LỜI CHÚA TUẦN 31 THƯỜNG NIÊN
GIA VỊ CHO BÀI GIẢNG
CNTN 31A – AI NHẤC MÌNH LÊN SẼ
BỊ HẠ XUỐNG
CNTN 31B - GIỚI RĂN TRỌNG NHẤT
THỨ TƯ - DỨT KHOÁT ĐI THEO CHÚA
THỨ NĂM – ĐI TÌM CON CHIÊN LẠC
THỨ SÁU - KHÔN NGOAN ĐỂ TÍCH CỰC XÂY DỰNG NƯỚC TRỜI
THỨ BẢY - TRUNG TÍN VIỆC NHỎ, TRUNG TÍN TRONG VIỆC LỚN
Lễ kính - CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG LATÊRANÔ
CNTN 31A – AI NHẤC
MÌNH LÊN SẼ BỊ HẠ XUỐNG
Lời Chúa: Mt 23,
1-12
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: "Các Luật sĩ và các người biệt
phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm
và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ: vì họ nói mà không làm. Họ buộc
những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ lại không muốn giơ ngón
tay lay thử. Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy: vì thế họ nới rộng
thẻ kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong
hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là "Thầy.”
Phần các ngươi, các
ngươi đừng muốn được người ta gọi là Thầy, vì các ngươi chỉ có một Thầy, còn tất
cả các ngươi đều là anh em với nhau. Và các ngươi cũng đừng gọi ai dưới đất là
cha: vì các ngươi chỉ có một Cha, Người ngự trên trời. Các ngươi cũng đừng bắt
người ta gọi là người chỉ đạo: vì các ngươi có một người chỉ đạo, đó là Đức
Kitô. Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi.
"Hễ ai tự nhắc
mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên.”
TRUYỆN KỂ
1. Tự cao
Chuyện kể về một
con sư tử rất kiêu hãnh. Một ngày nọ, nó quyết định đi nghênh ngang trong rừng
để chứng tỏ khả năng làm chủ của mình đối với tất cả các con vật khác. Nó sải
bước xuyên qua cánh rừng cho đến khi gặp một con gấu. Nó hỏi: “Vua rừng là ai,
gấu?” “Tất nhiên là anh rồi, sư tử dũng mãnh.” Nó tiếp tục đi cho đến khi tìm
thấy con hổ. Nó vênh vang: “Vua rừng là ai, hổ?” “Chính là anh, thưa đại ca."
Tiếp theo sư tử thấy con voi: “Vua rừng là ai, voi?” Con voi ngay lập tức dùng
vòi tóm lấy con sư tử và xoay nó vài vòng rồi đập nó xuống đất. Sau đó, nó giẫm
lên sư tử vài lần, nâng nó lên và dìm nó xuống nước rồi ném nó vào một cái cây.
Con sư tử loạng choạng đứng dậy và nói: “Khoan nào, chỉ vì bạn không hiểu các
câu trả lời, nên không cần phải bất bình như vậy.”
* Sư tử không hiểu
cuộc sống. Nó đã đánh mất sự thật, giống như nhiều kinh sư, người Pharisêu và
tư tế Do Thái mà Chúa Giêsu đã tuyên bố một cách vô cùng mạnh mẽ trong bài Tin
Mừng hôm nay.
2. Bất nhất
Thomas Jefferson là
người soạn thảo chính Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ. Người ta không thể không
ngưỡng mộ sự rành mạch và mạnh mẽ của ngôn từ: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng,
có quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc.” Thomas Jefferson cũng là một
trong những người ký Tuyên ngôn. Nhưng thật ngạc nhiên khi biết rằng Jefferson
và một số người ký kết khác lại là chủ nô. Một trong những điều trớ trêu trong
lịch sử là họ đã từ chối hàng triệu người cái quyền tự do mà họ đang đòi hỏi
cho chính mình. Điều này minh họa sự chênh lệch to lớn giữa khát vọng của con
người và cách hành xử của họ.
* Trong bài Tin Mừng
hôm nay, Chúa Giêsu chỉ trích các tư tế và người Pharisêu thời đó vì sự bất nhất
trong con người của họ. (Flor McCarthy in New Sunday and Holy Day Liturgies;
quoted by Fr. Botelho).
3. Bệnh tự ái
Chúng ta có thể nói
rằng một người nào đó trong thời đại chúng ta có tính kiêu ngạo cho mình là
trung tâm, là mắc bệnh Tự ái. Cái tên này xuất phát từ thần thoại Hy Lạp và ám
chỉ một chàng trẻ đẹp trai tên là Narcissus, một thợ săn kiêu hãnh. Anh là con
trai của Thần sông Cephissus và nữ thần Liroipe và nổi tiếng với vẻ đẹp hình thể
hoàn hảo. Narcissus kiêu ngạo và khinh thường những người yêu mến anh.
Hành vi này của anh
đã xúc phạm đến Nemesis (nữ thần trừng phạt những hành động xấu xa, và tính
kiêu ngạo thái quá). Nữ thần đã lôi kéo chàng trai trẻ đến một cái giếng trong
veo, nơi anh nhìn thấy và yêu vẻ đẹp của hình bóng người anh nhìn thấy phản chiếu
ở đó. Anh ta bị ám ảnh bởi hình ảnh mình nhìn thấy, không ăn không uống, và cuối
cùng chết (Wikipedia: Narcissus, Nemesis).
* Cả ngôn sứ
Malachi trong bài đọc thứ nhất lẫn Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay đều phản
ứng mạnh mẽ chống lại lòng tự ái như vậy nơi các nhà lãnh đạo tôn giáo ở thời đại
của các ngài. Kinh Thánh hôm nay cũng đưa ra lời nhắc nhở mạnh mẽ đối với chúng
ta..
4. Dối trá
Một người đàn ông
đi công tác về được vợ đón ở cổng sân bay. Họ cùng nhau bước ra khỏi cổng và đứng
đợi hành lý được dỡ xuống. Một cô tiếp viên vô cùng quyến rũ bước ngang qua. Đột
nhiên, người đàn ông rất phấn chấn. Tươi cười rạng rỡ, anh nói với cô tiếp viên:
“Tôi hy vọng chúng ta có thể bay cùng nhau lần nữa, cô Jones.”
Vợ anh nghi ngờ hỏi:
“Sao anh biết tên cô ấy?” Người đàn ông trả lời trôi chảy: “Em thấy đấy, em
yêu, tên của cô ấy được dán ngay phía trước máy bay, dưới ngay tên của phi công
và phi công phụ.” Người vợ trả lời: “Được rồi, bây giờ hãy cho tôi biết tên của
phi công chính và phi công phụ."
* Sự đạo đức giả của
người đàn ông đã bị vạch trần. Chúa Giêsu phê phán thói đạo đức giả trong bài
Tin Mừng hôm nay.
5. Muốn nổi tiếng
Vào thời Hy Lạp cổ
đại, một điều khủng khiếp đã xảy ra tại một trong những ngôi đền. Một đêm nọ, bức
tượng thần Zeus bị đập vỡ và xúc phạm một cách bí ẩn. Một sự náo động lớn đã nảy
sinh trong cư dân. Họ sợ các vị thần trả thù.
Người mõ làng của
thị trấn đi dọc trên các đường phố trong thành ra lệnh cho tên tội phạm phải có
mặt ngay lập tức trước các Trưởng lão để nhận hình phạt xứng đáng cho hắn. Thủ
phạm đương nhiên không có ý định trình diện. Quả thực, một tuần sau, một bức tượng
khác của một vị thần lại bị phá hủy. Bấy giờ người ta nghi ngờ rằng một kẻ điên
đã được thả rông. Lính canh được bố trí khắp nơi. Cuối cùng sự cảnh giác của họ
đã được đền đáp; thủ phạm đã bị bắt.
Người ta hỏi nó:
“Mày có biết số phận nào đang chờ đợi không?” Nó trả lời, gần như rất vui: “Ừ,
cái chết.” “Mày không sợ chết sao?” Nó trả lời: “Tôi sợ chết chứ.” Họ hỏi: “Vậy
tại sao mày lại phạm một tội mà mày biết là có thể bị trừng phạt bằng cái chết?”
Người đàn ông nuốt
khan rồi trả lời: “Tôi chẳng là ai cả. Cả đời tôi chẳng là ai cả. Tôi chưa bao
giờ làm được điều gì để bản thân được nổi tiếng, và tôi biết mình sẽ không bao
giờ được như vậy. Tôi muốn làm điều gì đó để mọi người chú ý đến tôi…và nhớ đến
tôi.”
* Nhu cầu được công
nhận, được đánh giá cao, được mọi người biết đến tên tuổi của con người có thể
mang một cái giá rất bi thảm.
6. Kiêu ngạo
Xưa có một nhà khoa
học đã học được nghệ thuật nhân bản mình một cách hoàn hảo đến mức người ta
không thể phân biệt được bản sao với bản gốc. Một ngày nọ, anh biết được thần
chết đang tìm kiếm mình nên đã tạo ra hàng tá bản sao của chính mình. Thiên thần
bối rối không biết ai trong số mười ba mẫu vật trước mặt mình là nhà khoa học
thật. Vì vậy, ngài để họ vậy và trở về Thiên đàng.
Nhưng không lâu
sau, vì là đấng biết rõ bản tính con người, thiên thần đã nghĩ ra một thiết bị
thông minh. Ngài nói với nhà khoa học và 12 bản sao trước mặt ông ta: “Thưa
ông, ông hẳn phải là một thiên tài mới có thể thành công trong việc tạo ra những
bản sao của chính mình hoàn hảo như vậy. Tuy nhiên, tôi đã phát hiện ra một sai
sót trong tác phẩm của ông, chỉ một sai sót nhỏ thôi.”
Nhà khoa học bị xúc
phạm ngay lập tức nhảy ra khỏi đám nhân bản của mình và hét lên: “Không thể nào
được. Sai sót ở đâu?” “Ngay tại đây,” thiên thần nói và tóm lấy nhà khoa học từ
trong số các bản sao và mang ông ta đi. [Anthony de Mello, Taking Flight]
* Bạn sẽ tìm thấy
những người kiêu hãnh trong mọi ngành nghề và trong đời sống đức tin.
7. Khiêm tốn
Một tu sĩ được chỉ
định làm tu viện trưởng đã bỏ tu viện này để đến tu viện khác. Khi vị bề trên mới
lặng lẽ đến nhiệm sở mới mà không được báo trước về vai trò của ông, các tu sĩ
thánh thiện đã kiểm tra con người tầm thường và phong thái không mấy ấn tượng của
ông. Họ ngay lập tức chỉ cho ông đến phụ trách nhà bếp của họ với những công việc
tầm thường nhất. Không hề phàn nàn, vị bề trên mới của họ đã dành nhiều giờ để
cọ rửa nồi niêu xoong chảo, rửa nền nhà và tách vỏ đậu. Cuối cùng, vị giám mục
của giáo phận đến tu viện. Khi không thấy vị tu viện trưởng đã được chỉ định,
ngài đi tìm kiếm.
Tất nhiên, ngài tìm
thấy ông đang ở trong bếp, chuẩn bị bữa tối. Khi Đức Giám mục chính thức giới
thiệu Vị tân viện trưởng này cho các tu sĩ trong nhà nguyện, họ đã nhận được một
bài học về lòng khiêm nhường cao độ, một bài học sẽ theo họ suốt đời. William
Barclay (Cha Botelho).
8. Được nhìn nhận
Lễ tang của các
hoàng đế Áo từng diễn ra tại Nhà thờ St. Steven ở Vienna. Nhưng trước khi thi
thể của vị hoàng đế quá cố được cho phép vào thánh đường để cử hành tang lễ, có
một nghi lễ phải diễn ra.
Khi viên chức phụ
trách đến gần cổng nhà thờ, thì cửa được khóa. Sau đó, viên chức sẽ gõ cửa ra
hiệu cho quan tài được vào. Khi nghe thấy tiếng gõ cửa, một linh mục từ trong
nhà thờ hỏi: “Ai muốn vào đây?” Viên chức thưa: “Thưa ngài, hoàng đế!” Linh mục
trả lời: “Tôi không biết ông ấy.” Tiếp theo là tiếng gõ thứ hai và một câu hỏi
tương tự được hỏi. Lần này viên chức tuyên bố: “Hoàng đế tối cao." Một lần
nữa, “Tôi không biết ông ấy” lại vang lên qua cánh cửa bị khóa. Cuối cùng, tiếng
gõ thứ ba vang lên. Linh mục hỏi: “Đó là ai?” Lần này câu trả lời chính thức
là: “Một tội nhân tội nghiệp, người thân của ngài, xin cho được thừa nhận!”
“Sự cho phép đã được
chuẩn nhận: tội nhân hãy đi vào! Ông đã được chúng tôi biết đến.” Sau đó cánh cửa
được mở ra và tang lễ hoàng gia diễn ra. (John Pichappilly in The Table of the
Word; quoted by Fr. Botelho).
9. Phục vụ
Một trong những câu
chuyện hay nhất về sự khiêm tốn mà tôi biết là về một người đàn ông đến ga xe lửa
Chicago vào năm 1953 để nhận giải Nobel Hòa bình. Ông ta bước xuống tàu, đó là
một người đàn ông cao lớn với mái tóc rậm và bộ ria mép to. Khi máy quay lóe
lên và các quan chức thành phố dang tay tiến tới gặp ông, ông cảm ơn họ một
cách lịch sự.
Nhưng ngay sau đó
ông xin phép ngắt câu chuyện một lát. Ông bước qua đám đông, đi đến bên cạnh một
người phụ nữ da đen lớn tuổi đang vật lộn với hai chiếc vali lớn. Ông tiếp tay
đỡ hai chiếc vali, mỉm cười và dẫn bà ra xe, giúp bà lên xe và chúc bà có một
chuyến đi bình an. Sau đó Albert Schweitzer quay sang đám đông và xin lỗi vì đã
bắt họ phải chờ đợi. Được biết, một thành viên trong ban tiếp tân đã nói với một
phóng viên rằng: “Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy một bài giảng biết đi."
* Chúng ta đã được
mời gọi – sống hòa thuận, khóc với người khóc, vui với người vui, khiêm tốn,
không tự phụ. Đặc biệt, chúng ta được dạy làm người công chính nhưng không tự
cho mình là công chính. Chúng ta phải là những tôi tớ vị tha, lấy Chúa làm
trung tâm, yêu thương như Chúa Giêsu truyền dạy (Roy T. Lloyd, Charades and
Reality).
10. Sai lầm
“Thưa cha, con mắc
một tội nặng nề, con cầu xin cha xá giải cho con. Con đi dự lễ vào các Chúa nhật
và không thể không nghĩ rằng mình là cô gái xinh đẹp nhất trong nhà thờ. Con biết
mình không nên nghĩ như vậy, nhưng con không thể ngăn được. Con muốn cha giúp
con việc đó.”
Cha giải tội trả lời:
“Maria, con đừng lo lắng về điều đó. Trong trường hợp của con, đó không phải là
một tội. Đó chỉ là một sai lầm lớn lao.”
11. Châu chấu lớn
Trong kỳ nghỉ ở Úc,
một nông dân ở Texas gặp một nông dân người Úc và bắt đầu nói chuyện với ông ta
về trang trại của mình. Người Úc đưa ông đi xem cánh đồng lúa mì rộng lớn,
nhưng người Texas tỏ ra không ấn tượng lắm. Ông nói với người Úc: “Chúng tôi có
những cánh đồng lúa mì rộng gấp đôi cánh đồng này. Người nông dân Úc chở ông ta
đi khắp trang trại và khoe đàn gia súc lớn của mình. Người Texas khoe khoang: “Ồ,
những con có sừng này của chúng tôi ít nhất phải to gấp đôi những con này."
Người nông dân Úc đang
cảm thấy thất vọng thì người Texas bất ngờ nhìn thấy một đàn chuột túi đang nhảy
qua cánh đồng. Ông ấy hỏi: “Đó là cái quái gì vậy?” Người Úc quay sang ông với
một nụ cười tinh nghịch: “Ở Texas không có con châu chấu lớn nào như thế này
à?”
12. Có gì đâu!
Một chủ trang trại ở
Hà Tĩnh gặp một nông dân nuôi bò sữa ở Long Thành. Hai người đàn ông bắt đầu
nói về mảnh đất của họ. Người nuôi bò sữa nói với người chủ trang trại rằng ông
ta điều hành công việc của mình trên 125 mẫu đất. Người Hà Tĩnh chế giễu một mảnh
đất nhỏ như vậy.
Ông nói: “Này bạn,
không có gì đâu. Ở trang trại của mình, tôi có thể lên xe tải vào lúc mặt trời
mọc và sẽ không đến được hàng rào ở nhà cho đến khi mặt trời lặn.” Người nông
dân nuôi bò sữa khịt mũi: “Ừ, tôi từng có một chiếc xe tải cũ như thế.”
13. Không cần áo phao
Có lần một thủy thủ
dẫn một nhóm thanh niên đi thuyền trong một ngày. Có một thanh niên khoe khoang
tất cả những gì anh biết về biển. Mỗi khi người thủy thủ bắt đầu đưa ra chỉ dẫn
thì chàng trai trẻ này lại ngắt lời bằng những kiến thức được cho là của mình.
Sau một lúc, một cơn bão nổi lên. Người thủy thủ bắt đầu phát áo phao.
Chàng thanh niên hốt
hoảng: “Của tôi đâu?” Người thủy thủ già trả lời: “Đừng lo lắng con trai, bạn
không cần áo phao. Với cái đầu đầy khí nóng như của anh, anh sẽ nổi mãi mãi!”
14. Thế nào là khiêm nhường
Trong khi đó, người
khiêm nhường biết từ bỏ mọi sự, ngay cả bản thân cùng với địa vị và danh dự. Họ
biết nhận định đúng về con người của mình, đồng thời họ biết quên mình đi để
mưu cầu lợi ích cho những người chung quanh. Chính vì thế, họ được dành cho nhiều
tình cảm tốt đẹp và được chính Thiên Chúa đón nhận, vì tâm hồn họ trống rỗng,
không có những vướng mắc và níu kéo.
Kytô giáo của chúng
ta không thể thiếu vắng sự khiêm nhường, như lời thánh Bernađô đã xác quyết: Lời
rao giảng quan trọng nhất của Đức Kitô chính là sự khiêm nhường.
Và thánh Phanxicô
Assie cũng nói: Thiên Chúa thấy tôi tội lỗi hơn hết mọi người, nên Ngài đã chọn
tôi để làm những công việc trọng đại.
Còn thánh Phanxicô Xaviê
thì bảo: Trên dấu chân của Đức Kitô, chúng ta chỉ thực sự được nâng lên, một
khi đã thực sự hạ xuống.
Để kết luận, chúng
ta cùng nhau ghi nhớ tư tưởng sau dây của ông Gandhi: Nếu chúng ta nghĩ rằng
mình là một cái gì đó, thi chúng ta đã đặt một hàng rào để ngăn cách với Thiên
Chúa, còn nếu chúng ta nghĩ rằng mình chẳng là gì cả, thì chúng ta sẽ trở nên một
với Ngài.
15. Không thấy mình giả hình
Một bà đến thưa với
vị linh mục: "Thưa cha con khổ quá tại vì đã lâu lắm rồi nhà con bỏ không
đi nhà thờ, không xưng tội rước lễ. Con không biết làm sao khuyên nhà con được."
Cha hỏi: "Vậy
thì ông nhà có nói lý do tại sao ông bỏ không chịu đi nhà thờ và không xưng tội
rước lễ không?"
Bà trả lời,
"Thưa cha, ông nhà con ông ấy rất là gàn, nhưng ông ấy nói cũng có lý nên
con không biết nói làm sao để tranh luận với ông ấy được. Nhà con nói rằng:
'Tôi thấy có quá nhiều người giả hình. Họ siêng năng đi nhà thờ, đọc kinh xem lễ,
ăn chay kiêng thịt, gia nhập hội đoàn này, tổ chức nọ, nhưng chẳng có tinh thần
đạo đức bác ái thật gì cả. Đến nhà thờ thì ê a đọc kinh và rầm rang ca hát,
nhưng về nhà thì sống bê bối, ra xã hội thì sống tham lam, hẹp hòi ích kỷ. Nhiều
người còn gian lận, bỏ vạ cáo gian, phê bình chỉ trích, nói hành nói xấu người
khác. Đến nhà thờ tôi chỉ thấy toàn là những người giả hình! Đi lễ đi nhà thờ
mà như thế thì vô ích đi làm gì! Họ cũng đâu có khá gì hơn tôi đâu!"
Nghe như thế, cha
nói với bà: "Ông nhà nói rất đúng đấy. Bà đừng cãi với ông làm gì, bà về
nói với ông như thế này, 'Cha bảo là cha đồng ý với ông trăm phần trăm. Ông nói
rất có lý. Và cha nhắn tôi về nói lại với ông là ở nhà thờ vẫn còn chỗ trống
cho thêm một người giả hình nữa. Cha mời ông đến để gia nhập đầy nhà thờ cho
vui!'"
16. Biết Chúa là tình yêu
Một vị truyền giáo ở
Ấn Độ đã tâm sự như sau:
Là một sinh viên ở
Paris, tôi đã học nhiều lớp triết và tôn giáo. Tôi dùng nhiều giờ để bàn luận với
những sinh viên khác về Thiên Chúa, về ý nghĩa và mục đích của cuộc đời. Đó là
thời gian vui và hứng thú, nhưng tôi vẫn không tìm ra được hướng đi cho đời
mình cho đến khi một người bạn trẻ nói với tôi một điều làm thay đổi đời tôi.
Trong một cuộc bàn
luận, anh ta đã nhìn thẳng vào tôi và nói, " Anh sẽ không bao giờ tìm gặp
được Thiên Chúa qua việc bàn thảo và tranh luận về Thiên Chúa bởi vì Thiên Chúa
là tình yêu. Anh chỉ tìm được Thiên Chúa khi anh yêu thương vô vị lợi."
Lúc đó tôi đang khảo
cứu về thánh Phanxicô thành Assisi. Tôi học thấy điểm đổi đời của Phanxicô
không phải là lúc ngài bỏ hết mọi sự giầu sang phú quý, nhưng là lúc ngài dùng
lý trí và ý chí để xuống ngựa và ôm lấy người phong cùi. Điều này đã cảm kích
tôi và khi tôi nghe biết ở Ấn Độ đang cần có người phục vụ trong trại phong
cùi, và tôi đã tới đây.
Nơi đây tôi vẫn
đang phục vụ, và nơi đây tôi tìm được Thiên Chúa. Bạn sẽ không tìm được Thiên
Chúa qua bàn thảo hay tranh luận, và bạn cũng chẳng bao giờ tìm thấy Thiên Chúa
trong việc tự đưa mình lên, bởi vì Ngài là Thiên Chúa của Tình Yêu. Bạn chỉ tìm
được Ngài khi bạn biết yêu thương vô vị lợi.
17. Hãy sống trong sự thật
Đêm kia tại một
làng đánh cá bên Ấn Độ, một ngư phủ nghèo lẻn vào trong hồ cá của một người nhà
giàu để thả lưới. Nhưng chưa kịp kéo lưới lên thì bị người giàu phát hiện. Người
này cho gia nhân bủa đi khắp nơi quanh cái hồ mênh mông của mình để bắt cho bằng
được tên trộm.
Đám gia nhân đốt đuốc
đi tìm khắp nơi mà không thấy bóng dáng tên trộm đâu cả. Trong khi đó thì anh
ngư phủ nghèo lấy tro rắc lên đầy mình và đến ngồi dưới một gốc cây gần đó y hệt
một nhà hiền triết hay một đạo sĩ.
Sau nhiều giờ tìm
kiếm, đám gia nhân không thấy kẻ trộm mà chỉ thấy một đạo sĩ ngồi dưới gốc cây
đang đắm mình trong suy tư và cầu nguyện. Chỉ một ngày hôm sau tiếng đồn đã
vang đi khắp nơi rằng có một đạo sĩ đang tu luyện dưới gốc cây bên bờ hồ của
nhà phú hộ.
Thế là thiện nam
tín nữ từ các ngã đường đổ xô đến gốc cây để chiêm ngưỡng vị tu hành. Người thì
mang hoa quả, kẻ thì mang tiền bạc. Không mấy chốc mà quà cáp tuôn đổ tràn lan
quanh nhà tu hành bất đắc dĩ.
Nhà tu hành mới nhủ
thầm trong bụng: Thà đánh lừa bà con để sống còn hơn là đánh cá suốt ngày mà chẳng
được gì. Nghĩ như thế rồi, ông ta tiếp tục đóng vai tu hành, ngày đêm tụng niệm
và chờ đợi sự tiếp tế của dân làng.
18. Đạo đức thật và đạo đức giả
Có một bà vợ thường
xuyên càu nhàu về tình trạng khô khan nguội lạnh của ông chồng. Hơn thế nữa, bà
còn tỏ ra khinh ghét tất cả những hình ảnh ông đã xâm trên mình.
Ngày kia, trong một
cố gắng nhằm cải thiện đời sống cũng như mối liên hệ với vợ, ông đã quyết định
xâm hình Chúa Giêsu thật to trên tấm lưng của mình. Trở về nhà, ông hớn hở giơ
tấm lưng trần cho vợ xem và hỏi:
- Bà có biết ai đây
hay không?
Chẳng đợi cho vợ trả
lời, ông liền nói:
- Chúa đấy.
Thế nhưng, bà vợ bỗng
nổi giận đùng đùng và quát lớn:
- Thật là báng bổ.
Chúa nào lại ở trên cái lưng bẩn thỉu và nhớp nhúa của ông.
Nói rồi, bà vơ lấy
cái chổi và cứ thế quất vào tấm lưng của ông cho đến khi bật cả máu.
Sau trận đòn ấy,
ông ra ngồi dưới một gốc cây và bật khóc. Ông khóc không phải vì trân đòn của
bà vợ thuộc vào hạng sư tử Hà Đông, nhưng khóc vì nhận ra rằng mình không còn
cách nào để làm đẹp lòng bà vợ luôn tự hào về tình trạng đạo đức của mình.
19. Ngựa và lừa
Trong những ngụ
ngôn Aesop có kể câu chuyện “Ngựa và con lừa." Ngày xưa, có người kia nuôi
ngựa và lừa để chúng giúp việc trong nhà. Ông có thói quen bắt lừa phải chở
hàng nặng đến gần quỵ, trong khi lại để ngựa thong thả theo sau với mớ đồ nhẹ
tênh. Ngày kia, cả ba lên đường. Con lừa vì đau yếu mấy ngày nên than thở với
ngựa rằng: “Tôi khó chịu quá! Anh chở hộ tôi ít món. Nếu không tôi chết mất."
Con ngựa đá giò
lái, bảo lừa im đi kẻo gây rắc rối cho nó. Con lừa im lặng, ráng bước thêm nửa
dặm nữa rồi lăn ra chết. Ông chủ tháo hết hàng đặt lên lưng ngựa. Không những thế,
ông còn đặt luôn xác của con lừa xấu số lên lưng ngựa nữa. Bấy giờ, ngựa mới
than thở: “Than ôi! Bây giờ tôi mới thấy cái tai hại của tính ích kỷ."
20. Sức hút của chứng nhân
Sau khi tham dự tuần
tĩnh tâm, tuần tĩnh tâm Quốc Tế với khoảng 6,000 linh mục tại Rôma vào năm
1990, một linh mục đã viết trong tập nhật ký của mình:
"Tôi đã nhìn
thấy nhiều linh mục ngủ gục trong khi các thuyết trình viên nổi tiếng đứng trên
diễn đàn hăng say chia sẻ những tư tưởng thần học đạo đức cao siêu. Nhưng rồi
không một người nào ngủ cả khi Mẹ Têrêsa Calcutta thuyết trình. Mẹ không nói lời
văn hoa, nhưng Mẹ sử dụng ngôn ngữ đơn sơ và tôi nghĩ cả khi Mẹ Têrêsa không cần
nói lời nào, chỉ cần sự hiện diện của Mẹ cũng đủ thúc đẩy chúng tôi, thu hút
chúng tôi canh tân đời sống mình, bởi vì Mẹ sống chân thành khiêm tốn với những
gì Mẹ nói."
Chân thành và khiêm
tốn cũng là chủ đề chính của bài Phúc Âm hôm nay. Người chân thành chỉ sống những
gì họ nói và chỉ nói những gì họ đã làm. Đó là những chứng nhân của Chúa mà xã
hội ngày hôm nay cần đến, như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói: "Con
người ngày nay không cần những thầy dạy nói suông, nhưng cần những kẻ dám chứng
thực những điều họ nói, cần những chứng nhân. Người chân thành không nói láo,
không giả hình, không tự kiêu cho mình hơn kẻ khác, không phê bình chỉ trích.
Thái độ phê bình chỉ trích đôi khi chỉ là cách thức để che giấu những tật xấu
nơi chính mình, ta phê bình chỉ trích kẻ khác chỉ vì ta không dám đối diện với
sự thật nơi chính mình, bởi vì sự thật đó buộc ta phải canh tân liên lỉ."
21. Sống chân thành
Chân thành, nguyên
ngữ Latinh là: Sincerus, a, um.
Sincera có một lịch
sử. Ngày xưa, người La mã thấy cột đá cẩm thạch nào không được nhẵn, có lỗ, sứt
mẻ, họ lấy sáp ong nhét vào những lỗ đó, rồi đánh cho thực trơn láng.
Cũng giống như phụ
nữ lấy phấn sáp thoa vào mặt để che những vết nhăn. Những cột cẩm thạch nào
không có sáp ong, là dấu tuyền vẹn, và gọi là: Sine cera; Sine: không, cera:
sáp ong. Qua các thời đại, hai tiếng này ghép lại thành một là “sincera”, và có
nghĩa là không phấn sáp, không giả tạo, nhưng thành thực, chân thành.
Tình thương giữa
con người với nhau cần phải sincera: không phấn sáp, không giả tạo, nhưng tự
nhiên và chân thành.
Ngày xưa, Nữ Hoàng
Saba nghe biết về sự khôn ngoan của Salomon, nên đã gởi đến Nhà Vua hai bó hoa
để thử xem sự khôn ngoan của ông tới đâu. Đó là một bó hoa thật và một bó hoa
giả rất giống nhau. Vua đặt hai bó hoa lên bàn và liền mở cửa để cho bầy ong bướm
bay vào. Thế là đàn ong bướm liền sà ngay xuống những bông hoa thật. Những bông
hoa giả có sắc mà chẳng có hương, có hình dáng mà không có sự sống.
Những kẻ giả hình
nói thì nhiều, mà làm thì chẳng bao nhiêu, thậm chí nói suông mà không thực
hành, dung túng cho mình, nghiêm khắc với kẻ khác.
22. Bé cái lầm.
Có một thi sĩ kia
sáng tác được một số bài thơ, bắt đầu nổi tiếng. Một buổi chiều ra công viên
thành phố đi dạo, rồi ngồi nghỉ trên ghế đá kê sát vào tường. Ông hết sức ngạc
nhiên và rồi lại tỏ ra hãnh diện sung sướng khi thấy nhiều người đi qua trước mặt
ông đã ngả mũ cúi chào. Trong khi còn nghĩ ngợi, thắc mắc thì có một bà già
cũng đến trước mặt ông. Sau khi cúi chào, bà đã nhìn lên và miệng lâm râm nhiều
lời mà ông không nghe rõ. Thế rồi bà cũng đi. Lúc ấy ông mới quay lại và nhìn
lên theo hướng bà già kia đã nhìn. Ông nhận ra rằng ngay sau lưng và phía trên
đầu ông có một cây thánh giá đã được dựng lên ở đó. Và ông xấu hổ bỏ đi nơi
khác.
Chúng ta cũng thường
lầm lẫn như thế. Lời Chúa muốn giải thoát chúng ta khỏi những danh lợi hão huyền
và rất đáng hổ thẹn của thế gian, Bởi vì, thật là dại dột và lố bịch khi con
người không biết rõ giá trị của mình, lại thích được chiếm địa vị cao, ham được
những ưu đãi. Những ham ước ấy chỉ khiến họ bị lợi dụng và trở nên trò cười cho
thiên hạ. Có khi còn gây nhiều tai họa cho người khác nữa.
23. Hai người bộ hành.
Có hai người bộ
hành đi đường xa. Đêm đến họ phải vào một cái miếu để ngủ nhờ. Đây là một ngôi
miếu nổi tiếng là nhiều ma quái. Bầu không khí lạnh lẽo đến rợn người làm cho
hai người khách bộ hành cảm thấy sợ khi đã vào trong miếu.
Trong hoàn cảnh
này, người không Kitô nói với bạn Kitô rằng:”Anh làm ơn cho tôi mượn cây thánh
giá anh đang đeo ở cổ đi. Tôi sợ quá. Hy vọng rằng cây thành giá của anh sẽ làm
cho tôi bớt sợ."
Thế là người Kitô
kia đã gỡ cây Thánh giá anh đang đeo ở cổ trao cho người bạn không Kitô. Hai
người nằm nghỉ đêm.
Trời về khuya, con
yêu tinh xuất hiện, nó rờ vào cổ của người Kitô, tính sát hại người này, bỗng
nó thốt lên:
- Người này có
trong mà không có ngoài.
Con yêu tinh có ý
nói rằng người này là người Kitô đích thực, tuy không mang trong mình một dấu
hiệu Kitô nào.
Qua người không
Kitô, con yêu tinh chạm đến cây Thánh giá người này đeo ở cổ, nó thốt lên:
- Người này có
ngoài mà không có trong.
Con yêu tinh có ý
nói rằng, người này tuy mang Thánh giá ở cổ, nhưng không phải là người Kitô
đích thực.
24. ĐTC Gioan 23 không thấy
mình quan trọng
“Khi tôi mới được bầu
làm Giáo hoàng để lãnh đạo Giáo hội hoàn vũ, tôi rất lo lắng, sợ hãi trước một
trách vụ quá nặng nề. Nhưng một đêm kia, trong giấc ngủ, tôi nghe một tiếng bảo
tôi:”Gioan đừng tự xem mình quá quan trọng." Tôi đã áp dụng câu nói này,
và từ dạo ấy, tôi ăn ngon, ngủ yên như trước khi được chọn làm Giáo hoàng."
Khiêm nhường là một
đức tính được Thiên Chúa ưa thích, khác với tính tự cao tự đại, có thể so sánh
với những ngọn đồi. Trái lại, đức khiêm nhường giúp chúng ta đào sâu những
trũng thấp để đón nhận những hồng ân của Thiên Chúa, không thể dừng lại ở những
ngọn đồi, nhưng chảy xuống và đọng lại ở những trũng thấp dưới chân đồi.
25. Ông vua ở truồng
Một ông vua kia rất
ham mặc áo quần đẹp. Hai tên lưu manh đến gạ gẫm: "Chúng tôi có thể dệt và
may cho bệ hạ một bộ áo rất đặc biệt từ xưa tới nay chưa ai từng thấy. Nhưng áo
này phải dệt bằng vàng." Vì quá ham bộ áo đặc biệt ấy, nhà vua đưa cho hai
tên ấy hết túi vàng này tới túi vàng khác.
Thực ra chúng chẳng
may gì cả. Rồi một hôm hai tên lưu manh cho biết áo đã may xong, mời nhà vua mặc
thử. Chúng chỉ làm cử điệu tay chân như đang mặc áo cho nhà vua. Khi chúng cho
biết đã mặc xong, nhà vua hỏi các quan chung quanh "Áo ta có đẹp
không?" Ai nấy trầm trồ khen nức nở. Quá phấn khởi, nhà vua bảo quân hầu
kiệu ngài ra các đường phố để khoe áo đẹp. Dân chúng hai bên đường cũng nức nở
khen. Nhà vua rất sung sướng.
Bỗng nhiên một đứa
trẻ hô lớn: "Ông vua ở truồng! Ông vua ở truồng!" Nhà vua nhìn lại
mình và mới biết mình đang ở truồng thật.
26. Nói mà không làm
Trong một tỉnh kia,
người ta tổ chức một buổi thuyết trình về Công giáo tiến hành. Họ mời ông X, là
người đạo đức và có tài diễn thuyết để nói chuyện với mọi người. Trước mặt công
chúng đông đảo, đủ mọi hạng người, đủ mọi tầng lớp, ông X lên diễn đàn nói rất
hùng hồn, rất trôi chảy và rất hay. Đại ý ông nói như sau: “Lúc này hơn bao giờ
hết, người Công giáo chúng ta phải hoạt động tích cực trong mọi lãnh vực, nhất
là trong lãnh vực xã hội và từ thiện. Đối với những người chung quanh, chúng ta
phải vui vẻ, hòa nhã, nhẫn nhịn, dễ cảm thông và giúp đỡ.v.v..." Dứt lời,
mọi người vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt.
Sau đó, ông X lên
xe ra về. Trong số thính giả đến nghe buổi diễn thuyết đó, có một người ở cạnh
nhà ông X, tâm trí còn đang thán phục bài thuyết trình vừa hay vừa thức thời của
ông, nghe thấy trong nhà ông X có tiếng càu nhàu và la rầy người giúp việc, người
ấy tò mò lắng nghe. Câu chuyện xảy ra như sau: khi ông X diễn thuyết về, chị
giúp việc dọn cơm cho ông. Đồ ăn rất ngon, nhưng có món xào hơi mặn. Ông X khó
chịu, gắt gỏng và gọi chị giúp việc lên hỏi: “Ai nấu món này?” - “Dạ, thưa con”
- “Tại sao mặn đắng thế? tao có phải là tù đâu mà cho ăn uống thế này?” - “Xin
ông tha cho con, con đang đau nên vô ý nêm quá tay ." Tức thì cái đĩa xào
bay xuống sàn nhà, đổ vỡ tung tóe. Rồi ông X đứng lên tuyên bố: “Tháng này tao
sẽ trừ lương mày." Nói xong ông lên xe ra tiệm ăn. Tác giả câu chuyện này
kết luận: “Ngôn hành tương phản là thế. Lời nói và việc làm không đi đôi với
nhau. Trên đời không thiếu những người như ông X."
27. Lòng tốt có sức biến đổi
Cách đây nhiều năm
các rạp hát có chiếu một cuốn phim nhan đề Little Lord Fauntlroy (Tiểu chủ
Fannilleroy) nói về một cậu bé 7 tuổi đến sống với ông nội là một người giàu có
đang quản lý nhiều công nhân dưới quyền. Ông lão bản chất là con người ích kỷ
và độc ác, nhưng cậu nhỏ quá thần tượng ông mình, nên không thể nhận ra điều
đó. Cậu lại nghĩ ông mình quảng đại và tốt bụng. Cậu bé thường nói với người
ông: "Nội ơi! Thiên hạ chắc hẳn yêu ông biết dường nào! Cháu dám cá là họ
yêu nội hầu như cũng nhiều bằng cháu yêu nội vậy !"
Ðể rút ngắn câu
chuyện, tình yêu của cậu bé dần dà làm mềm mại trái tim ông già, và ông đã trở
nên loại người tốt mà đứa cháu vẫn nghĩ cho ông.
28. Đau khổ khẳng định giá trị
Trên bức tường nơi
văn phòng làm việc của mình, Godfrey, một diễn viên điện ảnh, thường treo một tấm
biển ghi: "Lạy Chúa, con thà chịu lửa đốt hơn là phải làm vật phế thải."
Godfryey nói rằng tấm
biển đề nhắc ông câu chuyện về bác thợ rèn nọ, dù phải chịu nhiều tai ương mà vẫn
vững tin nơi Chúa. khi một kẻ vô đạo hỏi bác ta làm thế nào bác có thể vẫn giữ
niềm tin vào Chúa dù chịu biết bao tai ương, bác liền trả lời: "Khi tôi chế
tạo một dụng cụ, tôi thường lấy một thanh sắt và nung lửa. Ðoạn tôi đập nó trên
đe để xem nó có độ cứng không. Nếu có, tôi sẽ chế ra một dụng cụ hữu ích, nếu
không tôi quẳng nó vào đống sắt vụn hết xài."
Câu chuyện trên dẫn
chúng ta trở lại chủ điểm của mình. khi chúng ta chịu đau khổ vì tình yêu,
chúng ta có thể hoan hỉ vì biết rằng Chúa đang sử dụng chúng ta.
Tóm lại, sự kiện
Chúa Giêsu bị đóng đinh thập tự là Dấu chỉ Tình yêu Ngài dành cho chúng ta, là
lời mời gọi chúng ta yêu mến tha nhân, đồng thời cũng là sự mặc khải về tình
yêu tức là tình yêu luôn kéo theo đau khổ.
29. Thấy được Thiên Chúa
Một vị truyền giáo ở
Ấn Độ đã tâm sự như sau:
Là một sinh viên ở
Paris, tôi đã học nhiều lớp triết và tôn giáo. Tôi dùng nhiều giờ để bàn luận với
những sinh viên khác về Thiên Chúa, về ý nghĩa và mục đích của cuộc đời.
Đó là thời gian vui
và hứng thú, nhưng tôi vẫn không tìm ra được hướng đi cho đời mình cho đến khi
một người bạn trẻ nói với tôi một điều làm thay đổi đời tôi. Trong một cuộc bàn
luận, anh ta đã nhìn thẳng vào tôi và nói, " Anh sẽ không bao giờ tìm gặp
được Thiên Chúa qua việc bàn thảo và tranh luận về Thiên Chúa bởi vì Thiên Chúa
là tình yêu. Anh chỉ tìm được Thiên Chúa khi anh yêu thương vô vị lợi."
Lúc đó tôi đang khảo
cứu về thánh Phanxicô thành Assisi. Tôi học thấy điểm đổi đời của Phanxicô
không phải là lúc ngài bỏ hết mọi sự giầu sang phú quý, nhưng là lúc ngài dùng
lý trí và ý chí để xuống ngựa và ôm lấy người phong cùi. Điều này đã cảm kích
tôi và khi tôi nghe biết ở Ấn Độ đang cần có người phục vụ trong trại phong
cùi, và tôi đã tới đây. Nơi đây tôi vẫn đang phục vụ, và nơi đây tôi tìm được
Thiên Chúa.
Bạn sẽ không tìm được
Thiên Chúa qua bàn thảo hay tranh luận, và bạn cũng chẳng bao giờ tìm thấy
Thiên Chúa trong việc tự đưa mình lên, bởi vì Ngài là Thiên Chúa của Tình Yêu.
Bạn chỉ tìm được Ngài khi bạn biết yêu thương vô vị lợi.
30. Người lãnh đạo
Ông Vũ Duệ
(1467-1522) là một vị quan nổi tiếng thanh liêm chính trực thời nhà Lê. Ông làm
đến chức Lại Bộ Thượng Thư, một chức quan lớn trong triều đình, thế nhưng ông rất
khiêm tốn và sống hòa đồng với dân.
Một lần nọ, ông về
quê là Phú Thọ, tham gia chống lụt với dân làng. Ông đang cầm mai đào đất đắp
đê, thì một quan huyện đến gần. Thấy ông mặc bộ quần áo cũ kỹ, lại to lớn lực lưỡng,
tưởng là bác nông phu, nên quan huyện bắt ông ta phải cõng quan huyện về quan
phủ cách đó 10 cây số. Ông Vũ Duệ chẳng nói chẳng rằng, khom lưng cõng vị quan
huyện về phủ. Đến nơi, vừa thấy quan Vũ Duệ, các quan phủ đồng loạt quì lạy
kính cẩn. Thấy vậy, viên quan huyện xanh mặt sợ hãi, van xin quan lớn tạ tội. Để
dạy cho quan huyện một bài học, Vũ Duệ bình thản nói: “Quan lớn đã cõng quan bé
rồi, giờ đến lượt quan bé cõng quan lớn về làng, theo con đường vừa đi.”
Câu chuyện chúng ta
vừa nghe gợi lên hình ảnh hai mẫu người lãnh đạo: vị quan lớn thì khiêm tốn hạ
mình, vị quan bé thì hống hách kiêu căng.
Chúa Giêsu cũng
phác họa khuôn mặt của các luật sĩ và biệt phái, những người lãnh đạo dân Do
Thái thời Chúa Giêsu. Đó là những người giả hình, thích phô trương, kiêu căng
và hám danh. Hôm nay, chúng ta cũng đi tìm chân dung người lãnh đạo tuyệt vời
là Đức Giêsu Kitô, người tôi tớ khiêm hạ.
31. Người lớn nhất
Vào đầu thập niên
1980, một luật sư có trình độ tên là Michael Minton đã thực hiện một cuộc
nghiên cứu về sự phục vụ của các người mẹ trong gia đình của họ. Ông bắt đầu bằng
cách liệt kê những chức năng của người mẹ, chẳng hạn chuyên gia về dinh dưỡng,
tài xế, quản lý ngân quỹ. Kế đến ông xác định giá trị bằng tiền cho mỗi chức
năng. Cuối cùng ông cộng tất cả lại thành tổng giá trị khoảng 40,000 đola một
năm.
Nghiên cứu của
Minton cho chúng ta cách đánh giá mới về sự phục vụ mà những người mẹ đóng góp
cho những người xung quanh. Theo cách đánh giá của Chúa Giêsu thì họ được xếp
vào số những người “lớn nhất” giữa tất cả chúng ta.
Bằng cách nào tôi
có thể cho thấy sự đánh giá của tôi đối với những người mẹ?
Tôi sẽ đi con đường
của bạn, vì vậy, tay trong tay, chúng ta hãy tiến bước. Chẳng bao lâu nữa, cái
chết, người y tá già tốt bụng, sẽ trở về và giục chúng ta đi ngủ. Chúng ta hãy
giúp đỡ nhau khi còn có thể. (William Morris)
32. Biết Chúa nhờ gương sáng
Diễn viên Martin
Sheen trở lại đạo sau 16 năm xa cách. Con đường trở lại của ông bắt đầu ở Ấn Độ
khi ông đang đóng bộ phim Gandhi. Cảnh ngộ của những người nghèo ở Ấn Độ tác động
ông, và vì một số lý do, ông ý thức được sự hiện diện của Thiên Chúa trong họ.
Ông nói: “Tôi bắt gặp ở Ấn Độ những gì tôi đã được dạy ở trường Công giáo khi
tôi còn nhỏ… Tất cả chúng ta là phần thân thể của Chúa Kitô.”
Nhận thức đó mở rộng
tâm hồn Martin Sheen và vinh quang Thiên Chúa trở lại đời ông, cũng như xưa kia
vinh quang đó đã trở lại Đền thờ Gierusalem.
Tôi đã bao giờ cảm
nghiệm được vinh quang Thiên Chúa trở lại đời tôi một cách mới mẻ nào đó không
và như thế nào?
Vinh quang của
Thiên Chúa là con người được sống. (Thánh Irene)
33. Khi tử tế ngự trị
Có một người đang
đi dạo như thường lệ để chữa bệnh viêm khớp. Bà ta phát hiện một tờ 5 đôla bên
lề đường, nhưng không thể cúi xuống nhặt được vì đau khớp. Một người mù đi qua
với chiếc gậy trên tay. Sau khi kể cho anh ta về phát hiện may mắn của bà, bà
ta liền đặt đầu chiếc gậy lên tờ đô la. Người mù lần theo chiếc gậy và nhặt nó
lên, rồi cả hai cùng vào một quán giải khát.
Câu chuyện trên đây
và câu chuyện của Rút cho thấy thế giới đáng yêu biết bao nếu chúng ta cố gắng
làm cho nó đáng yêu. Cái gì ngăn cản tôi không tử tế với người khác như Chúa
Giêsu đã tử tế với tôi?
Một ngày sẽ tươi đẹp
biết bao khi có sự tử tế ngự trị. (George Elliston).
34. Bà cố của David
“Ruth, người Môab,
nói với bà Naômi: "Xin mẹ để con đi ra ruộng mót lúa đằng sau người nào có
lòng nhân từ đoái nhìn con.” Bà trả lời: "Con cứ đi đi.” Nàng đi và đến ruộng
mót lúa đằng sau thợ gặt. Nàng may mắn gặp được một thửa ruộng của ông Bôab.
Ông Bôab nói với Ruth: "Này con, con có nghe không? Đừng đi mót ở ruộng
nào khác, cũng đừng rời khỏi đây, nhưng cứ theo sát các tớ gái của ta. Con nhìn
thửa ruộng chúng gặt và cứ đi theo chúng. Nào ta đã chẳng ra lệnh cho các tôi tớ
không được đụng tới con sao? Nếu khát, con cứ đến chỗ để bình mà uống nước các
tôi tớ đã múc.”Ruth liền cúi rạp xuống đất mà lạy ông, rồi nói: "Sao con lại
được ông lấy lòng nhân từ đoái nhìn và quan tâm đến, dù con là một người ngoại
quốc? " Ông Bôab đáp: "Người ta đã kể lại cho ta nghe tất cả những gì
con đã làm cho mẹ chồng sau khi chồng con mất, cũng như chuyện con đã bỏ cả cha
mẹ và quê hương, mà đến với một dân trước kia con không hề biết tới.
Vậy ông Bôab lấy cô
Ruth, nàng đã thụ thai và sinh một con trai. Các phụ nữ nói với bà Naomi:
"Chúc tụng Đức Chúa, Đấng hôm nay đã không để cho bà phải thiếu người bảo
tồn dòng dõi: tên tuổi con trẻ sẽ được tung hô tại Israel! Nó sẽ giúp bà lấy lại
sức sống, và sẽ là người nâng đỡ bà trong tuổi già, vì người con dâu biết yêu
quý bà đã sinh ra nó, nàng quý giá hơn bảy đứa con trai.” Họ đặt tên cho nó là
Ôvết. Đó là cha của ông Giesê, là ông nội vua Đavid.” (Rut 2, 2-3. 8-11; 4,
13-17: Bài đọc năm lẻ). Đó là “phúc lộc dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128/127,
4: ĐC năm lẻ).
35. Ai lớn hơn?
Trong cuộc cách mạng
dành độc lập của Hoa Kỳ, vào lúc đang chuẩn bị cho một trận chiến, người ta thấy
một người mặc đồ dân sự đi ngang qua trận địa. Trông thấy một viên hạ sĩ đang
vênh váo ra lệnh cho các binh sĩ thuộc quyền phải nhấc một cái xà nặng, người
đàn ông dừng lại và hỏi viên hạ sĩ: “Sao ông không giúp họ một chút?”
“Thưa ông,” viên hạ
sĩ nóng giận trả lời, “tôi là một hạ sĩ.”
Nhẹ nhàng xin lỗi
viên hạ sĩ, người lạ cởi áo choàng ra và hăng hái bắt tay vào giúp đỡ những người
lính.
“Thưa ngài hạ sĩ,”
ông ta nói khi công việc đã hoàn tất, “khi nào ngài không đủ người để làm một
việc gì, hãy gọi đến tổng chỉ huy của ngài. Tôi sẽ vui lòng giúp đỡ.”
Sau những lời đó,
George Washington khoác lại chiếc áo choàng và bước đi.
Chúng ta thường phải
tự hạ mình xuống khi muốn giúp đỡ ai, nhưng thật là ngược đời, chúng ta luôn thắng
cuộc khi làm thế. Chứng cớ tốt nhất cho điều này là chính Đức Kitô: Ngài đã trở
nên người bạn và là người đầy tớ của những người thấp kém nhất trong loài người,
những kẻ cùi hủi, ăn xin và trộm cắp… Vì thế mọi người đều kính trọng Ngài!
36. Làm sao anh nhận ra tôi?
Cách đây nhiều năm,
tại bờ biển Miami Dolphins, Don Shula đang nghỉ hè với vợ và năm đứa con ở
thành phố Maine. Một chiều mưa, họ đi đến rạp hát duy nhất của thành phố. Khi họ
bước vào, chỉ có sáu người trong rạp hát. Theo một người trong nhóm, họ đứng
lên và vỗ tay hoan hô gia đình Shula. Khi Don và cả gia đình ngồi xuống, một
người đàn ông tiến đến và bắt tay ông. Don hỏi: “Làm thế nào anh nhận ra tôi?”
Người đàn ông trả lời: “Thưa ông, tôi không biết ông. Tôi chỉ biết rằng trước
khi gia đình ông đến, người quản lí rạp hát nói với chúng tôi rằng họ sẽ không
chiếu phim, nếu không có ít nhất năm người nữa.”
Nếu Chúa Giêsu hỏi
người bạn tốt nhất của tôi rằng tôi có khiêm tốn không, người bạn tôi sẽ trả lời
ra sao?
Khiêm tốn không có
nghĩa là ít nghĩ về mình, nhưng là không nghĩ về mình chút nào.
37. Mượn diễn văn
Vào năm 1950, khi
thế giới còn ở trong tình trạng chiến tranh lạnh giữa hai khối tư bản và cộng sản,
Ngài được Tổng Thống Charles De Gaule mời đọc diễn văn khai mạc cuộc họp mặt
ngoại giao đoàn. Lúc đó, Ngài mới đến Pháp được hai ngày. Ngài lo nghĩ không biết
làm sao để soạn bài diễn văn cho phù hợp với tình hình của nước Pháp. Được biết
vị Đại Sứ Liên Xô tại Pháp đã soạn xong bài diễn văn, nhưng Tổng Thống Pháp
không muốn ông Đại Sứ của nước cộng sản này đọc, vì sợ có điều gì không hay
trong đó, Ngài liền đến gặp ông Đại Sứ này, chân thành trình bày lý do và xin
mượn bài diễn văn soạn sẵn của ông để đọc cho Tổng Thống Pháp. Ngài cũng cho biết
sẽ giữ lại tất cả nguyên văn ngoại trừ thêm vào phần cuối câu “Xin Thiên Chúa
ban sức mạnh cho Tổng Thống” như bài diễn văn của các Sứ Thần Tòa Thánh vẫn
dùng. Ông Đại Sứ mừng rỡ nói: thế thì tốt quá, vinh dự cho tôi quá còn gì! Và
hai bên thỏa thuận với nhau. Ngài cầm bài diễn văn của ông Đại Sứ Liên Xô về
nhà cách vui vẻ.
Khi bài diễn văn được
đọc xong, Tổng Thống Pháp vừa vỗ tay vừa nói: Có thế chứ. Sứ Thần Tòa Thánh có
khác. Bài diễn văn thật đầy đủ. Nếu để cho ông Đại Sứ Liên Xô thì không biết
bài diễn văn có ra gì không? Sau đó, khi biết rõ đầu đuôi chuyện bài diễn văn của
Sứ Thần Tòa Thánh, ai nấy đều cười xòa vui vẻ.
CNTN 31B - GIỚI RĂN TRỌNG NHẤT
Lời Chúa: Mc 12, 28b-34
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, có người trong nhóm luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi
Người rằng: "Trong các giới răn điều nào trọng nhất?"
Chúa Giêsu đáp: "Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Israel,
hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến
Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn đây
là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi. Không có
giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó.”
Luật sĩ thưa Ngài: "Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ
khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất và ngoài Người chẳng có Chúa nào khác nữa.
Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình
thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh.”
Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo: "Ông
không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu.”
Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì nữa.
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1. Bắt đầu từ điều quan trọng
Một ngày kia người ta xin một giáo sư già nói chuyện như một nhà
chuyên môn với một số hiệp hội lớn Bắc Mỹ về sự quản lý thời giờ cá nhân.
Ong quyết định thử một thí nghiệm. Đứng trước một nhóm sẵn sàng
ghi chú, ông kéo ra từ dưới bàn một bình thủy tinh to lớn, trống trơn. Ông bỏ một
tá viên đá cỡ banh tennis trong bình đó cho đến khi đầy. Khi ông không còn khả
năng thêm những viên đá nữa, ông hỏi những kẻ hiện diện: “ cái bình xem ra đầy
đối với các anh phải không?” và họ trả lời “Phải!” Ong chờ một lúc và sau đó hỏi:
“Các anh chắc không?”
Ong lại khum mình xuống và kéo một bình đầy sạn từ dưới bàn và cẩn
thận trút những viên sạn vào trong bình, lắc cái bình một chút cho những viên sỏi
có thể chạm những viên đá ở dưới đáy. Ông hỏi: “ Lần này cái bình có đầy
không?”
Thính giả của ông, trở nên khôn hơn, bắt đầu hiểu và nói: “Có lẽ
chưa.” Rất tốt!” vị giáo sư già phúc đáp. Ông lại khum mình xuống và lần này
rút ra một bao cát và đổ vào trong bình cẩn thận. Cát nhét đầy những không gian
giữa những viên đá và những viên sạn.
Rồi ông hỏi lại: “Bây giờ cái bình đầy không?” Và tất cả mọi người
trả lời không do dự: “Không!” “Chắc chắn là thế,” vị giáo sư già nói và, như họ
trông đợi, lấy bình nước từ trên bàn và đổ nước vào trong bình cho tới miệng.
Lúc này ông nhìn thính giả của mình và hỏi: “Thí nghiệm này dạy
chúng ta chân lý lớn nào?” Người gan dạ nhất của nhóm, suy nghĩ về chủ đề đường
lối hành động--sự quản lý thời gian-- trả lời: “ Điều này chứng tỏ cho chúng ta
rằng cả khi chương trình làm việc đã đầy, với một chút cố gắng chúng ta luôn có
thể thêm một công việc khác, một sự gì khác để làm.”
“Không,” giáo sư trả lời, “Không phải vậy. Thí nghiệm chỉ cho
chúng ta một cái gì khác. Nếu các anh không để những viên đá lớn trong bình trước
hết, thì các anh không bao giờ có thể để chúng vào sau.”
Có một lúc yên lặng và mọi người hiểu rõ sự khẳng định này.
Giáo sự nói tiếp: “Cái gì là những viên đá lớn, những ưu tiên,
trong đới sống các anh? Sức khoẻ? Gia đình? Bạn hữu? Bảo vệ một vấn đề? Hoàn
thành điều gì gần tâm hồn các anh?
“Điều quan trọng là để những viên đá lớn này trong chương trình
nghị sự các anh trước hết. Nếu các anh dành ưu tiên cho hàng ngàn việc nhỏ
khác-những viên sạn, cát-đời sống các anh sẽ tràn đầy sự vô nghĩa và các anh sẽ
không bao giờ có giờ hiến mình cho những việc thực sự quan trọng hơn.
“Như vậy, đừng bao giờ quên đặt câu hỏi này cho chính các anh:
'Những điều quan trọng trong đời sống của tôi là gì?' hãy đặt những sự này trên
đầu chương trình nghị sự của các anh.”
Lúc đó, với một cử chỉ thân hữu giáo sư già chào tạm biệt thính
giả của mình và rời phòng.
Với 'những viên đá lớn” do giáo sư nhắc tới-sức khoẻ, gia đình,
các bạn hữu-chúng ta cần thêm hai cái khác, to nhất trong tất cả, hai điều răn
lớn nhất: hãy yêu mến Thiên Chúa và người thân cận.
2. Bỏ tội thiếu tình thương
Thứ tội mà chúng ta phạm nhiều nhất là tội không yêu thương. Tuy
nhiên chúng ta lại không coi đó là tội, vì chúng ta vẫn nghĩ cái gì làm hại đến
người khác mới là tội.
Một người kia bán một chiếc xe “dỏm” cho một người khách lạ. Một
hôm anh vừa đi nhà thờ xưng tội ra thì gặp một người bạn. Người bạn nói: “Chắc
là anh có kể cho Cha giải tội nghe chuyện anh bán chiếc xe dỏm”? Anh đáp lại:
“Tôi chỉ xưng các tội thôi. Còn chuyện buôn bán thì có ăn thua gì tới ông cha
đó”?
Một nguy hiểm lớn cho tín hữu thường đi nhà thờ là không thấy sự
liên hệ giữa điều họ làm ở nhà thờ ngày Chúa nhật với điều họ làm trong tương
quan với người khác vào những ngày trong tuần. Nhiều người xét mình theo đủ mọi
điều răn nhưng không hề xét tới những tội thiếu sót; thiếu tinh thần trách nhiệm,
thiếu ngay thẳng trong việc làm ăn, thiếu tôn trọng những người sống chung với
mình… Đối với những người đó, đạo và đời hoàn toàn tách biệt nhau (Theo Flor
McCarthy).
Mở đầu sách giáo lý Tân Định có một câu hỏi rất hay: Hỏi: “Ta sống
ở đời này để làm gì”? Thưa: “Ta sống ở đời này để nhận biết thờ phượng, kính mến
Đức Chúa Trời là Cha chúng ta và yêu thương mọi người như anh em, cùng nhau xây
dựng một xã hội tốt đẹp, cho ngày sau được hạnh phúc đời đời.”
Như vậy, cuộc đời con người là phải mến Chúa và yêu người thì mới
mong được hưởng hạnh phúc đời đời. Chính vì thế nữ tu Rosalie mới nói: “Nước
Thiên đàng không dành cho những người cằn cỗi yêu thương.”
3. Hai giới răn đi đôi
Các tín đồ Hồi giáo rất coi trọng luật buộc hành hương thánh địa
Mecca vì đây là nơi sinh của đức giáo chủ Mahomet.
Ngày xưa Vua các loài mèo cũng đi hành hương thánh địa Mecca.
Khi ngài trở về, vị vua các loài chuột nghĩ rằng mình có bổn phận phải đến chúc
mừng. Tuy nhiên các bề tôi chuột ái ngại cho tính mạng của vua mình. Họ tâu:
“Mèo là kẻ thù của chúng ta. Không thể tin cậy được.” Nhưng vua chuột đáp: “Ông
ta đã đi hành hương thánh địa, cho nên chắc là tâm tính của ông đã thay đổi.”
Thế là vua chuột tìm đến hoàng cung của vua mèo. Mới tới cửa thì
vua chuột đã thấy vua mèo đang nằm mọp cầu kinh rất là sốt sắng. Vua mèo thấy
an tâm, tiến vào gần hơn chút nữa. Đột nhiên vua mèo chồm lên định vồ lấy vua
chuột. Rất may là nhờ nhanh hơn nên vua chuột kịp phóng ra ngoài thoát thân.
Khi vua chuột trở về nhà, các bề tôi hỏi: “Phải chăng là sau khi
hành hương thánh địa trở về, vua mèo đã thay tâm đổi tính?” Nhưng vua chuột
đáp: “Các ngươi đã đoán đúng, còn ta thì sai.”
Câu chuyện tưởng tượng trên muốn giúp ta thấy rằng thật là nguy
hiểm nếu tách riêng hai giới răn mến Chúa và yêu người.
Thiên Chúa là tình yêu và là nguồn của mọi tình yêu. Vì thế nếu
yêu Chúa thật thì cũng phải yêu người. Một tôn giáo chỉ lo yêu Chúa mà không biết
yêu người là một tôn giáo không hợp ý Chúa và không phải là tôn giáo thật.
Nơi nào không có tình yêu, ta hãy gieo tình yêu và ta sẽ gặt được
tình yêu
Nơi nào không có tình yêu, ta hãy đặt tình yêu vào đấy và ta sẽ
tìm thấy tình yêu
Tôi đi tìm Chúa nhưng tôi không gặp được Ngài
Tôi đi tìm linh hồn tôi nhưng linh hồn trốn né tôi
Tôi đi tìm người láng giềng, và tôi gặp được cả ba. (Viết theo
Flor McCarthy)
4. Giá trị của nụ hôn
Trong báo Los Angeles ngày 13-13-1997 có đăng lá thư của một độc
giả ở Sun City, California gởi cho nữ ký giả Ann Landers – người phụ trách mục
“Giải đáp thắc mắc” như sau:
Bà Ann thân mến
…Ba tôi đi làm sáu ngày một tuần, còn mẹ tôi lúc nào cũng bận rộn
với việc lau chùi nhà cửa, giặt giũ, nấu ăn. Cả hai người đều lớn lên trong những
gia đình không bộc lộ tình cảm. Ông bà tôi không bao giờ bộc lộ tình cảm dành
cho cha mẹ tôi và chẳng bao giờ nói với họ rằng họ được yêu thương. Vì vậy,
cũng dễ hiểu là tại sao ba mẹ tôi đã không bộc lộ tình cảm hay nói những lời
thương mến với chúng tôi.
Cuộc đời tôi đã thay đổi khi tôi lên chín tuổi. Hôm ấy có dịp ở
lại qua đêm ở nhà một cô bạn. Mẹ cô hôn cả hai chúng tôi khi cho chúng tôi lên
giường ngủ. Cử chỉ ấy đã biến đổi đời tôi. Tôi quá cảm động vì hành vi yêu
thương ấy, đến nỗi tôi không thể ngủ được. Tôi nghĩ: “Đây mới thực là cách lẽ
ra ba mẹ phải làm cho mình.” Khi về nhà, tôi đã giận ba mẹ một thời gian. Nhưng
vì không thể giận ba mẹ hoài vì tính tình sẵn có của họ.
Đây là điều tôi đã làm để thay đổi tình hình: Tôi bắt đầu hôn mẹ
tôi thường xuyên đến nỗi mẹ tôi phải bật cười. Tôi đã kết hôn khi lên 17 tuổi
và đã có hai con khi chưa đầy 20. Tôi thường hôn chúng đến khi má chúng ửng hồng.
Khi nói chuyện với mẹ tôi trên điện thoại, tôi nói: “Mẹ ơi! Con thương Mẹ!” Sau
một thời gian, cuối cùng mẹ tôi cũng đã nói được với tôi: “Mẹ cũng rất thương
con.” Tôi chưa được nghe như thế bao giờ. Sau lần ấy vài tuần khi tôi đến thăm
mẹ, bà hỏi tôi: “Những cái hôn của mẹ đâu?” Khi tôi sắp về mẹ tôi bảo: “Mẹ
thương con. Con biết mà phải không?”
5. Thứ tội phạm nhiều nhất
Thứ tội mà chúng ta phạm nhiều nhất là tội không yêu thương. Tuy
nhiên chúng ta lại không coi đó là tội, vì chúng ta vẫn nghĩ cái gì làm hại đến
người khác mới là tội.
Một người kia bán một chiếc xe “dỏm” cho một người khách lạ. Một
hôm anh vừa đi nhà thờ xưng tội ra thì gặp một người bạn. Người bạn nói: “Chắc
là anh có kể cho Cha giải tội nghe chuyện anh bán chiếc xe dỏm?” Anh đáp lại:
“Tôi chỉ xưng các tội thôi. Còn chuyện buôn bán thì có ăn thua gì tới ông cha
đó”
Một nguy hiểm lớn cho những tín hữu thường đi nhà thờ là không
thấy sự liên hệ giữa điều họ làm ở nhà thờ ngày Chúa nhật với điều họ làm trong
tương quan với người khác vào những ngày trong tuần.
Nhiều người xét mình theo đủ mọi điều răn nhưng không hề xét tới
những tội thiếu sót ; thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu ngay thẳng trong việc
làm ăn, thiếu tôn trọng những người cùng sống chung với mình v.v. Đối với những
người đó, đạo và đời hoàn toàn tách biệt nhau.
Đức Giêsu nói với người kinh sư “Ông không còn xa Nước Thiên
Chúa bao nhiêu.” Ông đã biết liên kết hai giới răn mến Chúa và yêu người thành
một, đó là một bước. Ông chỉ cần bước thêm bước thứ hai nữa là vào được Nước
Thiên Chúa, bước đó là thực hành điều ông biết. (Viết theo Flor McCarthy)
6. Các bậc thang yêu thương
Maimonides là một thầy giáo người do thái rất nổi tiếng ở Tây
ban nha trong thế kỷ 20. Ông đã liệt kê 8 bậc thang yêu thương như sau:
. Bậc thứ nhất và cũng thấp nhất là cho, nhưng cho một cách miễn
cưỡng.
. Bậc thứ hai là cho cách vui vẻ, nhưng không tương xứng với nhu
cầu của người nhận.
. Bậc thứ ba là cho vui vẻ và tương xứng với nhu cầu người nhận,
nhưng đợi người ta xin mới cho.
. Bậc thứ tư cho vui vẻ, tương xứng và không chờ người ta xin.
. Bậc thứ năm là cho một cách nào đó khiến người-nhận nhận được
của cho đồng thời biết được người-cho, nhưng người-cho không biết người-nhận.
. Bậc thứ sáu là người-cho biết người-nhận nhưng người-nhận
không biết người-cho.
. Bậc thứ bảy là cho, nhưng cả người-cho và người-nhận đều không
biết nhau.
. Bậc thứ tám cao nhất, là thấy trước nhu cầu người-nhận nên cho
để người-nhận khỏi rơi vào cảnh nghèo khổ.
7. Tội dửng dưng
Một người nghèo kia đi từ nhà này sang nhà khác để ăn xin. Nhưng
chẳng ai cho ông một đồng hay một mụn bánh, trái lại ông còn nhận được rất nhiều
lời xua đuổi, thậm chí chửi rửa.
Một ngày mùa đông, ông bị trượt té gãy chân. Có người đi ngang
thấy thế đưa ông vào bệnh viện. Khi dân chúng hay tin có người nghèo bị té gãy
chân và đang phải nằm bệnh viện, họ kéo đến rất đông, họ an ủi ông, họ đem thức
ăn đến cho ông. Khi ông rời bệnh viện, họ còn cho ông những quấn áo ấm và cả một
số tiền nữa.
Trở về nhà, người ấy nói với vợ: “Ngợi khen Chúa vì đã làm một
phép lạ là cho tôi được gãy chân!”
Sớm giúp cho người ta khỏi té còn tốt hơn là khi người ta té rồi
mới giúp.
8. Nghèo khó là mối phúc đầu tiên
Phanxico Assise là con một người giàu có danh giá ở thành Át-si.
Một hôm đi nhà thờ dự lễ, tình cờ nghe một vị linh mục gảng một bài về Tám Mối
Phúc Thật, Phan-xi-cô rất tâm đắc với câu nói của Chúa: “Phúc thay ai có tâm hồn
nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.”
Từ hôm ấy, Phan-xi-cô thường suy nghĩ phải sống thế nào để thực
thi ý Chúa, và trở thành một người nghèo thực sự? Rồi một ngày nọ, anh quyết định
sống siêu thoát và từ bỏ để hoàn toàn tin cậy vào Chúa quan phòng. Anh bán tất
cả gia sản của cha, rồi đem phân phát cho người nghèo khổ bệnh tật. Hành động của
Phan-xi-cô đến tai người cha làm ông nổi giận.
Ông đã đến thu hồi tất cả những gì còn lại và không nhận
Phan-xi-cô làm con nữa. Hôm ấy anh đã cởi bỏ các thứ quần áo giầy dép quí giá
đang mang trên người và ra đi với hai bàn tay trắng. Anh viết trong nhật ký:
“Bây giờ tuy không còn có cha ở trần gian, nhưng tôi vẫn luôn có Cha Trên Trời
hằng thương yêu tôi.”
Từ hôm đó anh được hoàn toàn tự do đi theo lý tưởng đã lựa chọn,
là từ bỏ mọi sự, trở nên nghèo khó vì Nước Trời.” Ban ngày anh mặc quần áo vải
thô, chân không giày dép đi qua các đường phố và làng mạc để khất thực. Tối đến,
anh lại thức khuya để đọc Thánh Kinh, cầu nguyện và dùng dây da tự đánh vào người
hãm mình phạt xác. Anh đã được Chúa Giê-su cho in năm dấu thánh trên hai bàn
tay bàn chân và cạnh sườn để nên giống Người. Anh đã thực hành theo Lời Chúa dạy
trong Tin Mừng hôm nay: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của
họ.”
Lối tu luyện khổ hạnh của anh đã được Giáo Hội công nhận và dòng
“Anh em hèn mọn” do anh sáng lập đã được nhiều người đến xin gia nhập và trở
thành một dòng tu lớn trong Giáo Hội. Sau khi qua đời, anh được Hội Thánh phong
hiển thánh tức là thánh Phan-xi-cô Át-si, hoặc Phan-xi-cô khó khăn hay
Phan-xi-cô Năm Dấu.
9. Yêu xe hơn yêu người
Trên một con đường vắng, một chiếc xe đang phóng nhanh chợt đột
ngột thắng gấp và tấp vào lề đường. Ai đó vừa ném một hòn đá vào cánh cửa chiếc
xe.
Bước ra khỏi xe, liếc nhìn chỗ xe bị ném, người lái xe bực tức
chạy nhanh đến tóm ngay thằng bé đứng gần đó - chắc chắn nó là tác giả của vết
trầy trên chiếc xe. Trước đó anh đã thấy nó vẫy xe, chắc là để đi nhờ.
“Không cho đi nhờ mà mày làm như vậy hả?”
Anh vừa gằn giọng vừa nắm chặt cổ áo đẩy cậu bé sát vào chiếc
xe...
Cậu bé lắp bắp sợ hãi: “Em xin lỗi! Nhưng em... em... không biết
làm cách nào khác. Nếu em không ném vào xe của anh thì anh đã không dừng lại...Nãy
giờ em đã vẫy biết bao nhiêu xe mà không có ai chịu dừng.”
Nói đến đó, nước mắt cậu bé lăn dài trên má. Cậu chỉ tay về vệ cỏ
phía bên kia đường.
“Có một người... anh ấy bị ngã và chiếc xe lăn của anh ấy cũng
ngã theo. Em tình cờ đi ngang qua thấy vậy nhưng không thể đỡ nổi anh ấy vì anh
ấy nặng quá.” Giọng ngắt quãng vì những tiếng nấc liên tục, cậu bé nài nỉ: “Anh
có thể giúp em đưa anh ấy lên chiếc xe lăn được không? Anh ấy ngã bị chảy máu,
chắc là đau lắm.
Lời nói của cậu bé khiến anh thanh niên không thể thốt lên được
lời nào. Anh thấy cổ mình như nghẹn lại vì xúc động. Anh đến đỡ người bị ngã
lên chiếc xe lăn, băng vết thương và cùng cậu bé kéo xe lên đường.
Cậu bé tiếp tục đẩy chiếc xe lăn chở nạn nhân về nhà.
Người thanh niên dõi mắt nhìn theo cho đến khi hình ảnh cậu bé
và chiếc xe lăn khuất sau rặng cây đường làng.
Anh bước thật chậm về phía chiếc xe của mình. Sự giận dữ trong
anh biến mất. Anh quyết định không sửa lại vết trầy trên xe. Anh muốn nó sẽ nhắc
nhở anh về câu chuyện xúc động hôm nay, về một điều mà trước nay anh không để ý
đến và cũng không có thời gian để nghĩ đến. Anh đã không nhận ra, không có được
lòng trắc ẩn như cậu bé. Anh đã tiếc thời gian và đi quá nhanh đến nỗi phải có
một ai đó ném một hòn đá vào xe mới làm anh dừng lại. Amen.
10. Thì ra mẹ cũng hư
Nhà văn Trường Long có kể một câu chuyện: Sau khi li hôn, người
chồng phải dọn đồ ra khỏi nhà. Đứa con gái nhỏ hỏi mẹ; "Sao mẹ đuổi bố
đi?" Mẹ đáp: Tại bố hư. Rồi để đứa bé khỏi vặn vẹo lôi thôi, người mẹ mua
cho nó một cái bánh. Đứa anh từ đâu phóng tới chụp cái bánh bỏ vào miệng. Con
bé khóc ré lên đòi bắt đền. Mẹ nó dỗ: Anh mày hư quá, nín đi con, bỏ qua cho
anh một lần. Đứa bé phụng phịu: "Thế sao mẹ không bỏ qua cho bố?" Bà
mẹ nhìn xa xôi rồi thở dài: Ừ thì mẹ cũng hư!
Câu chuyện cho thấy cả hai vợ chồng cùng hư cho nên dẫn tới li dị.
Hư đây chắc chắn là hư về tình yêu vợ chồng và hư về lòng chung thủy.
Chúng ta nhớ lời thánh Augustinô "Ama et fac quod vis"
Bạn hãy yêu rồi bạn hãy làm điều bạn muốn. Lòng mến Chúa yêu Người phải đi trước
mọi hành động của chúng ta. Nguyện xin Chúa Thánh Thần gia tăng lòng mến cho
chúng con. Amen.
11. Đạo Yêu Thương--PM. Cao Huy Hoàng
Nhớ lại, chiều ngày 23-11-2009, Tại Sở Kiện, trong dịp khai mạc
Năm Thánh kỷ niệm 350 năm Giáo Hội Công Giáo Việt Nam và 50 năm thành lập Hàng
Giáo Phẩm Việt Nam, tôi đặc biệt tâm đắc lời phát biểu bằng cung giọng miền Nam
rất đơn sơ chân chất của Đức Hồng Y GB Phạm Minh Mẫn, chủ tịch Ủy Ban Năm Thánh
Toàn Quốc: “Người Công giáo Việt Nam hãy viết lại định nghĩa Đạo Công Giáo vào
trong cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình và cộng đoàn nơi chúng ta sống. Ước
mong sử sách sẽ ghi nhận lại định nghĩa này vào trong văn hóa và tiềm thức của
mỗi người: Đạo Công giáo – Đạo Yêu Thương, người Công giáo là người luôn ý thức
rằng Chúa yêu thương mình và do đó ý thức được bổn phận phải yêu thương tất cả
mọi người.”
12. Để làm con của Vua trên trời
Một vị vua không có con để nối dõi ngai vàng, ông đã cho truyền
rao khắp nước để mời người đàn ông nào ưu tú đến để tuyển trạch xứng đáng cho
lên ngôi thay nhà vua. Nhưng tiêu chuẩn của nhà vua đưa ra là người ấy thật sự
phải có lòng “ mến Chúa và yêu người.”
Một thanh niên thấy mình có đều kiện nhưng lại quá nghèo khổ, đến
độ ngay cả quần áo mặc đi đường còn rách rưới va con kiếm ra riền mua lương thực
trong hành trình để đi lên hoàng cung hầu được tham dự cuộc thi. Anh trước hết
ngửa mặt lên trời cầu nguyện cùng Chúa. Kế đến anh đi ăn xin quần áo và tiền bạc
để chuẩn bị cho cuộc hành trình.
Trong hành trình tiến đến cung điện, anh mệt mỏi quá ngồi nghỉ.
Ngay lúc đó anh trông thấy một ông lão ăn xin nghèo. Ông chìa tay xin anh:
- Tôi đói lạnh quá! Xin cậu thương tơi.
Anh nhìn ông lão lòng vô cuvng xúc động. Anh liền cởi chiếc áo
lành lặn của anh đổi lấy tấm áo rách tả tơi của cụ, và trao cho cụ phần lương
thực dự trữ cho chuyến trở về của mình.
Thế rồi anh lững thững đi vào đền vua. Vừa đến trước mặt vua.
Anh cúi đầu su cho ngi. Khi ngước mặt lên, anh không thể tin nổi mắt anh. Anh
thốt lên:
- Thế ra bệ hạ là lão ăn mày lúc nãy?
- Đúng vậy. Nhà vua đáp.
Anh ta ngạc nhin hỏi:
- Sao bệ hạ làm thế?
- Vì trẫm muốn thử xem ngươi có thật lòng “mến Chúa và yêu người”
không.
13. Thấy được tình yêu
Một người mẹ nói với cô con gái nhỏ của bà về tình yêu Thiên
Chúa. Cô bé bối rối: “Mẹ ơi, làm sao con có thể yêu Chúa? Con chưa bao giờ thấy
Người.” Ít ngày sau, cô bé nhận được một bưu kiện, trong đó có một cuốn sách
hình rất đẹp, trên trang bìa cuốn sách đề hàng chữ: “Tặng Maria thân yêu, Dì
Rosa.” Bé Maria chưa bao giờ gặp dì Rosa và họ sống xa nhau hàng ngàn cây số.
Khi Maria nhìn những bức hình đẹp trong cuốn sách, em nói với mẹ: “Mẹ ơi, con
yêu dì Rosa quá! Dì cho con cuốn sách đẹp này.” Người mẹ phản đối: “Nhưng con
chưa bao giờ thấy dì Rosa mà.” Maria trả lời: “Con biết, nhưng con yêu dì, vì
dì gởi cho con cuốn sách đẹp này.”
Nhiều người trong chúng ta có thể thắc mắc: “Làm sao chúng ta có
thể yêu Chúa nếu chưa bao giờ chúng ta thấy Người?” Tất cả chúng ta đã nhận quà
của Chúa, những món quà này dẫn chúng ta yêu Đấng đã gởi tới.
14. Tôi đi tìm Chúa
Các tu sĩ Ái nhĩ lan có kể giai thoại sau đây. Đêm nọ, vị tu sĩ
lão thành thấy một thiên thần đang ngồi viết trong cuốn sổ vàng. Vị tu sĩ rón
rén đến hỏi, “Ngài đang viết gì trong sổ đó?” “Tôi đang ghi tên những kẻ ‘Kính
mến Chúa và yêu thương người’.”
Lo lắng hồi hộp, ông không biết mình có tên trong sổ đó không,
nên hỏi, “Thưa ngài, ngài có ghi tên tôi trong sổ đó không?” Thiên thần lật từng
trang mà không thấy tên ông. Ông nài nỉ, “Xin ngài ghi tên tôi như là một tu sĩ
thương mến tha nhân.” Sứ thần chiều ý ông. Thế là tên ông được ghi vào sổ vàng.
Hôm sau sứ thần lại hiện ra, mở sổ vàng cho ông xem. Ông lại thấy
tên mình dẫn đầu trong sổ những người yêu mến Chúa… Sau khi qua đời, các thầy
xem nhật ký của ông, dòng chữ đầu trong nhật ký đó là, “Nếu ai nói mình yêu mến
Chúa mà ghét anh em là kẻ nói dối. Không yêu mến anh em là kẻ mình thấy thì
không thể kính mến Chúa là đấng mình không thấy.”
Và tiếp theo là lời ghi chú của ông, “Tôi đi tìm linh hồn tôi,
nhưng tôi không thấy. Tôi đi tìm Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vượt khỏi tầm tay
tôi. Tôi đi tìm người anh em tôi, tôi lại gặp Thiên Chúa và linh hồn tôi.”
15. Hạt giống tình yêu
Trong giấc mơ, người nữ kia thấy mình đang đứng trước một cửa
hàng mới khai trương. Điều làm cho bà ngạc nhiên nhất là thấy Chúa Giêsu ngồi
ngay ở quầy tính tiền. Bà liền hỏi, “Chúa bán những món hàng nào?” “Tất cả mọi
món hàng mà con người ham thích.”
Vui mừng quá! Bà ta quyết định mua tất cả những món hàng mà người
đời thường ham thích. Bà thưa với Chúa, “Con muốn mua, bình an, hạnh phúc, tình
thương..” Chúa Giêsu mỉm cười, chậm rãi nói, “Con lầm rồi. Ở đây không bán hoa
trái, mà chỉ có bán hạt giống thôi.”
16. Có yêu người mới mến Chúa
Một bà đạo đức cảm thấy lòng kính mến Chúa của mình ngày càng
suy giảm mau chóng như sức khỏe thể xác của bà. Bà buồn quá, không biết làm sao
nung đốt lại lửa mến Chúa trong lòng mình. Vì nay bà đã gần đất xa trời rồi, sợ
với tình trạng tâm hồn nguội lạnh thế này thì khó vào được thiên đàng sau khi
nhắm mắt lìa đời. Bà đến gặp linh mục lão thành Zossima, kể cho ngài nghe nỗi yếu
kém sa sút của lòng mến Chúa của bà, và xin ngài cho phương cách chữa trị.
Cha Zossima chăm chỉ lắng nghe rồi nói, “Có một phương thế rất
hiệu nghiệm.” Bà vui mừng hỏi ngay, “Phương thế nào, thưa cha?” “Bằng tình yêu.
Hãy cố gắng yêu thương những người láng giềng của bà. Càng thương yêu họ, bà
càng kính mến Chúa hơn. Bà chắc chắn được Chúa thưởng thiên đàng hơn.”
17. Tiếng chiên con
Một buổi chiều đông giá rét, có người đốn cây trên đồi trở về
vui với gia đình trong đêm Giáng sinh, sau bao ngày lao động xa cách gia
đình...
Bỗng một cơn bão nổi lên, sấm chớp nổ vang trời, mưa đổ xuống
như thác lũ... Anh đang chạy tìm chỗ trú ẩn thì một tiếng sét long trời nổ bên
tai, cành cây đổ xuống trên mình anh, máu từ đầu chảy xuống, và anh ngã gục, nằm
chờ tử thần!.
Có tiếng bê-bê từ đâu vọng lại. Đó là tiếng một con bê con đang
gặp nạn như anh. Thọat đầu anh làm ngơ vì kiệt sức. Nhưng tiếng kêu mỗi lúc một
tha thiết khiến anh tự nhủ: “Mình chỉ muốn chết, nhưng con bê kia muốn sống và
chắc chắn nó đang cần mình.” Thế thì anh cố chỗi dậy, đi theo tiếng chiên kêu.
Anh tìm được nó trong một cái hang. Nó cũng bị thương và lạnh buốt.
Anh ẵm nó vào lòng ngực để sưởi ấm cho nó.” Một sức sống mới đang vươn lên
trong thân xác yếu ớt của anh. Anh cảm thấy muốn sống và muốn sống hơn bao giờ
hết.”
Chúa đến viếng thăm chúng ta, nên ánh sánh hy vọng của sự sống
là bảo chứng của ơn cứu rỗi và là chiến thắng tiêu diệt sự chết..
18. Chết vì yêu
Tạp chí bách Khoa Văn học số 6 năm 1991, có đăng câu chuyện “Mùi
cọp.”
Có đôi vợ chồng trẻ: chồng là giảng sư đại học, vợ là diễn viên
và là người tập luyện thú của đoàn xiếc. Hai con người, hai nghề nghiệp và hai
tính khí hoàn toàn khác nhau, chồng thấy nghề dạy thú của vợ có cái gì không
bình thường, nhứt là mùi cọp lúc nào cũng hăng hắc từ thân thể của vợ. Cái mùi
cọp thật là khó chịu đối với người khác, nhưng đối với nguời dạy thú thì không
thể thiếu mùi đó. Chính nhờ cái mùi đó mà bầy cọp mới nhận ra cô và ngoan ngoãn
vâng lời.
Rồi hai người giận nhau, và tình trạng kéo dài. Cuối cùng người
vợ chủ động làm lành. Cô tẩy sạch mùi cọp và thay vào đó mùi nước hoa thơm phức.
Thế là họ làm hòa với nhau.
Nhưng đêm sau người vợ đó chết. Cô chết vì con cọp dữ không nhận
ra cô nữa, vì mùi cọp quen thuộc của cô đã biến thành mùi nước hoa xa lạ. Con cọp
hoảng hốt trước mùi nước hoa lạ lẫm đó nên phải tự vệ bằng cách tấn công cô.
19. Tình yêu cần việc làm
Cha George Anderson là tuyên uý cho một nhà tù hết sức nghiêm khắc
tại Riker's Island thuộc tiểu bang New York. Cha thành lập một nhóm bàn việc cầu
nguyện và chia sẻ Lời Chúa cho một số tù nhân. Nhóm này thường đọc đoạn Kinh
Thánh nói về người Samaritanô nhân hậu trong dụ ngôn đứa con hoang đàng. Sau đó
họ thường yên lặng suy gẫm đoạn Thánh Kinh đó rồi chia sẻ với nhau về cách thức
áp dụng tinh thần của đoạn Kinh Thánh đó vào cuộc sống hằng ngày của họ.
Một buổi tối nọ, có một tù nhân tên Richard, thuộc khu những người
rối loạn tâm thần, lần đầu tiên đến chia sẻ với nhóm. Cha Anderson mô tả câu
chuyện xảy ra như sau:
“Đó là một buổi tối loäng gió vào tháng Ba. Trong phòng không đủ
ấm. Người bạn ngồi đối diện với Richard chỉ mặc một chiếc áo mỏng và chiếc quần
dài nên đang lạnh run. Trên vai Richard thì khoác những hai chiếc mền. Thế là
trong lúc chúng tôi đang bàn luận về ý tưởng tương trợ lẫn nhau, đột nhiên
Richard đứng lên, tiến đến người bạn tù kia, và choàng một chiếc mền lên người
bạn ấy.”
Cử chỉ không lời của Richard gây ấn tượng mãnh liệt cho cả nhóm
hơn bất cứ mọi lời đang thốt ra. Nó cũng nêu ra được điểm quan trọng mà chính
Chúa Giêsu đã đề cập trong bài Phúc Âm hôm nay.
20. Tình yêu cần thời gian
Cách đây ít lâu, tờ Dallas Morning News (Dallas Tin Sáng) có
đăng lá thư của một thiếu phụ nọ viết nhân cái chết của mẹ mình, trong đó có đoạn
này:
“Mẹ tôi sống gần chỗ tôi, việc dành chút ít giờ pha cho mẹ một
tách trà nóng, hay tỏ ra một cử chỉ yêu thương đối với mẹ lẽ ra đối với tôi phải
là một việc rất dễ dàng… khi tôi gọi địên thoại cho mẹ, tôi lại nói quá vắn tắt
và vội vàng. Tôi cảm thấy thật xấu hổ khi nghĩ lại những lần tôi cúp điện thoại
cho lẹ khi nói chuyện với mẹ. Lúc đó tôi nói với mẹ: 'Tiếc quá, con phải đi
ngay, mẹ ạ!'. Thế giới đầy dẫy những người giống như tôi. Tôi hy vọng trong số
những người con ấy, nhiều người sẽ nhận ra điều này… và biết rút ra bài học cho
mình.”
Tôi chắc chắn nhiều người trong chúng ta cảm thấy những lời nhận
xét của thiếu phụ này cũng đúng đối với mình. Chúng ta cũng đã từng cư xử với
cha mẹ con cái chúng ta hoặc những ai cần đến tình thương và sự âu yếm của
chúng ta, một cách tương tự, như người thiếu phụ trên.
21. Chết cho người mình yêu
Năm 1987 một trận động đất lớn xẩy ra ở Ar-mê-ni, nhiều căn nhà
bị đổ sập, nhiều người bị chôn vùi trong đống đổ nát. Mẹ con chị Su-san-na bị mắc
kẹt giữa các bức tường. Bé gào khóc đòi uống nước! Chị biết nếu không có nước
con chị sẽ chết! Tình mẫu tử mách bảo, chị sờ soạng trong bóng tối tìm được một
mảnh kính vở, cắt vào ngón tay, bảo con mút, chị bị hôn mê! Mọi người đều coi
việc cắt ngón tay lấy máu cho con uống là anh hùng, nhưng chị trả lời đơn giản:
“Tôi chỉ muốn con tôi sống, nên tôi hành động như vậy!”
Tôi chỉ muốn con tôi sống là mệnh lệnh đối với rất nhiều các bà
mẹ trong lịch sử, là luật bất thành văn, mạnh mẽ phi thường giữa đời thường
bình dị.
22. Trộm được tình yêu
Đang nằm thiêm thiếp trong giấcngủ. Em bỗng Victor nghe có tiếng
động ở tầng dưới. Vì tò mò và vì muốn bắt gặp Chúa Hài Đồng Giêsu đến tặng quà,
em rón rén bước xuống cầu thang. Em nhanh tay bật công tác đèn, ánh đèn sáng
choang soi rõ khuân người đang đứng sững trước lò sưởi. Trên tay người lạ ôm là
một quả cam và một hộp sôcôla. Em reo lên:
- Thì ra không phải Chúa Hài Đồng. Cháu hiểu ra rồi. Ông là
thánh Giuse phải không? Ông có buồn khi cháu đến quấy rầy ông không? Ông đang
soạn cam và sôcôla cho cháu đấy phải không?
- Ông ăn trộm yên tâm. Đó ông chính là tên ăn trộm, nhưng em bé
kia không hề biết. Càng lúc ông đạo chích càng cảm thấy có thiện cảm với em vì
em đã gán cho ông tước hiệu 'Thánh Giuse của đêm Noel!
Trong khi đó em vẫn say sưa phỏng vấn:
- Thưa thánh Giuse, ngài đem gì cho ba má con đây?
Ông ăn trộm liền điềm tĩnh đặt hộp sôcôla và trái cam vào chiếc
giầy của em, rồi rút từ chiếc túi rút phồng trên bàn ra 1 ống điếu và 1 bao thuốc
lá đặt vào chiếc giày của người cha, rút chiếc khăn trùm đầu đặt vào chiếc giày
của người mẹ.
Sau khi tên ăn trộm phân phát quà xong, em chạy lại nắm tay ông.
Bỗng đôi dòng lệ bắt đầu tuôn chảy nơi khoé mắt ông. Em bé nói:
- Khi nào ba má về, con sẽ khoe rằng con đã được gặp ngài!
- Đừng con! Mặt ông bỗng đanh lại khi nghĩ đến lúc người lớn trở
về. Ông dợm bước đi.
Sau khi liếc nhìn các thứ lần cuối, ông ăn trộm khoác chiếc bị xẹp
lép lên vai, mở cửa bước vào đêm đen, trên đôi mắt vẫn còn đọng lại 2 hàng lệ.
Xa xa, vẳng tiếng hồi chuông tan lễ reo vui...
23. Niềm tin bắt đầu từ tình yêu
Mẹ đã kể lại 1 câu chuyện cảm động như sau:
Hôm ấy có 1 người lạ mặt đến thăm các bệnh nhân. Ông đến nhà vào
lúc các xơ vừa đem 1 người hấp hối ở ngoài đường về. Mình ông phủ đầy giòi bọ,
trông thật ghê tởm. Thế nhưng, không 1 chút ái ngại, Xơ nhặt từng con giòi, rửa
sạch sẽ mọi chỗ, vừa làm vừa mỉm cười với tất cả lòng thương mến, không bận tâm
để ý đến ai. Trong khi đó, người khách lạ đứng nhìn từng cử chỉ của Xơ. Sau
cùng, người khách lạ đến gặp tôi và trút hết tâm sự:
- Thưa Mẹ, sáng nay con đến đây với tâm hồn của 1 kẻ vô thần.
Lòng con đầy căm hờn và oán giận. Nhưng bây giờ... con ra về với 1 tâm hồn hoàn
toàn đổi mới. Con bắt đầu tin vào Chúa, bởi vì con đã chứng kiến tình yêu của
Chúa được diễn tả 1 cách cụ thể qua hành động và qua cách Xơ đã đối xử với người
hấp hối bẩn thỉu kia. Bây giờ con tin thật Chúa là tình yêu. Không có tình yêu
Chúa, không thể nào có đủ nghị lực để yêu mến tha nhân được.
Mẹ Têrêsa chưa từng gặp người khách lạ và cũng không biết ông là
một kẻ vô thần.
24. Tình yêu gặp tình yêu
Sau đây hai trường hợp điển hình do Mẹ Tê rê xa kể lại cho chúng
ta.
“Vào một buổi tối kia, chúng tôi ra đường và thấy được 4 người.
Một người trong họ hết sức thê thảm. Tôi nói với các chị em rằng: ‘Các con hãy
chăm sóc 3 người kia; còn mẹ lo cho người tệ nhất ấy’. Thế là tôi đã làm tất cả
những gì tình yêu của tôi có thể làm cho người phụ nữ này. Tôi đặt người phụ nữ
ấy lên giường và chị đã nở ra một nụ cười tuyệt vời. Chị đã nắm lấy tay tôi nói
lời duy nhất ‘cám ơn Mẹ’, rồi chị qua đời. Tôi không thể nào không xét mình trước
chị phụ nữ ấy. Tôi ngẫm nghĩ: ‘Tôi sẽ nói gì nếu ở vào trường hợp của chị?’ Câu
trả lời của tôi rất dễ thôi. Tôi sẽ nói rằng: ‘Tôi đói khát, tôi chết mất, tôi
lạnh lẽo, tôi đau đớn’ hay một câu nào đó. Thế nhưng, chị đã cho tôi còn hơn thế
nữa. Chị đã cho tôi tấm lòng ưu ái tri ân của chị. Và chị đã chết với một nụ cười
trên khuôn mặt.
“Sau đó chúng tôi đã nhặt được một người đàn ông ở một cái cống
rãnh, một nửa thân mình đã bị sâu bọ rúc rỉa, và sau khi chúng tôi đã mang ông
ta vào nhà, ông chỉ nói rằng: ‘tôi đã sống như một con thú trên đường phố,
nhưng tôi sắp chết như một thiên thần, được yêu thương và chăm sóc’. Đoạn, sau
khi chúng tôi đã lấy hết mọi thứ sâu bọ khỏi mình mẩy của ông, tất cả những gì
ông nói với chúng tôi kèm theo nụ cười tươi là ‘Sơ ơi, tôi sắp về cùng Thiên
Chúa’, rồi ông tắt thở. Thật là tuyệt vời khi chứng kiến thấy sự cao cả của con
người đàn ông đã có thể nói như thế mà không trách cứ bất cứ một ai, không so
sánh bất cứ sự gì. Như một thiên thần, đó là sự cao cả của con người phong phú
về tinh thần ngay cả trong lúc nghèo khổ về vật chất.”
25. Luật yêu thương
Ngày đầu tiên Betty vào trường nội trú. Cô bé đọc bản nội quy của
trường và chán ngán. Cô tự hỏi không biết làm sao mình giữ nổi cả cuốn luật lệ
đủ thứ loại này. Nhưng đến chiều, Betty gặp bà hiệu trưởng, cô thấy bà thật hiền
hậu, dễ mến, bà có nụ cười đầy thiện cảm. Cô thấy mến bà, và thấy việc giữ những
luật lệ của trường cũng chả có gì khó khăn lắm. Tình yêu đã làm cho những khó
khăn mệt mỏi biến tan.
26. Sức mạnh của tình yêu
Một hôm trên đường trở về nhà xứ, vị linh mục già của thị trấn
Picardie, vừa đi vừa đọc thầm kinh nhật tụng. Có hai viên sĩ quan trẻ cũng về
chung đường. Khi rảo bước ngang qua, cả hai đều tỏ ý mỉa mai chế nhạo ông cha đạo
vì từ lâu họ đã mất niềm tin nơi Giáo Hội Công giáo. Sẵn đang vui chuyện, họ tiếp
tục chủ đề chỉ trích các tu sĩ, mặc kệ ông cha xứ già bị bỏ rơi lại phía sau một
đoạn khá xa.
Chợt có một người hành khất ngồi bên vệ đường lên tiếng: “Các
anh ơi, xin giúp kẻ nghèo này với.” Nghe vậy, một trong hai sĩ quan trẻ lục túi
tìm cho người ăn mày mấy đồng bạc, trong khi anh kia cũng chợt nẩy ra một ý.
Anh nói với bạn: “Ông cha già hồi nãy thế nào cũng sẽ đi ngang qua đây. Tôi dám
cá độ với anh là ông ta sẽ chẳng thí cho lão ăn mày này đến một xu! Cái bọn tu
sĩ đạo đức giả ấy chỉ thích làm phúc trước đám đông mà thôi. Không tin thì ta cứ
rình ở đây mà xem!” Cả hai nhất trí trốn vào một bụi cây gần đó.
Ít phút sau, quả nhiên vị linh mục già chậm rãi đi tới. Ngài đứng
lại nhìn người hành khất, đưa tay lục hết túi trên túi dưới, rồi hết sức ái ngại
nói với ông ta: “Ông bạn đáng thương ơi, rất tiếc là ta chẳng có lấy một xu
dính túi để chia sẻ cho ông bạn.”
Anh lính trong bụi nghe thế thì rúc rích cười: “Đấy, anh thấy
chưa? Tôi nói có sai đâu!” Trong khi ấy, người ăn mày lại tiếp tục nài van, xin
vị linh mục rộng lượng bố thí, còn ngài thì tỏ ra áy náy bứt rứt vì bó tay. Chợt,
ngài nhìn kỹ bộ quần áo rách tả tơi của người ăn mày, động lòng trắc ẩn, suy
nghĩ một thoáng rồi ngài bảo ông ta, giọng vui hẳn lên: “Ông bạn đợi ta một
chút nhé, ta sẽ trở lại ngay!”
Dứt lời, ngài nhìn trước trông sau rồi chui tọt vào bụi cây ngay
cạnh chỗ hai anh sĩ quan đang núp. Loay hoay một hồi rồi ngài lại bước ra, ngài
ân cần đưa cho người ăn xin chiếc quần dài đã cuốn gọn lại: “Đây, ông bạn hãy cầm
đỡ chiếc quần của ta nhé, tuy nó hơi cũ, lại đang mặc dở, nhưng có lẽ nó cũng
giúp phần nào cho ông bạn. Nhớ đừng có kể cho ai nghe. Nếu có định cám ơn ta
thì ông bạn cứ cầu nguyện với Chúa cho ta một điều tốt lành gì đó cũng được.
Thôi ta đi nhé.” Vị linh mục quản xứ già xốc lại chiếc áo chùng thâm cho ngay
ngắn, tay lại mở trang sách Các Giờ Kinh Phụng Vụ đang đọc dở dang rồi tiếp tục
đoạn đường.
Hôm sau, có hai người khách lạ tìm đến bấm chuông nhà xứ rất sớm.
Vị linh mục già nhận lời ra ngồi tòa giải tội ngay. Và tất cả đầu đuôi câu chuyện
đã được lần lượt thuật lại từ miệng hai anh sĩ quan trẻ tuổi ngày hôm qua, lòng
hối hận, dạ chân thành ăn năn. Cha xứ ngẩn ngơ thốt lên: “Ôi Thiên Chúa nhân
lành, chỉ với một chiếc quần cũ của con mà Ngài đã đem về cho con những hai
linh hồn sao?” (Theo lời kể của Đức Ông De Ségur).
27. Tình yêu hoán cải tâm hồn
Shirieda là một thanh niên Nhật Bản, trong phi đội Thần Phong, sống
sót sau một lần ném bom khi phi cơ bị trúng đạn. Tuyệt vọng vì nước Nhật đầu
hàng, khi quả bom nguyên tử rớt xuống Nagasaky. Để trả thù cho dân tộc, anh quyết
định đi ăn trộm bất cứ cái gì của những người Âu Châu. Trưa hôm ấy, anh lẻn vào
kho của nhà dòng Salésien, nhưng chẳng may bị phát giác. Anh định bỏ chạy,
nhưng liền bị bắt. Anh thú nhận vì cần đanh mà anh đã ăn trộm. Cha bề trên dân
anh trở lại nhà kho,lấy cho anh một túi đanh và bảo:
- Lần sau, nếu cần gì, anh cứ đến với với tôi.
Anh ngạc nhiên trở về nhà và suốt đêm hôm ấy anh đã suy nghĩ về
hành động bác ái trên. Sáng hôm sau, anh trở lại nhà dòng và nói với cha bề
trên:
- Xin cha dạy con cũng biết sống yêu thương như cha.
Và cuối cùng, anh đã trở thành một linh mục Công giáo.
28. Phòng vệ và mất tính người
Có một ngôi làng kỳ lạ, trông từ xa thì quả là trật tự và đẹp đẽ.
Chín mươi chín ngôi nhà trong làng đều được thiết kế giống nhau: một thửa vườn
xanh um được một tường bức kiên cố bao bọc.
Nhưng điều đáng nói hơn cả là ở trước cổng, nhà nào cũng có một
cái chuồng chó. Chín mươi chín con chó có nhiệm vụ bảo vệ nhà cửa và dân làng.
Một bóng người thoáng qua trước cửa cũng đủ làm cho con chó sủa vang. Có khi cả
chín mươi chín con cùng sủa một lúc.
Vì sống quá cách biệt, dân làng cũng chẳng có gì để nói với
nhau. Âm thanh duy nhất mà họ được nghe suốt ngày là tiếng chó sủa. Dần dần âm
thanh ấy trở thành quen thuộc đến nỗi người dân trong làng tưởng rằng đó chính
là ngôn ngữ của họ. Mở miệng ra để nói với nhau thì ai cũng gào, cũng sủa.
Tình cờ có một người khách đi qua. Tếng chó sủa hàng loạt làm
cho anh ta muốn tìm hiểu về ngôi làng. Anh ta đến gần một người đàn bà để hỏi
chuyện, thế nhưng anh ta vô cùng ngạc nhiên bởi vì chính người đàn bà đã nói với
anh ta bằng cách sủa.
Anh ta lại tiếp tục điều tra và càng ngạc nhiên hơn nữa, khi thấy
tiếng nói của bất kỳ ai trong làng cũng chỉ là tiếng sủa mà thôi. Và rồi anh ta
đã kết luận:
- Chắc hẳn đây là một thứ bệnh dịch cần phải báo cho hội đồng
làng để tìm cách chữa trị.
Gặp ông chủ tịch, anh đã đề nghị trước hết phải phá đổ những bức
tường và cổng nhà. Tiếp đến là đưa chó vào rừng để săn bắn nhờ đó chúng sẽ trở
nên hiền hòa hơn. Và sau cùng, tổ chức một ngày đại hội để mọi người làm quen với
nhau và tập nói lại ngôn ngữ của loài người.
Vừa nghe xong, ông chủ tịch cũng chỉ thốt lên những tiếng gâu
gâu như tiếng chó sủa. Anh ta buồn bã bỏ làng ra đi. Sau lưng còn vang vọng những
tiếng sủa không phải của chín mươi chín con chó, mà còn có sự phụ họa của cả
dân làng.
29. Cầu thang bác ái có tám bậc
Maimonides là một vị thầy Do thái nổi tiếng sống ở Tây Ban Nha
vào thế kỷ thứ mười hai. Ông nhấn mạnh tám cấp độ, hay tám bước trong cái gọi
là cầu thang của bác ái.
1. Cấp độ thứ nhất và thấp nhất là bố thí, nhưng với sự miễn cưỡng
và hối tiếc. Đó là sự bố thí của bàn tay mà không phải là sự bố thí của tấm
lòng.
2. Cấp độ thứ hai là sẵn lòng bố thí, nhưng không tương xứng với
cảnh khốn cùng của nạn nhân.
3. Cấp độ thứ ba là sẵn lòng bố thí và tương xứng với nhu cầu,
nhưng không đến mức mà chúng ta được yêu cầu.
4. Cấp độ thứ tư là sẵn lòng bố thí, cả khi không được yêu cầu,
nhưng đặt nó vào tay của người nghèo, bằng cách ấy gợi ra trong lòng người ấy một
cảm xúc đau đớn và hổ thẹn.
5. Cấp độ thứ năm là bố thí cách nào cho người nghèo khổ nhận của
bố thí mà không biết đến người cho và người cho cũng không biết họ.
6. Cấp độ thứ sáu là biết người nhận của bố thí của chúng ta
trong lúc không để cho họ biết chúng ta.
7. Cấp độ thứ bảy là cho của bố thí cách nào để người cho không
biết người nhận, hoặc người nhận không biết người cho.
8. Cấp độ thứ tám và là cách đáng khen nhất. Đó là thực hiện trước
việc bác ái bằng cách ngăn ngừa sự nghèo khổ. Điều này được thực hiện bằng cách
cho một món quà hoặc cho vay một món tiền để người nghèo có khả năng tự lập, hoặc
bằng cách dạy cho họ buôn bán hoặc dẫn dắt họ vào con đường kinh doanh, để họ
có thể kiếm sống một cách lương thiện, và không bị bắt buộc phải dùng giải pháp
đáng buồn là ngửa tay xin bố thí.
“Một trong những điều tốt nhất có thể xảy ra cho một người là
làm điều tốt mà không ai biết và chỉ bị phát hiện bởi sự tình cờ.” (Mark Twain)
CNTN 31C -
TRUYỆN KỂ
1.
THỨ HAI - ÂN HUỆ TẶNG KHÔNG
Lời Chúa: Lc 14,
12-14
Khi ấy, Chúa Giêsu
nói với thủ lãnh các người biệt phái đã mời Người rằng: "Khi ông dọn tiệc
trưa hay tiệc tối, ông chớ mời các bạn hữu, anh em, bà con và những người láng
giềng giàu có, kẻo chính họ sẽ mời lại ông mà trả ơn cho ông.
Nhưng khi ông dọn
tiệc, ông hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt và đui mù, thì ông sẽ
được phúc, bởi họ không có gì đền ơn cho ông: vì chưng, khi những người công
chính sống lại, ông sẽ được đền ơn."
TRUYỆN KỂ
1. Quán cơm Vợ thằng Đậu
Tại Sài Gòn, rất
nhiều người biết đến quán cơm từ thiện với cái tên ngồ ngộ: “Quán cơm Vợ thằng
Đậu." Chủ nhân của quán cơm này chính là cố nghệ sĩ Lê Vũ Cầu. Khi vừa qua
cơn bạo bệnh nhờ phép lạ của Đức Mẹ, Lê Vũ Cầu đã xin theo Đạo Công Giáo, và việc
làm đầu tiên để tạ ơn Chúa và Đức Mẹ đã cứu ông khỏi căn bệnh hiểm nghèo là:
bán hai miếng đất lấy tiền mở quán cơm chay tại số 40 Đặng Văn Bi, Q.Thủ Đức,
Tp. Sài Gòn.
Quán ăn phục vụ từ
10h 30 - 11h 30 trưa, mỗi ngày tiếp khoảng 100 - 150 lượt khách. Khách hàng của
quán chủ yếu là người nghèo, người già neo đơn, người có hoàn cảnh khó khăn,
nhưng đông nhất là anh chị em bán vé số. Tất cả đều được ăn miễn phí.
Khi mở quán như thế,
nhiều người cho rằng nghệ sĩ Lê Vũ Cầu có vẻ bất thường, vì nếu dùng đồng tiền
đó vào những chuyện như kinh doanh, buôn bán có lẽ tốt hơn!
2. Giá một ổ bánh mì và tô phở
Cậu bé đói lả ăn cắp
ổ bánh mì bị chủ quán bắt được. Cậu bị đánh, bị chửi. Thấy vậy, ông chủ quán phở
kế bên trả tiền cho cậu và cho cậu thêm một tô phở mang về. Sau này, ông chủ
quán phở lâm bệnh, phải nhập viện. Đứa con gái ông không thể trả tiền viện phí.
Vị bác sĩ chữa trị đã thanh toán viện phí, kèm theo dòng chữ: ”Viện phí của ông
đã được thanh toán cách đây hơn 20 năm bằng một ổ bánh mì và một tô phở."
3. Tôi muốn cho chị được hạnh
phúc.
Mẹ Têrêsa Calcutta
đã thiết lập một căn nhà để tiếp đón tất cả những người hấp hối không có nơi
nương tựa. Vì Mẹ muốn tạo điều kiện để những người nghèo khổ này được tìm thấy một
cái chết xứng đáng với phẩm giá con người.
Một buổi tối nọ,
người ta đưa đến một người đàn bà bị kiệt sức vì đói khát và bệnh tật. Mẹ
Têrêsa đã đích thân săn sóc với tất cả sự ưu ái và dịu hiền của một người mẹ.
Sau khi đã hồi sức, người đàn bà mở tròn đôi mắt đẫm lệ và thì thào với mẹ
Têrêsa:”Thưa bà, tại sao bà lại săn sóc tôi như thế”?
Với tất cả lòng ưu
ái, mẹ Têrêsa đã trả lời:”Bởi vì tôi muốn cho chị được hạnh phúc."Trên
khuôn mặt nhợt nhạt của người bệnh bỗng bừng sáng lên một niềm vui. Bà cố gắng
để thì thào với Mẹ:”Xin bà hãy lặp lại câu đó một lần nữa đi."
Mẹ Têrêsa mỉm cười
nói:”Phải, tôi muốn cho chị được hạnh phúc." Và như một điệp khúc không
bao giờ ngừng, người đàn bà tiếp tục thều thào:”Xin bà hãy lặp lại một lần nữa
đi."
Cuối cùng bà ta cố
nắm lấy tay mẹ Têrêsa đặt lên ngực, như muốn níu kéo một chút hơi ấm của tình
người, hơi ấm của hạnh phúc mà chỉ ai có lòng quảng đại mới ban phát được.
4. Người hạnh phúc
Có một người nông
phu Trung Quốc tên là Wong Ly, một người tuy nghèo nhưng vốn có lòng quảng đại
và nhân hiền. Một hôm, ông từ trên đồi xuống, vác trên vai một bó lá đem về lợp
lại mái nhà. Đi đường mỏi mệt ông ngồi nghỉ chân dưới bóng một cây cổ thụ bên
đường. Một con bướm thật đẹp đủ màu sắc bay tới đậu trên bó lá, ông vừa đưa tay
đuổi đi vừa nói:
- Bướm đẹp quá, hãy
bay đi hưởng tự do mà Chúa đã ban cho mi.
Nhưng con bướm vẫn
không chịu bay đi, rồi ông lấy dây, nhẹ tay buộc con bướm vào cành lá với ý định
đem về cho các con ông chơi. Vừa xuống dưới chân đồi, ông gặp một phụ nữ, vai
mang gánh lúa, tay dắt đứa con gái nhỏ. Trông thấy con bướm trên bó lá, cô bé gọi
mẹ:
- Mẹ ơi, bướm đẹp
quá mẹ xin cho con đi.
Nghe vậy, ông Wong
Ly dừng chân, đặt bó lá xuống đất, tháo dây cột con bướm, đưa cho cô bé và nói:
- Đây cháu hãy cầm
lấy con bướm này, nhưng đừng làm hại nó nhé.
Bà mẹ đứa trẻ cũng
dừng chân, đặt gánh xuống và nói với ông Wong Ly:
- Ông thật là người
tốt bụng, tôi không có gì đền ơn ông, chỉ xin ông nhận mấy trái cam sành
này…trái cam tôi mới hái đây.
Ông nhận quà, ra về,
cám ơn và nói:
- Tôi sẽ đem về cho
vợ con tôi, vì cả nhà tôi chưa bao giờ được thấy những trái cam to và mọng nước
như thế này.
Đi được một quãng,
ông gặp một người lái buôn ngồi nghỉ dưới bóng cây bên đường với những gói tơ lụa
đủ màu. Người lái buôn đứng dậy nói với Wong Ly:
- Tôi đi đường từ
sáng đến giờ sắp kiệt sức vì trời nóng bức, không một miếng cơm cũng không một
ngụm nước, ông có gì cho tôi uống giải khát để lấy lại sức không?
Ông Wong Ly động
lòng thương, rút mấy trái cam sành trong túi ra và nói:
- Ông hãy nhận lấy
mấy trái cam ngon ngọt này, nó sẽ giúp ông giải khát và chúc ông lên đường bình
an.
Người lái buôn vui
mừng nhận ba trái cam, rồi rút trong bao ra một tấm lụa và nói:
- Xin cám ơn lòng tốt
của ông, và xin ông nhận cho tấm lụa này để nói lên lòng biết ơn của tôi.
Wong Ly tiếp tục
lên đường về nhà, vai mang bó lá, tay cầm tấm lụa. Về tới đầu làng, ông nghe tiếng
chân ngựa và tiếng cười xôn xao, như có ai quan trọng sắp đi qua đây, ông vội đứng
sang một bên, chờ ngóng xem có chuyện gì xảy ra.
Một lúc sau, có xe
của công Chúa và lính hầu cận tiến tới, đang lúc lúng túng Wong Ly nghe tiếng
công Chúa gọi lại, vì muốn xem tấm lụa đẹp ông cầm trên tay. Ông đến gần và lễ
phép thưa:
- Thưa bà, nếu bà
thích, kẻ hèn này xin kính tặng bà.
Công Chúa cầm lấy tấm
lụa ngắm nghía tỏ vẻ hài lòng và nói:
- Ngươi thật là tốt
bụng, ta cũng muốn tặng cho ngươi một món quà.
Vừa nói công Chúa vừa
đặt vào tay ông một cái túi nhỏ rồi ra đi. Ông cầm chặt túi nhỏ trên tay, vác
bó lá trên vai, bước mau về nhà. Vào tới nhà, ông gọi vợ con tới gần và mở túi
nhỏ của công Chúa ra xem. Mắt ông sáng lên khi thấy trong túi đầy những đồng tiền
vàng.
Ông ngạc nhiên tự hỏi,
tôi sẽ làm gì với sự giàu có này, rồi ông tự trả lời:
- Được rồi, tôi sẽ
làm cho những người nghèo khổ nhất trong làng này được hạnh phúc.
Rồi ông phân phát,
chia sẻ cho những người nghèo khổ trong làng. Và dĩ nhiên, người hạnh phúc nhất
trong làng chính là ông Wong Ly. Từ đó, ông được đặt tên là “Người hạnh phúc."
5. Chúa thương hết người ế
Cha Vũ Khởi Phụng
(Thái Hà) kể chuyện một nhóm bạn trẻ Hà Nội đã sửa kinh Cầu Chịu Nạn truyền thống
thành: “Chúa Giêsu thương hết người ế” và “Chúa Giêsu thấy thế thì mừng.” Sở dĩ
các bạn trẻ này dám “cả gan” như vậy, vì họ đã thuê hai căn gác bên bờ sông Hồng
để đón tiếp các thanh thiếu niên bụi đời, xì ke, hay bị bệnh AIDS; họ tự nguyện
trở thành người ế để chăm sóc các người bất hạnh, mà xét cho cùng, cũng là một
dạng người ế khác trong xã hội. Đức Giêsu hẳn phải “thấy thế thì mừng,” vì Ngài
dạy ta vượt lên tâm lý bình thường: óc tính toán hay việc đáp lễ phải có trong
giao tiếp với người khác. Ngài mời ta ra khỏi thế giới giao tế quen thuộc “có
qua có lại mới toại lòng nhau” để bước vào thế giới của những con người khốn
cùng, và nhờ vậy, bàn tiệc cuộc đời sẽ tốt đẹp hơn.
Cung cách “bánh ú
đi, bánh dì lại,” “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại,” đã ăn sâu vào nếp nghĩ và
lối sống của bạn. Làm môn đệ Đức Giêsu chẳng dễ dàng gì, vì bị đòi hỏi nhiều,
nhất là phải vượt lên lối ứng xử tự nhiên, để sống tinh thần siêu nhiên. Tuy
nhiên, ơn Ngài ban đủ cho bạn. Đừng ngại!
6. Dấu tên
Một thương gia đến
gặp hiệu trưởng trường Trung học tư thục Chicago. Để bày tỏ sự đánh giá cao về
những gì trường đã làm cho các con trai của ông, ông quyết định xác lập một quỹ
học bổng cho những sinh viên nghèo. Sau khi đưa ra mọi chi tiết, vị hiệu trưởng
nói với thương gia: “Ông có muốn chúng tôi lấy tên ông đặt cho học bổng không?”
Thương gia trả lời: “Các ông để tên ai cũng được, trừ tên tôi. Tôi không cho học
bổng vì lý do đó.”
Có khi nào tôi đóng
góp hoặc phục vụ mà yêu cầu được dấu tên không?
Giống như một bức ảnh,
phẩm cách được hiện hình lên trong bóng tối (Youssup Karsh).
7. Sống vô vị lợi
Phải chăng Lời Chúa
dạy không thực tế? Có thể lắm, nhưng vẫn có những người như bà Roberta Langtry,
giáo viên tiểu học ở Toronto, phục vụ trẻ khuyết tật trong 55 năm, sống âm thầm
đạm bạc để sau khi lìa đời, tặng số tiền để dành 3,8 triệu USD cho hội bảo tồn
thiên nhiên Canada.
Borden, người thực
hiện di chúc của bà nói: “Lantry sống rất đạm bạc, nhưng sẵn sàng âm thầm gửi
ngân phiếu ‘nặng đô’ cho những người bà nghĩ là đang rất cần tiền” (Báo Tuổi Trẻ
3/10/06).”Đặt tiệc” bằng cả cuộc đời cống hiến cách vô vị lợi như bà quả là một
gương sống Lời Chúa thật đẹp phải không bạn?
Vậy bạn hãy đưa Lời
Chúa vào cuộc sống của bạn đi.
8. Trao tặng tấm lòng bằng
pizza
Jenny và Mike Stevens
mở tiệm bánh Little Caesars Pizza ở thành phố Fargo thuộc North Dakota-Hoa Kỳ
vào tháng 5-2015. Bánh ngon và giá cả vừa phải nên khá đắt hàng.
Vào một ngày hè,
khi Jenny và hai con gái đang làm việc trong nhà hàng, họ để ý thấy một người
vô gia cư đang lục thùng rác trước cửa để tìm thứ gì đó để ăn. Jenny động lòng
trắc ẩn, mang ra cho ông lão nghèo khổ tội nghiệp một chiếc bánh Pizza và một
lon Pepsi. Nhìn niềm vui mừng hạnh phúc khi được ăn và lòng biết ơn của ông
lão. Gia đình Jenny sau đó quyết định dán trên cửa kính của tiệm dòng chữ sau:
“Gửi những người
đang phải tìm kiếm thức ăn trong thùng rác: Bạn cũng là một con người, bạn xứng
đáng có một bữa ăn tử tế hơn. Xin vui lòng đến trong giờ mở cửa để nhận bánh
Pizza nóng và một ly nước miễn phí. Bạn không phải trả gì cả."
Jenny nói với
Today: “Mỗi khi có người đi vào tiệm để ăn Pizza miễn phí, sẽ không có ai hỏi họ
những câu hỏi gây ngại ngùng, hơn nữa, họ sẽ nhận được cả một cái bánh Pizza lớn"
Đến tháng 11-2016,
vợ chồng Jenny quyên góp cho l’Armée du Salut và các nhà tạm trú khác những chiếc
bánh Pizza, trước khi gửi đi trong hộp bánh còn được đính kèm lời nhắn, chúc
phúc đầy yêu thương đến những người khốn khó, được viết bởi bộ phận chăm sóc
khách hàng.
Vào thứ sáu mỗi tuần,
trung tâm bảo trợ New Life Center tổ chức "Tiệc Pizza miễn phí" đây
là hoạt động được mong đợi nhất trong khu vực. Jenny chia sẻ: “Ăn Pizza và xem
phim tuy rất bình thường, nhưng đối với nhiều người vô gia cư thì đây lại là một
cuộc hội họp ấm áp khiến họ cảm thấy được quan tâm và được tôn trọng"
Chương trình “Trao
tặng tấm lòng bằng Pizza” ngày càng mở rộng. Trong tiệm đặt một chiếc thùng
quyên góp nhằm khích lệ khách hàng giúp đỡ hơn 800 người vô gia cư trong khu vực.
Mike nói với tờ
Daily Republic: “Lúc đầu, nó chỉ là một hành động bột phát của gia đình tôi,
nhưng bây giờ có vẻ điều này càng ngày càng được lan rộng ra."
Một năm sau, giữa
lúc công việc từ thiện đang tiến hành, Mike qua đời vào tháng 12-2017 vì bệnh bạch
cầu.
Tháng 10-2018,
Jenny tạo trang GoFundMe để gây quỹ cho việc thiện nguyện, tiếp tục dự án tặng
Pizza cho người cơ khổ, như một cách để luôn tưởng nhớ đến người chồng quá cố của
mình.
Trong tập thơ của mình, William Cowper viết, “Sự tôn trọng của
thế giới chỉ là một món hối lộ. Để mua lấy bình yên của
nó, bạn phải bán sự bình yên của mình. Bạn phải làm nô lệ cho một lũ kiêu
ngạo, họ ghét bạn khi ban cho bạn những niềm vui vô bổ. Đây là cách thế giới
thưởng cho kẻ ngốc, những kẻ sống nhờ nụ cười quyến rũ phản bội của ‘cô ta’ với
những vinh quang phù phiếm!"
Lời Chúa hôm nay nói đến phần thưởng thế giới ban cho kẻ ngốc!
Chúa Giêsu đưa ra một lời khuyên khi đãi tiệc. Tổ chức tiệc là điều tốt khi động
cơ là tình yêu; nhưng nếu mục tiêu của bữa tiệc, hay bất kỳ hành động từ thiện
nào khác là khoe khoang, thì ‘vinh quang phù phiếm’
đạt được từ hành động đó là ‘khoản thu’ mà bạn và tôi sẽ nhận được.
“Lạy Chúa, thế gian ghét con khi ban cho con niềm vui vô bổ. Đừng
để con bán sự bình yên của con để có được sự bình yên giá rẻ bởi những ‘vinh
quang phù phiếm!’”, Amen.
“Bạn chưa ăn tối mà trong túi còn ít tiền đừng lo, mời bạn đến
nhà thờ Mạc Ty Nho dùng tô mì 0 đồng nhé!”, đó là câu chào mời phục vụ của giáo
xứ Mạc Ty Nho khi mở quán Tô Mì 0 đồng khai trương ngày 23.10.2023. Quán nằm
ngay trong khuôn viên nhà thờ, cạnh con đường Nguyễn Thị Minh Khai rộng lớn
càng thu hút sự chú ý.
Để có quán ăn này, cô tình nguyện viên cũng là giáo dân trong xứ
cho biết khởi đi từ lời đề nghị của cha sở và sự nhiệt tình hưởng ứng của bà
con. Cô nói: “Tôi nhớ cha kể rằng, vào một buổi tối khi đi đóng cửa nhà thờ thì
cha thấy một người ngồi ăn cơm hộp trước cửa nhà thờ, nuốt vội, với sự mệt mỏi,
vất vả. Cha nảy ra ý định cần mở quầy ăn nhỏ để phục vụ người nghèo…."
Trong khuôn viên có phần nhỏ bé của giáo xứ, nhưng dường như cả
thực khách và người phục vụ cảm thấy không quá chật chội. Một thực khách tại
quán cho biết: “Tôi là một người chạy xe ôm, có hôm tầm 11 giờ đêm, thậm chí là
1 giờ đêm tôi mới ăn tối. Vì vậy mà tôi rất biết ơn giáo xứ tạo ra bếp ăn này để
giúp đỡ những người khó khăn."
Quán Tô Mì 0 đồng ở giáo xứ Mạc Ty Nho phục vụ thực khách từ 20g
đến 21g30, thứ Hai đến thứ Sáu hằng tuần. Sự có mặt của quán ăn nhỏ này nơi
giáo xứ làm rõ nét hình ảnh về sự phục vụ, sống yêu thương không cần ở đâu xa.
Giữa trung tâm thành phố nhộn nhịp cũng vẫn có người nghèo cần được quan tâm, hỗ
trợ.
THỨ BA - BÀN TIỆC NƯỚC TRỜI
Lời Chúa: Lc 14,
15-24
Khi ấy, một người đồng
bàn thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Phúc cho kẻ sẽ được ăn tiệc trong nước
Thiên Chúa." Người phán cùng kẻ ấy rằng: "Có một người kia dọn tiệc
linh đình, và đã mời nhiều thực khách. Tới giờ dự tiệc, ông sai đầy tớ đi báo
cho những kẻ được mời để họ đến, vì mọi sự đã dọn sẵn sàng rồi. Nhưng mọi người
đồng thanh xin kiếu. Người thứ nhất nói với ông rằng: "Tôi mới tậu một thửa
ruộng, tôi cần phải đi xem đất, nên xin ông cho tôi kiếu." Người thứ hai
nói: "Tôi mới mua năm đôi bò, và tôi phải đi thử chúng, nên xin ông cho
tôi kiếu." Người khác lại rằng: "Tôi mới cưới vợ, bởi đó tôi không thể
đến được."
"Người đầy tớ
trở về thuật lại những điều đó cho chủ mình. Bấy giờ chủ nhà liền nổi giận, bảo
người đầy tớ rằng: "Anh hãy cấp tốc đi ra các công trường và các ngõ hẻm
thành phố mà dẫn về đây những người hành khất, tàn tật, đui mù và què quặt."
Người đầy tớ trở về trình rằng: "Thưa ông, lệnh ông ban đã được thi hành,
thế mà hãy còn dư chỗ." Ông chủ lại bảo người đầy tớ rằng: "Anh hãy
ra ngoài đường ngoài ngõ và cố ép người ta vào cho đầy nhà tôi. Vì tôi bảo cho
các người biết: không một ai trong những kẻ đã được mời, sẽ được nếm bữa tiệc của
tôi."
TRUYỆN KỂ
1. Vinh dự được mời
Sáng ngày
29/4/2011, mọi con mắt từ khắp nơi trên thế giới đều hướng về thủ đô Luân Đôn,
nơi diễn ra đám cưới của Hoàng tử William, người thứ hai sẽ kế vị ngai vàng nước
Anh, sau người cha là Thái tử Charles. Hoàng tử kế vị ngai vàng, không những
trên vương quốc Anh và Bắc Ái Nhĩ Lan, mà còn đứng đầu khối thịnh vượng lớn, gồm
nhiều quốc gia lớn nhỏ như Canada, Úc, Tân Tây Lan... Hoàng tử William kết hôn
với Kate Middleton, một cô gái xuất thân từ tầng lớp thường dân… Cô dâu và chú
rể thề ước trước Đức Tổng Giám mục Canterbury tại Tu viện Westminster cổ kính
nơi chôn cất các bậc quân vương và những nhân vật lớn nước Anh. Đến tham dự lễ
cưới, ngoài nhân vật quan trọng là bà nội của Hoàng tử William, Nữ hoàng
Êlisabéth II, có đầy đủ các chính khách nước Anh và thế giới, các nhà ngoại
giao và rất nhiều người nổi tiếng như các minh tinh màn bạc, các vận động viên
nổi danh thế giới... Không ai được mời tới dự mà muốn vắng mặt. Họ lấy làm vinh
dự được mời và được xuất hiện trong lễ cưới long trọng đó…
Vào thời điểm đám
cưới, hàng nghìn du khách trong và ngoài nước đến dựng lều trước Tu viện Westminster
từ đêm hôm trước để có được chỗ tốt nhất dự xem tân nương và tân lang, và hơn 2
tỷ người xem trực tiếp và qua truyền hình. Người ta không những theo dõi nhân vật
chính là cô dâu chú rể mà còn chăm chú điểm danh từng nhân vật lớn trên thế giới.
2. Hai bữa tiệc
Có người đã tưởng
tượng ra thiên đàng và hỏa ngục như hai bàn tiệc thịnh soạn được bày ra.
Bàn tiệc dưới hỏa
ngục cũng mâm cỗ đầy, thế nhưng khách dự tiệc thì ngồi ủ rũ buồn thiu, bởi vì mỗi
người cầm một đôi đũa dài đến độ gắp được thức ăn, nhưng không thể đưa thức ăn ấy
vào miệng của mình được.
Bàn tiệc trên thiên
đàng thì cũng y hệt như vậy, nhưng khác một điều thay vì gắp thức ăn cho vào miệng
mình, thì người ta lại gắp thức ăn đưa vào miệng cho người đối diện. Thế là vui
vẻ cả nhà vì ai cũng được ăn no nê.
3. Mọi sự đã sẵn sàng mà không
thích
“Mọi sự đã sẵn
sàng” (Omnia parata sunt): Hạnh phúc Nước Trời đã được Thiên Chúa chuẩn bị sẵn
tất cả cho ta, cũng như cỗ bàn được ông chủ trong dụ ngôn này chuẩn bị chu đáo
(giáo huấn Tin Mừng, Giáo Hội, bí tích, ơn Chúa v.v.). Nhưng tại sao nhiều người
không đến dự tiệc? Vì họ không muốn từ bỏ những thứ đang quyến rũ họ: một thửa
đất mới mua (tài sản), năm cặp bò mới tậu (việc làm ăn), một người vợ mới cưới
(hạnh phúc nhân loại). Những người đó không sai vì coi trọng những thứ vừa kể,
nhưng sai vì coi chúng trọng hơn Nước Trời. Chúa Giêsu đã dạy “Trước hết hãy
tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Ngài. Tất cả những thứ kia Ngài
sẽ thêm cho” (Mt 6,33)
Lý do khiến loạt
khách mời thứ nhất từ chối đến dự tiệc là vì họ đang có những thứ họ ham thích.
Còn lý do khiến loạt khách thứ hai đáp lời mau mắn (x. dụ ngôn song song được
ghi trong Mt 22,1-10: “phòng tiệc cưới đã đầy thực khách”) là vì họ đang không
có gì cả, nói cho rõ hơn, họ nghèo. Nghèo là tâm thế rất thích hợp để đón nhận
Nước Trời.
Triết gia Socrates
sống rất giản dị. Một ngày kia ông ngắm nghía rất kỹ những món hàng đắt tiền được
bày bán ngoài chợ. Thấy thế một người lấy làm lạ nên hỏi. Ông giải thích: “Tôi
ngạc nhiên vì không hiểu tại sao người ta lại bán quá nhiều thứ mà tôi không cần
đến như thế”
4. Chết khát giữa biển nước
Có câu chuyện về những
người nằm chết khát trên một chiếc bè lênh đênh ngoài khơi bờ biển Brazil. Họ
không hề hay biết nước biển ngay chỗ bè họ trôi là nước ngọt. Thật vậy, dòng chảy
của con sông mạnh đến nỗi tống ra biển xa đến hai dậm và nước ngay chỗ họ vẫn
là nước sông. Nhưng họ không hề hay biết...
Đời là một bữa tiệc
lớn. Tất cả những niềm vui – nỗi buồn, cái thật - cái giả, ánh sáng - bóng tối...
đều cống hiến cho bữa tiệc ấy. Nhưng con người như bị thôi miên, cứ chọn cái buồn,
cái giả, cứ chạy theo bóng tối... nên rất nhiều người đang chết đói trên bàn tiệc,
trong đó có bạn và tôi...
Lạy Chúa, con đã phải nếm sự đau khổ vì cứ mê
muội bám víu vào các tạo vật. Xin cho con được ơn thức tỉnh thật sự.
5. Trái cam quý hơn châu báu
10 giờ đêm ngày
14-04-1912, chiếc tàu du lịch vĩ đại nhất của Anh Quốc đã đâm phải tảng băng giữa
Tây Đại Dương. 4 giờ sau đó, cả chiếc tàu, thủy thủ đoàn và nhiều hành khách đã
bị chôn vùi trong lòng Đại Dương. Cuộc đắm tàu đầy bi thảm này đã là nguồn cảm
hứng cho biết bao nhiêu áng văn chương. Những người có may mắn sống sót đã thuật
lại lòng can đảm phi thường của viên thuyền trưởng, các sỹ quan và thủy thủ
đoàn. Họ kể rằng, nhiều người đã khước từ sự cứu vớt để ở lại cùng chết với chồng.
Giữa biết bao nhiêu
gương hy sinh ấy, những người sống sót còn kể lại câu chuyện, xem ra người ta
chỉ muốn biết vì tò mò hơn thán phục.
Đó là câu chuyện của
một người đàn bà. Sau khi đã được đưa lên boong tàu để chuẩn bị cho việc cứu vớt,
thì bà ta xin phép được trở lại phòng ngủ lần cuối cùng, để có thể thu nhặt một
ít đồ quý giá. Người ta cho bà ba phút để làm công việc này. Người đàn bà liền
vội vàng chạy đi. Dọc theo hành lang, bà ta thấy ngổn ngang không biết bao
nhiêu là nữ trang vàng bạc quý giá. Vào đến phòng ngủ bà ta đưa mắt nhìn hết
các đồ nữ trang và báu vật, nhưng cuối cùng, bà ta chỉ đưa tay nhặt lấy 03 quả
cam và chạy lên boong tàu.
Vài tiếng đồng hồ
trước đó, giữa các đồ vật trong phòng, có lẽ người đàn bà kia đã chẳng lúc nào
nghĩ đến 03 quả cam. Nhưng trong giây phút nguy ngập nhất của cuộc sống thì giá
trị của sự sống bỗng bị đảo lộn. Ba quả cam bỗng trở nên quý giá hơn vàng, kim
cương và hột xoàn bởi vì nước của chúng có thể cứu sống được bà giữa biển khơi.
6. Bỏ qua vinh dự
Tối 14/03/2012, tổng
thống Obama mở một bữa tiệc chiêu đãi đặc biệt tại Toà Nhà Trắng. Khỏi phải
nói, thực khách của bữa tiệc này đều là những khách mời VIP: Vợ chồng thủ tướng
Anh, nhiều nhà tỷ phú và nhân vật nổi tiếng khác đã có mặt trong những bộ y phục
dạ tiệc sang trọng. Nếu phải góp một khoản tiền lớn để được mời dự bữa tiệc
này, hẳn rất nhiều người sẵn sàng mở hầu bao, chứ đừng nói chi tới việc được mời
mà không đến dự vì những lý do vớ vẩn. Cách hành xử như vậy không khác gì một sự
khinh miệt nặng nề, thậm chí còn là một thái độ thù địch.
Bữa tiệc đó giúp
liên tưởng đến điều mà Lời Chúa muốn nói với chúng ta hôm nay qua dụ ngôn bữa
tiệc Nước Trời. Có những người được mời nhưng không ý thức hạnh phúc và vinh dự
lớn lao mình có, mà từ chối chỉ vì những lý do nhỏ mọn. Thật đáng tiếc! Trái lại,
những người bé mọn, nghèo hèn được mời và nhận thức hạnh phúc lớn lao “được dự
tiệc trong Nước Thiên Chúa”! Và họ đã không phụ lòng Ngài.
Bạn có biết bạn thật
hạnh phúc khi được là Kitô hữu không? Với danh nghĩa đó bạn rất vinh dự là
khách mời trong bữa tiệc Nước Trời mà ngay từ bây giờ bạn đã thưởng nếm trong bữa
tiệc Thánh Thể. Đó là điều Giáo Hội mời gọi chúng ta trong Năm Đức Tin: “tái
khám phá niềm vui đức tin và tìm lại niềm hăng say thông truyền đức tin” cho
người khác (Porta Fidei, số 7).
7. Thế giới đổi thay khi ta
thay đổi chính mình
Một người khôn
ngoan nói: “Hồi còn trẻ, tôi yêu mến Thiên Chúa đến độ muốn hoán cải cả thế giới
về với Chúa. Nhưng khi nhận thấy như thế là quá cao vọng, tôi quyết định biến đổi
thị trấn của tôi. Tuy nhiên, khi nhận ra như thế vẫn còn cao vọng, tôi quyết định
cải thiện gia đình tôi. Một lần nữa, tôi lại gặp khó khăn, vì vậy tôi tập trung
vào việc thay đổi chính mình. Tôi vẫn còn gặp khó khăn, nhưng giờ đây tôi nghĩ
rằng tôi đã có một kế hoạch đúng đắn."
Đâu là khó khăn tôi
gặp trong nỗ lực thay đổi bản thân? Tôi đã tích cực ra sao để cố gắng vượt qua
khó khăn đó?
Với một đoan chắc về
lẽ phải, như Thiên Chúa cho chúng ta thấy được lẽ phải, chúng ta hãy tranh đấu
để hoàn thành sứ mạng của mình (Abraham Lincoln).
8. Lý do trì hoãn
Một người đã về hưu
nói: “Tôi muốn tự nguyện phục giúp đỡ những người túng thiếu, nhưng tôi chưa sẵn
sàng.” Một sinh viên nói: “Tôi muốn kèm cho những sinh viên chậm hơn, nhưng tôi
không nghĩ là mình có thể làm tốt được.” Đó là những thí dụ điển hình cho những
kẻ mà Chúa Giêsu nói đến trong dụ ngôn của Ngài. Đó là “những kẻ ngụy biện.”
Điều gì tôi định
làm nhưng lại trì hoãn? Lý do gì khiến tôi không thực hiện ngay hôm nay?
Anh em xa không bằng
láng giềng gần (Hubert H. Humphrey).
THỨ TƯ - DỨT KHOÁT ĐI THEO CHÚA
Lời Chúa: Lc 14,
25-33
Khi ấy, có nhiều
đám đông cùng đi với Chúa Giêsu, Người ngoảnh lại bảo họ rằng: "Nếu ai đến
với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không
thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm
môn đệ Ta. Và có ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính
toán phí tổn cần thiết, xem có đủ để hoàn tất không, kẻo đặt móng rồi mà không
thể hoàn tất, thì mọi người xem thấy sẽ chế diễu người đó rằng: "Tên này
khởi sự xây cất mà không hoàn thành nổi."
"Hoặc có vua
nào sắp đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên không ngồi suy nghĩ xem
mình có thể đem mười ngàn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai mươi ngàn
quân tiến đánh mình chăng? Bằng chẳng nổi, thì khi đối phương còn ở xa, vua ấy
sai một phái đoàn đến cầu hoà. Cũng thế, bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ
tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta."
TRUYỆN KỂ
1. Thánh giá vừa sức
Một đoàn người hành
hương bước đi mệt nhọc dưới sức nặng của cây thập giá đè trên vai. Một người
trong đoàn không chịu được, liền cưa bớt đi một khúc cho nhẹ. Anh cảm thấy nhẹ
nhõm hơn, anh rất hài lòng vì sáng kiến đó và cho rằng mình quả thật khôn
ngoan.
Cuộc hành trình
gian truân mang thập giá đã dẫn đoàn người đến trước một vực thẳm. Phải qua vực
thẳm vì bên kia bờ là đích đến, nhưng lại không có một cây cầu nào để bước
sang. Sau một lúc do dự, không ai bảo ai, mỗi người đều đặt cây thập giá của
mình để bắc qua vực. Lạ lùng thay, thập giá mà mỗi người vác vừa khít với bề
ngang của vực thẳm, chỉ riêng cây thập giá bị cưa bớt cho đỡ nặng là hụt, và
người vác nó phải đứng lại bên kia với sự tuyệt vọng…
2. Đòi hỏi của tình yêu
Giới Tử Thôi người
nước Tần, đời Xuân Thu Chiến Quốc, là bầy tôi trung thành của công tử Trùng
Nhĩ.
Khi công tử Trùng
Nhĩ phải lưu vong nơi đất khách quê người, lương thực đã cạn kiệt, công tử lại
không thể ăn những loại rau hoang cỏ dại trong rừng. Giới Tử Thôi đã lén cắt thịt
đùi của mình nấu canh cho Trùng Nhĩ ăn.
Về sau Trùng Nhĩ
khôi phục lại nghiệp cả, làm vua nước Tần, Giới Tử Thôi xin về làng ở ẩn, chứ
không hề kể công lênh ngày xưa.
Trùng Nhĩ sau này
có làm vua thì cũng là người trần mắt thịt, mà Giới Tử Thôi còn dám bỏ cha mẹ,
vợ con, anh em, chịu khổ cực để theo hầu, hơn nữa còn hy sinh chính thân mình để
tỏ lòng trung thành với chủ nhân. Đức Giêsu là Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương
chúng ta trước khi cúng ta có mặt trên cõi đời này, lẽ nào chúng ta lại không
dám bỏ người thân, của cải, và ngay cả chính mình để bước theo Người?
3. Thánh giá đẽo gọt đời ta
Có người đàn ông
kia là một kitô hữu, vợ con ông đều chết cả, tài sản bị tiêu tan, địa vị cũng
không còn, chỉ còn duy nhất một đức tin mong manh. Một hôm, ông đến gần một người
thợ đang xây nhà thờ, thấy người kia đang đẽo gọt một miếng đá nhỏ để tạo ra một
tam giác đứng, ông nhìn hồi lâu rồi hỏi:
- Anh đang làm gì vậy
?
- Bác nhìn lên đỉnh
Tháp nhà thờ xem. Ở đó có một chỗ trống. Tôi đang đẽo miếng đá nhỏ này để đặt
nó vào đó.
Ông gật gù ngẫm
nghĩ, và cảm thấy như thể Chúa nói với mình: “Ta đang đẽo gọt con để con thích
hợp với chỗ trống trong công trình của Ta...”, và ông rời chỗ ấy ra đi, tràn nước
mắt hạnh phúc.
Lạy Chúa, mấy hôm
nay con đang chán nản vì những thử thách nặng nề. Xin cho con đôi vai đủ lớn và
đôi chân đủ mạnh để con vác thập giá đi theo Chúa.
4. Mục tiêu trước mắt và mục
tiêu lâu dài
Bob Ernst kể lại cuộc
đời của ông: Tôi sinh ra và lớn lên trong nghèo khó, cùng với sáu anh trai, ba
chị em gái. Dù gia đình tôi không có bất cứ tài sản quý giá gì, nhưng lúc nào
cũng tràn ngập tình yêu thương và sự quan tâm. Tôi sống hòa đồng với mọi người,
năng động trong mọi việc. Tôi luôn nuôi dưỡng cho mình một ước mơ và cố gắng để
thực hiện.
Tôi mong muốn được
trở thành vận động viên bóng chày. Khi 16 tuổi, tôi đã có thể ném trái bóng
chày trúng bất cứ vật gì đang di chuyển trong sân banh với tốc độ 90 dặm giờ.
Tôi thật sự may mắn khi thầy huấn luyện viên không chỉ tin tưởng tôi mà còn dạy
tôi biết tin vào chính mình. Thầy chỉ cho tôi thấy sự khác nhau giữa việc có một
ước mơ và việc tin vào ước mơ ấy. Và một chuyện xảy ra đã thay đổi hẳn cuộc đời
tôi.
Đó là vào mùa hè giữa
năm học thứ ba, một người bạn giới thiệu cho tôi công việc làm thêm. Điều đó có
nghĩa là tôi sẽ có cơ hội kiếm tiền - cho những cuộc hẹn hò với bạn gái, mua xe
đạp, mua quần áo mới và bắt đầu tiết kiệm để mua nhà cho mẹ tôi. Viễn cảnh thú
vị thôi thúc tôi giành lấy ngay cơ hội ấy.
Song, tôi cũng nhận
ra rằng mình phải từ bỏ các buổi tập bóng chày để làm việc. Điều này làm tôi
hơi lo ngại. Tôi tự trấn an mình bằng lời khuyên của mẹ: "Nếu các con đã
làm việc gì, các con phải chịu trách nhiệm về điều đó."
Khi nghe tôi xin
phép sẽ thôi không chơi bóng nữa, thầy giận dữ:
- Em còn cả cuộc đời
phía trước để làm việc trong khi chỉ có khoảng thời gian ngắn ngủi để chơi
bóng. Đừng hoài phí nó.
Tôi cúi gằm mặt, cố
tìm lời giải thích về ước mơ mua xe đạp, mua căn nhà mới cho mẹ.
- Em kiếm được bao
nhiêu tiền với công việc này? - Thầy hỏi.
- 5 đô la một giờ,
thưa thầy. - Tôi đáp.
- Thế thì 5 đô la
là cái giá cho ước mơ của em phải không?
Câu hỏi bất ngờ và
thắng thắn đó của thầy đã vạch cho tôi thấy rõ sự khác biệt giữa việc đạt một
điều trước mắt và việc hướng đến mục tiêu lâu dài. Tôi bừng tỉnh và quyết tâm dốc
hết toàn bộ sức lực, ý chí vào các trận đấu bóng chày mùa hè năm đó và tôi đã
được câu lạc bộ Pittsburgh Pirates mời chơi bóng với hợp đồng trị giá 20 ngàn
đô-la. Tôi cũng góp phần giành cúp vô địch cho trường đại học Arizona. Sau đó,
tôi ký hợp đồng trị giá 1,7 triệu đô la với câu lạc bộ nổi tiếng Denver Broncos
và mua cho mẹ tôi căn nhà như tôi hằng mơ ước.
5. Đời này và đời sau
Ông Phêrô và ông
Gioan theo Chúa lên núi,Chúa bảo các ông: Mỗi người chúng con lượm hai cục đá
mang theo. Nghe thế, ông Phêrô cầm hai cục đá nhỏ bằng hòn bi; còn ông Gioan lấy
hai khối đá lớn vác trên hai vai. Đi được một lúc, ông Phêrô trông dáng bạn
mình có vẻ nặng nề, vất vả quá, liền chế nhạo:
- Coi tớ này, cũng
mang đá mà có vất vả gì đâu, ai bảo cậu dại vác hai cục to thế mà chuốc khổ vào
thân? Thầy chỉ nói mỗi người lấy hai cục đá mang theo thôi mà!
Ông Gioan trả lời:
- Ôi tình yêu Đức
Kitô thúc bách tôi! (2Cr 5,14).
Đi một quãng xa, cả
hai môn đệ cùng thưa với Chúa Giêsu:
- Thưa Thầy, chúng
con đói và khát quá, chúng ta ngồi nghỉ chân một lát và kiếm gì ăn cho đỡ dạ!
Chúa Giêsu bảo:
- Vậy chúng ta đến
gốc cây kia ngồi nghỉ mệt!
Rồi Ngài nói tiếp:
- Bây giờ chúng con
đặt hai cục đá của mình ra trước mặt.
Hai ông mau mắn
tuân lệnh Thầy. Chúa giơ tay làm phép tức khắc đá của mỗi người: một cục biến
thành bánh và cục kia hóa ra nước! Phêrô cầm mẩu bánh bỏ vào miệng nuốt chửng,
và uống miếng nước chỉ đủ ướt cổ họng. Lúc đó ông Phêrô nói với ông Gioan:
- Cho tớ ăn ké với
cậu, tớ còn đói qúa! Chắc không đủ sức theo Thầy được!
Ông Gioan vui vẻ
đáp:
- Ủa, cậu đã quên
là khi nãy cậu nhạo báng tớ mang theo hai cục đá bự là thằng dại? Thế tại sao
bây giờ cậu lại ngửa tay xin “thằng dại dột” này?!
Chúa Giêsu nhìn ông
Phêrô thương tình, nên bảo Gioan:
- Thôi mà con, con
chia cho bạn đi!
Lúc đó ông Phêrô mới
nghiệm ra Lời Thầy đã dạy: “Phàm ai không vác khổ giá mình mà đi sau Thầy ắt
không thể làm môn đệ của Thầy” (Lc 14,27: Tin Mừng). Và “ai từ bỏ quyền lợi của
mình thì được gấp trăm mọi sự ở đời này cùng với sự ngược đãi và sự sống đời đời”
(Mc 10,29-30).
6. Cần cù không mục đích
Có hai cha con dắt
con lừa về quê ngoại, dọc đường người ta phê bình:
- Cha con tên này
ngu hơn lừa! Lừa để cưỡi, chứ ai lại đi dắt lừa?
Nghe thế, ông bố
nói với con:
- Con lên lừa ngồi
đi, để bố dắt bộ.
Họ đi được một
quãng, có người khác nói:
- Thằng con thật bất
hiếu, ngồi chỗm chệ trên lưng lừa, còn bố già phải đi bộ.
Đứa con nghe thế, vội
nhảy xuống nói:
- Thôi, bố lên ngồi
đi ạ, để con dắt, kẻo người ta bảo con bất hiếu.
Ông bố nhảy lên
lưng lừa, còn đứa con dắt. Mới đi một quãng không xa, lại có người phê bình:
- Ông bố thật gian
ác, bắt thằng bé đi bộ, còn ông thì ung dung trên lưng lừa!
Ông bố nghe vậy, chịu
không được bèn bảo con:
- Con ơi, lên đây
ngồi với bố luôn đi, kẻo người ta lại nói bố không thương con.
Thế là hai cha con
cùng trên lưng lừa, con vật vì chở nặng nên chân đi vẹo vọ. Người đi đường thấy
thế liền nói:
- Con vật yếu ớt vậy
mà hai cha con cùng ngồi lên sao được!
Cuối cùng hai cha
con nhảy xuống trói con lừa khiêng đi. Họ vừa qua chiếc cầu khỉ, con vật dãy dụa,
thế là cả hai cha con cùng con lừa rớt xuống sông và bị dòng nước cuốn đi!
Và như vậy hai bố
con làm việc thiếu mục đích, thiếu ý chí, nên phải chuốc lấy thất bại tủi nhục!
7. Bắt đầu từ chính mình
Một người khi còn
trẻ hứa với Chúa rằng: Khi nào trưởng thành, con sẽ làm lớn quy tụ nhiều người
về cho Chúa, cụ thể con phải là người lãnh đạo đất nước .
Nhưng khi anh được
50 tuổi, mà chưa lãnh đạo được ai! Anh lại quyết tâm: Ta lấy vợ, sinh con để hướng
dẫn vợ con nên một gia đình gương mẫu.
Khi ông được 80 tuổi,
ông chỉ thấy một đàn con cháu mất dạy! Ông rất buồn, lúc đó ông mới khiêm tốn
xin Chúa: “Chúa ơi, con sắp “đai” rồi, con chẳng thực hiện được điều con ước mơ
lãnh đạo người khác, bây giờ con hiểu ra rằng tại con có quá nhiều điều sai lỗi!
Xin Chúa giúp con biết canh tân sửa mình để con cháu con không bắt chước lối sống
thiếu gương mẫu của con, hầu khi con nhắm mắt lìa đời, con được về với Chúa
trong bình an!
Chúa phán: Nếu con
xin điều này lúc con còn trẻ,thì con đã thực hiện được hai điều lớn hơn con mơ
ước. Bây giờ con quá già, nhiều tật xấu đã trở thành bản tính của con,và làm
cho cả đàn con bắt chước, Cha có ban ơn, chắc là để con sám hối thôi, chứ dễ gì
mà con sớm từ bỏ tật xấu để trở nên người đầy nhân đức, mà đàn con hư hỏng của
con liệu chúng có biết lỗi mình mà sám hối như con hay không?!
8. Từ bỏ để tiến tới
Nelson Mandela, một
người thông minh muốn lập nghiệp như mọi người khác. Hans Muler, một thương
gia, nhìn thế giới qua lăng kính của luật cung cầu, đã nói với Mandela: "Tất
cả là tiền bạc. Bởi vì giàu sang và tiền bạc đồng nghĩa với hạnh phúc. Anh phải
chiến đấu cho điều đó: Tiền bạc và không gì ngoài tiền bạc. Một khi bạn có đủ
tiền bạc, bạn không muốn cái gì khác trên đời." Nếu Nelson Mandela làm
theo lời khuyên của Hans Muler, ông có thể làm rất tốt cho bản thân. May mắn
thay cho Nam Phi. Thay vì lo cho bản thân, Nelson Mandela đã quyết định cống hiến
cuộc đời mình cho việc phục vụ đất nước.
Để làm điều đó,
Mandela đã phải hy sinh, ông viết: "Đối với tôi, không phải là một việc dễ
dàng khi phải xa cách vợ con, giã từ những ngày xưa tươi đẹp ấy, và sau một
ngày làm việc hăng say ở văn phòng. Tôi có thể quay về với gia đình trong bữa
ăn tối, thay vì phải sống như một người bị cảnh sát săn đuổi liên tục, sống xa
cách những người thân yêu nhất, phải đối diện liên tục với những sự bất trắc
như bị nhận dạng và bắt giữ. Đó là một đời sống cực kỳ khó khăn hơn cả chịu án
tù (Trích "Hành trình đến tự do", 1994, Little, Brown and Company).
Nelson đã chịu 27 năm tù đày vì yêu đất nước. Ông đã trở thành tổng thống vĩ đại
của Nam Phi.
9. Từ bỏ để tăng trưởng
Mùa thu về, cây trụi
lá, mùa xuân đến, cây đơm lộc xanh tươi.
Cây cối cần phải từ
bỏ lá già, lá cũ để khoác lá mới; nhờ thế, cây được lớn lên. Loài rắn cũng phải
từ bỏ bộ da cũ để thay da mới; có vậy rắn mới trưởng thành. Loài tôm cũng phải
lột vỏ nhiều lần theo đà tăng trưởng để lớn lên... Nói chung, từ bỏ là điều kiện
tối cần thiết để cho muôn vật muôn loài được sống còn và tăng trưởng.
Là một sinh vật như
bao nhiêu loài vật khác, nên muốn tăng trưởng và tồn tại, con người cũng không
thoát ra ngoài quy luật đó.
Hằng ngày cơ thể ta
loại bỏ hàng tỉ tế bào cũ để thay vào đó những tế bào mới, nhờ đó cơ thể được lớn
lên và mạnh khoẻ. Nếu các tế bào cũ không chịu chết đi để nhường chỗ cho những
tế bào mới, thì khối u sẽ xuất hiện và có nguy cơ dẫn đến ung thư và cái chết
đau thương!
10. Tín thác hoàn toàn
Có người đã kể lại
giấc mơ của mình như sau:
- Tôi mơ thấy mình
đang cầu nguyện, bỗng có luồng ánh sáng xuất hiện, trong đó có Chúa Giêsu đang
ngự trên một tấm thảm. Người mỉm cười bảo tôi:
- Con hãy ngồi trên
tấm thảm này với Ta.
Lòng tràn ngập vui
sướng, tôi đến gần Chúa và ngồi trên tấm thảm bên cạnh Người và tấm thảm từ từ
bay bổng lên. Nhưng rồi tôi cảm thấy như Chúa không còn bận tâm đến tôi nữa,
Người chăm chú rút từng sợi chỉ từ chiếc thảm chỗ Người và tôi. Chẳng mấy chốc
tấm thảm chỉ còn lại một nửa, và giữa chỗ Chúa và tôi đang ngồi lại có một lỗ
trống to lớn. Tay chân tôi bắt đầu run lên vì sợ rơi xuống đất chết. Nhưng Chúa
Giêsu vẫn thản nhiên tiếp tục rút từng sợi chỉ, đến nỗi tôi khiếp sợ kêu lên:
- Lạy Chúa, Chúa
làm gì vậy? Chúa không thấy tấm thảm của chúng ta đã tan tành sao?
Chúa cười rồi cầm lấy
tay tôi nói:
- Sao con nghi ngờ,
kém lòng tin? Con hãy bám chặt vào Ta. Con sẽ không phải sợ gì nữa, mặc dầu con
phải bị tước đoạt hết cả đến sợi chỉ cuối cùng.
Người vừa dứt lời
thì quả thực, sợi chỉ cuối cùng đã bị rút đi. Tôi sợ hãi quá, giật mình thức dậy...
11. Từ bỏ là định luật của cuộc
sống
Trước hết, chúng ta
thấy: Mọi thành quả ở trần thế này, đều đòi hỏi nỗ lực, kiên trì cố gắng mới có
thể đạt thành mỹ mãn:
- Chẳng hạn, một lực
sĩ muốn chiếm huy chương vàng thế vận hội, họ phải tập luyện ngày đêm, tập luyện
bao nhiêu năm tháng mới chiếm được danh dự đó?
- Một người mẫu muốn
có thân hình thon gọn, mỹ miều, cô phải ăn uống kiêng khem và tập thể dục,
không hề ngơi nghỉ… hơi lơ là một chút thì thân hình sẽ mất hấp dẫn ngay!
- Cũng thế, một
sinh viên muốn chiếm thủ khoa trong trường Đại học, hay muốn thi đậu để trở
thành bác sĩ, luật sư… cũng phải bao nhiêu năm dùi mài kinh sử?
- Những người cao
Cholesterol hay bị phì mập cũng phải ăn kiêng biết bao ngày tháng mới có thể giảm
bớt, để có một thân hình cân đối???
12. Chọn Chúa Kitô.
Có một cô gái người
nước Bỉ, tên là Odette sinh ra trong một gia đình qúy tộc, thánh thiện và rất
xinh đẹp. Năm 17 tuổi, cô đã quyết định đi tu, nhưng chỉ vài ngày sau khi lãnh
áo dòng cha mẹ cô đã bắt trở về. Từ lâu ông bà đã có ý gả cô cho lãnh chúa
Simon thuộc lâu đài gần đó.
Mọi người đã âm thầm
chuẩn bị lễ cưới cho cô, các thiệp mời đều được kín đáo gởi đi. Nhưng vì lòng
đã quyết đi tu dâng mình cho Chúa, khi đến phần giao ước, Odette đã dõng dạc
tuyên bố: "Con không chấp nhận lãnh chúa Simon cũng như bất cứ người nào
làm chồng, bởi vì tình yêu và đức tin con đã hiến dâng cho Thiên Chúa từ lâu."
Hơn nữa, sáng hôm sau, cô đã dùng gươm cắt chiếc mũi xinh đẹp của mình, nhằm hủy
họai sắc đẹp của mình để không còn ai cấm cô đi tu nữa.
Thật vậy, khi vết
thương đã lành, cô được phép nhập tu viện. Ba năm sau đó được bầu làm tu viện
trưởng lúc mới 23 tuổi.
13. Đuổi theo cái ảo
Có một câu chuyện về
một cô gái tên Antoinette, cô rất xinh đẹp nhưng rất nghèo. Cô chỉ có một mục
tiêu trong đời trở nên giàu có. Hy vọng duy nhất của cô là lấy được một người
giàu sang. Nhưng cuộc sống đưa đẩy cô lấy một viên chức nhà nước. Chồng cô cố gắng
làm cho cô được hạnh phúc nhưng không thể đáp ứng những điều mà cô mơ ước – quần
áo đẹp, nữ trang, một căn nhà với đầy đủ đồ đạc cao cấp, và v.v…
Cô từ chối đi làm ở
bên ngoài, và sống những ngày khốn khổ và tuyệt vọng. Cô than phiền rằng vợ chồng
cô chưa bao giờ đi đâu. Một lần kia, chồng cô được mời đến dự một bữa tiệc của
tiểu bang, nhưng rồi cô lại than phiền cô không có trang phục thích hợp để mặc.
Vì thế chồng cô phải gom góp hết tiền tiết kiệm khiêm tốn ở ngân hàng. Với số
tiền đó, Antoinette mua được một chiếc áo mới. Sau đó cô còn mượn một chuỗi hạt
của một người bạn học cũ tên Marie, rất hợp với chiếc áo mới.
Và thế là cô đã đi
dự tiệc. Cô là người phụ nữ đẹp nhất ở đó và vui hưởng mọi sự chú ý mà cô có được.
Tuy nhiên, khi họ về đến nhà vào lúc trời gần sáng, cô kinh hoàng khám phá chuỗi
hạt đã mất.
Họ tìm kiếm chuỗi hạt
khắp nơi nhưng không tài nào tìm được. Cô không có can đảm nói với Marie sự thật.
Vì thế họ mua một chuỗi hạt khác hoàn toàn giống với chuỗi hạt đã mất. Nó giá
40.000 quan Pháp, một món tiền mà họ phải đi vay với lãi suất rất cao. Khi họ
trả chuỗi hạt ấy cho Marie, cô này không bao giờ nhận ra sự khác nhau. Thật vậy,
cô ta nhét chuỗi hạt vào ngăn kéo mà không nhìn đến nữa.
Giờ đây Antoinette
biết cái nghèo thật sự là gì, nhưng cô quyết định góp phần để trả món nợ của họ.
Họ trả lại căn phòng ở tầng trên và dọn xuống tầng hầm. Họ cho cô đầy tớ nghỉ
việc. Antoinette tự mình làm việc nhà và còn đi làm việc ở bên ngoài. Họ xin xỏ
và dành dụm từng đồng. Họ phải mất mười năm để trả hết món nợ nần. Giờ đây
Antoinette trông giống một bà già. Một ngày kia tình cờ cô gặp lại Marie trong
đường phố.
“Ôi, sao bạn già đi
nhiều thế!” Marie nói.
“Tôi đã trải qua những
thời gian rất khó khăn kể từ lần cuối cùng chúng ta gặp nhau, và tất cả là vì bạn”,
Antoinette đáp.
“Vì tôi ư? Tôi
không hiểu."
Rồi Antoinette nói
với Marie về việc cô đánh mất chuỗi hạt và việc hai vợ chồng cô đã làm việc bấy
nhiêu năm để trả lại món tiền. Nghe đến đây Marie nói: “Bạn định nói rằng bạn
đã mua một chuỗi hạt bằng kim cương để thế vào chuỗi hạt của tôi?
“Vâng” Antoinette
đáp, “và bạn không bao giờ nhận ra đâu”
“Ôi, Antoinette
đáng thương của tôi!” Marie kêu lên. “Tại sao lại như vậy, chuỗi hạt của tôi chỉ
là một sản phẩm nhái lại. Cùng lắm, nó chỉ đáng giá 400 quan."
14. Vác thập giá để bước lên
cao
Hồi còn trong chủng
viện, tôi đã có dịp nghe nói đến bác sĩ Tom Dolay qua bản dịch tập nhật ký sang
tiếng Việt có tựa đề là: “Lào Quốc Đèo Heo Hút Gió” ghi lại công việc phục vụ của
bác sĩ tại một nơi mà ngày nay chúng ta có thể gọi là “vùng sâu, vùng xa."
Trong khi dấn thân phục vụ anh chị em cùng khổ, bác sĩ Tom Dolay phải chiến đấu
với chính thập giá của bản thân mà ông gọi một cách bóng bảy là “ngọn núi cao
nhất” của đời ông mà ông đã phải vượt qua, đó chính là căn bệnh ung thư mà ông
đang mắc phải. Bác sĩ đã không vượt qua được ngọn núi cao này, đã chịu thua căn
bệnh ung thư và qua đời lúc mới 34 tuổi.
Vì muốn sống trọn vẹn
hơn đức tin vào Chúa, bác sĩ Tom Dolay đã từ bỏ gia đình, từ bỏ những tiện nghi
của một cuộc sống sung túc an nhàn để ra đi phục vụ những con người cùng khổ
nơi vùng xa và vùng sâu. Bác sĩ đã thực hiện nơi chính bản thân điều chúng ta vừa
đọc trong đoạn Phúc âm hôm nay: “Ai không bỏ cha mẹ, vợ con anh chị em mà đến với
Ta thì không thể làm môn đệ Ta. Ai không vác thập giá mình mà theo Ta thì không
thể làm môn đệ Ta." Và không phải là vác trong giây lát, trong lúc cần thiết
để biểu diễn cho người khác nhìn thấy mà phải vác hàng ngày, thường xuyên trong
âm thầm, không ai nhìn thấy, chỉ mình Chúa biết mà thôi.
Bác sĩ Tom Dolay đã
ghi lại trong tập nhật ký như sau: Tôi phải tiếp tục thi hành công tác đang làm
như một bác sĩ bao lâu Chúa còn cho tôi thời gian sống ở trần gian này để thực
hiện nó. Tôi tiếp tục sống dịu hiền, bởi vì để sống hiền dịu con người phải có
can đảm. Giờ đây, đứng trước ngọn núi cao nhất của đời tôi, (tức là chính căn bệnh
ung thư mà bác sĩ đang trải qua) tôi còn phải can đảm hơn nữa, mặc dù can đảm
đôi khi chỉ là một bài ca buồn. Hy vọng vẫn còn và bất cứ nơi nào còn có người
can đảm chiến đấu, tôi không có ý định nằm im chờ chết trên giường bệnh, còn rất
nhiều việc phải làm trong thế giới này.
15. Tôi là thứ ba.
Sayers là một cầu
thủ nổi tiếng. Anh được báo chí đánh giá là một trong những hậu vệ chạy nhanh
nhất trong lịch sử môn bóng đá chuyên nghiệp. Thế nhưng lúc nào anh cũng đeo
trên cổ mình một tấm mề đay bằng vàng, trên đó đó khắc ghi bốn chữ:
- Tôi là thứ ba.
Và trong cuốn tự
thuật của mình, anh đã cho biết nguồn gốc và ý nghĩa của bốn chữ đó như sau:
Ngày kia, tôi đến
thăm ông Bill Easte, huấn luyện viên của tôi. Tôi thấy ông đặt trên bàn làm việc
của ông khẩu hiệu này. Tôi đọc mà chẳng hiểu, nên nhờ ông cắt nghĩa và ông đã
nói cho tôi hay:
- Thiên Chúa là thứ
nhất, tha nhân là thứ hai còn tôi là thứ ba.
Kể từ đó, tôi cũng
đã chọn bốn chữ này làm khẩu hiệu sống cho cuộc đời mình.
Và cũng trong quyển
tự thuật ấy, anh viết tiếp:
- Tôi cố gắng sống
khẩu hiệu trên. Không phải lúc nào cũng thành công, nhưng dù sao việc mang khẩu
hiệu ấy nơi cổ cũng nhắc nhở tôi và giúp tôi khỏi đi trệch đường quá xa.
16. Ơn gọi theo Chúa
Martin và Guerin,
đôi thanh niêu thiếu nữ ấy, đã đi tìm lý tưởng tận hiến trong bậc sống tu trì.
Nhưng nhận thấy đó không phải là con đường Chúa muốn, họ quyết định bước vào cuộc
sống đôi bạn. Cô Guerin cầu nguyện chân thành: “Lạy Chúa, vì con không xứng
đáng trở nên bạn trăm năm của Chúa thì con đi vào con đường đôi bạn, để làm
tròn thánh ý Chúa. Nhưng xin Chúa ban cho con nhiều con, để con hiến dâng tất cả
cho Chúa." Tất cả con con đều đi tu mà Têrêxa Giêsu Hài đồng là cô út và
là vinh quang của gia đình Martin Guerin.
Vậy đối với người
muốn làm đồ đệ Chúa cũng phải lãnh nhận mọi hy sinh của ơn gọi, để khi đã “cầm”
cày thì không quay mặt nhìn lui, hoặc đi tìm đúng con đường Chúa muốn.
17. Lợi ích của đau khổ
Dostoyevsky chỉ mới
20 tuổi khi ông viết cuốn sách đầu tiên nhan đề Người Nghèo. Cuốn này đạt được
thành công lớn. Ông đã mau chóng trở thành nổi tiếng. Sự tâng bốc này có thể dẽ
dàng làm ông trở nên ngông cuồng nhưng cũng do sự kiện ấy, không bao lâu sau,
ông đụng chạm với chính quyền. Bị buộc tội một cách sai lầm là một người vô
chính phủ, ông bị bắt giữ và cùng mấy người khác bị kết án tử hình. Tuy nhiên,
bản án giảm xuống thành án tù và cùng với các bạn, ông bị đày đến Xibêri.
Dostoyevsky trải qua bốn năm lạnh lẽo ở đó. Mười năm trôi qua trước khi ông cầm
bút trở lại.
Kinh nghiệm ấy,
thay vì làm ông cay cú và tàn phá đời ông, đã làm ông phong phú rất nhiều. Giờ
đây, ông đã có mười năm đau khổ để rút tỉa sức mạnh và quyền bính cao cả. Bất cứ
lúc nào có người đến gặp ông và nói: “Ông lấy quyền gì để nói thay cho dân
chúng?” Thì ông chỉ việc kéo ống quần cao lên và chỉ cho người ta thấy những vết
sẹo mà xiềng xích còn để lại. “Đây là quyền của tôi” ông nói. Và những người đã
hỏi ông phải im lặng.
Đối với những người
tỏ vẻ ái ngại về mọi đau khổ mà ông đã chịu đựng, ông nói “Nhà tù đã cứu tôi.
Vì có nhà tù, tôi đã trở thành một con người hoàn toàn mới. Xibêri và sự giam
giữ đã trở thành một niềm vui to lớn đối với tôi. Chỉ ở đó, tôi mới có thể sống
một đời sống thanh khiết và hạnh phúc. Chỉ ở đó, tôi mới nhìn thấy mình rõ ràng
và đó là nơi tôi học biết Đức Kitô. Đó là một trường học tốt. Nó làm đức tin
tôi mạnh mẽ và làm tỉnh thức lòng yêu thương những người phải chịu đau khổ với
lòng nhẫn nại. Nó cũng làm mạnh mẽ tình yêu của tôi đối với nước Nga, và mở mắt
tôi để tôi thấy những phẩm chất cao cả của dân tộc Nga."
18. Có bao nhiêu môn đệ?
Lin Chi là bậc thiền
sư nổi tiếng về đức độ. Rất nhiều người nhận ông làm sư phụ. Một hôm có bậc vị
vọng trong nước ghé thăm tu viện và kinh ngạc khi nghe biết có khoảng 10 ngàn
người đang tu học ở đó. Vì muốn biết đích xác con số nên vị khách đã lên tiếng
hỏi Lin Chi: “Ngài có tất cả bao nhiêu môn đệ?” Lin Chi trả lời: “Chừng 4 hay
5.”
Lạ thật! Với hàng
chục ngàn người theo học mà chỉ có 4,5 người là môn đệ chính tông. Không biết
đó là chuyện đáng vui hay đáng buồn.
Nếu hôm nay có người
hỏi Chúa: Ngài có chính xác bao nhiêu môn đệ? Không biết Chúa sẽ trả lời ra
sao. Phải chăng Ngài cũng phải xác nhận rằng nhiều người “có tiếng mà không có
miếng.”
19. Dâng hết cho Chúa
Vào năm 2015, Đức
Thánh Cha Phanxicô đã phong thánh cho cặp vợ chồng hiện đại đầu tiên, Louis và
Zelie Martin. Ngài nói họ “sống đời phục vụ của Kitô hữu trong gia đình, ngày
qua ngày tạo ra một môi trường đức tin và tình yêu nơi đã nuôi dưỡng ơn gọi của
các cô con gái của họ, trong số đó có Thánh Têrêsa [Lisieux].”
Không có gì lạ khi
các cuộc hôn nhân trở nên căng thẳng sau cái chết của một đứa trẻ và gia đình
Martin đã chịu đựng cái chết của bốn đứa trẻ sơ sinh. Thay vì tuyệt vọng, họ sống
như một mẫu mực của sự thánh thiện hôn nhân cho năm đứa con còn lại. Ngày của họ
được chia thành thời gian cầu nguyện, làm vườn, và thư giãn, phần lớn là ở vùng
nông thôn nơi Têrêxa thừa hưởng tình yêu hoa cỏ và thiên nhiên của cha mình.
Sau khi vợ qua đời,
Louis phải vật lộn với sự cô đơn khi từng người trong số năm cô con gái của ông
vào tu viện và trở thành nữ tu. Ông vẫn nói, “Thật là một vinh dự lớn lao cho
tôi khi Chúa nhân từ mong muốn lấy hết các con của tôi. Nếu có điều gì tốt hơn,
tôi sẽ không ngần ngại dâng cho Chúa.”
THỨ NĂM – ĐI TÌM CON CHIÊN LẠC
Lời Chúa: Lc 15,
1-10
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, những người
thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy,
những người Biệt phái và Luật sĩ lẩm bẩm rằng: "Ông này đón tiếp những kẻ
tội lỗi, cùng ngồi ăn uống với chúng." Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn
này: "Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại
không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến
khi tìm được sao? Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở
về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: 'Anh em hãy chia vui với
tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!' Cũng vậy tôi bảo các ông: Trên trời sẽ
vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính
không cần hối cải.
"Hay là người
đàn bà nào có mười đồng bạc, nếu mất một đồng, mà lại không đốt đèn, quét nhà
và tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy sao? Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em
bạn và những người láng giềng đến mà rằng: 'Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi
đã tìm được đồng bạc tôi đã mất'. Cũng vậy, tôi bảo các ông: Các thiên thần của
Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải." Đó là lời Chúa.
TRUYỆN KỂ
1. Mục tử chăn dẫn đoàn chiên
Thánh Gioan Maria
Vianey nói: “Linh mục thánh thiện, thì giáo dân đạo đức; Linh mục đạo đức, thì
giáo dân tầm thường; Linh mục tầm thường, thì giáo dân ra quỷ!” Vậy nếu Linh mục
mà ra quỷ, thì giáo dân còn độc ác hơn quỷ vương Beelzebul!! Vì cha Sở chịu trách
nhiệm với giáo dân trong xứ. Thế thì các Đức Giám mục là chiên đầu đàn, phải chịu
trách nhiệm với các Linh mục trong địa phận: “Giám mục thánh thiện, Linh mục đạo
đức, Giám mục đạo đức, Linh mục tầm thường, Giám mục tầm thường, Linh mục ra quỷ!”
Quỷ đội lốt Linh mục thì giết Thân Thể Mầu Nhiệm Chúa Giêsu, như xưa quỷ đội lốt
đầu mục Do Thái đã giết Con Thiên Chúa! Thánh Augustin nói: “Làm Giám mục cho
anh em, tôi rất lo sợ, làm tín hữu với anh em, tôi rất an tâm. Vì Giám mục chỉ
là một chức vụ, tín hữu mới là một ân phúc. Giám mục là một danh hiệu nguy hiểm,
tín hữu là một danh hiệu đem ơn cứu độ!”
2. Đưa Mẹ về nhà
Bà cố của Đức Giáo
hoàng Gioan Phaolô II qua đời sớm, lúc ấy cậu Karol Wojtyla lên 7 tuổi, đứng
bên giường mẹ đang hấp hối, cậu khóc nức nở! Người mẹ nắm tay con ôn tồn nói:
“Con đừng khóc, mẹ này chỉ là vú nuôi con, khi Chúa rước vú này về với Chúa,
thì người Mẹ thật của con là Đức Maria xuất hiện, sẽ đích thân chăm sóc con.”
Từ ngày ấy, cậu
Karol Wojtyla tỏ lòng sùng kính Đức Mẹ cách đặc biệt, tưởng đó cũng là lý do
quan trọng mà ngày 18-10-1978 Chúa đã chọn ngài lên ngôi Giáo hoàng (Gioan
Phaolô II), đem lại nhiều lợi ích cho Hội Thánh và cả xã hội trong mọi lãnh vực.
Ngài thành công như vậy là đã sống như thánh Gioan Tông Đồ: “đưa Mẹ về nhà
mình” (Ga 19,27).
3. Tình yêu để nuôi dưỡng
Một chú bé nghèo khổ,
quần áo tả tơi, không biết chữ o tròn hay méo, lê đôi chân gầy đến một khu phố
nghèo nàn ở Ba-lê (Pháp). Chú ấy là tên là Gioan, lên 6 tuổi, đi tìm ông già
Bou-in, sống bằng nghề viết thư mướn.
Chú bé vào nhà lễ phép cúi đầu chào ông cụ.
Ông già hỏi:
- Cháu muốn gì? Chú
vội thưa:
- Cháu muốn viết một
bức thư. Ông già ra giá ngay:
- Đưa đây 10 xu.
Chú bé ngập ngừng rồi thưa lại:
- Xin lỗi cụ, cháu
không có tiền.
Nói xong chú thất
thểu đi ra, ông già ngó theo thương hại, kêu chú trở lại:
- Này, mày không có
đến 10 xu sao? Mày là con ai? Chú bé từ tốn đáp:
- Dạ cháu là con má
cháu. Ông già nói:
- Vậy là ta hiểu rồi,
cháu không có 10 xu, má cháu cũng không có, vậy viết thư để xin chút cháo ăn đỡ
đói phải không? Chú bé gật đầu. Ông già nói tiếp:
- Được rồi vào đây
ông viết giúp cho.
Ông Bou-in nghĩ thầm:
Mình có hy sinh một chút thời giờ, tốn ít mực, ít giấy thì cũng chẳng ra nghèo.
Ông liền lấy bút giấy ra viết: Ba-lê, ngày… tháng… năm… Kính thưa ông.” Rồi ông
già đọc lại cho chú bé nghe và bảo muốn xin gì thì nói để ông viết tiếp. Chú bé
ấp úng:
- Dạ không phải ông
ạ! Ông già gạn hỏi:
- Không phải ông
thì bà? Chú bé run run thưa lại:
- Dạ cũng không phải
bà. Ông Bou-in thấy bực mình nên cáu gắt nói:
- Đã không biết ai
để gởi mà lại đòi viết thư. Chú bé lấy hết can đảm thưa lại:
- Dạ, cháu muốn viết
thư cho Mẹ Maria. Ông già cười rộ rồi nghiêm nghị nói:
- Mày chế nhạo lão
gìa này hả? Cút ra khỏi nhà tao ngay!
Chú bé ngoan ngoãn
bước ra khỏi cửa, ông già nhìn theo thấy tội nghiệp nên gọi chú trở lại, quan
sát kỹ chú bé một lúc, ông hỏi tiếp:
- Tên cháu là gì?
- Dạ tên cháu là
Gioan.
- Gioan gì nữa?
- Dạ, Gioan thôi ạ.
- Nhưng cháu muốn
xin gì cùng Đức Mẹ?
- Dạ cháu muốn thưa
với Ngài là má cháu đã ngủ từ 4 giờ chiều hôm qua, hai tay để trên ngực, người
lạnh ngắt, cháu không làm sao đánh thức má cháu dậy được!
Nghe đến đó ông già
hiểu ngay là mẹ em đã chết vì đói, ông rươm rướm nước mắt và nghĩ thầm: mình chẳng
thiếu của ăn, còn mẹ con chú này thì lại chết đói! Ông già ôm ghì lấy chú bé
vào lòng, và ôn tồn nói:
- Từ nay ông sẽ là
ba của cháu.
Vậy một bức thư
không được gởi đi, những đã có hiệu quả là cụ già biết thương người, và Mẹ trên
trời đã dùng cụ để chăm sóc cậu bé Gioan.
Cụ già này đã thực
thi lời thánh Tông Đồ dạy: “Không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng
như không ai chết cho chính mình. Vậy dù sống dù chết, chúng ta vẫn thuộc về
Chúa.”
Dầu cha mẹ có bỏ
con đi nữa, thì vẫn còn có Chúa đón nhận con (Tv 27/26,10).
4. Tấm lòng làm nên người vĩ đại
Có rất đông người xếp
hàng sau lưng một người đàn ông lớn tuổi đang sử dụng máy gửi và trả tiền tự động
một cách chậm chạp. Một số người nóng nảy la lên: “Tôi không có rảnh cả ngày
như ông đâu!” Người đàn ông này lúng túng thấy rõ. Thấy vậy, một người phụ nữ
trẻ bước ra khỏi gian hàng và nói: “Bác có muốn cháu giúp không?” Ông ta đáp:
“Xin vui lòng. Đây là lần đầu tiên tôi dùng máy này và không biết phải làm
sao.”
Khi gặp những tình
huống trái ý, tôi phản ứng như những kẻ la lối hay như những người sẵn sàng
giúp đỡ?
Người vĩ đại là người
coi việc hoàn thành bổn phận của mình là vĩ đại, người tầm thường là người coi
việc hoàn thành bổn phận là tầm thường. (Ngạn ngữ Trung Quốc)
5. Tận tâm
Cách đây nhiều năm,
tạp chí Chicago Tribune đăng câu truyện về Bill Martin, một người đã muốn trở
thành ngôi sao quần vợt. Câu truyện như sau: “Anh ta bắt đầu yêu thích môn quần
vợt từ khi còn là cậu bé 8 tuổi. Anh ta chơi tám giờ mỗi ngày ở câu lạc bộ
River Forest.” Bill nói rằng sự say mê quần vợt khiến anh trở nên xa lạ với bạn
bè cùng lứa tuổi. Thời khóa biểu nghiêm ngặt không cho phép anh có thì giờ chơi
với chúng. Tuy nhiên, Bill gạt đi khó khăn này và nói: “Cô đơn chỉ là một phần
của hy sinh.”
Sự tận tâm của tôi
đối với Chúa Giêsu có phản ánh sự tận tâm của Bill đối với môn quần vợt không?
Tại sao?
Sự tận tâm không phải
là một cái gì mau qua, đến rồi đi, nhưng vững bền, quen thuộc, trải dài suốt cuộc
sống và điều chỉnh tư cách của ta. (Douglas V. Steere)
6. Yêu quí con chiên lạc
Một giáo viên yêu cầu
học sinh cập nhật hóa dụ ngôn con chiên lạc của Chúa Giêsu. Một học sinh viết:
“Giả như bạn đánh máy tập tài liệu 100 trang, sau đó khám phá ra bị mất một
trang, bạn sẽ làm gì? Bạn sẽ tìm kiếm, và khi tìm thấy, bạn vui mừng đến độ ném
99 trang kia đi và nói: “Ta đã tìm được trang giấy bị mất.” Đó chính là cảm
giác của Thiên Chúa khi bạn trở lại đạo.”
Tôi có cố gắng giúp
một kitô hữu tiêu cực trở nên tích cực không? Bằng cách nào?
Mọi trục trặc chỉ
là những cơ hội có nhiều chông gai. (Hugh Miller).
7. Chỗ đứng của tình yêu
Kinh Lễ theo Nho
giáo nói, con người tự nhiên có 7 thứ tình cảm (thất tình) là hỷ (vui), nộ (giận),
ai (buồn), cụ (sợ), ái (yêu), ố (ghét), dục (ham muốn). Về lòng ham muốn, Phật
giáo dạy có 6 loại (lục dục). Mọi thứ khổ não trên đời là do thất tình lục dục
đó mà ra.
Nơi Thiên Chúa, mọi
sự đều quy về tình yêu vì Chúa là Tình Yêu. Vì yêu nhân loại nên Chúa buồn khi
con người tội lỗi, bởi vì tội làm cho con người phải trầm luân hoả ngục, xa
cách Chúa. Cũng vì yêu thương, Thiên Chúa vui mừng nhất khi con người ăn năn
sám hối, trở về với Chúa để đón nhận ơn cứu độ; và đâu chỉ có Chúa vui mừng mà
thôi, cả “triều thần Thiên Chúa,” những ai thuộc về Ngài cũng vui mừng “vì một
người tội lỗi ăn năn sám hối.”
THỨ SÁU - KHÔN NGOAN ĐỂ TÍCH CỰC
XÂY DỰNG NƯỚC TRỜI
Lời Chúa: Lc 16,
1-8
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng các môn đệ rằng: "Một người phú hộ kia có một người quản lý; và
người này bị tố cáo đã phung phí của chủ. Ông chủ gọi người quản lý đến và bảo
rằng: "Tôi nghe nói anh sao đó. Anh hãy tính sổ công việc quản lý của anh,
vì từ nay anh không thể làm quản lý nữa." Người quản lý thầm nghĩ rằng:
"Tôi phải làm thế nào, vì chủ tôi cất chức quản lý của tôi? Cuốc đất thì
không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Tôi biết phải liệu thế nào để khi mất chức quản
lý thì sẽ có người đón tiếp tôi về nhà họ."
"Vậy anh gọi từng
con nợ của chủ đến và hỏi người thứ nhất rằng: "Anh mắc nợ chủ tôi bao
nhiêu?" Người ấy đáp: "Một trăm thùng dầu." Anh bảo người ấy rằng:
"Anh hãy lấy văn tự, ngồi xuống mau mà viết lại năm mươi." Rồi anh hỏi
người khác rằng: "Còn anh, anh mắc nợ bao nhiêu?" Người ấy đáp:
"Một trăm giạ lúa miến." Anh bảo người ấy rằng: "Anh hãy lấy văn
tự mà viết lại: tám mươi."
"Và chủ khen
người quản lý bất lương đó đã hành động cách khôn khéo: vì con cái đời này, khi
đối xử với đồng loại, thì khôn khéo hơn con cái sự sáng."
TRUYỆN KỂ
1. Hành động khôn khéo
Mạnh Thường Quân là
người giàu có, cho vay mượn nhiều. Một hôm ông sai Phùng Huyên sang đất Tiết
Thành đòi nợ. Khi đi, Phùng Huyên hỏi:
Ngài có định mua gì
về không?
Xem thứ gì nhà ta
chưa có thì mua.
Khi đến đất Tiết
Thành, Phùng Huyên cho gọi dân tới bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường
Quân đều cho cả”, rồi chẳng tính gì gốc lãi, đem đống văn tự ra đốt sạch.
Khi trở về, Phùng
Huyên nói với Mạnh Thường Quân:
Nhà ngài không thiếu
thứ gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm phép mua ở đất Tiết Thành cho
Ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài.
Về sau, Mạnh Thường
Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết Thành. Dân ở đây nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường.
Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Huyên:
Đó là cái ân nghĩa
mà ông đã mua cho tôi ngày trước...
2. Hành xử khôn khéo
Một đạo sĩ đi ngang
qua cây dừa, một chú khỉ hái dừa ném xuống đầu ông. Ðạo sĩ lẳng lặng bổ ra lấy
nước uống rồi ăn luôn cùi dừa, còn lại vỏ dừa, ông làm thành chén ăn cơm. Nét
điềm tĩnh của đạo sĩ là nắm lấy mọi cơ hội trong cuộc sống để mưu ích cho mình.
Ông quên đi niềm đau trên đầu của mình cũng như sự tinh nghịch của chú khỉ, để
sử dụng tối đa ích lợi của trái dừa.
Khôn ngoan để luôn
luôn tích cực xây dựng Nước Trời, đó là lời Chúa Giêsu nhắn nhủ qua dụ ngôn người
quản lý trong Tin Mừng hôm nay.
3. Ở đây dùng tiền cho đi
Một người kia suốt
đời chỉ lo thu gom tiền bạc, cho nên rất giàu. Khi chết, ông còn ôm túi vàng
theo mình đi sang cuộc sống bên kia. Đi một hồi ông thấy đói. Bỗng ông thấy một
quán ăn bên đường, liền ghé vào. Vì hà tiện, ông hỏi người chủ quán:
- Tô cơm nhỏ này
giá bao nhiêu?
- Chỉ một đồng
thôi.
- Còn tô lớn kia?
- Cũng chỉ một đồng
thôi.
Thấy rẻ, ông gọi
luôn hai tô lớn. Nhưng người chủ quán bảo:
- Ở đây chỉ xài loại
tiền-cho-đi thôi. Ông có không?
Người hà tiện chỉ
vào túi vàng của mình. Nhưng chủ quán nói:
- Đó chỉ là thứ tiền-lấy-vào.
Ở đây không xài được.
- Thế tiền-cho-đi
là tiền gì?
- Khi còn sống, mỗi
lần ông cho ai bao nhiêu đồng thì ông được ban lại bấy nhiêu đồng loại tiền-cho-đi.
Ông nhà giàu lục lọi
khắp nơi trong mình nhưng chẳng có đồng nào thuộc loại tiền-cho-đi cả. Thế là
ông phải nhịn đói.
Bao nhiêu đồng tiền
cho đi là bấy nhiêu đồng tiền để dành cho đời sau vậy.
4. Ba thứ làm cho mình chết
Vua Ai Công nước Lỗ
hỏi Khổng Tử:
- Người khôn có sống
lâu không?
Khổng Tử đáp:
- Khôn thì sống
lâu, chớ dại thì sống lâu sao được!
Người ta có ba thứ
chết, tự mình làm cho mình chết, chứ không phải số mạng đáng chết mà chết.
+ Ăn uống không có
chừng mực, thức ngủ không có điều độ, làm lụng khó nhọc quá, lười biếng chơi bời
quá, người như thế, thì phải chết về bệnh tật
+ Phận là người dưới,
mà xúc phạm người trên, lòng tham muốn không ngừng, tính yêu cầu không chán,
người như thế thì chết về hình pháp.
+ Mình ngu, mà mình
kịch người khôn, mình yếu mà khinh bỉ người mạnh; không biết lượng sức mạnh, mà
cứ giận dữ làm liều, người như thế thì chết vì binh đao.
Ba thứ chết ấy thực
không phải là số mệnh, chỉ tự mình giết mình mà thôi.
5. Cái hộp khôn ngoan
Đức Giáo Hoàng
Innocentê II có một chiếc hộp, Ngài thường mở ra coi; người thì cho là trong đó
để một di vật quý của gia đình Ngài, người thì cho là tượng Chúa hoặc ảnh một vị
thánh, người thì cho là hài cốt của vị thánh Ngài tôn sùng.
Một hôm, cha
Claudius Aquavina Bề Trên dòng Tên, bạn thân của Đức Giáo Hoàng, vào yết kiến,
gặp lúc Đức Giáo Hoàng đang mở hộp xem, Ngài bảo cha Claudius đoán xem, hộp đó
đựng gì? Cha Claudius không đoán được.
Lúc đó, Đức Thánh
Cha mới mở hộp ra, trong hộp này có một quan tài nhỏ, và trong quan tài có để
chân dung Đức Thánh Cha. Rồi Đức Thánh Cha nói: "Vào lúc khởi đầu điểu khiển
Giáo Hội, ta phải quyết định nhiều việc quan trọng. Thường thì dân chúng cố áp
lực với ta, không chỉ bằng tranh luận, mà cả bằng tiền tài và danh dự nữa.
Nhưng trước khi quyết định bất cứ vấn đề trọng đại nào, ta cũng mở hộp này ra,
nhìn vào quan tài đựng chân dung của ta, và tự nhủ: "Hỡi Innocentê, ngày
kia ngươi sẽ chết, khi ngươi nằm vào quan tài, thì ngươi liệu còn làm được gì nữa
không? Lúc ấy ngươi nghĩ phải làm sao, thì bây giờ ngươi hãy làm đi!
Vì thế ta đã hành động
theo đúng những quyết toán được định đoạt ở đây, bên chiếc hộp đựng quan tài
này."
6. Lách Luật xã hội để thủ lợi.
Đức Giêsu nói về
tên quản lý bất lương, anh nghe ngóng rằng mình sẽ không còn được chủ cho tiếp
tục làm quản lý nữa,vì bị mang tiếng là phá tài sản nên hắn gọi các con nợ đến
và bảo: “Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy? Người ấy đáp: "Một trăm thùng dầu
ô-liu. Anh ta bảo: "Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết
năm chục thôi. Rồi anh ta hỏi người khác: "Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy?
Người ấy đáp: "Một trăm giạ lúa. Anh ta bảo: "Bác cầm lấy biên lai của
bác đây, viết lại tám mươi thôi.” (Lc 16,5-7: Tin Mừng).
Tại sao người quản
lý này lại bảo con nợ làm như thế?
Thưa vì:
a- Luật Do Thái chỉ
cho người đồng chủng vay mà thôi, và không lấy lời đối với người nghèo (x
Xh.22,24; Lv.25,36; Dnl.23,20t).
Các Luật sĩ lại cắt
nghĩa: Người nghèo là người không đủ dầu để thắp một ngọn đèn, và không đủ bột
để làm một chiếc bánh! Giải thích như vậy thì không thể có người cùng khốn đi
vay!
b- Cách tổ chức
giao dịch thương mại: Theo giáo sư J.Derrett trong tập “Law In The New
Testament” trang 48-77 xuất bản tại London năm 1970, cho biết: Người đi vay
không trực tiếp với chủ của, mà qua trung gian người quản lý. Chủ của không trực
tiếp trả lương cho quản lý, nhưng người quản lý được ăn huê hồng trong các dịch
vụ về cả hai phía: chủ của và con nợ. Số huê hồng được tính luôn trên văn tự của
con nợ. Cho vay dầu được lấy lời 100%, cho vay lúa lời 25%.
Người quản lý bảo kẻ
vay dầu viết 50 thùng vốn thay vì 100 cả vốn lẫn lãi; và kẻ vay lúa viết 80
thùng vốn bớt đi 20 thùng lời!
Khi người quản lý cầm
giấy nợ về trình chủ, người chủ hiểu đó là vốn của chủ, hắn cho người nghèo
vay, nên không có lời! Nhưng thực tế, người quản lý chỉ viết số vốn của chủ và
giấu đi số lời.
Anh này làm thế đã
được Đức Giêsu khen rất khéo: Chủ không có cớ tố cáo anh trước pháp luật, vì
anh không phá tán tài sản của chủ như có kẻ xấu miệng báo cáo (x Lc 16,1: Tin Mừng),
cùng lắm là chủ không tính huê hồng cho anh thôi, và nếu chủ truất chức quản
lý, thì anh đã có các con nợ được anh bảo đừng viết số lời vào giấy nợ, sẽ đón
tiếp anh và chia cho anh số lời chưa nộp cho chủ.
7. Lách luật đạo
Theo Luật ông Môsê,
người Do Thái phải nghỉ mọi việc trong ngày Lễ buộc. Nhiều người giàu cảm thấy
những ngày Lễ đó cản trở công việc làm ăn của họ, thế nên họ chỉ mong ngày Lễ
chóng qua để có cơ hội làm giàu, nên ngôn sứ Amos đã trách cách sống Đạo của
dân Chúa tuyển chọn, vì họ nói:
- “Bao giờ ngày hưu
lễ qua đi, để ta mở cửa bán hàng?” (Am 8,5a).
Đáng lẽ ngày Lễ của
Chúa phải là ngày vui mừng (x Công Đồng Vat.II trong HCPV.106) để đến tôn thờ
Chúa, thì lắm kẻ có Đạo lại cho đó là ngày họa, ngăn trở công ăn việc làm!?
Mong cho chóng hết ngày Lễ nghỉ để:
- “Ta bóp méo đấu
đong, làm cân gỉa mạo” (Am 8, 5b).
Tức là gian dối
trong mọi sinh hoạt,miễn là chiếm đoạt được nhiều tiền, thì có nhiều thần, nhiều
chúa phù hộ kiếp sống! (x Lc 12,16t) Vì với tiền bạc khi có dư:
- “Ta tậu người
nghèo bằng đôi dép” (Am.8, 6a).
Đánh giá mạng người
là hình ảnh của Thiên Chúa chỉ bằng đôi dép!? Ngày nay một số người buôn bán
thuốc Tây lậu, đã đổi mạng người bằng chai nước lã thay vì nước biển đúng tiêu
chuẩn Y học! Thế mà họ vẫn không cắn rứt lương tâm,vì có thần tiền hướng dẫn
lương tâm! Mà “lương tâm” không bằng “lương lậu”, đó là lý do họ quyết:
- “Lúa nát gạo mục
quét bỏ, ta cũng bán đi” (Am 8, 6b).
Đúng là “tham tiền
là nguồn gốc mọi tội ác” (1Tm 6,10)
8. Lấy lợi làm đầu
Ngày 13/10/2011, tại
Trung Quốc, bé Duyệt Duyệt mới lên 2 tuổi bị một xe vận tải đụng em ngã vật xuống
đất, làm em chấn thương sọ não. Anh tài xế thấy vậy chạy luôn cán lên hai chân
em! Lúc đó có khoảng 16 người, già có, thanh niên có, nhìn thấy cảnh đáng
thương ấy, tất cả vô cảm lạnh lùng bước đi, vì không ai muốn sự cố ấy gây phiền
cho mình. Thậm chí một anh thanh niên bước qua em để băng qua đường! Chỉ có một
bà cụ tuổi cao, đi lượm ve chai, thấy thế bà vội quẳng bao rác ấy đi, và chạy lại
bồng em đưa vào bệnh viện. Nhưng vì vết thương quá nặng, em đã từ trần.Chỉ có một
ít người tán dương tinh thần bà cụ này nên thưởng cho bà một ít tiền, còn đa số
những người hay chuyện thì phỏng vấn bà cách mỉa mai: Người này hỏi: “bà làm
như thế có ý muốn được nổi danh phải không?” Kẻ khác lại hỏi: “Bà làm thế chắc
được nhiều tiền lắm phải không?” Người khác nữa lại hỏi: “Chắc dịp này bà trở
nên giàu có, khỏi phải đi lượm ve chai nữa?..” Vì quá nhiều người phỏng vấn mỉa
mai như thế, làm bà điên đầu, một số tiền không nhiều người ta thưởng cho bà,
bà trao lại hết cho cha mẹ em bé để mai táng em; còn bà thì trở về quê hẻo lánh
để tránh những câu hỏi nhức đầu!
Anh tài xế biết
không thể trốn thoát nên phải ra đầu thú. Người ta phỏng vấn anh: “Tại sao anh
đụng em bé rồi lại cho xe chạy tiếp cán lên hai chân em?” Anh tài xế thản nhiên
trả lời: “Nếu tôi không tiếp tục cán lên em, em không chết, mang tật, tôi tốn
kém nhiều hơn; còn em chết, thì số tiền bồi thường Luật pháp đã qui định có giới
hạn!”
Quả thật, “hết thảy
những ai không nhìn nhận Thiên Chúa, tự bản chất nó là kẻ ngu đần” (Kn 13,1).
Và “hết thảy những ai không đếm xỉa đến việc nhận biết Thiên Chúa, Thiên Chúa
phó mặc cho trí não ngông cuồng của nó làm những điều bất xứng” ( Rm 1,28).
9. Xây dựng cho tương lai
Nữ tu M. Scullion
có mặt trong danh sách 100 người ảnh hưởng nhất thế giới theo tạp chí Time
(2008). Chị đã giúp hàng ngàn người vô gia cư ở Philadelphia (Mỹ). Hơn 95% những
người tham gia chương trình của chị không còn phải trở lại đường phố nữa. Nếu
Kitô hữu nào cũng nhiệt thành, khéo léo trong việc xây dựng Nước Trời như chị,
bài dụ ngôn hôm nay sẽ không còn tính thời sự nữa! Thật vậy, Đức Giêsu phàn nàn
vì con cái sự sáng không khôn khéo bằng con cái đời này khi xây dựng tương lai.
Chúng ta chăm chút đầu tư nhiều công sức, thời giờ cho cuộc sống ở đời này,
nhưng đang khi đó lại ơ hờ đầu tư cho cuộc sống tương lai trên Nước Trời vĩnh cửu.
Nước Trời, ước mơ của
Thiên Chúa về thế giới, đã hiện diện trong thế giới và đang chờ ngày thành
toàn. Hãy làm cho Nước Trời có mặt trong môi trường của bạn qua những nỗ lực
tôn trọng phẩm giá con người, xây dựng công lý và an bình. Đó là cách tốt nhất
bạn xây dựng cho tương lai vĩnh cửu.
10. Nghĩ đến cùng đích
Triết gia Diogène cắm
lều dựng bảng rao bán sự khôn ngoan ở giữa chợ Athène (Hy Lạp), một người sai đầy
tớ cầm tiền ra mua. Cầm tiền trong tay, triết gia bảo: “Anh hãy về đọc lại cho
chủ nghe câu này: “Trong tất cả mọi sự, hãy nghĩ đến cùng đích.” Người quản lý
bất lương chỉ thuộc lòng một phần bài học khôn ngoan, vì chỉ nghĩ đến giai đoạn
sắp đến của cuộc đời mình. Anh khôn khéo dùng thời gian quản lý hiện tại để lo
xa cho cuộc sống tương lai, khi cuộc sống ấy sắp rơi vào bế tắc. Thế nhưng, anh
quên mất kết cục cuộc đời của anh sẽ thế nào khi anh luôn sử dụng những mánh
khóe gian xảo như vậy với đồng loại của mình.
Con người ngày nay
trong công việc kinh doanh buôn bán thường tỏ ra mau mắn, khôn khéo, và đầy
sáng kiến. Thế nhưng, với những công việc thiêng liêng như kinh nguyện, thánh lễ,
hy sinh, thì lơ là, chậm chạp, thiếu sự đầu tư. Nếu chăm chú đầu tư cho đời sống
tinh thần như cho công ăn việc làm, cuộc đời bạn đã tốt đẹp biết bao!
Người Kitô hữu tin
rằng quê hương thật của chúng ta ở trên trời. Bạn có thường nghĩ đến cùng đích
đời mình không?
11. Tham tiền mất tất cả
Anh Nguyễn văn S. vừa
cưới vợ, thì biến cố 30/04/1975 xảy ra làm cho nhiều gia đình ly tán. Cha mẹ
anh S. gặp khó khăn vì biến cố này, nên không đồng ý cho vợ chồng anh sống
chung, thế là hai vợ chồng phải chuyển xuống Rạch Giá sinh sống.
Gặp thời vận anh S.
có người bạn rủ đi vượt biên và cho vợ chồng anh nợ khi nào tới nơi làm ăn sẽ
trả sau!
Sang tới đất Mỹ, vợ
chồng S. vừa đi học, vừa cần cù làm việc, nên đã sớm tạo được cửa hàng buôn
bán, và trở thành người Việt giàu có trên đất Mỹ!
Sau 18 năm xa quê
hương, vợ chồng muốn về Việt Nam thăm bố mẹ, và cũng là dịp để khoe với gia
đình, chòm xóm về sự thành đạt của mình!
Cha mẹ anh ở Việt
Nam cũng gặp may, họ xây được một ngôi nhà lớn kinh doanh làm khách sạn, nên
cũng trở nên giàu có như trước.
Vợ chồng S. về tới
quê nhà, vì muốn gây bất ngờ cho cha mẹ, nên anh để vợ đến ở tạm nhà một người
bạn, còn anh đóng vai người khách đến thuê khách sạn! Vì đã xa gia đình hơn 18
năm, nên mẹ anh không nhận ra con trai mình, là thằng S. trước đây gầy và đen
nay thành một người bảnh bao, lịch sự!
Thuê được phòng,
đêm ấy anh S. mời mẹ và em gái lên phòng, anh mở va-li ra cho hai mẹ con nhìn
thấy va-li đầy ắp dollars, vàng, kim cương! Thế là đêm đó hai mẹ con lẻn lên
phòng thủ tiêu anh S. để cướp số tài sản ấy!?
Ba ngày sau, vợ S.
quá suốt ruột, không nghe tin chồng, nên cô quyết định đến khách sạn của mẹ hỏi
thăm về S., rồi kể lai lịch của vợ chồng S. cho mẹ và em gái nghe. Như tiếng
sét đánh phủ đầu, bà mẹ và cô em qúa hối hận nên đã nhảy lầu tự tử!!
12. Để con trả lời
Một người mẹ hôn tạm
biệt đứa con trai trước khi nó đi cắm trại. Bà nói với người mẹ lớn tuổi hơn đứng
bên cạnh: “Một tháng không nghe tin gì về đứa con bảy tuổi này quả là thời gian
dài. Ước gì tôi biết làm cách nào cho nó viết thư?” Người mẹ kia trả lời: “Dễ
thôi. Khi gửi thư cho cháu, chị hãy viết thêm “Kèm theo đây năm đô la.” Người mẹ
trẻ nói: “Điều đó có ích gì?” Người mẹ kia trả lời: “Như có một sức hút, lập tức
con của chị sẽ viết lại: “Mẹ quên đính kèm năm đô la.”
Tôi có tháo vác và
chăm chỉ để xoay sở công việc của cuộc sống mau qua hơn công việc của cuộc sống
vĩnh cửu không?
Cuộc sống chỉ là một
ánh đom đóm trong đêm (Crowfoot).
THỨ BẢY - TRUNG TÍN VIỆC NHỎ,
TRUNG TÍN TRONG VIỆC LỚN
Lời Chúa: Lc 16,
9-15
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng các môn đệ rằng: "Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu,
để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời.
Ai trung tín trong
việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai gian dối trong việc nhỏ, thì
cũng gian dối trong việc lớn.
Vậy nếu các con
không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao phó của chân thật
cho các con. "Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ
này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ.
Các con không thể
làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được."
Những người biệt
phái là những kẻ tham lam, nghe nói tất cả những điều đó, thì nhạo cười Người.
Vậy Người bảo các ông rằng: "Chính các ông là những kẻ phô trương mình là
công chính trước mặt người ta, nhưng Thiên Chúa biết lòng các ông; bởi chưng điều
gì cao sang đối với người ta, thì lại là ghê tởm trước mặt Thiên Chúa."
TRUYỆN KỂ
1. Cái đẹp thì không nhỏ
Một lần, có một người bạn của Michel Ange đến thăm ông. Người bạn
đó ngạc nhiên vì thấy ông vẫn hí hoáy mãi trước một pho tượng: “Tôi thấy công
việc của anh không khác hơn hôm trước tí nào."
Nhà nghệ sĩ trả lời: “Trái lại, tôi đã sửa chữa được nhiều lắm.
Đây tôi bớt đi một ít đất sét, làm nổi bật vết nhăn này, uốn mềm lại nét khác,
làm cho cái miệng tươi hơn lên."
Bạn ông cãi lại: “Những cái đó nhỏ nhặt quá."
Michel Ange mỉm cười trả lời lại: “Đúng, nhưng chính những cái
nhỏ nhặt này làm cho pho tượng được hoàn mỹ hơn và sự hoàn mỹ lại không phải là
sự nhỏ nhặt."
2. Đồng tiền trên trời
Một người kia suốt đời chỉ lo thu gom tiền bạc, cho nên rất
giàu. Khi chết, ông còn mang túi vàng theo mình đi sang cuộc sống bên kia. Đi một
hồi, ông thấy đói. Bỗng ông thấy một quán ăn bên đường, liền ghé vào. Vì hà tiện,
ông hỏi người chủ quán:
- Tô cơm nhỏ này giá bao nhiêu?
- Chỉ một đồng thôi.
- Còn tô lớn kia?
- Cũng chỉ một đồng thôi.
Thấy rẻ, ông gọi luôn hai tô lớn. Nhưng người chủ quán bảo:
- Ở đây chỉ xài loại tiền-cho-đi thôi. Ông có không?
Người hà tiện chỉ vào túi tiền của mình. Nhưng chủ quán nói:
- Đó chỉ là thứ tiền-lấy-vào. Ở đây không xài được.
- Thế tiền-cho-đi là tiền gì?
- Khi còn sống, mỗi lần ông cho ai bao nhiêu đồng thì ông được
bán lại bấy nhiêu đồng loại tiền-cho-đi.
Ông nhà giàu lục lọi khắp nơi trong mình, nhưng chẳng có đồng
nào thuộc loại tiền-cho-đi cả. Thế là ông phải nhịn đói.
Bao nhiêu đồng tiền cho đi là bấy nhiêu đồng tiền để dành cho đời
sau vậy.
3. Tiền bạc và ơn nghĩa
Mạnh Thường Quân nhà giàu, cho vay mượn nhiều. Một hôm ông sai
Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Khi đi, Phùng Nguyên hỏi:
- Ngài có định mua gì về không?
- Xem thứ gì nhà ta chưa có thì mua.
Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi dân tới bảo rằng: “Các
ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”, rồi chẳng tính gì gốc lãi,
đem đống văn tự ra đốt sạch.
Khi trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân rằng:
- Nhà Ngài không thiếu thứ gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã
trộm phép mua ở đất Tiết cho Ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý Ngài.
Về sau, Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đây
nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên:
- Đó hẳn là cái ơn nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước
4. Làm chủ hay nô lệ
Tôi thử xét lại liên hệ của tôi với tiền của xem tôi đang làm chủ
nó hay làm nô lệ nó:
- Tôi vẫn còn làm chủ nó: khi tôi dám đem nó đi cho người khác,
dám đưa nó cho người khác mượn, dám bỏ nó, khi tôi mất nó mà không đến nỗi như
mất hồn…
- Tôi đã thành nô lệ nó khi ngày đêm tôi nghĩ tới nó, khi tôi trọng
nó hơn tất cả mọi người khác, khi tôi sợ mất nó, khi vì nó mà tôi dám làm điều
xấu…
5. Tiền trước tiên thành tiền tự tử
Tiền trước tiên, tôn ta thành thần thánh, thành tiên thành thánh
thượng.
Tiền tạo thành tích, thành tiên tiến, thành... tài, thành thân
thế – tất thảy trân trọng.
Tay thủ tập tiền, trên tất thảy- tôn ti trật tự tiêu tán - tòa
tù tội thảy tiêu tan - tội thành trong trắng, thất thu thành thành tựu - thấy
tiền tựa thấy tiên - thấy trước tất thảy, thua thành thắng, tiền trợ thủ ta
trên tất tật!
Túng tiền, tư tưởng, tinh
thần tiêu tán, trên thiếu tin, thắng thành thua, tài tình thành tai tiếng. Thiếu
tiền tất thua thiệt, tình tan tác, trong trắng thành tối tăm .
Thiếu tiền, thâm thủng, tủi
thân, thành tham tàn, tù tội, thân thế tựa tre tàn, tất thảy thiếu tôn trọng,
tư tưởng thiếu tự tin, tìm thang thuốc tự tử. . .! (Tầm Vông, Gò Dầu-Tây Ninh)
6. Sức mạnh đồng tiền
“Đồng tiền mạnh mẽ xiết bao.
Bẻ cong chân lý lật nhào công minh
“Vàng”, “Lầu”, “Đô”, “Xế” hiển linh
Có bây, “pháp luật nghiêm minh” trò đùa
Buồn thay! “Vật chất” làm vua
“Đức” “Trí” “Lễ” “Nghĩa” phải thua đồng tiền! (NT2-Vũng Tàu)
7. Ông Tiền
“Ông Tiền, ông Phật, ông Tiên,
Ba ông đứng lại, ông Tiền cao hơn!
Tiền nhiều: mặc kệ. . .vẫn hơn
Dẫu cho nhân sự ngã nghiêng tứ bề
Tiền nhiều chẳng ngán chẳng lo,
Phất tay một cái nhằm nhè gì ông? (Tuổi trẻ cười –Xuân Canh Ngọ)
8. Mù mắt vì vàng
Xưa kia, có người nước Tề thích vàng. Sáng sớm, thay xiêm y đi
ra chợ, đến hàng người đổi tiền, chộp một khối vàng, rồi đi.
Người ta bắt anh và hỏi:
- Tại sao giữa đám đông người, mà anh dám đoạt vàng của người ta
như thế?
Anh ta đáp lại:
- Lúc tôi thấy vàng, đâu còn thấy thiên hạ chung quanh nữa đâu,
tôi chỉ thấy vàng thôi.
9. Dùng của bất chính mà mua lấy bạn bè
Thứ ba, ngày 29
Enricô của mẹ,
Sáng nay, lúc đi học về, con đi trước mẹ, con đã gặp một người
đàn bà nghèo bế một đứa con nhỏ xanh xao yếu đuối và chìa tay xin con. Con nhìn
người ta bằng cặp mắt lạnh lùng, con chẳng cho gì cả mà chính lúc ấy túi con có
tiền. Nghe mẹ, con ơi!
Con đừng tập thói làm ngơ trước cái nghèo khó nó ngửa tay xin
con; hơn nữa con lại càng không nên bước qua một người mẹ xin ăn cho con. Con
hãy nghĩ đến bụng đói của đứa trẻ thơ, nghĩ đến sự đau khổ của người mẹ.
Mỗi khi mẹ bố thí cho kẻ nghèo thì bao giờ họ cũng cảm ơn và
chúc cho mẹ, cho cả nhà ta được mọi sự lành. Những lời chúc tụng ấy nghe êm ái
biết là dường nào! Và lòng tạ ơn họ không biết bao nhiêu.
Những lời cầu nguyện ấy sẽ thấu đến đấng Thượng đế để ngài phù hộ
cho tất cả những người thân yêu của ta. Vì thế, mẹ trở về rất hài lòng và tự nhủ:
- Người ấy đã cho ta nhiều hơn là ta đãi họ!
Enricô ơi! Con hãy nghe mẹ: thỉnh thoảng nên bớt một vài xu
trong túi tiền của con để cho người già không chốn nương thân, người mẹ không gạo,
đứa trẻ không mẹ không cha. Những kẻ khó thích xin trẻ con vì như thế họ không
nhục, vì trẻ con cũng như họ phải cần đến mọi người. Con có nhận thấy ở quanh
trường thường có nhiều kẻ ăn xin không? Sự bố thí của người lớn là một việc làm
phúc, nhưng sự bố thí của trẻ con không những là một việc làm phúc mà còn là một
sự vỗ về nữa, vì mỗi lần đứa trẻ đem cho thì hình như đồng tiền kèm với bông
hoa ở trong tay nó rơi ra.
Con ơi! Con phải biết con có đủ cả, chứ kẻ khó thì thiếu hết.
Khi con mong được sung sướng thì người nghèo chỉ cầu sao cho khỏi chết. Trong một
đám có bao nhiêu là nhà giàu, trong một phố có bao nhiêu người sang trọng qua lại,
có bao nhiêu đứa trẻ ăn mặc xa hoa, thế mà vẫn còn thấy nhiều đàn bà và trẻ con
đói khát, rách rưới! Thực đáng buồn thay!
Muốn cho người ta khỏi chê con là một kẻ vô tình thì từ sau, con
đừng bước qua một kẻ khó nào mà không cho gì."
Mẹ con. (Edmond de Amicis, trong Tâm Hồn Cao Thượng).
10. Sống với nhau như anh em
Nhà tâm lý học Rollo May viết trong cuốn “Con người trong cuộc
tìm kiếm bản thân” như sau: “Tiến sĩ Wamter Canon cho thấy trong cuộc nghiên cứu
của ông về “cái chết vì ma thuật” rằng con người sơ khai có thể đã chết vì bị
cô lập về mặt tâm lý khỏi cộng đồng. Hẳn đã có người dân bản xứ bị cô lập về mặt
xã hội và bị bộ tộc đối xử như không còn hiện hữu nữa, những người này thực sự
bị héo mòn mà chết.”
Đâu là dấu hiệu tình cảm tôi có thể bày tỏ cách đơn giản và thân
thiện đối với người xung quanh, nhất là những ai thật sự cần đến?
Chúng ta đã học bay như chim trên không trung, học bơi như cá
trong nước, nhưng lại chưa học hành động vô cùng đơn giản là sống với nhau như
anh em (Martin Luther King).
11. Ta ở cùng ngươi
Trong mọi hoàn cảnh, no hay đói, dư dật hay túng bấn, tôi đã tập
quen cả. Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết (Pl 4,12. 13)
Robert Bruce đang đi dọc trên đường phố đông đúc, anh chợt nghe
thấy một ai đó đang ca hát. Tiếng hát không lớn, không náo động, nhưng êm ái nhẹ
nhàng, dường như người đó đang hát với chính mình. Tò mò muốn biết xem người đó
là ai, Bruce quay lại và hầu như anh không thể tin vào mắt mình nữa. Thì ra, đó
là một thanh niên ngồi trên xe lăn, lăn bánh xe theo giai điệu của bài hát.
Điều gì ngăn cản tôi học hỏi đầy đủ bí quyết mà thánh Phaolô đề
cập trong bài đọc hôm nay, bí quyết mà người thanh niên ngồi trên xe lăn đã học
được?
Đây lời Chúa phán: “Đừng sợ… Ngươi có băng qua nước, Ta sẽ ở
cùng ngươi, ngươi có đi trong lửa, cũng chẳng hề hấn gì” (Is 43,1. 2).
12. Điều cao trọng
Jerry Kramer là một ngôi sao bóng đá chuyên nghiệp. Gần cuối sự
nghiệp, ông viết một cuốn sách chạy có tựa đề: “Nhật ký thời vàng son của Jerry
Kramer”, trong đó có một đoạn như sau: “Tôi nhớ đã từng đọc cuốn “Nụ cười sau
cùng” của John O Hara về một ngôi sao màn bạc, cả đời là một con người không ra
gì, nhưng ở cuối cuốn sách, suy khi đã hoàn toàn suy đồi, anh ta đã nói thế
này: “Ít ra tôi cũng đã từng là ngôi sao màn bạc và không ai có thể tước tôi khỏi
điều đó.” Kramer nhận xét: “Chẳng có gì gây ấn tượng cả. Ai là người sẽ quan
tâm đến điều đó?”
Điều gì tôi đã từng đánh gia cao ở một thời điểm nào đó trong đời,
nhưng giờ đây không con giá trị như thế nữa? Tại sao?
Cái chết không hoàn toàn tước đi cuộc sống, nhưng chính cử chỉ
vô tâm của người với người, đã làm cuộc sống chết dần. (Stephen Vincent Benet)
13. Đồng tiền là con dao hai lưỡi
Warren Buffett (Uo-rân Bơ-phít) là nhà tỷ phú thứ nhì thế giới. Với
thế giá đó, ông có thể cho biết thế nào là giá trị đồng tiền. Ông cho rằng con
người có thể làm ra tiền, nhưng tiền không làm ra nhân cách con người. Chính vì
thế ông vẫn sống một cuộc sống đạm bạc và tặng hầu hết tài sản của mình vào
công việc từ thiện. Chúa Giêsu dạy ta phải biết dùng tiền của để có được Nước
Trời. Đối với tiền bạc của cải, con người chỉ là quản lý.
Người quản lý bất lương thâm lạm tài sản của chủ đổi lấy cuộc sống
hưởng thụ ích kỷ. Lúc đó quản lý không còn là quản lý nữa, mà tiền của thì trở
thành bạo chúa thống trị. Trái lại, cách dùng tiền đúng đắn là đem chúng ra để
chia sẻ, để phục vụ; nhờ đó chúng ta đạt được Nước Trời.
Thánh Phaolô viết cho môn đệ Timôtê rằng: “Cội rễ sinh ra mọi điều
ác là lòng ham muốn tiền bạc” (1Tm 6,10). Báo chí hằng ngày phanh phui biết bao
nhiêu tệ nạn phát sinh từ lòng ham muốn tiền bạc: nào là phòng khám có bác sĩ
Trung quốc “khám bệnh kiểu chặt chém,” nào là công an giao thông đòi mãi lộ
“ghê hơn cướp cạn,”…
Tin Mừng hôm nay gửi đến sứ điệp mời gọi mỗi người chúng ta đổi
mới thái độ của mình đối với tiền của, và sử dụng chúng thế nào để phát huy giá
trị cao nhất của chúng, đó là không chỉ xây dựng một xã hội tốt đẹp đầy tình
người mà còn giúp nhau đạt đến Nước Trời.
14. Dùng tiền mua bạn bè
Khi được hỏi: “Điều gì làm ông cảm thấy hạnh phúc?” Tỷ phú Mỹ J.
Rockefeller, một người thuộc hàng giàu nhất nước Mỹ, trả lời: “Có thêm một đô
la nữa!” Đúng là ham muốn về tiền bạc không có điểm dừng! Đang khi ấy, tiền bạc
là phương tiện để ta có thể sống an vui, chứ không phải là mục tiêu của cuộc sống.
Tiền bạc tự nó không xấu, nó chỉ trở nên xấu khi ta để nó trở thành động lực
chi phối mọi suy nghĩ và hành động, chiếm hết mọi thời gian và năng lực của ta.
Ngoài ra, người Kitô hữu còn ý thức rằng phải khôn khéo dùng tiền bạc để mua lấy
bạn hữu muôn đời qua việc sẵn sàng chia sẻ, quảng đại cho đi và tận tình giúp đỡ
người nghèo.
“Người giàu giúp người
nghèo trên thế giới này, nhưng người nghèo lại giúp người giàu trong thế giới
mai sau” (truyền thống Rápbi Do Thái). Như vậy, đồng tiền bạn rộng rãi cho đi
không phải là đồng tiền bị đánh mất, nhưng lại âm thầm sinh lãi cho bạn. Bạn
đang chuyển đổi tiền của hư nát đời này thành gia sản vĩnh cửu trên trời. Không
có việc đầu tư nào an toàn và chắc chắn hơn đầu tư theo kiểu này.
Lễ kính -
CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG LATÊRANÔ
Lời Chúa Ga 2, 13-22
Lễ Vượt Qua của dân Do-thái gần đến, Chúa Giêsu lên Giêrusalem;
Người thấy ở trong đền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những
người ngồi đổi tiền bạc. Người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn
cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, Người hất tung tiền của những người đổi bạc,
xô đổ bàn ghế của họ, và bảo những người bán chim câu rằng: "Hãy đem những
thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán."
Môn đệ liền nhớ lại câu Kinh Thánh: "Sự nhiệt thành vì nhà
Chúa sẽ thiêu đốt tôi."
Bấy giờ người Do-thái bảo Người rằng: "Ông hãy tỏ cho chúng
tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy." Chúa Giêsu trả lời:
"Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại."
Người Do-thái đáp lại: "Phải bốn muơi sáu năm mới xây được đền thờ này mà
ông, ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?" Nhưng Người, Người có ý nói đền thờ
là thân thể Người. Vì thế, khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, các môn đệ mới
nhớ lời đó, nên đã tin Kinh Thánh và tin lời Người đã nói.
TRUYỆN KỂ
1. Lịch sử
Đại thánh đường Latêranô được dâng kính Đấng Cứu Thế và từ thế kỷ
XII cũng được dâng kính thánh Gioan Tẩy Giả, là nhà thờ cổ nhất của Đức Giáo
Hoàng, được mang danh là “Mẹ và là Đầu của mọi nhà thờ trên thế giới."
Sau khi chiến thắng các đối thủ tranh giành ngai hoàng đế,
Constantin đã ký sắc lệnh Milanô vào năm 313 công nhận Kitô giáo là một tôn
giáo hợp pháp trên đế quốc La Mã. Thế là các tín hữu lục tục từ các hang toại đạo
bước vào xã hội công khai, không còn sự bắt bớ nữa.
Hoàng đế Constantin làm một cử chỉ đẹp: nhường cung điện ở đồi
Latran cho ccác Giáo Hoàng làm nơi trú ngụ. Năm 324 Đức Giáo Hoàng Sylvester I
đã thánh hiến đại thánh đường và cự ngụ tại nơi đây cho đến thế kỷ thứ XIV, sau
đó mới dời về Vatican, cạnh đền thờ thánh Phêrô. Đây cũng là Vương Cung Thánh
Đường của giáo phận Rôma, lý do: ngai toà của vị Giám mục Rôma được đặt tại
đây.
Đền thờ này được gọi là “mẹ các nhà thờ” vì là nhà thờ đầu tiên
được chính quyền hợp pháp công nhận trên đế quốc La Mã và vì cũng là nhà thờ
chính tòa của địa phận Rôma, nơi đó có ngai toà của Đức Giáo Hoàng.
Qua các trận hoả hoạn, động đất và càn quét của man dân, của Đức
của Pháp... đại thánh đường Lateranô phải tái thiết lại nhiều lần. Ngáy
28.4.1726 sau một công trình tái thiết lớn, Đức Bênêđíctô XIII đã thánh hiến lại
và công nhận ngày 9.11 là ngày thánh hiến Đền Thờ.
2. Đền thờ tâm hồn
Nhà thờ gỗ đá đã khiến Thánh Augustinô nghĩ đến nhà thờ tâm hồn.
Việc xây dựng nhà thờ vật chất làm Ngài nghĩ đến việc xây dựng nhà thờ tâm hồn.
Vì thế, trong lễ khánh thành một nhà thờ ở giáo phận mình, ngài
đã giảng như sau: “Điều đã diễn ra lúc xây cất nhà thờ này cũng diễn ra khi các
tín hữu tụ họp nơi đây: khi anh chị em nghe loan báo Lời Chúa, khi anh chị em
lãnh nhận bí tích Rửa tội, khi anh chị em nghe giảng huấn, đó là những lúc anh
chị em được cưa, được bào, được ráp bởi tay các thợ mộc thợ nề. Nhưng ta chỉ
xây dựng Nhà Chúa thực sự nếu mọi người đều hợp nhất với nhau trong tình huynh
đệ."
Mở đầu câu chuyện, ông Dakêu được mô tả là kẻ tội lỗi: thu thuế
(lại còn “đứng đầu những người thu thuế”) và lo thu tích của cải (“và là người
giàu có”) - Cuối câu chuyện, ông thay đổi hẳn: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho
nhà này”; phân phát tài sản cho người nghèo (là điều Chúa Giêsu thường khuyên
làm. x. Lc 12,33-34 16,1-8 16,9-13 v.v.); đền bù những thiệt hại đã gây cho người
khác.
3. Nhà thờ không có Chúa
Mohandas Karamchand Gandhi là anh hùng dân tộc Ấn Độ, lãnh đạo
cuộc đấu tranh chống chế độ thực dân của đế quốc Anh và giành độc lập cho Ấn Độ
với sự ủng hộ nhiệt liệt của người dân trong đấu tranh bất bạo động.
Du học ở Anh và sau đó về Ấn Độ, Gandhi làm luật sư, tiếp đó làm
việc tại Nam Phi - thuộc địa của nước Anh. Nam Phi nổi tiếng về phân biệt chủng
tộc. Ở Nam Phi, Gandhi có dịp đọc Kinh Thánh của Kitô giáo, lập tức giáo huấn của
Đức Giêsu cuốn hút ông, nhất là tám mối phúc thật. Ông rất tâm đắc trước Lời
Chúa dạy về một tình yêu phổ quát và bình đẳng giữa mọi người, không phân biệt
giàu nghèo, sang hèn, địa vị cao thấp, Do Thái hay lương dân...
Quyết định học đạo, Gandhi đến một nhà thờ để mong được chứng kiến
lễ nghi trong đạo và cũng để tìm hiểu thêm về giáo lý Kitô giáo.
Tuy nhiên, khi ông bước đến cửa nhà thờ, thật là bất ngờ khi người
giữ cửa trả lời: “Đây là nhà thờ dành riêng cho người da trắng. Nếu anh muốn
tìm hiểu đạo, thì hãy tìm đến nhà thờ khác dành riêng cho dân da màu mà
xin." Gandhi rất sốc, tức giận, bỏ về nhà và không theo đạo Kitô. ông ghi
lại cảm tưởng trong nhật ký của ông như sau: “Tôi rất thán phục Đức Giêsu và
giáo thuyết đầy tình nhân ái khoan dung của Ngài. Thế nhưng tôi rất bất mãn mỗi
khi tiếp xúc với các tín hữu là môn đệ của Ngài! Nếu trong đạo Kitô mà cũng còn
phân biệt chủng tộc như vậy, thì Kitô giáo có hơn gì Ấn giáo có phân biệt giai
cấp của tôi? Thôi, tôi cần chi phải gia nhập đạo này. Tốt nhất là tôi cứ chấp
nhận có bất toàn trong Ấn giáo và cố gắng sống theo giáo lý truyền thống của
cha ông là đủ!”
4. Chúa chăm sóc đền thờ tâm hồn
Ngày kia Bà thánh Catarina thành Sienna bị một cơn cám dỗ dường như
quá sức của mình. Bà phải vất vả lắm mới qua được cơn cám dỗ này. Sau khi cơn
cám dỗ đã qua, Bà thấy Chúa hiện ra Bà liền hỏi Chúa: - Lạy Chúa lúc tâm hồn
con bị cám dỗ đầy những hình ảnh tối tăm nhơ nhớp như thế thì Chúa ở đâu?
Chúa trả lời: - Con yêu quí của Cha, Cha ở ngay trong lòng của
con.
- Trong lòng của con? Lẽ nào Chúa lại ở trong lòng của con trong
những lúc như thế được?
- Vậy con hãy trả lời cho Cha hay: Cơn cám dỗ đó đã làm cho con
vui sướng hay cực khổ?
- Lạy Chúa khi đó con vô cùng đau buồn và khổ cực.
- Con biết ai đã làm cho con đau buồn và cực khổ như vậy nếu
không phải là Cha ở trong lòng con? Con có tin rằng nếu không có Cha ở trong
con thì cơn cám dỗ dã lôi kéo con làm cho con sa ngã phạm tội rồi không? Phần
con, con đã hết sức chống cự, còn Cha, Cha đã giúp con chiến thắng. Chiến đấu sẽ
làm cho con trở nên vững mạnh và giúp con có thêm nhiều công nghiệp”
Lời Chúa Tuần 31 Thường Niên
Thường niên V - GS C - PS Ngoại lịch