LỜI CHÚA TUẦN 28 THƯỜNG NIÊN
CÂU TRUYỆN MINH HỌA
CNTN 28A – ĐƯỢC MỜI DỰ TIỆC
CƯỚI
CNTN 28B – BỎ MỌI SỰ MÀ THEO
CHÚA
CNTN 28C – NGƯỜI PHONG VÀ
LÒNG BIẾT ƠN
THỨ BA - THANH TẨY HỮU HIỆU,
CHÍNH LÀ TÌNH YÊU
THỨ TƯ – YÊU THƯƠNG LÀ LINH
HỒN CỦA LỀ LUẬT
LỄ THÁNH LUCA – DIỄN VĂN
TRUYỀN GIÁO
CNTN 28A – ĐƯỢC MỜI DỰ TIỆC CƯỚI
Lời Chúa: Mt 22, 1-10 (hoặc 1-14)
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu lại phán cùng các đầu mục tư tế và kỳ lão
trong dân những dụ ngôn này rằng: "Nước trời giống như vua kia làm tiệc cưới
cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng
họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: "Hãy nói cùng những
người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt
rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới.” Những người ấy đã
không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán; những
người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi. Khi vua nghe biết, liền nổi
cơn thịnh nộ, sai binh lính đi tru diệt bọn sát nhân đó, và thiêu huỷ thành phố
của chúng. Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng: "Tiệc cưới đã dọn sẵn
sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường,
gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới.” Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất
luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc.
Đoạn vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một
người không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: "Này bạn,
sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?" Người ấy lặng thinh. Bấy
giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: "Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi
tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng! Vì những kẻ được gọi thì nhiều,
còn những kẻ được chọn thì ít.” Đó là lời Chúa.
TRUYỆN KỂ
1. Tiệc cưới hoàng tử
Tiệc cưới nào cũng được gia đình tổ chức hết sức trang trọng
theo khả năng của mình. Tiệc cưới hoàng tử càng biểu lộ vinh quang trang trọng
của cả nước. Ngày 03/04/1985 (?). Hoàng hậu Elizabeth Anh quốc, đã mở tiệc cưới
hoàng tử Charles đẹp duyên cùng công nương Diana. Khách mời là những vua chúa,
Hoàng hậu, Tổng thống, Thủ tướng của hơn hai chục nước trong Liên hiệp Anh. Những
hoàng tử của các nước xa xôi ngoài Liên hiệp cũng được mời dự tiệc cưới, như
hoàng tử Nhật. Ai được mời đều lấy làm hết sức vinh dự. Cho nên, không ai từ chối,
mà còn mong ước chóng được tới dự.
Chúa Giêsu dùng hình ảnh tiệc cưới hoàng tử để nói về vinh
quang, vui mừng và hạnh phúc vô cùng của nước Trời. Nhưng những khách được mời
ưu tiên thì lại từ chối, không đếm xỉa tới những ân huệ vinh quang Thiên Chúa
ban. Họ còn có những thái độ khinh bỉ ngạo mạn coi tiệc cưới hoàng tử không bằng
đi thăm trại súc vật, không bằng đi buôn bán lặt vặt; kinh khủng hơn nữa, dám bắt
các đại diện của vua đi mời xỉ nhục và giết chết.
2. Chiếc áo cưới
Không ai biết đích xác được là con người đã bắt đầu biết may mặc
từ thời nào, nhưng chắc chắn là rất xa xưa. Cái mặc đã đi theo cái ăn như là một
trong hai cách thế hiện thân độc đáo của loài người, và ngay từ sớm, nó đã vượt
ra ngoài cái ý nghĩa sở đẳng là một vật dụng để che thân cho kín đáo, cho ấm
áp, hầu mang lấy những ý nghĩa khác có tính cách văn hoá, kinh tế, chính trị và
tôn giáo.
Thực vậy, cái áo có thể cho chúng ta biết được giai cấp, địa vị,
nghề nghiệp, và thậm chí đến cả tư cách và tính tình của một người. Người nông
dân nghèo không ăn mặc như một cậu công tử thành phố. Ông quan không mặc như
người lính, thầy tu không mặc như dân thường. Người con gái nết na kín đáo thì
không thích ăn mặc hở hang khêu gợi. Người khiêm tốn không ăn mặc loè loẹt phô
trương. Cái áo do đó có một vai trò, một ý nghĩa quan trọng trong đời sống con
người. Vì thế mà Chúa Giêsu đã sử dụng nó như một hình ảnh để nói lên cái tư
cách của một người công dân Nước Trời.
Bài Tin Mừng vừa nghe ghi lại hai dụ ngôn. Dụ ngôn tiệc cưới và
dụ ngôn chiếc áo cưới. Hai dụ ngôn này, nguyên thuỷ có lẽ đã được Chúa Giêsu
nói trong hai trường hợp riêng biệt, nhưng đã được Matthêu chắp lại thành một đề
tài chung vì thấy có liên hệ với nhau.
Dụ ngôn thứ nhất ám chỉ dân Do Thái là dân hai lần được mời gọi
tham dự tiệc cưới, nhưng họ đã từ chối và không những thế, họ còn sát hại những
sứ giả của Thiên Chúa. Bởi đó cuối cùng, Ngài lại sai các sứ giả đi khắp các ngả
đường để mời gọi tất cả mọi người, không phân biệt tốt xấu. Tuy nhiên lời mời gọi
ấy đã được đưa ra với điều kiện là phải sám hối, phải hoán cải, phải đổi đời.
Ngoài ra cái áo còn là điều kiện để cho con người nhập cuộc với
tha nhân: không ai ở trần và và mặc quần xà lỏn mà đi ăn đám cưới, trái lại
không ai mặc bộ đồ vét mà lại đi hôi cá dưới ao.
3. Điều được quan tâm
Có hai ông: một ông là thương gia, một ông là nhà sinh vật học
đi dạo với nhau. (tức là đang đi dạo với nhau). Nhưng mà, bỗng nhiên cái nhà
sinh vật học chạy vào cái bụi cây và bắt được cái con côn trùng. Ông cảm thấy
vui, bởi vì, ông bắt được cái con ông cần bắt, để mà nghiên cứu.
Lại đi tiếp tục với nhau một quãng đường, thì cái ông thương gia
cúi xuống, thì cái ông nhà nghiên cứu sinh vật học ngạc nhiên nói tại sao bạn
mình dừng lại! Thì ra, nhà thương gia cúi xuống lượm được đồng tiền.
Bởi vì, chỉ cần một cái bóp nhỏ thôi! Ông nhận ra dưới chân của
ông đó là tiền. Bởi vì sao?
Mỗi người có một cái mối bận tâm riêng của mình. Nhà nghiên cứu
sinh vật học đó Chỉ cần nghe tiếng, hay chỉ cần nghe cái tiếng con vật mà mình
đang nghiên cứu, thì biết nó đang ở đâu, và đi tới để mà tìm. Còn cái người
thương gia, chỉ cần một cái đạp nhẹ thôi, biết ở dưới chân đó là có tiền.
Rõ ràng cuộc đời của chúng ta, một khi chúng ta bận tâm một cái
điều gì đó! Thì chúng ta sẽ chăm chú, chúng ta sẽ đi tìm nó và tìm bằng mọi
giá, chứ không thể nào mà không tìm được.
4. Muốn có con mà không muốn lấy
chồng
Và có một người kia, chạy đến nói với con: Cha ơi, cha cầu nguyện
cho con! Bởi vì, kỳ này con sẽ thụ thai. Con sẽ thụ thai trong ống nghiệm, sẽ
kiếm một đứa con. Bởi vì con không muốn lập gia đình, lập gia đình chán lắm!
Hôm nay, người ta lập gia đình xong rồi, chồng con ăn ở lung tung hết, nên con
muốn có một đứa con mà chỉ thụ tinh trong ống nghiệm.
Nghe xong thì thôi biết cầu nguyện gì bây giờ. Làm sao mà cầu
nguyện được khi mà: Luật Giáo hội cấm không cho phép người phụ nữ có thai, nếu
như không có quan hệ vợ chồng. Bởi vì, đối với Giáo Hội: đứa con chính là hoa
quả của tình yêu, đứa con chính là hoa quả của đời sống hôn nhân, chứ không thể
nào đơn phương mà có con được!
Và rồi khi người ta không cảm nhận được Tin Mừng, người ta sẽ cảm
thấy Tin Mừng nó đắng đót! Như Lời Chúa, đôi khi con đọc Tin Mừng, con không
dám nói gì cả! “khốn cho các ngươi là những đồ biệt phái và luật sĩ, như mồ mã
tô vôi.”
Chúa nói những luật sĩ và biệt phái đó! nhưng man mác trong
mình, cũng có đó: những luật sĩ và biệt phái. Mình không sống đúng những gì mà
Chúa dạy! Nghe những lời đó mình cảm thấy đắng đót lắm! Và chính đời mình mình
có bận tâm vào Nước Trời mình có bận tâm vào Thiên Chúa hay không?
5. Lời mời gọi
Tại một xứ đạo ở một thành phố lớn, trong lớp giáo lý cha sở để
ý thấy một em nhỏ xanh xao khoảng 13 tuổi. Ngày kia em đến với cha và cặp mắt đỏ
hoe, em nói: Con không thể xưng tội rước lễ lần đầu. Tại sao? Vì cha mẹ con
ngăn cấm. Cha sở bảo: Con thử về xin phép cha mẹ con một lần nữa xem thế nào? Mấy
ngày sau, em lại đến với một điệu bộ thất vọng: Không được đâu cha ạ, bố mẹ con
đã nổi nóng và đã đánh con. Cha sở an ủi: Con hãy cầu nguyện và Chúa sẽ giúp đỡ
con. Ngày trọng đại đã đến nhưng vẫn không có em nhỏ trong số những em được
xưng tội rước lễ lần đầu. Rồi một tuần sau, vào một buổi sáng, em chạy đến nhà
xứ, hổn hển thưa: Xin cha giải tội cho con, kẻo mẹ con hay biết. Cha sở giải tội
cho em rồi nói: Bây giờ con hãy về kẻo má con biết được. Em do dự một lát rồi
nói với một giọng van xin: Cha có thể cho con rước lễ được chứ? Dĩ nhiên cha sở
chấp thuận và ngài đã phát biểu: Tôi đã tổ chức nhiều cuộc xưng tội rước lễ lần
đầu một cách trọng thể nhưng không lần nào làm tôi cảm động cho bằng lần này.
Chúng ta cũng vậy, có lẽ chúng ta cảm phục em bé đói khát Mình
Máu Thánh Chúa. Trong khi đó những người khách trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay
lại có một thái độ lãnh đạm. Họ đã được mời nhưng lại không đến. Nhưng đâu là ý
nghĩa của dụ ngôn?
6. Đại tiệc
Khoảng 1.900 vị khách sẽ có mặt tại đám cưới của hoàng tử Anh
William và cô Kate Middleton vào tháng 4/2011. Các nhà lãnh đạo Anh và quốc tế,
các chính trị gia cao cấp, các nhân viên từ thiện và những ngôi sao như vợ chồng
nhà Beckham nằm trong số những người sẽ có mặt tại lễ cưới tại Tu viện
Westminster ở London hôm 29/4/2011. Tuy nhiên, không phải vị khách nào cũng sẽ
có mặt tại bữa tiệc chiêu đãi sau đó tại cung điện Buckingham. BBC cho biết những
cá nhân có quan hệ với hoàng tử William cũng sẽ được mời, trong đó có những người
vô gia cư và các binh lính bị thương trong cuộc chiến tại Afghanistan và Iraq.
Có khoảng 40 hoàng thân quốc thích nước ngoài tới tham dự. Đại
diện của Khối thịnh vượng chung cũng sẽ có mặt. Ngoài ra còn có thành phần của
các tổ chức từ thiện của William, khối quân sự và thành viên Nội các. Còn lại
khoảng 1.000 người là bạn bè của hai vợ chồng sắp cưới.
Tất cả 1.900 người sẽ được tham dự lễ thành hôn tại Tu viện
Westminter, 650 trong số đó sẽ có vinh dự được tham dự tiệc chiêu đãi tại cung
điện Buckingham. Ngoài ra còn có một bữa tiệc khác vào buổi tối với khoảng 300
khách là bằng hữu thân cận nhất. Vì thế khi giấy mời tới tay, mọi người sẽ phải
mở phong bì ra để biết mình thuộc dạng khách mời nào.
Thiếp mời bao gồm một tấm thiệp màu trắng có dát chữ vàng đặt
trong một phong bì màu nâu nhạt. Tên viết tắt của Nữ hoàng được in màu vàng nổi
bật trên tấm thiệp, ngay dưới hình vương miện. Góc trái phía dưới tấm thiệp mời
cẩn thận ghi rõ quy định trang phục là “Đồng phục, lễ phục hoặc veston.”
(Dress: Uniform, Morning Coat or Lounge Suit) (Song Minh, VnExpress.net)
7. Viện Cớ
Chúng ta có rất nhiều cớ để không làm điều mình phải làm, và nhiều
cớ để làm điều lẽ ra không nên làm.
Ngày xưa có một anh thợ may rất khéo. Bao nhiêu áo đẹp của mọi
người trong thành đều do anh may. Tuy nhiên bản thân anh thì chỉ có mỗi một chiếc
áo rách. Lúc nào anh cũng mặc chiếc áo rách ấy, ngay cả trong những buổi tiệc lớn
của thành phố. Có người thấy thế hỏi anh:
– Sao anh có thể may bao nhiêu chiếc áo đẹp cho mọi người mà lại
không may cho anh được một chiếc áo lành lặn.
– Vì tôi phải may áo kiếm tiền, không có giờ may áo cho mình.
– Vậy anh hãy cầm lấy 20 đồng tiền này và may cho anh một chiếc
áo, kể như tôi mướn anh may cho tôi vậy.
Anh thợ may cầm tiền về nhà. Ðến buổi tiệc tiếp theo, anh lại đến
với chiếc áo rách cũ. Người bạn hỏi:
– Sao anh không may áo cho anh?
– Chiếc áo cho chính bản thân tôi mà giá chỉ có 20 đồng thì quá
rẻ, nên tôi không may!
Người bạn chẳng nói gì nữa, bởi vì có nói gì nữa thì anh thợ may
cũng sẽ tìm được một cớ khác thôi.
8. Mặc áo trắng
Là người được Thiên Chúa mời gọi gia nhập vương quốc Thiên Chúa,
chúng ta phải xem lại cách ăn thói ở của chúng ta sao cho thích đáng.
Xưa kia, Augustinô ban đầu theo đuổi phù du ảo ảnh của thế gian,
nhưng đến năm 33 tuổi, lần đầu tiên con người lầm lạc nầy tiếp cận với kinh
thánh và đoạn văn đầu tiên đập vào mắt Anh là lời dạy của thánh Phaolô trong
thư Rô-ma như sau: “Như giữa ban ngày, anh em hãy sống đoan trang tiết độ,
không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đảng, không kình địch ghen tương;
nhưng hãy mặc lấy Đức Giêsu Kitô và đừng lo tìm thoả mãn những đam mê xác thịt.”
(Rm 13, 13-14).
Nhờ ơn Thánh Linh tác động, Augustinô bừng tỉnh trước Lời Chúa.
Anh cảm thấy những câu Lời Chúa nầy như nói riêng với chính mình. Thế là từ
đây, Augustinô từ bỏ quãng đời tội lỗi, từ bỏ những đam mê xác thịt, rũ bỏ bộ
áo bẩn thỉu hôi hám để mặc áo mới, mặc lấy Đức Giêsu Kitô. Anh được lãnh bí
tích rửa tội vào năm 33 tuổi, hiến mình cho Chúa và ba năm sau, trở thành một
linh mục thánh thiện, về sau được cất nhắc lên chức giám mục và trở thành vị
thánh chói ngời đồng thời cũng là thầy dạy trong Giáo Hội với tước hiệu tiến sĩ
Hội Thánh.
Trong ngày lãnh bí tích rửa tội, ngày chúng ta chính thức gia nhập
Hội Thánh, linh mục chủ sự thay mặt Hội Thánh trao cho chúng ta tấm áo trắng với
lời kêu gọi: “Con đã trở nên tạo vật mới và đã mặc lấy Chúa Kitô. Vậy con hãy
nhận chiếc áo trắng nầy, hãy mang lấy và giữ nó tinh tuyền cho đến khi ra trước
toà Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, để con được sống muôn đời.”
9. Bay lên
Chuyện kể rằng: có một con gà rừng đang ấp trứng, nhưng lẫn
trong ổ của nó một trứng đại bang. Đúng ngày giờ, trứng nở thành con. Đại bàng
con nô đùa vui vẻ bên đàn gà rừng như anh chị em ruột.
Một ngày kia, đang bươi móc kiếm ăn cùng đàn gà rừng, đại bang
con bỗng thấy một con chim đại bang lớn bay lượn trên không thật oai phong và đẹp
mắt. Cậu liền hỏi mẹ gà:
– Mẹ ơi! Sao mình không bay như chim kia trên trời?
– Chúng ta đâu phải đại bàng mà bay được!
– Thế chúng ta là ai?
– Chúng ta là gà rừng!
Bỗng một ngày, đang khi bươi chải kiếm ăn trên đống rác cậu lại
thấy đại bang mẹ bay lượn trên đầu gọi:
– Bay lên con ơi, bay lên đại bang con của mẹ. Thế giới của con
là trời cao đất rộng, chứ không phải là đống rác này! Bay lên đi con.
Cậu cố bay lên, nhưng lại rơi xuống. Trong khi các chú gà rừng
cười cợt chế nhạo:
– Chúng ta là gà rừng, làm sao mà bay được.
Cậu suy nghĩ, nếu ta là gà rừng sao đại bang kia cứ bảo ta là đại
bang con. Và khi bay lên ta thấy cũng đâu có gì khó khăn, có lẽ chưa quen thôi.
Nào hãy thứ lần nữa xem.
Thế là cậu đại bang đủ lông đủ cánh bay lên, và bay lên mãi. Cậu
bay theo mẹ về một chân trời mới. Lần đầu tiên trong đời, cậu được nhìn thế giới
từ trên cao, lòng cậu mênh mang, hạnh phúc ngập tràn.
10. Chối từ
Trong tập sách “Những mảnh vụn suy tư”, linh mục Albert Limet có
ghi lại:
“Một buổi sáng, tôi bước ra khỏi nhà, lòng tràn ngập hớn hở. Bỗng
tôi thấy một người lạ mặt đi về phía tôi, tôi vui vẻ chào chúc ông mọi điều may
mắn tốt lành; nhưng thay vì vui vẻ đáp lại ông ta tỏ vẻ giận dữ, nói liên tục:
– Tôi không biết ông. Tôi không cần biết ông là ai. Tôi không cần
lời chào chúc của ông. Tôi không tin có Thiên Chúa. Tôi không cần Ngài, và tôi
nhất định không bao giờ cần Ngài…”
Phản ảnh dữ dội của người khách lạ khiến linh mục phải suy nghĩ
trong nhiều ngày. Cha ghi tiếp trong tập sách: “Tôi cảm thấy thương người khách
lạ đó hơn là giận ghét. Có lẽ ông đang khổ tâm vì công việc làm ăn của ông thất
bại. Có thể ông đang bận quá nhiều công ăn việc làm, không thể nhận lời chào
chúc tốt lành của tôi, cũng không thể nhận thấy tinh yêu của Thiên Chúa!…”
Câu chuyện trên đây minh họa thái độ từ khước của những thực
khách được vua mời dự tiệc cưới trong Tin Mừng hôm nay. Người khách lạ không nhận
lời chào chúc của linh mục Albert Limet vì công việc làm ăn, các thực khách được
mời dự tiệc cưới cũng vì đi thăm trại, đi buôn bán mà khước từ dự tiệc.
Đối với Chúa cũng thế. Nhiều lần chúng ta từ chối ơn Chúa, lắm
khi chúng ta khinh thường Lời Chúa mời gọi vào dự tiệc hạnh phúc Nước Trời của
Chúa, vì coi của cải vật chất, danh vọng chức quyền ở đời, lạc thú xác thịt quý
hơn Nước Trời, trọng hơn hạnh phúc vĩnh cửu. Như thế chẳng phải chúng ta đánh
giá các giá trị sai lầm sao?
11. Đi tìm kho báu
Một người đi tìm kho tàng quý giá. Sau những ngày đi tìm mệt mỏi,
ông thấy mình lạc lối. Nhưng may thay, đang lúc lo buồn vì biết mình lạc đường,
ông ngước mắt nhìn về trước thì thấy một lâu đài tráng lệ. Trước cổng lâu đài
có tấm bảng với hàng chữ lớn: Xin mời vào.
Ông sung sướng tiến đến lâu đài. Đứng trước cổng, ông ngạc nhiên
thấy nhiều người lữ hành đi ngang qua cũng có vẻ lạc đường và mệt mỏi mà vẫn lê
bước đi như không thấy có lâu đài trước mặt. Ông liền đến hỏi người gác cổng
lâu đài:
– Sao những khách lữ hành đó không dừng lại để vào lâu đài an
nghỉ?
Người gác cổng trả lời:
– Đây là lâu đài hạnh phúc, nhưng là một lâu đài bí nhiệm. Chỉ
những ai biết mình lạc lối mới có thể trong thấy. Trái lại, những kẻ tưởng mình
đi đúng đường và cứ cắm đầu đi theo đường đó, thì bị mờ mắt không trông thấy
lâu đài hạnh phúc.
Câu chuyện ngụ ngôn trên đây nhắc chúng ta nhớ lâu đài hạnh phúc
Nước Trời. Chỉ những ai biết mình lầm đường lạc lối mới nhìn thấy mà tin vào. Còn
những kẻ tưởng mình đi đúng đường, và cứ cắm đầu đi theo đường đó thì bị mờ mắt
không trông thấy mà vào.
Những người từ chối lời mời gọi dự tiệc cưới của nhà vua trong
Tin Mừng hôm nay là những kẻ tưởng mình “đi thăm trại, đi buôn bán” là đúng nên
khinh thường bữa tiệc vui mừng, coi rẻ thịnh tình của nhà vua.
Đối với tiệc Nước Trời cũng thế. Chỉ khi nào chúng ta nhận thức
bữa tiệc đó là hạnh phúc nhất, chúng ta mới hy sinh những hạnh phúc khác để đến
tham dự.
12. Hạnh phúc thật
Sau đây là kinh nghiệm của một người tìm gặp hạnh phúc thật.
“Tôi là người làm chính trị và cũng là ca sĩ nổi tiếng. Tới đâu,
tôi cũng được mọi người hoan nghênh khen ngợi, và họ cảm nghĩ tôi là người hạnh
phúc nhất đời. Thế nhưng trong thâm tâm, tôi cảm thấy tôi là kẻ bất hạnh nhất,
đến nỗi có lần tôi đã toan tự tử…
Một hôm trên chiếc xe lửa trở về nhà, tôi ngồi đối diện với một
người chăm chú đọc sách Kinh Thánh. Một lúc sau, ông ngước mắt nhìn tôi và gợi
chuyện:
– Ông là một ca sĩ nổi tiếng. Tôi nghe biết danh tiếng ông.
Tôi đáp:
– Phải đúng vậy.
– Nhưng ông có hạnh phúc không?
Tôi ngập ngừng một lúc rồi thú thật:
– Không hẳn hạnh phúc lắm.
– Xem ra ông thiếu Thiên Chúa trong cuộc sống nên không được hạnh
phúc.
Tôi vội vàng đáp:
– Không. Tôi rất hài lòng về cuộc sống của tôi. Tôi có đầy đủ tất
cả. Tôi không cần Thiên Chúa.
Nhưng người ấy cứ lặp lại:
– Ông nói thế, chứ thực sự ông cần Thiên Chúa hơn bao giờ hết,
Lời nói của người ấy như sét đánh bên tai tôi. Nó xâm chiếm cõi
lòng tôi. Về đến nhà, tôi phải tự nhủ: “Quả thật, người đó nói rất chí lý.”
Hôm sau thấy tôi cần tìm đến người đó, vừa thấy tôi, ông ta vui
vẻ hỏi thêm, như để tiếp nối cuộc đối thoại trên xe lửa.
– Ông có muốn được hạnh phúc ngay bây giờ không?
Tôi ngạc nhiên hỏi:
– Làm như ông có sẵn hạnh phúc trong túi vậy?
– Có chứ. Tôi có ngay trong túi đây.
Vừa nói ông vừa rút trong túi ra một cuốn Kinh Thánh nhỏ, trao
cho tôi và vui vẻ nói:
– Ông hãy về nhà, đóng cửa phòng lại, mở Kinh Thánh ra mà thầm
thỉ: “Lạy Chúa, con chấp nhận Chúa là Chúa của con, là chủ cuộc đời con…”
Tối hôm đó, sau khi vợ con tôi đã đi ngủ, tôi vào phòng và làm
như người đó khuyên bảo tôi. Từ ngay đó, niềm vui xâm chiếm tâm hồn tôi. Thiên
Chúa thực sự là hạnh phúc duy nhất đời tôi.
13. Lý do bỏ lễ
Năm 2005, Hội Đồng Giám Mục Anh đã cho phát hành bản báo cáo dài
90 trang do Đức Giám Mục John Hine soạn thảo trên cơ sở một cuộc điều tra kéo
dài hơn một năm. Với hơn 15,000 gia đình Công Giáo về một vấn đề duy nhất là tại
sao người ta không đi nhà thờ ngày Chúa Nhật.
Qua điều tra người ta nhận định rằng: 1/ chủ nghĩa vật chất, 2/
tình trạng tài chính khó khăn, và 3/ lề lối làm việc hiện đại là ba yếu tố
chính đẩy đưa người ta đến chỗ bỏ lễ ngày Chúa Nhật.
Ở thời đại hôm nay người ta bỏ lễ ngày Chúa nhật rất dễ dàng.
Người ta viện vào nhiều lý do để hợp thức hóa cho việc bỏ lễ. Họ cho rằng cuộc
sống luôn phải làm việc vất vả để kiếm ăn. Họ còn phải chạy đua theo những tiện
nghi vật chất. Cuộc sống quá vất vả, căng thăng vì cơm áo gạo tiền khiến người
ta quá mệt sau một tuần vật lộn với cuộc sống. Tâm trí không thảnh thơi. Thân
xác thì mệt mỏi khiến họ chỉ muốn tìm giây phút thư giãn qua việc giải trí, mua
sắm…
Tệ hơn nữa là nhiều người vẫn coi nhẹ việc tham dự thánh lễ.
Thánh lễ không phải là việc tối quan trọng. Thánh lễ chỉ là tùy phụ rảnh thì
đi, bận thì thôi. Hay tệ hơn nữa, là lạm dụng lòng thương xót Chúa, bỏ lễ rồi
xưng tội là xong!
Ở miền quê chúng tôi chỉ cần một cơn mưa nho nhỏ cũng khiến người
tham dự thánh lễ vơi đi. Xem ra chỉ cần một khó khăn nho nhỏ cũng là lý do để họ
bỏ lễ.
14. Tiệc cưới với bốn nghịch thường
Cách đây 9 năm, 29-4-2011, Hoàng tử William của hoàng gia Anh và
công nương Kate Middleton đã trao đổi lời thệ ước hôn nhân tại Đại Thánh đường
cổ kính Wesminter. Đây là lễ cưới cung đình.
Hai ngàn năm trước, Chúa Giêsu cũng đã ví Nước Trời giống như
vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Chuyện từ 20 thế kỷ trước, ta tưởng như
chuyện đời xưa mà lại không cũ chút nào, vì mới diễn ra gần đây.
Mùa xuân 1947 cả thế giới chú ý đến hàng tít lớn trên trang nhất
của báo chí cho biết công chúa Elizabeth của nước Anh sẽ sánh duyên cùng hoàng
tử Philip gốc Hi lạp. Cuộc tình duyên này quan trọng vì công chúa Elisabeth sẽ
lên ngôi kế vị vua cha trị vì không những vương quốc Anh, Bắc Ai-len và còn đứng
đầu khối Thịnh Vượng Chung gồm trên 50 nước lớn nhỏ (Ấn, Canada, Úc…). Lễ được
tổ chức tại Thánh đường Wesminter cổ kính ngày 20/11/47. Người ta không những
nhìn xem hai nhân vật chính là cô dâu chú rể nhưng còn chăm chú điểm danh những
nhân vật quan trọng từ quốc trưởng, tổng thống, vua chúa… đến các nhà quí tộc,
tài phiệt. Không ai được mời mà muốn vắng mặt trong lễ cưới, trong tiệc mừng
long trọng như vậy. Đó là chuyện bình thường dễ hiểu.
Nhưng dụ ngôn của Chúa hôm nay ví Nước Trời như một chuyện bình
thường: vua mở tiệc cho hoàng tử, nhưng lại mang đầy những chi tiết không bình
thường chút nào, nếu không nói là nghịch thường quá khác lạ. Ta nhận ra được ít
là bốn khác lạ nghịch thường so với một đám cưới tương tự trong đời thường: dửng
dưng – đổ máu – mở rộng – thanh trừng.
Bốn chuỵện lạ trong dụ ngôn: dửng dưng của khách được mời; đổ
máu quá nhiều trong ngày cưới, mở rộng quá đáng cánh cửa cho mọi người vào, rồi
lại thanh trừng khắt khe kẻ chưa kịp mặc áo cưới. Tất cả các chuỵện lạ đó chỉ
có thể hiểu được dưới ánh sáng của lịch sử –lịch sử dân Israel và lịch sử cứu độ-,
chứ không thể hiểu được trong khung cảnh tiệc cưới.
Những kẻ dửng dưng, đó là dân Israel chính tông chẳng đoái hoài
gì đến con vua là Giêsu Kitô: vị tân lang chàng rể.
Đổ máu là họ, dân Israel đã giết các tiên tri, đổ máu những người
được Chúa sai đến báo tin vui cho họ.
Mở rộng là ơn cứu độ của Chúa dành cho mọi hạng người bất kỳ đen
trắng vàng đỏ, nô lệ, tự do, nam hay nữ, kể cả trung tính…
Thanh trừng là, một khi được mời tới phải biết mặc lấy Chúa Kitô
là áo cưới, mặc lấy con người mới, không thể khác.
15. Hỏa ngục mà tưởng là thiên đường
Vài tuần lễ trước khi chết, một phóng viên đã phỏng vấn Elvis
Presley – nổi tiếng là vua của nhạc Rock:
– Elvis, khi anh bắt đầu chơi nhạc, anh đã nói anh muốn có được
ba điều trong cuộc đời. Anh muốn giàu sang. Anh muốn nổi tiếng. Và anh muốn sống
hạnh phúc. Giàu sang và nổi danh chắc chắn là anh đã có. Thế còn hạnh phúc,
không biết anh thực sự có hay không, Elvis?” Chàng ca sĩ trả lời
– “Không, tôi sống cô đơn như ở trong hỏa ngục.”
Presley kết hôn với Priscilla Beaulieu 1967. Năm sau có con gái.
1973 ly dị. Năm1977 Presley chết 42 tuổi. Không biết khi chết gia tài bao
nhiêu, nhưng giỗ thứ 25, (2002) báo Forbes xếp anh vào loại nghệ sĩ có để lại lợi
tức cao nhất: 37 triệu đô 1 năm.
Giàu sang. Danh vọng. Những người hâm mộ vây quanh gồm đủ mọi hạng
người, các giai nhân tài tử tuyệt trần, vậy mà Elvis diễn tả cuộc sống của anh
như hỏa ngục! Thật lạ lùng! Như thế, cuộc sống của vua Hêrôđê với tiệc tùng
sang trọng nào có khác chi!
16. Ngọn nến tỏa sáng
Vào một đêm đông, người đàn ông rút cây nến nhỏ từ trong ngăn
kéo ra, thắp nó lên, và bắt đầu bước lên chiếc cầu thang dài hình trôn ốc. Cây
nến hỏi người đàn ông: “Ông đi đâu vậy?” Ông trả lời: “Đi lên chỗ cao hơn nóc
nhà nơi chúng ta.”
“Và ông sẽ làm gì ở đó?” cây nến hỏi.
– “Tôi sẽ chỉ cho những con tàu ở biển khơi biết đâu là hải cảng”,
vì chúng ta đang ở ngay lối vào hải cảng, và một số con tàu ngoài biển khơi
đang gặp bão táp, có thể tìm thấy ánh sáng của chúng ta.”
“Không có con tàu nào nhìn thấy ánh sáng của tôi cả”, ngọn nến
nói “tôi quá nhỏ bé mà.”
“Mặc dù ánh sáng của ngươi nhỏ bé”, người đàn ông đáp, “cứ hãy
thắp sáng nó lên, đừng e ngại, hãy để phần còn lại cho ta tính.” Rồi người đàn
ông trèo lên những nấc thang cho tới đỉnh của ngôi nhà hải đăng, cầm cây nến nhỏ
bé, châm lửa vào những cái đèn vĩ đại đã đứng sẵn ở đó với những tấm gương phản
chiếu bóng láng ở phía sau. Một cây nến nhỏ cũng có thể làm nên một vùng sáng lớn.
17. Bài học làm người của
Socrates
Năm 399 BC. Meletus và Anytus đã tố cáo Socrates là “vô đạo và
làm hư hỏng thanh niên.” Socrates bị 11 vị Thẩm phán của chính quyền Hy Lạp kết
án tử hình về tội dụ dỗ thanh niên theo tà thuyết và phản loạn. Trong các hình
phạt dành cho tử tội, ông chọn chén thuốc độc. Apollodore luôn đầm đìa nước mắt,
có lúc gào lên, làm cho Platon không thể cưỡng lời thầy, khóc theo. Còn Criton
thì như đứt từng khúc ruột, nhưng sợ thầy, ông lén ra ngoài khóc cho bớt đau khổ.
Tuy vậy, khi thấy các học trò khóc, Socrates phải quát lên: “Các con làm gì kỳ
vậy? Sở dĩ thầy đuổi hết các bà các cô ra ngoài, là để tránh sự mất bình tĩnh
như vậy. Các con phải cương nghị. Chúng ta phải chấm dứt cuộc đời một cách êm
ái, thảnh thơi chứ!
Buổi chiều hôm ấy, mặt trời xuống dần, Socrates bước ra từ phòng
tắm, ông gặp ba người con một lúc rồi bảo họ ra ngoài chỗ mấy người đàn bà đang
sụt sùi. Chỉ mấy người môn đệ của ông là được ở lại. Người cai ngục bước ra bảo
ông hãy tự uống chén thuốc độc, đã có người mang tới, sẵn sàng ở phòng bên. Người
này tỏ ra mến phục nhân cách của ông, thậm chí anh ta cũng khóc sướt mướt lúc
vĩnh biệt ông. Socrates ra dấu cho Criton môn sinh của mình, bảo người mang thuốc
độc vào cho ông uống. Criton nói: “Thưa thầy, mặt trời chưa lặn. Đừng vội lìa bỏ
chúng con. Thiếu gì người nấn ná, ăn uống, chuyện vãn với gia đình, họ hàng rất
lâu”, Nhưng Socrates mắng ông: “Họ làm như vậy có được thêm lợi lộc gì đâu. Thầy
không muốn bám chặt thêm cuộc sống, khi chẳng thể giữ nó mãi được! Con hãy nghe
lời thầy”…
Cầm chén thuốc trong tay, ông căn dặn lại các môn đồ: “Hãy bình
tĩnh, đừng thay đổi sắc diện” rồi từ từ đưa chén độc dược lên miệng uống một
hơi êm ái hiền hoà. Lúc ấy, Plato và các môn đệ khác nhìn ông uống từng hớp tử
thần mà chết đứng, tê cóng người. Nước mắt tuông trào như hai giòng suối mà
không dám để tiếng nức nở thoát ra. Trong Phaedo Plato thốt lên: “Từ đây thế là
hết!”, ông không khóc cho thầy, vì một người như thầy mình, không cần ai khóc
khi qua đời. Tôi khóc cho chính tôi, vì từ đây, tôi đã mất đi một người thầy, một
người anh, một người bạn, mà không sao có thể kiếm được người thứ hai trên cõi
đời này.
Đó là một cái chết can đảm. Socrates đã bước vào thế giới vĩnh hằng
với sự “chấm dứt cuộc đời một cách êm ái và thảnh thơi.” Đó là bài học cuối
cùng ông dạy cho các môn sinh.
18. Từ bàn tiệc thánh đến tiệc cưới
Nước Trời.
Một bé gái bệnh nặng, một hôm biết mình khó qua khỏi, em gọi cha
mình lại để nói chuyện. Người cha này rất nguội lạnh, lại hay chè chén ăn chơi,
không bao giờ đến nhà thờ. Em hỏi: – “Cha có thương con không?” Người cha cảm động
nói: – “Sao con lại hỏi thế, cha rất yêu con!” – “Con sắp xa cha rồi, con sắp về
với Chúa rồi!” – “Không! Con sẽ mạnh, cha thương con lắm!” Người cha ôm con
khóc nức nở. – “Con sẽ gặp Chúa, con yêu Chúa, nhưng con cũng yêu cha, con
không muốn xa cha, cha có muốn gặp lại con không?” – Người cha nghẹn ngào đáp:
– “Có, con yêu!” – “Vậy cha hứa với con là cha sẽ đi nhà thờ nhé! Con muốn được
gặp lại cha trên Thiên Đàng.” Người cha trả lời trong nước mắt: – “Cha hứa!” –
“Con vui lắm rồi, con sẽ gặp lại cha nhé!” Bé gái nhìn cha mỉm cười, sau đó vài
phút, nó ra đi.
Người cha từ đó trở thành một con chiên ngoan đạo, rồi ông giúp
nhiều việc ở nhà thờ.
Để đến Bàn Tiệc Thánh, đến với bí tích Thánh Thể, người Công
Giáo có sự chuẩn bị trước đó: “mặc chiếc áo tâm hồn trắng tinh” để đón nhận
Mình Thánh Chúa.
Và từ Bàn Tiệc Thánh trong Giáo Hội Lữ Hành này, người Công Giáo
đã sẵn sàng cho mình “y phục lễ cưới” để vào dự Tiệc Cưới Nước Trời.
“Họ đã giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên”, trong bí
tích Rửa Tội, và họ không ngừng chiến đấu trong cuộc đời để giữ mãi màu áo
trinh nguyên ấy trong ăn năn sám hối, trong bí tích Hòa Giải, trong ơn sủng của
những bí tích thánh hóa, trong việc thực thi Giới Luật Yêu Thương.
19. Đám cưới vĩ đại
Một trong những đám cưới được xem là vĩ đại nhất trong lịch sử
nhân loại đó là đám cưới của Alexandre Đại đế với công chúa Roxane của Ba Tư
vào thế kỷ thứ tư trước công nguyên.
Khi quyết định cưới một người Á Châu, dĩ nhiên, Alexandre theo
tiếng gọi của con tim. Nhưng qua cuộc hôn nhân này, ông muốn biểu tỏ ý muốn thống
nhất tất cả lãnh thổ đã được chinh phục từ Đông sang Tây. Ông cũng hy vọng có
được một người con nối dõi với hai dòng máu Đông Tây để thống nhất hai phần đất
của địa cầu.
Đám cưới được cử hành trong vòng bảy ngày, bảy đêm. Nơi nơi đều
có yến tiệc. Và để tăng thêm phần long trọng, Alexandre đã cho tổ chức những cuộc
tranh tài thể thao: Thế vận hội đã được khai sinh từ đó. Chính Đại đế là người
đích thân trao giải thưởng cho những người thắng cuộc. Thông thường Hoàng đế
trao tặng những chiếc cúp bằng vàng. Nhưng người được coi là đoạt nhiều giải nhất
trong cuộc thi thế vận hội đầu tiên ấy chỉ nhận được một cành lá chiến thắng.
Alexandre Đại đế giải thích như sau: Chỉ có vinh quang mới có thể tưởng thưởng
được người xuất sắc nhất.
Có một hôn lễ còn vĩ đại gấp bội so với hôn lễ của Alexandre Đại
đế với Công chúa Roxane: đó là hôn lễ của Trời và Đất, của Thiên Chúa với nhân
loại. Đây là hôn nhân mà loài người đã chờ đợi từ khi có mặt trên trái đất. Hôn
lễ ấy đã diễn ra qua biến cố Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Tất cả nhân loại
đều được mời đến dự tiệc cưới vĩ đại này. Trong Tin Mừng hôm nay, chính Chúa
Giêsu đã sánh ví tiệc cưới nầy với tiệc cưới của một nhà Vua tổ chức cho Hoàng
Tử. Chỉ có một điều khác biệt là những khách được mời -những khách quý đầu
tiên- đã tỏ ra hết sức khinh thường và hung dữ đối với các sứ giả của Nhà Vua.
Họ không những đã chối lời mời mà còn nhục mạ và sát hại những người được Nhà
Vua phái tới.
20. Sáng kiến tự sát
Ngày xưa, một vị vua kia có bốn người con trai được yêu cầu phải
tự chọn lựa nghề nghiệp cho tương lai của mình. Bốn người con mới bàn tính với
nhau: “Nào chúng mình hãy đi khắp nơi trong thiên hạ và tìm kiếm lấy một nền
khoa học đặc biệt.” Họ đồng ý sẽ gặp lại nhau ở một chỗ nào đó, và bốn anh em bắt
đầu ra đi theo bốn hướng khác nhau. Thời gian qua đi, bốn anh em gặp lại nhau ở
chỗ đã hẹn để tổng kết điều họ học hỏi được. “Tôi đã làm chủ một nền khoa học.”
Người anh cả nói, “khoa học này cho phép tôi có thể làm ra một tạo vật có đầy đủ
bắp thịt với điều kiện tôi phải có một miếng xương.” “Tôi”, người thứ hai nói,
“học được cách làm ra da và lông nếu đã có các bắp thịt trên xương của nó.” Người
thứ ba nói, “Tôi có thể tạo ra chân tay nếu tôi đã có thịt, da và tóc.” Và
tôi”, người thứ tư kết luận, “biết cách ban cho tạo vật đó sự sống, nếu nó đã
có đầy đủ hình thù tay chân.”
Sau khi bàn tính với nhau, bốn anh em đi vào rừng sâu tìm một miếng
xương để có thể chứng tỏ những tài năng chuyên môn của họ. Như số phận đã định,
miếng xương họ tìm thấy là miếng xương của một con sư tử, nhưng họ đã không biết.
Một người đắp thịt vào xương, người thứ hai thêm da, lông và tóc, người thứ ba
hoàn chỉnh với tay chân, và người thứ tư ban cho con sư tử sự sống. Đang khi
lúc lắc bộ lông rậm rạp trên gáy, con sư tử hung dữ gầm lên một tiếng, nó chồm
lên ngoác to miệng đe doạ với những chiếc răng nanh và móng vuốt nhọn hoắt. Nó
nhẩy về phía những nhà sáng tạo, giết chết tất cả, rồi biến mất vào trong rừng.
Bất cứ khi nào chúng ta cố ý sống tách rời ra khỏi Thiên Chúa,
chúng ta cũng có thể trở nên nạn nhân của chính những công trình do mình làm
ra. Tách biệt ra khỏi Thiên Chúa, sự tự do và những khả năng trí tuệ cho phép
con người tạo nên vũ khí hạch nhân, sử dụng quyền hành và của cải trần gian để
áp đặt sự thống trị trên những người khác… cũng tiềm ẩn một khả năng tự huỷ diệt
con người.
21. Niềm vui Nước Trời
Có một huyền thoại kể về một người câu cá tên là Aaron. Aaron sống
ở bên bờ sông. Vào một buổi chiều, đang khi đi bộ về nhà, mắt nhắm mắt mở sau một
ngày làm việc vất vả, anh mơ tưởng mình sẽ phải làm gì nếu giàu có. Đang khi bước
đi, chân anh đá phải một cái túi da, trong lúc lơ mơ, anh nghĩ dường như đó là
những hòn sỏi nhỏ. Đãng trí, anh nhặt cái túi lên và bắt đầu ném từng viên sỏi
xuống mặt nước sông. “Khi ta giầu có”, anh nói, “Ta sẽ mua một cái nhà thật lớn.”
Anh lại ném hòn sỏi khác xuống nước. Ném hết hòn này tới hòn khác rồi anh nghĩ,
“Vợ ta và ta sẽ có những người đầy tớ phục vụ, đồ ăn dư giả với tất cả mọi sự
sang trọng.” Và cứ như vậy xảy ra cho đến khi chỉ còn lại một hòn sỏi trong
tay. Khi Aaron cầm nó trong tay và nhìn xuống, một luồng ánh sáng phát ra lấp
lánh. Anh nhận ra rằng đây là một hòn ngọc quý giá. Anh ném xuống nước bao
nhiêu viên ngọc quý đã có trong bàn tay, trong khi đó lại mơ tưởng những của cải
không có thực ở tương lai.
Niềm vui đó được trao ban ngay từ đời này và cả đời sau nữa.
Kitô giáo không phải là thuốc phiện ru ngủ con người trong đau khổ, quên đi hạnh
phúc của cuộc sống ở đời này để chỉ mơ tưởng nước thiên đàng ở đời sau.
Niềm vui trong tâm hồn giúp cho con người sống hy vọng và tin tưởng,
giữa những khó khăn và khổ đau ở đời này. Bài đọc thứ hai, trích thư thánh
Phaolô gửi tín hữu Philipphê: “Trong mọi trường hợp, và hết mọi cách, tôi đã học
biết no, biết đói, biết dư thừa và thiếu thốn.” Ngài viết những lời khuyên nhủ
này đang khi ở trong nhà tù. Ngài nói: “Trong mọi sự hãy vui luôn trong niềm
vui của Chúa.” “Trong mọi hoàn cảnh hãy tạ ơn Thiên Chúa.”
22. San sẻ niềm vui
Có lần vào tiệm ăn sáng, tôi nhìn thấy hai trường hợp trái ngược
nhau:
Một đứa trẻ được mẹ dắt vào quán ăn, ngồi vào bàn, được một phần
ăn riêng biệt. Nhưng nó tỏ vẻ khó chịu, không biết vì lý do gì mà nó không vui,
nó không nhìn đến phần thức ăn của mình. Người mẹ thì nhìn con với vẻ ái ngại,
bà năn nỉ con, nhưng vô hiệu. Cuối cùng hai người đứng lên với phần ăn còn
nguyên.
Một đứa trẻ khác, trên tay có một cái lon, chạy ngay lại phần ăn
còn nguyên trên bàn mà người chủ đã không cần dùng đến, nó cho tất cả vào trong
chiếc lon và mang ra bên ngoài, cùng với một đứa trẻ khác nhỏ hơn, tận hưởng niềm
vui của một người không cần đến.
23. Hạnh phúc cho tâm hồn vị tha
Có một nhà hiền triết xuất hiện giữa phố chợ và nói sẽ giải đáp
được mọi thắc mắc của bất cứ ai. Có một anh chăn chiên muốn hạ nhục nhà hiền
triết giữa đám đông, anh cầm trong tay một con chim sẻ và đặt câu hỏi: “Thưa
ngài, trong tay tôi có một con chim. Ngài là người thông thái giải đáp mọi vấn
nạn, vậy xin hỏi ngài, con chim trong tay tôi còn sống hay chết.” Biết đây là
cái bẫy, vì nếu nói chim sống thì tức khắc anh chăn chiên bóp nó chết trước khi
mở bàn tay. Nếu nói chim chết thì anh ta mở bàn tay cho chim bay đi. Trước sự
chờ đợi của đám đông, nhà hiền triết từ tốn trả lời như sau: Con chim trong tay
ngươi sống hay chết là tùy ở ngươi. Nếu ngươi cho nó sống thì sống, nếu ngươi
muốn nó chết thì nó chết.
Ai trong chúng ta cũng khao khát hạnh phúc, đó là niềm khao khát
thâm sâu nhất của con người, nhưng chúng ta được hạnh phúc hay không là tùy ở
chúng ta, giống như con chim sống hay chết là tùy ở anh chăn chiên Hạnh phúc
đích thực của mỗi người chúng ta là Thiên Chúa, là Nước Trời. Phúc Âm viết
Thiên Chúa mời gọi con người tới dự tiệc cưới. Tiệc cưới đó là hình ảnh Nước Trời,
là nơi đem lại hạnh phúc viên mãn và vĩnh cửu. Thế nhưng người ta không đáp lại,
viện cớ đi thăm trại, viện cớ đi buôn bán. Đi thăm trại, đi buôn bán tự nó
không phải là việc xấu, nhưng họ đã làm một việc khờ dại là chỉ chú ý đời này
mà quên đi đời sau. Đi thăm trại, đi buôn bán tựu kỳ trung là lo làm giàu. Họ
nghĩ lầm: giàu sang đem lại hạnh phúc. Nhưng cái nghịch lý lớn nhất của cuộc đời
là khi con người tìm cách lấy đầy tâm hồn mình bằng những của cải chóng qua thì
đó là lúc con người cảm thấy trống vắng nhất trong tâm hồn.
24. Quà cưới Nước Trời
Mẹ Têrêsa thuật lại một câu chuyện như sau: Này kia có một cặp vợ
chồng trẻ, đến tu viện tặng cho chúng tôi một khoản tiền lớn, bảo là để đóng
góp vào việc chi phí mua thức ăn cho người nghèo.
Thấy họ còn quá trẻ mà lại tặng cho chúng tôi một số tiền quá lớn,
tôi tò mò hỏi: Hai con có thể cho mẹ biết tiền này ở đâu mà hai con có nhiều thế?
Họ trả lời: Chúng con vừa cưới nhau hai ngày. Trước khi cưới
chúng con quyết định không may sắm đồ cưới, không đãi tiệc linh đình mà để khoản
tiền này dành cho những người không được may mắn như chúng con. Mẹ tiếp lời: Việc
cưới hỏi mà không thiết tiệc, không may đồ cưới tại Ấn Độ là một hổ thẹn và tủi
nhục cho cha mẹ hai họ. Mẹ hỏi các con: Tại sao các con quyết định một cách táo
bạo như thế, không làm phật lòng cho cha mẹ?
Hai bạn trẻ trả lời: Chúng con yêu nhau, chúng con muốn cuộc khởi
đầu sống chung bằng một hy sinh không mặc áo cưới, không thiết tiệc bạn bè bằng
món tiền chúng con đã dày công đóng góp cho nhau.
25. Người mang mặt nạ vàng
“Người mang mặt nạ vàng” là tên một cuốn phim nổi tiếng của Pháp
vào cuối thế kỷ 20, dựa theo một câu chuyện có thật ở Mexico:
Tại Mêhicô, người ta thường tổ chức những cuộc đấu võ đài ác liệt.
Võ đài tự do nên các võ sĩ có thể ra đòn theo mọi môn phái, ăn mặc tùy thích và
có thể đeo cả mặt nạ.
Một linh mục tên là Gaetano phụ trách một nhóm bạn trẻ làm việc
bác ái cho trẻ em nghèo. Để có thêm tiền giúp các em, Cha đã ghi danh thi đấu với
một chiếc mặt nạ màu vàng để che giấu tung tích của mình. Thân hình to lớn,
thông thạo võ nghệ, Cha luôn thắng trận dù chẳng lúc nào dùng đến thủ đoạn độc
ác, mà chỉ dùng những đòn đẹp mắt và hữu hiệu. Tất cả tiền thưởng được dành hết
cho quỹ cứu trợ trẻ em nghèo. Chiếc mặt nạ vàng đã trở nên biểu tượng cho tấm
lòng vàng của Cha.
Diễn viên Jean Reno, người đóng vai linh mục Gaetano, đã phải đọc
Thánh Kinh hằng ngày và sống tinh thần của một linh mục để có thể diễn xuất
thành công. Anh tâm sự: “Không ngờ, nhờ đọc Thánh Kinh mà tôi gặp được Thiên
Chúa, và tôi đã nói với Người những điều trước đây tôi chưa hề nói với ai.”
Một lần kia, cậu con trai Reno hỏi anh: “Bố có thể làm phép lạ
không?” Anh trả lời rất xác tín: “Phép lạ chính là những gì con phải tự mình tạo
nên, con ạ!”
Tình yêu của Chúa dành cho nhân loại được diễn tả qua hình ảnh một
bữa tiệc mà Chúa dọn ra cho hết mọi người. Trong bữa tiệc đó, không còn bóng
dáng của bất cứ điều sầu khổ nào: “Người sẽ xé bỏ chiếc khăn tang che phủ muôn
dân, và tấm màn trùm lên muôn nước.” Ai cũng sẽ vui mừng vì đạt được những khao
khát sâu thẳm nhất của đời người. “Ngày ấy, người ta sẽ nói: ‘Đây là Thiên Chúa
chúng ta, chúng ta từng trông đợi Người, và đã được Người thương cứu độ. Chính
Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông” (Is 25,7.9).
26. Mặc áo cưới của Chúa Kitô
Hai vợ chồng nọ thường xuyên cãi nhau. Một hôm, ông chồng nảy ra
một sáng kiến. Anh nói: “Này em ạ, chúng mình đừng vội cãi nhau như mọi khi,
chán lắm. Anh đề nghị mỗi người chúng mình lấy một tờ giấy, liệt kê tất cả mọi
lầm lỗi, tật xấu và khuyết điểm của người kia rồi sau đó trao cho nhau đọc.”
Người vợ nghe vậy cũng thích nên cả hai lấy giấy vào phòng riêng, cắm cúi viết.
Mười phút sau, cả hai ra phòng khách, người vợ dành quyền đọc trước tờ giấy của
chồng, tò mò muốn biết anh ta kể ra những tội gì để cho anh một trận nên thân.
Nhưng vừa nhìn thoáng qua, chị đã thấy hụt hẫng khi đọc được
dòng chữ nắn nót rất đẹp: “Anh yêu em.” Chị bật khóc và giật ngay lại tờ giấy của
mình vì bao nhiêu lời của chị sẽ nên ngớ ngẩn trước lời của chồng. Chị vội ôm
chầm lấy anh mà xin lỗi.
Đó cũng là tâm tình của thánh Phaolô về tình yêu Chúa dành cho ngài,
một người dám chống lại Đức Kitô, Đấng chịu đóng đinh vì tội lỗi ngài. Mặc lấy
tâm tình Đức Kitô, ngài cho thấy hạnh phúc Nước Trời ở với người tin: “Thiên
Chúa của tôi sẽ thoả mãn mọi nhu cầu của anh em cách tuyệt vời, theo sự giàu
sang của Người trong Đức Kitô Giêsu” (Pl 4,19).
27. May áo cho con
Gia đình kia có 4 người con đang tuổi đi học, ba mẹ chúng tất bật
với kế sinh nhai nên thường căn dặn:
- Các con siêng năng đi lễ, đọc kinh cầu nguyện cho gia đình được
bình an và bố mẹ mạnh khỏe để nuôi các con ăn học.
Nhiều năm sau, con cái đã lớn khôn và có nghề nghiệp ổn định,
chúng thường gởi tiền cho bố mẹ với lời nhắn:
Câu chuyện có vẻ như đùa, nhưng chúng ta vẫn gặp thấy đâu đây
trong cuộc sống.
Mọi người đều hiểu rằng, khi nhắm mắt xuôi tay, không ai có thể
sống lại để thay đổi cách sống và sửa lại những lầm lỗi đã qua. Vì thế, tương
lai của mỗi người tùy thuộc vào những gì chúng ta làm hôm nay. Nếu muốn và có
quyết tâm, ai cũng có thể dệt cho mình chiếc áo hoàn hảo nhất.
Xin cho mọi người ngay từ bây giờ, biết chuẩn bị cho mình chiếc
áo được dệt bằng sợi chỉ vàng là lương tâm ngay chính, tình yêu phục vụ và đời
sống chứng nhân, để khi được dự tiệc Nước Trời, chúng ta cùng với muôn vàn thần
thánh cất cao lời chúc tụng và tạ ơn Thiên Chúa.
28. Áo cưới của bà thánh Đê
Trong tập bài giảng “Suy Niệm Lời Chúa” (Xuất bản năm 1993),
linh mục Hồng Phúc, DccT, khi đề cập đến gương anh hùng của các vị tử đạo Việt
Nam vô danh, ngài kể:
“Có một thiếu phụ bị bắt vì theo đạo và bị kết án tử hình bằng một
hình phạt khủng khiếp: bị voi giày!
Khi còn 2 ngày nữa phải ra pháp trường, bà xin người nhà gửi cho
bà một bộ áo cưới hợp thời trang. Bà nghĩ trong lòng: ngày bà chết là ngày bà gặp
vị Tân Lang là chính Chúa Giêsu.
Giữa pháp trường, trước mặt đông đảo anh chị em lương dân, khi
ba hồi chiêng trống vừa gióng lên, người ta thấy thiếu phụ bước ra, ăn mặc như
cô dâu trong ngày cưới. Bà tiến lên, duyên dáng thướt tha, trong tay cầm chiếc
quạt phe phẩy. Ngay lúc ấy, con voi chồm tới, hất tung bà lên trời, rồi chà đạp
phũ phàng dưới chân, như người ta chà đạp một cành hoa màu máu.” Chiếc áo cưới
của bà loang máu hồng. Chiếc áo đẹp biết bao, vì đó là chiếc áo tình yêu.”
Để chiếc áo tình yêu của đời ta luôn trinh trắng, chiếc áo ấy phải
được giặt trong hy sinh từ bỏ, trong máu hồng cuộc tử đạo liên lỉ của đời người
tín hữu. Chính chiếc áo ấy giúp ta xứng đáng dự tiệc thiên quốc mai sau.
CNTN 28B – BỎ MỌI SỰ MÀ THEO
CHÚA
Lời Chúa: Mc 10, 17-30
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy Chúa Giêsu vừa lên đường, thì một người chạy lại quỳ gối
trước Người và hỏi: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời
đời?"
Chúa Giêsu trả lời: "Sao ngươi gọi Ta là nhân lành? Chẳng
có ai là nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa. Ngươi đã biết các giới răn: đừng
ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt;
hãy thảo kính cha mẹ.”
Người ấy thưa: "Lạy Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở
nhỏ.”
Bấy giờ Chúa Giêsu chăm chú nhìn người ấy và đem lòng thương mà
bảo rằng: "Ngươi chỉ thiếu một điều, là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài,
đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến
theo Ta.”
Nhưng người ấy nghe những lời đó, thì sụ nét mặt và buồn rầu bỏ
đi, vì anh ta có nhiều của cải.
Lúc đó Chúa Giêsu nhìn chung quanh và bảo các môn đệ rằng:
"Những người giàu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao!" Các môn đệ
kinh ngạc vì những lời đó. Nhưng Chúa Giêsu lại nói tiếp và bảo các ông rằng:
"Hỡi các con, những kẻ cậy dựa vào tiền bạc, thật khó mà vào nước Thiên
Chúa biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước
Thiên Chúa.”
Các ông càng kinh ngạc hỏi nhau rằng: "Như vậy thì ai có thể
được cứu độ?" Chúa Giêsu chăm chú nhìn các ông, và nói: "Ðối với loài
người thì không thể được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa
làm được mọi sự.”
Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Ðây chúng con đã bỏ mọi sự
mà theo Thầy.”
Chúa Giêsu trả lời rằng: "Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ
nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Tin Mừng, mà
ngay bây giờ lại không được gấp trăm ở đời này về nhà cửa, anh em, chị em, cha
mẹ, con cái và ruộng nương, cùng với sự bắt bớ, và ở đời sau được sự sống vĩnh
cửu. Nhưng có nhiều kẻ trước nhất sẽ nên rốt hết, và những kẻ rốt hết sẽ nên
trước nhất.”
TRUYỆN KỂ
1. Các nhà phú hộ khờ dại
Những hạng phú hộ như thế ngày nay xuất hiện khắp nơi: như
Onessis nhà tỷ phú Hy lạp nổi tiếng nhất thế giới, chỉ lo ăn chơi, cưới hai bà
vợ, có hai con, cả gia đình sống bất hòa, bất chính, ly dị nhau. Đứa con trai
chết vì tai nạn máy bay, con gái ghen ghét bà mẹ ghẻ Jacqueline.
Ông Khasuri, nhà tỷ phú Nhật nổi tiếng thứ nhì thế giới, mỗi
ngày tiêu xài 300.000 đôla. Ông mua một bức họa của Van Goh có 7 bông hoa hướng
dương với giá 35 triệu đôla. Báo chí thế giới cho là một bỉ ổi đối với người
nghèo. Còn bà vợ đã ly dị đòi bồi thường 2 tỷ 500 triệu đôla.
Thiên Chúa bảo các ông phú hộ đó: “Đồ ngốc, nội đêm nay, người
ta sẽ đòi lại mạng sống ngươi” (Lc. 12, 20). Khi các ông ấy ở dưới âm phủ, đã
ngước mắt lên kêu: “Ở đây con bị thiêu đốt khổ lắm” thì Abraham cũng chỉ đáp lại:
“Con ơi, hãy nhớ lại, suốt đời con đã được sướng rồi, bây giờ, phải chịu cực khổ
thế là phải rồi” (Lc. 16, 23-25).
2. Tích trữ cho kho tàng trên trời
Chàng thanh niên Phanxicô con nhà thương gia tơ lụa nổi tiếng
thành Assisiô nước Ý, đã được Chúa soi sáng và cảm nghiệm sâu xa lời Chúa nói với
chàng thanh niên giàu có trong Tin mừng: “Anh chỉ còn thiếu một điều: Hãy về
bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời.
Sau đó, hãy đến theo Tôi.” Phanxicô đã bán hết những gì mình có bố thí cho người
nghèo và bắt đầu một đời sống theo Chúa: Ăn mặc rách rưới, rảo quanh các đường
phố vừa rung chuông vừa rao giảng Tin mừng tình thương của Chúa.
Phanxicô lìa trần ngày 04/10/1226, trên môi thì thầm: khó nghèo,
hòa bình, tình thương và hát bài Thánh thi ca tụng Chúa: Xin chúc tụng Ngài,
Chúa con ơi, với tất cả tạo vật của Ngài …” (Những người lữ hành trên đường hy
vọng, số 23.3)
3. Bài test cho thiện chí
Bài Tin mừng được chia thành hai phần:
a) Thiện chí nửa vời: Một thanh niên muốn tiến cao trên đường
nhân đức đã đến xin Đức Giêsu chỉ bảo cách thức để có thể tiến tới đường trọn
lành của Nước Trời. Đức Giêsu đã chỉ dẫn cho anh: "Hãy đi bán những gì anh
có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo
Ta.” Nghe thế, anh ta buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều tiền của. Đức Giêsu tiếc
rẻ cho anh ta, nhìn chung quanh và nói: "Những kẻ cậy dựa vào của cải khó
vào Nước Thiên Chúa biết bao.”
b) Bài học về sự từ bỏ: Đức Giêsu đưa ra điều kiện tiên quyết
cho những người muốn làm môn đệ của Ngài là phải từ bỏ mọi sự. Ngài cũng lợi dụng
hoàn cảnh này để cảnh giác các môn đệ cho khỏi quyền lực của trần gian chế ngự.
Chúng kềm hãm và chặn đứng những nhiệt tình cao đẹp nhất. Chúng làm khô héo những
hoài bão thanh cao nhất của những người thiện chí.
Tuy nhiên, Ngài cũng hứa phần thưởng cho những ai từ bỏ vì Nước
Trời:
- Được lãi gấp trăm ở đời này.
- Cùng với sự bắt bớ: nghĩa là được chia sẻ số phận với Ngài.
- Được hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.
4. Đạo một mắt.
Bác sĩ A.J. Gordon kể: ngày nọ, có một ông nhà giầu nhưng keo kiệt
đến xin chữa mắt. Sau khi khám nghiệm, bác sĩ cho biết phải chữa cả hai mắt, nếu
không, có nguy cơ bị mù. Ông hỏi:
- Nhưng giá bao nhiêu?
- Chữa mỗi mắt là 100 đô.
Ông nhà giầu phân vân giữa tiền bạc và mù lòa. Rồi ông nói với
bác sĩ:
- Tôi chữa một mắt thôi, vì một mắt cũng đủ thấy tiền và đếm tiền.
Lại đỡ tốn!
Nhiều người vẫn cầu nguyện: “Xin mở mắt để con thấy kỳ công của
Chúa…" Nhưng xem ra nhiều Kitô hữu chỉ muốn mở cho mình một mắt để thấy
công trình của Chúa mà thôi, một mắt còn phải để trông coi gia sản!
5. Những nguy hại do tiền của.
Tiền của có thể gây nguy hại cho người giầu có vì tiền của có sức
mạnh khống chế con người. Vì thế người ta mới nói:
Tiền
là tiên là phật,
Là
sức bật của lò xo,
Là thước
đo của lòng người,
Là
nụ cười của tuổi trẻ,
Là
sức khỏe của người già
Là
cái đà của danh vọng,
Là
cái lọng để che thân.
Là
cán cân công lý.
Ôi,
tiền là hết ý!
6. Con lừa trước sự lựa chọn.
Ông viện trưởng đại học Paris ở thế kỷ 14 đã làm một thí nghiệm
như sau: Ông để cho một con lừa nhịn đói, nhịn khát trong mấy ngày. Sau đó, ông
đưa nó đến sân ăn, ông đặt nó giữa một thùng nước và một bó cỏ non. Lừa ta tuy
đói lắm nhưng hết nhìn đống cỏ này lại ngó thùng nước kia, nó lưỡng lự giữa nước
và cỏ, để rồi cuối cùng kiệt lả mà chết (Cử hành Phụng vụ CN, tr 174).
Cuộc sống không ngừng đòi hỏi chúng ta phải lựa chọn và chọn lúc
nào cũng đòi hỏi hy sinh. Kẻ bắt cá hai tay vẫn luôn luôn là người thua thiệt
nhiều nhất. Hãy nhớ lại Lời Chúa đã phán: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì
hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ
nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được"(Mt
6,24).
7. Đứng trên của cải.
Có một người giầu có kia thường xuyên đến xưng tội với thánh
Philipphê Nêri. Ông có nhiều tiền của, có thiện chí, nhưng ông vẫn cảm thấy
mình không đạt được sự tiến bộ nào trên đường thiêng liêng. Từ chán nản đến thất
vọng, cuối cùng ông bỏ cuộc và không trở lại xưng tội với thánh nhân nữa.
Thấy ông đã lâu không đến xưng tội, thánh nhân tìm đến nhà ông để
gặp ông. Sau một hồi trò truyện, ngài nhìn lên cây Thánh giá trên tường, ngài
cân nhắc độ cao của Thánh giá rồi đề nghị với người đàn ông giầu có: “Ông là
người cao lớn, ông thử với coi có tới Thánh giá không.” Ông đứng dậy giơ cánh
tay lên cố với nhưng không thể nào chạm tới Chúa Giêsu trên Thánh giá.
Bấy giờ thánh Philipphê dùng hết sức đẩy cái hòm tiền của người
giầu đến bên cạnh ông và bảo ông hãy đứng lên trên cái hòm tiền để với tới cây
Thánh giá. Ông làm theo ý thánh nhân và sờ được Chúa Giêsu trên Thánh giá. Sau
đó ngài nói với ông: "Để có thể nắm lấy được Chúa Giêsu, để có thể tiến bộ
trên đường thiêng liêng, chúng ta cần phải đứng trên tiền bạc của cải.”
Chúa Giêsu bảo chúng ta: hãy dùng tiền của và cư xử cách nào để
đem lại ích lợi cho cuộc sống hôm nay và đồng thời cũng đầu tư cho cuộc sống
vĩnh cửu mai sau nữa.
Một phương thế Chúa dạy chúng ta là: hãy chia sẻ. Chúa không đòi
chúng ta phải từ bỏ tất cả để theo Chúa, nhưng Chúa đòi chúng ta phải biết chia
sẻ: chúng ta chia sẻ cho người khác một, Chúa sẽ trả lại cho chúng ta gấp nhiều
lần.Theo kinh Hòa bình của thánh Phanxicô Assisi thì chính lúc cho đi là lúc được
nhận lãnh và được lãnh nhận dồi dào, nhất là lãnh nhận ở đời sau.
8. Thập giá và vinh quang
Hai người con ông Zêbêđê, tức là tông đồ Giacôbê và Gioan, đoán
rằng CG sắp hoàn thành sự nghiệm của Ngài, nên đã nhờ mẹ mình dẫn đến CG để xin
Chúa cho họ được 2 chỗ ưu tiên trong Chính Phủ mà họ tưởng CG sắp thành lập.
Ðiểm đáng lưu ý là họ đến xin như thế ngay sau khi CG loan báo rằng
Ngài sắp bước vào con đường Thập Giá, mà đây là lần loan báo thứ ba. Họ cũng
nghe những lời loan báo ấy chứ, nhưng họ không thèm hiểu ý nghĩa của Thập Giá
là gì. Ðầu óc họ cứ bị thôi thúc bởi ham muốn dành cho được những ghế ưu tiên
trong Nước Chúa. Thành thử CG phải nhắc họ: "Các con chẳng hiểu điều các
con xin. Các con có uống nổi chén đắng Thầy sắp uống và chịu được phép rửa Thầy
sắp chịu không?" Họ đáp bừa: "Thưa được.”
Họ có nghĩ gì đến chén đắng và đến phép rửa gì đâu. Chỉ vì mong
Thầy mau chấp thuận cho nên cứ đáp bừa là Thưa được. Tóm lại họ chỉ muốn Vinh
Quang chứ không hiểu Thập Giá. Thái độ ấy của 3 mẹ con khiến cho các tông đồ
khác phải bực bội.
Nhưng chúng ta chớ vội trách 3 mẹ con nhà Zêbêđê ấy, bởi vì nhiều
khi chúng ta cũng giống như họ thôi.
9. Kho báu trên trời
Kagawa là một tín hữu Kitô Nhật Bản, khi nghe Lời Chúa phán:
"Hãy đem bán hết gia tài, bố thí cho người nghèo, và ngươi sẽ có một kho
báu trên trời, rồi đến theo Ta", ông liền bán căn nhà tiện nghi sang trọng
của mình, đến khu nhà ổ chuột tồi tàn vùng Tokyo. Nơi đây ông chia sẻ của cải
cho bất cứ ai cần trợ giúp, ông đi thăm nuôi tù nhân, an ủi giúp đỡ người bệnh,
cấp dưỡng cho kẻ nghèo đói...
Có một lần, dù lâm bệnh, ông vẫn tiếp tục rao giảng dưới cơn
mưa, miệng không ngừng thốt lên: "Thiên Chúa là tình yêu. Ở đâu có tình
yêu ở đấy có Thiên Chúa.”
Nhà thần học Wiliam Barclay đã trích dẫn những lời đầy sắc bén của
Kagawa như sau: "Chúa ở trong tâm hồn những người hèn mọn nhất. Người hiện
diện giữa những kẻ ăn xin. Người nằm chung với những ai bệnh hoạn. Người đứng về
phía những kẻ thất nghiệp. Vì thế, ai muốn gặp Thiên Chúa hãy đến thăm tù ngục
trước khi tới đền thờ, hãy đến thăm bệnh viện trước khi dự lễ, hãy giúp đỡ người
nghèo khổ trước khi đọc Kinh Thánh.”
10. Những thứ tiền không mua được
George Horace Lorimer, chủ bút tờ Saturday Evening Post trong
nhiều năm, có lần viết: "Có tiền và có những cái mua bằng tiền là tốt.
Nhưng biết dùng tiền và đừng để mất những thứ tiền không mua được còn tốt
hơn."
Có thể kể những thứ sau đây tiền không mua được:
Tiền không mua được tình bạn chân thực.
Tiền không mua được lương tâm trong sạch.
Tiền không mua được niềm vui mạnh khoẻ.
11. Ðổi tiền
Ðến nước khác, việc đầu tiên mà du khách phải làm là đổi tiền của
mình thành tiền đang lưu hành tại nước đó. Tiền của ta trên trái đất chẳng có
giá trị gì trên trời, nếu nó không đổi thành việc lành. Ðó là ý nghĩa Lời Chúa
nói với chàng thanh niên giầu có: cho đi gia sản của anh để mua Nước Trời.
12. Nhờ ơn Chúa
Một Linh mục nọ qua đời và được đưa đến trước mặt thánh Phêrô để
được Ngài thẩm vấn:
- Ở dưới thế cha làm được điều gì nào?
- Dạ thưa Thánh cả, con xây được một ngôi thánh đường rộng lớn.
Thánh nhân lấy bút cho một điểm rồi Ngài hỏi tiếp:
- Cha còn làm được gì nữa?
- Dạ con còn xây được một ngôi trường cho 1.000 học sinh.
Thánh Phêrô cho thêm được một điểm nữa.
- Và còn gì nữa?
Linh mục bắt đầu suy nghĩ rồi trả lời:
- Dạ con làm rất nhiều công tác xã hội và từ thiện.
Ngài nhìn rồi cho thêm một điểm.
- Còn gì nữa? Ngài hỏi tiếp.
- Dạ thưa Thánh cả… bao nhiêu điểm thì được vào Thiên đàng?
Thánh nhân vui vẻ trả lời: 1000 điểm.
Nghe nói thế linh mục cảm thấy chột dạ… tự nghĩ trong lòng:
Không biết làm sao cho đủ được 1000 điểm bây giờ… Rồi linh mục bắt đầu cảm thấy
lo lắng không còn tự tin như trước nữa. Đang lúc đó thì Thánh Phêrô lại muốn được
biết kết quả ngay nên Ngài hối:
- Cha còn làm được điều gì nữa… cứ kể hết đi!
Với một giọng đầy lòng khiêm tốn cộng một chút lo sợ, linh mục
thưa:
- Thưa thánh cả, NHỜ ƠN CHÚA con còn làm thêm được ít việc nho
nhỏ nữa.
Vừa nghe xong thánh Phêrô lấy bút ghi ngay: 1000 điểm. Rồi Ngài
vui vẻ nói với linh mục:
- Thế là cha đã được 1003 điểm. Cha dư điểm vào Thiên đàng rồi đấy…
mời cha vào.
Vâng tất cả là nhờ ơn của Chúa.
13. Sử dụng tiền của cho đúng
Một bác nông dân người Anh có dịp nghe John Wesley giảng thuyết.
John Wesley là một nhà giảng thuyết nổi tiếng: hôm ấy ông giảng về việc sử dụng
tiền của. Wesley bắt đầu bài giảng bằng tư tưởng; Phải ra công tích luỹ tối đa,
phải dùng hết khả năng tìm cách làm giàu. Bác nông dân gật gù bảo người bạn ngồi
bên cạnh: Đúng lắm! Rồi wesley triển khai điểm thứ hai: Phải tiết kiệm tối đa.
Ông lên án thói phung phí tiêu xài quá đáng. Bác nông dân xuýt
xoa: bài giảng tuyệt vời! Cám ơn Chúa, mình vẫn sống tiết kiệm.
Cuối cùng, nhà giảng thuyết đi tới điểm thứ ba: Phải chia sẻ tối
đa. Hãy coi hoàn cảnh thiếu thốn của người chung quanh là thuộc trách nhiệm của
mình. Nghe đến đây, bác nông dân lắc đầu rồi bỏ nhà thờ đi ra…
14. Cái két sắt
Tác giả Ba Chuông, có truyện rất ngắn mang tên: “Cái két sắt”
như sau:
“Ông H. mới giàu lên vài năm nay, nhờ vợ ông có cả trăm mối lái
Hàn, Trung, Việt buôn bán thịnh đạt. Ông xây nhà lớn vào bậc nhất ở một thị trấn
kể là nhỏ nhất. Thiết kế trong nhà mới xây có một chỗ để két sắt. Ông nghe nói
có cả ngàn mặt hàng két sắt đựng tiền trên thị trường. Có những két sắt hiện đại
đề phòng kẻ trộm từ xa; két sắt có con mắt phân biệt người thân, người lạ; có
két sắt sử dụng bằng dấu vân tay...
Cuối cùng, ông chọn mua một két sắt sử dụng bằng dấu vân tay đắt
tiền và cho xây âm trong tường luôn. Ông nói với mọi người rằng: “Như thế mới bảo
đảm. Chẳng có thằng nào dám rớ tới ông.”
Sau đó chỉ một tuần, trong khi uống rượu, lên giọng giàu có dạy
đời, ông H. bị mấy tay anh chị đập cho giập nát hai bàn tay. Đi bệnh viện hai
tuần. Mất dấu vân tay. Vợ ở nhà đập két sắt lấy hết tiền đi rồi.
Hình như bà H. đứng tên nhà, đất. Và nghe nói tất cả đã sang tên
cho thằng tình nhân Trung Quốc rồi.
Cái két sắt thật là an toàn! Thật là bảo đảm muôn năm!”
Ở đời, có quá nhiều người cho mình là khôn ngoan, đến nỗi có thể
nói: ai cũng cho mình là khôn ngoan, nhưng thử hỏi: được mấy người tìm cho ra Đức
Khôn Ngoan đích thực?
15. Họ mới là những người giàu nhất
Ba mươi năm trước đây tại thủ đô Washington D.C, vợ của một nhà
doanh nhân đã đánh rơi chiếc ví của cô ấy tại bệnh viện trong một đêm mùa đông.
Nhà doanh nhân này rất lo lắng và quay lại bệnh viện để tìm ngay trong đêm đó,
bởi vì trong chiếc ví không chỉ chứa 100.000 USD mà còn có cả các tài liệu
marketing rất quan trọng... Khi người doanh nhân vội vã tới bệnh viện, ông ta
nhìn thấy một cô gái nhỏ nhắn nằm ngay dưới chân bức tường hành lang, đang run
lên vì lạnh, và trong tay cô gái đó có chính xác chiếc ví mà vợ ông đã bị mất.
Cô gái tên là Hiada, cô tới bệnh viện để đưa người mẹ đang bị ốm tới khám bác
sĩ. Đêm đó, Hiada đã bị bỏ lại bơ vơ trong hành lang của bệnh viện. Cô ấy cầu
nguyện xin Chúa nhân từ cứu giúp và hy vọng sẽ gặp được một quý nhân nào đó sẽ
cứu giúp được mẹ cô. Đột nhiên, một người phụ nữ đi từ trên hàng lang xuống và
đã đánh rơi chiếc ví mà không hề để ý và vội vã đi qua, có lẽ bởi vì cô ấy đang
phải mang một thứ gì đó trên tay. Hiada là người duy nhất ở hành lang lúc đó,
cô đã tới và nhặt chiếc ví lên. Khi cô chạy tới sau cánh cửa phía sau người đàn
bà kia, thì bà ấy đã ở trên ô tô.
Hiada quay trở lại phòng bệnh viện. Khi mở chiếc ví ra, cả hai mẹ
con đều sốc vì số tiền quá lớn. Họ đều ngay lập tức nghĩ rằng số tiền kia sẽ có
thể giúp mẹ cô ấy chữa bệnh. Tuy nhiên, người mẹ đã nói với Hiada quay lại hành
lang và đợi người đánh rơi kia quay lại để tìm. Bất chấp mọi nỗ lực giúp đỡ cứu
chữa của nhà doanh nhân, mẹ của Hiada đã ra đi và để người con gái nhỏ ở lại một
mình. Sau đó, nhà doanh nhân đã giúp đỡ cô con gái nhỏ bé kia, người đã mất đi
cả gia đình.
Tốt nghiệp đại học, với sự giúp đỡ của nhà doanh nhân, Hiada đã
trợ giúp cai quản việc kinh doanh của nhà triệu phú. Vào những năm sau này, ông
đã tham vấn Hiada rất nhiều ý kiến giải quyết cho nhiều vấn đề gặp phải. Khi mà
ông sắp xa rời thế giới, ông đã để lại những dòng đầy từ bi: “Trước khi tôi biết
Hiada và mẹ cô ấy, tôi đã thực sự mất hết tiền, nhưng khi tôi đứng trước bà mẹ
và cô con gái, người đã tìm thấy một số tiền rất lớn của tôi – khi mà họ đang
trong cảnh bệnh tật và nghèo đói nhưng vẫn không màng tới số tiền của tôi, tôi
nhận ra rằng họ mới là những người giàu nhất. Họ đã giữ được những tiêu chuẩn đạo
đức cao nhất của con người mà một người doanh nhân như tôi còn thiếu. Tiền của
tôi có được phần lớn là do những trò tiểu xảo và tranh nhau với người khác. Đó
là những người mà họ làm cho tôi hiểu được tài sản quan trọng nhất trong cuộc đời
là giá trị đạo đức của họ.
Tôi cứu giúp Hiada không chỉ vì trả ơn hay vì sự cảm thông. Mà
là vì tôi thấy cô ấy như một hình mẫu chuẩn mực của một con người. Khi cô ấy ở
bên cạnh tôi, tôi sẽ luôn nhớ rõ rằng tại bất kỳ thời điểm nào cái gì tôi nên
làm, cái gì không; tôi nên và không nên kiếm tiền như thế nào… Đó là lý do cơ bản
cho sự thịnh vượng trong kinh doanh của tôi sau này và khi tôi đã trở thành nhà
triệu phú. Sau khi tôi chết, hàng triệu đô la của tôi sẽ kế thừa lại hết cho
Hiada. Đó không chỉ là để cho cô mà nó sẽ mang lại thành công hơn và thịnh vượng
hơn cho việc kinh doanh sau này. Tôi tin chắc rằng người con trai thông minh của
tôi sẽ hiểu được những suy nghĩ của cha mình.” (Hà Phương, Bản di chúc đặc biệt
của một nhà triệu phú tại Washington D.C, Pureinsight)
16. Cái giá cho sự khôn ngoan
Ngày nọ, triết gia Diogene của Hy lạp đã đến giữa chợ Athene và
dựng một căn lều có treo một bảng lớn với hàng chữ như sau: "Tại đây có
bán sự khôn ngoan.” Một bậc khoa cử, tình cờ đi qua căn lều, đọc được lời rao
báo, cười thầm trong bụng. Nhưng muốn biết đằng sau căn lều ấy có những gì, ông
sai người đầy tớ mang tiền đến dò hỏi mua cho bằng được cái mà người bán gọi là
"Sự khôn ngoan.”
Người đầy tớ ra đi, làm theo lời dặn của chủ, anh đưa cho
Diogene ba cắc bạc và nói rằng chủ của anh muốn có sự khôn ngoan. Cầm lấy ba cắc
bạc bỏ vào túi, triết gia nói với người đầy tớ một cách long trọng như sau, hãy
về đọc lại cho chủ anh nghe câu nầy: "Trong tất cả mọi sự, hãy nghĩ đến
cùng đích.”
Vị khoa bảng thành Athene vô cùng thích thú về lời khôn ngoan
này. Ông đã cho viết trước cửa nhà, như khuôn vàng thước ngọc, để chính ông suy
niệm mỗi ngày và tất cả những ai qua lại trước nhà ông đều có thể đọc thấy câu
trên.
17. Tiền của và tự do
Sự ham mê tiền của dễ làm cho người ta ra đen bạc, khó vào Nước
Trời.
Quả thế, vì tiền của, người ta có thể đánh mất lý tưởng cuộc đời.
Vì tiền của, người ta có thể chà đạp phẩm giá của mình cũng như
của người khác.
Vì tiền của, người ta có thể chối bỏ niềm tin.
Vì tiền của, người ta có thể phớt lờ luôn cả tiếng lương tâm.
Vì tiền của, người ta có thể làm những điều bất chính...
Đó là nguy cơ mà bất cứ ai cũng có thể rơi vào. Và người nào ham
mê tiền của đến quên cả Chúa và quên cả anh em, thì đó chính là thứ lạc đà đứng
trước lỗ kim, đó chính là những người khó vào Nước Trời.
Khi Phanxicô Assisi nghe bài giảng trong Thánh Lễ với câu:
"anh chỉ còn thiếu một điều là hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho
người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo Ta”, thánh
nhân lập tức bán tất cả những gì mình có, bố thí cho người nghèo và bắt đầu một
đời sống theo Chúa: ăn mặc rách rưới, rảo quanh các đường phố rao giảng Tin Mừng
tình thương của Chúa.
18. Ở trọ
Ít nhiều gì trong chúng ta cũng đã được nghe hay cũng được biết
về tác phẩm "Ở trọ" của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Bài hát thật ngắn
ngủi. Bài hát ấy chỉ có 5 đoạn nho nhỏ mà thôi. Mở đầu bài hát ấy, Trịnh Công
Sơn viết:
Con chim ở đậu cành tre
Con cá ở trọ trong khe nước nguồn
Tôi nay ở trọ trần gian
Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời (Ở trọ - Trịnh Công Sơn)
Ông đã mượn hình ảnh hết sức thực tế, hết sức mộc mạc, hết sức dễ
thương để nói về phận của con chim, phận của con cá và phận của con người. Sự
nghiệp của con người ở đời này thật mau qua và chóng tàn như con chim, con cá,
còn cơ nghiệp đời đời của con người thì mãi mãi là vĩnh cửu.
19. Cuộc đời cho đi mới đẹp
Một cuộc đời đẹp không phải là có địa vị, có nhiều của cải mà là
người dám sẵn lòng cho đi cái mình có. Không so đo, không tính toán. Họ sẵn
lòng cho đi tất cả để phục vụ tha nhân một cách quảng đại. Đó mới là một cuộc đời
đáng ca ngợi. Đó mới là một bông hoa đẹp dâng tặng cho cuộc đời.
Đây cũng là nét đẹp của cuộc đời Cha Gioan Lee, linh mục dòng
Salêriêng Don Bosco, Hàn Quốc. Tốt nghiệp bác sĩ y khoa nhưng cha đã bỏ tất cả
công danh sự nghiệp sau lưng, và cha đã đáp lại tiếng gọi mãnh liệt của Thiên
Chúa để trở thành một linh mục truyền giáo trong dòng Salêriêng Don Bosco. Ngay
sau khi được truyền chức linh mục tại Tòa Thánh Vatican, cha đã tình nguyện đến
truyền giáo tại miền Nam Sudan thuộc Phi Châu. Cha đã tình nguyện đến sống và
phục vụ tại một xứ sở nghèo đói nhất thế giới, giữa những người đói khổ và bệnh
tật trong làng Tonj thuộc miền Nam Sudan- Phi Châu trong suốt 8 năm trước khi
cha qua đời vị căn bệnh ung thư ruột già.
20. Người từ bỏ tất cả được Chúa
cho tất cả.
Thánh Giuse Corrodengo (1786-1842) là gương mẫu từ bỏ mọi sự, sống
phó thác vào tình yêu và sự quan phòng của Chúa. Mỗi ngày, tiền của người ta bố
thí, còn dư bao nhiêu, người dạy đem chia sẻ cho người nghèo. Người điều khiển
một cô nhi viện với 700 trẻ ở Turin (Ý). Một hôm giờ cơm đã gần đến mà nhà bếp
xem ra chưa “động tĩnh” gì cả. vả lại túi tiền đã cạn. Chị nữ tu quản lý chạy
vào báo động. Thánh nhân bảo: “Cứ cho các em sắp hàng vào nhà cơm như thường lệ.”
Rồi ngài chạy vào nhà thờ cầu nguyện. Bỗng dưng có tiếng chuông nhà khách vang
reo. Một tiểu đội lính hớt hải chạy vào thưa: “Lạy cha, tiểu đoàn chúng con đi
hành quân, gọi về cho ban ẩm thực biết sẽ không về kịp... Vậy xin cha nhận của
ăn chúng con đã nấu sẵn, cho các em cô nhi!”
Thánh nhân qua đời lúc 56 tuổi, sau khi đã lập hai dòng nữ Bác
Ái và hai dòng nam để tiếp tục công việc. Ngài được Đức Piô XI tôn phong hiển
thánh ngày 19-5-1934.
“Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em chị em, cha
mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Phúc Âm... mà không được gấp trăm ở đời
này và đời sau được sự sống vĩnh cửu” (Mc 10,29-30).
21. Tiền của biến đổi lòng người
Đã có một thời, người dân Philippines hết lời ca tụng ông Joseph
Estrada. Ông là vị tổng thống thứ 9 của một đất nước có rất đông người công
giáo. Bản thân ông cũng là một tín hữu sùng đạo nên đông đảo dân chúng quý mến
và ngưỡng mộ ông. Trong con mắt người dân, ông là một vị lãnh đạo liêm chính, sống
giản dị và rất quảng đại.
Lễ tuyên thệ nhậm chức của ông không ồn ào rình rang và quá tốn
kém. Ông lưu tâm đến người nghèo, đặc biệt các cư dân vùng nông thôn hẻo lánh,
và ông tuyên bố: “Tôi là vị tổng thống của người nghèo.”
Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau khi ông lên cầm quyền, niềm tin
của dân chúng đặt để nơi ông đã hoàn toàn sụp đổ. Ông Estrada bị báo chí phanh
phui vì hàng tháng ông vẫn nhận một khoản tiền lớn từ các sòng bài phi pháp, để
nhắm mắt làm ngơ cho họ kiếm chác.
Đồng tiền đã làm tối mắt ông và làm sói mòn niềm tin dân chúng
nơi ông. Thậm chí, Đức Hồng Y James Sheen Tổng Giám mục giáo phận Manila đã mạnh
mẽ lên tiếng đòi ông phải từ chức, vì sự nhơ bẩn ông tạo ra khiến ông không còn
xứng đáng là người cầm quyền. Chính đồng tiền đã biến một vị lãnh đạo mẫu mực
trở nên một con người đầy tai tiếng, một nhân vật được mọi người nể trọng trở
nên đối tượng khiến dân chúng khinh ghét.
22. Tinh thần nghèo khó của ĐTC
Phanxicô
Đức Thánh Cha Phanxicô trong cương vị Giáo hoàng đã khá nhiều lần
cảnh báo về một lối sống trưởng giả, đặc biệt nơi các linh mục, các Giám mục,
và cả các Hồng y.
Sau khi đắc cử Giáo hoàng, Ngài đến quầy tiếp tân của khu nhà
nghỉ trong Vatican để lấy tiền túi trả tiền phòng giống như mọi người.
Khi còn là Hồng y tại Argentina, Ngài vẫn sử dụng chiếc xe hơi
cũ kỹ như một người nghèo. Trong bất cứ cuộc tông du nào, Ngài luôn xếp chương
trình để đến thăm các khu ổ chuột, đến các nhà tù hoặc những vùng dân cư nghèo
khổ nhất, và Ngài gọi đó là vùng ven (periphery).
Trong chuyến tông du tại Mỹ, Ngài đã từ chối bữa ăn sang trọng
mà các nghị viên khoản đãi để đến dùng bữa với những người vô gia cư, những kiều
dân khố rách áo ôm lang thang lếch thếch.
Không phải chỉ một lần, Ngài đã nói thẳng thừng về hiện tượng
các vị mục tử rất đáng kính, sử dụng những chiếc xe hơi quá sang trọng và xa xỉ,
những thứ chỉ dành cho giới thượng lưu. Đây là lối sống trưởng giả mà Ngài nói
khá nhiều lần. Nhiều bậc vị vọng đã chột dạ, đổi xe khác rẻ tiền hơn, hoặc có một
Giám mục ở Hoa Kỳ đã phải bán dinh thự Giám mục xa xỉ của mình để mua lại một
tòa nhà khác khiêm tốn hơn, giản dị hơn.
Chắc chắn, Đức Thánh Cha không cổ vũ một lối sống bần cùng hay
cơ cực, nhưng Ngài nhìn thấy nguy cơ của một phong thái thích sống hưởng thụ
(consumerism), làm lu mờ căn gốc nghèo khó và làm mất đi chứng tá những giá trị
Tin mừng nơi các vị mục tử trong Giáo hội.
23. Ngẫu tượng tiền bạc
Nhà văn Anderson viết một câu chuyện rất ngắn khá ý nghĩa. Một
người hành khất đói khổ đến gõ cửa nhà một người giàu có để ăn xin. Anh chàng
nhà giàu nứt khố đổ vách nhưng lại rất keo kiệt, nhất định không cho cái gì.
Nhìn quần áo lôi thôi lếch thếch và khuôn mặt lem luốc của người ăn mày, tên
nhà giầu đã không bố thí còn từ trong nhà mỉa mai nói vọng ra: “ Hình như anh vừa
mới từ dưới hỏa ngục chui lên thì phải. Nhìn bộ mặt và quần áo của anh, tôi
đoán thế.”
Người hành khất nuốt nhục trả lời: “Thưa ông, đúng vậy. Ông nói
quả không sai chút nào, tôi mới ở dưới hỏa ngục chui lên đây. Ở dưới đó hết chỗ
rồi. Những người giầu có và keo kiệt như ông đã đầu tư tiền bạc mua hết đất rồi.
Đất ở dưới đó ngày càng mắc, nhất là đất mặt tiền. Không còn chỗ để ở, tôi phải
chui lên đây.”
24. Tôi phải làm gì để được sống
đời đời?
Trong tác phẩm văn học Le Petit Prince, Saint Exupéry kể rằng:
"Khi Hoàng Tử Bé đến trái đất, người đầu tiên mà cậu gặp là một cụ già làm
nghề đốt đèn. Một công việc thật ý nghĩa và dễ thương, cụ đốt đèn thắp sáng địa
cầu mỗi tối và tắt đèn mỗi sớm mai khi mặt trời lên.
Thế nhưng, vừa gặp cậu bé hoàng tử, cụ thở dài: "Công việc
của tôi nay thật kinh khủng. Ngày trước mọi việc hợp lý hơn. Mỗi tối tôi đốt
đèn và suốt đêm được ngủ nghỉ, mỗi sáng tôi thắp đèn và cả ngày được thư thái.
Ngày trước trái đất quay chậm, bây giờ nó quay ngày một nhanh.”
Cậu bé hỏi: "Yêu cầu của công việc vẫn không thay đổi sao?”
Cụ đáp: "Đó là bi kịch, hành tinh này quay ngày càng nhanh mà yêu cầu của
công việc vẫn không thay đổi. Sự việc trở nên tồi tệ, đến nỗi cứ nửa giờ, hành
tinh quay hết một vòng và như thế, ngày cũng như đêm, tôi không có một chốc nghỉ
ngơi,...tôi phải đốt đèn và tắt đèn liên lỉ.”
Phải, bất cứ nơi đâu, nhịp sống hôm nay xem ra quá vội vã. Những
bước chân bách bộ ngày càng trở nên hiếm hoi và dường như mỗi khi ra đường, người
ta đâm đầu chạy. Vậy thử hỏi, có bao giờ chúng ta dừng lại để đặt một câu hỏi
tương tự như câu hỏi của người thanh niên trong bài Tin Mừng hôm nay?
25. Người nghèo giầu tình thương
Tại bên Úc, Mẹ Têrêsa có mở một nhà nội trú dành cho các thanh
thiếu niên nghèo. Một lần kia, Mẹ gặp thấy một thanh niên đang bị đánh đập tàn
nhẫn, mình mẩy anh ta bầm tím hết. Mẹ thấy cần phải gọi cảnh sát đến điều tra
và khi cảnh sát đến hỏi anh:" Ai đã đánh anh?" thì anh thanh niên này
nhất định không trả lời các câu hỏi. Cuối cùng, cảnh sát phải chịu thua anh ta
và bỏ ra về. Lúc đó, Mẹ Têrêsa mới ôn tồn hỏi anh:
- Sao con không khai người đã đánh đập con với cảnh sát?
- Thưa Mẹ, nếu con khai ra, người đó sẽ bị trừng phạt và rồi những
đau khổ của người đó cũng không thể làm giảm đi nỗi khổ đau của chính con!
Người nghèo giầu tình thương biết bao! Chúng ta bảo họ nghèo,
nhưng thực sự, chính họ lại giầu có. Họ giầu tình thương và giầu lòng nhân ái.
Chúng ta cần phải có một tình thương và đôi mắt nhân hậu để có thể khám phá ra
những hạt giống tốt đã được gieo rắc trong tâm hồn họ và giúp cho những hạt giống
ấy phát triển thêm nhờ vào cách đối xử nhân từ của chúng ta đối với họ.
26. Tâm hồn tự do là phần thưởng
cho người biết chia sẻ
Một lần, có một người đàn bà giầu có người Hindou đến thăm Mẹ.
Bà ta nói với Mẹ:
- Thưa Mẹ, con ước ao được chia sẻ với Mẹ và cộng tác với Mẹ
trong các hoạt động từ thiện.
- Tốt lắm! Mẹ đáp lại một cách vui vẻ.
Rồi bà ta thú thực với Mẹ là bà ta có một điều rất khó bỏ, dó là
tính khoe khoang, ưa làm dáng. Bà thích mặc những chiếc áo xari, những bộ đồ Ấn
Độ lộng lẫy và đắt tiền. Hôm ấy, bà mặc bộ áo xari trị giá 65 đôla, trong khi
chiếc áo xari của Mẹ Têrêsa đang mặc chỉ đáng giá 65 xu, chưa đầy một đôla. Như
được ơn trên soi sáng, Mẹ Têrêsa bỗng nảy ra một tư tưởng hay. Mẹ đề nghị với
bà ấy bắt đầu cộng tác với Mẹ về những bộ áo xari đó. Mẹ khiêm tốn đề nghị:
- Từ nay trở đi, thay vì mua sắm những bộ aó xari trị giá 65 hoặc
100 đôla, thì bà chỉ nên mua những bộ rẻ tiền hơn, chừng 45 hoặc 50 đôla thôi.
Số tiền còn lại, bà hãy mua những bộ áo xari đơn sơ khác dành cho người nghèo.
Bà ấy vui vẻ hưởng ứng lời đề nghị của Mẹ, rồi dần dần bà đã biết
dùng những bộ áo xari rẻ tiền hơn. Sau này, chính bà ấy đã thú nhận với Mẹ
Têrêsa rằng:
- Thưa Mẹ, từ ngày con bắt đầu từ bỏ những vẻ hào nhoáng vô ích
bên ngoài đó, tâm hồn con cảm thấy được tự do hơn, nhẹ nhàng hơn. Con đã học biết
và hiểu rõ hơn thế nào là cho đi, thế nào là chia sẻ. Và trong cách chia sẻ như
thế, con phải thú nhận rằng chính con đã được lãnh nhận nhiều hơn những gì con
đã cho đi và chia sẻ với những anh chị em nghèo khó!
27. Tiền không mua được hạnh phúc
Ngày 06.6.1976, tỷ phú Paul Getty qua đời, để lại một gia sản từ
hai đến bốn tỷ đôla. Sau năm lần ly dị, ông đã tuyên bố với báo chí: Tôi mong
dùng tất cả gia tài của tôi để xây dựng một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Tôi thất bại.
Tôi không đạt được hạnh phúc gia đình. Tiền bạc không thể mua được hạnh phúc.
Trái lại, nó còn có họ hàng bà con với những nỗi bất hạnh nữa.
Cơ quan vũ trụ Nasa của Mỹ đã từng tiết lộ: khi phi hành gia lần
đầu tiên trên trái đất đặt chân lên mặt trăng, nhìn cảnh vật, ông ấy đã thốt
lên “ Ôi, yên bình quá, ở đây không có tiền.”
Một cuộc sống đầy đủ không thể không có tiền, nhưng nhiều tiền
chưa hẳn đã có hạnh phúc. Sự giàu sang không đương nhiên mang lại hạnh phúc cho
con người.
28. Yêu thương và chia sẻ là chìa
khóa cho hạnh phúc
Đã có một thời nhà tỉ phú George Soros than thở: “Tôi không biết
mình đang giàu hay đang nghèo; đang làm chủ số phận hay nô lệ cho thành công. Bởi
vì để thành công tôi phải làm việc như một con chó. Để giàu có tôi phải chịu cảnh
bất an liên tục.” Nhưng rồi sau những công việc từ thiện bác ái, George đã tươi
cười chia sẻ: “Chỉ từ khi biết yêu thương, đời tôi mới bắt đầu nếm được mùi hạnh
phúc và sung túc thật sự.”
Cha Albert Marie thuộc dòng khổ tu Soligay ở Bỉ cũng có một kinh
nghiệm tương tự. Trước khi vào dòng, ngài từng là một chính khách triệu phú với
danh xưng Van Cruyssen. Trong đại chiến thế giới, ngài là một sĩ quan mang cấp
bậc đại úy, với sáu huy chương và đệ nhất Bắc đẩu Bội tinh chói ngời trên ngực
áo. Nhưng giờ đây những huy chương và bội tinh ấy lại được đặt trước bàn thờ
kính Trái Tim Chúa Giêsu trong tu viện.
Trong dịp ngài tuyên khấn, có rất nhiều vị dân biểu, chủ tịch và
phó chủ tịch thượng viện, cũng như chủ tịch hiệp hội giới trẻ Công giáo Bỉ quốc
đến tham dự. Sau lễ nghi, vị tân khấn đã chia sẽ tâm tình với những người hiện
diện: “Cha Albert Marie sung sướng và hạnh phúc hơn nhà triệu phú Van Cruyssen
nhiều.”
Yêu thương và san sẻ cuộc đời cho kẻ khó nghèo chính là điều kiện
tất yếu mà những ai muốn trở thành môn đệ chân chính của Đức Kitô đều phải thực
thi.
29. Tình yêu làm cho tiền sinh lợi
“Chỉ cần chúng ta tiến về
phía Chúa một bước, thì Ngài sẽ chạy về phía chúng ta mười bước”
James Kallam kể lại một mẩu chuyện vui trong các bài viết của
ông như sau: Cách đây nhiều năm, có một thanh niên làm nghề bán sách rong từ
nhà này đến nhà kia, anh đến hành nghề tại một vùng quê nọ. Một hôm, anh vào
nhà một nông gia, ông này đang ngồi trên chiếc ghế xích đu ở cổng trước. Chàng
thanh niên đến gần người nông dân nhiệt tình ngỏ lời: “Thưa ông, tôi có bán một
cuốn sách chỉ cách canh tác sinh lợi gấp 10 lần cách ông đang làm.”
Người nông dân chẳng thèm ngước lên. Ông tiếp tục đong đưa chiếc
ghế đu. Cuối cùng, sau vài phút, ông ta liếc mắt nhìn chàng thanh niên rồi nói;
“Này anh bạn trẻ, tôi chả cần sách của anh, tôi cũng biết làm thế nào để canh
tác sinh lợi gấp 10 lần cách thức tôi hiện đang làm.”
30. Khôn một xu, ngu một pound
Sách "Dụ ngôn đời thường" của linh mục Frank Mihalie -
SDV kể câu chuyện "Khôn một xu, ngu một pound" như sau: Một con mọt
báo chí keo kiệt có thói quen để dành tất cả những tờ ghi chú mới chỉ viết một
mặt giấy. Tự nhiên việc làm kinh tế ấy đã để dành cho ông một ít tiền... nhưng
cũng đốt đi rất nhiều thời gian của ông... cuối năm, ông ngồi lại tính toán.
Để dành được được 30 xu tiền giấy vụn.
Đánh mất 1 dollar thời giờ.
Nếu nói thời gian là vàng thì con mọt trên không chỉ mất 1
dollar. Một công việc tưởng rất khôn ngoan hóa ra lại quá dại.
31. Tôi đã thấy thần chết
Ở nơi một vùng núi xa xôi hẻo lánh nọ, có một vị ẩn tu thánh thiện
đang. Một ngày kia, ngài đi dạo và phát hiện có một kho báo trong vùng núi đó.
Vừa thấy kho báo, ngài vội vàng bỏ chạy ra và hô to: "thần chết, thần chết,
tôi nhìn thấy thần chết.”
Thình lình có 3 người đàn ông trong bộ dạng rất là hung tợn đi tới.
Nghe vị ẩn tu vừa chạy và la thét như vậy thì hỏi có cớ sự gì. Vị ẩn tu đã chỉ
vào chỗ có kho báo cho 3 người đàn ông và cũng nói một lời như trước. Tôi đã thấy
thần chết.
Ba người đàn ông đó đã đi vào hang đá và phát hiện một thùng to
chứa đầy vàng ngọc. Họ vui mừng không thể tưởng. Nhưng để lấy kho báo đó ra, họ
phải đào bới cửa hang cho rộng mới có thể đi vào được. Sau một thời gian đào bới,
họ thấy đói bụng nên cử một người đi mua thức ăn về, còn 2 người ở lại tiếp tục
làm công việc đào bới cửa hang.
Chuyện xảy ra là khi đi dọc đang, người được ủy nhiệm đi mua thức
ăn sinh ra ý định sẽ chiếm đoạt số báo vật đó cho riêng mình nên dự tính khi
mua thức ăn sẽ bỏ thuốc độc vào trong đồ ăn để khi hai người bạn của hắn ăn
xong sẽ ngã chết để hắn tự do sử dụng số báo vật đó một mình. Đang khi đó thì
hai người ở lại đào bới cửa hang cũng dự tính với nhau sẽ tìm cách hạ sát người
anh em của mình khi mua thức ăn trở về để số kho báo được chia hai mà thôi thay
vì chia ba. Và họ đã hành động đúng như đã dự tính với nhau.
Sau khi giết người anh em của mình và ném xác xuống sườn núi, họ
chia nhau thức ăn và ăn ngấu nghiến vì đói. Vừa ăn xong thì cả hai đau đớn giãy
giụa vì thuốc độc đã thấm vào người. Sau một vài phút, cả hai người đó cũng tắt
thở. Thế là kho báu vẫn còn đó, mà 3 người đàn ông tham lam đã chết cách thảm
thiết! Và lời cảnh báo của vị ẩn tu đã thành sự thật: Tôi đã thấy thần chết.
32. Tôi phải làm gì?
Cách đây một vài năm, Sir Kenneth Clark người Anh làm đầu chương
trình trên TV “Nền Văn Hóa” nổi danh khắp thế giới. Clark theo chủ nghĩa nhân bản,
không cho tôn giáo là việc quan trọng. Điều này không có nghĩa rằng ông khinh
khi việc theo đạo hoặc lãnh đạm việc thờ phượng. Ngược lại, ông còn nói một vài
nét đặc biệt của việc theo đạo. Một hôm, tại nhà thờ San Lorenzo ông đã lãnh nhận
được một cảm nghiệm. Ông viết: “Trong một vài phút, cả người tôi như được soi
sáng với một niềm vui thiên đàng mà còn hơn tất cả những cảm giác mà tôi đã từng
trải qua.”
Khi nói về cảm tưởng đó, Clark đối diện với một câu hỏi: “Tôi phải
làm gì với cái ơn đó?” Công khai, ông không phải là người theo đạo. Nếu ông tự
nhiên trở thành một người theo đạo, thì gia đình ông và bạn bè ông sẽ nghĩ rằng
ông đã dẫm vào chỗ lầm lạc. Và như thế, Clark đã lựa chọn không làm một cái gì
hết với cảm tưởng mà ông đã lãnh nhận được. Ông hoàn toàn quay lưng lại trong vấn
đề đó.
Giống như người thanh niên giàu có, Kenneth là một người rất tốt,
Kenneth tìm thấy một hấp dẫn ở nơi Chúa Giêsu một cách không thể ngờ được,
Kenneth đã phải đương đầu với câu hỏi thật khó khăn để tìm được câu trả lời:
Tôi phải làm gì?
33. Không cần nhiều thời gian
Một ngày nọ, một cậu thiếu niên đến gặp ông nội cậu và xin ông
đi câu cá với cậu. Ông nội cậu là một người thợ rèn, liền nói: “Ngay sau khi
ông đóng móng cho cặp ngựa này, ông sẽ đi với cháu.”
Cậu bé bắt đầu đi thơ thẩn xung quanh lò rèn. Ông nội báo cho cậu
biết đừng sờ vào các móng ngựa bởi vì nó có mấy cái còn rất nóng. Nhưng khi ông
vừa quay lưng đi, thì đứa cháu đã cầm lấy một cái. Thấy nóng quá, cậu lập tức
buông cho móng ngựa rơi ra và kêu lên một tiếng. Ông nội cậu nghe được tiếng
kêu liền hỏi: “Con có bị sao không?”
“Không”, cậu bé nói dối.
“Chắc không?”
“Nhưng nếu cháu đau thì ông có thể giúp cháu”
“Không cháu không sao mà”
“Vậy cháu không bị phỏng chứ?”
“Không”
“Nếu cháu không sao thì tốt, vậy sao cháu lại buông cái móng ngựa
nhanh thế.”
“Cháu đâu cần nhiều thời gian để xem nó.” Cậu bé đáp.
Không cần nhiều thời gian để xem và rồi buông bỏ như câu chuyện
của Đức Giêsu cho chúng ta thấy.
34. Cái giá cho sự trưởng thành
Một câu hỏi có lần được gởi đi khắp các trường trung học ở New
York hỏi rằng: Bạn thích được như thế nào? Hai phần ba học sinh đều đáp: “Được
nổi tiếng.” Họ không có ý tưởng nào về việc phải cống hiến mình để hoàn thành một
công việc.
Trong thâm tâm, mọi người chúng ta khao khát sự tốt lành. Chúng
ta có một giấc mơ phải làm một điều gì thật sự có giá trị với cuộc đời mình.
Chúng ta biết rằng theo đuổi giấc mơ ấy bao hàm sự hy sinh nhưng cũng đem lại
niềm vui to lớn. Chính Thiên Chúa đã đặt khát vọng ấy trong tâm hồn chúng ta.
CNTN 28C – NGƯỜI PHONG VÀ LÒNG
BIẾT ƠN
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Khi Chúa Giêsu đi lên
Giêrusalem, Người đi qua biên giới Samaria và Galilêa. Khi Người vào một làng
kia, thì gặp mười người phong cùi đang đứng ở đàng xa, họ cất tiếng thưa rằng:
"Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi.” Thấy họ, Người bảo họ rằng:
"Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế.”
Trong lúc họ đi đường, họ được
lành sạch. Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở lại,
lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn
Người, mà người ấy lại là người xứ Samaria.
Nhưng Chúa Giêsu phán rằng:
"Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia
đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang
này.” Rồi Người bảo kẻ ấy rằng: "Ngươi hãy đứng dậy mà về: vì lòng tin của
ngươi đã cứu chữa ngươi.”
TRUYỆN
KỂ
1.
Hai
người cùi Việt Nam được ơn chữa lành trong tâm hồn
Hai người cùi khác nổi tiếng nhất Việt Nam, không được chữa lành
thân xác, nhưng được ban đức tin lạ lùng, đã tôn vinh Thiên Chúa bằng cả cuộc đời
cùi của mình, đó là Thi sĩ Hàn Mạc Tử và Đức Cha Cassaigne (Cát-xe).
Hàn Mạc Tử sinh năm 1912. Ông chết mới 28 tuổi. Thế mà nhà thơ
trí tuệ Chế Lan Viên đã hết lời ca ngợi: “Tử là đỉnh cao lòa chói trong văn học
đầu thế kỷ, thậm chí qua các thế kỷ.” Hàn Mạc Tử chói lòa bằng những vần thơ
như:
“Ave Maria linh hồn tôi ớn lạnh
Run như run thần tử thấy long nhan,
Run như run hơi thở chạm tơ vàng,
Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến”
Nhạc sư Hải Linh đã phổ nhạc bài thơ trên với cung điệu thần nhạc
đầy ơn phúc. Ơn phúc của Hàn Mạc Tử không phải ở chỗ là Thi sĩ trần gian mà là
Thi sĩ nước trời.
“Đức tin của con đã cứu con.” Đức Giêsu đã an ủi khích lệ người
cùi biết cảm tạ tôn vinh Thiên Chúa như thế.
Đức tin của Hàn Mạc Tử cũng đã chữa thân xác nặng trĩu đau khổ bằng
những bài thơ tuyệt diệu, cảm tạ tôn vinh Mẹ Chúa Thiên đình. Đức tin của Hàn Mạc
Tử đã làm dịu đi đôi bàn tay bị gậm nhấm, quên đi đôi mắt bị đục khoét, để tâm
tư lắng đọng trong dòng nước thánh, cho hồn bay bổng, lặng nghe trời giải nghĩa
chữ yêu:
“Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều,
Để nghe dưới đáy nước hồ reo,
Để nghe tơ liễu rung trong gió,
Để nghe trời giải nghĩa chữ yêu.”
Đức tin của Tử đã giải thoát tâm hồn Tử khỏi cảnh cô đơn đầy đọa,
để hòa nhập vào thần nhạc sáng hơn trăng, ngợp trong vạn ánh hào quang ngời
chói:
“Hồn tôi bay tới bao giờ mới đậu,
Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang.”
Người cùi nổi tiếng thứ hai ở Việt Nam là Đức Cha Cassaigne đã
được báo chí rầm rộ ca ngợi. Năm 1972 một phái đoàn dưới quyền lãnh đạo của vị
Nguyên thủ quốc gia đã đến gắn huy chương cao quý cho Ngài. Đức Giám Mục Phạm
Ngọc Chi đã đến ôm hôn Ngài, ôm hôn tấm lòng vô cùng quảng đại hy sinh của
Ngài. Hồng Thập Tự quốc tế đã quan tâm đặc biệt đến Ngài và sẵn sàng trợ giúp rất
nhiều cho những trại cùi ở Việt Nam. Đức tin của Đức Cha Cassaigne không những
cứu bao nhiêu người cùi đau khổ mà còn giúp cho bao nhiêu người biết tôn vinh
Thiên Chúa.
Từ địa vị một Giám Mục lớn nhất Việt Nam, đức tin đã thúc đẩy
Ngài từ bỏ tòa Giám Mục Sài Gòn năm 1955 đến sống lăn lộn, phục vụ những gia
đình cùi trong rừng núi hoang vu ở Di Linh.
Nếu chỉ một bát nước cho kẻ bé mọn, được Chúa kể là cho chính
Chúa, thì ở đây, thân lạy Đức Cha, Ngài đã cho cả ngai vàng, cho hết mọi sự, và
thí cả mạng sống của Ngài không phải cho một người, mà cho hàng ngàn người khốn
cùng trong xã hội, Chúa phải kể là làm cho chính Chúa biết chừng nào!
Đức tin của Thi sĩ Hàn Mạc Tử đã hy sinh vác thập giá mình theo
Chúa là một đức tin quả cảm mạnh mẽ tử đạo.
Đức tin của Đức Cha Cassaigne đã thí mạng sống mình làm của lễ
hiến tế trên thập giá là một đức tin của Đấng cứu độ.
Các Ngài đã tôn vinh Thiên Chúa như thế. Còn chúng ta thì sao?
2. Dòng suối ân tình
Đầu tháng 10 năm 1962, chiếc phi cơ hàng không Panam (Mỹ), chở mấy
trăm Giám mục người Mỹ đi họp Công Đồng chung Vatican II. Trên máy bay có một
cô tiếp viên hàng không đẹp tuyệt vời. Đức Cha Fulton Sheen, Tổng Giám Mục giáo
phận New York, đã lưu ý đến sắc đẹp kiều diễm của cô tiếp viên này. Thế rồi,
khi phi cơ hạ cánh, cô đứng bên cửa xuống cầu thang chào tạm biệt và hành khách
đáp lại hai tiếng cảm ơn. Nhưng đến lượt Đức Cha Fulton Sheen, người ta thấy
ngài ghé vào tai cô tiếp viên xinh đẹp kia và nói nhỏ một câu gì không ai nghe
được.
Bốn tháng sau, khi khóa I Công Đồng chung Vatican II kết thúc, các
Giám Mục về nước.
Rồi bỗng một hôm, cô chiêu đãi viên xinh đẹp nọ tìm đến gặp Đức
Cha Fulton Sheen: “Thưa Đức Cha, Đức Cha còn nhớ con là ai không?”
– “Tôi còn nhớ lắm, cô là tiếp viên trên chiếc hàng không đưa
chúng tôi đến Rôma.”
– “Nhưng Đức Cha còn nhớ Đức Cha đã nói gì với con không?”
– “Tôi đã nói: có khi nào cô đã tạ ơn Chúa vì Ngài đã ban cho cô
sắc đẹp tuyệt vời như thế không?”
– “Thưa Đức Cha, chính vì câu hỏi đó mà hôm nay con đến hầu chuyện
Đức Cha, chính vì câu hỏi đó mà Cha nghĩ con phải làm gì để tạ ơn Chúa?”
Trước một câu hỏi đột ngột, Đức Cha Fulton Sheen lúng túng không
biết trả lời làm sao. Ngài trấn tỉnh, chấp tay lên ngực, rồi ngước mắt lên trời
như thể xin ơn soi sáng. Sau đó ngài nói: “Cha vừa mới được một tin từ Việt
Nam: đó là Đức Cha Jean Cassaigne, một người Pháp đang là Giám Mục giáo phận
Sài Gòn, đã xin từ chức để đi phục vụ một trại phong cùi ở Di Linh – Lâm Đồng.
Những người phong cùi ở đó khốn khổ lắm con ạ! Họ đang chờ cái chết đến với họ.
Vậy theo ý cha, cách tạ ơn Chúa đẹp lòng Ngài hơn cả và có ý nghĩa hơn cả là
con hãy hy sinh một thời gian, đem nụ cười xinh tươi, đem tiếng nói dịu dàng,
đem duyên sắc của con để an ủi họ.”
Mặt cô tiếp viên tái mét. Cô đứng lặng yên một hồi lâu. Sau đó
cô cúi đầu tạm biệt không nói một lời.
Thế rồi đầu năm 1963, đài phát thanh cũng như báo chí ở Sài Gòn
loan tin: “Một nữ tiếp viên rất xinh đẹp của hãng hàng không Panam tình nguyện
đến Di Linh – Lâm Đồng để sống với những người phong cùi trong sáu tháng.”
3. Ơn làm ân nhân
David đang đi đường thì gặp một người ăn xin. Anh cho người ấy một
số tiền rồi tiếp tục đi, lòng rất sung sướng. Nhưng chỉ một sau, anh cảm thấy bực
bội khi chợt nhớ hồi nảy người ăn xin kia không cảm ơn anh. Anh đem chuyện ấy kể
cho một Rabbi nghe.
Vị Rabbi chăm chú lắng nghe, rồi hỏi:
- Khi anh cho tiền người ăn mày, anh cảm thấy sao?
- Con thấy rất vui.
- Thế đó không phải là phần thưởng cho con rồi đó sao?
- Nhưng con nghĩ rằng dù sao thì người ấy phải cảm ơn con mới phải.
- Thế sao con đã không cảm ơn Chúa?
- Tại sao phải cảm ơn Chúa?
- Vì Chúa đã ban cho con cơ hội làm dụng cụ cho Chúa thực hiện
tình thương của Ngài cho một con người khốn khổ.
4. Anh lính biết ơn.
Kurt Emmerich, một bác sĩ giải phẫu trong quân đội của Đức, đã kể
câu chuyện sau đây về một kinh nghiệm ông đã trải qua ở biên giới Nga sô. Hàng
ngàn thương binh đã được ông giải phẫu tại bệnh viện dã chiến, nhưng chỉ có một
trường hợp làm ông không bao giờ quên. Người lính trẻ đó được đưa vào bệnh viện
với một khuôn mặt bị vỡ tan nát. Bác sĩ phải làm việc rất nhiều ngày để sửa lại
khuôn mặt của anh với tất cả nỗ lực có thể được qua hàng loạt những phẫu thuật
cấy và ghép da.
Trong lần giải phẫu cuối cùng, bác sĩ đã phải khâu nối kết toàn
thể các phần còn lại với nhau ở khóe miệng của bệnh nhân. Những y tá phụ đã
giúp cho anh thương binh ngồi lên. Vì thuốc tê chung quanh miệng bệnh nhân vẫn
còn hiệu quả, nên bác sĩ nói với anh, “Bây giờ công việc đã hoàn tất, chúng tôi
muốn nghe anh phát biểu một điều gì với môi miệng mới của anh.”
Anh thương binh trẻ từ từ cử động những bắp thịt quanh miệng một
cách rất cẩn thận, và rồi với nụ cười mỉm chi đầu tiên của anh, miệng anh uốn
theo những chữ: “Cám ơn”
5. Biết ơn là một việc khó.
Đừng tưởng việc biết ơn, nhớ ơn, biết nói lời cám ơn là một chuyện
dễ dàng, không mấy khó khăn. Nếu nghĩ như thế là lầm vừa chưa biết cám ơn bao
giờ vì qua cách sống của mỗi người và qua thực tế như bài Tin mừng hôm nay
trình bầy cho chúng ta thấy rằng: nhận ơn thì ai cũng muốn, còn nhớ ơn lại rất
ít người làm hoặc cho ai cái gì người ta nhớ rất dai, còn khi nhận được cái gì
thì lại quên mau chóng. Như thế, chỉ những ai có tâm hồn đạo đức, một lòng trí
trong sáng mới có thể biết ơn ân nhân của mình cách đúng đắn.
Nếu biết năng dùng hai tiếng “cám ơn” thì nó cũng sẽ giúp người
ta rất nhiều:
- Khi ta cám ơn ai, người đó sẽ hài lòng, và lần sau họ sẽ sằn
sàng giúp ta nữa.
- Nghe ta nói cám ơn, lòng người ta vui, mặt người ta sáng, người
ta sẽ làm việc vui vẻ hơn.
Hai tiếng “cám ơn” khi được thốt ra bởi những người lớn hơn thì
càng sinh hiệu quả nhiều hơn. Chẳng hạn cha mẹ cám ơn con cái, thầy cô cám ơn
các em học trò, chủ cám ơn tớ…
Nhưng tại sao người ta cám ơn “người dưng” hơn là cám ơn người
nhà”? (Frank Mihalic).
6. Không ai cám ơn tôi cả.
Cách đây đã lâu, một con tầu bị đắm vì giông bão trong vùng Ngũ
Đại Hồ, Hoa kỳ. Những toán cấp cứu được phái đến giúp đỡ, trong đó có một nhóm
sinh viên của trường Northwestern University ở Chicago. Một sinh viên trẻ tuổi,
tên là Edward Spencer, đã cứu được 16 người từ con tầu đang bị chìm. Anh làm việc
hăng say cho đến khi gần kiệt sức. Khi được phỏng vấn, anh còn lúng túng e ngại
vì sợ rằng vẫn chưa làm hết sức mình: “Tôi đã làm việc hết sức chưa? Quý vị có
nghĩ rằng tôi đã làm việc hết mình không”?
Nhiều năm sau đó, trong buổi họp mặt của các cựu sinh viên, một
thuyết trình viên đã nhắc lại hành động anh hùng này. Bỗng nhiên có một người
la lớn rằng Edward Spencer đang hiện diện ở đây. Thế là Spencer được mời lên
bàn cử tọa. Bây giờ ông đã già, tóc bạc, buớc lên bục đài giữa tiếng hoan hô vỗ
tay của khán giả. Thuyết trình viên hỏi ông: “Trong biến cố đó, sự kiện nào
đáng ông ghi nhớ nhất”? Ông cụ bèn trả lời: “Chỉ có một điều này làm tôi nhớ
mãi, khoảng 16 hay 17 người đã được tôi cứu vớt, không một người nào đã cám ơn
tôi cả.”
7. Tất cả đều là hồng ân.
Cuộc sống là một chuỗi những ân huệ nối tiếp nhau. Những ân huệ
này đan xen với những ân huệ khác. Có những ơn do nơi Thiên Chúa, và cũng có những
ơn đến từ con người. Vậy nếu cuộc sống là lãnh nhận thì người ta sẽ như thế nào
nếu không hề biết nói hai tiếng “cám ơn”, hoặc chẳng bao giơ bầy tỏ tấm lòng
tri ân.
Chúa cho con đôi mắt, con nhìn bao kỳ công,
Chúa cho con đôi tai, con nghe đủ âm thanh,
Chúa cho con đôi môi, con hé mở nụ cười,
Chúa cho con hai tay, bưng chén cơm, cầm bút,
Chúa cho con đôi chân, dẫn con khắp nẻo đường,
Chúa cho con khối óc, phân biệt điều thực hư,
Những điều con có đó, tưởng tầm thường nhưng thật vĩ đại, thật
cao cả.
Mà đã lần nào con nhớ đến những thứ ấy để cám ơn Chúa.
Chắc đợi đến khi mắt mù, tai điếc, chân què, con mới nhận ra những
thứ ấy thật cao quí.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con nhiều điều. Nhưng xin ban
cho chúng con một điều nữa là cho chúng con biết luôn nhận ra những ân huệ Chúa
mà không ngừng cảm tạ tri ân.
Amen.
8. Hồng ân Chúa quá nhiều.
Có một người cha trong gia đình đã ghi lại câu chuyện và những ý
nghĩ sau đây: Một đêm kia, trong lúc đang đọc báo, tôi nghe đứa con gái bé nhỏ
của tôi nói: “Bố ơi, con sẽ đếm sao trên trời có bao nhiêu ngôi sao nhé.” Sau
đó, tôi nghe giọng nói êm đềm của con tôi bắt đầu đếm 1,2,3,4… Rồi tôi chăm chú
vào việc đọc báo, không để ý đến tiếng con tôi đếm các ngôi sao nữa.
Đến khi đọc xong bài báo, tôi chú ý lắng tai và nghe tiếng nó vẫn
tiếp tục đếm 123,124,125… Đến đây nó bỗng ngừng lại, không đếm nữa, rồi quay
sang nói với tôi: “Bố ơi, con không dè trên trời lại có nhiều sao đến thế.”
Nghe con gái nhận xét như vậy, tôi chợt nhớ là thỉnh thoảng tôi cũng âm thầm
nói với Chúa: “Chúa ơi, để con thử đếm xem con đã nhận lãnh bao nhiêu ơn lành
Chúa đã ban”, và càng đếm, trái tim tôi hình như càng cảm thấy thổn thức, không
phải vì âu sầu mà vì bị quá nhiều hồng ân Chúa đè nặng. Rồi tôi cũng thường phải
thốt lên như con gái tôi: “Lạy Chúa, con không dè đời con lại có quá nhiều hồng
ân của Chúa đến thế”
9. Cám ơn.
Thi sĩ Lamartine, người Pháp có kể lại một giai thoại như sau: một
hôm ông tình cờ đi qua một khu rừng, ông nghe có một âm thanh kỳ lạ: cứ sau một
tiếng búa đập vào đá lại vang lên một tiếng cám ơn! Đến gần nơi phát ra âm
thanh, thi sĩ mới nhìn thấy một người thợ đá đang miệt mài làm việc. Cứ mỗi lần
gõ búa vào phiến đá, ông lại thốt ra hai tiếng “cám ơn.”
Thi sĩ nấn ná đến hỏi chuyện, ngưởi thợ đá mới giải thích: “Tôi
tạ ơn Chúa”! Ngạc nhiên về lòng tin của một người mà cuộc sống hẳn phải lam lũ,
lầm than hơn nhiều người, thi sĩ bảo:
- Giả như bác được giầu có thì tôi hiểu tại sao bác không ngừng
thốt lên hai tiếng “cám ơn.” Đàng này Thiên Chúa chỉ nghĩ đến bác có mỗi một lần
duy nhất, đó là lúc Ngài tạo nên bác. Sau đó Ngài ban cho bác có mỗi cái búa
này để rồi không ngó ngàng gì tới bác nữa, thế thì tại sao bác lại mỏi miệng
cám ơn Ngài?
- Ông nghĩ rằng Chúa chỉ nghĩ đến tôi có một lần thôi sao?
- Dĩ nhiên – Lamartine thách thức – Chúa chỉ nghĩ đến bác có một
lần thôi!
Người thợ đá nghèo, nhưng đầy lòng tin, náo nức thốt lên:
- Tôi nghĩ điều đó không có gì đáng ngạc nhiên cả. Ông hãy nghĩ
rằng Thiên Chúa đã đoái thương nghĩ đến một người thợ đá thấp hèn như tôi, và
chỉ một lần thôi, vậy không đủ cho tôi cám ơn Ngài sao? Vậy, cám ơn Chúa, cám
ơn Chúa!
Nói xong, người thợ đá đã bỏ mặc cho ông thi sĩ đứng đó và tiếp
tục điệp khúc quen thuộc của ông: vừa đập đá vừa cám ơn Chúa.
“Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi,
Chớ khá quên mọi ân huệ của Người” (Tv 103,2)
10. Biết cách sử dụng tiền của
Một bác nông dân người Anh nọ có dịp nghe John Wesley giảng.
John Wesley là một nhà giảng thuyết nổi tiếng: hôm ấy ông giảng về việc sử dụng
tiền của.
Wesley bắt đầu bài giảng bằng tư tưởng: Phải ra công tích lũy tối
đa, phải dùng hết khả năng tìm cách làm giàu. Bác nông dân gật gù bảo người bạn
ngồi bên cạnh:
- Đúng lắm!
Rồi Wesley triển khai điểm thứ hai: Phải tiết kiệm tối đa. Ông
lên án thói phung phí tiêu xài quá đáng.
Bác nông dân xuýt xoa:
- Bài giảng thật tuyệt vời! Cám ơn Chúa, mình vẫn sống tiết kiệm
như vậy.
Cuối cùng, nhà giảng thuyết đi tới điểm thứ ba: Phải chia sẻ tối
đa. Hãy coi hoàn cảnh thiếu thốn của người chung quanh là thuộc trách nhiệm của
mình.
Nghe đến đây, bác nông dân lắc đầu rồi bỏ nhà thờ đi ra…
11. Tiền bạc làm suy sụp lòng người
Thánh Antonio, là giám mục của vùng Firenze nước Ý vào khoảng thế
kỷ thứ 15, có kể lại một câu chuyện mà ngài đã tận mắt chứng kiến trong đời mục
vụ tông đồ của ngài:
Một hôm, đang đi trên đường thì Thiên Chúa cho ngài thấy có một
vị thiên thần cứ bay lượn bên trên một ngôi nhà nghèo nàn lụp xụp. Ngài ghé vào
hỏi thăm cha sở vùng ấy thì được biết gia đình này tuy rất nghèo nhưng lại rất
đạo đức và tốt bụng, luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Thánh Antonio động lòng
thương, hiểu ra ý Chúa muốn soi sáng cho mình, ngài bèn trích quỹ từ thiện, kín
đáo trợ cấp hàng tháng một số tiền vừa đủ để gia đình này có vốn liếng mà chí
thú làm ăn cho đỡ nghèo khổ.
Bẵng đi một thời gian, ngài lại có việc đi qua vùng ấy. Ngài chợt
giật mình trông thấy một tên quỉ xấu xa đang bay lượn trên mái một ngôi nhà
khang trang đẹp đẽ nhất vùng. Ngài lại ghé vào cha sở để hỏi thăm, thì hóa ra
đó chính là ngôi nhà của gia đình mà ngài đã từng trợ cấp lâu nay. Ngài biết họ
đã cố gắng ăn nên làm ra, nhưng dần dần, vì tham lam, họ đã học đòi những thủ
đoạn mánh khóe bất lương để làm giàu nhanh chóng, đời sống họ hoàn toàn vô đạo
đức, trở nên ích kỷ và độc ác, khinh bỉ xua đuổi những người nghèo khổ láng giềng
ngày xưa. Hiện tại họ lại còn thói ăn chơi trụy lạc.
Thánh nhân đau lòng quyết định cắt đứt nguồn trợ cấp, mong cho họ
sớm hiểu ra mà sám hối quay về đường ngay nẻo chính.
12. Đứng trên tiền bạc
Một người giàu có thường đến xưng tội với thánh Philipphê Neri,
nhưng không thấy tiến bộ trên đường thiêng liêng nên ông đã chán nản thất vọng
đến nỗi bỏ luôn việc xưng tội. Thánh nhân tìm đến nhà ông, sau một lúc chuyện
trò thân mật, ngài nhìn lên cây thánh giá treo trên tường và cân nhắc độ cao của
thánh giá, rồi đề nghị với người giàu có rằng:
- Ông thử đưa tay với thánh giá xem có tới không?
Người đàn ông cao lớn vươn cánh tay dài của mình ra, nhưng không
thể nào chạm tới được thánh giá. Bấy giờ thánh nhân mới dùng hết sức đẩy cái tủ
đựng tiền của người giàu có đến bên cạnh ông rồi ngài bảo ông hãy đứng lên cái
tủ ấy để với tới thánh giá.
Quả thật ông đã sờ được Chúa Giêsu trên thập giá.
Lúc đó thánh nhân mới nói:
- Để có thể chạm được Chúa Giêsu, để tiến bộ trên đường thiêng
liêng, chúng ta cần phải ở “đứng trên tiền bạc”
Làm sao để có thể đứng trên tiền bạc chúng con?
- Khi Steve Jobs thấy nhiều người trong công ty Apple của ông vì
tranh giành quyền lợi mà sinh ra bất hoà với nhau, ông đã nghiêm chỉnh đưa ra một
quyết định cho cuộc đời của mình: “Tôi thề sẽ tránh sống xa hoa và tôi thề
không để tiền bạc hủy hoại cuộc đời tôi.” Và ông đã giữ được điều đó cho tới
khi ông qua đời.
- Năm 1830 khi thánh Gioan Vianey sửa lại nhà thờ xứ Ars, có một
bà già đem đến cho ngài một đồng bạc, một loại tiền thời bấy giờ để dâng cúng
vào việc tu bổ thánh đường. Thấy bà già quá nghèo nàn và vất vả, thánh Gioan
không dám nhận, nên đã nói với bà rằng:
- Cha cám ơn lòng tốt của bà, và Chúa cũng đã nhìn thấy lòng rộng
rãi và sốt sắng của bà rồi; nhưng vì bà quá vất vả và thiếu thốn, nên bà hãy giữ
lấy đồng bạc, để tiêu xài những thứ cần thiết.
Lúc ấy bà già đã thưa lại cách khiêm tốn rằng:
- Thưa cha, nếu Chúa cho con có của, con sẽ dâng cúng cho Chúa
nhiều hơn, nhưng vì con nghèo, nên con dâng cúng cho Chúa ít, nhưng với cả tấm
lòng yêu mến của con. Vậy xin cha hãy nhận lấy đồng bạc của con. Với đồng bạc
này, nếu cha không mua được cái gì cao quí, thì xin cha hãy mua một viên gạch
lát trong nhà thờ, để mỗi khi Chúa Giêsu ngự trong nhà tạm nhìn ra trông thấy
viên gạch ấy, Chúa sẽ nhớ tới con.
13. Luôn tạ ơn Chúa
Byron Dell kể lại câu chuyện liên quan đến ông hồi còn nhỏ như
sau: “Tôi đã lớn lên tại một nông trại miền Nebraska. Khi lên 8 tuổi, tôi có
nuôi một con ngựa nhỏ tên là Frisky. Một buổi sáng kia, khi tôi đang ngồi trên
lưng con ngựa thân yêu và tiến đến gần mấy con bò cái đang ăn cỏ, thì bỗng
nhiên chú ngựa con tôi đang cưỡi nổi hứng lên, và vùng chạy như điên mà tôi
không sao ghìm cương cho nó đứng lại được. Mấy lần tôi sắp bị té lăn xuống đất,
nhưng may sao tôi đã kịp gượng ngồi lại được trên yên ngựa. Ba tôi cùng mấy người
giúp việc vội vàng leo lên mấy con ngựa khác đuổi theo.
Sau mấy cây số băng rừng lội suối. Khi bắt kịp tôi, ông nắm chặt
giây cương con ngựa của tôi và bắt nó phải dừng lại. Sau đó ba tôi bồng tôi
sang ngồi trên yên ngựa của ông và dắt con ngựa của tôi chạy theo phía sau. Nó
ngoan ngoãn theo chân con ngựa của chúng tôi quay về nông trại. Tối hôm đó, ba
tôi đã theo tôi lên đến tận chỗ tôi nằm trên gác. Ông yêu cầu tôi cùng ông quì
trên sàn cạnh giường để tạ ơn Chúa vì Chúa đã cho tôi được an toàn sau sự cố
ban chiều. Sau đó ông đã dâng một lời nguyện tự phát để cảm tạ Chúa thay cho
tôi.”
Biến cố ấy xảy ra cách đây đã 55 năm. Thế mà Byron Dell vẫn
không bao giờ quên được. Nó làm cho ông cảm thấy xúc động và cảm phục ba rất
nhiều. Nhất là biến cố đó đã dạy cho Byron Dell bài học về lòng biết ơn đối với
Chúa.
Từ ngày ấy, mỗi tối trước khi đi ngủ, ông đều quì bên giường
thưa với Chúa một lời cầu nguyện tự phát để cảm ơn Người đã ban các ơn lành cho
ông trong một ngày qua, và cầu xin Chúa gìn giữ hồn xác mình qua đêm bình an.
14. Tạ ơn trong mọi hoàn cảnh
Matthew Henry là một học giả Kinh Thánh lừng danh vào đầu thế kỷ
18. Một ngày kia, ông bị bọn cướp trấn lột và đêm hôm đó, Henry đã ghi xuống cuốn
nhật ký của ông như sau: Hãy để cho lòng ta cảm tạ ơn Thượng Đế.
Thứ nhất, bởi vì cho đến bây giờ ta mới bị ăn cướp; trước đây ta
chưa bao giờ bị bọn cướp đón đường cả.
Thứ nhì, bởi vì mặc dầu bọn chúng cướp cái ví tiền, nhưng chúng
nó không cướp mất mạng sống của ta.
Thứ ba, bởi vì mặc dầu chúng nó cướp sạch những gì ta có trên
người lúc đó, nhưng cũng chẳng đáng giá là bao.
Thứ tư, ta là người bị cướp, chứ ta không phải là quân đi ăn cướp.
Một con người biết cảm ơn luôn nhìn mọi sự trong nhãn quan tích
cực. Họ luôn thấy ánh bình minh xuyên qua màn đêm tăm tối của cuộc đời. Họ
không bi quan khi cánh cửa khép lại nhưng luôn tìm kiếm những lối đi khác cho bản
thân.
15. Biết ơn là quyền lợi và trách
nhiệm
Abraham Lincoln đã dành một ngày đi đến nơi bán người nô lệ. Thấy
một phụ nữ da đen trẻ tuổi, rất đẹp, đang được bán. Lincoln dạm mua. Giá tăng một
cách chóng mặt, cuối cùng Lincoln chiến thắng. Người phụ nữ trẻ đã được trao
cho ông và cô cùng ông rời khỏi chợ. Cô khinh bỉ người thắng cuộc và tự nhủ:
“Bây giờ bắt đầu việc lạm dụng và tôi phải đau khổ.” Lincoln ngạc nhiên nói:
“Thưa cô, cô được tự do.” “Tự do ư?” Cô ấy hỏi, “Tự do cái gì? Để tôi muốn nói
gì thì nói sao?” Lincoln trả lời “vâng thưa cô.” Cô hỏi tiếp: “Tự do để trở nên
cái mà tôi muốn sao?” một lần nữa Lincoln trả lời “vâng đúng vậy.” “Vậy thì”
người phụ nữ nói trong nước mắt “nếu như tôi muốn đi với ông.”
Tin tưởng vào Chúa Giêsu là để nhận ra Ngài là Thiên Chúa; trở
nên môn đệ của Ngài, có nghĩa là chúng ta đang ngạc nhiên về ơn cứu độ nhưng
không Thiên Chúa ban cho chúng ta, chúng ta không thể sống không có Chúa được;
mỗi ngày chúng ta cảm thấy cần đào sâu hơn mối tương quan với Chúa. Nếu mỗi
Chúa nhật chúng ta cùng nhau qui tụ, lắng nghe Lời Chúa và rước Mình Máu cực
thánh Chúa, không phải để được chữa lành khỏi bệnh phong tội lỗi sao?
Trong bài giảng tại Vienne, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI
qui chiếu vào các vị tử đạo của Abitene, bị bắt trong khi cử hành Thánh lễ ngày
Chúa nhật. Các thẩm phán hỏi lý do tại sao họ đã vi phạm cấm hy sinh đời họ,
các Kitô hữu đã trả lời: “Nếu không có món quà của Chúa, chúng tôi không thể sống
được.” Đức Thánh Cha nhận xét: “Đối với các Kitô hữu, cử hành Thánh Lễ Chúa nhật
là một điều cần thiết nội tâm. Không có ai nâng đỡ đời sống của chúng ta, cuộc
sống tự nó là trống rỗng. Chúng ta cũng vậy, chúng ta cần phải liên hệ với Chúa
Phục Sinh, Người nâng đỡ chúng ta sau khi chết. Chúng ta cần gặp gỡ và qui tụ
nhau lại, cần có một không gian tự do, giúp chúng ta nhìn xa hơn sự nhộn nhịp của
cuộc sống hàng ngày hướng đến tình yêu sáng tạo của Thiên Chúa, mà chúng ta đến
và bước đi.”
16. Tạ Ơn Chúa
Vào ngày 07/9/2004, hai người phụ nữ Ý tên Toretta và Pari đã bị
một nhóm người vũ trang bắt cóc khi họ đang làm công tác từ thiện tại Irắc. Hai
người phụ nữ này đều thuộc gia đình Công Giáo rất sùng đạo. Cả nước Ý đã lo lắng
cho số phận của 2 con tin. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đưa ra lời thỉnh cầu
với nhóm người bắt cóc xin hãy vì lòng nhân đạo mà thả 2 người phụ nữ ra. Vơí mọi
cố gắng của chính phủ Ý trong việc đối thoại và thương lượng với nhóm người bắt
cóc, cuối cùng 2 người phụ nữ đã được thả tự do vào ngày 28/9/2004, sau 3 tuần
bị giam giữ.
Vào ngày 05/10/2004, cô Toretta và Pari đã cùng gia đình đến
Vatican xin triều yết Đức Thánh Cha. Họ quỳ gối trước mặt ngài để cảm ơn ngài
đã cầu nguyện và lên tiếng can thiệp để họ được trả tự do. Trước tin vui này, Đức
Giáo Hoàng đã cùng với gia đình 2 người phụ nữ dâng lời cảm tạ Thiên Chúa.
17. Cách tạ ơn Chúa đẹp nhất
Một ngày kia, có hai thầy trò đi dạo trên con đường miền quê.
Đang đi, họ chợt nhìn thấy một đôi giày cũ kỹ để bên vệ đường. Đó là đôi giày của
người nông dân nghèo khó đang làm ruộng bên cạnh. Cậu học trò tinh nghịch định
giấu đôi giày đi để trêu chọc người nông dân, nhưng ông thầy đã ngăn cản cậu:
con đừng tìm niềm vui qua việc trêu chọc một con người nghèo khổ như thế, nhưng
hãy tìm niềm vui khác to lớn hơn: con hãy bỏ vào mỗi chiếc giày một đồng tiền
xem ông ta phản ứng ra sao?”
Sau khi bỏ tiền vào đôi giày, hai thầy trò trốn vào một bụi cây
để xem người nông dân xử sự thế nào. Khi xỏ chân vào đôi giày để ra về, người
nông dân phát hiện ra hai đồng tiền. Ông ta rất ngạc nhiên nhìn chung quanh,
nhưng không thấy ai, ông ngắm nghía hai đồng tiền thật lâu rồi bỏ vào túi. Với
sự xúc động tràn ngập trong lòng, người nông dân quỳ xuống, ngước mặt lên trời
dâng lời tạ ơn Thiên Chúa đã dùng bàn tay vô hình nào đó đem đến cho ông một
món quà thật đúng lúc trong hoàn cảnh khốn khó hiện tại của gia đình ông.
Chúng ta bắt chước người nông dân kia luôn cảm tạ Thiên Chúa trước
những ân huệ Ngài ban. Chúng ta cũng hãy học lấy hành động yêu thương của hai
thầy trò: hãy luôn biết cho đi bằng những “bàn tay vô hình” đầy ắp tình thương.
Đó là cách tạ ơn Chúa tốt đẹp nhất của chúng ta.
18. Bảo hiểm trọn đời
Một gia đình quý tộc giàu có nước Anh đã đưa con về miền quê nghỉ
mát. Trong khi nô đùa, tai nạn đã xảy ra, cậu con trai nhỏ của họ sa chân ngã
xuống vực nước sâu. Thế rồi, từ xa, nghe tiếng kêu thất thanh, một chú bé nhem
nhuốc, con của một nông dân nghèo trong vùng đã chạy đến tiếp cứu. Nhà quý tộc
đã hết sức biết ơn cậu bé nhà nghèo. Thay vì chỉ nói lời cảm ơn và kèm theo một
ít tiền hậu tạ, ông ân cần hỏi cậu bé:
- Khi lớn lên, cháu muốn làm gì? Cậu bé nhỏ nhẹ thưa:
- Thưa ông, chắc cháu sẽ tiếp tục nghề làm ruộng của cha cháu.
- Thế cháu không còn ước mơ nào lớn hơn nữa sao?
- Dạ thưa bác, nhà cháu nghèo thế này thì cháu còn biết ước mơ
điều gì nữa đây?
- Nhưng bác muốn biết, nếu cháu được phép mơ ước thì cháu sẽ ước
mơ điều gì?
- Thưa bác, cháu muốn được đi học, cháu muốn trở thành một bác
sĩ! Nhưng gia đình cháu rất nghèo. Nhà quý tộc tiếp lời:
- Đừng bận tâm cháu ạ. Hãy giữ vững ước mơ, lên kế hoạch cho bản
thân và bác sẽ chi trả mọi chi phí học tập.
Sau này, cậu bé ngày xưa không biết bơi được cứu sống đã trở
thành một vĩ nhân, đã làm cho cả nước Anh hãnh diện tự hào, đó là Thủ tướng
Winston Churchill. Còn cậu bé quê nhà nghèo đã trở thành một bác sĩ lừng danh
thế giới, cũng đồng thời là ân nhân của cả nhân loại khi tìm ra được thần dược
penicillin. Tên của ông là Alexander Fleming. Không ai ngờ rằng đến thủ tướng
nước Anh lâm bệnh trầm trọng, cả vương quốc Anh đã đi tìm những vị danh y lẫy lừng
để cố cứu sống nhà lãnh đạo tối cao của mình. Tất cả đã bó tay. Thế rồi bác sĩ
Alexander Fleming đã tự ý tìm đến và ông đã cứu sống, một lần nữa, người mà ông
từng cứu năm xưa.
19. Trọn đời tri ân
Theo Coconuts Bangkok, chàng Klanarong Srisakul vừa tốt nghiệp đại
học Chulalongkorn danh tiếng tại Thái Lan. Anh bất ngờ nổi tiếng trên mạng nhờ
khoảnh khắc quỳ gối cảm ơn bố. Theo đó, bố Klanarong là công nhân vệ sinh,
chuyên chở rác tại địa phương. Hình ảnh kèm dòng trạng thái về bố của Klanarong
Srisakul trên trang cá nhân hiện thu hút 86.000 like và 11.000 chia sẻ cùng
hàng nghìn bình luận tỏ ra xúc động.
Chàng trai viết: “Khi còn là một đứa trẻ, không biết bao nhiêu lần
tôi đã cảm thấy xấu hổ về người bố lam lũ của mình. Tại sao ông không mặc đồng
phục đẹp đẽ hơn, như của cảnh sát hay quân nhân. Bố tôi chỉ học đến lớp 4, vì
thế ước mơ lớn nhất của ông là tôi được đi học. Ông nói với tôi, gia đình chẳng
có bất cứ tài sản gì, nhưng ông có thể cho tôi đến lớp. Tôi muốn trở thành người
lính, nhưng không thể vượt qua kỳ thi đầu vào. Tôi phát hiện ra rằng, cha tôi
đã khóc thầm.”
Klanarong tâm sự, bố đã hy sinh cả đời, mày mò với công việc dọn
rác, mà khi bé anh từng cho là dơ bẩn, không đáng trân trọng. Nhưng cũng chính
những đồng tiền bố làm ra, đã cho anh ăn học và thực hiện được ước mơ vào giảng
đường đại học."Cảm ơn bố đã đồng hành cùng con trong mọi chặng đường. Con
xin nói lên lời cảm ơn và mong bố sẽ hạnh phúc, khi thấy con khôn lớn, báo hiếu
sau này," anh nói.
20. Ít người có lòng biết ơn
Có câu chuyện kể rằng, một hôm Chúa sai hai thiên thần xuống trần
gian đi làm nhiệm vụ, đúng hẹn hai thiên thần trở về, một vị đeo cái giỏ nặng
trĩu, thấy vị kia đeo cái giỏ nhẹ tênh, hầu như không có gì bèn nói: Chúa sai
tôi xuống trần gian thâu tất cả những lời cầu xin, nhưng nhiều quá nên cái giỏ
của tôi rất nặng. Còn ngài, ngài đã làm gì mà sao cái giỏ của ngài nhẹ quá vậy?
Vị kia trả lời: Tôi xuống trần gian để thu tất cả những lời tạ
ơn, nhưng chẳng có bao nhiêu.
21. Người ngoại biết ơn
Đọc bài Tin Mừng này tôi nhớ lại một sự kiện tôi đã gặp mà tôi
nhớ rất rõ, đó là trưa ngày mùng 3 tháng 11 năm 1995 tại một nhà thờ của Dòng
Đaminh, có một phụ nữ ôm một bó hoa tươi đang phân vân đi đi lại lại trước các
tượng thánh Đaminh, thánh Vinh sơn Liêm và thánh Martinô trong khuôn viên nhà
thờ.
Tôi tiến lại gần và hỏi hình như bà muốn đặt hoa trước vị thánh
nào đó phải không? Bà thú nhận bà là người ngoại đạo, bà làm việc này theo yêu
cầu của đứa con trai của bà. Nhưng thật đáng tiếc, bà không biết đâu là thánh
Martinô, rồi bà tiếp tục tâm sự: gia đình bà đều ngoại giáo, cách đó nhiều năm
đứa con trai của bà học lớp 9, theo các bạn bè Công giáo đến khấn xin thánh
Martinô cho học hành tốt đẹp và tất cả chúng đã đạt được như ý. Kể từ đó, hàng
năm vào ngày 3/11 lễ thánh Martinô nó vẫn mang bông đến tạ ơn thánh nhân, nhưng
bởi vì năm nay nó đi xa, nó vẫn nhớ việc này và nhờ bà làm giúp cho nó.
22. Tại sao phải biết ơn.
Cha sở họ Ars trong một bài giảng đã kể một câu chuyện rất ý
nghĩa. Hằng ngày Chúa sai hai Thiên Thần đi xuống trần gian để nhận những lời
khấn nguyện của con người. Hai vị cầm hai giỏ, một để đựng những lời cầu xin, một
để đựng những tâm tình tạ ơn. Ngày nào cũng vậy, giỏ đựng những lời cầu xin thì
đầy ắp, còn giỏ đựng những tâm tình tri ân thì quá ít, hầu như không có gì.
Chúa nói với các Thiên Thần: “Con người thường chỉ biết nhận và không biết cho
đi. Họ cứ xin xỏ điều này điều kia, nhưng chỉ biết thụ ơn mà không nhớ đến kẻ
đã thi ân cho mình.”
Một nhà tu đức đã phát biểu: “Thiên Chúa cư ngụ ở hai nơi: Trên
thiên đàng và trong tâm hồn những người có lòng biết ơn.”
Khoa sư phạm giáo dục của Cha Thánh Gioan Bosco luôn nhấn mạnh đến
lòng biết ơn, và đây là yếu tố để việc giáo dục đạt được kết quả. Ngài nói:
“Hãy đem đến cho tôi một đứa trẻ có lòng biết ơn, tôi bảo đảm nó sẽ là một đứa
trẻ tốt lành.”
‘Không ai là một hòn đảo’. Chúng ta được sinh ra và lớn lên, đều
cần có sự tương tác và trợ giúp từ người khác. Miếng cơm chúng ta ăn, manh áo
chúng ta mặc đều có sự đóng góp công sức của nhiều người. Chúng ta có làm được
ông này hay bà nọ cũng nhờ công ơn sinh thành của cha mẹ, công lao dạy dỗ của thầy
cô. Song trên hết, những gì chúng ta đang hưởng dùng như tiền bạc, nhà cửa, tài
năng, sức khỏe, thời giờ…tất cả đều là hồng ân Thiên Chúa ban tặng. Vì vậy, Đấng
mà chúng ta phải tỏ bày lòng biết ơn đầu tiên là chính Thiên Chúa.
23. Mất đi mới nhận ra
Sau một trận động đất dữ dội hoặc một vụ khủng bố tựa như đã xảy
ra tại Trung Tâm Thương Mại NewYork tháng 11 năm 2001, một số người bị vùi dưới
hàng khối bê tông và gạch đá, nhưng không bị chết ngay vì được nằm lọt vào một
khoang trống. Trong khoảng không gian chật khít người, vừa tối tăm vừa ngột ngạt
đó, họ dùng điện thoại di động gọi về gia đình, gọi cho nhân viên cứu hộ đến cứu
giúp. Mạng sống của họ chỉ được tính từng giây!
Trong những giờ phút kinh hoàng như thế, người ta cảm nhận rằng
được sống thêm mươi phút nữa, dù chỉ thêm mươi phút nữa thôi, cho đến khi toán
cấp cứu đến kịp, là cả một hồng ân vô cùng lớn lao. Và đang lúc gần như bị chôn
sống dưới cả một núi bê tông như thế, họ nghiệm thấy rằng được tự do hít thở
như bao nhiêu người khác bên ngoài là một ân huệ vô cùng quý báu; được uống vài
ngụm nước lúc nầy thì thật sung sướng không gì bằng...
Mươi phút sống... một chút không khí trong lành... mấy ngụm nước...
là những gì mà những người lâm nạn hết lòng khao khát và ước mơ, nhưng những ước
mơ giản dị đó đã không đến được với nhiều nạn nhân bị chôn vùi ở nhiều nơi vì
tai nạn hầm mỏ, vì nạn khủng bố hay động đất... nhưng những ân huệ đó đang ở
trong tầm tay chúng ta cách dồi dào và dư dật. Chúng ta có thừa những gì mà những
người lâm nạn đang mơ ước. Thế mà chúng ta không xem đó là ân huệ, mà chỉ xem
đó là chuyện thường tình.
Nước, không khí, ánh nắng mặt trời... chỉ là một vài trong vô
vàn ân huệ Thiên Chúa rộng ban cho mọi người. Đếm sao cho xiết những ân huệ
Chúa ban. Vậy mà số người nhận ra và tỏ lòng tri ân Thiên Chúa thì vô cùng khan
hiếm.
24. Ai biết ơn mới thấy thiên
đàng
Một vị giám mục gặp một bà cụ già nằm liệt gường. Ăn uống vệ
sinh đều phải nhờ người giúp. Nhưng hôm ấy, dù bửa ăn đã được dọn tới nhưng người
giúp việc vẫn chưa thấy đến. Thế là vị giám mục đảm nhận luôn việc đút thức ăn
cho bà cụ. Sau đó lúc từ giã, ngài nói:
- Tôi sẽ nhớ cầu nguyện cho bà nhiều.
- Thôi ạ, bà cụ trả lời, xin Đức Cha đừng bận tâm cầu nguyện cho
con, bởi vì con một khi đã tin vào Chúa Kitô con có đủ mọi sự rồi.
Tiếp đó, vị giám mục này đến thăm một ông nhà giàu. Ông này sống
rất sung túc và có đầy đủ mọi tiện nghi bên mình. Thế mà, ngay khi vị giám mục
vừa đến ngưỡng cửa, ông ta nói ngay rằng:
- Kính chào Đức Cha, Đức Cha thấy không, có phải đây là một hỏa
ngục không nào?
Bà cụ già nghèo, thiếu tiện nghi nhưng thấy bình an hạnh phúc. Cụ
nói rất vui vẻ “một khi con đã tin vào Chúa Kitô con có đủ mọi sự rồi.” Trong
khi đó, ông nhà giàu thì than van, chê trách người khác. Ông sống trong sự buồn
bực luôn luôn, như là ông nói: Có phải đây là một hỏa ngục không nào?
25. Biết ơn diễn tả niềm tin
Henry Ironside, giáo sư một trường Thánh Kinh, một hôm đi dùng
cơm tại một nhà hàng. Khi chuẩn bị ăn thì có một người khách khác đến ngồi
chung bàn. Trước khi ăn Ironside cúi đầu đọc kinh như ông thường làm trước khi
dùng bữa. Khi xong, người khách hỏi ông, "Ông bị nhức đầu hả?"
Ironside trả lời không. Người khách lại hỏi, "Thức ăn có vấn đề?"
Ironside trả lời, "Không có gì cả. Tôi chỉ cảm ơn Chúa như tôi thường làm
trước khi dùng bữa."
Người khách nói, "Thì ra ông cũng là một trong những người
đó? Tôi cho ông biết, tôi không bao giờ cảm ơn. Mọi sự tôi có đều do mồ hôi nước
mắt của tôi nên tôi không cần phải cảm ơn ai trước khi dùng bữa. Tôi ngồi xuống
là ăn liền." Ironside nói, "Đúng, ông giống y hệt con chó của tôi. Nó
cũng làm như thế!"
26. Tán tụng hồng ân--Lm. Vũ Minh
Nghiễm
Cách đây không lâu, trong kỳ nghỉ hè, một thanh niên Trung học
tình nguyện đi làm việc xã hội ở Nicaragua. Chàng đi theo một nhóm y tế đến một
làng nhỏ trên miền núi để chích thuốc ngừa bệnh tê liệt, bệnh đậu mùa, cho các
trẻ em nghèo ở đó. Chàng thuật lại rằng:
“Cuối tuần đầu, tôi cảm thấy rất chán nản, nhớ nhà, nhớ bạn. Tôi
đi ra ngoài trời, ngồi ủ rủ trong bóng tối và tự hỏi: Tại sao tôi lại tình nguyện
đi tới một nơi xa lạ nghèo khổ như thế nầy? Bỗng tôi nghe có tiếng người nói
trong đêm tối. Đó chính là José Santos, một giáo viên cũng là gia trưởng của
gia đình tôi trọ. Ông kéo ghế ngồi gần bên tôi, mắt ngước lên nhìn trời.
Sau một phút thinh lặng, ông José bắt đầu nói:
“Thật là hùng vĩ”
Tôi hỏi:
- Thưa Thầy, Thầy nói gì vậy?
Ông José lại nói:
“Thật là hùng vĩ!”
“Đôi mắt ông vẫn ngước nhìn lên trời. Tôi cũng nhìn lên trời
theo. Thì ra tôi đã không để ý rằng trên đầu tôi, hằng hà sa số những ngôi sao lung
linh nhấp nháy, một quang cảnh rực rỡ vô cùng. Chúng tôi cứ ngồi đó mãi, mắt
nhìn lên trời hoài, thưởng ngoạn sự huy hoàng của muôn vì sao trên không trung
lồng lộng.”
Cảm nghiệm hôm đó, không bao giờ tôi có thể quên được. Sáng hôm
sau, tôi đi tới một ngọn suối để tắm. Chung quanh tôi, cỏ cây mơn mởn tươi
xanh. Vạn vật điều yên tĩnh, trừ ra tiếng nước chảy róc rách, hòa với tiếng bầy
chim ca hát líu lo trên ngọn cây. Bây giờ tôi nhớ lại lời ông José nói trong
đêm vừa rồi: “Thật là hùng vĩ!” Những cảnh tượng Thiên Chúa ban cho chúng ta thật
là hùng vĩ. Và tôi cảm thấy tâm hồn sảng khoái lạ thường. Chưa bao giờ tôi cảm
nghiệm được lòng biết ơn đối với Chúa sâu sa như vậy. Chưa bao giờ tôi cảm nghiệm
được tình Chúa yêu thương tôi bao la như vậy. Khi trở lại chích ngừa cho các em
trong làng, tôi luôn luôn vui cười, từ đầu chí cuối, đến nỗi đau cả hai gò má.”
27. Người lịch sự phải biết ơn
Một hôm bà Ann Landers nhận được một bài do người nào đó cắt
trong báo Wall Street Journal gởi cho bà. Bài đó như sau:
“Một hôm, có người hỏi một người miền Nam Hoa-kỳ rằng:
- Ranh giới miền Nam thực sự bắt đầu từ chỗ nào?
Người miền Nam kia đáp lại cách kiêu hãnh:
- Ranh giới miền Nam bắt đầu từ chỗ người ta thấy các trẻ em biết
nói: ‘Dạ, thưa ông có’. ‘Dạ, thưa không’.
Thật ra, bài báo nói tiếp, phép lịch sự không phải là vấn đề địa
dư. Nhưng phép lịch sự đó, các học được nơi cha mẹ, không phải nơi con dấu của
bưu điện.”
Bài báo vừa rồi nhắc nhở cha mẹ có bổn phận dạy bảo con cái biết
ăn nói lịch sự. Nhưng ăn nói lịch sự và có lòng biết ơn cũng là một. Chỉ có những
ai lịch sự mới biết nói: “Cảm ơn.” Không phải bất cứ lời cảm ơn nào, nhưng là lời
cảm ơn chân thành.
28. Phương pháp dạy con lòng biết
ơn
Một trong những phương pháp hữu hiệu để dạy con phải có lòng biết
ơn, là phương pháp của José Santos dạy cậu học sinh Trung học Chicago nói trên.
Đó là chia sẻ những lý do thúc đẩy mình biết ơn Thiên Chúa về những ơn lành
Ngài đã ban cho.
Ông Byron, một người sinh trưởng tại Nebraska, nói: “Khi lên 8
tuổi, tôi có một con ngựa nhỏ tên Frisky. Một buổi sáng, khi tôi đang ngồi trên
lưng, bỗng nó lồng lên, chạy nhảy như điên khùng. Tôi hết hồn hết vía, nhắm mắt
cố ghì chặt lấy lưng ngựa. Sau cùng, may quá, tôi được thoát nạn, an toàn. Tối
đó, trước giờ đi ngủ, ba tôi lên phòng, bảo tôi quì xuống đất bên cạnh người, rồi
người lớn tiếng chúc tụng tạ ơn Chúa vì đã cho tôi được qua tai qua nạn khỏi. Đến
nay đã 55 năm rồi, tôi vẫn nhớ mãi đêm đó. Đêm mà ba tôi dạy tôi biết tạ ơn
Thiên Chúa về ơn lành Ngài đã ban cho tôi như thế nào. Và từ đó, tôi coi việc
tán tụng hồng ân Thiên Chúa là bổn vụ thường xuyên hằng ngày của cuộc đời tôi.”
Trở lại với Phúc âm hôm nay, chúng ta hãy tự hỏi mình: Tôi thuộc
hạng người nào? Tri ân hay phụ ân?
Nếu là phụ huynh, là cha mẹ, tôi có lo dạy bảo con em biết tạ ơn
Chúa về các ơn lành Chúa ban cho không?
29. Lòng biết ơn
Nhờ có cuốn sách Sehirdler’s Ark và cuốn phim Schindler’s List,
tên của Oskar Schindler được hàng triệu người trên thế giới biết đến. Schindler
là một nhà công nghiệp người Đức. Trong suốt Thế chiến II, ông đã cứu hàng ngàn
người Do thái ở Ba Lan khỏi các trại tập trung. Khi chiến tranh chấm dứt, quân
Đức rút khỏi Ba Lan và người ta chờ đợi quân Liên Xô đến. Ngay trước khi quân
Liên Xô đến, Schindler cũng đã quyết định trốn qua phương Tây.
Khi những công nhân người Do Thái, giờ đây đã được tự do nghe
tin ông ra đi, họ họp lại để xem có thể bày tỏ lòng biết ơn ông như thế nào. Phải
bắt tay ngay để làm một món quà bằng kim loại. Rồi một người gợi ý một cái gì tốt
hơn. Ông ta mở miệng mình ra và chỉ chiếc răng vàng.
“Hãy lấy cái này”, ông nói, “Nó mà còn là nhờ có Oskar, bọn mật
vụ SS muốn chiếm lấy các vật dụng bằng mọi cách. Cái răng của tôi lẽ ra cũng đã
ở trong đống đồ trong nhà kho của SS, giữa những chiếc răng vàng của những người
khác.”
Ban đầu, những người khác phản đối đề nghị ấy, nhưng vì người ấy
nài nỉ mãi nên người ta nhận. Một tù nhân trước kia là nha sĩ ở Cracow đã lấy
cái răng vàng đó ra khỏi hàm răng. Một thứ kim hoàn trong số họ nấu chảy vàng
và tạo thành một chiếc nhẫn. Vòng bên trong của chiếc nhẫn, người ta ghi những
lời lấy từ Kinh Talmud: “Người nào cứu sống chỉ một mạng người, người ấy cứu sống
toàn bộ thế giới.”
30. Người thanh niên vô ơn
Cách đây nhiều năm, trong một tờ nhật báo có đăng một bài nói về
người ngư phủ và anh thanh niên say rượu.
Trời đã khuya, tất cả mọi sự vật đều chìm đắm trong cảnh yên lặng
tĩnh mịch. Người thanh niên ngồi trên chiếc du thuyền. Anh đã xỉn rượu và lảm
nhảm rống lên những tiếng ồn ào làm mất đi cái cảnh yên tịnh trong đêm tối.
Gần đấy, người ngư phủ vẫn phớt lờ anh và để tâm vào nghề nghiệp
của ông. Bất chợt, người ngư phủ nghe một tiếng động lớn ở dưới nước. Ông quay
lại, dưới ánh trăng, ông nhìn thấy người thanh niên xỉn rượu đã rớt xuống nước.
Người ngư phủ bơi với tất cả sức lực ra cứu anh ta. Khi đã vớt
anh lên thuyền, người ngư phủ đã dùng hô hấp nhân tạo để cứu sống anh.
Khi trời bắt đầu sáng, người ngư phủ đã chèo chiếc thuyền của
mình đến thăm người thanh niên xỉn rượu tối qua. Không ngờ, thay vì tỏ lòng biết
ơn và cảm ơn, anh lại chửi rủa và đuổi ông đi nữa.
Người ngư phủ liền xuống chiếc thuyền của ông và chèo đi. Ông
nhìn lên trời và than thở: “Lạy Chúa, bây giờ con mới cảm thông được nỗi lòng của
Chúa. Chúa đã hiến trót mạng sống để cứu con. Nhưng, giống như người thanh
niên, thay vì tỏ lònt cảm ơn Chúa, con đã đối xử tệ với Chúa và ra lệnh cho
Chúa hãy tránh xa con.”
31. Hai nhịp của lòng biết ơn
Tháng 2 năm 2006, tờ Thời Báo San Francisco đưa tin một nhóm cứu
hộ đã cật lực nhiều giờ để cứu con cá voi mắc lưới trên biển. Thoát chết, sau
khi bơi lượn nhiều vòng bày tỏ niềm vui, nó quay lại “nựng” từng người thợ lặn,
đẩy nhẹ nhẹ quanh người họ. Chàng trai trực tiếp cắt sợi dây ở miệng cá voi nói
mắt nó cứ nhìn theo anh mãi. Mạng sống của chín người phong cũng bị cột chặt
vào tấm lưới phong cùi. Thế nhưng, sau được gỡ khỏi, họ quên trở lại bày tỏ tâm
tình cơ bản của kẻ thọ ơn.
Não trạng coi mình đương nhiên được hưởng, vì là Dân Chúa chọn,
đã tạo ra mẫu số chung “ăn cháo đá bát” này. Trái lại, người Samari bày tỏ lòng
biết ơn, “trí nhớ của con tim,” (ngạn ngữ Pháp) vì quả tim anh cảm nhận việc Đức
Giêsu làm cho mình là một tình yêu lớn lao hay ân huệ cao đẹp, chứ không phải
như điều đương nhiên.
Con cá voi dạy cho bạn hai nhịp phải làm khi nhận một ân huệ:
(1) cảm nếm hạnh phúc của ân huệ đem lại (bơi lượn nhiều vòng);
(2) bày tỏ tâm tình tạ ơn cách cụ thể (“nựng” từng người). Thiếu
một trong hai nhịp này, bạn chưa có “trí nhớ của con tim.”
32. Kẻ vong ân bội nghĩa
Thời chiến quốc, quan đại thần nước Triệu là Triệu Giang Tử đi vào
rừng núi săn bắn, ông đã giương tên bắn trúng con chó sói, nó cong đuôi chạy trốn!
Lúc ấy có vị Đồng Quách tiên sinh cưỡi lừa đi vào núi, ông thấy con chó sói bị
thương đang tìm nơi ẩn trốn, Đồng Quách vội lấy bao mở rộng miệng cho vào. Triệu
Giang Tử và đoàn tùy tùng có nhọc công tìm kiếm cũng không thấy.
Sau khi tai nạn qua khỏi, sói để lộ chân tướng của nó, nó bảo Đồng
Quách tiên sinh:
- Thả tôi ra khỏi bao, và cho tôi ăn.
Vừa ra khỏi bao, con sói liền nói:
- Tuy ông cứu mạng tôi, nhưng ba ngày nay tôi không có gì bỏ vào
bụng, nếu chiều nay tôi chết đói, hóa ra ông cứu tôi uổng công hay sao?! Tại
sao ông không để tôi ăn thịt ông? Chỉ cần ông hy sinh một chút như thế, tôi đâu
có đòi hỏi gắt gao hơn? Vì ông đã thương thì thương cho trót.
Đồng Quách tiên sinh bình tĩnh suy nghĩ và nói:
- Dù mày có xé xác tao tan xương nát thịt, tao vẫn không coi là
mày có đạo lý, vả lại lương tâm mày cũng không yên ổn.
Sau khi thỏa thuận, hai bên tìm người để phân xử, tới cây táo
già cỗi, cây táo liền nói với Đồng Quách tiên sinh:
- Xưa kia tôi được người làm vườn trồng và chăm sóc, một năm sau
tôi ra hoa trái, năm nay tôi đã được 22 tuổi, tôi đã sống một đời không ngừng
hiến dâng trái cho bao nhiêu người, vậy mà nay khi tôi về già, người làm vườn lại
muốn đốn tôi làm củi! Ông xem đấy loài người của ông như thế làm sao mà sói
không ăn thịt ông được!
Thế là Đồng Quách lại đến hỏi ý kiến con trâu già, nó trả lời:
- Lúc tôi còn trẻ, tôi đã cày bừa để nuôi sống người nông dân,
ông ta nói thương tôi, yêu tôi, vì tôi đã dầm sương dãi nắng suốt cả đời, nay
tôi về già, người nông dân lại muốn ăn thịt tôi. Tôi nghĩ sói có ăn thịt ông,
thì cũng chẳng có gì quá đáng!
Cuối cùng, hai bên đến hỏi ý kiến cụ già. Cụ lên tiếng khiển
trách sói:
- Đồ vong ơn bội nghĩa, khi về già sẽ gặp phải con cái ngỗ nghịch,
đó là quả báo đấy, mày biết không?
Sói cãi lại:
- Nhưng vì ông này nhốt tôi vào bao đến nỗi tôi gần bị chết ngộp.
Nghe thế, ông lão liền nói:
- Ta chẳng biết tin ai bây giờ, vậy mày hãy chui vào bao để tao
xem.
Thế là sói đồng ý chui vào bao, cụ già nói với Đồng Quách tiên
sinh:
- Ông có dao không? Hãy đâm cho nó một nhát để chấm dứt cuộc
tranh luận vô ích này! Bởi vì lý luận như sói, như cây táo, như con trâu, chỉ
là cái lý của loài vật. Loài người nhờ có linh hồn không thể lý luận như thế được!
Người làm ơn tuy không đòi người nhận ơn phải đền ơn, nhưng người nhận ơn phải
tỏ ra biết ơn, để không thua con chó biết coi nhà cho chủ.
33. Có lòng biết ơn đúng nghĩa
Vị linh mục mới đến nhận giáo xứ được vài tuần, một
cụ già vào xin lễ:
- Thưa Cha, cho con xin lễ tạ ơn.
- Bà mới trúng số hay vừa xây nhà xong? Cha xứ hỏi đùa.
- Từ nhỏ đến giờ chưa bao giờ con mua vé số. Nhà con
thì đã xây cả chục năm nay rồi! Nhưng tháng nào con cũng xin một
thánh lễ để tạ ơn Chúa, vì Người đã thương ban cho con và con cháu
muôn ơn lành hồn xác. Bà cụ trả lời.
Tháng nào bà cụ cũng xin lễ tạ ơn vì nhận biết tất
cả những gì bà và con cháu đang có đều là hồng ân Chúa ban. Việc
làm ấy thể hiện lòng tin yêu và biết ơn của bà với Thiên Chúa, nhưng
đây có phải là phương cách duy nhất để thể hiện lòng tri ân?
34. Hình ảnh cho ơn cứu độ
Trong tác phẩm “Điều tốt đẹp cho Chúa” (Something beautiful for
God), ông Malcolm Muggeridge đã viết về Mẹ Têrêxa và sự vui tươi trong nhà Mẹ,
một sự vui tươi giữa bao nghịch cảnh. Trong sách có đoạn kể chuyện bà
Charubala, một phụ nữ lớn tuổi goá chồng dù chưa một ngày được sống bên chồng:
Cuộc hôn nhân đã được sắp đặt từ khi bà còn nhỏ và người thanh niên hứa hôn với
bà đã chết trước khi bà đến tuổi kết hôn.
Tuy hủ tục suttee đã bị người Anh bãi bỏ, bà không phải nhảy vào
giàn thiêu để cùng chết với chồng, nhưng vẫn phải chịu sự khinh miệt và coi thường
dành cho các bà goá, giai cấp cùng đinh trong xã hội.
Những ngày cuối đời, tật nguyền, bà bị vứt ra đường, và được các
nữ tu nhặt đưa về Nhà Dành Cho Người Hấp Hối.
Ông viết: “Tôi nhận thấy mỗi khi Mẹ Têrêxa hay một nữ tu đến gần
thì cặp mắt to màu nâu của bà Charubala lại sáng lên. Lúc bàn tay âu yếm của
các nữ tu đặt trên cái đầu tóc ngắn của bà, bà đã đáp lại bằng sự vui vẻ nồng
nhiệt. Niềm vui ấy thật mãnh liệt. Đôi khi bà ấy còn cất lên một bài hát bằng
tiếng Bengali …
“Nhiều khi tôi rất ngạc nhiên về những người đàn ông, đàn bà, về
thái độ chấp nhận tất cả trong an bình mãn nguyện của họ.”
Ơn cứu độ là thế! Tình yêu Chúa đưa người ta đi từ cái chết đến
chỗ hoàn hảo nhất của sự sống, một sự phục hồi diệu kỳ như sự phục hồi khỏi bệnh
phong hủi của quan lãnh binh Naaman: “da thịt ông lại trở nên như da thịt của đứa
trẻ, và ông được sạch.” (2V 5,14)
35. Hạnh phúc cho ai lấy Chúa làm
gia nghiệp
Thánh Gioan Kim Khẩu, một giáo phụ có tài hùng biện, phải chịu đựng
cơn giận của hoàng đế Arcadius. Trong cơn giận, hoàng đế hỏi các cố vấn để tìm
ra một cách trừng phạt Gioan Kim Khẩu cho hả dạ.
- Tịch thu tài sản của hắn!, một người nói.
- Ai sẽ bị hại?, hoàng đế hỏi, không phải là Gioan Kim Khẩu đâu,
mà là người nghèo, vì hắn cho hết những gì hắn có.
- Tống hắn vào ngục!, người thứ hai nói.
- Thế thì có ích gì? Hắn tự hào vì xiềng xích.
- Vậy thì, giết hắn đi!, một giọng nói khác.
- Như thế thì có gì hơn? Chỉ là mở cửa trời cho hắn.
Sau cùng, một tên có vẻ khôn ngoan hơn hết đề nghị: “Gioan Kim
Khẩu chỉ sợ một điều duy nhất trên đời này. Hắn sợ tội. Chúng ta phải làm cho hắn
phạm tội.”
Lời đề nghị sau hết này cho thấy rõ sự tự do và hạnh phúc lớn
lao của người lấy Chúa làm gia nghiệp:“Nếu chúng ta cùng chết với Người, thì
chúng ta sẽ cùng sống với Người.” (2Tm 2,11)
36. Làm ơn là lẽ sống và niềm vui
của Kitô hữu
Một thiếu nữ tìm đến Ấn độ xin gia nhập Dòng Thừa sai Bác ái của
Mẹ Têrêxa. Theo luật Dòng, trong ngày đầu tiên mới đến, chị được mời sang Nhà Hấp
hối, ngôi nhà đón tiếp những người sắp chết. Mẹ Têrêxa nói với cô gái: “Chắc là
con đã nhìn thấy linh mục dâng lễ, con đã thấy ngài chạm đến Thánh Thể với sự
chăm chú và yêu thương xiết bao. Vậy con cũng hãy đi và làm như thế tại Nhà Hấp
hối, vì con sẽ tìm thấy Chúa Giêsu nơi thân thể những người anh em khốn khổ …”
Người thiếu nữ vâng lời ra đi… rồi cô trở lại với nụ cười rạng rỡ
như chưa từng có, cô vui vẻ thốt lên: “Thưa Mẹ, con đã sờ được vào Thân thể
Chúa Giêsu suốt ba tiếng đồng hồ!”
Khi Mẹ Têrêxa hỏi thêm, cô kể rằng: “Con đến Nhà Hấp hối thì người
ta vừa mang đến một người ngã xuống một hố sâu, mình mẩy đầy những vết thương lở
loét và hôi thối. Con đã đến tắm rửa băng bó cho anh. Con biết mình làm như thế
là đã chạm được đến Thân thể Chúa Giêsu.”
37. Cứu độ là hồng ân nhưng không
Có người nằm mơ một giấc mơ đáng sợ. Ông thấy mình đứng trước một
biệt thự nguy nga, bên trong có hai hành lang với hai hàng chữ: “Bên phải dành
cho người công giáo, bên trái cho dân ngoại.”
Không do dự, ông theo hành lang bên phải. Đi một lát, ông thấy một
lối rẽ khác, với bảng chỉ dẫn: “Bên phải dành cho người có đức tin vững mạnh,
bên trái dành cho kẻ ích kỷ.”
Ông đi vào lối rẽ phải, lại gặp một bảng chỉ dẫn khác: “Bên phải
dành cho ai có đời sống thánh thiện, bên trái dành cho những người tội lỗi.”
Một lần nữa ông chọn bên phải. Đang hân hoan rảo bước thì ông gặp
một cảnh tượng hãi hùng ở cuối hành lang ấy: cảnh hoả ngục với muôn vàn hình khổ
không sao tả xiết làm cho ông hoảng hốt rú lên và giật mình thức dậy. Ông tự hỏi
sau một lúc bàng hoàng: “Đây là mơ hay là thực?”
Ước gì tôi đừng bao giờ tự cho mình là xứng đáng dựa vào những
gì bên ngoài, mà chỉ biết ngợi khen và tạ ơn Chúa đã yêu tôi dù tôi bất xứng, để
xứng đáng nghe Chúa nói: “Lòng tin của con đã cứu chữa con!"
38. Chúa nói cho người muốn nghe
Một người phong hủi mù lòa nghe nói về hệ thống chữ nổi Braille
và xin theo học. Một trong những ước mơ của anh là đọc được Kinh thánh. Thế
nhưng một trong những bi kịch đối với người phong hủi này là căn bệnh đã khiến
những ngón tay của anh mất đi sự nhạy cảm, không còn cảm thụ được những chữ nổi
của hệ thống Braille. Đó quả là cái tát điếng người khiến anh hầu như vô vọng.
Nhưng rồi anh ta nhận ra rằng một phần thân thể tức cái lưỡi của anh vẫn đủ nhạy
cảm để có thể cảm thụ được những ký tự. Và đó chính là cách anh đọc Kinh thánh.
Tôi có say sưa đọc và chiêm ngắm Lời Chúa mà tôi biết có thể
giúp tôi hành động khôn ngoan và tránh được lầm lỗi không?
Nghe Lời Chúa, bạn không chỉ nghe được âm thanh, mà còn thấy nó
được thể hiện sống động trong Chúa Kitô (Fulton Sheen).
39. Chữa bệnh hủi trong lòng
Một thổ dân trong làng không chịu rửa tội mặc dù bạn bè của anh
ta yêu cầu. Nhà truyền giáo ngạc nhiên hỏi: “Có điều gì trong lời dạy dỗ của
cha làm cho con chán ngán hoặc hoang mang không?” Người thổ dân đáp: “Thưa
không! Điều lúc này con muốn thấy là liệu bí tích rửa tội có tạo nên một cái gì
khác trong cuộc đời của bạn bè con hay không.”
Sau một tháng quan sát kỹ lưỡng, người thổ dân trở lại với nhà
truyền giáo và nói: “Giờ đây con sẵn sàng chịu bí tích rửa tội, vì bí tích rửa
tội có sức biến đổi. Con muốn Chúa làm cho con những gì Ngài đã làm cho bạn bè
con.”
Một cách cụ thể, cuộc đời tôi biến đổi như thế nào nhờ bí tích rửa
tội?
Rửa tội có nghĩa là từ bỏ con người cũ để hướng đến con người mới
(Martin Luther King)
40. Niềm vui của người môn đệ
Chúa
John Hughes là một tài xế taxi tại Nữu Ước trên 35 năm. Một đêm
kia, trong khi lau chùi xe, ông ta gặp được một chiếc nhẫn bằng ngọc bảo. John
cố nhớ xem chiếc nhẫn này là của người hành khách nào. Cuối cùng, ông nhớ đến một
người phụ nữ mang theo rất nhiều tiền. Ông phải mất hai ngày tìm kiếm và hồi hộp
trả lại chiếc nhẫn cho bà ta. Chẳng những không thưởng, mà bà ta chẳng một lời
cảm ơn. Sau đó, John nói: “Tôi rất mừng, vì dù sao cũng đã tìm được bà ta. Đó
là việc tôi phải làm.”
Phản ứng của tôi sẽ thế nào đối với sự vô ơn của người phụ nữ
kia?
Người không mong đợi lòng biết ơn là người hạnh phúc, vì anh ta
sẽ không phải thất vọng. (W. C. Bennett)
41. Tâm hồn được chữa lành
Jermaine Gardner bị tàn tật từ bẩm sinh: chỉ có một mắt, không
mũi và khuôn mặt méo mó. Các bác sĩ nói rằng cậu mất khả năng hoạt động trí óc.
Mẹ cậu muốn cậu chết. Nhưng giờ đây được hai mươi bốn tuổi, cậu đang ngồi trong
đại sảnh bệnh viện thành phố Dallas trình diễn piano trước 200 nhân viên bệnh
viện. Tài năng âm nhạc được phát hiện tình cờ khi Gardner còn là một đứa trẻ.
Hiện nay, anh có khoảng 200 bản nhạc cổ điển, và bản nhạc nổi tiếng “thuyền
mành” được Gardner chơi với tay piano nổi tiếng thế giới là Stevie Wonder.
Câu truyện trên mời gọi tôi tự hỏi tôi biết ơn ra sao vì những
gì tôi có và nên bày tỏ cách nào?
Phúc cho ai không cảm thấy đau khổ vì những gì không có và biết
tạ ơn vì những gì họ có.
THỨ HAI - DẤU LẠ GIO-NA
Lời Chúa: Lc 11, 29-32
Khi ấy, thấy dân chúng từng đoàn lũ tụ tập lại, Chúa Giêsu phán
rằng: "Dòng giống này là dòng giống gian ác. Chúng đòi điềm lạ, nhưng sẽ
không ban cho chúng điềm lạ nào, ngoài điềm lạ của tiên tri Giona. Vì Giona đã
nên điềm lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là điềm lạ cho
dòng giống này như vậy.
Đến ngày phán xét, nữ hoàng phương nam sẽ đứng lên tố cáo và lên
án dòng giống này, vì bà đã từ tận cùng trái đất mà đến nghe sự khôn ngoan của
Salomon. Nhưng ở đây còn có người hơn Salomon. Dân thành Ninivê cũng sẽ đứng
lên tố cáo và lên án dòng giống này, vì họ đã sám hối theo lời Giona giảng,
nhưng ở đây còn có người hơn Giona nữa."
TRUYỆN KỂ
1. Có mù mới hiểu
Một nhóm sinh viên tổ chức tham quan mỏ than Scottish ở nước
Anh. Mỗi sinh viên được phát một mũ bảo hộ của thợ mỏ, đằng trước mũ có gắn
bóng đèn nối với một bình điện đeo ở thắt lưng.
Người hướng dẫn đưa họ vào buồng thang máy xuống tận đáy hầm
than. Tới nơi, ông đề nghị các sinh viên bật đèn trên mũ bảo hộ vì con đường dẫn
đến khu khai thác tối đen như mực. Mái vòm chỉ cao một mét hai, nên mọi người
phải cúi rạp xuống khi di chuyển. Than được chở trên băng tải và đổ vào các toa
trên đường ray.
Ngay trước khi nhóm sinh viên đến khu khai thác, người hướng dẫn
nói: “Các bạn hãy tắt tất cả các đèn trên mũ." Mọi người đều làm theo.
Không ai thấy gì cả. Mọi vật đều một màu đen. Trong tăm tối, người thợ mỏ nói:
“Hãy cố gắng nhìn kỹ vào ngón tay của bạn." Chẳng ai thấy gì cả. Một vài
người bắt đầu sợ hãi. Rồi người thợ mỏ nói một câu mà các sinh viên không bao
giờ quên được: “Đây là tình trạng của những người mù."
Tất cả các sinh viên đều hiểu ra. Bị mù thì không bao giờ thấy
được ánh sáng hoặc bất cứ thứ gì khác. Họ cũng hiểu tại sao những người thợ mỏ
lại thích bầu trời trong xanh và ánh nắng rực rỡ của mặt trời.
Chúng ta cũng duyệt lại đời sống của mình, có còn ở trong bóng tối,
như anh mù ở thành. Chúng ta tín thác vào Thầy Giêsu, Đấng sẽ kéo chúng ta về sự
sáng trong lời cầu: Xin Chúa chữa niềm tin còn u tối… U tối của tội lỗi, của bất
toàn và của yếu đuối thân phận của con người… U tối của những suy nghĩ, u tối
trong cách hành xử với nhau.
2. Đức Kitô là một mầu nhiệm
Một người đàn ông đến với vị linh mục và muốn thắc mắc các cớ về
đức tin, ông nói:
- Làm sao mà bánh, rượu biến thành Mình, Máu Chúa Kitô được?
Linh mục trả lời: - Có gì đâu. Bản thân ông cũng biến thức ăn
thành máu thịt ông đấy. Thế thì lẽ nào Chúa Kitô không làm được như vậy?
- Nhưng, làm sao mà Chúa Kitô toàn thể ở trong tấm bánh nhỏ tí
được?
- Này, cả vùng trời bao la trước mặt còn nằm gọn trong mắt ông,
thì Chúa Kitô cũng vậy đấy.
- Vậy cùng một Chúa Kitô làm sao có thể hiện diện đồng thời ở khắp
các nhà thờ?
Lúc bấy giờ linh mục cầm chiếc gương cho ông ấy soi mình vào.
Sau đó, ngài thả rơi chiếc gương xuống đất nó vỡ thành nhiều mảnh, rồi nói với
kẻ hoài nghi:
- Đấy chỉ có một mình ông thôi, vậy mà ông có thể thấy gương mặt
mình trên từng mảnh gương vỡ. Chúa Kitô cũng thế (Willi Hoffsuemmer).
Người đời thường nói: “Mặt trời vẫn có đó nhưng chỉ có những ai
không dùng bàn tay che kín mắt mình lại, thì người ấy mới có thể thấy được ánh
sáng huy hoàng rực rỡ của nó."
3. Các loại dấu chỉ
Một người đang chạy xe gắn máy trên đại lộ bỗng dừng lại, vì
phía trước có dấu chỉ đèn đỏ. Một người bước vào một ngôi nhà thấy một dấu chỉ
nên vội dụi tắt điếu thuốc của mình. Dấu đó thế nào? là hình một điếu thuốc bị
gạch chéo... Trên đây là những dấu chỉ “nhân tạo." Ngoài ra còn những dấu
chỉ “thiên nhiên tạo” nữa, thí dụ đám mây đen bỗng dưng kéo đến là dấu báo trời
sắp mưa. Loại thứ ba là những dấu chỉ nhắc ta nhớ đến Chúa. Loại thứ tư là những
dấu chỉ Chúa muốn ta làm đề nhắc người khác nhớ đến Chúa. Đố bạn nghĩ ra một số
dấu chỉ thuộc loại thứ ba và thứ tư...
Đối với những người quanh ta: Chúng ta còn được mời gọi trở nên
những dấu lạ cho người thời nay để giới thiệu Chúa cho họ. “Một nụ cười, một
ánh mắt cảm thông, một bàn tay nâng đỡ... phải chăng đó không là những phép lạ
mà lúc nào những người chung quanh cũng đang chờ đợi nơi chúng ta?”
4. Anh đấy sao?
Một trong những cuốn phim hay nhất của Charlot và có lẽ cũng là
một trong những cuốn phim hay nhất trong lịch sử điện ảnh, đó là cuốn phim có tựa
đề: “Ánh sáng đô thị." Cuốn phim thuật lại một câu chuyện tình giữa một gã
lang thang và một cô gái bán hoa.
Nàng là một cô gái mù bán hoa bên vệ đường. Một nhà tỉ phú trong
rừng ngày nào cũng dừng lại mua hoa của nàng. Ngày kia, gã lang thang là chàng
Charlot cũng dừng lại mua hoa. Cô gái bán hoa tưởng là người tỉ phú. Thế là một
giấc mộng đã sớm chớm nở nối kết hai linh hồn. Nàng tưởng mình gặp người mình
mơ mộng từ lâu nay. Chàng thì hy vọng sẽ kiếm được tiền để chữa lành tật mù lòa
cho nàng.
Nhưng sau đó, chẳng may vì một sự ngộ nhận, chàng bị cảnh sát bắt
giam. Sau một thời gian bị cầm tù, chàng được trả tự do. Chàng trở lại chỗ cũ để
tìm người con gái mù bán hoa, nhưng không thấy. Nhờ tiền bạc trước kia chàng đã
gửi cho, người con gái mù đó đã được chữa lành và hiện đang đứng trông coi một
cửa hàng bán hoa rộng lớn hơn. Chàng đi qua đi lại nhiều lần, nhưng không thể
nào nhận ra nàng.
Tình cờ, một cánh hoa hồng rơi xuống đất, chàng cúi xuống nhặt.
Người con gái thấy vậy thì cười như nhạo báng. Chàng định bỏ đi, nhưng chợt nhận
ra tiếng cười rất quen nên chàng quay lại. Chàng hỏi một cách nhút nhát: - Cô
đã thấy được rồi sao?…
Người con gái nhận ra tiếng nói rất quen thuộc của chàng. Nàng từ
từ nhặt chiếc hoa và gắn lên áo chàng. Và nàng thốt lên trong cảm xúc: - Anh đấy
sao?
Thế là cả hai bên đã nhận ra nhau và họ sẽ không bao giờ rời
nhau nữa.
Một giọng nói quen thuộc của một người trước kia mới chỉ nghe thấy
giọng nói chứ chưa một lần được nhìn thấy bằng mắt, vậy mà qua giọng nói họ đã
nhận ra nhau.
5. Dấu chỉ của người Công giáo
Một vị Giám mục kiểm tra khả năng của một nhóm ứng viên xin lãnh
nhận bí tích Thanh Tẩy. Ngài hỏi: - Bằng dấu chỉ nào mà các người khác nhận ra
các con là người Công giáo?
Không có tiếng trả lời. Rõ ràng không có ai ngờ một câu hỏi như
thế. Vị Giám mục lập lại nhiều lần câu hỏi và lần cuối cùng ngài kín đáo vẽ một
dấu Thánh Giá có ý mách nước cho các người dự tòng một câu trả lời.
Bất chợt một ứng viên trả lời: - Đó là “Tình yêu."
Vị Giám mục rất ngạc nhiên! Khi định mở miệng nói “Sai”, nhưng rất
may ngài kịp thời ngậm miệng lại.
6. Nhận ra tình yêu Chúa nơi trái
dâu
Ông Barty vốn dĩ là người Công Giáo, nhưng không nhận ra ơn Chúa
gọi ông, đặc biệt từ khi ông lãnh Bí tích Thánh Tẩy, ông đã được nhận sứ mệnh
tư tế, ngôn sứ, vương đế, để ông loan báo kỳ công của Thiên Chúa không thua các
tạo vật. Thế mà ông đã vô ơn Chúa sống không lý tưởng, không tìm được ý nghĩa
niềm vui trong cuộc sống, dù ông rất giàu có.
Ông muốn tự tử, nhưng sợ không có ai chôn ông, nên ông đã bỏ ra
200.000 dollars để trả công cho người thanh niên, sau khi ông xuống hố nằm mà
sáng hôm sau anh chàng không thấy ông bò dậy thì lấy xẻng lấp đất. Nhưng người
thanh niên không can đảm làm việc ấy. Ông lại nhờ một Linh mục trẻ giúp ông,
nhưng Linh mục ấy cho ông biết: ông tự tử như thế là vi phạm điều răn thứ V,
nên Linh mục không thể làm theo yêu cầu ông được. Ông nói lại: Sống không hạnh
phúc, chỉ gây u sầu cho những người xung quanh, thì tội ấy nặng hơn tự tử. Ông
lại đi thuê một người làm trong Viện Bảo tàng, người này nói với ông: tôi làm
trong Viện này, nhìn thấy các vật cổ Chúa đã cho người ta khéo tay để họa lại
những kỳ công Chúa thực hiện nơi vạn vật. Tôi cảm thấy mình đang sống trong ơn
huệ Thiên Chúa, Ngài đã làm bao nhiêu phép lạ bao phủ lấy tôi. Cho nên tôi
không nhận tiền công của ông để chôn sống ông được!
Thế là ông Barty phải tự sát, vì không ai giúp ông chết, ông
quàng dây thừng lên cây dâu và thắt thòng lọng để chui đầu vào đó. Nhưng chính
lúc ấy, tay ông lại động vào trái dâu chín mọng,ông nếm thử và chưa thấy có
trái nào ngọt lịm như vậy, lúc đó ông mới ngộ ra rằng Chúa đâu có phải cho mình
một trái dâu, mà Ngài cho cả vũ trụ này, nhất là “Chúa ban Con Một Người, ngõ hầu
ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi, nhưng được sự sống đời đời” (Ga 3,16). Thế
là ông từ bỏ ý định tự tử.
7. Phải làm việc
Có một truyện vui về một cụ già thấy một con chim sẻ đang nằm chỗng
chân lên trời. Cụ già hỏi con chim sẻ: “Tại sao lại nằm như thế?” Chim sẻ nói rằng:
“Người ta bảo rằng hôm nay trời sẽ sập.” Cụ già cười ầm lên và nói: “Mình nghĩ
là đôi chân bé nhỏ của ngươi có thể chống trời được sao?” Chim sẻ đáp: “Không
nhưng tôi phải làm những gì có thể.”
Đến lúc phải loan báo Tin mừng, theo triết lý của kẻ đầu hàng:
“Người như tôi thì làm được gì?” Hay theo triết lý của con chim sẻ: “Tôi phải
làm những gì có thể.”
Thất bại duy nhất là không chịu cố gắng.
8. Không biết mình
Cha James F. Keenan, Dòng Tên, khai triển một luận đề luân lý rất
thú vị rằng “người ta phạm tội vì họ quá mạnh chứ không phải vì họ quá yếu.”
Nghịch lý này còn được thấy nơi nhiều trường hợp khác nữa. Thiếu, không phải vì
thiếu, mà vì có quá nhiều. Như cá giữa đại dương mà loay hoay đi tìm… nước! Như
người Việt Nam ta từng bị mang tiếng là ‘chết trên đống thuốc’ (có ý nói rất
nhiều cây cỏ quen thuộc của chúng ta là những vị thuốc quí giá mà ta không ngờ!).
Chung qui, vấn đề nằm ở chỗ hoặc do người ta vô minh, hoặc do bướng
bỉnh, hoặc do cả hai. Đây cũng là vấn đề của những người Do Thái thời Đức
Giêsu. Họ có điều quí nhất trong tầm tay, nhưng họ không nhận ra, và họ mải kiếm
tìm những thứ khác thôi.
Nhìn lại những kinh nghiệm ‘bỏ mồi bắt bóng’ trong cuộc đời
mình. Phải chăng chỉ khi sực tỉnh, ta mới thấy rõ rằng mình dại? Ta sẽ đi tìm
ánh sáng và sự khôn ngoan đích thực ở đâu, nếu không phải nơi Lời Chúa vốn luôn
trong tầm tay ta? Ta sẽ tìm sự sống và sức mạnh tinh thần ở đâu, nếu không phải
là nơi Thịt Máu Chúa vốn được trao ban cho ta mỗi ngày?
9. Đổi mới cuộc sống
Một tạp chí đăng hình những tù nhân trong một chương trình cải tạo
lao động. Họ đang trùng tu một ngôi nhà. Vài ngày sau, một trong số tù nhân viết
cho tờ báo rằng lần cuối cùng anh ta được đăng hình trên báo là lúc anh ta bị kết
án. Anh viết: “Thật là niềm vui khi thấy hình mình trên tờ báo đang làm việc tốt.
Khi vào tù, tôi giống như ngôi nhà chúng tôi vừa trùng tu. Nhưng Thiên Chúa chịu
trách nhiệm về đời tôi và biến đổi tôi thành một người mới trong Chúa Kitô.”
Câu chuyện về dân Ninivê và người tù mời gọi tôi tự hỏi: tôi có
sẵn sàng để Thiên Chúa đi vào cuộc đời tôi và đổi mới tôi thành con người mới
trong Chúa Kitô không?
Phàm ai ở trong Chúa Kitô đều là thụ tạo mới. Cái cũ đã qua, và
cái mới đã có đây rồi. (2Cr 5,17)
10. Tình yêu luôn hy vọng
Một truyền thuyết cổ phác họa những gì xảy ra bên ngoài cổng
thiên đàng sau ngày tận thế. Nhóm các thánh và những tội nhân thống hối cuối
cùng vừa leo lên chiếc thang vàng nối từ đất lên trời. Ngoại trừ Chúa Giêsu, tất
cả đều mang tâm trạng phấn khích, ca hát và nhảy múa. Ngài đứng một mình trên đỉnh
thang và nhìn xuống trần gian. Rõ ràng là Ngài đang tìm một ai đó. Khi một vị
thánh hỏi Ngài tìm ai, Chúa Giêsu nói: “Ta tìm Giuđa, hy vọng anh ta sẽ hoán cải
trước khi chết và có thể nhập đoàn với chúng ta.”
Câu chuyện trên nói lên điều gì? Nó nói với tôi điều gì về một
con người được yêu thương?
Không có gì là vô vọng, ngoại trừ kẻ trở nên vô vọng về chính
mình. (Chare Booth Luce)
THỨ BA - THANH TẨY HỮU HIỆU, CHÍNH LÀ
TÌNH YÊU
Lời Chúa: Lc 11, 37-41
Khi ấy, lúc Chúa Giêsu còn đang nói, thì có một người biệt phái
mời Người dùng bữa tại nhà ông. Người đi vào và ngồi bàn ăn. Nhưng người biệt
phái ngạc nhiên, nghĩ trong lòng rằng tại sao Người không rửa tay trước khi
dùng bữa.
Bấy giờ Chúa phán cùng ông ấy rằng: "Này các ông, những người
biệt phái, các ông lau rửa bên ngoài chén đĩa, nhưng nội tâm các ông đầy tham
lam và gian ác.
Hỡi những kẻ ngu dại, chớ thì Đấng đã tạo thành cái bên ngoài, lại
chẳng tạo thành cả cái bên trong sao? Hãy đem những cái bên trong ra mà bố thí,
thì mọi sự sẽ nên trong sạch cho các ông."
TRUYỆN KỂ
1. Người chỉ biết đến lề luật
Người Biệt phái tuyệt đối tin vào Lề Luật. Lề Luật làm cho họ
nên công chính. Đến nỗi Thiên Chúa chỉ có việc thưởng công khi họ chu toàn Lề
Luật. Và họ chẳng cần nhờ gì đến Chúa. Đó là một sai lầm lớn lao. Sai lầm nối
tiếp sai lầm. Giữ Lề Luật chỉ cần hình thức bề ngoài là đủ. Làm như Lề Luật là
bùa chú. Cứ theo công thức là thành. Vì thế đạo của họ không có nội tâm. Bên
trong của họ tội lỗi xấu xa. Lại còn tự kiêu tự mãn.
2. Quan Tâm Ðến Ðiều Cốt Yếu
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy nhóm Biệt phái ngạc nhiên vì Chúa
Giêsu không rửa tay trước khi dùng bữa. Họ ngạc nhiên không phải vì Chúa Giêsu
không giữ phép vệ sinh, nhưng vì Ngài không giữ luật định, theo đó, trước mỗi bữa
ăn phải rửa tay bằng nước chứa trong các chum lớn bằng đá, với một số lượng nước
được quy định và qua một cách thức được ấn định. Dưới con mắt người Biệt phái,
người nào không giữ luật này, đó là người không xử sự đúng đắn: chẳng những
không giữ vệ sinh, mà còn nhơ bẩn trước mặt Thiên Chúa; không rửa tay trước khi
dùng bữa sẽ trở nên đối tượng tấn công của quỉ dữ, dẫn đến nghèo đói vì bị phá
sản; và bánh ăn với bàn tay không sạch thì chẳng khác gì phân bón.
Vì những lý do trên và những lý do khác tương tư, sách các Rabbi
có ghi những mẫu truyện như sau: Một Rabbi nọ không giữ luật rửa tay trước khi
dùng bữa chỉ có một lần, thế mà đến lúc chết đã bị chôn cất như một người bị dứt
phép thông công. Một Rabbi khác bị người Rôma giam giữ, đã dùng nước uống cung
cấp rất hạn chế cho việc thi hành nghi thức rửa tay trước và trong khi dùng bữa,
vì thế đã gần phải chết khát, bởi lẽ ông nhất định thà chết khát hơn là chểnh mảng
giữ luật rửa tay.
Quan niệm và tâm thức của những người Biệt phái thời Chúa Giêsu
coi các phong tục, tập quán, luật lệ là cốt tủy của việc thờ phượng Thiên Chúa
và có giá trị như trọng tâm của tôn giáo, do đó những ý nghĩa cao thượng khác của
niềm tin và tôn giáo cũng như những giá trị luân lý quan trọng hơn hầu như bị
chôn vùi dưới lớp bụi dầy đặc của những luật lệ rườm rà tỉ mỉ; tâm thức này đưa
họ đến việc giữ đạo vụ hình thức. Câu trả lời của Chúa Giêsu hướng con người
vào những giá trị bên trong, quan tâm đến điều cốt yếu là sự trong sạch của
lương tâm và tâm hồn.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta duyệt xét lại cách thức và mức
độ giữ đạo và hành đạo của chúng ta. Ước gì chúng ta dần dần từ bỏ những cách
thức giữ đạo hình thức, để đi vào chiều sâu của việc sống đạo với một lương tâm
trong sạch, một tâm hồn quảng đại và ý hướng ngay lành.
3. Chọn điều cốt yếu
Trong chuyến viếng thăm mục vụ tại Brasil thuộc Châu Mỹ Latinh
vào năm 1980, Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã để lại một ấn tượng hết sức
đẹp, đó là: ngài đã tháo chiếc nhẫn vàng Giáo Hoàng của mình để tặng cho người
dân nghèo ngoại ô thành phố Rio de Janeiro. Tuy nhiên, qua sự kiện này đã làm
cho nhiều người đi cùng với ngài tỏ vẻ không hài lòng!
Hôm nay, Tin Mừng cũng thuật lại một nghĩa cử hết sức lạ thường
của Đức Giêsu, đó là: Ngài đã sẵn sàng đáp lại lời mời của một người trong nhóm
Pharisêu vốn đã không thích gì Đức Giêsu và giáo huấn của Ngài, để đến dự tiệc
tại gia đình ông, mặc cho nhiều người chống đối, xầm xì.
4. Lòng tốt nâng cao tầm đạo đức
Một bà mẹ lo lắng nhiều cho đứa con trai không đi nhà thờ, mà lại
đi theo những bạn bè xấu và còn tỏ ra bất mãn mọi chuyện. Bà mẹ đau khổ này đã
tìm mọi cách để đưa con về con đường tốt, nhưng tất cả đều vô ích. Vào một ngày
Chúa nhật, bà nảy ra một ý tưởng. Gọi đứa con trai lại, bà nói: “Con làm ơn
giúp mẹ một chuyện. Hãy đem gói đồ này đến cho gia đình ở căn nhà trong khu phố
đối diện với chúng ta. Nếu con làm cho mẹ việc này, mẹ hứa sẽ không bao giờ quấy
rầy con nữa."
Có lẽ để khỏi nghe tiếng mẹ giảng dạy, la rầy, chàng thanh niên
đã nhận làm điều mẹ anh yêu cầu. Anh đi đến địa chỉ như mẹ dặn, bước vào một
căn nhà nghèo nàn và bỡ ngỡ đến tột điểm, anh đã khám phá thấy một người đàn bà
đau ốm chỉ còn da bọc xương với ba đứa con nhỏ, rách rưới, lem luốc, đang than
khóc, kêu la vì đói. Chàng thanh niên trao vội gói đồ và muốn nhanh bước rút
lui. Nhưng người đàn bà đã gọi giật anh trở lại, và qua giọng yếu ớt bà thều
thào: “Cậu ơi! Cậu không thể đi ngay được khi tôi chưa kịp cám ơn cậu. Cậu là
ơn quan phòng Chúa gửi đến cho chúng tôi. Xin Ngài trả ơn cho cậu."
Chàng ra về với tấm lòng bị cảm xúc mạnh. Ngày hôm sau, anh trở
lại nhà bà mẹ đang bị đau ốm với đàn con nheo nhóc hôm qua với một gói quà
khác, mà anh đã mua với chính tiền của anh. Và sau khi trao quà, anh còn ở lại
chơi với mấy đứa nhỏ. Kể từ đó, chàng thanh niên đã thay đổi cuộc đời, vì lòng nhân
hậu đã làm anh mỗi ngày hiểu được ý nghĩa của cuộc sống và nhờ đó anh cảm thấy
hạnh phúc hơn
5. Cần thanh tẩy cõi lòng
Có hai vị thiền sư trên đường về tu viện sau một cơn mưa, tình cờ
họ gặp một cô thiếu nữ xinh đẹp đang đứng trước vũng sình to lớn chắn lối đi.
Thấy vậy, một trong hai vị liền cõng cô trên vai rồi lội qua vũng sình để qua
bên kia bờ. Vị tu sĩ cùng đi chung thấy cảnh tượng đó lấy làm khó chịu và cho
đó là một gương mù gương xấu.
Suốt hai tiếng đồng hồ ông ta trách mắng vị tu sĩ đã cõng người
con gái qua vũng sình bùn, vì làm như thế là đã phá giới của đạo rồi. Ông nói với
vị tu sĩ kia rằng: “Thầy không biết mình là người tu sĩ sao? Tại sao thầy dám đụng
đến một người phụ nữ. Hơn nữa, khi thầy cõng cô ta qua vũng sình lầy như vậy
dân chúng thấy sẽ suy nghĩ như thế nào? Họ còn tin vào đạo nữa không?”
Vị tu sĩ bị mắng vẫn kiên trì lắng nghe, cuối cùng ông ta đáp lại
rằng: “Thưa thầy, tôi đã để cô gái ở lại bên bờ kia rồi, còn thầy mới chính là
kẻ cõng cô gái đó trong lòng mình."
6. Hoàng đế cởi truồng
Một ông vua kia rất ham mặc áo quần đẹp. Hai tên lưu manh đến gạ
gẫm: “Chúng tôi có thể dệt và may cho bệ hạ một bộ áo rất đặc biệt từ xưa tới
nay chưa ai từng thấy. Nhưng áo này phải dệt bằng vàng."
Vì quá ham bộ áo đặc biệt ấy, nhà vua đưa cho hai tên ấy hết túi
vàng này tới túi vàng khác. Thực ra chúng chẳng may gì cả. Rồi một hôm hai tên
lưu manh cho biết áo đã may xong, mời nhà vua mặc thử. Chúng chỉ làm cử điệu
tay chân như đang mặc áo cho nhà vua. Khi chúng cho biết đã mặc xong, nhà vua hỏi
các quan chung quanh “Áo ta có đẹp không?” Ai nấy trầm trồ khen nức nở. Quá phấn
khởi, nhà vua bảo quân hầu kiệu ngài ra các đường phố để khoe áo đẹp. Dân chúng
hai bên đường cũng nức nở khen.
Nhà vua rất sung sướng. Bỗng nhiên một đứa trẻ hô lớn: “Ông vua ở
truồng! Ông vua ở truồng!" Nhà vua nhìn lại mình và mới biết mình đang ở
truồng thật.
7. Nhân đức tỏa hương
Ngày kia, Nữ hoàng Shaba gởi đến vua Salomon hai bó hoa rất giống
nhau, để thử xem sự khôn ngoan của ông tới đâu. Đó là một bó hoa thật và một bó
hoa giả.
Nhận được hai bó hoa, nhà vua bèn mở cửa sổ cho bầy ong bướm bay
vào. Tức thì các chú ong và các nàng bướm liền sà ngay xuống những bông hoa thật.
Những bông hoa giả có sắc mà chẳng có hương, có bóng hình mà
không có sự sống.
Những kẻ giả hình cũng như thế: nói nhiều mà làm chẳng được bao
nhiêu. Thậm chí, chỉ nói suông mà không có thực hành. Họ dung túng cho mình
nhưng lại nghiêm khắc với kẻ khác.
Người giả hình có nhiều tật xấu khác mà Đức Giêsu không tiếc lời
chỉ trích. Chắng hạn, tính khoe khoang công đức, thích ăn trên ngồi trước, ưa
được kính trọng chào hỏi nơi công cộng, và muốn người ta gọi mình là “thầy."
8. Yêu người khác như chính mình
Vào một đêm trời lạnh năm l980, thanh niên Paul Keating 27 tuổi
đang đi bộ trong khu Greenwich Village, bỗng thấy có hai tên cướp có súng tấn
công một sinh viên trẻ tuổi.
Paul Keating là một người hiền lành, thợ chụp ảnh cho tuần báo
Time, có đủ lý do để tránh đi cho khỏi vạ lây. Anh ta không hề quen biết chàng
sinh viên đó, lại cũng chẳng ai thấy việc gì xảy ra. Hơn nữa, anh ta chỉ có một
thân một mình, can thiệp vào chẳng được lợi gì mà còn có thể bị hại. Nhưng Paul
Keating vẫn xông vào đánh hai tên cướp. Nhờ đó nạn nhân thoát được và đến một cửa
hiệu gần đó kêu cứu. Vài giây sau, hai tiếng nổ vang lên trong đêm tối, hai kẻ
cướp chạy mất, bỏ lại Paul Keating nằm chết trên vũng máu.
Thành phố New York về sau đã truy tặng huy chương anh dũng cho
Paul Keating. Thị trưởng Edward Koch trong buổi lễ nói:
- Đêm hôm ấy không ai thấy Paul Keating cả. Cũng không ai thúc đẩy
anh ta phải xông pha vào lúc nguy biến. Anh ta đã can thiệp vì con người anh ta
là như vậy, và chỉ có Thiên Chúa, Ngài biết rõ bên trong tâm hồn của anh ta.
9. Người cứ luật
Nghi thức thanh tẩy như rửa tay trước khi ăn, đối với những người
Pharisêu thật quan trọng. William Barclay mô tả những qui định về việc rửa tay
này thật tỉ mỉ: phải dùng thứ nước dành riêng cho nghi thức này, phải đổ nước từ
đầu ngón tay cho tới cổ tay, phải dùng tay này nắm lại kỳ cọ lòng bàn tay kia,
sau đó lại đổ nước, lần này từ cổ tay đến đầu ngón tay. Nếu sai sót một chi tiết
nào đều là có tội. Ông Pharisêu này “lấy làm lạ” vì Chúa Giê-su không rửa tay,
bởi ông coi điều phụ tuỳ như điều chính yếu, coi hình thức bên ngoài thay thế
tâm hồn bên trong.
Mời Bạn: Lắm khi, chúng mình chẳng khác gì ông Pharisêu này. Có
một cái gì đó rất “Pharisêu” ở trong chúng ta. Chúng mình làm một việc gì đó được
coi là đạo đức, như lần chuỗi, đi lễ, rước lễ, làm việc từ thiện chẳng hạn, và
chúng mình dò xét thấy người khác không làm việc đó hoặc làm không giống mình.
Thế là ta vội qui kết người đó là tội lỗi hay ít là không đạo đức bằng chúng
ta. Như thế không phải là có một ông Pharisêu đang “ngự” trong lòng mình đó
sao?
10. Thấy điều cần thấy
Một học giả Tây phương khoe khoang với một người Ảrập về sức mạnh
của viễn vọng kính. Người Ảrập chăm chú lắng nghe. Khi học giả ngừng nói, người
Ảrập lên tiếng: “Người Tây phương các ông thấy hàng triệu tinh tú và không thấy
gì khác nữa. Còn người Ảrập chúng tôi, chúng tôi chỉ thấy một số tinh tú và
Thiên Chúa.”
Tôi có thể là người Tây phương chỉ thấy hàng triệu tinh tú và
không thấy gì khác nữa không? Tôi có học để thấy Đấng Tạo Hóa xuyên qua các
tinh tú không?
Mặt trời quá lớn đến độ có thể chứa được cả triệu trái đất. Có
nhiều ngôi sao trong không gian cũng quá lớn đến độ có thể chứa được năm trăm
triệu mặt trời (Morris Mandell)
11. Luật lệ và tâm hồn
Nghi thức rửa tay bắt đầu bằng việc đổ nước trên đầu ngón tay, rồi
trên ngón tay, và cuối cùng trên cổ tay. Nghi thức này bắt đầu kết thúc bằng
cách làm ngược lại, tức là đổ nước trên cổ tay, rồi đến ngón tay và đầu ngón
tay. Chúa Giêsu không để ý đến những nghi thức như thế. Ngài không quan tâm đến
những nghi thức cho bằng giáo huấn của Thiên Chúa qua việc chia cơm cho người
đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ, cho kẻ mình trần áo che
thân (Is 58, 7)
Trong việc thực hiện đức tin tôi chỉ chú tâm đến chuyện đi nhà
thờ và tuân giữ luật lệ thôi chăng?
Khi nghe chúng ta nói lời Thiên Chúa, người ta kinh ngạc vì vẻ đẹp
và sức mạnh của lời Chúa. Nhưng khi thấy Lời Chúa ít có ảnh hưởng đến cuộc sống
hằng ngày của chúng ta, họ sẽ cười nhạo những gì chúng ta nói ra.
12. Dấu hiệu của đức ái
Hầu như tất cả chúng ta đều nhớ đến kiến thức hóa học từ hồi
trung học này: giấy quỳ sẽ hóa đỏ khi đặt vào dung dịch axit. Nói khác đi, giấy
quỳ hóa đỏ là dấu hiệu cho thấy axit hiện diện. Đức tin và đức ái một cách nào
đó cũng như giấy quỳ khi giờ cứu rỗi đến. Nói khác đi, đức tin được đồng hành với
tình yêu là dấu hiệu cho thấy ơn cứu rỗi hiện diện.
Dùng đức tin và đức ái như việc thử nghiệm bằng giấy quỳ, sự cứu
rỗi hiện diện thế nào trong đời tôi?
Giả như có người anh em hay chị em cần giúp đỡ, mà có ai trong
anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no, nhưng lại
không cho họ những gì cần thiết, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, đức tin không
có hành động là đức tin chết. (Gc 2, 15-17)
13. Tôi có và tôi là
Nhu cầu làm sạch là nhu cầu thiết yếu của con người. Trong điều
kiện môi trường ô nhiễm ngày nay, đây lại là vấn đề sống còn. Tẩy rửa, làm sạch
là nỗ lực tách những gì dính bám vào làm cho đồ vật đó ra mất đi giá trị, vẻ đẹp
nguyên sơ của nó. Trong đời sống tâm linh, cũng có một nhu cầu tương tự. Người
Do Thái rất coi trọng nghi thức thanh tẩy để giữ mình khỏi dơ bẩn: họ cẩn thận
rửa tay trước khi ăn để khỏi bị ra nhơ uế. Nhưng những thực hành đó chỉ là dấu
chỉ bên ngoài, làm sao người ta có thể dùng để thanh tẩy tấm lòng là thứ nằm
sâu bên trong được?
Phương thế mà Chúa Giêsu dạy là hãy đem “bố thí” tất cả những gì
ở bên trong thì mọi sự sẽ nên trong sạch. Bởi vì Đấng làm ra cái bên ngoài cũng
là Đấng đã làm ra cái bên trong.
Thanh tẩy đích thực được Chúa Giêsu gọi tên là “bố thí” có nghĩa
là gỡ bỏ mọi thứ vỏ bọc, tức là những thứ “TÔI CÓ”,-đó là tiền của, chức quyền,
địa vị,v.v…-đang bám dính quá chặt vào linh hồn tôi đến độ tôi tưởng lầm đó là
cái “TÔI LÀ”, là con người thật của tôi.
Thanh tẩy là cho đi, là chia sẻ, để trả lại vẻ đẹp rực rỡ của
linh hồn mà Chúa đã tạo dựng từ thuở ban sơ, để dâng cho Ngài chính bản thân
mình trinh nguyên như thuở ban đầu.
14. Đẹp từ trong ra ngoài
Ca dao có câu: “Sông sâu còn có kẻ dò, nào ai bẻ thước mà đo
lòng người." Quả thật, người ta có thể đo đạc được biển sâu, núi cao, đo cả
đến những vì sao xa lắc xa lơ; thế nhưng lòng người thì không có thứ máy móc
chuyên dụng nào có thể đo được. Lòng người thật bí hiểm và rắc rối, khôn dò. Vì
thế, đã có lắm trường hợp vì cả tin mà phải thiệt của, hay thậm chí thiệt thân.
Thế nhưng, người ta quên rằng có một Đấng đo được lòng người, dù nó được ngụy
trang khéo léo đến đâu, Đấng ấy là Thiên Chúa. Đức Giêsu nhắc ta nhớ rằng Thiên
Chúa nhìn thấu suốt tâm can, và Ngài muốn ta, bên cạnh việc cố gắng làm đẹp
phong cách bên ngoài, cũng hãy thanh tẩy tâm hồn bên trong khỏi những tư tưởng
ô uế, gian tà.
Hãy chú ý đến việc làm đẹp nội tâm bằng hai cách:
1/ loại trừ những tư tưởng ích kỷ, chỉ tìm niềm vui cho mình;
2/ nuôi dưỡng tâm tình yêu mến, quảng đại.
Tôi có tìm cách làm đẹp phong cách, dáng vẻ bên ngoài, mà ít
quan tâm đến việc làm đẹp tâm hồn bên trong không?
THỨ TƯ – YÊU THƯƠNG LÀ LINH
HỒN CỦA LỀ LUẬT
Lời Chúa: Lc 11, 42-46
Khi ấy, Chúa phán rằng: "Khốn cho các ngươi, hỡi những người
biệt phái! Vì các ngươi nộp thuế thập phân, bạc hà, vân hương, và các thứ rau,
mà lại bỏ qua đức công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa: Phải thi hành những điều
này, và không được bỏ những điều kia.
Khốn cho các ngươi, hỡi những người biệt phái! Vì các ngươi ưa
thích ngồi ghế nhất trong các hội đường, và ưa thích được chào hỏi ngoài phố chợ.
Khốn cho các ngươi, vì các ngươi giống những mồ mả không rõ rệt,
người ta bước đi ở trên mà không hay biết!"
Có một tiến sĩ luật trả lời Người rằng: "Thưa Thầy, Thầy
nói như thế là Thầy sỉ nhục cả chúng tôi nữa.”
Người đáp lại rằng: "Hỡi những tiến sĩ luật, khốn cho các
ngươi nữa! Vì các ngươi chất lên người ta những gánh nặng không thể vác được,
mà chính các ngươi dù một ngón tay cũng không động tới.”
TRUYỆN KỂ
1. Biết phân biệt đúng sai theo ý
Chúa
Để diễn tả nỗ lực của mỗi người qua phần thưởng Chúa sẽ ban,
thánh Têrêsa Hài Đồng đã dùng một hình ảnh hết sức đơn sơ để so sánh về phần
thưởng nước Trời với sự cố gắng của con người như sau:
Nếu ta đặt trên bàn một số những chiếc ly lớn nhỏ khác nhau rồi
đổ đầy nước vào từng ly ấy, chúng ta sẽ nhận thấy rằng tất cả mọi ly đều đầy nước,
có nghĩa là không ly nào có thể chứa thêm được nữa. Nhưng không phải là không
có sự khác nhau vì những ly lớn sẽ chứa được nhiều nước hơn những ly nhỏ.
2. Người buôn cam ở Hàng Châu
Ngày xưa ở Hàng Châu, có người chuyên đi buôn cam. Anh ta có tài
để dành cam lâu ngày mà không ung, không thối, để lâu ngày mà vỏ vẫn đỏ hồng, vẫn
tốt, vẫn đẹp như cam mới hái. Anh đem ra chợ bán. Thiên hạ tranh nhau mua. Ai
thấy cam như vậy cũng ham!
Nhưng rồi có một người tên Lưu Cơ cũng mua một quả. Đem về nhà
bóc ra thì ôi, hơi thối xông lên mặt, múi thì xác xơ như bông nát. Lưu Cơ liền
chạy ra chợ tìm gặp người bán cam và trách móc:
- Anh bán cam cho người ta để làm của cúng của lễ, đãi tân khách
hay là chỉ để làm choáng mắt bên ngoài, đánh lừa thiên hạ? Tệ thật! Anh giả dối
lắm!
Người buôn cam mỉm cười:
- Tôi làm nghề này đã lâu lắm để kiếm tiền nuôi thân. Tôi bán
thì người ta mua, chẳng ai nói năng gì cả. Chỉ có ông là kêu ca thôi. Thiên hạ
giả dối nhiều, chẳng riêng gì một mình tôi. Thật ông chẳng nghĩ cho đến nơi đến
chốn. Hãy thử xem, người đeo hộ phù, da hổ hùng dũng trông ra dáng quan võ lắm.
Kỳ thực họ có được như Ngô Khởi, Tôn Tẫn thuở xưa không? Người đội mũ cao, đóng
đai vàng, trông ra dáng quan văn lắm. Kỳ thực họ có được giỏi như Cao Dao, Y
Doãn không? Giặc nổi lên, không biết dẹp, dân khổ, không biết kêu vào đâu. Quan
lại thì tham nhũng, không biết trừng trị. Pháp đồ hỏng không biết sửa đổi, ngồi
không, ăn lương chẳng biết xấu hổ... thế mà lúc ra ngồi công đường, đi xe ngựa,
uống rượu ngon, ăn của lạ, hách dịch vô cùng!.. Đó, bề ngoài họ chẳng như vàng
ngọc, mà bề trong chẳng hôi xác xơ như bông nát là gì? Sao ông không chịu xét
những hạng người như thế mà lại đi xét quả cam tôi?
3. Điều đáng trách
Thomas K. Beecher không chịu nổi sự lừa dối dưới bất cứ hình thức
nào. Khi thấy chiếc đồng hồ trong nhà thờ cứ khi thì chạy sớm khi thì chạy trễ,
ông treo một tấm bảng phía trên chiếc đồng hồ ấy, với hàng chữ: “Xin đừng trách
mắng cái kim đồng hồ. Cái đáng trách nằm sâu hơn thế nhiều.”
Beecher muốn nói hai điều. Điều thứ nhất: đừng trách hai chiếc
kim đồng hồ mà hãy trách những bánh xe bên trong đồng hồ. Điều thứ hai: có khi
tay ta cử động sai, chân ta bước không đúng, môi miệng ta nói không chỉnh...
nhưng quan trọng hơn chính là tội lỗi nằm sâu ngay trong tâm hồn của ta
(Christian Witness).
Có khi nào người ta dám quẳng bỏ những tờ giấy bạc không? Thưa
có, khi đó là tiền giả. Nhiều người đã quẳng bỏ Kitô giáo vì thấy những kitô hữu
giả hình (W.E. Biederwolf).
4. Bà có phải là Chúa không?
Buổi tối hôm đó trời thật lạnh. Một em bé khoảng sáu, bảy tuổi
đang đứng tần ngần trước cửa hàng. Đứa bé không có giày, còn quần áo chỉ là những
miệng giẻ rách. Có một thiếu phụ đi ngang qua trông thấy cậu bé và đọc được nỗi
thèm muốn trong đôi mắt mầu xanh u uất của nó. Bà cầm tay đứa trẻ, dẫn em vào
tiệm và mua cho em đôi giày và bộ quần áo ấm. Họ trở lại phố và thiếu phụ nói với
cậu bé:
- Bây giờ cháu có thể về nhà và hương một ngày nghỉ vui vẻ nhé!
Đứa bé ngước nhìn thiếu phụ và hỏi: - Thưa bà, bà có phải là
Chúa không?
Bà cúi xuống mỉm cười với cậu bé và trả lời: - Con ơi, không phải
đâu, bà chỉ là một trong những đứa con của Ngài thôi!
Lúc đó cậu bé nói: - Cháu đã biết ngay là bà có họ hàng với Ngài
mà!
Một lần kia, có một nhà quí tộc triệu phú khi quan sát những nữ
tử thừa sai Bác ái của Mẹ Têrêsa chăm sóc và rửa những vết thương cho các bệnh
nhân tại một trại phong cùi, ông đã buột miệng phát biểu: - Cho tôi một triệu mỹ
kim tôi cũng không làm được những việc này.
Nghe nói thế, Mẹ Têrêsa Calcutta trả lời: - Cho chúng tôi một
triệu mỹ kim để bảo chúng tôi ngưng làm những việc này, chúng tôi vẫn tiếp tục.
5. Kẻ đó chính là ngài
Vua David đang an hưởng trong cung điện với vợ con, vì ở biên
thùy đã có tướng Uria canh giữ, không để kẻ xâm lăng đến quấy phá. Thế mà vua
David đã trùng lén ăn ở với vợ của Uria làm bà có thai. Vua muốn ém nhẹm tội
này, nên lập mưu giết Uria để đoạt vợ ông.
Chúa sai ngôn sứ Nathan đến trách khéo: “Có hai người ở trong
cùng một thành, một người giàu, một người nghèo. Người giàu thì có chiên dê và
bò, nhiều lắm. Còn người nghèo chẳng có gì cả, ngoài con chiên cái nhỏ độc nhất
ông đã mua. Ông nuôi nó, nó lớn lên ở bên ông, cùng với con cái ông,nó ăn chung
bánh với ông,uống chung chén với ông, ngủ trong lòng ông: ông coi nó như một đứa
con gái. Có khách đến thăm người giàu, ông này tiếc của, không bắt chiên dê hay
bò của mình mà làm thịt đãi người lữ khách đến thăm ông. Ông bắt con chiên cái
của người nghèo mà làm thịt đãi người đến thăm ông”
Vua Đa-vít bừng bừng nổi giận với người ấy và nói với ông
Na-than: “Có Đức Chúa hằng sống! Kẻ nào làm điều ấy, thật đáng chết! Nó phải đền
gấp bốn con chiên cái, bởi vì nó đã làm chuyện ấy và đã không có lòng thương
xót.” Ông Na-than nói với vua Đa-vít: “Kẻ đó chính là ngài!” (2Sm 12,1-7a).
6. Chê chỗ nào cũng được
Một nhà hài hước nói đại loại thế này: “Nếu tôi cố gắng kiếm tiền,
tôi là kẻ tham lam. Nếu tôi không cố gắng, tôi là kẻ lười biếng. Nếu tôi tiết
kiệm tiền, tôi là kẻ keo kiệt. Nếu tôi không tiết kiệm, tôi là kẻ vô trách nhiệm.
Nếu tôi quảng đại cho đi tiền bạc, tôi là kẻ khờ dại. Nếu tôi bo bo giữ lấy,
tôi là kẻ ích kỷ.” Nhà hài hước muốn nói lên điều này: cho gì chúng ta làm gì,
thì một ai đó sẵn sàng đưa ra những xét đoán. Vậy phải là gì? Một phụ nữ trả lời:
“Hãy bình an với những gì bạn làm và không để ý đến những lời xét đoán xung
quanh mà chỉ những kẻ khờ dại mới quan tâm đến chuyện đó.”
Tôi có khuynh hướng xét đoán những người cùng sống và làm việc với
tôi như thế nào? Tại sao?
Khi gặp gỡ ai, bạn xét đoán người đó theo cách ăn mặc. Khi rời họ,
bạn lại xét đoán người đó qua tâm hồn họ (Ngạn ngữ Nga)
7. Hoa quả của Thần Khí
Chuyên gia về tiềm năng con người là Joel Weldon nói rằng một mầm
tre phải mất năm năm mới nảy mầm được. Sau đó, mầm lớn lên một cách nhanh khoảng
30 thước trong 6 tuần lễ. Theo Weldon thì điều này chẳng có gì lạ, bởi vì trong
năm năm nằm yên, mầm tre tạo được một bộ rễ với hàng trăm rễ. Chính bộ rễ này
gia tăng sức mạnh để cây có thể tăng triển nhanh chóng chỉ trong một thời gian
ngắn như vậy.
Sự kiên nhẫn và tự chủ của người trồng tre mời gọi tôi tự hỏi:
tôi kiên nhẫn và tự chủ thế nào khi không thấy ngay kết quả của công việc tôi
làm?
Anh em… hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang
lâm đã gần tới (Gc 5,8)
8. Chết mà tưởng là sống
Một phụ nữ kia có một giấc mơ kỳ lạ: Một thiên thần đưa bà ta đến
nhà thờ để làm việc thờ phượng. Người chơi organ dạo đàn, những phím đàn lên xuống,
những chẳng nghe thấy tiếng nhạc. Bài thánh ca được hát lên, nhưng cũng chẳng
nghe được lời nào. Cộng đoàn tín hữu cầu nguyện, nhưng cũng không nghe thấy âm
thanh gì. Người phụ nữ quay về phía thiên thần và hỏi: “Tại sao tôi không nghe
thấy gì?” Thiên thần trả lời: “Chẳng có gì để nghe cả.”
Tôi có cố gắng thờ phượng Thiên Chúa một cách tin tưởng không những
bằng môi mìệng, mà bằng con tim và cuộc đời tôi không?
Vấn đề của thế kỷ 19 là Thiên Chúa đã chết. Còn vấn đề của thế kỷ
20 là con người đang chết dần chết mòn (Erich Fromm)
9. Vải thưa che mắt thánh
Tháng 9/2007, Tòa án tối cao tại Hải Phòng đã tuyên án một Giám
đốc Sở cùng với 6 cán bộ nhà nước về tội lợi dụng chức quyền trong quản lý đất
đai làm thiệt hại 14 tỉ đồng. Thêm nữa, trong vụ “đề án 112” một Phó chủ nhiệm
Văn phòng Chính phủ và 7 cán bộ khác đã sa lưới pháp luật chờ ngày xét xử. Những
việc làm sai trái rành rành của các “Biệt phái” này bấy lâu vẫn được che đậy bằng
“những lớp vải thưa” hòng bịt mắt công luận. Chúa Giêsu cũng cảnh báo chúng ta
khi Ngài lên án gắt gao thái độ giả hình của các Pharisêu. Là những ‘cán bộ’ đạo
đức giả, họ có thể che mắt được người đời, nhưng làm sao họ qua mặt được Thiên
Chúa, Đấng thấu suốt cả nơi bí ẩn.
‘Nói vậy mà không phải vậy’
là câu nói trên môi miệng nhiều người thời nay, phản ảnh sự thiếu trung thực,
giả hình giả bộ, chạy theo cái bề ngoài của thời đại hôm nay. Đồ giả tràn lan
khắp thế giới; buôn bán lừa đảo nhau là chuyện cơm bữa; mánh khóe chính trị thì
không thời nào bằng...
Phải chăng đời sống đạo hôm nay người ta cũng ưa chuộng lớp vỏ
kiến thức hơn là cuộc sống đạo đức: biết rất nhiều mà chẳng sống bao nhiêu; chuộng
cái đẹp bề ngoài hơn là cái đẹp nội tâm?
THỨ NĂM - DÒNG MÁU CỨU ÐỘ
Lời Chúa: Lc 11, 47-54
Khi ấy, Chúa phán: "Khốn cho các ngươi! Hỡi những người xây
cất mồ mả các tiên tri, mà tổ phụ các ngươi đã giết chết. Thật, các ngươi làm
chứng và tán thành những hành động của tổ phụ các ngươi: vì thực ra họ đã giết
các vị tiên tri, còn các ngươi thì xây mồ mả cho họ. Bởi đó mà sự Khôn Ngoan của
Thiên Chúa đã nói: Ta sẽ sai đến với chúng các tiên tri và các tông đồ, trong số
các vị đó, người thì chúng giết đi, người thì chúng bách hại, khiến cho dòng giống
này sẽ bị đòi nợ máu của tất cả các tiên tri đã đổ ra từ lúc tạo thành vũ trụ,
kể từ máu của Abel cho đến máu của Giacaria, người đã bị sát hại giữa bàn thờ
và thánh điện. Phải, Ta bảo các ngươi, dòng giống này sẽ bị đòi nợ máu.
Khốn cho các ngươi! Hỡi những tiến sĩ luật, vì các ngươi cất giữ
chìa khoá sự hiểu biết. Chính các ngươi đã không được vào, mà những người muốn
vào, các ngươi đã ngăn cản họ lại."
Khi Người phán bảo cùng các biệt phái và tiến sĩ luật những lời
đó, thì họ bắt đầu oán ghét Người một cách ghê gớm, và chất vấn Người về nhiều
vấn đề, cố gài bẫy Người để may ra bắt bẻ được lời gì do miệng Người thốt ra
chăng.
TRUYỆN KỂ
1. Dòng Máu Cứu Ðộ
Với lý thuyết: "Người chết không nói", các đối thủ của
những người thường dùng bạo lực để thủ tiêu những người can đảm đóng vai trò
tiên tri để nói lên sự thật chống lại kỳ thị bất công, bênh vực quyền lợi của
những người nghèo khổ. Từ máu Abel, người vô tội đầu tiên đổ ra vẫn luôn nhuộm
hồng với máu các tiên tri thuộc mọi màu da, tiếng nói: một Martin Luther King,
mục sư chủ trương bất bạo động để tranh đấu cho sự phân biệt và kỳ thị mầu da ở
xã hội Mỹ và bị bắn ngã ngày 4/4/1968; hay một Oscar Roméro, vị giám mục thật sự
yêu mến người nghèo đã bị ám sát khi đang dâng Thánh Lễ tại một bệnh viện vào
chiều ngày 23/4/1980.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cập đến việc lấy máu đào
làm chứng cho sự thật nơi các tiên tri, Ngài cũng nói đến việc phải trả nợ máu.
Ðoạn Tin Mừng còn cho thấy lòng oán ghét của các Luật sĩ và Biệt phái đối với
Chúa Giêsu ngày càng gia tăng, và chính lòng oán ghét này đã dẫn Chúa Giêsu đến
cái chết đẫm máu trên Thập Giá, để Ngài thực sự chia sẻ số phận của các tiên
tri. Những dòng máu chảy từ thân xác Chúa Giêsu đã không đòi nợ máu, trái lại
còn giải nợ máu, bởi vì những dòng máu chảy ra vì tình yêu và vâng phục đối với
Chúa Cha, đã phá tan vòng luẩn quẩn của hận thù và oán ghét, qua lời Chúa Giêsu
xin Cha tha thứ cho những kẻ hành khổ và xử tử Ngài.
2. Gieo và gặt
Vào năm 70 sau Công nguyên, vị tướng La Mã Titô đem đại quân vây
hãm thành Giêrusalem. Ông ra lệnh không được đốt phá.
Thế nhưng, một quân nhân như bị thúc đẩy bởi một sức kỳ lạ đã cầm
bó đuốc đang cháy ném vào bên trong đền thờ, lửa bốc cháy nhanh, không chữa được.
Sau khi đám cháy tàn lụi, Titô ra lệnh phá hủy thành và đền thờ, ngoại trừ ba lều
tháp và một bức tường, để cho hậu lai thấy sự kiên cố của thành đã bị phá. Tất
cả những sự việc trên được sử gia Josèphe sống trong thời đó ghi chép lại cho hậu
thế...
Ðức Giêsu khóc thương thành vì sẽ có ngày thành huy hoàng bị phá
huỷ… Sau này, trong cuộc thương khó, dân chúng đấm ngực và thương khóc khi thấy
Chúa Giêsu vác thánh giá. Chúa Giêsu nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng
khóc thương tôi, hãy khóc cho thân phận mình và cho con cháu” (Lc 23,27-28).
Ngài yêu thương thành Giêrusalem. Nhưng dân thành cố tình chối bỏ Ngài để chạy
theo những mê muội của trần gian. Ngài cảm thấy xót xa khi người ta từ chối
tình yêu của Ngài. Ngài đến cho họ tình yêu nhưng họ không đón nhận cho nên họ
phải đau khổ. Tất cả mọi sự đã xảy ra như lời Chúa Giêsu đã loan báo: Vào năm
70 sau Công nguyên quân đội Rôma do tướng Titô chỉ huy đã phá hủy và bình địa
thành nguy nga này.
Ngày nay, chúng ta cũng như dân thành Giêrusalem ngày xưa: Cố
tình chối bỏ Chúa để chạy theo những vật chất, quyền bính danh vọng trần gian.
Ðức Giêsu vẫn đang than khóc và đau khổ vì tội lỗi con người...
3. Giá trị con người ở đâu?
Chuyện kể rằng: một người được mời đến dự buổi tiệc lớn. Ông vui
vẻ nhận lời và khoác bộ áo xấu nhất. Đến nơi, không ai thèm cười và để ý đến
ông. Ông quay về, khoác bộ áo đẹp có đính kim cương và các hạt nút bằng vàng.
Trong khi ấy yến tiệc vẫn tiếp tục. Ông quay trở lại, lập tức bao lời mời đẹp
nhất, danh dự nhất đều dành cho ông. Thịt béo rượu thơm lúc này được bày ra trước
mắt ông và ông được mời chỗ nhất.
Ông liền đứng lên, cởi áo, trèo lên ghế, đoạn lấy thức ăn đưa
cho cái áo và nói: “Mày ăn uống đi, người ta mời mày đó." Mọi người hết sức
ngạc nhiên, nhưng đều hiểu ý ông này. Ông muốn nói với mọi người rằng: giá trị
của con người không ở bộ áo xúng xính hay cái mã bên ngoài, nhưng đó là tấm
lòng bên trong, không ở những cái mình có nhưng ở cái mình là.
4. Thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu
Lịch sử còn ghi lại: Năm 66, người Do Thái đã tàn sát những binh
lính Rôma trong đồn binh Antônia. Lập tức, hoàng đế Néron gởi tướng Vespasiano
với một đạo binh hùng hậu đến Giuđê. Giữa chiến dịch thì Néron chết và
Vespasiano lên ngôi hoàng đế. Ông này trao quyền chỉ huy quân đội cho con là
Titus. Titus vây hãm thành vào lễ vượt qua năm 70. Jêrusalem, lúc đó đang có
khoảng một triệu rưỡi người Do Thái tụ họp lại nhân ngày lễ, bị vây hãm kín
mít. Chẳng bao lâu, đói kém xảy ra và mỗi ngày có cả ngàn người chết đói.
Titus trả thù bằng cách cho đóng đinh 300 người Do Thái tại chân
núi Sọ, sau đó mỗi ngày lại cho đóng thêm gần 500 người Do Thái. Nhiều người bị
mổ bụng vì lính Rôma nghi họ nuốt vàng. Khi đã làm chủ được tình hình, người
Rôma cho đốt thành phố lẫn đền thờ. Jêrusalem bốc cháy hai ngày hai đêm. Ngày
thứ ba nó chỉ còn là một đống gạch vụn hoang tàn. Hơn 200.000 người bị chôn vùi
dưới đó. 97.000 người bị bắt làm nô lệ ở Rôma, và bị bán với giá rẻ mạt cho hí
trường để đánh nhau với thú dữ hoặc chiến đấu giết nhau làm trò vui cho người
Rôma. 2.000 nhà quí tộc Do Thái phải dự buổi khải hoàn của Titus ở Rôma.
Họ phải mặc áo trắng, phải vác lấy chiến lợi phẩm lớn lao mà người
chiến thắng đem về từ Jêrusalem. Khi đến đền Chiếm Thần, thì họ bị giết và đó
là lễ đăng quang của cuộc chiến đẫm máu được trả giá bằng mạng sống của hơn một
triệu người Do Thái. Sử gia Josephus, một nhà biên niên sử thời đó, người đã kể
lại sử truyền này, đã cho rằng những điều kinh tởm của cuộc vây hãm thành
Jêrusalem kinh khủng đến nỗi thế giới sẽ không bao giờ chứng kiến những điều
như vậy.
5. Thảm họa không tên
Lòng yêu mến Thiên Chúa trở nên cốt yếu cho đời sống linh mục, nếu
thiếu tình yêu ấy, đó sẽ là một “thảm họa không tên.” Lòng yêu mến ấy được thể
hiện đặc biệt trong cử hành Thánh Lễ, vì theo Cha Sở Thánh Vianney, “tất cả các
công việc tốt lành hợp lại không tương đương được với hy tế Thánh Lễ, bởi vì
Thánh Lễ là công trình của Thiên Chúa.” Từ đó, Ngài xác tín rằng, “Nguyên nhân
sự buông thả nơi linh mục, đó là người ta không chú tâm đến Thánh Lễ! Than ôi!
Lạy Thiên Chúa của con! Linh mục thật đáng thương biết bao khi ngài thực thi điều
đó như là một điều tầm thường.”
Cử hành Thánh Lễ với lòng mến yêu Chúa sẽ giúp linh mục luôn
dâng hy tế cuộc sống của ngài và sẽ giúp đào tạo đức tin của giáo dân. Trong
thư gởi các linh mục nhân kỷ niệm 150 năm ngày mất của Cha Sở Thánh, Đức Thánh
Cha Bênêđitô quả quyết, bất hạnh thay và cũng chẳng bao giờ chữa lành hết những
lở lói trong các giáo xứ có những linh mục thiếu lòng yêu mến Chúa.
6. Thế gian thích xét
đoán
Một nhà hài hước nói đại loại thế này: “Nếu tôi cố gắng kiếm tiền,
tôi là kẻ tham lam. Nếu tôi không cố gắng, tôi là kẻ lười biếng. Nếu tôi tiết
kiệm tiền, tôi là kẻ keo kiệt. Nếu tôi không tiết kiệm, tôi là kẻ vô trách nhiệm.
Nếu tôi quảng đại cho đi tiền bạc, tôi là kẻ khờ dại. Nếu tôi bo bo giữ lấy,
tôi là kẻ ích kỷ.” Nhà hài hước muốn nói lên điều này: cho gì chúng ta làm gì,
thì một ai đó sẵn sàng đưa ra những xét đoán. Vậy phải là gì? Một phụ nữ trả lời:
“Hãy bình an với những gì bạn làm và không để ý đến những lời xét đoán xung
quanh mà chỉ những kẻ khờ dại mới quan tâm đến chuyện đó.”
Tôi có khuynh hướng xét đoán những người cùng sống và làm việc với
tôi như thế nào? Tại sao?
Khi gặp gỡ ai, bạn xét đoán người đó theo cách ăn mặc. Khi rời họ,
bạn lại xét đoán người đó qua tâm hồn họ (Ngạn ngữ Nga)
7. Kiên nhẫn trong đường công
chính
Chuyên gia về tiềm năng con người là Joel Weldon nói rằng một mầm
tre phải mất năm năm mới nảy mầm được. Sau đó, mầm lớn lên một cách nhanh khoảng
30 thước trong 6 tuần lễ. Theo Weldon thì điều này chẳng có gì lạ, bởi vì trong
năm năm nằm yên, mầm tre tạo được một bộ rễ với hàng trăm rễ. Chính bộ rễ này
gia tăng sức mạnh để cây có thể tăng triển nhanh chóng chỉ trong một thời gian
ngắn như vậy.
Sự kiên nhẫn và tự chủ của người trồng tre mời gọi tôi tự hỏi:
tôi kiên nhẫn và tự chủ thế nào khi không thấy ngay kết quả của công việc tôi
làm?
Anh em… hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang
lâm đã gần tới (Gc 5,8)
8. Giả hình là chết từ bên trong
Một phụ nữ kia có một giấc mơ kỳ lạ: Một thiên thần đưa bà ta đến
nhà thờ để làm việc thờ phượng. Người chơi organ dạo đàn, những phím đàn lên xuống,
những chẳng nghe thấy tiếng nhạc. Bài thánh ca được hát lên, nhưng cũng chẳng
nghe được lời nào. Cộng đoàn tín hữu cầu nguyện, nhưng cũng không nghe thấy âm
thanh gì. Người phụ nữ quay về phía thiên thần và hỏi: “Tại sao tôi không nghe
thấy gì?” Thiên thần trả lời: “Chẳng có gì để nghe cả.”
Tôi có cố gắng thờ phượng Thiên Chúa một cách tin tưởng không những
bằng môi mìệng, mà bằng con tim và cuộc đời tôi không?
Vấn đề của thế kỷ 19 là Thiên Chúa đã chết. Còn vấn đề của thế kỷ
20 là con người đang chết dần chết mòn (Erich Fromm)
9. Cậu bé gỗ Pinocchio biết sửa sai
Ngày xưa, có một bác thợ mộc hiền lành tên là
Gepetto. Bác sống một mình và ước ao có một đứa con để yêu thương. Một ngày nọ,
bác làm một con rối bằng gỗ và đặt tên là Pinocchio.
Điều kỳ diệu xảy ra! Khi Gepetto vừa hoàn thành,
Pinocchio bỗng mở mắt, nhúc nhích và nói chuyện được. Bác vui mừng khôn xiết,
coi cậu như con ruột của mình.
Thế nhưng Pinocchio lại rất ham chơi và hay nói dối.
Mỗi lần cậu nói dối, mũi cậu lại dài ra! Cô Tiên Xanh thường xuất hiện để nhắc
nhở:
“Pinocchio à, nếu con muốn trở thành người thật, con
phải biết sống thật thà và làm điều tốt.”
Nhưng Pinocchio không nghe lời. Cậu bị dụ dỗ tới Đảo
Niềm Vui, nơi ai cũng chỉ chơi mà không làm gì cả. Và rồi, những đứa trẻ ở đó
biến thành lừa! Pinocchio sợ hãi, hiểu rằng mình đã sai, và quyết tâm trở về.
Lúc ấy, bác Gepetto đi tìm con và bị nuốt vào bụng
cá voi khổng lồ. Pinocchio dũng cảm lao ra biển để cứu cha. Hai cha con gặp
nhau trong bụng cá voi và cùng nhau tìm cách thoát ra ngoài.
Sau biến cố ấy, Pinocchio biết vâng lời, chăm chỉ và
luôn nói thật. Nhờ lòng tốt và sự hiếu thảo, cô Tiên Xanh đã ban thưởng:
“Pinocchio, con xứng đáng rồi!”
Và thế là — Pinocchio biến thành một cậu bé thật sự!.
Thiên Chúa cũng muốn mỗi người chúng ta thành thật,
biết vâng lời và sống yêu thương, giống như Pinocchio sau khi biết sửa sai.
THỨ SÁU - ÐỪNG SỢ
Lời Chúa: Lc 12, 1-7
Khi ấy, có nhiều đám đông dân chúng đứng chung quanh, đến nỗi
chen đạp lẫn nhau, nên Chúa Giêsu bắt đầu dạy các môn đệ trước tiên rằng:
"Các con hãy ý tứ giữ mình khỏi men biệt phái, nghĩa là sự giả hình.
Không có gì che đậy mà không bị tiết lộ ra, và không có gì giấu
kín mà chẳng biết được. Vì vậy, những điều các con nói trong nơi tối tăm, sẽ được
nói ra nơi sáng sủa, và điều các con nói rỉ tai trong buồng kín, sẽ được rao giảng
trên mái nhà. "Thầy bảo các con là những bạn hữu của Thầy rằng: Các con đừng
sợ chi những kẻ giết được thân xác, rồi sau đó không thể làm gì hơn được nữa.
Thầy sẽ chỉ cho các con biết phải sợ ai: Hãy sợ Ðấng, sau khi đã giết chết, còn
có quyền ném vào địa ngục. Phải, Thầy bảo các con hãy sợ Ðấng ấy.
"Chớ thì năm con chim sẻ không bán được hai đồng tiền sao?
Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa. Hơn nữa, mọi sợi tóc
trên đầu các con cũng đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn trọng
hơn nhiều con chim sẻ."
TRUYỆN KỂ
1. Các Con Ðừng Sợ
Thánh Justinô là một triết gia nổi tiếng của Kitô giáo vào thế kỷ
thứ 2; ngài đã bị bắt giam tại Rôma cùng với một số Kitô hữu khác, vì tội tuyên
truyền tôn giáo trong trường học do ngài điều khiển. Ra trước tòa, khi được hỏi
về hành động của mình, thánh nhân dõng dạc tuyên bố:
- Suốt đời tôi, tôi đã đi tìm kiếm chân lý; tôi đã nghiên cứu
sâu xa các triết lý Ðông Phương, Hy Lạp và Rôma; thế nhưng cuối cùng tôi đã tìm
được giáo thuyết chân thật.
Quan tòa liền hỏi giáo thuyết chân thật đó là gì? Thánh nhân giải
thích:
- Thưa là giáo thuyết của Chúa Giêsu Nazaret, giáo thuyết này nhằm
giải phóng chúng ta khỏi các ngẫu tượng và dạy chúng ta thờ phượng một Thiên
Chúa độc nhất, hằng sống và chân thật, là Ðấng tạo thành trời đất, là Ðấng cứu
rỗi nhân loại.
Quan tòa lại hỏi: - Vậy ông là một Kitô hữu ư?
Thánh nhân liền tuyên xưng:
- Phải, tôi là một Kitô hữu và tôi lấy làm vinh dự được làm Kitô
hữu cùng với các bạn tôi đây.
Quan tòa ra lệnh cho thánh nhân và các bạn của ngài phải tế thần,
thánh nhân trả lời một cách cương quyết:
- Chúng tôi không tôn thờ ngẫu tượng, nhưng điều đó không có
nghĩa là chúng tôi là những người vô thần. Chúng tôi thờ lạy một Thiên Chúa
thiêng liêng, Cha của Chúa Giêsu. Một người có đầu óc lành mạnh không thể từ bỏ
tôn giáo chân thật để chạy theo một tôn giáo giả.
Thấy không thể thuyết phục được thánh nhân bỏ đạo, quan tòa ra lệnh
đánh đòn rồi xử trảm thánh nhân và các bạn.
2. Đức Tổng giám mục Oscar Romero
Khi mới lên Tổng Giám mục giáo phận San Salvador, Đức cha Oscar
Romero vẫn còn theo lập trường bảo thủ. Nhưng chẳng bao lâu sau, khi nhìn thấy
những bất công xã hội, ngài đã thay đổi cái nhìn của mình.
Mỗi ngày Chúa nhật, ngài giảng ở nhà thờ chính toà để tố cáo những
tội ác đã diễn ra mà đa số là các viên chức chính phủ. Các bài giảng của ngài
như một luồng điện mạnh chạm đến toàn xã hội. Khi ngài nói, hầu như mọi người đều
ngưng làm việc để lắng nghe ngài.
Ngài bị đặt vào trong tình trạng bị đe dọa thường xuyên. Một vài
bạn bè thân thích của ngài đã bị giết chết. Nhưng ngài vẫn không im tiếng, cũng
không lánh đi nơi khác an toàn hơn cho riêng mình. Ngài nói: “Một mục tử chân
chính khi thấy nguy hiểm không thể bỏ đoàn chiên để cứu lấy mạng sống mình.
Nhưng tôi sẽ ở lại với dân tôi."
Và ngài đã bị chết dưới làn đạn của kẻ thù vào tháng ba năm 1980
đang lúc ngài dâng thánh lễ.
3. Tình yêu thật khó hiểu
Một hôm Đức Ala gọi một Thiên sứ đến và truyền lệnh: “Ngươi hãy
xuống trần gian để đưa về đây người đàn bà góa có 4 đứa con thơ." Thiên sứ
ra đi, gặp ngay người đàn bà góa đang cho đứa con nhỏ nhất bú. Ngài nhìn người
đàn bà với 4 đứa con dại, rồi lại lên Đức Ala để tha thiết nài xin rút lại lệnh
truyền. Làm sao có thể nhẫn tâm tách lìa người mẹ khỏi những đứa con thơ ấy?
Nhưng lời van xin của Sứ thần chẳng mảy may đánh động được Đức Ala. Cuối cùng Sứ
thần đành phải vâng lệnh Đức Ala mà cướp người mẹ góa khỏi bầy con thơ và đưa về
trời.
Hoàn thành công tác,
nhưng xem chừng vị thiên sứ lại có vẻ buồn. Phải, làm sao vui được trước cảnh
chia ly giữa mẹ và con? Thấy sứ thần buồn, Đức Ala gọi đến và đưa vào sa mạc.
Ngài chỉ cho sứ thần thấy một tảng đá lớn và bảo đập nó ra. Tảng đá vừa vỡ đôi,
sứ thần ngạc nhiên vô cùng, vì từ trong tảng đá một con sâu nhỏ từ từ bò ra. Chợt
hiểu được ý nghĩa của sự kiện ấy, sứ thần bỗng thốt lên: “Ôi lạy Đấng tối cao,
mầu nhiệm thay công cuộc sáng tạo của Ngài. Với sự khôn ngoan thượng trí và
tình yêu vô biên, Ngài đã không bỏ mặc một tạo vật bé nhỏ như con sâu kia, thì
hẳn Ngài cũng sẽ không quên được 4 đứa trẻ mồ côi là con cái của Ngài.”
4. Không sợ ánh sáng
Ông Dung là chủ một nhà giữ xe và sửa xe rất lớn. Hôm ấy có người
lái chiếc xe Cam-nhông ghé vào vì cần được sửa chữa đôi chút.
Xong việc, ông chủ tiệm trao cho anh tài xế xe Cam-nhông tờ hóa
đơn để trả tiền.
Xem xong người tài xế trao lại cho ông chủ tiệm và đề nghị ông lấy
thêm tiền cho vài dịch vụ khác nữa, dầu sao thì công ty cũng sẽ trả hết, như thế
phần thặng dư sẽ chia đôi giữa người tài xế và ông chủ tiệm.
Vốn là người liêm chính, ông Dung từ chối thi hành lời đề nghị
gian dối ấy.
Như không muốn bỏ mất cơ hội tốt đẹp, ông tài xế năn nỉ thêm và
hứa sẽ trở thành khách hàng thường xuyên đến với ông. Tại sao lại không lợi dụng
cơ hội tốt như thế này? Nào có ai biết gì đâu?
Một lần nữa, ông Dung thẳng thắn từ chối và nói thêm:
- Ðó không phải là cách làm việc của tôi.
Người lái xe năn nỉ thêm và cố tình thuyết phục ông chủ.
Ông chủ trả lời cách dứt khoát:
- Nếu ông muốn làm những chuyện gian tham đến như thế, xin ông
hãy đi đến nơi khác, ở đây chúng tôi không thể chấp nhận bất cứ hình thức gian
dối nào cả.
Trước cử chỉ anh dũng của ông chủ, bấy giờ người tài xế lịch sự
nói với giọng đầy thán phục:
- Thưa ông, tôi đây chính là chủ hãng xe Cam-nhông, tôi chỉ muốn
thử và tìm xem đâu là nơi sửa xe đáng được tín nhiệm nhất.
5. Sự sống trong tay Chúa
Một giáo sư thực vật học tay cầm một hạt giống nhỏ màu nâu và
nói với cả lớp rằng: - Tôi biết rõ hợp chất của hạt giống này. Nó gồm hydro,
carbon và nitro. Tôi biết đúng tỉ lệ và có thể tạo ra một hạt giống khác trông
y như hạt giống này.
Một học sinh đứng lên hỏi: - Thưa thầy, nếu đem hạt giống thầy
chế tạo đó mà gieo xuống đất, nó có thể mọc lên không ạ?
Giáo sư trả lời: - Với hạt giống của tôi, điều đó không thể được.
Nhưng nếu tôi đem hạt giống mà Thiên Chúa đã làm ra, nó sẽ mọc lên thành cây,
vì nó chứa đựng nguyên tắc nhiệm mầu mà chúng ta gọi là nguyên tắc sinh tồn.
6. Con gì lớn nhất
Có một lần tôi hỏi một em bé từ trong lớp Giáo Lý đi ra:
- Con gì to nhất?
Tôi nghĩ chắc chắn em sẽ trả lời là con voi, con khủng long. Thế
nhưng em nhanh miệng nói:
- Thưa Cha, con Đức Chúa Trời ạ!
Đấy là một em bé nhờ học Giáo Lý mà em đã nhận ra giá trị con
người được Chúa sinh lại làm con Chúa trổi vượt hơn mọi động vật khác. Do đó,
Ngài chăm sóc ta được sống dồi dào không phải chỉ vì thương mà còn vì danh dự của
Ngài nữa! (x Tv 143/142,11; Ga 10,10). Do đó dẫu ta phải đương đầu với kẻ có
men gian ác Biệt phái,Chúa vẫn động viên ta: “Cứ mạnh dạn rao giảng trên mái
nhà, tức là leo lên cao loan báo Tin Mừng cách công khai, đừng sợ những kẻ chỉ
giết được thân xác chúng con, mà không diệt được hồn xác người nào, một chỉ sợ
nhiễm men Biệt phái, là kẻ sẽ bị Chúa diệt cả hồn xác trong hỏa ngục!” (x Lc
12, 2-5: Tin Mừng).
7. Thiên Chúa là Cha nhân từ
Có một lần tôi hỏi một em bé từ trong lớp Giáo Lý đi ra:
- Con gì to nhất?
Tôi nghĩ chắc chắn em sẽ trả lời là con voi, con khủng long. Thế
nhưng em nhanh miệng nói:
- Thưa Cha, con Đức Chúa Trời ạ!
Đấy là một em bé nhờ học Giáo Lý mà em đã nhận ra giá trị con
người được Chúa sinh lại làm con Chúa trổi vượt hơn mọi động vật khác. Do đó,
Ngài chăm sóc ta được sống dồi dào không phải chỉ vì thương mà còn vì danh dự của
Ngài nữa! (x Tv 143/142,11; Ga 10,10). Do đó dẫu ta phải đương đầu với kẻ có
men gian ác Biệt phái,Chúa vẫn động viên ta: “Cứ mạnh dạn rao giảng trên mái
nhà, tức là leo lên cao loan báo Tin Mừng cách công khai, đừng sợ những kẻ chỉ
giết được thân xác chúng con, mà không diệt được hồn xác người nào, một chỉ sợ
nhiễm men Biệt phái, là kẻ sẽ bị Chúa diệt cả hồn xác trong hỏa ngục!” (x Lc
12, 2-5: Tin Mừng).
8. Ta chẳng quên người bao giờ
Một phụ nữ trẻ không đến nhà thờ trong 12 năm kể từ khi tốt nghiệp
đại học. Chỉ mới đây, bà và chồng bà có những biến đổi. Cả hai đều là những người
thích đọc sách, do đó có đến hàng chục cuốn sách được xếp lên giá. Một đêm kia,
bà ngồi đọc lại cuốn “Chiếc áo dài”, trong đó một người lính La Mã đã trở thành
tín hữu sau khi thấy Chúa Giêsu chết. Bà nhớ lại cuốn “Mẹ các tín hữu”, một cuốn
sách mà người ta tặng cho bà cách đây nhiều năm. Giờ đây, khi đọc lại nó, bà thấy
xúc động lạ thường. Thật ra đó là cuốn đầu tiên mà bà mở ra, nhưng lại chứa đựng
những gì bà cần đến. Hôm sau, bà ta trở lại với Giaó hội.
Có khi nào tôi ý thức bàn tay Chúa hướng dẫn tôi vào giây phút
nào đó trong đời tôi? Có khi nào tôi quên mất Thiên Chúa không?
Ta sẽ chẳng quên ngươi bao giờ… Ta sẽ ghi khắc tên ngươi trong
lòng bàn tay Ta (Is 49, 15)
9. Đâu là điều đáng sợ?
Khi gõ chữ “sợ” vào trang điện tử google, chúng ta sẽ có được
khoảng 20.800.000 kết quả tìm kiếm. Thực tế mỗi người đều sợ một thứ gì đó.
Ngôi sao điện ảnh chuyên thủ vai điệp viên 007, Sean Connery sợ đèn đỏ ở các cột
giao thông. Nữ tài tử Sharon Stone sợ tivi nổ tung bất cứ lúc nào. Tiền đạo của
Arsenal, Adebayor sợ đi máy bay. Ca sĩ Phương Thanh sợ xe container… Chung quy
mọi nỗi sợ đều quy về một mối là sợ chết.
Người kitô hữu vì đức tin và vì yêu mến Thiên Chúa không sợ roi
vọt, không sợ tù đầy, không sợ những kẻ giết thân xác. Nhưng thứ họ sợ nhất
chính là tội lỗi, bởi vì tội lỗi làm họ xa cách Thiên Chúa, trở thành nô lệ ma
quỷ, và hậu quả là bị ném vào hoả ngục. Nói như thánh Phaolô: “Vì tội lỗi nên sự
chết đã nhập vào thế gian” (Rm 5,12). Thật hợp lý, tránh tội lỗi thì sẽ tránh
được sự chết, cái chết cả xác lẫn hồn.
Mời Bạn: Bạn đang lo sợ điều gì? Phải chăng bạn không dám sống
như một kitô hữu vì sợ trở ngại cho con đường tiến thân? Phải chăng bạn không
dám bênh vực cho công bằng và lẽ phải vì sợ tai bay vạ gió? Phải chăng bạn
không dám trung thực trong việc học hành thi cử vì sợ thua thiệt…? Những nỗi sợ
đó có thật chính đáng khiến bạn phải mất bình an không? Làm gì để thoát khỏi
nó?
THỨ BẢY - THÁNH THẦN SẼ DẠY
Lời Chúa: Lc 12, 8-12
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hễ ai xưng
nhận Thầy trước mặt người đời, thì Con Người cũng sẽ xưng nhận nó trước mặt các
thiên thần của Thiên Chúa; nhưng ai chối bỏ Thầy trước mặt người đời, thì sẽ bị
chối bỏ trước mặt thiên thần của Thiên Chúa. Và hễ kẻ nào nói phạm đến Con Người,
thì nó sẽ được tha. Nhưng kẻ nào nói phạm thượng đến Thánh Thần, thì sẽ không
được tha.
"Khi người ta điệu các con vào các hội đường, đến trước mặt
vua quan và chính quyền, các con chớ lo lắng phải thưa làm sao, hay phải nói thế
nào, vì trong giờ ấy, Thánh Thần sẽ dạy các con phải nói thế nào."
TRUYỆN KỂ
1. Tội
Phạm Ðến Chúa Thánh Thần
Ông
Charles Darwin, khi về già đã tâm sự: lúc còn trẻ, ông cũng rất yêu thích thi
ca và âm nhạc, thế nhưng, công việc nghiên cứu đã chiếm hết thời giờ của ông.
Dành trọn cuộc đời cho sinh vật học, cho nên ông đã mất dần khả năng thưởng thức
thi ca và âm nhạc, đến nỗi về sau, thi ca đối với ông chỉ còn là những lời vô bổ
và âm nhạc chỉ là những tiếng động ồn ào mà thôi. Cuộc đời ông đã thiếu hẳn vẻ
tươi mát và trẻ trung. Thế nên, nếu được sống lại tuổi trẻ lần nữa, ông sẽ dành
thời giờ tìm đến thi ca và âm nhạc, để khỏi mất đi khả năng thưởng thức chúng,
một khả năng giúp cho cuộc đời thêm hương vị.
Lời
tâm sự của Charles Darwin giúp chúng ta hiểu thêm phần nào về tội phạm đến Chúa
Thánh Thần được Chúa Giêsu nói đến trong Tin Mừng hôm nay.
2.
“Đừng sợ” Chúa Thánh Thần sẽ nói thay
Đọc
lại lịch sử các thánh Tử đạo Việt Nam, chúng ta thấy: rất nhiều vị thánh xuất
thân từ nhà quê, chẳng được học hành là bao, lại phải lam lũ khổ sở, suốt ngày
bán mặt cho đất, bán lưng cho trời! Ấy vậy mà khi bị bắt, bị tra tấn, đánh đập,
nhất là khi bị hỏi cung, các ngài đã trả lời hết sức trôi chảy. Không những thế,
các ngài còn lý luận và bẻ gãy những lời nói phi nhân, bất nghĩa của vua quan.
Mặt khác, nhân cơ hội, ngoài chuyện làm chứng cho Chúa bằng đời sống, các ngài
còn rao giảng Lời Chúa cho những người đang làm hại mình nữa. Tất cả những chuyện
đó, chúng ta, ai cũng hiểu là Chúa Thánh Thần nói trong và hành động nơi các thánh.
Bài
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng nói cho các môn đệ biết, các ông sẽ phải chịu
đau khổ, bách hại và gặp muôn điều khó khăn, tuy nhiên, các ông đừng sợ, những
lúc như thế, Chúa Thánh Thần sẽ giúp các ông để cho các ông biết phải làm gì và
nói gì.
3.
Có, tôi tin chứ
Trong
một tu viện đang bị quân đội Xô Viết chiếm đóng, một cuộc đối thoại đang diễn
ra giữa Tu viện trưởng và một sĩ quan Xô Viết. Ông này nói: - Hiện giờ chỉ có
hai chúng ta, không một ai chứng kiến, vậy ông hãy nói sự thật, đừng sợ gì cả!
Hãy nói cho tôi biết là ông không tin vào tất cả những chuyện Chúa Bà, tôn giáo
mà ông tuyên xưng đây.
Vị
Tu viện trưởng trả lời: - Có, tôi tin chứ!
Viên
sĩ quan liền rút súng lục ra, gí thẳng vào thái dương cha và nói:
- Nếu
ông không nói là ông chẳng tin gì cả thì tôi sẽ bắn!
Và
Tu viện trưởng lặp lại một lần nữa lời tuyên xưng của mình. Viên sĩ quan hạ
súng xuống và kêu lên vui vẻ: - Đây là điều mà tôi trông đợi, đây là người mà
tôi tìm kiếm. Tôi cũng vậy, bây giờ tôi tin vào Chúa Kitô.
Rồi
cuộc đối thoại tiếp tục trong hướng tinh thần đó (Trích trong cuốn “Bưng biền của
Thiên Chúa” của cha Georges).
4.
Sợ tội thì không sợ gì hết
Triều
đình Hoàng Ðế Hy Lạp đã nhóm họp để bàn cách trả thù thánh Gioan Kim Khẩu vì
ngài đã thẳng thắn khiển trách bà Hoàng Hậu.
Kế
hoạch I: Bỏ tù.
-
“Nhưng ông ấy sẽ được dịp cầu nguyện, chịu khó vì Chúa như ông hằng mong muốn.”
Kế
hoạch II: Lưu đầy.
-
“Nhưng đối với ông ấy, đâu cũng là đất Chúa.”
Kế
hoạch III: Tử hình.
-
“Ông sẽ được tử đạo, chúng ta sẽ thỏa mãn nguyện vọng ông: được về với Chúa.”
“Tất
cả kế hoạch I, II và III không làm cho ông khổ đau, ngược lại ông sẽ vui sướng
chấp nhận.”
Kế
hoạch IV: “Chỉ có một điều ông khiếp sợ nhất, gớm ghét nhất là tội lỗi, nhưng bắt
ông phạm tội không được!”
Nếu
con chỉ sợ tội, thì không ai mạnh hơn con. (Đường Hy Vọng số 991)
5.
Hãnh diện thì không sợ
Một
vị tuyên úy người Mỹ vừa giảng một bài cho các binh sĩ Mỹ trong một thánh lễ tại
một giáo đuờng ở Châu Âu. Chủ đề của bài giảng là: “Hãy tự hào về Đức tin Công
giáo của bạn: Đừng xấu hổ khi phải tuyên xưng nó."
Một
người lính thuỷ nghe và cảm thấy hết sức xúc động nên sau thánh lễ người này đã
chận vị tuyên úy lại ngay trước cửa giáo đường và hỏi: - Thưa Cha, cha có bằng
lòng nghe con xưng tội không?
Vị
tuyên úy trả lời: - Tôi rất hạnh phúc được nghe anh xưng tội.
Thế
là chàng lính thủy quì ngay xuống lối đi bên cạnh ngay trước giáo đường. Vị
tuyên úy vội nói:
- Đừng
quì gối kẻo thiên hạ nhìn kìa!
Chàng
lính thủy đáp lại: - Kệ họ, thưa cha, cứ để họ nhìn, con hãnh diện về đức tin của
con.
6.
Tác động của Thánh Thần
Dạo
tháng 2/1996, cùng với phái đoàn của Hội đồng Giám mục Pháp, một linh mục ký giả
là cha Daniel, đã đến thăm một số giáo phận tại Việt Nam. Trong một bài ký sự
được đăng trên một tờ báo Công giáo Pháp, cha Daniel đã gọi Việt Nam là đất
thơm mùi máu các thánh tử đạo.
Chứng
kiến cuộc sống sinh hoạt tôn giáo hàng ngày của các xứ đạo ở vùng quê, tác giả
đã ghi lại từng chi tiết mà người dân Tây Phương ngày nay chỉ có thể ngỡ ngàng
mà thôi: bốn giờ sáng chuông nhà thờ đổ hồi. Bốn giờ mười lăm phút, mọi người từ
trẻ đến già lũ lượt đến nhà thờ. Bốn giờ ba mươi phút đọc kinh. Năm giờ, thánh
lễ hoặc tham dự phụng vụ Lời Chúa.
Tại
một nhà thờ chính tòa nọ, tác giả đã sửng sốt khi chứng kiến năm ngàn người đứng
chật ních nhà thờ trong thánh lễ bốn giờ ba mươi phút mỗi ngày trong tuần.
Tác
giả nhận định về thời khóa biểu tôn giáo này như sau: “Rõ ràng là ở đó, người
ta chỉ sống cho Thiên Chúa, cho niềm vui con người, ở đó Thiên Chúa là niềm vui
của người nghèo.”
Còn
Đức Tổng Giám mục Claudio Celli, sau những ngày làm việc của ngài tại Việt Nam
hồi trung tuần tháng 10/1996, Ngài nói như sau: “Con người có thể đặt ra những
giới hạn cho sinh hoạt của Giáo Hội, nhưng không thể ngăn chặn tác động của
Chúa Thánh Thần."
7.
Chúa Thánh Thần soi sáng lúc khó khăn
Tại
Việt Nam, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Đức Giám mục nào muốn phong chức Linh mục
cho ai thì phải được sự đồng ý của chính quyền. Thế mà Đức cha Nam, Giám mục Mỹ
Tho tự ý truyền chức Linh mục cho 30 thầy. Sau đó chính quyền mời ngài đi làm
việc, họ tra vấn
- Tại
sao ông phong chức Linh mục mà không hỏi ý kiến chúng tôi?
Đức
cha bình tĩnh đáp lại
- Ấy
tôi phong các phó Linh mục.
-
Đúng thế không?
-
Quý vị cứ đến các xứ có tân phó Linh mục, các ông ấy không phải là Linh mục
chánh xứ.
-
Thế ra các ông ấy mới là phó Linh mục ư?
-
Đúng thế.
Rõ
ràng Đức cha đã được Chúa Thánh Thần hướng dẫn để thoát nạn!
Đúng
như Chúa đã nói: “Thần Khí sự thật sẽ làm chứng về Thầy. Cả anh em nữa, anh em
cũng làm chứng về Thầy” (Ga 15,26b. 27a: Tung Hô Tin Mừng).
8.
Thánh Thần dạy anh em nói
Đứng
trước toà án quan Thượng Vương, người thanh niên 19 tuổi vẫn “cả lòng, lại quyết
mình không lầm, cứ nói rằng mình là bổn đạo thờ Chúa Trời Đất, dù cách nào cũng
không bỏ, lại sẵn sàng chịu mọi hình phạt, cả đến mất mạng sống nữa.” Và với những
lời nói đó, người thanh niên ấy, chính là thầy giảng Anrê Phú Yên, đã hy sinh mạng
sống để làm chứng nhân đức tin. Những lời nói của thầy Anrê Phú Yên được cha Đắc
Lộ ghi lại đó chắc chắn không phải là lời của phàm nhân nhưng là lời mà “Thánh
Thần dạy anh em nói” khi phải ra trước mặt vua chúa quan quyền để làm chứng cho
Chúa Kitô.
Thánh
Thần chỉ nói thay cho chúng ta khi chúng ta sống trong ơn nghĩa Chúa và kết hiệp
mật thiết với Ngài nhờ đời sống cầu nguyện và bí tích.
9.
Hạnh phúc thực và ảo
Một
nhà truyền giáo suốt đời sống ở Trung Quốc và một ca sĩ chỉ sống ở đó hai tuần,
cả hai cùng trở về quê hương trên một chuyến tàu. Hàng ngàn người chào đón
chàng ca sĩ, nhưng chẳng một ai chào đón nhà truyền giáo. Lúc đó, nhà truyền
giáo thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con đã hiến dâng Ngài đời con, còn anh ta mới chỉ
cho Ngài hai tuần, vậy mà hàng ngàn người chào đón anh ta khi trở về, còn con
thì chẳng được ai chào đón.” Thiên Chúa trả lời: “Này con, con vẫn chưa về nhà
mà.”
Tôi
có tìm kiếm và chờ đợi vinh dự vì những gì tôi đã làm cho thế gian này không?
Chúa
Giêsu nói: “Hãy tích trữ kho tàng trên trời. Vì kho tàng của anh ở đâu, thì
lòng anh ở đó” (Mt 6,20-21).
10.
Gian nan cần cho niềm tin
Trong
Tự Sắc “Cánh Cửa Đức Tin,” Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI nói: “Giáo Hội tiếp tục
cuộc lữ hành giữa những cuộc bách hại trần thế và những an ủi của Thiên Chúa,
loan báo cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa cho đến khi Ngài đến.” Trong Năm Đức
Tin, Chúa Giêsu nhắc nhở rằng chúng ta vẫn luôn trải qua những gian nan cho niềm
tin của mình. Nhưng có Chúa nâng đỡ và phù trì, sự gian nan khốn khố ấy không
làm chết nghẹt đức tin và lòng cậy của chúng ta. Vậy, chúng ta hãy can đảm đối
đầu, chấp nhận chịu đựng gian nan khốn khó vì Chúa và vì Tin Mừng, đó là bằng chứng
niềm tin hùng hồn và tình mến nồng nàn đối với “Đấng đã yêu thương và hiến mạng
vì tôi” (Gl 2,20).
Để
loan báo Tin Mừng cho Nước Chúa, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải hy sinh, từ bỏ.
Cho nên, khi chấp nhận hy sinh của cải, danh dự, sự nghiệp hay từ bỏ thói hư
tính xấu dù phải thiệt thòi, thiệt thân, chính lúc đó đức tin của chúng ta được
vững mạnh và vẹn toàn.
LỄ THÁNH LUCA – DIỄN
VĂN TRUYỀN GIÁO
Lời
Chúa: Lc 10, 1-9
Khi
ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi
trước Người đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng:
"Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ
đến gặt lúa của Người. Các con hãy đi. Này Ta sai các con như con chiên ở giữa
sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi
ai dọc đường.
"Vào
nhà nào, trước tiên các con hãy nói: "Bình an cho nhà này." Nếu ở đấy
có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng
không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống
những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.
Khi
vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn
cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: Nước Thiên Chúa đã
đến gần các ngươi."
TRUYỆN
KỂ
1.
Chúa cần bàn tay bạn
Cuộc
chiến tranh trên bán đảo Triều tiên trước đây là một cuộc chiến tranh tàn khốc.
Một ngôi làng nhỏ rơi vào dưới làn đạn của trọng pháo. Trong làng có một ngôi
nhà thờ Công giáo, bên ngoài nhà thờ có một bệ cao, bên trên có đặt một bức tượng
Đức Kitô. Tuy nhiên, khi cuộc chiến tranh qua, rồi bức tượng đã biến mất. Bức
tượng đã bị hất ra khỏi bệ vỡ ra từng mảnh trên mặt đất.
Một
hôm lính Mỹ đã giúp vị linh mục thu thập những mảnh vụn. Một cách cẩn thận, họ
đã ráp lại pho tượng. Họ tìm thấy tất cả các mảnh vỡ, trừ đôi bàn tay. Họ đề
nghị khi trở về Mỹ họ sẽ đặt làm đôi bàn tay ấy. Nhưng vị linh mục đã từ chối.
Ngài nói:
-
Tôi có một ý tưởng hay hơn: Chúng ta hãy để pho tượng không có bàn tay. Và
chúng ta sẽ ghi vào chân đế lời này: BẠN ƠI, BẠN HÃY CHO TÔI MƯỢN ĐÔI BÀN TAY CỦA
BẠN”
2.
Hành trình đức tin của thánh Luca
Thánh
Luca là một người ngoại giáo, khi thánh Phaolô rao giảng Tin Mừng ở thành Troa,
Ngài xin tòng giáo, lãnh nhận bí tích rửa tội, xin làm môn đệ thánh Phaolô và
theo Ngài đi loan báo Tin Mừng trong nhiều năm liền. Khi thánh Phaolô bị bắt,
chúng ta không còn biết gì về quảng đời cuối cùng của Ngài nữa. Theo nhiều tài
liệu, và chứng cớ tìm được ở Constantinople, thánh Luca đã rao giảng Tin Mừng cứu
độ ở Achaie, Béoti và sau này được đặt làm giám mục Thébes. Theo một sử liệu
đáng tin cậy, thánh Gaudence de Brescia quả quyết rằng thánh Luca đã cùng đượcphúc
chịu tử vì đạo với thánh Anrê tại Patras thành Achaie.
Thánh
Luca đã để lại cuốn Tin Mừng rất giá trị nói lên tình thương vô biên của Thiên
Chúa với cách hành văn thật trong sáng, cảm động và với một lối viết văn thật
rõ ràng, gợi cảm. Ngài cũng trình bầy cho nhân loại hiểu về sinh hoạt đầy niềm
vui của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai, cho thấy Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và
luôn hành động, luôn hướng dẫn và soi sáng cho Giáo Hội.
Mừng
lễ thánh Luca tông đồ, thánh sử, chúng ta cảm tạ tri ân Thiên Chúa vì đã ban
cho Giáo Hội một vị thánh lừng danh đã để lại cho nhân loại cuốn Tin Mừng và cuốn
công vụ tông đồ tuyệt hảo.
Ngày
nay thánh Luca là quan thầy của các lương y và bác sĩ. Ngài cũng là bổn mạng
các nhà họa sĩ, vì theo một truyền thuyết thì thánh nhân đã họa bức ảnh chân
dung Đức Mẹ đầu tiên mà nay chúng ta quen gọi là ảnh “Đức Mẹ hằng cứu
giúp."
Ngay
từ đầu, Giáo hội vẫn kính lễ thánh Luca vào ngày 18.10 mỗi năm.
3.
Đặc điểm của Tin Mừng Luca
Tin
Mừng của ngài là Tin Mừng cho những người bị áp bức. Không Tin Mừng nào chúng
ta có thể được một sự lưu tâm đáng yêu mà Chúa dành cho những người thu thuế và
tội lỗi như trong Tin Mừng thánh Luca: Chúa đến để tìm kiếm những gì đã mất… một
người nữ ngoại tình, một người thu thuế thống hối, một tên trộm ăn năn.
Không
một Tin Mừng nào diễn tả được tấm lòng tha thiết của Chúa dành cho những người
bơ vơ nghèo đói cho bằng dưới ngòi bút điêu luyện của Luca.
Là
một Tin Mừng cho dân ngoại.
Là
một Tin Mừng của cầu nguyện.
Là
một Tin Mừng của niềm vui.
Là
Tin Mừng của niềm vui vì ngay từ đầu, và bàng bạc trong Tin Mừng của ngài nhiều
chỗ nói về niềm vui như ở đầu Tin Mừng là tin vui loan báo cho Zacharia, truyền
tin cho Maria. Những niềm vui liên tục khi Thánh Gioan chào đời, lúc Chúa giáng
sinh...
Những
niềm vui trong chương 15 khi tìm thấy con chiên lạc, tìm được đồng tiền mất, gặp
lại người con hoang và niềm vui hân hoan của các tông đồ khi trở lại
Giêrusalem. Ðúng như Harnack đã nói: “Có những nét vui tươi, can trường và chiến
thắng âm vang trong toàn bộ cuốn Tin Mừng của Thánh Luca từ trang đầu cho tới
trang chót.”
Và
là Tin Mừng đặc biệt nói về nữ giới.
Thật
ra người ta sẽ lầm lẫn khi dìm mất tính chất và giáo huấn nghiêm khắc của Chúa.
Nhưng các y sĩ có thể hãnh diện về Ngài vì chắc hắn không có y sĩ nào sẽ qua mặt
được Ngài về “tình yêu dành cho nhân loại." Và những người còn lại trong
chúng ta có thể biết ơn Ngài vì nhờ Ngài chúng ta có được dụ ngôn cây vả khô chồi
(13,60), đứa con hoang đàng (15,11) và người Samaria nhân hậu (10,30). Chúng ta
cũng biết ơn Ngài vì câu chuyện người kẻ trộm thống hối và cả năm mầu nhiệm Mân
Côi mùa Vui.
Nhưng
trên tất cả, chúng ta mắc ơn Ngài Kinh Ave “Ngợi khen” (Magnificat), chúc tụng
(Benedictus), Phó dâng (Nunc dimittis) với quá phân nửa câu chuyện ngày lễ
Giáng sinh. Rồi đây là chỗ mà sự khiêm tốn ẩn mình của thánh nhân xa rời chúng
ta.
4.
Bình an cho nhà này
Trong
năm 1980, một tờ báo phát hành trên toàn Hoa Kỳ có đăng một câu chuyện khác thường.
Một người kia ra xe của ông đang đậu trước một trung tâm thương mại lớn. Ngay
trên ghế ngồi, có một mẩu giấy viết:
"Thưa
ông/bà;
Tôi
đã định ăn cắp chiếc xe này cho đến khi tôi chợt nhìn thấy hàng chữ
'Peace-Be-to-You' (Bình An-Cho-Bạn) dán trên kính xe. Nó làm tôi do dự và suy
nghĩ. Tôi nghĩ nếu tôi ăn cắp chiếc xe này, ông bà chắc chắn sẽ không có bình
an, và ngược lại, tôi cũng không cảm thấy bình an, vì đây là 'chuyến ăn hàng' đầu
tiên của tôi. Do đó, 'bình an cho bạn' và cho tôi. Nhớ lái xe cẩn thận và lần
sau đừng quên khóa cửa.”
Ký
tên: "Người Muốn Ăn Cắp Xe.”
Câu
chuyện khác thường đó làm sáng tỏ mệnh lệnh khác thường của Chúa Giêsu mà Người
đã ban cho các môn đệ trong bài phúc âm hôm nay:
"Vào
bất cứ nhà nào, trước hết các con hãy nói, 'Bình an cho nhà này. ' Nếu một người
yêu chuộng bình an sống ở đó, lời chúc bình an của các con sẽ ở với họ; nếu
không, hãy lấy lại lời chúc bình an.”
5.
Bước ra khỏi tâm bão
Khi
gió của cơn bão nhiệt đới lên quá 75 dặm một giờ, người ta gọi nó là
"typhoon" (bão lớn) khi xảy ra ở Thái Bình Dương, và gọi là
"hurricane" (cuồng phong) khi xảy ra ở Đại Tây Dương.
Để
có một ý niệm thế nào là trận cuồng phong, hãy tưởng tượng ra đĩa
"frisbee" với một lỗ hổng ở giữa. Bây giờ, thử tưởng tượng đĩa ấy lớn
dần cho tới khi nó rộng đến 100 dặm và lỗ hổng ở giữa rộng đến 10 dặm. Và rồi
hãy tưởng tượng cái đĩa khổng lồ ấy xoay tròn với tốc độ 100 dặm một giờ.
Đó
là cơn cuồng phong hay cơn bão. Phần đáng chú ý của cơn bão là tâm điểm của
nó-cái lỗ hổng ở giữa đĩa "frisbee." Mặc dù gió lốc đang gào thét
chung quanh tâm bão với tốc độ 100 dặm một giờ, nhưng ở tâm bão thì lại êm ả.
Không có một chút gió lốc. Nếu bạn đứng trong tâm bão và nhìn lên, bạn sẽ thấy
bầu trời xanh và ánh nắng chói chang.
Tâm
bão là một hình ảnh tốt để nói lên điều Đức Giêsu nhắn nhủ chúng ta trong Tiệc
Thánh Thể, khi chúng ta quy tụ để chia sẻ bữa tiệc ấy vào mỗi Chúa Nhật.
Có
biết bao cơn bão chung quanh chúng ta ở trong thế giới này. Con người gào thét
và lấy của nhau; các nhóm dấy loạn và cướp bóc; quốc gia này đánh nhau với quốc
gia khác. Tuy nhiên, ở bàn Tiệc Thánh Thể thì lại êm ả. Chúng ta nhìn lên và thấy
bầu trời xanh cùng ánh nắng chói chang. Chúng ta đang ở tâm bão. Chúng ta vui
hưởng "bình an của Đức Kitô.” Đức Giêsu ban cho chúng ta sự bình an này
không phải để chúng ta ở mãi trong đó, nhưng để bồi dưỡng trong giây lát. Cũng
như tâm bão chỉ kéo dài chừng một giờ đồng hồ khi bão đi qua, bữa Tiệc Thánh Thể
cũng chỉ khoảng một giờ. Đức Giêsu không bao giờ muốn chúng ta ở mãi trong tâm
bão. Người muốn chúng ta đi vào cơn bão. Đức Giêsu muốn từ bàn Tiệc Thánh Thể,
chúng ta tiến bước để trở nên tâm bão giữa các trận cuồng phong của thế gian.
Người muốn chúng ta chia sẻ sự bình an của Người, mà chúng ta được cảm nghiệm
trong Thánh Lễ, với toàn thế giới.
6.
Tình yêu: còn và mất
Jimmy
Durante là một diễn viên hài nổi tiếng của nước Mỹ. Sau Thế chiến Thứ Hai, người
ta đã mời ông tham dự trình diễn văn nghệ phục vụ các cựu chiến binh. Ông cho
ban tổ chức biết là lịch diễn của ông rất sát nên ông chỉ có thể tham gia diễn
trong vài phút. Nếu không có gì bất tiện thì ông sẽ độc diễn một đoạn ngắn rồi
đi ngay.
Khi
ông diễn xong, khán giả nồng nhiệt vỗ tay tán thưởng, càng lúc càng lớn. Tiếng
vỗ tay kéo dài thật lâu đến gần nửa tiếng đồng hồ. Sau khi tiếng vỗ tay chấm dứt,
ông cúi chào khán giả và rời sân khấu và tỏ ý ở lại diễn tiếp.
Có
người hỏi ông:
-
Tôi ngỡ là ông đi ngay sau khi diễn xong. Có chuyện gì thế.
-
Đúng là tôi định đi ngay, nhưng anh hãy nhìn vào hàng ghế đầu sẽ biết điều gì
giữ tôi ở lại lâu thế.
Thì
ra ở hàng ghế đầu có hai người đàn ông cụt tay. Một người mất tay mặt, người
kia mất tay trái. Họ cùng nhau vỗ tay, vỗ tay nhau!
Họ
cụt tay vì đã cầm súng, nhưng tình yêu đã hàn gắn lại tất cả.
Tin
Mừng được loan báo cho một nhân loại đã bị thương tích bởi hận thù. Tin Mừng đó
là sự bình an được tình yêu Chúa mang đến cho nhân loại, như là phương thuốc chữa
lành: “Các ngươi hãy vui mừng với Giêrusalem (…) Vì chưng Chúa phán thế này:
‘Ta sẽ làm cho sự bình an chảy đến nó như con sông …’” (Is 66, 12)
Vâng,
người ta đánh mất nhiều nhất khi đánh mất tình yêu.
7.
Bằng không, bình an lại trở về với các con
Nước
Bồ Đào Nha có vua Denis. Một anh lính hầu của vua ghen với bạn nên đã vu cáo bà
hoàng hậu là thánh Êlizabeth tốt lành đã có mối tình vụng trộm với anh bạn đó.
Để trừng phạt, vua sai tên tiểu hầu bị ông nghi ngờ đến một lò vôi, chú vui vẻ
ra đi mà không biết mình sắp gặp nguy hiểm, vì người thợ nung lò vôi được lệnh
quăng vào lò vôi bất cứ ai đến đầu tiên.
Trên
đường đi, chú tiểu hầu dừng lại ở một nhà thờ để dự lễ, và vì lễ được cử hành nửa
chừng nên chú ở lại dự lễ thứ hai cho trọn lễ. Trong khi đó nhà vua lại sai tên
lính hầu độc ác đến lò vôi để xem tình hình, và chính anh ta phải chịu hậu quả
do mưu độc của mình.
Sau
khi thấy được bàn tay quan phòng của Chúa giữ gìn người tốt lành, ông biết lỗi
và thay lòng đổi dạ nên tốt lành hơn.
Bàn
tay Chúa giữ gìn người rao giảng Tin Mừng trong mọi nguy hại. “Chúng ta biết rằng
Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người.” (Rm
8,28); nhưng có nguy hại nào sánh được với mối lợi lớn lao Chúa hứa ban: “không
có gì có thể làm hại được các con; nhưng hãy vui mừng vì tên các con đã được
ghi trên trời” (Lc 10, 20)
8.
Chiên giữa sói rừng
Trần
Hằng, quyền thần thời Xuân thu, giết vua Giản Công nước Tề, lập vua Bình Công.
Lúc giết vua xong, Trần Hằng sai sáu dũng sĩ đến bắt Tử Uyên Thê phải theo
mình.
Tử
Uyên Thê nói: “Nhà ngươi muốn cho ta vào đảng, ý hẳn cho ta là “trí” chăng,
nhưng bầy tôi giết vua mà không cản được, ta chẳng phải là trí; cho ta là
“nhân” chăng, nếu thấy lợi mà phản nước, ta chẳng phải là nhân; cho ta là
“dũng” chăng, nhưng đem binh đến ăn hiếp ta, ta sợ mà theo ngươi, ta cũng chẳng
phải là dũng.
“Vì
bằng ta không có ba điều ấy, ta về phe với ngươi thì có bổ ích gì cho ngươi. Ví
bằng ta có ba điều ấy, thì đời nào ta theo ngươi mà ngươi dỗ.”
Trần
Hằng bèn tha Tử Uyên Thê. (Cổ học tinh hoa)
Qua
câu trả lời đơn giản, Tử Uyên Thê đã phô bày ba chữ nhân, trí, và dũng của ông:
Không sợ Trần Hằng mà từ chối, đó là dũng; không vì tham lợi mà phản vua, đó là
nhân; và khéo léo dùng ngay ba chữ nhân, trí, dũng, để từ chối hợp tác và tố
cáo điều sai lỗi của Trần Hằng.
Khi
sai các môn đệ đi trước chuẩn bị cho Người, Chúa Giêsu báo trước: “Này Ta sai
các con như con chiên ở giữa sói rừng.” (Lc 10,3)
9.
Rao giảng bằng đời sống
Năm
1937, Mahatma Gandhi, vị anh hùng dân tộc Ấn Độ nói với các nhà truyền giáo:
"Hãy để cho đời sống các ngài nói với chúng tôi như đoá hoa hồng không cần
ngôn ngữ, mà chỉ đơn sơ để cho hương thơm của mình toả lan. Cả người mù không
nhìn thấy hoa hồng vẫn nhận ra được mùi thơm của nó. Hãy để chúng tôi nghĩ tới
sự cao cả của nhân dân của các ngài khi họ toả hương thơm đời sống. Đối với
tôi, đó là tiêu chuẩn duy nhất. Tất cả những gì tôi muốn họ làm là sống đời
Kitô hữu chứ không phải chú giải nó."
10.
Đừng mang
Sau
ngày đắc cử, Đức giáo hoàng Phanxicô không đến ở trong dinh thự các giáo hoàng
nhưng lưu lại tại căn phòng trong Nhà Trọ Thánh Marta để ở gần các cộng sự viên
của mình. Ngài quan tâm tới những người “nghèo nhất, yếu đuối nhất, ít quan trọng
nhất." Ngài luôn kêu gọi các tu sĩ đến với những người sống bên lề xã hội.
Người
ta nhận ra Đức Phanxicô, sau ba tháng trên ngôi vị giáo hoàng, muốn xây dựng một
“Giáo hội nghèo, cho người nghèo” đúng như lý tưởng sống của vị thánh mà ngài
đã chọn làm danh hiệu giáo hoàng của mình. Đó cũng là mệnh lệnh mà Chúa Giêsu
đã truyền cho các môn đệ khi sai các ông đi truyền giáo. Quả thật thay vì nhắc
các ông trang bị đầy đủ các phương tiện vật chất, Chúa Giêsu muốn các ông lên
đường với gói hành trang gọn nhẹ: không mang theo túi tiền, bao bị, giày dép.
Ngài muốn các ông sống nghèo như chính Ngài đã sinh ra, sống, rao giảng và chết
trong khó nghèo.
Chúng
ta đang muốn xây dựng Giáo hội nào: giàu cho người giàu? hay nghèo cho người
nghèo? Những người nghèo và cô thế cô thân có được cộng đoàn quan tâm giúp đỡ
không? Tiền giáo xứ giúp cho người nghèo là bao nhiêu so với tiền xây dựng, tiền
tổ chức các cuộc lễ lạy, đình đám?
Lời Chúa Tuần 28 Thường Niên
Thường niên V-GS C-PS Ngoại lịch
