CNTN 34A – VUA
CỦA LÒNG NHÂN HẬU
CNTN 34B - ĐỨC GIÊSU KITÔ - VUA VŨ TRỤ
CNTN 34C - TRIỀU ĐẠI VUA GIÊSU
THỨ SÁU - NHẬN RA TIẾNG CHÚA QUA CÁC BIẾN CỐ
THỨ BẢY - TỈNH THỨC CẦU NGUYỆN
LỄ KÍNH THÁNH ANRÊ - NGƯ PHỦ LƯỚI NGƯỜI
CNTN 34A – VUA CỦA LÒNG NHÂN HẬU
Mt 25, 31-46
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng:
"Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người
sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt
Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì
Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái.
"Bấy giờ Vua sẽ phán với những người bên
hữu rằng: 'Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp
là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói,
các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã
tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng
thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta'.
"Khi ấy người lành đáp lại rằng: 'Lạy
Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao
giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi
nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng Chúa đâu?'
Vua đáp lại: 'Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một
trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta'.
"Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên
trái rằng: 'Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã
đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta
khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta
mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có
viếng thăm Ta!'
"Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: 'Lạy Chúa
có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay
ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?' Khi ấy Người đáp lại: "Ta bảo
thật cho các ngươi biết: những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh
em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta'. Những kẻ ấy
sẽ phải tống vào chốn cực hình muôn thuở, còn các người lành thì được vào cõi
sống ngàn thu.” Đó là lời Chúa.
TRUYỆN
KỂ
1. Thế
giới nhiều người đói
Mẹ Têrêsa nói: ngày nay có nhiều người đói
thức ăn, nhưng cũng có nhiều người đói những thứ khác như đói được biết đến,
đói được yêu thương, đói được tôn trọng…
Trần truồng không phải chỉ là không quần áo,
mà còn là không nhân phẩm, không trong sạch, không tự trọng.
Vô gia cư không phải chỉ là không có nhà, mà
còn là bị ruồng bỏ, bị coi là vô dụng.
Chứng bệnh nặng nhất của thế giới hôm nay là
cảm giác bị bỏ rơi không ai để ý đến, không ai quan tâm chăm sóc.
Sự ác lớn nhất của thế giới hôm nay là thiếu
tình yêu, là dửng dưng với người bên cạnh.
2. Ông
Hoàng Hạnh Phúc
Oscar Wilde đã viết một câu chuyện rất đẹp,
tựa đề là The Happy Prince, như sau:
Một Ông Hoàng kia sống một cuộc đời rất hạnh
phúc. Vì thế khi ông chết, người ta đã làm một bức tượng của ông, đặt trên một
cái bệ cao giữa thành phố và đặt tên là Ông Hoàng Hạnh Phúc, như là biểu tượng
may mắn sẽ mang hạnh phúc đến cho mọi người dân trong thành.
Một buổi chiều đầu mùa đông, một con chim én
đến đậu dưới chân pho tượng. Bỗng một giọt nước rơi xuống đầu nó. Nó nhìn lên
và ngạc nhiên vì đó là giọt nước mắt của Ông Hoàng. Ông đang khóc.
- Tại sao ông khóc? Ông là Ông Hoàng Hạnh Phúc
kia mà!
- Từ khi đứng trên cao nhìn thấy cảnh sống của
dân thành, ta đau lòng quá và không còn hạnh phúc nữa. Ta muốn đi giúp họ lắm,
nhưng đôi chân ta bị chôn chặt ở cái bệ này nên không thể nào đi được. Bạn có
thể giúp ta không?
- Không được, tôi phải bay đi Ai Cập.
- Hãy làm ơn giúp ta đêm nay đi.
- Thôi được. Bây giờ ông muốn tôi làm gì?
- Trong một túp lều đàng kia có một người mẹ
đang khóc vì con à bị bệnh mà bà không có tiền gọi bác sĩ. Bạn hãy lấy viên
ngọc ở chuôi kiếm của ta đem cho bà ấy.
Chim én dùng mỏ lấy viên ngọc ra và bay đến
cho bà mẹ nghèo. Nhờ có tiền, bà đã lo cho con bà khỏi bệnh.
Hôm sau Ông Hoàng lại xin chim én nán lại một
đêm nữa để mang viên ngọc khác đến cho một người nghèo khác. Rồi hôm sau nữa
đến giúp một người nghèo khác nữa. Cứ thế hết ngày này đến ngày khác, con chim
én lấy các thứ trang sức của Ông Hoàng đem cho người nghèo. Cuối cùng trên mình
Ông Hoàng không còn gì quý giá nữa. Khi đó đã là giữa mùa đông, trời đã lạnh
rất nhiều.
Một buổi sáng, người ta thấy xác con chim én
đã chết cóng dưới chân pho tượng Ông Hoàng trần trụi. Phía dưới thành phố, mọi
người đều hạnh phúc. Họ có biết đâu hạnh phúc của họ là nhờ sự hy sinh của Ông
Hoàng Hạnh Phúc và con chim én nhỏ bé kia.
3. Chúa
Kitô khác
Năm 1880, ở thành phố Paris, có một Linh mục
ăn mặc nghèo hèn đến gõ cửa nhà một Cha Sở xin được trọ qua đêm. Cha Sở tiếp
khách rất thờ ơ rồi chỉ cho Linh mục ấy lên chiếc gác xép nhà xứ. Linh mục ấy
tên là Gioan Bosco, từ Turin nước Ý sang Paris để quyên tiền về xây trường giáo
dục các thiếu niên.
Nhiều năm sau, Giáo Hội đã tôn phong Gioan
Bosco lên bật hiển thánh. Khi nghe tin đó, Cha Sở nọ nói: "Phải chi lúc đó
tôi biết ông ấy là Don Bosco thì tôi đâu có để Ngài ở trên cái gác xép ấy, trái
lại tôi đã dành phòng khách sang trọng nhất cho Ngài rồi."
Chúng ta không bao giờ biết rõ những kẻ chúng
ta gặp là những người như thế nào. Nhưng điều này không quan trọng. Điều quan
trọng đối với những kẻ có đức tin là chính Chúa hiện thân trong những người ấy.
4. Ý
nghĩa của lễ Chúa Kitô Vua
Hôm nay là Chúa nhật cuối năm Phụng vụ, Giáo
hội mừng lề Chúa Giêsu Vua để nhắc nhở cho mọi người hãy suy tôn, phục vụ và
theo Ngài, đồng thời phải chuẩn bị tâm hồn chờ đợi Chúa đến trong ngày tận thế
với tư cách là vị Vua Thẩm phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết.
Đức Giáo hòang Piô XI đã thiết lập lễ này vào
ngày 11.12.1925 trong bầu khí tạ ơn và hân hoan của Năm thánh 1925. Ngài thiết
lập lễ này vì vào những thập niên đầu thế kỷ 20, thế giới phải đối diện với
trào lưu tục hóa và các chủ thuyết khác. Về phía Giáo hội, qua việc mừng kính
tước hiệu là Vua của Chúa Kitô, Giáo hội khẳng định niềm tin trước sau như một
của mình là tuyên xưng vương quyền của Chúa Kitô trên mọi con người, mọi gia
đình, mọi xã hội và trật tự nhân loại.
Ngoài ra, để điều chỉnh một số lệch lạc trong
đời sống đạo nơi một số con cái, Giáo hội là Mẹ nhắc nhở cho mọi người rằng
Chúa Kitô không chỉ là người Anh hay người Bạn đồng hành mà Ngài còn là “Vua
trên các vua, Chúa trên các chúa. Ngài là Đấng hằng sống và hiển trị muôn
đời."
5. Nữ
hoàng Elizabeth lên ngôi
Năm 1952, lễ đăng quang của nữ hoàng Anh
Elizabeth là một nghi thức long trọng nhất của thế kỷ 20. Ba triệu người đứng
chật các đường phố Luân đôn. Từ các thuộc địa Anh, các đoàn đại biểu trong sắc
phục địa phương cũng có mặt. Nữ hoàng ngự giá trên chiếc xe ngựa bằng vàng. Hơn
10 sư đoàn trong quân đội hoàng gia diễn hành. Năm trăm chiếc khu trục cơ nhào
lộn trên không.
Vua chúa và các nhà lãnh đạo hầu hết đều có
mặt mang theo tặng vật cho vị tân nữ hoàng. Nhưng có lẽ quà tặng cao qúi nhất
mà thế giới tặng cho nữ hoàng là ngọn cờ nước Anh lần đầu tiên được một người
Tân tây lan cắm trên đỉnh Everest ở độ cao 8.846 mét vào chính ngày áp lễ đăng
quang.
6.
Thánh Martinô thành Tours.
Ông là một quân nhân La mã và một Kitô hữu.
Một ngày mùa đông lạnh lẽo, khi ông đi vào một thành phố, có người hành khất
chặn ông lại xin bố thí, Martinô không có tiền, nhưng ông thấy người hành khất
xanh xao và run rẩy vì lạnh, Martinô đã cho những gì ông có: ông cởi chiếc áo
nhà binh đã sờn rách và xé một nửa cho người hành khất. Tối hôm ấy ông nằm mơ
thấy thiên đàng có các thiên sứ đang bao quanh Chúa Giêsu và Ngài đang mặc nửa
chiếc áo lạnh nhà binh của ông. Một thiên sứ hỏi Ngài:”Tại sao Ngài mặc chiếc
áo sờn rách đó? Ai đã cho Ngài áo đó”? Chúa Giêsu trả lời:”Martinô, tôi tớ của
Ta đã cho Ta."
7. Cho
đi thì sẽ được.
Một ngày mùa đông lạnh giá, Lady Grey, một phụ
nữ qúi tộc người Anh, rất giầu có, đã cải trang làm một người hành khất đi ăn
xin từng nhà trong thành phố Luân đôn. Đến một số nhà, bà bị xua đuổi một cách
tàn nhẫn. Một vài nơi khác, bà chỉ được bố thí cho những thứ thừa thãi vất đi.
Điều lạ là tất cả những người ấy là những gia đình giầu có. Thế rồi bà tìm đến
một căn nhà lụp xụp nghèo nàn. Tại một túp lều xiêu vẹo, bà được một ông lão
tàn tật ân cần mời vào sưởi ấm bên bếp lửa và cùng chia nhau một khúc bánh mì
đen.
Hôm sau chính người nữ qúi tộc ấy sai các gia
nhân đến tận nhà mời những người mà bà đã đến ăn xin tối hôm trước tới dự một
bữa tiệc tại dinh thự của bà. Tất cả khách được hướng dẫn vào một phòng chiêu đãi
sang trọng và mỗi người được đặt chỗ ngồi riêng dọn sẵn. Bấy giờ ai nấy thấy
trước mặt mình là những món ăn y như những thứ mà họ đã đem bố thí cho “bà ăn
mày”: chỗ thì củ khoai thối, chỗ thì miếng bánh mốc không ăn được, có nơi là
một cốc nước lã bẩn thỉu, lại có nơi chỉ là chiếc đĩa trống không. Duy chỉ có
chiếc đĩa trước mặt ông lão tàn tật đầy ắp những món ăn ngon lành sang trọng.
Mọi người chưa hết ngạc nhiên thì bà qúi tộc xuất hiện và tuyên bố:”Hôm qua tôi
đích thân đi ăn xin từng nhà để hiểu biết hơn về lòng nhân ái của qúi vị. Hôm
nay tôi chỉ đáp lễ bằng cách dọn ra mời qúi vị những thứ mà qúi vị đã cho tôi.
Tôi tin rằng qúi vị cũng sẽ được tiếp đãi như vậy trong bữa tiệc mai sau truớc
mặt Thiên Chúa là Đấng bây giờ đang đứng trước nhà qúi vị để trông chờ tấm lòng
nhân ái của qúi vị."
8.
Thiên đàng và hỏa ngục
Một hiệp sĩ Samurai hung bạo. Ông tìm đến với
một thiền sư và hỏi:
- Yêu cầu ông cho tôi biết Thiên Đàng hỏa ngục
là gì?
Vị thiền sư nhìn thấy con người thô bạo của
anh thì nói:
- Ta không thể dạy cho ngươi biết thiên đàng
hoả ngục là gì, vì ngươi hung bạo quá. Ngươi làm nhục cho hàng ngũ hiệp sĩ của
ngươi.
Nghe vị thiền sư nói thế, chàng hiệp sĩ bừng
bừng sát khí, rút gươm định chém đầu vị thiền sư. Nhưng vị thiền sư đưa tay cản
lại và nói:
- Hỏa ngục là thế đó!
Nhận được bài học thực tế của vị thiền sư,
chàng hiệp sĩ dừng tay lại. Sự hối hận và thương cảm trào dâng trong tâm hồn y.
Y hiểu rằng vị thiền sư đã dám hy sinh cả mạng sống để dạy cho y bài học về hoả
ngục. Y từ từ xỏ gươm vào vỏ, rồi quỳ gối trước mặt vị thiền sư với tất cả tấm
lòng thành tâm sám hối. Vị thiền sư đưa tay đỡ y dậy, nhìn sâu vào đôi mắt y và
bảo:
- Thiên đàng là thế đó.
Vâng! Chỉ có Thiên đàng khi con người biết
sống yêu thương hài hòa với nhau. Chỉ có Thiên Đàng khi con người biết cảm
thông, tha thứ, phục vụ, hy sinh quên mình vì người khác như Lời Chúa dạy trong
bài Tin Mừng hôm nay.
9.
Người đã chết cho con
Tháng 4 năm1865, tổng thống Abram Lincon, một
người không ngần ngại khó khăn, gian khổ để đấu tranh chống lại chế độ nô lệ,
bênh vực quyền lợi cho người da đen, đã bị một tay quá khích ám sát. Một bà mẹ
đi viếng đám tang tổng thống nói với đứa con của mình rằng: “Con hãy nhìn kỹ,
hãy nhìn cho thật kỹ, vì Người Này đã chết cho con đó."
Thiết tưởng lời nói ấy mỗi người chúng ta cũng
cần lặp lại cho nhau khi nhìn lên Thánh Giá Chúa: Người này đã chết cho chúng
ta đó? Để chúng ta không còn tôn thờ bất cứ thần tượng nào khác mà chỉ tôn thờ
một thần tượng duy nhất có tên là Giêsu, là vua yêu thương phục vụ, hiền lành
và khiêm nhường trong lòng.
Mừng lễ Chúa Kitô vua vũ trụ, cũng là một cơ
hội nhắc nhớ ngày lãnh nhận Bí tích rửa tội, chúng ta được tham dự vào chức vụ
vương đế của Vua Giêsu. Với chức vương đế này, không phải để chúng ta cai trị
người khác, nhưng cai trị con người chúng ta, cai trị những đam mê tật xấu,
thống trị những tính ích kỷ hư hèn của chúng ta.
10. Đã
làm hay không làm
"Hoàng tử và người hành khất" là câu
chuyện của Mark Twain về hai em bé sống cách đây 300 năm ở nước Anh. Hai em bé
không chỉ là bạn tốt của nhau, mà chúng còn giống nhau như như anh em sinh đôi.
Một em là Edward, hoàng tử xứ Wales, em kia là Tom Canty, một chú bé nghèo khổ.
Một ngày kia, thật là trò vui, hai em quyết
định chuyển địa vị, chúng thay đổi quần áo. Edward mặc quần áo rách tả tơi của
đứa trẻ nghèo khổ và đi lang thang khắp các khu nhà ổ chuột ở London, sát cánh
với những người hành khất và thấp kém. Sau một thời gian hai chú bé mệt mỏi vì
trò chơi của chúng. Trong bộ quần áo rách rưới, Edward cố gắng nói cho người
cảnh sát biết rằng chú là hoàng tử. Nhưng chú bị tống giam. Ngay khi Tom sắp
sửa được phong vương, Edward tỏ lộ và thuyết phục các viên chức chú là hoàng tử
thật. Do kết quả kinh nghiệm của mình, Edward trở thành một nhà lãnh đạo công
minh và nhân ái.
Tình cảnh giữa Chúa Kitô và chúng ta cũng có
cái gì giống như thế. Chúa Kitô là hoàng tử, Con thật của Thiên Chúa. Ngài đã
chuyển địa vị với chúng ta, những kẻ nghèo khó. Ngài mang lấy thể xác nghèo hèn
chúng ta. Rồi Chúa Kitô làm cho mỗi chúng ta thành hoàng tử bằng cách mặc cho
chúng ta áo ân sủng của Ngài, chia sẻ chính sự sống thần linh của Ngài cho
chúng ta.
11.
Công dân nước trời
Ngày xưa ngày xưa, hai anh em cùng sống và làm
việc chung trên một cánh đồng và chung một cối xay. Mỗi tối về, họ chia đều hoa
lợi đã thu hoạch trong ngày. Người em sống độc thân, còn người anh có vợ và
nhiều con cái. Bất chợt một hôm, người em sực nghĩ: “Thật không công bằng chút
nào việc chia đều hoa lợi. Mình chỉ có một mình còn anh ấy phải nuôi cả vợ con
nữa." Thế rồi mỗi đêm, người em âm thầm lấy bớt số thóc lúa của mình đem
đổ vào kho của người anh.
Gần như đồng thời, người anh sực nghĩ: “Thật
không công bằng chút nào việc chia đều hoa lợi. Vì mình có con cái cấp dưỡng
trong lúc tuổi già. Còn chú ấy sống một mình, sẽ chẳng có ai cấp dưỡng. Chú ấy
cần dự phòng cho tuổi già sau này." Thế rồi, mỗi đêm, người anh âm thầm
lấy bớt số thóc của mình đem đổ vào kho của người em.
Kết quả mỗi buổi sáng thức dậy, cả hai đều rất
ngạc nhiên thấy phần thóc của mình đã được bổ sung trở lại, không hề hao hụt.
Song họ không hiểu tại sao.
Đến một tối, hai người bắt gặp nhau giữa đường
khi đang mang thóc đổ vào kho của nhau. Cả hai lập tức hiểu ra sự việc. Và họ
cảm động ôm chầm lấy nhau.
Nhiều năm sau khi họ qua đời, câu chuyện ấy
lan rộng ra. Vì thế, khi dân chúng muốn xây dựng một thánh đờng cho thị trấn,
họ đã chọn đúng chỗ mà hai anh em gặp nhau tối ngày xưa ấy, để đặt móng cho
thánh đường – bởi họ nghĩ rằng không thể có chỗ nào khác trong thị trấn linh
thánh hơn chỗ này.
12. Lời
hứa
Trong tập truyện “Điểm tựa yêu thương”, có câu
chuyện ngắn “Lời hứa” đáng cho ta suy ngẫm:
Vì xa cách nhau đến 5 tuổi, nên mọi người vẫn
nói thật kỳ lạ khi chúng tôi lại giống nhau đến thế. Tôi và em gái có đường nét
trên gương mặt rất giống nhau và dĩ nhiên, chúng tôi đều có mái tóc dài đỏ hoe.
À, ít ra tôi vẫn còn tóc cho đến khi bắt đầu trải qua liệu pháp hóa trị. Những
lọn tóc dài đỏ hoe của tôi rụng từng nắm khi quá trình trị liệu diễn ra.
Tôi sờ lên mái đầu đã trọc lóc của mình. Nước
mắt ứa ra. Giờ thì mọi người sẽ không nói chúng tôi giống nhau nữa. Cô em
Marlanea đang bay từ Montana sang thăm tôi. Nó không biết trông tôi sẽ tệ đến
thế nào. Tôi muốn chuẩn bị tránh cho nó bị sốc hay ngăn nó thấy những gì nó sẽ
chứng kiến. Tôi đã luôn trông nom nó, cố gắng bảo vệ nó an toàn, tránh xa mọi
tổn hại Con bé ra đời vào ngày sinh nhật lần thứ năm của tôi. Mẹ tôi nói rằng
nó là quà sinh nhật của tôi. Tôi xem việc đó là nghiêm túc và tôi yêu thương nó
bằng tất cả trái tim mình.
Chúng tôi lớn lên bên nhau không rời nửa bước.
Chúng tôi chính là những người bạn tốt nhất của nhau. Cha mẹ chúng tôi vẫn
thường nói lẽ ra chúng tôi phải là hia chị em sinh đôi vì chúng tôi giống nhau
quá nhiều, và chúng tôi quá thân thiết với nhau.
Thậm chí chúng tôi suy nghĩ cũng giống nhau
nữa. Khi đi mua sắm, chúng tôi thường mua những món quà nhỏ cho nhau – từ áo
thun cho đến tách cà-phê – nhưng hầu như lần nào chúng tôi cũng mua cho người
kia cùng một món. Chúng tôi chia sẻ một sự gắn bó mà hầu hết mọi người đều
không hiểu được.
Giờ đây là khi đã trưởng thành, chúng tôi sống
ở hai bang khác nhau. Con bé gọi điện thoại cho tôi, khi tôi “A lô”, ngay lập
tức, nó hỏi: “Em biết có chuyện không ổn. Nói em biết đi, chuyện gì vậy?"
Không còn ngạc nhiên về khả năng kỳ bí khi
biết trước có chuyện bất ổn xảy ra của cô em, tôi đành kể cho nó nghe. Chúng
tôi lặng im, cùng khóc thầm. Những giọt nước mắt tôi không thể khóc vào sáng
sớm hôm đó giờ đây tự nhiên tuôn ra trong lúc tôi trò chuyện với em gái qua
điện thoại.
Từ lúc biết được tôi bị ung thư, gần như ngày
nào con bé cũng gọi điện thoại. Trong giọng nó lúc nào cũng có sự lo lắng nhưng
dù sao cũng luôn tươi tắn. Hàng tuần, con bé gửi cho tôi một tấm thiệp vui, một
tia hy vọng rực sáng khiến tôi tin rằng cuộc đời sẽ lại bình yên.
Trong một cuộc trò chuyện đẫm nước mắt qua
điện thoại, con bé nói với tôi rằng nó biết chắc tôi sẽ không qua đời vì ung
thư.
Tôi hỏi trong nước mắt: “Vậy à, sao em
biết?"
“Bởi vì khi còn nhỏ, chúng ta đã từng hứa rằng
chúng ta chỉ có thể qua đời nếu người còn lại cũng sẵn sàng ra đi. Mà em thì
chưa sẵn sàng chết nên chị cũng không thể ra đi được.”
Chúng tôi chưa từng thỏa thuận xem nếu chúng
tôi phá vỡ lời hứa thì chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng cả hai chúng tôi đều hiểu
rằng điều đó chắc chắn phải rất nghiêm trọng.
Tôi nghe thấy tiếng taxi dừng trước cửa nhà.
Em gái tôi, người bạn tốt của tôi, vừa đến.
Tôi run rẩy đưa tay lên sờ vào mái đầu trọc
của mình một lần nữa trước khi mở cửa cho người bạn tốt nhất – em gái tôi.
Con bé đứng đó, mặt trời tỏa ánh nắng rực rỡ
phía sau khiến nó lung linh như một thiên thần, giống hệt những gì tôi luôn
nghĩ về nó. Con bé đứng đó, trong chiếc quần jeans bó và áo thun, đội một chiếc
nón có hàng chữ: “Hôm nay đầu tôi xấu lắm." Cả hai chị em cùng cười.
Tôi lên tiếng: “Chào em."
Con bé trả lời: “Chào chị."
Rồi con bé đưa tay lên gỡ nón ra. Em gái tôi
đã cạo trọc đầu. Chúng tôi đứng đó, cùng khóc, cùng cười, và ôm lấy nhau.
“Trong chúng ta vẫn như hai chị em.” – Con bé
nói.
“Chị yêu em.” – Đó là tất cả những gì tôi có
thể nói.
Tôi nhắm mắt lại và thầm nguyện cầu: “Tạ ơn
Chúa đã ban cho con cuộc sống. Tạ ơn Chúa trên Thiên Đường vì đã cho con người
em. Cám ơn mẹ đã cho con món quà này."
Dawn Braulick.
13. Vua
vì dân
Cách đây ít lâu, một người lính Mỹ đang ngồi
trên xe buýt ở Thụy Điển nói chuyện với một người đàn ông ngồi bên cạnh rằng,
“Nước Mỹ là một quốc gia dân chủ nhất trên thế giới. Những người công dân bình
thường có thể đi tới toà Bạch Ốc để gặp tổng thống và thảo luận công
việc." Người đàn ông bên cạnh trả lời, “Điều đó đâu có đáng là gì. Ở Thuỵ
Điển, nhà vua và dân chúng cùng đi với nhau trên cùng một chiếc xe buýt
kìa." Khi người đàn ông vừa nói chuyện đó bước xuống khỏi xe buýt, người
lính Mỹ đã được các hành khách khác còn lại trên xe nói cho biết người ấy chính
là vua Gustav Adolf VI.
“Đức Kitô đã lấy sự trao ban trọn vẹn toàn
thân mình làm điều kiện để có sự sống. Người sẽ phán xét chúng ta khi giờ chết
đến. Chúng ta sẽ được xét đoán trên những gì đã làm cho người nghèo khổ, trên
thái độ chúng ta đối với họ. Người nói với chúng ta: “Ta đói nhưng các ngươi đã
không cho Ta ăn. Ta đói bánh, đói sự công bằng, đói nhân phẩm con người, nhưng
các ngươi đã bỏ mặc Ta! Ta trần truồng và bị tước hết mọi điều cần thiết, Ta bị
sự công bằng chối từ, và ngay cả điều đơn giản nhất được nhìn nhận rằng Ta cũng
giống như các ngươi, được cùng một Thiên Chúa tình yêu tạo dựng nên để yêu
thương và được yêu thương, ngay chính điều đơn giản đó, Ta cũng bị khước từ.
Các ngươi đã để mặc Ta chết, mặc Ta cô đơn và bị xua đuổi. Ta đã bị quẳng ra
đầu đường xó chợ, không một ai đoái hoài, không một ai thương xót và chôn vùi
trong quên lãng."
Một người thanh niên tên là Michael Christensen
đã trải qua một thời gian phục vụ chung với Mẹ Têrêsa trong những xóm dân nghèo
ở Calcutta. Trong cuốn sách của anh tựa đề là “City Streets, City People”, anh
mô tả về một gánh nặng đau đớn không thể tưởng tượng nổi mà Mẹ Têrêsa đã phải
chứng kiến mỗi ngày:
Anh kể lại rằng một ngày nọ Mẹ Têrêsa đã cứu
được một em bé bị bỏ rơi dưới cống rãnh. Cánh tay và bàn chân của em đã bị lũ
chuột rúc rỉa mất gần hết. Vào cuối ngày hôm đó, Mẹ Têrêsa hỏi Michael
Christensen rằng anh đã trông thấy Chúa Giêsu chưa. Christensen vẫn còn đang
tập trung vào những hình ảnh kinh hoàng xẩy ra chung quanh, đã chấp nhận rằng
anh không thấy Chúa Giêsu ở đâu cả. Mẹ Têrêsa đã dùng những lời giảng dạy của
Chúa Giêsu trong chương 25 của thánh Matthêu về việc săn sóc những người nghèo
đói, yếu đuối để giải thích cho anh. Và sau cùng Mẹ chỉ nói rất đơn giản rằng,
“Con đã làm cho chính Ta." Mẹ Têrêsa đã nhìn thấy Chúa Giêsu chung quanh
Mẹ mỗi ngày.
14. Là
mẹ
Trong cuộc Cách Mạng Pháp vào năm 1789 đã xảy
ra một câu chuyện về một bà mẹ đi lang thang trong rừng 3 ngày với hai người
con, họ không có gì ăn, phải ăn rễ và lá cây rừng để sống. Vào ngày thứ ba, bà
mẹ nghe thấy tiếng của những người lính đang tiến đến gần, bà vội lôi kéo hai
người con chui vào một bụi rậm ẩn trốn. Viên trung sĩ chỉ huy đám lính đi lục
soát các bụi rậm đã nhìn thấy người mẹ đói khổ và hai đứa con thì chạnh lòng
thương bèn đem cho họ một ổ bánh mì. Bà mẹ cầm ngay lấy nó, bẻ ra làm hai
miếng, và cho mỗi người con một nửa. “Bà mẹ chẳng giữ miếng nào cho bà ấy cả,”
viên trung sĩ nói. “Bà ấy không đói sao? Một người lính hỏi. “Không phải vậy,
vì bà ấy là mẹ, viên trung sĩ trả lời.
Đứng trước nhu cầu của thế hiện nay, Mẹ Giáo
Hội nhận thấy cần phải đáp lại bằng một nền văn minh của tình thương, qua lời
nhắn nhủ của ĐGH Gioan Phaolo II, tình thương đó dựa trên tình thương của Chúa
Giêsu Kitô, Vua của Lòng Thương Xót, là nền tảng cho tất cả các giá trị phổ
quát mà con người đang đi tìm kiếm.
15.
Vương quốc của tình yêu
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trong tác phẩm mang tựa đề: “Thị kiến của
người Kitô hữu” (The Christian Vision) nhà văn John Powell có kể một câu chuyện
thần thoại của người Ái Nhĩ Lan. Câu chuyện đưa chúng ta trở lại thời các vua
cai trị đất nước này:
Một hôm nhà vua thấy mình không có con để kế
vị, ông bèn sai các sứ giả thông báo cho các thành phố và làng mạc biết: nhà
vua mời các thanh niên nào có đức tính tốt đến triều đình để được phỏng vấn.
Như thế nhà vua hy vọng có thể chọn được một người xứng đáng lên ngôi vị mình
trước khi băng hà. Hai đức tính được nhà vua đặc biệt lưu ý, đó là người thanh
niên ấy phải có lòng mến Chúa và yêu người.
Chàng thanh niên trong câu chuyện nghe như có
tiếng thầm kín bên trong thúc đẩy chàng lên đường đến triều đình để được nhà
vua phỏng vấn, vì chàng quả thật là một người có lòng mến Chúa và yêu người.
Nhưng chàng lại nghèo khó đến nỗi không có được một bộ quần áo chỉnh tề để đến
triều đình. Chàng cũng chẳng có tiền để mua lương thực dự trữ cho cuộc hành
trình dài đến lâu đài nhà vua. Cuối cùng, chàng quyết định đi xin quần áo và
lương thực cần thiết.
Khi mọi sự đã sẵn sàng, chàng lên đường. Sau
một tháng hành trình, chàng đã nhìn thấy lâu đài của nhà vua hiện ra trên đỉnh
đồi ở đàng xa. Cũng vào lúc ấy, chàng gặp thấy một ông già nghèo đói ngồi bên
vệ đường. Người ăn xin ngửa tay van xin chàng giúp đỡ: “Anh ơi, tôi đói, tôi
rét, anh làm ơn cho tôi áo mặc, cho tôi bánh ăn." Chàng thanh niên cảm
động nhìn người ăn xin. Chàng cởi áo khoác của chàng và đổi lấy chiếc áo rách
tả tơi của người ăn xin. Chàng cũng chia sẻ lương thực dự trữ của chàng. Rồi
chàng đến lâu đài nhà vua trong bộ áo rách tả tơi và không đủ lương thực cho
cuộc hành trình trở về. Đến trước lâu đài, lính gác chận chàng lại ở cổng, bắt
chàng vào khu khách tham quan. Sau một thời gian dài chờ đợi, chàng mới được
cho vào gặp nhà vua. Trước ngai vàng, chàng cúi mình thật sâu bái lạy, đến lúc
đứng thẳng lên, chàng hết sức bỡ ngỡ, vì chàng thấy ông già ăn xin bên vệ đường
mà chàng đã gặp giờ đây lại ngồi trên ngai vàng. Chàng lên tiếng hỏi:
- Tâu Đức vua, có phải Đức Vua là người ăn xin
bên đường mà tôi đã gặp chăng?
- Đúng thế, Đức Vua đáp.
Chàng lại hỏi:
- Vậy tại sao Đức Vua lại làm như thế đối với
tôi?
Đức vua đáp:
- Ta phải cải trang làm người ăn xin để thử xem
ngươi có thật lòng mến Chúa và yêu người không.
16.
Thần dân trung tín của Vua Tình Yêu
Thường thì phạm nhân không được phép treo ảnh,
nhưng Hiroshi Igarashi nài xin ban quản giáo và cuối cùng được phép treo ảnh Mẹ
Têrêsa thành Calcutta. Một đêm nọ, một quản giáo đi tuần khu nhà tù anh ở đã
yêu cầu anh: “Này, anh làm ơn lấy bức ảnh đó xuống dùm tôi. Mắt bà ấy nhìn sợ
quá.” Igarashi đáp: “Anh thấy rùng rợn vì anh là người tội lỗi.”
Giờ đây Igarashi đã được tự do, anh tổ chức
một nhóm ở Tokyo gọi là “Nhà Mẹ." Nhóm tận tâm giúp những người ở tù làm
lại cuộc đời và tái nhập xã hội sau khi mãn hạn tù. Nhóm lấy tên Mẹ Têrêsa và
còn lấy tinh thần của thánh nhân và Kinh Thánh làm nền tảng cho các hoạt động
của nhóm. Có tiền án hình sự 3 lần và gần 20 năm ngồi tù, Igarashi biết rõ thực
trạng và tất cả các vấn đề trong tù. Nhiều tù nhân bị cô lập và thiếu thốn tình
thương. Điều mà những người này cần là có người hỗ trợ họ về mặt tình cảm, nhưng
không có ai làm điều đó cả.
Khi anh bị bắt giam lần thứ ba, gia đình anh
cắt đứt mọi liên hệ với anh. Anh đã nghĩ đến chuyện tự vẫn, nhưng ngay lúc đó
có một người Brazil gốc Nhật vui tính bị cảnh sát bắt giam. Người này thường
xuyên cầu nguyện và nói về Kinh Thánh cho Igarashi nghe. Đó là lần đầu tiên
Igarashi bắt đầu đọc Kinh Thánh. Anh ấn tượng nhất là câu: “Saolô, Saolô sao
ngươi lại bắt bớ ta?” (Cv 9, 4) Đối với Igarashi, câu này nghe như thể Đức Kitô
đang hỏi chính anh: “Sao con phạm tội chống Ta?”Đó là lúc anh trở lại đạo. Anh
cầu nguyện hết lòng, lớn tiếng nói: “Con xin lỗi Chúa!”
Anh nhận ra khi Chúa Giêsu chết trên thập giá,
Ngài chết thay cho anh trên đó và anh khóc nức nở. Igarashi biết Mẹ Têrêsa cũng
ở trong nhà tù, qua một quyển sách anh tình cờ đọc được. Anh lập tức tin rằng
“con người này có thật” và muốn học hỏi nơi thánh nhân, mãi sau này anh mới
biết ngài đã qua đời. May mắn thay, anh có cơ hội gặp được một số tu sĩ dòng
Thừa sai Bác ái do ngài sáng lập.
Đức cố Hồng y Seiichi S. Hirayanagi mở khoá
học giáo lý tân tòng giới thiệu đức tin Công giáo cho anh. Một luật sư Tin lành
đã đứng ra bảo lãnh anh. Khi ra tù, Igarashi bắt đầu biến đức tin thành hành
động thực tế bằng cách thành lập Nhà Mẹ. Đức Tổng Giám mục Takeo Okada đích
thân gửi thư chúc mừng. Anh làm việc hết mình, phấn đấu noi theo con đường tình
yêu của Mẹ Têrêsa. (Theo UCA News)
Đức Kitô, Vua Tình Yêu đã cảm hóa tù nhân
Hiroshi Igarashi. Nhờ vậy, Mẹ Têrêsa Calcutta mới dẫn dắt anh bước theo Ơn Gọi.
Tin Mừng hôm nay công bố điều kiện để được Thiên Chúa chúc phúc và được ban
thưởng Nước Trời.
17. Yêu
mến và phụng sự Chúa nơi tha nhân
Hôm nọ, có người đàn ông đem đến cho tôi một
tượng chuộc tội khá lớn. Bàn tay Chúa Giêsu chịu đóng đinh bị sút ra khỏi thanh
ngang của cây thánh giá. Ông ta nhờ tôi đóng lại cây đinh bị sút để tượng Chúa
Giêsu chịu nạn được gắn chặt vào thập giá như trước.
Tôi hỏi ông: “Một việc đơn giản như thế, sao
ông không tự làm lấy, đem đến nhờ tôi làm gì mất công.” Ông trả lời: “Tôi không
dám đóng đinh Chúa, sợ xúc phạm đến Ngài.”
Vậy mà mấy tuần sau, ông nầy lại vác rựa chém
người hàng xóm, may có người can ngăn kịp thời, nếu không thì ông ta đã chém
chết một hiện thân sống động của Thiên Chúa.
Nhiều người cung kính cúi đầu trước tượng ảnh
thánh và không bao giờ dám xúc phạm đến ảnh tượng thánh do tay người phàm làm
ra, nhưng lại ngang nhiên xỉ vả, mắng chửi, đánh đập những người chung quanh là
hình tượng sống động của Thiên Chúa do chính Ba Ngôi Thiên Chúa dựng nên mà
không áy náy lương tâm.
18. Tha
nhân là thân thể Chúa Giêsu – Lm. Trần Ngà.
Một linh mục nọ ngỏ lời với cộng đoàn phụng vụ
rằng: "Khi trao Mình Thánh Chúa cho anh chị em, tôi nâng Mình Thánh Chúa
lên và nói: Mình Thánh Chúa Kitô! Tất cả anh chị em đều tin thật đó là Mình
Thánh Chúa và từng người đáp lại: Amen, nghĩa là mỗi người tuyên xưng đó chính
là Mình Thánh Chúa thật sự và cung kính rước Người vào lòng. Thế nhưng, nếu tôi
chỉ vào từng người ngồi quanh đây và nói: Đây là thân thể Chúa Giêsu thì có lẽ
anh chị em không tin người đó là thân thể Chúa, không tỏ lòng tôn kính và không
muốn đón rước người đó vào nhà mình, nếu không ưa thích người đó.
Ngay lúc đó, dưới hàng ghế giáo dân có tiếng
xì xào. Hình như nhiều người không đồng quan điểm với Cha sở về nội dung nầy.
Sau thánh lễ hôm ấy, một thanh niên đến gặp
cha sở và thưa:
- Thưa cha, trong bài giảng hôm nay, chúng con
giật mình khi nghe Cha nói từng người chung quanh chúng ta đây, kể cả những
người tàn tật, bần cùng, tội lỗi... đều là thân thể Chúa Giêsu.
- Thế anh không tin mọi người là thân thể Chúa
Giêsu sao?
- Con tin tấm bánh thánh mà linh mục đã truyền
phép và trao cho giáo dân rước lễ thật sự là Thân Thể Chúa; còn người cha,
người mẹ, người anh chị em, người láng giềng... không thể là thân thể Chúa
được. Cha có bằng chứng gì chứng tỏ tha nhân là thân thể Chúa Giêsu không?
- Nói có sách, mách có chứng. Bằng chứng đây
(giơ cuốn Tân Ước ra), anh hãy đọc Thánh Phaolô, trong thư thứ nhất gửi giáo
đoàn Cô-rin-tô: "Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân
thể của Đức Kitô sao?" (I Cr 6, 15).
- Thật thế ư? Thế thì Cha có biết vì sao thánh
Phaolô nói bạo như thế không?
- Thánh Phaolô dạy điều nầy căn cứ vào kinh
nghiệm bản thân. Hồi ấy, Phaolô chưa tin vào Chúa Giêsu, ông nhiệt thành với lề
luật và hăm hở tìm bắt những người theo Chúa Giêsu. Nên nhớ là vào thời điểm đó
Chúa Giêsu đã sống lại và lên trời rồi.
Trên đường Damas, Phaolô bị quật ngã và có
tiếng Chúa Giêsu vang lên giữa thinh không: "Sao-lô, tại sao ngươi bắt bớ
Ta?" Phaolô hết sức kinh hoàng: "Thưa Ngài, Ngài là ai?" Có
tiếng từ trời đáp: "Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ." (Cv 22, 6-9)
Thế là từ hôm ấy, Phaolô không dám bắt bớ các
tín hữu nữa, vì ông biết rằng: họ là những Giêsu khác, bắt bớ họ là bắt bớ Chúa
Giêsu.
Người thanh niên vẫn còn hoài nghi, anh hỏi
tiếp:
- Vậy thưa cha, đó là giáo lý của thánh
Phaolô. Còn về phần Chúa Giêsu, có bao giờ Người dạy như thế không?
- Có chứ! Nào, mời anh lật qua Tin Mừng
Matthêu, chương 25, trong dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng. Đó là bài chúng
ta vừa nghe đọc hôm nay đây.
Qua dụ ngôn nầy, Chúa Giêsu tỏ cho thấy những
ai cho những người đói khát đầu đường xó chợ một bát cơm thì Chúa nói là họ cho
Chúa ăn. Những ai cho người rách rưới hoặc mình trần một manh áo, thì Chúa nói
là họ đã cho Người mặc. Những ai cho người sa cơ thất thế không nơi nương tựa
được trú ngụ một thời gian thì Chúa nói là họ đã cho Chúa trọ nhà... Nói như
thế, Chúa Giêsu tự đồng hoá mình với mọi người chung quanh. Nói khác đi, bất cứ
ai cũng được Chúa Giêsu nhìn nhận là chính Người.
- Thật thế ư? Vậy mà lâu nay con không ý thức
điều đó. Và thưa cha, sách giáo lý công giáo có chỗ nào nói như thế không cha?
- Đây, giáo lý công giáo đây, anh mở ra xem,
bài nói về Bí tích thánh tẩy, số 1267: "Bí tích thánh tẩy làm cho chúng ta
thành chi thể trong Thân Thể Chúa Kitô."
- Thế các Đức Giáo Hoàng có dạy như thế không?
- Đây nữa (chìa sách ra), Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II trong tâm thư gửi các gia đình có viết, anh đọc thử xem: "Thiên
Chúa đã đồng hoá với người cha, người mẹ, người con trong gia đình. Những gì
mỗi thành viên trong gia đình làm cho nhau là làm cho chính Chúa."
- Thưa Cha, khi mới bước vào gặp cha, con
không tin tha nhân là thân thể Chúa Giêsu, nhưng bây giờ thì con đã tin. Nhưng
xin hỏi cha, vậy con có buộc phải tôn kính tha nhân như tôn kính Chúa trong nhà
thờ không?
- Trước hết, anh hãy nghe lời dạy của Mẹ
Têrêxa Calcutta. Hôm ấy, có một thiếu nữ Ấn-độ đến gặp Mẹ Têrêxa Calcutta để
tìm hiểu Hội Dòng của Mẹ. Trước hết, Mẹ nói với người thiếu nữ ấy: "Con
hãy qua nhà hấp hối. Ở đó, con sẽ gặp nhiều người bất hạnh nghèo khổ, bệnh tật
đang nằm chờ chết. Con hãy săn sóc an ủi họ."
Thiếu nữ vừa quay lưng đi thì Mẹ Têrêxa gọi
giật lại: "Nầy con, khi dâng thánh lễ, con thấy linh mục trân trọng mình
thánh Chúa Giêsu sau khi truyền phép thế nào, thì con cũng hãy trân trọng những
con người bất hạnh ấy như thế."
Nói như thế, Mẹ Têrêxa Calcutta muốn dạy rằng:
mỗi một con người dù bần cùng khốn khổ đến đâu cũng phải được tôn trọng như
Mình Thánh Chúa.
- Ngoài Mẹ Têrêxa Calcutta, có vị thánh nào
khác tôn trọng con người như chính thân thể Chúa Giêsu nữa không?
- Có nhiều: thánh Gioan Kim Khẩu, thánh
Elisabet Hung-ga-ri, thánh Phanxicô Atxidi, vv... Có lần Phanxicô gặp một người
phong hủi rất ghê tởm. Ban đầu Anh định xa lánh, nhưng sau đó, Phanxicô cảm
nhận ra người phong hủi đó là một phần thân thể bị thương tích, bị lở loét của
Chúa Giêsu, nên Anh đã đến chào hỏi và ôm hôn người phong hủi đó.
- Thưa cha, con thấy nhiều tín hữu rất mực tôn
kính Chúa Giêsu trên bàn thờ, còn những chi thể sống động của Chúa Giêsu trong
đời thường thì hình như không được ai tôn kính.
- Đúng thế! Vì vậy, thánh Gioan kim khẩu dạy
chúng ta đừng phân biệt đối xử giữa Chúa Giêsu trong nhà thờ và Chúa Giêsu
ngoài nhà thờ. Chúa Giêsu trong nhà thờ và Chúa Giêsu ngoài nhà thờ, tức là
những anh chị em khác, phải được tôn trọng như nhau. Để tôi đọc cho anh nghe
lời dạy của người:
"Bạn muốn tôn kính thân thể Đức Kitô ư?
Chớ khinh chê thân thể ấy khi thân thể ấy trần trụi. Đừng có thái độ nầy là
trong nhà thờ thì tôn kính, cho thân thể Người mang những y phục lụa là gấm
vóc, nhưng ở ngoài lại coi thường, để cho thân thể ấy phải giá lạnh và trần
trụi. Thân thể Chúa ở đây (trong nhà thờ) không cần y phục, nhưng cần tâm hồn
trong trắng; còn thân thể Chúa ngoài kia (tức là tha nhân) thì cần được chăm lo
tận tình."
- Thưa cha, dường như đối với nhiều người,
việc khinh dể, nhạo báng, xúc phạm đến anh chị em chung quanh là chuyện nhỏ,
chẳng có gì đáng quan tâm.
- Đó là một sai lầm tai hại vì đến ngày phán
xét, Chúa Giêsu sẽ nói với những kẻ ấy rằng: "Quân bị nguyền rủa kia! Hãy
đi cho khuất mắt Ta mà vào chốn cực hình đời đời dành cho ma quỷ và các thần
dữ, vì xưa kia, ngươi đã khinh dể, nhạo báng, xúc phạm đến ta!"
19.
Thánh Thể trong khu ổ chuột
Tại Đại hội Thánh Thể năm 1982 ở Lộ Đức, Đức
cha Camara đã kể lại một câu chuyện như sau:
Có một số nông dân đến gặp tôi. Họ kể lại rằng
một tên ăn trộm đã đột nhập vào nhà thờ, cậy cửa nhà tạm và lấy Mình Thánh mang
đi. Hôm sau, họ đã tìm thấy bánh thánh nằm vương vãi trong bùn nhơ. Nói tới đây
họ đã bật khóc. Rồi họ xin tôi dâng một lễ tạ ơn.
Dĩ nhiên là tôi vui lòng dâng lễ và trong buổi
lễ tôi đã nói với họ đại khái như sau:
- Chúng ta thật mù quáng biết bao. Chúng ta đã
sững sờ khi thấy bánh thánh nằm giữa bùn nhơ, nhưng đó lại là một hiện tượng
xảy ra hằng ngày. Chúng ta gặp thấy Đức Kitô mỗi ngày trong những căn nhà ổ
chuột. Đức Kitô hiện diện thực sự trong Bí tích Thánh Thể và Ngài cũng hiện
diện thực sự trong nỗi cùng khổ của con người.
20. Vua
của tình yêu
Vào khoảng giữa thế kỷ 19, các dân tộc thuộc
vùng núi Côcadơ ở phía nam nước Nga, được cai trị bởi một ông vua Hồi giáo nổi
tiếng là thanh liêm chính trực, ưu tiên hàng đầu trong việc chấn hưng đất nước
của ông là quét sạch mọi tham nhũng, hối lộ. Ông ban hành một sắc lệnh, theo đó
thì tất cả những ai bị bắt quả tang phạm tội tham nhũng hay hối lộ sẽ bị phạt
đánh 50 roi trước mặt công chúng. Điều không may xảy ra cho ông, người đầu tiên
bị bắt quả tang phạm tội này lại chính là mẹ ông, sự kiện này làm cho ông đau
khổ khó nghĩ. Không có luật trừ hay châm chước nào đối với sắc lệnh mà ông đã
ban hành.
Liên tiếp ba ngày liền nhà vua ngồi yên trong
phòng để suy nghĩ, sang ngày thứ tư, ông xuất hiện trước công chúng cùng với
thân mẫu. Ông ra lệnh cho hai người lính trói tay mẹ ông và bắt đầu xử lý theo
luật định. Thế nhưng khi chiếc roi đầu tiên vừa quất xuống trên người mẹ ông,
thì nhà vua liền chạy đến bên cạnh bà, ông mở trói cho bà, rồi ra lệnh cho hai
người lính trói tay ông, lột áo ông ra và bắt đầu cuộc đánh roi. Đúng 50 roi đã
quất xuống trên thân mình nhà vua, với thân thể rướm máu và khuôn mặt nhợt
nhạt, nhà vua quay về phía dân chúng và nói: “Bây giờ thì các ngươi có thể ra
về, luật đã được thi hành, máu của vua các ngươi đã chảy ra để đền bù cho tội
ác này." Kể từ ngày đó, trong đất nước, người ta không còn bao giờ nghe
đến nói tội tham nhũng hay hối lộ nữa.
21.
Người được truyền ngôi
Trong cuốn sách của mình nhan đề: The
Christian Vision (Thị kiến của người Kitô hữu) John Powell có kể lại một truyền
thuyết xưa kia của Ái Nhĩ Lan. Truyền thuyết này nói về thời còn các vị vua
đang cai trị Ái Nhĩ Lan.
Ngày xưa, có một vị vua đương cai trị không có
con nối dõi ngai báu. Vì thế, ngài truyền sứ giả ghi lên các tấm biển nơi mỗi
thành phố và làng mạc trong vương quốc, để mời gọi những người đàn ông ưu tú
đến cho Đức vua phỏng vấn.
Đức vua làm thế với hy vọng có thể chọn được
một người kế vị trước khi Ngài chết. Hai đặc tính tiêu chuẩn đặc biệt được ngài
nhấn mạnh là kẻ ấy phải có lòng mến Chúa yêu người sâu sắc. Anh thanh niên là
vai chính trong câu chuyện truyền thuyết này nhận thấy mình có một trong các
điều kiện đòi hỏi, vì thực sự anh ta rất mến Chúa yêu người. Anh ta cảm thấy từ
thâm sâu nội tâm có tiếng thúc giục anh đi dự cuộc phỏng vấn. Nhưng anh lại quá
nghèo đến mức chẳng có quần áo tươm tất để mặc đi dự phỏng vấn và cũng chẳng có
tìên mua thực phẩm cho cuộc hành trình xa xôi đến cung điện đức vua. Vì thế anh
thanh niên này đã cầu nguyện xin ơn soi sáng cho vấn đề. cuối cùng anh quyết
định đi ăn xin quần áo và lương thực cần thiết. Khi mọi sự đã sẵn sàng anh bắt
đầu lên đường.
Sau một tháng du hành, ngày nọ anh thanh niên
này đã nhìn thấy cung điện đức vua. Anh ta ngồi xuống trên ngọn đồi phía xa.
Ngay lúc đó anh trông thấy một ông lão ăn mày nghèo khổ ngồi bên vệ đường. Ông
cụ chìa tay ra xin anh giúp đỡ. Giọng nói ông ta thật yếu ớt: "Tôi đói và
lạnh quá, cậu có thể cho tôi cái gì mặc cho đỡ lạnh và ăn cho đỡ đói
không?" anh thanh niên nhìn ông già lòng tràn đầy xúc động. Và liền cởi bộ
đồ ấm áp mặc ngoài của mình đổi lấy tấm áo cũ tơi tả của ông già ăn xin, đồng
thời cũng cho lão ta phần lớn lương thực dự trữ mang theo trong túi xách dành
cho chuyến trở lại về nhà. Thế rồi, lòng hơi ngài ngại anh thanh niên bước tới
cung điện trong bộ đồ rách nát và lương thực mang theo không đủ cho chuyến trở
về. Khi anh ta đến lâu đài, đám lính gác chận anh ta lại tại cổng và dẫn anh
đến khu vực dành cho du khách. Sau một thời gian chờ đợi lâu, anh ta được dẫn
tới diện kiến đức vua.
Đến trước bệ rồng anh thanh niên liền gập sâu
người xuống cúi chào. Khi ngước thẳng lên nhìn anh ta không thể nào tin nổi mắt
mình và thốt lên: "Té ra ngài chính là ông lão ăn xin bên vệ đường!"
đức vua đáp: "Đúng thế." Anh thanh niên liền hỏi: "Tại sao ngài
lại làm điều ấy đối với kẻ tiện dân này?" Đức vua trả lời: "Bởi vì
Trẫm muốn thử xem ngươi có thật lòng mến Chúa yêu người không?"
22.
Trùm Sò
Trùm Sò làm chủ hàng chục nhà hàng nhưng keo
kiệt vô cùng. Một hội từ thiện nọ gởi nhân viên đến bao nhiêu lần cũng đều vô
ích. Bực quá nên ngày nọ, đích thân bà chủ tịch hội đến gặp hắn:
"Chúng tôi biết ông là một trong những thương
gia thành công trong thành phố này. Ông đúng là một tấm gương sáng cho những
người di dân. Tuy nhiên, từ trước đến nay tôi vẫn thắc mắc tại sao ông không
chia sẻ dù chỉ 1 phần triệu những cái mà ông có cho những người nghèo khó khắp
mọi nơi trên đất nước này."
"Thưa bà, bà có biết là tôi còn một mẹ
già yếu đau liệt lào ở Việt Nam mà không ai chăm sóc không? Thế bà có biết tôi
còn một người chị ở Việt Nam vừa bị mù lại bị câm điếc đang sống quằn quại vì
chứng bệnh ung thư quái ác không? Bà có biết em tôi đi vượt biên bị công an bắn
què giò, bị tịch thu hết nhà cửa, bị tán gia bại sản, nay đau mai yếu vì những
năm tháng tù đầy cải tạo không?"
Nghe đến đấy thì bà chủ tịch vội đứng dậy:
"Chúng tôi vô cùng xin lỗi ông, chúng tôi nào có biết gia cảnh ông đau khổ
đến thế. Lạy Chúa tôi, xin tha thứ cho tôi. Chúng tôi thật đã nghĩ không đúng
về ông."
Trùm sò nói tiếp, "Mẹ! Mấy người đó mà
tôi còn không cho một cắc huống hồ là cái hội cà chớn của các bà." (Trích
trong: Truyện Cười Nhà Đạo).
23. Lời
nguyện của người tông đồ
“Lạy Chúa, xin cứ dùng con theo ý Chúa, làm
chân tay cho những người què cụt, làm đôi mắt cho ai phải đui mù, làm lỗ tai
cho những người bị điếc, làm miệng lưỡi cho người không nói được, làm tiếng kêu
cho người chịu bất công.
Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đồng lúa, để đem
cơm cho người đói đang chờ, và đem nước cho người họng đang khô, đem thuốc
thang cho người đang đau ốm, đem áo quần cho người đang trần trụi, đem mền đắp
cho người rét đang run.
Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đường vắng, thắp
đèn soi cho ai bước trong đêm, đốt lửa ấm cho những ai giá lạnh, truyền cảm
thông cho lữ khách đơn côi, nâng phẩm giá cho kẻ đời chà đạp, đem tự do cho
những kiếp đọa đầy.
Lạy Chúa, xin cứ gởi con vào thôn xóm, đem an
hòa cho những ai bất thuận, đem thanh bình cho kẻ sống âu lo, đem ủi an cho
người đang sầu khổ, đem niềm vui cho những ai bất hạnh, đem vận may cho người
gặp rủi ro.
Lạy Chúa, xin cứ đặt con như một sự tình cờ,
đem may mắn cho những ai gặp được, giữa đường đời khi lỡ bước bơ vơ, cứ cho con
đừng bao giờ khiếp sợ: giữa biển đời mang con tim núi lửa với đôi tay êm ái của
mẹ hiền.
Lạy Chúa, xin cứ dùng con làm tất cả cho mọi
người được hạnh phúc yên vui; còn phần con xin gởi hết nơi Ngài là Thiên Chúa,
Tình Yêu và Lẽ Sống.
Ngài cho con tất cả niềm hy vọng để tin yêu và
vui sống trọn đời.” - NCĐ
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 118)
CNTN 34B - ĐỨC GIÊSU KITÔ - VUA VŨ TRỤ
Lời Chúa: Ga 18, 33b-37
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Philatô hỏi Chúa Giêsu rằng: "Ông
có phải là Vua dân Do-thái không?"
Chúa Giêsu đáp: "Quan tự ý nói thế, hay
là có người khác nói với quan về tôi?"
Philatô đáp: "Ta đâu phải là người
Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm
gì?"
Chúa Giêsu đáp: "Nước tôi không thuộc về
thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã
chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng mà nước tôi không thuộc
chốn này.”
Philatô hỏi lại: "Vậy ông là Vua ư?"
Chúa Giêsu đáp: "Quan nói đúng. Tôi là
Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai
thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi.”
TRUYỆN
KỂ
1. Đứng
về phía sự thật
Từ sau vụ nổ big-bang, vũ trụ được thành hình,
và càng ngày càng bành trướng.
Trái đất chỉ là một hạt bụi nhỏ xíu trong vũ
trụ, nhưng nó lại lớn lao vô cùng, vì là hành tinh được Thiên Chúa yêu thương
và cứu chuộc.
Con Thiên Chúa đã ghi dấu chân mình trên mặt
đất, đã sống trọn phận người bên cạnh nhân loại anh em.
Mừng lễ Đức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, chúng ta
được mời gọi ngắm nhìn trái đất tròn.
Đây là vũ trụ của hơn 6 tỉ người đang sống. Vũ
trụ này sẽ đi về đâu? Lịch sử này sẽ đi về đâu? Tất cả sẽ được hội tụ và biến
đổi nơi Đức Kitô, để rồi Ngài sẽ dâng lại tất cả cho Thiên Chúa Cha.
2. Một
Thị Kiến
Daniel kể lại một thị kiến ban đêm. Thực ra
thị kiến này đi sau một thị kiến khác. Nhà tiên tri trên giường nằm đã thấy
chiêm bao. Ông đã viết lại và đại khái ông nói như thế này:
Tôi thấy bốn gió trời khuấy động biển cả. Và
bốn mãnh thú to lớn khác nhau từ biển đi lên... Mãnh thú thứ tư dễ sợ đáng kinh
và mạnh quá đỗi... Tôi mãi nhìn cho đến khi ngai được đặt hành và Đấng cao niên
ngồi xuống... Pháp đình an tọa và sổ sách mở ra. Mãnh thú kia bị giết và thây
nó bị hủy và phó cho lửa thiêu. Còn những mãnh thú khác, chúng bị tước hết
quyền bính.
Nếu chúng ta đã nhớ những điều đã nói trong
Chúa nhật trước về sách Daniel, chúng ta có thể dễ nhận ra ngay ý nhà tiên tri
đang muốn nói gì. Biển cả trong quan niệm của các dân miền Cận Đông là nơi phát
xuất ra nhiều sinh vật, nhưng lại toàn là các mãnh thú, tượng trưng cho sự dữ.
Bốn mãnh thú ở đây là những sức mạnh chính trị thời bấy giờ, thay lượt nhau
thống lãnh các dân tộc và đặc biệt dân riêng của Chúa. Mãnh thú thứ tư dữ dằn
hơn hết chính là Antiôkô, vị vua bắt đạo làm đổ máu người lành. Sự dữ tung
hoành như vậy cho đến khi trời mở ra. Ngày của Chúa đến. Người ngự trên ngai;
tổ chức pháp đình; sổ sách công tội được mở ra. Các kẻ dữ lần lượt chịu tội.
Đó là thị kiến thứ nhất. Nói đúng ra đó là
phần đầu của một chiêm bao còn tiếp diễn. Nó diễn tả các sự dữ xảy ra ở đời
này, cho đến khi Thiên Chúa ban ơn cứu độ. Lúc này sẽ là phần thị kiến sau.
Daniel thấy với mây trời như thể một Con Người
đến. Ngài tiến lại Đấng cao niên và được ban tặng quyền bính, vinh dự và vương
triều.
Ngài là ai mà quyền bính sẽ không bị hủy và
tất cả các dân phải làm tôi Ngài? Theo Daniel, đó là dân thánh của Chúa. Họ
không sinh ra từ biển, tức là không bởi sự dữ mà có. Trái lại, họ đến với mây
trời, ám chỉ họ bởi chính Thiên Chúa mà ra vì mây trời vẫn là một trong những
hình ảnh để chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Có lẽ theo Daniel nữa, thì họ là
những người lành thánh đã "giữ mình" trong thời bắt bớ của Antiôkô,
và là các thánh nhân đã đổ máu vì Thiên Chúa trong cuộc bắt đạo này. Đến ngày
của Người, họ sẽ được đưa lên gần Thiên Chúa. Và Người sẽ ban tặng họ vinh dự,
quyền uy, vương triều. Họ được chia sẻ quyền cai trị của Thiên Chúa và quyền
bính của họ sẽ vô tận.
3. Một
Cuộc Tra Hỏi
Thánh Yoan cho chúng ta thấy Đức Yêsu bấy giờ
đang ở trước tòa Philatô. Ông này rất lúng túng. Người Dothái không chịu vào
phủ đường vì sợ mắc uế không ăn lễ vượt qua chiều hôm ấy được. Do đó Philatô
lúc phải ra gặp họ ở ngoài phủ đường, lúc lại phải đi vào trong, tra hỏi riêng
Đức Yêsu. Ông lúng túng lúc ra lúc vào. Nhất là ông không biết phải xử vụ này
ra sao. Người Dothái đòi xử tử Ngài... Còn Ngài nào có tội lỗi gì? Đứng về quan
điểm hành chính Rôma, chỉ có việc họ cáo Ngài là Vua là đáng kể. Nhưng không lẽ
một con người như vậy mà lại là vua? Thành ra ông bắt đầu hỏi Ngài:
- Ông mà lại là Vua dân Dothái sao? Ông hỏi mà
không tin ở lời mình. Rõ ràng ông rất lúng túng. Có lẽ vì vậy mà thay vì trả
lời, Đức Yêsu lại hỏi ông:
- Tự mình ông, ông nói thế, hay đã có ai khác
nói với ông về tôi?
Dường như Người muốn giúp ông biện phân ra sự
thật. Nhưng ông lại không muốn. Ông vừa muốn nói sự thật vừa không. Ông lấp
lửng trả lời theo kiểu nghi vấn: "Tôi là Dothái hay sao?” Có nghĩa là
người Dothái nào nói với tôi điều đó? Thế thì sao ông không nhận quách đi,
chính ông nghĩ như vậy. Nhưng thật sự ông không có ý tưởng như thế. Và nếu có,
ông không hỏi nữa, hay có hỏi cũng sẽ có giọng tra hỏi hơn. Đàng này, ông đã
hỏi chỉ vì người Dothái đã cáo Ngài là Vua... mà như ông thấy, điều đó không
thật được. Thế nên ông lúng túng...
Để ra khỏi thế khó xử này, Philatô chuyển sang
chuyện khác. Ông nói rằng người Dothái đã nộp Ngài cho ông, thì hỏi Ngài để làm
gì? Nhưng Đức Yêsu không muốn bước sang chuyện ấy. Không gỡ được nghi vấn lúc
đầu cho ông, lương tâm ông chỉ có thể cứ rối thêm mãi. Đàng khác Ngài cần thực
hiện mọi lời Kinh Thánh. Mà Kinh Thánh bảo: Đấng Thiên Sai là Vua. Cho đến nay
Ngài từ chối danh hiệu này kẻo người ta hiểu lầm. Nay đến lúc phải làm trọn lời
sách thánh. Daniel không tiên báo Con Người là Vua trước pháp đình, như chúng
ta đã thấy ở trên sao?
Do đó, Đức Yêsu đã tuyên bố: "Nước Tôi
không thuộc về thế gian này..." để nói lên rằng Người không phủ nhận mình
là Vua, nhưng đồng thời lại khẳng định Người không là Vua theo kiểu thế gian.
4. Lịch
Sử Lễ Chúa Kitô Vua
Một triết gia đã đưa ra một nhận định rất bi
quan: “Homo homini lupus”: con người là lang sói của con ngươi. Con người đã
trở nên một thú dữ hay tấn công, cắn xé và giết chóc. Lịch sử loài người là một
chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp. Hai cuộc thế chiến thứ nhất và thứ hai
đã cướp đi sinh mạng của gần 50 triệu người, không kể những người bị thương,
mất tài sản và thiệt hại vật chất khôn lường.
Cho nên ngày 12.11.1927, Đức Giáo hoàng Piô XI
đã thiết lập lễ Chúa Kitô Vua, mục đích là để cầu cho loài người thôi đừng
buông theo thú tính mà cắn xé lẫn nhau, các nước đừng nuôi mộng bá chủ hoàn cầu
mà gây chiến với nhau.
Đàng khác, thế giới đang dần rời bỏ Chúa, muốn
khai trừ Chúa ra khỏi các tâm hồn, các gia đình, các xã hội, thế giới muốn xây
xã hội trên nền tảng thuần túy nhân loại. Trong trường hợp đó, Đức Giáo hoàng
muốn công bố những quyền bất khả xâm phạm của Chúa Kitô: Ngài là vua vũ trụ,
vua các thiên thần và loài người.
Ngoài ra, Đức Giáo hoàng cũng nghĩ rằng cần
phải phản ứng lại mấy sự lệch lạc trong quan niệm đạo đức tân thời phát sinh
ngay trong Công giáo tiến hành ở một số nơi. Người ta đang có khuynh hướng nhìn
nơi Đức Giêsu chỉ là người Anh Cả, người bạn và đối xử với Chúa bằng vai,…là
bạn đường, bạn làm việc… Lễ Chúa Kitô Vua nhắc cho người ta rằng: Đức Giêsu còn
là Đấng Toàn Năng, Đấng vô cùng vô biên, Vua các vua. Ngài còn là Đấng Hữu, ta
có là nhờ Ngài, và bổn phận chính yếu nhất là Thờ Lạy Ngài (Trần văn Khả).
5. Một
tước hiệu không xứng hợp
Trong số những tước hiệu mà ta có thể gọi Đức
Giêsu, có lẽ tước hiệu "vua" là không xứng hợp nhất.
Khi nói tới "vua" là ta nghĩ đến
ngai vàng, vương miện, hoàng cung, quyền lực, kẻ hầu người hạ, quan quân, vũ
khí v.v. Thế mà khi nhìn vào Đức Giêsu ta chẳng thấy có gì cả. Ngược lại, ta
chỉ thấy Ngài lang thang trên những nẻo đường bụi bậm xứ Palestine, với một
nhúm môn đệ ít ỏi, vây quanh là những người nghèo nàn, tật bệnh, tội lỗi và
những người bị xã hội loại trừ.
Tuy nhiên, nhìn trên bình diện siêu nhiên thì
Đức Giêsu đúng thật là vua. Ngài là vua và là Vua trên tất cả các vua, bởi vì
Ngài là Thiên Chúa, Đấng thống trị vũ trụ.
Ngay cả trên bình diện tự nhiên, Đức Giêsu
cũng xứng đáng là Vua, Vua của mọi người: Ngài là con người tuyệt vời nhất với
đầy đủ những đức tính hoàn hảo nhất. Ngài đến với ai là vận mạng của người đó
được thay đổi thành tốt hơn. Có những người tưởng rằng mình là người lớn bằng
cách khiến cho mọi người cảm thấy nhỏ trước mặt mình. Nhưng người lớn đích thực
là người làm cho ai nấy đều cảm thấy lớn lên. Theo nghĩa này, Đức Giêsu đích
thực là Vua.
Chúng ta nên phân biệt quyền lực và ảnh hưởng.
Philatô có quyền lực trên dân, nhưng kẻ có ảnh hưởng trên dân chính là Đức
Giêsu. Ảnh hưởng của Ngài đem lại cho con người ơn tha thứ, sự phục hồi nhân
phẩm, bình an, yêu thương, hạnh phúc. (Viết theo Flor McCarthy)
6. Đức
Giêsu Kitô, vua vũ trụ
Đại Hội Trẻ Thế giới tại Pháp, hàng trăm ngàn
thanh niên nô nức, tiến về thủ đô Paris dự đại hội để gặp gỡ, lắng nghe, và
hiệp thông với Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, đấng thay mặt Đức Kitô ở trần
gian.
Hệ thống xe điện ngầm Métro nổi tiếng của
Paris dường như lúc nào cũng chật ních người. Hôm ấy, một cụ già ăn xin mù loà
cũng cố chen lên một toa xe nhờ chú chó dẫn đường. Cụ vừa đi, vừa chìa cái đĩa
nhôm để kêu gọi lòng hảo tâm của giới trẻ. Tuy ồn ào nhưng người ta cũng nghe
được những tiếng kêu loảng xoảng của những đồng cắc rơi vào đĩa.
Đi ngược chiều với cụ, một cô bé xanh xao gầy
còm cũng ngửa nón xin mọi người giúp đỡ. Khi hai người bất hạnh gặp nhau, cô bé
tránh qua một bên cho người hành khất mù loà tiến bước. Và đầy kinh ngạc, các
bạn trẻ không thể tin vào mắt mình, cô bé đã dốc hết số tiền kiếm được của mình
đổ tất cả vào cái đĩa nhôm kia.
Mừng lễ Đức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, chúng ta
được mời gọi nhìn ngắm thế giới: gồm 6 tỷ người đang sống trên đó. Với bao cảnh
thất nghiệp, nghèo đói, lạc hậu, bất công. Với bao tệ nạn tham nhũng, ma tuý,
mafia, sida. Với bao nhiêu thiên tai lũ lụt, động đất, cháy rừng... Thế lực của
sự dữ và tội lỗi đang tung hoành khắp nơi.
Mừng lễ Đức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, chúng ta
được mời gọi nhìn lên Vua của chúng ta. Một vị vua không ngồi trên ngai vàng,
nhưng treo trên thập giá. Một vị vua không cai trị bằng quyền uy vũ lực, nhưng
dựa trên tình yêu thương. Một vị vua không có lãnh thổ trên bản đồ thế giới,
nhưng nằm sâu trong trái tim mọi người.
7. Vua
tình yêu
Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa...
Lê Quang Độ (Ricardo Conelo) từ nhỏ vẫn được
ba má yêu quí, đến trường tỏ ra là người học trò xuất sắc. Nhưng bầu khí nơi
trường học không được lành mạnh. Ở tuổi lên 10, em Độ đã ghiền xì ke. Em nhớ không
có lý do gì để ghiền cả ngoài tính tò mò.
Khởi sự em hút cần sa. Kế đến em nhập băng
nhóm đi cướp giật. Lên 12 tuổi Độ đã được cảnh sát thành phố Sao Paolo của nước
Braxin biết đến. Bố em tưởng có thể nhốt em trong phòng nhưng vô ích vì Độ luôn
tìm ra cách thoát khỏi bàn tay của bố, với những gì có thể ăn cắp được nơi gia
đình để tiếp tục hút. Chưa thất vọng, bố em dời gia đình đi nơi khác, nhưng Độ
vẫn tìm cách nhập vào một băng nhóm ghiền Cocaine và những thứ nặng hơn nữa. Bố
em hết chịu nỗi đành phải đuổi em đi để cứu nguy cho gia đình.
Không chỗ tựa, Độ càng sa lầy. Nhưng nếu người
thiếu niên đáng thương này có cơ may làm lại cuộc đời thì nhờ sức mạnh nào? Ai
là người cuối cùng sẽ hoán cải được em để em nên người hữu ích cho xã hội?
Bị đuổi khỏi gia đình, Độ trở nên mồi ngon cho
tổ chức buôn ma tuý bất hợp pháp trong vùng. Tối đầu tiên đến với nhóm, Độ được
mời tới dự bữa ăn, trong đó kẻ tố cáo bạn với cảnh sát đã bị bắn ngay nơi bàn
ăn khiến Độ cũng bị bắn lây vào cẳng. Chàng liền chạy vào bệnh viện. Tưởng
thoát khỏi sự truy lùng nhưng cảnh sát đã xuất hiện ngay bên giường. Họ chuyển
Độ sang nhà tù dành cho thanh thiếu niên.
Chính ở đây Độ may mắn nhận sự giúp đỡ của
Trung Tâm Hy Vọng, là tổ chức thiện nguyện giúp phục hồi niềm hy vọng nơi người
ghiền ma tuý. Sau này Độ mới biết đó là tổ chức do linh mục Hoàng Tâm Phú (Haus
Stapelp) là thân hữu của phong trào Focolare điều khiển. Độ được an ủi nhiều do
bầu khí đón tiếp nồng hậu của Trung Tâm ngay tối hôm đầu tiên đến đó.
Độ sống chung với mười hai người trẻ khác, mà
Độ là người trẻ nhất, nhưng lại là kẻ cứng đầu nhất, luôn gây chuyện và chơi
khăm người khác, luôn hành động thiếu đắn đo.
Hãy còn có Chúa đón nhận con
Ba tháng sau người ta phải đưa Độ tới trung
tâm dành cho thanh thiếu niên ghiền nặng hơn. Chính ở đây Độ khám phá những
điều cơ bản nhất về bản thân. Lần đầu tiên Độ thốt lên lời than thở với Đấng em
gọi là Thiên Chúa nhưng thực ra chưa bao giờ em được học biết Ngài. Cha mẹ em
chỉ là người Công Giáo theo danh xưng mà thôi vì chưa bao giờ họ đi nhà thờ.
Vậy em đã xin Chúa cho em cơ hội để bỏ hút xì ke, đổi mới cuộc đời và nên giống
những người trẻ mà Độ biết là đã thành công theo lý tưởng sống vì người khác.
Quả thật, em đã được ban cho cơ hội giúp người
khác là Lâm Đình Ái (Claudio). Đó là một bạn trẻ mắc bệnh AIDS ngủ cùng phòng
với Độ. Bệnh nhân chỉ còn chờ chết, không thể tự mình lo lấy mình nữa. Ngày kia
Độ đã xin Chúa để được thấy dung mạo Chúa nơi dung mạo bệnh nhân trẻ này. Thế
rồi em được giao việc tắm rửa, cạo râu và giúp người bệnh này ăn uống. Điều em
không thể cắt nghĩa được là em nghiệm thấy sự sống mới đang lớn lên nơi tâm hồn
em nhờ mối tương quan sống động giữa em và Thiên Chúa.
Từ từ em khám phá ra nơi bản thân một tấm lòng
quảng đại như thuộc bản năng đang được triển nở. Những người chung quanh em khó
lòng tin được rằng điều gì đó thực sự đang xảy ra khiến em trở nên con người
khác trước kia. Chẳng hạn, buổi tối hôm ấy em muốn đưa lời Tin Mừng ra thực
thi, lời Tin Mừng mà Trung Tâm này sử dụng để chữa trị bệnh nhân, là "Hãy
làm cho người khác điều bạn muốn người khác làm cho bạn." Vậy tối hôm ấy
em sắp bàn tử tế, đặc biệt để mừng sinh nhật một bạn trẻ ở Trung Tâm. Khi bạn
ấy xuất hiện, em Độ đã niềm nở đưa bạn ấy ra ngoài và tặng chiếc áo mà chính Độ
rất thích mặc để diện.
Người nhận được quà cảm động đến rơi lệ khiến
Độ cũng rưng rưng hai hàng lệ. Đó là những con người chưa bao giờ nghiệm được
tình yêu Thiên Chúa, nay khám phá ra điều đó qua cử chỉ cho và nhận quà.
Em Độ nghiệm thấy ơn bình an như được gia tăng
mỗi khi em làm điều này điều kia cho người khác. Tự nhiên em sốt sắng tham dự
thánh lễ mỗi ngày.
Khi ấy em lên 17 và được giao việc chăm sóc
bệnh nhân mới được Trung Tâm tiếp nhận để chữa trị. Trong nhóm này có một người
đã 40 tuổi mà ai cũng nhìn nhận là người khó tính. Thế mà Độ đã thành công
trong việc chinh phục người ấy.
Nhiều lần Độ trở về thăm gia đình nhưng chưa
ai tỏ ra chú ý tới sự kiện là em không còn như trước nữa, kể cả mẹ em là người
đã quá khổ vì em. Nhưng lần kia người anh của Độ đã trách mắng Độ cách thậm tệ
trước mặt mọi người trong một cuộc họp mừng của gia đình. Người anh ấy rất ngỡ
ngàng thấy Độ điềm tĩnh khác thường. Hơn nữa, còn xảy ra là khi Độ dọn đồ mà
người anh ấy tỏ dấu ưa thích thứ thuốc thơm thoa xức sau khi cạo râu, em liền
tặng lọ thuốc đó cho anh ấy!
Cứ như vậy Độ tìm lại được tình thương của gia
đình để không còn phải trở về với Trung Tâm nữa. Nhưng quan trọng hơn vẫn là ơn
Chúa thúc đẩy lòng em khiến em được thanh lọc khỏi những đam mê hầu sống sự
sống hoàn toàn mới của Tin Mừng, để trở nên người hữu ích cho xã hội. Hiện em
sống bình thường trong nghề giáo viên.
8. Nước
Ta chỉ có trên thế gian này.
Ông Selma Lagerlop có viết một câu truyện như
sau: Ở thành La mã, trong một đền thờ dâng kính Đức Mẹ, gần đồi Capitole, có
một tượng Chúa Hài đồng rất đẹp. Chung quanh vòng hào quang có khắc câu Phúc âm
rằng: ”Nước Ta Chẳng Có Trên Thế Gian Này”(GA 18,38).
Một hôm, một phụ nữ thượng lưu, người Anh, tới
viếng đền thờ, và tượng Chúa Hài đồng đã lọt mắt bà. Bà liền nài nẵng chuộc cho
kỳ được. Khổ thay! Không ai đồng ý cả. Bà ta mới thuê thợ gọt một tượng khác,
giống y như tượng Chúa Hài đồng bà đã trông thấy. Rồi một hôm dùng thủ đoạn,
đem đổi lấy tượng thật.
Nhưng không biết là vô tình hay hữu ý, thay vì
viết vào vòng hào quang rằng “Nước Ta chẳng có trên thế gian này”, thì bác thợ
kia lại viết: “Nước Ta chỉ có trên trần gian này.”
Ít lâu sau, không hiểu tại sao, tượng thật
Chúa Hài đồng bỏ lâu đài của chủ mới, trở về đền thờ cũ lại như xưa.
Mưu mô bại lộ ra. Người coi đền thờ liền đem
tượng giả ném xuống chân đồi Capitole. Người phụ nữ kia, buồn tiếc, đi tìm, gặp
được và trở về nước với pho tượng giả, còn nguyên vẹn với vòng hào quang ngạo
mạn kia.
Từ ấy, tượng giả cứ chuyền tay nhau, người này
sang người khác, hết thành nọ đến thành kia…
Một hôm tượng ấy tới thành Paris. Quân Cách
mạng mới đem đi biểu diễn qua các đại lộ, và hiệu triệu dân chúng rằng: ”Nước
Ta chỉ có trên thế gian này. Hãy mau mau phân chia tài sản cho nhau, để mọi
người được bình đẳng vui sống. Nước Ta chỉ có trên thế gian này. Chết là sự đổ
vỡ vô phương cứu vãn”!
9.
Hoàng tử Alexis.
Truyện cổ Nga thuật lại rằng: Vào thời Trung
cổ, hoàng tử Alexis cũng như bao vua chúa khác sống trong cung điện nguy nga
tráng lệ, trong khi dân chúng chung quanh phải sống trong những khu xóm nghèo
nàn tồi tệ. Thế nhưng, Alexis rất hiểu nỗi cơ cực của thần dân và cảm thương
họ. Ông bỏ ra mỗi ngày một ít thời giờ để thăm họ. Nhưng, dù cố gắng đến đâu,
Alexis vẫn không thu phục được lòng yêu mến của thần dân. Vì thế, sau mỗi lần
thăm họ trở về, ông thấy lòng mình buồn rười rượi.
Ngày kia, có một người lạ mặt đi vào khu xóm,
ăn mặc đơn sơ, anh tự xưng là Bác sĩ, anh săn sóc những người già cả, bệnh tật.
Đặc biệt Bác sĩ không lấy tiền thù lao, và còn phát thuốc miễn phí cho thần
dân.
Bác sĩ ấy trở thành người của xóm nghèo, được
mọi nguời yêu mến kính phục. Ngày ngày, anh dàn xếp những cuộc cãi vã, tranh
giành, hoà giải những thù oán, và giúp đỡ họ sống đúng với phẩm giá con nguời.
Bác sĩ trẻ đó chính là Hoàng tử Alexis, người
đã bỏ cung điện giầu sang đến sống với thần dân nghèo khổ và trở nên bạn bè của
họ, để yêu thương săn sóc và phục vụ họ.
Đức Kitô thực sự là một vị Vua đầy uy quyền.
Ngài đã trở nên giống chúng ta, để yêu thương phục vụ chúng ta. Ngài đã phán:
”Con người không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống cứu
chuộc cho nhiều người.”
10. Chỉ
có Chúa là Vua
Lịch sử nước Anh có kể rằng hồi ấy, nước Anh
có một ông vua đạo đức tên là Cannut III. Ông là vua của một cường quốc, nên
chung quanh ông hay có những quan nịnh thần ton hót.
Một hôm trong một buổi triều yết, các nịnh
thần tâu: ”Thánh Thượng” là vua trên hết các vua, là chúa trên các chúa, có
quyền trên mặt đất và biển cả.
Nghe vậy nhà vua muốn cho họ một bài học, liền
mời tất cả đi ra bờ biển. Đứng trước đại dương, ông tuyên bố: ”Ta là vua trên
hết các vua, có quyền trên đất liền và trên biển cả. Vậy ta truyền cho sóng
biển không được trở tới.” Nhưng nước vẫn dâng lên, sóng vẫn trở tới làm ướt hết
áo cẩm bào của vua cũng như triều thần.
Nhà vua đi vào trong một thánh đuờng đến trước
tượng chuộc tội, lấy chiếc vương miện đội trên đầu Chúa và nói: ”Lạy Chúa, chỉ
có Chúa là Vua trên hết các vua, là Chúa trên hết các chúa.”
11. Đức
Hồng y Deschamps
Hồng y Deschamps, Tổng giám mục Mailines, khi
còn là thanh niên, đã có ý muốn học hành thật giỏi để đạt được một địa vị cao
trong hàng ngũ các quan chức triều đình. Một hôm, Deschamps đã được chứng kiến
lễ đăng quang lên ngôi vua cách long trọng của nhà vua Bỉ. Từ cửa sổ của một
nhà cao tầng, Deschamps chăm chú theo dõi diễn tiến của buổi lễ từ đầu đến
cuối. Có thể nói đấy là một buổi lễ hội vừa tưng bừng náo nhiệt với cờ xí và
biểu ngữ rợp trời, và tiếng trống dồn dập và tiếng kèn đồng thổi lên inh ỏi với
hàng vạn người đến tham dự.
Trọng tâm buổi lễ là nghi thức tấn phong hoàng
thái tử lên ngai vàng kế vị vua cha mới băng hà, với việc đội vương miện và
nhận phủ việt. Buổi lễ kết thúc bằng một cuộc diễn hành của hoàng gia cùng với
đoàn tùy tùng. Đoàn rước đi theo hàng đôi kéo dài cả cây số. Sau khi cuộc lễ
kết thúc, quảng trường trở lại bầu khí bình lặng như mọi khi. Deschamps tự nhủ
mình rằng: ”Thế là một ông vua đã qua đi.” Rồi được ơn Chúa kêu gọi. Deschamps
đã suy nghĩ nhiều ngày sau đó và cuối cùng đã quyết định như sau: “Tôi không
muốn phục vụ cho ông vua sẽ qua đi. Tôi muốn phục vụ ông vua tồn tại mãi mãi là
Vua Giêsu.”
Deschamps đã dứt khoát từ bỏ giấc mơ danh vọng
chức quyền thế gian như trước đây anh mơ tưởng, để xin gia nhập vào một dòng
khổ tu và khoác vào mình chiếc áo tu sĩ. Sau một thời gian tu học, thầy
Deschamps đã đuợc thụ phong Linh mục, rồi sau đó được tấn phong Giám mục và
cuối cùng được phong tước vị Hồng y Giáo chủ, trở thành niên tưởng của hàng
Giám mục Bỉ.
12. Pho
tượng Chúa Giêsu Vua.
Trên đỉnh ngọn núi Corovado ở Nam Mỹ, người ta
đã dựng một pho tượng Chúa Giêsu vua. Ở xa trông lại, du khách trông như pho
tượng chạm trời, vì tượng cao hơn 30 mét. Đứng sừng sững, bao quát cả một vùng
bát ngát mênh mông, pho tượng đã làm tăng thêm vẻ đẹp cho kinh thành Rio de
Janeiro, thủ đô nước Brasil.
Bạn thử nghĩ biết bao công phu mới dựng được
pho tượng ấy! Chuyên chở vật liệu từ chân lên đỉnh núi, sườn núi lởm chởm.
Nhưng người ta chưa thỏa mãn. Trong không trung đã có tượng Chúa Giêsu Vua,
người ta còn muốn dựng một pho tượng ở đáy biển để chứng tỏ vương quyền khắp
nơi của Chúa Giêsu
Tạo hóa hình như cũng chiều lòng người đã dành
cho họ một nơi đẹp đẽ để thực hiện ý tưởng cao qúi ấy. Ở biển Italia, không xa
Napoli, làn nước trong xanh, lăn tăn gợn sóng, chính chỗ đáy biển ấy người ta
đã chọn để dựng tượng Chúa Giêsu Vua. Biết bao công lao.
Có những tầu đánh cá nối đuôi nhau ra đó để
tung hoa chào mừng Chúa. Còn những tầu ngầm cũng lượn quanh viếng thăm Chuá.
Tuy nước trong đẹp nhưng rêu xanh thường rủ nhau đến bám tượng đá. Nên hằng năm
người ta phải tổ chức một cuộc cạo rêu và tắm rửa cho tượng.
13. Đức
Vua yêu một thôn nữ
Triết gia Kierkegaard người Đan mạch kể câu
chuyện về một vị vua yêu một thôn nữ. Ngài định cưới nàng nhưng có quá nhiều
trở ngại: tục lệ chỉ cho phép nhà vua cưới các công nương vương triều. Tuy
nhiên ngài lấy thế lực để coi thường truyền thống.
Nhưng một ý nghĩ khác nảy sinh: sự khác biệt
về địa vị khiến tương quan giữa hai người không tự nhiên, cô gái có thể thán
phục đức vua nhưng không thực sự yêu ngài: vua vẫn là vua nàng vẫn là thôn nữ!
Vua liền quyết định một kế hoạch khác, ngài từ bỏ ngôi vua để sống như một nông
dân, nhưng nếu như thế thì chàng nông dân này liệu có được nàng thôn nữ đó yêu
nữa hay không, hay lại mất cả chì lẫn chài?
Cuối cùng, vì quá yêu nàng, ngài liều bỏ mọi
sự để hai người được có một tình yêu đích thực và trọn vẹn.
Tác giả không cho biết câu chuyện kết thúc ra
sao, không cho biết cô gái ấy có chấp nhận tình yêu ấy hay ruồng bỏ đức vua, họ
có sống với nhau hạnh phúc hay không? Tác giả có lý vì thật ra đó không phải là
điểm chính yếu của câu chuyện. Điểm chính yếu là tình yêu của đức vua dành cho
người thôn nữ hèn kém này. Tình yêu lớn lao đến độ ngài dám từ bỏ vương quyền
và ngai báu vì nàng.
Câu chuyện chưa kết thúc, nó vẫn tiếp diễn.
Đây là một câu chuyện có thực về tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi người
chúng ta, câu chuyện có thực mà đoạn kết chưa được viết hay nói cho đúng không
ai viết thay cho chúng ta được, mỗi người chúng ta tự viết cho riêng mình xem
mình chấp nhận hay từ chối tình yêu của Thiên Chúa.
14. Thẻ
căn cước trong Vương Quốc Tình Yêu của Vua Giêsu:
Ngày 11/11/1951 trong một bài diễn từ, Đức
Thánh Cha Pi-ô 12 đã kể lại một giai thoại. Có một phụ nữ kia rất đạo đức,
nhưng sức khỏe quá yếu ớt. Cô ta bị chứng sưng màng phổi và rất khó thở. Lâu
lâu căn bệnh tái phát làm cô rất đau đớn. Nhưng cuối cùng cô cũng lập gia đình,
mang thai và chờ ngày sinh nở. Bất hạnh bất ngờ ập đến.
Căn bệnh năm xưa tái phát trầm trọng. Các bác
sĩ đề nghị phải hủy bỏ bào thai để cứu tính mạng cho bà mẹ. Người chồng cũng
đồng ý như thế. Nhưng mẹ bào thai sau khi cầu nguyện nhiều ngày đã kiên quyết
từ chối đề nghị của bác sĩ. Cô nói trong nước mắt: “Tôi không thể giết con tôi.
Con tôi phải sống, cho dù tính mạng tôi có ra sao đi nữa.” Cô ta chấp nhận tình
huống xấu nhất có thể xảy ra và phó thác hoàn toàn cho Chúa quan phòng. Cuối cùng
cô đã sinh được một bé gái kháu khỉnh, nhưng sau đó sức khỏe của cô ngày càng
suy kiệt. Hai tháng sau, người phụ nữ đã tắt thở, trên tay vẫn ôm chặt đứa con
mới sinh mà cô rất thương mến.
Hơn hai mươi năm trôi qua, người ta thấy một
nữ tu trẻ rất xinh đẹp đang ân cần chăm sóc cho các cháu bé mô côi trong một
trại tế bần. Vòng tay thân thương và cặp mắt long lanh của vị nữ tu sáng rực
lên nét yêu thương mà chị đã được di truyền từ chính người mẹ thân thương của
mình. Đó là người mẹ trẻ năm xưa đã chấp nhận hy sinh tính mạng để cho con được
sống.
Người mẹ can đảm này đã được Đức Thánh Cha
Gio-an Phao-lô II tôn phong lên bậc Chân Phước, bởi vì bà đã thực sự đi vào
Vương quốc tình yêu tiếp bước theo chân Đức Giêsu. Chính Thánh Giáo Hoàng
Gio-an Phao-lô 2 đã nói: “Một đất nước nào, một chế độ nào cho phép con người
sát hại lẫn nhau, thì đất nước đó, chế độ đó đang đi tới chỗ bị hủy diệt.” Đó
là một đất nước đi ngược lại hiến pháp của Vương quốc Giêsu. Sống trong Vương
quốc này, Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta phải sống với một nền văn minh mới, đó
là ‘nền văn minh của tình thương’.
Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta cũng đã từng nói: “Một
người mẹ nhẫn tâm giết chết con của mình, thì không còn một thứ tội ác nào mà
họ không dám làm.” Biết bao tội ác nhan nhản đang xảy ra trong xã hội hôm nay
vì người ta đang dần đánh mất đi thẻ ID (identity card) Nước Trời chứng minh
mình là công dân Nước Trời.
15.
Gương bác ái của Máctinô thành Tours công dân nước trời:
MÁC-TI-NÔ là một quân nhân Rô-mavà một Kitô
hữu. Một ngày mùa đông lạnh lẽo, khi ông đi vào một thành phố, có người hành
khất chặn ông lại xin bố thí, Mác-ti-nô không có tiền, nhưng khi thấy người
hành khất xanh xao và đang run rẩy vì lạnh, ông cởi chiếc áo khoác đã sờn rách
và dùng gươm xén một nửa chiếc áo khoác trao cho người hành khất. Tối hôm ấy
ông nằm mơ thấy thiên đàng có các thiên sứ bao quanh Vua Giêsu và trên mình
Người mặc phân nửa chiếc áo khoác của ông. Một thiên sứ hỏi Chúa Giêsu: “Tại
sao Ngài mặc nửa chiếc áo bị sờn rách đó? Ai đã cho Ngài?” Chúa Giêsu trả lời:
“Chính Mác-ti-nô, tôi tớ của Ta đã tặng cho Ta đó.”
Quả thật như bài Tin Mừng hôm nay Chúa đã xác
quyết: Ta bảo các ngươi: “những gì các ngươi đã làm cho một trong những anh em
bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Và Chúa
nói tiếp: “Hãy đến, hỡi những kẻ cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp
là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo thành vũ trụ. Vì khi ta đói,
các ngươi đã cho ăn, Ta khát, các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ, các ngươi
đã tiếp rước, Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc. Ta đau yếu các ngươi đã viếng
thăm, Ta bị tù đầy, các ngươi đã đến với ta”(Mt 25, 34-36).
Thật là hạnh phúc cho chúng ta, nếu được Chúa
nói với chúng ta như vậy trong ngày tận thế với tư cách là vị Vua Thẩm Phán để
xét xử kẻ sống và kẻ chết. Amen.
16. Đức
Giêsu Vua hoàn vũ
Elvis Aron Presley (1935–1977) được gọi là Vua
nhạc rock and roll, thường được tôn vinh Ông Vua nhạc rock, là một ca sĩ và
diễn viên người Mỹ. Tạp chí Rolling Stone từng viết “Elvis chính là rock 'n
roll” và phần lớn tác phẩm của Elvis là hoàn hảo. Trong suốt sự nghiệp ca hát
của mình kéo dài đến 2 thập kỷ, Elvis Presley đã lập và phá vỡ những kỷ lục về
lượng khán giả đến xem trình diễn, cũng như lượng đĩa nhạc được tiêu thụ.
Là một trong những tên tuổi nổi tiếng của làng
nhạc, Presley sống một cuộc đời xa hoa, phú quý. Nhưng hiếm ai biết, tuổi thơ
của anh rất thiếu thốn. Cậu bé Elvis sinh ngày 8/1/1935 trong một mái lều xiêu
vẹo ở Tupelo, Mississippi. Dù nghèo khó, thường phải ăn chỉ có độc bánh mì, nhưng
bù lại, gia đình chăm sóc Elvis Presley khá quy củ và cẩn thận. Cho đến tận năm
15 tuổi, bà mẹ vẫn phải đưa cậu đến trường, để ngăn không cho lũ trẻ chọc ghẹo
con bà. Đến sinh nhật 11 tuổi, Elvis lần đầu tiên được tiếp xúc với nhạc cụ, đó
là một cây guitare. Ban đầu, cậu tỏ vẻ hơi hậm hực vì cậu thèm được có một
chiếc xe đạp mới, hay một khẩu súng, nhưng dần già, Presley bị cây đàn cuốn hút
đến quên cả ăn ngủ.
Chỉ vài năm sau, trên các sân khấu bắt đầu
xuất hiện một anh chàng khá điển trai, biểu diễn hết mình, với những cú lắc
hông dữ dội, đầy gợi cảm. Lần đầu tiên được các thiếu nữ ở dưới khán đài reo
hò, la hét, Elvis đã băn khoăn hỏi ông bầu: “Liệu tôi có làm gì sai không mà bị
mọi người la dữ như vậy?” để rồi nhận được câu trả lời: “Dù anh có làm gì đi nữa,
thì tốt hơn cả là trở lại sân khấu ngay lập tức và tua lại màn trình diễn đó
đi!” Đến năm 20 tuổi, Elvis kiếm được hợp đồng ghi âm đầu tiên, trị giá chỉ có
30.000 USD, nhưng một năm sau, anh đã làm cả thế giới phải ngỡ ngàng, khi giành
liên tiếp ngôi vị quán quân ở các bảng xếp hạng và nhanh chóng trở thành triệu
phú.Trong thời gian ở Đức, Elvis làm quen với cô nàng Priscilla Beaulieu và sau
8 năm tìm hiểu, họ quyết định đi đến hôn nhân. Lấy vợ, anh trở nên “ngoan
ngoãn” hơn hẳn, và sau một lần tuyên truyền về tác hại của ma tuý, Elvis đã
được Tổng thống Mỹ Nixon trao tặng huân chương đặc biệt. Tuy nhiên, đang trong
thời kỳ đỉnh cao sự nghiệp thì Elvis bị bắt đi lính, và chàng thanh niên này đã
tỏ ra mình là một kẻ văn võ song toàn. Không chỉ giành tiếng vang trong lĩnh
vực nghệ thuật, anh còn được các đồng đội vị nể khi đoạt được đai đen Karatê.
Sau khi đi quân dịch, Presley lại trở về ánh
đèn sân khấu. Năm 1973, show hoà nhạc đặc biệt Elvis: Aloha From Hawaii, được
phát sóng trực tiếp trên 40 quốc gia, đã thu hút trên 1 tỷ người xem, thậm chí
còn nhiều hơn cả chương trình cuộc thám hiểm đầu tiên lên mặt trăng. Nhưng sau
sự kiện này, sức khoẻ của Elvis tụt dốc không phanh. Cuộc hôn nhân tan vỡ càng
làm ông Vua nhạc rock and roll lún sâu vào vũng lầy đen tối. Gần như không đêm
nào mà anh không phải dùng đến thuốc ngủ. Đến ngày 16/8/1977, ngôi sao sáng đã
tắt hẳn trên bầu trời âm nhạc, để lại bao nỗi thương tiếc cho fan hâm mộ.
(Wikipedia)
Hôm nay Giáo Hội long trọng mừng lễ Chúa Kitô
Vua. Vị Minh Quân Giêsu vô cùng vĩ đại, cao sang và trường cửu, không ồn ào,
hào nhoáng, phô trương, cũng chẳng phù phiếm như Vua Rock kia. Vì Người là Đức
Vua Tình Yêu, Đức Vua Công Chính, Đức Vua Bình An. “Nhờ Người, vạn vật được tạo
thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành
ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.” (Ga 1, 3 - 4)
17.
Quốc vương Thái lan sống vì dân
Quốc Vương Thái Lan đã đi vào huyền thoại như
người dân kể lại: “nhà vua làm kênh rạch, nên có nước về ruộng đồng. Nguồn nước
này đến từ đập Pa Sak Jolasid do chính vua Bhumibol trực tiếp thực hiện.
- Khi mới lên ngôi năm 1950, từ đó năm nào đức
vua cũng tự tay lái xe jeep, với hoàng hậu Sikirit bên cạnh, đi tổng cộng
50.000 km, tới những nơi hẻo lánh, xa xôi để quan sát đời sống người dân còn
khốn khó. Trong tâm trí của những người dân Thái, nhà vua là một người thân
thiện, với cuốn sổ và chiếc bút trên tay, luôn lắng nghe những người nghèo khổ
để thay đổi cuộc sống của họ.
Quốc vương lập ra dự án của hoàng gia, xúc
tiến các kỹ thuật gieo hạt tân tiến. Năm 1971, nhà vua đưa ra các biện pháp
giúp người dân giải hạn, đào kênh rạch để trữ nước và phân phối nước cho ruộng
đồng.
- Đức vua đã biến cung điện Chitralada rộng
lớn của mình thành tổ hợp trang trại, cánh đồng, nhà máy chế biến - nơi nhà vua
có thể tiến hành nhiều thí nghiệm và thực hiện hàng loạt các đề án về nông
nghiệp. Từ đây, hơn 2.000 đề án do chính nhà vua khởi xướng đã được triển khai
trên toàn quốc, cải thiện điều kiện sống của dân nghèo ở nông thôn.
- Vào năm 1997, chính đức vua đã ký sắc lệnh
sửa đổi Hiến Pháp, theo đó đức vua không còn là người bảo hộ đạo Phật là quốc
giáo của Thái Lan. Bản thân đức vua là người Phật Tử nhưng lại bảo hộ cho tất
cả các tôn giáo khác, kể cả cộng đồng Hồi Giáo là người thiểu số ở miền nam
Thái Lan, nơi thường xảy ra các cuộc xung đột. Điều này đã giúp cho ngài không
chỉ được tín đồ Phật Giáo ngưỡng mộ mà cả người đạo Hồi cũng phải kính nể và
khâm phục.
18. Mọi
người là anh em với nhau
Vương quốc Fanxica là một đất nước thái bình,
thịnh vượng. Nhà vua và hoàng hậu lại có diễm phúc sinh được hai hoàng tử khôi
ngô tuấn tú, văn võ song toàn và có khí phách dũng cảm của bậc anh hùng. Hai vị
hoàng tử nầy lại thương yêu hoà hợp với nhau, đêm ngày gắn bó với nhau như hình
với bóng.
Trong khi đó, vua nước láng giềng tên là
Faroux, là một người cực kỳ nham hiểm và ác độc, nuôi mối căm thù truyền kiếp
với vua Fanxica. Lòng căm thù của ông lại càng dâng cao khi thấy vua Fanxica có
hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, vũ dũng hơn người, trong khi mình thì không có
lấy một mụn con. Vì thế, ông rắp tâm hạ sát hai vị hoàng tử kia cho bằng được.
Vua Faroux biết hai vị hoàng tử thường hay vào
rừng săn bắn, nên vua cho người mai phục, giăng bẫy bắt được hoàng tử em là
Faram.
Sau khi hay tin em mình mất tích trong rừng,
hoàng tử anh một mình một ngựa xông xáo vào rừng tìm em. Không ngờ chính anh
cũng bị vua Faroux giăng bẫy bắt được.
Tên vua độc ác giam hai anh em vào hai ngục
tối biệt lập nên hai hoàng tử không hề hay biết gì về số phận của người kia.
Theo thông lệ hàng năm, vào dịp sinh nhật của
vua, vua cho tổ chức những cuộc quyết đấu giữa những con ác thú, để chúng phanh
thây xé xác nhau làm trò vui cho quan quân và dân chúng.
Năm nay, thay vì cho ác thú đấu nhau, nhà vua
ác độc bắt hai tù nhân vạm vỡ khoẻ mạnh, mỗi người mang một bộ da sư tử trên
mình, đeo thêm mặt nạ sư tử, và buộc họ phải quyết đấu cho đến khi một trong
hai người phải chết. Ai sống sót sẽ được trả tự do.
Cả đấu trường hò la vang dậy khi quân lính dẫn
hai đấu thủ mặc lốt sư tử bước ra. Với thanh mã tấu trên tay, hai con người lốt
sư tử xông vào nhau chiến đấu vô cùng ác liệt như hai ác thú say mồi. Đám đông
cổ võ hò la vang trời dậy đất.
Cuộc chiến kéo dài hơn cả tiếng đồng hồ mà vẫn
bất phân thắng bại. Cả hai đấu thủ mệt nhoài, mình mẩy hai người đều đầy thương
tích máu me, nhưng không ai chịu nhường ai. Mỗi người đều dốc hết toàn lực để
hạ đối thủ, để dành sự sống, để được trả tự do, để khỏi làm nô lệ suốt đời. Chỉ
có chiến thắng hay là chết!
Thế rồi đấu thủ cao người hơn lao tới như báo
vồ mồi, vung đao chém xoạc mặt đối phương, làm rơi mặt nạ sư tử, để lộ ra một
khuôn mặt... rất thân quen!
Anh kinh hoàng tột độ! Thanh mã tấu trên tay
rơi xuống. Anh giật bỏ mặt nạ của mình ra. Hai người ồ lên kinh ngạc. Họ bàng
hoàng nhận ra nhau. Không ai xa lạ, họ chính là hai anh em ruột thịt, hai hoàng
tử con vua Fanxica bị vua Faroux bắt cóc.
Họ lao vào nhau, ôm chầm lấy nhau khóc nức nở.
Họ đâu ngờ rằng đối thủ mà họ quyết tâm tiêu diệt cho bằng được lại là người
anh em rất thân yêu.
Nước mắt tuôn tràn hoà chung với máu. Hai con
người bầm dập, mình mẩy đầy máu me ôm nhau khóc tức tưởi. Khóc vì đã coi nhau
như kẻ thù, đã đấu tranh với nhau như ác thú; khóc vì đã gây cho nhau bao vết
thương đau. Họ vẫn đứng đó, ôm nhau khóc tức tưởi trước hàng ngàn cặp mắt bàng
hoàng kinh ngạc của mọi người.
19. Hậu
vận của những người chống lại vương quyền của Chúa
Mừng kính lễ Thiên Vương Giêsu Kitô là dịp để
chúng ta xét mình một cách nghiêm túc hơn, xem mình đã thực sự là tín dân của
Ngài hay chưa. Và xin được kể vài chuyện có thật đã xảy ra với những kẻ vô
thần, dám coi thường Thiên Chúa:
1. John Lennon, ca sĩ của ban nhạc nổi tiếng
The Beatles của Anh quốc. Trong lúc được tạp chí American Magazine phỏng vấn,
John Lennon nói: “Thiên Chúa Giáo sẽ không còn, sẽ biến mất. Tôi không có gì
phải tranh cãi về điều đó. Tôi chăc chắn như thế. Ông Giêsu thì được, nhưng
những kẻ theo Ông thì quá ngây ngô! (Ý muốn nói là bị Ông Giêsu lừa gạt). Ngày
nay, chúng tôi, ban nhạc The Beatles nổi tiếng hơn Ông Giêsu” (1966). Sau khi
John Lennon tuyên bố lời trên đây, hắn bị bắn sáu lần. Không biết sau đó hắn có
ăn năn hay không, nhưng mọi người biết rõ là The Beatles đã “chết.”
2. Một nhà báo hỏi người thiết lập chiêc tàu
Titanic về sự an toàn của chiếc tàu, hắn nói: “Ngay cả Thượng Đế cũng không thể
đánh chìm được nó.” Kết quả ra sao, mọi người đã biết rõ: Vỡ đôi vì tảng băng
ngầm vào sáng ngày 15-4-1912 tại Bắc Đại Tây Dương!
3. Marilyn Monroe, diễn viên điện ảnh. Trong
một xuất trình diễn, cô được Billy Graham đến thăm. Bill Graham nói rằng Chúa
Thánh Thần sai ông đến để nói với cô. Nghe xong, Marilyn Monroe nói: “Tôi không
cần Giêsu của ông.” Một tuần sau, người ta thấy xác Marilyn chết cô đơn trong
một chung cư.
4. Năm 1954, sau khi chiếm miền Bắc, một toán
công an cộng sản vào nhà dòng kín Bùi Chu lục soát. Khi đến Nhà Nguyện, lúc các
nữ tu đang chầu Mình Thánh, một tên cộng sản lớn tiếng la lối: “Chúa của các
người ở đâu?” Nữ tu chỉ Nhà Tạm trên bàn thờ, tên này lấy súng mang trên người
nhắm Nhà Tạm. Hắn bắn vỡ chén thánh và Mình Thánh Chúa đổ ra vương vãi. Bắn
xong, hắn vẫn đứng yên, chĩa súng vào Nhà Tạm như muốn bắn tiếp. Các nữ tu vô
cùng đau lòng vì Mình Thánh Chúa bị xúc phạm, nên quỳ xuống, van xin anh đừng
bắn nữa, nhưng khi chạm đến anh, các nữ tu mới biết linh hồn hắn đã lià khỏi
xác từ lúc nào rồi: Hắn chết đứng!
5. Năm 1963, sau khi Tổng thống Ngô Đình Diệm
bị một số tướng tá phản bội lật đổ, một số người bên lương tràn vào Tòa tỉnh
trưởng Thừa Thiên (Huế), đập phá “tàn tích gia đình trị.” Khi thấy bức tượng
Thánh Gioan Tẩy Giả, quan thầy của Tổng thống Diệm, một thanh niên trèo lên vác
búa đập vỡ mặt mũi bức tượng, nhưng hắn bị trật chân ngã xuống và chết ngay lập
tức. Sự kiện này xảy ra trước mắt nhiều người chứng kiến.
6. Voltaire là kẻ chống Thiên Chúa và đánh phá
Hội Thánh Công Giáo rất quyết liệt. Không một lời gian dối và vu oan nào mà ông
tởm gớm. Ông chiêu tập một nhóm lấy tên là “Beelzebub” (Bê-en-dê-bun, tên của
tướng quỷ). Năm 1753, ông đã lên án Thiên Chúa: “Hai mươi năm nữa Thiên Chúa về
hưu, vì không còn ai phục vụ Ngài.” Đúng hai mươi năm sau, năm 1773, Voltaire
tắt thở vì chết thê thảm. Ông đã thấy những hình ảnh làm ông run sợ và hét lên:
“Một bàn tay đang kéo tôi xa Thiên Chúa... Qủy bắt tôi... Tôi trông thấy hỏa
ngục.” Ông tru tréo như thú vật hung dữ. Ông lấy móng tay cấu xé thịt mình ra
từng miếng. Một bà già thường giúp người hấp hối, sau khi chứng kiến cái chết
của Voltaire, đã nói: “Khi ấy tôi ở gần giường của Voltaire đang hấp hối, tôi
không muốn nhìn thấy một người vô đạo chết nữa.” Một người khác chứng kiến cái
chết của Voltaire cũng nói: “Nếu quỷ có thể chết được, cũng không chết dữ như
Voltaire.”
20. Làm
tôi là cai trị
Sách gương Chúa Giêsu đã nói: Làm tôi Thiên
Chúa là cai trị!
Chúng ta đang đi theo và làm theo gương của
một Vị Vua chẳng giống ai, mà đúng là một vị vua chẳng giống ai thật đấy!
- Vua Hòa Bình gì mà khi đến làm vua vũ trụ
này, lại phải nằm rét rum như cầy sấy trong hang bò lừa tạm trú, tới nỗi khiến
cho Ba Đạo Sĩ vô cùng ngạc nhiên khi thấy Ngài, sau những ngày đêm lần mò đầy
nguy hiểm chống gai vất vả đi tìm để bái thờ .
- Vua gì mà không có lấy một thằng lính để bảo
vệ hộ tống cho, còn thảm tới nỗi chỉ cần mấy thằng lính quèn của Hêrôđê đuổi
thôi, cũng đã phải chạy tóe khói bán sống bán chết sang mãi tận bên Aicập để
lánh nạn và tìm miếng ăn kiếm sống qua ngày.
- Vua gì mà bị trói và bị thẩm vấn trước mặt
Philatô mà không một lời biện hộ và cũng chẳng cần một ai biện hộ cho. Vua gì
mà suốt ba năm trời vất vả đi chiêu mộ được 12 tông đồ gọi là trung thành sống
chết với mình, thế mà khi thấy Thầy bị bắt, thì ôi thôi, các môn sinh đã từng
gắn bó nằm gai nếm mật, đã cao xa bay chạy mỗi người một phách, để Thầy mình
muốn ra làm sao thì kệ mặc Thầy.
- Vua gì mà chẳng giống ai, lại còn tuyên bố:
Tôi sinh ra để làm Vua, Tôi đến thế gian này cũng không ngoài mục đích đó.
Vâng, đúng rồi, chính nhờ Vua không giống ai
này mà Ngài đã thực sự là Vua từng cõi lòng chúng ta và nhờ Chức Vua của Ngài
đó mà chúng ta mới được cứu độ và được lên Thiên Đàng đấy, bạn và tôi ạ!
21.
Không nhận ngai vua
Martin Caphu là người Bangla thuộc Cameroun
Phi châu. Cha anh là quốc vương Bangla. Từ thiếu niên, anh đã quen với phong
trào Tổ Ấm, một tổ chức Công giáo làm việc xã hội ở Phi châu. Thấy các thành
viên Tổ Ấm xả thân giúp đỡ người đồng loại, anh Caphu rất cảm phục, và tới năm
1963, vào lúc mười bảy tuổi, anh xin trở lại Công giáo. Sau khi tốt nghiệp
Trung học, anh được gia đình gởi về Rôma học nghành điện tử. Đậu tiến sĩ xong,
anh Caphu gia nhập phòng trào Tổ Ấm.
Năm 1980, cha anh qua đời, và theo chúc thư,
ông đã chọn Caphu kế vị ngai vàng. Caphu vội vã trở về Bangla, anh họp cả sắc
tộc lại và xin mọi người đề cử người khác làm vua. Còn anh, anh muốn dành cả
cuộc sống làm việc xã hội theo tinh thần Kitô giáo. Và mọi người đã đồng ý. Có
phải đúng là anh Caphu đã rất hiểu và đã cam đảm sống tinh thần làm vua mà Chúa
Kitô Vua không, thưa bạn? Và ngày hôm nay, từ giây phút này, Ngài cũng đang lên
tiếng kêu mời bạn và tôi tiếp tục công trình làm vua bằng cách phục vụ người
khác như một người đầy tớ đối với ông chủ là tha nhân đấy!
22. Ai
thuộc về sự thật thì nghe tôi
Thánh Gioan Cantio sinh tại Ba lan năm 1390.
Khi còn là một cậu bé, ngài tỏ ra thông minh và tử tế. Khi làm linh mục, ngài
dạy Kinh Thánh tại đại học Cracow và cũng làm cha sở mấy năm.
Người ta nhớ sự thông thái và lòng nhiệt thành
của ngài đối với người nghèo khó. Người đã đi bộ hành hương Roma đến bốn lần,
đeo hành trang trên lưng. Một lần trong cuộc hành hương, bọn cướp lấy bóp của
ngài, hỏi ngài còn tiền không. Vị thánh trả lời ngài chỉ có bấy nhiêu, bọn cướp
cho ngài đi.
Đi được một quãng xa, ngài nhớ ra mấy miếng
vàng giấu trong gấu áo. Ngài vội vàng trở lại, đưa vàng cho bọn cướp, năn nỉ
xin họ tha thứ cho ngài vì ngài đã nói dối họ.
Bọn cướp ngỡ ngàng, lặng thinh và lấy làm
thích thú, bọn chúng trả lại cho ngài tất cả tiền nong đã lấy của ngài.
23. Gặp
Chúa Giêsu
Thầy Brian Morton có kể lại câu chuyện sau
đây:
“Một nữ tu trẻ khởi sự ngày đầu tiên làm việc
trong một bệnh viện địa phương. Sơ rất lo lắng. Sơ thấy những người hấp hối nằm
trên các giường bệnh. Sơ thấy các sơ khác đang đi từ giường này sang giường
khác, rót nước ở chỗ này, phát thuốc ở chỗ kia.
Bất thình lình Mẹ Têrêxa đến bên sơ, mỉm cười
và nói: “Này chị, đến với tôi. Tôi muốn chị gặp một người.” Nữ tu trẻ đi theo
Mẹ Têrêxa. Chẳng mấy chốc họ đến bên một cái giường nằm ở góc xa nhất của khu
nhà. Nằm trên giường là một ông lão gầy giơ xương. Đôi mắt của ông sâu hoắm.
Đầu ông cao trọc. Ông chỉ còn một cái răng duy nhất trong miệng.
Mẹ Têrêxa ôm khuôn mặt của ông lão trong đôi
bàn tay của mình và quì xuống bên giường. Mẹ gọi người nữ tu trẻ tuổi: “Chị
Anna, tôi muốn chị gặp Chúa Giêsu.”
Chúng ta cần mời gọi Chúa Kitô đến cư ngụ
trong chúng ta để những qui tắc, lối sống của Người trở thành qui tắc vào lối
sống của chúng ta. Chúng ta cần Người đến sống trong và với chúng ta để chúng
ta hành động, ứng xử như Người. Chúa Kitô đang sống trong mỗi người chúng ta.
Và chúng ta phải để cho Chúa hướng dẫn chúng ta nhìn thấy sự hiện diện của Chúa
trong những người chung quanh chúng ta.
24.
Hoàng tử và người nghèo
Mark Twain viết trong cuốn “The Prince and the
pauper, Hoàng tử và người nghèo” về hai người con trai sinh ra tại Anh quốc.
Người con trai thứ nhất thì được sinh ra trong hoàng gia và trở nên Hoàng Tử
Wales. Sự chào đời của Hoàng Tử được diễn tả: “Anh quốc đã chờ đợi, hy vọng, và
cầu nguyện cho ông ấy, và bây giờ thì ông ấy đã chào đời. Tất cả mọi người đều
vui mừng... Mọi người giàu cũng như nghèo đều nghỉ lễ ca hát tưng bừng.”
Cùng ngày đó, một cậu bé trai khác tên là Tom
Canty đã chào đời trong một gia đình nghèo túng và lụp xụp tại London: “Nó là
một đứa bé mà không ai muốn.” Không một ai trông đợi sự ra đời của nó. Không
một ai hy vọng hoặc cầu nguyện cho nó. Khi nó chào đời thì không ai ca hát hoặc
mừng rỡ cho nó.
Cả hai đều lớn lên trong hai hoàn cảnh khác
nhau. Cả hai đều lớn lên với cái nhìn khác nhau về thế giới. Tuy nhiên, điều
giống nhau giữa hai đứa bé đó là chúng đều lớn lên trong vui tươi, rạng rỡ, và
hăng hái mà chúng ta có thể nhìn thấy ở nơi những đứa con trai khác.
Một ngày nọ, Tom Canty đứng ngoài cửa cung
điện. Nó rất ngạc nhiên do sự huy hoàng của cung điện. Khi nó tiến đến gần cánh
cửa để có thể nhìn cho rõ hơn thì bất chợt nó bị hai tên lính bắt nó và quăng
xuống đất.
Cùng một lúc đó, vị hoàng tử trong cung nhìn
thấy thảm cảnh của Tom liền chạy đến bênh đỡ. Sau đó, các tên lính canh rất
ngạc nhiên khi họ nhìn thấy hoàng tử đã mời Tom vào trong cung điện để thăm
quan.
Sau đó, hoàng tử nảy ra một ý kiến là tráo đổi
cuộc sống của nhau. Hoàng tử thì mặc quần áo rách rưới của Tom, và đi thang
lang qua các ngõ hẻm nghèo nàn với những người nghèo khổ. Còn Tom thì mang bộ
đồ hoàng gia và vàng ròng.
Sau một thời gian, khi hoàng tử trở về hoàng
cung thì bị lính chận lại. Khi hoàng tử cố gắng kể về thân phận thật sự của
mình họ không tin và đã tóm cổ hoàng tử giam trong nhà tù.
Để rút ngắn câu truyện, khúc kết của câu
truyện đó là mọi sự đều được sáng tỏ. Tuy nhiên, trong tiến trình đó, một điều
quan trọng đã xảy ra. Sau cái lần đi vào những nơi nghèo khổ, hoàng tử đã học
được bài học đầu tiên thế nào là sống nghèo khổ, thế nào là bị chà đạp, thế nào
là bị đối xử bất công. Sau đó, hoàng tử đã được trở thành một ông vua. Một ông
vua nhân từ và được nhiều người mến chuộng nhất trong suốt thời kỳ hoàng tộc
nước Anh.
Câu truyện Hoàng Tử và Người Nghèo thì cũng
giống như câu truyện về Chúa Giêsu và mỗi người chúng ta. Chúng ta những đứa
trẻ nghèo khổ, còn Chúa Giêsu là hoàng tử, được tiền định là Vua của tất cả tạo
vật.
25.
Vương quyền của Giêsu
Nét đặc sắc của vương quyền nơi Ngài chính là
tinh thần phục vụ:
- Con Người đến để phục vụ và hiến mạng sống
mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Nơi khác Ngài cũng xác quyết:
- Thày sống giữa anh em như kẻ hầu bàn.
Ngài làm vua bằng cách cúi xuống để rửa chân
cho các môn đệ. Và hành động phục vụ cao cả nhất chính là cái chết trên thập
giá. Nhưng cũng chính nhờ cái chết này mà Ngài được tôn vinh:
- Ngày nào Thày bị treo lên khỏi đất, Thày sẽ
kéo mọi sự lên cùng Thày.
Và thánh Phaolô đã xác quyết:
- Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên
thập giá, nên Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài lên, tặng ban một danh hiệu vượt trên
mọi danh hiệu.
Với chúng ta thì sao? Một khi tuyên xưng Đức
Kitô là vua, chúng ta cũng phải thực thi tinh thần phục vụ của Ngài. Đây cũng
chính là điều Ngài mong muốn:
- Nếu các con gọi Ta là Thày và là Chúa mà Ta
còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.
Nơi khác Ngài cũng xác quyết:
- Vua chúa trần gian thì lấy quyền hành mà
thống trị họ. Còn các con thì không như thế, ai trong các con muốn làm lớn, thì
hãy trở nên rốt hết và làm tôi tớ cho mọi người.
Chính nhờ tinh thần phục vụ này mà chúng ta
trở nên ánh sáng, trở nên muối mặn, trở nên men bột, hầu góp phần làm cho nước
Chúa được trị đến.
26.
Người xét xử bị xét xử
Hãy lấy trường hợp của Louise Woodward, một
người Anh 19 tuổi mà ban bồi thẩm ở Massachusetts tin rằng năm 1998 cô đã giết
chết một em bé tám tháng tuổi, Matthen Eappen được giao cho cô chăm sóc. Nhưng
nhiều người theo dõi vụ án đã tin rằng công lý đã mắc sai lầm. Người ta cho
rằng cô đã giết em bé vì lầm thuốc. Nhưng đây chỉ là sự nghi ngờ hợp lý và ban
bồi thẩm khó có thể tìm ra bằng chứng giết người – Đoàn luật sư được kêu gọi
chống lại bản án cho cô.
Lúc đầu vụ án, Louise là một bị cáo. Nhưng giờ
đây mọi tập trung đều hướng về quan tòa Hiller Zobel, ông đã xem lại bản án.
Trong lúc chờ đợi quyết định của ông, nhiều câu hỏi được đặt ra về tính cách
của ông. Người ta nói rằng ông là người có tư tưởng độc lập. Một người không bị
dư luận làm dao động hoặc nhượng bộ một áp lực. Bản án ông đang đi đến sẽ cho
biết những nhận xét ấy về ông có đúng hay không. Giờ đây, chính quan tòa Zobel
đang được xét xử.
Sau khi cân nhắc cẩn thận Zobel thay đổi bản
án của ban bồi thẩm là giết người mức độ hai thành tội ngộ sát. Vâng một em bé
đã chết và Louise đã bị khiển trách về cái chết ấy. Nhưng cô không phải là kẻ
sát nhân. Và khi cô đã phục vụ mười bảy tháng trong nhà tù. Cô được trả tự do.
Trong con mắt của những quan sát viên trung lập, bản án của ông là đúng đắn. Từ
vụ đó, danh tiếng của quan tòa Zobel được nâng cao. Ông đã chứng tỏ là một
người quan tâm đến công lý với tất cả sự nhiệt thành.
Hình ảnh của cảnh tượng trong Tin Mừng hôm
nay. Đơn độc và không vũ khí, Đức Giêsu đứng trước Philatô trong vụ xử liên
quan đến mạng sống của Người. Người đã bị những người Do thái kết án gây ra xáo
trộn trong dân, và nói với họ đóng thuế cho xê-da là sai lầm.
27.
Vương miện dành cho người xứng đáng
Vào thời Thập tự viễn chinh nhằm bảo vệ Thánh
địa và bảo đảm an ninh cho khách hành hương, vua Philip nước Pháp làm một cử
chỉ lạ thường, trước mỗi lần lên đường ông cho tháo triều thiên đang đội trên
đầu rồi đặt lên bàn với hàng chữ: Triều thiên này dành cho người nào xứng đáng
nhất. Sau đó ông quy tụ các tướng lãnh trước mặt ông và yêu cầu họ hãy quên ông
là vua, là chỉ huy của họ, ông chỉ vào vương miện trên bàn và nói với mọi người
rằng: “Vương miện này dành cho ai tỏ ra xứng đáng nhất trong cuộc chiến đấu.”
Cuộc viễn chinh đã hoàn tất cách vẻ vang, mọi
người hát khúc khải hoàn trở về tụ tập lại xung quanh chiếc vương miện, và một
vị tướng lãnh tiến lại cầm vương miện đội lên đầu vua: “Tâu bệ hạ, bệ hạ là
người xứng đáng nhất để đội triều thiên này.”
28. Vua
sự thật
Oliver Cromwell, chính trị gia và nhà quân sự
kiệt xuất của nước Anh, nhờ một hoạ sĩ vẽ một bức chân dung cho ông.
Khi bức tranh hoàn thành, Cromwell xem bức
tranh và thấy hoạ sĩ đã vẽ ông đẹp hơn thực tế, như bỏ qua những mụn cơm trên
mặt ông.
Cromwell không chịu nhận bức chân dung đó, và
đòi hoạ sĩ phải vẽ một bức khác y như thật, kể cả những vết sứt sẹo trên mặt
ông.
Trong thực tế cuộc sống, người ta bị cám dỗ
trốn tránh sự thật, để nên nô lệ cho một ý thức hệ, một trào lưu, một quan điểm
nào đó về cuộc sống; lại nữa, sự sống và ơn cứu độ tự nó là thực tại vượt quá
tầm trí hiểu con người. Làm sao đến đích được nếu đi sai đường?
Thế nên, ít khi Đức Kitô dùng những kiểu nói
của toán học vì ngôn ngữ nào của nhân loại cũng lúng túng trước những sự thật
phong phú, kỳ diệu của cuộc sống bình thường, nói chi đến mầu nhiệm về sự sống
siêu nhiên: “Nước Trời giống như chuyện hạt cải... gieo trong ruộng... giống
như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba thúng bột” (Mt 13,31.33).
Chúa đã nói: “tư tưởng của Ta không phải là tư
tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta (…)
Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các
ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is
55,8-9). Vì thế mà “Đức Giê-su dùng dụ ngôn mà nói với đám đông; và Người không
nói gì với họ mà không dùng dụ ngôn” (Mt 13,34-35).
Có thế mới hay tầm mức quan trọng của những
công bố mang tính toán học, không thể hiểu khác đi, trong lời Đức rao giảng của
Kitô: “Ta là đường, là sự thật và là sự sống; Này là Mình Ta, này là Máu Ta...
”; nhất là khi đứng trước Philatô, người thẩm định sự thật đại diện cho nhân
loại, Đức Kitô nói rõ về vai trò cứu thế, đứng đầu một vương quốc của Ngài:
“Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai
đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 14,6;18,37)
29. Sự
thật giải thoát
Bob Evans bị mù từ bẩm sinh. Đến năm mười lăm
tuổi em được giải phẫu và thị lực của em bắt đầu hoạt động bình thường như mọi
người. Lần đầu tiên em được nhìn thấy mọi vật.
Tâm trạng của Evans trở nên hết sức khác
thường khi được nhìn thấy. Cả thế giới đều biến đổi ngoài sức tưởng tượng.
Trong một cuộc trả lời phỏng vấn của báo chí, Evans đã nói: “Tôi không thể chờ
đợi cho đến khi thức dậy vào buổi sáng mới xem những gì tôi có thể nhìn xem.
Thực là một điều rất kỳ diệu trên đời. Ban đêm, tôi nhìn lên những vì sao lấp
lánh... Hầu như lúc nào tôi cũng thấy lòng mình lâng lâng. Quý vị có lẽ không
thể biết được đối với tôi, vạn vật tuyệt vời như thế nào.”
Cũng thế, trong cùng một thế giới, Đức Kitô đã
thay đổi tất cả bằng cách làm chứng cho sự thật về sự phù ảo của thế gian và sự
thật về sự sống vĩnh cửu cho ai tin vào Chúa.
Sự thật đó thực sự đem lại ơn giải thoát cho
người tin: “Quả vậy, chúng ta đã không mang gì vào trần gian, thì cũng chẳng
mang gì ra được. Vậy nếu có cơm ăn áo mặc, ta hãy lấy thế làm đủ” (1Tm 6,7-8);
vì “thế gian đang qua đi, cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn của
Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi” (1Ga 2,17).
Đó là Tin Mừng Đức Kitô mang lại cho nhân loại
đang bơ vơ vất vưởng giữa đời. Tôi có đang sống trong niềm vui và bình an
không, hay nói cách khác, tôi có lắng tai và nghe được tiếng Chúa không?
30. Gặp
vua của sự thật
Bảo Đại là vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn và
cũng là vị vua cuối cùng của Việt Nam. Nếu những vị vua đầu của triều Nguyễn,
nhất là Minh Mạng và Tự Đức đã cấm Đạo Chúa gắt gao, sát hại biết bao người
Công Giáo, thì vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn là Bảo Đại đã tìm ra nguồn sống
thật là Đạo Chúa.
Trước hết, ông dẹp bỏ tục đa thê trong triều
đình và quyết định cưới cô Maria Têrêxa Nguyễn Hữu Thị Lan, một thiếu nữ Công
Giáo làm hoàng hậu. Mọi người trong triều đình phản đối quyết định này của nhà
vua, nhưng ông vẫn cương quyết thực hiện. Hôn lễ được tổ chức long trọng vào
ngày 20/3/1934. Quả thật, những năm tháng sau đó, hoàng hậu Nam Phương cùng hai
hoàng tử và ba công chúa được tự do giữ đạo.
Trong thời gian sống lưu vong tại nước Pháp,
vào ngày 17/4/1988, cựu hoàng Bảo Đại đã xin chịu phép rửa tội gia nhập đạo
Công Giáo. Ông mơ ước được quỳ bên cạnh đấng kế vị thánh Phêrô để cầu nguyện
cho quê hương Việt Nam và Giáo Hội Việt Nam. Ngày 24/6/1995, ông và phu nhân đã
được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tiếp kiến riêng tại phòng khách của điện
Vatican. Ngày 1/8/1997, cựu hoàng Bảo Đại qua đời tại Paris, nước Pháp, thọ 83
tuổi.
Câu chuyện về cuộc đời của vị vua Việt Nam
cuối cùng làm cho chúng ta phải suy nghĩ: một vị vua đã mất cả đời để đi tìm
một vị Vua… Đúng thế, cuộc đời đầy sóng gió của vua Bảo Đại chính là một cuộc
hành trình dài đi tìm chân lý. Đến cuối cuộc hành trình, ông đã gặp gỡ được Đức
Kitô, Vua Sự Thật.
31. Ai
là vua của bạn?
Vào năm 1925 Đức Giáo Hoàng Piô XI thiết lập lễ
tôn kính Đức Kitô Vua, lễ này được đặt vào ngày chúa nhật cuối tháng 10. Giáo
Hội qua nhiều thế kỷ đã tôn kính Đức Kitô như là Vua trong cuộc rước vào ngày
Lễ Lá nhưng Đức Giáo Hoàng thấy có nhu cầu thiết lập một lễ đặc biệt, để chống
lại chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa vật chất của kỷ nguyên này. Trong xứ sở Hoa
Kỳ, kỷ nguyên được gọi là tiếng gầm thứ hai mươi.
Đức Giáo Hoàng Piô XI đã đặt lễ vào Chúa nhật
cuối tháng 10 và tiếp đó là lễ Các Thánh. Sự nhận biết của phụng vụ mừng các
môn đệ đã bước vào trong vương quốc trên trời. Công đồng Vatican II đã đổi mới
và chuyển lễ Kitô Vua vào chúa nhật cuối năm phụng vụ như đặt một biểu hiệu của
vương quốc, mặc dầu đang hiện diện giữa chúng ta và vẫn còn đang đến: “Chúng ta
chờ đợi trong niềm hy vọng vui mừng ngày Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta
sẽ đến.” Đấng sẽ mang lại vương quốc của Ngài tới sự hoàn hảo khi Ngài trở lại
trong vinh quang cho ngày Phục Sinh chung.
Theo sắc lệnh của Đức Giáo Hoàng Piô XI vào
năm 1925 liên quan đến Đức Kitô Vua, Ngài muốn làm cho cả thế giới chú ý tới
nhu cầu thiết lập những giá trị tinh thần như là những hướng dẫn cho đời sống.
Những lời của Đức Giáo Hoàng hầu như không được mấy ai chú ý đến. Nước Mỹ đặc
biệt vẫn tiếp tục tinh thần tham lam, nhấn mạnh là mọi người đều có thể trở nên
giàu có, có thể có tài sản mà không cần làm việc. Người ta có nhiều cấp độ kinh
tế khác nhau, “ngay cả những chàng trai đánh giày” cũng như một sử gia đã nói
“cũng lao vào chợ hàng hóa.” Cuộc khủng hoảng vào năm 1929 đã đổ vỡ là một điều
không thể tránh được.
Thất là đau buồn khi nhận biết rằng sắc lệnh
đã được viết bởi Đức Giáo Hoàng vào năm 1925, có thể là bản chúc thư mà ngài đã
sáng tác vào những tuần cuối đời Giáo Hoàng của ngài. Chủ nghĩa thế tục và chủ
nghĩa vật chất đi đến sự thất bại trong cuộc khủng hoảng tài chính vào năm
1929, dẫn đến trong thời đại của chúng ta một hậu quả khôn lường, đó là khủng
hoảng về tiết kiệm và những món nợ chồng chất trong những năm gần đây. Việc cử
hành phụng vụ của chúng ta về Đức Kitô là Vua, thách đố chúng ta bất chấp những
thất bại trong lãnh vực tài chính hoặc trong thái độ thiêng liêng của chúng ta,
điều quan trọng nhất không phải sự tham lam đã dẫn tới sự sụp đổ tài chính
nhưng chính việc loại bỏ những giáo huấn và gương mẫu của Đức Kitô Vua.
32.
Nước tôi không thuộc về thế gian này
Màn thứ ba của vở kịch “Thị trấn của chúng ta”
bắt đầu bằng cảnh người thuật chuyện đi đến giữa những nấm mồ của nghĩa trang
Grover's Corners của thị trấn New Hampshire. Ông ta dừng lại và nói với khán
giả: “Nhiều người đau khổ đang yên nghỉ nơi đây.” Ông ta ngừng lại một lát, rồi
nói tiếp: “Tất cả chúng ta biết có một cái gì đó vĩnh hằng. Đó không phải là
nhà cửa… không phải là trái đất này, cũng chẳng phải là các tinh tú… Mọi người
đều biết có cái gì liên quan đến con người. Họ chờ đợi một cái gì đó đang đến,
một cái gì đó thật quan trọng. Phải chăng họ đang chờ đợi phần vĩnh cửu của họ
được sáng tỏ? Cũng như Nước Chúa, nhân loại chúng ta cũng thuộc về một thế giới
khác.”
Tôi có thoải mái nơi thế gian này không? Tại
sao?
Tất cả những gì không vĩnh hằng, mãi mãi không
có giá trị (C.S. Lewis).
CNTN 34C - TRIỀU ĐẠI VUA GIÊSU
Lời Chúa: Lc 23, 35-43
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, các thủ lãnh cùng với dân chúng cười
nhạo Chúa Giêsu mà rằng: "Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi,
nếu nó thật là Đấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn.” Quân lính đều chế diễu
Người và đưa dấm cho Người uống và nói: "Nếu ông là vua dân Do-thái, ông
hãy tự cứu mình đi.” Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và
Do-thái như sau: "Người này là vua dân Do-thái.”
Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập
giá cũng sỉ nhục Người rằng: "Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và
cứu chúng tôi nữa.” Đối lại, tên kia mắng nó rằng: "Mi cũng chịu đồng một
án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao? Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì
chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn ông này, ông có làm gì xấu
đâu?"
Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy
Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi.”
Chúa Giêsu đáp: "Ta bảo thật ngươi: ngay
hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta.”
TRUYỆN
KỂ
1. Vua
thật
"Đáng lẽ tôi đã được rửa tội từ lâu, nhưng
vì vấn đề gia đình và làng xóm nên chưa được. Dù vậy tôi rất ư là kitô
hữu."
Đó là lời của nhạc sĩ Văn Cao trong một cuộc
gặp gỡ riêng tư năm 1990. Cụ đã sung sướng khoe với mọi người như thế, và thẳng
thắn nhìn nhận: "Chúng tôi đã được đào tạo, nhờ đức tin và âm nhạc kitô
giáo."
"Chúng tôi" ở đây muốn ám chỉ giới
trí thức và văn nghệ sĩ thế hệ của cụ. Đức tin đã thấm vào con người tài hoa
ấy, và làm sản sinh những tác phẩm bất hủ.
"Nếu tôi không hiểu Halêluia là gì, thì
đã chẳng có bài "Làng tôi", cụ bảo vậy. Chẳng ai ngờ Văn Cao lại là
con người say mê Giêsu, mà là Giêsu trên thánh giá.
Từ năm 1954, cụ vẫn treo một thánh giá trước
mặt. Giêsu trần trụi, Giêsu không còn gì. Nhưng đối với Văn Cao, có ai hơn
Giêsu? Bài Tin Mừng trong lễ Chúa Giêsu Vua vũ trụ lại đưa ta về với Chúa Giêsu
trên thập giá. Chẳng lúc nào Chúa làm vua rõ bằng lúc này. "Đây là vua
người Do thái", tấm bảng ghi như thế.
Nhưng kiểu làm vua của Ngài thật khác thường. Không
có vương miện, chỉ có vòng gai. Không có cẩm bào, chỉ có trần trụi nhơ nhuốc. Không
có câu tán tụng, chỉ có lời nhạo báng khinh chê.
Bị treo trên thập giá, Đức Giêsu nghe những
lời mời mọc, ngọt ngào và tinh vi như các cơn cám dỗ buổi đầu. "Nếu ông là
Đức Kitô thì hãy cứu lấy mình.” “Hãy xuống khỏi thập giá" (Mt 27,40).
Cứu lấy mình là điều Ngài chẳng hề nghĩ đến. Chính
vì Ngài thật là Con của Cha, nên Ngài không tự ý xuống khỏi thập giá như xưa
Ngài đã từ chối nhảy xuống từ nóc Đền Thờ. Đức Giêsu không muốn chúng ta tin
Ngài vì những màn trình diễn ngoạn mục. Ngài muốn chúng ta tin, vì Ngài đã
buông mình cho Cha, đón nhận cái chết với niềm vâng phục tín thác.
Chính vào lúc hấp hối, mọi sự tưởng như sụp
đổ, vị Vua bị đóng đinh lại hé lộ vương quyền của mình cho anh trộm lành có
lòng thống hối, tin tưởng. "Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên
Đàng." Như thế kẻ gian phi lại là người đầu tiên được ơn cứu độ nhờ cái
chết thập giá của Đức Giêsu.
Mừng lễ Chúa Giêsu Kitô Vua vũ trụ, chúng ta
muốn khước từ những thần tượng giả mạo, muốn để Ngài làm vua của vũ trụ lòng
mình.
2. Chúa
Kitô Vua--‘Nút Vòng Xoay’--GM. Giuse Vũ Duy Thống
Trên báo Tuổi Trẻ cách đây khá lâu, tôi gặp
một chuyện ngắn của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, mang tựa đề “Tôi thích làm vua”,
truyện kể về một đội kịch khi đã dàn dựng xong một vở xoay quanh vai chính là
một ông vua. Nhưng đến lúc trình diễn, người thủ vai ông vua đã không có mặt.
Đang còn lúng túng thì may sao tác giả chuyện ngắn lù lù dẫn xác tới. Bằng sức
ép của tình thân người ta xếp ngay ông vào vai ông vua với lời trấn an: “Làm
vua dễ lắm! Chỉ cần áo mão cân đai, trong ngai bệ vệ thị oai xong liền.” Tác
giả đã làm như thế và buổi diễn được xem là thành công. Truyện chỉ có thế,
nhưng qua mạch kể, dẫn tới kết luận: làm vua quá dễ và xét cho cùng, làm vua
cũng có nghĩa là chẳng phải làm gì cả.
Phụng vụ hôm nay cũng đặt tín hữu đối diện với
một vị vua: Đức Kitô. Nhưng Người là vị Vua thế nào? Đường lối làm vua của
Người có nhàn hạ không?
Đức Kitô khởi đầu sự nghiệp
bằng việc tự hiến.
Đức Kitô xưng vương bằng việc tận hiến.
Chúa Kitô cai trị bằng thánh hiến.
3. Vạn
thế sư phụ
Họa sĩ Louis David đã vẽ một bức tranh thời
danh về cái chết của Socrate: Một con người tráng kiện, một tay chỉ lên trời,
một tay giơ ra cầm chén thuốc độc, mặt quay nhìn các môn đệ với ánh mắt sáng
ngời. Ông mặc chiếc áo vải thô, sống rất tầm thường, khác với bọn ngụy biện ăn
mặc sang trọng để lôi cuốn dân thủ đô Athen. Ông cũng khác với các hiền triết
xưa, ông không có chức vụ gì quan trọng. Ông bị Quốc hội Athen Hy Lạp văn minh
nhất thời đó kết án phải uống thuốc độc chết vì tội đầu độc lớp thanh niên và
tôn sùng vị thần khác với các thần của thành phố (năm 470-399 trước công nguyên).
Suốt đời ông rảo khắp đất nước rao giảng chân
lý với đôi chân trần chai sạn. Mục đích của ông giúp các thanh niên thức tỉnh,
tự truy tìm chân lý ở nội tâm mình: “Anh hãy tự biết mình” (connais-toi, toi
même) bằng phương pháp đối thoại gợi ý (Maieutikê).
Tự biết mình để giải thoát mình khỏi những
thành kiến sai lầm, những độc đoán ngụy biện, những chính sách chính trị. Trước
khi chết ông đã cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con sự trong sáng nội tâm - “Mon
Dieu, donne-moi la purité intérieure” Triết gia Hégel đã gọi ông là “anh hùng
của nhân loại” (héros de lhunanité). Giáo sư Didier Julia gọi ông là điển hình
của một tông đồ đem lại tự do chân chính.
Socrate đã làm chấn động tận gốc những tập tục
cổ hủ và chuẩn bị lương tri con người đón nhận một sứ điệp khác: Sứ điệp Kitô
giáo (Dictionnaire de la philosophie: Larousse). Platon, môn đệ của ông đã
chứng kiến cái chết của Socrate, đã tôn thầy mình là Đấng sáng lập nền trí thức
về tình yêu, về Thiên Chúa, về lời mời gọi đi tới huyền nhiệm. Socrate là “vạn
thế sư phụ của Tây phương” cũng như Khổng Tử là “vạn thế sư biểu của Đông
phương.”
4. Nguồn
gốc và ý nghĩa Lễ Chúa Giêsu là Vua
Một triết gia đã đưa ra một nhận định rất bi
quan: "Homo homini lupus": con người là lang sói của con người. Lang
sói là một loài thu dữ, bản tính thích tấn công, cắn xé và giết chóc. Thế mà
loài người lại giống với loài thú dữ đó, luôn luôn tấn công nhau, cấu xé và
giết chóc nhau.
Bởi vậy một sử gia đã đưa ra một kết luận
tương tự với nhận định bi quan của triết gia trên: lịch sử loài người là một
chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp nhau. Từ khi có loài người trên mặt đất
này cho đến nay, có mấy khi mà loài người được hưởng thái bình? Hầu hết thời
gian lịch sử của loài người đều là chiến tranh. Gần đây nhất là 2 cuộc thế giới
đại chiến, cuộc thứ nhất kéo dài từ năm 1914 đến 1918, làm cho 8.700.000 người
chết; cuộc thứ hai từ năm 1939 đến năm 1945, giết chết thêm 40 triệu sinh mạng
nữa. Và hiện nay cả loài người đều phập phòng lo sợ sẽ xảy ra một cuộc đại
chiến lần thứ 3 với những vũ khí hạt nhân. Lần này không phải chỉ có 8.700.000
người chết, hay 40 triệu người chết mà là tất cả mọi người, trái đất sẽ nổ
tung, toàn thể loài người sẽ bị tiêu diệt.
Tại sao loài người chúng ta, một loài người có
trí khôn, biết suy nghĩ, một loài cao hơn tất cả mọi loài vật khác mà lại cư xử
với nhau một cách ngu xuẩn như vậy? Thưa vì trong con người chúng ta vừa có
tính thú vừa có tính người: tính thú thì giống như loài lang sói hung dữ cấu xé
lẫn nhau, còn tính người là có trí khôn biết suy nghĩ biết tính toán. Khi buông
trôi theo tính thú thì loài người chiến tranh với nhau; và nếu con người lại
dùng cái trí khôn ngoan của tính người để phục vụ cho cái tính thú kia thì con
người lại càng dã man hung dữ làm hại nhau còn hơn loài sang sói đích thực nữa.
Điều đáng tiếc là trong hầu hết lịch sự quá khứ, con người đã buông theo cái
tính thú đó. Vì thế mà lịch sử loài người đã là lịch sử của một chuỗi những
cuộc chiến tranh liên tiếp nhau.
Cho nên trong bối cảnh giữa 2 cuộc chiến tranh
thế giới làm chết hàng mấy chục triệu sinh mạng con người như thế, ngày
11.12.1925, Đức Giáo Hoàng Piô XI đã thiết lập Lễ Chúa Kitô Vua, mục đích là để
cầu nguyện cho loài người thôi đừng buông theo tính thú mà cấu xé lẫn nhau, các
nước đừng nuôi mộng bá chủ hoàn cầu mà chinh chiến với nhau; nhưng mọi người
hãy suy phục vương quyền Chúa Kitô và xây dựng vương quốc của Ngài, Đức Giáo
Hoàng coi đó là chấm dứt chiến tranh.
5. Cơn
cám dỗ cuối cùng
Vua Cảnh Công nước Tề, một hôm lên chơi núi
Ngưu Sơn. Nghĩ rằng có ngày sẽ phải chết và giang sơn gấm vóc lại lọt vào tay
kẻ khác, vua liền trào nước mắt tiếc thương. Đoàn tuỳ tùng thấy vua khóc cũng
khóc theo. Duy chỉ có Án Tử là chúm miệng cười. Vua chau mày hỏi:
- Tại sao người ta ai cũng khóc cả, mà nhà
ngươi lại cười?
Án tử trả lời:
- Nếu các vua đời trước mà sống, thì vua ngày
nay hẳn còn phải mặc áo tơi đội nón lá. Nhờ thế sự thăng trầm mà nay đến lượt
vua được mặc áo gấm, đội mũ ngọc. Thế mà vua lại khóc. Thấy đấng làm vua bất
nhân, bầy tôi siểm nịnh, tôi không cười sao được?
Vua trần gian có thần dân để cai trị, có quan
quân để sai khiến, có tiền của mỹ nữ để truy hoan. Chúa Giêsu trái lại, Người
không làm vua theo kiểu thường tình ấy. Người đã khẳng định: "Nước tôi
không thuộc về thế gian này" (Ga 18, 36).
6. Thế nào
là vua?
Theo quan niệm Nho giáo, người cầm quyền chính
trị là vua. Vua được gọi là Con Trời hay Thiên tử.
Chữ VƯƠNG (Vua) gồm có 3 nét ngang và một nét
dọc, Ba nét ngang là chữ Tam hay quẻ Càn, tượng trưng cho Tam tài hay ba đạo:
Thiên đạo, Địa đạo và Nhân đạo. Xổ dọc đứng giữa ngụ ý Vua là kẻ thụ mệnh Trời,
đứng ra dung hoà ba đạo: Trời, Đất và người. Dung hoà ba đạo ấy thành một duy
nhất. Khổng Tử nói: “Nhất quán tam vi vương” là thế.
Du khách đến Huế không thể quên được đàn Nam
Giao, cũng như đến Bắc Kinh không thể bỏ qua Điện Trời. Chính nơi đây, nhà vua
thay mặt toàn dân tế Trời.
Tại Huế, đàn Nam Giao, cửa Ngọ Môn và Điện
Thái Hoà cùng nằm ngay trên một đường thẳng.
Điện Thái Hoà là nơi vua cùng triều đình lo
việc phục vụ dân chúng.
Cửa Ngọ Môn xây hướng về nam, nơi mặt trời lên
cực điểm, vào giờ Ngọ, tức là 12 giờ trưa, giờ mặt trời “đứng bóng”, giờ mà
hình và bóng nên một.
Từ điện Thái Hoà, qua Ngọ môn, vua sẽ tiến
thẳng về phía nam để đến đàn Nam Giao, thay dân tế trời. Sau khi ăn chay nằm đất,
vua sẽ tiến lên lễ đàn. Trước tiên vua sẽ lên đàn hình vuông tượng trưng đất,
sau đó mới lên đàn hình tròn, tượng trưng Trời để dâng lễ tế.
Đức Kitô Vua vũ trụ, Vua của chúng ta, là
chính Mặt Trời đúng ngọ, là Mặt Trời lên cực điểm, và Ngài cũng muốn chúng ta
nên một với Ngài, như hình và bóng nên một vào giờ chính ngọ. Đức Kitô, Vua vũ
trụ, Vua chúng ta đã thay chúng ta dâng lễ cho Chúa Trời và nay, bên cạnh Chúa
Cha, vẫn hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta: “Đức Giêsu, chính vì Người
hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Người tồn tại mãi mãi. Do đó, Người
có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến lại gần Thiên
Chúa. Thật vậy, Người hằng sống để chuyển cầu cho chúng ta” (Dt 7, 24-25).
7. Chiếc
nhẫn
Cách đây không lâu, những người thợ lặn đã
phát hiện ra một con tầu bị chìm cách đây 400 năm ngoài biển khơi ở vùng phía
bắc Ireland. Một trong những kho tàng họ đã tìm thấy trên tầu là một chiếc nhẫn
cưới của một người đàn ông. Khi họ đánh bóng, họ thấy trên mặt chiếc nhẫn khắc
hình một bàn tay đang nắm giữ một trái tim. Phía dưới có khắc hàng chữ như sau:
“Em không còn gì hơn để cho anh” (I have nothing more to give you). Trong tất
cả những kho tàng đã tìm thấy trên con tầu, không có sự gì làm cảm động những
người thợ lặn cho bằng chiếc nhẫn và những lời cao đẹp của tình yêu đó.
Hàng chữ được khắc trên chiếc nhẫn “Ta không
còn gì hơn để cho con” có thể được đặt trên thập giá của Đức Giêsu. Vì từ trên
thập giá đó, Ngài đã cho chúng ta tất cả những gì Ngài có. Ngài cho chúng ta
tình yêu và mạng sống. Ngài cho chúng ta tất cả những gì một người có thể trao
ban cho người mình yêu: “Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người
hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu” (Ga Ga 15, 13). Chúa Giêsu Kitô là Vua Tình
yêu.
8. Người
xứng đáng nhất
Vào thời thập tự viễn chinh, nhằm bảo vệ thánh
địa và đảm bảo an ninh cho khách hành hương, vua Philipphê của nước Pháp đã làm
một cử chỉ lạ thường. Trước mỗi lần lên đường, ông tháo gỡ triều thiên đang đội
trên đầu, rồi đặt nó lên một chiếc bàn và ghi dòng chữ như sau: “Dành cho người
nào xứng đáng nhất.”
Sau đó, ông qui tụ tất cả tướng lãnh, các hiệp
sĩ, những người hầu cận lại trước mặt ông và yêu cầu họ hãy quên ông là vua và
là người chỉ huy của họ. Ông nói với mọi người rằng chiếc vương miện được dành
cho người nào tỏ ra xứng đáng nhất trong cuộc chiến đấu.
Cuộc viễn chinh đã hoàn tất cách vẻ vang, mọi
người hát khúc khải hoàn trở về quê hương. Họ tụ tập chung quanh vương triều và
một tướng lãnh tiến lại cầm lấy triều thiên đội lên đầu của Philipphê và nói:
“Tâu bệ hạ, bệ hạ là người xứng đáng nhất.”
Chỉ có một người xứng đáng nhất được tuyên
xưng tước hiệu là vua, đó là Đức Giêsu Kitô. Chỉ có mình Ngài là vua đích thực,
bởi vì duy mình Ngài mới có thể mang lại sự sống cho con người, duy mình Ngài
là chủ của lịch sử nhân lọai, duy mình Ngài là Đấng xứng đáng đội triều thiên
vương giả. Ngài là vua duy nhất và đúng nghĩa nhất. Ngài là vua, không những vì
Ngài là Đấng trao ban sự sống, mà còn vì Ngài đã thể hiện vương quyền một cách
đúng nghĩa nhất.
9. Làm
vua để phục vụ
Khi Gioan Tẩy giả sai môn đệ đến hỏi Chúa
Giêsu: “Ngài có phải là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải chờ một Đấng nào
khác nữa ?” Chúa Giêsu đã không trả lời trực tiếp và nói: “Đúng, tôi là Đấng ấy.”
Nhưng Ngài đưa ra những sự kiện về Ngài mà nhờ đó Gioan có thể hiểu. Theo trình
thuật của Tin Mừng chúng ta thấy: trong câu trả lời của Chúa Giêsu, Ngài đã đặt
con người ở vị trí trung tâm. Sáu câu trả lời của Ngài là sáu lời tuyên bố về
vị trí trung tâm của con người: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những
điều mắt thấy tai nghe:
1. Người mù xem thấy,
2. Kẻ què được đi,
3. Người cùi được sạch,
4. Kẻ điếc được nghe,
5. Người chết sống lại,
6. Kẻ nghèo được nghe Tin
Mừng”
Đó là những dấu chỉ về Đấng Messia nơi Chúa
Giêsu. Con Người, con người đau khổ, con người cần quan tâm, con người là đối
tượng của lòng thương xót và tình thương. Con người mà phẩm giá phải được phục
hồi. Chúa Giêsu đã không nói về Nước Thiên Chúa, là trung tâm của mọi hoạt động
và sứ vụ của Ngài. Có lẽ điều này làm chúng ta ngạc nhiên. Nhưng Chúa Giêsu đã
đặt con người và những người nghèo là đối tượng của Tin Mừng. Ngài trình bày
điều này như là dấu chỉ đặc biệt của sứ vụ Ngài. Ngài mô tả hoạt động thiên sai
không phải như việc thực thi quyền bính, hay chiếm hữu một vương quốc mà Ngài
là Chủ. Nhưng đúng hơn, Ngài mô tả sứ vụ thiên sai của Ngài là một công việc
phục vụ đối với con người và những nhu cầu của họ.
10. Phục
vụ là căn tính của con người
Xanphơ (ông chủ) sai Elôp đi dò xem đám cưới
của người hàng xóm có nhiều người đi dự không. Elôp đến nhà người hàng xóm, ném
một khúc gỗ xuống ngưỡng cửa nhà ông ta, rồi ngồi bên cạnh chờ khách ra về.
Tiệc tan, ai ra khỏi cửa cũng đều vấp phải khúc gỗ đó nhưng chỉ bực bội nhìn
khúc gỗ rồi đi đường mình. Chỉ có một bà cụ già sau khi vấp đã quay lại đẩy
khúc gỗ sang một bên để người khác không bị cản trở. Elôp hài lòng trở về gặp
chủ.
Thế nào, ở đấy có nhiều người không ? Xanphơ
vốn tò mò hỏi.
Tất cả chỉ có một con người, mà đấy lại là một
bà già – Elôp trả lời.
Sao lại thế ? Người chủ ngạc nhiên.
Tất cả đều vấp phải khúc gỗ - Elôp nói – mà
không ai dẹp bỏ nó đi. Lũ cừu cũng làm như vậy. Chỉ có một bà cụ già khi chân
vấp vào khúc gỗ đã dừng lại, cúi xuống đẩy khúc gỗ qua một bên để những người
khác đo sau không bị vấp ngã. Chỉ có con người mới làm như vậy.
Một mình bà cụ là người.
Lạy Chúa, xin làm con nên xứng đáng phục vụ
anh chị em, còn đang tản mác khắp nơi trên thế giới này, những con người sống
và chết giữa cô đơn nghèo khổ. Hôm nay xin Chúa dùng đôi tay chúng con ban cơm
bánh thường ngày cho họ. Và nhờ tình yêu chúng con, Chúa ban tặng họ hoà bình
và hạnh phúc.
11. Một
người được tái sinh
Trong mục “Cánh cửa rộng mở” của báo Catholic
Digest có câu chuyện rất cảm động về một chủng sinh. Anh lớn lên trong một gia
đình Công giáo. Anh là một tín hữu rất mộ đạo và thường tham gia vào các công
việc ở nhà thờ. Anh đi chủng viện để học làm Linh mục. Trong thời gian chiến
tranh ở Việt Nam, người chủng sinh đó đã bỏ chủng viện và gia nhập đảng chống
chiến tranh. Không những thế, anh còn bỏ luôn cả Giáo hội, và còn hơn nữa, anh
bắt đầu tìm cách chống lại đức tin và những lý tưởng anh đã một lầm ôm ấp. Càng
ngày, anh càng coi tôn giáo như là một kẻ thù. Gia đình anh rất buồn và họ đều
mất hy vọng cứu vãn được anh.
Vào một ngày thứ Sáu Tuần thánh, người thanh
niên đó lái xe đi ngang một nhà thờ Công giáo. Anh nhận ra tên của linh mục mà
anh đã kính trọng được ghi trên tấm bảng ở trước nhà thờ. Một cái gì đó đã thúc
đẩy anh ngừng xe lại và vào trong nhà thờ. Khi anh vừa bước vô thì nghi lễ Suy
tôn Thánh giá cũng vừa bắt đầu. Anh ngồi xuống ở hàng ghế cuối hết và nhìn
những người lên thờ lạy và hôn Thánh giá trong khi ca đoàn hát bài: “Trong khi
người ta đóng đinh Chúa tôi, bạn có ở đó không?”
Một sự việc đáng ghi nhớ đã xảy ra. Người
chủng sinh trẻ bỏ đạo đó đã viết lại như sau: “Trong tâm hồn, tôi cảm thấy rất
xúc động và tôi bắt đầu khóc. Cố gắng kìm hãm lại cảm xúc, tôi nhớ lại những
năm trước đây khi tôi còn là một chủng sinh sống trong sự bình an. Đức tin đơn
sơ của những ngày tháng xa xưa, đã bị phủ lấp và nằm chìm sâu kín trong tâm hồn
tôi bao năm qua nay vụt bùng dậy. Một sức lực nội tại giục giã bắt tôi phải
đứng lên, rời khỏi ghế đang ngồi và đến quì sụp lạy trước Thánh giá và hôn
Thánh giá. Vị linh mục trong nhà thờ đã nhận ra tôi và đã đến ôm lấy tôi. Trong
ngày đó, tôi lại được tái sinh trong đức tin Công giáo.”
12. Được
làm hoàng tử
Truyện cổ tích Ai-len có kể lại một nhà vua
không có con nối dòng. Muốn đi tìm hoàng tử để truyền ngôi lại cho, và chỉ có
một điều kiện duy nhất mà vị hoàng tử phải có là chứng tỏ tình yêu của mình đối
với Thiên Chúa và đối với con người ở mức độ cao nhất. Nhiều người đã đến trình
diện với nhiều cách, nhiều bằng chứng về tình yêu của mình đối với Thiên Chúa
và đối với anh chị em xung quanh, nhưng những bằng chứng đó không có sức thuyết
phục nhà vua.
Cuối cùng, có một chàng thanh niên đến trình
diện với một bộ đồ cũ rách. Chàng thanh niên này được nhận. Chàng không cần
phải dài dòng thuyết phục nhà vua vì chàng thanh niên này chính là người mà nhà
vua đã gặp chiều hôm trước:
Số là vì nhà vua đã cải trang làm một người
hành khất để thử lòng những vị hoàng tử tương lai của mình. Nhiều chàng thanh
niên đã đi qua, nhìn thấy người ăn xin rách rưới, và xa tránh, chỉ có người
thanh niên này dám dừng lại, hy sinh luôn cả chiếc áo mới của mình và dám mặc
lại chiếc áo cũ để vào trình diện nhà vua. Tình yêu nằm trong con tim con người
chứ không nằm trong chiếc áo bên ngoài.
13. Câu
truyện về tình yêu của Thiên Chúa
Có một câu chuyện cổ tích kể rằng: ở một vương
quốc nọ. Có một vị vua cao sang quyền qúy, thế mà lại yêu say đắm một cô thôn
nữ miền sơn cước. Nhà vua định cưới nàng làm hoàng hậu nhưng có quá nhiều trở
ngại, khiến nhà vua phải nhiều đêm đắn đo suy nghĩ. Vì tục lệ chỉ cho phép nhà
vua cưới các công nương vương triều. Tuy rằng ngài có đầy quyền lực để xem
thường truyền thống nhưng ngài vẫn không dám quyết định. Hơn nữa, một ý nghĩ
khác nảy sinh khiến ngài càng khó quyết định, vì nhà vua sợ sự khác biệt về địa
vị khiến tương quan giữa hai người sẽ khó mà tự nhiên với nhau, cô gái có thể
thán phục đức vua nhưng không thực sự yêu ngài. Vua vẫn là vua, nàng vẫn là
thôn nữ chốn hồng hoang. Vua liền nảy sinh một sáng kiến, ngài từ bỏ ngôi vua
để sống như một nông dân, để gần gũi và hoà đồng với nàng, nhưng nhà vua lại
sợ, với cương vị một chàng nông dân liệu rằng cô thôn nữ còn yêu mình nữa hay
không? Cuối cùng, vì quá yêu nàng, nhà vua vẫn đánh liều bỏ mọi sự để ngỏ lời
yêu thương với nàng.
Câu chuyện bỏ ngỏ ở đây. Câu chuyện không dẫn
thính giả đến lời đáp trả của nàng thôn nữ, có đón nhận tình yêu của nhà vua
hay từ chối tình yêu. Nhà vua đã rời bỏ ngai vàng, đã chấp nhận trắng tay vì
nàng, nhưng liệu rằng nàng có dám yêu anh “khố rách áo ôm, khi địa vị, danh vọng,
tiền bạc của nhà vua đã không còn? Câu chuyện cũng không dẫn độc giả tới tuyệt
đỉnh của một tình yêu là “một túp lều tranh, hai trái tim vàng.” Câu chuyện
không có đoạn kết, vì đoạn kết tùy thuộc vào tâm trạng của mỗi người đều có
quyền điền vào cho hợp với ý của mình. Câu chuyện chỉ muốn gợi lên cho độc giả
về một tình yêu cao cả mà nhà vua đã dành cho cô thôn nữ hèn kém này. Một tình
yêu thật lớn lao đến độ dám từ bỏ ngai vàng vì một cô thôn nữ xa lạ chỉ một lần
thấy thoáng qua trong đời.
Vâng, câu chuyện chưa kết thúc, nó vẫn tiếp
diễn. Đây là một câu chuyện có thực về tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi
người chúng ta.
14. Vua
thương dân
Vua Bhumibol Adulyadej (1927- 2016) còn được
gọi là Vua Rama IX, là vua Thái Lan trị vì từ năm 1946 cho đến khi mất ngày 13
tháng 10, 2016. Vua Bhumibol Aduladej được xem là một trong số những vị quân
vương trị vì lâu nhất thế giới và là vị vua trị vì lâu nhất trong lịch sử Thái
Lan. Trong suốt triều đại của ông, Thái Lan đã trải qua 30 đời thủ tướng. Ông
sử dụng tài sản to lớn của mình, theo Forbes là khoảng 30 tỷ USD, để cung cấp
tài chính cho nhiều đề án phát triển, đặc biệt là ở nông thôn.
Vua Bhumibol tham gia tích cực vào đời sống
kinh tế và xã hội của đất nước, chủ yếu là qua một loạt các đề án phát triển
kinh tế mà ông đề xuất, tổ chức và tài trợ. Có hơn 3.000 đề án do quốc vương
khởi xướng, được triển khai trên toàn quốc, nhằm cải thiện điều kiện sống của
dân nghèo ở vùng nông thôn Thái Lan, như giới thiệu giống cây trồng đến bảo tồn
nước, từ thoát nước vùng đầm lầy đến bảo vệ rừng, với mục tiêu phát triển bền
vững.
Sau năm 2006, sức khỏe của vua Bhumibol bị suy
giảm và ông đã trải qua thời gian dài tại Bệnh viện Siriraj. Ông được người dân
Thái Lan hết sức tôn kính. Đối với nhiều người dân Thái, nhà vua được sùng bái
gần như một thần linh.
15. Tôn
thờ Vua Giêsu
Lịch sử nước Anh có kể rằng hồi ấy, nước Anh
có một ông vua rất đạo đức tên là Canut III. Vì là vua của một cường quốc nên
xung quanh vua thương có những quan nịnh thần xu nịnh, ton hót.
Một hôm trong một buổi triều yết, các quan
nịnh thần tâu rằng: “Thánh Thượng” là vua trên hết các vua, là chúa trên các
chúa, có quyền trên mặt đất và trên biển cả.
Nghe vậy nhà vua muốn cho họ một bài học, nên
vua liền mời tất cả đi ra ngoài biển. Đứng trước đại dương, vua tuyên bố: Ta là
vua trên hết các vua, có quyền trên đất liền và trên biển cả. Vậy ta truyền cho
sóng biển không được tới đây. Nhưng nhà vua nói xong, nước vẫn dâng lên, sóng
vẫn ập tới làm ướt áo cẩm bào của vua cũng như triều thần.
Sau đó, nhà vua đi vào trong một nhà thờ đến
trước tượng Chúa Giêsu chịu nạn, nhà vua lấy chiếc vương miện của mình đội lên
đầu Chúa Giêsu và nói: “Lạy Chúa, chỉ có Chúa là Vua trên hết các Vua, là Chúa
trên hết các Chúa.”
16. Giêsu
– Vua Hòa Bình
Sau khi Chiến tranh Thế giới thứ Nhất chấm dứt,
cả châu âu rơi vào cảnh hoang tàn đổ nát. Balan cũng không tránh khỏi thảm hoạ.
Đất nước bị quân Đức và Nga thay nhau cày xéo. Bao thanh niên ngã gục trên
chiến trường. Nhiều làng mạc, thành phố bị bom đạn thiêu rụi.
Trước tình hình đó, Toà thánh muốn tìm một
giáo sĩ xứng hợp, có thể đảm trách vai trò đặc sứ tại quốc gia này. Linh mục
Ambrose Ratti người Ý đã được đề cử và tuyển chọn. Ngay sau đó, cha Ambrose lên
đường đi nhận nhiệm sở mới với bao sứ mạng nặng nề.
Thế nhưng công việc của cha Ambrose tại Balan
đã tiến triển tốt đẹp. Toà thánh nhận ra điều đó. Rồi chẳng bao lâu sau, ngài
được triệu về Rôma và được tấn phong Hồng y coi sóc tổng giáo phận Milan. Đến
năm 1922, sau khi Đức Benêđictô XV qua đời, Hồng y Ambrose Ratti được bầu làm
Giáo hoàng với danh hiệu Piô XI.
Năm 1925, Đức Thánh Cha Piô đã thiết lập ngày
lễ Chúa Giêsu Vua, đồng thời ban sắc lệnh truyền dạy Dân Chúa khắp nơi mừng lễ
này vào Chúa nhật cuối cùng của tháng Mười. Trong một bản tông huấn, Đức Thánh
Cha cho biết lý do ngài thiết lập ngày lễ Chúa Kitô Vua: thế giới cần một nền
hoà bình chân thật, nhưng hoà bình đó chỉ có được dưới triều đại của Đức Kitô
là Vua Tình Thương và là Hoàng Tử Bình An.
Về sau, khi có cuộc cải cách phụng vụ, một số
ngày lễ được thay đổi, một số khác không còn lưu lại trong lịch. Riêng lễ Chúa
Kitô Vua được dời qua Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, tức Chúa nhật thứ
34, trước khi bước vào mùa Vọng, khởi đầu một chu kỳ mới.
Một linh mục đã nhận xét: Suy tôn Chúa Giêsu
Vua là việc làm hoàn toàn chính đáng và mang nhiều ý nghĩa, vì quả thực, Ngài
đã chào đời như một quân vương và lìa đời như một đức vua.
17. Lòng
tốt khơi dậy lòng tốt
Vào một đêm rất khuya, cô y tá ra khỏi bệnh
viện. Hôm nay cố gắng giúp thêm cho bệnh nhân nên về trễ, cô vội vã đón xe buýt
để về nhà. Chợt nhìn thấy ở vỉa hè trước mặt, một người đang nằm, có vẻ đang bị
bệnh hoặc bị thương, cô đi đến xem có thể giúp được gì người ấy không. Nhưng
khi cô vừa cuối xuống để xem, thì người ấy chồm lên, giựt túi xách của cô.
Người đàn ông chỉ giả vờ nằm đó. Ông ta là một tên cướp giật. Cô vội giữ lấy
túi xách. Hai người giằng co nhau túi xách. Rồi bất chợt, hai ánh mắt bắt gặp
nhau. Người đàn ông trẻ thả túi xách ra và nói: “Ồ, xin lỗi, cô là cô y tá
O’Reily đây mà!”
Họ bắt đầu nói chuyện với nhau. Thì ra trước
đây, người đàn ông này đã bị gãy chân, chữa trị ở nhà thương. Cô y tá O’Reily
đã rất tận tình săn sóc và ông ta rất mến phục. Ông ta hỏi cô đi về đâu. Cô nói
cô đón xe buýt về nhà. Ông tiễn cô đến trạm xe, nói chuyện với cô, và chờ cho
đến lúc cô đi khỏi. Ông chào tạm biệt cô và rất ân hận về việc mình đã làm.
Đây là một câu chuyện có thật đã xảy ra. Câu
chuyện làm tôi nhận ra điều này là: một người sẽ không bao giờ đánh mất đi lòng
tốt của mình. Nó sẽ được phục hồi khi có một lòng tốt nào đó khơi dậy lại.
Người
trộm lành nhìn thấy Đức Giêsu là người vô tội. Còn hơn nữa, anh còn nói biện hộ
cho Ngài trước mặt người trộm kia. Anh là người duy nhất làm chứng cho Đức
Giêsu về sự vô tội của Ngài. Sự tốt lành của Đức Giêsu đã khiến anh nhận ra
những cái xấu xa anh đã làm, nó cũng giúp anh nhận ra mình đã đánh mất sự thiện
hảo. Anh quay lại với Đức Giêsu, nhận ra Ngài là người duy nhất có thể cứu anh
ta trong những giây phút cuối cùng. Đức Giêsu đã không làm cho anh thất vọng.
18. Ánh
mắt của lòng thương xót
Có một người ăn xin nọ ngày kia gặp một hiền
sĩ ở dọc đường, ông ta đã chạy lại van xin hiền sĩ bố thí cho mình. Nhà hiền sĩ
đã từ chối và cứ đi tiếp con đường ông đang đi. Người ăn xin vẫn tiếp tục đuổi
theo, miệng không ngớt xin bố thí. Ông ta đã theo nhà hiền triết ra đến tận đầu
phố, cuối cùng nhà hiền triết tuyệt vọng, dừng lại và nói:
- Được rồi, ta sẽ cho ngươi tiền, nhưng với
điều kiện: trong hai con mắt của ta có một con mắt thủy tinh, ngươi hãy nói nó
là mắt nào. Nếu nói đúng ngươi sẽ có tất cả những gì ta có.
Người ăn xin nhìn ông chăm chú, cuối cùng
nghiêm giọng nói:
- Thưa thầy, con mắt trái là thủy tinh ạ.
Hiền sĩ kinh ngạc kêu lên:
- Hãy nói làm sao ngươi biết được điều đó. Con
mắt đó do một người thợ giỏi nhất thế gian này làm ra, không thể nào phân biệt
được mắt nào của ta là mắt thật, mắt nào là mắt thủy tinh?
- Thưa thầy, vì -người ăn xin chậm rãi đáp-
mắt phải của thầy ánh lên lòng thương xót.
Vâng có lẽ người ăn trộm bên phải cây Thánh
giá của Chúa Giêsu cũng có được con mắt phải “ánh lên lòng thương xót.” Chàng
thương xót cho tử tội vô tội Giêsu, nên đã gặp được cặp mắt giàu lòng thương
xót của Vua Giêsu bị xét là tử tội.
19. Hạnh
phúc Nước Trời
Ngày kia, thánh Bemoit mệt mỏi vì đường xa, đã
ngồi nghỉ dưới một gốc cây và dùng bữa. Bữa trưa của Ngài chỉ có bánh mì đen và
nước lạnh. Giữa lúc đó có một đám người đi dự tiệc cưới trở về. Nhìn thấy thánh
nhân với bữa cơm thanh đạm, họ liền tỏ lòng thương xót. Nhưng thánh nhân đã trả
lời như sau:
- Không, có nhiều người còn đáng thương hơn
tôi nữa. Tôi là một người bạn hữu nghĩa thiết cùng Chúa, chỉ điều này mà thôi
cũng đã là làm cho tôi được hạnh phúc.
Hãy gắn bó mật thiết với Chúa, để rồi chúng ta
sẽ tìm thấy hạnh phúc Nước trời, một niềm hạnh phúc tuyệt vời như lời thánh
Phaolô đã diễn tả:
- Tai chưa hề nghe, mắt chưa hề thấy và trái
tim chưa một lần cảm nghiệm được những gì Thiên Chúa sẽ dành cho những người
trung thành phụng sự Ngài.
Sau cùng, Đức Kitô còn là niềm hạnh phúc của
mỗi người chúng ta.
Thực vậy, nếu chúng ta sống kết hiệp mật thiết
với Ngài và chu toàn những điều Ngài mong muốn, thì định mệnh cuộc đời chúng ta
sẽ được bảo đảm, như lời sách “Gương Phúc” đã viết:
- Gắn bó với Đức Kitô, chúng ta sẽ tìm thấy
được niềm hạnh phúc Nước trời. Tìm thấy Đức Kitô là tìm thấy cả một kho tàng
quí giá. Trái lại, mất Đức Kitô là mất tất cả.
20. Chiến
thắng cuối cùng thuộc về sự thật
Sáng ngày 1-5-1990, tại quảng trường Đỏ
Mác-cơ-va, có hai Linh mục cùng với đám đông kiệu cây Thánh Giá cao 6 mét đi
qua con đường mà trước đó xe tăng, đại pháo, hỏa tiễn, mọi binh chủng vừa mới
diễu hành mừng ngày Quốc Tế Lao Động.
Đoàn người đi sau Thánh Giá, họ hô lớn cho chủ
tịch Gióp-ba-chóp nghe rõ khẩu hiệu: “Sự thật, tự do và cơm bánh. ” Khi đoàn
người đến trước mặt vị lãnh tụ Xô-viết đang đứng đài danh dự, hai Linh mục dựng
cây Thánh Giá lên cao làm che khuất các bức chân dung của Các-mác, Lê-nin,
Ăng-ghen đang đặt đằng sau ông Gióp-ba-chóp.
Một trong hai Linh mục hô lớn: “Thưa ngài chủ
tịch vĩ đại, Đức Kitô đã sống lại!” Thế là cả rừng người lập lại: “Đức Kitô đã
sống lại!” làm vang dội cả quảng trường Đỏ.
Bốn tháng sau, tức là vào tháng 9-1990, trong
một bữa tiệc thân mật, nhân ngày Quốc Tế Giới Trẻ được tổ chức tại Pháp, ông
Anrê Frossurd thuộc Hàn Lâm Viện Pháp đặt câu hỏi với Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II:
- Nếu Đức Thánh Cha chọn một câu trong Thánh
Kinh để nói với thế giới hôm nay, thì ngài chọn câu nào?
Nghe câu hỏi ấy, mọi người dự tiệc đều nghĩ
trong lòng là thế nào Đức Thánh Cha cũng sẽ chọn câu: “Chúng con hãy yêu nhau
như Thầy yêu chúng con” (Ga 15, 12).
Nhưng Đức Thánh Cha lại trả lời:
- Tôi muốn nói với thế giới hôm nay là: “Chân
lý sẽ giải phóng con người” (Ga 8, 32).
Quả nhiên ít tháng sau:
- Vì Chúa Kitô đã sống lại.
- Vì Chân Lý đã giải phóng con người.
Chế độ Cộng sản đã sụp đổ tại chính cái nôi
của các ông tổ: Các-mác, Lê-nin, Ăng-ghen và kèm theo các nước Đông Âu khác!
Bởi vậy, Đức Giêsu đã nói: “Đừng sợ, Ta đã
thắng thế gian!” (Ga 16, 33).
21. Chiến
thắng của tình yêu
Mẹ Têrêxa kể lại một ngày nọ ở Calcutta, mẹ đã
nhặt được một người đàn ông ở một rãnh nước và đưa ông ta về nhà nuôi người hấp
hối. Trước khi chết, ông ta nói với mẹ: “Tôi đã sống như một con vật nhưng tôi
đã chết như một thiên thần, được yêu thương và chăm sóc.”
Mẹ Têrêxa nhận thấy sự cao cả của ông ta,
người có thể nói được như thế và có thể chết mà không trách móc hoặc chửi rủa
một ai. Mẹ cảm thấy mình được đặc ân đã có thể giúp ông ta sống những giờ phút
cuối đời trong sự cảm nhận mình được yêu thương và quý trọng.
22. Ngôi
thánh đường Zanzibar
Tanzania (Phi Châu) có một ngôi thánh đường đặc
biệt tên là Zanzibar. Bước vào nhà thờ, người ta có thể đọc ngay lời chào đón
được viết trên tường như sau:
"Bạn đang ở trong nhà thờ của Đức Kitô.
Nơi đây, trước khi đã từng là chợ buôn người nô lệ"
Ngôi thánh đường này đã được xây ngay trên
chính khu đất mà ngày xưa người da trắng đã tập trung không biết bao nhiêu
người Phi Châu để buôn bán đổi chác, coi họ như những con vật. Đặc biệt nhất
là, bàn thờ của ngôi thánh đường này đặt tại chỗ mà trước đây các người nô lệ
phải chịu đánh đòn trước khi người mua bán mặc cả giá cả. Sở dĩ người ta phải
dùng roi quất vào người nô lệ, là để xem người ấy còn khoẻ mạnh hay không.
Cột trụ ở ngay lối vào nhà thờ là một cây
thánh giá gỗ có mang tên của nhà giải phóng Livingstone. Bác sĩ Livingstone,
một nhà thám hiểm người Anh, đã hô hào chống lại cuộc bán buôn vô nhân đạo này.
Cây thánh giá khắc tên ông đã được chạm trổ từ gốc cây nơi ông thường đứng để
hô hào cuộc chiến bãi bỏ việc buôn bán người nô lệ.
Mãi đến ngày 6 tháng 6 năm 1873, việc buôn bán
người nô lệ mới chính thức bị cấm bằng một đạo luật. Kể từ đó, phẩm giá đích
thực của người da đen mới được nhìn nhận.
23. Để
Chúa làm vua tâm hồn
Một người vô thần cùng bạn dạo chơi
trong vườn hoa, giữa lúc hoa đang nở thật đẹp. Người vô thần hỏi bạn:
- Anh thường nói với tôi về Chúa Giêsu.
Vậy Ngài với anh liên hệ với nhau thế nào?
Người bạn dừng bước và đưa tay chỉ vào
một đóa hồng tươi thắm mà nói:
- Mặt trời có liên hệ với hoa kia thế nào,
thì Chúa Giêsu cũng ảnh hưởng trên linh hồn và cuộc sống tôi như thế.
Cũng như mặt trời tỏa sáng khắp trần
gian, vương quyền của Chúa Giêsu trải rộng khắp vũ trụ, vì nhờ Người
mà muôn vật được tạo thành. Nếu ánh mặt trời làm cho những cánh hoa
trở nên rực rỡ thì nhờ Đức Giêsu, chúng ta vốn là những kẻ tội
lỗi, lại được hưởng ơn cứu độ, và “xứng đáng chung hưởng phần gia
nghiệp của các thánh trong cõi đầy ánh sáng.” (Cl 1, 12b)
24. Muốn
biết mới biết
Biển Thước đến yết kiến Hoàn hầu nước Tề, đứng
ngắm một lát, tâu rằng: “Vua có bệnh trong bì phu, không chữa sợ sau nặng.”
Hoàn hầu bảo: “Ta vô bệnh.” Biển Thước đi ra.
Hoàn hầu nói: “Thầy thuốc này lý tài lắm. Muốn chữa người khoẻ để lấy công.”
Mười hôm sau, Biển Thước vào yết kiến Hoàn
hầu, lại nói: “Vua có bệnh ở gan ruột, không chữa mau sau khó lòng.” Hoàn hầu
không trả lời, còn lấy làm không bằng lòng. Biển Thước đi ra.
Cách mười hôm nữa, Biển Thước lại vào yết kiến
Hoàn hầu, vừa trông thấy, lùi chạy ra ngay. Hoàn hầu cho người gọi lại hỏi, vì
cớ gì mà ra ngay như vậy. Biển thước tâu: “Bệnh ở bì phu còn châm trích được,
bệnh ở gan ruột còn thuốc thang được, bệnh đã vào xương tuỷ thì không tài nào
chữa trị được nữa. Bây giờ bệnh nhà vua đã vào đến xương tuỷ cho nên tôi không
dám nói, mà phải ra ngay.”
Năm hôm sau, Hoàn hầu phát bệnh, cho tìm Biển
Thước thì Biển Thước đã sang nước Tần rồi. Quả nhiên bệnh Hoàn hầu không thầy
nào chữa được nữa. Hoàn hầu mất. (Cổ học tinh hoa)
Có bệnh mà không biết mình mắc bệnh, cái nguy
lớn là ở đó.
Nhưng cũng như đã xảy ra với Ađam và Eva,
người ta không biết sự sống và hạnh phúc đời đời khi không muốn biết.
25. Chức
quyền là để phục vụ
Trong những ngày đầu lập quốc, các thị trưởng
Hoa Kỳ cũng đôi khi đảm nhiệm cả trách vụ quan toà. Có một câu chuyện được nhiều
người biết đến là câu chuyện về ông Fiorello LaGuadia, thị trưởng New York, với
phiên tòa xử án một người ăn cắp bánh mì. Bị cáo là một ông già, quần áo rách
tả tơi giữa thời tiết lạnh giá của mùa đông. Khi phải trả lời về lý do của việc
ăn cắp, lý do duy nhất mà ông già đưa ra là “gia đình tôi đang chết đói.”
Thật là khó xử cho ông thị trưởng kiêm quan
toà. Nhưng chính vì thế mà cách xử sự của ông đã nổi bật sáng ngời cho mọi cách
xử sự giữa con người với nhau: Sau một chốc suy nghĩ, ông lấy một tờ giấy bạc
trong túi ra và nói: “Luật pháp không tha thứ cho bất cứ một hành động xấu nào.
Ông phải trả 10 đôla cho việc làm của mình.” Thế nhưng trước khi mọi người kịp
phản ứng, ông đã đưa 10 đôla cho ông già để đóng tiền phạt.
Rồi quay xuống những người tham dự phiên toà,
ông nói: “Ông ta đã nộp phần phạt của ông. Còn phần quí vị, tôi yêu cầu mỗi
người đóng 50 xu vì đã sống dửng dưng đến nỗi đã có một ông già phải đi ăn cắp
một ổ bánh mì vì đói trong thành phố chúng ta.”
Nói xong, ông đưa chiếc mũ cho biện lý đi thu
tiền. Chiếc mũ được chuyền một vòng cho hết mọi người dự phiên toà. Số tiền thu
được là 47 đôla 50 xu. Viên thị trưởng trao cho ông già.
Khi nghĩ đến vua, chúng ta thường nghĩ đến một
quyền bính, một chức vị. Quyền bính thì mạnh mẽ, truyền lệnh là mọi người nghe;
chức vị thì cao sang, thường được tôn kính và ngồi chỗ cao. Nhưng có phải người
ta bầu chọn ra các người trưởng để tôn kính mà tuân mệnh, để phục vụ và săn sóc
người được bầu đó không?
26. Chúa
vẫn sống và ban ơn cho ai muốn nhận
Cuốn “Chiếc áo không đường khâu” có ghi lại
cuộc đối thoại giữa Justox, một kitô hữu, và Marcello, một viên chức La Mã như
sau:
Justox: Chúa Giêsu vẫn sống… Đôi khi tôi cảm
nhận như Ngài đang ở gần bên… Ông sẽ không bị lừa dối khi biết rõ Chúa Giêsu
đang ở gần ông.
Marcello: Tôi e rằng tôi chẳng cảm thấy thoải
mái khi bị sự hiện diện vô hình nhòm ngó.
Justo: Không phải thế. Chính sự hiện diện đó
nâng đỡ và mang lại cho ông những gì tốt nhất.
Đâu là những điều tốt nhất mà Chúa Giêsu Phục
Sinh vinh quang mang lại cho tôi?
Chúa Giêsu là đường cho người lạc lối, là của
ăn cho kẻ đói khát thiêng liêng, là cánh tay nâng đỡ người yếu đuối, là kẻ đồng
hành cho kẻ cô đơn, là ánh sáng hy vọng cho tất cả.
THỨ HAI - CHO ÐI TẤT CẢ
Lời Chúa: Lc 21, 1-4
Khi ấy, Chúa Giêsu nhìn lên, thấy những người
giàu có bỏ tiền dâng cúng vào hòm tiền. Người cũng thấy một bà goá nghèo khó bỏ
vào đó hai đồng tiền nhỏ, nên bảo rằng: "Thầy bảo thật các con, bà goá
nghèo khó này đã bỏ vào hòm tiền nhiều hơn mọi người.
Vì mọi người kia lấy của dư thừa mà dâng cho
Thiên Chúa, còn bà này túng thiếu, bà đã dâng tất cả những gì bà có để nuôi
sống mình."
TRUYỆN
KỂ
1. Bỏ
vào tất cả
Thánh Luca là văn sĩ tuyệt vời viết về sự hiền
dịu của Đức Kitô. Nhưng thánh nhân cũng là người nhấn mạnh đến sự đòi hỏi. Thầy
Giêsu đòi ai muốn theo Ngài phải từ bỏ tất cả (Lc 14, 33).
Các môn đệ đầu tiên như Simon, Gioan, Giacôbê,
Lêvi, đều là những người đã bỏ tất cả để theo Thầy (Lc 5, 11. 28).
Bà góa nghèo trong bài Tin Mừng hôm nay (c.4)
cũng là người đã bỏ vào thùng tiền tất cả những gì bà có để sinh sống.
Tất cả và trọn vẹn, chính là điều Thiên Chúa
đòi hỏi nơi con người.
2.
Người Ðàn Bà Góa
Có rất nhiều câu chuyện về những người nghèo
chia sẻ một cách hào phóng cho những người túng thiếu. Câu chuyện cảm động nhất
hẳn phải là câu chuyện của bà góa thành Xêrepta thời tiên tri Êlia:
Toàn vùng phải trải qua một cơn hạn hán lâu
dài, trong nhà người đàn bà chỉ còn lại một ít bột và một vài giọt dầu cuối
cùng đủ để bà chuẩn bị một bữa ăn cuối cùng cho bà và đứa con trai nhỏ. Vừa gặp
người đàn bà đang đi kiếm củi, tiên tri Êlia đã nói hầu như ra lệnh cho bà
rằng: "Hãy chuẩn bị thức ăn cho ông!" Không một chút do dự hay chống
chế, người đàn bà khốn khổ đã làm theo lời vị tiên tri và phép lạ từ lòng quảng
đại của bà đã diễn ra: một vò dầu trong nhà bà không bao giờ cạn cho đến khi
cơn hạn hán chấm dứt.
Người đàn bà góa mà Chúa Giêsu đã nhìn thấy cử
chỉ quảng đại trong Tin Mừng hôm nay cũng chia sẻ một cách hào phóng chẳng khác
nào người đàn bà góa thời tiên tri Êlia. Cùng với những người giầu có đang lũ
lượt đi tới trước hòm tiền để dâng cúng, người đàn bà góa chỉ bỏ đúng có hai
đồng xu nhỏ.
3. Cho
người điều mình đang cần
Mẹ Têrêsa Calcuta cũng có lần kể lại một câu
chuyện tương tự: "Một năm nọ, có một người phụ nữ nghèo đến gõ cửa xin
giúp đỡ. Người đàn bà cho biết rằng bà có tám đứa con nhỏ và từ nhiều ngày qua,
trong nhà không còn một hột gạo. Mẹ Têrêsa lấy gạo trao cho người đàn bà. Số
gạo vừa đủ cho bà và các con bà. Nhưng trước sự ngạc nhiên của mẹ, người đàn bà
xin một bao trống, chia số gạo làm hai rồi giải thích rằng bên cạnh nhà bà còn
có một gia đình Hồi giáo cũng không còn gạo ăn từ nhiều ngày qua."
Người đàn bà nghèo muốn chia sẻ một nửa những
gì mình đang có cho người láng giềng của mình.
4. Dâng
cho Chúa tất cả tấm lòng
Một ngày nọ, Mẹ Têrêsa đi xuống phố, một người
ăn mày chạy đến gặp mẹ và nói: “Thưa mẹ Têrêsa, mọi người đều cho mẹ tiền để
giúp người bệnh tật." Anh nói thêm với giọng hơi buồn: “Con cũng muốn cho
mẹ tiền. Nhưng suốt cả ngày hôm nay, con chỉ có được ba mươi xu. Dù ít, nhưng
con muốn cho mẹ số tiền ấy." Mẹ Têrêsa suy nghĩ một lúc: “Nếu mình lấy ba
mươi xu thì tối nay anh ta sẽ phải nhịn ăn; còn nếu không lấy, sẽ làm tình cảm
anh ta tổn thương." Vì thế, Mẹ đưa tay ra để lấy số tiền ấy và cám ơn anh.
Mẹ chia sẻ: “Tôi chưa bao giờ thấy được niềm
vui như thế trên khuôn mặt của bất cứ ai như trên khuôn mặt của người ăn mày đó
khi anh ta nghĩ rằng mình cũng đã cho tiền mẹ Têrêsa làm bác ái… Số tiền thật
bé nhỏ đó trở nên gấp ngàn lần bởi vì nó đã được cho với bao yêu thương của
anh." Mẹ nhấn mạnh: “Thiên Chúa nhìn thấy không phải là sự to tát của công
việc, mà vào tình yêu thương qua đó công việc được hoàn thành."
5. Bà
Oseola Mc Carthy.
Báo New York Times đưa tin bà Oseola Mc
Carthy: Biểu tượng “Lòng từ thiện” của nước Mỹ, vừa qua đời ngày 03/10/1999 ở
tuổi 91.
Vào một ngày của tháng 7/95, ông hiệu trưởng
trường đại học phía bắc Missisipi đã vô cùng ngạc nhiên, khi có một phụ nữ xa
lạ tên là Oseola Mc Carthy xin được tặng 150.000 đôla làm quĩ học bổng cho các
sinh viên nghèo của trường, mà không cần được ghi danh tưởng niệm hay tuyên bố
công khai. Nhà trường còn sửng sốt hơn khi biết người phụ nữ ấy làm nghề giặt
ủi, và số tiền kia là tiền dành dụm cả một đời người.
Ngay khi biết câu chuyện bà Mc Carthy tặng tất
cả tiền bạc mình có làm quỹ học bổng cho trường, ông tỷ phú Ted Turner, trùm
ngành kinh doanh cáp truyền hình Mỹ, đã tuyên bố góp thêm một tỷ đôla cho quỹ.
Ông nói: ”Người phụ nữ nhỏ bé ấy đã dám ban tặng tất cả những gì bà có, thì tôi
thấy mình cũng phải đóng góp phần của tôi là một tỷ đôla."
6. Cho
phải nhiều hơn nhận
Một Linh mục nọ có thói quen hằng ngày viết
trong nhật ký số quà nhận được và số quà cho đi. Thỉnh thoảng ngồi kiểm lại,
nếu thấy phần nhận nhiều hơn phần cho, vị Linh mục ấy điều chỉnh lại điều phần
cho nhiều hơn phần nhận.
Qua câu chuyện bà góa dâng hai đồng tiền kẽm
vào Đến thờ, Đức Giêsu muốn dạy chúng bài học về việc cho đi cách quảng đại,
cho đi mà không tính toán hon thiệt, cho đi bằng cả tấm lòng. Khi chúng ta
quảng đại cho đi cả những gì cần thiết để duy trì mạng sống mình, là lúc chúng
ta đang cho đi chính bản thân. Xét cho cùng, lòng quảng đại chính là trao tặng
chính bản thân mình, dâng hiến mạng sống mình cho tha nhân.
7. Rất
nghèo mà rất giàu
Vào một mùa đông, tại một đất nước Châu Âu,
một em bé 13 tuổi nghe nhà trường thông báo đợt lạc quyên tiền bạc và phẩm vật
làm quà Giáng sinh cho các trẻ em nghèo trong vùng. Em đã dành dụm mọi chi tiêu
vốn ít ỏi của em trong suốt 3 tháng. Khi đã được 15 đồng, em quyết định đón xe
đò từ làng lên phố. Bất ngờ, một trận bão tuyết ập đến dữ dội làm tắt nghẽn mọi
hoạt động giao thông. Không chịu bỏ cuộc, em xuống xe, co ro lội bộ băng qua
cánh đồng đầy ngập tuyết trắng xóa và gió lốc lạnh buốt.
Ông hiệu trưởng nghe báo có người muốn đang
đợi ở phòng khách. Ông thực sự kinh ngạc sửng sốt khi nhận món tiến chia sẻ từ
tay em bé, bởi vì trước mặt ông chính là một trong số những em bé nghèo mà ông
và nhà trường đã đưa vào danh sách tặng quà giáng sinh năm đó.
8. Biết
cho đi là biết sống
Ở bên Palestine có hai biển hồ. Biển hồ thứ
nhất gọi là biển Chết. Đúng như tên gọi, không có sự sống nào có thể sống ở bên
trong cũng như xung quanh biển hồ này. Chẳng ai muốn sống gần đó. Còn biển hồ
thứ hai là Galilê. Đây là biển hồ thu hút nhiều du khách nhất. Nước ở biển hồ
này lúc nào cũng trong xanh mát rượi, con người có thể uống được và cá cũng
sống được. Nhà cửa được xây cất rất nhiều. Vườn cây xung quanh rất tốt tươi nhờ
nguồn nước này...
Nhưng điều kỳ lạ là cả hai biển hồ này đều
nhận được nguồn nước từ những khe suối ở trong núi chảy ra, rồi qua sông Giodan
chảy vào biển Chết. Biển Chết đón nhận và giữ lại riêng cho mình mà không chia
sẻ nên nước trong biển Chết trở nên mặn chát, nồng độ muối rất cao không sinh
vật nào có thể chịu được. Biển hồ Galilê cũng đón nhận những nguồn nước như thế
rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch, nhờ vậy nước trong biển hồ này luôn
sạch và mang lại sự sống cho cây cối, muông thú và con người.
Một trong những định nghĩa về cuộc sống mà ai
cũng đồng tình: một ánh lửa chia sẻ là một ánh lửa lan tỏa. Một đồng tiền kinh
doanh là một đồng tiền sinh lời. Đôi môi có hé mở mới thu nhận được nụ cười.
Bàn tay có mở rộng trao ban thì tâm hồn mới tràn ngập vui sướng.
Thật bất hạnh cho ai cả cuộc đời chỉ biết giữ
riêng cho mình. “Sự sống”, trong họ rồi cũng sẽ chết dần, chết mòn không làm
nảy sinh được cái gì tốt giống như nước trong lòng biển Chết.
9. Viên
gạch của bà già nghèo
Năm 1830, khi thánh Gioan Vianey sửa lại nhà
thờ xứ Ars, có một bà già đem đến cho Ngài một đồng bạc, để dâng cúng vào việc
tu bổ thánh đường. Thấy bà già quá nghèo nàn và vất vả, thánh Gioan không dám
nhận. Ngài sợ bà phải hy sinh nhiều quá nên mới nói với bà:
- Cha cám ơn lòng tốt của bà, và chắc Chúa
cũng đã nhìn thấy lòng rộng rãi và sốt sắng của bà rồi. Bà quá vất vả và thiếu
thốn, nên xin bà hãy giữ lấy đồng bạc này để tiêu xài cho những thứ cần thiết.
Lúc ấy bà già đã thưa lại cách khiêm tốn rằng:
- Thưa cha, nếu Chúa cho con có của, con sẽ
dâng cúng cho Chúa nhiều hơn, nhưng vì con nghèo, nên con chỉ có thế này để
dâng cúng cho Chúa. Nhưng đây là tất cả tấm lòng yêu mến của con. Vậy xin cha
hãy nhận lấy đồng bạc của con. Với đồng bạc này, nếu cha không mua được cái gì
quí giá, thì xin cha hãy mua một viên gạch lát trong nhà thờ, để mỗi khi Chúa Giêsu
ngự trong nhà tạm nhìn ra trông thấy viên gạch ấy, Chúa sẽ nhớ tới con.
10.
Thua mà không bại
Trong cuốn “Làm thế nào để thua mà không bại”,
Jim Macholtz đã viết lại bài Kinh thánh hôm nay dành cho những vận động viên
trẻ như sau: “Một huấn luyện viên và người phụ tá đang quan sát những bài tập
thể chất của đội. Sau khi đội hoàn thành bài tập, huấn luyện viên chỉ vào một
vận động viên có ít năng khiếu nhất và nói: “Em đó nỗ lực hơn cả. Những người
khác có khả năng hơn, còn em, em đã cho đi tất cả những gì em có, không còn gì
để cho nữa.”
Theo bậc thang từ một đến mười, tôi nỗ lực hết
mức độ vào trong cuộc đua thiêng liêng chạy đến cuộc sống vĩnh cửu?
Mức độ của tình yêu là yêu không mức độ (Thánh
Benađô)
11.
Đừng mong có lợi
Một bà mẹ đạo đức dẫn một đứa con trai nhỏ đến
nhà thờ viếng Chúa, và để tập cho con có lòng bác ái, bà đưa cho cậu vài đồng
bạc cắc để chính tay cậu bỏ vào thùng đựng tiền bố thí đặt ở cuối nhà thờ. Cậu
bé nhanh nhẹn bỏ tiền vào một lỗ nhỏ ở trên nắp thùng. Được một lát, cậu bé bỗng
bật khóc nức nở.
- Việc gì vậy con? Bà mẹ lo lắng hỏi,
- Mẹ ơi, con đã bỏ tiền vào thùng rồi mà sao
nẫy giờ chẳng thấy có cái gì rơi ra cả, hở mẹ?
Thì ra thế! Thằng bé con tưởng đó là thùng bán
đồ tự động như ở trong cửa tiệm, cứ bỏ tiền vào là một thỏi sôcôla hoặc một gói
báng tương ứng với món tiền sẽ rơi ra ngay.
Việc bố thí, tiền dâng cúng của mỗi người
chúng ta phải là sự trao ban tự nguyện và hoàn toàn vô vị lợi, chứ không phải
là một sự trao đổi, với người khác,... và với Thiên Chúa.
"Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này
đã bỏ vào nhiều hơn ai hết. Quả vậy, tất cả những người kia đều rút từ tiền dư
bạc thừa của họ, mà bỏ vào dâng cúng; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của
mình, mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình." (Lc 21,3-4)
12. Bao
nhiêu là nhiều?
Hồi tháng 6/2010, hai tỷ phú Mỹ, Bill Gates và
Warren Buffett phát động chiến dịch “Cam kết Từ thiện.” Hơn 40 nhà tỷ phú,
người thì hứa hiến tặng một nửa tài sản, người thì cam kết biếu toàn bộ tài sản
của mình cho việc từ thiện sau khi họ qua đời. Tổng số tiền cam kết đã lên đến
hàng trăm tỷ đôla. Và con số các nhà tỷ phú hưởng ứng chiến dịch này còn tiếp
tục gia tăng. Tấm lòng hảo tâm của họ thật đáng ngưỡng mộ và chắc chắn hàng
triệu con người bất hạnh sẽ được hưởng nhờ.
Số tiền khổng lồ đó là cả một đại dương so với
giọt nước là hai đồng tiền kẽm của bà goá nghèo kia. Thế mà đối với Chúa Giêsu
bà lại là người đã cho nhiều nhất. Người không chỉ nhìn thấy bên ngoài mà còn
nhìn thấy tận đáy lòng bà và đánh giá cao hành động can đảm của bà. Những người
khác cho đi tiền dư bạc thừa của mình sau khi chết; còn bà, bà không so đo suy
tính mà đã cho đi tất cả những gì bà có để nuôi sống.
Cuộc sống quanh ta vẫn có nhiều cách biệt giữa
người giàu và người nghèo. Bạn có biết rằng những cái dư thừa của mình lại là
những nhu cầu thiết yếu của bao người không? Cái ăn, cái mặc luôn là điều làm
bạn quan tâm thế nhưng đôi khi ta lại tính toán dè sẻn hoặc thậm chí từ chối
chia sẻ cho nhiều người khác đang thiếu thốn.
THỨ BA – CHÚA SẼ ĐẾN
Lời Chúa: Lc 21, 5-11
Khi ấy, có mấy người trầm trồ về đền thờ được
trang hoàng bằng đá tốt và những lễ vật quý, nên Chúa Giêsu phán rằng:
"Những gì các con nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào
nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá." Bấy giờ các ông hỏi Người rằng:
"Thưa Thầy, bao giờ những sự ấy sẽ xảy ra, và cứ dấu nào mà biết những sự
đó sắp xảy đến?" Người phán: "Các con hãy ý tứ kẻo bị người ta lừa
dối: vì chưng, sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà tự xưng rằng: "Chính ta
đây và thời gian đã gần đến", các con chớ đi theo chúng. Khi các con nghe
nói có chiến tranh loạn lạc, các con đừng sợ: vì những sự ấy phải đến trước đã,
nhưng chưa phải là hết đời ngay đâu."
Bấy giờ Người phán cùng các ông ấy rằng:
"Dân này sẽ nổi dậy chống lại dân kia, và nước này sẽ chống với nước nọ.
Sẽ có những cuộc động đất lớn mọi nơi, sẽ có ôn dịch đói khát, những hiện tượng
kinh khủng từ trên trời và những điềm lạ cả thể."
TRUYỆN
KỂ
1. Sắm
sẵn hành trang chưa?
Một quan lớn kia có nuôi một tên hề để hầu hạ.
Quan trao cho nó một cây gậy, bảo nó cứ giữ cho đến khi có ai điên rồ hơn nó
thì hãy cho.
Cách vài hôm sau, quan thọ bệnh nguy kịch. Hề
ta vào thăm, hỏi rằng:
- Khi qua đời rồi, quan sẽ đi đâu?
- Ta đi xa lắm.
- Vậy bao giờ quan về? Một tháng nữa chăng?
- Không.
- Một năm à?
- Cũng không.
- Vậy thì bao giờ quan mới về?
- Chẳng bao giờ về được.
- Thế thì trong cuộc lãng du đó quan đã sắm
sẵn hành trang gì chưa?
- Chưa sắm gì hết.
- Đi xa mà chẳng có hành trang gì, quan thật
điên hơn tôi. Vậy xin nhận lấy cây gậy này.
2. Nơi
đến quan trọng hơn con đường
Các nhà văn muốn viết một quyển truyện hay
thường nghĩ trước phần kết của câu truyện. Chúng ta muốn viết quyển truyện đời
mình cho hay thì cũng phải nghĩ trước về ngày chết của mình, đừng như nhân vật
trong chuyện dưới đây:
“Nhà khoa học Huxley đang gấp vì sợ đến trễ
phiên họp trong đó ông phải đọc một bài tham luận. Ông nhảy lên một chiếc xe
ngựa và bảo người đánh ngựa “Hãy chạy hết tốc lực." Xe chạy một quãng, ông
mới giật mình hỏi “Nhưng mà ta đang chạy đi đâu vậy?" Người đánh ngựa đáp:
“Tôi cũng chẳng biết, chỉ biết là xe đang chạy hết tốc lực."
Trên vòng bán nguyệt của khung cửa chính của
Nhà thờ chính tòa Milanô người ta thấy có khắc ba dòng chữ. Phía dưới hình hoa
hồng được trạm trổ tinh vi của vòng bán nguyệt thứ nhất, người ta đọc được dòng
chữ: “Mọi hạnh phúc chỉ kéo dài trong khoảnh khắc!" Bên vòng bán nguyệt
của khung cửa kia, dưới hình một cây Thập Giá, có dòng chữ: “Mọi đau khổ chỉ
kéo dài trong khoảnh khắc."
Và ở vòng bán nguyệt của khung cửa giữa dẫn
vào lòng chính Vương cung Thánh Đường có khắc dòng chữ: “Chỉ có sự đời đời mới
là quan trọng nhất!”
3. Mong
được biết đến bao lâu?
Một hôm trong một cuộc nói chuyện, một giáo sư
dạy triết hỏi các sinh viên của mình:
- Em nào trả lời câu hỏi của thầy thì giơ tay
lên - thầy nói với cả lớp.
- Ai có thể kể về cha mẹ mình?
Mọi người đều giơ tay.
- Ai có thể kề về ông bà mình?
Khoảng ba phần tư lớp giơ tay.
- Vậy em nào có thể kề về ông bà cố của mình?
Chỉ hai trong số 60 sinh viên giơ tay.
- Giờ thì các em hãy suy nghĩ kỹ đi nào - thầy
bảo - Chỉ mới cách có hai thế hệ mà rất ít người biết cụ cố mình là ai. Có thể
các em từng thấy một bức ảnh cũ kỹ phai màu được cất kỹ trong hộp thuốc lá mốc
meo, hay đã nghe kề một câu chuyện tiêu biểu về gia tộc mình, và biết có người
trong tổ tiên mình đã lội bộ năm dặm đường để đến trường. Nhưng mấy người trong
các em thật sự biết tổ tiên của mình là ai, các cụ nghĩ gì, hãnh diện, lo sợ
hay mơ ước điều gì. Các em thử nghĩ xem. Chỉ trong vòng ba thế hệ thôi mà các
bậc tiền nhân đều đã bị lãng quên. Vậy, liệu điều đó có xảy đến với các em sau
này không?
Để thầy nêu câu hỏi cụ thể hơn cho các em. Các
em thử tương tượng xem ba thế hệ sau mình. Lúc ấy các em đã ra người thiên cổ
lâu rồi. Chỗ các em ngồi bây giờ sẽ là chỗ của các chít chắt. Liệu chúng có
biết gì về các em không? Hay là các em cũng sẽ chìm sâu trong dĩ vãng?
Các em muốn cuộc sống của mình hiện thời sẽ là
dấu hiệu báo điềm xấu hay là tấm gương soi sáng cho các thề hệ sau? Các em sẽ
để lại di sản nào? Sự lựa chọn hoàn toàn tùy thuộc vào quyết định của các em.
Thôi bây giờ lớp chúng ta nghỉ. Không ai trong lớp đứng dậy và ùa về như mọi
khi. Mọi người đều ngồi lại và suy nghĩ về lời thầy nói.
4. Từ
hư vô đến hư vô cho người vô thần
Những chuyến bay định mệnh MH370 và MH17 trong
năm qua vẫn còn làm thế giới bàng hoàng. Trong số những nạn nhân trên hai
chuyến bay ấy, chắc hẳn không mấy người ngờ rằng đó là chuyến bay cuối cùng của
đời mình. Mọi sự trên đời này, kể cả sự hiện hữu của chúng ta, tưởng là bền
vững mãi mãi nhưng thực ra rất mong manh và mau qua chóng tàn. Lời Chúa trong
những ngày cuối năm Phụng vụ nhắc nhở chúng ta về chân lý ấy. Đứng trước thành
Giê-ru-sa-lem huy hoàng tráng lệ tưởng như sẽ mãi “trơ gan cùng tuế nguyệt”,
Chúa Giê-su cảnh báo: “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn
phá hết.”
Ba chú bé chiến thắng trong lò lửa mà cất lời
ca tụng Chúa: “Muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn."
Một trong những sai lầm tệ hại nhất đời người
là coi những sự tạm thời như những thực tại vĩnh cửu. Ngược lại, nếu biết nhận
ra tính cách tạm thời của những sự đời này, chúng ta sẽ có cái nhìn rõ hơn để
hướng về những thực tại bền vững trên trời.
5. Quo
vadis
Phê-rô vẫn bị bắt và chịu đóng đinh ngược!
Chính lúc ấy ông mới cảm thấy mình đã hoàn thành sứ mệnh Chúa trao, và biết
rằng chân lý mà suốt đời ông truyền bá đã trở thành như một làn sóng bao trùm
cả thành Roma, và không có quyền lực nào kìm hãm nổi. Phê-rô nghĩ thế, nên ông
ngước mắt lên trời tạ ơn: “Chúa ơi, Ngài bảo con phải chiếm lĩnh cái thành phố
Roma đang bá chủ thế giới này, con đã chiếm được nó. Người bảo con phải đặt nơi
đó làm thủ đô của Người, vậy con đã đặt. Chúa ơi, giờ đây nó là thành phố của
Người, còn con đang đến cùng Người đây. Con đã làm việc quá mệt rồi."
Lúc ấy ông Phê-rô đang bị lính bao vây, mà ông
nhìn thành phố như một vị chúa tể, một vương quốc là di sản của mình, nên ông
nói: “Đó là thành phố của tôi, và đã được chuộc tội."
Vậy không riêng những người trong đám lính
đang đào hố để dựng cây thập giá treo ông Phê-rô, mà ngay cả những Ki-tô hữu
cũng đoán được rằng: “Quả thực vị chúa tể của thành phố kia đang đứng ở giữa
bọn họ, trong khi đó bao nhiêu hoàng đế đã qua đi, bao nhiêu làn sóng những kẻ
dã man sẽ tràn qua, nhiều thế kỷ cũng qua, nhưng cụ già Phê-rô vẫn không ngừng
trị vì ở chốn này”(x Quo Vadis)
6. Đền
thờ
Năm 70 sau CN, thành Giêrusalem bị thất thủ và
bị thiêu rụi, tướng Rôma là Titô đã bắt 97.000 người làm tù binh, và cho cày
một luống cày chính giữa Đền thờ. Thế là chấm dứt ngôi Đền thờ nổi tiếng, để
rồi trong gần 2000 năm, câu chúc luôn nằm trên môi miệng người Do Thái là “Hẹn
năm sau về Giêrusalem.” Những lời tiên tri của Đức Giêsu đã được ứng nghiệm!
Thế nhưng, với con mắt đức tin, ta khám phá ra một ý nghĩa khác về ngôi đền thờ
như Đức Giêsu nói: “Hãy phá huỷ đền thờ này và trong ba ngày Tôi sẽ xây dựng
lại.” Từ nay ngôi đền thờ vĩnh cửu mọi người phải qui hướng về là con người Đức
Giêsu phục sinh. Mọi người đều được mời gọi bước vào Đền thờ-Đức Kitô phục sinh
để gặp gỡ Thiên Chúa.
Nhớ rằng thân xác mỗi người cũng là đền thờ
Thiên Chúa.
7. Bàn
tay Chúa điều hành tất cả
Bốn vương quốc:Babylon, Mêđi, Ba tư và Hy Lạp
thay phiên nhau thống trị miền Cận Đông trên 300 năm. Giấc mơ của vua
Nabucodonosor bào trước rằng bốn vương quốc này sẽ được thay thế bằng một nước
do Thiên Chúa thiết lập. Các tác giả Tin mừng cho thấy tảng đá là chính Chúa
Giêsu. Như thánh Luca viết: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ, lại trở nên tảng đá
gốc tường.”
Tôi có thực sự tin rằng Thiên Chúa họat động
trong thế gian và kế hoạch của Ngài không thể thất bại không?
Có Thiên Chúa bênh đỡ, ai còn chống lại được
chúng ta? (Rm 8,31)
8. Mùa
gặt sau cùng
Chúa Giêsu áp dụng cho mình danh xưng Con
Người hơn bất cứ danh xưng nào khác. Trong thị kiến của Gioan, Con Người ngự
trên đám mây rõ ràng tượng trưng cho Chúa Giêsu. Đám mây tượng trưng cho Chúa
Giêsu đến vào ngày tận thế. Triều thiên tượng trưng cho việc Ngài là một vị
vua. Lưỡi liềm tượng trưng cho Ngài đến thu họach hoa trái của người công
chính. Ngài đến để đưa họ về trời, ở đó tên của Ngài được ghi khắc trên trán họ
và họ sẽ theo Ngài luôn mãi.
Việc tôi sẽ bị phán xét sau khi chết có tác
dụng gì đến những hành động hiện tại của tôi?
Người đã thổi kèn báo hiệu mà không bao giờ có
thể rút lại được. Người đang thanh lọc những con người đứng trước tòa phán xét.
(Julia Ward Howe)
9. Cần
biết điểm bắt đầu
Bộ phim “Cuộc sinh hạ đầu tiên”, nói về một
người mẹ và hai đứa con trai nhỏ của bà. Bà ta bị chồng bỏ và đã sống cô đơn
gần hai năm. Rồi một người đàn ông khác đến với bà. Nhưng các cậu bé nghi ngờ
ông ta ngay và cố gắng khuyến cáo mẹ, nhưng chẳng ích gì. Cuối cùng, nỗi sợ hãi
của các cậu bé đã thành sự thật và các cậu đã bỏ trốn đi. Hiểu sai con người và
các trạng huống là điều dễ dàng. Đó là ý của Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay:
“Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy… Anh
em chớ có theo họ.”
Lời cảnh báo của Chúa Giêsu liên quan thế nào
đến đời sống thiêng liêng hiện tại của tôi?
Một công thức nấu món thỏ hầm nổi tiếng bắt
đầu bằng cách “bắt thỏ.” Đôi khi ta không để ý đến những điều hiển nhiên.
10.
Chuẩn bị cho ngày mai
Bộ phim “Ngày mai đã đến” mở đầu bằng cảnh một
nhà doanh nghiệp ước muốn hôm nay có thể mua được tờ báo của ngày mai. Chợt một
cụ già xuất hiện với một tờ báo ngày mai, và nói: “Tôi đã quyết định thỏa mãn
ước muốn của ông.” Phần còn lại của bộ phim giải quyết những gì xảy ra cho nhà
doanh nghiệp như kết quả kiến thức “tương lai” của ông ta. Trong bài đọc hôm
nay, Chúa Giêsu cũng làm như thế. Ngài để cho các môn đệ có cái nhìn về tương
lai. Giaó hội đọc bài đọc này vào Chúa nhật áp cuối của năm Phụng vụ, để mời
gọi chúng ta suy nghĩ về ngày tận thế hay ngày tận cùng của cuộc đời chúng ta.
Tôi chuẩn bị như thế nào cho ngày tận cùng?
Anh ta nằm dài dưới ánh mặt trời, sống một
cuộc đời chỉ toàn những dự định, và đã chết mà chẳng thực hiện được gì.
THỨ TƯ - LÀM CHỨNG VỀ CHÚA
Lời Chúa: Lc 21, 12-19
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng:
"Người ta sẽ tra tay bắt bớ, ức hiếp và nộp các con đến các hội đường và
ngục tù, điệu các con đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy: các con
sẽ có dịp làm chứng. Vậy các con hãy ghi nhớ điều này trong lòng là chớ lo
trước các con sẽ phải thưa lại thể nào. Vì chính Thầy sẽ ban cho các con miệng
lưỡi và sự khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch các con không thể chống lại và bắt bẻ
các con.
"Cha mẹ, anh em, bà con, bạn hữu sẽ nộp
các con, và có kẻ trong các con sẽ bị giết chết. Các con sẽ bị mọi người ghét
bỏ vì danh Thầy. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất.
Các con cứ bền đỗ, các con cũng sẽ giữ được linh hồn các con."
TRUYỆN
KỂ
1. Một
sợi tóc
Lúc trời còn tối, ngày 16 tháng 11 năm 1989, tại
nước El Salvador, một nhóm người có vũ trang đã xâm nhập vào Đại Học Trung Mỹ.
Chúng đã giết sáu linh mục Dòng Tên và hai mẹ con người nấu ăn. Giết xong chúng
đã kéo xác ra ngoài vườn và làm những trò man rợ.
Các linh mục này đều là những nhà trí thức, có
ảnh hưởng trong xã hội. Họ muốn nói lên tiếng nói của người nghèo, chịu cảnh
bất công, muốn chấm dứt cuộc nội chiến kéo dài khiến hơn 70 ngàn người chết.
Họ đã phải trả giá bằng vụ thảm sát bất ngờ,
đã chết như những chứng nhân, những vị tử đạo thời mới.
" Nhưng dù một sợi tóc trên đầu các
con cũng sẽ chẳng hư mất. Các con cứ bền đỗ, các con cũng sẽ giữ được linh hồn
các con."
2. Làm
chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh
Giáo hội Rôma trong ba thế kỷ đầu bị bách hại
dữ dội và chúng tôi đã thực sự xúc động khi đến thăm hang toại đạo ở Rôma. Có
tới 500.000 Kitô hữu đã được phúc tử đạo và được an táng trong các hộc mộ ở
hang toại đạo...
Ở Rôma bây giờ có những hang dài đến nỗi không
biết nó đi tới đâu nên người ta phải bít lại, và gần như nó chạy khắp thành phố
Rôma, một thành phố Rôma chìm bên dưới lòng đất ở các độ sâu 20m, 40m và sâu
nhất là 60m (Theo Lm. Phêrô Nguyễn Hồng Phúc, Máu Đào Tử Đạo - Hiến tế sự
sống).
3. Kiên
trì trong nhiệm vụ:
Nhiệm vụ của đồng hồ là mỗi giây phải kêu lên
một tiếng tic-tac. Một chiếc đồng hồ trẻ vừa sinh ra từ một hãng chế tạo được
đưa về đặt trong phòng khách một gia đình.
Cậu bé làm bài toán về những tiếng tic-tac
mình phải phát ra: mỗi phút 60 giây, một giờ 60 phút, một ngày 24 giờ, một
tháng 30 ngày, một năm 12 tháng. Cậu rùng mình sợ hãi vì không biết mình phải
làm nhiệm vụ bao nhiêu năm.
Thấy thế, cụ đồng hồ già đứng ở xó nhà lên
tiếng an ủi: “Cháu ơi đừng quá lo sợ như thế. Bác đã làm công việc này suốt 3
thế hệ rồi. Kinh nghiệm của bác là chỉ cần để ý mỗi giây phát ra một tiếng
thôi."
4. Kiên
trì mới bình phục
Một chàng thanh niên nọ bị bỏ rơi từ khi mới
lọt lòng mẹ. Nhờ tình thương của ông bà cụ, anh thoát chết. Được sự nuôi nấng
của gia đình, theo thời gian, anh lớn lên, rồi trở thành một ngư phủ. Hằng ngày
anh ra khơi đánh cá về giúp cha mẹ nuôi. Cuộc sống tưởng êm đẹp. nào ngờ một
hôm tai họa ập đến, anh bị thương trầm trọng do tai nạn thuyền gây ra. Mặc dù
đã bán hết tài sản để chữa chạy nhưng anh vẫn không khỏi bệnh. Bố mẹ anh “gạt
nước mắt” làm một cái chòi ở đầu đường rồi đặt anh vào đó để anh được sống nhờ
lóng thương xót của khách qua đường. Do không được săn sóc, người anh mọc đầy
ghẻ lở. Bệnh tật ngày một tăng, cơ thể hao mòn, cuộc đời như đã mất…
Nhưng rồi Thiên Chúa lại mỉm cười với anh. Với
những lời động viên, an ủi, khuyến khích của bố mẹ nuôi mới, anh đã cố gắng
kiên nhẫn tập luyện: mỗi ngày 1 giờ, rồi 2 giờ, 3 giờ và cứ thế… Bây giờ trong
anh bừng lên một niềm vui sung sướng, hạnh phúc: Tôi sẽ bình phục.
5. Khổ
đau là phù hiệu
Patric bon Chasteur, người đã bị Đức Quốc xã
tra tấn cầm tù vì tội chống lại sự tàn bạo của Hitler hồi thế chiến thứ II,
trong tác phẩm thời danh của ông với tựa đề: “Cái giá những người môn đệ Chúa
phải trả”, đã viết: “Khổ đau là phù hiệu của những người môn đệ Chúa
Giêsu."
Trong thực tế, các môn đệ đã sống và thực hành
điều đó. Phêrô và Gioan bị bắt và bị điệu ra trước Công nghị Do thái, các ngài
chẳng những không buồn phiền, lo sợ, mà còn hân hoan, vui vẻ, vì nhờ đó có dịp
để nói về Chúa Giêsu cho người khác. Phaolô bị bắt và bị xét xử, ngài cũng mạnh
dạn nói về Chúa Giêsu cho các nhân vật cỡ lớn, như Tổng trấn Felix, Festo, và
cả Hoàng đế Herode Agrippa nữa.
Nhưng cái gì đã tạo ra sự biến đổi nơi các môn
đệ, cũng là bắt bớ, bách hại mà có người cho là thất bại, người khác lại cho là
cơ may? Thánh Augustinô giải thích: cuộc sống con người là sự xung đột giữa hai
tình yêu: yêu Chúa đến độ khinh mình, hoặc yêu mình đến coi rẻ Thiên Chúa. Nếu
tội là yêu mình đến coi rẻ Thiên Chúa thì dĩ nhiên tôi sẽ bám vào những gì tôi
cho là sung sướng ở trần gian, như tiền bạc, danh vọng, sắc đẹp, và khi bị bắt
bớ, tôi bị mất tất cả, lúc đó, bắt bớ bị coi là thất bại. Nhưng nếu tôi yêu
Chúa đến độ coi thường bản thân, thì có bị bắt bớ vì Chúa, cũng chẳng mất mát
gì; người ta có thể lấy tiền bạc, danh vọng, địa vị của tôi, chứ không thể lấy
mất Chúa của tôi được, và đó còn là dịp để tôi rao giảng về Chúa cho họ là
khác. Do đó, chẳng sợ gì hết, chỉ sợ tội mà thôi; cái căn bản là tình yêu đối
với Chúa, nó làm thay đổi cuộc đời.
Người môn đệ Chúa Giêsu không được coi gian
nan thử thách như một cực hình, nhưng phải coi đó là những cơ hội để làm chứng.
6. Sức
mạnh của tình yêu
Ông Jacques Bouroche là một người ngoài công
giáo, trước khi được ơn trở lại, ông hằng ước ao chứng kiến đời sống thánh
thiện của đức giám mục François Fénelon (1651-1715)
Ngày kia ông đã liên lạc được với vị giám mục
thời danh và xin Ngài cho ông được tới thăm Ngài một thời gian.
Vị giám mục đã niềm nở đón tiếp và đối xử ân
cần đến nỗi Jacques Bouroche còn thấy thoải mái hơn cả ở nhà mình. Tuy nhiên,
chỉ lưu lại được vài ngày, ông đã thu dọn hành lý, chào vị giám mục và ra đi
trước thời hạn dự định.
Khi được hỏi tại sao ông lại vội vàng bỏ
đi như vậy, ông Jacques Bouroche đã thú nhận:
“Tôi không thể ở lại lâu hơn. Vì nếu còn ở
lại, sớm muộn gì tôi cũng sẽ theo đạo công giáo mất, một điều mà hiện tại bản
thân tôi chưa muốn."
Chúng ta hãy nhớ lời của Chúa Giêsu: “Chúng
con hãy làm chứng!” (Lc 21,13)
7. Hãy
vác thập giá
Không có một phần thưởng nào mà không phải trả
giá. Không có môt vinh quang nào mà không ướt đẫm mồ hôi.
Đây là những lời trích từ sách Gương Chúa
Giêsu:
“Có rất nhiều người muốn lên thiên đàng với
Chúa Giêsu, nhưng rất ít người muốn vác khổ giá với Chúa.
Nhiều người muốn ngồi ăn với Chúa, nhưng ít
người muốn bắt chước đức nhiệm nhặt của Chúa.
Ai cũng muốn vui hưởng với Chúa mà ít người
muốn chịu khó vì Chúa.
Nhiều người theo Chúa đến lúc bẻ bánh, nhưng
ít ai chịu được cảnh nhục nhã của Thánh giá.
Nhiều người ca tụng Chúa khi được Chúa ban yên
ủi.
Nhưng, nếu Chúa lánh đi và bỏ họ một tí, là y
như họ phàn nàn hay nản chí luôn."
8. Sự
thật định giá trị
Anh Ben Johnson quốc tịch Canađa đã đoạt giải
nhất với huy chương vàng trong Thế Vận Hội, được tổ chức tại Seoul, thủ đô xứ
Hàn vào năm 1988, vì anh là người chạy nhanh nhất thế giới trong cuộc chạy đua
nước rút 100m, chỉ mất có hơn 9 giây. Anh đã được Thủ tướng Canada gọi điện
chúc mừng ngay trên sân thi đấu, mọi người dân Canada vui mừng, hãnh diện trước
chiến thắng này!
Nhưng chỉ ba ngày sau đó, ban Giám khảo trường
thi đã phát giác trong người anh Ben Johnson có chất kích thích, mà anh đã
chích vào trước giờ xuất phát, tức là anh lỗi Luật thi! Thế là ban Tổ chức đã
tước huy chương vàng của anh. Ôi từ đỉnh cao danh vọng anh đã nhào xuống vực
thẳm tủi nhục! Các phái đoàn Canađa ở Seoul không ai còn dám mặc áo có in hình
cờ đất nước mình nữa, cả ngọn cờ Canada tức khắc cũng được chính các cổ động
viên hạ xuống! Mọi người, kể cả dân Canada đều bàn tán, phê phán hành động này
và chối bỏ vận động viên Ben Johnson không phải là dân bản xứ,vì anh có quốc
tịch Canada gốc người Mỹ!
Ở đời này có nhiều người dùng thủ đoạn để
chiếm đoạt danh dự, vinh quang cho bản thân mình, nhưng chắc chắn đến ngày tận
thế, sự thật ấy sẽ được phơi bày và, lúc đó mọi người mới thốt lên: “À ra thế!”
9. Tình
yêu định giá trị
Một học sinh trung học mất nhiều ngày để vẽ
bức biếm họa với những trích dẫn trên tường một lớp học nọ. Khi cậu không nhận
tiền thù lao, giáo viên hỏi cha cậu xem nên tặng cho cậu món quà gì. Người cha
trả lời: “Món quà quý nhất đối với con tôi là vinh dự được làm một cái gì đó vì
tình yêu.”
Công việc của tôi có được thúc đẩy bởi tình
yêu hơn là những động lực khác không?
Thiên Chúa không cần công việc của ta, nhưng
là tình yêu thúc đẩy chúng (Thánh Têrêsa Avila).
10. Cậy
trông vào Chúa
Vào năm 1939, tương lai của Anh quốc xem ra
rất mờ mịt. Quân đội Hitler tỏ ra vô địch. Vua George VI nói với dân chúng và
khuyên họ hãy cậy trông vào Chúa. Vua kết thúc bằng cách viện dẫn một câu thơ
từ bài “Thiên Chúa thông biết”của Minnie Louise Haskins như sau: “Tôi nói với
người đang đứng trước thềm năm mới: Hãy cho tôi một thứ ánh sáng để tôi có thể
bước đi an toàn đến những nơi chưa từng đặt chân đến.” Và ông ta trả lời: “Hãy
xông pha vào đêm tối và hãy phó thác trong tay Chúa. Đó là thứ ánh sáng tốt hơn
và an toàn hơn cả một con đường quen thuộc.” Lời khuyên của vua George nói với
dân chúng là âm vang lời khuyên của Chúa Giêsu cho các môn đệ: “Hãy cậy trông
vào Chúa.”
Tôi đã trông cậy vào tình yêu và sự quan phòng
của Chúa nhiều đến mức nào?
Tin thì sẽ gặp (Ralph Hodgson)
THỨ NĂM - GIỜ CỨU RỖI GẦN ĐẾN
Lời Chúa: Lc 21, 20-28
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng:
"Khi các con thấy Giêrusalem bị các đạo binh bao vây, các con hãy biết
rằng đã gần đến lúc thành ấy bị tàn phá. Bấy giờ những ai ở trong đất Giuđa,
hãy chạy trốn lên núi, những ai ở trong thành, hãy rời xa, và những ai ở vùng
quê, chớ có vào thành; vì những ngày ấy là những ngày báo oán, để ứng nghiệm
mọi lời đã ghi chép.
"Khốn cho những đàn bà đang mang thai và
nuôi con thơ trong những ngày ấy: vì chưng sẽ có sự khốn cực cả thể trong xứ và
cơn thịnh nộ trút xuống dân này. Chúng sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ phải bắt
đi làm tôi trong các dân, và Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp, cho đến
thời kỳ dành cho dân ngoại chấm dứt.
"Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt
trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng
vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn, chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các
tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện
đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các
con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến.”
TRUYỆN
KỂ
1. Thời
khủng khiếp
Theo Josephus, một sử gia người Do Thái đáng
tin cậy, bốn quân đoàn của vị tướng Rôma là Titus đã vây hãm thành phố Giêrusalem
vào lễ Vượt Qua năm 70, khiến người dân trong thành rơi vào cảnh đói khát cùng
cực.
Ông kể chuyện một phụ nữ quê ở Pêrêa vì quá
đói đã túm lấy đứa con còn thơ dại, giết con và nướng để ăn. Cũng theo sử gia
này, quân Rôma đã dùng gươm để giết hơn một triệu người ở Giêrusalem và Giuđê.
Những người Do Thái bị bắt làm tù binh là gần
một trăm ngàn.
2.
Giêrusalem thất thủ
Từ năm 44 TCN đến năm 66 SCN, các quan toàn
quyền Rôma cai trị xứ Giuđê một cách độc ác, dã man, đến nỗi dân Do thái đã nổi
dậy, mặc dù họ biết sẽ bị nghiền nát dưới gót giầy của Ðế quốc xâm lăng. Năm
66, tướng Julianô chỉ huy ba đạo quân sang đánh dẹp những cuộc nổi dậy. Năm 70,
Julianô lên ngôi Hoàng đế tại Rôma, ông sai con cả là Titô tiếp tục cuộc bình
địa Giuđê. Nghe tin Titô kéo quân về Giêrusalem, 25.000 người Do thái thuộc các
phe kháng chiến đang tranh giành ảnh hưởng đã hợp lực tổ chức chống cự. Tuy
nhiên, lực lượng của Rôma quá hùng hậu: 80.000 quân với đầy đủ quân trang đã
bao vây Giêrusalem suốt 6 tháng trời. Ðầu tháng 7 năm 70, Titô lập một tường
thành chiến lược vây hãm Giêrusalem. Ngày 6/8 việc tế tự trong Ðền thờ bị đình
chỉ. Ngày 28/8 quân Rôma đánh phá và đốt Ðền thờ.
Hai ngày sau, tức ngày 30/8 năm 70 thành
Giêrusalem bị thất thủ và bị đốt phá bình địa. 90.000 người Do thái bị bắt làm
nô lệ. Tất cả đã xảy ra đúng như lời tiên báo của Chúa Giêsu.
3.
Giêrusalem phản bội
Như là một biến cố lịch sử, thành Giêrusalem
đã bị tàn phá hai lần, lần thứ nhất vào năm 70, do bởi đạo quân viễn chinh Rôma
dưới quyền chỉ huy của tướng Titô, và lần thứ hai là vào năm 135, thời của
hoàng đế Adriano. Ða số các nhà chú giải hiện nay cho rằng Phúc Âm theo thánh
Luca phải được viết ra trong khoảng năm 80-90, vì thế khi viết những dòng Phúc
Âm trên, tác giả Phúc Âm theo thánh Luca có biết những biến cố về thành
Giêrusalem bị tàn phá năm 70, và tác giả nhìn vào biến cố này không phải một
cách thuần túy như là một biến cố chính trị mà thôi, nhưng còn như là một biến
cố có ý nghĩa tôn giáo nữa.
Việc thành bị tàn phá là do hậu quả của tội
lỗi mà thành đã phạm, bởi vì thành đã từ chối lãnh nhận ơn cứu rỗi Thiên Chúa
mang đến cho. Và như thế, ứng nghiệm lời than trách và lời tiên tri của Chúa
Giêsu về thành Giêrusalem được tác giả Phúc Âm theo thánh Luca ghi lại trước đó
nơi chương 13, câu 34-35 như sau: "Giêrusalem, Giêrusalem, ngươi giết các
tiên tri và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi. Ðã bao lần Ta muốn tụ họp
con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh mà ngươi không chịu, thì
này, nhà các ngươi sẽ bị bỏ mặc cho các ngươi, mà Ta nói cho các ngươi hay các
ngươi sẽ không còn thấy Ta nữa cho đến thời các ngươi nói: chúc tụng Ðấng nhân
danh Chúa mà đến.”
4. Khôn
ngoan biết lo xa.
Một hôm, đang ngồi trong bàn giấy, vua
Chalrles-Quint thấy một vị quan vốn trung thành, đệ đơn xin từ chức. Tưởng rằng
vị quan này không được hài lòng vì lương bổng hay bất mãn với công danh. Nhà
vua tha thiết nhìn ông và bảo cứ ở lại, nhà vua sẽ cho như ý. Hiểu ý vua, vị đó
trả lời:
- Tôi xin rút lui để có thời giờ lo việc linh
hồn.
Nghe câu trả lời bất ngờ đó, vua cảm động và
khen ngợi là người khôn ngoan biết lo xa.
Chính vua Charles Quint sau cũng từ chức và
vào nhà dòng dọn mình chết lành.
5. Tâm
tình không sợ chết nhờ có chủ chăn
Lời tâm sự của một người mẹ: Từ nhỏ tôi đã sợ
chết, nhưng khi đứa con yêu dấu của tôi chết thì tôi không còn sợ nữa. Đó là
nhờ câu chuyện ngụ ngôn vị Linh mục chủ sự lễ an táng đã giảng.
Chuyện như thế này: người mục tử dẫn đàn chiên
đến một dòng suối để sang cánh đồng cỏ bên kia. Suối không sâu nhưng nước chảy
mạnh nên chẳng con chiên nào dám bước xuống. Người mục tử không la hét, không
dùng roi để lùa đàn chiên qua suối. Ông chỉ nhẹ nhàng bồng một con chiên con
rồi bước xuống, đi qua phía bên kia. Con chiên mẹ thấy con mình đã đi qua suối
được nên an lòng bước theo. Sau đó cả đàn chiên bước qua suối nước, sang bờ bên
kia, nơi có sẵn một đồng cỏ xanh rì.” (Sunday School Time).
6. Tuổi
già tin tưởng
Khi John Quincy Adams 80 tuổi, một người bạn
hỏi ông:
- John Quincy Adams thế nào rồi?
- John Quincy Adams vẫn khỏe. Nhưng mà ngôi
nhà mà linh hồn John Quincy Adams cư ngụ đã bệ rạc lắm rồi, nó sắp sập đến nơi.
Đã đến lúc phải rời khỏi ngôi nhà đó. (The Gospel Herald)
7. Thời
gian và tuổi tác
Phải! Rồi sẽ có ngày chúng ta sẽ phải rời bỏ
cõi dương gian này.
“Khi tôi là một đứa trẻ, tôi cười và khóc, thì
lúc đó thấy thời gian bò tới.
Khi tôi là một thanh niên, tôi táo bạo hơn,
thì thấy thời gian đi bộ.
Khi tôi trưởng thành, tôi là một người chững
chạc, thì thấy thời gian chạy.
Cuối cùng, khi tôi bước vào tuổi chín mùi,
tuổi già, thì thấy thời gian bay.
Chẳng bao lâu nữa thì tôi chết, lúc đó thời
gian đã đi mất.
8. Cái
gì thực sự quan trọng?
Trước một cử tọa gồm những nhà kinh doanh lớn,
những minh tinh màn bạc, những nhà trí thức họp mặt tại câu lạc bộ nổi tiếng
Philadelphia Phillies, Cordell Brown đã nói một cách rất duyên dáng như thế
này: “Quí vị có thể thành công suốt cả cuộc đời, và lãnh cả triệu đô la mỗi
năm, nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài của quí vị lại,
thì quí vị sẽ chẳng khác tôi chút nào. Đó là lúc mà mọi người chúng ta đều y
như nhau. Tôi không cần tới những gì các bạn đang có trong cuộc sống, nhưng tôi
chắc chắn rằng, các bạn cần một điều mà tôi đang có, đó là Chúa Giêsu Kitô.”
Những lời của Cordell Brown mời chúng ta tự
hỏi chính mình xem: cái gì thực sự là quan trọng đối với chúng ta? Nó mời chúng
ta nhìn vào những cái chúng ta phải coi là ưu tiên trong cuộc đời mình. Nhất là
nó đòi hỏi chúng ta xem, Chúa Giêsu Kitô có phải là ưu tiên số một trong cuộc
đời chúng ta hay không.
9. Mọi
sự thay đổi, tình yêu Chúa không thay đổi
Tại tu viện Westminter ở Luân Đôn, có một nhà
nguyện nhỏ tên là “Nhà nguyện Thánh George.” Trong nhà nguyện này có bốn cuốn
sách lớn, trong đó có ghi sáu ngàn tên các nạn nhân của cuộc không kích đó. Một
cuốn mở ra và trên trang sách lấp lánh áng sáng có ghi một số tên nạn nhân. Mỗi
ngày người ta giở một trang với một số tên mới. Khi bạn nhìn và đọc cột tên dài
ấy, bạn không sao biết được người có tên mà bạn đọc nghèo hay giàu, da đen, da
trắng hay da màu, là Kitô Hữu, là Do Thái giáo hay là vô thần, già hay trẻ, đẹp
hay xấu.
Lúc đó, không còn có một khác biệt nào nữa.
Lúc đó, tất cả những gì xảy ra đều tùy thuộc vào bản chất con người mà mỗi
người tạo ra cho mình khi mình còn sống trên dương thế.
Vậy thì thái độ tốt nhất của mỗi người là biết
sống phó thác cho Tình yêu của Thiên Chúa
10. Các
thánh định nghĩa về cái chết
Mẹ Têrêsa nói: “Chúng ta phải đặt niềm tin vào
Ngài và thi hành những công việc mà Ngài đã mời gọi chúng ta cho đến hơi thở
Cuối cùng. Thiên Ðàng là nhà của chúng ta. Mọi người đều có khả năng lên Thiên
Ðàng. Dân chúng hỏi tôi về cái chết và tôi có trông đợi cái chết không và tôi
trả lời, “Dĩ nhiên” vì tôi đang về nhà. Chết không phải là chấm dứt, nó chỉ là
sự bắt đầu. Chết là sự tiếp nối đời sống. Ðây là ý nghĩa của sự sống vĩnh cửu;
đó là nơi linh hồn chúng ta đến với Thiên Chúa, trong sự hiện diện của Thiên
Chúa, để thấy Thiên Chúa, để nói với Thiên Chúa, để tiếp tục yêu thương Ngài
với tình yêu lớn hơn, bởi vì trên Thiên Ðàng, chúng ta có thể yêu Ngài với trọn
vẹn tâm hồn và linh hồn chúng ta. Chúng ta hãy phó thác thân xác chúng ta cho
Chúa. Khi chết tâm hồn và linh hồn chúng ta sống đời đời.”
Xin được kết thúc bằng những lời cầu nguyện
của Cha Piô, người được Chúa in năm dấu thánh:
Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì con cần có
Chúa hiện diện để con khỏi quên Chúa.
Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì trời đã xế
chiều và ngày sắp tàn.
Cuộc đời qua đi, vĩnh cửu gần đến.
Con cần được thêm sức mạnh của Chúa, để khỏi
ngừng lại dọc đường. Amen.
11.
Đứng thẳng và ngẩng đầu
Trần Bình Trọng (+1285), một vị tướng nhà Trần
chống đế quốc Nguyên Mông xâm lược, chẳng may thất trận bị bắt. Tướng nhà
Nguyên biết tài muốn dụ hàng, Trần Bình Trọng khảng khái nói: “Thà làm quỉ nước
Nam còn hơn làm vua đất Bắc.”
Câu nói đó khiến ông mất mạng nhưng lưu danh
ông muôn thưở. Ông là chứng từ sống hào hùng bất khuất, đứng thẳng “ngước mặt
không thẹn với trời,” không hèn nhát mà luồn cúi sống ngược với lương tâm. Thái
độ “đứng thẳng và ngẩng cao đầu” mà Lời Chúa hôm nay mời gọi, được đặt trên
niềm hy vọng vào chiến thắng chung cuộc của Đức Kitô và ơn cứu độ vĩnh cửu dành
cho những ai trung thành với Ngài.
“Ngày nay, một trong những điều gây nhức nhối
lương tâm là sự gian dối trong nhiều lãnh vực, kể cả trong môi trường cần đến
sự thật nhiều nhất là giáo dục học đường… Các phương tiện truyền thông chỉ thực
sự mang lại lợi ích cho con người và cộng đồng xã hội khi phục vụ sự thật…” Đây
là những lời ngôn sứ của Hội Đồng Giám Mục VN gửi cho toàn dân Việt qua vụ việc
Tòa Khâm Sứ và giáo xứ Thái Hà, Hà Nội, là lời mời gọi thức tỉnh lương tâm mọi
người hãy sống sự thật. Chỉ có Sự thật mới giải thoát chúng ta.
12. Khủng hoảng trong Hội Thánh
Nếu phải nêu lên những gì đang gây nên bất ổn
nguy hiểm trong Hội Thánh, làm nên tội lỗi, thì tôi (GM Bùi Tuần) xin được nêu
lên hai ý kiến sau đây.
Ý kiến thứ nhất là của Đức Hồng Y Roger
Etchegary. Theo ngài, thì có ba bất ổn lớn hiện nay, đó là ba ưu tiên xấu sau
đây trong Hội Thánh (Xem L’homme, à quel prix. 2012):
Ham tiền bạc,
Ham thành công,
Ham thỏa hiệp với các vị
thần có quyền lực và giàu có.
- Ý kiến thứ hai là của
Đức Cha Michel Dubost. Ngài dựa trên Công đồng Vatican II. Theo ngài, thì có
hai bất ổn rất lớn trong Hội Thánh hiện nay.
Một là
thiếu thiện chí và thiếu khả năng chia sẻ trong tình liên đới những gì đang xảy
ra trong lòng những người nghèo khổ, cùng với niềm vui và hy vọng của họ.
Hai là
thiếu sự cố gắng đổi mới trái tim con người là nơi không những xảy ra những
buồn vui và hy vọng, mà cũng có những dấu vết của tiếng Chúa gọi. ( Xem Une foi
qui agit. 2013)
13. Hãy
đứng thẳng và ngẩng đầu
Sử gia Flavius Josephus cho biết tướng Ti-tô,
chỉ huy bốn quân đoàn Rô-ma, đã bao vây và tàn phá bình địa thành Giê-ru-sa-lem
vào năm 70. Số người bị giết chết là một triệu một trăm ngàn người, chín mươi
bảy ngàn người Do Thái bị đi lưu đày. Các Ki-tô hữu ghi nhớ lời Đức Giê-su tiên
báo về việc thành Giê-ru-sa-lem bị tàn phá, nên đã tránh xa khỏi thành trong
những ngày ấy. Tuy nhiên, những lời trên đây của Đức Giê-su cũng tiên báo về
những hiện tượng ngoại thường trước ngày thế mạt.
Ngày thế mạt ấy không biết khi nào sẽ xảy ra,
chỉ chắc chắn một điều là ai cũng có một ngày cuối đời. Ta có ghi nhớ Lời Chúa
để chuẩn bị cho ngày thế mạt riêng của mình tựa như các Ki-tô hữu sơ khai đã
ghi nhớ Lời Ngài không?
Hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên để đón Đức
Giê-su, Đấng sẽ đến trên mây trời, ngày hôm nay vẫn đang đến với bạn trong cuộc
sống mỗi ngày. Bạn hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên để không mãi mê cúi đầu lo
kiếm sống, vui hưởng thụ, mà quên cùng đích đời mình, để không mãi còng lưng vì
bao thói hư tật xấu kéo ghì bạn xuống.
14.
Đừng sợ
Bộ phim truyền hình “Ngày tận thế”, được quay
ở Laerence, Kansas, vào năm 1983. Bộ phim nói về hiện trạng của thành phố những
ngày sau cuộc tấn công hạt nhân. Trên một trăm triệu người đã xem phim. Tạp chí
Newsweek viết: “Đó là một trong những chương trình truyền hình được nói đến
nhiều nhất, từ phòng họp giám đốc ở Manhattan tới những nhà riêng ở San
Francisco.” Bài Tin mừng hôm nay nghe như một trích đoạn của bộ phim “Ngày tận
thế.” Tuy nhiên, có một khác biệt lớn, đó là Chúa Giêsu bảo các môn đệ đừng sợ.
Nỗi sợ hãi lớn nhất của tôi khi nghe nói về
thế giới` hiện đại là gì?
Nếu Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống
lại được chúng ta?” (Rm 8,31)
15. Tin
vào Thiên Chúa
Gióp nói về Thiên Chúa: “Chúng ta không thể
hiểu được những điều vĩ đại Ngài thực hiện, và những phép lạ Ngài không bao giờ
dứt. Tôi không thể tin được là Ngài sẽ lắng nghe tôi.” Thiên Chúa siêu vượt mọi
hiểu biết. Sai lầm lớn nhất là giới hạn Thiên Chúa bằng định nghĩa của con
người về Ngài. Thánh Augustinô nói: “Không thể diễn tả Thiên Chúa được. Chúng
ta sẽ dễ dàng nói rằng Thiên Chúa không là gì hơn là nói Thiên Chúa là gì.
Thiên Chúa không như chúng ta định nghĩa về Ngài chút nào?
Tôi phải đặt mình trước nhan Thiên Chúa trong
niềm kính sợ như thế nào?
Tôi hát lời ca ngợi quyền năng vô song của
Thiên Chúa, quyền năng đó đã tạo dựng núi đồi, cho bầu trời trải rộng và vút
cao bất tận. (Isaac Watts)
16.
Chọn Chúa và tín thác
Vua Dariô rất quý mến Daniel và đã ban cho ông
một chức vụ cao. Các quan trong triều vì ghen tị đã âm mưu xin vua ra lệnh cấm
không được cầu nguyện trong một thời gian. Họ rình để bắt Daniel vì biết rằng
Daniel vẫn trung thành với việc cầu nguyện. Vua Dariô không còn chọn lựa nào
khác hơn là áp dụng hình phạt cho kẻ bất tuân lệnh, đó là cái chết. Phần còn
lại của câu truyện, chúng ta đã biết.
Tôi có xác tín rằng nếu tôi trung thành với
Thiên Chúa, Ngài sẽ trung thành với tôi? Tại sao?
Lạy Chúa, xin giúp con hiểu rằng Chúa chẳng để
gì xảy ra nếu Chúa và con không cùng nhau xoay sở được.
17. Con
người của niềm hy vọng
Ngày 22/10/2010, tại Rôma, Giáo hội chính thức
mở cuộc điều tra cấp giáo phận phong chân phước cho đức hồng y F.X. Nguyễn Văn
Thuận. Trong những năm lao tù, dưới sự quản thúc và giám sát chặt chẽ, ngài đã
âm thầm viết cuốn “Đường Hy Vọng” như những hoa trái của chính cuộc đời làm
“Chứng Nhân Hy Vọng” của mình.
Trong những lúc bi đát nhất của cuộc đời,
những lúc bị người đời thù ghét, ruồng bỏ, những lúc không còn gì để hy vọng,
người môn đệ Chúa vẫn hy vọng bởi vì Đức Kitô phục sinh đã đem lại cho họ niềm
hy vọng hằng sống (1Pr 1,3). Đó chính là thế đứng vững vàng, thế “đứng thẳng và
cất cao đầu” của những người sắp được cứu chuộc.
Mời Bạn: Trong cuốn “Đường Hy Vọng” Đức Hồng y
Phanxicô viết: trong vài chục năm, nhân loại đã tiến bộ cách khủng khiếp về
khoa học kỹ thuật, thế nhưng lại đang trải qua một cơn khủng hoảng về niềm hy
vọng (ĐHV 958). Mà người tin Chúa Kitô được sai đi vào giữa thế gian để loan
báo cho mọi người biết rằng họ được Thiên Chúa yêu thương cứu độ. Vì thế,
“không thể quan niệm được một Kitô hữu không mê say đem hy vọng ngập tràn thế
giới” (ĐHV 972).
THỨ SÁU - NHẬN RA TIẾNG CHÚA QUA CÁC BIẾN CỐ
Lời Chúa: Lc 21, 29-33
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ thí dụ
này rằng: "Các con hãy xem cây vả và mọi thứ cây cối. Khi chúng đâm chồi
nảy lộc, thì các con biết rằng mùa hè đã gần đến.
Cũng thế, khi các con xem thấy những sự đó xảy
ra, thì hãy biết rằng nước Thiên Chúa đã gần đến. Thầy bảo thật các con, thế hệ
này sẽ chẳng qua đi cho đến khi mọi sự ấy xảy đến. Trời đất sẽ qua đi; nhưng
lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu."
TRUYỆN
KỂ
1. Xem
cây vả
Cây vả là một cây rất thường thấy ở xứ
Paléttin. Khi nó đâm chồi, người ta biết ngay đã vào mùa hè. Rồi thì nó sẽ ra
hoa và kết trái.
Không phải chỉ có cây vả, mọi cây khác cũng
vậy (c.29). Cứ nhìn tình trạng hiện tại của cây, ta biết được điều gì sắp xảy
đến.
Nước Thiên Chúa cũng vậy. Trước khi Nước Thiên
Chúa đến sẽ có những dấu hiệu ở trên trời, dưới đất hay ngoài biển khơi.
2. Dấu
chỉ triều đại nước Chúa
Ở Việt Nam, khi nghe tiếng chim ríu rít vang
khắp thôn xóm, những cành mai thay lá đơm bông (ở miền Nam), những cây đào kết
nụ mơn mởn (ở miền Bắc) như một lời hò hẹn gặp gỡ, các loại hoa ở khắp nơi trên
quê hương mẹ khoe sắc như là tín hiệu báo mùa xuân đang về…
Dù không cần ai nói, nhưng mỗi người chúng ta
đều cảm nghiệm được xuân đang đến theo lời mời gọi của thiên nhiên, của chu kỳ
xoay vần đất trời.
3. Dấu
chỉ thời đại.
Một nhà thám hiểm Tây phương lạc đường giữa sa
mạc. Nguồn lương thực và nước uống đã khô cạn. Ông lê từng bước mệt mỏi trong
cát nóng. Thỉnh thoảng ông nghe tiếng suối róc rách và thấy trước mặt mình một
ốc đảo xanh tươi.
Thế nhưng, với lối suy nghĩ khoa học của người
phương Tây, ông ta tự nghĩ rằng: “Đây chỉ là một ảo ảnh. Trong thực tế trước
mắt ta làm gì có nước và cây cối." Nghĩ như vậy, ông lại tuyệt vọng lê
bước chân tiếp tục đi.
Không bao lâu sau đó, có hai người du mục tình
cờ đi qua lối đó. Họ bắt gặp một cái xác người. Một người trong họ đã thốt lên:
“Chỉ còn hai bước nữa là người này đã có thể tới ốc đảo và tha hồ uống nước
cũng như thưởng thức những trái ngọt cây lành. Tại sao lại có chuyện thế này”?
Nhưng người bạn lắc đầu giải thích: “Ông ta là
một người Tây phương. Thế giới của chúng ta đầy ánh sáng và mầu nhiệm, nhưng
con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy chúng nên không nhận ra
những dấu chỉ của Chúa."
4. Tìm
kiếm sự sống đời đời
Phim truyện Tây Du Ký đã cho chúng ta thấy
hình ảnh một bầy khỉ sống hạnh phúc trong động Hoa Quả. Trong lúc ăn uống no
say thì có một con khỉ già ngã lăn ra chết. Cái chết của nó khiến cho bầy khỉ
buồn bã và lo sợ không biết bao giờ mới đến phiên mình.
Vâng cuộc sống đầy đủ là dấu hiệu của hạnh
phúc, nhưng cũng có thể là con đường dẫn đến đau thương, là mầm mống dẫn đến sa
đoạ.
Tề Thiên, con khỉ đầu đàn đã phải lên đường
tìm thuốc trường sanh. Con người cũng đang tìm cho mình sự sống vĩnh cửu. Theo
quy luật của sự sống thì tôi phải chết. Khi tôi sinh ra là dấu hiệu tôi sẽ phải
chết. Theo dòng thời gian, tôi lớn lên không thể tránh khỏi những bệnh tật. Đó
là những dấu hiệu cảnh giác tôi. Về già, tôi cảm thấy yếu dần. Yếu dần là dấu
hiệu tôi phải chết.
Nhưng với người kitô hữu, chết không phải là
hết mà là cửa ngõ của sự sống, sự sống vĩnh cửu mà những dấu hiệu kia báo
trước. Vậy tôi phải sẵn sàng, phải tỉnh thức để khỏi đánh mất sự sống đời đời.
5. Cánh
cửa cần bít lại
Một người giàu có nọ xây một toà nhà rất đầy
đủ tiện nghi, có thể nói là ngoài sức tưởng tượng! Xây xong, ông mời bạn bè đến
tham quan, và những người này đã không ngớt lời khen ngợi công trình tuyệt mỹ.
Chính chủ nhà cũng tỏ ra không kém phần hứng khởi, và sau khi dọn đến ở trong
ngôi nhà mới, ông đã bày ra mọi thứ trò tiêu khiển, đủ mọi lạc thú trên đời!
Ngày nọ, một người tôi tớ đáng kính của Thiên
Chúa đến thăm và được ông chủ mời đi tham quan tòa nhà tráng lệ. Sau khi hướng
dẫn vị khách đi xem xong, người chủ giàu có mới hỏi người của Thiên Chúa có ý
kiến gì không. Vị này trả lời:
- Tòa nhà làm tôi rất hài lòng. Tuy nhiên, nó
dư một cánh cửa! Ông cần bít cánh cửa này lại nếu ông muốn có một tòa nhà không
chê vào đâu được và hạnh phúc lâu bền!
- Cánh cửa nào thế?
- Đó là cánh cửa mà có lẽ không bao lâu nữa
đâu, người ta sẽ khiêng thi hài của ông đi qua. Ngày nào cánh cửa này còn mở,
ngày đó hạnh phúc của ông trong lâu đài này sẽ không thể kéo dài, và cái gì
không kéo dài được thì không có giá trị cao. Hãy biết rằng, thời gian đang qua
đi này sẽ được tiếp nối bằng sự vĩnh cửu, cái sẽ không bao giờ qua đi!
Có một sự kiện mà ai cũng có thể dễ dàng nhận
thấy: Đó là ngày hôm nay, con người ít nhậy bén với những giá trị thiêng liêng.
Nhà giảng thuyết Payson nói: “Triệu chứng của
sự suy thoái thiêng liêng cũng giống như sự suy thoái thân xác. Nó thường bắt
đầu bằng việc không thích ăn và chê chán mọi thứ thực phẩm, như cầu nguyện, đọc
Thánh Kinh và sách thiêng liêng. Khi nào có những triệu chứng đó, bạn hãy cẩn thận;
sức khỏe thiêng liêng của bạn đang lâm nguy. Cần đến ngay vị Đại Y Sĩ là Thánh
Linh để chữa trị."
6. Nhận
ra tiếng Chúa nói
Năm 1937, nữ tu Têrêsa được cử làm giám đốc
của một trường trung học dành riêng cho các học sinh giàu tại Calcutta. Nữ tu
vẫn còn nhớ mãi lời căn dặn của mẹ mình:
“Con hãy nhớ rằng: con được gởi đến Ấn Độ là
để phục vụ người nghèo." Trước cảnh đói khổ của dân chúng, trước cảnh cô
đơn của các bệnh nhân, những người phong cùi và nhất là trước cảnh trẻ em và
những người già cả lê lết ngoài đường phố, nữ tu Têrêsa cảm thấy không yên tâm
để tiếp tục nghề thầy giáo của mình, nhất là thầy giáo cho học sinh giàu nữa.
Ngày 10.07.1946. trên một chuyến xe lửa chật
chội, ngồi bên những người cùng khổ, nữ tu Têrêsa bỗng nghe như có tiếng thì
thầm trong lòng:
“Con hãy ra khỏi nhà dòng để phục vụ người
nghèo bằng cách đến ở với họ, sống giữa họ và như họ."
Đây là lần thứ hai chị nghe tiếng gọi như thế.
Xác tín rằng: đây là tiếng gọi của Chúa, chị đã trình bày ước nguyện lên bề
trên và đúng một năm sau, chị đã được bề trên và Đức Giám Mục bản quyền địa
phương cho phép ra khỏi dòng để sống với những người nghèo khổ.
Cởi bỏ chiếc áo dòng của các nữ tu, chị choàng
vào chiếc áo Sari cổ truyền Ấn Độ, ăn mặc giống như người nghèo, nữ tu Têrêsa
đã hoàn toàn trở thành một người nghèo giữa những người nghèo.
7. Chân
lý sẽ giải phóng con người
Năm 1961,ý thức hệ Tư bản và Xã hội chủ nghĩa
gia tăng cực độ giữa dân tộc Đức, khiến họ đưa đến quyết định tôn trọng nhau:
ai thích Cộng sản thì ở Đông Đức; còn ai ưa Tư bản thì sống ở Tây Đức. Nhưng
làn sóng người ở Đông Đức tràn qua Tây Đức mỗi ngày một gia tăng, khiến họ phải
xây bức tường chia đôi đất nước từ ngày 13-08-1961. Tường dài 700 km, cao 8m,
dầy 3m. Tiếc thay bức tường dựng lên lại càng tăng thêm sự thù ghét giữa đôi
bên!
Nhưng sau 3 giờ, ông Gorbachov,Tổng bí thu
đảng Cộng sản Liên xô gặp Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, ông trở về nước tuyên
bố giải tán đảng Cộng sản. Tức khắc bức tường ô nhục Bá-linh bị phá đổ ngày
13-11-1989.
Bức tường ngăn cách giữa Tây Đức và Đông Đức
cũng là biểu tượng cho sức mạnh của lý thuyết Mác-Lê,nhưng lý thuyết ấy không
mạnh bằng Lời Thiên Chúa, vì trước đó hai năm Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II
tuyên bố với thế giới trong dịp Đại Hội Quốc Tế Giới Trẻ tại Pháp rằng: “Chân
lý sẽ giải phóng con người” (Ga 8,32). Chính sức mạnh của Chân Lý này là nguyên
nhân làm cho bức tường chia rẽ đó sụp đổ, nối lại tình thân giữa Đông Đức và
Tây Đức.
8. Nhìn
mà không thấy
Các sách Tin mừng áp dụng cho Chúa Giêsu tước
hiệu “Con Người” khoảng 70 lần. Tước hiệu này cũng được đưa ra trong cuộc xử án
Chúa Giêsu, khi thượng tế Caipha hỏi Ngài: “Ông có phải là Đấng Kitô, Con Thiên
Chúa hằng sống không?” Chúa Giêsu trả lời: “Chính thế! Rồi các ông sẽ thấy Con
Người ngự giá mây trời mà đến.”
Vị thượng tế liền xé áo mình ra và nói: “Chúng
ta cần gì nhân chứng nữa. Qúy vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa” (Mc
14,61. 64). Một lần khác tước hiệu này được đề cập đến liên quan tới ngày tận
thế. Chính Chúa Giêsu nói: “Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng
và vinh quang như trong đám mây mà đến” (Mc 13,26).
Tôi đã sẵn sàng cho ngày kinh khủng đến Con
Người đến trong đám mây với quyền năng lớn lao chưa?
Thế gian là chiếc cầu, hãy đi trên đó, chứ
đừng lạm dụng nó.
9. Cuộc
tạo dựng mới
Benjamin Franklin viết những dòng này để khắc
lên bia mộ ông: “Thân xác của Benjamin, một thợ in; cũng giống như một bìa của
cuốn sách. Dù nội dung của nó được khai thác khác, thì vẫn còn đó những ký tự,
chất liệu, làm thức ăn cho côn trùng. Nhưng công trình không hoàn toàn mất đi,
như ông tin rằng nó sẽ được tái bản, sửa chữa hoàn hảo hơn bởi Tác giả của nó.”
Những lời của Franklin và thị kiế của Gioan về
“cuộc tạo dựng mới” mà Chúa Giêsu đã khởi sự cùng với sự cộng tác của chúng ta
đang tiến tới hoàn hảo. Tôi đã và đang cộng tác với Chúa Giêsu như thế nào?
Trước khi Thiên Chúa thực hiện công việc của
Ngài, chúng ta phải làm những công việc của mình (Thánh Augustinô).
10. Một
mục đích
Người Hy Lạp thời cổ tin rằng lịch sử đi theo
vòng tuần hoàn. Nói khác đi, cứ ba ngàn năm một đại họa nào đó sẽ quét sạch thế
giới này. Sau đại họa, lịch sử nhân loại sẽ bắt đầu lại và lặp lại chính nó.
Người kitô hữu thì theo một quan điểm ngược lại: họ tin rằng lịch sử đi theo
một đường thẳng, nghĩa là có một hướng xác định. Nhân lọai hướng đến việc thành
toàn Nước Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã khởi sự và Ngài để cho chúng ta hoàn tất.
Tôi đang làm gì hoặc đang nỗ lực làm gì để
cộng tác vào việc thành toàn Nước Thiên Chúa?
Không có bóng tối, chỉ là không có khả năng
nhìn thấy. (Malcolm Muggeridge)
11.
Nhìn bằng đức tin
Thế giới hôm nay tự hào về kiến thức, thông
tin, đến nỗi có cả “xa lộ thông tin” internet. Nhưng, như Đức Bênêđíctô XVI
nhận định, chúng ta có quá nhiều kiến thức nên không tìm thấy minh triết nữa,
không nhìn ra cái cốt yếu trong cuộc sống nữa. Điều cốt yếu không phải là những
điềm thiêng dấu lạ sẽ xảy đến xóa sổ trái đất này, mà là Chúa luôn đang đến, và
chúng ta phải chuẩn bị cho Ngài trở lại viếng thăm, bằng việc chỉnh đốn đời
sống mình thuận theo Lời Chúa. Đối với con người, trái đất này qua đi là một điều
hãi hùng. Vì thế, đón Chúa đến sống bên cạnh trong giây phút hãi hùng ấy hay
trong muôn điều hãi hùng khác là điều cốt yếu của đời người. Bấy giờ, mọi
chuyển biến trên thế giới và trong cuộc đời sẽ được Kitô hữu đón nhận như là
lời nhắc nhở đến điều cốt yếu phải đạt được, thay vì hốt hoảng, tuyệt vọng.
Trong những hoàn cảnh đen tối của cuộc đời,
bạn đã đón Chúa đến can dự vào cuộc đời bạn như thế nào? Thái độ của bạn bấy
giờ cũng nói lên phần nào thái độ của bạn trong ngày giờ sau hết Chúa đến với
bạn.
12.
“Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần!”
“Những gì chúng ta không thể hiểu bằng trí óc,
sẽ được hiểu bằng trái tim. Kính sợ Lời Chúa là yếu tố quyết định; trong đó,
tình yêu các giới răn mang lại một sự bình an lớn lao sâu thẳm. Giữa tôi với
Ngài, khoảng cách chỉ là một lời cầu nguyện!” - Charles Spurgeon.
Ý tưởng độc đáo của Spurgeon - “Giữa tôi với
Ngài, khoảng cách chỉ là một lời cầu nguyện!” - được gặp lại trong Tin Mừng hôm
nay! Chúa Giêsu nói, “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần!” Nó ở ‘rất gần’ nhưng
cũng ‘rất xa!’. Gần khi giữa nó và chúng ta là một lời cầu nguyện; xa khi chúng
ta chưa hoàn toàn ước muốn điều đó!
THỨ BẢY - TỈNH THỨC CẦU NGUYỆN
Lời Chúa: Lc 21, 34-36
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng:
"Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề bởi chè chén say sưa và
lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con như chiếc lưới chụp
xuống mọi người sống trên mặt đất.
Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn,
để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con
Người!"
TRUYỆN
KỂ
1. Phải
đề phòng
Tháng 9-2009, Tổng Thống Nga Medvedev gọi nạn
nghiện rượu là quốc nạn. Mỗi năm tính bình quân mỗi người dân uống khoảng 18
lít, gấp đôi lượng rượu được coi là nguy hiểm cho sức khỏe.
Nửa số người Nga chết giữa khoảng 15-54 tuổi
là do hậu quả của rượu. Trẻ em và phụ nữ cũng nghiện. Tuổi thọ trung bình của
đàn ông chỉ còn là 59.
Vì nhiều người chết nên dân số Nga sụt giảm
mỗi năm. Làm gì để cai nghiện cho hơn hai triệu người Nga, đó là chuyện nhức
đầu cho các nhà lãnh đạo. Nhưng tại sao người ta lại bị nặng nề bởi rượu Vodka?
Bài Tin Mừng hôm nay nhắc chúng ta về những
thứ nặng nề đè trên trái tim người Kitô hữu.
2. Nền
văn hóa của sự chết
Hòa Lan đã dấn sâu hơn vào nền văn hóa của sự
chết. Ngày 28/11/2000, quốc hội Hòa Lan đã chính thức thông qua luật mới cho
phép các bác sĩ được trợ giúp những bệnh nhân nan y tự tử. Với luật này, Hòa
Lan là nước đi tiên phong trong nền văn hóa của sự chết, tuy chưa chính thức
ban hành luật cho phép các bác sĩ trợ giúp những bệnh nhân nan y tự tử.
Ngày nay, nhiều nước công nghiệp tiên tiến
cũng đang ngày càng bị nhận chìm trong điều thường được gọi là văn hóa của sự
chết. Trong khuôn khổ của ngày Năm Thánh dành cho các giáo dân tham gia truyền
giáo diễn ra tại Vatican vào tháng 12/2000, một hội nghị về những khó khăn
trong cuộc sống chứng nhân giữa đời đã được tổ chức. Nhân dịp này, bà Mêrian
Clindon, giáo sư luật học tại đại học Harvard, Hoa Kỳ, và từng được cử làm
trưởng đoàn Toà Thánh tham dự diễn đàn phụ nữ tại Bắc Kinh vào năm 1995, đã
trình bày cho hội nghị về nền văn hóa chết chóc đang lan rộng trong xã hội Hoa
Kỳ. Bà Clindon nói rằng một trong những dấu hiệu rõ ràng nhất trong nền văn hóa
sự chết là con người không còn màng đến các giá trị đạo đức nữa. Quan hệ gia
đình ngày càng mong manh. Tình mẫu tử bị khinh miệt. Trẻ con dành ít giờ cho
cha mẹ và anh chị em hơn là màn ảnh truyền hình. So với đám đông thầm lặng, nền
văn hóa sự chết lại được thịnh hành hơn trong những thành phần ưu tú và lãnh
đạo trong xã hội.
Ðặc trưng của nền văn hóa của sự chết ấy là sự
phát triển tràn lan của chủ nghĩa duy vật, duy hưởng thụ, duy khoái lạc và tục
hóa.
3. Chu
toàn bổn phận đã được trao phó
Vào ngày 11/9/2001, cả thế giới kinh hoàng
nhìn tháp đôi tòa nhà thương mại thế giới ở New York sụp đổ do hai chiếc máy
bay Boeing 767 mà các tên khủng bố đâm vào. Biến cố kinh hoàng này đã làm cho
cả thế giới thức tỉnh trước nạn khủng bố trên hành tinh chúng ta. Khắp nơi trên
thế giới, đặc biệt là ở Mỹ và Tây Âu, mọi người luôn được nghe những lời kêu
gọi chú ý cảnh giác ở tất cả những nơi công cộng như sân bay, nhà ga, sân vận
động, xe bus, mêtro... ngay cả thùng rác.
Đức Giêsu mạc khải về những dấu hiệu kinh
hoàng vào ngày Chúa đến, ngày tận thế: Sẽ có những sự việc lạ xảy ra trong vũ
trụ một cách toàn diện. Điều này cho thấy nếu chỉ dựa vào những biến cố riêng
lẻ như trong các thời đại nhìn các biến cố xảy ra để đoán ngày tận thế là việc
hoàn toàn sai lầm. Ngày Đức Giêsu trở lại để phán xét như Ngài loan báo là ngày
Ngài hoàn tất tước hiệu Con Người (x. Lc 21,25-26).
4. Hãy
nghĩ về sự chết.
Một vị đan sĩ tên là Mésique bất trung với ơn
gọi, ông đang sống một cuộc đời không mấy tốt đẹp trong nhiều năm. Đột nhiên
ông bị bệnh nặng, Thiên Chúa cho ông rơi vào tình trạng hôn mê trong một tiếng
đồng hồ. Khi tỉnh dậy ông không nói gì về những điều đã cảm thấy trong thời
gian một tiếng đồng hồ ấy. Ông xin người ta cho ở một mình trong một căn phòng
xây kín, và ông đã ở trong đó suốt 12 năm trời. Hằng ngày, qua một cửa sổ nhỏ
người ta đem đến cho ông một chút bánh mì và nước uống. Một hôm người ta tưởng
ông đã chết nên đập phòng đi vào thì thấy ông đang hấp hối.
Trước mặt các tu sĩ vây quanh, ông nói với họ
những lời cuối cùng: “Anh em thân mến của tôi, người nào luôn khắc ghi vào tâm
khảm ý tưởng về sự chết, người đó sẽ không bao giờ dám phạm tội."
Nói thế rồi, ông tắt thở, để lại cho mọi người
một ấn tượng sâu đậm.
5. Ngày
cuối đời như ngày thường
Có một người đàn ông kia sống rất hạnh phúc và
đầy đủ, tuy nhiên, ông vẫn cảm thấy lo sợ cho cuộc đời. Một hôm, ông nảy ra ý
muốn, muốn đi tìm một ai đó chỉ cho ông biết, làm thế nào để cho ông chắc chắn
là ông sẽ chiếm hữu được cuộc sống đời đời mai sau. Theo lời hướng dẫn, ông tìm
ra được một tu sĩ có tiếng thánh thiện. Khi đến nơi, ông thưa với tu sĩ đó
rằng:
- Thưa thầy, nếu biết rằng, chỉ còn sống có
một ngày nữa thôi thì thầy sẽ làm gì?”
Đưa tay ra vuốt chùm râu bạc trắng, vị tu sĩ
bình thản trả lời:
- Có gì đâu, sáng dậy đọc kinh, sau đó dùng
chút trà rồi ra vườn tưới cây, đi thăm và dùng cơm với bạn bè rồi về ngủ.
- Đó là việc hằng ngày thầy vẫn làm mà. Con
muốn hỏi ngày cuối đời kia mà?
- Đúng vậy! Ngày thường và ngày cuối đời có gì
khác đâu.
6. Thế
nào là tỉnh thức?
Một tài xế xe buýt ở Hoa Kỳ đã chiếm một kỷ
lục hiếm có trong suốt hai mươi ba năm hành nghề. Trên một triệu cây số, ông
chưa bao giờ gặp hay gây ra một tai nạn nhỏ nào. Được hỏi lý do, ông trả lời:
“Hãy nhìn đường!" Câu trả lời tuy đơn sơ, nhưng chứa đựng cả một triết lý
sống.
“Hãy nhìn đường!" Có lắm người đi đường
hoặc lái xe mà không nhìn đường. Tai nạn xảy ra hầu hết đều do sự lơ đễnh của
người lái xe. Người bộ hành gặp tai nạn rủi ro có khi cũng do đi đường mà không
nhìn vào con đường mình đang đi.
Chú tâm vào công việc mình đang làm, chính là
luật của thành công. Một vận động viên trên sân cỏ sẽ không ngừng chú ý đến quả
banh, đến đối phương, đến bạn đồng đội. Một học sinh muốn học giỏi cũng phải
chú tâm theo dõi và lắng nghe lời giảng dạy. Một người mẹ trong gia đình phải
chú tâm vào ngân quĩ gia đình, vào công việc hàng ngày. Đó là thái độ tỉnh thức
mà chúng ta phải luôn có để khỏi quá ngỡ ngàng trước ngày Chúa đến gọi chúng
ta.
7. Đi
lạc mà không biết
Linh mục Aristide, thuộc dòng Don Bosco,
chuyên chăm sóc, cải huấn những thanh niên thiếu nữ bụi đời. Linh mục Aristide
hết lòng bênh đỡ người nghèo trong nước Haiti khỏi cảnh áp bức, nên được dân
Haiti tôn làm thần tượng!
Năm 1990, Linh mục này xin Đức Giáo hoàng cho
phép hồi tục để ra ứng cử tranh chức Tổng thống và ông đã đắc cử trở thành Tổng
thống đầu tiên của Haiti. Nhưng chỉ được một năm, tức là năm 1991, ông bị chính
những người đã từng ca tụng ông, đánh bật ông ra khỏi ghế Tổng thống, ông phải
xin đi lưu vong!
Năm 1994, ông được Mỹ ủng hộ đưa ông về lại
Haiti để tái lập quyền Tổng thống! Sự lộn xộn lại xảy ra trong nước! Đến năm
2.000, ông lại được tái đắc cử Tổng thống, nhưng bị mang tiếng là gian lận
phiếu! Từ đó những người có thiện cảm với ông trước đây ra mặt quyết liệt chống
đối, vì ông quá độc tài và Mỹ cũng không ủng hộ ông nữa! Thế là vào ngày
29-02-2004, ông bị quân nổi dậy là những người đã từng ca tụng ông khi ông còn
làm Linh mục, tống đi lưu vong rất nhục nhã!
Phải chăng ông Aristide đã bỏ ơn gọi làm Linh
mục, một chức vụ chỉ chuyên tâm cầu nguyện và giảng Lời Chúa, mà ông đã ảo
tưởng khi làm Tổng thống sẽ phục vụ hữu hiệu hơn, chung cuộc ông làm mất uy tín
của mình, chuốc lấy nhục nhã vì đã gây xáo trộn cho đất nước Haiti suốt 14 năm!
8. Kệ
Trên mỗi gói thuốc đều có lời khuyến cáo: “Hút
thuốc lá có thể gây ung thư phổi;” thế nhưng rất nhiều người vẫn ung dung hút
thuốc và biện bạch: “Thế thì cũng giống như đi ra đường có thể bị xe đụng
thôi.” Chúng ta nghe rất nhiều lời cảnh báo: “Ma tuý là con đường ngắn nhất dẫn
đến cái chết” nhưng tình trạng nghiện ngập mỗi ngày một gia tăng. “Kệ họ”: kiểu
trả lời chúng ta khá thường nghe khi ai đó đề cập những vấn đề trên. “Họ” ở đây
có thể là người khác: mặc-kệ-nó, dại thì chết! “Họ” cũng có thể là mặc-kệ-tôi,
can gì đến anh! Lời Chúa luôn nhắc nhở chúng ta phải tỉnh thức sẵn sàng cho
ngày Chúa đến: “Hãy đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề….” Thế nhưng phải
chăng bao người thời nay vẫn có thái độ dửng dưng phớt lờ của trước lời cảnh
báo của Chúa? Phải chăng họ đang cư xử theo kiểu Chúa nói, cứ nói, “kệ” Chúa!
Phần tôi, cứ “chè chén say sưa, lo lắng việc đời…”, “kệ” tôi?!
Thiên Chúa là Cha hằng luôn ban lời để mời gọi
con cái trở về với Người. Lời có khi là an ủi, có khi là thức tỉnh. Hãy nhìn
lại cung cách chúng ta lắng nghe Lời: Chúng ta có đáp lại bằng cách tỉnh thức
và hoán cải không? Liệu chúng ta có đang dửng dưng, “mặc kệ” Lời Chúa để buông
mình sống theo những đam mê ích kỷ không?
9. Còn
sống mãi
Một văn bản ở Plymouth Rock, bang
Massachusetts, mô tả sự can đảm của những người Pilgrims sống ở đó: “Nhờ vào
đêm tối, những người bạn đã kiệt sức đặt người chết xuống lòng đất, lấp đất
lên, vì sợ người Ấn Độ biết được bao nhiêu phần mộ. Lịch sử đã gây nhận rằng
không có cuộc mạo hiểm vì đức tin và sự tự do nào quý hơn cuộc mạo hiểm của
những người Pilgrims.”
Điều tương tự cũng có thể thấy được nơi đạo
quân các tín hữu không kể siết, vẫn trung thành trong nhiều cuộc bách hại tôn
giáo nhuốm đỏ những trang sử.
Tôi có vẫn trung thành với đức tin trong những
bách hại của cuộc sống thường ngày không?
Bằng chứng tốt nhất cho cuộc sống bất tử là sự
hiện diện của con người xứng đáng. (William James)
10. Đổi
chính mình thì hơn đổi trần đời
Nhà tù Kwa Noi là một địa ngục trần gian. Các
tù nhân lập nên những nhóm cầu nguyện Kinh thánh, và một thay đổi đáng kể đã
diễn ra. Một người lính hồi tưởng lại như sau: “Tôi đang lần bước trở về trại
sau một buổi họp khá muộn. Chợt tôi nghe người ta hát bài “Giêrusalem Đền
vàng.” Có một ai đó đang gõ lên một chiếc hộp… Lời bài thánh ca xưa đã làm cho
đêm tối trở nên thân thiện hơn. Sự khác biệt giữa âm thanh vui vẻ và không gian
tĩnh mịch buồn thảm của những tháng qua là sự khác biệt giữa sự sống và sự
chết.
Tôi giải thích thế nào về sự biến đổi trong
trại giam? Câu chuyện này hàm chứa sứ điệp quan trọng nào đối với thế giới
chúng ta?
Khắc phục thì dễ dàng hơn chờ đợi điều kiện
thuận lợi (Anthony de Mello).
11. Cần
lo chuyện đáng lo
Chiếc tàu Titanic bị đắm vào năm 1912, nhận
chìm hơn 1. 500 người. Mười năm sau, một tạp chí đặt câu hỏi: “Nếu bạn đứng
trên tàu khi tàu đang chìm, bạn có lo sắp xếp lại những chiếc ghế bành không?
Thoạt đầu câu hỏi nghe có vẻ ngớ ngẩn. Nhưng suy nghĩ kỹ, chúng ta thấy phản
ánh ý tưởng Chúa Giêsu đưa ra trong bài Tin mừng hôm nay: “Anh em đừng để mình
ra nặng nề vì chè chén say sưa… Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức
thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến.”
Tôi có thường lo “sắp xếp lại những chiếc ghế
bành” trên chiếc tàu đang chìm không?
Hãy trông cậy vào Chúa, nhưng hãy lo chuẩn bị
chu đáo chính con người bạn. (Ngạn ngữ Ba Tư).
Lạy Chúa, 100 năm trước con chưa có, 100 năm
sau hẳn con đã không còn có mặt trên đời này. Xin cho con ý thức sự chóng qua
của đời này để con chỉ biết tìm kiếm Chúa là gia nghiệp của đời con. Amen.
12.
Chuyện lúc nào cũng là thời sự
Ngày cuối năm Phụng Vụ, một chu kỳ khép lại
với sứ điệp Tin Mừng nói về thời chung cuộc kèm theo tiếng gọi tỉnh thức và lời
cảnh báo rất cụ thể: đừng để lòng mình “ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng
sự đời."
Ngày hôm nay, lời này của Chúa vẫn nóng hổi –
không chỉ vì sứ điệp của Chúa hẳn nhiên luôn còn nguyên tính mới mẻ, mà còn vì
hình ảnh “chè chén say sưa” Chúa dùng ở đây chính là một trong những hình ảnh
vẫn đập vào mắt chúng ta hằng ngày từ đầu đường đến cuối chợ, từ thành thị đến
thôn quê.
Báo Lao Động, ngày 7.11.2012, đưa tin: Việt
Nam là nước tiêu thụ bia số một ASEAN; trong năm 2011 dân Việt Nam uống hết 2,6
tỉ lít bia, chưa kể rượu, vượt xa hai nước xếp hạng tiếp theo là Thái Lan và
Philippines. Quả là bức tranh buồn cho đất nước này và – dĩ nhiên – cho Giáo
hội tại đất nước này.
LỄ KÍNH THÁNH ANRÊ - NGƯ PHỦ LƯỚI NGƯỜI
Lời Chúa: Mt 4, 18-22
Khi ấy, nhân lúc Chúa Giêsu đi dọc theo bờ
biển Galilêa, Người thấy hai anh em là Simon, cũng gọi là Phêrô, và Anrê, em
ông, cả hai đang thả lưới dưới biển, vì hai ông là ngư phủ. Người bảo hai ông
rằng: "Các ngươi hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư
phủ lưới người ta." Lập tức hai ông bỏ lưới đó mà theo Người.
Ði xa hơn một đỗi, Người lại thấy hai anh em
khác là Giacôbê con ông Giêbêđê, và Gioan em ông đang vá lưới trong thuyền với
cha là Giêbêđê. Người cũng gọi hai ông. Lập tức hai ông bỏ lưới và cha mình mà
đi theo Người.
TRUYỆN
KỂ
1. Tiểu
sử thánh Anrê
Thánh Anrê quê ở Bétsaiđa. Ban đầu người là
môn đệ của thánh Gioan Tẩy Giả, sau đó theo Chúa Kitô. Người cũng đã dẫn em là
thánh Phêrô đến gặp Chúa. Chính người cùng với thánh Philipphê đã giới thiệu
những người ngoại giáo với Chúa Kitô và đã cho biết có một em bé mang theo bánh
và cá khi những người nghe Chúa giảng không có gì ăn. Sau khi Chúa Thánh Thần
hiện xuống, người đã đi loan báo Tin Mừng ở nhiều nơi và đã bị đóng đinh thập
giá ở A-khai-a.
2. Hành
trình theo Chúa của Anrê
Anrê tiếng Hy lạp có nghĩa là mạnh mẽ can đảm.
Thánh Anrê được vinh dự làm một trong số 12 tông đồ của Chúa Giêsu. Con của
Gioana. Như anh mình là Phêrô, Ngài làm thuyền đánh cá và không có gì khác
ngoài chiếc thuyền. Như thế Ngài thuộc lớp người khiêm tốn được Chúa Giêsu yêu
thương đặc biệt. Ngài vẫn sống tại làng Bethsaida nhỏ bé bên bờ biển Galilêa
cũng gọi là hồ Giênezareth. Ngày ấy đang khi cùng với Phêrô đi thả lưới, Chúa
Giêsu đã đi ngang qua và đưa lời gọi sẽ quyết định cuộc đời các Ngài:
- Hãy theo tôi, tôi sẽ làm các anh thành
các ngư phủ lưới người ta.
Đây không phải lần đầu Anrê đã gặp đấng cứu
thế. Thỉnh thoảng Ngài có tới nghe Gioan Tẩy giả rao giảng trong sa mạc. Khi ấy
Chúa Giêsu xuống Galilea và Gioan tẩy Giả đã nói:
- Đây là Chiên Thiên Chúa.
Và Anrê có mặt ở đó với Gioan, đã biết được
Người là Đấng thiên sai mong chờ. Gioan và Anrê lên đường theo Người xa xa vì
họ cảm động và không dám tới gần. Nhưng Chúa Giêsu quay lại và nói với họ: -
Các anh tìm chi vậy?
Họ, những người chỉ tìm, chỉ muốn Chúa thôi đã
thưa lại:
- Thưa Thầy, thày ở đâu?
Chúa Giêsu nói: - Hãy đến mà xem.
Và cả hai đã ở với Chúa hôm ấy.
Khi trở về nhà Anrê đã nói với anh mình: -
Chúng tôi đã gặp được Đấng thiên sai.
Từ đó hai anh em đã bỏ chài lưới để tới gần
Chúa Giêsu. Họ nghe Người và thần tính của Người dần dần rọi sáng tâm hồn họ.
Họ đã tông thờ Đấng cứu thế ở trong lòng rồi.
Sau những tường thuật trên của Phúc âm, người
ta không biết gì chắc chắn nữa về Anrê. Các bản văn không có thẩm quyền nói
rằng: Ngài đã góp phần Phúc âm hóa dân chúng miền Bithynia, Bontê và Galitia.
Ngài bị bắt bên bờ Bắc hải và kết thúc cuộc đời tại Achaia. Lửa đức ái rực cháy
trong lòng vị tông đồ. Người ta nói rằng: để cải hóa một tâm hồn, Ngài ăn chay
5 ngày. Đây là tục truyền kể lại cuộc tử đạo của thánh Anrê ở Taurida.
Egêa, tổng trấn tỉnh đó cho biết vị tông đồ có
mặt ở Patras, thủ phủ của ông, ông liền vội vã tới nơi: kẻ ngoại lai này muốn
phá hủy đền thờ các thần minh ư? Nhưng Anrê không sợ gì Egêa. Ngài đã nắm vững
được chân lý. Ngài nói:
- Tôn thờ loài người chỉ là dị đoan điên
khùng. Ông đã lãnh quyền xét xử người ta, trước hết ông phải biết đến vị thẩm
phán xét xử mọi người chúng ta ở trên trời và ông phải tôn kính ca ngợi Người.
Egêa vặn lại: - Vị thẩm phán anh nói là Chúa
Giêsu mà lời ông ta thường giảng dạy đã làm cho ông ta phải chết trên thập giá
chứ gì? Vậy nếu anh không dâng hương tế thần, anh cũng sẽ phải chết trên thập
giá như vậy.
Không hề sợ sệt, Anrê như rạng rỡ vì hạnh
phúc: làm sao Ngài để mất danh dự được đóng đinh vào cùng một đau khổ giá như
thày mình được? Khi bắt đầu những tra tấn đầu tiên, lòng dũng cảm còn tăng
thêm, Ngài nói với Egêa:
- Cực hình cuối cùng ông đe dọa sẽ được tiếp
liền bằng vinh quang bất diệt.
Khi thấy thập giá mình sẽ phải chết trên đó,
thánh nhân hớn hở chào kính mà người ta thích lập lại lời chào ấy:
- Ôi thánh giá tốt lành, thánh giá bấy lâu
mong chờ, thánh giá nhiệt tình yêu mến, hãy đưa ta tới thầy chí thánh là Đấng
đã nhờ Người mà cứu chuộc Ta.
Dịu dàng Anrê giang tay ra. Ngài bị cột bằng
giây để cái chết tới chậm hơn. Hình phạt sẽ kéo dài hai ngày và người ta còn
nghe Ngài tiếp tục rao truyền đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Dân chúngvây quanh
Ngài với niềm thán phục đã xin quan tổng trấn tháo giây cho Ngài. Họ nói: - Hãy
trả con người thánh thiện cho chúng tôi. Đã hai ngày bị treo, Ngài không ngừng
nói những lời tốt lành, đừng giết con người yêu quí của Thiên Chúa.
Nhưng Anrê không muốn được trả về cuộc sống
khốn cực trần gian này. Ngài cầu nguyện: - Lạy Chúa Kitô hãy đón nhận con, ôi
thầy con yêu, con biết con ước ao được gặp thầy, trong Thày mà con được thế
này. Hãy nhận lấy hồn con, lạy Chúa Giêsu Kitô.
Và những người tham dự thấy linh hồn vị tông
đồ trong hào quang đã bay về với Chúa tạo thành và cứu chuộc của mình.
Tương truyền thánh Anrê đã bị cột vào thánh
giá đã có từ thế kỷ XII và chỉ vào thế kỷ XIV... người ta mới tưởng tượng thánh
giá đó hình chữ X. Dụng cụ cực hình ấy được mệnh danh là thánh giá thánh Anrê.
3. Quan
tâm đến người khác
Chúng ta học được bài học gì qua cuộc đời của
Thánh An-rê? Có nhiều bài học nhưng có lẽ bài học thực tế nhất đó là bài học
biết quan tâm đến người khác.
Gặp được Chúa Giêsu, An-rê đã nghĩ ngay đến
anh mình.
Trong hoang địa khi Chúa Giêsu ra lệnh cho các
môn đệ tìm của ăn cho dân chúng ăn, một mình An-rê đã nhanh chóng thấy được một
em bé có 5 chiếc bánh và hai con cá.
Tại Giêrusalem, những người Hy Lạp đang băn
khoăn không biết làm sao để có thể gặp được Chúa, An-rê đã có mặt để dẫn họ đến
với Chúa.
Tin mừng chỉ ghi lại có ba lần như thế nhưng
với ba lần đó chúng ta cũng có thể thấy được An-rê là con người tốt như thế
nào.
* An-rê đã sống như thế, còn chúng ta thì sao?
Không biết ngày nay chúng ta có sống được như thế hay không? Hình như là ngày
nay con người nghĩ đến mình nhiều hơn nghĩ đến người khác. Việc biết quan tâm
đến những người khác người đã trở thành hiếm hoi. Thế giới ngày nay với cuộc
sống hướng nhiều về hưởng thụ đang làm cho con người chỉ muốn vun quén cho mình
mà không biết đến người khác.
Có một ông Vua nọ bị dân gán cho một căn bệnh
hiểm nghèo, đó là “Tứ chứng nan y” gồm: Mù, què, câm, điếc.
Một hôm, một người vào cung Vua, yết
kiến. Vua hỏi:
- Nhà ngươi vào gặp Ta chắc có chuyện gì?
- Tâu Bệ Hạ -người đó thưa lại- hạ thần nghe
rằng Bệ Hạ đang mang một căn bệnh rất hiểm nghèo là “Tứ chứng nan y” nên hạ
thần vào thăm Bệ Ha.
Nghe thế, Nhà vua liền nổi giận quát: - Kẻ nào
dám bịa đặt bảo ta bị bệnh? Chân tay mắt mũi ta lành lặn thế này mà bảo ta mù,
què, câm, điếc sao?
Người kia liền tâu: - Thần nghe thiên hạ đồn
như vậy, nay gặp Vua mới biết sự thực. Nhưng xét lại, thì tin đồn ấy cũng chẳng
sai.
Nhà vua chặn lời và nói: - Vậy ngươi hãy chỉ
cho ta xem nào!
- Tâu Bệ Hạ, thứ nhất dân kêu kiện nhiều mà Bệ
Hạ không thèm trả lời, không giải quyết, nên bọn họ tưởng Bệ Hạ bị câm.
Thứ hai, giặc ngoại bang tràn lan muốn xâm
chiếm đất nước, nhân dân hoang mang lo sợ, kêu cầu nhà Vua mà vua không lo gì
hết, nên họ tưởng là nhà Vua họ bị điếc.
Thứ ba, cuộc sống của Bệ Hạ thì quá sung
sướng, trên nhung lụa, còn ngược lại, dân chúng sống trong cùng cực, đói khổ.
Họ không hề thấy Bệ Hạ dòm ngó gì đến họ, cũng chẳng thèm quan tâm lo lắng đến
đời sống của họ, nên họ tưởng Bệ Hạ bị đui.
Và cuối cùng, vì họ không bao giờ thấy Bệ Hạ
ra khỏi cung điện, mà ngày đêm chỉ biết ăn chơi với các cung phi, nên họ tưởng
là Bệ Hạ bị què!
Chúng ta hãy xin với
thánh An-rê điều chỉnh lại cuộc sống của chúng ta.
4. Cuộc
tử đạo của Anrê
Đây là tục truyền kể lại cuộc tử đạo của thánh
Anrê ở Taurida: Egêa, tổng trấn tỉnh đó cho biết vị tông đồ có mặt ở Patras,
thủ phủ của ông, ông liền vội vã tới nơi: kẻ ngoại lai này muốn phá hủy đền thờ
các thần minh ư? Nhưng Anrê không sợ gì Egêa. Ngài đã nắm vững được chân lý.
Ngài nói:
- Tôn thờ loài người chỉ là dị đoan điên
khùng. Ông đã lãnh quyền xét xử người ta, trước hết ông phải biết đến vị thẩm
phán xét xử mọi người chúng ta ở trên trời và ông phải tôn kính ca ngợi Người.
Egêa vặn lại:
- Vị thẩm phán anh nói là Chúa Giêsu mà lời
ông ta thường giảng dạy đã làm cho ông ta phải chết trên thập giá chứ gì? Vậy
nếu anh không dâng hương tế thần, anh cũng sẽ phải chết trên thập giá như vậy.
Không hề sợ sệt, Anrê như rạng rỡ vì hạnh
phúc: làm sao Ngài để mất danh dự được đóng đinh vào cùng một khổ giá như thày
mình được? Khi bắt đầu những tra tấn đầu tiên, lòng dũng cảm còn tăng thêm,
Ngài nói với Egêa:
- Cực hình cuối cùng ông đe dọa sẽ được tiếp
liền bằng vinh quang bất diệt.
Khi thấy thập giá mình sẽ phải chết trên đó,
thánh nhân hớn hở chào kính mà người ta thích lập lại lời chào ấy:
- Ôi thánh giá tốt lành, thánh giá bấy lâu
mong chờ, thánh giá nhiệt tình yêu mến, hãy đưa ta tới Thầy Chí Thánh là Đấng
đã nhờ ngươi mà cứu chuộc ta.
Dịu dàng Anrê giang tay ra. Ngài bị cột bằng
giây để cái chết tới chậm hơn. Hình phạt sẽ kéo dài hai ngày và người ta còn
nghe Ngài tiếp tục rao truyền đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Dân chúng vây quanh
Ngài với niềm thán phục đã xin quan tổng trấn tháo giây cho Ngài. Họ nói:
- Hãy trả con người thánh thiện cho chúng tôi.
Đã hai ngày bị treo, Ngài không ngừng nói những lời tốt lành, đừng giết con
người yêu quí của Thiên Chúa.
Nhưng Anrê không muốn được trả về cuộc sống
khốn cực trần gian này. Ngài cầu nguyện:
- Lạy Chúa Kitô hãy đón nhận con, ôi thầy con
yêu, con biết con ước ao được gặp thầy, trong Thày mà con được thế này. Hãy
nhận lấy hồn con, lạy Chúa Giêsu Kitô.
Và những người tham dự thấy linh hồn vị tông
đồ trong hào quang đã bay về với Chúa tạo thành và cứu chuộc của mình.
5. Quan
tâm đến người khác
Vào tháng thứ hai của một khóa học tại trường
đào tạo nghiệp vụ y tá, giảng viên cho chúng tôi làm một bài kiểm tra về kiến thức
phổ thông.
Tôi vốn là một sinh viên chăm chỉ nên dễ dàng
trả lời mọi câu hỏi trong bài kiểm tra, trừ câu hỏi cuối: "Chị tạp vụ ở
trường tên là gì?" Tôi nghĩ đó chỉ là một câu hỏi cho vui. Tôi đã trông
thấy chị ta vài lần. Chị có dáng người cao, mái tóc nâu sâm và khoảng 50 tuổi,
nhưng làm thế nào mà tôi có thể biết tên chị được kia chứ? Tôi nộp bài và bỏ
trống không trả lời câu hỏi đó.
Trước khi tan học, một sinh viên đứng lên hỏi
giảng viên về cách tính điểm câu hỏi cuối trong bài kiểm tra vừa làm. Giáo sư
bộ môn trả lời:
Tất nhiên là có tính điểm. Trong mọi ngành
nghề, các anh chị luôn phải gặp gỡ và tiếp xúc với nhiều người. Tất cả những
con người đó đều có ý nghĩa. Họ đáng được các anh chị quan tâm chú ý đến, cho
dù tất cả những gì ta có thể làm cho họ chỉ là một lời chào hỏi và một nụ cười.
Tôi đã không quên bài nọc đó trong suốt cuộc
đời mình. Tôi cũng đã biết được tên của chị tạp vụ trong trường. Chị ta tên là
Dorothy.
6.
Thánh Anrê con người khiêm tốn
Khi một chiếc tầu hỏa xuyên châu lục chạy vèo
qua khung cửa, một giám mục đã già đang nói với một linh mục trẻ vừa mới ra
khỏi chủng viện về đời sống đầy những biến cố của ông. Rồi ông quay lại linh
mục trẻ và yêu cầu ông này kể lại ơn gọi của mình.
Linh mục kiểu cách đáp lại:
”Ồ, nói ra thì rất đơn giản, tất cả những
gì con muốn nói là vì Chúa đã cần đến con.”
Giám mục nhận xét: ”Này anh bạn trẻ, đây
là sự trùng khớp thật thú vị: Nếu như tôi còn nhớ, trong Tin Mừng chỉ có một
lần Chúa nói Người cần một cái gì đó. Trong Lu-ca 19:34 nhân dịp Người sắp sửa
vào Giê-ru-sa-lem một cách vinh quang, Người nói Người cần một con lừa.”
Thánh Kinh có câu: "Lòng con chẳng dám tự
cao, mắt con chẳng dám tự hào Chúa ơi” (Tv 130, 1). Ai sống khiêm tốn thì sẽ
được Thiên Chúa yêu thương và được mọi người quý mến.
"Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng
ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1Pr 5,5). Điều Chúa cần nơi chúng ta chính là tấm
lòng khiêm tốn thực thi thánh ý Người.
Thánh Anre là một con người như thế. Đầy khiêm
tốn và nhiệt huyết. Theo Thánh Kinh Anrê là môn đệ đầu tiên được thánh Gioan
giới thiệu đến với Chúa Giêsu. Anre đã không nghĩ cho mình mà ông đã nghĩ đến
anh. Ông đã gặp anh và nói: "Chúng tôi đã gặp Đấng Messia. rồi ông đưa
Simon Phêrô đến gặp Đức Giêsu. (Ga l,41-42).
7. Dứt
khoát trong chọn lựa
Trên sân ga, một đôi tình nhân đang ngồi bên
nhau để dành cho nhau những giây phút chia tay cuối cùng, vì cô ta phải dứt
khoát từ bỏ anh, người cô yêu say đắm để vâng lời cha mẹ mà chuyển đi phương
xa. Khi đoàn tàu đã hú còi báo chuẩn bị chuyển bánh, thì đôi uyên ương dùng
dằng khó dứt khoát. Khi cô ta nghe tiếng mẹ gọi, cô đã vội vàng chạy lên tàu.
Khi chạy đến nơi thì cửa tàu cũng đã khép. Buồn bã qua lại chỗ người yêu, thì
người yêu cũng đã lên tàu về quê.
Lòng người luôn bị dao động bởi thiếu sức mạnh
của tinh thần, vắng bóng sự khôn ngoan của Thánh Thần, khi trong tình huống cần
phải quyết định dứt khoát thì không thể dứt khoát.
8. Dứt
khoát theo Chúa
Giữa cuộc sống đời thường một ngày như mọi
ngày, thi thoảng có những trường hợp đòi hỏi phải có một “phản ứng nhanh”, để
bắt lấy thơi cơ quý hiếm hay để tránh hậu quả đáng tiếc. Khi nghe Chúa gọi, bốn
môn đệ đầu tiên đã “lập tức” bỏ chài lưới mà theo Người. “Lập tức” diễn tả một
quyết định nhanh, một chọn lựa dứt khoát, không chần chừ toan tính, không lừng
khừng nửa vời. Như thế phải chăng sẽ là “dục tốc bất đạt”? Không, “lập tức” ở
đây nói lên thái độ “tỉnh thức và sẵn sàng” trước mọi tình huống khẩn cấp và
bất ngờ, nhất là trước tiếng gọi của Chúa, vì Người vẫn đến khi ta không ngờ.
Chỉ có thể có thái độ và phản ứng nhanh như thế, khi nào ta luôn đặt mình trước
sự hiện diện của Người.
Giống như Đức Maria thưa vâng và “hối hả vội
vã” lên đường, bốn môn đệ “lập tức” bỏ chài lưới mà theo. Bốn chữ “vâng, vội,
bỏ, theo” chính là kim chỉ nam giúp ta sống trọn vẹn ơn gọi con người và con Chúa.
Hành trình đức tin đã được khởi xướng, giờ đây phải được tiếp tục.
“Tin vào Chúa là hướng về Ngài, là đi tới
Ngài, là mỗi ngày mỗi tiến tới trên con đường dẫn đến Ngài, và cuối cùng là đến
được với Ngài” (Th. Augustinô).
9. Ơn
gọi loan báo Tin Mừng
Thư Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010 nhắc lại
giáo huấn của Công Đồng Vatican II rằng loan báo Tin Mừng là lý do hiện hữu của
Giáo Hội, và vì thế truyền giáo không chỉ là một trong những hoạt động của Giáo
Hội mà là “nắm men thấm nhập, khơi dậy và chi phối mọi khía cạnh của đời sống
Giáo Hội” (số 31).
Mới đây trong sứ điệp ngày Chúa Nhật Truyền
Giáo, Đức Bênêđitô XVI lại nhấn mạnh: “Từ cá nhân những người đã được rửa tội
đến những cộng đoàn giáo hội, tất cả đều phải dấn thân vào việc truyền giáo
không phải như một việc thỉnh thoảng mới làm hoặc theo thời vụ, mà là một cung
cách sống thường xuyên, một lối sống của người Kitô hữu.” Các ngài chỉ lặp lại
lời mời gọi của Chúa Kitô hôm nay: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các
anh thành kẻ lưới người như lưới cá.” Lời mời gọi cần được đáp trả.
Những lời đó quá đủ để thúc đẩy chúng ta dấn
thân loan báo Tin Mừng một cách tích cực hơn. Dù bạn là ai hay sống trong bậc
sống nào, bạn cũng được mời gọi hãy trở thành “ngư phủ” của Chúa theo ơn gọi và
khả năng của mình. Tấm lưới sẽ thu được nhiều cá nhất chính là đời sống chứng
nhân giữa lòng đời với niềm xác tín: Dù ăn hay uống hay làm bất cứ việc gì tôi
cũng sẽ làm mọi sự cho danh Chúa được cả sáng.
10. Ước
mơ đáng mơ ước
Các học sinh miệt mài học tập, các công nhân,
kỹ sư cặm cụi làm việc,… mọi người đều đang… ước mơ: ước mơ đạt tới một cái gì
đó hơn cái đang có trong hiện tại này, theo đuổi nó, và biến nó thành hiện
thực. Đó chính là ước mơ thăng tiến bản thân, động cơ cho mọi chọn lựa và nỗ
lực trong cuộc sống.
Hẳn An-rê và các bạn cũng mơ ước một cuộc sống
nào đó hơn cuộc sống ngư phủ tầm thường. Lời mời gọi đi theo thầy Giê-su để trở
thành những người thợ “lưới người như lưới cá” mở ra cho các ông một triển vọng
thăng tiến mới mẻ, nhưng cũng đầy mạo hiểm. Chỉ vì say mê thầy Giê-su mà các
ông dám bỏ thuyền bỏ lưới đi theo Ngài để thực hiện ước mơ.
Là Ki-tô hữu, bạn đang ước mơ cái gì? Phải
chăng là một cuộc sống ấm êm với những thành đạt mà theo lẽ thường người ta vẫn
hằng mơ ước? Điều đó không có gì sai. Thế nhưng phải chăng chỉ có bấy nhiêu?
Lời Chúa nhắc bạn rằng dù sống giữa những sự đời thường, bạn vẫn có thể mơ ước
một cái gì đó hơn nữa, đó là ước mơ nên thánh như “Cha chúng ta trên trời là
Đấng Thánh”; đó là say mê Thầy Giê-su đến độ dám liều bỏ mọi sự để bước theo
thật sát những bước chân của Ngài.
Say mê Đức Ki-tô, tôi quyết tâm dù làm một
việc nhỏ, không làm một cách tầm thường xoàng xĩnh mà làm với tất cả tận tâm và
yêu mến.
