LỜI CHÚA TUẦN 29 THƯỜNG NIÊN
CÂU TRUYỆN MINH HỌA
CNTN
29A – CHÚA CHỌN VÀ CHỌN CHÚA
THỨ TƯ - NGƯỜI QUẢN LÝ TRUNG
TÍN KHÔN NGOAN
THỨ SÁU - DẤU CHỈ CỦA THỜI ÐẠI
CHÚA NHẬT KHÁNH NHẬT TRUYỀN
GIÁO (năm A)
CHÚA NHẬT KHÁNH NHẬT TRUYỀN
GIÁO (năm B) – RAO GIẢNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT KHÁNH NHẬT TRUYỀN
GIÁO (năm C)
LỄ THÁNH SIMON VÀ THÁNH GIUĐA
TÔNG ĐỒ - CHỌN LỰA CỦA CHÚA
THỨ HAI - LÀM GIÀU TRƯỚC MẶT
CHÚA
CNTN 29A – CHÚA CHỌN
VÀ CHỌN CHÚA
Lời Chúa: Mt 22, 15-21
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, các người biệt phái họp
nhau lại bàn mưu để bắt bẻ Chúa Giêsu trong lời nói. Các ông sai môn đồ của các
ông đi với những người thuộc phái Hêrôđê đến nói với Người rằng: "Thưa Thầy,
chúng tôi biết Thầy là người ngay chính, căn cứ theo sự thật mà dạy bảo đường lối
Thiên Chúa. Thầy chẳng cần để ý đến ai, vì Thầy không tây vị người nào. Vậy xin
Thầy nói cho chúng tôi biết Thầy nghĩ thế nào: Có được phép nộp thuế cho Cêsarê
hay không?"
Chúa Giêsu thừa hiểu ác ý của họ,
nên nói: "Bọn người giả hình, các ngươi gài bẫy Ta làm gì? Hãy đưa Ta xem
đồng tiền nộp thuế." Họ đưa cho Người một đồng bạc. Và Chúa Giêsu hỏi họ:
"Hình tượng và danh hiệu này là của ai?" Họ thưa rằng: "Của
Cêsarê." Bấy giờ Người bảo họ rằng: "Vậy, cái gì của Cêsarê thì hãy
trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa." Đó
là lời Chúa.
TRUYỆN
KỂ
1.
Yêu nên ghen! – Anmai
Một đứa bé ghen với em mình khi
bố mẹ đều dành hết tình cảm cho thằng cu Tí mới sinh. Một em bé khóc thét lên
khi mẹ bế một em bé khác... Lớn hơn một chút là ghen với đứa bạn học cùng lớp
khi nó được thầy cô quý mến hơn hay được nhiều bạn bè mến mộ hơn. Khi đến tuổi
trưởng thành rồi thì ghen với người yêu với người bạn đời khi họ có biểu hiện
không chung thủy. Thậm chí khi làm cha làm mẹ rồi họ vẫn còn ghen. Ghen với đứa
con nhỏ mới sinh khi "thằng nhóc" dành hết sự quan tâm của vợ,
ghen... với con dâu, nhiều bà mẹ có cảm giác mất con trai.
Ghen, một "phẩm chất"
cố hữu của tình yêu đôi lứa, một điều nghe đã quá đỗi bình thường nhưng lại
không hề cũ trong mọi thời đại.
"Phẩm chất" này đã tồn
tại lâu đời, như một thực tại khách quan trong ý thức hệ của con người từ lúc
sinh ra và có thể còn tồn tại mãi mãi cùng với cuộc sống.
Bản chất của tình yêu là không
thể chia sẻ. Bất cứ một sự chia sẻ nào cũng làm cho tình yêu trở nên không trọn
vẹn và mất đi sự thiêng liêng của thứ vốn có tính bền vững vĩnh cửu trong đời sống
tinh thần của con người.
Khi đã đem lòng yêu ai, người ta
chỉ muốn người ấy chỉ là của riêng mình. Một cách tuyệt đối. Theo đó, những người
yêu chưa hết mình, theo kiểu nửa vời hoặc những kẻ tính toán, hẳn nhiên không
thể có cái "ghen nồng nàn", đáng yêu, đẹp đẽ như một người có sự trao
gửi tuyệt đối về tư tuởng và hành động đối với người mình yêu.
2.
Muốn khôn ngoan hơn Chúa
Vua nước Đức Frederic tự cho
mình là học rộng tài cao, lấy làm hãnh diện đã khám phá ra một phương pháp mới,
khả dĩ làm cho nền kinh tế quốc gia phát triển mạnh. Ông ngồi trong phòng tính
đi tính lại: cứ mỗi năm chim sẻ ăn hết 2 triệu thùng thóc trên toàn lãnh thổ.
Vì thế, ông truyền phát động chiến dịch bài sẻ. Giết được một con chim là được
một phần thưởng.
Toàn dân hưởng ứng nhiệu liệt vì
thấy công việc dễ dàng và vui thú. Thế là lần lượt chim sẻ bị bắn chết, một số
khác bay về một phương trời xa. Cuối cùng, chẳng còn thấy một mống nào trền
toàn lãnh thổ. Frederic vui mừng khôn tả vì tin chắc kế hoạch của mình sẽ thành
công rực rỡ.
Nhưng có ngờ đâu, vừa khi ngày
mùa tươi tốt đầy hứa hẹn tới, thì không biết từ đây từng bầy sâu bọ đua nhau
kéo đến, từng đàn châu chấu cũng ùn ùn xuất hiện tràn lan khắp lãnh thổ, không
cách nào diệt nổi. Thế là Frederic chỉ còn cách ngồi trong điện rồng lòng buồn ủ
rũ, chứng kiến kỳ công của mình hoàn toàn sụp đổ.
Các qui luật của thiên nhiên,
các định luật trong vũ trụ, đều được Thiên Chúa an bài, sắp xếp, để nên tốt đẹp
và hữu ích cho con người. Một khi con người đã phá vỡ những qui luật ấy thì tai
họa sẽ ập tới chỉ còn là vấn thời gian.
3.
Vấn đề nộp thuế
Trong bài Tin Mừng hôm nay, những
người Pharisiêu và nhóm Hêrôđê nêu lên một câu hỏi để chất vấn Đức Giêsu về việc
có phải nộp thuế cho Xê-da hay không. Họ đặt câu hỏi nhưng không phải thực lòng
muốn Đức Giêsu chỉ dẫn xem phải thực hành nghĩa vụ mang tính luân lý này như thế
nào, nhưng chỉ để gài bẫy Ngài. Họ đặt Đức Giêsu trước một tình huống tiến
thoái lưỡng nan, không dễ trả lời. Từ khi người Rôma chiếm lãnh thổ Palestine
năm 63 trước công nguyên, và đặt sự đô hộ tại đó, người Do Thái buộc phải nộp
thuế hàng năm cho đế quốc tính theo đầu người đã kê khai, bất kể đàn ông, đàn
bà hay nô lệ. Mỗi người một năm phải nộp một đồng Dina, nộp bằng tiền đúc Rôma,
có in hình hoàng đế Tibêriô, ông vua đã trị vì từ năm 14 đến năn 37 sau công
nguyên.
Thái độ của những người Do Thái
đồng hương với Đức Giêsu đối với đế quốc Rôma rất khác nhau, tùy theo kế sách của
họ phản ứng trước sự đô hộ như thế nào. Một số người thì muốn an phận, và chấp
nhận nộp thuế để khỏi phiền hà, cho dù họ rất khó chịu. Một số khác bằng lòng nộp
thuế vì họ coi nhà cầm quyền Rôma như là đại diện cho quyền bính của Thiên Chúa
(xem Rm 13, 1-7; 1P 2, 13-17).
Một số khác, theo phe thân vua
Hêrôđê, sẵn lòng cộng tác với chính quyền Rôma, và được nhà nước bảo hộ trao
ban những đặc quyền trong các tổ chức dân sự. Họ tự nguyện nộp thuế, không phản
đối.
Một số khác thì hoàn toàn tuyệt
vọng, vì tiền thuế cao là một gánh nặng, khiến họ dễ lâm cảnh nợ nần, mất đất
đai để sinh sống. Khi không còn tiền để trả nợ, họ sẽ bị bán làm nô lệ (Mt 18,
23-25).
Còn một nhóm khác lại nhất quyết
không chịu nộp thuế, vì họ nghĩ tất cả mọi sự đều thuộc về Thiên Chúa (Lv
25,23).
Một ít thành phần thì hoàn toàn
cự tuyệt chống đối, và bất hợp tác với đế quốc trong bất cứ vấn đề gì. Cũng có
một số người cực đoan, ngấm ngầm hình thành nhóm ái quốc, quyết nổi dậy cướp
chính quyền bằng vũ lực, lật đổ sự cai trị của đế quốc.
Sử gia Josephus có nêu tên một
vài lãnh tụ cách mạng, cầm đầu nhóm nổi dậy vào đầu thế kỷ thứ nhất, trong đó
có Guiđa người Galilê (Cv 5,37) người đã nổi dậy chống nền đô hộ, đương nhiên
chống cả việc nộp thuế, nhưng cuộc nổi dậy bị thất bại.
4.
Của Chúa trả về Chúa
Thầy giảng Anrê Phú Yên là một vị
thánh tử đạo rất trẻ, là học trò của cha Đắc Lộ. Thầy được lãnh bí tích rửa tội
năm 15 tuổi, được đào tạo và trở thành giáo lý viên năm 17 tuổi và đến năm 19
tuổi thì bị quan quân bắt bớ.
Thầy vui lòng được chết để làm
chứng cho Tin Mừng và cho Chúa Kitô. Ước vọng của thầy là muốn dâng hiến trọn vẹn
cuộc đời để đền đáp lại ân tình của Chúa. Ước vọng đó được thầy diễn tả qua câu
nói: "Đem mạng sống đáp đền mạng sống, lấy tình yêu đáp trả tình
yêu." Thiên Chúa đã yêu thầy vô cùng thì thầy cũng đáp lại bằng tình yêu
thật lớn. Thiên Chúa đã chết cho thầy thì thầy cũng muốn dâng hiến mạng sống thầy
cho Chúa. Đó cũng là nội dung lời dạy trong Tin Mừng hôm nay: hãy trả cho Thiên
Chúa những gì thuộc về Người.
5.
Đặt Thiên Chúa ở đâu?
Một câu chuyện huyền thoại cổ kể
về một ông vua đầy quyền lực và tàn bạo có thể điều khiển thuộc hạ phải làm
theo ý mình tất cả mọi việc. Nhưng trừ một điều nhà vua không thể làm được là
phá huỷ niềm tin của họ vào Thiên Chúa. Do đó, vua cho gọi ba nhà cố vấn thông
thái nhất nước đến và hỏi: "tôi có thể dấu Thiên Chúa ở đâu để dân chúng sẽ
không tìm ra Ngài"
Nhà thông thái thứ nhất trả lời;
"Hãy dấu Thiên Chúa vào các hành tinh thật xa trong không gian, dân chúng
sẽ không tìm ra Ngài"
Nhà thông thái thứ hai không đồng
ý: "Như thế không được! Một ngày nào đó dân này sẽ nghiên cứu cách bay vào
không gian, tới những hành tinh đó, và họ sẽ tìm thấy Thiên Chúa của họ. Tốt
hơn hết là dấu Ngài xuống đáy đại dương."
Người thứ ba phản đối: "Như
thế cũng không được! Một ngày nào dân này sẽ biết cách lặn xúông đáy biển, và họ
sẽ tìm thấy Thiên Chúa. Tốt hơn hết, hãy dấu Ngài trong đời sống hằng ngày của
mỗi người, không ai sẽ có thể tìm thấy Ngài cả!" Thiên Chúa hiện diện
trong mọi sinh hoạt của con người. Phần mình, con người, một loài thụ tạo, có bổn
phận phải nhận biết yêu mến Thiên Chúa.
Như vậy, cái gì của Thiên Chúa
và cái gì của Casarê? Đây không chỉ là vấn đề của những người Pharisêu, nhưng
còn là vấn đề của các Tông Đồ, của chúng ta, và của con người qua mọi thời đại.
6.
Thắc mắc về công trình sáng tạo
Một câu chuyện kể về bốn vị
thiên thần chứng kiến việc sáng tạo vũ trị của Thiên Chúa. Thiên thần thứ nhất
hỏi: "Tại sao Ngài đã tạo nên nó?" vị thứ hai nói: "Ngài đã tạo
nên nó bằng cách nào?" vị thứ ba năn nỉ Thiên Chúa; "Xin Ngài hãy ban
nó cho con" Sau cùng, vị thứ tư nói: "Thật là tuyệt diệu! Nào ta hãy
đi và chăm sóc nó!" Câu hỏi thứ nhất: "Tại sao Ngài đã tạo nên
nó?" là phương pháp của triết học. "Ngài đã tạo nên nó bằng cách nào?"
là phương pháp của khoa học. "Xin Ngài hãy ban nó cho con" là phương
pháp ích kỷ. "Nào ta hãy chăm sóc nó!" là phương pháp của tôn giáo nhận
ra rằng tất cả mọi sự là của Thiên Chúa. Tất cả đất đai thuộc về Thiên Chúa, gồm
cả bầu trời, nước non, loài vật và con người là của Thiên Chúa, gồm cả những
người kiêu căng hay khiêm tốn; giàu sang hay nghèo hèn; Tất cả mọi người đã được
dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, và có quyền lực yêu thương và kính trọng
theo đúng phẩm giá con người.
Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói:
"Chúng ta không được kêu gọi để thành công, nhưng chúng ta đã được kêu gọi
để trung thành." Trung thành với Thiên Chúa là quyền ưu tiên tối thượng
trên tất cả mọi sự.
7.
Nên nộp thuế chăng?
Đi hỏi xem Đức Giáo Hoàng có bao
nhiêu sư đoàn? Stalin đã có lần thốt lên như thế khi nhắc đến người có vai trò
trung gian của Tòa thánh trong chiến trường quốc tế. Không đầy một thế kỷ sau,
một vị Giáo hoàng đến từ Đông Au đã làm lung lay tận gốc rễ chế độ của Liên xô.
Quả thật, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tỏ ra là một con người đáng sợ đối với
rất nhiều nhà lãnh đạo chính trị và người cuối cùng hẳn phải là chủ tịch Phidel
Castro, người đã đặt tất cả nhân loại dưới bờ vực của chiến tranh nguyên tử từ
đầu thập niên 60. Dưới mắt giới truyền thông, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chỉ
là một con người bảo thủ, bênh vực giá trị truyền thống. Thế nhưng, nếu ta cần
chứng kiến khi những giá trị truyền thống ấy bảo đảm cho phẩm giá con người thì
không ai tỏ ra thẳng thắn, can đảm cho bằng ngài.
Người ta vẫn còn nhớ khi đến
Pháp lần đầu tiên từ năm 1981, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không ngần ngại
hỏi từng người dân Pháp, kể cả vị nguyên thủ quốc gia của nước này như sau: “Hỡi
nước Pháp, tôi đã làm gì với phép rửa của ngươi?" Câu hỏi ấy ngài đi thẳng
vào lương tâm mỗi người dân Pháp: “Đâu là chỗ đứng của niềm tin tôn giáo trong
cuộc sống của mỗi người?"
Một câu hỏi như thế cũng có thể
được nêu lên cho mỗi một người Kitô hữu chúng ta. Người có tôn giáo dễ có
khuynh hướng phân chia cuộc sống thành nhiều ô độc lập với nhau, ô ở Công giáo,
ô ở phố chợ với nhau, ô ở nhà thờ v.v. Sự phân chia ấy dễ tạo nên hai bộ mặt
tương phản nơi người tín hữu. Một bộ mặt rất đạo đức ở nhà thờ hay khi cầu kinh
và một bộ mặt phi đạo đức bên ngoài nhà thờ.
8.
Cây ngay không sợ chết đứng
Có một người đàn ông cao ngạo chẳng
biết sợ ai, luôn coi thường đạo lý. Nghe Đức Phật dạy rằng đừng bao giờ lấy ác
báo ác và một ngày kia, hắn đến gặp Đức Phật và dự tính xem Phật có sống được
điều Ngài giảng không. Hắn bắt đầu tuôn ra đủ mọi lời thóa mạ Ngài và gọi Ngài
là tên đần độn. Trong khi hắn liên tục xổ ra đủ thứ lời lăng mạ thì Đức Phật vẫn
kiên nhẫn lắng nghe. Chờ hắn mỏi miệng không nói thêm lời nào nữa, Ngài mới lên
tiếng: "Này con, nếu một người không chịu nhận món quà mà kẻ khác biếu cho
thì món qùa ấy sẽ đi về đâu"? Gã cay cú đáp: "Thằng điên nào mà chẳng
biết, dĩ nhiên là món ấy sẽ trở về lại với người đem cho." Đức Phật liền
nói: "Hỡi con, con vừa tặng ta rất nhiều lời thóa mạ nhưng ta chẳng nhận
đâu nhé." Gã kia câm miệng không thốt ra lời nào nữa. Đoạn Đức Phật nói tiếp:
"Kẻ nào lăng mạ một người thánh thiện thì cũng giống như hắn ta khạc nhổ
lên trời. Những thứ hắn khạc nhổ ra khôntg làm nhơ bẩn bầu trời, trái lại sẽ
rơi xuống làm nhơ bẩn gương mặt của chính hắn. Cũng thế kẻ nào thóa mạ một người
nhân đức thì khác nào tung bụi ngược chiều gió, bụi sẽ chỉ bay vào mắt hắn mà
thôi."
9.
Công dân Nước Trời hay thế gian
Franz JaŠggerstatter sinh ra tại
nước Áo. Anh được giáo dục theo tinh thần Kitô giáo. Trong cuộc sống, anh không
có gì nổi trội, trình độ học vấn nơi anh chỉ là sơ cấp. Cuộc sống của anh trôi
đi cách bình thường, nhưng thanh thản với nghề làm thuê theo hợp đồng. Sau đó
anh lấy vợ và có với nhau 3 mặt con.
Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây
chính là sự trưởng thành trong cuộc sống thường nhật cũng như đời sống đức tin
nơi anh.
Sự trưởng thành này đã đem lại
cho anh một lập trường kiên định về việc trung thành với Luật Chúa được ghi khắc
trong Lương Tâm.
Đang sống trong cảnh thanh bình
thì thế chiến thứ hai ập đến. Anh cũng như nhiều thanh niên khác buộc phải đi
lính cho đội quân Hitler. Tuy nhiên, Franz đã từ chối và trả lời những người thắc
mắc rằng: “Cuộc chiến này không phải là cuộc chiến vì chính nghĩa. Nên, thật là
sai lầm nếu tôi gia nhập quân đội. Điều này trái với Lương Tâm tôi!"; anh
nói tiếp: "Tôi yêu dân tộc, và tôi yêu quê hương tôi. Nhưng có một luật lệ
cao cả hơn, đó là Luật của Thiên Chúa. Và Luật của Thiên Chúa nói trong Lương
Tâm tôi: cuộc chiến này phi nghĩa!"
Kết cục, anh bị bắt và cầm tù. Mọi
người khuyên ngăn, kể cả vợ anh, họ nài nỉ anh xem xét lại... Nhưng không thể
thay đổi được tư tưởng của anh, cuối cùng anh đã bị chém đầu vào ngày 9.8.1943.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy
cả cuộc đời của Franz là một cuộc chọn lựa giữa chính nghĩa và bất nhân. Giữa
cái tạm bợ và vĩnh viễn. Giữa hạnh phúc và đau khổ... Franz đã đi theo đúng đường
lối của Thiên Chúa là: "Cái gì của César thì hãy trả cho César, và cái gì
của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa."
10.
Tội hồng phúc
Sau năm 1975, các nhà thờ Công
Giáo muốn tu sửa hay xây dựng lại phải có phép chính quyền Cộng sản, nhưng chẳng
có Linh mục nào làm đúng giấy phép.
Chính quyền tỉnh Đồng Nai tập họp
Giám mục và các Linh mục lên tiếng khiển trách: “Các anh tự cho mình là dạy
chân lý, nhưng các anh lại không thực hành chân lý! Chúng tôi muốn hỏi các anh:
tại sao giấy phép xây dựng chúng tôi cho một đàng, các anh lại làm một lối?” Bầu
không khí căng thẳng cả hội trường, Linh mục này nhìn Linh mục kia, hy vọng có
câu trả lời,nhưng chỉ nhìn nhau lắc đầu.
Lúc ấy, Đức Giám mục địa phận
Xuân Lộc Giuse Nguyễn Minh Nhật đứng lên trả lời: “Thưa cán bộ, ăn vụng là hành
động xấu ai cũng ghét, nhưng tại sao cha mẹ lại để cho con cái phải ăn vụng? Nếu
cha mẹ cho con cái được no thỏa, chúng chẳng làm chuyện đó. Trong trường hợp
này, ăn vụng thì đáng thương hơn là đáng trách!”
Thế là cả hội trường vang lên
tràng pháo tay dòn hơn tiếng pháo nổ ngày Tết, chen tiếng hô: “Ôi tội hồng
phúc!” Bởi vậy, các Linh mục nói với nhau: không phạm tội này thì không thể xây
Nhà Thờ được!
11.
Niềm tin đứng ở đâu?
Đi hỏi xem Đức Giáo Hoàng có bao
nhiêu sư đoàn? Stalin đã có lần thốt lên như thế khi nhắc đến người có vai trò
trung gian của Tòa thánh trong chiến trường quốc tế. Không đầy một thế kỷ sau,
một vị Giáo hoàng đến từ Đông Âu đã làm lung lay tận gốc rễ chế độ của Liên xô.
Quả thật, Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II tỏ ra là một con người đáng sợ đối với rất nhiều nhà lãnh đạo chính
trị và người cuối cùng hẳn phải là chủ tịch Phidel Castro, người đã đặt tất cả
nhân loại dưới bờ vực của chiến tranh nguyên tử từ đầu thập niên 60. Dưới mắt
giới truyền thông, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chỉ là một con người bảo thủ,
bênh vực giá trị truyền thống. Thế nhưng, nếu ta cần chứng kiến khi những giá
trị truyền thống ấy bảo đảm cho phẩm giá con người thì không ai tỏ ra thẳng thắn,
can đảm cho bằng ngài.
Người ta vẫn còn nhớ khi đến
Pháp lần đầu tiên từ năm 1981, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không ngần ngại
hỏi từng người dân Pháp, kể cả vị nguyên thủ quốc gia của nước này như sau: “Hỡi
nước Pháp, tôi đã làm gì với phép rửa của ngươi?" Câu hỏi ấy ngài đi thẳng
vào lương tâm mỗi người dân Pháp: “Đâu là chỗ đứng của niềm tin tôn giáo trong
cuộc sống của mỗi người?"
12.
Người khôn ngoan biết việc mình làm
Thời Xuân Thu, Ngô Vương chuẩn bị
tấn công nước Sở. Các vị đại thần đều rất lo lắng, e rằng nước Ngô có thể bị một
nước mạnh hơn đánh úp nên ra sức can gián. Nhưng Ngô Vương là người rất ngang
ngạnh, đã nói rằng nếu ai can gián thì sẽ giết chết người đó.
Có một vị đại thần tính tình
chính trực lo lắng không yên về chuyện này, nhưng không biết phải can ngăn vua
như thế nào. Bỗng ông nhìn thấy một con bọ ngựa đang rình bắt một con ve sầu, đằng
sau bọ ngựa có một con chim sẻ đang nhìn chằm chằm vào nó, và ông liền nghĩ ra
một cách để khuyên can vua.
Sáng sớm hôm sau, khi Ngô Vương
đi dạo trong hoa viên thì thấy vị đại thần tay cầm một cái súng bắn chim, nhìn
chăm chú vào một cái cây. Ngô Vương rất tức giận, hỏi:
- Mới sáng ra khanh đã đến đây
làm gì? Tại sao nhìn thấy bản vương mà không quỳ?
Vị đại thần làm ra vẻ vừa nhìn
thấy nhà vua, vội vàng nói:
- Vừa rồi thần mải nhìn con ve sầu
và bọ ngựa trên cây nên không biết bệ hạ đến. Xin bệ hạ thứ tội.
Ngô Vương tha tội vô lễ cho ông
ta, tò mò hỏi:
- Con ve sầu và bọ ngựa trên cái
cây này có gì đáng để xem vậy.
Vị đại thần đáp:
- Thần nhìn thấy một con ve sầu
đang uống sương, không đề phòng một con bọ ngựa đang cong mình chuẩn bị tấn
công nó. Nhưng con bọ ngựa không ngờ rằng có một chú chim sẻ cũng đang rình bắt
mình, còn con chim sẻ lại không biết rằng trong tay thần đang cầm súng bắn chim
định bắn nó.
Ngô Vương nghe xong, ngẫm nghĩ rồi
cười:
- Ta đã hiểu ý của khanh rồi.
Cuối cùng, Ngô Vương quyết định
không tấn công nước Sở nữa.
13.
Thánh Anrê Trọng chọn Chúa
Trần Văn Trọng sinh năm 1814
trong một gia đình công giáo ở Kim Long ngoại thành Huế. Cậu là con trai duy nhất
trong nhà, mồ côi cha hồi 15 tuổi. Để giúp mẹ mưu sinh, Anrê xếp nghiên bút đèn
sách, theo chân bà con lối xóm đến Thợ Đúc làm nghề dệt tơ cho nhà vua. Là người
ngay thật, chăm chỉ là việc, không ưa chuyện gây gỗ bất hoà. Năm 20 tuổi, anh
Trọng từ giã mẹ lên đường nhập ngũ.
Sau 8 tháng phục vụ trong quân
ngũ, tháng 11.1834, triều đình ra lệnh những binh sĩ công giáo phải khai báo.
Không chút sợ hãi, Anrê Trọng với 12 đồng đội cùng ở Thợ Đúc đến trình diện
quan. Quan dậy các anh phải tuân lệnh vua, bỏ đạo và đạp lên Thánh Giá. Cả 13
chiến sĩ công giáo đều cam đảm tuyên xưng đức tin. Các quan dùng biện pháp tra
tấn... Lần lượt 12 người bỏ đạo, chỉ còn một mình Anrê Trọng trung kiên đến
cùng. Lính trói anh, khiêng qua Thánh Giá, nhưng anh co chân lên, quyết không
xúc phạm đến ảnh Chúa. Thế là từ trại lính, anh bị tống sang trại giam. Các
quan kết án tử hình, nhưng giam hậu cho thời hạn một năm, nếu không bỏ đạo sẽ
thi hành án xử.
Án xử đã được thi hành ngày
28.11.1835
Sau một năm giam tù, Anrê Trọng
vẫn không đổi ý, các quan quyết định ngày xử là thứ bảy ngày 28.11.1835. Sáng
hôm đó, Anh gặp lại người anh họ mình. Anh ta hỏi có muốn ăn gì không? Anrê Trọng
trả lời: “Em muốn giữ chay để dọn mình tử đạo", rồi nói tiếp: “Xin anh giúp
đỡ mẹ em, chúng ta là anh em, mẹ em cũng sẽ yêu thương anh. Xin nhắn lời với mẹ
em: Đừng lo lắng gì cho em cả, cầu chúc bà mãi mãi thánh thiện và sẽ hài lòng
vì con trai mình luôn trung thành với Chúa, cho đến chết.” Nhưng người anh họ
chưa kịp về nhắn tin, bà mẹ Anrê Trọng đã đến đón con và theo con đến tận đầu
chợ An Hoà, nơi An rê phải xử. Gặp con, bà chỉ hỏi một câu: “Bấy lâu nay xa
nha, thời gian ở tù con có nợ nần ai không? Nếu có thì cho mẹ biết, mẹ sẽ trả
thay con.”
Khi được cho con biết không vướng
mắc gì với ai, bà tiếp tục đi sát bên con, bình tĩnh thêm lời khích lệ. Đến nơi
xử, khi quân lính tháo gông xiềng. Anh đón lấy, đưa cho anh lính cạnh bên: “Xin
nhờ anh đưa dùm cái này cho mẹ tôi, để bà làm kỷ niệm.” Mẹ anh đứng gần bên
nghe rõ, nhưng bà chưa lấy kỷ vật đó làm đủ, bà còn muốn đón nhận chính thủ cấp
của con mình nữa.
Hôm ấy là ngày trước áp lễ thánh
Anrê Tông Đồ, Anrê Trọng bị xử cùng với hai tên cướp. Bà mẹ An rê Trọng can đảm,
bước ra đòi viên quan chỉ huy trao thủ cấp con bà.
Bọc trong vạt áo rồi ghìm chặt
vào lòng, bà vừa hôn vừa lập đi lập lại:
"Ôi con yêu quý của mẹ, con
nhớ cầu nguyện cho mẹ.”
14.
Trả lại cho Xê-da cái gì?
“Trả lại cho Xê-Da: Phục Vụ Tổ
Quốc bằng cách Sống Đức Tin Công Giáo trong Sinh Hoạt Chính Trị,” đó là tựa đề
cuốn sách của Charles Chaput, tổng giám mục Denver, Hoa Kỳ, ra mắt vào trung tuần
tháng 8/2008, được liệt vào danh sách sách bán chạy nhất chỉ sau ba tuần lễ
phát hành.
Theo tác giả, “của Xê-da, trả lại
cho Xê-da” không có nghĩa là đạo đời tách biệt theo kiểu “đường ai nấy đi.” Người
công giáo có thể trả lại cho Xê-da cái gì, đức cha Chaput trả lời: “Món quà lớn
nhất mà người ‘tín hữu-công dân’ có thể đem lại cho tổ quốc là chứng tá đức tin
của mình trong đời sống luân lý, trong lời nói, trong sự lựa chọn, trong hành động.
Càng sống đức tin cách chân chính, người ‘tín hữu-công dân’ càng đóng góp nhiều
cho tổ quốc.”
Người công giáo cần củng cố tiếng
nói của mình trong các vấn đề như phá thai, án tử hình, di dân, nghèo đói và
các vấn đề công lý xã hội, đạo đức sinh học… Bạn sẽ nói tiếng nói công giáo của
mình thế nào trước những vấn đề đó đang diễn ra trên đất nước mình?
15.
Khi có được câu trả lời
Nhiều người nuôi ong chuyên nghiệp
không cần đeo mạng hay vải đặc biệt khi chăm sóc ong. Làm thế nào họ có thể tránh
bị ong đốt? Kỹ thuật của họ thật đơn giản: hoàn toàn giữ yên lặng, khi đi chậm
rãi và khoan thai. Điều này khiến những con ong vẫn giữ được bình tĩnh và thư
giãn. Chính vì vậy, ngay cả khi ngòi ong chạm vào da, người nuôi ong cũng không
hét lên vì sợ hãi. Chúa Giêsu cũng giữ bình tĩnh một cách tuyệt vời cả trong
tình huống nóng bỏng, như chúng ta có thể thấy trong bài đọc hôm nay.
Tôi cố gắng bình tĩnh và kiềm chế
đến mức nào khi người khác tấn công tôi, ngay cả một cách bất công?
Giận mất khôn (Robert
Ingersoll).
16.
Các vị tử đạo tiên khởi ở Bắc Phi
"Năm 180, tại miền đất nay
là nước Tunisit có 5 phụ nữ và 7 người đàn ông là nông dân bị bắt vì là những
người có đạo Người ta ép họ chối bỏ đức tin và nhìn nhận hoàng đế Rôma là Chúa.
Theo án lệnh, một phụ nữ trong đám đáp: "chúng tôi kính trọng César vì là
hoàng đế nhưng chúng tôi chỉ tôn thờ Thiên Chúa mà thôi. Tất cả đều bị kết án tử,
họ là những vị tử đạo tiên khởi của Bắc Phi.
Họ làm chứng cho lời Chúa mà
chúng ta vừa nghe: "Hình và danh hiệu của César, trả về César, vì đồng tiền
này là dấu hiệu sự tổ chức xã hội mà con người tham dự nào, tỉ dụ như việc nộp
thuế, nhưng con người được tạo dựng theo hình ảnh Chúa (St 1,26-27) và
"mang danh hiệu: Con thuộc về Chúa (Is 44,5), nên phải trả về
Chúa..."
CNTN 29B – PHỤC VỤ VÀ ÔNG CHỦ
Lời Chúa: Mc 10, 35-45
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Marcô.
Khi ấy, Giacôbê và Gioan con ông
Giêbêđê đến gần Chúa Giêsu và thưa Người rằng: "Lạy Thầy, chúng con muốn
Thầy ban cho chúng con điều chúng con sắp xin Thầy.” Người hỏi: "Các con
muốn Thầy làm gì cho các con?" Các ông thưa: "Xin cho chúng con một
người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy.”
Chúa Giêsu bảo: "Các con
không biết các con xin gì. Các con có thể uống chén Thầy sắp uống và chịu cùng
một phép rửa Thầy sắp chịu không?" Các ông đáp: "Thưa được.” Chúa
Giêsu bảo: "Chén Thầy uống, các con cũng sẽ uống, và phép rửa Thầy sắp chịu,
các con cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì không thuộc
quyền Thầy ban, nhưng là dành cho những ai đã được chỉ định.”
Mười môn đệ kia nghe chuyện đó
liền bực tức với Giacôbê và Gioan.
Chúa Giêsu gọi các ông lại gần
mà bảo: "Các con biết rằng những người được coi là lãnh tụ các nước, thì
sai khiến dân chúng như ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy quyền mà trị
dân. Còn các con không như thế.
Trái lại, ai trong các con muốn
làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các
con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người.
Vì chính Con Người cũng không đến
để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho
nhiều người.”
Ðó là lời Chúa.
TRUYỆN
KỂ
1. Đức
Hồng y Roncalli
Một hôm Đức Hồng y Roncalli vừa
trên xe bước xuống. Ngài mới đi xa về. Phái đoàn tòa giám mục ra đón. Mọi người
ngạc nhiên trên vai áo Hồng y có vướng mấy cộng rơm đồng quê. Ai hỏi ngài cũng
cười xòa vui vẻ, nhưng mấy nhân viên phụ tá trên xe đều hiểu chuyện. Chiếc xe của
Đức Hồng y đang từ hướng Bắc xuống miền Nam qua vùng đồng ruộng. Giữa đường một
chiếc xe bò chở rơm sa hố. Người đánh xe gắng sức đẩy phụ nhưng xe không nhúc
nhích. Đức Hồng y cho xe dừng lại, xắn tay áo hò dô ta đẩy phụ, và chiếc xe rơm
sa lầy lại chuyển bánh tiếp tục lên đường.
Những cọng rơm trên vai Đức Hồng
y đối với ngài chỉ cười xòa cho qua. Nhưng thực sự tỏ rõ cho chúng ta một Hồng
y không quản ngại khó khăn hay sợ bẩn chiếc áo dòng sang trọng.
Sau này lên ngôi Giáo hoàng, Đức
Gioan 23 vẫn tiếp tục nếp sống bình dị phục vụ.
2. Hòn
đá vấp ngã
Một hôm, khách qua đường gặp một
triết gia nổi tiếng người Hy lạp. Ông ta đứng ở góc đường và cười nắc nẻ một
cách đắc chí. Ai cũng tưởng ông là người điên nên không thèm để ý.
Sau cùng, có một người đánh bạo
đến gần và hỏi:
- Vì lý do gì ông cười như vậy?
Ông ta trả lời:
- Ông có thấy cục đá nằm giữa đường
kia không? Từ sáng tới giờ không biết bao nhiêu người đã vấp ngã vì hòn đá đó,
và họ bực mình chửi bới. Thế nhưng, không có một ai cúi xuống nhặt hòn đá vứt
khỏi lối đi để người khác khỏi bị vấp ngã.
3. Quyền
bính để phục vụ
Một nhà tu đức tên là Jean
Vanier, người sáng lập dòng Arche, phân biệt hai loại quyền bính:
Một loại quyền bính từ trên áp
xuống. Người nắm loại quyền bính này tự coi mình là kẻ ở trên và những kẻ thuộc
quyền mình là những người ở dưới. Người này bắt những kẻ dưới phải làm theo ý
mình, nếu không theo thì phạt. Loại quyền bính này được dùng để cai trị, hay
nói chính xác hơn là thống trị.
Loại quyền bính thứ hai không từ
trên áp xuống mà đứng bên cạnh để giúp đỡ. Người nắm quyền bính này không coi
mình là ở trên cũng không coi kẻ thuộc quyền mình là ở dưới. Người này không nhắm
cho ý mình được người ta thực hiện, nhưng nhắm đến ích lợi chung và ích lợi của
kẻ mình muốn giúp đỡ. Loại quyền bính này được dùng để phục vụ.
4.
Phục vụ thì không chỉ trích
Một chiếc đồng hồ đeo tay một
hôm đi dạo ở công trường trước một nhà thờ. Nó nhìn lên tháp nhà thờ thấy một
chiếc đồng hồ rất lớn nên thấy ghét. Nó nói: Anh tưởng là anh ngon lắm hả. Thực
ra cái mặt anh to quá khổ chẳng đẹp chút nào, hai cánh tay thì dài thượt coi chẳng
đẹp gì cả. Giọng nói thì khàn khàn.
Chiếc đồng hồ lớn chỉ mỉm cười
và nói "Hãy lên đây.” Chiếc đồng hồ nhỏ leo lên. Khi đứng bên chiếc đồng hồ
lớn nhìn xuống thì nó mới hoảng sợ. Thì ra ở trên cao này nguy hiểm quá té xuống
tan xác như chơi. Rồi lúc nào cũng bị bao nhiêu cắp mắt nhìn lên, và lại còn cô
đơn nữa.
Khi đó chiếc đồng hồ lớn khều nó
nói "Ở dưới có người muốn biết giờ kìa. Em đưa mặt ra cho họ xem đi.” Chiếc
đồng hồ nhỏ đáp: "Không được, từ đây xuống dưới xa quá mà mặt em nhỏ quá ở
dưới xem không thấy đâu.” "Vậy thì em nói giờ cho họ nghe đi.” "Cũng
không được, vì tiếng em nhỏ quá.”
Khi đó chiếc đồng hồ lớn mới ôn
tồn giải thích: "Ðó em thấy chưa. Em cũng không thể làm việc của anh, mà
anh cũng không thể làm việc của em. Mỗi người chúng ta ai làm việc nấy, chỉ để
phục vụ cho người ta thôi. Từ này về sau mình đừng chỉ trích nhau nữa nhé.”
5. Hiến
thân phục vụ
Thiên Chúa đã gọi Cha Kỷ bước ra
khỏi vực thẳm của nghèo khó
Một cậu bé nhà nghèo bị bố bỏ
rơi, 4 tuổi đã phải đi ăn xin. Xong tiểu học ở tuổi 13, Giuse Lê Ðình Kỷ
(Joseph Wresinski) học được nghề làm bánh ngọt để sống tới tuổi 19. Qua trung
gian phong trào Thanh Sinh Công, cậu được hướng dẫn theo ơn gọi linh mục.
Năm 1937 cậu nhập ngũ theo tuổi
quân dịch. Hai năm sau, chiến tranh bùng nổ ở Pháp, cậu bị bắt làm tù binh
nhưng trốn được và về học ở chủng viện Sinh Ðông (Soissons), nơi Thầy Giuse thụ
phong linh mục năm 1946. Kế đó là 4 năm làm cha phó và 6 năm làm cha sở.
Năm 1956 Cha Kỷ được giao nhiệm
vụ mở ra một giai đoạn hoàn toàn mới không riêng cho cha. Cha ghi lại như sau:
Ðức Giám Mục đã phái tôi đến trại
tiếp cư khẩn cấp vùng ngoại ô Noisy-le-Grand của Thủ đô Paris. Ngày đầu tôi tới
đó là 14 tháng 7, 1956. Tôi được gặp những gia đình gợi nhớ tình cảnh túng quẫn
của mẹ tôi. Trẻ con tới tấp tới quấy phá tôi, tôi kể đó là những người em trong
gia đình tôi.
Ðó là hình ảnh của chính tôi, bốn
mươi năm trước đây trên đường Gia-cô-bê của thành phố Ánh Dương (Angers). Từ
ngày tôi đặt chân tới trại, chính những gia đình ấy đã khởi hứng cho tôi về tất
cả những gì tôi thực hiện nhằm giải phóng họ. Họ ôm chầm lấy tôi, ám ảnh tôi,
thúc bách tôi, đưa đẩy tôi cùng với họ thiết lập một phong trào. Chính họ rèn
luyện nên căn tính riêng và tự xưng là "Thế giới thứ Bốn.”
6. Gương
hy sinh phục vụ của đôi tân hôn:
Một câu chuyện phục vụ Mẹ Têrêsa
Calcuta hay kể lại như sau:
“Vào năm 1982, một hôm có đôi
thanh niên nan nữ tới nhà chúng tôi tại Calcuta đến trao tặng một món tiền lớn
giúp bữa ăn cho người nghèo. Thấy họ còn quá trẻ, tôi tò mò hỏi: “Do đâu mà hai
con có món tiền lớn vậy?” Họ trả lời: “Chúng con vừa tổ chức lễ cưới được hai
ngày nay. Trước lễ cưới, chúng con bàn nhau sẽ thuê áo cưới thay vì đi may,
cũng không liên hoan linh đình, mà dùng khoản tiền ấy trao tặng cho những người
kém may mắn. Vì chúng con yêu nhau và muốn có một kỷ niệm đẹp nhân ngày cưới
nhau.”
Ðể biết rõ thêm, mẹ Têrêsa hỏi:
“Tại sao chúng con quyết định táo bạo như thế? Chúng con không sợ việc làm như
vậy sẽ làm cha mẹ và họ hàng buồn lòng hay sao?” Hai bạn trẻ ấy trả lời: “Chúng
con muốn khởi đầu cuộc chung sống bằng một sự hy sinh mà cả hai đều cùng nhau
thực hiện.”
Mẹ Tê-rê-sa kết luận: “Thật là
tuyệt vời khi nghĩ đến một tình yêu cao quí như vậy. Tôi luôn cầu nguyện: Lạy
Chúa, xin ban cho những người trẻ ơn thánh và sức mạnh, để trong ngày thành
hôn, họ có thể trao cho nhau trái tim trong sạch, trái tim trinh khiết, thân
xác trong trắng… là món quà lớn lao của tình yêu nhau.”
7. Thánh
Paulino
Thánh Paulinô, Giám mục thành
Nôla (353-431), sau khi thu xếp xong việc gia đình, từ bỏ chức lãnh sự ở Rôma,
đã sống một cuộc đời tu đức khổ hạnh và làm đến chức Giám mục.
Khi quân Goths chiếm đóng xứ
ngài và bắt nhiều người làm nô lệ, ngài đã bán tất cả gia sản để nuôi người
nghèo và chuộc nhiều kẻ nô lệ trong số đó. Tới lúc quân Vandales tiến đến, ngài
không còn gì để bán nữa nên đã hy sinh chính bản thân mình, đi làm nô lệ thay
cho con trai của bà góa và bị điệu sang Phi châu.
Mãi lâu sau, ngài được trả tự do
và trở về lại giáo phận Nôla của ngài trước niềm hân hoan cảm phục của mọi giáo
hữu.
8. Câu
chuyện cho chúng ta biết đôi điều về Maccô
Matthêu cũng kể câu chuyện này
(Mt 20, 20-23) nhưng lời yêu cầu không do Giacôbê và Gioan đích thân nêu ra,
nhưng do mẹ của hai ông là bà Salômê. Có lẽ Matthêu cảm thấy rằng một lời yêu cầu
như thế là không xứng đáng cho một tông đồ, nên nhằm cứu vãn tiếng tăm cho
Giacôbê và Gioan, ông đã gán lời yêu cầu đó cho tham vọng tự nhiên của bà mẹ.
Còn Matco nói rõ: chính 2 ông đến xin. Câu chuyện này cho chúng ta thấy sự
thành thực của Maccô.
Người ta kể rằng có một họa sĩ
trong triều đình vẽ chân dung cho Oliver Cromwell là người đầy mụn cóc. Nghĩ là
để làm vui lòng Oliver, họa sĩ không vẽ những mụn cóc đó trong bức họa. Khi
Cromwell thấy như vậy ông nói "dẹp bức chân dung này đi, vẽ cho ta một bức
đầy đủ các mụn cóc.”
Mục đích của Maccô là muốn chúng
ta thấy đầy đủ mụn cóc của các tông đồ. Khi mười người môn đệ kia nghe biết thì
đâm ra tức tối với hai ông. Không phải vì họ khiêm tốn nhưng vì họ cũng muốn những
điều tương tự như hai ông. Và Maccô đã có lý, vì mười hai tông đồ vốn không phải
là tập thể các vị thánh. Họ chỉ là những con người bình thường, đầy mụn cóc.
Chúa Giêsu đã dùng những con người
tầm thường thế đó để thay đổi thế giới. Điều này đã thành hiện thực.
9. Ai
muốn làm đầu, phải hầu thiên hạ.
Câu nói xem ra nghịch lý nhưng sự
đời lại thường như vậy, kiểu như câu nói cán bộ lớn đi xe con, cán bộ nhỏ đi xe
lớn.
Nhà chiến lược kinh doanh Bruce
Barton chỉ cho thấy rằng căn bản là một hãng ôtô dựa vào để lưu tâm của khách
hàng là họ sẵn sàng chui xuống gầm xe bạn thường hơn, chịu dơ bẩn bất cứ lúc
nào. Nói cách khác, họ sẵn sàng phục vụ nhiều hơn, thì hãng xe của họ lớn mạnh
hơn.
Barton cũng chỉ cho thấy rằng
trong khi người thư ký bình thường có thể đi về nhà từ 5 giờ 30 chiều, thì ánh
đèn trong văn phòng giám đốc điều hành vẫn còn sáng đến tối. Vì sẵn sàng phục vụ
thêm giờ mà người ấy đứng đầu xí nghiệp.
Mẹ Têrêxa Calcutta phục vụ những
người hèn mọn nhất, những người hấp hối không một chút tiện nghi tối thiểu, những
trẻ em bị bỏ rơi, mà rồi trở nên vĩ đại, đến nỗi khi chết, Ấn Độ, một nước Ấn
giáo là quốc giáo, cử quốc tang với 21 phát súng tiễn mẹ.
10.
Đâu có tình yêu thương, ở đó có Chúa
Có một ông đã kể lại lý do và động
lực thúc đẩy ông theo đạo như sau: “Tôi đau rất nặng, người ta đưa tôi vào bệnh
viện, không ai chăm sóc tôi cả ngoài một chị y tá còn trẻ, chị tỏ ra rất tốt và
tận tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy chị quỳ gối im lặng
trong phòng, tôi hỏi: ‘Chị quỳ làm gì thế ?’.
Chị trả lời: ‘Tôi cầu nguyện cho
ông’. Chỉ mấy tiếng đó thôi đủ làm cho tôi bấy lâu không biết Chúa, bây giờ được
biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi người chị y tá ấy. Giữa những đau khổ thể xác và
tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương
của chị y tá ấy, tôi đã gặp Chúa.”
11.
Ra lệnh và truyền lệnh
Francis Joseph, hoàng đế nước Áo
và vua nước Hungari từ 1848 đến 1916, một triều đại dài nhất trong lịch sử,
cũng là triều đại tiến bộ nhất. Francis Joseph là người nghiêm khắc nhưng ông
trị vì rất khoan dung. Khởi đầu triều đại ông, bệnh dịch tả lan tràn khắp Châu
Âu. Người ta xin Francis rời Vienna để lánh nạn sang Salzburg cho tới khi tai nạn
qua đi.
Hoàng đế hỏi: "Ở Salzbugr
có đủ phòng cho các con ta không?" Quan cố vấn trả lời: "Chắc chắn,
tâu Hòang Thượng, có nhiều phòng cho tất cả hoàng gia.”
"Có thực sự đủ phòng cho
các con ta?" Vừa chỉ tay qua cửa sổ lâu đài, về phía đám đông dưới, hoàng
đế vừa nhắc lại: "Hãy nhìn đám dân này. Chúng là con của ta. Cha của chúng
bỏ mặc chúng trong nguy hiểm sao? Không, những người thành Vienna yêu quí luôn
chia sẻ vui buồn với ta. Ta sẽ không bỏ họ trong giờ lo âu.”
12.
Hy sinh phục vụ là niềm vui
Vị sáng lập Cộng đoàn Emmaus là
cha Pierre, chuyên lo phục vụ người nghèo. Cha kể một trong những cộng sự viên
đắc lực nhất của cha là một cựu tù nhân lang thang không nhà không cửa. Người
đàn ông này thất vọng chán đời đến nỗi dùng dao cắt mạch máu trên tay mình để tự
vẫn. Thấy vậy có người điện thoại cho cha hay. Cha lập tức đến nơi, thấy người
đàn ông với cánh tay máu chảy đầm đìa. Cha không an ủi mà nói như ra lệnh.
- Anh không được tự vẫn. Còn rất
nhiều người kém may mắn hơn anh. Họ đang cần sự giúp đỡ của anh. Và chính tôi
cũng đang bệnh và tôi cần đến anh…
Nghe những lời đó, người đàn ông
với đôi mắt lờ đờ bỗng sáng lên. Anh để cho người ta băng lại vết thương, và từ
đó trở thành cộng sự viên đắc lực của cha Pierre, tận tụy hy sinh phục vụ người
nghèo khổ bất hạnh.
13.
Hy sinh phục vụ trong gia đình trước
Một cậu bé nọ cứ cố tình đi học
về trễ hoài mà chẳng có lý do gì chính đáng cả, dù đã có biết bao lời khuyên nhủ
răn bảo cậu. Cuối cùng, vì quá thất vọng, bố cậu bảo cậu ngồi xuống và nói;
"Lần sau con còn về trễ nữa là con chỉ được ăn tối bằng bánh mì với nước
lã thôi, ngoài ra không được ăn thứ gì khác nữa nhé. Con nghe rõ chưa?" Cậu
bé nhìn thẳng vào mắt cha và gật đầu. Cậu đã hoàn toàn hiểu ý bố cậu.
Vài ngày sau, cậu bé về nhà còn
trễ hơn bình thường nữa, Mẹ cậu gặp cậu ở cửa song chẳng nói một lời. Cha cậu gặp
cậu trong phòng khách nhưng cũng vẫn chẳng nói lời nào với cậu. Tuy nhiên, tối
hôm ấy, khi mọi người quây quần bên bàn ăn, trái tim cậu bé như muốn thót lại
khi thấy đĩa cha cậu chất đầy thức ăn, đĩa của mẹ cũng thế, còn đĩa của cậu thì
chỉ có một khúc bánh mì, bên cạnh có một ly nước lã, trông hiu quạnh làm sao! Đầu
tiên cậu liếc nhìn miếng bánh, sau đó lại nhìn qua ly nước lã. Đây chính là
hình phạt bố mẹ cậu đã nói trước với cậu, đáng buồn hơn nữa là tối nay cậu lại
cảm thấy đói quá chừng.
J. Allan Peterson, tác giả câu
chuyện đã mô tả diễn tiến sự việc như sau: "Người bố chờ cho bầu khí căng
thẳng lắng xuống đoạn lặng lẽ cầm chiếc đĩa của cậu đặt trước mặt ông, rồi cầm
chiếc đĩa của ông đặt trước mặt cậu bé…" Cậu bé chợt hiểu ngay điều bố cậu
đang làm. Bố cậu đã nhận hình phạt mà lẽ ra chính cậu phải chịu vì hành vi bê bối
của riêng cậu…. Mãi nhiều năm về sau, chính cậu bé ấy vẫn nhớ đến biến cố và
nói: "Chính nhờ hành vi bố tôi đã làm tối hôm ấy, mà suốt cả đời, tôi đã
hiểu được Thiên Chúa tốt lành biết bao!”
14.
Nếu trả lời có
Bác sĩ Lloyd Judd hành nghề ở
vùng quê Oklahoma. Nhiều bệnh nhân của ông nghèo và không có phương tiện di
chuyển. Vì thế ông thường phải lái xe đến nhà họ và chữa trị cho họ. Một ngày nọ,
bác sĩ đau nặng, phải nhập viện và khám phá mình mắc căn bệnh ung thư ở giai đoạn
cuối. Ông nghĩ đến các con nhỏ của ông. Ông có nhiều điều muốn nói với chúng,
nhưng chúng còn quá nhỏ chưa thể hiểu được. Do đó, ông ghi điều ông muốn nói
vào một số cuốn băng. Ông nói với các con:
- Các con có sẵn sàng ra khỏi nệm
ấm, xông vào đêm tăm tối giá lạnh, và lái xe suốt 20 dặm để thăm bệnh nhân, dù
biết rằng họ không có tiền trả, và họ có thể chờ đến sáng chỉ để được chữa trị
không? Nếu các con có thể trả lời “có,” tức là các con có thể theo học y khoa
được.
15.
Vua phục vụ
Vào thời thập tự chinh, hoàng đế
Philippe Auguste có làm cử chỉ đặc biệt. Trước mỗi lần lên đường ra trận, ông
tháo gỡ triều thiên đang đội trên đầu xuống đặt nó trên bàn rồi ghi dòng chữ,
“Dành cho người nào xứng đáng nhất.” Sau đó ông quy tụ quan quân lại và yêu cầu
họ hãy quên ông là vua mà chỉ coi ông là người chỉ huy của họ thôi. Ông nói,
“Chiếc vương triều này được dành cho người nào xứng đáng nhất trong cuộc chiến
đấu.”
Cuộc viễn chinh đã hoàn tất tốt
đẹp. Mọi người hát khúc khải hoàn ca trở về quê hương. Họ tụ hợp lại xung quanh
vương triều, một viên cận thần tiến đến cầm lấy chiếc vương triều trước mặt vua
và nói, “Tâu bệ hạ, bệ hạ là người xứng đáng nhất!”
16.
Thiên Chúa là tình yêu
"Con Người không đến để được
phục vụ, nhưng để Phục vụ và hiến thân cứu chuộc nhiều người.” Ít câu nào trong
Kinh Thánh tóm tắt được cuộc đời Chúa Giêsu một cách hoàn hảo như thế.
Lần đầu tiên nghe nói về cuộc đời
Chúa Giêsu, một Kitô hữu Nhật Bản nổi tiếng tên là Kagawa kêu lên: "Lạy
Chúa, xin cho con nên giống Đức Kitô của Ngài.” Và để nên giống Đức Kitô hơn,
Kagawa đã từ bỏ căn nhà tiện nghi để đến sống trong những khu tồi tàn vùng
Tokyo. Ở đó, ông chia sẻ chính bản thân và của cải mình cho bất cứ ai cần sự
giúp đỡ. Trong cuốn sách nhan đề "Quyết Định Nổi tiếng Về Cuộc Đời"
(Famous Life Decision), Cecil North Cott viết: Kagawa đã cho đi hết áo quần của
mình, và chỉ mặc trên người chiếc áo thụng rách nát tả tơi; vào một dịp khác,
dù lâm bệnh rất nặng, ông vẫn tiếp tục thuyết giáo dưới cơn mưa, miệng lập đi lập
lại không ngừng, "Thiên Chúa là Tình yêu, Thiên Chúa là Tình yêu. Ở đâu có
tình yêu ở đấy có Thiên Chúa.”
17.
Con Người đến để phục vụ
Martin Caphu là người Bangla thuộc
Cameroun Phi Châu. Cha anh là quốc vương Bangla. Từ thiếu niên, anh đã quen với
phong trào Tổ Ấm, một tổ chức Công giáo làm việc xã hội ở Phi châu. Thấy các
thành viên Tổ Ấm xả thân giúp đỡ người đồng loại, anh Caphu rất cảm phục, và tới
năm 1963, vào lúc mười bảy tuổi, anh xin trở lại Công giáo. Sau khi tốt nghiệp
Trung học, anh được Gia đình gởi về Rôma học ngành điện tử. Đậu tiến sĩ điện tử
xong, anh Caphu gia nhập phong trào Tổ Ấm.
Năm 1980, cha anh qua đời, và
theo chúc thư, ông đã chọn Caphu kế vị ngai vàng. Caphu vội vã trở về Bangla,
anh họp cả sắc tộc lại và xin mọi người đề cử người khác làm vua. Còn anh, anh
muốn dành cả cuộc sống làm việc xã hội theo tinh thần Kitô giáo. Và mọi người
đã đồng ý.
18.
Để gặp được Chúa
Phanxicô d’Assie, mặc dù thuộc về
gia đình quyền quý và giàu sang, nhưng đã từ bỏ tất cả, để sống khó nghèo, trở
nên một người anh em hèn mọn để phục vụ những người khổ đau.
Gần đây, một Kitô hữu Nhật Bản nổi
tiếng, tên là Kagawa, cũng đã từ bỏ căn nhà tiện nghi, đến sống trong những khu
tồi tàn vùng Tokyo, để chia sẻ chính bản thân và của cải mình cho những ai đang
cần đến một sự giúp đỡ. Một tác giả đã viết về ông như sau:
- Ông đã cho đi tất cả quần áo của
mình và chỉ mặc trên người chiếc áo thụng đã cũ. Lần kia, mặc dù đang ốm, ông vẫn
tiếp tục đi dạy giáo lý dưới cơn mưa, ông lặp đi lặp lại không ngừng: Thiên
Chúa là tình yêu. Ở đâu có tình yêu thì ở đó có Thiên Chúa. Trong một bức thư,
chính ông đã viết như sau: Chúa ở trong tâm hồn những người hèn mọn nhất. Ngài
hiện diện giữa những kẻ ăn xin, Ngài nằm chung với những bệnh tật. Ngài đứng về
phe những người thất nghiệp. Vì thế, ai muốn gặp Chúa thì hãy đến thăm nhà tù
trước khi đến nhà thờ, đến thăm bệnh viện trước khi tham dự thánh lễ. Hãy giúp
đỡ người nghèo khổ trước khi đọc Kinh Thánh.
19.
Gus và Ruth
Một người đàn bà tên là Ruth
đang đi ra khỏi nhà thờ sau Lễ Chúa Nhật. Bà nhìn thấy một người đàn ông lụ khụ
đang gắng sức để mặc chiếc áo lạnh. Bà liền đi lại gần ông già, mỉm cười và
giúp ông một tay.
Sau đó, Ruth lại gặp ông già ấy
một lần nữa và hai người bắt đầu nói chuyện với nhau. Sau khi hỏi han, Ruth mới
biết tên ông già là Gus và nhà ông già ở tiện đường về nhà Ruth nên bà cho ông
già quá giang. Lần quá giang đó đã trở nên hằng tuần cho tới hai năm.
Vào một buổi sáng Chúa nhật,
Ruth không nhìn thấy Gus đâu hết nên mới vào nhà ông xem. Khi vô thì Ruth thấy
ông già Gus đang nằm bệnh gần chết. Ông được đem vô nhà thương ngay.
Một vài ngày sau, Ruth được nhà
thương gọi và báo là Gus chỉ còn có thể sống thêm một ngày nữa. Ruth liền hỏi
cô y tá: "Vậy cô có gọi cho họ hàng của ông ấy chưa?"
Cô y tá trả lời: "Ông ấy
không có họ hàng gì cả. Ông ấy chỉ bảo cô là người thân duy nhất để liên lạc
trong trường hợp khẩn cấp." Nghe như thế, Ruth hết sức ngạc nhiên.
"Chẳng lẽ Gus chỉ có một mình?"
Ruth liền đến nhà thương và đến
bên cạnh giường ông già gần chết. Gus thở từng hơi rất mạnh và không thể nói được
gì hết. Tuy vậy, Gus xem ra vẫn nhận ra Ruth. Gus chỉ biết dùng ánh mắt để đáp
lại những lời an ủi và yêu thương của Ruth. Sau đó một vài phút, Gus đã ra đi
trong bình an.
20.
Yêu người như chính mình
Trong thời gian 'Great
Depression' (Đại Tình Thế Suy Nhược) vào năm 1930, các nhân viên chính phủ thường
hay đi rảo qua các vùng núi tiểu bang Tennessee để phân phát tiền của cho một số
nông phu nghèo để mua thức ăn và những thứ cần thiết.
Khi một nhân viên chính phủ đến
một căn nhà lụp xụp nhỏ của một người đàn bà nọ, ông hỏi bà ấy rằng: "Nếu
tôi cho bà $200 thì bà sẽ làm gì?" Sau một lúc, bà trả lời: "Tôi sẽ
giúp cho những người nghèo ở chung quanh đây."
Người đàn bà ấy đã tập được cái
tính biết để ý quan tâm đến những sự cần thiết của kẻ khác hơn là của chính
mình.
"Lạy Chúa từ nhân! Xin cho
con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người."
21.
Con Người đến để phục vụ
Bác sĩ Lioyd Judd hành nghề ở
vùng quê Oklahoma. Nhiều bệnh nhân của ông nghèo và không có phương tiện di
chuyển. Vì thế, ông thường phải lái xe đến nhà họ và chữa trị cho họ. Một ngày
nọ, bác sĩ Judd đau nặng phải nhập viện và khám phá ra mình mắc một căn bệnh
ung thư ở giai đoạn cuối. Ông nghĩ đến các con nhỏ của ông. Ông có nhiều điều
muốn nói với chúng, nhưng chúng còn quá nhỏ chưa thể hiểu được. Do đó, ông ghi
điều ông muốn nói vào một số cuốn băng. Là một bác sĩ, ông nói với các con:
“Các con có sẵn sàng ra khỏi nệm ấm, xông vào đêm tối giá lạnh và lái xe suốt
20 dặm để thăm bệnh nhân dù biết rằng họ không có tiền để trả và rằng họ có thể
chờ đến sáng chỉ để được chữa trị không? Nếu các con có thể trả lời có, tức là
các con có thể theo học Y khoa được.”
Tôi có thể trả lời “có” cho câu
hỏi của bác sĩ Judd không?
Ai muốn làm việc thiện, hãy gõ cửa.
Ai yêu thương thực sự, cửa sẽ được mở cho (R. Tagore).
CNTN 29C -
TRUYỆN KỂ
THỨ HAI -
Lời Chúa
TRUYỆN
KỂ
1.
THỨ BA - TỈNH THỨC
Lời Chúa: Lc 12, 35-38
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: "Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và
hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho
chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức.
Thầy bảo thật các con, chủ sẽ thắt
lưng, xếp chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng. Nếu canh hai hoặc canh ba,
chủ trở về mà gặp thấy như vậy, thì phúc cho các đầy tớ ấy."
TRUYỆN
KỂ
1.
Sống là chờ, mà chờ cái gì?
Trong một vở kịch của Samuel
Beckett, văn sĩ được giải Nobel 1969, có hai người chờ một nhân vật mơ hồ tên
là Godot. Cả hai chỉ quen sơ sơ ông này, nếu có gặp cũng chẳng nhận ra. Vậy mà
họ vẫn chờ, nhưng ông Godot nào đó đã không đến.
Có lẽ Samuel Beckett muốn nói đến
cái phi lý của đời người. Cứ chờ cứ đợi một điều mơ hồ và chẳng xảy ra.
Chúng ta dành bao nhiêu thời
gian để ăn, ngủ, và làm việc trong một đời? Nhiều người nghĩ mình có thể đưa ra
những con số khá chính xác. Nhưng chúng ta dành bao nhiêu thời gian để chờ?
Có thứ chờ tính được bằng thời
gian. Có thứ chờ kéo dài liên tục nằm nơi trái tim mong ngóng. Mẹ chờ con, vợ
chờ chồng, những người yêu chờ nhau. Đời sống là một chuỗi những ngày tháng
mong đợi. Anh bảo vệ mong cho hết ca trực, chị công nhân mong cho đến giờ tan
ca, em học sinh mong thi đậu, đứa bé mong mẹ đi chợ về. Trong câu chuyện dụ
ngôn, người đầy tớ không phải là người thợ làm công ăn lương; trái lại, người đầy
tớ ấy ở tại nhà của chủ như người trong nhà. Vì thế, dù phải thức đến canh hai
hoặc canh ba, người đó vẫn chờ để mở cửa khi chủ trở về. Đó là hạnh phúc của
anh.
Hạnh phúc cho ai biết phụng sự
Chúa như người tôi tớ trung thành. Khi ấy, chính Chúa sẽ phục vụ và chăm sóc họ
như ông chủ trong câu chuyện. Người sẽ đưa họ vào Nước trời hưởng hạnh phúc
vĩnh cửu với Người.
2.
Tỉnh Thức
Trong quyển truyện có tựa đề:
"Con Ðức Mẹ" xuất bản tại Hà Nội dạo tháng 8/1990, tác giả đã miêu tả
sinh hoạt của một giáo xứ miền Bắc một cách ấu trĩ như sau: Tình yêu giữa vợ chồng,
cha mẹ, con cái đôi khi không cần thiết, không thiêng liêng cho bằng mối tình đối
với Ðức Maria. Lòng tôn sùng đối với Ðức Mẹ chỉ là một thứ bịa đặt lừa bịp của
Giáo Hội. Sinh hoạt giáo xứ chỉ là những biểu dương bề ngoài, cuồng tín, người
giáo dân càng sùng đạo, thì càng là thành phần bất hảo trong xã hội.
Bất cứ độc giả nào cũng có thể
nhận thấy giọng điệu bôi bác ấu trĩ của tập truyện. Tuy nhiên, với thái độ tỉnh
thức mà Chúa Giêsu không ngừng mời gọi, người Kitô hữu hãy nhận lấy một phần
trách nhiệm trong việc gây ngộ nhận nơi nhiều người ngoài Kitô giáo. Sự thiếu
sót giữa niềm tin và cuộc sống hằng ngày; sự hăng hái sinh hoạt giáo xứ, nhưng
lại bỏ qua những đòi hỏi của công bằng, bác ái, tình liên đới; đó là những hình
ảnh méo mó mà chúng ta tạo ra cho Giáo Hội.
3.
Vườn hoa xinh đẹp
Tại Thụy sĩ, có một vườn hoa tuyệt
đẹp, đủ loại hoa, đủ màu sắc. Nằm giữa vườn là một vườn hoa tráng lệ. Nhìn vườn
hoa với cảnh phối trí, cắt tỉa, uốn nắn... ai cũng phải công nhận đã có một sự
chăm sóc kỹ lưỡng, kèm theo một óc thẩm mỹ hiếm có của người chủ vườn. Một du
khách đi qua đây, thoáng nhìn ông đã thấy như say mê. Giữa lúc đó, người làm vườn
bước ra. Chủ khách chào hỏi lẫn nhau. Rồi từ chuyện hoa cỏ, cách chăm bón, trồng
tỉa, sự phối hợp màu sắc... câu chuyện đi đến chỗ thân tình.
Du khách hỏi: - Xin lỗi cụ, cụ ở
đây được bao lâu rồi?
- Khoảng 40 năm rồi.
- Tôi đoán, có lẽ ông chủ của cụ
rất sành về nghề cảnh, chắc giờ này ông có nhà?
- Ông ta không có ở đây, thỉnh
thoảng mới ghé qua đây thôi.
- Ông có thư từ gì với cụ không?
- Không, ông ta bận lắm.
- Ông ta không về cũng không thư
từ, thì ai trả lương cho cụ?
- Hàng tháng tôi chỉ nhận được
ngân phiếu từ ông ta để chi phí mọi sự cho khu vườn này.
- Thế tội gì cụ phải săn sóc kỹ
lưỡng thế này, ông chủ có mấy khi đến thưởng ngoạn đâu?
- Tôi thì lại không nghĩ thế,
mình là một gia nhân được chủ tín nhiệm trao phó việc bảo quản khu vườn này,
mình phải tận tụy chờ lúc nào ông chủ về cũng được, ông sẽ hài lòng với công việc
của tôi. Hơn nữa, khi làm đẹp khu vườn cho chủ, chính tôi cũng được thưởng ngoạn
cảnh đẹp do chính tay mình làm nên.
4.
Con chó nó chết rồi
Nghe ai đó quảng cáo: “Nấm tróc
ăn ngon lắm” bạn tôi liền trổ tài nấu bếp. Trong ngày sinh nhật của nó, nó làm
nấm rồi chế biến thức ăn rất ngon. Trước khi nhập tiệc, nó tuyên bố: sẽ đãi
chúng tôi một món ăn lạ, nhưng hãy an tâm vì nó đã cho con chó ăn thử rồi. Tiệc
sinh nhật sắp kết thúc, trong lúc mọi người đang vui vẻ, đứa em của bạn tôi chạy
về vừa nói vừa thở: “Chị Duyên ơi, con chó nó chết rồi." Không ai bảo ai,
chúng tôi chạy tán loạn, ai cũng muốn đi bằng phương tiện nào đó đến bệnh viện
nhanh nhất. Ngay lúc đó, người ta kéo xác con chó mới bị đụng xe về, mọi người
thở phào nhẹ nhõm như vừa thoát chết.
Tôi thầm nghĩ: Cuộc sống đời này
chỉ là tạm thời, ai cũng sẽ chết, thế mà người ta lại lo lắng, chăm sóc, bảo vệ.
Nhưng bên cạnh sự sống này còn có một sự sống bất diệt, một cuộc sống cần phải
gìn giữ hơn lại bị coi là thứ yếu vì không mấy người sợ phải chết đời đời.
Lạy Chúa, nếu mỗi người chúng
con đều biết tỉnh thức để sắm sẵn cho mình sự sống đời đời, chắc hẳn thế giới
này đã tươi đẹp hơn.
5.
Tỉnh thức là đang sống
Một cụ già cuốc đất trồng cây.
Chợt ba chàng thanh niên đi qua, các cậu nói: - Cụ lẩm cẩm quá, già rồi mà còn
trồng cây…Thôi cụ ơi, việc ấy để tụi cháu, cụ lo dọn mình chết là vừa.
Ông cụ trả lời:
- Chắc gì lão chết trước, chắc
gì các cậu sống lâu hơn lão. Tử thần xưa rầy có phân biệt già trẻ đâu. Trẻ với
già có khác chi nhau về phương diện đó.
Thời gian qua, ba cậu vì công việc,
đi lính, kinh doanh, hoặc vì ngộ nạn, đều chết cả.
Cụ già được tin buồn, khóc
thương ba trẻ.
Câu cửa miệng vẫn nói: tre già,
măng mọc, nhưng cũng nhiều khi tre già khóc măng non.
Lá vàng đeo đẳng trên cây
Lá xanh rụng xuống trời hay chăng trời? (La Fontaine)
Bởi thế, “Thái độ cơ bản của người
Kitô hữu, là tỉnh thức. Người Kitô hữu tỉnh thức vì biết rằng, mỗi khoảnh khắc
đều mang một ý nghĩa đối với một giai đoạn mới hoặc cần thiết cho sự trưởng
thành, mỗi biến cố đều mang nặng sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa.”
6.
Thiên Chúa ở trong nhà mình
Một thầy dòng nọ đọc đâu được
trong bộ sách khôn ngoan cũ kỹ mách bảo cho biết rằng: “Tận cùng chân trời của
trái đất là nước, trời với đất gặp gỡ nhau."
Phấn khởi vui mừng, thầy lên đường
tìm kiếm nơi trời mới đất mới gặp nhau và sẽ không trở về nhà cho tới khi tìm
được.
Ngày tháng trôi qua, thầy vẫn
kiên nhẫn rảo bước khắp nơi với niềm hy vọng mãnh liệt trong tâm hồn, bất chấp
mọi khó khăn gian khổ và thử thách, những đói khát, giá rét không gì có thể lay
chuyển được ý định của thầy.
Trong bộ sách khôn ngoan cũ kỹ ấy
có chỗ nói thêm rằng: “Khi tới chỗ đất với trời gặp nhau thì sẽ thấy có một
cánh cửa, chỉ cần gõ nhẹ là cánh cửa sẽ mở ra và người sẽ gặp thấy Thiên
Chúa."
Thật vậy, sau nhiều ngày tháng
trời đi tìm kiếm đó đây khắp mặt đất, cuối cùng, thầy dòng đã tới trước cánh cửa.
Thầy vui mừng gõ cửa bước vào, lúc đó thầy dòng mới hoảng hồn nhận ra đó là Tu
viện cũ của thầy, là cửa của căn phòng mà thầy đã từng sống bao nhiêu năm qua.
Thật sự không cần phải đi tìm kiếm
Chúa ở tận nơi xa xôi hoặc mãi nơi chân trời nào cả. Thiên Chúa hiện diện ngay
trong tâm hồn mỗi người, cùng đồng hành với mỗi người trong mọi hoàn cảnh vui
buồn, sướng khổ của cuộc sống. Vấn đề quan trọng là có biết nhận ra những giờ,
những nơi hẹn mà Chúa đang chờ đợi ta hay không?
7. Ở
xa và gần Chúa
Bill Wilson đã mất tất cả khi thị
trường chứng khoán khủng hoảng vào thập niên 1920. Như nhiều nạn nhân khác, ông
ta quay sang rượu chè, nghiện ngập. Trong hai năm sau đó, Bill thực hiện hai nỗ
lực lớn để chấm dứt tình trạng nghiện ngập, nhưng chẳng ích lợi gì. Cuộc gặp gỡ
tiến sĩ Robert H. Smith đã cứu thoát đời ông. Năm 1935, họ thiết lập một chương
trình có tên là “những người nghiện rượu vô danh.”
Đã khi nào tâm hồn tôi xa rời
Chúa hơn bây giờ không? Bằng cách nào nó được đem lại gần Chúa hơn?
Không có gì đáng khuyến khích
hơn khả năng tự cải tạo cuộc sống bằng những nỗ lực đầy ý thức và xác tín
(Henry David Thoreau).
THỨ TƯ - NGƯỜI QUẢN LÝ TRUNG TÍN KHÔN
NGOAN
Lời Chúa: Lc 12, 39-48
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: "Các con hãy hiểu biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ nào
kẻ trộm đến, ắt sẽ tỉnh thức, không để nó đào ngạch nhà mình. Cho nên các con
hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến."
Phêrô thưa Người rằng: "Lạy
Thầy, Thầy nói dụ ngôn đó chỉ về chúng con hay về mọi người?" Chúa phán:
"Vậy con nghĩ ai là người quản lý trung tín khôn ngoan mà chủ đã đặt coi
sóc gia nhân mình, để đến giờ phân phát phần lúa thóc cho họ? Phúc cho đầy tớ
đó, khi chủ về, thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người
đó trông coi tất cả gia sản mình. Nhưng nếu đầy tớ ấy nghĩ trong lòng rằng:
"Chủ tôi về muộn", nên đánh đập tớ trai tớ gái, ăn uống say sưa: chủ
người đầy tớ ấy sẽ về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, chủ sẽ loại
trừ nó, và bắt nó chung số phận với những kẻ bất trung. Nhưng đầy tớ nào đã biết
ý chủ mình mà không chuẩn bị sẵn sàng, và không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn
nhiều. Còn đầy tớ nào không biết ý chủ mình mà làm những sự đáng trừng phạt,
thì sẽ bị đòn ít hơn. Vì người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều,
và đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn."
TRUYỆN
KỂ
1.
Tỉnh Thức Trong Phục Vụ
Giữa một ngôi vườn xinh tươi, có
một cây sồi cao, chung quanh là một rừng cây. Cây sồi ngày một lên cao ngạo nghễ.
Một hôm, từ trên nhìn xuống, nó ra lệnh cho người làm vườn đốn những cây chung
quanh, vì chúng làm vướng víu, quấy rầy và che bóng của nó. Và như thế, cây sồi
loại hết mọi cây cỏ để chỉ còn một mình bá chủ ngôi vườn. Thế nhưng một ngày
kia, một trận cuồng phong nổi lên, không còn cây cối chung quanh chống đỡ cho bớt
gió, cây sồi ngả rạp giữa vườn và chết một cách thê thảm. (Leonard de Vinci)
Số phận của những người chà đạp
người khác để tiến thân cũng giống như cây sồi trong dụ ngôn trên đây. Người ta
thường nói: "Trèo cao, té đau", bởi vì để lên cao, họ đã đạp đổ tất cả
người khác, đến độ khi trượt chân té ngã, họ không còn ai nâng đỡ họ.
2.
Tỉnh thức bắt đầu từ hôm nay
Tại Thụy Sĩ, có một vườn hoa tuyệt
đẹp, đủ loại hoa, đủ màu sắc. Nhìn vườn hoa với cảnh phối trí, cắt tỉa, uốn nắn…
ai cũng phải công nhận đã có một sự chăm sóc kỹ lưỡng, kèm theo một óc thẩm mỹ
hiếm có của người chủ vườn.
Một du khách đi qua đây, thoáng
nhìn ông đã thấy như say mê. Giữa lúc đó, người làm vườn bước ra. Chủ khách
chào hỏi lẫn nhau. Rồi từ chuyện hoa cỏ, cách chăm bón, trồng tỉa, sự phối hợp
màu sắc… câu chuyện đi đến chỗ thân tình.
Du khách hỏi: “Xin lỗi cụ, cụ ở
đây được bao lâu rồi?”
- Khoảng 40 năm rồi.
- Tôi đoán, có lẽ ông chủ của cụ
rất sành về nghề cảnh, chắc giờ này ông có nhà?
- Ông ta không có ở đây, thỉnh
thoảng mới ghé qua đây thôi.
- Ông có thư từ gì với cụ không?
- Không, ông ta bận lắm.
- Ông ta không về cũng không thư
từ, thì ai trả lương cho cụ?
- Hằng tháng tôi chỉ nhận được
ngân phiếu từ ông ta để chi phí mọi sự cho khu vườn này.
- Thế tội gì ông phải săn sóc kỹ
lưỡng thế này, ông chủ có mấy khi đến thưởng ngoạn đâu?
- Tôi thì lại không nghĩ thế,
mình là một gia nhân được chủ tín nhiệm trao phó việc bảo quản khu vườn này,
mình phải tận tụy chứ lúc nào ông chủ về cũng được, ông sẽ hài lòng với công việc
của tôi. Hơn nữa, khi làm đẹp khu vườn cho chủ, chính tôi cũng được thưởng ngoạn
cảnh đẹp do chính tay mình làm nên.
3.
Quá muộn và thất bại
Đại tướng Marc Arthur sau đệ nhị
thế chiến, với tư cách của một tướng lãnh già dặn kinh nghiệm trong binh pháp,
có nói: “Lịch sử của những thảm bại trong chiến tranh có thể tóm gọn trong hai
chữ: ‘Quá muộn’." Quá muộn vì chưa sẵn sàng. Quá muộn vì chưa chuẩn bị đủ.
Có lẽ vị tướng này đã từng nghiền ngẫm câu nói của một danh tướng thời La Mã
xưa để làm cẩm nang cho việc điều hành chiến tranh: “Si vis pacem, para
bellum”: nếu muốn được bình yên phải chuẩn bị chiến tranh.
Và thời xưa người Trung Hoa đã từng
có tư tưởng như vậy: “Bình thời luyện vũ, loạn thế độc thư”: Thời bình thì phải
lo luyện võ, thời loạn thì phải lo đọc sách. Nói như vậy là người ta khuyến cáo
họ, lúc bình yên thì đừng ngồi không đấy mà hưởng thụ, mà phải luyện võ, phải
chuẩn bị cho chiến tranh, để khi chiến tranh xảy đến thì đã sẵn sàng, đã chuẩn
bị để đối phó với mọi tình huống bất trắc có thể xảy ra.
4.
Nếu hôm nay là tận thế?
Một ngày nọ vào năm 1780 bỗng cả
vùng tiểu bang Connecticut bị tối hẳn lại. Ai nấy đều cho rằng đã đến ngày tận
thế. Khi đó hội đồng lập pháp tiểu bang đang họp. Nhiều người yêu cầu hoãn cuộc
họp để họ có thể về nhà cùng với gia đình chờ Chúa đến. Nhưng ông chủ tịch nói:
“Không biết hôm nay có phải là tận thế không: nếu không thì không cần hoãn họp.
Còn nếu phải thì chúng ta càng cần chu toàn nhiệm vụ hơn nữa. Xin thắp nến lên”
Những nhà khảo cổ đã đào bới được
thành phố Vésuve xưa kia bị núi lửa chôn vùi cách đột ngột. Người ta thấy nhiều
cảnh tượng trái ngược nhau: có người chết đang khi nhậu nhẹt, có những người
đang đánh nhau để tranh dành một số tiền. Nhưng đẹp nhất là hình một người lính
gác vẫn đứng nghiêm, gươm giáo trong tay.
5.
Người quản gia trung thành
Vào năm 1981, tờ Nữu Ước Thời
báo, là nhật báo nổi tiếng Hoa Kỳ có đề nghị rằng: chính phủ Hoa Kỳ nên trả
lương hưu trí và gắn huy chương cho ông cụ người Trung Hoa 73 tuổi. Ông cụ
không phải là một nhà chính trị, quân sự, kinh tế hay là một nhân vật tiếng tăm
lừng lẫy, mà chỉ là một người lao công, làm việc cho một lãnh sự quán Hoa Kỳ tại
một thị trấn nhỏ ở Trung Hoa.
Khi Hoa Kỳ cắt đứt liên lạc ngoại
giao với Trung Hoa, lãnh sự quán này bị đóng cửa và trong suốt 35 năm, ông cụ mỗi
ngày vẫn đến quét sân vườn và lau sàn nhà một lần.
Tờ Nữu Ước Thời báo viết: “Một
người thiếu trung tín chắc chắn sẽ lập luận rằng: Thôi, cần chi quét là cây mỗi
ngày cho mệt, có ai biết đâu? Lá cây đâu có biết nói mà sợ? Nhưng ông cụ này
trung tín làm bổn phận suốt 35 năm, mặc dù không nhận được lương và không có ai
kiểm soát."
6.
Hãy sẵn sàng
Con mưa chiều 28-7-1996 đã làm
cho cây me cổ thụ trước nhà số 100A đường Nguyễn Thị Minh Khai, quận 1 tróc gốc
ngã đè ba xe gắn máy. Em Hà Chí Thanh, 17 tuổi, học sinh, nhà ở số 444/20 đường
cách mạng tháng 8 quận 3, đi xe Kawasaki Neo Max chết ngay tại chỗ. Bảy người
khác bị thương phải chở đi cấp cứu. Theo kỹ sư Phạm Thanh Sơn, phó giám đốc
Công ty Công viên cây xanh thành phố, cây me trên đã được tỉa cành, ngọn, khống
chế chiều cao và... đã có giấy phép đốn hạ vào ngày 29-7-96. Trước tình trạng
cây cổ thụ ngã hàng loạt trong mùa mưa có gió mạnh này, ông Sơn cho biết công
ty sẽ huy động toàn lực lượng nhanh chóng đốn hạ khoảng 80 cây cổ thụ đã có giấy
phép xin đốn bỏ. Em Thanh đâu có ngờ, chiều hôm ấy mình là nạn nhân. Ông Sơn
đâu có ngờ, cây đổ trước một ngày có giấy phép đốn hạ.
Lạy Chúa, xin cho con luôn biết
sẵn sàng để có thể lên đường với Chúa, khi Người đi ngang qua đời con và cất tiếng
gọi mời.
7.
Coi chừng
Một tác giả nọ đã tưởng tượng ra
một câu chuyện như sau: Một linh mục chính xứ kia, được Chúa Giêsu báo cho biết
trước là Ngài sẽ đến thăm giáo xứ vào Chúa nhật tới. Nghe tin đó, mọi người
trong giáo xứ đều háo hức tề tựu ở nhà thờ để chào đón Chúa. Khi Chúa đến, ai
cũng muốn được nghe những lời giảng dạy của Ngài, thế nhưng Chúa chỉ gật đầu mỉm
cười mà không nói một lời nào. Dĩ nhiên là sau đó linh mục chính xứ đã mời Ngài
vào nghỉ tại nhà xứ, nhưng Chúa Giêsu cho biết là Ngài chỉ thích ở lại trong
nhà thờ mà thôi.
Sáng hôm sau, mọi người cũng tới
nhà thờ để tiếp tục chiêm ngưỡng Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã biến mất từ lúc nào
không ai biết. Nhưng có một sự việc mà cả linh mục cũng như giáo dân đều kinh
ngạc, đó là trong nhà thờ chỗ nào cũng thấy hai chữ “coi chừng” được viết ở khắp nơi. Từ cửa sổ, trần nhà, bàn ghế và
ngay cả quyển Kinh Thánh và Nhà Tạm, nơi nào cũng thấy hiện lên hai chữ “coi chừng” được viết bằng đủ mọi màu sắc.
Nhưng “coi chừng” điều gì thì không
ai biết. Và vì là chữ viết của Chúa Giêsu cho nên không ai dám xoá.
Thế rồi mọi người không ai bảo
ai, mỗi khi bước vào nhà thờ ai cũng cảm thấy mình bị đánh động bởi hai chữ “coi chừng”, và họ cảm thấy mình phải sống
ý tứ hơn. Và thật là một điều hết sức kỳ diệu. Từ đó, mỗi người thấy phải coi chừng đối với việc lắng nghe Lời
Chúa. Họ không còn lắng nghe một cách hời hợt, nhưng nghe để rồi đem ra thực
hành trong cuộc sống. Họ cũng coi chừng
đối với việc lãnh các Bí tích. Họ không còn dám lãnh các bí tích như một thói
quen, nhưng đã cố gắng lãnh các bí tích một cách ý thức hơn.
Cả linh mục chính xứ cũng thế.
Ngài cũng đã phải coi lại cách sống của mình để biết sống khiêm tốn, dấn thân
hơn trên con đường phục vụ dân Chúa. Người người ai cũng coi chừng, coi chừng
cung cách cầu nguyện, coi chừng đối
với cả cách họ vẫn nghĩ xưa nay về Thiên Chúa. Thiên Chúa mà họ phải tôn thờ
không phải là Thiên Chúa chỉ ở trong bốn bức tường của nhà thờ, mà còn phải nhận
biết Ngài trong mọi cảnh huống của cuộc sống nữa. Cuối cùng, nhận thấy ý nghĩa
và ích lợi quá lớn của hai chữ coi chừng
mà Chúa Giêsu đã viết trong nhà thờ, người ta còn cho bắt thêm những ngọn đèn
điện lớn được xếp thành hai chữ “COI CHỪNG”
trên nóc giáo đường để mọi người thấy rõ hơn.
8.
Sẵn sàng là biết xét mình
Trong bài giảng nhân dịp kỷ niệm
hai mươi năm được bầu vào chức vụ chủ chăn Giáo Hội hoàn vũ, Đức Gioan Phaolô
II đã làm một cử chỉ chưa từng thấy trong lịch sử Giáo Hội, đó là ngài đã khiêm
tốn làm một cuộc tra vấn lương tâm trước mặt mọi người. Ngài nói như sau:
- Sau hai mươi năm phục vụ trên
quan tòa Phêrô, hôm nay tôi không thể không tự đặt ra cho mình một số câu hỏi:
a. Ngươi có làm tròn sứ vụ được
giao phó không?
b. Ngươi có chuyên cần và tỉnh
thức trong chức vụ thầy dạy đức tin của Giáo Hội không?
c. Ngươi có cố gắng đưa con người
ngày nay đến gần công cuộc vĩ đại của Công đồng Vaticanô II không?
d. Ngươi có quan tâm đến những
chờ đợi của các tín hữu trong Giáo Hội, cũng như nỗi khát khao chân lý trong thế
giới bên ngoài Giáo Hội không?
Ước gì mối quan hệ và trách nhiệm
đối với tha nhân luôn là điểm xét mình hàng ngày của chúng ta. “Đừng để mặt trời
lặn mà cơn giận vẫn còn” (Ep 4,26). Amen.
9.
Con cứ đá banh
Cậu bé Gioan Bechman đang đá
banh với các bạn, cha Bề trên gọi đội banh lại hỏi:
- Nếu chỉ một giờ nữa tận thế đến,
chúng con phải làm gì?
Cả đội banh nhao nhao trả lời:
- Con về xin lỗi mẹ, vì hôm nay
con đi đá banh mà chưa thuộc bài Giáo Lý.
- Xin cha ngồi tòa giải tội cho
con, vì con đã bỏ xưng tội rước Lễ hai năm.
- Con vào Nhà Thờ quỳ trước Mình
Thánh Chúa cầu nguyện.
Chỉ có cậu Gioan Becman thưa với
cha Bề trên:
- Con cứ tiếp tục đá banh, vì thời
khóa biểu sinh hoạt trong ngày: có giờ con học bài, có giờ con dự Lễ, có giờ
con phụ việc nhà, có giờ ăn, giờ ngủ, và bây giờ là giờ giải trí của con, nên
con cứ đá cho đến khi Chúa đến.
Như thế, Gioan Becman luôn sống
trong tư thế sẵn sàng đón Chúa.
10.
Sẵn sàng thuộc về Chúa
Mẹ Têrêsa Calcutta, tuy không phải
là người Ấn Độ, nhưng suốt đời mẹ đã phục vụ người xấu số,không phải chỉ trên
nước Ấn, mà còn trên 80 quốc gia! Khi mẹ qua đời, chưa từng xảy ra trên đất Án
đối với một phụ nữ nào, dù là một phụ nữ Ấn:
- Cả nước Ấn treo cờ tang và tổ
chức quốc táng cho mẹ.
- Lãnh đạo Ấn chọn mẹ là người mẫu
cho dân tộc.
- Nhiều cường quốc trên thế giới
như Mỹ, Úc, Pháp, xin mẹ làm Công Dân Danh Dự. (theo tin Đài Chân Lý Á Châu
ngày 15/8/2002).
Thực ra, khả năng nhỏ bé của mẹ
Têrêsa Calcutta không thể phục vụ những người đau khổ trên 80 quốc gia, nhưng
chỉ vì mẹ là người Công Giáo hiến trọn cuộc đời kết hợp với Chúa Giêsu và làm
theo Lời Ngài chỉ dạy, nên đã được rất nhiều người cộng tác đóng góp tiền của
cho mẹ. Người ta tính mỗi năm mẹ tiêu hết 50 triệu dollars cho các cơ sở từ thiện.
Mẹ đã làm cho nhiều người thực hành được Lời Thánh Kinh: “Mọi sự thuộc về anh
em, anh em thuộc về Chúa Kitô, Chúa Kitô thuộc về Chúa Cha” (1Cr 3,22-23).
11.
Tội trọng đáng sợ
Đức cố Hồng Y Nguyễn văn Thuận
nói: “Người Công Giáo có tất cả các phương thế cứu độ, mà bao nhiêu năm không
biến đổi nếp sống vươn lên, đó là một trọng tội.” Do đó, để trở thành người quản
lý khôn ngoan và trung trực của Thiên Chúa, thì ta phải ngâm đời mình vào Lời
Chúa, và kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể,như mẫu gương sống Đạo của giáo đoàn
Côrintho được thánh Phaolô khen: “Trong Đức Kitô Giêsu, anh em đã trở nên phong
phú về mọi phương diện, phong phú vì được nghe Lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm
của Người. Thật thế, lời chứng về Đức Kitô đã ăn sâu vững chắc vào lòng trí anh
em, khiến anh em không thiếu một ân huệ nào, trong lúc mong đợi ngày Đức Giêsu
Kitô, Chúa chúng ta, mạc khải vinh quang của Người. Nhờ thế không ai có thể
trách cứ anh em trong ngày của Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô. Người đã kêu gọi
anh em đến hiệp thông với Con của Người là Đức Kitô Giêsu Chúa chúng ta.” (1Cr
1,5-9).
12.
Cho nhiều, đòi lại nhiều
Tại Paralympic 2008 Bắc Kinh, thế
giới sững sờ ngưỡng mộ tay bơi 22 tuổi Christopher Tronco Sanchez, người
Mexicô, “kình ngư kỳ lạ nhất thế giới” không có tay, chỉ còn một chân, tranh giải
bơi tự do 100m!
Sanchez đã từng sở hữu 130 huy
chương các loại về bơi lội. Tại Paralympic này cũng như tại khắp nơi trên thế
giới, biết bao nhiêu anh chị em khuyết tật đã không đầu hàng số phận. Hoàn cảnh
khó khăn, khả năng ít ỏi, họ đã nỗ lực vươn lên, sống vui, sống hữu ích cho đời.
Có ít mà họ đã làm ra được nhiều, hơn cả những người có nhiều hơn họ.
Không có gì ta đang có mà ta đã
không lãnh nhận. Chúng ta chỉ là người quản gia những khả năng tinh thần vật chất
Chúa ban cho. Ngài đòi hỏi chúng ta phát triển tỷ lệ thuận với những gì Ngài đã
ban tặng: được giao phó nhiều thì cũng được đòi hỏi nhiều hơn.
13.
Đầy tớ tắc trách
Cô gái trẻ nọ được thuê giúp việc
nhà. Vợ chồng chủ nhân bận rộn công việc nên thường đi vắng, để bà mẹ già lảng
trí ở nhà cho cô săn sóc. Thế nhưng, thay vì chăm sóc bà cụ tội nghiệp ấy, cô
gái xinh đẹp nhưng đanh đá kia biến thành một ‘bà chủ’, sai khiến và hành hạ bà
cụ đủ điều. Đó là câu chuyện dở khóc dở cười trong bộ phim truyền hình “Hạnh
Phúc Mong Chờ” được trên VTV3.
Câu chuyện ấy như minh hoạ dụ
ngôn của Đức Giêsu hôm nay, nói với mọi người, cách riêng với những ai được
giao trách nhiệm phục vụ người khác. Hình tượng “chè chén say sưa và đánh đập
tôi trai tớ gái,” cho thấy sự tắc trách nhiều khi đẩy người ta tới chỗ hư đốn
và bất nhân.
14.
Trung tín trong việc nhỏ
Chiếc cầu treo Melrose nằm trên
đường biên giới Niagara giữa Mỹ và Canada. Theo báo cáo, cầu này được xây dựng
vào năm 1848 bởi kỹ sư Theodore Elliot. Thoạt đầu, người ta cột một sợi dây vào
một cánh diều và cho bay qua thác Niagara. Kế đến, người ta cột sợi dây thừng
vào dây kia và cho lôi qua. Cứ thế, người ta lại cột các dây thừng khác. Sau
cùng, người ta cột sợi cáp vào và lôi qua. Nếu giờ đây thánh Phaolô còn sống,
chắc hẳn ngài sẽ dùng câu truyện này để cho thấy điều ngài muốn nói đến trong
bài đọc hôm nay: ngài là một sợi dây mong manh, nhưng Thiên Chúa đã dùng để tiến
hành công cuộc hoán cải thế giới dân ngoại.
Thiên Chúa xây dựng đức tin của
tôi từ sợi chỉ mong manh thành sợi cáp thế nào?
Con chỉ là một tia lửa, xin biến
con thành ngọn lửa. Con chỉ là một sợi tơ, xin biến con thành cây đàn (Amado
Nervo).
15.
Cho nhiều thì đòi hỏi nhiều
Trong cuốn “Qua mùa của trái
tim”, John Powell viết: “Thiên Chúa sai mỗi người đến thế gian với một sứ điệp
đặc biệt cần loan báo, với một bài ca đặc biệt để hát lên…, với một nghĩa cử
yêu thương để ban tặng.”
Điều này gợi lên một câu hỏi: bằng
cách nào tôi có thể khám phá ra một bài ca, sứ điệp và nghĩa cử yêu thương của
tôi?
Thiên Chúa trao phó cho tôi một
công việc để thực hiện, chứ không cho ai khác. Tôi có một sứ mệnh riêng… Nếu
tôi đau ốm, căn bệnh của tôi có thể phục vụ Ngài. Nếu tôi đau khổ, nỗi đau của
tôi có thể phụng sự Ngài. Thiên Chúa không làm gì vô nghĩa cả. Lạy Chúa, con
phó thác trọn vẹn đời con trong tay Chúa (John Henry Newman).
16.
Ban ân sủng, đòi tấm lòng
Tại Paralympic Rio 2016, thế giới
lại có dịp sững sờ ngưỡng mộ những “dị nhân” thi đấu bất chấp thân phận khuyết
tật của họ: một Ibrahim Hamato (Ai Cập) mất cả hai tay vẫn chơi bóng bàn, miệng
ngậm vợt, tung bóng bằng chân; hay đô cử Lê Văn Công, đôi chân bị liệt không
ngăn nổi anh đoạt huy chương vàng và phá kỷ lục thế giới môn cử tạ.
Không chỉ có thế, biết bao nhiêu
anh chị em khuyết tật ở khắp nơi trên thế giới, đã không đầu hàng số phận: dù
hoàn cảnh khó khăn, khả năng ít ỏi, họ đã nỗ lực vươn lên, sống vui, làm nhiều
điều hữu ích cho đời. Có ít mà họ đã làm ra được nhiều, hơn cả những người có
nhiều hơn họ. Có hay không có tấm huy chương, họ vẫn là những anh hùng khuyết tật,
những tấm gương sáng cho chúng ta soi chung.
Lời Chúa dạy chúng ta: Chúng ta
chỉ là người quản lý những khả năng mà Chúa ban cho. Ngài đòi hỏi chúng ta phát
triển những gì Ngài đã ban: “được giao phó nhiều thì cũng được đòi hỏi nhiều
hơn.”
Đôi khi chúng ta phàn nàn về những
thiếu thốn của mình. Nhưng hãy nhìn lại những gì mình có và tự hỏi chúng ta đã
phát huy hết các tiềm năng có sẵn của mình chưa? Hay lại phung phí, làm hư hỏng
những khả năng ấy? Phá hại môi trường, nhậu nhẹt, cờ bạc, ma tuý và bao tệ nạn
khác đều là không quản lý tốt ân huệ của Chúa.
THỨ NĂM - LỬA TÌNH YÊU
Lời Chúa: Lc 12, 49-53
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: "Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian, và Thầy mong muốn biết
bao cho lửa cháy lên. Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết
bao cho đến khi hoàn tất.
Các con tưởng Thầy đến để đem sự
bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để
đem sự chia rẽ.
Vì từ nay, năm người trong một
nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống
đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống
đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng."
TRUYỆN
KỂ
1.
Qua thập giá và phục sinh đến Chúa Giêsu
Đêm Phục sinh, không gian thật
tĩnh lặng, bóng tối bao phủ và chế ngự đêm khuya...
Bỗng một ánh lửa bùng lên và một
tiếng hát cất cao vang vọng: “Ánh sáng Chúa Kitô”, rồi một lời đáp được đồng
thanh vang rền “Tạ ơn Chúa."
Ánh lửa bập bùng xuất phát từ
cây nến Phục sinh, tượng trưng cho Chúa Kitô khải hoàn, bắt đầu được lan tỏa đến
từng người tay cầm nến trong thánh đường. Ngàn ánh nến lung linh rực sáng xua
đuổi bóng tối...
2.
Chiến đấu cho hòa bình
Cuộc sống của người Kitô hữu là
một cuộc chiến đấu không ngừng. Trận chiến mà chúng ta tham dự là trận chiến chống
lại sức mạnh của ác thần. Vương quốc Chúa Giêsu thiết lập là một vương quốc
luôn trong tình trạng chiến tranh, Giáo hội của Ngài luôn trong tình trạng
thánh chiến. Thánh chiến ở đây không có nghĩa là chiếm lại Thánh địa, các nơi
thánh hay bất cứ lãnh thổ trần gian nào, nhưng là chống lại sức mạnh của tối
tăm, hận thù, tội lỗi và chết chóc.
Bất cứ cuộc chiến tranh nào cũng
gây nên chết chóc đau thương. Hoà bình mà nhân loại đạt được lắm khi là giá của
rất nhiều mạng người. Người Kitô hữu cũng đeo đuổi một cuộc thánh chiến, nhưng
là để đạt được bình an trong tâm hồn. Sự bình an ấy, chúng ta chỉ có thể đạt được
bằng giá của một cuộc chiến đấu liên lỉ chống lại tội lỗi và khuynh hướng xấu
trong chính bản thân. Vì thế, người Tây phương có câu ngạn ngữ: “Si vis pacem,
para bellum”: nếu muốn có hòa bình, hãy chuẩn bị chiến tranh. Nếu muốn có bình
an trong tâm hồn, hãy chuẩn bị đương đầu với những cạm bẫy và sức mạnh của ác
thần luôn bủa vây lôi kéo chúng ta đến tội lỗi (R.Veritas).
“Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất,
và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”
3.
Ozanam, ngọn lửa nhiệt tình
Năm 1843, thành phố Paris đang bị xáo trộn, đạo Công giáo bị đe dọa, các
cơ sở tôn giáo bị phá phách. Tại Lyon, bọn thợ thuyền cũng kéo cờ đỏ, hát những
bài phạm đến Chúa và phản đạo.
Năm ấy Ozanam học luật ở Paris. Dầu còn thanh niên, cậu đã dùng ngòi bút
và việc bác ái để phản công. Cậu siêng năng đọc Phúc âm, rước lễ. Cậu thụ giáo
với giáo sư Ampère về học thức và đạo đức. Và cậu mạnh bạo bênh vực Giáo hội. Với
Ozanam các sinh viên, trước đây rụt rè lo sợ, bây giờ mạnh bạo. Các giáo sư đại
học cũng phải kiêng nể Công giáo.
Cậu tổ chức các buổi diễn thuyết làm sống lại đạo Công giáo. Về phía dân
chúng, cậu cùng 6 anh em khác lập Hội Bác Ái Vinh Sơn giúp đỡ các người nghèo
khổ. Hồi 18 tuổi, cậu đã thề: “Nhất định hy sinh đến thí mạng cho dân
nghèo."
Đồng thời với Ozanam, Montalembert tranh đấu cho tự do giáo dục của Giáo
hội, tại nghị trường. Dù là giáo sư đại học, Ozanam vẫn hàng tuần đi các khu
nghèo khó để dạy giáo lý cho những công nhân nghèo khổ.
Ngày nay, Giáo hội cũng cần nhiều tâm hồn có lửa nhiệt tình như Ozanam.
4.
Cái chết tràn đầy sự sống
Báo tuổi trẻ trong bài “Một cái chết bắt đầu cho sự sống” đã viết về anh
Nguyễn Đức Minh như sau:
..." Vật vã với cơn đau ngày càng tăng, từ đầu năm anh tìm đến khoa
giải phẫu của trường ĐHYD rồi về nhà lập tờ di chúc, trong đó chỉ có ba điều ước
mong: hiến xác, đề nghị gia đình không làm đám tang lớn để lấy tiền giúp người
khốn khó và dành những vật dụng riêng gồm máy đánh chữ, cassette, ampli, dụng cụ
học tập của câu lạc bộ Bừng Sáng và một người bạn cùng cảnh mù.
Chị hai của Đức Minh cho biết: “Em tôi lo gia đình không thực hiện lời hứa
nên đã bắt cha mẹ ký xác nhận cho xác em mới chịu lên bàn mổ. Trước khi mổ, em
còn dặn bác sĩ viện trưởng có gì thì đưa xác em đi ngay để gia đình khỏi đổi
ý...”
Mong ước của anh Minh giúp tôi nhận ra được những khao khát của Chúa
Giêsu trước khi bước vào cuộc Thương Khó: “Thầy ước mong phải chi lửa ấy - ngọn
lửa yêu thương mà Ngài đã ném vào mặt đất - cháy bùng lên!”
Giêsu ơi, con cũng muốn sống những thao thức của Giêsu, bằng cuộc sống
yêu thương, và dấn thân cho tình yêu. Xin giúp con Chúa nhé!
5.
Chia rẽ và hòa bình
Một nữ tu đang phục vụ trong chương trình phát thanh bằng tiếng Đại Hàn,
của đài phát thanh chân Lý Á Châu, đã có lần đã cho biết, gia đình của chị là một
gia đình chịu ảnh hưởng của Khổng Giáo một cách hết sức sâu đậm. Lòng hiếu thảo
chi phối mọi quyết định và sinh hoạt của con cái trong gia đình.
Thế nhưng ngày kia, niềm tin Kitô đã đến với người anh của chị. Điều này
đã làm cho gia đình của chị xáo trộn. Người cha già của chị đã cực lực phản đối
việc trở lại Công giáo của người con trai duy nhất của ông.
Sự phản đối còn đi xa hơn nữa, khi ông ta được biết, người con trai của
ông lại còn quyết định đi tu làm Linh Mục. Như thế là gia đình ông không còn
người nối dõi tông đường.
Nhưng chưa hết. Sau khi người anh của chị quyết định đi tu, thì lại đến lần
chị, chị cũng trở lại Công giáo và cũng xin đi tu.
Những điều này đã làm cho người cha của chị buồn phiền đến nỗi ông muốn từ
hai đứa con của ông và ông đã căm thù đạo Công giáo, đến độ ông gọi Thiên Chúa
của đạo Công giáo là một ông thần xấu, vì đã cướp đi của ông hai người con.
Trước cảnh chia rẽ của gia đình như thế, chị và anh của chị chỉ biết cầu
nguyện, để cho người cha của họ hiểu được lý do mà chị và anh chị trở lại Công
giáo. Và lời cầu xin của họ đã được Chúa nhậm lời. Vào giờ phút chót của cuộc sống
tại thế, chính người cha của họ đã xin trở lại.
6.
Lòng nhân ái thắp sáng
Một bữa tối tại sân vận động trường Los Angeles – Mỹ, một diễn giả nổi tiếng
– ông Keller- được mời thuyết trình trước khoảng 100.000 người. Đang diễn thuyết
bỗng ông dừng lại và dõng dạc nói:
- Bây giờ xin các bạn đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn sáng trong sân
vận động này.
Đèn tắt. Cả sân vận động chìm sâu trong bóng tối âm u. Ông Keller nói tiếp:
- Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que
diêm đang cháy thì hãy hô to: “Đã thấy!"
Một que diêm được bật lên, cả sân vận động vang lên: “Đã thấy!"
Sau khi đèn được bật sáng trở lại, ông Keller giải thích:
- Ánh sáng của một hành động nhân ái dù bé nhỏ như một que diêm cũng sẽ
chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy.
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại được tắt. Một giọng nói
vang lên:
- Tất cả những ai ở đây có mang theo diêm quẹt, xin hãy đốt cháy lên! Bỗng
chốc cả vận động trường rực sáng.
Ông Keller kết luận:
- Tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau có thể chiến thắng bóng tối, chiến
tranh, khủng bố, cái ác và oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương, sự
tha thứ và lòng tốt của chúng ta. Hoà bình không chỉ là môi trường sống vắng
bóng của chiến tranh. Hoà bình không chỉ là cuộc sống chung im tiếng súng. Vì
trong sự giao tiếp giữa người với người, đôi khi con người giết hại nhau mà
không cần súng đạn, đôi khi con người làm khổ nhau, áp bức bóc lột nhau mà
không cần chiến tranh.
7.
Phaolô cảm nghiệm được sức mạnh của tình yêu
Đúng như Lời Kinh Thánh nói: “Tình thương của Chúa chan hòa mặt đất” (Tv
33/32,5b: ĐC năm chẵn). Và vì thế thánh Phaolô lên tiếng dạy: “Tôi xin nói theo
kiểu người phàm, hợp với tầm hiểu biết yếu kém của anh em. Trước đây, anh em đã
dùng chi thể của mình mà làm những điều ô uế và sự vô luân, để trở thành vô
luân, thì nay anh em cũng hãy dùng chi thể làm nô lệ sự công chính để trở nên
thánh thiện.
Khi còn là nô lệ tội lỗi, anh em được tự do không phải làm điều công
chính.21 Bấy giờ anh em thu được kết quả nào, bởi làm những việc mà ngày nay
anh em phải xấu hổ? Vì rốt cuộc những việc ấy đưa đến chỗ chết.Nhưng giờ đây
anh em đã được giải thoát khỏi ách tội lỗi mà trở thành nô lệ của Thiên Chúa;
anh em thu được kết quả là được trở nên thánh thiện, và rốt cuộc được sống đời
đời.Thật vậy, lương bổng mà tội lỗi trả cho người ta, là cái chết; còn ân huệ
Thiên Chúa ban không, là sự sống đời đời trong Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.”
(Rm 6,19-23: Bài đọc năm lẻ).
8.
Tương quan biện chứng giữa chiến tranh và hòa bình
Người Rô-ma có câu: “Muốn có hoà bình, phải chuẩn bị chiến tranh” (Si vis
pacem, para bellum). Cũng thế, theo Lời Chúa dạy hôm nay, đời sống thiêng liêng
là một cuộc chiến không khoan nhượng với tội lỗi.
Muốn kết hợp với Chúa thực sự thì con người phải dám đoạn tuyệt với tất cả
những gì là tội lỗi, là cản trở cho dù đó là những sự, những người thân thiết
nhất với mình. Có vượt qua phản đề này ta mới có thể tìm được tự do và an bình
đích thực. Các vị thánh nêu gương cho chúng ta trong cuộc chiến này đặc biệt
thánh Phanxicô khó khăn, thánh Têrêxa Avila…
9.
Thầy đến để đem sự chia rẽ
Perpetua thuộc gia đình danh giá, đã bị bắt cùng với hai thanh
niên là Saturninô và Seculdulô, với hai người nô lệ là Revecatô và
Phênicita. Tất cả đều đang học đạo với một giáo dân tên là Saturô.
Thấy tất cả các học viên của mình bị bắt, Saturô cũng tự nộp mình.
Người cha của Perpetua là một người thầy ngẫu tượng, đến nài
nỉ con bỏ đạo Chúa, trung thành với ngoại giáo. Nhưng chỉ vào một
cái bình, Thánh nữ Perpetua trả lời:
- Thưa cha, người ta có thể gọi vật này bằng cái tên nào khác
bằng cái bình không? Đối với con cũng vậy, con không thể cho một mình
cái tên nào khác ngoài danh hiệu Kitô nữa.
Bực tức quá, người cha liền đánh dập Perpetua tàn nhẫn. Rồi ông
rút lui. Nhiều ngày sau Thánh Nữ không gặp lại cha. Trong những ngày
đó Perpetua cùng các bạn đã được chịu phép thanh tẩy. Khi dìm vào
nước, Thánh Nữ đã chỉ cầu xin một điều là: được sức mạnh để chịu
nổi các đau khổ của cuộc tử đạo. Họ bị dồn chung vào một phòng
giam chật hẹp tối tăm. Nhưng rồi, do đút lót tiền bạc, họ được
chuyển sang phòng rộng rãi hơn đôi chút.
Perpetua mẹ của một đứa bé còn đang bú, rất đau khổ khi phải xa
con. Đứa bé kiệt sức. Người ta trả nó lại cho mẹ và người mẹ vui
sướng quên hết mọi đau đớn.
Vì biết rằng con mình sắp bị án tử, cha của Perpetua đến gặp
Thánh Nữ. Ông nói với con những lời rất thảm thiết:
- Con ơi, hãy thương mái tóc bạc của cha, hãy thương cha. Hãy nhớ
đến đôi tay cha đã nuôi dưỡng con. Hãy nhớ tới mẹ con, anh em con và
đứa nhỏ của con nữa, không có con, nó sống sao được. Con hãy bỏ đạo,
bỏ quyết định làm cho chúng ta mất tất cả.
Tuy rất cảm động và đau khổ. Perpetua chỉ trả lời:
- Thưa cha, tại tòa án sẽ xảy ra điều Chúa muốn, bởi vì chúng
ta không thuộc về mình.
Người cha còn cho đem đứa trẻ đến và năn nỉ lần nữa:
- Con hãy thương đến đứa con nhỏ của con!
Tuy nhiên trong khi đó các tù nhân cùng với Perpetua công khai tuyên
bố rằng họ sẵn sàng hy sinh tất cả cho Chúa.
10.
Đánh mất sự thật
Cha Anthony de Mello kể chuyện ngụ ngôn: Trên máy bay có một bà già nhỏ
thó người Do thái ngồi bên cạnh một người đàn ông Thụy điển to bự. Bà chăm chăm
nhìn ông. Cuối cùng bà nghiêng qua phía ông, hỏi nhỏ: “Này, hình như ông là người
Do Thái, phải không?”
Người đàn ông trả lời: “Ồ, không.”
Ít phút sau, bà lại nghiêng qua và nói: “Thôi, đừng giấu diếm làm chi.
Ông là người Do Thái, phải không?”
“Ồ không, không phải, thưa bà!” Người đàn ông đáp.
Bà lại tiếp tục chăm chăm nhìn người đàn ông. Được ít phút, bà lại nói:
“Tôi dám chắc ông là người Do Thái.”
Lúc này người đàn ông rất bực mình, ông nói xẵng: “Ừ ừ. Tôi là người Do
Thái đấy, thưa bà.”
Bà lại nhìn ông, lắc đầu: “Vậy mà nãy giờ ông cứ chối quanh.”
Người đàn bà đưa ra kết luận trước và tìm mọi cách để đi tới kết luận. Kết
quả là dù ở rất xa sự thật, bà vẫn nghĩ một cách đắc thắng là mình đang nắm giữ
được sự thật.
11.
Tìm hòa bình hay chiến tranh?
Frank Shallard là một nhà giảng thuyết chính thống trong cuốn tiểu thuyết
“Elmer Gantry” của Sinclair Lewis. Khi về già, ông cũng trở nên phiến diện. Một
ngày nọ, ông ta hỏi một người bạn: “Giaó huấn của Chúa Kitô là gì? Ngài đến để
đem lại hòa bình hay chiến tranh, bởi vì Ngài đã nói đến cả hai?” Câu hỏi của
Shallard giống như câu hỏi: “Những bậc thang đưa ta đi lên hay đi xuống?” Giaó
huấn của Chúa Giêsu cũng có một cái gì tương tự. Nó đem lại hòa bình cho những
ai tìm kiếm chân lý, nhưng đem lại sự hủy diệt cho những ai tìm kiếm cái gì
khác.
Tôi có thể làm gì khi một người tôi yêu thương bác bỏ giáo huấn của Chúa
Giêsu vì đã khép kín với chân lý?
Lạy Chúa, xin đem lửa đến thắp sáng nơi tối tăm và đem sức ấm đến nơi lạnh
lẽo. Xin hãy thanh tẩy con, chứ đừng hủy diệt con.
THỨ SÁU - DẤU CHỈ CỦA THỜI ÐẠI
Lời Chúa: Lc 12, 54-59
Khi ấy, Chúa Giêsu phán bảo dân
chúng rằng: "Khi các ngươi xem thấy đám mây nổi lên ở phía tây, lập tức
các ngươi nói rằng: Trời sắp mưa; và sự thật xảy ra như thế. Và khi gió nam thổi
đến, thì các ngươi nói: Trời sắp nóng nực. Và việc đã xảy ra như thế.
Hỡi những kẻ giả hình, các ngươi
biết tìm hiểu diện mạo của trời đất, còn về thời đại này, sao các ngươi không
tìm hiểu? Tại sao các ngươi không tự mình phê phán điều gì phải lẽ? Thế nên,
khi ngươi cùng với kẻ đối phương ra trước mặt quan quyền, thì đang lúc đi dọc
đường, ngươi hãy cố lo liệu cho ổn thoả với nó đi, kẻo nó lôi ngươi đến trước
quan toà, và quan toà trao ngươi cho lý hình và lý hình tống ngươi vào ngục. Ta
bảo cho ngươi hay, ngươi sẽ không thể ra khỏi đó cho đến khi nào trả xong đồng
xu cuối cùng."
TRUYỆN
KỂ
1.
Nhìn ra dấu chỉ
Một trong những cuốn phim hay nhất
của Charlot đó là cuốn phim có tựa đề: “Ánh sáng đô thị." Câu chuyện tình
này kể về gã lang thang và một cô gái mù bán hoa.
Một nhà tỉ phú trong vùng ngày
nào cũng dừng lại mua hoa của nàng. Và một ngày kia, gã lang thang là chàng
Charlot cũng dừng lại mua hoa. Cô bán hàng tưởng là người tỷ phú. Thế là một giấc
mộng đã nối kết hai tâm hồn lại với nhau. Nàng tưởng mình gặp người mình mơ mộng
từ lâu nay. Chàng hết lòng yêu nàng, cố gắng làm việc để kiếm tiền giúp nàng chữa
bệnh, với hy vọng nàng sẽ được khỏi tật mù lòa.
Nhưng vì một sự ngộ nhận, cảnh
sát bắt chàng. Sau thời gian cầm tù, chàng được tự do. Chàng trở lại chỗ cũ để
tìm cô gái mù, nhưng nàng không còn ở đó nữa. Nhờ tiền bạc trước kia chàng đã gửi
cho, người con gái đã được chữa lành và nay đứng trông coi một cửa hàng bán hoa
rộng lớn hơn. Chàng đi qua đi lại nhiều lần, nhưng không thể nào nhận ra nàng.
Tình cờ một cánh hoa hồng rơi xuống
đất, chàng nhặt lấy. Cô gái cười như nhạo báng. Chàng định bỏ đi, nhưng chợt nhận
ra tiếng cười, chàng quay lại. Chàng hỏi một cách nhút nhát: “Cô đã thấy được rồi
sao?” Người con gái nhận ra tiếng nói quen thuộc... nàng từ từ nhặt chiếc hoa
và gắn lên áo chàng. Và nàng thốt lên trong cảm xúc: “Anh đấy sao?”
2.
Hạnh phúc với ngày hôm nay
Một hôm, có một người đàn ông
tìm đến với ông, vẻ mặt thiểu não, chán chường; người đàn ông cho biết ông ta
không còn muốn sống nữa. Tác giả Norman Vincent Pearle mới đề nghị với kẻ chán
đời một liều thuốc:
- Sáng mai, khi thức giấc, ông
hãy tự nhủ đây là ngày cuối cùng, trong đời ông, ông hãy vươn vai và tự nhủ:
đây là lần cuối cùng ta bước ra khỏi chăn êm nệm ấm; ông hãy đi chuẩn bị thức
ăn sáng và nhớ rằng, đây là bữa điểm tâm cuối cùng. Ông hãy xin vợ ông chuẩn bị
cho ông những món mà ông thích nhất; đừng đọc báo, như ông vẫn có thói quen khi
ăn điểm tâm, nhưng ông hãy nói chuyện với vợ ông cứ như đó là lần cuối cùng
trong đời; trên đường đi đến ga xe lửa, ông hãy đi chậm rãi và nhìn kỹ đến ngôi
nhà của ông cũng như thành phố, hãy nhìn đến những người hàng xóm của ông lần
cuối cùng. Ngồi trên xe lửa, ông hãy nghĩ đây là chuyến đi cuối cùng của ông,
hãy nhìn những gì ông không ưa thích, bởi không bao lâu nữa, ông sẽ chẳng còn
thấy lại những thứ ấy.
Người đàn ông lắng nghe những lời
khuyên của tác giả Norman Vincent Pearle, ông hứa sẽ làm theo lời khuyên của
tác giả và sẽ kể lại kết quả. Thế nhưng, ông không chờ đến ngày mai, ngay tức
khắc ngồi trên chuyến xe lửa trở về nhà, thay vì đọc báo như thường lệ, ông ta
nhìn qua cửa sổ, ánh sáng ban đêm của đô thị và cảnh vật ban đêm chung quanh tự
nhiên thu hút ông, ông ta cảm thấy chuyến đi vô cùng lý thú. Ra khỏi xe lửa,
ông đi chậm rãi để ngắm trăng và bầu trời trong sáng. Về đến nhà, thay vì dùng
chìa khóa để mở cửa ra, người vợ đã từng sống với ông bao nhiêu năm qua xuất hiện
trong một ánh sáng kỳ diệu và với một nụ cười khó tả; và kẻ đã từng chán đời kết
luận: từ lúc đó, tôi quyết định phải sống và sống hết những ngày Chúa còn cho
tôi được sống.
3.
Hòa thuận là dấu hiệu Nước Trời
Một bà nọ là người Công Giáo,
sáng nào trước khi gánh xôi đi bán, bà cũng ra giếng trước nhà giặt một thau quần
áo và phơi lên dây ở gần đó.
Cũng có bà hàng xóm ngoại giáo ở
cạnh nhà, sáng sáng cũng đem quần áo giặt nhờ giếng của bà bán xôi. Ngày kia,
bà hàng xóm sau khi giặt xong, bà ngẩng lên thấy dây phơi đã đầy kín quần áo,
bà liền đưa tay vén hết quần áo về một bên, rồi phơi quần áo nhà bà!
Vừa lúc ấy, bà bán xôi từ trong
nhà đi ra, thấy thế liền chửi bà kia thậm tệ! Bà hàng xóm cũng không kém, bà
dùng những lời lẽ chẳng hay ho gì để đấu khẩu với đối phương! Bà bán xôi tức
quá xông đến giật tất cả quần áo của bà hàng xóm xé ra! Bà con lối xóm thấy vậy
chạy đến cản ngăn…!
Ít ngày sau đó, bà bán xôi đi dự
lễ Chúa nhật, khi bà nghe cha đọc bài Phúc Âm: “Khi ngươi đi cùng đối phương ra
toà, thì dọc đường hãy cố gắng giải quyết với người ấy cho xong, kẻo người ấy
lôi anh đến quan toà, quan toà lại nộp anh cho thừa phát lại, và thừa phát lại
tống anh vào ngục" (Lc 12,58: Tin Mừng).
Bà cảm thấy hối hận vì hành vi của
mình hôm trước, bà liền ra khỏi Nhà Thờ và đi một mạch tới chợ mua một số bộ quần
áo đưa đến nhà bà ngoại giáo ôn tồn nói:
- Chị à, tôi thật lòng xin lỗi
chị,mấy hôm trước tôi quá nóng nên nói những lời không hay với chị, nhất là tôi
đã xé quần áo của các cháu nhà chị, bây giờ tôi biết lỗi, xin chị tha thứ và nhận
số quần áo này cho các cháu nhà chị mặc đỡ!
Trước cử chỉ đó, bà hàng xóm ngoại
giáo đứng sững người ra, nước mắt rưng rưng, bà không dám nhận số quần áo đó,
nhưng bà bán xôi cứ nài ép mãi bà mới chịu nhận. Thế rồi cả hai bà ôm nhau
khóc!
Từ bấy giờ trở đi, hai gia đình
trở nên thân thiết, có gì cũng chia sẻ cho nhau. Sống như thế đã diễn tả lời
thánh Phaolô dạy: “Kẻ thù ngươi đói, hãy cho nó ăn; nó khát, hãy cho nó uống.
Làm thế, như ngươi đã chất than hồng trên đầu nó. Chớ để dữ thắng được ngươi,
nhưng hãy lấy lành mà thắng dữ!” (Rm 12,20-21).
Thời gian ngắn sau, gia đình bà
ngoại giáo xin theo Đạo, tình nghĩa lối xóm càng thêm thắm thiết đậm đà!
4.
Thông minh không hẳn là khôn ngoan
Một Ki-tô hữu đã ngoại bát tuần
và cũng là giáo sư triết học nhận xét một cách châm biếm rằng: “Nhìn chung, con
người hiện đại vừa rất thông minh mà cũng vừa rất ngu!” Bằng chứng là con người
đã đạt vô số những thành tựu ngoạn mục về khoa học và công nghệ, nhưng ngược lại,
lại dùng chính những thành tựu ấy không chỉ để đe doạ mà hơn nữa còn tàn phá, hủy
diệt chính mình. Xem thế, khôn ngoan thường thức nếu không gắn liền với sự khôn
ngoan tâm linh thì quả là một tai hoạ khôn lường. Đây chính là nhận định của
Chúa Giê-su về những người đương thời, những người biết nhận xét cảnh sắc đất
trời nhưng lại không hiểu ‘thời’ của họ. Con người muốn tiến bộ thực sự phải nhận
biết sự hiện hữu của Thiên Chúa và hoạt động của Ngài nữa.
Chúng ta phải nhạy bén với dấu
hiệu của Thiên Chúa trong lịch sử giống như ta vẫn nhạy bén với các cơ hội làm
ăn. Thiên Chúa đã đến bằng xương bằng thịt nơi con người Giê-su Na-da-rét,
nhưng những người Do thái thời ấy đã hụt mất. Ngày nay, với chúng ta, Thiên
Chúa vẫn hiện diện và hoạt động qua Thánh Thần của Đức Ki-tô. Vun trồng đời sống
tâm linh chính là vun trồng sự nhạy bén với những gợi ý của Chúa Thánh Thần qua
muôn ngàn thực tại của đời sống hằng ngày.
5.
Căn bệnh của thời đại
Giáo sư nọ sắp trễ giờ lên lớp.
Ông hối hả vẫy một chiếc tắc xi. Xe ngừng. Nhảy phắt lên xe, ông đóng xịch cửa
và giục tài xế: “Nè, anh chạy thật nhanh nghe.” Tài xế tống ga, chiếc tắc xi
lao tới, phóng như điên qua các phố xá... Mười phút sau, xe vẫn đang lao vun
vút, vị giáo sư sực nhớ ra điều gì, ông nói: “Nè, anh vẫn chưa hỏi nơi tôi muốn
đến, phải không?” Người tài xế giật mình: “À, xin lỗi. Xin cho biết ngài muốn
đi đâu ạ!" Thế đấy, người ta có thể rất hối hả mà thật sự không biết mình
đang làm gì. Người ta có thể cắm đầu cắm cổ chạy mà không cần biết mình đang chạy
đi đâu!
Căn bệnh: quên mục đích. Triệu
chứng: chỉ loay hoay làm chứ không bao giờ nghiêm chỉnh xem, xét. Trị liệu:
luôn biết xem, xét thấu đáo để biết chọn làm gì và làm thế nào.
6.
Biết mà không làm
Một người làm nghề tiếp thị được
chỉ định đến làm việc ở một vùng quê. Ngày nọ, anh tình cờ gặp một nông dân ngồi
trên chiếc xích đu trong sân ngôi nhà đã xuống cấp. Sau khi tự giới thiệu anh
ta bắt đầu quảng cáo: “Thưa ông , tôi có một cuốn sách quý như vàng dành cho
ông. Nó giúp ông có thể cầy cấy khu đất của ông tốt hơn mười lần so với hiện
nay.” Người nông dân lắc lư chiếc ghế.
Sau khi suy nghĩ một lúc, ông ta
nói: “Anh bạn trẻ, tôi đã biết làm thế nào cầy cấy khu đất của tôi tốt hơn mười
lần so với hiện nay. Đó là vấn đề tôi đang thực hiện.”
Tôi thất bại vì đã làm những gì
không phải làm hay vì không làm những gì phải làm?
Ai là người sẽ giải thoát tôi khỏi
thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta
(Rm 7, 24. 25)
7.
Mù quáng vì những ưu tiên trong nhận định
Một người làm nghề tiếp thị được
chỉ định đến làm việc ở một vùng quê. Ngày nọ, anh tình cờ gặp một nông dân ngồi
trên chiếc xích đu trong sân ngôi nhà đã xuống cấp. Sau khi tự giới thiệu anh
ta bắt đầu quảng cáo: “Thưa ông , tôi có một cuốn sách quý như vàng dành cho
ông. Nó giúp ông có thể cầy cấy khu đất của ông tốt hơn mười lần so với hiện
nay.” Người nông dân lắc lư chiếc ghế.
Sau khi suy nghĩ một lúc, ông ta
nói: “Anh bạn trẻ, tôi đã biết làm thế nào cầy cấy khu đất của tôi tốt hơn mười
lần so với hiện nay. Đó là vấn đề tôi đang thực hiện.”
Tôi thất bại vì đã làm những gì
không phải làm hay vì không làm những gì phải làm?
Ai là người sẽ giải thoát tôi khỏi
thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta
(Rm 7, 24. 25)
8.
Chỉ có một góc nhìn
Paul Brodeur đã thực hiện một thống
kê mang tên “Nước mắt con người cạn khô.” Những mô tả ông đặc biệt thích hợp
khi nói đến rượu. 70 cái chết do tai nạn một ngày liên quan đến rượu. 70% những
vụ chết đuối và 80% nạn nhân chết cháy đều liên quan đến rượu. Rốt cuộc, năng
suất đối với kinh tế quốc gia đã mất đi vì rượu khoảng 50 tỉ đô la hàng năm. Những
con số thống kê tương tự có thể được liệt ra đối với thuốc lá và thuốc phiện.
Trong ánh sáng câu hỏi Chúa
Giêsu đặt ra ở cuối bài đọc hôm nay, đâu là ý nghĩa của con số thống kê trên
đây? Tôi có thể làm gì?
Nhiều vấn đề hiện rõ trước mắt
khi ta không chú ý đến chúng (Robert J. Bidinotto).
9.
Tai họa bởi nhận biết sai
Hồi giữa tháng 5 năm 2006, siêu bão Chanchu tràn vào Biển Đông với sức
gió lúc mạnh nhất lên tới 250 km/giờ. Do dự báo sai về đường đi của bão mà thảm
hoạ xảy ra: hàng chục tàu đánh cá Việt Nam bị chìm và hàng trăm ngư dân thiệt mạng
vì tránh vào đúng ngay đường đi của cơn bão. Nói chung, trong mọi lãnh vực,
công việc xem xét, dự báo là hết sức cần thiết: để điều trị một căn bệnh, cần
chẩn đoán xét nghiệm, muốn đầu tư kinh doanh phải nghiên cứu kỹ thị trường.
Công việc khảo sát dự báo nếu bị bỏ qua hoặc sai lệch sẽ dẫn đến nguy cơ thất bại
hoặc gây ra tai hoạ, hậu quả khôn lường. Cũng vậy, việc sống đức tin và loan
báo Tin Mừng, để được đúng hướng, cần bao gồm việc nghiêm túc XEM và XÉT các ‘dấu
chỉ của thời đại’, chứ không thể chỉ nhắm mắt chúi mũi LÀM! Chúa Giêsu cảnh tỉnh
chúng ta: “Sao các người không tự mình xem xét cái gì là phải?”
Mọi biến cố xảy ra trong cuộc sống đều có chuyển tải những thông điệp của
Chúa. Chúng ta cần phải khôn ngoan nhận định để biết đâu là điều Thiên Chúa muốn
cho mình, trong những chọn lựa hằng ngày và nhất là khi phải đưa ra những quyết
định quan trọng. Và để chọn lựa đúng thánh ý Chúa, ta cần có sự bình tâm.
THỨ BẢY -
Lời Chúa
TRUYỆN
KỂ
1.
CHÚA NHẬT KHÁNH NHẬT
TRUYỀN GIÁO (năm A)
Lời
Chúa: Mt 28, 16-20
Bài
kết thúc Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Mátthêu.
Khi
ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa, đến núi Chúa Giêsu đã chỉ trước. Khi thấy
Người, các ông thờ lạy Người, nhưng có ít kẻ còn hoài nghi. Chúa Giêsu tiến lại
nói với các ông rằng:
“Mọi
quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thày.
Vậy
các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và
Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thày đã truyền cho các con. Và đây
Thày ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế."
TRUYỆN
KỂ
1.
Ánh sáng của tình yêu
Một
đạo sĩ hỏi các đệ tử: Các con có biết khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện, khi
nào ánh sáng tới và bóng tối lui đi không? Các đệ tử thi nhau trả lời: Thưa thầy,
có phải đêm tàn và ngày xuất hiện là khi từ xa nhìn một đoàn vật người ta có thể
phân biệt được con nào là con bò con nào là con trâu không? Thày lắc đầu: không
phải. Đệ tử khác trả lời: Thưa thầy có phải ánh sáng tới và bóng tối lui là khi
từ xa nhìn vào vườn cây, người ta có thể phân biệt được cây nào là cây xoài cây
nào là cây mít không? Thầy vẫn lắc đầu: không phải. Thấy không ai trả lời được,
thầy mới giải nghĩa: Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là
khi nào ta nhìn vào mặt người xa lạ và nhận ra đó là anh em mình.
Thật
là khó hiểu. Tuy trên đời ta thấy có nhiều thứ ánh sáng. Có ánh sáng mặt trăng
mặt trời. Có ánh sáng đèn dầu, đèn điện. Có những ánh sáng như tia X, tia hồng
ngoại. Nhưng tất cả những ánh sáng đó chỉ giúp ta nhìn rõ sự vật. Không thấy có
thứ ánh sáng nào soi vào mặt người xa lạ mà biến người ấy thành người thân của
mình.
Mẹ
Têrêxa dường như đã tìm ra thứ ánh sáng ấy. Mẹ là một nữ tu người Anbani, được
sai đến phục vụ người nghèo tại Ấn Độ, thấy người nghèo khổ quá tội nghiệp. Biết
bao người hấp hối ngoài lề đường. Chết rồi xác bị quẳng vào đống rác như xác
thú vật. Biết bao trẻ thơ bị bỏ rơi. Biết bao gia đình chui rúc trong các căn
nhà ổ chuột. Biết bao người đói khát không đủ cơm ăn áo mặc. Mẹ lăn xả vào phục
vụ người nghèo.
Một
hôm Mẹ đi thăm một ông già cô đơn trong căn lều tồi tàn. Bước vào lều Mẹ phải động
lòng thương cảm. Vì tất cả đồ đạc chỉ là một mớ giẻ rách. Căn lều bụi bặm bẩn
thỉu ngoài sức tưởng tượng. Và nhất là ông già thu mình lại không muốn giao tiếp
với ai. Mẹ chào hỏi ông cũng không thèm muốn trả lời. Mẹ xin phép dọn dẹp căn lều
ông cũng làm thinh. Đang khi dọn dẹp, Mẹ thấy trong góc lều có một cây đèn dầu
bụi bám đen đủi. Sau khi lau chùi, Mẹ kêu lên: Ô, cây đèn đẹp quá. Ông già nói:
Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi ngày cưới. Từ khi bà ấy chết, tôi không bao giờ đốt
đèn nữa. Thấy ông đã cởi mở, Mẹ Têrêxa đề nghị: Thế ông có bằng lòng cho các chị
nữ tu mỗi ngày đến thăm và đốt đèn cho ông không? Ông đồng ý. Từ đó mỗi buổi
chiều, các chị tới thăm ông, dọn dẹp nhà cửa, nói chuyện với ông. Ngọn đèn ấm
áp trong căn lều ấm cúng. Ông trở nên vui vẻ hơn. Ông đi thăm mọi người. Mọi
người đến thăm ông. Cuộc đời ông vui tươi trở lại.
Trước
kia cuộc đời ông tăm tối không phải vì ông không thắp đèn. Nhưng vì ngọn đèn
trong trái tim ông đã tắt. Trái tim khép kín nên ông mất niềm tin vào con người,
vào cuộc sống. Ông nhìn mọi người như thù địch. Từ ngày các nữ tu đến đốt đèn đời
ông vui lên, sáng lên. Đời ông sáng lên không phải vì có ngọn đèn dầu hỏa soi sáng.
Nhưng vì trái tim ông bừng sáng. Ngọn đèn tâm hồn ông rạng rỡ. Tâm hồn ông cởi
mở và ông nhìn thấy mọi người là anh em.
2.
Bốn cách truyền giáo của Mẹ Teresa
Mẹ
Têrêxa đã truyền giáo cách nào mà thành công như thế? Thưa, Mẹ đã dùng 4 phương
cách sau:
Phương
cách thứ nhất: cầu nguyện. Có nhiều người tưởng Mẹ Têrêxa là con người hoạt động.
Không phải thế. Trước hết Mẹ là con người cầu nguyện. Những giờ cầu nguyện triền
miên phát xuất từ nỗi niềm khao khát Chúa. Cầu nguyện đã đưa Mẹ đến phục vụ người
nghèo. Rồi việc phục vụ người nghèo đã đưa Mẹ trở về với kinh nguyện. Dòng chảy
cầu nguyện liên lỷ không bao giờ ngừng. Có thể nói cuộc đời Mẹ là cuộc đời
chiêm niẹm trong hoạt động.
Phương
cách thứ hai: thấm nhuần Lời Chúa. Mẹ tha thiết yêu mến Lời Chúa. Lời Chúa thấm
vào tận mạch máu thớ thịt, để Mẹ suy nghĩ, nói năng và hành động theo Lời Chúa.
Mẹ thường nói: Lời Chúa phải ở trên đầu ngón tay ta. Theo Mẹ 5 từ ngữ quan trọng
khắc ghi tên 5 đầu ngón tay của Mẹ là: You did it for me. Đó là 5 từ tóm tắt 25
chương Tin Mừng theo thánh Mátthêu: "Mỗi lần các con làm những việc này
cho một trong những anh em bé nhỏ nhất, đó là các con làm cho Thày."
Phương
cách thứ ba: yêu mến người nghèo. Nơi Mẹ, yêu mến người nghèo không phải là cảm
tính nhất thời. Yêu mến người nghèo thực sự phát xuất từ một đức tin sâu xa.
Tin thật Thiên Chúa đang ở trong nhưng người nghèo. Vì yêu mến người nghèo Mẹ
đã tự nguyện sống nghèo. Mẹ sống trong một căn phòng đơn sơ, chỉ có một chiếc
giường, một bàn nhỏ, một ngọn đèn và một chậu nước.
Phương
cách thứ tư: phục vụ bằng tình yêu. Vì tin Chúa đang ngự trong người nghèo, nên
phục vụ người nghèo chính là phục vụ Chúa. Vì thế, phục vụ người nghèo là một bổn
phận phải thực hiện trong khiêm nhường. Phải phục vụ một cách kính cẩn. Phải phục
vụ bằng tình yêu.
Giữa
thế kỷ 20 tôn trọng vật chất, quay lưng lại với đời sống tâm linh, Mẹ Têrêxa đã
trở nên một nhân chứng sống động của thế giới thần linh. Giữa nước Ấn độ xa lạ
với Kitô giáo, Mẹ Têrêxa đã trình bày được khuôn mặt dễ thương dễ mến của Chúa,
làm cho mọi người yêu mến đạo Cháu. Mẹ xứng danh là nhà truyền giáo của thế kỷ
20. Giữa những bế tắc Mẹ đã khai thông một lối đi. Lối đi vào thẳng trái tim
con người. Trong bóng tối dày đặc, Mẹ đã thắp lên một ngọn đèn. Ngọn đèn đó chiếu
lên ánh sáng niềm tin. Giữa trần gian lạnh lẽo, Mẹ đã đốt lên ánh lửa yêu mến.
Ánh lửa đó sưởi ấm tình người.
3.
Khiêm nhường trong truyền giáo--GM. Bùi Tuần
Người
truyền giáo tốt có thể là người không hiểu biết nhiều và sâu sắc về Chúa, nhưng
nhất định phải là người có sự sống của Chúa trong mình.
Tôi
vẫn nghĩ như vậy. Và tôi có kinh nghiệm như thế.
Người
ta không nhìn thấy Chúa trong họ. Nhưng người ta có thể cảm được phần nào sự hiện
diện của Chúa trong họ qua một số dấu chỉ. Một trong những dấu chỉ dễ thấy
nhưng lại chắc chắn, đó là sự khiêm nhường.
Trước
khi khiêm nhường được nâng lên hàng nhân đức siêu nhiên, nó đã là một đức tính
nhân bản.
Ngay
trên lãnh vực nhân bản, khiêm nhường vẫn được coi là một giá trị cao quí. Văn
hoá Việt Nam vốn ca ngợi người khiêm tốn. Lễ giáo Việt Nam vốn đề cao đức khiêm
nhường, coi khiêm nhường như một yếu tố của đạo làm người.
Trong
xử thế, khiêm nhường là chià khoá mở lòng người ta, gây nên thiện cảm. Nhờ thiện
cảm, người ta dễ chấp nhận ta, và dễ nghe ta.
4.
Truyền giáo cần mạnh dạn
Truyền
giáo hôm nay phải là giới thiệu, là trình bày, là minh họa, là thuyết phục.
Chúng ta giới thiệu Chúa Giêsu cho những người chúng ta gặp. Chúng ta đừng sơ:
sự nhút nhát của chúng ta có hậu quả rất lớn. Nhiều người mất cơ hội để biết
Chúa. Hãy mạnh dạn như anh em Tin Lành. Họ ít khi bỏ lỡ cơ hội để nói về Chúa.
Một
thống kê khá chính xác ở Trung Quốc cho thấy một sự khác biệt quá lớn giữa sự dấn
thân truyền giáo của anh em Tin Lành và người Công Giáo: năm 1815, cách đây gần
200 năm, số người công giáo ở Trung Quốc là 215.000 người, số người Tin lành chỉ
có 20 người. Hơn 10.000 người Công giáo mới có 1 người Tin Lành. Nhưng thống kê
năm 2006 cho biết ở Trung Quốc có 12 triệu người Công giáo, và có tới 36 triệu
người Tin Lành, có nghĩa là 3 người Tin Lành mới có 1 người Công giáo.
5.
Truyền giáo bằng trái tim
Tại
Nam Tư, trong một lần giúp lễ, một cậu bé vô tình đánh rơi lọ rượu. Vị linh mục
tức giận tát cậu bé và thét lên: “Cút đi, đừng bao giờ trở lại đây nữa.” Cậu bé
ấy không bao giờ trở lại nhà thờ nữa, bởi sau này cậu đã trở thành chủ tịch của
một nước cộng sản, cậu bé ấy chính là Titô, chủ tịch nước Nam Tư.
Và
cũng tại một nhà thờ chính toà, một buổi lễ cho Đức Giám Mục chủ tế đang cử
hành. Môt em bé 7 tuổi, giúp lễ, cũng vô tình đánh rơi lọ rượu. Âm thanh lọ rượu
rơi trên nền đá cẩm thạch, đối với em bé còn lớn hơn là âm thanh của một trái
bom nguyên tử. Em sợ hãi đến chết được. Vì mấy cậu bé giúp lễ cứ nghĩ là Đức
Cha là người rất nghiêm khắc. Thế nhưng sau thánh lễ, ngài gọi em bé đến và hỏi:
"Lớn lên con sẽ học trường nào?" Rồi Ngài nói tiếp: "Con có bao
giờ nghe nói tới Louvain không?" Em đáp: “Thưa Đức Cha, chưa." Ngài
nói: “Vậy con hãy về nói với mẹ con rằng, khi con lớn lên, con sẽ vào đại học
Louvain."
Không
ngờ rằng 20 năm sau, em bé đó, khi chịu chức linh mục đã ngồi trên chuyến xe lửa
đi về Louvain. Em bé đó chính là Đức Giám Mục Fulton Sheen, một diễn giả đại
tài ở Mỹ. Chính Ngài đã kể chuyện đời mình như một kinh nghiện về tình yêu về sự
khoan dung tha thứ. Ngài nói tiếp: Cũng một biến cố đánh rơi lọ rượu, nhưng tôi
đã đi về hướng này. Còn Titô thì đi về hướng ngược lại.
Cũng
một biến cố nhưng với cách đối xử không có tình cảm đã đưa một người đến vô thần,
nhưng với cách đối xử đầy tình yêu mến đã đưa một người thành một Kitô hữu đạo
đức và hơn nữa một con ngưòi đáng kính trọng trong Giáo Hội.
Mẹ
Thánh Têrêsa Calcuta là một minh chứng hùng hồn hơn ai hết về truyền giáo bằng
trái tim. Mẹ đã không đứng ra để giảng thuyết hùng hồn, nhưng mẹ đã truyền giáo
bằng hành động yêu thương cứu gíup những người nghèo, những người bị xã hội bỏ
rơi bên lề đường, hay những bệnh nhân bên đống rác. Tình yêu của mẹ, của một
người nữ nghèo âm thầm làm việc vì tha nhân, vì tình yêu, đã đánh động cả thế
giới, kể cả những người có đức tin tin hay không có đức tin. Khi giải Nobel hoà
bình năm 1979 được quyết định trao cho mẹ, báo chí thi nhau nêu lên những tước
hiệu độc đáo để giới thiệu một nhân vật ngoại hạng: Tờ Grazia nói “ Giải Nobel
cho mẹ những người nghèo." Tờ Figaro MagaZine gọi mẹ là “Mẹ Têrêsa, giải
Nobel bác ái”, Pari Match có bài tường thuật dài dưới tựa đề: “Giải Nobel cho vị
nữ tu bé nhỏ của những người cùng đinh." Tờ Le Courrier Francais tuyên bố:
“Giải Nobel của những người nghèo."
6.
Hình ảnh sống động về truyền giáo
Nhưng
thử hỏi cảm thức về bổn phận truyền giáo nơi các Kitô hữu ngày xưa, ngày nay
người trở lại đạo còn nghiệm được chăng? Hãy coi hình ảnh sống động của những
Kitô hữu sốt sắng truyền giáo nơi dân tộc ít người. Một số họ đã được giới thiệu
hai năm trước đây cũng dịp Chúa Nhật cầu nguyện cho công cuộcTin Mừng hóa thế
giới.
Anh
BN năm nay 27 tuổi. Anh đã học đạo năm 1993. Kể từ đó anh góp phần đắc lực vào
việc truyền giáo giữa đồng bào anh. Mùa mưa bắt đầu là lúc thích hợp nhất để
anh ra ruộng, ra rẫy, nơi anh vừa lao tác với đồng bào, vừa truyền đạo cho họ.
Anh nói như một nhà thần bí rằng: "Chúa đoan chắc Chúa ở với con và con được
ở với Chúa. Con thấy Chúa nói với con. Có những thôn làng muốn biết Chúa. Thế
là con thấy rõ Chúa đến nhà kêu con đi. Qua con, Chúa nói với người ta. Người
ta nhìn miệng con. Người ta nghe con nói. Điều lạ lùng là người ta tin Chúa! Vợ
con sắp sinh cũng bảo con: "Thôi anh cứ đi đi! Đã có Chúa lo cho em ở
nhà!" Lần ấy con đi truyền giáo về gần đến làng thì được tin vợ con đã
sinh một bé gái. Con quỳ xuống tạ ơn Chúa. Bé gái sinh ra là gia đình con có cơ
may được thêm một người đàn ông lo việc ruộng rẫy trong tương lai." Anh BN
có ý nói về phong tục mẫu hệ của đồng bào anh. Bé gái lớn lên mà lấy chồng thì
chồng đến ở nhà bố mẹ vợ thay vì vợ đến ở nhà bố mẹ chồng. Gia đình anh hy vọng
sẽ có con rể lo việc ruộng rẫy và anh sẽ có thêm cơ hội lo việc truyền giáo.
Anh
CĐ hôm ấy đi truyền giáo theo hướng sông Đồng Nai. Nửa đên anh đang đi thì xe đạp
của anh bị trục trặc. Khi ấy có tiếng cọp gào. Anh phải chui vào hốc đá khiến cọp
đói ngồi rình anh suốt đêm! Anh thưa với Chúa: "Chúa ơi! Con đi truyền
giáo nên Xa-tan nó chặn đường con!" Ban sáng khi mặt trời mọc, con thấy mất
an toàn nên lỉnh vào rừng sâu. Anh CĐ khi ấy thưa với Chúa: "Chúa ơi,
Xa-tan nó đi rồi, thế là con lại lên đường đến điểm truyền giáo như con đã hẹn
với người ta."
Anh
X tìm đến với đồng bào anh nơi rừng thẳm vào giữa mùa đói. Họ thiếu thốn cả của
ăn lẫn áo mặc. Anh thương họ quá đến nỗi anh đã để lại cho họ tất cả quần áo
anh mang theo. Anh về nhà, chỉ còn duy nhất chiếc áo gió và quần xà lỏn trên
người!
7.
Hội nhập văn hóa
Anh
BX khác hẳn những anh em nói trên về giáo dục và về địa bàn hoạt động. Chính
anh đã có công dịch ra tiếng M'nông tất cả các kinh đọc, các bài hát hiện đang
được dùng. Anh cũng dịch ra tiếng M'nông cuốn giáo lý căn bản và sách Tin Mừng
theo thánh Matthêu. Còn sách Tin Mừng theo thánh Máccô hiện anh dịch xong được
10 chương. Vậy phần đóng góp đặc sắc của anh trong việc truyền giáo cho dân tộc
anh là hội nhập văn hóa.
Theo
nghĩa tổng quát, văn hóa chỉ tất cả những gì con người dùng để trau dồi và phát
triển các năng khiếu đa diện của tâm hồn và thể xác; cố gắng chế ngự cả trái đất
bằng trí thức và lao động; làm cho đời sống xã hội, đời sống gia đình cũng như
đời sống chính trị trở nên nhân đạo hơn, nhờ tiến bộ trong các tập tục và định
chế,… diễn tả, truyền thông và bảo tồn trong các công trình của mình, những
kinh nghiệm tinh thần và hoài bão lớn của các thời đại, để giúp cho nhiều người
và toàn thể nhân loại tiến bộ hơn (Giáo Hội trong thế giới ngày nay, số 53).
Anh BX đang làm công việc truyền thông này về tôn giáo cho dân tộc anh. Thử hỏi
một người dân tộc như anh BX mở mắt chào đời nơi rừng sâu, làm sao đạt được
trình độ để làm việc văn hóa như hiện anh đang làm? Quan trọng hơn nữa là ý nghĩa
truyền giáo của công việc anh đang làm, ý nghĩa ấy lóe lên trong đầu óc anh từ
bao giờ? Có dấu nào cho thấy anh đã chọn công cuộc truyền giáo một cách tự do
do ân sủng của Thiên Chúa? Hãy nghe anh BX tự thuật, có khi ta sẽ phần nào thỏa
mãn được những thắc mắc nói trên.
8.
Mẹ của người phong
Nữ
tu Ruth Katharina Pfau, sinh ngày 9.9.1926 ở thành phố Leipzig nước Đức, sau
khi tốt nghiệp là nữ bác sĩ đã xin rửa tội trở thành tín hữu đạo Tin Lành, và
sau đó năm 1953 xin vào đạo Công Giáo.
Năm
1957 Bác sĩ Pfau xin nhập Dòng Những người con của trái tim Đức Mẹ Maria. Năm
1960 nhà Dòng gửi chị nữ tu Pfau sang Ấn Độ làm việc là Bác sĩ cho các người phụ
nữ. Nhưng vì giấy nhập cảnh bị trục trặc, nên vị nữ tu bác sĩ này ở lại thành
phố Karachi bên nước Pakistan. Nơi đây nữ tu bác sĩ Ruth Pfau đã sống cống hiến
đời mình chữa trị những bị bệnh phong cùi, bệnh lao phổi, cho tới khi qua đời
ngày 10.08.2017.
Suốt
cuộc đời vị nữ tu bác sĩ sống giữa những người bị bệnh lao phổi, bệnh phong cùi
và chữa trị cho họ.
Khả
năng chuyên là một thầy thuốc chữa bệnh, và là một nữ tu có tâm hồn đạo đức
tràn đầy lòng thương yêu Thiên Chúa và con người, nên nữ tu Pfau đã không chỉ
là một vị bác sĩ chữa bệnh phần thân xác cho những người mắc bệnh, nhưng còn
mang đến cho họ tình yêu thương an ủi, niềm hy vọng, mà Chị đã lãnh nhận cùng cảm
nghiệm ra từ nơi Thiên Chúa, đấng sinh thành ra đời mình.
Vì
thế, Nữ tu bác sĩ Ruth Pfrau được ca ngợi vinh danh là “Mẹ của người phong hủi.."
9.
Tình yêu của Hoàng từ Nước Trời
Có
một vị hoàng thái tử vào rừng săn bắn gặp một cô gái hái củi trong rừng. Không
hiểu Trời xui đất khiến làm sao mà họ yêu nhau tha thiết ngay từ buổi gặp gỡ đầu
tiên.
Hoàng
tử quay về triều như kẻ mất hồn, ngày đêm tương tư cô gái nghèo mà anh đã đem
lòng thương mến và rồi anh khẩn khoản xin vua cha cưới nàng cho bằng được.
Để
tìm hiểu xem cô gái có thực sự yêu thương con trai mình bằng tình yêu chân thực
hay không, vua cha dạy cho hoàng tử cải trang làm nông dân để thử lòng cô
gái...
Thế
là hoàng tử hoá thành người nông dân, đến cắm lều gần nhà cô gái, ngày ngày vác
cuốc ra đồng làm lụng. Anh lân la đến làm quen với cô gái trong hình hài một
nông dân.
Mặc
dù cô gái vẫn thầm yêu và mong được kết hôn với hoàng tử, nhưng cô tạ không nhận
ra hoàng tử nơi người nông dân nghèo khổ nầy. Cô đã đối xử với anh rất lạnh nhạt
và cuối cùng đã xua đuổi anh.
Tiếc
thay, cô đã đánh mất cơ hội vô cùng quý báu: mất vinh dự trở thành công nương,
thành hoàng hậu tương lai.
Như
vị hoàng tử kia hoá thân thành nông dân để thử lòng cô gái, Thiên Chúa cũng hoá
thân thành người phàm để thử thách tình yêu của chúng ta. Ngài đã từ trời xuống
thế, hoá thân làm người, cắm lều ở giữa loài người, trở nên người thân cận của
mỗi người.
10.
Thánh Têrêxa giảng đạo bằng gương sáng
Trong
bộ phim Tiểu Sử Thánh Têrêxa thành Lisieux đạo diễn đã chọn nữ diễn viên
Lindsay Younce thủ vai Têrêxa. Điều đáng nói là sau khi hoàn thành bộ phim, nữ
diễn viên ngoại đạo này đã xin theo đạo Công Giáo.
Cô
nói: “Quá trình trở lại đạo công giáo của tôi đã bắt đầu ngay trước lúc tôi khởi
sự cuốn phim, tuy nhiên tôi đã đợi cho xong phim rồi mới hòan thành quá trình
đó. Tôi nghĩ rằng việc được biết thánh Têrêxa đã dẫn tôi tới nhiều khía cạnh của
đức tin công giáo mà tôi chưa được làm quen, đặc biệt là niềm vui phát sinh từ
đau khổ khi bạn dâng nó lên Thiên Chúa như một của lễ. Bạn xin cho được đau khổ,
bạn thấy vui trong đau khổ và đó có thể là những điều nhỏ mọn mà bạn tiến dâng
lên mỗi ngày."
Điều
mà cô cảm phục chính là thái độ sống nhịn nhục và phục vụ ân cần của thánh
Têrêxa với nữ tu già Augustine. Một người nữ tu rất khó thương, thế mà thánh nữ
vẫn yêu thương và biến hành vi ấy thành của lễ cứu độ trần gian để rồi thánh nữ
đã có thể nói: “Nếu có tình yêu thì dù cúi xuống nhặt một cái kim cũng đủ cứu độ
thế giới. Và ngài cũng nói: “ơn gọi của ngài là tình yêu."
11.
Cái giếng của Ryan
Trong
một lần nghe cô giáo nói để có được một cái giếng cho người Urgando, thì cần phải
có 70 đôla, thế mà vẫn còn rất nhiều người Châu Phi phải bị chết khát vì không
có nước sạch. Cậu bé Ryan 6 tuổi người Canada đã vô cùng xúc động, với suy nghĩ
rằng, nhiều người đang chết và cậu nói với ba mẹ rằng mình cần số tiền đó.
Thế
rồi, cậu nhận làm việc nhà. Với mỗi hai đôla kiếm được, cậu lại gạch thêm một vạch
trên cái thước rồi bỏ tiền vào trong cái hộp thiếc. Cậu làm việc không ngừng.
Ryan hút bụi, lau cửa sổ và nhiều việc khác. Thậm chí cậu còn làm việc nhà cho
cả những người hàng xóm cũng như ông bà nội, ông bà ngoại và rồi tất cả số tiền
kiếm được đều bỏ vào trong hộp thiếc.
Sau
bốn tháng, Ryan đã tiến đến gần mục tiêu của mình. Mẹ cậu đã gọi điện cho một
người quen làm ở cơ phát triển quốc tế của Canada để nhờ liên lạc với tổ chức
cung cấp nước sạch và hệ thống vệ sinh cho người dân ở các nước đang phát triển.
Tháng
tư năm 1998. Ryan đã mang theo hộp thiếc đầy tiền của mình đến gặp vị giám đốc
của chương trình WaterCan." Họ đã cám ơn cậu bé và nói rằng sự đóng góp của
cậu rất quan trọng, tuy nhiên để xây một cái giếng thì cần phải tốn đến những
2.000 đôla. Ryan không hề thất vọng và nói một cách đơn sơ chân thành: “Không
sao ạ. Con sẽ làm việc nhà nhiều hơn nữa!"
Tin
tức về những gì Ryan đang làm đã lan đi khắp nơi và chẳng mấy chốc cha mẹ cậu
nhận được nhiều cuộc gọi từ các hãng truyền thông. Một tờ báo cũng đăng tải câu
chuyện về cái giếng của Ryan và sau đó số tiền đóng góp được gửi đến từ khắp
nơi. Một trường trung học ở Comwall, Ontario, sản xuất nước đóng chai và tặng tổ
chức WaterCan một tấm séc trị giá 228 đôla để ủng hộ cho chương trình đào giếng
của Ryan.
Đội
Hợp Ca Thiếu Nhi Trung Ương ở Ottawa đã quyên góp 1.000 đôla. Hiệp Hội Nước Ngầm
ở Miền Đông Ontario đã đóng góp 2.700 đôla. Chẳng mấy chốc Ryan đã có nhiều hơn
số tiền cần có để xây giếng. Thế là, cái giếng của Ryan đã được xây cạnh trường
tiểu học Angolo ở Uganda, Châu Phi và hoàn thành vào tháng tư năm 1999!
Tuy
nhiên, không chỉ dừng lại ở đó. Bắt đầu từ một mơ ước của một cậu bé nhằm thay
đổi cuộc sống của nhiều người, mà hầu hết là những người cậu chưa từng gặp. Tổ
chức từ thiện mang tên Ryan đã quyên được một số tiền rất lớn và đã có thể xây
dựng được cả hàng ngàn chiếc giếng ở Châu Phi.
Còn
Ryan thì vẫn chăm chỉ làm việc mỗi ngày, và lời cầu nguyện mà cậu bé vẫn thường
khấn nguyện mỗi đêm đó là: “con cầu mong cho mọi người ở Châu Phi đều có nước sạch."
Đó chính là sức mạnh của một ước mơ.
12.
Sứ mạng truyền giáo và những con số
Riêng
tại Châu Á của chúng ta, một lục địa với hơn 3 tỷ người, trong số đó chỉ có 3%
là người Công giáo. Tại Trung Quốc chỉ có 4 triệu người Công giáo giữa một tỷ
dân. Tại Nhật Bản có lối 500 ngàn người Công giáo giữa 123 triệu dân. Ở Nam Triều
Tiên, 5 triệu người Công giáo trên 42 triệu dân. Tại đất nước Việt Nam chúng ta
chỉ có hơn 4 triệu rưỡi người Công giáo trên 72 triệu dân, tỷ lệ hơn 6%. Tại
TP. Hồ Chí Minh chúng ta có khoảng hơn 450 ngàn (485.584) người Công giáo trên
hơn 5 triệu dân, tỷ lệ 13%. (Tại Hạt Tân Định, có 41.105 người Công giáo trên
266,000 dân). Đó là những con số trên giấy tờ, trong sổ Rửa Tội, còn trên thực
tế, họ có sống đạo hay không là chuyện khác.
Như
chúng ta được biết, ở những miền có đông giáo dân Công Giáo- ở Nam Mỹ chẳng hạn-
đời sống dân chúng ở đó lại nghèo đói và thiếu linh mục.Ở Braxil, một nước lớn
nhất Nam Mỹ, dân số 107 triệu, đại đa số là Công giáo. Thế mà gần đây người
Công giáo đã bỏ Giáo Hội để sang Hội Thánh Tin Lành tính ra có trên 17 triệu
người (lý do có lẽ là để được hưởng trợ cấp). Trái lại, ở các nước giàu có, phồn
thịnh về vật chất- như ở Châu Âu và Bắc Mỹ- người Công giáo lại đánh mất niềm
tin và không còn tôn trọng các giá trị đạo đức tinh thần nữa, coi thường các luật
luân lý của Giáo Hội về đời sống hôn nhân gia đình. Sự kiện đó đang trở nên mối
lo âu và là một vết thương đau nhức nhối nhất của Giáo Hội ngày nay.
Xin
đan cử ra đây một dấu chỉ của thời đại: Đầu năm 1998, tại thành phố Amsterdam ở
Hà Lan, Hội Đồng Giáo Mục đã quyết định đóng cửa một loạt 5 ngôi thánh đường đồ
sộ của thành phố, vì không có giáo dân lui tới nữa, trong khi đó phí khoản 9dê3
bảo trì các ngôi thánh đường này lại quá lớn. Tại Bắc Mỹ cũng thế, Đức Hồng Y
Josef Bernardin, Tổng Giáo Mục Chicago tuyên bố: ngài buộc lòng phải đóng cửa
13 giáo xứ, 2 cơ sở truyền giáo và 6 trường tiểu học Công giáo trong giáo phận
của ngài. Còn Đức Hồng y Szoka, Tổng Giám Mục Giáo phận Detroit cũng tuyên bố
quyết định đóng cửa 30 giáo xứ thuộc giáo phận của ngài. Lý do đóng cửa là vì
thiếu người và thiếu tiền (x. Bùi Tuần, Ơn Trở Về, tr.85).
Nói
lên những dấu chỉ thời đại ấy để chúng ta thấy rằng: Con người ngày nay đã bỏ
Chúa, không còn tin vào Chúa nữa, hoặc có nhiều người tin, nhưng với một niềm
tin hời hợt, hững hờ. Chính vì thảm trạng nầy mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
đã ban hành thông điệp “Sứ Vụ Đấng Cứu Độ” (Redemptoris Missio, 1990) để đặt
toàn thể Giáo Hội trước sứ mạng truyền giáo và tái truyền trong Thiên Niên Kỷ
Thứ III.
13.
Cái đạo ấy hay thật!!!
“Cái
đạo ấy hay thật!" Đó là câu nói của Dì em Liên, bởi gia đình em không có đạo.
Liên sinh ra, được lớn lên trên miền biển đầy gió, nắng và cát. Gia đình khó
khăn, em là con gái lớn, nên phải xa quê vào thành phố kiếm tiền phụ bố mẹ lo
cho đàn em bốn đứa ở quê nhà. Em may mắn xin được một chân làm công nhân trong
một xí nghiệp may giầy da xuất khẩu ở Bình Dương. Tiền lương cũng tạm ổn đủ lo
cho bản thân còn dư chút ít gởi về cho mẹ. Em chăm chỉ làm việc lại ngoan hiền
nên không mấy lâu đã có người để ý và rồi hai người ấy đã yêu nhau, chàng thanh
niên có đạo chính dân sài thành lại không chê cô gái quê đen đúa.
Họ
yêu nhau đến 7 năm mới tính đến chuyện kết hôn, vì em ấy phải đợi các em mình
khôn lớn mới dám nghĩ đến hạnh phúc của mình. Nào ngờ, vừa học xong giáo lý, chịu
phép rửa tội để chuẩn bị làm lễ đính hôn thì em ấy phát hiện mình bị bệnh nan
y: phải cắt bỏ toàn bộ tử cung, không thể sinh con được, nhưng chàng thanh niên
ấy và gia đình anh vẫn không thay đổi việc cưới hỏi…Nhưng rồi, bệnh em vẫn
không qua khỏi. Hai năm điều trị, gia đình em khó khăn nên em phải phụ thuộc
hoàn toàn vào bạn trai. Mẹ và bà ngoại của người yêu vẫn luôn đồng hành ủng hộ
hai đứa mặc dù biết em bệnh tật, có chữa khỏi cũng không thể sinh con…Nhưng mọi
cố gắng đều vô nghĩa, con vi rút đã phá hủy toàn bộ trong cơ thể em. Em quằn quại
đau đớn và trút hơi thở cuối trên tay người yêu. Cha chánh xứ Giuse Trương Đình
Hiền biết được, nên cho người đến lo toàn bộ đám tang cho em, từ cái ly nhang,
bàn thờ, đèn cho đến hòm, đồ tang, liệm…v..v…Mấy đêm liền trước ngày em mất,
giáo xứ lại đến đọc kinh, mặc dù nhà em ấy cách nhà thờ cả mười cây số. Thế nên
Dì em ấy và gia đình em ấy mới nói “cái đạo ấy hay thật."
Lạy
Chúa, xin thương xót linh hồn Maria mới qua đời, xin dẫn đưa em về nước trời
vĩnh cửu, nơi chỉ có tiếng cười và niềm hạnh phúc… và cũng xin cho chúng con
luôn ý thức thực tại trần gian là cõi vô thường để chúng con học theo gương
Chúa sống khiêm nhường, yêu thương, bác ái như chính gia đình của người bạn
trai em ấy để cho mọi người xung quanh đều thốt lên rằng: CÁI ĐẠO ẤY HAY THẬT.
Amen.”
Tôi
bỗng nhớ một câu chuyện khác ở Xuân Lộc. Cũng hai người yêu nhau, chàng là quí
tử của một gia đình hôn nhân dị giáo. Bố chàng là một cán bộ. Mẹ chàng là một
Ki-tô hữu đạo dòng, sốt sắng. Nàng là một lương dân. Hai người yêu nhau đã ba
năm trời. Và khi họ định kết hôn với nhau thì chuyện không vui xảy đến: nàng có
dấu hiệu ung thư… Buồn vời vợi. Mẹ chàng nói với con trai yêu quí: “Đây chính
là lúc mà con phải yêu em nhiều nhất, để chứng tỏ mình là người có đạo."
Thế là chàng đã lên kế hoạch dắt nhau khấn xin Mẹ Tapao hằng tháng. Suốt ba năm
viếng Mẹ Tapao, cùng với ba năm chạy thầy chạy thuốc cho người yêu… cô nàng
không còn dấu hiệu bịnh ung thư nữa vào lần khám cuối cùng tháng 7 năm 2013. Và
họ đã nên vợ thành chồng trước mặt Chúa và Giáo Hội vào tháng Mân Côi 2013.
Phép lạ của niềm tin, của tình yêu khởi đầu từ việc anh dũng làm chứng cho Tình
Yêu Thiên Chúa, để một cán bộ trong nhà mình, một đại gia đình lương dân nhận
ra rằng: “Cái đạo ấy hay thật."
14.
Bài giảng biết đi
Albert
Schweitzer vừa là một bác sĩ lừng danh lại vừa là một vị thừa sai truyền giáo.
Ông đã tình nguyện sang tận Phi Châu để truyền giáo. Tại đây, ông đã dùng tài sản
để xây dựng các bệnh viện miễn phí cho người nghèo, rồi giới thiệu Thiên Chúa
là tình thương cho bệnh nhân cùng các thân nhân của họ qua việc tận tình chữa bệnh.
Công việc bác ái của ông đã được nhiều người biết đến và hết lời ca ngợi. Ông
đã được giải No-bel hòa bình vì đã có công đem lại hạnh phúc cho người nghèo tại
Phi Châu. Câu chuyện sau đây cho thấy tinh thần bác ái của ông có một sức mạnh
lớn lao, giống như một ‘Bài Giảng Biết Đi’ như sau:
Vào
một buổi chiều nọ, người ta thấy một đám người rất đông tụ tập nơi nhà ga xe lửa
của thành phổ Chicago, Hoa kỳ, để đón chào một nhân vật nổi tiếng, mới được nhận
giải Nô-ben hòa bình năm 1952. Người vừa bước xuống khỏi toa xe lửa là một người
đàn ông cao lớn tóc húi cua, trên khuôn mặt phúc hậu của ông có một chòm râu được
cắt tỉa cẩn thận. Bấy giờ các phóng viên mà một số nhân vật cao cấp của thành
phố đang đứng chờ ở gần cửa toa xe hạng nhất.
Khi
vị thượng khách xuất hiện, các phóng viên liền bấm máy chụp liên hồi, đang khi
đám đông vỗ tay reo hò. Ông khách quý đã cười thật tươi và cúi đầu đáp lễ mọi
người. Còn các vị lãnh đạo thành phố thì dang rộng đôi tay để chào đón người mới
đươc giải thưởng Nô-ben hòa bình. Nhưng bỗng nhiên, vị khách kia quay mặt nhìn
về phía cuối sân ga và vội vã vượt qua đám đông đứng vây quanh, tiến đến gần một
người đàn bà lớn tuổi. Bà này hai tay đang xách hai chiếc va-li khá nặng. Khi đến
nơi, vị khách quý mỉm cười với bà và đưa tay ra đỡ cho bà ta một chiếc va-li, rồi
hai người đi đến một chiếc xe buýt đậu gần đó. Sau khi người đàn bà lên xe, ông
không quên chúc bà thượng lộ bình an.
Khi
quay trở lại đám đông đang đợi mình, ông nhỏ nhẹ nói: “Xin lỗi quí vị. Tôi rất
tiếc đã để quý vị phải chờ đợi." Người đàn ông với cử chỉ đẹp đó không ai
khác hơn là bác sĩ Albert Schweitzer, một nhà truyền giáo nổi tiếng, đã cống hiến
cả cuộc đời phục vụ những người nghèo khổ tại Phi Châu.
Một
thành viên trong ban tổ chức cuộc tiếp đón chứng kiến hành động của Albert
Schweitzer ở sân ga hôm đó, đã phát biểu cảm tưởng với các phóng viên rằng:
“Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi đã được chứng kiến một bài giảng biết
đi."
15.
Sức hấp dẫn tuyệt vời
Có
một người lính năm 1945 ở đảo Guam, lính Mỹ. Anh ta mới kể lại câu chuyện rằng:
Khi
mà anh ta làm cảnh sát trưởng thì, đêm hôm đó, chiều hôm đó nhóm lính của anh
đi hành hương về và dơ bẩn tất cả mọi người đều hăm hở đi tắm, để đi ăn. Riêng
có một người Công giáo, anh ta ngồi lại và anh ta đọc kinh và anh ta mới ăn
cơm, thì cái viên đội trưởng đó tức quá, mới đạp cái anh này một cái.
Nhưng
mà rồi đến sáng hôm sau, thấy lọc cà, lọc cọc lúc 4:30 sáng, ngay đầu giường,
thì ra là người lính người Công giáo này đã tỉ mĩ, đã chùi đôi giày cho đội trưởng
của mình.
Và
đến sáng hôm sau, người đội trưởng đã tức tốc chạy đến cha Tuyên uý để xin:
“Xin cho con được rửa tội!”
Cha
tuyên úy hỏi: Tại sao vậy? Thì người chỉ huy này mới kể lại: hình ảnh của người
lính Sĩ quan Công Giáo anh bị chửi bị đạp đó! nhưng anh vẫn đón nhận và chịu đựng
và đó là tấm gương để lo cho người đội trưởng trở về với Chúa của mình, không
chút đắn đo suy nghĩ. Bởi vì: qua tấm gương của người lính, anh ta thấy nơi người
Công giáo một đời sống rất tuyệt vời!
CHÚA NHẬT
KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO (năm B) – RAO GIẢNG TIN MỪNG
Lời
Chúa: Mc 16,15-20
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Mác-cô.
Chúa
Giêsu nói với các môn đệ: "Hãy đi khắp thiên hạ rao giảng tin mừng cho mọi
loài thụ tạo. Ai tin cùng chịu thanh tẩy thì sẽ được cứu, còn ai không tin thì
sẽ bị luận tội. Những dấu lạ này sẽ tháp tùng kẻ tin: nhân danh Ta, chúng sẽ trừ
quỉ, nói các thứ tiếng, chúng sẽ cầm rắn trong tay, và dẫu có uống nhằm thuốc độc,
thuốc độc cũng chẳng hại được chúng; chúng sẽ đặt tay cho kẻ liệt lào và họ sẽ
được an lành mạnh khỏe.”
Vậy
sau khi đã nói với họ rồi, Chúa Giêsu được nhắc về trời và ngự bên hữu Thiên
Chúa. Còn họ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng họ hoạt động, và củng cố
lời bởi phép lạ kèm theo.
Ðó
là lời Chúa.
TRUYỆN
KỂ
1.
Ánh sáng của tình yêu
Một
đạo sĩ hỏi các đệ tử: Các con có biết khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện, khi
nào ánh sáng tới và bóng tối lui đi không?
Các
đệ tử thi nhau trả lời: Thưa thày, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện là khi từ
xa nhìn một đoàn vật người ta có thể phân biệt được con nào là con bò và con
nào là con trâu không? Thày lắc đầu: Không phải. Đệ tử khác trả lời: Thưa thày
có phải ánh sáng tới và bóng tối lui là khi từ xa nhìn vào vườn cây, người ta
có thể phân biệt được cây nào là cây xoài cây nào là cây mít không? Thày vẫn lắc
đầu: Không phải.
Thấy
không ai trả lời được, thày mới giải nghĩa: Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng
tới và bóng tối lui là khi nào ta nhìn vào mặt người xa lạ và nhận ra đó là anh
em mình.
2.
Ánh sáng được thắp lên
Mẹ
Têrêxa là một nữ tu người Anbani, được sai đến phục vụ người nghèo tại Ấn độ. Đến
Ấn độ, thấy người nghèo khổ quá tội nghiệp. Biết bao người hấp hối ngoài lề đường.
Chết rồi xác bị quẳng vào đống rác như xác thú vật. Biết bao trẻ thơ bị bỏ rơi.
Biết bao gia đình chui rúc trong các căn nhà ổ chuột. Biết bao người đói khát
không đủ cơm ăn áo mặc. Mẹ lăn xả vào phục vụ người nghèo.
Một
hôm Mẹ đi thăm một ông già cô đơn trong căn lều tồi tàn. Bước vào lều Mẹ động
lòng thương cảm. Vì tất cả đồ đạc chỉ là một mớ giẻ rách. Căn lều bụi bặm bẩn
thỉu ngoài sức tưởng tượng. Và nhất là ông già thu mình lại không muốn giao tiếp
với ai. Mẹ chào hỏi ông cũng không buồn trả lời. Mẹ xin phép dọn dẹp căn lều
ông cũng làm thinh. Đang khi dọn dẹp, Mẹ thấy trong góc lều có một cây đèn dầu
bụi bám đen đủi. Sau khi lau chùi, Mẹ kêu lên: Ô, cây đèn đẹp quá. Ông già nói:
Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi ngày cưới. Từ khi bà ấy chết, tôi không bao giờ đốt
đèn nữa. Thấy ông đã cởi mở, Mẹ Têrêxa đề nghị: Thế ông có bằng lòng cho các chị
nữ tu mỗi ngày đến thăm và đốt đèn cho ông không? Ông đồng ý. Từ đó mỗi buổi
chiều, các chị tới thăm ông, dọn dẹp nhà cửa, nói chuyện với ông. Ngọn đèn ấm
áp trong căn lều ấm cúng. Ông trở nên vui vẻ hơn. Ông đã đi thăm mọi người. Mọi
người đến thăm ông. Cuộc đời ông vui tươi trở lại.
Trước
kia cuộc đời ông tăm tối không phải vì ông không thắp đèn. Nhưng vì ngọn đèn
trong trái tim ông đã tắt. Trái tim khép kín nên ông mất niềm tin vào con người,
vào cuộc sống. Ông nhìn mọi người như thù địch. Từ ngày các nữ tu đến đốt đèn đời
ông vui lên, sáng lên. Đời ông sáng lên không phải vì có ngọn đèn dầu hoả soi
sáng. Nhưng vì trái tim ông bừng sáng. Ngọn đèn tâm hồn ông rạng rỡ. Tâm hồn
ông cởi mở và ông nhìn thấy mọi người là anh em. Thứ ánh sáng ấy ta thấy trong
Phúc Âm. Khi người Samaritano nhân hậu cúi xuống săn sóc, băng bó vết thương
cho người bị nạn bên đường. Hai người nhìn nhau. Một làn ánh sáng loé lên. Và họ
nhận ra nhau là anh em.
3.
Truyền giáo (truyện ngắn của Ba Chuông)
“Xóm
trên, Cậu Út ở với cha mẹ già, đi làm thuê về, xe tông, gãy chân, gãy sườn. Có
mấy người hàng xóm đến thăm.
Chị
Tám bán bánh canh xóm dưới cũng lên thăm. Thấy chạnh lòng, chị rút tờ hai trăm
ngàn dúi vào tay vợ cậu Út. Có người nhìn thấy. Người ấy không ai khác là bà
Tư, chủ nợ của chị Tám. Bà Tư không phải người Công Giáo.
Chị
Tám bán bánh canh, mượn đầu heo nấu cháo, vay bà Tư 3 triệu, hằng tháng trả lãi
7 phân.Cuối tháng, chị Tám đến bà Tư trả tiền lãi. Bà Tư lấy một nửa, cho lại
chị một nửa. Còn khen: “Tui không ngờ chị lại có lòng thương người như vậy. Ít
thấy được người Công Giáo như chị. Biết sẻ chia lúc hoạn nạn mới là người Công
Giáo tốt.”
4. “Được
lôi cuốn và được sai đi” qua vụ nổ trái bom nguyên tử
Ngày
9 tháng 8 năm 1945, lúc 11 giơ 02 phứt.
Một
tia chóp lóa mắt lóe lên. Nhiệt độ: 9000 độ bách phân. Dưới một luồng gió với vận
tốc 2km/giây, Urakami, khu phố phía tây bắc của Nagasaki bị hủy diệt và bốc
cháy. Cơ thể của những người đi đường nằm rạp trên đường và hóa thành than. Những
cư dân khác bị biến thành tro bên dưới căn nhà bị thiêu rụi. 30.000 người chết,
100.000 người bị thương. Trong số 10.000 người Công Giáo ở Urakami, có 8.500
người đã chết. Tại ngôi trường có 1.800 em học sinh, thì chỉ còn lại 200 em sống
sót.
Đại
Học y khoa nằm cách trung tâm vụ nổ 700 mét và được xây dựng bằng bê tông cốt
thép đã thoát khỏi cuộc tàn phá lúc ban đầu sớm bị hỏa hoạn. Nagai đang sắp xếp
các phim chụp tia X vào lúc diễn ra vụ nổ, ông bị ném xuống nền nhà, bên phải bị
mảnh vỡ cửa kính đâm thủng lỗ chỗ. Máu chảy xối xả từ bên thái dương phải của
ông. Ông lần mò thoát ra khỏi đống kính vỡ vụn và đi xuống cầu thang. Từ phòng
khám và hành lang nơi các bệnh nhân đang ngồi chờ, người ta nghe vọng lên tiếng
kêu cứu. “Được, chúng tôi đến đây!” Nagai hét to và đưa bàn tay ép mạnh vào
thái dương chảy máu.
Việc
săn sóc bắt đầu. Những chiếc áo sơ mi rách nát được sử dụng làm băng quấn. Bác
sĩ Nagai, tay phải siết chặt thái dương phải làm việc bằng tay trái. Đôi khi mải
mê săn sóc người bị thương, ông bỏ tay ra và máu lại phun ra nhuộm đồ trang phục
của cô y tá đứng bên cạnh.
“Vì
những mạch máu ở thái dương hẹp, nên tôi có thế cầm cự trong ba tiếng đồng hồ.
Điều đó cũng đủ để tiến hành công cuộc sơ cứu,” ông nhận xét. Ông vừa làm việc
vừa thỉnh thoảng bắt mạch để xem mình còn đủ sức lực hay không.
Thung
lũng Urakami nhanh chóng biến thành biển lửa. Ở cửa bệnh viện, những dòng người
bị thương chạy đến không dứt: những bóng dáng đẫm máu, áo quần tơi tả, tóc cháy
xém. Trẻ con kéo lê các tử thi của cha mẹ chúng, những bà mẹ trẻ ẵm thi thể mất
đầu của những đứa bé còn bú. Một cảnh tượng như hỏa ngục.
Phần
lớn các loại thuốc men không còn sử dụng được nữa. Chỉ còn một chút ít dụng cụ
để sơ cứu...và hàng ngàn người bị thương đang chờ đợi. Nagai chỉ có một vài người
phụ tá. “Mặc kệ! Chúng ta sẽ săn sóc cho đến khi sức cùng lực kiệt!”[6]
Takashi
Nagai là người chứng kiến và cũng là nạn nhân của trái bom nguyên tử. Còn
Leonard Cheschire người ném trái bom nguyên tử thì như thế nào?
Léonard
Cheshire là viên đại úy trẻ tuổi nhất của nhóm R.A.F... Lúc này anh là vị sĩ
quan trẻ nhất nhận được đặc ân hiếm có này, huân chương thập giá Victoria.
Một
ngày đẹp trời tháng 8/1945, hai pháo đài bay của Mỹ bay về phía Nagasaki trên bầu
trời Thái Bình Dương xanh thăm thẳm, ở khoang lái của một trong hai chiếc phi
cơ B.29 có đại úy Cheshire. Anh vừa được thủ tướng Winston Churchill bổ nhiệm
làm sĩ quan liên lạc bên cạnh không lực Mỹ ở Viễn Đông.
Một
chiếc B. 29 khác vừa bay đến mục tiêu. Khoang hầm phi cơ được mở ra, một quả
bom nguyên tử đang đâm bổ xuống thành phố. Một vài giây sau, toàn bộ hải cảng
Nagasaki bị hủy diệt.
Báo
chí Anh đã hết lời ca ngợi Cheshire. Họ nói về “con người có sức hủy diệt nhất
của chiến tranh”, “viên sĩ quan được tuyên dương nhất trong chiến tranh”, “một
trong số những nhà chiến lược hàng không tài giỏi nhất.” Cảnh tượng hủy diệt
Nagasaki cũng vừa khiến cho người đàn ông này quay lưng lại hoàn toàn. Lúc quay
về từ cuộc không tập, Cheshire liền xin từ nhiệm chức vụ sĩ quan của R.A.F.
Sau
khi rời khỏi hỏa ngục này, anh quay về với Thiên Chúa xa lạ để cầu xin sự giúp
đỡ của Người. Khi trở về Anh quốc, anh luôn nghĩ về việc thực hiện bi thảm của
ngành kỹ thuật nhân loại, vấn đề căn bản ám ảnh anh hơn bao giờ hết: vai trò của
Thiên Chúa trong cuộc sống của nhân loại là gì? Anh ý thức rằng không những bản
thân anh nhưng còn tất cả mọi người phải hướng đến một điều gì cao trọng hơn là
một nền vật lý nguyên tử thuần túy.[7]
Ngày
lễ Giáng Sinh năm 1948, đại úy Cheshire gia nhập Giáo Hội Công Giáo.
Ngay
sau đó, anh xây dựng ba ngôi nhà dành để săn sóc cho những bệnh nhân bị bỏ rơi
không thể chữa trị. Vào lúc này, anh là người trở lại Công Giáo nổi tiếng nhất
của nước Anh và hơn thế nữa, một vị tông đồ đáng chú ý.
Từ
thập giá Victoria, anh đã đến với thập giá đích thực của Đức Kitô.[8]
5.
Mến Chúa và yêu người
Có
một vị hoàng thái tử vào rừng săn bắn gặp một cô gái hái củi trong rừng. Không
hiểu Trời xui đất khiến làm sao mà họ yêu nhau tha thiết ngay từ buổi gặp gỡ đầu
tiên.
Hoàng
tử quay về triều như kẻ mất hồn, ngày đêm tương tư cô gái nghèo mà anh đã đem
lòng thương mến và rồi anh khẩn khoản xin vua cha cưới nàng cho bằng được.
Để
tìm hiểu xem cô gái có thực sự yêu thương con trai mình bằng tình yêu chân thực
hay không, vua cha dạy cho hoàng tử cải trang làm nông dân để thử lòng cô
gái...
Thế
là hoàng tử hoá thành người nông dân, đến cắm lều gần nhà cô gái, ngày ngày vác
cuốc ra đồng làm lụng. Anh lân la đến làm quen với cô gái trong hình hài một
nông dân.
Mặc
dù cô gái vẫn thầm yêu và mong được kết hôn với hoàng tử, nhưng cô tạ không nhận
ra hoàng tử nơi người nông dân nghèo khổ nầy. Cô đã đối xử với anh rất lạnh nhạt
và cuối cùng đã xua đuổi anh.
Tiếc
thay, cô đã đánh mất cơ hội vô cùng quý báu: mất vinh dự trở thành công nương,
thành hoàng hậu tương lai.
Như
vị hoàng tử kia hoá thân thành nông dân để thử lòng cô gái, Thiên Chúa cũng hoá
thân thành người phàm để thử thách tình yêu của chúng ta. Ngài đã từ trời xuống
thế, hoá thân làm người, cắm lều ở giữa loài người, trở nên người thân cận của
mỗi người.
6.
Yêu Thiên Chúa trong con người
Mẹ
Têrêxa là người giữ điều răn yêu thương nầy cách tuyệt hảo. Mẹ nhìn thấy Chúa
trong những người phong cùi, trong những người bần cùng khốn khổ và mẹ tận tình
yêu thương săn sóc những người ấy hết sức tận tình.
Mẹ
dạy nữ tu của mẹ: "Con thấy linh mục nâng niu trân trọng Mình Thánh Chúa
trong thánh lễ ra sao thì con hãy làm như thế đối với người cùng khổ."
Mẹ
là người vừa yêu mến Thiên Chúa trên trời lại vừa yêu mến Chúa hịên diện trong
những người khốn khổ. Mẹ không tách rời hai giới răn mến Chúa và yêu người,
nhưng mẹ đã yêu Thiên Chúa trong con người.
7.
Nếp sống vô thần
Sau
biến cố 30 tháng 04 năm 1975, một cán bộ nhà nước thuộc dạng cao cấp có hỏi một
anh em tu sĩ dòng Tên ở Thủ Đức: “ Các anh là những người theo tôn giáo, chắc
các anh rất sợ chúng tôi là những người vô thần?”
Vị
tu sĩ đó bình thản trả lời: “Vâng thưa ông, chúng tôi rất sợ những người vô thần.
Nhưng nếu các ông là những người vô thần thực sự và sống đúng với lý tưởng của
các ông, thì chẳng có gì đáng sợ cả. Xin chúc mừng các ông nếu các ông thật sự
cảm thấy hạnh phúc trong sự xác tín lý tưởng của mình.
Nhưng
ngược lại, chúng tôi rất sợ những người vô thần trong thực hành. Họ mang danh
là Kitô hữu, nhưng lại sống như những người vô thần thực sự và còn tệ hơn cả những
con người công khai chối bỏ Thiên Chúa. Bởi vì, cuộc sống của họ đang tàn phá
Giáo hội, làm lung lạc đức tin người khác và làm cho Giáo hội của chúng tôi
ngày càng suy yếu.”
8.
Một chút thôi
Trong
bài hát “Một chút” thôi của Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống dường như cũng nói những
điều thật đơn giản ấy.
Một
chút những viên đá nhỏ hợƿ thành ngọn núi lớn
Một
chút những bước chân đi xɑ về muôn lối
Một
chút những ƿhút ủi ɑn dịu xoɑ ngàn nỗi sầu
Ϲhỉ
một chút ƙhởi đầu tương lɑi sẽ đẹƿ màu
ĐK
- Một chút trong đời chỉ một chút chút xíu thôi
Ɲhiều
chút chút bé nhỏ mà làm cho đời thêm mới
Một
chút trong đời trở thành một chút thật tuуệt vời.
Ϲhắt
chiu từng chút ấу cho đời nàу thêm sáng tươi.
Hôm
nay ngày khánh nhật truyền giáo, ước gì chúng ta hãy từng chút một chắt chiu những
việc làm tốt để sáng danh Chúa, có như vậy chúng ta mới gom thành một làn sóng
yêu thương mang tin mừng lan tỏa khắp nơi. Xin Chúa giúp chúng ta biết truyền
giáo khởi đi từ việc nhỏ nhất trong đời thường bằng việc nêu gương sáng cho tha
nhân trong bổn phận và trong việc bác ái dấn thân xây dựng thế giới ngày một tốt
đẹp hơn.
9.
Cuộc sống mới có sức thuyết phục
Một
cô gái ngoại giáo lấy người Công giáo, láng giềng, bà con thấy cô ta đẹp người
đẹp nết, nên giục cô ta vào đạo. Cô ta trả lời: “Khi nào cháu thấy đạo Chúa hơn
đạo Phật, cháu mới vào.”
Tìm
hiểu, người ta mới biết được bà mẹ chồng dù rất siêng năng đọc kinh, dự lễ và
đã từng bỏ ra gần cả một chục triệu bạc cùng với nhiều bà khác giúp cha sở đi
Roma xin ơn Đức Giáo hoàng, nhưng bà đã từng sang giật nồi, lấy niêu của một bà
hàng xóm nghèo chưa có tiền trả nợ cho bà.
Cô
dâu in trong lòng hình ảnh không tốt về mẹ chồng và về đạo. Do đó cô nhất quyết
không theo đạo bao lâu chưa thấy người theo đạo sống tốt hơn.
10.
Hy sinh và truyền giáo
Một
hôm, Chúa xin nữ tu Beninha, Chúa nói: Bêninha, cho Cha các linh hồn?
Chị
hỏi: Giêsu, con làm cách nào để cho Chúa?
Chúa
trả lời: Bằng hy sinh, con ạ! Các linh hồn sẽ không được cứu chuộc, nếu người
ta không hy sinh gì cho họ. Phần Cha, Cha đã chết trên thánh giá để cứu chuộc họ...
Cha không xin con những hy sinh lớn lao, Cha chỉ xin con hãm một lời nói, dẹp một
cái nhìn, cắt đứt một tư tưởng vui thích... Những cái nhỏ mọn đó, hợp nhất với
công nghiệp vô cùng của Cha, sẽ cứu nhiều linh hồn.
10.
Rao giảng bằng đời sống
Cô Sophia
được mướn đến trông coi 3 đứa nhỏ cho một gia đình. Ngày đầu tiên ông chủ đã
nói: Trông coi con nít nhưng không được giảng đạo Công giáo. Cô viết mấy chữ
vào một mảnh giấy, nhét sau bức ảnh Đức Mẹ. Cả ba đứa trẻ tò mò đòi coi, nhưng
cô không cho.
- Đây
là điều bí mật, không ai được coi.
Ba
đứa trẻ càng ngày càng ngoan ngoãn, học giỏi, dễ thương.
Mùa
đông năm ấy, ba đứa thay nhau vào nằm điều trị tại bệnh viện. Cô tình nguyện
chăm sóc chúng ngày đêm. Tới lượt cô ngã bệnh. Sưng phổi. Ho loặc quặc, vì quá
lao lực. Cô đã từ trần.
Hai
năm sau, người ta thấy gia đình ông chủ cũ đi dự lễ nhân ngày qua đời của cô
Sophia. Bức ảnh Đức Mẹ cũ của cô bị vứt xó.
Tình
cờ một hôm bị vỡ tan mặt kính. Ông chủ mở ra, một hàng chữ hiện ra trước mặt
ông: "Người ta cấm không cho tôi giảng đạo Công giáo, nhưng tôi sẽ giảng bằng
đời sống của tôi, để làm chứng nhân cho Chúa.”
11.
Tinh thần nhiệt tình tông đồ
Trong
một trận giao tranh ác liệt giữa quân của Napoléon và quân địch, trận chiến
càng về khuya càng ác liệt và phần thắng dần dần nghiêng hẳn về phía địch. Quân
của Napoléon chết rất nhiều, hàng ngũ rối loạn mặc dầu cuộc chiến đấu vẫn còn
tiếp tục nhưng rời rạc. Nhìn rõ thế trận, Napoléon biết phải làm gì, vua gọi
tên lính thổi kèn lại gần và ra lệnh: "Hãy thổi kèn lui binh vì quân ta chết
quá nhiều."
Tên
lính trẻ được lệnh, nhảy thót lên ngựa, phi nhanh ra giữa trận, và đưa kèn lên
thổi hồi kèn thúc trận một cách mạnh mẽ. Quân của Napoléon đang mệt mỏi và thất
vọng, nghe tiếng kèn thúc quân, tưởng là có viện binh tới giúp, chồm dậy phản
công kịch liệt. Kèn cứ thổi, đám tàn quân vươn mình lên vừa đánh vừa la hét. Kết
quả thế trận thay đổi: quân của Napoléon toàn thắng cách bất ngờ.
12.
Lòng mến là động lực
Cha
Đa-miêng, vị tông đồ của những người hủi đã nói: “Phần tôi, tôi muốn hủi với những
người hủi để chinh phục họ cho Chúa Giêsu.”
Thánh
Phanxicô Xaviê đã dấn thân không mệt mỏi cho công cuộc truyền giáo, khi viết từ
Viễn Đông cho thánh Ignatiô, Ngài nói: “Ở xứ này, rất nhiều người không phải là
kitô hữu chỉ vì hiện nay không có ai để làm cho họ trở thành kitô hữu. Nhiều
khi tôi có ý tưởng rong ruổi qua mọi đại học ở Châu Âu. Bắt đầu từ đại học ở
Paris để kêu gọi những kẻ có nhiều học thức hơn là lòng bác ái và làm cho họ biết
trách nhiệm về phần rỗi của kẻ khác.”
Thánh
Têrêxa Hài đồng Giêsu thì nói: “Con cảm thấy lòng con khao khát phần rỗi linh hồn
người ta lắm; con muốn dùng hết tài, xuất hết lực, hy sinh mọi lẽ để cứu kẻ tội
lỗi cho khỏi lửa hoả ngục.” Trong những lá thư gửi cho hai cha truyền giáo,
Ngài đã bộc lộ được tâm hồn khao khát truyền giáo của Ngài: “Cái điều mà con
đêm mong ngày đợi là chinh phục nhân loại cho tình ái Chúa, con thú thật rằng:
Nếu ở trên thiên đàng con không thể tiếp tục mạnh mẽ việc đó, con thích ở lại
nơi lưu đày này hơn là về chốn vui vẻ đời sau.”
Còn
mẹ Têrêxa Calcutta thì sao? Ngài nói: “Nhiệt tâm đối với các linh hồn là kết quả
và chứng tá của tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa. Nếu ta yêu mến Thiên
Chúa thực lòng, ta không thể không rạo rực ước muốn cứu vớt các linh hồn; đó
chính là điều Chúa Giêsu quan tâm hơn và yêu quí hơn. Vì thế, nhiệt tình là bằng
chứng của tình yêu, và bằng chứng nhiệt tình là tận hiến cho việc nghĩa này:
Tiêu hao sức lực và cuộc đời ta để cứu vớt các linh hồn.”
13.
Chuyện tử tế
Cách
đây ít năm, có một cuốn Phim Việt Nam gây được nhiều chú ý ở ngoại quốc là phim
“Chuyện Tử tế” của đạo diễn Trần văn Thuỷ, phim được hãng truyền hình Pháp mua
và trình chiếu trong chương trình có tên là Đại Dương. Sau khi xem cuốn phim
này, một ký giả ngoại quốc đã hỏi đạo diễn Trần văn Thuỷ: “Những người Kitô Việt
Nam có thể làm gì để truyền giáo cho dân tộc họ?” Nhà đạo diễn đã trả lời: “Với
tôi, điều người ta mong đợi ở các Kitô-hữu là niềm tin của họ và họ phải sống
điều họ tin.” Lời phát biểu trên đáng để chúng ta suy nghĩ. Sống trong một đất
nước còn nhiều khó khăn, sống trong một dân tộc còn nhiều người chưa biết Chúa,
sống trong một xã hội còn nhiều tiêu cực, thì đối với người Kitô, tin và sống
niềm tin của mình là phải sống, phải tin thật tử tế, tức là tin và sống tình
nhân loại, sống quảng đại, tóm lại là sống tình người. Tin và sống như thế
không phải chỉ là cách sống dành cho các nữ tu, các linh mục mà cũng chính là sứ
mạng và ơn gọi của mỗi Kitô hữu.
CHÚA NHẬT
KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO (năm C)
Lời
Chúa: Mc 16,15-20
Ðó
là lời Chúa.
TRUYỆN
KỂ
1.
LỄ THÁNH SIMON VÀ
THÁNH GIUĐA TÔNG ĐỒ - CHỌN LỰA CỦA CHÚA
Lời
Chúa: Lc 6, 12-19
Trong
những ngày ấy Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, và suốt đêm Người cầu nguyện cùng
Thiên Chúa. Sáng ngày, Người gọi các môn đệ và chọn mười hai vị mà Người gọi là
tông đồ: Đó là Simon mà Người đặt tên là Phêrô và em ông là Anrê, Giacôbê và
Gioan, Philipphê và Bartôlômêô, Matthêu và Tôma, Giacôbê con ông Alphê và Simon
cũng gọi là nhiệt thành, Giuđa con ông Giacôbê và Giuđa Iscariốt, kẻ phản bội.
Người
đi xuống với các ông, và dừng lại trên một khoảng đất bằng phẳng, có nhóm đông
môn đệ cùng đoàn lũ dân chúng đông đảo từ khắp xứ Giuđêa, Giêrusalem và miền
duyên hải Tyrô và Siđôn đến nghe Người giảng và để được chữa lành mọi bệnh tật.
Cả những người bị quỷ ô uế hành hạ cũng được chữa khỏi, và tất cả đám đông tìm
cách chạm tới Người, vì tự nơi Người phát xuất một sức mạnh chữa lành mọi người.
TRUYỆN
KỂ
1.
Gọi điện với Chúa
Một
cha xứ nọ muốn dạy trẻ nhỏ một cách dễ hiểu về sự cầu nguyện. Cha có sáng kiến
dùng một chiếc máy diện thoại: - Chúng con biết chiếc máy điện thoại rồi chứ.
Khi ta nói chuyện với ai bằng điện thoại, mặc dù ta không thấy mặt người đó
nhưng ta vẫn tiếp xúc được với người đó. Cũng thế, dù chúng con không thấy Chúa
nhưng chúng con vẫn tiếp xúc được với Ngài nhờ cầu nguyện. Đúng không?
Tất
cả đều thưa đúng.
Nhưng
một đứa đưa tay hỏi: Thế số điện thoại của Chúa là số nào?
Ta
hãy thay cha xứ trả lời cho câu hỏi trên.
2.
Tin hay thử thách Chúa?
Một
triết gia kia buồn vì người học trò xuất sắc của mình ngày càng ham suy tư hơn
nhưng càng bớt cầu nguyện đi. Khi ông hỏi lý do thì người học trò đáp:
-
Thứ nhất, Chúa biết hết mọi sự, không cần chúng ta nói. Thứ hai Chúa tốt lành
vô cùng, Ngài sẽ cho chúng ta mọi thứ chúng ta cần. Thứ ba Ngài là Đấng vĩnh cửu,
lời cầu nguyện của chúng ta chẳng thay đổi Ngài gì cả.
Triết
gia không nói gì. Ông đến ngồi dưới bóng cây, mặt buồn bã. Người học trò hỏi:
- Tại
sao Thầy buồn thế?
-
Người bạn của Thầy có một thửa ruộng rất tốt, hằng năm sản xuất rất nhiều hoa
màu. Nhưng bây giờ ông ta bỏ mặc không chăm sóc gì cho nó nữa.
- Bộ
ông ta khùng ư?
-
Không đâu. Ông còn khôn nữa là đàng khác. Ông nói: Chúa yêu thương vô cùng.
Ngài sẽ lo cho tôi mọi thứ cần để sống nên chẳng cần làm ruộng nữa. Chúa quyền
phép vô cùng, dù tôi không cày xới, Ngài vẫn thừa sức cho nó sinh sản hoa màu.
-
Như thế nghĩa là thử thách Chúa rồi còn gì nữa?
-
Thì con cũng thế thôi.
3.
Khao khát Chúa
Cả
4 chúng tôi đã tham gia chiến dịch “ánh sáng văn hóa hè” tại vùng biên giới thuộc
tỉnh Tây Ninh. Chúa nhựt tuần đầu tiên, chúng tôi phải hỏi thăm hết một giờ rưỡi
mới tới được nhà thờ. Chỗ chúng tôi ở chỉ có một vài gia đình công giáo và hầu
hết thỉnh thoảng mới đi lễ vì nhà thờ quá xa. Mà xa thật, mưa thì lầy lội, còn
nắng thì bụi mù.
Trên
đường đi, chúng tôi cứ nghĩ là nhà thờ chắc không đông. Nhưng đến nơi, chúng
tôi thấy cả một nhà thờ đông đúc. Nhà thờ không rộng, cũng chưa có cha xứ. Cha
thì từ nơi khác về dâng lễ, còn giáo dân thì đến từ nhiều nơi khác nhau.
Chúng
tôi còn được biết ở đây chỉ có một lễ vào sáng Chúa nhựt nên nhiều gia đình phải
thay phiên nhau đi lễ hàng tuần. Họ ước ao có cha xứ để được dự lễ thường xuyên
hơn. Ra về, ai nấy trong chúng tôi đều cảm thấy như được thúc bách đến gần Chúa
hơn, hạnh phúc dù có phải đi xa và mệt nhọc.
4.
Chúa chọn họ làm Tông đồ
Có
một tác giả đã tưởng tượng ra việc Chúa chọn các Tông đồ như sau: Sau những đêm
dài cầu nguyện, Ngài rảo bước khắp nơi nhưng không chọn được người nào. Ngài
đành đăng quảng cáo, nhưng trong số những người đến trình diện, Ngài không chọn
được một ai.
Ngài
đành tổ chức thế vận hội. Môn đầu tiên là cầu nguyện: nhiều người biểu diễn cầu
nguyện rất hay, nhưng Chúa không chọn được ai cả. Môn thứ hai là thờ phượng,
cũng thế. Môn thứ ba là giảng thuyết, cũng thế.
Chán
nản vì mất thời gian vô ích, Chúa Giêsu rời vận động trường để ra bờ biển hóng
gió và ở đây Ngài thấy đám dân chài. Ngài đứng quan sát và nhận ra có một số
người để hết tâm hết lực vào công việc họ đang làm. Ngài nghĩ thầm trong lòng,
họ là những người có quả tim. Và thế là Ngài chọn họ làm Tông đồ của Ngài.
5.
Muốn theo phải bỏ
Người
môn đệ theo Chúa bỏ lại cái an toàn êm ấm bên gia đình, bên vợ con như Phêrô,
êm ấm bên nghề nghiệp trong khoang thuyền, cạnh người cha đang vá lưới như trường
hợp của Giacôbê và Gioan, chấp nhận ra khơi, bóc mình ra khỏi khung cảnh sống
quen thuộc. Chấp nhận bấp bênh, không nhà cửa, không nghề nghiệp, để có thể đi
đến mọi nhà, gặp mọi người, trong sự tận tụy chu toàn sứ mệnh loan báo nước
Thiên Chúa.
Trong
cuộc sống hằng ngày, Thiên Chúa vẫn gọi tôi và bạn trở nên môn đệ, bạn hữu
trong bất cứ vị trí nào của cuộc sống: Người linh mục, tu sĩ, làm người môn đệ
qua ơn gọi thánh hiến cuộc sống cho sứ mạng, là bạn hữu và là người môn đệ đem
ánh sáng Tin Mừng cho anh chị em. Người tín hữu Chúa Kitô trong bí tích Thanh Tẩy,
chúng ta được trao một ngọn nến cháy sáng, ánh sáng đó trong thời gian trở nên
sáng rực trong tinh thần nghe tiếng gọi và từ bỏ bước theo…
6.
Tiểu sử hai thánh Simon và Giuđa
Hôm
nay Giáo Hội cho chúng ta mừng kính hai thánh Simon và Giuđa Tông Đồ. Chúng ta
không có được những tài liệu lịch sử chính xác khách quan về các ngài. Việc các
ngài được mừng kính cùng một ngày là vì có sự trùng hợp giữa các ngài về cuộc đời
truyền giáo cũng như khi tuyên xưng đức tin.
Thánh
Simon được gọi là Simon người Cana, hay Simon Nhiệt Thành có họ hàng với Chúa
Giêsu.
Thánh
Giuđa, có biệt danh là Tađêô, con của Giacôbê, là cháu của Đức Mẹ và thánh cả
Giuse, và là bà con của Đức Giêsu. Ngài là anh của thánh tông đồ Giacôbê hậu.
Cha của ngài là ông Clêôpha, và mẹ của ngài cũng có tên là Maria. Bà này đã đứng
dưới chân thập giá Chúa Giêsu lúc Chúa chịu chết, rồi sau đó đã ra mồ để xức
xác Chúa bằng dầu thơm.
Theo
Thánh Truyền thì hai ngài đi giảng Tin Mừng ở hai nơi khác nhau. Thánh Simon giảng
tại Ai Cập, còn thánh Giuđa tại Mésopotamia. Sau khi đã thu lượm được nhiều kết
quả tốt đẹp, thì hai ngài như được ơn Chúa thôi thúc để cùng nhau đi sang Ba
Tư. Chính tại nơi đây, hai ngài đã đem Tin Mừng tới và cũng chính tại nơi đây
mà các ngài được diễm phúc lãnh nhận cái chết để tôn vinh Ðức Kitô như các anh
em tông đồ khác.
Truyền
thuyết kể lại khi đến thành Suamyr một trung tâm lớn của Ba Tư, hai thánh tông
đồ Giuđa và Simon đã đến trọ nơi nhà ông Semme, đồ đệ của các ngài. Ngay sáng sớm
hôm sau, các tư tế ngoại giáo của thành phố, bị thấm nhiễm độc dược của Zaroes
và Arfexat, đã hô hào dân chúng đến bao vây nhà ông Semme. Họ gào thét:
- Hỡi
ông Semme, hãy giao nộp hai kẻ thù các thần linh cho chúng tôi. Nếu không,
chúng tôi sẽ đốt cháy nhà ông!
Nghe
lời dọa nạt độc dữ ấy, hai Thánh Tông Đồ Giuđa và Simon đã quyết định tự nộp
mình. Họ buộc các ngài phải thờ lạy các thần linh ngoại giáo. Dĩ nhiên các ngài
từ chối. Họ tàn nhẫn đánh đập các ngài. Giữa máu đào, trong giây phút linh
thiêng cuối đời, Thánh Giuđa còn lấy chút nghị lực cuối cùng, nhìn thẳng vào
thánh Simon và nói:
-
Hiền huynh dấu ái, tôi trông thấy Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Ngài gọi chúng
ta về với Ngài!
7.
Tin và sai đi
Khi
Đức Giêsu hoàn tất sứ mạng dưới thế, người trở về trời và được thiên thần
Gabriel đón tiếp. Gặp Chúa, thiên thần lên tiếng hỏi ngay:
-
Xin Chúa cho biết công trình của Chúa sẽ được tiếp tục như thế nào ở dưới thế?
-
Ta đã chọn mười hai tông đồ, một nhóm môn đệ và một vài người phụ nữ - Chúa đáp
-. Ta đã giao cho họ sứ mạng rao giảng Tin Mừng đến tận cùng trái đất.
Nghe
Chúa trả lời như thế, thiên thần Gabriel hình như chưa hoàn toàn thoả mãn nên hỏi
tiếp: - Nhưng nếu số môn đệ ít ỏi đó thất bại thì Chúa có dự tính chương trình
nào khác không?
Chúa
Giêsu mỉm cười và dường như muốn biểu đồng tình là thiên thần Gabriel đã có lý
khi nghi ngờ, tuy nhiên người vẫn quả quyết:
-
Ta không dự tính một chương trình nào khác cả, ta tin vào họ!
8.
Được chọn
Trong
dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, giữa biết bao câu chuyện truyền kỳ về triều đại
nhà Lý, hẳn nhiều người cũng nhớ lại mối tình lãng mạn về cô thôn nữ hái dâu
kia lọt mắt xanh một người mà cô đâu có ngờ đó chính là vua Lý Thánh Tông. Mối
lương duyên đó đã đổi đời cô trở thành thái hậu Ỷ Lan, một nhân vật có ảnh hưởng
quan trọng đến vận mạng không những của Lý triều mà còn của cả đất nước Đại Việt
nữa.
Cũng
vậy, được Đức Giêsu chọn gọi còn là một hồng ân lớn lao gấp bội. Những con người
không chút danh phận đã Ngài được chọn gọi đích danh để làm tông đồ và rồi “sẽ
được ngự toà xét xử mười hai chi tộc Ítraen” (Lc 22,30). Mà đâu có phải do một
cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên hay một sự lựa chọn tình cờ!!! Ngài đã cầu nguyện suốt
đêm rồi mới chọn các ông tham gia vào sứ mạng cứu độ đã sắp sẵn cho các ông từ
muôn thuở. Được Đức Giêsu chọn làm môn đệ Ngài không phải là hồng ân cao cả nhất
hay sao?
Thiên
Chúa chọn gọi bạn làm con cái Ngài qua bí tích Rửa tội; Ngài còn muốn bạn càng
ngày càng trở nên giống Ngài hơn nữa khi mời gọi “anh em hãy nên hoàn thiện,
như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Đó không phải là hồng
ân vô cùng cao cả hay sao? Bạn có nhận ra, và nhất là có đón nhận, có đáp lại
không?
9.
Cầu nguyện là lẽ sống
Trong
suốt cuộc đời rao giảng của Đức Giê-su, người ta thấy Ngài luôn dành cho việc cầu
nguyện một vị trí quan trọng. Người ta thấy Ngài cầu nguyện mọi nơi: trong hội
đường, trên núi, ngoài bãi biển… và mọi lúc: lúc sáng sớm, khi đêm về, sau một
ngày giảng dạy hay trước một việc làm quan trọng, như hôm nay, trước khi chọn
và gọi các tông đồ. Với Đức Giê-su cầu nguyện là lẽ sống của đời mình, nơi đó
Ngài gặp Chúa Cha, nhận ra ý Ngài để thực hiện. Ngày cũng dạy các tông đồ và những
ai đi theo Ngài phải biết cầu nguyện luôn; “Phải cầu nguyện luôn mãi không ngừng
nghỉ” (Lc 18,1); hoặc “Không có Thầy, chúng con không thể làm được gì” (Ga
15,5). Nhờ cầu nguyện mà chúng ta biết mình phải làm gì và công việc của chúng
ta cũng nhờ đó mà thực sự là công việc của Chúa và để làm vinh danh Chúa.
Đức
HY. Ph. Xav. Nguyễn Văn Thuận viết: “Con ngạc nhiên vì sao nhiều người mất ơn
Chúa gọi, mất đức tin, phản bội Hội Thánh? Trong bao nhiêu lý do, luôn luôn có
một lý do chính: họ bỏ cầu nguyện từ lâu” (ĐHV 125). Bạn có thấy việc cầu nguyện
thực sự quan trọng hơn các việc làm khác trong đời sống của mình không?
Bạn
đang thực hành việc cầu nguyện trong đời sống của mình như thế nào?
Tôi
sẽ luôn nhắc lại lời này: “Không có Thầy, chúng con không thể làm được gì” (Ga
15,5).
10.
Cầu nguyện và hoạt động
Silouanne
là một đan sĩ già đáng kính, sống đơn sơ thánh thiện. Suốt nhiều năm thầy coi
sóc cơ xưởng cho tu viện. Trong xưởng có một số thanh niên nghèo từ miền quê
lên làm việc để kiếm tiền giúp gia đình. Một hôm các tu sĩ hỏi Ngài: “Thưa thầy,
làm sao thầy có thể bảo bọn thợ kia làm việc chăm chỉ đến thế mà không cần canh
chừng họ, trong khi chúng con không rời mắt khỏi họ, mà họ vẫn lừa được chúng
con?” Thầy trả lời: “Tôi cũng không rõ, chỉ biết rằng mỗi sáng tôi đến xưởng và
luôn cầu nguyện cho họ, tôi đến với họ bằng quả tim yêu thương. Khi bước vào xưởng,
tôi phân công cho họ rồi ra về với quyết định sẽ cầu nguyện cho họ trong suốt cả
ngày.”
Dù
tất bật với việc rao giảng và chữa lành bệnh tật, Đức Giê-su luôn dành cho mình
một thời gian cầu nguyện riêng với Đức Chúa Cha mọi lúc và mọi nơi. Chúng ta
cũng được mời gọi sống cầu nguyện mỗi ngày, nhờ đó chúng ta có thể biết được điều
Chúa muốn trên cuộc đời của mình và có được sức mạnh cho các hoạt động đông đồ.
“Thứ nhất cầu nguyện, thứ hai hy sinh, thứ ba mới đến hoạt động” (ĐHV.119)
11. Ở với Chúa và được sai đi
Nhân
vật Tôn Ngộ Không trong truyện Tây Du Ký ngược xuôi trời biển để học cho được
72 phép thần thông biến hoá có lẽ đã chẳng làm nên sự tích gì hơn việc ngông cuồng
ăn trộm đào tiên nếu không được Đường Tăng thu phục làm môn đệ.
Thoạt
nhìn ta có thể thấy nhiều nét tương đồng giữa câu chuyện thầy trò Tam Tạng với
mối quan hệ thầy trò Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài: Thầy trò cùng đồng hành
và các môn đệ dần dần được Thầy cảm hoá.
Thật
ra, tình thầy trò Giêsu khác biệt sâu xa tự bản chất. Các môn đệ được gọi đến ở
với Thầy không phải để đi tìm “thiên kinh vạn quyển” ở chốn xa xôi: Các ông đã
gặp được chính Đức Giêsu là Lời-Ban-Sự-Sống-Đời-Đời. Sứ mạng của các đồ đệ Thầy
Tam Tạng chấm dứt sau khi giúp Thầy đưa kinh Phật từ Tây Trúc về đến Trung
Nguyên. Sứ mạng của các môn đệ Thầy Giêsu thì vẫn còn tiếp diễn: các ông được
sai đi rao giảng Lời Hằng Sống cho mọi loài thụ tạo.
Bạn
đã cảm nhận được sự khác biệt được gọi làm môn đệ Thầy Giêsu là để ở với Ngài
và để được sai đi không? Bạn đã thiết lập mối quan hệ thân tình với Chúa Giêsu
đến mức bạn cảm thấy bị thúc bách “kể chuyện Giêsu” cho người khác hay chưa?
THỨ HAI - LÀM GIÀU
TRƯỚC MẶT CHÚA
Lời
Chúa: Lc 12, 13-21
Khi
ấy, có người trong đám đông thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, xin Thầy
bảo anh tôi chia gia tài cho tôi." Người bảo kẻ ấy rằng: "Hỡi người
kia, ai đã đặt Ta làm quan xét, hoặc làm người chia gia tài cho các
ngươi?"
Rồi
người bảo họ rằng: "Các ngươi hãy coi
chừng, giữ mình tránh mọi thứ tham lam: vì chẳng phải sung túc mà đời sống
được của cải bảo đảm cho đâu."
Người
lại nói với họ thí dụ này rằng: "Một người phú hộ kia có ruộng đất sinh
nhiều hoa lợi, nên suy tính trong lòng rằng: "Tôi sẽ làm gì đây, vì tôi
còn chỗ đâu mà tích trữ hoa lợi?" Đoạn người ấy nói: "Tôi sẽ làm thế
này, là phá các kho lẫm của tôi, mà xây những cái lớn hơn, rồi chất tất cả lúa
thóc và của cải tôi vào đó, và tôi sẽ bảo linh hồn tôi rằng: "Hỡi linh hồn,
ngươi có nhiều của cải dự trữ cho nhiều năm: ngươi hãy nghỉ ngơi, ăn uống vui
chơi đi!" Nhưng Thiên Chúa bảo nó rằng: "Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người
ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho
ai?" Vì kẻ tích trữ của cải cho mình, mà không làm giàu trước mặt Chúa,
thì cũng vậy."
TRUYỆN
KỂ
1.
Ðiều Chỉnh Hướng Ði
Văn
hào Nga Léon Tolstoi có kể một truyện ngụ ngôn như sau:
Ngày
kia, một người phú hộ gọi người đầy tớ trung thành nhất đến và nói:
Tôi
muốn thưởng lòng trung thành của anh; ngày mai, từ lúc mặt trời mọc, anh hãy ra
đi, và tính cho đến lúc mặt trời lặn, bao nhiêu dặm anh đi được là bấy nhiêu dặm
đất thuộc về anh.
Con
người khốn khổ bao năm sống nhờ ông chủ giầu có tưởng mình đang mơ. Tối đó anh
không sao chợp mắt được, chỉ mong trời mau sáng để lên đường. Khi ánh dương vừa
ló rạng, anh đã hăm hở ra đi. Anh cố gắng đi thật nhanh, nhưng vẫn không thỏa
mãn với tốc độ đi, thế là anh liền chạy. Càng nhìn lại quãng đường đã qua, anh
càng chạy nhanh hơn, vừa chạy vừa mơ: rồi đây anh sẽ có nhiều đất đai, sẽ giầu
có hơn người, sẽ không còn phải sống cảnh đầy tớ nữa; càng mơ, anh càng chạy.
Giữa trưa nắng, anh cũng không màng đến chuyện ăn và nghỉ ngơi lấy sức, anh
không muốn mất một tấc đất nào. Chiều đến, khi những tia nắng tắt, anh dừng lại
và reo lên: "Ðây là đất của ta, ta sẽ có tất cả cho ta, cho gia đình, cho
tương lai." Thế nhưng, chính lúc thốt lên câu đó, anh thấy mắt mình hoa
lên, tay chân không cử động và tim cũng ngừng đập. Ngày hôm sau, người ta chôn
cất con người khốn khổ ấy trong hai thước đất, khoảng đất vừa đủ cho một con
người.
Nỗi
khốn khổ của người đầy tớ trên đây chính là sự khờ khạo của anh; anh khờ khạo đến
độ không nhận ra cái bẫy người giầu giăng ra, cũng như không đo lường được sức
mình.
2.
Thực hiện điều tốt cần làm
Tại
một tiệm bán thực phẩm cho các loài chim, chủ tiệm khi bắt được con phượng
hoàng, vì muốn thu hút khách hàng nên đem phượng hoàng nhốt vào cái lồng lớn đặt
trong tiệm.
Một
hôm, có hai ông cháu từ miền núi xuống thành phố mua đồ. Khi đi ngang qua tiệm,
vừa trông thấy con chim phượng hoàng bị nhốt trong lồng, ông động lòng thương hại,
liền ngỏ ý với ông chủ tiệm xin mua con chim ấy. Không để mất cơ hội, ông chủ
tiệm đòi giá tiền thật cao.
Không
một lời trả giá, người khách hàng đi thẳng tới ngân hàng rút số tiền cần thiết
và trở lại tiệm mua con chim phượng hoàng. Ông già miền sơn cước vui mừng ẵm
con chim trên tay bước ra khỏi tiệm. Vừa bước chân tới quãng đường vắng, ông liền
mở tay ra để chim được tự do bay bổng giữa bầu trời mênh mông.
Ngạc
nhiên trước việc làm của ông, đứa cháu tò mò lên tiếng hỏi: “Thưa ông nội, tại
sao ông lại sẵn sàng hy sinh một số tiền lớn như vậy để chuộc và trả tự do cho
con chim phượng hoàng." Ông vui vẻ đáp: “Cháu hãy ghi lòng tạc dạ điều
này: Trên đời, giàu sang không chỉ căn cứ trên những gì mình có thể chiếm đoạt
được mà thôi, nhưng chính là trên những gì mình cần phải cho đi, để có thể thực
hiện được điều tốt lành cần phải làm”
3.
Rồi sao nữa?
Ngày
xưa, thánh Philipphê Nêri muốn thuyết phục Phanxicô Spazzaro, một sinh viên
Rôma, đã hoàn toàn tin tưởng ở sự hướng dẫn của ngài về một chân lý ngàn năm. Một
hôm Phanxicô Spazzaro hớn hở báo tin cho ngài biết mình đã thành công rực rỡ
trên đường khoa nghiệp. Thánh nhân trả lời:
-
Khá lắm. Cha xin mừng với con. Nhưng rồi con sẽ làm gì?
-
Con sẽ làm trạng sư, sẽ biện hộ ở tòa án.
- Rồi
sao nữa?
-
Con sẽ có nhiều tiền.
- Rồi
sao nữa?
-
Con sẽ lập gia đình.
- Rồi
sao nữa?
-
Con sẽ sống hạnh phúc.
- Rồi
sao nữa?
Chàng
sinh viên suy nghĩ một lúc rồi trả lời:
- Rồi...
rồi con cũng sẽ chết như bất cứ ai khác.
- Rồi
sao nữa?
Chàng
sinh viên im lặng bỏ đi, trầm tư và u buồn. Tuy nhiên, câu hỏi cứ nhắc đi nhắc
lại mãi, chàng cứ bị ám ảnh hoài. Và để bảo đảm cho cái “Rồi sao nữa” kia, cuối
cùng, chàng từ giã đường trần khoác áo tu trì.
4.
Tiền và người liên đới với tiền
Người
công nhân đồ mồ hôi để có được nó
Kẻ
hoang phí thì đốt nó
Chủ
ngân hàng đem nó cho vay
Đàn
bà xài nó
Kẻ
lưu manh làm giả nó
Nhân
viên thuế vụ lấy nó
Người
hấp hối lìa bỏ nó
Kẻ
thừa kế tiếp thu nó
Người
tiết kiệm để dành nó
Người
keo kiệt thèm khát nó
Kẻ
ăn trộm chộp lấy nó
Người
giàu gia tăng nó
Người
cờ bạc bị mất nó
Phần
tôi thì dùng nó (Quote)
5.
Ngỗng đẻ trứng vàng
Một
ông già nghèo ngồi bên cửa sổ lo lắng cho tương lai. Một người lạ mặt ôm một
con ngỗng đến tặng ông già và nói: “Ông hãy chăm sóc con ngỗng này chu đáo thì
nó sẽ giúp ích cho ông." Rồi người đó đi mất. Ông già nghèo đem con ngỗng
vào nhà, cho nó ăn, cho nó uống, ban đêm cho nó ngủ trong một cái lồng sạch sẽ.
Sáng
hôm sau khi nhìn vào chiếc lồng ông vui mừng thấy một quả trứng ngỗng bằng
vàng. Ông mang quả trứng ra tiệm bán được một số tiền lớn, mua được đủ mọi thứ
cần thiết cho cuộc sống. Hôm sau ông được thêm một trứng ngỗng vàng nữa. Hôm
sau nữa cũng vậy. Cứ thế mỗi ngày ông nhặt được một quả trứng vàng. Từ đó ông
không còn nghèo nữa, ông sống rất thoải mái. Nhưng dần dần ông trở thành tham
lam. Ông không chịu mỗi ngày chỉ có một trứng, ông không thể chờ cho tới hết tuần
mới có được 7 trứng.
Ông
muốn có ngay một lúc tất cả những trứng vàng của con ngỗng. Thế là ông mổ bụng
con ngỗng ra. Nhưng ông chẳng thấy quả trứng nào trong đó cả. Ông vội may bụng
ngỗng lại mong nó đừng chết. Nhưng vô ích. Khi đó người lạ mặt kia trở lại, và
nói: “Trước đây tôi đã chẳng bảo với ông rằng nếu ông chăm sóc con ngỗng tử tế
thì nó sẽ giúp ích cho ông sao? Bây giờ cả ông lẫn tôi đều đã mất tất cả”
6.
Có tiền, được gì, mất gì?
Đức
Cha Tiamer Toth trong cuốn sách viết cho giới trẻ có khuyên các bạn trẻ như thế
này: “Thưa bạn, tôi muốn nói rằng, bạn phải có con mắt tinh tường để nhận xét
giá trị đồng tiền. Đành rằng, không có tiền, ta không sống nổi, nhưng chỉ sống
vì tiền thì thật là không xứng với con người một tí nào. Tiền bạc chỉ là phương
tiện để tìm cho ta những thứ cần dùng cho đời sống của ta. Ngày xưa, con bò
vàng được người Do Thái thờ lạy giữa đám sa mạc, ngày nay người ta cũng chỉ biết
kính trọng những người có ô-tô bóng nhoáng, có những đồn điền phì nhiêu, những
cửa hàng lộng lẫy, những bộ quần áo đỏm dáng. Hỡi bạn, tôi xin bạn hãy nhìn những
con người theo phẩm giá của họ mà thôi!” Rồi ngài nói tiếp:
Ngày
kia, một nhà tỷ phú trên giường chết đã phải tuyên bố: Trong 40 năm trời, tôi
đã làm việc như người nô lệ để chất đống của cải lên; sau đó tôi lại phải coi
giữ như một thám tử và tất cả những của cải đó đã cho tôi cái gì? Thức ăn, nhà ở
và quần áo, chỉ có thế chứ không còn gì hơn nữa.
Thánh
Bernard đã nói: Người ta kiếm tiền một cách vất vả, giữ nó một cách lo lắng, rồi
người ta mất nó một cách đau đớn.
Tiền
tài, danh vọng, xa hoa không đem lại hạnh phúc cho ta được. Cũng như một đại
dương mênh mông không có gía trị bằng dòng suối nhỏ trước mắt người khát nước.
7.
Rộng với của người ta
Tại
một Hội Thánh Tin Lành kia, đến Chúa Nhật, vị mục sư quyết định mở một cuộc lạc
quyên để sửa lại mái nhà thờ, các rui mè đã mục nát, các viên ngói hay rớt xuống,
sợ nguy hiểm cho các tín hữu.
Sau
khi trình bày, ông chọn một người để “khai sổ." Để có người làm gương cho
những người khác, mục sư liền mời một tín đồ vốn là một thương gia giàu có đang
ngồi ẩn mình phía sau một cây cột. Ông này giàu nhưng nổi tiếng keo kiệt, ông đứng
lên hứa: - Tôi xin dâng 5 đô-la.
Vị
mục sư thật buồn quá, ông nhà giàu này mà “Mở hàng” như thế thì chắc cuộc lạc
quyên hôm nay sẽ chẳng được bao nhiêu. Thình lình, một viên ngói trên mái rơi
xuống trúng ngay đầu ông tín đồ giàu mà keo kiệt. Tưởng bị Chúa phạt, ông vội
la lớn: - Không, tôi xin hứa dâng 500 đô-la.
Người
ta nghe tiếng cầu nguyện tha thiết vang lên trong nhà thờ:
- Rớt
nữa đi Chúa, rớt nữa đi Chúa!
8.
Thức ngủ trái nghịch
Đời
nhà Châu có người họ Doãn, chỉ chăm làm giàu. Tôi tớ trong nhà vất vả, thức
khuya, dậy sớm, khó nhọc vô cùng.
Có
một tên đầy tớ già, sức yếu, nhưng lại phải làm nhiều, ban ngày làm không kịp
thở, ban đêm mệt đừ người, ngủ say không biết đầu đuôi. Nhưng đêm nào cũng nằm
mộng thấy mình làm vua một nước, đứng đầu cả muôn dân, ở lầu son gác tía ăn
toàn của ngon vật lạ, muốn gì được nấy, sung sướng không ai bằng! Sáng bừng mắt
thì vẫn hoàn là tên tớ già, làm không kịp thở... Có người thấy lão vất vả quá,
đem lời an ủi.
Lão
nói:
- Đời
người trăm năm có ngày có đêm. Ta ban ngày, chỉ là một tên tớ già, kể ra cũng
khổ thực! Nhưng ban đêm lại làm vua một nước, vui sướng không ai bằng! Vậy thì,
còn ân hận gì nữa?
Họ
Doãn trái lại ban ngày là một tay giàu có, nhưng lại lo lắng ruột tan, gan nát,
mệt cả tâm thần; đến đêm mệt ngủ, thì lại nằm mộng thấy mình đi làm tôi tớ người
ta, việc gì cũng phải làm, lại còn gặp chủ cay nghiệt, hành hạ đủ điều. Thức dậy,
lòng thổn thức, bèn đem chuyện kể với bạn.
Bạn
bảo:
-
Được cái địa vị như anh, giàu có hơn người, ban ngày sung sướng vẻ vang biết
bao, đêm đến là nằm mơ đi làm đầy tớ người ta. Như vậy thì sướng khổ đắp đổi
nhau. Nếu lúc thức, lúc ngủ đều muốn được sướng cả, thì thế nào được!
Họ
Doãn nghe bạn nói tỉnh ngộ. Từ hôm đó không còn hà khắc tôi tớ trong nhà nữa.
Và nhờ vậy mà bớt lo, bớt nghĩ, lòng thấy nhẹ nhàng. Và bệnh mỗi ngày một bớt lần.
9.
Lời nguyện bình an
Trong
mớ giấy tờ còn lại của một viên sĩ quan chết ở thế chiến thứ nhất, người ta đã
thu nhặt được lời kinh này:
“Lạy
Chúa Giêsu, ngay từ bây giờ con xin chấp nhận cái chết từ bàn tay Chúa... Con ước
ao chết đi để hoàn toàn bị tước đoạt tự do và nhờ thế trở nên trọn vẹn là của
Ngài... Nhưng lạy Chúa Giêsu, con không muốn chết để chạy trốn đau khổ... Lạy
Chúa, xin làm cho con điều Ngài muốn, bây giờ và cho mãi đến muôn đời.
Amen."
10.
Mất sạch vì tranh giành
Có
hai anh em trên đường đi học về, cả hai chợt nhìn thấy một trái cam nằm giữa đường,
thế là cả hai vội chạy lại vồ lấy, rồi cãi nhau, anh thì bảo tao nhìn thấy trước,
em cãi lại tôi nhìn thấy trước. Cả hai anh em gây gổ đến hồi muốn đánh nhau.
Lúc ấy có một tên côn đồ đi ngang qua, hắn lên tiếng can thiệp: tại sao hai
chúng mày là anh em lại muốn đánh nhau, để tao xử công bằng cho hai đứa, đưa
trái cam cho tao, thế là hắn bóc ngay ra và nuốt hết, còn vỏ hắn xé ra chia cho
mỗi đứa một nửa!
Nhìn
cảnh này, ta ngẫm nghĩ Lời Chúa dạy thật thấm thía: “Hãy coi chừng phải giữ mình tránh mọi thứ tham lam”
11.
Yêu thương là biết Chúa
Jacques
Cousteau là một nhà thám hiểm nổi tiếng cả thế giới, người đã để lại cho thế giới
rất nhiều công trình nghiên cứu về đời sống dưới lòng biển qua những cuốn sách
và bộ phim có sức lôi cuốn lòng người. Không chỉ để lại những nghiên cứu khoa học
nổi tiếng, ông còn để lại nhiều suy tư đáng giá để làm người và sống đức tin mà
ĐHY Jean Marie Lustiger, Tổng Giám mục Paris, đã trích ra từ tác phẩm “Con người,
con bạch tuộc và hoa cẩm chướng” trong bài giảng thánh lễ an táng cho ông tại
Vương cung Thánh đường Notre Dame:
“Giai
thoại cuộc đời thánh Martin thành Tour, bổn mạng nước Pháp, là một thí dụ điển
hình rất ý nghĩa: một ngày mùa đông giá lạnh kinh khủng nọ, Martin gặp người ăn
mày rách rưới, Martin xé áo choàng của mình thành hai mảnh và chia cho người ăn
xin đó một nửa. Niềm vui của cử chỉ đó đã dẫn đưa Martin, khi đó còn là người
ngoại giáo, tới chỗ được gặp gỡ với Chúa Kitô ….”
Như
thế, trước khi là Kitô hữu, thánh Martin đã gặp được Thiên Chúa khi chia sẻ áo
choàng của mình, vì “phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người
ấy biết Thiên Chúa” (1Ga 4,7). Với thánh Gioan, Chúa là tình yêu nên ai yêu
thương thì người ấy biết Chúa.
12.
Bà mẹ vĩ đại
Năm
1960, bà Flo sinh ra một người con là John Paul. Cậu bị bại não. Bất hạnh chồng
chất khi chồng bà lại đòi ly dị với bà vì không muốn nhận đứa con tật bệnh.
Nhưng bà Flo đã quyết định giữ lại đứa con tại nhà để chăm sóc thay vì gửi cậu
vào một cơ sở từ thiện như có người đề nghị.
Thế
mà John Paul lại nên người thành danh trong xã hội, và đã viết cho cuộc thi
“Người mẹ vĩ đại nhất nước Mỹ năm 1996” như sau: “Mẹ tôi đã hy sinh cả đời cho
tôi. Bà không bao giờ rời xa tôi… giữ tôi được sạch sẽ, tắm rửa, cạo râu, mặc
quần áo cho tôi… Mẹ tôi nói với tôi rằng: tôi chính là món quà Tình yêu Thiên
Chúa đã ban cho bà,và đó là tất cả những gì bà muốn. Thế nhưng tôi biết, đôi
khi trong phòng riêng bà đã khóc vì cô đơn, buồn bã, mệt mỏi vì gặp quá nhiều
khó khăn với một đứa con bại não như tôi. Vậy mà khi bước ra khỏi phòng, bà lại
mỉm cười thật tươi… Mẹ tôi quả là người mẹ tốt nhất trong các bà mẹ”
Ban
giám khảo ai cũng xúc động khi đọc bức thư này, và đã nhất trí chọn bà Flo
Howell là “Người mẹ vĩ đại nhất nước Mỹ năm 1996.”
13.
Tự do trước của cải
Nhiều
lần Mẹ Têrêsa Calcutta kể lại câu chuyện khá cảm động sau đây:
Một
buổi trưa nọ, có người đến gặp tôi và nói:
-
Thưa Mẹ, gần đây có một gia đình người Hundu với 8 đứa con, cả tuần nay họ chẳng
có gì để ăn.
Lập
tức tôi xách túi gạo đi theo người đàn ông. Đến nơi, bước vào túp lều lụp xụp,
thấy những khuôn mặt xanh xao và mệt lả vì đói, tôi vô cùng xúc động nên trao hết
số gạo cho họ. Người mẹ gia đình đưa tay nhận với lời cám ơn, rồi ngồi xuống
chia số gạo làm hai và vội cầm một nửa bước ra cửa… Lát sau bà trở lại, tôi hỏi:
- Bà
đem gạo đi đâu vậy?
Không
chút do dự, bà trả lời:
- Họ
cũng đói lắm!
-
Nhưng họ là ai?
-
Là một gia đình Hồi Giáo đông con, ở phía bên kia đường, hơn tuần nay gần chục
người trong căn chòi ấy không có lấy một chút cháo để lót dạ.
Có
người rất nghèo về của cải vật chất, nhưng lại giàu tấm lòng, họ là những người
có trái tim và đôi tay luôn mở rộng trước nỗi khổ của tha nhân.
14.
Về tay ai?
Chuyện
kể rằng có người kia sau khi công thành danh toại, xây dựng cho mình một ngôi
nhà thật sang trọng để an hưởng. Trong ngày ăn mừng nhà mới, ông hãnh diện hỏi
một người bạn thấy ngôi nhà của ông thế nào. Người này trả lời: “Mọi sự trong
ngôi nhà này đều rất tốt, trừ cánh cửa có một điềm rất gở. Bởi vì có ngày ông sẽ
qua cánh cửa này mà ra đi với hai bàn tay trắng và không bao giờ trở lại nữa.”
“Điềm gở” ấy thực ra là một lời nhắc nhở về sự thật của thân phận con người. Lời
Chúa hôm nay chất vấn chúng ta về sự thật đó: “Những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về
tay ai?” Chúa đang chờ câu trả lời của bạn.
Trong
số những của cải bạn đang sở hữu, bạn sẽ mang được những gì ra khỏi đời này?
15.
Đòi hỏi và chán chường
Một
người đàn ông chán đời đứng nhìn xuống giòng nước từ một chiếc cầu cao. Ông ta
đốt một điếu thuốc cuối cùng trước khi kết liễu cuộc đời bất hạnh.
Không
còn lối thoát nào nữa. Ông ta đã làm đủ mọi cách để lấp đầy nỗi chán chường.
Ông ta đã đi đây đi đó, đã tìm lạc thú trong những cuộc vui chơi, đã chạy đến với
mọi thứ hơi men và khói thuốc. Nhưng nỗi chán chường càng thêm chất ngất.
Ông
ta thử thời vận lần cuối bằng một cuộc hôn nhân. Nhưng không có người đàn bà
nào ở với ông được vài tháng. Ông ta đòi hỏi quá nhiều, mà lại chẳng biết nghĩ
đến ai cả. Ông ta nhận ra rằng ông đã quá chán chường, và chẳng ai được hạnh
phúc bên cạnh ông. Chỉ có giòng sông may ra mới mang lại cho ông sự thanh
thoát.
Ông
ta chưa hút xong điều thuốc thì thấy có người hành khất đi qua cầu. Con người
rách rưới đó đứng nhìn người đàn ông và đưa tay xin giúp đỡ. Người đàn ông chán
đời không ngần ngại rút cả ví tiền trao cho người hành khất và bảo:
-
Thôi, ông cầm cả lấy. Tôi đâu cần đến tiền làm chi nữa.
Người
hành khất cầm lấy chiếc ví, nhìn thẳng vào mắt kẻ chán đời và nói với giọng vừa
ôn tồn vừa nghiêm nghị:
-
Thưa ông, tôi không cần một số tiền lớn như thế này. Tuy là một người đi xin
ăn, nhưng tôi không phải là một kẻ hèn nhát. Tôi cũng không muốn nhận tiền của
một kẻ hèn nhát. Ông hãy giữ lại ví tiền mà đem qua thế giới bên kia với ông.
Nói
xong, người hành khất ném cái ví trả lại cho người đàn ông rồi lặng lẽ bỏ đi, để
mặc kẻ chán đời với nỗi đắng cay chua xót đang gặm nhấm cõi lòng.
Ðã
hút xong điếu thuốc, nhưng kẻ chán đời vẫn đứng tiếp trên cầu chưa muốn nhảy xuống
giòng sông. Ông ta nhìn theo người hành khất đang từ từ mất dạng. Tự nhiên ông
ta không muốn chết nữa, mà chỉ muốn nhặt lại ví tiền để trao tặng lại cho người
hành khất. Chưa một lần trong đời ông ta biết trao tặng cho ai bất cứ điều gì.
Giờ phút này, ông ta muốn mở rộng tâm hồn, giang rộng đôi tay để trao tặng và
muốn tiếp tục sống.
16.
Nô lệ tự nguyện
Một
người phụ nữ sống độc thân, bà sống bằng việc nhặt rau người ta bỏ lại sau buổi
chợ, đưa về làm dưa bán. Ngày nào bà cũng bận rộn vì đợi chợ tan, bà lượm lặt
rau đưa về nhà, rồi bà lựa ra từng loại mãi đến nửa đêm mới xong việc. Sáng sớm
khi trời còn tối, bà đã gánh hàng ra chợ bán, nên không còn giờ đi dự Lễ, cùng
lắm miễn cưỡng đi Lễ Chúa nhật vì sợ tội.
Bà
cứ sống như thế trong suốt 40 năm, tích góp mua được một số vàng cất giấu. Khi
chôn vàng ở đâu, bà đều ghi vào quyển sổ riêng để nhớ. Đêm nọ, sau khi đã dọn
hàng xong, bà lấy quyển sổ ra xem tài sản mình được bao nhiêu và để ở những chỗ
nào, bà lấy làm đắc tâm vì có một tài sản lớn. Quá buồn ngủ, bà thiếp đi, để
rơi quyển sổ xuống đất.
Đêm
ấy thần chết đến lôi bà ra khỏi thế gian, khu xóm không ai biết. Mấy ngày sau
khu xóm ai cũng ngửi thấy mùi hôi thối, bảo nhau chạy đến xem chuyện gì, thì thấy
cửa nhà bà đã bị cạy, vào nhà ai cũng thấy đồ đạc đã có người thu dọn từ lúc
nào, và bốn chân giường đã có ai đào bới! Vì xác bà đã trương thối, nên người
ta báo cho chính quyền. Dĩ nhiên xác bà không được đưa vào Nhà Thờ vì quá nặng
mùi, nên phải vội đưa đi thiêu. Chẳng có mấy người đi theo quan tài, chỉ có con
chó còn trung thành với chủ.
Thời
gian sau, người cháu biết tin bà mất, anh ta đến nói với mọi người rằng: “Bác
tôi có một quyển sổ thường ghi tài sản và những nơi chôn giấu vào đó!”
17.
Tận hưởng phút hiện tại
Một
ông chủ ngân hàng người Mỹ giàu có nọ đứng trên cầu tàu của một ngôi làng duyên
hải ở Mêhicô thì một chiếc tàu nhỏ với một người ngư phủ cặp vào bờ. Bên trong
tàu là một con cá ngừ to. Ông chủ ngân hàng ngợi khen người đánh cá về mẻ lưới
của ông ta, rồi hỏi tiếp:
-
Ông ra khơi trong bao lâu?
- Ồ,
một hoặc hai giờ, người ngư phủ đáp.
- Tại
sao ông không ở ngoài khơi lâu hơn để bắt được nhiều cá hơn?
-
Tôi chỉ ở ngoài khơi để kiếm đủ cho nhu cầu trực tiếp của gia đình tôi
-
Nhưng ông làm gì với thời gian còn lại?
-
Tôi ngủ dậy trễ, đánh cá chút đỉnh, chơi đùa với các con tôi, ngủ trưa vào buổi
trưa và buổi tối tôi đi dạo trong làng, nhắm nháp tí rượu, chơi đàn ghi-ta và
nói chuyện phiếm với bạn bè. Tôi dám chắc, tôi có một đời sống đầy đủ. Người
đánh cá nói.
Ông
chủ ngân hàng không thấy có gì ấn tượng:
-
Ông nên dành thêm thời gian để đánh cá, ông nói, Rồi khi công việc tiến triển,
ông có thể mua một chiếc tàu lớn hơn. Với cái đà đó, ông có thể mua được mấy
chiếc tàu. Sau cùng ông sẽ có một đoàn tàu đánh cá. Kế đó, ông có thể mở mang
thêm nhà xưởng và nhà máy đóng đồ hộp. Lúc đó, ông cần phải rời bỏ ngôi làng
này và chuyển đến ở thành phố Mêhicô, rồi đến Angeles, và sau cùng đến New
York, từ nơi này ông có thể mở rộng việc kinh doanh.
- Mọi
việc ấy cần bao nhiêu thời gian? Người đánh cá nói.
-
Khoảng hai mươi năm, ông chủ ngân hàng đáp.
-
Và rồi sau đó? Người đánh cá hỏi.
-
Khi gặp thời cơ, ông có thể bắt đầu đăng ký công ty ông vào thị trường chứng
khoán và bán cổ phiếu cho công chúng và trở thành triệu phú.
- Rồi
sau đó? người đánh cá hỏi
-
Sau đó ông có thể rút lui và chuyển về sống trong một ngôi làng nhỏ miền biển, ở
đó ông có thể ngủ dậy trễ, đánh cá chút đỉnh, chơi đùa với con cái ông, ngủ
trưa vào buổi trưa, đi dạo trong làng vào buổi chiều tối và có một vài cuộc vui
với bạn bè.
-
Ông nghĩ coi, hiện bây giờ tôi làm gì nào? người đánh cá hỏi.
18.
Biết làm giàu
Một
ngày nọ, vua Nghiêu đi tuần thú đất Hoa, viên quan địa phương đất ấy ra nghênh
đón và chúc vua rằng: “Xin chúc nhà vua sống lâu." Vua Nghiêu nói: “Đừng
chúc thế!” Viên quan lại chúc: “Chúc nhà vua giàu có." Vua Nghiêu lại nói:
“Đừng chúc thế." Viên quan chúc nữa: “Xin chúc nhà vua đông con
trai." Vua Nghiêu lại nói: “Đừng chúc thế." Quan lấy làm lạ mới hỏi
nhà vua: “Sống lâu, giàu có, đông con trai, ai cũng thích cả, sao nhà vua chẳng
muốn?” Vua Nghiêu đáp: “Đông con trai thì sợ nhiều. Giàu có thì việc nhiều. Sống
lâu thì nhục nhiều. Ba điều ấy không mang lại nhân đức nên ta từ chối.”
Viên
quan tâu: “Nhà vua nói thế thực là bậc quân tử. Nhưng trời sinh ra mỗi người phải
có một việc. Nếu đông con trai, hãy cắt đặt mỗi người một nhiệm vụ thì có lợi
chứ có gì mà sợ? Giàu có mà đem phân phát cho người nghèo thì còn công việc gì
mà lo? Ăn uống có chừng mực, thức ngủ có điều độ, trong lòng thanh thỏa, thiên
hạ tài giỏi thì vui cái vui của họ, trăm tuổi nhắm mắt về cõi trời. Một đời chẳng
gây tai họa gì, hỏi có gì là nhục?”
Đứng
trước tiền của, người ta có những thái độ rất khác nhau: Vua Nghiêu vì quá thận
trọng chỉ nhìn thấy mặt trái của đồng tiền, nên của cải không sinh ích gì cho
ông. Người phú hộ trong bài Tin Mừng hôm nay lại quá cậy dựa vào tiền của, nên
khi thần chết bất ngờ đến thì tiền muôn bạc nén cũng không cứu được linh hồn
ông. Duy chỉ có viên quan địa phương là có thái độ đúng mực về tiền bạc: Nếu
giàu có thì đem chia sẻ cho người thiếu thốn. Đó chính là sứ điệp mà Chúa Giêsu
muốn loan báo cho chúng ta hôm nay: Hãy dùng của cải đời này mà “làm giàu trước
mặt Thiên Chúa” (Lc 12,21). Đó chính là nghệ thuật làm giàu đích thực.
19.
Cái dại của lòng tham
Sách
‘Cổ học tinh hoa’ thuật chuyện Điền Văn là con Điền Anh, ít tuổi mà cực kỳ khôn
ngoan, thấy cha làm quan mà hay vụ lợi riêng, nên một hôm mới vờ hỏi cha cách gọi
tên con, cháu, chắt, chút, chít... Điền Anh giảng giải: con của con thì gọi là
cháu, cháu của cháu gọi là chút, nhưng ông không trả lời được khi Điền Văn hỏi
phải gọi chút của chút là gì.
Khi
đó Điền Văn mới nói: “Cha làm tướng nước Tề đến nay trải đã ba đời vua, giầu có
hàng ức vạn mà môn hạ không thấy có một người nào là hiền tài cả … Cha quên hết
việc công ích hiện thời của dân, của nước, chỉ chăm chăm súc tích của cải muốn
để dành cho những kẻ sau này không biết gọi nó là gì! Con trộm nghĩ như thế là
quái lạ lắm."
20.
Người tham thì nghèo
Hoàng
tử bé, trong tác phẩm cùng tên của Antoine de Saint Exupéry, đã đến thăm hành
tinh của một nhà doanh nghiệp. Ông ta mải tính toán tài sản đến độ không ngẩng
đầu lên được khi hoàng tử đến. Khi hoàng tử hỏi ông làm gì với các ngôi sao,
tài sản của ông, thì ông trả lời:
-
Nó giúp ta làm giầu.
-
Giầu giúp ông được gì?
-
Mua những ngôi sao khác.
Và
công việc sau đó là “Ta quản lý chúng. Ta đếm đi rồi đếm lại ...” rồi “ta bỏ
chúng vào ngân hàng ... ta viết trên một mảnh giấy con số ngôi sao của ta, rồi
ta khoá chặt mẩu giấy ấy trong một ngăn kéo."
Tính
tham lam làm cho người ta trở nên nghèo cùng cực, vì không gì có thể làm cho
người tham lam no đủ được. Món lợi lớn nhất Chúa đã làm cho anh thanh niên xin
Chúa chia gia tài không phải là giúp anh có phần gia tài lớn hơn, nhưng là dạy
cho anh biết: “chẳng phải đời sống được của cải bảo đảm cho đâu." Sự bảo đảm
lớn nhất mà con người có thể có được là niềm tin vào Chúa: “Ai đến với Ta sẽ
không hề đói. Ai tin vào ta sẽ không hề khát” (Ga 6,35)
21.
Tác họa của bức họa trong tương lai
Có
một chàng hoạ sĩ từ lâu ôm ấp ước mơ để lại cho hậu thế một tuyệt tác. Và rồi một
ngày kia chàng bắt tay vào việc. Dể tránh sự ồn ào náo nhiệt của cuộc sống thường
nhật, chàng dựng một khung vẽ rộng 30 mét vuông trên sân thượng một toà nhà cao
tầng lộng gió. Chàng hoạ sĩ làm việc miệt mài suốt nửa năm. Chàng say mê bức hoạ
tới mức quên ăn quên ngủ. Khi bức tranh hoàn thành, nó sẽ đưa tên tuổi của
chàng sống mãi với thời gian.
Một
buổi sáng nọ, như thường lệ, chàng hoạ sĩ tiếp tục hoàn chỉnh những nét cọ trước
sự trầm trồ của hàng chục du khách tham quan. Tuy nhiên, sự có mặt của đám đông
không hề ảnh hưởng tới chàng hoạ sĩ. Chìm đắm trong cơn say mê điên dại, chàng
ngây người nhìn ngắm thành quả lao động sáng tạo của mình. Cứ thế, chàng từ từ
lùi ra xa để chiêm ngưỡng bức tranh mà không biết rằng mình đang tiến tới mép
sân thượng. Trong số hàng chục khách tham quan đang bị bức tranh hút hồn, chỉ
có vài người phát hiện ra mối nguy hiểm đang chờ đón chàng hoạ sĩ: chỉ lùi một
bước nữa là chàng sẽ rơi tõm xuống khoảng trống mênh mông cao cả trăm mét. Tuy
nhiên, không ai có can đảm lên tiếng vì biết rằng một lời cảnh báo có thể sẽ
khiến chàng hoạ sĩ giật mình rơi xuống.
Một
sự im lặng khủng khiếp ngự trị trong không gian. Bất chợt một người đàn ông tiến
tới giá vẽ. Ông ta chộp lấy một cây cọ nhúng nó vào hộp màu và bôi nguệch ngoạc
lên bức tranh. Một sự hoàn mỹ tuyệt vời đã bị phá huỷ. Chàng hoạ sĩ nổi giận,
anh ta gầm lên đùng đùng lao tới bức vẽ, giật cây cọ từ tay ngươi đàn ông nọ.
Chưa hả giận, chàng hoạ sĩ vung tay định đánh người đàn ông nọ một trận. Tuy
nhiên, hàng chục người xung quanh cũng đã kịp lao tới, giữ lấy chàng hoạ sĩ và
giải thích cho anh ta hiểu tình thế. Rồi một vị cao niên tóc bạc phơ đến bên
chàng hoạ sĩ và nhẹ nhàng nói: “Trong cuộc đời, chúng ta thường mải mê phác ra
những bức tranh vẽ tương lai. Tuy rằng bức tranh đó có thể rất đẹp, rất quyến
rũ, nhưng chính sự quyến rũ, mê hoặc về những điều chưa tới đó thường khiến
chúng ta không để ý tới những mối hiểm hoạ gần kề, thậm chí là ngay dưới chân
mình.”
22.
Tiền của phù vân
Murray
Garsson và anh trai của ông làm chủ một doanh nghiệp trị giá 75 triệu đô la
trong thế chiến thứ hai. Mười năm sau, tờ Detroit Free đăng một mẫu tin như sau:
“Garsson, vô sản và vô gia cư, đã chết vào đêm qua tại bệnh viện Belleview. Ông
được đưa đến đây sau ba tuần nằm ngủ tại phòng đợi của một bác sĩ, vì ông ta
không có một đồng xu dính túi.”
Dụ
ngôn của Chúa Giêsu và câu truyện về Garsson mời gọi tôi nhìn lại cuộc đời
mình. Tôi dành ưu tiên cho việc thủ đắc của cải hay cho sự trưởng thành?
Đừng
quá say mê với những gì mà khi chết ta không thể mang theo (Fred Allen).
23.
Miếng da lừa
Miếng
da lừa (Le peau de chagrin) là một tác phẩm nổi tiếng của Honoré de Balzac.
Truyện đó kể về một chàng trai tên là Raphael de Valentin sống vào thế kỷ 19 đã
tình cờ gặp một miếng da lừa thần kỳ trong tiệm đồ cổ. Trên miếng da có một
dòng chữ: “Mi có ta, mi sẽ có hết thảy. Nhưng đời mi sẽ thuộc về ta. Mỗi lần ước,
ta sẽ co lại như đời mi!”
Có
miếng da đó, anh có được mọi điều mình ước muốn, như có quyền lực, có tiền bạc,
có vợ đẹp, và dễ dàng trả được những mối thù xưa … Nhưng mỗi khi anh ra một điều
ước thì miếng da lại nhỏ đi một chút.
Có
được miếng da thần kỳ, anh ước ao đủ chuyện, nhưng khi thấy miếng da nhỏ hẳn lại
thì hoảng sợ. Anh làm đủ mọi cách để phá bỏ phép thiêng của miếng da lừa, nhưng
chẳng ai giúp được anh, mọi người phải bó tay trước phép thiêng đó. Khi miếng
da chỉ còn một chút xíu, anh không dám ước mơ, không dám hy vọng điều gì nữa,
và cũng chẳng dám tiếp xúc một ai để cho nó không co thêm nữa.
Thế
nhưng rồi cũng đến ngày nó không còn nữa, Raphael ước ao lần cuối được ân ái với
vợ mình và chết trong tay nàng.
24.
“Những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?"
Đến
thăm “Nhà thờ Xương” ở Rôma, bạn bước vào một một bảo tàng viện phảng phất ‘mùi
thơm’ người chết vốn được thiết kế tuyệt đẹp với 4,000 bộ xương của các thầy
dòng Capuchin. Ai không quen nghệ thuật, nó có thể hơi bệnh hoạn, nhưng ‘cung
điện’ này vẫn nói lên nhiều điều. Du khách không biết ai phổng phao, ai còi cọc;
ai thông tuệ, ai lú lấp; ai duyên dáng, ai thô kệch. Thần chết san bằng tất cả;
mọi lợi thế trần gian tan biến! Một tấm biển ghi: “Một ngày nào đó, bạn giống
tôi; một ngày nào đó, tôi giống bạn!"
“Những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?"
Vì lẽ, “Thần chết san bằng tất cả; mọi lợi thế trần gian tan biến!" Chúa
Giêsu dạy chúng ta xây cho mình ‘một kho lẫm lớn hơn’ đích thực là chính Ngài,
Đấng mà Phaolô, trong thư Rôma hôm nay nói, “đã bị trao nộp vì tội lỗi chúng
ta, và đã được Thiên Chúa làm cho sống lại để chúng ta được nên công
chính." Vì thế, điều quan trọng không phải là có ‘một kho lẫm lớn hơn’
nhưng là ‘một con tim lớn hơn đầy Thiên Chúa’. Và chính Ngài sẽ dạy chúng ta
làm giàu nó khi biết cho đi.
“Lạy Chúa, con có thể giàu có, nhưng cuộc đời
con không chỉ có của cải! Cho con khôn ngoan nhận ra rằng, cuộc sống ngắn ngủi,
con phải sống cho một mình Chúa!”, Amen.
LỄ CÁC THÁNH -
Lời Chúa
TRUYỆN
KỂ
1.
LỄ CÁC LINH HỒN
Lời Chúa
TRUYỆN
KỂ
1.
Lời Chúa Tuần 29 Thường
Niên
Thường niên V - GS C - PS Ngoại lịch