LỜI CHÚA TUẦN 34 THƯỜNG NIÊN
CÂU TRUYỆN MINH HỌA
CNTN 34A – VUA CỦA LÒNG NHÂN
HẬU
CNTN 34B - ĐỨC GIÊSU KITÔ - VUA VŨ TRỤ
THỨ SÁU - NHẬN RA TIẾNG CHÚA QUA CÁC BIẾN CỐ
THỨ BẢY - TỈNH THỨC CẦU NGUYỆN
LỄ KÍNH THÁNH ANRÊ - NGƯ PHỦ LƯỚI NGƯỜI
CNTN 34A – VUA CỦA
LÒNG NHÂN HẬU
Mt 25, 31-46
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: "Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần
hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại
trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê.
Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái.
"Bấy giờ Vua sẽ phán với những
người bên hữu rằng: 'Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần
gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì
xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ,
các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các
ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta'.
"Khi ấy người lành đáp lại
rằng: 'Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống;
có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc;
có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng
Chúa đâu?' Vua đáp lại: 'Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm
cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính
Ta'.
"Rồi Người cũng sẽ nói với
những kẻ bên trái rằng: 'Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa
muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng. Vì xưa Ta đói, các ngươi không
cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp
rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi
đâu có viếng thăm Ta!'
"Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng:
'Lạy Chúa có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu
đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?' Khi ấy Người đáp lại:
"Ta bảo thật cho các ngươi biết: những gì các ngươi đã không làm cho một
trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính
Ta'. Những kẻ ấy sẽ phải tống vào chốn cực hình muôn thuở, còn các người lành
thì được vào cõi sống ngàn thu.” Đó là lời Chúa.
TRUYỆN
KỂ
1. Thế
giới nhiều người đói
Mẹ Têrêsa nói: ngày nay có nhiều
người đói thức ăn, nhưng cũng có nhiều người đói những thứ khác như đói được biết
đến, đói được yêu thương, đói được tôn trọng…
Trần truồng không phải chỉ là
không quần áo, mà còn là không nhân phẩm, không trong sạch, không tự trọng.
Vô gia cư không phải chỉ là
không có nhà, mà còn là bị ruồng bỏ, bị coi là vô dụng.
Chứng bệnh nặng nhất của thế giới
hôm nay là cảm giác bị bỏ rơi không ai để ý đến, không ai quan tâm chăm sóc.
Sự ác lớn nhất của thế giới hôm
nay là thiếu tình yêu, là dửng dưng với người bên cạnh.
2.
Ông Hoàng Hạnh Phúc
Oscar Wilde đã viết một câu chuyện
rất đẹp, tựa đề là The Happy Prince, như sau:
Một Ông Hoàng kia sống một cuộc
đời rất hạnh phúc. Vì thế khi ông chết, người ta đã làm một bức tượng của ông,
đặt trên một cái bệ cao giữa thành phố và đặt tên là Ông Hoàng Hạnh Phúc, như
là biểu tượng may mắn sẽ mang hạnh phúc đến cho mọi người dân trong thành.
Một buổi chiều đầu mùa đông, một
con chim én đến đậu dưới chân pho tượng. Bỗng một giọt nước rơi xuống đầu nó.
Nó nhìn lên và ngạc nhiên vì đó là giọt nước mắt của Ông Hoàng. Ông đang khóc.
- Tại sao ông khóc? Ông là Ông
Hoàng Hạnh Phúc kia mà!
- Từ khi đứng trên cao nhìn thấy
cảnh sống của dân thành, ta đau lòng quá và không còn hạnh phúc nữa. Ta muốn đi
giúp họ lắm, nhưng đôi chân ta bị chôn chặt ở cái bệ này nên không thể nào đi
được. Bạn có thể giúp ta không?
- Không được, tôi phải bay đi Ai
Cập.
- Hãy làm ơn giúp ta đêm nay đi.
- Thôi được. Bây giờ ông muốn
tôi làm gì?
- Trong một túp lều đàng kia có
một người mẹ đang khóc vì con à bị bệnh mà bà không có tiền gọi bác sĩ. Bạn hãy
lấy viên ngọc ở chuôi kiếm của ta đem cho bà ấy.
Chim én dùng mỏ lấy viên ngọc ra
và bay đến cho bà mẹ nghèo. Nhờ có tiền, bà đã lo cho con bà khỏi bệnh.
Hôm sau Ông Hoàng lại xin chim
én nán lại một đêm nữa để mang viên ngọc khác đến cho một người nghèo khác. Rồi
hôm sau nữa đến giúp một người nghèo khác nữa. Cứ thế hết ngày này đến ngày
khác, con chim én lấy các thứ trang sức của Ông Hoàng đem cho người nghèo. Cuối
cùng trên mình Ông Hoàng không còn gì quý giá nữa. Khi đó đã là giữa mùa đông,
trời đã lạnh rất nhiều.
Một buổi sáng, người ta thấy xác
con chim én đã chết cóng dưới chân pho tượng Ông Hoàng trần trụi. Phía dưới
thành phố, mọi người đều hạnh phúc. Họ có biết đâu hạnh phúc của họ là nhờ sự
hy sinh của Ông Hoàng Hạnh Phúc và con chim én nhỏ bé kia.
3.
Chúa Kitô khác
Năm 1880, ở thành phố Paris, có
một Linh mục ăn mặc nghèo hèn đến gõ cửa nhà một Cha Sở xin được trọ qua đêm.
Cha Sở tiếp khách rất thờ ơ rồi chỉ cho Linh mục ấy lên chiếc gác xép nhà xứ.
Linh mục ấy tên là Gioan Bosco, từ Turin nước Ý sang Paris để quyên tiền về xây
trường giáo dục các thiếu niên.
Nhiều năm sau, Giáo Hội đã tôn
phong Gioan Bosco lên bật hiển thánh. Khi nghe tin đó, Cha Sở nọ nói: "Phải
chi lúc đó tôi biết ông ấy là Don Bosco thì tôi đâu có để Ngài ở trên cái gác
xép ấy, trái lại tôi đã dành phòng khách sang trọng nhất cho Ngài rồi."
Chúng ta không bao giờ biết rõ
những kẻ chúng ta gặp là những người như thế nào. Nhưng điều này không quan trọng.
Điều quan trọng đối với những kẻ có đức tin là chính Chúa hiện thân trong những
người ấy.
4.
Ý nghĩa của lễ Chúa Kitô Vua
Hôm nay là Chúa nhật cuối năm Phụng
vụ, Giáo hội mừng lề Chúa Giêsu Vua để nhắc nhở cho mọi người hãy suy tôn, phục
vụ và theo Ngài, đồng thời phải chuẩn bị tâm hồn chờ đợi Chúa đến trong ngày tận
thế với tư cách là vị Vua Thẩm phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết.
Đức Giáo hòang Piô XI đã thiết lập
lễ này vào ngày 11.12.1925 trong bầu khí tạ ơn và hân hoan của Năm thánh 1925.
Ngài thiết lập lễ này vì vào những thập niên đầu thế kỷ 20, thế giới phải đối
diện với trào lưu tục hóa và các chủ thuyết khác. Về phía Giáo hội, qua việc mừng
kính tước hiệu là Vua của Chúa Kitô, Giáo hội khẳng định niềm tin trước sau như
một của mình là tuyên xưng vương quyền của Chúa Kitô trên mọi con người, mọi
gia đình, mọi xã hội và trật tự nhân loại.
Ngoài ra, để điều chỉnh một số lệch
lạc trong đời sống đạo nơi một số con cái, Giáo hội là Mẹ nhắc nhở cho mọi người
rằng Chúa Kitô không chỉ là người Anh hay người Bạn đồng hành mà Ngài còn là
“Vua trên các vua, Chúa trên các chúa. Ngài là Đấng hằng sống và hiển trị muôn
đời."
5. Nữ
hoàng Elizabeth lên ngôi
Năm 1952, lễ đăng quang của nữ
hoàng Anh Elizabeth là một nghi thức long trọng nhất của thế kỷ 20. Ba triệu
người đứng chật các đường phố Luân đôn. Từ các thuộc địa Anh, các đoàn đại biểu
trong sắc phục địa phương cũng có mặt. Nữ hoàng ngự giá trên chiếc xe ngựa bằng
vàng. Hơn 10 sư đoàn trong quân đội hoàng gia diễn hành. Năm trăm chiếc khu trục
cơ nhào lộn trên không.
Vua chúa và các nhà lãnh đạo hầu
hết đều có mặt mang theo tặng vật cho vị tân nữ hoàng. Nhưng có lẽ quà tặng cao
qúi nhất mà thế giới tặng cho nữ hoàng là ngọn cờ nước Anh lần đầu tiên được một
người Tân tây lan cắm trên đỉnh Everest ở độ cao 8.846 mét vào chính ngày áp lễ
đăng quang.
6. Thánh
Martinô thành Tours.
Ông là một quân nhân La mã và một
Kitô hữu. Một ngày mùa đông lạnh lẽo, khi ông đi vào một thành phố, có người
hành khất chặn ông lại xin bố thí, Martinô không có tiền, nhưng ông thấy người
hành khất xanh xao và run rẩy vì lạnh, Martinô đã cho những gì ông có: ông cởi
chiếc áo nhà binh đã sờn rách và xé một nửa cho người hành khất. Tối hôm ấy ông
nằm mơ thấy thiên đàng có các thiên sứ đang bao quanh Chúa Giêsu và Ngài đang mặc
nửa chiếc áo lạnh nhà binh của ông. Một thiên sứ hỏi Ngài:”Tại sao Ngài mặc chiếc
áo sờn rách đó? Ai đã cho Ngài áo đó”? Chúa Giêsu trả lời:”Martinô, tôi tớ của
Ta đã cho Ta."
7. Cho
đi thì sẽ được.
Một ngày mùa đông lạnh giá, Lady
Grey, một phụ nữ qúi tộc người Anh, rất giầu có, đã cải trang làm một người
hành khất đi ăn xin từng nhà trong thành phố Luân đôn. Đến một số nhà, bà bị
xua đuổi một cách tàn nhẫn. Một vài nơi khác, bà chỉ được bố thí cho những thứ
thừa thãi vất đi. Điều lạ là tất cả những người ấy là những gia đình giầu có.
Thế rồi bà tìm đến một căn nhà lụp xụp nghèo nàn. Tại một túp lều xiêu vẹo, bà
được một ông lão tàn tật ân cần mời vào sưởi ấm bên bếp lửa và cùng chia nhau một
khúc bánh mì đen.
Hôm sau chính người nữ qúi tộc ấy
sai các gia nhân đến tận nhà mời những người mà bà đã đến ăn xin tối hôm trước
tới dự một bữa tiệc tại dinh thự của bà. Tất cả khách được hướng dẫn vào một
phòng chiêu đãi sang trọng và mỗi người được đặt chỗ ngồi riêng dọn sẵn. Bấy giờ
ai nấy thấy trước mặt mình là những món ăn y như những thứ mà họ đã đem bố thí cho
“bà ăn mày”: chỗ thì củ khoai thối, chỗ thì miếng bánh mốc không ăn được, có
nơi là một cốc nước lã bẩn thỉu, lại có nơi chỉ là chiếc đĩa trống không. Duy
chỉ có chiếc đĩa trước mặt ông lão tàn tật đầy ắp những món ăn ngon lành sang
trọng. Mọi người chưa hết ngạc nhiên thì bà qúi tộc xuất hiện và tuyên bố:”Hôm
qua tôi đích thân đi ăn xin từng nhà để hiểu biết hơn về lòng nhân ái của qúi vị.
Hôm nay tôi chỉ đáp lễ bằng cách dọn ra mời qúi vị những thứ mà qúi vị đã cho
tôi. Tôi tin rằng qúi vị cũng sẽ được tiếp đãi như vậy trong bữa tiệc mai sau
truớc mặt Thiên Chúa là Đấng bây giờ đang đứng trước nhà qúi vị để trông chờ tấm
lòng nhân ái của qúi vị."
8.
Thiên đàng và hỏa ngục
Một hiệp sĩ Samurai hung bạo.
Ông tìm đến với một thiền sư và hỏi:
- Yêu cầu ông cho tôi biết Thiên
Đàng hỏa ngục là gì?
Vị thiền sư nhìn thấy con người
thô bạo của anh thì nói:
- Ta không thể dạy cho ngươi biết
thiên đàng hoả ngục là gì, vì ngươi hung bạo quá. Ngươi làm nhục cho hàng ngũ
hiệp sĩ của ngươi.
Nghe vị thiền sư nói thế, chàng
hiệp sĩ bừng bừng sát khí, rút gươm định chém đầu vị thiền sư. Nhưng vị thiền sư đưa tay cản lại và
nói:
- Hỏa ngục là thế đó!
Nhận được bài học thực tế của vị
thiền sư, chàng hiệp sĩ dừng tay lại. Sự hối hận và thương cảm trào dâng trong
tâm hồn y. Y hiểu rằng vị thiền sư đã dám hy sinh cả mạng sống để dạy cho y bài
học về hoả ngục. Y từ từ xỏ gươm vào vỏ, rồi quỳ gối trước mặt vị thiền sư với
tất cả tấm lòng thành tâm sám hối. Vị thiền sư đưa tay đỡ y dậy, nhìn sâu vào
đôi mắt y và bảo:
- Thiên đàng là thế đó.
Vâng! Chỉ có Thiên đàng khi con
người biết sống yêu thương hài hòa với nhau. Chỉ có Thiên Đàng khi con người biết
cảm thông, tha thứ, phục vụ, hy sinh quên mình vì người khác như Lời Chúa dạy
trong bài Tin Mừng hôm nay.
9.
Người đã chết cho con
Tháng 4 năm1865, tổng thống
Abram Lincon, một người không ngần ngại khó khăn, gian khổ để đấu tranh chống lại
chế độ nô lệ, bênh vực quyền lợi cho người da đen, đã bị một tay quá khích ám
sát. Một bà mẹ đi viếng đám tang tổng thống nói với đứa con của mình rằng: “Con
hãy nhìn kỹ, hãy nhìn cho thật kỹ, vì Người Này đã chết cho con đó."
Thiết tưởng lời nói ấy mỗi người
chúng ta cũng cần lặp lại cho nhau khi nhìn lên Thánh Giá Chúa: Người này đã chết
cho chúng ta đó? Để chúng ta không còn tôn thờ bất cứ thần tượng nào khác mà chỉ
tôn thờ một thần tượng duy nhất có tên là Giêsu, là vua yêu thương phục vụ, hiền
lành và khiêm nhường trong lòng.
Mừng lễ Chúa Kitô vua vũ trụ,
cũng là một cơ hội nhắc nhớ ngày lãnh nhận Bí tích rửa tội, chúng ta được tham
dự vào chức vụ vương đế của Vua Giêsu. Với chức vương đế này, không phải để
chúng ta cai trị người khác, nhưng cai trị con người chúng ta, cai trị những
đam mê tật xấu, thống trị những tính ích kỷ hư hèn của chúng ta.
10.
Đã làm hay không làm
"Hoàng tử và người hành khất"
là câu chuyện của Mark Twain về hai em bé sống cách đây 300 năm ở nước Anh. Hai
em bé không chỉ là bạn tốt của nhau, mà chúng còn giống nhau như như anh em sinh
đôi. Một em là Edward, hoàng tử xứ Wales, em kia là Tom Canty, một chú bé nghèo
khổ.
Một ngày kia, thật là trò vui,
hai em quyết định chuyển địa vị, chúng thay đổi quần áo. Edward mặc quần áo
rách tả tơi của đứa trẻ nghèo khổ và đi lang thang khắp các khu nhà ổ chuột ở
London, sát cánh với những người hành khất và thấp kém. Sau một thời gian hai
chú bé mệt mỏi vì trò chơi của chúng. Trong bộ quần áo rách rưới, Edward cố gắng
nói cho người cảnh sát biết rằng chú là hoàng tử. Nhưng chú bị tống giam. Ngay
khi Tom sắp sửa được phong vương, Edward tỏ lộ và thuyết phục các viên chức chú
là hoàng tử thật. Do kết quả kinh nghiệm của mình, Edward trở thành một nhà
lãnh đạo công minh và nhân ái.
Tình cảnh giữa Chúa Kitô và
chúng ta cũng có cái gì giống như thế. Chúa Kitô là hoàng tử, Con thật của
Thiên Chúa. Ngài đã chuyển địa vị với chúng ta, những kẻ nghèo khó. Ngài mang lấy
thể xác nghèo hèn chúng ta. Rồi Chúa Kitô làm cho mỗi chúng ta thành hoàng tử bằng
cách mặc cho chúng ta áo ân sủng của Ngài, chia sẻ chính sự sống thần linh của
Ngài cho chúng ta.
11.
Công dân nước trời
Ngày xưa ngày xưa, hai anh em
cùng sống và làm việc chung trên một cánh đồng và chung một cối xay. Mỗi tối về,
họ chia đều hoa lợi đã thu hoạch trong ngày. Người em sống độc thân, còn người
anh có vợ và nhiều con cái. Bất chợt một hôm, người em sực nghĩ: “Thật không
công bằng chút nào việc chia đều hoa lợi. Mình chỉ có một mình còn anh ấy phải
nuôi cả vợ con nữa." Thế rồi mỗi đêm, người em âm thầm lấy bớt số thóc lúa
của mình đem đổ vào kho của người anh.
Gần như đồng thời, người anh sực
nghĩ: “Thật không công bằng chút nào việc chia đều hoa lợi. Vì mình có con cái
cấp dưỡng trong lúc tuổi già. Còn chú ấy sống một mình, sẽ chẳng có ai cấp dưỡng.
Chú ấy cần dự phòng cho tuổi già sau này." Thế rồi, mỗi đêm, người anh âm
thầm lấy bớt số thóc của mình đem đổ vào kho của người em.
Kết quả mỗi buổi sáng thức dậy,
cả hai đều rất ngạc nhiên thấy phần thóc của mình đã được bổ sung trở lại,
không hề hao hụt. Song họ không hiểu tại sao.
Đến một tối, hai người bắt gặp
nhau giữa đường khi đang mang thóc đổ vào kho của nhau. Cả hai lập tức hiểu ra
sự việc. Và họ cảm động ôm chầm lấy nhau.
Nhiều năm sau khi họ qua đời,
câu chuyện ấy lan rộng ra. Vì thế, khi dân chúng muốn xây dựng một thánh đờng
cho thị trấn, họ đã chọn đúng chỗ mà hai anh em gặp nhau tối ngày xưa ấy, để đặt
móng cho thánh đường – bởi họ nghĩ rằng không thể có chỗ nào khác trong thị trấn
linh thánh hơn chỗ này.
12.
Lời hứa
Trong tập truyện “Điểm tựa yêu
thương”, có câu chuyện ngắn “Lời hứa” đáng cho ta suy ngẫm:
Vì xa cách nhau đến 5 tuổi, nên
mọi người vẫn nói thật kỳ lạ khi chúng tôi lại giống nhau đến thế. Tôi và em
gái có đường nét trên gương mặt rất giống nhau và dĩ nhiên, chúng tôi đều có
mái tóc dài đỏ hoe. À, ít ra tôi vẫn còn tóc cho đến khi bắt đầu trải qua liệu
pháp hóa trị. Những lọn tóc dài đỏ hoe của tôi rụng từng nắm khi quá trình trị
liệu diễn ra.
Tôi sờ lên mái đầu đã trọc lóc của
mình. Nước mắt ứa ra. Giờ thì mọi người sẽ không nói chúng tôi giống nhau nữa.
Cô em Marlanea đang bay từ Montana sang thăm tôi. Nó không biết trông tôi sẽ tệ
đến thế nào. Tôi muốn chuẩn bị tránh cho nó bị sốc hay ngăn nó thấy những gì nó
sẽ chứng kiến. Tôi đã luôn trông nom nó, cố gắng bảo vệ nó an toàn, tránh xa mọi
tổn hại Con bé ra đời vào ngày sinh nhật lần thứ năm của tôi. Mẹ tôi nói rằng
nó là quà sinh nhật của tôi. Tôi xem việc đó là nghiêm túc và tôi yêu thương nó
bằng tất cả trái tim mình.
Chúng tôi lớn lên bên nhau không
rời nửa bước. Chúng tôi chính là những người bạn tốt nhất của nhau. Cha mẹ
chúng tôi vẫn thường nói lẽ ra chúng tôi phải là hia chị em sinh đôi vì chúng
tôi giống nhau quá nhiều, và chúng tôi quá thân thiết với nhau.
Thậm chí chúng tôi suy nghĩ cũng
giống nhau nữa. Khi đi mua sắm, chúng tôi thường mua những món quà nhỏ cho nhau
– từ áo thun cho đến tách cà-phê – nhưng hầu như lần nào chúng tôi cũng mua cho
người kia cùng một món. Chúng tôi chia sẻ một sự gắn bó mà hầu hết mọi người đều
không hiểu được.
Giờ đây là khi đã trưởng thành,
chúng tôi sống ở hai bang khác nhau. Con bé gọi điện thoại cho tôi, khi tôi “A
lô”, ngay lập tức, nó hỏi: “Em biết có chuyện không ổn. Nói em biết đi, chuyện
gì vậy?"
Không còn ngạc nhiên về khả năng
kỳ bí khi biết trước có chuyện bất ổn xảy ra của cô em, tôi đành kể cho nó
nghe. Chúng tôi lặng im, cùng khóc thầm. Những giọt nước mắt tôi không thể khóc
vào sáng sớm hôm đó giờ đây tự nhiên tuôn ra trong lúc tôi trò chuyện với em
gái qua điện thoại.
Từ lúc biết được tôi bị ung thư,
gần như ngày nào con bé cũng gọi điện thoại. Trong giọng nó lúc nào cũng có sự
lo lắng nhưng dù sao cũng luôn tươi tắn. Hàng tuần, con bé gửi cho tôi một tấm
thiệp vui, một tia hy vọng rực sáng khiến tôi tin rằng cuộc đời sẽ lại bình
yên.
Trong một cuộc trò chuyện đẫm nước
mắt qua điện thoại, con bé nói với tôi rằng nó biết chắc tôi sẽ không qua đời
vì ung thư.
Tôi hỏi trong nước mắt: “Vậy à,
sao em biết?"
“Bởi vì khi còn nhỏ, chúng ta đã
từng hứa rằng chúng ta chỉ có thể qua đời nếu người còn lại cũng sẵn sàng ra
đi. Mà em thì chưa sẵn sàng chết nên chị cũng không thể ra đi được.”
Chúng tôi chưa từng thỏa thuận
xem nếu chúng tôi phá vỡ lời hứa thì chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng cả hai chúng
tôi đều hiểu rằng điều đó chắc chắn phải rất nghiêm trọng.
Tôi nghe thấy tiếng taxi dừng
trước cửa nhà. Em gái tôi, người bạn tốt của tôi, vừa đến.
Tôi run rẩy đưa tay lên sờ vào
mái đầu trọc của mình một lần nữa trước khi mở cửa cho người bạn tốt nhất – em
gái tôi.
Con bé đứng đó, mặt trời tỏa ánh
nắng rực rỡ phía sau khiến nó lung linh như một thiên thần, giống hệt những gì
tôi luôn nghĩ về nó. Con bé đứng đó, trong chiếc quần jeans bó và áo thun, đội
một chiếc nón có hàng chữ: “Hôm nay đầu tôi xấu lắm." Cả hai chị em cùng
cười.
Tôi lên tiếng: “Chào em."
Con bé trả lời: “Chào chị."
Rồi con bé đưa tay lên gỡ nón
ra. Em gái tôi đã cạo trọc đầu. Chúng tôi đứng đó, cùng khóc, cùng cười, và ôm
lấy nhau.
“Trong chúng ta vẫn như hai chị
em.” – Con bé nói.
“Chị yêu em.” – Đó là tất cả những
gì tôi có thể nói.
Tôi nhắm mắt lại và thầm nguyện
cầu: “Tạ ơn Chúa đã ban cho con cuộc sống. Tạ ơn Chúa trên Thiên Đường vì đã
cho con người em. Cám ơn mẹ đã cho con món quà này."
Dawn Braulick.
13.
Vua vì dân
Cách đây ít lâu, một người lính
Mỹ đang ngồi trên xe buýt ở Thụy Điển nói chuyện với một người đàn ông ngồi bên
cạnh rằng, “Nước Mỹ là một quốc gia dân chủ nhất trên thế giới. Những người
công dân bình thường có thể đi tới toà Bạch Ốc để gặp tổng thống và thảo luận
công việc." Người đàn ông bên cạnh trả lời, “Điều đó đâu có đáng là gì. Ở
Thuỵ Điển, nhà vua và dân chúng cùng đi với nhau trên cùng một chiếc xe buýt
kìa." Khi người đàn ông vừa nói chuyện đó bước xuống khỏi xe buýt, người
lính Mỹ đã được các hành khách khác còn lại trên xe nói cho biết người ấy chính
là vua Gustav Adolf VI.
“Đức Kitô đã lấy sự trao ban trọn
vẹn toàn thân mình làm điều kiện để có sự sống. Người sẽ phán xét chúng ta khi
giờ chết đến. Chúng ta sẽ được xét đoán trên những gì đã làm cho người nghèo khổ,
trên thái độ chúng ta đối với họ. Người nói với chúng ta: “Ta đói nhưng các
ngươi đã không cho Ta ăn. Ta đói bánh, đói sự công bằng, đói nhân phẩm con người,
nhưng các ngươi đã bỏ mặc Ta! Ta trần truồng và bị tước hết mọi điều cần thiết,
Ta bị sự công bằng chối từ, và ngay cả điều đơn giản nhất được nhìn nhận rằng
Ta cũng giống như các ngươi, được cùng một Thiên Chúa tình yêu tạo dựng nên để
yêu thương và được yêu thương, ngay chính điều đơn giản đó, Ta cũng bị khước từ.
Các ngươi đã để mặc Ta chết, mặc Ta cô đơn và bị xua đuổi. Ta đã bị quẳng ra đầu
đường xó chợ, không một ai đoái hoài, không một ai thương xót và chôn vùi trong
quên lãng."
Một người thanh niên tên là
Michael Christensen đã trải qua một thời gian phục vụ chung với Mẹ Têrêsa trong
những xóm dân nghèo ở Calcutta. Trong cuốn sách của anh tựa đề là “City
Streets, City People”, anh mô tả về một gánh nặng đau đớn không thể tưởng tượng
nổi mà Mẹ Têrêsa đã phải chứng kiến mỗi ngày:
Anh kể lại rằng một ngày nọ Mẹ
Têrêsa đã cứu được một em bé bị bỏ rơi dưới cống rãnh. Cánh tay và bàn chân của
em đã bị lũ chuột rúc rỉa mất gần hết. Vào cuối ngày hôm đó, Mẹ Têrêsa hỏi
Michael Christensen rằng anh đã trông thấy Chúa Giêsu chưa. Christensen vẫn còn
đang tập trung vào những hình ảnh kinh hoàng xẩy ra chung quanh, đã chấp nhận rằng
anh không thấy Chúa Giêsu ở đâu cả. Mẹ Têrêsa đã dùng những lời giảng dạy của
Chúa Giêsu trong chương 25 của thánh Matthêu về việc săn sóc những người nghèo
đói, yếu đuối để giải thích cho anh. Và sau cùng Mẹ chỉ nói rất đơn giản rằng,
“Con đã làm cho chính Ta." Mẹ Têrêsa đã nhìn thấy Chúa Giêsu chung quanh Mẹ
mỗi ngày.
14.
Là mẹ
Trong cuộc Cách Mạng Pháp vào
năm 1789 đã xảy ra một câu chuyện về một bà mẹ đi lang thang trong rừng 3 ngày
với hai người con, họ không có gì ăn, phải ăn rễ và lá cây rừng để sống. Vào
ngày thứ ba, bà mẹ nghe thấy tiếng của những người lính đang tiến đến gần, bà vội
lôi kéo hai người con chui vào một bụi rậm ẩn trốn. Viên trung sĩ chỉ huy đám
lính đi lục soát các bụi rậm đã nhìn thấy người mẹ đói khổ và hai đứa con thì
chạnh lòng thương bèn đem cho họ một ổ bánh mì. Bà mẹ cầm ngay lấy nó, bẻ ra
làm hai miếng, và cho mỗi người con một nửa. “Bà mẹ chẳng giữ miếng nào cho bà ấy
cả,” viên trung sĩ nói. “Bà ấy không đói sao? Một người lính hỏi. “Không phải vậy,
vì bà ấy là mẹ, viên trung sĩ trả lời.
Đứng trước nhu cầu của thế hiện
nay, Mẹ Giáo Hội nhận thấy cần phải đáp lại bằng một nền văn minh của tình
thương, qua lời nhắn nhủ của ĐGH Gioan Phaolo II, tình thương đó dựa trên tình
thương của Chúa Giêsu Kitô, Vua của Lòng Thương Xót, là nền tảng cho tất cả các
giá trị phổ quát mà con người đang đi tìm kiếm.
15.
Vương quốc của tình yêu
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trong tác phẩm mang tựa đề: “Thị
kiến của người Kitô hữu” (The Christian Vision) nhà văn John Powell có kể một
câu chuyện thần thoại của người Ái Nhĩ Lan. Câu chuyện đưa chúng ta trở lại thời
các vua cai trị đất nước này:
Một hôm nhà vua thấy mình không
có con để kế vị, ông bèn sai các sứ giả thông báo cho các thành phố và làng mạc
biết: nhà vua mời các thanh niên nào có đức tính tốt đến triều đình để được phỏng
vấn. Như thế nhà vua hy vọng có thể chọn được một người xứng đáng lên ngôi vị
mình trước khi băng hà. Hai đức tính được nhà vua đặc biệt lưu ý, đó là người
thanh niên ấy phải có lòng mến Chúa và yêu người.
Chàng thanh niên trong câu chuyện
nghe như có tiếng thầm kín bên trong thúc đẩy chàng lên đường đến triều đình để
được nhà vua phỏng vấn, vì chàng quả thật là một người có lòng mến Chúa và yêu
người. Nhưng chàng lại nghèo khó đến nỗi không có được một bộ quần áo chỉnh tề
để đến triều đình. Chàng cũng chẳng có tiền để mua lương thực dự trữ cho cuộc
hành trình dài đến lâu đài nhà vua. Cuối cùng, chàng quyết định đi xin quần áo
và lương thực cần thiết.
Khi mọi sự đã sẵn sàng, chàng
lên đường. Sau một tháng hành trình, chàng đã nhìn thấy lâu đài của nhà vua hiện
ra trên đỉnh đồi ở đàng xa. Cũng vào lúc ấy, chàng gặp thấy một ông già nghèo
đói ngồi bên vệ đường. Người ăn xin ngửa tay van xin chàng giúp đỡ: “Anh ơi,
tôi đói, tôi rét, anh làm ơn cho tôi áo mặc, cho tôi bánh ăn." Chàng thanh
niên cảm động nhìn người ăn xin. Chàng cởi áo khoác của chàng và đổi lấy chiếc
áo rách tả tơi của người ăn xin. Chàng cũng chia sẻ lương thực dự trữ của
chàng. Rồi chàng đến lâu đài nhà vua trong bộ áo rách tả tơi và không đủ lương
thực cho cuộc hành trình trở về. Đến trước lâu đài, lính gác chận chàng lại ở cổng,
bắt chàng vào khu khách tham quan. Sau một thời gian dài chờ đợi, chàng mới được
cho vào gặp nhà vua. Trước ngai vàng, chàng cúi mình thật sâu bái lạy, đến lúc
đứng thẳng lên, chàng hết sức bỡ ngỡ, vì chàng thấy ông già ăn xin bên vệ đường
mà chàng đã gặp giờ đây lại ngồi trên ngai vàng. Chàng lên tiếng hỏi:
- Tâu Đức vua, có phải Đức Vua
là người ăn xin bên đường mà tôi đã gặp chăng?
- Đúng thế, Đức Vua đáp.
Chàng lại hỏi:
- Vậy tại sao Đức Vua lại làm
như thế đối với tôi?
Đức vua đáp:
- Ta phải cải trang làm người ăn
xin để thử xem ngươi có thật lòng mến Chúa và yêu người không.
16.
Thần dân trung tín của Vua Tình Yêu
Thường thì phạm nhân không được
phép treo ảnh, nhưng Hiroshi Igarashi nài xin ban quản giáo và cuối cùng được
phép treo ảnh Mẹ Têrêsa thành Calcutta. Một đêm nọ, một quản giáo đi tuần khu
nhà tù anh ở đã yêu cầu anh: “Này, anh làm ơn lấy bức ảnh đó xuống dùm tôi. Mắt
bà ấy nhìn sợ quá.” Igarashi đáp: “Anh thấy rùng rợn vì anh là người tội lỗi.”
Giờ đây Igarashi đã được tự do,
anh tổ chức một nhóm ở Tokyo gọi là “Nhà Mẹ." Nhóm tận tâm giúp những người
ở tù làm lại cuộc đời và tái nhập xã hội sau khi mãn hạn tù. Nhóm lấy tên Mẹ
Têrêsa và còn lấy tinh thần của thánh nhân và Kinh Thánh làm nền tảng cho các
hoạt động của nhóm. Có tiền án hình sự 3 lần và gần 20 năm ngồi tù, Igarashi biết
rõ thực trạng và tất cả các vấn đề trong tù. Nhiều tù nhân bị cô lập và thiếu
thốn tình thương. Điều mà những người này cần là có người hỗ trợ họ về mặt tình
cảm, nhưng không có ai làm điều đó cả.
Khi anh bị bắt giam lần thứ ba,
gia đình anh cắt đứt mọi liên hệ với anh. Anh đã nghĩ đến chuyện tự vẫn, nhưng
ngay lúc đó có một người Brazil gốc Nhật vui tính bị cảnh sát bắt giam. Người
này thường xuyên cầu nguyện và nói về Kinh Thánh cho Igarashi nghe. Đó là lần đầu
tiên Igarashi bắt đầu đọc Kinh Thánh. Anh ấn tượng nhất là câu: “Saolô, Saolô
sao ngươi lại bắt bớ ta?” (Cv 9, 4) Đối với Igarashi, câu này nghe như thể Đức
Kitô đang hỏi chính anh: “Sao con phạm tội chống Ta?”Đó là lúc anh trở lại đạo.
Anh cầu nguyện hết lòng, lớn tiếng nói: “Con xin lỗi Chúa!”
Anh nhận ra khi Chúa Giêsu chết
trên thập giá, Ngài chết thay cho anh trên đó và anh khóc nức nở. Igarashi biết
Mẹ Têrêsa cũng ở trong nhà tù, qua một quyển sách anh tình cờ đọc được. Anh lập
tức tin rằng “con người này có thật” và muốn học hỏi nơi thánh nhân, mãi sau
này anh mới biết ngài đã qua đời. May mắn thay, anh có cơ hội gặp được một số
tu sĩ dòng Thừa sai Bác ái do ngài sáng lập.
Đức cố Hồng y Seiichi S.
Hirayanagi mở khoá học giáo lý tân tòng giới thiệu đức tin Công giáo cho anh. Một
luật sư Tin lành đã đứng ra bảo lãnh anh. Khi ra tù, Igarashi bắt đầu biến đức
tin thành hành động thực tế bằng cách thành lập Nhà Mẹ. Đức Tổng Giám mục Takeo
Okada đích thân gửi thư chúc mừng. Anh làm việc hết mình, phấn đấu noi theo con
đường tình yêu của Mẹ Têrêsa. (Theo UCA News)
Đức Kitô, Vua Tình Yêu đã cảm
hóa tù nhân Hiroshi Igarashi. Nhờ vậy, Mẹ Têrêsa Calcutta mới dẫn dắt anh bước
theo Ơn Gọi. Tin Mừng hôm nay công bố điều kiện để được Thiên Chúa chúc phúc và
được ban thưởng Nước Trời.
17.
Yêu mến và phụng sự Chúa nơi tha nhân
Hôm nọ, có người đàn ông đem đến
cho tôi một tượng chuộc tội khá lớn. Bàn tay Chúa Giêsu chịu đóng đinh bị sút
ra khỏi thanh ngang của cây thánh giá. Ông ta nhờ tôi đóng lại cây đinh bị sút
để tượng Chúa Giêsu chịu nạn được gắn chặt vào thập giá như trước.
Tôi hỏi ông: “Một việc đơn giản
như thế, sao ông không tự làm lấy, đem đến nhờ tôi làm gì mất công.” Ông trả lời:
“Tôi không dám đóng đinh Chúa, sợ xúc phạm đến Ngài.”
Vậy mà mấy tuần sau, ông nầy lại
vác rựa chém người hàng xóm, may có người can ngăn kịp thời, nếu không thì ông
ta đã chém chết một hiện thân sống động của Thiên Chúa.
Nhiều người cung kính cúi đầu
trước tượng ảnh thánh và không bao giờ dám xúc phạm đến ảnh tượng thánh do tay
người phàm làm ra, nhưng lại ngang nhiên xỉ vả, mắng chửi, đánh đập những người
chung quanh là hình tượng sống động của Thiên Chúa do chính Ba Ngôi Thiên Chúa
dựng nên mà không áy náy lương tâm.
18.
Tha nhân là thân thể Chúa Giêsu – Lm. Trần Ngà.
Một linh mục nọ ngỏ lời với cộng
đoàn phụng vụ rằng: "Khi trao Mình Thánh Chúa cho anh chị em, tôi nâng
Mình Thánh Chúa lên và nói: Mình Thánh Chúa Kitô! Tất cả anh chị em đều tin thật
đó là Mình Thánh Chúa và từng người đáp lại: Amen, nghĩa là mỗi người tuyên
xưng đó chính là Mình Thánh Chúa thật sự và cung kính rước Người vào lòng. Thế
nhưng, nếu tôi chỉ vào từng người ngồi quanh đây và nói: Đây là thân thể Chúa
Giêsu thì có lẽ anh chị em không tin người đó là thân thể Chúa, không tỏ lòng
tôn kính và không muốn đón rước người đó vào nhà mình, nếu không ưa thích người
đó.
Ngay lúc đó, dưới hàng ghế giáo
dân có tiếng xì xào. Hình như nhiều người không đồng quan điểm với Cha sở về nội
dung nầy.
Sau thánh lễ hôm ấy, một thanh
niên đến gặp cha sở và thưa:
- Thưa cha, trong bài giảng hôm
nay, chúng con giật mình khi nghe Cha nói từng người chung quanh chúng ta đây,
kể cả những người tàn tật, bần cùng, tội lỗi... đều là thân thể Chúa Giêsu.
- Thế anh không tin mọi người là
thân thể Chúa Giêsu sao?
- Con tin tấm bánh thánh mà linh
mục đã truyền phép và trao cho giáo dân rước lễ thật sự là Thân Thể Chúa; còn
người cha, người mẹ, người anh chị em, người láng giềng... không thể là thân thể
Chúa được. Cha có bằng chứng gì chứng tỏ tha nhân là thân thể Chúa Giêsu không?
- Nói có sách, mách có chứng. Bằng
chứng đây (giơ cuốn Tân Ước ra), anh hãy đọc Thánh Phaolô, trong thư thứ nhất gửi
giáo đoàn Cô-rin-tô: "Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần
thân thể của Đức Kitô sao?" (I Cr 6, 15).
- Thật thế ư? Thế thì Cha có biết
vì sao thánh Phaolô nói bạo như thế không?
- Thánh Phaolô dạy điều nầy căn
cứ vào kinh nghiệm bản thân. Hồi ấy, Phaolô chưa tin vào Chúa Giêsu, ông nhiệt
thành với lề luật và hăm hở tìm bắt những người theo Chúa Giêsu. Nên nhớ là vào
thời điểm đó Chúa Giêsu đã sống lại và lên trời rồi.
Trên đường Damas, Phaolô bị quật
ngã và có tiếng Chúa Giêsu vang lên giữa thinh không: "Sao-lô, tại sao
ngươi bắt bớ Ta?" Phaolô hết sức kinh hoàng: "Thưa Ngài, Ngài là
ai?" Có tiếng từ trời đáp: "Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ."
(Cv 22, 6-9)
Thế là từ hôm ấy, Phaolô không
dám bắt bớ các tín hữu nữa, vì ông biết rằng: họ là những Giêsu khác, bắt bớ họ
là bắt bớ Chúa Giêsu.
Người thanh niên vẫn còn hoài
nghi, anh hỏi tiếp:
- Vậy thưa cha, đó là giáo lý của
thánh Phaolô. Còn về phần Chúa Giêsu, có bao giờ Người dạy như thế không?
- Có chứ! Nào, mời anh lật qua
Tin Mừng Matthêu, chương 25, trong dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng. Đó là
bài chúng ta vừa nghe đọc hôm nay đây.
Qua dụ ngôn nầy, Chúa Giêsu tỏ
cho thấy những ai cho những người đói khát đầu đường xó chợ một bát cơm thì
Chúa nói là họ cho Chúa ăn. Những ai cho người rách rưới hoặc mình trần một
manh áo, thì Chúa nói là họ đã cho Người mặc. Những ai cho người sa cơ thất thế
không nơi nương tựa được trú ngụ một thời gian thì Chúa nói là họ đã cho Chúa
trọ nhà... Nói như thế, Chúa Giêsu tự đồng hoá mình với mọi người chung quanh.
Nói khác đi, bất cứ ai cũng được Chúa Giêsu nhìn nhận là chính Người.
- Thật thế ư? Vậy mà lâu nay con
không ý thức điều đó. Và thưa cha, sách giáo lý công giáo có chỗ nào nói như thế
không cha?
- Đây, giáo lý công giáo đây,
anh mở ra xem, bài nói về Bí tích thánh tẩy, số 1267: "Bí tích thánh tẩy làm
cho chúng ta thành chi thể trong Thân Thể Chúa Kitô."
- Thế các Đức Giáo Hoàng có dạy
như thế không?
- Đây nữa (chìa sách ra), Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong tâm thư gửi các gia đình có viết, anh đọc thử
xem: "Thiên Chúa đã đồng hoá với người cha, người mẹ, người con trong gia
đình. Những gì mỗi thành viên trong gia đình làm cho nhau là làm cho chính Chúa."
- Thưa Cha, khi mới bước vào gặp
cha, con không tin tha nhân là thân thể Chúa Giêsu, nhưng bây giờ thì con đã
tin. Nhưng xin hỏi cha, vậy con có buộc phải tôn kính tha nhân như tôn kính
Chúa trong nhà thờ không?
- Trước hết, anh hãy nghe lời dạy
của Mẹ Têrêxa Calcutta. Hôm ấy, có một thiếu nữ Ấn-độ đến gặp Mẹ Têrêxa
Calcutta để tìm hiểu Hội Dòng của Mẹ. Trước hết, Mẹ nói với người thiếu nữ ấy:
"Con hãy qua nhà hấp hối. Ở đó, con sẽ gặp nhiều người bất hạnh nghèo khổ,
bệnh tật đang nằm chờ chết. Con hãy săn sóc an ủi họ."
Thiếu nữ vừa quay lưng đi thì Mẹ
Têrêxa gọi giật lại: "Nầy con, khi dâng thánh lễ, con thấy linh mục trân
trọng mình thánh Chúa Giêsu sau khi truyền phép thế nào, thì con cũng hãy trân
trọng những con người bất hạnh ấy như thế."
Nói như thế, Mẹ Têrêxa Calcutta
muốn dạy rằng: mỗi một con người dù bần cùng khốn khổ đến đâu cũng phải được
tôn trọng như Mình Thánh Chúa.
- Ngoài Mẹ Têrêxa Calcutta, có vị
thánh nào khác tôn trọng con người như chính thân thể Chúa Giêsu nữa không?
- Có nhiều: thánh Gioan Kim Khẩu,
thánh Elisabet Hung-ga-ri, thánh Phanxicô Atxidi, vv... Có lần Phanxicô gặp một
người phong hủi rất ghê tởm. Ban đầu Anh định xa lánh, nhưng sau đó, Phanxicô cảm
nhận ra người phong hủi đó là một phần thân thể bị thương tích, bị lở loét của
Chúa Giêsu, nên Anh đã đến chào hỏi và ôm hôn người phong hủi đó.
- Thưa cha, con thấy nhiều tín hữu
rất mực tôn kính Chúa Giêsu trên bàn thờ, còn những chi thể sống động của Chúa
Giêsu trong đời thường thì hình như không được ai tôn kính.
- Đúng thế! Vì vậy, thánh Gioan
kim khẩu dạy chúng ta đừng phân biệt đối xử giữa Chúa Giêsu trong nhà thờ và
Chúa Giêsu ngoài nhà thờ. Chúa Giêsu trong nhà thờ và Chúa Giêsu ngoài nhà thờ,
tức là những anh chị em khác, phải được tôn trọng như nhau. Để tôi đọc cho anh
nghe lời dạy của người:
"Bạn muốn tôn kính thân thể
Đức Kitô ư? Chớ khinh chê thân thể ấy khi thân thể ấy trần trụi. Đừng có thái độ
nầy là trong nhà thờ thì tôn kính, cho thân thể Người mang những y phục lụa là
gấm vóc, nhưng ở ngoài lại coi thường, để cho thân thể ấy phải giá lạnh và trần
trụi. Thân thể Chúa ở đây (trong nhà thờ) không cần y phục, nhưng cần tâm hồn
trong trắng; còn thân thể Chúa ngoài kia (tức là tha nhân) thì cần được chăm lo
tận tình."
- Thưa cha, dường như đối với
nhiều người, việc khinh dể, nhạo báng, xúc phạm đến anh chị em chung quanh là
chuyện nhỏ, chẳng có gì đáng quan tâm.
- Đó là một sai lầm tai hại vì đến
ngày phán xét, Chúa Giêsu sẽ nói với những kẻ ấy rằng: "Quân bị nguyền rủa
kia! Hãy đi cho khuất mắt Ta mà vào chốn cực hình đời đời dành cho ma quỷ và
các thần dữ, vì xưa kia, ngươi đã khinh dể, nhạo báng, xúc phạm đến ta!"
19.
Thánh Thể trong khu ổ chuột
Tại Đại hội Thánh Thể năm 1982 ở
Lộ Đức, Đức cha Camara đã kể lại một câu chuyện như sau:
Có một số nông dân đến gặp tôi.
Họ kể lại rằng một tên ăn trộm đã đột nhập vào nhà thờ, cậy cửa nhà tạm và lấy
Mình Thánh mang đi. Hôm sau, họ đã tìm thấy bánh thánh nằm vương vãi trong bùn
nhơ. Nói tới đây họ đã bật khóc. Rồi họ xin tôi dâng một lễ tạ ơn.
Dĩ nhiên là tôi vui lòng dâng lễ
và trong buổi lễ tôi đã nói với họ đại khái như sau:
- Chúng ta thật mù quáng biết
bao. Chúng ta đã sững sờ khi thấy bánh thánh nằm giữa bùn nhơ, nhưng đó lại là
một hiện tượng xảy ra hằng ngày. Chúng ta gặp thấy Đức Kitô mỗi ngày trong những
căn nhà ổ chuột. Đức Kitô hiện diện thực sự trong Bí tích Thánh Thể và Ngài
cũng hiện diện thực sự trong nỗi cùng khổ của con người.
20.
Vua của tình yêu
Vào khoảng giữa thế kỷ 19, các
dân tộc thuộc vùng núi Côcadơ ở phía nam nước Nga, được cai trị bởi một ông vua
Hồi giáo nổi tiếng là thanh liêm chính trực, ưu tiên hàng đầu trong việc chấn
hưng đất nước của ông là quét sạch mọi tham nhũng, hối lộ. Ông ban hành một sắc
lệnh, theo đó thì tất cả những ai bị bắt quả tang phạm tội tham nhũng hay hối lộ
sẽ bị phạt đánh 50 roi trước mặt công chúng. Điều không may xảy ra cho ông, người
đầu tiên bị bắt quả tang phạm tội này lại chính là mẹ ông, sự kiện này làm cho
ông đau khổ khó nghĩ. Không có luật trừ hay châm chước nào đối với sắc lệnh mà
ông đã ban hành.
Liên tiếp ba ngày liền nhà vua
ngồi yên trong phòng để suy nghĩ, sang ngày thứ tư, ông xuất hiện trước công
chúng cùng với thân mẫu. Ông ra lệnh cho hai người lính trói tay mẹ ông và bắt
đầu xử lý theo luật định. Thế nhưng khi chiếc roi đầu tiên vừa quất xuống trên
người mẹ ông, thì nhà vua liền chạy đến bên cạnh bà, ông mở trói cho bà, rồi ra
lệnh cho hai người lính trói tay ông, lột áo ông ra và bắt đầu cuộc đánh roi.
Đúng 50 roi đã quất xuống trên thân mình nhà vua, với thân thể rướm máu và
khuôn mặt nhợt nhạt, nhà vua quay về phía dân chúng và nói: “Bây giờ thì các
ngươi có thể ra về, luật đã được thi hành, máu của vua các ngươi đã chảy ra để
đền bù cho tội ác này." Kể từ ngày đó, trong đất nước, người ta không còn
bao giờ nghe đến nói tội tham nhũng hay hối lộ nữa.
21.
Người được truyền ngôi
Trong cuốn sách của mình nhan đề:
The Christian Vision (Thị kiến của người Kitô hữu) John Powell có kể lại một
truyền thuyết xưa kia của Ái Nhĩ Lan. Truyền thuyết này nói về thời còn các vị
vua đang cai trị Ái Nhĩ Lan.
Ngày xưa, có một vị vua đương
cai trị không có con nối dõi ngai báu. Vì thế, ngài truyền sứ giả ghi lên các tấm
biển nơi mỗi thành phố và làng mạc trong vương quốc, để mời gọi những người đàn
ông ưu tú đến cho Đức vua phỏng vấn.
Đức vua làm thế với hy vọng có
thể chọn được một người kế vị trước khi Ngài chết. Hai đặc tính tiêu chuẩn đặc
biệt được ngài nhấn mạnh là kẻ ấy phải có lòng mến Chúa yêu người sâu sắc. Anh
thanh niên là vai chính trong câu chuyện truyền thuyết này nhận thấy mình có một
trong các điều kiện đòi hỏi, vì thực sự anh ta rất mến Chúa yêu người. Anh ta cảm
thấy từ thâm sâu nội tâm có tiếng thúc giục anh đi dự cuộc phỏng vấn. Nhưng anh
lại quá nghèo đến mức chẳng có quần áo tươm tất để mặc đi dự phỏng vấn và cũng
chẳng có tìên mua thực phẩm cho cuộc hành trình xa xôi đến cung điện đức vua.
Vì thế anh thanh niên này đã cầu nguyện xin ơn soi sáng cho vấn đề. cuối cùng
anh quyết định đi ăn xin quần áo và lương thực cần thiết. Khi mọi sự đã sẵn
sàng anh bắt đầu lên đường.
Sau một tháng du hành, ngày nọ
anh thanh niên này đã nhìn thấy cung điện đức vua. Anh ta ngồi xuống trên ngọn
đồi phía xa. Ngay lúc đó anh trông thấy một ông lão ăn mày nghèo khổ ngồi bên vệ
đường. Ông cụ chìa tay ra xin anh giúp đỡ. Giọng nói ông ta thật yếu ớt:
"Tôi đói và lạnh quá, cậu có thể cho tôi cái gì mặc cho đỡ lạnh và ăn cho
đỡ đói không?" anh thanh niên nhìn ông già lòng tràn đầy xúc động. Và liền
cởi bộ đồ ấm áp mặc ngoài của mình đổi lấy tấm áo cũ tơi tả của ông già ăn xin,
đồng thời cũng cho lão ta phần lớn lương thực dự trữ mang theo trong túi xách
dành cho chuyến trở lại về nhà. Thế rồi, lòng hơi ngài ngại anh thanh niên bước
tới cung điện trong bộ đồ rách nát và lương thực mang theo không đủ cho chuyến
trở về. Khi anh ta đến lâu đài, đám lính gác chận anh ta lại tại cổng và dẫn
anh đến khu vực dành cho du khách. Sau một thời gian chờ đợi lâu, anh ta được dẫn
tới diện kiến đức vua.
Đến trước bệ rồng anh thanh niên
liền gập sâu người xuống cúi chào. Khi ngước thẳng lên nhìn anh ta không thể
nào tin nổi mắt mình và thốt lên: "Té ra ngài chính là ông lão ăn xin bên
vệ đường!" đức vua đáp: "Đúng thế." Anh thanh niên liền hỏi:
"Tại sao ngài lại làm điều ấy đối với kẻ tiện dân này?" Đức vua trả lời:
"Bởi vì Trẫm muốn thử xem ngươi có thật lòng mến Chúa yêu người
không?"
22.
Trùm Sò
Trùm Sò làm chủ hàng chục nhà
hàng nhưng keo kiệt vô cùng. Một hội từ thiện nọ gởi nhân viên đến bao nhiêu lần
cũng đều vô ích. Bực quá nên ngày nọ, đích thân bà chủ tịch hội đến gặp hắn:
"Chúng tôi biết ông là một
trong những thương gia thành công trong thành phố này. Ông đúng là một tấm
gương sáng cho những người di dân. Tuy nhiên, từ trước đến nay tôi vẫn thắc mắc
tại sao ông không chia sẻ dù chỉ 1 phần triệu những cái mà ông có cho những người
nghèo khó khắp mọi nơi trên đất nước này."
"Thưa bà, bà có biết là tôi
còn một mẹ già yếu đau liệt lào ở Việt Nam mà không ai chăm sóc không? Thế bà
có biết tôi còn một người chị ở Việt Nam vừa bị mù lại bị câm điếc đang sống quằn
quại vì chứng bệnh ung thư quái ác không? Bà có biết em tôi đi vượt biên bị
công an bắn què giò, bị tịch thu hết nhà cửa, bị tán gia bại sản, nay đau mai yếu
vì những năm tháng tù đầy cải tạo không?"
Nghe đến đấy thì bà chủ tịch vội
đứng dậy: "Chúng tôi vô cùng xin lỗi ông, chúng tôi nào có biết gia cảnh
ông đau khổ đến thế. Lạy Chúa tôi, xin tha thứ cho tôi. Chúng tôi thật đã nghĩ
không đúng về ông."
Trùm sò nói tiếp, "Mẹ! Mấy
người đó mà tôi còn không cho một cắc huống hồ là cái hội cà chớn của các
bà." (Trích trong: Truyện Cười Nhà Đạo).
23.
Lời nguyện của người tông đồ
“Lạy Chúa, xin cứ dùng con theo
ý Chúa, làm chân tay cho những người què cụt, làm đôi mắt cho ai phải đui mù, làm
lỗ tai cho những người bị điếc, làm miệng lưỡi cho người không nói được, làm tiếng
kêu cho người chịu bất công.
Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đồng
lúa, để đem cơm cho người đói đang chờ, và đem nước cho người họng đang khô, đem
thuốc thang cho người đang đau ốm, đem áo quần cho người đang trần trụi, đem mền
đắp cho người rét đang run.
Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đường
vắng, thắp đèn soi cho ai bước trong đêm, đốt lửa ấm cho những ai giá lạnh, truyền
cảm thông cho lữ khách đơn côi, nâng phẩm giá cho kẻ đời chà đạp, đem tự do cho
những kiếp đọa đầy.
Lạy Chúa, xin cứ gởi con vào
thôn xóm, đem an hòa cho những ai bất thuận, đem thanh bình cho kẻ sống âu lo, đem
ủi an cho người đang sầu khổ, đem niềm vui cho những ai bất hạnh, đem vận may
cho người gặp rủi ro.
Lạy Chúa, xin cứ đặt con như một
sự tình cờ, đem may mắn cho những ai gặp được, giữa đường đời khi lỡ bước bơ
vơ, cứ cho con đừng bao giờ khiếp sợ: giữa biển đời mang con tim núi lửa với
đôi tay êm ái của mẹ hiền.
Lạy Chúa, xin cứ dùng con làm tất
cả cho mọi người được hạnh phúc yên vui; còn phần con xin gởi hết nơi Ngài là
Thiên Chúa, Tình Yêu và Lẽ Sống.
Ngài cho con tất cả niềm hy vọng
để tin yêu và vui sống trọn đời.” - NCĐ
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 118)
CNTN 34B - ĐỨC GIÊSU KITÔ - VUA VŨ TRỤ
Lời
Chúa: Ga 18, 33b-37
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi
ấy, Philatô hỏi Chúa Giêsu rằng: "Ông có phải là Vua dân Do-thái
không?"
Chúa
Giêsu đáp: "Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về
tôi?"
Philatô
đáp: "Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã
trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?"
Chúa
Giêsu đáp: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế
gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người
Do-thái, nhưng mà nước tôi không thuộc chốn này.”
Philatô
hỏi lại: "Vậy ông là Vua ư?"
Chúa
Giêsu đáp: "Quan nói đúng. Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian
này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi.”
TRUYỆN
KỂ
1. Đứng
về phía sự thật
Từ
sau vụ nổ big-bang, vũ trụ được thành hình, và càng ngày càng bành trướng.
Trái
đất chỉ là một hạt bụi nhỏ xíu trong vũ trụ, nhưng nó lại lớn lao vô cùng, vì
là hành tinh được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc.
Con
Thiên Chúa đã ghi dấu chân mình trên mặt đất, đã sống trọn phận người bên cạnh
nhân loại anh em.
Mừng
lễ Đức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi ngắm nhìn trái đất tròn.
Đây
là vũ trụ của hơn 6 tỉ người đang sống. Vũ trụ này sẽ đi về đâu? Lịch sử này sẽ
đi về đâu? Tất cả sẽ được hội tụ và biến đổi nơi Đức Kitô, để rồi Ngài sẽ dâng
lại tất cả cho Thiên Chúa Cha.
2. Một
Thị Kiến
Daniel
kể lại một thị kiến ban đêm. Thực ra thị kiến này đi sau một thị kiến khác. Nhà
tiên tri trên giường nằm đã thấy chiêm bao. Ông đã viết lại và đại khái ông nói
như thế này:
Tôi
thấy bốn gió trời khuấy động biển cả. Và bốn mãnh thú to lớn khác nhau từ biển
đi lên... Mãnh thú thứ tư dễ sợ đáng kinh và mạnh quá đỗi... Tôi mãi nhìn cho đến
khi ngai được đặt hành và Đấng cao niên ngồi xuống... Pháp đình an tọa và sổ
sách mở ra. Mãnh thú kia bị giết và thây nó bị hủy và phó cho lửa thiêu. Còn những
mãnh thú khác, chúng bị tước hết quyền bính.
Nếu
chúng ta đã nhớ những điều đã nói trong Chúa nhật trước về sách Daniel, chúng
ta có thể dễ nhận ra ngay ý nhà tiên tri đang muốn nói gì. Biển cả trong quan
niệm của các dân miền Cận Đông là nơi phát xuất ra nhiều sinh vật, nhưng lại
toàn là các mãnh thú, tượng trưng cho sự dữ. Bốn mãnh thú ở đây là những sức mạnh
chính trị thời bấy giờ, thay lượt nhau thống lãnh các dân tộc và đặc biệt dân
riêng của Chúa. Mãnh thú thứ tư dữ dằn hơn hết chính là Antiôkô, vị vua bắt đạo
làm đổ máu người lành. Sự dữ tung hoành như vậy cho đến khi trời mở ra. Ngày của
Chúa đến. Người ngự trên ngai; tổ chức pháp đình; sổ sách công tội được mở ra.
Các kẻ dữ lần lượt chịu tội.
Đó
là thị kiến thứ nhất. Nói đúng ra đó là phần đầu của một chiêm bao còn tiếp diễn.
Nó diễn tả các sự dữ xảy ra ở đời này, cho đến khi Thiên Chúa ban ơn cứu độ.
Lúc này sẽ là phần thị kiến sau.
Daniel
thấy với mây trời như thể một Con Người đến. Ngài tiến lại Đấng cao niên và được
ban tặng quyền bính, vinh dự và vương triều.
Ngài
là ai mà quyền bính sẽ không bị hủy và tất cả các dân phải làm tôi Ngài? Theo
Daniel, đó là dân thánh của Chúa. Họ không sinh ra từ biển, tức là không bởi sự
dữ mà có. Trái lại, họ đến với mây trời, ám chỉ họ bởi chính Thiên Chúa mà ra
vì mây trời vẫn là một trong những hình ảnh để chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa.
Có lẽ theo Daniel nữa, thì họ là những người lành thánh đã "giữ mình"
trong thời bắt bớ của Antiôkô, và là các thánh nhân đã đổ máu vì Thiên Chúa
trong cuộc bắt đạo này. Đến ngày của Người, họ sẽ được đưa lên gần Thiên Chúa.
Và Người sẽ ban tặng họ vinh dự, quyền uy, vương triều. Họ được chia sẻ quyền
cai trị của Thiên Chúa và quyền bính của họ sẽ vô tận.
3. Một
Cuộc Tra Hỏi
Thánh
Yoan cho chúng ta thấy Đức Yêsu bấy giờ đang ở trước tòa Philatô. Ông này rất
lúng túng. Người Dothái không chịu vào phủ đường vì sợ mắc uế không ăn lễ vượt
qua chiều hôm ấy được. Do đó Philatô lúc phải ra gặp họ ở ngoài phủ đường, lúc
lại phải đi vào trong, tra hỏi riêng Đức Yêsu. Ông lúng túng lúc ra lúc vào. Nhất
là ông không biết phải xử vụ này ra sao. Người Dothái đòi xử tử Ngài... Còn
Ngài nào có tội lỗi gì? Đứng về quan điểm hành chính Rôma, chỉ có việc họ cáo
Ngài là Vua là đáng kể. Nhưng không lẽ một con người như vậy mà lại là vua?
Thành ra ông bắt đầu hỏi Ngài:
-
Ông mà lại là Vua dân Dothái sao? Ông hỏi mà không tin ở lời mình. Rõ ràng ông
rất lúng túng. Có lẽ vì vậy mà thay vì trả lời, Đức Yêsu lại hỏi ông:
- Tự
mình ông, ông nói thế, hay đã có ai khác nói với ông về tôi?
Dường
như Người muốn giúp ông biện phân ra sự thật. Nhưng ông lại không muốn. Ông vừa
muốn nói sự thật vừa không. Ông lấp lửng trả lời theo kiểu nghi vấn: "Tôi
là Dothái hay sao?” Có nghĩa là người Dothái nào nói với tôi điều đó? Thế thì
sao ông không nhận quách đi, chính ông nghĩ như vậy. Nhưng thật sự ông không có
ý tưởng như thế. Và nếu có, ông không hỏi nữa, hay có hỏi cũng sẽ có giọng tra
hỏi hơn. Đàng này, ông đã hỏi chỉ vì người Dothái đã cáo Ngài là Vua... mà như
ông thấy, điều đó không thật được. Thế nên ông lúng túng...
Để
ra khỏi thế khó xử này, Philatô chuyển sang chuyện khác. Ông nói rằng người
Dothái đã nộp Ngài cho ông, thì hỏi Ngài để làm gì? Nhưng Đức Yêsu không muốn
bước sang chuyện ấy. Không gỡ được nghi vấn lúc đầu cho ông, lương tâm ông chỉ
có thể cứ rối thêm mãi. Đàng khác Ngài cần thực hiện mọi lời Kinh Thánh. Mà
Kinh Thánh bảo: Đấng Thiên Sai là Vua. Cho đến nay Ngài từ chối danh hiệu này kẻo
người ta hiểu lầm. Nay đến lúc phải làm trọn lời sách thánh. Daniel không tiên
báo Con Người là Vua trước pháp đình, như chúng ta đã thấy ở trên sao?
Do
đó, Đức Yêsu đã tuyên bố: "Nước Tôi không thuộc về thế gian này..." để
nói lên rằng Người không phủ nhận mình là Vua, nhưng đồng thời lại khẳng định
Người không là Vua theo kiểu thế gian.
4. Lịch
Sử Lễ Chúa Kitô Vua
Một
triết gia đã đưa ra một nhận định rất bi quan: “Homo homini lupus”: con người
là lang sói của con ngươi. Con người đã trở nên một thú dữ hay tấn công, cắn xé
và giết chóc. Lịch sử loài người là một chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp.
Hai cuộc thế chiến thứ nhất và thứ hai đã cướp đi sinh mạng của gần 50 triệu
người, không kể những người bị thương, mất tài sản và thiệt hại vật chất khôn
lường.
Cho
nên ngày 12.11.1927, Đức Giáo hoàng Piô XI đã thiết lập lễ Chúa Kitô Vua, mục
đích là để cầu cho loài người thôi đừng buông theo thú tính mà cắn xé lẫn nhau,
các nước đừng nuôi mộng bá chủ hoàn cầu mà gây chiến với nhau.
Đàng
khác, thế giới đang dần rời bỏ Chúa, muốn khai trừ Chúa ra khỏi các tâm hồn,
các gia đình, các xã hội, thế giới muốn xây xã hội trên nền tảng thuần túy nhân
loại. Trong trường hợp đó, Đức Giáo hoàng muốn công bố những quyền bất khả xâm
phạm của Chúa Kitô: Ngài là vua vũ trụ, vua các thiên thần và loài người.
Ngoài
ra, Đức Giáo hoàng cũng nghĩ rằng cần phải phản ứng lại mấy sự lệch lạc trong
quan niệm đạo đức tân thời phát sinh ngay trong Công giáo tiến hành ở một số
nơi. Người ta đang có khuynh hướng nhìn nơi Đức Giêsu chỉ là người Anh Cả, người
bạn và đối xử với Chúa bằng vai,…là bạn đường, bạn làm việc… Lễ Chúa Kitô Vua
nhắc cho người ta rằng: Đức Giêsu còn là Đấng Toàn Năng, Đấng vô cùng vô biên,
Vua các vua. Ngài còn là Đấng Hữu, ta có là nhờ Ngài, và bổn phận chính yếu nhất
là Thờ Lạy Ngài (Trần văn Khả).
5. Một
tước hiệu không xứng hợp
Trong
số những tước hiệu mà ta có thể gọi Đức Giêsu, có lẽ tước hiệu "vua"
là không xứng hợp nhất.
Khi
nói tới "vua" là ta nghĩ đến ngai vàng, vương miện, hoàng cung, quyền
lực, kẻ hầu người hạ, quan quân, vũ khí v.v. Thế mà khi nhìn vào Đức Giêsu ta
chẳng thấy có gì cả. Ngược lại, ta chỉ thấy Ngài lang thang trên những nẻo đường
bụi bậm xứ Palestine, với một nhúm môn đệ ít ỏi, vây quanh là những người nghèo
nàn, tật bệnh, tội lỗi và những người bị xã hội loại trừ.
Tuy
nhiên, nhìn trên bình diện siêu nhiên thì Đức Giêsu đúng thật là vua. Ngài là
vua và là Vua trên tất cả các vua, bởi vì Ngài là Thiên Chúa, Đấng thống trị vũ
trụ.
Ngay
cả trên bình diện tự nhiên, Đức Giêsu cũng xứng đáng là Vua, Vua của mọi người:
Ngài là con người tuyệt vời nhất với đầy đủ những đức tính hoàn hảo nhất. Ngài
đến với ai là vận mạng của người đó được thay đổi thành tốt hơn. Có những người
tưởng rằng mình là người lớn bằng cách khiến cho mọi người cảm thấy nhỏ trước mặt
mình. Nhưng người lớn đích thực là người làm cho ai nấy đều cảm thấy lớn lên.
Theo nghĩa này, Đức Giêsu đích thực là Vua.
Chúng
ta nên phân biệt quyền lực và ảnh hưởng. Philatô có quyền lực trên dân, nhưng kẻ
có ảnh hưởng trên dân chính là Đức Giêsu. Ảnh hưởng của Ngài đem lại cho con
người ơn tha thứ, sự phục hồi nhân phẩm, bình an, yêu thương, hạnh phúc. (Viết
theo Flor McCarthy)
6. Đức
Giêsu Kitô, vua vũ trụ
Đại
Hội Trẻ Thế giới tại Pháp, hàng trăm ngàn thanh niên nô nức, tiến về thủ đô
Paris dự đại hội để gặp gỡ, lắng nghe, và hiệp thông với Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II, đấng thay mặt Đức Kitô ở trần gian.
Hệ
thống xe điện ngầm Métro nổi tiếng của Paris dường như lúc nào cũng chật ních
người. Hôm ấy, một cụ già ăn xin mù loà cũng cố chen lên một toa xe nhờ chú chó
dẫn đường. Cụ vừa đi, vừa chìa cái đĩa nhôm để kêu gọi lòng hảo tâm của giới trẻ.
Tuy ồn ào nhưng người ta cũng nghe được những tiếng kêu loảng xoảng của những đồng
cắc rơi vào đĩa.
Đi
ngược chiều với cụ, một cô bé xanh xao gầy còm cũng ngửa nón xin mọi người giúp
đỡ. Khi hai người bất hạnh gặp nhau, cô bé tránh qua một bên cho người hành khất
mù loà tiến bước. Và đầy kinh ngạc, các bạn trẻ không thể tin vào mắt mình, cô
bé đã dốc hết số tiền kiếm được của mình đổ tất cả vào cái đĩa nhôm kia.
Mừng
lễ Đức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi nhìn ngắm thế giới: gồm 6
tỷ người đang sống trên đó. Với bao cảnh thất nghiệp, nghèo đói, lạc hậu, bất
công. Với bao tệ nạn tham nhũng, ma tuý, mafia, sida. Với bao nhiêu thiên tai
lũ lụt, động đất, cháy rừng... Thế lực của sự dữ và tội lỗi đang tung hoành khắp
nơi.
Mừng
lễ Đức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi nhìn lên Vua của chúng ta.
Một vị vua không ngồi trên ngai vàng, nhưng treo trên thập giá. Một vị vua
không cai trị bằng quyền uy vũ lực, nhưng dựa trên tình yêu thương. Một vị vua
không có lãnh thổ trên bản đồ thế giới, nhưng nằm sâu trong trái tim mọi người.
7. Vua
tình yêu
Dầu
cha mẹ có bỏ con đi nữa...
Lê
Quang Độ (Ricardo Conelo) từ nhỏ vẫn được ba má yêu quí, đến trường tỏ ra là
người học trò xuất sắc. Nhưng bầu khí nơi trường học không được lành mạnh. Ở tuổi
lên 10, em Độ đã ghiền xì ke. Em nhớ không có lý do gì để ghiền cả ngoài tính
tò mò.
Khởi
sự em hút cần sa. Kế đến em nhập băng nhóm đi cướp giật. Lên 12 tuổi Độ đã được
cảnh sát thành phố Sao Paolo của nước Braxin biết đến. Bố em tưởng có thể nhốt
em trong phòng nhưng vô ích vì Độ luôn tìm ra cách thoát khỏi bàn tay của bố, với
những gì có thể ăn cắp được nơi gia đình để tiếp tục hút. Chưa thất vọng, bố em
dời gia đình đi nơi khác, nhưng Độ vẫn tìm cách nhập vào một băng nhóm ghiền
Cocaine và những thứ nặng hơn nữa. Bố em hết chịu nỗi đành phải đuổi em đi để cứu
nguy cho gia đình.
Không
chỗ tựa, Độ càng sa lầy. Nhưng nếu người thiếu niên đáng thương này có cơ may
làm lại cuộc đời thì nhờ sức mạnh nào? Ai là người cuối cùng sẽ hoán cải được
em để em nên người hữu ích cho xã hội?
Bị
đuổi khỏi gia đình, Độ trở nên mồi ngon cho tổ chức buôn ma tuý bất hợp pháp
trong vùng. Tối đầu tiên đến với nhóm, Độ được mời tới dự bữa ăn, trong đó kẻ tố
cáo bạn với cảnh sát đã bị bắn ngay nơi bàn ăn khiến Độ cũng bị bắn lây vào cẳng.
Chàng liền chạy vào bệnh viện. Tưởng thoát khỏi sự truy lùng nhưng cảnh sát đã
xuất hiện ngay bên giường. Họ chuyển Độ sang nhà tù dành cho thanh thiếu niên.
Chính
ở đây Độ may mắn nhận sự giúp đỡ của Trung Tâm Hy Vọng, là tổ chức thiện nguyện
giúp phục hồi niềm hy vọng nơi người ghiền ma tuý. Sau này Độ mới biết đó là tổ
chức do linh mục Hoàng Tâm Phú (Haus Stapelp) là thân hữu của phong trào
Focolare điều khiển. Độ được an ủi nhiều do bầu khí đón tiếp nồng hậu của Trung
Tâm ngay tối hôm đầu tiên đến đó.
Độ
sống chung với mười hai người trẻ khác, mà Độ là người trẻ nhất, nhưng lại là kẻ
cứng đầu nhất, luôn gây chuyện và chơi khăm người khác, luôn hành động thiếu đắn
đo.
Hãy
còn có Chúa đón nhận con
Ba
tháng sau người ta phải đưa Độ tới trung tâm dành cho thanh thiếu niên ghiền nặng
hơn. Chính ở đây Độ khám phá những điều cơ bản nhất về bản thân. Lần đầu tiên Độ
thốt lên lời than thở với Đấng em gọi là Thiên Chúa nhưng thực ra chưa bao giờ
em được học biết Ngài. Cha mẹ em chỉ là người Công Giáo theo danh xưng mà thôi
vì chưa bao giờ họ đi nhà thờ. Vậy em đã xin Chúa cho em cơ hội để bỏ hút xì
ke, đổi mới cuộc đời và nên giống những người trẻ mà Độ biết là đã thành công
theo lý tưởng sống vì người khác.
Quả
thật, em đã được ban cho cơ hội giúp người khác là Lâm Đình Ái (Claudio). Đó là
một bạn trẻ mắc bệnh AIDS ngủ cùng phòng với Độ. Bệnh nhân chỉ còn chờ chết,
không thể tự mình lo lấy mình nữa. Ngày kia Độ đã xin Chúa để được thấy dung mạo
Chúa nơi dung mạo bệnh nhân trẻ này. Thế rồi em được giao việc tắm rửa, cạo râu
và giúp người bệnh này ăn uống. Điều em không thể cắt nghĩa được là em nghiệm
thấy sự sống mới đang lớn lên nơi tâm hồn em nhờ mối tương quan sống động giữa
em và Thiên Chúa.
Từ
từ em khám phá ra nơi bản thân một tấm lòng quảng đại như thuộc bản năng đang
được triển nở. Những người chung quanh em khó lòng tin được rằng điều gì đó thực
sự đang xảy ra khiến em trở nên con người khác trước kia. Chẳng hạn, buổi tối
hôm ấy em muốn đưa lời Tin Mừng ra thực thi, lời Tin Mừng mà Trung Tâm này sử dụng
để chữa trị bệnh nhân, là "Hãy làm cho người khác điều bạn muốn người khác
làm cho bạn." Vậy tối hôm ấy em sắp bàn tử tế, đặc biệt để mừng sinh nhật
một bạn trẻ ở Trung Tâm. Khi bạn ấy xuất hiện, em Độ đã niềm nở đưa bạn ấy ra
ngoài và tặng chiếc áo mà chính Độ rất thích mặc để diện.
Người
nhận được quà cảm động đến rơi lệ khiến Độ cũng rưng rưng hai hàng lệ. Đó là những
con người chưa bao giờ nghiệm được tình yêu Thiên Chúa, nay khám phá ra điều đó
qua cử chỉ cho và nhận quà.
Em
Độ nghiệm thấy ơn bình an như được gia tăng mỗi khi em làm điều này điều kia
cho người khác. Tự nhiên em sốt sắng tham dự thánh lễ mỗi ngày.
Khi
ấy em lên 17 và được giao việc chăm sóc bệnh nhân mới được Trung Tâm tiếp nhận
để chữa trị. Trong nhóm này có một người đã 40 tuổi mà ai cũng nhìn nhận là người
khó tính. Thế mà Độ đã thành công trong việc chinh phục người ấy.
Nhiều
lần Độ trở về thăm gia đình nhưng chưa ai tỏ ra chú ý tới sự kiện là em không
còn như trước nữa, kể cả mẹ em là người đã quá khổ vì em. Nhưng lần kia người
anh của Độ đã trách mắng Độ cách thậm tệ trước mặt mọi người trong một cuộc họp
mừng của gia đình. Người anh ấy rất ngỡ ngàng thấy Độ điềm tĩnh khác thường.
Hơn nữa, còn xảy ra là khi Độ dọn đồ mà người anh ấy tỏ dấu ưa thích thứ thuốc
thơm thoa xức sau khi cạo râu, em liền tặng lọ thuốc đó cho anh ấy!
Cứ
như vậy Độ tìm lại được tình thương của gia đình để không còn phải trở về với
Trung Tâm nữa. Nhưng quan trọng hơn vẫn là ơn Chúa thúc đẩy lòng em khiến em được
thanh lọc khỏi những đam mê hầu sống sự sống hoàn toàn mới của Tin Mừng, để trở
nên người hữu ích cho xã hội. Hiện em sống bình thường trong nghề giáo viên.
8. Nước
Ta chỉ có trên thế gian này.
Ông
Selma Lagerlop có viết một câu truyện như sau: Ở thành La mã, trong một đền thờ
dâng kính Đức Mẹ, gần đồi Capitole, có một tượng Chúa Hài đồng rất đẹp. Chung
quanh vòng hào quang có khắc câu Phúc âm rằng: ”Nước Ta Chẳng Có Trên Thế Gian
Này”(GA 18,38).
Một
hôm, một phụ nữ thượng lưu, người Anh, tới viếng đền thờ, và tượng Chúa Hài đồng
đã lọt mắt bà. Bà liền nài nẵng chuộc cho kỳ được. Khổ thay! Không ai đồng ý cả.
Bà ta mới thuê thợ gọt một tượng khác, giống y như tượng Chúa Hài đồng bà đã
trông thấy. Rồi một hôm dùng thủ đoạn, đem đổi lấy tượng thật.
Nhưng
không biết là vô tình hay hữu ý, thay vì viết vào vòng hào quang rằng “Nước Ta
chẳng có trên thế gian này”, thì bác thợ kia lại viết: “Nước Ta chỉ có trên trần
gian này.”
Ít
lâu sau, không hiểu tại sao, tượng thật Chúa Hài đồng bỏ lâu đài của chủ mới,
trở về đền thờ cũ lại như xưa.
Mưu
mô bại lộ ra. Người coi đền thờ liền đem tượng giả ném xuống chân đồi Capitole.
Người phụ nữ kia, buồn tiếc, đi tìm, gặp được và trở về nước với pho tượng giả,
còn nguyên vẹn với vòng hào quang ngạo mạn kia.
Từ ấy,
tượng giả cứ chuyền tay nhau, người này sang người khác, hết thành nọ đến thành
kia…
Một
hôm tượng ấy tới thành Paris. Quân Cách mạng mới đem đi biểu diễn qua các đại lộ,
và hiệu triệu dân chúng rằng: ”Nước Ta chỉ có trên thế gian này. Hãy mau mau
phân chia tài sản cho nhau, để mọi người được bình đẳng vui sống. Nước Ta chỉ
có trên thế gian này. Chết là sự đổ vỡ vô phương cứu vãn”!
9. Hoàng
tử Alexis.
Truyện
cổ Nga thuật lại rằng: Vào thời Trung cổ, hoàng tử Alexis cũng như bao vua chúa
khác sống trong cung điện nguy nga tráng lệ, trong khi dân chúng chung quanh phải
sống trong những khu xóm nghèo nàn tồi tệ. Thế nhưng, Alexis rất hiểu nỗi cơ cực
của thần dân và cảm thương họ. Ông bỏ ra mỗi ngày một ít thời giờ để thăm họ.
Nhưng, dù cố gắng đến đâu, Alexis vẫn không thu phục được lòng yêu mến của thần
dân. Vì thế, sau mỗi lần thăm họ trở về, ông thấy lòng mình buồn rười rượi.
Ngày
kia, có một người lạ mặt đi vào khu xóm, ăn mặc đơn sơ, anh tự xưng là Bác sĩ,
anh săn sóc những người già cả, bệnh tật. Đặc biệt Bác sĩ không lấy tiền thù
lao, và còn phát thuốc miễn phí cho thần dân.
Bác
sĩ ấy trở thành người của xóm nghèo, được mọi nguời yêu mến kính phục. Ngày
ngày, anh dàn xếp những cuộc cãi vã, tranh giành, hoà giải những thù oán, và
giúp đỡ họ sống đúng với phẩm giá con nguời.
Bác
sĩ trẻ đó chính là Hoàng tử Alexis, người đã bỏ cung điện giầu sang đến sống với
thần dân nghèo khổ và trở nên bạn bè của họ, để yêu thương săn sóc và phục vụ họ.
Đức
Kitô thực sự là một vị Vua đầy uy quyền. Ngài đã trở nên giống chúng ta, để yêu
thương phục vụ chúng ta. Ngài đã phán: ”Con người không đến để được phục vụ,
nhưng để phục vụ và hiến mạng sống cứu chuộc cho nhiều người.”
10.
Chỉ có Chúa là Vua
Lịch
sử nước Anh có kể rằng hồi ấy, nước Anh có một ông vua đạo đức tên là Cannut
III. Ông là vua của một cường quốc, nên chung quanh ông hay có những quan nịnh
thần ton hót.
Một
hôm trong một buổi triều yết, các nịnh thần tâu: ”Thánh Thượng” là vua trên hết
các vua, là chúa trên các chúa, có quyền trên mặt đất và biển cả.
Nghe
vậy nhà vua muốn cho họ một bài học, liền mời tất cả đi ra bờ biển. Đứng trước
đại dương, ông tuyên bố: ”Ta là vua trên hết các vua, có quyền trên đất liền và
trên biển cả. Vậy ta truyền cho sóng biển không được trở tới.” Nhưng nước vẫn
dâng lên, sóng vẫn trở tới làm ướt hết áo cẩm bào của vua cũng như triều thần.
Nhà
vua đi vào trong một thánh đuờng đến trước tượng chuộc tội, lấy chiếc vương miện
đội trên đầu Chúa và nói: ”Lạy Chúa, chỉ có Chúa là Vua trên hết các vua, là
Chúa trên hết các chúa.”
11.
Đức Hồng y Deschamps
Hồng
y Deschamps, Tổng giám mục Mailines, khi còn là thanh niên, đã có ý muốn học
hành thật giỏi để đạt được một địa vị cao trong hàng ngũ các quan chức triều
đình. Một hôm, Deschamps đã được chứng kiến lễ đăng quang lên ngôi vua cách
long trọng của nhà vua Bỉ. Từ cửa sổ của một nhà cao tầng, Deschamps chăm chú
theo dõi diễn tiến của buổi lễ từ đầu đến cuối. Có thể nói đấy là một buổi lễ hội
vừa tưng bừng náo nhiệt với cờ xí và biểu ngữ rợp trời, và tiếng trống dồn dập
và tiếng kèn đồng thổi lên inh ỏi với hàng vạn người đến tham dự.
Trọng
tâm buổi lễ là nghi thức tấn phong hoàng thái tử lên ngai vàng kế vị vua cha mới
băng hà, với việc đội vương miện và nhận phủ việt. Buổi lễ kết thúc bằng một cuộc
diễn hành của hoàng gia cùng với đoàn tùy tùng. Đoàn rước đi theo hàng đôi kéo
dài cả cây số. Sau khi cuộc lễ kết thúc, quảng trường trở lại bầu khí bình lặng
như mọi khi. Deschamps tự nhủ mình rằng: ”Thế là một ông vua đã qua đi.” Rồi được
ơn Chúa kêu gọi. Deschamps đã suy nghĩ nhiều ngày sau đó và cuối cùng đã quyết
định như sau: “Tôi không muốn phục vụ cho ông vua sẽ qua đi. Tôi muốn phục vụ
ông vua tồn tại mãi mãi là Vua Giêsu.”
Deschamps
đã dứt khoát từ bỏ giấc mơ danh vọng chức quyền thế gian như trước đây anh mơ
tưởng, để xin gia nhập vào một dòng khổ tu và khoác vào mình chiếc áo tu sĩ.
Sau một thời gian tu học, thầy Deschamps đã đuợc thụ phong Linh mục, rồi sau đó
được tấn phong Giám mục và cuối cùng được phong tước vị Hồng y Giáo chủ, trở
thành niên tưởng của hàng Giám mục Bỉ.
12.
Pho tượng Chúa Giêsu Vua.
Trên
đỉnh ngọn núi Corovado ở Nam Mỹ, người ta đã dựng một pho tượng Chúa Giêsu vua.
Ở xa trông lại, du khách trông như pho tượng chạm trời, vì tượng cao hơn 30
mét. Đứng sừng sững, bao quát cả một vùng bát ngát mênh mông, pho tượng đã làm
tăng thêm vẻ đẹp cho kinh thành Rio de Janeiro, thủ đô nước Brasil.
Bạn
thử nghĩ biết bao công phu mới dựng được pho tượng ấy! Chuyên chở vật liệu từ
chân lên đỉnh núi, sườn núi lởm chởm. Nhưng người ta chưa thỏa mãn. Trong không
trung đã có tượng Chúa Giêsu Vua, người ta còn muốn dựng một pho tượng ở đáy biển
để chứng tỏ vương quyền khắp nơi của Chúa Giêsu
Tạo
hóa hình như cũng chiều lòng người đã dành cho họ một nơi đẹp đẽ để thực hiện ý
tưởng cao qúi ấy. Ở biển Italia, không xa Napoli, làn nước trong xanh, lăn tăn
gợn sóng, chính chỗ đáy biển ấy người ta đã chọn để dựng tượng Chúa Giêsu Vua.
Biết bao công lao.
Có
những tầu đánh cá nối đuôi nhau ra đó để tung hoa chào mừng Chúa. Còn những tầu
ngầm cũng lượn quanh viếng thăm Chuá. Tuy nước trong đẹp nhưng rêu xanh thường
rủ nhau đến bám tượng đá. Nên hằng năm người ta phải tổ chức một cuộc cạo rêu
và tắm rửa cho tượng.
13.
Đức Vua yêu một thôn nữ
Triết
gia Kierkegaard người Đan mạch kể câu chuyện về một vị vua yêu một thôn nữ.
Ngài định cưới nàng nhưng có quá nhiều trở ngại: tục lệ chỉ cho phép nhà vua cưới
các công nương vương triều. Tuy nhiên ngài lấy thế lực để coi thường truyền thống.
Nhưng
một ý nghĩ khác nảy sinh: sự khác biệt về địa vị khiến tương quan giữa hai người
không tự nhiên, cô gái có thể thán phục đức vua nhưng không thực sự yêu ngài: vua
vẫn là vua nàng vẫn là thôn nữ! Vua liền quyết định một kế hoạch khác, ngài từ
bỏ ngôi vua để sống như một nông dân, nhưng nếu như thế thì chàng nông dân này
liệu có được nàng thôn nữ đó yêu nữa hay không, hay lại mất cả chì lẫn chài?
Cuối
cùng, vì quá yêu nàng, ngài liều bỏ mọi sự để hai người được có một tình yêu
đích thực và trọn vẹn.
Tác
giả không cho biết câu chuyện kết thúc ra sao, không cho biết cô gái ấy có chấp
nhận tình yêu ấy hay ruồng bỏ đức vua, họ có sống với nhau hạnh phúc hay không?
Tác giả có lý vì thật ra đó không phải là điểm chính yếu của câu chuyện. Điểm
chính yếu là tình yêu của đức vua dành cho người thôn nữ hèn kém này. Tình yêu
lớn lao đến độ ngài dám từ bỏ vương quyền và ngai báu vì nàng.
Câu
chuyện chưa kết thúc, nó vẫn tiếp diễn. Đây là một câu chuyện có thực về tình
yêu của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta, câu chuyện có thực mà đoạn kết
chưa được viết hay nói cho đúng không ai viết thay cho chúng ta được, mỗi người
chúng ta tự viết cho riêng mình xem mình chấp nhận hay từ chối tình yêu của
Thiên Chúa.
14.
Thẻ căn cước trong Vương Quốc Tình Yêu của Vua Giêsu:
Ngày
11/11/1951 trong một bài diễn từ, Đức Thánh Cha Pi-ô 12 đã kể lại một giai thoại.
Có một phụ nữ kia rất đạo đức, nhưng sức khỏe quá yếu ớt. Cô ta bị chứng sưng
màng phổi và rất khó thở. Lâu lâu căn bệnh tái phát làm cô rất đau đớn. Nhưng
cuối cùng cô cũng lập gia đình, mang thai và chờ ngày sinh nở. Bất hạnh bất ngờ
ập đến.
Căn
bệnh năm xưa tái phát trầm trọng. Các bác sĩ đề nghị phải hủy bỏ bào thai để cứu
tính mạng cho bà mẹ. Người chồng cũng đồng ý như thế. Nhưng mẹ bào thai sau khi
cầu nguyện nhiều ngày đã kiên quyết từ chối đề nghị của bác sĩ. Cô nói trong nước
mắt: “Tôi không thể giết con tôi. Con tôi phải sống, cho dù tính mạng tôi có ra
sao đi nữa.” Cô ta chấp nhận tình huống xấu nhất có thể xảy ra và phó thác hoàn
toàn cho Chúa quan phòng. Cuối cùng cô đã sinh được một bé gái kháu khỉnh,
nhưng sau đó sức khỏe của cô ngày càng suy kiệt. Hai tháng sau, người phụ nữ đã
tắt thở, trên tay vẫn ôm chặt đứa con mới sinh mà cô rất thương mến.
Hơn
hai mươi năm trôi qua, người ta thấy một nữ tu trẻ rất xinh đẹp đang ân cần
chăm sóc cho các cháu bé mô côi trong một trại tế bần. Vòng tay thân thương và
cặp mắt long lanh của vị nữ tu sáng rực lên nét yêu thương mà chị đã được di
truyền từ chính người mẹ thân thương của mình. Đó là người mẹ trẻ năm xưa đã chấp
nhận hy sinh tính mạng để cho con được sống.
Người
mẹ can đảm này đã được Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II tôn phong lên bậc Chân
Phước, bởi vì bà đã thực sự đi vào Vương quốc tình yêu tiếp bước theo chân Đức
Giêsu. Chính Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô 2 đã nói: “Một đất nước nào, một
chế độ nào cho phép con người sát hại lẫn nhau, thì đất nước đó, chế độ đó đang
đi tới chỗ bị hủy diệt.” Đó là một đất nước đi ngược lại hiến pháp của Vương quốc
Giêsu. Sống trong Vương quốc này, Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta phải sống với
một nền văn minh mới, đó là ‘nền văn minh của tình thương’.
Mẹ
Tê-rê-sa Can-quýt-ta cũng đã từng nói: “Một người mẹ nhẫn tâm giết chết con của
mình, thì không còn một thứ tội ác nào mà họ không dám làm.” Biết bao tội ác
nhan nhản đang xảy ra trong xã hội hôm nay vì người ta đang dần đánh mất đi thẻ
ID (identity card) Nước Trời chứng minh mình là công dân Nước Trời.
15.
Gương bác ái của Máctinô thành Tours công dân nước trời:
MÁC-TI-NÔ
là một quân nhân Rô-mavà một Kitô hữu. Một ngày mùa đông lạnh lẽo, khi ông đi
vào một thành phố, có người hành khất chặn ông lại xin bố thí, Mác-ti-nô không
có tiền, nhưng khi thấy người hành khất xanh xao và đang run rẩy vì lạnh, ông cởi
chiếc áo khoác đã sờn rách và dùng gươm xén một nửa chiếc áo khoác trao cho người
hành khất. Tối hôm ấy ông nằm mơ thấy thiên đàng có các thiên sứ bao quanh Vua
Giêsu và trên mình Người mặc phân nửa chiếc áo khoác của ông. Một thiên sứ hỏi
Chúa Giêsu: “Tại sao Ngài mặc nửa chiếc áo bị sờn rách đó? Ai đã cho Ngài?”
Chúa Giêsu trả lời: “Chính Mác-ti-nô, tôi tớ của Ta đã tặng cho Ta đó.”
Quả
thật như bài Tin Mừng hôm nay Chúa đã xác quyết: Ta bảo các ngươi: “những gì
các ngươi đã làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các
ngươi đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Và Chúa nói tiếp: “Hãy đến, hỡi những kẻ
cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các
ngươi từ khi tạo thành vũ trụ. Vì khi ta đói, các ngươi đã cho ăn, Ta khát, các
ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước, Ta mình trần, các
ngươi đã cho mặc. Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm, Ta bị tù đầy, các ngươi
đã đến với ta”(Mt 25, 34-36).
Thật
là hạnh phúc cho chúng ta, nếu được Chúa nói với chúng ta như vậy trong ngày tận
thế với tư cách là vị Vua Thẩm Phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Amen.
16.
Đức Giêsu Vua hoàn vũ
Elvis
Aron Presley (1935–1977) được gọi là Vua nhạc rock and roll, thường được tôn
vinh Ông Vua nhạc rock, là một ca sĩ và diễn viên người Mỹ. Tạp chí Rolling
Stone từng viết “Elvis chính là rock 'n roll” và phần lớn tác phẩm của Elvis là
hoàn hảo. Trong suốt sự nghiệp ca hát của mình kéo dài đến 2 thập kỷ, Elvis
Presley đã lập và phá vỡ những kỷ lục về lượng khán giả đến xem trình diễn,
cũng như lượng đĩa nhạc được tiêu thụ.
Là
một trong những tên tuổi nổi tiếng của làng nhạc, Presley sống một cuộc đời xa
hoa, phú quý. Nhưng hiếm ai biết, tuổi thơ của anh rất thiếu thốn. Cậu bé Elvis
sinh ngày 8/1/1935 trong một mái lều xiêu vẹo ở Tupelo, Mississippi. Dù nghèo
khó, thường phải ăn chỉ có độc bánh mì, nhưng bù lại, gia đình chăm sóc Elvis
Presley khá quy củ và cẩn thận. Cho đến tận năm 15 tuổi, bà mẹ vẫn phải đưa cậu
đến trường, để ngăn không cho lũ trẻ chọc ghẹo con bà. Đến sinh nhật 11 tuổi,
Elvis lần đầu tiên được tiếp xúc với nhạc cụ, đó là một cây guitare. Ban đầu, cậu
tỏ vẻ hơi hậm hực vì cậu thèm được có một chiếc xe đạp mới, hay một khẩu súng,
nhưng dần già, Presley bị cây đàn cuốn hút đến quên cả ăn ngủ.
Chỉ
vài năm sau, trên các sân khấu bắt đầu xuất hiện một anh chàng khá điển trai,
biểu diễn hết mình, với những cú lắc hông dữ dội, đầy gợi cảm. Lần đầu tiên được
các thiếu nữ ở dưới khán đài reo hò, la hét, Elvis đã băn khoăn hỏi ông bầu: “Liệu
tôi có làm gì sai không mà bị mọi người la dữ như vậy?” để rồi nhận được câu trả
lời: “Dù anh có làm gì đi nữa, thì tốt hơn cả là trở lại sân khấu ngay lập tức
và tua lại màn trình diễn đó đi!” Đến năm 20 tuổi, Elvis kiếm được hợp đồng ghi
âm đầu tiên, trị giá chỉ có 30.000 USD, nhưng một năm sau, anh đã làm cả thế giới
phải ngỡ ngàng, khi giành liên tiếp ngôi vị quán quân ở các bảng xếp hạng và
nhanh chóng trở thành triệu phú.Trong thời gian ở Đức, Elvis làm quen với cô
nàng Priscilla Beaulieu và sau 8 năm tìm hiểu, họ quyết định đi đến hôn nhân. Lấy
vợ, anh trở nên “ngoan ngoãn” hơn hẳn, và sau một lần tuyên truyền về tác hại của
ma tuý, Elvis đã được Tổng thống Mỹ Nixon trao tặng huân chương đặc biệt. Tuy
nhiên, đang trong thời kỳ đỉnh cao sự nghiệp thì Elvis bị bắt đi lính, và chàng
thanh niên này đã tỏ ra mình là một kẻ văn võ song toàn. Không chỉ giành tiếng
vang trong lĩnh vực nghệ thuật, anh còn được các đồng đội vị nể khi đoạt được
đai đen Karatê.
Sau
khi đi quân dịch, Presley lại trở về ánh đèn sân khấu. Năm 1973, show hoà nhạc
đặc biệt Elvis: Aloha From Hawaii, được phát sóng trực tiếp trên 40 quốc gia,
đã thu hút trên 1 tỷ người xem, thậm chí còn nhiều hơn cả chương trình cuộc
thám hiểm đầu tiên lên mặt trăng. Nhưng sau sự kiện này, sức khoẻ của Elvis tụt
dốc không phanh. Cuộc hôn nhân tan vỡ càng làm ông Vua nhạc rock and roll lún
sâu vào vũng lầy đen tối. Gần như không đêm nào mà anh không phải dùng đến thuốc
ngủ. Đến ngày 16/8/1977, ngôi sao sáng đã tắt hẳn trên bầu trời âm nhạc, để lại
bao nỗi thương tiếc cho fan hâm mộ. (Wikipedia)
Hôm
nay Giáo Hội long trọng mừng lễ Chúa Kitô Vua. Vị Minh Quân Giêsu vô cùng vĩ đại,
cao sang và trường cửu, không ồn ào, hào nhoáng, phô trương, cũng chẳng phù phiếm
như Vua Rock kia. Vì Người là Đức Vua Tình Yêu, Đức Vua Công Chính, Đức Vua
Bình An. “Nhờ Người, vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì
được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là
ánh sáng cho nhân loại.” (Ga 1, 3 - 4)
17.
Quốc vương Thái lan sống vì dân
Quốc
Vương Thái Lan đã đi vào huyền thoại như người dân kể lại: “nhà vua làm kênh rạch,
nên có nước về ruộng đồng. Nguồn nước này đến từ đập Pa Sak Jolasid do chính
vua Bhumibol trực tiếp thực hiện.
-
Khi mới lên ngôi năm 1950, từ đó năm nào đức vua cũng tự tay lái xe jeep, với
hoàng hậu Sikirit bên cạnh, đi tổng cộng 50.000 km, tới những nơi hẻo lánh, xa
xôi để quan sát đời sống người dân còn khốn khó. Trong tâm trí của những người
dân Thái, nhà vua là một người thân thiện, với cuốn sổ và chiếc bút trên tay,
luôn lắng nghe những người nghèo khổ để thay đổi cuộc sống của họ.
Quốc
vương lập ra dự án của hoàng gia, xúc tiến các kỹ thuật gieo hạt tân tiến. Năm
1971, nhà vua đưa ra các biện pháp giúp người dân giải hạn, đào kênh rạch để trữ
nước và phân phối nước cho ruộng đồng.
- Đức
vua đã biến cung điện Chitralada rộng lớn của mình thành tổ hợp trang trại,
cánh đồng, nhà máy chế biến - nơi nhà vua có thể tiến hành nhiều thí nghiệm và
thực hiện hàng loạt các đề án về nông nghiệp. Từ đây, hơn 2.000 đề án do chính
nhà vua khởi xướng đã được triển khai trên toàn quốc, cải thiện điều kiện sống
của dân nghèo ở nông thôn.
-
Vào năm 1997, chính đức vua đã ký sắc lệnh sửa đổi Hiến Pháp, theo đó đức vua
không còn là người bảo hộ đạo Phật là quốc giáo của Thái Lan. Bản thân đức vua
là người Phật Tử nhưng lại bảo hộ cho tất cả các tôn giáo khác, kể cả cộng đồng
Hồi Giáo là người thiểu số ở miền nam Thái Lan, nơi thường xảy ra các cuộc xung
đột. Điều này đã giúp cho ngài không chỉ được tín đồ Phật Giáo ngưỡng mộ mà cả
người đạo Hồi cũng phải kính nể và khâm phục.
18.
Mọi người là anh em với nhau
Vương
quốc Fanxica là một đất nước thái bình, thịnh vượng. Nhà vua và hoàng hậu lại
có diễm phúc sinh được hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, văn võ song toàn và có
khí phách dũng cảm của bậc anh hùng. Hai vị hoàng tử nầy lại thương yêu hoà hợp
với nhau, đêm ngày gắn bó với nhau như hình với bóng.
Trong
khi đó, vua nước láng giềng tên là Faroux, là một người cực kỳ nham hiểm và ác
độc, nuôi mối căm thù truyền kiếp với vua Fanxica. Lòng căm thù của ông lại
càng dâng cao khi thấy vua Fanxica có hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, vũ dũng
hơn người, trong khi mình thì không có lấy một mụn con. Vì thế, ông rắp tâm hạ
sát hai vị hoàng tử kia cho bằng được.
Vua
Faroux biết hai vị hoàng tử thường hay vào rừng săn bắn, nên vua cho người mai
phục, giăng bẫy bắt được hoàng tử em là Faram.
Sau
khi hay tin em mình mất tích trong rừng, hoàng tử anh một mình một ngựa xông
xáo vào rừng tìm em. Không ngờ chính anh cũng bị vua Faroux giăng bẫy bắt được.
Tên
vua độc ác giam hai anh em vào hai ngục tối biệt lập nên hai hoàng tử không hề
hay biết gì về số phận của người kia.
Theo
thông lệ hàng năm, vào dịp sinh nhật của vua, vua cho tổ chức những cuộc quyết
đấu giữa những con ác thú, để chúng phanh thây xé xác nhau làm trò vui cho quan
quân và dân chúng.
Năm
nay, thay vì cho ác thú đấu nhau, nhà vua ác độc bắt hai tù nhân vạm vỡ khoẻ mạnh,
mỗi người mang một bộ da sư tử trên mình, đeo thêm mặt nạ sư tử, và buộc họ phải
quyết đấu cho đến khi một trong hai người phải chết. Ai sống sót sẽ được trả tự
do.
Cả
đấu trường hò la vang dậy khi quân lính dẫn hai đấu thủ mặc lốt sư tử bước ra.
Với thanh mã tấu trên tay, hai con người lốt sư tử xông vào nhau chiến đấu vô
cùng ác liệt như hai ác thú say mồi. Đám đông cổ võ hò la vang trời dậy đất.
Cuộc
chiến kéo dài hơn cả tiếng đồng hồ mà vẫn bất phân thắng bại. Cả hai đấu thủ mệt
nhoài, mình mẩy hai người đều đầy thương tích máu me, nhưng không ai chịu nhường
ai. Mỗi người đều dốc hết toàn lực để hạ đối thủ, để dành sự sống, để được trả
tự do, để khỏi làm nô lệ suốt đời. Chỉ có chiến thắng hay là chết!
Thế
rồi đấu thủ cao người hơn lao tới như báo vồ mồi, vung đao chém xoạc mặt đối
phương, làm rơi mặt nạ sư tử, để lộ ra một khuôn mặt... rất thân quen!
Anh
kinh hoàng tột độ! Thanh mã tấu trên tay rơi xuống. Anh giật bỏ mặt nạ của mình
ra. Hai người ồ lên kinh ngạc. Họ bàng hoàng nhận ra nhau. Không ai xa lạ, họ
chính là hai anh em ruột thịt, hai hoàng tử con vua Fanxica bị vua Faroux bắt
cóc.
Họ
lao vào nhau, ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Họ đâu ngờ rằng đối thủ mà họ quyết
tâm tiêu diệt cho bằng được lại là người anh em rất thân yêu.
Nước
mắt tuôn tràn hoà chung với máu. Hai con người bầm dập, mình mẩy đầy máu me ôm
nhau khóc tức tưởi. Khóc vì đã coi nhau như kẻ thù, đã đấu tranh với nhau như
ác thú; khóc vì đã gây cho nhau bao vết thương đau. Họ vẫn đứng đó, ôm nhau
khóc tức tưởi trước hàng ngàn cặp mắt bàng hoàng kinh ngạc của mọi người.
19.
Hậu vận của những người chống lại vương quyền của Chúa
Mừng
kính lễ Thiên Vương Giêsu Kitô là dịp để chúng ta xét mình một cách nghiêm túc
hơn, xem mình đã thực sự là tín dân của Ngài hay chưa. Và xin được kể vài chuyện
có thật đã xảy ra với những kẻ vô thần, dám coi thường Thiên Chúa:
1.
John Lennon, ca sĩ của ban nhạc nổi tiếng The Beatles của Anh quốc. Trong lúc
được tạp chí American Magazine phỏng vấn, John Lennon nói: “Thiên Chúa Giáo sẽ
không còn, sẽ biến mất. Tôi không có gì phải tranh cãi về điều đó. Tôi chăc chắn
như thế. Ông Giêsu thì được, nhưng những kẻ theo Ông thì quá ngây ngô! (Ý muốn
nói là bị Ông Giêsu lừa gạt). Ngày nay, chúng tôi, ban nhạc The Beatles nổi tiếng
hơn Ông Giêsu” (1966). Sau khi John Lennon tuyên bố lời trên đây, hắn bị bắn
sáu lần. Không biết sau đó hắn có ăn năn hay không, nhưng mọi người biết rõ là
The Beatles đã “chết.”
2.
Một nhà báo hỏi người thiết lập chiêc tàu Titanic về sự an toàn của chiếc tàu,
hắn nói: “Ngay cả Thượng Đế cũng không thể đánh chìm được nó.” Kết quả ra sao,
mọi người đã biết rõ: Vỡ đôi vì tảng băng ngầm vào sáng ngày 15-4-1912 tại Bắc
Đại Tây Dương!
3.
Marilyn Monroe, diễn viên điện ảnh. Trong một xuất trình diễn, cô được Billy
Graham đến thăm. Bill Graham nói rằng Chúa Thánh Thần sai ông đến để nói với
cô. Nghe xong, Marilyn Monroe nói: “Tôi không cần Giêsu của ông.” Một tuần sau,
người ta thấy xác Marilyn chết cô đơn trong một chung cư.
4.
Năm 1954, sau khi chiếm miền Bắc, một toán công an cộng sản vào nhà dòng kín Bùi
Chu lục soát. Khi đến Nhà Nguyện, lúc các nữ tu đang chầu Mình Thánh, một tên cộng
sản lớn tiếng la lối: “Chúa của các người ở đâu?” Nữ tu chỉ Nhà Tạm trên bàn thờ,
tên này lấy súng mang trên người nhắm Nhà Tạm. Hắn bắn vỡ chén thánh và Mình
Thánh Chúa đổ ra vương vãi. Bắn xong, hắn vẫn đứng yên, chĩa súng vào Nhà Tạm
như muốn bắn tiếp. Các nữ tu vô cùng đau lòng vì Mình Thánh Chúa bị xúc phạm,
nên quỳ xuống, van xin anh đừng bắn nữa, nhưng khi chạm đến anh, các nữ tu mới
biết linh hồn hắn đã lià khỏi xác từ lúc nào rồi: Hắn chết đứng!
5.
Năm 1963, sau khi Tổng thống Ngô Đình Diệm bị một số tướng tá phản bội lật đổ,
một số người bên lương tràn vào Tòa tỉnh trưởng Thừa Thiên (Huế), đập phá “tàn
tích gia đình trị.” Khi thấy bức tượng Thánh Gioan Tẩy Giả, quan thầy của Tổng
thống Diệm, một thanh niên trèo lên vác búa đập vỡ mặt mũi bức tượng, nhưng hắn
bị trật chân ngã xuống và chết ngay lập tức. Sự kiện này xảy ra trước mắt nhiều
người chứng kiến.
6.
Voltaire là kẻ chống Thiên Chúa và đánh phá Hội Thánh Công Giáo rất quyết liệt.
Không một lời gian dối và vu oan nào mà ông tởm gớm. Ông chiêu tập một nhóm lấy
tên là “Beelzebub” (Bê-en-dê-bun, tên của tướng quỷ). Năm 1753, ông đã lên án
Thiên Chúa: “Hai mươi năm nữa Thiên Chúa về hưu, vì không còn ai phục vụ Ngài.”
Đúng hai mươi năm sau, năm 1773, Voltaire tắt thở vì chết thê thảm. Ông đã thấy
những hình ảnh làm ông run sợ và hét lên: “Một bàn tay đang kéo tôi xa Thiên
Chúa... Qủy bắt tôi... Tôi trông thấy hỏa ngục.” Ông tru tréo như thú vật hung
dữ. Ông lấy móng tay cấu xé thịt mình ra từng miếng. Một bà già thường giúp người
hấp hối, sau khi chứng kiến cái chết của Voltaire, đã nói: “Khi ấy tôi ở gần
giường của Voltaire đang hấp hối, tôi không muốn nhìn thấy một người vô đạo chết
nữa.” Một người khác chứng kiến cái chết của Voltaire cũng nói: “Nếu quỷ có thể
chết được, cũng không chết dữ như Voltaire.”
20.
Làm tôi là cai trị
Sách
gương Chúa Giêsu đã nói: Làm tôi Thiên Chúa là cai trị!
Chúng
ta đang đi theo và làm theo gương của một Vị Vua chẳng giống ai, mà đúng là một
vị vua chẳng giống ai thật đấy!
-
Vua Hòa Bình gì mà khi đến làm vua vũ trụ này, lại phải nằm rét rum như cầy sấy
trong hang bò lừa tạm trú, tới nỗi khiến cho Ba Đạo Sĩ vô cùng ngạc nhiên khi
thấy Ngài, sau những ngày đêm lần mò đầy nguy hiểm chống gai vất vả đi tìm để
bái thờ .
-
Vua gì mà không có lấy một thằng lính để bảo vệ hộ tống cho, còn thảm tới nỗi
chỉ cần mấy thằng lính quèn của Hêrôđê đuổi thôi, cũng đã phải chạy tóe khói
bán sống bán chết sang mãi tận bên Aicập để lánh nạn và tìm miếng ăn kiếm sống
qua ngày.
-
Vua gì mà bị trói và bị thẩm vấn trước mặt Philatô mà không một lời biện hộ và
cũng chẳng cần một ai biện hộ cho. Vua gì mà suốt ba năm trời vất vả đi chiêu mộ
được 12 tông đồ gọi là trung thành sống chết với mình, thế mà khi thấy Thầy bị
bắt, thì ôi thôi, các môn sinh đã từng gắn bó nằm gai nếm mật, đã cao xa bay chạy
mỗi người một phách, để Thầy mình muốn ra làm sao thì kệ mặc Thầy.
-
Vua gì mà chẳng giống ai, lại còn tuyên bố: Tôi sinh ra để làm Vua, Tôi đến thế
gian này cũng không ngoài mục đích đó.
Vâng,
đúng rồi, chính nhờ Vua không giống ai này mà Ngài đã thực sự là Vua từng cõi
lòng chúng ta và nhờ Chức Vua của Ngài đó mà chúng ta mới được cứu độ và được
lên Thiên Đàng đấy, bạn và tôi ạ!
21.
Không nhận ngai vua
Martin
Caphu là người Bangla thuộc Cameroun Phi châu. Cha anh là quốc vương Bangla. Từ
thiếu niên, anh đã quen với phong trào Tổ Ấm, một tổ chức Công giáo làm việc xã
hội ở Phi châu. Thấy các thành viên Tổ Ấm xả thân giúp đỡ người đồng loại, anh
Caphu rất cảm phục, và tới năm 1963, vào lúc mười bảy tuổi, anh xin trở lại
Công giáo. Sau khi tốt nghiệp Trung học, anh được gia đình gởi về Rôma học
nghành điện tử. Đậu tiến sĩ xong, anh Caphu gia nhập phòng trào Tổ Ấm.
Năm
1980, cha anh qua đời, và theo chúc thư, ông đã chọn Caphu kế vị ngai vàng.
Caphu vội vã trở về Bangla, anh họp cả sắc tộc lại và xin mọi người đề cử người
khác làm vua. Còn anh, anh muốn dành cả cuộc sống làm việc xã hội theo tinh thần
Kitô giáo. Và mọi người đã đồng ý. Có phải đúng là anh Caphu đã rất hiểu và đã
cam đảm sống tinh thần làm vua mà Chúa Kitô Vua không, thưa bạn? Và ngày hôm
nay, từ giây phút này, Ngài cũng đang lên tiếng kêu mời bạn và tôi tiếp tục
công trình làm vua bằng cách phục vụ người khác như một người đầy tớ đối với
ông chủ là tha nhân đấy!
22.
Ai thuộc về sự thật thì nghe tôi
Thánh
Gioan Cantio sinh tại Ba lan năm 1390. Khi còn là một cậu bé, ngài tỏ ra thông
minh và tử tế. Khi làm linh mục, ngài dạy Kinh Thánh tại đại học Cracow và cũng
làm cha sở mấy năm.
Người
ta nhớ sự thông thái và lòng nhiệt thành của ngài đối với người nghèo khó. Người
đã đi bộ hành hương Roma đến bốn lần, đeo hành trang trên lưng. Một lần trong
cuộc hành hương, bọn cướp lấy bóp của ngài, hỏi ngài còn tiền không. Vị thánh
trả lời ngài chỉ có bấy nhiêu, bọn cướp cho ngài đi.
Đi
được một quãng xa, ngài nhớ ra mấy miếng vàng giấu trong gấu áo. Ngài vội vàng
trở lại, đưa vàng cho bọn cướp, năn nỉ xin họ tha thứ cho ngài vì ngài đã nói dối
họ.
Bọn
cướp ngỡ ngàng, lặng thinh và lấy làm thích thú, bọn chúng trả lại cho ngài tất
cả tiền nong đã lấy của ngài.
23.
Gặp Chúa Giêsu
Thầy
Brian Morton có kể lại câu chuyện sau đây:
“Một
nữ tu trẻ khởi sự ngày đầu tiên làm việc trong một bệnh viện địa phương. Sơ rất
lo lắng. Sơ thấy những người hấp hối nằm trên các giường bệnh. Sơ thấy các sơ
khác đang đi từ giường này sang giường khác, rót nước ở chỗ này, phát thuốc ở
chỗ kia.
Bất
thình lình Mẹ Têrêxa đến bên sơ, mỉm cười và nói: “Này chị, đến với tôi. Tôi muốn
chị gặp một người.” Nữ tu trẻ đi theo Mẹ Têrêxa. Chẳng mấy chốc họ đến bên một
cái giường nằm ở góc xa nhất của khu nhà. Nằm trên giường là một ông lão gầy
giơ xương. Đôi mắt của ông sâu hoắm. Đầu ông cao trọc. Ông chỉ còn một cái răng
duy nhất trong miệng.
Mẹ
Têrêxa ôm khuôn mặt của ông lão trong đôi bàn tay của mình và quì xuống bên giường.
Mẹ gọi người nữ tu trẻ tuổi: “Chị Anna, tôi muốn chị gặp Chúa Giêsu.”
Chúng
ta cần mời gọi Chúa Kitô đến cư ngụ trong chúng ta để những qui tắc, lối sống của
Người trở thành qui tắc vào lối sống của chúng ta. Chúng ta cần Người đến sống
trong và với chúng ta để chúng ta hành động, ứng xử như Người. Chúa Kitô đang sống
trong mỗi người chúng ta. Và chúng ta phải để cho Chúa hướng dẫn chúng ta nhìn
thấy sự hiện diện của Chúa trong những người chung quanh chúng ta.
24.
Hoàng tử và người nghèo
Mark
Twain viết trong cuốn “The Prince and the pauper, Hoàng tử và người nghèo” về
hai người con trai sinh ra tại Anh quốc. Người con trai thứ nhất thì được sinh
ra trong hoàng gia và trở nên Hoàng Tử Wales. Sự chào đời của Hoàng Tử được diễn
tả: “Anh quốc đã chờ đợi, hy vọng, và cầu nguyện cho ông ấy, và bây giờ thì ông
ấy đã chào đời. Tất cả mọi người đều vui mừng... Mọi người giàu cũng như nghèo
đều nghỉ lễ ca hát tưng bừng.”
Cùng
ngày đó, một cậu bé trai khác tên là Tom Canty đã chào đời trong một gia đình
nghèo túng và lụp xụp tại London: “Nó là một đứa bé mà không ai muốn.” Không một
ai trông đợi sự ra đời của nó. Không một ai hy vọng hoặc cầu nguyện cho nó. Khi
nó chào đời thì không ai ca hát hoặc mừng rỡ cho nó.
Cả
hai đều lớn lên trong hai hoàn cảnh khác nhau. Cả hai đều lớn lên với cái nhìn
khác nhau về thế giới. Tuy nhiên, điều giống nhau giữa hai đứa bé đó là chúng đều
lớn lên trong vui tươi, rạng rỡ, và hăng hái mà chúng ta có thể nhìn thấy ở nơi
những đứa con trai khác.
Một
ngày nọ, Tom Canty đứng ngoài cửa cung điện. Nó rất ngạc nhiên do sự huy hoàng
của cung điện. Khi nó tiến đến gần cánh cửa để có thể nhìn cho rõ hơn thì bất
chợt nó bị hai tên lính bắt nó và quăng xuống đất.
Cùng
một lúc đó, vị hoàng tử trong cung nhìn thấy thảm cảnh của Tom liền chạy đến
bênh đỡ. Sau đó, các tên lính canh rất ngạc nhiên khi họ nhìn thấy hoàng tử đã
mời Tom vào trong cung điện để thăm quan.
Sau
đó, hoàng tử nảy ra một ý kiến là tráo đổi cuộc sống của nhau. Hoàng tử thì mặc
quần áo rách rưới của Tom, và đi thang lang qua các ngõ hẻm nghèo nàn với những
người nghèo khổ. Còn Tom thì mang bộ đồ hoàng gia và vàng ròng.
Sau
một thời gian, khi hoàng tử trở về hoàng cung thì bị lính chận lại. Khi hoàng tử
cố gắng kể về thân phận thật sự của mình họ không tin và đã tóm cổ hoàng tử
giam trong nhà tù.
Để
rút ngắn câu truyện, khúc kết của câu truyện đó là mọi sự đều được sáng tỏ. Tuy
nhiên, trong tiến trình đó, một điều quan trọng đã xảy ra. Sau cái lần đi vào
những nơi nghèo khổ, hoàng tử đã học được bài học đầu tiên thế nào là sống
nghèo khổ, thế nào là bị chà đạp, thế nào là bị đối xử bất công. Sau đó, hoàng
tử đã được trở thành một ông vua. Một ông vua nhân từ và được nhiều người mến
chuộng nhất trong suốt thời kỳ hoàng tộc nước Anh.
Câu
truyện Hoàng Tử và Người Nghèo thì cũng giống như câu truyện về Chúa Giêsu và mỗi
người chúng ta. Chúng ta những đứa trẻ nghèo khổ, còn Chúa Giêsu là hoàng tử,
được tiền định là Vua của tất cả tạo vật.
25.
Vương quyền của Giêsu
Nét
đặc sắc của vương quyền nơi Ngài chính là tinh thần phục vụ:
-
Con Người đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Nơi
khác Ngài cũng xác quyết:
-
Thày sống giữa anh em như kẻ hầu bàn.
Ngài
làm vua bằng cách cúi xuống để rửa chân cho các môn đệ. Và hành động phục vụ cao
cả nhất chính là cái chết trên thập giá. Nhưng cũng chính nhờ cái chết này mà
Ngài được tôn vinh:
-
Ngày nào Thày bị treo lên khỏi đất, Thày sẽ kéo mọi sự lên cùng Thày.
Và
thánh Phaolô đã xác quyết:
-
Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá, nên Thiên Chúa đã siêu
tôn Ngài lên, tặng ban một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.
Với
chúng ta thì sao? Một khi tuyên xưng Đức Kitô là vua, chúng ta cũng phải thực
thi tinh thần phục vụ của Ngài. Đây cũng chính là điều Ngài mong muốn:
- Nếu
các con gọi Ta là Thày và là Chúa mà Ta còn rửa chân cho các con, thì các con
cũng phải rửa chân cho nhau.
Nơi
khác Ngài cũng xác quyết:
-
Vua chúa trần gian thì lấy quyền hành mà thống trị họ. Còn các con thì không
như thế, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy trở nên rốt hết và làm tôi tớ
cho mọi người.
Chính
nhờ tinh thần phục vụ này mà chúng ta trở nên ánh sáng, trở nên muối mặn, trở
nên men bột, hầu góp phần làm cho nước Chúa được trị đến.
26.
Người xét xử bị xét xử
Hãy
lấy trường hợp của Louise Woodward, một người Anh 19 tuổi mà ban bồi thẩm ở
Massachusetts tin rằng năm 1998 cô đã giết chết một em bé tám tháng tuổi,
Matthen Eappen được giao cho cô chăm sóc. Nhưng nhiều người theo dõi vụ án đã
tin rằng công lý đã mắc sai lầm. Người ta cho rằng cô đã giết em bé vì lầm thuốc.
Nhưng đây chỉ là sự nghi ngờ hợp lý và ban bồi thẩm khó có thể tìm ra bằng chứng
giết người – Đoàn luật sư được kêu gọi chống lại bản án cho cô.
Lúc
đầu vụ án, Louise là một bị cáo. Nhưng giờ đây mọi tập trung đều hướng về quan
tòa Hiller Zobel, ông đã xem lại bản án. Trong lúc chờ đợi quyết định của ông,
nhiều câu hỏi được đặt ra về tính cách của ông. Người ta nói rằng ông là người
có tư tưởng độc lập. Một người không bị dư luận làm dao động hoặc nhượng bộ một
áp lực. Bản án ông đang đi đến sẽ cho biết những nhận xét ấy về ông có đúng hay
không. Giờ đây, chính quan tòa Zobel đang được xét xử.
Sau
khi cân nhắc cẩn thận Zobel thay đổi bản án của ban bồi thẩm là giết người mức
độ hai thành tội ngộ sát. Vâng một em bé đã chết và Louise đã bị khiển trách về
cái chết ấy. Nhưng cô không phải là kẻ sát nhân. Và khi cô đã phục vụ mười bảy
tháng trong nhà tù. Cô được trả tự do. Trong con mắt của những quan sát viên
trung lập, bản án của ông là đúng đắn. Từ vụ đó, danh tiếng của quan tòa Zobel
được nâng cao. Ông đã chứng tỏ là một người quan tâm đến công lý với tất cả sự
nhiệt thành.
Hình
ảnh của cảnh tượng trong Tin Mừng hôm nay. Đơn độc và không vũ khí, Đức Giêsu đứng
trước Philatô trong vụ xử liên quan đến mạng sống của Người. Người đã bị những
người Do thái kết án gây ra xáo trộn trong dân, và nói với họ đóng thuế cho
xê-da là sai lầm.
27.
Vương miện dành cho người xứng đáng
Vào
thời Thập tự viễn chinh nhằm bảo vệ Thánh địa và bảo đảm an ninh cho khách hành
hương, vua Philip nước Pháp làm một cử chỉ lạ thường, trước mỗi lần lên đường
ông cho tháo triều thiên đang đội trên đầu rồi đặt lên bàn với hàng chữ: Triều
thiên này dành cho người nào xứng đáng nhất. Sau đó ông quy tụ các tướng lãnh
trước mặt ông và yêu cầu họ hãy quên ông là vua, là chỉ huy của họ, ông chỉ vào
vương miện trên bàn và nói với mọi người rằng: “Vương miện này dành cho ai tỏ
ra xứng đáng nhất trong cuộc chiến đấu.”
Cuộc
viễn chinh đã hoàn tất cách vẻ vang, mọi người hát khúc khải hoàn trở về tụ tập
lại xung quanh chiếc vương miện, và một vị tướng lãnh tiến lại cầm vương miện đội
lên đầu vua: “Tâu bệ hạ, bệ hạ là người xứng đáng nhất để đội triều thiên này.”
28.
Vua sự thật
Oliver
Cromwell, chính trị gia và nhà quân sự kiệt xuất của nước Anh, nhờ một hoạ sĩ vẽ
một bức chân dung cho ông.
Khi
bức tranh hoàn thành, Cromwell xem bức tranh và thấy hoạ sĩ đã vẽ ông đẹp hơn
thực tế, như bỏ qua những mụn cơm trên mặt ông.
Cromwell
không chịu nhận bức chân dung đó, và đòi hoạ sĩ phải vẽ một bức khác y như thật,
kể cả những vết sứt sẹo trên mặt ông.
Trong
thực tế cuộc sống, người ta bị cám dỗ trốn tránh sự thật, để nên nô lệ cho một
ý thức hệ, một trào lưu, một quan điểm nào đó về cuộc sống; lại nữa, sự sống và
ơn cứu độ tự nó là thực tại vượt quá tầm trí hiểu con người. Làm sao đến đích
được nếu đi sai đường?
Thế
nên, ít khi Đức Kitô dùng những kiểu nói của toán học vì ngôn ngữ nào của nhân
loại cũng lúng túng trước những sự thật phong phú, kỳ diệu của cuộc sống bình
thường, nói chi đến mầu nhiệm về sự sống siêu nhiên: “Nước Trời giống như chuyện
hạt cải... gieo trong ruộng... giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba
thúng bột” (Mt 13,31.33).
Chúa
đã nói: “tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các
ngươi không phải là đường lối của Ta (…) Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối
của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng
các ngươi chừng ấy” (Is 55,8-9). Vì thế mà “Đức Giê-su dùng dụ ngôn mà nói với
đám đông; và Người không nói gì với họ mà không dùng dụ ngôn” (Mt 13,34-35).
Có
thế mới hay tầm mức quan trọng của những công bố mang tính toán học, không thể
hiểu khác đi, trong lời Đức rao giảng của Kitô: “Ta là đường, là sự thật và là sự
sống; Này là Mình Ta, này là Máu Ta... ”; nhất là khi đứng trước Philatô, người
thẩm định sự thật đại diện cho nhân loại, Đức Kitô nói rõ về vai trò cứu thế, đứng
đầu một vương quốc của Ngài: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích
này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga
14,6;18,37)
29.
Sự thật giải thoát
Bob
Evans bị mù từ bẩm sinh. Đến năm mười lăm tuổi em được giải phẫu và thị lực của
em bắt đầu hoạt động bình thường như mọi người. Lần đầu tiên em được nhìn thấy
mọi vật.
Tâm
trạng của Evans trở nên hết sức khác thường khi được nhìn thấy. Cả thế giới đều
biến đổi ngoài sức tưởng tượng. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn của báo chí,
Evans đã nói: “Tôi không thể chờ đợi cho đến khi thức dậy vào buổi sáng mới xem
những gì tôi có thể nhìn xem. Thực là một điều rất kỳ diệu trên đời. Ban đêm,
tôi nhìn lên những vì sao lấp lánh... Hầu như lúc nào tôi cũng thấy lòng mình
lâng lâng. Quý vị có lẽ không thể biết được đối với tôi, vạn vật tuyệt vời như
thế nào.”
Cũng
thế, trong cùng một thế giới, Đức Kitô đã thay đổi tất cả bằng cách làm chứng
cho sự thật về sự phù ảo của thế gian và sự thật về sự sống vĩnh cửu cho ai tin
vào Chúa.
Sự
thật đó thực sự đem lại ơn giải thoát cho người tin: “Quả vậy, chúng ta đã
không mang gì vào trần gian, thì cũng chẳng mang gì ra được. Vậy nếu có cơm ăn
áo mặc, ta hãy lấy thế làm đủ” (1Tm 6,7-8); vì “thế gian đang qua đi, cùng với
dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi”
(1Ga 2,17).
Đó
là Tin Mừng Đức Kitô mang lại cho nhân loại đang bơ vơ vất vưởng giữa đời. Tôi
có đang sống trong niềm vui và bình an không, hay nói cách khác, tôi có lắng
tai và nghe được tiếng Chúa không?
30.
Gặp vua của sự thật
Bảo
Đại là vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn và cũng là vị vua cuối cùng của Việt
Nam. Nếu những vị vua đầu của triều Nguyễn, nhất là Minh Mạng và Tự Đức đã cấm
Đạo Chúa gắt gao, sát hại biết bao người Công Giáo, thì vị vua cuối cùng của
nhà Nguyễn là Bảo Đại đã tìm ra nguồn sống thật là Đạo Chúa.
Trước
hết, ông dẹp bỏ tục đa thê trong triều đình và quyết định cưới cô Maria Têrêxa
Nguyễn Hữu Thị Lan, một thiếu nữ Công Giáo làm hoàng hậu. Mọi người trong triều
đình phản đối quyết định này của nhà vua, nhưng ông vẫn cương quyết thực hiện.
Hôn lễ được tổ chức long trọng vào ngày 20/3/1934. Quả thật, những năm tháng sau
đó, hoàng hậu Nam Phương cùng hai hoàng tử và ba công chúa được tự do giữ đạo.
Trong
thời gian sống lưu vong tại nước Pháp, vào ngày 17/4/1988, cựu hoàng Bảo Đại đã
xin chịu phép rửa tội gia nhập đạo Công Giáo. Ông mơ ước được quỳ bên cạnh đấng
kế vị thánh Phêrô để cầu nguyện cho quê hương Việt Nam và Giáo Hội Việt Nam.
Ngày 24/6/1995, ông và phu nhân đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tiếp kiến
riêng tại phòng khách của điện Vatican. Ngày 1/8/1997, cựu hoàng Bảo Đại qua đời
tại Paris, nước Pháp, thọ 83 tuổi.
Câu
chuyện về cuộc đời của vị vua Việt Nam cuối cùng làm cho chúng ta phải suy nghĩ:
một vị vua đã mất cả đời để đi tìm một vị Vua… Đúng thế, cuộc đời đầy sóng gió
của vua Bảo Đại chính là một cuộc hành trình dài đi tìm chân lý. Đến cuối cuộc
hành trình, ông đã gặp gỡ được Đức Kitô, Vua Sự Thật.
31.
Ai là vua của bạn?
Vào
năm 1925 Đức Giáo Hoàng Piô XI thiết lập lễ tôn kính Đức Kitô Vua, lễ này được
đặt vào ngày chúa nhật cuối tháng 10. Giáo Hội qua nhiều thế kỷ đã tôn kính Đức
Kitô như là Vua trong cuộc rước vào ngày Lễ Lá nhưng Đức Giáo Hoàng thấy có nhu
cầu thiết lập một lễ đặc biệt, để chống lại chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa vật
chất của kỷ nguyên này. Trong xứ sở Hoa Kỳ, kỷ nguyên được gọi là tiếng gầm thứ
hai mươi.
Đức
Giáo Hoàng Piô XI đã đặt lễ vào Chúa nhật cuối tháng 10 và tiếp đó là lễ Các
Thánh. Sự nhận biết của phụng vụ mừng các môn đệ đã bước vào trong vương quốc
trên trời. Công đồng Vatican II đã đổi mới và chuyển lễ Kitô Vua vào chúa nhật
cuối năm phụng vụ như đặt một biểu hiệu của vương quốc, mặc dầu đang hiện diện
giữa chúng ta và vẫn còn đang đến: “Chúng ta chờ đợi trong niềm hy vọng vui mừng
ngày Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta sẽ đến.” Đấng sẽ mang lại vương quốc
của Ngài tới sự hoàn hảo khi Ngài trở lại trong vinh quang cho ngày Phục Sinh
chung.
Theo
sắc lệnh của Đức Giáo Hoàng Piô XI vào năm 1925 liên quan đến Đức Kitô Vua,
Ngài muốn làm cho cả thế giới chú ý tới nhu cầu thiết lập những giá trị tinh thần
như là những hướng dẫn cho đời sống. Những lời của Đức Giáo Hoàng hầu như không
được mấy ai chú ý đến. Nước Mỹ đặc biệt vẫn tiếp tục tinh thần tham lam, nhấn mạnh
là mọi người đều có thể trở nên giàu có, có thể có tài sản mà không cần làm việc.
Người ta có nhiều cấp độ kinh tế khác nhau, “ngay cả những chàng trai đánh
giày” cũng như một sử gia đã nói “cũng lao vào chợ hàng hóa.” Cuộc khủng hoảng
vào năm 1929 đã đổ vỡ là một điều không thể tránh được.
Thất
là đau buồn khi nhận biết rằng sắc lệnh đã được viết bởi Đức Giáo Hoàng vào năm
1925, có thể là bản chúc thư mà ngài đã sáng tác vào những tuần cuối đời Giáo
Hoàng của ngài. Chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa vật chất đi đến sự thất bại
trong cuộc khủng hoảng tài chính vào năm 1929, dẫn đến trong thời đại của chúng
ta một hậu quả khôn lường, đó là khủng hoảng về tiết kiệm và những món nợ chồng
chất trong những năm gần đây. Việc cử hành phụng vụ của chúng ta về Đức Kitô là
Vua, thách đố chúng ta bất chấp những thất bại trong lãnh vực tài chính hoặc
trong thái độ thiêng liêng của chúng ta, điều quan trọng nhất không phải sự
tham lam đã dẫn tới sự sụp đổ tài chính nhưng chính việc loại bỏ những giáo huấn
và gương mẫu của Đức Kitô Vua.
32.
Nước tôi không thuộc về thế gian này
Màn
thứ ba của vở kịch “Thị trấn của chúng ta” bắt đầu bằng cảnh người thuật chuyện
đi đến giữa những nấm mồ của nghĩa trang Grover's Corners của thị trấn New
Hampshire. Ông ta dừng lại và nói với khán giả: “Nhiều người đau khổ đang yên
nghỉ nơi đây.” Ông ta ngừng lại một lát, rồi nói tiếp: “Tất cả chúng ta biết có
một cái gì đó vĩnh hằng. Đó không phải là nhà cửa… không phải là trái đất này,
cũng chẳng phải là các tinh tú… Mọi người đều biết có cái gì liên quan đến con
người. Họ chờ đợi một cái gì đó đang đến, một cái gì đó thật quan trọng. Phải
chăng họ đang chờ đợi phần vĩnh cửu của họ được sáng tỏ? Cũng như Nước Chúa,
nhân loại chúng ta cũng thuộc về một thế giới khác.”
Tôi
có thoải mái nơi thế gian này không? Tại sao?
Tất
cả những gì không vĩnh hằng, mãi mãi không có giá trị (C.S. Lewis).
CNTN 34C -
TRUYỆN KỂ
1.
THỨ HAI - CHO ÐI TẤT CẢ
Lời Chúa: Lc 21, 1-4
Khi ấy, Chúa Giêsu nhìn lên, thấy
những người giàu có bỏ tiền dâng cúng vào hòm tiền. Người cũng thấy một bà goá
nghèo khó bỏ vào đó hai đồng tiền nhỏ, nên bảo rằng: "Thầy bảo thật các
con, bà goá nghèo khó này đã bỏ vào hòm tiền nhiều hơn mọi người.
Vì mọi người kia lấy của dư thừa
mà dâng cho Thiên Chúa, còn bà này túng thiếu, bà đã dâng tất cả những gì bà có
để nuôi sống mình."
TRUYỆN
KỂ
1. Bỏ
vào tất cả
Thánh Luca là văn sĩ tuyệt vời
viết về sự hiền dịu của Đức Kitô. Nhưng thánh nhân cũng là người nhấn mạnh đến
sự đòi hỏi. Thầy Giêsu đòi ai muốn theo Ngài phải từ bỏ tất cả (Lc 14, 33).
Các môn đệ đầu tiên như Simon,
Gioan, Giacôbê, Lêvi, đều là những người đã bỏ tất cả để theo Thầy (Lc 5, 11.
28).
Bà góa nghèo trong bài Tin Mừng
hôm nay (c.4) cũng là người đã bỏ vào thùng tiền tất cả những gì bà có để sinh
sống.
Tất cả và trọn vẹn, chính là điều
Thiên Chúa đòi hỏi nơi con người.
2.
Người Ðàn Bà Góa
Có rất nhiều câu chuyện về những
người nghèo chia sẻ một cách hào phóng cho những người túng thiếu. Câu chuyện cảm
động nhất hẳn phải là câu chuyện của bà góa thành Xêrepta thời tiên tri Êlia:
Toàn vùng phải trải qua một cơn
hạn hán lâu dài, trong nhà người đàn bà chỉ còn lại một ít bột và một vài giọt
dầu cuối cùng đủ để bà chuẩn bị một bữa ăn cuối cùng cho bà và đứa con trai nhỏ.
Vừa gặp người đàn bà đang đi kiếm củi, tiên tri Êlia đã nói hầu như ra lệnh cho
bà rằng: "Hãy chuẩn bị thức ăn cho ông!" Không một chút do dự hay chống
chế, người đàn bà khốn khổ đã làm theo lời vị tiên tri và phép lạ từ lòng quảng
đại của bà đã diễn ra: một vò dầu trong nhà bà không bao giờ cạn cho đến khi
cơn hạn hán chấm dứt.
Người đàn bà góa mà Chúa Giêsu
đã nhìn thấy cử chỉ quảng đại trong Tin Mừng hôm nay cũng chia sẻ một cách hào phóng
chẳng khác nào người đàn bà góa thời tiên tri Êlia. Cùng với những người giầu
có đang lũ lượt đi tới trước hòm tiền để dâng cúng, người đàn bà góa chỉ bỏ
đúng có hai đồng xu nhỏ.
3.
Cho người điều mình đang cần
Mẹ Têrêsa Calcuta cũng có lần kể
lại một câu chuyện tương tự: "Một năm nọ, có một người phụ nữ nghèo đến gõ
cửa xin giúp đỡ. Người đàn bà cho biết rằng bà có tám đứa con nhỏ và từ nhiều
ngày qua, trong nhà không còn một hột gạo. Mẹ Têrêsa lấy gạo trao cho người đàn
bà. Số gạo vừa đủ cho bà và các con bà. Nhưng trước sự ngạc nhiên của mẹ, người
đàn bà xin một bao trống, chia số gạo làm hai rồi giải thích rằng bên cạnh nhà
bà còn có một gia đình Hồi giáo cũng không còn gạo ăn từ nhiều ngày qua."
Người đàn bà nghèo muốn chia sẻ
một nửa những gì mình đang có cho người láng giềng của mình.
4.
Dâng cho Chúa tất cả tấm lòng
Một ngày nọ, Mẹ Têrêsa đi xuống
phố, một người ăn mày chạy đến gặp mẹ và nói: “Thưa mẹ Têrêsa, mọi người đều
cho mẹ tiền để giúp người bệnh tật." Anh nói thêm với giọng hơi buồn: “Con
cũng muốn cho mẹ tiền. Nhưng suốt cả ngày hôm nay, con chỉ có được ba mươi xu.
Dù ít, nhưng con muốn cho mẹ số tiền ấy." Mẹ Têrêsa suy nghĩ một lúc: “Nếu
mình lấy ba mươi xu thì tối nay anh ta sẽ phải nhịn ăn; còn nếu không lấy, sẽ
làm tình cảm anh ta tổn thương." Vì thế, Mẹ đưa tay ra để lấy số tiền ấy
và cám ơn anh.
Mẹ chia sẻ: “Tôi chưa bao giờ thấy
được niềm vui như thế trên khuôn mặt của bất cứ ai như trên khuôn mặt của người
ăn mày đó khi anh ta nghĩ rằng mình cũng đã cho tiền mẹ Têrêsa làm bác ái… Số
tiền thật bé nhỏ đó trở nên gấp ngàn lần bởi vì nó đã được cho với bao yêu
thương của anh." Mẹ nhấn mạnh: “Thiên Chúa nhìn thấy không phải là sự to
tát của công việc, mà vào tình yêu thương qua đó công việc được hoàn thành."
5.
Bà Oseola Mc Carthy.
Báo New York Times đưa tin bà
Oseola Mc Carthy: Biểu tượng “Lòng từ thiện” của nước Mỹ, vừa qua đời ngày
03/10/1999 ở tuổi 91.
Vào một ngày của tháng 7/95, ông
hiệu trưởng trường đại học phía bắc Missisipi đã vô cùng ngạc nhiên, khi có một
phụ nữ xa lạ tên là Oseola Mc Carthy xin được tặng 150.000 đôla làm quĩ học bổng
cho các sinh viên nghèo của trường, mà không cần được ghi danh tưởng niệm hay
tuyên bố công khai. Nhà trường còn sửng sốt hơn khi biết người phụ nữ ấy làm
nghề giặt ủi, và số tiền kia là tiền dành dụm cả một đời người.
Ngay khi biết câu chuyện bà Mc
Carthy tặng tất cả tiền bạc mình có làm quỹ học bổng cho trường, ông tỷ phú Ted
Turner, trùm ngành kinh doanh cáp truyền hình Mỹ, đã tuyên bố góp thêm một tỷ
đôla cho quỹ. Ông nói: ”Người phụ nữ nhỏ bé ấy đã dám ban tặng tất cả những gì
bà có, thì tôi thấy mình cũng phải đóng góp phần của tôi là một tỷ đôla."
6.
Cho phải nhiều hơn nhận
Một Linh mục nọ có thói quen hằng
ngày viết trong nhật ký số quà nhận được và số quà cho đi. Thỉnh thoảng ngồi kiểm
lại, nếu thấy phần nhận nhiều hơn phần cho, vị Linh mục ấy điều chỉnh lại điều
phần cho nhiều hơn phần nhận.
Qua câu chuyện bà góa dâng hai đồng
tiền kẽm vào Đến thờ, Đức Giêsu muốn dạy chúng bài học về việc cho đi cách quảng
đại, cho đi mà không tính toán hon thiệt, cho đi bằng cả tấm lòng. Khi chúng ta
quảng đại cho đi cả những gì cần thiết để duy trì mạng sống mình, là lúc chúng
ta đang cho đi chính bản thân. Xét cho cùng, lòng quảng đại chính là trao tặng
chính bản thân mình, dâng hiến mạng sống mình cho tha nhân.
7.
Rất nghèo mà rất giàu
Vào một mùa đông, tại một đất nước
Châu Âu, một em bé 13 tuổi nghe nhà trường thông báo đợt lạc quyên tiền bạc và
phẩm vật làm quà Giáng sinh cho các trẻ em nghèo trong vùng. Em đã dành dụm mọi
chi tiêu vốn ít ỏi của em trong suốt 3 tháng. Khi đã được 15 đồng, em quyết định
đón xe đò từ làng lên phố. Bất ngờ, một trận bão tuyết ập đến dữ dội làm tắt
nghẽn mọi hoạt động giao thông. Không chịu bỏ cuộc, em xuống xe, co ro lội bộ
băng qua cánh đồng đầy ngập tuyết trắng xóa và gió lốc lạnh buốt.
Ông hiệu trưởng nghe báo có người
muốn đang đợi ở phòng khách. Ông thực sự kinh ngạc sửng sốt khi nhận món tiến
chia sẻ từ tay em bé, bởi vì trước mặt ông chính là một trong số những em bé
nghèo mà ông và nhà trường đã đưa vào danh sách tặng quà giáng sinh năm đó.
8.
Biết cho đi là biết sống
Ở bên Palestine có hai biển hồ.
Biển hồ thứ nhất gọi là biển Chết. Đúng như tên gọi, không có sự sống nào có thể
sống ở bên trong cũng như xung quanh biển hồ này. Chẳng ai muốn sống gần đó.
Còn biển hồ thứ hai là Galilê. Đây là biển hồ thu hút nhiều du khách nhất. Nước
ở biển hồ này lúc nào cũng trong xanh mát rượi, con người có thể uống được và
cá cũng sống được. Nhà cửa được xây cất rất nhiều. Vườn cây xung quanh rất tốt
tươi nhờ nguồn nước này...
Nhưng điều kỳ lạ là cả hai biển
hồ này đều nhận được nguồn nước từ những khe suối ở trong núi chảy ra, rồi qua
sông Giodan chảy vào biển Chết. Biển Chết đón nhận và giữ lại riêng cho mình mà
không chia sẻ nên nước trong biển Chết trở nên mặn chát, nồng độ muối rất cao
không sinh vật nào có thể chịu được. Biển hồ Galilê cũng đón nhận những nguồn
nước như thế rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch, nhờ vậy nước trong biển
hồ này luôn sạch và mang lại sự sống cho cây cối, muông thú và con người.
Một trong những định nghĩa về cuộc
sống mà ai cũng đồng tình: một ánh lửa chia sẻ là một ánh lửa lan tỏa. Một đồng
tiền kinh doanh là một đồng tiền sinh lời. Đôi môi có hé mở mới thu nhận được nụ
cười. Bàn tay có mở rộng trao ban thì tâm hồn mới tràn ngập vui sướng.
Thật bất hạnh cho ai cả cuộc đời
chỉ biết giữ riêng cho mình. “Sự sống”, trong họ rồi cũng sẽ chết dần, chết mòn
không làm nảy sinh được cái gì tốt giống như nước trong lòng biển Chết.
9.
Viên gạch của bà già nghèo
Năm 1830, khi thánh Gioan Vianey
sửa lại nhà thờ xứ Ars, có một bà già đem đến cho Ngài một đồng bạc, để dâng
cúng vào việc tu bổ thánh đường. Thấy bà già quá nghèo nàn và vất vả, thánh
Gioan không dám nhận. Ngài sợ bà phải hy sinh nhiều quá nên mới nói với bà:
- Cha cám ơn lòng tốt của bà, và
chắc Chúa cũng đã nhìn thấy lòng rộng rãi và sốt sắng của bà rồi. Bà quá vất vả
và thiếu thốn, nên xin bà hãy giữ lấy đồng bạc này để tiêu xài cho những thứ cần
thiết.
Lúc ấy bà già đã thưa lại cách
khiêm tốn rằng:
- Thưa cha, nếu Chúa cho con có
của, con sẽ dâng cúng cho Chúa nhiều hơn, nhưng vì con nghèo, nên con chỉ có thế
này để dâng cúng cho Chúa. Nhưng đây là tất cả tấm lòng yêu mến của con. Vậy
xin cha hãy nhận lấy đồng bạc của con. Với đồng bạc này, nếu cha không mua được
cái gì quí giá, thì xin cha hãy mua một viên gạch lát trong nhà thờ, để mỗi khi
Chúa Giêsu ngự trong nhà tạm nhìn ra trông thấy viên gạch ấy, Chúa sẽ nhớ tới
con.
10.
Thua mà không bại
Trong cuốn “Làm thế nào để thua
mà không bại”, Jim Macholtz đã viết lại bài Kinh thánh hôm nay dành cho những vận
động viên trẻ như sau: “Một huấn luyện viên và người phụ tá đang quan sát những
bài tập thể chất của đội. Sau khi đội hoàn thành bài tập, huấn luyện viên chỉ
vào một vận động viên có ít năng khiếu nhất và nói: “Em đó nỗ lực hơn cả. Những
người khác có khả năng hơn, còn em, em đã cho đi tất cả những gì em có, không
còn gì để cho nữa.”
Theo bậc thang từ một đến mười,
tôi nỗ lực hết mức độ vào trong cuộc đua thiêng liêng chạy đến cuộc sống vĩnh cửu?
Mức độ của tình yêu là yêu không
mức độ (Thánh Benađô)
11.
Đừng mong có lợi
Một bà mẹ đạo đức dẫn một đứa
con trai nhỏ đến nhà thờ viếng Chúa, và để tập cho con có lòng bác ái, bà đưa
cho cậu vài đồng bạc cắc để chính tay cậu bỏ vào thùng đựng tiền bố thí đặt ở
cuối nhà thờ. Cậu bé nhanh nhẹn bỏ tiền vào một lỗ nhỏ ở trên nắp thùng. Được một
lát, cậu bé bỗng bật khóc nức nở.
- Việc gì vậy con? Bà mẹ lo lắng
hỏi,
- Mẹ ơi, con đã bỏ tiền vào
thùng rồi mà sao nẫy giờ chẳng thấy có cái gì rơi ra cả, hở mẹ?
Thì ra thế! Thằng bé con tưởng
đó là thùng bán đồ tự động như ở trong cửa tiệm, cứ bỏ tiền vào là một thỏi
sôcôla hoặc một gói báng tương ứng với món tiền sẽ rơi ra ngay.
Việc bố thí, tiền dâng cúng của
mỗi người chúng ta phải là sự trao ban tự nguyện và hoàn toàn vô vị lợi, chứ
không phải là một sự trao đổi, với người khác,... và với Thiên Chúa.
"Thầy bảo thật anh em: bà
goá nghèo này đã bỏ vào nhiều hơn ai hết. Quả vậy, tất cả những người kia đều
rút từ tiền dư bạc thừa của họ, mà bỏ vào dâng cúng; còn bà này, thì rút từ cái
túng thiếu của mình, mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống
mình." (Lc 21,3-4)
12.
Bao nhiêu là nhiều?
Hồi tháng 6/2010, hai tỷ phú Mỹ,
Bill Gates và Warren Buffett phát động chiến dịch “Cam kết Từ thiện.” Hơn 40
nhà tỷ phú, người thì hứa hiến tặng một nửa tài sản, người thì cam kết biếu
toàn bộ tài sản của mình cho việc từ thiện sau khi họ qua đời. Tổng số tiền cam
kết đã lên đến hàng trăm tỷ đôla. Và con số các nhà tỷ phú hưởng ứng chiến dịch
này còn tiếp tục gia tăng. Tấm lòng hảo tâm của họ thật đáng ngưỡng mộ và chắc
chắn hàng triệu con người bất hạnh sẽ được hưởng nhờ.
Số tiền khổng lồ đó là cả một đại
dương so với giọt nước là hai đồng tiền kẽm của bà goá nghèo kia. Thế mà đối với
Chúa Giêsu bà lại là người đã cho nhiều nhất. Người không chỉ nhìn thấy bên
ngoài mà còn nhìn thấy tận đáy lòng bà và đánh giá cao hành động can đảm của
bà. Những người khác cho đi tiền dư bạc thừa của mình sau khi chết; còn bà, bà
không so đo suy tính mà đã cho đi tất cả những gì bà có để nuôi sống.
Cuộc sống quanh ta vẫn có nhiều
cách biệt giữa người giàu và người nghèo. Bạn có biết rằng những cái dư thừa của
mình lại là những nhu cầu thiết yếu của bao người không? Cái ăn, cái mặc luôn
là điều làm bạn quan tâm thế nhưng đôi khi ta lại tính toán dè sẻn hoặc thậm
chí từ chối chia sẻ cho nhiều người khác đang thiếu thốn.
THỨ BA – CHÚA SẼ ĐẾN
Lời Chúa: Lc 21, 5-11
Khi ấy, có mấy người trầm trồ về
đền thờ được trang hoàng bằng đá tốt và những lễ vật quý, nên Chúa Giêsu phán rằng:
"Những gì các con nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào
nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá." Bấy giờ các ông hỏi Người rằng:
"Thưa Thầy, bao giờ những sự ấy sẽ xảy ra, và cứ dấu nào mà biết những sự
đó sắp xảy đến?" Người phán: "Các con hãy ý tứ kẻo bị người ta lừa dối:
vì chưng, sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà tự xưng rằng: "Chính ta đây
và thời gian đã gần đến", các con chớ đi theo chúng. Khi các con nghe nói
có chiến tranh loạn lạc, các con đừng sợ: vì những sự ấy phải đến trước đã,
nhưng chưa phải là hết đời ngay đâu."
Bấy giờ Người phán cùng các ông ấy
rằng: "Dân này sẽ nổi dậy chống lại dân kia, và nước này sẽ chống với nước
nọ. Sẽ có những cuộc động đất lớn mọi nơi, sẽ có ôn dịch đói khát, những hiện
tượng kinh khủng từ trên trời và những điềm lạ cả thể."
TRUYỆN
KỂ
1. Sắm
sẵn hành trang chưa?
Một quan lớn kia có nuôi một tên
hề để hầu hạ. Quan trao cho nó một cây gậy, bảo nó cứ giữ cho đến khi có ai
điên rồ hơn nó thì hãy cho.
Cách vài hôm sau, quan thọ bệnh
nguy kịch. Hề ta vào thăm, hỏi rằng:
- Khi qua đời rồi, quan sẽ đi
đâu?
- Ta đi xa lắm.
- Vậy bao giờ quan về? Một tháng
nữa chăng?
- Không.
- Một năm à?
- Cũng không.
- Vậy thì bao giờ quan mới về?
- Chẳng bao giờ về được.
- Thế thì trong cuộc lãng du đó
quan đã sắm sẵn hành trang gì chưa?
- Chưa sắm gì hết.
- Đi xa mà chẳng có hành trang
gì, quan thật điên hơn tôi. Vậy xin nhận lấy cây gậy này.
2.
Nơi đến quan trọng hơn con đường
Các nhà văn muốn viết một quyển
truyện hay thường nghĩ trước phần kết của câu truyện. Chúng ta muốn viết quyển
truyện đời mình cho hay thì cũng phải nghĩ trước về ngày chết của mình, đừng
như nhân vật trong chuyện dưới đây:
“Nhà khoa học Huxley đang gấp vì
sợ đến trễ phiên họp trong đó ông phải đọc một bài tham luận. Ông nhảy lên một
chiếc xe ngựa và bảo người đánh ngựa “Hãy chạy hết tốc lực." Xe chạy một
quãng, ông mới giật mình hỏi “Nhưng mà ta đang chạy đi đâu vậy?" Người
đánh ngựa đáp: “Tôi cũng chẳng biết, chỉ biết là xe đang chạy hết tốc lực."
Trên vòng bán nguyệt của khung cửa
chính của Nhà thờ chính tòa Milanô người ta thấy có khắc ba dòng chữ. Phía dưới
hình hoa hồng được trạm trổ tinh vi của vòng bán nguyệt thứ nhất, người ta đọc
được dòng chữ: “Mọi hạnh phúc chỉ kéo dài trong khoảnh khắc!" Bên vòng bán
nguyệt của khung cửa kia, dưới hình một cây Thập Giá, có dòng chữ: “Mọi đau khổ
chỉ kéo dài trong khoảnh khắc."
Và ở vòng bán nguyệt của khung cửa
giữa dẫn vào lòng chính Vương cung Thánh Đường có khắc dòng chữ: “Chỉ có sự đời
đời mới là quan trọng nhất!”
3. Mong
được biết đến bao lâu?
Một hôm trong một cuộc nói chuyện,
một giáo sư dạy triết hỏi các sinh viên của mình:
- Em nào trả lời câu hỏi của thầy
thì giơ tay lên - thầy nói với cả lớp.
- Ai có thể kể về cha mẹ mình?
Mọi người đều giơ tay.
- Ai có thể kề về ông bà mình?
Khoảng ba phần tư lớp giơ tay.
- Vậy em nào có thể kề về ông bà
cố của mình?
Chỉ hai trong số 60 sinh viên
giơ tay.
- Giờ thì các em hãy suy nghĩ kỹ
đi nào - thầy bảo - Chỉ mới cách có hai thế hệ mà rất ít người biết cụ cố mình
là ai. Có thể các em từng thấy một bức ảnh cũ kỹ phai màu được cất kỹ trong hộp
thuốc lá mốc meo, hay đã nghe kề một câu chuyện tiêu biểu về gia tộc mình, và
biết có người trong tổ tiên mình đã lội bộ năm dặm đường để đến trường. Nhưng mấy
người trong các em thật sự biết tổ tiên của mình là ai, các cụ nghĩ gì, hãnh diện,
lo sợ hay mơ ước điều gì. Các em thử nghĩ xem. Chỉ trong vòng ba thế hệ thôi mà
các bậc tiền nhân đều đã bị lãng quên. Vậy, liệu điều đó có xảy đến với các em
sau này không?
Để thầy nêu câu hỏi cụ thể hơn
cho các em. Các em thử tương tượng xem ba thế hệ sau mình. Lúc ấy các em đã ra
người thiên cổ lâu rồi. Chỗ các em ngồi bây giờ sẽ là chỗ của các chít chắt. Liệu
chúng có biết gì về các em không? Hay là các em cũng sẽ chìm sâu trong dĩ vãng?
Các em muốn cuộc sống của mình
hiện thời sẽ là dấu hiệu báo điềm xấu hay là tấm gương soi sáng cho các thề hệ
sau? Các em sẽ để lại di sản nào? Sự lựa chọn hoàn toàn tùy thuộc vào quyết định
của các em. Thôi bây giờ lớp chúng ta nghỉ. Không ai trong lớp đứng dậy và ùa về
như mọi khi. Mọi người đều ngồi lại và suy nghĩ về lời thầy nói.
4.
Từ hư vô đến hư vô cho người vô thần
Những chuyến bay định mệnh MH370
và MH17 trong năm qua vẫn còn làm thế giới bàng hoàng. Trong số những nạn nhân
trên hai chuyến bay ấy, chắc hẳn không mấy người ngờ rằng đó là chuyến bay cuối
cùng của đời mình. Mọi sự trên đời này, kể cả sự hiện hữu của chúng ta, tưởng
là bền vững mãi mãi nhưng thực ra rất mong manh và mau qua chóng tàn. Lời Chúa
trong những ngày cuối năm Phụng vụ nhắc nhở chúng ta về chân lý ấy. Đứng trước
thành Giê-ru-sa-lem huy hoàng tráng lệ tưởng như sẽ mãi “trơ gan cùng tuế nguyệt”,
Chúa Giê-su cảnh báo: “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn
phá hết.”
Ba chú bé chiến thắng trong lò lửa
mà cất lời ca tụng Chúa: “Muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn."
Một trong những sai lầm tệ hại
nhất đời người là coi những sự tạm thời như những thực tại vĩnh cửu. Ngược lại,
nếu biết nhận ra tính cách tạm thời của những sự đời này, chúng ta sẽ có cái
nhìn rõ hơn để hướng về những thực tại bền vững trên trời.
5.
Quo vadis
Phê-rô vẫn bị bắt và chịu đóng
đinh ngược! Chính lúc ấy ông mới cảm thấy mình đã hoàn thành sứ mệnh Chúa trao,
và biết rằng chân lý mà suốt đời ông truyền bá đã trở thành như một làn sóng
bao trùm cả thành Roma, và không có quyền lực nào kìm hãm nổi. Phê-rô nghĩ thế,
nên ông ngước mắt lên trời tạ ơn: “Chúa ơi, Ngài bảo con phải chiếm lĩnh cái
thành phố Roma đang bá chủ thế giới này, con đã chiếm được nó. Người bảo con phải
đặt nơi đó làm thủ đô của Người, vậy con đã đặt. Chúa ơi, giờ đây nó là thành
phố của Người, còn con đang đến cùng Người đây. Con đã làm việc quá mệt rồi."
Lúc ấy ông Phê-rô đang bị lính
bao vây, mà ông nhìn thành phố như một vị chúa tể, một vương quốc là di sản của
mình, nên ông nói: “Đó là thành phố của tôi, và đã được chuộc tội."
Vậy không riêng những người
trong đám lính đang đào hố để dựng cây thập giá treo ông Phê-rô, mà ngay cả những
Ki-tô hữu cũng đoán được rằng: “Quả thực vị chúa tể của thành phố kia đang đứng
ở giữa bọn họ, trong khi đó bao nhiêu hoàng đế đã qua đi, bao nhiêu làn sóng những
kẻ dã man sẽ tràn qua, nhiều thế kỷ cũng qua, nhưng cụ già Phê-rô vẫn không ngừng
trị vì ở chốn này”(x Quo Vadis)
6.
Đền thờ
Năm 70 sau CN, thành Giêrusalem
bị thất thủ và bị thiêu rụi, tướng Rôma là Titô đã bắt 97.000 người làm tù
binh, và cho cày một luống cày chính giữa Đền thờ. Thế là chấm dứt ngôi Đền thờ
nổi tiếng, để rồi trong gần 2000 năm, câu chúc luôn nằm trên môi miệng người Do
Thái là “Hẹn năm sau về Giêrusalem.” Những lời tiên tri của Đức Giêsu đã được ứng
nghiệm! Thế nhưng, với con mắt đức tin, ta khám phá ra một ý nghĩa khác về ngôi
đền thờ như Đức Giêsu nói: “Hãy phá huỷ đền thờ này và trong ba ngày Tôi sẽ xây
dựng lại.” Từ nay ngôi đền thờ vĩnh cửu mọi người phải qui hướng về là con người
Đức Giêsu phục sinh. Mọi người đều được mời gọi bước vào Đền thờ-Đức Kitô phục
sinh để gặp gỡ Thiên Chúa.
Nhớ rằng thân xác mỗi người cũng
là đền thờ Thiên Chúa.
7.
Bàn tay Chúa điều hành tất cả
Bốn vương quốc:Babylon, Mêđi, Ba
tư và Hy Lạp thay phiên nhau thống trị miền Cận Đông trên 300 năm. Giấc mơ của
vua Nabucodonosor bào trước rằng bốn vương quốc này sẽ được thay thế bằng một
nước do Thiên Chúa thiết lập. Các tác giả Tin mừng cho thấy tảng đá là chính
Chúa Giêsu. Như thánh Luca viết: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ, lại trở nên tảng
đá gốc tường.”
Tôi có thực sự tin rằng Thiên
Chúa họat động trong thế gian và kế hoạch của Ngài không thể thất bại không?
Có Thiên Chúa bênh đỡ, ai còn chống
lại được chúng ta? (Rm 8,31)
8.
Mùa gặt sau cùng
Chúa Giêsu áp dụng cho mình danh
xưng Con Người hơn bất cứ danh xưng nào khác. Trong thị kiến của Gioan, Con Người
ngự trên đám mây rõ ràng tượng trưng cho Chúa Giêsu. Đám mây tượng trưng cho
Chúa Giêsu đến vào ngày tận thế. Triều thiên tượng trưng cho việc Ngài là một vị
vua. Lưỡi liềm tượng trưng cho Ngài đến thu họach hoa trái của người công
chính. Ngài đến để đưa họ về trời, ở đó tên của Ngài được ghi khắc trên trán họ
và họ sẽ theo Ngài luôn mãi.
Việc tôi sẽ bị phán xét sau khi
chết có tác dụng gì đến những hành động hiện tại của tôi?
Người đã thổi kèn báo hiệu mà
không bao giờ có thể rút lại được. Người đang thanh lọc những con người đứng
trước tòa phán xét. (Julia Ward Howe)
9. Cần
biết điểm bắt đầu
Bộ phim “Cuộc sinh hạ đầu tiên”,
nói về một người mẹ và hai đứa con trai nhỏ của bà. Bà ta bị chồng bỏ và đã sống
cô đơn gần hai năm. Rồi một người đàn ông khác đến với bà. Nhưng các cậu bé
nghi ngờ ông ta ngay và cố gắng khuyến cáo mẹ, nhưng chẳng ích gì. Cuối cùng, nỗi
sợ hãi của các cậu bé đã thành sự thật và các cậu đã bỏ trốn đi. Hiểu sai con
người và các trạng huống là điều dễ dàng. Đó là ý của Chúa Giêsu trong Tin mừng
hôm nay: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy…
Anh em chớ có theo họ.”
Lời cảnh báo của Chúa Giêsu liên
quan thế nào đến đời sống thiêng liêng hiện tại của tôi?
Một công thức nấu món thỏ hầm nổi
tiếng bắt đầu bằng cách “bắt thỏ.” Đôi khi ta không để ý đến những điều hiển
nhiên.
10.
Chuẩn bị cho ngày mai
Bộ phim “Ngày mai đã đến” mở đầu
bằng cảnh một nhà doanh nghiệp ước muốn hôm nay có thể mua được tờ báo của ngày
mai. Chợt một cụ già xuất hiện với một tờ báo ngày mai, và nói: “Tôi đã quyết định
thỏa mãn ước muốn của ông.” Phần còn lại của bộ phim giải quyết những gì xảy ra
cho nhà doanh nghiệp như kết quả kiến thức “tương lai” của ông ta. Trong bài đọc
hôm nay, Chúa Giêsu cũng làm như thế. Ngài để cho các môn đệ có cái nhìn về
tương lai. Giaó hội đọc bài đọc này vào Chúa nhật áp cuối của năm Phụng vụ, để
mời gọi chúng ta suy nghĩ về ngày tận thế hay ngày tận cùng của cuộc đời chúng
ta.
Tôi chuẩn bị như thế nào cho
ngày tận cùng?
Anh ta nằm dài dưới ánh mặt trời,
sống một cuộc đời chỉ toàn những dự định, và đã chết mà chẳng thực hiện được
gì.
THỨ TƯ - LÀM CHỨNG VỀ CHÚA
Lời Chúa: Lc 21, 12-19
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: "Người ta sẽ tra tay bắt bớ, ức hiếp và nộp các con đến các hội
đường và ngục tù, điệu các con đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy:
các con sẽ có dịp làm chứng. Vậy các con hãy ghi nhớ điều này trong lòng là chớ
lo trước các con sẽ phải thưa lại thể nào. Vì chính Thầy sẽ ban cho các con miệng
lưỡi và sự khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch các con không thể chống lại và bắt bẻ
các con.
"Cha mẹ, anh em, bà con, bạn
hữu sẽ nộp các con, và có kẻ trong các con sẽ bị giết chết. Các con sẽ bị mọi
người ghét bỏ vì danh Thầy. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng
hư mất. Các con cứ bền đỗ, các con cũng sẽ giữ được linh hồn các con."
TRUYỆN
KỂ
1. Một
sợi tóc
Lúc trời còn tối, ngày 16 tháng
11 năm 1989, tại nước El Salvador, một nhóm người có vũ trang đã xâm nhập vào Đại
Học Trung Mỹ. Chúng đã giết sáu linh mục Dòng Tên và hai mẹ con người nấu ăn. Giết
xong chúng đã kéo xác ra ngoài vườn và làm những trò man rợ.
Các linh mục này đều là những
nhà trí thức, có ảnh hưởng trong xã hội. Họ muốn nói lên tiếng nói của người
nghèo, chịu cảnh bất công, muốn chấm dứt cuộc nội chiến kéo dài khiến hơn 70
ngàn người chết.
Họ đã phải trả giá bằng vụ thảm
sát bất ngờ, đã chết như những chứng nhân, những vị tử đạo thời mới.
" Nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng
hư mất. Các con cứ bền đỗ, các con cũng sẽ giữ được linh hồn các con."
2.
Làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh
Giáo hội Rôma trong ba thế kỷ đầu
bị bách hại dữ dội và chúng tôi đã thực sự xúc động khi đến thăm hang toại đạo ở
Rôma. Có tới 500.000 Kitô hữu đã được phúc tử đạo và được an táng trong các hộc
mộ ở hang toại đạo...
Ở Rôma bây giờ có những hang dài
đến nỗi không biết nó đi tới đâu nên người ta phải bít lại, và gần như nó chạy
khắp thành phố Rôma, một thành phố Rôma chìm bên dưới lòng đất ở các độ sâu
20m, 40m và sâu nhất là 60m (Theo Lm. Phêrô Nguyễn Hồng Phúc, Máu Đào Tử Đạo -
Hiến tế sự sống).
3. Kiên
trì trong nhiệm vụ:
Nhiệm vụ của đồng hồ là mỗi giây
phải kêu lên một tiếng tic-tac. Một chiếc đồng hồ trẻ vừa sinh ra từ một hãng
chế tạo được đưa về đặt trong phòng khách một gia đình.
Cậu bé làm bài toán về những tiếng
tic-tac mình phải phát ra: mỗi phút 60 giây, một giờ 60 phút, một ngày 24 giờ,
một tháng 30 ngày, một năm 12 tháng. Cậu rùng mình sợ hãi vì không biết mình phải
làm nhiệm vụ bao nhiêu năm.
Thấy thế, cụ đồng hồ già đứng ở
xó nhà lên tiếng an ủi: “Cháu ơi đừng quá lo sợ như thế. Bác đã làm công việc
này suốt 3 thế hệ rồi. Kinh nghiệm của bác là chỉ cần để ý mỗi giây phát ra một
tiếng thôi."
4. Kiên
trì mới bình phục
Một chàng thanh niên nọ bị bỏ
rơi từ khi mới lọt lòng mẹ. Nhờ tình thương của ông bà cụ, anh thoát chết. Được
sự nuôi nấng của gia đình, theo thời gian, anh lớn lên, rồi trở thành một ngư
phủ. Hằng ngày anh ra khơi đánh cá về giúp cha mẹ nuôi. Cuộc sống tưởng êm đẹp.
nào ngờ một hôm tai họa ập đến, anh bị thương trầm trọng do tai nạn thuyền gây
ra. Mặc dù đã bán hết tài sản để chữa chạy nhưng anh vẫn không khỏi bệnh. Bố mẹ
anh “gạt nước mắt” làm một cái chòi ở đầu đường rồi đặt anh vào đó để anh được
sống nhờ lóng thương xót của khách qua đường. Do không được săn sóc, người anh
mọc đầy ghẻ lở. Bệnh tật ngày một tăng, cơ thể hao mòn, cuộc đời như đã mất…
Nhưng rồi Thiên Chúa lại mỉm cười
với anh. Với những lời động viên, an ủi, khuyến khích của bố mẹ nuôi mới, anh
đã cố gắng kiên nhẫn tập luyện: mỗi ngày 1 giờ, rồi 2 giờ, 3 giờ và cứ thế… Bây
giờ trong anh bừng lên một niềm vui sung sướng, hạnh phúc: Tôi sẽ bình phục.
5.
Khổ đau là phù hiệu
Patric bon Chasteur, người đã bị
Đức Quốc xã tra tấn cầm tù vì tội chống lại sự tàn bạo của Hitler hồi thế chiến
thứ II, trong tác phẩm thời danh của ông với tựa đề: “Cái giá những người môn đệ
Chúa phải trả”, đã viết: “Khổ đau là phù hiệu của những người môn đệ Chúa Giêsu."
Trong thực tế, các môn đệ đã sống
và thực hành điều đó. Phêrô và Gioan bị bắt và bị điệu ra trước Công nghị Do
thái, các ngài chẳng những không buồn phiền, lo sợ, mà còn hân hoan, vui vẻ, vì
nhờ đó có dịp để nói về Chúa Giêsu cho người khác. Phaolô bị bắt và bị xét xử,
ngài cũng mạnh dạn nói về Chúa Giêsu cho các nhân vật cỡ lớn, như Tổng trấn
Felix, Festo, và cả Hoàng đế Herode Agrippa nữa.
Nhưng cái gì đã tạo ra sự biến đổi
nơi các môn đệ, cũng là bắt bớ, bách hại mà có người cho là thất bại, người
khác lại cho là cơ may? Thánh Augustinô giải thích: cuộc sống con người là sự
xung đột giữa hai tình yêu: yêu Chúa đến độ khinh mình, hoặc yêu mình đến coi rẻ
Thiên Chúa. Nếu tội là yêu mình đến coi rẻ Thiên Chúa thì dĩ nhiên tôi sẽ bám
vào những gì tôi cho là sung sướng ở trần gian, như tiền bạc, danh vọng, sắc đẹp,
và khi bị bắt bớ, tôi bị mất tất cả, lúc đó, bắt bớ bị coi là thất bại. Nhưng nếu
tôi yêu Chúa đến độ coi thường bản thân, thì có bị bắt bớ vì Chúa, cũng chẳng mất
mát gì; người ta có thể lấy tiền bạc, danh vọng, địa vị của tôi, chứ không thể
lấy mất Chúa của tôi được, và đó còn là dịp để tôi rao giảng về Chúa cho họ là
khác. Do đó, chẳng sợ gì hết, chỉ sợ tội mà thôi; cái căn bản là tình yêu đối với
Chúa, nó làm thay đổi cuộc đời.
Người môn đệ Chúa Giêsu không được
coi gian nan thử thách như một cực hình, nhưng phải coi đó là những cơ hội để
làm chứng.
6.
Sức mạnh của tình yêu
Ông Jacques Bouroche là một người
ngoài công giáo, trước khi được ơn trở lại, ông hằng ước ao chứng kiến đời sống
thánh thiện của đức giám mục François Fénelon (1651-1715)
Ngày kia ông đã liên lạc được với
vị giám mục thời danh và xin Ngài cho ông được tới thăm Ngài một thời gian.
Vị giám mục đã niềm nở đón tiếp
và đối xử ân cần đến nỗi Jacques Bouroche còn thấy thoải mái hơn cả ở nhà mình.
Tuy nhiên, chỉ lưu lại được vài ngày, ông đã thu dọn hành lý, chào vị giám mục
và ra đi trước thời hạn dự định.
Khi được hỏi tại sao ông lại vội vàng bỏ đi
như vậy, ông Jacques Bouroche đã thú nhận:
“Tôi không thể ở lại lâu hơn. Vì
nếu còn ở lại, sớm muộn gì tôi cũng sẽ theo đạo công giáo mất, một điều mà hiện
tại bản thân tôi chưa muốn."
Chúng ta hãy nhớ lời của Chúa
Giêsu: “Chúng con hãy làm chứng!” (Lc 21,13)
7.
Hãy vác thập giá
Không có một phần thưởng nào mà
không phải trả giá. Không có môt vinh quang nào mà không ướt đẫm mồ hôi.
Đây là những lời trích từ sách
Gương Chúa Giêsu:
“Có rất nhiều người muốn lên
thiên đàng với Chúa Giêsu, nhưng rất ít người muốn vác khổ giá với Chúa.
Nhiều người muốn ngồi ăn với
Chúa, nhưng ít người muốn bắt chước đức nhiệm nhặt của Chúa.
Ai cũng muốn vui hưởng với Chúa
mà ít người muốn chịu khó vì Chúa.
Nhiều người theo Chúa đến lúc bẻ
bánh, nhưng ít ai chịu được cảnh nhục nhã của Thánh giá.
Nhiều người ca tụng Chúa khi được
Chúa ban yên ủi.
Nhưng, nếu Chúa lánh đi và bỏ họ
một tí, là y như họ phàn nàn hay nản chí luôn."
8.
Sự thật định giá trị
Anh Ben Johnson quốc tịch Canađa
đã đoạt giải nhất với huy chương vàng trong Thế Vận Hội, được tổ chức tại
Seoul, thủ đô xứ Hàn vào năm 1988, vì anh là người chạy nhanh nhất thế giới
trong cuộc chạy đua nước rút 100m, chỉ mất có hơn 9 giây. Anh đã được Thủ tướng
Canada gọi điện chúc mừng ngay trên sân thi đấu, mọi người dân Canada vui mừng,
hãnh diện trước chiến thắng này!
Nhưng chỉ ba ngày sau đó, ban
Giám khảo trường thi đã phát giác trong người anh Ben Johnson có chất kích
thích, mà anh đã chích vào trước giờ xuất phát, tức là anh lỗi Luật thi! Thế là
ban Tổ chức đã tước huy chương vàng của anh. Ôi từ đỉnh cao danh vọng anh đã
nhào xuống vực thẳm tủi nhục! Các phái đoàn Canađa ở Seoul không ai còn dám mặc
áo có in hình cờ đất nước mình nữa, cả ngọn cờ Canada tức khắc cũng được chính
các cổ động viên hạ xuống! Mọi người, kể cả dân Canada đều bàn tán, phê phán
hành động này và chối bỏ vận động viên Ben Johnson không phải là dân bản xứ,vì
anh có quốc tịch Canada gốc người Mỹ!
Ở đời này có nhiều người dùng thủ
đoạn để chiếm đoạt danh dự, vinh quang cho bản thân mình, nhưng chắc chắn đến
ngày tận thế, sự thật ấy sẽ được phơi bày và, lúc đó mọi người mới thốt lên: “À
ra thế!”
9.
Tình yêu định giá trị
Một học sinh trung học mất nhiều
ngày để vẽ bức biếm họa với những trích dẫn trên tường một lớp học nọ. Khi cậu
không nhận tiền thù lao, giáo viên hỏi cha cậu xem nên tặng cho cậu món quà gì.
Người cha trả lời: “Món quà quý nhất đối với con tôi là vinh dự được làm một
cái gì đó vì tình yêu.”
Công việc của tôi có được thúc đẩy
bởi tình yêu hơn là những động lực khác không?
Thiên Chúa không cần công việc của
ta, nhưng là tình yêu thúc đẩy chúng (Thánh Têrêsa Avila).
10.
Cậy trông vào Chúa
Vào năm 1939, tương lai của Anh
quốc xem ra rất mờ mịt. Quân đội Hitler tỏ ra vô địch. Vua George VI nói với
dân chúng và khuyên họ hãy cậy trông vào Chúa. Vua kết thúc bằng cách viện dẫn
một câu thơ từ bài “Thiên Chúa thông biết”của Minnie Louise Haskins như sau:
“Tôi nói với người đang đứng trước thềm năm mới: Hãy cho tôi một thứ ánh sáng để
tôi có thể bước đi an toàn đến những nơi chưa từng đặt chân đến.” Và ông ta trả
lời: “Hãy xông pha vào đêm tối và hãy phó thác trong tay Chúa. Đó là thứ ánh
sáng tốt hơn và an toàn hơn cả một con đường quen thuộc.” Lời khuyên của vua
George nói với dân chúng là âm vang lời khuyên của Chúa Giêsu cho các môn đệ:
“Hãy cậy trông vào Chúa.”
Tôi đã trông cậy vào tình yêu và
sự quan phòng của Chúa nhiều đến mức nào?
Tin thì sẽ gặp (Ralph Hodgson)
THỨ NĂM -
Lời Chúa
TRUYỆN
KỂ
1.
THỨ SÁU - NHẬN RA TIẾNG CHÚA QUA CÁC
BIẾN CỐ
Lời Chúa: Lc 21, 29-33
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ thí dụ này rằng: "Các con hãy xem cây vả và mọi thứ cây cối. Khi
chúng đâm chồi nảy lộc, thì các con biết rằng mùa hè đã gần đến.
Cũng thế, khi các con xem thấy
những sự đó xảy ra, thì hãy biết rằng nước Thiên Chúa đã gần đến. Thầy bảo thật
các con, thế hệ này sẽ chẳng qua đi cho đến khi mọi sự ấy xảy đến. Trời đất sẽ
qua đi; nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu."
TRUYỆN
KỂ
1. Xem
cây vả
Cây vả là một cây rất thường thấy
ở xứ Paléttin. Khi nó đâm chồi, người ta biết ngay đã vào mùa hè. Rồi thì nó sẽ
ra hoa và kết trái.
Không phải chỉ có cây vả, mọi
cây khác cũng vậy (c.29). Cứ nhìn tình trạng hiện tại của cây, ta biết được điều
gì sắp xảy đến.
Nước Thiên Chúa cũng vậy. Trước
khi Nước Thiên Chúa đến sẽ có những dấu hiệu ở trên trời, dưới đất hay ngoài biển
khơi.
2.
Dấu chỉ triều đại nước Chúa
Ở Việt Nam, khi nghe tiếng chim
ríu rít vang khắp thôn xóm, những cành mai thay lá đơm bông (ở miền Nam), những
cây đào kết nụ mơn mởn (ở miền Bắc) như một lời hò hẹn gặp gỡ, các loại hoa ở
khắp nơi trên quê hương mẹ khoe sắc như là tín hiệu báo mùa xuân đang về…
Dù không cần ai nói, nhưng mỗi
người chúng ta đều cảm nghiệm được xuân đang đến theo lời mời gọi của thiên
nhiên, của chu kỳ xoay vần đất trời.
3.
Dấu chỉ thời đại.
Một nhà thám hiểm Tây phương lạc
đường giữa sa mạc. Nguồn lương thực và nước uống đã khô cạn. Ông lê từng bước mệt
mỏi trong cát nóng. Thỉnh thoảng ông nghe tiếng suối róc rách và thấy trước mặt
mình một ốc đảo xanh tươi.
Thế nhưng, với lối suy nghĩ khoa
học của người phương Tây, ông ta tự nghĩ rằng: “Đây chỉ là một ảo ảnh. Trong thực
tế trước mắt ta làm gì có nước và cây cối." Nghĩ như vậy, ông lại tuyệt vọng
lê bước chân tiếp tục đi.
Không bao lâu sau đó, có hai người
du mục tình cờ đi qua lối đó. Họ bắt gặp một cái xác người. Một người trong họ
đã thốt lên: “Chỉ còn hai bước nữa là người này đã có thể tới ốc đảo và tha hồ
uống nước cũng như thưởng thức những trái ngọt cây lành. Tại sao lại có chuyện
thế này”?
Nhưng người bạn lắc đầu giải
thích: “Ông ta là một người Tây phương. Thế giới của chúng ta đầy ánh sáng và mầu
nhiệm, nhưng con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy chúng nên
không nhận ra những dấu chỉ của Chúa."
4.
Tìm kiếm sự sống đời đời
Phim truyện Tây Du Ký đã cho
chúng ta thấy hình ảnh một bầy khỉ sống hạnh phúc trong động Hoa Quả. Trong lúc
ăn uống no say thì có một con khỉ già ngã lăn ra chết. Cái chết của nó khiến
cho bầy khỉ buồn bã và lo sợ không biết bao giờ mới đến phiên mình.
Vâng cuộc sống đầy đủ là dấu hiệu
của hạnh phúc, nhưng cũng có thể là con đường dẫn đến đau thương, là mầm mống dẫn
đến sa đoạ.
Tề Thiên, con khỉ đầu đàn đã phải
lên đường tìm thuốc trường sanh. Con người cũng đang tìm cho mình sự sống vĩnh
cửu. Theo quy luật của sự sống thì tôi phải chết. Khi tôi sinh ra là dấu hiệu
tôi sẽ phải chết. Theo dòng thời gian, tôi lớn lên không thể tránh khỏi những bệnh
tật. Đó là những dấu hiệu cảnh giác tôi. Về già, tôi cảm thấy yếu dần. Yếu dần
là dấu hiệu tôi phải chết.
Nhưng với người kitô hữu, chết
không phải là hết mà là cửa ngõ của sự sống, sự sống vĩnh cửu mà những dấu hiệu
kia báo trước. Vậy tôi phải sẵn sàng, phải tỉnh thức để khỏi đánh mất sự sống đời
đời.
5.
Cánh cửa cần bít lại
Một người giàu có nọ xây một toà
nhà rất đầy đủ tiện nghi, có thể nói là ngoài sức tưởng tượng! Xây xong, ông mời
bạn bè đến tham quan, và những người này đã không ngớt lời khen ngợi công trình
tuyệt mỹ. Chính chủ nhà cũng tỏ ra không kém phần hứng khởi, và sau khi dọn đến
ở trong ngôi nhà mới, ông đã bày ra mọi thứ trò tiêu khiển, đủ mọi lạc thú trên
đời!
Ngày nọ, một người tôi tớ đáng
kính của Thiên Chúa đến thăm và được ông chủ mời đi tham quan tòa nhà tráng lệ.
Sau khi hướng dẫn vị khách đi xem xong, người chủ giàu có mới hỏi người của
Thiên Chúa có ý kiến gì không. Vị này trả lời:
- Tòa nhà làm tôi rất hài lòng.
Tuy nhiên, nó dư một cánh cửa! Ông cần bít cánh cửa này lại nếu ông muốn có một
tòa nhà không chê vào đâu được và hạnh phúc lâu bền!
- Cánh cửa nào thế?
- Đó là cánh cửa mà có lẽ không
bao lâu nữa đâu, người ta sẽ khiêng thi hài của ông đi qua. Ngày nào cánh cửa
này còn mở, ngày đó hạnh phúc của ông trong lâu đài này sẽ không thể kéo dài,
và cái gì không kéo dài được thì không có giá trị cao. Hãy biết rằng, thời gian
đang qua đi này sẽ được tiếp nối bằng sự vĩnh cửu, cái sẽ không bao giờ qua đi!
Có một sự kiện mà ai cũng có thể
dễ dàng nhận thấy: Đó là ngày hôm nay, con người ít nhậy bén với những giá trị
thiêng liêng.
Nhà giảng thuyết Payson nói:
“Triệu chứng của sự suy thoái thiêng liêng cũng giống như sự suy thoái thân
xác. Nó thường bắt đầu bằng việc không thích ăn và chê chán mọi thứ thực phẩm,
như cầu nguyện, đọc Thánh Kinh và sách thiêng liêng. Khi nào có những triệu chứng
đó, bạn hãy cẩn thận; sức khỏe thiêng liêng của bạn đang lâm nguy. Cần đến ngay
vị Đại Y Sĩ là Thánh Linh để chữa trị."
6.
Nhận ra tiếng Chúa nói
Năm 1937, nữ tu Têrêsa được cử
làm giám đốc của một trường trung học dành riêng cho các học sinh giàu tại
Calcutta. Nữ tu vẫn còn nhớ mãi lời căn dặn của mẹ mình:
“Con hãy nhớ rằng: con được gởi
đến Ấn Độ là để phục vụ người nghèo." Trước cảnh đói khổ của dân chúng,
trước cảnh cô đơn của các bệnh nhân, những người phong cùi và nhất là trước cảnh
trẻ em và những người già cả lê lết ngoài đường phố, nữ tu Têrêsa cảm thấy
không yên tâm để tiếp tục nghề thầy giáo của mình, nhất là thầy giáo cho học
sinh giàu nữa.
Ngày 10.07.1946. trên một chuyến
xe lửa chật chội, ngồi bên những người cùng khổ, nữ tu Têrêsa bỗng nghe như có
tiếng thì thầm trong lòng:
“Con hãy ra khỏi nhà dòng để phục
vụ người nghèo bằng cách đến ở với họ, sống giữa họ và như họ."
Đây là lần thứ hai chị nghe tiếng
gọi như thế. Xác tín rằng: đây là tiếng gọi của Chúa, chị đã trình bày ước nguyện
lên bề trên và đúng một năm sau, chị đã được bề trên và Đức Giám Mục bản quyền
địa phương cho phép ra khỏi dòng để sống với những người nghèo khổ.
Cởi bỏ chiếc áo dòng của các nữ
tu, chị choàng vào chiếc áo Sari cổ truyền Ấn Độ, ăn mặc giống như người nghèo,
nữ tu Têrêsa đã hoàn toàn trở thành một người nghèo giữa những người nghèo.
7. Chân
lý sẽ giải phóng con người
Năm 1961,ý thức hệ Tư bản và Xã
hội chủ nghĩa gia tăng cực độ giữa dân tộc Đức, khiến họ đưa đến quyết định tôn
trọng nhau: ai thích Cộng sản thì ở Đông Đức; còn ai ưa Tư bản thì sống ở Tây Đức.
Nhưng làn sóng người ở Đông Đức tràn qua Tây Đức mỗi ngày một gia tăng, khiến họ
phải xây bức tường chia đôi đất nước từ ngày 13-08-1961. Tường dài 700 km, cao
8m, dầy 3m. Tiếc thay bức tường dựng lên lại càng tăng thêm sự thù ghét giữa
đôi bên!
Nhưng sau 3 giờ, ông Gorbachov,Tổng
bí thu đảng Cộng sản Liên xô gặp Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, ông trở về nước
tuyên bố giải tán đảng Cộng sản. Tức khắc bức tường ô nhục Bá-linh bị phá đổ
ngày 13-11-1989.
Bức tường ngăn cách giữa Tây Đức
và Đông Đức cũng là biểu tượng cho sức mạnh của lý thuyết Mác-Lê,nhưng lý thuyết
ấy không mạnh bằng Lời Thiên Chúa, vì trước đó hai năm Đức Giáo hoàng Gioan
Phaolô II tuyên bố với thế giới trong dịp Đại Hội Quốc Tế Giới Trẻ tại Pháp rằng:
“Chân lý sẽ giải phóng con người” (Ga 8,32). Chính sức mạnh của Chân Lý này là
nguyên nhân làm cho bức tường chia rẽ đó sụp đổ, nối lại tình thân giữa Đông Đức
và Tây Đức.
8.
Nhìn mà không thấy
Các sách Tin mừng áp dụng cho
Chúa Giêsu tước hiệu “Con Người” khoảng 70 lần. Tước hiệu này cũng được đưa ra
trong cuộc xử án Chúa Giêsu, khi thượng tế Caipha hỏi Ngài: “Ông có phải là Đấng
Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống không?” Chúa Giêsu trả lời: “Chính thế! Rồi các
ông sẽ thấy Con Người ngự giá mây trời mà đến.”
Vị thượng tế liền xé áo mình ra
và nói: “Chúng ta cần gì nhân chứng nữa. Qúy vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên
Chúa” (Mc 14,61. 64). Một lần khác tước hiệu này được đề cập đến liên quan tới
ngày tận thế. Chính Chúa Giêsu nói: “Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền
năng và vinh quang như trong đám mây mà đến” (Mc 13,26).
Tôi đã sẵn sàng cho ngày kinh khủng
đến Con Người đến trong đám mây với quyền năng lớn lao chưa?
Thế gian là chiếc cầu, hãy đi
trên đó, chứ đừng lạm dụng nó.
9.
Cuộc tạo dựng mới
Benjamin Franklin viết những
dòng này để khắc lên bia mộ ông: “Thân xác của Benjamin, một thợ in; cũng giống
như một bìa của cuốn sách. Dù nội dung của nó được khai thác khác, thì vẫn còn
đó những ký tự, chất liệu, làm thức ăn cho côn trùng. Nhưng công trình không
hoàn toàn mất đi, như ông tin rằng nó sẽ được tái bản, sửa chữa hoàn hảo hơn bởi
Tác giả của nó.”
Những lời của Franklin và thị kiế
của Gioan về “cuộc tạo dựng mới” mà Chúa Giêsu đã khởi sự cùng với sự cộng tác
của chúng ta đang tiến tới hoàn hảo. Tôi đã và đang cộng tác với Chúa Giêsu như
thế nào?
Trước khi Thiên Chúa thực hiện
công việc của Ngài, chúng ta phải làm những công việc của mình (Thánh
Augustinô).
10.
Một mục đích
Người Hy Lạp thời cổ tin rằng lịch
sử đi theo vòng tuần hoàn. Nói khác đi, cứ ba ngàn năm một đại họa nào đó sẽ
quét sạch thế giới này. Sau đại họa, lịch sử nhân loại sẽ bắt đầu lại và lặp lại
chính nó. Người kitô hữu thì theo một quan điểm ngược lại: họ tin rằng lịch sử
đi theo một đường thẳng, nghĩa là có một hướng xác định. Nhân lọai hướng đến việc
thành toàn Nước Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã khởi sự và Ngài để cho chúng ta
hoàn tất.
Tôi đang làm gì hoặc đang nỗ lực
làm gì để cộng tác vào việc thành toàn Nước Thiên Chúa?
Không có bóng tối, chỉ là không
có khả năng nhìn thấy. (Malcolm Muggeridge)
11.
Nhìn bằng đức tin
Thế giới hôm nay tự hào về kiến
thức, thông tin, đến nỗi có cả “xa lộ thông tin” internet. Nhưng, như Đức
Bênêđíctô XVI nhận định, chúng ta có quá nhiều kiến thức nên không tìm thấy
minh triết nữa, không nhìn ra cái cốt yếu trong cuộc sống nữa. Điều cốt yếu
không phải là những điềm thiêng dấu lạ sẽ xảy đến xóa sổ trái đất này, mà là
Chúa luôn đang đến, và chúng ta phải chuẩn bị cho Ngài trở lại viếng thăm, bằng
việc chỉnh đốn đời sống mình thuận theo Lời Chúa. Đối với con người, trái đất
này qua đi là một điều hãi hùng. Vì thế, đón Chúa đến sống bên cạnh trong giây
phút hãi hùng ấy hay trong muôn điều hãi hùng khác là điều cốt yếu của đời người.
Bấy giờ, mọi chuyển biến trên thế giới và trong cuộc đời sẽ được Kitô hữu đón
nhận như là lời nhắc nhở đến điều cốt yếu phải đạt được, thay vì hốt hoảng, tuyệt
vọng.
Trong những hoàn cảnh đen tối của
cuộc đời, bạn đã đón Chúa đến can dự vào cuộc đời bạn như thế nào? Thái độ của
bạn bấy giờ cũng nói lên phần nào thái độ của bạn trong ngày giờ sau hết Chúa đến
với bạn.
THỨ BẢY - TỈNH THỨC CẦU NGUYỆN
Lời Chúa: Lc 21, 34-36
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: "Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề bởi chè
chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con như chiếc
lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất.
Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu
nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt
Con Người!"
TRUYỆN
KỂ
1. Phải đề phòng
Tháng
9-2009, Tổng Thống Nga Medvedev gọi nạn nghiện rượu là quốc nạn. Mỗi năm tính
bình quân mỗi người dân uống khoảng 18 lít, gấp đôi lượng rượu được coi là nguy
hiểm cho sức khỏe.
Nửa
số người Nga chết giữa khoảng 15-54 tuổi là do hậu quả của rượu. Trẻ em và phụ
nữ cũng nghiện. Tuổi thọ trung bình của đàn ông chỉ còn là 59.
Vì nhiều
người chết nên dân số Nga sụt giảm mỗi năm. Làm gì để cai nghiện cho hơn hai
triệu người Nga, đó là chuyện nhức đầu cho các nhà lãnh đạo. Nhưng tại sao người
ta lại bị nặng nề bởi rượu Vodka?
Bài
Tin Mừng hôm nay nhắc chúng ta về những thứ nặng nề đè trên trái tim người Kitô
hữu.
2.
Nền văn hóa của sự chết
Hòa
Lan đã dấn sâu hơn vào nền văn hóa của sự chết. Ngày 28/11/2000, quốc hội Hòa
Lan đã chính thức thông qua luật mới cho phép các bác sĩ được trợ giúp những bệnh
nhân nan y tự tử. Với luật này, Hòa Lan là nước đi tiên phong trong nền văn hóa
của sự chết, tuy chưa chính thức ban hành luật cho phép các bác sĩ trợ giúp những
bệnh nhân nan y tự tử.
Ngày
nay, nhiều nước công nghiệp tiên tiến cũng đang ngày càng bị nhận chìm trong điều
thường được gọi là văn hóa của sự chết. Trong khuôn khổ của ngày Năm Thánh dành
cho các giáo dân tham gia truyền giáo diễn ra tại Vatican vào tháng 12/2000, một
hội nghị về những khó khăn trong cuộc sống chứng nhân giữa đời đã được tổ chức.
Nhân dịp này, bà Mêrian Clindon, giáo sư luật học tại đại học Harvard, Hoa Kỳ,
và từng được cử làm trưởng đoàn Toà Thánh tham dự diễn đàn phụ nữ tại Bắc Kinh
vào năm 1995, đã trình bày cho hội nghị về nền văn hóa chết chóc đang lan rộng
trong xã hội Hoa Kỳ. Bà Clindon nói rằng một trong những dấu hiệu rõ ràng nhất
trong nền văn hóa sự chết là con người không còn màng đến các giá trị đạo đức nữa.
Quan hệ gia đình ngày càng mong manh. Tình mẫu tử bị khinh miệt. Trẻ con dành
ít giờ cho cha mẹ và anh chị em hơn là màn ảnh truyền hình. So với đám đông thầm
lặng, nền văn hóa sự chết lại được thịnh hành hơn trong những thành phần ưu tú
và lãnh đạo trong xã hội.
Ðặc
trưng của nền văn hóa của sự chết ấy là sự phát triển tràn lan của chủ nghĩa
duy vật, duy hưởng thụ, duy khoái lạc và tục hóa.
3.
Chu toàn bổn phận đã được trao phó
Vào
ngày 11/9/2001, cả thế giới kinh hoàng nhìn tháp đôi tòa nhà thương mại thế giới
ở New York sụp đổ do hai chiếc máy bay Boeing 767 mà các tên khủng bố đâm vào.
Biến cố kinh hoàng này đã làm cho cả thế giới thức tỉnh trước nạn khủng bố trên
hành tinh chúng ta. Khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Mỹ và Tây Âu, mọi người
luôn được nghe những lời kêu gọi chú ý cảnh giác ở tất cả những nơi công cộng
như sân bay, nhà ga, sân vận động, xe bus, mêtro... ngay cả thùng rác.
Đức
Giêsu mạc khải về những dấu hiệu kinh hoàng vào ngày Chúa đến, ngày tận thế: Sẽ
có những sự việc lạ xảy ra trong vũ trụ một cách toàn diện. Điều này cho thấy nếu
chỉ dựa vào những biến cố riêng lẻ như trong các thời đại nhìn các biến cố xảy
ra để đoán ngày tận thế là việc hoàn toàn sai lầm. Ngày Đức Giêsu trở lại để
phán xét như Ngài loan báo là ngày Ngài hoàn tất tước hiệu Con Người (x. Lc
21,25-26).
4.
Hãy nghĩ về sự chết.
Một
vị đan sĩ tên là Mésique bất trung với ơn gọi, ông đang sống một cuộc đời không
mấy tốt đẹp trong nhiều năm. Đột nhiên ông bị bệnh nặng, Thiên Chúa cho ông rơi
vào tình trạng hôn mê trong một tiếng đồng hồ. Khi tỉnh dậy ông không nói gì về
những điều đã cảm thấy trong thời gian một tiếng đồng hồ ấy. Ông xin người ta
cho ở một mình trong một căn phòng xây kín, và ông đã ở trong đó suốt 12 năm trời.
Hằng ngày, qua một cửa sổ nhỏ người ta đem đến cho ông một chút bánh mì và nước
uống. Một hôm người ta tưởng ông đã chết nên đập phòng đi vào thì thấy ông đang
hấp hối.
Trước
mặt các tu sĩ vây quanh, ông nói với họ những lời cuối cùng: “Anh em thân mến của
tôi, người nào luôn khắc ghi vào tâm khảm ý tưởng về sự chết, người đó sẽ không
bao giờ dám phạm tội."
Nói
thế rồi, ông tắt thở, để lại cho mọi người một ấn tượng sâu đậm.
5.
Ngày cuối đời như ngày thường
Có
một người đàn ông kia sống rất hạnh phúc và đầy đủ, tuy nhiên, ông vẫn cảm thấy
lo sợ cho cuộc đời. Một hôm, ông nảy ra ý muốn, muốn đi tìm một ai đó chỉ cho
ông biết, làm thế nào để cho ông chắc chắn là ông sẽ chiếm hữu được cuộc sống đời
đời mai sau. Theo lời hướng dẫn, ông tìm ra được một tu sĩ có tiếng thánh thiện.
Khi đến nơi, ông thưa với tu sĩ đó rằng:
-
Thưa thầy, nếu biết rằng, chỉ còn sống có một ngày nữa thôi thì thầy sẽ làm
gì?”
Đưa
tay ra vuốt chùm râu bạc trắng, vị tu sĩ bình thản trả lời:
-
Có gì đâu, sáng dậy đọc kinh, sau đó dùng chút trà rồi ra vườn tưới cây, đi
thăm và dùng cơm với bạn bè rồi về ngủ.
-
Đó là việc hằng ngày thầy vẫn làm mà. Con muốn hỏi ngày cuối đời kia mà?
-
Đúng vậy! Ngày thường và ngày cuối đời có gì khác đâu.
6.
Thế nào là tỉnh thức?
Một
tài xế xe buýt ở Hoa Kỳ đã chiếm một kỷ lục hiếm có trong suốt hai mươi ba năm
hành nghề. Trên một triệu cây số, ông chưa bao giờ gặp hay gây ra một tai nạn
nhỏ nào. Được hỏi lý do, ông trả lời: “Hãy nhìn đường!" Câu trả lời tuy
đơn sơ, nhưng chứa đựng cả một triết lý sống.
“Hãy
nhìn đường!" Có lắm người đi đường hoặc lái xe mà không nhìn đường. Tai nạn
xảy ra hầu hết đều do sự lơ đễnh của người lái xe. Người bộ hành gặp tai nạn rủi
ro có khi cũng do đi đường mà không nhìn vào con đường mình đang đi.
Chú
tâm vào công việc mình đang làm, chính là luật của thành công. Một vận động
viên trên sân cỏ sẽ không ngừng chú ý đến quả banh, đến đối phương, đến bạn đồng
đội. Một học sinh muốn học giỏi cũng phải chú tâm theo dõi và lắng nghe lời giảng
dạy. Một người mẹ trong gia đình phải chú tâm vào ngân quĩ gia đình, vào công
việc hàng ngày. Đó là thái độ tỉnh thức mà chúng ta phải luôn có để khỏi quá ngỡ
ngàng trước ngày Chúa đến gọi chúng ta.
7. Đi
lạc mà không biết
Linh
mục Aristide, thuộc dòng Don Bosco, chuyên chăm sóc, cải huấn những thanh niên
thiếu nữ bụi đời. Linh mục Aristide hết lòng bênh đỡ người nghèo trong nước Haiti
khỏi cảnh áp bức, nên được dân Haiti tôn làm thần tượng!
Năm
1990, Linh mục này xin Đức Giáo hoàng cho phép hồi tục để ra ứng cử tranh chức
Tổng thống và ông đã đắc cử trở thành Tổng thống đầu tiên của Haiti. Nhưng chỉ
được một năm, tức là năm 1991, ông bị chính những người đã từng ca tụng ông,
đánh bật ông ra khỏi ghế Tổng thống, ông phải xin đi lưu vong!
Năm
1994, ông được Mỹ ủng hộ đưa ông về lại Haiti để tái lập quyền Tổng thống! Sự lộn
xộn lại xảy ra trong nước! Đến năm 2.000, ông lại được tái đắc cử Tổng thống,
nhưng bị mang tiếng là gian lận phiếu! Từ đó những người có thiện cảm với ông
trước đây ra mặt quyết liệt chống đối, vì ông quá độc tài và Mỹ cũng không ủng
hộ ông nữa! Thế là vào ngày 29-02-2004, ông bị quân nổi dậy là những người đã từng
ca tụng ông khi ông còn làm Linh mục, tống đi lưu vong rất nhục nhã!
Phải
chăng ông Aristide đã bỏ ơn gọi làm Linh mục, một chức vụ chỉ chuyên tâm cầu
nguyện và giảng Lời Chúa, mà ông đã ảo tưởng khi làm Tổng thống sẽ phục vụ hữu
hiệu hơn, chung cuộc ông làm mất uy tín của mình, chuốc lấy nhục nhã vì đã gây
xáo trộn cho đất nước Haiti suốt 14 năm!
8.
Kệ
Trên
mỗi gói thuốc đều có lời khuyến cáo: “Hút thuốc lá có thể gây ung thư phổi;” thế
nhưng rất nhiều người vẫn ung dung hút thuốc và biện bạch: “Thế thì cũng giống
như đi ra đường có thể bị xe đụng thôi.” Chúng ta nghe rất nhiều lời cảnh báo:
“Ma tuý là con đường ngắn nhất dẫn đến cái chết” nhưng tình trạng nghiện ngập mỗi
ngày một gia tăng. “Kệ họ”: kiểu trả lời chúng ta khá thường nghe khi ai đó đề
cập những vấn đề trên. “Họ” ở đây có thể là người khác: mặc-kệ-nó, dại thì chết!
“Họ” cũng có thể là mặc-kệ-tôi, can gì đến anh! Lời Chúa luôn nhắc nhở chúng ta
phải tỉnh thức sẵn sàng cho ngày Chúa đến: “Hãy đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng
nề….” Thế nhưng phải chăng bao người thời nay vẫn có thái độ dửng dưng phớt lờ
của trước lời cảnh báo của Chúa? Phải chăng họ đang cư xử theo kiểu Chúa nói, cứ
nói, “kệ” Chúa! Phần tôi, cứ “chè chén say sưa, lo lắng việc đời…”, “kệ” tôi?!
Thiên
Chúa là Cha hằng luôn ban lời để mời gọi con cái trở về với Người. Lời có khi
là an ủi, có khi là thức tỉnh. Hãy nhìn lại cung cách chúng ta lắng nghe Lời:
Chúng ta có đáp lại bằng cách tỉnh thức và hoán cải không? Liệu chúng ta có
đang dửng dưng, “mặc kệ” Lời Chúa để buông mình sống theo những đam mê ích kỷ
không?
9. Còn
sống mãi
Một
văn bản ở Plymouth Rock, bang Massachusetts, mô tả sự can đảm của những người
Pilgrims sống ở đó: “Nhờ vào đêm tối, những người bạn đã kiệt sức đặt người chết
xuống lòng đất, lấp đất lên, vì sợ người Ấn Độ biết được bao nhiêu phần mộ. Lịch
sử đã gây nhận rằng không có cuộc mạo hiểm vì đức tin và sự tự do nào quý hơn
cuộc mạo hiểm của những người Pilgrims.”
Điều
tương tự cũng có thể thấy được nơi đạo quân các tín hữu không kể siết, vẫn
trung thành trong nhiều cuộc bách hại tôn giáo nhuốm đỏ những trang sử.
Tôi
có vẫn trung thành với đức tin trong những bách hại của cuộc sống thường ngày
không?
Bằng
chứng tốt nhất cho cuộc sống bất tử là sự hiện diện của con người xứng đáng.
(William James)
10.
Đổi chính mình thì hơn đổi trần đời
Nhà
tù Kwa Noi là một địa ngục trần gian. Các tù nhân lập nên những nhóm cầu nguyện
Kinh thánh, và một thay đổi đáng kể đã diễn ra. Một người lính hồi tưởng lại
như sau: “Tôi đang lần bước trở về trại sau một buổi họp khá muộn. Chợt tôi
nghe người ta hát bài “Giêrusalem Đền vàng.” Có một ai đó đang gõ lên một chiếc
hộp… Lời bài thánh ca xưa đã làm cho đêm tối trở nên thân thiện hơn. Sự khác biệt
giữa âm thanh vui vẻ và không gian tĩnh mịch buồn thảm của những tháng qua là sự
khác biệt giữa sự sống và sự chết.
Tôi
giải thích thế nào về sự biến đổi trong trại giam? Câu chuyện này hàm chứa sứ
điệp quan trọng nào đối với thế giới chúng ta?
Khắc
phục thì dễ dàng hơn chờ đợi điều kiện thuận lợi (Anthony de Mello).
11.
Cần lo chuyện đáng lo
Chiếc
tàu Titanic bị đắm vào năm 1912, nhận chìm hơn 1. 500 người. Mười năm sau, một
tạp chí đặt câu hỏi: “Nếu bạn đứng trên tàu khi tàu đang chìm, bạn có lo sắp xếp
lại những chiếc ghế bành không? Thoạt đầu câu hỏi nghe có vẻ ngớ ngẩn. Nhưng
suy nghĩ kỹ, chúng ta thấy phản ánh ý tưởng Chúa Giêsu đưa ra trong bài Tin mừng
hôm nay: “Anh em đừng để mình ra nặng nề vì chè chén say sưa… Hãy tỉnh thức và
cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến.”
Tôi
có thường lo “sắp xếp lại những chiếc ghế bành” trên chiếc tàu đang chìm không?
Hãy
trông cậy vào Chúa, nhưng hãy lo chuẩn bị chu đáo chính con người bạn. (Ngạn ngữ
Ba Tư).
Lạy
Chúa, 100 năm trước con chưa có, 100 năm sau hẳn con đã không còn có mặt trên đời
này. Xin cho con ý thức sự chóng qua của đời này để con chỉ biết tìm kiếm Chúa
là gia nghiệp của đời con. Amen.
12.
Chuyện lúc nào cũng là thời sự
Ngày
cuối năm Phụng Vụ, một chu kỳ khép lại với sứ điệp Tin Mừng nói về thời chung
cuộc kèm theo tiếng gọi tỉnh thức và lời cảnh báo rất cụ thể: đừng để lòng mình
“ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời."
Ngày
hôm nay, lời này của Chúa vẫn nóng hổi – không chỉ vì sứ điệp của Chúa hẳn
nhiên luôn còn nguyên tính mới mẻ, mà còn vì hình ảnh “chè chén say sưa” Chúa
dùng ở đây chính là một trong những hình ảnh vẫn đập vào mắt chúng ta hằng ngày
từ đầu đường đến cuối chợ, từ thành thị đến thôn quê.
Báo
Lao Động, ngày 7.11.2012, đưa tin: Việt Nam là nước tiêu thụ bia số một ASEAN;
trong năm 2011 dân Việt Nam uống hết 2,6 tỉ lít bia, chưa kể rượu, vượt xa hai
nước xếp hạng tiếp theo là Thái Lan và Philippines. Quả là bức tranh buồn cho đất
nước này và – dĩ nhiên – cho Giáo hội tại đất nước này.
LỄ KÍNH
THÁNH ANRÊ - NGƯ PHỦ LƯỚI NGƯỜI
Lời
Chúa: Mt 4, 18-22
Khi
ấy, nhân lúc Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy hai anh em là
Simon, cũng gọi là Phêrô, và Anrê, em ông, cả hai đang thả lưới dưới biển, vì
hai ông là ngư phủ. Người bảo hai ông rằng: "Các ngươi hãy theo Ta, Ta sẽ
làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới người ta." Lập tức hai ông
bỏ lưới đó mà theo Người.
Ði
xa hơn một đỗi, Người lại thấy hai anh em khác là Giacôbê con ông Giêbêđê, và
Gioan em ông đang vá lưới trong thuyền với cha là Giêbêđê. Người cũng gọi hai
ông. Lập tức hai ông bỏ lưới và cha mình mà đi theo Người.
TRUYỆN
KỂ
1. Tiểu
sử thánh Anrê
Thánh
Anrê quê ở Bétsaiđa. Ban đầu người là môn đệ của thánh Gioan Tẩy Giả, sau đó
theo Chúa Kitô. Người cũng đã dẫn em là thánh Phêrô đến gặp Chúa. Chính người
cùng với thánh Philipphê đã giới thiệu những người ngoại giáo với Chúa Kitô và
đã cho biết có một em bé mang theo bánh và cá khi những người nghe Chúa giảng
không có gì ăn. Sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, người đã đi loan báo Tin Mừng
ở nhiều nơi và đã bị đóng đinh thập giá ở A-khai-a.
2.
Hành trình theo Chúa của Anrê
Anrê
tiếng Hy lạp có nghĩa là mạnh mẽ can đảm. Thánh Anrê được vinh dự làm một trong
số 12 tông đồ của Chúa Giêsu. Con của Gioana. Như anh mình là Phêrô, Ngài làm
thuyền đánh cá và không có gì khác ngoài chiếc thuyền. Như thế Ngài thuộc lớp
người khiêm tốn được Chúa Giêsu yêu thương đặc biệt. Ngài vẫn sống tại làng
Bethsaida nhỏ bé bên bờ biển Galilêa cũng gọi là hồ Giênezareth. Ngày ấy đang
khi cùng với Phêrô đi thả lưới, Chúa Giêsu đã đi ngang qua và đưa lời gọi sẽ
quyết định cuộc đời các Ngài:
- Hãy theo tôi, tôi sẽ làm các anh thành các
ngư phủ lưới người ta.
Đây
không phải lần đầu Anrê đã gặp đấng cứu thế. Thỉnh thoảng Ngài có tới nghe
Gioan Tẩy giả rao giảng trong sa mạc. Khi ấy Chúa Giêsu xuống Galilea và Gioan
tẩy Giả đã nói:
-
Đây là Chiên Thiên Chúa.
Và Anrê
có mặt ở đó với Gioan, đã biết được Người là Đấng thiên sai mong chờ. Gioan và Anrê
lên đường theo Người xa xa vì họ cảm động và không dám tới gần. Nhưng Chúa
Giêsu quay lại và nói với họ: - Các anh tìm chi vậy?
Họ,
những người chỉ tìm, chỉ muốn Chúa thôi đã thưa lại:
-
Thưa Thầy, thày ở đâu?
Chúa
Giêsu nói: - Hãy đến mà xem.
Và
cả hai đã ở với Chúa hôm ấy.
Khi
trở về nhà Anrê đã nói với anh mình: - Chúng tôi đã gặp được Đấng thiên sai.
Từ
đó hai anh em đã bỏ chài lưới để tới gần Chúa Giêsu. Họ nghe Người và thần tính
của Người dần dần rọi sáng tâm hồn họ. Họ đã tông thờ Đấng cứu thế ở trong lòng
rồi.
Sau
những tường thuật trên của Phúc âm, người ta không biết gì chắc chắn nữa về Anrê.
Các bản văn không có thẩm quyền nói rằng: Ngài đã góp phần Phúc âm hóa dân
chúng miền Bithynia, Bontê và Galitia. Ngài bị bắt bên bờ Bắc hải và kết thúc
cuộc đời tại Achaia. Lửa đức ái rực cháy trong lòng vị tông đồ. Người ta nói rằng:
để cải hóa một tâm hồn, Ngài ăn chay 5 ngày. Đây là tục truyền kể lại cuộc tử đạo
của thánh Anrê ở Taurida.
Egêa,
tổng trấn tỉnh đó cho biết vị tông đồ có mặt ở Patras, thủ phủ của ông, ông liền
vội vã tới nơi: kẻ ngoại lai này muốn phá hủy đền thờ các thần minh ư? Nhưng Anrê
không sợ gì Egêa. Ngài đã nắm vững được chân lý. Ngài nói:
-
Tôn thờ loài người chỉ là dị đoan điên khùng. Ông đã lãnh quyền xét xử người
ta, trước hết ông phải biết đến vị thẩm phán xét xử mọi người chúng ta ở trên
trời và ông phải tôn kính ca ngợi Người.
Egêa
vặn lại: - Vị thẩm phán anh nói là Chúa Giêsu mà lời ông ta thường giảng dạy đã
làm cho ông ta phải chết trên thập giá chứ gì? Vậy nếu anh không dâng hương tế
thần, anh cũng sẽ phải chết trên thập giá như vậy.
Không
hề sợ sệt, Anrê như rạng rỡ vì hạnh phúc: làm sao Ngài để mất danh dự được đóng
đinh vào cùng một đau khổ giá như thày mình được? Khi bắt đầu những tra tấn đầu
tiên, lòng dũng cảm còn tăng thêm, Ngài nói với Egêa:
- Cực
hình cuối cùng ông đe dọa sẽ được tiếp liền bằng vinh quang bất diệt.
Khi
thấy thập giá mình sẽ phải chết trên đó, thánh nhân hớn hở chào kính mà người
ta thích lập lại lời chào ấy:
-
Ôi thánh giá tốt lành, thánh giá bấy lâu mong chờ, thánh giá nhiệt tình yêu mến,
hãy đưa ta tới thầy chí thánh là Đấng đã nhờ Người mà cứu chuộc Ta.
Dịu
dàng Anrê giang tay ra. Ngài bị cột bằng giây để cái chết tới chậm hơn. Hình phạt
sẽ kéo dài hai ngày và người ta còn nghe Ngài tiếp tục rao truyền đức tin vào
Chúa Giêsu Kitô. Dân chúngvây quanh Ngài với niềm thán phục đã xin quan tổng trấn
tháo giây cho Ngài. Họ nói: - Hãy trả con người thánh thiện cho chúng tôi. Đã
hai ngày bị treo, Ngài không ngừng nói những lời tốt lành, đừng giết con người
yêu quí của Thiên Chúa.
Nhưng
Anrê không muốn được trả về cuộc sống khốn cực trần gian này. Ngài cầu nguyện:
- Lạy Chúa Kitô hãy đón nhận con, ôi thầy con yêu, con biết con ước ao được gặp
thầy, trong Thày mà con được thế này. Hãy nhận lấy hồn con, lạy Chúa Giêsu
Kitô.
Và
những người tham dự thấy linh hồn vị tông đồ trong hào quang đã bay về với Chúa
tạo thành và cứu chuộc của mình.
Tương
truyền thánh Anrê đã bị cột vào thánh giá đã có từ thế kỷ XII và chỉ vào thế kỷ
XIV... người ta mới tưởng tượng thánh giá đó hình chữ X. Dụng cụ cực hình ấy được
mệnh danh là thánh giá thánh Anrê.
3. Quan
tâm đến người khác
Chúng
ta học được bài học gì qua cuộc đời của Thánh An-rê? Có nhiều bài học nhưng có
lẽ bài học thực tế nhất đó là bài học biết quan tâm đến người khác.
Gặp
được Chúa Giêsu, An-rê đã nghĩ ngay đến anh mình.
Trong
hoang địa khi Chúa Giêsu ra lệnh cho các môn đệ tìm của ăn cho dân chúng ăn, một
mình An-rê đã nhanh chóng thấy được một em bé có 5 chiếc bánh và hai con cá.
Tại
Giêrusalem, những người Hy Lạp đang băn khoăn không biết làm sao để có thể gặp
được Chúa, An-rê đã có mặt để dẫn họ đến với Chúa.
Tin
mừng chỉ ghi lại có ba lần như thế nhưng với ba lần đó chúng ta cũng có thể thấy
được An-rê là con người tốt như thế nào.
*
An-rê đã sống như thế, còn chúng ta thì sao? Không biết ngày nay chúng ta có sống
được như thế hay không? Hình như là ngày nay con người nghĩ đến mình nhiều hơn
nghĩ đến người khác. Việc biết quan tâm đến những người khác người đã trở thành
hiếm hoi. Thế giới ngày nay với cuộc sống hướng nhiều về hưởng thụ đang làm cho
con người chỉ muốn vun quén cho mình mà không biết đến người khác.
Có
một ông Vua nọ bị dân gán cho một căn bệnh hiểm nghèo, đó là “Tứ chứng nan y” gồm:
Mù, què, câm, điếc.
Một hôm, một người vào cung Vua, yết kiến. Vua
hỏi:
-
Nhà ngươi vào gặp Ta chắc có chuyện gì?
-
Tâu Bệ Hạ -người đó thưa lại- hạ thần nghe rằng Bệ Hạ đang mang một căn bệnh rất
hiểm nghèo là “Tứ chứng nan y” nên hạ thần vào thăm Bệ Ha.
Nghe
thế, Nhà vua liền nổi giận quát: - Kẻ nào dám bịa đặt bảo ta bị bệnh? Chân tay
mắt mũi ta lành lặn thế này mà bảo ta mù, què, câm, điếc sao?
Người
kia liền tâu: - Thần nghe thiên hạ đồn như vậy, nay gặp Vua mới biết sự thực.
Nhưng xét lại, thì tin đồn ấy cũng chẳng sai.
Nhà
vua chặn lời và nói: - Vậy ngươi hãy chỉ cho ta xem nào!
-
Tâu Bệ Hạ, thứ nhất dân kêu kiện nhiều mà Bệ Hạ không thèm trả lời, không giải
quyết, nên bọn họ tưởng Bệ Hạ bị câm.
Thứ
hai, giặc ngoại bang tràn lan muốn xâm chiếm đất nước, nhân dân hoang mang lo sợ,
kêu cầu nhà Vua mà vua không lo gì hết, nên họ tưởng là nhà Vua họ bị điếc.
Thứ
ba, cuộc sống của Bệ Hạ thì quá sung sướng, trên nhung lụa, còn ngược lại, dân
chúng sống trong cùng cực, đói khổ. Họ không hề thấy Bệ Hạ dòm ngó gì đến họ,
cũng chẳng thèm quan tâm lo lắng đến đời sống của họ, nên họ tưởng Bệ Hạ bị
đui.
Và
cuối cùng, vì họ không bao giờ thấy Bệ Hạ ra khỏi cung điện, mà ngày đêm chỉ biết
ăn chơi với các cung phi, nên họ tưởng là Bệ Hạ bị què!
Chúng
ta hãy xin với thánh An-rê điều chỉnh lại cuộc sống của chúng ta.
4.
Cuộc tử đạo của Anrê
Đây
là tục truyền kể lại cuộc tử đạo của thánh Anrê ở Taurida: Egêa, tổng trấn tỉnh
đó cho biết vị tông đồ có mặt ở Patras, thủ phủ của ông, ông liền vội vã tới
nơi: kẻ ngoại lai này muốn phá hủy đền thờ các thần minh ư? Nhưng Anrê không sợ
gì Egêa. Ngài đã nắm vững được chân lý. Ngài nói:
-
Tôn thờ loài người chỉ là dị đoan điên khùng. Ông đã lãnh quyền xét xử người
ta, trước hết ông phải biết đến vị thẩm phán xét xử mọi người chúng ta ở trên
trời và ông phải tôn kính ca ngợi Người.
Egêa
vặn lại:
- Vị
thẩm phán anh nói là Chúa Giêsu mà lời ông ta thường giảng dạy đã làm cho ông
ta phải chết trên thập giá chứ gì? Vậy nếu anh không dâng hương tế thần, anh
cũng sẽ phải chết trên thập giá như vậy.
Không
hề sợ sệt, Anrê như rạng rỡ vì hạnh phúc: làm sao Ngài để mất danh dự được đóng
đinh vào cùng một khổ giá như thày mình được? Khi bắt đầu những tra tấn đầu
tiên, lòng dũng cảm còn tăng thêm, Ngài nói với Egêa:
- Cực
hình cuối cùng ông đe dọa sẽ được tiếp liền bằng vinh quang bất diệt.
Khi
thấy thập giá mình sẽ phải chết trên đó, thánh nhân hớn hở chào kính mà người
ta thích lập lại lời chào ấy:
-
Ôi thánh giá tốt lành, thánh giá bấy lâu mong chờ, thánh giá nhiệt tình yêu mến,
hãy đưa ta tới Thầy Chí Thánh là Đấng đã nhờ ngươi mà cứu chuộc ta.
Dịu
dàng Anrê giang tay ra. Ngài bị cột bằng giây để cái chết tới chậm hơn. Hình phạt
sẽ kéo dài hai ngày và người ta còn nghe Ngài tiếp tục rao truyền đức tin vào
Chúa Giêsu Kitô. Dân chúng vây quanh Ngài với niềm thán phục đã xin quan tổng
trấn tháo giây cho Ngài. Họ nói:
-
Hãy trả con người thánh thiện cho chúng tôi. Đã hai ngày bị treo, Ngài không ngừng
nói những lời tốt lành, đừng giết con người yêu quí của Thiên Chúa.
Nhưng
Anrê không muốn được trả về cuộc sống khốn cực trần gian này. Ngài cầu nguyện:
- Lạy
Chúa Kitô hãy đón nhận con, ôi thầy con yêu, con biết con ước ao được gặp thầy,
trong Thày mà con được thế này. Hãy nhận lấy hồn con, lạy Chúa Giêsu Kitô.
Và
những người tham dự thấy linh hồn vị tông đồ trong hào quang đã bay về với Chúa
tạo thành và cứu chuộc của mình.
5.
Quan tâm đến người khác
Vào
tháng thứ hai của một khóa học tại trường đào tạo nghiệp vụ y tá, giảng viên
cho chúng tôi làm một bài kiểm tra về kiến thức phổ thông.
Tôi
vốn là một sinh viên chăm chỉ nên dễ dàng trả lời mọi câu hỏi trong bài kiểm
tra, trừ câu hỏi cuối: "Chị tạp vụ ở trường tên là gì?" Tôi nghĩ đó
chỉ là một câu hỏi cho vui. Tôi đã trông thấy chị ta vài lần. Chị có dáng người
cao, mái tóc nâu sâm và khoảng 50 tuổi, nhưng làm thế nào mà tôi có thể biết
tên chị được kia chứ? Tôi nộp bài và bỏ trống không trả lời câu hỏi đó.
Trước
khi tan học, một sinh viên đứng lên hỏi giảng viên về cách tính điểm câu hỏi cuối
trong bài kiểm tra vừa làm. Giáo sư bộ môn trả lời:
Tất
nhiên là có tính điểm. Trong mọi ngành nghề, các anh chị luôn phải gặp gỡ và tiếp
xúc với nhiều người. Tất cả những con người đó đều có ý nghĩa. Họ đáng được các
anh chị quan tâm chú ý đến, cho dù tất cả những gì ta có thể làm cho họ chỉ là
một lời chào hỏi và một nụ cười.
Tôi
đã không quên bài nọc đó trong suốt cuộc đời mình. Tôi cũng đã biết được tên của
chị tạp vụ trong trường. Chị ta tên là Dorothy.
6.
Thánh Anrê con người khiêm tốn
Khi
một chiếc tầu hỏa xuyên châu lục chạy vèo qua khung cửa, một giám mục đã già
đang nói với một linh mục trẻ vừa mới ra khỏi chủng viện về đời sống đầy những
biến cố của ông. Rồi ông quay lại linh mục trẻ và yêu cầu ông này kể lại ơn gọi
của mình.
Linh
mục kiểu cách đáp lại:
”Ồ, nói ra thì rất đơn giản, tất cả những gì
con muốn nói là vì Chúa đã cần đến con.”
Giám mục nhận xét: ”Này anh bạn trẻ, đây là sự
trùng khớp thật thú vị: Nếu như tôi còn nhớ, trong Tin Mừng chỉ có một lần Chúa
nói Người cần một cái gì đó. Trong Lu-ca 19:34 nhân dịp Người sắp sửa vào
Giê-ru-sa-lem một cách vinh quang, Người nói Người cần một con lừa.”
Thánh
Kinh có câu: "Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào Chúa ơi”
(Tv 130, 1). Ai sống khiêm tốn thì sẽ được Thiên Chúa yêu thương và được mọi
người quý mến.
"Thiên
Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1Pr 5,5). Điều
Chúa cần nơi chúng ta chính là tấm lòng khiêm tốn thực thi thánh ý Người.
Thánh
Anre là một con người như thế. Đầy khiêm tốn và nhiệt huyết. Theo Thánh Kinh
Anrê là môn đệ đầu tiên được thánh Gioan giới thiệu đến với Chúa Giêsu. Anre đã
không nghĩ cho mình mà ông đã nghĩ đến anh. Ông đã gặp anh và nói: "Chúng
tôi đã gặp Đấng Messia. rồi ông đưa Simon Phêrô đến gặp Đức Giêsu. (Ga
l,41-42).
7. Dứt
khoát trong chọn lựa
Trên
sân ga, một đôi tình nhân đang ngồi bên nhau để dành cho nhau những giây phút
chia tay cuối cùng, vì cô ta phải dứt khoát từ bỏ anh, người cô yêu say đắm để
vâng lời cha mẹ mà chuyển đi phương xa. Khi đoàn tàu đã hú còi báo chuẩn bị
chuyển bánh, thì đôi uyên ương dùng dằng khó dứt khoát. Khi cô ta nghe tiếng mẹ
gọi, cô đã vội vàng chạy lên tàu. Khi chạy đến nơi thì cửa tàu cũng đã khép. Buồn
bã qua lại chỗ người yêu, thì người yêu cũng đã lên tàu về quê.
Lòng
người luôn bị dao động bởi thiếu sức mạnh của tinh thần, vắng bóng sự khôn
ngoan của Thánh Thần, khi trong tình huống cần phải quyết định dứt khoát thì
không thể dứt khoát.
8.
Dứt khoát theo Chúa
Giữa
cuộc sống đời thường một ngày như mọi ngày, thi thoảng có những trường hợp đòi
hỏi phải có một “phản ứng nhanh”, để bắt lấy thơi cơ quý hiếm hay để tránh hậu
quả đáng tiếc. Khi nghe Chúa gọi, bốn môn đệ đầu tiên đã “lập tức” bỏ chài lưới
mà theo Người. “Lập tức” diễn tả một quyết định nhanh, một chọn lựa dứt khoát,
không chần chừ toan tính, không lừng khừng nửa vời. Như thế phải chăng sẽ là “dục
tốc bất đạt”? Không, “lập tức” ở đây nói lên thái độ “tỉnh thức và sẵn sàng”
trước mọi tình huống khẩn cấp và bất ngờ, nhất là trước tiếng gọi của Chúa, vì
Người vẫn đến khi ta không ngờ. Chỉ có thể có thái độ và phản ứng nhanh như thế,
khi nào ta luôn đặt mình trước sự hiện diện của Người.
Giống
như Đức Maria thưa vâng và “hối hả vội vã” lên đường, bốn môn đệ “lập tức” bỏ
chài lưới mà theo. Bốn chữ “vâng, vội, bỏ, theo” chính là kim chỉ nam giúp ta sống
trọn vẹn ơn gọi con người và con Chúa. Hành trình đức tin đã được khởi xướng,
giờ đây phải được tiếp tục.
“Tin
vào Chúa là hướng về Ngài, là đi tới Ngài, là mỗi ngày mỗi tiến tới trên con đường
dẫn đến Ngài, và cuối cùng là đến được với Ngài” (Th. Augustinô).
9.
Ơn gọi loan báo Tin Mừng
Thư
Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010 nhắc lại giáo huấn của Công Đồng Vatican II rằng
loan báo Tin Mừng là lý do hiện hữu của Giáo Hội, và vì thế truyền giáo không
chỉ là một trong những hoạt động của Giáo Hội mà là “nắm men thấm nhập, khơi dậy
và chi phối mọi khía cạnh của đời sống Giáo Hội” (số 31).
Mới
đây trong sứ điệp ngày Chúa Nhật Truyền Giáo, Đức Bênêđitô XVI lại nhấn mạnh:
“Từ cá nhân những người đã được rửa tội đến những cộng đoàn giáo hội, tất cả đều
phải dấn thân vào việc truyền giáo không phải như một việc thỉnh thoảng mới làm
hoặc theo thời vụ, mà là một cung cách sống thường xuyên, một lối sống của người
Kitô hữu.” Các ngài chỉ lặp lại lời mời gọi của Chúa Kitô hôm nay: “Các anh hãy
theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành kẻ lưới người như lưới cá.” Lời mời gọi
cần được đáp trả.
Những
lời đó quá đủ để thúc đẩy chúng ta dấn thân loan báo Tin Mừng một cách tích cực
hơn. Dù bạn là ai hay sống trong bậc sống nào, bạn cũng được mời gọi hãy trở
thành “ngư phủ” của Chúa theo ơn gọi và khả năng của mình. Tấm lưới sẽ thu được
nhiều cá nhất chính là đời sống chứng nhân giữa lòng đời với niềm xác tín: Dù
ăn hay uống hay làm bất cứ việc gì tôi cũng sẽ làm mọi sự cho danh Chúa được cả
sáng.
10.
Ước mơ đáng mơ ước
Các
học sinh miệt mài học tập, các công nhân, kỹ sư cặm cụi làm việc,… mọi người đều
đang… ước mơ: ước mơ đạt tới một cái gì đó hơn cái đang có trong hiện tại này,
theo đuổi nó, và biến nó thành hiện thực. Đó chính là ước mơ thăng tiến bản
thân, động cơ cho mọi chọn lựa và nỗ lực trong cuộc sống.
Hẳn
An-rê và các bạn cũng mơ ước một cuộc sống nào đó hơn cuộc sống ngư phủ tầm thường.
Lời mời gọi đi theo thầy Giê-su để trở thành những người thợ “lưới người như lưới
cá” mở ra cho các ông một triển vọng thăng tiến mới mẻ, nhưng cũng đầy mạo hiểm.
Chỉ vì say mê thầy Giê-su mà các ông dám bỏ thuyền bỏ lưới đi theo Ngài để thực
hiện ước mơ.
Là
Ki-tô hữu, bạn đang ước mơ cái gì? Phải chăng là một cuộc sống ấm êm với những
thành đạt mà theo lẽ thường người ta vẫn hằng mơ ước? Điều đó không có gì sai.
Thế nhưng phải chăng chỉ có bấy nhiêu? Lời Chúa nhắc bạn rằng dù sống giữa những
sự đời thường, bạn vẫn có thể mơ ước một cái gì đó hơn nữa, đó là ước mơ nên
thánh như “Cha chúng ta trên trời là Đấng Thánh”; đó là say mê Thầy Giê-su đến
độ dám liều bỏ mọi sự để bước theo thật sát những bước chân của Ngài.
Say
mê Đức Ki-tô, tôi quyết tâm dù làm một việc nhỏ, không làm một cách tầm thường
xoàng xĩnh mà làm với tất cả tận tâm và yêu mến.
Lời Chúa Tuần 34 Thường Niên
Thường niên V - GS C - PS Ngoại lịch