LỜI CHÚA TUẦN 5 MÙA THƯỜNG NIÊN
CÂU TRUYỆN MINH HỌA
CNTN 5B - CẦU NGUYỆN VÀ PHỤC VỤ
CNTN 5C – KẺ CHINH PHỤC CON NGƯỜI
THỨ HAI - CHÚA GIÊSU HOẠT ĐỘNG
THỨ BA - ĐIỀU CHÍNH YẾU CỦA TIN MỪNG
THỨ NĂM - CHÚA GIÊSU VÀ BÀ MẸ NGOẠI GIÁO
THỨ SÁU - CHÚA GIÊSU VÀ NGƯỜI ĐIẾC
CNTN 5A -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
CNTN
5B - CẦU NGUYỆN VÀ PHỤC VỤ
Lời Chúa: Mc 1, 29-39
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi hội
đường, Người cùng với Giacôbê và Gioan đến nhà Simon và Anrê. Lúc ấy bà nhạc
gia của Simon cảm sốt nằm trên giường, lập tức người ta nói cho Người biết bệnh
tình của bà. Tiến lại gần, Người cầm tay bà, và nâng đỡ dậy. Bà liền khỏi cảm sốt
và đi tiếp đãi các ngài.
Chiều đến, lúc mặt trời đã lặn,
người ta dẫn đến Người tất cả những bệnh nhân, tất cả những người bị quỷ ám: và
cả thành tụ họp trước cửa nhà. Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh
khác nhau, xua trừ nhiều quỷ, và không cho chúng nói, vì chúng biết Người.
Sáng sớm tinh sương, Người chỗi
dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó. Simon và các
bạn chạy đi tìm Người. Khi tìm thấy Người, các ông nói cùng Người rằng: "Mọi
người đều đi tìm Thầy." Nhưng Người đáp: "Chúng ta hãy đi đến những
làng, những thành lân cận, để Ta cũng rao giảng ở đó nữa." Và Người đi rao
giảng trong các hội đường, trong khắp xứ Galilêa và xua trừ ma quỷ. Đó là lời
Chúa.
TRUYỆN KỂ
1. Xoa dịu nỗi đau khổ
Cuộc đời của Chúa Giêsu là một sự dung hoà tốt đẹp giữa đạo và đời.
Thực vậy Ngài không phải chỉ hăng say rao giảng Phúc Âm, cứu rỗi phần hồn của
chúng ta mà hơn thế nữa, bằng những hành động bác ái yêu thương, Ngài còn xoa dịu
những nỗi đớn đau và thống khổ của chúng ta.
Nỗi đau khổ của bản thân sẽ được vơi nhẹ nếu chúng ta cố gắng
xoa dịu nỗi khổ của người khác. Đúng thế, đau khổ không được chữa trị bằng sự
chấp nhận đã đành, mà còn bằng những nghĩa cử chúng ta làm cho người khác.
2. Tình yêu cần việc làm
Ringhoff là một thuỷ thủ người Đức.
Trong dịp mừng thượng thọ 80 tuổi người ta tới tấp đến thăm viếng và gởi lời
chúc mừng. Trong số những người gởi lời chúc mừng có Bộ trưởng Công Chánh.
Trong bức thư, ông Bộ trưởng hết lời khen ngợi ông thuỷ thủ già, bởi vì trong
suốt thời gian hành nghề, ông thuỷ thủ già đã vớt được tất cả 126 người khỏi chết
đuối.
Cứu vớt người khỏi chết về phần
xác là một hành động cao cả và tốt đẹp. Vậy thì cứu vớt người khỏi chết về phần
hồn lại càng cao cả và tốt đẹp hơn biết chừng nào? Và trong ngày sau hết chính
Chúa sẽ gởi lời chúc mừng đến cho bản thân họ. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta
làm được những gì để xoa dịu những đớn đau của người khác và hơn thế nữa, chúng
ta đã làm được những gì để góp phần vào công việc truyền bá Phúc Âm, dẫn đưa
người khác trở về cùng Chúa.
3. Sống cho người cũng là sống
cho mình
Là một bộ phận trong cơ thể, quả
tim không sống cho mình nhưng sống cho toàn thân, không ngừng bơm máu nuôi sống
toàn thân. Phổi, gan, bao tử, cũng không sống cho mình, vì mình, nhưng là sống
cho toàn thân, làm tròn chức năng được trao phó để phục vụ và nuôi sống toàn thể
thân mình. Lẽ sống của mọi bộ phận trong cơ thể con người đều như thế cả.
Nếu một ngày nào đó, tim, gan,
thận, phổi, không phục vụ cho toàn thân nữa mà chỉ quy hướng về mình, chỉ lo phục
vụ riêng mình thì đó là ngày tận cùng của chúng.
Mỗi chúng ta cũng là những tế
bào, những bộ phận của một Thân Thể lớn lao là nhân loại. Chúng ta không thể bo
bo chăm lo cho riêng mình nhưng phải sống hết mình, phải cống hiến đời mình phục
vụ tha nhân theo gương Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống hết
mình vì Chúa Cha và vì mọi người.
Xin cho chúng con biết noi gương
Chúa, đừng chỉ biết quy về mình, chỉ biết mưu tìm hạnh phúc cho mình, nhưng biết
hướng về tha nhân để mưu tìm hạnh phúc cho họ, vì hạnh phúc chỉ thật sự đến với
chúng con khi chúng con biết đem lại hạnh phúc cho nhiều người.
4. Đừng quên Chúa vẫn ở ngay bên
Paul Tournier kể lại một trong
những khám phá quan trọng nhất trong đời ông như thế nào. Ông thường đến thăm một
vị mục sư lão thành và ông cụ chẳng bao giờ để ông ra về mà không cùng cầu nguyện
với nhau.
Ông hết sức kinh ngạc vì cách cầu
nguyện đơn sơ của vị mục sư nọ. Nó giống hệt phần tiếp tục câu chuyện thân mật
mà vị thánh tông đồ lão thành ấy luôn trò chuyện với Chúa Giêsu.
Bác sỹ Tournier “về đến nhà, tôi
sẽ kể cho vợ tôi nghe chuyện ấy và chúng tôi cùng cầu xin Thiên Chúa cho chúng
tôi cũng được thông hiệp mật thiết với Chúa Giêsu như cụ mục sư nọ vậy.
Từ đó, Ngài trở thành trung tâm
của giờ phút tĩnh tâm và là người bạn đồng hành của tôi. Ngài vui lòng về mọi
việc tôi làm và cũng quan tâm về việc đó. Ngài là người bạn thân tôi có thể đem
mọi sự xảy đến cho đời tôi ra thảo luận. Ngài sẽ chia sẻ những niềm vui nỗi khổ,
những hy vọng cùng mọi nỗi sợ hãi với tôi. Ngài có mặt khi một bệnh nhân tâm sự
với tôi. Ngài nghe người ấy nói còn rõ hơn chính tôi được nghe nữa. Và khi bệnh
nhân của tôi đi rồi, tôi vẫn còn có thể trò chuyện với Ngài về người ấy."
Mấy lời trên đây bao gồm yếu
tính sinh hoạt của Kitô hữu. Thế là các môn đệ nguyên thủy đã học được điều trở
thành thói quen cho cả đời sống: đem hết mọi chuyện rắc rối của mình cho Chúa
Giêsu và xin Ngài giúp đỡ mình.
5. Lòng biết ơn của mẹ vợ ông
Phêrô
Nhà văn Oscar Wilde viết “chuyện
hay nhất Thế Giới” trong đó ông kể: “Đấng Cứu Thế đi từ miền thôn quê tầm thường
lên một thành phố muôn phần sặc sỡ.
Khi đi qua một phố đầu tiên Ngài
nghe có tiếng nói phiá trên đầu, nhìn lên thấy một thanh niên nằm vắt ngang
thành cửa sổ. Chúa hỏi sao ngươi lại bỏ phí linh hồn trong say sưa? Hắn đáp:
thưa Chúa, tôi là người phong đã được Chúa chữa lành, bây giờ tôi còn biết làm
gì khác hơn?
Đi xa hơi một chút nữa, Ngài thấy
một thanh niên đang lẽo đẽo theo sau một cô gái mại dâm, Ngài bảo: Tại sao
ngươi bỏ phí cuộc đời của ngươi trong trác táng? Chàng đáp: Thưa Chúa, tôi là
người mù được Chúa chữa lành, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn?
Cuối cùng ở giữa thành phố, Ngài
thấy một người già nằm co dúm trên đất khóc lóc, và khi được Chúa hỏi ông đáp:
Lạy Chúa tôi là người chết được Chúa cho sống lại, bây giờ tôi còn biết làm gì
khác hơn là khóc?
Đó là những ví dụ kinh khủng nói
lên cách con người đã tàn nhẫn, vô tâm khi sử dụng ơn phúc và lòng thương xót của
Chúa. Bà mẹ vợ của ông Phêrô đã dùng sức khoẻ phục hồi của mình để phục vụ Chúa
và tha nhân. Đó là cách chúng ta sử dụng mọi hồng ân Chúa ban.
6. Sống là chiến đấu
Lafontaine có kể một câu chuyện
ngụ ngôn như thế này: có một tiều phu vác củi từ trong rừng về nhà. Củi thì nặng
mà sức thì yếu cho nên ông ta cứ than thở hoài. Sau hết vì quá chán nản, ông đã
kêu thần chết đến đem mạng sống mình đi phứt cho rồi.
Vừa kêu dứt tiếng thì thần chết
bỗng hiện ra, mặt mày khủng khiếp, tay cầm sẵn lưỡi hái. Thần chết hỏi:
"Mi gọi ta đến để làm gì?" Ông tiều phu mặc dù vừa mới đòi chết nhưng
khi thấy thần chết thì hoảng sợ và không muốn chết nữa, bèn nói trớ: "Xin
ông làm ơn đặt bó củi này lên vai hộ tôi."
Thần chết bỏ lưỡi hái xuống và
đem bó củi chất lên vai người tiều phu. Ông này vội vàng cám ơn và nhanh chân rảo
bước, không còn thấy nặng nhọc gì nữa.
Tất cả 3 bài đọc trong Thánh Lễ
hôm nay đều bàn đến những việc lao động nhọc nhằn trong cuộc sống chúng ta nơi
trần gian này. Cuộc sống này quả là vất vả: ai nấy phải làm lụng từ sáng tới
chiều, quần quật hết ngày này sang ngày khác, hết tháng nọ sang tháng kia để kiếm
lấy miếng cơm manh áo.
Kẻ thì lao động chân tay, người
thì lao động trí óc, nhưng tất cả mọi người đều phải làm việc vất vả. Làm để có
cái mà ăn, ăn để có sức mà làm. Làm-ăn, ăn-làm như một cái vòng lẩn quẩn trói
buộc con người, cho tới khi con người làm không nổi, ăn không vô thì cũng là
lúc sắp xuôi tay chấm dứt một kiếp sống làm người.
Ông Gióp nói: "Lao động nhọc
nhằn là kiếp sống của tôi. Ngày của tôi giống như ngày của một kẻ làm công, như
một người nô lệ. Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối và mắt tôi sẽ không nhìn thấy
hạnh phúc."
Bài Tin mừng hôm nay mô tả một
ngày làm việc của Chúa, một ngày làm việc của tình yêu, vạch cho ta thấy phương
hướng sống trước những công việc bề bộn cực nhọc.
7. Dành thì giờ
Lần kia, có một người đàn ông
đang cưỡi một con ngựa. Khi con ngựa và người cưỡi ngựa ầm ầm phóng qua, một
người nông dân già đang đứng ở cổng cất tiếng hỏi: “Anh đang đi đâu đấy?”
Người đàn ông la lớn trong khi
phóng vụt qua “Đừng hỏi tôi, hãy hỏi con ngựa ấy."
Người đàn ông cưỡi ngựa tiêu biểu
cho người có cuộc sống với cách sinh hoạt hối hả không ngừng. Người đó không hề
có tự do; anh bị nô lệ cho công việc của mình. Nhưng vấn đề của anh ta còn sâu
xa hơn. Anh ta không kiểm soát được cuộc sống của mình.
Người ta có thể quá muộn để bắt
kịp công việc, đến nỗi họ không dành ra được lấy một phút nào cho bản thân
mình. Hoạt động có thể trở thành một thứ bệnh tật. Đây là một tình trạng nguy
hiểm.
Đức Giêsu cũng cần dành thì giờ
cho bản thân mình, có chú tâm cẩn thận đến những nhu cầu thể lý, tình cảm, tâm
trí, và tinh thần của bản thân, thì chúng ta mới có thể luôn lỉ là những người
vui vẻ cống hiến.
8. Nơi hoang vắng
Một người đàn ông kia có thói
quen tự mình ra đi, vào một khu rừng hẻo lánh. Ngày kia, vì tò mò muốn biết anh
ta đi đâu, nên có người bạn đã đi theo anh vào rừng. Khi đuổi kịp anh ta, người
bạn đó thấy anh đang ngồi yên lặng trên một khúc gỗ.
Người bạn đó hỏi: “Anh đang làm
gì thế?”
Anh trả lời “Tôi đang cầu nguyện."
“Nhưng tại sao anh phải đi đến
nơi xa xôi này để cầu nguyện?”
“Bởi vì tôi cảm thấy là Thiên
Chúa hiện diện ở đây."
“Nhưng phải chăng chúng ta có thể
tìm thấy Thiên Chúa ở tất cả mọi nơi, và phải chăng ở bất cứ nơi đâu cũng chỉ
có một Thiên Chúa đó sao?"
“Thiên Chúa vẫn thế, nhưng tôi
thì không."
Mặc dù chúng ta có thể tìm thấy
Thiên Chúa, và cầu nguyện với Người ở bất cứ nơi nào và tất cả mọi nơi – trong
nhà bếp, ngoài đường phố, trên xe hơi, tại nông trại, ở nơi làm việc – tuy
nhiên, thật là một ý tưởng hay, khi có một nơi đặc biệt – bờ biển công viên,
núi non, nhà thờ, hoặc ở bất cứ nơi đâu – mà tại đó, đôi khi chúng ta có thể
rút lui khỏi những bận rộn của cuộc sống. Tại những nơi này, chúng ta cảm thấy
rằng dường như Thiên Chúa gần gũi hơn và thân thiện hơn.
9. Sức mạnh của lời cầu nguyện
Linh mục Samson kể lại lời tự
thuật của một người trong một bài giảng ở nhà thờ Đức Bà Paris như sau: “Tôi
đau rất nặng, người ta đem tôi vào bệnh viện, không ai săn sóc tôi cả, ngoại trừ
một chị y tá, chị tỏ ra rất tốt và hết tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất
khuya, tôi thấy chị quỳ gối im lặng trong phòng, tôi hỏi: “Chị quỳ làm gì thế?”,
chị trả lời: “Tôi cầu nguyện cho ông." Chỉ mấy tiếng đồng hồ thôi đủ làm
cho tôi bấy lâu nay không biết Chúa, bây giờ tôi biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi
con người chị y tá ấy, giữa những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc
đầy tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp
Chúa."
Một thí dụ khác, bác sĩ Longghê
là một người Pháp đã từng phục vụ ở Việt nam cách đây mấy mươi năm và cũng nổi
tiếng như bác sĩ Tôm Đulây, người Mỹ, đã phục vụ ở Đông Nam Á. Ông tận tụy săn
sóc, yêu thương các bệnh nhân, bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày cũng
như đêm. Khi có người hỏi vì sao ông yêu thương bệnh nhân như vậy? Vì sao ông
có thể bỏ ăn bỏ ngủ vì bệnh nhân, xem bệnh nhân là trên hết? Ông trả lời: “Vì
thấy Chúa Giêsu trong mỗi người bệnh." Mỗi sáng khi đi dự lễ, bệnh nhân
lương giáo, ai muốn đi đều được ông cho đi xe của ông, mỗi chiều Chúa nhật, ông
lại đưa các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này nơi nọ, và mỗi tối, ông lần hạt
chung với các bệnh nhân, vì là người Pháp, về tiếng Việt ông chỉ thuộc kinh Lạy
Cha, Kính Mừng, Sáng Danh đủ để lần hạt. Ít lâu sau, Longghê trở về Pháp, vào
chủng viện, làm linh mục và tình nguyện sang phục vụ những người nghèo khổ ở
giáo phận Cần Thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức, ông bị bệnh và qua đời
trước khi tới nơi mong ước.
Nếu chúng ta không bắt chước được
bác sĩ Longghê, thì chúng ta có thể bắt chước được chị y tá trên đây, cầu nguyện
cho các bệnh nhân.
10. Đổi mới bản thân
Một triết gia bên Ấn độ, ngồi kiểm
điểm lại cuộc đời, đã ghi lại như sau:
Thoạt tiên ở tuổi thanh xuân đầy
nhiệt huyết, tôi đã sốt sắng kêu xin thượng đế cho tôi có đủ nghị lực và cơ hội
để thay đổi cả thế giới.
Đến tuổi trung niên, tôi bỗng nhận
ra nửa đời trôi qua, mà chẳng thay đổi được một ai, tôi liền điều chỉnh lời cầu
của tôi với thượng đế.
Khi ấy tôi chỉ xin Ngài cho tôi
đủ khả năng hoán cải những người tôi gặp thường ngày, khởi đi từ những người
thân yêu trong gia đình cũng như những người bạn tôi hằng tiếp xúc.
Thế rồi đến nay, tôi thấy mình đầu
tóc bạc phơ và mộng đẹp không còn nữa. Tôi chỉ xin với thượng đế:
- Lạy Chúa, ít nữa xin ban cho
con ơn biến đổi chính mình con.
Tiếc rằng tôi đã không xin với
thượng đế điều đó ngay từ tuổi thanh xuân, khiến tôi bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội
để đạt được sự hoàn thiện nơi chính bản thân mình.
Ta hãy đổi mới cuộc đời theo kiểu
mẫu một ngày sống của Chúa Giêsu.
11. Qua các bí tích Chúa vẫn ở
bên ta
Bác sĩ Tissot người Thuỵ sĩ rất
nổi tiếng. Ông theo đạo Tin Lành nhưng luôn tôn trọng nếp sống của người Công
Giáo. Một hôm ông tới chữa bệnh cho một bà ngoại quốc, bà đang sốt nặng và tỏ
ra hoảng hốt cáu kỉnh. Là người Công giáo, bà đòi gặp một linh mục trước rồi mới
chịu để bác sĩ chích thuốc chữa bệnh. Sau khi được giải tội và xức dầu, bác sĩ
Tissot thấy bệnh nhân bình tĩnh dịu dàng khác thường. Sáng hôm sau, bác sĩ
Tissot trở lại, thấy bà giảm sốt và bắt đầu bình phục bác sĩ Tissot thường nói
chân thành: "Nhiều bệnh nhân Công giáo đã lành bệnh nhờ bí tích xức dầu."
Tin Mừng hôm nay cho ta thấy
Chúa đến giường bà mẹ vợ ông Simon đang sốt nặng, cầm tay đỡ bà dậy. Được khỏi
ngay, bà chỗi dậy lo việc phục vụ Chúa và các môn đệ. Chúng ta có thể nghĩ tới
Chúa Giêsu đã thực hiện bí tích xức dầu cho bà. Mọi bí tích đều do Chúa thiết lập
và cử hành trước. Cử hành bí tích là làm lại cử chỉ của Chúa Giêsu. Kèm theo một
lời của Chúa hay lời cầu nguyện của Giáo hội.
12. Trong cầu nguyện có nghỉ
ngơi và tìm được sức mạnh
Tạp chí Thế Giới Bên Ngoài
(Outdoor World) có đăng một bài rất hay của Barry Lopez.
Vào một buổi sáng mưa phùn,
Barry thức dậy một mình đi dạo trong rừng trước buổi điểm tâm. Vừa rảo bước giữa
những dãy thông và bá hương. Barry vừa nhớ lại một buối sáng y hệt sáng hôm
nay, khi còn là chú bé con, chàng đã được nhìn thấy ông nội một mình bước ra khỏi
nhà đi dạo ngang qua chính những hàng cây này. Khi ông nội trở về chú bé Barry
hỏi thăm nội đã đi đâu và đã làm gì. Ông nội mỉm cười, ôm choàng Barry rồi nói:
"Nào chúng ta hãy cùng đi dùng điểm tâm, cháu nhé!"
Tiếp tục bước đi dưới cơn mưa
phùn, Barry gặp một quãng rừng trống. Chàng liền quỳ xuống và đặt đôi tay lên mặt
đất ẩm ướt. Điều này gây cho chàng cảm giác rằng chàng đang hiệp nhất với toàn
thể vũ trụ. Barry nhớ lại lời ông nội đã từng dạy bảo chàng: Khi nào cảm thấy
cô đơn thì nên đi bách bộ vào rừng tìm yên tĩnh, đoạn làm bất cứ điều gì đang
được thôi thúc trong lòng, chẳng hạn như quì gối xuống đặt tay lên mặt đất.
Nửa giờ sau, khi Barry trở về
nhà, ông cảm thấy như được đổi mới, được hồi phục sức lực. Bấy giờ ông mới hiểu
được lý do ông nội thường hay đi dạo trong rừng vào buổi sớm mai. Bà của Barry
có lần nói cho ông hay đấy chính là cách thức ông nội cầu nguyện. Ông ấy luôn
luôn đi sang tận mé rừng bên kia, đứng trên bờ biển, tay thọc vào túi, lắng
nghe đại dương reo.
Giữa những bận rộn của cuộc sống,
Chúa Giêsu vẫn tìm thời gian nghỉ ngơi và cầu nguyện. Chúng ta cũng nên làm như
thế.
13. Lặng yên
Một con tàu của hải quân Anh bị
tai nạn. Trong khi bị nạn, con tàu vang lên một tín hiệu được gọi là tín hiệu
"Lặng Yên." Tín hiệu này có nghĩa là: "Hãy ngưng tất cả những gì
bạn đang làm. Hãy nghỉ ngơi và xem xét lại tình hình của mình, và chuẩn bị làm
những gì thật khôn ngoan."
Trước khi tín hiệu vang lên, ít
có thuỷ thủ nào biết được điều nào là điều khôn ngoan để mà làm đây. Nhưng
trong thời gian nghỉ ngơi, họ đã biết được điều gì cần làm. Tín hiệu "Lặng
Yên" đã cứu được hàng ngàn mạng sống quân Anh và hàng triệu bảng Anh.
Trong đời sống thường nhật chúng
ta thường bị rơi vào tình trạng khẩn cấp và chúng ta cũng chả biết làm gì ngay
lúc đó. Thế rồi chúng ta la toáng lên; "chúng ta có thể làm gì đây?"
Thực sự, điều tốt nhất chúng ta có thể làm là nghỉ ngơi và yên lặng. Sự nghỉ
ngơi thường tạo nên điều kiện để ta thành công và tránh cho ta những thất bại.
14. Thinh lặng tận hưởng cái đẹp
Một hôm, nhạc sĩ André
Kostelanetz đến thăm nghệ sĩ Pháp Henri Matisse. Khi Kostelanetz đến nhà
Matisse, thần kinh ông bị suy nhược và ông gần như kiệt sức. Matisse nhận ra
tình trạng sức khoẻ người bạn, ông vừa đùa vừa nói; "Này ông bạn, ông phải
tìm ra những cây Áctisô cho đời sống của ông." Nói xong, ông ta nắm tay dẫn
Kostelanetz ra khu vườn nhà ông.
Khi cả hai đến gần một đám cây
Áctisô, Matisse dừng lại. Ông nói với Kostelantz là mỗi buổi sáng sau khi làm
việc một lúc ông thường đến với đám Astisô này để nghỉ ngơi yên tĩnh. Ông chỉ đứng
đó ngắm nhìn đám Acstisô.
Đoạn Matisse nói thêm: "Dầu
tôi đã vẽ được trên 200 bức tranh tôi cũng vẫn luôn luôn nghiên cứu tổng hợp những
màu sắc mới cũng như tìm những bức mẫu tân kỳ. Không ai được phép quấy rầy tôi
khi tôi lặng yên đứng ngắm… điều này mang lại cho tôi nguồn hứng mới, một sự xả
hơi cần thiết cũng như một triển vọng mới cho công việc của tôi."
Mỗi người chúng ta nên ghi vào
lòng lời Matisse khuyên nhủ André Kostelanetz. Chúng ta phải tìm những đám
Actisô cho đời chúng ta.
15. Cầu nguyện nâng tâm hồn lên
cao
Bạn đang cần gì? Tôi có thể giúp bạn giải một bài toán vật lý phải
không? Chàng ta đáp: Thưa ông, tôi là sinh viên khoa văn, tôi dốt khoa học lắm.
nhưng xin ông cho tôi hỏi một vấn đề đến đức tin.
Nhà Bác học trả lời:Đức tin là môn tôi yếu nhất. Nhưng nếu giúp
anh được việc gì tôi sẳn sàng. Thưa ông có thể vừa là bác học vĩ đại vừa là tín
hữu nhiệt thành cầu nguyện không?
Nhà Bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của anh. Ông ta trả lời: Anh
ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện thôi. Nhà bác học kiêm triết
gia nổi tiếng Pascal nói một câu rất thời danh: "con người chỉ vĩ đại khi
họ cầu nguyện."
Vậy cầu nguyện tức là thiết lập mối tương quan mật thiết với
Chúa. Sự cầu nguyện làm cho con người vĩ đại vì nó thể hiện đúng đắn đạo làm
người.
16. Sự cao trọng của một việc
làm nhỏ bé
Trong vùng có một quân nhân xấu
ai thấy cũng chế diễu, bửu môi, đánh đập, không ai làm bạn với anh cả. Anh sống
đời cô đơn uồn tủi. Khi anh chết, người ta thấy một tờ di chúc trong tay anh:
"Xin trao số tiền 10,000 đồng của tôi cho cô bé Kitty, vì suốt cuộc sống của
tôi không nhận được nụ cười nào của bất cứ ai, ngoại trừ nụ cười của bé Kitty
trong một lần tôi gặp cô đi học về. Đó là niềm an ủi nhất đời tôi, khiến tôi
can đảm sống trọn cuộc đời cô đơn."
Cũng một câu chuyện nữa về một
"Lời nói thân tình."
Tại một góc hè phố, người hành
khất bại tay, nằm co quắp mở miệng xin ăn. Người thì ném tiền vào nón của ông.
Người thì cho cách khinh bỉ. Một người sang trọng đi qua, ông xỏ tay vào túi rồi
chẳng tìm được gì, ông nói: "Này bác, rất tiếc tôi muốn giúp bác nhưng bất
ngờ tôi không có đồng xu nào trong túi mình cả." Người ăn xin trả lời:
"Cám ơn ông, ông đã cho tôi nhiều hơn cả mọi của bố thí. Ông đã gọi tôi bằng
"Bác" thành thật chưa bao giờ trong đời tôi nhận được danh xưng đó
trên môi miệng một người sang trọng bố thí cho tôi."
Thời đại nào, thế kỷ nào, ai ai
cũng cần đến "Cái tình" của con người, cần đến sự nâng đỡ, khích lệ
trong cuộc sống.
17. Không cầu nguyện không được
việc gì
Đức Cha Tihamer Toth đã nói chuyện
với thanh niên như sau:
”Bạn không muốn sao lãng những
công việc bề bộn, thế thì, bạn ơi, hãy nghe tôi: Đây là chiếc tầu vượt đại
dương bắt đầu mở máy giữa lúc giông tố nổi to, và một đoàn hải điểu theo bên
như những tầu khác khởi hành. Chiếc tầu nọ mở hết tốc lực mà không vượt được những
làn sóng dữ dội. Gió ngược mạnh vô cùng, chiếc tầu nghiêng ngả. Cả bộ máy rung
chuyển, nhưng chiếc tầu chỉ tiến khó khăn được đôi chút. Một hành khách thương
hại nói: "Khốn nạn đàn hải điểu. Mở máy tới hàng trăm, hàng ngàn mã lực thế
mà chúng ta chỉ tiến được đôi chút thôi. Chim ơi, chim làm được gì với đôi cánh
mong manh và bắp thịt yếu đuối” ?
Nhưng người hành khách thương hại
bỗng nói và cảm động vô ngần: "Đàn hải điểu nhẹ nhàng bay lượn với đôi
cánh Đức Chúa Trời ban cho. Chúng gối lưng lên gió vật. Và trong khi chỉ còn một
việc, chỉ trông cậy có máy móc, người ta tiến rất khó khăn, rất vất vả, thì đàn
hải điểu vượt nhẹ nhàng lên trước chiếc tầu với đôi cánh khéo léo, bay lượn
thay cho sức yếu đuối của mình."
Bạn ơi, chiếc tầu đó là hình ảnh
kẻ muốn thắng bằng sức riêng mình. Đôi cánh chim hải điểu là hai tay người ta
giơ lên trong lúc cầu guyện. Bạn có còn cho rằng thời giờ bạn nguyện ngắm là thời
giờ bỏ phí không ? Bạn có còn nói rằng bạn không có thời giờ cầu nguyện không”?
18. Bỏ cầu nguyện, bỏ Chúa
Tại bảo tàng viện ở Wittenberg
(Đức) người ta còn lưu giữ một lá thư của một tu sĩ dòng Augustinô rất thời
danh, mới 35 tuổi, đã làm tới chức Giám tỉnh. Bức thư như sau: "Tôi quá bận
rộn, phải đi dạy học, giảng thuyết, viết sách, tôi làm quản lý, bắt cá ở hồ...
nên không có giờ đọc kinh, không có giờ nguyện gẫm, không có giờ dọn mình dâng
Thánh lễ, có lúc phải bỏ luôn cả lễ...” Vị cựu tu sĩ thời danh ấy là ai? Là
Luther, người đã khởi xướng lên chủ thuyết Tin lành, ly khai khỏi Giáo hội, ra
khỏi dòng, lập gia đình, lôi kéo nhiều người theo, đi vào con đường ly khai.
Tuy thế, có những người vần chưa
công nhận sự cầu nguyện là cần thiết, mà còn bác bỏ và chê trách sự cầu nguyện.
Thi sĩ Alfred de Vigny đã nói: "Thở than khóc lóc, cầu khẩn là hèn nhát."
Phải phân biệt hai lối cầu nguyện:
thụ động và chủ động. Cầu nguyện thụ động là thái độ của kẻ ươn hèn, muốn được
điều lành mà không cố gắng, không làm gì cả: họ chỉ há miệng chờ sung hay ôm gốc
cây chờ thỏ. Trái lại cầu nguyện chủ động là tính cách của người vừa cầu nguyện
vừa làm việc để đi tới mục đích mình cầu xin: Aide-toi, le Ciel 1’aidera!
Câu nói trên của Alfred de Vigny
chỉ đúng cho những kẻ cầu nguyện thụ động. Còn chính nhà khoa học lừng danh
Alexis Carrel đã nói: "Dẫu có vẻ lạ lùng, người ta vẫn phải nhận là đúng rằng
kẻ nào cầu xin sẽ được và cửa sẽ mở cho kẻ gõ." Một nhà khoa học đã từng
được giải Nobel vào năm 1912 còn tin tưởng như vậy, thì sự cầu nguyện đã rõ
ràng không phải là sự mơ hồ.
Văn hào Cronin đã than thở cho
những kẻ mất lòng tin tường, những kẻ không cầu nguyện: "Địa ngục là khi
lòng mất hy vọng." Sống là hy vọng, mà mất hy vọng thì còn sống làm sao?
Chính vỉ vậy, những kẻ tự tử là những kẻ không còn tin tưởng, những kẻ không biết
có sự cầu nguyện.
19. Cầu nguyện chữa lành tâm hồn
Môt hôm, một bệnh nhân trạc tuổi
40, đến gõ cửa phòng mạch bác sĩ. Người bệnh nói:
- Đã lâu rồi tôi mắc bệnh mất ngủ.
Tôi đã uống nhiều loại thuốc an thần, thuốc ngủ. Ban đầu uống một viên, sau đó
uống hai viên. Hiện giờ tôi uống những ba viên mà cũng chẳng tài nào ngủ được.
Hết muốn sống.
Bác sĩ là một người Công giáo,
liền cho một toa thuốc an thần, thật bất ngờ, lại không mất tiền mua:
- Từ nay ông đừng uống thuốc ngủ
nữa. Thế vào đó, trước khi lên giường, ông hãy đọc một câu kinh sốt sắng, và
dâng phú những lo lắng của ông vào lòng Thượng Đế.
Đã lâu lắm, bệnh nhân chẳng hề đọc
kinh chiều. Tối hôm ấy, chàng áp dụng toa thuốc của bác sĩ đã cho một cách
nghiêm chỉnh.
Một tuần lễ sau, thần kinh bớt
căng thẳng, chàng được lành mạnh, ăn ngon ngủ ngon và làm việc như thường lệ.
Bác sĩ Carl Jung cho biết:
"Trong 30 năm trời gần đây, có nhiều người từ các nước văn minh tới phòng
mạch của tôi. Tôi nhận thấy rằng những bệnh nhân trên 35 tuổi, rút cuộc người
nào cũng phải tìm một giải pháp tôn giáo mới hết bệnh. Họ đau vì mất quân bình,
mất tin tưởng."
20. Cầu nguyện và làm việc.
Một ông cụ già dẫn một thanh
niên xuống thuyền của mình. Thuyền này có hai mái chèo: một cái đề chữ “cầu
nguyện”, một chiếc khác có đề hai chữ “làm việc."
Người thanh niên nói kháy cụ
già:
- Ông cụ ơi, chèo thế này chậm lắm.
Người đã làm việc thì không cần cầu nguyện nữa (có ý nói: chỉ cần chèo một chiếc
chèo có chữ “làm việc” thôi).
Ông cụ không nói gì, chỉ buông
chiếc chèo có hai chữ “cầu nguyện” ra thôi, rồi cứ chèo chèo chiếc có hai chữ
“làmviệc” kia.
Ông cụ cứ cố sức chèo nhưng thuyền
không đi được bước nào, chỉ quay tròn đi thôi.
Thấy thế người thanh niên kia mới
hiểu rằng, ngoài chiếc chèo làm việc ra, còn cần phải có chiếc chèo cầu nguyện
nữa, thuyền mới đi được.
21. Cầu nguyện là để Chúa lo liệu
cho ta
Người ta kể lại rằng, sau khi vẽ
xong bản họa đồ kiến trúc cho ngôi thánh đường nổi tiếng tại Roma - Đại Vương
cung thánh đường Thánh Phêrô, Kiến trúc sư Bramante dắt đứa con nhỏ của ông
cùng đi vào để yết kiến Đức Thánh Chúa và trình lên cho Ngài xem. Lúc đó là Đức
Thánh Chúa Juilio II. Đức Thánh Cha xem xong Ngài rất vui. Bản họa dồ kiến trúc
đã thể hiện được đúng ý muốn của Ngài. Để tưởng thưởng cho những công lao vất vả
của Kiến trúc sư Bramante, Ngài tế nhị dẫn đứa con nhỏ của ông đến chỗ ngài để
tiền rồi bảo cậu bé:
- Con bốc đi. Bốc đầy hai bàn
tay của con. Phần thưởng cho con đó.
Cậu bé do dự mãi không bốc. Đức
Thánh Chúa chờ mãi... Sau đó Ngài thò tay vào bốc và bảo cậu bé đưa vạt áo ra.
Ngài bốc bỏ đầy vạt áo của cậu.
Lúc ra về ông bố hỏi cậu con
- Sao Đức Thánh Chúa bảo con đưa
tay mà bốc mà con không bốc?
- Ồ, bố không biết là tay con nhỏ
còn tay Đức Thánh Cha lớn hơn sao?
Chúa cũng đối xứ với những ai biết
hy sinh cho Chúa như thế.
22. Lý do để cầu nguyện
Đức Cha Tihamer Toth kể:
Một triết gia kia buồn vì người
học trò xuất sắc của mình ngày càng ham suy tư nhiều cho nên việc cầu nguyện
càng ngày càng ít đi. Khi hỏi lý do thì người học trò đáp:
- Thứ nhất, Chúa biết hết mọi sự, không cần
chúng ta nói. Thứ hai, Chúa tốt lành vô cùng, Ngài sẽ cho chúng ta mọi thứ
chúng ta cần. Thứ ba, Ngài là Đấng Vĩnh Cửu, lời cầu nguyện của chúng ta chẳng
thay đổi được Ngài.
Triết gia không nói gì. Ông đến
ngồi dưới bóng cây, mặt buồn bã. Người học trò hỏi:
- Tại sao thầy buồn thế?
- Người bạn của thầy có một thửa
ruộng rất tốt, hằng năm sản xuất rất nhiều hoa màu. Nhưng bây giờ ông ta bỏ mặc
không chăm sóc gì cho nó nữa.
- Bộ ông ta khùng ư ?
- Không đâu. Ông còn khôn nữa là
đành khác. Ông nói: Chúa yêu thương vô cùng. Ngài sẽ lo cho tôi mọi thứ tôi cần,
thế nên chẳng cần làm ruộng nữa. Chúa quyền phép vô cùng, dù tôi không cày xới,
Ngài vẫn thừa sức cho nó sinh sản hoa màu.
- Như thế nghĩa là thử thách
Chúa rồi còn gì nữa?
- Thì con cũng thế thôi.
Một thanh niên người Scotland
làm mướn cho gia đình khá giả. Nhưng hai tuần sau, anh xin nghỉ. Một người bạn
hỏi:
- Có phải công việc quá nặng
không?
- Không.
- Hay lương thấp?
- Không, lương cao.
- Có lẽ thức ăn không hợp với
anh?
- Thức ăn rất ngon.
- Thế sao anh nghỉ việc?
- Tôi nói để anh biết. "Nhà
không có mái che."
Ở Scotland, thành ngữ này ám chỉ
một gia đình không có sự cầu nguyện.
23. Hãy cầu nguyện
Cuốn sách “Quẳng gánh lo đi
mà vui sống” được coi là cuốn sách bán chạy nhất thế giới vào
những năm 1948-1950. Tác giả cuốn sách này, Dale Carnegic, đã thu tập
tài liệu trong 7 năm. Đặc biệt, để cuốn sách có giá trị, tác giả
đã đặt giải thưởng 200 mỹ kim cho ai viết được câu truyện có thực về
bản thân: “Tôi đã thắng được ưu phiền cách nào?” Kết quả cuộc thi, ban
giám khảo đã chọn được hai truyện hay nhất, hay ngang nhau, do đó giải
thưởng phải chia đôi. Sau đây là một trong hai truyện đó:
Trong cuộc kinh tế khủng
hoảng, lương trung bình nhà tôi là 18 mỹ kim mỗi tuần. Nhiều khi không
được số đó nữa, vì hễ đau thì bị trừ lương, mà nhà tôi thường lại
đau vặt. Chúng tôi nợ tiệm tạp hoá 50 mỹ kim và phải nuôi năm đứa
con, tôi phải giặt ủi thuê cho hàng xóm và phải mua quần áo cũ về
sửa lại cho cháu bận, rồi âu sầu quá, tôi hoá đau. Một hôm người chủ
tiệm tạp hoá kia lại mách tôi rằng đứa con trai bảy tuổi của tôi ăn
cắp hai cây viết chì. Tôi hỏi cháu, cháu khóc. Tôi biết rằng cháu
ngay thẳng dễ cảm động và người ta đã làm nhục cháu ở trước đám
đông. Từ đó tôi phát đau lung. Tôi nghĩ tới tất cả những nỗi đau khổ
đã chịu đựng và không thấy chút hy vọng gì về tương lai hết. Ưu tư
quá đến nỗi suýt nữa tôi hoá điên. Tôi khoá máy giặt lại, gọi đứa
cháu gái năm tuổi vào phòng ngủ, đóng kín cửa sổ, lấy giấy và giẻ
bịt hết các lỗ hở trong phòng, cháu hỏi tôi: “Má làm gì đó?” Tôi
đáp: “Cho gió khỏi lọt.” Rồi tôi mở vòi hơi đốt (ta biết hơi đốt rất
độc, nếu không đốt, ngửi vào một lúc sẽ chết). Hai mẹ con nằm cạnh
nhau trên giường. Cháu hỏi: “Má, sao kỳ vậy má? Mới dậy lúc nãy, sao
bây giờ đã buồn ngủ?” Tôi đáp: “Không hại, má con mình ngủ thêm chút
nữa.” Rồi tôi nhắm mắt nghe hơi phì từ vòi ra. Chao ôi! Không bao giờ
tôi quên mùi hôi ấy…! Đột nhiên tôi vẳng tai nghe tiếng âm nhạc, tôi
lắng tai. Thì ra tôi đã quên tắt máy thâu thanh trong bếp. Mặc kệ.
Nhưng bài nhạc tiếp tục. Kế đó có ai lên tiếng ca một điệu cổ:
Tâm hồn bình tĩnh mất đi,
Đớn đau vô ích rước chi vào mình
Chỉ vì dại chẳng nguyện kinh,
Mọi điều cầu Chúa thênh thênh trong lòng
Nghe đoạn tôi nhận thấy đã
lầm lẫn một cách thê thảm, khi một mình tranh đấu ghê gớm với đời
mà chẳng biết trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Thế là tôi nhảy
phắt dậy, khoá vòi hơi và mở cửa ra. Tôi vừa khóc lóc vừa cầu xin.
Không những tôi cầu Chúa giúp tôi, mà tôi còn đem cả tấm lòng thành
kính cảm tạ Ngài: nhờ Ngài phù hộ mà tôi có năm đứa con khoẻ mạnh,
xinh xắn, thông minh, ngoan ngoãn. Tôi hứa với Ngài không bao giám quên
ơn Ngài nữa. Và tôi đã giữ được lời hứa ấy.
Tình thế của tôi từ ngày
đó mỗi ngày mỗi khả quan. Nghĩ lại cái ngày ghê gớm mà tôi tự tử,
tôi cảm ơn Chúa ngàn lần đã thức tỉnh tôi, nếu tôi mê muội, sau này
tôi mất bao nỗi vui, bao nhiêu năm đẹp đã lạ lùng! Bây giờ mỗi lần
nghe ai có ý định tự tử tôi muốn la lớn: Đừng! Đừng! Những ngày đen
tối nhất trong đời ta sẽ qua đi, tương lai rực rỡ sẽ tới… HÃY CẦU
NGUYỆN.
24. Giá trị của đau khổ
Ông Gióp là người công chính, được
Chúa ban của cải dư đầy, ông có 7 người con trai, chúng khôi ngô tuấn tú, và ba
cô con gái của ông là hoa khôi trong vùng. Con cái ông luân phiên mở tiệc từ
nhà anh cả cho đến em út, rồi ngược lại. Dầu ăn uống vui vẻ như thế, nhưng tối
nào ông Gióp cũng họp các con lại để xét mình và cầu nguyện, xin Chúa soi sáng
xem trong ngày các con có làm gì phiền lòng Chúa và xóm giềng không?
Ngày nọ, qủy đến trình diện
Chúa, Ngài hỏi:
- Ngươi có thấy Gióp của Ta
trung tín không?
- Thưa Ngài, vì Ngài cho nó giàu
có, sống sung sướng, nếu Ngài để nó khổ, chắc nó sẽ chửi Ngài.
- Ta cho ngươi được quyền trên của
cải Gióp có.
Thế là qủy liền ra tay hành hạ
Gióp.
Ông Gióp đang ở nhà, thình lình
có người chạy về đưa tin:
- Bò đang cày, lừa đang ăn, thì
dân Saba xông vào cướp hết, các tôi tớ bị giết chết, còn mình tôi sống sót về
báo tin cho ông….
Hắn còn đang nói, thì một người
khác chạy vào nhà hớt hải:
- Thưa ông chủ, lửa từ trời đổ
xuống thiêu rụi bầy cừu và các tôi tớ ngài, chỉ mình tôi chạy thoát về báo tin
cho ngài…
Người đầy tớ chưa hoàn hồn, thì
một đầy tớ khác chạy đến, gương mặt tái xanh, giọng run run:
- Ba toán người Kanđê cướp hết lạc
đà và giết hết các tôi tớ, còn mình tôi thoát chạy về đây …
Ông Gióp chưa nghe hết câu, thì
bỗng một người khác với gương mặt đầy kinh hoàng chạy đến:
- Có môt cơn gió lốc từ sa mạc
ùa vào làm sập nhà các con ông đang ăn uống, tất cả đều chết bẹp dí trong đó,
chỉ còn mình tôi may mắn thoát chết chạy về báo tin cho ông….
Bao nhiêu tai họa dồn dập trút
xuống ông Gióp. Dầu vậy vẫn không lay chuyển được lòng trung tín của ông đối với
Thiên Chúa, như ông nói: “Chúa đã ban cho Ngài lại lấy đi, xin chúc tụng danh
Chúa!” (G 1, 21)
Ma qủy lại được Thiên Chúa cho
phép làm hại trên thân xác ông Gióp: ung nhọt lở loét khắp người, ông ngồi trên
đống tro và dùng mảnh sành cạo máu mủ chảy xuống!
Bấy nhiêu đau khổ cũng chưa chua
xót bằng chính người vợ ông đã không tiếc lời xỉa xói: “Ông còn kiên quyết
trong sự liêm chính của ông nữa hay thôi? Hãy nguyền rủa Thiên Chúa và chết đi
cho rồi!”
Rõ ràng ông Gióp bị Satan, người
đời, cả vợ cũng xông vào tấn công, mà xem ra Chúa chẳng thương! Cả vào thời ân
sủng, thời mà Con Thiên Chúa vào đời, Đức Giêsu cũng gặp thấy cảnh con người phải
khổ đủ mặt ở khắp nơi nội trong một ngày, và Ngài đã ra tay cứu giúp:
Đức Giêsu bước vào đời, không phải
Ngài đến đập phá mọi thập giá, vì chính Ngài “dầu là Con Thiên Chúa, Ngài cũng
phải trải qua nhiều đau khổ, để học cho biết thế nào là vâng phục”(Dt 5, 8), để
Ngài dạy cho mọi người biết biến đổi khổ giá thành Thánh Giá chuộc tội mình, và
cộng tác với Đức Giêsu, hy vọng được bù vào những gì còn thiếu sót trong cuộc Tử
Nạn của Ngài (x Cl 1, 24), một khi biết vâng phục thánh ý Thiên Chúa để được kết
hợp với Chúa Giêsu.
25. Gương bày lôi kéo
Người ta nói: “Lời nói lung lay,
gương bày lôi kéo.” Quả thế, lời nói phải luôn đi đôi với việc làm. Đó chính là
yếu tố làm cho lời nói có sức thuyết phục nhất.
Sách Tin Mừng cũng như bài Tin Mừng
hôm nay cho thấy Chúa Giêsu là con người nhất quán, vì việc làm luôn song hành
với lời Ngài rao giảng; Ngài chữa trị cho người bị quỷ ám giữa cử tọa đông đúc ở
hội đường, cũng như chữa lành cho bà nhạc mẫu ông Simon trong căn nhà nhỏ bé,
trước sự chứng kiến vỏn vẹn vài người của gia đình.
Cách Ngài chữa bệnh cho bà cũng
rất thân tình: đến bên giường, cầm tay người bệnh và đỡ dậy. Chúa không chỉ chữa
bệnh mà còn muốn bày tỏ tình thân, sự quan tâm gần gũi đối với bệnh nhân.
Kinh Thương người có mười bốn mối,
thương xác bảy mối dạy ta: viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc. Bạn đã đọc nhiều lần lời
kinh này, nhưng thực hành được bao nhiêu lần?
26. Thiên Chúa là nơi con người
nương tựa
Có một gia đình sống giữa cánh đồng.
Đang đêm khuya thì căn nhà bốc cháy dữ dội. Cha mẹ, con cái chạy ra sân đứng
nhìn một cách bất lực ngọn lửa đang hừng hực thiêu huỷ căn nhà theo từng luồng
gió.
Bỗng người mẹ thấy thiếu mất cậu
con út. Khi nghe kêu cháy, cậu cũng chạy xuống thang, nhưng thấy lửa cháy dữ
quá cậu lại chạy ngược lên lầu. Đang lúc cả nhà hốt hoảng không biết làm cách
nào cứu cậu ra thì cánh cửa trên lầu mở toang, cậu bé kêu la trong hoảng sợ
trong khung cửa. Người cha gọi tên con và kêu lớn với cậu: “Con cứ nhảy xuống
đi, ba sẽ đỡ con.”
Nghe tiếng cha, nhưng nhìn xuống
bên dưới chỉ thấy khói mù và lửa cháy, cậu bé hét lên: “Con không thấy ba ở đâu
hết!”
Người cha trả lời, giọng cương
quyết: “Cứ nhảy đi, ba thấy rõ con.”
Lửa cháy sát sau lưng buộc cậu
bé leo lên cửa sổ, nhảy liều xuống và an toàn rơi vào vòng tay vạm vỡ đầy tình
yêu thương của người cha.
Chính khi đi tìm hạnh phúc là
lúc người ta thấy rõ tình trạng bất lực, không điểm tựa của mình: “Cuộc sống
con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao? Và chuỗi ngày lao lung
vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê?” Giữa cuộc đời nhiều thay đổi, người ta mới
nhận ra Thiên Chúa là chỗ nương tựa vững vàng cuối cùng mà họ phải chạy đến giữa
cảnh đời bấp bênh: “Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không
một tia hy vọng. Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt
con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (G 7,1.6.7).
27. Nhận để cho
“Đức Giêsu lại gần, cầm lấy tay
bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các Ngài.” (Mc 1,29-39)
Ở Palestin có một cái biển nằm
giữa đất liền. Sông Gio-đan đổ nước vào nó, nhưng nó không có chỗ nào khác để
thoát nước ngoại trừ việc nước biển bị bốc hơi rất nhanh do sức nóng của sa mạc.
Chính vì thế mà nước biển rất mặn, mặn đến độ không một sinh vật nào sống nổi,
trừ một ít vi khuẩn. Do đó mà nó mang một cái tên ‘xui xẻo’: “Biển Chết."
Biển thường được ví như mẹ sinh ra muôn loài sinh vật, thế mà biển ở đây vắng
bóng sự sống vì nó chỉ biết nhận mọi nguồn nước đến, mà lại không cho đi cái nó
nhận.
Tin Mừng hôm nay kể lại việc
Chúa chữa lành mẹ vợ ông Si-mon. Bà đã mau mắn phục vụ Chúa và các môn đệ cách
quảng đại, sau khi được chữa lành. Thái độ “nhận để cho” của bà là sứ điệp Chúa
mời chúng ta phải biết nhân rộng ơn lành của Chúa đến cho người khác. Nhận mà
không cho là lối sống giống như biển chết, không phải của con cái sự sống. Nhận
để cho mới chính là sống chứng nhân của người Kitô hữu trong xã hội hôm nay.
“Chúng ta muốn ban phát yêu thương đến cho người
khác, chính chúng ta phải được tràn đầy tình yêu để ban phát. Nếu chúng ta cảm
nhận được tình yêu Chúa dành cho chúng ta, thì chính tình yêu này lan toả từ
chúng ta” (Têrêsa Calcutta).
28. Sống để làm gì?
Một chiếc xe lửa tốc hành đụng
vào một chiếc xe hơi do một sinh viên trường đại học Cincinnati lái. Thật lạ
lùng, cô sinh viên không hề hấn gì. Biến cố này đã tác động sâu xa đến cô. Cô
không cảm thấy sự sống này là của mình, cũng không sử dụng cuộc sống như cô muốn
nữa. Cô cảm thấy mình được cứu sống không phải do công lao hay tài năng của
mình. Cô tin rằng cô được cứu sống là để “phục vụ” Bà mẹ vợ của Phêrô đáp trả
như thế khi bà được Chúa Giêsu chữa lành. Phúc âm nói: “Bà bắt đầu phục vụ các
ngài”
Bạn đã có lần nào giáp mặt với tử
thần chưa? Biến cố đó đã tác động đến quãng đời còn lại của bạn như thế nào? Tại
sao?
Bạn không thể cứ mãi mãi là quả
trứng tốt. Hoặc bạn sẽ nở ra hoặc bạn sẽ hư đi (C.S Lewis).
29. Gieo gì thì gặt nấy
Một nhà truyền giáo người
Scottland tên là Robert Moffat từ Châu Phi trở về, cố gắng tuyển một số người để
giúp ông. Một đêm lạnh giá nọ, chỉ có một vài bà già và một cậu bé đến nghe ông
nói chuyện. Moffat thầm nghĩ: “Thật chẳng nên mất thời giờ cho buổi nói chuyện
này” Nhưng rồi ông vẫn hết mình làm việc đó. Những lời nói của Moffat đã thúc đẩy
cậu bé. Khi lớn lên, cậu đã trở thành một bác sĩ, làm việc như một nhà truyền
giáo ở Châu Phi. Đó là bác sĩ David Livingstone, một người nổi tiếng khắp thế
giới.
Câu truyện về việc Êli đã dạy cậu
Samuel và việc Moffat gợi hứng cho cậu Livingston mời gọi tôi kiểm điểm xem tôi
đã giúp đỡ và truyền cảm thế nào trong khi tiếp xúc người trẻ?
Hãy đối xử với một em bé như thể
em đã là người mà em có thể trở thành trong tương lai (Halm Ginott).
CNTN
5C - KẺ CHINH PHỤC CON NGƯỜI
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, dân chúng chen nhau lại gần Ðức Giêsu để nghe lời Thiên
Chúa, lúc đó Người đứng ở bờ hồ Giênêsarét. Người trông thấy hai chiếc thuyền đậu
gần bờ; những người đánh cá đã ra khỏi thuyền và họ đang giặt lưới. Người xuống
một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simon, và Người xin ông đưa ra khỏi bờ một
chút. Rồi Người ngồi trên thuyền, giảng dạy dân chúng.
Vừa giảng xong, Người bảo ông Simon rằng: "Hãy đẩy thuyền
ra chỗ nước sâu, và thả lưới bắt cá.” Ông Simon thưa Người rằng: "Thưa Thầy,
chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết; nhưng vì lời Thầy, con sẽ
thả lưới.” Các ông đã thả lưới và bắt được rất nhiều cá; lưới các ông hầu như bị
rách. Bấy giờ các ông làm hiệu cho các bạn đồng nghiệp ở thuyền bên cạnh đến
giúp đỡ các ông. Những người này tới, họ đổ cá đầy hai chiếc thuyền, đến nỗi những
thuyền chở nặng gần chìm.
Thấy thế, ông Simon sụp lạy dưới chân Chúa Giêsu và thưa Người rằng:
"Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi.” Ông kinh
ngạc và tất cả mọi người ở đó với ông cũng kinh ngạc trước mẻ cá mà các ông vừa
mới bắt được; cả ông Giacôbê và Gioan, con ông Giêbêđê, bạn đồng nghiệp với ông
Simon cũng thế.
Nhưng Chúa Giêsu phán bảo ông Simon rằng: "Ðừng sợ hãi: từ
đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta.” Bấy giờ các ông đưa thuyền vào bờ, và đã
từ bỏ mọi sự mà đi theo Người.
TRUYỆN KỂ
1. Thành quả vàng son
Thánh Gioan Vianney, lúc còn là
chủng sinh, học rất chậm. Ngày kia, một giáo sư thần học, thừa lệnh Đức Giám Mục
đến khảo sát Vianney xem có đủ khả năng học vấn để tới chức linh mục chăng?
Tuy đã dốc hết sức học hành,
Vianney vẫn không thể trả lời được câu nào cho trôi chảy.
Nổi nóng, vị giáo sư đập bàn
nói: "Vianney, anh dốt đặc như con lừa! Với một con lừa như anh, Giáo Hội
hy vọng làm nên trò trống gì.”
Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả
lời: "Thưa cha, ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương hàm con lừa mà đánh
bại 3000 quân Philitinh. Vậy với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm được
việc gì sao?"
Quả thật, con lừa của Thiên Chúa
đó, sau này không chỉ trở thành một cha sở, mà còn được tôn phong làm thánh bổn
mạng của các cha sở.
Hôm nay, Simon cũng vất vả suốt
một đêm chài lưới mà không bắt được một con cá nào, nhưng: "Vì lời Thầy
con sẽ thả lưới" (Lc 5,5). Và lạ thay, một mẻ cá lớn bất ngờ, đến nỗi lưới
hầu như sắp rách. Trước tình thế này, Simon chỉ còn biết bỏ thuyền, chạy đến sấp
mình dưới chân Chúa Giêsu mà nói: "Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì
con là kẻ tội lỗi" (Lc 5,8).
Kẻ nhận mình là tội lỗi yếu hèn
đó, sau này đã trở thành Phêrô, người thuyền trưởng của con thuyền Giáo Hội.
Có một điểm gì đó rất giống
nhau, rất tương đồng giữa Vianney và Phêrô. Đó chính là nhận mình yếu hèn khuyết
điểm và hoàn toàn để Chúa lèo lái điều khiển đời mình. Nhờ đó, Chúa đã ban tặng
cho các ngài những đậc ân vô cùng lớn lao. Vì ơn Chúa chỉ ban xuống cho những kẻ
khiêm nhượng.
2. "Vâng lời Thầy, con sẽ
thả lưới"
Ban đêm là lúc thuận tiện để
đánh cá. Nếu một người nào khác nói với Phêrô "Hãy chèo ra chỗ nước sâu mà
thả lưới bắt cá", có lẽ ông đã vặn lại "Bộ anh khùng hả? Anh muốn cho
tôi thành trò cười cho các bạn chài khác sao? Đã thả lưới suốt đêm mà không bắt
được con cá nào thì làm sao mà bắt được nữa khi trời đã sáng.”
Nhưng vì người nói câu đó là
Chúa Giêsu nên Phêrô đã không vặn lại như thế. Ông cũng trình bày quan điểm của
mình "Thưa Thầy, chúng con đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả",
nhưng liền sau đó thì vâng lời "Nhưng vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới.” Đối
với Phêrô, lời nói của Chúa Giêsu không như lời của những người khác, vì nó có
uy tín mà lời của bất cứ ai khác đều không có. Bởi thế, nếu Chúa Giêsu đã bảo,
thì cho dù tình thế có vô vọng bao nhiêu đi nữa, cho dù ông đã mệt mỏi bao
nhiêu đi nữa, và cho dù người ta có thể nhạo cười bao nhiêu đi nữa, Phêrô cũng
phải vâng theo.
Phêrô đã tin tưởng tuyệt đối vào
Chúa Giêsu. Tin vào lời Ngài, ông đã thử làm điều bất khả. Sau này chúng ta lại
thấy ông tin vào lời Chúa Giêsu mà bước đi trên mặt biển.
Chúa Giêsu chẳng những bảo ông
thả lưới bắt cá, mà còn bảo ông làm môn đệ, chia xẻ sứ mạng của Ngài. Phêrô có
đức tính gì mà được Chúa Giêsu mời gọi như thế? Đức tính thứ nhất và quan trọng
nhất Chúa Giêsu thấy nơi Phêrô là Tin vào Lời Ngài. Đức tính thứ hai là Khiêm tốn.
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay không
chỉ là chuyện về đánh cá, mà còn là chuyện về lòng tin tưởng. Vì Phêrô tin tưởng
vào lời Chúa Giêsu, nên Ngài chẳng những bảo ông thả lưới lại một lần nữa, mà
còn kêu gọi ông lãnh nhận một sứ mạng quan trọng hơn "Từ nay anh sẽ là người
thu phục người ta.”
Mọi kitô hữu chúng ta cũng đều
được Chúa gọi như Phêrô. Và điều quan trọng nhất Ngài chờ đợi nơi chúng ta là
tuyệt đối tin tưởng vào Ngài. (FM)
3. Thu phục lòng người
Một ngày nọ, Tổng thống Abraham
Lincoln đi đến thành phố Charleston, tiểu bang South Carolina. Khi đi ngang qua
trung tâm thành phố, ông trông thấy người ta đang tổ chức một cuộc đấu giá buôn
bán nô lệ. Chứng kiến cảnh buôn bán người, tận đáy linh hồn ông cảm thấy bị
khuấy động lên cơn giận dữ của Thiên Chúa, và một nỗ lực phải làm để cứu những
người nô lệ. Do đó ông đã làm một điều độc đáo và bất thường nhất. Ông bước vào
trong đám đông, khi cuộc trả giá bắt đầu, trước tiên là một em gái nô lệ rất
nghèo, ông đã bước ra trả giá trước. Cuộc đấu giá càng lúc càng sôi động, ông
tham gia rất tích cực, và sau cùng đã trúng giá, đánh hạ tất cả mọi người. Ông
trao tiền để lấy người nô lệ. Cô bé gái được đem đến cho ông. Con bé sợ hãi hỏi
ông sẽ làm gì đối với nó. Abraham Lincoln trả lời:”Tôi sẽ để cho cô được tự do.”
“Tự do? Tự do để làm gì”? Cô bé kinh ngạc hỏi. Ông trả lời:”Tự do để làm bất cứ
cái gì cô muốn.” Cô bé thắc mắc có phải mình được tự do đi đến bất cứ chỗ nào
cô muốn, làm bất cứ điều gì cô thích, nói bất cứ điều gì cô nghĩ, và làm bất cứ
nghề nào cô ước muốn. Sau cùng cô bé mỉm cười và nói:”Cháu sẽ đi theo ông.”
Abraham Lincoln đã chứng tỏ cho
chúng ta thấy, ông là một con người gương mẫu và biết cách “kêu gọi” dân chúng
“theo ông.” Ông đã gọi họ bằng chính gương sáng của mình. Trong bài Tin mừng
hôm nay, Đức Giêsu kêu gọi Phêrô, rồi Giacôbê, Gioan và Anrê cũng đi theo Ngài.
Đức Giêsu đã cho họ biết Ngài là ai qua việc giảng dạy, chữa lành, và bằng các
đức tính tốt lành, nhân từ và tha thứ của Ngài.
4. Cần có ơn Chúa để làm người
Hôm đó một nhà phẫu thuật nổi tiếng
người Hòa Lan thực hiện một ca mổ tử thi trong hội đường của một trường đại học.
Chung quanh ông có cả một đoàn sinh viên đông đảo cùng tham dự. Tử thi này là
xác của một tội nhân phạm trọng tội và bị án treo cổ. Khi phóng tầm nhìn trên
khuôn mặt của tử thi, ông cảm thấy như có một cái gì quen quen. Ông nhìn đi
nhìn lại nhiều lần và không bao lâu thì các sinh viên thấy mặt của thầy mình tự
nhiên biến sắc rồi cả con người của ông run lên. Các sinh viên cảm thấy vô cùng
ngạc nhiên vì bình thường thì ông là một con người rất bình tĩnh.
Cuối cùng thì ông phải lên tiếng
để giải thích: "Các bạn ạ! Người này là một trong số những người bạn trong
thời thơ ấu của tôi. Bây giờ tôi là người như thế nào thì các bạn đã thấy. Hãy
để tôi nói cho các bạn điều này: Nếu không có ơn của Thiên Chúa thì tôi thấy chẳng
có cái gì khác có thể giúp tôi tránh khỏi cái tình trạng của người bạn tôi đang
nằm ở trước mặt các bạn đây"
Hãy cộng tác với ơn của Chúa.
Hãy mau mắn đáp lại lời mời gọi của Người. Có Người chỉ đường dẫn lối chúng ta
sẽ không sợ lạc hướng. Có Người bảo trợ chắc chắn chúng ta sẽ thành công.
5. Biết có Chúa
Đây là câu chuyện do Anatole
France đã viết và đã được dựng thành phim được chiếu nhiều trước đây tại Việt
Nam. Câu chuyện có liên quan đến một người đà bà tên là Thái.
Và Thái sống ở Aicập vào thế kỷ
thứ tư và có một cuộc sống nổi tiếng là phóng đãng. Nhà ẩn tu Paphnatius biết
được tin ấy thì cầu xin với Chúa soi sáng giúp đỡ cho ngài để ngài có thể tìm
phương tìm cách giúp đỡ cho người đàn bà này được trở về với Chúa. Sau khi được
Chúa soi sáng, Paphnatius cải trang tìm đến gặp nàng và xin được gặp nàng ở một
nơi thật kín đáo. Nàng dẫn Ngài qua rất nhiều phòng nhưng chỗ nào Ngài cũng chê
là chưa đủ an toàn. Thai dẫn Ngài đến một nơi cuối cùng và ngoài ra thì không
còn một chỗ nào khác.Thế nhưng nhà ẩn tu cũng cho là chưa đủ an toàn. Tức quá
không còn kiên nhẫn thêm được nữa, nàng nó thật to:
"Chắc chắn là không ai có
thể nhìn thấy chúng ta ở trong nơi này. Tuy nhiên nếu ngài muốn tránh được sự
hiện diện của Thiên Chúa thì Ngài sẽ chẳng bao giờ mà làm được điều đó dù ngài
có ẩn trốn ở một nơi kín đáo nào đi nữa"
Vừa nghe thấy thế Paphnatius vội
hỏi ngay: "Thế nào? Nàng mà cũng biết là có một Thiên Chúa sao?
- Có lẽ thế! Tôi còn biết có một
thiên đàng dành cho những người thánh thiện và một hỏa ngục dành cho những người
gian ác.
+ Nàng đã biết các điều trên….vậy
thì làm sao mà nàng còn dám sống một cuộc đời như thế trước một vị Chúa luôn
luôn thấy nàng?
Những lời như thế đã xoáy vào
tâm tư người đàn bà tội lỗi. Với một thái độ hoán cải nàng sấp mình xuống thú
nhận tội lỗi của mình quyết làm lại cuộc đời và sau nàng đã chết như một vị
thánh.
6. Miễn sao Tin Mừng được loan báo
Noi gương Chúa Giêsu, đức thánh
giáo hoàng Gioan Phaolô II đã liên tục ra khơi, chèo ra chỗ nước vừa sâu lại vừa
nguy hiểm. Qua 26 năm của triều đại giáo hoàng, ngài đã thực hiện 146 chuyến
công du bên trong nước Ý (không tính Rôma), 104 chuyến công du ra ngoài nước Ý
để thăm viếng hơn 130 quốc gia trên thế giới. Tưởng cũng cần thêm rằng trong số
đó, ngài đã tám lần đến thăm viếng các nước Hồi Giáo, đặc biệt là vị giáo hoàng
đầu tiên bước vào một ngôi Đền thờ Hồi giáo cổ kính tại Syria vào năm 2001.
Tính ra, Thánh Gioan Phaolô II
đã đi công du 1,400,607 km, tương đương 28 lần vòng quanh trái đất. Ngoài ra mỗi
ngày Ngài còn làm việc đến 18 tiếng đồng hồ.
Ngài đã 'chèo' đến những vùng biển
nhiều sóng gió: đến thăm cả những miền đất thù nghịch với Hội Thánh, vào những
'miền đất thánh' của Phật giáo, Ấn giáo, Hồi giáo hay Chính Thống giáo... vào cả
những nơi mà một số đông dân chúng sở tại không muốn cho ngài đến, lại đòi ngài
phải xin lỗi họ (như trong chuyến tông du tại Hy Lạp vào tháng 5 năm 2001), đến
cả những nơi mà tính mạng bị đe doạ... Ngài là vị giáo hoàng can đảm nhất trong
lịch sử, sẵn sàng ra khơi, dấn thân vào những 'chỗ nước sâu', những vũng xoáy,
những nơi sóng gió nguy hiểm cho tính mạng... mà không hề biết sợ là gì, miễn
sao Tin Mừng được loan báo.
7. Ơn gọi phục vụ
- "Thưa ông bà muốn gặp ai ạ?"
Chị Céline đã nói câu ấy lần đầu
tiên cách đây 40 năm. Từ đó ngôi nhà khách với chùm chìa khóa, cái chổi, chiếc
ghế đã trở thành giang sơn của chị.
Bổn phận của chị giữ nhà khách
là gọi người khác. Trong suốt 40 năm trường, chị Céline chỉ làm ngần ấy công việc.
Câu hỏi trên kia chị phải lặp đi lặp lại đến hơn 10 lần mỗi ngày. Với thời
gian, phương thế có đôi phần thay đổi: từ cái kẻng đến chuông điện, rồi điện
thoại, sau đó lại trở về chuông kéo, kẻng sắt… nhưng công việc luôn luôn vẫn là
gọi người khác.
Ôi chao! biết bao khuôn mặt đã
xuất hiện tại nhà khách, bao giọng nói đã vang rền trong điện thoại. Nhưng có một
điều chị Céline hằng đoán chắc: người ta đang gọi, đang xin gặp một người nào
đó… trừ ra chị. Vì thế chị thường nói đùa: "Tôi chỉ được Chúa gọi một lần
duy nhất và từ dạo ấy, tôi đã luôn luôn gọi người khác: tôi được gọi để gọi.”
Một ngày của chị bị cắt vụn
thành từng miếng, công việc của chị bị chẻ thành từng mảnh, luôn luôn là gián
đoạn. Khi cầm chuỗi lần hạt, chị biết mình sẽ không đọc được quá 10 kinh, khi
xem sách chị đoán sẽ thưởng thức không quá 10 dòng ; trong nhà nguyện, chị quỳ ở
ghế cuối cùng, gần cửa ra vào, luôn thấp thỏm đợi chờ chuông reo… Luôn bị gián
đoạn, nhưng chỉ với "sự gián đoạn" này của mình, chị mới có thể tạo
nên "sự liên hệ" của người khác. Chị bao giờ cũng nhanh nhẹn đối với
một khách sang cũng như một bà lão nhà quê. Tất cả mọi người đều ăn cắp giờ của
chị. Không ai cần gặp chị… Với thời gian, da mặt chị nhợt nhạt hơn, người chị
tiều tụy hơn, nhưng nụ cười vẫn tươi nở như thuở nào, lời kinh dâng Chúa mỗi
ngày lại càng thêm sốt sắng hơn.
Và rồi một hôm, trong lúc vội vã
đi gọi người khác, chị Céline đã ngã quỵ trong hành lang nhà dòng, thổ huyết!
Chị bập bẹ: "Chúa đến gọi tôi lần thứ hai" (và cũng là lần cuối). Đôi
tay chị run run ôm lấy lồng ngực khiến chùm chìa khóa rơi trên nền gạch hoa.
Đàng kia, chiếc ghế vẫn vô tình không biết từ nay mình sẽ là vô chủ…
Chị Céline đã suốt đời trung
thành với tiếng gọi của Chúa và với công việc bổn phận hằng ngày của chị: được
gọi để gọi người khác. Giá trị và sự cao cả của chị không phải là ở chỗ đó sao?
8. Ra khơi, mà thả lưới!--AM Trần
Bình An
Chủ đề tĩnh tâm Giáo phận năm
nay là truyền giáo. Đức Giám mục hô hào đẩy mạnh phong trào truyền giáo. Phương
pháp truyền giáo là phát triển Dân Sinh, Dân Trí và Dân Đạo.... Bất ngờ ngài
nói với anh em một câu của một vị thừa sai nào đó: “Linh mục Việt Nam chỉ có
tài coi sóc họ đạo, chứ không biết gầy dựng họ đạo.”
Vì tự ái dân tộc, mình giơ tay
và đứng bật lên như một cái lò xo: “Thưa Đức cha, không phải linh mục VN không
biết gầy dựng họ đạo, nhưng vì chưa có “Bài sai" (Văn thư bổ nhiệm một
linh mục do Đức Giám Mục ấn ký) của Đức Cha.” Mình hung hăng chừng nào thì Đức
Giám mục bình tĩnh chừng ấy. Với giọng trầm buồn, ngài thủng thẳng trả lời:
“Tôi biết đi truyền giáo thì thiếu thốn và cực khổ nhiều lắm, nên không nỡ tâm
sai các cha đi. Cha nào tình nguyện thì tôi mới dám. Vậy cha nào tình nguyện
thì giơ tay lên.” Mình đếm được sáu cánh tay giơ thật cao và thật thẳng: Hai
cha già, hai cha sồn sồn, và hai cha trẻ. Đức Giám mục cười và khôi hài: “Các
cha đi truyền giáo thì bỏ họ đạo, bỏ chủng viện, bỏ trường học cho ai?”
Cả hội trường cười hì một cái.
Thế là đánh trống bỏ dùi. Vấn đề truyền giáo chỉ được nêu lên như một sự gợi ý
và thăm dò. Rồi đây, sau tuần tĩnh tâm, ai nấy lại trở về với họ đạo của mình
và tiếp tục rao giảng Tin Mừng cho người đã nghe. Tuyệt nhiên không nghĩ gì,
không làm gì cho người lương dân, những người chưa bao giờ được nghe Tin Mừng.
9. Được mời gọi để loan báo Tin
Mừng
Franco là một kịch sĩ người
Italia nổi tiếng. Suốt 40 năm lão luyện trong nghề, ông đã đặt hàng trăm vở kịch
thành phim được chiếu trên màn ảnh truyền hình nhà nước, từ năm 1980 đến nay
ông đã dùng để rao giảng Lời Chúa. Franco đi khắp các thành phố và xứ đạo
Italia, vào các nhà tù hay tham dự đại hội ca múa dân tộc để trình diễn Phúc
Âm. Ông dùng mọi nhân tố kịch nghệ để đạo diễn Tin Mừng, chẳng hạn 16 chương
Phúc Âm thánh Marcô được ông diễn xuất thành 96 cảnh.
Ước mong duy nhất của ông là
dùng kịch nghệ để loan báo Lời Chúa. Trong số bạn bè và người thân, có kẻ chế
nhạo ông là người mất trí, nhưng cũng có nhiều người khuyến khích ông trong
sáng kiến mới này, và đã có hàng trăm ngàn người được nghe loan báo Tin Mừng cứu
độ qua hình thức nghệ thuật đó.
Ông tâm sự: "Tôi thật may mắn
được tin vào Chúa Giêsu và có Ngài làm bạn đường trong đời. Không có Chúa
Giêsu, cuộc đời thật là nhạt nhẽo vô vị. Và chính lòng tin đã giúp tôi nảy ra
sáng kiến lấy Ngài làm đề tài diễn xuất. Trong bao nhiêu năm cuộc đời nghệ sĩ,
tôi đã chỉ nói và diễn xuất những gì người khác biết. Nhưng từ 10 năm nay, tôi
đã lựa chọn việc thông truyền cho khán thính giả lịch sử nhất thế giới, đó là
Phúc Âm kể lại cuộc đời Chúa Cứu Thế.”
10. Biết cúi đầu
Ngày xưa có người hỏi Socrates:
“Ông là người có học vấn uyên thâm, ông có biết khoảng cách giữa trời và đất là
bao nhiêu không?”
Socrates trả lời: “Khoảng 1 mét.”
Người đó không tin nói:“Thưa
ông, ngoài trẻ sơ sinh ra, chúng ta ai cũng cao hơn 1m, nếu độ cao giữa trời và
đất chỉ có 1m, thì chẳng phải chúng ta đã đâm vào bầu trời rồi hay sao?”
Socrates tiếp tục nói: “Đúng, ai
mà chả cao hơn 1m, nếu muốn nổi bật giữa trời đất, thì phải biết cách cúi đầu.”
Hóa ra con người cần phải học
cúi đầu. Cúi đầu để thấy mình không bằng ai. Cúi đầu để thấy con người mình thật
hạn hẹp cần đến sự trợ giúp của Trời cao. Cúi đầu để thấy rằng mình cần sự trợ
giúp của anh em. Cúi đầu để thấy mọi sự đều là ân ban của Trời mà biết sống cảm
mến tri ân.
Phê-rô và các bạn chài năm xưa
đã thấy quyền năng Chúa nhờ biết cúi đầu. Cúi đầu để vâng lời Thầy mà chèo ra
chỗ nước sâu mà thả lưới. Họ đã được một mẻ cá quá lớn, lớn đến nỗi một thuyền
không mang về hết mà phải nhờ đến các bạn đồng nghiệp.
Mẻ cá này cũng là hình ảnh tiên
báo cho lời giảng thuyết đầu tiên của Phêrô sau ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Phêrô đã nhờ ơn Chúa thánh Thần mà mang về cho Giáo hội hơn 3000 người tin theo
Chúa.
Các tông đồ cũng dựa vào sức mạnh
của Chúa để ra đi loan báo tin mừng. Các ngài đa phần là dân chài nghèo hèn thế
mà đã thay đổi cả thế giới. Văn hoá kytô giáo đã phủ khắp năm châu bốn biển
không do tài trí của con người, mà do quyền năng Chúa thực hiện trên những con
người vốn dĩ bất toàn vẫn làm nên những chuyện phi thường.
11. Mẻ cá lạ
Một trong những lời giảng dạy
làm nhiều người khó chịu, nhưng cũng rất thú vị, của Minh Sư là: ”Thượng Đế gần
gũi kẻ có tội hơn là người thánh thiện.”
Ngài dùng hình ảnh để giải thích
như sau:
- Thượng Đế ở trên thiên đàng nắm
mỗi người ở đầu một sợi dây. Khi người ta phạm tội, sợi dây đó bị cắt đứt. Bấy
giờ Thượng Đế cột sợi dây lại bằng cách làm một nút thắt - và như vậy, Ngài kéo
họ lại gần Ngài hơn. Cứ như thế, mỗi khi người ta phạm tội, sợi giây bị cắt đứt,
Thượng Đế lại buộc một nút thắt mới để kéo chúng ta lại gần Ngài nhiều hơn nữa.
“Lạy Ngài! Xin tránh xa con, vì
con là kẻ tội lỗi” (Lc. 5,8).
Bạn thân mến! Trên đây là lời
nói của Simon Phêrô thưa với Chúa Giêsu khi ông cảm nhận được sự thấp hèn tội lỗi
của mình trước đấng thánh cao cả Giêsu, khi ông kinh ngạc trước phép lạ “Mẻ Cá
Lạ” mà ông đã được chứng kiến và cũng là người trong cuộc.
12. Một khởi đầu tốt đẹp
Isaia, Phaolô và Phêrô là trung
tâm của các Bài đọc hôm nay. Cả ba người đã làm những điều vĩ đại cho Thiên
Chúa. Tuy nhiên họ đều có mặc cảm tự ti. Họ có một quan điểm thấp kém về mình.
Họ không đặt mình ra trước, nhưng được Thiên Chúa kêu gọi. Họ chấp nhận ơn gọi ấy
một cách miễn cưỡng, nghĩ rằng họ không xứng đáng với ơn gọi.
Isaia nói: “Tôi là một người có
đôi môi ô uế.” Phaolô nói: “Tôi là người nhỏ nhất trong các tông đồ. Tôi không
xứng đáng mang danh tông đồ.” Và Phêrô tuyên bố: “Lạy Chúa, xin hãy tránh xa
con, vì con là kẻ tội lỗi.” Đó không phải là một sự khiêm nhường giả tạo của
ông mà là một chân lý rõ ràng.
Mỗi người bắt đầu bằng sự nhận
ra sự bất xứng và không thích hợp của mình. Theo một quan điểm tâm linh, sự khởi
đầu như thế là lý tưởng. Người nào đặt mình ra trước xem ra làm hại hơn có lợi.
Người ấy chỉ cậy dựa sức mình là cát mà thôi và ngôi nhà tâm linh xây trên cát
chắc chắn sẽ sụp đổ.
Mặt khác, khi chúng ta gặp một
người lo sợ, miễn cưỡng ngần ngại, chúng ta nhận thấy người ấy đáng tin hơn, và
nhân đạo hơn. Yếu tố miễn cưỡng này là cốt lõi của vấn đề, bởi lẽ nếu một thánh
nhân hoặc tử đạo hăm hở đi tìm cái chết hoặc cực hình xem ra không chân thật.
Ở đây có một nghịch lý to lớn.
Phaolô nói: “Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,10). Nghĩa là khi ông
nhận ra sự yếu đuối của mình và chạy đến Thiên Chúa, quyền năng của Thiên Chúa
trở nên có hiệu lực nơi ông.
Khi chúng ta biết những yếu đuối
của chúng ta, Thiên Chúa có thể làm chúng ta mạnh mẽ. Khi chúng ta biết sự trống
rỗng của chúng ta, Thiên Chúa có thể đổ đầy chúng ta. Khi chúng ta biết sự
nghèo nàn của chúng ta. Lúc đó, chúng ta thích hợp để làm công việc của Người,
và Người hoàn thành trong chúng ta những việc mà chúng ta nghĩ mình không làm
được.
Sự khiêm nhường là một khởi điểm.
Điều đó không có nghĩa là chúng ta chỉ yếu đuối, vị kỷ và hèn nhát. Không có ân
sủng, chúng ta không thể cứu lấy mình, càng không thể cứu người khác.
13. Thiên Chúa cần sự cộng tác của
con người
Thánh Augustinô nói một câu rất
nổi tiếng: “Chúa dựng nên con không cần có con nhưng để cứu chuộc con, Chúa cần
sự cộng tác của con.” Mặc dầu, Thiên Chúa ban ơn để biến đổi con người từ bất xứng
trở thành khí cụ hữu hiệu của Chúa. Nhưng Thiên Chúa luôn luôn cần sự cộng tác
của con người. Khi nghe Thiên Chúa mời gọi, Isaia đã sẵn sàng đáp trả và dấn
thân trong sứ mạng tiên tri.
Cũng vậy, sau cú ngã ngựa trên
đường Đamát, Phaolô đã hỏi Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, con phải làm gì?”(Cv 22,10).
Sau đó, Phaolô đã làm theo sự hướng dẫn của Chúa: Lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy bởi
ông Anania. Cố gắng hoà nhập với các Tông đồ và các Kitô hữu tiên khởi. Đặc biệt,
Phaolô đã dùng khả năng và cống hiến sức lực của mình để loan báo Tin Mừng cho
dân ngoại. Có thể tóm tắt sự cộng tác của Ngài với ơn Chúa qua chính lời Ngài kể
trong thư 2 Côrintô sau đây: “… Bao lần suýt chết. Năm lần tôi bị người Do-thái
đánh bốn mươi roi bớt một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm
tàu; một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi! Tôi còn hơn họ, vì phải thực hiện
nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp,
nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa
mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em. Tôi còn phải vất
vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét
mướt trần truồng. Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi
là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh!”(x. 2Cr 11, 23-28).
Với Thánh Phêrô, mặc dầu đang
yên bề gia thất, nghề nghiệp ổn định...Nhưng Ngài đã đáp lại lời mời gọi của
Chúa Giêsu. Ngài đi theo Chúa trong suốt thời gian ba năm, được Chúa huấn luyện,
uốn nắn. Mặc dầu Phêrô đã chối Chúa ba lần, nhưng sau đó đã ăn năn khóc lóc, hối
hận về hành động của mình. Trước khi đặt làm đầu Giáo Hội, Chúa Giêsu đã hỏi
Phêrô ba lần, con có yêu mến Thầy không? Phêrô đã không ngần ngại thưa lên rằng:
“Lạy Thầy, con yêu mến Thầy”(x. Ga 21, 15-19). Phêrô đã thực sự yêu mến Chúa hết
lòng hết sức, Ngài cống hiến hết mình vì sự tồn tại và phát triển của Giáo Hội
thuở ban đầu.
14. Tin vào sức mạnh Lời Chúa
Bài thánh ca “Tin vào tình Chúa”
của Cha Mi Trầm viết rằng: “Người đời dạy con phải sống khôn ngoan nhưng Chúa dạy
con phải sống điên dại.. Người đời dạy con tin vào quyền lực nhưng Chúa dạy con
tin vào tình thương. 2. Người đời dạy con nắm giữ thật chặt nhưng Chúa dạy con
phát hết cho người. Người đời dạy con sẵn sàng dừng lại nhưng Chúa dạy con sẵn
sàng mà đi. 3. Người đời dạy con hãy tin tưởng mình nhưng Chúa dạy con phó thác
nơi Ngài.. Người đời dạy con sống vì hiện tại nhưng Chúa dạy con sống vì ngày
mai. ÐK: Xin cho con tin vào tình Chúa mà dấn bước đời con. Xin cho con tin vào
tình Chúa mà đánh liều đời con.”
Quả thế, chủ nghĩa cá nhân và thực
dụng của xã hội hôm nay gây ra nhiều mối nguy hại cho cuộc sống, nhất là chúng
làm cho các mối tương quan con người với nhau, giữa con người với thiên nhiên
và giữa con người Thiên Chúa bị đảo lộn. Thậm chí, nhiều khi nó làm cho chúng
ta không nhìn thấy Chúa hiện diện trong đời sống chúng ta và Lời của Ngài không
ứng nghiệm nữa!
Chính vì thế, Lời Chúa hôm nay,
đầu năm mới này cho thấy Chúa luôn hiện trong mọi cảnh huống của cuộc sống của
chúng ta và mời gọi chúng ta phó thác tin vào Lời Chúa vì Lời có sức mạnh đem lại
hạnh phúc đích thực cho chính mình, gia đình, giáo xứ, giáo hội và xã hội của
chúng ta ngay ở đời này và đời sau.
15. Khiêm nhường
Nhìn vào cuộc sống, chúng ta thấy:
người khôn ngoan là người biết tận dụng mọi cơ hội để làm giàu cho mình, nhưng
đồng thời cũng phải khiêm tốn để biết mình và biết người. Kẻ thành công đỗ đạt
là kẻ biết tin tưởng, cậy dựa vào kinh nghiệm, kể cả kinh nghiệm của người
khác.
Và hành trình của đức tin cũng
không đi ra ngoài sự khôn ngoan ấy. Đoạn Tin Mừng hôm nay mô tả cho chúng ta
khuôn mặt người khôn ngoan đi tìm Chúa và đã nhận ra Ngài, không ai khác hơn là
thánh Phêrô.
Thực vậy, ông là một dân chài
chuyên nghiệp, một người đi biển nhiều kinh nghiệm quý giá, thế nhưng ông không
quá tự phụ với những sự từng trải ấy, trái lại, ông vẫn có một sự khôn ngoan đặc
biệt, đó là khiêm tốn, tin tưởng và vâng phục vào lời Chúa Giêsu:
- Thưa Thầy, dựa vào lời Thầy,
con xin thả lưới.
Trước mẻ cá lạ lùng này, Phêrô
không tự hào về đức tin của riêng mình để mà khoe khoang với các bạn, cũng như
để kể công với Chúa. Trái lại, thêm một lần nữa, ông vẫn khôn ngoan dựa vào mẻ
cá lạ lùng ấy, để suy nghĩ và nhận ra Đức Kitô là Thiên Chúa của mình. Đứng trước
mẻ cá, Phêrô đã thực sự khiêm tốn thú nhận:
- Lạy Chúa, xin hãy xa con vì
con là kẻ tội lỗi.
Chính nhờ thái độ này, đức tin của
ông được củng cố đến độ ông không chỉ nói lên lời cảm tạ suông, mà còn đáp trả
bằng cả cuộc sống của mình, đó là ông đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa.
16. Người ấy biết đứng lên
Theodore Roosevelt đã từng nói,
"Người đáng được chú ý không phải người biết nhận xét hoặc người biết ý kiến
cho người khác con đường tốt, nhưng là người ở trong cuộc. Người phải chịu xây
sát với nước mắt và mồ hôi, dũng cảm đấu tranh, lầm lỗi và gặp những trắc trở,
biết hăng hái nhiệt tình, mạnh mẽ tin tưởng vào sự thành công của công việc
nhưng lại bị thất bại. Như thế, chỗ đứng của họ không chung với những tâm hồn
cô đơn và nhút nhát, nhưng với những tâm hồn biết cảm nghiệm được thất bại và
chiến thắng."
Không biết trong đầu của
Roosevelt đã có ai là thần tượng hay không, nhưng thật ra điều đó miêu tả một
ngư phủ được Chúa Giêsu kêu gọi theo Ngài để cộng tác vào việc rao giảng Nước
Thiên Chúa: Thánh Phêrô, một con người thuộc giới lao động. Đây là một người ở
"trong trận chiến, xây sát bằng nước mắt và mồ hôi, dũng cảm chiến đấu, lầm
lỗi và luôn gặp những trắc trở, hăng hái nhiệt tình, mạnh mẽ tin tưởng vào sự
thành công của công việc nhưng lại bị thất bại." Hơn hết, đây là một người
biết thế nào là "thất bại" và "chiến thắng."
17. Này tôi đây
Takashi Nagai, một bác sĩ nổi tiếng
của Nhật bản, tác giả của nhiều cuốn sách được yêu thích trong cả nước Nhật –
nhất là cuốn Tiếng chuông Trường kỳ (The Bells of Nagasaki), đã kể về hành
trình của đức tin nơi mình từ khi vào Trường Y khoa năm 1928: “Bắt đầu từ trung
học, tôi đã trở nên tù nhân của chủ nghĩa duy vật... tất cả những gì tôi thấy
chỉ là vật chất. Còn linh hồn là gì? Một bóng ma do những kẻ lừa đảo sáng chế
ra để lừa gạt những người đơn sơ, ngu dốt.”
Năm 1930, cha ông gửi cho ông một
bức điện tín: “Về nhà ngay.” Ông vội vã về. Vừa đến nhà ông đã đờ người ra khi
biết mẹ mình bị bệnh đột ngột, và không còn nói được nữa. Ông ngồi bên mẹ và đọc
thấy trong mắt mẹ mình tiếng chào từ biệt. Ánh mắt người mẹ đã phá đổ tất cả
cái ý thức hệ ông vừa dựng lên cho mình: “Người mẹ đã đưa tôi vào thế giới và
đã gầy dựng nên tôi, là người không lúc nào mà không yêu tôi, và trong giờ sau
hết đã nói với tôi rất rõ ràng. Cái nhìn của mẹ tôi nói cho tôi biết là linh hồn
con người vẫn tiếp tục sống sau cái chết. Cái biết đó đến bởi trực giác, một trực
giác mang hương vị của sự thật.”
Một thân phận rất mong manh, tầm
thường, là câu trả lời đầu tiên cho câu hỏi “Tôi là ai?” trong tâm hồn mọi người.
Tiên tri Isaia, khi đứng trước nhan thánh Chúa, đã sợ hãi cho sự hèn hạ của
mình: .”.. tôi chết mất, vì lưỡi tôi nhơ bẩn, tôi ở giữa một dân tộc mà lưỡi họ
đều nhơ nhớp, mắt tôi đã trông thấy Đức Vua, Người là Chúa các đạo binh”; còn
thánh Phaolô thì nói: “tôi vốn là kẻ hèn mọn nhất trong các tông đồ, và không xứng
đáng được gọi là tông đồ, vì tôi đã bắt bớ Hội thánh của Thiên Chúa”; ngay cả
thánh Phêrô cũng phải thốt lên: “Lạy Chúa, xin Chúa tránh xa tôi, vì tôi là người
tội lỗi”
Nhưng Kinh thánh lại cho thấy
con người tuy rất hèn hạ, nhưng cũng rất cao quí: Còn gì tầm thường hơn bụi đất,
nhưng còn gì cao quí hơn công trình của Chúa? Mà con người là gì nếu không phải
là bụi đất được nhào nắn bởi chính bàn tay Chúa (St 3,7)?
Càng ý thức mình là bụi đất,
càng thấy hạnh phúc khi biết mình được Thiên Chúa của cả vũ trụ yêu thương.
Không phải con người được dựng nên trong một nhà máy, mà trái lại, mỗi người đều
được đích thân Thiên Chúa nhào nắn nên với tất cả tình thương của Ngài. Chính
tình thương đó đã làm thay đổi tất cả: Thần Sốt mến đã gắp than lửa đặt vào miệng
Isaia và nói: “than lửa này đã chạm đến lưỡi ngươi, lỗi của ngươi được xoá bỏ”;
cũng chính tình thương đó nói với Phêrô: “Đừng sợ hãi”
Cuộc sống con người luôn là một
sự liên kết giữa bản chất tầm thường của cát bụi với tình thương bao la của
Chúa: “Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con
người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?” (Tv
8,4-5)
Để trả lời cho câu hỏi “tôi là
ai?” của con người, chính Thiên Chúa đã “tự mặc khải và BAN chính mình cho con
người. Như vậy, Người mang đến một lời giải đáp cuối cùng và phong phú cho những
câu hỏi mà con người đặt ra cho mình về ý nghĩa và cùng đích cuộc đời.” (GLCG 68)
18. Hội Thánh đang mời gọi chúng
ta ra khơi
Trong tông thư Novo Millennio
Ineute được công bố vào ngày kết thúc đại năm thánh 2000, Đức Giáo Hoàng Phaolô
II khẩn thiết kêu gọi mọi thành phần Dân Chúa trên khắp thế giới hãy 'Chèo ra
chỗ sâu' (Lc 5, 4) để thả lưới, vì 'một thiên niên kỷ mới đang mở ra trước mặt
Hội Thánh như là một biển cả mà chúng ta sẽ mạo hiểm trong đó, cậy dựa vào Đức
Kitô, Con Thiên Chúa' (số 58)
Trong dịp Hội Đồng Giám Mục Việt
Nam triều yết Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhân chuyến đi viếng mộ hai thánh
Tông Đồ Phêrô và Phaolô vào ngày 22-1-2002, vị Cha chung của Hội Thánh cũng mời
gọi Giáo Hội Việt Nam hãy ra khơi. Ngài ngỏ lời với Hội Đồng Giám Mục Việt Nam:
'Giáo Hội Việt Nam được mời gọi ra khơi: Tôi muốn khích lệ anh em hãy hết sức
quan tâm rao giảng Tin Mừng và truyền giáo...'
Thủ lãnh của chúng ta là Chúa
Giêsu đã dấn thân vào chỗ nước sâu như thế, vị lãnh đạo của Hội Thánh là Đức cố
giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng như Bênêđictô đã anh dũng ra khơi như thế...
thì với tư cách là thân mình của Đức Kitô, chúng ta không còn chọn lựa nào khác
là cùng chèo ra chỗ nước sâu với Chúa Kitô, cùng ra khơi với Hội Thánh.
19. Là người thu phục người ta
Ba năm trước, tại WYD05 (Đại hội
Giới Trẻ thế giới), cô gái Mỹ Maria cầu nguyện trong một nhà thờ ở Koln. Chị chợt
cảm xúc trước tình yêu Chúa, nước mắt lăn dài. Một nữ tu ở hàng ghế bên kia chạy
đến an ủi. Maria cám ơn và nói: “Không có gì phải lo khi có những giọt nước mắt
chảy ra vì Giêsu.” Sau đó, Maria mới biết rằng nãy giờ nữ tu kia đang cầu nguyện
cho mình. Năm nay tại WYD08, nữ tu Maria quỳ cầu nguyện trong một nhà thờ ở
Sydney, cũng với mong ước đánh động một tâm hồn đang ngồi ở hàng ghế bên kia.
Theo Chúa là trở thành người thu phục người ta, không phải về cho mình, nhưng về
cho Chúa. Việc thu phục ấy có thể bằng lời cầu nguyện sốt sắng như hai chị nữ
tu trên đây, hoặc bằng hoạt động tông đồ như bao giáo dân, tu sĩ, và linh mục
đang triển khai khắp chốn.
Có nhiều cách để thu phục
người ta đến với Chúa: đời sống đạo tốt lành, gia đình Công giáo hạnh phúc, cuộc
sống phục vụ người nghèo, đời sống bác ái yêu thương, hay các công tác Công
Giáo Tiến Hành như thăm viếng, giúp đỡ người neo đơn... Bạn cũng có thể nghĩ ra
một cách thu phục người ta thích hợp với khung cảnh của mình.
20. Sự khôn ngoan Nước Trời
Thi sĩ Anh Ruyard Kipling viết một
bài thơ có tựa đề “Thép Lạnh”, nói về một nam tước khởi loạn chống đối và cố gắng
lật đổ nhà vua. Ông bị đánh bại, bị bắt và bị xiềng xích dẫn đến trước mặt vua.
Mọi người đều nghĩ là ông ta bị xử tử, nhưng thay vì xử tử, nhà vua đã đối xử tử
tế với ông và đã cho dọn bánh và rượu trước mặt ông. Không biết Kipling có định
đưa ra bài thơ như một dụ ngôn hay không về cuộc nổi loạn của chúng ta chống lại
Thiên Chúa và phản ứng của Ngài đối với chúng ta, một phản ứng có thể bị xem là
ngu xuẩn theo tiêu chuẩn loài người.
Tôi bày tỏ lòng biết ơn đối với
Thiên Chúa vì phản ứng của Ngài đối với tôi ra sao? Tôi có bắt chước phản ứng của
Thiên Chúa trong công việc hàng ngày của tôi đối với người khác không?
Sự hiểu biết của người khôn
ngoan giống như thủy tinh: đón nhận ánh sáng từ trời và phản chiếu nó. (A.G. và
J.C. Hare)
21. Hãy làm điều có thể
Dấu lạ trên bờ hồ Galilê trong
Tin Mừng hôm nay trích dẫn lời của Phêrô. Dấu lạ cho thấy lời nói và việc làm của
Chúa Giêsu không phải là những hành động của quá khứ xa xôi. Chúa Giêsu vẫn
luôn tìm kiếm những người được chuẩn bị để dám liều theo lời Ngài vì thực sự
tin vào Ngài. Niềm tin của Phêrô vào Chúa Giêsu và việc bắt được nhiều cá sau
đó được ghi nhận, không những để khuyến khích mà còn mời gọi chúng ta bắt chước
Phêrô.
Đâu là sự liều lĩnh mà Chúa
Giêsu mời gọi đảm nhận lúc này trong đời tôi?
Lỗi lớn nhất là không làm gì cả
vì bạn chỉ làm được rất ít. Hãy làm tất cả những gì bạn có thể. (Sydney Smith)
22. Bỏ hết mọi sự mà theo Chúa
Tony de Mello, một linh mục Ấn độ, thực hiện một chương trình
truyền hình qua vệ tinh được phát sóng tới 76 trường đại học ở Mỹ và Canada và
gồm 3.000 sinh viên trong cuộc đối thoại. Tony lớn lên gần Bombay, Ấn độ. Một
ngày nọ, ở trường trung học về, Tony hỏi cha là anh có thể đi tu làm linh mục
được không. Người cha nói: “Không được, con là con trai một, cha muốn con duy
trì dòng họ.” Thế rồi, sau 14 năm không có thêm con, mẹ của Tony bỗng có thai.
Khi bà được cấp tốc đưa đến bệnh viện để sinh, Tony chạy bộ bốn dặm. Đến nơi
anh hổn hển hỏi cha: “Trai hay gái vậy cha?” Cha anh trả lời: “Con có em trai”
Tony nói: “Tuyệt, giờ đây con có thể trở thành linh mục được”
Tôi có hăng say theo Chúa không?
Lòng nhiệt thành của tôi phát xuất từ đâu?
Lòng nhiệt thành dẫn đến những
nghĩa cử anh hùng (S.M. Dubnov).
23. Lạy Cha, xin vâng như ý Cha
Như Đức Giêsu, suốt cả kiếp người đã không làm gì khác hơn là
thi hành ý Cha. Cho đến giờ chết vẫn cứ là: “Lạy Cha, xin vâng như ý Cha.” Nhờ
thế sự sống nơi Ngài đã tuôn tràn chứa chan cho nhân loại.
Liên quan đến chủ đề này, Thánh Anphongsô có nói về một thầy
dòng kia, trông diện mạo bên ngoài thì không có gì đáng chú ý. Thầy cũng chẳng
thường hãm mình bao nhiêu. Thế mà lại hay làm phép lạ. Bề trên ngạc nhiên mới hỏi:
“Con có nhân đức gì trổi hơn anh em, hay có thi hành việc lành nào sốt sắng, mà
sao cha thấy con làm được nhiều sự lạ vậy?” Thầy dòng khiêm tốn trả lời: “Con
không dám so sánh với các nhân đức của anh em con… Chỉ có một điều con luôn chú
ý hơn cả là vâng theo thánh ý Chúa hết lòng: Sự gì Chúa muốn là con muốn, dù
vui sướng hay buồn khổ, an lành hay gian truân.”
Nghe thế bề trên liền hỏi lại: “Thế chứ cách đây mấy hôm, có kẻ
đã làm thiệt hại cho dòng ta, họ đã đốt phá nhà cửa đất đai của ta tan tành,
con có lấy làm đau đớn ưu phiền không?” Thầy liền thưa lại: “Thưa cha, con
không lấy gì làm đau khổ, cũng chẳng lấy chi làm ưu phiền. Con vẫn bình an như
thường, vì biết rằng Chúa luôn muốn cho chúng ta được phần ích lợi hơn. Nên con
cảm tạ Chúa luôn.”
Cha bề trên nghe những lời ấy đã công nhận rằng: Đây là một vị
thánh, có đủ các nhân đức, vì thầy có lòng vâng phục thánh ý Thiên Chúa hết
mình (Anphongsô, Chân Lý Đời Đời, tr. 299).
Vâng theo ý Chúa sẽ giúp ta vượt qua gian truân khốn khó của đường
đời và tìm được bình an và niềm vui dồi dào phong phú. Vâng theo Chúa không chỉ
lúc thuận ý nhưng cả khi nghịch ý. Không chỉ khi thành công may mắn nhưng cả
lúc rủi ro thất bại ê chề.
24. Biết nghe và ghi tâm tạc dạ
Ngày xưa một nhà vua Ấn Độ, muốn thử nhân tài của một nước chư hầu,
liền gửi tới nước này ba pho tượng vàng giống hệt nhau.
Nhà vua Ấn Độ xin nhà vua chư hầu cho biết, trong ba pho tượng
vàng này, pho tượng nào giá trị nhất.
Nhà vua nước chư hầu cho triệu tập các nhà thông thái tới để thẩm
định. Các nhà thông thái nghĩ ngay tới giá trị mỗi pho tượng sẽ được căn cứ vào
cân nặng nhẹ, hoặc vào tuổi vàng (vàng tốt, vàng xấu), hoặc vào nghệ thuật tìm
thấy trên ba pho tượng. Nhưng rồi các nhà thông thái đều phải bó tay, vì ba pho
tượng này giống hệt nhau về nghệ thuật, về nặng nhẹ, về tuổi vàng. Không ai tìm
ra chi tiết nào khác nhau trong ba pho tượng đó. Nhà vua rất buồn, vì không xác
định được giá trị hơn kém của ba pho tượng. Vua liền cho loan báo khắp nước: Ai
tìm ra được bí mật giá trị của mỗi pho tượng, sẽ được trọng thưởng. Có một người
tù, biết truyện, xin được xem ba pho tượng, và nếu anh tìm ra được giá trị hơn
kém của ba pho tượng này, thì anh chỉ xin một điều kiện là cho anh được tự do.
Lập tức nhà vua cho anh xem ba pho tượng.
Vừa ngó xong ba pho tượng, anh ta xin một cọng rơm, và cho phép anh mang ba pho tượng vào một phòng kín. Chỉ trong ít phút sau, anh đi ra, và cho biết giá trị hơn kém của ba pho tượng. Anh lấy cọng rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ nhất, thì thấy cọng rơm xuyên từ lỗ tai này sang lỗ tai kia, anh bảo: đây là pho tượng ít giá trị nhất, vì nó tượng trưng cho hạng người, nghe điều gì, vừa vào tai này, đã ra tai kia, không biết ghi nhớ, không biết suy nghĩ, đó là hạng người đểnh đoảng, vô tâm, vô trí.
Anh ta lại lấy cọng rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ hai, thì thấy cọng rơm đi từ lỗ tai, chạy xuống miệng. Anh bảo: pho tượng này hơn pho tượng trước là vì nó tượng trưng cho hạng người biết nghe, biết nhớ, nhưng mắc khuyết điểm là vừa nghe được gì đã vội nói ngay, không suy nghĩ xem điều mình nghe đúng hay sai, nói ra có lợi hay có hại.
Anh lại
lấy cọng rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ ba, thì thấy cọng rơm đi từ lỗ tai
chạy xuống bụng. Anh nói: Đây là pho tượng quí giá nhất, vì nó tượng trưng cho
hạng người biết nghe, biết nhớ, biết để lòng suy nghĩ, biết ghi tâm tạc dạ.
25. Bỏ ý riêng để tìm ý Chúa
George Washington, tổng thống đầu tiên của nước Mỹ, từ khi còn
bé đã tỏ ra là một người phục thiện và yêu sự thanh liêm. Một hôm ra vườn làm cỏ,
cậu đã vô tình chặt đứt mấy cây anh đào mẹ cậu rất yêu thích. Thấy mấy cây anh
đào bị chặt, cha cậu hỏi:
- Con có biết ai đã chặt mấy cây anh đào không?
- Con đã lỡ tay chặt mấy cây anh đào đó. Xin cha cứ phạt con đi.
- Con đã làm một điều lỗi, nhưng con đã chữa được lỗi lầm đó khi
con dám nhận lỗi, người cha nói.
Thiên Chúa rất nghiêm khắc, nhưng cũng hết sức nhân từ: “Bạn hãy
xem Thiên Chúa nhân từ và nghiêm khắc thế nào: Người nghiêm khắc với những kẻ
sa ngã, nhưng nhân từ với bạn, cứ một mực cậy nhờ vào lòng nhân từ đó” (Rm
11,22). Bởi tình yêu mà Chúa sẵn sàng ôm vào lòng mọi tội nhân thống hối, nhưng
chỉ mở cửa Nước Trời cho những tâm hồn nào sẵn lòng bỏ ý riêng mà tìm ý Thiên
Chúa: “chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào
mà thôi” (Mt 7,21)
THỨ
HAI - CHÚA GIÊSU HOẠT ĐỘNG
Lời Chúa: Mc 6, 53-56
Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ
qua biển rồi, các ngài tới miền Giênêsarét và ghé bến. Các ngài lên khỏi thuyền,
tức thì người ta nhận ra Người, họ liền rảo chạy khắp miền, và nghe tin Người ở
đâu thì khiêng những người đau yếu nằm trên chõng đến đó.
Bất cứ Người vào làng trại hay
đô thị nào, người ta cũng đặt các bệnh nhân ở các nơi công cộng và xin Người
cho họ ít là được chạm tới gấu áo Người, và tất cả những ai chạm tới Người, đều
được khỏi bệnh.
TRUYỆN KỂ
1. Giáo Hội vì người nghèo
Mẹ Têrêxa Calcutta nổi tiếng
trên khắp thế giới không phải ngài là một người giỏi giang, cũng không phải nơi
mẹ có những điểm hấp dẫn về nhan sắc... Tuy nhiên, mẹ trở nên một người có thể
làm đảo lộn thế giới chỉ vì tình yêu rất lớn của mẹ dành cho người nghèo và những
người bện tật, đến nỗi có những ngày các nữ tu trong dòng của mẹ phải nấu thức
ăn cho khoảng 7 ngàn người, và cả những người phải cung cấp lương thực, có lúc
lên đến 9 ngàn người.
Chúng ta còn nhớ ngày mẹ lìa cõi
trần, nhiều nguyên thủ quốc gia đã tuyên bố quốc tang, nhiều bài phát biểu bày
tỏ sự ngưỡng mộ được phát đi với những lời lẽ hết sức xúc động như: “Từ nay, thế
giới bớt tình thương hơn”; hay: “Hôm nay, người nghèo mất đi một người mẹ yêu
thương, người bạn đồng hành...."
Hôm nay, bài Tin Mừng cũng thuật
lại cho chúng ta khái quát về những hoạt động của Đức Giêsu. Ngài làm việc
không biết mệt mỏi, đi đến đâu là thi ân giáng phúc tới đó.
Đối tượng mà Đức Giêsu nhắm đến
để phục vụ chính là những người nghèo. Vì họ mà Ngài chấp nhận quên ăn, quên ngủ,
bất chấp bị quấy rầy, bởi Ngài thấy được những vấn đề cấp thiết mà họ đang mong
đợi.
2. Ơn gọi phục vụ
Bác sĩ Longet người Pháp đã từng
phục vụ ở Việt Nam cách đây mấy mươi năm (và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tom
Dooley người Mỹ đã phục vụ ở Đông Nam Á). Ông tận tụy săn sóc, yêu thương các bệnh
nhân trong bệnh viện mình, bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày cũng như
đêm…
Mỗi sáng, khi đi dự lễ bệnh nhân
lương giáo ai muốn đi, ông đều cho đi. Mỗi chiều Chúa nhật, ông lại cho các bệnh
nhân đi chơi, tham quan nơi này, nơi nọ. Và mỗi tối, ông lần chuỗi chung với bệnh
nhân Công giáo. Vì là người Pháp, ông chỉ thuộc các kinh Lạy Cha, Kính Mừng,
Sáng danh đủ để lần hạt chung với họ là những người khác quốc tịch.
Ít lâu sau, Longet trở về lại
Pháp, vào chủng viện dâng mình làm linh mục và tình nguyện sang phục vụ những
người nghèo khổ nhất ở giáo phận Cần Thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức,
ông bị bệnh và qua đời trước khi tới nơi mong ước.
3. Chúng tôi cần một Đấng Cứu Thế
Một ngày kia, có một nhà lãnh đạo
Trung hoa theo Kitô giáo đến thăm Hoa Kỳ. Sau khi nghe ông nói chuyện tại một
buổi hội họp, một sinh viên hỏi: “Tại sao nước ông đã có Khổng Tử mà còn muốn
có Kitô giáo nữa”?
Ông đáp: “Có ba lý do:
- Thứ nhất: Khổng Tử là một vị
tôn sư, còn Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Chúng tôi cần Đấng Cứu Thế hơn là cần vị
tôn sư.
- Thứ hai: Khổng Tử đã chết, Đức
Kitô vẫn đang sống, chúng tôi cần một Đấng Cứu Thế đang sống chứ không cần một
người đã chết.
- Thứ ba: Khổng Tử cũng có ngày
chịu phán xét, chúng tôi cần biết Đức Kitô là Đấng Cứu Thế trước khi là vị thẩm
phán."
4. Hãy đến với Chúa ngay đi.
June là một em bé 5 tuổi xinh đẹp
và lanh lợi. Cha của em là một mục sư. Mẹ em mỗi khi đi đâu thường cho em theo.
Ngày nọ, khi hai mẹ con vào bưu điện, một ông lão thấy em liền nói:
- Này bé, ai cho bé mái tóc đẹp
thế?
- Chúa cho cháu đó!
Nói xong bé nhìn thẳng vào ông hỏi:
- Thế ông có được Chúa cho gì
không? Có được Chúa cứu không?
Ông già kinh ngạc và xúc động
trước câu hỏi đơn sơ đó. Ông thẫn thờ đáp:
- Không, bé ạ!
- Thế thì ông phải đến với Chúa
ngay đi. Rồi Chúa sẽ cho ông thành một người thật đẹp đẽ!
Nói xong, bé vội chạy theo mẹ.
Ít tuần sau, người ta thấy ông tìm đến nhà thờ và xin theo đạo. Ông cho biết lời
của em bé luôn ám ảnh trong đầu và ông quyết định theo Chúa.
5. Mong chạm đến Chúa
Người hấp hối than thở với Cha sở
rằng chẳng cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa. Cha sở lấy một chiếc ghế đặt
bên cạnh, rồi bảo ông hãy nghĩ rằng Chúa Giêsu đang ngồi đó, hãy đặt tay mình
trên tay Ngài trên thành ghế.
Người đó làm theo và cảm nghiệm
được sự hiện diện của Chúa. Mấy hôm sau, được tin ông qua đời, Cha sở đến thăm
và thấy tay ông vẫn còn đặt trên bàn tay vô hình ở thành ghế.
6. Tìm đến Chúa
Nghe tin Người ở đâu, họ bắt đầu
cáng bệnh nhân đến đó… và bấy cứ ai chạm đến Người thì đều được khoải” (Mác-cô
6,55-56)
Một cảnh tượng tuyệt đẹp và đầy
xúc động, đẹp ở sự chủ động của đám đông, xúc động vì lòng tin vững vàng của họ.
Họ đã không đòi hỏi gì hơn là được chạm đến tua áo người, và mong được chữa khỏi.
Sự kiện đó khiến tôi liên tưởng
ngay đến câu chuyên về họa sỹ Holman Hunt. Ông đã vẽ một bức tranh trong đó
Chúa Giêsu đang đứng gõ của một ngôi nhà. Nhưng điểm khác thường ở đây là cánh
cửa đó không có tay cầm và cũng không có ổ khóa, và vì thế cánh cửa đó chỉ có
thể mở bên trong.
Đám đông dân chúng nay đã tự mở
cánh cửa lòng mình cho Đấng chữa lành, và vì thế họ đã được khỏi bệnh.
7. Có Chúa là nguồn sống
Bà Rober người Pháp khi được 26
tuổi bị bại liệt toàn thân, không thể ăn uống được gì từ năm 1930 tới năm 1981.
Suốt 51 năm bị bệnh như vậy, mỗi ngày bà chỉ được rước mấy giọt Máu Thánh (rượu
nho đã được truyền phép). Vậy mà bà đã sống tới 77 tuổi mới qua đời!
Bà kể lại cho mọi người nghe:
“Khi tôi được rước Chúa vào lòng, như có một sức sống mới lưu truyền tăng thêm
nghị lực trong tâm hồn tôi, tôi không thể diễn tả cho ai hiểu được, vì đó là cảm
nghiệm đặc biệt Chúa chỉ tỏ mình cho tôi!”
Xưa kia người Do Thái hằng ngày
phải lượm man-na ăn, mới đủ sức về đất Chúa hứa; thua xa nay người Kitô hữu mỗi
ngày được rước Mình Máu Thánh Chúa làm cho xác hồn sống về tới Thiên Đàng! (x.
Xh 16; Ga 6).
8. Biết Chúa
Mùa hè, sau khi tốt nghiệp Trung
học phổ thông, Thomas Merton một mình đi du lịch đến Châu Âu. Anh bị choáng ngợp
bởi những ngôi thánh đường đẹp với những bức bích họa sinh động và những cửa sổ
kính màu. Anh viết: “Tôi bắt đầu năng lui tới các nhà thờ… Lần đầu tiên trong đời,
tôi khám phá một vài điều về con người được gọi là Chúa Kitô… Nhưng trên tất cả,
tôi bắt đầu cảm nghiệm chính Chúa Kitô hiện diện trong những ngôi thánh đường
đó”
Đâu là hình ảnh Chúa Kitô mà tôi
gặp được khi nghĩ tới sự hiện diện của Ngài giữa chúng ta hôm nay?
Đó là ai mà ánh mắt tự bình minh?
Nàng thật đẹp, thông minh và tỏa sáng,
Như mặt trời hay mặt trăng. (Song of songs)
9. Tiếng nói của cơ thể
Vào dịp Giáng sinh năm 1980, ba
linh mục được phép gặp gỡ 52 tù binh Mỹ bị giữ làm con tin ở Iran. Các vị giúp
đỡ các con tin và đem thư từ của gia đình đến cho họ. Một vị linh mục nói với
con tin Barry Rosen: “Barry, tôi đã gặp vợ anh và con trai Alexander của anh, ở
Nữu ước. Alexander nhờ tôi trao cho anh cái này” Rồi ngài đặt một nụ hôn lên má
Barry. Barry phải khó khăn lắm mới ngăn được dòng lệ.
Sự tiếp xúc là cách truyền đạt
hùng hồn nhất. Một số người ngạc nhiên thấy người ta chạm vào Chúa Giêsu. Một số
khác ngạc nhiên thấy họ được chữa lành khi chạm đến Ngài.
Liệu tôi có giúp người khác thêm
vững mạnh, đặc biệt những người thân trong gia đình, bằng một cử chỉ thân ái
không? Đến mức độ nào?
Hãy cho người khác không những sự
săn sóc, mà còn cả trái tim của bạn. (Mẹ Têrêsa)
THỨ
BA - ĐIỀU CHÍNH YẾU CỦA TIN MỪNG
Lời Chúa: Mc 7, 1-13
Khi ấy, những người biệt phái và
mấy luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên Chúa Giêsu, và họ thấy vài môn đệ Người
dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch, nghĩa là không rửa trước. Vì theo
đúng tập tục của tiền nhân, những người biệt phái và mọi người Do-thái không
dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà
không tắm rửa trước. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình,
rửa các đồ đồng.
Vậy những người biệt phái và luật
sĩ hỏi Người: "Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân mà lại dùng
bữa với những bàn tay không tinh sạch?" Người đáp: "Hỡi bọn giả hình,
Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng:
"Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính
Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người."
Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người: rửa
bình, rửa chén và làm nhiều điều như vậy."
Và Người bảo: "Các ngươi đã
khéo bỏ giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục của các ngươi. Thật vậy, Môsê
đã nói: "Hãy thảo kính cha mẹ", và "ai rủa cha mẹ, sẽ phải xử tử."
Còn các ngươi thì lại bảo: "Nếu ai nói với cha mẹ mình rằng: Những của tôi
có thể giúp cha mẹ được là Corban rồi (nghĩa là của dâng cho Chúa)", và
các ngươi không để cho kẻ ấy giúp gì cho cha mẹ nữa. Như thế các ngươi huỷ bỏ lời
Chúa bằng những tập tục truyền lại cho nhau. Và các ngươi còn làm nhiều điều
khác giống như thế."
TRUYỆN KỂ
1. Sư máy.
Tuần báo Newsweek số ra ngày
10/08/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ ở Nhật, đó là “sư máy." Vị sư
máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ: đầu cúi xuống, mắt
khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn,
một tay cầm chuỗi giơ lên, một tay thì gõ mõ, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của
mười giáo phái Phật giáo khác nhau tại Nhật.
Sáng kiến này đưa ra nhằm đáp ứng
cho ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm trong các Giáo hội Phật giáo tại Nhật.
Tuy nhiên, như tác giả bài báo ghi nhận: những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ
có một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương.
2. Giữ đạo nơi môi miệng
Một bà cụ năng đến nhà thờ cầu
nguyện. Một cậu bé lấy làm ngạc nhiên liền theo dõi. Cậu nấp sau bàn thờ nghe
bà cầu nguyện lớn tiếng: “Lạy Chúa, con đã già và sống đủ. Bất cứ lúc nào Ngài
gọi, con sẵn sàng”
Bà cầu nguyện suốt ba ngày cũng
vẫn những lời ấy. Ngày thứ tư, sau khi bà cầu nguyện, cậu bé giả giọng nói vọng
ra ngay sau bàn thờ: “Ta đã nghe lời cầu xin của con, Ta sẽ đến đón con lúc
chín giờ sáng mai.”
Bà về nhà, không sao ngủ được vì
lo lắng về điều đã nghe. Bà không chấp nhận nổi những gì bà đã cầu nguyện.
3. Mồ mả tô vôi trắng đẹp
Sách cổ học tinh hoa có chép một
câu chuyện xảy ra tại Hàn Châu.
Có một người bán trái cây đã tìm
ra được một bí quyết giữ cho cam lâu ngày mà vỏ cam vẫn luôn đỏ hồng. Ông bán với
giá rất đắt, thế mà thiên hạ vẫn tranh nhau mua. Có người mua được một trái đem
về bóc ra mới vỡ lẽ ra bên trong chỉ là một trái cam thối. Người đó bèn đem trả
lại cho người bán và mắng nhiếc thậm tệ.
Người bán cam cũng chẳng có vừa.
Ông ta cười nói:
- Tôi làm nghề này đã lâu, tôi
bán và người ta mua, không ai than phiền, chỉ có ông mới kêu ca. Thiên hạ giả dối
nhiều, chẳng riêng gì tôi, ông thật chẳng chịu nghĩ cho đến nơi đến chốn. Này
thử xem có người đeo hộ phú, hùng dũng như một quan võ, kỳ thực không biết người
đó có giỏi được như Tôn Tần, Ngô Khởi không? Có người đội mũ cao, đóng đai dài,
trông giống như một quan văn, nhưng liệu họ có giỏi được như Y Doãn, Cao Dao
không? Giặc nổi lên không biết dẹp, dân khổ không biết cứu, quan lại tham nhũng
không biết trừng trị, pháp độ hỏng nát không biết sửa đổi, ngồi không ăn lương
mà không biết xấu hổ. Thế mà lúc ngồi công đường, đi xe ngựa, uống rượu ngon,
ăn cao lương mỹ vị, oai vệ hách dịch vô cùng. Đó bề ngoài chẳng như vàng như ngọc,
còn bề trong chẳng như hỏng nát là gì? Tại sao ông không chịu đi xét những hạng
người ấy, mà lại đi xét quả cam của tôi.
Chúa Giêsu cũng đã nghiêm trách
những thành phần lãnh đạo thời đại của Ngài. Ngài so sánh họ với mồ mả tô vôi,
bên ngoài thì sơn phết bóng bẩy, nhưng bên trong chỉ là những xác chết hôi thối.
4. Cách ăn uống đẹp
Một nhà quí phái kia mở một bữa
tiệc để thết đãi khách. Trong số những thực khách được mời tham dự bữa tiệc này
có một bác nông dân. Sở dĩ bác nông dân này được mời vì bác là người giàu có
trong vùng, lại có lòng tốt. Chính bác đã tặng cho nông dân ở trong vùng một số
tiền lớn để xây cất một nhà thương.
Hôm ấy, trên bàn ăn người ta dọn
ra món đầu tiên là cua nướng. Ngoài dĩa cua nướng dọn cho mỗi người, người ta
còn để ở bên cạnh một ly nước nóng và một lát chanh tươi.
Vì là một nông dân, tính tình chất
phác, không lễ nghi khách sáo, đàng khác có lẽ bác nông dân kia cũng đã đói, vì
thế sau khi khai mạc bữa tiệc, bác đã cắm đầu cắm cổ ăn một hơi hết món cua nướng.
Ăn cua xong, thấy bên cạnh đó có
một ly nước nóng và một lát chanh tươi, tưởng là để cho khách uống, nên bác
nông dân vắt chanh vào nước rồi uống một hơi hết sức tự nhiên. Thực ra đây là
những thứ để rửa tay, sau khi ăn món cua nướng.
Thấy bác nông dân ăn uống như thế,
mọi người chung quanh đều trố mắt nhìn nhau rồi tủm tỉm cười với một sự khinh bỉ.
Nhưng riêng với ông chủ nhà, khi thấy bác nông dân kia đã uống như thế, thì ông
đã xử sự một cách hết sức khôn khéo. Ông cũng vắt chanh vào ly nước của ông và
đưa lên uống, để bác nông dân không bị mất mặt trước những thực khách được mời
hôm đó.
Thế là mọi người trong bàn tiệc
hôm đó, không ai bảo ai, tất cả đều vắt chanh vào ly nước của mình, rồi bưng
lên uống.
5. Thói quen là bản tính thứ hai
Có con sư tử mồ côi, nó được bầy
dê nuôi dưỡng. Sau một thời gian sư tử con quen ăn thức ăn của dê, và tập kêu
be be như dê. Lần kia nó đang đùa giỡn với bầy dê bên bờ suối, thình lình có
con sư tử già xuất hiện, nó gầm rống lên, làm bầy dê tháo chạy hết, chỉ còn lại
sư tử con đứng ngơ ngác. Sư tử già đến hỏi:
- Sao mày lại chơi với dê? Mày
có biết mày là sư tử như tao không?
- Be be… Sư tử con kêu.
- Mẹ cha thằng này… Sư tử già nổi
giận mắng.
Thế là sư tử già vồ lấy sư tử
con đưa xuống bờ suối, dí đầu nó xuống mặt nước và nói:
- Mày nhìn kỹ đi, mặt mày và tao
có giống nhau không?
- Be be…..
Sau đó sư tử già tha đến cho sư
tử con một miếng thịt sống bắt phải ăn, sư tử con đưa lên mũi ngửi, rồi lắc đầu:
- Tanh lắm tôi không ăn được, ăn
cỏ ngon hơn.
Nhưng sư tử già cứ bắt sư tử con
ăn thịt, cấm không cho ăn cỏ. Chẳng bao lâu, sư tử con không thích ăn cỏ nữa mà
nó thèm thịt, nó liền trở lại đàn dê, tìm các chú dê đã nuôi nó để ăn thịt!!
6. Cẩn thận với hàng giả trong đời
sống đạo
Gần ngày Tết, các phương tiện
truyền thông lại ra rả nhắc nhở dân chúng coi chừng hàng giả. Ngày nay mọi sự đều
có thể là đồ dỏm, từ thứ đáng giá tiền tỷ như thiên thạch đến bó rau, củ cà rốt
cũng có thể là hàng Trung Quốc giả hàng Việt.
Thế nhưng, tinh vi nhất và đáng
trách nhất vẫn là những thứ giả liên hệ đến bản thân con người như thói giả
nhân giả nghĩa hay thứ tình yêu giả hiệu khiến bao người bị lừa đau đớn. Thậm
chí với Chúa, cũng có người dâng cho Ngài những thứ giả mà cứ làm như là thật.
Đức Giê-su đã trách những người
Pha-ri-sêu và các kinh sư thờ phượng Chúa trên đầu môi chót lưỡi, nhưng trái
tim lại xa cách Ngài, chăm chăm tuân giữ các truyền thống xưa, còn điều răn yêu
thương cốt lõi Chúa dạy thì lại bỏ quên không giữ.
Đức giáo hoàng Grê-gô-ri-ô Cả nhắc
nhở: “Bạn nên cẩn thận tối đa kể cả khi làm điều thiện. Bởi vì có thể trong khi
thực thi điều thiện, bạn đang tìm kiếm lợi lộc hay ân huệ từ người khác: hoặc bạn
ước muốn được người khác ca ngợi, và muốn có những hiệu quả bên ngoài, chứ
không phải phần thưởng bên trong” (Bài giảng TM 12).
7. Món quà xúc phạm người nhận
quà
Trong một vở kịch của G. Marcel,
chị vợ dự định tặng cho chồng món quà sinh nhật là một đôi giày thật đẹp. Chẳng
may anh chồng bị tai nạn phải cưa mất đôi chân. Chị vợ vẫn nhất quyết giữ ý định
cũ của mình bất chấp giờ đây chồng mình không còn chân để đi giày nữa. Đôi giày
thay vì là một món quà đem lại niềm vui hạnh phúc thì lại trở thành một sự xúc
phạm nặng nề.
Cách giữ luật theo kiểu người
Pharisêu cũng thế. Thay vì thờ phượng Chúa bằng cuộc sống “công bình, nhân ái
và thành tín” như Ngài mong muốn (Mt 23,23) thì họ chỉ dành cho Ngài những lời
lẽ ngoài môi miệng và tuân giữ “những giới luật phàm nhân.” Như thế không phải
là xúc phạm nặng nề đến Chúa hay sao?
Chúng ta có thực sự thờ phượng
Chúa đúng như lòng Chúa mong muốn không? Chúng ta không thiếu những nghi lễ
long trọng nhưng chúng ta đã sống công bình và nhân ái chưa? Liệu chúng ta đã đồng
cảm với những người khổ đau, nghèo đói? Liệu chúng ta đã bênh vực, chia sẻ với
những người đang chịu bất công, bị loại bỏ bên lề xã hội? Nếu chưa sống như thế,
chúng ta mới chỉ thờ Chúa ngoài môi miệng, chưa đúng như lòng Chúa mong muốn.
8. Luật là chuyện của tâm hồn
William Barclay kể về một giáo
sĩ Do thái suýt bị chết khát, vì ông thà dùng phần nước ít ỏi hằng ngày của
mình để rửa tay theo nghi thức, hơn là để uống. Sự tuân thủ nghiêm ngặt những
thực hành bên ngoài vừa là sức mạnh vừa là nhược điểm đối với nhiều người Do
thái, nhất là những người Biệt phái. Nó khiến cho họ thêm mạnh mẽ, thêm sùng đạo.
Nhưng nó cũng làm cho một số người trong họ thành những kẻ giữ đạo hình thức,
coi trọng lễ nghi bên ngoài hơn là thái độ của tâm hồn như tình yêu, phục vụ,
bác ái.
Khi tham dự thánh lễ, có khi nào
tôi coi trọng hình thức bên ngoài hơn thái độ nội tâm không?
Thước đo sự thờ phượng đích thực,
là nó có làm cho ta nhạy cảm với Đấng “vượt trên ta nhưng lại ở gần ta”, với
Chúa Kitô nơi kẻ đói khát, trần trụi, không nhà không cửa chăng? (John
Robinson).
9. Sự thật cần thiết để làm người
Vở kịch “Tốt-xấu-giả-thật” của
nhà hát kịch 5B Võ Văn Tần “dẫn dắt khán giả đi vào vấn đề cốt lõi của đời sống
hôm nay: cái giả nhiều quá, cái xấu nhiều quá! Làm sao để có cái thật, làm sao
để có cái tốt?”
Sứ điệp của tác phẩm là: “Chỉ có
sự thật và lòng tốt có trong mỗi người mới làm cho cuộc đời này tốt hơn, thật hơn,
con người sống với nhau tử tế hơn” (x. Lê Quí Dương, “Sống Thật Đi, Cuộc Sống Sẽ
Đổi Thay”, Tuổi Trẻ 26.12.2011, tr. 13). Không rõ thời Chúa Giêsu hàng dỏm,
hàng nhái, bằng giả,… có nhiều không chứ thói đạo đức giả đã thành tệ nạn nơi
những người Biệt phái. Chúa Giêsu đả phá thái độ đó vì họ: “tôn kính Chúa bằng
môi miệng, còn lòng thì xa Chúa, gạt bỏ điều răn Thiên Chúa, duy trì truyền thống
người phàm.”
Thiện căn ở tại lòng ta. (Nguyễn
Du). Gốc rễ của sự thiện nằm sâu trong tâm hồn bởi thế để sống đạo thật sự trước
hết phải bồi dưỡng, thanh tẩy, chỉnh đốn nội tâm của mình. Phải sống thật trước
cái nhìn của Chúa chứ không phải chỉ lo tô điểm cái vỏ đạo đức trước mặt người
ta.
THỨ
TƯ - TINH SẠCH TINH THẦN
Lời Chúa: Mc 7,14-23
Khi ấy, Chúa Giêsu lại gọi dân
chúng mà bảo rằng: "Hết thảy hãy nghe và hiểu rõ lời Ta. Không có gì từ
bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ
con người ta xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Ai có tai để
nghe thì hãy nghe."
Lúc Người lìa dân chúng mà về
nhà, các môn đệ hỏi Người về ý nghĩa dụ ngôn ấy.
Người liền bảo các ông:
"Các con cũng mê muội như thế ư? Các con không hiểu rằng tất cả những gì từ
bên ngoài vào trong con người không thể làm cho người ta ra ô uế được, vì những
cái đó không vào trong tâm trí, nhưng vào bụng rồi xuất ra." Như vậy Người
tuyên bố mọi của ăn đều sạch.
Người lại phán: "Những gì ở
trong người ta mà ra, đó là cái làm cho người ta ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm
trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm
cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông
cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho ngươì ta ô uế."
TRUYỆN KỂ
1. Vấn đề sạch dơ
Khi bàn về chế độ ăn uống của các
dân tộc và của cá nhân, những nhà văn hóa xã hội phải thú nhận không thể đưa ra
một tiêu chuẩn chung để qui định đâu là thức ăn ngon, đâu là thức ăn dở, đâu là
thức ăn sạch sẽ bổ dưỡng, đâu là cái bẩn thỉu và độc hại. Bởi vì, đối với dân tộc
này, món óc khỉ chẳng hạn là một món ăn bổ dưỡng và sang trọng, nhưng đối với
dân tộc khác, đó là một thức ăn của người còn mang nặng thú tính, chưa có nhân
tính thuần thục. Người Do thái ngày xưa cũng tự qui định cho mình một số thức
ăn được phép và một số thức ăn không được phép. Còn thái độ của Chúa Giêsu đối
với vấn đề này như thế nào?
Trước hết, phải nhìn nhận rằng cả
Chúa Giêsu lẫn người Do thái đều không đứng trên bình diện sinh học để cứu xét
thức ăn sạch hay dơ, tốt hay xấu, nhưng cả hai phê phán giá trị thức ăn theo
quan điểm luân lý.
2. Thanh tẩy tâm hồn, rửa sạch
trái tim
Tại phòng triển lãm, có mặt một
nghệ sĩ lớn. Ông được đề nghị làm một cái gì đó để giúp vui cho khán giả. Ông đồng
ý và hỏi xem mọi người muốn ông làm gì. Sau vài giây thinh lặng, một giáo sĩ
già đề nghị: “Thưa ngài, ngài có thể đọc Thánh Vịnh 23 chứ?"
Nhà nghệ sĩ thoáng ngỡ ngàng. Rồi
ông nói: “Tôi sẵn sàng chiều ý ngài, với một điều kiện là khi tôi đọc xong,
ngài cũng phải làm như tôi." Giáo sĩ đáp: “Tôi à? Tôi đâu phải nhà hùng biện?
Nhưng nếu ngài muốn, tôi xin sẵn lòng."
Nhà nghệ sĩ bắt đầu đọc. Giọng
điệu tuyệt vời. Khán giả ngây ngất. Và khi kết thúc, một tràng pháo tay như sấm
vang dội khắp phòng.
Rồi đến lượt vị giáo sĩ. Âm giọng
bình thường, điệu bộ không có. Khi ngài đọc xong, chẳng ai vỗ tay, nhưng mọi cặp
mắt đều ướt lệ. Nhiều người gục đầu. Nhà nghệ sĩ bước tới, đặt tay trên vai vị
giáo sĩ nói: “Thưa quý vị, lời tôi chỉ đi tới đôi tai quý vị, còn lời vị này đi
vào con tim quý vị."
3. Tội từ trong lòng
Cổ nhân cũng thường hay nói đến chữ “Tâm." Nếu con người có
được cái tâm trong sáng thì cuộc sống ắt sẽ tốt đẹp, còn những kẻ “Tâm tà” thì
dù cái mã bên ngoài có tốt đẹp đến đâu đi nữa sớm muộn rồi cũng bị lộ tẩy.
Người Tây phương cũng thường nói: “Tư tưởng của bạn thế nào thì
hành động của bạn sẽ như vậy."
Chúa Giêsu đã nói: không phải cái từ bên ngoài có thể làm cho
người ta ra ô uế, mà chính là những cái phát xuất từ bên trong, từ lòng của con
người như tham lam, tà dâm, giết người, trộm cắp, độc ác, xảo trá, ganh tị...
Chính những cái đó mới làm cho người ta ra xấu xa ô uế.
4. Hai vị sư và cô gái
Một buổi chiều kia, sau trận mưa
đầu mùa, cảnh vật tươi mát hẳn lên, thiên nhiên càng thêm hữu tình, hai nhà sư
Tandan và Êkinô cùng xuống núi, thong dong tản bộ dọc theo con đường dẫn vào một
ngôi đền ở làng quê.
Tới một khúc đường quẹo, hai người
gặp một cô gái xinh đẹp trong bộ Kimônô sặc sỡ và chiếc khăn quàng bằng lụa óng
ả. Cô gái đứng bên vệ đường dáng vẻ băn khoăn vì không thể băng qua khúc đường
lầy lội với một trang phục như thế. Nhà sư Tandan liền bảo:
- Đi lối này cô bé!
Rồi không để cô gái kịp xoay xở,
Tandan nhanh tay bồng cô bé lên, bế cô gái qua vũng lầy và đặt cô xuống phía
bên kia. Cô gái cúi đầu tỏ dấu cảm ơn, còn sư thì mỉm cười đáp lễ rồi tiếp tục
cuộc đi dạo.
Thế nhưng, kể từ lúc ấy thì
Êkino đổi hẳn thái độ. Anh không thèm nói một lời nào với người bạn nữa. Mãi
cho đến khi hai người dừng chân trước một ngôi đền, thì lúc ấy Êkinô mới hậm hực
nói với Tandan:
- Chúng ta là những nhà sư,
không được phép gần đàn bà, nhất là phụ nữ trẻ đẹp. Nguy hiểm lắm! Sao anh lại
dám làm như thế?
Tandan mỉm cười và thản nhiên
đáp:
- Tôi đã bỏ nàng ở chỗ vũng lội
rồi. Còn anh, sao anh vẫn mang nàng tới tận nơi đây?
Đúng là những cái bên ngoài
không làm cho người ta ra ô uế, mà chính là cái phát xuất từ bên trong.
5. Đồng vọng ngược chiều
Là một truyện ngắn được đăng
trong tuyển tập bốn mươi chuyện rất ngắn do hội Nhà văn xuất bản, tác giả Lã Thế
Khanh đã kể lại cuộc gặp gỡ cảm động giữa hai người mù: một bà lão ăn xin và một
bé gái cũng ăn xin.
Bên một đống rác lớn, bà lão van
vỉ xin khách qua đường giúp đỡ nhưng không có một hồi âm nào ngoài tiếng vo ve
của mấy con nhặng xanh đang tranh ăn trên một chiếc lá bánh. Bà lão vẫn tiếp tục
van vỉ điệp khúc cũ, nhưng càng về sau càng thống thiết, những câu nói rời rạc
như rãi chảy ra từ khuôn miệng dúm dó, xệch xạc của bà.
Trong khi đó, tại một gốc cây sếu
già, một bé gái ăn xin mù lòa đang thiu thiu ngủ. Nó gối đầu trên một cái túi
khâu bằng nhiều loại vải cũ, một cái bát sắt hoen dỉ thủng đáy nằm lăn lóc bên
cạnh. Từ sáng sớm đến giờ chưa có gì trong bụng, nên cô bé đói rũ người. Nó hy
vọng giấc ngủ sẽ xua tan cái đói. Nhưng cô bé bỗng giật thót người: có một bàn
chân nào đó dẫm lên người nó. Đang lúc đói mệt, cô bé gầm lên:
- Mù à, người ta nằm đó mà dẫm
lên?
Bà lão ăn xin lại van vỉ:
- Bà mù, bà mù thật cháu à. Thôi
bà đã trót, cho bà xin.
Lặng đi một lát, cô bé đưa hai
tay sờ mặt mình, từ hai hốc mắt của nó những giọt nước mắt mặn chát chảy ra, nó
ngập ngừng:
- Cháu... Cháu xin lỗi bà, cháu
không biết bà như thế.
Bà lão ngúc ngoắc đầu như thể chấp
nhận, rồi tiếp tục đi về phía có đông người. Ngẫm nghĩ điều gì đó, cô bé lấy
trong túi áo ra tờ giấy bạc hai trăm đồng mất góc, và nói một cách lễ phép:
- Bà ơi! Cháu biếu bà này!
Một làn gió thổi mạnh. Những chiếc
lá từ trên cây rụng xuống rơi vào nón, làm bà lão tưởng là cô gái lừa dối mình,
còn cô gái thì chờ mãi mà vẫn không thấy bà lão nhận tiền.
Nếu xét về cái vẻ bên ngoài thì
hai nhân vật trong câu chuyện này chẳng có gì đáng nói. Hay nếu có phải nói trắng
ra thì bên ngoài... rất bẩn, rất dơ. Thế nhưng, bên trong như thế nào thì tôi
tưởng mọi người chúng ta đều thấy. Không thấy được bằng con mắt thịt nhưng thấy
được bằng cái tâm của con người.
6. Đam mê, dục vọng là những động
lực cần được lèo lái
Tổng thống Franklin Delano
Roosevelt rút tỉa được nhiều điều hữu ích từ câu truyện sau: Có hai người culi
Trung quốc tranh cãi lớn tiếng với nhau trên một đường phố đông người. Sau khi
quan sát một lúc, một du khách tỏ ra ngạc nhiên vì không thấy họ đánh nhau. Người
hướng dẫn giải thích: “Đó là vì kẻ tấn công trước nhận rằng anh ta hết ý. Và cả
hai đã quá kiêu hãnh không muốn nhìn nhận điều đó.”
Đâu là điển hình của sự kiêu
hãnh tốt hoặc không tốt trong đời tôi?
Cũng như mặt trăng, sự kiêu hãnh
của con người có hai mặt, mặt sáng và mặt tối. Mặt sáng hệ tại nhìn nhận danh dự
bản thân một cách trung thực. Mặt tối hệ tại đề cao giá trị bản thân một cách
quá đáng, không đáng trọng.
7. Thiện căn ở tại lòng ta
Chúa Giêsu đến để chữa lành bản
tính con người bị tổn thương do tội lỗi. Ngài muốn đổi mới con người từ bên
trong, như lời tiên tri Êdêkien: “Ta sẽ tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt
thần khí mới vào lòng. Lấy khỏi mình các ngươi quả tim chai đá, và sẽ ban tặng
một quả tim biết yêu thương” (Ed 36,26). Tâm hồn mỗi người là đền thờ cho Thiên
Chúa Ba Ngôi ngự trị. Đó không thể là nơi dung túng sự dữ. Chúng ta phải đào tạo
con tim mình nên giống con tim của Chúa Giêsu, nói cách khác, đó là trở nên đồng
hình đồng dạng với Chúa Kitô.
Bạn đã làm gì để đào tạo con tim
của mình? “Chúng ta có đem lại cho con tim chúng ta những điều bổ ích nuôi dưỡng
nó hay không? Hay chúng ta lại nhồi nặn nó bằng bạo lực, những điều tầm thường
làm cho nó thành trái tim chai đá? (Timothy Radcliffe, O.P.)
8. Tốt gỗ hơn tốt nước sơn
Nơi con người cũng vậy, nhìn bên
ngoài ai biết tâm địa bên trong thế nào: “Sông sâu còn có kẻ dò; nào ai bẻ thước
mà đo lòng người." Lối sống hình thức hào nhoáng và tính tự ái sĩ diện làm
người ta trau chuốt những cái bên ngoài mà quên rằng chính những đam mê dục vọng,
những âm mưu và toan tính tội lỗi làm cho con người ra xấu xa, chúng như loài mối
đực khoét từ bên trong, để rồi một ngày kia bừng con mắt dậy thấy mình đã lún
sâu trong tội lỗi tự bao giờ. Thật là nguy hiểm!
9. Biết muốn điều tốt thực sự
Sách Macabê quyển thứ hai thuật
lại việc Syria xâm chiếm Israel vào năm 170 trước Công nguyên và đã cố gắng
tiêu diệt niềm tin của người Do thái như thế nào. Chẳng hạn, bảy thiếu niên đã
bị tra tấn và bị giết trước mắt người mẹ, vì các em không ăn những thức ăn ô uế.
Những câu truyện như thế khiến cho những người Do thái kính trọng đối với những
truyền thống xưa. Không may là những người theo chủ nghĩa truyền thống lại bắt
đầu nhấn mạnh đến thức ăn ô uế hơn là đến một tâm hồn không trong sạch. Đó là một
trong những sai lầm về tôn giáo mà Chúa Giêsu phải điều chỉnh.
Tôi thấy những nghi lễ bên ngoài
nào hữu ích trong việc thờ phượng của tôi?
Ít khi tôi quỳ gối vì cảm thấy
mình có lòng tôn kính, nhưng thường là vì tôi muốn cảm thấy mình có lòng tôn
kính.
10. Rau sạch
Chỉ mới gần đây thôi, người ta cổ
võ trồng rau sạch, ăn rau sạch. Để có rau sạch, không chỉ dùng nước rửa cho khỏi
đất cát bám vào mà đủ, thậm chí phải rửa bằng thuốc sát trùng để khử cả những
con vi trùng nhỏ mắt không thấy được. Nếu chỉ thế mà thôi thì mới sạch bên
ngoài, chưa “rửa” được những dư lượng thuốc trừ sâu đã ngấm vào tận sớ mạch của
cây rau. Tiêu chuẩn “sạch” ngày càng được nâng cấp tương ứng với chất lượng cuộc
sống ngày càng nâng cao.
Về mặt tâm linh con người cũng
thế, người ta không thể trở nên sạch trước mặt Thiên Chúa chỉ bằng cách tẩy rửa
bên ngoài (rửa tay, rửa chén bát, v.v…) hay kiêng cữ một số thức ăn. Cái làm
cho con người dơ bẩn trước mặt Thiên Chúa xuất phát từ nội tâm con người chứ
không phải từ bên ngoài. Bởi thế để nên trong sạch, trước tiên con người phải
thanh tẩy ý hướng, thanh tẩy lòng muốn của mình.
Nếu thân thể bạn cần tắm rửa hằng
ngày để được sạch sẽ thơm tho, thì tâm hồn bạn cũng thế. Bạn có thể giữ sạch
tâm hồn mình bằng cách thường xuyên kiểm điểm đời sống, sám hối ăn năn và lãnh
nhận bí tích Hoà giải.
THỨ
NĂM - CHÚA GIÊSU VÀ BÀ MẸ NGOẠI GIÁO
Lời Chúa: Mc 7, 24-30
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt
Tyrô và Siđon. Vào một nhà kia, Người không muốn ai biết mình, nhưng người
không thể ẩn náu được.
Vì ngay lúc đó, một bà kia có đứa
con gái bị thần ô uế ám, bà nghe nói về Người liền đến phục lạy Người. Bà đó là
người dân ngoại, dòng giống Syrô-Phênixi và bà xin Người trừ quỷ ra khỏi con
bà.
Người nói: "Hãy để con cái
ăn no trước đã, vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó." Nhưng
bà trả lời và thưa Người rằng: "Thưa Thầy, đúng thế, nhưng các chó con
cũng được ăn những mụn rơi dưới bàn ăn của con cái."
Người liền nói với bà: "Vì
lời bà nói đó, bà hãy về; quỷ đã ra khỏi con gái bà rồi." Khi bà về đến
nhà, thì thấy cô gái nhỏ nằm trên giường và quỷ đã xuất rồi.
TRUYỆN KỂ
1. Ơn cứu độ đại đồng
Trong nhật ký của mình, Mahatma
Gandhi cho biết khi còn theo học ở Nam Phi, ông rất say mê đọc Kinh Thánh, nhất
là Bài Giảng Trên Núi, đến nỗi ông xác tín rằng Kitô giáo chính là câu trả lời
cho nạn kỳ thị giai cấp đã từng hành hạ dân Ấn suốt bao thế kỷ, thậm chí ông
còn muốn trở thành Kitô hữu nữa. Thế nhưng, một ngày nọ, khi đến nhà thờ dự lễ,
ông bị người giữ cửa chặn lại và bảo ông phải đi lễ ở nhà thờ dành cho người da
đen, kể từ đó, ông không bao giờ quay trở lại nhà thờ nữa.
Chúa Giêsu không bao giờ tỏ ra kỳ
thị con người như thế. Tin Mừng hôm nay là một bằng chứng. Cũng như các tác giả
Tin Mừng khác, thánh sử Marcô cho thấy phần lớn hoạt động và thời giờ của Chúa
Giêsu được dành cho người Do thái; chỉ sau khi sống lại, Ngài mới chính thức
sai các Tông đồ truyền giảng Tin Mừng cho mọi người, bất luận là Do thái hay
không Do thái.
2. Thế giới tha nhân
Thật vậy, một người đàn bà có đứa
con gái nhỏ bị quỷ ám, vừa nghe nói đến Người, liền vào sấp mình dưới chân Người.
Bà ta là người Hy-lạp, gốc Phê-ni-xi thuộc xứ Xy-ri-a. bà xin Người trừ quỷ cho
con gái bà. (Mc. 7, 25-26)
Để hiểu rõ câu chuyện gặp gỡ
này, đừng quên rằng Chúa Giêsu là người Do thái. Theo tâm thức của người Do
thái, chuyện gặp gỡ một người ngoại là điều không ổn, cũng giống như ta gặp một
người nào đó không cùng chủng tộc với ta vậy.
Nhưng ở đây lòng khiêm tốn tháo
gỡ tất cả, bởi lẽ lòng khiêm tốn là cánh cửa mở rộng. Trước tấm lòng cởi mở của
người phụ nữ này, tâm hồn của Chúa Giêsu cũng mở rộng ra.
3. Buông tay ra
Một người vô thần rất mê leo
núi. Ngày kia trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhưng may thay ông bám
được một cành cây nằm chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết
chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông: Tại sao không gọi Chúa đến cứu giúp. Thế
là ông lấy hết sức lực, và la lớn: “Lạy Chúa."
Tuy nhiên bốn bề chỉ có thinh lặng
và ông chỉ nghe được tiếng dội của lời kêu van. Một lần nữa, người vô thần lại
kêu xin tha thiết hơn: “Lạy Chúa, nếu quả thật Chúa hiện hữu thì xin hãy cứu
con. Con hứa sẽ tin Chúa và dạy cho những người khác cũng tin Chúa." Sau một
hồi thinh lặng, bỗng người vô thần nghe một tiếng vang dậy cả vực thẳm và núi
cao: “Gặp hoạn nạn thì ai cũng cầu xin như thế." “Không, lạy Chúa, nghìn lần
không. Con không giống như những người khác. Chúa không thấy sao, con đã bắt đầu
tin từ khi nghe tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ
cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất."
Tiếng ấy trả lời: “Được lắm, Ta
sẽ cứu ngươi. Vậy nếu ngươi tin thì hãy buông tay ra." Người vô thần thất
vọng thốt lên: “Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao!”
4. Giữ vững lòng tin
Một sĩ quan quân đội Nga đến gặp
một vị linh mục Hungari và xin được nói chuyện riêng với ông. Viên sĩ quan là một
chàng trai trẻ, tướng khí hung hãn và dương dương tự đắc trong tư thế của kẻ
chiến thắng.
Khi cửa nhà khách được đóng lại
rồi, viên sĩ quan chỉ cây thánh giá treo trên tường và nói với vị linh mục rằng:
“Ông biết không, cái đó là sự dối trá do các linh mục bầy ra để làm mê hoặc đám
dân nghèo để giúp những người giầu dễ dàng kềm hãm họ trong tình trạng ngu dốt.
Bây giờ chỉ có tôi và ông, ông hãy thú nhận với tôi rằng: ông không bao giờ tin
rằng Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa."
Vị linh mục cười và trả lời rằng:
“Ông bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật."
“Ông đừng có lừa dối tôi, cũng đừng
diễu cợt tôi”, vị sĩ quan hét lên. Anh ta rút ra một khẩu súng lục, chĩa vào đầu
linh mục và hăm dọa: “Nếu ông không nhận rằng đó chỉ là một sự dối trá, thì tôi
sẽ nổ súng."
Vị linh mục điềm tĩnh trả lời:
“Tôi không thể nói như thế, Đức Giêsu thực sự là Con Thiên Chúa."
Viên sĩ quan vứt khẩu súng xuông
sàn và chạy đến ôm vị linh mục. Anh ta vừa khóc vừa nói: “Đúng thế, đúng thế.
Tôi cũng tin như vậy, nhưng tôi không thể tin rằng có những người dám chết vì Đức
tin cho đến khi chính tôi khám phá ra điều này. Tôi xin cám ơn ngài. Ngài đã củng
cố lòng tin của tôi. Bây giờ chính tôi cũng có thể chết cho Đức Kitô. Ngài đã
chứng minh cho tôi rằng: Điều này có thể làm được."
5. Ai cần hơn
Một người da trắng và một người
thổ dân cùng nghe giảng. Người thổ dân cảm động và xin nhập đạo ngay. Còn người
da trắng cũng cảm động nhưng cả năm sau mới nhập đạo. Trong một buổi phụng vụ,
người da trắng hỏi
- Tôi phải mất một thời gian mới
có lòng tin, sao anh có lòng tin sớm thế? Người thổ dân đáp
- Này bạn, để tôi nói cho bạn
nghe. Có vị hoàng tử hứa cho chúng ta chiếc áo mới. Bạn nhìn vào áo mình, tự nhủ
áo mình còn đẹp, để mai sau hãy lấy. Còn tôi, tôi nhìn vào tấm chăn cũ kĩ của
mình, thấy nó chẳng ra gì, nên vội vàng đến nhận áo mới. Bạn ạ, bạn đã có chút
khôn ngoan, nên bạn còn muốn dùng chúng. Còn tôi, tôi không có, nên tôi mau mắn
đón nhận sự khôn ngoan của Chúa Giêsu.
6. Đức tin cần tâm hồn khiêm tốn
để lớn lên
Newton, một nhà vật lý học và
thiên văn học trứ danh, sau những thành công hiển hách của sự tìm tòi, ông đã
viết:
- Không biết thế giới nghĩ về
công việc của tôi như thế nào, nhưng tôi, trong tất cả các sự tìm tòi của tôi về
khoa học, tôi chỉ như một đứa trẻ con chơi ngoài bãi biển. Có lẽ, đôi khi cũng
đã tìm được những hạt sỏi tròn hơn, những vỏ hến đẹp hơn những cái bạn tôi tìm,
nhưng biển mênh mông của chân lý, dưới con mắt tôi vẫn còn mầu nhiệm quá.
Văn sĩ Walter Scott người Anh đã
nói một cách rất nhũn nhặn, sau bao nhiêu năm làm việc chuyên cần:
-Trong đời sống của tôi, cái dốt
đã ngăn tôi lại và dày vò tôi. Người ta càng biết nhiều bao nhiêu thì lại càng
phải khiêm nhường bấy nhiêu, người ta càng học nhiều thì lại càng tự thấy mình
còn dốt.
Socrate đã nói rất có lý:
- Bậc hiểu biết cao nhất của con
người là biết được rằng mình chưa biết gì cả.
Và Sénèque cũng đã viết:
- Đừng tưởng mình là khôn ngoan,
mới là khôn.
Ở Hungary có câu châm ngôn rất
đúng:
- Nếu anh thông minh, anh đừng
khoe khoang.
Người ta thường nói: gà cục tác
nhiều thì đẻ trứng ít.
7. Chẳng có chi để phô trương
Một hôm, Alcibiade khoe với
Socrate là thầy dạy mình về những lãnh thổ mênh mông của ông chung quanh vùng
Athènes. Socrate liền mở bản đồ ra hỏi:
- Hãy chỉ cho tôi biết Á Đông ở
đâu?
Alcibiade chỉ đúng cái lục địa rộng
lớn ấy.
- Đúng! bây giờ chỉ cho tôi biết
Hy Lạp ở đâu?
Alcibiade vẫn chỉ đúng.
- Đâu là Péloponèse, Socrate vẫn
hỏi.
Alcibiade cố gắng mãi mới tìm thấy
cái chấm nhỏ trong bản đồ.
-Vịnh Attique ở đâu?
Alcibiade thấy vịnh Attique là một
cái chấm nhỏ quá gần như không trông thấy, Socrate kết luận: - Đó, bây giờ hãy
cho tôi biết phần đất rộng lớn của anh chỗ nào!
Alcibiade nhận ra lãnh thổ của
mình không đáng một phần nhỏ nào trong bản đồ.
Như vậy, chúng ta thấy cuộc sống
của mỗi người đâu có gì đáng tự hào mà phải khoe khoang, phô trương.
8. Chó con cũng được ăn
Một cô bé đến ăn tối tại nhà một
người bạn. Khi mọi người ngồi xuống, em cúi đầu, chờ đợi lời tạ ơn. Thấy không
có ai cầu nguyện, em nói: “Các bạn giống con chó của tôi, các bạn ăn ngay lập tức”
Người Do thái cũng có cái nhìn như thế về người ngoại đạo. Vì người ngoại thiếu
nhạy cảm về Thiên Chúa. Từ “chó” trong tiếng Hy lạp mà Chúa Giêsu sử dụng ám chỉ
một con chó yêu quý, chứ không phải con chó lang thang ngoài đường. Chúa Giêsu
dùng từ này một cách khôi hài, cũng như cha mẹ dùng từ “nhãi ranh” một cách vui
đùa để nói về một đứa trẻ “con nhãi ranh” Câu trả lời của người phụ nữ hàm ý
nhiều hơn.
Tôi đến với Chúa Giêsu để xin
ngài giúp đỡ như thế nào? Có thái độ tự tin, kể cả táo bạo giống như người phụ
nữ ngoại giáo này không? Tại sao?
Nếu bạn gõ đủ lâu và đủ mạnh, chắc
chắn bạn sẽ đánh thức được một ai đó (Henry M.Longfellow).
THỨ
SÁU - CHÚA GIÊSU VÀ NGƯỜI ĐIẾC
Lời Chúa: Mc 7, 31-37
Khi ấy, Chúa Giêsu từ địa hạt
Tyrô, qua Siđon đến gần biển Galilêa giữa miền thập tỉnh. Người ta đem đến cho
Người một kẻ điếc và xin Người đặt tay trên kẻ ấy. Người đem anh ta ra khỏi đám
đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh.
Ðoạn ngước mắt lên trời, Người
thở dài và bảo: Ephata, nghĩa là "hãy mở ra", tức thì tai anh được
sõi sàng. Chúa Giêsu liền cấm họ: đừng nói điều đó với ai cả.
Nhưng Người càng cấm, thì họ
càng loan truyền mạnh hơn. Họ đầy lòng thán phục, mà rằng: "Người làm mọi
sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được."
TRUYỆN KỂ
1. Mở miệng là sống, và sống với
nhau
Michel-Angelo là một trong những
danh họa đã để lại nhiều tác phẩm bất hủ nhất, bất hủ vì giá trị nghệ thuật
siêu vượt thời gian đã đành, mà còn bất hủ vì sự sống động mà ông đã mặc cho
các tác phẩm của ông, điển hình là bức tượng Môsê. Người ta kể lại rằng sau khi
hoàn thành bức tượng này, Michel-Angelo đứng chiêm ngắm một cách say sưa, và sự
sống động của pho tượng làm ông ngây ngất đến độ ông đã cầm búa gõ vào và thốt
lên: "Hãy nói đi."
Quả thật, lời nói là một trong
những biểu lộ sống động nhất của sự sống. Khi chúng ta mở miệng thốt ra lời, là
lúc chúng ta muốn biểu lộ sự sống, đồng thời nói lên rằng chúng ta đang sống
cùng và sống với người khác.
2. Cánh cửa cuộc đời bị khóa lại
Một phụ nữ có người bạn bị điếc.
Bà hỏi người bạn muốn gì nhân dịp sinh nhật. Người bạn trả lời: “Nhờ bạn viết
thư cho Ann Landers, yêu cầu cho tôi bản kinh cầu nguyện cho người điếc."
Và ngày sinh nhật của người điếc
đó, bà Ann đã gửi tặng lời kinh như bà thỉnh nguyện. Trong đó có lời cầu như
sau:
“Lạy Chúa, người ta thường có
thiện cảm với kẻ mù, người què, nhưng nổi sung bực bội với kẻ điếc, nên người
điếc luôn phải ẩn tránh bạn hữu và ngày càng phải sống cô đơn khép kín!."
Lời kinh trên đây cho chúng ta
thấy nỗi khổ của kẻ điếc. Chúng ta thường nghĩ rằng người mù khổ hơn kẻ điếc.
Nhưng Helen Keller vừa mù vừa điếc thì cho rằng bị điếc còn khốn hơn bị mù nhiều,
vì các cánh cửa cuộc đời bị khóa chặt lại: mở radio vô ích, xem truyền hình chẳng
thú vị gì, không thể nói chuyện với ai, và cảm thấy cô đơn chán nản... (Câu
chuyện theo Br. Thiện Mỹ, CMC).
Khi ơn cứu độ được ban: “Bấy giờ
mắt kẻ mù sẽ mở, tai người điếc sẽ thông. Bấy giờ què quặt sẽ nhảy nhót tựa
hươu nai, lưỡi người câm sẽ reo hò niềm vui. Nước sẽ phun lên trong sa mạc, khe
suối tuôn chảy giữa vùng đất hoang vu… đất khô cằn có mạch nước trào ra” (Is
35,6-7a).
3. Bệnh câm điếc thiêng liêng.
Cử chỉ Chúa Giêsu trong phép lạ
chữa lành người câm điếc, đã có một thời được Giáo hội lặp lại khi cử hành Bí
tích Rửa tội. Thật thế, Bí tích Rửa tội cũng là một phép lạ trong đó chúng ta
được chữa lành và tái sinh trong đời sống mới.
Trong phép lạ này, Chúa Giêsu
cũng nói với mỗi người chúng ta: Epphata, Hãy mở ra. Hãy mở lớn đôi tai để nghe
được tiếng Ngài trong từng biến cố, từng giây phút của cuộc sống. Hãy mở rộng
con tim và đôi tay để cảm thông và chia sẻ với người khác. Hãy mở miệng để cảm
tạ, chúc tụng và loan báo tình thương Chúa, để nói những lời của yêu thương và
hòa bình, của cảm thông và tha thứ.
4. Máu lạnh
Trong truyện ngắn Máu Cá (tức
máu lạnh), nhà văn Nguyễn Minh Châu kể chuyện một bà mẹ trẻ mất con ở ga Hàng Cỏ,
kêu la thảm thiết, nhưng chẳng ai đoái hoài. Nhà văn xin một công an trực rao
trên loa, người này cũng chẳng nói chẳng rằng. Cả ngàn người trên ga Hàng Cỏ
như điếc, như câm trước nỗi khổ của người mẹ quẫn trí vì mất con!
Bài Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu
không dửng dưng trước đau khổ của con người, Ngài đã chữa lành cho người câm điếc.
Lời tán dương của đám đông gợi nhớ lại lời kết luận của sách Sáng thế về công
trình sáng tạo (St 1,31). Chúa Giêsu đến để phục hồi sự tốt đẹp của công trình
sáng tạo: một thế giới trong đó mọi người tin nhận và sống tư thế con thảo của
Cha trên trời, nhìn vào mặt người khác và nhận ra họ là anh em, chị em mình.
Chúng ta phải phá bỏ bức tường câm điếc đã làm cho chúng ta xa
cách tha nhân, không còn hiểu nhau, không còn thông cảm và thương yêu nhau, coi
nhau như kẻ thù. Trái lại, phải xây lại nhịp cầu thông cảm và yêu thương mà
chính Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta khi chịu phép Rửa tội. Trong ngày đó,
chúng ta được cởi mở khỏi xiềng xích tội lỗi và được đàm đạo với Chúa như với
người bạn chí thiết.
5. Bức tường Bá Linh.
Ngày 13/08/1961, người ta xây một
bức tường chưa từng thấy trong lịch sử loài người: cao 8 mét, dài 700 cây số
ngăn đôi một gia đình, một thành phố, một dân tộc, một nước Đức, không ai được
qua lại với nhau, coi nhau như kẻ thù ghê gớm. Ai vượt qua bức tường đó hoặc bị
bắt hoặc bị bắn chết. Mãi đến 28 năm sau, ngày 13/11/1989 bức tường đó bị phá đổ,
chấm dứt hận thù chia rẽ. Gia đình, dân tộc được đoàn tụ với nhau, nước Đức được
thống nhất, thế giới chấm dứt chiến tranh lạnh, trở thành đồng minh đồng chí với
nhau.
6. Giao lưu là gieo và gặt
Hãy cẩn thận với những gì chúng
ta làm cho người khác hôm nay. Đây là những vần thơ tôi đọc được từ Internet.
Nếu bạn gieo thành thật, bạn sẽ gặt lòng tin.
Nếu bạn gieo lòng tốt, bạn sẽ gặt được thân thiện.
Nếu bạn gieo khiêm tốn, bạn sẽ gặt cao thượng.
Nếu bạn gieo kiên nhẫn, bạn sẽ gặt chiến thắng.
Nếu bạn gieo cân nhắc, bạn sẽ gặt hòa thuận.
Nếu bạn gieo chân chỉ, bạn sẽ gặt thành công.
Nếu bạn gieo tha thứ, bạn sẽ gặt hòa giải.
Nếu bạn gieo cởi mở, bạn sẽ gặt thân mật.
Nếu bạn gieo chịu đựng bạn sẽ gặt cộng tác.
Nếu bạn gieo niềm tin bạn sẽ gặt phép mầu.
Nhưng
Nếu bạn gieo dối trá, bạn sẽ gặt ngờ vực.
Nếu bạn gieo ích kỷ, bạn sẽ gặt cô đơn.
Nếu bạn gieo kiêu hãnh, bạn sẽ gặt hủy diệt.
Nếu bạn gieo đố kỵ, bạn sẽ gặt phiền muộn.
Nếu bạn gieo lười biếng, bạn sẽ gặt mụ mẫm.
Nếu bạn gieo cay đắng, bạn sẽ gặt cô lập.
Nếu bạn gieo tham lam, bạn sẽ gặt tổn hại.
Nếu bạn gieo tầm phào, bạn sẽ gặt kẻ thù.
Nếu bạn gieo lo lắng, bạn sẽ gặt âu lo.
Nếu bạn gieo tội lỗi, bạn sẽ gặt tội lỗi.
Vì vậy hãy cẩn thận với những gì
bạn gieo hôm nay, nó sẽ quyết định những gì bạn gặt vào ngày mai.
7. Đó là các kitô hữu
Thánh Pacôme, khi còn ngoại đạo,
đã tự hiến mình trong đạo binh của hoàng gia. Một ngày kia, các binh sĩ trong
đơn vị của ngài gặp phải hoàn cảnh cực kỳ đói khát sau khi phải đi bộ qua sa mạc
dưới cái nắng chết người. Khi ngài và các binh sĩ vào thành Thèbes ở Ai Cập thì
có nhiều người chạy lại bên họ, cho họ ăn và uống, cùng chăm sóc họ chu đáo, tận
tình. Pacôme rất ngạc nhiên trước những sự chăm sóc bất ngờ và bất thường này.
Pacôme cho tra hỏi xem những người tốt lành này là ai? Thì người ta trả lời
Ngài: “Đó là những người Kitô hữu."
Ngài bèn la lên: “Một tôn giáo dạy
người ta cứu giúp những kẻ khốn khổ hoàn toàn xa lạ với mình là một tôn giáo chỉ
có thể đến được từ vị Chúa chân thật!”
Sau biến cố này, Pacôme đã giã từ
binh nghiệp và trở lại đạo Công giáo. Ngài trở thành một vị sáng lập các đan viện
vĩ đại và một vị thánh lừng danh.
8. Rao giảng bằng đời sống
Vào năm 1934 giáo lý viên Gioan
Caduna được linh mục Palexi sai đến vùng Ramxi miền Bắc Ấn Độ để truyền giáo
cho dân làng Majoribua, là những người rất sùng kính tôn thờ vật linh. Sau 18
năm (1952), cha Palexi trở lại vùng này, thấy cả làng đã theo đạo và sống Đức
Tin rất sốt sắng! Cha Palexi hỏi thăm về giáo lý viên Gioan Caduna, thì được biết
anh đã chết lâu rồi. Họ kể lại rằng:
Thời gian đầu mới đến, anh
Caduna bị dân làng tẩy chay, và nói:
- Ở đây không có chỗ cho Chúa của
mày!
Gioan Caduna đáp:
- Tôi không thể đi nơi khác, vì
tôi đã được sai đến đây để nói về Thiên Chúa, Đấng sáng tạo và làm Chủ muôn
loài, Ngài yêu thương hết mọi người, nên đã chấp nhận chết bi đát trên thập
giá, nhưng chưa tới ba ngày sau, Ngài đã sống lại, ai tin vào Ngài thì được
Ngài cứu độ!
Thế nhưng dân làng vẫn quyết liệt
không muốn nghe vào lời anh Caduna giảng dạy, đuổi anh đi. Anh đành phải chấp
nhận ra khỏi làng và đã dựng một cái chòi bên cạnh ngôi làng để hằng ngày cầu
nguyện cho dân đừng cứng lòng tin! Dân làng mỗi khi đi qua đều phỉ nhổ và mạt
sát Caduna:
- Cút đi cho xa, chúng tao không
muốn thấy mặt mày, và chúng tao càng không muốn nghe mày nói về ông Giê-su nào
đó!
Caduna trả lời:
- Tôi không đi đâu được, Chúa
Giêsu đã chết vì yêu mọi người, nên tôi cũng muốn chết ở đây, để chứng tỏ lòng
tôi rất yêu dân Majoribua.
Thời gian sau, Caduna chết vì bị
bệnh sốt rét và sống quá túng thiếu. Lúc đó dân làng mới tỏ ra thương anh, họ tổ
chức an táng anh cách tử tế. Không bao lâu, tất cả dân trong làng xin theo đạo
Công Giáo hết!
Anh Gioan Caduna đã đáp trả được
tiếng Chúa Giêsu hỏi: “Con có yêu Thầy hơn những người này không?”(Ga
21,15-17). Vì “thế giới sẽ thuộc về tay ai biết yêu!” (Lm. Gioan M. Vianey).
9. Tiếng nói của trái tim
Có một đôi nam nữ rất yêu nhau.
Họ hẹn ước sẽ cưới nhau lúc chàng trai đi du học về. Sau khi chàng trai ra đi
ít lâu, cô gái bị một tai nạn giao thông khủng khiếp. Sau đó, cô được cứu sống.
Nhưng điều bi đát hơn cả là cô bị mất đi giọng nói. Bác sĩ bảo rằng tai nạn đã
gây tổn thương não, khiến cô bị câm, không thể nói được nữa.
Cô gái bị suy sụp tinh thần hoàn
toàn. Cô không muốn cho người yêu biết và cũng không muốn trở thành gánh nặng
cho anh nên viết thư cho anh và nói rằng cô không còn kiên nhẫn đợi chờ anh được
nữa. Cô trả lại cho anh chiếc nhẫn đính hôn. Chàng trai đã gửi hàng trăm bức
thư và gọi biết bao cuộc điện thoại, nhưng cô không trả lời mà chỉ khóc. Cha mẹ
cô quyết định chuyển nhà đến nơi khác để cô quên đi những gì đã xảy ra. Cô gái
học ngôn ngữ bằng tay dành cho người câm và bắt đầu một cuộc sống mới. Chàng
trai sau đó cũng về nước và không liên lạc với cô gái nữa. Cô nghĩ rằng chàng
đã quên cô.
Một năm trôi qua, ngày kia, một
người bạn đến trao cho cô gái thiệp mời đi dự lễ thành hôn của chàng trai, người
yêu của cô. Trái tim cô tan nát. Khi mở thiệp cưới ra, cô giật mình khi thấy
tên mình trong tấm thiệp. Ngước mắt lên, cô thấy chàng trai đang đứng trước mặt.
Chàng xuất hiện đúng vào lúc bất ngờ nhất.
Chàng dùng tay để nói với cô: “Một
năm qua anh đã dành thời gian để học ngôn ngữ bằng tay này. Hãy cho anh có cơ hội
để nói với em: Anh yêu em.” Chàng xỏ chiếc nhẫn vào tay cô. Cô gái đã khóc,
khóc vì hạnh phúc lại trở về với cô.
10. Điếc, ngọng và lòng vị kỷ
Chuyện ngày xưa kể rằng, Mặc Tử ở
nước Lỗ sang nước Tề thăm nhà bạn cũ. Người bạn cũ trách Mặc Tử: “Bây giờ thiên
hạ còn ai biết đến việc nghĩa, quan lớn cũng như quan bé, mạnh ai nấy sống, lấy
cái công làm cái tư, ông tự khổ thân một mình làm việc nghĩa chi cho nhọc xác?”
Mặc Tử trả lời: “Tôi hỏi ông, nhà có mười đứa con, một đứa cày, chín đứa ngồi
ăn, thì chẳng phải đứa cày phải cày chăm hơn sao? Bởi vì đứa cày thì ít đứa ăn
thì nhiều. Thiên hạ bây giờ không ai chịu làm việc nghĩa, ông phải khuyên tôi cần
làm việc nghĩa nhiều hơn mới phải chứ, sao lại ngăn tôi?”
Ngày xưa cũng như ngày nay, cám
dỗ mạnh ai nấy sống luôn luôn hiện diện. Khoái điếc, thích ngọng từ đó cũng là
căn bệnh của chúng ta. Hôm nay, Đức Giêsu cũng sẵn sàng chữa lành nếu chúng ta
biết đó là bệnh và ước được chữa lành.
11. Tình yêu nói được mạnh mẽ
Mendelssohn, nhà soạn nhạc nổi
tiếng người Đức, có ông nội là Moses, một người có vóc dáng xấu xí, đã thấp bé
lại gù lưng. Chuyện kể là một hôm ông Moses Mendelssohn đến thăm một thương gia
tại Hamburg và gặp Frumtje, cô con gái rất dễ thương của ông.
Ngay khi gặp Frumtje, ông đã yêu
cô say đắm nhưng cô lại tỏ ra sợ hãi vẻ bề ngoài xấu xí của ông. Trước mắt ông,
cô đẹp như một thiên thần, nhưng ông lại thật buồn khi cô luôn tránh nhìn ông.
Trước lúc ra về, ông thu hết can
đảm gõ cửa phòng cô gái, mong có dịp nói chuyện riêng với cô. Sau mấy lời chào
xã giao, ông lúng túng hỏi cô: “Cô có tin hôn nhân là việc đã được định đoạt từ
trước trên thiên đường không?”
“Tôi tin,” cô gái nhìn xuống sàn
nhà trả lời. “Ông cũng tin chứ?”
“Có chứ,” ông trả lời. “Cô biết
đấy, trên thiên đường khi một cậu bé được sinh ra, Chúa cho cậu ấy biết về cô
gái mà cậu sẽ cưới làm vợ. Khi tôi sinh ra, cô dâu tương lai của tôi cũng đã được
chỉ định. Chúa còn nói thêm rằng vợ tôi sẽ bị gù. Ngay lúc đó, tôi kêu lên: ‘Lạy
Chúa, một người phụ nữ gù hẳn sẽ là một thảm kịch. Lạy Chúa, xin trao cho con
cái bướu đó để người vợ của con được xinh đẹp”
Frumtje nhìn vào mắt ông và bỗng
nhiên thấy tâm tưởng có sự xáo trộn mãnh liệt. Cô đưa tay cho Mendelssohn nắm lấy,
và sau đó đã trở nên người vợ trung thành của ông. Một phép lạ của tình yêu!
Câu chuyện cứ tưởng như trong cổ
tích mà lại có thật. Lời nói có thể không đúng y như thế, nhưng một cô gái xinh
đẹp lại kết hôn với một người thấp bé gù lưng là một sự khó hiểu của tình yêu.
Còn khó hiểu hơn bội phần là
tình yêu Chúa dành cho nhân loại.
12. Điếc mà không biết mình điếc
Ngày nọ, trong một hội nghị về
thế giới, Satan ngỏ lời với đám ác thần vây quanh: “Chúng ta không thể nào ngăn
cản bọn Kitô hữu đi nhà thờ, đọc Kinh Thánh và biết được chân lý. Chúng ta cũng
không thể ngăn cản chúng có một tương giao thân mật với Đức Kitô… Ngày nào họ
còn liên lạc được với Đức Kitô, ngày ấy chúng ta còn bất lực!”
“Vậy cứ để mặc chúng đi lễ, và
giữ nếp sống riêng tuỳ ý, nhưng phải cướp hết thì giờ của chúng, đừng để chúng
gặp được Đức Kitô.”
Đám quỷ nhỏ ào ào lên: “Chúng
tôi phải làm gì để được như thế?”
“Hãy làm cho bọn chúng bận rộn với
những điều không thiết yếu trong đời và tạo ra nhiều chương trình để cho đầu óc
chúng không rảnh rỗi. Hãy xúi chúng tiêu xài, tiêu xài, tiêu xài, rồi kiếm tiền,
kiếm tiền, kiếm tiền…
“Hãy khuyến khích chúng mở tivi,
đĩa phim và máy vi tính suốt ngày. Hãy đổ tràn vào hộp thư của chúng những bức
thư tào lao, giấy đặt hàng, bản cá cược, mọi loại thư tiếp thị và khuyến mãi…
“Không gặp được Đức Kitô, chúng
sẽ thuộc về chúng ta.”
Để chiếm hữu tôi, ma quỷ có nhiều
mưu kế tinh quái để che tai, bịt mắt, không cho tôi tiếp cận với Chúa Giêsu, đấng
Cứu Độ của tôi. Ngày xưa Chúa “đã kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông” để chữa
anh khỏi câm và điếc, để "nối mạng" với anh. Đâu là khoảnh khắc tôi
dành riêng cho Chúa trong một ngày sống?
13. Sức mạnh của lòng tin
Một y sĩ (giấu tên) khá nổi danh,
tới Turinô, xin gặp Cha Don Boscô. Y sĩ nói: “Người ta nói là, cha có thể chữa
khỏi mọi chứng bệnh?”
Cha Don Boscô trả lời: “Đâu có!”
Y sĩ nói: “Người ta đã quả quyết
với tôi như thế, họ còn nói rõ tên, cũng như chứng bệnh những người đã được Cha
chữa khỏi.”
Cha Don Boscô trả lời: “Quả thực
có nhiều người tới đây, xin “Đức Mẹ phù hộ” chuyển cầu cho họ, rồi nếu sau một
tuần tam nhật, hoặc một tuần cửu nhật, họ được khỏi, thì chính là do ơn Đức Mẹ,
chứ tôi không có tham dự gì vào việc chữa khỏi đó.”
Y sĩ nói: “Vậy xin Đức Mẹ chữa
tôi”
Cha Don Boscô nói: “Ông bệnh
gì?”
Y sĩ nói, Ông hay bị té xỉu (động
kinh), và nhất là từ một năm nay, bệnh xỉu của ông xẩy ra luôn, nên đi đâu cũng
phải có người theo. Tuy là y sĩ, Ông lại không chữa được chính bệnh Ông. Ông thất
vọng, Ông tới đây cầu mong được khỏi như một số người khác.
Cha Don Boscô nói: “Vậy thì xin
ông cũng làm, như người ta quen làm ở đây, là quỳ xuống, đọc chung với tôi vài
kinh, rồi ông cáo mình, rước lễ, để tâm hồn được trong sạch và được tăng nghị lực.
Đức Mẹ sẽ yên ủi ông.”
Y sĩ nói: “Xin Cha dậy tôi làm
việc gì khác, vì những việc Cha vừa nói, tôi không làm được.”
Cha Don Boscô nói: “Tại sao?”
Y sĩ trả lời: “Quả thật, tôi
cũng chẳng tin Chúa, tin Đức Mẹ, tin lời cầu nguyện, tin phép lạ!”
Tuy Cha Don Boscô rất bỡ ngỡ,
nhưng nhờ ơn Chúa, Cha cũng đã tìm được những lời khuyên khiến y sĩ cảm động. Kết
cục Ông cũng quỳ xuống, và làm dấu thánh giá.
Y sĩ nói: “Tôi lấy làm lạ, là
làm sao tôi còn nhớ làm dấu, vì tôi đã bỏ hẳn những việc này hơn 40 năm nay.”
Ông cầu nguyện, và kết cục, ông
cũng đã cáo mình.
Ngay sau lúc đó, ông cảm thấy
bên trong như có gì thay đổi. Và rồi, kể từ ngày đó, ông hết bị xỉu. Sau đó,
ông thường tới cầu nguyện và tạ ơn “Đức Mẹ phù hộ."
14. Phá đổ bức tường ngăn cách
Ngày 13/11/1989 bức tường Berlin
(Bá-Linh) cao 8 mét, dài 700 cây số, sau 28 năm chia cắt thủ đô và đất nước Đức
đã bị phá đổ, chấm dứt hận thù chia rẽ. Gia đình, dân tộc được đoàn tụ với
nhau, nước Đức được thống nhất. Tật câm điếc như bức tường ngăn cách kẻ câm điếc
với gia đình và xã hội. Điếc không nghe, không hiểu, không thông cảm với ai được;
câm không nói, không cho người ta hiểu tâm tư nguyện vọng của mình.
Sống giữa người khác mà như bị
nhốt tù trong bốn bức tường câm lặng. Đức Giê-su đã đến phá đổ bức tường câm điếc
cho anh, anh có thể nghe được, nói được, và mọi người cũng nghe được và hiểu được
anh. Tình liên đới, thương mến sống lại trong anh. Anh được đoàn tụ, hợp tác
xây dựng cuộc đời tươi đẹp biết bao với mọi người.
Bạn có phải là người câm điếc
tâm hồn, khép kín trong chính mình, tự cô lập, không chịu mở ra với người khác
để đối thoại, trao đổi? Bạn hãy đến với tha nhân bằng thái độ chăm chú lắng
nghe và nếu cần nói, hãy nói những lời mang tính xây dựng.
15. Thế giới câm lặng
Nhiều người thức dậy mỗi ngày
không cần tiếng chuông báo thức của đồng hồ mà chỉ cần tiếng vo vo của máy dao
động đặt dưới gối. Cũng như người câm điếc trong Phúc Âm, những người này sống
trong một thế giới thinh lặng. Đối với họ, mở máy thu thanh là vô dụng, xem
truyền hình là vô nghĩa, những cuộc đối thoại là điều bất khả. Nhưng hoàn cảnh
của người câm điếc về thể lý chẳng là gì so với người câm điếc về tinh thần, những
kẻ không thấy hoặc không thể chuyện vãn với Thiên Chúa qua lời cầu nguyện. Tất
cả chúng ta đều rơi vào tình trạng này, ít là đôi khi trong đời sống chúng ta.
Về mặt tinh thần, chúng ta sống trong một thế giới câm lặng.
Tôi có bao giờ xin Chúa Giêsu
đưa tôi ra khỏi đám đông và chữa cho tôi khỏi câm điếc về tinh thần không?
Có gì là khó đối với Thiên Chúa
đâu? (St 18,14)
16. Lưỡi và tai
Một hôm trong lúc đang ngồi uống
trà và hàn huyên tâm sự với nhau, tự nhiên tôi thấy ông Hai Hưu Trí có vẻ tư lự
và phát biểu như sau:
- Người đời thường hay đổ thừa mọi
điều xằng bậy là do tội của “cái lưỡi không xương nhiều điều lắt léo."
Nhưng tôi nghĩ nếu chỉ có cái lưỡi thì cũng chẳng có vấn đề! Anh cứ ngẫm lại mà
coi, nếu chỉ có mấy cái lưỡi lươn lẹo, xu nịnh thường hay múa may với nhau thì
bất quá cũng chỉ làm điếc tai hàng xóm láng giềng mà thôi. Cái lưỡi chỉ có thể
làm nên những chuyện tày trời nếu nó được hỗ trợ của những “cái tai” không biết
phân biệt tốt xấu, thật giả của mấy ông: “Nhà báo nói láo ăn tiền."
Nhưng họ lại quên không chê mấy
ông cấp trên quan liêu chỉ khoái được nghe những bài báo cáo thành tích khi chưa
kiểm tra thực hư! Nếu chỉ chuyên có cái lưỡi thì chắc sẽ không thể “vẽ vời” để
biến một công ty đang từ tình trạng làm ăn thua lỗ, gây thiệt hại hàng chục tỷ
đồng cho nhà nước, bỗng dưng trở thành một công ty đang trên đà phát triển và
làm ăn khấm khá. Nếu có những cái tai thực sự ngay chính thì những lời đường mật
như vậy làm sao có khả năng gây ra biết bao thiệt hại được.
Nghe ông Hai Hưu Trí triết lý một
hồi như vậy, tôi liền thêm vào:
- Hôm nay Bác Hai nói thật là
chí lý thậm phải!
Ông Hai Hưu Trí bèn cười lên một
tiếng lớn rồi ôn tồn nói:
- Nè nhá, cũng bởi cái tai của
chú mày chỉ khoái nghe những chuyện xốc hông xiên xỏ, nên cái lưỡi của lão già
rách việc này mới có cơ hội múa may như từ nãy đến giờ, phải không chú em?
Chẳng ai muốn mình bị điếc, nhưng
trong thực tế không thiếu người mắc bệnh này. Chúng ta bị điếc khi để mình mất
khả năng lắng nghe kẻ khác. Chúng ta bị điếc khi chúng ta nghe người khác nhưng
lại cố hiểu theo ý mình. Chúng ta bị điếc khi lắng nghe mà không nhận thức được
đúng sai, hay dở. Vậy điều quan trọng không nằm ở nơi người nói, mà ở chỗ người
nghe suy nghĩ và quyết định ra sao. Nắm được tâm lý của con người nên hãng bảo
hiểm Prudential mới chọn khẩu hiệu: “Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu."
17. Học nói
Vì điếc, Helen Keller chưa bao
giờ học nói, mãi tới khi cô Fuller, một giáo viên dạy nói, mở đường cho Helen.
Cô đặt bàn tay Helen lên mặt cô để Helen có thể cảm nhận được vị trí của môi và
lưỡi khi cô nói chuyện với Helen. Rồi Helen thử bắt chước tập lại. Sau thời
gian tập luyện lâu dài, Helen đã nói được. Niềm vui của Helen thật vô tận. Về
sau, cô đã viết: “Tôi thường lặp đi lặp lại một cách say sưa: giờ đây tôi không
còn câm nữa” Đó là điều mà người câm trong bài Tin Mừng hôm nay cảm thấy khi được
Chúa Giêsu chữa lành.
Tôi có coi trọng những khả năng
được nghe, nói và thấy của tôi không? Trong những khả năng ấy, thứ nào thường bị
tôi lạm dụng? Lạm dụng ra sao?
Tôi đã khóc chỉ vì không có
giày, cho đến khi trông thấy một người bị cụt chân (Ngạn ngữ Ba Tư).
THỨ BẢY -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
LỄ KÍNH -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
Lời Chúa Tuần 5 Thường Niên
Thường niên V GS C PS Ngoại lịch