LỜI CHÚA TUẦN 6 MÙA THƯỜNG NIÊN
CÂU TRUYỆN MINH HỌA
CNTN 6C - PHÚC THAY – KHỐN
THAY!!!
THỨ NĂM - TUYÊN XƯNG CỦA
PHÊRÔ
THỨ SÁU - AI MUỐN THEO TA,
HÃY TỪ BỎ MÌNH
LỄ KÍNH - LẬP TÔNG TÒA THÁNH PHÊRÔ - TẢNG ĐÁ PHÊRÔ
CNTN 6A -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
CNTN 6B -
Lời Chúa:
TRUYỆN KỂ
1.
CNTN 6C - PHÚC THAY – KHỐN THAY!!!
Lời Chúa: Lc 6, 17. 20-26
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu từ trên núi xuống cùng với mười hai tông đồ,
và dừng lại trên một khoảng đất bằng; ở đó có đông môn đệ và một đám đông dân
chúng từ Giuđêa, Giêrusalem, miền duyên hải Tyrô và Siđon kéo đến để nghe Người
giảng và xin Người chữa bệnh tật.
Bấy giờ Người đưa mắt nhìn các môn đệ và nói:
"Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên
Chúa là của các ngươi.
Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ
được no đầy.
Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các
ngươi sẽ được vui cười.
Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục
xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ tên các ngươi như kẻ bất lương. Ngày ấy,
các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu
trên trời. Chính cha ông họ cũng đã đối xử với các tiên tri y như thế.
"Nhưng khốn cho các ngươi là kẻ giàu có, vì các ngươi hiện
đã được phần an ủi rồi.
Khốn cho các ngươi là kẻ đã được no nê đầy đủ, vì các ngươi sẽ
phải đói khát.
Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu
sầu khóc lóc.
Khốn cho các ngươi khi mọi người đều ca tụng các ngươi, vì chính
cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả.”
TRUYỆN KỂ
1. vì Nước Trời
Mùa hè năm 1997, cả thế giới xôn xao về cái chết của công nương
Diana. Công nương Diana là một phụ nữ xinh đẹp. Từ khi kết hôn với thái tử
Charles, con của nữ hoàng nước Anh, công nương trở thành người có danh vọng và
đồng thời cũng có nhiều tiền của vào bậc nhất trên thế giới. Có lẽ ai cũng nghĩ
rằng một phụ nữ đẹp đẽ, giàu sang, phú quý như thế phải là người hạnh phúc nhất
trên đời. Nhưng không đúng như thế. Công nương rất đau khổ vì cảnh gia đình thiếu
tình yêu thương chân thực. Thái tử Charles vẫn lén lút quan hệ với người tình
cũ. Đau khổ mà chẳng thể nói ra, vì cả gia đình bên chồng muốn giữ uy tín cho
hoàng gia. Chán nản với đời sống gia đình, công nương đã tìm vui bên người bạn
trai mới. Trong một chuyến đi chơi ở Paris, cả hai bị thiệt mạng trong một tai
nạn xe hơi. Có nhiều người cho rằng chính hoàng gia Anh đã gây ra tai nạn.
Không ai nghĩ rằng cuộc đời công nương có hạnh phúc, dù bà có tất cả: sắc đẹp,
tiền của, danh vọng.
Sau đám tang của công nương Diana 1 tuần lễ, thế giới lại xôn
xao về một đám tang khác: đám tang của mẹ Tesexa Cancutta. Khác hẳn với công
nương Diana, mẹ Tesexa là một nữ tu già nua, sống một đời sống nghèo. Trong
phòng của mẹ chỉ có một chiếc ghế và một chậu thau đựng nước. Người ta cho mẹ
nhiều tiền, nhưng mẹ tự nguyện sống nghèo, dành hết tiền của để giúp những người
nghèo, những trẻ mồ côi, tàn tật. Khi Đức Giáo hoàng sang thăm Ấn Độ, thấy mẹ
đi lại công tác nhiều, tặng mẹ một xe hơi sang trọng. Nhưng khi Đức Giáo hoàng
về, mẹ đã bán xe lấy tiền giúp người nghèo. Có 40 nguyên thủ quốc gia đến tham
dự đám tang của mẹ. Và Ấn Độ, một nước không ưa gì đạo Công giáo, đã cử hành quốc
tang cho mẹ. Hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn mẹ trong khi các
vị nguyên thủ quốc gia quyền uy đứng cúi đầu kính cẩn trước thi hài vị nữ tu
già nua, nghèo khó. Mẹ đã thực hành Lời Chúa: “Phúc cho anh em là người nghèo
khó, vì Nước Trời thuộc về anh em.”
Thứ đến, Chúa không lên án vật chất, nhưng chỉ lên án thái độ sử
dụng vật chất. Vật chất do Chúa dựng nên để phục vụ con người. Chúa dựng nên và
Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp. Nhưng con người đã làm sai chương trình của Chúa.
Thay vì sử dụng vật chất như phương tiện, người ta đã biến nó thành mục đích.
Thay vì sử dụng vật chất phục vụ đồng loại, người ta đã sử dụng đồng loại để phục
vụ vật chất. Đó là những thái độ bị Chúa lên án. Những thái độ ấy biến vật chất
thành chướng ngại ngăn cản ta đạt đến hạnh phúc Nước Trời.
2. Quốc vương Abdurahman III
Quốc vương của Thổ nhĩ kỳ là Abdurahman III cai trị một vương quốc
giầu có nhất thế giới trong suốt 49 năm vào khoảng thế kỷ thứ 10. Lợi tức của
nhà vua lên tới 336 triệu Mỹ kim. Nhà vua có 6.321 bà vợ được tuyển chọn trong
số những thiếu nữ xinh đẹp nhất của vương quốc và sinh được 618 đứa con. Tài sản
của nhà vua trị gía 3 tỷ Mỹ kim. Ấy thế mà sau khi chết người ta đọc thấy trong
cuốn nhật ký của nhà vua một đoạn như sau: “Trong suốt cuộc đời dài và đầy danh
vọng này, tôi đã đếm được những ngày tôi hoàn toàn hạnh phúc chỉ vỏn vẹn có 14
ngày mà thôi.”
Nhưng có những người sống trong những hoàn cảnh rất khắc nghiệt,
xem ra họ là những người đau khổ, thiếu mọi phương tiện để đạt tới hạnh phúc,
nhưng trong thực tế, họ vẫn hạnh phúc, họ còn hạnh phúc hơn cả những người có đủ
điều kiện để đạt tới hạnh phúc.
Đây là bằng chứng: Vào những năm cuối thế kỷ 20, viện Gallup đã
làm một cuộc thăm dò 18 quốc gia để tìm xem quốc gia nào là đất nước hạnh phúc
nhất. Kết quả thâu lượm được làm người ta phải ngạc nhiên! Quốc gia hạnh phúc
nhất là Iceland, một quốc gia nằm ở Bắc Cực với dân số 240.000 người, pha trộn
giữa người Na uy và Đan mạch. Một số người thắc mắc rằng, “Làm thế nào những
người Icelander lại có thể sống hạnh phúc được khi họ hoàn toàn cô lập trong
giá lạnh của Bắc cực, chịu đựng 24 giờ đêm tối mỗi ngày vào mùa đông, và còn
hơn thế nữa nhiều người còn phải sống tùy thuộc vào sự bấp bênh của kỹ nghệ
đánh cá”?
Một nhà xã hội học của Iceland đã giải thích như sau: “Văn hóa của
chúng tôi được dệt bởi sự cực nhọc vất vả do thiên nhiên tạo ra. Đó là lý do tại
sao người Icelander có một thái độ khoan dung đối với những vấn đề của cuộc sống.”
Sự cô lập của quốc gia làm cho người Icelander có một cảm giác mãnh liệt về cộng
đồng, một yếu tố có thể giúp giải thích tại sao họ có một đời sống trường thọ
cao nhất trên thế giới. Trong khi đó Hoa kỳ chỉ được xếp vào hạng thứ 5 trong số
18 nước được thăm dò (Nguyễn văn Thái, Sống lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr
85).
3. Nên theo bản văn nào?
Linh mục Nguyễn văn Thái kể: Khi dọn bài giảng về Những Mối phúc
thật theo thánh Luca, tôi đã hỏi một người Mỹ khá giầu rằng giữa những mối phúc
thật theo thánh Matthêu và thánh Luca, ông thích bài nào hơn? Ông trả lời: “Tôi
rất thích bài của thánh Matthêu.” Tôi hỏi ông: “Còn thánh Luca thì sao”? Ông trả
lời: “Không, tôi không thích Luca, vì bài của Luca có vẻ chống lại người giầu.”
Khi thánh Matthêu nói: “Phúc cho kẻ có tinh thần khó nghèo” (Mt 5,3), ngài đã
khích lệ người giầu. Còn Luca thì nói: “Phúc cho các người là những kẻ nghèo
khó” (Lc 6,20). Điều này có nghĩa là chỉ những người nghèo mới được chúc phúc
và hưởng Nước Trời mà thôi, còn người giầu có bị nguyền rủa: “Khốn cho các
ngươi là kẻ giầu có.”
Cũng câu hỏi này, tôi hỏi một phụ nữ Mỹ không giầu, có vẻ hơi
nghèo. Bà trả lời: “Tôi thích thánh Luca hơn, vì thánh Luca nói rõ người nghèo
sẽ được hưởng nước Thiên đàng. Còn thánh Matthêu nói phúc cho người nghèo khó
trong tinh thần, điều này không rõ ràng. Thật khó hiểu Ngài muốn nói gì”!
Chúng ta thấy người giầu là ủng hộ viên của Những Mối phúc thật
theo thánh Matthêu, và người nghèo là ủng hộ viên của Những Mối phúc thật theo
thánh Luca. Nhưng thực ra, ý nghĩa của hai bài tường thuật như nhau. Cả hai đều
kêu gọi chống lại tất cả mọi tình thế xấu.
Bài đọc 1 so sánh hai thái độ của con người đối với Thiên Chúa:
Những người tin tưởng vào con người như cây gai cằn cỗi trong sa mạc, trong khi
những người tin tưởng vào Thiên Chúa giống như cây sai trái trồng gần suối nước.
Bài Tin mừng hướng chúng ta về người xấu số bất hạnh và mang lại cho họ niềm hy
vọng hạnh phúc tương lai. Tin mừng không lên án người giầu chỉ vì họ giầu,
nhưng vì họ không biết dùng của cải, để cho của cải thành chướng ngại vật chận
đướng lối vào Nước Trời.
Khi Đức Giêsu nói: “Phúc cho những ai khó nghèo”, Ngài đã không
chúc phúc cho sự đói khát và cùng khốn. Đói khát và khốn cùng là điều xấu. Điều
được chúc phúc là lòng trông cậy, tín nhiệm Thiên Chúa. Những người đặt tín nhiệm
của họ vào con người sẽ thất vọng; những người đặt tín nhiệm vào Thiên Chúa sẽ
không bị thất vọng. Chỉ Thiên Chúa mới có thể lấp đầy sự trống rỗng của chúng
ta; chỉ Thiên Chúa mới có thể thỏa mãn khát vọng của tâm hồn chúng ta. Nhưng
thường chúng ta chạy đến Thiên Chúa sau cùng, thay vì chạy đến Thiên Chúa trước
tiên.
4. Hoàng đế Napoléon.
Khi hoàng đế Napoléon, người hùng chinh phục cả Âu châu của
Pháp, bị đầy sang đảo Sainte Hélène, người viết tiểu sử của ông vẫn theo ông
sát cánh. Đối với anh chàng viết tiểu sử này, mỗi một chi tiết trong cuộc đời của
Napoléon đều đáng ghi nhớ, không một biến cố nào là nhỏ cả, và không ngày nào
là không được lưu ý.
Một hôm, biết rằng ngày tận cùng của Napoléon sắp đến, chọn một
giây phút Napoléon cảm thấy thoải mái nhất, người viết tiểu sử hỏi Hoàng đế:
“Thưa ngài, xin ngài cho biết trong suốt cuộc đời của Ngài, ngày nào là ngày hạnh
phúc nhất”? Napoléon không trả lời ngay, quay đầu ra cửa sổ, nhìn biển xanh
thăm thẳm phía xa một hồi, đoạn thở dài và quay lại chậm rải nói với người viết
tiểu sử của ông: “Tôi nhớ, tôi nhớ rất rõ, ngày hạnh phúc nhất trong đời của
tôi đã xẩy ra cách đây lâu lắm rồi, khi tôi còn bé, đó là ngày tôi Rước Lễ Lần
Đầu.”
Trước kinh nghiệm của Napoléon, chúng ta nhìn thấy mặc dù có
danh vọng, giầu sang, và tình yêu đến tuyệt đỉnh cũng không mang lại hạnh phúc
đích thực cho con người, nếu vắng bóng Thiên Chúa (Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa
giữa dòng đời, năm C, tr 91)..
5. Giầu có.
Một chàng nghèo mạt rệp đến hỏi một vị linh mục:
- Con thấy giáo lý trong đạo chẳng thực tế chút nào. Trong khi
ngày Tết đến, mọi người chúc cho nhau có nhiều Tài, Phúc, Lộc, Thọ, thì Chúa
Giêsu dạy: “Phúc cho các ngươi là những người nghèo khó.” Như vậy, theo Chúa
thì được lợi ích gì?
Vị Linh mục trả lời: - Ngài sẽ làm cho anh có nhiều hơn.
Anh chàng hỏi lại: - Nhiều hơn thế nào được?
Linh mục bình tĩnh trả lời: - Khi dạy anh ham muốn ít hơn.
Thực ra, nếu chỉ nghĩ tới hạnh phúc ngay ở trần gian này, thì Lời
Chúa hôm nay khó hiểu và khó chấp nhận, vì người ta không thấy hạnh phúc ngay
trước mắt. Nhưng với con mắt đức tin, chúng ta còn hy vọng vào đời sống mai hậu,
nơi đó mới có hạnh phúc hoàn toàn. Cuộc sống ở trần gian này chỉ là một cuộc
hành trình còn nhiều gian khổ, là cuộc chuẩn bị cho ngày vinh quang đó. Thánh vịnh
sau đây đã diễn tả tư tưởng đó:
Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống
Mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo;
Lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng.
(Tv 126, 5-6)
6. Nghèo mà giàu, giàu mà nghèo
Khi còn tại thế, mẹ không thiếu tiền của, nhưng mẹ vẫn sống như
một “người nghèo khó của Thiên Chúa.” Với chiếc xe hơi Đức Giáo Hoàng Phaolô VI
tặng ở Bombay, mẹ đã bán để lấy tiền xây dựng một trung tâm lớn cho bệnh nhân
phong. Với số tiền nhận từ giải Hoà Bình Gioan XXIII của Vatican, mẹ đã thiết lập
một trung tâm phục hồi chức năng cho người cùi. Với số tiền nhận từ giải Nobel
Hoà Bình mẹ đã xây nhà cho những người nghèo.
Mẹ Têrêxa đã tận hiến cuộc đời mình cho những người nghèo và tất
cả những gì của mẹ đều thuộc về những người nghèo đói, khổ đau, vì mẹ luôn gắn
kết cuộc đời mình với Đức Kitô, tín thác cuộc đời mẹ trong bàn tay yêu thương của
Thiên Chúa. Mẹ đã lấy Thiên Chúa làm cứu cánh và cùng đích của cuộc đời mẹ.
Tóm lại, cho dù là người giàu sang hay người đói khổ, vẫn có thể
trở thành “người nghèo của Thiên Chúa,” thành “người không vật sở hữu,” cho đi
tất cả vì yêu mến và tín thác cuộc đời mình cho Thiên Chúa, lấy Chúa làm niềm cậy
trông là niềm hạnh phúc. Xin cho mỗi chúng ta cho dẫu có là người nghèo khó, vất
vả, khổ đau hay là người giàu có, biết lấy Chúa là niềm cậy trông, là niềm hạnh
phúc.
7. Hạnh phúc đích thực
Vào năm 1918, tại Mỹ đã xảy ra một trận dịch cúm tàn sát bao
nhiêu sinh mạng. Các bác sĩ và y tá tối tăm mặt mũi vì công việc, tình cảnh
trong các dưỡng đường, bệnh viện thật là thảm hại. Trong lúc dầu sôi lửa bỏng ấy,
các thành viên của một hội thượng lưu ở New York quyết đem sức lực ra giúp đồng
bào. Họ giàu có và đã lớn tuổi, có thể chỉ ký một ngân phiếu để giúp bệnh nhân
là xong. Nhưng không, họ không những đã bỏ tiền ra mà còn tình nguyện khoác áo
blouse trắng tới bệnh viện cọ sàn, săn sóc tắm rửa cho các bệnh nhân, vỗ về những
gia đình đau khổ mà không ngại mệt nhọc, cũng không sợ lây bệnh cho chính bản
thân.
8. Tìm lại hạnh phúc
Tại văn phòng của một cố vấn Tâm lý, một thiếu phụ vừa trẻ vừa
giàu giải bày tâm sự: "Bất cứ thứ gì tôi muốn thì chồng tôi đều cho cả.
Tôi có đủ mọi "sự" nhưng trong lòng trống vắng vô cùng. Xin bà hãy
cho tôi một lời khuyên.” Nhà cố vấn tâm lý không trả lời, nhưng bảo cô thư ký của
bà kể chuyện đời cô. Cô này kể:
"Chồng tôi đã chết, cách nay ba tháng. Con tôi cũng chết vì
xe đụng. Tôi cảm thấy mất tất cả. Tôi không ngủ được. Tôi không muốn ăn uống.
Tôi không bao giờ cười. Một hôm tôi đi làm về hơi khuya. Có một chú mèo con cứ
đi theo sau tôi. Trời lạnh. Tôi cũng tội nghiệp nó, nên tôi mở cửa cho nó vào
nhà. Tôi pha cho nó một ly sữa. Nó kêu meo meo và cọ mình vào chân tôi. Lần đầu
tiên tôi cười. Rồi tôi nghĩ: nếu việc giúp cho một chú mèo con có thể làm tôi
cười, thì việc giúp cho người nào đó chắc có thể làm tôi hạnh phúc. Thế là hôm
sau tôi nướng vài ổ bánh đem cho bà cụ hàng xóm đang bệnh. Mỗi ngày tôi cố làm
vài việc gì đó cho những người tôi gặp được vui vẻ. Và quả thực tôi đã thấy hạnh
phúc. Tôi nghiệm ra được điều này là ta sẽ không hạnh phúc khi ta chỉ chờ người
khác đem lại hạnh phúc cho mình; ngược lại ta sẽ hạnh phúc thật khi ta làm cho
người khác hạnh phúc.”
Nghe đến đó, người thiếu phụ trẻ bật khóc. Cô đã có bất cứ thứ
gì đồng tiền có thể mua được nhưng cô đã đánh mất những thứ mà đồng tiền không
mua nổi. Và cô quyết định noi gương cô thư ký nọ. (Charlene Johnson).
9. Chiếc áo lót của một người chăn chiên
Một ông vua nọ có đủ mọi thứ trên đời: Nào là cung điện nguy nga
tráng lệ, vàng bạc chất đầy kho, đủ thứ cao lương mỹ vị; Lại cũng có cả một
đoàn cung tần mỹ nữ phục vụ ngày đêm…
Thế mà nhà vua vẫn không cảm thấy được hạnh phúc. Ngài buồn phiền
không ăn uống bình thường được nên đã phát bệnh. Một danh y được mời đến bắt mạch
và bốc thuốc chữa bệnh cho nhà vua.
Sau khi thăm mạch, vị danh y cho biết đức vua bị tâm bệnh, không
cần dùng thuốc, chỉ cần nhà vua mặc được chiếc áo lót của một ai đó đang sống
sung sướng hạnh phúc, là đủ để khỏi bệnh.
Quân lính được sai đi khắp nơi tìm kiếm con người hạnh phúc nhất
để mượn chiếc áo lót mang về cho nhà vua mặc và chữa bệnh. Sau nhiều ngày tìm
kiếm mà vẫn không tìm ra ai là người thực sự hạnh phúc. Người được hạnh phúc
thoả mãn về điều này thì lại bất hạnh về điều kia; người được no đủ cơm áo vật
chất thì lại bị đau khổ dằn vặt trong tâm…
Rồi đến một hôm, khi đoàn người tìm kiếm sắp nản lòng thất vọng,
thì đột nhiên họ nghe tiếng hát của một anh chàng chăn chiên rất vui vẻ. Anh ta
ca hát say sưa với nét mặt sung sướng hạnh phúc. Chắc hẳn đây chính là con người
hạnh phúc nhất trên đời, mà họ đang ra sức tìm kiếm. Đám quân lính liền đến bên
hỏi thăm anh chàng chăn chiên và được anh thừa nhận luôn cảm thấy mình được
sung sướng hạnh phúc.
Toán lính liền xông vào lột chiếc áo khoác sờn rách cũ kỹ của
người chăn chiên để tìm lấy chiếc áo lót đem về cho nhà vua mặc. Thế nhưng thật
bất ngờ: Anh chàng chăn chiên này nghèo quá đến nỗi ngoài chiếc áo khoác đang mặc,
trên người anh ta chẳng có một chiếc áo nào cả!
10. Bí quyết sống vui
Một vị giám mục nổi tiếng hiền hoà, dễ mến. Khi được hỏi bí quyết,
ngài đáp bí quyết đó là:
Thứ nhất, tôi nhìn lên trời để nhớ rằng đời tôi phải tới đó.
Thứ hai, tôi nhìn xuống đất để thấy phần mộ tôi sau này thật nhỏ
hẹp.
Thứ ba, tôi nhìn chung quanh để thấy bao người nghèo khổ mà đáng
kính trọng hơn tôi.
Thứ bốn, tôi học để biết hạnh phúc thật nằm ở đâu, mọi nổ lực của
tôi sẽ chấm dứt thế nào và những than thở của tôi thật vô cớ biết bao!
11. Hạnh phúc hay bất hạnh ở trong cách nhìn đời
Đây là câu chuyện từ Internet: Như thường lệ, sáng nay, tôi đến
phòng tập thể dục trước khi đến sở làm. Ớ đó, tôi có một người bạn già nhưng rất
thân thiết. Tuy đã 79 tuổi nhưng ông vẫn giữ được thân thể tráng kiện và một
tinh thần yêu đời đặc biệt. Khi gặp tôi, ông nhận ra ngay tâm trạng bất ổn của
tôi. Sau đó hai bác cháu nói chuyện với nhau thật lâu.
- Trong cuộc đời bác, bác cảm thấy lúc nào mình hạnh phúc nhất?
Tôi hỏi và chợt nhận ra mình đã thay đổi câu hỏi. Lẽ ra tôi phải
hỏi là có khi nào bác gặp phải cảm giác buồn chán như tôi bây giờ không.
Hồi bác còn nhỏ, cuộc sống thật khó khăn. - Ông bắt đầu kể. - Bố
mẹ bác đi làm ở xa, cả ngày mới về. Thỉnh thoảng, mẹ mua quà về cho mấy anh chị
em bác, khi thì những chiếc bánh, khi thì mấy viên kẹo. Những lúc đó, bác thực
sự thấy mình là người hạnh phúc nhất.
Đến tuổi đi học, lần đầu tiên bác đánh vần và đọc được tên mình.
Bác thấy tự hào vô cùng, chạy đi khoe khắp nơi, lúc đó là thời gian hạnh phúc nhất
Khi tốt nghiệp đại học, bác được nhận vào làm việc ở một công ty
lớn. Cầm trên tay tháng lương đầu tiên, bác vui sướng biết bao.
Có lần bác bị tai nạn phải nằm bệnh viện khá lâu. Những ngày ở bệnh
viện bác có giờ suy nghĩ được nhiều điều mà trước kia bác không nghĩ đến, được
gặp lại bạn bè và người thân. Khoảng thời gian ấy thật là tuyệt vời.
Và giờ đây, ở tuổi bảy mươi chín, bác vẫn có thể đến đây tập thể
dục hàng ngày. Bác thấy mình vẫn còn có ích cho mọi người xung quanh. Đây là thời
khắc tuyệt vời nhất của bác.
Cháu hãy nghĩ một giai đoạn mới của cuộc đời cũng giống như một
chương mới của quyển sách. Dù có đau khổ, buồn hay vui đều có giá trị cho quyển
sách cuộc đời. Cháu cứ đọc rồi sẽ thấy. (Thảo Nguyên theo Internet)
Tôi phải có thái độ nào đối với những giá trị vật chất của trần
gian và phải sống thế nào trong tương quan với mọi người. Suy nghĩ đúng và sống
đúng, tôi sẽ có hạnh phúc. Ngược lại tôi sẽ trở thành người bất hạnh.
12. Sống như Chúa đã sống
Một sinh viên Nhật bản đến văn phòng của một linh mục ở Boston,
nói:
- Thưa cha, con đang đi tìm một đời hạnh phúc tốt đẹp. Cha có thể
chỉ cho con biết phải tìm ở đâu.
Linh mục đáp:
- Chắc anh muốn trao đổi về tôn giáo?
- Thưa không, con không muốn trao đổi lý thuyết. Việc đó con thấy
nhan nhản rồi. Con cần thứ khác Cha biết không. Khi còn ở ký túc xá đại học
Cambridge, con ở chung phòng với một anh thợ mộc. Anh có đời sống rất đẹp. Anh
không bao giờ nghĩ về mình, mà luôn nghĩ về người khác. Sinh viên tụi con nhiều
khi sống cẩu thả, chén dĩa lung tung, đồ ăn vứt bừa bãi. Thấy thế, anh không
nói gì nhưng khi mọi người ra khỏi phòng ăn, một mình anh đi thu dọn, sắp xếp lại
cho ngăn nắp.
Nghe thế, cha đưa cho anh cuốn Thánh Kinh và nói:
- Hãy cầm lấy. Nếu anh muốn
tìm một đời hạnh phúc tốt đẹp anh hãy tìm trong dó.
Hai năm sau, anh đến gặp cha cười cười nói:
- Cha có nhận ra con không?
- Hình như tôi đã gặp anh ở đâu, nhưng không nhớ rõ.
Anh đưa cuốn Thánh Kinh ra và nói:
- Con đã tìm thấy đời sống
hạnh phúc tốt đẹp rồi cha ạ. Con đã tìm thấy đời sống đó nơi Đức Kitô.
13. Phúc cho kẻ nghèo
Câu chuyện về một vị ẩn tu sống rất nghèo do Đức Cố Hồng Y
Carôlô Maria Martini viết trong một cuốn sách, giúp chúng ta hiểu phần nào về
người giàu có thể có tâm hồn nghèo khó, người nghèo lại không.
Chuyện kể rằng, vị ẩn sĩ này chỉ có một tấm áo rách trên mình và
một cái vò đựng nước đã bể… Một hôm ông hỏi Chúa: “Lạy Chúa, con có phải là người
nghèo nhất trên thế gian này chưa?” Chúa sai thiên thần đưa ông đến trước một
lâu đài sang trọng và bảo: “Người sống trong lâu đài này mới là người nghèo nhất
trên thế gian.” Vị ẩn sĩ rách rưới ngẩn người hỏi Chúa: “Sao lại như thế được?”
Chúa trả lời: “Người sống trong lâu đài sang trọng này có đủ mọi thứ, nhưng
lòng không dính bén chút gì, còn con, con dính bén với chính cái áo rách và cái
vò đã bể của con.”
Khi tuyên bố: “Phúc cho những kẻ nghèo khó”, Chúa Giêsu không hề
có ý muốn biến thế giới thành một thế giới nghèo đói, bần cùng. Của cải vật chất
thật cần thiết để cho con người được sống xứng phẩm giá con người; Thiên Chúa
đã tạo dựng con người đặt con người làm chủ và hưởng dùng mọi sự trong vũ trụ.
Nhưng của cải vật chất là phương tiện, chứ không phải là cứu cánh. Người nghèo
là người biết sống cho những giá trị ấy, cho dù giữa những vất vả lo toan, miếng
cơm, manh áo, họ vẫn luôn tìm kiếm Nước Trời, họ sẽ là người hạnh phúc nhất, vì
biết mình sống để làm gì và sẽ đi về đâu.
14. Quảng đại thì giàu có
Ðại thi hào Tagore người Ấn độ có một bài thơ minh hoạ cho chân
lý nầy:
"Tôi đang đi hành khất hết cửa nhà nầy đến cửa nhà kia dọc
suốt đường làng lúc xe người vàng óng xuất hiện đàng kia như một giấc mơ rực rỡ;
lòng nhủ lòng tôi hỏi đức vua oai phong nầy là ai!
Hy vọng trong tôi giang cánh bay cao; tôi thầm nghĩ ngày xấu số
từ đây thôi chấm dứt; tôi đứng đợi chờ của bố thí chẳng hỏi xin mà có và bạc
vàng trên bụi đường rơi vãi tứ tung.
Xe ngừng nơi tôi đứng. Người đưa mắt nhìn tôi rồi bước xuống, mỉm
cười. Tôi thầm nhủ duyên may đời mình thế là đã đến. Nhưng chẳng chần chừ, người
lại chìa bàn tay phải ra mà nói: Có gì cho ta không?
A ha, gớm chưa lời thử lòng vương giả khi mở bàn tay ăn xin một
người hành khất tầm thường! Bối rối, tôi đứng lặng im lưỡng lự một hồi, rồi từ
từ móc trong bị lấy ra hạt lúa nhỏ bé nhất đưa cho người.
Nhưng, ngạc nhiên xiết bao, lúc ngày tàn, giốc túi ăn xin ra nền
đất, tôi lại thấy giữa đống của bố thí nghèo nàn hạt lúa vàng vô cùng nhỏ bé.
Tôi khóc nức nở, nghĩ bụng ước gì đã có tấm lòng dám cho người tất cả những gì
là của riêng tôi!"
Người ăn xin trên đây đã vò đầu bức tóc và khóc nức nở vì tiếc
xót. Giá như ông ta dốc hết cả túi thóc cho đức vua, thì giờ đây, ông đã được một
túi đầy những hạt bằng vàng!
15. Có Bán Sự Khôn Ngoan
Một ngày nọ, hiền triết Diogène (Hy Lạp) đến giữa chợ Athènes và
dựng lên một căn lều với tấm bảng ghi đậm hàng chữ: “Ở đây có bán sự khôn ngoan.”
Một bậc khoa cử tình cờ đi qua căn lều, đọc được lời rao và cười
thầm trong bụng. Muốn biết phía sau căn lều ấy có những gì, ông mới sai người đầy
tớ cầm tiền để dò la và mua cho được cái mà người bán gọi là sự khôn ngoan.
Người đầy tớ cầm tiền ra đi làm theo lời căn dặn của chủ. Anh ta
đưa cho Diogène 3 hào và nói rằng chủ của anh muốn có sự khôn ngoan. Cầm lấy 3
hào bỏ vào túi, hiền triết Diogène vẫn thản nhiên và ôn tồn nói với người đầy tớ:
“Anh hãy về đọc lại cho chủ anh nghe câu này: ‘Trong tất cả mọi sự, hãy nghĩ đến
Cùng Đích’. Vậy nhé!”
Vị khoa cử thành Athènes vô cùng thích thú vì lời khôn ngoan
này. Ông đã cho viết trước cửa nhà như khuôn vàng thước ngọc để chính ông suy
niệm mỗi ngày, và cũng để mọi người đi qua trước nhà ông đều có thể đọc được:
“Trong tất cả mọi sự, hãy suy nghĩ đến Cùng Đích.”
16. Người giàu tự tử
Trong thực tế, sự giầu có tiền bạc không hẳn bảo đảm hạnh phúc
cho chúng ta. Theo các thống kê của xã hội học về vấn đề tự tử thì tỷ lệ người
giầu tự tử nhiều hơn người nghèo; tỷ lệ người tự tử ở các nước tiên tiến, giàu
có như Hoa Kỳ và các nước Âu Châu dẫn đầu các nước khác (xin vào website
Suicide để tham khảo).
Theo cuộc điều tra mới đây về những người trúng xổ số và trở nên
triệu phú trong giây lát, hầu như không người nào nhờ đó mà sống hạnh phúc hơn.
Vào khoảng đầu năm 2009, thần tài đã đến viếng thăm một ông, và ông đã trúng số
30 triệu; nhưng chỉ vài tháng sau, ông bị mất tích. Bà mẹ ông thì cho rằng ông
sống ẩn dật ở đâu đó, còn cảnh sát thì suy đoán ông đã bị giết, đã phải đổi mạng
sống của ông vì tấm vé số trúng.
Trong thực tế có nhiều người trúng số lớn, đã mất hẳn cuộc sống
tự do lúc bình thường, vì cứ lo bị ‘bắt cóc’, nên đi đâu, ở đâu cũng lo sợ;
ngoài ra, còn bị rầy rà vì bao nhiêu bạn bè, bà con thăm hỏi và xin giúp đỡ,
nên phải rút vào cuộc sống “ẩn dật” cho yên thân. Chắc chúng ta còn nhớ câu
chuyện ngụ ngôn của La Fontaine về “Ông Phú Hộ” đêm đêm mất ngủ vì cứ phải lo
tính tiền bạc và sự làm ăn sao cho khỏi thua lỗ và được giầu có thêm mãi. Trái
lại, người thợ đóng giầy ngủ nhờ dưới chân cầu thang của nhà ông thì đêm nào,
khi đi làm về cũng húyt sáo vui vẻ, rồi đi ngủ ngon một giấc đến sáng để lại bắt
đầu một ngày mới. Ông phú hộ liền đem tặng cho ông ta một túi tiền.
Thế là từ ngày đó, ông ta không còn ngủ yên như trước, vì đêm nằm
cũng lo sợ bị mất trộm túi tiền, và khi đi làm cũng vẫn phải lo giữ túi tiền.
Ông ta cảm thấy cuộc sống không còn bình an, thanh thản như trước. Và ông ta đã
quyết định trả lại ông phú hộ túi tiền để được trở lại cuộc sống nghèo khó
nhưng bình yên hạnh phúc hơn.
17. Vinh Khải Kỳ xưa và nay
Khổng Tử một ngày kia đi dạo núi Thái Sơn, gặp ông Vĩnh Khải Kỳ
cũng đang ngao du tại đó. Ông này mặc áo da cừu, lưng thắt dây đai, tay gảy đàn
cầm, vừa đi vừa hát. Khổng Tử hỏi: Tiên sinh làm thế nào mà thường xuyên vui vẻ
thế?
Vinh Khải Kỳ trả lời: Trời sinh muôn vật muôn loài, mà loài người
là quí nhất. Ta được làm người đó là một điều quý, đáng vui. Trong loài người,
đàn ông quí hơn đàn bà, mà ta được làm đàn ông, đó là hai điều quí, đáng vui.
Người ta sinh ra có người đui người què có người sống yểu chết non, còn bọc
trong tã mà đã chết rồi, mà ta đây hoàn toàn khoẻ mạnh, nay đã 90 tuổi, thế là
ba điều quý, đáng vui. Còn cái nghèo là sự thường của thế gian, cái chết là sự
hết của đời người, ta nay xử cảnh thường như nhiều người, đợi lúc hết như mọi
người, thì có gì là lo là buồn.
Đức Khổng Tử nói: Phải lắm, tiên sinh thế là biết cách hưởng sự
vui sướng ở đời.
Vinh Khải Kỳ quả đang sống những cái phúc ở đời.
Cả 4 mối Phúc của Luca lẫn 8 mối Phúc của Matthêu cũng đều nhắc
tới cái được. Gom tất cả các cái được đó lại và nhại theo câu chuyện giữa Khổng
Tử và Vinh Khải Kỳ mà chúng ta nghe đầu bài, ta có thể thuật như sau:
“Một ngày kia, Đức Khổng Tử đi chu du thiên hạ, gặp một nhóm người
ngực mang khổ giá nhưng nét mặt vẫn tươi vui. Bảng tên của họ ghi “Kitô hữu.” Đức
Khổng Tử hỏi một người trong nhóm: Này anh, kẻ hậu sinh, nhóm của anh tìm được
cái gì mà sao anh và họ vui tươi hớn hở như thế? Nét mặt các anh biểu lộ tâm hồn
của những phúc nhân, những chân phước.
“Chàng Kitô hữu trả lời:
“Chúa Trời sinh muôn vật muôn loài mà loài người là quí nhất.
Chúng tôi được làm người, đó là một điều phúc.
“Chẳng những chỉ là người bình thường mà chúng tôi còn được làm
người con của Trời, con của Chúa, làm thiên tử. Về điều phúc này lớn lao quá, đến
nỗi khổ mấy để đạt được cũng không quản, đạt được rồi, vui mấy cũng không vừa.
Không bút nào tả cho xiết, không lời nào nói cho cùng. Chúng tôi là thiên tử,
là con trời. Đó là 2 điều Phúc.
“Là con trời nhưng Trời không là vị Chúa tể oai phong cho bằng
Trời là Cha, Chúa là mẹ. Chúa là Cha, cũng không phải là cha nghiêm khắc công
thẳng mà là Cha nhân từ. Cha chúng tôi nhân từ đến độ có người cho là nhu nhược,
nhưng Ngài vẫn cứ giữ nhân từ vô cùng như thế. Dù chúng tôi có tội lỗi bao
nhiêu, dù chúng tôi có xúc phạm Ngài thế nào, chỉ cần một tiếng khóc ăn năn:
Phúc cho kẻ than khóc, thì Ngài liền quảng đại thứ tha. Cha chúng tôi quyền
phép vô cùng nên mới nhân từ vô hạn được như vậy. Đó là 3 điều phúc.
“Rồi khi cái chết là sự hết của đời người, chúng tôi sẽ được về
cùng Cha, không phải chỉ mãi là tâm linh là khí phách sống trong nhà Cha, mà cả
xác của chúng tôi cũng được phục sinh trong ngày sau hết để vui hưởng hạnh phúc
trong nhà Cha như nhà mình: đó là 4 điều phúc.”
Nghe chàng Kitô hữu trả lời, Khổng Tử liền nói: “Được 4 chân
phúc như các anh các chị, làm sao các anh các chị không vui, không mừng được. Lời
của các anh chị nghe là lời phúc: Phúc âm. Tin mà các anh chị nhận là Tin Mừng:
Tin Mừng Đức Giêsu Kitô.”
18. Hết lòng giúp đỡ người nghèo
Đấng Đáng kính Pierre Toussaint (1766-1853) có thể thôi thúc chúng
ta nỗ lực xây dựng một xã hội công bình. Ngài là một gương mẫu cho tất cả chúng
ta. Trong một phần cuộc đời, ngài đã là người nô lệ ở Haiti và New York. Cũng
giống như nhiều người sinh ra trong những xã hội bất công, ngài đã kiên trì chịu
đựng nạn kỳ thị chủng tộc với vô vàn gian khổ. Trở thành người tự do ở tuổi 40,
Toussaint đã phát triển một tiệm làm tóc tại New York. Với sự tự do và thành đạt
về tài chính, ngài dùng nguồn lực của mình để giúp đỡ những người khác, chẳng hạn
dành dụm tiền để chuộc lại người chị Rosalie và người vợ tương lai Juliette
Noel. Sự thành đạt không làm cho ngài mù quáng trước đau khổ và nhu cầu của người
khác; nhưng thay vào đó, ngài dùng chính nguồn lực này để cứu giúp họ.
Cuộc đời của Đấng đáng kính Toussaint phản chiếu lòng cam kết
trung thành với công lý và phục vụ tha nhân. Ngài và vợ đã nhận nuôi cháu gái
Euphemia sau khi chị Rosalie mất. Hai vợ chồng đã hỗ trợ các trẻ mồ côi và những
bệnh nhân bị cách ly trong thời gian dịch tả. Biết hai ngôn ngữ nên ngài đã làm
thông dịch viên cho người tị nạn Haiti nói tiếng Pháp tại New York. Toussaint
cũng giúp ích cho Giáo hội nhờ tài năng và lòng quảng đại của mình. Ngài đã tài
trợ các tổ chức, ví dụ như nhà thờ Chính Tòa thánh Patrick và trường thánh
Vinhsơn Phaolô. Đây chính là đức tin vào Đức Kitô được thể hiện bằng hành động.
19. Sự tỉnh thức tâm linh
Trong cuốn truyện The Forst Circle, Salzhenisyn kể lại câu chuyện
của một nhà ngoại giao tên Innokenty. Trong suốt thời kỳ Staline cầm quyền,
Innokenty và vợ ông, Dottie, sống một cuộc sống được ưu đãi. Ở mỗi nhiệm sở ông
được gởi đến, một căn nhà đầy đủ những đồ dùng hoang phí đang chờ đợi họ. Và họ
xum xoe thoả mãn. Họ có mọi thứ họ muốn, và vào một thời kỳ mà Thế Chiến II tàn
phá khắp nơi. Nhưng không có một tiếng thở dài lo âu nào của thế giới làm động
lòng họ.
Tuy nhiên, trong năm thứ sáu của cuộc hôn nhân của họ, Innokenty
bắt đầu có cảm giác bất ổn về mọi vật chất. Cảm giác ấy làm ông bối rối và lo sợ.
Ông có tất cả nhưng ông thiếu một điều gì đó. Cả người vợ yêu quý Dottie cũng
trở thành một người xa lạ với ông. Cách sống xu thời làm ông lúng túng. Ở đâu,
người ta cũng giống nhau và ở đâu, người ta cũng nhảy cẫng lên và nâng ly chúc
tụng người Stalin mà trong thâm tâm họ sợ hãi và khinh miệt.
Một ngày kia, ông bắt đầu xem kỹ những bức thư và sách vở mà người
mẹ quá cố của ông để lại. Khi đọc những bức thư ấy, ông đã khám phá ra một bảng
giá trị hoàn toàn trái ngược với những giá trị của tầng lớp xã hội trong đó có
ông.
Những giá trị của mẹ ông bắt đầu làm ông thức tỉnh. Trong các bức
thư của bà, bà nói về những điều như lòng thương xót, chân lý, lòng nhân hậu,
v.v… Và rồi ông đọc đến một đoạn thư lạ lùng này: “Điều quý giá nhất trong thế
giới này là luôn ý thức rằng mình không được dự phần vào sự bất công.”
Bỗng nhiên, ông khám phá điều mà đời sống ông còn thiếu. Và
trong nhiều ngày đêm, ông đã tiếp tục ngồi đó để hít thở những giá trị của thế
giới mẹ ông như một người hít thở không khí trong lành. Ông khám phá một phương
thế mới để nhìn và phán đoán đời sống. Cho tới lúc đó, triết lý sống của ông là
chúng ta chỉ sống có một lần. Đem chính mình để phục vụ người khác là hoàn toàn
điên rồ. Giờ đây, ông hiểu rõ một sự thật khác: chúng ta chỉ có một lương tâm
và nếu lương tâm trở nên què quặt thì đời sống coi như đánh mất không gì bù đắp
lại.
Bà mẹ ông có một bác sĩ đứng tuổi là người điều trị căn bệnh cho
bà trước khi bà mất. Một ngày kia, ông này sắp lên đường sang Pari nơi đó ông định
trao cho Phương Tây một số bí mật về y khoa bởi vì ông cho rằng thế giới có quyền
biết những bí mật ấy. Nhưng một cái bẫy đã được giăng ra để bắt ông bác sĩ.
Innokenty biết được điều đó. Ông tìm cách gọi điện cho ông bác sĩ. Nhưng cuộc gọi
ấy đã bị theo dõi và Innokenty bị bắt.
Innokenty đã biết giàu sang như thế nào. Khi bạn giàu có tiếng tăm,
bạn là một thành viên của một nhóm được kính trọng, và thật sự bạn không bao giờ
bị đàn áp. Một cuộc gọi điện thoại là một quyết định. Nhưng giờ đây ông đánh mất
việc làm, địa vị, sức khoẻ, và mất cả vợ mình, ông khám phá sự nghèo khó có ý
nghĩa gì. Nghèo khó là không có bạn bè và không có sự an toàn.
Tuy nhiên Innokenty đã tìm được một kho tàng và ông biết điều
đó. Ông có kinh nghiệm về sự thức tỉnh tâm linh. Và như Kahlil Gibran đã nói:
“Sự tỉnh thức tâm linh là điều quan trọng nhất trong đời sống; nó là mục đích
duy nhất của bản thân chúng ta.”
20. Món quà đáng quý
Một ngày kia một người nghèo đi dọc theo một con đường, tình cờ
ông gặp một người ăn mày đến xin ông bố thí. Xấu hổ vì không có gì để bố thí,
người nghèo đáp: “Tiếc thật, nhưng tôi cũng nghèo như anh thôi.”
Khi nghe nói điều đó, người ăn mày nói: “Cám ơn bạn, vì món quà
của bạn.”
Không hiểu người ăn mày muốn nói điều gì, người nghèo hỏi: “Tại
sao ông cám ơn tôi? Tôi có cho ông cái gì đâu.”
“Ồ có chứ”, người ăn mày đáp: “Ông cho tôi sự lương thiện của
ông, sự nghèo khó của ông và lòng tín thác của ông.”
Thiên Chúa không nghèo, nhưng chúng ta nghèo. Thế mà chúng ta có
cái để cho Thiên Chúa. Chúng ta có thể cho Người sự lương thiện, nghèo khó và
lòng tín thác của chúng ta.
21. Phúc cho ai có lòng thương xót
Báo Tuổi Trẻ số ra ngày 2.11.1994 có đăng bài viết về cô Vương
Ngọc Sương, một người tàn tật, phải ngồi xe lăn mà còn mở lớp học tình thương
cho trẻ em nghèo. Và hơn thế nữa, còn sử dụng căn nhà bé nhỏ của mình để chăm
sóc một số bệnh nhân tàn tật giống như cô.
Câu chuyện xảy ra vào năm 1985, trong một tai nạn cô bị chấn
thương cột sống, khiến cho đôi chân mất dần cảm giác. Chồng cô kiên nhẫn thăm
nuôi cô được sáu tháng rồi biệt tăm, để lại cho người vợ tàn tật hai đứa con nhỏ.
Giữa cảnh túng quẫn, cô được một người mẹ nuôi bên Pháp giúp đỡ. Điều đáng thán
phục đó là cô đã vận dụng số tiền nhận được để phục vụ những người tàn tật và
trẻ em nghèo túng.
Có một ông bố mà những đứa con đã được cô nhận nuôi, sau khi đến
thăm cô đã phải bật khóc và nói:
- Tôi còn nguyên vẹn như thế này mà đã hư hỏng, trong khi chị tật
nguyền lại phải lãnh hết việc nuôi dạy các con tôi.
Và từ đó ông cố gắng chừa bỏ tật nghiện rượu là nguyên nhân gây
nên những đổ vỡ trong gia đình ông. Chính mẹ nuôi của cô ở Pháp cũng viết thư
và cho biết:
- Mấy người Pháp đến Việt Nam thăm cô nay trở về cũng tỏ ra là
những người sốt sắng sống đạo khác hẳn trước. Riêng phần mình, cô đã không ngần
ngại thú nhận: trước kia cô đã từng dửng dưng với những khổ đau của người khác
và đã từng làm mất lòng Chúa. Chính nhờ sự tàn tật mà cô được hoán cải. Cô vui
vẻ đón nhận mọi điều Chúa cho xảy ra nơi thân xác cô cũng như nơi môi trường cô
đang sống.
Từ mẩu chuyện trên chúng ta nhận thấy: việc làm của cô là một phản
ảnh trung thực cho lời giảng và việc làm của Chúa. Thực vậy Thiên Chúa đã chiếu
cố đến hoàn cảnh của từng người. Ngài không chỉ loan báo Tin Mừng cho người
nghèo khó, mà còn là hiện thân của Tin Mừng đó. Bởi lẽ, vì yêu thương, Ngài đã
xuống thế làm người, trở nên anh em với hết mọi người. Do đó, không một đau khổ
nào chúng ta phải chịu mà không đụng tới lòng thương xót và chương trình cứu
nhân độ thế do chính Ngài thực hiện. Ngài đã nghiệm thấy cái đói của một bà
goá. Ngài đã chữa lành mọi kẻ phong cùi, bất luận họ là người Syria hay là người
Do Thái. Vì thế mới có sự kiện đoàn lũ dân chúng từ khắp nơi, tuốn đến nghe
Ngài giảng và để Ngài chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền.
Đồng thời Ngài cũng muốn chúng ta biểu lộ lòng thương xót với
anh em bằng những hành động cụ thể, bởi vì khi chúng ta giúp đỡ anh em là chúng
ta giúp đỡ cho Chúa. Nhờ đó mà chúng ta trở nên con cái của Chúa Cha, Đấng ngự ở
trên trời:
- Các con hãy có lòng nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ.
Bởi đó, hãy giúp đỡ những người chung quanh, nhất là những kẻ bất
hạnh và nghèo khổ, để nhờ đó chúng ta sẽ được nếm thử niềm hạnh phúc dạt dào
như lời Ngài đã phán:
- Phúc cho những ai có lòng thương xót vì họ sẽ được xót thương.
22. Người nghèo, có phúc
Một Linh Mục quản xứ lấy làm tiếc, nói: “Chưa có điện, thì trông
cho có điện. Có điện rồi, nhà thờ sáng lên rồi, thì trông cho có người đi lễ,
vì ai nấy đều ở nhà xem ti vi- ti vi mới sắm, nhờ có điện. Không chỉ ở các
thành phố, mà ngay ở các giáo xứ vùng quê hôm nay, cũng đã bắt đầu ít người đi
lễ, đi đến nhà thờ, đọc kinh, cầu nguyện. Mỗi lễ sáng lễ tối có khi được năm bảy
chục người, chỉ toàn là ông bà già…Có ông già than thở: “Ngày ấy nghèo khổ biết
bao nhiêu, mà người đông như kiến tổ; chừ làm ra giàu ra có, nghe chuông đổ, ngủ
khò.” “Hồi còn nghèo còn khổ, nửa củ khoai sùng cũng chia nhau, chừ ra giàu ra
có, nhà ai cũng xây rào.” “Hồi còn nghèo còn khổ, không thấy họ cãi nhau, chừ
ra giàu ra có, nghe chén đĩa lào xào”
Nghèo hay giàu, phúc hay họa, đồng ý là, tùy thuộc vào cách sử dụng
của cải vật chất trần gian, nhưng thực tế nguy cơ nghiêng hẳn về sự giàu có. Vì
sự giàu có có thể mua được tất cả thực tại trần gian, và khả năng mua được những
giá trị vĩnh cửu cũng không kém, nhưng chỉ tiếc là, người ta có chấp nhận mua
những thực tại chỉ thấy được bằng con mắt đức tin: lòng bác ái thật- lòng bác
ái vì yêu người như mến Chúa, lòng bác ái vô vị lợi.
23. Mối phúc thật
Có một nhóm học giả Nhật Bản thường gặp nhau để trao đổi về đủ mọi
vấn đề. Trong những lần gặp gỡ đó, họ thường đem những món trà quí giá và đắt
tiền nhất ra để thưởng thức. Khi đến lượt chuẩn bị cuộc gặp gỡ, người cao niên
nhất trong nhóm đã biến tuần trà thành những nghi thức vô cùng trang trọng: ông
sử dụng bình trà cổ xưa và quí giá nhất của gia đình, ông lựa lọc và nâng niu từng
cọng trà trước khi cho vào bình. Mọi người khen lấy khen để mùi vị thơm ngon của
thứ trà mà họ cho từng được thưởng thức. Ai cũng hỏi cho biết cách ướp và nghệ
thuật của ông, người cao niên mỉm cười nói như sau:
- Trà mà quí vị cho là hảo hạng đây thật ra chỉ là thứ mà người
làm công trong nông trại của tôi uống mỗi ngày. Những điều tuyệt diệu trong cuộc
sống không đắt đỏ cũng không khó tìm.
Nỗi khao khát vô biên về hạnh phúc là một thách đố triền miên
cho con người, hoặc là con người bằng lòng với hiện tại và tìm thấy hạnh phúc đích
thực trong cái mình đang có, hoặc con người sẽ mải mê chạy theo ảo ảnh về của cải,
danh vọng, quyền thế. Chúa Giêsu đến để đặt lại tất cả đúng bậc thang giá trị của
chúng.
24. Nghèo khó
Deborab là nữ tài tử chính trong cuốn phim “Quo vadis”, nói về
cuộc bắt bớ các Kitô hữu tại Rôma, dưới thời bạo vương Néron. Sau khi đóng xong
một cảnh nguy hiểm, một phóng viên đã hỏi cô:
- Cô có cảm thấy sợ hãi khi bày sư tử xông vào ở đấu trường hay
không?
Cô trả lời:
- Không sợ chút nào cả, bởi vì tôi đã đọc trước chuyện phim và
biết chắc rằng tôi sẽ được cứu thoát.
Niềm tin cô đặt vào những người bảo vệ cô là một hình ảnh sống động
cho niềm tin đặt nơi Chúa của những người nghèo khó trong Kinh Thánh. Vậy thì
những người nghèo khó là ai mà lại được Ngài chúc phúc?
Theo tiếng Do Thái thì nghèo túng trước hết là thiếu thốn của cải
vật chất. Nhưng nó không dừng lại ở đó, mà còn phải tiến xa hơn nữa. Vì không
có của cải vật chất, nên từ ngữ này cũng ám chỉ những người không có quyền lực
và ảnh hưởng, hay nói cách khác họ là những kẻ bơ vơ, cô thân cô thế. Và từ chỗ
bơ vơ lạc lõng, họ thường bị áp bức và bóc lột. Và cuối cùng, đám người trên vì
không có của cải, bơ vơ và bị bóc lột, nên một số đã đặt trọn niềm tín thác vào
Chúa.
Thế là từ ngữ này cuối cùng được xử dụng, để chỉ những người
trông cậy nơi Chúa.
25. Nước Trời ở đâu?
Một cha sở nọ vừa giảng về nước Trời. Sau thánh lễ, một giáo dân
đến hỏi ngài:
- Cha quên nói cho chúng con biết phải tìm nước Trời ở đâu. Vị
linh mục trả lời:
- Ồ! ở gần lắm, rất dễ. Tôi biết có một bệnh nhân rất nghèo đang
sống với đứa con của bà ta ở cuối đường nhà thờ. Ông hãy đến thăm bà ta với một
ít tiền và một ít thức ăn và nói với bà ta: " Đây là những gì tôi mang đến
cho bà nhân danh Đức Kitô Chuá chúng ta .” Và ông nói vài lời an ủi bà trong
cơn đau đớn bệnh hoạn, thì ông sẽ thấy nước Trời. Nếu ông không thấy thì tôi sẽ
hoàn trả lại số tiền chi phí lại cho ông. Người kia làm những gì vị linh mục
nói. Sáng hôm sau, ông đến gặp cha sở, nét mặt vui tươi, và nói: "Thưa
cha, đúng thế thật! Con đã thấy Nước Trời và con đã ở đó nửa tiếng đồng hồ."
26. Người giàu cũng khổ
Trong những ngôi nhà của người giàu, chúng ta nhận thấy thiếu một
điều, thiếu sự sống và tiếng cười. Chúng ta không bao giờ thấy con trẻ chơi đùa
trên bãi cỏ. Một bầu khí u buồn dường như bao quanh chúng và đó chính là sự sầu
muộn của giàu có.
Một cặp vợ chồng giàu sống trong một ngôi nhà lộng lẫy. Họ có một
bà giúp việc. Buổi sáng bà nấu một bữa ăn nhẹ. Buổi trưa một bữa ăn ngon và buổi
tối một bữa ăn thịnh soạn cho cặp vợ chồng và những người khách lui tới. Nhiều
năm trôi qua, cặp vợ chồng già đi. Vì thế, họ không tiếp đãi ai. Bữa ăn của họ
gồm có trứng chiên, bánh mì và nước trà pha lạt. Họ im lặng ngồi ăn, hiếm khi
nhìn nhau.
Vào tối thứ bảy, bà giúp việc mời ít người bạn vào một căn phòng
dưới tầng hầm. Ở đó, họ dùng một bữa cơm đạm bạc, uống một chút rượu, mở nhạc,
nhảy múa và nói những câu chuyện vui đùa. Một tối nọ, đang khi những tiếng cười
vang lên, thì cánh cửa mở ra. Đó là cặp vợ chồng chủ nhà. Họ nói với bà giúp việc:
chúng tôi không muốn quấy rầy các bà, nhưng chỉ muốn nhìn các bà vui đùa mà
thôi… Người giàu cũng khổ vì không có niềm vui, không có hạnh phúc.
27. Hạnh phúc ở đâu?
Ermann Coen được mệnh danh là thánh Augustinô của thời đại chúng
ta. Ngài là một người Do Thái rất giàu có. Thời trai trẻ, ngài chỉ biết ăn chơi
và chạy theo thế gian. Sự nhàm chán cứ đè nặng trên vai ngài. Ngày kia, ngài từ
chối tất cả và xin vào tu viện. Trong buổi giảng mùa vọng tại Đền thờ đức bà ở
Paris, ngài nói:
- Tôi đã đi khắp cả mặt đất. Tôi đã yêu thế gian. Tôi đã biết thế
giới và tôi đã học được một điều: không có hạnh phúc ở trên thế gian này. Tôi
đã tìm nó ở những nơi tôi tưởng có nó: ở những nụ cười, ở những cuộc giải trí, ở
những ngày lễ, ở vàng bạc, ở sắc đẹp... Ôi lạy Chúa, những điều con mơ ước ấy
bây giờ ở đâu.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã không cho chúng ta biết
địa chỉ của hạnh phúc, nhưng Chúa chỉ cho con người con đường để có thể có hạnh
phúc.
Đây là lời của mẹ Têrêsa: "Chúng ta có quyền được hạnh phúc
và bình an. Chúng ta được dựng nên vì điều này, được sinh ra để hạnh phúc và
chúng ta chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc thật và bình an thật trong cuộc tình với
Thiên Chúa: có niềm vui khi yêu thương Thiên Chúa, có hạnh phúc lớn lao khi yêu
thương Ngài. Nhiều người nghĩ, nhất là ở Tây Phương, là tiền của sẽ mang lại hạnh
phúc. Tôi nghĩ khi giàu sang bạn khó có hạnh phúc hơn vì bạn khó có thể tìm thấy
Thiên Chúa: bạn có quá nhiều điều để lo lắng.”
Mẹ nói tiếp: "Chúng ta không cần tìm kiếm hạnh phúc: nếu
chúng ta yêu thương người khác chúng ta sẽ được hạnh phúc. Ðó là quà tặng của
Thiên Chúa.”
28. Cái mất của thời hiện đại
Một câu truyện của tạp chí Time (10.5.1993) nói về bà Hillary
Rodham Clinton. Nó mô tả bài phát biểu của Đệ nhất phu nhân tại đại học Texas
vài ngày trước khi cha bà chết. Giọng bà đứt quãng khi trích dẫn lời Lee
Atwater (người phụ trách chiến dịch Bush, đã chết ở tuổi 40 vì chứng bướu não).
Ông có được tiền của và sự kính trọng, nhưng lại cảm thấy trống rỗng sâu xa
trong tâm hồn. Ông nói: “Căn bệnh của tôi giúp tôi nhận ra rằng điều xã hội
đang đánh mất cũng là điều tôi đánh mất, đó là một trái tim nhỏ bé nhưng giàu
tình thương” Và ông kết luận: “Chúng ta phải nói đến sự trống vắng tinh thần
này giữa lòng xã hội Mỹ”
Tôi có thể đồng ý với nhận xét của Lee Atwater không? Chỉ có một
cá nhân có thể làm được gì trước sự trống vắng tinh thần trong xã hội chúng ta?
Kẻ đánh mất của cải đã mất đi nhiều. Những kẻ đánh mất tinh thần
là mất đi tất cả. (Elbert Hubbard)
29. Người nghèo ở gần Chúa
Tại một đạo viện trong đẫy Hi Mã Lạp Sơn có khá đông người Âu Mỹ
theo học với một Đạo Sư. Hằng ngày thầy trò cùng nhau tham thiền ở bãi cỏ trước
đạo viện, sau buổi thiền, họ thường thảo luận, và nếu ai còn thắc mắc điều chi,
thì họ nói ra. Câu hỏi về việc làm thế nào để biết mình gần Thượng Đế, hay còn
cách xa Thượng Đế, đã được một học viên nêu lên. Đạo sư nói: “Câu hỏi này hay lắm,
dĩ nhiên có một tiêu chuẩn, nhưng trước hết, tôi muốn hỏi các bạn một câu. Các
bạn có bao nhiêu ham muốn?” Các học viên hỏi: “Ham muốn loại gì?”
Đạo sĩ trả lời: “Bất cứ loại nào, thí dụ như anh muốn có căn nhà
lớn, có thật nhiều tiền, có người bạn gái thật đẹp, có một mái ấm gia đình, một
khả năng về thể thao, một nghề chuyên môn, một bằng cấp cao, một chiếc xe thể
thao thật lộng lẫy, hay ước ao được nổi tiếng v.v.… Các bạn hãy lấy giấy bút
ra, ghi chép tất cả ham muốn mà các bạn đang có, đang ao ước, rồi đếm xem bạn
có bao nhiêu ham muốn?”
Sau khi mọi người nghi chép xong, Đạo Sư lên tiếng hỏi từng người:
“Bạn có bao nhiêu ham muốn?” Người thứ nhất trả lời: “Tôi có 36 cái.”
Người thứ hai trả lời: “Tôi có 60.”
Người thứ ba trả lời: “Tôi có 18”…
Sau khi chờ mọi người nói xong, Đạo Sư gật đầu, và nói: “Được lắm,
bây giờ các bạn hãy tưởng tượng rằng, có một cây thước đo bề dài mà các bạn ham
muốn, và các bạn có tiêu chuẩn rồi đó.”
Mọi người chưa rõ, hỏi lại: “Chúng tôi chưa hiểu?”
Đạo sư trả lời: “Này các bạn, cái bề dài của danh sách ham muốn
chính là mức độ của các bạn cách xa Thượng Đế. Nói một cách khác khoảng cách giữa
ta và Thượng Đế có thể tượng trưng bằng một con số của các ham muốn mà ta có
trong lòng.”
Một trong những ý nghĩa của tinh thần nghèo khó là lòng ít ham
muốn, (nhất là ham muốn bất chính) bao lâu lòng ta còn chứa đầy dục vọng, thì
Chúa không còn chỗ ở trong ta, và Chúa ở xa ta.
30. Ba đồng cứu sống
Ngày xưa, tại vương quốc kia, đức vua mở phiên tòa xét xử một
tên tội phạm nguy hiểm. Tên tội phạm phải lãnh án tử hình: bị treo cổ. Nhưng tại
vương quốc ấy có một luật lệ đặc biệt: nếu người tử tội nộp đủ 1000 đồng tiền
vàng, hắn sẽ được tha bổng.
Khi người ta sắp treo cổ hắn, thì bà hoàng hậu cùng đoàn tùy
tùng đi săn bắn về ngang qua đó. Bà hoàng hậu thương tình muốn bỏ tiền ra để
chuộc lại mạng sống cho tên tử tội.
Nhưng gom góp tất cả tiền của bà hoàng hậu và đoàn tùy tùng, người
ta cũng chỉ đếm được 997 đồng. Còn thiếu ba đồng. Luật là luật! Nhà vua ra lệnh:
“Treo cổ nó lên!” Sợi dây thừng được tròng vào cổ tên tử tội. Nhưng đúng lúc ấy,
có tiếng người la lên ở giữa đám đông: “Thử lục túi hắn xem, biết đâu đấy!”
Người ta liền lục soát túi hắn và quả thật, họ đã tìm được 3 đồng
tiền chẳng ai ngờ đến! Thế là tên tử tội được tha bổng.
Ba đồng tiền nhỏ nhoi không ai ngờ chính là những đồng tiền thiện
chí, là phần góp nhỏ bé của mỗi người vào ân sủng Chúa ban. Tuy nhiên, đó cũng
còn là những đồng tiền nhân nghĩa, những đồng tiền biết cho đi, biết chia sẻ
cho tha nhân. Những đồng tiền ta trao tặng có thể thật nhỏ bé đến nỗi ta không
quan tâm, những đồng tiền ta cho đi đôi khi ta đã quên mất, nhưng đó lại là những
đồng tiền quý giá nhất, những đồng tiền mua được cả “kho báu trên trời.”
31. Hành trang của khách hành hương
Một khách hành hương đến gặp một linh sư, thấy ông ở trong một
căn phòng trống trải chỉ có một cái giường, một cái bàn, mới hỏi:
- Đồ đạc của thầy đâu hết rồi?
- Đồ đạc của ông đâu rồi?, vị linh sư hỏi lại ông ta.
- Thưa thầy, con đi hành hương nên chỉ mang theo một vài vật dụng
cần thiết thôi.
- Tôi cũng đang trên đường hành hương về trời, nên cũng chỉ cần
đến những vật dụng cần thiết hằng ngày thôi.
Các nhu cầu cho cuộc sống hằng ngày vẫn phải tìm kiếm, nhưng ưu
tiên số một phải dành cho nước Chúa và sự công chính của Người. Chẳng có mất
mát nào có thể đe dọa được người sống như vậy. Giữa mọi mất mát trên đời, họ
luôn có một chỗ dựa vững vàng là lòng Chúa yêu thương: “Duy nơi Thiên Chúa,
linh hồn tôi được an vui.”
32. Tài sản và tình yêu
Ở Phi châu có một bộ lạc khá lạ lùng. Họ không bao giờ đếm, và
không ai biết làm toán. Có một du khách hỏi dân bản địa về số cừu của anh. Anh
ta lắc đầu trả lời: “Tôi không biết”
Người du khách phải hỏi thêm để biết được họ làm thế nào mà quản
lý được đàn cừu: “Nếu lỡ mất một hai con, làm sao anh biết?”
“Tôi không biết con số, nhưng tôi không quên được những khuôn mặt.”
Câu trả lời thật đơn giản nhưng cũng rất ý vị. Mỗi khuôn mặt là
một tương quan. Làm sao con số có thể lột tả được sự phong phú của những tương
quan, và cuộc sống sẽ cằn cỗi biết bao nếu chỉ là những con số.
Cũng thế, tài sản tự nó không có giá trị, giá trị của nó tuỳ thuộc
vào sự sống con người mà nó phục vụ. Thế nhưng có một nghịch lý trong lịch sử
nhân loại: Người ta rất thường khi bắt sự sống phải chịu thiệt thòi để ‘kiếm tiền’
nhiều hơn, và họ gọi đó là ‘kiếm sống’.
Của cải càng nhiều thì sự sống càng dễ trở nên nghèo nàn, cằn cỗi,
vì sự sống con người đâu phải chỉ là mấy chữ ‘cơm, áo, gạo, tiền’.
33. Tôn thờ Thiên Chúa hay tiền bạc
Nhà thần học Teuler người Đức thuật lại: Có lần tôi muốn tìm một
định nghĩa về thánh ý Chúa, tôi suy nghĩ mãi nhưng không tìm ra; tôi cứ đi dạo
thơ thẩn trong các vườn hoa, vào các nhà thờ, lục các thư viện nhưng vẫn không
tìm ra. Một hôm, tôi vào cầu nguyện trong nhà thờ, lúc đi ra tôi thấy một cụ
già ăn mày đang đứng ở cửa nhà thờ ngả mũ xin tiền. Theo thói quen, tôi lấy tiền
biếu cụ và chào: “Bonjour Monsieur!”, nghĩa từng tiếng là “chúc ông một ngày tốt.”
Cụ già trả lời: “Tout les jours sont bons!” (ngày nào cũng tốt).
Nghĩ ông già bướng bỉnh, tôi dừng lại và nói:
- Xin lỗi cụ, cụ đói rách thế mà cụ bảo ngày nào cũng tốt sao?
- Thưa ông, tôi theo ý Chúa. Chúa muốn mưa, tôi cũng muốn, Chúa
muốn nắng, tôi cũng muốn, Chúa muốn sướng, tôi cũng muốn, Chúa muốn cực, tôi
cũng muốn chấp nhận tất cả. Phần tôi đã lo phấn đấu lao động lúc trẻ nên đủ ăn,
giờ đây già, bà con rộng lòng nên cũng đủ ăn, ngày nào cũng đẹp!
Ông Teuler tiếp: “Cụ già này thông hơn tôi, chính ông đã cho tôi
định nghĩa thánh ý Chúa là gì!”
Niềm tin vào Thiên Chúa đã giải thoát ông ăn xin khỏi những ràng
buộc của tiền bạc để tự do mà thưởng thức cuộc đời.
Người giàu có thật không phải là người có nhiều, nhưng là người
có đủ những gì mình cần. Lòng tham làm cho tôi luôn thiếu thốn mọi sự, và tình
yêu làm cho tôi luôn có khả năng chia sẻ. Đó là sống và tự do…
Và đó là Thiên Chúa! Đâu là chọn lựa của tôi?
34. Gánh nặng tiền của
Sau Thế chiến II, một quân nhân Ý muốn có một vật kỷ niệm về cuộc
chiến nên anh đã đi tìm những kỷ vật trong chiến tranh. Anh tìm thấy một tấm
gương gợi nhắc lại thật nhiều kỷ niệm. Tấm gương đó cao bằng đầu và rất rộng
nên anh phải ghé lưng vác về cách vất vả. Đi đường, anh phải lo toan gìn giữ
sao cho tấm gương khỏi vỡ. Có nhiều đêm anh phải tìm nhà thuê để gửi miếng kính
đó, còn mình thì ở chỗ khác. Những đêm không ngủ cạnh tấm gương làm anh mất ngủ
và mất sức.
Vừa mang vác vừa lo lắng quá sức nên một ngày kia, khi đang đi
anh đã đánh rớt tấm gương làm cho nó bể ra từng mảnh. Mới đầu, anh thấy rất buồn,
nhưng sau lại thấy mình thảnh thơi, và anh tự hỏi không biết hôm trước mình làm
chủ tấm gương hay tấm gương làm chủ mình.
Tôi cũng là anh lính đó với tấm gương nặng trên lưng là tiền của
và tài sản đang đợi ngày tan tành tất cả. Thế thì còn gì có phúc hơn khi tôi có
thể đem lại cho chúng một giá trị vĩnh cửu cho hạnh phúc đời đời của tôi: “Hãy
dùng tiền gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón
tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời.”
Quy luật cho hạnh phúc đời đời Chúa đã ban cho tôi là lấy Chúa
làm mục đích sau cùng cho đời mình: “Vậy con hãy qui hướng mọi cái về Cha như cứu
cánh chính của con, vì chính Cha đã ban cho con mọi cái .” (Imit III, IX, 4)
THỨ HAI – XIN ĐIỀM LẠ
Lời Chúa: Mc 8, 11-13
Khi ấy, các người biệt phái xuất hiện và bắt đầu tranh luận với
Chúa Giêsu. Họ xin Người một điềm lạ trên trời để thử Người.
Người thở dài mà nói: "Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ?
Quả thật, Ta bảo các ông hay: Sẽ chẳng cho thế hệ này điềm lạ nào.” Rồi bỏ họ
đó, Người lại xuống thuyền sang bờ bên kia.
TRUYỆN KỂ
1. Một dấu lạ từ trời
Một nhà thám hiểm Tây phương lạc hướng giữa sa mạc. Nguồn lương
thực và nước uống đã khô cạn. Ông lê từng bước mệt mỏi trên cát nóng... Thình
lình ông nghe tiếng suối róc rách và thấy trước mặt mình một ốc đảo xanh tươi.
Thế nhưng, với lối suy nghĩ khoa học của người phương Tây, ông tự nghĩ: “Đây chỉ
là một ảo ảnh... trong thực tế trước mắt ta làm gì có nước và cây cối.” Nghĩ
như vậy, ông lại tuyệt vọng lê bước...
Không bao lâu sau đó, hai người du mục tình cờ đi qua. Họ bắt gặp
một xác người. Một người thốt lên “Chỉ còn hai bước nữa là người này đã có thể
tới ốc đảo và tha hồ uống nước cũng như thưởng thức những trái ngọt cây lành. Tại
sao lại có chuyện thế này?” Nhưng người bạn lắc đầu giải thích “Ông ta là một
người phương Tây. Thế giới của chúng ta đầy ánh sáng và mầu nhiệm, nhưng con
người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy chúng.
Thảm trạng của con người thời đại: Con người có nhiều kiến thức
hơn, nhưng lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy ánh sáng và mầu nhiệm...
con người không còn biết đọc ra những dấu chỉ của thời đại”
2. Hãy cho tôi thấy Thiên Chúa.
Một ông vua thông minh tài giỏi, nhưng rất ngạo ngược. Ngày kia,
ông bèn nảy ra ý kiến hiểm độc. Ông cho triệu các nhà lãnh đạo tôn giáo đến và
ra lệnh trong một tuần lễ phải cho ông thấy được Thiên Chúa, nếu không sẽ bị
chém đầu.
Thật là một đòi hỏi nan giải và hóc búa. Làm sao có thể thực hiện
cho nhà vua được? Vì không thiếu phép lạ, nhưng phép lạ không phải để đáp lại
cái ý muốn điên rồ và thách thức ấy.
Biết được nỗi lo âu ấy, một kẻ chăn chiên đến xin các vị lãnh đạo
cho phép để chỉ cho nhà vua thấy Thiên Chúa. Họ không tin tưởng lắm, nhưng cũng
đành lòng chấp nhận.
Buổi sáng ngày ấn định, anh chăn chiên dẫn nhà vua đến cánh đồng
cỏ nơi anh thường thả đàn vật. Họ cùng nhau đi bộ. Lúc đến nơi thì mặt trời đã
gần lên tới đỉnh đầu. Người chăn chiên đưa tay chỉ mặt trời và nói: “Tâu bệ hạ,
xin hãy nhìn.”
Nhà vua tức giận quát lớn: “Thằng điên! Ngươi muốn ta mù sao? Ai
có thể nhìn vào mặt trời chói chang như vậy”?
Lúc ấy, người chăn chiên liền quì gối xuống trước mặt vua mà
nói: “Muôn tâu bệ hạ, với một vật Chúa làm ra và ánh sáng của nó còn chói
chang, đến nỗi bệ hạ chẳng dám nhìn, thì làm sao bệ hạ có thể nhìn thấy chính
Thiên Chúa được?
3. Chúa thực hiện bằng tay trái
Bà nội và cháu trai 5 tuổi buổi sáng đi dạo ở vùng thôn quê,
sương giá nhuộm trên cành lá tạo cho chúng màu sáng lấp lánh thật quyến rũ.
Bà ngạc nhiên, nhìn lên sườn đồi trong màu vàng đỏ tươi lấp
lánh: "Hãy nghĩ xem, Thiên Chúa đã sơn tất cả cảnh đó.”
Cháu đồng ý: "Vâng, và Ngài đã thực hiện với cánh tay trái
của Ngài.”
- Cháu muốn nói gì?
- Ồ, vào ngày Chủ nhật, chúng con được dậy rằng Chúa Giêsu đang
ngồi bên tay hữu Thiên Chúa.
4. Đức tin không đòi chứng cứ
Sáng nay, lời của ông thấy dạy chính trị làm mình rất khó chịu:
"Tôi thấy cũng lạ, đã tin là có Chúa, có Mẹ, làm sao các nóc nhà thờ trồng
cột thu lôi làm gì. Chẳng lẽ cha mẹ phá huỷ con cái mình sao?" Và mọi người
bàn tán xôn xao.
Khi người ta tôn thờ vật chất và tôn vinh con người cách quá
đáng thì dễ đi tới kết luận tôn giáo là mê tín, hoang tưởng. Họ khó mà có được
lòng khiêm tốn để nhận biết Thiên Chúa, và dễ trở thành những con người độc
tôn. Vô ích nếu chỉ đôi co và biện lý.
Dứt khoát tôi không thể chỉ cho họ thấy một Thiên Chúa nhân hậu
khi tôi chưa sống như một người nhân hậu.
Lạy Chúa, xin cho con biết tin vào Chúa một cách vô điều kiện, để
với niềm tin này con sẽ giúp người khác nhận ra Chúa.
5. Nhìn thấy Thiên Chúa bằng đức tin
Một ông vua thông minh tài giỏi, nhưng cũng chẳng kém phần ngạo
ngược. Ngày kia, ông bỗng nảy ra một ý kiến hiểm độc. Ông cho triệu các nhà
lãnh đạo tôn giáo đến và ra lệnh trong một tuần lễ phải làm thế nào cho ông thấy
được Thiên Chúa, nếu không sẽ bị ông chém đầu.
Thật là một đòi hỏi nan giải và hóc búa. Làm sao có thể thỏa mãn
được đòi hỏi càn dở của nhà vua đây? Không thiếu những phép lạ, nhưng phép lạ
không phải để đáp lại cái ý muốn điên rồ và thách thức ấy.
Biết được nỗi lo âu của vị lãnh đạo, một kẻ chăn chiên đến xin
các ngài cho phép để anh ta được chỉ cho nhà vua thấy Thiên Chúa. Các vị lãnh đạo
không tin tưởng ở anh ta, nhưng trong hoàn cảnh đang bế tắc, cũng chẳng biết
làm sao hơn được.
Buổi sáng ngày ấn định, anh chăn chiên dẫn nhà vua đến cánh đồng
cỏ nơi anh thường thả đàn vật. Họ cùng nhau đi bộ. Lúc đến nơi thì mặt trời đã
gần lên tới đỉnh đầu. Người chăn chiên đưa tay chỉ mặt trời và nói:
- Tâu bệ hạ, xin hãy nhìn.
Nhà vua tức giận quát lớn:
- Thằng điên! Ngươi muốn ta mù sao? Ai mà có thể nhìn thẳng vào
mặt trời chói chang như vậy?
Lúc ấy, người chăn chiên liền quỳ xuống trước mặt vua mà nói:
- Muôn tâu bệ hạ, với một vật Thiên Chúa làm ra và ánh sáng của
nó còn chói chang, đến nỗi bệ hạ chẳng dám nhìn, thì làm sao bệ hạ có thể nhìn
thấy chính Thiên Chúa được?
Ngay lúc ấy nhà vua đã nhìn thấy Thiên Chúa, không phải bằng đôi
mắt, nhưng bằng đức tin.
6. 19 phép lạ trong Phúc Âm Marcô
Để minh chứng quyền năng của Tin Mừng, ông Marcô ghi liên tiếp
19 phép lạ do quyền năng của Tin Mừng:
1- Đức Giêsu vừa cất tiếng gọi các ngư phủ đang quăng chài bắt
cá, tức khắc họ bỏ mọi sự đi theo Ngài (x Mc 1, 16-20).
2- Đức Giêsu xua đuổi thần ô uế ra khỏi một người chỉ bằng một lời
nói (x Mc 1, 23t).
3- Đức Giêsu cầm tay mẹ vợ ông Phêrô đang cảm sốt nặng, tức khắc
bệnh bà biến mất (x Mc 1, 29t).
4- Đức Giêsu chữa lành mọi kẻ đau ốm, và trừ quỷ xuất khỏi những
người bị quỷ ám (x Mc 1, 32t).
5- Đức Giêsu chữa lành người phung hủi (x Mc 1, 40t).
6- Đức Giêsu chữa lành người bất toại được bốn người khỏe khiêng
đến, họ phải đục mái nhà để mau mắn đưa bệnh nhân đến cho Ngài (x Mc 2, 3t).
7- Đức Giêsu chữa lành người có tay khô bại (x Mc 3, 1t).
8- Mọi bệnh nhân chỉ cần rờ đến tua áo choàng của Đức Giêsu là
được lành bệnh (x Mc 3, 10t).
9- Đức Giêsu lên tiếng dẹp sóng gió để thuyền các Tông Đồ đến bến
bình an (x Mc 4, 35t).
10- Đức Giêsu trừ quỷ xuất khỏi một người thuộc xứ Ghêrasa (x Mc
5, 1t).
11- Đức Giêsu chữa lành bệnh một phụ nữ bị băng huyết đã 12 năm
(x Mc 5, 25t).
12- Đức Giêsu phục sinh con gái ông Giairô (x Mc 5, 35t).
13- Đức Giêsu chữa lành một số bệnh nhân ở quê hương Ngài, dù
dân đồng hương chống đối không muốn nghe Ngài giảng (x Mc 6, 4t).
14- Đức Giêsu hóa bánh lần I: 5 bánh và 2 con cá, nuôi một đoàn
lũ không kể đàn bà con nít mà đã tới 5. 000 người (x Mc 6, 30t).
15- Thuyền các Tông Đồ vượt biển gặp sóng gió, Đức Giêsu đi trên
mặt nước đến ban bình an cho họ (x Mc 6, 45t).
16- Mọi bệnh nhân vùng Ghêrasa chỉ cần rờ vào tua áo Đức Giêsu,
ai cũng được lành mạnh (x Mc 6, 53t).
17- Đức Giêsu trừ quỷ xuất khỏi con gái của một phụ nữ người
Phênikia (x Mc 7, 24t).
18- Đức Giêsu chữa lành người điếc và ngọng (x Mc 7, 31t).
19- Đức Giêsu hóa bánh lần II, Ngài dùng 7 chiếc bánh và mấy con
cá nhỏ, cho 4. 000 người đàn ông ăn no nê, không kể đàn bà con nít (x Mc 8,
1t).
Ông Marcô hữu ý ghi lại liên tục những phép lạ như trên để minh
chứng Lời Đức Giêsu là Lời của Đấng Toàn Năng, Ngài chính là Con Thiên Chúa được
Chúa Cha sai đến cứu độ những kẻ tin vào Ngài là Đấng cứu độ duy nhất (x Cv 4,
12; Ga 17, 3).
7. Dấu lạ trong đời sống
Một giảng viên triết hỏi một sinh viên Kitô giáo: “Bạn tin Thiên
Chúa sáng tạo mọi sự, làm được mọi điều. Vậy Người có thể tạo một khối đá cực lớn
mà Người không thể nhấc nổi không?” Cậu sinh viên ấp úng không trả lời được, vì
anh không nhận ra ngay đó là một ngụy biện (fallacy).
Nhiều người trẻ hôm nay bị lúng túng trong những trường hợp
tương tự như thế. Con người đã chinh phục vũ trụ, và những nhà du hành hô lên:
“Chúng tôi không thấy Chúa, không thấy Thiên Đàng.”
Nhiều khi ta thấy mình quá lớn, nghĩ rằng mình đã nắm hiểu hết
và kiểm sóat hết tất cả! Thật ra, hòan tòan không phải thế. Những thảm họa
thiên nhiên thỉnh thoảng ập đến, nhắc ta rằng mình quá bé nhỏ. Những năm vừa
qua, trước những cơn bão như Xangsane, Durian… và dự báo được về đường đi của
chúng, về ngày giờ và nơi chốn chúng đổ bộ, nhưng chúng ta bất lực không thể
đánh tan, chặn đường, hay bẻ hướng chúng, để cứu cho hàng vạn ngôi nhà khỏi sụp
đổ và hàng mấy trăm con người khỏi thiệt mạng. Chúng ta thực sự rất bé nhỏ!
Thay vì tìm cách lập luận chứng minh cho người khác rằng có
Thiên Chúa, bạn hãy chỉ cho họ thấy Chúa qua đời sống và công việc mình làm:
yêu thương, Chia sẻ, cảm thơng, nhẫn nại, tha thứ…
8. Dấu tích của Thiên Chúa
Các ông chủ xưa thường đánh dấu nô lệ của họ bằng những hình xâm
hay những nhãn hiệu. Những dấu này giúp nhận dạng nô lệ. Đó cũng là cách để bảo
vệ nô lệ. Một người sẽ phải suy tính kỹ trước khi làm hại nô lệ của một ông chủ
hùng mạnh. Nền tảng này giúp ta nhận ra ý của bài đọc hôm nay. Dấu đặt trên
Cain giúp nhận ra anh ta còn thuộc về Chúa, đồng thời là một sự bảo vệ đầy nhân
hậu của Ngài.
Tôi có chuyện riêng tư nào tương tự chuyện của Cain không?
Đừng ai gây phiền toái cho tôi nữa, vì tôi mang trên mình tôi những
dấu tích của Chúa Giêsu. (Gl 6,17)
9. Truyện cười Texas
Có cả một nền văn học về “Truyện cười Texas” Chủ đề chung của
chúng là không cái gì ở Texas mà người ta lại làm theo quy mô nhỏ cả. Ví dụ: một
người Nữu Ước làm ơn cho một người Texas. Người Texas cứ đòi trả ơn người Nữu Ước
bằng một món quà gì đó. Sau cùng, người Nữu Ước cũng chiều lòng và nói: “Ồ, một
vài câu lạc bộ chơi golf thì cũng tốt” Ít ngày sau, người Nữu Ước nhận được một
bức điện từ Texas: “Có sáu câu lạc bộ chơi golf cho anh, năm cái hồ bơi ngoài
trời và một hồ bơi bên trong”
Câu truyện cười Texas đó cho chúng ta một cái nhìn về sự quảng đại
không thể tưởng tượng được của Thiên Chúa. Nó nhiều hơn bất cứ thứ gì ta đã cầu
xin hoặc ước mơ.
Nếu Thiên Chúa đề nghị tôi bất cứ điều gì tôi muốn, tôi sẽ xin
gì?
Những món quà Thiên Chúa ban tặng vượt xa những giấc mơ đẹp nhất
của con người (Elisabeth Barrett Browning).
10. Họ đòi dấu lạ
Có một câu truyện cổ kể về hai ông cháu nọ dẫn một con lừa đi
trên đường. Một số người cười họ khờ khạo vì không cưỡi lừa mà đi. Vì vậy người
ông cưỡi lừa cho đến khi có người chỉ trích ông vì bắt cậu bé đi bộ. Rồi khi cậu
bé cưỡi lừa, kẻ khác lại trách cậu không kính trọng người già. Cuối cùng, cả
hai leo lên lưng lừa cho đến khi có kẻ trách họ độc ác với thú vật.
Bài học luân lý của câu truyện khá rõ ràng. Chúa Giêsu cũng phải
đối mặt với những vấn đề và những con người tương tự như thế trong đời Ngài.
Hai ngàn năm đã trôi qua, nhưng mọi thứ vẫn không thay đổi.
Tôi phủ định như thế nào đối với những kẻ luôn có thái độ phủ định
mọi thứ?
Người bi quan phàn nàn về gió.
Người lạc quan hy vọng gió sẽ đổi chiều.
Người thực tế xoay buồm chuyển hướng. (William Arthur Ward)
11. Dấu lạ Thánh Thể
Chuyện kể rằng một vị thánh đang chầu Thánh Thể thì có người vào
báo tin ở ngoài đang xảy ra một phép lạ và người ta kéo tới xem đông lắm. Vị
thánh đã trả lời ở đây cũng đang diễn ra một phép lạ vĩ đại, đó là chính Chúa
Giêsu hiện diện trong nhà chầu, nơi bí tích Thánh Thể và ngài đang chiêm ngắm.
Người Do Thái đòi Chúa Giêsu làm một dấu lạ trên trời, nhưng chính Ngài là dấu
lạ đang ở trước mặt họ thì họ không nhận biết: Ngài sẽ là Dấu Lạ đích thực cho
họ, “dấu lạ Giona,” qua cái chết và cuộc phục sinh của Ngài.
Mời Bạn: Biết bao phép lạ lớn lao Chúa đã thực hiện không phô
trương ồn ào, mà kín đáo tế nhị, âm thầm khiêm tốn.
12. Điềm lạ cho thế giới hôm nay
Một thương gia trở về nhà sau một ngày làm việc mệt nhọc. Ông chỉ
muốn được nghỉ yên trong thinh lặng. Nhưng đứa con trai của ông lại muốn được
chơi với bố. Muốn được yên, ông xé một tờ báo có in hình bản đồ thế giới ra làm
nhiều mảnh và bảo nó gắn lại như trước.
Mười phút sau, đứa bé quay lại tay cầm tấm bản đồ đã được gắn lại
hoàn chỉnh. Người thương gia ngạc nhiên hỏi cho biết làm sao mà con mình có thể
xếp và gắn lại tấm bản đồ mau lẹ như vậy dù nó chẳng biết gì về địa hình của thế
giới.
“Tất cả việc con làm là gắn lại hình người phía sau cho đúng”, cậu
bé trả lời.
Tình hình thế giới và đời sống nhân loại hôm nay như tấm bản đồ
bị xé làm nhiều mảnh, đời sống và hạnh phúc mỗi người bị xâu xé bởi nhiều thứ
khủng hoảng: khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng tình yêu, khủng hoảng gia đình,
khủng hoảng đạo đức…
13. Lo lắng và hoang mang
Tại sao lại lo lắng và hoang mang? Lo lắng và hoang mang vì thế
tục hứa hẹn rất nhiều nhưng cũng đánh mất rất nhiều. Hứa nhiều lắm những điều
chóng qua và sẽ hết, nhưng lại đánh mất nhiều điều thực có giá trị và vĩnh cửu.
Ngày 03/2/1994, trong bài diễn văn tại Bữa Điểm tâm Cầu nguyện tại Washington,
DC., Mẹ Têrêxa nói: “Tôi ngạc nhiên khi thấy tại phương Tây có rất nhiều bạn trẻ
nghiện ngập ma túy. Và tôi thử tìm hiểu nguyên do tại sao như vậy trong khi các
bạn trẻ phương Tây có đầy đủ vật chất hơn các bạn trẻ phương Đông. Câu trả lời
là bởi vì chẳng có ai trong gia đình tiếp nhận họ (…) cha mẹ thường quá bận bịu,
không dành thời giờ cho con cái, thậm chí có khi cha mẹ vẫn chưa chịu kết hôn
hay đã hủy bỏ hôn ước của mình. Vì thế, những đứa trẻ đó lang thang trên đường
phố và sa vào ma túy hay những thứ khác.”
Đúng như lời Chúa tiên báo về những ngày sau hết: “Sẽ có những
điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng
hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét.” (Lc 21,25).
14. Dấu hiệu của tình yêu
Đôi vợ chồng kia, sau ngày mới cưới, rủ nhau vào Vườn Bách Thú dạo
chơi. Cô cậu tới một gốc cây ngồi nghỉ chân, chàng nói với nàng:
- Có anh đây đời em không còn gì phải sợ.
- Anh đã hứa thì luôn phải giữ lời, đừng khi nào bỏ em nhé, em
chỉ sợ mất anh thôi.
- Không đời nào.
Anh vừa dứt lời thì nghe tiếng từ máy phóng thanh trong Sở Thú:
“Alô, Alô, bà con nghe cho rõ: có con cọp mới đưa vào vườn thú, vì nó quá mạnh,
nên xổng chuồng chạy ra ngoài. Bà con phải liệu mà tìm chỗ tránh an toàn.” Thế
là anh chàng vọt lên cây cao để cô nàng dưới gốc cây run rẩy mặt tái mét, và
kêu lên:
- Anh ơi kéo em lên với.
- Anh sợ lắm không xuống được, cọp đến gần rồi kìa, anh mà xuống
nó chộp mất!!?
Chúa Giêsu yêu ta thì khác hẳn, Ngài nói: “Thầy đã yêu là yêu đến
cùng!” (Ga 13,1).
THỨ BA - CÓ CHÚA HIỆP HÀNH
Lời Chúa : Mc 8, 14-21
Khi ấy, các môn đệ quên mang bánh và chỉ còn một chiếc bánh
trong thuyền. Và Chúa Giêsu dặn bảo các ông rằng: "Các con hãy coi chừng
và giữ mình cho khỏi men biệt phái và men Hêrôđê.” Các môn đệ nghĩ ngợi và nói
với nhau rằng: "Tại mình không có bánh.”
Chúa Giêsu biết ý liền bảo rằng: "Sao các con lại nghĩ tại
các con không có bánh? Các con chưa hiểu, chưa biết ư? Sao các con tối dạ như
thế, có mắt mà không xem, có tai mà không nghe? Khi Thầy bẻ năm chiếc bánh cho
năm ngàn người ăn, các con đã thu được bao nhiêu thúng đầy miếng bánh dư, các
con không nhớ sao?" Các ông thưa: "Mười hai thúng.” - "Và khi Thầy
bẻ bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người ăn, các con đã thu được bao nhiêu thúng đầy
miếng bánh dư?" Họ thưa: "Bảy thúng.”
Bấy giờ Người bảo các ông: "Vậy mà các con vẫn chưa hiểu sao?”
TRUYỆN KỂ
1. Men Pharisiêu và Hêrôđê
Con mèo bề ngoài trông có vẻ hiền lành, mềm mại. Khi muốn ăn, nó
đến sát cạnh ta, cọ mình vào chân ta, ve vẩy đuôi, kêu meo meo, gừ gừ tỏ vẻ
tình tứ, nhưng khi đã ăn rồi nó đi thẳng một lèo, gọi mấy cũng không đến. Khi
rình chuột thì nó đi lại rất nhẹ, thu mình vào một xó tối, nằm im không cử động
để chuột mất cảnh giác chạy ra tung tăng. Khi đó, anh mèo mới giở thủ đoạn chồm
lên bắt mồi, ngoạm cổ đem đi cắn xé ăn thịt.
Người giả hình cũng tương tự như vậy.
2. Hãy tránh men biệt phái
Từ thời Ai cập cổ đại, người ta đã dùng men để làm bánh mì, làm
rượu. Mãi đến năm 1857 nhà khoa học Louis Pasteur mới khám phá ra rằng men thực
ra là một thứ vi sinh vật thuộc loài nấm, âm thầm mọc rễ đam chồi trong các chất
hữu cơ và làm biến chất chúng. Có những loài men hữu ích loài người biết được
và sử dụng, nhưng cũng có hàng ngàn thứ men có hại như men chua, men thối làm
hư hỏng thức ăn, thậm chí gây nhiễm độc chết người.
Chúa Giêsu cho biết về mặt thiêng liêng cũng có nhiều thứ “men.”
Có thứ “men Nước Trời” mà người môn đệ Kitô đem thấm nhập vào trong thúng bột
thế giới và âm thầm làm nó dậy men. Cũng có thứ men mà Chúa cảnh giác các môn đệ
phải coi chừng, phải loại bỏ men biệt phái và men Hêrôđê
Khi cảnh giác các môn đệ phải tránh men của biệt phái và men của
Hêrôđê, Chúa Giêsu có ý ám chỉ đến sự mù quáng và những thành kiến của những
nhóm này. Chúa Giêsu đã dùng chữ “men” để nói đến tính kiêu ngạo và thái độ mù
quáng ấy. Thế nhưng, các môn đệ đã không hiều được kiểu nói bóng bẩy ấy, đầu óc
các ông còn đầy những bận tâm về vật chất.
3. Hãy nhìn ra dấu chỉ của thời đại.
Một nhà thám hiểm Tây phương lạc hướng giữa sa mạc. Nguồn lương
thực và nước uống đã khô cạn. Ông lê từng bước mệt mỏi trên cát nóng... Thình
lình ông nghe tiếng suối róc rách và thấy trước mặt mình một ốc đảo xanh tươi.
Thế nhưng, với lối suy nghĩ khoa học của người Tây phương, ông tự nghĩ: “Đây chỉ
là một ảo ảnh... trong thực tế trước mắt ta làm gì có nước và cây cối.” Nghĩ
như vậy, ông lại tuyệt vọng lê bước...
Không bao lâu sau đó, hai người du mục tình cờ đi qua. Họ gặp một
xác người. Một người thốt lên: “Chỉ còn hai bước nữa là người này đã có thể tới
ốc đảo và tha hồ uống nước cũng như thưởng thức những trái ngọt cây lành.”
Tại sao lại có chuyện thế này? Nhưng người bạn lắc đầu giải
thích: “Ông ta là người Tây phương. Thế giới của chúng ta đầy ánh sáng và mầu
nhiệm, nhưng con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy chúng.”
Thảm trạng của con người thời đại: con người có nhiều kiến thức
hơn, nhưng lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy ánh sáng và mầu nhiệm...
con người không còn biết đọc ra những dấu chỉ của thời đại.
4. Thành kiến
Khi còn nhỏ, J. Dillinger phải ra tòa vì một tội vụn vặt. Được
tha về, cha mẹ dẫn anh đến trường. Một số phụ huynh khác thấy thế, đến làm áp lực
với thấy giáo nếu thầy để Dillinger ở đây, chúng tôi sẽ đem con đến trường
khác. Ông thầy bối rối không biết làm thế nào cho các phụ huynh an tâm. Ông
đành nói thật cho Dillinger nghe. Anh bỏ học, không bao giờ bước chân tới trường
nữa. Ít năm sau, anh trở thành một tội phạm nguy hiểm nhất Hoa kì trong thập
niên 30.
5. Men dễ nhiễm – không thua kém ai
Lên Sài gòn học tiếp đại học, tôi và một anh bạn "chúa
ghét" thuốc lá. Nhưng rồi cũng phải hút, là để ngoại giao, xin việc, vì kẻ
nào đến xin việc cũng làm như vậy và họ đã được đưa đón ân cần hơn. Bằng không,
cứ thấy chiếc xe đạp dựng trước cơ quan là y như rằng lại vào ra không, tí khói
lửa liền được chào mời tử tế… Lâu ngày, cứ hễ nhạt miệng là chúng tôi lại mồi
thuốc, bất kẻ những người xung quanh là ai già trẻ, trai, gái, người đau, kẻ ốm…
và bất kể nơi nào, thậm chí ngay trên xe khách chật ních người.
Tệ hơn nữa, bây giờ chúng tôi lại mắc chứng "nổ" hết xảy,
nói dóc không "gớm miệng.” Oái oăm thay, người đời lại thích vậy, nên
chúng tôi có thêm tài "ngoại giao" và kiếm việc làm.
Vâng, chắc chắn cả hai chúng tôi đã nhiễm, không những "mùi
thuốc lá" mà còn mắc phải cả "men lãnh đạm" trước những nhu cầu
của tha nhân, một thứ men làm cho lương tâm ra chai lì, không còn nhạy bén với
chân lý nữa.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến và cho con can đảm lội ngược dòng, để
con sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian, hòa mình chứ không biến
mình, nhập thể chứ không biến thể. Xin mau đến, lạy Chúa, kẻo con "lên
men" mất.
6. Gương xấu mạnh hơn
Một chàng trai trẻ kia, con của một gia đình giàu có, danh giá,
sống buông thả với đủ loại tật xấu, đặc biệt là cờ bạc. Cha mẹ đã làm đủ mọi
cách để giáo dục anh, nhưng không thành. Ngày kia, có một người đến khuyên ông
bố rằng:
- Hãy tụ tập 80 người trẻ tốt lại và để cho học sống chung với
chàng trai trẻ xấu nết kia. Gương sáng của họ rồi sẽ gây ảnh hưởng mạnh đến anh
ta, và chẳng bao lâu đâu anh ta sẽ từ bỏ tật xấu để trở thành người mẫu mực.
Người Cha rất hài lòng với lời khuyên này. Ông cho đi tìm ở khắp
nơi đủ 80 người anh em trẻ tốt lành và hứa sẽ trọng thưởng cho họ, nếu họ cộng
tác giúp con ông.
Ông để cho 80 người này sống chung với con ông trong một ngôi
nhà tách biệt, ngoài họ ra thì không ai khác được vào. Các bữa ăn được bên
ngoài phụ giúp đưa vô.
Sau 80 ngày, người cha của cậu ta mở cửa ra xem cái gì đã xảy
ra, thì ông thấy cậu con trai của ông đang ngồi chơi bài, chung quanh cậu, 80 cậu
con trai nhà lành kia cũng đang mê đánh bài không kém gì cậu! Sự nghiêm chỉnh của
80 cậu con trai nhà lành kia không những đã không ảnh hưởng gì trên chàng trai
nọ; mà ngược lại, chính họ đã tiêm nhiễm tật xấu của anh ta!
7. Tựa nương vào Chúa
Trong cuộc thi Ôlimpic, tổ chức vào năm 1924, vận động viên điền
kinh Eric Liddel, người Xcốtlen đã dành được hai huy chương vàng ở cự ly 200m
và 400m. Còn một giải chạy cự ly 100m được tổ chức vào ngày Chúa nhật. Ai cũng
nắm chắc là anh Eric Liddel là người sẽ đeo vòng nguyệt quế ở cuộc thi này, vì
ngoài anh không còn đối thủ nào sáng giá hơn.
Nhưng Eric Liddel đã từ chối dự thi, vì anh sống trong Hội Thánh
thì Chúa nhật là ngày nghỉ, và đi dự Lễ mới chính là được ở Tầu Noe mới sống
chung với dã thú (kẻ ác) mà vẫn bình an. Do đó huy chương vàng đối với anh
không thể sánh bằng việc đi dự Phụng Vụ của Hội Thánh.
Như thế là anh đã thực hiện được Lời Chúa: “Hãy tìm kiếm Nước
Thiên Chúa và sự công chính của Ngài trước, còn mọi sự khác Ngài sẽ ban thêm
cho” (Mt 6, 33). Đó là mẫu người khôn ngoan sáng suốt đã thoát khỏi tâm trí ngu
đần.
8. Tin vào Chúa
Một cuộc điều tra của UNESCO nhằm tìm hiểu xem dân chúng thế giới
khao khát những gì ngồi những cái họ đang có. Các bảng câu hỏi được gởi đến mọi
thành phần, không phân biệt chủng tộc, giai cấp, địa vị. Khi tổng kết, người ta
nhận thấy rằng chính những người giàu cũng mơ ước mức sống của mình tăng 20%!
Xem ra con người không bao giờ hài lòng với những gì đang có. Chắc hẳn 20 năm
sau, khi mức sống (theo dự báo) tăng 50% nữa, thì con người sẽ vẫn lo, vẫn thấy
mình thiếu thốn.
Tin Mừng hôm nay là lời Đức Giêsu mời gọi các môn đệ hãy tin tưởng
vào Người, và tránh men nghi ngờ, cứng tin của những người Pharisêu.
Bao điều tốt đẹp Chúa làm cho ta, nhiều khi sờ sờ ra đó. Thế
nhưng cũng rất nhiều khi chúng ta không nhìn, không thấy, không nhận ra, hay
không nhớ. Và vì thế ta vẫn cứ lo lắng, nghi nan, không chắc về tình thương và
sự quan phòng săn sóc của Chúa. Lời Chúa hôm nay nhắc nhở ta cần biết nhìn lại
phía sau để hiểu điều phía trước: Chúa làm việc trên cuộc đời ta, trên thế giới
này, Ngài vẫn đang làm việc và Ngài sẽ vẫn tiếp tục làm việc như thế.
9. Nô lệ cho thói quen
- Câu chuyện về loài chim ó:
Nếu đặt một con chim ó vào trong một chiếc lồng, với kích thước
khoảng 2m x 2,5m, nhưng hoàn không có nóc, tức là phần trên lồng được mở toang;
con chim này sẽ vẫn hoàn toàn là một... tù nhân trong lồng đó.
Lý do: con chim ó có thói quen luôn bắt đầu bay bằng cách “chạy
lấy đà” khoảng 3- 4m đầu tiên. Không có quãng đường để chạy lấy đà, theo thói
quen, thì chim ó không thể bay lên được, và do vậy nó sẽ chấp nhận bị cầm tù suốt
đời, trong một “nhà giam” nhỏ không có mái!
- Câu chuyện về con dơi:
Một con dơi thường bay ra ngoài kiếm ăn vào buổi tối. Nó là một
sinh vật nhanh nhẹn, linh lợi và bay chính xác.
Tuy nhiên, nó không thể tự cất cánh được nếu lúc ban đầu không thả
người rớt xuống. Tức là nói có thói quen phải tự thả người nó rớt xuống rồi mới
bay lên được. Nếu nó được đặt trên mặt sàn hoặc một mặt phẳng, thì nó chỉ có thể
lê bước di chuyển người nó loanh quanh một cách vô vọng, và, tất nhiên vô dụng,
không thể bay đi được. Chỉ khi nào nó được rớt xuống từ một độ cao nhỏ thì nó mới
có thể tung mình bay vào không trung được.
- Câu chuyện về con ong nghệ:
Con ong nghệ vốn bay rất giỏi, nếu ta thả nó vào một cái ly lớn
không đậy nắp, nó cũng sẽ ở mãi trong ly đó cho đến chết. Nó không bao giờ có
thể nhìn thấy đường thoát ở phía trên, mà chỉ có thói quen cố gắng tìm cách nào
đó thoát ra qua các mặt ngang bên thành ly, hoặc qua... đáy ly!
- Và câu chuyện về con người...
Trong rất nhiều trường hợp, con người chúng ta cũng giống như
con chim ó, con dơi và con ong nghệ kể trên.
Con người thường xuyên tự vật lộn một cách bất lực với tất cả
các vấn đề rắc rối của mình, mà không bao giờ nhận ra được rằng rất có thể có một
giải pháp giúp họ giải quyết được vấn đề đang ở rất gần, ở ngay trước mắt họ mà
họ không nhìn thấy (hoặc không chịu nhìn thấy), vì từ lâu, con người đã thường
tự giam mình vào trong những "cái lồng" của thói quen, của thành kiến
hẹp hòi, của sự cố chấp, sự ngu dốt, sự ích kỷ, sự tham lam, và sự sợ hãi của bản
thân mình... và kể cả sự lệ thuộc vào người khác.
Nếu con người chịu khó tỉnh táo, sáng suốt tự nhìn lại mình và
tìm cách thoát ra khỏi những "cái lồng" đang giam hãm mình và làm cho
mình mù mắt đó, thì họ sẽ tìm thấy ngay giải pháp cho tất cả các vấn đề rắc rối
đang xảy ra với chính họ!
10. Bất lực với chính mình
James Huberty mang theo một khẩu súng và lái xe đến một nhà hàng
phục vụ thức ăn nhanh ở Ysidro, California. Nhiều phút sau, 21 người ngã gục,
19 người bị thương. Một thời gian sau trên chương trình KFMB/TV, vợ của Huberty
nói rằng chồng bà ta thức dậy, thay đồ và ra cửa. Bà hỏi: “Anh định đi đâu vậy?”
Huberty trả lời: “Anh đi săn người” Kiểu điên khùng này giúp ta thấy rõ ý của
bài đọc hôm nay.
Tôi có thể làm gì đối với sự điên loạn của tội lỗi trong thế giới
này? Và sự điên loạn của tội lỗi trong chính cuộc đời tôi?
Chúng ta không bao giờ chấm dứt tội lỗi cho đến khi vượt qua được
ý nghĩ rằng chúng ta có thể thuê hay chọn một người nào đó để chặn đứng nó lại.
11. Phải biết tránh dịp tội
Trong cuốn “Hành trình theo hướng gió” J.C. Furnas kể câu truyện
về Louis Stevenson, tác giả của tác phẩm cổ điển “Đảo châu báu” như sau: “Hồi
trẻ, Stevenson rất mê tín. Lúc thiếu thời, ông đã xâm lên mình một dấu để trừ
ma quỷ” Có lẽ chúng ta sẽ nói: “Thật là việc kỳ dị, không biết hạng người gì mà
lại làm như thế” Thật ra, bản thân chúng ta cũng làm như thế khi chần chừ trước
cám dỗ, thay vì chống cự ngay lập tức. Đó là ý nghĩa của bài đọc hôm nay.
Tôi sẽ khuyên người bạn của tôi điều gì khi anh ta hỏi tôi làm
thế nào để chống cự cám dỗ?
Chúng ta chịu trách nhiệm về những ý nghĩ xấu đi qua đầu óc
chúng ta, ít hơn một chú bù nhìn về những con chim chỉ bay qua vùng đất gieo giống
mà chú phải canh chừng. Trách nhiệm duy nhất trong trường hợp này là ngăn cản không
cho chúng đậu xuống (John Churton Collins).
12. Ai tin thì sẽ được
Cách đây nhiều năm, một chủng sinh thực hiện một cuộc hành hương
kéo dài hàng tháng mà không mang theo tiền. Anh muốn cảm nhận thế nào là ăn
xin, ngủ nhờ và đặt trọn niềm tin vào Chúa. Anh nói: “Nhiều tối tôi cảm thấy
như muốn hoảng sợ vì chưa tìm được nơi nào để trú chân hoặc chưa kiếm được gì để
ăn cả”
Trong bài đọc hôm nay, các môn đệ cũng kinh nghiệm tương tự về nỗi
sợ hãi, ngay cả khi các ông đã thấy Chúa Giêsu nuôi sống cả đám đông. Chúa
Giêsu quở trách các ông: “Các con không tin là Thầy quan tâm đến các nhu cầu và
lo lắng của các con ư?”
Tôi có tin tưởng vào sự chăm sóc của Chúa đối với những nhu cầu
và lo lắng của tôi không?
Càng tin tưởng vào Chúa, càng thấy Chúa đáng tin tưởng dường
nào! (Cliff Richards).
THỨ TƯ - NGƯỜI MÙ BẾTSAIĐA
Lời Chúa: Mc 8, 22-26
Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ đến Bếtsaiđa, người ta dẫn tới
Chúa một người mù và xin Chúa đặt tay trên người ấy. Chúa cầm tay người mù, dắt
ra khỏi làng, Chúa phun nước miếng vào mắt anh và đặt tay trên anh mà hỏi:
"Ngươi có thấy gì không?" Anh nhìn lên và trả lời: "Tôi thấy người
ta như những cây cối đang đi.”
Chúa lại đặt tay trên mắt người mù, anh liền thấy rõ và khỏi hẳn,
thấy được mọi vật rõ ràng. Chúa Giêsu cho người ấy về nhà và căn dặn:
"Ngươi hãy về nhà, và nếu có vào làng thì đừng nói với ai.”
TRUYỆN KỂ
1. Anh không thấy gì sao?
Trong phong trào hướng đạo có ngành Ấu. Các em thuộc ngành này
được gọi là sói con. Các em sói con qua hai giai đoạn huấn luyện: mở một mắt, rồi
mở hai mắt. Sau khi được mở hai mắt, các em đã tiến bộ về kỹ năng hơn trước nhiều.
Trong bài Tin Mừng hôm qua, Thầy Giêsu đã phàn nàn về sự mù lòa
của môn đệ: “Anh em có mắt mà không thấy sao?” (Mc 8, 18).
2. Ðôi mắt đức tin
Có một người đàn bà đạo đức nọ suốt đời chỉ có một khát vọng, đó
là được thấy dung nhan Chúa trước khi chết. Một đêm kia, trong giấc mơ, Thiên
Chúa cho biết Ngài sẽ đến thăm bà nội đêm mai. Thế là ngày hôm sau, người đàn
bà dọn dẹp nhà cửa và chuẩn bị bữa tiệc thịnh soạn để đón vị khách quý. Thế
nhưng suốt buổi tối người đàn bà chờ đợi vẫn không thấy Chúa đến, bà thiếp ngủ
đi trong chán nản. Bỗng có tiếng nói với bà rằng:
- Tại sao Ta đến mà con không đón tiếp Ta"
Người đàn bà giải thích cho Chúa là bà đã chờ Ngài ở trước cổng
nhà. Người đàn bà ngạc nhiên khi Chúa nói là Ngài đã đến ở cửa sau.
Thế là cả ngày hôm sau, người đàn bà lại chuẩn bị với hy vọng sẽ
gặp được Chúa. Ðêm đến, bà hết chạy ra cửa trước lại vào cửa sau, nhưng tuyệt
nhiên vẫn không thấy Chúa. Lần này trong giấc mơ, Chúa lại hiện đến và trách
người đàn bà. Ngài cho biết là Ngài đã đến qua cửa sổ. Ngài giải thích cho bà
hiểu như sau:
- Nếu con chỉ muốn thấy Ta ở một nơi nào đó mà thôi, con sẽ
không bao giờ có thể thấy Ta ở mọi nơi. Ta muốn cho con thấy Ta, nhưng không phải
một lần trước khi con chết, mà là mỗi giây phút cuộc đời con. Và điều kiện để
được thấy Ta là con hãy từ bỏ khát vọng được thấy Ta bằng con mắt xác thịt, vì
con mắt ấy qua yếu ớt để có thể nhìn thấy sự vô biên của Ta. Con chỉ có thể xem
thấy Ta bằng đôi mắt của quả tim mà thôi.
3. Đức Giêsu-ánh sáng thế gian
Trước đại chiến năm 1914, có một người đã từng viết nhiều bài
báo công kích và nhạo báng đạo Công giáo. Ông tên là Lavedan. Nhưng sau này,
khi gặp nguy hiểm sắp chết, ông liền viết một bài cải chính lại tất cả những gì
ông đã viết trước đây.
Trong bài này, có đoạn ông viết rằng: “Từ trước đến nay, tôi vẫn
nhạo cười chế giễu người Công giáo và tôi tin rằng mình khôn ngoan, giỏi giang,
song thật ra, tôi đã lầm và những ai đọc những tác phẩm và văn thơ của tôi cũng
lầm nữa. Tất cả những gì tôi làm xưa nay, đều lầm lạc, say sưa và mơ hồ. Bỏ
Thiên Chúa, tức là tự sát. Không biết ngày mai tôi có còn sống nữa chăng, nên
giờ đây, tôi phải nói cho mọi người biết điều này là: tôi không dám chết trước lúc
chối Chúa. Hỡi linh hồn tôi, hãy vui mừng và bây giờ tới lúc ngươi có thể quỳ gối
xuống và xưng rằng: “Con tin, lạy Chúa, con tin!”
Đức Kitô là ánh sáng soi chiếu vào đêm tối. Anh mù đã được tình
thương của Thiên Chúa chạm vào anh: Đức Giêsu phun nước miếng vào người mù (x.
Mc 8,23). Tác giả J. Potin nghiên cứu môi trường văn hóa trong Kinh Thánh xác
nhận việc chữa lành bằng cử chỉ đụng chạm với nước miếng là: “Những cách thức
chữa bệnh này rất thông dụng trong các đền thờ ngoại giáo và vẫn còn thịnh hành
trong các môi trường Kitô giáo” (Theo Đức Giêsu, Lịch sử đích thực, Centurion,
tr.172). Chúa Giêsu lấy nước miếng là phương thế bình dân để tỏ bày quyền năng
Thiên Chúa.
4. Thấy và biết mình
Một học giả kia rất thông thái nhưng cũng rất đãng trí. Một hôm
ông cỡi lừa đi thăm một người bạn. Dù đang cỡi lừa, ông vẫn cứ dán mắt vào quyển
sách, tay buông lỏng dây cương. Do đó con lừa sau khi đi một đoạn đường đã quay
trở lại chính ngôi nhà của ông.
Ông tưởng đó là ngôi nhà của người bạn. Ông nhìn ngôi nhà từ
trên xuống dưới, từ trước tới sau, và kết luận "Ông bạn của ta cẩu thả
quá, nhà hư gần sập tới nơi mà không sửa sang gì cả." Vợ ông bước ra tiếp
lời "Ông nhận xét đúng đấy. Nhưng đây là ngôi nhà của chính ông.”
Nhiều người rất sáng về chuyện người khác, nhưng rất mù về những
khuyết điểm của chính mình.
5. Mù tâm linh
Có một người kia sinh ra là đã bị mù. Sống trong một gian phòng,
nhưng bởi anh không thấy gì cả, nên anh phủ nhận tất cả những gì người chung
quanh quả quyết là có: “Tôi không tin, vì tôi không thấy.”
Một vị lương y đem lòng thương hại, đi tìm cho ra một thứ linh
dược trên Hy Mã Lạp Sơn về trị lành bệnh, anh ta sung sướng tự phụ bảo: Giờ
đây, tôi thấy được tất cả sự thật chung quanh tôi rồi!
Nhưng, có kẻ bảo với anh ta: Bạn ơi! Bạn chỉ thấy được những vật
chung quanh bạn trong căn phòng này thôi: Có là bao. Ngoài kia, người ta còn thấy
được mặt trời, mắt trăng cùng các vị tinh tú hằng hà đa số. Còn biết bao vật xấu,
đẹp, lộng lẫy màu sắc huy hoàng mà bạn chưa thấy.
Anh chàng không tin. “Làm gì có được những cái đó! Tôi chưa thấy
những cái đó. Cái gì có thể thấy được, tôi đã thấy tất cả rồi.”
Một vị y sĩ khác bèn lên tận núi cao gặp được sơn thần chỉ cho một
thứ linh dược khác đem về giúp cho anh ấy được cặp mắt sáng hơn và thấy xa hơn
những vật chung quanh trong căn phòng của anh.
Bấy giờ, anh ta thấy được mặt trời, mặt trăng, các vì tinh tú
trên không trung, mừng quá, và lòng tự phụ tự đắc lại tăng thêm. “Trước đây tôi
không tin, nhưng bây giờ tôi thấy, tôi tin. Như thế, giờ đây không còn có gì mà
tôi chẳng thấy chẳng biết. Đâu còn ai hơn tôi được nữa!”
Nhưng, lại có một hiền giả có cặp mắt thần, bảo với anh ta: “Cậu
ơi! Cậu vừa hết mù, nhưng cậu vẫn chưa biết gì cả. Tại sao quá tự phụ như thế?
Cũng như khi cậu ở trong phòng và tầm mắt cậu không vượt khỏi bốn bức tường, cậu
không tin có vật gì ngoài căn phòng của cậu. Giờ đây, tầm mắt cậu vượt khỏi bốn
bức tường, thấy được nhiều vật xa hơn, nhưng với chừng mực của tầm mắt và lỗ tai
của cậu, cậu làm gì biết có những vật ngoài ngàn dặm mà tai mắt cậu không làm
sao mà nghe thấy được. Cậu có thấy những nguyên nhân nào đã cấu tạo ra cậu khi
cậu còn nằm trong bào thai của mẹ cậu chăng? Ngoài cái vũ trụ nhỏ bé mà cậu
đang sống đây, còn không biết bao nhiêu vũ trụ khác vô cùng to lớn và nhiều
không thể kể như cát ở sông Hằng. Tại sao cậu dám tự phụ bảo rằng: Tôi thấy cả,
tôi biết cả? Cậu vẫn còn là một anh mù, cậu vẫn còn lấy tối làm sáng, lấy sáng
làm tối.”
Xét về phương diện nào đó thì mọi người chúng ta đều mắc bệnh
mù, nhất là về phương diện tâm linh.
6. Rồi cũng thấy
Báo Tuổi trẻ, số 144/91, ngày 7.12.91, tr.6 có đăng một câu chuyện
với tựa đề “Nhân vật năm 91 của nước Anh”
Câu chuyện có liên quan đến một cô gái tên là Yuen Har Tsé, một
cô gái mù người Trung quốc. Năm lên hai tuổi, Yuen đến nước Anh. Hơn 20 năm
sau, cả nước Anh đã phải sửng sốt trước người con gái phương Đông này. Cô đã tốt
nghiệp kỹ sư với số điểm cao nhất. Bất chấp tình trạng tật nguyền của Yuen,
hãng Rolls-Royce nổi tiếng thế giới đã mời chị phụ trách một khâu quan trọng của
hãng: vẽ bản thiết kế các bộ phận bên trong của máy. Công trình đầu tiên của
Yuen là thiết kế động cơ nổ cho chiếc trực thăng quân sự mang tên “Con Hổ” sắp
đưa vào sử dụng ở Châu Âu thời đó.
Ở vị trí này, công việc của Yuen đòi hỏi tính chính xác cao,
nhưng chị đã hoàn thành xuất sắc các đồ án của mình, hoàn hảo đến từng chi tiết
nhỏ.
Hiện nay, Yuen có thể phân biệt những hình thể lờ mờ qua một màn
ảnh bằng kính lúp và vẽ bằng một loại mực nổi. Để phác thảo những bản vẽ, những
đồ án trên từng milimét, Yuen đã phải tập trung cao độ, phải nhìn thấy sự vật bằng
tâm trí.
Để tưởng thưởng cho một người công dân xuất sắc này, chính công
nương Diana, đại diện hoàng gia Anh đã trao tặng cho Yuen Har Tsé, một cô gái
mù danh hiệu “Người phụ nữ năm 1991”, một trong những danh hiệu cao quí nhất của
nước Anh.
Vâng, sự kiên trì đã giúp người mù trong bài Tin Mừng hôm nay
thành công.
7. Ý thức về tội lỗi giúp ta gần Chúa hơn
Những người theo trào lưu duy văn tự đã trợ giúp mười hai cuộc
thám hiểm tìm kiếm con tàu Nôê. Năm 1955, họ tìm được một xà ngang hông tàu
hình chữ L dài khoảng 50 thước trên một dãy núi. Sử dụng cách định ngày bằng
phương pháp Carbon-14 các nhà khoa học truy về năm 700 trước Công nguyên. Có những
học giả ước đoán rằng cây xà bên hông tàu này có nguồn gốc từ thời xây dựng Đền
thờ do các đan sĩ, mô phỏng theo con tàu trong Kinh thánh. Hầu hết các học giả
khẳng định rằng câu truyện lụt hồng thủy thuộc thời tiền sử của Kinh thánh và
chỉ nên coi đó là một câu truyện có tính biểu tượng thôi. Nó nhằm dạy chúng ta
rằng tội lỗi dẫn con người đến con đường cùng, và kết thúc trong sự hủy diệt của
chính bản thân và của thế giới. Chỉ duy một mình Thiên Chúa có thể cứu vớt
chúng ta.
Tôi ý thức về tội lỗi của mình thế nào?
Càng ý thức về tội lỗi, chúng ta càng gần gũi Thiên Chúa (Thomas
D.Brainard).
8. Biết và làm
Một người bán hàng trẻ được phân công đến một vùng quê ở miền
Nam. Ngày nọ, anh tình cờ gặp một nông dân ngồi trên chiếc ghế gãy trong sân
ngôi nhà đã xuống cấp. Sau khi tự giới thiệu, anh ta bắt đầu quảng cáo: “Thưa
ông, tôi có một cuốn sách quý như vàng dành cho ông. Nó giúp ông có thể cầy cấy
khu đất của ông tốt hơn mười lần so với hiện nay.” Người nông dân lắc lư chiếc
ghế. Sau khi suy nghĩ một lúc, ông nói: “Anh bạn trẻ, tôi đã biết làm thế nào cầy
cấy khu đất của tôi tốt hơn mười lần so với hiện nay. Vấn đề còn lại chỉ là phải
thực hiện điều đó nữa thôi.”
Cái gì ngăn cản tôi thực hiện Lời Chúa như tôi đã biết?
Khôn ngoan giúp ta biết
phải làm gì.
Khả năng giúp ta biết phải
làm thế nào.
Đức hạnh giúp ta thực hiện
điều đó. (Thomas Jefferson)
9. Bài học kiên nhẫn
Các bệnh nhân đi đến bác sĩ điều trị thường phải đi lại nhiều lần
cho đến khi được chữa lành. Như vậy, chẳng đáng ngạc nhiên khi nghĩ rằng một
vài buổi cầu nguyện đủ để chữa lành nỗi đau tinh thần sao? Bài Tin mừng hôm nay
cho thấy ngay cả Chúa Giêsu cũng phải hơn một cố gắng để chữa lành cho một người.
Chúng ta hãy nhớ rằng Chúa Giêsu cũng lặp lại nhiều lần lời cầu nguyện trong vườn
Gethsemani để được thêm sức mạnh.
Tôi đã kiên nhẫn đến độ nào trong lời cầu nguyện và nỗ lực để chữa
lành nỗi đau tinh thần thường làm tôi vấp ngã?
Khi một cô bé được hỏi đã học trượt băng như thế nào, cô trả lời:
“Chỉ bằng cách đứng lên sau mỗi lần té ngã.”
10. Phận mù lòa cần ánh sáng tình yêu
Bạn có bao giờ cảm nhận được tâm trạng người mang thân phận mù
loà như những vần thơ não nuột dưới đây nói lên chưa?
“Tôi đây thân phận mù lòa
Ngày dài đêm vắn âm u
cũng là
Nghe tiếng cha biết vậy
mà
Nghe tiếng mẹ, mẹ ấy à, mẹ
ơi!”
Họ không thấy được vẻ huy hoàng của ánh sáng ban ngày, không biết
được sự huyền diệu của đêm thanh, không biết thế nào là màu sắc quyến rũ của
muôn hoa, cũng không thấy được cả hình ảnh của những người thân. Tin Mừng hôm
nay thuật lại việc Chúa chữa lành người mù. Ngay khi đón nhận được ánh sáng,
khám phá đầu tiên của anh mù là về con người: “Tôi thấy người ta.” Đó là nhận
thức đầu tiên của người mù được sáng mắt. Cũng vậy, ánh sáng đức tin đưa chúng
ta đến với thế giới con người và nhận diện ra người chung quanh.
Thế giới hôm nay cũng đang sống trong “mù lòa,” không nhận ra
đâu là ý Chúa, không nhìn thấy Chúa nơi anh em mình, nên vẫn sống trong tối tăm
của tranh chấp, tham lam, ích kỷ, hẹp hòi, hững hờ. Nhiều khi chúng ta như “ông
nhà giàu” không nhận biết “người nghèo Ladarô” sống ngay trong cùng một mái nhà
với mình. Chúng ta đã trở nên mù loà trước những nỗi thống khổ của anh chị em.
Hãy làm một hành động bác ái với một người vẫn đang sống gần bên
bạn mà lâu nay bạn đã không quan tâm hoặc cố tình làm ngơ.
11. Hành trình đức tin
Ông N. Simpson bị mù mắt trong một tai nạn. Sau mười năm chạy chữa
và nhờ kỹ thuật cấy giác mạc nhân tạo, cuối cùng, ông đã nhìn thấy được. Ông phải
trải qua hành trình mười năm và mất nhiều tiền của mới có thể nhìn thấy vợ mình
và thế giới chung quanh.
Người mù trong bài Tin Mừng hôm nay cũng phải qua một “hành
trình” lãnh nhận ánh sáng. Anh được “dẫn đến” với Đức Giêsu, rồi Ngài “cầm lấy
tay anh, đưa ra khỏi làng, nhổ nước miếng vào mắt anh, đặt tay trên anh” và “lại
đặt tay trên mắt anh” (cc. 24-25). Phép lạ này được đặt ngay sau câu hỏi của Đức
Giêsu: “Anh em chưa hiểu ư?”
Phép lạ làm nổi bật quyền ban ánh sáng của Đức Giêsu, đồng thời,
cũng là nỗ lực nhằm “mở mắt đức tin” cho các môn đệ, một nỗ lực tiệm tiến và
kiên nhẫn. Người mù dần dần được thấy ánh sáng; các môn đệ cũng dần dần tin
Chúa mạnh hơn qua thời gian.
THỨ NĂM - TUYÊN XƯNG CỦA PHÊRÔ
Lời Chúa: Mc 8, 27-33
Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ đi về phía những làng nhỏ miền
Cêsarê thuộc quyền Philipphê. Dọc đường, Người hỏi các ông rằng: "Người ta
bảo Thầy là ai?" Các ông đáp lại rằng: "Thưa là Gioan tẩy giả. Một số
bảo là Êlia, một số khác lại cho là một trong các vị tiên tri.” Bấy giờ Người hỏi:
"Còn các con, các con bảo Thầy là ai?" Phêrô lên tiếng đáp: "Thầy
là Ðấng Kitô.”
Người liền nghiêm cấm các ông không được nói về Người với ai cả.
Và Người bắt đầu dạy các ông biết Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị
các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống
lại. Người công khai tuyên bố các điều đó.
Bấy giờ Phêrô kéo Người lui ra mà can trách Người. Nhưng Người
quay lại nhìn các môn đệ và quở trách Phêrô rằng: "Satan, hãy lui đi, vì
ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người.”
TRUYỆN KỂ
1. Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá
Lavallière Lepaux là một thành viên Thượng Hội đồng Quốc gia
Pháp, rất ghét đạo Công giáo và luôn tìm cách công kích. Ông lập một đạo mang
tính trí thức mới bao gồm những triết thuyết có vẻ khoa học. Ông cho cán bộ chữ
nghĩa đi tuyên truyền khắp nước Pháp, nhưng rất ít người theo.
Một hôm ông nói với một ông bạn tên là Barras: “Tôi không hiểu tại
sao, tôn giáo của tôi là một công trình triết lý và khoa học, cán bộ của tôi là
người có học thức, có huấn luyện, đào tạo mà không được mấy người theo. Còn ông
Giêsu dùng mấy người chài lưới thất học mà cả thế giới theo ông?”
Barras trả lời: “Thưa ngài, nếu ngài muốn thiên hạ theo đạo
mình, thì ngài để cho người ta đóng đinh ngài vào ngày thứ sáu, rồi sáng ngày
Chúa nhật ngài cố sống lại đi.”
2. Không có gì mà có tất cả
Anh ấy đến với tôi, ồn ào, kiêu hãnh. Và tôi đã thực sự bị chinh
phục bởi sự phong lưu sang trọng của anh. Chiều thứ bảy, anh đón tôi đi chơi.
Ngồi bên nhau trong quán nước quen thuộc, chúng tôi lặng lẽ ngắm nhìn từng giọt
mưa đang rơi nhanh ngoài phố. Một đứa bé ăn xin rách rưới và ướt sũng đến bên
anh, chìa đôi tay tím ngắt run rẩy ra trước mặt anh. Anh thản nhiên lắc đầu.
Nhìn theo dáng đi xiêu vẹo của đứa bé khuất dần sau làn mưa, tôi chợt nghe như
có một cái gì đó đang đổ vỡ trong tâm hồn mình.
Thiên Chúa đến với ta, âm thầm, lặng lẽ, nghèo hèn, giản dị,
nhưng chan chứa tình thương. Tôi và các bạn có sẵn sàng đón nhận Người hay còn
chờ đợi một Thiên Chúa khác, oai nghi và quyền quý, để rồi lại chợt thấy ngỡ ngàng
và hụt hẫng như tôi.
Lạy Chúa, xin cho con hiểu được mầu nhiệm Thánh giá như nhạc sĩ
Văn Cao đã hiểu và nói: "Chúa Giêsu trần trụi trên thập giá. Ngài không có
gì nhưng lại có tất cả"
3. Thập giá là dấu xác nhận
Truyền thuyết thuật lại rằng, một trong ba nhà đạo sĩ gặp được
Chúa ở Bêlem lúc Chúa sinh ra khi về già lại tìm đến Nước Do Thái xem cậu bé
năm nào bây giờ ra sao.
Tại Jêrusalem, những vị kỳ lão vẫn còn nhớ đến ngôi sao lạ,
nhưng hỏi ra thì không ai còn biết gì đến em bé được sinh hạ dưới ánh sao đó là
ai. Ông lại tìm đến Bêlem. Khi hỏi về tông tích của cậu bé thì mọi người đều lắc
đầu, ngoại trừ có một cụ già. Cụ bảo ông:
- Làm gì có ông Giêsu Bêlem, chỉ có ông Giêsu Nazareth, một người
nói phạm thượng khi xưng mình là Con Thiên Chúa, nên cách đây mấy tuần đã bị xử
án thập hình rồi.
Với tâm hồn đầy thất vọng, vị đạo sĩ già nhập đoàn với những
khách hành hương trở lại Jêrusalem vào đúng ngày lễ Ngũ Tuần. Chen lẫn vào đoàn
người đang tạ ơn sau mùa gặt, vị đạo sĩ chú ý đến những người đang vây quanh một
nhóm người. Tò mò, ông tiến gần và nghe có kẻ nói:
- Tưởng gì chứ lại gặp mấy tên say rượu nói tầm phào
Nhưng rồi ông lại nghe thấy một người trong nhóm nói về ông
Giêsu Nazareth đã bị đóng đinh trên Thập Giá và đã được Thiên Chúa Phục Sinh từ
cõi chết.
Như bị thúc đẩy bởi sức mạnh vô hình, vị đạo sĩ già lên tiếng hỏi:
- Vậy bây giờ ông Giêsu ấy ở đâu?
Đại diện nhóm người là Simon Phêrô trả lời:
- Ngài đang ở giữa chúng tôi, ở trong chúng tôi, chúng tôi là
tai mắt, môi miệng của Ngài.
Trong lúc Phêrô đang nói, bỗng có một luồng gió mạnh, và hình lưỡi
lửa một lần nữa đổ tràn xuống mọi người. Vị đạo sĩ bỗng thấy lại ánh sao Bêlem,
nhưng lần này ánh sao ấy chia thành nhiều ánh sao khác rơi xuống từng người.
Trong tâm hồn, nhà vua chợt hiểu: mỗi người phải trở thành hang Bêlem, mỗi người
phải trở nên máng cỏ cho Hài Nhi Giêsu nằm, mỗi người phải mang Ngài đến cho
người khác.
Chúa đã chết và đã Phục Sinh. Ngài đã phải kinh qua Thập Giá rồi
mới bước vào cõi vinh quang.
4. Yêu như Chúa yêu
Vào lúc 12giờ 45 ngày 23 tháng 12 năm 2011, tại thị trấn Long Hải,
huyện Long Điền, Bà Rịa Vũng Tầu, bé gái Đặng Ngọc Minh Tâm ba tuổi, sinh ngày
10-02-2009, đang ru em Đặng Tấn Đạt một tuổi, sinh ngày 06-01-2011, trên chiếc
võng giăng dưới gốc cây trâm.
Thình lình một cơn gió mạnh thổi đến làm vỡ tổ ong vò vẽ lớn
trên cây trâm. Thế là trên 100 con ong độc bay tán loạn, và đáp xuống bu vào
hai chị em, Tâm và Đạt, cô chị lấy thân mình che lấp em, nên cả một đàn ông bu
vào bé Tâm, chích vào đầu và lưng bé 64 mũi nọc độc, làm bé thét lên: “Mẹ ơi
đau quá!” Rồi ngất đi!
Vừa lúc ấy bà mẹ vừa về đến nhà sau khi chở cô chị đến trường học,
bà mới vắng nhà có 10 phút, thấy con mình bị đàn ong bù vàng đầu, bà vội ôm hai
bé đưa vào bệnh viện, nhưng 8 giờ sau đó bé Tâm qua đời!
5. Mầu nhiệm sự dữ và đức tin
Cuốn tự thuật của Clarence Day “Sống với bố” có những ước đoán
xa nhất về những vai trò của Mỹ trong lịch sử. Clarence Day cũng là tác giả của
cuốn tự thuật khác “Thiên Chúa và Bố”, trong đó ông viết: “Cha mong đợi rất nhiều
ở Thiên Chúa.” Ông không thực sự kết án Thiên Chúa bất lực, nhưng khi cầu nguyện,
ông lớn tiếng và đầy giận dữ, như thể một người khách không hài lòng nơi một
khách sạn quản lý cẩu thả.
Ở mức độ nào tôi có khuynh hướng trách cứ Thiên Chúa vì không
ngăn chặn làn sóng tội lỗi đang đe dọa tàn phá thế giới?
Phân biệt chủng tộc là do bạn, hãy chấm dứt nó.
Bất công là do bạn, hãy sửa chữa nó.
Ngu dốt là do bạn, hãy khử trừ nó.
Chiến tranh là do bạn, hãy dừng lại. (Walter Fauntroy)
6. Tìm kiếm giá trị thật
Ray Bradbury có một câu truyện ngắn về năm thanh niên bần cùng.
Vì có kích thước như sau, họ góp tiền và mua một bộ vét đẹp. Vào những ngày cuối
tuần, họ thay nhau mặc bộ váy đó. Câu truyện cho hay những người trẻ ấy cảm thấy
được đối xử thế nào khi mặc bộ vét: người ta mỉm cười, trò truyện và đối xử với
họ như những ông vua. Nhưng khi họ không mặc áo nữa, người ta cau mày, tránh né
và đối xử với họ như những người cùi hủi.
Tôi thường phân biệt đồi xử ra sao khi chỉ dựa vào hình thức bên
ngoài?
Đừng xét đoán con người qua cách ăn mặc. Thiên Chúa tạo dựng con
người, còn thợ may thì trang điểm cho con người bằng quần áo.
7. Cảm nghiệm hiện sinh của đức tin
Hai cậu bé Sue và Tom đang quan sát một con bọ cạp. Sue nói: “Hồi
trước tớ đã bị bọ cạp cắn.” Tom hỏi: “Có đau lắm không ?” Sue suy nghĩ một
chút, rồi nhéo vào cánh tay mình cho đến khi bị đau như vết cắn hồi trước. Sau
đó Sue cũng nhéo Tom y như vậy. Tom nói: “Không đau lắm.” Sue nhún vai và nói:
“Tớ không sao diễn tả cho cậu được, nhưng chỉ biết nó làm tớ đau như thế.”
Có nhiều thứ tôi không thể bày tỏ cho người khác được: cái đau
do bò cạp cắn, việc chiêm ngắm hoàng hôn, lời tuyên xưng niềm tin vào Chúa. Điều
này gợi lên câu hỏi: Tôi có thể làm gì để thúc đẩy người khác, đặc biệt là trẻ
em, tự cảm nhận được điều đó?
Một lạng thực hành giá trị bằng một cân thuyết giáo (John Ray).
THỨ SÁU - AI MUỐN THEO TA, HÃY TỪ BỎ MÌNH
Lời Chúa: Mc 8,34-9,1
Khi ấy, Chúa Giêsu tập họp dân chúng cùng các môn đệ lại, và
phán: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.
Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất
mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình.
Vì chưng được lời lãi cả thế gian mà mất mạng sống mình, thì nào
được ích gì? Và người ta lấy gì mà đánh đổi mạng sống mình? Ai hổ thẹn vì Ta và
vì lời Ta trong thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn
từ khước nó, khi Người đến trong vinh quang của Cha Người cùng với các thần
thánh.” Và Ngài nói với họ: "Quả thật, Ta bảo các ngươi: trong số những kẻ
có mặt đây, có người sẽ không phải nếm cái chết, trước khi thấy Nước Thiên Chúa
đến trong quyền năng.”
TRUYỆN KỂ
1. Từ bỏ chính mình
Trên con đường đi ngang giáo phận Xuân Lộc, có ngôi nhà thờ mặt
tiền mang một dòng chữ to: “Sống là chọn.” Câu này dễ làm ta nghĩ đến câu kế tiếp:
“mà chọn là bỏ.”
Bỏ là điều, dù muốn dù không, ai cũng phải làm nhiều lần trong đời.
Thai nhi phải bỏ bụng mẹ ấm êm, cô gái bỏ gia đình để về nhà chồng. Bỏ khi chọn
việc, chọn trường, chọn nhà, chọn ơn gọi…
Bỏ thường làm ta đau đớn, nhưng ta không thể chọn tất cả. Tuy
nhiên, có khi từ bỏ đem lại niềm vui, đến nỗi ta không biết mình đang bỏ. Một vận
động viên, một nhà khoa học hay một tu sĩ đã tự ý bỏ nhiều điều. Nhưng họ rất
vui khi nghĩ đến kết quả của việc từ bỏ đó.
2. Thánh giá vừa sức mình.
Câu truyện ngụ ngôn dưới đây chứng minh điều đó: có một người
luôn than van những nỗi khổ cực của mình. Một tối kia, thiên thần hiện đến phán
bảo:
- Con hãy theo ta ra nghĩa địa, nơi đó người ta để lại thánh giá
của mình. Con hãy mang thánh giá của con ra để đó và hãy lựa thánh giá vừa sức
con.
Ông ta mang thánh giá của mình ra quăng nơi nghĩa địa, ông bắt đầu
chọn cái khác nhẹ hơn, ông tìm kiếm mãi mà không được: có cây quá là dài, cây
quá ngắn, có cây thì nhẹ nhưng sù sì, khó vác, có cây thì trơn tru nhưng nặng
quá, và sau cùng ông nói với thiên thần:
- Thưa thiên thần, cây nào cũng khó vác quá, chỉ có cây con định
vứt đi là vừa với con thôi.
Thiên thần yên ủi:
- Phải, Chúa đã trao cho con một cây thánh giá vừa sức, con hãy
vui lòng vác đi, đừng than van gì nữa.
3. Phép cộng và hợp tác
Quả vậy, muốn theo Chúa thì phải khước từ tất cả những cản trở
bên ngoài như tha nhân, xã hội, tạo vật... và do bên trong như chính bản thân
mình là các khuyết điểm, thói hư tật xấu, tội lỗi...
Đức Thánh Cha Phaolô VI trong buổi triều yết chung cho giáo dân
ngày 11/03/1970 đã nói: “Đối với chúng ta những người thời nay, một trong những
khía cạnh ít được hiểu biết nhất và cũng có thể nói ít được thiện cảm nhất
trong đời sống Công giáo: đó là sự từ bỏ.
Từ bỏ mình tức là từ bỏ ý riêng mình mà chấp nhận thánh ý Chúa.
Người ta nói: 3 với 4 là 7, có đúng không? Chưa đúng. Muốn thực hiện 3 với 4 là
7 thì phải làm sao cho tan rã hai con số 3 và 4, rồi đúc nó lại thành con số 7
mới được. Chớ cứ để 3 và 4 kề nhau mãi thì làm gì thành 7 được, mà vẫn là 3,4.
Cũng thế, muốn từ bỏ chính mình là phải làm tan ý riêng của ta cho hòa vào ý
Chúa, lúc đó chúng ta mới thực sự là từ bỏ chính mình.
4. Quảng bỏ nam châm
Có một thuyền trưởng ghé tàu qua đảo hoang, bắt gặp một khối lượng
nam châm rất lớn. Ông đem hết lên tàu để về làm giàu. Nhưng tàu bị lạc giữa biển
không sao định hướng được, kim nam châm hải bàn lúc nào cũng chỉ về phía khoan
tàu chứa khối nam châm.
Cuối cùng lương thục thiếu, nhiên liệu cạn dần, người thuyền trưởng
phải quyết định vất bỏ khối nam châm để hải bàn có thể định hướng đúng mà cứu sống
cả con tàu.
"Được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống thì người ta
nào có lợi ích gì?" Câu này đã khiến Phanxicô Xaviê bỏ mọi sự để đi theo
Chúa, thành một nhà truyền giáo nhiệt tình.
Mỗi người chúng ta hãy duyệt lại xem mình đang tìm kiếm những
tôi gì ở đời này (quyền lợi, thú vui, danh vọng…). Rồi nghĩ tới ngày mình nhắm
mắt ra đi. Lúc đó mình sẽ mang theo được những gì?
5. Chọn bạn mà chơi
Người kia có 3 người bạn. 2 người trước là bạn rất thân, người
thứ ba thường thường vậy thôi. Ngày kia ông bị tòa bắt xử liền xin 3 người bạn
đi theo để biện hộ. Người bạn thứ nhất từ chối ngay, viện cớ bận việc quá không
đi được. Người thứ hai bằng lòng đi đến cửa quan nhưng lại không dám vào. Chỉ
có người thứ ba tuy không được ông yêu thích nhưng tỏ ra trung thành vào tận
tòa án biện hộ cho ông ta không những trắng án mà còn được thưởng nữa.
Người bạn thứ nhất là Tiền bạc. Khi ta chết, tiền bạc bỏ rơi ta,
chỉ để lại cho ta một chiếc chiếu và một cái hòm. Người bạn thứ hai là Bà Con Bạn
Hữu. Họ khóc lóc đưa ta tới huyệt rồi về. Người bạn thứ ba là các Việc Lành.
Chúng theo ta đến tòa phán xét và đưa ta vào cửa thiên đàng.
6. Thành đạt nhờ nghịch cảnh
Tại một viện bảo tàng được lát bằng những phiến đá cẩm thạch tuyệt
đẹp, trưng bày giữa đại sảnh là pho tượng mỹ nữ cũng bằng đá cẩm thạch. Từng
dòng người từ khắp nơi trên thế giới đến đây chiêm ngưỡng pho tượng tuyệt mỹ
này. Một đêm, phiến đá cẩm thạch nói với pho tượng với một giọng gay gắt:
- Này, cô bạn mỹ nữ, thật chẳng công bằng tí nào! Tại sao mọi
người đổ dồn về đây cứ bước trên người tôi để mà chiêm ngưỡng bạn? Thật là bất
công quá đáng!
Pho tượng mỹ nữ từ tốn nhắc:
- Bạn còn nhớ chúng ta cùng sinh ra từ một mỏ đá không?
Phiến đá cẩm thạch tiếp tục càu nhàu:
- Chúng ta sinh ra trong cùng một mỏ đá, vậy mà giờ đây mỗi bên
lại được nhận một cách đối xử khác nhau đến thế này. Thật chẳng công bằng chút
nào!
Pho tượng mỹ nữ vẫn bình thản:
- Nhưng này, chắc bạn còn nhớ cái ngày mà nhà điêu khắc chạm những
nhát đục đầu tiên lên người bạn chứ? Và bạn đã chống cự quyết liệt như thế nào!
Phiến đá cẩm thạch phát xẳng:
- Dĩ nhiên là nhớ! Tôi căm ghét hắn. Hắn ghè, hắn đẽo lên người
tôi. Ôi, đau đến chết khiếp!
Pho tượng mỹ nữ thủng thẳng tiếp:
- Thế rồi ông ta không thể tiếp tục tạc tượng trên mình bạn nữa,
vì bạn chống cự dữ dội quá.
Phiến đá cẩm thạch chống chế:
- Ừ, thế thì sao nào…
Pho tượng mỹ nữ tiếp lời:
- Khi ông ấy quyết định từ bỏ bạn và quay qua đục đẽo trên người
tôi, ngay lúc ấy tôi biết rằng mình sẽ biến thành một cái gì khác hơn là những
khối đá thô kệch, nơi chúng ta cùng sống chung trước đó. Tôi đã không chống cự
lại ông ta, và cố gắng chịu đựng tất cả những đau đớn mà ông ta đang cố đục đẽo
trên người tôi.
Phiến đá cẩm thạch ầm ừ.
7. Chết để được sống mãi
Ngày nọ, trại giam của cha Maximilien Kolbe có một tù nhân vượt
ngục. Sáng hôm sau, lúc điểm danh thấy thiếu mất một người, viên sĩ quan áp dụng
ngay luật lệ của Phát-xít Đức: hễ một tù nhân trốn thoát, mười người tù khác phải
đền mạng.
Trên sân nhà tù, ai nấy đều thinh lặng và khiếp đảm.
Viên sĩ quan coi tù vừa giận dữ rảo bước, vừa đưa tay chỉ định:
tên này... tên này... Ai lâm vào số đoạn trường thì phải sang sắp hàng một bên.
Chợt có tiếng kêu thất thanh: “Khốn cho tôi, tôi còn vợ và một đàn con nhỏ.”
Giữa bầu khí thinh lặng rùng rợn ấy, một tù nhân bước ra khỏi
hàng, đứng nghiêm trang im lặng. Viên sĩ quan Đức quát hỏi:
- Mi là ai?
- Maximilien Kolbe, Linh mục Công Giáo.
- Mi muốn gì?
- Tôi xin tình nguyện chết thay cho anh bạn tù này (ngài đưa tay
chỉ người vừa la thất thanh), vì anh còn con thơ vợ dại.
- Muốn ngu thì cho ngu? Vào sắp hàng thế, còn thằng kia được
tha!
Mọi tù nhân có mặt trên sân đều ngơ ngẩn, ngạc nhiên, thán phục...
Viên sĩ quan Đức hô lớn: “Sắp sẵn! Đi!” Mười người lặng lẽ đi vào phòng giam
đói. Theo lời các tù nhân thuật lại, thường những kẻ bị giam đói khóc lóc, chửi
rủa cho đến khi tắt hơi. Nhưng lần này thì khác. Cha Kolbe luôn miệng khuyến
khích thúc giục mọi người cầu nguyện. Các tù nhân bên ngoài nghe tiếng họ hát
và đọc kinh, ban đầu lớn, càng về sau càng yếu dần đi, rồi đến một lúc thì hoàn
toàn im lặng. Ngày thứ 12, cửa phòng giam đó được mở ra. Mọi người đều đã chết,
trừ một mình cha Kolbe, với đôi mắt vẫn sáng dù thân hình đã tàn rũ. Viên cai
ngục bắt ngài đưa tay ra và chích cho một mũi thuốc độc ân huệ. Vị linh mục chết
ngay. Họ đưa xe đến xúc xác ngài và các bạn tù đổ vào lò đốt.
Mấy chục năm sau, vào năm 1971, Toà Thánh đã tôn phong ngài lên
bậc Chân phước, sau khi cứu xét kỹ lưỡng các nhân đức anh hùng của ngài. Giây
phút cảm động nhất trong thánh lễ tôn phong do Đức Phaolô VI chủ tế là lúc dâng
lễ vật: một đoàn người tiến lên mang bánh, rượu, nến và hoa hồng trắng đỏ: hoa
hồng trắng chỉ sự khiết trinh, hoa hồng đỏ chỉ sự hy sinh tử đạo. Đoàn dâng lễ
gồm có người Balan, đồng hương của ngài, và vài thiếu nữ mặc quốc phục Nhật Bản,
nơi ngài đã đến truyền giáo. Cảm động hơn cả là lúc Đức Thánh Cha ôm hôn ông
già bưng chén thánh tiến lên: đó chính là tù nhân đã được cha Kolbe thế mạng.
Trong lúc ấy, toàn thể cộng đoàn hát vang khúc tình ca: “Không có tình yêu nào
cao quí bằng chết thay cho bạn hữu.” Mọi người tham dự buổi lễ hôm ấy không ai
cầm nổi giọt lệ.
8. Sức mạnh của lòng tin
Một nghệ sĩ xiếc nhào lộn trên dây giữa tiếng trầm trồ của đám
đông. Nghệ sĩ bèn hỏi: “Có ai muốn lên đây đi với tôi không?” Không ai dám liều
cả. Giữa im lặng tuyệt đối, một em bé bước lên. Em nắm tay người đàn ông đi từ
đầu này qua đầu kia.
Khi em xuống, mọi người đặt câu hỏi: “Em rất can đảm. Nhưng tại
sao em dám liều vậy?” Câu trả lời thật đơn sơ và dễ thương: “Vì ông ấy là cha
tôi!”
Câu chuyện giúp chúng ta suy nghĩ: Em bé không phải là người anh
hùng can đảm, cũng không phải là kẻ mất trí liều mạng. Em làm như vậy vì em
trao phó sự an nguy của mình cho cha em, người mà em hoàn toàn tin tưởng. Cũng
vậy, khi hoàn toàn đặt đời mình vào tình yêu của Cha trên trời, dám liều mất mạng
vì Chúa Kitô và vì Tin Mừng nhưng thì sẽ không mất nó mà lại có được sự sống đời
đời.
9. Tin là vâng phục
Tiếng nhạc đến từ một chiếc radio tùy thuộc vào chiếc radio. Khi
radio còn mở, âm thanh vẫn còn, nhưng khi tắt radio, thì âm thanh cũng chấm dứt.
Giả sử một ngày nào đó âm thanh nói với chiếc radio: “Ta tuyên bố hết lệ thuộc
ngươi, từ giây phút này, ta tự quyết định đóng hay mở, ta không cần ngươi nữa.”
Một tình huống như thế thật buồn cười.
Bài đọc Kinh thánh hôm nay cũng đưa ra một tình huống tương tự.
Con cháu Nôê tuyên bố độc lập với Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng và bảo tồn
chúng.
Về phương diện nào, tôi có khuynh hướng tuyên bố không tùy thuộc
Thiên Chúa?
Tội lỗi có bốn đặc điểm:
Tự túc thay vì tin tưởng.
Bướng bỉnh thay vì qui phục.
Tìm tư lợi thay vì nghĩ đến người khác.
Tự mãn thay vì khiêm nhường. (E. Paul Hovey)
10. Đức tin không hành động là đức tin chết
Đavit Rothenberg, một cậu bé bảy tuổi bị bỏng gần 90 phần trăm
cơ thể vì bị cha cậu đốt sau khi ông bị bệnh tâm thần. Siêu sao bóng chày,
Reggie Jackson, cảm thấy thương hại cậu bé, anh đã đến thăm và giúp đỡ cậu bằng
nhiều cách khác nhau. Tình trạng của Đavit được nhanh chóng hồi phục. Mẹ cậu
nói rằng sự hồi phục của cậu là nhờ lòng tốt của Reggie.
Chướng ngại chủ yếu nào khiến tôi không biến niềm tin vào hành động?
Tôi có thể vượt qua điều này như thế nào?
Bạn có lòng tốt muốn bày tỏ ư?
Hãy bày tỏ đi.
Nó không chỉ được trao cho người anh em.
Hãy để nó trải dài theo năm tháng.
Hãy để nó lau khô những dòng lệ.
Cho đến khi nó được bày ra trước Nhan Chúa. (Henry Burton)
11. Hoa trái của thế tục
Vào năm 1923, có một hội nghị cấp cao được tổ chức tại khách sạn
Edgewater Beach ở Chicago. Chín người trong số những người thế lực nhất nước Mỹ
có mặt trong hội nghị. Trong số họ có các chủ tịch công ty thép lớn nhất, công
ty hơi đốt lớn nhất, công ty dịch vụ lớn nhất nước. Hai mươi lăm năm sau, các
trùm tư bản này đã đi về đâu? Ba người chết không một xu dính túi, ba người tự
tử, hai người ngồi tù, một người mất trí.
Số phận của những thương gia này minh họa cho Lời Chúa trong Tin
Mừng hôm nay, và mời gọi tôi tự hỏi: “Đến mức độ nào tôi đang có nguy cơ rơi
vào những sai lầm như vậy?
Hãy cho chúng tôi cái nhìn rõ ràng để biết mình đang ở đâu và vì
mục đích gì. Bởi lẽ chúng tôi có thể ngã quị vì bất cứ cái gì, trừ phi biết
mình sống vì mục đích gì (Peter Marshall).
12. Chọn lựa là quyết định của cuộc đời
Đang khi vị tướng La Mã lừng danh Fabiô Maximô thảo luận với bộ
tham mưu về chiến thuật đánh chiếm một vị trí quan trọng, thì một cố vấn đề nghị
phương cách chiến thắng với số thương vong ít nhất có thể. Maximô nhìn thẳng
vào vị cố vấn ấy và hỏi: “Thế ông có sẵn lòng làm một trong số ít người đó
không?”
Chúa Giêsu không phải là một vị tướng ngồi từ xa đùa giỡn với
sinh mạng con người như những con tốt thí. Nếu Ngài đòi hỏi người ta phải đương
đầu với điều gì, chính Ngài cũng sẵn sàng đối đầu với nó. Nếu Chúa Giêsu kêu gọi
mỗi người chúng ta vác thập giá, bởi vì chính Ngài đã từng vác một cây như vậy.
13. Điều kiện làm môn đệ Chúa
Một nhân viên khi được nhận vào một công ty, xí nghiệp, hay tổ
chức hành chính thường phải đáp ứng một số yêu cầu như bằng cấp, kinh nghiệm thực
tiễn, khả năng giao tiếp, ngoại hình, ngoại ngữ…
Đang khi ấy, muốn trở thành nhân viên của Chúa Giêsu, chỉ cần một
điều kiện duy nhất, nhưng rất gay go, đó là TỪ BỎ CHÍNH MÌNH. Từ bỏ chính mình,
một điều tưởng như đơn giản, nhưng thật ra không dễ dàng chút nào, bởi vì đòi
ta phải ra khỏi cái tôi ích kỷ và bản năng sinh tồn tự nhiên để thong dong tự
do và trung thành bước theo Chúa.
Kinh nghiệm của những người leo núi cho ta thấy rằng hành trang
càng gọn và nhẹ, càng giúp ta leo nhanh và leo cao. Cái tôi cố hữu của chúng ta
là thứ hành trang cồng kềnh nhất, nặng nề nhất cản trở bạn và tôi tiến bước
trong quá trình trở thành môn đệ Chúa Kitô, phải không bạn?
THỨ BẢY -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
LỄ KÍNH - LẬP TÔNG TÒA THÁNH PHÊRÔ - TẢNG ĐÁ PHÊRÔ
Lời Chúa: Mt 16, 13-19
Khi ấy, Chúa Giêsu đến miền Xêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ
rằng: "Người ta bảo Con Người là ai?"
Các ông thưa: "Kẻ thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là
Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một trong các tiên tri!"
Chúa Giêsu nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy
là ai?"
Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng
sống.”
Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có
phúc, vì chẳng phải xác thịt máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Ðấng
ngự trên trời. Vậy Thầy bảo con biết: Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội
Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được.”
TRUYỆN KỂ
1. Ngai tòa thánh Phêrô
Mộ phần của vị tông đồ trưởng Phêrô ở ngay dưới bàn thờ chính của
Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô. Truyền tụng từ xưa vẫn tin như thế, và mới
đây đã được xác định nhờ các cuộc điều tra khảo cổ. Ngôi mộ này như một biểu tượng
bền vững cho chân lý: Simon Phêrô theo sự ưu tuyển của Thiên Chúa, đã là nền
móng của Giáo hội. Tiếng nói của Đấng Cứu Thế vẫn được lắng nghe suốt các thế kỷ,
qua lời giáo huấn của các Đức Giáo hoàng.
Ngai tòa thánh Phêrô mang một ý nghĩa quan trọng tuyệt đối: Đức
Giáo hoàng là vị kế nhiệm thánh Phêrô, đại diện Chúa Kitô ở trần gian hướng dẫn
toàn thể Giáo hội toàn cầu. Lễ lập tông tòa thánh Phêrô là một lời tuyên xưng
long trọng về quyền tối thượng của Đức Giáo hoàng trong toàn thể Giáo hội. Trước
kia, Giáo hội cử hành hai thánh lễ riêng biệt một để kính tòa thánh Phêrô ở
Antiokia (trước khi Ngài đến Rôma) và một để kính tòa thánh Phêrô ở Rôma. Hai
thánh lễ này đều mang cùng một ý nghĩa, nên ngày nay Giáo hội chỉ cử hành một
thánh lễ: “Lập Tông Tòa Thánh Phêrô.”
Có ba bản văn Kinh Thánh là nền tảng về ngai tòa của Thánh
Phêrô: “Con là Phêrô, nghĩa là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo hội… Ta sẽ trao
cho con chìa khóa nước Trời…” (Mt 16,13-19). “Con hãy làm cho các anh em của
con nên vững mạnh” (Lc 22,31-32). “Hãy chăn dắt chiên của Thầy” (Ga 21,15-19).
2. Hiểu biết về Chúa Giêsu--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Tin Mừng cho thấy 3 mức độ hiểu biết về Chúa Giêsu:
1. Mức độ của dân chúng:
Nếu chỉ thấy những việc Chúa Giêsu làm và nghe những lời Ngài dạy mà không suy
nghĩ thêm thì người ta chỉ biết Ngài là một ngôn sứ thôi.
2. Mức độ của Phêrô: Được
ơn Chúa soi sáng, thánh Phêrô hiểu Chúa Giêsu là Đức Kitô Con Thiên Chúa. Nhưng
nếu ơn soi sáng của Thiên Chúa không có sự hợp tác là sự “đi theo” của con người
thì dù có hiểu biết Chúa Giêsu, con người vẫn có thể phản đối và cản bước Thiên
Chúa.
3. Mức độ Chúa Giêsu đòi
hỏi nơi người môn đệ: Hiểu biết Chúa Giêsu cộng thêm sự từ bỏ và vác thập giá
đi theo Ngài.
Tôi hiểu biết Chúa Giêsu
tới mức độ nào?
- Coi Ngài là một ngôn sứ.
Do đó tôi chỉ liên hệ với Ngài để xin ơn?
- Coi Ngài là Đức Kitô
Con Thiên Chúa, là lẽ sống đời tôi, nhưng lại sợ khó, ngại khổ?
- Sẵn sàng bỏ tất cả và
vác thập giá đi theo Ngài?
3. Chân dung hoàng đế
Ngày kia, Hoàng đế của một vương quốc lớn đã mời gọi các nghệ sĩ
từ nhiều nước đến dự cuộc thi “mô tả chân dung hoàng đế.” Các nghệ sĩ Ấn Độ đến
với đầy đủ dụng cụ và các thứ đá hoa kim cương quí nhất. Các nghệ sĩ Ai cập thì
mang đến đủ thứ đồ nghề và một khối cẩm thạch hảo hạng. Sau cùng người ta rất
nhạc nhiên khi thấy phái đoàn Hy Lạp chỉ mang vỏn vẹn một gói thuốc đánh bóng.
Mỗi phái đoàn dự thi trong một căn phòng đặc biệt của cung điện.
Khi thời gian đã hết, Đức vua cho trưng bày các tác phẩm tranh giải. Ông hết sức
khen các bức chân dung của chính mình do các nghệ sĩ Ấn Độ và Ai cập tạc nên.
Sau cùng đến phòng trưng bày của người Hy Lạp, Hoàng đế chỉ thấy duy nhất một bức
tường đã được đánh bóng đến độ khi Hoàng đế nhìn vào ông thấy khuôn mặt của
mình hiện ra từng nét. Và phái đoàn Hy Lạp đã đoạt giải nhất trong cuộc thi đó.
4. Tìm thấy Chúa trong tha nhân
Một đêm trăng nọ, nhìn qua cửa sổ, một tu sĩ già bỗng nhìn thấy
một thiên thần đang ngồi viết trên một cuốn sách vàng. Lòng tràn ngập hân hoan,
vị tu sĩ rón rén đến gần và lên tiếng hỏi:
- Ngài đang viết gì trong quyển sách này thế?
- Ta đang ghi danh những ai yêu mến Thiên Chúa.
Vừa lo lắng vừa hồi hộp, vị tu sĩ mới hỏi xem tên mình có trong
sách không. Thiên thần giở từng trang, chăm chú đọc từng hàng, nhưng không thấy
tên ông. Thế nhưng điều đó không làm cho tu sĩ thất vọng. Ông nói với thiên thần:
- Xin Ngài vui lòng ghi tên tôi như một thầy dòng lúc nào cũng
yêu mến tha nhân.
Thiên thần chiều ý ông. Thế là tên ông được ghi vào sổ vàng.
Sau khi vị tu sĩ già qua đời, xem lại nhật ký của ông, người ta
thấy dòng chữ đầu tiên trong nhật ký chính là câu trích dẫn thư 1Ga 4,20: “Nếu
ai nói mình yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình thì đó là kẻ nói dối, vì kẻ
không yêu mến người anh em nó thấy đó tất không thể yêu mến Thiên Chúa mà nó
không thấy.”
Tiếp theo lời trích dẫn vị tu sĩ ghi chú: “Tôi đi tìm kiếm linh
hồn tôi, nhưng tôi không thấy; tôi đi tìm Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vượt
thoát khỏi tôi; tôi đi tìm người anh em, tôi đã gặp được Thiên Chúa và linh hồn
tôi” (Mỗi ngày một tin vui).
5. Gặp gỡ Đức Kitô – biến đổi cuộc đời mình
Idaho người Ấn Độ mới trở lại công giáo và đã được chịu phép rửa
tội. Lần kia có người vô thần hỏi:
- Anh là người Kitô hữu, vậy anh có biết gì về Đức Kitô không?
Người tân tòng trả lời tôi có biết.
Người vô thần hỏi thêm:
- Đức Kitô sinh vào năm nào?
Người tân tòng trả lời ấp úng. Người vô thần lại hỏi thêm:
- Đức Kitô chết lúc bao nhiêu tuổi?
Người tân tòng cũng trả lời trật lơ. Nghe thế người vô thần mới
bảo:
- Như vậy thì anh có biết gì về Chúa Giêsu đâu?
Anh tân tòng thưa:
- Tôi biết ít lắm, nhưng tôi biết chắc điều này, là hai năm trước
đây tôi say xỉn, cờ bạc, nằm đường nằm chợ, lười biếng làm việc. Hai năm trước
đây, vợ tôi rất ít mỉm cười, con cái sợ sệt khi gặp tôi. Nhưng ngày nay, tôi là
người đàn ông tiết độ, chịu khó làm việc, nên đã nuôi sống gia đình, lại còn đủ
tiền mua một căn nhà mới. Ngày nay vợ tôi tươi cười, con cái vui vẻ quấn quít
tôi. Chính đức Kitô đã làm cho tôi tất cả những điều ấy. Như vậy mà ông bảo tôi
không biết rõ Đức Kitô là Chúa Cứu thế sao. Ngài đã chữa thế gian cho khỏi tội,
và Ngài đã cứu chính tôi trước.
6. Tất cả vì Hội Thánh
Trong một bữa cơm thân mật, có người hỏi Đức ông Polgallo:
- Đức ông là người thân cận Đứa Thánh Cha, vậy có điều gì nơi Đức
Thánh Cha đánh động Đức ông hơn cả?
- Dĩ nhiên Đức Thánh Cha Phaolô VI là một vị Giáo Hoàng rất
thông minh và thánh thiện. Nhưng riêng tôi, điều làm cho tôi cảm kích hơn cả
nơi ngài là lòng ngài muốn hy sinh vì yêu Hội thánh. Mỗi khi hòa mình vào đám
đông ở Bombay, ở Manila chẳng hạn, hầu như ngài quên tất cả Ngài để cho mọi người
lôi kéo.
Chúng tôi, những kẻ có nhiệm vụ bảo vệ ngài, phải lắm phen cực
nhọc... Nên những lúc thân mật cha con, chúng tôi vẫn thưa với ngài: “Thưa Đức
Thánh Cha, chúng con thấy Đức Thánh Cha vất vả quá với muôn ngàn lo âu, thức
khuya dậy sớm, lắm phen nguy hiểm đến tính mạng. Đức Thánh Cha để cho đám đông
lạ mặt lôi kéo mình như thế, chúng con ngăn cản bảo vệ không nổi. Xin Đức Thánh
Cha giữ gìn sứcc khỏe cho.” Nhưng mỗi lần như thế, ngài đều đáp lại với chúng
tôi như một điệp khúc nhỏ nhẹ, dịu dàng: “Tất cả vì Hội thánh! Vì Hội thánh!”
Nhiều khi chúng tôi mệt lả, ngao ngán, nhưng nhớ đến câu nói của
ngài, chúng tôi phải vươn lên theo ngài, không thể bỏ ngài, và cảm phục kính mến
ngài hơn!
7. Lập Tông Tòa thánh Phêrô
Quyển lịch cổ nhất của Rôma (Depositio martyrum) có từ năm 354,
xác nhận Thánh Lễ “Ngai Tòa Thánh Phêrô – Chaire de Saint Pierre” được mừng
kính ngày 22.02, ngày dân Rôma nhớ đến những người quá cố. Nhưng sau đó, vì các
Giáo Hội xứ Gaule không cử hành trọng thể các lễ trong Mùa Chay, nên Thánh Lễ
này được dời vào ngày 18.01, trong khi Giáo Hội Rôma vẫn giữ ngày cũ. Ngày lễ
cũng khác và chủ đề cũng khác: trong xứ Gaule, người ta mừng lễ “Ngai Tòa thánh
Phêrô tại Rôma”; tại Rôma, người ta mừng lễ “Ngai Tòa thánh Phêrô tại Antiochia.”
Cuối cùng hai lễ nhập lại làm một và được xác định vào ngày 22.02, dưới một chủ
đề: Ngai Tòa Thánh Phêrô.
Tại Rôma, trong đại thánh đường thánh Phêrô, người ta còn giữ được
ngai toà (tiếng La Tinh cathedra) của vị giáo hoàng tiên khởi, có nghĩa là ngai
toà, theo truyền thống, thánh Phêrô đã sử dụng. Nó là biểu trưng cho uy quyền của
Đức Giáo Hoàng như là Thầy dạy, Thượng Tế và mục tử của Hội Thánh toàn cầu.
8. Phê-rô đứng dậy sau vấp ngã
Nếu như Thánh Phaolô có ngày té ngựa để làm lại cuộc đời, thì
thánh Phêrô có mẻ cá kỳ diệu nhờ vâng lời để đứng dậy làm lại cuộc đời
Hôm nay lễ lập tông tòa thánh Phê-rô, là dịp chúng ta tưởng nhớ
việc Đức Kitô chọn Phêrô làm người thay thế Ngài trong việc cai quản Giáo Hội.
Người ta tưởng rằng đêm tối vườn cây dầu đã tiêu huỷ sự nghiệp của
một tông đồ miền duyên hải. Một con người mang đậm tính chất phác, bộc trực và
ngay thẳng tên là Simon Phêrô. Một con người đã từng tuyên bố: “anh em có bỏ Thầy,
riêng con thì không bao giờ.” Thế mà đêm đó, ông đã bỏ chạy tuy đã rút gươm
chém đứt một bên tai của người lính. Có lẽ ông đã phản ứng bởi tự nhiên, bởi tự
vệ và cũng có thể vì ông nghĩ rằng giờ của Chúa đã đến. Ông sẽ cùng Thầy khôi
phục lại nhà Israel. Nhưng ông đã lầm. Chúa Giêsu không những đã không hoan
nghênh lại còn oán trách ông là hành động hồ đồ. Dùng gươm sẽ chết vì gươm. Đó
không phải là cách Thiên Chúa dùng để thâu nạp muôn dân vào trong Nước của
Ngài.
Thất vọng ông đã bỏ chạy trong đêm tối. Đêm tối của đức tin. Đêm
tối của tuyệt vọng. Tưởng rằng sau đêm đó người ta sẽ không còn thấy mặt ông nữa.
Ông đã bỏ chạy cao xa, để mặc Thầy bị những con người cuồng nhiệt, nhân danh
tôn giáo để giết hại Thầy mình. Nhưng rạng sáng hôm đó, người ta lại thấy ông
xuất hiện chen lẫn giữa đám người còn đang cuồng nhiệt đòi giết Thầy mình. Một
hành động quá chân thành, đầy cảm thông với Thầy Chí Thánh. Thế mà, ông lại một
lần nữa vấp ngã trước sự dữ. Ông đã chối Chúa đến ba lần trong một đêm vì một đứa
tớ gái đã vạch mặt chỉ tên là đồng bọn với tử tội Giêsu.
May mắn cho cuộc đời của ông. Tiếng gà gáy đêm khuya tựa như tiếng
lương tâm thức tỉnh lòng ông. Ông lấm lét nhìn lên Chúa và bắt gặp ánh mặt đầy
nhân từ, cảm thông của Thầy. Chúa không nói lời nào với ông và ông cũng không
còn lời nào để nói. Nhưng qua ánh mắt đầy nhân từ của Chúa, ông tin rằng Chúa
biết rõ con người của mình. Chúa biết ông yêu mến Ngài.
Ông đã đứng dậy, bước ra ngoài sự dữ. Dứt bỏ nơi chốn nên cớ cho
ông vấp phạm và khóc lóc ăn năn.
9. Ngai tòa Thánh Phêrô Tông đồ
Hằng năm, vào ngày 22 tháng 2 tại Rôma, trong Đền thờ Thánh
Phêrô ở Vatican, Ngai tòa Thánh Phêrô do Berlini xây năm 1656 được thắp nến
sáng.
Ngai tòa Thánh Phêrô tại Rôma là chiếc ngai khổng lồ, bên trong
dựng chiếc ghế gỗ khảm xà cừ của Thánh Phêrô, được bốn Thánh Tiến sĩ nâng trên
tay: Thánh Augustinô, Thánh Ambrôsiô, Thánh Atanasiô và Thánh Gioan Kim Khẩu.
Bên trên có một hào quang rực rỡ bằng cẩm thạch giả, chính giữa có hình chim bồ
câu tượng trưng cho Chúa Thánh Thần.
Bên phải Ngai tòa Phêrô là đài kỷ niệm ÐGH Urbanô VIII và hai tượng
biểu trưng cho nhân đức Bác Ái và Công Bằng. Bên trái là đài kỷ niệm ÐGH Phaolô
III do G. della Porta tạc: phía trên có tượng của ÐGH, bên dưới là hai tượng biểu
trưng cho hai nhân đức Cẩn Trọng và Công Bằng. Trên đường sang cánh trái của
gian ngang, bên phải là đài kỷ niệm ÐGH Alessanđrô VIII do E. di S. Martino tạc
năm 1725, bên trái là bức tranh Thánh Phêrô chữa người bất toại được khảm đá mầu
của F. Mancini.
Chữ “Cathedra” có nghĩa là chiếc ghế hay giảng tòa và có nguồn gốc
từ chữ “Cathedral”, nơi một vị giám mục có giảng toà để ngài giảng dạy. Một từ
khác được dùng cho “Cathedra” là “sedes” từ chữ “See” nghĩa là Tòa nơi một vị
giám mục điều hành giáo phận của mình. Như thế từ “Holy See” nghĩa là Tòa Giám
mục Rôma, nơi Ðức Giáo Hoàng ngự trị, hay được gọi là Tòa Thánh.
Trong suốt dòng lịch sử,
Ngai tòa Thánh Phêrô mang theo hai nghĩa: Ðó là chiếc ghế như một biểu tượng
(biểu tượng quyền tối thượng của Thánh Phêrô); trong thời cổ chiếc ghế hay
“cathedra” là một biểu tượng quyền giảng dạy và như thế chiếc ghế được coi như
một vật thể (ngai tòa của Charles de Bald được Đức Giáo Hoàng Gioan VIII sử dụng
và các vị Giáo Hoàng kế nhiệm).
Lễ lập Tông tòa Thánh Phêrô được kỷ niệm hằng năm vào ngày 22
tháng 2. Vào thời kỳ phụng vụ Rôma còn chịu ảnh hưởng của Giáo Hội Gallica,
ngày mừng của Phụng Vụ Gallica, là ngày 18 tháng 1, nhưng ngày 22 tháng 2 vẫn
được cử hành với tước hiệu “Lễ lập Tông tòa Phêrô tại Antiôkia.” Ðức Giáo Hoàng
Phaolô IV đã truyền vào năm 1558 phải mừng cả hai lễ trọng. Bộ luật Chữ Ðỏ năm
1960 chỉ giữ lại ngày 22 tháng 2 là “Ngày lập Tông tòa Phêrô tại Rôma” cho giáo
hội toàn cầu.
10. Tôi đã tìm thấy Thiên Chúa
Trước khi trở lại đạo, Genesius, vị thánh quan thầy của giới tài
tử sân khấu, là một kịch sĩ nổi tiếng có nhiều ác cảm với đạo. Một phần ghét đạo,
một phần lại sống trong thời của vị hoàng đế bắt đạo Diocletianus, nên anh định
viết một vở hài kịch chế diễu các nghi lễ Kitô giáo. Để viết kịch, anh phải giả
làm dự tòng đến một giáo đoàn ở Rôma để xin học đạo, định bụng là sau khi biết
đủ những gì cần biết, anh sẽ viết một vở kịch chế diễu phép rửa tội.
Nhưng khi nói với các diễn viên về phép rửa trong lúc tập kịch,
tự nhiên Genesius lại thấy mình muốn tin và ước ao chịu phép rửa. Lòng ao ước
đó cứ lớn dần lên trong anh, cho đến hôm lần đầu diễn vở kịch cho hoàng đế và
quần thần xem, thì Thánh Thần tác động lên anh, anh không đóng kịch nữa mà kêu
lên từ đáy lòng: “Hỡi các bạn hề của tôi, tôi ao ước được trở nên một Kitô hữu.”
Các bạn diễn hỏi tại sao thì anh nói: “Suốt đời tôi chỉ là phù
du, nay tôi đã tìm thấy Thiên Chúa.” Mọi người, kể cả hoàng đế rũ ra mà cười,
nghĩ rằng Genesius nhập vai rất hay. Hai kịch sĩ bước vào, một đóng vai linh mục,
một phù thủy. Khi họ hỏi anh muốn gì, anh lập lại ước muốn được rửa tội. Hai kịch
sĩ đó rửa tội cho anh đúng như anh chỉ cho họ.
Rồi Genesius nói với hoàng đế, binh lính và dân chúng: “Tôi viết
và đóng kịch để chế diễu (…) nhưng nay tôi đã tin và khi tôi nói những lời này,
tôi thấy thiên thần của Chúa ở quanh tôi. Các thiên thần cho tôi biết nước rửa
tội đã rửa tôi sạch hết mọi tội lỗi cũng như các sự dữ tôi đã làm. (…)
“Hỡi hoàng đế, hãy tin vào những mầu nhiệm này! Tôi sẽ dạy cho
ngài và ngài sẽ biết Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật.”
Lời Genesius làm đám đông nhốn nháo cả lên, hoàng đế cho trói
anh lại mà đánh đòn và xẻo thịt anh. Dù phải đau đớn, anh vẫn tuyên xưng Giêsu
là Thiên Chúa. Khi hoàng đế ra lệnh chém đầu, anh kêu to: “Đức Giêsu Kitô là
Thiên Chúa và chúng ta sẽ có sự sống nhờ danh Ngài.”
11. Niềm xác tín định hình cuộc đời
Ngày 5/7/1885, Pasteur tiêm vắcxin bệnh dại cho Meister, một cậu
bé bị chó dại cắn, một căn bệnh vô phương cứu chữa thời đó, và cậu bé đã được
chữa khỏi. Thành công vang dội đó mở ra một kỷ nguyên mới cho y học cũng như
cho nhiều ngành khoa học và công nghệ khác nữa. Để đạt được kết quả này,
Pasteur đã kiên trì theo đuổi xác tín mà ông khám phá hàng chục năm trước đó rằng
hiện tượng lên men (rượu, bia, v.v…) hay một số bệnh tật không phải là do tự
sinh như nhiều người lúc đó vẫn tưởng mà là do một số vi sinh vật gây ra.
Lời tuyên tín của Phêrô “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”
không phải là kết quả của những nghiên cứu, thí nghiệm nhưng do Thiên Chúa mạc
khải, cũng là một xác tín mãnh liệt có sức thay đổi cả cuộc đời. Cuộc đời của
Phaolô thay đổi tận gốc rễ cũng do một xác tín mãnh liệt như thế về Đức Kitô:
“Ta là Giêsu mà ngươi đang tìm bắt” (Cv 9,5). Niềm xác tín Kitô của hai tông đồ
đã góp phần hình thành kỷ nguyên mới của Hội thánh Chúa Kitô.
Niềm xác tín Kitô khiến thánh Phêrô thổ lộ: “Bỏ Thầy, chúng con
biết theo ai?” (Ga 6,68). Còn thánh Phaolô thì khẳng định: “Đối với tôi, sống
là Đức Kitô” (Pl 12,21). Cả hai ngài dấn thân vì Tin Mừng Đức Kitô đến độ hy
sinh cả mạng sống. Còn bạn, niềm xác tín Kitô của bạn đã và đang tác động đến đời
sống bạn thế nào?
12. Ai có sức mạnh phá Hội Thánh?
Đức Pio X. vào trường Truyền Giáo Roma hỏi các Đại chủng sinh:
- Quyền lực nào phá Hội Thánh mạnh nhất?
- Thưa những gia đình Công Giáo ly dị nhau.
- Không phải.
- Thưa Cộng sản vô thần duy vật.
- Không phải.
- Quyền lực Satan.
- Càng không phải. Vì Chúa Giêsu đã nói với ông Phêrô: “Quyền lực
tử thần sẽ không thắng nổi con” (Mt 16,18b).
Cuối cùng không ai trả lời được. Lúc đó Đức Giáo hoàng nghiêm sắc
mặt nói: Những người Công Giáo ngu dốt về giáo lý mới chính là sức mạnh tàn phá
Hội Thánh.
13. Đứng dậy nhờ ơn Chúa
Trong buổi trò chuyện, diễn thuyết tối 22/05 tại White Palace
(Tp. HCM), Nick Vujicic đã cho mọi người thấy rằng, người bị khuyết tật nghĩa là
họ khiếm khuyết điều gì đó, nhưng người mang nỗi tự ti mới là người bị khuyết tật
thực sự.
Nick đã nói: “Dù ai đó không phải ngồi trên xe lăn nhưng bạn vẫn
phải trải qua những thời điểm khó khăn trong cuộc sống. Nếu lúc đó bạn thiếu tự
tin, bạn sợ thất bại, sợ nhìn về tương lai thì chính điều đó sẽ níu kéo bạn,
khiến bạn không thể tiến lên.”
Nick còn nói thêm: “Khi tôi 10 tuổi, tôi gần như muốn buông
xuôi, tôi muốn đầu hàng và nghĩ không bao giờ có công việc, có thể cưới vợ, lập
gia đình. Nhưng bây giờ tôi không chỉ lấy vợ, lập gia đình mà còn có đứa con
trai.
Chúng ta sẽ không biết được sự khó khăn diễn ra như thế nào nếu
không tạo cho bản thân cơ hội để vượt qua nó. Đừng bao giờ từ bỏ khi bạn gặp thất
bại hay khó khăn.”
14. "ST" nghĩa là sự thánh thiện
Người ta kể rằng: tại một vùng miền quê nước Mỹ, có hai anh em
nhà kia vì quá đói khổ, nghèo nàn đã trở thành kẻ "bần cùng sinh đạo tặc.”
Họ rủ nhau đi ăn cắp cừu của nông dân trong vùng. Không may hai anh em bị bắt.
Dân trong làng đưa ra một hình phạt là khắc lên trán tội nhân hai mẫu tự
"ST", có nghĩa là quân trộm cắp (viết tắt từ chữ stealer).
Không chịu nổi sự nhục nhã này, người anh đã trốn sang một vùng
khác sinh sống để mong chôn chặt dĩ vãng. Thế nhưng, anh chẳng bao giờ quên được
nỗi nhục nhã mỗi khi ai đó hỏi anh về ý nghĩa hai chữ "ST" đáng nguyền
rủa này.
Còn người em, anh tự nói với bản thân mình: "Tôi cần phải lấy
lại lòng tin của những người xung quanh và của chính tôi.” Thế là anh tiếp tục ở
lại xứ sở của mình. Chẳng mấy chốc anh đã xây dựng cho mình một sự nghiệp cũng
như tiếng thơm là một người nhân hậu. Anh sẵn sàng giúp đỡ người khác với tất cả
những gì mình có thể. Anh lao động bằng đôi tay của mình. Anh dành một phần hoa
lợi để giúp đỡ người nghèo. Anh sống chan hoà tình yêu thương với mọi cư dân
trong vùng. Tuy nhiên, cho dẫu thời gian có qua đi, hai mẫu tự "ST" vẫn
còn in dấu trên vầng trán anh. Nhưng chẳng mấy ai để ý đến ý nghĩa hai chữ ST
trên vầng trán của anh.
Ngày kia, có một người lạ mặt hỏi một cụ già trong làng về ý
nghĩa hai mẫu tự này. Cụ già suy nghĩ một hồi rồi trả lời: "Tôi không biết
rõ lai lịch của hai chữ viết tắt ấy, nhưng cứ nhìn vào cuộc sống của anh ta,
tôi đoán hai chữ đó có nghĩa là người thánh thiện (saint).”
15. Quo va dis?
Thánh Phêrô còn đi rao giảng bên ngoài đất Palestina, Ngài tới
Antiôkia, xây dựng Giáo hội tại đây. Sau đó Ngài đi Rôma và biến nơi này thành
trung tâm của Kitô giáo. Thời Nêrô cầm quyền, Giáo hội bắt đầu bị bách hại.
Thánh Phêrô bị tù và được giải cứu bởi các lính gác trở lại đạo. Ngài trốn đi
khỏi thành.
Nhưng vừa tới cửa, Ngài gặp thấy Chúa Giêsu vác thập giá tiến
vào, thánh tông đồ hỏi Chúa:
- Thày đi đâu dây?
- Ta vào Roma để chịu đóng đinh một lần nưã.
Thánh tông đồ đã hiểu, Ngài trở vào thành để lãnh nhận án đóng
đinh thập giá. Theo chứng của Ôrigênê, thánh Phêrô đã xin được đóng đinh lộn đầu
xuống đất vì thấy mình không đáng được chết cùng một cách như Thày.
+ Mộ Ngài được tìm thấy tại chính đền thờ thánh Phêrô ở Rôma
ngày nay.
16. Tôi chọn Giêsu
Báo chí cho biết bảy tuyển thủ quốc gia – nghĩa là 3/4 đội tuyển
- phải ra tòa vì vụ cá độ bóng đá tại SEA Games 23. Họ đã chọn tiền bạc (20 triệu
đồng/một người) thay vì danh dự quốc gia, sự nghiệp bóng đá của mình, để lại
bao nhiêu nuối tiếc đau xót trong lòng người tâm huyết với các tài năng trẻ và
tương lai nền bóng đá Việt Nam. Niềm tin đặt để nơi đâu, người ta sống và hành
động theo hướng đó! Ta tin vào Chúa, đó là ơn huệ Chúa ban nhưng cũng là một chọn
lựa với ý thức và tự do cá nhân để sống theo điều mình xác tín.
Phêrô tuyên xưng niềm tin của mình vào Đức Kitô là Con Thiên
Chúa hằng sống. Tuy có lúc Phêrô yếu đuối đến chạy trốn và chối Thầy, nhưng ông
biết sám hối quay về với Thầy chí thánh và trung thành phụng sự Người đến cùng.
Năm mới mở ra cho ta một thời gian mới để sống niềm tin của mình.
Mỗi ngày đều có những cơ hội để ta nói lên mình chọn lựa ai, lấy cái gì làm lý
tưởng cho đời mình. Sống niềm tin của mình cách triệt để, đó cũng là cách thuyết
phục nhất để loan báo Tin Mừng cho con người hôm nay.
Có gì đang cám dỗ tôi hay đang đe dọa niềm tin của tôi vào Chúa
Giêsu không?
17. Ben Hur
Ben Hur trong bộ phim cùng tên đã thốt lên: “Tại sao Con Thiên
Chúa không muốn làm vua Do Thái hở mẹ? Những điều kỳ diệu Ngài làm khiến con
kinh ngạc. Chỉ cần một hơi thở của Ngài đủ hủy diệt sức mạnh Roma. Thế mà Ngài
lại từ chối sự trợ giúp của các binh đoàn, khiến bao gian lao trở thành vô ích?
Chúng ta lại phải rên siết dưới sự bảo hộ của Roma và để vũ khí mà ta khổ công
rèn đúc phải rỉ sét ư?”
Anh cũng như nhiều đồng hương đã thất vọng về Đức Giêsu, vì chờ
đợi Ngài như Đấng Cứu Thế vinh quang bằng cách trừng phạt quân đội Roma, mang lại
phồn vinh cho trần thế qua sức mạnh chinh phục. Ngài thật là Con Thiên Chúa hằng
sống, là Đức Kitô Cứu Thế như Phêrô tuyên xưng.
Thế nhưng, là người Con hiếu thảo với Cha, đời Ngài chỉ canh
cánh một điều là làm đẹp ý Cha trong mọi sự. Thế mà ý Cha là sai Con mình đến,
không phải để luận phạt, nhưng để cứu thế gian và để thế gian nhờ đó được sống
dồi dào.
Lời
Chúa Tuần 6 Thường Niên
Thường
niên V-GS C-PS Ngoại lịch