LỜI CHÚA TUẦN 33 THƯỜNG
NIÊN
CÂU TRUYỆN MINH HỌA
LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
NĂM A - TỐT LÀNH VÀ TRUNG TÍN
LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM (năm B) – LÀM CHỨNG CHO CHÚA
LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM năm C -
CHÚA NHẬT TUẦN 33 THƯỜNG NIÊN (năm A) -
CHÚA NHẬT TUẦN 33 THƯỜNG NIÊN (năm B) -
CHÚA NHẬT TUẦN 33 THƯỜNG NIÊN (năm C) -
LỄ ÐỨC MẸ DÂNG MÌNH VÀO ÐỀN THỜ
THỨ HAI - NGƯỜI MÙ THÀNH GIÊRICÔ
THỨ NĂM - CHÚA GIÊSU THƯƠNG TIẾC CHO GIÊRUSALEM
LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO
VIỆT NAM NĂM A - TỐT LÀNH VÀ TRUNG TÍN
Lời Chúa: Mt 10, 17-22
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng:
"Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ
đánh đập các con nơi hội đường của họ. Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và
vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết.
Nhưng khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng
lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì. Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải
nói gì: vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các
con nói trong các con. Anh sẽ nộp em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ chống lại cha
mẹ và làm cho cha mẹ phải chết.
Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét,
nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ."
TRUYỆN KỂ
1. Không thuộc về thế gian
"Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều
vua, lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước. Nay hạ thần cam chịu mọi
cực hình để nên giống Đức Kitô."
Đó là câu trả lời của ông Micae Hồ Đình Hy khi vua Tự
Đức mời ông giả vờ bước qua thánh giá.
Ông là người thanh liêm, được nhà vua hết sức tín cẩn,
cho phụ trách ngành dệt trong cả nước. Nhưng ông cũng là một Kitô hữu xông xáo
làm việc tông đồ. Ông không thấy có gì xung khắc giữa việc phục vụ đất nước với
việc phục vụ Giáo Hội.
2. Anh em làm chứng cho Thầy
Trong số 117 vị Tử Đạo Việt Nam, được phong thánh
năm 1988, có một phụ nữ duy nhất, mẹ của 6 người con. Đó là bà Anê Lê Thị
Thành, còn gọi là bà Đê.
Trước khi là một anh hùng tử đạo, bà đã là một người
mẹ hiền gương mẫu.
"Thân mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo dục
các con. Chính người dạy chúng tôi đọc chữ và học giáo lý, sau lại dạy cách dự
thánh lễ và xưng tội rước lễ." Đó là lời khai của cô con gái út trước giáo
quyền.
Nhà bà Đê là nơi các linh mục trú ẩn. Buổi sáng lễ
Phục Sinh năm 1861, quan Tổng Đốc Nam Định cho quân bao vây làng của bà. Bà Đê
bị bắt lúc đã 60 tuổi. Bà bị đánh đập tra tấn, bị ép phải chối đạo, bị lôi qua
Thánh Giá, bị bỏ rắn độc vào người.
Khi con gái đến thăm bà trong nhà giam, đau đớn vì
thấy quần áo mẹ loang đầy vết máu, bà đã an ủi con với một niềm lạc quan lạ
lùng: "Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa
Giêsu, sao con lại khóc?"
Sau ba tháng chịu đủ mọi cực hình, người phụ nữ ấy
đã hiến đời mình cho Chúa.
Cuộc đời của vị thánh nữ tiên khởi của Việt Nam là một
sức nâng đỡ lớn cho chúng ta. Thiên Chúa đã làm điều phi thường nơi một người
phụ nữ già nua, yếu đuối.
Quan "Hùm Xám" tỉnh Nam Định cũng phải bó
tay trước sự yếu đuối kiên vững của bà. Khôn ngoan và đơn sơ, can đảm chịu đau
khổ, bà thánh Đê đã phó mặc cho Chúa đời mình. Bà chẳng lo phải nói gì, phải
làm gì trước tòa án, vì sức mạnh của Thánh Thần ở với bà.
3. GM Giuse Vũ Văn Thiên--Missouri 2014
Kính thưa cộng đoàn,
Ngày 19-6-1988 đã in một nét son trong lịch sử Giáo
Hội Công giáo tại Việt Nam. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong 117 vị
chân phước tử đạo tại Việt Nam lên hàng hiển thánh, gồm 96 người Việt Nam và 21
vị thừa sai ngoại quốc. 117 thánh tử đạo là con số tiêu biểu cho hơn 100 ngàn Vị
Tử Đạo trong thời gian 300 năm Giáo Hội bị bách hại. Đây là một biến cố quan trọng
đối với Dân tộc Việt Nam. Người Việt Nam vốn đã tự hào về một truyền thống kiên
cường trong việc dựng nước và giữ nước, nay càng tự hào hơn vì có những bậc tiền
nhân anh hùng kiên vững trong Đức tin. Quê hương Việt Nam đã xinh đẹp, nay còn
xinh đẹp hơn nhờ được tô điểm bằng Đức tin Công giáo.
Tại Quảng trường Đền thờ Thánh Phêrô ở Rôma hôm đó,
trước hàng triệu tín hữu, trong số đó có những tín hữu Việt Nam, Vị Cha chung của
Giáo Hội Công giáo hoàn vũ đã nhân danh Chúa Ba Ngôi long trọng tuyên bố: kể từ
nay, 117 vị Tử đạo Việt Nam được kể vào hàng các thánh và được tôn kính trong
toàn thể Giáo Hội. Để bày tỏ tình thương hiền phụ đối với các tín hữu Việt Nam,
vị Thánh Giáo Hoàng đã ngỏ lời với con cháu các thánh Tử đạo bằng ngôn ngữ của
họ. Đây là lần đầu tiên tiếng Việt thân thương của chúng ta được phát âm và xướng
lên bởi một vị Giáo Hoàng: “Chào anh chị em Việt Nam thân mến. Cha gửi lời chào
chúng con từ bốn phương trời tuốn về La Mã, vui vẻ hiên ngang mừng các thánh Tử
đạo của Giáo Hội chúng con hôm nay. Xin Chúa chúc lành cho chúng con, và Cha cầu
chúc cho chúng con sống xứng đáng là con cháu các vị anh hùng."
4. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2--Mt 25,14-30
Trong cộng đồng rộng lớn của Giáo Hội, tôi xin chào
thăm đặc biệt anh em Việt kiều quí mến đến đây từ mọi phương trời từ Châu Mỹ và
Châu Á, từ Úc Châu và tất cả các nước Âu Châu. Tôi biết anh em đến đây vì muốn
tôn kính các vị Tử Đạo của anh em, nhưng cũng muốn tái tạo chung quanh các vị Tử
Đạo tình huynh đệ, tình thân hữu, tình yêu thương vốn đầy tràn trong tâm hồn
anh em, bởi vì tất cả anh em đều có cùng một tổ quốc quê hương.
Khi gợi lại những kỷ niệm của anh em, tức là anh em
hướng về quê hương với lòng yêu và lòng thương nhớ, với một ước muốn sống giây
phút hiệp thông đầy hy vọng giữa cuộc sống ở hải ngoại này. Khi cùng với anh em
tuyên xưng Chúa Kitô chịu đóng đinh, tất cả chúng tôi hôm nay đều muốn cảm tạ
Thiên Chúa vì những chứng tá đặc biệt mà các thánh Tử Đạo này là những người
con đông đúc của Việt Nam, hay là những vị thừa sai đã có những truyền thống Đức
tin vào Chúa Kitô một cách sâu xa.
Truyền thống của anh em nhắc nhở chúng tôi trong lịch
sử Tử Đạo của Giáo Hội Việt Nam từ lúc khởi đầu còn bao la và phức tạp hơn nữa.
Từ năm 1533, tức là từ khi cuộc rao giảng Tin mừng Kitô bắt đầu từ Đông Nam á,
Giáo Hội Việt Nam trong ba thế kỷ đầu đã phải chịu những cuộc bách hại nặng nề
nối tiếp nhau, với một vài giai đoạn lắng dịu giống như các cuộc bách hại mà
Giáo Hội Tây phương đã phải chịu trong ba thế kỷ đầu tiên. Đã có hàng ngàn tín
hữu Kitô chịu Tử Đạo và đã có rất nhiều người chết trên rừng núi, trong những
vùng rừng thiêng nước độc, nơi mà họ bị lưu đầy tới.
Làm sao có thể gợi hết các vị Tử Đạo ra đây được, và
cho dù chỉ được giới hạn vào những vị Tử Đạo được tôn phong hiển thánh hôm nay,
chúng ta cũng chỉ có thể dừng lại nơi một vài con số trong những vị Tử Đạo của
họ. Thực vậy, có tất cả 117 vị thánh Tử Đạo, gồm 8 giám mục, 50 linh mục, 59
giáo dân, trong số này có một phụ nữ là bà Anê Lê Thị Thành, mẹ của sáu người
con. Chỉ cần nhắc lại đây một, hai khuôn mặt như cha Vicente Dòng Đaminh chịu tử
đạo năm 1773, đó là vị đầu tiên trong 96 vị Tử Đạo Việt Nam. Rồi có một linh mục
khác là cha Anrê Dũng Lạc, cha mẹ của ngài vốn là những người ngoại đạo và
nghèo túng. Từ thuở nhỏ ngài được ký thác cho một thầy giảng và sau trở thành
linh mục vào năm 1823, rồi làm cha sở và làm nhà truyền giáo ở nhiều nơi khác
nhau tại Việt Nam. Hơn một lần ngài đã được cứu thoát khỏi tù ngục nhờ giáo dân
quảng đại nộp tiền chuộc. Ngài nhiệt tình ao ước được chịu phúc Tử Đạo, ngài
thường nói những người chết vì Đức tin thì được lên trời, thế mà ta cứ tiếp tục
trốn tránh, chi phí tiền bạc để tránh thoát những kẻ bách hại, ta hãy để mình bị
bắt và chịu chết thì hơn. Nhờ lòng nhiệt thành và ơn Chúa nâng đỡ như thế ngài
đã chịu tử đạo, bị chém đầu tại Hà Nội ngày 21.12.1839.
Như vậy hôm nay chúng ta có trước mắt các thánh Tử Đạo
Việt Nam là những người theo Chúa Thánh Vịnh đa noi ve cac ngai như sau:
"Những ai gieo trong nước mat se gat trong hoan ca, ho đi va khoc nức nở
gieo hat giong nhưng trở ve ca hat, tay mang bo lua trĩu hat”: Dưới anh sang
cua những lời huyền nhiệm này, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa đích thực của
chứng tá lịch sử của các vị Tử Đạo trong Giáo Hội Việt Nam đã thực hiện với nước
mắt. Họ đã gieo vãi hạt giống Tin mừng và ơn thánh, từ đó đã nảy sinh dồi dào hồng
ân Đức tin "Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất và không nát đi thì không sinh
hoa trái, trái lại nếu nó chết đi thì sẽ mang lại nhiều hoa trái (Jn 12,24-25).
Trong thực tế khi gieo trong nước mắt, các vị Tử Đạo
Việt Nam đã khởi sự công cuộc đối thoại sâu xa và có tính cách giải phóng đối với
dân tộc và văn hoá quốc gia Việt Nam, họ rao giảng trước mặt mọi người tính
cách chân thực và phổ quát niềm tin vào Thiên Chúa. Và hơn nữa, các vị đề ra
các giá trị và các bổn phận đặc biệt thích hợp với nền văn hóa tôn giáo của tất
cả miền Viễn Đông. Dưới sự hướng dẫn của cuốn giáo lý đầu tiên, các vị Tử Đạo
đã làm chứng rằng "Cần phải thờ lạy Thiên Chúa, Chúa Tể duy nhất, một
Thiên Chúa duy nhất, Đấng đã tác tạo nên đất trời."
Đứng trước sự cưỡng bách của nhà cầm quyền trong việc
hành đạo, họ đã xác quyết quyền tự do tín ngưỡng và đã can đảm mạnh mẽ khẳng định
trong đạo Kitô là điều duy nhất mà họ không thể từ bỏ được, vì họ không thể bất
tuân lệnh vị Chúa Tể Tối Cao là Thiên Chúa. Ngoài ra các vị đã tỏ ý muốn trung
thành với các nhà cầm quyền của đất nước, không vi phạm những gì là chính đáng
và ngay thẳng, các vị cũng đã dạy phải tôn kính tổ tiên, các tập tục của quê
hương mình dưới ánh sáng mầu nhiệm Phục sinh.
Với các vị Tử Đạo của mình và nhờ những chứng tá của
các vị, Giáo Hội Việt Nam tuyên tín ý chí và quyết tâm không loại bỏ truyền thống
văn hóa và các luật thể chế của đất nước. Trái lại, Giáo Hội đã tuyên bố và chứng
tỏ rằng mình muốn nhập thể vào truyền thống, văn hoá đó bằng cách trung thành
góp phần vào việc xây dựng tổ quốc một cách đích thực.
5. Chứng nhân anh dũng--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
I. LỄ KÍNH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM.
Hôm nay toàn thể Giáo hội Công giáo Việt nam long trọng
mừng kính các Thánh Tử đạo tại Việt nam, một ngày lễ đem lại niềm vui và một
hào khí thúc đẩy người tín hữu Việt nam theo gương các thánh mà làm chứng cho
Chúa trong cuộc sống hằng ngày.
Theo sử liệu, hạt giống đức tin đã được gieo rắc
trên quê hương đất nước chúng ta với sự hiện diện của một thừa sai là giáo sĩ
Inikhu vào năm 1533. Công cuộc truyền giáo mới ở trong giai đoạn khởi đầu mà đã
bị thử thách nặng nề với cái chết vì đạo của chân phước Anrê Phú yên vào năm
1544. Từ đây Giáo hội Việt nam phải trải qua nhiều thời kỳ chịu bách hại, có
lúc đẫm máu, qua các thời đại các vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, đặc biệt
với nhóm Văn Thân.
Nhà cầm quyền thời đó đã dùng mọi hình phạt dã man để
khủng bố tinh thần các thánh Tử đạo Việt nam, nhưng các Ngài đã anh dũng chịu đựng
vì Chúa. Không có hình phạt nào có thể tách rời các Ngài ra khỏi tình yêu của
Chúa. Chúng ta hãy xem một số hình phạt man rợ và bất công đó:
- Bá đao: bị lý hình dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt
trên thân thể cho dù 100 miếng. Cách chết này có một vị.
- Lăng trì: chặt chân chặt tay trước khi bị chém đầu.
Cách chết này có 4 vị.
- Thiêu sinh: bị thiêu sống. Chết cách này có 6 vị.
- Xử trảm: bị chém đầu. Chết cách này có 75 vị.
- Xử giảo: bị tròng dây vào cổ và bị lý hình kéo hai
đầu dây cho đến chết. Cách chết này có 22 vị.
- Chết rũ tù: bị tra tấn, hành hạ đủ cách đủ kiểu, rồi
bị bỏ đói cho tới khi kiệt sức và chết gục trong tù. Chết cách này có 9 vị.
Cũng nên biết qua về kế họach PHÂN SÁP của vua Tự Đức,
một kế họach quá sâu độc!
Nhưng cũng để cho chúng ta biết rằng trong mọi biến
cố lúc nào cũng có bàn tay quan phòng của Chúa, sự khôn ngoan của lòai người chỉ
là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa.
Kế họach Phân Sáp được Vua Tự Đức cho thi hành vào
năm 1851 và 1856.
Do sự thi hành kế họach Phân Sáp này mà gần 400.000
giáo dân phải bị đi phân sáp, trong đó có từ 50.000 đến 60.000 giáo dân phải chết
nơi phân sáp, 100 làng công giáo bị tàn phá bình địa, 2000 họ đạo bị tịch thu
tài sản ruộng đất, 15 Linh mục Việt nam và 10 giáo sĩ ngọai quốc bị giết, 80
Dòng Mến Thánh Giá bị phá tan, 2000 nữ tu Mến Thánh giá phải tan tác, 100 nữ tu
Mến Thánh giá chết vì Đạo.
Kế họach phân sáp gồm bốn mặt:
- Mặt thứ nhất, không cho người công giáo ở trong
làng công giáo của mình, nhưng phải đến ở trong các làng bên lương.
- Mặt thứ hai, mỗi người công giáo phải bị năm người
lương canh giữ cẩn mật.
- Mặt thứ ba, các làng công giáo bị phá hủy, của cải
ruộng đất của người công giáo bị tịch thu và giao vào tay những người bên
lương, những người này sử dụng và nộp thuế lại cho Nhà Nước.
- Mặt thứ bốn, không cho người đàn ông công giáo ở một
nơi với người đàn bà công giáo, không cho vợ chồng công giáo ở với nhau, mỗi
người phải đi ở một nơi xa nhau, con cái của người công gíao thì phải để cho
gia đình người lương nuôi.
Đây là một kế họach rất sâu độc, nhằm tiêu diệt Giáo
hội Việt nam tận gốc rễ. Nhưng bàn tay Chúa dẫn đưa lạ lùng: các triều đại nhà
Nguyễn không còn nữa, mà Giáo hội Việt nam, hiện nay, vẫn còn lớn mạnh và phát
triển không ngừng (Theo Internet).
6. Giá trị của niềm tin.
Thế kỷ 19, khi cơn cấm đạo nổi mạnh trên tỉnh Thanh
hoá, một hôm, người ta dẫn đến trước mặt quan án một thiếu niên 17 tuổi – tên
là MỢI – Thấy mặt mũi khôi ngô tuấn tú, quan động lòng thương.
Phaolô Mợi bị bắt bị đem ra xử.
Quan nói với Anh: "Anh đạp lên ảnh đi, tôi sẽ
cho anh một nén bạc.
Phaolô Mợi không trả lời.
Quan nói tiếp: " Vậy thì một nén vàng.”
- Dạ bẩm quan chưa đủ.
- Vậy anh muốn bao nhiêu?
- Bẩm, nếu quan lớn muốn tôi đạp Thánh giá, thì xin
quan lớn hãy cho tôi cái gì có thể mua được một linh hồn khác đã...
Và người thiếu niên bình tĩnh bước vào pháp trường,
vẻ anh dũng tươi cười.
7. Chết theo lệnh vua.
Trên bước đường viễn chinh, đại đế Alexandre đã cho
quân vây hãm kinh đô của một vương quốc vùng Tiểu Á. Thay vì cho quân tấn công
hạ thành, đại đế Alexandre đã thúc ngựa đến ngay trước cổng thành và đòi gặp mặt
vua đối phương.
Nhà vua leo lên lũy thành, nhìn xuống đòan quân đang
vây hãm và hỏi Alexandre:
- Nhà ngươi muốn gì?
- Ta muốn nhà vua đầu hàng.
- Đầu hàng? Tường ta cao, hào ta sâu, quân ta đông
hơn, tại sao ta lại phải đầu hàng nhà ngươi?
- Nhà ngươi hãy xem cho rõ.
Thế rồi Alexandre ra lệnh binh sĩ dàn trận. Thay vì tấn
công hạ thành, ông ra lệnh cho họ tiến bước về hướng vực thẳm ngòai thành.
Tò mò, quân sĩ trong thành cũng leo cả lên tường
thành để xem cuộc “diễn binh” của Alexandre.
Đòan quân của Alexandre cứ từ từ tiến bước đến bờ vực
thẳm. Hiên ngang, anh dũng, họ tiến tới bờ vực thẳm. Một người bước vào khỏang
không, rơi xuống vực thẳm, thịt nát xương tan. Người thứ hai vẫn can đảm tiếp
bước, rơi xuống vực sâu, chết theo. Từng người, từng người theo nhau đi vào cái
chết một cách bình thản, anh hùng. Sau cái chết anh hùng của binh sĩ thứ mười,
Alexandre hạ lệnh dừng bước.
Sững sờ kinh ngạc trước tinh thần của binh sĩ
Alexandre, lòng trung tín họ dành cho Alexandre, biết coi nhẹ cái chết tựa lông
hồng, nhà vua và tòan quân trong thành mở cửa qui hàng.
8. Lời các thánh tử đạo
- Thánh Phêrô Cao đã tâm nguyện: “Xin cho con chịu
đau khổ vì danh Đức Kitô, được đón nhận ngành lá tử đạo về tới bến thiên đàng”
- Thánh Phêrô Quí với những dòng thơ gởi cho mẹ hiền:
“Dù trăng trói, gông cùm tù rạc
Chén ngục hình xiềng tỏa chi nề
Miễn vui lòng cam chịu một bề
Cho trọn đạo trung thần hiếu tử”
- Thánh Phaolô Tịnh can đảm thưa với quan án: “Thân
xác tôi ở trong tay quan, quan muốn làm khổ thế nào tùy ý. Nhưng linh hồn là của
Chúa, không có gì khiến tôi hy sinh nó được”
- Thánh Phaolô Khoan đã hát lên lời nguyện hiến tế
cuộc đời: “Vinh danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa là Chúa Cả trời đất, chúng
con xin dâng mạng sống cho Ngài”
- Thánh Anrê Kim Thông: “Thà tôi bị lưu đày và phải
chết vì Chúa, chứ tôi không chối đạo”…
9. Khác nhau mà giống nhau
Họ khác nhau về giới lớp, về thân phận xã hội, về
trình độ tri thức, về chức vụ giữa cộng đoàn...nhưng họ đều giống nhau: thuộc
trọn về Chúa Kitô và coi cái chết nhẹ như lông hồng, bởi chưng họ đều xác tín về
cuộc phục sinh vinh thắng ở bên kia ngưỡng cửa sự chết như chứng từ sau đây:
Thầy Mậu đại diện cho anh em nói với quan:
"Thưa quan, chúng tôi mong ước tìm về bên Chúa như nai mong tìm thấy suối
vậy." Ông Án Khảm vui vẻ nói với mọi người: "Cha con chúng tôi hôm
nay vào nước Thiên Đàng đây." Linh mục Hạnh cũng tươi tĩnh đi chào mọi người:
"Anh em ở lại nhé! Chúng tôi đi về Thiên Đàng đây." Ông Cỏn thấy người
anh em sụi sùi nước mắt, ông nói: "Sao anh lại khóc, lẽ ra phải mừng cho
tôi chứ?"
Vâng, Tử đạo là thế đó. Chứng Nhân là thế đó. Tình
yêu đến cùng dành cho Đức Kitô là thế đó. Và dĩ nhiên, sự thánh thiện Kitô giáo
là thế đó.
10. Bách hạnh và bỏ đạo ngày nay
Có thể chúng ta đang bị ru ngủ trước cái vẻ hào
nhoáng của lễ lạc bên ngoài, của những ngôi nhà thờ to lớn, của những Trung Tâm
Mục vụ tiện nghi... mà chúng ta không nhận ra một cuộc “Bách Hại Mới” đầy nguy
hiểm và độc địa đang tác động, đang gặm nhắm niềm tin của Dân Chúa Việt Nam hôm
nay.
Đó là cuộc bách hại của sự ham mê tiền bạc và sự
giàu sang.
Đó là cuộc bách hại của sự kiếm tìm hưởng thụ tiện
nghi và sung sướng vật chất.
Đó là cuộc bách hại của sự lười biếng làm việc lành
phúc đức và hy sinh hãm mình.
Đó là cuộc bách hại của sự hèn nhát tuyên xưng đức
tin và thể hiện vai trò ngôn sứ.
Đó là sự bách hại của nảo trạng chủ nghĩa cá nhân và
tự do phóng túng.
Đó là sự bách hại của những thoả hiệp đen tối với
các thế lực chính trị và đương quyền để mong sống an nhàn thư thái.
Đó là sự bách hại của chủ trương tương đối hoá các
nghiêm lệnh luân lý ngàn đời của Thiên Chúa và Giáo Hội trong các lãnh vưc hôn
nhân-gia đình hay công bằng xã hội…
Đứng trước những cuộc “bách hại mới” đó, phải chăng
rất nhiều người trong chúng ta đã “chối đạo”, đã “đạp lên thánh giá Chúa Kitô”,
đã “vứt bỏ Tin Mừng”… bằng cách:
- Khi chúng ta sống ích kỷ nhỏ nhen không bao giờ biết
cho đi và phục vụ.
- Khi chúng ta tìm kiếm bạc tiền và chức quyền danh
vọng bằng mọi thủ đoạn bất lương.
- Khi chúng ta yếu nhược trước những bất công và
lãnh đạm thờ ơ trước những khổ đau nghèo đói của anh chị em đồng loại.
- Khi chúng ta vứt bỏ lời thề ước của hôn nhân để tự
do luyến ái ngoại tình.
- Khi những người mẹ giết con bằng hành vi phá thai,
nạo thai.
- Khi những thanh niên nam nữ Công Giáo vứt bỏ các
nguyên tắc luân lý của hôn nhân, tính dục, vứt bỏ đức trong sạch, nết na, để
yêu cuồng sống vội, đam mê buông thả.
- Khi chúng ta coi trọng những cuộc nhậu nhẹt say
sưa, những mánh mung lợi nhuận hơn là những cuộc họp mừng Chúa Nhật.
- Khi chúng ta chia rẽ, hận thù và phá đỗ mối giây
hiệp nhất, hiệp thông trong cộng đoàn.
- Khi chúng ta hèn nhát tìm kiếm sự thoả hiệp và đầu
hàng với các thế lực độc tài, đen tối vì không dám đứng lên tranh đấu cho sự thật,
tự do, lẽ công bằng và những quyền căn bản của con người…
11. Yêu mến thánh giá
Vào ngày 26 tháng 7 năm 1644, Thầy Andrê Phú Yên chịu
tử vì đạo, đã làm phấn khởi những tín hữu sốt sắng ở Qui Nhơn. Ông Trùm An tôn
Ngữ vội vàng lên gặp Cha Đắc Lộ, để hỏi xem phải có thái độ nào trong hoàn cảnh
tương tự. Cha khuyên ông trở về khích lệ giáo dân sẵn sàng và can đảm trong cuộc
chiến cam go của đức tin. Mấy ngày sau, quan trấn thủ sai quan án đến ra lệnh tập
trung tất cả những người có đạo. Nội trong một ngày có 700 người trình diện.
Thay vì làm cho dân chúng khiếp sợ, chính quan và lính thấy đám đông thì bối rối,
chỉ chọn lấy 36 người trói lại, để giải về cho ông nghè Bộ. Ông nghè liền hạch
hỏi: “Các ngươi muốn gì?” Tất cả thưa lại: “Chúng tôi muốn chết, để được sống đời
đời, như lời Chúa Giêsu đã hứa cho những ai tin vào Ngài. Được chết vì Ngài là
một vinh dự!”
Trong số 36 người có một ông nhà giầu. Khi ra trước
sân phủ, quá sợ hãi, nên ông đã chối đạo. Nhưng sự hèn nhát của ông không làm
nao núng 35 người còn lại. Quan trấn không dám vượt quá thẩm quyền, nên nói sẽ
chọn ra 6 người, sẽ đánh đòn trước mặt những người khác để làm gương, nhưng
không liệt kê những ai.
Tối hôm đó, mọi người xưng tội, rước lễ, và ai cũng
tranh cho được lọt vào tốp 6 người. Kẻ thì nói mình là tín hữu lâu đời, người
khác lại nói mình không quan trọng cho đạo, nên sẵn sàng chịu chết. Trong số
đó, có hai cha con cũng tranh nhau. Người cha nói rất tiếc phải tranh với con,
để không thua lòng can đảm của con, mặc dù sức khỏe đã yếu kém. Người con thưa
lại rằng, mình không quan trọng và không phải lo cho gia đình như cha. Quan án
được lệnh đến nhà giam chọn 6 người, trong đó đứng đầu là Ông Trùm Antôn Ngữ. Tất
cả 6 người bị đóng gông, mà Cha Đắc Lộ hay gọi là Thánh giá của người Nam Việt,
hiên ngang theo lính ra phủ đường, 29 người được tự do cũng theo ra.
Những người được chọn vui vẻ hớn hở, vì biết rằng
mình sẽ được chết vì Đức Kitô. Nhưng tới phủ đường, quan chỉ ra lệnh đánh đòn mỗi
người ít roi. Bản án qúa nhẹ làm họ sửng sốt. Lính lại đánh có 4, 5 roi nhẹ,
càng làm họ càng tiếc, mất cơ hội chịu khổ vì Chúa.
Cả 6 người được thả về, liền tìm đến Cha Đắc Lộ phàn
nàn, Cha đã khuyên họ rằng, lòng ước muốn chịu chết vì Chúa cũng rất đáng kể,
và đây mới chỉ là thử thách đầu tiên, tập luyện cho những cuộc thử thách lớn
sau này, mà họ sẽ có dịp minh chứng lòng trung thành trọn vẹn. (Lm Vũ Thành,
Dòng Máu Anh Hùng)
12. Hỏi thưa về các thánh tử đạo Việt Nam
Hàng năm cứ đến ngày này, những người con dân Việt từ
khắp muôn phương cùng với Giáo hội hoàn vũ hướng tâm hồn lên một cách đặc biệt
để mừng kính Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam. Trong hân hoan vui sướng và hãnh diện,
chúng ta tôn vinh, tri ân các ngài đồng thời hô vang: “Vạn vạn tuế các Thánh Tử
Đạo Việt Nam, vạn vạn tuế các Thánh Tử Đạo anh hùng."
Hôm nay chúng ta cùng nhau hướng tâm hồn lên một
cách đặc biệt để mừng kính các ngài. Nói là đặc biệt về các ngài, nên chúng ta
tạm đặt ra mấy câu hỏi cho là cơ bản, để nhờ đó chúng ta lần lượt đưa ra những
gì đã hiểu biết về các ngài, mặc dù đây chỉ là những điều nhiều người đã biết.
Trước hết chúng ta cần xác nhận:
Hỏi: Các ngài là ai vậy?
Thưa: Các ngài là Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam, chết
vì Đạo tại Việt Nam. Ở đây, từ ngữ Đạo được hiểu theo nghĩa chặt: Đạo Công Giáo
Lamã, mà ai cũng biết rõ. Ngày nay thì Đạo Công Giáo Lamã hiện diện khắp nơi.
Hỏi: Các ngài là bao nhiêu?
Con số các ngài chính thức là 117 vị thánh và 1 á
thánh. Đó là những vị đã được Tòa Thánh tuyên phong rõ ràng ngày 19.6.1988. Thế
nhưng, đối với chúng ta hiểu, còn có biết bao nhiêu vị cũng đã “tử vì Đạo” tại
Việt Nam mà chưa được tuyên phong. Dù vậy, các vị cũng phải được Giáo hội Việt
Nam mừng kính. Thời gian bắt đầu vào năm 1580 và chỉ kết thúc hoàn toàn vào năm
1888, có khoảng 400.000 người bị lưu đầy và phát lưu. 130.000 người đã chết vì
đạo.
Hỏi: Các ngài thuộc những thành phần nào?
Các ngài đã là các Kitô hữu thuộc đủ mọi thành phần,
cấp bậc trong Giáo hội Công Giáo. Có 8 vị Giám mục, 50 linh mục, 59 giáo dân (gồm
1 chủng sinh, 16 giáo lý viên, 10 vị dòng ba Đa Minh và 1 phụ nữ)... thuộc đủ mọi
tuổi tác, hoàn cảnh sống: công chức, thương gia, công nhân, quân nhân, y sĩ,
ngư phủ, trùm họ v.v. Trong số đó, bao gồm cả một số nhà truyền giáo (ngoại quốc)
như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý... đã đến Việt Nam truyền Đạo và chết vì Đạo.
Nói chung, cũng nhờ các vị truyền giáo này mà nhiều người Việt Nam biết Đạo,
theo Đạo, sống Đạo và chết vì Đạo nữa, lại được nhập đoàn Các Thánh Tử Đạo tại
Việt Nammà chúng ta đang kính nhớ.
Nói tóm lại, đây là những chứng nhân của Thiên Chúa,
đã anh dũng hy sinh cả mạng sống tại Việt Nam để thi hành sứ vụ Thiên Chúa
trao.
Nói mạnh hơn: các ngài là những tổ tiên anh dũng của
chúng ta. Dĩ nhiên phải quả quyết: chính nhờ các ngài mà có chúng ta và ngày
nay chúng ta luôn rất hãnh diện tuyên nhận các ngài là tổ tiên trước mặt cả thế
giới.
Hôm nay, Giáo hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện mừng
kính các ngài như hướng về tổ tiên yêu quý.Ðọc lại tiểu sử các ngài, ta không
khỏi cảm phục đức tin kiên cường của các ngài. Vì trung thành với Chúa, các
ngài đã cam chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng, nhất
là phải chịu muôn ngàn khổ hình, chịu mất mạng sống vì Đức tin.
Có những vị như thánh Hồ Đình Hy, làm quan lớn trong
triều đình. Quan án Phạm Trọng Khảm, là những vị có chức có quyền trong xã hội
đã thà mất chức quyền, mất danh vọng hơn mất Đức tin. Vì Chúa, các ngài không
những đã sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi trong xã hội mà còn sẵn sàng chịu mất mạng
sống.
Có những vị như thánh Lê Thị Thành, thân phận phụ nữ
yếu ớt, gánh nặng gia đình, nhưng cũng đã sẵn sàng chịu mọi cực hình để minh chứng
tình yêu đối với Ðức Giêsu Kitô.
Có những vị đầu xanh tuổi trẻ như Tôma Thiện, Phaolô
Bột, mười mấy tuổi đầu, tương lai còn dài, đường đời còn nhiều hứa hẹn. Nhưng
các ngài đã cương quyết khước từ tất cả, dâng hiến tuổi thanh xuân cho Đức tin
chân chính.
Hỏi: Tại sao các ngài chết vì đạo?
Thưa: Giết thì chết chứ còn sao nữa. Đây phải được
coi là cơ bản của vấn đề. Kể ra, nếu nhìn bên ngoài thôi thì đã có câu trả lời
rồi: chết vì Đạo mà! Lúc đó một số các vua chúa ghét Đạo và cấm Đạo nên họ giết
những người có Đạo mà không chịu bỏ Đạo. Bị họ giết thì chết, dù là người Việt
hay ngoại quốc...thế nhưng, nhận xét cho đàng hoàng thì vấn đề chết vì Đạo ở
đây có ý nghĩa rất phong phú. Có thể nói tóm gọn bằng 2 từ Tin Yêu. Nhưng hai từ
này bao gồm ý nghĩa rất cao siêu mà Kitô Giáo gọi là “Thần Đức”: Đức Tin kéo
theo Đức Cậy và Đức Mến. Ba nhân đức siêu việt hơn các nhân đức khác mà ta phải
quả quyết: chỉ “người có Đạo” mới có.
Hỏi: Các ngài đã chết tử Đạo như thế nào?
Về các hình khổ: Các ngài đã phải chịu mọi thứ cực
hình mà người ta có thể nghĩ ra được như:
- Gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, bỏ
đói.
- Bị voi giầy, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu vào
rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng v.v.
- Quyết liệt hơn thì bị trảm quyết, tức là bị chặt đầu,bị
xử giảo, tức là bị thắt cổ, hay bị thiêu sống.
- Vô cùng man rợ và hiểm độc như bị xử lăng trì, tức
là phân thây ra từng mảnh hay là xứ bá đao.
Theo loại hình phạt 79 vị bị trảm quyết tức là bị chặt
đầu. Như vậy là con số bị trảm quyết nhiều nhất. 18 vị bị xử giảo tức là bị thắt
cổ. 8 vị chết rũ tù. 6 bị thiêu sinh. 4 bị lăng trì - tức là phân thây ra từng
mảnh. 1 bị tử thương và. 1 bị bá đao.
Là người Công Giáo Việt Nam, chắc chắn mỗi khi đọc lại
tiểu sử các ngài, ta cảm thấy một dòng máu hào hùng trào dâng trong huyết quản.
Bị cuốn hút bởi cuộc sống và cái chết cao đẹp, anh dũng của các ngài, có lẽ ta
cũng có đôi lần ao ước được như các ngài: Sống cao đẹp, chết anh dũng.
Kính lạy Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, làm sao chúng
con có thể có được cái chết cao đẹp như các ngài. Ngày nay đâu còn cảnh cấm Đạo,
bắt Đạo, giết người có Đạo như thời vua quan ngày xưa nữa, nên chúng con không
còn hy vọng chết vì Đạo. Xin cho chúng con biết học đòi, bắt chước các ngài
trung thành với Đức tin và sống đạo cho đến trọn đời. Amen.
13. Thánh Phêrô Nguyễn Văn Lựu
Mảnh đất quê hương Mỹ Tho của chúng ta cũng tự hào
vì đã được thấm gội dòng máu anh hùng của cha thánh Phêrô Nguyễn Văn Lựu. Cha
đã anh dũng đổ máu đào để hôm nay chúng ta là con cháu cũng được đồng hành với
Ngài trên hành trình về quê trời vĩnh cửu.
Nhìn lại lịch sử cuộc bách đạo đã qua, vào năm 1860
dưới thời Tự Đức, nhà vua đã ban hành chiếu chỉ bắt bớ, giam cầm nhiều tín hữu
Công giáo. Lúc bấy giờ, cha Phêrô Lựu đang coi sóc các giáo họ Ba Giồng, Mỹ
Tho, Sa Đéc… Vì thương đoàn giáo dân, Ngài thường cải trang vào nhà giam thăm
viếng, an ủi họ, ban cho họ lương thực Thánh thể và bình an của Chúa.
Một ngày kia, quan coi ngục phát hiện Ngài là linh mục
và ra lệnh tống giam Cha. Tại nhà lao Mỹ Tho, Cha đã vui lòng chịu mọi cực hình
để cùng chia sẻ với bổn đạo. Khi các quan buộc Cha xuất giáo, Ngài đã tuyên
xưng niềm tin của mình bằng câu nói nổi tiếng: “Đạo đã thấm nhập vào xương vào
tủy của tôi rồi, tôi làm sao bỏ được, vả lại, một người giáo dân bình thường, một
thầy giảng bình thường còn không có quyền bỏ đạo, huống gì tôi đây là linh mục…."
Ngày 07.04.1861, quân lính dẫn Cha ra khỏi thành phố
Mỹ Tho khoảng chừng 1 cây số và chém đầu Cha ngay bên vệ đường, tại kinh Bảo Định
ngày nay.
Xin cho mọi thành phần trong xứ đoàn các Thánh tử đạo
Việt Nam của giáo xứ chúng con luôn trổ sinh nhiều hoa trái tốt lành, để một
ngày kia trên thiên quốc, chúng con được hợp tiếng với các Ngài ca tụng tạ ơn
Chúa muôn đời vinh hiển.
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam, Lạy Cha Thánh Phêrô
Nguyễn Văn Lựu! Xin cầu cho chúng con.
14. Trung thành với đức tin.
Đối với các Thánh Tử Đạo, Thiên Chúa là trên hết.
Thiên Chúa là tất cả. Lập trường của các ngài là: “Thà chết chứ không thà bỏ đạo,
bỏ Chúa." Các ngài đã trung thành giữ vững đức tin trước mọi thử thách
gian lao. Các ngài đã dám đánh đổi điều cao quí nhất là mạng sống của mình để
làm chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ. Xin kể ra đây một
vài chứng từ về lòng trung thành (x.Thiên Hùng Sử).
- Thánh Anê Thành, một người mẹ của 6 đứa con. Trong
cơn đau đớn vì bị tra tấn đã nhắn nhủ cô con gái đến thăm người trong tù rằng:
“Con chuyển lời mẹ nói với các anh chị em con: Hãy coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt
sắng, đọc kinh sáng tối, dâng lễ mỗi ngày, cầu nguyện cho mẹ vác thánh giá Chúa
đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên Nước Thiên Đàng." Lời
sau cùng của bà là: “Giêsu Maria Giuse, con phó thác hồn con và thân xác con
trong tay Chúa, xin ban cho con trọn niềm tin ở Chúa.”
- Thánh Luca Thìn, 39 tuổi, cai tổng. Người đã viết
khi bị bắt bước qua thánh giá: “Tôi là một Kitô hữu. Tôi sẵn sàng chấp nhận mọi
cực hình, thậm chí cả cái chết đau đớn nhất, hơn là vi phạm một lỗi dù rất nhỏ
trong đạo tôi thờ."
- Thánh Giuse Lựu, trùm họ Mặc Bắc (Vĩnh Long) đã
tâm sự với một linh mục bạn tù rằng: “Xin cha cầu Chúa ban sức mạnh và lòng can
đảm cho con. Con sắp phải đi đày. Con xin trao cho Chúa tất cả mọi sự thuộc về
con. Con bằng lòng dâng cho Người hy sinh lớn lao hơn hết là gia đình, vợ con của
con."
- Thánh Matthêu Gẫm, 34 tuổi, một thương gia giàu
có, dù bị hành hạ, bị gông xiềng nhưng vẫn luôn bình tĩnh vui tươi. Ngài nói:
“Tôi có ăn trộm, ăn cướp gì đâu mà buồn. Được chết vì đạo là điều tốt lắm."
- Thánh Laurensô Ngôn, 22 tuổi, một nông dân, đã trả
lời khi các quan bắt ngài bước qua thánh giá: “Tôi giữ đạo tôn thờ Chúa tể trời
đất. Thánh giá là phương thế Chúa dùng để cứu độ nhân loại. Tôi chỉ có thể tôn
kính chứ không bao giờ chà đạp. Tôi sẵn lòng chịu chết vì đức tin vào Thiên
Chúa của tôi."
- Thánh Matthêu Phượng, trùm họ, đã nói với các con
mình rằng: “Các con của cha ơi! Đừng khóc, đừng buồn làm chi vì cha đang gặp được
vận hội may mắn."
- Thánh Đaminh Ninh, 21 tuổi, nông dân, đã hiên
ngang phát biểu: “Nếu làm con cái không được phép sỉ nhục cha mẹ mình, thì làm
sao người Kitô hữu lại có thể chà đạp hình ảnh của Đấng tạo thành trời đất? Xin
các quan thi hành điều các quan muốn. Còn tôi không bao giờ xúc phạm thập giá
Chúa tôi đâu."
- Thánh Phêrô Dũng yên ủi vợ: “Hãy vui mừng vì tôi
được hy sinh mạng sống cho Chúa Kitô."
- Thánh Emmanuel Phụng, trùm họ, trước khi bị siết cổ
đã trao cho con gái một ảnh thánh giá và nói: “Con hãy nhận lấy kỷ vật của cha.
Đây là ảnh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Ảnh này quí giá hơn vàng bạc bội phần.
Con hãy luôn mang nơi cổ và trung thành cầu nguyện sớm chiều con nhé."
15. Can đảm phi thường.
Vì đức tin, các ngài đã phải chịu đủ mọi thứ cực
hình dã man. Bị gông cùm, bị xiềng xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ
đói, bị voi giầy, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà
đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng,bị chặt đầu, bị thắt cổ, bị thiêu sống,
bị phân thây ra từng mảnh… Có 79 vị bị trảm quyết (bị chặt đầu); 18 vị bị xử giảo
(bị thắt cổ); 8 vị chết rũ tù; 6 bị thiêu sinh; 4 bị lăng trì (phân thây ra từng
mảnh); 1 bị tử thương và 1 bị bá đao.
- Lòng lang dạ sói của con người nghĩ ra mọi thứ
hình phạt tàn ác, thật kinh hoàng sởn tóc gáy khi nghe kể về cái chết của Cha Cố
Du theo kiểu bị xử bá đao: “Ngày 30.11.1835, họ chọn Thợ Đức làm pháp trường để
xử ngài. Sáng sớm hôm đó, họ điệu ngài đến nơi hành hình. Bên một lò than đang
cháy đỏ rực có 5 tên lính cầm 5 chiếc kìm sắt đã được nung đỏ.Nghe lệnh, cùng một
lúc cả 5 tên kẹp kìm nung đỏ vào mình ngài kéo ra những miếng thịt khét lẹt. Họ
vu cho ngài móc mắt trẻ con khi rửa tội. Làm điều ám muội khi cử hành lễ cưới
và cho ăn thịt người khi rước lễ. Sau đó họ tiếp tục gây thêm những thương tích
nữa cho đến khi ngài bất tỉnh thì họ mới hành quyết. Họ cột chân tay ngài vào
cây cột. Hai bên lính cầm kìm chờ sẵn. Cha Du ngửa mặt lên trời cầu nguyện dâng
mạng sống mình cho Chúa. Sau hồi trống báo hiệu, hai tên lính cầm kìm kẹp vào
ngực ngài kéo ra 2 miếng thịt nơi vú liệng xuống đất, một tên lính khác cầm dao
xẻo thịt phía sau hông, rồi đến bắp đùi thì chúng lấy kìm kéo ra rồi lấy dao xẻo
đứt từng miếng… làm cha rất đau đớn. Không được bao lâu thì ngài ngất đi, đầu
rũ xuống và ngài về chầu Chúa lúc 17g ngày 30.11.1835. Cha Du chết rồi bọn lính
còn chặt đầu ngài cho vào một chiếc thùng đầy vôi, cởi trói lật xác úp xuống rồi
phân thây ra từng khúc bỏ tất cả vào thùng vôi. Đầu ngài họ đem treo 3 ngày ở
giữa chợ rồi xay nát, bỏ chung với thùng vôi đựng xác ngài đoạn quăng cả xuống
biển cho mất tích."
- Thánh Giám mục Xuyên, chân tay bị trói vào bốn cọc.
Năm lý hình cầm 5 cái rìu, sẵn sàng nghe lệnh quan án sát. Vừa nghe lệnh, hai
lý hình chặt hai chân, hai lý hình chặt hai tay, đến lượt lý hình thứ năm chặt
đầu. Rồi họ mổ bụng ngài cắt lấy ruột gan.
- Hai Cha Điểm và Khoa bị trói chân tay vào cột, lý
hình tròng dây vào cổ. Nghe hiệu lệnh, lý hình cầm hai đầu dây xiết mạnh cho đến
khi hai vị nghẹt thở và lịm dần.
-Sáng ngày 5.6.1862, trước sự chứng kiến của rất
đông người, hai giáo dân: Thánh Toại và Thánh Huyên bước vào cũi tre để bị
thiêu sinh. Những người hiện diện đều xúc động khi nghe rõ các ngài cất tiếng
nguyện cầu thật lớn, trong khi ngọn lửa hồng phừng phực bốc cao, thiêu đốt hai
ngài.
- Sau ba tháng tù tại Bình Định, ông Anrê Nguyễn Kim
Thông nhận được án phát lưu vào Vĩnh Long. Đường từ Bình Định vào Nam xa xôi,
ông Thông cùng với bốn chứng nhân khác. Vì tuổi già sức yếu, lại phải mang gông
siềng, ông bước đi một cách rất khó khăn, mệt nhọc. Mỗi ngày chỉ đi được bảy
tám dặm, dưới ánh nắng gay gắt. Tối đến, đoàn tù nhân được tạm giam trong các
đòn quan, hay nhà tù địa phương. Được vài ba ngày, lính thấy ông Thông đuối sức
quá, sợ không thể đi tới nơi, thì thương tình tháo gông xiềng cho ông. Đến Chợ
Quán, thấy tình trạng sức khỏe của ông quá tàn tạ, Cha Được đã đến ban phép xức
dầu cho ông. Sau đó ông lại phải mang gông xiềng tiếp. Khi ông đặt chân lên đất
lưu đày, ông chỉ kịp đọc kinh ăn năn tội, vài kinh kính mừng, rồi tắt thở. Hôm
đó là ngày 15 tháng 5 năm 1855.
16. Coi thường sự đau đớn.
Là con người, ai mà không sợ đau khổ, ai mà không
tham danh tranh lợi, ai mà không tham sống sợ chết! Nhưng với ơn Chúa, các vị tử
đạo đã thắng vượt những khổ hình dã man. Lòng yêu mến Chúa đã giúp các ngài vượt
thắng tất cả: thắng vũ lực, thắng quyền bính vua chúa trần gian, thắng ma quỉ,
và thắng chính mình. Vì thế các ngài xem nhẹ khổ hình, vui mừng và hãnh diện vì
được chết cho đức tin.
- Trước khi bị chém, Thánh Giám mục An nói với viên
quan chỉ hay:“Tôi gửi quan 30 quan tiền để xin một ân huệ: Đừng chém tôi một
nhát nhưng 3 nhát. Nhát thứ nhất tôi tạ ơn Thiên Chúa đã tạo dựng nên tôi, và dẫn
tôi đến Việt Nam giảng đạo. Nhát thứ hai để nhớ ơn cha mẹ sinh thành ra tôi.
Nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của tôi, để họ bền chí chết vì đức
tin, theo gương vị chủ chăn. Và như thế họ đáng hưởng hạnh phúc cùng các Thánh
trên trời."
- Năm vị: Đaminh Nhi, Đaminh Mạo, Đaminh Nguyên,
Anrê Tường, Vinhsơn Tưởng, bị xử chém đầu, thì trừ ông Đaminh Nhi, còn bốn vị đều
yêu cầu lý hình, thay vì chém một nhát, thì xin được chém 3 nhát để tỏ lòng tôn
kính Chúa Ba Ngôi.
- Thánh Hồ Đình Hy bị chém đầu, nhưng trước khi đem
đi xử, giữa kinh thành Huế, trong ba ngày 15,18 và 21 tháng 5 năm 1857, thân
mình ngài đầy thương tích, quần áo tả tơi, dính đầy máu, đi đứng lảo đảo như muốn
té nhào, bị điệu qua các đường phố, những khu chợ và quanh thành nội. Lính mở
đường đi trước rao tên tử tội, mỗi khi tới ngã ba đường, phố, chợ và công trường,
người tử tội bị đánh 30 trượng, lính vác loa rêu rao:“Thằng theo tà đạo, đứa ngỗ
nghịch, bất hiếu với cha mẹ, cưỡng lại luật pháp triều đình. Vì thế bị kết án tử
hình. Bọn Gia Tô tin rằng chết vì đạo sẽ lên Thiên đàng. Điều đó có đúng hay
sai, không cần biết. Gia Tô của nó ở đâu? tại sao thấy nó khổ mà không đến cứu?"
- Sau một năm tù giam, Anrê Trọng vẫn cương quyết
tuyên xưng đức Tin, các quan quyết định ngày xử là thứ bảy ngày 28.11.1835.
Sáng hôm đó, ngài gặp lại người anh họ. Người anh họ hỏi Thánh nhân có muốn ăn
gì không? Anrê Trọng trả lời: “Em muốn giữ chay để dọn mình tử đạo”, rồi nói tiếp:
“Xin anh giúp đỡ mẹ em, chúng ta là anh em, mẹ em cũng sẽ yêu thương anh. Xin
nhắn lời với mẹ em: Đừng lo gì cho em, cầu chúc mẹ mãi mãi thánh thiện và sẽ
hài lòng vì con trai mình luôn trung thành với Chúa cho đến chết.." Nhưng
người anh họ chưa kịp về nhắn tin, bà mẹ của Anrê Trọng đã đến đón con và theo
con đến tận đầu chợ An Hòa, nơi Anrê sẽ bị xử. Gặp con, bà chỉ nói một câu: “Bấy
lâu nay xa nhà, thời gian ở tù, con có nợ nần gì ai không? Nếu có thì cho mẹ biết,
mẹ sẽ trả thay con." Khi được con cho biết là không vướng mắc gì với ai,
bà tiếp tục đi sát bên con, bình tĩnh nói với con những lời đầy khích lệ. Đến
nơi xử, khi quân lính tháo gông xiềng, Thánh Trọng đón lấy, đưa cho anh lính cạnh
bên và căn dặn: “Xin nhờ anh đưa giùm cái này cho mẹ tôi, để bà làm kỷ niệm.."
Mẹ anh đứng gần bên nghe rõ, bà nhận lấy kỷ vật đó và chưa cho là đủ, bà còn muốn
đón nhận chính thủ cấp của con mình nữa. Bà can đảm, bước ra xin viên quan chỉ
huy trao thủ cấp con trai cho bà. Bọc trong vạt áo rồi ghìm chặt vào lòng, bà vừa
hôn vừa lập đi lập lại: “Ôi con trai yêu quí của mẹ, con nhớ cầu nguyện cho mẹ.."
Rồi bà đem về an táng trong nhà.
17. Hạt lúa gieo vào lòng đất
Hôm ấy, có người nông dân mang thóc giống gieo trên
thửa ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời nổi gió lớn. Có nhiều hạt rơi xuống
ruộng bùn nhưng cũng có nhiều hạt bị gió thổi bạt lên vệ đường kề bên.
Bấy giờ những hạt giống nằm trên vệ đường khô ráo cảm
thấy mình quá hên so với bao nhiêu hạt thóc bạn đang phải ngoi ngóp ngụp lặn dưới
bùn, bèn tỏ lòng thương hại và an ủi các bạn thóc dưới sình bằng những lời ngạo
mạn: “Thật đáng thương thay thân phận khốn khổ của các anh. Đang khi chúng tôi
đây thì được ở nơi khô ráo ngon lành, còn các anh lại phải ngụp lặn trong vũng
bùn tanh tưởi. Đang khi chúng tôi được tắm mình dưới nắng, thì các anh lại phải
ngụp lặn trong chốn tối tăm. Đang khi chúng tôi được nhìn ngắm bầu trời xanh,
nhìn ngắm những bông hoa tươi đẹp bên vệ đường thì các anh chẳng thấy gì, chẳng
biết gì … Cuộc đời chúng tôi đầy hào quang, còn cuộc đời các anh đang tàn tạ.
Thật bất hạnh thay cho các anh!…”
Hạt lúa ấy vừa dứt lời thì bỗng đâu có một bàn chân
nặng nề dẫm đạp lên mình nó, khiến nó bị gãy đôi. Sau đó, những bánh xe từ xa
chạy đến, lạnh lùng chà nát nó và những hạt lúa khác nát tan. Những hạt lúa may
mắn còn nguyên vẹn lại hoá thành mồi ngon cho côn trùng và chim chóc!
Trong khi đó, những hạt lúa tưởng là bất hạnh chìm
lĩm trong bùn, thì qua vài hôm sau đã ngoi lên thành những mầm non đầy sức sống.
Những mầm non ấy vươn lên phơi phới, triển nở thành những bụi lúa sum suê. Rồi
không đầy ba tháng sau, từ một hạt lúa nhỏ nhoi chìm ngập trong bùn, nó trở
thành những bông lúa thơm tho tuyệt đẹp, kết thành hàng trăm hạt vàng khoe mình
dưới nắng. Khách qua đường tấm tắc ngợi khen.
Ai ngờ một hạt lúa bất hạnh chìm nghỉm trong bùn, tưởng
chừng như đã hư thối mà nay lại chuyển hoá thành hàng trăm hạt vàng mẩy chắc
ngon lành như thế! Thật là một điều kỳ diệu và là một bài học quý báu.
18. Can đảm nói không với tội lỗi--Lm. Trần Ngà
Trong thời kỳ bách hại đạo Công giáo tại Việt Nam, một
trong những thử thách mà các kitô hữu bị bắt bớ phải trải qua là bước qua thập
giá. Quan quân thời đó thường đặt một cây thập giá dưới đất rồi bắt các kitô hữu
bước qua. Ai không bước qua thì phải chịu đủ mọi cực hình. Còn ai chấp nhận bước
qua thì được thoát cảnh ngục tù, được trả lại những tài sản bị tịch thu, được
ban thưởng bỗng lộc, được sống đời tự do, được đoàn tụ với gia đình.
Nói không trước những lời dụ dỗ và thúc ép
Vậy mà các bậc cha ông tử đạo của chúng ta ngày trước
đã can đảm khước từ tất cả những hứa hẹn hấp dẫn đó, và đã kiên quyết nói
không: Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa, không từ bỏ niềm
tin.
Cũng có những vị được quan quân khuyến dụ hãy giả vờ
bước qua thập giá để cho quan có cớ mà tha, còn sau đó về nhà thì muốn sao tuỳ
ý; nhưng các thánh tử đạo vẫn không chấp nhận một thoả hiệp như thế. Các ngài vẫn
khẳng khái nói không. Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa.
Nói không trước những cực hình dã man và khủng khiếp
nhất
Để uy hiếp các kitô-hữu và ép buộc các ngài bỏ đạo,
ngoài những lời thuyết phục và dụ dỗ, vua quan ngày xưa còn áp đặt những cực
hình man rợ và hết sức khủng khiếp để uy hiếp các ngài: bắt mang gông cùm nặng
nề, bị giam nhốt trong ngục tối với rắn rết, muỗi mòng ghê sợ, chịu thiêu đốt,
chịu thắt cổ, chịu chém đầu, chịu phanh thây, chịu án lăng trì (tức bị chặt
tay, chặt chân trước rồi mới chém đầu sau), và khủng khiếp hơn cả là án bá đao
như quan quân đã bắt cha Marchand Du phải chịu: chịu xẻo từng miếng thịt theo
tiếng trống, cho đủ trăm miếng rồi mới chém đầu, moi ruột moi gan...
Dù vậy, các thánh tử đạo đã kiên quyết nói không:
không chối Chúa, không bỏ đạo cho dù phải đổ máu, phải chịu xẻ thịt phanh thây,
phải hy sinh mạng sống mình.
Nói không với tội lỗi
Ngày hôm nay, không ai dùng bạo lực, dùng những cực
hình man rợ bắt chúng ta bỏ đạo hay chối Chúa như các thánh tử đạo ngày xưa. Vì
thế, chúng ta không cần nói không trước những hăm doạ, đòn vọt hay án chết như
các ngài.
Nhưng chúng ta cũng phải đương đầu với những thách
thức mới. Đó là những cám dỗ, những lôi cuốn của tội lỗi làm chúng ta đi trệch
con đường của Chúa Giêsu, đi lạc ra khỏi đạo lý của Người.
Noi gương các anh hùng tử đạo Việt Nam, chúng ta hãy
can đảm nói không với các tệ nạn xã hội, với các thói hư tật xấu, với những lời
quyến rũ của bạn bè xấu...
Muốn nâng lên được những tạ nặng, các lực sĩ cử tạ
phải tập nâng những tạ nhẹ trước. Muốn giải được những bài toán khó, các học
sinh phải tập làm những bài toán dễ trước. Những lực sĩ muốn nhảy thật cao thì
trước tiên phải tập băng mình qua những mức thấp trước.
Tương tự như thế, để có thể nói không trước những cám
dỗ lớn lao sẽ đến trong cuộc đời, trước những cái ác, cái xấu lôi kéo quyến rũ
chúng ta nay mai, chúng ta phải tập nói không với các cám dỗ nho nhỏ xảy ra hằng
ngày trước.
Nguyện xin các anh hùng tử đạo Việt Nam cầu bầu cùng
Chúa cho chúng ta, để chúng ta luôn biết noi gương các ngài, anh dũng nói không
với tội lỗi và các cơn cám dỗ, cho dù phải chịu mất mát thua thiệt trong cuộc sống
đời nầy, để mai sau xứng đáng được lãnh vòng hoa chiến thắng và chung hưởng
vinh quang với các ngài trên thiên quốc.
19. Bị phản bội, tố giác
Các thánh Tử đạo Việt Nam năm xưa đã lãnh nhận cái
chết tử đạo nhiều khi cũng bởi chính những con người mang danh ky-tô hữu nhưng
đã không còn sống men tin mừng. Họ đã tố giác anh em vì một chút bổng lộc. Họ
đã bán đứng anh em vì cố chấp trong tội lỗi. Như trường hợp thánh An-rê Kim
Thông, ngài đã bị tố giác bởi chính người cháu tội lỗi, ngang ngược. Ngài đã từng
nhắc nhở người cháu sửa đổi nhưng chứng nào tật ấy. Hắn đã không sửa đổi mà còn
tố giác ngài để cầu vinh.
Trường hợp Thánh Phaolô Hạnh cũng thế. Ngài là một
thanh niên nổi tiếng về sự quen biết những tay anh chị trong giới giang hồ tại
chợ Quán. Một lần, chứng kiến một phụ nữ bị đàn em bóc lột không thương tiếc.
Thánh nhân bỗng xúc động ra tay can thiệp, làm áp lực buộc chúng trả lại tất cả
những gì đã lấy của nạn nhân. Vì hành động nghĩa hiệp này, thánh nhân phải trả
giá: họ tố cáo ngài ngoài tội là Kitô hữu, còn tiếp tay với quân đội Pháp.
Thánh nhân bị bắt, bị cầm tù, sau cùng bị trảm quyết tại Chí Hoà ngày
28-5-1859.
Trường hợp Cha Thánh Luca Vũ Bá Loan còn đáng thương
và cảm động hơn. Có hai tên tội phạm đang chờ xét xử. Họ bàn tính với nhau đến
bắt Cha Loan để lập công chuộc tội. Thế là họ đang tâm nộp Cha cho quan huyện
Phú Xuyên, nhưng quan không chịu nhận, họ phải đưa Cha về Thăng Long. Sau cùng,
ngày 5-6-1840, Thánh Luca Loan bị chém đầu.
Điểm chung của các thánh Tử Đạo chính là can đảm đón
nhận thập giá Chúa gửi đến mà không oán hận kẻ làm hại mình. Các ngài đã vui nhận
hy lễ thập giá vì yêu mến Chúa Ky-tô. Các ngài luôn xác tín rằng: những đau khổ
đời này không đáng gì so với vinh quang bất diệt mai sau. Các ngài dầu có chịu
khổ hình trong giây lát nhưng được sống lại vinh quang muôn đời. Đó là điều mà
thánh Đaminh Hạnh đã xác tín, khi mà quan triều đình nói với ngài: "Xem
kìa, đạo trưởng Duyệt đã chịu bỏ đạo, được tha về, ông cứ làm như thế tôi sẽ
tha cho ông." Nhưng thánh Đaminh Hạnh bình tĩnh trả lời: "Kẻ trung
thành với Chúa, khi chết sẽ được lên thiên đàng."
Mừng kính các thánh Tử đạo Việt Nam là dịp nhắc nhở
chúng ta hãy sống thể hiện niềm tin trung kiên của mình trong mọi tình huống. Đừng
vì một chút cỏ dại lấn át mà chán nản bỏ đạo. Đừng vì một chút giận hờn mà thù
hận cả niềm tin của mình. Đừng chối đạo vì ghét ai đó hay đánh mất niềm tin vì
bên trong Giáo hội vẫn có cỏ lung xen lẫn. Và nhất là đừng bán đứng anh em để cầu
vinh.
20. Người chứng thứ nhất
Một thanh niên 19 tuổi bị tuyên án tử hình mà không
được nói một lời để bào chữa mình. Người tuyên án là quan trấn tỉnh Phú Yên.
Vào tháng 7 năm 1644 vị quan này từ triều đình nhà vua về, đem theo sắc lệnh cấm
đạo và bắt đầu giam một ông già tên rửa tội là Anrê, rồi sai một toán lính đến
nhà vị thừa sai Đắc Lộc để bắt thầy giảng số một là Inbaxu. Khi toán lính xông
vào nhà tìm thầy Inbaxu thì chỉ gặp người thanh niên Phú Yên là người mà Cha Đắc
Lộ đã rửa tội được ba năm và đã từng cho đi theo để giúp dạy giáo lý. Người
thanh niên này đã can đảm nhận hết các tội chúng gán cho thầy Inbaxu và các thầy
giảng, nên bị chúng trói lại và điệu đi. Anrê Phú Yên vui vẻ theo toán lính và
trong suốt quảng đường không ngừng giảng cho những kẻ dẫn mình vào ngục biết đường
tránh hỏa ngục hầu hưởng phúc Thiên Đàng.
Nhờ sự can thiệp của cha Đắc Lộ và một số thương gia
người Bồ Đào Nha, ông già Anrê được tha bổng, còn Anrê Phú Yên thì không. Người
thanh niên cường tráng này dám cương quyết thà chết chẳng thà bỏ đạo nên sẽ phải
chết để nêu gương cho mọi người biết vâng lệnh nhà vua. Vậy lính dẫn Anrê Phú
Yên tới thửa ruộng cách thành phố chừng nửa dặm. Mặc dầu đeo gông nặng, Anrê đi
rất nhanh đến nỗi cha Đắc Lộ theo không kịp. Tới nơi hành quyết, thầy giảng trẻ
tuổi Anrê quỳ xuống để chiến đấu cho can đảm hơn. Lính gác chung quanh không
cho ai vào phía trong cả, nhưng viên đội trưởng cho phép cha Đắc Lộ được đứng cạnh
thầy. Cha thấy rõ mắt thầy Anrê nhìn trời cao, miệng luôn hé mở và kêu danh
thánh Giêsu.
Một người lính lấy giáo đâm thầy từ phía lưng, thâu
qua ngực chừng hai bàn tay. Khi ấy thầy nhìn cha Đắc Lộ như để vĩnh biệt và cha
khuyên thầy nhìn lên trời là nơi thầy sắp được Chúa Giêsu đón vào cõi phúc. Từ
giây phút đó thầy chăm chút nhìn lên và không còn nhìn xuống nữa. Người lính
rút lưỡi giáo ra đâm phát thứ hai, rồi đến phát thứ ba, hắn cố ý đâm trúng tim
anh nhưng vẫn chưa chết. Thấy thế, một người lính khác lấy mã tấu chặt vào cổ
anh, anh vẫn chưa xong, phải thêm một nhát thứ hai đầu anh mới lìa khỏi cổ, máu
chảy tràn lai làng. Hành quyết xong, toán lính kéo nhau ra bờ sông để rửa các vết
máu. Cha Đắc Lộ nhặt đầu anh gói lại kỹ càng như một báu vật, còn xác anh ngài
tẩm liệm gởi xuống tàu buôn đưa về Macao chôn cất. Ngài biết đây là một thánh
nhân, cần tôn trọng thi thể này để ngàn đời lưu danh.
21. Lời mời tử đạo
Trong Tông Thư “Tiến đến thiên niên kỷ thứ ba”, Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II kêu gọi Giáo Hội địa phương lập danh mục các vị tử đạo
mới của thế kỷ này. Vì “trong thế kỷ này lại có những người tử đạo, – thường là
âm thầm, họ như thể là “những chiến sĩ vô danh” – vì đại cuộc của Thiên Chúa.
Giáo Hội không chỉ có những người đổ máu vì Đức Kitô mà còn có những bậc thầy về
đức tin, những nhà truyền giáo, những người tuyên xưng đức tin, những giám mục,
linh mục, các trinh nữ, những người kết hôn, góa bụa và trẻ em” (số 37).
Tại đất nước chúng ta, giai đoạn lịch sử của 117
Thánh Tử Đạo Việt Nam được ghi nhận kéo dài đúng 117 năm, với hai vị tử đạo
tiên khởi là Thánh Phanxicô Frederic Tế và Matthêu Liciana Dậu, hai linh mục
dòng Đa Minh, cùng chịu tử đạo tại Thăng Long, miền Bắc năm 1745. Nhưng trước
đó hơn một thế kỷ, đã có máu đào đổ ra để làm chứng cho Chúa Kitô, như thấy nơi
cái chết của Thầy giảng Anrê Phú Yên năm 1644 tại miền Trung. Vị Tử đạo cuối
cùng trong số 117 là Thánh Phêrô Đa, giáo dân thợ mộc, vừa bị thiêu đốt vừa bị
chém đầu ngày 17 tháng 6 năm 1862 tại Qua Linh, miền Bắc. Cuối năm 1861 đầu năm
1862, cuộc cấm đạo trước khi chấm dứt còn bùng lên dữ dội ở miền Nam. Chỉ ở hai
nơi là Biên Hòa và Bà Rịa, 846 Kitô hữu đã bị thiêu sống. Vậy trong ngày lễ
kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta không những kính 117 vị đã được
tôn phong hiển thánh nhưng còn tỏ lòng biết ơn hàng trăm người đã hy sinh tính
mạng vì Chúa Kitô và đã có công truyền lại đức tin cho chúng ta là con cháu.
Nhưng trước hết và trên hết, chúng ta cần tỏ lòng biết
ơn Đấng là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa đến với loài ngừoi chúng ta. Thiên
Chúa đã yêu loài người đến nỗi đã ban Con Một Người và Người Con Một ấy trước
khi chết vì chúng ta đã quỳ xuống rửa chân cho từng môn đệ. Kế đến Ngài đã dành
những lời tâm huyết để nhắn nhủ các môn đệ. Ngài ví bản thân Ngài như hạt lúa
mì gieo vào lòng đất, phải chết đi để sinh được nhiều bông hạt lúa mới (x.Ga
12,24). Rồi Ngài dặn dò các môn đệ về cái thế giới chẳng mấy thân thiện đối với
cả thầy lẫn trò: Họ ghét anh em vì họ đã ghét Thầy trước.
Chính tình yêu đến hy sinh mạng sống như Chúa Giêsu
là cái giá phải trả để trở nên môn đệ đích thực của Chúa Giêsu. Cái giá ấy các
môn đệ xưa đã trả bằng cách hy sinh mạng sống mình. Cái giá ấy các Thánh Tử Đạo
cũng đã trả để mang lại nhiều hoa trái là nhiều người nhận biết Chúa Kitô để được
ơn cứu độ. Đúng như lời vị Giáo Phụ Tertulianô đã nói: “Máu các vị Tử Đạo chính
là hạt giống phát sinh các Kitô hữu."
22. Ba điểm son của tín hữu Việt Nam
"Tôi thấy một số đông người không thể đếm được
thuộc đủ mọi dân tộc, mọi quốc gia và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước tòa Thiên
Chúa và trước Chiên Con, mình mặc áo trắng và trên tay cầm cành lá chiến thắng."
Đó là lời thánh Gioan diễn tả cảm tưởng đoàn người
chiến thắng đứng trước Ngai Thiên Chúa trên Trời mà thánh nhân được Chúa cho thị
kiến. Tiếp theo thánh Gioan viết trong sách Khải Huyền như sau:
"Những người mặc áo trắng ấy là ai và họ từ đâu
tới? Chính vị trưởng lão cho biết, đó là những người đã qua cơn đại họa, đã giặt
áo họ trong Máu Chiên Con và nay trở về. Vì thế họ được hân hạnh đứng trước tòa
Thiên Chúa và phụng thờ Ngài ngày đêm trong Đền Thờ. Đấng ngự trên tòa sẽ chở
che và phù trợ họ, họ sẽ không còn phải khát nữa, không còn bị mặt trời và nóng
bức làm khổ nữa. Vì Chiên Con đứng ở giữa tòa sẽ chăn dắt họ, sẽ đưa họ đến suối
nước thiêng liêng và Thiên Chúa sẽ lau khô nước mắt họ."
Qua ngày lễ Kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam được toàn
thể anh chị em Công Giáo khắp Năm Châu mừng hôm nay, Giáo Hội muốn khẳng định
cho chúng ta và toàn thể Giáo Hội hoàn vũ. Trong số đoàn người đông đảo đứng
trước Ngai Thiên Chúa có cả những người thuộc dân tộc Việt Nam, có cả con cháu
dòng giống lạc hồng, các ngài đã trải qua những cơn thử thách gian truân, lấy mạng
sống của mình để minh chứng cho niềm tin và nay được trở về với Thiên Chúa.
Các vị tử đạo Việt Nam là ai? Các ngài là những nhà
truyền giáo đến từ các nước, là các giám mục, các linh mục người Pháp, Tây Ban
Nha, nhưng đa số là những người Việt Nam gồm ba mươi bảy linh mục, mười sáu thầy
giảng, một chủng sinh và đặc biệt là rất nhiều giáo dân. Số đông đảo giáo dân
Việt Nam đã đổ máu đào minh chứng cho niềm tin là điểm son thứ nhất tôi muốn nêu bật trong bài chia sẻ hôm nay.
Điểm
son thứ hai
tôi muốn lưu ý với anh chị em hôm nay, các thánh Tử Đạo là những công dân hiền
hòa, sống đời gương mẫu, nêu gương lý tưởng trung kiên với Thượng Đế, không phò
vua bách hại, nhưng một lòng tùng phục quốc gia. Họ bị bắt bớ, tra tấn, ngục tù
nhưng không một người nào có ý định cầm khí giới để phòng thân. Trái lại, họ chỉ
cam chịu, chỉ cầu nguyện cho tất cả mọi người, cầu cho quốc thái dân an, cầu
cho các quan đã ký sắc lệnh tử hình và thật lòng tha thứ cho những kẻ hành quyết
mình. Cử chỉ này không phải là hèn nhát, nhưng xứng đáng đối với những bậc thượng
nhân như câu: "Đấng thượng phu đừng thù mới đáng. Đấng anh hùng đừng hoảng
mới hay."
Cuối cùng điểm
son thứ ba tôi muốn nêu bật, là những thành tích vẻ vang để chứng tỏ niềm
tin sắt đá các thánh Tử Đạo Việt Nam đã ghi vào những trang sử của Giáo Hội, là
lòng tôn kính của các ngài đối với thập giá. Đối với các thánh Tử Đạo Việt Nam,
chết tang thương, chết treo trên thập tự để minh chứng tình yêu tột đỉnh của
mình đối với Thiên Chúa và đối với nhân loại, vì thế không một khổ hình nào có
thể di chuyển đôi chân của các ngài tự ý bước qua thập giá. Không bước qua thập
giá để không chối bỏ đạo dù phải đòn vọt, tra tấn, dù phải chịu tử hình, các vị
Tử Đạo Việt Nam đã nêu gương yêu mến thập giá để đáp lại tình yêu của Đấng đã
chết treo trên ấy bằng chính mạng sống của các ngài.
23. Yêu mến Chúa Giêsu và Thập Giá Chúa Giêsu
Thiết tưởng lòng yêu mến Chúa Giêsu và thập giá của
Ngài, sẽ giúp tôi, giúp bạn vượt qua những cuộc bức bách ngoài ta, trong ta, sẽ
giúp chúng ta vượt qua, giúp chúng ta được hồng phúc tử đạo hằng ngày, với
Chúa.
Xin chia sẻ một phần câu chuyện về Thánh Tử Đạo Anrê
Nguyễn Kim Thông (Anrê Năm Thuông) lý trưởng, thầy giảng; sanh 1790 tại Gò Thị,
Bình Định; chết 15 tháng Bẩy, 1855, tại Mỹ Tho. Ngài chết rũ tù vì kiệt sức và
đói khát trên đường di tán tại Mỹ-Tho
“Bị điệu ra trước tòa quan tỉnh tra vấn về các điều
tố cáo. Ông Trùm khiêm tốn, bình tĩnh ung dung trả lời bằng lời lẽ đanh thép:
“Trong nhà tôi không có đạo trưởng. Còn việc tậu thuyền, mãi mã, sắm ghe, tích
trữ lương thực, tôi chẳng hề có, xin quan cho đi khám xét. Tôi chỉ chuyên cần
lo việc nông gia. Tôi không biết Tây Dương, không đem đường chỉ nẻo cho họ. Tôi
cũng chẳng hề đi đâu mà mở đường sơn thủy, vận lương, chuyển binh cho giặc."
Không tìm ra chứng cớ về các điều cáo giác trên, bọn quan lại bèn truyền cho
Ông Trùm “quá khóa”, tức là bước qua Thánh Giá, thì sẽ được tha về. Ông nhất
quyết không tuân.
Quan bảo: “Kín đáo đạp lên thập giá đi, rồi về xưng
tội."
Ông Trùm đáp: “Thạch tín là thuốc độc, uống vô là chết,
nhưng cũng có thuốc giải. Thế nhưng có ai liều mình uống thạch tín bao giờ? Việc
xúc phạm Thánh Giá cũng vậy."
24. Tử đạo trong thế kỷ 21
Ngày nay, cảnh tượng kinh hoàng như thời các thánh tử
đạo của chúng ta phải chịu như máu đổ, đầu rơi; đòn roi tra tấn; hay nhục hình
ghê rợn..., không còn diễn ra trên diện rộng nữa, có chăng chỉ là những nơi xa
xôi hẻo lánh, hay những người nắm chính quyền thiếu hiểu biết, ấu trĩ, bảo thủ
hoặc ngu dốt, nên mới gây ra những hậu quả đáng tiếc, tạo nên sự mâu thuẫn giữa
luật và người thi hành luật! Hay khi thi hành đã hành pháp sai mục đích chủ
trương chính sách của dân tộc, hoặc đôi khi biết sai nhưng vẫn cứ nhắm mắt thi
hành chỉ vì muốn trục lợi cá nhân... dung dưỡng cái bụng của mình mà làm cho
cái đầu bị ngắn trí và trái tim bị teo lại nên không còn biết đúng - sai. Những
người như vậy, họ thuộc hạng người bị mù lương tâm!
Còn trên bình diện thế giới, hình khổ theo kiểu cổ
điển mà các chính quyền đưa ra để đàn áp những người Công Giáo cũng không thể
diễn ra, bởi vì: hiến pháp của bất cứ quốc gia nào cũng tôn trọng tự do tín ngưỡng
và các quyền cơ bản của con người. Có chăng, chỉ có phiến quân nhà nước Hồi
Giáo (IS) cực đoan mà thôi!
Vì thế, khi nói đến tử đạo ngày nay, vẫn khái niệm
duy nhất là chết vì bảo vệ đức tin. Tuy nhiên, cần mở rộng lối suy nghĩ để hiểu
khái niệm này cách rộng rãi hơn, phù hợp với môi trường cũng như thách đố của
chúng ta hiện nay.
Người chứng nhân của thời đại hôm nay chính là dám
chấp nhận ngược dòng để sống căn tính, cốt lõi của Tin Mừng, đó là: chấp nhận đứng
về phía người thấp cổ bé họng, những người không có tiếng nói, những người cô
thế, cô thân, bị loại ra bên lề nhằm bênh vực và lên tiếng thay cho họ khi quyền
chính đáng của họ bị cướp đoạt. Khi đứng về phía họ như vậy, chúng ta sẵn sàng
bảo vệ công lý, chống lại bất công.
Tử đạo ngày nay còn là lựa chọn và khước từ trước những
cám dỗ, lôi cuốn, hấp dẫn để trục lợi cá nhân, an thân, ăn trên ngồi trước, ham
quyền cố vị..., hay chạy đua những dục vọng, dâm ô, khát vọng bất chính, sống
trác táng, phóng đãng... Khi khước từ những thứ đó, chúng ta được mời gọi để sống
một cuộc sống công minh chính đại, sống tinh thần phục vụ vô vị lợi theo lời mời
gọi của Chúa và Tin Mừng của Ngài.
Trong thời đại này, một hiện tượng cũng khá phổ biến
đang lưu hành trong xã hội và nó chi phối sự lựa chọn của rất nhiều người, làm
cho chúng ta đáng quan ngại, đó là: sự dửng dưng, vô cảm trước nỗi đói khổ, hoạn
nạn của anh chị em. Bên cạnh đó, lập trường sống theo kiểu hạt nhân, đèn ai nấy
rạng, nên không cần quan tâm đến nhau cũng là điều đáng để chúng ta suy nghĩ!
25. Ngài cho miệng trẻ nhỏ cất tiếng ngợi khen (Tv
8,2-3)
Hãy coi trường hợp một vị tử đạo tự nguyện chết vì
Chúa ngày 6 tháng 2, 1665: cô là con ông Phêrô Kỳ tử đạo ngày 27 tháng 1, 1665.
Cô được cha Fuciti Dòng Tên dạy giáo lý và rửa tội cho tại Huế khoảng năm
1660-1663, với tên thánh là Lucia. Từ Huế cô Lucia đi bộ tới Quảng Nam để tuyên
xưng đức tin. Cô đã cẩn thận tìm đến với cha Fuciti khi ấy đang ở Hội An, để
xưng tội và bàn hỏi. Cô thú thực với cha ý định nộp mình cho trấn thủ Quảng Nam
dinh, để chết thay cho nhiều người đã chối bỏ Chúa. Cha Fuciti cắt nghĩa cho
Lucia thấy không nên làm như vậy, vì chỉ khi người ta bắt cô, khi ấy cô mới có
bổn phận phải công khai tuyên xưng đức tin. Nhưng Lucia nằng nặc đòi cha Fuciti
đồng ý với cô, nên cha Fuciti cũng chịu thua.
Thế là tại dinh quan Quảng Nam, người ta thấy cô bé
Lucia mới 13 tuổi, xông vào và nói lên ý muốn của mình là muốn chết thay cho những
người đã hèn nhát chối đạo Ðức Chúa Trời. Quan ra lệnh truyền đuổi "cô
bé" đó ra ngoài. Nhưng Lucia cưỡng lại lệnh quan, cô lớn tiếng nói cho mọi
người biết mình là người chỉ biết tôn thờ một Ðức Chúa Trời, Ðấng tạo thành trời
đất muôn vật.
Khiến kẻ thù quân nghịch phải tiêu tan (Tv 8,2-3)
Thế là quan nổi nóng truyền thi hành án tử cho
"con bé" theo lối "tiền trảm hậu tấu", nghĩa là hành quyết
rồi sau đó mới tâu để nhà Chúa Nguyễn được biết.
Lucia được toại nguyện. Cô đi ra pháp trường như người
đi lễ hội. Chính cô chạy lại trước con voi to lớn và voi đó đã tung xác cô lên
nhiều lần cho tới khi vị tử đạo tắt thở (x. Ðỗ Quang Chính, SJ, Sống Trong Xã Hội
Con Rồng Cháu Tiên 1615-1773, bản thảo để xin phép, trang 260-261).
Gần hai thế kỷ sau cuộc tử đạo lạ lùng nói trên, là
cuộc tử đạo của cậu bé 12 tuổi tên là Văn, diễn ra tại tỉnh Hưng Yên, như hậu
quả của chiếu chỉ "phân sáp" do vua Tự Ðức công bố ngày 5 tháng 8,
1861.
Cậu bé Văn này thuộc một gia đình giáo dân làng Tiêu
Chu, tỉnh Hưng Yên. Gia đình cậu bị phân tán làm hai: Hai con lớn đi một ngả,
hai con nhỏ tuổi 10 và 12 đi ngả khác với bố. Bố cậu Văn đã bị xử tử vì không
chịu xuất giáo. Em cậu là Thuần 10 tuổi được tha về. Còn cậu Văn 12 tuổi quan bắt
mang gông và làm cỏ ngoài phố. Mấy ngày sau, hai anh lên tỉnh gặp em đang chơi
vui vẻ với các trẻ khác liền hỏi "Sao em còn ở đây? Các anh đã tưởng em
lên thiên đàng với bố rồi." Cậu bé trả lời cách hồn nhiên rằng: "Em ước
ao được như vậy lắm, song quan không cho em vào số các người bị xử tử vì còn bé
quá." Hai anh liền nói tiếp: "Thế thì em đi trình với quan rằng em đủ
tuổi để chết vì đạo rồi." Cậu Văn nghe hai anh đi trình quan. Quan vừa xấu
hổ vừa tức giận, liền ra lệnh chém đầu cậu bé ngay hôm đó.
26. Mến Chúa yêu người
Nơi các thánh tử đạo ta học được không những bài học
về mến Chúa tột đỉnh, mà còn học được nơi các ngài về lòng yêu người thiết tha.
- Một người nghiện thuốc phiện ngã bệnh trầm trọng
được giới thiệu đến với quan Thái bộc Hồ Ðình Hy. Bệnh nhân liền được quan thu
xếp cho ở căn lều phía sau nhà. Mỗi ngày trước khi đi nhiệm sở và khi về, quan
Thái bộc đều ghé thăm bệnh nhân và săn sóc chu đáo. Sau 15 ngày bệnh nhân đó
qua đời, quan Thái bộc đã tổ chức lễ an táng cho người quá cố như đối với gia
nhân của mình vậy. Quả thật qua việc bác ái này, ta học được nơi thánh tử đạo Hồ
Ðình Hy (1808-1857) gương bác ái không máy móc và chiếu lệ.
- "Xin Cha ẩn dưới rãnh này, Ðức Chúa Trời gìn
giữ, bằng không cha và con đều bị bắt." Ðó là lời bà Anê Lê Thị Thành nói
với cha Lý khi cha bị quân lính lùng bắt. Quả thật, cả hai đều bị bắt ngày hôm
đó. Riêng bà Anê Lê Thị Thành (1781-1841) đã được phúc tử đạo và là người phụ nữ
duy nhất trong số 117 vị tử đạo mà Ðức Gioan Phaolô II tôn vinh năm 1988.
- Hôm ấy cha Gioan Ðạt vừa dâng lễ an táng tại tư
gia xong, thì quân lính ập tới, cha Ðạt chưa kịp thu dọn đồ lễ. Giáo dân liền
chỉ lối để cha thoát thân, nhưng cha tự nguyện trình diện và nói với giáo dân:
"Vẫn biết tôi có thể trốn thoát, nhưng như thế anh chị em sẽ khổ nhiều."
Quân lính trói cha lại, rồi đánh đập tàn nhẫn, khiến giáo hữu bị xúc động, muốn
giải vây cho cha. Cha Ðạt can ngăn họ và nói: "Cứ để tôi vâng theo thánh ý
Chúa, anh chị em ở lại bình yên, kiên trung giữ đạo, và nhớ cầu nguyện cho tôi
được vững vàng đến cùng."
Trong tù, ông Thiềng là viên cai ngục đã tỏ lòng đặc
biệt quí mến cha Ðạt. Ông nói với cha: "Tôi thấy cụ khôn ngoan, đạo đức,
thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị kết án tử rồi. Tôi xin hứa
biếu cụ cỗ quan tài để biểu lộ lòng tôi quí mến cụ."
27. Những hình khổ các Kitô hữu phải chịu?
Người ta có thể nghĩ ra muôn vàn hình khổ để bắt các
vị Tử đạo phải chịu. Cụ thể, các Kitô hữu ở Rôma phải chịu các hình khổ như:
Cho thú dữ phanh thây, chà đạp, xé xác, hoặc tẩm dầu đốt cháy như những ngọn đuốc
trong đêm tối hay đóng đinh vào thập tự…Còn ở Việt Nam, hình khổ mà các vị Tử đạo
phải chịu là: Bá đao: bị lý hình dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt trên thân thể
cho dù 100 miếng; Lăng trì: chặt chân chặt tay trước khi bị chém đầu; Thiêu
sinh: bị thiêu sống; Xử trảm: bị chém đầu; Xử giảo: bị tròng dây vào cổ và bị
lý hình kéo hai đầu dây cho đến chết; Chết rũ tù: bị tra tấn, hành hạ đủ cách đủ
kiểu, rồi bị bỏ đói cho tới khi kiệt sức và chết gục trong tù.
Mặt khác, người kitô hữu phải chịu muôn vàn hình khổ
khác do kế hoạch Phân Sáp của Vua Tự Đức vào năm 1851 và 1856. Đây là một kế hoạch
rất thâm độc: Thứ nhất, không cho người công giáo sống trong làng công giáo của
mình, nhưng phải đến ở trong các làng bên lương; thứ hai, một người công giáo bị
năm người bên lương canh giữ cẩn mật; thứ ba, các làng công giáo bị phá hủy, của
cải ruộng đất của người công giáo bị tịch thu và giao vào tay những người bên
lương, những người lương sử dụng và nộp thuế cho nhà nước; thứ tư, không cho
người đàn ông công giáo ở một nơi với người đàn bà công giáo, không cho vợ chồng
công giáo ở với nhau, mỗi người phải đi ở một nơi xa nhau, con cái của người
công giáo thì phải để cho gia đình người lương nuôi. Theo các sử liệu ghi chép
lại, với kế hoạch Phân Sáp, có khoảng 400 000 kitô hữu phải bị đi phân sáp,
trong đó có từ 50 000 – 60 000 tín hữu phải chết nơi phân sáp, 100 làng công
giáo bị tàn phá bình địa, 2 000 họ đạo bị tịch thu tài sản ruộng đất, 115 Linh
mục Việt nam và 10 giáo sĩ ngọai quốc bị giết, 80 Dòng Mến Thánh Giá bị phá
tan, 2000 nữ tu Mến Thánh giá phải tan tác, 100 nữ tu Mến Thánh giá chết vì Đạo.
Ngoài ra, phải kể đến những cuộc thảm sát người Kitô
hữu do phong trào Văn Thân ở thế ký 19 gây ra: tổng cộng số giáo dân bị giết
khoảng 40 000 người, 30 linh mục Việt Nam, 20 thừa sai và hàng ngàn họ đạo bị
thiêu hủy.
28. Yêu mến thánh giá
Chúa Giêsu hôm nay khẳng định rằng: “Ai muốn theo
tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn
cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu
được mạng sống ấy. Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình
hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì?”
Vì vậy, các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã khước từ xúc phạm
bước qua hay đạp lên Thánh giá dù phải chịu những cực hình dã mang, kinh tởm nhất.
Ví dụ, Thánh Anrê Kim Thông dù chịu tử đạo là chết rũ tù tại Mỹ tho, Ngài vẫn
can trường nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được."
Còn Thánh Stêphanô Ven nói: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo Thập giá, nay
tôi lại đạp lên Thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quý
hóa đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!" Ngài bị xử trảm (chém đầu) 1861 dưới
thời Vua Tự Đức. Rồi Thánh Giuse Phạm Tòng Tả cũng vậy cho dù bị xử giảo (treo
cổ) quyết không bước qua thánh giá. Kinh khủng hơn nữa là thánh Nicôla Bùi Ðức
Thể, là Giáo dân dù bị xử lăng trì (tùng xẻo, bá đao) dưới đời vua Minh Mạng,
quyết không đạp lên thánh giá.
Lúc đối diện với Thánh Giá, chính là lúc các Thánh tử
đạo Việt nam đặt mình trước làn ranh của sự sống và sự chết, giữa tin và không
tin, giữa vinh quang thế trần và vinh quang thiên quốc, giữa hạnh phúc tạm bợ đời
này và hạnh phúc vĩnh cửu đời sau. Thế nhưng, các Ngài vẫn chọn Chúa làm gia
nghiệp nên tín trung với Chúa, yêu Chúa và mến Thánh giá Chúa cho đến giây phút
cuối cùng giữa trăm ngàn khổ cực thân xác. Vì chưng, Thánh Giá luôn là niềm
vinh dự và là nguồn sức mạnh ban muôn ơn cho các Ngài trong cuộc sống. Vì thế
dù mỗi vị thánh một hoàn cảnh, mỗi vị thánh một cực hình, nhưng Thánh Giá đã trở
nên mẫu số chung cho các Ngài, trở thành niềm hy vọng bất diệt, nguồn sức mạnh
và nguồn sức sống cho các Ngài để rồi sẵn sàng tử đạo đổ máu mình ra làm chứng
cho Chúa và Tin Mừng của Ngài: “Thầy là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào
thầy dù có chết cũng sẽ sống, và bất cứ ai sống và tin vào thầy, người đó sẽ
không bao giờ chết” (Ga 11,25).
29. Kế hoạch phân sáp
Cũng nên biết qua về kế hoạch Phân sáp của vua Tự Đức,
một kế hoạch quá sâu độc, gồm bốn mặt:
- Người công giáo phải đến ở trong các làng bên
lương.
- Mỗi người Công giáo phải bị năm người lương canh
giữ cẩn mật.
- Các làng Công giáo bị phá huỷ, của cải ruộng đất của
người Công giáo bị tịch thu và giao vào tay những người bên lương, những người
này sử dụng và nộp thuế lại cho Nhà nước.
- Không cho vợ chồng công giáo ở với nhau, con cái của
người công giáo thì phải để cho gia đình người lương nuôi.
Với kế hoạch phân sáp của vua Tự Đức, 100 làng công
giáo thành bình địa, 2,000 họ đạo bị tịch thu tài sản ruộng đất, 115 Linh mục
Việt Nam và 10 giáo sĩ ngoại quốc bị giết, 80 Dòng Mến Thánh Giá bị phá tan,
2,000 nữ tu Mến Thánh giá phải tan tác,100 nữ tu Mến Thánh giá chết vì đạo.
Dẫu vậy, các
tín hữu Tử đạo Việt Nam đã anh dũng chịu đựng vì Chúa, luôn có bàn tay quan
phòng của Thiên Chúa, không có hình phạt nào có thể tách rời các Ngài ra khỏi
tình yêu của Chúa. Tất cả đều mang trong mình một niềm tin son sắt, một tình
yêu nồng cháy, một tinh thần can đảm quật cường, sẵn sàng chịu muôn ngàn thử
thách vì danh thánh Chúa Kitô vì các ngài tin tưởng như Lời Chúa trích sách
Khôn Ngoan: “Linh hồn những người công chính ở trong tay Thiên Chúa và đau khổ
sự chết không làm gì được các ngài” (Kn 3,1).
30. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Từ ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, Giáo Hội luôn
duy trì một thủ tục khắt khe để phong thánh hầu tránh đi mọi lạm dụng có thể xảy
ra. Khởi đầu thì bất cứ người giáo dân nào cũng có quyền làm đơn xin Giáo Hội
xúc tiến thủ tục điều tra để phong thánh cho một hay nhiều Kitô hữu. Đó là những
người công giáo đã qua đời, mà còn để lại những mẫu gương thánh thiện cao độ,
nhất là khi họ chết vì đạo với những bằng chứng rõ rệt vì đức tin.
Tất cả 117 vị tử đạo Việt Nam mà chúng ta mừng kính
hôm nay đều có đủ bằng chứng đích thực về cái chết anh hùng đó. Qua thủ tục điều
tra từ hơn một thế kỷ nay, các vị ấy đã lần lượt được Giáo Hội nhìn nhận là Đấng
đáng kính, vì đã nêu gương thánh thiện cho các Kitô hữu. Tiếp đến là nâng lên
hàng Chân phước, tức là các vị ấy được nhìn nhận là đang được hưởng hạnh phúc
vĩnh cửu bên Chúa. Tuy việc tôn kính còn giới hạn chưa phổ quát khắp nơi trên
thế giới. Cuối cùng là được phong lên bậc thánh nhân, tức là được tôn vinh hiển
thánh với lễ kính có thể được cử hành ở khắp mọi nơi.
Nhìn vào con số 117 vị tử đạo Việt Nam, chúng ta nhận
thấy các ngài là những bậc cha ông của chúng ta, trong đó gồm đủ mọi thành phần:
8 giám mục, 50 linh mục, 16 thầy giảng, 1 chủng sinh và 42 giáo dân.
Ngoài các giám mục và các linh mục là những người lo
đáp ứng những nhu cầu thiêng liêng, chúng ta thấy các ngài thuộc đủ mọi giai cấp
xã hội. Thánh Hồ Đình Hy là quan thái bộc, đặc trách ngành dệt tơ lụa vải vóc
trong cả nước. Thánh Phạm Trọng Khảm là quan án. Thánh Vinhsơn Tường làm chánh
tổng. Thánh Nguyễn Huy Mỹ làm lý trưởng. Các thánh Đạt, Huy, Thể là quân nhân.
Có người làm thầy thuốc, làm nhà buôn, làm thợ mộc, thợ may, có người làm ngư
phủ hay nông dân.
Mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta hãy
chiêm ngưỡng những mẫu gương thánh thiện các ngài để lại. Nhưng chiêm ngưỡng mà
thôi chưa đủ, chúng ta còn phải cố gắng noi theo và bắt chước, vì con nhà tông
không giống lông cũng giống cánh.
Là những thanh thiếu niên, chúng ta hãy chiêm ngưỡng
và bắt chước một chàng trai tuấn tú 18 tuổi đã trả lời quan toà: Tôi chỉ mong
chức quyền trên trời chứ không màng danh vọng trần thế. Chàng trai tuấn tú ấy
là thánh Tôma Thiện.
Là những người đang sống trong bậc vợ chồng, chúng
ta hãy khắc ghi lời bà lý Mỹ: Gia đình tôi luôn sống trong hoà thuật và yêu
thương, nhà tôi chuyên chăm đạo đức, tham dự thánh lễ hằng ngày. Nếu vợ con hay
người giúp việc vì bận rộn không đi lễ được, ông bắt phải đọc kinh chung và
nghe sách thiêng liêng để suy niệm. Ông xưng tội nhiều lần trong năm. Ông không
đánh bạc, không uống rượu hay to tiếng với ai bao giờ. Bà lý Mỹ đã nói như vậy
về chồng bà là thánh Nguyễn Huy Mỹ.
Cụ Hoàng Lương Cảnh làm cho quan quân phá lên cười
khi họ yêu cầu cụ đọc kinh, thì cụ lớn tiếng: Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các quan
trị nước cho yên, càng ngày càng thịnh. Tại pháp trường, khi chịu xử tử, thánh
Lê Văn Phụng còn nhắn nhủ người con trai của mình: Con ơi, hãy tha thứ, đừng
báo thù kẻ tố giác ba nhé. Là con cháu của các bậc anh hùng tử đạo chúng ta đã
làm được những gì để tuyên xưng đức tin của mình?
31. Sống đạo phải đi trước chết vì đạo
Theo truyện kể, thì thánh Giuse Xuyên Giám mục địa
phận Trung Đàng ngoài, đã được phúc tử vì đạo ngày 28.10.1858, ngài đã bị xử án
lăng trì, nghĩa là bị chặt chân chặt tay và bị cắt thịt ra từng mảnh. Tương
truyền rằng khi thọ án ngài đã có những lời ta thán những kẻ hành hình ngài là
độc ác. Nên vì câu nói ấy mà mãi tới ngày 29.04.1951 ngài mới được tôn lên bậc
chân phước.
Truyền thuyết trên đây có thể không đúng với sự thật,
nhưng dù sao nó cũng nhắc nhở chúng ta về điều này: Người tử đạo không phải là
một anh hùng theo kiểu các anh hùng khác của nhân loại.
Thật vậy, các vị tử đạo không phải là những anh hùng
ngã gục trên chiến trường với vũ khí trong tay, trong một cuộc chiến chống lại
quân thù. Các ngài là những con người không biết thù ghét, mà cũng không được
thù ghét bất cứ ai, trái lại luôn luôn tuân giữ mệnh lệnh Chúa Kitô truyền là
“Yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi mình." Nếu các
ngài có phải chiến đấu, thì đó là chiến đấu chống lại sự hèn nhát, khiếp sợ của
chính mình.
Vì thế, nếu có một người nào bị giết, tuy trên danh
nghĩa vì đạo, nhưng lại căm thù những kẻ bách hại mình, hay kiêu hãnh tự phụ vì
tính anh hùng của mình, thì người đó không thể nào là thánh được, mà cùng lắm
chỉ có thể được coi như một anh hùng thôi. Cũng vì lý do đó mà Giáo Hội Công
giáo không bao giờ chấp nhận các tín hữu của mình tự sát, ngay cả trong trường
hợp gọi là để bảo vệ đức tin hay Giáo Hội.
Nói cách khác, người Kitô hữu được mời gọi trước hết
để sống đạo, chứ không phải chết vì đạo, bởi vì Thiên Chúa là Chúa của sự sống,
chứ không phải là Chúa của sự chết. Đàng khác, nếu chúng ta sống đạo đúng theo
đòi hỏi của Tin Mừng, nghĩa là sống trọn tình bác ái đối với tất cả mọi người,
thì cái chết chúng ta cũng có ý nghĩa là một cái chết vì đạo. Bởi lẽ chết vì đạo,
trước hết phải là chết vì lòng yêu mến.
32. Các giáo dân tử đạo
Chúng ta có thể kể ra đây một vài khuôn mặt của những
vị thánh giáo dân như những chứng từ cho điều chúng ta vừa nói:
- Thánh Luca Thìn, 39 tuổi, cai tổng. Người đã viết
khi bị bắt bước qua thánh giá: “Tôi là một Kitô hữu. Tôi sẵn sàng chấp nhận mọi
cực hình, thậm chí cả cái chết đau đớn nhất, hơn là vi phạm một lỗi dù rất nhỏ
trong đạo tôi thờ."
- Thánh Giuse Lựu, trùm họ Mặc Bắc (Vĩnh Long) đã
tâm sự với một linh mục bạn tù rằng: “Xin cha cầu Chúa ban sức mạnh và lòng can
đảm cho con. Con sắp phải đi đày. Con xin trao cho Chúa tất cả mọi sự thuộc về
con. Con bằng lòng dâng cho Người hy sinh lớn lao hơn hết là gia đình, vợ con của
con."
- Thánh Matthêu Gẫm, 34 tuổi, một thương gia giầu
có, dù bị hành hạ, bị gông xiềng nhưng người luôn bình tĩnh vui tươi. Người
nói: “Tôi có ăn trộm, ăn cướp gì đâu mà buồn. Được chết vì đạo là điều tốt lắm."
- Thánh Laurensô Ngôn, 22 tuổi, một nông dân, đã trả
lời khi các quan bắt người bước qua thánh giá: “Tôi giữ đạo tôn thờ Chúa tể trời
đất. Thánh giá là phương thế Chúa dùng để cứu độ nhân loại. Tôi chỉ có thể tôn
kính chứ không bao giờ chà đạp. Tôi sẵn lòng chịu chết vì đức tin vào Thiên
Chúa của tôi."
- Thánh Matthêu Phượng, trùm họ, đã nói với các con
mình rằng: “Các con của cha ơi! Đừng khóc, đừng buồn làm chi vì cha đang gặp được
vận hội may mắn."
- Thánh Đaminh Ninh, 21 tuổi, nông dân, đã hiên
ngang phát biểu: “Nếu làm con cái không được phép sỉ nhục cha mẹ mình, thì làm
sao người Kitô hữu lại có thể chà đạp hình ảnh của Đấng tạo thành trời đất? Xin
các quan thi hành điều các quan muốn. Còn tôi không bao giờ xúc phạm thập giá
Chúa tôi đâu."
- Thánh Phêrô Dũng yên ủi vợ: “Hãy vui mừng vì tôi
được hy sinh mạng sống cho Chúa Kitô."
- Thánh Anê Thành, một người mẹ của 6 người con.
Trong cơn đau đớn vì bị tra tấn đã nhắn nhủ cô con gái đến thăm người trong tù
rằng: “Con chuyển lời mẹ nói với các anh chị em con: Hãy coi sóc việc nhà, giữ
đạo sốt sắng, đọc kinh sáng tối, dâng lễ mỗi ngày, cầu nguyện cho mẹ vác thánh
giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên Nước Thiên đàng."
- Thánh Emmanuel Phụng, trùm họ, trước khi bị siết cổ
đã trao cho con gái một ảnh thánh giá và nói: “Con hãy nhận lấy kỷ vật của cha.
Đây là ảnh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Anh này quí giá hơn vàng bạc bội phần.
Con hãy luôn mang nơi cổ và trung thành cầu nguyện sớm chiều con nhé."
33. Những cái chết đau đớn mà cao thượng
Thánh Linh mục Du bị trói vào một cây cọc. Có 3 lý
hình, một cầm kìm, một cầm dao, còn một người lo đếm cho đủ 100 lát cắt. Trước
đó, lính đã nhét đá vào miệng ngài và cột chặt, để không có thể kêu la hay bỏ
chạy được. Sau một hồi trống, lý hình cắt lớp da trên trán Cha Du lệt xuống che
mắt, rồi cắt từng mảng hai bên ngực, sau lưng, tay chân. Quá đau đớn Cha Du
giãy giụa quàn quại, ngướv mắt lên trời cao, rồi gục đầu xuống nhắm mắt lìa trần.
Tiếp theo quân lính cắt đầu của vị tử đạo, bổ thân mình làm 4 và ném xuống biển.
Còn thủ cấp Cha được đem đi bêu tại nhiều nơi, rồi đưa trả về kinh đô, bị bỏ
vào cối giã nát và cho rắc xuống biển.
Thánh Giám mục Xuyên, chân tay bị trói vào bốn cọc.
Năm lý hình cầm 5 cái rìu, sẵn sàng nghe lện quan án sát. Vừa nghe lện, hai lý
hình chặt hai chân, hai lý hình chặt hai tay, đến lượt lý hình thứ năm chặt đầu.
Rồi họ mổ bụng ngài cắt lấy ruột gan.
Hai Cha Điểm và Khoa bị trói chân tay vào cột, lý
hình tròng dây vào cổ. Nhge hiệu lệnh, lý hình cầm hai đầu dây xiết mạnh cho đến
khi hai vị nghẹt thở và lịm dần.
Sáng ngày 5-6-1862, trước sự chứng kiến của rất đông
người, hai giáo dân: Thánh Toại và Thánh Huyên bước vào cũi tre để bị thiêu
sinh. Những người hiện diện đều xúc động khi nghe rõ các ông cất tiếng nguyện cầu
thật lớn, trong khi ngọn lửa hồng phừng phực bốc cao, thiêu đốt hai ông.
Sau ba tháng tù tại Bình Định ông Anrê Nguyễn Kim
Thông nhận được án phát lưu vào Vĩnh Long. Đường từ Bình Định vào Nam xa xôi,
ông Thông cùng với bốn chứng nhân khác. Vì tuổi già sức yếu, lại phải mang gông
siềng, ông bước đi một cách rất khó khăn, mệt nhọc. Mỗi ngày chỉ đi được bảy
tám dặm, dưới ánh nắng gay gắt. Tối đến, đoàn tù nhân được tạm giam trong các
đòn quan, hay nhà tù địa phương. Được vài ba ngày, lính thấy ông Thông đuối sức
quá, sợ không thể đi tới nơi, thì thương tình tháo gông xiềng cho ông.
Đến Chợ Quán, thấy tình trạng sức khỏe của ông quá
tàn tạ, Cha Được đã đến ban phép xức dầu cho ông. Sau đó ông lại phải mang gông
xiềng tiếp. Khi ông đặt chân lên đất lưu đày, ông chỉ kịp đọc kinh an năn tội,
vài kinh kính mừng, rồi tắt thở. Hôm đó là ngày 15 tháng 5 năm 1855.
Bà Thánh Inê Đê (Lê Thị Thành), sau khi đã bị tra tấn
và chịu đòn, coi trong người không có chỗ nào không bị thương tích, áo quần đầy
máu me, bà đã trút hơi thở cuối cùng trong ngục. Lời sau cùng của bà là:
“Giêsu Maria Giuse, con phó thác hồn con và thân xác
con trong tay Chúa, xin ban cho con trọn niềm tin ở Chúa.”
Hôm đó là ngày 12-7-1841, sau 3 tháng bị giam cầm về
đức Tin.
Riêng những vị xử trảm, cũng có những gương sáng lạng
về việc các ngài coi thường sự đau đớn lúc bị chém đầu. Coi như các ngài ước ao
được chém nhiều lần để biểu lộ lòng yêu mến Chúa.
Trước khi bị chém Thánh Giám mục An nói với viên
quan chỉ hay:
“Tôi gửi quan 30 quan tiền để xin một ân huệ: Đừng
chém tôi một nhát nhưng 3 nhát. Nhát thứ nhất tôi tạ ơn Thiên Chúa đã tạo dựng
nên tôi, và dẫn tôi đến Việt Nam giảng đạo. Nhát thứ hai để nhớ ơn cha mẹ sinh
thành ra tôi. Nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của tôi, để họ bền
chí chết vì đức Tin, theo gương vị chủ chăn. Và như thế họ đáng hưởng hạnh phúc
cùng các Thánh trên trời.
Năm ông Đaminh Nhi, ông Đaminh Mạo, ông Đaminh
Nguyên, ông Anrê Tường, ông Vinhsơn Tưởng, bị xử chém đầu, thì trừ ông Đaminh
Nhi, bốn vị ông Đaminh Mạo cùng cá ông Đaminh Nguyên, Anrê Tường, Vinhsơn Tưởng,
đều yêu cầu lý hình, thay vì chém một nhát, thì xin được chém 3 nhát để tỏ lòng
tôn kính Chúa Ba Ngôi.
Riêng Thánh Hồ Đình Hy bị chém đầu, nhưng trước khi
đem đi xử, giữa kinh thành Huế, trong ba ngày 15,18 và 21 tháng 5 năm 1857,
thân mình ngài đầy thương tích, quần áo tả tơi, dính đầy máu, đi đứng lảo đảo
như muốn té nhào, bị điệu qua các đường phố, những khu chợ và quanh thành nội.
Lính mở đường đi trước rao tên tử tội, mỗi khi tới ngã ba đường, phố, chợ và
công trường, người tử tội bị đánh 30 trượng, lính vác loa rêu rao;
“Thằng theo tà đạo, đức ngỗ nghịch, bất hiếu với cha
mẹ, cưỡng lại luật pháp triều đình. Vì thế bị kết án tử hình. Bọn Gia Tô tin rằng
chết vì đạo sẽ lên Thiên đàng. Điều đó có đúng hay sai, không cần biết. Gia Tô
của nó ở đâu? tại sao thấy nó khổ mà không đến cứu?”
Sau một năm tù giam, Anrê Trọng vẫn cương quyết
tuyên xưng đức Tin, các quan quyết định ngày xử là thứ bảy ngày 28-11-1835.
Sáng hôm đó, anh gặp lại người anh họ. Người anh họ hỏi Thánh nhân có muốn ăn
gì không? Anrê Trọng trả lời: “Em muốn giữ chay để dọn mình tử đạo”, rồi nói tiếp:
“Xin anh giúp đỡ mẹ em, chúng ta là anh em, mẹ em cũng sẽ yêu thương anh. Xin
nhắn lời với mẹ em: Đừng lo gì cho em, cầu chúc bà mãi mãi thánh thiện và sẽ
hài lòng vì con trai mình luôn trung thành với Chúa, cho đến chết.”
Nhưng người anh họ chưa kịp về nhắn tin, bà mẹ Anrê
Trọng đã đến đón convà theo con đến tận đầu chợ An Hòa, nơi Anrê sẽ phải xử. Gặp
con, bà chỉ nói một câu: “Bấy lâu nay xa nhà, thời gian ở tù con có nợ nần gì
ai không? Nếu có thì cho mẹ biết, mẹ sẽ trả thay con.”
Khi được con cho biết không vướng mắc gì với ai, bà
tiếp tục đi sát bên con, bình tĩnh nói với con những lời đầy khích lệ. Đến nơi
xử, khi quân lính tháo gông xiềng, Thánh Trọng đón lấy, đưa cho anh lính cạnh
bên và căn dặn:
“Xin nhờ anh đưa giùm cái này cho mẹ tôi, để bà làm
kỷ niệm.”
Mẹ anh đứng gần bên nghe rõ, nhưng bà nhưa lấy kỷ vật
đó là đủ, bà còn muốn đón nhận chính thủ cấp của con mình nữa. Bà can đảm, bước
ra xin viên quan chỉ huy trao thủ cấp con bà, cho bà.
Bọc trong vạt áo rồi ghìm chặt vào lòng, bà vừa hôn
vừa lập đi lập lại:
“Ôi con yêu quí của mẹ, con nhớ cầu nguyện cho mẹ.”
Rồi bà đem về an táng trong nhà.
34. Các thánh tử đạo vô danh
Chúng ta cũng nên nhắc lại đây một vụ sát hại thảm
khốc xẩy ra ở gần chúng ta. Tôi muốn nói đến vụ thảm sát tại Bà rịa vào ngày
7-1-1862.
Vào năm 1861 số tín hữ tại Bà rịa có vào khaỏng hơn
2000 người. Cuộc sống được yên ổn cho đến tháng 8 năm 1861 nghĩa là cho tới khi
quan tuấn vũ Biên Hòa ra chỉ thị cho quan phủ Bà rịa lập danh sách những người
có đạo. Sau khi lập danh sách, nhưng người có đạo đếu bị khắc tự ở hai bên má:
Một bên thì bị khắc hai tiếng "Biên Hòa", bên kia thì bị khắc hai tiếng
"Tả đạo."
Tháng 9 năm đó người ta thấy bốn ngục giam được thiết
lập. Đây là ngục dành riêng để giam giữ những người có đạo.
Ngục Dinh (Phước lễ) được lập ngay tại Bà rịa để
giam 300 đàn ông.
Ngục Thơm ở Long Kiên gần đó để giam 135 người vừa
đàn bà vừa trẻ em.
Ngục Thành ở Long điền cũng để giam vừa đàn bà vừa
trẻ em. Số người ở đây là 140 người tất cả.
Ngục cuối cùng là ngục Đất đỏ (Phước thọ). Ở đây người
ta giam 125 người cũng vừa đàn bà vừa trẻ em.
Như vậy chỉ tính ở Vùng Bà rịa cũng đã có đến gần
700 người bĩ bắt và bị giam. Cuộc sống bị giam cầm rật khổ. Mùa khô thì còn đỡ,
đến mùa mưa thỉ cuộc sống lao tù thật rất khổ. Các tín hữu bị canh giữ nghiêm
ngặt, nhiều nơi phải ăn uống và xử lý mọi việc có liên đến đời sống hằng ngày
trong cùng một chỗ, rất là mất vệ sinh nhưng không còn cách nào khác. Đối với
ba ngục giam giữ đàn bà và trẻ con thì tương đối được dễ hơn một chút.Chính vì
thế mà Cha Trí mới có thế giả dạng làm người lái buôn nước mắm để vào tiếp tế
cũng như ban các phép Bí tích cho bổn đạo.
Một việc rất không may là cuối tháng 12 năm 1861 thì
Biên Hòa thất thủ. Quân nhà Nguyễn phải chạy về hướng Bà rịa. Tại đây họ cũng
chỉ cấm cự được đến tháng ngày 7 tnáng 1 năm 1862. Trước khi rút đi họ ra lệnh
phóng hỏa thiêu rụi tất cả các trại giam với tất cả những người bị giam ở trong
đó. Họ canh giữ một cách rất cẩn thận. Ai đào thoát mà họ bắt được thì sẽ bị
chém ngay lập tức. Dịp này trại Dinh bị thiệt hại nhiều nhất. Trong số 135 người
bị giam tại đó thì đã có tới 106 người bị chết. Ba trại kia vì là đàn bà con trẻ
cho nên những lính canh đỡ khắc nghiệt hơn. Một vài người lính còn nhân đạo
hơn. Họ phá cửa cho những người bị giam trong đó được thoát thân. Chỉ trừ có trại
Thơm ở Long Kiên là bị hại nhiều hơn cả. Lý do là tên cai ngục ở đó quá tham
lam. Ông ta chặn những người ở đó để cướp của.
Tổng kết lại trong thảm họa này số những người giam ở
bốn trại bị chết là 288 người. Trong số này có đủ mọi lứa tuổi:
Bà cụ Maria Nở ở Long điền 75 tuổi
Ông Giuse Vệ ở Phước lể cũng 75 tuổi.
Em Micae Giao, Phê-rô Ban, Carôlô Nhỏ ở Long Kiên và
Long Điền mới chỉ có 10 tuổi.
Em Madalena Lợi ở Long Kiên và Maria Mới ở Đất đỏ mới
chỉ được một tuổi.
Đặc biệt là hai cháu sơ sinh Antôn Trước và Antôn
Sau. Đây là hai anh em sinh đôi trong trại Đất đỏ. Các cháu chẳng khác gì các
tánh anh hài thời Chúa Giêsu vừa mới Giáng sinh.
Ngày hôm sau tức là ngày 8-1-1862 những nơi bị phóng
hỏa chỉ còn là một đống tro tàn với những thi thê các vị tử đạo còn nằm ngổn
ngang tại đó.
35. Những điểm cần nhớ về các thánh tử đạo Việt Nam
Sự
kiện.
Hôm nay trên khắp mọi nẻo đường của đất nước, chúng
ta vẫn còn thấy hiển lộ ra nhiều dấu tích đau thương nhưng rất hùng tráng này.
Một trong các dấu tích sáng ngời nhất đó là Thánh địa Lavang mà mọi người chúng
ta đều biết, nơi đây chúng ta mới kỷ niệm 200 năm ngày Mẹ hiện ra với con cái của
Mẹ vào một trong những giờ phút đau thương nhất của những người con cái Mẹ trên
mảnh đất Việt Nam thân yêu này. Giờ đây tôi xin dành một ít phút để đi sâu vào
một vài khiá cạnh làm nên những trang sử anh hùng đáng tự hào này.
thời
gian và con số:
+ Thời gian không xa chúng ta lắm. Nó bắt đầu vào
năm 1580 và chỉ kết thúc hoàn toàn vào năm 1888 có nghĩa là chỉ cách chúng ta
hơn một thế kỷ và kéo dài gần 3 thế kỷ. 3 thế kỷ ba thế hệ của cuộc sống làm
người.
+ Con số người chịu ảnh hưởng của cuộc bách hại này
không nhỏ: Lịch sử cho chúng ta thấy những người chịu ảnh hưởng của cuộc bách hại
rất lớn.
* Có khoảng 400.000 người bị lưu đầy, phát lưu và
phân sáp.
* 130.000 người đã chết vì đạo trong số này đã có
117 vị được Giáo Hội chính thức tôn phong lên hàng hiển thánh vào ngày
19.6.1988 cách đây 12 năm.
các
hình khổ:
Các ngài đã phải chịu mọi thứ cực hình mà người ta có thể nghĩ ra được
- Còn một chút nhân đạo như bị gông cùm, bị xiềng
xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói.
- Nhẹ nhàng như bị voi giầy, bị trói ném xuống sông,
bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng
vv.
- Quyết liệt hơn thì bị trảm quyết - tức là bị chặt
đầu- bị xử giảo - tức là bị thắt cổ -, hay bị thiêu sống.
- Vô cùng man rợ và hiểm độc như bị xử lăng trì - phân
thây ra từng mảnh hay là xứ bá đao.
Xin được dịch ra ở đây một đoạn được viết trong cuốn
La Cochin-chine Religieuse về cái chết của Cha Cố Du theo kiểu bị xử bá đao.
Ngày 30-11-1835 họ chọn Thợ Đức làm pháp trường để xử
Ngài.
Sáng sớm hôm đó, họ điệu ngài đến nơi hành hình. Bên
một lò than đang cháy đỏ rực có 5 tên lính cầm 5 chiếc kìm sắt đã được nung đỏ.
Nghe lệnh, cùng một lúc cả 5 tên kẹp kìm nung đỏ vào
mình ngài kéo ra những miếng thịt khét lẹt.
Họ vu cho ngài móc mắt trẻ con khi rửa tội. Làm điều
ám muội khi cử hành lễ cưới và cho ăn thịt người khi rước lễ.
Sau đó họ tiếp tục gây thêm những thương tích nữa
cho đến khi ngài bất tỉnh thì họ mới hành quyết.
Họ cột chân tay ngài vào cây cột. Hai bên lính cầm
kìm chờ sẵn. Cha Du ngửa mặt lên trời cầu nguyện dâng mạng sống mình cho Chúa.
Sau hồi trống báo hiệu, hai tên lính cầm kìm kẹp vào
ngực ngài kéo ra 2 miếng thịt nơi vú liệng xuống đất - một tên lính khác cầm
dao xẻo thịt phía sau hông - rồi đến bắp đùi thì chúng lấy kìm kéo ra rồi láy
dao xẻo đứt từng miếng… làm cha rất đau đớn. Không được bao lâu thì ngài ngất
đi, đầu rũ xuống và ngài về chầu Chúa lúc 17g ngày 30-11-1835
Cha chết rồi bọn lính chặt đầu ngài cho vào một chiếc
thùng đầy vôi, cởi trói lật xác úp xuống rồi phân thây ra từng khúc bỏ tất cả
vào thùng vôi. Đầu ngài họ đem treo 3 ngày ở giữa chợ rồi xay nát, bỏ chung với
thùng vôi đựng xác ngài đoạn quăng cả xuống biển cho mất tích"
Tiến
trình phong thánh: Bây
giờ tôi xin nói thêm một chút về 117 thánh tử đạo đã được Giáo Hội phong lên
hàng hiển thánh. Quá trình này đã được chuẩn bị khá lâu.
* Ngày 27-5-1900 Đức Thánh Cha Lêo XIII phong 64 vị
lên hàng chân phước. Đây là lần đầu tiên.
* Ngày 20-5-1906 Đức Thánh Cha Pio X phong thêm 8 vị.
* Ngày 02-5-1909 cũng Đức Thánh Cha Piô X phong thêm
20 vị nữa.
* Ngày 29-4-1951 Đức Thánh Cha Pio XII phong 25 vị.
Trong 117 vị được phong chân phước có
8 Giám mục (Giám mục thuộc dòng Đaminh và 2 Giám mục
thuọc Hội thừa sai Paris)
50 Linh mục (Gồm 37 là người Việt Nam, 8 thuọc Hội
thừa sai Paris và 5 thuộc dòng Đaminh)
15 thầy giảng và 44 giáo dân thuộc đủ mọi thành phần
xã hội: công chức, thương gia, công nhân, quân nhân, y sĩ, ngư phủ, trùm họ
v..v.
4.
Xét theo loại hình phạt thì
* 79 vị bị trảm quyết tức là bị chặt đầu. Như vậy là
con số bị trảm quyết nhiều nhất
* 18 vị bị xử giảo tức là bị thắt cổ.
* 8 vị chết rũ tù
* 6 bị thiêu sinh
* 4 bị lăng trì - tức là phân thây ra từng mảnh
* 1 bị tử thương và
* 1 bị bá đao
5.
Xét về thời gian thì
* 2 vị chịu tử đạo thời Trịnh Doanh
* 2 vị chịu tử đạo thời Trịnh Sâm
* 2 vị chịu tử đạo thời Cảnh Thịnh.
* 57 vị chịu tử đạo thời Minh Mạng
* 3 vị chịu tử đạo thời Thiệu Trị
* 51 vị chịu tử đạo thời Tự Đức
Kính thưa anh chị em tôi vừa lược lại một số những sự
kiện Lịch sử còn in thật đậm trong Lịch sử Giáo Hội Việt Nam.
LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM (năm B)
– LÀM CHỨNG CHO CHÚA
Lời Chúa: Mt 10, 17-22
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng:
"Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ
đánh đập các con nơi hội đường của họ. Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và
vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết.
Nhưng khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng
lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì. Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải
nói gì: vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các
con nói trong các con. Anh sẽ nộp em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ chống lại cha
mẹ và làm cho cha mẹ phải chết.
Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét,
nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ.”
TRUYỆN KỂ
1. Anh em làm chứng cho Thầy
Trong số 117 vị Tử Đạo Việt Nam, được phong thánh
năm 1988, có một phụ nữ duy nhất, mẹ của 6 người con. Đó là bà Anê Lê Thị
Thành, còn gọi là bà Đê. Trước khi là một anh hùng tử đạo, bà đã là một người mẹ
hiền gương mẫu.
"Thân mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo dục
các con. Chính người dạy chúng tôi đọc chữ và học giáo lý, sau lại dạy cách dự
thánh lễ và xưng tội rước lễ."
Đó là lời khai của cô con gái út trước giáo quyền. Nhà
bà Đê là nơi các linh mục trú ẩn. Buổi sáng lễ Phục Sinh năm 1861, quan Tổng Đốc
Nam Định cho quân bao vây làng của bà. Bà Đê bị bắt lúc đã 60 tuổi. Bà bị đánh
đập tra tấn, bị ép phải chối đạo, bị lôi qua Thánh Giá, bị bỏ rắn độc vào người.
Khi con gái đến thăm bà trong nhà giam, đau đớn vì
thấy quần áo mẹ loang đầy vết máu, bà đã an ủi con với một niềm lạc quan lạ
lùng: "Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa
Giêsu, sao con lại khóc?"
Sau ba tháng chịu đủ mọi cực hình, người phụ nữ ấy
đã hiến đời mình cho Chúa. Cuộc đời của vị thánh nữ tiên khởi của Việt Nam là một
sức nâng đỡ lớn cho chúng ta.
Thiên Chúa đã làm điều phi thường nơi một người phụ
nữ già nua, yếu đuối. Quan "Hùm Xám" tỉnh Nam Định cũng phải bó tay trước
sự yếu đuối kiên vững của bà.
Khôn ngoan và đơn sơ, can đảm chịu đau khổ, bà thánh
Đê đã phó mặc cho Chúa đời mình. Bà chẳng lo phải nói gì, phải làm gì trước tòa
án, vì sức mạnh của Thánh Thần ở với bà.
2. Không thuộc về thế gian
"Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều
vua, lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước. Nay hạ thần cam chịu mọi
cực hình để nên giống Đức Kitô."
Đó là câu trả lời của ông Micae Hồ Đình Hy khi vua Tự
Đức mời ông giả vờ bước qua thánh giá. Ông là người thanh liêm, được nhà vua hết
sức tín cẩn, cho phụ trách ngành dệt trong cả nước. Nhưng ông cũng là một Kitô
hữu xông xáo làm việc tông đồ. Ông không thấy có gì xung khắc giữa việc phục vụ
đất nước với việc phục vụ Giáo Hội.
Khi quân Pháp bắn phá cảng Đà Nẵng thì ông bị bắt, bị
kết án là khinh luật nước, chống lại triều đình. Ông Hy đã chấp nhận cái chết một
cách bình thản. Trước khi chịu chém, ông còn xin hút một điếu thuốc, hương vị
cuối cùng của trần gian mà ông muốn nếm trước khi nếm hương vị của thiên đàng
vĩnh cửu.
Cuộc sống và cái chết của thánh Micae Hy soi sáng
cho đoạn Lời Chúa hôm nay. Người Kitô hữu có hai đầu dây cần phải giữ. "Như
Cha đã sai Con đến trong thế gian, Con cũng sai họ đến trong thế gian" (Ga
17,18).
Thế gian là nơi thánh Hy đã sống cho đến chết. Thế
gian là đất nước, là vua quan, là thứ dân... Ngài đã yêu mến và sống tận tình
cho thế gian đó.
Thế gian đã trở nên như máu thịt của người Kitô hữu vì
đó là nơi họ được Chúa sai đến để phục vụ, và là nơi họ trở thành người Kitô hữu
trọn vẹn. "Họ không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế
gian" (Ga 17,16).
3. Sống chứng nhân tin mừng
Hôm nay Giáo Hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện mừng
kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam vì 3 lý do:
- Hân hoan và hãnh diện vì các thánh là người Việt
Nam, không gì vui mừng và hãnh diện, tự hào hơn, khi đất nước ta có những vị
thánh góp mặt với Giáo Hội toàn cầu.
- Hân hoan và hãnh diện vì số lượng đông đảo các
Thánh Việt Nam. Với 117 vị Thánh. Giáo Hội Việt Nam được xếp nhất nhì trong
Giáo Hội hoàn vũ về số lượng các Thánh.
- Hân hoan và hãnh diện vì các Ngài là những chứng
nhân anh hùng quả cảm.
Đọc lại tiểu sử các Ngài ta không khỏi cảm phục đức
tin kiên cường của các Ngài. Vì trung thành với Chúa, các Ngài đã cam chịu thiệt
thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng và nhất là phải chịu muôn
ngàn khổ hình, chịu mất mạng sống vì đức tin.
Có những vị như thánh Hồ đình Hy, làm quan lớn trong
triều đình. Quan Án Phạm trọng Khảm, là những vị có chức có quyền trong xã hội
đã thà mất chức quyền, mất danh vọng hơn mất đức tin. Vì Chúa, các Ngài không
những đã sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi trong xã hội mà còn sẵn sàng chịu mất mạng
sống.
Có những vị như thánh Lê thị Thành, thân phận phụ nữ
yếu ớt, gánh nặng gia đình, nhưng cũng đã sẵn sàng chịu mọi cực hình để minh chứng
tình yêu đối với Đức Giêsu Kitô.
Có những vị đầu xanh tuổi trẻ như Tôma Thiện, Phaolô
Bột, mười mấy tuổi đầu, tương lai còn dài, đường đời còn nhiều hứa hẹn. Nhưng
các Ngài đã cương quyết khước từ tất cả, dâng hiến tuổi thanh xuân cho đức tin
chân chính.
Là người Công Giáo Việt Nam. Chắc chắn mỗi khi đọc lại
tiểu sử các Ngài, ta cảm thấy một dòng máu hào hùng trào dâng trong huyết quản.
Bị cuốn hút bởi cuộc sống và cái chết cao đẹp, anh dũng của các Ngài, có lẽ ta
cũng có đôi lần ao ước được như các Ngài: Sống cao đẹp, chết anh dũng.
4. Các hình khổ bách hại cha ông ta phải chịu
Nhà cầm quyền thời đó đã dùng mọi hình phạt dã man để
khủng bố tinh thần các thánh Tử đạo Việt nam, nhưng các Ngài đã anh dũng chịu đựng
vì Chúa. Không có hình phạt nào có thể tách rời các Ngài ra khỏi tình yêu của
Chúa. Chúng ta hãy xem một số hình phạt man rợ và bất công đó:
- Bá đao: bị lý hình dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt
trên thân thể cho dù 100 miếng. Cách chết này có một vị.
- Lăng trì: chặt chân chặt tay trước khi bị chém đầu.
Cách chết này có 4 vị.
- Thiêu sinh: bị thiêu sống. Chết cách này có 6 vị.
- Xử trảm: bị chém đầu. Chết cách này có 75 vị.
- Xử giảo: bị tròng dây vào cổ và bị lý hình kéo hai
đầu dây cho đến chết. Cách chết này có 22 vị.
- Chết rũ tù: bị tra tấn, hành hạ đủ cách đủ kiểu, rồi
bị bỏ đói cho tới khi kiệt sức và chết gục trong tù. Chết cách này có 9 vị.
Cũng nên biết qua về kế họach PHÂN SÁP của vua Tự Đức,
một kế họach quá sâu độc!
Nhưng cũng để cho chúng ta biết rằng trong mọi biến
cố lúc nào cũng có bàn tay quan phòng của Chúa, sự khôn ngoan của lòai người chỉ
là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa.
Kế họach Phân Sáp được Vua Tự Đức cho thi hành vào
năm 1851 và 1856.
Do sự thi hành kế họach Phân Sáp này mà gần 400.000
giáo dân phải bị đi phân sáp, trong đó có từ 50.000 đến 60.000 giáo dân phải chết
nơi phân sáp, 100 làng công giáo bị tàn phá bình địa, 2000 họ đạo bị tịch thu
tài sản ruộng đất, 15 Linh mục Việt nam và 10 giáo sĩ ngọai quốc bị giết, 80
Dòng Mến Thánh Giá bị phá tan, 2000 nữ tu Mến Thánh giá phải tan tác, 100 nữ tu
Mến Thánh giá chết vì Đạo.
Kế họach phân sáp gồm bốn mặt:
- Mặt thứ nhất, không cho người công giáo ở trong
làng công giáo của mình, nhưng phải đến ở trong các làng bên lương.
- Mặt thứ hai, mỗi người công giáo phải bị năm người
lương canh giữ cẩn mật.
- Mặt thứ ba, các làng công giáo bị phá hủy, của cải
ruộng đất của người công giáo bị tịch thu và giao vào tay những người bên
lương, những người này sử dụng và nộp thuế lại cho Nhà Nước.
- Mặt thứ bốn, không cho người đàn ông công giáo ở một
nơi với người đàn bà công giáo, không cho vợ chồng công giáo ở với nhau, mỗi
người phải đi ở một nơi xa nhau, con cái của người công gíao thì phải để cho
gia đình người lương nuôi.
Đây là một kế họach rất sâu độc, nhằm tiêu diệt Giáo
hội Việt nam tận gốc rễ. Nhưng bàn tay Chúa dẫn đưa lạ lùng: các triều đại nhà
Nguyễn không còn nữa, mà Giáo hội Việt nam, hiện nay, vẫn còn lớn mạnh và phát
triển không ngừng.
5. Xin mua được một linh hồn.
Thế kỷ 19, khi cơn cấm đạo nổi mạnh trên tỉnh Thanh
hoá, một hôm, người ta dẫn đến trước mặt quan án một thiếu niên 17 tuổi – tên
là Mợi – Thấy mặt mũi khôi ngô tuấn tú, quan động lòng thương.
- Mợi - quan nói – con cứ đạp thánh giá đi, rồi ta sẽ
ban thưởng một nén bạc.
- Bẩm quan lớn, một nén bạc chưa là gì.
- Được, ta sẽ ban một nén vàng. Con hãy đạp Thánh
giá đi.
- Ồ, bẩm quan lớn, một nén vàng cũng vẫn còn ít quá.
- Sao? quan sửng sốt, quát: Thế còn chưa đủ ư? Vậy
mày muốn bao nhiêu?
- Bẩm, nếu quan lớn muốn tôi đạp Thánh giá, thì xin
quan lớn hãy cho tôi cái gì có thể mua được một linh hồn khác đã...
Và người thiếu niên bình tĩnh bước vào pháp trường,
vẻ anh dũng tươi cười.
6. Ba mẫu tử đạo
* Tử đạo đỏ: là đổ máu ra chịu chết vì Chúa.
* Tử đạo trắng: sống đời hãm mình trinh tiết.
* Tử đạo xanh: chịu đọa đầy, để làm chứng cho đạo ở
một nơi không phải là quê hương xứ sở mình.
Chính thánh nữ Têrêsa Hài đồng đã nói thẳng thắn rằng:
”Tôi cảm thấy tôi có ơn gọi làm chiến binh, tông đồ, tiến sĩ và tử đạo. Tử đạo
là giấc mơ trong tuổi trẻ của tôi. Và giấc mơ ấy đã trở thành mãnh liệt, khi
tôi ở trong bốn bức tường của Nhà Kín. Nhưng tôi cảm thấy rằng giấc mơ đó là một
sự điên rồ và vì thế tôi đã hiểu tình yêu qui tụ mọi ơn gọi của tôi. Vâng, cuối
cùng tôi đã khám phá ra ơn gọi của tôi: ơn gọi của tôi là yêu mến” (Tự thuật).
Mọi người đều qúi trọng sự sống, dù chỉ là cuộc sống
vắn vỏi phù du. Các tử đạo không những coi cái chết “nhẹ tựa lông hồng”, mà còn
lấy cái chết như ngưỡng cửa phải bước qua để tiến vào cõi sống vĩnh hằng. Các
ngài cho ta cái cảm giác như là các ngài “chạm vào cõi vô hình.” Các ngài đã thể
hiện và chứng minh câu nói của Chúa: ”Ai bám vào sự sống đời này, sẽ mất cuộc sống
mai sau...”(x. Mc 8,35). Và như thánh Phaolô nói: ”Bị coi là sắp chết, nhưng kỳ
thực vẫn sống; coi như bị trừng phạt, nhưng kỳ thực không bị giết chết; coi như
phải ưu phiền, nhưng kỳ thực luôn vui vẻ” (2Cr 6,9-10).
7. Chết theo lệnh vua.
Trên bước đường viễn chinh, đại đế Alexandre đã cho
quân vây hãm kinh đô của một vương quốc vùng Tiểu Á. Thay vì cho quân tấn công
hạ thành, đại đế Alexandre đã thúc ngựa đến ngay trước cổng thành và đòi gặp mặt
vua đối phương.
Nhà vua leo lên lũy thành, nhìn xuống đòan quân đang
vây hãm và hỏi Alexandre:
- Nhà ngươi muốn gì?
- Ta muốn nhà vua đầu hàng.
- Đầu hàng? Tường ta cao, hào ta sâu, quân ta đông
hơn, tại sao ta lại phải đầu hàng nhà ngươi?
- Nhà ngươi hãy xem cho rõ.
Thế rồi Alexandre ra lệnh binh sĩ dàn trận. Thay vì
tấn công hạ thành, ông ra lệnh cho họ tiến bước về hướng vực thẳm ngòai thành.
Tò mò, quân sĩ trong thành cũng leo cả lên tường
thành để xem cuộc “diễn binh” của Alexandre.
Đòan quân của Alexandre cứ từ từ tiến bước đến bờ vực
thẳm. Hiên ngang, anh dũng, họ tiến tới bờ vực thẳm. Một người bước vào khỏang
không, rơi xuống vực thẳm, thịt nát xương tan. Người thứ hai vẫn can đảm tiếp
bước, rơi xuống vực sâu, chết theo. Từng người, từng người theo nhau đi vào cái
chết một cách bình thản, anh hùng. Sau cái chết anh hùng của binh sĩ thứ mười,
Alexandre hạ lệnh dừng bước.
Sững sờ kinh ngạc trước tinh thần của binh sĩ
Alexandre, lòng trung tín họ dành cho Alexandre, biết coi nhẹ cái chết tựa lông
hồng, nhà vua và tòan quân trong thành mở cửa qui hàng.
8. Các Thánh tử đạo Việt Nam
Sắc lệnh của Bộ Phụng Tự ký ngày 14.2.1990: “Theo
đơn xin của Đức Hồng Y Trịnh văn Căn, Tổng Giám Mục Hà Nội, Chủ tịch Hội Đồng
Giám Mục Việt Nam, đề ngày 15.10.1989, và theo quyền hạn đã được Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II uỷ quyền, Bộ Phụng Tự và Bí Tích cho phép các giáo hữu tại Việt
Nam mừng lễ “Thánh Anrê Dũng Lạc và các bạn Tử đạo” hằng năm vào ngày 24.11 với
bậc Lễ Kính.”
Theo sử liệu, Giáo Hội Công giáo Việt Nam có độ
130.000 tín hữu được diễm phúc đổ máu làm chứng Đạo Chúa trong những thời ký
bách hại như sau:
- Trịnh – Nguyễn 1745 và 1773 2 vị
- Cảnh Thịnh năm 1798 2 vị
- Minh Mạng năm 1820-1840 50 vị
- Thiệu Trị 1841-1847 3 vị
- Tự Đức 1848-1883 58 vị
Trong số tử đạo 130 ngàn người, có 117 vị được phong
chân phước trong 4 giai đoạn:
- Đức Lêô XIII phong ngày 27.5.1900 64 vị
- Đức Piô X phong ngày 20.5.1906 8 vị
- Đức Piô X phong ngày 2.5.1909 20 vị
- Đức Piô XII phong ngày 29.4.1951 25 vị
Trong số này gồm có:
- 8 Giám mục (6 thuộc Dòng Đa Minh, và 2 của Hội Thừa
Sai Paris)
- 50 Linh mục (37 Việt Nam, 5 Đa minh, 8 Thừa sai
Paris)
- 16 Thầy giảng
- 1 Chủng sinh
- 42 giáo dân thuộc mọi tầng lớp xã hội (công chức,
quân nhân, ý sĩ, thương gia, công nhân, nông dân, ngư phủ, trùm họ, lý trưởng…)
Các ngài đã chịu những cực hình khác nhau:
- 79 vị bị xử trảm quyết (chặt đầu)
- 16 vị bị xử giảo (thắt cổ)
- 8 vị chết rũ tù
- 6 vị bị thiêu sinh (bị đốt cháy khi còn sống)
- 4 vị bị lăng trì (chặt tay chân trước khi bị chém
đầu)
- 1 vị bị bá đao (lóc 100 miếng thịt trong thân thể)
- 1 vị bị đánh tử thương trong lúc đi đường.
Tất cả 117 vị chân phước này được Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II phong lên hàng hiển thánh ngày 19.6,1988 (Cơ mật viện công bố
tin ngày 22.6.1987) (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
9. Chứng nhân cho Chúa trong trường học
Một học sinh Nhật là Kitô-hữu duy nhất trong ngôi
trường có 150 học sinh. Trước mỗi bữa ăn, em thường mạnh dạn làm dấu thánh giá
và đọc kinh. Các học sinh đến tố cáo với thầy giáo là em có ”hành vi ma thuật.”
Nghe thấy thế, thầy cho gọi em lên đứng giữa lớp, hỏi
xem em đã làm gì. Em thẳng thắn nói rằng em chỉ cám ơn Chúa đã ban lương thực hằng
ngày. Nghe vậy, thầy giáo gục xuống bàn, nước mắt ràn rụa nói: “Này con, ta
cũng là Kitô-hữu, nhưng ta không can đảm tỏ ra cho mọi người biết. Giờ thì cám
ơn Chúa, ta đã biết là Kitô-hữu, mình phải làm gì.”
10. Chọn thập giá
Ông Trùm Đích và con rể là ông Lý Mỹ đều bị bắt
trong cuộc bách đạo. Trước sức ép của bạo lực cũng như cám dỗ bổng lộc, cả hai
ông đều thà chịu chết chứ kiên quyết khước từ không chịu đạp lên Thánh Giá. Sau
khi 2 lần tự nguyện chịu đòn thay cho nhạc phụ đã già yếu, ông Lý Mỹ đối diện với
quan quân, mạnh dạn tuyên xưng Đức Tin:
“Thưa quan lớn, tôi đã suy xét và tin nhận Đạo Thiên
Chúa là Đạo thật nên tôi không thể chối bỏ. Giả như có ai bảo quan lớn đạp lên
đầu đức vua là người đã ban chức cao quyền trọng cho quan lớn, ắt hẳn quan lớn
chẳng dám làm. Vậy thì tôi đây, lẽ nào lại cả gan đạp lên tượng ảnh Thiên Chúa
mà tôi hết lòng thờ kính?”
Cô con gái tên Mỹ mới 12 tuổi, vào thăm ông Lý Mỹ
trong ngục, đã khích lệ: “Xin cha hãy can đảm chịu chết vì Chúa!” Đến cậu bé Tường
mới 9 tuổi cũng nói: “Cha đừng lo cho chúng con. Cha hãy an tâm vững lòng xưng
Đạo và chịu chết vì Đạo!” Cuối cùng là lời khuyên của bà vợ: “Vợ con ai mà chẳng
thương tiếc, nhưng ông hãy vác Thập Giá, trung thành với Chúa cho đến cùng. Đừng
lo nghĩ về mẹ con tôi!”
Thời nào chúng ta cũng được đặt trước Thánh Giá, dấu
hiệu của sự từ bỏ để phục vụ.
Lúc nào chúng ta cũng có nguy cơ bước qua Thánh Giá,
bằng đời sống hưởng thụ và ích kỷ của mình.
Lúc nào chúng ta cũng có phải giáp mặt với những
thèm muốn luôn luôn mời gọi chúng ta bỏ xa con đường của Chúa.
11. Cuộc tử đạo của Thánh Anrê Trần An Dũng Lạc
Trần An Dũng Lạc sinh năm 1795, gia đình ngoại giáo
nghèo khó ở Bắc Ninh. Lớn lên, cậu theo cha mẹ đến xứ Kẻ Chợ sinh sống. Tại
đây, cậu được một Thầy giảng nhận làm con nuôi và cho ăn học. Cậu được chịu
phép rửa tội và nhận tên thánh là AN-RÊ. Sau đó cậu đáp lại ơn gọi dâng mình
cho Chúa và theo học tại chủng viện Vĩnh Trị. Thầy AN-RÊ Dũng được thụ phong
linh mục vào năm 1823 khi mới có 28 tuổi. Từ khi thụ phong linh mục, cha AN-RÊ
được sai đi giúp xứ. Ở đâu cha cũng nêu gương sáng đạo đức qua cuộc sống khổ hạnh.
Ngoài những ngày ăn chay theo luật định, Cha còn tự nguyện giữ chay thêm suốt cả
Mùa Chay và các ngày thứ Sáu thứ Bảy hàng tuần. Nhờ đời sống đơn sơ khiêm hạ và
khắc khổ như vậy, nên cha đã gây được thiện cảm của những người chung quanh và
thành công trên bước đường tông đồ: Qua cha, nhiều tội nhân đã được ơn giao hòa
với Chúa và nhiều người lương đã tin theo Chúa và xin gia nhập đạo Công giáo.
Trong thời gian đạo Công giáo bị bách hại gắt gao thời
vua Minh Mạng, cha AN-RÊ Dũng đã phải trốn lánh nhiều nơi. Một lần kia ở Kẻ
Roi, khi vừa dâng lễ xong thì bị quan quân vây bắt và được giáo dân chuộc về.
Sau đó cha đã đổi tên Trần An Dũng thành Trần An Lạc. Lần thứ hai cha bị bắt ở
xứ Kẻ Sông khi đang xưng tội với cha Phêrô Thi. Hai cha bị quan quân đòi tiền
chuộc tới 200 quan tiền. Nhưng giáo dân chỉ quyên góp được một nửa số tiền nói
trên, nên chỉ mình cha Lạc được thả. Rồi sau đó cha lại bị đám quân lính khác bắt
mang về huyện giam chung với cha Phêrô Thi và cả hai được áp giải về Hà Nội.
Hôm sau, quan án cho điệu hai cha ra công đường tra
xét và bắt phải bước qua Thánh Giá để bày tỏ ý định bỏ đạo. Nhưng thay vì làm
theo lệnh quan, hai cha lại cùng quì xuống hôn kính Thánh Giá và nói: “Không
bao giờ chúng tôi chối Chúa và bỏ đạo cả. Chúng tôi đã suốt đời hy sinh vất vả
đem Chúa đến cho người khác, thì lẽ nào bây giờ lại hèn nhát chối bỏ Chúa!” Trước
sự bất tuân của hai cha, quan tức giận sai lính đem nhốt các ngài vào ngục thất
và làm thành án gửi về Kinh. Suốt thời gian ở trong tù, hai cha luôn cầu nguyện
và ăn chay hãm mình, xin Chúa cho được ơn bền đỗ đến cùng. Tuy giáo dân được
phép thăm nuôi hằng ngày, nhưng hai cha yêu cầu họ đừng đem đồ ăn ngon đến, và
nếu bữa nào có thịt cá thì các ngài lại cho các bạn tù hoặc lính canh.
Ngày 21 tháng 12 năm 1839, hai cha đã chính thức
nghe án lệnh xử trảm của nhà vua. Rồi các ngài bị điệu ra pháp trường Cầu Giấy ở
Hà Nội. Đến nơi, các ngài cầu nguyện ít phút, rồi cúi đầu cho lý hình dễ dàng
thi hành phận sự.
12. Số liệu các Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam:
Ngay từ thời Giáo Hội Sơ Khai, các tín hữu đã phải
chịu chung số phận với Thầy Giê-su là bị cấm cách, bắt bớ và giết hại. Thời nào
và nơi nào đạo được truyền tới cũng đều có các vị anh hùng tử đạo.
Tại Việt Nam, theo sử liệu, đạo Chúa đã được truyền
giảng từ thế kỷ thứ 16. Và suốt thời gian gần 300 năm sau đó, luôn bị đàn áp
bách hại với những cảnh đầu rơi máu chảy! Sau Hội Thánh Rô-ma thì có lẽ Hội
Thánh Việt Nam đã dâng cho Chúa được nhiều thánh tử đạo hơn cả! Người ta ước
tính có tới hằng trăm ngàn người Công giáo đã bị giết hại vì đức tin dưới các
triều đại nhà Nguyễn: Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức và bị các phong trào Cần
Vương Văn Thân đàn áp bách hại.
Trong số đó, 117 vị đã được Đức Thánh Cha Gio-an
Phao-lô II tôn phong lên bậc hiển thánh và được mừng chung trong niên lịch toàn
thể Hội Thánh. Trong số này có: 8 Giám mục, 50 Linh mục, 16 Thầy giảng, 1 Chủng
sinh và 42 Giáo dân. Các ngài đã chịu nhiều cực hình như: 79 vị bị trảm quyết
(chém đầu): 16 vị bị xử giảo (treo cổ); 8 vị bị chết rũ rù do đói khát bệnh tật
khi bị giam trong ngục; 6 vị bị thiêu sinh (chết thiêu trong hỏa lò).
13. Bà thánh Đê
Quan Tổng Đốc Trịnh Quang Khanh đích thân chỉ huy
500 lính đột xuất bao vây làng Phúc Nhạc, Ninh Bình, vào đúng sáng ngày lễ Phục
Sinh (14.04.1841). Quan truyền tập trung giáo dân lại để quân lính lục soát từng
nhà… Cha Lý được ông Trùm Cơ đưa sang vườn nhà bà Đê ở sát bên. Bà Đê chỉ cho
cha đường mương khô ở sau vườn cạnh một bụi tre: "Xin Cha ẩn dưới rãnh
này, Đức Chúa Trời gìn giữ thì Cha thoát, bằng không Cha và con đều bị bắt."
Nói xong bà cùng con gái Lucia Nụ, lấy rơm và cành khô che phủ lên, nhưng quân
lính đã trông thấy Cha chạy qua vườn nhà bà, nên họ đến bắt cha Lý và bà Đê, chủ
nhà. Ông Trùm Cơ, bốn hương chức trong làng và hai nữ tu Mến Thánh Giá Anna
Kiêm và Anê Thanh cũng bị bắt. Tất cả bị trói mang gông điệu ra đình làng. Nhà
bà Đê bị lục soát, thóc lúa, đồ dùng, tiền bạc đều bị lính lấy hết. Khi bị bắt,
bà Đê rất sợ hãi, nhưng khi điệu bà ra đình làng thì gương mặt bà vui tươi và
không có vẻ gì là sợ sệt nữa…
Quân lính áp giải các nạn nhân về Gia Định. Họ phải
đi suốt đêm rất cực nhọc. Bà Đê sức yếu, không chịu nổi gông quá nặng, phải có
người nâng đỡ nhiều lần. Tới thành Nam bà bị giam chung với hai nữ tu. Sáu ngày
sau ra trước công đường, quan tòa bắt bà chối đạo bà đáp: "Tôi chỉ tôn thờ
Thiên Chúa, không bao giờ tôi bỏ đạo Chúa muôn đời."
Các quan truyền đánh đòn bà. Lúc đầu lính đánh bằng
roi, sau dùng củi lớn quật vào chân bà. Bà không nản lòng, khi chồng bà đến
thăm, bà giải thích vì sao bà kiên tâm như vậy: "Họ đánh đập tôi vô cùng
hung dữ, đến đàn ông còn không chịu nổi, nhưng tôi đã được Đức Mẹ giúp sức, nên
tôi không cảm thấy đau đớn." Đến lần thẩm vấn thứ hai, thứ ba thấy bà Đê vẫn
một long trung kiên, quân lính được lệnh vừa đánh vừa lôi bà qua Thánh Gía.
Nhưng bà sấp mình xuống đất, kêu lớn tiếng rằng: "Lạy Chúa, xin thương
giúp con, con không bao giờ muốn chối bỏ lòng tin Chúa, nhưng vì con là đàn bà
yếu đuối, nên họ dùng sức mạnh để để cưỡng bách con đạp lên Thập Giá."
Lần tiếp theo ra trước tòa, quan cho túm tay áo lại
rồi thả rắn độc vào trong áo, nhưng bà Đê vẫn giữ được bình tĩnh cách lạ lùng.
Bà đứng yên không hề nhúc nhích nên rắn không cắn, chỉ lượn vài vòng rồi bò ra.
Các quan truyền đánh bà dữ hơn nữa rồi giam trong ngục. Nhưng bà đã kiệt sức,
đi không nổi, phải có người dìu.
Một nhân chứng tên Đang, về sau cho biết: "Bà
Anê Đê đã bị đánh đập tàn bạo đến nỗi thân mình đầy máu mủ. Tuy vậy bà vẫn vui
vẻ, và còn muốn chịu khó hơn nữa.” Cô Lucia Nụ, đến thăm Mẹ trong ngục, thấy y
phục thân mẫu loang lỗ máu, cô thương mẹ khóc nức nở, bà an ủi con bằng những lời
tràn trề lạc quan: "Con đừng khóc nữa, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng
chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?"
Bà còn khuyên: "Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với
anh chị em con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu
nguyện cho mẹ vác Thánh Giá chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ
trên nước Thiên Đàng”…
Sau ba tháng bị giam cầm hy sinh vì đức tin, ngày
12.07.1841, trong giờ hấp hối người ta thường nghe bà Anê Lê Thị Thành cầu nguyện:
"Lạy Chúa, chúa đã chịu chết vì con, con hết lòng theo thánh ý Chúa. Xin
Chúa tha mọi tội lỗi cho con.” (Lm. Đào Trung Hiệu, OP, Thánh Anê Lê Thị Thành
(bà thánh Đê, 1781-1841`)
14. Các ngài đã chết tử Đạo như thế nào?
Về các hình khổ: Các ngài đã phải chịu mọi thứ cực
hình mà người ta có thể nghĩ ra được như:
- Gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, bỏ
đói.
- Bị voi giầy, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu vào
rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng v.v.
- Quyết liệt hơn thì bị trảm quyết, tức là bị chặt đầu,
bị xử giảo, tức là bị thắt cổ, hay bị thiêu sống.
- Vô cùng man rợ và hiểm độc như bị xử lăng trì, tức
là phân thây ra từng mảnh hay là xứ bá đao.
Theo loại hình phạt 79 vị bị trảm quyết tức là bị chặt
đầu. Như vậy là con số bị trảm quyết nhiều nhất. 18 vị bị xử giảo tức là bị thắt
cổ. 8 vị chết rũ tù. 6 bị thiêu sinh. 4 bị lăng trì - tức là phân thây ra từng
mảnh. 1 bị tử thương và. 1 bị bá đao.
Là người Công Giáo Việt Nam, chắc chắn mỗi khi đọc lại
tiểu sử các ngài, ta cảm thấy một dòng máu hào hùng trào dâng trong huyết quản.
Bị cuốn hút bởi cuộc sống và cái chết cao đẹp, anh dũng của các ngài, có lẽ ta
cũng có đôi lần ao ước được như các ngài: Sống cao đẹp, chết anh dũng.
15. Hạt lúa gieo vào lòng đất--Ga 12,24-26--Lm.
Ignatiô Trần Ngà
Hôm ấy, có người nông dân mang thóc giống gieo trên
thửa ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời nổi gió lớn. Có nhiều hạt rơi xuống
ruộng bùn nhưng cũng có nhiều hạt bị gió thổi bạt lên vệ đường kề bên.
Bấy giờ những hạt giống nằm trên vệ đường khô ráo cảm
thấy mình quá hên so với bao nhiêu hạt thóc bạn đang phải ngoi ngóp ngụp lặn dưới
bùn, bèn tỏ lòng thương hại và an ủi các bạn thóc dưới sình bằng những lời ngạo
mạn: "Đáng thương thay thân phận khốn khổ của các anh. Đang khi chúng tôi
đây thì được ở nơi khô ráo ngon lành, còn các anh lại phải chìm lĩm trong vũng
bùn tanh tưởi. Đang khi chúng tôi được tắm mình dưới nắng, thì các anh lại phải
ngụp lặn trong chốn tối tăm. Đang khi chúng tôi được nhìn ngắm bầu trời xanh,
nhìn ngắm những bông hoa tươi đẹp bên vệ đường thì các anh chẳng thấy gì, chẳng
biết gì... Cuộc đời chúng tôi đầy hào quang, còn cuộc đời các anh đang tàn tạ.
Bất hạnh thay cho các anh!.."
Hạt lúa ấy vừa dứt lời thì bỗng đâu có một bàn chân
nặng nề dẫm đạp lên mình nó, khiến nó bị gãy đôi. Sau đó, những bánh xe từ xa
chạy đến, lạnh lùng chà nát nó và những hạt lúa khác nát tan. Những hạt lúa may
mắn còn nguyên vẹn lại hoá thành mồi ngon cho côn trùng và chim chóc!
Trong khi đó, những hạt lúa tưởng là bất hạnh chìm
lĩm trong bùn, thì qua vài hôm sau đã ngoi lên thành những mầm non đầy sức sống.
Những mầm non ấy vươn lên phơi phới, triển nở thành những bụi lúa sum suê.
Không đầy ba tháng sau, từ một hạt lúa nhỏ nhoi chìm ngập trong bùn, nó trở
thành những bông lúa thơm tho tuyệt đẹp, kết thành hàng trăm hạt vàng khoe mình
dưới nắng.
16. Sống ơn gọi tử đạo ngày hôm nay.
Trong đại hội tu sĩ trẻ thế giới tổ chức tại Rôma đầu
tháng Chín năm 2015. Ban tổ chức đã dành một tiếng đồng hồ để các tu sĩ đặt câu
hỏi và Đức Thánh Cha trực tiếp trả lời. Có một anh em tu sĩ dòng DonBosco đến từ
Syria đứng lên phát biểu và hỏi Ngài vài điều. Đức Thánh Cha sau khi trả lời đã
hỏi ngược lại: “Con từ đâu đến đây?” Vị tu sĩ trẻ nói là Ngài đến từ Syria. Đức
Thánh Cha mở to đôi mắt nhìn vị linh mục và nói với cử tọa: “Chúng con hãy cầu
nguyện cho các vị tử đạo hiện nay tại Iraq và Syria.” Cả hội trường xúc động vì
tình hình chiến sự đang xảy ra rất khốc liệt tại Trung Đông, khiến bao nhiêu
Kitô hữu bị giết, nhiều gia đình ly tán, các nhà thờ bị đốt phá, cả trăm ngàn
người dân vô tội phải trốn tránh hoặc đi tị nạn.
Như vậy, ngày hôm nay vẫn còn các vị tử đạo, những
con người bị thù ghét vì lý tưởng và niềm tin của mình. Nhưng hiểu theo nghĩa rộng
hơn, sống mầu nhiệm tử đạo không phải là chuyện viễn tưởng xa vời. Đó chính là
bản chất ơn gọi gắn liền với căn tính Kitô hữu chúng ta. Chúa Giêsu đã nói “Ai
muốn theo tôi phải bỏ mình vác thập giá hằng ngày mà theo tôi” (Mc 8,34).
17. Chứng nhân bằng cuộc sống trước khi bằng cái chết
Nhìn vào cuộc đời các ngài, ta thấy, đó là một cuộc
đời thật đẹp. Đẹp trong cuộc sống thường ngày luôn chu toan bổn phận của mình,
luôn sống chan hoà tình bác ái với mọi người. Như bà thánh Đê là mẹ của sáu người
con. Tất cả những người con, cô Nụ, cô Mận khi làm nhân chứng đều nói rằng:
"Mẹ tôi rất đạo đức, luôn dạy con cái ăn ngay ở lành, tối sớm kinh nguyện....”
Đẹp trong cả những gian nan khi bị người đời ghét bỏ,
các ngài vẫn thương yêu, vẫn thứ tha, vẫn ôn hoà để làm chứng cho lời tin mừng
yêu thương, đế nỗi mà những người hành quyết các ngài vẫn cảm phục yêu mến đức
hạnh các ngài. Như trong vụ án linh mục Gioan Đạt, viên cai ngục nói: "Tôi
thấy cụ khôn ngoan đạo đức thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị
án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cỗ quan tài để biểu lộ lòng tôi quý cụ.”
Đẹp trong cả cái chết luôn một mực nói lời yêu
thương. Như trường hợp ông Cai Tả thì yêu thương để xứng với tình Chúa yêu, ông
thường châm chước cho những người mắc nợ và nói: "Mình quên nợ người, Chúa
quên tội mình.” Với ông Năm Quỳnh thì bác ái rõ rệt là hoa quả của đức tin, ông
từng nói với gia đình: "Bà và các con không đồng ý cho tôi lấy của nhà để
giúp người nghèo, tôi sẽ đi vay mượn hoặc làm thuê kiếm tiền giúp đỡ họ.” Vì
ông nói: "Tôi chưa thấy ai hay giúp người nghèo khó lại túng bấn bao giờ.
Kinh Thánh chẳng dạy chúng ta coi họ như chi thể của Chúa đó sao? Chúa đã cho
chúng ta sống, tất sẽ quan phòng cho ta đủ dùng.”
Như vậy, tử đạo không chỉ là đổ máu. Tử đạo là dám
chết đi con người ích kỷ của mình, chết đi cho thói đời tham sân si mù quáng.
Chết đi những đam mê nhục dục để hèn. Tử đạo là dám sống vì tin mừng mà chịu
thua thiệt, chịu mất mát. Tử đạo là yêu cho đến cùng và sống trọn vẹn những đòi
hỏi của luật yêu thương.
18. Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh ra kitô hữu
300 năm bị bách hại với hơn 100.000 người tử đạo đủ
cho mọi người thấy sự ác liệt thảm khốc cũng như sức chịu đựng bền bỉ kiên cường
và lòng trung thành đối với đức tin mà cha ông chúng ta đã lãnh nhận và tôn thờ.
Vào lúc 9 giờ sáng ngày 19/6/1988 tại Rôma, tức là
15 giờ cùng ngày tại Việt Nam, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tôn
phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên bậc hiển thánh, gồm 96 người Việt
Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc.
300 năm bị bách hại với hơn 100.000 người tử đạo đủ
cho mọi người thấy sự ác liệt thảm khốc cũng như sức chịu đựng bền bỉ kiên cường
và lòng trung thành đối với đức tin mà cha ông chúng ta đã lãnh nhận và tôn thờ.
Các ngài cảm thấy hạnh phúc vì được thuộc về Chúa,
các ngài hãnh diện vì là người Công Giáo, các ngài can đảm tuyên xưng danh Chúa
và cương quyết giữ vững đức tin chân chính của mình.
Trong hơn 100.000 vị tử đạo, có 58 giám mục và linh
mục ngoại quốc thuộc nhiều nước như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ đào Nha, Hà Lan, Ý,
15 linh mục Việt Nam, 340 thầy giảng, 270 nữ tu Mến Thánh Giá và 99.182 Giáo
dân.
Trải qua ba trăm năm, với 53 sắc dụ cấm đạo dữ dội,
Giáo Hội Việt Nam đã bị bách hại và đã biểu lộ hào hùng sức mạnh đức tin qua dọc
dài lịch sử.
Các Thánh Tử Đạo đã chịu đủ mọi cực hình để làm chứng
cho đức tin của mình:
- Bị xiềng xích, lao tù, bị tra tấn, bị bỏ đói, bị
chém đầu, bị thắt cổ, bị bá đao, phanh thây, bị kìm kẹp, bị voi dày, bị thiêu sống,
bị buộc đá thả trôi sông, bị tống cổ ra khỏi nhà, làng mạc, sống vất vưởng
trong rừng sâu nước độc. Các ngài đã bị chết đói, chết khát, chết bệnh và bị dã
thú ăn thịt…với sức mạnh đức tin, các ngài đã chiến thắng mọi thứ cực hình dã
man.
- Cho dù là gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi,
đánh đòn, đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng, thiêu sống, phân thây ra từng mảnh…các
ngài chấp nhận tất cả nhờ đức tin mạnh mẽ.
Như vậy các thánh tử đạo Việt Nam đã làm chứng bằng
việc chịu chết vì đức tin và máu của các ngài đã đem lại nhiều lợi ích cho Giáo
Hội như Tertulianô đã nói: “máu của các vị tử đạo là hạt giống phát sinh các
Kitô hữu.”
19. Vừa lái xe vừa truyền giáo
Một vị linh mục sau chuyến đi du lịch Đài Bắc trở về
đã thuật lại một cách sống đời chứng nhân của một bác tài xế xe taxi như sau:
“Ngày nọ, tôi đón taxi từ khách sạn đi trung tâm
thành phố Đài Bắc mua sắm quà lưu niệm. Tôi thấy ngạc nhiên khi thấy trong xe
có dán một tờ giấy ghi mấy dòng chữ như sau: “Bạn có thể thấy một vài quyển
sách về tôn giáo ở hộc bên hông xe. Trong khi xe đang chạy, bạn có thể đọc sách
và nếu thích, bạn có thể mang sách theo khi rời khỏi xe mà không phải trả tiền
mua sách.” Tôi tò mò tìm hộc sách và thấy một chục cuốn sách mỏng bằng tranh nội
dung về cuộc đời Đức Giêsu in trên giấy trắng khá đẹp, một ít sách truyện về
các thánh và các danh nhân tôn giáo, một ít cuốn là những câu chuyện về việc sống
đức tin giữa đời thường... Ngoài ra, phía trên tấm kính chiếu hậu trước mặt tài
xế cũng có một ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nhỏ. Tôi mở lời hỏi tài xế:
- Này bác tài, xin vui lòng cho tôi biết hành khách
đi xe có ai quan tâm đến hộc sách đạo của bác không?
- Ồ, có chứ! Có nhiều người đã lấy ra xem, và có người
còn mang về nhà nữa.
Tôi hỏi tiếp:
- Bác có cảm tưởng gì khi thấy người ta đọc sách do
bác giới thiệu?
- Tôi cảm thấy rất sung sướng anh à! Anh biết không:
tôi không có nhiều giờ đi lễ nhà thờ. Vì tôi phải luôn chạy xe để kiếm tiền
nuôi sống gia đình. Do đó, đây là cách làm công tác tông đồ của tôi. Tôi rất mừng
vì đã có thể làm hai công việc một lúc: Vừa lái xe lại vừa rao giảng Tin Mừng
mà không phải tốn thêm thời giờ. Tôi nghĩ rằng tôi đang làm một công việc tuyệt
vời!
20. Người chứng thứ nhất
Một thanh niên 19 tuổi bị tuyên án tử hình mà không
được nói một lời để bào chữa mình. Người tuyên án là quan trấn tỉnh Phú Yên.
Vào tháng 7 năm 1644 vị quan này từ triều đình nhà vua về, đem theo sắc lệnh cấm
đạo và bắt đầu giam một ông già tên rửa tội là Anrê, rồi sai một toán lính đến
nhà vị thừa sai Đắc Lộc để bắt thầy giảng số một là Inbaxu. Khi toán lính xông
vào nhà tìm thầy Inbaxu thì chỉ gặp người thanh niên Phú Yên là người mà Cha Đắc
Lộ đã rửa tội được ba năm và đã từng cho đi theo để giúp dạy giáo lý. Người
thanh niên này đã can đảm nhận hết các tội chúng gán cho thầy Inbaxu và các thầy
giảng, nên bị chúng trói lại và điệu đi. Anrê Phú Yên vui vẻ theo toán lính và
trong suốt quảng đường không ngừng giảng cho những kẻ dẫn mình vào ngục biết đường
tránh hỏa ngục hầu hưởng phúc Thiên Đàng.
Nhờ sự can thiệp của cha Đắc Lộ và một số thương gia
người Bồ Đào Nha, ông già Anrê được tha bổng, còn Anrê Phú Yên thì không. Người
thanh niên cường tráng này dám cương quyết thà chết chẳng thà bỏ đạo nên sẽ phải
chết để nêu gương cho mọi người biết vâng lệnh nhà vua. Vậy lính dẫn Anrê Phú
Yên tới thửa ruộng cách thành phố chừng nửa dặm. Mặc dầu đeo gông nặng, Anrê đi
rất nhanh đến nỗi cha Đắc Lộ theo không kịp. Tới nơi hành quyết, thầy giảng trẻ
tuổi Anrê quỳ xuống để chiến đấu cho can đảm hơn. Lính gác chung quanh không
cho ai vào phía trong cả, nhưng viên đội trưởng cho phép cha Đắc Lộ được đứng cạnh
thầy. Cha thấy rõ mắt thầy Anrê nhìn trời cao, miệng luôn hé mở và kêu danh
thánh Giêsu.
Một người lính lấy giáo đâm thầy từ phía lưng, thâu
qua ngực chừng hai bàn tay. Khi ấy thầy nhìn cha Đắc Lộ như để vĩnh biệt và cha
khuyên thầy nhìn lên trời là nơi thầy sắp được Chúa Giêsu đón vào cõi phúc. Từ
giây phút đó thầy chăm chút nhìn lên và không còn nhìn xuống nữa. Người lính
rút lưỡi giáo ra đâm phát thứ hai, rồi đến phát thứ ba, hắn cố ý đâm trúng tim
anh nhưng vẫn chưa chết. Thấy thế, một người lính khác lấy mã tấu chặt vào cổ
anh, anh vẫn chưa xong, phải thêm một nhát thứ hai đầu anh mới lìa khỏi cổ, máu
chảy tràn lai làng. Hành quyết xong, toán lính kéo nhau ra bờ sông để rửa các vết
máu. Cha Đắc Lộ nhặt đầu anh gói lại kỹ càng như một báu vật, còn xác anh ngài
tẩm liệm gởi xuống tàu buôn đưa về Macao chôn cất. Ngài biết đây là một thánh
nhân, cần tôn trọng thi thể này để ngàn đời lưu danh. (theo “Người chứng thứ nhất”
của Phạm Đình Khiêm).
21. Tên lý hình thời đại: Trong ta
Truyện rất ngắn “Lòi Cái Tôi Ra” của tác giả
Anh-em-của-mọi-người, viết:
- Thưa cha khi chủng viện xây xong, người ta chặt
cây cho lòi nhà ra nên chủng sinh phải chịu nắng nóng mấy năm nay. Bây giờ giáo
xứ xây xong nhà giáo lý, lại chặt cây cho nhà giáo lý lòi ra làm thiếu nhi phải
chịu nắng nóng!
- Không phải lòi nhà ra đâu mà lòi cái tôi ra đấy! Để
lòi cái tôi ra nguời ta dám chặt bất cứ thứ gì kể cả cây thập giá nữa chứ cây
xanh, bóng mát cho giáo dân là cái gì?
“ … Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào” (Ga
10,10)
22. Bắt đạo thời nay
Thời đại này, họ không đặt Thánh Giá trước mặt chúng
ta và yêu cầu chúng ta bước qua để chứng minh cho họ là chúng ta chối bỏ Đức
Tin, nhưng họ đã gieo vào lòng tín hữu bề bộn những chủ thuyết vật chất, và như
thế là cuộc tử đạo mới, tử đạo hằng ngày, đã bắt đầu qua việc không đồng thuận
với những chủ trương không Thiên Chúa:
- Các em học sinh ở nhà trường phải tử đạo khi không
chấp nhận bài học nguồn gốc con người bởi khỉ, bài học không có Thiên Chúa nào.
Không có Đấng Tạo Hóa tác sinh…như “Con chim hay nói, nó nói tào lao, không có
đứa nào, dạy cho tao nói.”
- Các em thanh niên nam nữ vào đời phải tử đạo khi
không theo cách sống thử tự nhiên được xã hội mặc nhiên cổ xúy, để giữ vững đức
khiết tịnh vì biết rằng: sống thử – nhưng sinh con thật – giết người thật.
- Các gia đình công giáo phải tử đạo khi lao vào cuộc
sống kinh tế. Biết rằng có thực mới vực được đạo, và để ổn định phát triển kinh
tế, phải giảm sinh, nhưng cương quyết không giảm sinh theo kế hoạch không tự
nhiên – vì chẳng khác nào giết con người từ trong trứng nước, và tự tẩy chay
nhân phẩm quí giá của mình.
- Giá trị hôn nhân thời nay đặt trên căn bản là kinh
tế, là của cải vật chất, là hưởng thụ…tạo điều kiện cho trào lưu ly thân ly dị
cách dễ dàng, và tạo nên một sự hỗn độn về đời sống các gia đình không đáng có:
chồng trước, vợ sau, con chung, con riêng, con bỏ, con nuôi… hỗn độn…. Biết như
thế, vì bảo vệ Đức Tin Công Giáo, các gia đình công giáo phải tử đạo khi dứt
khoát không bị cuốn vào trào lưu tục hóa giá trị hôn nhân.
- Khi có của ăn của để, thì việc hành đạo hầu như
không cần thiết hơn việc giải trí tiêu khiển, và việc giữ lễ Chúa nhật có thể
trở thành việc chiếu lệ, nhưng người công giáo đã tử đạo khi vẫn một lòng yêu mến
Chúa Giêsu, khao khát kết hiệp cùng Chúa Giêsu Thánh Thể qua việc tham dự Thánh
lễ và việc rước lễ hằng ngày.
- Người ta muốn giam các tín hữu trong trại giam mới
là chính cái biệt thự sang trọng, hay ít là căn phòng đầy đủ tiện nghi vật chất
thơm phức nệm êm chăn ấm máy lạnh máy nóng …để mà hưởng thụ cuộc đời nầy, mà
quên đi cái đời sau ảo tưởng… nhưng không, họ đã lầm, khi các tín hữu Việt Nam
vẫn quí mến một cuộc vượt qua, và sẵn sàng cho cuộc vượt qua của chính mình…
- Giữa những băng hoại, suy đồi có nguy cơ làm phai
mờ Đức Tin Công Giáo, các tông đồ của Chúa không đành lòng bó tay, nhưng tích cực
gia tăng đời sống đạo đức gương mẫu, đời sống cầu nguyện, có sáng kiến phong
phú để khắc phục, chận đứng, những trào lưu suy đồi của những tên lý hình thời
đại làm tha hóa các phần tử trong giáo hội. Họ thiết thực trở nên những con người
hướng dẫn thời đại đi vào đúng đường lối của Chúa. Họ thực sự đang ôm lấy Thánh
Giá Chúa Giêsu với lòng quí mến thiết tha nhất. Họ đang tử đạo trên đất nước của
các Thánh Tử Đạo, cùng với Đoàn Chiên Tử Đạo khắp nơi trên đất nước.
23. Ai muốn theo Tôi phải từ bỏ chính mình
Một bác tiều phu đi đốn củi. Đốn được một bó to sắp
mang về thì bác bỗng chợt nghĩ thấy đời mình sao khổ quá, tuổi đời cứ tăng lên,
sức khoẻ thì sút đi, mà gánh nặng gia đình vẫn không đổi thay, lại thấy nhiều
người chẳng phải lo đến chuyện cơm áo gạo tiền. Bác mới kêu lớn lên: “Ước gì
tôi được gặp Thần Chết!”
Bác vừa nói xong thì thấy Thần Chết đứng ngay trước
mặt, tay cầm lưỡi hái, miệng hỏi: “Ông lão muốn điều gì?” Bác lập cập trả lời:
“Bó củi to nặng quá! Nhờ ngài đưa giùm lên vai tôi.”
Thế đó, dù khổ đến đâu, sự sống vẫn luôn được yêu
quý hơn mọi giá. Nhưng dù có quý trọng và giữ gìn đến đâu, cái chết vẫn là một
sự thực không ai có thể phủ nhận được: “Mạng người dù giá cao mấy nữa, thì rồi
ra cũng chấm dứt đời đời. Nào phàm nhân sống mãi được sao mà chẳng phải đến
ngày tận số?” (Tv 49,9-10)
Thoạt nhìn, sự chết là một thực tại cay đắng của phận
người, nó đập tan mọi bảo đảm bền vững, mọi dự tính khôn ngoan của trần gian.
Nhưng phải cám ơn Thần Chết! Vì đó là người thổi tiếng
kèn đánh thức con người khỏi mê ngủ bởi những quyến rũ hào nhoáng của thế gian,
để đi tìm một ý nghĩa cao đẹp cho thân phận cát bụi, để nhận ra và sống tình
yêu thương, đó là cánh cửa đưa chúng ta vào sự sống thực sự và vĩnh cửu mà
Thiên Chúa đã ban tặng khi dựng nên chúng ta theo hình ảnh Ngài. Sự chết cho
chúng ta thấy tình yêu Chúa: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu
là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng
ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1Ga 3,16)
24. 444 thánh tử đạo Bà Rịa
Năm 1861, khoảng 2300 giáo dân Bà Rịa đang yên ổn sống
đạo thì đến tháng 8 quan tuần vũ Biên Hoà ra chỉ thị cho phủ Bà Rịa lập danh
sách người có đạo. Dân có đạo phải “khắc tự” hai bên má, một bên chữ Biên Hoà,
một bên chữ tả đạo. Đến tháng 9, có khoảng 700 người Kitô hữu bị giam trong bốn
nhà giam được thiết lập tại phủ Bà Rịa.
Lính gác nghiêm nhặt ngày đêm, không cho ai ra
ngoài. Đại tiện, tiểu tiện đều tại chỗ, may lắm mới có được một đứa nhỏ ở ngoài
được cho vào hốt đổ đi. Thời tiết mùa mưa ẩm thấp, phải nằm ngủ dưới nền đất, lại
không phên bạt che nắng mưa nên nhiều người lâm bệnh chết rũ tù.
Dù vậy, chẳng có ai bỏ đạo. Có một ông bị nhốt trong
ngục, vợ và con ở ngục khác trốn thoát được ra ngoài mới tìm chạy được 30 quan
tiền định lo lót cho chồng được tha. Nhưng ông nhất định không chịu vì coi đó
là việc không chính đáng, và sẵn sàng ở lại để chịu chết vì Chúa.
Cuối tháng 12, Biên Hoà thất thủ, quân nhà Nguyễn chạy
đến Bà Rịa nhưng thấy không đủ sức địch lại quân Pháp nên phải rút đi. Trước
khi rút, ngày 07/01/1862, họ phóng hoả đốt cả bốn nhà giam các tín hữu.
Người bị giam cố gắng thoát ra, có lính canh ở ngoài
đâm chết, có lính thấy đàn bà trẻ con thì thương tình phá cửa cho họ chạy, một
cai đội chặn họ lại cướp của. Số người tử vì đạo là 444 người.
Họ đã chết, nhưng chết trong niềm vui, chết trong hy
vọng.
25. Sống đạo và chết vì đạo
Theo truyện kể, thì thánh Giuse Xuyên Giám mục địa
phận Trung Đàng ngoài, đã được phúc tử vì đạo ngày 28.10.1858, ngài đã bị xử án
lăng trì, nghĩa là bị chặt chân chặt tay và bị cắt thịt ra từng mảnh. Tương
truyền rằng khi thọ án ngài đã có những lời ta thán những kẻ hành hình ngài là
độc ác. Nên vì câu nói ấy mà mãi tới ngày 29.04.1951 ngài mới được tôn lên bậc
chân phước.
Truyền thuyết trên đây có thể không đúng với sự thật,
nhưng dù sao nó cũng nhắc nhở chúng ta về điều này: Người tử đạo không phải là
một anh hùng theo kiểu các anh hùng khác của nhân loại.
Thật vậy, các vị tử đạo không phải là những anh hùng
ngã gục trên chiến trường với vũ khí trong tay, trong một cuộc chiến chống lại
quân thù. Các ngài là những con người không biết thù ghét, mà cũng không được
thù ghét bất cứ ai, trái lại luôn luôn tuân giữ mệnh lệnh Chúa Kitô truyền là
“Yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi mình.” Nếu các ngài có
phải chiến đấu, thì đó là chiến đấu chống lại sự hèn nhát, khiếp sợ của chính
mình.
26. Niềm tin
Một viên sĩ quan trẻ trong quân đội Nga xin được nói
chuyện riêng với vị mục sư người Hungary. Khi hai người ở trong một căn phòng
đã đóng kín cửa, viên sĩ quan hung hãn chỉ lên cây thánh giá treo trên tường và
nói với vị mục sư rằng:
- Ông biết không, cái đó là sự dối trá cho các ông
bày đặt ra để làm mê hoặc dân chúng. Ở đây bây giờ chỉ có tôi và ông. Ông hãy
thú nhận rằng: Ông không hề bao giờ tin rằng ông Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa.
Vị mục sư cười và trả lời:
- Này anh bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật.
Viên sĩ quan hét lên:
- Ông đừng có lừa dối tôi, đừng diễu cợt tôi.
Rồi anh rút ra một khẩu súng lục, chĩa vào vị mục sư
và hăm dọa:
- Nếu ông không nhận rằng đó là một sự dối trá thì
tôi sẽ nổ súng.
Vị mục sư điềm tĩnh trả lời:
- Dù anh giết tôi, tôi cũng không thể nói điều anh
muốn tôi nói. Đối với tôi, Đức Giêsu Kitô thật sự là Con Thiên Chúa.
27. Các giáo dân tử đạo
Các thánh Tử Đạo đã kiên cường giữ vững đức tin trước
mọi thử thách, mọi gian lao, mọi giông tố của cuộc đời. Các ngài đã dám đánh đổi
điều cao quí nhất là mạng sống của mình để làm chứng cho niềm tin vào Thiên
Chúa mà các ngài tôn thờ. Chúng ta có thể kể ra đây một vài khuôn mặt của những
vị thánh giáo dân như những chứng từ cho điều chúng ta vừa nói:
- Thánh Luca Thìn, 39 tuổi, cai tổng. Người đã viết
khi bị bắt bước qua thánh giá: "Tôi là một Kitô hữu. Tôi sẵn sàng chấp nhận
mọi cực hình, thậm chí cả cái chết đau đớn nhất, hơn là vi phạm một lỗi dù rất
nhỏ trong đạo tôi thờ.”
- Thánh Giuse Lựu, trùm họ Mặc Bắc (Vĩnh Long) đã
tâm sự với một linh mục bạn tù rằng: "Xin cha cầu Chúa ban sức mạnh và
lòng can đảm cho con. Con sắp phải đi đày. Con xin trao cho Chúa tất cả mọi sự
thuộc về con. Con bằng lòng dâng cho Người hy sinh lớn lao hơn hết là gia đình,
vợ con của con.”
- Thánh Matthêu Gẫm, 34 tuổi, một thương gia giầu
có, dù bị hành hạ, bị gông xiềng nhưng người luôn bình tĩnh vui tươi. Người
nói: "Tôi có ăn trộm, ăn cướp gì đâu mà buồn. Được chết vì đạo là điều tốt
lắm.”
- Thánh Laurensô Ngôn, 22 tuổi, một nông dân, đã trả
lời khi các quan bắt người bước qua thánh giá: "Tôi giữ đạo tôn thờ Chúa tể
trời đất. Thánh giá là phương thế Chúa dùng để cứu độ nhân loại. Tôi chỉ có thể
tôn kính chứ không bao giờ chà đạp. Tôi sẵn lòng chịu chết vì đức tin vào Thiên
Chúa của tôi.”
- Thánh Matthêu Phượng, trùm họ, đã nói với các con
mình rằng: "Các con của cha ơi! Đừng khóc, đừng buồn làm chi vì cha đang gặp
được vận hội may mắn.”
- Thánh Đaminh Ninh, 21 tuổi, nông dân, đã hiên
ngang phát biểu: "Nếu làm con cái không được phép sỉ nhục cha mẹ mình, thì
làm sao người Kitô hữu lại có thể chà đạp hình ảnh của Đấng tạo thành trời đất?
Xin các quan thi hành điều các quan muốn. Còn tôi không bao giờ xúc phạm thập
giá Chúa tôi đâu.”
- Thánh Phêrô Dũng yên ủi vợ: "Hãy vui mừng vì
tôi được hy sinh mạng sống cho Chúa Kitô.”
- Thánh Anê Thành, một người mẹ của 6 người con.
Trong cơn đau đớn vì bị tra tấn đã nhắn nhủ cô con gái đến thăm người trong tù
rằng: "Con chuyển lời mẹ nói với các anh chị em con: Hãy coi sóc việc nhà,
giữ đạo sốt sắng, đọc kinh sáng tối, dâng lễ mỗi ngày, cầu nguyện cho mẹ vác
thánh giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên Nước Thiên
đàng.”
- Thánh Emmanuel Phụng, trùm họ, trước khi bị siết cổ
đã trao cho con gái một ảnh thánh giá và nói: "Con hãy nhận lấy kỷ vật của
cha. Đây là ảnh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Anh này quí giá hơn vàng bạc bội
phần. Con hãy luôn mang nơi cổ và trung thành cầu nguyện sớm chiều con nhé.”
28. Các hình khổ từ nhẹ đến nặng
Lịch sử còn ghi lại những hình phạt mà người ta đã
nghĩ ra và đã dùng để phạt những người theo đạo như sau:
- Nhẹ nhất là bị gông cùm. Bị xiềng xích, bị nhốt
trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói cho tới chết.
- Nặng hơn một chút thì bị voi dầy, bị trói ném xuống
sông, bị chôn sống, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào
ván rồi đem phơi nắng.
- Quyết liệt hơn một chút thì bị xử trảm, xử giảo
(thắt cổ) và thiêu sống.
- Ác liệt nhất là bị xử lăng trì (phân thây ra từng
mảnh) hay bá đao (bị xẻo từng mảnh thịt cho tới chết)
Tôi xin trích ra đây một đoạn trong bản báo cáo về
việc xử Cha cố Du tại Thợ Đức ngày 30-11-1835:
"Họ cột chân tay Ngài vào một cây cột. Hai bên
lính cầm kìm chờ sẵn. Sau hồi chuông báo hiệu, tên lính cầm kìm đã được nung đỏ
kẹp vào ngực kéo ra hai miếng thịt nơi vú liệng xuống đất. Tên khác cầm dao xẻo
thịt phía sau hông - rồi đến dùi thì chúng lấy kìm kéo thịt ra rồi dùng lưỡi
dao xẻo đứt từng miếng. Cha ngất đi, đầu rũ xuống và Ngài tắt hơi về chầu Chúa
lúc 17giờ.
Cha chết rồi, lính chặt đầu Ngài cho vào một chiếc
thùng đầy vôi... đoạn họ cởi trói lật úp xác xuống, phân thây ra từng khúc bỏ
vào thùng vôi. Tiếp theo họ lấy đầu đầu của ngài treo giữa chợ ba ngày... rồi lấy
xuống nghiền nát ra bỏ vào thùng đựng xác rối vất tất cả xuống biển cho mất
tích"
29. Anh hùng tử đạo
Vào một ngày mùa hè năm 1839, vua Minh Mạng “vi
hành” đi quan sát dân tình thế thái tại kinh đô Huế. Mọi sinh hoat nơi phố phường
đều phải ngưng lại. Ai nấy đều phải tránh sang một bên để xa giá của nhà vua đi
qua, rồi sau đó mới được phép tiếp tục công việc.
Nhưng rồi bỗng từ đâu xuất hiện hai quân nhân không
thuộc đội cận vệ của nhà vua. Họ quì rạp xuống. Hai tay nên cao lên trán một tờ
sớ viết bằng chữ Hán. Quan hầu cận nhận tờ sớ và trình lên nhà vua. Tờ sớ mang
chữ ký của ba người, đó là Phan Viết Huy, Bùi Đức Thể và Đinh Đạt. Riêng ông Đạt,
vì bận việc nên vắng mặt.
Nội dung tờ sớ ấy như sau:
- Cha ông chúng tôi theo đạo Gia Tô. Năm ngoái các
quan tra tấn, ép buộc chúng tôi phải bước qua thánh giá. Chúng tôi đã miễn cưỡng
làm theo, chứ thực tâm chẳng hề muốn một chút nào cả. Nay chúng tôi xin được tiếp
tục giữ đạo để làm trọn chữ hiếu với cha ông chúng tôi.
Tờ sớ mang lại một kết quả, đó là các ngài đã được
diễm phúc tử đạo. Thánh Augustinô Huy và thánh Nicola Thể thì bị chém đầu và
thân xác bị ném xuống biển làm mồi cho cá ở cửa Thuận An ngày 13.6.1839. Còn
thánh Đa Minh Đạt thì bị xử giảo tại pháp trường Bảy Mẫu thuộc tỉnh Nam Định
ngày 18.7.1839.
Tờ sớ này có một nội dung giống như lời cha Phêrô Tự
đã nói với quan tòa:
- Tôi kính Thiên Chúa, như thượng phụ, kính nhà vua
như trung phụ và kính song thân như hạ phụ. Nếu tôi không thể nghe theo cha mẹ
ruột mà làm hại đến nhà vua, thì tôi cũng không thể vì nhà vua mà phạm đến thượng
phụ của tôi là Thiên Chúa.
Hai mẩu chuyện nói trên tiêu biểu cho niềm tin của
117 vị thánh Tử đạo Việt Nam.
30. Chứng nhân bằng gương sáng
Người ta kể rằng: tại Trung Quốc trong những năm trước
năm 1950, có nhiều giáo sĩ đã được gửi đến truyền giáo tại nước này. Người ta
đã mở những lớp dạy tiếng Trung Hoa cho những giáo sĩ ngoại quốc để có thể tiếp
xúc với dân chúng địa phương. tại một lớp nọ có khoảng 70 người theo học, trong
buổi học đầu tiên, bà giám đốc của trường bước vào lớp học. Bà ta đi qua từng
hàng ghế từ trên xuống dưới rồi từ dưới lên trên, tươi cười nhìn các học viên,
rồi cuối cùng đi ra khỏi lớp mà không nói một lời nào. Các học viên đều ngạc
nhiên về việc làm của bà giám đốc. Một lát sau, bà ta trở lại lớp và hỏi:
"Quí vị đã tiếp thu được điều gì hôm nay chưa?” Mọi người đều ngơ ngác vì
bà đã dạy gì đâu? Có một người đứng lên nói: "Chúng tôi chưa nghe bà nói một
lời nào. Nhưng chúng tôi chỉ để ý có một điều, khi bà đến lớp này, bà đã xức một
loại nước hoa thơm quá.”
Cả lớp phá lên cười. Lúc đó, bà giám đốc tươi cười
nói: "Tôi cố ý xức nước hoa thật nhiều để quí vị chú ý đấy. Nếu quí vị đã
nhận ra được điều ấy là hôm nay quí vị đã học được một bài rồi. Qua điều ấy tôi
muốn nói với quí vị rằng: Quí vị sẽ sống khoảng hai năm ở nước này như những
người câm vì quí vị không nói chuyện được với những người Trung Hoa. Tuy nhiên,
quí vị vẫn có thể để lại cho những người chung quanh quí vị một mùi thơm đặc biệt
qua nếp sống của quí vị, để dầu không nói một lời nào, nhưng người khác cũng vẫn
nhận ra được hương thơm của Chúa qua quí vị.”
Là con cái của Chúa, chúng ta có thể đem đến cho trần
gian, cho những người chung quanh, hương thơm ngào ngạt của Chúa qua nếp sống
hàng ngày của chúng ta mà không cần nói một lời nào. Xin các thánh Tử Đạo cầu bầu
và trợ giúp để chúng ta luôn sống đúng và sống đầy đủ bổn phận làm chứng của
chúng ta.
LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM năm C
-
TRUYỆN
KỂ
1.
CHÚA NHẬT TUẦN 33 THƯỜNG NIÊN (năm
A) -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
CHÚA NHẬT TUẦN 33 THƯỜNG NIÊN (năm
B) -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
CHÚA NHẬT TUẦN 33 THƯỜNG NIÊN (năm
C) -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
LỄ ÐỨC MẸ DÂNG MÌNH VÀO ÐỀN THỜ
Lời Chúa: Mt 12, 46-50
Khi ấy, Chúa Giêsu còn đang nói với dân chúng, thì mẹ
Người và anh em Người đứng ngoài tìm cách nói chuyện với Người. Có kẻ thưa rằng:
"Kìa, mẹ Ngài và anh em Ngài đang đứng tìm Ngài ngoài kia." Nhưng Người
trả lời kẻ ấy rằng: "Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta?"
Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ mà nói: "Đây
là mẹ Ta và là anh em Ta, vì hễ ai làm theo ý Cha Ta trên trời, thì người ấy là
anh em, chị em và là mẹ Ta vậy."
TRUYỆN KỂ
1. Đức Mẹ Dâng Mình--GM Batôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
Tại hầu hết các nhà thờ ở Liên Xô mà tôi đã viếng
thăm đều có những bức họa lớn hoặc nhỏ, rất đẹp về cảnh Đức Mẹ dâng mình vào đền
thờ. Ở góc cao nhất của bức họa là cửa đền thờ Giêrusalem diễn tả cửa Trời. Thầy
thượng tế mặc phẩm phục đứng đó nhìn xuống một cô bé 3 tuổi, đang lanh lẹn và đẹp
đẽ leo hết 36 bậc thang đi vào Đền Thánh, trước sự ngưỡng mộ của hàng ngàn
trinh nữ cầm đèn cháy sáng đứng hai bên. Cô bé ba tuổi đó chính là Maria, lanh
lẹn tiến vào nhà Chúa, không thèm ngoái cổ lại nhìn thế gian, từ giã họ hàng…
Các nhà thờ chính thống cũng như Công giáo ở Đông
Phương đều đề cao việc Đức Mẹ dâng mình và mừng lễ này hết sức long trọng và
hân hoan, không biết từ những ngày xa xôi nào. Chỉ biết đến thế kỷ VI, đòan đại
biểu của Giáo Hội La Mã qua thăm Đông Phương thấy vẻ đẹp của các bức họa và các
cuộc lễ này đẹp đẽ phấn khởi như vậy, mới trở về quảng bá việc mừng lễ Đức Mẹ
Dâng Mình cho đến ngày nay.
Như vậy, lễ này phát xuất từ Đông Phương, miền truyền
giáo của thánh Gioan tông đồ và có thể là nơi xuất phát lòng tôn sùng Đức Mẹ
sâu sắc hơn cả. Dĩ nhiên, câu truyện Đức Mẹ dâng mình vào đền thờ không được viết
trong Thánh Kinh. Phải đọc nó trong các sách bình dân không có phép của giáo
quyền. Nghĩa là không có gì chắc chắn Đức Maria đã dâng mình vào đền thờ khi
lên ba. Nhưng cuộc đời của Đức Mẹ là cả một lễ dâng mình kéo dài mà đỉnh cao
như chúng ta sẽ nói là ở đồi Sọ, gần thập giá Đức Giêsu.
2. Dâng mình là tìm biết và làm theo thánh ý
Theo nhãn giới của bài Phúc Âm trích đọc, khi Chúa
Giêsu chỉ các môn đệ và giới thiệu “Mẹ và anh em Ta là những kẻ làm theo thánh
ý”, chính là lúc Người khai mở một gia đình mới, không dựa trên huyết thống,
cũng không giới hạn nơi các thành viên một dòng họ hoặc dừng lại trong một chi
tộc, ngôn ngữ, mà bao gồm tất cả mọi người, miễn là biết nhận biết và thực thi
thánh ý. Nếu toàn bộ lời giảng của Chúa Giêsu được gọi là Tin Mừng thì lời giới
thiệu “Mẹ và anh em” này phải được xem như một khía cạnh reo vui hiện thực nhất
của Tin Mừng ấy. Ai cũng có khả năng trở thành người nhà của Chúa Giêsu, ai
cũng có điều kiện để hội nhập vào trong gia đình thánh, và ai cũng có thể trở
nên anh chị em gần gũi với Người. Chúa Con đã xuống thế làm người theo ý Chúa
Cha, và đã chịu khổ nạn vì tội lỗi nhân loại cũng để vuông tròn thánh ý. Những
ai hôm nay làm theo thánh ý như Chúa Giêsu, họ cũng đang trở thành anh em của
Người.
3. Dâng mình còn là tìm hun đúc cho sứ mệnh tương
lai
Mới đây, dịp cô bé Phương Mỹ Chi trúng giải “Á quân
giọng hát Việt nhí 2013” với hợp đồng trình diễn đó đây, báo chí đã coi đó như
là “gặt lúa non” và cảnh báo cho biết bí quyết thành công bền lâu dưới ánh đèn
sân khấu tỷ lệ thuận với những khổ luyện miệt mài trong bóng tối hậu trường. Một
tác giả đạo đức phác vẽ kết quả của mỗi công trình thiêng liêng bằng một công
thức ấn tượng là “50% ơn Chúa và 50% nỗ lực con người." Theo quan điểm
này, biến cố Đức Mẹ dâng mình và sống âm thầm trong đền thờ chính là thời gian
Mẹ tận hiến cho một điều cao cả hơn và trọng đại hơn; có thể hình dung như giai
đoạn chuẩn bị với những kỹ năng và hành trang cần thiết, để sẵn sàng đón nhận
nhiệm vụ sẽ được Thiên Chúa trao gửi trong tương lai. Ngày đến đền thờ Mẹ còn
là cô bé lớp chồi, nhưng ngày rời đền thờ Mẹ đã thành thiếu nữ Sion đẹp xinh
không chỉ “nhất tóc, nhì da, thứ ba là dáng”, mà còn sực nức thơm hương nhân đức.
4. Đức Mẹ dâng mình trong đền thờ--ĐTC Benedicto XVI
Thứ Ba, ngày 21 tháng 11 năm 2006, lễ Ðức Mẹ Dâng
Mình vào Ðền Thánh là ngày dành cho các ơn gọi đan viện tu kín. Vì thế, trong
bài huấn đức trước khi xướng kinh Truyền Tin vào trưa chúa nhật, 19 tháng 11
năm 2006, ÐTC đã nhắc đến ngày Cầu Nguyện này:
Anh chị em thân mến,
Ngày 21 tháng 11, nhân dịp lễ phụng vụ kính nhớ biến
cố Mẹ Maria rất thánh dâng mình vào Ðền Thánh, chúng ta sẽ cử hành Ngày Pro
Orantibus, tức ngày dành cho những cộng đoàn đan viện, tức các dòng tu kín. Ðây
là dịp hết sức thuận tiện để dâng lời cảm tạ Chúa vì hồng ân biết bao người,
--- trong các đan viện và các nơi ẩn tu, --- (vì hồng ân biết bao người) tận hiến
chính mình hoàn toàn cho Thiên Chúa trong việc cầu nguyện, trong thinh lặng và
trong nếp sống ẩn khuất. Có người thắc mắc về ý nghĩa và về giá trị của của đời
tận hiến như thế trong thời đại chúng ta, một thời đại có rất nhiều hoàn cảnh
khẩn thiết về nghèo đói và về những nhu cầu, cần được đương đầu giải quyết! Tại
sao "giam kín mình" luôn mãi trong bốn bức tuờng của đan viện, và như
thế không đem tài năng và kinh nghiệm của mình ra giúp ích cho kẻ khác? Lời cầu
nguyện của những kẻ tận hiến như thế, có hiệu quả gì để giúp giải quyết biết
bao vấn đề cụ thể đang tiếp tục gây khổ cho nhân loại, hay không?
Thật sự, cả trong ngày hôm nay nữa, còn có nhiều người
từ bỏ nghề nghiệp chuyên môn và với nhiều hứa hẹn cho tương lai, để ôm lấy cuộc
sống khắc khổ của đan viện kín, làm cho nhiều bạn thân và những kẻ quen biết,
phải ngạc nhiên. Thử hỏi điều gì thôi thúc họ thực hiện bước quyết liệt dấn
thân như thế, nếu không phải vì họ đã hiểu, -- như Phúc âm dạy, -- rằng: Nước
Trời là một "kho tàng" quý giá đáng từ bỏ tất cả để có được kho tàng
này (x. Mt 13,44), hay sao? Thật vậy, những anh chị em tận hiến tu dòng kín của
chúng ta âm thầm làm chứng rằng giữa những biến cố xảy ra trong cuộc sống hằng
ngày, --- và đôi khi là những biến cố gây xáo trộn --- thì sự nâng đỡ duy nhất
không bao giờ thay đổi là Thiên Chúa, Ðá Tảng không lay chuyển cho lòng trung
thành và tình yêu thương. "Todo se pasa, Dios no se muda" "Mọi sự
đều qua đi, chỉ mình Thiên Chúa không thay đổi", vị thầy vĩ đại của đời sống
thiêng liêng, Thánh Nữ Têrêsa Avila, đã viết như thế trong một tập sách nổi tiếng
của ngài.
5. Xin vâng
William Barlay, một học giả Kinh Thánh nổi tiếng người
Anh đề nghị sửa một dấu trong Kinh "Lạy Cha" như sau: Giữa những câu
"chúng con nguyện danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến" và câu "ý
Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời" thay vì dấu phết hay dấu chấm phết
nên dùng dấu hai chấm, để nêu bật ý nghĩa: Nếu chúng ta vâng theo ý Chúa dưới đất
ý Chúa được vâng phục trên trời thì chúng ta sẽ làm cho: danh Chúa cả sáng và
Nước Chúa được thống trị mọi nơi.
Ðề nghị trên nhằm mục đích nhấn mạnh sứ mệnh xây dựng
Nước Trời giữa lòng xã hội trần thế bằng cách hoàn toàn vâng theo ý Chúa của
các tín hữu Kitô.
Bởi lẽ đây là một trong những nội dung quan trọng nhất
của sứ điệp Chúa Giêsu rao giảng và cũng là mẫu gương nổi bật nhất trong cuộc đời
của Ngài.
"Ai vâng theo ý Cha Ta ở trên trời thì kẻ ấy là
anh em Ta, là chị em Ta và là Mẹ Ta."
6. Nguồn gốc Lễ Đức Mẹ dâng mình trong Đền thờ--Lm
Thêôphilê
Lễ Đức Mẹ dâng mình trong Đền thờ bắt nguồn từ bên
Giáo Hội Đông phương, tưởng niệm ngày thánh hiến thánh đường Đức Maria ngày 21
tháng 11 năm 543 tại Giêrusalem. Đông phương coi biến cố thánh hiến này như cuộc
đi vô “Đền thờ của Đức Rất Thánh Mẹ Thiên Chúa." Họ mừng lễ trong vòng sáu
ngày từ ngày 20 đến ngày 25 tháng 11, và dựa vào Ngụy thư Tiền Tin Mừng theo
thánh Giacôbê được soạn vào giữa thế kỷ thứ II. Trong đó, tác giả kể lại câu
chuyện Đức Trinh nữ lúc còn nhỏ đã được dâng hiến vào Đền thờ và ở lại đó cho đến
12 tuổi: “Thầy tư tế đón tiếp con trẻ và chúc phúc như sau: Thiên Chúa đã chúc
tụng danh của con trong mọi thế hệ... Thiên Chúa ban cho con trẻ ân sủng của
Người, và nó nhảy mừng, và mọi người trong nhà Ítraen yêu mến con trẻ...."
Lễ này được cử hành bên Tây phương từ thế kỷ thứ IX
tại các đan viện bên Ý, rồi sau đó lan tràn tới bên Anh. Vào năm 1373, Đức Giáo
Hoàng Grégoire XI sống tại thành Avignon (Pháp) bắt đầu cho cử hành lễ Đức Mẹ
dâng mình trong Đền thờ. Đây cũng là do công lao của một hiệp sĩ, Philippe de
Mézièrès, sau thời gian sống bên Đông phương đã về phổ biến lễ này bên Tây
phương với hy vọng tìm nối kết lại với anh em Hy lạp và Đức Giáo Hoàng Sixte IV
ghi vào lịch phụng vụ vào năm 1472.
7. Xin cho ý Chúa được thực hiện
Abraham Lincoln là tổng thống Hoa Kỳ từ 1861-1865 lần
kia vào một bệnh viện. Tổng thống thấy một thương binh trẻ, chân bị bó bột
trông rất đau đớn. Tổng thống thông cảm và tỏ ra lòng biết ơn đối với người
lính trẻ đã hy sinh cho tổ quốc và đồng bào. Tổng thống cúi xuống hỏi:
- Bạn cần tôi giúp gì không?
Người lính không nhận ra người hỏi mình là ai, nhưng
cũng đáp lại rằng:
- Nhờ ông viết dùm cho tôi lá thư, gởi về thăm cha mẹ
tôi.
Tổng thống đã viết theo lời đọc của người lính: Ba mẹ
kính mến, con là Joseph đã bị thương nặng, nhưng may còn sống. Con gửi lời thăm
mến ba mẹ, nhất là con cám ơn Ba mẹ đã dạy dỗ, nên đã biết làm trọn bổn phận của
người dân công giáo. Bác sĩ bảo: chưa chắc con lành hẳn được. Con cầu Chúa chúc
lành cho Ba mẹ, xin Chúa cho ba mẹ cũng như con được lòng vâng theo thánh ý
Chúa. Cho con hôn hai em con là Jean và Marie.
Ký tên: Joseph.
Tiếp đó tổng thống ghi thêm “thư này do Abraham Lincoln
viết dùm." Khi anh thương binh trẻ đọc lại lá thư, anh rất kinh ngạc, vì
thấy tên tổng thống ký ở dưới, anh liền nhìn tổng thống với lòng kính phục và hỏi:
- Thưa Ngài, vậy Ngài là tổng thống nước Mỹ."
Tổng thống trả lời: - Phải.
Rồi tổng thống nói tiếp: - Bạn đã nhận ra tôi là tổng
thống, bạn còn muốn tôi giúp gì nữa?
- Xin Ngài nâng đỡ cẳng chân đau của tôi một chút,
Tổng thống ngồi xuống giường, bên cạnh thương binh với
tấm lòng biết ơn của vị một Tổng thống. Tổng thống đã nâng đỡ cẳng chân đau của
người thương binh trẻ suốt đêm mà ngủ.
8. Vâng theo ý Chúa
Johannes Sebastian Bach là một nhạc sĩ Công giáo lừng
danh người Đức, khi về già lâm phải căn bênh trầm trọng có thể gây ra chứng mù
lòa.
Một hôm, có người bạn đến báo tin có một bác sĩ giỏi
về nhãn khoa mới tới thành phố, và ông ta sẵn sàng chữa đôi mắt cho nhạc sĩ bằng
một cuộc giải phẫu. Nhạc sĩ thành tâm trả lời bạn quí:
- Xin vâng theo thánh ý Thiên Chúa, tôi nhận lời.
Công việc chữa trị được tiến hành, nhưng 4 ngày sau
đó khi mở băng trước sự hồi hộp đợi chờ của thân nhân chung quanh giường bệnh,
nhạc sĩ đã trả lời:
- Xin vâng theo Thánh ý Thiên Chúa, tôi vẫn chẳng
trông thây gì cả?
Mọi người nghe vậy thì bật khóc vì thương cảm, bản
thân ông cũng không khỏi xúc động, bầu khí như chùng xuống trong sự buồn đau.
Thế nhưng, thật bất ngờ, nhạc sĩ đã cố trấn tĩnh, cất
tiếng cười vang tràn đầy lạc quan:
- Ơ hay, tôi đã bảo là xin vâng theo Thánh ý Thiên
Chúa cơ mà. Nào, xin mọi người hãy hát lên cho tôi bản nhạc mà tôi thích nhất,
đó là bài những điều Chúa làm, Ngài đều biết rõ!
9. Thành viên của gia đình Thiên Chúa
Vào tháng 3 năm 2007, cặp vợ chồng diễn viên điện ảnh
Mỹ, Brad Pitt và Angelina Jolie, đã nhận bé Phạm Quang Sáng làm con nuôi. Bé
Sáng thật may mắn khi trở nên thành viên của gia đình Pitt và Jolie. Chắc chắn
bé sẽ được hưởng những quyền lợi như những người con khác của cặp vợ chồng nổi
tiếng này. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su khẳng định rằng những ai
thi hành ý muốn của Cha đều là mẹ, là anh em của Ngài. Như vậy, chúng ta còn
may mắn hơn vì được là thành viên của gia đình Thiên Chúa, với chỉ một điều kiện
là làm theo ý của Chúa Cha, Đấng ngự trên trời.
Nhiều người trong chúng mình ước ao được sinh ra
trong gia đình giàu sang quyền quý, nhưng không ai có thể chọn cho mình cha mẹ
và gia đình để sinh ra. Tuy nhiên, Chúa Giê-su cho biết chẳng những Ngài mời gọi
mà còn cho chúng ta quyền chọn lựa để bước vào gia đình giàu sang quyền quý bậc
nhất, gia đình của Chúa Giê-su, để được đồng thừa hưởng gia tài với Ngài. Việc
được làm người thân của Chúa Giê-su đồng nghĩa với điều kiện phải biết thi hành
ý muốn của Cha, Đấng ngự trên trời.
10. Gần gũi với Chúa
Cách đây nhiều năm, tạp chí This Week đăng câu truyện
có thật về một cậu bé người Hà Lan bị kết án tử, vì đã cố gắng trốn khỏi trại tập
trung của Đức Quốc Xã. Cậu đã viết cho cha cậu trong lá thư tuyệt mạng như sau:
“Xin bố đọc lá thư này một mình, rồi cẩn thận nói lại với mẹ con… Trong một
giây lát vào khoảng 5 giờ, tự nhiên con cảm thấy mình gần gũi Thiên Chúa. Con
đã chuẩn bị đầy đủ cho cái chết… Còn đã xưng tội và rất thanh thản.”
Đã bao giờ tôi cảm thấy thanh thản vì được Thiên
Chúa nhân từ tha thứ một cách đặc biệt chưa?
Lòng thương xót là cầu vồng mọc trên đám mây khi cơn
bão trôi qua, là ánh sáng bay lượn trên tòa phán xét (Edwin Hubbell Chapin).
11. Đừng lo lắng
“Truyện nghe lởm tại một khu vườn” đó là bài thơ được
viết bởi Elisaberth Cheney với nội dung như sau: Cò nói với Cắt: “Tôi thực sự
muốn biết tại sao loài người luôn tất bật và lo nghĩ đủ thứ như vậy?” Cắt nói:
“Bạn ơi, tôi nghĩ chắc vì họ không có Chúa trên trời quan tâm chăm sóc như Ngài
quan tâm chăm sóc bạn và tôi.”
Tôi sẽ trả lời Cò ra sao? Ý của Cắt là gì?
Đừng bảo tôi rằng sự lo lắng không đem lại gì tốt đẹp.
Tôi biết rõ hơn. Những điều tôi lo lắng chẳng bao giờ xảy ra.
12. Lễ vật duy nhất
Một cơn khủng hoảng đã khiến cho một người cầu nguyện
lần đầu tiên sau nhiều năm xa Chúa. Người ấy nói: “Tôi dâng bản thân cho Chúa
vì tin rằng Ngài sẽ cất mọi đau khổ cho tôi, và tôi đã sẵn sàng… Từ khi trao
cho Chúa cả quyền sở hữu đời tôi, Ngài đã hướng dẫn tôi… theo cách hầu như hoàn
toàn khó tin với những ai không cảm nghiệm được bí mật của một cuộc sống hoàn
toàn tín thác.” Đó là vấn đề dấn thân mà Chúa Giêsu đề cập đến trong bài Tin mừng
hôm nay.
Lời Chúa và sự dấn thân của người này mời gọi tôi tự
hỏi: tôi sẵn lòng đến độ nào để Chúa sử dụng tôi theo bất kể mục đích nào Ngài
muốn? Tôi sợ hãi gì trong việc này?
Chúng ta không có gì là của riêng mình, trừ ý chí.
Đó là một điều Chúa đặt vào quyền riêng của ta để ta có thể có một lễ vật dâng
lên Chúa. (Thánh Gioan Vianney).
13. Để gần gũi với Chúa
Lễ Đức Mẹ dâng mình hôm nay nhắc lại cho chúng ta mẫu
gương quyết tâm thi hành thánh ý Thiên Chúa của cha mẹ Đức Maria. Ông Gioakim
và bà Anna không mong muốn gì hơn là sau này đứa con của hai ông bà sẽ thuộc trọn
về Chúa, được dành riêng để làm những gì Chúa muốn. Chúa đã không phụ lòng hai
ông bà: Ngài đã chọn Đức Maria làm Mẹ Đấng Cứu thế. Mẹ đã trở nên người nhà của
Thiên Chúa nhờ biết làm theo ý Chúa với niềm tín thác vô điều kiện. Mẹ là Mẹ
Chúa Giêsu theo huyết nhục, đồng thời Mẹ cũng chứng tỏ cách xuất sắc vai trò là
người nhà của Thiên Chúa khi vâng theo những gì mà sứ thần đã truyền lại cho
ngài, để rồi Mẹ được Chúa khen ngợi cách tế nhị trong bài Tin Mừng hôm nay.
Đức Maria xứng đáng nêu gương cho ta về đời sống đức
tin. Trong Năm Đức Tin này đời sống của Mẹ phải là điểm sáng để soi rọi con đường
đức tin mà mỗi người đang đi. Tin không chỉ là nghe Lời Chúa dạy, mà còn biết
làm theo những điều Chúa muốn.
Kinh nghiệm cho biết khi nào ta thực hành điều Chúa
dạy, khi ấy ta gần gũi Chúa hơn bao giờ hết. Bạn có thấy điều đó không?
THỨ HAI - NGƯỜI MÙ THÀNH GIÊRICÔ
Lời Chúa: Lc 18, 35-43
Khi Chúa đến gần thành Giêricô, thì có một người mù ngồi
ăn xin bên vệ đường. Khi nghe tiếng đám đông đi qua, anh liền hỏi có chuyện gì
đó. Người ta nói cho anh biết có Ðức Giêsu Nazareth đang đi qua.
Bấy giờ anh liền kêu lên rằng: "Lạy ông Giêsu
con vua Ðavít, xin thương xót tôi!" Những người đi trước mắng bảo anh nín
đi, nhưng anh lại càng kêu lớn tiếng hơn: "Lạy con vua Ðavít, xin thương
xót tôi!"
Vậy Chúa Giêsu dừng lại, truyền dẫn anh đến cùng Người.
Khi anh đến gần bên Người, Người hỏi anh: "Ngươi muốn Ta làm gì cho
ngươi?" Anh thưa: "Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy." Chúa
Giêsu bảo anh: "Hãy nhìn xem, lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi."
Tức khắc anh thấy được và anh đi theo Người, và ca tụng Thiên Chúa. Thấy vậy
toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa.
TRUYỆN KỂ
1. Tưởng mình biết
Có một câu chuyện kể về hai người đàn bà điếc: buổi
sáng nọ, một trong hai bà hỏi người kia rằng: “Chị đi chợ à?”, vì điếc, nên
không hề nghe thấy người kia hỏi gì, chỉ nhìn miệng và đoán ý mà thôi. Tuy
nhiên, người này đã đoán đúng ý và đáp lại: “Vâng! Em đi chợ." Bà kia thốt
lên: “Thế mà em cứ tưởng là chị đi chợ!" Câu chuyện thật buồn cười, nhưng
đây là cuộc sống thực của những người điếc nói chuyện với nhau.
Cuộc đời, sứ vụ và lời rao giảng của Đức Giêsu cũng
bị các môn đệ hiểu sai, nên không lạ gì khi Ngài nói một đàng, các ông hiểu một
nẻo theo kiểu: “Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”!
Con mắt tâm linh, đức tin của các ông không còn đủ độ
nhạy bén để nhận ra Thầy của mình là Thiên Chúa và Ngài đến để loan báo về triều
đại của Thiên Chúa chứ không thiết lập một đất nước và vương quốc theo kiểu trần
gian. Như vậy, mắt thể lý của các ông thì sáng, nhưng con mắt tâm linh thì lại
mù.
2. Biết được giá trị của ánh sáng
Một nhóm sinh viên tổ chức tham quan mỏ than
Scottish ở nước Anh. Mỗi sinh viên được phát một mũ bảo hộ của thợ mỏ, đằng trước
mũ có gắn bóng đèn nối với một bình điện đeo ở thắt lưng.
Người hướng dẫn đưa họ vào buồng thang máy xuống tận
đáy hầm than. Tới nơi, ông đề nghị các sinh viên bật đèn trên mũ bảo hộ vì con
đường dẫn đến khu khai thác tối đen như mực. Mái vòm chỉ cao một mét hai, nên mọi
người phải cúi rạp xuống khi di chuyển. Than được chở trên băng tải và đổ vào
các toa trên đường ray.
Ngay trước khi nhóm sinh viên đến khu khai thác, người
hướng dẫn nói: “Các bạn hãy tắt tất cả các đèn trên mũ." Mọi người đều làm
theo. Không ai thấy gì cả. Mọi vật đều một màu đen. Trong tăm tối, người thợ mỏ
nói: “Hãy cố gắng nhìn kỹ vào ngón tay của bạn." Chẳng ai thấy gì cả. Một
vài người bắt đầu sợ hãi. Rồi người thợ mỏ nói một câu mà các sinh viên không
bao giờ quên được: “Đây là tình trạng của những người mù."
Tất cả các sinh viên đều hiểu ra. Bị mù thì không
bao giờ thấy được ánh sáng hoặc bất cứ thứ gì khác. Họ cũng hiểu tại sao những
người thợ mỏ lại thích bầu trời trong xanh và ánh nắng rực rỡ của mặt trời.
3. Ai bị mù?
Một bà mẹ kể lại cái kinh nghiệm bà đã học được từ đứa
con mù lòa của mình như sau:
Tôi có đứa con trai bị mù từ lúc mới sinh. Khi cháu
được 20 tháng, lần đầu tiên, tôi đưa cháu đến một siêu thị gần nhà. Với những
bước đi chập chững, nó không ngừng bám vào gấu áo của tôi, và cứ vài ba bước nó
lại ngừng lại, để lắng nghe những tiếng động chung quanh.
Sáng hôm đó, tôi đã học được nhiều điều. Thật thế,
tôi bỗng nhiên nhận ra rằng: từ tiếng chân người đi bộ đến tiếng xe, tất cả các
tiếng ồn ào đều khác nhau. Cách 100 thước chúng tôi đã nghe mùi thơm của một tiệm
bánh kẹo. Vừa vào tiệm, đứa con đã dừng lại mỉm cười. Tôi mua cho cháu một
thanh sôcôla rồi tiếp tục đi đến một cửa hàng khác. Một con chim từ đâu bay đến
gần bên chúng tôi. Con tôi dừng lại, như đương thưởng thức tiếng chim hót. Một
lúc sau tôi thấy cháu lè lưỡi ra và hút thở làn gió mát từ phương Bắc thổi tới,
cho tới giờ phút này tôi vẫn chưa biết gió từ đâu.
Chúng tôi đi tiếp. Vào cửa tiệm bán cá, con tôi liền
ném mẩu sôcôla và đưa tay sờ vào các loại cá.
Trên đường về, con tôi cười vui rộn rã hơn bao giờ hết.
Nụ cười của nó nói với tôi rằng hôm ấy là một buổi sáng tuyệt vời của nó, vì nó
khám phá được những điều mới mẻ kỳ diệu. Riêng tôi, tôi đã tự hỏi: tôi với con
tôi, ai mới thực sự là kẻ mù loà.
4. Chuyện mình thì quáng, chuyện người thì sáng
Một học giả kia rất thông thái nhưng cũng rất đãng
trí. Một hôm ông cỡi lừa đi thăm một người bạn. Dù đang cỡi lừa, ông vẫn cứ dán
mắt vào quyển sách, tay buông lỏng dây cương. Do đó con lừa sau khi đi một đoạn
đường đã quay trở lại chính ngôi nhà của ông.
Ông tưởng đó là ngôi nhà của người bạn. Ông nhìn
ngôi nhà từ trên xuống dưới, từ trước tới sau, và kết luận: “Ông bạn của ta cẩu
thả quá, nhà hư gần sập tới nơi mà không sửa sang gì cả.” Vợ ông bước ra tiếp lời:
“Ông nhận xét đúng đấy. Nhưng đây là ngôi nhà của chính ông." Nhiều người
rất sáng về chuyện người khác, nhưng rất mù về những khuyết điểm của chính
mình.
5. Mù tâm hồn
Có hai người bạn rủ nhau đi tắm biển. Dọc đường, họ
bỗng đổi câu chuyện làng quê sang đề tài tôn giáo. Khi cả hai đã xuống nước đến
tận ngực, một người vẫn tiếp tục hỏi:
- Tôn giáo và niềm tin cần thiết cho con người thế
nào?
Người bạn kia trả lời bằng một câu hỏi:
- Anh thực sự muốn biết chứ?
Người thứ nhất gật đầu nói:
- Vâng, rất muốn, tôi…
Anh chưa kịp nói hết câu, thì đôi tay của người bạn
đã ghì chặt lấy đôi vai của anh dìm mạnh xuống nước, và mặc cho anh ra sức vẫy
vùng, người bạn vẫn gắng hết sức trấn nước anh cho đến lúc tưởng chừng như anh
đã bị ngộp thở. Bấy giờ người bạn mới chịu buông tay ra để anh ta ngoi lên. Vừa
thở hổn hển anh ta vừa giận dữ trách bạn:
- Giỡn gì mà lạ vậy?
Thay vì trả lời người bạn hỏi:
- Bây giờ anh cảm thấy mình cần gì nhất nào?
- Khí trời để thở chứ cần gì? - Anh ta đáp ngay.
Lúc đó, người bạn “thích đùa” kia mới ôn tồn giải
thích:
- Anh thấy đó, tôn giáo và niềm tin cần thiết cho
con người, như buồng phổi của chúng ta rất cần khí trời để hít thở vậy!
6. Nhận ra sự đói khát của người khác
Đây là câu chuyện ngụ ngôn của người Trung Hoa:
Chi Chàng là một cậu bé, một hôm bị lạc vào rừng. Cậu
đi mãi, không biết lối ra. Chiều đến, cậu mệt nhoài, nên ngồi nghỉ dưới gốc một
cây cổ thụ cao lớn. Ngước mắt lên, cậu nhìn thấy ở đàng xa giữa mảnh vườn hoang
có một túp lều nho nhỏ, tứ bề vắng lặng, không một tiếng gà cục tác, không một
tiếng chó sủa. Bị thúc đẩy bởi tính tò mò và lòng ham thích mạo hiểm, cậu bé tiến
về túp lều bỏ hoang.
Nhìn qua khe cửa, cậu thấy một cụ già đang nằm yên
trên một cái chõng, bộ râu trắng toát. Cậu bé bỗng giật mình nghe tiếng cụ già
bảo:
- Hãy bước vào cháu ơi, đừng sợ! Cụ đã nghe thấy tiếng
bước chân của cháu từ xa hàng cây số.
Chi Chàng đẩy cửa bước vào, đứng bên giường cụ già
và hỏi:
- Làm sao cụ có thể nghe tiếng bước chân của cháu và
biết được cháu từ xa đến đây được?
- Cháu biết không - cụ già âu yếm trả lời - khi một
người già yếu như cụ suốt ngày chỉ mong đợi có ai đó ở gần bên cạnh, thì tất
nhiên cả niềm ước muốn đó sẽ dồn hết vào tai, và tai trở nên thính gấp bội, có
thể nghe tiếng từ xa vọng lại. Cụ nói với cháu một điều này nhé, cháu đừng ngạc
nhiên: Cho đến nay, cụ đã sống rất nhiều năm, mắt đã từng xem thấy nhiều điều,
cụ đã từng hoạt động không ngừng, đã từng giao chiến quyết liệt. Giờ đây, cụ chỉ
còn ao ước nhớ nhung và chỉ ước vọng một điều duy nhất, đó là nhìn thấy lại nụ
cười của một trẻ thơ. Cháu có thể tặng cho cụ một nụ cười trước khi cụ nhắm mắt
lìa trần được không?
Chi Chàng nở nụ cười thật tươi, và hơn thế nữa cậu
còn giang tay ôm ghì lấy cụ, tặng cho cụ một cái hôn âu yếm trên vầng trán nhăn
nheo vì năm tháng. Rồi cụ già nhắm mắt thiếp đi như thế để thưởng thức tình âu
yếm của một cậu bé ngoan ngoãn, tốt bụng.
Tất cả chúng ta, ai ai cũng đều muốn được yêu thương
và ao ước được yêu thương. Nhưng những người già yếu, tuổi tác lại cần tình thương
hơn bao giờ hết, khác nào đứa trẻ sơ sinh cần sữa và thức ăn để sống và lớn
lên.
7. Mù thật
Một đoàn người đang đi trong đêm, trong số đó có anh
bị mù bẩm sinh. Thình lình điện cúp. Anh mù với chiếc gậy vẫn đi bình thường,
còn những người sáng mắt thì lúng túng, trong lúc rối loạn, anh mù vội bật diêm
quẹt giơ cao và hô lớn: “Đi lối này!” Nhưng anh cứ bị mọi người xô vào, anh liền
quát:
- Các người mù hết cả hay sao, tôi soi đèn cho các
người đi mà các người cứ xô vào tôi?!
- Mày mù thì có, đèn mày đã tắt từ lâu mà mày cứ bảo
chúng tao đi lối này, đi đằng kia! Những người sáng mắt đáp lại.
Như thế, trong loài người tất cả đều mù nếu không có
Chúa Kitô ở cùng, vì Ngài đã nói: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo tôi sẽ nhận
được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12: Tung Hô Tin Mừng). Chỉ có những ai được
Chúa Giêsu chiếm đoạt mới trở thành người lãnh đạo kẻ khác.
8. Nhìn mà không thấy
Suốt 14 năm liền, công ty Vedan xả nước thải không xử
lý ra sông Thị Vải. Nước sông trở nên hôi thối, dòng sông chết dần chết mòn.
Dân chúng sống hai bên bờ sông ta thán. Báo chí lên tiếng. Thế mà các cơ quan
chức trách dường như không biết gì, hay đúng hơn “nhìn mà không thấy hoặc cố
tình không thấy, nghe mà không hiểu hoặc cố tình không hiểu” (Vietnamnet
3/10/08).
Thế mới hay, có muốn thấy mới thấy được! Có thế mới
thấy cảm động thay cho anh mù thành Giêricô. Anh muốn thấy. Anh van xin, kêu
gào: xin ông Giêsu thương xót. Nhưng người ta quát nạt anh, bắt anh câm miệng!
Và có như thế mới cảm nhận được lòng Chúa thương xót. Chúa dừng lại, truyền dẫn
anh đến và chữa lành cho anh. Anh được thấy như lòng anh mong muốn.
Có những điều bịt mắt chúng ta khiến chúng ta có mắt
cũng như mù, có nhìn mà không thấy. Đó là lòng ham mê danh lợi, lạc thú khiến
chúng ta bị mờ mắt trước lẽ phải, sự thật. Đó là những thành kiến khiến chúng
ta mù loà, không thấy điều xấu để xa tránh, sửa chữa, không thấy điều tốt để
phát huy, noi theo. Trước tiên mời bạn nuôi một lòng khao khát mãnh liệt, muốn
được thấy, thấy sự thật, thấy những gì là cao thượng, tốt đẹp, và bạn hãy quyết
tâm – đừng quên xin Chúa giúp sức – gỡ bỏ những gì đang che mắt bạn.
9. Anh muốn gì?
Trong quyển Thức Tỉnh, cha Antony de Mello chia sẻ một
suy nghĩ đại ý thế này: Con người đi tìm hạnh phúc, nhưng không muốn sống hạnh
phúc. Cũng giống như chúng ta đi tìm sự thật, nhưng chúng ta không muốn sống
chân thật. Như thế, “muốn” rất quan trọng, là điểm bắt đầu của sự biến đổi.
Cũng vậy, Chúa Giêsu làm cho chúng ta trở nên đáng yeu hơn, đời sống chúng ta sẽ
tốt đẹp hơn nếu chúng ta đáp lại: Con muốn. “Anh muốn tôi làm gì cho anh? - Lạy
Ngài, xin cho tôi được thấy.” Và phép lạ đã xảy ra. “Anh hãy thấy đi! Lòng tin
của anh đã cứu chữa anh.” Phép lạ xảy ra nhờ sự thành tâm, lòng khao khát muốn
được chữa lành của anh. Đám đông không dập tắt được tiếng kêu van của anh, cuộc
sống tự lập của ngày mai không làm anh chùn bước, vì quả thật, anh muốn được chữa
lành.
Bạn có một thói xấu thâm căn cố đế, bạn còn khao
khát muốn sửa đổi không? Mong muốn Chúa thay đổi tấm lòng của mỗi thành viên để
gia đình được thuận hòa, bạn có còn tha thiết nài xin, và cầu nguyên liên lỉ
chưa? Chúa nói: “Lòng tin của con cứu chữa con.” Ước mong tất cả chúng ta hết
lòng tin Chúa.
10. Muốn trở nên thần thánh
Vua Antiôkô cai trị chư hầu Israel vào năm 170 trước
công nguyên. Ông là người nhiệt thành với văn hóa Hy Lạp và tự cho mình là hiện
thân của thần Zeus, cha của những vị thần Hy Lạp. Ông tự xưng là Ephiphanê (Hiện
thân của thần thánh). Người Do Thái thì gọi ông là Ephimanê (kẻ điên rồ). Để gắn
bó với văn hóa Hy Lạp, ông cố gắng biến người Do thái thành người Hy Lạp. Bước
đầu tiên trong cố gắng đó là loại trừ tôn giáo của họ, vì thế, ông cho tiến
hành một cuộc bách hại hàng loạt. Một số người Do thái đầu hàng, nhưng nhiều
người khác can đảm chống lại.
Tôi đã bao giờ từ bỏ hoặc bị lôi kéo từ bỏ công việc
thực hành đức tin chưa? Tại sao?
Một phóng viên hỏi mẹ Têrêsa: “Có gì bất ổn với Giaó
hội ngày nay?” Mẹ trả lời: “Ông và tôi, chúng ta gây bất ổn cho Giaó hội, vì mỗi
chúng ta là Giaó hội.”
11. Phải biết muốn
Ngay sau khi Lou Holtz trở thành huấn luyện viên của
đội bóng Notre Dame vào năm 1985, một phóng viên truyền hình đã đặt cho anh câu
hỏi: “Anh đã làm gì để đưa danh hiệu “Israel quyết chiến” lại cho đội.” Holtz
trả lời: “Tôi tiến hành ba điều với các cầu thủ của tôi: Yêu thương, tin tưởng
và phó thác.” Công thức của Holtz giống như công thức Chúa Giêsu đề ra cho những
ai muốn thay đổi lối sống. Họ phải tin tưởng rằng họ có thể thay đổi, phó thác
bản thân để thay đổi và sử dụng tình yêu như động lực để thay đổi.
Điều gì trong đời sống riêng tư tôi muốn thay đổi? Tại
sao?
Người ta thường nói thời gian sẽ biến đổi mọi thứ,
nhưng chính bạn phải thực sự thay đổi chúng. (Andy Warhol)
12. Cần thấy sự túng thiếu của mình
Một giáo viên nọ đọc đoạn Kinh thánh trên rồi nói với
các học sinh: “Hãy tưởng tượng khi các em đang cầu nguyện một mình, Chúa Giêsu
hiện ra và hỏi: “Con muốn Ta làm gì cho con?”, các em sẽ nói gì?” Đây là một số
câu trả lời của các học sinh: “Xin cho con đủ can đảm để bỏ thuốc lá”; “Xin cho
con niềm tin như thời thơ bé”; “Xin cất đi khỏi con đau khổ và thất vọng”; “Xin
cho con được tự tin.”
Những câu trả lời này mời gọi tôi tự hỏi: Tôi sẽ xin
gì, nếu Chúa Giêsu hiện đến và hỏi tôi “Con muốn Ta làm gì cho con?”
Cầu nguyện là cách diễn tả chúng ta là ai… Chúng ta
chỉ là sinh vật bất toàn. Chúng ta chỉ là một con người thiếu sót, trống rỗng cần
được hoàn thiện (Thomas Merton)
13. Tâm sáng để thấy được
Chàng trai khiếm thị Nguyễn Mỵ ở Quảng Xuân (Quảng
Bình) đã lập đài cá nhân Biển Gọi để giúp thông tin miễn phí cho những tàu ra
khơi đánh cá. Nhờ vậy, anh đã kịp thời cấp báo cho nhiều thuyền gặp nạn trên biển.
Tuy anh mù nhưng tâm anh thật sáng! Chính cái tâm sáng ấy đã giúp anh có được mối
tương quan tốt đẹp với người chung quanh. Trong khi ấy, đau khổ lớn nhất của
người khiếm thị là không nhìn thấy thế giới xung quanh; tương quan của họ với
người khác trở nên khó khăn. Chúa Giêsu sẵn sàng chữa người mù ở Giêrikhô cũng
là để cất khỏi anh nỗi khó khăn này. Tuy nhiên, với điều kiện là anh nhận ra thực
trạng MÙ của mình, tin tưởng vào tình yêu và quyền năng của Chúa.
Mắt bạn không bị mù, tuy vậy, có thể bạn vẫn mù lòa
một cách nào đó, vì thiếu cái tâm sáng. Chẳng hạn: khi không nhận ra sự quan
phòng yêu thương của Thiên Chúa, hoặc không nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa nơi
tha nhân. Làm sao bạn có thể tin nhận Chúa là Cha đang khi không có đủ dũng khí
để yêu thương anh em mình?
14. “Anh cần gì ạ?”
Ai lại không cần được người khác giúp đỡ? Ai lại
không thấy ấm lòng mỗi khi mình gặp khó khăn mà nghe ai đó chân thành gợi ý muốn
giúp đỡ mình? Ta hiểu vì sao trong giao tiếp hằng ngày, một trong những câu nói
quan trọng nhất là “Anh cần gì ạ?” – (người Anh/Mỹ thì “What can I do for
you?”; người Pháp thì “En quoi puis-je vous être utile?”). Ngôn ngữ nào cũng có
một câu tương ứng như vậy. Đó cũng chính là lời Đức Giêsu nói với người mù hôm
nay: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”
Có điều, Đức Giêsu không nói kiểu máy móc như một
công thức giao tế; Ngài nói với tất cả ý chí và tâm tình của Ngài. Ngài thực sự
muốn gặp và muốn giúp đỡ anh mù tội nghiệp, ngay cả dù những người xung quanh
Ngài có vẻ không muốn điều đó.
Thử đoán xem vây quanh Đức Giêsu lúc ấy là những ai.
Chắc hẳn trước hết phải kể đó là những Phêrô, Giacôbê, Gioan, Anrê, Philipphê…,
tức là các học trò ‘ruột’, các tông đồ của Chúa! Họ muốn ‘bịt miệng’ anh mù, chắc
cũng vì ý tốt muốn chăm sóc Thầy, muốn cho Thầy khỏi phiền phức. Và họ đã bị
‘quê’, vì Thầy của họ hành động cách khác hẳn: Anh mù, vốn bị họ gạt ra rìa, lại
chính là tâm điểm thu hút sự quan tâm của Đức Giêsu.
THỨ BA -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
THỨ TƯ - NÉN BẠC SINH LỜI
Lời Chúa: Lc 19, 11-28
Khi ấy, Chúa Giêsu phán thêm một dụ ngôn nữa, vì Người
đã đến gần Giêrusalem, mà dân chúng lại cứ tưởng là Nước Thiên Chúa sắp xuất hiện
trong giây lát.
Vậy Người phán rằng: "Có người quý tộc kia đi
phương xa để được phong vương rồi trở về. Ông cho gọi mười người tôi tớ đến,
giao cho họ mười nén bạc và dặn rằng: "Hãy làm lợi cho đến khi ta trở về."
Nhưng các người dân của ông ấy ghét ông, sai người đi theo mà rằng: "Chúng
tôi không muốn ông ấy làm vua chúng tôi." Ðược phong vương rồi ông trở về,
cho gọi các tôi tớ mà trước kia ông đã giao tiền cho, để biết mỗi người đã làm
lợi được bao nhiêu. "Người thứ nhất đến và thưa: "Tâu vua, nén bạc của
vua đã sinh lợi được mười nén." Nhà vua bảo: "Ðược, hỡi người tôi tớ
tốt lành, ngươi đã trung tín trong điều nhỏ mọn, ngươi sẽ được quyền cai trị mười
thành." Người thứ hai đến thưa: "Tâu vua, nén bạc của vua đã sinh lợi
được năm nén." Nhà vua đáp: "Ngươi cũng vậy, hãy cai quản năm thành."
"Người thứ ba đến thưa: "Tâu vua, đây nén bạc của vua, tôi còn giữ
trong khăn, vì tôi sợ ngài: ngài là người hà khắc, và lấy cái ngài không gửi, gặt
cái ngài không gieo." Vua phán rằng: "Hỡi đầy tớ bất lương, ta cứ lời
ngươi mà xử ngươi. Ngươi đã biết ta là người hà khắc, lấy cái ta không gửi, gặt
cái ta không gieo, sao ngươi không gửi bạc ta ở ngân hàng, để rồi khi ta trở về,
ta có thể lấy cả vốn lẫn lời."
"Vua liền bảo những người đứng đó rằng:
"Hãy lấy nén bạc của nó mà trao cho người đã có mười nén." Họ tâu rằng:
"Tâu vua, người ấy đã có mười nén rồi." Vua đáp: "Ta nói cùng
các ngươi: Ai có sẽ cho thêm, và người đó sẽ được dư dật; còn ai không có, người
ta sẽ lấy đi cả cái nó đang có. Còn những kẻ nghịch cùng ta, không muốn ta làm
vua, hãy đem chúng ra đây và giết chúng trước mặt ta." Nói thế rồi Chúa liền
dẫn họ lên Giêrusalem.
TRUYỆN KỂ
1. Ly đầy nước
Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng nói “Tất cả là hồng ân." Để diễn tả nỗ lực của mỗi người qua phần thưởng Chúa
sẽ ban, thánh Têrêsa Hài Đồng đã dùng một hình ảnh hết sức đơn sơ để so sánh về
phần thưởng nước Trời với sự cố gắng của con người như sau:
Nếu ta đặt trên bàn một số những chiếc ly lớn nhỏ
khác nhau rồi đổ đầy nước vào từng ly ấy, chúng ta sẽ nhận thấy rằng tất cả mọi
ly đều đầy nước, có nghĩa là không ly nào có thể chứa thêm được nữa. Nhưng
không phải là không có sự khác nhau vì những ly lớn sẽ chứa được nhiều nước hơn
những ly nhỏ.
Hãy chui ra khỏi vỏ ốc của sự tự ti, phá bỏ bức tường
mặc cảm yếu kém hơn người để tiến vào cuộc sống trong an vui và trách nhiệm.
Chúng ta hãy tùy theo khả năng sống mà phục vụ hết mình, thánh Phaolô mời gọi
chúng ta: “Mỗi người hãy xem xét việc làm của chính mình (...) chứ đừng so sánh
với người khác” (Gl 6,4).
2. Một niềm tin vững vàng
Một người lo lắng chạy tới chạy lui kêu cứu. Một
hành khách đi ngang qua phòng, thấy cậu thiếu niên con viên thuyền trưởng vẫn
còn đang say ngủ, không biết gì. Người khách vội lay em dậy và cho biết tàu
đang lâm nguy, sắp chìm, em phải lo tìm phao cấp cứu.
Em bé dụi mắt hỏi lại ngay:
- Thế ai đang lái tàu vậy hả bác?
Người hành khách trả lời:
- Cha của cháu.
Nghe thấy thế, em lại tiếp tục nằm xuống, ngủ tiếp một
cách bình thản. Người này lấy làm lạ hỏi:
- Tại sao trong khi mọi người đang lo lắng, riêng
cháu lại có thể bình an mà ngủ được chứ, cháu không sợ sao?
Em hãnh diện trả lời:
- Hễ cha cháu mà còn lái tàu, thì chắc chắn con tàu
sẽ an toàn, cháu đã trải qua nhiều phen như thế này rồi, ba cháu dư sức để lo
liệu, bác yên tâm đi.
3. Sử dụng ơn Chúa ban
Luca viết ông vua giao cho mỗi đầy tớ một yến bạc:
Luca muốn lưu ý hai điều:
a/ công việc Chúa giao cho con người rất là nhỏ so với
phần thưởng Ngài ban cho ta;
b/ Chúa không chú ý tới số lượng ơn ban, mà chú ý tới
cố gắng của mỗi người.
- Khi khen thưởng, ông vua nói “Vì anh đã trung thành."
Đây là điều thứ ba Chúa lưu ý nơi mỗi người.
Tóm lại, dụ ngôn nói về ơn ban của Thiên Chúa và
cách xử dụng ơn ban đó:
- Ai cũng nhận được ơn ban của Chúa.
- Số lượng ơn ban ta đã nhận không quan trọng bằng cố
gắng và lòng trung thành của ta khi xử dụng những ơn ban đó.
- Kẻ trung thành và cố gắng xử dụng ơn ban sẽ được
thưởng rất hậu.
4. Ông thánh đóng giày
Cuộc sống của Thánh Antôn ẩn tu có nhiều giai thoại
và đây là giai thoại lý thú về cuộc đời của ngài.
Một hôm, thánh nhân nghe tin có một người thợ giầy
tiến bộ hơn Ngài về đường nhân đức. Lòng khao khát muốn tiến triển trên đàng
nhân đức đã thúc đẩy ngài quyết chí đi tìm cho được người thợ giầy kia, để học
hỏi cách tu đức của người này.
Sau những ngày vất vả tìm kiếm, ngài đã gặp được người
thợ đó. Thoạt nhìn thấy công việc của người thợ giầy, thánh nhân hơi nản lòng,
vì thấy sinh hoạt duy nhất của người này là đóng giầy. Nhưng để cho bõ công đi
tìm kiếm, thánh nhân đã trao đổi với người thợ giầy kia về lối sống tu đức.
Thánh nhân hỏi người thợ giầy về chương trình sống hằng
ngày của ông ta. Người này cho biết, một ngày của ông được chia ra làm 3 phần:
- 8 giờ cho công việc của người thợ giầy.
- 8 giờ cho việc cầu nguyện.
- 8 giờ cho việc ăn uống nghỉ ngơi.
Sau khi nghe người thợ giầy nói, thánh nhân vẫn nản
lòng vì chính ngài, ngài cũng đã dành không phải là 8 giờ cho việc cầu nguyện
mà ngài đã dành hết cả ngày cho việc này.
Tuy nhiên, thánh nhân vẫn kiên nhẫn với ý định phải
tìm hiểu thêm. Thế là ngài hỏi người thợ giầy về cách sử dụng tiền bạc của ông
ta. Người này cho biết: 1/3 dành cho ông, 1/3 dành cho Giáo Hội và 1/3 dành cho
người nghèo.
Sau khi được biết cách sử dụng tiền bạc của người thợ
giầy, thánh nhân thấy rằng, người thợ giầy chưa thể hơn ngài được. Vì ngài dành
không phải là 1/3 mà là dành tất cả của cải của ngài cho người nghèo cơ mà.
Tra vấn mãi, cuối cùng, thánh nhân mới thấy người thợ
giầy nói đến nỗi thống khổ của ông, đó là ông phải sống trong một thành phố sa
đọa. Việc này đã làm cho ông mất ăn, mất ngủ. Ông cho biết nhiều lần ông đã xin
Chúa sớm giam ông trong hỏa ngục, vì như thế còn hơn là bắt ông cứ phải sống mà
luôn nhìn thấy bao nhiêu người trong thành phố này sống trong cảnh sa đọa, dẫn
tới trầm luân.
Nghe đến đây, thánh nhân mới chợt nhận ra rằng, đó
là điều mà Ngài còn thua kém người thợ giầy. Ngài thấy rằng, ngài chưa có được
sự thao thức về những nỗi khổ đau của những người xung quanh như người thợ giầy;
trái lại, ngài lại đi tìm cho mình một cuộc sống an phận với nếp sống ẩn tu.
Thì ra, sự thao thức về những nỗi thống khổ của người
khác cũng là cách chúng ta sử dụng thời giờ Chúa ban như những yến bạc để sinh
lời cho Chuá. Và đây cũng chính là mức hoàn thiện mà thánh Antôn cảm thấy mình
còn thua người thợ giầy.
5. Không làm, không ăn
Thiền sư Trung Hoa Hyakyjo thường làm việc với các đệ
tử, mặc dù ông đã 80 tuổi. Ông thường nhổ cỏ trong vườn, quét sân, hái củi. Các
đệ tử của ông cảm thấy buồn vì ông thầy già của họ làm việc cực nhọc, không chịu
nghỉ ngơi theo lời họ khuyên. Vì thế, một lần kia họ đem giấu hết dụng cụ làm
việc của thầy Hyakyjo. Ngày hôm đó, thầy Hyakyjo không chịu dùng bữa. Ngày hôm
sau, rồi hôm sau nữa, ông thầy già cũng không ăn. Các đệ tử đoán: “Chắc là vì tụi
mình dấu đồ làm việc của thầy chứ gì? Thôi, tốt hơn là đem trả lại chỗ cũ cho
thầy."
Thế rồi, ngày họ làm việc, ông thầy già cũng làm và
dùng bữa như trước. Chiều đến, Hyakyjo dạy họ: “Không làm, không ăn!"
“Hãy làm ăn sinh lợi cho đến khi tôi đến” (Lc
19,13b)
6. Đau khổ là hạt giống
Ann Catherine Ryan là thành viên của nhóm chia sẻ đức
tin ở Bolivia. Một ngày nọ, nhóm đang suy gẫm về Mẹ Maria, thân mẫu Chúa Giêsu,
thì có một phụ nữ trẻ nói lên trong niềm thất vọng: “Làm sao tôi có thể nên giống
mẹ Maria được? Có bao giờ thánh Giuse đánh đập hay nhục mạ Mẹ? Để nuôi con, mẹ
có phải đến làm việc trong nhà máy từ 4 giờ sáng đến 8 giờ tối với mức lương thấp
không?”
Tôi sẽ trả lời người phụ nữ này như thế nào? Tại sao
Thiên Chúa để cho người phải đau khổ dưới tay kẻ gian ác?
Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với
vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta (Rm 8,18)
7. Sinh lợi được bao nhiêu
Cách đây nhiều năm, hầu hết các nhật báo đều đăng
câu: “Tin hay không tin.” Nó liên quan đến một sự kiện thật khó tin. Chẳng hạn,
một trong những bài báo cho thấy một thanh sắt trị giá năm đô la có thể làm
thành chiếc móng ngựa trị giá năm mươi đô la, hoặc thành những cây kim trị giá
năm ngàn đô la, hoặc thành những lò xo đồng hồ trị giá năm trăm ngàn đô la.
Cân truyện trong bài Tin mừng hôm nay mời gọi tôi tự
hỏi: Tôi đang làm gì với những tài năng Thiên Chúa ban cho tôi?
Chẳng có lý gì mà lại không sử dụng tài năng nhỏ mọn.
Hãy nghĩ xem một buổi sáng sẽ thế nào nếu chỉ có chim họa mi cất tiếng hót!
8. Nén bạc của ngài
Điều tra của Tổ chức Minh Bạch Quốc Tế về chỉ số
tham nhũng năm 2005 xếp Việt Nam đứng thứ 107/159 nước và năm 2009 tụt xuống hạng
120/180 nước, nghĩa là vẫn nằm trong 1/3 cuối bảng xếp hạng, thuộc nhóm các nước
mà nạn tham nhũng trầm trọng hơn cả. Theo định nghĩa của tổ chức này, “tham
nhũng” là “lạm dụng quyền hành được trao phó cho mình để thủ lợi riêng tư.”
Người tôi tớ
trong dụ ngôn được khen là trung thành không chỉ vì đã làm ăn sinh lời mà là vì
–nói theo ngôn ngữ hiện đại– đã không “tham nhũng” lạm dụng quyền hành để tư
túi, biến của chủ thành của mình. Trái lại, anh đã sinh lời và sinh lời cho chủ;
anh đã đem cả vốn lẫn lời đến trình với chủ cách công khai, minh bạch: “Thưa
ngài, nén bạc của ngài đã sinh lợi được mười nén.”
Tất cả những
gì bạn có, kể cả sự hiện hữu của bạn là những nén bạc Thiên Chúa ban cho.
THỨ NĂM - CHÚA GIÊSU THƯƠNG TIẾC
CHO GIÊRUSALEM
Lời Chúa: Lc 19, 41-44
Khi ấy, Chúa Giêsu đến gần Giêrusalem, trông thấy
thành thì Người khóc thương thành ấy mà rằng: "Chớ chi hôm nay ngươi hiểu
biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi! Nhưng giờ đây, sứ điệp ấy bị che khuất
khỏi mắt ngươi. Vì sẽ đến ngày quân thù đắp luỹ bao vây ngươi, xiết chặt ngươi
tứ bề. Chúng sẽ tàn phá ngươi bình địa, ngươi cùng con cái ở trong thành. Chúng
sẽ không để lại hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết giờ
ngươi được thăm viếng."
TRUYỆN KỂ
1. Tàn phá ngươi thành bình địa
Vào năm 70 sau Công nguyên, vị tướng La Mã Titô đem
đại quân vây hãm thành Giêrusalem. Ông ra lệnh không được đốt phá.
Thế nhưng, một quân nhân như bị thúc đẩy bởi một sức
kỳ lạ đã cầm bó đuốc đang cháy ném vào bên trong đền thờ, lửa bốc cháy nhanh,
không chữa được. Sau khi đám cháy tàn lụi, Titô ra lệnh phá hủy thành và đền thờ,
ngoại trừ ba lều tháp và một bức tường, để cho hậu lai thấy sự kiên cố của
thành đã bị phá. Tất cả những sự việc trên được sử gia Josèphe sống trong thời
đó ghi chép lại cho hậu thế...
Ngày nay người do thái vẫn còn đến bên bức tường đổ
nát của cổ thành Giêrusalem để than khóc cho số phận của đất nước và tiếp tục
chờ mong Đấng Messia “của họ." Nhưng trớ trêu thay lúc Đấng Messia thật đến
viếng thăm họ thì họ đã chối từ và xử tử! Tại vì họ đã “không nhận biết."
Xin giúp con tỉnh táo “nhận biết” những thời giờ Chúa đến viếng thăm con.
2. Kiên tâm chịu đựng
Khi đi tuần tra tại một thành phố nọ có một vị thẩm
phán lúc nào cũng bị một luật sư kiêu căng gây phiền toái bằng cách đưa ra một
số nhận xét mang tính cách chế giễu.
Sau đó, trong bữa ăn tối, có vài người hỏi vị thẩm
phán tại sao ông không dùng quyền lực của mình để chỉ trích viên luật sư này.
Vị thẩm phán liền bỏ dao nĩa xuống, chống cùi chỏ
lên bàn và kể câu chuyện của mình:
- Tại thành phố của chúng ta, có một bà goá sống
chung với một con chó, cứ mỗi khi mặt trăng toả sáng, thì con chó lại đi ra
ngoài và sủa liên tục suốt đêm.
Ông ngừng lại và lặng lẽ bắt đầu ăn trở lại. Một
trong những người bạn hỏi ông:
- Thưa ngài thẩm phán, thế con chó và mặt trăng thì
làm sao ?
Ông nói:
- Ô, bất chấp tiếng sủa của con chó, mặt trăng vẫn cứ
tiếp tục tỏa sáng.
Vâng! Hãy tin tưởng vào Chúa. Gặp thời thuận tiện
hay không, cùng với thánh Phaolô, chúng ta hãy kiên vững trong sứ mệnh loan báo
Tin mừng, vì xác tín rằng không một sức mạnh trần thế nào có thể cản được
chương trình của Thiên Chúa.
Điều xảy ra cho thành Giêrusalem cũng có thể xảy ra
cho mọi người thuộc mọi thời đại. Mỗi người chúng ta đều có giây phút Chúa đến
viếng thăm, đó là giây phút hồng phúc mang đến ơn lành, ơn cứu rỗi và sự bình
an. “Ước chi hôm nay, nơi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi."
Nhưng Chúa không bắt buộc tự do của mỗi người, sự tự do mà Ngài đã trao ban cho
con người một lần vĩnh viễn không bao giờ muốn lấy lại. Dù biết rằng con người
vẫn có thể lạm dụng sự tự do đó mà chống lại Ngài (Mỗi ngày một tin vui).
3. Vui vì có Chúa chăm sóc
Một buổi trưa hè nóng bức, Thánh Phanxicô Assisi sau
khi đi đường mệt nhọc đã tìm được một chỗ nghỉ chân rất thoải mái. Chỗ đó là dưới
một gốc cây có tàng lá che mát, bên dưới là một dòng nước trong lành mát rượi.
Thánh nhân rửa tay rửa mặt xong xuôi rồi ngả mình dưới tàng lá. Bỗng dưng người
bật khóc. Vì người nghĩ: từ không biết bao đời, Chúa đã biết hôm nay mình đến
đây, Chúa biết mình mệt, cho nên Chúa đã đặt sẵn ở đây một bóng mát và một dòng
suối để cho mình nghỉ ngơi.
Cái nhìn của bậc thánh nhân đã nhận ra những điều mà
người phàm không bao giờ thấy được.
4. Cứng lòng
Người con trai của một nhà truyền giáo bị bắt giữ,
và bị quy cho tội phản động, bởi vì anh ta thuộc về một tổ chức bất hợp pháp chống
lại chính phủ. Anh bị xét xử, kết án và cầm tù. Người cha già của anh, vốn nổi
tiếng là một người có học thức và là một Kitô-hữu tốt lành, đã chạy đi khắp nơi
tập hợp được hàng trăm chữ ký vào tờ đơn xin ân xá cho anh. Ông tìm đến tận
Washington gặp Tổng Thống Grant trình bày tờ đơn đó và van xin tổng thống tha
thứ cho con trai ông, nhờ vào những công lao đóng góp của cha mẹ anh ta.
Được sự phê chuẩn của Tổng Thống, người cha già đó vội
vã đón ngay xe lửa trở về nhà tù gặp con trai. Cầm trên tay tờ giấy được ân xá,
ông nói với con trai:
- John ạ, cha có một tin vui mang đến cho con đây. Tổng
Thống Grant đã chấp thuận đơn xin ân xá của cha. Con có thể trở về nhà với cha
ngay bây giờ, và kịp gặp được mẹ con trước khi mẹ con qua đời!
Nhưng con trai ông không đáp lại một lời. Người cha
nói tiếp:
- Con có hiểu cha nói gì không, John ? Đây là tờ giấy
chứng nhận con đã được ân xá.
Nhưng anh con trai vô ơn đó trả lời:
- Thưa cha, con rất tiếc đã làm buồn lòng cha, nhưng
con đã quyết định không đi theo hệ thống chính trị này, và con sẽ sống theo chọn
lựa của con.
Trái tim của người cha già hầu như tan nát. Ông cụ
ngã nhoài xuống hàng lưới sắt, và được một người gác ngục dìu đi.
Thành Jêrusalem xưa cũng như vậy.
5. Mặt trăng vẫn tỏa sáng
Khi đi tuần tra tại một thành phố nọ, có một vị thẩm
phán lúc nào cũng bị một luật sư kiêu căng gây phiền toái bằng cách đưa ra một
số lời nhận xét mang tính cách chế giễu.
Sau đó, trong bữa ăn tối, có vài người hỏi vị thẩm
phán nguyên nhân tại sao ông không dùng quyền lực của mình để chỉ trích viên luật
sư này.
Vị thẩm phán liền bỏ dao nĩa xuống, chống cùi chỏ
lên bàn và kể câu chuyện của mình:
- Tại thành phố của chúng ta, có một bà góa sống
chung với một con chó, cứ mỗi khi mặt trăng tỏa sáng, thì con chó lại đi ra
ngoài và sủa liên tục suốt đêm.
Ông ngừng lại và lặng lẽ bắt đầu ăn trở lại. Một
trong những người bạn hỏi ông:
- Thưa ngài thẩm phán, thế con chó và mặt trăng thì
sao ?
Ông nói:
- Ồ, bất chấp tiếng sủa của con chó, mặt trăng vẫn cứ
tiếp tục tỏa sáng.
6. Khóc vì bất lực
Nhà văn Pháp A. Gide đã có lần than thở: “Tôi muốn
khóc nhưng thấy hồn mình khô hơn sa mạc." Phụ nữ có thể khóc thoải mái,
nhưng đàn ông hoặc khô khan như A. Gide, hoặc che giấu nuớc mắt của mình: “Trái
tim khóc hoài mà vẫn không rơi lệ." Thế mà ở đay, ta thấy Đức Giê-su khóc!
Hẳn Ngài quá xúc động đến nỗi những giọt nước mắt cứ tuôn tràn. Đó là những giọt
nước mắt đau đớn, buồn khổ của vị Thầy nhân lành thấy trước những đau khổ
Giê-ru-sa-lem phải chịu, vì khước từ ơn cứu độ. Những giọt nước mắt của một vị
Thiên Chúa “bất lực” vì quá tôn trọng tự do của con người. Những giọt nước mắt
yêu thương dành cho những đứa con cứng lòng, đang tràn chảy như vỡ bờ trên
khuôn mặt Thầy Giê-su, khuôn mặt của Thiên Chúa.
Ngắm nhìn khuôn mặt đẫm lệ của Đức Giê-su và nhận ra
lòng yêu mến vô hạn qua những giọt nước mắt ấy. Thiên Chúa yêu thương bạn, dù bạn
tốt hay xấu, là nguời con hiếu thảo hay ương ngạnh. Bạn hãy là một người con hiếu
thảo, luôn một lòng kính yêu tôn thờ Chúa, như Đức Giê-su.
7. Khôn và dại
Albert Schweitzer từ bỏ danh lợi thế gian để trở
thành một bác sĩ phục vụ người nghèo ở Phi Châu. Ông viết: “Một ngày nọ, trong
nỗi thất vọng, tôi gieo mình xuống ghế và than van: “Qủa là khờ dại khi đến
đây.” Lúc đó, có một tiếng thì thầm: “Vâng, thưa bác sĩ, có thể là ngu dại ở thế
gian, chứ không phải ở trên trời.” Lời nhắc nhở đối với Schweitzer cũng có thể
đã được nói với Mattathya: “Phải, Mattathya, ông ngu dại nơi thế gian, chứ
không phải ở trên trời.”
Tôi có vững lòng và can đảm mỗi khi thất vọng và muốn
bỏ cuộc không?
Thiên Chúa ban cho tôi can đảm để không từ bỏ những
gì tôi cho là đúng, ngay cả khi tôi cảm thấy điều đó là vô vọng (Admiral
Chester Nimitz).
8. Nhỏ mà lớn
Trong ngôi thánh đường ở thủ đô Washington có bức tượng
Abraham Lincoln đang quỳ cầu nguyện. Đó là tác phẩm của họa sĩ Spencer Houk. Cảm
hứng giúp ông tạc tượng là câu chuyện do ông nội của ông kể lại. Một ngày nọ,
khi đi dạo trong rừng ở Gettysburg, tình cờ nội thấy mộtr người đang quì gối
thì ra đó là tổng thống Abraham Licoln.
Biểu tượng trầm hương (lời cầu nguyện) và câu truyện
về Abraham Lincoln mời gọi tôi tự hỏi: tôi có tin tưởng lời cầu nguyện của tôi
có sức mạnh trước mặt Thiên Chúa không?
Khi mở rộng lòng để Thiên Chúa tác động, phần sâu thẳm
nhất của chúng tôi sẽ được lấp đầy. (William James)
9. Chúa vẫn nói trong tiếng lương tâm
Trong vở kịch Julius Caesar, Shakespeare phản ánh tấn
bi kịch về những cơ hội bị bỏ qua. Ông viết: “Có sóng gió trong đời người trai
trẻ hướng đến thành công. Bỏ qua nó, cả cuộc đời sẽ khắc khoải trong lầm than
và bóng tối.” Điều này đã xảy ra đối với dân thành Giêrusalem khi không đáp lời
mời gọi sám hối của Chúa Giêsu. Họ để cho ơn cứu rỗi qua đi như “nước đổ lá
môn.” Đúng như lời Chúa Giêsu đã nói trong Tin mừng hôm nay: Giêrusalem đã bị
quân La Mã san bình địa vào năm 70 trước công nguyên.
Tôi có nhớ đã lần nào trong đời Thiên Chúa cho tôi
cơ hội đặc biệt để trưởng thành trong đời sống thiêng liêng không?
Lương tâm là sự hiện diện của Thiên Chúa trong chúng
ta (Emmanel Swedenborg).
10. Phải chi
Những ngày cuối năm phụng vụ, Lời Chúa luôn đề cập đến
tai hoạ và bình an. Tai hoạ sẽ trở thành an bình khi con người thực hiện những
cái “phải chi!” Có những cái phải chi đem đến khổ đau và hối hận, kiểu như phải
chi “ngày ấy mình đừng quen nhau, thì ngày nay có đâu buồn đau!” Nhưng cũng
không thiếu những cái phải chi mang lại an bình, đó là phải chi ngày hôm nay mỗi
người nhận ra những gì đem lại hạnh phúc và bình an. Cũng như phải chi trong những
ngày ấy, người Do Thái nhận ra Đức Giêsu hiện diện giữa họ để đem niềm vui và
an bình, phải chi họ vâng nghe theo lời giảng dạy của Ngài, họ đâu phải chịu cảnh
lưu đày sau khi đền thờ bị phá hủy năm 70.
Ai cũng được Chúa ban cho những cơ hội thuận tiện để
ăn năn sám hối. Người khôn ngoan biết học những bài học của lịch sử, biết chắt
lọc những kinh nghiệm của bản thân, cũng như vâng nghe theo Lời Chúa, sẽ tìm được
bình an và hạnh phúc. Người nhắm mắt bịt tai sẽ hối hận nhiều về sau. Đừng để bất
cứ một cơ hội nào Lời Chúa kêu gọi bạn sám hối vuột khỏi tầm tay của bạn.
11. Nhìn người mà ngẫm đến mình
Không ít người tâm huyết với Hà Nội đã tiếc nuối và
lo âu khi thấy sắc đẹp của thành phố nghìn năm đang bị tàn phá bởi lối kiến
trúc lai căng hiện nay. Họ buồn đau vì không khí mơ màng bốn mùa của thành phố
bị bức tử vì những cao ốc, khiến thị dân Hà Nội “ngày không thấy trời, đêm
không thấy trăng.” Họ quay quắt vì nét đẹp tinh thần của thị dân lẫn cảnh trí của
thành phố ngày càng biến mất, khó cứu vãn. Họ tiếc nuối vì họ yêu Hà Nội.
Dù cảnh trí thành Giêrusalem không bị bức tử, Chúa
Giêsu quay quắt và chảy nước mắt khóc thương khi nhìn thành Giêrusalem, chỉ vì
dân thành không nhìn nhận Ngài, không đón nhận Đấng Chúa Cha sai đến. Chúa
Giêsu thấy trước ngõ cụt và tương lai đen tối của một thành phố khước từ Thiên
Chúa, một tương lai “không còn hòn đá nào trên hòn đá nào,” nên vì yêu mến,
Ngài cảnh báo cho Giêrusalem. Tâm tình của Chúa Giêsu với thánh đô cần được
nhân rộng trong mỗi Kitô hữu khi nhìn về những nhóm, gia đình hay cộng đoàn họ
có trách nhiệm.
Bạn thấy gì về tương lai của gia đình, giáo xứ và
quê hương của bạn? Dựa vào đâu bạn đánh giá về chúng?
12. Chạy tại chỗ
Hoàng tử bé đến thăm một hành tinh trên đó có một
anh nát rượu. Cuộc viếng thăm tuy rất ngắn mà lại làm cho hoàng tử miên man buồn:
“Anh làm gì đấy?” cậu hỏi anh nát rượu khi thấy anh
ta ngồi lặng thinh trước một đống chai đã hết sạch và một đống chai còn đầy rượu.
“Tôi uống”, anh nát rượu trả lời, vẻ thiểu não.
“Tại sao anh uống?” hoàng tử bé hỏi anh ta.
“Để quên”, anh ta trả lời.
“Quên cái gì?”, cậu bắt đầu thấy cảm thương.
“Quên nỗi xấu hổ của tôi”, anh thú nhận, đầu cúi xuống.
“Xấu hổ về điều chi?” cậu lại hỏi với ý muốn giúp đỡ.
“Xấu hổ vì uống rượu!” Rồi anh ta thôi không nói nữa,
và lần này nhất quyết im lặng luôn.
Im lặng vì bế tắc!
THỨ SÁU -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
THỨ BẢY – PHẢI CÓ SỰ SỐNG LẠI
Lời Chúa: Lc 20, 27-40
Khi ấy, có mấy người thuộc phái Sađốc, là những người
chối không tin có sự sống lại, đến gần Chúa Giêsu hỏi Người rằng: "Thưa Thầy,
Môsê đã viết cho chúng tôi: nếu ai có một người anh cưới vợ, rồi chết đi mà
không có con, thì người em phải cưới người vợ đó để anh mình có kẻ nối dòng. Vậy
có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ, rồi chết mà không có con. Người kế tiếp
cưới vợ goá đó, rồi cũng chết không con. Người thứ ba cũng cưới người vợ goá
đó. Và tất cả bảy người đều cưới như vậy và đều chết mà không để lại người con
nào. Sau cùng người thiếu phụ đó cũng chết. Vậy đến ngày sống lại, người đàn bà
đó sẽ là vợ ai trong các người ấy, vì tất cả bảy người đều lấy người ấy làm vợ?"
Chúa Giêsu trả lời rằng: "Con cái đời này cưới
vợ lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ
cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng; họ sẽ không thể chết nữa, vì họ giống
như thiên thần, họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại. Về
vấn đề kẻ chết sống lại, thì Môsê trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa
là Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Thiên Chúa không
phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống, vì mọi người đều sống cho
Chúa."
Bấy giờ có mấy luật sĩ lên tiếng thưa Người rằng:
"Lạy thầy, Thầy dậy đúng lắm." Và họ không dám hỏi Người điều gì nữa.
TRUYỆN KỂ
1. Kinh
nghiệm cận tử.
Mấy
năm gần đây, một số bác sĩ Đức và Mỹ đã rất chú ý đến hiện tượng mà họ gọi là “kinh
nghiệm cận tử” (near death experience): nhiều người vì một tai nạn hay một lý
do nào đó đã ngất đi trong một thời gian khá dài. Về mặt thể lý, coi như họ đã
chết. Nhưng sau đó họ sống lại. Các bác sĩ đã phỏng vấn 1370 người ấy. Trong những
điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau:
-
Cuộc sống ở “cõi bên kia” hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.
-
Sau khi “chết đi sống lại”, không ai còn sợ chết nữa, không ai ham muốn kiếm tiền
bạc danh vọng lạc thú gì nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương,
quảng đại, phục vụ mọi người (Tóm bài của Willie Hoffsuemmer).
2.
Làm chứng cho sự sống đời sau theo bậc sống
Linh
mục, Tu sĩ là dấu chỉ và chứng nhân cho cuộc sống đời sau, một cuộc sống “như
các thiên thần” không bận tâm chi đến việc vợ chồng, chỉ chuyên tâm phụng sự
Chúa.
Trở
nên chứng nhân cho tình yêu của Thiên Chúa qua nếp sống vợ chồng (như cha mẹ
chúng ta) không phải là chuyện dễ. Nhưng muốn là dấu chỉ và chứng nhân cho cuộc
sống đời sau, sống “như các thiên thần”, cũng rất khó khăn; rất cần ân huệ của
Chúa. - Muốn đi đến nếp sống yêu thương với một con tim trọn vẹn không chia sẻ
dành cho Chúa, ta cần được chuẩn bị để đạt được sự trưởng thành tâm cảm
(maturité affective). Dần dần tập làm chủ được 4 trình độ của tâm cảm: - cảm xúc
- tình cảm - tình yêu - đam mê.
3. Đời
sau dạy ta biết sống
Một
đại gia người Pháp coi đời sống chỉ là cơ hội để kiếm nhiều tiền, ăn nhậu và
đàng điếm. Trên gường bệnh, thanh quản bị liệt và không nói được, ông viết lên
tấm bảng những dòng chữ sau đây và xin người nhà khắc vào tấm bia mộ của mình:
“Đây là người dại dột, đã sống, mà không biết tại sao mình sống. Hỡi những người
đang sống, chớ gì sự vô phúc của kẻ khác mở mắt các ông!” Thật ra chúng ta
không có kinh nghiệm gì về số phận của những người đã chết và rất có thể chúng
ta cũng sẽ là những người Sa-đốc kia không tin vào đời sau hay tin cách hồ đồ
mê tín. Tuy nhiên, nhờ Chúa mạc khải, chúng ta biết được có cuộc sống đang chờ
ta bên kia cái chết.
Mời
Bạn: Niềm tin vào Thiên Chúa dẫn ta tới niềm tin vào sự sống lại dành cho những
ai tin vào Ngài. Con người được kêu mời chia sẻ sự sống vĩnh cửu với Thiên Chúa
Ba Ngôi, được diễm phúc kết hiệp với Người trong niềm vui bất tận. Họ thuộc về
nền văn hóa sự sống, văn hóa tình yêu.
4.
May mà còn biết mình đi lạc
Vào
buổi đầu của chương trình không gian Hoa Kỳ, nhiều công nhân đã gửi thư tới cho
biết sẵn sàng hy sinh bản thân cho sự nghiệp lớn. Một số thư đến từ những người
cố gắng bù lại quãng thời gian đã bị uổng phí. Chẳng hạn, một người trước kia
đã từng bị kết án tại Texas giải thích rằng ông ta có thương số thông minh cao
và muốn hiến mình làm vật thí nghiệm. Ông nói: “Có lẽ bằng cách này, tôi có thể
thực sự đền bù lỗi lầm của tôi.”
Tôi
đang làm gì để đền bù tội lỗi của tôi? Tôi nên làm gì hơn nữa?
Xưa
anh em chỉ nghĩ đến chuyện xa lìa Thiên Chúa, thì một khi trở về, anh em phải nỗi
lực gấp mười mà tìm kiếm Chúa (Br 4,28).
5.
Cuộc sống đòi kiên nhẫn
Những
giải thích về thị kiến này khác nhau. Hai ngôn sứ dường như là Môsê và Êlia mà
theo truyền thống Do thái, các ngài sẽ trở lại trước ngày của Chúa. Chắc chắn,
các ngài đã đến để đàm đạo với Chúa Giêsu trong cuộc biến hình của Ngài. Mặc dù
không hiểu hết những đoạn riêng và những thị kiến trong sách Khải huyền, nhưng
sứ điệp của cuốn sách thật rõ ràng: Thiên Chúa nói với kitô hữu bị bách hại vào
thời của Gioan: “Hãy kiên tâm! Đừng bỏ cuộc! Như Chúa Giêsu đã chịu đau khổ và
đã sống lại vinh quang, thì các ngươi cũng vậy!”
Hiện
tại, thử thách nào tôi đang cố gắng “kiên tâm” đương đầu và “không bỏ cuộc”?
Ta
sẽ thử chúng như thử vàng (Dcr 13,9).
6.
Linh hồn không chết
Một
người lính nọ đang ở trong chiến hào với một người bạn thân. Bất chợt, một viên
trái pháo nổ cách đó không xa. Thật kỳ lạ, anh ta vẫn sống còn người bạn thì chết.
Người lính viết: “Thân xác đang nằm trên mặt đất không phải là bạn tôi. Đó chỉ
là một cái xác trống rỗng. Trí tuệ của bạn tôi, sự hiểu biết, tinh thần và sức
quyến rũ của bạn tôi đều rời khỏi thân xác. Và tôi nhận ra đó là điều được gọi
là “linh hồn” vẫn sống sau khi thân xác đã chết.”
Tôi
tin tưởng sâu sắc tới độ nào về cuộc sống mai hậu?
Thiên
Chúa viết lời hứa về sự phục sinh, không phải trong sách vở, mà trong những chiếc
lá của mùa xuân (Martin Luther King).
7. Điểm
đến
Đó
là một buổi sáng sương mù phủ kín, ngày 4-7-1952 khi Florence Chadwick bước xuống
nước bơi vượt eo biển từ đảo Catalina đến bờ biển California. Bơi đường trường
không phải là một điều mới lạ đối với Florence, bởi cô từng vượt biển Manche
(giữa nước Anh và Pháp) ở cả hai chiều.
Buổi
sáng hôm đó nước lạnh cóng, còn sương mù thì dày đến nỗi cô khó có thể nhìn thấy
chiếc thuyền trong đoàn. Sau khi đã bơi hơn 15 tiếng đồng hồ, cô yêu cầu mọi
người kéo cô lên thuyền. Huấn luyện viên của Florence ráng hết sức để động viên
cô bởi họ đã rất gần bờ, nhưng cô chỉ nhìn thấy sương mù và sương mù. Vì thế cô
bỏ cuộc... khi cách đích không tới nửa dặm.
Sau
đó cô tâm sự: "Không phải tôi biện hộ cho mình, nhưng nếu tôi nhìn thấy bờ,
tôi đã có thể bơi đến đích.” Không phải cái lạnh hay sự sợ hãi, hay sự kiệt sức
đã khiến cho Florence Chadwick thất bại, mà chính là sương mù.
Hai
tháng sau cũng chính tại eo biển đó, cũng là khoảng cách đó, Florence Chadwick
đã lập một kỷ lục mới, bởi vì giờ đây cô có thể nhìn thấy đất liền.
Vâng,
“Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là
những kẻ đáng thương hơn hết mọi người.” (1Cr 15,19)
Lời Chúa Tuần 33 Thường Niên
Thường niên V - GS C - PS Ngoại lịch