Lời Chúa tuần 34 thường niên _ câu truyện minh họa

 LỜI CHÚA TUẦN 34 THƯỜNG NIÊN
CÂU TRUYỆN MINH HỌA

CNTN 34A – VUA CỦA LÒNG NHÂN HẬU

CNTN 34B - ĐỨC GIÊSU KITÔ - VUA VŨ TRỤ

CNTN 34C -

THỨ HAI - CHO ÐI TẤT CẢ

THỨ BA – CHÚA SẼ ĐẾN

THỨ TƯ - LÀM CHỨNG VỀ CHÚA

THỨ NĂM -

THỨ SÁU - NHẬN RA TIẾNG CHÚA QUA CÁC BIẾN CỐ

THỨ BẢY - TỈNH THỨC CẦU NGUYỆN

LỄ KÍNH THÁNH ANRÊ - NGƯ PHỦ LƯỚI NGƯỜI

 

CNTN 34A – VUA CỦA LÒNG NHÂN HẬU

Mt 25, 31-46

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái.

"Bấy giờ Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng: 'Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta'.

"Khi ấy người lành đáp lại rằng: 'Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng Chúa đâu?' Vua đáp lại: 'Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta'.

"Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: 'Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!'

"Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: 'Lạy Chúa có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?' Khi ấy Người đáp lại: "Ta bảo thật cho các ngươi biết: những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta'. Những kẻ ấy sẽ phải tống vào chốn cực hình muôn thuở, còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu.” Đó là lời Chúa.

TRUYỆN KỂ

1. Thế giới nhiều người đói

Mẹ Têrêsa nói: ngày nay có nhiều người đói thức ăn, nhưng cũng có nhiều người đói những thứ khác như đói được biết đến, đói được yêu thương, đói được tôn trọng…

Trần truồng không phải chỉ là không quần áo, mà còn là không nhân phẩm, không trong sạch, không tự trọng.

Vô gia cư không phải chỉ là không có nhà, mà còn là bị ruồng bỏ, bị coi là vô dụng.

Chứng bệnh nặng nhất của thế giới hôm nay là cảm giác bị bỏ rơi không ai để ý đến, không ai quan tâm chăm sóc.

Sự ác lớn nhất của thế giới hôm nay là thiếu tình yêu, là dửng dưng với người bên cạnh.

2. Ông Hoàng Hạnh Phúc

Oscar Wilde đã viết một câu chuyện rất đẹp, tựa đề là The Happy Prince, như sau:

Một Ông Hoàng kia sống một cuộc đời rất hạnh phúc. Vì thế khi ông chết, người ta đã làm một bức tượng của ông, đặt trên một cái bệ cao giữa thành phố và đặt tên là Ông Hoàng Hạnh Phúc, như là biểu tượng may mắn sẽ mang hạnh phúc đến cho mọi người dân trong thành.

Một buổi chiều đầu mùa đông, một con chim én đến đậu dưới chân pho tượng. Bỗng một giọt nước rơi xuống đầu nó. Nó nhìn lên và ngạc nhiên vì đó là giọt nước mắt của Ông Hoàng. Ông đang khóc.

- Tại sao ông khóc? Ông là Ông Hoàng Hạnh Phúc kia mà!

- Từ khi đứng trên cao nhìn thấy cảnh sống của dân thành, ta đau lòng quá và không còn hạnh phúc nữa. Ta muốn đi giúp họ lắm, nhưng đôi chân ta bị chôn chặt ở cái bệ này nên không thể nào đi được. Bạn có thể giúp ta không?

- Không được, tôi phải bay đi Ai Cập.

- Hãy làm ơn giúp ta đêm nay đi.

- Thôi được. Bây giờ ông muốn tôi làm gì?

- Trong một túp lều đàng kia có một người mẹ đang khóc vì con à bị bệnh mà bà không có tiền gọi bác sĩ. Bạn hãy lấy viên ngọc ở chuôi kiếm của ta đem cho bà ấy.

Chim én dùng mỏ lấy viên ngọc ra và bay đến cho bà mẹ nghèo. Nhờ có tiền, bà đã lo cho con bà khỏi bệnh.

Hôm sau Ông Hoàng lại xin chim én nán lại một đêm nữa để mang viên ngọc khác đến cho một người nghèo khác. Rồi hôm sau nữa đến giúp một người nghèo khác nữa. Cứ thế hết ngày này đến ngày khác, con chim én lấy các thứ trang sức của Ông Hoàng đem cho người nghèo. Cuối cùng trên mình Ông Hoàng không còn gì quý giá nữa. Khi đó đã là giữa mùa đông, trời đã lạnh rất nhiều.

Một buổi sáng, người ta thấy xác con chim én đã chết cóng dưới chân pho tượng Ông Hoàng trần trụi. Phía dưới thành phố, mọi người đều hạnh phúc. Họ có biết đâu hạnh phúc của họ là nhờ sự hy sinh của Ông Hoàng Hạnh Phúc và con chim én nhỏ bé kia.

3. Chúa Kitô khác

Năm 1880, ở thành phố Paris, có một Linh mục ăn mặc nghèo hèn đến gõ cửa nhà một Cha Sở xin được trọ qua đêm. Cha Sở tiếp khách rất thờ ơ rồi chỉ cho Linh mục ấy lên chiếc gác xép nhà xứ. Linh mục ấy tên là Gioan Bosco, từ Turin nước Ý sang Paris để quyên tiền về xây trường giáo dục các thiếu niên.

Nhiều năm sau, Giáo Hội đã tôn phong Gioan Bosco lên bật hiển thánh. Khi nghe tin đó, Cha Sở nọ nói: "Phải chi lúc đó tôi biết ông ấy là Don Bosco thì tôi đâu có để Ngài ở trên cái gác xép ấy, trái lại tôi đã dành phòng khách sang trọng nhất cho Ngài rồi."

Chúng ta không bao giờ biết rõ những kẻ chúng ta gặp là những người như thế nào. Nhưng điều này không quan trọng. Điều quan trọng đối với những kẻ có đức tin là chính Chúa hiện thân trong những người ấy.

4. Ý nghĩa của lễ Chúa Kitô Vua

Hôm nay là Chúa nhật cuối năm Phụng vụ, Giáo hội mừng lề Chúa Giêsu Vua để nhắc nhở cho mọi người hãy suy tôn, phục vụ và theo Ngài, đồng thời phải chuẩn bị tâm hồn chờ đợi Chúa đến trong ngày tận thế với tư cách là vị Vua Thẩm phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết.

Đức Giáo hòang Piô XI đã thiết lập lễ này vào ngày 11.12.1925 trong bầu khí tạ ơn và hân hoan của Năm thánh 1925. Ngài thiết lập lễ này vì vào những thập niên đầu thế kỷ 20, thế giới phải đối diện với trào lưu tục hóa và các chủ thuyết khác. Về phía Giáo hội, qua việc mừng kính tước hiệu là Vua của Chúa Kitô, Giáo hội khẳng định niềm tin trước sau như một của mình là tuyên xưng vương quyền của Chúa Kitô trên mọi con người, mọi gia đình, mọi xã hội và trật tự nhân loại.

Ngoài ra, để điều chỉnh một số lệch lạc trong đời sống đạo nơi một số con cái, Giáo hội là Mẹ nhắc nhở cho mọi người rằng Chúa Kitô không chỉ là người Anh hay người Bạn đồng hành mà Ngài còn là “Vua trên các vua, Chúa trên các chúa. Ngài là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời."

5. Nữ hoàng Elizabeth lên ngôi

Năm 1952, lễ đăng quang của nữ hoàng Anh Elizabeth là một nghi thức long trọng nhất của thế kỷ 20. Ba triệu người đứng chật các đường phố Luân đôn. Từ các thuộc địa Anh, các đoàn đại biểu trong sắc phục địa phương cũng có mặt. Nữ hoàng ngự giá trên chiếc xe ngựa bằng vàng. Hơn 10 sư đoàn trong quân đội hoàng gia diễn hành. Năm trăm chiếc khu trục cơ nhào lộn trên không.

Vua chúa và các nhà lãnh đạo hầu hết đều có mặt mang theo tặng vật cho vị tân nữ hoàng. Nhưng có lẽ quà tặng cao qúi nhất mà thế giới tặng cho nữ hoàng là ngọn cờ nước Anh lần đầu tiên được một người Tân tây lan cắm trên đỉnh Everest ở độ cao 8.846 mét vào chính ngày áp lễ đăng quang.

6. Thánh Martinô thành Tours.

Ông là một quân nhân La mã và một Kitô hữu. Một ngày mùa đông lạnh lẽo, khi ông đi vào một thành phố, có người hành khất chặn ông lại xin bố thí, Martinô không có tiền, nhưng ông thấy người hành khất xanh xao và run rẩy vì lạnh, Martinô đã cho những gì ông có: ông cởi chiếc áo nhà binh đã sờn rách và xé một nửa cho người hành khất. Tối hôm ấy ông nằm mơ thấy thiên đàng có các thiên sứ đang bao quanh Chúa Giêsu và Ngài đang mặc nửa chiếc áo lạnh nhà binh của ông. Một thiên sứ hỏi Ngài:”Tại sao Ngài mặc chiếc áo sờn rách đó? Ai đã cho Ngài áo đó”? Chúa Giêsu trả lời:”Martinô, tôi tớ của Ta đã cho Ta."

7. Cho đi thì sẽ được.

Một ngày mùa đông lạnh giá, Lady Grey, một phụ nữ qúi tộc người Anh, rất giầu có, đã cải trang làm một người hành khất đi ăn xin từng nhà trong thành phố Luân đôn. Đến một số nhà, bà bị xua đuổi một cách tàn nhẫn. Một vài nơi khác, bà chỉ được bố thí cho những thứ thừa thãi vất đi. Điều lạ là tất cả những người ấy là những gia đình giầu có. Thế rồi bà tìm đến một căn nhà lụp xụp nghèo nàn. Tại một túp lều xiêu vẹo, bà được một ông lão tàn tật ân cần mời vào sưởi ấm bên bếp lửa và cùng chia nhau một khúc bánh mì đen.

Hôm sau chính người nữ qúi tộc ấy sai các gia nhân đến tận nhà mời những người mà bà đã đến ăn xin tối hôm trước tới dự một bữa tiệc tại dinh thự của bà. Tất cả khách được hướng dẫn vào một phòng chiêu đãi sang trọng và mỗi người được đặt chỗ ngồi riêng dọn sẵn. Bấy giờ ai nấy thấy trước mặt mình là những món ăn y như những thứ mà họ đã đem bố thí cho “bà ăn mày”: chỗ thì củ khoai thối, chỗ thì miếng bánh mốc không ăn được, có nơi là một cốc nước lã bẩn thỉu, lại có nơi chỉ là chiếc đĩa trống không. Duy chỉ có chiếc đĩa trước mặt ông lão tàn tật đầy ắp những món ăn ngon lành sang trọng. Mọi người chưa hết ngạc nhiên thì bà qúi tộc xuất hiện và tuyên bố:”Hôm qua tôi đích thân đi ăn xin từng nhà để hiểu biết hơn về lòng nhân ái của qúi vị. Hôm nay tôi chỉ đáp lễ bằng cách dọn ra mời qúi vị những thứ mà qúi vị đã cho tôi. Tôi tin rằng qúi vị cũng sẽ được tiếp đãi như vậy trong bữa tiệc mai sau truớc mặt Thiên Chúa là Đấng bây giờ đang đứng trước nhà qúi vị để trông chờ tấm lòng nhân ái của qúi vị."

8. Thiên đàng và hỏa ngục

Một hiệp sĩ Samurai hung bạo. Ông tìm đến với một thiền sư và hỏi:

- Yêu cầu ông cho tôi biết Thiên Đàng hỏa ngục là gì?

Vị thiền sư nhìn thấy con người thô bạo của anh thì nói:

- Ta không thể dạy cho ngươi biết thiên đàng hoả ngục là gì, vì ngươi hung bạo quá. Ngươi làm nhục cho hàng ngũ hiệp sĩ của ngươi.

Nghe vị thiền sư nói thế, chàng hiệp sĩ bừng bừng sát khí, rút gươm định chém đầu vị  thiền sư. Nhưng vị thiền sư đưa tay cản lại và nói:

- Hỏa ngục là thế đó!

Nhận được bài học thực tế của vị thiền sư, chàng hiệp sĩ dừng tay lại. Sự hối hận và thương cảm trào dâng trong tâm hồn y. Y hiểu rằng vị thiền sư đã dám hy sinh cả mạng sống để dạy cho y bài học về hoả ngục. Y từ từ xỏ gươm vào vỏ, rồi quỳ gối trước mặt vị thiền sư với tất cả tấm lòng thành tâm sám hối. Vị thiền sư đưa tay đỡ y dậy, nhìn sâu vào đôi mắt y và bảo:

- Thiên đàng là thế đó.

Vâng! Chỉ có Thiên đàng khi con người biết sống yêu thương hài hòa với nhau. Chỉ có Thiên Đàng khi con người biết cảm thông, tha thứ, phục vụ, hy sinh quên mình vì người khác như Lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay.

9. Người đã chết cho con

Tháng 4 năm1865, tổng thống Abram Lincon, một người không ngần ngại khó khăn, gian khổ để đấu tranh chống lại chế độ nô lệ, bênh vực quyền lợi cho người da đen, đã bị một tay quá khích ám sát. Một bà mẹ đi viếng đám tang tổng thống nói với đứa con của mình rằng: “Con hãy nhìn kỹ, hãy nhìn cho thật kỹ, vì Người Này đã chết cho con đó."

Thiết tưởng lời nói ấy mỗi người chúng ta cũng cần lặp lại cho nhau khi nhìn lên Thánh Giá Chúa: Người này đã chết cho chúng ta đó? Để chúng ta không còn tôn thờ bất cứ thần tượng nào khác mà chỉ tôn thờ một thần tượng duy nhất có tên là Giêsu, là vua yêu thương phục vụ, hiền lành và khiêm nhường trong lòng.

Mừng lễ Chúa Kitô vua vũ trụ, cũng là một cơ hội nhắc nhớ ngày lãnh nhận Bí tích rửa tội, chúng ta được tham dự vào chức vụ vương đế của Vua Giêsu. Với chức vương đế này, không phải để chúng ta cai trị người khác, nhưng cai trị con người chúng ta, cai trị những đam mê tật xấu, thống trị những tính ích kỷ hư hèn của chúng ta.

10. Đã làm hay không làm

"Hoàng tử và người hành khất" là câu chuyện của Mark Twain về hai em bé sống cách đây 300 năm ở nước Anh. Hai em bé không chỉ là bạn tốt của nhau, mà chúng còn giống nhau như như anh em sinh đôi. Một em là Edward, hoàng tử xứ Wales, em kia là Tom Canty, một chú bé nghèo khổ.

Một ngày kia, thật là trò vui, hai em quyết định chuyển địa vị, chúng thay đổi quần áo. Edward mặc quần áo rách tả tơi của đứa trẻ nghèo khổ và đi lang thang khắp các khu nhà ổ chuột ở London, sát cánh với những người hành khất và thấp kém. Sau một thời gian hai chú bé mệt mỏi vì trò chơi của chúng. Trong bộ quần áo rách rưới, Edward cố gắng nói cho người cảnh sát biết rằng chú là hoàng tử. Nhưng chú bị tống giam. Ngay khi Tom sắp sửa được phong vương, Edward tỏ lộ và thuyết phục các viên chức chú là hoàng tử thật. Do kết quả kinh nghiệm của mình, Edward trở thành một nhà lãnh đạo công minh và nhân ái.

Tình cảnh giữa Chúa Kitô và chúng ta cũng có cái gì giống như thế. Chúa Kitô là hoàng tử, Con thật của Thiên Chúa. Ngài đã chuyển địa vị với chúng ta, những kẻ nghèo khó. Ngài mang lấy thể xác nghèo hèn chúng ta. Rồi Chúa Kitô làm cho mỗi chúng ta thành hoàng tử bằng cách mặc cho chúng ta áo ân sủng của Ngài, chia sẻ chính sự sống thần linh của Ngài cho chúng ta.

11. Công dân nước trời

Ngày xưa ngày xưa, hai anh em cùng sống và làm việc chung trên một cánh đồng và chung một cối xay. Mỗi tối về, họ chia đều hoa lợi đã thu hoạch trong ngày. Người em sống độc thân, còn người anh có vợ và nhiều con cái. Bất chợt một hôm, người em sực nghĩ: “Thật không công bằng chút nào việc chia đều hoa lợi. Mình chỉ có một mình còn anh ấy phải nuôi cả vợ con nữa." Thế rồi mỗi đêm, người em âm thầm lấy bớt số thóc lúa của mình đem đổ vào kho của người anh.

Gần như đồng thời, người anh sực nghĩ: “Thật không công bằng chút nào việc chia đều hoa lợi. Vì mình có con cái cấp dưỡng trong lúc tuổi già. Còn chú ấy sống một mình, sẽ chẳng có ai cấp dưỡng. Chú ấy cần dự phòng cho tuổi già sau này." Thế rồi, mỗi đêm, người anh âm thầm lấy bớt số thóc của mình đem đổ vào kho của người em.

Kết quả mỗi buổi sáng thức dậy, cả hai đều rất ngạc nhiên thấy phần thóc của mình đã được bổ sung trở lại, không hề hao hụt. Song họ không hiểu tại sao.

Đến một tối, hai người bắt gặp nhau giữa đường khi đang mang thóc đổ vào kho của nhau. Cả hai lập tức hiểu ra sự việc. Và họ cảm động ôm chầm lấy nhau.

Nhiều năm sau khi họ qua đời, câu chuyện ấy lan rộng ra. Vì thế, khi dân chúng muốn xây dựng một thánh đờng cho thị trấn, họ đã chọn đúng chỗ mà hai anh em gặp nhau tối ngày xưa ấy, để đặt móng cho thánh đường – bởi họ nghĩ rằng không thể có chỗ nào khác trong thị trấn linh thánh hơn chỗ này.

12. Lời hứa

Trong tập truyện “Điểm tựa yêu thương”, có câu chuyện ngắn “Lời hứa” đáng cho ta suy ngẫm:

Vì xa cách nhau đến 5 tuổi, nên mọi người vẫn nói thật kỳ lạ khi chúng tôi lại giống nhau đến thế. Tôi và em gái có đường nét trên gương mặt rất giống nhau và dĩ nhiên, chúng tôi đều có mái tóc dài đỏ hoe. À, ít ra tôi vẫn còn tóc cho đến khi bắt đầu trải qua liệu pháp hóa trị. Những lọn tóc dài đỏ hoe của tôi rụng từng nắm khi quá trình trị liệu diễn ra.

Tôi sờ lên mái đầu đã trọc lóc của mình. Nước mắt ứa ra. Giờ thì mọi người sẽ không nói chúng tôi giống nhau nữa. Cô em Marlanea đang bay từ Montana sang thăm tôi. Nó không biết trông tôi sẽ tệ đến thế nào. Tôi muốn chuẩn bị tránh cho nó bị sốc hay ngăn nó thấy những gì nó sẽ chứng kiến. Tôi đã luôn trông nom nó, cố gắng bảo vệ nó an toàn, tránh xa mọi tổn hại Con bé ra đời vào ngày sinh nhật lần thứ năm của tôi. Mẹ tôi nói rằng nó là quà sinh nhật của tôi. Tôi xem việc đó là nghiêm túc và tôi yêu thương nó bằng tất cả trái tim mình.

Chúng tôi lớn lên bên nhau không rời nửa bước. Chúng tôi chính là những người bạn tốt nhất của nhau. Cha mẹ chúng tôi vẫn thường nói lẽ ra chúng tôi phải là hia chị em sinh đôi vì chúng tôi giống nhau quá nhiều, và chúng tôi quá thân thiết với nhau.

Thậm chí chúng tôi suy nghĩ cũng giống nhau nữa. Khi đi mua sắm, chúng tôi thường mua những món quà nhỏ cho nhau – từ áo thun cho đến tách cà-phê – nhưng hầu như lần nào chúng tôi cũng mua cho người kia cùng một món. Chúng tôi chia sẻ một sự gắn bó mà hầu hết mọi người đều không hiểu được.

Giờ đây là khi đã trưởng thành, chúng tôi sống ở hai bang khác nhau. Con bé gọi điện thoại cho tôi, khi tôi “A lô”, ngay lập tức, nó hỏi: “Em biết có chuyện không ổn. Nói em biết đi, chuyện gì vậy?"

Không còn ngạc nhiên về khả năng kỳ bí khi biết trước có chuyện bất ổn xảy ra của cô em, tôi đành kể cho nó nghe. Chúng tôi lặng im, cùng khóc thầm. Những giọt nước mắt tôi không thể khóc vào sáng sớm hôm đó giờ đây tự nhiên tuôn ra trong lúc tôi trò chuyện với em gái qua điện thoại.

Từ lúc biết được tôi bị ung thư, gần như ngày nào con bé cũng gọi điện thoại. Trong giọng nó lúc nào cũng có sự lo lắng nhưng dù sao cũng luôn tươi tắn. Hàng tuần, con bé gửi cho tôi một tấm thiệp vui, một tia hy vọng rực sáng khiến tôi tin rằng cuộc đời sẽ lại bình yên.

Trong một cuộc trò chuyện đẫm nước mắt qua điện thoại, con bé nói với tôi rằng nó biết chắc tôi sẽ không qua đời vì ung thư.

Tôi hỏi trong nước mắt: “Vậy à, sao em biết?"

“Bởi vì khi còn nhỏ, chúng ta đã từng hứa rằng chúng ta chỉ có thể qua đời nếu người còn lại cũng sẵn sàng ra đi. Mà em thì chưa sẵn sàng chết nên chị cũng không thể ra đi được.”

Chúng tôi chưa từng thỏa thuận xem nếu chúng tôi phá vỡ lời hứa thì chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng cả hai chúng tôi đều hiểu rằng điều đó chắc chắn phải rất nghiêm trọng.

Tôi nghe thấy tiếng taxi dừng trước cửa nhà. Em gái tôi, người bạn tốt của tôi, vừa đến.

Tôi run rẩy đưa tay lên sờ vào mái đầu trọc của mình một lần nữa trước khi mở cửa cho người bạn tốt nhất – em gái tôi.

Con bé đứng đó, mặt trời tỏa ánh nắng rực rỡ phía sau khiến nó lung linh như một thiên thần, giống hệt những gì tôi luôn nghĩ về nó. Con bé đứng đó, trong chiếc quần jeans bó và áo thun, đội một chiếc nón có hàng chữ: “Hôm nay đầu tôi xấu lắm." Cả hai chị em cùng cười.

Tôi lên tiếng: “Chào em."

Con bé trả lời: “Chào chị."

Rồi con bé đưa tay lên gỡ nón ra. Em gái tôi đã cạo trọc đầu. Chúng tôi đứng đó, cùng khóc, cùng cười, và ôm lấy nhau.

“Trong chúng ta vẫn như hai chị em.” – Con bé nói.

“Chị yêu em.” – Đó là tất cả những gì tôi có thể nói.

Tôi nhắm mắt lại và thầm nguyện cầu: “Tạ ơn Chúa đã ban cho con cuộc sống. Tạ ơn Chúa trên Thiên Đường vì đã cho con người em. Cám ơn mẹ đã cho con món quà này."

Dawn Braulick.

13. Vua vì dân

Cách đây ít lâu, một người lính Mỹ đang ngồi trên xe buýt ở Thụy Điển nói chuyện với một người đàn ông ngồi bên cạnh rằng, “Nước Mỹ là một quốc gia dân chủ nhất trên thế giới. Những người công dân bình thường có thể đi tới toà Bạch Ốc để gặp tổng thống và thảo luận công việc." Người đàn ông bên cạnh trả lời, “Điều đó đâu có đáng là gì. Ở Thuỵ Điển, nhà vua và dân chúng cùng đi với nhau trên cùng một chiếc xe buýt kìa." Khi người đàn ông vừa nói chuyện đó bước xuống khỏi xe buýt, người lính Mỹ đã được các hành khách khác còn lại trên xe nói cho biết người ấy chính là vua Gustav Adolf VI.

“Đức Kitô đã lấy sự trao ban trọn vẹn toàn thân mình làm điều kiện để có sự sống. Người sẽ phán xét chúng ta khi giờ chết đến. Chúng ta sẽ được xét đoán trên những gì đã làm cho người nghèo khổ, trên thái độ chúng ta đối với họ. Người nói với chúng ta: “Ta đói nhưng các ngươi đã không cho Ta ăn. Ta đói bánh, đói sự công bằng, đói nhân phẩm con người, nhưng các ngươi đã bỏ mặc Ta! Ta trần truồng và bị tước hết mọi điều cần thiết, Ta bị sự công bằng chối từ, và ngay cả điều đơn giản nhất được nhìn nhận rằng Ta cũng giống như các ngươi, được cùng một Thiên Chúa tình yêu tạo dựng nên để yêu thương và được yêu thương, ngay chính điều đơn giản đó, Ta cũng bị khước từ. Các ngươi đã để mặc Ta chết, mặc Ta cô đơn và bị xua đuổi. Ta đã bị quẳng ra đầu đường xó chợ, không một ai đoái hoài, không một ai thương xót và chôn vùi trong quên lãng."

Một người thanh niên tên là Michael Christensen đã trải qua một thời gian phục vụ chung với Mẹ Têrêsa trong những xóm dân nghèo ở Calcutta. Trong cuốn sách của anh tựa đề là “City Streets, City People”, anh mô tả về một gánh nặng đau đớn không thể tưởng tượng nổi mà Mẹ Têrêsa đã phải chứng kiến mỗi ngày:

Anh kể lại rằng một ngày nọ Mẹ Têrêsa đã cứu được một em bé bị bỏ rơi dưới cống rãnh. Cánh tay và bàn chân của em đã bị lũ chuột rúc rỉa mất gần hết. Vào cuối ngày hôm đó, Mẹ Têrêsa hỏi Michael Christensen rằng anh đã trông thấy Chúa Giêsu chưa. Christensen vẫn còn đang tập trung vào những hình ảnh kinh hoàng xẩy ra chung quanh, đã chấp nhận rằng anh không thấy Chúa Giêsu ở đâu cả. Mẹ Têrêsa đã dùng những lời giảng dạy của Chúa Giêsu trong chương 25 của thánh Matthêu về việc săn sóc những người nghèo đói, yếu đuối để giải thích cho anh. Và sau cùng Mẹ chỉ nói rất đơn giản rằng, “Con đã làm cho chính Ta." Mẹ Têrêsa đã nhìn thấy Chúa Giêsu chung quanh Mẹ mỗi ngày.

14. Là mẹ

Trong cuộc Cách Mạng Pháp vào năm 1789 đã xảy ra một câu chuyện về một bà mẹ đi lang thang trong rừng 3 ngày với hai người con, họ không có gì ăn, phải ăn rễ và lá cây rừng để sống. Vào ngày thứ ba, bà mẹ nghe thấy tiếng của những người lính đang tiến đến gần, bà vội lôi kéo hai người con chui vào một bụi rậm ẩn trốn. Viên trung sĩ chỉ huy đám lính đi lục soát các bụi rậm đã nhìn thấy người mẹ đói khổ và hai đứa con thì chạnh lòng thương bèn đem cho họ một ổ bánh mì. Bà mẹ cầm ngay lấy nó, bẻ ra làm hai miếng, và cho mỗi người con một nửa. “Bà mẹ chẳng giữ miếng nào cho bà ấy cả,” viên trung sĩ nói. “Bà ấy không đói sao? Một người lính hỏi. “Không phải vậy, vì bà ấy là mẹ, viên trung sĩ trả lời.

Đứng trước nhu cầu của thế hiện nay, Mẹ Giáo Hội nhận thấy cần phải đáp lại bằng một nền văn minh của tình thương, qua lời nhắn nhủ của ĐGH Gioan Phaolo II, tình thương đó dựa trên tình thương của Chúa Giêsu Kitô, Vua của Lòng Thương Xót, là nền tảng cho tất cả các giá trị phổ quát mà con người đang đi tìm kiếm.

15. Vương quốc của tình yêu

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Trong tác phẩm mang tựa đề: “Thị kiến của người Kitô hữu” (The Christian Vision) nhà văn John Powell có kể một câu chuyện thần thoại của người Ái Nhĩ Lan. Câu chuyện đưa chúng ta trở lại thời các vua cai trị đất nước này:

Một hôm nhà vua thấy mình không có con để kế vị, ông bèn sai các sứ giả thông báo cho các thành phố và làng mạc biết: nhà vua mời các thanh niên nào có đức tính tốt đến triều đình để được phỏng vấn. Như thế nhà vua hy vọng có thể chọn được một người xứng đáng lên ngôi vị mình trước khi băng hà. Hai đức tính được nhà vua đặc biệt lưu ý, đó là người thanh niên ấy phải có lòng mến Chúa và yêu người.

Chàng thanh niên trong câu chuyện nghe như có tiếng thầm kín bên trong thúc đẩy chàng lên đường đến triều đình để được nhà vua phỏng vấn, vì chàng quả thật là một người có lòng mến Chúa và yêu người. Nhưng chàng lại nghèo khó đến nỗi không có được một bộ quần áo chỉnh tề để đến triều đình. Chàng cũng chẳng có tiền để mua lương thực dự trữ cho cuộc hành trình dài đến lâu đài nhà vua. Cuối cùng, chàng quyết định đi xin quần áo và lương thực cần thiết.

Khi mọi sự đã sẵn sàng, chàng lên đường. Sau một tháng hành trình, chàng đã nhìn thấy lâu đài của nhà vua hiện ra trên đỉnh đồi ở đàng xa. Cũng vào lúc ấy, chàng gặp thấy một ông già nghèo đói ngồi bên vệ đường. Người ăn xin ngửa tay van xin chàng giúp đỡ: “Anh ơi, tôi đói, tôi rét, anh làm ơn cho tôi áo mặc, cho tôi bánh ăn." Chàng thanh niên cảm động nhìn người ăn xin. Chàng cởi áo khoác của chàng và đổi lấy chiếc áo rách tả tơi của người ăn xin. Chàng cũng chia sẻ lương thực dự trữ của chàng. Rồi chàng đến lâu đài nhà vua trong bộ áo rách tả tơi và không đủ lương thực cho cuộc hành trình trở về. Đến trước lâu đài, lính gác chận chàng lại ở cổng, bắt chàng vào khu khách tham quan. Sau một thời gian dài chờ đợi, chàng mới được cho vào gặp nhà vua. Trước ngai vàng, chàng cúi mình thật sâu bái lạy, đến lúc đứng thẳng lên, chàng hết sức bỡ ngỡ, vì chàng thấy ông già ăn xin bên vệ đường mà chàng đã gặp giờ đây lại ngồi trên ngai vàng. Chàng lên tiếng hỏi:

- Tâu Đức vua, có phải Đức Vua là người ăn xin bên đường mà tôi đã gặp chăng?

- Đúng thế, Đức Vua đáp.

Chàng lại hỏi:

- Vậy tại sao Đức Vua lại làm như thế đối với tôi?

Đức vua đáp:

- Ta phải cải trang làm người ăn xin để thử xem ngươi có thật lòng mến Chúa và yêu người không.

16. Thần dân trung tín của Vua Tình Yêu

Thường thì phạm nhân không được phép treo ảnh, nhưng Hiroshi Igarashi nài xin ban quản giáo và cuối cùng được phép treo ảnh Mẹ Têrêsa thành Calcutta. Một đêm nọ, một quản giáo đi tuần khu nhà tù anh ở đã yêu cầu anh: “Này, anh làm ơn lấy bức ảnh đó xuống dùm tôi. Mắt bà ấy nhìn sợ quá.” Igarashi đáp: “Anh thấy rùng rợn vì anh là người tội lỗi.”

Giờ đây Igarashi đã được tự do, anh tổ chức một nhóm ở Tokyo gọi là “Nhà Mẹ." Nhóm tận tâm giúp những người ở tù làm lại cuộc đời và tái nhập xã hội sau khi mãn hạn tù. Nhóm lấy tên Mẹ Têrêsa và còn lấy tinh thần của thánh nhân và Kinh Thánh làm nền tảng cho các hoạt động của nhóm. Có tiền án hình sự 3 lần và gần 20 năm ngồi tù, Igarashi biết rõ thực trạng và tất cả các vấn đề trong tù. Nhiều tù nhân bị cô lập và thiếu thốn tình thương. Điều mà những người này cần là có người hỗ trợ họ về mặt tình cảm, nhưng không có ai làm điều đó cả.

Khi anh bị bắt giam lần thứ ba, gia đình anh cắt đứt mọi liên hệ với anh. Anh đã nghĩ đến chuyện tự vẫn, nhưng ngay lúc đó có một người Brazil gốc Nhật vui tính bị cảnh sát bắt giam. Người này thường xuyên cầu nguyện và nói về Kinh Thánh cho Igarashi nghe. Đó là lần đầu tiên Igarashi bắt đầu đọc Kinh Thánh. Anh ấn tượng nhất là câu: “Saolô, Saolô sao ngươi lại bắt bớ ta?” (Cv 9, 4) Đối với Igarashi, câu này nghe như thể Đức Kitô đang hỏi chính anh: “Sao con phạm tội chống Ta?”Đó là lúc anh trở lại đạo. Anh cầu nguyện hết lòng, lớn tiếng nói: “Con xin lỗi Chúa!”

Anh nhận ra khi Chúa Giêsu chết trên thập giá, Ngài chết thay cho anh trên đó và anh khóc nức nở. Igarashi biết Mẹ Têrêsa cũng ở trong nhà tù, qua một quyển sách anh tình cờ đọc được. Anh lập tức tin rằng “con người này có thật” và muốn học hỏi nơi thánh nhân, mãi sau này anh mới biết ngài đã qua đời. May mắn thay, anh có cơ hội gặp được một số tu sĩ dòng Thừa sai Bác ái do ngài sáng lập.

Đức cố Hồng y Seiichi S. Hirayanagi mở khoá học giáo lý tân tòng giới thiệu đức tin Công giáo cho anh. Một luật sư Tin lành đã đứng ra bảo lãnh anh. Khi ra tù, Igarashi bắt đầu biến đức tin thành hành động thực tế bằng cách thành lập Nhà Mẹ. Đức Tổng Giám mục Takeo Okada đích thân gửi thư chúc mừng. Anh làm việc hết mình, phấn đấu noi theo con đường tình yêu của Mẹ Têrêsa. (Theo UCA News)

Đức Kitô, Vua Tình Yêu đã cảm hóa tù nhân Hiroshi Igarashi. Nhờ vậy, Mẹ Têrêsa Calcutta mới dẫn dắt anh bước theo Ơn Gọi. Tin Mừng hôm nay công bố điều kiện để được Thiên Chúa chúc phúc và được ban thưởng Nước Trời.

17. Yêu mến và phụng sự Chúa nơi tha nhân

Hôm nọ, có người đàn ông đem đến cho tôi một tượng chuộc tội khá lớn. Bàn tay Chúa Giêsu chịu đóng đinh bị sút ra khỏi thanh ngang của cây thánh giá. Ông ta nhờ tôi đóng lại cây đinh bị sút để tượng Chúa Giêsu chịu nạn được gắn chặt vào thập giá như trước.

Tôi hỏi ông: “Một việc đơn giản như thế, sao ông không tự làm lấy, đem đến nhờ tôi làm gì mất công.” Ông trả lời: “Tôi không dám đóng đinh Chúa, sợ xúc phạm đến Ngài.”

Vậy mà mấy tuần sau, ông nầy lại vác rựa chém người hàng xóm, may có người can ngăn kịp thời, nếu không thì ông ta đã chém chết một hiện thân sống động của Thiên Chúa.

Nhiều người cung kính cúi đầu trước tượng ảnh thánh và không bao giờ dám xúc phạm đến ảnh tượng thánh do tay người phàm làm ra, nhưng lại ngang nhiên xỉ vả, mắng chửi, đánh đập những người chung quanh là hình tượng sống động của Thiên Chúa do chính Ba Ngôi Thiên Chúa dựng nên mà không áy náy lương tâm.

18. Tha nhân là thân thể Chúa Giêsu – Lm. Trần Ngà.

Một linh mục nọ ngỏ lời với cộng đoàn phụng vụ rằng: "Khi trao Mình Thánh Chúa cho anh chị em, tôi nâng Mình Thánh Chúa lên và nói: Mình Thánh Chúa Kitô! Tất cả anh chị em đều tin thật đó là Mình Thánh Chúa và từng người đáp lại: Amen, nghĩa là mỗi người tuyên xưng đó chính là Mình Thánh Chúa thật sự và cung kính rước Người vào lòng. Thế nhưng, nếu tôi chỉ vào từng người ngồi quanh đây và nói: Đây là thân thể Chúa Giêsu thì có lẽ anh chị em không tin người đó là thân thể Chúa, không tỏ lòng tôn kính và không muốn đón rước người đó vào nhà mình, nếu không ưa thích người đó.

Ngay lúc đó, dưới hàng ghế giáo dân có tiếng xì xào. Hình như nhiều người không đồng quan điểm với Cha sở về nội dung nầy.

Sau thánh lễ hôm ấy, một thanh niên đến gặp cha sở và thưa:

- Thưa cha, trong bài giảng hôm nay, chúng con giật mình khi nghe Cha nói từng người chung quanh chúng ta đây, kể cả những người tàn tật, bần cùng, tội lỗi... đều là thân thể Chúa Giêsu.

- Thế anh không tin mọi người là thân thể Chúa Giêsu sao?

- Con tin tấm bánh thánh mà linh mục đã truyền phép và trao cho giáo dân rước lễ thật sự là Thân Thể Chúa; còn người cha, người mẹ, người anh chị em, người láng giềng... không thể là thân thể Chúa được. Cha có bằng chứng gì chứng tỏ tha nhân là thân thể Chúa Giêsu không?

- Nói có sách, mách có chứng. Bằng chứng đây (giơ cuốn Tân Ước ra), anh hãy đọc Thánh Phaolô, trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Cô-rin-tô: "Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao?" (I Cr 6, 15).

- Thật thế ư? Thế thì Cha có biết vì sao thánh Phaolô nói bạo như thế không?

- Thánh Phaolô dạy điều nầy căn cứ vào kinh nghiệm bản thân. Hồi ấy, Phaolô chưa tin vào Chúa Giêsu, ông nhiệt thành với lề luật và hăm hở tìm bắt những người theo Chúa Giêsu. Nên nhớ là vào thời điểm đó Chúa Giêsu đã sống lại và lên trời rồi.

Trên đường Damas, Phaolô bị quật ngã và có tiếng Chúa Giêsu vang lên giữa thinh không: "Sao-lô, tại sao ngươi bắt bớ Ta?" Phaolô hết sức kinh hoàng: "Thưa Ngài, Ngài là ai?" Có tiếng từ trời đáp: "Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ." (Cv 22, 6-9)

Thế là từ hôm ấy, Phaolô không dám bắt bớ các tín hữu nữa, vì ông biết rằng: họ là những Giêsu khác, bắt bớ họ là bắt bớ Chúa Giêsu.

Người thanh niên vẫn còn hoài nghi, anh hỏi tiếp:

- Vậy thưa cha, đó là giáo lý của thánh Phaolô. Còn về phần Chúa Giêsu, có bao giờ Người dạy như thế không?

- Có chứ! Nào, mời anh lật qua Tin Mừng Matthêu, chương 25, trong dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng. Đó là bài chúng ta vừa nghe đọc hôm nay đây.

Qua dụ ngôn nầy, Chúa Giêsu tỏ cho thấy những ai cho những người đói khát đầu đường xó chợ một bát cơm thì Chúa nói là họ cho Chúa ăn. Những ai cho người rách rưới hoặc mình trần một manh áo, thì Chúa nói là họ đã cho Người mặc. Những ai cho người sa cơ thất thế không nơi nương tựa được trú ngụ một thời gian thì Chúa nói là họ đã cho Chúa trọ nhà... Nói như thế, Chúa Giêsu tự đồng hoá mình với mọi người chung quanh. Nói khác đi, bất cứ ai cũng được Chúa Giêsu nhìn nhận là chính Người.

- Thật thế ư? Vậy mà lâu nay con không ý thức điều đó. Và thưa cha, sách giáo lý công giáo có chỗ nào nói như thế không cha?

- Đây, giáo lý công giáo đây, anh mở ra xem, bài nói về Bí tích thánh tẩy, số 1267: "Bí tích thánh tẩy làm cho chúng ta thành chi thể trong Thân Thể Chúa Kitô."

- Thế các Đức Giáo Hoàng có dạy như thế không?

- Đây nữa (chìa sách ra), Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong tâm thư gửi các gia đình có viết, anh đọc thử xem: "Thiên Chúa đã đồng hoá với người cha, người mẹ, người con trong gia đình. Những gì mỗi thành viên trong gia đình làm cho nhau là làm cho chính Chúa."

- Thưa Cha, khi mới bước vào gặp cha, con không tin tha nhân là thân thể Chúa Giêsu, nhưng bây giờ thì con đã tin. Nhưng xin hỏi cha, vậy con có buộc phải tôn kính tha nhân như tôn kính Chúa trong nhà thờ không?

- Trước hết, anh hãy nghe lời dạy của Mẹ Têrêxa Calcutta. Hôm ấy, có một thiếu nữ Ấn-độ đến gặp Mẹ Têrêxa Calcutta để tìm hiểu Hội Dòng của Mẹ. Trước hết, Mẹ nói với người thiếu nữ ấy: "Con hãy qua nhà hấp hối. Ở đó, con sẽ gặp nhiều người bất hạnh nghèo khổ, bệnh tật đang nằm chờ chết. Con hãy săn sóc an ủi họ."

Thiếu nữ vừa quay lưng đi thì Mẹ Têrêxa gọi giật lại: "Nầy con, khi dâng thánh lễ, con thấy linh mục trân trọng mình thánh Chúa Giêsu sau khi truyền phép thế nào, thì con cũng hãy trân trọng những con người bất hạnh ấy như thế."

Nói như thế, Mẹ Têrêxa Calcutta muốn dạy rằng: mỗi một con người dù bần cùng khốn khổ đến đâu cũng phải được tôn trọng như Mình Thánh Chúa.

- Ngoài Mẹ Têrêxa Calcutta, có vị thánh nào khác tôn trọng con người như chính thân thể Chúa Giêsu nữa không?

- Có nhiều: thánh Gioan Kim Khẩu, thánh Elisabet Hung-ga-ri, thánh Phanxicô Atxidi, vv... Có lần Phanxicô gặp một người phong hủi rất ghê tởm. Ban đầu Anh định xa lánh, nhưng sau đó, Phanxicô cảm nhận ra người phong hủi đó là một phần thân thể bị thương tích, bị lở loét của Chúa Giêsu, nên Anh đã đến chào hỏi và ôm hôn người phong hủi đó.

- Thưa cha, con thấy nhiều tín hữu rất mực tôn kính Chúa Giêsu trên bàn thờ, còn những chi thể sống động của Chúa Giêsu trong đời thường thì hình như không được ai tôn kính.

- Đúng thế! Vì vậy, thánh Gioan kim khẩu dạy chúng ta đừng phân biệt đối xử giữa Chúa Giêsu trong nhà thờ và Chúa Giêsu ngoài nhà thờ. Chúa Giêsu trong nhà thờ và Chúa Giêsu ngoài nhà thờ, tức là những anh chị em khác, phải được tôn trọng như nhau. Để tôi đọc cho anh nghe lời dạy của người:

"Bạn muốn tôn kính thân thể Đức Kitô ư? Chớ khinh chê thân thể ấy khi thân thể ấy trần trụi. Đừng có thái độ nầy là trong nhà thờ thì tôn kính, cho thân thể Người mang những y phục lụa là gấm vóc, nhưng ở ngoài lại coi thường, để cho thân thể ấy phải giá lạnh và trần trụi. Thân thể Chúa ở đây (trong nhà thờ) không cần y phục, nhưng cần tâm hồn trong trắng; còn thân thể Chúa ngoài kia (tức là tha nhân) thì cần được chăm lo tận tình."

- Thưa cha, dường như đối với nhiều người, việc khinh dể, nhạo báng, xúc phạm đến anh chị em chung quanh là chuyện nhỏ, chẳng có gì đáng quan tâm.

- Đó là một sai lầm tai hại vì đến ngày phán xét, Chúa Giêsu sẽ nói với những kẻ ấy rằng: "Quân bị nguyền rủa kia! Hãy đi cho khuất mắt Ta mà vào chốn cực hình đời đời dành cho ma quỷ và các thần dữ, vì xưa kia, ngươi đã khinh dể, nhạo báng, xúc phạm đến ta!"

19. Thánh Thể trong khu ổ chuột

Tại Đại hội Thánh Thể năm 1982 ở Lộ Đức, Đức cha Camara đã kể lại một câu chuyện như sau:

Có một số nông dân đến gặp tôi. Họ kể lại rằng một tên ăn trộm đã đột nhập vào nhà thờ, cậy cửa nhà tạm và lấy Mình Thánh mang đi. Hôm sau, họ đã tìm thấy bánh thánh nằm vương vãi trong bùn nhơ. Nói tới đây họ đã bật khóc. Rồi họ xin tôi dâng một lễ tạ ơn.

Dĩ nhiên là tôi vui lòng dâng lễ và trong buổi lễ tôi đã nói với họ đại khái như sau:

- Chúng ta thật mù quáng biết bao. Chúng ta đã sững sờ khi thấy bánh thánh nằm giữa bùn nhơ, nhưng đó lại là một hiện tượng xảy ra hằng ngày. Chúng ta gặp thấy Đức Kitô mỗi ngày trong những căn nhà ổ chuột. Đức Kitô hiện diện thực sự trong Bí tích Thánh Thể và Ngài cũng hiện diện thực sự trong nỗi cùng khổ của con người.

20. Vua của tình yêu

Vào khoảng giữa thế kỷ 19, các dân tộc thuộc vùng núi Côcadơ ở phía nam nước Nga, được cai trị bởi một ông vua Hồi giáo nổi tiếng là thanh liêm chính trực, ưu tiên hàng đầu trong việc chấn hưng đất nước của ông là quét sạch mọi tham nhũng, hối lộ. Ông ban hành một sắc lệnh, theo đó thì tất cả những ai bị bắt quả tang phạm tội tham nhũng hay hối lộ sẽ bị phạt đánh 50 roi trước mặt công chúng. Điều không may xảy ra cho ông, người đầu tiên bị bắt quả tang phạm tội này lại chính là mẹ ông, sự kiện này làm cho ông đau khổ khó nghĩ. Không có luật trừ hay châm chước nào đối với sắc lệnh mà ông đã ban hành.

Liên tiếp ba ngày liền nhà vua ngồi yên trong phòng để suy nghĩ, sang ngày thứ tư, ông xuất hiện trước công chúng cùng với thân mẫu. Ông ra lệnh cho hai người lính trói tay mẹ ông và bắt đầu xử lý theo luật định. Thế nhưng khi chiếc roi đầu tiên vừa quất xuống trên người mẹ ông, thì nhà vua liền chạy đến bên cạnh bà, ông mở trói cho bà, rồi ra lệnh cho hai người lính trói tay ông, lột áo ông ra và bắt đầu cuộc đánh roi. Đúng 50 roi đã quất xuống trên thân mình nhà vua, với thân thể rướm máu và khuôn mặt nhợt nhạt, nhà vua quay về phía dân chúng và nói: “Bây giờ thì các ngươi có thể ra về, luật đã được thi hành, máu của vua các ngươi đã chảy ra để đền bù cho tội ác này." Kể từ ngày đó, trong đất nước, người ta không còn bao giờ nghe đến nói tội tham nhũng hay hối lộ nữa.

21. Người được truyền ngôi

Trong cuốn sách của mình nhan đề: The Christian Vision (Thị kiến của người Kitô hữu) John Powell có kể lại một truyền thuyết xưa kia của Ái Nhĩ Lan. Truyền thuyết này nói về thời còn các vị vua đang cai trị Ái Nhĩ Lan.

Ngày xưa, có một vị vua đương cai trị không có con nối dõi ngai báu. Vì thế, ngài truyền sứ giả ghi lên các tấm biển nơi mỗi thành phố và làng mạc trong vương quốc, để mời gọi những người đàn ông ưu tú đến cho Đức vua phỏng vấn.

Đức vua làm thế với hy vọng có thể chọn được một người kế vị trước khi Ngài chết. Hai đặc tính tiêu chuẩn đặc biệt được ngài nhấn mạnh là kẻ ấy phải có lòng mến Chúa yêu người sâu sắc. Anh thanh niên là vai chính trong câu chuyện truyền thuyết này nhận thấy mình có một trong các điều kiện đòi hỏi, vì thực sự anh ta rất mến Chúa yêu người. Anh ta cảm thấy từ thâm sâu nội tâm có tiếng thúc giục anh đi dự cuộc phỏng vấn. Nhưng anh lại quá nghèo đến mức chẳng có quần áo tươm tất để mặc đi dự phỏng vấn và cũng chẳng có tìên mua thực phẩm cho cuộc hành trình xa xôi đến cung điện đức vua. Vì thế anh thanh niên này đã cầu nguyện xin ơn soi sáng cho vấn đề. cuối cùng anh quyết định đi ăn xin quần áo và lương thực cần thiết. Khi mọi sự đã sẵn sàng anh bắt đầu lên đường.

Sau một tháng du hành, ngày nọ anh thanh niên này đã nhìn thấy cung điện đức vua. Anh ta ngồi xuống trên ngọn đồi phía xa. Ngay lúc đó anh trông thấy một ông lão ăn mày nghèo khổ ngồi bên vệ đường. Ông cụ chìa tay ra xin anh giúp đỡ. Giọng nói ông ta thật yếu ớt: "Tôi đói và lạnh quá, cậu có thể cho tôi cái gì mặc cho đỡ lạnh và ăn cho đỡ đói không?" anh thanh niên nhìn ông già lòng tràn đầy xúc động. Và liền cởi bộ đồ ấm áp mặc ngoài của mình đổi lấy tấm áo cũ tơi tả của ông già ăn xin, đồng thời cũng cho lão ta phần lớn lương thực dự trữ mang theo trong túi xách dành cho chuyến trở lại về nhà. Thế rồi, lòng hơi ngài ngại anh thanh niên bước tới cung điện trong bộ đồ rách nát và lương thực mang theo không đủ cho chuyến trở về. Khi anh ta đến lâu đài, đám lính gác chận anh ta lại tại cổng và dẫn anh đến khu vực dành cho du khách. Sau một thời gian chờ đợi lâu, anh ta được dẫn tới diện kiến đức vua.

Đến trước bệ rồng anh thanh niên liền gập sâu người xuống cúi chào. Khi ngước thẳng lên nhìn anh ta không thể nào tin nổi mắt mình và thốt lên: "Té ra ngài chính là ông lão ăn xin bên vệ đường!" đức vua đáp: "Đúng thế." Anh thanh niên liền hỏi: "Tại sao ngài lại làm điều ấy đối với kẻ tiện dân này?" Đức vua trả lời: "Bởi vì Trẫm muốn thử xem ngươi có thật lòng mến Chúa yêu người không?"

22. Trùm Sò

Trùm Sò làm chủ hàng chục nhà hàng nhưng keo kiệt vô cùng. Một hội từ thiện nọ gởi nhân viên đến bao nhiêu lần cũng đều vô ích. Bực quá nên ngày nọ, đích thân bà chủ tịch hội đến gặp hắn:

"Chúng tôi biết ông là một trong những thương gia thành công trong thành phố này. Ông đúng là một tấm gương sáng cho những người di dân. Tuy nhiên, từ trước đến nay tôi vẫn thắc mắc tại sao ông không chia sẻ dù chỉ 1 phần triệu những cái mà ông có cho những người nghèo khó khắp mọi nơi trên đất nước này."

"Thưa bà, bà có biết là tôi còn một mẹ già yếu đau liệt lào ở Việt Nam mà không ai chăm sóc không? Thế bà có biết tôi còn một người chị ở Việt Nam vừa bị mù lại bị câm điếc đang sống quằn quại vì chứng bệnh ung thư quái ác không? Bà có biết em tôi đi vượt biên bị công an bắn què giò, bị tịch thu hết nhà cửa, bị tán gia bại sản, nay đau mai yếu vì những năm tháng tù đầy cải tạo không?"

Nghe đến đấy thì bà chủ tịch vội đứng dậy: "Chúng tôi vô cùng xin lỗi ông, chúng tôi nào có biết gia cảnh ông đau khổ đến thế. Lạy Chúa tôi, xin tha thứ cho tôi. Chúng tôi thật đã nghĩ không đúng về ông."

Trùm sò nói tiếp, "Mẹ! Mấy người đó mà tôi còn không cho một cắc huống hồ là cái hội cà chớn của các bà." (Trích trong: Truyện Cười Nhà Đạo).

23. Lời nguyện của người tông đồ

“Lạy Chúa, xin cứ dùng con theo ý Chúa, làm chân tay cho những người què cụt, làm đôi mắt cho ai phải đui mù, làm lỗ tai cho những người bị điếc, làm miệng lưỡi cho người không nói được, làm tiếng kêu cho người chịu bất công.

Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đồng lúa, để đem cơm cho người đói đang chờ, và đem nước cho người họng đang khô, đem thuốc thang cho người đang đau ốm, đem áo quần cho người đang trần trụi, đem mền đắp cho người rét đang run.

Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đường vắng, thắp đèn soi cho ai bước trong đêm, đốt lửa ấm cho những ai giá lạnh, truyền cảm thông cho lữ khách đơn côi, nâng phẩm giá cho kẻ đời chà đạp, đem tự do cho những kiếp đọa đầy.

Lạy Chúa, xin cứ gởi con vào thôn xóm, đem an hòa cho những ai bất thuận, đem thanh bình cho kẻ sống âu lo, đem ủi an cho người đang sầu khổ, đem niềm vui cho những ai bất hạnh, đem vận may cho người gặp rủi ro.

Lạy Chúa, xin cứ đặt con như một sự tình cờ, đem may mắn cho những ai gặp được, giữa đường đời khi lỡ bước bơ vơ, cứ cho con đừng bao giờ khiếp sợ: giữa biển đời mang con tim núi lửa với đôi tay êm ái của mẹ hiền.

Lạy Chúa, xin cứ dùng con làm tất cả cho mọi người được hạnh phúc yên vui; còn phần con xin gởi hết nơi Ngài là Thiên Chúa, Tình Yêu và Lẽ Sống.

Ngài cho con tất cả niềm hy vọng để tin yêu và vui sống trọn đời.” - NCĐ

(Trích RABBOUNI, lời nguyện 118)

CNTN 34B - ĐỨC GIÊSU KITÔ - VUA VŨ TRỤ

Lời Chúa: Ga 18, 33b-37

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Philatô hỏi Chúa Giêsu rằng: "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?"

Chúa Giêsu đáp: "Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?"

Philatô đáp: "Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?"

Chúa Giêsu đáp: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng mà nước tôi không thuộc chốn này.”

Philatô hỏi lại: "Vậy ông là Vua ư?"

Chúa Giêsu đáp: "Quan nói đúng. Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi.”

TRUYỆN KỂ

1. Đứng về phía sự thật

Từ sau vụ nổ big-bang, vũ trụ được thành hình, và càng ngày càng bành trướng.

Trái đất chỉ là một hạt bụi nhỏ xíu trong vũ trụ, nhưng nó lại lớn lao vô cùng, vì là hành tinh được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc.

Con Thiên Chúa đã ghi dấu chân mình trên mặt đất, đã sống trọn phận người bên cạnh nhân loại anh em.

Mừng lễ Đức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi ngắm nhìn trái đất tròn.

Đây là vũ trụ của hơn 6 tỉ người đang sống. Vũ trụ này sẽ đi về đâu? Lịch sử này sẽ đi về đâu? Tất cả sẽ được hội tụ và biến đổi nơi Đức Kitô, để rồi Ngài sẽ dâng lại tất cả cho Thiên Chúa Cha.

2. Một Thị Kiến

Daniel kể lại một thị kiến ban đêm. Thực ra thị kiến này đi sau một thị kiến khác. Nhà tiên tri trên giường nằm đã thấy chiêm bao. Ông đã viết lại và đại khái ông nói như thế này:

Tôi thấy bốn gió trời khuấy động biển cả. Và bốn mãnh thú to lớn khác nhau từ biển đi lên... Mãnh thú thứ tư dễ sợ đáng kinh và mạnh quá đỗi... Tôi mãi nhìn cho đến khi ngai được đặt hành và Đấng cao niên ngồi xuống... Pháp đình an tọa và sổ sách mở ra. Mãnh thú kia bị giết và thây nó bị hủy và phó cho lửa thiêu. Còn những mãnh thú khác, chúng bị tước hết quyền bính.

Nếu chúng ta đã nhớ những điều đã nói trong Chúa nhật trước về sách Daniel, chúng ta có thể dễ nhận ra ngay ý nhà tiên tri đang muốn nói gì. Biển cả trong quan niệm của các dân miền Cận Đông là nơi phát xuất ra nhiều sinh vật, nhưng lại toàn là các mãnh thú, tượng trưng cho sự dữ. Bốn mãnh thú ở đây là những sức mạnh chính trị thời bấy giờ, thay lượt nhau thống lãnh các dân tộc và đặc biệt dân riêng của Chúa. Mãnh thú thứ tư dữ dằn hơn hết chính là Antiôkô, vị vua bắt đạo làm đổ máu người lành. Sự dữ tung hoành như vậy cho đến khi trời mở ra. Ngày của Chúa đến. Người ngự trên ngai; tổ chức pháp đình; sổ sách công tội được mở ra. Các kẻ dữ lần lượt chịu tội.

Đó là thị kiến thứ nhất. Nói đúng ra đó là phần đầu của một chiêm bao còn tiếp diễn. Nó diễn tả các sự dữ xảy ra ở đời này, cho đến khi Thiên Chúa ban ơn cứu độ. Lúc này sẽ là phần thị kiến sau.

Daniel thấy với mây trời như thể một Con Người đến. Ngài tiến lại Đấng cao niên và được ban tặng quyền bính, vinh dự và vương triều.

Ngài là ai mà quyền bính sẽ không bị hủy và tất cả các dân phải làm tôi Ngài? Theo Daniel, đó là dân thánh của Chúa. Họ không sinh ra từ biển, tức là không bởi sự dữ mà có. Trái lại, họ đến với mây trời, ám chỉ họ bởi chính Thiên Chúa mà ra vì mây trời vẫn là một trong những hình ảnh để chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Có lẽ theo Daniel nữa, thì họ là những người lành thánh đã "giữ mình" trong thời bắt bớ của Antiôkô, và là các thánh nhân đã đổ máu vì Thiên Chúa trong cuộc bắt đạo này. Đến ngày của Người, họ sẽ được đưa lên gần Thiên Chúa. Và Người sẽ ban tặng họ vinh dự, quyền uy, vương triều. Họ được chia sẻ quyền cai trị của Thiên Chúa và quyền bính của họ sẽ vô tận.

3. Một Cuộc Tra Hỏi

Thánh Yoan cho chúng ta thấy Đức Yêsu bấy giờ đang ở trước tòa Philatô. Ông này rất lúng túng. Người Dothái không chịu vào phủ đường vì sợ mắc uế không ăn lễ vượt qua chiều hôm ấy được. Do đó Philatô lúc phải ra gặp họ ở ngoài phủ đường, lúc lại phải đi vào trong, tra hỏi riêng Đức Yêsu. Ông lúng túng lúc ra lúc vào. Nhất là ông không biết phải xử vụ này ra sao. Người Dothái đòi xử tử Ngài... Còn Ngài nào có tội lỗi gì? Đứng về quan điểm hành chính Rôma, chỉ có việc họ cáo Ngài là Vua là đáng kể. Nhưng không lẽ một con người như vậy mà lại là vua? Thành ra ông bắt đầu hỏi Ngài:

- Ông mà lại là Vua dân Dothái sao? Ông hỏi mà không tin ở lời mình. Rõ ràng ông rất lúng túng. Có lẽ vì vậy mà thay vì trả lời, Đức Yêsu lại hỏi ông:

- Tự mình ông, ông nói thế, hay đã có ai khác nói với ông về tôi?

Dường như Người muốn giúp ông biện phân ra sự thật. Nhưng ông lại không muốn. Ông vừa muốn nói sự thật vừa không. Ông lấp lửng trả lời theo kiểu nghi vấn: "Tôi là Dothái hay sao?” Có nghĩa là người Dothái nào nói với tôi điều đó? Thế thì sao ông không nhận quách đi, chính ông nghĩ như vậy. Nhưng thật sự ông không có ý tưởng như thế. Và nếu có, ông không hỏi nữa, hay có hỏi cũng sẽ có giọng tra hỏi hơn. Đàng này, ông đã hỏi chỉ vì người Dothái đã cáo Ngài là Vua... mà như ông thấy, điều đó không thật được. Thế nên ông lúng túng...

Để ra khỏi thế khó xử này, Philatô chuyển sang chuyện khác. Ông nói rằng người Dothái đã nộp Ngài cho ông, thì hỏi Ngài để làm gì? Nhưng Đức Yêsu không muốn bước sang chuyện ấy. Không gỡ được nghi vấn lúc đầu cho ông, lương tâm ông chỉ có thể cứ rối thêm mãi. Đàng khác Ngài cần thực hiện mọi lời Kinh Thánh. Mà Kinh Thánh bảo: Đấng Thiên Sai là Vua. Cho đến nay Ngài từ chối danh hiệu này kẻo người ta hiểu lầm. Nay đến lúc phải làm trọn lời sách thánh. Daniel không tiên báo Con Người là Vua trước pháp đình, như chúng ta đã thấy ở trên sao?

Do đó, Đức Yêsu đã tuyên bố: "Nước Tôi không thuộc về thế gian này..." để nói lên rằng Người không phủ nhận mình là Vua, nhưng đồng thời lại khẳng định Người không là Vua theo kiểu thế gian.

4. Lịch Sử Lễ Chúa Kitô Vua

Một triết gia đã đưa ra một nhận định rất bi quan: “Homo homini lupus”: con người là lang sói của con ngươi. Con người đã trở nên một thú dữ hay tấn công, cắn xé và giết chóc. Lịch sử loài người là một chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp. Hai cuộc thế chiến thứ nhất và thứ hai đã cướp đi sinh mạng của gần 50 triệu người, không kể những người bị thương, mất tài sản và thiệt hại vật chất khôn lường.

Cho nên ngày 12.11.1927, Đức Giáo hoàng Piô XI đã thiết lập lễ Chúa Kitô Vua, mục đích là để cầu cho loài người thôi đừng buông theo thú tính mà cắn xé lẫn nhau, các nước đừng nuôi mộng bá chủ hoàn cầu mà gây chiến với nhau.

Đàng khác, thế giới đang dần rời bỏ Chúa, muốn khai trừ Chúa ra khỏi các tâm hồn, các gia đình, các xã hội, thế giới muốn xây xã hội trên nền tảng thuần túy nhân loại. Trong trường hợp đó, Đức Giáo hoàng muốn công bố những quyền bất khả xâm phạm của Chúa Kitô: Ngài là vua vũ trụ, vua các thiên thần và loài người.

Ngoài ra, Đức Giáo hoàng cũng nghĩ rằng cần phải phản ứng lại mấy sự lệch lạc trong quan niệm đạo đức tân thời phát sinh ngay trong Công giáo tiến hành ở một số nơi. Người ta đang có khuynh hướng nhìn nơi Đức Giêsu chỉ là người Anh Cả, người bạn và đối xử với Chúa bằng vai,…là bạn đường, bạn làm việc… Lễ Chúa Kitô Vua nhắc cho người ta rằng: Đức Giêsu còn là Đấng Toàn Năng, Đấng vô cùng vô biên, Vua các vua. Ngài còn là Đấng Hữu, ta có là nhờ Ngài, và bổn phận chính yếu nhất là Thờ Lạy Ngài (Trần văn Khả).

5. Một tước hiệu không xứng hợp

Trong số những tước hiệu mà ta có thể gọi Đức Giêsu, có lẽ tước hiệu "vua" là không xứng hợp nhất.

Khi nói tới "vua" là ta nghĩ đến ngai vàng, vương miện, hoàng cung, quyền lực, kẻ hầu người hạ, quan quân, vũ khí v.v. Thế mà khi nhìn vào Đức Giêsu ta chẳng thấy có gì cả. Ngược lại, ta chỉ thấy Ngài lang thang trên những nẻo đường bụi bậm xứ Palestine, với một nhúm môn đệ ít ỏi, vây quanh là những người nghèo nàn, tật bệnh, tội lỗi và những người bị xã hội loại trừ.

Tuy nhiên, nhìn trên bình diện siêu nhiên thì Đức Giêsu đúng thật là vua. Ngài là vua và là Vua trên tất cả các vua, bởi vì Ngài là Thiên Chúa, Đấng thống trị vũ trụ.

Ngay cả trên bình diện tự nhiên, Đức Giêsu cũng xứng đáng là Vua, Vua của mọi người: Ngài là con người tuyệt vời nhất với đầy đủ những đức tính hoàn hảo nhất. Ngài đến với ai là vận mạng của người đó được thay đổi thành tốt hơn. Có những người tưởng rằng mình là người lớn bằng cách khiến cho mọi người cảm thấy nhỏ trước mặt mình. Nhưng người lớn đích thực là người làm cho ai nấy đều cảm thấy lớn lên. Theo nghĩa này, Đức Giêsu đích thực là Vua.

Chúng ta nên phân biệt quyền lực và ảnh hưởng. Philatô có quyền lực trên dân, nhưng kẻ có ảnh hưởng trên dân chính là Đức Giêsu. Ảnh hưởng của Ngài đem lại cho con người ơn tha thứ, sự phục hồi nhân phẩm, bình an, yêu thương, hạnh phúc. (Viết theo Flor McCarthy)

6. Đức Giêsu Kitô, vua vũ trụ

Đại Hội Trẻ Thế giới tại Pháp, hàng trăm ngàn thanh niên nô nức, tiến về thủ đô Paris dự đại hội để gặp gỡ, lắng nghe, và hiệp thông với Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, đấng thay mặt Đức Kitô ở trần gian.

Hệ thống xe điện ngầm Métro nổi tiếng của Paris dường như lúc nào cũng chật ních người. Hôm ấy, một cụ già ăn xin mù loà cũng cố chen lên một toa xe nhờ chú chó dẫn đường. Cụ vừa đi, vừa chìa cái đĩa nhôm để kêu gọi lòng hảo tâm của giới trẻ. Tuy ồn ào nhưng người ta cũng nghe được những tiếng kêu loảng xoảng của những đồng cắc rơi vào đĩa.

Đi ngược chiều với cụ, một cô bé xanh xao gầy còm cũng ngửa nón xin mọi người giúp đỡ. Khi hai người bất hạnh gặp nhau, cô bé tránh qua một bên cho người hành khất mù loà tiến bước. Và đầy kinh ngạc, các bạn trẻ không thể tin vào mắt mình, cô bé đã dốc hết số tiền kiếm được của mình đổ tất cả vào cái đĩa nhôm kia.

Mừng lễ Đức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi nhìn ngắm thế giới: gồm 6 tỷ người đang sống trên đó. Với bao cảnh thất nghiệp, nghèo đói, lạc hậu, bất công. Với bao tệ nạn tham nhũng, ma tuý, mafia, sida. Với bao nhiêu thiên tai lũ lụt, động đất, cháy rừng... Thế lực của sự dữ và tội lỗi đang tung hoành khắp nơi.

Mừng lễ Đức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi nhìn lên Vua của chúng ta. Một vị vua không ngồi trên ngai vàng, nhưng treo trên thập giá. Một vị vua không cai trị bằng quyền uy vũ lực, nhưng dựa trên tình yêu thương. Một vị vua không có lãnh thổ trên bản đồ thế giới, nhưng nằm sâu trong trái tim mọi người.

7. Vua tình yêu

Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa...

Lê Quang Độ (Ricardo Conelo) từ nhỏ vẫn được ba má yêu quí, đến trường tỏ ra là người học trò xuất sắc. Nhưng bầu khí nơi trường học không được lành mạnh. Ở tuổi lên 10, em Độ đã ghiền xì ke. Em nhớ không có lý do gì để ghiền cả ngoài tính tò mò.

Khởi sự em hút cần sa. Kế đến em nhập băng nhóm đi cướp giật. Lên 12 tuổi Độ đã được cảnh sát thành phố Sao Paolo của nước Braxin biết đến. Bố em tưởng có thể nhốt em trong phòng nhưng vô ích vì Độ luôn tìm ra cách thoát khỏi bàn tay của bố, với những gì có thể ăn cắp được nơi gia đình để tiếp tục hút. Chưa thất vọng, bố em dời gia đình đi nơi khác, nhưng Độ vẫn tìm cách nhập vào một băng nhóm ghiền Cocaine và những thứ nặng hơn nữa. Bố em hết chịu nỗi đành phải đuổi em đi để cứu nguy cho gia đình.

Không chỗ tựa, Độ càng sa lầy. Nhưng nếu người thiếu niên đáng thương này có cơ may làm lại cuộc đời thì nhờ sức mạnh nào? Ai là người cuối cùng sẽ hoán cải được em để em nên người hữu ích cho xã hội?

Bị đuổi khỏi gia đình, Độ trở nên mồi ngon cho tổ chức buôn ma tuý bất hợp pháp trong vùng. Tối đầu tiên đến với nhóm, Độ được mời tới dự bữa ăn, trong đó kẻ tố cáo bạn với cảnh sát đã bị bắn ngay nơi bàn ăn khiến Độ cũng bị bắn lây vào cẳng. Chàng liền chạy vào bệnh viện. Tưởng thoát khỏi sự truy lùng nhưng cảnh sát đã xuất hiện ngay bên giường. Họ chuyển Độ sang nhà tù dành cho thanh thiếu niên.

Chính ở đây Độ may mắn nhận sự giúp đỡ của Trung Tâm Hy Vọng, là tổ chức thiện nguyện giúp phục hồi niềm hy vọng nơi người ghiền ma tuý. Sau này Độ mới biết đó là tổ chức do linh mục Hoàng Tâm Phú (Haus Stapelp) là thân hữu của phong trào Focolare điều khiển. Độ được an ủi nhiều do bầu khí đón tiếp nồng hậu của Trung Tâm ngay tối hôm đầu tiên đến đó.

Độ sống chung với mười hai người trẻ khác, mà Độ là người trẻ nhất, nhưng lại là kẻ cứng đầu nhất, luôn gây chuyện và chơi khăm người khác, luôn hành động thiếu đắn đo.

Hãy còn có Chúa đón nhận con

Ba tháng sau người ta phải đưa Độ tới trung tâm dành cho thanh thiếu niên ghiền nặng hơn. Chính ở đây Độ khám phá những điều cơ bản nhất về bản thân. Lần đầu tiên Độ thốt lên lời than thở với Đấng em gọi là Thiên Chúa nhưng thực ra chưa bao giờ em được học biết Ngài. Cha mẹ em chỉ là người Công Giáo theo danh xưng mà thôi vì chưa bao giờ họ đi nhà thờ. Vậy em đã xin Chúa cho em cơ hội để bỏ hút xì ke, đổi mới cuộc đời và nên giống những người trẻ mà Độ biết là đã thành công theo lý tưởng sống vì người khác.

Quả thật, em đã được ban cho cơ hội giúp người khác là Lâm Đình Ái (Claudio). Đó là một bạn trẻ mắc bệnh AIDS ngủ cùng phòng với Độ. Bệnh nhân chỉ còn chờ chết, không thể tự mình lo lấy mình nữa. Ngày kia Độ đã xin Chúa để được thấy dung mạo Chúa nơi dung mạo bệnh nhân trẻ này. Thế rồi em được giao việc tắm rửa, cạo râu và giúp người bệnh này ăn uống. Điều em không thể cắt nghĩa được là em nghiệm thấy sự sống mới đang lớn lên nơi tâm hồn em nhờ mối tương quan sống động giữa em và Thiên Chúa.

Từ từ em khám phá ra nơi bản thân một tấm lòng quảng đại như thuộc bản năng đang được triển nở. Những người chung quanh em khó lòng tin được rằng điều gì đó thực sự đang xảy ra khiến em trở nên con người khác trước kia. Chẳng hạn, buổi tối hôm ấy em muốn đưa lời Tin Mừng ra thực thi, lời Tin Mừng mà Trung Tâm này sử dụng để chữa trị bệnh nhân, là "Hãy làm cho người khác điều bạn muốn người khác làm cho bạn." Vậy tối hôm ấy em sắp bàn tử tế, đặc biệt để mừng sinh nhật một bạn trẻ ở Trung Tâm. Khi bạn ấy xuất hiện, em Độ đã niềm nở đưa bạn ấy ra ngoài và tặng chiếc áo mà chính Độ rất thích mặc để diện.

Người nhận được quà cảm động đến rơi lệ khiến Độ cũng rưng rưng hai hàng lệ. Đó là những con người chưa bao giờ nghiệm được tình yêu Thiên Chúa, nay khám phá ra điều đó qua cử chỉ cho và nhận quà.

Em Độ nghiệm thấy ơn bình an như được gia tăng mỗi khi em làm điều này điều kia cho người khác. Tự nhiên em sốt sắng tham dự thánh lễ mỗi ngày.

Khi ấy em lên 17 và được giao việc chăm sóc bệnh nhân mới được Trung Tâm tiếp nhận để chữa trị. Trong nhóm này có một người đã 40 tuổi mà ai cũng nhìn nhận là người khó tính. Thế mà Độ đã thành công trong việc chinh phục người ấy.

Nhiều lần Độ trở về thăm gia đình nhưng chưa ai tỏ ra chú ý tới sự kiện là em không còn như trước nữa, kể cả mẹ em là người đã quá khổ vì em. Nhưng lần kia người anh của Độ đã trách mắng Độ cách thậm tệ trước mặt mọi người trong một cuộc họp mừng của gia đình. Người anh ấy rất ngỡ ngàng thấy Độ điềm tĩnh khác thường. Hơn nữa, còn xảy ra là khi Độ dọn đồ mà người anh ấy tỏ dấu ưa thích thứ thuốc thơm thoa xức sau khi cạo râu, em liền tặng lọ thuốc đó cho anh ấy!

Cứ như vậy Độ tìm lại được tình thương của gia đình để không còn phải trở về với Trung Tâm nữa. Nhưng quan trọng hơn vẫn là ơn Chúa thúc đẩy lòng em khiến em được thanh lọc khỏi những đam mê hầu sống sự sống hoàn toàn mới của Tin Mừng, để trở nên người hữu ích cho xã hội. Hiện em sống bình thường trong nghề giáo viên.

8. Nước Ta chỉ có trên thế gian này.

Ông Selma Lagerlop có viết một câu truyện như sau: Ở thành La mã, trong một đền thờ dâng kính Đức Mẹ, gần đồi Capitole, có một tượng Chúa Hài đồng rất đẹp. Chung quanh vòng hào quang có khắc câu Phúc âm rằng: ”Nước Ta Chẳng Có Trên Thế Gian Này”(GA 18,38).

Một hôm, một phụ nữ thượng lưu, người Anh, tới viếng đền thờ, và tượng Chúa Hài đồng đã lọt mắt bà. Bà liền nài nẵng chuộc cho kỳ được. Khổ thay! Không ai đồng ý cả. Bà ta mới thuê thợ gọt một tượng khác, giống y như tượng Chúa Hài đồng bà đã trông thấy. Rồi một hôm dùng thủ đoạn, đem đổi lấy tượng thật.

Nhưng không biết là vô tình hay hữu ý, thay vì viết vào vòng hào quang rằng “Nước Ta chẳng có trên thế gian này”, thì bác thợ kia lại viết: “Nước Ta chỉ có trên trần gian này.”

Ít lâu sau, không hiểu tại sao, tượng thật Chúa Hài đồng bỏ lâu đài của chủ mới, trở về đền thờ cũ lại như xưa.

Mưu mô bại lộ ra. Người coi đền thờ liền đem tượng giả ném xuống chân đồi Capitole. Người phụ nữ kia, buồn tiếc, đi tìm, gặp được và trở về nước với pho tượng giả, còn nguyên vẹn với vòng hào quang ngạo mạn kia.

Từ ấy, tượng giả cứ chuyền tay nhau, người này sang người khác, hết thành nọ đến thành kia…

Một hôm tượng ấy tới thành Paris. Quân Cách mạng mới đem đi biểu diễn qua các đại lộ, và hiệu triệu dân chúng rằng: ”Nước Ta chỉ có trên thế gian này. Hãy mau mau phân chia tài sản cho nhau, để mọi người được bình đẳng vui sống. Nước Ta chỉ có trên thế gian này. Chết là sự đổ vỡ vô phương cứu vãn”!

9. Hoàng tử Alexis.

Truyện cổ Nga thuật lại rằng: Vào thời Trung cổ, hoàng tử Alexis cũng như bao vua chúa khác sống trong cung điện nguy nga tráng lệ, trong khi dân chúng chung quanh phải sống trong những khu xóm nghèo nàn tồi tệ. Thế nhưng, Alexis rất hiểu nỗi cơ cực của thần dân và cảm thương họ. Ông bỏ ra mỗi ngày một ít thời giờ để thăm họ. Nhưng, dù cố gắng đến đâu, Alexis vẫn không thu phục được lòng yêu mến của thần dân. Vì thế, sau mỗi lần thăm họ trở về, ông thấy lòng mình buồn rười rượi.

Ngày kia, có một người lạ mặt đi vào khu xóm, ăn mặc đơn sơ, anh tự xưng là Bác sĩ, anh săn sóc những người già cả, bệnh tật. Đặc biệt Bác sĩ không lấy tiền thù lao, và còn phát thuốc miễn phí cho thần dân.

Bác sĩ ấy trở thành người của xóm nghèo, được mọi nguời yêu mến kính phục. Ngày ngày, anh dàn xếp những cuộc cãi vã, tranh giành, hoà giải những thù oán, và giúp đỡ họ sống đúng với phẩm giá con nguời.

Bác sĩ trẻ đó chính là Hoàng tử Alexis, người đã bỏ cung điện giầu sang đến sống với thần dân nghèo khổ và trở nên bạn bè của họ, để yêu thương săn sóc và phục vụ họ.

Đức Kitô thực sự là một vị Vua đầy uy quyền. Ngài đã trở nên giống chúng ta, để yêu thương phục vụ chúng ta. Ngài đã phán: ”Con người không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống cứu chuộc cho nhiều người.”

10. Chỉ có Chúa là Vua

Lịch sử nước Anh có kể rằng hồi ấy, nước Anh có một ông vua đạo đức tên là Cannut III. Ông là vua của một cường quốc, nên chung quanh ông hay có những quan nịnh thần ton hót.

Một hôm trong một buổi triều yết, các nịnh thần tâu: ”Thánh Thượng” là vua trên hết các vua, là chúa trên các chúa, có quyền trên mặt đất và biển cả.

Nghe vậy nhà vua muốn cho họ một bài học, liền mời tất cả đi ra bờ biển. Đứng trước đại dương, ông tuyên bố: ”Ta là vua trên hết các vua, có quyền trên đất liền và trên biển cả. Vậy ta truyền cho sóng biển không được trở tới.” Nhưng nước vẫn dâng lên, sóng vẫn trở tới làm ướt hết áo cẩm bào của vua cũng như triều thần.

Nhà vua đi vào trong một thánh đuờng đến trước tượng chuộc tội, lấy chiếc vương miện đội trên đầu Chúa và nói: ”Lạy Chúa, chỉ có Chúa là Vua trên hết các vua, là Chúa trên hết các chúa.”

11. Đức Hồng y Deschamps

Hồng y Deschamps, Tổng giám mục Mailines, khi còn là thanh niên, đã có ý muốn học hành thật giỏi để đạt được một địa vị cao trong hàng ngũ các quan chức triều đình. Một hôm, Deschamps đã được chứng kiến lễ đăng quang lên ngôi vua cách long trọng của nhà vua Bỉ. Từ cửa sổ của một nhà cao tầng, Deschamps chăm chú theo dõi diễn tiến của buổi lễ từ đầu đến cuối. Có thể nói đấy là một buổi lễ hội vừa tưng bừng náo nhiệt với cờ xí và biểu ngữ rợp trời, và tiếng trống dồn dập và tiếng kèn đồng thổi lên inh ỏi với hàng vạn người đến tham dự.

Trọng tâm buổi lễ là nghi thức tấn phong hoàng thái tử lên ngai vàng kế vị vua cha mới băng hà, với việc đội vương miện và nhận phủ việt. Buổi lễ kết thúc bằng một cuộc diễn hành của hoàng gia cùng với đoàn tùy tùng. Đoàn rước đi theo hàng đôi kéo dài cả cây số. Sau khi cuộc lễ kết thúc, quảng trường trở lại bầu khí bình lặng như mọi khi. Deschamps tự nhủ mình rằng: ”Thế là một ông vua đã qua đi.” Rồi được ơn Chúa kêu gọi. Deschamps đã suy nghĩ nhiều ngày sau đó và cuối cùng đã quyết định như sau: “Tôi không muốn phục vụ cho ông vua sẽ qua đi. Tôi muốn phục vụ ông vua tồn tại mãi mãi là Vua Giêsu.”

Deschamps đã dứt khoát từ bỏ giấc mơ danh vọng chức quyền thế gian như trước đây anh mơ tưởng, để xin gia nhập vào một dòng khổ tu và khoác vào mình chiếc áo tu sĩ. Sau một thời gian tu học, thầy Deschamps đã đuợc thụ phong Linh mục, rồi sau đó được tấn phong Giám mục và cuối cùng được phong tước vị Hồng y Giáo chủ, trở thành niên tưởng của hàng Giám mục Bỉ.

12. Pho tượng Chúa Giêsu Vua.

Trên đỉnh ngọn núi Corovado ở Nam Mỹ, người ta đã dựng một pho tượng Chúa Giêsu vua. Ở xa trông lại, du khách trông như pho tượng chạm trời, vì tượng cao hơn 30 mét. Đứng sừng sững, bao quát cả một vùng bát ngát mênh mông, pho tượng đã làm tăng thêm vẻ đẹp cho kinh thành Rio de Janeiro, thủ đô nước Brasil.

Bạn thử nghĩ biết bao công phu mới dựng được pho tượng ấy! Chuyên chở vật liệu từ chân lên đỉnh núi, sườn núi lởm chởm. Nhưng người ta chưa thỏa mãn. Trong không trung đã có tượng Chúa Giêsu Vua, người ta còn muốn dựng một pho tượng ở đáy biển để chứng tỏ vương quyền khắp nơi của Chúa Giêsu

Tạo hóa hình như cũng chiều lòng người đã dành cho họ một nơi đẹp đẽ để thực hiện ý tưởng cao qúi ấy. Ở biển Italia, không xa Napoli, làn nước trong xanh, lăn tăn gợn sóng, chính chỗ đáy biển ấy người ta đã chọn để dựng tượng Chúa Giêsu Vua. Biết bao công lao.

Có những tầu đánh cá nối đuôi nhau ra đó để tung hoa chào mừng Chúa. Còn những tầu ngầm cũng lượn quanh viếng thăm Chuá. Tuy nước trong đẹp nhưng rêu xanh thường rủ nhau đến bám tượng đá. Nên hằng năm người ta phải tổ chức một cuộc cạo rêu và tắm rửa cho tượng.

13. Đức Vua yêu một thôn nữ

Triết gia Kierkegaard người Đan mạch kể câu chuyện về một vị vua yêu một thôn nữ. Ngài định cưới nàng nhưng có quá nhiều trở ngại: tục lệ chỉ cho phép nhà vua cưới các công nương vương triều. Tuy nhiên ngài lấy thế lực để coi thường truyền thống.

Nhưng một ý nghĩ khác nảy sinh: sự khác biệt về địa vị khiến tương quan giữa hai người không tự nhiên, cô gái có thể thán phục đức vua nhưng không thực sự yêu ngài: vua vẫn là vua nàng vẫn là thôn nữ! Vua liền quyết định một kế hoạch khác, ngài từ bỏ ngôi vua để sống như một nông dân, nhưng nếu như thế thì chàng nông dân này liệu có được nàng thôn nữ đó yêu nữa hay không, hay lại mất cả chì lẫn chài?

Cuối cùng, vì quá yêu nàng, ngài liều bỏ mọi sự để hai người được có một tình yêu đích thực và trọn vẹn.

Tác giả không cho biết câu chuyện kết thúc ra sao, không cho biết cô gái ấy có chấp nhận tình yêu ấy hay ruồng bỏ đức vua, họ có sống với nhau hạnh phúc hay không? Tác giả có lý vì thật ra đó không phải là điểm chính yếu của câu chuyện. Điểm chính yếu là tình yêu của đức vua dành cho người thôn nữ hèn kém này. Tình yêu lớn lao đến độ ngài dám từ bỏ vương quyền và ngai báu vì nàng.

Câu chuyện chưa kết thúc, nó vẫn tiếp diễn. Đây là một câu chuyện có thực về tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta, câu chuyện có thực mà đoạn kết chưa được viết hay nói cho đúng không ai viết thay cho chúng ta được, mỗi người chúng ta tự viết cho riêng mình xem mình chấp nhận hay từ chối tình yêu của Thiên Chúa.

14. Thẻ căn cước trong Vương Quốc Tình Yêu của Vua Giêsu:

Ngày 11/11/1951 trong một bài diễn từ, Đức Thánh Cha Pi-ô 12 đã kể lại một giai thoại. Có một phụ nữ kia rất đạo đức, nhưng sức khỏe quá yếu ớt. Cô ta bị chứng sưng màng phổi và rất khó thở. Lâu lâu căn bệnh tái phát làm cô rất đau đớn. Nhưng cuối cùng cô cũng lập gia đình, mang thai và chờ ngày sinh nở. Bất hạnh bất ngờ ập đến.

Căn bệnh năm xưa tái phát trầm trọng. Các bác sĩ đề nghị phải hủy bỏ bào thai để cứu tính mạng cho bà mẹ. Người chồng cũng đồng ý như thế. Nhưng mẹ bào thai sau khi cầu nguyện nhiều ngày đã kiên quyết từ chối đề nghị của bác sĩ. Cô nói trong nước mắt: “Tôi không thể giết con tôi. Con tôi phải sống, cho dù tính mạng tôi có ra sao đi nữa.” Cô ta chấp nhận tình huống xấu nhất có thể xảy ra và phó thác hoàn toàn cho Chúa quan phòng. Cuối cùng cô đã sinh được một bé gái kháu khỉnh, nhưng sau đó sức khỏe của cô ngày càng suy kiệt. Hai tháng sau, người phụ nữ đã tắt thở, trên tay vẫn ôm chặt đứa con mới sinh mà cô rất thương mến.

Hơn hai mươi năm trôi qua, người ta thấy một nữ tu trẻ rất xinh đẹp đang ân cần chăm sóc cho các cháu bé mô côi trong một trại tế bần. Vòng tay thân thương và cặp mắt long lanh của vị nữ tu sáng rực lên nét yêu thương mà chị đã được di truyền từ chính người mẹ thân thương của mình. Đó là người mẹ trẻ năm xưa đã chấp nhận hy sinh tính mạng để cho con được sống.

Người mẹ can đảm này đã được Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II tôn phong lên bậc Chân Phước, bởi vì bà đã thực sự đi vào Vương quốc tình yêu tiếp bước theo chân Đức Giêsu. Chính Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô 2 đã nói: “Một đất nước nào, một chế độ nào cho phép con người sát hại lẫn nhau, thì đất nước đó, chế độ đó đang đi tới chỗ bị hủy diệt.” Đó là một đất nước đi ngược lại hiến pháp của Vương quốc Giêsu. Sống trong Vương quốc này, Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta phải sống với một nền văn minh mới, đó là ‘nền văn minh của tình thương’.

Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta cũng đã từng nói: “Một người mẹ nhẫn tâm giết chết con của mình, thì không còn một thứ tội ác nào mà họ không dám làm.” Biết bao tội ác nhan nhản đang xảy ra trong xã hội hôm nay vì người ta đang dần đánh mất đi thẻ ID (identity card) Nước Trời chứng minh mình là công dân Nước Trời.

15. Gương bác ái của Máctinô thành Tours công dân nước trời:

MÁC-TI-NÔ là một quân nhân Rô-mavà một Kitô hữu. Một ngày mùa đông lạnh lẽo, khi ông đi vào một thành phố, có người hành khất chặn ông lại xin bố thí, Mác-ti-nô không có tiền, nhưng khi thấy người hành khất xanh xao và đang run rẩy vì lạnh, ông cởi chiếc áo khoác đã sờn rách và dùng gươm xén một nửa chiếc áo khoác trao cho người hành khất. Tối hôm ấy ông nằm mơ thấy thiên đàng có các thiên sứ bao quanh Vua Giêsu và trên mình Người mặc phân nửa chiếc áo khoác của ông. Một thiên sứ hỏi Chúa Giêsu: “Tại sao Ngài mặc nửa chiếc áo bị sờn rách đó? Ai đã cho Ngài?” Chúa Giêsu trả lời: “Chính Mác-ti-nô, tôi tớ của Ta đã tặng cho Ta đó.”

Quả thật như bài Tin Mừng hôm nay Chúa đã xác quyết: Ta bảo các ngươi: “những gì các ngươi đã làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Và Chúa nói tiếp: “Hãy đến, hỡi những kẻ cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo thành vũ trụ. Vì khi ta đói, các ngươi đã cho ăn, Ta khát, các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước, Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc. Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm, Ta bị tù đầy, các ngươi đã đến với ta”(Mt 25, 34-36).

Thật là hạnh phúc cho chúng ta, nếu được Chúa nói với chúng ta như vậy trong ngày tận thế với tư cách là vị Vua Thẩm Phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Amen.

16. Đức Giêsu Vua hoàn vũ

Elvis Aron Presley (1935–1977) được gọi là Vua nhạc rock and roll, thường được tôn vinh Ông Vua nhạc rock, là một ca sĩ và diễn viên người Mỹ. Tạp chí Rolling Stone từng viết “Elvis chính là rock 'n roll” và phần lớn tác phẩm của Elvis là hoàn hảo. Trong suốt sự nghiệp ca hát của mình kéo dài đến 2 thập kỷ, Elvis Presley đã lập và phá vỡ những kỷ lục về lượng khán giả đến xem trình diễn, cũng như lượng đĩa nhạc được tiêu thụ.

Là một trong những tên tuổi nổi tiếng của làng nhạc, Presley sống một cuộc đời xa hoa, phú quý. Nhưng hiếm ai biết, tuổi thơ của anh rất thiếu thốn. Cậu bé Elvis sinh ngày 8/1/1935 trong một mái lều xiêu vẹo ở Tupelo, Mississippi. Dù nghèo khó, thường phải ăn chỉ có độc bánh mì, nhưng bù lại, gia đình chăm sóc Elvis Presley khá quy củ và cẩn thận. Cho đến tận năm 15 tuổi, bà mẹ vẫn phải đưa cậu đến trường, để ngăn không cho lũ trẻ chọc ghẹo con bà. Đến sinh nhật 11 tuổi, Elvis lần đầu tiên được tiếp xúc với nhạc cụ, đó là một cây guitare. Ban đầu, cậu tỏ vẻ hơi hậm hực vì cậu thèm được có một chiếc xe đạp mới, hay một khẩu súng, nhưng dần già, Presley bị cây đàn cuốn hút đến quên cả ăn ngủ.

Chỉ vài năm sau, trên các sân khấu bắt đầu xuất hiện một anh chàng khá điển trai, biểu diễn hết mình, với những cú lắc hông dữ dội, đầy gợi cảm. Lần đầu tiên được các thiếu nữ ở dưới khán đài reo hò, la hét, Elvis đã băn khoăn hỏi ông bầu: “Liệu tôi có làm gì sai không mà bị mọi người la dữ như vậy?” để rồi nhận được câu trả lời: “Dù anh có làm gì đi nữa, thì tốt hơn cả là trở lại sân khấu ngay lập tức và tua lại màn trình diễn đó đi!” Đến năm 20 tuổi, Elvis kiếm được hợp đồng ghi âm đầu tiên, trị giá chỉ có 30.000 USD, nhưng một năm sau, anh đã làm cả thế giới phải ngỡ ngàng, khi giành liên tiếp ngôi vị quán quân ở các bảng xếp hạng và nhanh chóng trở thành triệu phú.Trong thời gian ở Đức, Elvis làm quen với cô nàng Priscilla Beaulieu và sau 8 năm tìm hiểu, họ quyết định đi đến hôn nhân. Lấy vợ, anh trở nên “ngoan ngoãn” hơn hẳn, và sau một lần tuyên truyền về tác hại của ma tuý, Elvis đã được Tổng thống Mỹ Nixon trao tặng huân chương đặc biệt. Tuy nhiên, đang trong thời kỳ đỉnh cao sự nghiệp thì Elvis bị bắt đi lính, và chàng thanh niên này đã tỏ ra mình là một kẻ văn võ song toàn. Không chỉ giành tiếng vang trong lĩnh vực nghệ thuật, anh còn được các đồng đội vị nể khi đoạt được đai đen Karatê.

Sau khi đi quân dịch, Presley lại trở về ánh đèn sân khấu. Năm 1973, show hoà nhạc đặc biệt Elvis: Aloha From Hawaii, được phát sóng trực tiếp trên 40 quốc gia, đã thu hút trên 1 tỷ người xem, thậm chí còn nhiều hơn cả chương trình cuộc thám hiểm đầu tiên lên mặt trăng. Nhưng sau sự kiện này, sức khoẻ của Elvis tụt dốc không phanh. Cuộc hôn nhân tan vỡ càng làm ông Vua nhạc rock and roll lún sâu vào vũng lầy đen tối. Gần như không đêm nào mà anh không phải dùng đến thuốc ngủ. Đến ngày 16/8/1977, ngôi sao sáng đã tắt hẳn trên bầu trời âm nhạc, để lại bao nỗi thương tiếc cho fan hâm mộ. (Wikipedia)

Hôm nay Giáo Hội long trọng mừng lễ Chúa Kitô Vua. Vị Minh Quân Giêsu vô cùng vĩ đại, cao sang và trường cửu, không ồn ào, hào nhoáng, phô trương, cũng chẳng phù phiếm như Vua Rock kia. Vì Người là Đức Vua Tình Yêu, Đức Vua Công Chính, Đức Vua Bình An. “Nhờ Người, vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.” (Ga 1, 3 - 4)

17. Quốc vương Thái lan sống vì dân

Quốc Vương Thái Lan đã đi vào huyền thoại như người dân kể lại: “nhà vua làm kênh rạch, nên có nước về ruộng đồng. Nguồn nước này đến từ đập Pa Sak Jolasid do chính vua Bhumibol trực tiếp thực hiện.

- Khi mới lên ngôi năm 1950, từ đó năm nào đức vua cũng tự tay lái xe jeep, với hoàng hậu Sikirit bên cạnh, đi tổng cộng 50.000 km, tới những nơi hẻo lánh, xa xôi để quan sát đời sống người dân còn khốn khó. Trong tâm trí của những người dân Thái, nhà vua là một người thân thiện, với cuốn sổ và chiếc bút trên tay, luôn lắng nghe những người nghèo khổ để thay đổi cuộc sống của họ.

Quốc vương lập ra dự án của hoàng gia, xúc tiến các kỹ thuật gieo hạt tân tiến. Năm 1971, nhà vua đưa ra các biện pháp giúp người dân giải hạn, đào kênh rạch để trữ nước và phân phối nước cho ruộng đồng.

- Đức vua đã biến cung điện Chitralada rộng lớn của mình thành tổ hợp trang trại, cánh đồng, nhà máy chế biến - nơi nhà vua có thể tiến hành nhiều thí nghiệm và thực hiện hàng loạt các đề án về nông nghiệp. Từ đây, hơn 2.000 đề án do chính nhà vua khởi xướng đã được triển khai trên toàn quốc, cải thiện điều kiện sống của dân nghèo ở nông thôn.

- Vào năm 1997, chính đức vua đã ký sắc lệnh sửa đổi Hiến Pháp, theo đó đức vua không còn là người bảo hộ đạo Phật là quốc giáo của Thái Lan. Bản thân đức vua là người Phật Tử nhưng lại bảo hộ cho tất cả các tôn giáo khác, kể cả cộng đồng Hồi Giáo là người thiểu số ở miền nam Thái Lan, nơi thường xảy ra các cuộc xung đột. Điều này đã giúp cho ngài không chỉ được tín đồ Phật Giáo ngưỡng mộ mà cả người đạo Hồi cũng phải kính nể và khâm phục.

18. Mọi người là anh em với nhau

Vương quốc Fanxica là một đất nước thái bình, thịnh vượng. Nhà vua và hoàng hậu lại có diễm phúc sinh được hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, văn võ song toàn và có khí phách dũng cảm của bậc anh hùng. Hai vị hoàng tử nầy lại thương yêu hoà hợp với nhau, đêm ngày gắn bó với nhau như hình với bóng.

Trong khi đó, vua nước láng giềng tên là Faroux, là một người cực kỳ nham hiểm và ác độc, nuôi mối căm thù truyền kiếp với vua Fanxica. Lòng căm thù của ông lại càng dâng cao khi thấy vua Fanxica có hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, vũ dũng hơn người, trong khi mình thì không có lấy một mụn con. Vì thế, ông rắp tâm hạ sát hai vị hoàng tử kia cho bằng được.

Vua Faroux biết hai vị hoàng tử thường hay vào rừng săn bắn, nên vua cho người mai phục, giăng bẫy bắt được hoàng tử em là Faram.

Sau khi hay tin em mình mất tích trong rừng, hoàng tử anh một mình một ngựa xông xáo vào rừng tìm em. Không ngờ chính anh cũng bị vua Faroux giăng bẫy bắt được.

Tên vua độc ác giam hai anh em vào hai ngục tối biệt lập nên hai hoàng tử không hề hay biết gì về số phận của người kia.

Theo thông lệ hàng năm, vào dịp sinh nhật của vua, vua cho tổ chức những cuộc quyết đấu giữa những con ác thú, để chúng phanh thây xé xác nhau làm trò vui cho quan quân và dân chúng.

Năm nay, thay vì cho ác thú đấu nhau, nhà vua ác độc bắt hai tù nhân vạm vỡ khoẻ mạnh, mỗi người mang một bộ da sư tử trên mình, đeo thêm mặt nạ sư tử, và buộc họ phải quyết đấu cho đến khi một trong hai người phải chết. Ai sống sót sẽ được trả tự do.

Cả đấu trường hò la vang dậy khi quân lính dẫn hai đấu thủ mặc lốt sư tử bước ra. Với thanh mã tấu trên tay, hai con người lốt sư tử xông vào nhau chiến đấu vô cùng ác liệt như hai ác thú say mồi. Đám đông cổ võ hò la vang trời dậy đất.

Cuộc chiến kéo dài hơn cả tiếng đồng hồ mà vẫn bất phân thắng bại. Cả hai đấu thủ mệt nhoài, mình mẩy hai người đều đầy thương tích máu me, nhưng không ai chịu nhường ai. Mỗi người đều dốc hết toàn lực để hạ đối thủ, để dành sự sống, để được trả tự do, để khỏi làm nô lệ suốt đời. Chỉ có chiến thắng hay là chết!

Thế rồi đấu thủ cao người hơn lao tới như báo vồ mồi, vung đao chém xoạc mặt đối phương, làm rơi mặt nạ sư tử, để lộ ra một khuôn mặt... rất thân quen!

Anh kinh hoàng tột độ! Thanh mã tấu trên tay rơi xuống. Anh giật bỏ mặt nạ của mình ra. Hai người ồ lên kinh ngạc. Họ bàng hoàng nhận ra nhau. Không ai xa lạ, họ chính là hai anh em ruột thịt, hai hoàng tử con vua Fanxica bị vua Faroux bắt cóc.

Họ lao vào nhau, ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Họ đâu ngờ rằng đối thủ mà họ quyết tâm tiêu diệt cho bằng được lại là người anh em rất thân yêu.

Nước mắt tuôn tràn hoà chung với máu. Hai con người bầm dập, mình mẩy đầy máu me ôm nhau khóc tức tưởi. Khóc vì đã coi nhau như kẻ thù, đã đấu tranh với nhau như ác thú; khóc vì đã gây cho nhau bao vết thương đau. Họ vẫn đứng đó, ôm nhau khóc tức tưởi trước hàng ngàn cặp mắt bàng hoàng kinh ngạc của mọi người.

19. Hậu vận của những người chống lại vương quyền của Chúa

Mừng kính lễ Thiên Vương Giêsu Kitô là dịp để chúng ta xét mình một cách nghiêm túc hơn, xem mình đã thực sự là tín dân của Ngài hay chưa. Và xin được kể vài chuyện có thật đã xảy ra với những kẻ vô thần, dám coi thường Thiên Chúa:

1. John Lennon, ca sĩ của ban nhạc nổi tiếng The Beatles của Anh quốc. Trong lúc được tạp chí American Magazine phỏng vấn, John Lennon nói: “Thiên Chúa Giáo sẽ không còn, sẽ biến mất. Tôi không có gì phải tranh cãi về điều đó. Tôi chăc chắn như thế. Ông Giêsu thì được, nhưng những kẻ theo Ông thì quá ngây ngô! (Ý muốn nói là bị Ông Giêsu lừa gạt). Ngày nay, chúng tôi, ban nhạc The Beatles nổi tiếng hơn Ông Giêsu” (1966). Sau khi John Lennon tuyên bố lời trên đây, hắn bị bắn sáu lần. Không biết sau đó hắn có ăn năn hay không, nhưng mọi người biết rõ là The Beatles đã “chết.”

2. Một nhà báo hỏi người thiết lập chiêc tàu Titanic về sự an toàn của chiếc tàu, hắn nói: “Ngay cả Thượng Đế cũng không thể đánh chìm được nó.” Kết quả ra sao, mọi người đã biết rõ: Vỡ đôi vì tảng băng ngầm vào sáng ngày 15-4-1912 tại Bắc Đại Tây Dương!

3. Marilyn Monroe, diễn viên điện ảnh. Trong một xuất trình diễn, cô được Billy Graham đến thăm. Bill Graham nói rằng Chúa Thánh Thần sai ông đến để nói với cô. Nghe xong, Marilyn Monroe nói: “Tôi không cần Giêsu của ông.” Một tuần sau, người ta thấy xác Marilyn chết cô đơn trong một chung cư.

4. Năm 1954, sau khi chiếm miền Bắc, một toán công an cộng sản vào nhà dòng kín Bùi Chu lục soát. Khi đến Nhà Nguyện, lúc các nữ tu đang chầu Mình Thánh, một tên cộng sản lớn tiếng la lối: “Chúa của các người ở đâu?” Nữ tu chỉ Nhà Tạm trên bàn thờ, tên này lấy súng mang trên người nhắm Nhà Tạm. Hắn bắn vỡ chén thánh và Mình Thánh Chúa đổ ra vương vãi. Bắn xong, hắn vẫn đứng yên, chĩa súng vào Nhà Tạm như muốn bắn tiếp. Các nữ tu vô cùng đau lòng vì Mình Thánh Chúa bị xúc phạm, nên quỳ xuống, van xin anh đừng bắn nữa, nhưng khi chạm đến anh, các nữ tu mới biết linh hồn hắn đã lià khỏi xác từ lúc nào rồi: Hắn chết đứng!

5. Năm 1963, sau khi Tổng thống Ngô Đình Diệm bị một số tướng tá phản bội lật đổ, một số người bên lương tràn vào Tòa tỉnh trưởng Thừa Thiên (Huế), đập phá “tàn tích gia đình trị.” Khi thấy bức tượng Thánh Gioan Tẩy Giả, quan thầy của Tổng thống Diệm, một thanh niên trèo lên vác búa đập vỡ mặt mũi bức tượng, nhưng hắn bị trật chân ngã xuống và chết ngay lập tức. Sự kiện này xảy ra trước mắt nhiều người chứng kiến.

6. Voltaire là kẻ chống Thiên Chúa và đánh phá Hội Thánh Công Giáo rất quyết liệt. Không một lời gian dối và vu oan nào mà ông tởm gớm. Ông chiêu tập một nhóm lấy tên là “Beelzebub” (Bê-en-dê-bun, tên của tướng quỷ). Năm 1753, ông đã lên án Thiên Chúa: “Hai mươi năm nữa Thiên Chúa về hưu, vì không còn ai phục vụ Ngài.” Đúng hai mươi năm sau, năm 1773, Voltaire tắt thở vì chết thê thảm. Ông đã thấy những hình ảnh làm ông run sợ và hét lên: “Một bàn tay đang kéo tôi xa Thiên Chúa... Qủy bắt tôi... Tôi trông thấy hỏa ngục.” Ông tru tréo như thú vật hung dữ. Ông lấy móng tay cấu xé thịt mình ra từng miếng. Một bà già thường giúp người hấp hối, sau khi chứng kiến cái chết của Voltaire, đã nói: “Khi ấy tôi ở gần giường của Voltaire đang hấp hối, tôi không muốn nhìn thấy một người vô đạo chết nữa.” Một người khác chứng kiến cái chết của Voltaire cũng nói: “Nếu quỷ có thể chết được, cũng không chết dữ như Voltaire.”

20. Làm tôi là cai trị

Sách gương Chúa Giêsu đã nói: Làm tôi Thiên Chúa là cai trị!

Chúng ta đang đi theo và làm theo gương của một Vị Vua chẳng giống ai, mà đúng là một vị vua chẳng giống ai thật đấy!

- Vua Hòa Bình gì mà khi đến làm vua vũ trụ này, lại phải nằm rét rum như cầy sấy trong hang bò lừa tạm trú, tới nỗi khiến cho Ba Đạo Sĩ vô cùng ngạc nhiên khi thấy Ngài, sau những ngày đêm lần mò đầy nguy hiểm chống gai vất vả đi tìm để bái thờ .

- Vua gì mà không có lấy một thằng lính để bảo vệ hộ tống cho, còn thảm tới nỗi chỉ cần mấy thằng lính quèn của Hêrôđê đuổi thôi, cũng đã phải chạy tóe khói bán sống bán chết sang mãi tận bên Aicập để lánh nạn và tìm miếng ăn kiếm sống qua ngày.

- Vua gì mà bị trói và bị thẩm vấn trước mặt Philatô mà không một lời biện hộ và cũng chẳng cần một ai biện hộ cho. Vua gì mà suốt ba năm trời vất vả đi chiêu mộ được 12 tông đồ gọi là trung thành sống chết với mình, thế mà khi thấy Thầy bị bắt, thì ôi thôi, các môn sinh đã từng gắn bó nằm gai nếm mật, đã cao xa bay chạy mỗi người một phách, để Thầy mình muốn ra làm sao thì kệ mặc Thầy.

- Vua gì mà chẳng giống ai, lại còn tuyên bố: Tôi sinh ra để làm Vua, Tôi đến thế gian này cũng không ngoài mục đích đó.

Vâng, đúng rồi, chính nhờ Vua không giống ai này mà Ngài đã thực sự là Vua từng cõi lòng chúng ta và nhờ Chức Vua của Ngài đó mà chúng ta mới được cứu độ và được lên Thiên Đàng đấy, bạn và tôi ạ!

21. Không nhận ngai vua

Martin Caphu là người Bangla thuộc Cameroun Phi châu. Cha anh là quốc vương Bangla. Từ thiếu niên, anh đã quen với phong trào Tổ Ấm, một tổ chức Công giáo làm việc xã hội ở Phi châu. Thấy các thành viên Tổ Ấm xả thân giúp đỡ người đồng loại, anh Caphu rất cảm phục, và tới năm 1963, vào lúc mười bảy tuổi, anh xin trở lại Công giáo. Sau khi tốt nghiệp Trung học, anh được gia đình gởi về Rôma học nghành điện tử. Đậu tiến sĩ xong, anh Caphu gia nhập phòng trào Tổ Ấm.

Năm 1980, cha anh qua đời, và theo chúc thư, ông đã chọn Caphu kế vị ngai vàng. Caphu vội vã trở về Bangla, anh họp cả sắc tộc lại và xin mọi người đề cử người khác làm vua. Còn anh, anh muốn dành cả cuộc sống làm việc xã hội theo tinh thần Kitô giáo. Và mọi người đã đồng ý. Có phải đúng là anh Caphu đã rất hiểu và đã cam đảm sống tinh thần làm vua mà Chúa Kitô Vua không, thưa bạn? Và ngày hôm nay, từ giây phút này, Ngài cũng đang lên tiếng kêu mời bạn và tôi tiếp tục công trình làm vua bằng cách phục vụ người khác như một người đầy tớ đối với ông chủ là tha nhân đấy!

22. Ai thuộc về sự thật thì nghe tôi

Thánh Gioan Cantio sinh tại Ba lan năm 1390. Khi còn là một cậu bé, ngài tỏ ra thông minh và tử tế. Khi làm linh mục, ngài dạy Kinh Thánh tại đại học Cracow và cũng làm cha sở mấy năm.

Người ta nhớ sự thông thái và lòng nhiệt thành của ngài đối với người nghèo khó. Người đã đi bộ hành hương Roma đến bốn lần, đeo hành trang trên lưng. Một lần trong cuộc hành hương, bọn cướp lấy bóp của ngài, hỏi ngài còn tiền không. Vị thánh trả lời ngài chỉ có bấy nhiêu, bọn cướp cho ngài đi.

Đi được một quãng xa, ngài nhớ ra mấy miếng vàng giấu trong gấu áo. Ngài vội vàng trở lại, đưa vàng cho bọn cướp, năn nỉ xin họ tha thứ cho ngài vì ngài đã nói dối họ.

Bọn cướp ngỡ ngàng, lặng thinh và lấy làm thích thú, bọn chúng trả lại cho ngài tất cả tiền nong đã lấy của ngài.

23. Gặp Chúa Giêsu

Thầy Brian Morton có kể lại câu chuyện sau đây:

“Một nữ tu trẻ khởi sự ngày đầu tiên làm việc trong một bệnh viện địa phương. Sơ rất lo lắng. Sơ thấy những người hấp hối nằm trên các giường bệnh. Sơ thấy các sơ khác đang đi từ giường này sang giường khác, rót nước ở chỗ này, phát thuốc ở chỗ kia.

Bất thình lình Mẹ Têrêxa đến bên sơ, mỉm cười và nói: “Này chị, đến với tôi. Tôi muốn chị gặp một người.” Nữ tu trẻ đi theo Mẹ Têrêxa. Chẳng mấy chốc họ đến bên một cái giường nằm ở góc xa nhất của khu nhà. Nằm trên giường là một ông lão gầy giơ xương. Đôi mắt của ông sâu hoắm. Đầu ông cao trọc. Ông chỉ còn một cái răng duy nhất trong miệng.

Mẹ Têrêxa ôm khuôn mặt của ông lão trong đôi bàn tay của mình và quì xuống bên giường. Mẹ gọi người nữ tu trẻ tuổi: “Chị Anna, tôi muốn chị gặp Chúa Giêsu.”

Chúng ta cần mời gọi Chúa Kitô đến cư ngụ trong chúng ta để những qui tắc, lối sống của Người trở thành qui tắc vào lối sống của chúng ta. Chúng ta cần Người đến sống trong và với chúng ta để chúng ta hành động, ứng xử như Người. Chúa Kitô đang sống trong mỗi người chúng ta. Và chúng ta phải để cho Chúa hướng dẫn chúng ta nhìn thấy sự hiện diện của Chúa trong những người chung quanh chúng ta.

24. Hoàng tử và người nghèo

Mark Twain viết trong cuốn “The Prince and the pauper, Hoàng tử và người nghèo” về hai người con trai sinh ra tại Anh quốc. Người con trai thứ nhất thì được sinh ra trong hoàng gia và trở nên Hoàng Tử Wales. Sự chào đời của Hoàng Tử được diễn tả: “Anh quốc đã chờ đợi, hy vọng, và cầu nguyện cho ông ấy, và bây giờ thì ông ấy đã chào đời. Tất cả mọi người đều vui mừng... Mọi người giàu cũng như nghèo đều nghỉ lễ ca hát tưng bừng.”

Cùng ngày đó, một cậu bé trai khác tên là Tom Canty đã chào đời trong một gia đình nghèo túng và lụp xụp tại London: “Nó là một đứa bé mà không ai muốn.” Không một ai trông đợi sự ra đời của nó. Không một ai hy vọng hoặc cầu nguyện cho nó. Khi nó chào đời thì không ai ca hát hoặc mừng rỡ cho nó.

Cả hai đều lớn lên trong hai hoàn cảnh khác nhau. Cả hai đều lớn lên với cái nhìn khác nhau về thế giới. Tuy nhiên, điều giống nhau giữa hai đứa bé đó là chúng đều lớn lên trong vui tươi, rạng rỡ, và hăng hái mà chúng ta có thể nhìn thấy ở nơi những đứa con trai khác.

Một ngày nọ, Tom Canty đứng ngoài cửa cung điện. Nó rất ngạc nhiên do sự huy hoàng của cung điện. Khi nó tiến đến gần cánh cửa để có thể nhìn cho rõ hơn thì bất chợt nó bị hai tên lính bắt nó và quăng xuống đất.

Cùng một lúc đó, vị hoàng tử trong cung nhìn thấy thảm cảnh của Tom liền chạy đến bênh đỡ. Sau đó, các tên lính canh rất ngạc nhiên khi họ nhìn thấy hoàng tử đã mời Tom vào trong cung điện để thăm quan.

Sau đó, hoàng tử nảy ra một ý kiến là tráo đổi cuộc sống của nhau. Hoàng tử thì mặc quần áo rách rưới của Tom, và đi thang lang qua các ngõ hẻm nghèo nàn với những người nghèo khổ. Còn Tom thì mang bộ đồ hoàng gia và vàng ròng.

Sau một thời gian, khi hoàng tử trở về hoàng cung thì bị lính chận lại. Khi hoàng tử cố gắng kể về thân phận thật sự của mình họ không tin và đã tóm cổ hoàng tử giam trong nhà tù.

Để rút ngắn câu truyện, khúc kết của câu truyện đó là mọi sự đều được sáng tỏ. Tuy nhiên, trong tiến trình đó, một điều quan trọng đã xảy ra. Sau cái lần đi vào những nơi nghèo khổ, hoàng tử đã học được bài học đầu tiên thế nào là sống nghèo khổ, thế nào là bị chà đạp, thế nào là bị đối xử bất công. Sau đó, hoàng tử đã được trở thành một ông vua. Một ông vua nhân từ và được nhiều người mến chuộng nhất trong suốt thời kỳ hoàng tộc nước Anh.

Câu truyện Hoàng Tử và Người Nghèo thì cũng giống như câu truyện về Chúa Giêsu và mỗi người chúng ta. Chúng ta những đứa trẻ nghèo khổ, còn Chúa Giêsu là hoàng tử, được tiền định là Vua của tất cả tạo vật.

25. Vương quyền của Giêsu

Nét đặc sắc của vương quyền nơi Ngài chính là tinh thần phục vụ:

- Con Người đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.

Nơi khác Ngài cũng xác quyết:

- Thày sống giữa anh em như kẻ hầu bàn.

Ngài làm vua bằng cách cúi xuống để rửa chân cho các môn đệ. Và hành động phục vụ cao cả nhất chính là cái chết trên thập giá. Nhưng cũng chính nhờ cái chết này mà Ngài được tôn vinh:

- Ngày nào Thày bị treo lên khỏi đất, Thày sẽ kéo mọi sự lên cùng Thày.

Và thánh Phaolô đã xác quyết:

- Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá, nên Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài lên, tặng ban một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.

Với chúng ta thì sao? Một khi tuyên xưng Đức Kitô là vua, chúng ta cũng phải thực thi tinh thần phục vụ của Ngài. Đây cũng chính là điều Ngài mong muốn:

- Nếu các con gọi Ta là Thày và là Chúa mà Ta còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.

Nơi khác Ngài cũng xác quyết:

- Vua chúa trần gian thì lấy quyền hành mà thống trị họ. Còn các con thì không như thế, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy trở nên rốt hết và làm tôi tớ cho mọi người.

Chính nhờ tinh thần phục vụ này mà chúng ta trở nên ánh sáng, trở nên muối mặn, trở nên men bột, hầu góp phần làm cho nước Chúa được trị đến.

26. Người xét xử bị xét xử

Hãy lấy trường hợp của Louise Woodward, một người Anh 19 tuổi mà ban bồi thẩm ở Massachusetts tin rằng năm 1998 cô đã giết chết một em bé tám tháng tuổi, Matthen Eappen được giao cho cô chăm sóc. Nhưng nhiều người theo dõi vụ án đã tin rằng công lý đã mắc sai lầm. Người ta cho rằng cô đã giết em bé vì lầm thuốc. Nhưng đây chỉ là sự nghi ngờ hợp lý và ban bồi thẩm khó có thể tìm ra bằng chứng giết người – Đoàn luật sư được kêu gọi chống lại bản án cho cô.

Lúc đầu vụ án, Louise là một bị cáo. Nhưng giờ đây mọi tập trung đều hướng về quan tòa Hiller Zobel, ông đã xem lại bản án. Trong lúc chờ đợi quyết định của ông, nhiều câu hỏi được đặt ra về tính cách của ông. Người ta nói rằng ông là người có tư tưởng độc lập. Một người không bị dư luận làm dao động hoặc nhượng bộ một áp lực. Bản án ông đang đi đến sẽ cho biết những nhận xét ấy về ông có đúng hay không. Giờ đây, chính quan tòa Zobel đang được xét xử.

Sau khi cân nhắc cẩn thận Zobel thay đổi bản án của ban bồi thẩm là giết người mức độ hai thành tội ngộ sát. Vâng một em bé đã chết và Louise đã bị khiển trách về cái chết ấy. Nhưng cô không phải là kẻ sát nhân. Và khi cô đã phục vụ mười bảy tháng trong nhà tù. Cô được trả tự do. Trong con mắt của những quan sát viên trung lập, bản án của ông là đúng đắn. Từ vụ đó, danh tiếng của quan tòa Zobel được nâng cao. Ông đã chứng tỏ là một người quan tâm đến công lý với tất cả sự nhiệt thành.

Hình ảnh của cảnh tượng trong Tin Mừng hôm nay. Đơn độc và không vũ khí, Đức Giêsu đứng trước Philatô trong vụ xử liên quan đến mạng sống của Người. Người đã bị những người Do thái kết án gây ra xáo trộn trong dân, và nói với họ đóng thuế cho xê-da là sai lầm.

27. Vương miện dành cho người xứng đáng

Vào thời Thập tự viễn chinh nhằm bảo vệ Thánh địa và bảo đảm an ninh cho khách hành hương, vua Philip nước Pháp làm một cử chỉ lạ thường, trước mỗi lần lên đường ông cho tháo triều thiên đang đội trên đầu rồi đặt lên bàn với hàng chữ: Triều thiên này dành cho người nào xứng đáng nhất. Sau đó ông quy tụ các tướng lãnh trước mặt ông và yêu cầu họ hãy quên ông là vua, là chỉ huy của họ, ông chỉ vào vương miện trên bàn và nói với mọi người rằng: “Vương miện này dành cho ai tỏ ra xứng đáng nhất trong cuộc chiến đấu.”

Cuộc viễn chinh đã hoàn tất cách vẻ vang, mọi người hát khúc khải hoàn trở về tụ tập lại xung quanh chiếc vương miện, và một vị tướng lãnh tiến lại cầm vương miện đội lên đầu vua: “Tâu bệ hạ, bệ hạ là người xứng đáng nhất để đội triều thiên này.”

28. Vua sự thật

Oliver Cromwell, chính trị gia và nhà quân sự kiệt xuất của nước Anh, nhờ một hoạ sĩ vẽ một bức chân dung cho ông.

Khi bức tranh hoàn thành, Cromwell xem bức tranh và thấy hoạ sĩ đã vẽ ông đẹp hơn thực tế, như bỏ qua những mụn cơm trên mặt ông.

Cromwell không chịu nhận bức chân dung đó, và đòi hoạ sĩ phải vẽ một bức khác y như thật, kể cả những vết sứt sẹo trên mặt ông.

Trong thực tế cuộc sống, người ta bị cám dỗ trốn tránh sự thật, để nên nô lệ cho một ý thức hệ, một trào lưu, một quan điểm nào đó về cuộc sống; lại nữa, sự sống và ơn cứu độ tự nó là thực tại vượt quá tầm trí hiểu con người. Làm sao đến đích được nếu đi sai đường?

Thế nên, ít khi Đức Kitô dùng những kiểu nói của toán học vì ngôn ngữ nào của nhân loại cũng lúng túng trước những sự thật phong phú, kỳ diệu của cuộc sống bình thường, nói chi đến mầu nhiệm về sự sống siêu nhiên: “Nước Trời giống như chuyện hạt cải... gieo trong ruộng... giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba thúng bột” (Mt 13,31.33).

Chúa đã nói: “tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta (…) Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55,8-9). Vì thế mà “Đức Giê-su dùng dụ ngôn mà nói với đám đông; và Người không nói gì với họ mà không dùng dụ ngôn” (Mt 13,34-35).

Có thế mới hay tầm mức quan trọng của những công bố mang tính toán học, không thể hiểu khác đi, trong lời Đức rao giảng của Kitô: “Ta là đường, là sự thật và là sự sống; Này là Mình Ta, này là Máu Ta... ”; nhất là khi đứng trước Philatô, người thẩm định sự thật đại diện cho nhân loại, Đức Kitô nói rõ về vai trò cứu thế, đứng đầu một vương quốc của Ngài: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 14,6;18,37)

29. Sự thật giải thoát

Bob Evans bị mù từ bẩm sinh. Đến năm mười lăm tuổi em được giải phẫu và thị lực của em bắt đầu hoạt động bình thường như mọi người. Lần đầu tiên em được nhìn thấy mọi vật.

Tâm trạng của Evans trở nên hết sức khác thường khi được nhìn thấy. Cả thế giới đều biến đổi ngoài sức tưởng tượng. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn của báo chí, Evans đã nói: “Tôi không thể chờ đợi cho đến khi thức dậy vào buổi sáng mới xem những gì tôi có thể nhìn xem. Thực là một điều rất kỳ diệu trên đời. Ban đêm, tôi nhìn lên những vì sao lấp lánh... Hầu như lúc nào tôi cũng thấy lòng mình lâng lâng. Quý vị có lẽ không thể biết được đối với tôi, vạn vật tuyệt vời như thế nào.”

Cũng thế, trong cùng một thế giới, Đức Kitô đã thay đổi tất cả bằng cách làm chứng cho sự thật về sự phù ảo của thế gian và sự thật về sự sống vĩnh cửu cho ai tin vào Chúa.

Sự thật đó thực sự đem lại ơn giải thoát cho người tin: “Quả vậy, chúng ta đã không mang gì vào trần gian, thì cũng chẳng mang gì ra được. Vậy nếu có cơm ăn áo mặc, ta hãy lấy thế làm đủ” (1Tm 6,7-8); vì “thế gian đang qua đi, cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi” (1Ga 2,17).

Đó là Tin Mừng Đức Kitô mang lại cho nhân loại đang bơ vơ vất vưởng giữa đời. Tôi có đang sống trong niềm vui và bình an không, hay nói cách khác, tôi có lắng tai và nghe được tiếng Chúa không?

30. Gặp vua của sự thật

Bảo Đại là vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn và cũng là vị vua cuối cùng của Việt Nam. Nếu những vị vua đầu của triều Nguyễn, nhất là Minh Mạng và Tự Đức đã cấm Đạo Chúa gắt gao, sát hại biết bao người Công Giáo, thì vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn là Bảo Đại đã tìm ra nguồn sống thật là Đạo Chúa.

Trước hết, ông dẹp bỏ tục đa thê trong triều đình và quyết định cưới cô Maria Têrêxa Nguyễn Hữu Thị Lan, một thiếu nữ Công Giáo làm hoàng hậu. Mọi người trong triều đình phản đối quyết định này của nhà vua, nhưng ông vẫn cương quyết thực hiện. Hôn lễ được tổ chức long trọng vào ngày 20/3/1934. Quả thật, những năm tháng sau đó, hoàng hậu Nam Phương cùng hai hoàng tử và ba công chúa được tự do giữ đạo.

Trong thời gian sống lưu vong tại nước Pháp, vào ngày 17/4/1988, cựu hoàng Bảo Đại đã xin chịu phép rửa tội gia nhập đạo Công Giáo. Ông mơ ước được quỳ bên cạnh đấng kế vị thánh Phêrô để cầu nguyện cho quê hương Việt Nam và Giáo Hội Việt Nam. Ngày 24/6/1995, ông và phu nhân đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tiếp kiến riêng tại phòng khách của điện Vatican. Ngày 1/8/1997, cựu hoàng Bảo Đại qua đời tại Paris, nước Pháp, thọ 83 tuổi.

Câu chuyện về cuộc đời của vị vua Việt Nam cuối cùng làm cho chúng ta phải suy nghĩ: một vị vua đã mất cả đời để đi tìm một vị Vua… Đúng thế, cuộc đời đầy sóng gió của vua Bảo Đại chính là một cuộc hành trình dài đi tìm chân lý. Đến cuối cuộc hành trình, ông đã gặp gỡ được Đức Kitô, Vua Sự Thật.

31. Ai là vua của bạn?

Vào năm 1925 Đức Giáo Hoàng Piô XI thiết lập lễ tôn kính Đức Kitô Vua, lễ này được đặt vào ngày chúa nhật cuối tháng 10. Giáo Hội qua nhiều thế kỷ đã tôn kính Đức Kitô như là Vua trong cuộc rước vào ngày Lễ Lá nhưng Đức Giáo Hoàng thấy có nhu cầu thiết lập một lễ đặc biệt, để chống lại chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa vật chất của kỷ nguyên này. Trong xứ sở Hoa Kỳ, kỷ nguyên được gọi là tiếng gầm thứ hai mươi.

Đức Giáo Hoàng Piô XI đã đặt lễ vào Chúa nhật cuối tháng 10 và tiếp đó là lễ Các Thánh. Sự nhận biết của phụng vụ mừng các môn đệ đã bước vào trong vương quốc trên trời. Công đồng Vatican II đã đổi mới và chuyển lễ Kitô Vua vào chúa nhật cuối năm phụng vụ như đặt một biểu hiệu của vương quốc, mặc dầu đang hiện diện giữa chúng ta và vẫn còn đang đến: “Chúng ta chờ đợi trong niềm hy vọng vui mừng ngày Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta sẽ đến.” Đấng sẽ mang lại vương quốc của Ngài tới sự hoàn hảo khi Ngài trở lại trong vinh quang cho ngày Phục Sinh chung.

Theo sắc lệnh của Đức Giáo Hoàng Piô XI vào năm 1925 liên quan đến Đức Kitô Vua, Ngài muốn làm cho cả thế giới chú ý tới nhu cầu thiết lập những giá trị tinh thần như là những hướng dẫn cho đời sống. Những lời của Đức Giáo Hoàng hầu như không được mấy ai chú ý đến. Nước Mỹ đặc biệt vẫn tiếp tục tinh thần tham lam, nhấn mạnh là mọi người đều có thể trở nên giàu có, có thể có tài sản mà không cần làm việc. Người ta có nhiều cấp độ kinh tế khác nhau, “ngay cả những chàng trai đánh giày” cũng như một sử gia đã nói “cũng lao vào chợ hàng hóa.” Cuộc khủng hoảng vào năm 1929 đã đổ vỡ là một điều không thể tránh được.

Thất là đau buồn khi nhận biết rằng sắc lệnh đã được viết bởi Đức Giáo Hoàng vào năm 1925, có thể là bản chúc thư mà ngài đã sáng tác vào những tuần cuối đời Giáo Hoàng của ngài. Chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa vật chất đi đến sự thất bại trong cuộc khủng hoảng tài chính vào năm 1929, dẫn đến trong thời đại của chúng ta một hậu quả khôn lường, đó là khủng hoảng về tiết kiệm và những món nợ chồng chất trong những năm gần đây. Việc cử hành phụng vụ của chúng ta về Đức Kitô là Vua, thách đố chúng ta bất chấp những thất bại trong lãnh vực tài chính hoặc trong thái độ thiêng liêng của chúng ta, điều quan trọng nhất không phải sự tham lam đã dẫn tới sự sụp đổ tài chính nhưng chính việc loại bỏ những giáo huấn và gương mẫu của Đức Kitô Vua.

32. Nước tôi không thuộc về thế gian này

Màn thứ ba của vở kịch “Thị trấn của chúng ta” bắt đầu bằng cảnh người thuật chuyện đi đến giữa những nấm mồ của nghĩa trang Grover's Corners của thị trấn New Hampshire. Ông ta dừng lại và nói với khán giả: “Nhiều người đau khổ đang yên nghỉ nơi đây.” Ông ta ngừng lại một lát, rồi nói tiếp: “Tất cả chúng ta biết có một cái gì đó vĩnh hằng. Đó không phải là nhà cửa… không phải là trái đất này, cũng chẳng phải là các tinh tú… Mọi người đều biết có cái gì liên quan đến con người. Họ chờ đợi một cái gì đó đang đến, một cái gì đó thật quan trọng. Phải chăng họ đang chờ đợi phần vĩnh cửu của họ được sáng tỏ? Cũng như Nước Chúa, nhân loại chúng ta cũng thuộc về một thế giới khác.”

Tôi có thoải mái nơi thế gian này không? Tại sao?

Tất cả những gì không vĩnh hằng, mãi mãi không có giá trị (C.S. Lewis).

CNTN 34C -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

THỨ HAI - CHO ÐI TẤT CẢ

Lời Chúa: Lc 21, 1-4

Khi ấy, Chúa Giêsu nhìn lên, thấy những người giàu có bỏ tiền dâng cúng vào hòm tiền. Người cũng thấy một bà goá nghèo khó bỏ vào đó hai đồng tiền nhỏ, nên bảo rằng: "Thầy bảo thật các con, bà goá nghèo khó này đã bỏ vào hòm tiền nhiều hơn mọi người.

Vì mọi người kia lấy của dư thừa mà dâng cho Thiên Chúa, còn bà này túng thiếu, bà đã dâng tất cả những gì bà có để nuôi sống mình."

TRUYỆN KỂ

1. Bỏ vào tất cả

Thánh Luca là văn sĩ tuyệt vời viết về sự hiền dịu của Đức Kitô. Nhưng thánh nhân cũng là người nhấn mạnh đến sự đòi hỏi. Thầy Giêsu đòi ai muốn theo Ngài phải từ bỏ tất cả (Lc 14, 33).

Các môn đệ đầu tiên như Simon, Gioan, Giacôbê, Lêvi, đều là những người đã bỏ tất cả để theo Thầy (Lc 5, 11. 28).

Bà góa nghèo trong bài Tin Mừng hôm nay (c.4) cũng là người đã bỏ vào thùng tiền tất cả những gì bà có để sinh sống.

Tất cả và trọn vẹn, chính là điều Thiên Chúa đòi hỏi nơi con người.

2. Người Ðàn Bà Góa

Có rất nhiều câu chuyện về những người nghèo chia sẻ một cách hào phóng cho những người túng thiếu. Câu chuyện cảm động nhất hẳn phải là câu chuyện của bà góa thành Xêrepta thời tiên tri Êlia:

Toàn vùng phải trải qua một cơn hạn hán lâu dài, trong nhà người đàn bà chỉ còn lại một ít bột và một vài giọt dầu cuối cùng đủ để bà chuẩn bị một bữa ăn cuối cùng cho bà và đứa con trai nhỏ. Vừa gặp người đàn bà đang đi kiếm củi, tiên tri Êlia đã nói hầu như ra lệnh cho bà rằng: "Hãy chuẩn bị thức ăn cho ông!" Không một chút do dự hay chống chế, người đàn bà khốn khổ đã làm theo lời vị tiên tri và phép lạ từ lòng quảng đại của bà đã diễn ra: một vò dầu trong nhà bà không bao giờ cạn cho đến khi cơn hạn hán chấm dứt.

Người đàn bà góa mà Chúa Giêsu đã nhìn thấy cử chỉ quảng đại trong Tin Mừng hôm nay cũng chia sẻ một cách hào phóng chẳng khác nào người đàn bà góa thời tiên tri Êlia. Cùng với những người giầu có đang lũ lượt đi tới trước hòm tiền để dâng cúng, người đàn bà góa chỉ bỏ đúng có hai đồng xu nhỏ.

3. Cho người điều mình đang cần

Mẹ Têrêsa Calcuta cũng có lần kể lại một câu chuyện tương tự: "Một năm nọ, có một người phụ nữ nghèo đến gõ cửa xin giúp đỡ. Người đàn bà cho biết rằng bà có tám đứa con nhỏ và từ nhiều ngày qua, trong nhà không còn một hột gạo. Mẹ Têrêsa lấy gạo trao cho người đàn bà. Số gạo vừa đủ cho bà và các con bà. Nhưng trước sự ngạc nhiên của mẹ, người đàn bà xin một bao trống, chia số gạo làm hai rồi giải thích rằng bên cạnh nhà bà còn có một gia đình Hồi giáo cũng không còn gạo ăn từ nhiều ngày qua."

Người đàn bà nghèo muốn chia sẻ một nửa những gì mình đang có cho người láng giềng của mình.

4. Dâng cho Chúa tất cả tấm lòng

Một ngày nọ, Mẹ Têrêsa đi xuống phố, một người ăn mày chạy đến gặp mẹ và nói: “Thưa mẹ Têrêsa, mọi người đều cho mẹ tiền để giúp người bệnh tật." Anh nói thêm với giọng hơi buồn: “Con cũng muốn cho mẹ tiền. Nhưng suốt cả ngày hôm nay, con chỉ có được ba mươi xu. Dù ít, nhưng con muốn cho mẹ số tiền ấy." Mẹ Têrêsa suy nghĩ một lúc: “Nếu mình lấy ba mươi xu thì tối nay anh ta sẽ phải nhịn ăn; còn nếu không lấy, sẽ làm tình cảm anh ta tổn thương." Vì thế, Mẹ đưa tay ra để lấy số tiền ấy và cám ơn anh.

Mẹ chia sẻ: “Tôi chưa bao giờ thấy được niềm vui như thế trên khuôn mặt của bất cứ ai như trên khuôn mặt của người ăn mày đó khi anh ta nghĩ rằng mình cũng đã cho tiền mẹ Têrêsa làm bác ái… Số tiền thật bé nhỏ đó trở nên gấp ngàn lần bởi vì nó đã được cho với bao yêu thương của anh." Mẹ nhấn mạnh: “Thiên Chúa nhìn thấy không phải là sự to tát của công việc, mà vào tình yêu thương qua đó công việc được hoàn thành."

5. Bà Oseola Mc Carthy.

Báo New York Times đưa tin bà Oseola Mc Carthy: Biểu tượng “Lòng từ thiện” của nước Mỹ, vừa qua đời ngày 03/10/1999 ở tuổi 91.

Vào một ngày của tháng 7/95, ông hiệu trưởng trường đại học phía bắc Missisipi đã vô cùng ngạc nhiên, khi có một phụ nữ xa lạ tên là Oseola Mc Carthy xin được tặng 150.000 đôla làm quĩ học bổng cho các sinh viên nghèo của trường, mà không cần được ghi danh tưởng niệm hay tuyên bố công khai. Nhà trường còn sửng sốt hơn khi biết người phụ nữ ấy làm nghề giặt ủi, và số tiền kia là tiền dành dụm cả một đời người.

Ngay khi biết câu chuyện bà Mc Carthy tặng tất cả tiền bạc mình có làm quỹ học bổng cho trường, ông tỷ phú Ted Turner, trùm ngành kinh doanh cáp truyền hình Mỹ, đã tuyên bố góp thêm một tỷ đôla cho quỹ. Ông nói: ”Người phụ nữ nhỏ bé ấy đã dám ban tặng tất cả những gì bà có, thì tôi thấy mình cũng phải đóng góp phần của tôi là một tỷ đôla."

6. Cho phải nhiều hơn nhận

Một Linh mục nọ có thói quen hằng ngày viết trong nhật ký số quà nhận được và số quà cho đi. Thỉnh thoảng ngồi kiểm lại, nếu thấy phần nhận nhiều hơn phần cho, vị Linh mục ấy điều chỉnh lại điều phần cho nhiều hơn phần nhận.

Qua câu chuyện bà góa dâng hai đồng tiền kẽm vào Đến thờ, Đức Giêsu muốn dạy chúng bài học về việc cho đi cách quảng đại, cho đi mà không tính toán hon thiệt, cho đi bằng cả tấm lòng. Khi chúng ta quảng đại cho đi cả những gì cần thiết để duy trì mạng sống mình, là lúc chúng ta đang cho đi chính bản thân. Xét cho cùng, lòng quảng đại chính là trao tặng chính bản thân mình, dâng hiến mạng sống mình cho tha nhân.

7. Rất nghèo mà rất giàu

Vào một mùa đông, tại một đất nước Châu Âu, một em bé 13 tuổi nghe nhà trường thông báo đợt lạc quyên tiền bạc và phẩm vật làm quà Giáng sinh cho các trẻ em nghèo trong vùng. Em đã dành dụm mọi chi tiêu vốn ít ỏi của em trong suốt 3 tháng. Khi đã được 15 đồng, em quyết định đón xe đò từ làng lên phố. Bất ngờ, một trận bão tuyết ập đến dữ dội làm tắt nghẽn mọi hoạt động giao thông. Không chịu bỏ cuộc, em xuống xe, co ro lội bộ băng qua cánh đồng đầy ngập tuyết trắng xóa và gió lốc lạnh buốt.

Ông hiệu trưởng nghe báo có người muốn đang đợi ở phòng khách. Ông thực sự kinh ngạc sửng sốt khi nhận món tiến chia sẻ từ tay em bé, bởi vì trước mặt ông chính là một trong số những em bé nghèo mà ông và nhà trường đã đưa vào danh sách tặng quà giáng sinh năm đó.

8. Biết cho đi là biết sống

Ở bên Palestine có hai biển hồ. Biển hồ thứ nhất gọi là biển Chết. Đúng như tên gọi, không có sự sống nào có thể sống ở bên trong cũng như xung quanh biển hồ này. Chẳng ai muốn sống gần đó. Còn biển hồ thứ hai là Galilê. Đây là biển hồ thu hút nhiều du khách nhất. Nước ở biển hồ này lúc nào cũng trong xanh mát rượi, con người có thể uống được và cá cũng sống được. Nhà cửa được xây cất rất nhiều. Vườn cây xung quanh rất tốt tươi nhờ nguồn nước này...

Nhưng điều kỳ lạ là cả hai biển hồ này đều nhận được nguồn nước từ những khe suối ở trong núi chảy ra, rồi qua sông Giodan chảy vào biển Chết. Biển Chết đón nhận và giữ lại riêng cho mình mà không chia sẻ nên nước trong biển Chết trở nên mặn chát, nồng độ muối rất cao không sinh vật nào có thể chịu được. Biển hồ Galilê cũng đón nhận những nguồn nước như thế rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch, nhờ vậy nước trong biển hồ này luôn sạch và mang lại sự sống cho cây cối, muông thú và con người.

Một trong những định nghĩa về cuộc sống mà ai cũng đồng tình: một ánh lửa chia sẻ là một ánh lửa lan tỏa. Một đồng tiền kinh doanh là một đồng tiền sinh lời. Đôi môi có hé mở mới thu nhận được nụ cười. Bàn tay có mở rộng trao ban thì tâm hồn mới tràn ngập vui sướng.

Thật bất hạnh cho ai cả cuộc đời chỉ biết giữ riêng cho mình. “Sự sống”, trong họ rồi cũng sẽ chết dần, chết mòn không làm nảy sinh được cái gì tốt giống như nước trong lòng biển Chết.

9. Viên gạch của bà già nghèo

Năm 1830, khi thánh Gioan Vianey sửa lại nhà thờ xứ Ars, có một bà già đem đến cho Ngài một đồng bạc, để dâng cúng vào việc tu bổ thánh đường. Thấy bà già quá nghèo nàn và vất vả, thánh Gioan không dám nhận. Ngài sợ bà phải hy sinh nhiều quá nên mới nói với bà:

- Cha cám ơn lòng tốt của bà, và chắc Chúa cũng đã nhìn thấy lòng rộng rãi và sốt sắng của bà rồi. Bà quá vất vả và thiếu thốn, nên xin bà hãy giữ lấy đồng bạc này để tiêu xài cho những thứ cần thiết.

Lúc ấy bà già đã thưa lại cách khiêm tốn rằng:

- Thưa cha, nếu Chúa cho con có của, con sẽ dâng cúng cho Chúa nhiều hơn, nhưng vì con nghèo, nên con chỉ có thế này để dâng cúng cho Chúa. Nhưng đây là tất cả tấm lòng yêu mến của con. Vậy xin cha hãy nhận lấy đồng bạc của con. Với đồng bạc này, nếu cha không mua được cái gì quí giá, thì xin cha hãy mua một viên gạch lát trong nhà thờ, để mỗi khi Chúa Giêsu ngự trong nhà tạm nhìn ra trông thấy viên gạch ấy, Chúa sẽ nhớ tới con.

10. Thua mà không bại

Trong cuốn “Làm thế nào để thua mà không bại”, Jim Macholtz đã viết lại bài Kinh thánh hôm nay dành cho những vận động viên trẻ như sau: “Một huấn luyện viên và người phụ tá đang quan sát những bài tập thể chất của đội. Sau khi đội hoàn thành bài tập, huấn luyện viên chỉ vào một vận động viên có ít năng khiếu nhất và nói: “Em đó nỗ lực hơn cả. Những người khác có khả năng hơn, còn em, em đã cho đi tất cả những gì em có, không còn gì để cho nữa.”

Theo bậc thang từ một đến mười, tôi nỗ lực hết mức độ vào trong cuộc đua thiêng liêng chạy đến cuộc sống vĩnh cửu?

Mức độ của tình yêu là yêu không mức độ (Thánh Benađô)

11. Đừng mong có lợi

Một bà mẹ đạo đức dẫn một đứa con trai nhỏ đến nhà thờ viếng Chúa, và để tập cho con có lòng bác ái, bà đưa cho cậu vài đồng bạc cắc để chính tay cậu bỏ vào thùng đựng tiền bố thí đặt ở cuối nhà thờ. Cậu bé nhanh nhẹn bỏ tiền vào một lỗ nhỏ ở trên nắp thùng. Được một lát, cậu bé bỗng bật khóc nức nở.

- Việc gì vậy con? Bà mẹ lo lắng hỏi,

- Mẹ ơi, con đã bỏ tiền vào thùng rồi mà sao nẫy giờ chẳng thấy có cái gì rơi ra cả, hở mẹ?

Thì ra thế! Thằng bé con tưởng đó là thùng bán đồ tự động như ở trong cửa tiệm, cứ bỏ tiền vào là một thỏi sôcôla hoặc một gói báng tương ứng với món tiền sẽ rơi ra ngay.

Việc bố thí, tiền dâng cúng của mỗi người chúng ta phải là sự trao ban tự nguyện và hoàn toàn vô vị lợi, chứ không phải là một sự trao đổi, với người khác,... và với Thiên Chúa.

"Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào nhiều hơn ai hết. Quả vậy, tất cả những người kia đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ, mà bỏ vào dâng cúng; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình, mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình." (Lc 21,3-4)

12. Bao nhiêu là nhiều?

Hồi tháng 6/2010, hai tỷ phú Mỹ, Bill Gates và Warren Buffett phát động chiến dịch “Cam kết Từ thiện.” Hơn 40 nhà tỷ phú, người thì hứa hiến tặng một nửa tài sản, người thì cam kết biếu toàn bộ tài sản của mình cho việc từ thiện sau khi họ qua đời. Tổng số tiền cam kết đã lên đến hàng trăm tỷ đôla. Và con số các nhà tỷ phú hưởng ứng chiến dịch này còn tiếp tục gia tăng. Tấm lòng hảo tâm của họ thật đáng ngưỡng mộ và chắc chắn hàng triệu con người bất hạnh sẽ được hưởng nhờ.

Số tiền khổng lồ đó là cả một đại dương so với giọt nước là hai đồng tiền kẽm của bà goá nghèo kia. Thế mà đối với Chúa Giêsu bà lại là người đã cho nhiều nhất. Người không chỉ nhìn thấy bên ngoài mà còn nhìn thấy tận đáy lòng bà và đánh giá cao hành động can đảm của bà. Những người khác cho đi tiền dư bạc thừa của mình sau khi chết; còn bà, bà không so đo suy tính mà đã cho đi tất cả những gì bà có để nuôi sống.

Cuộc sống quanh ta vẫn có nhiều cách biệt giữa người giàu và người nghèo. Bạn có biết rằng những cái dư thừa của mình lại là những nhu cầu thiết yếu của bao người không? Cái ăn, cái mặc luôn là điều làm bạn quan tâm thế nhưng đôi khi ta lại tính toán dè sẻn hoặc thậm chí từ chối chia sẻ cho nhiều người khác đang thiếu thốn.

THỨ BA – CHÚA SẼ ĐẾN

Lời Chúa: Lc 21, 5-11

Khi ấy, có mấy người trầm trồ về đền thờ được trang hoàng bằng đá tốt và những lễ vật quý, nên Chúa Giêsu phán rằng: "Những gì các con nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá." Bấy giờ các ông hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, bao giờ những sự ấy sẽ xảy ra, và cứ dấu nào mà biết những sự đó sắp xảy đến?" Người phán: "Các con hãy ý tứ kẻo bị người ta lừa dối: vì chưng, sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà tự xưng rằng: "Chính ta đây và thời gian đã gần đến", các con chớ đi theo chúng. Khi các con nghe nói có chiến tranh loạn lạc, các con đừng sợ: vì những sự ấy phải đến trước đã, nhưng chưa phải là hết đời ngay đâu."

Bấy giờ Người phán cùng các ông ấy rằng: "Dân này sẽ nổi dậy chống lại dân kia, và nước này sẽ chống với nước nọ. Sẽ có những cuộc động đất lớn mọi nơi, sẽ có ôn dịch đói khát, những hiện tượng kinh khủng từ trên trời và những điềm lạ cả thể."

TRUYỆN KỂ

1. Sắm sẵn hành trang chưa?

Một quan lớn kia có nuôi một tên hề để hầu hạ. Quan trao cho nó một cây gậy, bảo nó cứ giữ cho đến khi có ai điên rồ hơn nó thì hãy cho.

Cách vài hôm sau, quan thọ bệnh nguy kịch. Hề ta vào thăm, hỏi rằng:

- Khi qua đời rồi, quan sẽ đi đâu?

- Ta đi xa lắm.

- Vậy bao giờ quan về? Một tháng nữa chăng?

- Không.

- Một năm à?

- Cũng không.

- Vậy thì bao giờ quan mới về?

- Chẳng bao giờ về được.

- Thế thì trong cuộc lãng du đó quan đã sắm sẵn hành trang gì chưa?

- Chưa sắm gì hết.

- Đi xa mà chẳng có hành trang gì, quan thật điên hơn tôi. Vậy xin nhận lấy cây gậy này.

2. Nơi đến quan trọng hơn con đường

Các nhà văn muốn viết một quyển truyện hay thường nghĩ trước phần kết của câu truyện. Chúng ta muốn viết quyển truyện đời mình cho hay thì cũng phải nghĩ trước về ngày chết của mình, đừng như nhân vật trong chuyện dưới đây:

“Nhà khoa học Huxley đang gấp vì sợ đến trễ phiên họp trong đó ông phải đọc một bài tham luận. Ông nhảy lên một chiếc xe ngựa và bảo người đánh ngựa “Hãy chạy hết tốc lực." Xe chạy một quãng, ông mới giật mình hỏi “Nhưng mà ta đang chạy đi đâu vậy?" Người đánh ngựa đáp: “Tôi cũng chẳng biết, chỉ biết là xe đang chạy hết tốc lực."

Trên vòng bán nguyệt của khung cửa chính của Nhà thờ chính tòa Milanô người ta thấy có khắc ba dòng chữ. Phía dưới hình hoa hồng được trạm trổ tinh vi của vòng bán nguyệt thứ nhất, người ta đọc được dòng chữ: “Mọi hạnh phúc chỉ kéo dài trong khoảnh khắc!" Bên vòng bán nguyệt của khung cửa kia, dưới hình một cây Thập Giá, có dòng chữ: “Mọi đau khổ chỉ kéo dài trong khoảnh khắc."

Và ở vòng bán nguyệt của khung cửa giữa dẫn vào lòng chính Vương cung Thánh Đường có khắc dòng chữ: “Chỉ có sự đời đời mới là quan trọng nhất!”

3. Mong được biết đến bao lâu?

Một hôm trong một cuộc nói chuyện, một giáo sư dạy triết hỏi các sinh viên của mình:

- Em nào trả lời câu hỏi của thầy thì giơ tay lên - thầy nói với cả lớp.

- Ai có thể kể về cha mẹ mình?

Mọi người đều giơ tay.

- Ai có thể kề về ông bà mình?

Khoảng ba phần tư lớp giơ tay.

- Vậy em nào có thể kề về ông bà cố của mình?

Chỉ hai trong số 60 sinh viên giơ tay.

- Giờ thì các em hãy suy nghĩ kỹ đi nào - thầy bảo - Chỉ mới cách có hai thế hệ mà rất ít người biết cụ cố mình là ai. Có thể các em từng thấy một bức ảnh cũ kỹ phai màu được cất kỹ trong hộp thuốc lá mốc meo, hay đã nghe kề một câu chuyện tiêu biểu về gia tộc mình, và biết có người trong tổ tiên mình đã lội bộ năm dặm đường để đến trường. Nhưng mấy người trong các em thật sự biết tổ tiên của mình là ai, các cụ nghĩ gì, hãnh diện, lo sợ hay mơ ước điều gì. Các em thử nghĩ xem. Chỉ trong vòng ba thế hệ thôi mà các bậc tiền nhân đều đã bị lãng quên. Vậy, liệu điều đó có xảy đến với các em sau này không?

Để thầy nêu câu hỏi cụ thể hơn cho các em. Các em thử tương tượng xem ba thế hệ sau mình. Lúc ấy các em đã ra người thiên cổ lâu rồi. Chỗ các em ngồi bây giờ sẽ là chỗ của các chít chắt. Liệu chúng có biết gì về các em không? Hay là các em cũng sẽ chìm sâu trong dĩ vãng?

Các em muốn cuộc sống của mình hiện thời sẽ là dấu hiệu báo điềm xấu hay là tấm gương soi sáng cho các thề hệ sau? Các em sẽ để lại di sản nào? Sự lựa chọn hoàn toàn tùy thuộc vào quyết định của các em. Thôi bây giờ lớp chúng ta nghỉ. Không ai trong lớp đứng dậy và ùa về như mọi khi. Mọi người đều ngồi lại và suy nghĩ về lời thầy nói.

4. Từ hư vô đến hư vô cho người vô thần

Những chuyến bay định mệnh MH370 và MH17 trong năm qua vẫn còn làm thế giới bàng hoàng. Trong số những nạn nhân trên hai chuyến bay ấy, chắc hẳn không mấy người ngờ rằng đó là chuyến bay cuối cùng của đời mình. Mọi sự trên đời này, kể cả sự hiện hữu của chúng ta, tưởng là bền vững mãi mãi nhưng thực ra rất mong manh và mau qua chóng tàn. Lời Chúa trong những ngày cuối năm Phụng vụ nhắc nhở chúng ta về chân lý ấy. Đứng trước thành Giê-ru-sa-lem huy hoàng tráng lệ tưởng như sẽ mãi “trơ gan cùng tuế nguyệt”, Chúa Giê-su cảnh báo: “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết.”

Ba chú bé chiến thắng trong lò lửa mà cất lời ca tụng Chúa: “Muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn."

Một trong những sai lầm tệ hại nhất đời người là coi những sự tạm thời như những thực tại vĩnh cửu. Ngược lại, nếu biết nhận ra tính cách tạm thời của những sự đời này, chúng ta sẽ có cái nhìn rõ hơn để hướng về những thực tại bền vững trên trời.

5. Quo vadis

Phê-rô vẫn bị bắt và chịu đóng đinh ngược! Chính lúc ấy ông mới cảm thấy mình đã hoàn thành sứ mệnh Chúa trao, và biết rằng chân lý mà suốt đời ông truyền bá đã trở thành như một làn sóng bao trùm cả thành Roma, và không có quyền lực nào kìm hãm nổi. Phê-rô nghĩ thế, nên ông ngước mắt lên trời tạ ơn: “Chúa ơi, Ngài bảo con phải chiếm lĩnh cái thành phố Roma đang bá chủ thế giới này, con đã chiếm được nó. Người bảo con phải đặt nơi đó làm thủ đô của Người, vậy con đã đặt. Chúa ơi, giờ đây nó là thành phố của Người, còn con đang đến cùng Người đây. Con đã làm việc quá mệt rồi."

Lúc ấy ông Phê-rô đang bị lính bao vây, mà ông nhìn thành phố như một vị chúa tể, một vương quốc là di sản của mình, nên ông nói: “Đó là thành phố của tôi, và đã được chuộc tội."

Vậy không riêng những người trong đám lính đang đào hố để dựng cây thập giá treo ông Phê-rô, mà ngay cả những Ki-tô hữu cũng đoán được rằng: “Quả thực vị chúa tể của thành phố kia đang đứng ở giữa bọn họ, trong khi đó bao nhiêu hoàng đế đã qua đi, bao nhiêu làn sóng những kẻ dã man sẽ tràn qua, nhiều thế kỷ cũng qua, nhưng cụ già Phê-rô vẫn không ngừng trị vì ở chốn này”(x Quo Vadis)

6. Đền thờ

Năm 70 sau CN, thành Giêrusalem bị thất thủ và bị thiêu rụi, tướng Rôma là Titô đã bắt 97.000 người làm tù binh, và cho cày một luống cày chính giữa Đền thờ. Thế là chấm dứt ngôi Đền thờ nổi tiếng, để rồi trong gần 2000 năm, câu chúc luôn nằm trên môi miệng người Do Thái là “Hẹn năm sau về Giêrusalem.” Những lời tiên tri của Đức Giêsu đã được ứng nghiệm! Thế nhưng, với con mắt đức tin, ta khám phá ra một ý nghĩa khác về ngôi đền thờ như Đức Giêsu nói: “Hãy phá huỷ đền thờ này và trong ba ngày Tôi sẽ xây dựng lại.” Từ nay ngôi đền thờ vĩnh cửu mọi người phải qui hướng về là con người Đức Giêsu phục sinh. Mọi người đều được mời gọi bước vào Đền thờ-Đức Kitô phục sinh để gặp gỡ Thiên Chúa.

Nhớ rằng thân xác mỗi người cũng là đền thờ Thiên Chúa.

7. Bàn tay Chúa điều hành tất cả

Bốn vương quốc:Babylon, Mêđi, Ba tư và Hy Lạp thay phiên nhau thống trị miền Cận Đông trên 300 năm. Giấc mơ của vua Nabucodonosor bào trước rằng bốn vương quốc này sẽ được thay thế bằng một nước do Thiên Chúa thiết lập. Các tác giả Tin mừng cho thấy tảng đá là chính Chúa Giêsu. Như thánh Luca viết: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ, lại trở nên tảng đá gốc tường.”

Tôi có thực sự tin rằng Thiên Chúa họat động trong thế gian và kế hoạch của Ngài không thể thất bại không?

Có Thiên Chúa bênh đỡ, ai còn chống lại được chúng ta? (Rm 8,31)

8. Mùa gặt sau cùng

Chúa Giêsu áp dụng cho mình danh xưng Con Người hơn bất cứ danh xưng nào khác. Trong thị kiến của Gioan, Con Người ngự trên đám mây rõ ràng tượng trưng cho Chúa Giêsu. Đám mây tượng trưng cho Chúa Giêsu đến vào ngày tận thế. Triều thiên tượng trưng cho việc Ngài là một vị vua. Lưỡi liềm tượng trưng cho Ngài đến thu họach hoa trái của người công chính. Ngài đến để đưa họ về trời, ở đó tên của Ngài được ghi khắc trên trán họ và họ sẽ theo Ngài luôn mãi.

Việc tôi sẽ bị phán xét sau khi chết có tác dụng gì đến những hành động hiện tại của tôi?

Người đã thổi kèn báo hiệu mà không bao giờ có thể rút lại được. Người đang thanh lọc những con người đứng trước tòa phán xét. (Julia Ward Howe)

9. Cần biết điểm bắt đầu

Bộ phim “Cuộc sinh hạ đầu tiên”, nói về một người mẹ và hai đứa con trai nhỏ của bà. Bà ta bị chồng bỏ và đã sống cô đơn gần hai năm. Rồi một người đàn ông khác đến với bà. Nhưng các cậu bé nghi ngờ ông ta ngay và cố gắng khuyến cáo mẹ, nhưng chẳng ích gì. Cuối cùng, nỗi sợ hãi của các cậu bé đã thành sự thật và các cậu đã bỏ trốn đi. Hiểu sai con người và các trạng huống là điều dễ dàng. Đó là ý của Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy… Anh em chớ có theo họ.”

Lời cảnh báo của Chúa Giêsu liên quan thế nào đến đời sống thiêng liêng hiện tại của tôi?

Một công thức nấu món thỏ hầm nổi tiếng bắt đầu bằng cách “bắt thỏ.” Đôi khi ta không để ý đến những điều hiển nhiên.

10. Chuẩn bị cho ngày mai

Bộ phim “Ngày mai đã đến” mở đầu bằng cảnh một nhà doanh nghiệp ước muốn hôm nay có thể mua được tờ báo của ngày mai. Chợt một cụ già xuất hiện với một tờ báo ngày mai, và nói: “Tôi đã quyết định thỏa mãn ước muốn của ông.” Phần còn lại của bộ phim giải quyết những gì xảy ra cho nhà doanh nghiệp như kết quả kiến thức “tương lai” của ông ta. Trong bài đọc hôm nay, Chúa Giêsu cũng làm như thế. Ngài để cho các môn đệ có cái nhìn về tương lai. Giaó hội đọc bài đọc này vào Chúa nhật áp cuối của năm Phụng vụ, để mời gọi chúng ta suy nghĩ về ngày tận thế hay ngày tận cùng của cuộc đời chúng ta.

Tôi chuẩn bị như thế nào cho ngày tận cùng?

Anh ta nằm dài dưới ánh mặt trời, sống một cuộc đời chỉ toàn những dự định, và đã chết mà chẳng thực hiện được gì.

THỨ TƯ - LÀM CHỨNG VỀ CHÚA

Lời Chúa: Lc 21, 12-19

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Người ta sẽ tra tay bắt bớ, ức hiếp và nộp các con đến các hội đường và ngục tù, điệu các con đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy: các con sẽ có dịp làm chứng. Vậy các con hãy ghi nhớ điều này trong lòng là chớ lo trước các con sẽ phải thưa lại thể nào. Vì chính Thầy sẽ ban cho các con miệng lưỡi và sự khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch các con không thể chống lại và bắt bẻ các con.

"Cha mẹ, anh em, bà con, bạn hữu sẽ nộp các con, và có kẻ trong các con sẽ bị giết chết. Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất. Các con cứ bền đỗ, các con cũng sẽ giữ được linh hồn các con."

TRUYỆN KỂ

1. Một sợi tóc

Lúc trời còn tối, ngày 16 tháng 11 năm 1989, tại nước El Salvador, một nhóm người có vũ trang đã xâm nhập vào Đại Học Trung Mỹ. Chúng đã giết sáu linh mục Dòng Tên và hai mẹ con người nấu ăn. Giết xong chúng đã kéo xác ra ngoài vườn và làm những trò man rợ.

Các linh mục này đều là những nhà trí thức, có ảnh hưởng trong xã hội. Họ muốn nói lên tiếng nói của người nghèo, chịu cảnh bất công, muốn chấm dứt cuộc nội chiến kéo dài khiến hơn 70 ngàn người chết.

Họ đã phải trả giá bằng vụ thảm sát bất ngờ, đã chết như những chứng nhân, những vị tử đạo thời mới.

" Nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất. Các con cứ bền đỗ, các con cũng sẽ giữ được linh hồn các con."

2. Làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh

Giáo hội Rôma trong ba thế kỷ đầu bị bách hại dữ dội và chúng tôi đã thực sự xúc động khi đến thăm hang toại đạo ở Rôma. Có tới 500.000 Kitô hữu đã được phúc tử đạo và được an táng trong các hộc mộ ở hang toại đạo...

Ở Rôma bây giờ có những hang dài đến nỗi không biết nó đi tới đâu nên người ta phải bít lại, và gần như nó chạy khắp thành phố Rôma, một thành phố Rôma chìm bên dưới lòng đất ở các độ sâu 20m, 40m và sâu nhất là 60m (Theo Lm. Phêrô Nguyễn Hồng Phúc, Máu Đào Tử Đạo - Hiến tế sự sống).

3. Kiên trì trong nhiệm vụ:

Nhiệm vụ của đồng hồ là mỗi giây phải kêu lên một tiếng tic-tac. Một chiếc đồng hồ trẻ vừa sinh ra từ một hãng chế tạo được đưa về đặt trong phòng khách một gia đình.

Cậu bé làm bài toán về những tiếng tic-tac mình phải phát ra: mỗi phút 60 giây, một giờ 60 phút, một ngày 24 giờ, một tháng 30 ngày, một năm 12 tháng. Cậu rùng mình sợ hãi vì không biết mình phải làm nhiệm vụ bao nhiêu năm.

Thấy thế, cụ đồng hồ già đứng ở xó nhà lên tiếng an ủi: “Cháu ơi đừng quá lo sợ như thế. Bác đã làm công việc này suốt 3 thế hệ rồi. Kinh nghiệm của bác là chỉ cần để ý mỗi giây phát ra một tiếng thôi."

4. Kiên trì mới bình phục

Một chàng thanh niên nọ bị bỏ rơi từ khi mới lọt lòng mẹ. Nhờ tình thương của ông bà cụ, anh thoát chết. Được sự nuôi nấng của gia đình, theo thời gian, anh lớn lên, rồi trở thành một ngư phủ. Hằng ngày anh ra khơi đánh cá về giúp cha mẹ nuôi. Cuộc sống tưởng êm đẹp. nào ngờ một hôm tai họa ập đến, anh bị thương trầm trọng do tai nạn thuyền gây ra. Mặc dù đã bán hết tài sản để chữa chạy nhưng anh vẫn không khỏi bệnh. Bố mẹ anh “gạt nước mắt” làm một cái chòi ở đầu đường rồi đặt anh vào đó để anh được sống nhờ lóng thương xót của khách qua đường. Do không được săn sóc, người anh mọc đầy ghẻ lở. Bệnh tật ngày một tăng, cơ thể hao mòn, cuộc đời như đã mất…

Nhưng rồi Thiên Chúa lại mỉm cười với anh. Với những lời động viên, an ủi, khuyến khích của bố mẹ nuôi mới, anh đã cố gắng kiên nhẫn tập luyện: mỗi ngày 1 giờ, rồi 2 giờ, 3 giờ và cứ thế… Bây giờ trong anh bừng lên một niềm vui sung sướng, hạnh phúc: Tôi sẽ bình phục.

5. Khổ đau là phù hiệu

Patric bon Chasteur, người đã bị Đức Quốc xã tra tấn cầm tù vì tội chống lại sự tàn bạo của Hitler hồi thế chiến thứ II, trong tác phẩm thời danh của ông với tựa đề: “Cái giá những người môn đệ Chúa phải trả”, đã viết: “Khổ đau là phù hiệu của những người môn đệ Chúa Giêsu."

Trong thực tế, các môn đệ đã sống và thực hành điều đó. Phêrô và Gioan bị bắt và bị điệu ra trước Công nghị Do thái, các ngài chẳng những không buồn phiền, lo sợ, mà còn hân hoan, vui vẻ, vì nhờ đó có dịp để nói về Chúa Giêsu cho người khác. Phaolô bị bắt và bị xét xử, ngài cũng mạnh dạn nói về Chúa Giêsu cho các nhân vật cỡ lớn, như Tổng trấn Felix, Festo, và cả Hoàng đế Herode Agrippa nữa.

Nhưng cái gì đã tạo ra sự biến đổi nơi các môn đệ, cũng là bắt bớ, bách hại mà có người cho là thất bại, người khác lại cho là cơ may? Thánh Augustinô giải thích: cuộc sống con người là sự xung đột giữa hai tình yêu: yêu Chúa đến độ khinh mình, hoặc yêu mình đến coi rẻ Thiên Chúa. Nếu tội là yêu mình đến coi rẻ Thiên Chúa thì dĩ nhiên tôi sẽ bám vào những gì tôi cho là sung sướng ở trần gian, như tiền bạc, danh vọng, sắc đẹp, và khi bị bắt bớ, tôi bị mất tất cả, lúc đó, bắt bớ bị coi là thất bại. Nhưng nếu tôi yêu Chúa đến độ coi thường bản thân, thì có bị bắt bớ vì Chúa, cũng chẳng mất mát gì; người ta có thể lấy tiền bạc, danh vọng, địa vị của tôi, chứ không thể lấy mất Chúa của tôi được, và đó còn là dịp để tôi rao giảng về Chúa cho họ là khác. Do đó, chẳng sợ gì hết, chỉ sợ tội mà thôi; cái căn bản là tình yêu đối với Chúa, nó làm thay đổi cuộc đời.

Người môn đệ Chúa Giêsu không được coi gian nan thử thách như một cực hình, nhưng phải coi đó là những cơ hội để làm chứng.

6. Sức mạnh của tình yêu

Ông Jacques Bouroche là một người ngoài công giáo, trước khi được ơn trở lại, ông hằng ước ao chứng kiến đời sống thánh thiện của đức giám mục François Fénelon (1651-1715)

Ngày kia ông đã liên lạc được với vị giám mục thời danh và xin Ngài cho ông được tới thăm Ngài một thời gian.

Vị giám mục đã niềm nở đón tiếp và đối xử ân cần đến nỗi Jacques Bouroche còn thấy thoải mái hơn cả ở nhà mình. Tuy nhiên, chỉ lưu lại được vài ngày, ông đã thu dọn hành lý, chào vị giám mục và ra đi trước thời hạn dự định.

 Khi được hỏi tại sao ông lại vội vàng bỏ đi như vậy, ông Jacques Bouroche đã thú nhận:

“Tôi không thể ở lại lâu hơn. Vì nếu còn ở lại, sớm muộn gì tôi cũng sẽ theo đạo công giáo mất, một điều mà hiện tại bản thân tôi chưa muốn."

Chúng ta hãy nhớ lời của Chúa Giêsu: “Chúng con hãy làm chứng!” (Lc 21,13)

7. Hãy vác thập giá

Không có một phần thưởng nào mà không phải trả giá. Không có môt vinh quang nào mà không ướt đẫm mồ hôi.

Đây là những lời trích từ sách Gương Chúa Giêsu:

“Có rất nhiều người muốn lên thiên đàng với Chúa Giêsu, nhưng rất ít người muốn vác khổ giá với Chúa.

Nhiều người muốn ngồi ăn với Chúa, nhưng ít người muốn bắt chước đức nhiệm nhặt của Chúa.

Ai cũng muốn vui hưởng với Chúa mà ít người muốn chịu khó vì Chúa.

Nhiều người theo Chúa đến lúc bẻ bánh, nhưng ít ai chịu được cảnh nhục nhã của Thánh giá.

Nhiều người ca tụng Chúa khi được Chúa ban yên ủi.

Nhưng, nếu Chúa lánh đi và bỏ họ một tí, là y như họ phàn nàn hay nản chí luôn."

8. Sự thật định giá trị

Anh Ben Johnson quốc tịch Canađa đã đoạt giải nhất với huy chương vàng trong Thế Vận Hội, được tổ chức tại Seoul, thủ đô xứ Hàn vào năm 1988, vì anh là người chạy nhanh nhất thế giới trong cuộc chạy đua nước rút 100m, chỉ mất có hơn 9 giây. Anh đã được Thủ tướng Canada gọi điện chúc mừng ngay trên sân thi đấu, mọi người dân Canada vui mừng, hãnh diện trước chiến thắng này!

Nhưng chỉ ba ngày sau đó, ban Giám khảo trường thi đã phát giác trong người anh Ben Johnson có chất kích thích, mà anh đã chích vào trước giờ xuất phát, tức là anh lỗi Luật thi! Thế là ban Tổ chức đã tước huy chương vàng của anh. Ôi từ đỉnh cao danh vọng anh đã nhào xuống vực thẳm tủi nhục! Các phái đoàn Canađa ở Seoul không ai còn dám mặc áo có in hình cờ đất nước mình nữa, cả ngọn cờ Canada tức khắc cũng được chính các cổ động viên hạ xuống! Mọi người, kể cả dân Canada đều bàn tán, phê phán hành động này và chối bỏ vận động viên Ben Johnson không phải là dân bản xứ,vì anh có quốc tịch Canada gốc người Mỹ!

Ở đời này có nhiều người dùng thủ đoạn để chiếm đoạt danh dự, vinh quang cho bản thân mình, nhưng chắc chắn đến ngày tận thế, sự thật ấy sẽ được phơi bày và, lúc đó mọi người mới thốt lên: “À ra thế!”

9. Tình yêu định giá trị

Một học sinh trung học mất nhiều ngày để vẽ bức biếm họa với những trích dẫn trên tường một lớp học nọ. Khi cậu không nhận tiền thù lao, giáo viên hỏi cha cậu xem nên tặng cho cậu món quà gì. Người cha trả lời: “Món quà quý nhất đối với con tôi là vinh dự được làm một cái gì đó vì tình yêu.”

Công việc của tôi có được thúc đẩy bởi tình yêu hơn là những động lực khác không?

Thiên Chúa không cần công việc của ta, nhưng là tình yêu thúc đẩy chúng (Thánh Têrêsa Avila).

10. Cậy trông vào Chúa

Vào năm 1939, tương lai của Anh quốc xem ra rất mờ mịt. Quân đội Hitler tỏ ra vô địch. Vua George VI nói với dân chúng và khuyên họ hãy cậy trông vào Chúa. Vua kết thúc bằng cách viện dẫn một câu thơ từ bài “Thiên Chúa thông biết”của Minnie Louise Haskins như sau: “Tôi nói với người đang đứng trước thềm năm mới: Hãy cho tôi một thứ ánh sáng để tôi có thể bước đi an toàn đến những nơi chưa từng đặt chân đến.” Và ông ta trả lời: “Hãy xông pha vào đêm tối và hãy phó thác trong tay Chúa. Đó là thứ ánh sáng tốt hơn và an toàn hơn cả một con đường quen thuộc.” Lời khuyên của vua George nói với dân chúng là âm vang lời khuyên của Chúa Giêsu cho các môn đệ: “Hãy cậy trông vào Chúa.”

Tôi đã trông cậy vào tình yêu và sự quan phòng của Chúa nhiều đến mức nào?

Tin thì sẽ gặp (Ralph Hodgson)

THỨ NĂM -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

THỨ SÁU - NHẬN RA TIẾNG CHÚA QUA CÁC BIẾN CỐ

Lời Chúa: Lc 21, 29-33

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ thí dụ này rằng: "Các con hãy xem cây vả và mọi thứ cây cối. Khi chúng đâm chồi nảy lộc, thì các con biết rằng mùa hè đã gần đến.

Cũng thế, khi các con xem thấy những sự đó xảy ra, thì hãy biết rằng nước Thiên Chúa đã gần đến. Thầy bảo thật các con, thế hệ này sẽ chẳng qua đi cho đến khi mọi sự ấy xảy đến. Trời đất sẽ qua đi; nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu."

TRUYỆN KỂ

1. Xem cây vả

Cây vả là một cây rất thường thấy ở xứ Paléttin. Khi nó đâm chồi, người ta biết ngay đã vào mùa hè. Rồi thì nó sẽ ra hoa và kết trái.

Không phải chỉ có cây vả, mọi cây khác cũng vậy (c.29). Cứ nhìn tình trạng hiện tại của cây, ta biết được điều gì sắp xảy đến.

Nước Thiên Chúa cũng vậy. Trước khi Nước Thiên Chúa đến sẽ có những dấu hiệu ở trên trời, dưới đất hay ngoài biển khơi.

2. Dấu chỉ triều đại nước Chúa

Ở Việt Nam, khi nghe tiếng chim ríu rít vang khắp thôn xóm, những cành mai thay lá đơm bông (ở miền Nam), những cây đào kết nụ mơn mởn (ở miền Bắc) như một lời hò hẹn gặp gỡ, các loại hoa ở khắp nơi trên quê hương mẹ khoe sắc như là tín hiệu báo mùa xuân đang về…

Dù không cần ai nói, nhưng mỗi người chúng ta đều cảm nghiệm được xuân đang đến theo lời mời gọi của thiên nhiên, của chu kỳ xoay vần đất trời.

3. Dấu chỉ thời đại.

Một nhà thám hiểm Tây phương lạc đường giữa sa mạc. Nguồn lương thực và nước uống đã khô cạn. Ông lê từng bước mệt mỏi trong cát nóng. Thỉnh thoảng ông nghe tiếng suối róc rách và thấy trước mặt mình một ốc đảo xanh tươi.

Thế nhưng, với lối suy nghĩ khoa học của người phương Tây, ông ta tự nghĩ rằng: “Đây chỉ là một ảo ảnh. Trong thực tế trước mắt ta làm gì có nước và cây cối." Nghĩ như vậy, ông lại tuyệt vọng lê bước chân tiếp tục đi.

Không bao lâu sau đó, có hai người du mục tình cờ đi qua lối đó. Họ bắt gặp một cái xác người. Một người trong họ đã thốt lên: “Chỉ còn hai bước nữa là người này đã có thể tới ốc đảo và tha hồ uống nước cũng như thưởng thức những trái ngọt cây lành. Tại sao lại có chuyện thế này”?

Nhưng người bạn lắc đầu giải thích: “Ông ta là một người Tây phương. Thế giới của chúng ta đầy ánh sáng và mầu nhiệm, nhưng con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy chúng nên không nhận ra những dấu chỉ của Chúa."

4. Tìm kiếm sự sống đời đời

Phim truyện Tây Du Ký đã cho chúng ta thấy hình ảnh một bầy khỉ sống hạnh phúc trong động Hoa Quả. Trong lúc ăn uống no say thì có một con khỉ già ngã lăn ra chết. Cái chết của nó khiến cho bầy khỉ buồn bã và lo sợ không biết bao giờ mới đến phiên mình.

Vâng cuộc sống đầy đủ là dấu hiệu của hạnh phúc, nhưng cũng có thể là con đường dẫn đến đau thương, là mầm mống dẫn đến sa đoạ.

Tề Thiên, con khỉ đầu đàn đã phải lên đường tìm thuốc trường sanh. Con người cũng đang tìm cho mình sự sống vĩnh cửu. Theo quy luật của sự sống thì tôi phải chết. Khi tôi sinh ra là dấu hiệu tôi sẽ phải chết. Theo dòng thời gian, tôi lớn lên không thể tránh khỏi những bệnh tật. Đó là những dấu hiệu cảnh giác tôi. Về già, tôi cảm thấy yếu dần. Yếu dần là dấu hiệu tôi phải chết.

Nhưng với người kitô hữu, chết không phải là hết mà là cửa ngõ của sự sống, sự sống vĩnh cửu mà những dấu hiệu kia báo trước. Vậy tôi phải sẵn sàng, phải tỉnh thức để khỏi đánh mất sự sống đời đời.

5. Cánh cửa cần bít lại

Một người giàu có nọ xây một toà nhà rất đầy đủ tiện nghi, có thể nói là ngoài sức tưởng tượng! Xây xong, ông mời bạn bè đến tham quan, và những người này đã không ngớt lời khen ngợi công trình tuyệt mỹ. Chính chủ nhà cũng tỏ ra không kém phần hứng khởi, và sau khi dọn đến ở trong ngôi nhà mới, ông đã bày ra mọi thứ trò tiêu khiển, đủ mọi lạc thú trên đời!

Ngày nọ, một người tôi tớ đáng kính của Thiên Chúa đến thăm và được ông chủ mời đi tham quan tòa nhà tráng lệ. Sau khi hướng dẫn vị khách đi xem xong, người chủ giàu có mới hỏi người của Thiên Chúa có ý kiến gì không. Vị này trả lời:

- Tòa nhà làm tôi rất hài lòng. Tuy nhiên, nó dư một cánh cửa! Ông cần bít cánh cửa này lại nếu ông muốn có một tòa nhà không chê vào đâu được và hạnh phúc lâu bền!

- Cánh cửa nào thế?

- Đó là cánh cửa mà có lẽ không bao lâu nữa đâu, người ta sẽ khiêng thi hài của ông đi qua. Ngày nào cánh cửa này còn mở, ngày đó hạnh phúc của ông trong lâu đài này sẽ không thể kéo dài, và cái gì không kéo dài được thì không có giá trị cao. Hãy biết rằng, thời gian đang qua đi này sẽ được tiếp nối bằng sự vĩnh cửu, cái sẽ không bao giờ qua đi!

Có một sự kiện mà ai cũng có thể dễ dàng nhận thấy: Đó là ngày hôm nay, con người ít nhậy bén với những giá trị thiêng liêng.

Nhà giảng thuyết Payson nói: “Triệu chứng của sự suy thoái thiêng liêng cũng giống như sự suy thoái thân xác. Nó thường bắt đầu bằng việc không thích ăn và chê chán mọi thứ thực phẩm, như cầu nguyện, đọc Thánh Kinh và sách thiêng liêng. Khi nào có những triệu chứng đó, bạn hãy cẩn thận; sức khỏe thiêng liêng của bạn đang lâm nguy. Cần đến ngay vị Đại Y Sĩ là Thánh Linh để chữa trị."

6. Nhận ra tiếng Chúa nói

Năm 1937, nữ tu Têrêsa được cử làm giám đốc của một trường trung học dành riêng cho các học sinh giàu tại Calcutta. Nữ tu vẫn còn nhớ mãi lời căn dặn của mẹ mình:

“Con hãy nhớ rằng: con được gởi đến Ấn Độ là để phục vụ người nghèo." Trước cảnh đói khổ của dân chúng, trước cảnh cô đơn của các bệnh nhân, những người phong cùi và nhất là trước cảnh trẻ em và những người già cả lê lết ngoài đường phố, nữ tu Têrêsa cảm thấy không yên tâm để tiếp tục nghề thầy giáo của mình, nhất là thầy giáo cho học sinh giàu nữa.

Ngày 10.07.1946. trên một chuyến xe lửa chật chội, ngồi bên những người cùng khổ, nữ tu Têrêsa bỗng nghe như có tiếng thì thầm trong lòng:

“Con hãy ra khỏi nhà dòng để phục vụ người nghèo bằng cách đến ở với họ, sống giữa họ và như họ."

Đây là lần thứ hai chị nghe tiếng gọi như thế. Xác tín rằng: đây là tiếng gọi của Chúa, chị đã trình bày ước nguyện lên bề trên và đúng một năm sau, chị đã được bề trên và Đức Giám Mục bản quyền địa phương cho phép ra khỏi dòng để sống với những người nghèo khổ.

Cởi bỏ chiếc áo dòng của các nữ tu, chị choàng vào chiếc áo Sari cổ truyền Ấn Độ, ăn mặc giống như người nghèo, nữ tu Têrêsa đã hoàn toàn trở thành một người nghèo giữa những người nghèo.

7. Chân lý sẽ giải phóng con người

Năm 1961,ý thức hệ Tư bản và Xã hội chủ nghĩa gia tăng cực độ giữa dân tộc Đức, khiến họ đưa đến quyết định tôn trọng nhau: ai thích Cộng sản thì ở Đông Đức; còn ai ưa Tư bản thì sống ở Tây Đức. Nhưng làn sóng người ở Đông Đức tràn qua Tây Đức mỗi ngày một gia tăng, khiến họ phải xây bức tường chia đôi đất nước từ ngày 13-08-1961. Tường dài 700 km, cao 8m, dầy 3m. Tiếc thay bức tường dựng lên lại càng tăng thêm sự thù ghét giữa đôi bên!

Nhưng sau 3 giờ, ông Gorbachov,Tổng bí thu đảng Cộng sản Liên xô gặp Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, ông trở về nước tuyên bố giải tán đảng Cộng sản. Tức khắc bức tường ô nhục Bá-linh bị phá đổ ngày 13-11-1989.

Bức tường ngăn cách giữa Tây Đức và Đông Đức cũng là biểu tượng cho sức mạnh của lý thuyết Mác-Lê,nhưng lý thuyết ấy không mạnh bằng Lời Thiên Chúa, vì trước đó hai năm Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II tuyên bố với thế giới trong dịp Đại Hội Quốc Tế Giới Trẻ tại Pháp rằng: “Chân lý sẽ giải phóng con người” (Ga 8,32). Chính sức mạnh của Chân Lý này là nguyên nhân làm cho bức tường chia rẽ đó sụp đổ, nối lại tình thân giữa Đông Đức và Tây Đức.

8. Nhìn mà không thấy

Các sách Tin mừng áp dụng cho Chúa Giêsu tước hiệu “Con Người” khoảng 70 lần. Tước hiệu này cũng được đưa ra trong cuộc xử án Chúa Giêsu, khi thượng tế Caipha hỏi Ngài: “Ông có phải là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống không?” Chúa Giêsu trả lời: “Chính thế! Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự giá mây trời mà đến.”

Vị thượng tế liền xé áo mình ra và nói: “Chúng ta cần gì nhân chứng nữa. Qúy vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa” (Mc 14,61. 64). Một lần khác tước hiệu này được đề cập đến liên quan tới ngày tận thế. Chính Chúa Giêsu nói: “Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang như trong đám mây mà đến” (Mc 13,26).

Tôi đã sẵn sàng cho ngày kinh khủng đến Con Người đến trong đám mây với quyền năng lớn lao chưa?

Thế gian là chiếc cầu, hãy đi trên đó, chứ đừng lạm dụng nó.

9. Cuộc tạo dựng mới

Benjamin Franklin viết những dòng này để khắc lên bia mộ ông: “Thân xác của Benjamin, một thợ in; cũng giống như một bìa của cuốn sách. Dù nội dung của nó được khai thác khác, thì vẫn còn đó những ký tự, chất liệu, làm thức ăn cho côn trùng. Nhưng công trình không hoàn toàn mất đi, như ông tin rằng nó sẽ được tái bản, sửa chữa hoàn hảo hơn bởi Tác giả của nó.”

Những lời của Franklin và thị kiế của Gioan về “cuộc tạo dựng mới” mà Chúa Giêsu đã khởi sự cùng với sự cộng tác của chúng ta đang tiến tới hoàn hảo. Tôi đã và đang cộng tác với Chúa Giêsu như thế nào?

Trước khi Thiên Chúa thực hiện công việc của Ngài, chúng ta phải làm những công việc của mình (Thánh Augustinô).

10. Một mục đích

Người Hy Lạp thời cổ tin rằng lịch sử đi theo vòng tuần hoàn. Nói khác đi, cứ ba ngàn năm một đại họa nào đó sẽ quét sạch thế giới này. Sau đại họa, lịch sử nhân loại sẽ bắt đầu lại và lặp lại chính nó. Người kitô hữu thì theo một quan điểm ngược lại: họ tin rằng lịch sử đi theo một đường thẳng, nghĩa là có một hướng xác định. Nhân lọai hướng đến việc thành toàn Nước Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã khởi sự và Ngài để cho chúng ta hoàn tất.

Tôi đang làm gì hoặc đang nỗ lực làm gì để cộng tác vào việc thành toàn Nước Thiên Chúa?

Không có bóng tối, chỉ là không có khả năng nhìn thấy. (Malcolm Muggeridge)

11. Nhìn bằng đức tin

Thế giới hôm nay tự hào về kiến thức, thông tin, đến nỗi có cả “xa lộ thông tin” internet. Nhưng, như Đức Bênêđíctô XVI nhận định, chúng ta có quá nhiều kiến thức nên không tìm thấy minh triết nữa, không nhìn ra cái cốt yếu trong cuộc sống nữa. Điều cốt yếu không phải là những điềm thiêng dấu lạ sẽ xảy đến xóa sổ trái đất này, mà là Chúa luôn đang đến, và chúng ta phải chuẩn bị cho Ngài trở lại viếng thăm, bằng việc chỉnh đốn đời sống mình thuận theo Lời Chúa. Đối với con người, trái đất này qua đi là một điều hãi hùng. Vì thế, đón Chúa đến sống bên cạnh trong giây phút hãi hùng ấy hay trong muôn điều hãi hùng khác là điều cốt yếu của đời người. Bấy giờ, mọi chuyển biến trên thế giới và trong cuộc đời sẽ được Kitô hữu đón nhận như là lời nhắc nhở đến điều cốt yếu phải đạt được, thay vì hốt hoảng, tuyệt vọng.

Trong những hoàn cảnh đen tối của cuộc đời, bạn đã đón Chúa đến can dự vào cuộc đời bạn như thế nào? Thái độ của bạn bấy giờ cũng nói lên phần nào thái độ của bạn trong ngày giờ sau hết Chúa đến với bạn.

THỨ BẢY - TỈNH THỨC CẦU NGUYỆN

Lời Chúa: Lc 21, 34-36

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề bởi chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất.

Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!"

TRUYỆN KỂ

1. Phải đề phòng

Tháng 9-2009, Tổng Thống Nga Medvedev gọi nạn nghiện rượu là quốc nạn. Mỗi năm tính bình quân mỗi người dân uống khoảng 18 lít, gấp đôi lượng rượu được coi là nguy hiểm cho sức khỏe.

Nửa số người Nga chết giữa khoảng 15-54 tuổi là do hậu quả của rượu. Trẻ em và phụ nữ cũng nghiện. Tuổi thọ trung bình của đàn ông chỉ còn là 59.

Vì nhiều người chết nên dân số Nga sụt giảm mỗi năm. Làm gì để cai nghiện cho hơn hai triệu người Nga, đó là chuyện nhức đầu cho các nhà lãnh đạo. Nhưng tại sao người ta lại bị nặng nề bởi rượu Vodka?

Bài Tin Mừng hôm nay nhắc chúng ta về những thứ nặng nề đè trên trái tim người Kitô hữu.

2. Nền văn hóa của sự chết

Hòa Lan đã dấn sâu hơn vào nền văn hóa của sự chết. Ngày 28/11/2000, quốc hội Hòa Lan đã chính thức thông qua luật mới cho phép các bác sĩ được trợ giúp những bệnh nhân nan y tự tử. Với luật này, Hòa Lan là nước đi tiên phong trong nền văn hóa của sự chết, tuy chưa chính thức ban hành luật cho phép các bác sĩ trợ giúp những bệnh nhân nan y tự tử.

Ngày nay, nhiều nước công nghiệp tiên tiến cũng đang ngày càng bị nhận chìm trong điều thường được gọi là văn hóa của sự chết. Trong khuôn khổ của ngày Năm Thánh dành cho các giáo dân tham gia truyền giáo diễn ra tại Vatican vào tháng 12/2000, một hội nghị về những khó khăn trong cuộc sống chứng nhân giữa đời đã được tổ chức. Nhân dịp này, bà Mêrian Clindon, giáo sư luật học tại đại học Harvard, Hoa Kỳ, và từng được cử làm trưởng đoàn Toà Thánh tham dự diễn đàn phụ nữ tại Bắc Kinh vào năm 1995, đã trình bày cho hội nghị về nền văn hóa chết chóc đang lan rộng trong xã hội Hoa Kỳ. Bà Clindon nói rằng một trong những dấu hiệu rõ ràng nhất trong nền văn hóa sự chết là con người không còn màng đến các giá trị đạo đức nữa. Quan hệ gia đình ngày càng mong manh. Tình mẫu tử bị khinh miệt. Trẻ con dành ít giờ cho cha mẹ và anh chị em hơn là màn ảnh truyền hình. So với đám đông thầm lặng, nền văn hóa sự chết lại được thịnh hành hơn trong những thành phần ưu tú và lãnh đạo trong xã hội.

Ðặc trưng của nền văn hóa của sự chết ấy là sự phát triển tràn lan của chủ nghĩa duy vật, duy hưởng thụ, duy khoái lạc và tục hóa.

3. Chu toàn bổn phận đã được trao phó

Vào ngày 11/9/2001, cả thế giới kinh hoàng nhìn tháp đôi tòa nhà thương mại thế giới ở New York sụp đổ do hai chiếc máy bay Boeing 767 mà các tên khủng bố đâm vào. Biến cố kinh hoàng này đã làm cho cả thế giới thức tỉnh trước nạn khủng bố trên hành tinh chúng ta. Khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Mỹ và Tây Âu, mọi người luôn được nghe những lời kêu gọi chú ý cảnh giác ở tất cả những nơi công cộng như sân bay, nhà ga, sân vận động, xe bus, mêtro... ngay cả thùng rác.

Đức Giêsu mạc khải về những dấu hiệu kinh hoàng vào ngày Chúa đến, ngày tận thế: Sẽ có những sự việc lạ xảy ra trong vũ trụ một cách toàn diện. Điều này cho thấy nếu chỉ dựa vào những biến cố riêng lẻ như trong các thời đại nhìn các biến cố xảy ra để đoán ngày tận thế là việc hoàn toàn sai lầm. Ngày Đức Giêsu trở lại để phán xét như Ngài loan báo là ngày Ngài hoàn tất tước hiệu Con Người (x. Lc 21,25-26).

4. Hãy nghĩ về sự chết.

Một vị đan sĩ tên là Mésique bất trung với ơn gọi, ông đang sống một cuộc đời không mấy tốt đẹp trong nhiều năm. Đột nhiên ông bị bệnh nặng, Thiên Chúa cho ông rơi vào tình trạng hôn mê trong một tiếng đồng hồ. Khi tỉnh dậy ông không nói gì về những điều đã cảm thấy trong thời gian một tiếng đồng hồ ấy. Ông xin người ta cho ở một mình trong một căn phòng xây kín, và ông đã ở trong đó suốt 12 năm trời. Hằng ngày, qua một cửa sổ nhỏ người ta đem đến cho ông một chút bánh mì và nước uống. Một hôm người ta tưởng ông đã chết nên đập phòng đi vào thì thấy ông đang hấp hối.

Trước mặt các tu sĩ vây quanh, ông nói với họ những lời cuối cùng: “Anh em thân mến của tôi, người nào luôn khắc ghi vào tâm khảm ý tưởng về sự chết, người đó sẽ không bao giờ dám phạm tội."

Nói thế rồi, ông tắt thở, để lại cho mọi người một ấn tượng sâu đậm.

5. Ngày cuối đời như ngày thường

Có một người đàn ông kia sống rất hạnh phúc và đầy đủ, tuy nhiên, ông vẫn cảm thấy lo sợ cho cuộc đời. Một hôm, ông nảy ra ý muốn, muốn đi tìm một ai đó chỉ cho ông biết, làm thế nào để cho ông chắc chắn là ông sẽ chiếm hữu được cuộc sống đời đời mai sau. Theo lời hướng dẫn, ông tìm ra được một tu sĩ có tiếng thánh thiện. Khi đến nơi, ông thưa với tu sĩ đó rằng:

- Thưa thầy, nếu biết rằng, chỉ còn sống có một ngày nữa thôi thì thầy sẽ làm gì?”

Đưa tay ra vuốt chùm râu bạc trắng, vị tu sĩ bình thản trả lời:

- Có gì đâu, sáng dậy đọc kinh, sau đó dùng chút trà rồi ra vườn tưới cây, đi thăm và dùng cơm với bạn bè rồi về ngủ.

- Đó là việc hằng ngày thầy vẫn làm mà. Con muốn hỏi ngày cuối đời kia mà?

- Đúng vậy! Ngày thường và ngày cuối đời có gì khác đâu.

6. Thế nào là tỉnh thức?

Một tài xế xe buýt ở Hoa Kỳ đã chiếm một kỷ lục hiếm có trong suốt hai mươi ba năm hành nghề. Trên một triệu cây số, ông chưa bao giờ gặp hay gây ra một tai nạn nhỏ nào. Được hỏi lý do, ông trả lời: “Hãy nhìn đường!" Câu trả lời tuy đơn sơ, nhưng chứa đựng cả một triết lý sống.

“Hãy nhìn đường!" Có lắm người đi đường hoặc lái xe mà không nhìn đường. Tai nạn xảy ra hầu hết đều do sự lơ đễnh của người lái xe. Người bộ hành gặp tai nạn rủi ro có khi cũng do đi đường mà không nhìn vào con đường mình đang đi.

Chú tâm vào công việc mình đang làm, chính là luật của thành công. Một vận động viên trên sân cỏ sẽ không ngừng chú ý đến quả banh, đến đối phương, đến bạn đồng đội. Một học sinh muốn học giỏi cũng phải chú tâm theo dõi và lắng nghe lời giảng dạy. Một người mẹ trong gia đình phải chú tâm vào ngân quĩ gia đình, vào công việc hàng ngày. Đó là thái độ tỉnh thức mà chúng ta phải luôn có để khỏi quá ngỡ ngàng trước ngày Chúa đến gọi chúng ta.

7. Đi lạc mà không biết

Linh mục Aristide, thuộc dòng Don Bosco, chuyên chăm sóc, cải huấn những thanh niên thiếu nữ bụi đời. Linh mục Aristide hết lòng bênh đỡ người nghèo trong nước Haiti khỏi cảnh áp bức, nên được dân Haiti tôn làm thần tượng!

Năm 1990, Linh mục này xin Đức Giáo hoàng cho phép hồi tục để ra ứng cử tranh chức Tổng thống và ông đã đắc cử trở thành Tổng thống đầu tiên của Haiti. Nhưng chỉ được một năm, tức là năm 1991, ông bị chính những người đã từng ca tụng ông, đánh bật ông ra khỏi ghế Tổng thống, ông phải xin đi lưu vong!

Năm 1994, ông được Mỹ ủng hộ đưa ông về lại Haiti để tái lập quyền Tổng thống! Sự lộn xộn lại xảy ra trong nước! Đến năm 2.000, ông lại được tái đắc cử Tổng thống, nhưng bị mang tiếng là gian lận phiếu! Từ đó những người có thiện cảm với ông trước đây ra mặt quyết liệt chống đối, vì ông quá độc tài và Mỹ cũng không ủng hộ ông nữa! Thế là vào ngày 29-02-2004, ông bị quân nổi dậy là những người đã từng ca tụng ông khi ông còn làm Linh mục, tống đi lưu vong rất nhục nhã!

Phải chăng ông Aristide đã bỏ ơn gọi làm Linh mục, một chức vụ chỉ chuyên tâm cầu nguyện và giảng Lời Chúa, mà ông đã ảo tưởng khi làm Tổng thống sẽ phục vụ hữu hiệu hơn, chung cuộc ông làm mất uy tín của mình, chuốc lấy nhục nhã vì đã gây xáo trộn cho đất nước Haiti suốt 14 năm!

8. Kệ

Trên mỗi gói thuốc đều có lời khuyến cáo: “Hút thuốc lá có thể gây ung thư phổi;” thế nhưng rất nhiều người vẫn ung dung hút thuốc và biện bạch: “Thế thì cũng giống như đi ra đường có thể bị xe đụng thôi.” Chúng ta nghe rất nhiều lời cảnh báo: “Ma tuý là con đường ngắn nhất dẫn đến cái chết” nhưng tình trạng nghiện ngập mỗi ngày một gia tăng. “Kệ họ”: kiểu trả lời chúng ta khá thường nghe khi ai đó đề cập những vấn đề trên. “Họ” ở đây có thể là người khác: mặc-kệ-nó, dại thì chết! “Họ” cũng có thể là mặc-kệ-tôi, can gì đến anh! Lời Chúa luôn nhắc nhở chúng ta phải tỉnh thức sẵn sàng cho ngày Chúa đến: “Hãy đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề….” Thế nhưng phải chăng bao người thời nay vẫn có thái độ dửng dưng phớt lờ của trước lời cảnh báo của Chúa? Phải chăng họ đang cư xử theo kiểu Chúa nói, cứ nói, “kệ” Chúa! Phần tôi, cứ “chè chén say sưa, lo lắng việc đời…”, “kệ” tôi?!

Thiên Chúa là Cha hằng luôn ban lời để mời gọi con cái trở về với Người. Lời có khi là an ủi, có khi là thức tỉnh. Hãy nhìn lại cung cách chúng ta lắng nghe Lời: Chúng ta có đáp lại bằng cách tỉnh thức và hoán cải không? Liệu chúng ta có đang dửng dưng, “mặc kệ” Lời Chúa để buông mình sống theo những đam mê ích kỷ không?

9. Còn sống mãi

Một văn bản ở Plymouth Rock, bang Massachusetts, mô tả sự can đảm của những người Pilgrims sống ở đó: “Nhờ vào đêm tối, những người bạn đã kiệt sức đặt người chết xuống lòng đất, lấp đất lên, vì sợ người Ấn Độ biết được bao nhiêu phần mộ. Lịch sử đã gây nhận rằng không có cuộc mạo hiểm vì đức tin và sự tự do nào quý hơn cuộc mạo hiểm của những người Pilgrims.”

Điều tương tự cũng có thể thấy được nơi đạo quân các tín hữu không kể siết, vẫn trung thành trong nhiều cuộc bách hại tôn giáo nhuốm đỏ những trang sử.

Tôi có vẫn trung thành với đức tin trong những bách hại của cuộc sống thường ngày không?

Bằng chứng tốt nhất cho cuộc sống bất tử là sự hiện diện của con người xứng đáng. (William James)

10. Đổi chính mình thì hơn đổi trần đời

Nhà tù Kwa Noi là một địa ngục trần gian. Các tù nhân lập nên những nhóm cầu nguyện Kinh thánh, và một thay đổi đáng kể đã diễn ra. Một người lính hồi tưởng lại như sau: “Tôi đang lần bước trở về trại sau một buổi họp khá muộn. Chợt tôi nghe người ta hát bài “Giêrusalem Đền vàng.” Có một ai đó đang gõ lên một chiếc hộp… Lời bài thánh ca xưa đã làm cho đêm tối trở nên thân thiện hơn. Sự khác biệt giữa âm thanh vui vẻ và không gian tĩnh mịch buồn thảm của những tháng qua là sự khác biệt giữa sự sống và sự chết.

Tôi giải thích thế nào về sự biến đổi trong trại giam? Câu chuyện này hàm chứa sứ điệp quan trọng nào đối với thế giới chúng ta?

Khắc phục thì dễ dàng hơn chờ đợi điều kiện thuận lợi (Anthony de Mello).

11. Cần lo chuyện đáng lo

Chiếc tàu Titanic bị đắm vào năm 1912, nhận chìm hơn 1. 500 người. Mười năm sau, một tạp chí đặt câu hỏi: “Nếu bạn đứng trên tàu khi tàu đang chìm, bạn có lo sắp xếp lại những chiếc ghế bành không? Thoạt đầu câu hỏi nghe có vẻ ngớ ngẩn. Nhưng suy nghĩ kỹ, chúng ta thấy phản ánh ý tưởng Chúa Giêsu đưa ra trong bài Tin mừng hôm nay: “Anh em đừng để mình ra nặng nề vì chè chén say sưa… Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến.”

Tôi có thường lo “sắp xếp lại những chiếc ghế bành” trên chiếc tàu đang chìm không?

Hãy trông cậy vào Chúa, nhưng hãy lo chuẩn bị chu đáo chính con người bạn. (Ngạn ngữ Ba Tư).

Lạy Chúa, 100 năm trước con chưa có, 100 năm sau hẳn con đã không còn có mặt trên đời này. Xin cho con ý thức sự chóng qua của đời này để con chỉ biết tìm kiếm Chúa là gia nghiệp của đời con. Amen.

12. Chuyện lúc nào cũng là thời sự

Ngày cuối năm Phụng Vụ, một chu kỳ khép lại với sứ điệp Tin Mừng nói về thời chung cuộc kèm theo tiếng gọi tỉnh thức và lời cảnh báo rất cụ thể: đừng để lòng mình “ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời."

Ngày hôm nay, lời này của Chúa vẫn nóng hổi – không chỉ vì sứ điệp của Chúa hẳn nhiên luôn còn nguyên tính mới mẻ, mà còn vì hình ảnh “chè chén say sưa” Chúa dùng ở đây chính là một trong những hình ảnh vẫn đập vào mắt chúng ta hằng ngày từ đầu đường đến cuối chợ, từ thành thị đến thôn quê.

Báo Lao Động, ngày 7.11.2012, đưa tin: Việt Nam là nước tiêu thụ bia số một ASEAN; trong năm 2011 dân Việt Nam uống hết 2,6 tỉ lít bia, chưa kể rượu, vượt xa hai nước xếp hạng tiếp theo là Thái Lan và Philippines. Quả là bức tranh buồn cho đất nước này và – dĩ nhiên – cho Giáo hội tại đất nước này.

LỄ KÍNH THÁNH ANRÊ - NGƯ PHỦ LƯỚI NGƯỜI

Lời Chúa: Mt 4, 18-22

Khi ấy, nhân lúc Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy hai anh em là Simon, cũng gọi là Phêrô, và Anrê, em ông, cả hai đang thả lưới dưới biển, vì hai ông là ngư phủ. Người bảo hai ông rằng: "Các ngươi hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới người ta." Lập tức hai ông bỏ lưới đó mà theo Người.

Ði xa hơn một đỗi, Người lại thấy hai anh em khác là Giacôbê con ông Giêbêđê, và Gioan em ông đang vá lưới trong thuyền với cha là Giêbêđê. Người cũng gọi hai ông. Lập tức hai ông bỏ lưới và cha mình mà đi theo Người.

TRUYỆN KỂ

1. Tiểu sử thánh Anrê

Thánh Anrê quê ở Bétsaiđa. Ban đầu người là môn đệ của thánh Gioan Tẩy Giả, sau đó theo Chúa Kitô. Người cũng đã dẫn em là thánh Phêrô đến gặp Chúa. Chính người cùng với thánh Philipphê đã giới thiệu những người ngoại giáo với Chúa Kitô và đã cho biết có một em bé mang theo bánh và cá khi những người nghe Chúa giảng không có gì ăn. Sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, người đã đi loan báo Tin Mừng ở nhiều nơi và đã bị đóng đinh thập giá ở A-khai-a.

2. Hành trình theo Chúa của Anrê

Anrê tiếng Hy lạp có nghĩa là mạnh mẽ can đảm. Thánh Anrê được vinh dự làm một trong số 12 tông đồ của Chúa Giêsu. Con của Gioana. Như anh mình là Phêrô, Ngài làm thuyền đánh cá và không có gì khác ngoài chiếc thuyền. Như thế Ngài thuộc lớp người khiêm tốn được Chúa Giêsu yêu thương đặc biệt. Ngài vẫn sống tại làng Bethsaida nhỏ bé bên bờ biển Galilêa cũng gọi là hồ Giênezareth. Ngày ấy đang khi cùng với Phêrô đi thả lưới, Chúa Giêsu đã đi ngang qua và đưa lời gọi sẽ quyết định cuộc đời các Ngài:

 - Hãy theo tôi, tôi sẽ làm các anh thành các ngư phủ lưới người ta.

Đây không phải lần đầu Anrê đã gặp đấng cứu thế. Thỉnh thoảng Ngài có tới nghe Gioan Tẩy giả rao giảng trong sa mạc. Khi ấy Chúa Giêsu xuống Galilea và Gioan tẩy Giả đã nói:

- Đây là Chiên Thiên Chúa.

Và Anrê có mặt ở đó với Gioan, đã biết được Người là Đấng thiên sai mong chờ. Gioan và Anrê lên đường theo Người xa xa vì họ cảm động và không dám tới gần. Nhưng Chúa Giêsu quay lại và nói với họ: - Các anh tìm chi vậy?

Họ, những người chỉ tìm, chỉ muốn Chúa thôi đã thưa lại:

- Thưa Thầy, thày ở đâu?

Chúa Giêsu nói: - Hãy đến mà xem.

Và cả hai đã ở với Chúa hôm ấy.

Khi trở về nhà Anrê đã nói với anh mình: - Chúng tôi đã gặp được Đấng thiên sai.

Từ đó hai anh em đã bỏ chài lưới để tới gần Chúa Giêsu. Họ nghe Người và thần tính của Người dần dần rọi sáng tâm hồn họ. Họ đã tông thờ Đấng cứu thế ở trong lòng rồi.

Sau những tường thuật trên của Phúc âm, người ta không biết gì chắc chắn nữa về Anrê. Các bản văn không có thẩm quyền nói rằng: Ngài đã góp phần Phúc âm hóa dân chúng miền Bithynia, Bontê và Galitia. Ngài bị bắt bên bờ Bắc hải và kết thúc cuộc đời tại Achaia. Lửa đức ái rực cháy trong lòng vị tông đồ. Người ta nói rằng: để cải hóa một tâm hồn, Ngài ăn chay 5 ngày. Đây là tục truyền kể lại cuộc tử đạo của thánh Anrê ở Taurida.

Egêa, tổng trấn tỉnh đó cho biết vị tông đồ có mặt ở Patras, thủ phủ của ông, ông liền vội vã tới nơi: kẻ ngoại lai này muốn phá hủy đền thờ các thần minh ư? Nhưng Anrê không sợ gì Egêa. Ngài đã nắm vững được chân lý. Ngài nói:

- Tôn thờ loài người chỉ là dị đoan điên khùng. Ông đã lãnh quyền xét xử người ta, trước hết ông phải biết đến vị thẩm phán xét xử mọi người chúng ta ở trên trời và ông phải tôn kính ca ngợi Người.

Egêa vặn lại: - Vị thẩm phán anh nói là Chúa Giêsu mà lời ông ta thường giảng dạy đã làm cho ông ta phải chết trên thập giá chứ gì? Vậy nếu anh không dâng hương tế thần, anh cũng sẽ phải chết trên thập giá như vậy.

Không hề sợ sệt, Anrê như rạng rỡ vì hạnh phúc: làm sao Ngài để mất danh dự được đóng đinh vào cùng một đau khổ giá như thày mình được? Khi bắt đầu những tra tấn đầu tiên, lòng dũng cảm còn tăng thêm, Ngài nói với Egêa:

- Cực hình cuối cùng ông đe dọa sẽ được tiếp liền bằng vinh quang bất diệt.

Khi thấy thập giá mình sẽ phải chết trên đó, thánh nhân hớn hở chào kính mà người ta thích lập lại lời chào ấy:

- Ôi thánh giá tốt lành, thánh giá bấy lâu mong chờ, thánh giá nhiệt tình yêu mến, hãy đưa ta tới thầy chí thánh là Đấng đã nhờ Người mà cứu chuộc Ta.

Dịu dàng Anrê giang tay ra. Ngài bị cột bằng giây để cái chết tới chậm hơn. Hình phạt sẽ kéo dài hai ngày và người ta còn nghe Ngài tiếp tục rao truyền đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Dân chúngvây quanh Ngài với niềm thán phục đã xin quan tổng trấn tháo giây cho Ngài. Họ nói: - Hãy trả con người thánh thiện cho chúng tôi. Đã hai ngày bị treo, Ngài không ngừng nói những lời tốt lành, đừng giết con người yêu quí của Thiên Chúa.

Nhưng Anrê không muốn được trả về cuộc sống khốn cực trần gian này. Ngài cầu nguyện: - Lạy Chúa Kitô hãy đón nhận con, ôi thầy con yêu, con biết con ước ao được gặp thầy, trong Thày mà con được thế này. Hãy nhận lấy hồn con, lạy Chúa Giêsu Kitô.

Và những người tham dự thấy linh hồn vị tông đồ trong hào quang đã bay về với Chúa tạo thành và cứu chuộc của mình.

Tương truyền thánh Anrê đã bị cột vào thánh giá đã có từ thế kỷ XII và chỉ vào thế kỷ XIV... người ta mới tưởng tượng thánh giá đó hình chữ X. Dụng cụ cực hình ấy được mệnh danh là thánh giá thánh Anrê.

3. Quan tâm đến người khác

Chúng ta học được bài học gì qua cuộc đời của Thánh An-rê? Có nhiều bài học nhưng có lẽ bài học thực tế nhất đó là bài học biết quan tâm đến người khác.

Gặp được Chúa Giêsu, An-rê đã nghĩ ngay đến anh mình.

Trong hoang địa khi Chúa Giêsu ra lệnh cho các môn đệ tìm của ăn cho dân chúng ăn, một mình An-rê đã nhanh chóng thấy được một em bé có 5 chiếc bánh và hai con cá.

Tại Giêrusalem, những người Hy Lạp đang băn khoăn không biết làm sao để có thể gặp được Chúa, An-rê đã có mặt để dẫn họ đến với Chúa.

Tin mừng chỉ ghi lại có ba lần như thế nhưng với ba lần đó chúng ta cũng có thể thấy được An-rê là con người tốt như thế nào.

* An-rê đã sống như thế, còn chúng ta thì sao? Không biết ngày nay chúng ta có sống được như thế hay không? Hình như là ngày nay con người nghĩ đến mình nhiều hơn nghĩ đến người khác. Việc biết quan tâm đến những người khác người đã trở thành hiếm hoi. Thế giới ngày nay với cuộc sống hướng nhiều về hưởng thụ đang làm cho con người chỉ muốn vun quén cho mình mà không biết đến người khác.

Có một ông Vua nọ bị dân gán cho một căn bệnh hiểm nghèo, đó là “Tứ chứng nan y” gồm: Mù, què, câm, điếc.

 Một hôm, một người vào cung Vua, yết kiến. Vua hỏi:

- Nhà ngươi vào gặp Ta chắc có chuyện gì?

- Tâu Bệ Hạ -người đó thưa lại- hạ thần nghe rằng Bệ Hạ đang mang một căn bệnh rất hiểm nghèo là “Tứ chứng nan y” nên hạ thần vào thăm Bệ Ha.

Nghe thế, Nhà vua liền nổi giận quát: - Kẻ nào dám bịa đặt bảo ta bị bệnh? Chân tay mắt mũi ta lành lặn thế này mà bảo ta mù, què, câm, điếc sao?

Người kia liền tâu: - Thần nghe thiên hạ đồn như vậy, nay gặp Vua mới biết sự thực. Nhưng xét lại, thì tin đồn ấy cũng chẳng sai.

Nhà vua chặn lời và nói: - Vậy ngươi hãy chỉ cho ta xem nào!

- Tâu Bệ Hạ, thứ nhất dân kêu kiện nhiều mà Bệ Hạ không thèm trả lời, không giải quyết, nên bọn họ tưởng Bệ Hạ bị câm.

Thứ hai, giặc ngoại bang tràn lan muốn xâm chiếm đất nước, nhân dân hoang mang lo sợ, kêu cầu nhà Vua mà vua không lo gì hết, nên họ tưởng là nhà Vua họ bị điếc.

Thứ ba, cuộc sống của Bệ Hạ thì quá sung sướng, trên nhung lụa, còn ngược lại, dân chúng sống trong cùng cực, đói khổ. Họ không hề thấy Bệ Hạ dòm ngó gì đến họ, cũng chẳng thèm quan tâm lo lắng đến đời sống của họ, nên họ tưởng Bệ Hạ bị đui.

Và cuối cùng, vì họ không bao giờ thấy Bệ Hạ ra khỏi cung điện, mà ngày đêm chỉ biết ăn chơi với các cung phi, nên họ tưởng là Bệ Hạ bị què!

Chúng ta hãy xin với thánh An-rê điều chỉnh lại cuộc sống của chúng ta.

4. Cuộc tử đạo của Anrê

Đây là tục truyền kể lại cuộc tử đạo của thánh Anrê ở Taurida: Egêa, tổng trấn tỉnh đó cho biết vị tông đồ có mặt ở Patras, thủ phủ của ông, ông liền vội vã tới nơi: kẻ ngoại lai này muốn phá hủy đền thờ các thần minh ư? Nhưng Anrê không sợ gì Egêa. Ngài đã nắm vững được chân lý. Ngài nói:

- Tôn thờ loài người chỉ là dị đoan điên khùng. Ông đã lãnh quyền xét xử người ta, trước hết ông phải biết đến vị thẩm phán xét xử mọi người chúng ta ở trên trời và ông phải tôn kính ca ngợi Người.

Egêa vặn lại:

- Vị thẩm phán anh nói là Chúa Giêsu mà lời ông ta thường giảng dạy đã làm cho ông ta phải chết trên thập giá chứ gì? Vậy nếu anh không dâng hương tế thần, anh cũng sẽ phải chết trên thập giá như vậy.

Không hề sợ sệt, Anrê như rạng rỡ vì hạnh phúc: làm sao Ngài để mất danh dự được đóng đinh vào cùng một khổ giá như thày mình được? Khi bắt đầu những tra tấn đầu tiên, lòng dũng cảm còn tăng thêm, Ngài nói với Egêa:

- Cực hình cuối cùng ông đe dọa sẽ được tiếp liền bằng vinh quang bất diệt.

Khi thấy thập giá mình sẽ phải chết trên đó, thánh nhân hớn hở chào kính mà người ta thích lập lại lời chào ấy:

- Ôi thánh giá tốt lành, thánh giá bấy lâu mong chờ, thánh giá nhiệt tình yêu mến, hãy đưa ta tới Thầy Chí Thánh là Đấng đã nhờ ngươi mà cứu chuộc ta.

Dịu dàng Anrê giang tay ra. Ngài bị cột bằng giây để cái chết tới chậm hơn. Hình phạt sẽ kéo dài hai ngày và người ta còn nghe Ngài tiếp tục rao truyền đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Dân chúng vây quanh Ngài với niềm thán phục đã xin quan tổng trấn tháo giây cho Ngài. Họ nói:

- Hãy trả con người thánh thiện cho chúng tôi. Đã hai ngày bị treo, Ngài không ngừng nói những lời tốt lành, đừng giết con người yêu quí của Thiên Chúa.

Nhưng Anrê không muốn được trả về cuộc sống khốn cực trần gian này. Ngài cầu nguyện:

- Lạy Chúa Kitô hãy đón nhận con, ôi thầy con yêu, con biết con ước ao được gặp thầy, trong Thày mà con được thế này. Hãy nhận lấy hồn con, lạy Chúa Giêsu Kitô.

Và những người tham dự thấy linh hồn vị tông đồ trong hào quang đã bay về với Chúa tạo thành và cứu chuộc của mình.

5. Quan tâm đến người khác

Vào tháng thứ hai của một khóa học tại trường đào tạo nghiệp vụ y tá, giảng viên cho chúng tôi làm một bài kiểm tra về kiến thức phổ thông.

Tôi vốn là một sinh viên chăm chỉ nên dễ dàng trả lời mọi câu hỏi trong bài kiểm tra, trừ câu hỏi cuối: "Chị tạp vụ ở trường tên là gì?" Tôi nghĩ đó chỉ là một câu hỏi cho vui. Tôi đã trông thấy chị ta vài lần. Chị có dáng người cao, mái tóc nâu sâm và khoảng 50 tuổi, nhưng làm thế nào mà tôi có thể biết tên chị được kia chứ? Tôi nộp bài và bỏ trống không trả lời câu hỏi đó.

Trước khi tan học, một sinh viên đứng lên hỏi giảng viên về cách tính điểm câu hỏi cuối trong bài kiểm tra vừa làm. Giáo sư bộ môn trả lời:

Tất nhiên là có tính điểm. Trong mọi ngành nghề, các anh chị luôn phải gặp gỡ và tiếp xúc với nhiều người. Tất cả những con người đó đều có ý nghĩa. Họ đáng được các anh chị quan tâm chú ý đến, cho dù tất cả những gì ta có thể làm cho họ chỉ là một lời chào hỏi và một nụ cười.

Tôi đã không quên bài nọc đó trong suốt cuộc đời mình. Tôi cũng đã biết được tên của chị tạp vụ trong trường. Chị ta tên là Dorothy.

6. Thánh Anrê con người khiêm tốn

Khi một chiếc tầu hỏa xuyên châu lục chạy vèo qua khung cửa, một giám mục đã già đang nói với một linh mục trẻ vừa mới ra khỏi chủng viện về đời sống đầy những biến cố của ông. Rồi ông quay lại linh mục trẻ và yêu cầu ông này kể lại ơn gọi của mình.

Linh mục kiểu cách đáp lại:

 ”Ồ, nói ra thì rất đơn giản, tất cả những gì con muốn nói là vì Chúa đã cần đến con.”

 Giám mục nhận xét: ”Này anh bạn trẻ, đây là sự trùng khớp thật thú vị: Nếu như tôi còn nhớ, trong Tin Mừng chỉ có một lần Chúa nói Người cần một cái gì đó. Trong Lu-ca 19:34 nhân dịp Người sắp sửa vào Giê-ru-sa-lem một cách vinh quang, Người nói Người cần một con lừa.”

Thánh Kinh có câu: "Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào Chúa ơi” (Tv 130, 1). Ai sống khiêm tốn thì sẽ được Thiên Chúa yêu thương và được mọi người quý mến.

"Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1Pr 5,5). Điều Chúa cần nơi chúng ta chính là tấm lòng khiêm tốn thực thi thánh ý Người.

Thánh Anre là một con người như thế. Đầy khiêm tốn và nhiệt huyết. Theo Thánh Kinh Anrê là môn đệ đầu tiên được thánh Gioan giới thiệu đến với Chúa Giêsu. Anre đã không nghĩ cho mình mà ông đã nghĩ đến anh. Ông đã gặp anh và nói: "Chúng tôi đã gặp Đấng Messia. rồi ông đưa Simon Phêrô đến gặp Đức Giêsu. (Ga l,41-42).

7. Dứt khoát trong chọn lựa

Trên sân ga, một đôi tình nhân đang ngồi bên nhau để dành cho nhau những giây phút chia tay cuối cùng, vì cô ta phải dứt khoát từ bỏ anh, người cô yêu say đắm để vâng lời cha mẹ mà chuyển đi phương xa. Khi đoàn tàu đã hú còi báo chuẩn bị chuyển bánh, thì đôi uyên ương dùng dằng khó dứt khoát. Khi cô ta nghe tiếng mẹ gọi, cô đã vội vàng chạy lên tàu. Khi chạy đến nơi thì cửa tàu cũng đã khép. Buồn bã qua lại chỗ người yêu, thì người yêu cũng đã lên tàu về quê.

Lòng người luôn bị dao động bởi thiếu sức mạnh của tinh thần, vắng bóng sự khôn ngoan của Thánh Thần, khi trong tình huống cần phải quyết định dứt khoát thì không thể dứt khoát.

8. Dứt khoát theo Chúa

Giữa cuộc sống đời thường một ngày như mọi ngày, thi thoảng có những trường hợp đòi hỏi phải có một “phản ứng nhanh”, để bắt lấy thơi cơ quý hiếm hay để tránh hậu quả đáng tiếc. Khi nghe Chúa gọi, bốn môn đệ đầu tiên đã “lập tức” bỏ chài lưới mà theo Người. “Lập tức” diễn tả một quyết định nhanh, một chọn lựa dứt khoát, không chần chừ toan tính, không lừng khừng nửa vời. Như thế phải chăng sẽ là “dục tốc bất đạt”? Không, “lập tức” ở đây nói lên thái độ “tỉnh thức và sẵn sàng” trước mọi tình huống khẩn cấp và bất ngờ, nhất là trước tiếng gọi của Chúa, vì Người vẫn đến khi ta không ngờ. Chỉ có thể có thái độ và phản ứng nhanh như thế, khi nào ta luôn đặt mình trước sự hiện diện của Người.

Giống như Đức Maria thưa vâng và “hối hả vội vã” lên đường, bốn môn đệ “lập tức” bỏ chài lưới mà theo. Bốn chữ “vâng, vội, bỏ, theo” chính là kim chỉ nam giúp ta sống trọn vẹn ơn gọi con người và con Chúa. Hành trình đức tin đã được khởi xướng, giờ đây phải được tiếp tục.

“Tin vào Chúa là hướng về Ngài, là đi tới Ngài, là mỗi ngày mỗi tiến tới trên con đường dẫn đến Ngài, và cuối cùng là đến được với Ngài” (Th. Augustinô).

9. Ơn gọi loan báo Tin Mừng

Thư Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010 nhắc lại giáo huấn của Công Đồng Vatican II rằng loan báo Tin Mừng là lý do hiện hữu của Giáo Hội, và vì thế truyền giáo không chỉ là một trong những hoạt động của Giáo Hội mà là “nắm men thấm nhập, khơi dậy và chi phối mọi khía cạnh của đời sống Giáo Hội” (số 31).

Mới đây trong sứ điệp ngày Chúa Nhật Truyền Giáo, Đức Bênêđitô XVI lại nhấn mạnh: “Từ cá nhân những người đã được rửa tội đến những cộng đoàn giáo hội, tất cả đều phải dấn thân vào việc truyền giáo không phải như một việc thỉnh thoảng mới làm hoặc theo thời vụ, mà là một cung cách sống thường xuyên, một lối sống của người Kitô hữu.” Các ngài chỉ lặp lại lời mời gọi của Chúa Kitô hôm nay: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành kẻ lưới người như lưới cá.” Lời mời gọi cần được đáp trả.

Những lời đó quá đủ để thúc đẩy chúng ta dấn thân loan báo Tin Mừng một cách tích cực hơn. Dù bạn là ai hay sống trong bậc sống nào, bạn cũng được mời gọi hãy trở thành “ngư phủ” của Chúa theo ơn gọi và khả năng của mình. Tấm lưới sẽ thu được nhiều cá nhất chính là đời sống chứng nhân giữa lòng đời với niềm xác tín: Dù ăn hay uống hay làm bất cứ việc gì tôi cũng sẽ làm mọi sự cho danh Chúa được cả sáng.

10. Ước mơ đáng mơ ước

Các học sinh miệt mài học tập, các công nhân, kỹ sư cặm cụi làm việc,… mọi người đều đang… ước mơ: ước mơ đạt tới một cái gì đó hơn cái đang có trong hiện tại này, theo đuổi nó, và biến nó thành hiện thực. Đó chính là ước mơ thăng tiến bản thân, động cơ cho mọi chọn lựa và nỗ lực trong cuộc sống.

Hẳn An-rê và các bạn cũng mơ ước một cuộc sống nào đó hơn cuộc sống ngư phủ tầm thường. Lời mời gọi đi theo thầy Giê-su để trở thành những người thợ “lưới người như lưới cá” mở ra cho các ông một triển vọng thăng tiến mới mẻ, nhưng cũng đầy mạo hiểm. Chỉ vì say mê thầy Giê-su mà các ông dám bỏ thuyền bỏ lưới đi theo Ngài để thực hiện ước mơ.

Là Ki-tô hữu, bạn đang ước mơ cái gì? Phải chăng là một cuộc sống ấm êm với những thành đạt mà theo lẽ thường người ta vẫn hằng mơ ước? Điều đó không có gì sai. Thế nhưng phải chăng chỉ có bấy nhiêu? Lời Chúa nhắc bạn rằng dù sống giữa những sự đời thường, bạn vẫn có thể mơ ước một cái gì đó hơn nữa, đó là ước mơ nên thánh như “Cha chúng ta trên trời là Đấng Thánh”; đó là say mê Thầy Giê-su đến độ dám liều bỏ mọi sự để bước theo thật sát những bước chân của Ngài.

Say mê Đức Ki-tô, tôi quyết tâm dù làm một việc nhỏ, không làm một cách tầm thường xoàng xĩnh mà làm với tất cả tận tâm và yêu mến.

Lời Chúa Tuần 34 Thường Niên
Thường niên V - GS C - PS Ngoại lịch