LỜI CHÚA TUẦN 28 THƯỜNG NIÊN
CÂU TRUYỆN MINH HỌA
CNTN 28A – ĐƯỢC MỜI DỰ TIỆC CƯỚI
LỄ THÁNH LUCA – DIỄN VĂN TRUYỀN GIÁO
THỨ BA - THANH TẨY HỮU HIỆU, CHÍNH LÀ
TÌNH YÊU
CNTN 28A – ĐƯỢC MỜI DỰ TIỆC CƯỚI
Lời
Chúa: Mt 22, 1-10 (hoặc 1-14)
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy, Chúa Giêsu lại phán cùng các đầu mục tư tế và kỳ lão trong dân những dụ
ngôn này rằng: "Nước trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử.
Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu
đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: "Hãy nói cùng những người đã được
mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự
đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới.” Những người ấy đã không đếm xỉa
gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán; những người khác
thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi. Khi vua nghe biết, liền nổi cơn thịnh
nộ, sai binh lính đi tru diệt bọn sát nhân đó, và thiêu huỷ thành phố của
chúng. Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng: "Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng,
nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp
bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới.” Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất
luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc.
Đoạn
vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một người không mặc y phục
lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: "Này bạn, sao bạn vào đây mà lại
không mặc y phục lễ cưới?" Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các
đầy tớ rằng: "Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải
khóc lóc và nghiến răng! Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn
thì ít.” Đó là lời Chúa.
TRUYỆN KỂ
1. Tiệc cưới hoàng tử
Tiệc
cưới nào cũng được gia đình tổ chức hết sức trang trọng theo khả năng của mình.
Tiệc cưới hoàng tử càng biểu lộ vinh quang trang trọng của cả nước. Ngày
03/04/1985 (?). Hoàng hậu Elizabeth Anh quốc, đã mở tiệc cưới hoàng tử Charles
đẹp duyên cùng công nương Diana. Khách mời là những vua chúa, Hoàng hậu, Tổng
thống, Thủ tướng của hơn hai chục nước trong Liên hiệp Anh. Những hoàng tử của
các nước xa xôi ngoài Liên hiệp cũng được mời dự tiệc cưới, như hoàng tử Nhật.
Ai được mời đều lấy làm hết sức vinh dự. Cho nên, không ai từ chối, mà còn mong
ước chóng được tới dự.
Chúa
Giêsu dùng hình ảnh tiệc cưới hoàng tử để nói về vinh quang, vui mừng và hạnh
phúc vô cùng của nước Trời. Nhưng những khách được mời ưu tiên thì lại từ chối,
không đếm xỉa tới những ân huệ vinh quang Thiên Chúa ban. Họ còn có những thái
độ khinh bỉ ngạo mạn coi tiệc cưới hoàng tử không bằng đi thăm trại súc vật,
không bằng đi buôn bán lặt vặt; kinh khủng hơn nữa, dám bắt các đại diện của
vua đi mời xỉ nhục và giết chết.
2. Chiếc áo cưới
Không
ai biết đích xác được là con người đã bắt đầu biết may mặc từ thời nào, nhưng
chắc chắn là rất xa xưa. Cái mặc đã đi theo cái ăn như là một trong hai cách thế
hiện thân độc đáo của loài người, và ngay từ sớm, nó đã vượt ra ngoài cái ý
nghĩa sở đẳng là một vật dụng để che thân cho kín đáo, cho ấm áp, hầu mang lấy
những ý nghĩa khác có tính cách văn hoá, kinh tế, chính trị và tôn giáo.
Thực
vậy, cái áo có thể cho chúng ta biết được giai cấp, địa vị, nghề nghiệp, và thậm
chí đến cả tư cách và tính tình của một người. Người nông dân nghèo không ăn mặc
như một cậu công tử thành phố. Ông quan không mặc như người lính, thầy tu không
mặc như dân thường. Người con gái nết na kín đáo thì không thích ăn mặc hở hang
khêu gợi. Người khiêm tốn không ăn mặc loè loẹt phô trương. Cái áo do đó có một
vai trò, một ý nghĩa quan trọng trong đời sống con người. Vì thế mà Chúa Giêsu
đã sử dụng nó như một hình ảnh để nói lên cái tư cách của một người công dân Nước
Trời.
Bài
Tin Mừng vừa nghe ghi lại hai dụ ngôn. Dụ ngôn tiệc cưới và dụ ngôn chiếc áo cưới.
Hai dụ ngôn này, nguyên thuỷ có lẽ đã được Chúa Giêsu nói trong hai trường hợp
riêng biệt, nhưng đã được Matthêu chắp lại thành một đề tài chung vì thấy có
liên hệ với nhau.
Dụ
ngôn thứ nhất ám chỉ dân Do Thái là dân hai lần được mời gọi tham dự tiệc cưới,
nhưng họ đã từ chối và không những thế, họ còn sát hại những sứ giả của Thiên
Chúa. Bởi đó cuối cùng, Ngài lại sai các sứ giả đi khắp các ngả đường để mời gọi
tất cả mọi người, không phân biệt tốt xấu. Tuy nhiên lời mời gọi ấy đã được đưa
ra với điều kiện là phải sám hối, phải hoán cải, phải đổi đời.
Ngoài
ra cái áo còn là điều kiện để cho con người nhập cuộc với tha nhân: không ai ở
trần và và mặc quần xà lỏn mà đi ăn đám cưới, trái lại không ai mặc bộ đồ vét
mà lại đi hôi cá dưới ao.
3. Điều được quan tâm
Có
hai ông: một ông là thương gia, một ông là nhà sinh vật học đi dạo với nhau. (tức
là đang đi dạo với nhau). Nhưng mà, bỗng nhiên cái nhà sinh vật học chạy vào
cái bụi cây và bắt được cái con côn trùng. Ông cảm thấy vui, bởi vì, ông bắt được
cái con ông cần bắt, để mà nghiên cứu.
Lại
đi tiếp tục với nhau một quãng đường, thì cái ông thương gia cúi xuống, thì cái
ông nhà nghiên cứu sinh vật học ngạc nhiên nói tại sao bạn mình dừng lại! Thì
ra, nhà thương gia cúi xuống lượm được đồng tiền.
Bởi
vì, chỉ cần một cái bóp nhỏ thôi! Ông nhận ra dưới chân của ông đó là tiền. Bởi
vì sao?
Mỗi
người có một cái mối bận tâm riêng của mình. Nhà nghiên cứu sinh vật học đó Chỉ
cần nghe tiếng, hay chỉ cần nghe cái tiếng con vật mà mình đang nghiên cứu, thì
biết nó đang ở đâu, và đi tới để mà tìm. Còn cái người thương gia, chỉ cần một
cái đạp nhẹ thôi, biết ở dưới chân đó là có tiền.
Rõ
ràng cuộc đời của chúng ta, một khi chúng ta bận tâm một cái điều gì đó! Thì
chúng ta sẽ chăm chú, chúng ta sẽ đi tìm nó và tìm bằng mọi giá, chứ không thể
nào mà không tìm được.
4. Muốn có con mà không muốn lấy chồng
Và
có một người kia, chạy đến nói với con: Cha ơi, cha cầu nguyện cho con! Bởi vì,
kỳ này con sẽ thụ thai. Con sẽ thụ thai trong ống nghiệm, sẽ kiếm một đứa con.
Bởi vì con không muốn lập gia đình, lập gia đình chán lắm! Hôm nay, người ta lập
gia đình xong rồi, chồng con ăn ở lung tung hết, nên con muốn có một đứa con mà
chỉ thụ tinh trong ống nghiệm.
Nghe
xong thì thôi biết cầu nguyện gì bây giờ. Làm sao mà cầu nguyện được khi mà: Luật
Giáo hội cấm không cho phép người phụ nữ có thai, nếu như không có quan hệ vợ
chồng. Bởi vì, đối với Giáo Hội: đứa con chính là hoa quả của tình yêu, đứa con
chính là hoa quả của đời sống hôn nhân, chứ không thể nào đơn phương mà có con
được!
Và
rồi khi người ta không cảm nhận được Tin Mừng, người ta sẽ cảm thấy Tin Mừng nó
đắng đót! Như Lời Chúa, đôi khi con đọc Tin Mừng, con không dám nói gì cả! “khốn
cho các ngươi là những đồ biệt phái và luật sĩ, như mồ mã tô vôi.”
Chúa
nói những luật sĩ và biệt phái đó! nhưng man mác trong mình, cũng có đó: những
luật sĩ và biệt phái. Mình không sống đúng những gì mà Chúa dạy! Nghe những lời
đó mình cảm thấy đắng đót lắm! Và chính đời mình mình có bận tâm vào Nước Trời
mình có bận tâm vào Thiên Chúa hay không?
5. Lời mời gọi
Tại
một xứ đạo ở một thành phố lớn, trong lớp giáo lý cha sở để ý thấy một em nhỏ
xanh xao khoảng 13 tuổi. Ngày kia em đến với cha và cặp mắt đỏ hoe, em nói: Con
không thể xưng tội rước lễ lần đầu. Tại sao? Vì cha mẹ con ngăn cấm. Cha sở bảo:
Con thử về xin phép cha mẹ con một lần nữa xem thế nào? Mấy ngày sau, em lại đến
với một điệu bộ thất vọng: Không được đâu cha ạ, bố mẹ con đã nổi nóng và đã
đánh con. Cha sở an ủi: Con hãy cầu nguyện và Chúa sẽ giúp đỡ con. Ngày trọng đại
đã đến nhưng vẫn không có em nhỏ trong số những em được xưng tội rước lễ lần đầu.
Rồi một tuần sau, vào một buổi sáng, em chạy đến nhà xứ, hổn hển thưa: Xin cha
giải tội cho con, kẻo mẹ con hay biết. Cha sở giải tội cho em rồi nói: Bây giờ
con hãy về kẻo má con biết được. Em do dự một lát rồi nói với một giọng van
xin: Cha có thể cho con rước lễ được chứ? Dĩ nhiên cha sở chấp thuận và ngài đã
phát biểu: Tôi đã tổ chức nhiều cuộc xưng tội rước lễ lần đầu một cách trọng thể
nhưng không lần nào làm tôi cảm động cho bằng lần này.
Chúng
ta cũng vậy, có lẽ chúng ta cảm phục em bé đói khát Mình Máu Thánh Chúa. Trong
khi đó những người khách trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay lại có một thái độ
lãnh đạm. Họ đã được mời nhưng lại không đến. Nhưng đâu là ý nghĩa của dụ ngôn?
6. Đại tiệc
Khoảng
1.900 vị khách sẽ có mặt tại đám cưới của hoàng tử Anh William và cô Kate
Middleton vào tháng 4/2011. Các nhà lãnh đạo Anh và quốc tế, các chính trị gia
cao cấp, các nhân viên từ thiện và những ngôi sao như vợ chồng nhà Beckham nằm
trong số những người sẽ có mặt tại lễ cưới tại Tu viện Westminster ở London hôm
29/4/2011. Tuy nhiên, không phải vị khách nào cũng sẽ có mặt tại bữa tiệc chiêu
đãi sau đó tại cung điện Buckingham. BBC cho biết những cá nhân có quan hệ với
hoàng tử William cũng sẽ được mời, trong đó có những người vô gia cư và các
binh lính bị thương trong cuộc chiến tại Afghanistan và Iraq.
Có
khoảng 40 hoàng thân quốc thích nước ngoài tới tham dự. Đại diện của Khối thịnh
vượng chung cũng sẽ có mặt. Ngoài ra còn có thành phần của các tổ chức từ thiện
của William, khối quân sự và thành viên Nội các. Còn lại khoảng 1.000 người là
bạn bè của hai vợ chồng sắp cưới.
Tất
cả 1.900 người sẽ được tham dự lễ thành hôn tại Tu viện Westminter, 650 trong số
đó sẽ có vinh dự được tham dự tiệc chiêu đãi tại cung điện Buckingham. Ngoài ra
còn có một bữa tiệc khác vào buổi tối với khoảng 300 khách là bằng hữu thân cận
nhất. Vì thế khi giấy mời tới tay, mọi người sẽ phải mở phong bì ra để biết
mình thuộc dạng khách mời nào.
Thiếp
mời bao gồm một tấm thiệp màu trắng có dát chữ vàng đặt trong một phong bì màu
nâu nhạt. Tên viết tắt của Nữ hoàng được in màu vàng nổi bật trên tấm thiệp,
ngay dưới hình vương miện. Góc trái phía dưới tấm thiệp mời cẩn thận ghi rõ quy
định trang phục là “Đồng phục, lễ phục hoặc veston.” (Dress: Uniform, Morning
Coat or Lounge Suit) (Song Minh, VnExpress.net)
7. Viện Cớ
Chúng
ta có rất nhiều cớ để không làm điều mình phải làm, và nhiều cớ để làm điều lẽ
ra không nên làm.
Ngày
xưa có một anh thợ may rất khéo. Bao nhiêu áo đẹp của mọi người trong thành đều
do anh may. Tuy nhiên bản thân anh thì chỉ có mỗi một chiếc áo rách. Lúc nào
anh cũng mặc chiếc áo rách ấy, ngay cả trong những buổi tiệc lớn của thành phố.
Có người thấy thế hỏi anh:
–
Sao anh có thể may bao nhiêu chiếc áo đẹp cho mọi người mà lại không may cho
anh được một chiếc áo lành lặn.
–
Vì tôi phải may áo kiếm tiền, không có giờ may áo cho mình.
– Vậy
anh hãy cầm lấy 20 đồng tiền này và may cho anh một chiếc áo, kể như tôi mướn
anh may cho tôi vậy.
Anh
thợ may cầm tiền về nhà. Ðến buổi tiệc tiếp theo, anh lại đến với chiếc áo rách
cũ. Người bạn hỏi:
–
Sao anh không may áo cho anh?
–
Chiếc áo cho chính bản thân tôi mà giá chỉ có 20 đồng thì quá rẻ, nên tôi không
may!
Người
bạn chẳng nói gì nữa, bởi vì có nói gì nữa thì anh thợ may cũng sẽ tìm được một
cớ khác thôi.
8. Mặc áo trắng
Là
người được Thiên Chúa mời gọi gia nhập vương quốc Thiên Chúa, chúng ta phải xem
lại cách ăn thói ở của chúng ta sao cho thích đáng.
Xưa
kia, Augustinô ban đầu theo đuổi phù du ảo ảnh của thế gian, nhưng đến năm 33
tuổi, lần đầu tiên con người lầm lạc nầy tiếp cận với kinh thánh và đoạn văn đầu
tiên đập vào mắt Anh là lời dạy của thánh Phaolô trong thư Rô-ma như sau: “Như
giữa ban ngày, anh em hãy sống đoan trang tiết độ, không ăn uống say sưa, không
chơi bời dâm đảng, không kình địch ghen tương; nhưng hãy mặc lấy Đức Giêsu Kitô
và đừng lo tìm thoả mãn những đam mê xác thịt.” (Rm 13, 13-14).
Nhờ
ơn Thánh Linh tác động, Augustinô bừng tỉnh trước Lời Chúa. Anh cảm thấy những
câu Lời Chúa nầy như nói riêng với chính mình. Thế là từ đây, Augustinô từ bỏ
quãng đời tội lỗi, từ bỏ những đam mê xác thịt, rũ bỏ bộ áo bẩn thỉu hôi hám để
mặc áo mới, mặc lấy Đức Giêsu Kitô. Anh được lãnh bí tích rửa tội vào năm 33 tuổi,
hiến mình cho Chúa và ba năm sau, trở thành một linh mục thánh thiện, về sau được
cất nhắc lên chức giám mục và trở thành vị thánh chói ngời đồng thời cũng là thầy
dạy trong Giáo Hội với tước hiệu tiến sĩ Hội Thánh.
Trong
ngày lãnh bí tích rửa tội, ngày chúng ta chính thức gia nhập Hội Thánh, linh mục
chủ sự thay mặt Hội Thánh trao cho chúng ta tấm áo trắng với lời kêu gọi: “Con
đã trở nên tạo vật mới và đã mặc lấy Chúa Kitô. Vậy con hãy nhận chiếc áo trắng
nầy, hãy mang lấy và giữ nó tinh tuyền cho đến khi ra trước toà Đức Giêsu Kitô,
Chúa chúng ta, để con được sống muôn đời.”
9. Bay lên
Chuyện
kể rằng: có một con gà rừng đang ấp trứng, nhưng lẫn trong ổ của nó một trứng đại
bang. Đúng ngày giờ, trứng nở thành con. Đại bàng con nô đùa vui vẻ bên đàn gà
rừng như anh chị em ruột.
Một
ngày kia, đang bươi móc kiếm ăn cùng đàn gà rừng, đại bang con bỗng thấy một
con chim đại bang lớn bay lượn trên không thật oai phong và đẹp mắt. Cậu liền hỏi
mẹ gà:
– Mẹ
ơi! Sao mình không bay như chim kia trên trời?
–
Chúng ta đâu phải đại bàng mà bay được!
–
Thế chúng ta là ai?
–
Chúng ta là gà rừng!
Bỗng
một ngày, đang khi bươi chải kiếm ăn trên đống rác cậu lại thấy đại bang mẹ bay
lượn trên đầu gọi:
–
Bay lên con ơi, bay lên đại bang con của mẹ. Thế giới của con là trời cao đất rộng,
chứ không phải là đống rác này! Bay lên đi con.
Cậu
cố bay lên, nhưng lại rơi xuống. Trong khi các chú gà rừng cười cợt chế nhạo:
–
Chúng ta là gà rừng, làm sao mà bay được.
Cậu
suy nghĩ, nếu ta là gà rừng sao đại bang kia cứ bảo ta là đại bang con. Và khi
bay lên ta thấy cũng đâu có gì khó khăn, có lẽ chưa quen thôi. Nào hãy thứ lần
nữa xem.
Thế
là cậu đại bang đủ lông đủ cánh bay lên, và bay lên mãi. Cậu bay theo mẹ về một
chân trời mới. Lần đầu tiên trong đời, cậu được nhìn thế giới từ trên cao, lòng
cậu mênh mang, hạnh phúc ngập tràn.
10. Chối từ
Trong
tập sách “Những mảnh vụn suy tư”, linh mục Albert Limet có ghi lại:
“Một
buổi sáng, tôi bước ra khỏi nhà, lòng tràn ngập hớn hở. Bỗng tôi thấy một người
lạ mặt đi về phía tôi, tôi vui vẻ chào chúc ông mọi điều may mắn tốt lành;
nhưng thay vì vui vẻ đáp lại ông ta tỏ vẻ giận dữ, nói liên tục:
–
Tôi không biết ông. Tôi không cần biết ông là ai. Tôi không cần lời chào chúc của
ông. Tôi không tin có Thiên Chúa. Tôi không cần Ngài, và tôi nhất định không
bao giờ cần Ngài…”
Phản
ảnh dữ dội của người khách lạ khiến linh mục phải suy nghĩ trong nhiều ngày.
Cha ghi tiếp trong tập sách: “Tôi cảm thấy thương người khách lạ đó hơn là giận
ghét. Có lẽ ông đang khổ tâm vì công việc làm ăn của ông thất bại. Có thể ông
đang bận quá nhiều công ăn việc làm, không thể nhận lời chào chúc tốt lành của
tôi, cũng không thể nhận thấy tinh yêu của Thiên Chúa!…”
Câu
chuyện trên đây minh họa thái độ từ khước của những thực khách được vua mời dự
tiệc cưới trong Tin Mừng hôm nay. Người khách lạ không nhận lời chào chúc của
linh mục Albert Limet vì công việc làm ăn, các thực khách được mời dự tiệc cưới
cũng vì đi thăm trại, đi buôn bán mà khước từ dự tiệc.
Đối
với Chúa cũng thế. Nhiều lần chúng ta từ chối ơn Chúa, lắm khi chúng ta khinh
thường Lời Chúa mời gọi vào dự tiệc hạnh phúc Nước Trời của Chúa, vì coi của cải
vật chất, danh vọng chức quyền ở đời, lạc thú xác thịt quý hơn Nước Trời, trọng
hơn hạnh phúc vĩnh cửu. Như thế chẳng phải chúng ta đánh giá các giá trị sai lầm
sao?
11. Đi tìm kho báu
Một
người đi tìm kho tàng quý giá. Sau những ngày đi tìm mệt mỏi, ông thấy mình lạc
lối. Nhưng may thay, đang lúc lo buồn vì biết mình lạc đường, ông ngước mắt
nhìn về trước thì thấy một lâu đài tráng lệ. Trước cổng lâu đài có tấm bảng với
hàng chữ lớn: Xin mời vào.
Ông
sung sướng tiến đến lâu đài. Đứng trước cổng, ông ngạc nhiên thấy nhiều người lữ
hành đi ngang qua cũng có vẻ lạc đường và mệt mỏi mà vẫn lê bước đi như không
thấy có lâu đài trước mặt. Ông liền đến hỏi người gác cổng lâu đài:
–
Sao những khách lữ hành đó không dừng lại để vào lâu đài an nghỉ?
Người
gác cổng trả lời:
–
Đây là lâu đài hạnh phúc, nhưng là một lâu đài bí nhiệm. Chỉ những ai biết mình
lạc lối mới có thể trong thấy. Trái lại, những kẻ tưởng mình đi đúng đường và cứ
cắm đầu đi theo đường đó, thì bị mờ mắt không trông thấy lâu đài hạnh phúc.
Câu
chuyện ngụ ngôn trên đây nhắc chúng ta nhớ lâu đài hạnh phúc Nước Trời. Chỉ những
ai biết mình lầm đường lạc lối mới nhìn thấy mà tin vào. Còn những kẻ tưởng
mình đi đúng đường, và cứ cắm đầu đi theo đường đó thì bị mờ mắt không trông thấy
mà vào.
Những
người từ chối lời mời gọi dự tiệc cưới của nhà vua trong Tin Mừng hôm nay là những
kẻ tưởng mình “đi thăm trại, đi buôn bán” là đúng nên khinh thường bữa tiệc vui
mừng, coi rẻ thịnh tình của nhà vua.
Đối
với tiệc Nước Trời cũng thế. Chỉ khi nào chúng ta nhận thức bữa tiệc đó là hạnh
phúc nhất, chúng ta mới hy sinh những hạnh phúc khác để đến tham dự.
12. Hạnh phúc thật
Sau
đây là kinh nghiệm của một người tìm gặp hạnh phúc thật.
“Tôi
là người làm chính trị và cũng là ca sĩ nổi tiếng. Tới đâu, tôi cũng được mọi
người hoan nghênh khen ngợi, và họ cảm nghĩ tôi là người hạnh phúc nhất đời. Thế
nhưng trong thâm tâm, tôi cảm thấy tôi là kẻ bất hạnh nhất, đến nỗi có lần tôi
đã toan tự tử…
Một
hôm trên chiếc xe lửa trở về nhà, tôi ngồi đối diện với một người chăm chú đọc
sách Kinh Thánh. Một lúc sau, ông ngước mắt nhìn tôi và gợi chuyện:
–
Ông là một ca sĩ nổi tiếng. Tôi nghe biết danh tiếng ông.
Tôi
đáp:
–
Phải đúng vậy.
–
Nhưng ông có hạnh phúc không?
Tôi
ngập ngừng một lúc rồi thú thật:
–
Không hẳn hạnh phúc lắm.
–
Xem ra ông thiếu Thiên Chúa trong cuộc sống nên không được hạnh phúc.
Tôi
vội vàng đáp:
–
Không. Tôi rất hài lòng về cuộc sống của tôi. Tôi có đầy đủ tất cả. Tôi không cần
Thiên Chúa.
Nhưng
người ấy cứ lặp lại:
–
Ông nói thế, chứ thực sự ông cần Thiên Chúa hơn bao giờ hết,
Lời
nói của người ấy như sét đánh bên tai tôi. Nó xâm chiếm cõi lòng tôi. Về đến
nhà, tôi phải tự nhủ: “Quả thật, người đó nói rất chí lý.”
Hôm
sau thấy tôi cần tìm đến người đó, vừa thấy tôi, ông ta vui vẻ hỏi thêm, như để
tiếp nối cuộc đối thoại trên xe lửa.
–
Ông có muốn được hạnh phúc ngay bây giờ không?
Tôi
ngạc nhiên hỏi:
–
Làm như ông có sẵn hạnh phúc trong túi vậy?
–
Có chứ. Tôi có ngay trong túi đây.
Vừa
nói ông vừa rút trong túi ra một cuốn Kinh Thánh nhỏ, trao cho tôi và vui vẻ
nói:
–
Ông hãy về nhà, đóng cửa phòng lại, mở Kinh Thánh ra mà thầm thỉ: “Lạy Chúa,
con chấp nhận Chúa là Chúa của con, là chủ cuộc đời con…”
Tối
hôm đó, sau khi vợ con tôi đã đi ngủ, tôi vào phòng và làm như người đó khuyên
bảo tôi. Từ ngay đó, niềm vui xâm chiếm tâm hồn tôi. Thiên Chúa thực sự là hạnh
phúc duy nhất đời tôi.
13. Lý do bỏ lễ
Năm
2005, Hội Đồng Giám Mục Anh đã cho phát hành bản báo cáo dài 90 trang do Đức
Giám Mục John Hine soạn thảo trên cơ sở một cuộc điều tra kéo dài hơn một năm.
Với hơn 15,000 gia đình Công Giáo về một vấn đề duy nhất là tại sao người ta
không đi nhà thờ ngày Chúa Nhật.
Qua
điều tra người ta nhận định rằng: 1/ chủ nghĩa vật chất, 2/ tình trạng tài
chính khó khăn, và 3/ lề lối làm việc hiện đại là ba yếu tố chính đẩy đưa người
ta đến chỗ bỏ lễ ngày Chúa Nhật.
Ở
thời đại hôm nay người ta bỏ lễ ngày Chúa nhật rất dễ dàng. Người ta viện vào
nhiều lý do để hợp thức hóa cho việc bỏ lễ. Họ cho rằng cuộc sống luôn phải làm
việc vất vả để kiếm ăn. Họ còn phải chạy đua theo những tiện nghi vật chất. Cuộc
sống quá vất vả, căng thăng vì cơm áo gạo tiền khiến người ta quá mệt sau một
tuần vật lộn với cuộc sống. Tâm trí không thảnh thơi. Thân xác thì mệt mỏi khiến
họ chỉ muốn tìm giây phút thư giãn qua việc giải trí, mua sắm…
Tệ
hơn nữa là nhiều người vẫn coi nhẹ việc tham dự thánh lễ. Thánh lễ không phải
là việc tối quan trọng. Thánh lễ chỉ là tùy phụ rảnh thì đi, bận thì thôi. Hay
tệ hơn nữa, là lạm dụng lòng thương xót Chúa, bỏ lễ rồi xưng tội là xong!
Ở
miền quê chúng tôi chỉ cần một cơn mưa nho nhỏ cũng khiến người tham dự thánh lễ
vơi đi. Xem ra chỉ cần một khó khăn nho nhỏ cũng là lý do để họ bỏ lễ.
14. Tiệc cưới với bốn nghịch thường
Cách
đây 9 năm, 29-4-2011, Hoàng tử William của hoàng gia Anh và công nương Kate
Middleton đã trao đổi lời thệ ước hôn nhân tại Đại Thánh đường cổ kính
Wesminter. Đây là lễ cưới cung đình.
Hai
ngàn năm trước, Chúa Giêsu cũng đã ví Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới
cho hoàng tử. Chuyện từ 20 thế kỷ trước, ta tưởng như chuyện đời xưa mà lại
không cũ chút nào, vì mới diễn ra gần đây.
Mùa
xuân 1947 cả thế giới chú ý đến hàng tít lớn trên trang nhất của báo chí cho biết
công chúa Elizabeth của nước Anh sẽ sánh duyên cùng hoàng tử Philip gốc Hi lạp.
Cuộc tình duyên này quan trọng vì công chúa Elisabeth sẽ lên ngôi kế vị vua cha
trị vì không những vương quốc Anh, Bắc Ai-len và còn đứng đầu khối Thịnh Vượng
Chung gồm trên 50 nước lớn nhỏ (Ấn, Canada, Úc…). Lễ được tổ chức tại Thánh đường
Wesminter cổ kính ngày 20/11/47. Người ta không những nhìn xem hai nhân vật
chính là cô dâu chú rể nhưng còn chăm chú điểm danh những nhân vật quan trọng từ
quốc trưởng, tổng thống, vua chúa… đến các nhà quí tộc, tài phiệt. Không ai được
mời mà muốn vắng mặt trong lễ cưới, trong tiệc mừng long trọng như vậy. Đó là
chuyện bình thường dễ hiểu.
Nhưng
dụ ngôn của Chúa hôm nay ví Nước Trời như một chuyện bình thường: vua mở tiệc
cho hoàng tử, nhưng lại mang đầy những chi tiết không bình thường chút nào, nếu
không nói là nghịch thường quá khác lạ. Ta nhận ra được ít là bốn khác lạ nghịch
thường so với một đám cưới tương tự trong đời thường: dửng dưng – đổ máu – mở rộng
– thanh trừng.
Bốn
chuỵện lạ trong dụ ngôn: dửng dưng của khách được mời; đổ máu quá nhiều trong
ngày cưới, mở rộng quá đáng cánh cửa cho mọi người vào, rồi lại thanh trừng khắt
khe kẻ chưa kịp mặc áo cưới. Tất cả các chuỵện lạ đó chỉ có thể hiểu được dưới
ánh sáng của lịch sử –lịch sử dân Israel và lịch sử cứu độ-, chứ không thể hiểu
được trong khung cảnh tiệc cưới.
Những
kẻ dửng dưng, đó là dân Israel chính tông chẳng đoái hoài gì đến con vua là
Giêsu Kitô: vị tân lang chàng rể.
Đổ
máu là họ, dân Israel đã giết các tiên tri, đổ máu những người được Chúa sai đến
báo tin vui cho họ.
Mở
rộng là ơn cứu độ của Chúa dành cho mọi hạng người bất kỳ đen trắng vàng đỏ, nô
lệ, tự do, nam hay nữ, kể cả trung tính…
Thanh
trừng là, một khi được mời tới phải biết mặc lấy Chúa Kitô là áo cưới, mặc lấy
con người mới, không thể khác.
15. Hỏa ngục mà tưởng là thiên đường
Vài
tuần lễ trước khi chết, một phóng viên đã phỏng vấn Elvis Presley – nổi tiếng
là vua của nhạc Rock:
–
Elvis, khi anh bắt đầu chơi nhạc, anh đã nói anh muốn có được ba điều trong cuộc
đời. Anh muốn giàu sang. Anh muốn nổi tiếng. Và anh muốn sống hạnh phúc. Giàu
sang và nổi danh chắc chắn là anh đã có. Thế còn hạnh phúc, không biết anh thực
sự có hay không, Elvis?” Chàng ca sĩ trả lời
–
“Không, tôi sống cô đơn như ở trong hỏa ngục.”
Presley
kết hôn với Priscilla Beaulieu 1967. Năm sau có con gái. 1973 ly dị. Năm1977
Presley chết 42 tuổi. Không biết khi chết gia tài bao nhiêu, nhưng giỗ thứ 25,
(2002) báo Forbes xếp anh vào loại nghệ sĩ có để lại lợi tức cao nhất: 37 triệu
đô 1 năm.
Giàu
sang. Danh vọng. Những người hâm mộ vây quanh gồm đủ mọi hạng người, các giai
nhân tài tử tuyệt trần, vậy mà Elvis diễn tả cuộc sống của anh như hỏa ngục! Thật
lạ lùng! Như thế, cuộc sống của vua Hêrôđê với tiệc tùng sang trọng nào có khác
chi!
16. Ngọn nến tỏa sáng
Vào
một đêm đông, người đàn ông rút cây nến nhỏ từ trong ngăn kéo ra, thắp nó lên,
và bắt đầu bước lên chiếc cầu thang dài hình trôn ốc. Cây nến hỏi người đàn
ông: “Ông đi đâu vậy?” Ông trả lời: “Đi lên chỗ cao hơn nóc nhà nơi chúng ta .”
“Và
ông sẽ làm gì ở đó?” cây nến hỏi.
–
“Tôi sẽ chỉ cho những con tàu ở biển khơi biết đâu là hải cảng”, vì chúng ta
đang ở ngay lối vào hải cảng, và một số con tàu ngoài biển khơi đang gặp bão
táp, có thể tìm thấy ánh sáng của chúng ta.”
“Không
có con tàu nào nhìn thấy ánh sáng của tôi cả”, ngọn nến nói “tôi quá nhỏ bé
mà.”
“Mặc
dù ánh sáng của ngươi nhỏ bé”, người đàn ông đáp, “cứ hãy thắp sáng nó lên, đừng
e ngại, hãy để phần còn lại cho ta tính.” Rồi người đàn ông trèo lên những nấc
thang cho tới đỉnh của ngôi nhà hải đăng, cầm cây nến nhỏ bé, châm lửa vào những
cái đèn vĩ đại đã đứng sẵn ở đó với những tấm gương phản chiếu bóng láng ở phía
sau. Một cây nến nhỏ cũng có thể làm nên một vùng sáng lớn.
17. Bài học làm người của Socrates
Năm
399 BC. Meletus và Anytus đã tố cáo Socrates là “vô đạo và làm hư hỏng thanh
niên.” Socrates bị 11 vị Thẩm phán của chính quyền Hy Lạp kết án tử hình về tội
dụ dỗ thanh niên theo tà thuyết và phản loạn. Trong các hình phạt dành cho tử tội,
ông chọn chén thuốc độc. Apollodore luôn đầm đìa nước mắt, có lúc gào lên, làm
cho Platon không thể cưỡng lời thầy, khóc theo. Còn Criton thì như đứt từng
khúc ruột, nhưng sợ thầy, ông lén ra ngoài khóc cho bớt đau khổ. Tuy vậy, khi
thấy các học trò khóc, Socrates phải quát lên: “Các con làm gì kỳ vậy? Sở dĩ thầy
đuổi hết các bà các cô ra ngoài, là để tránh sự mất bình tĩnh như vậy. Các con
phải cương nghị. Chúng ta phải chấm dứt cuộc đời một cách êm ái, thảnh thơi chứ!
Buổi
chiều hôm ấy, mặt trời xuống dần, Socrates bước ra từ phòng tắm, ông gặp ba người
con một lúc rồi bảo họ ra ngoài chỗ mấy người đàn bà đang sụt sùi. Chỉ mấy người
môn đệ của ông là được ở lại. Người cai ngục bước ra bảo ông hãy tự uống chén
thuốc độc, đã có người mang tới, sẵn sàng ở phòng bên. Người này tỏ ra mến phục
nhân cách của ông, thậm chí anh ta cũng khóc sướt mướt lúc vĩnh biệt ông.
Socrates ra dấu cho Criton môn sinh của mình, bảo người mang thuốc độc vào cho
ông uống. Criton nói: “Thưa thầy, mặt trời chưa lặn. Đừng vội lìa bỏ chúng con.
Thiếu gì người nấn ná, ăn uống, chuyện vãn với gia đình, họ hàng rất lâu”,
Nhưng Socrates mắng ông: “Họ làm như vậy có được thêm lợi lộc gì đâu. Thầy
không muốn bám chặt thêm cuộc sống, khi chẳng thể giữ nó mãi được! Con hãy nghe
lời thầy”…
Cầm
chén thuốc trong tay, ông căn dặn lại các môn đồ: “Hãy bình tĩnh, đừng thay đổi
sắc diện” rồi từ từ đưa chén độc dược lên miệng uống một hơi êm ái hiền hoà.
Lúc ấy, Plato và các môn đệ khác nhìn ông uống từng hớp tử thần mà chết đứng,
tê cóng người. Nước mắt tuông trào như hai giòng suối mà không dám để tiếng nức
nở thoát ra. Trong Phaedo Plato thốt lên: “Từ đây thế là hết!”, ông không khóc
cho thầy, vì một người như thầy mình, không cần ai khóc khi qua đời. Tôi khóc
cho chính tôi, vì từ đây, tôi đã mất đi một người thầy, một người anh, một người
bạn, mà không sao có thể kiếm được người thứ hai trên cõi đời này.
Đó
là một cái chết can đảm. Socrates đã bước vào thế giới vĩnh hằng với sự “chấm dứt
cuộc đời một cách êm ái và thảnh thơi.” Đó là bài học cuối cùng ông dạy cho các
môn sinh.
18. Từ bàn tiệc thánh đến tiệc cưới Nước Trời.
Một
bé gái bệnh nặng, một hôm biết mình khó qua khỏi, em gọi cha mình lại để nói
chuyện. Người cha này rất nguội lạnh, lại hay chè chén ăn chơi, không bao giờ đến
nhà thờ. Em hỏi: – “Cha có thương con không?” Người cha cảm động nói: – “Sao
con lại hỏi thế, cha rất yêu con!” – “Con sắp xa cha rồi, con sắp về với Chúa rồi!”
– “Không! Con sẽ mạnh, cha thương con lắm!” Người cha ôm con khóc nức nở. –
“Con sẽ gặp Chúa, con yêu Chúa, nhưng con cũng yêu cha, con không muốn xa cha,
cha có muốn gặp lại con không?” – Người cha nghẹn ngào đáp: – “Có, con yêu!” –
“Vậy cha hứa với con là cha sẽ đi nhà thờ nhé! Con muốn được gặp lại cha trên
Thiên Đàng.” Người cha trả lời trong nước mắt: – “Cha hứa!” – “Con vui lắm rồi,
con sẽ gặp lại cha nhé!” Bé gái nhìn cha mỉm cười, sau đó vài phút, nó ra đi.
Người
cha từ đó trở thành một con chiên ngoan đạo, rồi ông giúp nhiều việc ở nhà thờ.
Để
đến Bàn Tiệc Thánh, đến với bí tích Thánh Thể, người Công Giáo có sự chuẩn bị
trước đó: “mặc chiếc áo tâm hồn trắng tinh” để đón nhận Mình Thánh Chúa.
Và
từ Bàn Tiệc Thánh trong Giáo Hội Lữ Hành này, người Công Giáo đã sẵn sàng cho
mình “y phục lễ cưới” để vào dự Tiệc Cưới Nước Trời.
“Họ
đã giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên”, trong bí tích Rửa Tội, và họ
không ngừng chiến đấu trong cuộc đời để giữ mãi màu áo trinh nguyên ấy trong ăn
năn sám hối, trong bí tích Hòa Giải, trong ơn sủng của những bí tích thánh hóa,
trong việc thực thi Giới Luật Yêu Thương.
19. Đám cưới vĩ đại
Một
trong những đám cưới được xem là vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại đó là đám
cưới của Alexandre Đại đế với công chúa Roxane của Ba Tư vào thế kỷ thứ tư trước
công nguyên.
Khi
quyết định cưới một người Á Châu, dĩ nhiên, Alexandre theo tiếng gọi của con
tim. Nhưng qua cuộc hôn nhân này, ông muốn biểu tỏ ý muốn thống nhất tất cả
lãnh thổ đã được chinh phục từ Đông sang Tây. Ông cũng hy vọng có được một người
con nối dõi với hai dòng máu Đông Tây để thống nhất hai phần đất của địa cầu.
Đám
cưới được cử hành trong vòng bảy ngày, bảy đêm. Nơi nơi đều có yến tiệc. Và để
tăng thêm phần long trọng, Alexandre đã cho tổ chức những cuộc tranh tài thể
thao: Thế vận hội đã được khai sinh từ đó. Chính Đại đế là người đích thân trao
giải thưởng cho những người thắng cuộc. Thông thường Hoàng đế trao tặng những
chiếc cúp bằng vàng. Nhưng người được coi là đoạt nhiều giải nhất trong cuộc
thi thế vận hội đầu tiên ấy chỉ nhận được một cành lá chiến thắng. Alexandre Đại
đế giải thích như sau: Chỉ có vinh quang mới có thể tưởng thưởng được người xuất
sắc nhất.
Có
một hôn lễ còn vĩ đại gấp bội so với hôn lễ của Alexandre Đại đế với Công chúa
Roxane: đó là hôn lễ của Trời và Đất, của Thiên Chúa với nhân loại. Đây là hôn
nhân mà loài người đã chờ đợi từ khi có mặt trên trái đất. Hôn lễ ấy đã diễn ra
qua biến cố Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Tất cả nhân loại đều được mời đến
dự tiệc cưới vĩ đại này. Trong Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã sánh ví tiệc
cưới nầy với tiệc cưới của một nhà Vua tổ chức cho Hoàng Tử. Chỉ có một điều
khác biệt là những khách được mời -những khách quý đầu tiên- đã tỏ ra hết sức
khinh thường và hung dữ đối với các sứ giả của Nhà Vua. Họ không những đã chối
lời mời mà còn nhục mạ và sát hại những người được Nhà Vua phái tới.
20. Sáng kiến tự sát
Ngày
xưa, một vị vua kia có bốn người con trai được yêu cầu phải tự chọn lựa nghề
nghiệp cho tương lai của mình. Bốn người con mới bàn tính với nhau: “Nào chúng
mình hãy đi khắp nơi trong thiên hạ và tìm kiếm lấy một nền khoa học đặc biệt.”
Họ đồng ý sẽ gặp lại nhau ở một chỗ nào đó, và bốn anh em bắt đầu ra đi theo bốn
hướng khác nhau. Thời gian qua đi, bốn anh em gặp lại nhau ở chỗ đã hẹn để tổng
kết điều họ học hỏi được. “Tôi đã làm chủ một nền khoa học.” Người anh cả nói,
“khoa học này cho phép tôi có thể làm ra một tạo vật có đầy đủ bắp thịt với điều
kiện tôi phải có một miếng xương.” “Tôi”, người thứ hai nói, “học được cách làm
ra da và lông nếu đã có các bắp thịt trên xương của nó.” Người thứ ba nói, “Tôi
có thể tạo ra chân tay nếu tôi đã có thịt, da và tóc.” Và tôi”, người thứ tư kết
luận, “biết cách ban cho tạo vật đó sự sống, nếu nó đã có đầy đủ hình thù tay
chân.”
Sau
khi bàn tính với nhau, bốn anh em đi vào rừng sâu tìm một miếng xương để có thể
chứng tỏ những tài năng chuyên môn của họ. Như số phận đã định, miếng xương họ
tìm thấy là miếng xương của một con sư tử, nhưng họ đã không biết. Một người đắp
thịt vào xương, người thứ hai thêm da, lông và tóc, người thứ ba hoàn chỉnh với
tay chân, và người thứ tư ban cho con sư tử sự sống. Đang khi lúc lắc bộ lông rậm
rạp trên gáy, con sư tử hung dữ gầm lên một tiếng, nó chồm lên ngoác to miệng
đe doạ với những chiếc răng nanh và móng vuốt nhọn hoắt. Nó nhẩy về phía những
nhà sáng tạo, giết chết tất cả, rồi biến mất vào trong rừng.
Bất
cứ khi nào chúng ta cố ý sống tách rời ra khỏi Thiên Chúa, chúng ta cũng có thể
trở nên nạn nhân của chính những công trình do mình làm ra. Tách biệt ra khỏi
Thiên Chúa, sự tự do và những khả năng trí tuệ cho phép con người tạo nên vũ
khí hạch nhân, sử dụng quyền hành và của cải trần gian để áp đặt sự thống trị
trên những người khác… cũng tiềm ẩn một khả năng tự huỷ diệt con người.
21. Niềm vui Nước Trời
Có
một huyền thoại kể về một người câu cá tên là Aaron. Aaron sống ở bên bờ sông.
Vào một buổi chiều, đang khi đi bộ về nhà, mắt nhắm mắt mở sau một ngày làm việc
vất vả, anh mơ tưởng mình sẽ phải làm gì nếu giàu có. Đang khi bước đi, chân
anh đá phải một cái túi da, trong lúc lơ mơ, anh nghĩ dường như đó là những hòn
sỏi nhỏ. Đãng trí, anh nhặt cái túi lên và bắt đầu ném từng viên sỏi xuống mặt
nước sông. “Khi ta giầu có”, anh nói, “Ta sẽ mua một cái nhà thật lớn.” Anh lại
ném hòn sỏi khác xuống nước. Ném hết hòn này tới hòn khác rồi anh nghĩ, “Vợ ta
và ta sẽ có những người đầy tớ phục vụ, đồ ăn dư giả với tất cả mọi sự sang trọng.”
Và cứ như vậy xảy ra cho đến khi chỉ còn lại một hòn sỏi trong tay. Khi Aaron cầm
nó trong tay và nhìn xuống, một luồng ánh sáng phát ra lấp lánh. Anh nhận ra rằng
đây là một hòn ngọc quý giá. Anh ném xuống nước bao nhiêu viên ngọc quý đã có
trong bàn tay, trong khi đó lại mơ tưởng những của cải không có thực ở tương
lai.
Niềm
vui đó được trao ban ngay từ đời này và cả đời sau nữa. Kitô giáo không phải là
thuốc phiện ru ngủ con người trong đau khổ, quên đi hạnh phúc của cuộc sống ở đời
này để chỉ mơ tưởng nước thiên đàng ở đời sau.
Niềm
vui trong tâm hồn giúp cho con người sống hy vọng và tin tưởng, giữa những khó
khăn và khổ đau ở đời này. Bài đọc thứ hai, trích thư thánh Phaolô gửi tín hữu
Philipphê: “Trong mọi trường hợp, và hết mọi cách, tôi đã học biết no, biết
đói, biết dư thừa và thiếu thốn.” Ngài viết những lời khuyên nhủ này đang khi ở
trong nhà tù. Ngài nói: “Trong mọi sự hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa.”
“Trong mọi hoàn cảnh hãy tạ ơn Thiên Chúa.”
22. San sẻ niềm vui
Có
lần vào tiệm ăn sáng, tôi nhìn thấy hai trường hợp trái ngược nhau:
Một
đứa trẻ được mẹ dắt vào quán ăn, ngồi vào bàn, được một phần ăn riêng biệt.
Nhưng nó tỏ vẻ khó chịu, không biết vì lý do gì mà nó không vui, nó không nhìn
đến phần thức ăn của mình. Người mẹ thì nhìn con với vẻ ái ngại, bà năn nỉ con,
nhưng vô hiệu. Cuối cùng hai người đứng lên với phần ăn còn nguyên.
Một
đứa trẻ khác, trên tay có một cái lon, chạy ngay lại phần ăn còn nguyên trên
bàn mà người chủ đã không cần dùng đến, nó cho tất cả vào trong chiếc lon và
mang ra bên ngoài, cùng với một đứa trẻ khác nhỏ hơn, tận hưởng niềm vui của một
người không cần đến.
23. Hạnh phúc cho tâm hồn vị tha
Có
một nhà hiền triết xuất hiện giữa phố chợ và nói sẽ giải đáp được mọi thắc mắc
của bất cứ ai. Có một anh chăn chiên muốn hạ nhục nhà hiền triết giữa đám đông,
anh cầm trong tay một con chim sẻ và đặt câu hỏi: “Thưa ngài, trong tay tôi có
một con chim. Ngài là người thông thái giải đáp mọi vấn nạn, vậy xin hỏi ngài,
con chim trong tay tôi còn sống hay chết.” Biết đây là cái bẫy, vì nếu nói chim
sống thì tức khắc anh chăn chiên bóp nó chết trước khi mở bàn tay. Nếu nói chim
chết thì anh ta mở bàn tay cho chim bay đi. Trước sự chờ đợi của đám đông, nhà
hiền triết từ tốn trả lời như sau: Con chim trong tay ngươi sống hay chết là
tùy ở ngươi. Nếu ngươi cho nó sống thì sống, nếu ngươi muốn nó chết thì nó chết.
Ai
trong chúng ta cũng khao khát hạnh phúc, đó là niềm khao khát thâm sâu nhất của
con người, nhưng chúng ta được hạnh phúc hay không là tùy ở chúng ta, giống như
con chim sống hay chết là tùy ở anh chăn chiên Hạnh phúc đích thực của mỗi người
chúng ta là Thiên Chúa, là Nước Trời. Phúc Âm viết Thiên Chúa mời gọi con người
tới dự tiệc cưới. Tiệc cưới đó là hình ảnh Nước Trời, là nơi đem lại hạnh phúc
viên mãn và vĩnh cửu. Thế nhưng người ta không đáp lại, viện cớ đi thăm trại,
viện cớ đi buôn bán. Đi thăm trại, đi buôn bán tự nó không phải là việc xấu,
nhưng họ đã làm một việc khờ dại là chỉ chú ý đời này mà quên đi đời sau. Đi
thăm trại, đi buôn bán tựu kỳ trung là lo làm giàu. Họ nghĩ lầm: giàu sang đem
lại hạnh phúc. Nhưng cái nghịch lý lớn nhất của cuộc đời là khi con người tìm
cách lấy đầy tâm hồn mình bằng những của cải chóng qua thì đó là lúc con người
cảm thấy trống vắng nhất trong tâm hồn.
24. Quà cưới Nước Trời
Mẹ
Têrêsa thuật lại một câu chuyện như sau: Này kia có một cặp vợ chồng trẻ, đến
tu viện tặng cho chúng tôi một khoản tiền lớn, bảo là để đóng góp vào việc chi
phí mua thức ăn cho người nghèo.
Thấy
họ còn quá trẻ mà lại tặng cho chúng tôi một số tiền quá lớn, tôi tò mò hỏi:
Hai con có thể cho mẹ biết tiền này ở đâu mà hai con có nhiều thế?
Họ
trả lời: Chúng con vừa cưới nhau hai ngày. Trước khi cưới chúng con quyết định
không may sắm đồ cưới, không đãi tiệc linh đình mà để khoản tiền này dành cho
những người không được may mắn như chúng con. Mẹ tiếp lời: Việc cưới hỏi mà
không thiết tiệc, không may đồ cưới tại Ấn Độ là một hổ thẹn và tủi nhục cho
cha mẹ hai họ. Mẹ hỏi các con: Tại sao các con quyết định một cách táo bạo như
thế, không làm phật lòng cho cha mẹ?
Hai
bạn trẻ trả lời: Chúng con yêu nhau, chúng con muốn cuộc khởi đầu sống chung bằng
một hy sinh không mặc áo cưới, không thiết tiệc bạn bè bằng món tiền chúng con
đã dày công đóng góp cho nhau.
25. Người mang mặt nạ vàng
“Người
mang mặt nạ vàng” là tên một cuốn phim nổi tiếng của Pháp vào cuối thế kỷ 20, dựa
theo một câu chuyện có thật ở Mexico:
Tại
Mêhicô, người ta thường tổ chức những cuộc đấu võ đài ác liệt. Võ đài tự do nên
các võ sĩ có thể ra đòn theo mọi môn phái, ăn mặc tùy thích và có thể đeo cả mặt
nạ.
Một
linh mục tên là Gaetano phụ trách một nhóm bạn trẻ làm việc bác ái cho trẻ em
nghèo. Để có thêm tiền giúp các em, Cha đã ghi danh thi đấu với một chiếc mặt nạ
màu vàng để che giấu tung tích của mình. Thân hình to lớn, thông thạo võ nghệ,
Cha luôn thắng trận dù chẳng lúc nào dùng đến thủ đoạn độc ác, mà chỉ dùng những
đòn đẹp mắt và hữu hiệu. Tất cả tiền thưởng được dành hết cho quỹ cứu trợ trẻ
em nghèo. Chiếc mặt nạ vàng đã trở nên biểu tượng cho tấm lòng vàng của Cha.
Diễn
viên Jean Reno, người đóng vai linh mục Gaetano, đã phải đọc Thánh Kinh hằng
ngày và sống tinh thần của một linh mục để có thể diễn xuất thành công. Anh tâm
sự: “Không ngờ, nhờ đọc Thánh Kinh mà tôi gặp được Thiên Chúa, và tôi đã nói với
Người những điều trước đây tôi chưa hề nói với ai.”
Một
lần kia, cậu con trai Reno hỏi anh: “Bố có thể làm phép lạ không?” Anh trả lời
rất xác tín: “Phép lạ chính là những gì con phải tự mình tạo nên, con ạ!”
Tình
yêu của Chúa dành cho nhân loại được diễn tả qua hình ảnh một bữa tiệc mà Chúa
dọn ra cho hết mọi người. Trong bữa tiệc đó, không còn bóng dáng của bất cứ điều
sầu khổ nào: “Người sẽ xé bỏ chiếc khăn tang che phủ muôn dân, và tấm màn trùm
lên muôn nước.” Ai cũng sẽ vui mừng vì đạt được những khao khát sâu thẳm nhất của
đời người. “Ngày ấy, người ta sẽ nói: ‘Đây là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta từng
trông đợi Người, và đã được Người thương cứu độ. Chính Người là Đức Chúa chúng
ta từng đợi trông” (Is 25,7.9).
26. Mặc áo cưới của Chúa Kitô
Hai
vợ chồng nọ thường xuyên cãi nhau. Một hôm, ông chồng nảy ra một sáng kiến. Anh
nói: “Này em ạ, chúng mình đừng vội cãi nhau như mọi khi, chán lắm. Anh đề nghị
mỗi người chúng mình lấy một tờ giấy, liệt kê tất cả mọi lầm lỗi, tật xấu và
khuyết điểm của người kia rồi sau đó trao cho nhau đọc.” Người vợ nghe vậy cũng
thích nên cả hai lấy giấy vào phòng riêng, cắm cúi viết. Mười phút sau, cả hai
ra phòng khách, người vợ dành quyền đọc trước tờ giấy của chồng, tò mò muốn biết
anh ta kể ra những tội gì để cho anh một trận nên thân.
Nhưng
vừa nhìn thoáng qua, chị đã thấy hụt hẫng khi đọc được dòng chữ nắn nót rất đẹp:
“Anh yêu em.” Chị bật khóc và giật ngay lại tờ giấy của mình vì bao nhiêu lời của
chị sẽ nên ngớ ngẩn trước lời của chồng. Chị vội ôm chầm lấy anh mà xin lỗi.
Đó
cũng là tâm tình của thánh Phaolô về tình yêu Chúa dành cho ngài, một người dám
chống lại Đức Kitô, Đấng chịu đóng đinh vì tội lỗi ngài. Mặc lấy tâm tình Đức
Kitô, ngài cho thấy hạnh phúc Nước Trời ở với người tin: “Thiên Chúa của tôi sẽ
thoả mãn mọi nhu cầu của anh em cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người
trong Đức Kitô Giêsu” (Pl 4,19).
27. May áo cho con
Gia
đình kia có 4 người con đang tuổi đi học, ba mẹ chúng tất bật với kế sinh nhai
nên thường căn dặn:
-
Các con siêng năng đi lễ, đọc kinh cầu nguyện cho gia đình được bình an và bố mẹ
mạnh khỏe để nuôi các con ăn học.
Nhiều
năm sau, con cái đã lớn khôn và có nghề nghiệp ổn định, chúng thường gởi tiền
cho bố mẹ với lời nhắn:
Câu
chuyện có vẻ như đùa, nhưng chúng ta vẫn gặp thấy đâu đây trong cuộc sống.
Mọi
người đều hiểu rằng, khi nhắm mắt xuôi tay, không ai có thể sống lại để thay đổi
cách sống và sửa lại những lầm lỗi đã qua. Vì thế, tương lai của mỗi người tùy
thuộc vào những gì chúng ta làm hôm nay. Nếu muốn và có quyết tâm, ai cũng có
thể dệt cho mình chiếc áo hoàn hảo nhất.
Xin
cho mọi người ngay từ bây giờ, biết chuẩn bị cho mình chiếc áo được dệt bằng sợi
chỉ vàng là lương tâm ngay chính, tình yêu phục vụ và đời sống chứng nhân, để
khi được dự tiệc Nước Trời, chúng ta cùng với muôn vàn thần thánh cất cao lời
chúc tụng và tạ ơn Thiên Chúa.
28. Áo cưới của bà thánh Đê
Trong
tập bài giảng “Suy Niệm Lời Chúa” (Xuất bản năm 1993), linh mục Hồng Phúc,
DccT, khi đề cập đến gương anh hùng của các vị tử đạo Việt Nam vô danh, ngài kể:
“Có
một thiếu phụ bị bắt vì theo đạo và bị kết án tử hình bằng một hình phạt khủng
khiếp: bị voi giày!
Khi
còn 2 ngày nữa phải ra pháp trường, bà xin người nhà gửi cho bà một bộ áo cưới
hợp thời trang. Bà nghĩ trong lòng: ngày bà chết là ngày bà gặp vị Tân Lang là
chính Chúa Giêsu.
Giữa
pháp trường, trước mặt đông đảo anh chị em lương dân, khi ba hồi chiêng trống vừa
gióng lên, người ta thấy thiếu phụ bước ra, ăn mặc như cô dâu trong ngày cưới.
Bà tiến lên, duyên dáng thướt tha, trong tay cầm chiếc quạt phe phẩy. Ngay lúc ấy,
con voi chồm tới, hất tung bà lên trời, rồi chà đạp phũ phàng dưới chân, như
người ta chà đạp một cành hoa màu máu.” Chiếc áo cưới của bà loang máu hồng.
Chiếc áo đẹp biết bao, vì đó là chiếc áo tình yêu.”
Để
chiếc áo tình yêu của đời ta luôn trinh trắng, chiếc áo ấy phải được giặt trong
hy sinh từ bỏ, trong máu hồng cuộc tử đạo liên lỉ của đời người tín hữu. Chính
chiếc áo ấy giúp ta xứng đáng dự tiệc thiên quốc mai sau.
CNTN 28B -
Lời
Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
CNTN 28C -
TRUYỆN KỂ
1.
LỄ THÁNH LUCA – DIỄN VĂN TRUYỀN GIÁO
LỜI
CHÚA: Lc 10, 1-9
Khi
ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi
trước Người đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng:
"Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ
đến gặt lúa của Người. Các con hãy đi. Này Ta sai các con như con chiên ở giữa
sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi
ai dọc đường.
"Vào
nhà nào, trước tiên các con hãy nói: "Bình an cho nhà này." Nếu ở đấy
có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng
không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống
những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.
Khi
vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn
cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: Nước Thiên Chúa đã
đến gần các ngươi."
TRUYỆN KỂ
1. Chúa cần bàn tay bạn
Cuộc
chiến tranh trên bán đảo Triều tiên trước đây là một cuộc chiến tranh tàn khốc.
Một ngôi làng nhỏ rơi vào dưới làn đạn của trọng pháo. Trong làng có một ngôi
nhà thờ Công giáo, bên ngoài nhà thờ có một bệ cao, bên trên có đặt một bức tượng
Đức Kitô. Tuy nhiên, khi cuộc chiến tranh qua, rồi bức tượng đã biến mất. Bức
tượng đã bị hất ra khỏi bệ vỡ ra từng mảnh trên mặt đất.
Một
hôm lính Mỹ đã giúp vị linh mục thu thập những mảnh vụn. Một cách cẩn thận, họ
đã ráp lại pho tượng. Họ tìm thấy tất cả các mảnh vỡ, trừ đôi bàn tay. Họ đề
nghị khi trở về Mỹ họ sẽ đặt làm đôi bàn tay ấy. Nhưng vị linh mục đã từ chối.
Ngài nói:
-
Tôi có một ý tưởng hay hơn: Chúng ta hãy để pho tượng không có bàn tay. Và
chúng ta sẽ ghi vào chân đế lời này: BẠN ƠI, BẠN HÃY CHO TÔI MƯỢN ĐÔI BÀN TAY CỦA
BẠN”
2. Hành trình đức tin của thánh Luca
Thánh
Luca là một người ngoại giáo, khi thánh Phaolô rao giảng Tin Mừng ở thành Troa,
Ngài xin tòng giáo, lãnh nhận bí tích rửa tội, xin làm môn đệ thánh Phaolô và
theo Ngài đi loan báo Tin Mừng trong nhiều năm liền. Khi thánh Phaolô bị bắt,
chúng ta không còn biết gì về quảng đời cuối cùng của Ngài nữa. Theo nhiều tài
liệu, và chứng cớ tìm được ở Constantinople, thánh Luca đã rao giảng Tin Mừng cứu
độ ở Achaie, Béoti và sau này được đặt làm giám mục Thébes. Theo một sử liệu
đáng tin cậy, thánh Gaudence de Brescia quả quyết rằng thánh Luca đã cùng đượcphúc
chịu tử vì đạo với thánh Anrê tại Patras thành Achaie.
Thánh
Luca đã để lại cuốn Tin Mừng rất giá trị nói lên tình thương vô biên của Thiên
Chúa với cách hành văn thật trong sáng, cảm động và với một lối viết văn thật
rõ ràng, gợi cảm. Ngài cũng trình bầy cho nhân loại hiểu về sinh hoạt đầy niềm
vui của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai, cho thấy Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và
luôn hành động, luôn hướng dẫn và soi sáng cho Giáo Hội.
Mừng
lễ thánh Luca tông đồ, thánh sử, chúng ta cảm tạ tri ân Thiên Chúa vì đã ban
cho Giáo Hội một vị thánh lừng danh đã để lại cho nhân loại cuốn Tin Mừng và cuốn
công vụ tông đồ tuyệt hảo.
Ngày
nay thánh Luca là quan thầy của các lương y và bác sĩ. Ngài cũng là bổn mạng
các nhà họa sĩ, vì theo một truyền thuyết thì thánh nhân đã họa bức ảnh chân
dung Đức Mẹ đầu tiên mà nay chúng ta quen gọi là ảnh “Đức Mẹ hằng cứu giúp."
Ngay
từ đầu, Giáo hội vẫn kính lễ thánh Luca vào ngày 18.10 mỗi năm.
3. Đặc điểm của Tin Mừng Luca
Tin
Mừng của ngài là Tin Mừng cho những người bị áp bức. Không Tin Mừng nào chúng
ta có thể được một sự lưu tâm đáng yêu mà Chúa dành cho những người thu thuế và
tội lỗi như trong Tin Mừng thánh Luca: Chúa đến để tìm kiếm những gì đã mất… một
người nữ ngoại tình, một người thu thuế thống hối, một tên trộm ăn năn.
Không
một Tin Mừng nào diễn tả được tấm lòng tha thiết của Chúa dành cho những người
bơ vơ nghèo đói cho bằng dưới ngòi bút điêu luyện của Luca.
Là
một Tin Mừng cho dân ngoại.
Là
một Tin Mừng của cầu nguyện.
Là
một Tin Mừng của niềm vui.
Là
Tin Mừng của niềm vui vì ngay từ đầu, và bàng bạc trong Tin Mừng của ngài nhiều
chỗ nói về niềm vui như ở đầu Tin Mừng là tin vui loan báo cho Zacharia, truyền
tin cho Maria. Những niềm vui liên tục khi Thánh Gioan chào đời, lúc Chúa giáng
sinh...
Những
niềm vui trong chương 15 khi tìm thấy con chiên lạc, tìm được đồng tiền mất, gặp
lại người con hoang và niềm vui hân hoan của các tông đồ khi trở lại
Giêrusalem. Ðúng như Harnack đã nói: “Có những nét vui tươi, can trường và chiến
thắng âm vang trong toàn bộ cuốn Tin Mừng của Thánh Luca từ trang đầu cho tới
trang chót.”
Và
là Tin Mừng đặc biệt nói về nữ giới.
Thật
ra người ta sẽ lầm lẫn khi dìm mất tính chất và giáo huấn nghiêm khắc của Chúa.
Nhưng các y sĩ có thể hãnh diện về Ngài vì chắc hắn không có y sĩ nào sẽ qua mặt
được Ngài về “tình yêu dành cho nhân loại." Và những người còn lại trong
chúng ta có thể biết ơn Ngài vì nhờ Ngài chúng ta có được dụ ngôn cây vả khô chồi
(13,60), đứa con hoang đàng (15,11) và người Samaria nhân hậu (10,30). Chúng ta
cũng biết ơn Ngài vì câu chuyện người kẻ trộm thống hối và cả năm mầu nhiệm Mân
Côi mùa Vui.
Nhưng
trên tất cả, chúng ta mắc ơn Ngài Kinh Ave “Ngợi khen” (Magnificat), chúc tụng
(Benedictus), Phó dâng (Nunc dimittis) với quá phân nửa câu chuyện ngày lễ
Giáng sinh. Rồi đây là chỗ mà sự khiêm tốn ẩn mình của thánh nhân xa rời chúng
ta.
4. Bình an cho nhà này
Trong
năm 1980, một tờ báo phát hành trên toàn Hoa Kỳ có đăng một câu chuyện khác thường.
Một người kia ra xe của ông đang đậu trước một trung tâm thương mại lớn. Ngay
trên ghế ngồi, có một mẩu giấy viết:
"Thưa
ông/bà;
Tôi
đã định ăn cắp chiếc xe này cho đến khi tôi chợt nhìn thấy hàng chữ
'Peace-Be-to-You' (Bình An-Cho-Bạn) dán trên kính xe. Nó làm tôi do dự và suy
nghĩ. Tôi nghĩ nếu tôi ăn cắp chiếc xe này, ông bà chắc chắn sẽ không có bình
an, và ngược lại, tôi cũng không cảm thấy bình an, vì đây là 'chuyến ăn hàng' đầu
tiên của tôi. Do đó, 'bình an cho bạn' và cho tôi. Nhớ lái xe cẩn thận và lần
sau đừng quên khóa cửa.”
Ký
tên: "Người Muốn Ăn Cắp Xe.”
Câu
chuyện khác thường đó làm sáng tỏ mệnh lệnh khác thường của Chúa Giêsu mà Người
đã ban cho các môn đệ trong bài phúc âm hôm nay:
"Vào
bất cứ nhà nào, trước hết các con hãy nói, 'Bình an cho nhà này. ' Nếu một người
yêu chuộng bình an sống ở đó, lời chúc bình an của các con sẽ ở với họ; nếu
không, hãy lấy lại lời chúc bình an.”
5. Bước ra khỏi tâm bão
Khi
gió của cơn bão nhiệt đới lên quá 75 dặm một giờ, người ta gọi nó là
"typhoon" (bão lớn) khi xảy ra ở Thái Bình Dương, và gọi là
"hurricane" (cuồng phong) khi xảy ra ở Đại Tây Dương.
Để
có một ý niệm thế nào là trận cuồng phong, hãy tưởng tượng ra đĩa
"frisbee" với một lỗ hổng ở giữa. Bây giờ, thử tưởng tượng đĩa ấy lớn
dần cho tới khi nó rộng đến 100 dặm và lỗ hổng ở giữa rộng đến 10 dặm. Và rồi
hãy tưởng tượng cái đĩa khổng lồ ấy xoay tròn với tốc độ 100 dặm một giờ.
Đó
là cơn cuồng phong hay cơn bão. Phần đáng chú ý của cơn bão là tâm điểm của
nó-cái lỗ hổng ở giữa đĩa "frisbee." Mặc dù gió lốc đang gào thét
chung quanh tâm bão với tốc độ 100 dặm một giờ, nhưng ở tâm bão thì lại êm ả.
Không có một chút gió lốc. Nếu bạn đứng trong tâm bão và nhìn lên, bạn sẽ thấy
bầu trời xanh và ánh nắng chói chang.
Tâm
bão là một hình ảnh tốt để nói lên điều Đức Giêsu nhắn nhủ chúng ta trong Tiệc
Thánh Thể, khi chúng ta quy tụ để chia sẻ bữa tiệc ấy vào mỗi Chúa Nhật.
Có
biết bao cơn bão chung quanh chúng ta ở trong thế giới này. Con người gào thét
và lấy của nhau; các nhóm dấy loạn và cướp bóc; quốc gia này đánh nhau với quốc
gia khác. Tuy nhiên, ở bàn Tiệc Thánh Thể thì lại êm ả. Chúng ta nhìn lên và thấy
bầu trời xanh cùng ánh nắng chói chang. Chúng ta đang ở tâm bão. Chúng ta vui
hưởng "bình an của Đức Kitô.” Đức Giêsu ban cho chúng ta sự bình an này
không phải để chúng ta ở mãi trong đó, nhưng để bồi dưỡng trong giây lát. Cũng
như tâm bão chỉ kéo dài chừng một giờ đồng hồ khi bão đi qua, bữa Tiệc Thánh Thể
cũng chỉ khoảng một giờ. Đức Giêsu không bao giờ muốn chúng ta ở mãi trong tâm
bão. Người muốn chúng ta đi vào cơn bão. Đức Giêsu muốn từ bàn Tiệc Thánh Thể,
chúng ta tiến bước để trở nên tâm bão giữa các trận cuồng phong của thế gian.
Người muốn chúng ta chia sẻ sự bình an của Người, mà chúng ta được cảm nghiệm
trong Thánh Lễ, với toàn thế giới.
6. Tình yêu: còn và mất
Jimmy
Durante là một diễn viên hài nổi tiếng của nước Mỹ. Sau Thế chiến Thứ Hai, người
ta đã mời ông tham dự trình diễn văn nghệ phục vụ các cựu chiến binh. Ông cho
ban tổ chức biết là lịch diễn của ông rất sát nên ông chỉ có thể tham gia diễn
trong vài phút. Nếu không có gì bất tiện thì ông sẽ độc diễn một đoạn ngắn rồi
đi ngay.
Khi
ông diễn xong, khán giả nồng nhiệt vỗ tay tán thưởng, càng lúc càng lớn. Tiếng
vỗ tay kéo dài thật lâu đến gần nửa tiếng đồng hồ. Sau khi tiếng vỗ tay chấm dứt,
ông cúi chào khán giả và rời sân khấu và tỏ ý ở lại diễn tiếp.
Có
người hỏi ông:
- Tôi
ngỡ là ông đi ngay sau khi diễn xong. Có chuyện gì thế.
- Đúng
là tôi định đi ngay, nhưng anh hãy nhìn vào hàng ghế đầu sẽ biết điều gì giữ
tôi ở lại lâu thế.
Thì
ra ở hàng ghế đầu có hai người đàn ông cụt tay. Một người mất tay mặt, người
kia mất tay trái. Họ cùng nhau vỗ tay, vỗ tay nhau!
Họ
cụt tay vì đã cầm súng, nhưng tình yêu đã hàn gắn lại tất cả.
Tin
Mừng được loan báo cho một nhân loại đã bị thương tích bởi hận thù. Tin Mừng đó
là sự bình an được tình yêu Chúa mang đến cho nhân loại, như là phương thuốc chữa
lành: “Các ngươi hãy vui mừng với Giêrusalem (…) Vì chưng Chúa phán thế này:
‘Ta sẽ làm cho sự bình an chảy đến nó như con sông …’” (Is 66, 12)
Vâng,
người ta đánh mất nhiều nhất khi đánh mất tình yêu.
7. Bằng không, bình an lại trở về với các con
Nước
Bồ Đào Nha có vua Denis. Một anh lính hầu của vua ghen với bạn nên đã vu cáo bà
hoàng hậu là thánh Êlizabeth tốt lành đã có mối tình vụng trộm với anh bạn đó.
Để trừng phạt, vua sai tên tiểu hầu bị ông nghi ngờ đến một lò vôi, chú vui vẻ
ra đi mà không biết mình sắp gặp nguy hiểm, vì người thợ nung lò vôi được lệnh
quăng vào lò vôi bất cứ ai đến đầu tiên.
Trên
đường đi, chú tiểu hầu dừng lại ở một nhà thờ để dự lễ, và vì lễ được cử hành nửa
chừng nên chú ở lại dự lễ thứ hai cho trọn lễ. Trong khi đó nhà vua lại sai tên
lính hầu độc ác đến lò vôi để xem tình hình, và chính anh ta phải chịu hậu quả
do mưu độc của mình.
Sau
khi thấy được bàn tay quan phòng của Chúa giữ gìn người tốt lành, ông biết lỗi
và thay lòng đổi dạ nên tốt lành hơn.
Bàn
tay Chúa giữ gìn người rao giảng Tin Mừng trong mọi nguy hại. “Chúng ta biết rằng
Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người.” (Rm
8,28); nhưng có nguy hại nào sánh được với mối lợi lớn lao Chúa hứa ban: “không
có gì có thể làm hại được các con; nhưng hãy vui mừng vì tên các con đã được
ghi trên trời” (Lc 10, 20)
8. Chiên giữa sói rừng
Trần
Hằng, quyền thần thời Xuân thu, giết vua Giản Công nước Tề, lập vua Bình Công.
Lúc giết vua xong, Trần Hằng sai sáu dũng sĩ đến bắt Tử Uyên Thê phải theo
mình.
Tử
Uyên Thê nói: “Nhà ngươi muốn cho ta vào đảng, ý hẳn cho ta là “trí” chăng,
nhưng bầy tôi giết vua mà không cản được, ta chẳng phải là trí; cho ta là
“nhân” chăng, nếu thấy lợi mà phản nước, ta chẳng phải là nhân; cho ta là
“dũng” chăng, nhưng đem binh đến ăn hiếp ta, ta sợ mà theo ngươi, ta cũng chẳng
phải là dũng.
“Vì
bằng ta không có ba điều ấy, ta về phe với ngươi thì có bổ ích gì cho ngươi. Ví
bằng ta có ba điều ấy, thì đời nào ta theo ngươi mà ngươi dỗ.”
Trần
Hằng bèn tha Tử Uyên Thê. (Cổ học tinh hoa)
Qua
câu trả lời đơn giản, Tử Uyên Thê đã phô bày ba chữ nhân, trí, và dũng của ông:
Không sợ Trần Hằng mà từ chối, đó là dũng; không vì tham lợi mà phản vua, đó là
nhân; và khéo léo dùng ngay ba chữ nhân, trí, dũng, để từ chối hợp tác và tố
cáo điều sai lỗi của Trần Hằng.
Khi
sai các môn đệ đi trước chuẩn bị cho Người, Chúa Giêsu báo trước: “Này Ta sai
các con như con chiên ở giữa sói rừng.” (Lc 10,3)
9. Rao giảng bằng đời sống
Năm
1937, Mahatma Gandhi, vị anh hùng dân tộc Ấn Độ nói với các nhà truyền giáo:
"Hãy để cho đời sống các ngài nói với chúng tôi như đoá hoa hồng không cần
ngôn ngữ, mà chỉ đơn sơ để cho hương thơm của mình toả lan. Cả người mù không
nhìn thấy hoa hồng vẫn nhận ra được mùi thơm của nó. Hãy để chúng tôi nghĩ tới
sự cao cả của nhân dân của các ngài khi họ toả hương thơm đời sống. Đối với
tôi, đó là tiêu chuẩn duy nhất. Tất cả những gì tôi muốn họ làm là sống đời
Kitô hữu chứ không phải chú giải nó."
10. Đừng mang
Sau
ngày đắc cử, Đức giáo hoàng Phanxicô không đến ở trong dinh thự các giáo hoàng
nhưng lưu lại tại căn phòng trong Nhà Trọ Thánh Marta để ở gần các cộng sự viên
của mình. Ngài quan tâm tới những người “nghèo nhất, yếu đuối nhất, ít quan trọng
nhất." Ngài luôn kêu gọi các tu sĩ đến với những người sống bên lề xã hội.
Người
ta nhận ra Đức Phanxicô, sau ba tháng trên ngôi vị giáo hoàng, muốn xây dựng một
“Giáo hội nghèo, cho người nghèo” đúng như lý tưởng sống của vị thánh mà ngài
đã chọn làm danh hiệu giáo hoàng của mình. Đó cũng là mệnh lệnh mà Chúa Giêsu
đã truyền cho các môn đệ khi sai các ông đi truyền giáo. Quả thật thay vì nhắc
các ông trang bị đầy đủ các phương tiện vật chất, Chúa Giêsu muốn các ông lên
đường với gói hành trang gọn nhẹ: không mang theo túi tiền, bao bị, giày dép.
Ngài muốn các ông sống nghèo như chính Ngài đã sinh ra, sống, rao giảng và chết
trong khó nghèo.
Chúng
ta đang muốn xây dựng Giáo hội nào: giàu cho người giàu? hay nghèo cho người
nghèo? Những người nghèo và cô thế cô thân có được cộng đoàn quan tâm giúp đỡ
không? Tiền giáo xứ giúp cho người nghèo là bao nhiêu so với tiền xây dựng, tiền
tổ chức các cuộc lễ lạy, đình đám?
THỨ HAI - DẤU LẠ GIO-NA
Lời
Chúa: Lc 11, 29-32
Khi
ấy, thấy dân chúng từng đoàn lũ tụ tập lại, Chúa Giêsu phán rằng: "Dòng giống
này là dòng giống gian ác. Chúng đòi điềm lạ, nhưng sẽ không ban cho chúng điềm
lạ nào, ngoài điềm lạ của tiên tri Giona. Vì Giona đã nên điềm lạ cho dân thành
Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là điềm lạ cho dòng giống này như vậy.
Đến
ngày phán xét, nữ hoàng phương nam sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này,
vì bà đã từ tận cùng trái đất mà đến nghe sự khôn ngoan của Salomon. Nhưng ở
đây còn có người hơn Salomon. Dân thành Ninivê cũng sẽ đứng lên tố cáo và lên
án dòng giống này, vì họ đã sám hối theo lời Giona giảng, nhưng ở đây còn có
người hơn Giona nữa."
TRUYỆN KỂ
1. Có mù mới hiểu
Một
nhóm sinh viên tổ chức tham quan mỏ than Scottish ở nước Anh. Mỗi sinh viên được
phát một mũ bảo hộ của thợ mỏ, đằng trước mũ có gắn bóng đèn nối với một bình
điện đeo ở thắt lưng.
Người
hướng dẫn đưa họ vào buồng thang máy xuống tận đáy hầm than. Tới nơi, ông đề
nghị các sinh viên bật đèn trên mũ bảo hộ vì con đường dẫn đến khu khai thác tối
đen như mực. Mái vòm chỉ cao một mét hai, nên mọi người phải cúi rạp xuống khi
di chuyển. Than được chở trên băng tải và đổ vào các toa trên đường ray.
Ngay
trước khi nhóm sinh viên đến khu khai thác, người hướng dẫn nói: “Các bạn hãy tắt
tất cả các đèn trên mũ." Mọi người đều làm theo. Không ai thấy gì cả. Mọi
vật đều một màu đen. Trong tăm tối, người thợ mỏ nói: “Hãy cố gắng nhìn kỹ vào
ngón tay của bạn." Chẳng ai thấy gì cả. Một vài người bắt đầu sợ hãi. Rồi
người thợ mỏ nói một câu mà các sinh viên không bao giờ quên được: “Đây là tình
trạng của những người mù."
Tất
cả các sinh viên đều hiểu ra. Bị mù thì không bao giờ thấy được ánh sáng hoặc bất
cứ thứ gì khác. Họ cũng hiểu tại sao những người thợ mỏ lại thích bầu trời
trong xanh và ánh nắng rực rỡ của mặt trời.
Chúng
ta cũng duyệt lại đời sống của mình, có còn ở trong bóng tối, như anh mù ở
thành. Chúng ta tín thác vào Thầy Giêsu, Đấng sẽ kéo chúng ta về sự sáng trong
lời cầu: Xin Chúa chữa niềm tin còn u tối… U tối của tội lỗi, của bất toàn và của
yếu đuối thân phận của con người… U tối của những suy nghĩ, u tối trong cách
hành xử với nhau.
2. Đức Kitô là một mầu nhiệm
Một
người đàn ông đến với vị linh mục và muốn thắc mắc các cớ về đức tin, ông nói:
-
Làm sao mà bánh, rượu biến thành Mình, Máu Chúa Kitô được?
Linh
mục trả lời: - Có gì đâu. Bản thân ông cũng biến thức ăn thành máu thịt ông đấy.
Thế thì lẽ nào Chúa Kitô không làm được như vậy?
-
Nhưng, làm sao mà Chúa Kitô toàn thể ở trong tấm bánh nhỏ tí được?
-
Này, cả vùng trời bao la trước mặt còn nằm gọn trong mắt ông, thì Chúa Kitô
cũng vậy đấy.
- Vậy
cùng một Chúa Kitô làm sao có thể hiện diện đồng thời ở khắp các nhà thờ?
Lúc
bấy giờ linh mục cầm chiếc gương cho ông ấy soi mình vào. Sau đó, ngài thả rơi
chiếc gương xuống đất nó vỡ thành nhiều mảnh, rồi nói với kẻ hoài nghi:
- Đấy
chỉ có một mình ông thôi, vậy mà ông có thể thấy gương mặt mình trên từng mảnh
gương vỡ. Chúa Kitô cũng thế (Willi Hoffsuemmer).
Người
đời thường nói: “Mặt trời vẫn có đó nhưng chỉ có những ai không dùng bàn tay
che kín mắt mình lại, thì người ấy mới có thể thấy được ánh sáng huy hoàng rực
rỡ của nó."
3. Các loại dấu chỉ
Một
người đang chạy xe gắn máy trên đại lộ bỗng dừng lại, vì phía trước có dấu chỉ
đèn đỏ. Một người bước vào một ngôi nhà thấy một dấu chỉ nên vội dụi tắt điếu
thuốc của mình. Dấu đó thế nào? là hình một điếu thuốc bị gạch chéo... Trên đây
là những dấu chỉ “nhân tạo." Ngoài ra còn những dấu chỉ “thiên nhiên tạo”
nữa, thí dụ đám mây đen bỗng dưng kéo đến là dấu báo trời sắp mưa. Loại thứ ba
là những dấu chỉ nhắc ta nhớ đến Chúa. Loại thứ tư là những dấu chỉ Chúa muốn
ta làm đề nhắc người khác nhớ đến Chúa. Đố bạn nghĩ ra một số dấu chỉ thuộc loại
thứ ba và thứ tư...
Đối
với những người quanh ta: Chúng ta còn được mời gọi trở nên những dấu lạ cho
người thời nay để giới thiệu Chúa cho họ. “Một nụ cười, một ánh mắt cảm thông,
một bàn tay nâng đỡ... phải chăng đó không là những phép lạ mà lúc nào những
người chung quanh cũng đang chờ đợi nơi chúng ta?”
4. Anh đấy sao?
Một
trong những cuốn phim hay nhất của Charlot và có lẽ cũng là một trong những cuốn
phim hay nhất trong lịch sử điện ảnh, đó là cuốn phim có tựa đề: “Ánh sáng đô
thị." Cuốn phim thuật lại một câu chuyện tình giữa một gã lang thang và một
cô gái bán hoa.
Nàng
là một cô gái mù bán hoa bên vệ đường. Một nhà tỉ phú trong rừng ngày nào cũng
dừng lại mua hoa của nàng. Ngày kia, gã lang thang là chàng Charlot cũng dừng lại
mua hoa. Cô gái bán hoa tưởng là người tỉ phú. Thế là một giấc mộng đã sớm chớm
nở nối kết hai linh hồn. Nàng tưởng mình gặp người mình mơ mộng từ lâu nay.
Chàng thì hy vọng sẽ kiếm được tiền để chữa lành tật mù lòa cho nàng.
Nhưng
sau đó, chẳng may vì một sự ngộ nhận, chàng bị cảnh sát bắt giam. Sau một thời
gian bị cầm tù, chàng được trả tự do. Chàng trở lại chỗ cũ để tìm người con gái
mù bán hoa, nhưng không thấy. Nhờ tiền bạc trước kia chàng đã gửi cho, người
con gái mù đó đã được chữa lành và hiện đang đứng trông coi một cửa hàng bán hoa
rộng lớn hơn. Chàng đi qua đi lại nhiều lần, nhưng không thể nào nhận ra nàng.
Tình
cờ, một cánh hoa hồng rơi xuống đất, chàng cúi xuống nhặt. Người con gái thấy vậy
thì cười như nhạo báng. Chàng định bỏ đi, nhưng chợt nhận ra tiếng cười rất
quen nên chàng quay lại. Chàng hỏi một cách nhút nhát: - Cô đã thấy được rồi
sao?…
Người
con gái nhận ra tiếng nói rất quen thuộc của chàng. Nàng từ từ nhặt chiếc hoa
và gắn lên áo chàng. Và nàng thốt lên trong cảm xúc: - Anh đấy sao?
Thế
là cả hai bên đã nhận ra nhau và họ sẽ không bao giờ rời nhau nữa.
Một
giọng nói quen thuộc của một người trước kia mới chỉ nghe thấy giọng nói chứ
chưa một lần được nhìn thấy bằng mắt, vậy mà qua giọng nói họ đã nhận ra nhau.
5. Dấu chỉ của người Công giáo
Một
vị Giám mục kiểm tra khả năng của một nhóm ứng viên xin lãnh nhận bí tích Thanh
Tẩy. Ngài hỏi: - Bằng dấu chỉ nào mà các người khác nhận ra các con là người
Công giáo?
Không
có tiếng trả lời. Rõ ràng không có ai ngờ một câu hỏi như thế. Vị Giám mục lập
lại nhiều lần câu hỏi và lần cuối cùng ngài kín đáo vẽ một dấu Thánh Giá có ý
mách nước cho các người dự tòng một câu trả lời.
Bất
chợt một ứng viên trả lời: - Đó là “Tình yêu."
Vị
Giám mục rất ngạc nhiên! Khi định mở miệng nói “Sai”, nhưng rất may ngài kịp thời
ngậm miệng lại.
6. Nhận ra tình yêu Chúa nơi trái dâu
Ông
Barty vốn dĩ là người Công Giáo, nhưng không nhận ra ơn Chúa gọi ông, đặc biệt
từ khi ông lãnh Bí tích Thánh Tẩy, ông đã được nhận sứ mệnh tư tế, ngôn sứ,
vương đế, để ông loan báo kỳ công của Thiên Chúa không thua các tạo vật. Thế mà
ông đã vô ơn Chúa sống không lý tưởng, không tìm được ý nghĩa niềm vui trong cuộc
sống, dù ông rất giàu có.
Ông
muốn tự tử, nhưng sợ không có ai chôn ông, nên ông đã bỏ ra 200.000 dollars để
trả công cho người thanh niên, sau khi ông xuống hố nằm mà sáng hôm sau anh
chàng không thấy ông bò dậy thì lấy xẻng lấp đất. Nhưng người thanh niên không
can đảm làm việc ấy. Ông lại nhờ một Linh mục trẻ giúp ông, nhưng Linh mục ấy
cho ông biết: ông tự tử như thế là vi phạm điều răn thứ V, nên Linh mục không
thể làm theo yêu cầu ông được. Ông nói lại: Sống không hạnh phúc, chỉ gây u sầu
cho những người xung quanh, thì tội ấy nặng hơn tự tử. Ông lại đi thuê một người
làm trong Viện Bảo tàng, người này nói với ông: tôi làm trong Viện này, nhìn thấy
các vật cổ Chúa đã cho người ta khéo tay để họa lại những kỳ công Chúa thực hiện
nơi vạn vật. Tôi cảm thấy mình đang sống trong ơn huệ Thiên Chúa, Ngài đã làm
bao nhiêu phép lạ bao phủ lấy tôi. Cho nên tôi không nhận tiền công của ông để
chôn sống ông được!
Thế
là ông Barty phải tự sát, vì không ai giúp ông chết, ông quàng dây thừng lên
cây dâu và thắt thòng lọng để chui đầu vào đó. Nhưng chính lúc ấy, tay ông lại
động vào trái dâu chín mọng,ông nếm thử và chưa thấy có trái nào ngọt lịm như vậy,
lúc đó ông mới ngộ ra rằng Chúa đâu có phải cho mình một trái dâu, mà Ngài cho
cả vũ trụ này, nhất là “Chúa ban Con Một Người, ngõ hầu ai tin vào Ngài thì khỏi
phải hư đi, nhưng được sự sống đời đời” (Ga 3,16). Thế là ông từ bỏ ý định tự tử.
7. Phải làm việc
Có
một truyện vui về một cụ già thấy một con chim sẻ đang nằm chỗng chân lên trời.
Cụ già hỏi con chim sẻ: “Tại sao lại nằm như thế?” Chim sẻ nói rằng: “Người ta
bảo rằng hôm nay trời sẽ sập.” Cụ già cười ầm lên và nói: “Mình nghĩ là đôi
chân bé nhỏ của ngươi có thể chống trời được sao?” Chim sẻ đáp: “Không nhưng
tôi phải làm những gì có thể.”
Đến
lúc phải loan báo Tin mừng, theo triết lý của kẻ đầu hàng: “Người như tôi thì
làm được gì?” Hay theo triết lý của con chim sẻ: “Tôi phải làm những gì có thể.”
Thất
bại duy nhất là không chịu cố gắng.
8. Không biết mình
Cha
James F. Keenan, Dòng Tên, khai triển một luận đề luân lý rất thú vị rằng “người
ta phạm tội vì họ quá mạnh chứ không phải vì họ quá yếu.” Nghịch lý này còn được
thấy nơi nhiều trường hợp khác nữa. Thiếu, không phải vì thiếu, mà vì có quá
nhiều. Như cá giữa đại dương mà loay hoay đi tìm… nước! Như người Việt Nam ta từng
bị mang tiếng là ‘chết trên đống thuốc’ (có ý nói rất nhiều cây cỏ quen thuộc của
chúng ta là những vị thuốc quí giá mà ta không ngờ!).
Chung
qui, vấn đề nằm ở chỗ hoặc do người ta vô minh, hoặc do bướng bỉnh, hoặc do cả
hai. Đây cũng là vấn đề của những người Do Thái thời Đức Giêsu. Họ có điều quí
nhất trong tầm tay, nhưng họ không nhận ra, và họ mải kiếm tìm những thứ khác
thôi.
Nhìn
lại những kinh nghiệm ‘bỏ mồi bắt bóng’ trong cuộc đời mình. Phải chăng chỉ khi
sực tỉnh, ta mới thấy rõ rằng mình dại? Ta sẽ đi tìm ánh sáng và sự khôn ngoan
đích thực ở đâu, nếu không phải nơi Lời Chúa vốn luôn trong tầm tay ta? Ta sẽ
tìm sự sống và sức mạnh tinh thần ở đâu, nếu không phải là nơi Thịt Máu Chúa vốn
được trao ban cho ta mỗi ngày?
9. Đổi mới cuộc sống
Một
tạp chí đăng hình những tù nhân trong một chương trình cải tạo lao động. Họ
đang trùng tu một ngôi nhà. Vài ngày sau, một trong số tù nhân viết cho tờ báo
rằng lần cuối cùng anh ta được đăng hình trên báo là lúc anh ta bị kết án. Anh
viết: “Thật là niềm vui khi thấy hình mình trên tờ báo đang làm việc tốt. Khi
vào tù, tôi giống như ngôi nhà chúng tôi vừa trùng tu. Nhưng Thiên Chúa chịu
trách nhiệm về đời tôi và biến đổi tôi thành một người mới trong Chúa Kitô.”
Câu
chuyện về dân Ninivê và người tù mời gọi tôi tự hỏi: tôi có sẵn sàng để Thiên
Chúa đi vào cuộc đời tôi và đổi mới tôi thành con người mới trong Chúa Kitô
không?
Phàm
ai ở trong Chúa Kitô đều là thụ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi.
(2Cr 5,17)
10. Tình yêu luôn hy vọng
Một
truyền thuyết cổ phác họa những gì xảy ra bên ngoài cổng thiên đàng sau ngày tận
thế. Nhóm các thánh và những tội nhân thống hối cuối cùng vừa leo lên chiếc
thang vàng nối từ đất lên trời. Ngoại trừ Chúa Giêsu, tất cả đều mang tâm trạng
phấn khích, ca hát và nhảy múa. Ngài đứng một mình trên đỉnh thang và nhìn xuống
trần gian. Rõ ràng là Ngài đang tìm một ai đó. Khi một vị thánh hỏi Ngài tìm
ai, Chúa Giêsu nói: “Ta tìm Giuđa, hy vọng anh ta sẽ hoán cải trước khi chết và
có thể nhập đoàn với chúng ta.”
Câu
chuyện trên nói lên điều gì? Nó nói với tôi điều gì về một con người được yêu
thương?
Không
có gì là vô vọng, ngoại trừ kẻ trở nên vô vọng về chính mình. (Chare Booth
Luce)
THỨ BA - THANH TẨY HỮU HIỆU, CHÍNH LÀ TÌNH YÊU
Lời
Chúa: Lc 11, 37-41
Khi
ấy, lúc Chúa Giêsu còn đang nói, thì có một người biệt phái mời Người dùng bữa
tại nhà ông. Người đi vào và ngồi bàn ăn. Nhưng người biệt phái ngạc nhiên,
nghĩ trong lòng rằng tại sao Người không rửa tay trước khi dùng bữa.
Bấy
giờ Chúa phán cùng ông ấy rằng: "Này các ông, những người biệt phái, các
ông lau rửa bên ngoài chén đĩa, nhưng nội tâm các ông đầy tham lam và gian ác.
Hỡi
những kẻ ngu dại, chớ thì Đấng đã tạo thành cái bên ngoài, lại chẳng tạo thành
cả cái bên trong sao? Hãy đem những cái bên trong ra mà bố thí, thì mọi sự sẽ
nên trong sạch cho các ông."
TRUYỆN KỂ
1. Người chỉ biết đến lề luật
Người Biệt phái tuyệt đối tin
vào Lề Luật. Lề Luật làm cho họ nên công chính. Đến nỗi Thiên Chúa chỉ có việc
thưởng công khi họ chu toàn Lề Luật. Và họ chẳng cần nhờ gì đến Chúa. Đó là một
sai lầm lớn lao. Sai lầm nối tiếp sai lầm. Giữ Lề Luật chỉ cần hình thức bề
ngoài là đủ. Làm như Lề Luật là bùa chú. Cứ theo công thức là thành. Vì thế đạo
của họ không có nội tâm. Bên trong của họ tội lỗi xấu xa. Lại còn tự kiêu tự
mãn.
2. Quan Tâm Ðến Ðiều Cốt Yếu
Bài
Tin Mừng hôm nay cho thấy nhóm Biệt phái ngạc nhiên vì Chúa Giêsu không rửa tay
trước khi dùng bữa. Họ ngạc nhiên không phải vì Chúa Giêsu không giữ phép vệ
sinh, nhưng vì Ngài không giữ luật định, theo đó, trước mỗi bữa ăn phải rửa tay
bằng nước chứa trong các chum lớn bằng đá, với một số lượng nước được quy định
và qua một cách thức được ấn định. Dưới con mắt người Biệt phái, người nào
không giữ luật này, đó là người không xử sự đúng đắn: chẳng những không giữ vệ
sinh, mà còn nhơ bẩn trước mặt Thiên Chúa; không rửa tay trước khi dùng bữa sẽ
trở nên đối tượng tấn công của quỉ dữ, dẫn đến nghèo đói vì bị phá sản; và bánh
ăn với bàn tay không sạch thì chẳng khác gì phân bón.
Vì
những lý do trên và những lý do khác tương tư, sách các Rabbi có ghi những mẫu
truyện như sau: Một Rabbi nọ không giữ luật rửa tay trước khi dùng bữa chỉ có một
lần, thế mà đến lúc chết đã bị chôn cất như một người bị dứt phép thông công. Một
Rabbi khác bị người Rôma giam giữ, đã dùng nước uống cung cấp rất hạn chế cho
việc thi hành nghi thức rửa tay trước và trong khi dùng bữa, vì thế đã gần phải
chết khát, bởi lẽ ông nhất định thà chết khát hơn là chểnh mảng giữ luật rửa
tay.
Quan
niệm và tâm thức của những người Biệt phái thời Chúa Giêsu coi các phong tục, tập
quán, luật lệ là cốt tủy của việc thờ phượng Thiên Chúa và có giá trị như trọng
tâm của tôn giáo, do đó những ý nghĩa cao thượng khác của niềm tin và tôn giáo
cũng như những giá trị luân lý quan trọng hơn hầu như bị chôn vùi dưới lớp bụi
dầy đặc của những luật lệ rườm rà tỉ mỉ; tâm thức này đưa họ đến việc giữ đạo vụ
hình thức. Câu trả lời của Chúa Giêsu hướng con người vào những giá trị bên
trong, quan tâm đến điều cốt yếu là sự trong sạch của lương tâm và tâm hồn.
Lời
Chúa hôm nay mời gọi chúng ta duyệt xét lại cách thức và mức độ giữ đạo và hành
đạo của chúng ta. Ước gì chúng ta dần dần từ bỏ những cách thức giữ đạo hình thức,
để đi vào chiều sâu của việc sống đạo với một lương tâm trong sạch, một tâm hồn
quảng đại và ý hướng ngay lành.
3. Chọn điều cốt yếu
Trong
chuyến viếng thăm mục vụ tại Brasil thuộc Châu Mỹ Latinh vào năm 1980, Đức
thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã để lại một ấn tượng hết sức đẹp, đó là:
ngài đã tháo chiếc nhẫn vàng Giáo Hoàng của mình để tặng cho người dân nghèo
ngoại ô thành phố Rio de Janeiro. Tuy nhiên, qua sự kiện này đã làm cho nhiều
người đi cùng với ngài tỏ vẻ không hài lòng!
Hôm
nay, Tin Mừng cũng thuật lại một nghĩa cử hết sức lạ thường của Đức Giêsu, đó
là: Ngài đã sẵn sàng đáp lại lời mời của một người trong nhóm Pharisêu vốn đã
không thích gì Đức Giêsu và giáo huấn của Ngài, để đến dự tiệc tại gia đình
ông, mặc cho nhiều người chống đối, xầm xì.
4. Lòng tốt nâng cao tầm đạo đức
Một
bà mẹ lo lắng nhiều cho đứa con trai không đi nhà thờ, mà lại đi theo những bạn
bè xấu và còn tỏ ra bất mãn mọi chuyện. Bà mẹ đau khổ này đã tìm mọi cách để
đưa con về con đường tốt, nhưng tất cả đều vô ích. Vào một ngày Chúa nhật, bà nảy
ra một ý tưởng. Gọi đứa con trai lại, bà nói: “Con làm ơn giúp mẹ một chuyện.
Hãy đem gói đồ này đến cho gia đình ở căn nhà trong khu phố đối diện với chúng
ta. Nếu con làm cho mẹ việc này, mẹ hứa sẽ không bao giờ quấy rầy con nữa."
Có
lẽ để khỏi nghe tiếng mẹ giảng dạy, la rầy, chàng thanh niên đã nhận làm điều mẹ
anh yêu cầu. Anh đi đến địa chỉ như mẹ dặn, bước vào một căn nhà nghèo nàn và bỡ
ngỡ đến tột điểm, anh đã khám phá thấy một người đàn bà đau ốm chỉ còn da bọc
xương với ba đứa con nhỏ, rách rưới, lem luốc, đang than khóc, kêu la vì đói.
Chàng thanh niên trao vội gói đồ và muốn nhanh bước rút lui. Nhưng người đàn bà
đã gọi giật anh trở lại, và qua giọng yếu ớt bà thều thào: “Cậu ơi! Cậu không
thể đi ngay được khi tôi chưa kịp cám ơn cậu. Cậu là ơn quan phòng Chúa gửi đến
cho chúng tôi. Xin Ngài trả ơn cho cậu."
Chàng
ra về với tấm lòng bị cảm xúc mạnh. Ngày hôm sau, anh trở lại nhà bà mẹ đang bị
đau ốm với đàn con nheo nhóc hôm qua với một gói quà khác, mà anh đã mua với
chính tiền của anh. Và sau khi trao quà, anh còn ở lại chơi với mấy đứa nhỏ. Kể
từ đó, chàng thanh niên đã thay đổi cuộc đời, vì lòng nhân hậu đã làm anh mỗi
ngày hiểu được ý nghĩa của cuộc sống và nhờ đó anh cảm thấy hạnh phúc hơn
5. Cần thanh tẩy cõi lòng
Có
hai vị thiền sư trên đường về tu viện sau một cơn mưa, tình cờ họ gặp một cô
thiếu nữ xinh đẹp đang đứng trước vũng sình to lớn chắn lối đi. Thấy vậy, một
trong hai vị liền cõng cô trên vai rồi lội qua vũng sình để qua bên kia bờ. Vị
tu sĩ cùng đi chung thấy cảnh tượng đó lấy làm khó chịu và cho đó là một gương
mù gương xấu.
Suốt
hai tiếng đồng hồ ông ta trách mắng vị tu sĩ đã cõng người con gái qua vũng
sình bùn, vì làm như thế là đã phá giới của đạo rồi. Ông nói với vị tu sĩ kia rằng:
“Thầy không biết mình là người tu sĩ sao? Tại sao thầy dám đụng đến một người phụ
nữ. Hơn nữa, khi thầy cõng cô ta qua vũng sình lầy như vậy dân chúng thấy sẽ
suy nghĩ như thế nào? Họ còn tin vào đạo nữa không?”
Vị
tu sĩ bị mắng vẫn kiên trì lắng nghe, cuối cùng ông ta đáp lại rằng: “Thưa thầy,
tôi đã để cô gái ở lại bên bờ kia rồi, còn thầy mới chính là kẻ cõng cô gái đó
trong lòng mình."
6. Hoàng đế cởi truồng
Một
ông vua kia rất ham mặc áo quần đẹp. Hai tên lưu manh đến gạ gẫm: “Chúng tôi có
thể dệt và may cho bệ hạ một bộ áo rất đặc biệt từ xưa tới nay chưa ai từng thấy.
Nhưng áo này phải dệt bằng vàng."
Vì
quá ham bộ áo đặc biệt ấy, nhà vua đưa cho hai tên ấy hết túi vàng này tới túi
vàng khác. Thực ra chúng chẳng may gì cả. Rồi một hôm hai tên lưu manh cho biết
áo đã may xong, mời nhà vua mặc thử. Chúng chỉ làm cử điệu tay chân như đang mặc
áo cho nhà vua. Khi chúng cho biết đã mặc xong, nhà vua hỏi các quan chung
quanh “Áo ta có đẹp không?” Ai nấy trầm trồ khen nức nở. Quá phấn khởi, nhà vua
bảo quân hầu kiệu ngài ra các đường phố để khoe áo đẹp. Dân chúng hai bên đường
cũng nức nở khen.
Nhà
vua rất sung sướng. Bỗng nhiên một đứa trẻ hô lớn: “Ông vua ở truồng! Ông vua ở
truồng!" Nhà vua nhìn lại mình và mới biết mình đang ở truồng thật.
7. Nhân đức tỏa hương
Ngày
kia, Nữ hoàng Shaba gởi đến vua Salomon hai bó hoa rất giống nhau, để thử xem sự
khôn ngoan của ông tới đâu. Đó là một bó hoa thật và một bó hoa giả.
Nhận
được hai bó hoa, nhà vua bèn mở cửa sổ cho bầy ong bướm bay vào. Tức thì các
chú ong và các nàng bướm liền sà ngay xuống những bông hoa thật.
Những
bông hoa giả có sắc mà chẳng có hương, có bóng hình mà không có sự sống.
Những
kẻ giả hình cũng như thế: nói nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu. Thậm chí, chỉ
nói suông mà không có thực hành. Họ dung túng cho mình nhưng lại nghiêm khắc với
kẻ khác.
Người
giả hình có nhiều tật xấu khác mà Đức Giêsu không tiếc lời chỉ trích. Chắng hạn,
tính khoe khoang công đức, thích ăn trên ngồi trước, ưa được kính trọng chào hỏi
nơi công cộng, và muốn người ta gọi mình là “thầy."
8. Yêu người khác như chính mình
Vào
một đêm trời lạnh năm l980, thanh niên Paul Keating 27 tuổi đang đi bộ trong
khu Greenwich Village, bỗng thấy có hai tên cướp có súng tấn công một sinh viên
trẻ tuổi.
Paul
Keating là một người hiền lành, thợ chụp ảnh cho tuần báo Time, có đủ lý do để
tránh đi cho khỏi vạ lây. Anh ta không hề quen biết chàng sinh viên đó, lại
cũng chẳng ai thấy việc gì xảy ra. Hơn nữa, anh ta chỉ có một thân một mình,
can thiệp vào chẳng được lợi gì mà còn có thể bị hại. Nhưng Paul Keating vẫn
xông vào đánh hai tên cướp. Nhờ đó nạn nhân thoát được và đến một cửa hiệu gần
đó kêu cứu. Vài giây sau, hai tiếng nổ vang lên trong đêm tối, hai kẻ cướp chạy
mất, bỏ lại Paul Keating nằm chết trên vũng máu.
Thành
phố New York về sau đã truy tặng huy chương anh dũng cho Paul Keating. Thị trưởng
Edward Koch trong buổi lễ nói:
-
Đêm hôm ấy không ai thấy Paul Keating cả. Cũng không ai thúc đẩy anh ta phải
xông pha vào lúc nguy biến. Anh ta đã can thiệp vì con người anh ta là như vậy,
và chỉ có Thiên Chúa, Ngài biết rõ bên trong tâm hồn của anh ta.
9. Người cứ luật
Nghi
thức thanh tẩy như rửa tay trước khi ăn, đối với những người Pharisêu thật quan
trọng. William Barclay mô tả những qui định về việc rửa tay này thật tỉ mỉ: phải
dùng thứ nước dành riêng cho nghi thức này, phải đổ nước từ đầu ngón tay cho tới
cổ tay, phải dùng tay này nắm lại kỳ cọ lòng bàn tay kia, sau đó lại đổ nước, lần
này từ cổ tay đến đầu ngón tay. Nếu sai sót một chi tiết nào đều là có tội. Ông
Pharisêu này “lấy làm lạ” vì Chúa Giê-su không rửa tay, bởi ông coi điều phụ tuỳ
như điều chính yếu, coi hình thức bên ngoài thay thế tâm hồn bên trong.
Mời
Bạn: Lắm khi, chúng mình chẳng khác gì ông Pharisêu này. Có một cái gì đó rất
“Pharisêu” ở trong chúng ta. Chúng mình làm một việc gì đó được coi là đạo đức,
như lần chuỗi, đi lễ, rước lễ, làm việc từ thiện chẳng hạn, và chúng mình dò
xét thấy người khác không làm việc đó hoặc làm không giống mình. Thế là ta vội
qui kết người đó là tội lỗi hay ít là không đạo đức bằng chúng ta. Như thế
không phải là có một ông Pharisêu đang “ngự” trong lòng mình đó sao?
10.
Thấy điều cần thấy
Một
học giả Tây phương khoe khoang với một người Ảrập về sức mạnh của viễn vọng
kính. Người Ảrập chăm chú lắng nghe. Khi học giả ngừng nói, người Ảrập lên tiếng:
“Người Tây phương các ông thấy hàng triệu tinh tú và không thấy gì khác nữa.
Còn người Ảrập chúng tôi, chúng tôi chỉ thấy một số tinh tú và Thiên Chúa.”
Tôi
có thể là người Tây phương chỉ thấy hàng triệu tinh tú và không thấy gì khác nữa
không? Tôi có học để thấy Đấng Tạo Hóa xuyên qua các tinh tú không?
Mặt
trời quá lớn đến độ có thể chứa được cả triệu trái đất. Có nhiều ngôi sao trong
không gian cũng quá lớn đến độ có thể chứa được năm trăm triệu mặt trời (Morris
Mandell)
11. Luật lệ và tâm hồn
Nghi
thức rửa tay bắt đầu bằng việc đổ nước trên đầu ngón tay, rồi trên ngón tay, và
cuối cùng trên cổ tay. Nghi thức này bắt đầu kết thúc bằng cách làm ngược lại,
tức là đổ nước trên cổ tay, rồi đến ngón tay và đầu ngón tay. Chúa Giêsu không
để ý đến những nghi thức như thế. Ngài không quan tâm đến những nghi thức cho bằng
giáo huấn của Thiên Chúa qua việc chia cơm cho người đói, rước vào nhà những
người nghèo không nơi trú ngụ, cho kẻ mình trần áo che thân (Is 58, 7)
Trong
việc thực hiện đức tin tôi chỉ chú tâm đến chuyện đi nhà thờ và tuân giữ luật lệ
thôi chăng?
Khi
nghe chúng ta nói lời Thiên Chúa, người ta kinh ngạc vì vẻ đẹp và sức mạnh của
lời Chúa. Nhưng khi thấy Lời Chúa ít có ảnh hưởng đến cuộc sống hằng ngày của
chúng ta, họ sẽ cười nhạo những gì chúng ta nói ra.
12. Dấu hiệu của đức ái
Hầu
như tất cả chúng ta đều nhớ đến kiến thức hóa học từ hồi trung học này: giấy quỳ
sẽ hóa đỏ khi đặt vào dung dịch axit. Nói khác đi, giấy quỳ hóa đỏ là dấu hiệu
cho thấy axit hiện diện. Đức tin và đức ái một cách nào đó cũng như giấy quỳ
khi giờ cứu rỗi đến. Nói khác đi, đức tin được đồng hành với tình yêu là dấu hiệu
cho thấy ơn cứu rỗi hiện diện.
Dùng
đức tin và đức ái như việc thử nghiệm bằng giấy quỳ, sự cứu rỗi hiện diện thế
nào trong đời tôi?
Giả
như có người anh em hay chị em cần giúp đỡ, mà có ai trong anh em lại nói với họ:
“Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no, nhưng lại không cho họ những gì cần
thiết, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin
chết. (Gc 2, 15-17)
13. Tôi có và tôi là
Nhu
cầu làm sạch là nhu cầu thiết yếu của con người. Trong điều kiện môi trường ô
nhiễm ngày nay, đây lại là vấn đề sống còn. Tẩy rửa, làm sạch là nỗ lực tách những
gì dính bám vào làm cho đồ vật đó ra mất đi giá trị, vẻ đẹp nguyên sơ của nó.
Trong đời sống tâm linh, cũng có một nhu cầu tương tự. Người Do Thái rất coi trọng
nghi thức thanh tẩy để giữ mình khỏi dơ bẩn: họ cẩn thận rửa tay trước khi ăn để
khỏi bị ra nhơ uế. Nhưng những thực hành đó chỉ là dấu chỉ bên ngoài, làm sao
người ta có thể dùng để thanh tẩy tấm lòng là thứ nằm sâu bên trong được?
Phương
thế mà Chúa Giêsu dạy là hãy đem “bố thí” tất cả những gì ở bên trong thì mọi sự
sẽ nên trong sạch. Bởi vì Đấng làm ra cái bên ngoài cũng là Đấng đã làm ra cái
bên trong.
Thanh
tẩy đích thực được Chúa Giêsu gọi tên là “bố thí” có nghĩa là gỡ bỏ mọi thứ vỏ
bọc, tức là những thứ “TÔI CÓ”,-đó là tiền của, chức quyền, địa vị,v.v…-đang
bám dính quá chặt vào linh hồn tôi đến độ tôi tưởng lầm đó là cái “TÔI LÀ”, là
con người thật của tôi.
Thanh
tẩy là cho đi, là chia sẻ, để trả lại vẻ đẹp rực rỡ của linh hồn mà Chúa đã tạo
dựng từ thuở ban sơ, để dâng cho Ngài chính bản thân mình trinh nguyên như thuở
ban đầu.
14. Đẹp từ trong ra ngoài
Ca
dao có câu: “Sông sâu còn có kẻ dò, nào ai bẻ thước mà đo lòng người." Quả
thật, người ta có thể đo đạc được biển sâu, núi cao, đo cả đến những vì sao xa
lắc xa lơ; thế nhưng lòng người thì không có thứ máy móc chuyên dụng nào có thể
đo được. Lòng người thật bí hiểm và rắc rối, khôn dò. Vì thế, đã có lắm trường
hợp vì cả tin mà phải thiệt của, hay thậm chí thiệt thân. Thế nhưng, người ta
quên rằng có một Đấng đo được lòng người, dù nó được ngụy trang khéo léo đến
đâu, Đấng ấy là Thiên Chúa. Đức Giêsu nhắc ta nhớ rằng Thiên Chúa nhìn thấu suốt
tâm can, và Ngài muốn ta, bên cạnh việc cố gắng làm đẹp phong cách bên ngoài,
cũng hãy thanh tẩy tâm hồn bên trong khỏi những tư tưởng ô uế, gian tà.
Hãy
chú ý đến việc làm đẹp nội tâm bằng hai cách:
1/
loại trừ những tư tưởng ích kỷ, chỉ tìm niềm vui cho mình;
2/
nuôi dưỡng tâm tình yêu mến, quảng đại.
Tôi
có tìm cách làm đẹp phong cách, dáng vẻ bên ngoài, mà ít quan tâm đến việc làm
đẹp tâm hồn bên trong không?
THỨ TƯ -
Lời
Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
THỨ NĂM - DÒNG MÁU CỨU ÐỘ
Lời
Chúa: Lc 11, 47-54
Khi
ấy, Chúa phán: "Khốn cho các ngươi! Hỡi những người xây cất mồ mả các tiên
tri, mà tổ phụ các ngươi đã giết chết. Thật, các ngươi làm chứng và tán thành
những hành động của tổ phụ các ngươi: vì thực ra họ đã giết các vị tiên tri,
còn các ngươi thì xây mồ mả cho họ. Bởi đó mà sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã
nói: Ta sẽ sai đến với chúng các tiên tri và các tông đồ, trong số các vị đó,
người thì chúng giết đi, người thì chúng bách hại, khiến cho dòng giống này sẽ
bị đòi nợ máu của tất cả các tiên tri đã đổ ra từ lúc tạo thành vũ trụ, kể từ
máu của Abel cho đến máu của Giacaria, người đã bị sát hại giữa bàn thờ và thánh
điện. Phải, Ta bảo các ngươi, dòng giống này sẽ bị đòi nợ máu.
Khốn
cho các ngươi! Hỡi những tiến sĩ luật, vì các ngươi cất giữ chìa khoá sự hiểu
biết. Chính các ngươi đã không được vào, mà những người muốn vào, các ngươi đã
ngăn cản họ lại."
Khi
Người phán bảo cùng các biệt phái và tiến sĩ luật những lời đó, thì họ bắt đầu
oán ghét Người một cách ghê gớm, và chất vấn Người về nhiều vấn đề, cố gài bẫy
Người để may ra bắt bẻ được lời gì do miệng Người thốt ra chăng.
TRUYỆN KỂ
1. Dòng Máu Cứu Ðộ
Với
lý thuyết: "Người chết không nói", các đối thủ của những người thường
dùng bạo lực để thủ tiêu những người can đảm đóng vai trò tiên tri để nói lên sự
thật chống lại kỳ thị bất công, bênh vực quyền lợi của những người nghèo khổ. Từ
máu Abel, người vô tội đầu tiên đổ ra vẫn luôn nhuộm hồng với máu các tiên tri
thuộc mọi màu da, tiếng nói: một Martin Luther King, mục sư chủ trương bất bạo
động để tranh đấu cho sự phân biệt và kỳ thị mầu da ở xã hội Mỹ và bị bắn ngã
ngày 4/4/1968; hay một Oscar Roméro, vị giám mục thật sự yêu mến người nghèo đã
bị ám sát khi đang dâng Thánh Lễ tại một bệnh viện vào chiều ngày 23/4/1980.
Trong
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cập đến việc lấy máu đào làm chứng cho sự thật
nơi các tiên tri, Ngài cũng nói đến việc phải trả nợ máu. Ðoạn Tin Mừng còn cho
thấy lòng oán ghét của các Luật sĩ và Biệt phái đối với Chúa Giêsu ngày càng
gia tăng, và chính lòng oán ghét này đã dẫn Chúa Giêsu đến cái chết đẫm máu
trên Thập Giá, để Ngài thực sự chia sẻ số phận của các tiên tri. Những dòng máu
chảy từ thân xác Chúa Giêsu đã không đòi nợ máu, trái lại còn giải nợ máu, bởi
vì những dòng máu chảy ra vì tình yêu và vâng phục đối với Chúa Cha, đã phá tan
vòng luẩn quẩn của hận thù và oán ghét, qua lời Chúa Giêsu xin Cha tha thứ cho
những kẻ hành khổ và xử tử Ngài.
2. Gieo và gặt
Vào
năm 70 sau Công nguyên, vị tướng La Mã Titô đem đại quân vây hãm thành
Giêrusalem. Ông ra lệnh không được đốt phá.
Thế
nhưng, một quân nhân như bị thúc đẩy bởi một sức kỳ lạ đã cầm bó đuốc đang cháy
ném vào bên trong đền thờ, lửa bốc cháy nhanh, không chữa được. Sau khi đám
cháy tàn lụi, Titô ra lệnh phá hủy thành và đền thờ, ngoại trừ ba lều tháp và một
bức tường, để cho hậu lai thấy sự kiên cố của thành đã bị phá. Tất cả những sự
việc trên được sử gia Josèphe sống trong thời đó ghi chép lại cho hậu thế...
Ðức
Giêsu khóc thương thành vì sẽ có ngày thành huy hoàng bị phá huỷ… Sau này,
trong cuộc thương khó, dân chúng đấm ngực và thương khóc khi thấy Chúa Giêsu
vác thánh giá. Chúa Giêsu nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương
tôi, hãy khóc cho thân phận mình và cho con cháu” (Lc 23,27-28). Ngài yêu
thương thành Giêrusalem. Nhưng dân thành cố tình chối bỏ Ngài để chạy theo những
mê muội của trần gian. Ngài cảm thấy xót xa khi người ta từ chối tình yêu của
Ngài. Ngài đến cho họ tình yêu nhưng họ không đón nhận cho nên họ phải đau khổ.
Tất cả mọi sự đã xảy ra như lời Chúa Giêsu đã loan báo: Vào năm 70 sau Công
nguyên quân đội Rôma do tướng Titô chỉ huy đã phá hủy và bình địa thành nguy
nga này.
Ngày
nay, chúng ta cũng như dân thành Giêrusalem ngày xưa: Cố tình chối bỏ Chúa để
chạy theo những vật chất, quyền bính danh vọng trần gian. Ðức Giêsu vẫn đang
than khóc và đau khổ vì tội lỗi con người...
3. Giá trị con người ở đâu?
Chuyện
kể rằng: một người được mời đến dự buổi tiệc lớn. Ông vui vẻ nhận lời và khoác
bộ áo xấu nhất. Đến nơi, không ai thèm cười và để ý đến ông. Ông quay về, khoác
bộ áo đẹp có đính kim cương và các hạt nút bằng vàng. Trong khi ấy yến tiệc vẫn
tiếp tục. Ông quay trở lại, lập tức bao lời mời đẹp nhất, danh dự nhất đều dành
cho ông. Thịt béo rượu thơm lúc này được bày ra trước mắt ông và ông được mời
chỗ nhất.
Ông
liền đứng lên, cởi áo, trèo lên ghế, đoạn lấy thức ăn đưa cho cái áo và nói:
“Mày ăn uống đi, người ta mời mày đó." Mọi người hết sức ngạc nhiên, nhưng
đều hiểu ý ông này. Ông muốn nói với mọi người rằng: giá trị của con người
không ở bộ áo xúng xính hay cái mã bên ngoài, nhưng đó là tấm lòng bên trong,
không ở những cái mình có nhưng ở cái mình là.
4. Thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu
Lịch
sử còn ghi lại: Năm 66, người Do Thái đã tàn sát những binh lính Rôma trong đồn
binh Antônia. Lập tức, hoàng đế Néron gởi tướng Vespasiano với một đạo binh
hùng hậu đến Giuđê. Giữa chiến dịch thì Néron chết và Vespasiano lên ngôi hoàng
đế. Ông này trao quyền chỉ huy quân đội cho con là Titus. Titus vây hãm thành
vào lễ vượt qua năm 70. Jêrusalem, lúc đó đang có khoảng một triệu rưỡi người
Do Thái tụ họp lại nhân ngày lễ, bị vây hãm kín mít. Chẳng bao lâu, đói kém xảy
ra và mỗi ngày có cả ngàn người chết đói.
Titus
trả thù bằng cách cho đóng đinh 300 người Do Thái tại chân núi Sọ, sau đó mỗi
ngày lại cho đóng thêm gần 500 người Do Thái. Nhiều người bị mổ bụng vì lính
Rôma nghi họ nuốt vàng. Khi đã làm chủ được tình hình, người Rôma cho đốt thành
phố lẫn đền thờ. Jêrusalem bốc cháy hai ngày hai đêm. Ngày thứ ba nó chỉ còn là
một đống gạch vụn hoang tàn. Hơn 200.000 người bị chôn vùi dưới đó. 97.000 người
bị bắt làm nô lệ ở Rôma, và bị bán với giá rẻ mạt cho hí trường để đánh nhau với
thú dữ hoặc chiến đấu giết nhau làm trò vui cho người Rôma. 2.000 nhà quí tộc
Do Thái phải dự buổi khải hoàn của Titus ở Rôma.
Họ
phải mặc áo trắng, phải vác lấy chiến lợi phẩm lớn lao mà người chiến thắng đem
về từ Jêrusalem. Khi đến đền Chiếm Thần, thì họ bị giết và đó là lễ đăng quang
của cuộc chiến đẫm máu được trả giá bằng mạng sống của hơn một triệu người Do
Thái. Sử gia Josephus, một nhà biên niên sử thời đó, người đã kể lại sử truyền
này, đã cho rằng những điều kinh tởm của cuộc vây hãm thành Jêrusalem kinh khủng
đến nỗi thế giới sẽ không bao giờ chứng kiến những điều như vậy.
5. Thảm họa không tên
Lòng
yêu mến Thiên Chúa trở nên cốt yếu cho đời sống linh mục, nếu thiếu tình yêu ấy,
đó sẽ là một “thảm họa không tên.” Lòng yêu mến ấy được thể hiện đặc biệt trong
cử hành Thánh Lễ, vì theo Cha Sở Thánh Vianney, “tất cả các công việc tốt lành
hợp lại không tương đương được với hy tế Thánh Lễ, bởi vì Thánh Lễ là công
trình của Thiên Chúa.” Từ đó, Ngài xác tín rằng, “Nguyên nhân sự buông thả nơi
linh mục, đó là người ta không chú tâm đến Thánh Lễ! Than ôi! Lạy Thiên Chúa của
con! Linh mục thật đáng thương biết bao khi ngài thực thi điều đó như là một điều
tầm thường.”
Cử
hành Thánh Lễ với lòng mến yêu Chúa sẽ giúp linh mục luôn dâng hy tế cuộc sống
của ngài và sẽ giúp đào tạo đức tin của giáo dân. Trong thư gởi các linh mục
nhân kỷ niệm 150 năm ngày mất của Cha Sở Thánh, Đức Thánh Cha Bênêđitô quả quyết,
bất hạnh thay và cũng chẳng bao giờ chữa lành hết những lở lói trong các giáo xứ
có những linh mục thiếu lòng yêu mến Chúa.
6. Thế gian thích xét đoán
Một
nhà hài hước nói đại loại thế này: “Nếu tôi cố gắng kiếm tiền, tôi là kẻ tham
lam. Nếu tôi không cố gắng, tôi là kẻ lười biếng. Nếu tôi tiết kiệm tiền, tôi
là kẻ keo kiệt. Nếu tôi không tiết kiệm, tôi là kẻ vô trách nhiệm. Nếu tôi quảng
đại cho đi tiền bạc, tôi là kẻ khờ dại. Nếu tôi bo bo giữ lấy, tôi là kẻ ích kỷ.”
Nhà hài hước muốn nói lên điều này: cho gì chúng ta làm gì, thì một ai đó sẵn
sàng đưa ra những xét đoán. Vậy phải là gì? Một phụ nữ trả lời: “Hãy bình an với
những gì bạn làm và không để ý đến những lời xét đoán xung quanh mà chỉ những kẻ
khờ dại mới quan tâm đến chuyện đó.”
Tôi
có khuynh hướng xét đoán những người cùng sống và làm việc với tôi như thế nào?
Tại sao?
Khi
gặp gỡ ai, bạn xét đoán người đó theo cách ăn mặc. Khi rời họ, bạn lại xét đoán
người đó qua tâm hồn họ (Ngạn ngữ Nga)
7. Kiên nhẫn trong đường công chính
Chuyên
gia về tiềm năng con người là Joel Weldon nói rằng một mầm tre phải mất năm năm
mới nảy mầm được. Sau đó, mầm lớn lên một cách nhanh khoảng 30 thước trong 6 tuần
lễ. Theo Weldon thì điều này chẳng có gì lạ, bởi vì trong năm năm nằm yên, mầm
tre tạo được một bộ rễ với hàng trăm rễ. Chính bộ rễ này gia tăng sức mạnh để
cây có thể tăng triển nhanh chóng chỉ trong một thời gian ngắn như vậy.
Sự
kiên nhẫn và tự chủ của người trồng tre mời gọi tôi tự hỏi: tôi kiên nhẫn và tự
chủ thế nào khi không thấy ngay kết quả của công việc tôi làm?
Anh
em… hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới (Gc
5,8)
8. Giả hình là chết từ bên trong
Một
phụ nữ kia có một giấc mơ kỳ lạ: Một thiên thần đưa bà ta đến nhà thờ để làm việc
thờ phượng. Người chơi organ dạo đàn, những phím đàn lên xuống, những chẳng
nghe thấy tiếng nhạc. Bài thánh ca được hát lên, nhưng cũng chẳng nghe được lời
nào. Cộng đoàn tín hữu cầu nguyện, nhưng cũng không nghe thấy âm thanh gì. Người
phụ nữ quay về phía thiên thần và hỏi: “Tại sao tôi không nghe thấy gì?” Thiên
thần trả lời: “Chẳng có gì để nghe cả.”
Tôi
có cố gắng thờ phượng Thiên Chúa một cách tin tưởng không những bằng môi mìệng,
mà bằng con tim và cuộc đời tôi không?
Vấn
đề của thế kỷ 19 là Thiên Chúa đã chết. Còn vấn đề của thế kỷ 20 là con người
đang chết dần chết mòn (Erich Fromm)
THỨ SÁU - ÐỪNG SỢ
Lời
Chúa: Lc 12, 1-7
Khi
ấy, có nhiều đám đông dân chúng đứng chung quanh, đến nỗi chen đạp lẫn nhau,
nên Chúa Giêsu bắt đầu dạy các môn đệ trước tiên rằng: "Các con hãy ý tứ
giữ mình khỏi men biệt phái, nghĩa là sự giả hình.
Không
có gì che đậy mà không bị tiết lộ ra, và không có gì giấu kín mà chẳng biết được.
Vì vậy, những điều các con nói trong nơi tối tăm, sẽ được nói ra nơi sáng sủa,
và điều các con nói rỉ tai trong buồng kín, sẽ được rao giảng trên mái nhà.
"Thầy bảo các con là những bạn hữu của Thầy rằng: Các con đừng sợ chi những
kẻ giết được thân xác, rồi sau đó không thể làm gì hơn được nữa. Thầy sẽ chỉ
cho các con biết phải sợ ai: Hãy sợ Ðấng, sau khi đã giết chết, còn có quyền
ném vào địa ngục. Phải, Thầy bảo các con hãy sợ Ðấng ấy.
"Chớ
thì năm con chim sẻ không bán được hai đồng tiền sao? Thế mà không một con nào
bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa. Hơn nữa, mọi sợi tóc trên đầu các con cũng đã
được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn trọng hơn nhiều con chim sẻ."
TRUYỆN KỂ
1. Các Con Ðừng Sợ
Thánh
Justinô là một triết gia nổi tiếng của Kitô giáo vào thế kỷ thứ 2; ngài đã bị bắt
giam tại Rôma cùng với một số Kitô hữu khác, vì tội tuyên truyền tôn giáo trong
trường học do ngài điều khiển. Ra trước tòa, khi được hỏi về hành động của
mình, thánh nhân dõng dạc tuyên bố:
-
Suốt đời tôi, tôi đã đi tìm kiếm chân lý; tôi đã nghiên cứu sâu xa các triết lý
Ðông Phương, Hy Lạp và Rôma; thế nhưng cuối cùng tôi đã tìm được giáo thuyết
chân thật.
Quan
tòa liền hỏi giáo thuyết chân thật đó là gì? Thánh nhân giải thích:
-
Thưa là giáo thuyết của Chúa Giêsu Nazaret, giáo thuyết này nhằm giải phóng
chúng ta khỏi các ngẫu tượng và dạy chúng ta thờ phượng một Thiên Chúa độc nhất,
hằng sống và chân thật, là Ðấng tạo thành trời đất, là Ðấng cứu rỗi nhân loại.
Quan
tòa lại hỏi: - Vậy ông là một Kitô hữu ư?
Thánh
nhân liền tuyên xưng:
-
Phải, tôi là một Kitô hữu và tôi lấy làm vinh dự được làm Kitô hữu cùng với các
bạn tôi đây.
Quan
tòa ra lệnh cho thánh nhân và các bạn của ngài phải tế thần, thánh nhân trả lời
một cách cương quyết:
-
Chúng tôi không tôn thờ ngẫu tượng, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng tôi
là những người vô thần. Chúng tôi thờ lạy một Thiên Chúa thiêng liêng, Cha của
Chúa Giêsu. Một người có đầu óc lành mạnh không thể từ bỏ tôn giáo chân thật để
chạy theo một tôn giáo giả.
Thấy
không thể thuyết phục được thánh nhân bỏ đạo, quan tòa ra lệnh đánh đòn rồi xử
trảm thánh nhân và các bạn.
2. Đức Tổng giám mục Oscar Romero
Khi
mới lên Tổng Giám mục giáo phận San Salvador, Đức cha Oscar Romero vẫn còn theo
lập trường bảo thủ. Nhưng chẳng bao lâu sau, khi nhìn thấy những bất công xã hội,
ngài đã thay đổi cái nhìn của mình.
Mỗi
ngày Chúa nhật, ngài giảng ở nhà thờ chính toà để tố cáo những tội ác đã diễn
ra mà đa số là các viên chức chính phủ. Các bài giảng của ngài như một luồng điện
mạnh chạm đến toàn xã hội. Khi ngài nói, hầu như mọi người đều ngưng làm việc để
lắng nghe ngài.
Ngài
bị đặt vào trong tình trạng bị đe dọa thường xuyên. Một vài bạn bè thân thích của
ngài đã bị giết chết. Nhưng ngài vẫn không im tiếng, cũng không lánh đi nơi
khác an toàn hơn cho riêng mình. Ngài nói: “Một mục tử chân chính khi thấy nguy
hiểm không thể bỏ đoàn chiên để cứu lấy mạng sống mình. Nhưng tôi sẽ ở lại với
dân tôi."
Và
ngài đã bị chết dưới làn đạn của kẻ thù vào tháng ba năm 1980 đang lúc ngài
dâng thánh lễ.
3. Tình yêu thật khó hiểu
Một
hôm Đức Ala gọi một Thiên sứ đến và truyền lệnh: “Ngươi hãy xuống trần gian để
đưa về đây người đàn bà góa có 4 đứa con thơ." Thiên sứ ra đi, gặp ngay
người đàn bà góa đang cho đứa con nhỏ nhất bú. Ngài nhìn người đàn bà với 4 đứa
con dại, rồi lại lên Đức Ala để tha thiết nài xin rút lại lệnh truyền. Làm sao
có thể nhẫn tâm tách lìa người mẹ khỏi những đứa con thơ ấy? Nhưng lời van xin
của Sứ thần chẳng mảy may đánh động được Đức Ala. Cuối cùng Sứ thần đành phải
vâng lệnh Đức Ala mà cướp người mẹ góa khỏi bầy con thơ và đưa về trời.
Hoàn thành công tác, nhưng xem chừng vị thiên
sứ lại có vẻ buồn. Phải, làm sao vui được trước cảnh chia ly giữa mẹ và con? Thấy
sứ thần buồn, Đức Ala gọi đến và đưa vào sa mạc. Ngài chỉ cho sứ thần thấy một
tảng đá lớn và bảo đập nó ra. Tảng đá vừa vỡ đôi, sứ thần ngạc nhiên vô cùng,
vì từ trong tảng đá một con sâu nhỏ từ từ bò ra. Chợt hiểu được ý nghĩa của sự
kiện ấy, sứ thần bỗng thốt lên: “Ôi lạy Đấng tối cao, mầu nhiệm thay công cuộc
sáng tạo của Ngài. Với sự khôn ngoan thượng trí và tình yêu vô biên, Ngài đã
không bỏ mặc một tạo vật bé nhỏ như con sâu kia, thì hẳn Ngài cũng sẽ không
quên được 4 đứa trẻ mồ côi là con cái của Ngài.”
4. Không sợ ánh sáng
Ông
Dung là chủ một nhà giữ xe và sửa xe rất lớn. Hôm ấy có người lái chiếc xe
Cam-nhông ghé vào vì cần được sửa chữa đôi chút.
Xong
việc, ông chủ tiệm trao cho anh tài xế xe Cam-nhông tờ hóa đơn để trả tiền.
Xem
xong người tài xế trao lại cho ông chủ tiệm và đề nghị ông lấy thêm tiền cho
vài dịch vụ khác nữa, dầu sao thì công ty cũng sẽ trả hết, như thế phần thặng
dư sẽ chia đôi giữa người tài xế và ông chủ tiệm.
Vốn
là người liêm chính, ông Dung từ chối thi hành lời đề nghị gian dối ấy.
Như
không muốn bỏ mất cơ hội tốt đẹp, ông tài xế năn nỉ thêm và hứa sẽ trở thành
khách hàng thường xuyên đến với ông. Tại sao lại không lợi dụng cơ hội tốt như
thế này? Nào có ai biết gì đâu?
Một
lần nữa, ông Dung thẳng thắn từ chối và nói thêm:
-
Ðó không phải là cách làm việc của tôi.
Người
lái xe năn nỉ thêm và cố tình thuyết phục ông chủ.
Ông
chủ trả lời cách dứt khoát:
- Nếu
ông muốn làm những chuyện gian tham đến như thế, xin ông hãy đi đến nơi khác, ở
đây chúng tôi không thể chấp nhận bất cứ hình thức gian dối nào cả.
Trước
cử chỉ anh dũng của ông chủ, bấy giờ người tài xế lịch sự nói với giọng đầy
thán phục:
-
Thưa ông, tôi đây chính là chủ hãng xe Cam-nhông, tôi chỉ muốn thử và tìm xem
đâu là nơi sửa xe đáng được tín nhiệm nhất.
5. Sự sống trong tay Chúa
Một
giáo sư thực vật học tay cầm một hạt giống nhỏ màu nâu và nói với cả lớp rằng:
- Tôi biết rõ hợp chất của hạt giống này. Nó gồm hydro, carbon và nitro. Tôi biết
đúng tỉ lệ và có thể tạo ra một hạt giống khác trông y như hạt giống này.
Một
học sinh đứng lên hỏi: - Thưa thầy, nếu đem hạt giống thầy chế tạo đó mà gieo
xuống đất, nó có thể mọc lên không ạ?
Giáo
sư trả lời: - Với hạt giống của tôi, điều đó không thể được. Nhưng nếu tôi đem
hạt giống mà Thiên Chúa đã làm ra, nó sẽ mọc lên thành cây, vì nó chứa đựng
nguyên tắc nhiệm mầu mà chúng ta gọi là nguyên tắc sinh tồn.
6. Con gì lớn nhất
Có
một lần tôi hỏi một em bé từ trong lớp Giáo Lý đi ra:
- Con
gì to nhất?
Tôi
nghĩ chắc chắn em sẽ trả lời là con voi, con khủng long. Thế nhưng em nhanh miệng
nói:
- Thưa
Cha, con Đức Chúa Trời ạ!
Đấy
là một em bé nhờ học Giáo Lý mà em đã nhận ra giá trị con người được Chúa sinh
lại làm con Chúa trổi vượt hơn mọi động vật khác. Do đó, Ngài chăm sóc ta được
sống dồi dào không phải chỉ vì thương mà còn vì danh dự của Ngài nữa! (x Tv
143/142,11; Ga 10,10). Do đó dẫu ta phải đương đầu với kẻ có men gian ác Biệt
phái,Chúa vẫn động viên ta : “Cứ mạnh dạn rao giảng trên mái nhà, tức là leo
lên cao loan báo Tin Mừng cách công khai, đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân
xác chúng con, mà không diệt được hồn xác người nào, một chỉ sợ nhiễm men Biệt
phái, là kẻ sẽ bị Chúa diệt cả hồn xác trong hỏa ngục!” (x Lc 12, 2-5: Tin Mừng).
7. Thiên Chúa là Cha nhân từ
Có
một lần tôi hỏi một em bé từ trong lớp Giáo Lý đi ra:
- Con
gì to nhất?
Tôi
nghĩ chắc chắn em sẽ trả lời là con voi, con khủng long. Thế nhưng em nhanh miệng
nói:
- Thưa
Cha, con Đức Chúa Trời ạ!
Đấy
là một em bé nhờ học Giáo Lý mà em đã nhận ra giá trị con người được Chúa sinh
lại làm con Chúa trổi vượt hơn mọi động vật khác. Do đó, Ngài chăm sóc ta được
sống dồi dào không phải chỉ vì thương mà còn vì danh dự của Ngài nữa! (x Tv
143/142,11; Ga 10,10). Do đó dẫu ta phải đương đầu với kẻ có men gian ác Biệt
phái,Chúa vẫn động viên ta : “Cứ mạnh dạn rao giảng trên mái nhà, tức là leo
lên cao loan báo Tin Mừng cách công khai, đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân
xác chúng con, mà không diệt được hồn xác người nào, một chỉ sợ nhiễm men Biệt
phái, là kẻ sẽ bị Chúa diệt cả hồn xác trong hỏa ngục!” (x Lc 12, 2-5: Tin Mừng).
8. Ta chẳng quên người bao giờ
Một
phụ nữ trẻ không đến nhà thờ trong 12 năm kể từ khi tốt nghiệp đại học. Chỉ mới
đây, bà và chồng bà có những biến đổi. Cả hai đều là những người thích đọc
sách, do đó có đến hàng chục cuốn sách được xếp lên giá. Một đêm kia, bà ngồi đọc
lại cuốn “Chiếc áo dài”, trong đó một người lính La Mã đã trở thành tín hữu sau
khi thấy Chúa Giêsu chết. Bà nhớ lại cuốn “Mẹ các tín hữu”, một cuốn sách mà
người ta tặng cho bà cách đây nhiều năm. Giờ đây, khi đọc lại nó, bà thấy xúc động
lạ thường. Thật ra đó là cuốn đầu tiên mà bà mở ra, nhưng lại chứa đựng những
gì bà cần đến. Hôm sau, bà ta trở lại với Giaó hội.
Có
khi nào tôi ý thức bàn tay Chúa hướng dẫn tôi vào giây phút nào đó trong đời
tôi? Có khi nào tôi quên mất Thiên Chúa không?
Ta
sẽ chẳng quên ngươi bao giờ… Ta sẽ ghi khắc tên ngươi trong lòng bàn tay Ta (Is
49, 15)
9. Đâu là điều đáng sợ?
Khi
gõ chữ “sợ” vào trang điện tử google, chúng ta sẽ có được khoảng 20.800.000 kết
quả tìm kiếm. Thực tế mỗi người đều sợ một thứ gì đó. Ngôi sao điện ảnh chuyên
thủ vai điệp viên 007, Sean Connery sợ đèn đỏ ở các cột giao thông. Nữ tài tử
Sharon Stone sợ tivi nổ tung bất cứ lúc nào. Tiền đạo của Arsenal, Adebayor sợ
đi máy bay. Ca sĩ Phương Thanh sợ xe container… Chung quy mọi nỗi sợ đều quy về
một mối là sợ chết.
Người
kitô hữu vì đức tin và vì yêu mến Thiên Chúa không sợ roi vọt, không sợ tù đầy,
không sợ những kẻ giết thân xác. Nhưng thứ họ sợ nhất chính là tội lỗi, bởi vì
tội lỗi làm họ xa cách Thiên Chúa, trở thành nô lệ ma quỷ, và hậu quả là bị ném
vào hoả ngục. Nói như thánh Phaolô: “Vì tội lỗi nên sự chết đã nhập vào thế
gian” (Rm 5,12). Thật hợp lý, tránh tội lỗi thì sẽ tránh được sự chết, cái chết
cả xác lẫn hồn.
Mời
Bạn: Bạn đang lo sợ điều gì? Phải chăng bạn không dám sống như một kitô hữu vì
sợ trở ngại cho con đường tiến thân? Phải chăng bạn không dám bênh vực cho công
bằng và lẽ phải vì sợ tai bay vạ gió? Phải chăng bạn không dám trung thực trong
việc học hành thi cử vì sợ thua thiệt…? Những nỗi sợ đó có thật chính đáng khiến
bạn phải mất bình an không? Làm gì để thoát khỏi nó?
THỨ BẢY - THÁNH THẦN SẼ DẠY
Lời
Chúa: Lc 12, 8-12
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hễ ai xưng nhận Thầy trước mặt
người đời, thì Con Người cũng sẽ xưng nhận nó trước mặt các thiên thần của
Thiên Chúa; nhưng ai chối bỏ Thầy trước mặt người đời, thì sẽ bị chối bỏ trước
mặt thiên thần của Thiên Chúa. Và hễ kẻ nào nói phạm đến Con Người, thì nó sẽ
được tha. Nhưng kẻ nào nói phạm thượng đến Thánh Thần, thì sẽ không được tha.
"Khi
người ta điệu các con vào các hội đường, đến trước mặt vua quan và chính quyền,
các con chớ lo lắng phải thưa làm sao, hay phải nói thế nào, vì trong giờ ấy,
Thánh Thần sẽ dạy các con phải nói thế nào."
TRUYỆN KỂ
1. Tội Phạm Ðến Chúa Thánh Thần
Ông Charles Darwin, khi về già đã tâm sự: lúc còn trẻ,
ông cũng rất yêu thích thi ca và âm nhạc, thế nhưng, công việc nghiên cứu đã
chiếm hết thời giờ của ông. Dành trọn cuộc đời cho sinh vật học, cho nên ông đã
mất dần khả năng thưởng thức thi ca và âm nhạc, đến nỗi về sau, thi ca đối với
ông chỉ còn là những lời vô bổ và âm nhạc chỉ là những tiếng động ồn ào mà
thôi. Cuộc đời ông đã thiếu hẳn vẻ tươi mát và trẻ trung. Thế nên, nếu được sống
lại tuổi trẻ lần nữa, ông sẽ dành thời giờ tìm đến thi ca và âm nhạc, để khỏi mất
đi khả năng thưởng thức chúng, một khả năng giúp cho cuộc đời thêm hương vị.
Lời tâm sự của Charles Darwin giúp chúng ta hiểu
thêm phần nào về tội phạm đến Chúa Thánh Thần được Chúa Giêsu nói đến trong Tin
Mừng hôm nay.
2. “Đừng sợ” Chúa Thánh Thần sẽ nói thay
Đọc lại lịch sử các thánh Tử đạo Việt Nam, chúng ta
thấy: rất nhiều vị thánh xuất thân từ nhà quê, chẳng được học hành là bao, lại
phải lam lũ khổ sở, suốt ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời! Ấy vậy mà khi
bị bắt, bị tra tấn, đánh đập, nhất là khi bị hỏi cung, các ngài đã trả lời hết
sức trôi chảy. Không những thế, các ngài còn lý luận và bẻ gãy những lời nói
phi nhân, bất nghĩa của vua quan. Mặt khác, nhân cơ hội, ngoài chuyện làm chứng
cho Chúa bằng đời sống, các ngài còn rao giảng Lời Chúa cho những người đang
làm hại mình nữa. Tất cả những chuyện đó, chúng ta, ai cũng hiểu là Chúa Thánh
Thần nói trong và hành động nơi các thánh.
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng nói cho các môn
đệ biết, các ông sẽ phải chịu đau khổ, bách hại và gặp muôn điều khó khăn, tuy
nhiên, các ông đừng sợ, những lúc như thế, Chúa Thánh Thần sẽ giúp các ông để
cho các ông biết phải làm gì và nói gì.
3. Có, tôi tin chứ
Trong một tu viện đang bị quân đội Xô Viết chiếm
đóng, một cuộc đối thoại đang diễn ra giữa Tu viện trưởng và một sĩ quan Xô Viết.
Ông này nói: - Hiện giờ chỉ có hai chúng ta, không một ai chứng kiến, vậy ông
hãy nói sự thật, đừng sợ gì cả! Hãy nói cho tôi biết là ông không tin vào tất cả
những chuyện Chúa Bà, tôn giáo mà ông tuyên xưng đây.
Vị Tu viện trưởng trả lời: - Có, tôi tin chứ!
Viên sĩ quan liền rút súng lục ra, gí thẳng vào thái
dương cha và nói:
- Nếu ông không nói là ông chẳng tin gì cả thì tôi sẽ
bắn!
Và Tu viện trưởng lặp lại một lần nữa lời tuyên xưng
của mình. Viên sĩ quan hạ súng xuống và kêu lên vui vẻ: - Đây là điều mà tôi
trông đợi, đây là người mà tôi tìm kiếm. Tôi cũng vậy, bây giờ tôi tin vào Chúa
Kitô.
Rồi cuộc đối thoại tiếp tục trong hướng tinh thần đó
(Trích trong cuốn “Bưng biền của Thiên Chúa” của cha Georges).
4. Sợ tội thì không sợ gì hết
Triều đình Hoàng Ðế Hy Lạp đã nhóm họp để bàn cách
trả thù thánh Gioan Kim Khẩu vì ngài đã thẳng thắn khiển trách bà Hoàng Hậu.
Kế hoạch I: Bỏ tù.
- “Nhưng ông ấy sẽ được dịp cầu nguyện, chịu khó vì
Chúa như ông hằng mong muốn.”
Kế hoạch II: Lưu đầy.
- “Nhưng đối với ông ấy, đâu cũng là đất Chúa.”
Kế hoạch III: Tử hình.
- “Ông sẽ được tử đạo, chúng ta sẽ thỏa mãn nguyện vọng
ông: được về với Chúa.”
“Tất cả kế hoạch I, II và III không làm cho ông khổ
đau, ngược lại ông sẽ vui sướng chấp nhận.”
Kế hoạch IV: “Chỉ có một điều ông khiếp sợ nhất, gớm
ghét nhất là tội lỗi, nhưng bắt ông phạm tội không được!”
Nếu con chỉ sợ tội, thì không ai mạnh hơn con. (Đường
Hy Vọng số 991)
5. Hãnh diện thì không sợ
Một vị tuyên úy người Mỹ vừa giảng một bài cho các
binh sĩ Mỹ trong một thánh lễ tại một giáo đuờng ở Châu Âu. Chủ đề của bài giảng
là: “Hãy tự hào về Đức tin Công giáo của bạn: Đừng xấu hổ khi phải tuyên xưng
nó."
Một người lính thuỷ nghe và cảm thấy hết sức xúc động
nên sau thánh lễ người này đã chận vị tuyên úy lại ngay trước cửa giáo đường và
hỏi: - Thưa Cha, cha có bằng lòng nghe con xưng tội không?
Vị tuyên úy trả lời: - Tôi rất hạnh phúc được nghe
anh xưng tội.
Thế là chàng lính thủy quì ngay xuống lối đi bên cạnh
ngay trước giáo đường. Vị tuyên úy vội nói:
- Đừng quì gối kẻo thiên hạ nhìn kìa!
Chàng lính thủy đáp lại: - Kệ họ, thưa cha, cứ để họ
nhìn, con hãnh diện về đức tin của con.
6. Tác động của Thánh Thần
Dạo tháng 2/1996, cùng với phái đoàn của Hội đồng
Giám mục Pháp, một linh mục ký giả là cha Daniel, đã đến thăm một số giáo phận
tại Việt Nam. Trong một bài ký sự được đăng trên một tờ báo Công giáo Pháp, cha
Daniel đã gọi Việt Nam là đất thơm mùi máu các thánh tử đạo.
Chứng kiến cuộc sống sinh hoạt tôn giáo hàng ngày của
các xứ đạo ở vùng quê, tác giả đã ghi lại từng chi tiết mà người dân Tây Phương
ngày nay chỉ có thể ngỡ ngàng mà thôi: bốn giờ sáng chuông nhà thờ đổ hồi. Bốn
giờ mười lăm phút, mọi người từ trẻ đến già lũ lượt đến nhà thờ. Bốn giờ ba
mươi phút đọc kinh. Năm giờ, thánh lễ hoặc tham dự phụng vụ Lời Chúa.
Tại một nhà thờ chính tòa nọ, tác giả đã sửng sốt
khi chứng kiến năm ngàn người đứng chật ních nhà thờ trong thánh lễ bốn giờ ba
mươi phút mỗi ngày trong tuần.
Tác giả nhận định về thời khóa biểu tôn giáo này như
sau: “Rõ ràng là ở đó, người ta chỉ sống cho Thiên Chúa, cho niềm vui con người,
ở đó Thiên Chúa là niềm vui của người nghèo.”
Còn Đức Tổng Giám mục Claudio Celli, sau những ngày
làm việc của ngài tại Việt Nam hồi trung tuần tháng 10/1996, Ngài nói như sau:
“Con người có thể đặt ra những giới hạn cho sinh hoạt của Giáo Hội, nhưng không
thể ngăn chặn tác động của Chúa Thánh Thần."
7. Chúa Thánh Thần soi sáng lúc khó khăn
Tại Việt Nam, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Đức Giám
mục nào muốn phong chức Linh mục cho ai thì phải được sự đồng ý của chính quyền.
Thế mà Đức cha Nam, Giám mục Mỹ Tho tự ý truyền chức Linh mục cho 30 thầy. Sau
đó chính quyền mời ngài đi làm việc, họ tra vấn
- Tại sao ông phong chức Linh mục mà không hỏi ý kiến
chúng tôi?
Đức cha bình tĩnh đáp lại
- Ấy tôi phong các phó Linh mục.
- Đúng thế không?
- Quý vị cứ đến các xứ có tân phó Linh mục, các ông ấy
không phải là Linh mục chánh xứ.
- Thế ra các ông ấy mới là phó Linh mục ư?
- Đúng thế.
Rõ ràng Đức cha đã được Chúa Thánh Thần hướng dẫn để
thoát nạn!
Đúng như Chúa đã nói: “Thần Khí sự thật sẽ làm chứng
về Thầy. Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng về Thầy” (Ga 15,26b. 27a: Tung Hô
Tin Mừng).
8. Thánh Thần dạy anh em nói
Đứng trước toà án quan Thượng Vương, người thanh
niên 19 tuổi vẫn “cả lòng, lại quyết mình không lầm, cứ nói rằng mình là bổn đạo
thờ Chúa Trời Đất, dù cách nào cũng không bỏ, lại sẵn sàng chịu mọi hình phạt,
cả đến mất mạng sống nữa.” Và với những lời nói đó, người thanh niên ấy, chính
là thầy giảng Anrê Phú Yên, đã hy sinh mạng sống để làm chứng nhân đức tin. Những
lời nói của thầy Anrê Phú Yên được cha Đắc Lộ ghi lại đó chắc chắn không phải
là lời của phàm nhân nhưng là lời mà “Thánh Thần dạy anh em nói” khi phải ra
trước mặt vua chúa quan quyền để làm chứng cho Chúa Kitô.
Thánh Thần chỉ nói thay cho chúng ta khi chúng ta sống
trong ơn nghĩa Chúa và kết hiệp mật thiết với Ngài nhờ đời sống cầu nguyện và
bí tích.
9. Hạnh phúc thực và ảo
Một nhà truyền giáo suốt đời sống ở Trung Quốc và một
ca sĩ chỉ sống ở đó hai tuần, cả hai cùng trở về quê hương trên một chuyến tàu.
Hàng ngàn người chào đón chàng ca sĩ, nhưng chẳng một ai chào đón nhà truyền
giáo. Lúc đó, nhà truyền giáo thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con đã hiến dâng Ngài đời
con, còn anh ta mới chỉ cho Ngài hai tuần, vậy mà hàng ngàn người chào đón anh
ta khi trở về, còn con thì chẳng được ai chào đón.” Thiên Chúa trả lời: “Này
con, con vẫn chưa về nhà mà.”
Tôi có tìm kiếm và chờ đợi vinh dự vì những gì tôi
đã làm cho thế gian này không?
Chúa Giêsu nói: “Hãy tích trữ kho tàng trên trời. Vì
kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó” (Mt 6,20-21).
10. Gian nan cần cho niềm tin
Trong Tự Sắc “Cánh Cửa Đức Tin,” Đức Thánh Cha
Bênêđitô XVI nói: “Giáo Hội tiếp tục cuộc lữ hành giữa những cuộc bách hại trần
thế và những an ủi của Thiên Chúa, loan báo cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa
cho đến khi Ngài đến.” Trong Năm Đức Tin, Chúa Giêsu nhắc nhở rằng chúng ta vẫn
luôn trải qua những gian nan cho niềm tin của mình. Nhưng có Chúa nâng đỡ và
phù trì, sự gian nan khốn khố ấy không làm chết nghẹt đức tin và lòng cậy của
chúng ta. Vậy, chúng ta hãy can đảm đối đầu, chấp nhận chịu đựng gian nan khốn
khó vì Chúa và vì Tin Mừng, đó là bằng chứng niềm tin hùng hồn và tình mến nồng
nàn đối với “Đấng đã yêu thương và hiến mạng vì tôi” (Gl 2,20).
Để loan báo Tin Mừng cho Nước Chúa, Chúa Giêsu mời gọi
chúng ta phải hy sinh, từ bỏ. Cho nên, khi chấp nhận hy sinh của cải, danh dự,
sự nghiệp hay từ bỏ thói hư tính xấu dù phải thiệt thòi, thiệt thân, chính lúc
đó đức tin của chúng ta được vững mạnh và vẹn toàn.
Lời Chúa Tuần 28 Thường Niên
Thường niên V-GS C-PS Ngoại lịch