tin mừng khắp nước
Ailen.
Tôi
có thể xoay sở tình trạng không may như thế nào? Tôi có cố gắng biến tình trạng
đó thành đặc ân, như Patrick, Phaolô và Sila đã làm không?
Chúa
Kitô ở sau tôi, trước tôi, dưới tôi và trên tôi. Ngài ở trong yên lặng, trong
nguy hiểm. Chúc tụng Thiên Chúa cứu độ tôi. (Lời nguyện của thánh Patrick)
6. Thánh Thần là nguồn sức mạnh
Một
người Ấn giáo và một Công giáo trẻ tuổi cùng tham dự cuộc hội thảo về Bài giảng
trên núi. Họ nhanh chóng trở thành những người bạn tốt. Một ngày nọ, người Ấn
giáo nói với người Công giáo: “Tôi biết bài giảng này của Chúa Giêsu ảnh hưởng
đến Gandhi và cuộc sống của ông ta thế nào, nhưng tôi sợ bài giảng đó quá cao đối
với hạng người bình thường.” Gần cuối quá trình làm việc, người Ấn giáo đã tìm
được câu trả lời cho tình huống khó xử của anh. Đạo đức thực sự quá cao, nhưng
anh đã nhìn về Lời Chúa Giêsu hứa gửi Thánh Thần xuống. Người không những hướng
dẫn, mà còn ban sức mạnh để sống đạo đức nữa.
Tôi
thường xuyên hướng về Chúa Thánh Thần để xin Ngài hướng dẫn và ban sức mạnh thế
nào?
Ở
đâu tinh thần con người thất bại, Thánh Thần sẽ lấp đầy.
7. Thầy đi thì có lợi cho anh em
Trong
cuốn sách “Cơn cám dỗ cuối cùng” Charlotte Chandler trích lời của thủ tướng
Israel, là Golda Meir: “Tôi chưa bao giờ là một mỹ nhân. Đã có lúc tôi buồn phiền
về điều đó... Chỉ sau đó khá lâu chúng tôi mới nhận ra rằng không được xinh đẹp
cũng là một ân huệ. Nó buộc tôi vận dụng những nguồn lực thầm kín trong tôi.”
Những
gì bắt đầu như một thập giá trong cuộc sống sẽ trở nên một phúc lành. Những gì
bắt đầu là ưu phiền sẽ trở thành niềm vui. Bản thân tôi có điều gì ban đầu tôi
thấy khó chấp nhận, nhưng chính từ đó mà tôi được hưởng lợi nhiều sau này?
Cũng
như thành công, thất bại có thể giúp tôi chuyển tâm hồn và tỏa sáng vinh quang.
(Edwin Markham)
THỨ TƯ - CẢM NGHIỆM SỰ HIỆN DIỆN
CỦA ĐẤNG PHỤC SINH
Lời Chúa: Ga 16, 12-15
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: “Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ các con
không thể lĩnh hội được.
Khi Thần Chân lý đến, Người sẽ dạy
các con biết tất cả sự thật, vì Người không tự mình mà nói, nhưng Người nghe gì
thì sẽ nói vậy, và Người sẽ bảo cho các con biết những việc tương lai. Người sẽ
làm vinh danh Thầy, vì Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các
con.
Tất cả những gì Cha có, đều là của
Thầy, vì thế Thầy đã nói: “Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho
các con."
TRUYỆN
KỂ
1.
Sự thật toàn vẹn
Thánh Thần sẽ dẫn ta đến chân lý
vẹn toàn. Thánh Phao-lô có thể hiểu điều đó xuyên qua thất bại hôm nay. Đến
A-the-na là thủ đô của sự khôn ngoan, Phao-lô đã vận dụng trí thông minh, sự
khôn ngoan của người Hi lạp và kiến thức quảng bác của ngài về văn chương triết
học Hi lạp để thuyết phục Hội đồng A-re-o-pa-go. Nhưng ngài đã thất bại. Bẽ
bàng, ngài bỏ A-the-na đi Co-rin-tô.
Tại Co-rin-tô, ngài đã nhận ra
không thể dùng sự khôn ngoan của người đời, nhưng phải dùng sự điên rồ của
thánh giá: “Thưa anh em, khi tôi đến với anh em, tôi đã không dùng lời lẽ hùng
hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa.… nhưng chỉ dựa
vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, đức tin
của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm….Để nói về những điều đó,
chúng tôi không dùng những lời lẽ đã học được nơi trí khôn ngoan của loài người,
nhưng dùng những lời lẽ học được nơi Thần Khí (1Cr 2, 1-13).
2.
Cảm nghiệm sự hiện diện của Đấng Phục sinh
Trong một tập truyện ngắn, nhà
văn Hy lạp Nikos Kazanzakis có kể lại cuộc gặp gỡ giữa một linh mục Chính thống
tên là Manassê và một ẩn sĩ. Hai vị đàm đạo với nhau suốt ngày mà câu chuyện vẫn
không chấm dứt. Vị ẩn sĩ có thói quen nhắm nghiền đôi mắt trong khi nói chuyện.
Thấy thế linh mục Manassê liền đề nghị ông hãy mở mắt ra, có mở mắt, ông mới thấy
những kỳ công của Chúa. Nghe thế, vị ẩn sĩ trả lời: “Nhưng tôi nhắm mắt lại là
để thấy Đấng đã thực hiện những kỳ công ấy."
Chỉ với đôi mắt đức tin, con người
mới cảm nhận và nhìn thấy Chúa Kitô phục sinh.
3.
Sự thật sẽ giải thoát chúng ta
Ngày nay, con người khao khát sự
thật biết là chừng nào! Tuy nhiên, con người cũng rất sợ sự thật và ngại khi
nghĩ hay nói về nó??
Khao khát, bởi vì chỉ có sự thật
chân tình, người ta mới có thể ngồi lại với nhau, mới có thể cùng nhau giải quyết
vấn đề cho tốt.
Người ta sợ sự thật, bởi vì sự
thật sẽ làm cho những người ưa sống hình thức, hào nhoáng, giả tạo bị phanh
phui, bóc trần.
Người ta ngại sự thật, bởi vì
khi đối diện với sự thật, họ phải thay đổ lối sống và cách nghĩ.
Tuy nhiên, cái khó là: nhiều khi
không biết đâu là thật, đâu là giả, nên có những sự kiện tưởng chừng như là thật
thì lại là giả; đôi khi cái tưởng là giả thì hóa ra lại là thật.
Hôm nay, Đức Giêsu giới thiệu
cho các môn đệ biết Chúa Thánh Thần chính là Đấng sẽ giúp cho các ông biết đâu
là sự thật trong mầu nhiệm cứu độ, để các ông cứ theo sự hướng dẫn của Người mà
tiến bước thì sẽ được cứu độ.
4.
Giêsu ông là ai?
“Giêsu, ông là ai”? Đó là câu hỏi của nhân vật
Giuđa Iscariot trong tác phẩm “Giêsu, ông là ai” của nhà văn Dominico Donrio.
Câu chuyện được mở ra với bầu khí chờ đợi Đấng Messia của dân Israel. Khi Đức
Giêsu đến chịu phép rửa, Gioan đã loan báo về Người; lúc đó, Đức Giêsu biến mất.
Mọi người đổ xô đi tìm Người. Chính quyền thì lùng bắt để giết đi. Quân cách mạng
thì tìm để tôn vinh. Trong khi ấy, Đức Giêsu lại âm thầm đến với cộng đoàn
Esseniens, nơi Giuđa Iscariot là thủ lãnh.
Họ hiểu Ngài, đón Ngài, nhưng họ
lại không thể chấp nhận Ngài, vì không chịu nổi những gì Ngài nói, cách Ngài xử
thế và Giáo lý Ngài truyền dạy.
“Giêsu, Ngài là ai”? là câu hỏi
của các môn đệ và của người đương thời. “Giêsu, Ngài là ai”? cũng là câu hỏi
cho tôi khi đối chất với lời Ngài, nhất là khi giáo lý của Ngài đòi tôi phải lội
ngược dòng.
5.
Sự thật toàn vẹn là gì?
Khi hai người con của bà Giêbêđê
đến xin Chúa cho họ được ngồi hai bên tả hữu của Ngài, Chúa Giêsu hỏi lại
“Nhưng chúng con có uống nổi chén đắng của Thầy không?” Hai ông tuy đáp liều là
nổi nhưng sau đó không xin nữa và Chúa Giêsu cũng không nói thêm gì nữa. Trong
câu chuyện ấy, sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu chưa nói tới chính là chén đắng.
Một lần khác Chúa Giêsu mở miệng
nói mình sẽ bị bắt, bị hành hạ và bị giết chết, thì Thánh Phêrô cũng không chịu
nổi nên vội lên tiếng can ngăn. Trong chuyện này, sự thật toàn vẹn mà Chúa
Giêsu chưa thể nói rõ chính là màu nhiệm đau khổ của Thập Giá.
Trong đêm Thứ Năm trước khi ra
đi chịu chết, Chúa Giêsu quỳ trước các môn đệ và rửa chân cho họ, Phêrô một lần
nữa không chịu nổi nên cự nự “Không đời nào con để Thầy rửa chân cho con.” Ở
đây sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu cũng chưa tiện nói hết là sự hạ mình của
Ngài và của các môn đệ.
Tóm lại sự tật toàn vẹn là các
môn đệ phải chấp nhận số phận của Thầy mình, phải tự khiêm hạ, phải chịu đau khổ,
phải chịu bắt bớ và có thể chịu chết giống như Thầy.
6.
Người sống trong sự thật sẽ luôn được Chúa soi sáng.
Một bác nông dân nọ, sau một đêm
ngủ say, sáng ra mới hay đã bị kẻ trộm dắt mất con ngựa duy nhất trong chuồng.
Đây lại là con ngựa nổi tiếng là khôn, vừa chạy nhanh, vừa cày giỏi, lại vừa
dai sức. Bác nháo nhác vội vã đi truy tìm thì cuối cùng, gặp được con vật yêu
quý ở một xóm chợ chuyên buôn bán ngựa. Bác khăng khăng đòi bắt ngựa về, nhưng
tên bán ngựa quát tháo bảo đó là ngựa hắn đã nuôi từ lâu, hôm nay mới đem ra chợ
bán. Hắn cho rằng, bác nông dân đã cố tình nhìn lầm để vơ vào cho mình những gì
không phải là của mình.
Hai bên giằng co cãi đi cãi lại
mãi cũng chẳng đi đến đâu cho nên họ bèn kéo nhau đến quan trên nhờ minh xét.
Quan trên hình như đã bị hối lộ mua chuộc nên mới hạch hỏi:
- Lão bảo con ngựa này là của
lão thế thì lão có thể cho biết một chi tiết nào làm chứng rằng, con ngựa này
thật sự là của lão không? Lão mà khai man thì bị nghiêm phạt đấy nhé!
Thấy tình thế bất lợi cho mình,
bác nông dân khôn ngoan ngẫm nghĩ một hồi rồi nẩy ra một diệu kế. Bác bất ngờ lấy
hai tay bịt luôn hai mắt con ngựa rồi bảo tên trộm:
- Con ngựa này có một mắt bị tật.
Nếu anh khai với quan là đã từng nuôi nó từ bé thì ắt hẳn anh phải biết rõ nó bị
tật ở mắt nào! Bây giờ thì anh nói đi: con ngựa này bị tật bên mắt nào?
Tên trộm đâm ra ngẩn ngơ, đành
nói liều:
- Nó bị tật ở mắt bên trái!
Bác nông dân liền cười thật to:
- Sai rồi, mắt trái của nó làm
gì có tật!
Vừa nói bác vừa buông bàn tay
đang bịt mắt trái con ngựa để quan trên có thể thấy rõ con mắt bên trái không hề
có tật gì cả.
Tên trộm biết đã bị hố, cố vớt
vát gân cổ lên cãi:
- Ấy tôi quên, con mắt bên phải
nó mới bị tật cơ!
Bác nông dân lại càng cười to
hơn nữa, vừa nói vừa buông nốt bên tay còn lại:
- Anh lại nói sai nữa rồi, mắt
phải con ngựa cũng có thương có tật gì đâu. Thật ra, bẩm quan trên, con ngựa
này tôi nuôi từ bé, hai mắt nó đều lành lặn. Đích thị tên này là kẻ đã trộm ngựa
của tôi đêm qua. Xin quan trên minh xét!
Đám đông những người hiếu kỳ
cùng kéo lên cửa quan, đã theo dõi đầu đuôi câu chuyện, giờ đây hiểu ra, bèn vỗ
tay hoan hô bác nông dân tài trí. Thế là quan đành phải xử thắng cho bác nông
dân, còn tên trộm thì bị bắt giam để trừng trị tức khắc.
Chúa Giêsu đã nói: “Sự Thật sẽ giải phóng anh em” –
Hãy can đảm sống theo sự thật, chúng ta sẽ luôn có sự bình an trong tâm hồn.
7.
Thần Khí đưa đến sự thật
“Khi nào Thần Khí sự thật đến,
Người sẽ dẫn anh em đến sự thật toàn vẹn.” (Ga 16,13)
Émile Littré (+1881) nổi tiếng với
bộ từ điển tiếng Pháp mang tên ông – về cuối đời đã trở lại và từ trần trong niềm
tin kitô giáo – trước đó đã tuyên bố Thiên Chúa là mầu nhiệm giống như môt đại
dương mà con người không có tàu thuyền nào để vượt qua. Tự bản thân, con người
là hữu hạn không thể nào hiểu được các mầu nhiệm cao sâu của Thiên Chúa. Ngay
các tông đồ là những người đã từng được sống bên cạnh Đức Kitô suốt ba năm
nhưng các ông nào có hiểu được hết về Ngài… Và cũng vì lý do đó mà hôm nay Ngài
hứa sẽ ban Thần Khí đến trên các ông – trong đó có cả chúng ta – để Ngài dẫn
chúng ta đến chân lý toàn vẹn. Thật vậy, Chúa Thánh Thần mà Đức Kitô gởi đến
cho con người được mệnh danh là Thần Chân Lý, Ngài đến để soi sáng, hướng dẫn
dìu dắt cho loài người để tất cả cùng được am hiểu về những chân lý của Thiên
Chúa và vui hưởng trọn vẹn những ân phúc mà Thiên Chúa đã hứa ban cho con người.
Chúa Thánh Thần là vị “Thiên
Chúa ẩn mình”, nhưng chúng ta không được phép lãng quên Ngài.
8.
Trái tim hướng dẫn
Năm 1945, tại nhà ga Verona,
Italia, dân chúng đang chờ đợi các binh sĩ trở về từ các trại tập trung của Đức
Quốc Xã. Chuyến xe lửa đầu tiên xuất hiện làm vang lên những tiếng reo vui tưởng
chừng như không bao giờ chấm dứt.
Từ trên xe lửa những tấm thân tiều
tuỵ bước xuống sân ga giữa những tiếng cười pha lẫn tiếng khóc của người thân.
Cuối cùng một anh lính trẻ mò mẫm bước đi từng bước. Anh từ từ tiến về phía một
người đàn bà già yếu, và chỉ đủ sức thốt lên tiếng ‘Mẹ’.
Hai mẹ con ôm chầm lấy nhau… Người
mẹ xót xa:
- Làm sao một người mù như con lại
có thể tìm đến mẹ?
- Thưa mẹ, con không nhìn thấy mẹ
bằng đôi mắt, anh lính mù trả lời, nhưng trái tim con đã hướng dẫn con.
Sự khôn ngoan của Thiên Chúa đã
nhập thể, sống giữa nhân loại để nên ánh sáng cho tôi: “Thiên Chúa ta đầy lòng
trắc ẩn, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi
nơi tăm tối”, và ánh sáng đó đã nên hoàn hảo trong Thánh Thần được ban cho tôi:
“Khi Thần Chân lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật.”
9.
Thần Khí dẫn đến sự thật
Một số học sinh Nicaragoa du lịch
bằng tàu đến đảo Utila, ở ngoài bờ biển phía Bắc. Một học sinh xin được lái
tàu. Viên thuyền trưởng đồng ý: “Được thôi, cứ giữ kim ở 335 độ Bắc.” Hai giờ
sau, họ đến Utila. Làm thế nào người học sinh có thể lái tàu đến một đảo mà tuổi
trẻ chưa hề thấy và cũng không thể thấy lúc bắt đầu cuộc hành trình? Đơn giản
là theo lời hướng dẫn. Chúa Thánh Thần cũng thế: Ngài có thể hướng dẫn ta đến
“hòn đảo” ta chưa hề thấy và không thể thấy lúc này.
Lần cuối cùng tôi xin Chúa Thánh
Thần hướng dẫn đặc biệt trong một số tình huống là khi nào?
Chúng ta không được hài lòng vì
sạch tội. Chúng ta còn phải được tràn đầy Thánh Thần. (John Fletcher)
10.
Thánh Thần thúc đẩy tình yêu
Khi Kathryn Koob bị bắt làm con
tin ở Iran, đám đông giận dữ la hét bên ngoài phòng của cô hầu như suốt ngày. Một
đêm nọ, cô giật mình thức giấc. Cô nói: “Tôi quay lại mong gặp một trong những
người bảo vệ, nhưng không có ai ở đó cả.” Kathryn thêm rằng vì một lý do nào
đó, cô chợt nhớ đến Chúa Thánh Thần. Từ lúc đó, dường như Chúa Thánh Thần hiện
diện bên cô trong lao tù một cách đặc biệt. Cô nói: “Ngài dạy tôi biết yêu
thương... và nhận ra những điều mới mẻ.”
Hiện tại, tôi ước ao Chúa Thánh
Thần ban tặng cho tôi tình yêu và sự hiểu biết mới mẻ trong lĩnh vực nào của đời
tôi?
Lạy Chúa Thánh Thần, Đấng Bào Chữa,
xin hoàn thiện trong chúng con công trình Chúa Giêsu đã khởi sự. (ĐGH Gioan
23).
THỨ NĂM - NỖI
BUỒN SẼ THÀNH NIỀM VUI
Lời
Chúa: Ga 16, 16-20
Khi
ấy Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Một ít nữa các con sẽ không thấy Thầy,
rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy, vì Thầy về cùng Cha."
Bấy
giờ trong các môn đệ có mấy người hỏi nhau: “Điều Người nói với chúng ta: “Một
ít nữa các con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy”, và
“Vì Thầy về cùng Cha”, như thế có ý nghĩa gì?” Họ nói: “Lời Người nói 'Một ít nữa'
có ý nghĩa gì? Chúng ta không biết Người muốn nói gì?”
Chúa
Giêsu nhận thấy họ muốn hỏi Người, nên Người bảo họ: “Các con hỏi nhau vì Thầy
đã nói: Một ít nữa các con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy
Thầy. Thật, Thầy bảo thật với các con: các con sẽ than van khóc lóc, còn thế
gian sẽ vui mừng. Các con sẽ buồn sầu; nhưng nỗi buồn của các con sẽ trở thành
niềm vui."
TRUYỆN KỂ
1. Cái chết là luật của nhân
sinh
Kinh
điển Phật giáo có ghi lại câu truyện như sau: Một người đàn bà nọ có đứa con độc
nhất trên đời đã bị chết. Trong niềm đau tột cùng, người đàn bà đem đứa bé đến
nhà những người láng giềng và xin họ vui lòng chỉ cho biết có thứ thuốc nào có
thể làm cho con bà sống lại, nhưng ai ai cũng chỉ biết lắc đầu và cảm thông mà
thôi. Nhưng cuối cùng có người mách cho người đàn bà biết có một vị lương y có
thể cải tử hoàn sinh cho đứa bé, người đó chính là Đức Thích Ca.
Người
đàn bà khốn khổ tìm đến Đức Thích Ca và khẩn cầu Ngài ban cho một liều thuốc. Đức
Thích Ca liền nói: “Ta cần có một ít hạt cải." Nghe thế, người đàn bà liền
vội vã đi tìm hạt cải và đem lại cho Đức Thích Ca. Nhưng vừa thấy những hạt cải,
Ngài lại bảo: “Hãy đi mời những gia đình nào không có tang chế đến lấy những hạt
cải này. Tin lời Đức Phật, người đàn bà đi gõ cửa từng nhà để mời gọi mọi người
lấy hạt cải, nhưng tất cả đều từ chối, vì thật ra không ai mà lại không có người
thân đã ra đi.
Khi
người đàn bà trở về nhà thi đêm đã bắt đầu xuống, bà đến ngồi bên xác con và
nhìn ra phố phường đang lên đèn. Nhưng càng về khuya, ánh sáng càng tắt dần, và
cuối cùng đêm đen dầy đặc bao trùm vạn vật. Lúc bấy giờ người đàn bà mới suy
nghĩ: đời là thế: sinh ra, đau khổ rồi chết. Nghĩ thế, bà đứng dậy đem xác con
vào rừng và chôn cất.
Đau
khổ và tận cùng là cái chết, đó là phần số của kiếp người mà khi nhập thể làm
người, Con Thiên Chúa cũng không thoát khỏi, Chúa Giêsu đã ba lần chính thức
loan báo về cuộc tử nạn mà Ngài phải trải qua.
2. Chúa luôn yêu ta
Có
một câu chuyện kể rằng: đêm nọ, có một người thấy giấc mơ lạ. Anh ta thấy mình
đang đi trên bãi biển với Chúa. Những lúc vui, thành công, anh thấy có hai đôi
chân in trên cát, một của Chúa và một của anh. Nhưng những lúc anh gặp khó
khăn, đau buồn thì khi nhìn lại, anh chỉ còn thấy một đôi chân!
Anh
trách Chúa rằng: “Tại sao những lúc khó khăn, thất bại, Chúa lại bỏ con?”
Chúa
trả lời: “Ta không bỏ con đâu, vì những lúc đó, Ta đã cõng con trên vai, vì thế,
con chỉ còn thấy có một đôi chân của Ta nữa mà thôi’."
Hôm
nay, các môn đệ biết Đức Giêsu sắp rời xa mình, nên các ông buồn sầu và lo lắng!
Nhưng Đức Giêsu đã trấn an các ông và báo cho các ông về sự xuất hiện của Chúa
Thánh Thần.
3. Niềm vui trong tình yêu Chúa.
Vào
tuần thánh năm 1980, đài phát thanh Vienne nước Áo truyền đi một bài phỏng vấn
vô cùng cảm động. Người được phỏng vấn là một nữ sinh viên đang nằm chờ cái chết
đến từng ngày tại một bệnh viện ở thủ đô Áo quốc. Cô phát biểu: “Sau khi bác sĩ
chẩn đoán và cho biết tôi mắc chứng sưng bạch huyết, tôi có cảm tưởng như trời
sập xuống trên tôi. Tuy nhiên tôi cũng cảm thấy như Chúa muốn gửi đến cho tôi một
cơ may mới. Từ hai ba năm nay tôi đã bắt đầu có một cái nhìn mới. Tôi nhận ra
trong đau khổ của riêng tôi cũng như của những người chung quanh phản ánh chính
sự đau khổ của Chúa Giêsu chịu đóng đinh và bị bỏ rơi trên thập giá. Tôi đã tìm
cách yêu thích nỗi đau khổ ấy."
Chính
vì muốn chấp nhận đau khổ mà cô gái ghi danh vào trường y khoa. Nằm trên giường
bệnh, biết mình không còn sống bao lâu nữa, vậy mà cô vẫn cầm trên tay một cuốn
sách và cây viết. Cô giải thích: “Không ai có thể nói cho tôi biết chắc 100 phần
trăm là tôi sẽ không học xong hoặc tôi sẽ không bao giờ trở thành bác sĩ. Tuy
nhiên vẫn luôn luôn có những phép lạ. Và riêng tôi, tôi xác tín rằng tôi phải
thực thi ý Chúa nếu tôi muốn tiến tới. Đó là cách thế tôi chuẩn bị đón nhận cái
chết, chuẩn bị đi vào thiên đàng. Tôi để Chúa làm việc hầu cho tất cả mọi việc
trở thành tình yêu. Tất cả mọi sự, từ việc học hành của tôi cho đến những việc
nhỏ mọn tôi làm cho người khác. Bởi vì tôi không làm được những việc quan trọng
nữa."
Không
khỏi ngạc nhiên trước những lời phát biểu trên đây, người phóng viên liền hỏi:
“Tôi đọc thấy trên gương mặt của cô niềm vui và hy vọng. Thế nhưng cô còn chờ đợi
gì nơi cuộc sống này”?
Cô
gái mỉm cười nói: “Tôi chờ đợi mọi sự từ cuộc sống."
4. Phục vụ là niềm vui
Có
một cụ già vừa mới trở lại đạo Công giáo, mỗi ngày cụ đến nhà thương để đọc
Kinh Thánh cho các bệnh nhân nào muốn nghe. Thế nhưng, một ngày nọ, cảm thấy có
gì không ổn trong mắt, cụ đi khám tại bác sĩ chuyên về khoa mắt và đã biết rằng,
mình không còn sử dụng đôi mắt được lâu nữa, vì sắp bị mù mà không còn cách chi
để chữa nữa.
Từ
đó, người ta không thấy cụ đến nhà thương nữa. Có người nói là đã thấy cụ đi một
mình lên núi. Nhiều tuần lễ sau, bỗng nhiên người ta lại thấy cụ trở lại nhà
thương và tiếp tục đọc Kinh Thánh như trước.
Trả
lời cho những người thắc mắc là cụ đã làm gì trên núi trong những ngày qua, cụ
nói:
-
Tôi tìm đến nơi thanh vắng để học thuộc lòng các sách Tin Mừng khi tôi còn thấy
được, để sau này khi bị mù, tôi vẫn còn có thể đọc Kinh Thánh cho các bệnh nhân
nghe."
5. Bình an của người quên mình
Mẹ
Têrêsa Calcutta lừng danh trên thế giới về lòng bác ái và khoan dung. Dưới tay
mẹ có hơn 4.000 nữ tu và trên 500 sư huynh. Mẹ hoạt động trên 80 quốc gia. Kinh
phí hằng năm mẹ phải tiêu dùng cho người nghèo trên 50 triệu dollars. Mẹ được
giải thưởng Nobel Hòa Bình vào năm 1979. Thế mà một ký giả người Anh, tên Christopher
Hisson đã vu khống cho mẹ đủ điều xấu xa, nào là: liên kết với nhà độc tài
Duvalier ở Haiti, với Enver Hossa ở Albani, chống phá cực đoan quá khích, là sứ
giả của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II thủ cựu, mỗi năm đã đưa cho Đức Giáo
hoàng một triệu Mỹ kim chứ không phải lo cho người nghèo. Ông Christopher
Hisson đã dựng thành phim, lấy tên là “Thiên Thần Của Hỏa Ngục”, và đã phát
trên bốn kênh của Đài Truyền Hình Anh quốc tối ngày 08-11-1994!
Cuốn
phim này đã bị người Công giáo ở Ấn Độ cực lực phản đối. Đức Hồng y B. Hillin,
Chủ tịch Hội Đồng Giáo Hội Anh giáo đã gọi cuốn phim này là “Trò chơi thô bỉ đối
với Têrêsa Calcutta." Ông Avan Khara đứng đầu tổ chức Bác Ái ở Bom Bay
nói: “Chỉ ai có tâm trí bệnh hoạn mới nghĩ đến việc tấn công mẹ Têrêsa như vậy.
Bởi vì mẹ giúp đủ loại người nghèo của Ấn Độ, Hồi Giáo, Công Giáo, cũng như các
tôn giáo khác!”
Phóng
viên báo Ananda Beata Patrice Calcutta đã phỏng vấn mẹ về chuyện này:
- Mẹ
có phản ứng gì không? Mẹ có muốn chúng tôi cải chính trên tờ báo của chúng tôi
không?
Mẹ
ôn tồn đáp:
-
Chính bạn là người phải quyết định xem phải sống thế nào. Phần tôi, tôi vẫn tiếp
tục làm việc cho bốn cơ sở ở Anh quốc để giúp đỡ mọi người nghèo, tâm hồn tôi vẫn
bình an, tôi xin Chúa tha thứ cho Christopher Hisson.
Với
lòng quảng đại, khiêm tốn như thế nên ngày qua đời, mẹ đã được quốc táng theo
nghi thức của Ấn. Nhiều cường quốc trên thế giới như Mỹ, Ấn-Độ, Úc v.v… đã treo
cờ tang, và xin nhận mẹ làm Công Dân Danh Dự cho quốc gia mình, mặc dù mẹ là
người gốc Anbani.
6. Kitô hữu luôn hy vọng
Đức
cố H.Y. .F.X. Nguyễn Văn Thuận trong cuốn “Đường Hy Vọng” định nghĩa kitô hữu
là người luôn hy vọng; ngài nói: “Con hãy trả lời được cho mọi người về niềm hy
vọng của con.” Thật vậy, Chúa Kitô Phục sinh là nguồn sức mạnh và cảm hứng giúp
chúng ta thêm niềm tin và hy vọng: “Một chút gian truân tạm thời trong hiện tại
sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận tuyệt vời” (2Cr 4,17).
Chia
sẻ: Trong cuộc đời này chỉ có một điều đáng buồn đó là tội lỗi (x. ĐHV 991). Bạn
đã biến nỗi buồn trở thành niềm vui bằng cách loại bỏ tội lỗi chưa?
Nhắc
mình: Tôi luôn vui tươi trước mọi nghịch cảnh vì Chúa Kitô phục sinh là niềm hy
vọng của tôi.
Lạy
Chúa, trên thánh giá Chúa nghèo lắm. Nhưng con tin Chúa đã phục sinh. Xin Chúa
Giêsu chịu đóng đinh ban cho con một điều, đó là dù trong đau khổ vẫn luôn yêu
thương và hy vọng. (Theo ĐHV 956)
7. Rao giảng cho muôn dân
Phần
đầu cuốn tiểu thuyết của Richard Bach “Jonathan Livingstin Seagull” kết thúc bằng
một cảnh tương tự Chúa Giêsu lên trời. Hai con mòng biển đến đưa Jonathan “về
nhà.” Khi Jonathan do dự, thì ông được bảo: “Một công việc đã xong, đến lúc phải
để cho người khắc bắt đầu.” Đột nhiên, Jonathan nhận ra rằng thực sự đã đến lúc
ông nên “về nhà.” Vì vậy, ông nhìn lần cuối cùng vào mọi thứ ông đã gắn bó từ
lâu. Rồi trong một ánh quang rực rỡ, ông được hai con mòng biển sáng ánh sao
nâng lên và biến mất trong bầu trời.
Công
việc gì đã kết thúc với các môn đệ khi Chúa Giêsu lên trời? Công việc gì bắt đầu?
Tình trạng của tôi hôm nay giống tình trạng các môn đệ sau khi Chúa Giêsu lên
trời thế nào?
Rao
giảng Tin mừng là một người ăn xin nói với một người ăn xin khác phải tìm kiếm
lương thực ở đâu (D.T. Niles).
8. Sứ mệnh cho mỗi người
Một
phụ nữ thấy một bé gái đang chơi với những thứ rác rưởi trên đường phố. Đứa bé
ăn mặc rách rưới và suy dinh dưỡng. Bà ta giận dữ và trách Chúa: “Tại sao Ngài
lại để sự việc như thế xảy ra trong thế giới Ngài tạo dựng? Tại sao Ngài không
làm một điều gì đó cho nó?” Thiên Chúa trả lời: “Ta đã làm một vài việc cho nó
đấy. Ta đã dựng nên ngươi.”
Câu
truyện trên mời gọi tôi tự hỏi: tôi đã nghiêm túc ra sao trong việc tuân theo lời
Chúa dạy để biến đổi thế giới thành một nơi như Thiên Chúa đã tạo dựng nên?
Chúa Kitô lên trời là Ngài thực sự được giải thoát khỏi mọi giới hạn của không gian và thời gian. Mầu nhiệm thăng thiên không diễn tả Chúa Kitô rời bỏ trái đất, nhưng diễn tả sự hiện diện thường xuyên của Ngài ở khắp nơi (William Temple).
9. Chiếc
bánh mì cuối cùng (câu truyện cho thiếu nhi)
Vào một buổi chiều mùa đông lạnh
giá ở thành phố Torino (Ý), cậu bé Carlo lặng lẽ bước vào nhà của Cha Don
Bosco. Đôi mắt em buồn thiu, bàn tay lạnh cóng và bụng thì đói meo.
– “Cha ơi, con đói... cả ngày
nay con chưa ăn gì.” – Carlo nói, giọng run run.
Don Bosco nhìn Carlo trìu mến.
Cha mở tủ bánh ra, chỉ còn lại một chiếc bánh mì nhỏ, phần ăn cuối cùng của
chính ngài. Don Bosco nhìn chiếc bánh, rồi nhìn cậu bé. Không do dự, ngài bẻ
đôi chiếc bánh, đưa phần lớn hơn cho Carlo và nói:
– “Con ăn đi. Rồi chúng ta cùng
cầu nguyện. Chúa sẽ không để chúng ta thiếu thốn đâu.”
Carlo ăn ngấu nghiến, nước mắt
lăn dài trên má. Nhưng em vẫn nghi ngờ:
– “Cha ơi, ngày mai nếu vẫn đói
thì sao? Không còn bánh nữa rồi…”
Don Bosco đặt tay lên vai em, mỉm
cười:
– “Chúa Giêsu đã nói: ‘Các con sẽ
buồn sầu, nhưng nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui.’ Cha tin rằng, nếu
chúng ta giữ lòng tin, Chúa sẽ không bao giờ quên chúng ta.”
Đêm đó, Don Bosco cầu nguyện thật
lâu. Và sáng hôm sau, khi còn chưa thức dậy, một người ân nhân gõ cửa mang đến
cả giỏ bánh mì và thức ăn cho các em nghèo. Don Bosco bật khóc vì vui mừng. Còn
Carlo thì nhảy cẫng lên reo vui:
– “Cha ơi, đúng là Chúa đã nhớ đến
chúng ta rồi!”
Các em thân mến, trong cuộc sống,
có lúc chúng ta sẽ gặp khó khăn, như Carlo đã đói và buồn. Nhưng giống như
Thánh Don Bosco, nếu chúng ta giữ vững niềm tin và hy vọng nơi Chúa, thì nỗi buồn
sẽ hóa thành niềm vui.
Chúa không hứa sẽ lấy đi mọi khó
khăn, nhưng Ngài luôn đồng hành và mở ra con đường hy vọng cho những ai tin tưởng
nơi Ngài.
THỨ SÁU - TÌNH
YÊU VÀ ĐAU KHỔ
Lời
Chúa: Ga 16, 20-23a
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thật, Thầy bảo thật các con: các con
sẽ than van khóc lóc, còn thế gian sẽ vui mừng. Các con sẽ buồn sầu, nhưng nỗi
buồn của các con sẽ trở thành niềm vui.
Người
đàn bà khi sinh con thì lo buồn, vì giờ đã đến, nhưng khi đã sinh con rồi, thì
bà mừng rỡ, không còn nhớ đến cơn đau, bởi vì đã có một người sinh ra đời.
Các
con cũng thế, bây giờ các con buồn phiền, nhưng Thầy sẽ gặp lại các con, và
lòng các con sẽ vui mừng, và niềm vui của các con không ai sẽ lấy mất được. Và
trong ngày đó các con sẽ không còn hỏi Thầy điều gì nữa."
TRUYỆN KỂ
1. Tình yêu và đau khổ.
Trong
bài xã luận của bán nguyệt san Công giáo Italia, số tháng 3/1993 có ghi lại
gương hy sinh của một người mẹ trẻ tên là Carla Levati, qua đời khi mới chỉ được
28 tuổi. Khi mang thai đứa con thứ hai, Carla được các bác sĩ cho biết chị bị
viêm cột sống mà một cuộc chữa trị có thể phương hại trầm trọng đến mạng sống của
thai nhi. Với sự đồng ý của chồng, chị Carla chấp nhận đau khổ và ngay cả cái
chết, miễn là đứa con được sinh ra lành mạnh. Nhưng vì quá đau đớn, người mẹ đã
qua đời 8 tiếng đồng hồ sau khi đứa con chào đời ngày 26/1/1993.
Cái
chết của chị Carla đã gây nhiều phản ứng sôi nổi tại Italia. Những tờ báo lớn
xuất bản tại Rôma xem sự hy sinh của chị như một hành động hy sinh cao cả chứ
không mù quáng. Nguyên tắc của chị Carla tuân theo chính là tình yêu: chỉ tình
yêu mới có thể thúc đẩy người mẹ hy sinh mạng sống mình vì đứa con. Nguyên tắc
âý không chỉ bắt nguồn từ Tin mừng, mà còn là một đòi hỏi của tình mẫu tử. Người
mẹ là người trao ban sự sống bằng chính đau khổ của mình và nếu cần chết đi để
cứu mạng sống của con mình.
Ý
nghĩa cao cả nơi cái chết của chị Carla có thể giúp chúng ta đi sâu vào Tin mừng
hôm nay. Thật thế, chính Chúa Giêsu đã nhận chân ý nghĩa cao cả nôĩ đau đớn của
người đàn bà trong khi sinh con. Niềm đau đớn ấy mang một ý nghĩa cao cả đến độ
đã được Chúa Giêsu mượn để nói lên chính cuộc Tử nạn và Phục sinh của Ngài.
2. Được mời gọi theo đường thập
giá Chúa mỗi ngày
Người
thanh niên hỏi Giuse thành Arimathê, người đã táng xác Chúa Giêsu: “Bây giờ
ngôi mộ ông cho mượn đã được trả lại. Ông định làm gì với ngôi mộ đó?"
Giuse
nhìn anh một lúc rồi nói: “Khi nghe Ngài sống lại, tự nhiên là tôi chạy đến mộ.
Ngài không còn ở đó. Ngài đã trả lại ngôi mộ cho tôi. Nên điều tôi sẽ làm sau
đó là: Tôi đặt một ghế băng dưới gốc cây, đối diện với ngôi mộ trống. Buổi chiều,
tôi tới ngồi đó và suy nghĩ: “Giêsu Nadarét đã ngủ trong ngôi mộ này và Thiên
Chúa đã cho Ngài sống lại từ cõi chết. Giuse Arimathê cũng sẽ nằm trong ngôi mộ
này, và điều Chúa sẽ làm cho ta là gì?" Chúa Giêsu đã nói: “Ta sống và
ngươi sẽ sống." Tôi có thể tin vào lời đó."
3. Qua đau khổ tới vinh quang.
Có
một người nọ luôn tỏ ra khó chịu, không thể nhìn bất cứ cái gì đẹp đẽ và khỏe mạnh.
Một hôm đi ngang qua một vùng gần sa mạc, ông thấy một cây dừa non tươi tốt.
Ông ta liền nhặt một cục đá khá nặng và đặt vào giữa đọt cây dừa rồi ra đi với
nụ cười khoái trá đầy vẻ độc ác.
Cây
dừa đã vùng vẫy tìm cách vứt hòn đá đi, nhưng mọi nỗ lực đều vô ích. Cây dừa
bèn đổi chiến thuật bằng cách đâm rễ thật sâu xuống tới những mách nước ngầm dưới
lòng đất. Sức sống đến từ lòng đất và hơi ấm mặt trời từ trên cao xuống đã làm
cho cây dừa trở thành một cây dừa có sức mạnh nâng cả tảng đá lên cao.
Sau
nhiều năm tháng trôi qua, người đàn ông kia trở lại với ước muốn hằn học rằng sẽ
được nhìn thấy cây dừa oằn mình dưới sức nặng của viên đá. Cây dừa đã cúi sâu
cho ông ta xem viên đá vẫn còn nguyên trong đọt non của mình và nói:
-
Tôi cám ơn ông, chính viên đá tai ác của ông đã làm cho tôi trở nên mạnh mẽ và
trưởng thành.
4. Buồn vui của người Kitô hữu
Cách
đây không lâu, tạp chí Truyền giáo có đăng một mẫu chuyện ngắn về một bé gái
Phi Châu đã chết vì bệnh bạch hầu lúc 13 tuổi. Khi xem lại các đồ dùng quen thuộc
của em, cha mẹ em đã đọc được những dòng nhật ký cuối cùng, của em như sau:
“Lạy
Chúa, con đang được giải thoát. Trong bóng tối dày đặc của khổ đau và buồn chán,
con thoáng thấy bàn tay Chúa đang vẫy gọi con. Nó vụt qua như một tia lửa yếu ớt
nhưng cũng đủ chiếu sáng và sưởi ấm lòng con và chẳng ai dành dật được nó khỏi
con."
Thông
thường, đau khổ được coi là hình phạt dành cho những kẻ gây ra tội ác. Nếu hình
phạt chưa đến với họ, thì đời con đời cháu sẽ phải gánh chịu: “Đời cha ăn mặn,
đời con khát nước”, “Cha ăn nho xanh, con ghê răng” (Ed 18,2).
Chúa
Giêsu đã có cái nhìn lạc quan hơn về đau khổ. Với Ngài, đau khổ không hướng về
quá khứ, nhưng mở cửa cho tương lai. Con người không tuyệt vọng trong đau khổ,
nhưng hy vọng vui mừng vì thành quả của đau khổ.
5. Qua thập giá mà đến sự sống
Thập
Giá sẽ là ánh sáng soi đường chúng ta trong những tăm tối cuộc đời, và qua Thập
Giá, chúng ta sẽ tới được Ánh Sáng.
Tại
một miền quê bên Mỹ vào thời lập quốc, có hai anh em nhà kia bị bắt quả tang vì
tội ăn trộm cừu. Dân trong làng đã mở tỏa án để xét xử.
Sau
khi nghị án, mọi người đồng ý cho khắc trên trán của mỗi tội nhân hai chữ viết
tắt S.T có nghĩa là “kẻ ăn trộm."
Một
trong hai người ăn trộm không chịu nổi sự xỉ nhục đã trốn sang một vùng khác để
quên đi dĩ vãng của mình. Nhưng anh ta không thể xóa nhòa được hai chữ viết tắt
trên trán. Bất cứ người nào gặp anh ta, họ cũng tra hỏi anh ta về ý nghĩa của
hai chữ ấy. Lại một lần nữa không chịu nổi sự nhục nhã, anh ta lại rời bỏ nơi
mình đang cư ngụ để tiếp tục sống lang thang. Cuối cùng, vì mòn mỏi trong cay đắng
anh ta đã bỏ mình nơi đất khách quê người.
Nếu
người anh đã bị xỉ nhục gặm nhấm đến nỗi phải chạy trốn suốt cả cuộc đời thì
người em lại tự nhủ:
“Tôi
không thể bỏ trốn chỉ vì tội ăn trộm mấy con cừu. Tôi phải ở lại đây và tôi phải
tái tạo sự tin tưởng nơi những người chung quanh cũng như nơi chính mình."
Với
quyết tâm đó, anh ta đã ở lại trong xứ sở của mình. Không bao lâu anh đã xây dựng
được một sự nghiệp lớn và tạo được danh thơm tiếng tốt cho chính mình.
Nhưng
dù năm tháng có qua đi, hai chữ S.T vẫn còn ghi trên trán anh. Ngày kia, có người
lạ mặt hỏi một cụ già về ý nghĩa của hai chữ ấy. Cụ già suy nghĩ một lát rồi trả
lời:
-
Tôi không nhớ rõ lai lịch của hai chữ ấy. Nhưng cứ nhìn vào cuộc sống của người
đó, tôi nghĩ rằng, hai chữ ấy có nghĩa là “Thánh thiện”
6. Đừng sợ
Tác
giả Ardis Whitman hồi tưởng lại lần đầu tiên bà đi xem xiếc. Người nghệ sĩ đu
bay khiến bà vừa khiếp sợ vừa cảm phục. Đột nhiên, bà quay sang hỏi mẹ: “Họ có
sợ không mẹ?” Một người đàn ông ngồi ghế trước mặt quay xuống và nói với Ardis:
“Này cháu, họ không hề sợ vì họ tin vào nhau.” Chính niềm tin tưởng vào Thiên
Chúa đã giúp Phaolô có thể vượt qua sợ hãi và tiếp tục rao giảng ở Côrintô suốt
một năm rưỡi nữa.
Tôi
xoay sở thế nào với nỗi sợ hãi khi nó tấn công tôi?
Thiên
Chúa phán... “Khi ngươi còn trong lòng mẹ. Ta đã phù trợ ngươi. Đừng sợ!” (Is
44,1-2).
7. Có Chúa trong đời
Cuốn
sách của Doris Lee McCoy: “Mười hai bí quyết thành công” có một cuộc phỏng vấn
Peter Coor, chủ tịch công ty Adolph Coor. Adolph đến Mỹ với hai bàn tay trắng,
không giấy thông hành, không giấy tờ, không tiền bạc. Ông tiến hành thành lập một
trong những công ty uy tín nhất ở Mỹ. Khi McCoy yêu cầu Peter (cháu trai lớn của
Adolph) cho biết bí quyết thành công của ông là gì, ông nói: “Trước hết, khi
tôi thành đạt, điều đó có nghĩa là đứng trước Thiên Chúa và cảm nhận điều đó, mặc
dù tôi đã phạm lỗi lầm, nhưng tôi luôn có Chúa trong đời tôi.” Đó chính là thứ
niềm vui mà Chúa Giêsu đề cập đến trong bài đọc hôm nay.
Tôi
hiểu câu nói của Peter thế nào? Tôi luôn có Chúa trong đời tôi không? Phải
chăng điều đó đúng với đời tôi?
Nếu
Thiên Chúa yêu chúng ta như chúng ta yêu Thiên Chúa, thì tất cả chúng ta sẽ đi
về đâu?
8. Chúa cho con sự tự do
Một
bé gái 13 tuổi chết vì bệnh bạch cầu. Trong khi kiếm kỷ vật của em, cha mẹ em bắt
gặp một bài thơ mà em đã viết trên giường bệnh. Bài thơ xác nhận một cách dễ
thương lời Chúa Giêsu nói trong bài đọc hôm nay. Một đoạn thơ được viết như
sau: “Lạy Chúa, con được tự do. Tay Ngài đưa ra cho con trong đêm tối. Chỉ một
ánh sáng nhỏ nhưng đã chiếu dọi hồn con. Ngài ơi, ngọn lửa trong con đã bừng
cháy, không ai có thể dập tắt được. Lạy Chúa, con được tự do.”
Bài
thơ của cô bé mời gọi tôi cầu nguyện: Lạy Chúa, xin chỉ cho con những gì con cần
phải làm để nối cánh tay Ngài đưa ra trong đêm tối và đốt lên ngọn lửa nhỏ
trong cuộc đời tha nhân.
Đôi
khi cơ hội gõ cửa nhà bạn, nhưng hầu hết mọi trường hợp, nó đến thật nhẹ nhàng,
rồi lặng lẽ rời xa (Doug Larsen).
9. Tình
yêu và thập giá
Gianna sinh năm 1922 tại Milan,
nước Ý, là con thứ 10 trong gia đình có 13 anh chị em. Trưởng thành, cô lập gia
đình với Pietro Molla và sinh được ba người con. Năm 1962, khi đã 40 tuổi và
sau 13 năm không sinh nở, Gianna mang thai lần thứ tư. Khi khám sức khỏe định kỳ,
bà biết thai nhi phát triển khá tốt nhưng một khối u nằm cạnh thai nhi đang lớn
dần. Là bác sĩ chuyên khoa giải phẫu, nên Gianna biết rất rõ, nếu cắt bỏ khối
u, thai nhi sẽ chết, nhưng nếu muốn con bà chào đời an toàn, tính mạng của bà sẽ
lâm nguy. Sau khi suy nghĩ và cầu nguyện, Gianna quyết định chấp nhận hy sinh
tính mạng, và chịu đựng mọi đau đớn để con bà được sống.
Thứ 6 Tuần Thánh năm 1962,
Gianna chuyển dạ, bà nói với nữ tu y tá trong bệnh viện:
-
Thưa Sơ, chắc tôi không thể sống được một tuần nữa,
nhưng tôi sẵn sàng chấp nhận tất cả, miễn là đứa trẻ được sinh ra mạnh khỏe.
Tối thứ bảy Tuần Thánh, các bác
sĩ trong bệnh viện phải phẫu thuật đưa bé gái con bà ra đời an lành mạnh khỏe.
Sau lễ Phục Sinh đúng một tuần, Gianna thở hơi cuối cùng. Bà hy sinh cho con bà
được sống, đã vui lòng chấp nhận thánh giá cuộc đời và chu toàn trách vụ người
mẹ cách trọn hảo. Năm 1994, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phong chân phước
và 10 năm sau, chính ngài tôn phong hiển thánh cho bà.
Có người chỉ thấy cành gai mà
không thấy bông hồng, nhưng với người hiểu biết thì trên đỉnh của cành hồng đầy
gai nhọn là đóa hoa khoe sắc và ngát hương. Cũng vậy, người bi quan và không có
niềm hy vọng sẽ thấy cuộc đời là một chuỗi khổ đau; người có đức tin sẽ nhận biết
thập giá là phương thế giúp họ nên giống Đức Giêsu, vì thế họ vui lòng đón nhận
mọi thử thách để được kết hợp với Người trong tình yêu, dám chấp nhận thua thiệt
vì hạnh phúc của đồng loại.
Nếu đau khổ có mặt khắp nơi và
đè nặng trên cuộc đời mỗi người, thì Thánh Giá là dấu chỉ tình yêu và ơn cứu độ
của Thiên Chúa cũng hiện diện khắp chốn: trên nóc giáo đường, nơi bàn thờ gia
đình, tại phần mộ của các tín hữu đã qua đời, mỗi khi chúng ta làm dấu Thánh
Giá…
THỨ BẢY - ĐỨNG VỀ PHÍA CHÚA
Lời Chúa: Ga 16, 23b-28
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: “Thật, Thầy bảo thật các con: điều gì các con sẽ nhân danh Thầy mà
xin Cha, thì Người sẽ ban cho các con.
Cho đến bây giờ, các con chưa
nhân danh Thầy mà xin điều gì. Hãy xin thì sẽ được, để các con được niềm vui trọn
vẹn. Tất cả những điều đó, Thầy đã dùng dụ ngôn mà nói với các con.
Đã đến giờ Thầy sẽ không còn
dùng dụ ngôn mà nói nữa, Thầy sẽ loan truyền rõ ràng cho các con về Cha. Ngày
đó các con sẽ nhân danh Thầy mà xin, và Thầy không bảo là chính Thầy sẽ xin Cha
cho các con đâu. Chính Cha yêu mến các con, bởi vì chúng con yêu mến Thầy và
tin rằng Thầy bởi Thiên Chúa mà ra.
Thầy bởi Cha mà ra, và đã đến trong
thế gian, rồi bây giờ Thầy bỏ thế gian mà về cùng Cha.”
TRUYỆN
KỂ
1.
Gọi Chúa là Cha
Allah là tên của Thiên Chúa
trong Hồi giáo. Ngài được tôn kính bằng 99 danh hiệu khác nhau: Đấng Tối cao, Đấng
Nhân hậu, Đấng Toàn năng, Đấng Vĩnh cửu… Danh hiệu thứ 100 sẽ được mặc khải ở đời
sau. Nhưng Allah không bao giờ được gọi là Cha, vì Ngài không sinh con.
Kitô giáo yêu mến Đức Giêsu và
tin Ngài là Con Thiên Chúa. Thiên Chúa chính là Cha của Đức Giêsu. Đức Giêsu vẫn
gọi Thiên Chúa bằng tiếng Abba thân thương. Cuộc đời Đức Giêsu nơi trần gian giống
như một cuộc ra đi và trở về. Ngài từ Thiên Chúa Cha mà đến thế gian (cc.
27-28), rồi Ngài lại bỏ thế gian mà đến cùng Chúa Cha, sau khi hoàn thành sứ vụ.
Sứ vụ của Ngài là vén mở cho môn
đệ về Chúa Cha (c. 25), và đưa họ đi vào chỗ thân tình gần gũi với Người Cha ấy.
Chúa Cha ở trong thế giới thần linh, nhưng thế giới ấy lại có những cửa sổ mở
ra với thế giới con người.
2.
Đứng về phía Chúa.
Khi cuộc Nam Bắc phân tranh bùng
nổ tại Hoa kỳ vào khoảng măm 1860, một vị giáo sĩ nọ đã đến gặp Tổng thống
Abraham Lincoln và trịnh trọng phát biểu: “Thưa Tổng thống, chúng ta hãy tin tưởng
rằng Thiên Chúa luôn ở phía chúng ta trong cuộc chiến này.” Nghe thế, Tổng thống
Abraham Lincoln vặn lại tức khắc: “Tôi không mấy quan tâm về điều đó, vì tôi biết
rằng Thiên Chúa luôn đứng về phía những người công chính, nhưng tôi luôn lo lắng
và cầu nguyện để tôi và toàn dân Mỹ đứng về phía Chúa.
Lời phát biểu của Tổng thống
Abraham Lincoln nhắc nhở chúng ta về ý nghĩa và thái độ đích thực trong lời cầu
nguyện của chúng ta. Cầu nguyện thiết yếu là xin cho được đứng về phía Chúa, chứ
không lôi kéo Thiên Chúa đứng về phía mình.
Tin mừng Giáo Hội cho chúng ta lắng
nghe và Suy niệm hôm nay là đoạn kết trong diễn từ Tiệc ly. Một trong những đặc
ân nơi cách sống của người môn đệ Chúa Giêsu chính là cầu nguyện nhân danh
Ngài.
3.
Cha yêu mến con
Một người cha tận tuỵ vào bệnh
viện thăm con trai bảy tuổi đang nằm hấp hối vì chứng bệnh nan y. Cậu bé dường
như cảm thấy mình sẽ không khỏi được. Cậu hỏi: “Bố, có phải con sẽ chết không?”
- Sao con hỏi thế? Con sợ chết
phải không?
Cậu ngước nhìn với ánh mắt tin
tưởng và trả lời: “Không, bố ạ, nếu Chúa giống bố.”
Chúa Giêsu đã dạy chúng ta thái
độ phải có khi cầu xin với Cha là: Chúng ta tin và lấy danh Ðức Giêsu kêu cầu,
chắc chắn Chúa Cha sẽ nhậm lời.
Giáo lý Công giáo dạy: “Việc cầu
nguyện cùng Cha của chúng ta phải làm triển nở trong chúng ta ý muốn nên giống
như Ngài và nuôi dưỡng nơi chúng ta một tấm lòng khiêm như tin tưởng” (Giáo lý
Công giáo, số 2800). Cha luôn dõi mắt theo từng người con mà ban phát như Chúa
Giêsu đã khẳng định: “Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ
thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho” (Lc
11,9-10).
4.
Hiệu lực của lời cầu nguyện.
Một ngày kia, thánh Etienne, vị
thánh thành lập hội dòng Grammont, khi ngài đang giảng thuyết trước một cử tọa
rất đông đảo người lắng nghe. Bỗng có một người đứng dạy, dám nói thẳng với
ngài: “Thưa cha, mặc dù cha nói nhiều đến sự kinh tởm của tội lỗi, con cũng chả
thèm muốn hoán cải tí nào cả và con sẽ bực bội khi nghe tin cha cầu nguyện cho
con.”
Ngạc nhiên trước những lời nói bạo
gan này, vị thánh xúc động đến nỗi ngài phải khóc nức nở. Và ngay sau đó, ngài
đánh chuông, tập họp các tu sĩ lại, và ngài nói với họ rằng: “Chúng ta hãy cầu
nguyện cho con người đáng thương này.”
Vài giờ sau đó, trái tim của kẻ
tội lỗi cứng đầu đó hoàn toàn thay đổi, anh ta nhận ra tình trạng thảm hại của
linh hồn anh ta và quyết định sống một cuộc đời mới.
Anh tìm đến gặp vị thánh, anh đã
phủ phục dưới chân ngài và xin ngài tha thứ, anh ta cũng hứa sẽ từ bỏ hết các tật
xấu và không bao giờ tái phạm chúng nữa.
Thánh Etienne, nhân cơ hội cuộc
trở lại này, ngài đã tỏ cho các môn đệ của ngài thấy sự hữu hiệu của lời cầu
nguyện.
5.
Sức mạnh của lời cầu nguyện
“Cha ơi! làm sao con có thể sống
được khi đó là người thân duy nhất của con, chồng con đã phản bội con và giờ
đây đứa con duy nhất sắp rời bỏ con rồi!” Lẫn trong những giọt nước mắt, người
thiếu phụ thổn thức tâm sự cùng cha xứ như thế, khi đứa con của bà đang cận kề
cái chết.
Với lòng tin tưỏng, cha quay
sang hỏi người thiếu phụ: “Con có thể làm gì nếu như con muốn nó lành bệnh.” Bà
vội trả lời: “Thưa Cha, con có thể hy sinh tất cả, kể cả cuộc sống của con, miễn
sao con trai của con khỏi bệnh.”
“Cầu nguyện và tin tưởng vào
Chúa chính là phương thuốc thần diệu nhất. Hãy về và cầu nguyện, Chúa sẽ nhận lời
cầu xin tha thiết của con.”
Người thiếu phụ trở về và thành
khẩn van xin Chúa. Như một phép lạ, cậu con trai dần dần bình phục trước sự vui
mừng khôn tả của bà.
Tôi tin rằng Chúa luôn đáp lời
tôi cầu nguyện dù Ngài đáp lại “Yes” hay “No”, tôi vẫn tin rằng tất cả chỉ vì
Ngài thương tôi, muốn tôi được hạnh phúc.
6.
Nhờ lời cầu nguyện của người mẹ
Gioan Hogan, mười sáu tuổi,
không bao giờ nghĩ rằng, Chúa có thể can thiệp vào đời sống của cậu. Cậu phải bỏ
học và kiếm sống bằng nghề đi giao bánh. Mọi người trong trường đều tiếc cho cậu,
vì cậu là một học sinh chăm chỉ, lịch sự.
Một hôm, trên đường đi giao
hàng, Gioan thấy một chiếc xe đang từ từ trượt xuống một hồ nước, bên trong xe
có một người đàn ông đang vùng vẫy để thoát thân. Không chút ngần ngại, cậu nhảy
xuống nước và nhận ra người trong xe là một mục sư. Nhờ một cánh cửa sau hé mở,
cậu đã kéo được nạn nhân ra khỏi xe.
Mệt lả sau hành động cứu người,
cảnh sát đề nghị cậu lên xe để được đưa về nhà, nhưng cậu từ chối, viện lẽ cậu
còn phải đi giao bánh. Cậu nhờ cảnh sát điện thoại đến cho những tiệm bánh, để
báo cho khách hàng biết rằng, bánh sẽ chậm đôi chút vì cậu đến trễ.
Tháng 12/1995, cậu được trao giải
thưởng cùng với hai ngàn năm trăm đồng tiền mặt và một học bổng. Gioan cho biết
rằng, biến cố đó đã hoàn toàn thay đổi cuộc sống của cậu. Vì như cậu tâm sự hai
tuần trước khi tai nạn xảy ra, cậu đã có lần kề súng vào đầu định tự tử, nhưng
không biết tại sao súng lại không nổ, bằng không cậu sẽ không bao giờ có cơ hội
cứu sống được một người. Người mẹ nghèo của cậu cho biết bà đã cầu nguyện rất
nhiều cho cậu. Bà tin rằng, việc cậu thoát chết và cứu sống được một người khác
chính là kết quả lời cầu nguyện của bà.
Gioan Hogan đã trở lại trường và
theo các lớp phụ đạo để bắt kịp các bạn khác. Cậu đã tìm được ý nghĩa và cơ may
mới cho cuộc sống mới.
* Những ai cầu nguyện và tin tưởng
ở lời cầu nguyện đều cảm nhận được sự hiệu nghiệm của lời cầu nguyện. Quả thật,
Chúa Giêsu đã không bao giờ lừa dối chúng ta khi Ngài khẳng quyết rằng: “Hãy
xin thì sẽ được, hãy gõ thì sẽ mở cho” (Mt 7,7).
7.
Đứa con của Kinh Mân Côi
Hoàng hậu Bianche xứ Castille nước
Pháp đã phải đau buồn cùng cực, vì bà thành hôn mười hai năm rồi mà vẫn không
có con.
Khi đến thăm thánh Đaminh, ngài
khuyên hoàng hậu đọc kinh Mân Côi hằng ngày để xin Thiên Chúa ban diễm phúc cho
bà được làm mẹ. Hoàng hậu trung thành theo lời khuyên của thánh nhân. Năm 1231,
hoàng hậu hạ sinh hoàng nam đầu lòng. Đó là hoàng tử Phillip. Nhưng con trẻ chết
yểu ngay khi mới lọt lòng mẹ.
Trước nỗi bất hạnh này, hoàng hậu
vẫn không ngã lòng, không chút nao núng niềm tin. Trái lại, bà tha thiết van
xin Đức Mẹ cứu giúp. Hoàng hậu cũng phân phát nhiều tràng hạt Mân Côi cho các
triều thần cùng dân chúng trong cả nước, và xin tiếp lời cầu nguyện cho bà.
Năm 1235, qua sự bầu cử của Đức
Mẹ, Chúa đã nhận lời cầu xin của bà, một vị hoàng tử chào đời. Hoàng tử này đã
trở thành vinh quang cho nước Pháp, và là gương mẫu cho tất cả các hoàng đế
Công giáo sau này. Vì vị hoàng đế này đã trở thành một vị thánh. Đó là vua
thánh Louis.
8.
Để lời Chúa chạm vào tim
Một bà cụ từng sống trong nhà tù
trước khi biến cố Đông Âu xảy ra năm 1989. Bà đã gửi cho đứa cháu trai sống ở
Hoa Kỳ những lá thư chứa đầy lời lẽ Kinh Thánh. Ban đầu, người cháu nghĩ có lẽ
đó là những bản mật mã gì đó. Nhưng về sau, anh đã khám phá ra đó chỉ là cách
mà bà nội của anh đã dùng để khiến các nhân viên kiểm duyệt vô thần, xem xét kỹ
và đọc nó. Có thể một trong những lá thư đó đã chạm được vào trái tim của họ.
Chính Apollo cũng đã có một nhiệt
tình như thế đối với niềm tin.
Tôi đã làm được gì để phát huy
nhiệt tình của tôi đối với niềm tin?
Lòng nhiệt thành dẫn đến những
nghĩa cử anh hùng (S.M. Dubnov).
9.
Hãy cứ xin thì sẽ được
Một bộ phim hoạt hình mô tả một
con sâu nhỏ nhìn sát một con sâu khổng lồ. Sau khi chăm chú nhìn một lúc, con
sâu nhỏ nói: “Anh là loại sâu gì thế?” Con sâu khổng lồ nói: “Tôi là con bọ ngựa
cầu nguyện.” Con sâu nhỏ nói: “Qủa là buồn cười. Sâu bọ đâu có cầu nguyện.” Vì
điều đó, con bọ ngựa chộp lấy con sâu nhỏ và bóp cổ, mắt con sâu nhỏ lồi ra, nó
la lên: “Lạy Chúa, xin giúp con.”
Một số người giống như con sâu
nhỏ đó. Họ không màng đến, ngay cả cười cợt việc cầu nguyện, cho đến khi gặp
nguy hiểm, lúc đó họ mới kêu lên: “Lạy Chúa, xin giúp con.”
Điều gì thúc đẩy tôi tiếp tục cầu
nguyện, nhất là khi Thiên Chúa không đáp lời, thậm chí không nghe tiếng tôi?
Thiên Chúa trì hoãn không có
nghĩa là Ngài phủ nhận.
10.
Chương trình quan phòng của Chúa
Roland Stair kể câu truyện này:
một cha tuyên úy bệnh viện một bệnh nhân đồng hương với ngài đang nằm ở phòng
164. Nhưng khi ngài đến, bệnh nhân không có ở đó. Ngài xin lỗi bệnh nhân cùng
phòng và nói: “Có lẽ tôi nhầm lẫn.” Bệnh nhân đó đáp lại: “Cha có mặt ở đây
không phải là nhầm lẫn. Con đã cầu nguyện để có được can đảm chuyện trò với
cha, nhưng con không thể tự mình làm được điều đó. Bây giờ cha đến đây do nhầm
lẫn. Nhưng không, chẳng có gì nhầm lẫn.”
Trong đời sống, có điều gì tôi
muốn làm nhưng lại thiếu can đảm để làm? Tôi có thể làm gì để phá vỡ tình trạng
này?
Hãy làm việc như thể mọi sự điều
tùy thuộc vào bạn. Hãy cầu nguyện như thể mọi sự điều tùy thuộc vào Chúa (Th.
Ignatio)
11.
Gia đình thiên linh
W. Davis nói, “Danh tiếng là những
gì người ta nói về bạn trước bia mộ bạn; tính cách là những gì thiên thần nói về
bạn trước ngai Thiên Chúa. Danh tiếng là những gì bạn có khi đến một cộng đồng;
tính cách là những gì bạn có khi rời cộng đồng đó. Nhưng từ nơi ấy, người ta biết
một điều, bạn là con cái Thiên Chúa, bạn thuộc về một ‘Gia Đình Thiên Linh!’.”
Sẽ khá bất ngờ khi Lời Chúa hôm
nay tiết lộ bạn và tôi là những con trai con gái yêu quý của Thiên Chúa, bạn và
tôi thuộc về một ‘Gia Đình Thiên Linh!’: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần!
Bài đọc Công Vụ Tông Đồ cho thấy
cách thức các tín hữu sơ khai nâng đỡ lẫn nhau! Apollô, một nhân vật ‘rất ấn tượng’
với kiến thức Thánh Kinh vững chắc; vậy mà anh cần vợ chồng Priscilla - Aquila
dẫn dắt. Apollô có những quà tặng mà đôi bạn này không có; đôi bạn này sở hữu
những điều mà Apollô không có. Để có thể lớn lên trong đức tin, mỗi người ‘cho
đi’ và ‘nhận lại’. Là thành viên của gia đình Hội Thánh, chúng ta có bổn phận
‘bổ trợ’ cho nhau đang khi cùng nhau chia sẻ một sứ vụ là mở rộng Vương Quốc.
Nhờ đó, dân các nước có thể ca khen, “Thiên Chúa là vua toàn cõi địa cầu!” -
Thánh Vịnh đáp ca.
Với bài Tin Mừng, Chúa Giêsu mở
rộng cộng đồng đức tin đó lên một cấp độ cao hơn, với một trương độ có chiều
kích phổ quát hơn. Đó là Gia Đình Thiên Chúa Ba Ngôi, nền tảng của mọi gia
đình, mọi cộng đồng! Ngài nói đến Chúa Cha bằng những ngôn từ đẹp đẽ nhất,
“Chúa Cha yêu mến các con, bởi các con yêu mến và tin Thầy!” Trong Chúa Giêsu,
bạn và tôi được kết hiệp với Chúa Cha nhờ tình yêu của Chúa Thánh Thần; để từ
đó, cung lòng mỗi người là thánh thất của Chúa Ba Ngôi và là thánh điện của
Thánh Thần Ngài!
“Lạy Chúa, cho con biết, con thuộc
về ai và mục đích đời con là gì! Đừng để con sống một cuộc sống không xứng tầm
‘cung bậc’ và ‘cung điệu tầm cao’ của một người con Chúa!”, Amen.
LỄ KÍNH ĐỨC MẸ FATIMA
Lời Chúa
TRUYỆN
KỂ
1.
LỄ THÁNH MAT-THI-A
Lời Chúa
TRUYỆN
KỂ
1.
LỄ ĐỨC MẸ ĐI VIẾNG BÀ ISAVE
Lời Chúa
TRUYỆN
KỂ
1.