Lời Chúa tuần 31 thường niên _ câu truyện minh họa

 

 

LỜI CHÚA TUẦN 31 THƯỜNG NIÊN
GIA VỊ CHO BÀI GIẢNG

CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN - Năm A - Năm B - Năm C –

NGÀY THƯỜNG – Thứ Hai - Thứ Ba - Thứ Tư - Thứ Năm - Thứ Sáu - Thứ Bảy –

NGOẠI LỊCH – Lễ Các Thánh và Các Linh Hồn - Lễ Cung hiến Thánh đường Laterano

CNTN 31A – AI NHẤC MÌNH LÊN SẼ BỊ HẠ XUỐNG

Lời Chúa: Mt 23, 1-12

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: "Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ: vì họ nói mà không làm. Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy: vì thế họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là "Thầy.”

Phần các ngươi, các ngươi đừng muốn được người ta gọi là Thầy, vì các ngươi chỉ có một Thầy, còn tất cả các ngươi đều là anh em với nhau. Và các ngươi cũng đừng gọi ai dưới đất là cha: vì các ngươi chỉ có một Cha, Người ngự trên trời. Các ngươi cũng đừng bắt người ta gọi là người chỉ đạo: vì các ngươi có một người chỉ đạo, đó là Đức Kitô. Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi.

"Hễ ai tự nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên.”

TRUYỆN KỂ

1. Tự cao

Chuyện kể về một con sư tử rất kiêu hãnh. Một ngày nọ, nó quyết định đi nghênh ngang trong rừng để chứng tỏ khả năng làm chủ của mình đối với tất cả các con vật khác. Nó sải bước xuyên qua cánh rừng cho đến khi gặp một con gấu. Nó hỏi: “Vua rừng là ai, gấu?” “Tất nhiên là anh rồi, sư tử dũng mãnh.” Nó tiếp tục đi cho đến khi tìm thấy con hổ. Nó vênh vang: “Vua rừng là ai, hổ?” “Chính là anh, thưa đại ca." Tiếp theo sư tử thấy con voi: “Vua rừng là ai, voi?” Con voi ngay lập tức dùng vòi tóm lấy con sư tử và xoay nó vài vòng rồi đập nó xuống đất. Sau đó, nó giẫm lên sư tử vài lần, nâng nó lên và dìm nó xuống nước rồi ném nó vào một cái cây. Con sư tử loạng choạng đứng dậy và nói: “Khoan nào, chỉ vì bạn không hiểu các câu trả lời, nên không cần phải bất bình như vậy.”

* Sư tử không hiểu cuộc sống. Nó đã đánh mất sự thật, giống như nhiều kinh sư, người Pharisêu và tư tế Do Thái mà Chúa Giêsu đã tuyên bố một cách vô cùng mạnh mẽ trong bài Tin Mừng hôm nay.

2. Bất nhất

Thomas Jefferson là người soạn thảo chính Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ. Người ta không thể không ngưỡng mộ sự rành mạch và mạnh mẽ của ngôn từ: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng, có quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc.” Thomas Jefferson cũng là một trong những người ký Tuyên ngôn. Nhưng thật ngạc nhiên khi biết rằng Jefferson và một số người ký kết khác lại là chủ nô. Một trong những điều trớ trêu trong lịch sử là họ đã từ chối hàng triệu người cái quyền tự do mà họ đang đòi hỏi cho chính mình. Điều này minh họa sự chênh lệch to lớn giữa khát vọng của con người và cách hành xử của họ.

* Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ trích các tư tế và người Pharisêu thời đó vì sự bất nhất trong con người của họ. (Flor McCarthy in New Sunday and Holy Day Liturgies; quoted by Fr. Botelho).

3. Bệnh tự ái

Chúng ta có thể nói rằng một người nào đó trong thời đại chúng ta có tính kiêu ngạo cho mình là trung tâm, là mắc bệnh Tự ái. Cái tên này xuất phát từ thần thoại Hy Lạp và ám chỉ một chàng trẻ đẹp trai tên là Narcissus, một thợ săn kiêu hãnh. Anh là con trai của Thần sông Cephissus và nữ thần Liroipe và nổi tiếng với vẻ đẹp hình thể hoàn hảo. Narcissus kiêu ngạo và khinh thường những người yêu mến anh.

Hành vi này của anh đã xúc phạm đến Nemesis (nữ thần trừng phạt những hành động xấu xa, và tính kiêu ngạo thái quá). Nữ thần đã lôi kéo chàng trai trẻ đến một cái giếng trong veo, nơi anh nhìn thấy và yêu vẻ đẹp của hình bóng người anh nhìn thấy phản chiếu ở đó. Anh ta bị ám ảnh bởi hình ảnh mình nhìn thấy, không ăn không uống, và cuối cùng chết (Wikipedia: Narcissus, Nemesis).

* Cả ngôn sứ Malachi trong bài đọc thứ nhất lẫn Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay đều phản ứng mạnh mẽ chống lại lòng tự ái như vậy nơi các nhà lãnh đạo tôn giáo ở thời đại của các ngài. Kinh Thánh hôm nay cũng đưa ra lời nhắc nhở mạnh mẽ đối với chúng ta..

4. Dối trá

Một người đàn ông đi công tác về được vợ đón ở cổng sân bay. Họ cùng nhau bước ra khỏi cổng và đứng đợi hành lý được dỡ xuống. Một cô tiếp viên vô cùng quyến rũ bước ngang qua. Đột nhiên, người đàn ông rất phấn chấn. Tươi cười rạng rỡ, anh nói với cô tiếp viên: “Tôi hy vọng chúng ta có thể bay cùng nhau lần nữa, cô Jones.”

Vợ anh nghi ngờ hỏi: “Sao anh biết tên cô ấy?” Người đàn ông trả lời trôi chảy: “Em thấy đấy, em yêu, tên của cô ấy được dán ngay phía trước máy bay, dưới ngay tên của phi công và phi công phụ.” Người vợ trả lời: “Được rồi, bây giờ hãy cho tôi biết tên của phi công chính và phi công phụ."

* Sự đạo đức giả của người đàn ông đã bị vạch trần. Chúa Giêsu phê phán thói đạo đức giả trong bài Tin Mừng hôm nay.

5. Muốn nổi tiếng

Vào thời Hy Lạp cổ đại, một điều khủng khiếp đã xảy ra tại một trong những ngôi đền. Một đêm nọ, bức tượng thần Zeus bị đập vỡ và xúc phạm một cách bí ẩn. Một sự náo động lớn đã nảy sinh trong cư dân. Họ sợ các vị thần trả thù.

Người mõ làng của thị trấn đi dọc trên các đường phố trong thành ra lệnh cho tên tội phạm phải có mặt ngay lập tức trước các Trưởng lão để nhận hình phạt xứng đáng cho hắn. Thủ phạm đương nhiên không có ý định trình diện. Quả thực, một tuần sau, một bức tượng khác của một vị thần lại bị phá hủy. Bấy giờ người ta nghi ngờ rằng một kẻ điên đã được thả rông. Lính canh được bố trí khắp nơi. Cuối cùng sự cảnh giác của họ đã được đền đáp; thủ phạm đã bị bắt.

Người ta hỏi nó: “Mày có biết số phận nào đang chờ đợi không?” Nó trả lời, gần như rất vui: “Ừ, cái chết.” “Mày không sợ chết sao?” Nó trả lời: “Tôi sợ chết chứ.” Họ hỏi: “Vậy tại sao mày lại phạm một tội mà mày biết là có thể bị trừng phạt bằng cái chết?”

Người đàn ông nuốt khan rồi trả lời: “Tôi chẳng là ai cả. Cả đời tôi chẳng là ai cả. Tôi chưa bao giờ làm được điều gì để bản thân được nổi tiếng, và tôi biết mình sẽ không bao giờ được như vậy. Tôi muốn làm điều gì đó để mọi người chú ý đến tôi…và nhớ đến tôi.”

* Nhu cầu được công nhận, được đánh giá cao, được mọi người biết đến tên tuổi của con người có thể mang một cái giá rất bi thảm.

6. Kiêu ngạo

Xưa có một nhà khoa học đã học được nghệ thuật nhân bản mình một cách hoàn hảo đến mức người ta không thể phân biệt được bản sao với bản gốc. Một ngày nọ, anh biết được thần chết đang tìm kiếm mình nên đã tạo ra hàng tá bản sao của chính mình. Thiên thần bối rối không biết ai trong số mười ba mẫu vật trước mặt mình là nhà khoa học thật. Vì vậy, ngài để họ vậy và trở về Thiên đàng.

Nhưng không lâu sau, vì là đấng biết rõ bản tính con người, thiên thần đã nghĩ ra một thiết bị thông minh. Ngài nói với nhà khoa học và 12 bản sao trước mặt ông ta: “Thưa ông, ông hẳn phải là một thiên tài mới có thể thành công trong việc tạo ra những bản sao của chính mình hoàn hảo như vậy. Tuy nhiên, tôi đã phát hiện ra một sai sót trong tác phẩm của ông, chỉ một sai sót nhỏ thôi.”

Nhà khoa học bị xúc phạm ngay lập tức nhảy ra khỏi đám nhân bản của mình và hét lên: “Không thể nào được. Sai sót ở đâu?” “Ngay tại đây,” thiên thần nói và tóm lấy nhà khoa học từ trong số các bản sao và mang ông ta đi. [Anthony de Mello, Taking Flight]

* Bạn sẽ tìm thấy những người kiêu hãnh trong mọi ngành nghề và trong đời sống đức tin.

7. Khiêm tốn

Một tu sĩ được chỉ định làm tu viện trưởng đã bỏ tu viện này để đến tu viện khác. Khi vị bề trên mới lặng lẽ đến nhiệm sở mới mà không được báo trước về vai trò của ông, các tu sĩ thánh thiện đã kiểm tra con người tầm thường và phong thái không mấy ấn tượng của ông. Họ ngay lập tức chỉ cho ông đến phụ trách nhà bếp của họ với những công việc tầm thường nhất. Không hề phàn nàn, vị bề trên mới của họ đã dành nhiều giờ để cọ rửa nồi niêu xoong chảo, rửa nền nhà và tách vỏ đậu. Cuối cùng, vị giám mục của giáo phận đến tu viện. Khi không thấy vị tu viện trưởng đã được chỉ định, ngài đi tìm kiếm.

Tất nhiên, ngài tìm thấy ông đang ở trong bếp, chuẩn bị bữa tối. Khi Đức Giám mục chính thức giới thiệu Vị tân viện trưởng này cho các tu sĩ trong nhà nguyện, họ đã nhận được một bài học về lòng khiêm nhường cao độ, một bài học sẽ theo họ suốt đời. William Barclay (Cha Botelho).

8. Được nhìn nhận

Lễ tang của các hoàng đế Áo từng diễn ra tại Nhà thờ St. Steven ở Vienna. Nhưng trước khi thi thể của vị hoàng đế quá cố được cho phép vào thánh đường để cử hành tang lễ, có một nghi lễ phải diễn ra.

Khi viên chức phụ trách đến gần cổng nhà thờ, thì cửa được khóa. Sau đó, viên chức sẽ gõ cửa ra hiệu cho quan tài được vào. Khi nghe thấy tiếng gõ cửa, một linh mục từ trong nhà thờ hỏi: “Ai muốn vào đây?” Viên chức thưa: “Thưa ngài, hoàng đế!” Linh mục trả lời: “Tôi không biết ông ấy.” Tiếp theo là tiếng gõ thứ hai và một câu hỏi tương tự được hỏi. Lần này viên chức tuyên bố: “Hoàng đế tối cao." Một lần nữa, “Tôi không biết ông ấy” lại vang lên qua cánh cửa bị khóa. Cuối cùng, tiếng gõ thứ ba vang lên. Linh mục hỏi: “Đó là ai?” Lần này câu trả lời chính thức là: “Một tội nhân tội nghiệp, người thân của ngài, xin cho được thừa nhận!”

“Sự cho phép đã được chuẩn nhận: tội nhân hãy đi vào! Ông đã được chúng tôi biết đến.” Sau đó cánh cửa được mở ra và tang lễ hoàng gia diễn ra. (John Pichappilly in The Table of the Word; quoted by Fr. Botelho).

9. Phục vụ

Một trong những câu chuyện hay nhất về sự khiêm tốn mà tôi biết là về một người đàn ông đến ga xe lửa Chicago vào năm 1953 để nhận giải Nobel Hòa bình. Ông ta bước xuống tàu, đó là một người đàn ông cao lớn với mái tóc rậm và bộ ria mép to. Khi máy quay lóe lên và các quan chức thành phố dang tay tiến tới gặp ông, ông cảm ơn họ một cách lịch sự.

Nhưng ngay sau đó ông xin phép ngắt câu chuyện một lát. Ông bước qua đám đông, đi đến bên cạnh một người phụ nữ da đen lớn tuổi đang vật lộn với hai chiếc vali lớn. Ông tiếp tay đỡ hai chiếc vali, mỉm cười và dẫn bà ra xe, giúp bà lên xe và chúc bà có một chuyến đi bình an. Sau đó Albert Schweitzer quay sang đám đông và xin lỗi vì đã bắt họ phải chờ đợi. Được biết, một thành viên trong ban tiếp tân đã nói với một phóng viên rằng: “Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy một bài giảng biết đi."

* Chúng ta đã được mời gọi – sống hòa thuận, khóc với người khóc, vui với người vui, khiêm tốn, không tự phụ. Đặc biệt, chúng ta được dạy làm người công chính nhưng không tự cho mình là công chính. Chúng ta phải là những tôi tớ vị tha, lấy Chúa làm trung tâm, yêu thương như Chúa Giêsu truyền dạy (Roy T. Lloyd, Charades and Reality).

10. Sai lầm

“Thưa cha, con mắc một tội nặng nề, con cầu xin cha xá giải cho con. Con đi dự lễ vào các Chúa nhật và không thể không nghĩ rằng mình là cô gái xinh đẹp nhất trong nhà thờ. Con biết mình không nên nghĩ như vậy, nhưng con không thể ngăn được. Con muốn cha giúp con việc đó.”

Cha giải tội trả lời: “Maria, con đừng lo lắng về điều đó. Trong trường hợp của con, đó không phải là một tội. Đó chỉ là một sai lầm lớn lao.”

11. Châu chấu lớn

Trong kỳ nghỉ ở Úc, một nông dân ở Texas gặp một nông dân người Úc và bắt đầu nói chuyện với ông ta về trang trại của mình. Người Úc đưa ông đi xem cánh đồng lúa mì rộng lớn, nhưng người Texas tỏ ra không ấn tượng lắm. Ông nói với người Úc: “Chúng tôi có những cánh đồng lúa mì rộng gấp đôi cánh đồng này. Người nông dân Úc chở ông ta đi khắp trang trại và khoe đàn gia súc lớn của mình. Người Texas khoe khoang: “Ồ, những con có sừng này của chúng tôi ít nhất phải to gấp đôi những con này."

Người nông dân Úc đang cảm thấy thất vọng thì người Texas bất ngờ nhìn thấy một đàn chuột túi đang nhảy qua cánh đồng. Ông ấy hỏi: “Đó là cái quái gì vậy?” Người Úc quay sang ông với một nụ cười tinh nghịch: “Ở Texas không có con châu chấu lớn nào như thế này à?”

12. Có gì đâu!

Một chủ trang trại ở Hà Tĩnh gặp một nông dân nuôi bò sữa ở Long Thành. Hai người đàn ông bắt đầu nói về mảnh đất của họ. Người nuôi bò sữa nói với người chủ trang trại rằng ông ta điều hành công việc của mình trên 125 mẫu đất. Người Hà Tĩnh chế giễu một mảnh đất nhỏ như vậy.

Ông nói: “Này bạn, không có gì đâu. Ở trang trại của mình, tôi có thể lên xe tải vào lúc mặt trời mọc và sẽ không đến được hàng rào ở nhà cho đến khi mặt trời lặn.” Người nông dân nuôi bò sữa khịt mũi: “Ừ, tôi từng có một chiếc xe tải cũ như thế.”

13. Không cần áo phao

Có lần một thủy thủ dẫn một nhóm thanh niên đi thuyền trong một ngày. Có một thanh niên khoe khoang tất cả những gì anh biết về biển. Mỗi khi người thủy thủ bắt đầu đưa ra chỉ dẫn thì chàng trai trẻ này lại ngắt lời bằng những kiến thức được cho là của mình. Sau một lúc, một cơn bão nổi lên. Người thủy thủ bắt đầu phát áo phao.

Chàng thanh niên hốt hoảng: “Của tôi đâu?” Người thủy thủ già trả lời: “Đừng lo lắng con trai, bạn không cần áo phao. Với cái đầu đầy khí nóng như của anh, anh sẽ nổi mãi mãi!”

14. Thế nào là khiêm nhường

Trong khi đó, người khiêm nhường biết từ bỏ mọi sự, ngay cả bản thân cùng với địa vị và danh dự. Họ biết nhận định đúng về con người của mình, đồng thời họ biết quên mình đi để mưu cầu lợi ích cho những người chung quanh. Chính vì thế, họ được dành cho nhiều tình cảm tốt đẹp và được chính Thiên Chúa đón nhận, vì tâm hồn họ trống rỗng, không có những vướng mắc và níu kéo.

Kytô giáo của chúng ta không thể thiếu vắng sự khiêm nhường, như lời thánh Bernađô đã xác quyết: Lời rao giảng quan trọng nhất của Đức Kitô chính là sự khiêm nhường.

Và thánh Phanxicô Assie cũng nói: Thiên Chúa thấy tôi tội lỗi hơn hết mọi người, nên Ngài đã chọn tôi để làm những công việc trọng đại.

Còn thánh Phanxicô Xaviê thì bảo: Trên dấu chân của Đức Kitô, chúng ta chỉ thực sự được nâng lên, một khi đã thực sự hạ xuống.

Để kết luận, chúng ta cùng nhau ghi nhớ tư tưởng sau dây của ông Gandhi: Nếu chúng ta nghĩ rằng mình là một cái gì đó, thi chúng ta đã đặt một hàng rào để ngăn cách với Thiên Chúa, còn nếu chúng ta nghĩ rằng mình chẳng là gì cả, thì chúng ta sẽ trở nên một với Ngài.

15. Không thấy mình giả hình

Một bà đến thưa với vị linh mục: "Thưa cha con khổ quá tại vì đã lâu lắm rồi nhà con bỏ không đi nhà thờ, không xưng tội rước lễ. Con không biết làm sao khuyên nhà con được."

Cha hỏi: "Vậy thì ông nhà có nói lý do tại sao ông bỏ không chịu đi nhà thờ và không xưng tội rước lễ không?"

Bà trả lời, "Thưa cha, ông nhà con ông ấy rất là gàn, nhưng ông ấy nói cũng có lý nên con không biết nói làm sao để tranh luận với ông ấy được. Nhà con nói rằng: 'Tôi thấy có quá nhiều người giả hình. Họ siêng năng đi nhà thờ, đọc kinh xem lễ, ăn chay kiêng thịt, gia nhập hội đoàn này, tổ chức nọ, nhưng chẳng có tinh thần đạo đức bác ái thật gì cả. Đến nhà thờ thì ê a đọc kinh và rầm rang ca hát, nhưng về nhà thì sống bê bối, ra xã hội thì sống tham lam, hẹp hòi ích kỷ. Nhiều người còn gian lận, bỏ vạ cáo gian, phê bình chỉ trích, nói hành nói xấu người khác. Đến nhà thờ tôi chỉ thấy toàn là những người giả hình! Đi lễ đi nhà thờ mà như thế thì vô ích đi làm gì! Họ cũng đâu có khá gì hơn tôi đâu!"

Nghe như thế, cha nói với bà: "Ông nhà nói rất đúng đấy. Bà đừng cãi với ông làm gì, bà về nói với ông như thế này, 'Cha bảo là cha đồng ý với ông trăm phần trăm. Ông nói rất có lý. Và cha nhắn tôi về nói lại với ông là ở nhà thờ vẫn còn chỗ trống cho thêm một người giả hình nữa. Cha mời ông đến để gia nhập đầy nhà thờ cho vui!'"

16. Biết Chúa là tình yêu

Một vị truyền giáo ở Ấn Độ đã tâm sự như sau:

Là một sinh viên ở Paris, tôi đã học nhiều lớp triết và tôn giáo. Tôi dùng nhiều giờ để bàn luận với những sinh viên khác về Thiên Chúa, về ý nghĩa và mục đích của cuộc đời. Đó là thời gian vui và hứng thú, nhưng tôi vẫn không tìm ra được hướng đi cho đời mình cho đến khi một người bạn trẻ nói với tôi một điều làm thay đổi đời tôi.

Trong một cuộc bàn luận, anh ta đã nhìn thẳng vào tôi và nói, " Anh sẽ không bao giờ tìm gặp được Thiên Chúa qua việc bàn thảo và tranh luận về Thiên Chúa bởi vì Thiên Chúa là tình yêu. Anh chỉ tìm được Thiên Chúa khi anh yêu thương vô vị lợi."

Lúc đó tôi đang khảo cứu về thánh Phanxicô thành Assisi. Tôi học thấy điểm đổi đời của Phanxicô không phải là lúc ngài bỏ hết mọi sự giầu sang phú quý, nhưng là lúc ngài dùng lý trí và ý chí để xuống ngựa và ôm lấy người phong cùi. Điều này đã cảm kích tôi và khi tôi nghe biết ở Ấn Độ đang cần có người phục vụ trong trại phong cùi, và tôi đã tới đây.

Nơi đây tôi vẫn đang phục vụ, và nơi đây tôi tìm được Thiên Chúa. Bạn sẽ không tìm được Thiên Chúa qua bàn thảo hay tranh luận, và bạn cũng chẳng bao giờ tìm thấy Thiên Chúa trong việc tự đưa mình lên, bởi vì Ngài là Thiên Chúa của Tình Yêu. Bạn chỉ tìm được Ngài khi bạn biết yêu thương vô vị lợi.

17. Hãy sống trong sự thật

Đêm kia tại một làng đánh cá bên Ấn Độ, một ngư phủ nghèo lẻn vào trong hồ cá của một người nhà giàu để thả lưới. Nhưng chưa kịp kéo lưới lên thì bị người giàu phát hiện. Người này cho gia nhân bủa đi khắp nơi quanh cái hồ mênh mông của mình để bắt cho bằng được tên trộm.

Đám gia nhân đốt đuốc đi tìm khắp nơi mà không thấy bóng dáng tên trộm đâu cả. Trong khi đó thì anh ngư phủ nghèo lấy tro rắc lên đầy mình và đến ngồi dưới một gốc cây gần đó y hệt một nhà hiền triết hay một đạo sĩ.

Sau nhiều giờ tìm kiếm, đám gia nhân không thấy kẻ trộm mà chỉ thấy một đạo sĩ ngồi dưới gốc cây đang đắm mình trong suy tư và cầu nguyện. Chỉ một ngày hôm sau tiếng đồn đã vang đi khắp nơi rằng có một đạo sĩ đang tu luyện dưới gốc cây bên bờ hồ của nhà phú hộ.

Thế là thiện nam tín nữ từ các ngã đường đổ xô đến gốc cây để chiêm ngưỡng vị tu hành. Người thì mang hoa quả, kẻ thì mang tiền bạc. Không mấy chốc mà quà cáp tuôn đổ tràn lan quanh nhà tu hành bất đắc dĩ.

Nhà tu hành mới nhủ thầm trong bụng: Thà đánh lừa bà con để sống còn hơn là đánh cá suốt ngày mà chẳng được gì. Nghĩ như thế rồi, ông ta tiếp tục đóng vai tu hành, ngày đêm tụng niệm và chờ đợi sự tiếp tế của dân làng.

18. Đạo đức thật và đạo đức giả

Có một bà vợ thường xuyên càu nhàu về tình trạng khô khan nguội lạnh của ông chồng. Hơn thế nữa, bà còn tỏ ra khinh ghét tất cả những hình ảnh ông đã xâm trên mình.

Ngày kia, trong một cố gắng nhằm cải thiện đời sống cũng như mối liên hệ với vợ, ông đã quyết định xâm hình Chúa Giêsu thật to trên tấm lưng của mình. Trở về nhà, ông hớn hở giơ tấm lưng trần cho vợ xem và hỏi:

- Bà có biết ai đây hay không?

Chẳng đợi cho vợ trả lời, ông liền nói:

- Chúa đấy.

Thế nhưng, bà vợ bỗng nổi giận đùng đùng và quát lớn:

- Thật là báng bổ. Chúa nào lại ở trên cái lưng bẩn thỉu và nhớp nhúa của ông.

Nói rồi, bà vơ lấy cái chổi và cứ thế quất vào tấm lưng của ông cho đến khi bật cả máu.

Sau trận đòn ấy, ông ra ngồi dưới một gốc cây và bật khóc. Ông khóc không phải vì trân đòn của bà vợ thuộc vào hạng sư tử Hà Đông, nhưng khóc vì nhận ra rằng mình không còn cách nào để làm đẹp lòng bà vợ luôn tự hào về tình trạng đạo đức của mình.

19. Ngựa và lừa

Trong những ngụ ngôn Aesop có kể câu chuyện “Ngựa và con lừa." Ngày xưa, có người kia nuôi ngựa và lừa để chúng giúp việc trong nhà. Ông có thói quen bắt lừa phải chở hàng nặng đến gần quỵ, trong khi lại để ngựa thong thả theo sau với mớ đồ nhẹ tênh. Ngày kia, cả ba lên đường. Con lừa vì đau yếu mấy ngày nên than thở với ngựa rằng: “Tôi khó chịu quá! Anh chở hộ tôi ít món. Nếu không tôi chết mất."

Con ngựa đá giò lái, bảo lừa im đi kẻo gây rắc rối cho nó. Con lừa im lặng, ráng bước thêm nửa dặm nữa rồi lăn ra chết. Ông chủ tháo hết hàng đặt lên lưng ngựa. Không những thế, ông còn đặt luôn xác của con lừa xấu số lên lưng ngựa nữa. Bấy giờ, ngựa mới than thở: “Than ôi! Bây giờ tôi mới thấy cái tai hại của tính ích kỷ."

20. Sức hút của chứng nhân

Sau khi tham dự tuần tĩnh tâm, tuần tĩnh tâm Quốc Tế với khoảng 6,000 linh mục tại Rôma vào năm 1990, một linh mục đã viết trong tập nhật ký của mình:

"Tôi đã nhìn thấy nhiều linh mục ngủ gục trong khi các thuyết trình viên nổi tiếng đứng trên diễn đàn hăng say chia sẻ những tư tưởng thần học đạo đức cao siêu. Nhưng rồi không một người nào ngủ cả khi Mẹ Têrêsa Calcutta thuyết trình. Mẹ không nói lời văn hoa, nhưng Mẹ sử dụng ngôn ngữ đơn sơ và tôi nghĩ cả khi Mẹ Têrêsa không cần nói lời nào, chỉ cần sự hiện diện của Mẹ cũng đủ thúc đẩy chúng tôi, thu hút chúng tôi canh tân đời sống mình, bởi vì Mẹ sống chân thành khiêm tốn với những gì Mẹ nói."

Chân thành và khiêm tốn cũng là chủ đề chính của bài Phúc Âm hôm nay. Người chân thành chỉ sống những gì họ nói và chỉ nói những gì họ đã làm. Đó là những chứng nhân của Chúa mà xã hội ngày hôm nay cần đến, như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói: "Con người ngày nay không cần những thầy dạy nói suông, nhưng cần những kẻ dám chứng thực những điều họ nói, cần những chứng nhân. Người chân thành không nói láo, không giả hình, không tự kiêu cho mình hơn kẻ khác, không phê bình chỉ trích. Thái độ phê bình chỉ trích đôi khi chỉ là cách thức để che giấu những tật xấu nơi chính mình, ta phê bình chỉ trích kẻ khác chỉ vì ta không dám đối diện với sự thật nơi chính mình, bởi vì sự thật đó buộc ta phải canh tân liên lỉ."

21. Sống chân thành

Chân thành, nguyên ngữ Latinh là: Sincerus, a, um.

Sincera có một lịch sử. Ngày xưa, người La mã thấy cột đá cẩm thạch nào không được nhẵn, có lỗ, sứt mẻ, họ lấy sáp ong nhét vào những lỗ đó, rồi đánh cho thực trơn láng.

Cũng giống như phụ nữ lấy phấn sáp thoa vào mặt để che những vết nhăn. Những cột cẩm thạch nào không có sáp ong, là dấu tuyền vẹn, và gọi là: Sine cera; Sine: không, cera: sáp ong. Qua các thời đại, hai tiếng này ghép lại thành một là “sincera”, và có nghĩa là không phấn sáp, không giả tạo, nhưng thành thực, chân thành.

Tình thương giữa con người với nhau cần phải sincera: không phấn sáp, không giả tạo, nhưng tự nhiên và chân thành.

Ngày xưa, Nữ Hoàng Saba nghe biết về sự khôn ngoan của Salomon, nên đã gởi đến Nhà Vua hai bó hoa để thử xem sự khôn ngoan của ông tới đâu. Đó là một bó hoa thật và một bó hoa giả rất giống nhau. Vua đặt hai bó hoa lên bàn và liền mở cửa để cho bầy ong bướm bay vào. Thế là đàn ong bướm liền sà ngay xuống những bông hoa thật. Những bông hoa giả có sắc mà chẳng có hương, có hình dáng mà không có sự sống.

Những kẻ giả hình nói thì nhiều, mà làm thì chẳng bao nhiêu, thậm chí nói suông mà không thực hành, dung túng cho mình, nghiêm khắc với kẻ khác.

22. Bé cái lầm.

Có một thi sĩ kia sáng tác được một số bài thơ, bắt đầu nổi tiếng. Một buổi chiều ra công viên thành phố đi dạo, rồi ngồi nghỉ trên ghế đá kê sát vào tường. Ông hết sức ngạc nhiên và rồi lại tỏ ra hãnh diện sung sướng khi thấy nhiều người đi qua trước mặt ông đã ngả mũ cúi chào. Trong khi còn nghĩ ngợi, thắc mắc thì có một bà già cũng đến trước mặt ông. Sau khi cúi chào, bà đã nhìn lên và miệng lâm râm nhiều lời mà ông không nghe rõ. Thế rồi bà cũng đi. Lúc ấy ông mới quay lại và nhìn lên theo hướng bà già kia đã nhìn. Ông nhận ra rằng ngay sau lưng và phía trên đầu ông có một cây thánh giá đã được dựng lên ở đó. Và ông xấu hổ bỏ đi nơi khác.

Chúng ta cũng thường lầm lẫn như thế. Lời Chúa muốn giải thoát chúng ta khỏi những danh lợi hão huyền và rất đáng hổ thẹn của thế gian, Bởi vì, thật là dại dột và lố bịch khi con người không biết rõ giá trị của mình, lại thích được chiếm địa vị cao, ham được những ưu đãi. Những ham ước ấy chỉ khiến họ bị lợi dụng và trở nên trò cười cho thiên hạ. Có khi còn gây nhiều tai họa cho người khác nữa.

23. Hai người bộ hành.

Có hai người bộ hành đi đường xa. Đêm đến họ phải vào một cái miếu để ngủ nhờ. Đây là một ngôi miếu nổi tiếng là nhiều ma quái. Bầu không khí lạnh lẽo đến rợn người làm cho hai người khách bộ hành cảm thấy sợ khi đã vào trong miếu.

Trong hoàn cảnh này, người không Kitô nói với bạn Kitô rằng:”Anh làm ơn cho tôi mượn cây thánh giá anh đang đeo ở cổ đi. Tôi sợ quá. Hy vọng rằng cây thành giá của anh sẽ làm cho tôi bớt sợ."

Thế là người Kitô kia đã gỡ cây Thánh giá anh đang đeo ở cổ trao cho người bạn không Kitô. Hai người nằm nghỉ đêm.

Trời về khuya, con yêu tinh xuất hiện, nó rờ vào cổ của người Kitô, tính sát hại người này, bỗng nó thốt lên:

- Người này có trong mà không có ngoài.

Con yêu tinh có ý nói rằng người này là người Kitô đích thực, tuy không mang trong mình một dấu hiệu Kitô nào.

Qua người không Kitô, con yêu tinh chạm đến cây Thánh giá người này đeo ở cổ, nó thốt lên:

- Người này có ngoài mà không có trong.

Con yêu tinh có ý nói rằng, người này tuy mang Thánh giá ở cổ, nhưng không phải là người Kitô đích thực.

24. ĐTC Gioan 23 không thấy mình quan trọng

“Khi tôi mới được bầu làm Giáo hoàng để lãnh đạo Giáo hội hoàn vũ, tôi rất lo lắng, sợ hãi trước một trách vụ quá nặng nề. Nhưng một đêm kia, trong giấc ngủ, tôi nghe một tiếng bảo tôi:”Gioan đừng tự xem mình quá quan trọng." Tôi đã áp dụng câu nói này, và từ dạo ấy, tôi ăn ngon, ngủ yên như trước khi được chọn làm Giáo hoàng."

Khiêm nhường là một đức tính được Thiên Chúa ưa thích, khác với tính tự cao tự đại, có thể so sánh với những ngọn đồi. Trái lại, đức khiêm nhường giúp chúng ta đào sâu những trũng thấp để đón nhận những hồng ân của Thiên Chúa, không thể dừng lại ở những ngọn đồi, nhưng chảy xuống và đọng lại ở những trũng thấp dưới chân đồi.

25. Ông vua ở truồng

Một ông vua kia rất ham mặc áo quần đẹp. Hai tên lưu manh đến gạ gẫm: "Chúng tôi có thể dệt và may cho bệ hạ một bộ áo rất đặc biệt từ xưa tới nay chưa ai từng thấy. Nhưng áo này phải dệt bằng vàng." Vì quá ham bộ áo đặc biệt ấy, nhà vua đưa cho hai tên ấy hết túi vàng này tới túi vàng khác.

Thực ra chúng chẳng may gì cả. Rồi một hôm hai tên lưu manh cho biết áo đã may xong, mời nhà vua mặc thử. Chúng chỉ làm cử điệu tay chân như đang mặc áo cho nhà vua. Khi chúng cho biết đã mặc xong, nhà vua hỏi các quan chung quanh "Áo ta có đẹp không?" Ai nấy trầm trồ khen nức nở. Quá phấn khởi, nhà vua bảo quân hầu kiệu ngài ra các đường phố để khoe áo đẹp. Dân chúng hai bên đường cũng nức nở khen. Nhà vua rất sung sướng.

Bỗng nhiên một đứa trẻ hô lớn: "Ông vua ở truồng! Ông vua ở truồng!" Nhà vua nhìn lại mình và mới biết mình đang ở truồng thật.

26. Nói mà không làm

Trong một tỉnh kia, người ta tổ chức một buổi thuyết trình về Công giáo tiến hành. Họ mời ông X, là người đạo đức và có tài diễn thuyết để nói chuyện với mọi người. Trước mặt công chúng đông đảo, đủ mọi hạng người, đủ mọi tầng lớp, ông X lên diễn đàn nói rất hùng hồn, rất trôi chảy và rất hay. Đại ý ông nói như sau: “Lúc này hơn bao giờ hết, người Công giáo chúng ta phải hoạt động tích cực trong mọi lãnh vực, nhất là trong lãnh vực xã hội và từ thiện. Đối với những người chung quanh, chúng ta phải vui vẻ, hòa nhã, nhẫn nhịn, dễ cảm thông và giúp đỡ.v.v..." Dứt lời, mọi người vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt.

Sau đó, ông X lên xe ra về. Trong số thính giả đến nghe buổi diễn thuyết đó, có một người ở cạnh nhà ông X, tâm trí còn đang thán phục bài thuyết trình vừa hay vừa thức thời của ông, nghe thấy trong nhà ông X có tiếng càu nhàu và la rầy người giúp việc, người ấy tò mò lắng nghe. Câu chuyện xảy ra như sau: khi ông X diễn thuyết về, chị giúp việc dọn cơm cho ông. Đồ ăn rất ngon, nhưng có món xào hơi mặn. Ông X khó chịu, gắt gỏng và gọi chị giúp việc lên hỏi: “Ai nấu món này?” - “Dạ, thưa con” - “Tại sao mặn đắng thế? tao có phải là tù đâu mà cho ăn uống thế này?” - “Xin ông tha cho con, con đang đau nên vô ý nêm quá tay ." Tức thì cái đĩa xào bay xuống sàn nhà, đổ vỡ tung tóe. Rồi ông X đứng lên tuyên bố: “Tháng này tao sẽ trừ lương mày." Nói xong ông lên xe ra tiệm ăn. Tác giả câu chuyện này kết luận: “Ngôn hành tương phản là thế. Lời nói và việc làm không đi đôi với nhau. Trên đời không thiếu những người như ông X."

27. Lòng tốt có sức biến đổi

Cách đây nhiều năm các rạp hát có chiếu một cuốn phim nhan đề Little Lord Fauntlroy (Tiểu chủ Fannilleroy) nói về một cậu bé 7 tuổi đến sống với ông nội là một người giàu có đang quản lý nhiều công nhân dưới quyền. Ông lão bản chất là con người ích kỷ và độc ác, nhưng cậu nhỏ quá thần tượng ông mình, nên không thể nhận ra điều đó. Cậu lại nghĩ ông mình quảng đại và tốt bụng. Cậu bé thường nói với người ông: "Nội ơi! Thiên hạ chắc hẳn yêu ông biết dường nào! Cháu dám cá là họ yêu nội hầu như cũng nhiều bằng cháu yêu nội vậy !"

Ðể rút ngắn câu chuyện, tình yêu của cậu bé dần dà làm mềm mại trái tim ông già, và ông đã trở nên loại người tốt mà đứa cháu vẫn nghĩ cho ông.

28. Đau khổ khẳng định giá trị

Trên bức tường nơi văn phòng làm việc của mình, Godfrey, một diễn viên điện ảnh, thường treo một tấm biển ghi: "Lạy Chúa, con thà chịu lửa đốt hơn là phải làm vật phế thải."

Godfryey nói rằng tấm biển đề nhắc ông câu chuyện về bác thợ rèn nọ, dù phải chịu nhiều tai ương mà vẫn vững tin nơi Chúa. khi một kẻ vô đạo hỏi bác ta làm thế nào bác có thể vẫn giữ niềm tin vào Chúa dù chịu biết bao tai ương, bác liền trả lời: "Khi tôi chế tạo một dụng cụ, tôi thường lấy một thanh sắt và nung lửa. Ðoạn tôi đập nó trên đe để xem nó có độ cứng không. Nếu có, tôi sẽ chế ra một dụng cụ hữu ích, nếu không tôi quẳng nó vào đống sắt vụn hết xài."

Câu chuyện trên dẫn chúng ta trở lại chủ điểm của mình. khi chúng ta chịu đau khổ vì tình yêu, chúng ta có thể hoan hỉ vì biết rằng Chúa đang sử dụng chúng ta.

Tóm lại, sự kiện Chúa Giêsu bị đóng đinh thập tự là Dấu chỉ Tình yêu Ngài dành cho chúng ta, là lời mời gọi chúng ta yêu mến tha nhân, đồng thời cũng là sự mặc khải về tình yêu tức là tình yêu luôn kéo theo đau khổ.

29. Thấy được Thiên Chúa

Một vị truyền giáo ở Ấn Độ đã tâm sự như sau:

Là một sinh viên ở Paris, tôi đã học nhiều lớp triết và tôn giáo. Tôi dùng nhiều giờ để bàn luận với những sinh viên khác về Thiên Chúa, về ý nghĩa và mục đích của cuộc đời.

Đó là thời gian vui và hứng thú, nhưng tôi vẫn không tìm ra được hướng đi cho đời mình cho đến khi một người bạn trẻ nói với tôi một điều làm thay đổi đời tôi. Trong một cuộc bàn luận, anh ta đã nhìn thẳng vào tôi và nói, " Anh sẽ không bao giờ tìm gặp được Thiên Chúa qua việc bàn thảo và tranh luận về Thiên Chúa bởi vì Thiên Chúa là tình yêu. Anh chỉ tìm được Thiên Chúa khi anh yêu thương vô vị lợi."

Lúc đó tôi đang khảo cứu về thánh Phanxicô thành Assisi. Tôi học thấy điểm đổi đời của Phanxicô không phải là lúc ngài bỏ hết mọi sự giầu sang phú quý, nhưng là lúc ngài dùng lý trí và ý chí để xuống ngựa và ôm lấy người phong cùi. Điều này đã cảm kích tôi và khi tôi nghe biết ở Ấn Độ đang cần có người phục vụ trong trại phong cùi, và tôi đã tới đây. Nơi đây tôi vẫn đang phục vụ, và nơi đây tôi tìm được Thiên Chúa.

Bạn sẽ không tìm được Thiên Chúa qua bàn thảo hay tranh luận, và bạn cũng chẳng bao giờ tìm thấy Thiên Chúa trong việc tự đưa mình lên, bởi vì Ngài là Thiên Chúa của Tình Yêu. Bạn chỉ tìm được Ngài khi bạn biết yêu thương vô vị lợi.

30. Người lãnh đạo

Ông Vũ Duệ (1467-1522) là một vị quan nổi tiếng thanh liêm chính trực thời nhà Lê. Ông làm đến chức Lại Bộ Thượng Thư, một chức quan lớn trong triều đình, thế nhưng ông rất khiêm tốn và sống hòa đồng với dân.

Một lần nọ, ông về quê là Phú Thọ, tham gia chống lụt với dân làng. Ông đang cầm mai đào đất đắp đê, thì một quan huyện đến gần. Thấy ông mặc bộ quần áo cũ kỹ, lại to lớn lực lưỡng, tưởng là bác nông phu, nên quan huyện bắt ông ta phải cõng quan huyện về quan phủ cách đó 10 cây số. Ông Vũ Duệ chẳng nói chẳng rằng, khom lưng cõng vị quan huyện về phủ. Đến nơi, vừa thấy quan Vũ Duệ, các quan phủ đồng loạt quì lạy kính cẩn. Thấy vậy, viên quan huyện xanh mặt sợ hãi, van xin quan lớn tạ tội. Để dạy cho quan huyện một bài học, Vũ Duệ bình thản nói: “Quan lớn đã cõng quan bé rồi, giờ đến lượt quan bé cõng quan lớn về làng, theo con đường vừa đi.”

Câu chuyện chúng ta vừa nghe gợi lên hình ảnh hai mẫu người lãnh đạo: vị quan lớn thì khiêm tốn hạ mình, vị quan bé thì hống hách kiêu căng.

Chúa Giêsu cũng phác họa khuôn mặt của các luật sĩ và biệt phái, những người lãnh đạo dân Do Thái thời Chúa Giêsu. Đó là những người giả hình, thích phô trương, kiêu căng và hám danh. Hôm nay, chúng ta cũng đi tìm chân dung người lãnh đạo tuyệt vời là Đức Giêsu Kitô, người tôi tớ khiêm hạ.

31. Người lớn nhất

Vào đầu thập niên 1980, một luật sư có trình độ tên là Michael Minton đã thực hiện một cuộc nghiên cứu về sự phục vụ của các người mẹ trong gia đình của họ. Ông bắt đầu bằng cách liệt kê những chức năng của người mẹ, chẳng hạn chuyên gia về dinh dưỡng, tài xế, quản lý ngân quỹ. Kế đến ông xác định giá trị bằng tiền cho mỗi chức năng. Cuối cùng ông cộng tất cả lại thành tổng giá trị khoảng 40,000 đola một năm.

Nghiên cứu của Minton cho chúng ta cách đánh giá mới về sự phục vụ mà những người mẹ đóng góp cho những người xung quanh. Theo cách đánh giá của Chúa Giêsu thì họ được xếp vào số những người “lớn nhất” giữa tất cả chúng ta.

Bằng cách nào tôi có thể cho thấy sự đánh giá của tôi đối với những người mẹ?

Tôi sẽ đi con đường của bạn, vì vậy, tay trong tay, chúng ta hãy tiến bước. Chẳng bao lâu nữa, cái chết, người y tá già tốt bụng, sẽ trở về và giục chúng ta đi ngủ. Chúng ta hãy giúp đỡ nhau khi còn có thể. (William Morris)

32. Biết Chúa nhờ gương sáng

Diễn viên Martin Sheen trở lại đạo sau 16 năm xa cách. Con đường trở lại của ông bắt đầu ở Ấn Độ khi ông đang đóng bộ phim Gandhi. Cảnh ngộ của những người nghèo ở Ấn Độ tác động ông, và vì một số lý do, ông ý thức được sự hiện diện của Thiên Chúa trong họ. Ông nói: “Tôi bắt gặp ở Ấn Độ những gì tôi đã được dạy ở trường Công giáo khi tôi còn nhỏ… Tất cả chúng ta là phần thân thể của Chúa Kitô.”

Nhận thức đó mở rộng tâm hồn Martin Sheen và vinh quang Thiên Chúa trở lại đời ông, cũng như xưa kia vinh quang đó đã trở lại Đền thờ Gierusalem.

Tôi đã bao giờ cảm nghiệm được vinh quang Thiên Chúa trở lại đời tôi một cách mới mẻ nào đó không và như thế nào?

Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống. (Thánh Irene)

33. Khi tử tế ngự trị

Có một người đang đi dạo như thường lệ để chữa bệnh viêm khớp. Bà ta phát hiện một tờ 5 đôla bên lề đường, nhưng không thể cúi xuống nhặt được vì đau khớp. Một người mù đi qua với chiếc gậy trên tay. Sau khi kể cho anh ta về phát hiện may mắn của bà, bà ta liền đặt đầu chiếc gậy lên tờ đô la. Người mù lần theo chiếc gậy và nhặt nó lên, rồi cả hai cùng vào một quán giải khát.

Câu chuyện trên đây và câu chuyện của Rút cho thấy thế giới đáng yêu biết bao nếu chúng ta cố gắng làm cho nó đáng yêu. Cái gì ngăn cản tôi không tử tế với người khác như Chúa Giêsu đã tử tế với tôi?

Một ngày sẽ tươi đẹp biết bao khi có sự tử tế ngự trị. (George Elliston).

34. Bà cố của David

“Ruth, người Môab, nói với bà Naômi: "Xin mẹ để con đi ra ruộng mót lúa đằng sau người nào có lòng nhân từ đoái nhìn con.” Bà trả lời: "Con cứ đi đi.” Nàng đi và đến ruộng mót lúa đằng sau thợ gặt. Nàng may mắn gặp được một thửa ruộng của ông Bôab. Ông Bôab nói với Ruth: "Này con, con có nghe không? Đừng đi mót ở ruộng nào khác, cũng đừng rời khỏi đây, nhưng cứ theo sát các tớ gái của ta. Con nhìn thửa ruộng chúng gặt và cứ đi theo chúng. Nào ta đã chẳng ra lệnh cho các tôi tớ không được đụng tới con sao? Nếu khát, con cứ đến chỗ để bình mà uống nước các tôi tớ đã múc.”Ruth liền cúi rạp xuống đất mà lạy ông, rồi nói: "Sao con lại được ông lấy lòng nhân từ đoái nhìn và quan tâm đến, dù con là một người ngoại quốc? " Ông Bôab đáp: "Người ta đã kể lại cho ta nghe tất cả những gì con đã làm cho mẹ chồng sau khi chồng con mất, cũng như chuyện con đã bỏ cả cha mẹ và quê hương, mà đến với một dân trước kia con không hề biết tới.

Vậy ông Bôab lấy cô Ruth, nàng đã thụ thai và sinh một con trai. Các phụ nữ nói với bà Naomi: "Chúc tụng Đức Chúa, Đấng hôm nay đã không để cho bà phải thiếu người bảo tồn dòng dõi: tên tuổi con trẻ sẽ được tung hô tại Israel! Nó sẽ giúp bà lấy lại sức sống, và sẽ là người nâng đỡ bà trong tuổi già, vì người con dâu biết yêu quý bà đã sinh ra nó, nàng quý giá hơn bảy đứa con trai.” Họ đặt tên cho nó là Ôvết. Đó là cha của ông Giesê, là ông nội vua Đavid.” (Rut 2, 2-3. 8-11; 4, 13-17: Bài đọc năm lẻ). Đó là “phúc lộc dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128/127, 4: ĐC năm lẻ).

35. Ai lớn hơn?

Trong cuộc cách mạng dành độc lập của Hoa Kỳ, vào lúc đang chuẩn bị cho một trận chiến, người ta thấy một người mặc đồ dân sự đi ngang qua trận địa. Trông thấy một viên hạ sĩ đang vênh váo ra lệnh cho các binh sĩ thuộc quyền phải nhấc một cái xà nặng, người đàn ông dừng lại và hỏi viên hạ sĩ: “Sao ông không giúp họ một chút?”

“Thưa ông,” viên hạ sĩ nóng giận trả lời, “tôi là một hạ sĩ.”

Nhẹ nhàng xin lỗi viên hạ sĩ, người lạ cởi áo choàng ra và hăng hái bắt tay vào giúp đỡ những người lính.

“Thưa ngài hạ sĩ,” ông ta nói khi công việc đã hoàn tất, “khi nào ngài không đủ người để làm một việc gì, hãy gọi đến tổng chỉ huy của ngài. Tôi sẽ vui lòng giúp đỡ.”

Sau những lời đó, George Washington khoác lại chiếc áo choàng và bước đi.

Chúng ta thường phải tự hạ mình xuống khi muốn giúp đỡ ai, nhưng thật là ngược đời, chúng ta luôn thắng cuộc khi làm thế. Chứng cớ tốt nhất cho điều này là chính Đức Kitô: Ngài đã trở nên người bạn và là người đầy tớ của những người thấp kém nhất trong loài người, những kẻ cùi hủi, ăn xin và trộm cắp… Vì thế mọi người đều kính trọng Ngài!

36. Làm sao anh nhận ra tôi?

Cách đây nhiều năm, tại bờ biển Miami Dolphins, Don Shula đang nghỉ hè với vợ và năm đứa con ở thành phố Maine. Một chiều mưa, họ đi đến rạp hát duy nhất của thành phố. Khi họ bước vào, chỉ có sáu người trong rạp hát. Theo một người trong nhóm, họ đứng lên và vỗ tay hoan hô gia đình Shula. Khi Don và cả gia đình ngồi xuống, một người đàn ông tiến đến và bắt tay ông. Don hỏi: “Làm thế nào anh nhận ra tôi?” Người đàn ông trả lời: “Thưa ông, tôi không biết ông. Tôi chỉ biết rằng trước khi gia đình ông đến, người quản lí rạp hát nói với chúng tôi rằng họ sẽ không chiếu phim, nếu không có ít nhất năm người nữa.”

Nếu Chúa Giêsu hỏi người bạn tốt nhất của tôi rằng tôi có khiêm tốn không, người bạn tôi sẽ trả lời ra sao?

Khiêm tốn không có nghĩa là ít nghĩ về mình, nhưng là không nghĩ về mình chút nào.

37. Mượn diễn văn

Vào năm 1950, khi thế giới còn ở trong tình trạng chiến tranh lạnh giữa hai khối tư bản và cộng sản, Ngài được Tổng Thống Charles De Gaule mời đọc diễn văn khai mạc cuộc họp mặt ngoại giao đoàn. Lúc đó, Ngài mới đến Pháp được hai ngày. Ngài lo nghĩ không biết làm sao để soạn bài diễn văn cho phù hợp với tình hình của nước Pháp. Được biết vị Đại Sứ Liên Xô tại Pháp đã soạn xong bài diễn văn, nhưng Tổng Thống Pháp không muốn ông Đại Sứ của nước cộng sản này đọc, vì sợ có điều gì không hay trong đó, Ngài liền đến gặp ông Đại Sứ này, chân thành trình bày lý do và xin mượn bài diễn văn soạn sẵn của ông để đọc cho Tổng Thống Pháp. Ngài cũng cho biết sẽ giữ lại tất cả nguyên văn ngoại trừ thêm vào phần cuối câu “Xin Thiên Chúa ban sức mạnh cho Tổng Thống” như bài diễn văn của các Sứ Thần Tòa Thánh vẫn dùng. Ông Đại Sứ mừng rỡ nói: thế thì tốt quá, vinh dự cho tôi quá còn gì! Và hai bên thỏa thuận với nhau. Ngài cầm bài diễn văn của ông Đại Sứ Liên Xô về nhà cách vui vẻ.

Khi bài diễn văn được đọc xong, Tổng Thống Pháp vừa vỗ tay vừa nói: Có thế chứ. Sứ Thần Tòa Thánh có khác. Bài diễn văn thật đầy đủ. Nếu để cho ông Đại Sứ Liên Xô thì không biết bài diễn văn có ra gì không? Sau đó, khi biết rõ đầu đuôi chuyện bài diễn văn của Sứ Thần Tòa Thánh, ai nấy đều cười xòa vui vẻ.

CNTN 31B -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

CNTN 31C -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

THỨ HAI - ÂN HUỆ TẶNG KHÔNG

Lời Chúa: Lc 14, 12-14

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với thủ lãnh các người biệt phái đã mời Người rằng: "Khi ông dọn tiệc trưa hay tiệc tối, ông chớ mời các bạn hữu, anh em, bà con và những người láng giềng giàu có, kẻo chính họ sẽ mời lại ông mà trả ơn cho ông.

Nhưng khi ông dọn tiệc, ông hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt và đui mù, thì ông sẽ được phúc, bởi họ không có gì đền ơn cho ông: vì chưng, khi những người công chính sống lại, ông sẽ được đền ơn."

TRUYỆN KỂ

1. Quán cơm Vợ thằng Đậu

Tại Sài Gòn, rất nhiều người biết đến quán cơm từ thiện với cái tên ngồ ngộ: “Quán cơm Vợ thằng Đậu." Chủ nhân của quán cơm này chính là cố nghệ sĩ Lê Vũ Cầu. Khi vừa qua cơn bạo bệnh nhờ phép lạ của Đức Mẹ, Lê Vũ Cầu đã xin theo Đạo Công Giáo, và việc làm đầu tiên để tạ ơn Chúa và Đức Mẹ đã cứu ông khỏi căn bệnh hiểm nghèo là: bán hai miếng đất lấy tiền mở quán cơm chay tại số 40 Đặng Văn Bi, Q.Thủ Đức, Tp. Sài Gòn.

Quán ăn phục vụ từ 10h 30 - 11h 30 trưa, mỗi ngày tiếp khoảng 100 - 150 lượt khách. Khách hàng của quán chủ yếu là người nghèo, người già neo đơn, người có hoàn cảnh khó khăn, nhưng đông nhất là anh chị em bán vé số. Tất cả đều được ăn miễn phí.

Khi mở quán như thế, nhiều người cho rằng nghệ sĩ Lê Vũ Cầu có vẻ bất thường, vì nếu dùng đồng tiền đó vào những chuyện như kinh doanh, buôn bán có lẽ tốt hơn!

2. Giá một ổ bánh mì và tô phở

Cậu bé đói lả ăn cắp ổ bánh mì bị chủ quán bắt được. Cậu bị đánh, bị chửi. Thấy vậy, ông chủ quán phở kế bên trả tiền cho cậu và cho cậu thêm một tô phở mang về. Sau này, ông chủ quán phở lâm bệnh, phải nhập viện. Đứa con gái ông không thể trả tiền viện phí. Vị bác sĩ chữa trị đã thanh toán viện phí, kèm theo dòng chữ: ”Viện phí của ông đã được thanh toán cách đây hơn 20 năm bằng một ổ bánh mì và một tô phở."

3. Tôi muốn cho chị được hạnh phúc.

Mẹ Têrêsa Calcutta đã thiết lập một căn nhà để tiếp đón tất cả những người hấp hối không có nơi nương tựa. Vì Mẹ muốn tạo điều kiện để những người nghèo khổ này được tìm thấy một cái chết xứng đáng với phẩm giá con người.

Một buổi tối nọ, người ta đưa đến một người đàn bà bị kiệt sức vì đói khát và bệnh tật. Mẹ Têrêsa đã đích thân săn sóc với tất cả sự ưu ái và dịu hiền của một người mẹ. Sau khi đã hồi sức, người đàn bà mở tròn đôi mắt đẫm lệ và thì thào với mẹ Têrêsa:”Thưa bà, tại sao bà lại săn sóc tôi như thế”?

Với tất cả lòng ưu ái, mẹ Têrêsa đã trả lời:”Bởi vì tôi muốn cho chị được hạnh phúc."Trên khuôn mặt nhợt nhạt của người bệnh bỗng bừng sáng lên một niềm vui. Bà cố gắng để thì thào với Mẹ:”Xin bà hãy lặp lại câu đó một lần nữa đi."

Mẹ Têrêsa mỉm cười nói:”Phải, tôi muốn cho chị được hạnh phúc." Và như một điệp khúc không bao giờ ngừng, người đàn bà tiếp tục thều thào:”Xin bà hãy lặp lại một lần nữa đi."

Cuối cùng bà ta cố nắm lấy tay mẹ Têrêsa đặt lên ngực, như muốn níu kéo một chút hơi ấm của tình người, hơi ấm của hạnh phúc mà chỉ ai có lòng quảng đại mới ban phát được.

4. Người hạnh phúc

Có một người nông phu Trung Quốc tên là Wong Ly, một người tuy nghèo nhưng vốn có lòng quảng đại và nhân hiền. Một hôm, ông từ trên đồi xuống, vác trên vai một bó lá đem về lợp lại mái nhà. Đi đường mỏi mệt ông ngồi nghỉ chân dưới bóng một cây cổ thụ bên đường. Một con bướm thật đẹp đủ màu sắc bay tới đậu trên bó lá, ông vừa đưa tay đuổi đi vừa nói:

- Bướm đẹp quá, hãy bay đi hưởng tự do mà Chúa đã ban cho mi.

Nhưng con bướm vẫn không chịu bay đi, rồi ông lấy dây, nhẹ tay buộc con bướm vào cành lá với ý định đem về cho các con ông chơi. Vừa xuống dưới chân đồi, ông gặp một phụ nữ, vai mang gánh lúa, tay dắt đứa con gái nhỏ. Trông thấy con bướm trên bó lá, cô bé gọi mẹ:

- Mẹ ơi, bướm đẹp quá mẹ xin cho con đi.

Nghe vậy, ông Wong Ly dừng chân, đặt bó lá xuống đất, tháo dây cột con bướm, đưa cho cô bé và nói:

- Đây cháu hãy cầm lấy con bướm này, nhưng đừng làm hại nó nhé.

Bà mẹ đứa trẻ cũng dừng chân, đặt gánh xuống và nói với ông Wong Ly:

- Ông thật là người tốt bụng, tôi không có gì đền ơn ông, chỉ xin ông nhận mấy trái cam sành này…trái cam tôi mới hái đây.

Ông nhận quà, ra về, cám ơn và nói:

- Tôi sẽ đem về cho vợ con tôi, vì cả nhà tôi chưa bao giờ được thấy những trái cam to và mọng nước như thế này.

Đi được một quãng, ông gặp một người lái buôn ngồi nghỉ dưới bóng cây bên đường với những gói tơ lụa đủ màu. Người lái buôn đứng dậy nói với Wong Ly:

- Tôi đi đường từ sáng đến giờ sắp kiệt sức vì trời nóng bức, không một miếng cơm cũng không một ngụm nước, ông có gì cho tôi uống giải khát để lấy lại sức không?

Ông Wong Ly động lòng thương, rút mấy trái cam sành trong túi ra và nói:

- Ông hãy nhận lấy mấy trái cam ngon ngọt này, nó sẽ giúp ông giải khát và chúc ông lên đường bình an.

Người lái buôn vui mừng nhận ba trái cam, rồi rút trong bao ra một tấm lụa và nói:

- Xin cám ơn lòng tốt của ông, và xin ông nhận cho tấm lụa này để nói lên lòng biết ơn của tôi.

Wong Ly tiếp tục lên đường về nhà, vai mang bó lá, tay cầm tấm lụa. Về tới đầu làng, ông nghe tiếng chân ngựa và tiếng cười xôn xao, như có ai quan trọng sắp đi qua đây, ông vội đứng sang một bên, chờ ngóng xem có chuyện gì xảy ra.

Một lúc sau, có xe của công Chúa và lính hầu cận tiến tới, đang lúc lúng túng Wong Ly nghe tiếng công Chúa gọi lại, vì muốn xem tấm lụa đẹp ông cầm trên tay. Ông đến gần và lễ phép thưa:

- Thưa bà, nếu bà thích, kẻ hèn này xin kính tặng bà.

Công Chúa cầm lấy tấm lụa ngắm nghía tỏ vẻ hài lòng và nói:

- Ngươi thật là tốt bụng, ta cũng muốn tặng cho ngươi một món quà.

Vừa nói công Chúa vừa đặt vào tay ông một cái túi nhỏ rồi ra đi. Ông cầm chặt túi nhỏ trên tay, vác bó lá trên vai, bước mau về nhà. Vào tới nhà, ông gọi vợ con tới gần và mở túi nhỏ của công Chúa ra xem. Mắt ông sáng lên khi thấy trong túi đầy những đồng tiền vàng.

Ông ngạc nhiên tự hỏi, tôi sẽ làm gì với sự giàu có này, rồi ông tự trả lời:

- Được rồi, tôi sẽ làm cho những người nghèo khổ nhất trong làng này được hạnh phúc.

Rồi ông phân phát, chia sẻ cho những người nghèo khổ trong làng. Và dĩ nhiên, người hạnh phúc nhất trong làng chính là ông Wong Ly. Từ đó, ông được đặt tên là “Người hạnh phúc."

5. Chúa thương hết người ế

Cha Vũ Khởi Phụng (Thái Hà) kể chuyện một nhóm bạn trẻ Hà Nội đã sửa kinh Cầu Chịu Nạn truyền thống thành: “Chúa Giêsu thương hết người ế” và “Chúa Giêsu thấy thế thì mừng.” Sở dĩ các bạn trẻ này dám “cả gan” như vậy, vì họ đã thuê hai căn gác bên bờ sông Hồng để đón tiếp các thanh thiếu niên bụi đời, xì ke, hay bị bệnh AIDS; họ tự nguyện trở thành người ế để chăm sóc các người bất hạnh, mà xét cho cùng, cũng là một dạng người ế khác trong xã hội. Đức Giêsu hẳn phải “thấy thế thì mừng,” vì Ngài dạy ta vượt lên tâm lý bình thường: óc tính toán hay việc đáp lễ phải có trong giao tiếp với người khác. Ngài mời ta ra khỏi thế giới giao tế quen thuộc “có qua có lại mới toại lòng nhau” để bước vào thế giới của những con người khốn cùng, và nhờ vậy, bàn tiệc cuộc đời sẽ tốt đẹp hơn.

Cung cách “bánh ú đi, bánh dì lại,” “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại,” đã ăn sâu vào nếp nghĩ và lối sống của bạn. Làm môn đệ Đức Giêsu chẳng dễ dàng gì, vì bị đòi hỏi nhiều, nhất là phải vượt lên lối ứng xử tự nhiên, để sống tinh thần siêu nhiên. Tuy nhiên, ơn Ngài ban đủ cho bạn. Đừng ngại!

6. Dấu tên

Một thương gia đến gặp hiệu trưởng trường Trung học tư thục Chicago. Để bày tỏ sự đánh giá cao về những gì trường đã làm cho các con trai của ông, ông quyết định xác lập một quỹ học bổng cho những sinh viên nghèo. Sau khi đưa ra mọi chi tiết, vị hiệu trưởng nói với thương gia: “Ông có muốn chúng tôi lấy tên ông đặt cho học bổng không?” Thương gia trả lời: “Các ông để tên ai cũng được, trừ tên tôi. Tôi không cho học bổng vì lý do đó.”

Có khi nào tôi đóng góp hoặc phục vụ mà yêu cầu được dấu tên không?

Giống như một bức ảnh, phẩm cách được hiện hình lên trong bóng tối (Youssup Karsh).

7. Sống vô vị lợi

Phải chăng Lời Chúa dạy không thực tế? Có thể lắm, nhưng vẫn có những người như bà Roberta Langtry, giáo viên tiểu học ở Toronto, phục vụ trẻ khuyết tật trong 55 năm, sống âm thầm đạm bạc để sau khi lìa đời, tặng số tiền để dành 3,8 triệu USD cho hội bảo tồn thiên nhiên Canada.

Borden, người thực hiện di chúc của bà nói: “Lantry sống rất đạm bạc, nhưng sẵn sàng âm thầm gửi ngân phiếu ‘nặng đô’ cho những người bà nghĩ là đang rất cần tiền” (Báo Tuổi Trẻ 3/10/06).”Đặt tiệc” bằng cả cuộc đời cống hiến cách vô vị lợi như bà quả là một gương sống Lời Chúa thật đẹp phải không bạn?

Vậy bạn hãy đưa Lời Chúa vào cuộc sống của bạn đi.

8. Trao tặng tấm lòng bằng pizza

Jenny và Mike Stevens mở tiệm bánh Little Caesars Pizza ở thành phố Fargo thuộc North Dakota-Hoa Kỳ vào tháng 5-2015. Bánh ngon và giá cả vừa phải nên khá đắt hàng.

Vào một ngày hè, khi Jenny và hai con gái đang làm việc trong nhà hàng, họ để ý thấy một người vô gia cư đang lục thùng rác trước cửa để tìm thứ gì đó để ăn. Jenny động lòng trắc ẩn, mang ra cho ông lão nghèo khổ tội nghiệp một chiếc bánh Pizza và một lon Pepsi. Nhìn niềm vui mừng hạnh phúc khi được ăn và lòng biết ơn của ông lão. Gia đình Jenny sau đó quyết định dán trên cửa kính của tiệm dòng chữ sau:

“Gửi những người đang phải tìm kiếm thức ăn trong thùng rác: Bạn cũng là một con người, bạn xứng đáng có một bữa ăn tử tế hơn. Xin vui lòng đến trong giờ mở cửa để nhận bánh Pizza nóng và một ly nước miễn phí. Bạn không phải trả gì cả."

Jenny nói với Today: “Mỗi khi có người đi vào tiệm để ăn Pizza miễn phí, sẽ không có ai hỏi họ những câu hỏi gây ngại ngùng, hơn nữa, họ sẽ nhận được cả một cái bánh Pizza lớn"

Đến tháng 11-2016, vợ chồng Jenny quyên góp cho l’Armée du Salut và các nhà tạm trú khác những chiếc bánh Pizza, trước khi gửi đi trong hộp bánh còn được đính kèm lời nhắn, chúc phúc đầy yêu thương đến những người khốn khó, được viết bởi bộ phận chăm sóc khách hàng.

Vào thứ sáu mỗi tuần, trung tâm bảo trợ New Life Center tổ chức "Tiệc Pizza miễn phí" đây là hoạt động được mong đợi nhất trong khu vực. Jenny chia sẻ: “Ăn Pizza và xem phim tuy rất bình thường, nhưng đối với nhiều người vô gia cư thì đây lại là một cuộc hội họp ấm áp khiến họ cảm thấy được quan tâm và được tôn trọng"

Chương trình “Trao tặng tấm lòng bằng Pizza” ngày càng mở rộng. Trong tiệm đặt một chiếc thùng quyên góp nhằm khích lệ khách hàng giúp đỡ hơn 800 người vô gia cư trong khu vực.

Mike nói với tờ Daily Republic: “Lúc đầu, nó chỉ là một hành động bột phát của gia đình tôi, nhưng bây giờ có vẻ điều này càng ngày càng được lan rộng ra."

Một năm sau, giữa lúc công việc từ thiện đang tiến hành, Mike qua đời vào tháng 12-2017 vì bệnh bạch cầu.

Tháng 10-2018, Jenny tạo trang GoFundMe để gây quỹ cho việc thiện nguyện, tiếp tục dự án tặng Pizza cho người cơ khổ, như một cách để luôn tưởng nhớ đến người chồng quá cố của mình.

9. Vinh quang phù phiếm

Trong tập thơ của mình, William Cowper viết, “Sự tôn trọng của thế giới chỉ là một món hối lộ. Để mua lấy bình yên của nó, bạn phải bán sự bình yên của mình. Bạn phải làm nô lệ cho một lũ kiêu ngạo, họ ghét bạn khi ban cho bạn những niềm vui vô bổ. Đây là cách thế giới thưởng cho kẻ ngốc, những kẻ sống nhờ nụ cười quyến rũ phản bội của ‘cô ta’ với những vinh quang phù phiếm!"

Lời Chúa hôm nay nói đến phần thưởng thế giới ban cho kẻ ngốc! Chúa Giêsu đưa ra một lời khuyên khi đãi tiệc. Tổ chức tiệc là điều tốt khi động cơ là tình yêu; nhưng nếu mục tiêu của bữa tiệc, hay bất kỳ hành động từ thiện nào khác là khoe khoang, thì ‘vinh quang phù phiếm’ đạt được từ hành động đó là ‘khoản thu’ mà bạn và tôi sẽ nhận được.

“Lạy Chúa, thế gian ghét con khi ban cho con niềm vui vô bổ. Đừng để con bán sự bình yên của con để có được sự bình yên giá rẻ bởi những ‘vinh quang phù phiếm!’”, Amen.

10. Tô mì 0 đồng

“Bạn chưa ăn tối mà trong túi còn ít tiền đừng lo, mời bạn đến nhà thờ Mạc Ty Nho dùng tô mì 0 đồng nhé!”, đó là câu chào mời phục vụ của giáo xứ Mạc Ty Nho khi mở quán Tô Mì 0 đồng khai trương ngày 23.10.2023. Quán nằm ngay trong khuôn viên nhà thờ, cạnh con đường Nguyễn Thị Minh Khai rộng lớn càng thu hút sự chú ý.

Để có quán ăn này, cô tình nguyện viên cũng là giáo dân trong xứ cho biết khởi đi từ lời đề nghị của cha sở và sự nhiệt tình hưởng ứng của bà con. Cô nói: “Tôi nhớ cha kể rằng, vào một buổi tối khi đi đóng cửa nhà thờ thì cha thấy một người ngồi ăn cơm hộp trước cửa nhà thờ, nuốt vội, với sự mệt mỏi, vất vả. Cha nảy ra ý định cần mở quầy ăn nhỏ để phục vụ người nghèo…."

Trong khuôn viên có phần nhỏ bé của giáo xứ, nhưng dường như cả thực khách và người phục vụ cảm thấy không quá chật chội. Một thực khách tại quán cho biết: “Tôi là một người chạy xe ôm, có hôm tầm 11 giờ đêm, thậm chí là 1 giờ đêm tôi mới ăn tối. Vì vậy mà tôi rất biết ơn giáo xứ tạo ra bếp ăn này để giúp đỡ những người khó khăn."

Quán Tô Mì 0 đồng ở giáo xứ Mạc Ty Nho phục vụ thực khách từ 20g đến 21g30, thứ Hai đến thứ Sáu hằng tuần. Sự có mặt của quán ăn nhỏ này nơi giáo xứ làm rõ nét hình ảnh về sự phục vụ, sống yêu thương không cần ở đâu xa. Giữa trung tâm thành phố nhộn nhịp cũng vẫn có người nghèo cần được quan tâm, hỗ trợ.

THỨ BA - BÀN TIỆC NƯỚC TRỜI

Lời Chúa: Lc 14, 15-24

Khi ấy, một người đồng bàn thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Phúc cho kẻ sẽ được ăn tiệc trong nước Thiên Chúa." Người phán cùng kẻ ấy rằng: "Có một người kia dọn tiệc linh đình, và đã mời nhiều thực khách. Tới giờ dự tiệc, ông sai đầy tớ đi báo cho những kẻ được mời để họ đến, vì mọi sự đã dọn sẵn sàng rồi. Nhưng mọi người đồng thanh xin kiếu. Người thứ nhất nói với ông rằng: "Tôi mới tậu một thửa ruộng, tôi cần phải đi xem đất, nên xin ông cho tôi kiếu." Người thứ hai nói: "Tôi mới mua năm đôi bò, và tôi phải đi thử chúng, nên xin ông cho tôi kiếu." Người khác lại rằng: "Tôi mới cưới vợ, bởi đó tôi không thể đến được."

"Người đầy tớ trở về thuật lại những điều đó cho chủ mình. Bấy giờ chủ nhà liền nổi giận, bảo người đầy tớ rằng: "Anh hãy cấp tốc đi ra các công trường và các ngõ hẻm thành phố mà dẫn về đây những người hành khất, tàn tật, đui mù và què quặt." Người đầy tớ trở về trình rằng: "Thưa ông, lệnh ông ban đã được thi hành, thế mà hãy còn dư chỗ." Ông chủ lại bảo người đầy tớ rằng: "Anh hãy ra ngoài đường ngoài ngõ và cố ép người ta vào cho đầy nhà tôi. Vì tôi bảo cho các người biết: không một ai trong những kẻ đã được mời, sẽ được nếm bữa tiệc của tôi."

TRUYỆN KỂ

1. Vinh dự được mời

Sáng ngày 29/4/2011, mọi con mắt từ khắp nơi trên thế giới đều hướng về thủ đô Luân Đôn, nơi diễn ra đám cưới của Hoàng tử William, người thứ hai sẽ kế vị ngai vàng nước Anh, sau người cha là Thái tử Charles. Hoàng tử kế vị ngai vàng, không những trên vương quốc Anh và Bắc Ái Nhĩ Lan, mà còn đứng đầu khối thịnh vượng lớn, gồm nhiều quốc gia lớn nhỏ như Canada, Úc, Tân Tây Lan... Hoàng tử William kết hôn với Kate Middleton, một cô gái xuất thân từ tầng lớp thường dân… Cô dâu và chú rể thề ước trước Đức Tổng Giám mục Canterbury tại Tu viện Westminster cổ kính nơi chôn cất các bậc quân vương và những nhân vật lớn nước Anh. Đến tham dự lễ cưới, ngoài nhân vật quan trọng là bà nội của Hoàng tử William, Nữ hoàng Êlisabéth II, có đầy đủ các chính khách nước Anh và thế giới, các nhà ngoại giao và rất nhiều người nổi tiếng như các minh tinh màn bạc, các vận động viên nổi danh thế giới... Không ai được mời tới dự mà muốn vắng mặt. Họ lấy làm vinh dự được mời và được xuất hiện trong lễ cưới long trọng đó…

Vào thời điểm đám cưới, hàng nghìn du khách trong và ngoài nước đến dựng lều trước Tu viện Westminster từ đêm hôm trước để có được chỗ tốt nhất dự xem tân nương và tân lang, và hơn 2 tỷ người xem trực tiếp và qua truyền hình. Người ta không những theo dõi nhân vật chính là cô dâu chú rể mà còn chăm chú điểm danh từng nhân vật lớn trên thế giới.

2. Hai bữa tiệc

Có người đã tưởng tượng ra thiên đàng và hỏa ngục như hai bàn tiệc thịnh soạn được bày ra.

Bàn tiệc dưới hỏa ngục cũng mâm cỗ đầy, thế nhưng khách dự tiệc thì ngồi ủ rũ buồn thiu, bởi vì mỗi người cầm một đôi đũa dài đến độ gắp được thức ăn, nhưng không thể đưa thức ăn ấy vào miệng của mình được.

Bàn tiệc trên thiên đàng thì cũng y hệt như vậy, nhưng khác một điều thay vì gắp thức ăn cho vào miệng mình, thì người ta lại gắp thức ăn đưa vào miệng cho người đối diện. Thế là vui vẻ cả nhà vì ai cũng được ăn no nê.

3. Mọi sự đã sẵn sàng mà không thích

“Mọi sự đã sẵn sàng” (Omnia parata sunt): Hạnh phúc Nước Trời đã được Thiên Chúa chuẩn bị sẵn tất cả cho ta, cũng như cỗ bàn được ông chủ trong dụ ngôn này chuẩn bị chu đáo (giáo huấn Tin Mừng, Giáo Hội, bí tích, ơn Chúa v.v.). Nhưng tại sao nhiều người không đến dự tiệc? Vì họ không muốn từ bỏ những thứ đang quyến rũ họ: một thửa đất mới mua (tài sản), năm cặp bò mới tậu (việc làm ăn), một người vợ mới cưới (hạnh phúc nhân loại). Những người đó không sai vì coi trọng những thứ vừa kể, nhưng sai vì coi chúng trọng hơn Nước Trời. Chúa Giêsu đã dạy “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Ngài. Tất cả những thứ kia Ngài sẽ thêm cho” (Mt 6,33)

Lý do khiến loạt khách mời thứ nhất từ chối đến dự tiệc là vì họ đang có những thứ họ ham thích. Còn lý do khiến loạt khách thứ hai đáp lời mau mắn (x. dụ ngôn song song được ghi trong Mt 22,1-10: “phòng tiệc cưới đã đầy thực khách”) là vì họ đang không có gì cả, nói cho rõ hơn, họ nghèo. Nghèo là tâm thế rất thích hợp để đón nhận Nước Trời.

Triết gia Socrates sống rất giản dị. Một ngày kia ông ngắm nghía rất kỹ những món hàng đắt tiền được bày bán ngoài chợ. Thấy thế một người lấy làm lạ nên hỏi. Ông giải thích: “Tôi ngạc nhiên vì không hiểu tại sao người ta lại bán quá nhiều thứ mà tôi không cần đến như thế”

4. Chết khát giữa biển nước

Có câu chuyện về những người nằm chết khát trên một chiếc bè lênh đênh ngoài khơi bờ biển Brazil. Họ không hề hay biết nước biển ngay chỗ bè họ trôi là nước ngọt. Thật vậy, dòng chảy của con sông mạnh đến nỗi tống ra biển xa đến hai dậm và nước ngay chỗ họ vẫn là nước sông. Nhưng họ không hề hay biết...

Đời là một bữa tiệc lớn. Tất cả những niềm vui – nỗi buồn, cái thật - cái giả, ánh sáng - bóng tối... đều cống hiến cho bữa tiệc ấy. Nhưng con người như bị thôi miên, cứ chọn cái buồn, cái giả, cứ chạy theo bóng tối... nên rất nhiều người đang chết đói trên bàn tiệc, trong đó có bạn và tôi...

 Lạy Chúa, con đã phải nếm sự đau khổ vì cứ mê muội bám víu vào các tạo vật. Xin cho con được ơn thức tỉnh thật sự.

5. Trái cam quý hơn châu báu

10 giờ đêm ngày 14-04-1912, chiếc tàu du lịch vĩ đại nhất của Anh Quốc đã đâm phải tảng băng giữa Tây Đại Dương. 4 giờ sau đó, cả chiếc tàu, thủy thủ đoàn và nhiều hành khách đã bị chôn vùi trong lòng Đại Dương. Cuộc đắm tàu đầy bi thảm này đã là nguồn cảm hứng cho biết bao nhiêu áng văn chương. Những người có may mắn sống sót đã thuật lại lòng can đảm phi thường của viên thuyền trưởng, các sỹ quan và thủy thủ đoàn. Họ kể rằng, nhiều người đã khước từ sự cứu vớt để ở lại cùng chết với chồng.

Giữa biết bao nhiêu gương hy sinh ấy, những người sống sót còn kể lại câu chuyện, xem ra người ta chỉ muốn biết vì tò mò hơn thán phục.

Đó là câu chuyện của một người đàn bà. Sau khi đã được đưa lên boong tàu để chuẩn bị cho việc cứu vớt, thì bà ta xin phép được trở lại phòng ngủ lần cuối cùng, để có thể thu nhặt một ít đồ quý giá. Người ta cho bà ba phút để làm công việc này. Người đàn bà liền vội vàng chạy đi. Dọc theo hành lang, bà ta thấy ngổn ngang không biết bao nhiêu là nữ trang vàng bạc quý giá. Vào đến phòng ngủ bà ta đưa mắt nhìn hết các đồ nữ trang và báu vật, nhưng cuối cùng, bà ta chỉ đưa tay nhặt lấy 03 quả cam và chạy lên boong tàu.

Vài tiếng đồng hồ trước đó, giữa các đồ vật trong phòng, có lẽ người đàn bà kia đã chẳng lúc nào nghĩ đến 03 quả cam. Nhưng trong giây phút nguy ngập nhất của cuộc sống thì giá trị của sự sống bỗng bị đảo lộn. Ba quả cam bỗng trở nên quý giá hơn vàng, kim cương và hột xoàn bởi vì nước của chúng có thể cứu sống được bà giữa biển khơi.

6. Bỏ qua vinh dự

Tối 14/03/2012, tổng thống Obama mở một bữa tiệc chiêu đãi đặc biệt tại Toà Nhà Trắng. Khỏi phải nói, thực khách của bữa tiệc này đều là những khách mời VIP: Vợ chồng thủ tướng Anh, nhiều nhà tỷ phú và nhân vật nổi tiếng khác đã có mặt trong những bộ y phục dạ tiệc sang trọng. Nếu phải góp một khoản tiền lớn để được mời dự bữa tiệc này, hẳn rất nhiều người sẵn sàng mở hầu bao, chứ đừng nói chi tới việc được mời mà không đến dự vì những lý do vớ vẩn. Cách hành xử như vậy không khác gì một sự khinh miệt nặng nề, thậm chí còn là một thái độ thù địch.

Bữa tiệc đó giúp liên tưởng đến điều mà Lời Chúa muốn nói với chúng ta hôm nay qua dụ ngôn bữa tiệc Nước Trời. Có những người được mời nhưng không ý thức hạnh phúc và vinh dự lớn lao mình có, mà từ chối chỉ vì những lý do nhỏ mọn. Thật đáng tiếc! Trái lại, những người bé mọn, nghèo hèn được mời và nhận thức hạnh phúc lớn lao “được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”! Và họ đã không phụ lòng Ngài.

Bạn có biết bạn thật hạnh phúc khi được là Kitô hữu không? Với danh nghĩa đó bạn rất vinh dự là khách mời trong bữa tiệc Nước Trời mà ngay từ bây giờ bạn đã thưởng nếm trong bữa tiệc Thánh Thể. Đó là điều Giáo Hội mời gọi chúng ta trong Năm Đức Tin: “tái khám phá niềm vui đức tin và tìm lại niềm hăng say thông truyền đức tin” cho người khác (Porta Fidei, số 7).

7. Thế giới đổi thay khi ta thay đổi chính mình

Một người khôn ngoan nói: “Hồi còn trẻ, tôi yêu mến Thiên Chúa đến độ muốn hoán cải cả thế giới về với Chúa. Nhưng khi nhận thấy như thế là quá cao vọng, tôi quyết định biến đổi thị trấn của tôi. Tuy nhiên, khi nhận ra như thế vẫn còn cao vọng, tôi quyết định cải thiện gia đình tôi. Một lần nữa, tôi lại gặp khó khăn, vì vậy tôi tập trung vào việc thay đổi chính mình. Tôi vẫn còn gặp khó khăn, nhưng giờ đây tôi nghĩ rằng tôi đã có một kế hoạch đúng đắn."

Đâu là khó khăn tôi gặp trong nỗ lực thay đổi bản thân? Tôi đã tích cực ra sao để cố gắng vượt qua khó khăn đó?

Với một đoan chắc về lẽ phải, như Thiên Chúa cho chúng ta thấy được lẽ phải, chúng ta hãy tranh đấu để hoàn thành sứ mạng của mình (Abraham Lincoln).

8. Lý do trì hoãn

Một người đã về hưu nói: “Tôi muốn tự nguyện phục giúp đỡ những người túng thiếu, nhưng tôi chưa sẵn sàng.” Một sinh viên nói: “Tôi muốn kèm cho những sinh viên chậm hơn, nhưng tôi không nghĩ là mình có thể làm tốt được.” Đó là những thí dụ điển hình cho những kẻ mà Chúa Giêsu nói đến trong dụ ngôn của Ngài. Đó là “những kẻ ngụy biện.”

Điều gì tôi định làm nhưng lại trì hoãn? Lý do gì khiến tôi không thực hiện ngay hôm nay?

Anh em xa không bằng láng giềng gần (Hubert H. Humphrey).

THỨ TƯ - DỨT KHOÁT ĐI THEO CHÚA

Lời Chúa: Lc 14, 25-33

Khi ấy, có nhiều đám đông cùng đi với Chúa Giêsu, Người ngoảnh lại bảo họ rằng: "Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta. Và có ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổn cần thiết, xem có đủ để hoàn tất không, kẻo đặt móng rồi mà không thể hoàn tất, thì mọi người xem thấy sẽ chế diễu người đó rằng: "Tên này khởi sự xây cất mà không hoàn thành nổi."

"Hoặc có vua nào sắp đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên không ngồi suy nghĩ xem mình có thể đem mười ngàn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai mươi ngàn quân tiến đánh mình chăng? Bằng chẳng nổi, thì khi đối phương còn ở xa, vua ấy sai một phái đoàn đến cầu hoà. Cũng thế, bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta."

TRUYỆN KỂ

1. Thánh giá vừa sức

Một đoàn người hành hương bước đi mệt nhọc dưới sức nặng của cây thập giá đè trên vai. Một người trong đoàn không chịu được, liền cưa bớt đi một khúc cho nhẹ. Anh cảm thấy nhẹ nhõm hơn, anh rất hài lòng vì sáng kiến đó và cho rằng mình quả thật khôn ngoan.

Cuộc hành trình gian truân mang thập giá đã dẫn đoàn người đến trước một vực thẳm. Phải qua vực thẳm vì bên kia bờ là đích đến, nhưng lại không có một cây cầu nào để bước sang. Sau một lúc do dự, không ai bảo ai, mỗi người đều đặt cây thập giá của mình để bắc qua vực. Lạ lùng thay, thập giá mà mỗi người vác vừa khít với bề ngang của vực thẳm, chỉ riêng cây thập giá bị cưa bớt cho đỡ nặng là hụt, và người vác nó phải đứng lại bên kia với sự tuyệt vọng…

2. Đòi hỏi của tình yêu

Giới Tử Thôi người nước Tần, đời Xuân Thu Chiến Quốc, là bầy tôi trung thành của công tử Trùng Nhĩ.

Khi công tử Trùng Nhĩ phải lưu vong nơi đất khách quê người, lương thực đã cạn kiệt, công tử lại không thể ăn những loại rau hoang cỏ dại trong rừng. Giới Tử Thôi đã lén cắt thịt đùi của mình nấu canh cho Trùng Nhĩ ăn.

Về sau Trùng Nhĩ khôi phục lại nghiệp cả, làm vua nước Tần, Giới Tử Thôi xin về làng ở ẩn, chứ không hề kể công lênh ngày xưa.

Trùng Nhĩ sau này có làm vua thì cũng là người trần mắt thịt, mà Giới Tử Thôi còn dám bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chịu khổ cực để theo hầu, hơn nữa còn hy sinh chính thân mình để tỏ lòng trung thành với chủ nhân. Đức Giêsu là Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta trước khi cúng ta có mặt trên cõi đời này, lẽ nào chúng ta lại không dám bỏ người thân, của cải, và ngay cả chính mình để bước theo Người?

3. Thánh giá đẽo gọt đời ta

Có người đàn ông kia là một kitô hữu, vợ con ông đều chết cả, tài sản bị tiêu tan, địa vị cũng không còn, chỉ còn duy nhất một đức tin mong manh. Một hôm, ông đến gần một người thợ đang xây nhà thờ, thấy người kia đang đẽo gọt một miếng đá nhỏ để tạo ra một tam giác đứng, ông nhìn hồi lâu rồi hỏi:

- Anh đang làm gì vậy ?

- Bác nhìn lên đỉnh Tháp nhà thờ xem. Ở đó có một chỗ trống. Tôi đang đẽo miếng đá nhỏ này để đặt nó vào đó.

Ông gật gù ngẫm nghĩ, và cảm thấy như thể Chúa nói với mình: “Ta đang đẽo gọt con để con thích hợp với chỗ trống trong công trình của Ta...”, và ông rời chỗ ấy ra đi, tràn nước mắt hạnh phúc.

Lạy Chúa, mấy hôm nay con đang chán nản vì những thử thách nặng nề. Xin cho con đôi vai đủ lớn và đôi chân đủ mạnh để con vác thập giá đi theo Chúa.

4. Mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài

Bob Ernst kể lại cuộc đời của ông: Tôi sinh ra và lớn lên trong nghèo khó, cùng với sáu anh trai, ba chị em gái. Dù gia đình tôi không có bất cứ tài sản quý giá gì, nhưng lúc nào cũng tràn ngập tình yêu thương và sự quan tâm. Tôi sống hòa đồng với mọi người, năng động trong mọi việc. Tôi luôn nuôi dưỡng cho mình một ước mơ và cố gắng để thực hiện.

Tôi mong muốn được trở thành vận động viên bóng chày. Khi 16 tuổi, tôi đã có thể ném trái bóng chày trúng bất cứ vật gì đang di chuyển trong sân banh với tốc độ 90 dặm giờ. Tôi thật sự may mắn khi thầy huấn luyện viên không chỉ tin tưởng tôi mà còn dạy tôi biết tin vào chính mình. Thầy chỉ cho tôi thấy sự khác nhau giữa việc có một ước mơ và việc tin vào ước mơ ấy. Và một chuyện xảy ra đã thay đổi hẳn cuộc đời tôi.

Đó là vào mùa hè giữa năm học thứ ba, một người bạn giới thiệu cho tôi công việc làm thêm. Điều đó có nghĩa là tôi sẽ có cơ hội kiếm tiền - cho những cuộc hẹn hò với bạn gái, mua xe đạp, mua quần áo mới và bắt đầu tiết kiệm để mua nhà cho mẹ tôi. Viễn cảnh thú vị thôi thúc tôi giành lấy ngay cơ hội ấy.

Song, tôi cũng nhận ra rằng mình phải từ bỏ các buổi tập bóng chày để làm việc. Điều này làm tôi hơi lo ngại. Tôi tự trấn an mình bằng lời khuyên của mẹ: "Nếu các con đã làm việc gì, các con phải chịu trách nhiệm về điều đó."

Khi nghe tôi xin phép sẽ thôi không chơi bóng nữa, thầy giận dữ:

- Em còn cả cuộc đời phía trước để làm việc trong khi chỉ có khoảng thời gian ngắn ngủi để chơi bóng. Đừng hoài phí nó.

Tôi cúi gằm mặt, cố tìm lời giải thích về ước mơ mua xe đạp, mua căn nhà mới cho mẹ.

- Em kiếm được bao nhiêu tiền với công việc này? - Thầy hỏi.

- 5 đô la một giờ, thưa thầy. - Tôi đáp.

- Thế thì 5 đô la là cái giá cho ước mơ của em phải không?

Câu hỏi bất ngờ và thắng thắn đó của thầy đã vạch cho tôi thấy rõ sự khác biệt giữa việc đạt một điều trước mắt và việc hướng đến mục tiêu lâu dài. Tôi bừng tỉnh và quyết tâm dốc hết toàn bộ sức lực, ý chí vào các trận đấu bóng chày mùa hè năm đó và tôi đã được câu lạc bộ Pittsburgh Pirates mời chơi bóng với hợp đồng trị giá 20 ngàn đô-la. Tôi cũng góp phần giành cúp vô địch cho trường đại học Arizona. Sau đó, tôi ký hợp đồng trị giá 1,7 triệu đô la với câu lạc bộ nổi tiếng Denver Broncos và mua cho mẹ tôi căn nhà như tôi hằng mơ ước.

5. Đời này và đời sau

Ông Phêrô và ông Gioan theo Chúa lên núi,Chúa bảo các ông: Mỗi người chúng con lượm hai cục đá mang theo. Nghe thế, ông Phêrô cầm hai cục đá nhỏ bằng hòn bi; còn ông Gioan lấy hai khối đá lớn vác trên hai vai. Đi được một lúc, ông Phêrô trông dáng bạn mình có vẻ nặng nề, vất vả quá, liền chế nhạo:

- Coi tớ này, cũng mang đá mà có vất vả gì đâu, ai bảo cậu dại vác hai cục to thế mà chuốc khổ vào thân? Thầy chỉ nói mỗi người lấy hai cục đá mang theo thôi mà!

Ông Gioan trả lời:

- Ôi tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi! (2Cr 5,14).

Đi một quãng xa, cả hai môn đệ cùng thưa với Chúa Giêsu:

- Thưa Thầy, chúng con đói và khát quá, chúng ta ngồi nghỉ chân một lát và kiếm gì ăn cho đỡ dạ!

Chúa Giêsu bảo:

- Vậy chúng ta đến gốc cây kia ngồi nghỉ mệt!

Rồi Ngài nói tiếp:

- Bây giờ chúng con đặt hai cục đá của mình ra trước mặt.

Hai ông mau mắn tuân lệnh Thầy. Chúa giơ tay làm phép tức khắc đá của mỗi người: một cục biến thành bánh và cục kia hóa ra nước! Phêrô cầm mẩu bánh bỏ vào miệng nuốt chửng, và uống miếng nước chỉ đủ ướt cổ họng. Lúc đó ông Phêrô nói với ông Gioan:

- Cho tớ ăn ké với cậu, tớ còn đói qúa! Chắc không đủ sức theo Thầy được!

Ông Gioan vui vẻ đáp:

- Ủa, cậu đã quên là khi nãy cậu nhạo báng tớ mang theo hai cục đá bự là thằng dại? Thế tại sao bây giờ cậu lại ngửa tay xin “thằng dại dột” này?!

Chúa Giêsu nhìn ông Phêrô thương tình, nên bảo Gioan:

- Thôi mà con, con chia cho bạn đi!

Lúc đó ông Phêrô mới nghiệm ra Lời Thầy đã dạy: “Phàm ai không vác khổ giá mình mà đi sau Thầy ắt không thể làm môn đệ của Thầy” (Lc 14,27: Tin Mừng). Và “ai từ bỏ quyền lợi của mình thì được gấp trăm mọi sự ở đời này cùng với sự ngược đãi và sự sống đời đời” (Mc 10,29-30).

6. Cần cù không mục đích

Có hai cha con dắt con lừa về quê ngoại, dọc đường người ta phê bình:

- Cha con tên này ngu hơn lừa! Lừa để cưỡi, chứ ai lại đi dắt lừa?

Nghe thế, ông bố nói với con:

- Con lên lừa ngồi đi, để bố dắt bộ.

Họ đi được một quãng, có người khác nói:

- Thằng con thật bất hiếu, ngồi chỗm chệ trên lưng lừa, còn bố già phải đi bộ.

Đứa con nghe thế, vội nhảy xuống nói:

- Thôi, bố lên ngồi đi ạ, để con dắt, kẻo người ta bảo con bất hiếu.

Ông bố nhảy lên lưng lừa, còn đứa con dắt. Mới đi một quãng không xa, lại có người phê bình:

- Ông bố thật gian ác, bắt thằng bé đi bộ, còn ông thì ung dung trên lưng lừa!

Ông bố nghe vậy, chịu không được bèn bảo con:

- Con ơi, lên đây ngồi với bố luôn đi, kẻo người ta lại nói bố không thương con.

Thế là hai cha con cùng trên lưng lừa, con vật vì chở nặng nên chân đi vẹo vọ. Người đi đường thấy thế liền nói:

- Con vật yếu ớt vậy mà hai cha con cùng ngồi lên sao được!

Cuối cùng hai cha con nhảy xuống trói con lừa khiêng đi. Họ vừa qua chiếc cầu khỉ, con vật dãy dụa, thế là cả hai cha con cùng con lừa rớt xuống sông và bị dòng nước cuốn đi!

Và như vậy hai bố con làm việc thiếu mục đích, thiếu ý chí, nên phải chuốc lấy thất bại tủi nhục!

7. Bắt đầu từ chính mình

Một người khi còn trẻ hứa với Chúa rằng: Khi nào trưởng thành, con sẽ làm lớn quy tụ nhiều người về cho Chúa, cụ thể con phải là người lãnh đạo đất nước .

Nhưng khi anh được 50 tuổi, mà chưa lãnh đạo được ai! Anh lại quyết tâm: Ta lấy vợ, sinh con để hướng dẫn vợ con nên một gia đình gương mẫu.

Khi ông được 80 tuổi, ông chỉ thấy một đàn con cháu mất dạy! Ông rất buồn, lúc đó ông mới khiêm tốn xin Chúa: “Chúa ơi, con sắp “đai” rồi, con chẳng thực hiện được điều con ước mơ lãnh đạo người khác, bây giờ con hiểu ra rằng tại con có quá nhiều điều sai lỗi! Xin Chúa giúp con biết canh tân sửa mình để con cháu con không bắt chước lối sống thiếu gương mẫu của con, hầu khi con nhắm mắt lìa đời, con được về với Chúa trong bình an!

Chúa phán: Nếu con xin điều này lúc con còn trẻ,thì con đã thực hiện được hai điều lớn hơn con mơ ước. Bây giờ con quá già, nhiều tật xấu đã trở thành bản tính của con,và làm cho cả đàn con bắt chước, Cha có ban ơn, chắc là để con sám hối thôi, chứ dễ gì mà con sớm từ bỏ tật xấu để trở nên người đầy nhân đức, mà đàn con hư hỏng của con liệu chúng có biết lỗi mình mà sám hối như con hay không?!

8. Từ bỏ để tiến tới

Nelson Mandela, một người thông minh muốn lập nghiệp như mọi người khác. Hans Muler, một thương gia, nhìn thế giới qua lăng kính của luật cung cầu, đã nói với Mandela: "Tất cả là tiền bạc. Bởi vì giàu sang và tiền bạc đồng nghĩa với hạnh phúc. Anh phải chiến đấu cho điều đó: Tiền bạc và không gì ngoài tiền bạc. Một khi bạn có đủ tiền bạc, bạn không muốn cái gì khác trên đời." Nếu Nelson Mandela làm theo lời khuyên của Hans Muler, ông có thể làm rất tốt cho bản thân. May mắn thay cho Nam Phi. Thay vì lo cho bản thân, Nelson Mandela đã quyết định cống hiến cuộc đời mình cho việc phục vụ đất nước.

Để làm điều đó, Mandela đã phải hy sinh, ông viết: "Đối với tôi, không phải là một việc dễ dàng khi phải xa cách vợ con, giã từ những ngày xưa tươi đẹp ấy, và sau một ngày làm việc hăng say ở văn phòng. Tôi có thể quay về với gia đình trong bữa ăn tối, thay vì phải sống như một người bị cảnh sát săn đuổi liên tục, sống xa cách những người thân yêu nhất, phải đối diện liên tục với những sự bất trắc như bị nhận dạng và bắt giữ. Đó là một đời sống cực kỳ khó khăn hơn cả chịu án tù (Trích "Hành trình đến tự do", 1994, Little, Brown and Company). Nelson đã chịu 27 năm tù đày vì yêu đất nước. Ông đã trở thành tổng thống vĩ đại của Nam Phi.

9. Từ bỏ để tăng trưởng

Mùa thu về, cây trụi lá, mùa xuân đến, cây đơm lộc xanh tươi.

Cây cối cần phải từ bỏ lá già, lá cũ để khoác lá mới; nhờ thế, cây được lớn lên. Loài rắn cũng phải từ bỏ bộ da cũ để thay da mới; có vậy rắn mới trưởng thành. Loài tôm cũng phải lột vỏ nhiều lần theo đà tăng trưởng để lớn lên... Nói chung, từ bỏ là điều kiện tối cần thiết để cho muôn vật muôn loài được sống còn và tăng trưởng.

Là một sinh vật như bao nhiêu loài vật khác, nên muốn tăng trưởng và tồn tại, con người cũng không thoát ra ngoài quy luật đó.

Hằng ngày cơ thể ta loại bỏ hàng tỉ tế bào cũ để thay vào đó những tế bào mới, nhờ đó cơ thể được lớn lên và mạnh khoẻ. Nếu các tế bào cũ không chịu chết đi để nhường chỗ cho những tế bào mới, thì khối u sẽ xuất hiện và có nguy cơ dẫn đến ung thư và cái chết đau thương!

10. Tín thác hoàn toàn

Có người đã kể lại giấc mơ của mình như sau:

- Tôi mơ thấy mình đang cầu nguyện, bỗng có luồng ánh sáng xuất hiện, trong đó có Chúa Giêsu đang ngự trên một tấm thảm. Người mỉm cười bảo tôi:

- Con hãy ngồi trên tấm thảm này với Ta.

Lòng tràn ngập vui sướng, tôi đến gần Chúa và ngồi trên tấm thảm bên cạnh Người và tấm thảm từ từ bay bổng lên. Nhưng rồi tôi cảm thấy như Chúa không còn bận tâm đến tôi nữa, Người chăm chú rút từng sợi chỉ từ chiếc thảm chỗ Người và tôi. Chẳng mấy chốc tấm thảm chỉ còn lại một nửa, và giữa chỗ Chúa và tôi đang ngồi lại có một lỗ trống to lớn. Tay chân tôi bắt đầu run lên vì sợ rơi xuống đất chết. Nhưng Chúa Giêsu vẫn thản nhiên tiếp tục rút từng sợi chỉ, đến nỗi tôi khiếp sợ kêu lên:

- Lạy Chúa, Chúa làm gì vậy? Chúa không thấy tấm thảm của chúng ta đã tan tành sao?

Chúa cười rồi cầm lấy tay tôi nói:

- Sao con nghi ngờ, kém lòng tin? Con hãy bám chặt vào Ta. Con sẽ không phải sợ gì nữa, mặc dầu con phải bị tước đoạt hết cả đến sợi chỉ cuối cùng.

Người vừa dứt lời thì quả thực, sợi chỉ cuối cùng đã bị rút đi. Tôi sợ hãi quá, giật mình thức dậy...

11. Từ bỏ là định luật của cuộc sống

Trước hết, chúng ta thấy: Mọi thành quả ở trần thế này, đều đòi hỏi nỗ lực, kiên trì cố gắng mới có thể đạt thành mỹ mãn:

- Chẳng hạn, một lực sĩ muốn chiếm huy chương vàng thế vận hội, họ phải tập luyện ngày đêm, tập luyện bao nhiêu năm tháng mới chiếm được danh dự đó?

- Một người mẫu muốn có thân hình thon gọn, mỹ miều, cô phải ăn uống kiêng khem và tập thể dục, không hề ngơi nghỉ… hơi lơ là một chút thì thân hình sẽ mất hấp dẫn ngay!

- Cũng thế, một sinh viên muốn chiếm thủ khoa trong trường Đại học, hay muốn thi đậu để trở thành bác sĩ, luật sư… cũng phải bao nhiêu năm dùi mài kinh sử?

- Những người cao Cholesterol hay bị phì mập cũng phải ăn kiêng biết bao ngày tháng mới có thể giảm bớt, để có một thân hình cân đối???

12. Chọn Chúa Kitô.

Có một cô gái người nước Bỉ, tên là Odette sinh ra trong một gia đình qúy tộc, thánh thiện và rất xinh đẹp. Năm 17 tuổi, cô đã quyết định đi tu, nhưng chỉ vài ngày sau khi lãnh áo dòng cha mẹ cô đã bắt trở về. Từ lâu ông bà đã có ý gả cô cho lãnh chúa Simon thuộc lâu đài gần đó.

Mọi người đã âm thầm chuẩn bị lễ cưới cho cô, các thiệp mời đều được kín đáo gởi đi. Nhưng vì lòng đã quyết đi tu dâng mình cho Chúa, khi đến phần giao ước, Odette đã dõng dạc tuyên bố: "Con không chấp nhận lãnh chúa Simon cũng như bất cứ người nào làm chồng, bởi vì tình yêu và đức tin con đã hiến dâng cho Thiên Chúa từ lâu." Hơn nữa, sáng hôm sau, cô đã dùng gươm cắt chiếc mũi xinh đẹp của mình, nhằm hủy họai sắc đẹp của mình để không còn ai cấm cô đi tu nữa.

Thật vậy, khi vết thương đã lành, cô được phép nhập tu viện. Ba năm sau đó được bầu làm tu viện trưởng lúc mới 23 tuổi.

13. Đuổi theo cái ảo

Có một câu chuyện về một cô gái tên Antoinette, cô rất xinh đẹp nhưng rất nghèo. Cô chỉ có một mục tiêu trong đời trở nên giàu có. Hy vọng duy nhất của cô là lấy được một người giàu sang. Nhưng cuộc sống đưa đẩy cô lấy một viên chức nhà nước. Chồng cô cố gắng làm cho cô được hạnh phúc nhưng không thể đáp ứng những điều mà cô mơ ước – quần áo đẹp, nữ trang, một căn nhà với đầy đủ đồ đạc cao cấp, và v.v…

Cô từ chối đi làm ở bên ngoài, và sống những ngày khốn khổ và tuyệt vọng. Cô than phiền rằng vợ chồng cô chưa bao giờ đi đâu. Một lần kia, chồng cô được mời đến dự một bữa tiệc của tiểu bang, nhưng rồi cô lại than phiền cô không có trang phục thích hợp để mặc. Vì thế chồng cô phải gom góp hết tiền tiết kiệm khiêm tốn ở ngân hàng. Với số tiền đó, Antoinette mua được một chiếc áo mới. Sau đó cô còn mượn một chuỗi hạt của một người bạn học cũ tên Marie, rất hợp với chiếc áo mới.

Và thế là cô đã đi dự tiệc. Cô là người phụ nữ đẹp nhất ở đó và vui hưởng mọi sự chú ý mà cô có được. Tuy nhiên, khi họ về đến nhà vào lúc trời gần sáng, cô kinh hoàng khám phá chuỗi hạt đã mất.

Họ tìm kiếm chuỗi hạt khắp nơi nhưng không tài nào tìm được. Cô không có can đảm nói với Marie sự thật. Vì thế họ mua một chuỗi hạt khác hoàn toàn giống với chuỗi hạt đã mất. Nó giá 40.000 quan Pháp, một món tiền mà họ phải đi vay với lãi suất rất cao. Khi họ trả chuỗi hạt ấy cho Marie, cô này không bao giờ nhận ra sự khác nhau. Thật vậy, cô ta nhét chuỗi hạt vào ngăn kéo mà không nhìn đến nữa.

Giờ đây Antoinette biết cái nghèo thật sự là gì, nhưng cô quyết định góp phần để trả món nợ của họ. Họ trả lại căn phòng ở tầng trên và dọn xuống tầng hầm. Họ cho cô đầy tớ nghỉ việc. Antoinette tự mình làm việc nhà và còn đi làm việc ở bên ngoài. Họ xin xỏ và dành dụm từng đồng. Họ phải mất mười năm để trả hết món nợ nần. Giờ đây Antoinette trông giống một bà già. Một ngày kia tình cờ cô gặp lại Marie trong đường phố.

“Ôi, sao bạn già đi nhiều thế!” Marie nói.

“Tôi đã trải qua những thời gian rất khó khăn kể từ lần cuối cùng chúng ta gặp nhau, và tất cả là vì bạn”, Antoinette đáp.

“Vì tôi ư? Tôi không hiểu."

Rồi Antoinette nói với Marie về việc cô đánh mất chuỗi hạt và việc hai vợ chồng cô đã làm việc bấy nhiêu năm để trả lại món tiền. Nghe đến đây Marie nói: “Bạn định nói rằng bạn đã mua một chuỗi hạt bằng kim cương để thế vào chuỗi hạt của tôi?

“Vâng” Antoinette đáp, “và bạn không bao giờ nhận ra đâu”

“Ôi, Antoinette đáng thương của tôi!” Marie kêu lên. “Tại sao lại như vậy, chuỗi hạt của tôi chỉ là một sản phẩm nhái lại. Cùng lắm, nó chỉ đáng giá 400 quan."

14. Vác thập giá để bước lên cao

Hồi còn trong chủng viện, tôi đã có dịp nghe nói đến bác sĩ Tom Dolay qua bản dịch tập nhật ký sang tiếng Việt có tựa đề là: “Lào Quốc Đèo Heo Hút Gió” ghi lại công việc phục vụ của bác sĩ tại một nơi mà ngày nay chúng ta có thể gọi là “vùng sâu, vùng xa." Trong khi dấn thân phục vụ anh chị em cùng khổ, bác sĩ Tom Dolay phải chiến đấu với chính thập giá của bản thân mà ông gọi một cách bóng bảy là “ngọn núi cao nhất” của đời ông mà ông đã phải vượt qua, đó chính là căn bệnh ung thư mà ông đang mắc phải. Bác sĩ đã không vượt qua được ngọn núi cao này, đã chịu thua căn bệnh ung thư và qua đời lúc mới 34 tuổi.

Vì muốn sống trọn vẹn hơn đức tin vào Chúa, bác sĩ Tom Dolay đã từ bỏ gia đình, từ bỏ những tiện nghi của một cuộc sống sung túc an nhàn để ra đi phục vụ những con người cùng khổ nơi vùng xa và vùng sâu. Bác sĩ đã thực hiện nơi chính bản thân điều chúng ta vừa đọc trong đoạn Phúc âm hôm nay: “Ai không bỏ cha mẹ, vợ con anh chị em mà đến với Ta thì không thể làm môn đệ Ta. Ai không vác thập giá mình mà theo Ta thì không thể làm môn đệ Ta." Và không phải là vác trong giây lát, trong lúc cần thiết để biểu diễn cho người khác nhìn thấy mà phải vác hàng ngày, thường xuyên trong âm thầm, không ai nhìn thấy, chỉ mình Chúa biết mà thôi.

Bác sĩ Tom Dolay đã ghi lại trong tập nhật ký như sau: Tôi phải tiếp tục thi hành công tác đang làm như một bác sĩ bao lâu Chúa còn cho tôi thời gian sống ở trần gian này để thực hiện nó. Tôi tiếp tục sống dịu hiền, bởi vì để sống hiền dịu con người phải có can đảm. Giờ đây, đứng trước ngọn núi cao nhất của đời tôi, (tức là chính căn bệnh ung thư mà bác sĩ đang trải qua) tôi còn phải can đảm hơn nữa, mặc dù can đảm đôi khi chỉ là một bài ca buồn. Hy vọng vẫn còn và bất cứ nơi nào còn có người can đảm chiến đấu, tôi không có ý định nằm im chờ chết trên giường bệnh, còn rất nhiều việc phải làm trong thế giới này.

15. Tôi là thứ ba.

Sayers là một cầu thủ nổi tiếng. Anh được báo chí đánh giá là một trong những hậu vệ chạy nhanh nhất trong lịch sử môn bóng đá chuyên nghiệp. Thế nhưng lúc nào anh cũng đeo trên cổ mình một tấm mề đay bằng vàng, trên đó đó khắc ghi bốn chữ:

- Tôi là thứ ba.

Và trong cuốn tự thuật của mình, anh đã cho biết nguồn gốc và ý nghĩa của bốn chữ đó như sau:

Ngày kia, tôi đến thăm ông Bill Easte, huấn luyện viên của tôi. Tôi thấy ông đặt trên bàn làm việc của ông khẩu hiệu này. Tôi đọc mà chẳng hiểu, nên nhờ ông cắt nghĩa và ông đã nói cho tôi hay:

- Thiên Chúa là thứ nhất, tha nhân là thứ hai còn tôi là thứ ba.

Kể từ đó, tôi cũng đã chọn bốn chữ này làm khẩu hiệu sống cho cuộc đời mình.

Và cũng trong quyển tự thuật ấy, anh viết tiếp:

- Tôi cố gắng sống khẩu hiệu trên. Không phải lúc nào cũng thành công, nhưng dù sao việc mang khẩu hiệu ấy nơi cổ cũng nhắc nhở tôi và giúp tôi khỏi đi trệch đường quá xa.

16. Ơn gọi theo Chúa

Martin và Guerin, đôi thanh niêu thiếu nữ ấy, đã đi tìm lý tưởng tận hiến trong bậc sống tu trì. Nhưng nhận thấy đó không phải là con đường Chúa muốn, họ quyết định bước vào cuộc sống đôi bạn. Cô Guerin cầu nguyện chân thành: “Lạy Chúa, vì con không xứng đáng trở nên bạn trăm năm của Chúa thì con đi vào con đường đôi bạn, để làm tròn thánh ý Chúa. Nhưng xin Chúa ban cho con nhiều con, để con hiến dâng tất cả cho Chúa." Tất cả con con đều đi tu mà Têrêxa Giêsu Hài đồng là cô út và là vinh quang của gia đình Martin Guerin.

Vậy đối với người muốn làm đồ đệ Chúa cũng phải lãnh nhận mọi hy sinh của ơn gọi, để khi đã “cầm” cày thì không quay mặt nhìn lui, hoặc đi tìm đúng con đường Chúa muốn.

17. Lợi ích của đau khổ

Dostoyevsky chỉ mới 20 tuổi khi ông viết cuốn sách đầu tiên nhan đề Người Nghèo. Cuốn này đạt được thành công lớn. Ông đã mau chóng trở thành nổi tiếng. Sự tâng bốc này có thể dẽ dàng làm ông trở nên ngông cuồng nhưng cũng do sự kiện ấy, không bao lâu sau, ông đụng chạm với chính quyền. Bị buộc tội một cách sai lầm là một người vô chính phủ, ông bị bắt giữ và cùng mấy người khác bị kết án tử hình. Tuy nhiên, bản án giảm xuống thành án tù và cùng với các bạn, ông bị đày đến Xibêri. Dostoyevsky trải qua bốn năm lạnh lẽo ở đó. Mười năm trôi qua trước khi ông cầm bút trở lại.

Kinh nghiệm ấy, thay vì làm ông cay cú và tàn phá đời ông, đã làm ông phong phú rất nhiều. Giờ đây, ông đã có mười năm đau khổ để rút tỉa sức mạnh và quyền bính cao cả. Bất cứ lúc nào có người đến gặp ông và nói: “Ông lấy quyền gì để nói thay cho dân chúng?” Thì ông chỉ việc kéo ống quần cao lên và chỉ cho người ta thấy những vết sẹo mà xiềng xích còn để lại. “Đây là quyền của tôi” ông nói. Và những người đã hỏi ông phải im lặng.

Đối với những người tỏ vẻ ái ngại về mọi đau khổ mà ông đã chịu đựng, ông nói “Nhà tù đã cứu tôi. Vì có nhà tù, tôi đã trở thành một con người hoàn toàn mới. Xibêri và sự giam giữ đã trở thành một niềm vui to lớn đối với tôi. Chỉ ở đó, tôi mới có thể sống một đời sống thanh khiết và hạnh phúc. Chỉ ở đó, tôi mới nhìn thấy mình rõ ràng và đó là nơi tôi học biết Đức Kitô. Đó là một trường học tốt. Nó làm đức tin tôi mạnh mẽ và làm tỉnh thức lòng yêu thương những người phải chịu đau khổ với lòng nhẫn nại. Nó cũng làm mạnh mẽ tình yêu của tôi đối với nước Nga, và mở mắt tôi để tôi thấy những phẩm chất cao cả của dân tộc Nga."

18. Có bao nhiêu môn đệ?

Lin Chi là bậc thiền sư nổi tiếng về đức độ. Rất nhiều người nhận ông làm sư phụ. Một hôm có bậc vị vọng trong nước ghé thăm tu viện và kinh ngạc khi nghe biết có khoảng 10 ngàn người đang tu học ở đó. Vì muốn biết đích xác con số nên vị khách đã lên tiếng hỏi Lin Chi: “Ngài có tất cả bao nhiêu môn đệ?” Lin Chi trả lời: “Chừng 4 hay 5.”

Lạ thật! Với hàng chục ngàn người theo học mà chỉ có 4,5 người là môn đệ chính tông. Không biết đó là chuyện đáng vui hay đáng buồn.

Nếu hôm nay có người hỏi Chúa: Ngài có chính xác bao nhiêu môn đệ? Không biết Chúa sẽ trả lời ra sao. Phải chăng Ngài cũng phải xác nhận rằng nhiều người “có tiếng mà không có miếng.”

19. Dâng hết cho Chúa

Vào năm 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô đã phong thánh cho cặp vợ chồng hiện đại đầu tiên, Louis và Zelie Martin. Ngài nói họ “sống đời phục vụ của Kitô hữu trong gia đình, ngày qua ngày tạo ra một môi trường đức tin và tình yêu nơi đã nuôi dưỡng ơn gọi của các cô con gái của họ, trong số đó có Thánh Têrêsa [Lisieux].”

Không có gì lạ khi các cuộc hôn nhân trở nên căng thẳng sau cái chết của một đứa trẻ và gia đình Martin đã chịu đựng cái chết của bốn đứa trẻ sơ sinh. Thay vì tuyệt vọng, họ sống như một mẫu mực của sự thánh thiện hôn nhân cho năm đứa con còn lại. Ngày của họ được chia thành thời gian cầu nguyện, làm vườn, và thư giãn, phần lớn là ở vùng nông thôn nơi Têrêxa thừa hưởng tình yêu hoa cỏ và thiên nhiên của cha mình.

Sau khi vợ qua đời, Louis phải vật lộn với sự cô đơn khi từng người trong số năm cô con gái của ông vào tu viện và trở thành nữ tu. Ông vẫn nói, “Thật là một vinh dự lớn lao cho tôi khi Chúa nhân từ mong muốn lấy hết các con của tôi. Nếu có điều gì tốt hơn, tôi sẽ không ngần ngại dâng cho Chúa.”

THỨ NĂM – ĐI TÌM CON CHIÊN LẠC

Lời Chúa: Lc 15, 1-10

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người Biệt phái và Luật sĩ lẩm bẩm rằng: "Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi, cùng ngồi ăn uống với chúng." Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: "Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được sao? Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: 'Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!' Cũng vậy tôi bảo các ông: Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải.

"Hay là người đàn bà nào có mười đồng bạc, nếu mất một đồng, mà lại không đốt đèn, quét nhà và tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy sao? Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em bạn và những người láng giềng đến mà rằng: 'Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất'. Cũng vậy, tôi bảo các ông: Các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải." Đó là lời Chúa.

TRUYỆN KỂ

1. Mục tử chăn dẫn đoàn chiên

Thánh Gioan Maria Vianey nói: “Linh mục thánh thiện, thì giáo dân đạo đức; Linh mục đạo đức, thì giáo dân tầm thường; Linh mục tầm thường, thì giáo dân ra quỷ!” Vậy nếu Linh mục mà ra quỷ, thì giáo dân còn độc ác hơn quỷ vương Beelzebul!! Vì cha Sở chịu trách nhiệm với giáo dân trong xứ. Thế thì các Đức Giám mục là chiên đầu đàn, phải chịu trách nhiệm với các Linh mục trong địa phận: “Giám mục thánh thiện, Linh mục đạo đức, Giám mục đạo đức, Linh mục tầm thường, Giám mục tầm thường, Linh mục ra quỷ!” Quỷ đội lốt Linh mục thì giết Thân Thể Mầu Nhiệm Chúa Giêsu, như xưa quỷ đội lốt đầu mục Do Thái đã giết Con Thiên Chúa! Thánh Augustin nói: “Làm Giám mục cho anh em, tôi rất lo sợ, làm tín hữu với anh em, tôi rất an tâm. Vì Giám mục chỉ là một chức vụ, tín hữu mới là một ân phúc. Giám mục là một danh hiệu nguy hiểm, tín hữu là một danh hiệu đem ơn cứu độ!”

2. Đưa Mẹ về nhà

Bà cố của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II qua đời sớm, lúc ấy cậu Karol Wojtyla lên 7 tuổi, đứng bên giường mẹ đang hấp hối, cậu khóc nức nở! Người mẹ nắm tay con ôn tồn nói: “Con đừng khóc, mẹ này chỉ là vú nuôi con, khi Chúa rước vú này về với Chúa, thì người Mẹ thật của con là Đức Maria xuất hiện, sẽ đích thân chăm sóc con.”

Từ ngày ấy, cậu Karol Wojtyla tỏ lòng sùng kính Đức Mẹ cách đặc biệt, tưởng đó cũng là lý do quan trọng mà ngày 18-10-1978 Chúa đã chọn ngài lên ngôi Giáo hoàng (Gioan Phaolô II), đem lại nhiều lợi ích cho Hội Thánh và cả xã hội trong mọi lãnh vực. Ngài thành công như vậy là đã sống như thánh Gioan Tông Đồ: “đưa Mẹ về nhà mình” (Ga 19,27).

3. Tình yêu để nuôi dưỡng

Một chú bé nghèo khổ, quần áo tả tơi, không biết chữ o tròn hay méo, lê đôi chân gầy đến một khu phố nghèo nàn ở Ba-lê (Pháp). Chú ấy là tên là Gioan, lên 6 tuổi, đi tìm ông già Bou-in, sống bằng nghề viết thư mướn.

 Chú bé vào nhà lễ phép cúi đầu chào ông cụ. Ông già hỏi:

- Cháu muốn gì? Chú vội thưa:

- Cháu muốn viết một bức thư. Ông già ra giá ngay:

- Đưa đây 10 xu. Chú bé ngập ngừng rồi thưa lại:

- Xin lỗi cụ, cháu không có tiền.

Nói xong chú thất thểu đi ra, ông già ngó theo thương hại, kêu chú trở lại:

- Này, mày không có đến 10 xu sao? Mày là con ai? Chú bé từ tốn đáp:

- Dạ cháu là con má cháu. Ông già nói:

- Vậy là ta hiểu rồi, cháu không có 10 xu, má cháu cũng không có, vậy viết thư để xin chút cháo ăn đỡ đói phải không? Chú bé gật đầu. Ông già nói tiếp:

- Được rồi vào đây ông viết giúp cho.

Ông Bou-in nghĩ thầm: Mình có hy sinh một chút thời giờ, tốn ít mực, ít giấy thì cũng chẳng ra nghèo. Ông liền lấy bút giấy ra viết: Ba-lê, ngày… tháng… năm… Kính thưa ông.” Rồi ông già đọc lại cho chú bé nghe và bảo muốn xin gì thì nói để ông viết tiếp. Chú bé ấp úng:

- Dạ không phải ông ạ! Ông già gạn hỏi:

- Không phải ông thì bà? Chú bé run run thưa lại:

- Dạ cũng không phải bà. Ông Bou-in thấy bực mình nên cáu gắt nói:

- Đã không biết ai để gởi mà lại đòi viết thư. Chú bé lấy hết can đảm thưa lại:

- Dạ, cháu muốn viết thư cho Mẹ Maria. Ông già cười rộ rồi nghiêm nghị nói:

- Mày chế nhạo lão gìa này hả? Cút ra khỏi nhà tao ngay!

Chú bé ngoan ngoãn bước ra khỏi cửa, ông già nhìn theo thấy tội nghiệp nên gọi chú trở lại, quan sát kỹ chú bé một lúc, ông hỏi tiếp:

- Tên cháu là gì?

- Dạ tên cháu là Gioan.

- Gioan gì nữa?

- Dạ, Gioan thôi ạ.

- Nhưng cháu muốn xin gì cùng Đức Mẹ?

- Dạ cháu muốn thưa với Ngài là má cháu đã ngủ từ 4 giờ chiều hôm qua, hai tay để trên ngực, người lạnh ngắt, cháu không làm sao đánh thức má cháu dậy được!

Nghe đến đó ông già hiểu ngay là mẹ em đã chết vì đói, ông rươm rướm nước mắt và nghĩ thầm: mình chẳng thiếu của ăn, còn mẹ con chú này thì lại chết đói! Ông già ôm ghì lấy chú bé vào lòng, và ôn tồn nói:

- Từ nay ông sẽ là ba của cháu.

Vậy một bức thư không được gởi đi, những đã có hiệu quả là cụ già biết thương người, và Mẹ trên trời đã dùng cụ để chăm sóc cậu bé Gioan.

Cụ già này đã thực thi lời thánh Tông Đồ dạy: “Không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Vậy dù sống dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa.”

Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa, thì vẫn còn có Chúa đón nhận con (Tv 27/26,10).

4. Tấm lòng làm nên người vĩ đại

Có rất đông người xếp hàng sau lưng một người đàn ông lớn tuổi đang sử dụng máy gửi và trả tiền tự động một cách chậm chạp. Một số người nóng nảy la lên: “Tôi không có rảnh cả ngày như ông đâu!” Người đàn ông này lúng túng thấy rõ. Thấy vậy, một người phụ nữ trẻ bước ra khỏi gian hàng và nói: “Bác có muốn cháu giúp không?” Ông ta đáp: “Xin vui lòng. Đây là lần đầu tiên tôi dùng máy này và không biết phải làm sao.”

Khi gặp những tình huống trái ý, tôi phản ứng như những kẻ la lối hay như những người sẵn sàng giúp đỡ?

Người vĩ đại là người coi việc hoàn thành bổn phận của mình là vĩ đại, người tầm thường là người coi việc hoàn thành bổn phận là tầm thường. (Ngạn ngữ Trung Quốc)

5. Tận tâm

Cách đây nhiều năm, tạp chí Chicago Tribune đăng câu truyện về Bill Martin, một người đã muốn trở thành ngôi sao quần vợt. Câu truyện như sau: “Anh ta bắt đầu yêu thích môn quần vợt từ khi còn là cậu bé 8 tuổi. Anh ta chơi tám giờ mỗi ngày ở câu lạc bộ River Forest.” Bill nói rằng sự say mê quần vợt khiến anh trở nên xa lạ với bạn bè cùng lứa tuổi. Thời khóa biểu nghiêm ngặt không cho phép anh có thì giờ chơi với chúng. Tuy nhiên, Bill gạt đi khó khăn này và nói: “Cô đơn chỉ là một phần của hy sinh.”

Sự tận tâm của tôi đối với Chúa Giêsu có phản ánh sự tận tâm của Bill đối với môn quần vợt không? Tại sao?

Sự tận tâm không phải là một cái gì mau qua, đến rồi đi, nhưng vững bền, quen thuộc, trải dài suốt cuộc sống và điều chỉnh tư cách của ta. (Douglas V. Steere)

6. Yêu quí con chiên lạc

Một giáo viên yêu cầu học sinh cập nhật hóa dụ ngôn con chiên lạc của Chúa Giêsu. Một học sinh viết: “Giả như bạn đánh máy tập tài liệu 100 trang, sau đó khám phá ra bị mất một trang, bạn sẽ làm gì? Bạn sẽ tìm kiếm, và khi tìm thấy, bạn vui mừng đến độ ném 99 trang kia đi và nói: “Ta đã tìm được trang giấy bị mất.” Đó chính là cảm giác của Thiên Chúa khi bạn trở lại đạo.”

Tôi có cố gắng giúp một kitô hữu tiêu cực trở nên tích cực không? Bằng cách nào?

Mọi trục trặc chỉ là những cơ hội có nhiều chông gai. (Hugh Miller).

7. Chỗ đứng của tình yêu

Kinh Lễ theo Nho giáo nói, con người tự nhiên có 7 thứ tình cảm (thất tình) là hỷ (vui), nộ (giận), ai (buồn), cụ (sợ), ái (yêu), ố (ghét), dục (ham muốn). Về lòng ham muốn, Phật giáo dạy có 6 loại (lục dục). Mọi thứ khổ não trên đời là do thất tình lục dục đó mà ra.

Nơi Thiên Chúa, mọi sự đều quy về tình yêu vì Chúa là Tình Yêu. Vì yêu nhân loại nên Chúa buồn khi con người tội lỗi, bởi vì tội làm cho con người phải trầm luân hoả ngục, xa cách Chúa. Cũng vì yêu thương, Thiên Chúa vui mừng nhất khi con người ăn năn sám hối, trở về với Chúa để đón nhận ơn cứu độ; và đâu chỉ có Chúa vui mừng mà thôi, cả “triều thần Thiên Chúa,” những ai thuộc về Ngài cũng vui mừng “vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.”

THỨ SÁU - KHÔN NGOAN ĐỂ TÍCH CỰC XÂY DỰNG NƯỚC TRỜI

Lời Chúa: Lc 16, 1-8

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Một người phú hộ kia có một người quản lý; và người này bị tố cáo đã phung phí của chủ. Ông chủ gọi người quản lý đến và bảo rằng: "Tôi nghe nói anh sao đó. Anh hãy tính sổ công việc quản lý của anh, vì từ nay anh không thể làm quản lý nữa." Người quản lý thầm nghĩ rằng: "Tôi phải làm thế nào, vì chủ tôi cất chức quản lý của tôi? Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Tôi biết phải liệu thế nào để khi mất chức quản lý thì sẽ có người đón tiếp tôi về nhà họ."

"Vậy anh gọi từng con nợ của chủ đến và hỏi người thứ nhất rằng: "Anh mắc nợ chủ tôi bao nhiêu?" Người ấy đáp: "Một trăm thùng dầu." Anh bảo người ấy rằng: "Anh hãy lấy văn tự, ngồi xuống mau mà viết lại năm mươi." Rồi anh hỏi người khác rằng: "Còn anh, anh mắc nợ bao nhiêu?" Người ấy đáp: "Một trăm giạ lúa miến." Anh bảo người ấy rằng: "Anh hãy lấy văn tự mà viết lại: tám mươi."

"Và chủ khen người quản lý bất lương đó đã hành động cách khôn khéo: vì con cái đời này, khi đối xử với đồng loại, thì khôn khéo hơn con cái sự sáng."

TRUYỆN KỂ

1. Hành động khôn khéo

Mạnh Thường Quân là người giàu có, cho vay mượn nhiều. Một hôm ông sai Phùng Huyên sang đất Tiết Thành đòi nợ. Khi đi, Phùng Huyên hỏi:

Ngài có định mua gì về không?

Xem thứ gì nhà ta chưa có thì mua.

Khi đến đất Tiết Thành, Phùng Huyên cho gọi dân tới bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”, rồi chẳng tính gì gốc lãi, đem đống văn tự ra đốt sạch.

Khi trở về, Phùng Huyên nói với Mạnh Thường Quân:

Nhà ngài không thiếu thứ gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm phép mua ở đất Tiết Thành cho Ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài.

Về sau, Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết Thành. Dân ở đây nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Huyên:

Đó là cái ân nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước...

2. Hành xử khôn khéo

Một đạo sĩ đi ngang qua cây dừa, một chú khỉ hái dừa ném xuống đầu ông. Ðạo sĩ lẳng lặng bổ ra lấy nước uống rồi ăn luôn cùi dừa, còn lại vỏ dừa, ông làm thành chén ăn cơm. Nét điềm tĩnh của đạo sĩ là nắm lấy mọi cơ hội trong cuộc sống để mưu ích cho mình. Ông quên đi niềm đau trên đầu của mình cũng như sự tinh nghịch của chú khỉ, để sử dụng tối đa ích lợi của trái dừa.

Khôn ngoan để luôn luôn tích cực xây dựng Nước Trời, đó là lời Chúa Giêsu nhắn nhủ qua dụ ngôn người quản lý trong Tin Mừng hôm nay.

3. Ở đây dùng tiền cho đi

Một người kia suốt đời chỉ lo thu gom tiền bạc, cho nên rất giàu. Khi chết, ông còn ôm túi vàng theo mình đi sang cuộc sống bên kia. Đi một hồi ông thấy đói. Bỗng ông thấy một quán ăn bên đường, liền ghé vào. Vì hà tiện, ông hỏi người chủ quán:

- Tô cơm nhỏ này giá bao nhiêu?

- Chỉ một đồng thôi.

- Còn tô lớn kia?

- Cũng chỉ một đồng thôi.

Thấy rẻ, ông gọi luôn hai tô lớn. Nhưng người chủ quán bảo:

- Ở đây chỉ xài loại tiền-cho-đi thôi. Ông có không?

Người hà tiện chỉ vào túi vàng của mình. Nhưng chủ quán nói:

- Đó chỉ là thứ tiền-lấy-vào. Ở đây không xài được.

- Thế tiền-cho-đi là tiền gì?

- Khi còn sống, mỗi lần ông cho ai bao nhiêu đồng thì ông được ban lại bấy nhiêu đồng loại tiền-cho-đi.

Ông nhà giàu lục lọi khắp nơi trong mình nhưng chẳng có đồng nào thuộc loại tiền-cho-đi cả. Thế là ông phải nhịn đói.

Bao nhiêu đồng tiền cho đi là bấy nhiêu đồng tiền để dành cho đời sau vậy.

4. Ba thứ làm cho mình chết

Vua Ai Công nước Lỗ hỏi Khổng Tử:

- Người khôn có sống lâu không?

Khổng Tử đáp:

- Khôn thì sống lâu, chớ dại thì sống lâu sao được!

Người ta có ba thứ chết, tự mình làm cho mình chết, chứ không phải số mạng đáng chết mà chết.

+ Ăn uống không có chừng mực, thức ngủ không có điều độ, làm lụng khó nhọc quá, lười biếng chơi bời quá, người như thế, thì phải chết về bệnh tật

+ Phận là người dưới, mà xúc phạm người trên, lòng tham muốn không ngừng, tính yêu cầu không chán, người như thế thì chết về hình pháp.

+ Mình ngu, mà mình kịch người khôn, mình yếu mà khinh bỉ người mạnh; không biết lượng sức mạnh, mà cứ giận dữ làm liều, người như thế thì chết vì binh đao.

Ba thứ chết ấy thực không phải là số mệnh, chỉ tự mình giết mình mà thôi.

5. Cái hộp khôn ngoan

Đức Giáo Hoàng Innocentê II có một chiếc hộp, Ngài thường mở ra coi; người thì cho là trong đó để một di vật quý của gia đình Ngài, người thì cho là tượng Chúa hoặc ảnh một vị thánh, người thì cho là hài cốt của vị thánh Ngài tôn sùng.

Một hôm, cha Claudius Aquavina Bề Trên dòng Tên, bạn thân của Đức Giáo Hoàng, vào yết kiến, gặp lúc Đức Giáo Hoàng đang mở hộp xem, Ngài bảo cha Claudius đoán xem, hộp đó đựng gì? Cha Claudius không đoán được.

Lúc đó, Đức Thánh Cha mới mở hộp ra, trong hộp này có một quan tài nhỏ, và trong quan tài có để chân dung Đức Thánh Cha. Rồi Đức Thánh Cha nói: "Vào lúc khởi đầu điểu khiển Giáo Hội, ta phải quyết định nhiều việc quan trọng. Thường thì dân chúng cố áp lực với ta, không chỉ bằng tranh luận, mà cả bằng tiền tài và danh dự nữa. Nhưng trước khi quyết định bất cứ vấn đề trọng đại nào, ta cũng mở hộp này ra, nhìn vào quan tài đựng chân dung của ta, và tự nhủ: "Hỡi Innocentê, ngày kia ngươi sẽ chết, khi ngươi nằm vào quan tài, thì ngươi liệu còn làm được gì nữa không? Lúc ấy ngươi nghĩ phải làm sao, thì bây giờ ngươi hãy làm đi!

Vì thế ta đã hành động theo đúng những quyết toán được định đoạt ở đây, bên chiếc hộp đựng quan tài này."

6. Lách Luật xã hội để thủ lợi.

Đức Giêsu nói về tên quản lý bất lương, anh nghe ngóng rằng mình sẽ không còn được chủ cho tiếp tục làm quản lý nữa,vì bị mang tiếng là phá tài sản nên hắn gọi các con nợ đến và bảo: “Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy? Người ấy đáp: "Một trăm thùng dầu ô-liu. Anh ta bảo: "Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi. Rồi anh ta hỏi người khác: "Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy? Người ấy đáp: "Một trăm giạ lúa. Anh ta bảo: "Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám mươi thôi.” (Lc 16,5-7: Tin Mừng).

Tại sao người quản lý này lại bảo con nợ làm như thế?

 Thưa vì:

a- Luật Do Thái chỉ cho người đồng chủng vay mà thôi, và không lấy lời đối với người nghèo (x Xh.22,24; Lv.25,36; Dnl.23,20t).

Các Luật sĩ lại cắt nghĩa: Người nghèo là người không đủ dầu để thắp một ngọn đèn, và không đủ bột để làm một chiếc bánh! Giải thích như vậy thì không thể có người cùng khốn đi vay!

b- Cách tổ chức giao dịch thương mại: Theo giáo sư J.Derrett trong tập “Law In The New Testament” trang 48-77 xuất bản tại London năm 1970, cho biết: Người đi vay không trực tiếp với chủ của, mà qua trung gian người quản lý. Chủ của không trực tiếp trả lương cho quản lý, nhưng người quản lý được ăn huê hồng trong các dịch vụ về cả hai phía: chủ của và con nợ. Số huê hồng được tính luôn trên văn tự của con nợ. Cho vay dầu được lấy lời 100%, cho vay lúa lời 25%.

Người quản lý bảo kẻ vay dầu viết 50 thùng vốn thay vì 100 cả vốn lẫn lãi; và kẻ vay lúa viết 80 thùng vốn bớt đi 20 thùng lời!

Khi người quản lý cầm giấy nợ về trình chủ, người chủ hiểu đó là vốn của chủ, hắn cho người nghèo vay, nên không có lời! Nhưng thực tế, người quản lý chỉ viết số vốn của chủ và giấu đi số lời.

Anh này làm thế đã được Đức Giêsu khen rất khéo: Chủ không có cớ tố cáo anh trước pháp luật, vì anh không phá tán tài sản của chủ như có kẻ xấu miệng báo cáo (x Lc 16,1: Tin Mừng), cùng lắm là chủ không tính huê hồng cho anh thôi, và nếu chủ truất chức quản lý, thì anh đã có các con nợ được anh bảo đừng viết số lời vào giấy nợ, sẽ đón tiếp anh và chia cho anh số lời chưa nộp cho chủ.

7. Lách luật đạo

Theo Luật ông Môsê, người Do Thái phải nghỉ mọi việc trong ngày Lễ buộc. Nhiều người giàu cảm thấy những ngày Lễ đó cản trở công việc làm ăn của họ, thế nên họ chỉ mong ngày Lễ chóng qua để có cơ hội làm giàu, nên ngôn sứ Amos đã trách cách sống Đạo của dân Chúa tuyển chọn, vì họ nói:

- “Bao giờ ngày hưu lễ qua đi, để ta mở cửa bán hàng?” (Am 8,5a).

Đáng lẽ ngày Lễ của Chúa phải là ngày vui mừng (x Công Đồng Vat.II trong HCPV.106) để đến tôn thờ Chúa, thì lắm kẻ có Đạo lại cho đó là ngày họa, ngăn trở công ăn việc làm!? Mong cho chóng hết ngày Lễ nghỉ để:

- “Ta bóp méo đấu đong, làm cân gỉa mạo” (Am 8, 5b).

Tức là gian dối trong mọi sinh hoạt,miễn là chiếm đoạt được nhiều tiền, thì có nhiều thần, nhiều chúa phù hộ kiếp sống! (x Lc 12,16t) Vì với tiền bạc khi có dư:

- “Ta tậu người nghèo bằng đôi dép” (Am.8, 6a).

Đánh giá mạng người là hình ảnh của Thiên Chúa chỉ bằng đôi dép!? Ngày nay một số người buôn bán thuốc Tây lậu, đã đổi mạng người bằng chai nước lã thay vì nước biển đúng tiêu chuẩn Y học! Thế mà họ vẫn không cắn rứt lương tâm,vì có thần tiền hướng dẫn lương tâm! Mà “lương tâm” không bằng “lương lậu”, đó là lý do họ quyết:

- “Lúa nát gạo mục quét bỏ, ta cũng bán đi” (Am 8, 6b).

Đúng là “tham tiền là nguồn gốc mọi tội ác” (1Tm 6,10)

8. Lấy lợi làm đầu

Ngày 13/10/2011, tại Trung Quốc, bé Duyệt Duyệt mới lên 2 tuổi bị một xe vận tải đụng em ngã vật xuống đất, làm em chấn thương sọ não. Anh tài xế thấy vậy chạy luôn cán lên hai chân em! Lúc đó có khoảng 16 người, già có, thanh niên có, nhìn thấy cảnh đáng thương ấy, tất cả vô cảm lạnh lùng bước đi, vì không ai muốn sự cố ấy gây phiền cho mình. Thậm chí một anh thanh niên bước qua em để băng qua đường! Chỉ có một bà cụ tuổi cao, đi lượm ve chai, thấy thế bà vội quẳng bao rác ấy đi, và chạy lại bồng em đưa vào bệnh viện. Nhưng vì vết thương quá nặng, em đã từ trần.Chỉ có một ít người tán dương tinh thần bà cụ này nên thưởng cho bà một ít tiền, còn đa số những người hay chuyện thì phỏng vấn bà cách mỉa mai: Người này hỏi: “bà làm như thế có ý muốn được nổi danh phải không?” Kẻ khác lại hỏi: “Bà làm thế chắc được nhiều tiền lắm phải không?” Người khác nữa lại hỏi: “Chắc dịp này bà trở nên giàu có, khỏi phải đi lượm ve chai nữa?.".. Vì quá nhiều người phỏng vấn mỉa mai như thế, làm bà điên đầu, một số tiền không nhiều người ta thưởng cho bà, bà trao lại hết cho cha mẹ em bé để mai táng em; còn bà thì trở về quê hẻo lánh để tránh những câu hỏi nhức đầu!

Anh tài xế biết không thể trốn thoát nên phải ra đầu thú. Người ta phỏng vấn anh: “Tại sao anh đụng em bé rồi lại cho xe chạy tiếp cán lên hai chân em?” Anh tài xế thản nhiên trả lời: “Nếu tôi không tiếp tục cán lên em, em không chết, mang tật, tôi tốn kém nhiều hơn; còn em chết, thì số tiền bồi thường Luật pháp đã qui định có giới hạn!”

Quả thật, “hết thảy những ai không nhìn nhận Thiên Chúa, tự bản chất nó là kẻ ngu đần” (Kn 13,1). Và “hết thảy những ai không đếm xỉa đến việc nhận biết Thiên Chúa, Thiên Chúa phó mặc cho trí não ngông cuồng của nó làm những điều bất xứng” ( Rm 1,28).

9. Xây dựng cho tương lai

Nữ tu M. Scullion có mặt trong danh sách 100 người ảnh hưởng nhất thế giới theo tạp chí Time (2008). Chị đã giúp hàng ngàn người vô gia cư ở Philadelphia (Mỹ). Hơn 95% những người tham gia chương trình của chị không còn phải trở lại đường phố nữa. Nếu Kitô hữu nào cũng nhiệt thành, khéo léo trong việc xây dựng Nước Trời như chị, bài dụ ngôn hôm nay sẽ không còn tính thời sự nữa! Thật vậy, Đức Giêsu phàn nàn vì con cái sự sáng không khôn khéo bằng con cái đời này khi xây dựng tương lai. Chúng ta chăm chút đầu tư nhiều công sức, thời giờ cho cuộc sống ở đời này, nhưng đang khi đó lại ơ hờ đầu tư cho cuộc sống tương lai trên Nước Trời vĩnh cửu.

Nước Trời, ước mơ của Thiên Chúa về thế giới, đã hiện diện trong thế giới và đang chờ ngày thành toàn. Hãy làm cho Nước Trời có mặt trong môi trường của bạn qua những nỗ lực tôn trọng phẩm giá con người, xây dựng công lý và an bình. Đó là cách tốt nhất bạn xây dựng cho tương lai vĩnh cửu.

10. Nghĩ đến cùng đích

Triết gia Diogène cắm lều dựng bảng rao bán sự khôn ngoan ở giữa chợ Athène (Hy Lạp), một người sai đầy tớ cầm tiền ra mua. Cầm tiền trong tay, triết gia bảo: “Anh hãy về đọc lại cho chủ nghe câu này: “Trong tất cả mọi sự, hãy nghĩ đến cùng đích.” Người quản lý bất lương chỉ thuộc lòng một phần bài học khôn ngoan, vì chỉ nghĩ đến giai đoạn sắp đến của cuộc đời mình. Anh khôn khéo dùng thời gian quản lý hiện tại để lo xa cho cuộc sống tương lai, khi cuộc sống ấy sắp rơi vào bế tắc. Thế nhưng, anh quên mất kết cục cuộc đời của anh sẽ thế nào khi anh luôn sử dụng những mánh khóe gian xảo như vậy với đồng loại của mình.

Con người ngày nay trong công việc kinh doanh buôn bán thường tỏ ra mau mắn, khôn khéo, và đầy sáng kiến. Thế nhưng, với những công việc thiêng liêng như kinh nguyện, thánh lễ, hy sinh, thì lơ là, chậm chạp, thiếu sự đầu tư. Nếu chăm chú đầu tư cho đời sống tinh thần như cho công ăn việc làm, cuộc đời bạn đã tốt đẹp biết bao!

Người Kitô hữu tin rằng quê hương thật của chúng ta ở trên trời. Bạn có thường nghĩ đến cùng đích đời mình không?

11. Tham tiền mất tất cả

Anh Nguyễn văn S. vừa cưới vợ, thì biến cố 30/04/1975 xảy ra làm cho nhiều gia đình ly tán. Cha mẹ anh S. gặp khó khăn vì biến cố này, nên không đồng ý cho vợ chồng anh sống chung, thế là hai vợ chồng phải chuyển xuống Rạch Giá sinh sống.

Gặp thời vận anh S. có người bạn rủ đi vượt biên và cho vợ chồng anh nợ khi nào tới nơi làm ăn sẽ trả sau!

Sang tới đất Mỹ, vợ chồng S. vừa đi học, vừa cần cù làm việc, nên đã sớm tạo được cửa hàng buôn bán, và trở thành người Việt giàu có trên đất Mỹ!

Sau 18 năm xa quê hương, vợ chồng muốn về Việt Nam thăm bố mẹ, và cũng là dịp để khoe với gia đình, chòm xóm về sự thành đạt của mình!

Cha mẹ anh ở Việt Nam cũng gặp may, họ xây được một ngôi nhà lớn kinh doanh làm khách sạn, nên cũng trở nên giàu có như trước.

Vợ chồng S. về tới quê nhà, vì muốn gây bất ngờ cho cha mẹ, nên anh để vợ đến ở tạm nhà một người bạn, còn anh đóng vai người khách đến thuê khách sạn! Vì đã xa gia đình hơn 18 năm, nên mẹ anh không nhận ra con trai mình, là thằng S. trước đây gầy và đen nay thành một người bảnh bao, lịch sự!

Thuê được phòng, đêm ấy anh S. mời mẹ và em gái lên phòng, anh mở va-li ra cho hai mẹ con nhìn thấy va-li đầy ắp dollars, vàng, kim cương! Thế là đêm đó hai mẹ con lẻn lên phòng thủ tiêu anh S. để cướp số tài sản ấy!?

Ba ngày sau, vợ S. quá suốt ruột, không nghe tin chồng, nên cô quyết định đến khách sạn của mẹ hỏi thăm về S., rồi kể lai lịch của vợ chồng S. cho mẹ và em gái nghe. Như tiếng sét đánh phủ đầu, bà mẹ và cô em qúa hối hận nên đã nhảy lầu tự tử!!

12. Để con trả lời

Một người mẹ hôn tạm biệt đứa con trai trước khi nó đi cắm trại. Bà nói với người mẹ lớn tuổi hơn đứng bên cạnh: “Một tháng không nghe tin gì về đứa con bảy tuổi này quả là thời gian dài. Ước gì tôi biết làm cách nào cho nó viết thư?” Người mẹ kia trả lời: “Dễ thôi. Khi gửi thư cho cháu, chị hãy viết thêm “Kèm theo đây năm đô la.” Người mẹ trẻ nói: “Điều đó có ích gì?” Người mẹ kia trả lời: “Như có một sức hút, lập tức con của chị sẽ viết lại: “Mẹ quên đính kèm năm đô la.”

Tôi có tháo vác và chăm chỉ để xoay sở công việc của cuộc sống mau qua hơn công việc của cuộc sống vĩnh cửu không?

Cuộc sống chỉ là một ánh đom đóm trong đêm (Crowfoot).

THỨ BẢY - TRUNG TÍN VIỆC NHỎ, TRUNG TÍN TRONG VIỆC LỚN

Lời Chúa: Lc 16, 9-15

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời.

Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai gian dối trong việc nhỏ, thì cũng gian dối trong việc lớn.

Vậy nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao phó của chân thật cho các con. "Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ.

Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được."

Những người biệt phái là những kẻ tham lam, nghe nói tất cả những điều đó, thì nhạo cười Người. Vậy Người bảo các ông rằng: "Chính các ông là những kẻ phô trương mình là công chính trước mặt người ta, nhưng Thiên Chúa biết lòng các ông; bởi chưng điều gì cao sang đối với người ta, thì lại là ghê tởm trước mặt Thiên Chúa."

TRUYỆN KỂ

1. Cái đẹp thì không nhỏ

Một lần, có một người bạn của Michel Ange đến thăm ông. Người bạn đó ngạc nhiên vì thấy ông vẫn hí hoáy mãi trước một pho tượng: “Tôi thấy công việc của anh không khác hơn hôm trước tí nào."

Nhà nghệ sĩ trả lời: “Trái lại, tôi đã sửa chữa được nhiều lắm. Đây tôi bớt đi một ít đất sét, làm nổi bật vết nhăn này, uốn mềm lại nét khác, làm cho cái miệng tươi hơn lên."

Bạn ông cãi lại: “Những cái đó nhỏ nhặt quá."

Michel Ange mỉm cười trả lời lại: “Đúng, nhưng chính những cái nhỏ nhặt này làm cho pho tượng được hoàn mỹ hơn và sự hoàn mỹ lại không phải là sự nhỏ nhặt."

2. Đồng tiền trên trời

Một người kia suốt đời chỉ lo thu gom tiền bạc, cho nên rất giàu. Khi chết, ông còn mang túi vàng theo mình đi sang cuộc sống bên kia. Đi một hồi, ông thấy đói. Bỗng ông thấy một quán ăn bên đường, liền ghé vào. Vì hà tiện, ông hỏi người chủ quán:

- Tô cơm nhỏ này giá bao nhiêu?

- Chỉ một đồng thôi.

- Còn tô lớn kia?

- Cũng chỉ một đồng thôi.

Thấy rẻ, ông gọi luôn hai tô lớn. Nhưng người chủ quán bảo:

- Ở đây chỉ xài loại tiền-cho-đi thôi. Ông có không?

Người hà tiện chỉ vào túi tiền của mình. Nhưng chủ quán nói:

- Đó chỉ là thứ tiền-lấy-vào. Ở đây không xài được.

- Thế tiền-cho-đi là tiền gì?

- Khi còn sống, mỗi lần ông cho ai bao nhiêu đồng thì ông được bán lại bấy nhiêu đồng loại tiền-cho-đi.

Ông nhà giàu lục lọi khắp nơi trong mình, nhưng chẳng có đồng nào thuộc loại tiền-cho-đi cả. Thế là ông phải nhịn đói.

Bao nhiêu đồng tiền cho đi là bấy nhiêu đồng tiền để dành cho đời sau vậy.

3. Tiền bạc và ơn nghĩa

Mạnh Thường Quân nhà giàu, cho vay mượn nhiều. Một hôm ông sai Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Khi đi, Phùng Nguyên hỏi:

- Ngài có định mua gì về không?

- Xem thứ gì nhà ta chưa có thì mua.

Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi dân tới bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”, rồi chẳng tính gì gốc lãi, đem đống văn tự ra đốt sạch.

Khi trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân rằng:

- Nhà Ngài không thiếu thứ gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm phép mua ở đất Tiết cho Ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý Ngài.

Về sau, Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đây nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên:

- Đó hẳn là cái ơn nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước

4. Làm chủ hay nô lệ

Tôi thử xét lại liên hệ của tôi với tiền của xem tôi đang làm chủ nó hay làm nô lệ nó:

- Tôi vẫn còn làm chủ nó: khi tôi dám đem nó đi cho người khác, dám đưa nó cho người khác mượn, dám bỏ nó, khi tôi mất nó mà không đến nỗi như mất hồn…

- Tôi đã thành nô lệ nó khi ngày đêm tôi nghĩ tới nó, khi tôi trọng nó hơn tất cả mọi người khác, khi tôi sợ mất nó, khi vì nó mà tôi dám làm điều xấu…

5. Tiền trước tiên thành tiền tự tử

Tiền trước tiên, tôn ta thành thần thánh, thành tiên thành thánh thượng.

Tiền tạo thành tích, thành tiên tiến, thành... tài, thành thân thế – tất thảy trân trọng.

Tay thủ tập tiền, trên tất thảy- tôn ti trật tự tiêu tán - tòa tù tội thảy tiêu tan - tội thành trong trắng, thất thu thành thành tựu - thấy tiền tựa thấy tiên - thấy trước tất thảy, thua thành thắng, tiền trợ thủ ta trên tất tật!

 Túng tiền, tư tưởng, tinh thần tiêu tán, trên thiếu tin, thắng thành thua, tài tình thành tai tiếng. Thiếu tiền tất thua thiệt, tình tan tác, trong trắng thành tối tăm .

 Thiếu tiền, thâm thủng, tủi thân, thành tham tàn, tù tội, thân thế tựa tre tàn, tất thảy thiếu tôn trọng, tư tưởng thiếu tự tin, tìm thang thuốc tự tử. . .! (Tầm Vông, Gò Dầu-Tây Ninh)

6. Sức mạnh đồng tiền

“Đồng tiền mạnh mẽ xiết bao.

Bẻ cong chân lý lật nhào công minh

“Vàng”, “Lầu”, “Đô”, “Xế” hiển linh

Có bây, “pháp luật nghiêm minh” trò đùa

Buồn thay! “Vật chất” làm vua

“Đức” “Trí” “Lễ” “Nghĩa” phải thua đồng tiền! (NT2-Vũng Tàu)

7. Ông Tiền

“Ông Tiền, ông Phật, ông Tiên,

Ba ông đứng lại, ông Tiền cao hơn!

Tiền nhiều: mặc kệ. . .vẫn hơn

Dẫu cho nhân sự ngã nghiêng tứ bề

Tiền nhiều chẳng ngán chẳng lo,

Phất tay một cái nhằm nhè gì ông? (Tuổi trẻ cười –Xuân Canh Ngọ)

8. Mù mắt vì vàng

Xưa kia, có người nước Tề thích vàng. Sáng sớm, thay xiêm y đi ra chợ, đến hàng người đổi tiền, chộp một khối vàng, rồi đi.

Người ta bắt anh và hỏi:

- Tại sao giữa đám đông người, mà anh dám đoạt vàng của người ta như thế?

Anh ta đáp lại:

- Lúc tôi thấy vàng, đâu còn thấy thiên hạ chung quanh nữa đâu, tôi chỉ thấy vàng thôi.

9. Dùng của bất chính mà mua lấy bạn bè

Thứ ba, ngày 29

Enricô của mẹ,

Sáng nay, lúc đi học về, con đi trước mẹ, con đã gặp một người đàn bà nghèo bế một đứa con nhỏ xanh xao yếu đuối và chìa tay xin con. Con nhìn người ta bằng cặp mắt lạnh lùng, con chẳng cho gì cả mà chính lúc ấy túi con có tiền. Nghe mẹ, con ơi!

Con đừng tập thói làm ngơ trước cái nghèo khó nó ngửa tay xin con; hơn nữa con lại càng không nên bước qua một người mẹ xin ăn cho con. Con hãy nghĩ đến bụng đói của đứa trẻ thơ, nghĩ đến sự đau khổ của người mẹ.

Mỗi khi mẹ bố thí cho kẻ nghèo thì bao giờ họ cũng cảm ơn và chúc cho mẹ, cho cả nhà ta được mọi sự lành. Những lời chúc tụng ấy nghe êm ái biết là dường nào! Và lòng tạ ơn họ không biết bao nhiêu.

Những lời cầu nguyện ấy sẽ thấu đến đấng Thượng đế để ngài phù hộ cho tất cả những người thân yêu của ta. Vì thế, mẹ trở về rất hài lòng và tự nhủ:

- Người ấy đã cho ta nhiều hơn là ta đãi họ!

Enricô ơi! Con hãy nghe mẹ: thỉnh thoảng nên bớt một vài xu trong túi tiền của con để cho người già không chốn nương thân, người mẹ không gạo, đứa trẻ không mẹ không cha. Những kẻ khó thích xin trẻ con vì như thế họ không nhục, vì trẻ con cũng như họ phải cần đến mọi người. Con có nhận thấy ở quanh trường thường có nhiều kẻ ăn xin không? Sự bố thí của người lớn là một việc làm phúc, nhưng sự bố thí của trẻ con không những là một việc làm phúc mà còn là một sự vỗ về nữa, vì mỗi lần đứa trẻ đem cho thì hình như đồng tiền kèm với bông hoa ở trong tay nó rơi ra.

Con ơi! Con phải biết con có đủ cả, chứ kẻ khó thì thiếu hết. Khi con mong được sung sướng thì người nghèo chỉ cầu sao cho khỏi chết. Trong một đám có bao nhiêu là nhà giàu, trong một phố có bao nhiêu người sang trọng qua lại, có bao nhiêu đứa trẻ ăn mặc xa hoa, thế mà vẫn còn thấy nhiều đàn bà và trẻ con đói khát, rách rưới! Thực đáng buồn thay!

Muốn cho người ta khỏi chê con là một kẻ vô tình thì từ sau, con đừng bước qua một kẻ khó nào mà không cho gì."

Mẹ con. (Edmond de Amicis, trong Tâm Hồn Cao Thượng).

10. Sống với nhau như anh em

Nhà tâm lý học Rollo May viết trong cuốn “Con người trong cuộc tìm kiếm bản thân” như sau: “Tiến sĩ Wamter Canon cho thấy trong cuộc nghiên cứu của ông về “cái chết vì ma thuật” rằng con người sơ khai có thể đã chết vì bị cô lập về mặt tâm lý khỏi cộng đồng. Hẳn đã có người dân bản xứ bị cô lập về mặt xã hội và bị bộ tộc đối xử như không còn hiện hữu nữa, những người này thực sự bị héo mòn mà chết.”

Đâu là dấu hiệu tình cảm tôi có thể bày tỏ cách đơn giản và thân thiện đối với người xung quanh, nhất là những ai thật sự cần đến?

Chúng ta đã học bay như chim trên không trung, học bơi như cá trong nước, nhưng lại chưa học hành động vô cùng đơn giản là sống với nhau như anh em (Martin Luther King).

11. Ta ở cùng ngươi

Trong mọi hoàn cảnh, no hay đói, dư dật hay túng bấn, tôi đã tập quen cả. Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết (Pl 4,12. 13)

Robert Bruce đang đi dọc trên đường phố đông đúc, anh chợt nghe thấy một ai đó đang ca hát. Tiếng hát không lớn, không náo động, nhưng êm ái nhẹ nhàng, dường như người đó đang hát với chính mình. Tò mò muốn biết xem người đó là ai, Bruce quay lại và hầu như anh không thể tin vào mắt mình nữa. Thì ra, đó là một thanh niên ngồi trên xe lăn, lăn bánh xe theo giai điệu của bài hát.

Điều gì ngăn cản tôi học hỏi đầy đủ bí quyết mà thánh Phaolô đề cập trong bài đọc hôm nay, bí quyết mà người thanh niên ngồi trên xe lăn đã học được?

Đây lời Chúa phán: “Đừng sợ… Ngươi có băng qua nước, Ta sẽ ở cùng ngươi, ngươi có đi trong lửa, cũng chẳng hề hấn gì” (Is 43,1. 2).

12. Điều cao trọng

Jerry Kramer là một ngôi sao bóng đá chuyên nghiệp. Gần cuối sự nghiệp, ông viết một cuốn sách chạy có tựa đề: “Nhật ký thời vàng son của Jerry Kramer”, trong đó có một đoạn như sau: “Tôi nhớ đã từng đọc cuốn “Nụ cười sau cùng” của John O Hara về một ngôi sao màn bạc, cả đời là một con người không ra gì, nhưng ở cuối cuốn sách, suy khi đã hoàn toàn suy đồi, anh ta đã nói thế này: “Ít ra tôi cũng đã từng là ngôi sao màn bạc và không ai có thể tước tôi khỏi điều đó.” Kramer nhận xét: “Chẳng có gì gây ấn tượng cả. Ai là người sẽ quan tâm đến điều đó?”

Điều gì tôi đã từng đánh gia cao ở một thời điểm nào đó trong đời, nhưng giờ đây không con giá trị như thế nữa? Tại sao?

Cái chết không hoàn toàn tước đi cuộc sống, nhưng chính cử chỉ vô tâm của người với người, đã làm cuộc sống chết dần. (Stephen Vincent Benet)

13. Đồng tiền là con dao hai lưỡi

Warren Buffett (Uo-rân Bơ-phít) là nhà tỷ phú thứ nhì thế giới. Với thế giá đó, ông có thể cho biết thế nào là giá trị đồng tiền. Ông cho rằng con người có thể làm ra tiền, nhưng tiền không làm ra nhân cách con người. Chính vì thế ông vẫn sống một cuộc sống đạm bạc và tặng hầu hết tài sản của mình vào công việc từ thiện. Chúa Giêsu dạy ta phải biết dùng tiền của để có được Nước Trời. Đối với tiền bạc của cải, con người chỉ là quản lý.

Người quản lý bất lương thâm lạm tài sản của chủ đổi lấy cuộc sống hưởng thụ ích kỷ. Lúc đó quản lý không còn là quản lý nữa, mà tiền của thì trở thành bạo chúa thống trị. Trái lại, cách dùng tiền đúng đắn là đem chúng ra để chia sẻ, để phục vụ; nhờ đó chúng ta đạt được Nước Trời.

Thánh Phaolô viết cho môn đệ Timôtê rằng: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc” (1Tm 6,10). Báo chí hằng ngày phanh phui biết bao nhiêu tệ nạn phát sinh từ lòng ham muốn tiền bạc: nào là phòng khám có bác sĩ Trung quốc “khám bệnh kiểu chặt chém,” nào là công an giao thông đòi mãi lộ “ghê hơn cướp cạn,”…

Tin Mừng hôm nay gửi đến sứ điệp mời gọi mỗi người chúng ta đổi mới thái độ của mình đối với tiền của, và sử dụng chúng thế nào để phát huy giá trị cao nhất của chúng, đó là không chỉ xây dựng một xã hội tốt đẹp đầy tình người mà còn giúp nhau đạt đến Nước Trời.

14. Dùng tiền mua bạn bè

Khi được hỏi: “Điều gì làm ông cảm thấy hạnh phúc?” Tỷ phú Mỹ J. Rockefeller, một người thuộc hàng giàu nhất nước Mỹ, trả lời: “Có thêm một đô la nữa!” Đúng là ham muốn về tiền bạc không có điểm dừng! Đang khi ấy, tiền bạc là phương tiện để ta có thể sống an vui, chứ không phải là mục tiêu của cuộc sống. Tiền bạc tự nó không xấu, nó chỉ trở nên xấu khi ta để nó trở thành động lực chi phối mọi suy nghĩ và hành động, chiếm hết mọi thời gian và năng lực của ta. Ngoài ra, người Kitô hữu còn ý thức rằng phải khôn khéo dùng tiền bạc để mua lấy bạn hữu muôn đời qua việc sẵn sàng chia sẻ, quảng đại cho đi và tận tình giúp đỡ người nghèo.

 “Người giàu giúp người nghèo trên thế giới này, nhưng người nghèo lại giúp người giàu trong thế giới mai sau” (truyền thống Rápbi Do Thái). Như vậy, đồng tiền bạn rộng rãi cho đi không phải là đồng tiền bị đánh mất, nhưng lại âm thầm sinh lãi cho bạn. Bạn đang chuyển đổi tiền của hư nát đời này thành gia sản vĩnh cửu trên trời. Không có việc đầu tư nào an toàn và chắc chắn hơn đầu tư theo kiểu này.

Lễ kính - CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG LATÊRANÔ

Lời Chúa Ga 2, 13-22

Lễ Vượt Qua của dân Do-thái gần đến, Chúa Giêsu lên Giêrusalem; Người thấy ở trong đền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc. Người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ, và bảo những người bán chim câu rằng: "Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán."

Môn đệ liền nhớ lại câu Kinh Thánh: "Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi."

Bấy giờ người Do-thái bảo Người rằng: "Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy." Chúa Giêsu trả lời: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại." Người Do-thái đáp lại: "Phải bốn muơi sáu năm mới xây được đền thờ này mà ông, ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?" Nhưng Người, Người có ý nói đền thờ là thân thể Người. Vì thế, khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, các môn đệ mới nhớ lời đó, nên đã tin Kinh Thánh và tin lời Người đã nói.

TRUYỆN KỂ

1. Lịch sử

Đại thánh đường Latêranô được dâng kính Đấng Cứu Thế và từ thế kỷ XII cũng được dâng kính thánh Gioan Tẩy Giả, là nhà thờ cổ nhất của Đức Giáo Hoàng, được mang danh là “Mẹ và là Đầu của mọi nhà thờ trên thế giới."

Sau khi chiến thắng các đối thủ tranh giành ngai hoàng đế, Constantin đã ký sắc lệnh Milanô vào năm 313 công nhận Kitô giáo là một tôn giáo hợp pháp trên đế quốc La Mã. Thế là các tín hữu lục tục từ các hang toại đạo bước vào xã hội công khai, không còn sự bắt bớ nữa.

Hoàng đế Constantin làm một cử chỉ đẹp: nhường cung điện ở đồi Latran cho ccác Giáo Hoàng làm nơi trú ngụ. Năm 324 Đức Giáo Hoàng Sylvester I đã thánh hiến đại thánh đường và cự ngụ tại nơi đây cho đến thế kỷ thứ XIV, sau đó mới dời về Vatican, cạnh đền thờ thánh Phêrô. Đây cũng là Vương Cung Thánh Đường của giáo phận Rôma, lý do: ngai toà của vị Giám mục Rôma được đặt tại đây.

Đền thờ này được gọi là “mẹ các nhà thờ” vì là nhà thờ đầu tiên được chính quyền hợp pháp công nhận trên đế quốc La Mã và vì cũng là nhà thờ chính tòa của địa phận Rôma, nơi đó có ngai toà của Đức Giáo Hoàng.

Qua các trận hoả hoạn, động đất và càn quét của man dân, của Đức của Pháp... đại thánh đường Lateranô phải tái thiết lại nhiều lần. Ngáy 28.4.1726 sau một công trình tái thiết lớn, Đức Bênêđíctô XIII đã thánh hiến lại và công nhận ngày 9.11 là ngày thánh hiến Đền Thờ.

2. Đền thờ tâm hồn

Nhà thờ gỗ đá đã khiến Thánh Augustinô nghĩ đến nhà thờ tâm hồn. Việc xây dựng nhà thờ vật chất làm Ngài nghĩ đến việc xây dựng nhà thờ tâm hồn.

Vì thế, trong lễ khánh thành một nhà thờ ở giáo phận mình, ngài đã giảng như sau: “Điều đã diễn ra lúc xây cất nhà thờ này cũng diễn ra khi các tín hữu tụ họp nơi đây: khi anh chị em nghe loan báo Lời Chúa, khi anh chị em lãnh nhận bí tích Rửa tội, khi anh chị em nghe giảng huấn, đó là những lúc anh chị em được cưa, được bào, được ráp bởi tay các thợ mộc thợ nề. Nhưng ta chỉ xây dựng Nhà Chúa thực sự nếu mọi người đều hợp nhất với nhau trong tình huynh đệ."

Mở đầu câu chuyện, ông Dakêu được mô tả là kẻ tội lỗi: thu thuế (lại còn “đứng đầu những người thu thuế”) và lo thu tích của cải (“và là người giàu có”) - Cuối câu chuyện, ông thay đổi hẳn: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này”; phân phát tài sản cho người nghèo (là điều Chúa Giêsu thường khuyên làm. x. Lc 12,33-34 16,1-8 16,9-13 v.v.); đền bù những thiệt hại đã gây cho người khác.

3. Nhà thờ không có Chúa

Mohandas Karamchand Gandhi là anh hùng dân tộc Ấn Độ, lãnh đạo cuộc đấu tranh chống chế độ thực dân của đế quốc Anh và giành độc lập cho Ấn Độ với sự ủng hộ nhiệt liệt của người dân trong đấu tranh bất bạo động.

Du học ở Anh và sau đó về Ấn Độ, Gandhi làm luật sư, tiếp đó làm việc tại Nam Phi - thuộc địa của nước Anh. Nam Phi nổi tiếng về phân biệt chủng tộc. Ở Nam Phi, Gandhi có dịp đọc Kinh Thánh của Kitô giáo, lập tức giáo huấn của Đức Giêsu cuốn hút ông, nhất là tám mối phúc thật. Ông rất tâm đắc trước Lời Chúa dạy về một tình yêu phổ quát và bình đẳng giữa mọi người, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, địa vị cao thấp, Do Thái hay lương dân...

Quyết định học đạo, Gandhi đến một nhà thờ để mong được chứng kiến lễ nghi trong đạo và cũng để tìm hiểu thêm về giáo lý Kitô giáo.

Tuy nhiên, khi ông bước đến cửa nhà thờ, thật là bất ngờ khi người giữ cửa trả lời: “Đây là nhà thờ dành riêng cho người da trắng. Nếu anh muốn tìm hiểu đạo, thì hãy tìm đến nhà thờ khác dành riêng cho dân da màu mà xin." Gandhi rất sốc, tức giận, bỏ về nhà và không theo đạo Kitô. ông ghi lại cảm tưởng trong nhật ký của ông như sau: “Tôi rất thán phục Đức Giêsu và giáo thuyết đầy tình nhân ái khoan dung của Ngài. Thế nhưng tôi rất bất mãn mỗi khi tiếp xúc với các tín hữu là môn đệ của Ngài! Nếu trong đạo Kitô mà cũng còn phân biệt chủng tộc như vậy, thì Kitô giáo có hơn gì Ấn giáo có phân biệt giai cấp của tôi? Thôi, tôi cần chi phải gia nhập đạo này. Tốt nhất là tôi cứ chấp nhận có bất toàn trong Ấn giáo và cố gắng sống theo giáo lý truyền thống của cha ông là đủ!”

4. Chúa chăm sóc đền thờ tâm hồn

Ngày kia Bà thánh Catarina thành Sienna bị một cơn cám dường như quá sức của mình. Bà phải vất vả lắm mới qua được cơn cám dỗ này. Sau khi cơn cám dỗ đã qua, Bà thấy Chúa hiện ra Bà liền hỏi Chúa: - Lạy Chúa lúc tâm hồn con bị cám dỗ đầy những hình ảnh tối tăm nhơ nhớp như thế thì Chúa ở đâu?

Chúa trả lời: - Con yêu quí của Cha, Cha ở ngay trong lòng của con.

- Trong lòng của con? Lẽ nào Chúa lại ở trong lòng của con trong những lúc như thế được?

- Vậy con hãy trả lời cho Cha hay: Cơn cám dỗ đó đã làm cho con vui sướng hay cực khổ?

- Lạy Chúa khi đó con vô cùng đau buồn và khổ cực.

- Con biết ai đã làm cho con đau buồn và cực khổ như vậy nếu không phải là Cha ở trong lòng con? Con có tin rằng nếu không có Cha ở trong con thì cơn cám dỗ dã lôi kéo con làm cho con sa ngã phạm tội rồi không? Phần con, con đã hết sức chống cự, còn Cha, Cha đã giúp con chiến thắng. Chiến đấu sẽ làm cho con trở nên vững mạnh và giúp con có thêm nhiều công nghiệp”

Lời Chúa Tuần 31 Thường Niên

Thường niên V - GS C - PS Ngoại lịch