Lời Chúa tuần 5 thường niên _ câu truyện minh họa

 LỜI CHÚA TUẦN 5 MÙA THƯỜNG NIÊN
CÂU TRUYỆN MINH HỌA

CNTN 5A -

CNTN 5B - CẦU NGUYỆN VÀ PHỤC VỤ

CNTN 5C – KẺ CHINH PHỤC CON NGƯỜI

THỨ HAI - CHÚA GIÊSU HOẠT ĐỘNG

THỨ BA - ĐIỀU CHÍNH YẾU CỦA TIN MỪNG

THỨ TƯ - TINH SẠCH TINH THẦN

THỨ NĂM - CHÚA GIÊSU VÀ BÀ MẸ NGOẠI GIÁO

THỨ SÁU - CHÚA GIÊSU VÀ NGƯỜI ĐIẾC

THỨ BẢY -

LỄ KÍNH -

 

CNTN 5A -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

CNTN 5B - CẦU NGUYỆN VÀ PHỤC VỤ

Lời Chúa: Mc 1, 29-39

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi hội đường, Người cùng với Giacôbê và Gioan đến nhà Simon và Anrê. Lúc ấy bà nhạc gia của Simon cảm sốt nằm trên giường, lập tức người ta nói cho Người biết bệnh tình của bà. Tiến lại gần, Người cầm tay bà, và nâng đỡ dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi tiếp đãi các ngài.

Chiều đến, lúc mặt trời đã lặn, người ta dẫn đến Người tất cả những bệnh nhân, tất cả những người bị quỷ ám: và cả thành tụ họp trước cửa nhà. Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ, và không cho chúng nói, vì chúng biết Người.

Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó. Simon và các bạn chạy đi tìm Người. Khi tìm thấy Người, các ông nói cùng Người rằng: "Mọi người đều đi tìm Thầy." Nhưng Người đáp: "Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành lân cận, để Ta cũng rao giảng ở đó nữa." Và Người đi rao giảng trong các hội đường, trong khắp xứ Galilêa và xua trừ ma quỷ. Đó là lời Chúa.

TRUYỆN KỂ

1. Xoa dịu nỗi đau khổ

Tại một trung tâm y tế thuộc mạn đông nam bang Carolina bên Hoa Kỳ, hình ảnh đầu tiên mà các bệnh nhân ghi nhận được, đó là nụ cười của cụ bà Florence. Từ 6 giờ sáng, bà cụ lái xe khoảng 10 cây số đến bệnh viện và ở lại đó 8 giờ trong một ngày và 7 ngày trong một tuần. Bà cụ có mặt bên cách bệnh nhân để chăm sóc họ và an ủi những thân nhân của họ. Còn những lúc rảnh rỗi, bà cụ lại cặm cụi đan những đôi vớ cho các bệnh nhân. Năm vừa qua, bà cụ đã đan được 395 đôi. Bà cụ không phải là một người có trình độ văn hoá cao, bởi vì lúc còn nhỏ, thân phụ bà cụ không muốn cho các con gái của mình được học hỏi nhiều. Lập gia đình, bà cụ có 7 người con và làm việc trong một tiệm thuốc tây. Tháng 4 năm 1983, sau một cuộc giải phẫu, bà cụ bắt đầu xuất hiện trong bệnh viện với chiếc nạng gỗ nhưng vẫn vui vẻ giúp đỡ mọi bệnh nhân. Trong năm 1988, với 365 ngày bà đã có mặt tại bệnh viện 2920 giờ. Bà nói: Năm nay tôi đã 92 tuổi, nếu được khoẻ mạnh thì tôi vẫn còn đến đây với nụ cười trên môi.

Cuộc đời của Chúa Giêsu là một sự dung hoà tốt đẹp giữa đạo và đời. Thực vậy Ngài không phải chỉ hăng say rao giảng Phúc Âm, cứu rỗi phần hồn của chúng ta mà hơn thế nữa, bằng những hành động bác ái yêu thương, Ngài còn xoa dịu những nỗi đớn đau và thống khổ của chúng ta.

Nỗi đau khổ của bản thân sẽ được vơi nhẹ nếu chúng ta cố gắng xoa dịu nỗi khổ của người khác. Đúng thế, đau khổ không được chữa trị bằng sự chấp nhận đã đành, mà còn bằng những nghĩa cử chúng ta làm cho người khác.

2. Tình yêu cần việc làm

Ringhoff là một thuỷ thủ người Đức. Trong dịp mừng thượng thọ 80 tuổi người ta tới tấp đến thăm viếng và gởi lời chúc mừng. Trong số những người gởi lời chúc mừng có Bộ trưởng Công Chánh. Trong bức thư, ông Bộ trưởng hết lời khen ngợi ông thuỷ thủ già, bởi vì trong suốt thời gian hành nghề, ông thuỷ thủ già đã vớt được tất cả 126 người khỏi chết đuối.

Cứu vớt người khỏi chết về phần xác là một hành động cao cả và tốt đẹp. Vậy thì cứu vớt người khỏi chết về phần hồn lại càng cao cả và tốt đẹp hơn biết chừng nào? Và trong ngày sau hết chính Chúa sẽ gởi lời chúc mừng đến cho bản thân họ. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta làm được những gì để xoa dịu những đớn đau của người khác và hơn thế nữa, chúng ta đã làm được những gì để góp phần vào công việc truyền bá Phúc Âm, dẫn đưa người khác trở về cùng Chúa.

3. Sống cho người cũng là sống cho mình

Là một bộ phận trong cơ thể, quả tim không sống cho mình nhưng sống cho toàn thân, không ngừng bơm máu nuôi sống toàn thân. Phổi, gan, bao tử, cũng không sống cho mình, vì mình, nhưng là sống cho toàn thân, làm tròn chức năng được trao phó để phục vụ và nuôi sống toàn thể thân mình. Lẽ sống của mọi bộ phận trong cơ thể con người đều như thế cả.

Nếu một ngày nào đó, tim, gan, thận, phổi, không phục vụ cho toàn thân nữa mà chỉ quy hướng về mình, chỉ lo phục vụ riêng mình thì đó là ngày tận cùng của chúng.

Mỗi chúng ta cũng là những tế bào, những bộ phận của một Thân Thể lớn lao là nhân loại. Chúng ta không thể bo bo chăm lo cho riêng mình nhưng phải sống hết mình, phải cống hiến đời mình phục vụ tha nhân theo gương Chúa Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống hết mình vì Chúa Cha và vì mọi người.

Xin cho chúng con biết noi gương Chúa, đừng chỉ biết quy về mình, chỉ biết mưu tìm hạnh phúc cho mình, nhưng biết hướng về tha nhân để mưu tìm hạnh phúc cho họ, vì hạnh phúc chỉ thật sự đến với chúng con khi chúng con biết đem lại hạnh phúc cho nhiều người.

4. Đừng quên Chúa vẫn ở ngay bên

Paul Tournier kể lại một trong những khám phá quan trọng nhất trong đời ông như thế nào. Ông thường đến thăm một vị mục sư lão thành và ông cụ chẳng bao giờ để ông ra về mà không cùng cầu nguyện với nhau.

Ông hết sức kinh ngạc vì cách cầu nguyện đơn sơ của vị mục sư nọ. Nó giống hệt phần tiếp tục câu chuyện thân mật mà vị thánh tông đồ lão thành ấy luôn trò chuyện với Chúa Giêsu.

Bác sỹ Tournier “về đến nhà, tôi sẽ kể cho vợ tôi nghe chuyện ấy và chúng tôi cùng cầu xin Thiên Chúa cho chúng tôi cũng được thông hiệp mật thiết với Chúa Giêsu như cụ mục sư nọ vậy.

Từ đó, Ngài trở thành trung tâm của giờ phút tĩnh tâm và là người bạn đồng hành của tôi. Ngài vui lòng về mọi việc tôi làm và cũng quan tâm về việc đó. Ngài là người bạn thân tôi có thể đem mọi sự xảy đến cho đời tôi ra thảo luận. Ngài sẽ chia sẻ những niềm vui nỗi khổ, những hy vọng cùng mọi nỗi sợ hãi với tôi. Ngài có mặt khi một bệnh nhân tâm sự với tôi. Ngài nghe người ấy nói còn rõ hơn chính tôi được nghe nữa. Và khi bệnh nhân của tôi đi rồi, tôi vẫn còn có thể trò chuyện với Ngài về người ấy."

Mấy lời trên đây bao gồm yếu tính sinh hoạt của Kitô hữu. Thế là các môn đệ nguyên thủy đã học được điều trở thành thói quen cho cả đời sống: đem hết mọi chuyện rắc rối của mình cho Chúa Giêsu và xin Ngài giúp đỡ mình.

5. Lòng biết ơn của mẹ vợ ông Phêrô

Nhà văn Oscar Wilde viết “chuyện hay nhất Thế Giới” trong đó ông kể: “Đấng Cứu Thế đi từ miền thôn quê tầm thường lên một thành phố muôn phần sặc sỡ.

Khi đi qua một phố đầu tiên Ngài nghe có tiếng nói phiá trên đầu, nhìn lên thấy một thanh niên nằm vắt ngang thành cửa sổ. Chúa hỏi sao ngươi lại bỏ phí linh hồn trong say sưa? Hắn đáp: thưa Chúa, tôi là người phong đã được Chúa chữa lành, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn?

Đi xa hơi một chút nữa, Ngài thấy một thanh niên đang lẽo đẽo theo sau một cô gái mại dâm, Ngài bảo: Tại sao ngươi bỏ phí cuộc đời của ngươi trong trác táng? Chàng đáp: Thưa Chúa, tôi là người mù được Chúa chữa lành, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn?

Cuối cùng ở giữa thành phố, Ngài thấy một người già nằm co dúm trên đất khóc lóc, và khi được Chúa hỏi ông đáp: Lạy Chúa tôi là người chết được Chúa cho sống lại, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn là khóc?

Đó là những ví dụ kinh khủng nói lên cách con người đã tàn nhẫn, vô tâm khi sử dụng ơn phúc và lòng thương xót của Chúa. Bà mẹ vợ của ông Phêrô đã dùng sức khoẻ phục hồi của mình để phục vụ Chúa và tha nhân. Đó là cách chúng ta sử dụng mọi hồng ân Chúa ban.

6. Sống là chiến đấu

Lafontaine có kể một câu chuyện ngụ ngôn như thế này: có một tiều phu vác củi từ trong rừng về nhà. Củi thì nặng mà sức thì yếu cho nên ông ta cứ than thở hoài. Sau hết vì quá chán nản, ông đã kêu thần chết đến đem mạng sống mình đi phứt cho rồi.

Vừa kêu dứt tiếng thì thần chết bỗng hiện ra, mặt mày khủng khiếp, tay cầm sẵn lưỡi hái. Thần chết hỏi: "Mi gọi ta đến để làm gì?" Ông tiều phu mặc dù vừa mới đòi chết nhưng khi thấy thần chết thì hoảng sợ và không muốn chết nữa, bèn nói trớ: "Xin ông làm ơn đặt bó củi này lên vai hộ tôi."

Thần chết bỏ lưỡi hái xuống và đem bó củi chất lên vai người tiều phu. Ông này vội vàng cám ơn và nhanh chân rảo bước, không còn thấy nặng nhọc gì nữa.

Tất cả 3 bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay đều bàn đến những việc lao động nhọc nhằn trong cuộc sống chúng ta nơi trần gian này. Cuộc sống này quả là vất vả: ai nấy phải làm lụng từ sáng tới chiều, quần quật hết ngày này sang ngày khác, hết tháng nọ sang tháng kia để kiếm lấy miếng cơm manh áo.

Kẻ thì lao động chân tay, người thì lao động trí óc, nhưng tất cả mọi người đều phải làm việc vất vả. Làm để có cái mà ăn, ăn để có sức mà làm. Làm-ăn, ăn-làm như một cái vòng lẩn quẩn trói buộc con người, cho tới khi con người làm không nổi, ăn không vô thì cũng là lúc sắp xuôi tay chấm dứt một kiếp sống làm người.

Ông Gióp nói: "Lao động nhọc nhằn là kiếp sống của tôi. Ngày của tôi giống như ngày của một kẻ làm công, như một người nô lệ. Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối và mắt tôi sẽ không nhìn thấy hạnh phúc."

Bài Tin mừng hôm nay mô tả một ngày làm việc của Chúa, một ngày làm việc của tình yêu, vạch cho ta thấy phương hướng sống trước những công việc bề bộn cực nhọc.

7. Dành thì giờ

Lần kia, có một người đàn ông đang cưỡi một con ngựa. Khi con ngựa và người cưỡi ngựa ầm ầm phóng qua, một người nông dân già đang đứng ở cổng cất tiếng hỏi: “Anh đang đi đâu đấy?”

Người đàn ông la lớn trong khi phóng vụt qua “Đừng hỏi tôi, hãy hỏi con ngựa ấy."

Người đàn ông cưỡi ngựa tiêu biểu cho người có cuộc sống với cách sinh hoạt hối hả không ngừng. Người đó không hề có tự do; anh bị nô lệ cho công việc của mình. Nhưng vấn đề của anh ta còn sâu xa hơn. Anh ta không kiểm soát được cuộc sống của mình.

Người ta có thể quá muộn để bắt kịp công việc, đến nỗi họ không dành ra được lấy một phút nào cho bản thân mình. Hoạt động có thể trở thành một thứ bệnh tật. Đây là một tình trạng nguy hiểm.

Đức Giêsu cũng cần dành thì giờ cho bản thân mình, có chú tâm cẩn thận đến những nhu cầu thể lý, tình cảm, tâm trí, và tinh thần của bản thân, thì chúng ta mới có thể luôn lỉ là những người vui vẻ cống hiến.

8. Nơi hoang vắng

Một người đàn ông kia có thói quen tự mình ra đi, vào một khu rừng hẻo lánh. Ngày kia, vì tò mò muốn biết anh ta đi đâu, nên có người bạn đã đi theo anh vào rừng. Khi đuổi kịp anh ta, người bạn đó thấy anh đang ngồi yên lặng trên một khúc gỗ.

Người bạn đó hỏi: “Anh đang làm gì thế?”

Anh trả lời “Tôi đang cầu nguyện."

“Nhưng tại sao anh phải đi đến nơi xa xôi này để cầu nguyện?”

“Bởi vì tôi cảm thấy là Thiên Chúa hiện diện ở đây."

“Nhưng phải chăng chúng ta có thể tìm thấy Thiên Chúa ở tất cả mọi nơi, và phải chăng ở bất cứ nơi đâu cũng chỉ có một Thiên Chúa đó sao?"

“Thiên Chúa vẫn thế, nhưng tôi thì không."

Mặc dù chúng ta có thể tìm thấy Thiên Chúa, và cầu nguyện với Người ở bất cứ nơi nào và tất cả mọi nơi – trong nhà bếp, ngoài đường phố, trên xe hơi, tại nông trại, ở nơi làm việc – tuy nhiên, thật là một ý tưởng hay, khi có một nơi đặc biệt – bờ biển công viên, núi non, nhà thờ, hoặc ở bất cứ nơi đâu – mà tại đó, đôi khi chúng ta có thể rút lui khỏi những bận rộn của cuộc sống. Tại những nơi này, chúng ta cảm thấy rằng dường như Thiên Chúa gần gũi hơn và thân thiện hơn.

9. Sức mạnh của lời cầu nguyện

Linh mục Samson kể lại lời tự thuật của một người trong một bài giảng ở nhà thờ Đức Bà Paris như sau: “Tôi đau rất nặng, người ta đem tôi vào bệnh viện, không ai săn sóc tôi cả, ngoại trừ một chị y tá, chị tỏ ra rất tốt và hết tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy chị quỳ gối im lặng trong phòng, tôi hỏi: “Chị quỳ làm gì thế?”, chị trả lời: “Tôi cầu nguyện cho ông." Chỉ mấy tiếng đồng hồ thôi đủ làm cho tôi bấy lâu nay không biết Chúa, bây giờ tôi biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi con người chị y tá ấy, giữa những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp Chúa."

Một thí dụ khác, bác sĩ Longghê là một người Pháp đã từng phục vụ ở Việt nam cách đây mấy mươi năm và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tôm Đulây, người Mỹ, đã phục vụ ở Đông Nam Á. Ông tận tụy săn sóc, yêu thương các bệnh nhân, bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày cũng như đêm. Khi có người hỏi vì sao ông yêu thương bệnh nhân như vậy? Vì sao ông có thể bỏ ăn bỏ ngủ vì bệnh nhân, xem bệnh nhân là trên hết? Ông trả lời: “Vì thấy Chúa Giêsu trong mỗi người bệnh." Mỗi sáng khi đi dự lễ, bệnh nhân lương giáo, ai muốn đi đều được ông cho đi xe của ông, mỗi chiều Chúa nhật, ông lại đưa các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này nơi nọ, và mỗi tối, ông lần hạt chung với các bệnh nhân, vì là người Pháp, về tiếng Việt ông chỉ thuộc kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh đủ để lần hạt. Ít lâu sau, Longghê trở về Pháp, vào chủng viện, làm linh mục và tình nguyện sang phục vụ những người nghèo khổ ở giáo phận Cần Thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức, ông bị bệnh và qua đời trước khi tới nơi mong ước.

Nếu chúng ta không bắt chước được bác sĩ Longghê, thì chúng ta có thể bắt chước được chị y tá trên đây, cầu nguyện cho các bệnh nhân.

10. Đổi mới bản thân

Một triết gia bên Ấn độ, ngồi kiểm điểm lại cuộc đời, đã ghi lại như sau:

Thoạt tiên ở tuổi thanh xuân đầy nhiệt huyết, tôi đã sốt sắng kêu xin thượng đế cho tôi có đủ nghị lực và cơ hội để thay đổi cả thế giới.

Đến tuổi trung niên, tôi bỗng nhận ra nửa đời trôi qua, mà chẳng thay đổi được một ai, tôi liền điều chỉnh lời cầu của tôi với thượng đế.

Khi ấy tôi chỉ xin Ngài cho tôi đủ khả năng hoán cải những người tôi gặp thường ngày, khởi đi từ những người thân yêu trong gia đình cũng như những người bạn tôi hằng tiếp xúc.

Thế rồi đến nay, tôi thấy mình đầu tóc bạc phơ và mộng đẹp không còn nữa. Tôi chỉ xin với thượng đế:

- Lạy Chúa, ít nữa xin ban cho con ơn biến đổi chính mình con.

Tiếc rằng tôi đã không xin với thượng đế điều đó ngay từ tuổi thanh xuân, khiến tôi bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội để đạt được sự hoàn thiện nơi chính bản thân mình.

Ta hãy đổi mới cuộc đời theo kiểu mẫu một ngày sống của Chúa Giêsu.

11. Qua các bí tích Chúa vẫn ở bên ta

Bác sĩ Tissot người Thuỵ sĩ rất nổi tiếng. Ông theo đạo Tin Lành nhưng luôn tôn trọng nếp sống của người Công Giáo. Một hôm ông tới chữa bệnh cho một bà ngoại quốc, bà đang sốt nặng và tỏ ra hoảng hốt cáu kỉnh. Là người Công giáo, bà đòi gặp một linh mục trước rồi mới chịu để bác sĩ chích thuốc chữa bệnh. Sau khi được giải tội và xức dầu, bác sĩ Tissot thấy bệnh nhân bình tĩnh dịu dàng khác thường. Sáng hôm sau, bác sĩ Tissot trở lại, thấy bà giảm sốt và bắt đầu bình phục bác sĩ Tissot thường nói chân thành: "Nhiều bệnh nhân Công giáo đã lành bệnh nhờ bí tích xức dầu."

Tin Mừng hôm nay cho ta thấy Chúa đến giường bà mẹ vợ ông Simon đang sốt nặng, cầm tay đỡ bà dậy. Được khỏi ngay, bà chỗi dậy lo việc phục vụ Chúa và các môn đệ. Chúng ta có thể nghĩ tới Chúa Giêsu đã thực hiện bí tích xức dầu cho bà. Mọi bí tích đều do Chúa thiết lập và cử hành trước. Cử hành bí tích là làm lại cử chỉ của Chúa Giêsu. Kèm theo một lời của Chúa hay lời cầu nguyện của Giáo hội.

12. Trong cầu nguyện có nghỉ ngơi và tìm được sức mạnh

Tạp chí Thế Giới Bên Ngoài (Outdoor World) có đăng một bài rất hay của Barry Lopez.

Vào một buổi sáng mưa phùn, Barry thức dậy một mình đi dạo trong rừng trước buổi điểm tâm. Vừa rảo bước giữa những dãy thông và bá hương. Barry vừa nhớ lại một buối sáng y hệt sáng hôm nay, khi còn là chú bé con, chàng đã được nhìn thấy ông nội một mình bước ra khỏi nhà đi dạo ngang qua chính những hàng cây này. Khi ông nội trở về chú bé Barry hỏi thăm nội đã đi đâu và đã làm gì. Ông nội mỉm cười, ôm choàng Barry rồi nói: "Nào chúng ta hãy cùng đi dùng điểm tâm, cháu nhé!"

Tiếp tục bước đi dưới cơn mưa phùn, Barry gặp một quãng rừng trống. Chàng liền quỳ xuống và đặt đôi tay lên mặt đất ẩm ướt. Điều này gây cho chàng cảm giác rằng chàng đang hiệp nhất với toàn thể vũ trụ. Barry nhớ lại lời ông nội đã từng dạy bảo chàng: Khi nào cảm thấy cô đơn thì nên đi bách bộ vào rừng tìm yên tĩnh, đoạn làm bất cứ điều gì đang được thôi thúc trong lòng, chẳng hạn như quì gối xuống đặt tay lên mặt đất.

Nửa giờ sau, khi Barry trở về nhà, ông cảm thấy như được đổi mới, được hồi phục sức lực. Bấy giờ ông mới hiểu được lý do ông nội thường hay đi dạo trong rừng vào buổi sớm mai. Bà của Barry có lần nói cho ông hay đấy chính là cách thức ông nội cầu nguyện. Ông ấy luôn luôn đi sang tận mé rừng bên kia, đứng trên bờ biển, tay thọc vào túi, lắng nghe đại dương reo.

Giữa những bận rộn của cuộc sống, Chúa Giêsu vẫn tìm thời gian nghỉ ngơi và cầu nguyện. Chúng ta cũng nên làm như thế.

13. Lặng yên

Một con tàu của hải quân Anh bị tai nạn. Trong khi bị nạn, con tàu vang lên một tín hiệu được gọi là tín hiệu "Lặng Yên." Tín hiệu này có nghĩa là: "Hãy ngưng tất cả những gì bạn đang làm. Hãy nghỉ ngơi và xem xét lại tình hình của mình, và chuẩn bị làm những gì thật khôn ngoan."

Trước khi tín hiệu vang lên, ít có thuỷ thủ nào biết được điều nào là điều khôn ngoan để mà làm đây. Nhưng trong thời gian nghỉ ngơi, họ đã biết được điều gì cần làm. Tín hiệu "Lặng Yên" đã cứu được hàng ngàn mạng sống quân Anh và hàng triệu bảng Anh.

Trong đời sống thường nhật chúng ta thường bị rơi vào tình trạng khẩn cấp và chúng ta cũng chả biết làm gì ngay lúc đó. Thế rồi chúng ta la toáng lên; "chúng ta có thể làm gì đây?" Thực sự, điều tốt nhất chúng ta có thể làm là nghỉ ngơi và yên lặng. Sự nghỉ ngơi thường tạo nên điều kiện để ta thành công và tránh cho ta những thất bại.

14. Thinh lặng tận hưởng cái đẹp

Một hôm, nhạc sĩ André Kostelanetz đến thăm nghệ sĩ Pháp Henri Matisse. Khi Kostelanetz đến nhà Matisse, thần kinh ông bị suy nhược và ông gần như kiệt sức. Matisse nhận ra tình trạng sức khoẻ người bạn, ông vừa đùa vừa nói; "Này ông bạn, ông phải tìm ra những cây Áctisô cho đời sống của ông." Nói xong, ông ta nắm tay dẫn Kostelanetz ra khu vườn nhà ông.

Khi cả hai đến gần một đám cây Áctisô, Matisse dừng lại. Ông nói với Kostelantz là mỗi buổi sáng sau khi làm việc một lúc ông thường đến với đám Astisô này để nghỉ ngơi yên tĩnh. Ông chỉ đứng đó ngắm nhìn đám Acstisô.

Đoạn Matisse nói thêm: "Dầu tôi đã vẽ được trên 200 bức tranh tôi cũng vẫn luôn luôn nghiên cứu tổng hợp những màu sắc mới cũng như tìm những bức mẫu tân kỳ. Không ai được phép quấy rầy tôi khi tôi lặng yên đứng ngắm… điều này mang lại cho tôi nguồn hứng mới, một sự xả hơi cần thiết cũng như một triển vọng mới cho công việc của tôi."

Mỗi người chúng ta nên ghi vào lòng lời Matisse khuyên nhủ André Kostelanetz. Chúng ta phải tìm những đám Actisô cho đời chúng ta.

15. Cầu nguyện nâng tâm hồn lên cao

Vào cuối thế kỷ 19, nhà hoạt động nổi tiếng người pháp tên Frédéric Ozanam, đã trải qua một cơn khủng hoảng đức tin rất là nghiêm trọng. Một hôm,để tìm chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi nhà thờ ở Paris. Từ cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quỳ cầu nguyện một cách sốt sắng ở hàng ghế đầu. Anh đứng lặng lẽ trong góc Nhà Thờ theo dõi cử chỉ của người này. Và khi người này vừa đứng lên để ra khỏi Nhà Thờ, thì anh nhận ra ngay đó chính là nhà bác học Pascal. Lòng đầy thắc mắc, anh theo nhà bác học về đến phòng làm việc của ông. Thấy anh đứng trước cửa phòng với vẻ rụt rè, nhà bác học lên tiếng hỏi:

Bạn đang cần gì? Tôi có thể giúp bạn giải một bài toán vật lý phải không? Chàng ta đáp: Thưa ông, tôi là sinh viên khoa văn, tôi dốt khoa học lắm. nhưng xin ông cho tôi hỏi một vấn đề đến đức tin.

Nhà Bác học trả lời:Đức tin là môn tôi yếu nhất. Nhưng nếu giúp anh được việc gì tôi sẳn sàng. Thưa ông có thể vừa là bác học vĩ đại vừa là tín hữu nhiệt thành cầu nguyện không?

Nhà Bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của anh. Ông ta trả lời: Anh ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện thôi. Nhà bác học kiêm triết gia nổi tiếng Pascal nói một câu rất thời danh: "con người chỉ vĩ đại khi họ cầu nguyện."

Vậy cầu nguyện tức là thiết lập mối tương quan mật thiết với Chúa. Sự cầu nguyện làm cho con người vĩ đại vì nó thể hiện đúng đắn đạo làm người.

16. Sự cao trọng của một việc làm nhỏ bé

Trong vùng có một quân nhân xấu ai thấy cũng chế diễu, bửu môi, đánh đập, không ai làm bạn với anh cả. Anh sống đời cô đơn uồn tủi. Khi anh chết, người ta thấy một tờ di chúc trong tay anh: "Xin trao số tiền 10,000 đồng của tôi cho cô bé Kitty, vì suốt cuộc sống của tôi không nhận được nụ cười nào của bất cứ ai, ngoại trừ nụ cười của bé Kitty trong một lần tôi gặp cô đi học về. Đó là niềm an ủi nhất đời tôi, khiến tôi can đảm sống trọn cuộc đời cô đơn."

Cũng một câu chuyện nữa về một "Lời nói thân tình."

Tại một góc hè phố, người hành khất bại tay, nằm co quắp mở miệng xin ăn. Người thì ném tiền vào nón của ông. Người thì cho cách khinh bỉ. Một người sang trọng đi qua, ông xỏ tay vào túi rồi chẳng tìm được gì, ông nói: "Này bác, rất tiếc tôi muốn giúp bác nhưng bất ngờ tôi không có đồng xu nào trong túi mình cả." Người ăn xin trả lời: "Cám ơn ông, ông đã cho tôi nhiều hơn cả mọi của bố thí. Ông đã gọi tôi bằng "Bác" thành thật chưa bao giờ trong đời tôi nhận được danh xưng đó trên môi miệng một người sang trọng bố thí cho tôi."

Thời đại nào, thế kỷ nào, ai ai cũng cần đến "Cái tình" của con người, cần đến sự nâng đỡ, khích lệ trong cuộc sống.

17. Không cầu nguyện không được việc gì

Đức Cha Tihamer Toth đã nói chuyện với thanh niên như sau:

”Bạn không muốn sao lãng những công việc bề bộn, thế thì, bạn ơi, hãy nghe tôi: Đây là chiếc tầu vượt đại dương bắt đầu mở máy giữa lúc giông tố nổi to, và một đoàn hải điểu theo bên như những tầu khác khởi hành. Chiếc tầu nọ mở hết tốc lực mà không vượt được những làn sóng dữ dội. Gió ngược mạnh vô cùng, chiếc tầu nghiêng ngả. Cả bộ máy rung chuyển, nhưng chiếc tầu chỉ tiến khó khăn được đôi chút. Một hành khách thương hại nói: "Khốn nạn đàn hải điểu. Mở máy tới hàng trăm, hàng ngàn mã lực thế mà chúng ta chỉ tiến được đôi chút thôi. Chim ơi, chim làm được gì với đôi cánh mong manh và bắp thịt yếu đuối” ?

Nhưng người hành khách thương hại bỗng nói và cảm động vô ngần: "Đàn hải điểu nhẹ nhàng bay lượn với đôi cánh Đức Chúa Trời ban cho. Chúng gối lưng lên gió vật. Và trong khi chỉ còn một việc, chỉ trông cậy có máy móc, người ta tiến rất khó khăn, rất vất vả, thì đàn hải điểu vượt nhẹ nhàng lên trước chiếc tầu với đôi cánh khéo léo, bay lượn thay cho sức yếu đuối của mình."

Bạn ơi, chiếc tầu đó là hình ảnh kẻ muốn thắng bằng sức riêng mình. Đôi cánh chim hải điểu là hai tay người ta giơ lên trong lúc cầu guyện. Bạn có còn cho rằng thời giờ bạn nguyện ngắm là thời giờ bỏ phí không ? Bạn có còn nói rằng bạn không có thời giờ cầu nguyện không”?

18. Bỏ cầu nguyện, bỏ Chúa

Tại bảo tàng viện ở Wittenberg (Đức) người ta còn lưu giữ một lá thư của một tu sĩ dòng Augustinô rất thời danh, mới 35 tuổi, đã làm tới chức Giám tỉnh. Bức thư như sau: "Tôi quá bận rộn, phải đi dạy học, giảng thuyết, viết sách, tôi làm quản lý, bắt cá ở hồ... nên không có giờ đọc kinh, không có giờ nguyện gẫm, không có giờ dọn mình dâng Thánh lễ, có lúc phải bỏ luôn cả lễ...” Vị cựu tu sĩ thời danh ấy là ai? Là Luther, người đã khởi xướng lên chủ thuyết Tin lành, ly khai khỏi Giáo hội, ra khỏi dòng, lập gia đình, lôi kéo nhiều người theo, đi vào con đường ly khai.

Tuy thế, có những người vần chưa công nhận sự cầu nguyện là cần thiết, mà còn bác bỏ và chê trách sự cầu nguyện. Thi sĩ Alfred de Vigny đã nói: "Thở than khóc lóc, cầu khẩn là hèn nhát."

Phải phân biệt hai lối cầu nguyện: thụ động và chủ động. Cầu nguyện thụ động là thái độ của kẻ ươn hèn, muốn được điều lành mà không cố gắng, không làm gì cả: họ chỉ há miệng chờ sung hay ôm gốc cây chờ thỏ. Trái lại cầu nguyện chủ động là tính cách của người vừa cầu nguyện vừa làm việc để đi tới mục đích mình cầu xin: Aide-toi, le Ciel 1’aidera!

Câu nói trên của Alfred de Vigny chỉ đúng cho những kẻ cầu nguyện thụ động. Còn chính nhà khoa học lừng danh Alexis Carrel đã nói: "Dẫu có vẻ lạ lùng, người ta vẫn phải nhận là đúng rằng kẻ nào cầu xin sẽ được và cửa sẽ mở cho kẻ gõ." Một nhà khoa học đã từng được giải Nobel vào năm 1912 còn tin tưởng như vậy, thì sự cầu nguyện đã rõ ràng không phải là sự mơ hồ.

Văn hào Cronin đã than thở cho những kẻ mất lòng tin tường, những kẻ không cầu nguyện: "Địa ngục là khi lòng mất hy vọng." Sống là hy vọng, mà mất hy vọng thì còn sống làm sao? Chính vỉ vậy, những kẻ tự tử là những kẻ không còn tin tưởng, những kẻ không biết có sự cầu nguyện.

19. Cầu nguyện chữa lành tâm hồn

Môt hôm, một bệnh nhân trạc tuổi 40, đến gõ cửa phòng mạch bác sĩ. Người bệnh nói:

- Đã lâu rồi tôi mắc bệnh mất ngủ. Tôi đã uống nhiều loại thuốc an thần, thuốc ngủ. Ban đầu uống một viên, sau đó uống hai viên. Hiện giờ tôi uống những ba viên mà cũng chẳng tài nào ngủ được. Hết muốn sống.

Bác sĩ là một người Công giáo, liền cho một toa thuốc an thần, thật bất ngờ, lại không mất tiền mua:

- Từ nay ông đừng uống thuốc ngủ nữa. Thế vào đó, trước khi lên giường, ông hãy đọc một câu kinh sốt sắng, và dâng phú những lo lắng của ông vào lòng Thượng Đế.

Đã lâu lắm, bệnh nhân chẳng hề đọc kinh chiều. Tối hôm ấy, chàng áp dụng toa thuốc của bác sĩ đã cho một cách nghiêm chỉnh.

Một tuần lễ sau, thần kinh bớt căng thẳng, chàng được lành mạnh, ăn ngon ngủ ngon và làm việc như thường lệ.

Bác sĩ Carl Jung cho biết: "Trong 30 năm trời gần đây, có nhiều người từ các nước văn minh tới phòng mạch của tôi. Tôi nhận thấy rằng những bệnh nhân trên 35 tuổi, rút cuộc người nào cũng phải tìm một giải pháp tôn giáo mới hết bệnh. Họ đau vì mất quân bình, mất tin tưởng."

20. Cầu nguyện và làm việc.

Một ông cụ già dẫn một thanh niên xuống thuyền của mình. Thuyền này có hai mái chèo: một cái đề chữ “cầu nguyện”, một chiếc khác có đề hai chữ “làm việc."

Người thanh niên nói kháy cụ già:

- Ông cụ ơi, chèo thế này chậm lắm. Người đã làm việc thì không cần cầu nguyện nữa (có ý nói: chỉ cần chèo một chiếc chèo có chữ “làm việc” thôi).

Ông cụ không nói gì, chỉ buông chiếc chèo có hai chữ “cầu nguyện” ra thôi, rồi cứ chèo chèo chiếc có hai chữ “làmviệc” kia.

Ông cụ cứ cố sức chèo nhưng thuyền không đi được bước nào, chỉ quay tròn đi thôi.

Thấy thế người thanh niên kia mới hiểu rằng, ngoài chiếc chèo làm việc ra, còn cần phải có chiếc chèo cầu nguyện nữa, thuyền mới đi được.

21. Cầu nguyện là để Chúa lo liệu cho ta

Người ta kể lại rằng, sau khi vẽ xong bản họa đồ kiến trúc cho ngôi thánh đường nổi tiếng tại Roma - Đại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, Kiến trúc sư Bramante dắt đứa con nhỏ của ông cùng đi vào để yết kiến Đức Thánh Chúa và trình lên cho Ngài xem. Lúc đó là Đức Thánh Chúa Juilio II. Đức Thánh Cha xem xong Ngài rất vui. Bản họa dồ kiến trúc đã thể hiện được đúng ý muốn của Ngài. Để tưởng thưởng cho những công lao vất vả của Kiến trúc sư Bramante, Ngài tế nhị dẫn đứa con nhỏ của ông đến chỗ ngài để tiền rồi bảo cậu bé:

- Con bốc đi. Bốc đầy hai bàn tay của con. Phần thưởng cho con đó.

Cậu bé do dự mãi không bốc. Đức Thánh Chúa chờ mãi... Sau đó Ngài thò tay vào bốc và bảo cậu bé đưa vạt áo ra. Ngài bốc bỏ đầy vạt áo của cậu.

Lúc ra về ông bố hỏi cậu con

- Sao Đức Thánh Chúa bảo con đưa tay mà bốc mà con không bốc?

- Ồ, bố không biết là tay con nhỏ còn tay Đức Thánh Cha lớn hơn sao?

Chúa cũng đối xứ với những ai biết hy sinh cho Chúa như thế.

22. Lý do để cầu nguyện

Đức Cha Tihamer Toth kể:

Một triết gia kia buồn vì người học trò xuất sắc của mình ngày càng ham suy tư nhiều cho nên việc cầu nguyện càng ngày càng ít đi. Khi hỏi lý do thì người học trò đáp:

 - Thứ nhất, Chúa biết hết mọi sự, không cần chúng ta nói. Thứ hai, Chúa tốt lành vô cùng, Ngài sẽ cho chúng ta mọi thứ chúng ta cần. Thứ ba, Ngài là Đấng Vĩnh Cửu, lời cầu nguyện của chúng ta chẳng thay đổi được Ngài.

Triết gia không nói gì. Ông đến ngồi dưới bóng cây, mặt buồn bã. Người học trò hỏi:

- Tại sao thầy buồn thế?

- Người bạn của thầy có một thửa ruộng rất tốt, hằng năm sản xuất rất nhiều hoa màu. Nhưng bây giờ ông ta bỏ mặc không chăm sóc gì cho nó nữa.

- Bộ ông ta khùng ư ?

- Không đâu. Ông còn khôn nữa là đành khác. Ông nói: Chúa yêu thương vô cùng. Ngài sẽ lo cho tôi mọi thứ tôi cần, thế nên chẳng cần làm ruộng nữa. Chúa quyền phép vô cùng, dù tôi không cày xới, Ngài vẫn thừa sức cho nó sinh sản hoa màu.

- Như thế nghĩa là thử thách Chúa rồi còn gì nữa?

- Thì con cũng thế thôi.

Một thanh niên người Scotland làm mướn cho gia đình khá giả. Nhưng hai tuần sau, anh xin nghỉ. Một người bạn hỏi:

- Có phải công việc quá nặng không?

- Không.

- Hay lương thấp?

- Không, lương cao.

- Có lẽ thức ăn không hợp với anh?

- Thức ăn rất ngon.

- Thế sao anh nghỉ việc?

- Tôi nói để anh biết. "Nhà không có mái che."

Ở Scotland, thành ngữ này ám chỉ một gia đình không có sự cầu nguyện.

23. Hãy cầu nguyện

Cuốn sách “Quẳng gánh lo đi mà vui sống” được coi là cuốn sách bán chạy nhất thế giới vào những năm 1948-1950. Tác giả cuốn sách này, Dale Carnegic, đã thu tập tài liệu trong 7 năm. Đặc biệt, để cuốn sách có giá trị, tác giả đã đặt giải thưởng 200 mỹ kim cho ai viết được câu truyện có thực về bản thân: “Tôi đã thắng được ưu phiền cách nào?” Kết quả cuộc thi, ban giám khảo đã chọn được hai truyện hay nhất, hay ngang nhau, do đó giải thưởng phải chia đôi. Sau đây là một trong hai truyện đó:

Trong cuộc kinh tế khủng hoảng, lương trung bình nhà tôi là 18 mỹ kim mỗi tuần. Nhiều khi không được số đó nữa, vì hễ đau thì bị trừ lương, mà nhà tôi thường lại đau vặt. Chúng tôi nợ tiệm tạp hoá 50 mỹ kim và phải nuôi năm đứa con, tôi phải giặt ủi thuê cho hàng xóm và phải mua quần áo cũ về sửa lại cho cháu bận, rồi âu sầu quá, tôi hoá đau. Một hôm người chủ tiệm tạp hoá kia lại mách tôi rằng đứa con trai bảy tuổi của tôi ăn cắp hai cây viết chì. Tôi hỏi cháu, cháu khóc. Tôi biết rằng cháu ngay thẳng dễ cảm động và người ta đã làm nhục cháu ở trước đám đông. Từ đó tôi phát đau lung. Tôi nghĩ tới tất cả những nỗi đau khổ đã chịu đựng và không thấy chút hy vọng gì về tương lai hết. Ưu tư quá đến nỗi suýt nữa tôi hoá điên. Tôi khoá máy giặt lại, gọi đứa cháu gái năm tuổi vào phòng ngủ, đóng kín cửa sổ, lấy giấy và giẻ bịt hết các lỗ hở trong phòng, cháu hỏi tôi: “Má làm gì đó?” Tôi đáp: “Cho gió khỏi lọt.” Rồi tôi mở vòi hơi đốt (ta biết hơi đốt rất độc, nếu không đốt, ngửi vào một lúc sẽ chết). Hai mẹ con nằm cạnh nhau trên giường. Cháu hỏi: “Má, sao kỳ vậy má? Mới dậy lúc nãy, sao bây giờ đã buồn ngủ?” Tôi đáp: “Không hại, má con mình ngủ thêm chút nữa.” Rồi tôi nhắm mắt nghe hơi phì từ vòi ra. Chao ôi! Không bao giờ tôi quên mùi hôi ấy…! Đột nhiên tôi vẳng tai nghe tiếng âm nhạc, tôi lắng tai. Thì ra tôi đã quên tắt máy thâu thanh trong bếp. Mặc kệ. Nhưng bài nhạc tiếp tục. Kế đó có ai lên tiếng ca một điệu cổ:

Tâm hồn bình tĩnh mất đi,
Đớn đau vô ích rước chi vào mình
Chỉ vì dại chẳng nguyện kinh,
Mọi điều cầu Chúa thênh thênh trong lòng

Nghe đoạn tôi nhận thấy đã lầm lẫn một cách thê thảm, khi một mình tranh đấu ghê gớm với đời mà chẳng biết trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Thế là tôi nhảy phắt dậy, khoá vòi hơi và mở cửa ra. Tôi vừa khóc lóc vừa cầu xin. Không những tôi cầu Chúa giúp tôi, mà tôi còn đem cả tấm lòng thành kính cảm tạ Ngài: nhờ Ngài phù hộ mà tôi có năm đứa con khoẻ mạnh, xinh xắn, thông minh, ngoan ngoãn. Tôi hứa với Ngài không bao giám quên ơn Ngài nữa. Và tôi đã giữ được lời hứa ấy.

Tình thế của tôi từ ngày đó mỗi ngày mỗi khả quan. Nghĩ lại cái ngày ghê gớm mà tôi tự tử, tôi cảm ơn Chúa ngàn lần đã thức tỉnh tôi, nếu tôi mê muội, sau này tôi mất bao nỗi vui, bao nhiêu năm đẹp đã lạ lùng! Bây giờ mỗi lần nghe ai có ý định tự tử tôi muốn la lớn: Đừng! Đừng! Những ngày đen tối nhất trong đời ta sẽ qua đi, tương lai rực rỡ sẽ tới… HÃY CẦU NGUYỆN.

24. Giá trị của đau khổ

Ông Gióp là người công chính, được Chúa ban của cải dư đầy, ông có 7 người con trai, chúng khôi ngô tuấn tú, và ba cô con gái của ông là hoa khôi trong vùng. Con cái ông luân phiên mở tiệc từ nhà anh cả cho đến em út, rồi ngược lại. Dầu ăn uống vui vẻ như thế, nhưng tối nào ông Gióp cũng họp các con lại để xét mình và cầu nguyện, xin Chúa soi sáng xem trong ngày các con có làm gì phiền lòng Chúa và xóm giềng không?

Ngày nọ, qủy đến trình diện Chúa, Ngài hỏi:

- Ngươi có thấy Gióp của Ta trung tín không?

- Thưa Ngài, vì Ngài cho nó giàu có, sống sung sướng, nếu Ngài để nó khổ, chắc nó sẽ chửi Ngài.

- Ta cho ngươi được quyền trên của cải Gióp có.

Thế là qủy liền ra tay hành hạ Gióp.

Ông Gióp đang ở nhà, thình lình có người chạy về đưa tin:

- Bò đang cày, lừa đang ăn, thì dân Saba xông vào cướp hết, các tôi tớ bị giết chết, còn mình tôi sống sót về báo tin cho ông….

Hắn còn đang nói, thì một người khác chạy vào nhà hớt hải:

- Thưa ông chủ, lửa từ trời đổ xuống thiêu rụi bầy cừu và các tôi tớ ngài, chỉ mình tôi chạy thoát về báo tin cho ngài…

Người đầy tớ chưa hoàn hồn, thì một đầy tớ khác chạy đến, gương mặt tái xanh, giọng run run:

- Ba toán người Kanđê cướp hết lạc đà và giết hết các tôi tớ, còn mình tôi thoát chạy về đây …

Ông Gióp chưa nghe hết câu, thì bỗng một người khác với gương mặt đầy kinh hoàng chạy đến:

- Có môt cơn gió lốc từ sa mạc ùa vào làm sập nhà các con ông đang ăn uống, tất cả đều chết bẹp dí trong đó, chỉ còn mình tôi may mắn thoát chết chạy về báo tin cho ông….

Bao nhiêu tai họa dồn dập trút xuống ông Gióp. Dầu vậy vẫn không lay chuyển được lòng trung tín của ông đối với Thiên Chúa, như ông nói: “Chúa đã ban cho Ngài lại lấy đi, xin chúc tụng danh Chúa!” (G 1, 21)

Ma qủy lại được Thiên Chúa cho phép làm hại trên thân xác ông Gióp: ung nhọt lở loét khắp người, ông ngồi trên đống tro và dùng mảnh sành cạo máu mủ chảy xuống!

Bấy nhiêu đau khổ cũng chưa chua xót bằng chính người vợ ông đã không tiếc lời xỉa xói: “Ông còn kiên quyết trong sự liêm chính của ông nữa hay thôi? Hãy nguyền rủa Thiên Chúa và chết đi cho rồi!”

Rõ ràng ông Gióp bị Satan, người đời, cả vợ cũng xông vào tấn công, mà xem ra Chúa chẳng thương! Cả vào thời ân sủng, thời mà Con Thiên Chúa vào đời, Đức Giêsu cũng gặp thấy cảnh con người phải khổ đủ mặt ở khắp nơi nội trong một ngày, và Ngài đã ra tay cứu giúp:

Đức Giêsu bước vào đời, không phải Ngài đến đập phá mọi thập giá, vì chính Ngài “dầu là Con Thiên Chúa, Ngài cũng phải trải qua nhiều đau khổ, để học cho biết thế nào là vâng phục”(Dt 5, 8), để Ngài dạy cho mọi người biết biến đổi khổ giá thành Thánh Giá chuộc tội mình, và cộng tác với Đức Giêsu, hy vọng được bù vào những gì còn thiếu sót trong cuộc Tử Nạn của Ngài (x Cl 1, 24), một khi biết vâng phục thánh ý Thiên Chúa để được kết hợp với Chúa Giêsu.

25. Gương bày lôi kéo

Người ta nói: “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo.” Quả thế, lời nói phải luôn đi đôi với việc làm. Đó chính là yếu tố làm cho lời nói có sức thuyết phục nhất.

Sách Tin Mừng cũng như bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu là con người nhất quán, vì việc làm luôn song hành với lời Ngài rao giảng; Ngài chữa trị cho người bị quỷ ám giữa cử tọa đông đúc ở hội đường, cũng như chữa lành cho bà nhạc mẫu ông Simon trong căn nhà nhỏ bé, trước sự chứng kiến vỏn vẹn vài người của gia đình.

Cách Ngài chữa bệnh cho bà cũng rất thân tình: đến bên giường, cầm tay người bệnh và đỡ dậy. Chúa không chỉ chữa bệnh mà còn muốn bày tỏ tình thân, sự quan tâm gần gũi đối với bệnh nhân.

Kinh Thương người có mười bốn mối, thương xác bảy mối dạy ta: viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc. Bạn đã đọc nhiều lần lời kinh này, nhưng thực hành được bao nhiêu lần?

26. Thiên Chúa là nơi con người nương tựa

Có một gia đình sống giữa cánh đồng. Đang đêm khuya thì căn nhà bốc cháy dữ dội. Cha mẹ, con cái chạy ra sân đứng nhìn một cách bất lực ngọn lửa đang hừng hực thiêu huỷ căn nhà theo từng luồng gió.

Bỗng người mẹ thấy thiếu mất cậu con út. Khi nghe kêu cháy, cậu cũng chạy xuống thang, nhưng thấy lửa cháy dữ quá cậu lại chạy ngược lên lầu. Đang lúc cả nhà hốt hoảng không biết làm cách nào cứu cậu ra thì cánh cửa trên lầu mở toang, cậu bé kêu la trong hoảng sợ trong khung cửa. Người cha gọi tên con và kêu lớn với cậu: “Con cứ nhảy xuống đi, ba sẽ đỡ con.”

Nghe tiếng cha, nhưng nhìn xuống bên dưới chỉ thấy khói mù và lửa cháy, cậu bé hét lên: “Con không thấy ba ở đâu hết!”

Người cha trả lời, giọng cương quyết: “Cứ nhảy đi, ba thấy rõ con.”

Lửa cháy sát sau lưng buộc cậu bé leo lên cửa sổ, nhảy liều xuống và an toàn rơi vào vòng tay vạm vỡ đầy tình yêu thương của người cha.

Chính khi đi tìm hạnh phúc là lúc người ta thấy rõ tình trạng bất lực, không điểm tựa của mình: “Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao? Và chuỗi ngày lao lung vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê?” Giữa cuộc đời nhiều thay đổi, người ta mới nhận ra Thiên Chúa là chỗ nương tựa vững vàng cuối cùng mà họ phải chạy đến giữa cảnh đời bấp bênh: “Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hy vọng. Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (G 7,1.6.7).

27. Nhận để cho

“Đức Giêsu lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các Ngài.” (Mc 1,29-39)

Ở Palestin có một cái biển nằm giữa đất liền. Sông Gio-đan đổ nước vào nó, nhưng nó không có chỗ nào khác để thoát nước ngoại trừ việc nước biển bị bốc hơi rất nhanh do sức nóng của sa mạc. Chính vì thế mà nước biển rất mặn, mặn đến độ không một sinh vật nào sống nổi, trừ một ít vi khuẩn. Do đó mà nó mang một cái tên ‘xui xẻo’: “Biển Chết." Biển thường được ví như mẹ sinh ra muôn loài sinh vật, thế mà biển ở đây vắng bóng sự sống vì nó chỉ biết nhận mọi nguồn nước đến, mà lại không cho đi cái nó nhận.

Tin Mừng hôm nay kể lại việc Chúa chữa lành mẹ vợ ông Si-mon. Bà đã mau mắn phục vụ Chúa và các môn đệ cách quảng đại, sau khi được chữa lành. Thái độ “nhận để cho” của bà là sứ điệp Chúa mời chúng ta phải biết nhân rộng ơn lành của Chúa đến cho người khác. Nhận mà không cho là lối sống giống như biển chết, không phải của con cái sự sống. Nhận để cho mới chính là sống chứng nhân của người Kitô hữu trong xã hội hôm nay.

 “Chúng ta muốn ban phát yêu thương đến cho người khác, chính chúng ta phải được tràn đầy tình yêu để ban phát. Nếu chúng ta cảm nhận được tình yêu Chúa dành cho chúng ta, thì chính tình yêu này lan toả từ chúng ta” (Têrêsa Calcutta).

28. Sống để làm gì?

Một chiếc xe lửa tốc hành đụng vào một chiếc xe hơi do một sinh viên trường đại học Cincinnati lái. Thật lạ lùng, cô sinh viên không hề hấn gì. Biến cố này đã tác động sâu xa đến cô. Cô không cảm thấy sự sống này là của mình, cũng không sử dụng cuộc sống như cô muốn nữa. Cô cảm thấy mình được cứu sống không phải do công lao hay tài năng của mình. Cô tin rằng cô được cứu sống là để “phục vụ” Bà mẹ vợ của Phêrô đáp trả như thế khi bà được Chúa Giêsu chữa lành. Phúc âm nói: “Bà bắt đầu phục vụ các ngài”

Bạn đã có lần nào giáp mặt với tử thần chưa? Biến cố đó đã tác động đến quãng đời còn lại của bạn như thế nào? Tại sao?

Bạn không thể cứ mãi mãi là quả trứng tốt. Hoặc bạn sẽ nở ra hoặc bạn sẽ hư đi (C.S Lewis).

29. Gieo gì thì gặt nấy

Một nhà truyền giáo người Scottland tên là Robert Moffat từ Châu Phi trở về, cố gắng tuyển một số người để giúp ông. Một đêm lạnh giá nọ, chỉ có một vài bà già và một cậu bé đến nghe ông nói chuyện. Moffat thầm nghĩ: “Thật chẳng nên mất thời giờ cho buổi nói chuyện này” Nhưng rồi ông vẫn hết mình làm việc đó. Những lời nói của Moffat đã thúc đẩy cậu bé. Khi lớn lên, cậu đã trở thành một bác sĩ, làm việc như một nhà truyền giáo ở Châu Phi. Đó là bác sĩ David Livingstone, một người nổi tiếng khắp thế giới.

Câu truyện về việc Êli đã dạy cậu Samuel và việc Moffat gợi hứng cho cậu Livingston mời gọi tôi kiểm điểm xem tôi đã giúp đỡ và truyền cảm thế nào trong khi tiếp xúc người trẻ?

Hãy đối xử với một em bé như thể em đã là người mà em có thể trở thành trong tương lai (Halm Ginott).

CNTN 5C - KẺ CHINH PHỤC CON NGƯỜI

Lời Chúa: Lc 5, 1-11

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, dân chúng chen nhau lại gần Ðức Giêsu để nghe lời Thiên Chúa, lúc đó Người đứng ở bờ hồ Giênêsarét. Người trông thấy hai chiếc thuyền đậu gần bờ; những người đánh cá đã ra khỏi thuyền và họ đang giặt lưới. Người xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simon, và Người xin ông đưa ra khỏi bờ một chút. Rồi Người ngồi trên thuyền, giảng dạy dân chúng.

Vừa giảng xong, Người bảo ông Simon rằng: "Hãy đẩy thuyền ra chỗ nước sâu, và thả lưới bắt cá.” Ông Simon thưa Người rằng: "Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết; nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới.” Các ông đã thả lưới và bắt được rất nhiều cá; lưới các ông hầu như bị rách. Bấy giờ các ông làm hiệu cho các bạn đồng nghiệp ở thuyền bên cạnh đến giúp đỡ các ông. Những người này tới, họ đổ cá đầy hai chiếc thuyền, đến nỗi những thuyền chở nặng gần chìm.

Thấy thế, ông Simon sụp lạy dưới chân Chúa Giêsu và thưa Người rằng: "Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi.” Ông kinh ngạc và tất cả mọi người ở đó với ông cũng kinh ngạc trước mẻ cá mà các ông vừa mới bắt được; cả ông Giacôbê và Gioan, con ông Giêbêđê, bạn đồng nghiệp với ông Simon cũng thế.

Nhưng Chúa Giêsu phán bảo ông Simon rằng: "Ðừng sợ hãi: từ đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta.” Bấy giờ các ông đưa thuyền vào bờ, và đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người.

TRUYỆN KỂ

1. Thành quả vàng son

Thánh Gioan Vianney, lúc còn là chủng sinh, học rất chậm. Ngày kia, một giáo sư thần học, thừa lệnh Đức Giám Mục đến khảo sát Vianney xem có đủ khả năng học vấn để tới chức linh mục chăng?

Tuy đã dốc hết sức học hành, Vianney vẫn không thể trả lời được câu nào cho trôi chảy.

Nổi nóng, vị giáo sư đập bàn nói: "Vianney, anh dốt đặc như con lừa! Với một con lừa như anh, Giáo Hội hy vọng làm nên trò trống gì.”

Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời: "Thưa cha, ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương hàm con lừa mà đánh bại 3000 quân Philitinh. Vậy với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm được việc gì sao?"

Quả thật, con lừa của Thiên Chúa đó, sau này không chỉ trở thành một cha sở, mà còn được tôn phong làm thánh bổn mạng của các cha sở.

Hôm nay, Simon cũng vất vả suốt một đêm chài lưới mà không bắt được một con cá nào, nhưng: "Vì lời Thầy con sẽ thả lưới" (Lc 5,5). Và lạ thay, một mẻ cá lớn bất ngờ, đến nỗi lưới hầu như sắp rách. Trước tình thế này, Simon chỉ còn biết bỏ thuyền, chạy đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà nói: "Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi" (Lc 5,8).

Kẻ nhận mình là tội lỗi yếu hèn đó, sau này đã trở thành Phêrô, người thuyền trưởng của con thuyền Giáo Hội.

Có một điểm gì đó rất giống nhau, rất tương đồng giữa Vianney và Phêrô. Đó chính là nhận mình yếu hèn khuyết điểm và hoàn toàn để Chúa lèo lái điều khiển đời mình. Nhờ đó, Chúa đã ban tặng cho các ngài những đậc ân vô cùng lớn lao. Vì ơn Chúa chỉ ban xuống cho những kẻ khiêm nhượng.

2. "Vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới"

Ban đêm là lúc thuận tiện để đánh cá. Nếu một người nào khác nói với Phêrô "Hãy chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá", có lẽ ông đã vặn lại "Bộ anh khùng hả? Anh muốn cho tôi thành trò cười cho các bạn chài khác sao? Đã thả lưới suốt đêm mà không bắt được con cá nào thì làm sao mà bắt được nữa khi trời đã sáng.”

Nhưng vì người nói câu đó là Chúa Giêsu nên Phêrô đã không vặn lại như thế. Ông cũng trình bày quan điểm của mình "Thưa Thầy, chúng con đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả", nhưng liền sau đó thì vâng lời "Nhưng vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới.” Đối với Phêrô, lời nói của Chúa Giêsu không như lời của những người khác, vì nó có uy tín mà lời của bất cứ ai khác đều không có. Bởi thế, nếu Chúa Giêsu đã bảo, thì cho dù tình thế có vô vọng bao nhiêu đi nữa, cho dù ông đã mệt mỏi bao nhiêu đi nữa, và cho dù người ta có thể nhạo cười bao nhiêu đi nữa, Phêrô cũng phải vâng theo.

Phêrô đã tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Giêsu. Tin vào lời Ngài, ông đã thử làm điều bất khả. Sau này chúng ta lại thấy ông tin vào lời Chúa Giêsu mà bước đi trên mặt biển.

Chúa Giêsu chẳng những bảo ông thả lưới bắt cá, mà còn bảo ông làm môn đệ, chia xẻ sứ mạng của Ngài. Phêrô có đức tính gì mà được Chúa Giêsu mời gọi như thế? Đức tính thứ nhất và quan trọng nhất Chúa Giêsu thấy nơi Phêrô là Tin vào Lời Ngài. Đức tính thứ hai là Khiêm tốn.

Câu chuyện Tin Mừng hôm nay không chỉ là chuyện về đánh cá, mà còn là chuyện về lòng tin tưởng. Vì Phêrô tin tưởng vào lời Chúa Giêsu, nên Ngài chẳng những bảo ông thả lưới lại một lần nữa, mà còn kêu gọi ông lãnh nhận một sứ mạng quan trọng hơn "Từ nay anh sẽ là người thu phục người ta.”

Mọi kitô hữu chúng ta cũng đều được Chúa gọi như Phêrô. Và điều quan trọng nhất Ngài chờ đợi nơi chúng ta là tuyệt đối tin tưởng vào Ngài. (FM)

3. Thu phục lòng người

Một ngày nọ, Tổng thống Abraham Lincoln đi đến thành phố Charleston, tiểu bang South Carolina. Khi đi ngang qua trung tâm thành phố, ông trông thấy người ta đang tổ chức một cuộc đấu giá buôn bán nô lệ. Chứng kiến cảnh buôn bán người, tận đáy linh hồn ông cảm thấy bị khuấy động lên cơn giận dữ của Thiên Chúa, và một nỗ lực phải làm để cứu những người nô lệ. Do đó ông đã làm một điều độc đáo và bất thường nhất. Ông bước vào trong đám đông, khi cuộc trả giá bắt đầu, trước tiên là một em gái nô lệ rất nghèo, ông đã bước ra trả giá trước. Cuộc đấu giá càng lúc càng sôi động, ông tham gia rất tích cực, và sau cùng đã trúng giá, đánh hạ tất cả mọi người. Ông trao tiền để lấy người nô lệ. Cô bé gái được đem đến cho ông. Con bé sợ hãi hỏi ông sẽ làm gì đối với nó. Abraham Lincoln trả lời:”Tôi sẽ để cho cô được tự do.” “Tự do? Tự do để làm gì”? Cô bé kinh ngạc hỏi. Ông trả lời:”Tự do để làm bất cứ cái gì cô muốn.” Cô bé thắc mắc có phải mình được tự do đi đến bất cứ chỗ nào cô muốn, làm bất cứ điều gì cô thích, nói bất cứ điều gì cô nghĩ, và làm bất cứ nghề nào cô ước muốn. Sau cùng cô bé mỉm cười và nói:”Cháu sẽ đi theo ông.”

Abraham Lincoln đã chứng tỏ cho chúng ta thấy, ông là một con người gương mẫu và biết cách “kêu gọi” dân chúng “theo ông.” Ông đã gọi họ bằng chính gương sáng của mình. Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu kêu gọi Phêrô, rồi Giacôbê, Gioan và Anrê cũng đi theo Ngài. Đức Giêsu đã cho họ biết Ngài là ai qua việc giảng dạy, chữa lành, và bằng các đức tính tốt lành, nhân từ và tha thứ của Ngài.

4. Cần có ơn Chúa để làm người

Hôm đó một nhà phẫu thuật nổi tiếng người Hòa Lan thực hiện một ca mổ tử thi trong hội đường của một trường đại học. Chung quanh ông có cả một đoàn sinh viên đông đảo cùng tham dự. Tử thi này là xác của một tội nhân phạm trọng tội và bị án treo cổ. Khi phóng tầm nhìn trên khuôn mặt của tử thi, ông cảm thấy như có một cái gì quen quen. Ông nhìn đi nhìn lại nhiều lần và không bao lâu thì các sinh viên thấy mặt của thầy mình tự nhiên biến sắc rồi cả con người của ông run lên. Các sinh viên cảm thấy vô cùng ngạc nhiên vì bình thường thì ông là một con người rất bình tĩnh.

Cuối cùng thì ông phải lên tiếng để giải thích: "Các bạn ạ! Người này là một trong số những người bạn trong thời thơ ấu của tôi. Bây giờ tôi là người như thế nào thì các bạn đã thấy. Hãy để tôi nói cho các bạn điều này: Nếu không có ơn của Thiên Chúa thì tôi thấy chẳng có cái gì khác có thể giúp tôi tránh khỏi cái tình trạng của người bạn tôi đang nằm ở trước mặt các bạn đây"

Hãy cộng tác với ơn của Chúa. Hãy mau mắn đáp lại lời mời gọi của Người. Có Người chỉ đường dẫn lối chúng ta sẽ không sợ lạc hướng. Có Người bảo trợ chắc chắn chúng ta sẽ thành công.

5. Biết có Chúa

Đây là câu chuyện do Anatole France đã viết và đã được dựng thành phim được chiếu nhiều trước đây tại Việt Nam. Câu chuyện có liên quan đến một người đà bà tên là Thái.

Và Thái sống ở Aicập vào thế kỷ thứ tư và có một cuộc sống nổi tiếng là phóng đãng. Nhà ẩn tu Paphnatius biết được tin ấy thì cầu xin với Chúa soi sáng giúp đỡ cho ngài để ngài có thể tìm phương tìm cách giúp đỡ cho người đàn bà này được trở về với Chúa. Sau khi được Chúa soi sáng, Paphnatius cải trang tìm đến gặp nàng và xin được gặp nàng ở một nơi thật kín đáo. Nàng dẫn Ngài qua rất nhiều phòng nhưng chỗ nào Ngài cũng chê là chưa đủ an toàn. Thai dẫn Ngài đến một nơi cuối cùng và ngoài ra thì không còn một chỗ nào khác.Thế nhưng nhà ẩn tu cũng cho là chưa đủ an toàn. Tức quá không còn kiên nhẫn thêm được nữa, nàng nó thật to:

"Chắc chắn là không ai có thể nhìn thấy chúng ta ở trong nơi này. Tuy nhiên nếu ngài muốn tránh được sự hiện diện của Thiên Chúa thì Ngài sẽ chẳng bao giờ mà làm được điều đó dù ngài có ẩn trốn ở một nơi kín đáo nào đi nữa"

Vừa nghe thấy thế Paphnatius vội hỏi ngay: "Thế nào? Nàng mà cũng biết là có một Thiên Chúa sao?

- Có lẽ thế! Tôi còn biết có một thiên đàng dành cho những người thánh thiện và một hỏa ngục dành cho những người gian ác.

+ Nàng đã biết các điều trên….vậy thì làm sao mà nàng còn dám sống một cuộc đời như thế trước một vị Chúa luôn luôn thấy nàng?

Những lời như thế đã xoáy vào tâm tư người đàn bà tội lỗi. Với một thái độ hoán cải nàng sấp mình xuống thú nhận tội lỗi của mình quyết làm lại cuộc đời và sau nàng đã chết như một vị thánh.

6. Miễn sao Tin Mừng được loan báo

Noi gương Chúa Giêsu, đức thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã liên tục ra khơi, chèo ra chỗ nước vừa sâu lại vừa nguy hiểm. Qua 26 năm của triều đại giáo hoàng, ngài đã thực hiện 146 chuyến công du bên trong nước Ý (không tính Rôma), 104 chuyến công du ra ngoài nước Ý để thăm viếng hơn 130 quốc gia trên thế giới. Tưởng cũng cần thêm rằng trong số đó, ngài đã tám lần đến thăm viếng các nước Hồi Giáo, đặc biệt là vị giáo hoàng đầu tiên bước vào một ngôi Đền thờ Hồi giáo cổ kính tại Syria vào năm 2001.

Tính ra, Thánh Gioan Phaolô II đã đi công du 1,400,607 km, tương đương 28 lần vòng quanh trái đất. Ngoài ra mỗi ngày Ngài còn làm việc đến 18 tiếng đồng hồ.

Ngài đã 'chèo' đến những vùng biển nhiều sóng gió: đến thăm cả những miền đất thù nghịch với Hội Thánh, vào những 'miền đất thánh' của Phật giáo, Ấn giáo, Hồi giáo hay Chính Thống giáo... vào cả những nơi mà một số đông dân chúng sở tại không muốn cho ngài đến, lại đòi ngài phải xin lỗi họ (như trong chuyến tông du tại Hy Lạp vào tháng 5 năm 2001), đến cả những nơi mà tính mạng bị đe doạ... Ngài là vị giáo hoàng can đảm nhất trong lịch sử, sẵn sàng ra khơi, dấn thân vào những 'chỗ nước sâu', những vũng xoáy, những nơi sóng gió nguy hiểm cho tính mạng... mà không hề biết sợ là gì, miễn sao Tin Mừng được loan báo.

7. Ơn gọi phục vụ

- "Thưa ông bà muốn gặp ai ạ?"

Chị Céline đã nói câu ấy lần đầu tiên cách đây 40 năm. Từ đó ngôi nhà khách với chùm chìa khóa, cái chổi, chiếc ghế đã trở thành giang sơn của chị.

Bổn phận của chị giữ nhà khách là gọi người khác. Trong suốt 40 năm trường, chị Céline chỉ làm ngần ấy công việc. Câu hỏi trên kia chị phải lặp đi lặp lại đến hơn 10 lần mỗi ngày. Với thời gian, phương thế có đôi phần thay đổi: từ cái kẻng đến chuông điện, rồi điện thoại, sau đó lại trở về chuông kéo, kẻng sắt… nhưng công việc luôn luôn vẫn là gọi người khác.

Ôi chao! biết bao khuôn mặt đã xuất hiện tại nhà khách, bao giọng nói đã vang rền trong điện thoại. Nhưng có một điều chị Céline hằng đoán chắc: người ta đang gọi, đang xin gặp một người nào đó… trừ ra chị. Vì thế chị thường nói đùa: "Tôi chỉ được Chúa gọi một lần duy nhất và từ dạo ấy, tôi đã luôn luôn gọi người khác: tôi được gọi để gọi.”

Một ngày của chị bị cắt vụn thành từng miếng, công việc của chị bị chẻ thành từng mảnh, luôn luôn là gián đoạn. Khi cầm chuỗi lần hạt, chị biết mình sẽ không đọc được quá 10 kinh, khi xem sách chị đoán sẽ thưởng thức không quá 10 dòng ; trong nhà nguyện, chị quỳ ở ghế cuối cùng, gần cửa ra vào, luôn thấp thỏm đợi chờ chuông reo… Luôn bị gián đoạn, nhưng chỉ với "sự gián đoạn" này của mình, chị mới có thể tạo nên "sự liên hệ" của người khác. Chị bao giờ cũng nhanh nhẹn đối với một khách sang cũng như một bà lão nhà quê. Tất cả mọi người đều ăn cắp giờ của chị. Không ai cần gặp chị… Với thời gian, da mặt chị nhợt nhạt hơn, người chị tiều tụy hơn, nhưng nụ cười vẫn tươi nở như thuở nào, lời kinh dâng Chúa mỗi ngày lại càng thêm sốt sắng hơn.

Và rồi một hôm, trong lúc vội vã đi gọi người khác, chị Céline đã ngã quỵ trong hành lang nhà dòng, thổ huyết! Chị bập bẹ: "Chúa đến gọi tôi lần thứ hai" (và cũng là lần cuối). Đôi tay chị run run ôm lấy lồng ngực khiến chùm chìa khóa rơi trên nền gạch hoa. Đàng kia, chiếc ghế vẫn vô tình không biết từ nay mình sẽ là vô chủ…

Chị Céline đã suốt đời trung thành với tiếng gọi của Chúa và với công việc bổn phận hằng ngày của chị: được gọi để gọi người khác. Giá trị và sự cao cả của chị không phải là ở chỗ đó sao?

8. Ra khơi, mà thả lưới!--AM Trần Bình An

Chủ đề tĩnh tâm Giáo phận năm nay là truyền giáo. Đức Giám mục hô hào đẩy mạnh phong trào truyền giáo. Phương pháp truyền giáo là phát triển Dân Sinh, Dân Trí và Dân Đạo.... Bất ngờ ngài nói với anh em một câu của một vị thừa sai nào đó: “Linh mục Việt Nam chỉ có tài coi sóc họ đạo, chứ không biết gầy dựng họ đạo.”

Vì tự ái dân tộc, mình giơ tay và đứng bật lên như m­ột cái lò xo: “Thưa Đức cha, không phải linh mục VN không biết gầy dựng họ đạo, nhưng vì chưa có “Bài sai" (Văn thư bổ nhiệm một linh mục do Đức Giám Mục ấn ký) của Đức Cha.” Mình hung hăng chừng nào thì Đức Giám mục bình tĩnh chừng ấy. Với giọng trầm buồn, ngài thủng thẳng trả lời: “Tôi biết đi truyền giáo thì thiếu thốn và cực khổ nhiều lắm, nên không nỡ tâm sai các cha đi. Cha nào tình nguyện thì tôi mới dám. Vậy cha nào tình nguyện thì giơ tay lên.” Mình đếm được sáu cánh tay giơ thật cao và thật thẳng: Hai cha già, hai cha sồn sồn, và hai cha trẻ. Đức Giám mục cười và khôi hài: “Các cha đi truyền giáo thì bỏ họ đạo, bỏ chủng viện, bỏ trường học cho ai?”

Cả hội trường cười hì một cái. Thế là đánh trống bỏ dùi. Vấn đề truyền giáo chỉ được nêu lên như một sự gợi ý và thăm dò. Rồi đây, sau tuần tĩnh tâm, ai nấy lại trở về với họ đạo của mình và tiếp tục rao giảng Tin Mừng cho ng­ười đã nghe. Tuyệt nhiên không nghĩ gì, không làm gì cho người lương dân, những người chưa bao giờ được nghe Tin Mừng.

9. Được mời gọi để loan báo Tin Mừng

Franco là một kịch sĩ người Italia nổi tiếng. Suốt 40 năm lão luyện trong nghề, ông đã đặt hàng trăm vở kịch thành phim được chiếu trên màn ảnh truyền hình nhà nước, từ năm 1980 đến nay ông đã dùng để rao giảng Lời Chúa. Franco đi khắp các thành phố và xứ đạo Italia, vào các nhà tù hay tham dự đại hội ca múa dân tộc để trình diễn Phúc Âm. Ông dùng mọi nhân tố kịch nghệ để đạo diễn Tin Mừng, chẳng hạn 16 chương Phúc Âm thánh Marcô được ông diễn xuất thành 96 cảnh.

Ước mong duy nhất của ông là dùng kịch nghệ để loan báo Lời Chúa. Trong số bạn bè và người thân, có kẻ chế nhạo ông là người mất trí, nhưng cũng có nhiều người khuyến khích ông trong sáng kiến mới này, và đã có hàng trăm ngàn người được nghe loan báo Tin Mừng cứu độ qua hình thức nghệ thuật đó.

Ông tâm sự: "Tôi thật may mắn được tin vào Chúa Giêsu và có Ngài làm bạn đường trong đời. Không có Chúa Giêsu, cuộc đời thật là nhạt nhẽo vô vị. Và chính lòng tin đã giúp tôi nảy ra sáng kiến lấy Ngài làm đề tài diễn xuất. Trong bao nhiêu năm cuộc đời nghệ sĩ, tôi đã chỉ nói và diễn xuất những gì người khác biết. Nhưng từ 10 năm nay, tôi đã lựa chọn việc thông truyền cho khán thính giả lịch sử nhất thế giới, đó là Phúc Âm kể lại cuộc đời Chúa Cứu Thế.”

10. Biết cúi đầu

Ngày xưa có người hỏi Socrates: “Ông là người có học vấn uyên thâm, ông có biết khoảng cách giữa trời và đất là bao nhiêu không?”

Socrates trả lời: “Khoảng 1 mét.”

Người đó không tin nói:“Thưa ông, ngoài trẻ sơ sinh ra, chúng ta ai cũng cao hơn 1m, nếu độ cao giữa trời và đất chỉ có 1m, thì chẳng phải chúng ta đã đâm vào bầu trời rồi hay sao?”

Socrates tiếp tục nói: “Đúng, ai mà chả cao hơn 1m, nếu muốn nổi bật giữa trời đất, thì phải biết cách cúi đầu.”

Hóa ra con người cần phải học cúi đầu. Cúi đầu để thấy mình không bằng ai. Cúi đầu để thấy con người mình thật hạn hẹp cần đến sự trợ giúp của Trời cao. Cúi đầu để thấy rằng mình cần sự trợ giúp của anh em. Cúi đầu để thấy mọi sự đều là ân ban của Trời mà biết sống cảm mến tri ân.

Phê-rô và các bạn chài năm xưa đã thấy quyền năng Chúa nhờ biết cúi đầu. Cúi đầu để vâng lời Thầy mà chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới. Họ đã được một mẻ cá quá lớn, lớn đến nỗi một thuyền không mang về hết mà phải nhờ đến các bạn đồng nghiệp.

Mẻ cá này cũng là hình ảnh tiên báo cho lời giảng thuyết đầu tiên của Phêrô sau ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống. Phêrô đã nhờ ơn Chúa thánh Thần mà mang về cho Giáo hội hơn 3000 người tin theo Chúa.

Các tông đồ cũng dựa vào sức mạnh của Chúa để ra đi loan báo tin mừng. Các ngài đa phần là dân chài nghèo hèn thế mà đã thay đổi cả thế giới. Văn hoá kytô giáo đã phủ khắp năm châu bốn biển không do tài trí của con người, mà do quyền năng Chúa thực hiện trên những con người vốn dĩ bất toàn vẫn làm nên những chuyện phi thường.

11. Mẻ cá lạ

Một trong những lời giảng dạy làm nhiều người khó chịu, nhưng cũng rất thú vị, của Minh Sư là: ”Thượng Đế gần gũi kẻ có tội hơn là người thánh thiện.”

Ngài dùng hình ảnh để giải thích như sau:

- Thượng Đế ở trên thiên đàng nắm mỗi người ở đầu một sợi dây. Khi người ta phạm tội, sợi dây đó bị cắt đứt. Bấy giờ Thượng Đế cột sợi dây lại bằng cách làm một nút thắt - và như vậy, Ngài kéo họ lại gần Ngài hơn. Cứ như thế, mỗi khi người ta phạm tội, sợi giây bị cắt đứt, Thượng Đế lại buộc một nút thắt mới để kéo chúng ta lại gần Ngài nhiều hơn nữa.

“Lạy Ngài! Xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc. 5,8).

Bạn thân mến! Trên đây là lời nói của Simon Phêrô thưa với Chúa Giêsu khi ông cảm nhận được sự thấp hèn tội lỗi của mình trước đấng thánh cao cả Giêsu, khi ông kinh ngạc trước phép lạ “Mẻ Cá Lạ” mà ông đã được chứng kiến và cũng là người trong cuộc.

12. Một khởi đầu tốt đẹp

Isaia, Phaolô và Phêrô là trung tâm của các Bài đọc hôm nay. Cả ba người đã làm những điều vĩ đại cho Thiên Chúa. Tuy nhiên họ đều có mặc cảm tự ti. Họ có một quan điểm thấp kém về mình. Họ không đặt mình ra trước, nhưng được Thiên Chúa kêu gọi. Họ chấp nhận ơn gọi ấy một cách miễn cưỡng, nghĩ rằng họ không xứng đáng với ơn gọi.

Isaia nói: “Tôi là một người có đôi môi ô uế.” Phaolô nói: “Tôi là người nhỏ nhất trong các tông đồ. Tôi không xứng đáng mang danh tông đồ.” Và Phêrô tuyên bố: “Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi.” Đó không phải là một sự khiêm nhường giả tạo của ông mà là một chân lý rõ ràng.

Mỗi người bắt đầu bằng sự nhận ra sự bất xứng và không thích hợp của mình. Theo một quan điểm tâm linh, sự khởi đầu như thế là lý tưởng. Người nào đặt mình ra trước xem ra làm hại hơn có lợi. Người ấy chỉ cậy dựa sức mình là cát mà thôi và ngôi nhà tâm linh xây trên cát chắc chắn sẽ sụp đổ.

Mặt khác, khi chúng ta gặp một người lo sợ, miễn cưỡng ngần ngại, chúng ta nhận thấy người ấy đáng tin hơn, và nhân đạo hơn. Yếu tố miễn cưỡng này là cốt lõi của vấn đề, bởi lẽ nếu một thánh nhân hoặc tử đạo hăm hở đi tìm cái chết hoặc cực hình xem ra không chân thật.

Ở đây có một nghịch lý to lớn. Phaolô nói: “Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,10). Nghĩa là khi ông nhận ra sự yếu đuối của mình và chạy đến Thiên Chúa, quyền năng của Thiên Chúa trở nên có hiệu lực nơi ông.

Khi chúng ta biết những yếu đuối của chúng ta, Thiên Chúa có thể làm chúng ta mạnh mẽ. Khi chúng ta biết sự trống rỗng của chúng ta, Thiên Chúa có thể đổ đầy chúng ta. Khi chúng ta biết sự nghèo nàn của chúng ta. Lúc đó, chúng ta thích hợp để làm công việc của Người, và Người hoàn thành trong chúng ta những việc mà chúng ta nghĩ mình không làm được.

Sự khiêm nhường là một khởi điểm. Điều đó không có nghĩa là chúng ta chỉ yếu đuối, vị kỷ và hèn nhát. Không có ân sủng, chúng ta không thể cứu lấy mình, càng không thể cứu người khác.

13. Thiên Chúa cần sự cộng tác của con người

Thánh Augustinô nói một câu rất nổi tiếng: “Chúa dựng nên con không cần có con nhưng để cứu chuộc con, Chúa cần sự cộng tác của con.” Mặc dầu, Thiên Chúa ban ơn để biến đổi con người từ bất xứng trở thành khí cụ hữu hiệu của Chúa. Nhưng Thiên Chúa luôn luôn cần sự cộng tác của con người. Khi nghe Thiên Chúa mời gọi, Isaia đã sẵn sàng đáp trả và dấn thân trong sứ mạng tiên tri.

Cũng vậy, sau cú ngã ngựa trên đường Đamát, Phaolô đã hỏi Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, con phải làm gì?”(Cv 22,10). Sau đó, Phaolô đã làm theo sự hướng dẫn của Chúa: Lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy bởi ông Anania. Cố gắng hoà nhập với các Tông đồ và các Kitô hữu tiên khởi. Đặc biệt, Phaolô đã dùng khả năng và cống hiến sức lực của mình để loan báo Tin Mừng cho dân ngoại. Có thể tóm tắt sự cộng tác của Ngài với ơn Chúa qua chính lời Ngài kể trong thư 2 Côrintô sau đây: “… Bao lần suýt chết. Năm lần tôi bị người Do-thái đánh bốn mươi roi bớt một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm tàu; một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi! Tôi còn hơn họ, vì phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em. Tôi còn phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng. Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh!”(x. 2Cr 11, 23-28).

Với Thánh Phêrô, mặc dầu đang yên bề gia thất, nghề nghiệp ổn định...Nhưng Ngài đã đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu. Ngài đi theo Chúa trong suốt thời gian ba năm, được Chúa huấn luyện, uốn nắn. Mặc dầu Phêrô đã chối Chúa ba lần, nhưng sau đó đã ăn năn khóc lóc, hối hận về hành động của mình. Trước khi đặt làm đầu Giáo Hội, Chúa Giêsu đã hỏi Phêrô ba lần, con có yêu mến Thầy không? Phêrô đã không ngần ngại thưa lên rằng: “Lạy Thầy, con yêu mến Thầy”(x. Ga 21, 15-19). Phêrô đã thực sự yêu mến Chúa hết lòng hết sức, Ngài cống hiến hết mình vì sự tồn tại và phát triển của Giáo Hội thuở ban đầu.

14. Tin vào sức mạnh Lời Chúa

Bài thánh ca “Tin vào tình Chúa” của Cha Mi Trầm viết rằng: “Người đời dạy con phải sống khôn ngoan nhưng Chúa dạy con phải sống điên dại.. Người đời dạy con tin vào quyền lực nhưng Chúa dạy con tin vào tình thương. 2. Người đời dạy con nắm giữ thật chặt nhưng Chúa dạy con phát hết cho người. Người đời dạy con sẵn sàng dừng lại nhưng Chúa dạy con sẵn sàng mà đi. 3. Người đời dạy con hãy tin tưởng mình nhưng Chúa dạy con phó thác nơi Ngài.. Người đời dạy con sống vì hiện tại nhưng Chúa dạy con sống vì ngày mai. ÐK: Xin cho con tin vào tình Chúa mà dấn bước đời con. Xin cho con tin vào tình Chúa mà đánh liều đời con.”

Quả thế, chủ nghĩa cá nhân và thực dụng của xã hội hôm nay gây ra nhiều mối nguy hại cho cuộc sống, nhất là chúng làm cho các mối tương quan con người với nhau, giữa con người với thiên nhiên và giữa con người Thiên Chúa bị đảo lộn. Thậm chí, nhiều khi nó làm cho chúng ta không nhìn thấy Chúa hiện diện trong đời sống chúng ta và Lời của Ngài không ứng nghiệm nữa!

Chính vì thế, Lời Chúa hôm nay, đầu năm mới này cho thấy Chúa luôn hiện trong mọi cảnh huống của cuộc sống của chúng ta và mời gọi chúng ta phó thác tin vào Lời Chúa vì Lời có sức mạnh đem lại hạnh phúc đích thực cho chính mình, gia đình, giáo xứ, giáo hội và xã hội của chúng ta ngay ở đời này và đời sau.

15. Khiêm nhường

Nhìn vào cuộc sống, chúng ta thấy: người khôn ngoan là người biết tận dụng mọi cơ hội để làm giàu cho mình, nhưng đồng thời cũng phải khiêm tốn để biết mình và biết người. Kẻ thành công đỗ đạt là kẻ biết tin tưởng, cậy dựa vào kinh nghiệm, kể cả kinh nghiệm của người khác.

Và hành trình của đức tin cũng không đi ra ngoài sự khôn ngoan ấy. Đoạn Tin Mừng hôm nay mô tả cho chúng ta khuôn mặt người khôn ngoan đi tìm Chúa và đã nhận ra Ngài, không ai khác hơn là thánh Phêrô.

Thực vậy, ông là một dân chài chuyên nghiệp, một người đi biển nhiều kinh nghiệm quý giá, thế nhưng ông không quá tự phụ với những sự từng trải ấy, trái lại, ông vẫn có một sự khôn ngoan đặc biệt, đó là khiêm tốn, tin tưởng và vâng phục vào lời Chúa Giêsu:

- Thưa Thầy, dựa vào lời Thầy, con xin thả lưới.

Trước mẻ cá lạ lùng này, Phêrô không tự hào về đức tin của riêng mình để mà khoe khoang với các bạn, cũng như để kể công với Chúa. Trái lại, thêm một lần nữa, ông vẫn khôn ngoan dựa vào mẻ cá lạ lùng ấy, để suy nghĩ và nhận ra Đức Kitô là Thiên Chúa của mình. Đứng trước mẻ cá, Phêrô đã thực sự khiêm tốn thú nhận:

- Lạy Chúa, xin hãy xa con vì con là kẻ tội lỗi.

Chính nhờ thái độ này, đức tin của ông được củng cố đến độ ông không chỉ nói lên lời cảm tạ suông, mà còn đáp trả bằng cả cuộc sống của mình, đó là ông đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa.

16. Người ấy biết đứng lên

Theodore Roosevelt đã từng nói, "Người đáng được chú ý không phải người biết nhận xét hoặc người biết ý kiến cho người khác con đường tốt, nhưng là người ở trong cuộc. Người phải chịu xây sát với nước mắt và mồ hôi, dũng cảm đấu tranh, lầm lỗi và gặp những trắc trở, biết hăng hái nhiệt tình, mạnh mẽ tin tưởng vào sự thành công của công việc nhưng lại bị thất bại. Như thế, chỗ đứng của họ không chung với những tâm hồn cô đơn và nhút nhát, nhưng với những tâm hồn biết cảm nghiệm được thất bại và chiến thắng."

Không biết trong đầu của Roosevelt đã có ai là thần tượng hay không, nhưng thật ra điều đó miêu tả một ngư phủ được Chúa Giêsu kêu gọi theo Ngài để cộng tác vào việc rao giảng Nước Thiên Chúa: Thánh Phêrô, một con người thuộc giới lao động. Đây là một người ở "trong trận chiến, xây sát bằng nước mắt và mồ hôi, dũng cảm chiến đấu, lầm lỗi và luôn gặp những trắc trở, hăng hái nhiệt tình, mạnh mẽ tin tưởng vào sự thành công của công việc nhưng lại bị thất bại." Hơn hết, đây là một người biết thế nào là "thất bại" và "chiến thắng."

17. Này tôi đây

Takashi Nagai, một bác sĩ nổi tiếng của Nhật bản, tác giả của nhiều cuốn sách được yêu thích trong cả nước Nhật – nhất là cuốn Tiếng chuông Trường kỳ (The Bells of Nagasaki), đã kể về hành trình của đức tin nơi mình từ khi vào Trường Y khoa năm 1928: “Bắt đầu từ trung học, tôi đã trở nên tù nhân của chủ nghĩa duy vật... tất cả những gì tôi thấy chỉ là vật chất. Còn linh hồn là gì? Một bóng ma do những kẻ lừa đảo sáng chế ra để lừa gạt những người đơn sơ, ngu dốt.”

Năm 1930, cha ông gửi cho ông một bức điện tín: “Về nhà ngay.” Ông vội vã về. Vừa đến nhà ông đã đờ người ra khi biết mẹ mình bị bệnh đột ngột, và không còn nói được nữa. Ông ngồi bên mẹ và đọc thấy trong mắt mẹ mình tiếng chào từ biệt. Ánh mắt người mẹ đã phá đổ tất cả cái ý thức hệ ông vừa dựng lên cho mình: “Người mẹ đã đưa tôi vào thế giới và đã gầy dựng nên tôi, là người không lúc nào mà không yêu tôi, và trong giờ sau hết đã nói với tôi rất rõ ràng. Cái nhìn của mẹ tôi nói cho tôi biết là linh hồn con người vẫn tiếp tục sống sau cái chết. Cái biết đó đến bởi trực giác, một trực giác mang hương vị của sự thật.”

Một thân phận rất mong manh, tầm thường, là câu trả lời đầu tiên cho câu hỏi “Tôi là ai?” trong tâm hồn mọi người. Tiên tri Isaia, khi đứng trước nhan thánh Chúa, đã sợ hãi cho sự hèn hạ của mình: .”.. tôi chết mất, vì lưỡi tôi nhơ bẩn, tôi ở giữa một dân tộc mà lưỡi họ đều nhơ nhớp, mắt tôi đã trông thấy Đức Vua, Người là Chúa các đạo binh”; còn thánh Phaolô thì nói: “tôi vốn là kẻ hèn mọn nhất trong các tông đồ, và không xứng đáng được gọi là tông đồ, vì tôi đã bắt bớ Hội thánh của Thiên Chúa”; ngay cả thánh Phêrô cũng phải thốt lên: “Lạy Chúa, xin Chúa tránh xa tôi, vì tôi là người tội lỗi”

Nhưng Kinh thánh lại cho thấy con người tuy rất hèn hạ, nhưng cũng rất cao quí: Còn gì tầm thường hơn bụi đất, nhưng còn gì cao quí hơn công trình của Chúa? Mà con người là gì nếu không phải là bụi đất được nhào nắn bởi chính bàn tay Chúa (St 3,7)?

Càng ý thức mình là bụi đất, càng thấy hạnh phúc khi biết mình được Thiên Chúa của cả vũ trụ yêu thương. Không phải con người được dựng nên trong một nhà máy, mà trái lại, mỗi người đều được đích thân Thiên Chúa nhào nắn nên với tất cả tình thương của Ngài. Chính tình thương đó đã làm thay đổi tất cả: Thần Sốt mến đã gắp than lửa đặt vào miệng Isaia và nói: “than lửa này đã chạm đến lưỡi ngươi, lỗi của ngươi được xoá bỏ”; cũng chính tình thương đó nói với Phêrô: “Đừng sợ hãi”

Cuộc sống con người luôn là một sự liên kết giữa bản chất tầm thường của cát bụi với tình thương bao la của Chúa: “Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?” (Tv 8,4-5)

Để trả lời cho câu hỏi “tôi là ai?” của con người, chính Thiên Chúa đã “tự mặc khải và BAN chính mình cho con người. Như vậy, Người mang đến một lời giải đáp cuối cùng và phong phú cho những câu hỏi mà con người đặt ra cho mình về ý nghĩa và cùng đích cuộc đời.” (GLCG 68)

18. Hội Thánh đang mời gọi chúng ta ra khơi

Trong tông thư Novo Millennio Ineute được công bố vào ngày kết thúc đại năm thánh 2000, Đức Giáo Hoàng Phaolô II khẩn thiết kêu gọi mọi thành phần Dân Chúa trên khắp thế giới hãy 'Chèo ra chỗ sâu' (Lc 5, 4) để thả lưới, vì 'một thiên niên kỷ mới đang mở ra trước mặt Hội Thánh như là một biển cả mà chúng ta sẽ mạo hiểm trong đó, cậy dựa vào Đức Kitô, Con Thiên Chúa' (số 58)

Trong dịp Hội Đồng Giám Mục Việt Nam triều yết Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhân chuyến đi viếng mộ hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô vào ngày 22-1-2002, vị Cha chung của Hội Thánh cũng mời gọi Giáo Hội Việt Nam hãy ra khơi. Ngài ngỏ lời với Hội Đồng Giám Mục Việt Nam: 'Giáo Hội Việt Nam được mời gọi ra khơi: Tôi muốn khích lệ anh em hãy hết sức quan tâm rao giảng Tin Mừng và truyền giáo...'

Thủ lãnh của chúng ta là Chúa Giêsu đã dấn thân vào chỗ nước sâu như thế, vị lãnh đạo của Hội Thánh là Đức cố giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng như Bênêđictô đã anh dũng ra khơi như thế... thì với tư cách là thân mình của Đức Kitô, chúng ta không còn chọn lựa nào khác là cùng chèo ra chỗ nước sâu với Chúa Kitô, cùng ra khơi với Hội Thánh.

19. Là người thu phục người ta

Ba năm trước, tại WYD05 (Đại hội Giới Trẻ thế giới), cô gái Mỹ Maria cầu nguyện trong một nhà thờ ở Koln. Chị chợt cảm xúc trước tình yêu Chúa, nước mắt lăn dài. Một nữ tu ở hàng ghế bên kia chạy đến an ủi. Maria cám ơn và nói: “Không có gì phải lo khi có những giọt nước mắt chảy ra vì Giêsu.” Sau đó, Maria mới biết rằng nãy giờ nữ tu kia đang cầu nguyện cho mình. Năm nay tại WYD08, nữ tu Maria quỳ cầu nguyện trong một nhà thờ ở Sydney, cũng với mong ước đánh động một tâm hồn đang ngồi ở hàng ghế bên kia. Theo Chúa là trở thành người thu phục người ta, không phải về cho mình, nhưng về cho Chúa. Việc thu phục ấy có thể bằng lời cầu nguyện sốt sắng như hai chị nữ tu trên đây, hoặc bằng hoạt động tông đồ như bao giáo dân, tu sĩ, và linh mục đang triển khai khắp chốn.

Có nhiều cách để thu phục người ta đến với Chúa: đời sống đạo tốt lành, gia đình Công giáo hạnh phúc, cuộc sống phục vụ người nghèo, đời sống bác ái yêu thương, hay các công tác Công Giáo Tiến Hành như thăm viếng, giúp đỡ người neo đơn... Bạn cũng có thể nghĩ ra một cách thu phục người ta thích hợp với khung cảnh của mình.

20. Sự khôn ngoan Nước Trời

Thi sĩ Anh Ruyard Kipling viết một bài thơ có tựa đề “Thép Lạnh”, nói về một nam tước khởi loạn chống đối và cố gắng lật đổ nhà vua. Ông bị đánh bại, bị bắt và bị xiềng xích dẫn đến trước mặt vua. Mọi người đều nghĩ là ông ta bị xử tử, nhưng thay vì xử tử, nhà vua đã đối xử tử tế với ông và đã cho dọn bánh và rượu trước mặt ông. Không biết Kipling có định đưa ra bài thơ như một dụ ngôn hay không về cuộc nổi loạn của chúng ta chống lại Thiên Chúa và phản ứng của Ngài đối với chúng ta, một phản ứng có thể bị xem là ngu xuẩn theo tiêu chuẩn loài người.

Tôi bày tỏ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa vì phản ứng của Ngài đối với tôi ra sao? Tôi có bắt chước phản ứng của Thiên Chúa trong công việc hàng ngày của tôi đối với người khác không?

Sự hiểu biết của người khôn ngoan giống như thủy tinh: đón nhận ánh sáng từ trời và phản chiếu nó. (A.G. và J.C. Hare)

21. Hãy làm điều có thể

Dấu lạ trên bờ hồ Galilê trong Tin Mừng hôm nay trích dẫn lời của Phêrô. Dấu lạ cho thấy lời nói và việc làm của Chúa Giêsu không phải là những hành động của quá khứ xa xôi. Chúa Giêsu vẫn luôn tìm kiếm những người được chuẩn bị để dám liều theo lời Ngài vì thực sự tin vào Ngài. Niềm tin của Phêrô vào Chúa Giêsu và việc bắt được nhiều cá sau đó được ghi nhận, không những để khuyến khích mà còn mời gọi chúng ta bắt chước Phêrô.

Đâu là sự liều lĩnh mà Chúa Giêsu mời gọi đảm nhận lúc này trong đời tôi?

Lỗi lớn nhất là không làm gì cả vì bạn chỉ làm được rất ít. Hãy làm tất cả những gì bạn có thể. (Sydney Smith)

22. Bỏ hết mọi sự mà theo Chúa

Tony de Mello, một linh mục Ấn độ, thực hiện một chương trình truyền hình qua vệ tinh được phát sóng tới 76 trường đại học ở Mỹ và Canada và gồm 3.000 sinh viên trong cuộc đối thoại. Tony lớn lên gần Bombay, Ấn độ. Một ngày nọ, ở trường trung học về, Tony hỏi cha là anh có thể đi tu làm linh mục được không. Người cha nói: “Không được, con là con trai một, cha muốn con duy trì dòng họ.” Thế rồi, sau 14 năm không có thêm con, mẹ của Tony bỗng có thai. Khi bà được cấp tốc đưa đến bệnh viện để sinh, Tony chạy bộ bốn dặm. Đến nơi anh hổn hển hỏi cha: “Trai hay gái vậy cha?” Cha anh trả lời: “Con có em trai” Tony nói: “Tuyệt, giờ đây con có thể trở thành linh mục được”

Tôi có hăng say theo Chúa không? Lòng nhiệt thành của tôi phát xuất từ đâu?

Lòng nhiệt thành dẫn đến những nghĩa cử anh hùng (S.M. Dubnov).

23. Lạy Cha, xin vâng như ý Cha  

Như Đức Giêsu, suốt cả kiếp người đã không làm gì khác hơn là thi hành ý Cha. Cho đến giờ chết vẫn cứ là: “Lạy Cha, xin vâng như ý Cha.” Nhờ thế sự sống nơi Ngài đã tuôn tràn chứa chan cho nhân loại.

Liên quan đến chủ đề này, Thánh Anphongsô có nói về một thầy dòng kia, trông diện mạo bên ngoài thì không có gì đáng chú ý. Thầy cũng chẳng thường hãm mình bao nhiêu. Thế mà lại hay làm phép lạ. Bề trên ngạc nhiên mới hỏi: “Con có nhân đức gì trổi hơn anh em, hay có thi hành việc lành nào sốt sắng, mà sao cha thấy con làm được nhiều sự lạ vậy?” Thầy dòng khiêm tốn trả lời: “Con không dám so sánh với các nhân đức của anh em con… Chỉ có một điều con luôn chú ý hơn cả là vâng theo thánh ý Chúa hết lòng: Sự gì Chúa muốn là con muốn, dù vui sướng hay buồn khổ, an lành hay gian truân.”

Nghe thế bề trên liền hỏi lại: “Thế chứ cách đây mấy hôm, có kẻ đã làm thiệt hại cho dòng ta, họ đã đốt phá nhà cửa đất đai của ta tan tành, con có lấy làm đau đớn ưu phiền không?” Thầy liền thưa lại: “Thưa cha, con không lấy gì làm đau khổ, cũng chẳng lấy chi làm ưu phiền. Con vẫn bình an như thường, vì biết rằng Chúa luôn muốn cho chúng ta được phần ích lợi hơn. Nên con cảm tạ Chúa luôn.”

Cha bề trên nghe những lời ấy đã công nhận rằng: Đây là một vị thánh, có đủ các nhân đức, vì thầy có lòng vâng phục thánh ý Thiên Chúa hết mình (Anphongsô, Chân Lý Đời Đời, tr. 299).

Vâng theo ý Chúa sẽ giúp ta vượt qua gian truân khốn khó của đường đời và tìm được bình an và niềm vui dồi dào phong phú. Vâng theo Chúa không chỉ lúc thuận ý nhưng cả khi nghịch ý. Không chỉ khi thành công may mắn nhưng cả lúc rủi ro thất bại ê chề.

24. Biết nghe và ghi tâm tạc dạ

Ngày xưa một nhà vua Ấn Độ, muốn thử nhân tài của một nước chư hầu, liền gửi tới nước này ba pho tượng vàng giống hệt nhau.

Nhà vua Ấn Độ xin nhà vua chư hầu cho biết, trong ba pho tượng vàng này, pho tượng nào giá trị nhất.

Nhà vua nước chư hầu cho triệu tập các nhà thông thái tới để thẩm định. Các nhà thông thái nghĩ ngay tới giá trị mỗi pho tượng sẽ được căn cứ vào cân nặng nhẹ, hoặc vào tuổi vàng (vàng tốt, vàng xấu), hoặc vào nghệ thuật tìm thấy trên ba pho tượng. Nhưng rồi các nhà thông thái đều phải bó tay, vì ba pho tượng này giống hệt nhau về nghệ thuật, về nặng nhẹ, về tuổi vàng. Không ai tìm ra chi tiết nào khác nhau trong ba pho tượng đó. Nhà vua rất buồn, vì không xác định được giá trị hơn kém của ba pho tượng. Vua liền cho loan báo khắp nước: Ai tìm ra được bí mật giá trị của mỗi pho tượng, sẽ được trọng thưởng. Có một người tù, biết truyện, xin được xem ba pho tượng, và nếu anh tìm ra được giá trị hơn kém của ba pho tượng này, thì anh chỉ xin một điều kiện là cho anh được tự do. Lập tức nhà vua cho anh xem ba pho tượng.

Vừa ngó xong ba pho tượng, anh ta xin một cọng rơm, và cho phép anh mang ba pho tượng vào một phòng kín. Chỉ trong ít phút sau, anh đi ra, và cho biết giá trị hơn kém của ba pho tượng. Anh lấy cọng rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ nhất, thì thấy cọng rơm xuyên từ lỗ tai này sang lỗ tai kia, anh bảo: đây là pho tượng ít giá trị nhất, vì nó tượng trưng cho hạng người, nghe điều gì, vừa vào tai này, đã ra tai kia, không biết ghi nhớ, không biết suy nghĩ, đó là hạng người đểnh đoảng, vô tâm, vô trí. 

Anh ta lại lấy cọng rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ hai, thì thấy cọng rơm đi từ lỗ tai, chạy xuống miệng. Anh bảo: pho tượng này hơn pho tượng trước là vì nó tượng trưng cho hạng người biết nghe, biết nhớ, nhưng mắc khuyết điểm là vừa nghe được gì đã vội nói ngay, không suy nghĩ xem điều mình nghe đúng hay sai, nói ra có lợi hay có hại. 

Anh lại lấy cọng rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ ba, thì thấy cọng rơm đi từ lỗ tai chạy xuống bụng. Anh nói: Đây là pho tượng quí giá nhất, vì nó tượng trưng cho hạng người biết nghe, biết nhớ, biết để lòng suy nghĩ, biết ghi tâm tạc dạ.

25. Bỏ ý riêng để tìm ý Chúa

George Washington, tổng thống đầu tiên của nước Mỹ, từ khi còn bé đã tỏ ra là một người phục thiện và yêu sự thanh liêm. Một hôm ra vườn làm cỏ, cậu đã vô tình chặt đứt mấy cây anh đào mẹ cậu rất yêu thích. Thấy mấy cây anh đào bị chặt, cha cậu hỏi:

- Con có biết ai đã chặt mấy cây anh đào không?

- Con đã lỡ tay chặt mấy cây anh đào đó. Xin cha cứ phạt con đi.

- Con đã làm một điều lỗi, nhưng con đã chữa được lỗi lầm đó khi con dám nhận lỗi, người cha nói.

Thiên Chúa rất nghiêm khắc, nhưng cũng hết sức nhân từ: “Bạn hãy xem Thiên Chúa nhân từ và nghiêm khắc thế nào: Người nghiêm khắc với những kẻ sa ngã, nhưng nhân từ với bạn, cứ một mực cậy nhờ vào lòng nhân từ đó” (Rm 11,22). Bởi tình yêu mà Chúa sẵn sàng ôm vào lòng mọi tội nhân thống hối, nhưng chỉ mở cửa Nước Trời cho những tâm hồn nào sẵn lòng bỏ ý riêng mà tìm ý Thiên Chúa: “chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21)

THỨ HAI - CHÚA GIÊSU HOẠT ĐỘNG

Lời Chúa: Mc 6, 53-56

Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ qua biển rồi, các ngài tới miền Giênêsarét và ghé bến. Các ngài lên khỏi thuyền, tức thì người ta nhận ra Người, họ liền rảo chạy khắp miền, và nghe tin Người ở đâu thì khiêng những người đau yếu nằm trên chõng đến đó.

Bất cứ Người vào làng trại hay đô thị nào, người ta cũng đặt các bệnh nhân ở các nơi công cộng và xin Người cho họ ít là được chạm tới gấu áo Người, và tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh.

TRUYỆN KỂ

1. Giáo Hội vì người nghèo

Mẹ Têrêxa Calcutta nổi tiếng trên khắp thế giới không phải ngài là một người giỏi giang, cũng không phải nơi mẹ có những điểm hấp dẫn về nhan sắc... Tuy nhiên, mẹ trở nên một người có thể làm đảo lộn thế giới chỉ vì tình yêu rất lớn của mẹ dành cho người nghèo và những người bện tật, đến nỗi có những ngày các nữ tu trong dòng của mẹ phải nấu thức ăn cho khoảng 7 ngàn người, và cả những người phải cung cấp lương thực, có lúc lên đến 9 ngàn người.

Chúng ta còn nhớ ngày mẹ lìa cõi trần, nhiều nguyên thủ quốc gia đã tuyên bố quốc tang, nhiều bài phát biểu bày tỏ sự ngưỡng mộ được phát đi với những lời lẽ hết sức xúc động như: “Từ nay, thế giới bớt tình thương hơn”; hay: “Hôm nay, người nghèo mất đi một người mẹ yêu thương, người bạn đồng hành...."

Hôm nay, bài Tin Mừng cũng thuật lại cho chúng ta khái quát về những hoạt động của Đức Giêsu. Ngài làm việc không biết mệt mỏi, đi đến đâu là thi ân giáng phúc tới đó.

Đối tượng mà Đức Giêsu nhắm đến để phục vụ chính là những người nghèo. Vì họ mà Ngài chấp nhận quên ăn, quên ngủ, bất chấp bị quấy rầy, bởi Ngài thấy được những vấn đề cấp thiết mà họ đang mong đợi.

2. Ơn gọi phục vụ

Bác sĩ Longet người Pháp đã từng phục vụ ở Việt Nam cách đây mấy mươi năm (và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tom Dooley người Mỹ đã phục vụ ở Đông Nam Á). Ông tận tụy săn sóc, yêu thương các bệnh nhân trong bệnh viện mình, bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày cũng như đêm…

Mỗi sáng, khi đi dự lễ bệnh nhân lương giáo ai muốn đi, ông đều cho đi. Mỗi chiều Chúa nhật, ông lại cho các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này, nơi nọ. Và mỗi tối, ông lần chuỗi chung với bệnh nhân Công giáo. Vì là người Pháp, ông chỉ thuộc các kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng danh đủ để lần hạt chung với họ là những người khác quốc tịch.

Ít lâu sau, Longet trở về lại Pháp, vào chủng viện dâng mình làm linh mục và tình nguyện sang phục vụ những người nghèo khổ nhất ở giáo phận Cần Thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức, ông bị bệnh và qua đời trước khi tới nơi mong ước.

3. Chúng tôi cần một Đấng Cứu Thế

Một ngày kia, có một nhà lãnh đạo Trung hoa theo Kitô giáo đến thăm Hoa Kỳ. Sau khi nghe ông nói chuyện tại một buổi hội họp, một sinh viên hỏi: “Tại sao nước ông đã có Khổng Tử mà còn muốn có Kitô giáo nữa”?

Ông đáp: “Có ba lý do:

- Thứ nhất: Khổng Tử là một vị tôn sư, còn Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Chúng tôi cần Đấng Cứu Thế hơn là cần vị tôn sư.

- Thứ hai: Khổng Tử đã chết, Đức Kitô vẫn đang sống, chúng tôi cần một Đấng Cứu Thế đang sống chứ không cần một người đã chết.

- Thứ ba: Khổng Tử cũng có ngày chịu phán xét, chúng tôi cần biết Đức Kitô là Đấng Cứu Thế trước khi là vị thẩm phán."

4. Hãy đến với Chúa ngay đi.

June là một em bé 5 tuổi xinh đẹp và lanh lợi. Cha của em là một mục sư. Mẹ em mỗi khi đi đâu thường cho em theo. Ngày nọ, khi hai mẹ con vào bưu điện, một ông lão thấy em liền nói:

- Này bé, ai cho bé mái tóc đẹp thế?

- Chúa cho cháu đó!

Nói xong bé nhìn thẳng vào ông hỏi:

- Thế ông có được Chúa cho gì không? Có được Chúa cứu không?

Ông già kinh ngạc và xúc động trước câu hỏi đơn sơ đó. Ông thẫn thờ đáp:

- Không, bé ạ!

- Thế thì ông phải đến với Chúa ngay đi. Rồi Chúa sẽ cho ông thành một người thật đẹp đẽ!

Nói xong, bé vội chạy theo mẹ. Ít tuần sau, người ta thấy ông tìm đến nhà thờ và xin theo đạo. Ông cho biết lời của em bé luôn ám ảnh trong đầu và ông quyết định theo Chúa.

5. Mong chạm đến Chúa

Người hấp hối than thở với Cha sở rằng chẳng cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa. Cha sở lấy một chiếc ghế đặt bên cạnh, rồi bảo ông hãy nghĩ rằng Chúa Giêsu đang ngồi đó, hãy đặt tay mình trên tay Ngài trên thành ghế.

Người đó làm theo và cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa. Mấy hôm sau, được tin ông qua đời, Cha sở đến thăm và thấy tay ông vẫn còn đặt trên bàn tay vô hình ở thành ghế.

6. Tìm đến Chúa

Nghe tin Người ở đâu, họ bắt đầu cáng bệnh nhân đến đó… và bấy cứ ai chạm đến Người thì đều được khoải” (Mác-cô 6,55-56)

Một cảnh tượng tuyệt đẹp và đầy xúc động, đẹp ở sự chủ động của đám đông, xúc động vì lòng tin vững vàng của họ. Họ đã không đòi hỏi gì hơn là được chạm đến tua áo người, và mong được chữa khỏi.

Sự kiện đó khiến tôi liên tưởng ngay đến câu chuyên về họa sỹ Holman Hunt. Ông đã vẽ một bức tranh trong đó Chúa Giêsu đang đứng gõ của một ngôi nhà. Nhưng điểm khác thường ở đây là cánh cửa đó không có tay cầm và cũng không có ổ khóa, và vì thế cánh cửa đó chỉ có thể mở bên trong.

Đám đông dân chúng nay đã tự mở cánh cửa lòng mình cho Đấng chữa lành, và vì thế họ đã được khỏi bệnh.

7. Có Chúa là nguồn sống

Bà Rober người Pháp khi được 26 tuổi bị bại liệt toàn thân, không thể ăn uống được gì từ năm 1930 tới năm 1981. Suốt 51 năm bị bệnh như vậy, mỗi ngày bà chỉ được rước mấy giọt Máu Thánh (rượu nho đã được truyền phép). Vậy mà bà đã sống tới 77 tuổi mới qua đời!

Bà kể lại cho mọi người nghe: “Khi tôi được rước Chúa vào lòng, như có một sức sống mới lưu truyền tăng thêm nghị lực trong tâm hồn tôi, tôi không thể diễn tả cho ai hiểu được, vì đó là cảm nghiệm đặc biệt Chúa chỉ tỏ mình cho tôi!”

Xưa kia người Do Thái hằng ngày phải lượm man-na ăn, mới đủ sức về đất Chúa hứa; thua xa nay người Kitô hữu mỗi ngày được rước Mình Máu Thánh Chúa làm cho xác hồn sống về tới Thiên Đàng! (x. Xh 16; Ga 6).

8. Biết Chúa

Mùa hè, sau khi tốt nghiệp Trung học phổ thông, Thomas Merton một mình đi du lịch đến Châu Âu. Anh bị choáng ngợp bởi những ngôi thánh đường đẹp với những bức bích họa sinh động và những cửa sổ kính màu. Anh viết: “Tôi bắt đầu năng lui tới các nhà thờ… Lần đầu tiên trong đời, tôi khám phá một vài điều về con người được gọi là Chúa Kitô… Nhưng trên tất cả, tôi bắt đầu cảm nghiệm chính Chúa Kitô hiện diện trong những ngôi thánh đường đó”

Đâu là hình ảnh Chúa Kitô mà tôi gặp được khi nghĩ tới sự hiện diện của Ngài giữa chúng ta hôm nay?

Đó là ai mà ánh mắt tự bình minh?
Nàng thật đẹp, thông minh và tỏa sáng,
Như mặt trời hay mặt trăng. (Song of songs)

9. Tiếng nói của cơ thể

Vào dịp Giáng sinh năm 1980, ba linh mục được phép gặp gỡ 52 tù binh Mỹ bị giữ làm con tin ở Iran. Các vị giúp đỡ các con tin và đem thư từ của gia đình đến cho họ. Một vị linh mục nói với con tin Barry Rosen: “Barry, tôi đã gặp vợ anh và con trai Alexander của anh, ở Nữu ước. Alexander nhờ tôi trao cho anh cái này” Rồi ngài đặt một nụ hôn lên má Barry. Barry phải khó khăn lắm mới ngăn được dòng lệ.

Sự tiếp xúc là cách truyền đạt hùng hồn nhất. Một số người ngạc nhiên thấy người ta chạm vào Chúa Giêsu. Một số khác ngạc nhiên thấy họ được chữa lành khi chạm đến Ngài.

Liệu tôi có giúp người khác thêm vững mạnh, đặc biệt những người thân trong gia đình, bằng một cử chỉ thân ái không? Đến mức độ nào?

Hãy cho người khác không những sự săn sóc, mà còn cả trái tim của bạn. (Mẹ Têrêsa)

THỨ BA - ĐIỀU CHÍNH YẾU CỦA TIN MỪNG

Lời Chúa: Mc 7, 1-13

Khi ấy, những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên Chúa Giêsu, và họ thấy vài môn đệ Người dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch, nghĩa là không rửa trước. Vì theo đúng tập tục của tiền nhân, những người biệt phái và mọi người Do-thái không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng.

Vậy những người biệt phái và luật sĩ hỏi Người: "Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?" Người đáp: "Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: "Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người." Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người: rửa bình, rửa chén và làm nhiều điều như vậy."

Và Người bảo: "Các ngươi đã khéo bỏ giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục của các ngươi. Thật vậy, Môsê đã nói: "Hãy thảo kính cha mẹ", và "ai rủa cha mẹ, sẽ phải xử tử." Còn các ngươi thì lại bảo: "Nếu ai nói với cha mẹ mình rằng: Những của tôi có thể giúp cha mẹ được là Corban rồi (nghĩa là của dâng cho Chúa)", và các ngươi không để cho kẻ ấy giúp gì cho cha mẹ nữa. Như thế các ngươi huỷ bỏ lời Chúa bằng những tập tục truyền lại cho nhau. Và các ngươi còn làm nhiều điều khác giống như thế."

TRUYỆN KỂ

1. Sư máy.

Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/08/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ ở Nhật, đó là “sư máy." Vị sư máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ: đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi giơ lên, một tay thì gõ mõ, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật giáo khác nhau tại Nhật.

Sáng kiến này đưa ra nhằm đáp ứng cho ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm trong các Giáo hội Phật giáo tại Nhật. Tuy nhiên, như tác giả bài báo ghi nhận: những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ có một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương.

2. Giữ đạo nơi môi miệng

Một bà cụ năng đến nhà thờ cầu nguyện. Một cậu bé lấy làm ngạc nhiên liền theo dõi. Cậu nấp sau bàn thờ nghe bà cầu nguyện lớn tiếng: “Lạy Chúa, con đã già và sống đủ. Bất cứ lúc nào Ngài gọi, con sẵn sàng”

Bà cầu nguyện suốt ba ngày cũng vẫn những lời ấy. Ngày thứ tư, sau khi bà cầu nguyện, cậu bé giả giọng nói vọng ra ngay sau bàn thờ: “Ta đã nghe lời cầu xin của con, Ta sẽ đến đón con lúc chín giờ sáng mai.”

Bà về nhà, không sao ngủ được vì lo lắng về điều đã nghe. Bà không chấp nhận nổi những gì bà đã cầu nguyện.

3. Mồ mả tô vôi trắng đẹp

Sách cổ học tinh hoa có chép một câu chuyện xảy ra tại Hàn Châu.

Có một người bán trái cây đã tìm ra được một bí quyết giữ cho cam lâu ngày mà vỏ cam vẫn luôn đỏ hồng. Ông bán với giá rất đắt, thế mà thiên hạ vẫn tranh nhau mua. Có người mua được một trái đem về bóc ra mới vỡ lẽ ra bên trong chỉ là một trái cam thối. Người đó bèn đem trả lại cho người bán và mắng nhiếc thậm tệ.

Người bán cam cũng chẳng có vừa. Ông ta cười nói:

- Tôi làm nghề này đã lâu, tôi bán và người ta mua, không ai than phiền, chỉ có ông mới kêu ca. Thiên hạ giả dối nhiều, chẳng riêng gì tôi, ông thật chẳng chịu nghĩ cho đến nơi đến chốn. Này thử xem có người đeo hộ phú, hùng dũng như một quan võ, kỳ thực không biết người đó có giỏi được như Tôn Tần, Ngô Khởi không? Có người đội mũ cao, đóng đai dài, trông giống như một quan văn, nhưng liệu họ có giỏi được như Y Doãn, Cao Dao không? Giặc nổi lên không biết dẹp, dân khổ không biết cứu, quan lại tham nhũng không biết trừng trị, pháp độ hỏng nát không biết sửa đổi, ngồi không ăn lương mà không biết xấu hổ. Thế mà lúc ngồi công đường, đi xe ngựa, uống rượu ngon, ăn cao lương mỹ vị, oai vệ hách dịch vô cùng. Đó bề ngoài chẳng như vàng như ngọc, còn bề trong chẳng như hỏng nát là gì? Tại sao ông không chịu đi xét những hạng người ấy, mà lại đi xét quả cam của tôi.

Chúa Giêsu cũng đã nghiêm trách những thành phần lãnh đạo thời đại của Ngài. Ngài so sánh họ với mồ mả tô vôi, bên ngoài thì sơn phết bóng bẩy, nhưng bên trong chỉ là những xác chết hôi thối.

4. Cách ăn uống đẹp

Một nhà quí phái kia mở một bữa tiệc để thết đãi khách. Trong số những thực khách được mời tham dự bữa tiệc này có một bác nông dân. Sở dĩ bác nông dân này được mời vì bác là người giàu có trong vùng, lại có lòng tốt. Chính bác đã tặng cho nông dân ở trong vùng một số tiền lớn để xây cất một nhà thương.

Hôm ấy, trên bàn ăn người ta dọn ra món đầu tiên là cua nướng. Ngoài dĩa cua nướng dọn cho mỗi người, người ta còn để ở bên cạnh một ly nước nóng và một lát chanh tươi.

Vì là một nông dân, tính tình chất phác, không lễ nghi khách sáo, đàng khác có lẽ bác nông dân kia cũng đã đói, vì thế sau khi khai mạc bữa tiệc, bác đã cắm đầu cắm cổ ăn một hơi hết món cua nướng.

Ăn cua xong, thấy bên cạnh đó có một ly nước nóng và một lát chanh tươi, tưởng là để cho khách uống, nên bác nông dân vắt chanh vào nước rồi uống một hơi hết sức tự nhiên. Thực ra đây là những thứ để rửa tay, sau khi ăn món cua nướng.

Thấy bác nông dân ăn uống như thế, mọi người chung quanh đều trố mắt nhìn nhau rồi tủm tỉm cười với một sự khinh bỉ. Nhưng riêng với ông chủ nhà, khi thấy bác nông dân kia đã uống như thế, thì ông đã xử sự một cách hết sức khôn khéo. Ông cũng vắt chanh vào ly nước của ông và đưa lên uống, để bác nông dân không bị mất mặt trước những thực khách được mời hôm đó.

Thế là mọi người trong bàn tiệc hôm đó, không ai bảo ai, tất cả đều vắt chanh vào ly nước của mình, rồi bưng lên uống.

5. Thói quen là bản tính thứ hai

Có con sư tử mồ côi, nó được bầy dê nuôi dưỡng. Sau một thời gian sư tử con quen ăn thức ăn của dê, và tập kêu be be như dê. Lần kia nó đang đùa giỡn với bầy dê bên bờ suối, thình lình có con sư tử già xuất hiện, nó gầm rống lên, làm bầy dê tháo chạy hết, chỉ còn lại sư tử con đứng ngơ ngác. Sư tử già đến hỏi:

- Sao mày lại chơi với dê? Mày có biết mày là sư tử như tao không?

- Be be… Sư tử con kêu.

- Mẹ cha thằng này… Sư tử già nổi giận mắng.

Thế là sư tử già vồ lấy sư tử con đưa xuống bờ suối, dí đầu nó xuống mặt nước và nói:

- Mày nhìn kỹ đi, mặt mày và tao có giống nhau không?

- Be be…..

Sau đó sư tử già tha đến cho sư tử con một miếng thịt sống bắt phải ăn, sư tử con đưa lên mũi ngửi, rồi lắc đầu:

- Tanh lắm tôi không ăn được, ăn cỏ ngon hơn.

Nhưng sư tử già cứ bắt sư tử con ăn thịt, cấm không cho ăn cỏ. Chẳng bao lâu, sư tử con không thích ăn cỏ nữa mà nó thèm thịt, nó liền trở lại đàn dê, tìm các chú dê đã nuôi nó để ăn thịt!!

6. Cẩn thận với hàng giả trong đời sống đạo

Gần ngày Tết, các phương tiện truyền thông lại ra rả nhắc nhở dân chúng coi chừng hàng giả. Ngày nay mọi sự đều có thể là đồ dỏm, từ thứ đáng giá tiền tỷ như thiên thạch đến bó rau, củ cà rốt cũng có thể là hàng Trung Quốc giả hàng Việt.

Thế nhưng, tinh vi nhất và đáng trách nhất vẫn là những thứ giả liên hệ đến bản thân con người như thói giả nhân giả nghĩa hay thứ tình yêu giả hiệu khiến bao người bị lừa đau đớn. Thậm chí với Chúa, cũng có người dâng cho Ngài những thứ giả mà cứ làm như là thật.

Đức Giê-su đã trách những người Pha-ri-sêu và các kinh sư thờ phượng Chúa trên đầu môi chót lưỡi, nhưng trái tim lại xa cách Ngài, chăm chăm tuân giữ các truyền thống xưa, còn điều răn yêu thương cốt lõi Chúa dạy thì lại bỏ quên không giữ.

Đức giáo hoàng Grê-gô-ri-ô Cả nhắc nhở: “Bạn nên cẩn thận tối đa kể cả khi làm điều thiện. Bởi vì có thể trong khi thực thi điều thiện, bạn đang tìm kiếm lợi lộc hay ân huệ từ người khác: hoặc bạn ước muốn được người khác ca ngợi, và muốn có những hiệu quả bên ngoài, chứ không phải phần thưởng bên trong” (Bài giảng TM 12).

7. Món quà xúc phạm người nhận quà

Trong một vở kịch của G. Marcel, chị vợ dự định tặng cho chồng món quà sinh nhật là một đôi giày thật đẹp. Chẳng may anh chồng bị tai nạn phải cưa mất đôi chân. Chị vợ vẫn nhất quyết giữ ý định cũ của mình bất chấp giờ đây chồng mình không còn chân để đi giày nữa. Đôi giày thay vì là một món quà đem lại niềm vui hạnh phúc thì lại trở thành một sự xúc phạm nặng nề.

Cách giữ luật theo kiểu người Pharisêu cũng thế. Thay vì thờ phượng Chúa bằng cuộc sống “công bình, nhân ái và thành tín” như Ngài mong muốn (Mt 23,23) thì họ chỉ dành cho Ngài những lời lẽ ngoài môi miệng và tuân giữ “những giới luật phàm nhân.” Như thế không phải là xúc phạm nặng nề đến Chúa hay sao?

Chúng ta có thực sự thờ phượng Chúa đúng như lòng Chúa mong muốn không? Chúng ta không thiếu những nghi lễ long trọng nhưng chúng ta đã sống công bình và nhân ái chưa? Liệu chúng ta đã đồng cảm với những người khổ đau, nghèo đói? Liệu chúng ta đã bênh vực, chia sẻ với những người đang chịu bất công, bị loại bỏ bên lề xã hội? Nếu chưa sống như thế, chúng ta mới chỉ thờ Chúa ngoài môi miệng, chưa đúng như lòng Chúa mong muốn.

8. Luật là chuyện của tâm hồn

William Barclay kể về một giáo sĩ Do thái suýt bị chết khát, vì ông thà dùng phần nước ít ỏi hằng ngày của mình để rửa tay theo nghi thức, hơn là để uống. Sự tuân thủ nghiêm ngặt những thực hành bên ngoài vừa là sức mạnh vừa là nhược điểm đối với nhiều người Do thái, nhất là những người Biệt phái. Nó khiến cho họ thêm mạnh mẽ, thêm sùng đạo. Nhưng nó cũng làm cho một số người trong họ thành những kẻ giữ đạo hình thức, coi trọng lễ nghi bên ngoài hơn là thái độ của tâm hồn như tình yêu, phục vụ, bác ái.

Khi tham dự thánh lễ, có khi nào tôi coi trọng hình thức bên ngoài hơn thái độ nội tâm không?

Thước đo sự thờ phượng đích thực, là nó có làm cho ta nhạy cảm với Đấng “vượt trên ta nhưng lại ở gần ta”, với Chúa Kitô nơi kẻ đói khát, trần trụi, không nhà không cửa chăng? (John Robinson).

9. Sự thật cần thiết để làm người

Vở kịch “Tốt-xấu-giả-thật” của nhà hát kịch 5B Võ Văn Tần “dẫn dắt khán giả đi vào vấn đề cốt lõi của đời sống hôm nay: cái giả nhiều quá, cái xấu nhiều quá! Làm sao để có cái thật, làm sao để có cái tốt?”

Sứ điệp của tác phẩm là: “Chỉ có sự thật và lòng tốt có trong mỗi người mới làm cho cuộc đời này tốt hơn, thật hơn, con người sống với nhau tử tế hơn” (x. Lê Quí Dương, “Sống Thật Đi, Cuộc Sống Sẽ Đổi Thay”, Tuổi Trẻ 26.12.2011, tr. 13). Không rõ thời Chúa Giêsu hàng dỏm, hàng nhái, bằng giả,… có nhiều không chứ thói đạo đức giả đã thành tệ nạn nơi những người Biệt phái. Chúa Giêsu đả phá thái độ đó vì họ: “tôn kính Chúa bằng môi miệng, còn lòng thì xa Chúa, gạt bỏ điều răn Thiên Chúa, duy trì truyền thống người phàm.”

Thiện căn ở tại lòng ta. (Nguyễn Du). Gốc rễ của sự thiện nằm sâu trong tâm hồn bởi thế để sống đạo thật sự trước hết phải bồi dưỡng, thanh tẩy, chỉnh đốn nội tâm của mình. Phải sống thật trước cái nhìn của Chúa chứ không phải chỉ lo tô điểm cái vỏ đạo đức trước mặt người ta.

THỨ TƯ - TINH SẠCH TINH THẦN

Lời Chúa: Mc 7,14-23

Khi ấy, Chúa Giêsu lại gọi dân chúng mà bảo rằng: "Hết thảy hãy nghe và hiểu rõ lời Ta. Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người ta xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Ai có tai để nghe thì hãy nghe."

Lúc Người lìa dân chúng mà về nhà, các môn đệ hỏi Người về ý nghĩa dụ ngôn ấy.

Người liền bảo các ông: "Các con cũng mê muội như thế ư? Các con không hiểu rằng tất cả những gì từ bên ngoài vào trong con người không thể làm cho người ta ra ô uế được, vì những cái đó không vào trong tâm trí, nhưng vào bụng rồi xuất ra." Như vậy Người tuyên bố mọi của ăn đều sạch.

Người lại phán: "Những gì ở trong người ta mà ra, đó là cái làm cho người ta ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho ngươì ta ô uế."

TRUYỆN KỂ

1. Vấn đề sạch dơ

Khi bàn về chế độ ăn uống của các dân tộc và của cá nhân, những nhà văn hóa xã hội phải thú nhận không thể đưa ra một tiêu chuẩn chung để qui định đâu là thức ăn ngon, đâu là thức ăn dở, đâu là thức ăn sạch sẽ bổ dưỡng, đâu là cái bẩn thỉu và độc hại. Bởi vì, đối với dân tộc này, món óc khỉ chẳng hạn là một món ăn bổ dưỡng và sang trọng, nhưng đối với dân tộc khác, đó là một thức ăn của người còn mang nặng thú tính, chưa có nhân tính thuần thục. Người Do thái ngày xưa cũng tự qui định cho mình một số thức ăn được phép và một số thức ăn không được phép. Còn thái độ của Chúa Giêsu đối với vấn đề này như thế nào?

Trước hết, phải nhìn nhận rằng cả Chúa Giêsu lẫn người Do thái đều không đứng trên bình diện sinh học để cứu xét thức ăn sạch hay dơ, tốt hay xấu, nhưng cả hai phê phán giá trị thức ăn theo quan điểm luân lý.

2. Thanh tẩy tâm hồn, rửa sạch trái tim

Tại phòng triển lãm, có mặt một nghệ sĩ lớn. Ông được đề nghị làm một cái gì đó để giúp vui cho khán giả. Ông đồng ý và hỏi xem mọi người muốn ông làm gì. Sau vài giây thinh lặng, một giáo sĩ già đề nghị: “Thưa ngài, ngài có thể đọc Thánh Vịnh 23 chứ?"

Nhà nghệ sĩ thoáng ngỡ ngàng. Rồi ông nói: “Tôi sẵn sàng chiều ý ngài, với một điều kiện là khi tôi đọc xong, ngài cũng phải làm như tôi." Giáo sĩ đáp: “Tôi à? Tôi đâu phải nhà hùng biện? Nhưng nếu ngài muốn, tôi xin sẵn lòng."

Nhà nghệ sĩ bắt đầu đọc. Giọng điệu tuyệt vời. Khán giả ngây ngất. Và khi kết thúc, một tràng pháo tay như sấm vang dội khắp phòng.

Rồi đến lượt vị giáo sĩ. Âm giọng bình thường, điệu bộ không có. Khi ngài đọc xong, chẳng ai vỗ tay, nhưng mọi cặp mắt đều ướt lệ. Nhiều người gục đầu. Nhà nghệ sĩ bước tới, đặt tay trên vai vị giáo sĩ nói: “Thưa quý vị, lời tôi chỉ đi tới đôi tai quý vị, còn lời vị này đi vào con tim quý vị."

3. Tội từ trong lòng

Ngày xưa Đức Khổng Tử có dạy các môn đệ của mình, một câu rất vắn gọn nhưng rất xúc tích. Câu ấy như thế này: “Tư vô tà”: đừng nghĩ bậy.

Cổ nhân cũng thường hay nói đến chữ “Tâm." Nếu con người có được cái tâm trong sáng thì cuộc sống ắt sẽ tốt đẹp, còn những kẻ “Tâm tà” thì dù cái mã bên ngoài có tốt đẹp đến đâu đi nữa sớm muộn rồi cũng bị lộ tẩy.

Người Tây phương cũng thường nói: “Tư tưởng của bạn thế nào thì hành động của bạn sẽ như vậy."

Chúa Giêsu đã nói: không phải cái từ bên ngoài có thể làm cho người ta ra ô uế, mà chính là những cái phát xuất từ bên trong, từ lòng của con người như tham lam, tà dâm, giết người, trộm cắp, độc ác, xảo trá, ganh tị... Chính những cái đó mới làm cho người ta ra xấu xa ô uế.

4. Hai vị sư và cô gái

Một buổi chiều kia, sau trận mưa đầu mùa, cảnh vật tươi mát hẳn lên, thiên nhiên càng thêm hữu tình, hai nhà sư Tandan và Êkinô cùng xuống núi, thong dong tản bộ dọc theo con đường dẫn vào một ngôi đền ở làng quê.

Tới một khúc đường quẹo, hai người gặp một cô gái xinh đẹp trong bộ Kimônô sặc sỡ và chiếc khăn quàng bằng lụa óng ả. Cô gái đứng bên vệ đường dáng vẻ băn khoăn vì không thể băng qua khúc đường lầy lội với một trang phục như thế. Nhà sư Tandan liền bảo:

- Đi lối này cô bé!

Rồi không để cô gái kịp xoay xở, Tandan nhanh tay bồng cô bé lên, bế cô gái qua vũng lầy và đặt cô xuống phía bên kia. Cô gái cúi đầu tỏ dấu cảm ơn, còn sư thì mỉm cười đáp lễ rồi tiếp tục cuộc đi dạo.

Thế nhưng, kể từ lúc ấy thì Êkino đổi hẳn thái độ. Anh không thèm nói một lời nào với người bạn nữa. Mãi cho đến khi hai người dừng chân trước một ngôi đền, thì lúc ấy Êkinô mới hậm hực nói với Tandan:

- Chúng ta là những nhà sư, không được phép gần đàn bà, nhất là phụ nữ trẻ đẹp. Nguy hiểm lắm! Sao anh lại dám làm như thế?

Tandan mỉm cười và thản nhiên đáp:

- Tôi đã bỏ nàng ở chỗ vũng lội rồi. Còn anh, sao anh vẫn mang nàng tới tận nơi đây?

Đúng là những cái bên ngoài không làm cho người ta ra ô uế, mà chính là cái phát xuất từ bên trong.

5. Đồng vọng ngược chiều

Là một truyện ngắn được đăng trong tuyển tập bốn mươi chuyện rất ngắn do hội Nhà văn xuất bản, tác giả Lã Thế Khanh đã kể lại cuộc gặp gỡ cảm động giữa hai người mù: một bà lão ăn xin và một bé gái cũng ăn xin.

Bên một đống rác lớn, bà lão van vỉ xin khách qua đường giúp đỡ nhưng không có một hồi âm nào ngoài tiếng vo ve của mấy con nhặng xanh đang tranh ăn trên một chiếc lá bánh. Bà lão vẫn tiếp tục van vỉ điệp khúc cũ, nhưng càng về sau càng thống thiết, những câu nói rời rạc như rãi chảy ra từ khuôn miệng dúm dó, xệch xạc của bà.

Trong khi đó, tại một gốc cây sếu già, một bé gái ăn xin mù lòa đang thiu thiu ngủ. Nó gối đầu trên một cái túi khâu bằng nhiều loại vải cũ, một cái bát sắt hoen dỉ thủng đáy nằm lăn lóc bên cạnh. Từ sáng sớm đến giờ chưa có gì trong bụng, nên cô bé đói rũ người. Nó hy vọng giấc ngủ sẽ xua tan cái đói. Nhưng cô bé bỗng giật thót người: có một bàn chân nào đó dẫm lên người nó. Đang lúc đói mệt, cô bé gầm lên:

- Mù à, người ta nằm đó mà dẫm lên?

Bà lão ăn xin lại van vỉ:

- Bà mù, bà mù thật cháu à. Thôi bà đã trót, cho bà xin.

Lặng đi một lát, cô bé đưa hai tay sờ mặt mình, từ hai hốc mắt của nó những giọt nước mắt mặn chát chảy ra, nó ngập ngừng:

- Cháu... Cháu xin lỗi bà, cháu không biết bà như thế.

Bà lão ngúc ngoắc đầu như thể chấp nhận, rồi tiếp tục đi về phía có đông người. Ngẫm nghĩ điều gì đó, cô bé lấy trong túi áo ra tờ giấy bạc hai trăm đồng mất góc, và nói một cách lễ phép:

- Bà ơi! Cháu biếu bà này!

Một làn gió thổi mạnh. Những chiếc lá từ trên cây rụng xuống rơi vào nón, làm bà lão tưởng là cô gái lừa dối mình, còn cô gái thì chờ mãi mà vẫn không thấy bà lão nhận tiền.

Nếu xét về cái vẻ bên ngoài thì hai nhân vật trong câu chuyện này chẳng có gì đáng nói. Hay nếu có phải nói trắng ra thì bên ngoài... rất bẩn, rất dơ. Thế nhưng, bên trong như thế nào thì tôi tưởng mọi người chúng ta đều thấy. Không thấy được bằng con mắt thịt nhưng thấy được bằng cái tâm của con người.

6. Đam mê, dục vọng là những động lực cần được lèo lái

Tổng thống Franklin Delano Roosevelt rút tỉa được nhiều điều hữu ích từ câu truyện sau: Có hai người culi Trung quốc tranh cãi lớn tiếng với nhau trên một đường phố đông người. Sau khi quan sát một lúc, một du khách tỏ ra ngạc nhiên vì không thấy họ đánh nhau. Người hướng dẫn giải thích: “Đó là vì kẻ tấn công trước nhận rằng anh ta hết ý. Và cả hai đã quá kiêu hãnh không muốn nhìn nhận điều đó.”

Đâu là điển hình của sự kiêu hãnh tốt hoặc không tốt trong đời tôi?

Cũng như mặt trăng, sự kiêu hãnh của con người có hai mặt, mặt sáng và mặt tối. Mặt sáng hệ tại nhìn nhận danh dự bản thân một cách trung thực. Mặt tối hệ tại đề cao giá trị bản thân một cách quá đáng, không đáng trọng.

7. Thiện căn ở tại lòng ta

Thi hào Nguyễn Du đã viết: “Thiện căn ở tại lòng ta." Gốc rễ của sự thiện nằm trong lòng ta. Các hành vi tội phạm man rợ đang được đa dạng và trẻ hóa trong xã hội cho thấy gốc rễ sự thiện nơi nhiều ngươi đã bị ung thối.

Chúa Giêsu đến để chữa lành bản tính con người bị tổn thương do tội lỗi. Ngài muốn đổi mới con người từ bên trong, như lời tiên tri Êdêkien: “Ta sẽ tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng. Lấy khỏi mình các ngươi quả tim chai đá, và sẽ ban tặng một quả tim biết yêu thương” (Ed 36,26). Tâm hồn mỗi người là đền thờ cho Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị. Đó không thể là nơi dung túng sự dữ. Chúng ta phải đào tạo con tim mình nên giống con tim của Chúa Giêsu, nói cách khác, đó là trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô.

Bạn đã làm gì để đào tạo con tim của mình? “Chúng ta có đem lại cho con tim chúng ta những điều bổ ích nuôi dưỡng nó hay không? Hay chúng ta lại nhồi nặn nó bằng bạo lực, những điều tầm thường làm cho nó thành trái tim chai đá? (Timothy Radcliffe, O.P.)

8. Tốt gỗ hơn tốt nước sơn

Một trong những điều dân miền quê, miền núi lo ngại nhất đối với nơi ‘an cư’ của họ, đó chính là: mối. Không từ một súc gỗ nào, không ngại một ngóc ngách nào, hễ loại cây gì có thể ăn được thì chúng xơi tái. Ngặt một nỗi người trong nhà không ai hay biết gì, vì nhìn bên ngoài cây gỗ còn ngon lành và mới mẻ lắm. Thế nhưng chỉ cần một thời gian ngắn thôi cây gỗ tự dưng rớt xuống, bấy giờ gia chủ mới hay: mối đã đục ruỗng bên trong hết rồi.

Nơi con người cũng vậy, nhìn bên ngoài ai biết tâm địa bên trong thế nào: “Sông sâu còn có kẻ dò; nào ai bẻ thước mà đo lòng người." Lối sống hình thức hào nhoáng và tính tự ái sĩ diện làm người ta trau chuốt những cái bên ngoài mà quên rằng chính những đam mê dục vọng, những âm mưu và toan tính tội lỗi làm cho con người ra xấu xa, chúng như loài mối đực khoét từ bên trong, để rồi một ngày kia bừng con mắt dậy thấy mình đã lún sâu trong tội lỗi tự bao giờ. Thật là nguy hiểm!

Bạn có phát hiện thấy mình đang bị ‘mối tội lỗi’ làm hư hoại không, hay Bạn cũng như gia chủ trên kia: mình vẫn còn đạo đức và tốt lành? Cũng như loài mối, những tội lỗi bị che đậy phát triển rất nhanh chóng. Để khử trừ chúng, bạn có cách: - kiểm điểm đời sống cách nghiêm túc; - siêng năng đến với bí tích hoà giải.

9. Biết muốn điều tốt thực sự

Sách Macabê quyển thứ hai thuật lại việc Syria xâm chiếm Israel vào năm 170 trước Công nguyên và đã cố gắng tiêu diệt niềm tin của người Do thái như thế nào. Chẳng hạn, bảy thiếu niên đã bị tra tấn và bị giết trước mắt người mẹ, vì các em không ăn những thức ăn ô uế. Những câu truyện như thế khiến cho những người Do thái kính trọng đối với những truyền thống xưa. Không may là những người theo chủ nghĩa truyền thống lại bắt đầu nhấn mạnh đến thức ăn ô uế hơn là đến một tâm hồn không trong sạch. Đó là một trong những sai lầm về tôn giáo mà Chúa Giêsu phải điều chỉnh.

Tôi thấy những nghi lễ bên ngoài nào hữu ích trong việc thờ phượng của tôi?

Ít khi tôi quỳ gối vì cảm thấy mình có lòng tôn kính, nhưng thường là vì tôi muốn cảm thấy mình có lòng tôn kính.

10. Rau sạch

Chỉ mới gần đây thôi, người ta cổ võ trồng rau sạch, ăn rau sạch. Để có rau sạch, không chỉ dùng nước rửa cho khỏi đất cát bám vào mà đủ, thậm chí phải rửa bằng thuốc sát trùng để khử cả những con vi trùng nhỏ mắt không thấy được. Nếu chỉ thế mà thôi thì mới sạch bên ngoài, chưa “rửa” được những dư lượng thuốc trừ sâu đã ngấm vào tận sớ mạch của cây rau. Tiêu chuẩn “sạch” ngày càng được nâng cấp tương ứng với chất lượng cuộc sống ngày càng nâng cao.

Về mặt tâm linh con người cũng thế, người ta không thể trở nên sạch trước mặt Thiên Chúa chỉ bằng cách tẩy rửa bên ngoài (rửa tay, rửa chén bát, v.v…) hay kiêng cữ một số thức ăn. Cái làm cho con người dơ bẩn trước mặt Thiên Chúa xuất phát từ nội tâm con người chứ không phải từ bên ngoài. Bởi thế để nên trong sạch, trước tiên con người phải thanh tẩy ý hướng, thanh tẩy lòng muốn của mình.

Nếu thân thể bạn cần tắm rửa hằng ngày để được sạch sẽ thơm tho, thì tâm hồn bạn cũng thế. Bạn có thể giữ sạch tâm hồn mình bằng cách thường xuyên kiểm điểm đời sống, sám hối ăn năn và lãnh nhận bí tích Hoà giải.

THỨ NĂM - CHÚA GIÊSU VÀ BÀ MẸ NGOẠI GIÁO

Lời Chúa: Mc 7, 24-30

Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt Tyrô và Siđon. Vào một nhà kia, Người không muốn ai biết mình, nhưng người không thể ẩn náu được.

Vì ngay lúc đó, một bà kia có đứa con gái bị thần ô uế ám, bà nghe nói về Người liền đến phục lạy Người. Bà đó là người dân ngoại, dòng giống Syrô-Phênixi và bà xin Người trừ quỷ ra khỏi con bà.

Người nói: "Hãy để con cái ăn no trước đã, vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó." Nhưng bà trả lời và thưa Người rằng: "Thưa Thầy, đúng thế, nhưng các chó con cũng được ăn những mụn rơi dưới bàn ăn của con cái."

Người liền nói với bà: "Vì lời bà nói đó, bà hãy về; quỷ đã ra khỏi con gái bà rồi." Khi bà về đến nhà, thì thấy cô gái nhỏ nằm trên giường và quỷ đã xuất rồi.

TRUYỆN KỂ

1. Ơn cứu độ đại đồng

Trong nhật ký của mình, Mahatma Gandhi cho biết khi còn theo học ở Nam Phi, ông rất say mê đọc Kinh Thánh, nhất là Bài Giảng Trên Núi, đến nỗi ông xác tín rằng Kitô giáo chính là câu trả lời cho nạn kỳ thị giai cấp đã từng hành hạ dân Ấn suốt bao thế kỷ, thậm chí ông còn muốn trở thành Kitô hữu nữa. Thế nhưng, một ngày nọ, khi đến nhà thờ dự lễ, ông bị người giữ cửa chặn lại và bảo ông phải đi lễ ở nhà thờ dành cho người da đen, kể từ đó, ông không bao giờ quay trở lại nhà thờ nữa.

Chúa Giêsu không bao giờ tỏ ra kỳ thị con người như thế. Tin Mừng hôm nay là một bằng chứng. Cũng như các tác giả Tin Mừng khác, thánh sử Marcô cho thấy phần lớn hoạt động và thời giờ của Chúa Giêsu được dành cho người Do thái; chỉ sau khi sống lại, Ngài mới chính thức sai các Tông đồ truyền giảng Tin Mừng cho mọi người, bất luận là Do thái hay không Do thái.

2. Thế giới tha nhân

Thật vậy, một người đàn bà có đứa con gái nhỏ bị quỷ ám, vừa nghe nói đến Người, liền vào sấp mình dưới chân Người. Bà ta là người Hy-lạp, gốc Phê-ni-xi thuộc xứ Xy-ri-a. bà xin Người trừ quỷ cho con gái bà. (Mc. 7, 25-26)

Để hiểu rõ câu chuyện gặp gỡ này, đừng quên rằng Chúa Giêsu là người Do thái. Theo tâm thức của người Do thái, chuyện gặp gỡ một người ngoại là điều không ổn, cũng giống như ta gặp một người nào đó không cùng chủng tộc với ta vậy.

Nhưng ở đây lòng khiêm tốn tháo gỡ tất cả, bởi lẽ lòng khiêm tốn là cánh cửa mở rộng. Trước tấm lòng cởi mở của người phụ nữ này, tâm hồn của Chúa Giêsu cũng mở rộng ra.

3. Buông tay ra

Một người vô thần rất mê leo núi. Ngày kia trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhưng may thay ông bám được một cành cây nằm chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông: Tại sao không gọi Chúa đến cứu giúp. Thế là ông lấy hết sức lực, và la lớn: “Lạy Chúa."

Tuy nhiên bốn bề chỉ có thinh lặng và ông chỉ nghe được tiếng dội của lời kêu van. Một lần nữa, người vô thần lại kêu xin tha thiết hơn: “Lạy Chúa, nếu quả thật Chúa hiện hữu thì xin hãy cứu con. Con hứa sẽ tin Chúa và dạy cho những người khác cũng tin Chúa." Sau một hồi thinh lặng, bỗng người vô thần nghe một tiếng vang dậy cả vực thẳm và núi cao: “Gặp hoạn nạn thì ai cũng cầu xin như thế." “Không, lạy Chúa, nghìn lần không. Con không giống như những người khác. Chúa không thấy sao, con đã bắt đầu tin từ khi nghe tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất."

Tiếng ấy trả lời: “Được lắm, Ta sẽ cứu ngươi. Vậy nếu ngươi tin thì hãy buông tay ra." Người vô thần thất vọng thốt lên: “Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao!”

4. Giữ vững lòng tin

Một sĩ quan quân đội Nga đến gặp một vị linh mục Hungari và xin được nói chuyện riêng với ông. Viên sĩ quan là một chàng trai trẻ, tướng khí hung hãn và dương dương tự đắc trong tư thế của kẻ chiến thắng.

Khi cửa nhà khách được đóng lại rồi, viên sĩ quan chỉ cây thánh giá treo trên tường và nói với vị linh mục rằng: “Ông biết không, cái đó là sự dối trá do các linh mục bầy ra để làm mê hoặc đám dân nghèo để giúp những người giầu dễ dàng kềm hãm họ trong tình trạng ngu dốt. Bây giờ chỉ có tôi và ông, ông hãy thú nhận với tôi rằng: ông không bao giờ tin rằng Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa."

Vị linh mục cười và trả lời rằng: “Ông bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật."

“Ông đừng có lừa dối tôi, cũng đừng diễu cợt tôi”, vị sĩ quan hét lên. Anh ta rút ra một khẩu súng lục, chĩa vào đầu linh mục và hăm dọa: “Nếu ông không nhận rằng đó chỉ là một sự dối trá, thì tôi sẽ nổ súng."

Vị linh mục điềm tĩnh trả lời: “Tôi không thể nói như thế, Đức Giêsu thực sự là Con Thiên Chúa."

Viên sĩ quan vứt khẩu súng xuông sàn và chạy đến ôm vị linh mục. Anh ta vừa khóc vừa nói: “Đúng thế, đúng thế. Tôi cũng tin như vậy, nhưng tôi không thể tin rằng có những người dám chết vì Đức tin cho đến khi chính tôi khám phá ra điều này. Tôi xin cám ơn ngài. Ngài đã củng cố lòng tin của tôi. Bây giờ chính tôi cũng có thể chết cho Đức Kitô. Ngài đã chứng minh cho tôi rằng: Điều này có thể làm được."

5. Ai cần hơn

Một người da trắng và một người thổ dân cùng nghe giảng. Người thổ dân cảm động và xin nhập đạo ngay. Còn người da trắng cũng cảm động nhưng cả năm sau mới nhập đạo. Trong một buổi phụng vụ, người da trắng hỏi

- Tôi phải mất một thời gian mới có lòng tin, sao anh có lòng tin sớm thế? Người thổ dân đáp

- Này bạn, để tôi nói cho bạn nghe. Có vị hoàng tử hứa cho chúng ta chiếc áo mới. Bạn nhìn vào áo mình, tự nhủ áo mình còn đẹp, để mai sau hãy lấy. Còn tôi, tôi nhìn vào tấm chăn cũ kĩ của mình, thấy nó chẳng ra gì, nên vội vàng đến nhận áo mới. Bạn ạ, bạn đã có chút khôn ngoan, nên bạn còn muốn dùng chúng. Còn tôi, tôi không có, nên tôi mau mắn đón nhận sự khôn ngoan của Chúa Giêsu.

6. Đức tin cần tâm hồn khiêm tốn để lớn lên

Newton, một nhà vật lý học và thiên văn học trứ danh, sau những thành công hiển hách của sự tìm tòi, ông đã viết:

- Không biết thế giới nghĩ về công việc của tôi như thế nào, nhưng tôi, trong tất cả các sự tìm tòi của tôi về khoa học, tôi chỉ như một đứa trẻ con chơi ngoài bãi biển. Có lẽ, đôi khi cũng đã tìm được những hạt sỏi tròn hơn, những vỏ hến đẹp hơn những cái bạn tôi tìm, nhưng biển mênh mông của chân lý, dưới con mắt tôi vẫn còn mầu nhiệm quá.

Văn sĩ Walter Scott người Anh đã nói một cách rất nhũn nhặn, sau bao nhiêu năm làm việc chuyên cần:

-Trong đời sống của tôi, cái dốt đã ngăn tôi lại và dày vò tôi. Người ta càng biết nhiều bao nhiêu thì lại càng phải khiêm nhường bấy nhiêu, người ta càng học nhiều thì lại càng tự thấy mình còn dốt.

Socrate đã nói rất có lý:

- Bậc hiểu biết cao nhất của con người là biết được rằng mình chưa biết gì cả.

Và Sénèque cũng đã viết:

- Đừng tưởng mình là khôn ngoan, mới là khôn.

Ở Hungary có câu châm ngôn rất đúng:

- Nếu anh thông minh, anh đừng khoe khoang.

Người ta thường nói: gà cục tác nhiều thì đẻ trứng ít.

7. Chẳng có chi để phô trương

Một hôm, Alcibiade khoe với Socrate là thầy dạy mình về những lãnh thổ mênh mông của ông chung quanh vùng Athènes. Socrate liền mở bản đồ ra hỏi:

- Hãy chỉ cho tôi biết Á Đông ở đâu?

Alcibiade chỉ đúng cái lục địa rộng lớn ấy.

- Đúng! bây giờ chỉ cho tôi biết Hy Lạp ở đâu?

Alcibiade vẫn chỉ đúng.

- Đâu là Péloponèse, Socrate vẫn hỏi.

Alcibiade cố gắng mãi mới tìm thấy cái chấm nhỏ trong bản đồ.

-Vịnh Attique ở đâu?

Alcibiade thấy vịnh Attique là một cái chấm nhỏ quá gần như không trông thấy, Socrate kết luận: - Đó, bây giờ hãy cho tôi biết phần đất rộng lớn của anh chỗ nào!

Alcibiade nhận ra lãnh thổ của mình không đáng một phần nhỏ nào trong bản đồ.

Như vậy, chúng ta thấy cuộc sống của mỗi người đâu có gì đáng tự hào mà phải khoe khoang, phô trương.

8. Chó con cũng được ăn

Một cô bé đến ăn tối tại nhà một người bạn. Khi mọi người ngồi xuống, em cúi đầu, chờ đợi lời tạ ơn. Thấy không có ai cầu nguyện, em nói: “Các bạn giống con chó của tôi, các bạn ăn ngay lập tức” Người Do thái cũng có cái nhìn như thế về người ngoại đạo. Vì người ngoại thiếu nhạy cảm về Thiên Chúa. Từ “chó” trong tiếng Hy lạp mà Chúa Giêsu sử dụng ám chỉ một con chó yêu quý, chứ không phải con chó lang thang ngoài đường. Chúa Giêsu dùng từ này một cách khôi hài, cũng như cha mẹ dùng từ “nhãi ranh” một cách vui đùa để nói về một đứa trẻ “con nhãi ranh” Câu trả lời của người phụ nữ hàm ý nhiều hơn.

Tôi đến với Chúa Giêsu để xin ngài giúp đỡ như thế nào? Có thái độ tự tin, kể cả táo bạo giống như người phụ nữ ngoại giáo này không? Tại sao?

Nếu bạn gõ đủ lâu và đủ mạnh, chắc chắn bạn sẽ đánh thức được một ai đó (Henry M.Longfellow).

THỨ SÁU - CHÚA GIÊSU VÀ NGƯỜI ĐIẾC

Lời Chúa: Mc 7, 31-37

Khi ấy, Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô, qua Siđon đến gần biển Galilêa giữa miền thập tỉnh. Người ta đem đến cho Người một kẻ điếc và xin Người đặt tay trên kẻ ấy. Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh.

Ðoạn ngước mắt lên trời, Người thở dài và bảo: Ephata, nghĩa là "hãy mở ra", tức thì tai anh được sõi sàng. Chúa Giêsu liền cấm họ: đừng nói điều đó với ai cả.

Nhưng Người càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn. Họ đầy lòng thán phục, mà rằng: "Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được."

TRUYỆN KỂ

1. Mở miệng là sống, và sống với nhau

Michel-Angelo là một trong những danh họa đã để lại nhiều tác phẩm bất hủ nhất, bất hủ vì giá trị nghệ thuật siêu vượt thời gian đã đành, mà còn bất hủ vì sự sống động mà ông đã mặc cho các tác phẩm của ông, điển hình là bức tượng Môsê. Người ta kể lại rằng sau khi hoàn thành bức tượng này, Michel-Angelo đứng chiêm ngắm một cách say sưa, và sự sống động của pho tượng làm ông ngây ngất đến độ ông đã cầm búa gõ vào và thốt lên: "Hãy nói đi."

Quả thật, lời nói là một trong những biểu lộ sống động nhất của sự sống. Khi chúng ta mở miệng thốt ra lời, là lúc chúng ta muốn biểu lộ sự sống, đồng thời nói lên rằng chúng ta đang sống cùng và sống với người khác.

2. Cánh cửa cuộc đời bị khóa lại

Một phụ nữ có người bạn bị điếc. Bà hỏi người bạn muốn gì nhân dịp sinh nhật. Người bạn trả lời: “Nhờ bạn viết thư cho Ann Landers, yêu cầu cho tôi bản kinh cầu nguyện cho người điếc."

Và ngày sinh nhật của người điếc đó, bà Ann đã gửi tặng lời kinh như bà thỉnh nguyện. Trong đó có lời cầu như sau:

“Lạy Chúa, người ta thường có thiện cảm với kẻ mù, người què, nhưng nổi sung bực bội với kẻ điếc, nên người điếc luôn phải ẩn tránh bạn hữu và ngày càng phải sống cô đơn khép kín!."

Lời kinh trên đây cho chúng ta thấy nỗi khổ của kẻ điếc. Chúng ta thường nghĩ rằng người mù khổ hơn kẻ điếc. Nhưng Helen Keller vừa mù vừa điếc thì cho rằng bị điếc còn khốn hơn bị mù nhiều, vì các cánh cửa cuộc đời bị khóa chặt lại: mở radio vô ích, xem truyền hình chẳng thú vị gì, không thể nói chuyện với ai, và cảm thấy cô đơn chán nản... (Câu chuyện theo Br. Thiện Mỹ, CMC).

Khi ơn cứu độ được ban: “Bấy giờ mắt kẻ mù sẽ mở, tai người điếc sẽ thông. Bấy giờ què quặt sẽ nhảy nhót tựa hươu nai, lưỡi người câm sẽ reo hò niềm vui. Nước sẽ phun lên trong sa mạc, khe suối tuôn chảy giữa vùng đất hoang vu… đất khô cằn có mạch nước trào ra” (Is 35,6-7a).

3. Bệnh câm điếc thiêng liêng.

Cử chỉ Chúa Giêsu trong phép lạ chữa lành người câm điếc, đã có một thời được Giáo hội lặp lại khi cử hành Bí tích Rửa tội. Thật thế, Bí tích Rửa tội cũng là một phép lạ trong đó chúng ta được chữa lành và tái sinh trong đời sống mới.

Trong phép lạ này, Chúa Giêsu cũng nói với mỗi người chúng ta: Epphata, Hãy mở ra. Hãy mở lớn đôi tai để nghe được tiếng Ngài trong từng biến cố, từng giây phút của cuộc sống. Hãy mở rộng con tim và đôi tay để cảm thông và chia sẻ với người khác. Hãy mở miệng để cảm tạ, chúc tụng và loan báo tình thương Chúa, để nói những lời của yêu thương và hòa bình, của cảm thông và tha thứ.

4. Máu lạnh

Trong truyện ngắn Máu Cá (tức máu lạnh), nhà văn Nguyễn Minh Châu kể chuyện một bà mẹ trẻ mất con ở ga Hàng Cỏ, kêu la thảm thiết, nhưng chẳng ai đoái hoài. Nhà văn xin một công an trực rao trên loa, người này cũng chẳng nói chẳng rằng. Cả ngàn người trên ga Hàng Cỏ như điếc, như câm trước nỗi khổ của người mẹ quẫn trí vì mất con!

Bài Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu không dửng dưng trước đau khổ của con người, Ngài đã chữa lành cho người câm điếc. Lời tán dương của đám đông gợi nhớ lại lời kết luận của sách Sáng thế về công trình sáng tạo (St 1,31). Chúa Giêsu đến để phục hồi sự tốt đẹp của công trình sáng tạo: một thế giới trong đó mọi người tin nhận và sống tư thế con thảo của Cha trên trời, nhìn vào mặt người khác và nhận ra họ là anh em, chị em mình.

Chúng ta phải phá bỏ bức tường câm điếc đã làm cho chúng ta xa cách tha nhân, không còn hiểu nhau, không còn thông cảm và thương yêu nhau, coi nhau như kẻ thù. Trái lại, phải xây lại nhịp cầu thông cảm và yêu thương mà chính Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta khi chịu phép Rửa tội. Trong ngày đó, chúng ta được cởi mở khỏi xiềng xích tội lỗi và được đàm đạo với Chúa như với người bạn chí thiết.

5. Bức tường Bá Linh.

Ngày 13/08/1961, người ta xây một bức tường chưa từng thấy trong lịch sử loài người: cao 8 mét, dài 700 cây số ngăn đôi một gia đình, một thành phố, một dân tộc, một nước Đức, không ai được qua lại với nhau, coi nhau như kẻ thù ghê gớm. Ai vượt qua bức tường đó hoặc bị bắt hoặc bị bắn chết. Mãi đến 28 năm sau, ngày 13/11/1989 bức tường đó bị phá đổ, chấm dứt hận thù chia rẽ. Gia đình, dân tộc được đoàn tụ với nhau, nước Đức được thống nhất, thế giới chấm dứt chiến tranh lạnh, trở thành đồng minh đồng chí với nhau.

6. Giao lưu là gieo và gặt

Hãy cẩn thận với những gì chúng ta làm cho người khác hôm nay. Đây là những vần thơ tôi đọc được từ Internet.

Nếu bạn gieo thành thật, bạn sẽ gặt lòng tin.
Nếu bạn gieo lòng tốt, bạn sẽ gặt được thân thiện.
Nếu bạn gieo khiêm tốn, bạn sẽ gặt cao thượng.
Nếu bạn gieo kiên nhẫn, bạn sẽ gặt chiến thắng.
Nếu bạn gieo cân nhắc, bạn sẽ gặt hòa thuận.
Nếu bạn gieo chân chỉ, bạn sẽ gặt thành công.
Nếu bạn gieo tha thứ, bạn sẽ gặt hòa giải.
Nếu bạn gieo cởi mở, bạn sẽ gặt thân mật.
Nếu bạn gieo chịu đựng bạn sẽ gặt cộng tác.
Nếu bạn gieo niềm tin bạn sẽ gặt phép mầu.
Nhưng

Nếu bạn gieo dối trá, bạn sẽ gặt ngờ vực.
Nếu bạn gieo ích kỷ, bạn sẽ gặt cô đơn.
Nếu bạn gieo kiêu hãnh, bạn sẽ gặt hủy diệt.
Nếu bạn gieo đố kỵ, bạn sẽ gặt phiền muộn.
Nếu bạn gieo lười biếng, bạn sẽ gặt mụ mẫm.
Nếu bạn gieo cay đắng, bạn sẽ gặt cô lập.
Nếu bạn gieo tham lam, bạn sẽ gặt tổn hại.
Nếu bạn gieo tầm phào, bạn sẽ gặt kẻ thù.
Nếu bạn gieo lo lắng, bạn sẽ gặt âu lo.
Nếu bạn gieo tội lỗi, bạn sẽ gặt tội lỗi.

Vì vậy hãy cẩn thận với những gì bạn gieo hôm nay, nó sẽ quyết định những gì bạn gặt vào ngày mai.

7. Đó là các kitô hữu

Thánh Pacôme, khi còn ngoại đạo, đã tự hiến mình trong đạo binh của hoàng gia. Một ngày kia, các binh sĩ trong đơn vị của ngài gặp phải hoàn cảnh cực kỳ đói khát sau khi phải đi bộ qua sa mạc dưới cái nắng chết người. Khi ngài và các binh sĩ vào thành Thèbes ở Ai Cập thì có nhiều người chạy lại bên họ, cho họ ăn và uống, cùng chăm sóc họ chu đáo, tận tình. Pacôme rất ngạc nhiên trước những sự chăm sóc bất ngờ và bất thường này. Pacôme cho tra hỏi xem những người tốt lành này là ai? Thì người ta trả lời Ngài: “Đó là những người Kitô hữu."

Ngài bèn la lên: “Một tôn giáo dạy người ta cứu giúp những kẻ khốn khổ hoàn toàn xa lạ với mình là một tôn giáo chỉ có thể đến được từ vị Chúa chân thật!”

Sau biến cố này, Pacôme đã giã từ binh nghiệp và trở lại đạo Công giáo. Ngài trở thành một vị sáng lập các đan viện vĩ đại và một vị thánh lừng danh.

8. Rao giảng bằng đời sống

Vào năm 1934 giáo lý viên Gioan Caduna được linh mục Palexi sai đến vùng Ramxi miền Bắc Ấn Độ để truyền giáo cho dân làng Majoribua, là những người rất sùng kính tôn thờ vật linh. Sau 18 năm (1952), cha Palexi trở lại vùng này, thấy cả làng đã theo đạo và sống Đức Tin rất sốt sắng! Cha Palexi hỏi thăm về giáo lý viên Gioan Caduna, thì được biết anh đã chết lâu rồi. Họ kể lại rằng:

Thời gian đầu mới đến, anh Caduna bị dân làng tẩy chay, và nói:

- Ở đây không có chỗ cho Chúa của mày!

Gioan Caduna đáp:

- Tôi không thể đi nơi khác, vì tôi đã được sai đến đây để nói về Thiên Chúa, Đấng sáng tạo và làm Chủ muôn loài, Ngài yêu thương hết mọi người, nên đã chấp nhận chết bi đát trên thập giá, nhưng chưa tới ba ngày sau, Ngài đã sống lại, ai tin vào Ngài thì được Ngài cứu độ!

Thế nhưng dân làng vẫn quyết liệt không muốn nghe vào lời anh Caduna giảng dạy, đuổi anh đi. Anh đành phải chấp nhận ra khỏi làng và đã dựng một cái chòi bên cạnh ngôi làng để hằng ngày cầu nguyện cho dân đừng cứng lòng tin! Dân làng mỗi khi đi qua đều phỉ nhổ và mạt sát Caduna:

- Cút đi cho xa, chúng tao không muốn thấy mặt mày, và chúng tao càng không muốn nghe mày nói về ông Giê-su nào đó!

Caduna trả lời:

- Tôi không đi đâu được, Chúa Giêsu đã chết vì yêu mọi người, nên tôi cũng muốn chết ở đây, để chứng tỏ lòng tôi rất yêu dân Majoribua.

Thời gian sau, Caduna chết vì bị bệnh sốt rét và sống quá túng thiếu. Lúc đó dân làng mới tỏ ra thương anh, họ tổ chức an táng anh cách tử tế. Không bao lâu, tất cả dân trong làng xin theo đạo Công Giáo hết!

Anh Gioan Caduna đã đáp trả được tiếng Chúa Giêsu hỏi: “Con có yêu Thầy hơn những người này không?”(Ga 21,15-17). Vì “thế giới sẽ thuộc về tay ai biết yêu!” (Lm. Gioan M. Vianey).

9. Tiếng nói của trái tim

Có một đôi nam nữ rất yêu nhau. Họ hẹn ước sẽ cưới nhau lúc chàng trai đi du học về. Sau khi chàng trai ra đi ít lâu, cô gái bị một tai nạn giao thông khủng khiếp. Sau đó, cô được cứu sống. Nhưng điều bi đát hơn cả là cô bị mất đi giọng nói. Bác sĩ bảo rằng tai nạn đã gây tổn thương não, khiến cô bị câm, không thể nói được nữa.

Cô gái bị suy sụp tinh thần hoàn toàn. Cô không muốn cho người yêu biết và cũng không muốn trở thành gánh nặng cho anh nên viết thư cho anh và nói rằng cô không còn kiên nhẫn đợi chờ anh được nữa. Cô trả lại cho anh chiếc nhẫn đính hôn. Chàng trai đã gửi hàng trăm bức thư và gọi biết bao cuộc điện thoại, nhưng cô không trả lời mà chỉ khóc. Cha mẹ cô quyết định chuyển nhà đến nơi khác để cô quên đi những gì đã xảy ra. Cô gái học ngôn ngữ bằng tay dành cho người câm và bắt đầu một cuộc sống mới. Chàng trai sau đó cũng về nước và không liên lạc với cô gái nữa. Cô nghĩ rằng chàng đã quên cô.

Một năm trôi qua, ngày kia, một người bạn đến trao cho cô gái thiệp mời đi dự lễ thành hôn của chàng trai, người yêu của cô. Trái tim cô tan nát. Khi mở thiệp cưới ra, cô giật mình khi thấy tên mình trong tấm thiệp. Ngước mắt lên, cô thấy chàng trai đang đứng trước mặt. Chàng xuất hiện đúng vào lúc bất ngờ nhất.

Chàng dùng tay để nói với cô: “Một năm qua anh đã dành thời gian để học ngôn ngữ bằng tay này. Hãy cho anh có cơ hội để nói với em: Anh yêu em.” Chàng xỏ chiếc nhẫn vào tay cô. Cô gái đã khóc, khóc vì hạnh phúc lại trở về với cô.

10. Điếc, ngọng và lòng vị kỷ

Chuyện ngày xưa kể rằng, Mặc Tử ở nước Lỗ sang nước Tề thăm nhà bạn cũ. Người bạn cũ trách Mặc Tử: “Bây giờ thiên hạ còn ai biết đến việc nghĩa, quan lớn cũng như quan bé, mạnh ai nấy sống, lấy cái công làm cái tư, ông tự khổ thân một mình làm việc nghĩa chi cho nhọc xác?” Mặc Tử trả lời: “Tôi hỏi ông, nhà có mười đứa con, một đứa cày, chín đứa ngồi ăn, thì chẳng phải đứa cày phải cày chăm hơn sao? Bởi vì đứa cày thì ít đứa ăn thì nhiều. Thiên hạ bây giờ không ai chịu làm việc nghĩa, ông phải khuyên tôi cần làm việc nghĩa nhiều hơn mới phải chứ, sao lại ngăn tôi?”

Ngày xưa cũng như ngày nay, cám dỗ mạnh ai nấy sống luôn luôn hiện diện. Khoái điếc, thích ngọng từ đó cũng là căn bệnh của chúng ta. Hôm nay, Đức Giêsu cũng sẵn sàng chữa lành nếu chúng ta biết đó là bệnh và ước được chữa lành.

11. Tình yêu nói được mạnh mẽ

Mendelssohn, nhà soạn nhạc nổi tiếng người Đức, có ông nội là Moses, một người có vóc dáng xấu xí, đã thấp bé lại gù lưng. Chuyện kể là một hôm ông Moses Mendelssohn đến thăm một thương gia tại Hamburg và gặp Frumtje, cô con gái rất dễ thương của ông.

Ngay khi gặp Frumtje, ông đã yêu cô say đắm nhưng cô lại tỏ ra sợ hãi vẻ bề ngoài xấu xí của ông. Trước mắt ông, cô đẹp như một thiên thần, nhưng ông lại thật buồn khi cô luôn tránh nhìn ông.

Trước lúc ra về, ông thu hết can đảm gõ cửa phòng cô gái, mong có dịp nói chuyện riêng với cô. Sau mấy lời chào xã giao, ông lúng túng hỏi cô: “Cô có tin hôn nhân là việc đã được định đoạt từ trước trên thiên đường không?”

“Tôi tin,” cô gái nhìn xuống sàn nhà trả lời. “Ông cũng tin chứ?”

“Có chứ,” ông trả lời. “Cô biết đấy, trên thiên đường khi một cậu bé được sinh ra, Chúa cho cậu ấy biết về cô gái mà cậu sẽ cưới làm vợ. Khi tôi sinh ra, cô dâu tương lai của tôi cũng đã được chỉ định. Chúa còn nói thêm rằng vợ tôi sẽ bị gù. Ngay lúc đó, tôi kêu lên: ‘Lạy Chúa, một người phụ nữ gù hẳn sẽ là một thảm kịch. Lạy Chúa, xin trao cho con cái bướu đó để người vợ của con được xinh đẹp”

Frumtje nhìn vào mắt ông và bỗng nhiên thấy tâm tưởng có sự xáo trộn mãnh liệt. Cô đưa tay cho Mendelssohn nắm lấy, và sau đó đã trở nên người vợ trung thành của ông. Một phép lạ của tình yêu!

Câu chuyện cứ tưởng như trong cổ tích mà lại có thật. Lời nói có thể không đúng y như thế, nhưng một cô gái xinh đẹp lại kết hôn với một người thấp bé gù lưng là một sự khó hiểu của tình yêu.

Còn khó hiểu hơn bội phần là tình yêu Chúa dành cho nhân loại.

12. Điếc mà không biết mình điếc

Ngày nọ, trong một hội nghị về thế giới, Satan ngỏ lời với đám ác thần vây quanh: “Chúng ta không thể nào ngăn cản bọn Kitô hữu đi nhà thờ, đọc Kinh Thánh và biết được chân lý. Chúng ta cũng không thể ngăn cản chúng có một tương giao thân mật với Đức Kitô… Ngày nào họ còn liên lạc được với Đức Kitô, ngày ấy chúng ta còn bất lực!”

“Vậy cứ để mặc chúng đi lễ, và giữ nếp sống riêng tuỳ ý, nhưng phải cướp hết thì giờ của chúng, đừng để chúng gặp được Đức Kitô.”

Đám quỷ nhỏ ào ào lên: “Chúng tôi phải làm gì để được như thế?”

“Hãy làm cho bọn chúng bận rộn với những điều không thiết yếu trong đời và tạo ra nhiều chương trình để cho đầu óc chúng không rảnh rỗi. Hãy xúi chúng tiêu xài, tiêu xài, tiêu xài, rồi kiếm tiền, kiếm tiền, kiếm tiền…

“Hãy khuyến khích chúng mở tivi, đĩa phim và máy vi tính suốt ngày. Hãy đổ tràn vào hộp thư của chúng những bức thư tào lao, giấy đặt hàng, bản cá cược, mọi loại thư tiếp thị và khuyến mãi…

“Không gặp được Đức Kitô, chúng sẽ thuộc về chúng ta.”

Để chiếm hữu tôi, ma quỷ có nhiều mưu kế tinh quái để che tai, bịt mắt, không cho tôi tiếp cận với Chúa Giêsu, đấng Cứu Độ của tôi. Ngày xưa Chúa “đã kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông” để chữa anh khỏi câm và điếc, để "nối mạng" với anh. Đâu là khoảnh khắc tôi dành riêng cho Chúa trong một ngày sống?

13. Sức mạnh của lòng tin

Một y sĩ (giấu tên) khá nổi danh, tới Turinô, xin gặp Cha Don Boscô. Y sĩ nói: “Người ta nói là, cha có thể chữa khỏi mọi chứng bệnh?”

Cha Don Boscô trả lời: “Đâu có!”

Y sĩ nói: “Người ta đã quả quyết với tôi như thế, họ còn nói rõ tên, cũng như chứng bệnh những người đã được Cha chữa khỏi.”

Cha Don Boscô trả lời: “Quả thực có nhiều người tới đây, xin “Đức Mẹ phù hộ” chuyển cầu cho họ, rồi nếu sau một tuần tam nhật, hoặc một tuần cửu nhật, họ được khỏi, thì chính là do ơn Đức Mẹ, chứ tôi không có tham dự gì vào việc chữa khỏi đó.”

Y sĩ nói: “Vậy xin Đức Mẹ chữa tôi”

Cha Don Boscô nói: “Ông bệnh gì?”

Y sĩ nói, Ông hay bị té xỉu (động kinh), và nhất là từ một năm nay, bệnh xỉu của ông xẩy ra luôn, nên đi đâu cũng phải có người theo. Tuy là y sĩ, Ông lại không chữa được chính bệnh Ông. Ông thất vọng, Ông tới đây cầu mong được khỏi như một số người khác.

Cha Don Boscô nói: “Vậy thì xin ông cũng làm, như người ta quen làm ở đây, là quỳ xuống, đọc chung với tôi vài kinh, rồi ông cáo mình, rước lễ, để tâm hồn được trong sạch và được tăng nghị lực. Đức Mẹ sẽ yên ủi ông.”

Y sĩ nói: “Xin Cha dậy tôi làm việc gì khác, vì những việc Cha vừa nói, tôi không làm được.”

Cha Don Boscô nói: “Tại sao?”

Y sĩ trả lời: “Quả thật, tôi cũng chẳng tin Chúa, tin Đức Mẹ, tin lời cầu nguyện, tin phép lạ!”

Tuy Cha Don Boscô rất bỡ ngỡ, nhưng nhờ ơn Chúa, Cha cũng đã tìm được những lời khuyên khiến y sĩ cảm động. Kết cục Ông cũng quỳ xuống, và làm dấu thánh giá.

Y sĩ nói: “Tôi lấy làm lạ, là làm sao tôi còn nhớ làm dấu, vì tôi đã bỏ hẳn những việc này hơn 40 năm nay.”

Ông cầu nguyện, và kết cục, ông cũng đã cáo mình.

Ngay sau lúc đó, ông cảm thấy bên trong như có gì thay đổi. Và rồi, kể từ ngày đó, ông hết bị xỉu. Sau đó, ông thường tới cầu nguyện và tạ ơn “Đức Mẹ phù hộ."

14. Phá đổ bức tường ngăn cách

Ngày 13/11/1989 bức tường Berlin (Bá-Linh) cao 8 mét, dài 700 cây số, sau 28 năm chia cắt thủ đô và đất nước Đức đã bị phá đổ, chấm dứt hận thù chia rẽ. Gia đình, dân tộc được đoàn tụ với nhau, nước Đức được thống nhất. Tật câm điếc như bức tường ngăn cách kẻ câm điếc với gia đình và xã hội. Điếc không nghe, không hiểu, không thông cảm với ai được; câm không nói, không cho người ta hiểu tâm tư nguyện vọng của mình.

Sống giữa người khác mà như bị nhốt tù trong bốn bức tường câm lặng. Đức Giê-su đã đến phá đổ bức tường câm điếc cho anh, anh có thể nghe được, nói được, và mọi người cũng nghe được và hiểu được anh. Tình liên đới, thương mến sống lại trong anh. Anh được đoàn tụ, hợp tác xây dựng cuộc đời tươi đẹp biết bao với mọi người.

Bạn có phải là người câm điếc tâm hồn, khép kín trong chính mình, tự cô lập, không chịu mở ra với người khác để đối thoại, trao đổi? Bạn hãy đến với tha nhân bằng thái độ chăm chú lắng nghe và nếu cần nói, hãy nói những lời mang tính xây dựng.

15. Thế giới câm lặng

Nhiều người thức dậy mỗi ngày không cần tiếng chuông báo thức của đồng hồ mà chỉ cần tiếng vo vo của máy dao động đặt dưới gối. Cũng như người câm điếc trong Phúc Âm, những người này sống trong một thế giới thinh lặng. Đối với họ, mở máy thu thanh là vô dụng, xem truyền hình là vô nghĩa, những cuộc đối thoại là điều bất khả. Nhưng hoàn cảnh của người câm điếc về thể lý chẳng là gì so với người câm điếc về tinh thần, những kẻ không thấy hoặc không thể chuyện vãn với Thiên Chúa qua lời cầu nguyện. Tất cả chúng ta đều rơi vào tình trạng này, ít là đôi khi trong đời sống chúng ta. Về mặt tinh thần, chúng ta sống trong một thế giới câm lặng.

Tôi có bao giờ xin Chúa Giêsu đưa tôi ra khỏi đám đông và chữa cho tôi khỏi câm điếc về tinh thần không?

Có gì là khó đối với Thiên Chúa đâu? (St 18,14)

16. Lưỡi và tai

Một hôm trong lúc đang ngồi uống trà và hàn huyên tâm sự với nhau, tự nhiên tôi thấy ông Hai Hưu Trí có vẻ tư lự và phát biểu như sau:

- Người đời thường hay đổ thừa mọi điều xằng bậy là do tội của “cái lưỡi không xương nhiều điều lắt léo." Nhưng tôi nghĩ nếu chỉ có cái lưỡi thì cũng chẳng có vấn đề! Anh cứ ngẫm lại mà coi, nếu chỉ có mấy cái lưỡi lươn lẹo, xu nịnh thường hay múa may với nhau thì bất quá cũng chỉ làm điếc tai hàng xóm láng giềng mà thôi. Cái lưỡi chỉ có thể làm nên những chuyện tày trời nếu nó được hỗ trợ của những “cái tai” không biết phân biệt tốt xấu, thật giả của mấy ông: “Nhà báo nói láo ăn tiền."

Nhưng họ lại quên không chê mấy ông cấp trên quan liêu chỉ khoái được nghe những bài báo cáo thành tích khi chưa kiểm tra thực hư! Nếu chỉ chuyên có cái lưỡi thì chắc sẽ không thể “vẽ vời” để biến một công ty đang từ tình trạng làm ăn thua lỗ, gây thiệt hại hàng chục tỷ đồng cho nhà nước, bỗng dưng trở thành một công ty đang trên đà phát triển và làm ăn khấm khá. Nếu có những cái tai thực sự ngay chính thì những lời đường mật như vậy làm sao có khả năng gây ra biết bao thiệt hại được.

Nghe ông Hai Hưu Trí triết lý một hồi như vậy, tôi liền thêm vào:

- Hôm nay Bác Hai nói thật là chí lý thậm phải!

Ông Hai Hưu Trí bèn cười lên một tiếng lớn rồi ôn tồn nói:

- Nè nhá, cũng bởi cái tai của chú mày chỉ khoái nghe những chuyện xốc hông xiên xỏ, nên cái lưỡi của lão già rách việc này mới có cơ hội múa may như từ nãy đến giờ, phải không chú em?

Chẳng ai muốn mình bị điếc, nhưng trong thực tế không thiếu người mắc bệnh này. Chúng ta bị điếc khi để mình mất khả năng lắng nghe kẻ khác. Chúng ta bị điếc khi chúng ta nghe người khác nhưng lại cố hiểu theo ý mình. Chúng ta bị điếc khi lắng nghe mà không nhận thức được đúng sai, hay dở. Vậy điều quan trọng không nằm ở nơi người nói, mà ở chỗ người nghe suy nghĩ và quyết định ra sao. Nắm được tâm lý của con người nên hãng bảo hiểm Prudential mới chọn khẩu hiệu: “Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu."

17. Học nói

Vì điếc, Helen Keller chưa bao giờ học nói, mãi tới khi cô Fuller, một giáo viên dạy nói, mở đường cho Helen. Cô đặt bàn tay Helen lên mặt cô để Helen có thể cảm nhận được vị trí của môi và lưỡi khi cô nói chuyện với Helen. Rồi Helen thử bắt chước tập lại. Sau thời gian tập luyện lâu dài, Helen đã nói được. Niềm vui của Helen thật vô tận. Về sau, cô đã viết: “Tôi thường lặp đi lặp lại một cách say sưa: giờ đây tôi không còn câm nữa” Đó là điều mà người câm trong bài Tin Mừng hôm nay cảm thấy khi được Chúa Giêsu chữa lành.

Tôi có coi trọng những khả năng được nghe, nói và thấy của tôi không? Trong những khả năng ấy, thứ nào thường bị tôi lạm dụng? Lạm dụng ra sao?

Tôi đã khóc chỉ vì không có giày, cho đến khi trông thấy một người bị cụt chân (Ngạn ngữ Ba Tư).

THỨ BẢY -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

LỄ KÍNH -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

Lời Chúa Tuần 5 Thường Niên
Thường niên V GS C PS Ngoại lịch