LỜI CHÚA TUẦN 6 MÙA THƯỜNG NIÊN
CÂU TRUYỆN MINH HỌA
CNTN 6C - PHÚC THAY – KHỐN THAY!!!
THỨ NĂM - TUYÊN XƯNG CỦA PHÊRÔ
CNTN 6A -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
CNTN 6B -
Lời Chúa:
TRUYỆN KỂ
1.
CNTN 6C - PHÚC THAY – KHỐN THAY!!!
Lời Chúa: Lc 6, 17. 20-26
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu từ
trên núi xuống cùng với mười hai tông đồ, và dừng lại trên một khoảng đất bằng;
ở đó có đông môn đệ và một đám đông dân chúng từ Giuđêa, Giêrusalem, miền duyên
hải Tyrô và Siđon kéo đến để nghe Người giảng và xin Người chữa bệnh tật.
Bấy giờ Người đưa mắt
nhìn các môn đệ và nói:
"Phúc cho các ngươi
là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi.
Phúc cho các ngươi là những
kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy.
Phúc cho các ngươi là những
kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười.
Phúc cho các ngươi, nếu
vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ
tên các ngươi như kẻ bất lương. Ngày ấy, các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì
như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời. Chính cha ông họ cũng đã đối
xử với các tiên tri y như thế.
"Nhưng khốn cho các
ngươi là kẻ giàu có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi.
Khốn cho các ngươi là kẻ
đã được no nê đầy đủ, vì các ngươi sẽ phải đói khát.
Khốn cho các ngươi là kẻ
hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu khóc lóc.
Khốn cho các ngươi khi mọi
người đều ca tụng các ngươi, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với
các tiên tri giả.”
TRUYỆN KỂ
1. vì Nước Trời
Mùa hè năm 1997, cả thế
giới xôn xao về cái chết của công nương Diana. Công nương Diana là một phụ nữ
xinh đẹp. Từ khi kết hôn với thái tử Charles, con của nữ hoàng nước Anh, công
nương trở thành người có danh vọng và đồng thời cũng có nhiều tiền của vào bậc
nhất trên thế giới. Có lẽ ai cũng nghĩ rằng một phụ nữ đẹp đẽ, giàu sang, phú
quý như thế phải là người hạnh phúc nhất trên đời. Nhưng không đúng như thế.
Công nương rất đau khổ vì cảnh gia đình thiếu tình yêu thương chân thực. Thái tử
Charles vẫn lén lút quan hệ với người tình cũ. Đau khổ mà chẳng thể nói ra, vì
cả gia đình bên chồng muốn giữ uy tín cho hoàng gia. Chán nản với đời sống gia
đình, công nương đã tìm vui bên người bạn trai mới. Trong một chuyến đi chơi ở
Paris, cả hai bị thiệt mạng trong một tai nạn xe hơi. Có nhiều người cho rằng
chính hoàng gia Anh đã gây ra tai nạn. Không ai nghĩ rằng cuộc đời công nương
có hạnh phúc, dù bà có tất cả: sắc đẹp, tiền của, danh vọng.
Sau đám tang của công
nương Diana 1 tuần lễ, thế giới lại xôn xao về một đám tang khác: đám tang của
mẹ Tesexa Cancutta. Khác hẳn với công nương Diana, mẹ Tesexa là một nữ tu già
nua, sống một đời sống nghèo. Trong phòng của mẹ chỉ có một chiếc ghế và một chậu
thau đựng nước. Người ta cho mẹ nhiều tiền, nhưng mẹ tự nguyện sống nghèo, dành
hết tiền của để giúp những người nghèo, những trẻ mồ côi, tàn tật. Khi Đức Giáo
hoàng sang thăm Ấn Độ, thấy mẹ đi lại công tác nhiều, tặng mẹ một xe hơi sang
trọng. Nhưng khi Đức Giáo hoàng về, mẹ đã bán xe lấy tiền giúp người nghèo. Có
40 nguyên thủ quốc gia đến tham dự đám tang của mẹ. Và Ấn Độ, một nước không ưa
gì đạo Công giáo, đã cử hành quốc tang cho mẹ. Hai mươi mốt phát súng đại bác
tiễn đưa linh hồn mẹ trong khi các vị nguyên thủ quốc gia quyền uy đứng cúi đầu
kính cẩn trước thi hài vị nữ tu già nua, nghèo khó. Mẹ đã thực hành Lời Chúa:
“Phúc cho anh em là người nghèo khó, vì Nước Trời thuộc về anh em.”
Thứ đến, Chúa không lên
án vật chất, nhưng chỉ lên án thái độ sử dụng vật chất. Vật chất do Chúa dựng
nên để phục vụ con người. Chúa dựng nên và Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp. Nhưng
con người đã làm sai chương trình của Chúa. Thay vì sử dụng vật chất như phương
tiện, người ta đã biến nó thành mục đích. Thay vì sử dụng vật chất phục vụ đồng
loại, người ta đã sử dụng đồng loại để phục vụ vật chất. Đó là những thái độ bị
Chúa lên án. Những thái độ ấy biến vật chất thành chướng ngại ngăn cản ta đạt đến
hạnh phúc Nước Trời.
2. Quốc vương Abdurahman
III
Quốc vương của Thổ nhĩ kỳ
là Abdurahman III cai trị một vương quốc giầu có nhất thế giới trong suốt 49
năm vào khoảng thế kỷ thứ 10. Lợi tức của nhà vua lên tới 336 triệu Mỹ kim. Nhà
vua có 6.321 bà vợ được tuyển chọn trong số những thiếu nữ xinh đẹp nhất của
vương quốc và sinh được 618 đứa con. Tài sản của nhà vua trị gía 3 tỷ Mỹ kim. Ấy
thế mà sau khi chết người ta đọc thấy trong cuốn nhật ký của nhà vua một đoạn
như sau: “Trong suốt cuộc đời dài và đầy danh vọng này, tôi đã đếm được những
ngày tôi hoàn toàn hạnh phúc chỉ vỏn vẹn có 14 ngày mà thôi.”
Nhưng có những người sống
trong những hoàn cảnh rất khắc nghiệt, xem ra họ là những người đau khổ, thiếu
mọi phương tiện để đạt tới hạnh phúc, nhưng trong thực tế, họ vẫn hạnh phúc, họ
còn hạnh phúc hơn cả những người có đủ điều kiện để đạt tới hạnh phúc.
Đây là bằng chứng: Vào những
năm cuối thế kỷ 20, viện Gallup đã làm một cuộc thăm dò 18 quốc gia để tìm xem
quốc gia nào là đất nước hạnh phúc nhất. Kết quả thâu lượm được làm người ta phải
ngạc nhiên! Quốc gia hạnh phúc nhất là Iceland, một quốc gia nằm ở Bắc Cực với
dân số 240.000 người, pha trộn giữa người Na uy và Đan mạch. Một số người thắc
mắc rằng, “Làm thế nào những người Icelander lại có thể sống hạnh phúc được khi
họ hoàn toàn cô lập trong giá lạnh của Bắc cực, chịu đựng 24 giờ đêm tối mỗi
ngày vào mùa đông, và còn hơn thế nữa nhiều người còn phải sống tùy thuộc vào sự
bấp bênh của kỹ nghệ đánh cá”?
Một nhà xã hội học của
Iceland đã giải thích như sau: “Văn hóa của chúng tôi được dệt bởi sự cực nhọc
vất vả do thiên nhiên tạo ra. Đó là lý do tại sao người Icelander có một thái độ
khoan dung đối với những vấn đề của cuộc sống.” Sự cô lập của quốc gia làm cho
người Icelander có một cảm giác mãnh liệt về cộng đồng, một yếu tố có thể giúp
giải thích tại sao họ có một đời sống trường thọ cao nhất trên thế giới. Trong
khi đó Hoa kỳ chỉ được xếp vào hạng thứ 5 trong số 18 nước được thăm dò (Nguyễn
văn Thái, Sống lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 85).
3. Nên theo bản văn nào?
Linh mục Nguyễn văn Thái
kể: Khi dọn bài giảng về Những Mối phúc thật theo thánh Luca, tôi đã hỏi một
người Mỹ khá giầu rằng giữa những mối phúc thật theo thánh Matthêu và thánh
Luca, ông thích bài nào hơn? Ông trả lời: “Tôi rất thích bài của thánh Matthêu.”
Tôi hỏi ông: “Còn thánh Luca thì sao”? Ông trả lời: “Không, tôi không thích
Luca, vì bài của Luca có vẻ chống lại người giầu.” Khi thánh Matthêu nói: “Phúc
cho kẻ có tinh thần khó nghèo” (Mt 5,3), ngài đã khích lệ người giầu. Còn Luca
thì nói: “Phúc cho các người là những kẻ nghèo khó” (Lc 6,20). Điều này có
nghĩa là chỉ những người nghèo mới được chúc phúc và hưởng Nước Trời mà thôi,
còn người giầu có bị nguyền rủa: “Khốn cho các ngươi là kẻ giầu có.”
Cũng câu hỏi này, tôi hỏi
một phụ nữ Mỹ không giầu, có vẻ hơi nghèo. Bà trả lời: “Tôi thích thánh Luca
hơn, vì thánh Luca nói rõ người nghèo sẽ được hưởng nước Thiên đàng. Còn thánh
Matthêu nói phúc cho người nghèo khó trong tinh thần, điều này không rõ ràng.
Thật khó hiểu Ngài muốn nói gì”!
Chúng ta thấy người giầu
là ủng hộ viên của Những Mối phúc thật theo thánh Matthêu, và người nghèo là ủng
hộ viên của Những Mối phúc thật theo thánh Luca. Nhưng thực ra, ý nghĩa của hai
bài tường thuật như nhau. Cả hai đều kêu gọi chống lại tất cả mọi tình thế xấu.
Bài đọc 1 so sánh hai
thái độ của con người đối với Thiên Chúa: Những người tin tưởng vào con người
như cây gai cằn cỗi trong sa mạc, trong khi những người tin tưởng vào Thiên
Chúa giống như cây sai trái trồng gần suối nước. Bài Tin mừng hướng chúng ta về
người xấu số bất hạnh và mang lại cho họ niềm hy vọng hạnh phúc tương lai. Tin
mừng không lên án người giầu chỉ vì họ giầu, nhưng vì họ không biết dùng của cải,
để cho của cải thành chướng ngại vật chận đướng lối vào Nước Trời.
Khi Đức Giêsu nói: “Phúc
cho những ai khó nghèo”, Ngài đã không chúc phúc cho sự đói khát và cùng khốn.
Đói khát và khốn cùng là điều xấu. Điều được chúc phúc là lòng trông cậy, tín
nhiệm Thiên Chúa. Những người đặt tín nhiệm của họ vào con người sẽ thất vọng;
những người đặt tín nhiệm vào Thiên Chúa sẽ không bị thất vọng. Chỉ Thiên Chúa
mới có thể lấp đầy sự trống rỗng của chúng ta; chỉ Thiên Chúa mới có thể thỏa
mãn khát vọng của tâm hồn chúng ta. Nhưng thường chúng ta chạy đến Thiên Chúa
sau cùng, thay vì chạy đến Thiên Chúa trước tiên.
4. Hoàng đế Napoléon.
Khi hoàng đế Napoléon,
người hùng chinh phục cả Âu châu của Pháp, bị đầy sang đảo Sainte Hélène, người
viết tiểu sử của ông vẫn theo ông sát cánh. Đối với anh chàng viết tiểu sử này,
mỗi một chi tiết trong cuộc đời của Napoléon đều đáng ghi nhớ, không một biến cố
nào là nhỏ cả, và không ngày nào là không được lưu ý.
Một hôm, biết rằng ngày tận
cùng của Napoléon sắp đến, chọn một giây phút Napoléon cảm thấy thoải mái nhất,
người viết tiểu sử hỏi Hoàng đế: “Thưa ngài, xin ngài cho biết trong suốt cuộc
đời của Ngài, ngày nào là ngày hạnh phúc nhất”? Napoléon không trả lời ngay,
quay đầu ra cửa sổ, nhìn biển xanh thăm thẳm phía xa một hồi, đoạn thở dài và
quay lại chậm rải nói với người viết tiểu sử của ông: “Tôi nhớ, tôi nhớ rất rõ,
ngày hạnh phúc nhất trong đời của tôi đã xẩy ra cách đây lâu lắm rồi, khi tôi
còn bé, đó là ngày tôi Rước Lễ Lần Đầu.”
Trước kinh nghiệm của
Napoléon, chúng ta nhìn thấy mặc dù có danh vọng, giầu sang, và tình yêu đến
tuyệt đỉnh cũng không mang lại hạnh phúc đích thực cho con người, nếu vắng bóng
Thiên Chúa (Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 91)..
5. Giầu có.
Một chàng nghèo mạt rệp đến
hỏi một vị linh mục:
- Con thấy giáo lý trong
đạo chẳng thực tế chút nào. Trong khi ngày Tết đến, mọi người chúc cho nhau có
nhiều Tài, Phúc, Lộc, Thọ, thì Chúa Giêsu dạy: “Phúc cho các ngươi là những người
nghèo khó.” Như vậy, theo Chúa thì được lợi ích gì?
Vị Linh mục trả lời: -
Ngài sẽ làm cho anh có nhiều hơn.
Anh chàng hỏi lại: - Nhiều
hơn thế nào được?
Linh mục bình tĩnh trả lời:
- Khi dạy anh ham muốn ít hơn.
Thực ra, nếu chỉ nghĩ tới
hạnh phúc ngay ở trần gian này, thì Lời Chúa hôm nay khó hiểu và khó chấp nhận,
vì người ta không thấy hạnh phúc ngay trước mắt. Nhưng với con mắt đức tin,
chúng ta còn hy vọng vào đời sống mai hậu, nơi đó mới có hạnh phúc hoàn toàn.
Cuộc sống ở trần gian này chỉ là một cuộc hành trình còn nhiều gian khổ, là cuộc
chuẩn bị cho ngày vinh quang đó. Thánh vịnh sau đây đã diễn tả tư tưởng đó:
Ai nghẹn ngào ra đi gieo
giống
Mùa gặt mai sau khấp khởi
mừng.
Họ ra đi, đi mà nức nở,
mang hạt giống vãi gieo;
Lúc trở về, về reo hớn hở,
vai nặng gánh lúa vàng.
(Tv 126, 5-6)
6. Nghèo mà giàu, giàu mà
nghèo
Khi còn tại thế, mẹ không
thiếu tiền của, nhưng mẹ vẫn sống như một “người nghèo khó của Thiên Chúa.” Với
chiếc xe hơi Đức Giáo Hoàng Phaolô VI tặng ở Bombay, mẹ đã bán để lấy tiền xây
dựng một trung tâm lớn cho bệnh nhân phong. Với số tiền nhận từ giải Hoà Bình
Gioan XXIII của Vatican, mẹ đã thiết lập một trung tâm phục hồi chức năng cho
người cùi. Với số tiền nhận từ giải Nobel Hoà Bình mẹ đã xây nhà cho những người
nghèo.
Mẹ Têrêxa đã tận hiến cuộc
đời mình cho những người nghèo và tất cả những gì của mẹ đều thuộc về những người
nghèo đói, khổ đau, vì mẹ luôn gắn kết cuộc đời mình với Đức Kitô, tín thác cuộc
đời mẹ trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa. Mẹ đã lấy Thiên Chúa làm cứu
cánh và cùng đích của cuộc đời mẹ.
Tóm lại, cho dù là người
giàu sang hay người đói khổ, vẫn có thể trở thành “người nghèo của Thiên Chúa,”
thành “người không vật sở hữu,” cho đi tất cả vì yêu mến và tín thác cuộc đời
mình cho Thiên Chúa, lấy Chúa làm niềm cậy trông là niềm hạnh phúc. Xin cho mỗi
chúng ta cho dẫu có là người nghèo khó, vất vả, khổ đau hay là người giàu có,
biết lấy Chúa là niềm cậy trông, là niềm hạnh phúc.
7. Hạnh phúc đích thực
Vào năm 1918, tại Mỹ đã xảy
ra một trận dịch cúm tàn sát bao nhiêu sinh mạng. Các bác sĩ và y tá tối tăm mặt
mũi vì công việc, tình cảnh trong các dưỡng đường, bệnh viện thật là thảm hại.
Trong lúc dầu sôi lửa bỏng ấy, các thành viên của một hội thượng lưu ở New York
quyết đem sức lực ra giúp đồng bào. Họ giàu có và đã lớn tuổi, có thể chỉ ký một
ngân phiếu để giúp bệnh nhân là xong. Nhưng không, họ không những đã bỏ tiền ra
mà còn tình nguyện khoác áo blouse trắng tới bệnh viện cọ sàn, săn sóc tắm rửa
cho các bệnh nhân, vỗ về những gia đình đau khổ mà không ngại mệt nhọc, cũng
không sợ lây bệnh cho chính bản thân.
8. Tìm lại hạnh phúc
Tại văn phòng của một cố
vấn Tâm lý, một thiếu phụ vừa trẻ vừa giàu giải bày tâm sự: "Bất cứ thứ gì
tôi muốn thì chồng tôi đều cho cả. Tôi có đủ mọi "sự" nhưng trong
lòng trống vắng vô cùng. Xin bà hãy cho tôi một lời khuyên.” Nhà cố vấn tâm lý
không trả lời, nhưng bảo cô thư ký của bà kể chuyện đời cô. Cô này kể:
"Chồng tôi đã chết,
cách nay ba tháng. Con tôi cũng chết vì xe đụng. Tôi cảm thấy mất tất cả. Tôi
không ngủ được. Tôi không muốn ăn uống. Tôi không bao giờ cười. Một hôm tôi đi
làm về hơi khuya. Có một chú mèo con cứ đi theo sau tôi. Trời lạnh. Tôi cũng tội
nghiệp nó, nên tôi mở cửa cho nó vào nhà. Tôi pha cho nó một ly sữa. Nó kêu meo
meo và cọ mình vào chân tôi. Lần đầu tiên tôi cười. Rồi tôi nghĩ: nếu việc giúp
cho một chú mèo con có thể làm tôi cười, thì việc giúp cho người nào đó chắc có
thể làm tôi hạnh phúc. Thế là hôm sau tôi nướng vài ổ bánh đem cho bà cụ hàng
xóm đang bệnh. Mỗi ngày tôi cố làm vài việc gì đó cho những người tôi gặp được
vui vẻ. Và quả thực tôi đã thấy hạnh phúc. Tôi nghiệm ra được điều này là ta sẽ
không hạnh phúc khi ta chỉ chờ người khác đem lại hạnh phúc cho mình; ngược lại
ta sẽ hạnh phúc thật khi ta làm cho người khác hạnh phúc.”
Nghe đến đó, người thiếu
phụ trẻ bật khóc. Cô đã có bất cứ thứ gì đồng tiền có thể mua được nhưng cô đã
đánh mất những thứ mà đồng tiền không mua nổi. Và cô quyết định noi gương cô
thư ký nọ. (Charlene Johnson).
9. Chiếc áo lót của một
người chăn chiên
Một ông vua nọ có đủ mọi
thứ trên đời: Nào là cung điện nguy nga tráng lệ, vàng bạc chất đầy kho, đủ thứ
cao lương mỹ vị; Lại cũng có cả một đoàn cung tần mỹ nữ phục vụ ngày đêm…
Thế mà nhà vua vẫn không
cảm thấy được hạnh phúc. Ngài buồn phiền không ăn uống bình thường được nên đã
phát bệnh. Một danh y được mời đến bắt mạch và bốc thuốc chữa bệnh cho nhà vua.
Sau khi thăm mạch, vị
danh y cho biết đức vua bị tâm bệnh, không cần dùng thuốc, chỉ cần nhà vua mặc
được chiếc áo lót của một ai đó đang sống sung sướng hạnh phúc, là đủ để khỏi bệnh.
Quân lính được sai đi khắp
nơi tìm kiếm con người hạnh phúc nhất để mượn chiếc áo lót mang về cho nhà vua
mặc và chữa bệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm mà vẫn không tìm ra ai là người thực
sự hạnh phúc. Người được hạnh phúc thoả mãn về điều này thì lại bất hạnh về điều
kia; người được no đủ cơm áo vật chất thì lại bị đau khổ dằn vặt trong tâm…
Rồi đến một hôm, khi đoàn
người tìm kiếm sắp nản lòng thất vọng, thì đột nhiên họ nghe tiếng hát của một
anh chàng chăn chiên rất vui vẻ. Anh ta ca hát say sưa với nét mặt sung sướng hạnh
phúc. Chắc hẳn đây chính là con người hạnh phúc nhất trên đời, mà họ đang ra sức
tìm kiếm. Đám quân lính liền đến bên hỏi thăm anh chàng chăn chiên và được anh
thừa nhận luôn cảm thấy mình được sung sướng hạnh phúc.
Toán lính liền xông vào lột
chiếc áo khoác sờn rách cũ kỹ của người chăn chiên để tìm lấy chiếc áo lót đem
về cho nhà vua mặc. Thế nhưng thật bất ngờ: Anh chàng chăn chiên này nghèo quá
đến nỗi ngoài chiếc áo khoác đang mặc, trên người anh ta chẳng có một chiếc áo
nào cả!
10. Bí quyết sống vui
Một vị giám mục nổi tiếng
hiền hoà, dễ mến. Khi được hỏi bí quyết, ngài đáp bí quyết đó là:
Thứ nhất, tôi nhìn lên trời
để nhớ rằng đời tôi phải tới đó.
Thứ hai, tôi nhìn xuống đất
để thấy phần mộ tôi sau này thật nhỏ hẹp.
Thứ ba, tôi nhìn chung
quanh để thấy bao người nghèo khổ mà đáng kính trọng hơn tôi.
Thứ bốn, tôi học để biết
hạnh phúc thật nằm ở đâu, mọi nổ lực của tôi sẽ chấm dứt thế nào và những than
thở của tôi thật vô cớ biết bao!
11. Hạnh phúc hay bất hạnh
ở trong cách nhìn đời
Đây là câu chuyện từ
Internet: Như thường lệ, sáng nay, tôi đến phòng tập thể dục trước khi đến sở
làm. Ớ đó, tôi có một người bạn già nhưng rất thân thiết. Tuy đã 79 tuổi nhưng
ông vẫn giữ được thân thể tráng kiện và một tinh thần yêu đời đặc biệt. Khi gặp
tôi, ông nhận ra ngay tâm trạng bất ổn của tôi. Sau đó hai bác cháu nói chuyện
với nhau thật lâu.
- Trong cuộc đời bác, bác
cảm thấy lúc nào mình hạnh phúc nhất?
Tôi hỏi và chợt nhận ra
mình đã thay đổi câu hỏi. Lẽ ra tôi phải hỏi là có khi nào bác gặp phải cảm
giác buồn chán như tôi bây giờ không.
Hồi bác còn nhỏ, cuộc sống
thật khó khăn. - Ông bắt đầu kể. - Bố mẹ bác đi làm ở xa, cả ngày mới về. Thỉnh
thoảng, mẹ mua quà về cho mấy anh chị em bác, khi thì những chiếc bánh, khi thì
mấy viên kẹo. Những lúc đó, bác thực sự thấy mình là người hạnh phúc nhất.
Đến tuổi đi học, lần đầu
tiên bác đánh vần và đọc được tên mình. Bác thấy tự hào vô cùng, chạy đi khoe
khắp nơi, lúc đó là thời gian hạnh phúc nhất
Khi tốt nghiệp đại học,
bác được nhận vào làm việc ở một công ty lớn. Cầm trên tay tháng lương đầu
tiên, bác vui sướng biết bao.
Có lần bác bị tai nạn phải
nằm bệnh viện khá lâu. Những ngày ở bệnh viện bác có giờ suy nghĩ được nhiều điều
mà trước kia bác không nghĩ đến, được gặp lại bạn bè và người thân. Khoảng thời
gian ấy thật là tuyệt vời.
Và giờ đây, ở tuổi bảy
mươi chín, bác vẫn có thể đến đây tập thể dục hàng ngày. Bác thấy mình vẫn còn
có ích cho mọi người xung quanh. Đây là thời khắc tuyệt vời nhất của bác.
Cháu hãy nghĩ một giai đoạn
mới của cuộc đời cũng giống như một chương mới của quyển sách. Dù có đau khổ,
buồn hay vui đều có giá trị cho quyển sách cuộc đời. Cháu cứ đọc rồi sẽ thấy.
(Thảo Nguyên theo Internet)
Tôi phải có thái độ nào đối
với những giá trị vật chất của trần gian và phải sống thế nào trong tương quan
với mọi người. Suy nghĩ đúng và sống đúng, tôi sẽ có hạnh phúc. Ngược lại tôi sẽ
trở thành người bất hạnh.
12. Sống như Chúa đã sống
Một sinh viên Nhật bản đến
văn phòng của một linh mục ở Boston, nói:
- Thưa cha, con đang đi
tìm một đời hạnh phúc tốt đẹp. Cha có thể chỉ cho con biết phải tìm ở đâu.
Linh mục đáp:
- Chắc anh muốn trao đổi
về tôn giáo?
- Thưa không, con không
muốn trao đổi lý thuyết. Việc đó con thấy nhan nhản rồi. Con cần thứ khác Cha
biết không. Khi còn ở ký túc xá đại học Cambridge, con ở chung phòng với một
anh thợ mộc. Anh có đời sống rất đẹp. Anh không bao giờ nghĩ về mình, mà luôn
nghĩ về người khác. Sinh viên tụi con nhiều khi sống cẩu thả, chén dĩa lung
tung, đồ ăn vứt bừa bãi. Thấy thế, anh không nói gì nhưng khi mọi người ra khỏi
phòng ăn, một mình anh đi thu dọn, sắp xếp lại cho ngăn nắp.
Nghe thế, cha đưa cho anh
cuốn Thánh Kinh và nói:
- Hãy cầm lấy. Nếu anh muốn tìm một đời hạnh
phúc tốt đẹp anh hãy tìm trong dó.
Hai năm sau, anh đến gặp
cha cười cười nói:
- Cha có nhận ra con
không?
- Hình như tôi đã gặp anh
ở đâu, nhưng không nhớ rõ.
Anh đưa cuốn Thánh Kinh
ra và nói:
- Con đã tìm thấy đời sống hạnh phúc tốt đẹp rồi
cha ạ. Con đã tìm thấy đời sống đó nơi Đức Kitô.
13. Phúc cho kẻ nghèo
Câu chuyện về một vị ẩn
tu sống rất nghèo do Đức Cố Hồng Y Carôlô Maria Martini viết trong một cuốn
sách, giúp chúng ta hiểu phần nào về người giàu có thể có tâm hồn nghèo khó,
người nghèo lại không.
Chuyện kể rằng, vị ẩn sĩ
này chỉ có một tấm áo rách trên mình và một cái vò đựng nước đã bể… Một hôm ông
hỏi Chúa: “Lạy Chúa, con có phải là người nghèo nhất trên thế gian này chưa?”
Chúa sai thiên thần đưa ông đến trước một lâu đài sang trọng và bảo: “Người sống
trong lâu đài này mới là người nghèo nhất trên thế gian.” Vị ẩn sĩ rách rưới ngẩn
người hỏi Chúa: “Sao lại như thế được?” Chúa trả lời: “Người sống trong lâu đài
sang trọng này có đủ mọi thứ, nhưng lòng không dính bén chút gì, còn con, con
dính bén với chính cái áo rách và cái vò đã bể của con.”
Khi tuyên bố: “Phúc cho
những kẻ nghèo khó”, Chúa Giêsu không hề có ý muốn biến thế giới thành một thế
giới nghèo đói, bần cùng. Của cải vật chất thật cần thiết để cho con người được
sống xứng phẩm giá con người; Thiên Chúa đã tạo dựng con người đặt con người
làm chủ và hưởng dùng mọi sự trong vũ trụ. Nhưng của cải vật chất là phương tiện,
chứ không phải là cứu cánh. Người nghèo là người biết sống cho những giá trị ấy,
cho dù giữa những vất vả lo toan, miếng cơm, manh áo, họ vẫn luôn tìm kiếm Nước
Trời, họ sẽ là người hạnh phúc nhất, vì biết mình sống để làm gì và sẽ đi về
đâu.
14. Quảng đại thì giàu có
Ðại thi hào Tagore người Ấn
độ có một bài thơ minh hoạ cho chân lý nầy:
"Tôi đang đi hành khất
hết cửa nhà nầy đến cửa nhà kia dọc suốt đường làng lúc xe người vàng óng xuất
hiện đàng kia như một giấc mơ rực rỡ; lòng nhủ lòng tôi hỏi đức vua oai phong nầy
là ai!
Hy vọng trong tôi giang
cánh bay cao; tôi thầm nghĩ ngày xấu số từ đây thôi chấm dứt; tôi đứng đợi chờ
của bố thí chẳng hỏi xin mà có và bạc vàng trên bụi đường rơi vãi tứ tung.
Xe ngừng nơi tôi đứng.
Người đưa mắt nhìn tôi rồi bước xuống, mỉm cười. Tôi thầm nhủ duyên may đời
mình thế là đã đến. Nhưng chẳng chần chừ, người lại chìa bàn tay phải ra mà
nói: Có gì cho ta không?
A ha, gớm chưa lời thử
lòng vương giả khi mở bàn tay ăn xin một người hành khất tầm thường! Bối rối,
tôi đứng lặng im lưỡng lự một hồi, rồi từ từ móc trong bị lấy ra hạt lúa nhỏ bé
nhất đưa cho người.
Nhưng, ngạc nhiên xiết
bao, lúc ngày tàn, giốc túi ăn xin ra nền đất, tôi lại thấy giữa đống của bố
thí nghèo nàn hạt lúa vàng vô cùng nhỏ bé. Tôi khóc nức nở, nghĩ bụng ước gì đã
có tấm lòng dám cho người tất cả những gì là của riêng tôi!"
Người ăn xin trên đây đã
vò đầu bức tóc và khóc nức nở vì tiếc xót. Giá như ông ta dốc hết cả túi thóc cho
đức vua, thì giờ đây, ông đã được một túi đầy những hạt bằng vàng!
15. Có Bán Sự Khôn Ngoan
Một ngày nọ, hiền triết
Diogène (Hy Lạp) đến giữa chợ Athènes và dựng lên một căn lều với tấm bảng ghi
đậm hàng chữ: “Ở đây có bán sự khôn ngoan.”
Một bậc khoa cử tình cờ
đi qua căn lều, đọc được lời rao và cười thầm trong bụng. Muốn biết phía sau
căn lều ấy có những gì, ông mới sai người đầy tớ cầm tiền để dò la và mua cho
được cái mà người bán gọi là sự khôn ngoan.
Người đầy tớ cầm tiền ra
đi làm theo lời căn dặn của chủ. Anh ta đưa cho Diogène 3 hào và nói rằng chủ của
anh muốn có sự khôn ngoan. Cầm lấy 3 hào bỏ vào túi, hiền triết Diogène vẫn thản
nhiên và ôn tồn nói với người đầy tớ: “Anh hãy về đọc lại cho chủ anh nghe câu
này: ‘Trong tất cả mọi sự, hãy nghĩ đến Cùng Đích’. Vậy nhé!”
Vị khoa cử thành Athènes
vô cùng thích thú vì lời khôn ngoan này. Ông đã cho viết trước cửa nhà như
khuôn vàng thước ngọc để chính ông suy niệm mỗi ngày, và cũng để mọi người đi
qua trước nhà ông đều có thể đọc được: “Trong tất cả mọi sự, hãy suy nghĩ đến
Cùng Đích.”
16. Người giàu tự tử
Trong thực tế, sự giầu có
tiền bạc không hẳn bảo đảm hạnh phúc cho chúng ta. Theo các thống kê của xã hội
học về vấn đề tự tử thì tỷ lệ người giầu tự tử nhiều hơn người nghèo; tỷ lệ người
tự tử ở các nước tiên tiến, giàu có như Hoa Kỳ và các nước Âu Châu dẫn đầu các
nước khác (xin vào website Suicide để tham khảo).
Theo cuộc điều tra mới
đây về những người trúng xổ số và trở nên triệu phú trong giây lát, hầu như
không người nào nhờ đó mà sống hạnh phúc hơn. Vào khoảng đầu năm 2009, thần tài
đã đến viếng thăm một ông, và ông đã trúng số 30 triệu; nhưng chỉ vài tháng
sau, ông bị mất tích. Bà mẹ ông thì cho rằng ông sống ẩn dật ở đâu đó, còn cảnh
sát thì suy đoán ông đã bị giết, đã phải đổi mạng sống của ông vì tấm vé số
trúng.
Trong thực tế có nhiều
người trúng số lớn, đã mất hẳn cuộc sống tự do lúc bình thường, vì cứ lo bị ‘bắt
cóc’, nên đi đâu, ở đâu cũng lo sợ; ngoài ra, còn bị rầy rà vì bao nhiêu bạn
bè, bà con thăm hỏi và xin giúp đỡ, nên phải rút vào cuộc sống “ẩn dật” cho yên
thân. Chắc chúng ta còn nhớ câu chuyện ngụ ngôn của La Fontaine về “Ông Phú Hộ”
đêm đêm mất ngủ vì cứ phải lo tính tiền bạc và sự làm ăn sao cho khỏi thua lỗ
và được giầu có thêm mãi. Trái lại, người thợ đóng giầy ngủ nhờ dưới chân cầu
thang của nhà ông thì đêm nào, khi đi làm về cũng húyt sáo vui vẻ, rồi đi ngủ
ngon một giấc đến sáng để lại bắt đầu một ngày mới. Ông phú hộ liền đem tặng
cho ông ta một túi tiền.
Thế là từ ngày đó, ông ta
không còn ngủ yên như trước, vì đêm nằm cũng lo sợ bị mất trộm túi tiền, và khi
đi làm cũng vẫn phải lo giữ túi tiền. Ông ta cảm thấy cuộc sống không còn bình
an, thanh thản như trước. Và ông ta đã quyết định trả lại ông phú hộ túi tiền để
được trở lại cuộc sống nghèo khó nhưng bình yên hạnh phúc hơn.
17. Vinh Khải Kỳ xưa và
nay
Khổng Tử một ngày kia đi
dạo núi Thái Sơn, gặp ông Vĩnh Khải Kỳ cũng đang ngao du tại đó. Ông này mặc áo
da cừu, lưng thắt dây đai, tay gảy đàn cầm, vừa đi vừa hát. Khổng Tử hỏi: Tiên
sinh làm thế nào mà thường xuyên vui vẻ thế?
Vinh Khải Kỳ trả lời: Trời
sinh muôn vật muôn loài, mà loài người là quí nhất. Ta được làm người đó là một
điều quý, đáng vui. Trong loài người, đàn ông quí hơn đàn bà, mà ta được làm
đàn ông, đó là hai điều quí, đáng vui. Người ta sinh ra có người đui người què
có người sống yểu chết non, còn bọc trong tã mà đã chết rồi, mà ta đây hoàn
toàn khoẻ mạnh, nay đã 90 tuổi, thế là ba điều quý, đáng vui. Còn cái nghèo là
sự thường của thế gian, cái chết là sự hết của đời người, ta nay xử cảnh thường
như nhiều người, đợi lúc hết như mọi người, thì có gì là lo là buồn.
Đức Khổng Tử nói: Phải lắm,
tiên sinh thế là biết cách hưởng sự vui sướng ở đời.
Vinh Khải Kỳ quả đang sống
những cái phúc ở đời.
Cả 4 mối Phúc của Luca lẫn
8 mối Phúc của Matthêu cũng đều nhắc tới cái được. Gom tất cả các cái được đó lại
và nhại theo câu chuyện giữa Khổng Tử và Vinh Khải Kỳ mà chúng ta nghe đầu bài,
ta có thể thuật như sau:
“Một ngày kia, Đức Khổng
Tử đi chu du thiên hạ, gặp một nhóm người ngực mang khổ giá nhưng nét mặt vẫn
tươi vui. Bảng tên của họ ghi “Kitô hữu.” Đức Khổng Tử hỏi một người trong
nhóm: Này anh, kẻ hậu sinh, nhóm của anh tìm được cái gì mà sao anh và họ vui
tươi hớn hở như thế? Nét mặt các anh biểu lộ tâm hồn của những phúc nhân, những
chân phước.
“Chàng Kitô hữu trả lời:
“Chúa Trời sinh muôn vật
muôn loài mà loài người là quí nhất. Chúng tôi được làm người, đó là một điều
phúc.
“Chẳng những chỉ là người
bình thường mà chúng tôi còn được làm người con của Trời, con của Chúa, làm
thiên tử. Về điều phúc này lớn lao quá, đến nỗi khổ mấy để đạt được cũng không
quản, đạt được rồi, vui mấy cũng không vừa. Không bút nào tả cho xiết, không lời
nào nói cho cùng. Chúng tôi là thiên tử, là con trời. Đó là 2 điều Phúc.
“Là con trời nhưng Trời
không là vị Chúa tể oai phong cho bằng Trời là Cha, Chúa là mẹ. Chúa là Cha,
cũng không phải là cha nghiêm khắc công thẳng mà là Cha nhân từ. Cha chúng tôi
nhân từ đến độ có người cho là nhu nhược, nhưng Ngài vẫn cứ giữ nhân từ vô cùng
như thế. Dù chúng tôi có tội lỗi bao nhiêu, dù chúng tôi có xúc phạm Ngài thế
nào, chỉ cần một tiếng khóc ăn năn: Phúc cho kẻ than khóc, thì Ngài liền quảng
đại thứ tha. Cha chúng tôi quyền phép vô cùng nên mới nhân từ vô hạn được như vậy.
Đó là 3 điều phúc.
“Rồi khi cái chết là sự hết
của đời người, chúng tôi sẽ được về cùng Cha, không phải chỉ mãi là tâm linh là
khí phách sống trong nhà Cha, mà cả xác của chúng tôi cũng được phục sinh trong
ngày sau hết để vui hưởng hạnh phúc trong nhà Cha như nhà mình: đó là 4 điều
phúc.”
Nghe chàng Kitô hữu trả lời,
Khổng Tử liền nói: “Được 4 chân phúc như các anh các chị, làm sao các anh các
chị không vui, không mừng được. Lời của các anh chị nghe là lời phúc: Phúc âm.
Tin mà các anh chị nhận là Tin Mừng: Tin Mừng Đức Giêsu Kitô.”
18. Hết lòng giúp đỡ người
nghèo
Đấng Đáng kính Pierre
Toussaint (1766-1853) có thể thôi thúc chúng ta nỗ lực xây dựng một xã hội công
bình. Ngài là một gương mẫu cho tất cả chúng ta. Trong một phần cuộc đời, ngài
đã là người nô lệ ở Haiti và New York. Cũng giống như nhiều người sinh ra trong
những xã hội bất công, ngài đã kiên trì chịu đựng nạn kỳ thị chủng tộc với vô
vàn gian khổ. Trở thành người tự do ở tuổi 40, Toussaint đã phát triển một tiệm
làm tóc tại New York. Với sự tự do và thành đạt về tài chính, ngài dùng nguồn lực
của mình để giúp đỡ những người khác, chẳng hạn dành dụm tiền để chuộc lại người
chị Rosalie và người vợ tương lai Juliette Noel. Sự thành đạt không làm cho
ngài mù quáng trước đau khổ và nhu cầu của người khác; nhưng thay vào đó, ngài
dùng chính nguồn lực này để cứu giúp họ.
Cuộc đời của Đấng đáng
kính Toussaint phản chiếu lòng cam kết trung thành với công lý và phục vụ tha
nhân. Ngài và vợ đã nhận nuôi cháu gái Euphemia sau khi chị Rosalie mất. Hai vợ
chồng đã hỗ trợ các trẻ mồ côi và những bệnh nhân bị cách ly trong thời gian dịch
tả. Biết hai ngôn ngữ nên ngài đã làm thông dịch viên cho người tị nạn Haiti
nói tiếng Pháp tại New York. Toussaint cũng giúp ích cho Giáo hội nhờ tài năng
và lòng quảng đại của mình. Ngài đã tài trợ các tổ chức, ví dụ như nhà thờ Chính
Tòa thánh Patrick và trường thánh Vinhsơn Phaolô. Đây chính là đức tin vào Đức
Kitô được thể hiện bằng hành động.
19. Sự tỉnh thức tâm linh
Trong cuốn truyện The
Forst Circle, Salzhenisyn kể lại câu chuyện của một nhà ngoại giao tên
Innokenty. Trong suốt thời kỳ Staline cầm quyền, Innokenty và vợ ông, Dottie, sống
một cuộc sống được ưu đãi. Ở mỗi nhiệm sở ông được gởi đến, một căn nhà đầy đủ
những đồ dùng hoang phí đang chờ đợi họ. Và họ xum xoe thoả mãn. Họ có mọi thứ
họ muốn, và vào một thời kỳ mà Thế Chiến II tàn phá khắp nơi. Nhưng không có một
tiếng thở dài lo âu nào của thế giới làm động lòng họ.
Tuy nhiên, trong năm thứ
sáu của cuộc hôn nhân của họ, Innokenty bắt đầu có cảm giác bất ổn về mọi vật
chất. Cảm giác ấy làm ông bối rối và lo sợ. Ông có tất cả nhưng ông thiếu một
điều gì đó. Cả người vợ yêu quý Dottie cũng trở thành một người xa lạ với ông.
Cách sống xu thời làm ông lúng túng. Ở đâu, người ta cũng giống nhau và ở đâu,
người ta cũng nhảy cẫng lên và nâng ly chúc tụng người Stalin mà trong thâm tâm
họ sợ hãi và khinh miệt.
Một ngày kia, ông bắt đầu
xem kỹ những bức thư và sách vở mà người mẹ quá cố của ông để lại. Khi đọc những
bức thư ấy, ông đã khám phá ra một bảng giá trị hoàn toàn trái ngược với những
giá trị của tầng lớp xã hội trong đó có ông.
Những giá trị của mẹ ông
bắt đầu làm ông thức tỉnh. Trong các bức thư của bà, bà nói về những điều như
lòng thương xót, chân lý, lòng nhân hậu, v.v… Và rồi ông đọc đến một đoạn thư lạ
lùng này: “Điều quý giá nhất trong thế giới này là luôn ý thức rằng mình không
được dự phần vào sự bất công.”
Bỗng nhiên, ông khám phá
điều mà đời sống ông còn thiếu. Và trong nhiều ngày đêm, ông đã tiếp tục ngồi
đó để hít thở những giá trị của thế giới mẹ ông như một người hít thở không khí
trong lành. Ông khám phá một phương thế mới để nhìn và phán đoán đời sống. Cho
tới lúc đó, triết lý sống của ông là chúng ta chỉ sống có một lần. Đem chính
mình để phục vụ người khác là hoàn toàn điên rồ. Giờ đây, ông hiểu rõ một sự thật
khác: chúng ta chỉ có một lương tâm và nếu lương tâm trở nên què quặt thì đời sống
coi như đánh mất không gì bù đắp lại.
Bà mẹ ông có một bác sĩ đứng
tuổi là người điều trị căn bệnh cho bà trước khi bà mất. Một ngày kia, ông này
sắp lên đường sang Pari nơi đó ông định trao cho Phương Tây một số bí mật về y
khoa bởi vì ông cho rằng thế giới có quyền biết những bí mật ấy. Nhưng một cái
bẫy đã được giăng ra để bắt ông bác sĩ. Innokenty biết được điều đó. Ông tìm
cách gọi điện cho ông bác sĩ. Nhưng cuộc gọi ấy đã bị theo dõi và Innokenty bị
bắt.
Innokenty đã biết giàu
sang như thế nào. Khi bạn giàu có tiếng tăm, bạn là một thành viên của một nhóm
được kính trọng, và thật sự bạn không bao giờ bị đàn áp. Một cuộc gọi điện thoại
là một quyết định. Nhưng giờ đây ông đánh mất việc làm, địa vị, sức khoẻ, và mất
cả vợ mình, ông khám phá sự nghèo khó có ý nghĩa gì. Nghèo khó là không có bạn
bè và không có sự an toàn.
Tuy nhiên Innokenty đã
tìm được một kho tàng và ông biết điều đó. Ông có kinh nghiệm về sự thức tỉnh
tâm linh. Và như Kahlil Gibran đã nói: “Sự tỉnh thức tâm linh là điều quan trọng
nhất trong đời sống; nó là mục đích duy nhất của bản thân chúng ta.”
20. Món quà đáng quý
Một ngày kia một người
nghèo đi dọc theo một con đường, tình cờ ông gặp một người ăn mày đến xin ông bố
thí. Xấu hổ vì không có gì để bố thí, người nghèo đáp: “Tiếc thật, nhưng tôi
cũng nghèo như anh thôi.”
Khi nghe nói điều đó, người
ăn mày nói: “Cám ơn bạn, vì món quà của bạn.”
Không hiểu người ăn mày
muốn nói điều gì, người nghèo hỏi: “Tại sao ông cám ơn tôi? Tôi có cho ông cái
gì đâu.”
“Ồ có chứ”, người ăn mày
đáp: “Ông cho tôi sự lương thiện của ông, sự nghèo khó của ông và lòng tín thác
của ông.”
Thiên Chúa không nghèo,
nhưng chúng ta nghèo. Thế mà chúng ta có cái để cho Thiên Chúa. Chúng ta có thể
cho Người sự lương thiện, nghèo khó và lòng tín thác của chúng ta.
21. Phúc cho ai có lòng
thương xót
Báo Tuổi Trẻ số ra ngày
2.11.1994 có đăng bài viết về cô Vương Ngọc Sương, một người tàn tật, phải ngồi
xe lăn mà còn mở lớp học tình thương cho trẻ em nghèo. Và hơn thế nữa, còn sử dụng
căn nhà bé nhỏ của mình để chăm sóc một số bệnh nhân tàn tật giống như cô.
Câu chuyện xảy ra vào năm
1985, trong một tai nạn cô bị chấn thương cột sống, khiến cho đôi chân mất dần
cảm giác. Chồng cô kiên nhẫn thăm nuôi cô được sáu tháng rồi biệt tăm, để lại
cho người vợ tàn tật hai đứa con nhỏ. Giữa cảnh túng quẫn, cô được một người mẹ
nuôi bên Pháp giúp đỡ. Điều đáng thán phục đó là cô đã vận dụng số tiền nhận được
để phục vụ những người tàn tật và trẻ em nghèo túng.
Có một ông bố mà những đứa
con đã được cô nhận nuôi, sau khi đến thăm cô đã phải bật khóc và nói:
- Tôi còn nguyên vẹn như
thế này mà đã hư hỏng, trong khi chị tật nguyền lại phải lãnh hết việc nuôi dạy
các con tôi.
Và từ đó ông cố gắng chừa
bỏ tật nghiện rượu là nguyên nhân gây nên những đổ vỡ trong gia đình ông. Chính
mẹ nuôi của cô ở Pháp cũng viết thư và cho biết:
- Mấy người Pháp đến Việt
Nam thăm cô nay trở về cũng tỏ ra là những người sốt sắng sống đạo khác hẳn trước.
Riêng phần mình, cô đã không ngần ngại thú nhận: trước kia cô đã từng dửng dưng
với những khổ đau của người khác và đã từng làm mất lòng Chúa. Chính nhờ sự tàn
tật mà cô được hoán cải. Cô vui vẻ đón nhận mọi điều Chúa cho xảy ra nơi thân
xác cô cũng như nơi môi trường cô đang sống.
Từ mẩu chuyện trên chúng
ta nhận thấy: việc làm của cô là một phản ảnh trung thực cho lời giảng và việc
làm của Chúa. Thực vậy Thiên Chúa đã chiếu cố đến hoàn cảnh của từng người.
Ngài không chỉ loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, mà còn là hiện thân của
Tin Mừng đó. Bởi lẽ, vì yêu thương, Ngài đã xuống thế làm người, trở nên anh em
với hết mọi người. Do đó, không một đau khổ nào chúng ta phải chịu mà không đụng
tới lòng thương xót và chương trình cứu nhân độ thế do chính Ngài thực hiện.
Ngài đã nghiệm thấy cái đói của một bà goá. Ngài đã chữa lành mọi kẻ phong cùi,
bất luận họ là người Syria hay là người Do Thái. Vì thế mới có sự kiện đoàn lũ
dân chúng từ khắp nơi, tuốn đến nghe Ngài giảng và để Ngài chữa lành mọi bệnh
hoạn tật nguyền.
Đồng thời Ngài cũng muốn
chúng ta biểu lộ lòng thương xót với anh em bằng những hành động cụ thể, bởi vì
khi chúng ta giúp đỡ anh em là chúng ta giúp đỡ cho Chúa. Nhờ đó mà chúng ta trở
nên con cái của Chúa Cha, Đấng ngự ở trên trời:
- Các con hãy có lòng
nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ.
Bởi đó, hãy giúp đỡ những
người chung quanh, nhất là những kẻ bất hạnh và nghèo khổ, để nhờ đó chúng ta sẽ
được nếm thử niềm hạnh phúc dạt dào như lời Ngài đã phán:
- Phúc cho những ai có
lòng thương xót vì họ sẽ được xót thương.
22. Người nghèo, có phúc
Một Linh Mục quản xứ lấy
làm tiếc, nói: “Chưa có điện, thì trông cho có điện. Có điện rồi, nhà thờ sáng
lên rồi, thì trông cho có người đi lễ, vì ai nấy đều ở nhà xem ti vi- ti vi mới
sắm, nhờ có điện. Không chỉ ở các thành phố, mà ngay ở các giáo xứ vùng quê hôm
nay, cũng đã bắt đầu ít người đi lễ, đi đến nhà thờ, đọc kinh, cầu nguyện. Mỗi
lễ sáng lễ tối có khi được năm bảy chục người, chỉ toàn là ông bà già…Có ông
già than thở: “Ngày ấy nghèo khổ biết bao nhiêu, mà người đông như kiến tổ; chừ
làm ra giàu ra có, nghe chuông đổ, ngủ khò.” “Hồi còn nghèo còn khổ, nửa củ
khoai sùng cũng chia nhau, chừ ra giàu ra có, nhà ai cũng xây rào.” “Hồi còn
nghèo còn khổ, không thấy họ cãi nhau, chừ ra giàu ra có, nghe chén đĩa lào
xào”
Nghèo hay giàu, phúc hay
họa, đồng ý là, tùy thuộc vào cách sử dụng của cải vật chất trần gian, nhưng thực
tế nguy cơ nghiêng hẳn về sự giàu có. Vì sự giàu có có thể mua được tất cả thực
tại trần gian, và khả năng mua được những giá trị vĩnh cửu cũng không kém,
nhưng chỉ tiếc là, người ta có chấp nhận mua những thực tại chỉ thấy được bằng
con mắt đức tin: lòng bác ái thật- lòng bác ái vì yêu người như mến Chúa, lòng
bác ái vô vị lợi.
23. Mối phúc thật
Có một nhóm học giả Nhật
Bản thường gặp nhau để trao đổi về đủ mọi vấn đề. Trong những lần gặp gỡ đó, họ
thường đem những món trà quí giá và đắt tiền nhất ra để thưởng thức. Khi đến lượt
chuẩn bị cuộc gặp gỡ, người cao niên nhất trong nhóm đã biến tuần trà thành những
nghi thức vô cùng trang trọng: ông sử dụng bình trà cổ xưa và quí giá nhất của
gia đình, ông lựa lọc và nâng niu từng cọng trà trước khi cho vào bình. Mọi người
khen lấy khen để mùi vị thơm ngon của thứ trà mà họ cho từng được thưởng thức.
Ai cũng hỏi cho biết cách ướp và nghệ thuật của ông, người cao niên mỉm cười
nói như sau:
- Trà mà quí vị cho là hảo
hạng đây thật ra chỉ là thứ mà người làm công trong nông trại của tôi uống mỗi
ngày. Những điều tuyệt diệu trong cuộc sống không đắt đỏ cũng không khó tìm.
Nỗi khao khát vô biên về
hạnh phúc là một thách đố triền miên cho con người, hoặc là con người bằng lòng
với hiện tại và tìm thấy hạnh phúc đích thực trong cái mình đang có, hoặc con
người sẽ mải mê chạy theo ảo ảnh về của cải, danh vọng, quyền thế. Chúa Giêsu đến
để đặt lại tất cả đúng bậc thang giá trị của chúng.
24. Nghèo khó
Deborab là nữ tài tử
chính trong cuốn phim “Quo vadis”, nói về cuộc bắt bớ các Kitô hữu tại Rôma, dưới
thời bạo vương Néron. Sau khi đóng xong một cảnh nguy hiểm, một phóng viên đã hỏi
cô:
- Cô có cảm thấy sợ hãi
khi bày sư tử xông vào ở đấu trường hay không?
Cô trả lời:
- Không sợ chút nào cả, bởi
vì tôi đã đọc trước chuyện phim và biết chắc rằng tôi sẽ được cứu thoát.
Niềm tin cô đặt vào những
người bảo vệ cô là một hình ảnh sống động cho niềm tin đặt nơi Chúa của những
người nghèo khó trong Kinh Thánh. Vậy thì những người nghèo khó là ai mà lại được
Ngài chúc phúc?
Theo tiếng Do Thái thì
nghèo túng trước hết là thiếu thốn của cải vật chất. Nhưng nó không dừng lại ở
đó, mà còn phải tiến xa hơn nữa. Vì không có của cải vật chất, nên từ ngữ này
cũng ám chỉ những người không có quyền lực và ảnh hưởng, hay nói cách khác họ
là những kẻ bơ vơ, cô thân cô thế. Và từ chỗ bơ vơ lạc lõng, họ thường bị áp bức
và bóc lột. Và cuối cùng, đám người trên vì không có của cải, bơ vơ và bị bóc lột,
nên một số đã đặt trọn niềm tín thác vào Chúa.
Thế là từ ngữ này cuối
cùng được xử dụng, để chỉ những người trông cậy nơi Chúa.
25. Nước Trời ở đâu?
Một cha sở nọ vừa giảng về
nước Trời. Sau thánh lễ, một giáo dân đến hỏi ngài:
- Cha quên nói cho chúng
con biết phải tìm nước Trời ở đâu. Vị linh mục trả lời:
- Ồ! ở gần lắm, rất dễ.
Tôi biết có một bệnh nhân rất nghèo đang sống với đứa con của bà ta ở cuối đường
nhà thờ. Ông hãy đến thăm bà ta với một ít tiền và một ít thức ăn và nói với bà
ta: " Đây là những gì tôi mang đến cho bà nhân danh Đức Kitô Chuá chúng ta
.” Và ông nói vài lời an ủi bà trong cơn đau đớn bệnh hoạn, thì ông sẽ thấy nước
Trời. Nếu ông không thấy thì tôi sẽ hoàn trả lại số tiền chi phí lại cho ông.
Người kia làm những gì vị linh mục nói. Sáng hôm sau, ông đến gặp cha sở, nét mặt
vui tươi, và nói: "Thưa cha, đúng thế thật! Con đã thấy Nước Trời và con
đã ở đó nửa tiếng đồng hồ."
26. Người giàu cũng khổ
Trong những ngôi nhà của
người giàu, chúng ta nhận thấy thiếu một điều, thiếu sự sống và tiếng cười.
Chúng ta không bao giờ thấy con trẻ chơi đùa trên bãi cỏ. Một bầu khí u buồn dường
như bao quanh chúng và đó chính là sự sầu muộn của giàu có.
Một cặp vợ chồng giàu sống
trong một ngôi nhà lộng lẫy. Họ có một bà giúp việc. Buổi sáng bà nấu một bữa
ăn nhẹ. Buổi trưa một bữa ăn ngon và buổi tối một bữa ăn thịnh soạn cho cặp vợ
chồng và những người khách lui tới. Nhiều năm trôi qua, cặp vợ chồng già đi. Vì
thế, họ không tiếp đãi ai. Bữa ăn của họ gồm có trứng chiên, bánh mì và nước
trà pha lạt. Họ im lặng ngồi ăn, hiếm khi nhìn nhau.
Vào tối thứ bảy, bà giúp
việc mời ít người bạn vào một căn phòng dưới tầng hầm. Ở đó, họ dùng một bữa
cơm đạm bạc, uống một chút rượu, mở nhạc, nhảy múa và nói những câu chuyện vui
đùa. Một tối nọ, đang khi những tiếng cười vang lên, thì cánh cửa mở ra. Đó là
cặp vợ chồng chủ nhà. Họ nói với bà giúp việc: chúng tôi không muốn quấy rầy
các bà, nhưng chỉ muốn nhìn các bà vui đùa mà thôi… Người giàu cũng khổ vì
không có niềm vui, không có hạnh phúc.
27. Hạnh phúc ở đâu?
Ermann Coen được mệnh
danh là thánh Augustinô của thời đại chúng ta. Ngài là một người Do Thái rất
giàu có. Thời trai trẻ, ngài chỉ biết ăn chơi và chạy theo thế gian. Sự nhàm
chán cứ đè nặng trên vai ngài. Ngày kia, ngài từ chối tất cả và xin vào tu viện.
Trong buổi giảng mùa vọng tại Đền thờ đức bà ở Paris, ngài nói:
- Tôi đã đi khắp cả mặt đất.
Tôi đã yêu thế gian. Tôi đã biết thế giới và tôi đã học được một điều: không có
hạnh phúc ở trên thế gian này. Tôi đã tìm nó ở những nơi tôi tưởng có nó: ở những
nụ cười, ở những cuộc giải trí, ở những ngày lễ, ở vàng bạc, ở sắc đẹp... Ôi lạy
Chúa, những điều con mơ ước ấy bây giờ ở đâu.
Qua bài Tin Mừng hôm nay,
Chúa Giêsu đã không cho chúng ta biết địa chỉ của hạnh phúc, nhưng Chúa chỉ cho
con người con đường để có thể có hạnh phúc.
Đây là lời của mẹ Têrêsa:
"Chúng ta có quyền được hạnh phúc và bình an. Chúng ta được dựng nên vì điều
này, được sinh ra để hạnh phúc và chúng ta chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc thật
và bình an thật trong cuộc tình với Thiên Chúa: có niềm vui khi yêu thương
Thiên Chúa, có hạnh phúc lớn lao khi yêu thương Ngài. Nhiều người nghĩ, nhất là
ở Tây Phương, là tiền của sẽ mang lại hạnh phúc. Tôi nghĩ khi giàu sang bạn khó
có hạnh phúc hơn vì bạn khó có thể tìm thấy Thiên Chúa: bạn có quá nhiều điều để
lo lắng.”
Mẹ nói tiếp: "Chúng
ta không cần tìm kiếm hạnh phúc: nếu chúng ta yêu thương người khác chúng ta sẽ
được hạnh phúc. Ðó là quà tặng của Thiên Chúa.”
28. Cái mất của thời hiện
đại
Một câu truyện của tạp
chí Time (10.5.1993) nói về bà Hillary Rodham Clinton. Nó mô tả bài phát biểu của
Đệ nhất phu nhân tại đại học Texas vài ngày trước khi cha bà chết. Giọng bà đứt
quãng khi trích dẫn lời Lee Atwater (người phụ trách chiến dịch Bush, đã chết ở
tuổi 40 vì chứng bướu não). Ông có được tiền của và sự kính trọng, nhưng lại cảm
thấy trống rỗng sâu xa trong tâm hồn. Ông nói: “Căn bệnh của tôi giúp tôi nhận
ra rằng điều xã hội đang đánh mất cũng là điều tôi đánh mất, đó là một trái tim
nhỏ bé nhưng giàu tình thương” Và ông kết luận: “Chúng ta phải nói đến sự trống
vắng tinh thần này giữa lòng xã hội Mỹ”
Tôi có thể đồng ý với nhận
xét của Lee Atwater không? Chỉ có một cá nhân có thể làm được gì trước sự trống
vắng tinh thần trong xã hội chúng ta?
Kẻ đánh mất của cải đã mất
đi nhiều. Những kẻ đánh mất tinh thần là mất đi tất cả. (Elbert Hubbard)
29. Người nghèo ở gần Chúa
Tại một đạo viện trong đẫy
Hi Mã Lạp Sơn có khá đông người Âu Mỹ theo học với một Đạo Sư. Hằng ngày thầy
trò cùng nhau tham thiền ở bãi cỏ trước đạo viện, sau buổi thiền, họ thường thảo
luận, và nếu ai còn thắc mắc điều chi, thì họ nói ra. Câu hỏi về việc làm thế
nào để biết mình gần Thượng Đế, hay còn cách xa Thượng Đế, đã được một học viên
nêu lên. Đạo sư nói: “Câu hỏi này hay lắm, dĩ nhiên có một tiêu chuẩn, nhưng
trước hết, tôi muốn hỏi các bạn một câu. Các bạn có bao nhiêu ham muốn?” Các học
viên hỏi: “Ham muốn loại gì?”
Đạo sĩ trả lời: “Bất cứ
loại nào, thí dụ như anh muốn có căn nhà lớn, có thật nhiều tiền, có người bạn
gái thật đẹp, có một mái ấm gia đình, một khả năng về thể thao, một nghề chuyên
môn, một bằng cấp cao, một chiếc xe thể thao thật lộng lẫy, hay ước ao được nổi
tiếng v.v.… Các bạn hãy lấy giấy bút ra, ghi chép tất cả ham muốn mà các bạn
đang có, đang ao ước, rồi đếm xem bạn có bao nhiêu ham muốn?”
Sau khi mọi người nghi
chép xong, Đạo Sư lên tiếng hỏi từng người: “Bạn có bao nhiêu ham muốn?” Người
thứ nhất trả lời: “Tôi có 36 cái.”
Người thứ hai trả lời:
“Tôi có 60.”
Người thứ ba trả lời:
“Tôi có 18”…
Sau khi chờ mọi người nói
xong, Đạo Sư gật đầu, và nói: “Được lắm, bây giờ các bạn hãy tưởng tượng rằng, có
một cây thước đo bề dài mà các bạn ham muốn, và các bạn có tiêu chuẩn rồi đó.”
Mọi người chưa rõ, hỏi lại:
“Chúng tôi chưa hiểu?”
Đạo sư trả lời: “Này các
bạn, cái bề dài của danh sách ham muốn chính là mức độ của các bạn cách xa Thượng
Đế. Nói một cách khác khoảng cách giữa ta và Thượng Đế có thể tượng trưng bằng
một con số của các ham muốn mà ta có trong lòng.”
Một trong những ý nghĩa của
tinh thần nghèo khó là lòng ít ham muốn, (nhất là ham muốn bất chính) bao lâu
lòng ta còn chứa đầy dục vọng, thì Chúa không còn chỗ ở trong ta, và Chúa ở xa
ta.
30. Ba đồng cứu sống
Ngày xưa, tại vương quốc
kia, đức vua mở phiên tòa xét xử một tên tội phạm nguy hiểm. Tên tội phạm phải
lãnh án tử hình: bị treo cổ. Nhưng tại vương quốc ấy có một luật lệ đặc biệt: nếu
người tử tội nộp đủ 1000 đồng tiền vàng, hắn sẽ được tha bổng.
Khi người ta sắp treo cổ
hắn, thì bà hoàng hậu cùng đoàn tùy tùng đi săn bắn về ngang qua đó. Bà hoàng hậu
thương tình muốn bỏ tiền ra để chuộc lại mạng sống cho tên tử tội.
Nhưng gom góp tất cả tiền
của bà hoàng hậu và đoàn tùy tùng, người ta cũng chỉ đếm được 997 đồng. Còn thiếu
ba đồng. Luật là luật! Nhà vua ra lệnh: “Treo cổ nó lên!” Sợi dây thừng được
tròng vào cổ tên tử tội. Nhưng đúng lúc ấy, có tiếng người la lên ở giữa đám
đông: “Thử lục túi hắn xem, biết đâu đấy!”
Người ta liền lục soát
túi hắn và quả thật, họ đã tìm được 3 đồng tiền chẳng ai ngờ đến! Thế là tên tử
tội được tha bổng.
Ba đồng tiền nhỏ nhoi
không ai ngờ chính là những đồng tiền thiện chí, là phần góp nhỏ bé của mỗi người
vào ân sủng Chúa ban. Tuy nhiên, đó cũng còn là những đồng tiền nhân nghĩa, những
đồng tiền biết cho đi, biết chia sẻ cho tha nhân. Những đồng tiền ta trao tặng
có thể thật nhỏ bé đến nỗi ta không quan tâm, những đồng tiền ta cho đi đôi khi
ta đã quên mất, nhưng đó lại là những đồng tiền quý giá nhất, những đồng tiền
mua được cả “kho báu trên trời.”
31. Hành trang của khách
hành hương
Một khách hành hương đến
gặp một linh sư, thấy ông ở trong một căn phòng trống trải chỉ có một cái giường,
một cái bàn, mới hỏi:
- Đồ đạc của thầy đâu hết
rồi?
- Đồ đạc của ông đâu rồi?,
vị linh sư hỏi lại ông ta.
- Thưa thầy, con đi hành
hương nên chỉ mang theo một vài vật dụng cần thiết thôi.
- Tôi cũng đang trên đường
hành hương về trời, nên cũng chỉ cần đến những vật dụng cần thiết hằng ngày
thôi.
Các nhu cầu cho cuộc sống
hằng ngày vẫn phải tìm kiếm, nhưng ưu tiên số một phải dành cho nước Chúa và sự
công chính của Người. Chẳng có mất mát nào có thể đe dọa được người sống như vậy.
Giữa mọi mất mát trên đời, họ luôn có một chỗ dựa vững vàng là lòng Chúa yêu
thương: “Duy nơi Thiên Chúa, linh hồn tôi được an vui.”
32. Tài sản và tình yêu
Ở Phi châu có một bộ lạc
khá lạ lùng. Họ không bao giờ đếm, và không ai biết làm toán. Có một du khách hỏi
dân bản địa về số cừu của anh. Anh ta lắc đầu trả lời: “Tôi không biết”
Người du khách phải hỏi
thêm để biết được họ làm thế nào mà quản lý được đàn cừu: “Nếu lỡ mất một hai
con, làm sao anh biết?”
“Tôi không biết con số,
nhưng tôi không quên được những khuôn mặt.”
Câu trả lời thật đơn giản
nhưng cũng rất ý vị. Mỗi khuôn mặt là một tương quan. Làm sao con số có thể lột
tả được sự phong phú của những tương quan, và cuộc sống sẽ cằn cỗi biết bao nếu
chỉ là những con số.
Cũng thế, tài sản tự nó
không có giá trị, giá trị của nó tuỳ thuộc vào sự sống con người mà nó phục vụ.
Thế nhưng có một nghịch lý trong lịch sử nhân loại: Người ta rất thường khi bắt
sự sống phải chịu thiệt thòi để ‘kiếm tiền’ nhiều hơn, và họ gọi đó là ‘kiếm sống’.
Của cải càng nhiều thì sự
sống càng dễ trở nên nghèo nàn, cằn cỗi, vì sự sống con người đâu phải chỉ là mấy
chữ ‘cơm, áo, gạo, tiền’.
33. Tôn thờ Thiên Chúa
hay tiền bạc
Nhà thần học Teuler người
Đức thuật lại: Có lần tôi muốn tìm một định nghĩa về thánh ý Chúa, tôi suy nghĩ
mãi nhưng không tìm ra; tôi cứ đi dạo thơ thẩn trong các vườn hoa, vào các nhà
thờ, lục các thư viện nhưng vẫn không tìm ra. Một hôm, tôi vào cầu nguyện trong
nhà thờ, lúc đi ra tôi thấy một cụ già ăn mày đang đứng ở cửa nhà thờ ngả mũ
xin tiền. Theo thói quen, tôi lấy tiền biếu cụ và chào: “Bonjour Monsieur!”,
nghĩa từng tiếng là “chúc ông một ngày tốt.” Cụ già trả lời: “Tout les jours
sont bons!” (ngày nào cũng tốt).
Nghĩ ông già bướng bỉnh,
tôi dừng lại và nói:
- Xin lỗi cụ, cụ đói rách
thế mà cụ bảo ngày nào cũng tốt sao?
- Thưa ông, tôi theo ý
Chúa. Chúa muốn mưa, tôi cũng muốn, Chúa muốn nắng, tôi cũng muốn, Chúa muốn sướng,
tôi cũng muốn, Chúa muốn cực, tôi cũng muốn chấp nhận tất cả. Phần tôi đã lo phấn
đấu lao động lúc trẻ nên đủ ăn, giờ đây già, bà con rộng lòng nên cũng đủ ăn,
ngày nào cũng đẹp!
Ông Teuler tiếp: “Cụ già
này thông hơn tôi, chính ông đã cho tôi định nghĩa thánh ý Chúa là gì!”
Niềm tin vào Thiên Chúa
đã giải thoát ông ăn xin khỏi những ràng buộc của tiền bạc để tự do mà thưởng
thức cuộc đời.
Người giàu có thật không
phải là người có nhiều, nhưng là người có đủ những gì mình cần. Lòng tham làm
cho tôi luôn thiếu thốn mọi sự, và tình yêu làm cho tôi luôn có khả năng chia sẻ.
Đó là sống và tự do…
Và đó là Thiên Chúa! Đâu
là chọn lựa của tôi?
34. Gánh nặng tiền của
Sau Thế chiến II, một
quân nhân Ý muốn có một vật kỷ niệm về cuộc chiến nên anh đã đi tìm những kỷ vật
trong chiến tranh. Anh tìm thấy một tấm gương gợi nhắc lại thật nhiều kỷ niệm.
Tấm gương đó cao bằng đầu và rất rộng nên anh phải ghé lưng vác về cách vất vả.
Đi đường, anh phải lo toan gìn giữ sao cho tấm gương khỏi vỡ. Có nhiều đêm anh
phải tìm nhà thuê để gửi miếng kính đó, còn mình thì ở chỗ khác. Những đêm
không ngủ cạnh tấm gương làm anh mất ngủ và mất sức.
Vừa mang vác vừa lo lắng
quá sức nên một ngày kia, khi đang đi anh đã đánh rớt tấm gương làm cho nó bể
ra từng mảnh. Mới đầu, anh thấy rất buồn, nhưng sau lại thấy mình thảnh thơi,
và anh tự hỏi không biết hôm trước mình làm chủ tấm gương hay tấm gương làm chủ
mình.
Tôi cũng là anh lính đó với
tấm gương nặng trên lưng là tiền của và tài sản đang đợi ngày tan tành tất cả.
Thế thì còn gì có phúc hơn khi tôi có thể đem lại cho chúng một giá trị vĩnh cửu
cho hạnh phúc đời đời của tôi: “Hãy dùng tiền gian dối mà mua lấy bạn hữu, để
khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời.”
Quy luật cho hạnh phúc đời
đời Chúa đã ban cho tôi là lấy Chúa làm mục đích sau cùng cho đời mình: “Vậy
con hãy qui hướng mọi cái về Cha như cứu cánh chính của con, vì chính Cha đã
ban cho con mọi cái .” (Imit III, IX, 4)
THỨ HAI – XIN ĐIỀM LẠ
Lời Chúa: Mc 8, 11-13
Khi ấy, các người biệt
phái xuất hiện và bắt đầu tranh luận với Chúa Giêsu. Họ xin Người một điềm lạ
trên trời để thử Người.
Người thở dài mà nói:
"Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ? Quả thật, Ta bảo các ông hay: Sẽ chẳng
cho thế hệ này điềm lạ nào.” Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền sang bờ bên
kia.
TRUYỆN KỂ
1. Một dấu lạ từ trời
Một nhà thám hiểm Tây
phương lạc hướng giữa sa mạc. Nguồn lương thực và nước uống đã khô cạn. Ông lê
từng bước mệt mỏi trên cát nóng... Thình lình ông nghe tiếng suối róc rách và
thấy trước mặt mình một ốc đảo xanh tươi. Thế nhưng, với lối suy nghĩ khoa học
của người phương Tây, ông tự nghĩ: “Đây chỉ là một ảo ảnh... trong thực tế trước
mắt ta làm gì có nước và cây cối.” Nghĩ như vậy, ông lại tuyệt vọng lê bước...
Không bao lâu sau đó, hai
người du mục tình cờ đi qua. Họ bắt gặp một xác người. Một người thốt lên “Chỉ
còn hai bước nữa là người này đã có thể tới ốc đảo và tha hồ uống nước cũng như
thưởng thức những trái ngọt cây lành. Tại sao lại có chuyện thế này?” Nhưng người
bạn lắc đầu giải thích “Ông ta là một người phương Tây. Thế giới của chúng ta đầy
ánh sáng và mầu nhiệm, nhưng con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che
đậy chúng.
Thảm trạng của con người
thời đại: Con người có nhiều kiến thức hơn, nhưng lại dùng bàn tay nhỏ bé của
mình để che đậy ánh sáng và mầu nhiệm... con người không còn biết đọc ra những
dấu chỉ của thời đại”
2. Hãy cho tôi thấy Thiên
Chúa.
Một ông vua thông minh
tài giỏi, nhưng rất ngạo ngược. Ngày kia, ông bèn nảy ra ý kiến hiểm độc. Ông
cho triệu các nhà lãnh đạo tôn giáo đến và ra lệnh trong một tuần lễ phải cho
ông thấy được Thiên Chúa, nếu không sẽ bị chém đầu.
Thật là một đòi hỏi nan
giải và hóc búa. Làm sao có thể thực hiện cho nhà vua được? Vì không thiếu phép
lạ, nhưng phép lạ không phải để đáp lại cái ý muốn điên rồ và thách thức ấy.
Biết được nỗi lo âu ấy, một
kẻ chăn chiên đến xin các vị lãnh đạo cho phép để chỉ cho nhà vua thấy Thiên
Chúa. Họ không tin tưởng lắm, nhưng cũng đành lòng chấp nhận.
Buổi sáng ngày ấn định,
anh chăn chiên dẫn nhà vua đến cánh đồng cỏ nơi anh thường thả đàn vật. Họ cùng
nhau đi bộ. Lúc đến nơi thì mặt trời đã gần lên tới đỉnh đầu. Người chăn chiên
đưa tay chỉ mặt trời và nói: “Tâu bệ hạ, xin hãy nhìn.”
Nhà vua tức giận quát lớn:
“Thằng điên! Ngươi muốn ta mù sao? Ai có thể nhìn vào mặt trời chói chang như vậy”?
Lúc ấy, người chăn chiên
liền quì gối xuống trước mặt vua mà nói: “Muôn tâu bệ hạ, với một vật Chúa làm
ra và ánh sáng của nó còn chói chang, đến nỗi bệ hạ chẳng dám nhìn, thì làm sao
bệ hạ có thể nhìn thấy chính Thiên Chúa được?
3. Chúa thực hiện bằng
tay trái
Bà nội và cháu trai 5 tuổi
buổi sáng đi dạo ở vùng thôn quê, sương giá nhuộm trên cành lá tạo cho chúng
màu sáng lấp lánh thật quyến rũ.
Bà ngạc nhiên, nhìn lên
sườn đồi trong màu vàng đỏ tươi lấp lánh: "Hãy nghĩ xem, Thiên Chúa đã sơn
tất cả cảnh đó.”
Cháu đồng ý: "Vâng,
và Ngài đã thực hiện với cánh tay trái của Ngài.”
- Cháu muốn nói gì?
- Ồ, vào ngày Chủ nhật,
chúng con được dậy rằng Chúa Giêsu đang ngồi bên tay hữu Thiên Chúa.
4. Đức tin không đòi chứng
cứ
Sáng nay, lời của ông thấy
dạy chính trị làm mình rất khó chịu: "Tôi thấy cũng lạ, đã tin là có Chúa,
có Mẹ, làm sao các nóc nhà thờ trồng cột thu lôi làm gì. Chẳng lẽ cha mẹ phá huỷ
con cái mình sao?" Và mọi người bàn tán xôn xao.
Khi người ta tôn thờ vật
chất và tôn vinh con người cách quá đáng thì dễ đi tới kết luận tôn giáo là mê
tín, hoang tưởng. Họ khó mà có được lòng khiêm tốn để nhận biết Thiên Chúa, và
dễ trở thành những con người độc tôn. Vô ích nếu chỉ đôi co và biện lý.
Dứt khoát tôi không thể
chỉ cho họ thấy một Thiên Chúa nhân hậu khi tôi chưa sống như một người nhân hậu.
Lạy Chúa, xin cho con biết
tin vào Chúa một cách vô điều kiện, để với niềm tin này con sẽ giúp người khác
nhận ra Chúa.
5. Nhìn thấy Thiên Chúa bằng
đức tin
Một ông vua thông minh
tài giỏi, nhưng cũng chẳng kém phần ngạo ngược. Ngày kia, ông bỗng nảy ra một ý
kiến hiểm độc. Ông cho triệu các nhà lãnh đạo tôn giáo đến và ra lệnh trong một
tuần lễ phải làm thế nào cho ông thấy được Thiên Chúa, nếu không sẽ bị ông chém
đầu.
Thật là một đòi hỏi nan
giải và hóc búa. Làm sao có thể thỏa mãn được đòi hỏi càn dở của nhà vua đây?
Không thiếu những phép lạ, nhưng phép lạ không phải để đáp lại cái ý muốn điên
rồ và thách thức ấy.
Biết được nỗi lo âu của vị
lãnh đạo, một kẻ chăn chiên đến xin các ngài cho phép để anh ta được chỉ cho
nhà vua thấy Thiên Chúa. Các vị lãnh đạo không tin tưởng ở anh ta, nhưng trong
hoàn cảnh đang bế tắc, cũng chẳng biết làm sao hơn được.
Buổi sáng ngày ấn định,
anh chăn chiên dẫn nhà vua đến cánh đồng cỏ nơi anh thường thả đàn vật. Họ cùng
nhau đi bộ. Lúc đến nơi thì mặt trời đã gần lên tới đỉnh đầu. Người chăn chiên
đưa tay chỉ mặt trời và nói:
- Tâu bệ hạ, xin hãy
nhìn.
Nhà vua tức giận quát lớn:
- Thằng điên! Ngươi muốn
ta mù sao? Ai mà có thể nhìn thẳng vào mặt trời chói chang như vậy?
Lúc ấy, người chăn chiên
liền quỳ xuống trước mặt vua mà nói:
- Muôn tâu bệ hạ, với một
vật Thiên Chúa làm ra và ánh sáng của nó còn chói chang, đến nỗi bệ hạ chẳng
dám nhìn, thì làm sao bệ hạ có thể nhìn thấy chính Thiên Chúa được?
Ngay lúc ấy nhà vua đã
nhìn thấy Thiên Chúa, không phải bằng đôi mắt, nhưng bằng đức tin.
6. 19 phép lạ trong Phúc
Âm Marcô
Để minh chứng quyền năng
của Tin Mừng, ông Marcô ghi liên tiếp 19 phép lạ do quyền năng của Tin Mừng:
1- Đức Giêsu vừa cất tiếng
gọi các ngư phủ đang quăng chài bắt cá, tức khắc họ bỏ mọi sự đi theo Ngài (x
Mc 1, 16-20).
2- Đức Giêsu xua đuổi thần
ô uế ra khỏi một người chỉ bằng một lời nói (x Mc 1, 23t).
3- Đức Giêsu cầm tay mẹ vợ
ông Phêrô đang cảm sốt nặng, tức khắc bệnh bà biến mất (x Mc 1, 29t).
4- Đức Giêsu chữa lành mọi
kẻ đau ốm, và trừ quỷ xuất khỏi những người bị quỷ ám (x Mc 1, 32t).
5- Đức Giêsu chữa lành
người phung hủi (x Mc 1, 40t).
6- Đức Giêsu chữa lành
người bất toại được bốn người khỏe khiêng đến, họ phải đục mái nhà để mau mắn
đưa bệnh nhân đến cho Ngài (x Mc 2, 3t).
7- Đức Giêsu chữa lành
người có tay khô bại (x Mc 3, 1t).
8- Mọi bệnh nhân chỉ cần
rờ đến tua áo choàng của Đức Giêsu là được lành bệnh (x Mc 3, 10t).
9- Đức Giêsu lên tiếng dẹp
sóng gió để thuyền các Tông Đồ đến bến bình an (x Mc 4, 35t).
10- Đức Giêsu trừ quỷ xuất
khỏi một người thuộc xứ Ghêrasa (x Mc 5, 1t).
11- Đức Giêsu chữa lành bệnh
một phụ nữ bị băng huyết đã 12 năm (x Mc 5, 25t).
12- Đức Giêsu phục sinh
con gái ông Giairô (x Mc 5, 35t).
13- Đức Giêsu chữa lành một
số bệnh nhân ở quê hương Ngài, dù dân đồng hương chống đối không muốn nghe Ngài
giảng (x Mc 6, 4t).
14- Đức Giêsu hóa bánh lần
I: 5 bánh và 2 con cá, nuôi một đoàn lũ không kể đàn bà con nít mà đã tới 5.
000 người (x Mc 6, 30t).
15- Thuyền các Tông Đồ vượt
biển gặp sóng gió, Đức Giêsu đi trên mặt nước đến ban bình an cho họ (x Mc 6,
45t).
16- Mọi bệnh nhân vùng
Ghêrasa chỉ cần rờ vào tua áo Đức Giêsu, ai cũng được lành mạnh (x Mc 6, 53t).
17- Đức Giêsu trừ quỷ xuất
khỏi con gái của một phụ nữ người Phênikia (x Mc 7, 24t).
18- Đức Giêsu chữa lành
người điếc và ngọng (x Mc 7, 31t).
19- Đức Giêsu hóa bánh lần
II, Ngài dùng 7 chiếc bánh và mấy con cá nhỏ, cho 4. 000 người đàn ông ăn no
nê, không kể đàn bà con nít (x Mc 8, 1t).
Ông Marcô hữu ý ghi lại
liên tục những phép lạ như trên để minh chứng Lời Đức Giêsu là Lời của Đấng
Toàn Năng, Ngài chính là Con Thiên Chúa được Chúa Cha sai đến cứu độ những kẻ
tin vào Ngài là Đấng cứu độ duy nhất (x Cv 4, 12; Ga 17, 3).
7. Dấu lạ trong đời sống
Một giảng viên triết hỏi
một sinh viên Kitô giáo: “Bạn tin Thiên Chúa sáng tạo mọi sự, làm được mọi điều.
Vậy Người có thể tạo một khối đá cực lớn mà Người không thể nhấc nổi không?” Cậu
sinh viên ấp úng không trả lời được, vì anh không nhận ra ngay đó là một ngụy
biện (fallacy).
Nhiều người trẻ hôm nay bị
lúng túng trong những trường hợp tương tự như thế. Con người đã chinh phục vũ
trụ, và những nhà du hành hô lên: “Chúng tôi không thấy Chúa, không thấy Thiên
Đàng.”
Nhiều khi ta thấy mình
quá lớn, nghĩ rằng mình đã nắm hiểu hết và kiểm sóat hết tất cả! Thật ra, hòan
tòan không phải thế. Những thảm họa thiên nhiên thỉnh thoảng ập đến, nhắc ta rằng
mình quá bé nhỏ. Những năm vừa qua, trước những cơn bão như Xangsane, Durian…
và dự báo được về đường đi của chúng, về ngày giờ và nơi chốn chúng đổ bộ,
nhưng chúng ta bất lực không thể đánh tan, chặn đường, hay bẻ hướng chúng, để cứu
cho hàng vạn ngôi nhà khỏi sụp đổ và hàng mấy trăm con người khỏi thiệt mạng.
Chúng ta thực sự rất bé nhỏ!
Thay vì tìm cách lập luận
chứng minh cho người khác rằng có Thiên Chúa, bạn hãy chỉ cho họ thấy Chúa qua
đời sống và công việc mình làm: yêu thương, Chia sẻ, cảm thơng, nhẫn nại, tha
thứ…
8. Dấu tích của Thiên
Chúa
Các ông chủ xưa thường
đánh dấu nô lệ của họ bằng những hình xâm hay những nhãn hiệu. Những dấu này
giúp nhận dạng nô lệ. Đó cũng là cách để bảo vệ nô lệ. Một người sẽ phải suy
tính kỹ trước khi làm hại nô lệ của một ông chủ hùng mạnh. Nền tảng này giúp ta
nhận ra ý của bài đọc hôm nay. Dấu đặt trên Cain giúp nhận ra anh ta còn thuộc
về Chúa, đồng thời là một sự bảo vệ đầy nhân hậu của Ngài.
Tôi có chuyện riêng tư
nào tương tự chuyện của Cain không?
Đừng ai gây phiền toái
cho tôi nữa, vì tôi mang trên mình tôi những dấu tích của Chúa Giêsu. (Gl 6,17)
9. Truyện cười Texas
Có cả một nền văn học về
“Truyện cười Texas” Chủ đề chung của chúng là không cái gì ở Texas mà người ta
lại làm theo quy mô nhỏ cả. Ví dụ: một người Nữu Ước làm ơn cho một người
Texas. Người Texas cứ đòi trả ơn người Nữu Ước bằng một món quà gì đó. Sau
cùng, người Nữu Ước cũng chiều lòng và nói: “Ồ, một vài câu lạc bộ chơi golf
thì cũng tốt” Ít ngày sau, người Nữu Ước nhận được một bức điện từ Texas: “Có
sáu câu lạc bộ chơi golf cho anh, năm cái hồ bơi ngoài trời và một hồ bơi bên
trong”
Câu truyện cười Texas đó
cho chúng ta một cái nhìn về sự quảng đại không thể tưởng tượng được của Thiên
Chúa. Nó nhiều hơn bất cứ thứ gì ta đã cầu xin hoặc ước mơ.
Nếu Thiên Chúa đề nghị tôi
bất cứ điều gì tôi muốn, tôi sẽ xin gì?
Những món quà Thiên Chúa
ban tặng vượt xa những giấc mơ đẹp nhất của con người (Elisabeth Barrett
Browning).
10. Họ đòi dấu lạ
Có một câu truyện cổ kể về
hai ông cháu nọ dẫn một con lừa đi trên đường. Một số người cười họ khờ khạo vì
không cưỡi lừa mà đi. Vì vậy người ông cưỡi lừa cho đến khi có người chỉ trích
ông vì bắt cậu bé đi bộ. Rồi khi cậu bé cưỡi lừa, kẻ khác lại trách cậu không
kính trọng người già. Cuối cùng, cả hai leo lên lưng lừa cho đến khi có kẻ trách
họ độc ác với thú vật.
Bài học luân lý của câu
truyện khá rõ ràng. Chúa Giêsu cũng phải đối mặt với những vấn đề và những con
người tương tự như thế trong đời Ngài. Hai ngàn năm đã trôi qua, nhưng mọi thứ
vẫn không thay đổi.
Tôi phủ định như thế nào
đối với những kẻ luôn có thái độ phủ định mọi thứ?
Người bi quan phàn nàn về
gió.
Người lạc quan hy vọng
gió sẽ đổi chiều.
Người thực tế xoay buồm
chuyển hướng. (William Arthur Ward)
11. Dấu lạ Thánh Thể
Chuyện kể rằng một vị
thánh đang chầu Thánh Thể thì có người vào báo tin ở ngoài đang xảy ra một phép
lạ và người ta kéo tới xem đông lắm. Vị thánh đã trả lời ở đây cũng đang diễn
ra một phép lạ vĩ đại, đó là chính Chúa Giêsu hiện diện trong nhà chầu, nơi bí
tích Thánh Thể và ngài đang chiêm ngắm. Người Do Thái đòi Chúa Giêsu làm một dấu
lạ trên trời, nhưng chính Ngài là dấu lạ đang ở trước mặt họ thì họ không nhận
biết: Ngài sẽ là Dấu Lạ đích thực cho họ, “dấu lạ Giona,” qua cái chết và cuộc
phục sinh của Ngài.
Mời Bạn: Biết bao phép lạ
lớn lao Chúa đã thực hiện không phô trương ồn ào, mà kín đáo tế nhị, âm thầm
khiêm tốn.
12. Điềm lạ cho thế giới
hôm nay
Một thương gia trở về nhà
sau một ngày làm việc mệt nhọc. Ông chỉ muốn được nghỉ yên trong thinh lặng.
Nhưng đứa con trai của ông lại muốn được chơi với bố. Muốn được yên, ông xé một
tờ báo có in hình bản đồ thế giới ra làm nhiều mảnh và bảo nó gắn lại như trước.
Mười phút sau, đứa bé
quay lại tay cầm tấm bản đồ đã được gắn lại hoàn chỉnh. Người thương gia ngạc
nhiên hỏi cho biết làm sao mà con mình có thể xếp và gắn lại tấm bản đồ mau lẹ
như vậy dù nó chẳng biết gì về địa hình của thế giới.
“Tất cả việc con làm là gắn
lại hình người phía sau cho đúng”, cậu bé trả lời.
Tình hình thế giới và đời
sống nhân loại hôm nay như tấm bản đồ bị xé làm nhiều mảnh, đời sống và hạnh
phúc mỗi người bị xâu xé bởi nhiều thứ khủng hoảng: khủng hoảng kinh tế, khủng
hoảng tình yêu, khủng hoảng gia đình, khủng hoảng đạo đức…
13. Lo lắng và hoang mang
Tại sao lại lo lắng và
hoang mang? Lo lắng và hoang mang vì thế tục hứa hẹn rất nhiều nhưng cũng đánh
mất rất nhiều. Hứa nhiều lắm những điều chóng qua và sẽ hết, nhưng lại đánh mất
nhiều điều thực có giá trị và vĩnh cửu. Ngày 03/2/1994, trong bài diễn văn tại
Bữa Điểm tâm Cầu nguyện tại Washington, DC., Mẹ Têrêxa nói: “Tôi ngạc nhiên khi
thấy tại phương Tây có rất nhiều bạn trẻ nghiện ngập ma túy. Và tôi thử tìm hiểu
nguyên do tại sao như vậy trong khi các bạn trẻ phương Tây có đầy đủ vật chất
hơn các bạn trẻ phương Đông. Câu trả lời là bởi vì chẳng có ai trong gia đình
tiếp nhận họ (…) cha mẹ thường quá bận bịu, không dành thời giờ cho con cái, thậm
chí có khi cha mẹ vẫn chưa chịu kết hôn hay đã hủy bỏ hôn ước của mình. Vì thế,
những đứa trẻ đó lang thang trên đường phố và sa vào ma túy hay những thứ khác.”
Đúng như lời Chúa tiên báo
về những ngày sau hết: “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì
sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét.”
(Lc 21,25).
14. Dấu hiệu của tình yêu
Đôi vợ chồng kia, sau
ngày mới cưới, rủ nhau vào Vườn Bách Thú dạo chơi. Cô cậu tới một gốc cây ngồi
nghỉ chân, chàng nói với nàng:
- Có anh đây đời em không
còn gì phải sợ.
- Anh đã hứa thì luôn phải
giữ lời, đừng khi nào bỏ em nhé, em chỉ sợ mất anh thôi.
- Không đời nào.
Anh vừa dứt lời thì nghe
tiếng từ máy phóng thanh trong Sở Thú: “Alô, Alô, bà con nghe cho rõ: có con cọp
mới đưa vào vườn thú, vì nó quá mạnh, nên xổng chuồng chạy ra ngoài. Bà con phải
liệu mà tìm chỗ tránh an toàn.” Thế là anh chàng vọt lên cây cao để cô nàng dưới
gốc cây run rẩy mặt tái mét, và kêu lên:
- Anh ơi kéo em lên với.
- Anh sợ lắm không xuống
được, cọp đến gần rồi kìa, anh mà xuống nó chộp mất!!?
Chúa Giêsu yêu ta thì
khác hẳn, Ngài nói: “Thầy đã yêu là yêu đến cùng!” (Ga 13,1).
THỨ BA - CÓ CHÚA HIỆP HÀNH
Lời Chúa : Mc 8, 14-21
Khi ấy, các môn đệ quên
mang bánh và chỉ còn một chiếc bánh trong thuyền. Và Chúa Giêsu dặn bảo các ông
rằng: "Các con hãy coi chừng và giữ mình cho khỏi men biệt phái và men
Hêrôđê.” Các môn đệ nghĩ ngợi và nói với nhau rằng: "Tại mình không có
bánh.”
Chúa Giêsu biết ý liền bảo
rằng: "Sao các con lại nghĩ tại các con không có bánh? Các con chưa hiểu,
chưa biết ư? Sao các con tối dạ như thế, có mắt mà không xem, có tai mà không
nghe? Khi Thầy bẻ năm chiếc bánh cho năm ngàn người ăn, các con đã thu được bao
nhiêu thúng đầy miếng bánh dư, các con không nhớ sao?" Các ông thưa:
"Mười hai thúng.” - "Và khi Thầy bẻ bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người
ăn, các con đã thu được bao nhiêu thúng đầy miếng bánh dư?" Họ thưa:
"Bảy thúng.”
Bấy giờ Người bảo các
ông: "Vậy mà các con vẫn chưa hiểu sao?”
TRUYỆN KỂ
1. Men Pharisiêu và
Hêrôđê
Con mèo bề ngoài trông có
vẻ hiền lành, mềm mại. Khi muốn ăn, nó đến sát cạnh ta, cọ mình vào chân ta, ve
vẩy đuôi, kêu meo meo, gừ gừ tỏ vẻ tình tứ, nhưng khi đã ăn rồi nó đi thẳng một
lèo, gọi mấy cũng không đến. Khi rình chuột thì nó đi lại rất nhẹ, thu mình vào
một xó tối, nằm im không cử động để chuột mất cảnh giác chạy ra tung tăng. Khi
đó, anh mèo mới giở thủ đoạn chồm lên bắt mồi, ngoạm cổ đem đi cắn xé ăn thịt.
Người giả hình cũng tương
tự như vậy.
2. Hãy tránh men biệt
phái
Từ thời Ai cập cổ đại,
người ta đã dùng men để làm bánh mì, làm rượu. Mãi đến năm 1857 nhà khoa học
Louis Pasteur mới khám phá ra rằng men thực ra là một thứ vi sinh vật thuộc
loài nấm, âm thầm mọc rễ đam chồi trong các chất hữu cơ và làm biến chất chúng.
Có những loài men hữu ích loài người biết được và sử dụng, nhưng cũng có hàng
ngàn thứ men có hại như men chua, men thối làm hư hỏng thức ăn, thậm chí gây
nhiễm độc chết người.
Chúa Giêsu cho biết về mặt
thiêng liêng cũng có nhiều thứ “men.” Có thứ “men Nước Trời” mà người môn đệ
Kitô đem thấm nhập vào trong thúng bột thế giới và âm thầm làm nó dậy men. Cũng
có thứ men mà Chúa cảnh giác các môn đệ phải coi chừng, phải loại bỏ men biệt
phái và men Hêrôđê
Khi cảnh giác các môn đệ
phải tránh men của biệt phái và men của Hêrôđê, Chúa Giêsu có ý ám chỉ đến sự
mù quáng và những thành kiến của những nhóm này. Chúa Giêsu đã dùng chữ “men” để
nói đến tính kiêu ngạo và thái độ mù quáng ấy. Thế nhưng, các môn đệ đã không
hiều được kiểu nói bóng bẩy ấy, đầu óc các ông còn đầy những bận tâm về vật chất.
3. Hãy nhìn ra dấu chỉ của
thời đại.
Một nhà thám hiểm Tây
phương lạc hướng giữa sa mạc. Nguồn lương thực và nước uống đã khô cạn. Ông lê
từng bước mệt mỏi trên cát nóng... Thình lình ông nghe tiếng suối róc rách và
thấy trước mặt mình một ốc đảo xanh tươi. Thế nhưng, với lối suy nghĩ khoa học
của người Tây phương, ông tự nghĩ: “Đây chỉ là một ảo ảnh... trong thực tế trước
mắt ta làm gì có nước và cây cối.” Nghĩ như vậy, ông lại tuyệt vọng lê bước...
Không bao lâu sau đó, hai
người du mục tình cờ đi qua. Họ gặp một xác người. Một người thốt lên: “Chỉ còn
hai bước nữa là người này đã có thể tới ốc đảo và tha hồ uống nước cũng như thưởng
thức những trái ngọt cây lành.”
Tại sao lại có chuyện thế
này? Nhưng người bạn lắc đầu giải thích: “Ông ta là người Tây phương. Thế giới
của chúng ta đầy ánh sáng và mầu nhiệm, nhưng con người lại dùng bàn tay nhỏ bé
của mình để che đậy chúng.”
Thảm trạng của con người
thời đại: con người có nhiều kiến thức hơn, nhưng lại dùng bàn tay nhỏ bé của
mình để che đậy ánh sáng và mầu nhiệm... con người không còn biết đọc ra những
dấu chỉ của thời đại.
4. Thành kiến
Khi còn nhỏ, J. Dillinger
phải ra tòa vì một tội vụn vặt. Được tha về, cha mẹ dẫn anh đến trường. Một số
phụ huynh khác thấy thế, đến làm áp lực với thấy giáo nếu thầy để Dillinger ở
đây, chúng tôi sẽ đem con đến trường khác. Ông thầy bối rối không biết làm thế
nào cho các phụ huynh an tâm. Ông đành nói thật cho Dillinger nghe. Anh bỏ học,
không bao giờ bước chân tới trường nữa. Ít năm sau, anh trở thành một tội phạm
nguy hiểm nhất Hoa kì trong thập niên 30.
5. Men dễ nhiễm – không
thua kém ai
Lên Sài gòn học tiếp đại
học, tôi và một anh bạn "chúa ghét" thuốc lá. Nhưng rồi cũng phải
hút, là để ngoại giao, xin việc, vì kẻ nào đến xin việc cũng làm như vậy và họ
đã được đưa đón ân cần hơn. Bằng không, cứ thấy chiếc xe đạp dựng trước cơ quan
là y như rằng lại vào ra không, tí khói lửa liền được chào mời tử tế… Lâu ngày,
cứ hễ nhạt miệng là chúng tôi lại mồi thuốc, bất kẻ những người xung quanh là
ai già trẻ, trai, gái, người đau, kẻ ốm… và bất kể nơi nào, thậm chí ngay trên
xe khách chật ních người.
Tệ hơn nữa, bây giờ chúng
tôi lại mắc chứng "nổ" hết xảy, nói dóc không "gớm miệng.” Oái
oăm thay, người đời lại thích vậy, nên chúng tôi có thêm tài "ngoại
giao" và kiếm việc làm.
Vâng, chắc chắn cả hai
chúng tôi đã nhiễm, không những "mùi thuốc lá" mà còn mắc phải cả
"men lãnh đạm" trước những nhu cầu của tha nhân, một thứ men làm cho
lương tâm ra chai lì, không còn nhạy bén với chân lý nữa.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến
và cho con can đảm lội ngược dòng, để con sống giữa thế gian nhưng không thuộc
về thế gian, hòa mình chứ không biến mình, nhập thể chứ không biến thể. Xin mau
đến, lạy Chúa, kẻo con "lên men" mất.
6. Gương xấu mạnh hơn
Một chàng trai trẻ kia,
con của một gia đình giàu có, danh giá, sống buông thả với đủ loại tật xấu, đặc
biệt là cờ bạc. Cha mẹ đã làm đủ mọi cách để giáo dục anh, nhưng không thành.
Ngày kia, có một người đến khuyên ông bố rằng:
- Hãy tụ tập 80 người trẻ
tốt lại và để cho học sống chung với chàng trai trẻ xấu nết kia. Gương sáng của
họ rồi sẽ gây ảnh hưởng mạnh đến anh ta, và chẳng bao lâu đâu anh ta sẽ từ bỏ tật
xấu để trở thành người mẫu mực.
Người Cha rất hài lòng với
lời khuyên này. Ông cho đi tìm ở khắp nơi đủ 80 người anh em trẻ tốt lành và hứa
sẽ trọng thưởng cho họ, nếu họ cộng tác giúp con ông.
Ông để cho 80 người này sống
chung với con ông trong một ngôi nhà tách biệt, ngoài họ ra thì không ai khác được
vào. Các bữa ăn được bên ngoài phụ giúp đưa vô.
Sau 80 ngày, người cha của
cậu ta mở cửa ra xem cái gì đã xảy ra, thì ông thấy cậu con trai của ông đang
ngồi chơi bài, chung quanh cậu, 80 cậu con trai nhà lành kia cũng đang mê đánh
bài không kém gì cậu! Sự nghiêm chỉnh của 80 cậu con trai nhà lành kia không những
đã không ảnh hưởng gì trên chàng trai nọ; mà ngược lại, chính họ đã tiêm nhiễm
tật xấu của anh ta!
7. Tựa nương vào Chúa
Trong cuộc thi Ôlimpic, tổ
chức vào năm 1924, vận động viên điền kinh Eric Liddel, người Xcốtlen đã dành
được hai huy chương vàng ở cự ly 200m và 400m. Còn một giải chạy cự ly 100m được
tổ chức vào ngày Chúa nhật. Ai cũng nắm chắc là anh Eric Liddel là người sẽ đeo
vòng nguyệt quế ở cuộc thi này, vì ngoài anh không còn đối thủ nào sáng giá
hơn.
Nhưng Eric Liddel đã từ
chối dự thi, vì anh sống trong Hội Thánh thì Chúa nhật là ngày nghỉ, và đi dự Lễ
mới chính là được ở Tầu Noe mới sống chung với dã thú (kẻ ác) mà vẫn bình an.
Do đó huy chương vàng đối với anh không thể sánh bằng việc đi dự Phụng Vụ của Hội
Thánh.
Như thế là anh đã thực hiện
được Lời Chúa: “Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài trước,
còn mọi sự khác Ngài sẽ ban thêm cho” (Mt 6, 33). Đó là mẫu người khôn ngoan
sáng suốt đã thoát khỏi tâm trí ngu đần.
8. Tin vào Chúa
Một cuộc điều tra của
UNESCO nhằm tìm hiểu xem dân chúng thế giới khao khát những gì ngồi những cái họ
đang có. Các bảng câu hỏi được gởi đến mọi thành phần, không phân biệt chủng tộc,
giai cấp, địa vị. Khi tổng kết, người ta nhận thấy rằng chính những người giàu
cũng mơ ước mức sống của mình tăng 20%! Xem ra con người không bao giờ hài lòng
với những gì đang có. Chắc hẳn 20 năm sau, khi mức sống (theo dự báo) tăng 50%
nữa, thì con người sẽ vẫn lo, vẫn thấy mình thiếu thốn.
Tin Mừng hôm nay là lời Đức
Giêsu mời gọi các môn đệ hãy tin tưởng vào Người, và tránh men nghi ngờ, cứng
tin của những người Pharisêu.
Bao điều tốt đẹp Chúa làm
cho ta, nhiều khi sờ sờ ra đó. Thế nhưng cũng rất nhiều khi chúng ta không
nhìn, không thấy, không nhận ra, hay không nhớ. Và vì thế ta vẫn cứ lo lắng,
nghi nan, không chắc về tình thương và sự quan phòng săn sóc của Chúa. Lời Chúa
hôm nay nhắc nhở ta cần biết nhìn lại phía sau để hiểu điều phía trước: Chúa
làm việc trên cuộc đời ta, trên thế giới này, Ngài vẫn đang làm việc và Ngài sẽ
vẫn tiếp tục làm việc như thế.
9. Nô lệ cho thói quen
- Câu chuyện về loài chim
ó:
Nếu đặt một con chim ó
vào trong một chiếc lồng, với kích thước khoảng 2m x 2,5m, nhưng hoàn không có
nóc, tức là phần trên lồng được mở toang; con chim này sẽ vẫn hoàn toàn là một...
tù nhân trong lồng đó.
Lý do: con chim ó có thói
quen luôn bắt đầu bay bằng cách “chạy lấy đà” khoảng 3- 4m đầu tiên. Không có
quãng đường để chạy lấy đà, theo thói quen, thì chim ó không thể bay lên được,
và do vậy nó sẽ chấp nhận bị cầm tù suốt đời, trong một “nhà giam” nhỏ không có
mái!
- Câu chuyện về con dơi:
Một con dơi thường bay ra
ngoài kiếm ăn vào buổi tối. Nó là một sinh vật nhanh nhẹn, linh lợi và bay
chính xác.
Tuy nhiên, nó không thể tự
cất cánh được nếu lúc ban đầu không thả người rớt xuống. Tức là nói có thói
quen phải tự thả người nó rớt xuống rồi mới bay lên được. Nếu nó được đặt trên
mặt sàn hoặc một mặt phẳng, thì nó chỉ có thể lê bước di chuyển người nó loanh
quanh một cách vô vọng, và, tất nhiên vô dụng, không thể bay đi được. Chỉ khi
nào nó được rớt xuống từ một độ cao nhỏ thì nó mới có thể tung mình bay vào
không trung được.
- Câu chuyện về con ong
nghệ:
Con ong nghệ vốn bay rất
giỏi, nếu ta thả nó vào một cái ly lớn không đậy nắp, nó cũng sẽ ở mãi trong ly
đó cho đến chết. Nó không bao giờ có thể nhìn thấy đường thoát ở phía trên, mà
chỉ có thói quen cố gắng tìm cách nào đó thoát ra qua các mặt ngang bên thành
ly, hoặc qua... đáy ly!
- Và câu chuyện về con
người...
Trong rất nhiều trường hợp,
con người chúng ta cũng giống như con chim ó, con dơi và con ong nghệ kể trên.
Con người thường xuyên tự
vật lộn một cách bất lực với tất cả các vấn đề rắc rối của mình, mà không bao
giờ nhận ra được rằng rất có thể có một giải pháp giúp họ giải quyết được vấn đề
đang ở rất gần, ở ngay trước mắt họ mà họ không nhìn thấy (hoặc không chịu nhìn
thấy), vì từ lâu, con người đã thường tự giam mình vào trong những "cái lồng"
của thói quen, của thành kiến hẹp hòi, của sự cố chấp, sự ngu dốt, sự ích kỷ, sự
tham lam, và sự sợ hãi của bản thân mình... và kể cả sự lệ thuộc vào người
khác.
Nếu con người chịu khó tỉnh
táo, sáng suốt tự nhìn lại mình và tìm cách thoát ra khỏi những "cái lồng"
đang giam hãm mình và làm cho mình mù mắt đó, thì họ sẽ tìm thấy ngay giải pháp
cho tất cả các vấn đề rắc rối đang xảy ra với chính họ!
10. Bất lực với chính
mình
James Huberty mang theo một
khẩu súng và lái xe đến một nhà hàng phục vụ thức ăn nhanh ở Ysidro,
California. Nhiều phút sau, 21 người ngã gục, 19 người bị thương. Một thời gian
sau trên chương trình KFMB/TV, vợ của Huberty nói rằng chồng bà ta thức dậy,
thay đồ và ra cửa. Bà hỏi: “Anh định đi đâu vậy?” Huberty trả lời: “Anh đi săn
người” Kiểu điên khùng này giúp ta thấy rõ ý của bài đọc hôm nay.
Tôi có thể làm gì đối với
sự điên loạn của tội lỗi trong thế giới này? Và sự điên loạn của tội lỗi trong
chính cuộc đời tôi?
Chúng ta không bao giờ chấm
dứt tội lỗi cho đến khi vượt qua được ý nghĩ rằng chúng ta có thể thuê hay chọn
một người nào đó để chặn đứng nó lại.
11. Phải biết tránh dịp tội
Trong cuốn “Hành trình
theo hướng gió” J.C. Furnas kể câu truyện về Louis Stevenson, tác giả của tác
phẩm cổ điển “Đảo châu báu” như sau: “Hồi trẻ, Stevenson rất mê tín. Lúc thiếu
thời, ông đã xâm lên mình một dấu để trừ ma quỷ” Có lẽ chúng ta sẽ nói: “Thật
là việc kỳ dị, không biết hạng người gì mà lại làm như thế” Thật ra, bản thân
chúng ta cũng làm như thế khi chần chừ trước cám dỗ, thay vì chống cự ngay lập
tức. Đó là ý nghĩa của bài đọc hôm nay.
Tôi sẽ khuyên người bạn của
tôi điều gì khi anh ta hỏi tôi làm thế nào để chống cự cám dỗ?
Chúng ta chịu trách nhiệm
về những ý nghĩ xấu đi qua đầu óc chúng ta, ít hơn một chú bù nhìn về những con
chim chỉ bay qua vùng đất gieo giống mà chú phải canh chừng. Trách nhiệm duy nhất
trong trường hợp này là ngăn cản không cho chúng đậu xuống (John Churton
Collins).
12. Ai tin thì sẽ được
Cách đây nhiều năm, một
chủng sinh thực hiện một cuộc hành hương kéo dài hàng tháng mà không mang theo
tiền. Anh muốn cảm nhận thế nào là ăn xin, ngủ nhờ và đặt trọn niềm tin vào
Chúa. Anh nói: “Nhiều tối tôi cảm thấy như muốn hoảng sợ vì chưa tìm được nơi
nào để trú chân hoặc chưa kiếm được gì để ăn cả”
Trong bài đọc hôm nay,
các môn đệ cũng kinh nghiệm tương tự về nỗi sợ hãi, ngay cả khi các ông đã thấy
Chúa Giêsu nuôi sống cả đám đông. Chúa Giêsu quở trách các ông: “Các con không
tin là Thầy quan tâm đến các nhu cầu và lo lắng của các con ư?”
Tôi có tin tưởng vào sự
chăm sóc của Chúa đối với những nhu cầu và lo lắng của tôi không?
Càng tin tưởng vào Chúa,
càng thấy Chúa đáng tin tưởng dường nào! (Cliff Richards).
THỨ TƯ - NGƯỜI MÙ BẾTSAIĐA
Lời Chúa: Mc 8, 22-26
Khi ấy, Chúa Giêsu và các
môn đệ đến Bếtsaiđa, người ta dẫn tới Chúa một người mù và xin Chúa đặt tay
trên người ấy. Chúa cầm tay người mù, dắt ra khỏi làng, Chúa phun nước miếng
vào mắt anh và đặt tay trên anh mà hỏi: "Ngươi có thấy gì không?" Anh
nhìn lên và trả lời: "Tôi thấy người ta như những cây cối đang đi.”
Chúa lại đặt tay trên mắt
người mù, anh liền thấy rõ và khỏi hẳn, thấy được mọi vật rõ ràng. Chúa Giêsu
cho người ấy về nhà và căn dặn: "Ngươi hãy về nhà, và nếu có vào làng thì
đừng nói với ai.”
TRUYỆN KỂ
1. Anh không thấy gì sao?
Trong phong trào hướng đạo
có ngành Ấu. Các em thuộc ngành này được gọi là sói con. Các em sói con qua hai
giai đoạn huấn luyện: mở một mắt, rồi mở hai mắt. Sau khi được mở hai mắt, các
em đã tiến bộ về kỹ năng hơn trước nhiều.
Trong bài Tin Mừng hôm
qua, Thầy Giêsu đã phàn nàn về sự mù lòa của môn đệ: “Anh em có mắt mà không thấy
sao?” (Mc 8, 18).
2. Ðôi mắt đức tin
Có một người đàn bà đạo đức
nọ suốt đời chỉ có một khát vọng, đó là được thấy dung nhan Chúa trước khi chết.
Một đêm kia, trong giấc mơ, Thiên Chúa cho biết Ngài sẽ đến thăm bà nội đêm
mai. Thế là ngày hôm sau, người đàn bà dọn dẹp nhà cửa và chuẩn bị bữa tiệc thịnh
soạn để đón vị khách quý. Thế nhưng suốt buổi tối người đàn bà chờ đợi vẫn
không thấy Chúa đến, bà thiếp ngủ đi trong chán nản. Bỗng có tiếng nói với bà rằng:
- Tại sao Ta đến mà con
không đón tiếp Ta"
Người đàn bà giải thích
cho Chúa là bà đã chờ Ngài ở trước cổng nhà. Người đàn bà ngạc nhiên khi Chúa
nói là Ngài đã đến ở cửa sau.
Thế là cả ngày hôm sau,
người đàn bà lại chuẩn bị với hy vọng sẽ gặp được Chúa. Ðêm đến, bà hết chạy ra
cửa trước lại vào cửa sau, nhưng tuyệt nhiên vẫn không thấy Chúa. Lần này trong
giấc mơ, Chúa lại hiện đến và trách người đàn bà. Ngài cho biết là Ngài đã đến
qua cửa sổ. Ngài giải thích cho bà hiểu như sau:
- Nếu con chỉ muốn thấy
Ta ở một nơi nào đó mà thôi, con sẽ không bao giờ có thể thấy Ta ở mọi nơi. Ta
muốn cho con thấy Ta, nhưng không phải một lần trước khi con chết, mà là mỗi
giây phút cuộc đời con. Và điều kiện để được thấy Ta là con hãy từ bỏ khát vọng
được thấy Ta bằng con mắt xác thịt, vì con mắt ấy qua yếu ớt để có thể nhìn thấy
sự vô biên của Ta. Con chỉ có thể xem thấy Ta bằng đôi mắt của quả tim mà thôi.
3. Đức Giêsu-ánh sáng thế
gian
Trước đại chiến năm 1914,
có một người đã từng viết nhiều bài báo công kích và nhạo báng đạo Công giáo.
Ông tên là Lavedan. Nhưng sau này, khi gặp nguy hiểm sắp chết, ông liền viết một
bài cải chính lại tất cả những gì ông đã viết trước đây.
Trong bài này, có đoạn
ông viết rằng: “Từ trước đến nay, tôi vẫn nhạo cười chế giễu người Công giáo và
tôi tin rằng mình khôn ngoan, giỏi giang, song thật ra, tôi đã lầm và những ai
đọc những tác phẩm và văn thơ của tôi cũng lầm nữa. Tất cả những gì tôi làm xưa
nay, đều lầm lạc, say sưa và mơ hồ. Bỏ Thiên Chúa, tức là tự sát. Không biết
ngày mai tôi có còn sống nữa chăng, nên giờ đây, tôi phải nói cho mọi người biết
điều này là: tôi không dám chết trước lúc chối Chúa. Hỡi linh hồn tôi, hãy vui
mừng và bây giờ tới lúc ngươi có thể quỳ gối xuống và xưng rằng: “Con tin, lạy
Chúa, con tin!”
Đức Kitô là ánh sáng soi
chiếu vào đêm tối. Anh mù đã được tình thương của Thiên Chúa chạm vào anh: Đức
Giêsu phun nước miếng vào người mù (x. Mc 8,23). Tác giả J. Potin nghiên cứu
môi trường văn hóa trong Kinh Thánh xác nhận việc chữa lành bằng cử chỉ đụng chạm
với nước miếng là: “Những cách thức chữa bệnh này rất thông dụng trong các đền
thờ ngoại giáo và vẫn còn thịnh hành trong các môi trường Kitô giáo” (Theo Đức
Giêsu, Lịch sử đích thực, Centurion, tr.172). Chúa Giêsu lấy nước miếng là
phương thế bình dân để tỏ bày quyền năng Thiên Chúa.
4. Thấy và biết mình
Một học giả kia rất thông
thái nhưng cũng rất đãng trí. Một hôm ông cỡi lừa đi thăm một người bạn. Dù
đang cỡi lừa, ông vẫn cứ dán mắt vào quyển sách, tay buông lỏng dây cương. Do
đó con lừa sau khi đi một đoạn đường đã quay trở lại chính ngôi nhà của ông.
Ông tưởng đó là ngôi nhà
của người bạn. Ông nhìn ngôi nhà từ trên xuống dưới, từ trước tới sau, và kết
luận "Ông bạn của ta cẩu thả quá, nhà hư gần sập tới nơi mà không sửa sang
gì cả." Vợ ông bước ra tiếp lời "Ông nhận xét đúng đấy. Nhưng đây là
ngôi nhà của chính ông.”
Nhiều người rất sáng về
chuyện người khác, nhưng rất mù về những khuyết điểm của chính mình.
5. Mù tâm linh
Có một người kia sinh ra
là đã bị mù. Sống trong một gian phòng, nhưng bởi anh không thấy gì cả, nên anh
phủ nhận tất cả những gì người chung quanh quả quyết là có: “Tôi không tin, vì
tôi không thấy.”
Một vị lương y đem lòng
thương hại, đi tìm cho ra một thứ linh dược trên Hy Mã Lạp Sơn về trị lành bệnh,
anh ta sung sướng tự phụ bảo: Giờ đây, tôi thấy được tất cả sự thật chung quanh
tôi rồi!
Nhưng, có kẻ bảo với anh
ta: Bạn ơi! Bạn chỉ thấy được những vật chung quanh bạn trong căn phòng này
thôi: Có là bao. Ngoài kia, người ta còn thấy được mặt trời, mắt trăng cùng các
vị tinh tú hằng hà đa số. Còn biết bao vật xấu, đẹp, lộng lẫy màu sắc huy hoàng
mà bạn chưa thấy.
Anh chàng không tin. “Làm
gì có được những cái đó! Tôi chưa thấy những cái đó. Cái gì có thể thấy được,
tôi đã thấy tất cả rồi.”
Một vị y sĩ khác bèn lên
tận núi cao gặp được sơn thần chỉ cho một thứ linh dược khác đem về giúp cho
anh ấy được cặp mắt sáng hơn và thấy xa hơn những vật chung quanh trong căn
phòng của anh.
Bấy giờ, anh ta thấy được
mặt trời, mặt trăng, các vì tinh tú trên không trung, mừng quá, và lòng tự phụ
tự đắc lại tăng thêm. “Trước đây tôi không tin, nhưng bây giờ tôi thấy, tôi
tin. Như thế, giờ đây không còn có gì mà tôi chẳng thấy chẳng biết. Đâu còn ai
hơn tôi được nữa!”
Nhưng, lại có một hiền giả
có cặp mắt thần, bảo với anh ta: “Cậu ơi! Cậu vừa hết mù, nhưng cậu vẫn chưa biết
gì cả. Tại sao quá tự phụ như thế? Cũng như khi cậu ở trong phòng và tầm mắt cậu
không vượt khỏi bốn bức tường, cậu không tin có vật gì ngoài căn phòng của cậu.
Giờ đây, tầm mắt cậu vượt khỏi bốn bức tường, thấy được nhiều vật xa hơn, nhưng
với chừng mực của tầm mắt và lỗ tai của cậu, cậu làm gì biết có những vật ngoài
ngàn dặm mà tai mắt cậu không làm sao mà nghe thấy được. Cậu có thấy những
nguyên nhân nào đã cấu tạo ra cậu khi cậu còn nằm trong bào thai của mẹ cậu
chăng? Ngoài cái vũ trụ nhỏ bé mà cậu đang sống đây, còn không biết bao nhiêu
vũ trụ khác vô cùng to lớn và nhiều không thể kể như cát ở sông Hằng. Tại sao cậu
dám tự phụ bảo rằng: Tôi thấy cả, tôi biết cả? Cậu vẫn còn là một anh mù, cậu vẫn
còn lấy tối làm sáng, lấy sáng làm tối.”
Xét về phương diện nào đó
thì mọi người chúng ta đều mắc bệnh mù, nhất là về phương diện tâm linh.
6. Rồi cũng thấy
Báo Tuổi trẻ, số 144/91,
ngày 7.12.91, tr.6 có đăng một câu chuyện với tựa đề “Nhân vật năm 91 của nước
Anh”
Câu chuyện có liên quan đến
một cô gái tên là Yuen Har Tsé, một cô gái mù người Trung quốc. Năm lên hai tuổi,
Yuen đến nước Anh. Hơn 20 năm sau, cả nước Anh đã phải sửng sốt trước người con
gái phương Đông này. Cô đã tốt nghiệp kỹ sư với số điểm cao nhất. Bất chấp tình
trạng tật nguyền của Yuen, hãng Rolls-Royce nổi tiếng thế giới đã mời chị phụ
trách một khâu quan trọng của hãng: vẽ bản thiết kế các bộ phận bên trong của
máy. Công trình đầu tiên của Yuen là thiết kế động cơ nổ cho chiếc trực thăng
quân sự mang tên “Con Hổ” sắp đưa vào sử dụng ở Châu Âu thời đó.
Ở vị trí này, công việc của
Yuen đòi hỏi tính chính xác cao, nhưng chị đã hoàn thành xuất sắc các đồ án của
mình, hoàn hảo đến từng chi tiết nhỏ.
Hiện nay, Yuen có thể
phân biệt những hình thể lờ mờ qua một màn ảnh bằng kính lúp và vẽ bằng một loại
mực nổi. Để phác thảo những bản vẽ, những đồ án trên từng milimét, Yuen đã phải
tập trung cao độ, phải nhìn thấy sự vật bằng tâm trí.
Để tưởng thưởng cho một
người công dân xuất sắc này, chính công nương Diana, đại diện hoàng gia Anh đã
trao tặng cho Yuen Har Tsé, một cô gái mù danh hiệu “Người phụ nữ năm 1991”, một
trong những danh hiệu cao quí nhất của nước Anh.
Vâng, sự kiên trì đã giúp
người mù trong bài Tin Mừng hôm nay thành công.
7. Ý thức về tội lỗi giúp
ta gần Chúa hơn
Những người theo trào lưu
duy văn tự đã trợ giúp mười hai cuộc thám hiểm tìm kiếm con tàu Nôê. Năm 1955,
họ tìm được một xà ngang hông tàu hình chữ L dài khoảng 50 thước trên một dãy
núi. Sử dụng cách định ngày bằng phương pháp Carbon-14 các nhà khoa học truy về
năm 700 trước Công nguyên. Có những học giả ước đoán rằng cây xà bên hông tàu này
có nguồn gốc từ thời xây dựng Đền thờ do các đan sĩ, mô phỏng theo con tàu
trong Kinh thánh. Hầu hết các học giả khẳng định rằng câu truyện lụt hồng thủy
thuộc thời tiền sử của Kinh thánh và chỉ nên coi đó là một câu truyện có tính
biểu tượng thôi. Nó nhằm dạy chúng ta rằng tội lỗi dẫn con người đến con đường
cùng, và kết thúc trong sự hủy diệt của chính bản thân và của thế giới. Chỉ duy
một mình Thiên Chúa có thể cứu vớt chúng ta.
Tôi ý thức về tội lỗi của
mình thế nào?
Càng ý thức về tội lỗi,
chúng ta càng gần gũi Thiên Chúa (Thomas D.Brainard).
8. Biết và làm
Một người bán hàng trẻ được
phân công đến một vùng quê ở miền Nam. Ngày nọ, anh tình cờ gặp một nông dân ngồi
trên chiếc ghế gãy trong sân ngôi nhà đã xuống cấp. Sau khi tự giới thiệu, anh
ta bắt đầu quảng cáo: “Thưa ông, tôi có một cuốn sách quý như vàng dành cho
ông. Nó giúp ông có thể cầy cấy khu đất của ông tốt hơn mười lần so với hiện
nay.” Người nông dân lắc lư chiếc ghế. Sau khi suy nghĩ một lúc, ông nói: “Anh
bạn trẻ, tôi đã biết làm thế nào cầy cấy khu đất của tôi tốt hơn mười lần so với
hiện nay. Vấn đề còn lại chỉ là phải thực hiện điều đó nữa thôi.”
Cái gì ngăn cản tôi thực
hiện Lời Chúa như tôi đã biết?
Khôn ngoan giúp ta biết phải làm gì.
Khả năng giúp ta biết phải làm thế nào.
Đức hạnh giúp ta thực hiện điều đó. (Thomas Jefferson)
9. Bài học kiên nhẫn
Các bệnh nhân đi đến bác
sĩ điều trị thường phải đi lại nhiều lần cho đến khi được chữa lành. Như vậy,
chẳng đáng ngạc nhiên khi nghĩ rằng một vài buổi cầu nguyện đủ để chữa lành nỗi
đau tinh thần sao? Bài Tin mừng hôm nay cho thấy ngay cả Chúa Giêsu cũng phải
hơn một cố gắng để chữa lành cho một người. Chúng ta hãy nhớ rằng Chúa Giêsu
cũng lặp lại nhiều lần lời cầu nguyện trong vườn Gethsemani để được thêm sức mạnh.
Tôi đã kiên nhẫn đến độ
nào trong lời cầu nguyện và nỗ lực để chữa lành nỗi đau tinh thần thường làm
tôi vấp ngã?
Khi một cô bé được hỏi đã
học trượt băng như thế nào, cô trả lời: “Chỉ bằng cách đứng lên sau mỗi lần té
ngã.”
10. Phận mù lòa cần ánh
sáng tình yêu
Bạn có bao giờ cảm nhận
được tâm trạng người mang thân phận mù loà như những vần thơ não nuột dưới đây
nói lên chưa?
“Tôi đây thân phận mù lòa
Ngày dài đêm vắn âm u cũng là
Nghe tiếng cha biết vậy mà
Nghe tiếng mẹ, mẹ ấy à, mẹ ơi!”
Họ không thấy được vẻ huy
hoàng của ánh sáng ban ngày, không biết được sự huyền diệu của đêm thanh, không
biết thế nào là màu sắc quyến rũ của muôn hoa, cũng không thấy được cả hình ảnh
của những người thân. Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa chữa lành người mù.
Ngay khi đón nhận được ánh sáng, khám phá đầu tiên của anh mù là về con người:
“Tôi thấy người ta.” Đó là nhận thức đầu tiên của người mù được sáng mắt. Cũng
vậy, ánh sáng đức tin đưa chúng ta đến với thế giới con người và nhận diện ra
người chung quanh.
Thế giới hôm nay cũng
đang sống trong “mù lòa,” không nhận ra đâu là ý Chúa, không nhìn thấy Chúa nơi
anh em mình, nên vẫn sống trong tối tăm của tranh chấp, tham lam, ích kỷ, hẹp
hòi, hững hờ. Nhiều khi chúng ta như “ông nhà giàu” không nhận biết “người
nghèo Ladarô” sống ngay trong cùng một mái nhà với mình. Chúng ta đã trở nên mù
loà trước những nỗi thống khổ của anh chị em.
Hãy làm một hành động bác
ái với một người vẫn đang sống gần bên bạn mà lâu nay bạn đã không quan tâm hoặc
cố tình làm ngơ.
11. Hành trình đức tin
Ông N. Simpson bị mù mắt
trong một tai nạn. Sau mười năm chạy chữa và nhờ kỹ thuật cấy giác mạc nhân tạo,
cuối cùng, ông đã nhìn thấy được. Ông phải trải qua hành trình mười năm và mất
nhiều tiền của mới có thể nhìn thấy vợ mình và thế giới chung quanh.
Người mù trong bài Tin Mừng
hôm nay cũng phải qua một “hành trình” lãnh nhận ánh sáng. Anh được “dẫn đến” với
Đức Giêsu, rồi Ngài “cầm lấy tay anh, đưa ra khỏi làng, nhổ nước miếng vào mắt
anh, đặt tay trên anh” và “lại đặt tay trên mắt anh” (cc. 24-25). Phép lạ này
được đặt ngay sau câu hỏi của Đức Giêsu: “Anh em chưa hiểu ư?”
Phép lạ làm nổi bật quyền
ban ánh sáng của Đức Giêsu, đồng thời, cũng là nỗ lực nhằm “mở mắt đức tin” cho
các môn đệ, một nỗ lực tiệm tiến và kiên nhẫn. Người mù dần dần được thấy ánh
sáng; các môn đệ cũng dần dần tin Chúa mạnh hơn qua thời gian.
THỨ NĂM - TUYÊN XƯNG CỦA PHÊRÔ
Lời Chúa: Mc 8, 27-33
Khi ấy, Chúa Giêsu cùng
các môn đệ đi về phía những làng nhỏ miền Cêsarê thuộc quyền Philipphê. Dọc đường,
Người hỏi các ông rằng: "Người ta bảo Thầy là ai?" Các ông đáp lại rằng:
"Thưa là Gioan tẩy giả. Một số bảo là Êlia, một số khác lại cho là một
trong các vị tiên tri.” Bấy giờ Người hỏi: "Còn các con, các con bảo Thầy
là ai?" Phêrô lên tiếng đáp: "Thầy là Ðấng Kitô.”
Người liền nghiêm cấm các
ông không được nói về Người với ai cả. Và Người bắt đầu dạy các ông biết Con
Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ
chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại. Người công khai tuyên bố các
điều đó.
Bấy giờ Phêrô kéo Người
lui ra mà can trách Người. Nhưng Người quay lại nhìn các môn đệ và quở trách
Phêrô rằng: "Satan, hãy lui đi, vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ
biết việc loài người.”
TRUYỆN KỂ
1. Đức Giêsu Kitô chịu
đóng đinh vào thập giá
Lavallière Lepaux là một
thành viên Thượng Hội đồng Quốc gia Pháp, rất ghét đạo Công giáo và luôn tìm
cách công kích. Ông lập một đạo mang tính trí thức mới bao gồm những triết thuyết
có vẻ khoa học. Ông cho cán bộ chữ nghĩa đi tuyên truyền khắp nước Pháp, nhưng
rất ít người theo.
Một hôm ông nói với một
ông bạn tên là Barras: “Tôi không hiểu tại sao, tôn giáo của tôi là một công
trình triết lý và khoa học, cán bộ của tôi là người có học thức, có huấn luyện,
đào tạo mà không được mấy người theo. Còn ông Giêsu dùng mấy người chài lưới thất
học mà cả thế giới theo ông?”
Barras trả lời: “Thưa
ngài, nếu ngài muốn thiên hạ theo đạo mình, thì ngài để cho người ta đóng đinh
ngài vào ngày thứ sáu, rồi sáng ngày Chúa nhật ngài cố sống lại đi.”
2. Không có gì mà có tất
cả
Anh ấy đến với tôi, ồn
ào, kiêu hãnh. Và tôi đã thực sự bị chinh phục bởi sự phong lưu sang trọng của
anh. Chiều thứ bảy, anh đón tôi đi chơi. Ngồi bên nhau trong quán nước quen thuộc,
chúng tôi lặng lẽ ngắm nhìn từng giọt mưa đang rơi nhanh ngoài phố. Một đứa bé
ăn xin rách rưới và ướt sũng đến bên anh, chìa đôi tay tím ngắt run rẩy ra trước
mặt anh. Anh thản nhiên lắc đầu. Nhìn theo dáng đi xiêu vẹo của đứa bé khuất dần
sau làn mưa, tôi chợt nghe như có một cái gì đó đang đổ vỡ trong tâm hồn mình.
Thiên Chúa đến với ta, âm
thầm, lặng lẽ, nghèo hèn, giản dị, nhưng chan chứa tình thương. Tôi và các bạn
có sẵn sàng đón nhận Người hay còn chờ đợi một Thiên Chúa khác, oai nghi và quyền
quý, để rồi lại chợt thấy ngỡ ngàng và hụt hẫng như tôi.
Lạy Chúa, xin cho con hiểu
được mầu nhiệm Thánh giá như nhạc sĩ Văn Cao đã hiểu và nói: "Chúa Giêsu
trần trụi trên thập giá. Ngài không có gì nhưng lại có tất cả"
3. Thập giá là dấu xác nhận
Truyền thuyết thuật lại rằng,
một trong ba nhà đạo sĩ gặp được Chúa ở Bêlem lúc Chúa sinh ra khi về già lại
tìm đến Nước Do Thái xem cậu bé năm nào bây giờ ra sao.
Tại Jêrusalem, những vị kỳ
lão vẫn còn nhớ đến ngôi sao lạ, nhưng hỏi ra thì không ai còn biết gì đến em
bé được sinh hạ dưới ánh sao đó là ai. Ông lại tìm đến Bêlem. Khi hỏi về tông
tích của cậu bé thì mọi người đều lắc đầu, ngoại trừ có một cụ già. Cụ bảo ông:
- Làm gì có ông Giêsu
Bêlem, chỉ có ông Giêsu Nazareth, một người nói phạm thượng khi xưng mình là
Con Thiên Chúa, nên cách đây mấy tuần đã bị xử án thập hình rồi.
Với tâm hồn đầy thất vọng,
vị đạo sĩ già nhập đoàn với những khách hành hương trở lại Jêrusalem vào đúng
ngày lễ Ngũ Tuần. Chen lẫn vào đoàn người đang tạ ơn sau mùa gặt, vị đạo sĩ chú
ý đến những người đang vây quanh một nhóm người. Tò mò, ông tiến gần và nghe có
kẻ nói:
- Tưởng gì chứ lại gặp mấy
tên say rượu nói tầm phào
Nhưng rồi ông lại nghe thấy
một người trong nhóm nói về ông Giêsu Nazareth đã bị đóng đinh trên Thập Giá và
đã được Thiên Chúa Phục Sinh từ cõi chết.
Như bị thúc đẩy bởi sức mạnh
vô hình, vị đạo sĩ già lên tiếng hỏi:
- Vậy bây giờ ông Giêsu ấy
ở đâu?
Đại diện nhóm người là
Simon Phêrô trả lời:
- Ngài đang ở giữa chúng
tôi, ở trong chúng tôi, chúng tôi là tai mắt, môi miệng của Ngài.
Trong lúc Phêrô đang nói,
bỗng có một luồng gió mạnh, và hình lưỡi lửa một lần nữa đổ tràn xuống mọi người.
Vị đạo sĩ bỗng thấy lại ánh sao Bêlem, nhưng lần này ánh sao ấy chia thành nhiều
ánh sao khác rơi xuống từng người. Trong tâm hồn, nhà vua chợt hiểu: mỗi người
phải trở thành hang Bêlem, mỗi người phải trở nên máng cỏ cho Hài Nhi Giêsu nằm,
mỗi người phải mang Ngài đến cho người khác.
Chúa đã chết và đã Phục
Sinh. Ngài đã phải kinh qua Thập Giá rồi mới bước vào cõi vinh quang.
4. Yêu như Chúa yêu
Vào lúc 12giờ 45 ngày 23
tháng 12 năm 2011, tại thị trấn Long Hải, huyện Long Điền, Bà Rịa Vũng Tầu, bé
gái Đặng Ngọc Minh Tâm ba tuổi, sinh ngày 10-02-2009, đang ru em Đặng Tấn Đạt một
tuổi, sinh ngày 06-01-2011, trên chiếc võng giăng dưới gốc cây trâm.
Thình lình một cơn gió mạnh
thổi đến làm vỡ tổ ong vò vẽ lớn trên cây trâm. Thế là trên 100 con ong độc bay
tán loạn, và đáp xuống bu vào hai chị em, Tâm và Đạt, cô chị lấy thân mình che
lấp em, nên cả một đàn ông bu vào bé Tâm, chích vào đầu và lưng bé 64 mũi nọc độc,
làm bé thét lên: “Mẹ ơi đau quá!” Rồi ngất đi!
Vừa lúc ấy bà mẹ vừa về đến
nhà sau khi chở cô chị đến trường học, bà mới vắng nhà có 10 phút, thấy con
mình bị đàn ong bù vàng đầu, bà vội ôm hai bé đưa vào bệnh viện, nhưng 8 giờ
sau đó bé Tâm qua đời!
5. Mầu nhiệm sự dữ và đức
tin
Cuốn tự thuật của
Clarence Day “Sống với bố” có những ước đoán xa nhất về những vai trò của Mỹ
trong lịch sử. Clarence Day cũng là tác giả của cuốn tự thuật khác “Thiên Chúa
và Bố”, trong đó ông viết: “Cha mong đợi rất nhiều ở Thiên Chúa.” Ông không thực
sự kết án Thiên Chúa bất lực, nhưng khi cầu nguyện, ông lớn tiếng và đầy giận dữ,
như thể một người khách không hài lòng nơi một khách sạn quản lý cẩu thả.
Ở mức độ nào tôi có
khuynh hướng trách cứ Thiên Chúa vì không ngăn chặn làn sóng tội lỗi đang đe dọa
tàn phá thế giới?
Phân biệt chủng tộc là do
bạn, hãy chấm dứt nó.
Bất công là do bạn, hãy sửa
chữa nó.
Ngu dốt là do bạn, hãy khử
trừ nó.
Chiến tranh là do bạn,
hãy dừng lại. (Walter Fauntroy)
6. Tìm kiếm giá trị thật
Ray Bradbury có một câu
truyện ngắn về năm thanh niên bần cùng. Vì có kích thước như sau, họ góp tiền
và mua một bộ vét đẹp. Vào những ngày cuối tuần, họ thay nhau mặc bộ váy đó.
Câu truyện cho hay những người trẻ ấy cảm thấy được đối xử thế nào khi mặc bộ
vét: người ta mỉm cười, trò truyện và đối xử với họ như những ông vua. Nhưng
khi họ không mặc áo nữa, người ta cau mày, tránh né và đối xử với họ như những
người cùi hủi.
Tôi thường phân biệt đồi
xử ra sao khi chỉ dựa vào hình thức bên ngoài?
Đừng xét đoán con người
qua cách ăn mặc. Thiên Chúa tạo dựng con người, còn thợ may thì trang điểm cho
con người bằng quần áo.
7. Cảm nghiệm hiện sinh của
đức tin
Hai cậu bé Sue và Tom
đang quan sát một con bọ cạp. Sue nói: “Hồi trước tớ đã bị bọ cạp cắn.” Tom hỏi:
“Có đau lắm không ?” Sue suy nghĩ một chút, rồi nhéo vào cánh tay mình cho đến
khi bị đau như vết cắn hồi trước. Sau đó Sue cũng nhéo Tom y như vậy. Tom nói:
“Không đau lắm.” Sue nhún vai và nói: “Tớ không sao diễn tả cho cậu được, nhưng
chỉ biết nó làm tớ đau như thế.”
Có nhiều thứ tôi không thể
bày tỏ cho người khác được: cái đau do bò cạp cắn, việc chiêm ngắm hoàng hôn, lời
tuyên xưng niềm tin vào Chúa. Điều này gợi lên câu hỏi: Tôi có thể làm gì để
thúc đẩy người khác, đặc biệt là trẻ em, tự cảm nhận được điều đó?
Một lạng thực hành giá trị
bằng một cân thuyết giáo (John Ray).
THỨ SÁU -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
THỨ BẢY -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
LỄ KÍNH -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
Lời
Chúa Tuần 6 Thường Niên
Thường
niên V-GS C-PS Ngoại
lịch