Lời Chúa tuần 28 thường niên _ câu truyện minh họa

 

LỜI CHÚA TUẦN 28 THƯỜNG NIÊN
CÂU TRUYỆN MINH HỌA

LỜI CHÚA TUẦN 28 THƯỜNG NIÊN
CÂU TRUYỆN MINH HỌA

CNTN 28A – ĐƯỢC MỜI DỰ TIỆC CƯỚI

CNTN 28B – BỎ MỌI SỰ MÀ THEO CHÚA

CNTN 28C -

LỄ THÁNH LUCA – DIỄN VĂN TRUYỀN GIÁO

THỨ HAI - DẤU LẠ GIO-NA

THỨ BA - THANH TẨY HỮU HIỆU, CHÍNH LÀ TÌNH YÊU

THỨ TƯ - CHÚA GIÊSU DẠY CẦU NGUYỆN

THỨ NĂM - DÒNG MÁU CỨU ÐỘ

THỨ SÁU - ÐỪNG SỢ

THỨ BẢY - THÁNH THẦN SẼ DẠY

 

CNTN 28A – ĐƯỢC MỜI DỰ TIỆC CƯỚI

Lời Chúa: Mt 22, 1-10 (hoặc 1-14)

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu lại phán cùng các đầu mục tư tế và kỳ lão trong dân những dụ ngôn này rằng: "Nước trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: "Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới.” Những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán; những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi. Khi vua nghe biết, liền nổi cơn thịnh nộ, sai binh lính đi tru diệt bọn sát nhân đó, và thiêu huỷ thành phố của chúng. Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng: "Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới.” Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc.

Đoạn vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: "Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?" Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: "Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng! Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít.” Đó là lời Chúa.

TRUYỆN KỂ

1. Tiệc cưới hoàng tử

Tiệc cưới nào cũng được gia đình tổ chức hết sức trang trọng theo khả năng của mình. Tiệc cưới hoàng tử càng biểu lộ vinh quang trang trọng của cả nước. Ngày 03/04/1985 (?). Hoàng hậu Elizabeth Anh quốc, đã mở tiệc cưới hoàng tử Charles đẹp duyên cùng công nương Diana. Khách mời là những vua chúa, Hoàng hậu, Tổng thống, Thủ tướng của hơn hai chục nước trong Liên hiệp Anh. Những hoàng tử của các nước xa xôi ngoài Liên hiệp cũng được mời dự tiệc cưới, như hoàng tử Nhật. Ai được mời đều lấy làm hết sức vinh dự. Cho nên, không ai từ chối, mà còn mong ước chóng được tới dự.

Chúa Giêsu dùng hình ảnh tiệc cưới hoàng tử để nói về vinh quang, vui mừng và hạnh phúc vô cùng của nước Trời. Nhưng những khách được mời ưu tiên thì lại từ chối, không đếm xỉa tới những ân huệ vinh quang Thiên Chúa ban. Họ còn có những thái độ khinh bỉ ngạo mạn coi tiệc cưới hoàng tử không bằng đi thăm trại súc vật, không bằng đi buôn bán lặt vặt; kinh khủng hơn nữa, dám bắt các đại diện của vua đi mời xỉ nhục và giết chết.

2. Chiếc áo cưới

Không ai biết đích xác được là con người đã bắt đầu biết may mặc từ thời nào, nhưng chắc chắn là rất xa xưa. Cái mặc đã đi theo cái ăn như là một trong hai cách thế hiện thân độc đáo của loài người, và ngay từ sớm, nó đã vượt ra ngoài cái ý nghĩa sở đẳng là một vật dụng để che thân cho kín đáo, cho ấm áp, hầu mang lấy những ý nghĩa khác có tính cách văn hoá, kinh tế, chính trị và tôn giáo.

Thực vậy, cái áo có thể cho chúng ta biết được giai cấp, địa vị, nghề nghiệp, và thậm chí đến cả tư cách và tính tình của một người. Người nông dân nghèo không ăn mặc như một cậu công tử thành phố. Ông quan không mặc như người lính, thầy tu không mặc như dân thường. Người con gái nết na kín đáo thì không thích ăn mặc hở hang khêu gợi. Người khiêm tốn không ăn mặc loè loẹt phô trương. Cái áo do đó có một vai trò, một ý nghĩa quan trọng trong đời sống con người. Vì thế mà Chúa Giêsu đã sử dụng nó như một hình ảnh để nói lên cái tư cách của một người công dân Nước Trời.

Bài Tin Mừng vừa nghe ghi lại hai dụ ngôn. Dụ ngôn tiệc cưới và dụ ngôn chiếc áo cưới. Hai dụ ngôn này, nguyên thuỷ có lẽ đã được Chúa Giêsu nói trong hai trường hợp riêng biệt, nhưng đã được Matthêu chắp lại thành một đề tài chung vì thấy có liên hệ với nhau.

Dụ ngôn thứ nhất ám chỉ dân Do Thái là dân hai lần được mời gọi tham dự tiệc cưới, nhưng họ đã từ chối và không những thế, họ còn sát hại những sứ giả của Thiên Chúa. Bởi đó cuối cùng, Ngài lại sai các sứ giả đi khắp các ngả đường để mời gọi tất cả mọi người, không phân biệt tốt xấu. Tuy nhiên lời mời gọi ấy đã được đưa ra với điều kiện là phải sám hối, phải hoán cải, phải đổi đời.

Ngoài ra cái áo còn là điều kiện để cho con người nhập cuộc với tha nhân: không ai ở trần và và mặc quần xà lỏn mà đi ăn đám cưới, trái lại không ai mặc bộ đồ vét mà lại đi hôi cá dưới ao.

3. Điều được quan tâm

Có hai ông: một ông là thương gia, một ông là nhà sinh vật học đi dạo với nhau. (tức là đang đi dạo với nhau). Nhưng mà, bỗng nhiên cái nhà sinh vật học chạy vào cái bụi cây và bắt được cái con côn trùng. Ông cảm thấy vui, bởi vì, ông bắt được cái con ông cần bắt, để mà nghiên cứu.

Lại đi tiếp tục với nhau một quãng đường, thì cái ông thương gia cúi xuống, thì cái ông nhà nghiên cứu sinh vật học ngạc nhiên nói tại sao bạn mình dừng lại! Thì ra, nhà thương gia cúi xuống lượm được đồng tiền.

Bởi vì, chỉ cần một cái bóp nhỏ thôi! Ông nhận ra dưới chân của ông đó là tiền. Bởi vì sao?

Mỗi người có một cái mối bận tâm riêng của mình. Nhà nghiên cứu sinh vật học đó Chỉ cần nghe tiếng, hay chỉ cần nghe cái tiếng con vật mà mình đang nghiên cứu, thì biết nó đang ở đâu, và đi tới để mà tìm. Còn cái người thương gia, chỉ cần một cái đạp nhẹ thôi, biết ở dưới chân đó là có tiền.

Rõ ràng cuộc đời của chúng ta, một khi chúng ta bận tâm một cái điều gì đó! Thì chúng ta sẽ chăm chú, chúng ta sẽ đi tìm nó và tìm bằng mọi giá, chứ không thể nào mà không tìm được.

4. Muốn có con mà không muốn lấy chồng

Và có một người kia, chạy đến nói với con: Cha ơi, cha cầu nguyện cho con! Bởi vì, kỳ này con sẽ thụ thai. Con sẽ thụ thai trong ống nghiệm, sẽ kiếm một đứa con. Bởi vì con không muốn lập gia đình, lập gia đình chán lắm! Hôm nay, người ta lập gia đình xong rồi, chồng con ăn ở lung tung hết, nên con muốn có một đứa con mà chỉ thụ tinh trong ống nghiệm.

Nghe xong thì thôi biết cầu nguyện gì bây giờ. Làm sao mà cầu nguyện được khi mà: Luật Giáo hội cấm không cho phép người phụ nữ có thai, nếu như không có quan hệ vợ chồng. Bởi vì, đối với Giáo Hội: đứa con chính là hoa quả của tình yêu, đứa con chính là hoa quả của đời sống hôn nhân, chứ không thể nào đơn phương mà có con được!

Và rồi khi người ta không cảm nhận được Tin Mừng, người ta sẽ cảm thấy Tin Mừng nó đắng đót! Như Lời Chúa, đôi khi con đọc Tin Mừng, con không dám nói gì cả! “khốn cho các ngươi là những đồ biệt phái và luật sĩ, như mồ mã tô vôi.”

Chúa nói những luật sĩ và biệt phái đó! nhưng man mác trong mình, cũng có đó: những luật sĩ và biệt phái. Mình không sống đúng những gì mà Chúa dạy! Nghe những lời đó mình cảm thấy đắng đót lắm! Và chính đời mình mình có bận tâm vào Nước Trời mình có bận tâm vào Thiên Chúa hay không?

5. Lời mời gọi

Tại một xứ đạo ở một thành phố lớn, trong lớp giáo lý cha sở để ý thấy một em nhỏ xanh xao khoảng 13 tuổi. Ngày kia em đến với cha và cặp mắt đỏ hoe, em nói: Con không thể xưng tội rước lễ lần đầu. Tại sao? Vì cha mẹ con ngăn cấm. Cha sở bảo: Con thử về xin phép cha mẹ con một lần nữa xem thế nào? Mấy ngày sau, em lại đến với một điệu bộ thất vọng: Không được đâu cha ạ, bố mẹ con đã nổi nóng và đã đánh con. Cha sở an ủi: Con hãy cầu nguyện và Chúa sẽ giúp đỡ con. Ngày trọng đại đã đến nhưng vẫn không có em nhỏ trong số những em được xưng tội rước lễ lần đầu. Rồi một tuần sau, vào một buổi sáng, em chạy đến nhà xứ, hổn hển thưa: Xin cha giải tội cho con, kẻo mẹ con hay biết. Cha sở giải tội cho em rồi nói: Bây giờ con hãy về kẻo má con biết được. Em do dự một lát rồi nói với một giọng van xin: Cha có thể cho con rước lễ được chứ? Dĩ nhiên cha sở chấp thuận và ngài đã phát biểu: Tôi đã tổ chức nhiều cuộc xưng tội rước lễ lần đầu một cách trọng thể nhưng không lần nào làm tôi cảm động cho bằng lần này.

Chúng ta cũng vậy, có lẽ chúng ta cảm phục em bé đói khát Mình Máu Thánh Chúa. Trong khi đó những người khách trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay lại có một thái độ lãnh đạm. Họ đã được mời nhưng lại không đến. Nhưng đâu là ý nghĩa của dụ ngôn?

6. Đại tiệc

Khoảng 1.900 vị khách sẽ có mặt tại đám cưới của hoàng tử Anh William và cô Kate Middleton vào tháng 4/2011. Các nhà lãnh đạo Anh và quốc tế, các chính trị gia cao cấp, các nhân viên từ thiện và những ngôi sao như vợ chồng nhà Beckham nằm trong số những người sẽ có mặt tại lễ cưới tại Tu viện Westminster ở London hôm 29/4/2011. Tuy nhiên, không phải vị khách nào cũng sẽ có mặt tại bữa tiệc chiêu đãi sau đó tại cung điện Buckingham. BBC cho biết những cá nhân có quan hệ với hoàng tử William cũng sẽ được mời, trong đó có những người vô gia cư và các binh lính bị thương trong cuộc chiến tại Afghanistan và Iraq.

Có khoảng 40 hoàng thân quốc thích nước ngoài tới tham dự. Đại diện của Khối thịnh vượng chung cũng sẽ có mặt. Ngoài ra còn có thành phần của các tổ chức từ thiện của William, khối quân sự và thành viên Nội các. Còn lại khoảng 1.000 người là bạn bè của hai vợ chồng sắp cưới.

Tất cả 1.900 người sẽ được tham dự lễ thành hôn tại Tu viện Westminter, 650 trong số đó sẽ có vinh dự được tham dự tiệc chiêu đãi tại cung điện Buckingham. Ngoài ra còn có một bữa tiệc khác vào buổi tối với khoảng 300 khách là bằng hữu thân cận nhất. Vì thế khi giấy mời tới tay, mọi người sẽ phải mở phong bì ra để biết mình thuộc dạng khách mời nào.

Thiếp mời bao gồm một tấm thiệp màu trắng có dát chữ vàng đặt trong một phong bì màu nâu nhạt. Tên viết tắt của Nữ hoàng được in màu vàng nổi bật trên tấm thiệp, ngay dưới hình vương miện. Góc trái phía dưới tấm thiệp mời cẩn thận ghi rõ quy định trang phục là “Đồng phục, lễ phục hoặc veston.” (Dress: Uniform, Morning Coat or Lounge Suit) (Song Minh, VnExpress.net)

7. Viện Cớ

Chúng ta có rất nhiều cớ để không làm điều mình phải làm, và nhiều cớ để làm điều lẽ ra không nên làm.

Ngày xưa có một anh thợ may rất khéo. Bao nhiêu áo đẹp của mọi người trong thành đều do anh may. Tuy nhiên bản thân anh thì chỉ có mỗi một chiếc áo rách. Lúc nào anh cũng mặc chiếc áo rách ấy, ngay cả trong những buổi tiệc lớn của thành phố. Có người thấy thế hỏi anh:

– Sao anh có thể may bao nhiêu chiếc áo đẹp cho mọi người mà lại không may cho anh được một chiếc áo lành lặn.

– Vì tôi phải may áo kiếm tiền, không có giờ may áo cho mình.

– Vậy anh hãy cầm lấy 20 đồng tiền này và may cho anh một chiếc áo, kể như tôi mướn anh may cho tôi vậy.

Anh thợ may cầm tiền về nhà. Ðến buổi tiệc tiếp theo, anh lại đến với chiếc áo rách cũ. Người bạn hỏi:

– Sao anh không may áo cho anh?

– Chiếc áo cho chính bản thân tôi mà giá chỉ có 20 đồng thì quá rẻ, nên tôi không may!

Người bạn chẳng nói gì nữa, bởi vì có nói gì nữa thì anh thợ may cũng sẽ tìm được một cớ khác thôi.

8. Mặc áo trắng

Là người được Thiên Chúa mời gọi gia nhập vương quốc Thiên Chúa, chúng ta phải xem lại cách ăn thói ở của chúng ta sao cho thích đáng.

Xưa kia, Augustinô ban đầu theo đuổi phù du ảo ảnh của thế gian, nhưng đến năm 33 tuổi, lần đầu tiên con người lầm lạc nầy tiếp cận với kinh thánh và đoạn văn đầu tiên đập vào mắt Anh là lời dạy của thánh Phaolô trong thư Rô-ma như sau: “Như giữa ban ngày, anh em hãy sống đoan trang tiết độ, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đảng, không kình địch ghen tương; nhưng hãy mặc lấy Đức Giêsu Kitô và đừng lo tìm thoả mãn những đam mê xác thịt.” (Rm 13, 13-14).

Nhờ ơn Thánh Linh tác động, Augustinô bừng tỉnh trước Lời Chúa. Anh cảm thấy những câu Lời Chúa nầy như nói riêng với chính mình. Thế là từ đây, Augustinô từ bỏ quãng đời tội lỗi, từ bỏ những đam mê xác thịt, rũ bỏ bộ áo bẩn thỉu hôi hám để mặc áo mới, mặc lấy Đức Giêsu Kitô. Anh được lãnh bí tích rửa tội vào năm 33 tuổi, hiến mình cho Chúa và ba năm sau, trở thành một linh mục thánh thiện, về sau được cất nhắc lên chức giám mục và trở thành vị thánh chói ngời đồng thời cũng là thầy dạy trong Giáo Hội với tước hiệu tiến sĩ Hội Thánh.

Trong ngày lãnh bí tích rửa tội, ngày chúng ta chính thức gia nhập Hội Thánh, linh mục chủ sự thay mặt Hội Thánh trao cho chúng ta tấm áo trắng với lời kêu gọi: “Con đã trở nên tạo vật mới và đã mặc lấy Chúa Kitô. Vậy con hãy nhận chiếc áo trắng nầy, hãy mang lấy và giữ nó tinh tuyền cho đến khi ra trước toà Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, để con được sống muôn đời.”

9. Bay lên

Chuyện kể rằng: có một con gà rừng đang ấp trứng, nhưng lẫn trong ổ của nó một trứng đại bang. Đúng ngày giờ, trứng nở thành con. Đại bàng con nô đùa vui vẻ bên đàn gà rừng như anh chị em ruột.

Một ngày kia, đang bươi móc kiếm ăn cùng đàn gà rừng, đại bang con bỗng thấy một con chim đại bang lớn bay lượn trên không thật oai phong và đẹp mắt. Cậu liền hỏi mẹ gà:

– Mẹ ơi! Sao mình không bay như chim kia trên trời?

– Chúng ta đâu phải đại bàng mà bay được!

– Thế chúng ta là ai?

– Chúng ta là gà rừng!

Bỗng một ngày, đang khi bươi chải kiếm ăn trên đống rác cậu lại thấy đại bang mẹ bay lượn trên đầu gọi:

– Bay lên con ơi, bay lên đại bang con của mẹ. Thế giới của con là trời cao đất rộng, chứ không phải là đống rác này! Bay lên đi con.

Cậu cố bay lên, nhưng lại rơi xuống. Trong khi các chú gà rừng cười cợt chế nhạo:

– Chúng ta là gà rừng, làm sao mà bay được.

Cậu suy nghĩ, nếu ta là gà rừng sao đại bang kia cứ bảo ta là đại bang con. Và khi bay lên ta thấy cũng đâu có gì khó khăn, có lẽ chưa quen thôi. Nào hãy thứ lần nữa xem.

Thế là cậu đại bang đủ lông đủ cánh bay lên, và bay lên mãi. Cậu bay theo mẹ về một chân trời mới. Lần đầu tiên trong đời, cậu được nhìn thế giới từ trên cao, lòng cậu mênh mang, hạnh phúc ngập tràn.

10. Chối từ

Trong tập sách “Những mảnh vụn suy tư”, linh mục Albert Limet có ghi lại:

“Một buổi sáng, tôi bước ra khỏi nhà, lòng tràn ngập hớn hở. Bỗng tôi thấy một người lạ mặt đi về phía tôi, tôi vui vẻ chào chúc ông mọi điều may mắn tốt lành; nhưng thay vì vui vẻ đáp lại ông ta tỏ vẻ giận dữ, nói liên tục:

– Tôi không biết ông. Tôi không cần biết ông là ai. Tôi không cần lời chào chúc của ông. Tôi không tin có Thiên Chúa. Tôi không cần Ngài, và tôi nhất định không bao giờ cần Ngài…”

Phản ảnh dữ dội của người khách lạ khiến linh mục phải suy nghĩ trong nhiều ngày. Cha ghi tiếp trong tập sách: “Tôi cảm thấy thương người khách lạ đó hơn là giận ghét. Có lẽ ông đang khổ tâm vì công việc làm ăn của ông thất bại. Có thể ông đang bận quá nhiều công ăn việc làm, không thể nhận lời chào chúc tốt lành của tôi, cũng không thể nhận thấy tinh yêu của Thiên Chúa!…”

Câu chuyện trên đây minh họa thái độ từ khước của những thực khách được vua mời dự tiệc cưới trong Tin Mừng hôm nay. Người khách lạ không nhận lời chào chúc của linh mục Albert Limet vì công việc làm ăn, các thực khách được mời dự tiệc cưới cũng vì đi thăm trại, đi buôn bán mà khước từ dự tiệc.

Đối với Chúa cũng thế. Nhiều lần chúng ta từ chối ơn Chúa, lắm khi chúng ta khinh thường Lời Chúa mời gọi vào dự tiệc hạnh phúc Nước Trời của Chúa, vì coi của cải vật chất, danh vọng chức quyền ở đời, lạc thú xác thịt quý hơn Nước Trời, trọng hơn hạnh phúc vĩnh cửu. Như thế chẳng phải chúng ta đánh giá các giá trị sai lầm sao?

11. Đi tìm kho báu

Một người đi tìm kho tàng quý giá. Sau những ngày đi tìm mệt mỏi, ông thấy mình lạc lối. Nhưng may thay, đang lúc lo buồn vì biết mình lạc đường, ông ngước mắt nhìn về trước thì thấy một lâu đài tráng lệ. Trước cổng lâu đài có tấm bảng với hàng chữ lớn: Xin mời vào.

Ông sung sướng tiến đến lâu đài. Đứng trước cổng, ông ngạc nhiên thấy nhiều người lữ hành đi ngang qua cũng có vẻ lạc đường và mệt mỏi mà vẫn lê bước đi như không thấy có lâu đài trước mặt. Ông liền đến hỏi người gác cổng lâu đài:

– Sao những khách lữ hành đó không dừng lại để vào lâu đài an nghỉ?

Người gác cổng trả lời:

– Đây là lâu đài hạnh phúc, nhưng là một lâu đài bí nhiệm. Chỉ những ai biết mình lạc lối mới có thể trong thấy. Trái lại, những kẻ tưởng mình đi đúng đường và cứ cắm đầu đi theo đường đó, thì bị mờ mắt không trông thấy lâu đài hạnh phúc.

Câu chuyện ngụ ngôn trên đây nhắc chúng ta nhớ lâu đài hạnh phúc Nước Trời. Chỉ những ai biết mình lầm đường lạc lối mới nhìn thấy mà tin vào. Còn những kẻ tưởng mình đi đúng đường, và cứ cắm đầu đi theo đường đó thì bị mờ mắt không trông thấy mà vào.

Những người từ chối lời mời gọi dự tiệc cưới của nhà vua trong Tin Mừng hôm nay là những kẻ tưởng mình “đi thăm trại, đi buôn bán” là đúng nên khinh thường bữa tiệc vui mừng, coi rẻ thịnh tình của nhà vua.

Đối với tiệc Nước Trời cũng thế. Chỉ khi nào chúng ta nhận thức bữa tiệc đó là hạnh phúc nhất, chúng ta mới hy sinh những hạnh phúc khác để đến tham dự.

12. Hạnh phúc thật

Sau đây là kinh nghiệm của một người tìm gặp hạnh phúc thật.

“Tôi là người làm chính trị và cũng là ca sĩ nổi tiếng. Tới đâu, tôi cũng được mọi người hoan nghênh khen ngợi, và họ cảm nghĩ tôi là người hạnh phúc nhất đời. Thế nhưng trong thâm tâm, tôi cảm thấy tôi là kẻ bất hạnh nhất, đến nỗi có lần tôi đã toan tự tử…

Một hôm trên chiếc xe lửa trở về nhà, tôi ngồi đối diện với một người chăm chú đọc sách Kinh Thánh. Một lúc sau, ông ngước mắt nhìn tôi và gợi chuyện:

– Ông là một ca sĩ nổi tiếng. Tôi nghe biết danh tiếng ông.

Tôi đáp:

– Phải đúng vậy.

– Nhưng ông có hạnh phúc không?

Tôi ngập ngừng một lúc rồi thú thật:

– Không hẳn hạnh phúc lắm.

– Xem ra ông thiếu Thiên Chúa trong cuộc sống nên không được hạnh phúc.

Tôi vội vàng đáp:

– Không. Tôi rất hài lòng về cuộc sống của tôi. Tôi có đầy đủ tất cả. Tôi không cần Thiên Chúa.

Nhưng người ấy cứ lặp lại:

– Ông nói thế, chứ thực sự ông cần Thiên Chúa hơn bao giờ hết,

Lời nói của người ấy như sét đánh bên tai tôi. Nó xâm chiếm cõi lòng tôi. Về đến nhà, tôi phải tự nhủ: “Quả thật, người đó nói rất chí lý.”

Hôm sau thấy tôi cần tìm đến người đó, vừa thấy tôi, ông ta vui vẻ hỏi thêm, như để tiếp nối cuộc đối thoại trên xe lửa.

– Ông có muốn được hạnh phúc ngay bây giờ không?

Tôi ngạc nhiên hỏi:

– Làm như ông có sẵn hạnh phúc trong túi vậy?

– Có chứ. Tôi có ngay trong túi đây.

Vừa nói ông vừa rút trong túi ra một cuốn Kinh Thánh nhỏ, trao cho tôi và vui vẻ nói:

– Ông hãy về nhà, đóng cửa phòng lại, mở Kinh Thánh ra mà thầm thỉ: “Lạy Chúa, con chấp nhận Chúa là Chúa của con, là chủ cuộc đời con…”

Tối hôm đó, sau khi vợ con tôi đã đi ngủ, tôi vào phòng và làm như người đó khuyên bảo tôi. Từ ngay đó, niềm vui xâm chiếm tâm hồn tôi. Thiên Chúa thực sự là hạnh phúc duy nhất đời tôi.

13. Lý do bỏ lễ

Năm 2005, Hội Đồng Giám Mục Anh đã cho phát hành bản báo cáo dài 90 trang do Đức Giám Mục John Hine soạn thảo trên cơ sở một cuộc điều tra kéo dài hơn một năm. Với hơn 15,000 gia đình Công Giáo về một vấn đề duy nhất là tại sao người ta không đi nhà thờ ngày Chúa Nhật.

Qua điều tra người ta nhận định rằng: 1/ chủ nghĩa vật chất, 2/ tình trạng tài chính khó khăn, và 3/ lề lối làm việc hiện đại là ba yếu tố chính đẩy đưa người ta đến chỗ bỏ lễ ngày Chúa Nhật.

Ở thời đại hôm nay người ta bỏ lễ ngày Chúa nhật rất dễ dàng. Người ta viện vào nhiều lý do để hợp thức hóa cho việc bỏ lễ. Họ cho rằng cuộc sống luôn phải làm việc vất vả để kiếm ăn. Họ còn phải chạy đua theo những tiện nghi vật chất. Cuộc sống quá vất vả, căng thăng vì cơm áo gạo tiền khiến người ta quá mệt sau một tuần vật lộn với cuộc sống. Tâm trí không thảnh thơi. Thân xác thì mệt mỏi khiến họ chỉ muốn tìm giây phút thư giãn qua việc giải trí, mua sắm…

Tệ hơn nữa là nhiều người vẫn coi nhẹ việc tham dự thánh lễ. Thánh lễ không phải là việc tối quan trọng. Thánh lễ chỉ là tùy phụ rảnh thì đi, bận thì thôi. Hay tệ hơn nữa, là lạm dụng lòng thương xót Chúa, bỏ lễ rồi xưng tội là xong!

Ở miền quê chúng tôi chỉ cần một cơn mưa nho nhỏ cũng khiến người tham dự thánh lễ vơi đi. Xem ra chỉ cần một khó khăn nho nhỏ cũng là lý do để họ bỏ lễ.

14. Tiệc cưới với bốn nghịch thường

Cách đây 9 năm, 29-4-2011, Hoàng tử William của hoàng gia Anh và công nương Kate Middleton đã trao đổi lời thệ ước hôn nhân tại Đại Thánh đường cổ kính Wesminter. Đây là lễ cưới cung đình.

Hai ngàn năm trước, Chúa Giêsu cũng đã ví Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Chuyện từ 20 thế kỷ trước, ta tưởng như chuyện đời xưa mà lại không cũ chút nào, vì mới diễn ra gần đây.

Mùa xuân 1947 cả thế giới chú ý đến hàng tít lớn trên trang nhất của báo chí cho biết công chúa Elizabeth của nước Anh sẽ sánh duyên cùng hoàng tử Philip gốc Hi lạp. Cuộc tình duyên này quan trọng vì công chúa Elisabeth sẽ lên ngôi kế vị vua cha trị vì không những vương quốc Anh, Bắc Ai-len và còn đứng đầu khối Thịnh Vượng Chung gồm trên 50 nước lớn nhỏ (Ấn, Canada, Úc…). Lễ được tổ chức tại Thánh đường Wesminter cổ kính ngày 20/11/47. Người ta không những nhìn xem hai nhân vật chính là cô dâu chú rể nhưng còn chăm chú điểm danh những nhân vật quan trọng từ quốc trưởng, tổng thống, vua chúa… đến các nhà quí tộc, tài phiệt. Không ai được mời mà muốn vắng mặt trong lễ cưới, trong tiệc mừng long trọng như vậy. Đó là chuyện bình thường dễ hiểu.

Nhưng dụ ngôn của Chúa hôm nay ví Nước Trời như một chuyện bình thường: vua mở tiệc cho hoàng tử, nhưng lại mang đầy những chi tiết không bình thường chút nào, nếu không nói là nghịch thường quá khác lạ. Ta nhận ra được ít là bốn khác lạ nghịch thường so với một đám cưới tương tự trong đời thường: dửng dưng – đổ máu – mở rộng – thanh trừng.

Bốn chuỵện lạ trong dụ ngôn: dửng dưng của khách được mời; đổ máu quá nhiều trong ngày cưới, mở rộng quá đáng cánh cửa cho mọi người vào, rồi lại thanh trừng khắt khe kẻ chưa kịp mặc áo cưới. Tất cả các chuỵện lạ đó chỉ có thể hiểu được dưới ánh sáng của lịch sử –lịch sử dân Israel và lịch sử cứu độ-, chứ không thể hiểu được trong khung cảnh tiệc cưới.

Những kẻ dửng dưng, đó là dân Israel chính tông chẳng đoái hoài gì đến con vua là Giêsu Kitô: vị tân lang chàng rể.

Đổ máu là họ, dân Israel đã giết các tiên tri, đổ máu những người được Chúa sai đến báo tin vui cho họ.

Mở rộng là ơn cứu độ của Chúa dành cho mọi hạng người bất kỳ đen trắng vàng đỏ, nô lệ, tự do, nam hay nữ, kể cả trung tính…

Thanh trừng là, một khi được mời tới phải biết mặc lấy Chúa Kitô là áo cưới, mặc lấy con người mới, không thể khác.

15. Hỏa ngục mà tưởng là thiên đường

Vài tuần lễ trước khi chết, một phóng viên đã phỏng vấn Elvis Presley – nổi tiếng là vua của nhạc Rock:

– Elvis, khi anh bắt đầu chơi nhạc, anh đã nói anh muốn có được ba điều trong cuộc đời. Anh muốn giàu sang. Anh muốn nổi tiếng. Và anh muốn sống hạnh phúc. Giàu sang và nổi danh chắc chắn là anh đã có. Thế còn hạnh phúc, không biết anh thực sự có hay không, Elvis?” Chàng ca sĩ trả lời

– “Không, tôi sống cô đơn như ở trong hỏa ngục.”

Presley kết hôn với Priscilla Beaulieu 1967. Năm sau có con gái. 1973 ly dị. Năm1977 Presley chết 42 tuổi. Không biết khi chết gia tài bao nhiêu, nhưng giỗ thứ 25, (2002) báo Forbes xếp anh vào loại nghệ sĩ có để lại lợi tức cao nhất: 37 triệu đô 1 năm.

Giàu sang. Danh vọng. Những người hâm mộ vây quanh gồm đủ mọi hạng người, các giai nhân tài tử tuyệt trần, vậy mà Elvis diễn tả cuộc sống của anh như hỏa ngục! Thật lạ lùng! Như thế, cuộc sống của vua Hêrôđê với tiệc tùng sang trọng nào có khác chi!

16. Ngọn nến tỏa sáng

Vào một đêm đông, người đàn ông rút cây nến nhỏ từ trong ngăn kéo ra, thắp nó lên, và bắt đầu bước lên chiếc cầu thang dài hình trôn ốc. Cây nến hỏi người đàn ông: “Ông đi đâu vậy?” Ông trả lời: “Đi lên chỗ cao hơn nóc nhà nơi chúng ta .”

“Và ông sẽ làm gì ở đó?” cây nến hỏi.

– “Tôi sẽ chỉ cho những con tàu ở biển khơi biết đâu là hải cảng”, vì chúng ta đang ở ngay lối vào hải cảng, và một số con tàu ngoài biển khơi đang gặp bão táp, có thể tìm thấy ánh sáng của chúng ta.”

“Không có con tàu nào nhìn thấy ánh sáng của tôi cả”, ngọn nến nói “tôi quá nhỏ bé mà.”

“Mặc dù ánh sáng của ngươi nhỏ bé”, người đàn ông đáp, “cứ hãy thắp sáng nó lên, đừng e ngại, hãy để phần còn lại cho ta tính.” Rồi người đàn ông trèo lên những nấc thang cho tới đỉnh của ngôi nhà hải đăng, cầm cây nến nhỏ bé, châm lửa vào những cái đèn vĩ đại đã đứng sẵn ở đó với những tấm gương phản chiếu bóng láng ở phía sau. Một cây nến nhỏ cũng có thể làm nên một vùng sáng lớn.

17. Bài học làm người của Socrates

Năm 399 BC. Meletus và Anytus đã tố cáo Socrates là “vô đạo và làm hư hỏng thanh niên.” Socrates bị 11 vị Thẩm phán của chính quyền Hy Lạp kết án tử hình về tội dụ dỗ thanh niên theo tà thuyết và phản loạn. Trong các hình phạt dành cho tử tội, ông chọn chén thuốc độc. Apollodore luôn đầm đìa nước mắt, có lúc gào lên, làm cho Platon không thể cưỡng lời thầy, khóc theo. Còn Criton thì như đứt từng khúc ruột, nhưng sợ thầy, ông lén ra ngoài khóc cho bớt đau khổ. Tuy vậy, khi thấy các học trò khóc, Socrates phải quát lên: “Các con làm gì kỳ vậy? Sở dĩ thầy đuổi hết các bà các cô ra ngoài, là để tránh sự mất bình tĩnh như vậy. Các con phải cương nghị. Chúng ta phải chấm dứt cuộc đời một cách êm ái, thảnh thơi chứ!

Buổi chiều hôm ấy, mặt trời xuống dần, Socrates bước ra từ phòng tắm, ông gặp ba người con một lúc rồi bảo họ ra ngoài chỗ mấy người đàn bà đang sụt sùi. Chỉ mấy người môn đệ của ông là được ở lại. Người cai ngục bước ra bảo ông hãy tự uống chén thuốc độc, đã có người mang tới, sẵn sàng ở phòng bên. Người này tỏ ra mến phục nhân cách của ông, thậm chí anh ta cũng khóc sướt mướt lúc vĩnh biệt ông. Socrates ra dấu cho Criton môn sinh của mình, bảo người mang thuốc độc vào cho ông uống. Criton nói: “Thưa thầy, mặt trời chưa lặn. Đừng vội lìa bỏ chúng con. Thiếu gì người nấn ná, ăn uống, chuyện vãn với gia đình, họ hàng rất lâu”, Nhưng Socrates mắng ông: “Họ làm như vậy có được thêm lợi lộc gì đâu. Thầy không muốn bám chặt thêm cuộc sống, khi chẳng thể giữ nó mãi được! Con hãy nghe lời thầy”…

Cầm chén thuốc trong tay, ông căn dặn lại các môn đồ: “Hãy bình tĩnh, đừng thay đổi sắc diện” rồi từ từ đưa chén độc dược lên miệng uống một hơi êm ái hiền hoà. Lúc ấy, Plato và các môn đệ khác nhìn ông uống từng hớp tử thần mà chết đứng, tê cóng người. Nước mắt tuông trào như hai giòng suối mà không dám để tiếng nức nở thoát ra. Trong Phaedo Plato thốt lên: “Từ đây thế là hết!”, ông không khóc cho thầy, vì một người như thầy mình, không cần ai khóc khi qua đời. Tôi khóc cho chính tôi, vì từ đây, tôi đã mất đi một người thầy, một người anh, một người bạn, mà không sao có thể kiếm được người thứ hai trên cõi đời này.

Đó là một cái chết can đảm. Socrates đã bước vào thế giới vĩnh hằng với sự “chấm dứt cuộc đời một cách êm ái và thảnh thơi.” Đó là bài học cuối cùng ông dạy cho các môn sinh.

18. Từ bàn tiệc thánh đến tiệc cưới Nước Trời.

Một bé gái bệnh nặng, một hôm biết mình khó qua khỏi, em gọi cha mình lại để nói chuyện. Người cha này rất nguội lạnh, lại hay chè chén ăn chơi, không bao giờ đến nhà thờ. Em hỏi: – “Cha có thương con không?” Người cha cảm động nói: – “Sao con lại hỏi thế, cha rất yêu con!” – “Con sắp xa cha rồi, con sắp về với Chúa rồi!” – “Không! Con sẽ mạnh, cha thương con lắm!” Người cha ôm con khóc nức nở. – “Con sẽ gặp Chúa, con yêu Chúa, nhưng con cũng yêu cha, con không muốn xa cha, cha có muốn gặp lại con không?” – Người cha nghẹn ngào đáp: – “Có, con yêu!” – “Vậy cha hứa với con là cha sẽ đi nhà thờ nhé! Con muốn được gặp lại cha trên Thiên Đàng.” Người cha trả lời trong nước mắt: – “Cha hứa!” – “Con vui lắm rồi, con sẽ gặp lại cha nhé!” Bé gái nhìn cha mỉm cười, sau đó vài phút, nó ra đi.

Người cha từ đó trở thành một con chiên ngoan đạo, rồi ông giúp nhiều việc ở nhà thờ.

Để đến Bàn Tiệc Thánh, đến với bí tích Thánh Thể, người Công Giáo có sự chuẩn bị trước đó: “mặc chiếc áo tâm hồn trắng tinh” để đón nhận Mình Thánh Chúa.

Và từ Bàn Tiệc Thánh trong Giáo Hội Lữ Hành này, người Công Giáo đã sẵn sàng cho mình “y phục lễ cưới” để vào dự Tiệc Cưới Nước Trời.

“Họ đã giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên”, trong bí tích Rửa Tội, và họ không ngừng chiến đấu trong cuộc đời để giữ mãi màu áo trinh nguyên ấy trong ăn năn sám hối, trong bí tích Hòa Giải, trong ơn sủng của những bí tích thánh hóa, trong việc thực thi Giới Luật Yêu Thương.

19. Đám cưới vĩ đại

Một trong những đám cưới được xem là vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại đó là đám cưới của Alexandre Đại đế với công chúa Roxane của Ba Tư vào thế kỷ thứ tư trước công nguyên.

Khi quyết định cưới một người Á Châu, dĩ nhiên, Alexandre theo tiếng gọi của con tim. Nhưng qua cuộc hôn nhân này, ông muốn biểu tỏ ý muốn thống nhất tất cả lãnh thổ đã được chinh phục từ Đông sang Tây. Ông cũng hy vọng có được một người con nối dõi với hai dòng máu Đông Tây để thống nhất hai phần đất của địa cầu.

Đám cưới được cử hành trong vòng bảy ngày, bảy đêm. Nơi nơi đều có yến tiệc. Và để tăng thêm phần long trọng, Alexandre đã cho tổ chức những cuộc tranh tài thể thao: Thế vận hội đã được khai sinh từ đó. Chính Đại đế là người đích thân trao giải thưởng cho những người thắng cuộc. Thông thường Hoàng đế trao tặng những chiếc cúp bằng vàng. Nhưng người được coi là đoạt nhiều giải nhất trong cuộc thi thế vận hội đầu tiên ấy chỉ nhận được một cành lá chiến thắng. Alexandre Đại đế giải thích như sau: Chỉ có vinh quang mới có thể tưởng thưởng được người xuất sắc nhất.

Có một hôn lễ còn vĩ đại gấp bội so với hôn lễ của Alexandre Đại đế với Công chúa Roxane: đó là hôn lễ của Trời và Đất, của Thiên Chúa với nhân loại. Đây là hôn nhân mà loài người đã chờ đợi từ khi có mặt trên trái đất. Hôn lễ ấy đã diễn ra qua biến cố Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Tất cả nhân loại đều được mời đến dự tiệc cưới vĩ đại này. Trong Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã sánh ví tiệc cưới nầy với tiệc cưới của một nhà Vua tổ chức cho Hoàng Tử. Chỉ có một điều khác biệt là những khách được mời -những khách quý đầu tiên- đã tỏ ra hết sức khinh thường và hung dữ đối với các sứ giả của Nhà Vua. Họ không những đã chối lời mời mà còn nhục mạ và sát hại những người được Nhà Vua phái tới.

20. Sáng kiến tự sát

Ngày xưa, một vị vua kia có bốn người con trai được yêu cầu phải tự chọn lựa nghề nghiệp cho tương lai của mình. Bốn người con mới bàn tính với nhau: “Nào chúng mình hãy đi khắp nơi trong thiên hạ và tìm kiếm lấy một nền khoa học đặc biệt.” Họ đồng ý sẽ gặp lại nhau ở một chỗ nào đó, và bốn anh em bắt đầu ra đi theo bốn hướng khác nhau. Thời gian qua đi, bốn anh em gặp lại nhau ở chỗ đã hẹn để tổng kết điều họ học hỏi được. “Tôi đã làm chủ một nền khoa học.” Người anh cả nói, “khoa học này cho phép tôi có thể làm ra một tạo vật có đầy đủ bắp thịt với điều kiện tôi phải có một miếng xương.” “Tôi”, người thứ hai nói, “học được cách làm ra da và lông nếu đã có các bắp thịt trên xương của nó.” Người thứ ba nói, “Tôi có thể tạo ra chân tay nếu tôi đã có thịt, da và tóc.” Và tôi”, người thứ tư kết luận, “biết cách ban cho tạo vật đó sự sống, nếu nó đã có đầy đủ hình thù tay chân.”

Sau khi bàn tính với nhau, bốn anh em đi vào rừng sâu tìm một miếng xương để có thể chứng tỏ những tài năng chuyên môn của họ. Như số phận đã định, miếng xương họ tìm thấy là miếng xương của một con sư tử, nhưng họ đã không biết. Một người đắp thịt vào xương, người thứ hai thêm da, lông và tóc, người thứ ba hoàn chỉnh với tay chân, và người thứ tư ban cho con sư tử sự sống. Đang khi lúc lắc bộ lông rậm rạp trên gáy, con sư tử hung dữ gầm lên một tiếng, nó chồm lên ngoác to miệng đe doạ với những chiếc răng nanh và móng vuốt nhọn hoắt. Nó nhẩy về phía những nhà sáng tạo, giết chết tất cả, rồi biến mất vào trong rừng.

Bất cứ khi nào chúng ta cố ý sống tách rời ra khỏi Thiên Chúa, chúng ta cũng có thể trở nên nạn nhân của chính những công trình do mình làm ra. Tách biệt ra khỏi Thiên Chúa, sự tự do và những khả năng trí tuệ cho phép con người tạo nên vũ khí hạch nhân, sử dụng quyền hành và của cải trần gian để áp đặt sự thống trị trên những người khác… cũng tiềm ẩn một khả năng tự huỷ diệt con người.

21. Niềm vui Nước Trời

Có một huyền thoại kể về một người câu cá tên là Aaron. Aaron sống ở bên bờ sông. Vào một buổi chiều, đang khi đi bộ về nhà, mắt nhắm mắt mở sau một ngày làm việc vất vả, anh mơ tưởng mình sẽ phải làm gì nếu giàu có. Đang khi bước đi, chân anh đá phải một cái túi da, trong lúc lơ mơ, anh nghĩ dường như đó là những hòn sỏi nhỏ. Đãng trí, anh nhặt cái túi lên và bắt đầu ném từng viên sỏi xuống mặt nước sông. “Khi ta giầu có”, anh nói, “Ta sẽ mua một cái nhà thật lớn.” Anh lại ném hòn sỏi khác xuống nước. Ném hết hòn này tới hòn khác rồi anh nghĩ, “Vợ ta và ta sẽ có những người đầy tớ phục vụ, đồ ăn dư giả với tất cả mọi sự sang trọng.” Và cứ như vậy xảy ra cho đến khi chỉ còn lại một hòn sỏi trong tay. Khi Aaron cầm nó trong tay và nhìn xuống, một luồng ánh sáng phát ra lấp lánh. Anh nhận ra rằng đây là một hòn ngọc quý giá. Anh ném xuống nước bao nhiêu viên ngọc quý đã có trong bàn tay, trong khi đó lại mơ tưởng những của cải không có thực ở tương lai.

Niềm vui đó được trao ban ngay từ đời này và cả đời sau nữa. Kitô giáo không phải là thuốc phiện ru ngủ con người trong đau khổ, quên đi hạnh phúc của cuộc sống ở đời này để chỉ mơ tưởng nước thiên đàng ở đời sau.

Niềm vui trong tâm hồn giúp cho con người sống hy vọng và tin tưởng, giữa những khó khăn và khổ đau ở đời này. Bài đọc thứ hai, trích thư thánh Phaolô gửi tín hữu Philipphê: “Trong mọi trường hợp, và hết mọi cách, tôi đã học biết no, biết đói, biết dư thừa và thiếu thốn.” Ngài viết những lời khuyên nhủ này đang khi ở trong nhà tù. Ngài nói: “Trong mọi sự hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa.” “Trong mọi hoàn cảnh hãy tạ ơn Thiên Chúa.”

22. San sẻ niềm vui

Có lần vào tiệm ăn sáng, tôi nhìn thấy hai trường hợp trái ngược nhau:

Một đứa trẻ được mẹ dắt vào quán ăn, ngồi vào bàn, được một phần ăn riêng biệt. Nhưng nó tỏ vẻ khó chịu, không biết vì lý do gì mà nó không vui, nó không nhìn đến phần thức ăn của mình. Người mẹ thì nhìn con với vẻ ái ngại, bà năn nỉ con, nhưng vô hiệu. Cuối cùng hai người đứng lên với phần ăn còn nguyên.

Một đứa trẻ khác, trên tay có một cái lon, chạy ngay lại phần ăn còn nguyên trên bàn mà người chủ đã không cần dùng đến, nó cho tất cả vào trong chiếc lon và mang ra bên ngoài, cùng với một đứa trẻ khác nhỏ hơn, tận hưởng niềm vui của một người không cần đến.

23. Hạnh phúc cho tâm hồn vị tha

Có một nhà hiền triết xuất hiện giữa phố chợ và nói sẽ giải đáp được mọi thắc mắc của bất cứ ai. Có một anh chăn chiên muốn hạ nhục nhà hiền triết giữa đám đông, anh cầm trong tay một con chim sẻ và đặt câu hỏi: “Thưa ngài, trong tay tôi có một con chim. Ngài là người thông thái giải đáp mọi vấn nạn, vậy xin hỏi ngài, con chim trong tay tôi còn sống hay chết.” Biết đây là cái bẫy, vì nếu nói chim sống thì tức khắc anh chăn chiên bóp nó chết trước khi mở bàn tay. Nếu nói chim chết thì anh ta mở bàn tay cho chim bay đi. Trước sự chờ đợi của đám đông, nhà hiền triết từ tốn trả lời như sau: Con chim trong tay ngươi sống hay chết là tùy ở ngươi. Nếu ngươi cho nó sống thì sống, nếu ngươi muốn nó chết thì nó chết.

Ai trong chúng ta cũng khao khát hạnh phúc, đó là niềm khao khát thâm sâu nhất của con người, nhưng chúng ta được hạnh phúc hay không là tùy ở chúng ta, giống như con chim sống hay chết là tùy ở anh chăn chiên Hạnh phúc đích thực của mỗi người chúng ta là Thiên Chúa, là Nước Trời. Phúc Âm viết Thiên Chúa mời gọi con người tới dự tiệc cưới. Tiệc cưới đó là hình ảnh Nước Trời, là nơi đem lại hạnh phúc viên mãn và vĩnh cửu. Thế nhưng người ta không đáp lại, viện cớ đi thăm trại, viện cớ đi buôn bán. Đi thăm trại, đi buôn bán tự nó không phải là việc xấu, nhưng họ đã làm một việc khờ dại là chỉ chú ý đời này mà quên đi đời sau. Đi thăm trại, đi buôn bán tựu kỳ trung là lo làm giàu. Họ nghĩ lầm: giàu sang đem lại hạnh phúc. Nhưng cái nghịch lý lớn nhất của cuộc đời là khi con người tìm cách lấy đầy tâm hồn mình bằng những của cải chóng qua thì đó là lúc con người cảm thấy trống vắng nhất trong tâm hồn.

24. Quà cưới Nước Trời

Mẹ Têrêsa thuật lại một câu chuyện như sau: Này kia có một cặp vợ chồng trẻ, đến tu viện tặng cho chúng tôi một khoản tiền lớn, bảo là để đóng góp vào việc chi phí mua thức ăn cho người nghèo.

Thấy họ còn quá trẻ mà lại tặng cho chúng tôi một số tiền quá lớn, tôi tò mò hỏi: Hai con có thể cho mẹ biết tiền này ở đâu mà hai con có nhiều thế?

Họ trả lời: Chúng con vừa cưới nhau hai ngày. Trước khi cưới chúng con quyết định không may sắm đồ cưới, không đãi tiệc linh đình mà để khoản tiền này dành cho những người không được may mắn như chúng con. Mẹ tiếp lời: Việc cưới hỏi mà không thiết tiệc, không may đồ cưới tại Ấn Độ là một hổ thẹn và tủi nhục cho cha mẹ hai họ. Mẹ hỏi các con: Tại sao các con quyết định một cách táo bạo như thế, không làm phật lòng cho cha mẹ?

Hai bạn trẻ trả lời: Chúng con yêu nhau, chúng con muốn cuộc khởi đầu sống chung bằng một hy sinh không mặc áo cưới, không thiết tiệc bạn bè bằng món tiền chúng con đã dày công đóng góp cho nhau.

25. Người mang mặt nạ vàng

“Người mang mặt nạ vàng” là tên một cuốn phim nổi tiếng của Pháp vào cuối thế kỷ 20, dựa theo một câu chuyện có thật ở Mexico:

Tại Mêhicô, người ta thường tổ chức những cuộc đấu võ đài ác liệt. Võ đài tự do nên các võ sĩ có thể ra đòn theo mọi môn phái, ăn mặc tùy thích và có thể đeo cả mặt nạ.

Một linh mục tên là Gaetano phụ trách một nhóm bạn trẻ làm việc bác ái cho trẻ em nghèo. Để có thêm tiền giúp các em, Cha đã ghi danh thi đấu với một chiếc mặt nạ màu vàng để che giấu tung tích của mình. Thân hình to lớn, thông thạo võ nghệ, Cha luôn thắng trận dù chẳng lúc nào dùng đến thủ đoạn độc ác, mà chỉ dùng những đòn đẹp mắt và hữu hiệu. Tất cả tiền thưởng được dành hết cho quỹ cứu trợ trẻ em nghèo. Chiếc mặt nạ vàng đã trở nên biểu tượng cho tấm lòng vàng của Cha.

Diễn viên Jean Reno, người đóng vai linh mục Gaetano, đã phải đọc Thánh Kinh hằng ngày và sống tinh thần của một linh mục để có thể diễn xuất thành công. Anh tâm sự: “Không ngờ, nhờ đọc Thánh Kinh mà tôi gặp được Thiên Chúa, và tôi đã nói với Người những điều trước đây tôi chưa hề nói với ai.”

Một lần kia, cậu con trai Reno hỏi anh: “Bố có thể làm phép lạ không?” Anh trả lời rất xác tín: “Phép lạ chính là những gì con phải tự mình tạo nên, con ạ!”

Tình yêu của Chúa dành cho nhân loại được diễn tả qua hình ảnh một bữa tiệc mà Chúa dọn ra cho hết mọi người. Trong bữa tiệc đó, không còn bóng dáng của bất cứ điều sầu khổ nào: “Người sẽ xé bỏ chiếc khăn tang che phủ muôn dân, và tấm màn trùm lên muôn nước.” Ai cũng sẽ vui mừng vì đạt được những khao khát sâu thẳm nhất của đời người. “Ngày ấy, người ta sẽ nói: ‘Đây là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta từng trông đợi Người, và đã được Người thương cứu độ. Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông” (Is 25,7.9).

26. Mặc áo cưới của Chúa Kitô

Hai vợ chồng nọ thường xuyên cãi nhau. Một hôm, ông chồng nảy ra một sáng kiến. Anh nói: “Này em ạ, chúng mình đừng vội cãi nhau như mọi khi, chán lắm. Anh đề nghị mỗi người chúng mình lấy một tờ giấy, liệt kê tất cả mọi lầm lỗi, tật xấu và khuyết điểm của người kia rồi sau đó trao cho nhau đọc.” Người vợ nghe vậy cũng thích nên cả hai lấy giấy vào phòng riêng, cắm cúi viết. Mười phút sau, cả hai ra phòng khách, người vợ dành quyền đọc trước tờ giấy của chồng, tò mò muốn biết anh ta kể ra những tội gì để cho anh một trận nên thân.

Nhưng vừa nhìn thoáng qua, chị đã thấy hụt hẫng khi đọc được dòng chữ nắn nót rất đẹp: “Anh yêu em.” Chị bật khóc và giật ngay lại tờ giấy của mình vì bao nhiêu lời của chị sẽ nên ngớ ngẩn trước lời của chồng. Chị vội ôm chầm lấy anh mà xin lỗi.

Đó cũng là tâm tình của thánh Phaolô về tình yêu Chúa dành cho ngài, một người dám chống lại Đức Kitô, Đấng chịu đóng đinh vì tội lỗi ngài. Mặc lấy tâm tình Đức Kitô, ngài cho thấy hạnh phúc Nước Trời ở với người tin: “Thiên Chúa của tôi sẽ thoả mãn mọi nhu cầu của anh em cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người trong Đức Kitô Giêsu” (Pl 4,19).

27. May áo cho con

Gia đình kia có 4 người con đang tuổi đi học, ba mẹ chúng tất bật với kế sinh nhai nên thường căn dặn:

- Các con siêng năng đi lễ, đọc kinh cầu nguyện cho gia đình được bình an và bố mẹ mạnh khỏe để nuôi các con ăn học.

Nhiều năm sau, con cái đã lớn khôn và có nghề nghiệp ổn định, chúng thường gởi tiền cho bố mẹ với lời nhắn:

- Ba mẹ đã vất vả vì chúng con, giờ đây được nghỉ ngơi, hãy dành thời giờ dự lễ, tham gia hội đoàn và làm việc đạo đức, xin Chúa ban cho công việc của chúng con được may lành để có tiền phụng dưỡng cha mẹ.

Câu chuyện có vẻ như đùa, nhưng chúng ta vẫn gặp thấy đâu đây trong cuộc sống.

Mọi người đều hiểu rằng, khi nhắm mắt xuôi tay, không ai có thể sống lại để thay đổi cách sống và sửa lại những lầm lỗi đã qua. Vì thế, tương lai của mỗi người tùy thuộc vào những gì chúng ta làm hôm nay. Nếu muốn và có quyết tâm, ai cũng có thể dệt cho mình chiếc áo hoàn hảo nhất.

Xin cho mọi người ngay từ bây giờ, biết chuẩn bị cho mình chiếc áo được dệt bằng sợi chỉ vàng là lương tâm ngay chính, tình yêu phục vụ và đời sống chứng nhân, để khi được dự tiệc Nước Trời, chúng ta cùng với muôn vàn thần thánh cất cao lời chúc tụng và tạ ơn Thiên Chúa.

28. Áo cưới của bà thánh Đê

Trong tập bài giảng “Suy Niệm Lời Chúa” (Xuất bản năm 1993), linh mục Hồng Phúc, DccT, khi đề cập đến gương anh hùng của các vị tử đạo Việt Nam vô danh, ngài kể:

“Có một thiếu phụ bị bắt vì theo đạo và bị kết án tử hình bằng một hình phạt khủng khiếp: bị voi giày!

Khi còn 2 ngày nữa phải ra pháp trường, bà xin người nhà gửi cho bà một bộ áo cưới hợp thời trang. Bà nghĩ trong lòng: ngày bà chết là ngày bà gặp vị Tân Lang là chính Chúa Giêsu.

Giữa pháp trường, trước mặt đông đảo anh chị em lương dân, khi ba hồi chiêng trống vừa gióng lên, người ta thấy thiếu phụ bước ra, ăn mặc như cô dâu trong ngày cưới. Bà tiến lên, duyên dáng thướt tha, trong tay cầm chiếc quạt phe phẩy. Ngay lúc ấy, con voi chồm tới, hất tung bà lên trời, rồi chà đạp phũ phàng dưới chân, như người ta chà đạp một cành hoa màu máu.” Chiếc áo cưới của bà loang máu hồng. Chiếc áo đẹp biết bao, vì đó là chiếc áo tình yêu.”

Để chiếc áo tình yêu của đời ta luôn trinh trắng, chiếc áo ấy phải được giặt trong hy sinh từ bỏ, trong máu hồng cuộc tử đạo liên lỉ của đời người tín hữu. Chính chiếc áo ấy giúp ta xứng đáng dự tiệc thiên quốc mai sau.

CNTN 28B – BỎ MỌI SỰ MÀ THEO CHÚA

Lời Chúa: Mc 10, 17-30

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy Chúa Giêsu vừa lên đường, thì một người chạy lại quỳ gối trước Người và hỏi: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?"

Chúa Giêsu trả lời: "Sao ngươi gọi Ta là nhân lành? Chẳng có ai là nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa. Ngươi đã biết các giới răn: đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt; hãy thảo kính cha mẹ.”

Người ấy thưa: "Lạy Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ.”

Bấy giờ Chúa Giêsu chăm chú nhìn người ấy và đem lòng thương mà bảo rằng: "Ngươi chỉ thiếu một điều, là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta.”

Nhưng người ấy nghe những lời đó, thì sụ nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.

Lúc đó Chúa Giêsu nhìn chung quanh và bảo các môn đệ rằng: "Những người giàu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao!" Các môn đệ kinh ngạc vì những lời đó. Nhưng Chúa Giêsu lại nói tiếp và bảo các ông rằng: "Hỡi các con, những kẻ cậy dựa vào tiền bạc, thật khó mà vào nước Thiên Chúa biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa.”

Các ông càng kinh ngạc hỏi nhau rằng: "Như vậy thì ai có thể được cứu độ?" Chúa Giêsu chăm chú nhìn các ông, và nói: "Ðối với loài người thì không thể được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự.”

Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Ðây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy.”

Chúa Giêsu trả lời rằng: "Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ lại không được gấp trăm ở đời này về nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái và ruộng nương, cùng với sự bắt bớ, và ở đời sau được sự sống vĩnh cửu. Nhưng có nhiều kẻ trước nhất sẽ nên rốt hết, và những kẻ rốt hết sẽ nên trước nhất.”

TRUYỆN KỂ

1. Các nhà phú hộ khờ dại

Những hạng phú hộ như thế ngày nay xuất hiện khắp nơi: như Onessis nhà tỷ phú Hy lạp nổi tiếng nhất thế giới, chỉ lo ăn chơi, cưới hai bà vợ, có hai con, cả gia đình sống bất hòa, bất chính, ly dị nhau. Đứa con trai chết vì tai nạn máy bay, con gái ghen ghét bà mẹ ghẻ Jacqueline.

Ông Khasuri, nhà tỷ phú Nhật nổi tiếng thứ nhì thế giới, mỗi ngày tiêu xài 300.000 đôla. Ông mua một bức họa của Van Goh có 7 bông hoa hướng dương với giá 35 triệu đôla. Báo chí thế giới cho là một bỉ ổi đối với người nghèo. Còn bà vợ đã ly dị đòi bồi thường 2 tỷ 500 triệu đôla.

Thiên Chúa bảo các ông phú hộ đó: “Đồ ngốc, nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng sống ngươi” (Lc. 12, 20). Khi các ông ấy ở dưới âm phủ, đã ngước mắt lên kêu: “Ở đây con bị thiêu đốt khổ lắm” thì Abraham cũng chỉ đáp lại: “Con ơi, hãy nhớ lại, suốt đời con đã được sướng rồi, bây giờ, phải chịu cực khổ thế là phải rồi” (Lc. 16, 23-25).

2. Tích trữ cho kho tàng trên trời

Chàng thanh niên Phanxicô con nhà thương gia tơ lụa nổi tiếng thành Assisiô nước Ý, đã được Chúa soi sáng và cảm nghiệm sâu xa lời Chúa nói với chàng thanh niên giàu có trong Tin mừng: “Anh chỉ còn thiếu một điều: Hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Sau đó, hãy đến theo Tôi.” Phanxicô đã bán hết những gì mình có bố thí cho người nghèo và bắt đầu một đời sống theo Chúa: Ăn mặc rách rưới, rảo quanh các đường phố vừa rung chuông vừa rao giảng Tin mừng tình thương của Chúa.

Phanxicô lìa trần ngày 04/10/1226, trên môi thì thầm: khó nghèo, hòa bình, tình thương và hát bài Thánh thi ca tụng Chúa: Xin chúc tụng Ngài, Chúa con ơi, với tất cả tạo vật của Ngài …” (Những người lữ hành trên đường hy vọng, số 23.3)

3. Bài test cho thiện chí

Bài Tin mừng được chia thành hai phần:

a) Thiện chí nửa vời: Một thanh niên muốn tiến cao trên đường nhân đức đã đến xin Đức Giêsu chỉ bảo cách thức để có thể tiến tới đường trọn lành của Nước Trời. Đức Giêsu đã chỉ dẫn cho anh: "Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo Ta.” Nghe thế, anh ta buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều tiền của. Đức Giêsu tiếc rẻ cho anh ta, nhìn chung quanh và nói: "Những kẻ cậy dựa vào của cải khó vào Nước Thiên Chúa biết bao.”

b) Bài học về sự từ bỏ: Đức Giêsu đưa ra điều kiện tiên quyết cho những người muốn làm môn đệ của Ngài là phải từ bỏ mọi sự. Ngài cũng lợi dụng hoàn cảnh này để cảnh giác các môn đệ cho khỏi quyền lực của trần gian chế ngự. Chúng kềm hãm và chặn đứng những nhiệt tình cao đẹp nhất. Chúng làm khô héo những hoài bão thanh cao nhất của những người thiện chí.

Tuy nhiên, Ngài cũng hứa phần thưởng cho những ai từ bỏ vì Nước Trời:

- Được lãi gấp trăm ở đời này.

- Cùng với sự bắt bớ: nghĩa là được chia sẻ số phận với Ngài.

- Được hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.

4. Đạo một mắt.

Bác sĩ A.J. Gordon kể: ngày nọ, có một ông nhà giầu nhưng keo kiệt đến xin chữa mắt. Sau khi khám nghiệm, bác sĩ cho biết phải chữa cả hai mắt, nếu không, có nguy cơ bị mù. Ông hỏi:

- Nhưng giá bao nhiêu?

- Chữa mỗi mắt là 100 đô.

Ông nhà giầu phân vân giữa tiền bạc và mù lòa. Rồi ông nói với bác sĩ:

- Tôi chữa một mắt thôi, vì một mắt cũng đủ thấy tiền và đếm tiền. Lại đỡ tốn!

Nhiều người vẫn cầu nguyện: “Xin mở mắt để con thấy kỳ công của Chúa…" Nhưng xem ra nhiều Kitô hữu chỉ muốn mở cho mình một mắt để thấy công trình của Chúa mà thôi, một mắt còn phải để trông coi gia sản!

5. Những nguy hại do tiền của.

Tiền của có thể gây nguy hại cho người giầu có vì tiền của có sức mạnh khống chế con người. Vì thế người ta mới nói:

Tiền là tiên là phật,

Là sức bật của lò xo,

Là thước đo của lòng người,

Là nụ cười của tuổi trẻ,

Là sức khỏe của người già

Là cái đà của danh vọng,

Là cái lọng để che thân.

Là cán cân công lý.

Ôi, tiền là hết ý!

6. Con lừa trước sự lựa chọn.

Ông viện trưởng đại học Paris ở thế kỷ 14 đã làm một thí nghiệm như sau: Ông để cho một con lừa nhịn đói, nhịn khát trong mấy ngày. Sau đó, ông đưa nó đến sân ăn, ông đặt nó giữa một thùng nước và một bó cỏ non. Lừa ta tuy đói lắm nhưng hết nhìn đống cỏ này lại ngó thùng nước kia, nó lưỡng lự giữa nước và cỏ, để rồi cuối cùng kiệt lả mà chết (Cử hành Phụng vụ CN, tr 174).

Cuộc sống không ngừng đòi hỏi chúng ta phải lựa chọn và chọn lúc nào cũng đòi hỏi hy sinh. Kẻ bắt cá hai tay vẫn luôn luôn là người thua thiệt nhiều nhất. Hãy nhớ lại Lời Chúa đã phán: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được"(Mt 6,24).

7. Đứng trên của cải.

Có một người giầu có kia thường xuyên đến xưng tội với thánh Philipphê Nêri. Ông có nhiều tiền của, có thiện chí, nhưng ông vẫn cảm thấy mình không đạt được sự tiến bộ nào trên đường thiêng liêng. Từ chán nản đến thất vọng, cuối cùng ông bỏ cuộc và không trở lại xưng tội với thánh nhân nữa.

Thấy ông đã lâu không đến xưng tội, thánh nhân tìm đến nhà ông để gặp ông. Sau một hồi trò truyện, ngài nhìn lên cây Thánh giá trên tường, ngài cân nhắc độ cao của Thánh giá rồi đề nghị với người đàn ông giầu có: “Ông là người cao lớn, ông thử với coi có tới Thánh giá không.” Ông đứng dậy giơ cánh tay lên cố với nhưng không thể nào chạm tới Chúa Giêsu trên Thánh giá.

Bấy giờ thánh Philipphê dùng hết sức đẩy cái hòm tiền của người giầu đến bên cạnh ông và bảo ông hãy đứng lên trên cái hòm tiền để với tới cây Thánh giá. Ông làm theo ý thánh nhân và sờ được Chúa Giêsu trên Thánh giá. Sau đó ngài nói với ông: "Để có thể nắm lấy được Chúa Giêsu, để có thể tiến bộ trên đường thiêng liêng, chúng ta cần phải đứng trên tiền bạc của cải.”

Chúa Giêsu bảo chúng ta: hãy dùng tiền của và cư xử cách nào để đem lại ích lợi cho cuộc sống hôm nay và đồng thời cũng đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau nữa.

Một phương thế Chúa dạy chúng ta là: hãy chia sẻ. Chúa không đòi chúng ta phải từ bỏ tất cả để theo Chúa, nhưng Chúa đòi chúng ta phải biết chia sẻ: chúng ta chia sẻ cho người khác một, Chúa sẽ trả lại cho chúng ta gấp nhiều lần.Theo kinh Hòa bình của thánh Phanxicô Assisi thì chính lúc cho đi là lúc được nhận lãnh và được lãnh nhận dồi dào, nhất là lãnh nhận ở đời sau.

8. Thập giá và vinh quang

Hai người con ông Zêbêđê, tức là tông đồ Giacôbê và Gioan, đoán rằng CG sắp hoàn thành sự nghiệm của Ngài, nên đã nhờ mẹ mình dẫn đến CG để xin Chúa cho họ được 2 chỗ ưu tiên trong Chính Phủ mà họ tưởng CG sắp thành lập.

Ðiểm đáng lưu ý là họ đến xin như thế ngay sau khi CG loan báo rằng Ngài sắp bước vào con đường Thập Giá, mà đây là lần loan báo thứ ba. Họ cũng nghe những lời loan báo ấy chứ, nhưng họ không thèm hiểu ý nghĩa của Thập Giá là gì. Ðầu óc họ cứ bị thôi thúc bởi ham muốn dành cho được những ghế ưu tiên trong Nước Chúa. Thành thử CG phải nhắc họ: "Các con chẳng hiểu điều các con xin. Các con có uống nổi chén đắng Thầy sắp uống và chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?" Họ đáp bừa: "Thưa được.”

Họ có nghĩ gì đến chén đắng và đến phép rửa gì đâu. Chỉ vì mong Thầy mau chấp thuận cho nên cứ đáp bừa là Thưa được. Tóm lại họ chỉ muốn Vinh Quang chứ không hiểu Thập Giá. Thái độ ấy của 3 mẹ con khiến cho các tông đồ khác phải bực bội.

Nhưng chúng ta chớ vội trách 3 mẹ con nhà Zêbêđê ấy, bởi vì nhiều khi chúng ta cũng giống như họ thôi.

9. Kho báu trên trời

Kagawa là một tín hữu Kitô Nhật Bản, khi nghe Lời Chúa phán: "Hãy đem bán hết gia tài, bố thí cho người nghèo, và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta", ông liền bán căn nhà tiện nghi sang trọng của mình, đến khu nhà ổ chuột tồi tàn vùng Tokyo. Nơi đây ông chia sẻ của cải cho bất cứ ai cần trợ giúp, ông đi thăm nuôi tù nhân, an ủi giúp đỡ người bệnh, cấp dưỡng cho kẻ nghèo đói...

Có một lần, dù lâm bệnh, ông vẫn tiếp tục rao giảng dưới cơn mưa, miệng không ngừng thốt lên: "Thiên Chúa là tình yêu. Ở đâu có tình yêu ở đấy có Thiên Chúa.”

Nhà thần học Wiliam Barclay đã trích dẫn những lời đầy sắc bén của Kagawa như sau: "Chúa ở trong tâm hồn những người hèn mọn nhất. Người hiện diện giữa những kẻ ăn xin. Người nằm chung với những ai bệnh hoạn. Người đứng về phía những kẻ thất nghiệp. Vì thế, ai muốn gặp Thiên Chúa hãy đến thăm tù ngục trước khi tới đền thờ, hãy đến thăm bệnh viện trước khi dự lễ, hãy giúp đỡ người nghèo khổ trước khi đọc Kinh Thánh.”

10. Những thứ tiền không mua được

George Horace Lorimer, chủ bút tờ Saturday Evening Post trong nhiều năm, có lần viết: "Có tiền và có những cái mua bằng tiền là tốt. Nhưng biết dùng tiền và đừng để mất những thứ tiền không mua được còn tốt hơn."

Có thể kể những thứ sau đây tiền không mua được:

Tiền không mua được tình bạn chân thực.

Tiền không mua được lương tâm trong sạch.

Tiền không mua được niềm vui mạnh khoẻ.

11. Ðổi tiền

Ðến nước khác, việc đầu tiên mà du khách phải làm là đổi tiền của mình thành tiền đang lưu hành tại nước đó. Tiền của ta trên trái đất chẳng có giá trị gì trên trời, nếu nó không đổi thành việc lành. Ðó là ý nghĩa Lời Chúa nói với chàng thanh niên giầu có: cho đi gia sản của anh để mua Nước Trời.

12. Nhờ ơn Chúa

Một Linh mục nọ qua đời và được đưa đến trước mặt thánh Phêrô để được Ngài thẩm vấn:

- Ở dưới thế cha làm được điều gì nào?

- Dạ thưa Thánh cả, con xây được một ngôi thánh đường rộng lớn.

Thánh nhân lấy bút cho một điểm rồi Ngài hỏi tiếp:

- Cha còn làm được gì nữa?

- Dạ con còn xây được một ngôi trường cho 1.000 học sinh.

Thánh Phêrô cho thêm được một điểm nữa.

- Và còn gì nữa?

Linh mục bắt đầu suy nghĩ rồi trả lời:

- Dạ con làm rất nhiều công tác xã hội và từ thiện.

Ngài nhìn rồi cho thêm một điểm.

- Còn gì nữa? Ngài hỏi tiếp.

- Dạ thưa Thánh cả… bao nhiêu điểm thì được vào Thiên đàng?

Thánh nhân vui vẻ trả lời: 1000 điểm.

Nghe nói thế linh mục cảm thấy chột dạ… tự nghĩ trong lòng: Không biết làm sao cho đủ được 1000 điểm bây giờ… Rồi linh mục bắt đầu cảm thấy lo lắng không còn tự tin như trước nữa. Đang lúc đó thì Thánh Phêrô lại muốn được biết kết quả ngay nên Ngài hối:

- Cha còn làm được điều gì nữa… cứ kể hết đi!

Với một giọng đầy lòng khiêm tốn cộng một chút lo sợ, linh mục thưa:

- Thưa thánh cả, NHỜ ƠN CHÚA con còn làm thêm được ít việc nho nhỏ nữa.

Vừa nghe xong thánh Phêrô lấy bút ghi ngay: 1000 điểm. Rồi Ngài vui vẻ nói với linh mục:

- Thế là cha đã được 1003 điểm. Cha dư điểm vào Thiên đàng rồi đấy… mời cha vào.

Vâng tất cả là nhờ ơn của Chúa.

13. Sử dụng tiền của cho đúng

Một bác nông dân người Anh có dịp nghe John Wesley giảng thuyết. John Wesley là một nhà giảng thuyết nổi tiếng: hôm ấy ông giảng về việc sử dụng tiền của. Wesley bắt đầu bài giảng bằng tư tưởng; Phải ra công tích luỹ tối đa, phải dùng hết khả năng tìm cách làm giàu. Bác nông dân gật gù bảo người bạn ngồi bên cạnh: Đúng lắm! Rồi wesley triển khai điểm thứ hai: Phải tiết kiệm tối đa.

Ông lên án thói phung phí tiêu xài quá đáng. Bác nông dân xuýt xoa: bài giảng tuyệt vời! Cám ơn Chúa, mình vẫn sống tiết kiệm.

Cuối cùng, nhà giảng thuyết đi tới điểm thứ ba: Phải chia sẻ tối đa. Hãy coi hoàn cảnh thiếu thốn của người chung quanh là thuộc trách nhiệm của mình. Nghe đến đây, bác nông dân lắc đầu rồi bỏ nhà thờ đi ra…

14. Cái két sắt

Tác giả Ba Chuông, có truyện rất ngắn mang tên: “Cái két sắt” như sau:

“Ông H. mới giàu lên vài năm nay, nhờ vợ ông có cả trăm mối lái Hàn, Trung, Việt buôn bán thịnh đạt. Ông xây nhà lớn vào bậc nhất ở một thị trấn kể là nhỏ nhất. Thiết kế trong nhà mới xây có một chỗ để két sắt. Ông nghe nói có cả ngàn mặt hàng két sắt đựng tiền trên thị trường. Có những két sắt hiện đại đề phòng kẻ trộm từ xa; két sắt có con mắt phân biệt người thân, người lạ; có két sắt sử dụng bằng dấu vân tay...

Cuối cùng, ông chọn mua một két sắt sử dụng bằng dấu vân tay đắt tiền và cho xây âm trong tường luôn. Ông nói với mọi người rằng: “Như thế mới bảo đảm. Chẳng có thằng nào dám rớ tới ông.”

Sau đó chỉ một tuần, trong khi uống rượu, lên giọng giàu có dạy đời, ông H. bị mấy tay anh chị đập cho giập nát hai bàn tay. Đi bệnh viện hai tuần. Mất dấu vân tay. Vợ ở nhà đập két sắt lấy hết tiền đi rồi.

Hình như bà H. đứng tên nhà, đất. Và nghe nói tất cả đã sang tên cho thằng tình nhân Trung Quốc rồi.

Cái két sắt thật là an toàn! Thật là bảo đảm muôn năm!”

Ở đời, có quá nhiều người cho mình là khôn ngoan, đến nỗi có thể nói: ai cũng cho mình là khôn ngoan, nhưng thử hỏi: được mấy người tìm cho ra Đức Khôn Ngoan đích thực?

15. Họ mới là những người giàu nhất

Ba mươi năm trước đây tại thủ đô Washington D.C, vợ của một nhà doanh nhân đã đánh rơi chiếc ví của cô ấy tại bệnh viện trong một đêm mùa đông. Nhà doanh nhân này rất lo lắng và quay lại bệnh viện để tìm ngay trong đêm đó, bởi vì trong chiếc ví không chỉ chứa 100.000 USD mà còn có cả các tài liệu marketing rất quan trọng... Khi người doanh nhân vội vã tới bệnh viện, ông ta nhìn thấy một cô gái nhỏ nhắn nằm ngay dưới chân bức tường hành lang, đang run lên vì lạnh, và trong tay cô gái đó có chính xác chiếc ví mà vợ ông đã bị mất. Cô gái tên là Hiada, cô tới bệnh viện để đưa người mẹ đang bị ốm tới khám bác sĩ. Đêm đó, Hiada đã bị bỏ lại bơ vơ trong hành lang của bệnh viện. Cô ấy cầu nguyện xin Chúa nhân từ cứu giúp và hy vọng sẽ gặp được một quý nhân nào đó sẽ cứu giúp được mẹ cô. Đột nhiên, một người phụ nữ đi từ trên hàng lang xuống và đã đánh rơi chiếc ví mà không hề để ý và vội vã đi qua, có lẽ bởi vì cô ấy đang phải mang một thứ gì đó trên tay. Hiada là người duy nhất ở hành lang lúc đó, cô đã tới và nhặt chiếc ví lên. Khi cô chạy tới sau cánh cửa phía sau người đàn bà kia, thì bà ấy đã ở trên ô tô.

Hiada quay trở lại phòng bệnh viện. Khi mở chiếc ví ra, cả hai mẹ con đều sốc vì số tiền quá lớn. Họ đều ngay lập tức nghĩ rằng số tiền kia sẽ có thể giúp mẹ cô ấy chữa bệnh. Tuy nhiên, người mẹ đã nói với Hiada quay lại hành lang và đợi người đánh rơi kia quay lại để tìm. Bất chấp mọi nỗ lực giúp đỡ cứu chữa của nhà doanh nhân, mẹ của Hiada đã ra đi và để người con gái nhỏ ở lại một mình. Sau đó, nhà doanh nhân đã giúp đỡ cô con gái nhỏ bé kia, người đã mất đi cả gia đình.

Tốt nghiệp đại học, với sự giúp đỡ của nhà doanh nhân, Hiada đã trợ giúp cai quản việc kinh doanh của nhà triệu phú. Vào những năm sau này, ông đã tham vấn Hiada rất nhiều ý kiến giải quyết cho nhiều vấn đề gặp phải. Khi mà ông sắp xa rời thế giới, ông đã để lại những dòng đầy từ bi: “Trước khi tôi biết Hiada và mẹ cô ấy, tôi đã thực sự mất hết tiền, nhưng khi tôi đứng trước bà mẹ và cô con gái, người đã tìm thấy một số tiền rất lớn của tôi – khi mà họ đang trong cảnh bệnh tật và nghèo đói nhưng vẫn không màng tới số tiền của tôi, tôi nhận ra rằng họ mới là những người giàu nhất. Họ đã giữ được những tiêu chuẩn đạo đức cao nhất của con người mà một người doanh nhân như tôi còn thiếu. Tiền của tôi có được phần lớn là do những trò tiểu xảo và tranh nhau với người khác. Đó là những người mà họ làm cho tôi hiểu được tài sản quan trọng nhất trong cuộc đời là giá trị đạo đức của họ.

Tôi cứu giúp Hiada không chỉ vì trả ơn hay vì sự cảm thông. Mà là vì tôi thấy cô ấy như một hình mẫu chuẩn mực của một con người. Khi cô ấy ở bên cạnh tôi, tôi sẽ luôn nhớ rõ rằng tại bất kỳ thời điểm nào cái gì tôi nên làm, cái gì không; tôi nên và không nên kiếm tiền như thế nào… Đó là lý do cơ bản cho sự thịnh vượng trong kinh doanh của tôi sau này và khi tôi đã trở thành nhà triệu phú. Sau khi tôi chết, hàng triệu đô la của tôi sẽ kế thừa lại hết cho Hiada. Đó không chỉ là để cho cô mà nó sẽ mang lại thành công hơn và thịnh vượng hơn cho việc kinh doanh sau này. Tôi tin chắc rằng người con trai thông minh của tôi sẽ hiểu được những suy nghĩ của cha mình.” (Hà Phương, Bản di chúc đặc biệt của một nhà triệu phú tại Washington D.C, Pureinsight)

16. Cái giá cho sự khôn ngoan

Ngày nọ, triết gia Diogene của Hy lạp đã đến giữa chợ Athene và dựng một căn lều có treo một bảng lớn với hàng chữ như sau: "Tại đây có bán sự khôn ngoan.” Một bậc khoa cử, tình cờ đi qua căn lều, đọc được lời rao báo, cười thầm trong bụng. Nhưng muốn biết đằng sau căn lều ấy có những gì, ông sai người đầy tớ mang tiền đến dò hỏi mua cho bằng được cái mà người bán gọi là "Sự khôn ngoan.”

Người đầy tớ ra đi, làm theo lời dặn của chủ, anh đưa cho Diogene ba cắc bạc và nói rằng chủ của anh muốn có sự khôn ngoan. Cầm lấy ba cắc bạc bỏ vào túi, triết gia nói với người đầy tớ một cách long trọng như sau, hãy về đọc lại cho chủ anh nghe câu nầy: "Trong tất cả mọi sự, hãy nghĩ đến cùng đích.”

Vị khoa bảng thành Athene vô cùng thích thú về lời khôn ngoan này. Ông đã cho viết trước cửa nhà, như khuôn vàng thước ngọc, để chính ông suy niệm mỗi ngày và tất cả những ai qua lại trước nhà ông đều có thể đọc thấy câu trên.

17. Tiền của và tự do

Sự ham mê tiền của dễ làm cho người ta ra đen bạc, khó vào Nước Trời.

Quả thế, vì tiền của, người ta có thể đánh mất lý tưởng cuộc đời.

Vì tiền của, người ta có thể chà đạp phẩm giá của mình cũng như của người khác.

Vì tiền của, người ta có thể chối bỏ niềm tin.

Vì tiền của, người ta có thể phớt lờ luôn cả tiếng lương tâm.

Vì tiền của, người ta có thể làm những điều bất chính...

Đó là nguy cơ mà bất cứ ai cũng có thể rơi vào. Và người nào ham mê tiền của đến quên cả Chúa và quên cả anh em, thì đó chính là thứ lạc đà đứng trước lỗ kim, đó chính là những người khó vào Nước Trời.

Khi Phanxicô Assisi nghe bài giảng trong Thánh Lễ với câu: "anh chỉ còn thiếu một điều là hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo Ta”, thánh nhân lập tức bán tất cả những gì mình có, bố thí cho người nghèo và bắt đầu một đời sống theo Chúa: ăn mặc rách rưới, rảo quanh các đường phố rao giảng Tin Mừng tình thương của Chúa.

18. Ở trọ

Ít nhiều gì trong chúng ta cũng đã được nghe hay cũng được biết về tác phẩm "Ở trọ" của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Bài hát thật ngắn ngủi. Bài hát ấy chỉ có 5 đoạn nho nhỏ mà thôi. Mở đầu bài hát ấy, Trịnh Công Sơn viết:

Con chim ở đậu cành tre

Con cá ở trọ trong khe nước nguồn

Tôi nay ở trọ trần gian

Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời (Ở trọ - Trịnh Công Sơn)

Ông đã mượn hình ảnh hết sức thực tế, hết sức mộc mạc, hết sức dễ thương để nói về phận của con chim, phận của con cá và phận của con người. Sự nghiệp của con người ở đời này thật mau qua và chóng tàn như con chim, con cá, còn cơ nghiệp đời đời của con người thì mãi mãi là vĩnh cửu.

19. Cuộc đời cho đi mới đẹp

Một cuộc đời đẹp không phải là có địa vị, có nhiều của cải mà là người dám sẵn lòng cho đi cái mình có. Không so đo, không tính toán. Họ sẵn lòng cho đi tất cả để phục vụ tha nhân một cách quảng đại. Đó mới là một cuộc đời đáng ca ngợi. Đó mới là một bông hoa đẹp dâng tặng cho cuộc đời.

Đây cũng là nét đẹp của cuộc đời Cha Gioan Lee, linh mục dòng Salêriêng Don Bosco, Hàn Quốc. Tốt nghiệp bác sĩ y khoa nhưng cha đã bỏ tất cả công danh sự nghiệp sau lưng, và cha đã đáp lại tiếng gọi mãnh liệt của Thiên Chúa để trở thành một linh mục truyền giáo trong dòng Salêriêng Don Bosco. Ngay sau khi được truyền chức linh mục tại Tòa Thánh Vatican, cha đã tình nguyện đến truyền giáo tại miền Nam Sudan thuộc Phi Châu. Cha đã tình nguyện đến sống và phục vụ tại một xứ sở nghèo đói nhất thế giới, giữa những người đói khổ và bệnh tật trong làng Tonj thuộc miền Nam Sudan- Phi Châu trong suốt 8 năm trước khi cha qua đời vị căn bệnh ung thư ruột già.

20. Người từ bỏ tất cả được Chúa cho tất cả.

Thánh Giuse Corrodengo (1786-1842) là gương mẫu từ bỏ mọi sự, sống phó thác vào tình yêu và sự quan phòng của Chúa. Mỗi ngày, tiền của người ta bố thí, còn dư bao nhiêu, người dạy đem chia sẻ cho người nghèo. Người điều khiển một cô nhi viện với 700 trẻ ở Turin (Ý). Một hôm giờ cơm đã gần đến mà nhà bếp xem ra chưa “động tĩnh” gì cả. vả lại túi tiền đã cạn. Chị nữ tu quản lý chạy vào báo động. Thánh nhân bảo: “Cứ cho các em sắp hàng vào nhà cơm như thường lệ.” Rồi ngài chạy vào nhà thờ cầu nguyện. Bỗng dưng có tiếng chuông nhà khách vang reo. Một tiểu đội lính hớt hải chạy vào thưa: “Lạy cha, tiểu đoàn chúng con đi hành quân, gọi về cho ban ẩm thực biết sẽ không về kịp... Vậy xin cha nhận của ăn chúng con đã nấu sẵn, cho các em cô nhi!”

Thánh nhân qua đời lúc 56 tuổi, sau khi đã lập hai dòng nữ Bác Ái và hai dòng nam để tiếp tục công việc. Ngài được Đức Piô XI tôn phong hiển thánh ngày 19-5-1934.

“Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Phúc Âm... mà không được gấp trăm ở đời này và đời sau được sự sống vĩnh cửu” (Mc 10,29-30).

21. Tiền của biến đổi lòng người

Đã có một thời, người dân Philippines hết lời ca tụng ông Joseph Estrada. Ông là vị tổng thống thứ 9 của một đất nước có rất đông người công giáo. Bản thân ông cũng là một tín hữu sùng đạo nên đông đảo dân chúng quý mến và ngưỡng mộ ông. Trong con mắt người dân, ông là một vị lãnh đạo liêm chính, sống giản dị và rất quảng đại.

Lễ tuyên thệ nhậm chức của ông không ồn ào rình rang và quá tốn kém. Ông lưu tâm đến người nghèo, đặc biệt các cư dân vùng nông thôn hẻo lánh, và ông tuyên bố: “Tôi là vị tổng thống của người nghèo.”

Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau khi ông lên cầm quyền, niềm tin của dân chúng đặt để nơi ông đã hoàn toàn sụp đổ. Ông Estrada bị báo chí phanh phui vì hàng tháng ông vẫn nhận một khoản tiền lớn từ các sòng bài phi pháp, để nhắm mắt làm ngơ cho họ kiếm chác.

Đồng tiền đã làm tối mắt ông và làm sói mòn niềm tin dân chúng nơi ông. Thậm chí, Đức Hồng Y James Sheen Tổng Giám mục giáo phận Manila đã mạnh mẽ lên tiếng đòi ông phải từ chức, vì sự nhơ bẩn ông tạo ra khiến ông không còn xứng đáng là người cầm quyền. Chính đồng tiền đã biến một vị lãnh đạo mẫu mực trở nên một con người đầy tai tiếng, một nhân vật được mọi người nể trọng trở nên đối tượng khiến dân chúng khinh ghét.

22. Tinh thần nghèo khó của ĐTC Phanxicô

Đức Thánh Cha Phanxicô trong cương vị Giáo hoàng đã khá nhiều lần cảnh báo về một lối sống trưởng giả, đặc biệt nơi các linh mục, các Giám mục, và cả các Hồng y.

Sau khi đắc cử Giáo hoàng, Ngài đến quầy tiếp tân của khu nhà nghỉ trong Vatican để lấy tiền túi trả tiền phòng giống như mọi người.

Khi còn là Hồng y tại Argentina, Ngài vẫn sử dụng chiếc xe hơi cũ kỹ như một người nghèo. Trong bất cứ cuộc tông du nào, Ngài luôn xếp chương trình để đến thăm các khu ổ chuột, đến các nhà tù hoặc những vùng dân cư nghèo khổ nhất, và Ngài gọi đó là vùng ven (periphery).

Trong chuyến tông du tại Mỹ, Ngài đã từ chối bữa ăn sang trọng mà các nghị viên khoản đãi để đến dùng bữa với những người vô gia cư, những kiều dân khố rách áo ôm lang thang lếch thếch.

Không phải chỉ một lần, Ngài đã nói thẳng thừng về hiện tượng các vị mục tử rất đáng kính, sử dụng những chiếc xe hơi quá sang trọng và xa xỉ, những thứ chỉ dành cho giới thượng lưu. Đây là lối sống trưởng giả mà Ngài nói khá nhiều lần. Nhiều bậc vị vọng đã chột dạ, đổi xe khác rẻ tiền hơn, hoặc có một Giám mục ở Hoa Kỳ đã phải bán dinh thự Giám mục xa xỉ của mình để mua lại một tòa nhà khác khiêm tốn hơn, giản dị hơn.

Chắc chắn, Đức Thánh Cha không cổ vũ một lối sống bần cùng hay cơ cực, nhưng Ngài nhìn thấy nguy cơ của một phong thái thích sống hưởng thụ (consumerism), làm lu mờ căn gốc nghèo khó và làm mất đi chứng tá những giá trị Tin mừng nơi các vị mục tử trong Giáo hội.

23. Ngẫu tượng tiền bạc

Nhà văn Anderson viết một câu chuyện rất ngắn khá ý nghĩa. Một người hành khất đói khổ đến gõ cửa nhà một người giàu có để ăn xin. Anh chàng nhà giàu nứt khố đổ vách nhưng lại rất keo kiệt, nhất định không cho cái gì. Nhìn quần áo lôi thôi lếch thếch và khuôn mặt lem luốc của người ăn mày, tên nhà giầu đã không bố thí còn từ trong nhà mỉa mai nói vọng ra: “ Hình như anh vừa mới từ dưới hỏa ngục chui lên thì phải. Nhìn bộ mặt và quần áo của anh, tôi đoán thế.”

Người hành khất nuốt nhục trả lời: “Thưa ông, đúng vậy. Ông nói quả không sai chút nào, tôi mới ở dưới hỏa ngục chui lên đây. Ở dưới đó hết chỗ rồi. Những người giầu có và keo kiệt như ông đã đầu tư tiền bạc mua hết đất rồi. Đất ở dưới đó ngày càng mắc, nhất là đất mặt tiền. Không còn chỗ để ở, tôi phải chui lên đây.”

24. Tôi phải làm gì để được sống đời đời?

Trong tác phẩm văn học Le Petit Prince, Saint Exupéry kể rằng: "Khi Hoàng Tử Bé đến trái đất, người đầu tiên mà cậu gặp là một cụ già làm nghề đốt đèn. Một công việc thật ý nghĩa và dễ thương, cụ đốt đèn thắp sáng địa cầu mỗi tối và tắt đèn mỗi sớm mai khi mặt trời lên.

Thế nhưng, vừa gặp cậu bé hoàng tử, cụ thở dài: "Công việc của tôi nay thật kinh khủng. Ngày trước mọi việc hợp lý hơn. Mỗi tối tôi đốt đèn và suốt đêm được ngủ nghỉ, mỗi sáng tôi thắp đèn và cả ngày được thư thái. Ngày trước trái đất quay chậm, bây giờ nó quay ngày một nhanh.”

Cậu bé hỏi: "Yêu cầu của công việc vẫn không thay đổi sao?” Cụ đáp: "Đó là bi kịch, hành tinh này quay ngày càng nhanh mà yêu cầu của công việc vẫn không thay đổi. Sự việc trở nên tồi tệ, đến nỗi cứ nửa giờ, hành tinh quay hết một vòng và như thế, ngày cũng như đêm, tôi không có một chốc nghỉ ngơi,...tôi phải đốt đèn và tắt đèn liên lỉ.”

Phải, bất cứ nơi đâu, nhịp sống hôm nay xem ra quá vội vã. Những bước chân bách bộ ngày càng trở nên hiếm hoi và dường như mỗi khi ra đường, người ta đâm đầu chạy. Vậy thử hỏi, có bao giờ chúng ta dừng lại để đặt một câu hỏi tương tự như câu hỏi của người thanh niên trong bài Tin Mừng hôm nay?

25. Người nghèo giầu tình thương

Tại bên Úc, Mẹ Têrêsa có mở một nhà nội trú dành cho các thanh thiếu niên nghèo. Một lần kia, Mẹ gặp thấy một thanh niên đang bị đánh đập tàn nhẫn, mình mẩy anh ta bầm tím hết. Mẹ thấy cần phải gọi cảnh sát đến điều tra và khi cảnh sát đến hỏi anh:" Ai đã đánh anh?" thì anh thanh niên này nhất định không trả lời các câu hỏi. Cuối cùng, cảnh sát phải chịu thua anh ta và bỏ ra về. Lúc đó, Mẹ Têrêsa mới ôn tồn hỏi anh:

- Sao con không khai người đã đánh đập con với cảnh sát?

- Thưa Mẹ, nếu con khai ra, người đó sẽ bị trừng phạt và rồi những đau khổ của người đó cũng không thể làm giảm đi nỗi khổ đau của chính con!

Người nghèo giầu tình thương biết bao! Chúng ta bảo họ nghèo, nhưng thực sự, chính họ lại giầu có. Họ giầu tình thương và giầu lòng nhân ái. Chúng ta cần phải có một tình thương và đôi mắt nhân hậu để có thể khám phá ra những hạt giống tốt đã được gieo rắc trong tâm hồn họ và giúp cho những hạt giống ấy phát triển thêm nhờ vào cách đối xử nhân từ của chúng ta đối với họ.

26. Tâm hồn tự do là phần thưởng cho người biết chia sẻ

Một lần, có một người đàn bà giầu có người Hindou đến thăm Mẹ. Bà ta nói với Mẹ:

- Thưa Mẹ, con ước ao được chia sẻ với Mẹ và cộng tác với Mẹ trong các hoạt động từ thiện.

- Tốt lắm! Mẹ đáp lại một cách vui vẻ.

Rồi bà ta thú thực với Mẹ là bà ta có một điều rất khó bỏ, dó là tính khoe khoang, ưa làm dáng. Bà thích mặc những chiếc áo xari, những bộ đồ Ấn Độ lộng lẫy và đắt tiền. Hôm ấy, bà mặc bộ áo xari trị giá 65 đôla, trong khi chiếc áo xari của Mẹ Têrêsa đang mặc chỉ đáng giá 65 xu, chưa đầy một đôla. Như được ơn trên soi sáng, Mẹ Têrêsa bỗng nảy ra một tư tưởng hay. Mẹ đề nghị với bà ấy bắt đầu cộng tác với Mẹ về những bộ áo xari đó. Mẹ khiêm tốn đề nghị:

- Từ nay trở đi, thay vì mua sắm những bộ aó xari trị giá 65 hoặc 100 đôla, thì bà chỉ nên mua những bộ rẻ tiền hơn, chừng 45 hoặc 50 đôla thôi. Số tiền còn lại, bà hãy mua những bộ áo xari đơn sơ khác dành cho người nghèo.

Bà ấy vui vẻ hưởng ứng lời đề nghị của Mẹ, rồi dần dần bà đã biết dùng những bộ áo xari rẻ tiền hơn. Sau này, chính bà ấy đã thú nhận với Mẹ Têrêsa rằng:

- Thưa Mẹ, từ ngày con bắt đầu từ bỏ những vẻ hào nhoáng vô ích bên ngoài đó, tâm hồn con cảm thấy được tự do hơn, nhẹ nhàng hơn. Con đã học biết và hiểu rõ hơn thế nào là cho đi, thế nào là chia sẻ. Và trong cách chia sẻ như thế, con phải thú nhận rằng chính con đã được lãnh nhận nhiều hơn những gì con đã cho đi và chia sẻ với những anh chị em nghèo khó!

27. Tiền không mua được hạnh phúc

Ngày 06.6.1976, tỷ phú Paul Getty qua đời, để lại một gia sản từ hai đến bốn tỷ đôla. Sau năm lần ly dị, ông đã tuyên bố với báo chí: Tôi mong dùng tất cả gia tài của tôi để xây dựng một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Tôi thất bại. Tôi không đạt được hạnh phúc gia đình. Tiền bạc không thể mua được hạnh phúc. Trái lại, nó còn có họ hàng bà con với những nỗi bất hạnh nữa.

Cơ quan vũ trụ Nasa của Mỹ đã từng tiết lộ: khi phi hành gia lần đầu tiên trên trái đất đặt chân lên mặt trăng, nhìn cảnh vật, ông ấy đã thốt lên “ Ôi, yên bình quá, ở đây không có tiền.”

Một cuộc sống đầy đủ không thể không có tiền, nhưng nhiều tiền chưa hẳn đã có hạnh phúc. Sự giàu sang không đương nhiên mang lại hạnh phúc cho con người.

28. Yêu thương và chia sẻ là chìa khóa cho hạnh phúc

Đã có một thời nhà tỉ phú George Soros than thở: “Tôi không biết mình đang giàu hay đang nghèo; đang làm chủ số phận hay nô lệ cho thành công. Bởi vì để thành công tôi phải làm việc như một con chó. Để giàu có tôi phải chịu cảnh bất an liên tục.” Nhưng rồi sau những công việc từ thiện bác ái, George đã tươi cười chia sẻ: “Chỉ từ khi biết yêu thương, đời tôi mới bắt đầu nếm được mùi hạnh phúc và sung túc thật sự.”

Cha Albert Marie thuộc dòng khổ tu Soligay ở Bỉ cũng có một kinh nghiệm tương tự. Trước khi vào dòng, ngài từng là một chính khách triệu phú với danh xưng Van Cruyssen. Trong đại chiến thế giới, ngài là một sĩ quan mang cấp bậc đại úy, với sáu huy chương và đệ nhất Bắc đẩu Bội tinh chói ngời trên ngực áo. Nhưng giờ đây những huy chương và bội tinh ấy lại được đặt trước bàn thờ kính Trái Tim Chúa Giêsu trong tu viện.

Trong dịp ngài tuyên khấn, có rất nhiều vị dân biểu, chủ tịch và phó chủ tịch thượng viện, cũng như chủ tịch hiệp hội giới trẻ Công giáo Bỉ quốc đến tham dự. Sau lễ nghi, vị tân khấn đã chia sẽ tâm tình với những người hiện diện: “Cha Albert Marie sung sướng và hạnh phúc hơn nhà triệu phú Van Cruyssen nhiều.”

Yêu thương và san sẻ cuộc đời cho kẻ khó nghèo chính là điều kiện tất yếu mà những ai muốn trở thành môn đệ chân chính của Đức Kitô đều phải thực thi.

29. Tình yêu làm cho tiền sinh lợi

 “Chỉ cần chúng ta tiến về phía Chúa một bước, thì Ngài sẽ chạy về phía chúng ta mười bước”

James Kallam kể lại một mẩu chuyện vui trong các bài viết của ông như sau: Cách đây nhiều năm, có một thanh niên làm nghề bán sách rong từ nhà này đến nhà kia, anh đến hành nghề tại một vùng quê nọ. Một hôm, anh vào nhà một nông gia, ông này đang ngồi trên chiếc ghế xích đu ở cổng trước. Chàng thanh niên đến gần người nông dân nhiệt tình ngỏ lời: “Thưa ông, tôi có bán một cuốn sách chỉ cách canh tác sinh lợi gấp 10 lần cách ông đang làm.”

Người nông dân chẳng thèm ngước lên. Ông tiếp tục đong đưa chiếc ghế đu. Cuối cùng, sau vài phút, ông ta liếc mắt nhìn chàng thanh niên rồi nói; “Này anh bạn trẻ, tôi chả cần sách của anh, tôi cũng biết làm thế nào để canh tác sinh lợi gấp 10 lần cách thức tôi hiện đang làm.”

30. Khôn một xu, ngu một pound

Sách "Dụ ngôn đời thường" của linh mục Frank Mihalie - SDV kể câu chuyện "Khôn một xu, ngu một pound" như sau: Một con mọt báo chí keo kiệt có thói quen để dành tất cả những tờ ghi chú mới chỉ viết một mặt giấy. Tự nhiên việc làm kinh tế ấy đã để dành cho ông một ít tiền... nhưng cũng đốt đi rất nhiều thời gian của ông... cuối năm, ông ngồi lại tính toán.

Để dành được được 30 xu tiền giấy vụn.

Đánh mất 1 dollar thời giờ.

Nếu nói thời gian là vàng thì con mọt trên không chỉ mất 1 dollar. Một công việc tưởng rất khôn ngoan hóa ra lại quá dại.

31. Tôi đã thấy thần chết

Ở nơi một vùng núi xa xôi hẻo lánh nọ, có một vị ẩn tu thánh thiện đang. Một ngày kia, ngài đi dạo và phát hiện có một kho báo trong vùng núi đó. Vừa thấy kho báo, ngài vội vàng bỏ chạy ra và hô to: "thần chết, thần chết, tôi nhìn thấy thần chết.”

Thình lình có 3 người đàn ông trong bộ dạng rất là hung tợn đi tới. Nghe vị ẩn tu vừa chạy và la thét như vậy thì hỏi có cớ sự gì. Vị ẩn tu đã chỉ vào chỗ có kho báo cho 3 người đàn ông và cũng nói một lời như trước. Tôi đã thấy thần chết.

Ba người đàn ông đó đã đi vào hang đá và phát hiện một thùng to chứa đầy vàng ngọc. Họ vui mừng không thể tưởng. Nhưng để lấy kho báo đó ra, họ phải đào bới cửa hang cho rộng mới có thể đi vào được. Sau một thời gian đào bới, họ thấy đói bụng nên cử một người đi mua thức ăn về, còn 2 người ở lại tiếp tục làm công việc đào bới cửa hang.

Chuyện xảy ra là khi đi dọc đang, người được ủy nhiệm đi mua thức ăn sinh ra ý định sẽ chiếm đoạt số báo vật đó cho riêng mình nên dự tính khi mua thức ăn sẽ bỏ thuốc độc vào trong đồ ăn để khi hai người bạn của hắn ăn xong sẽ ngã chết để hắn tự do sử dụng số báo vật đó một mình. Đang khi đó thì hai người ở lại đào bới cửa hang cũng dự tính với nhau sẽ tìm cách hạ sát người anh em của mình khi mua thức ăn trở về để số kho báo được chia hai mà thôi thay vì chia ba. Và họ đã hành động đúng như đã dự tính với nhau.

Sau khi giết người anh em của mình và ném xác xuống sườn núi, họ chia nhau thức ăn và ăn ngấu nghiến vì đói. Vừa ăn xong thì cả hai đau đớn giãy giụa vì thuốc độc đã thấm vào người. Sau một vài phút, cả hai người đó cũng tắt thở. Thế là kho báu vẫn còn đó, mà 3 người đàn ông tham lam đã chết cách thảm thiết! Và lời cảnh báo của vị ẩn tu đã thành sự thật: Tôi đã thấy thần chết.

32. Tôi phải làm gì?

Cách đây một vài năm, Sir Kenneth Clark người Anh làm đầu chương trình trên TV “Nền Văn Hóa” nổi danh khắp thế giới. Clark theo chủ nghĩa nhân bản, không cho tôn giáo là việc quan trọng. Điều này không có nghĩa rằng ông khinh khi việc theo đạo hoặc lãnh đạm việc thờ phượng. Ngược lại, ông còn nói một vài nét đặc biệt của việc theo đạo. Một hôm, tại nhà thờ San Lorenzo ông đã lãnh nhận được một cảm nghiệm. Ông viết: “Trong một vài phút, cả người tôi như được soi sáng với một niềm vui thiên đàng mà còn hơn tất cả những cảm giác mà tôi đã từng trải qua.”

Khi nói về cảm tưởng đó, Clark đối diện với một câu hỏi: “Tôi phải làm gì với cái ơn đó?” Công khai, ông không phải là người theo đạo. Nếu ông tự nhiên trở thành một người theo đạo, thì gia đình ông và bạn bè ông sẽ nghĩ rằng ông đã dẫm vào chỗ lầm lạc. Và như thế, Clark đã lựa chọn không làm một cái gì hết với cảm tưởng mà ông đã lãnh nhận được. Ông hoàn toàn quay lưng lại trong vấn đề đó.

Giống như người thanh niên giàu có, Kenneth là một người rất tốt, Kenneth tìm thấy một hấp dẫn ở nơi Chúa Giêsu một cách không thể ngờ được, Kenneth đã phải đương đầu với câu hỏi thật khó khăn để tìm được câu trả lời: Tôi phải làm gì?

33. Không cần nhiều thời gian

Một ngày nọ, một cậu thiếu niên đến gặp ông nội cậu và xin ông đi câu cá với cậu. Ông nội cậu là một người thợ rèn, liền nói: “Ngay sau khi ông đóng móng cho cặp ngựa này, ông sẽ đi với cháu.”

Cậu bé bắt đầu đi thơ thẩn xung quanh lò rèn. Ông nội báo cho cậu biết đừng sờ vào các móng ngựa bởi vì nó có mấy cái còn rất nóng. Nhưng khi ông vừa quay lưng đi, thì đứa cháu đã cầm lấy một cái. Thấy nóng quá, cậu lập tức buông cho móng ngựa rơi ra và kêu lên một tiếng. Ông nội cậu nghe được tiếng kêu liền hỏi: “Con có bị sao không?”

“Không”, cậu bé nói dối.

“Chắc không?”

“Nhưng nếu cháu đau thì ông có thể giúp cháu”

“Không cháu không sao mà”

“Vậy cháu không bị phỏng chứ?”

“Không”

“Nếu cháu không sao thì tốt, vậy sao cháu lại buông cái móng ngựa nhanh thế.”

“Cháu đâu cần nhiều thời gian để xem nó.” Cậu bé đáp.

Không cần nhiều thời gian để xem và rồi buông bỏ như câu chuyện của Đức Giêsu cho chúng ta thấy.

34. Cái giá cho sự trưởng thành

Một câu hỏi có lần được gởi đi khắp các trường trung học ở New York hỏi rằng: Bạn thích được như thế nào? Hai phần ba học sinh đều đáp: “Được nổi tiếng.” Họ không có ý tưởng nào về việc phải cống hiến mình để hoàn thành một công việc.

Trong thâm tâm, mọi người chúng ta khao khát sự tốt lành. Chúng ta có một giấc mơ phải làm một điều gì thật sự có giá trị với cuộc đời mình. Chúng ta biết rằng theo đuổi giấc mơ ấy bao hàm sự hy sinh nhưng cũng đem lại niềm vui to lớn. Chính Thiên Chúa đã đặt khát vọng ấy trong tâm hồn chúng ta.

CNTN 28C -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

LỄ THÁNH LUCA – DIỄN VĂN TRUYỀN GIÁO

LỜI CHÚA: Lc 10, 1-9

Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người. Các con hãy đi. Này Ta sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường.

"Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: "Bình an cho nhà này." Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.

Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi."

TRUYỆN KỂ

1. Chúa cần bàn tay bạn

Cuộc chiến tranh trên bán đảo Triều tiên trước đây là một cuộc chiến tranh tàn khốc. Một ngôi làng nhỏ rơi vào dưới làn đạn của trọng pháo. Trong làng có một ngôi nhà thờ Công giáo, bên ngoài nhà thờ có một bệ cao, bên trên có đặt một bức tượng Đức Kitô. Tuy nhiên, khi cuộc chiến tranh qua, rồi bức tượng đã biến mất. Bức tượng đã bị hất ra khỏi bệ vỡ ra từng mảnh trên mặt đất.

Một hôm lính Mỹ đã giúp vị linh mục thu thập những mảnh vụn. Một cách cẩn thận, họ đã ráp lại pho tượng. Họ tìm thấy tất cả các mảnh vỡ, trừ đôi bàn tay. Họ đề nghị khi trở về Mỹ họ sẽ đặt làm đôi bàn tay ấy. Nhưng vị linh mục đã từ chối. Ngài nói:

- Tôi có một ý tưởng hay hơn: Chúng ta hãy để pho tượng không có bàn tay. Và chúng ta sẽ ghi vào chân đế lời này: BẠN ƠI, BẠN HÃY CHO TÔI MƯỢN ĐÔI BÀN TAY CỦA BẠN”

2. Hành trình đức tin của thánh Luca

Thánh Luca là một người ngoại giáo, khi thánh Phaolô rao giảng Tin Mừng ở thành Troa, Ngài xin tòng giáo, lãnh nhận bí tích rửa tội, xin làm môn đệ thánh Phaolô và theo Ngài đi loan báo Tin Mừng trong nhiều năm liền. Khi thánh Phaolô bị bắt, chúng ta không còn biết gì về quảng đời cuối cùng của Ngài nữa. Theo nhiều tài liệu, và chứng cớ tìm được ở Constantinople, thánh Luca đã rao giảng Tin Mừng cứu độ ở Achaie, Béoti và sau này được đặt làm giám mục Thébes. Theo một sử liệu đáng tin cậy, thánh Gaudence de Brescia quả quyết rằng thánh Luca đã cùng đượcphúc chịu tử vì đạo với thánh Anrê tại Patras thành Achaie.

Thánh Luca đã để lại cuốn Tin Mừng rất giá trị nói lên tình thương vô biên của Thiên Chúa với cách hành văn thật trong sáng, cảm động và với một lối viết văn thật rõ ràng, gợi cảm. Ngài cũng trình bầy cho nhân loại hiểu về sinh hoạt đầy niềm vui của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai, cho thấy Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và luôn hành động, luôn hướng dẫn và soi sáng cho Giáo Hội.

Mừng lễ thánh Luca tông đồ, thánh sử, chúng ta cảm tạ tri ân Thiên Chúa vì đã ban cho Giáo Hội một vị thánh lừng danh đã để lại cho nhân loại cuốn Tin Mừng và cuốn công vụ tông đồ tuyệt hảo.

Ngày nay thánh Luca là quan thầy của các lương y và bác sĩ. Ngài cũng là bổn mạng các nhà họa sĩ, vì theo một truyền thuyết thì thánh nhân đã họa bức ảnh chân dung Đức Mẹ đầu tiên mà nay chúng ta quen gọi là ảnh “Đức Mẹ hằng cứu giúp."

Ngay từ đầu, Giáo hội vẫn kính lễ thánh Luca vào ngày 18.10 mỗi năm.

3. Đặc điểm của Tin Mừng Luca

Tin Mừng của ngài là Tin Mừng cho những người bị áp bức. Không Tin Mừng nào chúng ta có thể được một sự lưu tâm đáng yêu mà Chúa dành cho những người thu thuế và tội lỗi như trong Tin Mừng thánh Luca: Chúa đến để tìm kiếm những gì đã mất… một người nữ ngoại tình, một người thu thuế thống hối, một tên trộm ăn năn.

Không một Tin Mừng nào diễn tả được tấm lòng tha thiết của Chúa dành cho những người bơ vơ nghèo đói cho bằng dưới ngòi bút điêu luyện của Luca.

Là một Tin Mừng cho dân ngoại.

Là một Tin Mừng của cầu nguyện.

Là một Tin Mừng của niềm vui.

Là Tin Mừng của niềm vui vì ngay từ đầu, và bàng bạc trong Tin Mừng của ngài nhiều chỗ nói về niềm vui như ở đầu Tin Mừng là tin vui loan báo cho Zacharia, truyền tin cho Maria. Những niềm vui liên tục khi Thánh Gioan chào đời, lúc Chúa giáng sinh...

Những niềm vui trong chương 15 khi tìm thấy con chiên lạc, tìm được đồng tiền mất, gặp lại người con hoang và niềm vui hân hoan của các tông đồ khi trở lại Giêrusalem. Ðúng như Harnack đã nói: “Có những nét vui tươi, can trường và chiến thắng âm vang trong toàn bộ cuốn Tin Mừng của Thánh Luca từ trang đầu cho tới trang chót.”

Và là Tin Mừng đặc biệt nói về nữ giới.

Thật ra người ta sẽ lầm lẫn khi dìm mất tính chất và giáo huấn nghiêm khắc của Chúa. Nhưng các y sĩ có thể hãnh diện về Ngài vì chắc hắn không có y sĩ nào sẽ qua mặt được Ngài về “tình yêu dành cho nhân loại." Và những người còn lại trong chúng ta có thể biết ơn Ngài vì nhờ Ngài chúng ta có được dụ ngôn cây vả khô chồi (13,60), đứa con hoang đàng (15,11) và người Samaria nhân hậu (10,30). Chúng ta cũng biết ơn Ngài vì câu chuyện người kẻ trộm thống hối và cả năm mầu nhiệm Mân Côi mùa Vui.

Nhưng trên tất cả, chúng ta mắc ơn Ngài Kinh Ave “Ngợi khen” (Magnificat), chúc tụng (Benedictus), Phó dâng (Nunc dimittis) với quá phân nửa câu chuyện ngày lễ Giáng sinh. Rồi đây là chỗ mà sự khiêm tốn ẩn mình của thánh nhân xa rời chúng ta.

4. Bình an cho nhà này

Trong năm 1980, một tờ báo phát hành trên toàn Hoa Kỳ có đăng một câu chuyện khác thường. Một người kia ra xe của ông đang đậu trước một trung tâm thương mại lớn. Ngay trên ghế ngồi, có một mẩu giấy viết:

"Thưa ông/bà;

Tôi đã định ăn cắp chiếc xe này cho đến khi tôi chợt nhìn thấy hàng chữ 'Peace-Be-to-You' (Bình An-Cho-Bạn) dán trên kính xe. Nó làm tôi do dự và suy nghĩ. Tôi nghĩ nếu tôi ăn cắp chiếc xe này, ông bà chắc chắn sẽ không có bình an, và ngược lại, tôi cũng không cảm thấy bình an, vì đây là 'chuyến ăn hàng' đầu tiên của tôi. Do đó, 'bình an cho bạn' và cho tôi. Nhớ lái xe cẩn thận và lần sau đừng quên khóa cửa.”

Ký tên: "Người Muốn Ăn Cắp Xe.”

Câu chuyện khác thường đó làm sáng tỏ mệnh lệnh khác thường của Chúa Giêsu mà Người đã ban cho các môn đệ trong bài phúc âm hôm nay:

"Vào bất cứ nhà nào, trước hết các con hãy nói, 'Bình an cho nhà này. ' Nếu một người yêu chuộng bình an sống ở đó, lời chúc bình an của các con sẽ ở với họ; nếu không, hãy lấy lại lời chúc bình an.”

5. Bước ra khỏi tâm bão

Khi gió của cơn bão nhiệt đới lên quá 75 dặm một giờ, người ta gọi nó là "typhoon" (bão lớn) khi xảy ra ở Thái Bình Dương, và gọi là "hurricane" (cuồng phong) khi xảy ra ở Đại Tây Dương.

Để có một ý niệm thế nào là trận cuồng phong, hãy tưởng tượng ra đĩa "frisbee" với một lỗ hổng ở giữa. Bây giờ, thử tưởng tượng đĩa ấy lớn dần cho tới khi nó rộng đến 100 dặm và lỗ hổng ở giữa rộng đến 10 dặm. Và rồi hãy tưởng tượng cái đĩa khổng lồ ấy xoay tròn với tốc độ 100 dặm một giờ.

Đó là cơn cuồng phong hay cơn bão. Phần đáng chú ý của cơn bão là tâm điểm của nó-cái lỗ hổng ở giữa đĩa "frisbee." Mặc dù gió lốc đang gào thét chung quanh tâm bão với tốc độ 100 dặm một giờ, nhưng ở tâm bão thì lại êm ả. Không có một chút gió lốc. Nếu bạn đứng trong tâm bão và nhìn lên, bạn sẽ thấy bầu trời xanh và ánh nắng chói chang.

Tâm bão là một hình ảnh tốt để nói lên điều Đức Giêsu nhắn nhủ chúng ta trong Tiệc Thánh Thể, khi chúng ta quy tụ để chia sẻ bữa tiệc ấy vào mỗi Chúa Nhật.

Có biết bao cơn bão chung quanh chúng ta ở trong thế giới này. Con người gào thét và lấy của nhau; các nhóm dấy loạn và cướp bóc; quốc gia này đánh nhau với quốc gia khác. Tuy nhiên, ở bàn Tiệc Thánh Thể thì lại êm ả. Chúng ta nhìn lên và thấy bầu trời xanh cùng ánh nắng chói chang. Chúng ta đang ở tâm bão. Chúng ta vui hưởng "bình an của Đức Kitô.” Đức Giêsu ban cho chúng ta sự bình an này không phải để chúng ta ở mãi trong đó, nhưng để bồi dưỡng trong giây lát. Cũng như tâm bão chỉ kéo dài chừng một giờ đồng hồ khi bão đi qua, bữa Tiệc Thánh Thể cũng chỉ khoảng một giờ. Đức Giêsu không bao giờ muốn chúng ta ở mãi trong tâm bão. Người muốn chúng ta đi vào cơn bão. Đức Giêsu muốn từ bàn Tiệc Thánh Thể, chúng ta tiến bước để trở nên tâm bão giữa các trận cuồng phong của thế gian. Người muốn chúng ta chia sẻ sự bình an của Người, mà chúng ta được cảm nghiệm trong Thánh Lễ, với toàn thế giới.

6. Tình yêu: còn và mất

Jimmy Durante là một diễn viên hài nổi tiếng của nước Mỹ. Sau Thế chiến Thứ Hai, người ta đã mời ông tham dự trình diễn văn nghệ phục vụ các cựu chiến binh. Ông cho ban tổ chức biết là lịch diễn của ông rất sát nên ông chỉ có thể tham gia diễn trong vài phút. Nếu không có gì bất tiện thì ông sẽ độc diễn một đoạn ngắn rồi đi ngay.

Khi ông diễn xong, khán giả nồng nhiệt vỗ tay tán thưởng, càng lúc càng lớn. Tiếng vỗ tay kéo dài thật lâu đến gần nửa tiếng đồng hồ. Sau khi tiếng vỗ tay chấm dứt, ông cúi chào khán giả và rời sân khấu và tỏ ý ở lại diễn tiếp.

Có người hỏi ông:

- Tôi ngỡ là ông đi ngay sau khi diễn xong. Có chuyện gì thế.

- Đúng là tôi định đi ngay, nhưng anh hãy nhìn vào hàng ghế đầu sẽ biết điều gì giữ tôi ở lại lâu thế.

Thì ra ở hàng ghế đầu có hai người đàn ông cụt tay. Một người mất tay mặt, người kia mất tay trái. Họ cùng nhau vỗ tay, vỗ tay nhau!

Họ cụt tay vì đã cầm súng, nhưng tình yêu đã hàn gắn lại tất cả.

Tin Mừng được loan báo cho một nhân loại đã bị thương tích bởi hận thù. Tin Mừng đó là sự bình an được tình yêu Chúa mang đến cho nhân loại, như là phương thuốc chữa lành: “Các ngươi hãy vui mừng với Giêrusalem (…) Vì chưng Chúa phán thế này: ‘Ta sẽ làm cho sự bình an chảy đến nó như con sông …’” (Is 66, 12)

Vâng, người ta đánh mất nhiều nhất khi đánh mất tình yêu.

7. Bằng không, bình an lại trở về với các con

Nước Bồ Đào Nha có vua Denis. Một anh lính hầu của vua ghen với bạn nên đã vu cáo bà hoàng hậu là thánh Êlizabeth tốt lành đã có mối tình vụng trộm với anh bạn đó. Để trừng phạt, vua sai tên tiểu hầu bị ông nghi ngờ đến một lò vôi, chú vui vẻ ra đi mà không biết mình sắp gặp nguy hiểm, vì người thợ nung lò vôi được lệnh quăng vào lò vôi bất cứ ai đến đầu tiên.

Trên đường đi, chú tiểu hầu dừng lại ở một nhà thờ để dự lễ, và vì lễ được cử hành nửa chừng nên chú ở lại dự lễ thứ hai cho trọn lễ. Trong khi đó nhà vua lại sai tên lính hầu độc ác đến lò vôi để xem tình hình, và chính anh ta phải chịu hậu quả do mưu độc của mình.

Sau khi thấy được bàn tay quan phòng của Chúa giữ gìn người tốt lành, ông biết lỗi và thay lòng đổi dạ nên tốt lành hơn.

Bàn tay Chúa giữ gìn người rao giảng Tin Mừng trong mọi nguy hại. “Chúng ta biết rằng Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người.” (Rm 8,28); nhưng có nguy hại nào sánh được với mối lợi lớn lao Chúa hứa ban: “không có gì có thể làm hại được các con; nhưng hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời” (Lc 10, 20)

8. Chiên giữa sói rừng

Trần Hằng, quyền thần thời Xuân thu, giết vua Giản Công nước Tề, lập vua Bình Công. Lúc giết vua xong, Trần Hằng sai sáu dũng sĩ đến bắt Tử Uyên Thê phải theo mình.

Tử Uyên Thê nói: “Nhà ngươi muốn cho ta vào đảng, ý hẳn cho ta là “trí” chăng, nhưng bầy tôi giết vua mà không cản được, ta chẳng phải là trí; cho ta là “nhân” chăng, nếu thấy lợi mà phản nước, ta chẳng phải là nhân; cho ta là “dũng” chăng, nhưng đem binh đến ăn hiếp ta, ta sợ mà theo ngươi, ta cũng chẳng phải là dũng.

“Vì bằng ta không có ba điều ấy, ta về phe với ngươi thì có bổ ích gì cho ngươi. Ví bằng ta có ba điều ấy, thì đời nào ta theo ngươi mà ngươi dỗ.”

Trần Hằng bèn tha Tử Uyên Thê. (Cổ học tinh hoa)

Qua câu trả lời đơn giản, Tử Uyên Thê đã phô bày ba chữ nhân, trí, và dũng của ông: Không sợ Trần Hằng mà từ chối, đó là dũng; không vì tham lợi mà phản vua, đó là nhân; và khéo léo dùng ngay ba chữ nhân, trí, dũng, để từ chối hợp tác và tố cáo điều sai lỗi của Trần Hằng.

Khi sai các môn đệ đi trước chuẩn bị cho Người, Chúa Giêsu báo trước: “Này Ta sai các con như con chiên ở giữa sói rừng.” (Lc 10,3)

9. Rao giảng bằng đời sống

Năm 1937, Mahatma Gandhi, vị anh hùng dân tộc Ấn Độ nói với các nhà truyền giáo: "Hãy để cho đời sống các ngài nói với chúng tôi như đoá hoa hồng không cần ngôn ngữ, mà chỉ đơn sơ để cho hương thơm của mình toả lan. Cả người mù không nhìn thấy hoa hồng vẫn nhận ra được mùi thơm của nó. Hãy để chúng tôi nghĩ tới sự cao cả của nhân dân của các ngài khi họ toả hương thơm đời sống. Đối với tôi, đó là tiêu chuẩn duy nhất. Tất cả những gì tôi muốn họ làm là sống đời Kitô hữu chứ không phải chú giải nó."

10. Đừng mang

Sau ngày đắc cử, Đức giáo hoàng Phanxicô không đến ở trong dinh thự các giáo hoàng nhưng lưu lại tại căn phòng trong Nhà Trọ Thánh Marta để ở gần các cộng sự viên của mình. Ngài quan tâm tới những người “nghèo nhất, yếu đuối nhất, ít quan trọng nhất." Ngài luôn kêu gọi các tu sĩ đến với những người sống bên lề xã hội.

Người ta nhận ra Đức Phanxicô, sau ba tháng trên ngôi vị giáo hoàng, muốn xây dựng một “Giáo hội nghèo, cho người nghèo” đúng như lý tưởng sống của vị thánh mà ngài đã chọn làm danh hiệu giáo hoàng của mình. Đó cũng là mệnh lệnh mà Chúa Giêsu đã truyền cho các môn đệ khi sai các ông đi truyền giáo. Quả thật thay vì nhắc các ông trang bị đầy đủ các phương tiện vật chất, Chúa Giêsu muốn các ông lên đường với gói hành trang gọn nhẹ: không mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Ngài muốn các ông sống nghèo như chính Ngài đã sinh ra, sống, rao giảng và chết trong khó nghèo.

Chúng ta đang muốn xây dựng Giáo hội nào: giàu cho người giàu? hay nghèo cho người nghèo? Những người nghèo và cô thế cô thân có được cộng đoàn quan tâm giúp đỡ không? Tiền giáo xứ giúp cho người nghèo là bao nhiêu so với tiền xây dựng, tiền tổ chức các cuộc lễ lạy, đình đám?

THỨ HAI - DẤU LẠ GIO-NA

Lời Chúa: Lc 11, 29-32

Khi ấy, thấy dân chúng từng đoàn lũ tụ tập lại, Chúa Giêsu phán rằng: "Dòng giống này là dòng giống gian ác. Chúng đòi điềm lạ, nhưng sẽ không ban cho chúng điềm lạ nào, ngoài điềm lạ của tiên tri Giona. Vì Giona đã nên điềm lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là điềm lạ cho dòng giống này như vậy.

Đến ngày phán xét, nữ hoàng phương nam sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này, vì bà đã từ tận cùng trái đất mà đến nghe sự khôn ngoan của Salomon. Nhưng ở đây còn có người hơn Salomon. Dân thành Ninivê cũng sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này, vì họ đã sám hối theo lời Giona giảng, nhưng ở đây còn có người hơn Giona nữa."

TRUYỆN KỂ

1. Có mù mới hiểu

Một nhóm sinh viên tổ chức tham quan mỏ than Scottish ở nước Anh. Mỗi sinh viên được phát một mũ bảo hộ của thợ mỏ, đằng trước mũ có gắn bóng đèn nối với một bình điện đeo ở thắt lưng.

Người hướng dẫn đưa họ vào buồng thang máy xuống tận đáy hầm than. Tới nơi, ông đề nghị các sinh viên bật đèn trên mũ bảo hộ vì con đường dẫn đến khu khai thác tối đen như mực. Mái vòm chỉ cao một mét hai, nên mọi người phải cúi rạp xuống khi di chuyển. Than được chở trên băng tải và đổ vào các toa trên đường ray.

Ngay trước khi nhóm sinh viên đến khu khai thác, người hướng dẫn nói: “Các bạn hãy tắt tất cả các đèn trên mũ." Mọi người đều làm theo. Không ai thấy gì cả. Mọi vật đều một màu đen. Trong tăm tối, người thợ mỏ nói: “Hãy cố gắng nhìn kỹ vào ngón tay của bạn." Chẳng ai thấy gì cả. Một vài người bắt đầu sợ hãi. Rồi người thợ mỏ nói một câu mà các sinh viên không bao giờ quên được: “Đây là tình trạng của những người mù."

Tất cả các sinh viên đều hiểu ra. Bị mù thì không bao giờ thấy được ánh sáng hoặc bất cứ thứ gì khác. Họ cũng hiểu tại sao những người thợ mỏ lại thích bầu trời trong xanh và ánh nắng rực rỡ của mặt trời.

Chúng ta cũng duyệt lại đời sống của mình, có còn ở trong bóng tối, như anh mù ở thành. Chúng ta tín thác vào Thầy Giêsu, Đấng sẽ kéo chúng ta về sự sáng trong lời cầu: Xin Chúa chữa niềm tin còn u tối… U tối của tội lỗi, của bất toàn và của yếu đuối thân phận của con người… U tối của những suy nghĩ, u tối trong cách hành xử với nhau.

2. Đức Kitô là một mầu nhiệm

Một người đàn ông đến với vị linh mục và muốn thắc mắc các cớ về đức tin, ông nói:

- Làm sao mà bánh, rượu biến thành Mình, Máu Chúa Kitô được?

Linh mục trả lời: - Có gì đâu. Bản thân ông cũng biến thức ăn thành máu thịt ông đấy. Thế thì lẽ nào Chúa Kitô không làm được như vậy?

- Nhưng, làm sao mà Chúa Kitô toàn thể ở trong tấm bánh nhỏ tí được?

- Này, cả vùng trời bao la trước mặt còn nằm gọn trong mắt ông, thì Chúa Kitô cũng vậy đấy.

- Vậy cùng một Chúa Kitô làm sao có thể hiện diện đồng thời ở khắp các nhà thờ?

Lúc bấy giờ linh mục cầm chiếc gương cho ông ấy soi mình vào. Sau đó, ngài thả rơi chiếc gương xuống đất nó vỡ thành nhiều mảnh, rồi nói với kẻ hoài nghi:

- Đấy chỉ có một mình ông thôi, vậy mà ông có thể thấy gương mặt mình trên từng mảnh gương vỡ. Chúa Kitô cũng thế (Willi Hoffsuemmer).

Người đời thường nói: “Mặt trời vẫn có đó nhưng chỉ có những ai không dùng bàn tay che kín mắt mình lại, thì người ấy mới có thể thấy được ánh sáng huy hoàng rực rỡ của nó."

3. Các loại dấu chỉ

Một người đang chạy xe gắn máy trên đại lộ bỗng dừng lại, vì phía trước có dấu chỉ đèn đỏ. Một người bước vào một ngôi nhà thấy một dấu chỉ nên vội dụi tắt điếu thuốc của mình. Dấu đó thế nào? là hình một điếu thuốc bị gạch chéo... Trên đây là những dấu chỉ “nhân tạo." Ngoài ra còn những dấu chỉ “thiên nhiên tạo” nữa, thí dụ đám mây đen bỗng dưng kéo đến là dấu báo trời sắp mưa. Loại thứ ba là những dấu chỉ nhắc ta nhớ đến Chúa. Loại thứ tư là những dấu chỉ Chúa muốn ta làm đề nhắc người khác nhớ đến Chúa. Đố bạn nghĩ ra một số dấu chỉ thuộc loại thứ ba và thứ tư...

Đối với những người quanh ta: Chúng ta còn được mời gọi trở nên những dấu lạ cho người thời nay để giới thiệu Chúa cho họ. “Một nụ cười, một ánh mắt cảm thông, một bàn tay nâng đỡ... phải chăng đó không là những phép lạ mà lúc nào những người chung quanh cũng đang chờ đợi nơi chúng ta?”

4. Anh đấy sao?

Một trong những cuốn phim hay nhất của Charlot và có lẽ cũng là một trong những cuốn phim hay nhất trong lịch sử điện ảnh, đó là cuốn phim có tựa đề: “Ánh sáng đô thị." Cuốn phim thuật lại một câu chuyện tình giữa một gã lang thang và một cô gái bán hoa.

Nàng là một cô gái mù bán hoa bên vệ đường. Một nhà tỉ phú trong rừng ngày nào cũng dừng lại mua hoa của nàng. Ngày kia, gã lang thang là chàng Charlot cũng dừng lại mua hoa. Cô gái bán hoa tưởng là người tỉ phú. Thế là một giấc mộng đã sớm chớm nở nối kết hai linh hồn. Nàng tưởng mình gặp người mình mơ mộng từ lâu nay. Chàng thì hy vọng sẽ kiếm được tiền để chữa lành tật mù lòa cho nàng.

Nhưng sau đó, chẳng may vì một sự ngộ nhận, chàng bị cảnh sát bắt giam. Sau một thời gian bị cầm tù, chàng được trả tự do. Chàng trở lại chỗ cũ để tìm người con gái mù bán hoa, nhưng không thấy. Nhờ tiền bạc trước kia chàng đã gửi cho, người con gái mù đó đã được chữa lành và hiện đang đứng trông coi một cửa hàng bán hoa rộng lớn hơn. Chàng đi qua đi lại nhiều lần, nhưng không thể nào nhận ra nàng.

Tình cờ, một cánh hoa hồng rơi xuống đất, chàng cúi xuống nhặt. Người con gái thấy vậy thì cười như nhạo báng. Chàng định bỏ đi, nhưng chợt nhận ra tiếng cười rất quen nên chàng quay lại. Chàng hỏi một cách nhút nhát: - Cô đã thấy được rồi sao?…

Người con gái nhận ra tiếng nói rất quen thuộc của chàng. Nàng từ từ nhặt chiếc hoa và gắn lên áo chàng. Và nàng thốt lên trong cảm xúc: - Anh đấy sao?

Thế là cả hai bên đã nhận ra nhau và họ sẽ không bao giờ rời nhau nữa.

Một giọng nói quen thuộc của một người trước kia mới chỉ nghe thấy giọng nói chứ chưa một lần được nhìn thấy bằng mắt, vậy mà qua giọng nói họ đã nhận ra nhau.

5. Dấu chỉ của người Công giáo

Một vị Giám mục kiểm tra khả năng của một nhóm ứng viên xin lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy. Ngài hỏi: - Bằng dấu chỉ nào mà các người khác nhận ra các con là người Công giáo?

Không có tiếng trả lời. Rõ ràng không có ai ngờ một câu hỏi như thế. Vị Giám mục lập lại nhiều lần câu hỏi và lần cuối cùng ngài kín đáo vẽ một dấu Thánh Giá có ý mách nước cho các người dự tòng một câu trả lời.

Bất chợt một ứng viên trả lời: - Đó là “Tình yêu."

Vị Giám mục rất ngạc nhiên! Khi định mở miệng nói “Sai”, nhưng rất may ngài kịp thời ngậm miệng lại.

6. Nhận ra tình yêu Chúa nơi trái dâu

Ông Barty vốn dĩ là người Công Giáo, nhưng không nhận ra ơn Chúa gọi ông, đặc biệt từ khi ông lãnh Bí tích Thánh Tẩy, ông đã được nhận sứ mệnh tư tế, ngôn sứ, vương đế, để ông loan báo kỳ công của Thiên Chúa không thua các tạo vật. Thế mà ông đã vô ơn Chúa sống không lý tưởng, không tìm được ý nghĩa niềm vui trong cuộc sống, dù ông rất giàu có.

Ông muốn tự tử, nhưng sợ không có ai chôn ông, nên ông đã bỏ ra 200.000 dollars để trả công cho người thanh niên, sau khi ông xuống hố nằm mà sáng hôm sau anh chàng không thấy ông bò dậy thì lấy xẻng lấp đất. Nhưng người thanh niên không can đảm làm việc ấy. Ông lại nhờ một Linh mục trẻ giúp ông, nhưng Linh mục ấy cho ông biết: ông tự tử như thế là vi phạm điều răn thứ V, nên Linh mục không thể làm theo yêu cầu ông được. Ông nói lại: Sống không hạnh phúc, chỉ gây u sầu cho những người xung quanh, thì tội ấy nặng hơn tự tử. Ông lại đi thuê một người làm trong Viện Bảo tàng, người này nói với ông: tôi làm trong Viện này, nhìn thấy các vật cổ Chúa đã cho người ta khéo tay để họa lại những kỳ công Chúa thực hiện nơi vạn vật. Tôi cảm thấy mình đang sống trong ơn huệ Thiên Chúa, Ngài đã làm bao nhiêu phép lạ bao phủ lấy tôi. Cho nên tôi không nhận tiền công của ông để chôn sống ông được!

Thế là ông Barty phải tự sát, vì không ai giúp ông chết, ông quàng dây thừng lên cây dâu và thắt thòng lọng để chui đầu vào đó. Nhưng chính lúc ấy, tay ông lại động vào trái dâu chín mọng,ông nếm thử và chưa thấy có trái nào ngọt lịm như vậy, lúc đó ông mới ngộ ra rằng Chúa đâu có phải cho mình một trái dâu, mà Ngài cho cả vũ trụ này, nhất là “Chúa ban Con Một Người, ngõ hầu ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi, nhưng được sự sống đời đời” (Ga 3,16). Thế là ông từ bỏ ý định tự tử.

7. Phải làm việc

Có một truyện vui về một cụ già thấy một con chim sẻ đang nằm chỗng chân lên trời. Cụ già hỏi con chim sẻ: “Tại sao lại nằm như thế?” Chim sẻ nói rằng: “Người ta bảo rằng hôm nay trời sẽ sập.” Cụ già cười ầm lên và nói: “Mình nghĩ là đôi chân bé nhỏ của ngươi có thể chống trời được sao?” Chim sẻ đáp: “Không nhưng tôi phải làm những gì có thể.”

Đến lúc phải loan báo Tin mừng, theo triết lý của kẻ đầu hàng: “Người như tôi thì làm được gì?” Hay theo triết lý của con chim sẻ: “Tôi phải làm những gì có thể.”

Thất bại duy nhất là không chịu cố gắng.

8. Không biết mình

Cha James F. Keenan, Dòng Tên, khai triển một luận đề luân lý rất thú vị rằng “người ta phạm tội vì họ quá mạnh chứ không phải vì họ quá yếu.” Nghịch lý này còn được thấy nơi nhiều trường hợp khác nữa. Thiếu, không phải vì thiếu, mà vì có quá nhiều. Như cá giữa đại dương mà loay hoay đi tìm… nước! Như người Việt Nam ta từng bị mang tiếng là ‘chết trên đống thuốc’ (có ý nói rất nhiều cây cỏ quen thuộc của chúng ta là những vị thuốc quí giá mà ta không ngờ!).

Chung qui, vấn đề nằm ở chỗ hoặc do người ta vô minh, hoặc do bướng bỉnh, hoặc do cả hai. Đây cũng là vấn đề của những người Do Thái thời Đức Giêsu. Họ có điều quí nhất trong tầm tay, nhưng họ không nhận ra, và họ mải kiếm tìm những thứ khác thôi.

Nhìn lại những kinh nghiệm ‘bỏ mồi bắt bóng’ trong cuộc đời mình. Phải chăng chỉ khi sực tỉnh, ta mới thấy rõ rằng mình dại? Ta sẽ đi tìm ánh sáng và sự khôn ngoan đích thực ở đâu, nếu không phải nơi Lời Chúa vốn luôn trong tầm tay ta? Ta sẽ tìm sự sống và sức mạnh tinh thần ở đâu, nếu không phải là nơi Thịt Máu Chúa vốn được trao ban cho ta mỗi ngày?

9. Đổi mới cuộc sống

Một tạp chí đăng hình những tù nhân trong một chương trình cải tạo lao động. Họ đang trùng tu một ngôi nhà. Vài ngày sau, một trong số tù nhân viết cho tờ báo rằng lần cuối cùng anh ta được đăng hình trên báo là lúc anh ta bị kết án. Anh viết: “Thật là niềm vui khi thấy hình mình trên tờ báo đang làm việc tốt. Khi vào tù, tôi giống như ngôi nhà chúng tôi vừa trùng tu. Nhưng Thiên Chúa chịu trách nhiệm về đời tôi và biến đổi tôi thành một người mới trong Chúa Kitô.”

Câu chuyện về dân Ninivê và người tù mời gọi tôi tự hỏi: tôi có sẵn sàng để Thiên Chúa đi vào cuộc đời tôi và đổi mới tôi thành con người mới trong Chúa Kitô không?

Phàm ai ở trong Chúa Kitô đều là thụ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi. (2Cr 5,17)

10. Tình yêu luôn hy vọng

Một truyền thuyết cổ phác họa những gì xảy ra bên ngoài cổng thiên đàng sau ngày tận thế. Nhóm các thánh và những tội nhân thống hối cuối cùng vừa leo lên chiếc thang vàng nối từ đất lên trời. Ngoại trừ Chúa Giêsu, tất cả đều mang tâm trạng phấn khích, ca hát và nhảy múa. Ngài đứng một mình trên đỉnh thang và nhìn xuống trần gian. Rõ ràng là Ngài đang tìm một ai đó. Khi một vị thánh hỏi Ngài tìm ai, Chúa Giêsu nói: “Ta tìm Giuđa, hy vọng anh ta sẽ hoán cải trước khi chết và có thể nhập đoàn với chúng ta.”

Câu chuyện trên nói lên điều gì? Nó nói với tôi điều gì về một con người được yêu thương?

Không có gì là vô vọng, ngoại trừ kẻ trở nên vô vọng về chính mình. (Chare Booth Luce)

THỨ BA - THANH TẨY HỮU HIỆU, CHÍNH LÀ TÌNH YÊU

Lời Chúa: Lc 11, 37-41

Khi ấy, lúc Chúa Giêsu còn đang nói, thì có một người biệt phái mời Người dùng bữa tại nhà ông. Người đi vào và ngồi bàn ăn. Nhưng người biệt phái ngạc nhiên, nghĩ trong lòng rằng tại sao Người không rửa tay trước khi dùng bữa.

Bấy giờ Chúa phán cùng ông ấy rằng: "Này các ông, những người biệt phái, các ông lau rửa bên ngoài chén đĩa, nhưng nội tâm các ông đầy tham lam và gian ác.

Hỡi những kẻ ngu dại, chớ thì Đấng đã tạo thành cái bên ngoài, lại chẳng tạo thành cả cái bên trong sao? Hãy đem những cái bên trong ra mà bố thí, thì mọi sự sẽ nên trong sạch cho các ông."

TRUYỆN KỂ

1. Người chỉ biết đến lề luật

Người Biệt phái tuyệt đối tin vào Lề Luật. Lề Luật làm cho họ nên công chính. Đến nỗi Thiên Chúa chỉ có việc thưởng công khi họ chu toàn Lề Luật. Và họ chẳng cần nhờ gì đến Chúa. Đó là một sai lầm lớn lao. Sai lầm nối tiếp sai lầm. Giữ Lề Luật chỉ cần hình thức bề ngoài là đủ. Làm như Lề Luật là bùa chú. Cứ theo công thức là thành. Vì thế đạo của họ không có nội tâm. Bên trong của họ tội lỗi xấu xa. Lại còn tự kiêu tự mãn.

2. Quan Tâm Ðến Ðiều Cốt Yếu

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy nhóm Biệt phái ngạc nhiên vì Chúa Giêsu không rửa tay trước khi dùng bữa. Họ ngạc nhiên không phải vì Chúa Giêsu không giữ phép vệ sinh, nhưng vì Ngài không giữ luật định, theo đó, trước mỗi bữa ăn phải rửa tay bằng nước chứa trong các chum lớn bằng đá, với một số lượng nước được quy định và qua một cách thức được ấn định. Dưới con mắt người Biệt phái, người nào không giữ luật này, đó là người không xử sự đúng đắn: chẳng những không giữ vệ sinh, mà còn nhơ bẩn trước mặt Thiên Chúa; không rửa tay trước khi dùng bữa sẽ trở nên đối tượng tấn công của quỉ dữ, dẫn đến nghèo đói vì bị phá sản; và bánh ăn với bàn tay không sạch thì chẳng khác gì phân bón.

Vì những lý do trên và những lý do khác tương tư, sách các Rabbi có ghi những mẫu truyện như sau: Một Rabbi nọ không giữ luật rửa tay trước khi dùng bữa chỉ có một lần, thế mà đến lúc chết đã bị chôn cất như một người bị dứt phép thông công. Một Rabbi khác bị người Rôma giam giữ, đã dùng nước uống cung cấp rất hạn chế cho việc thi hành nghi thức rửa tay trước và trong khi dùng bữa, vì thế đã gần phải chết khát, bởi lẽ ông nhất định thà chết khát hơn là chểnh mảng giữ luật rửa tay.

Quan niệm và tâm thức của những người Biệt phái thời Chúa Giêsu coi các phong tục, tập quán, luật lệ là cốt tủy của việc thờ phượng Thiên Chúa và có giá trị như trọng tâm của tôn giáo, do đó những ý nghĩa cao thượng khác của niềm tin và tôn giáo cũng như những giá trị luân lý quan trọng hơn hầu như bị chôn vùi dưới lớp bụi dầy đặc của những luật lệ rườm rà tỉ mỉ; tâm thức này đưa họ đến việc giữ đạo vụ hình thức. Câu trả lời của Chúa Giêsu hướng con người vào những giá trị bên trong, quan tâm đến điều cốt yếu là sự trong sạch của lương tâm và tâm hồn.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta duyệt xét lại cách thức và mức độ giữ đạo và hành đạo của chúng ta. Ước gì chúng ta dần dần từ bỏ những cách thức giữ đạo hình thức, để đi vào chiều sâu của việc sống đạo với một lương tâm trong sạch, một tâm hồn quảng đại và ý hướng ngay lành.

3. Chọn điều cốt yếu

Trong chuyến viếng thăm mục vụ tại Brasil thuộc Châu Mỹ Latinh vào năm 1980, Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã để lại một ấn tượng hết sức đẹp, đó là: ngài đã tháo chiếc nhẫn vàng Giáo Hoàng của mình để tặng cho người dân nghèo ngoại ô thành phố Rio de Janeiro. Tuy nhiên, qua sự kiện này đã làm cho nhiều người đi cùng với ngài tỏ vẻ không hài lòng!

Hôm nay, Tin Mừng cũng thuật lại một nghĩa cử hết sức lạ thường của Đức Giêsu, đó là: Ngài đã sẵn sàng đáp lại lời mời của một người trong nhóm Pharisêu vốn đã không thích gì Đức Giêsu và giáo huấn của Ngài, để đến dự tiệc tại gia đình ông, mặc cho nhiều người chống đối, xầm xì.

4. Lòng tốt nâng cao tầm đạo đức

Một bà mẹ lo lắng nhiều cho đứa con trai không đi nhà thờ, mà lại đi theo những bạn bè xấu và còn tỏ ra bất mãn mọi chuyện. Bà mẹ đau khổ này đã tìm mọi cách để đưa con về con đường tốt, nhưng tất cả đều vô ích. Vào một ngày Chúa nhật, bà nảy ra một ý tưởng. Gọi đứa con trai lại, bà nói: “Con làm ơn giúp mẹ một chuyện. Hãy đem gói đồ này đến cho gia đình ở căn nhà trong khu phố đối diện với chúng ta. Nếu con làm cho mẹ việc này, mẹ hứa sẽ không bao giờ quấy rầy con nữa."

Có lẽ để khỏi nghe tiếng mẹ giảng dạy, la rầy, chàng thanh niên đã nhận làm điều mẹ anh yêu cầu. Anh đi đến địa chỉ như mẹ dặn, bước vào một căn nhà nghèo nàn và bỡ ngỡ đến tột điểm, anh đã khám phá thấy một người đàn bà đau ốm chỉ còn da bọc xương với ba đứa con nhỏ, rách rưới, lem luốc, đang than khóc, kêu la vì đói. Chàng thanh niên trao vội gói đồ và muốn nhanh bước rút lui. Nhưng người đàn bà đã gọi giật anh trở lại, và qua giọng yếu ớt bà thều thào: “Cậu ơi! Cậu không thể đi ngay được khi tôi chưa kịp cám ơn cậu. Cậu là ơn quan phòng Chúa gửi đến cho chúng tôi. Xin Ngài trả ơn cho cậu."

Chàng ra về với tấm lòng bị cảm xúc mạnh. Ngày hôm sau, anh trở lại nhà bà mẹ đang bị đau ốm với đàn con nheo nhóc hôm qua với một gói quà khác, mà anh đã mua với chính tiền của anh. Và sau khi trao quà, anh còn ở lại chơi với mấy đứa nhỏ. Kể từ đó, chàng thanh niên đã thay đổi cuộc đời, vì lòng nhân hậu đã làm anh mỗi ngày hiểu được ý nghĩa của cuộc sống và nhờ đó anh cảm thấy hạnh phúc hơn

5. Cần thanh tẩy cõi lòng

Có hai vị thiền sư trên đường về tu viện sau một cơn mưa, tình cờ họ gặp một cô thiếu nữ xinh đẹp đang đứng trước vũng sình to lớn chắn lối đi. Thấy vậy, một trong hai vị liền cõng cô trên vai rồi lội qua vũng sình để qua bên kia bờ. Vị tu sĩ cùng đi chung thấy cảnh tượng đó lấy làm khó chịu và cho đó là một gương mù gương xấu.

Suốt hai tiếng đồng hồ ông ta trách mắng vị tu sĩ đã cõng người con gái qua vũng sình bùn, vì làm như thế là đã phá giới của đạo rồi. Ông nói với vị tu sĩ kia rằng: “Thầy không biết mình là người tu sĩ sao? Tại sao thầy dám đụng đến một người phụ nữ. Hơn nữa, khi thầy cõng cô ta qua vũng sình lầy như vậy dân chúng thấy sẽ suy nghĩ như thế nào? Họ còn tin vào đạo nữa không?”

Vị tu sĩ bị mắng vẫn kiên trì lắng nghe, cuối cùng ông ta đáp lại rằng: “Thưa thầy, tôi đã để cô gái ở lại bên bờ kia rồi, còn thầy mới chính là kẻ cõng cô gái đó trong lòng mình."

6. Hoàng đế cởi truồng

Một ông vua kia rất ham mặc áo quần đẹp. Hai tên lưu manh đến gạ gẫm: “Chúng tôi có thể dệt và may cho bệ hạ một bộ áo rất đặc biệt từ xưa tới nay chưa ai từng thấy. Nhưng áo này phải dệt bằng vàng."

Vì quá ham bộ áo đặc biệt ấy, nhà vua đưa cho hai tên ấy hết túi vàng này tới túi vàng khác. Thực ra chúng chẳng may gì cả. Rồi một hôm hai tên lưu manh cho biết áo đã may xong, mời nhà vua mặc thử. Chúng chỉ làm cử điệu tay chân như đang mặc áo cho nhà vua. Khi chúng cho biết đã mặc xong, nhà vua hỏi các quan chung quanh “Áo ta có đẹp không?” Ai nấy trầm trồ khen nức nở. Quá phấn khởi, nhà vua bảo quân hầu kiệu ngài ra các đường phố để khoe áo đẹp. Dân chúng hai bên đường cũng nức nở khen.

Nhà vua rất sung sướng. Bỗng nhiên một đứa trẻ hô lớn: “Ông vua ở truồng! Ông vua ở truồng!" Nhà vua nhìn lại mình và mới biết mình đang ở truồng thật.

7. Nhân đức tỏa hương

Ngày kia, Nữ hoàng Shaba gởi đến vua Salomon hai bó hoa rất giống nhau, để thử xem sự khôn ngoan của ông tới đâu. Đó là một bó hoa thật và một bó hoa giả.

Nhận được hai bó hoa, nhà vua bèn mở cửa sổ cho bầy ong bướm bay vào. Tức thì các chú ong và các nàng bướm liền sà ngay xuống những bông hoa thật.

Những bông hoa giả có sắc mà chẳng có hương, có bóng hình mà không có sự sống.

Những kẻ giả hình cũng như thế: nói nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu. Thậm chí, chỉ nói suông mà không có thực hành. Họ dung túng cho mình nhưng lại nghiêm khắc với kẻ khác.

Người giả hình có nhiều tật xấu khác mà Đức Giêsu không tiếc lời chỉ trích. Chắng hạn, tính khoe khoang công đức, thích ăn trên ngồi trước, ưa được kính trọng chào hỏi nơi công cộng, và muốn người ta gọi mình là “thầy."

8. Yêu người khác như chính mình

Vào một đêm trời lạnh năm l980, thanh niên Paul Keating 27 tuổi đang đi bộ trong khu Greenwich Village, bỗng thấy có hai tên cướp có súng tấn công một sinh viên trẻ tuổi.

Paul Keating là một người hiền lành, thợ chụp ảnh cho tuần báo Time, có đủ lý do để tránh đi cho khỏi vạ lây. Anh ta không hề quen biết chàng sinh viên đó, lại cũng chẳng ai thấy việc gì xảy ra. Hơn nữa, anh ta chỉ có một thân một mình, can thiệp vào chẳng được lợi gì mà còn có thể bị hại. Nhưng Paul Keating vẫn xông vào đánh hai tên cướp. Nhờ đó nạn nhân thoát được và đến một cửa hiệu gần đó kêu cứu. Vài giây sau, hai tiếng nổ vang lên trong đêm tối, hai kẻ cướp chạy mất, bỏ lại Paul Keating nằm chết trên vũng máu.

Thành phố New York về sau đã truy tặng huy chương anh dũng cho Paul Keating. Thị trưởng Edward Koch trong buổi lễ nói:

- Đêm hôm ấy không ai thấy Paul Keating cả. Cũng không ai thúc đẩy anh ta phải xông pha vào lúc nguy biến. Anh ta đã can thiệp vì con người anh ta là như vậy, và chỉ có Thiên Chúa, Ngài biết rõ bên trong tâm hồn của anh ta.

9. Người cứ luật

Nghi thức thanh tẩy như rửa tay trước khi ăn, đối với những người Pharisêu thật quan trọng. William Barclay mô tả những qui định về việc rửa tay này thật tỉ mỉ: phải dùng thứ nước dành riêng cho nghi thức này, phải đổ nước từ đầu ngón tay cho tới cổ tay, phải dùng tay này nắm lại kỳ cọ lòng bàn tay kia, sau đó lại đổ nước, lần này từ cổ tay đến đầu ngón tay. Nếu sai sót một chi tiết nào đều là có tội. Ông Pharisêu này “lấy làm lạ” vì Chúa Giê-su không rửa tay, bởi ông coi điều phụ tuỳ như điều chính yếu, coi hình thức bên ngoài thay thế tâm hồn bên trong.

Mời Bạn: Lắm khi, chúng mình chẳng khác gì ông Pharisêu này. Có một cái gì đó rất “Pharisêu” ở trong chúng ta. Chúng mình làm một việc gì đó được coi là đạo đức, như lần chuỗi, đi lễ, rước lễ, làm việc từ thiện chẳng hạn, và chúng mình dò xét thấy người khác không làm việc đó hoặc làm không giống mình. Thế là ta vội qui kết người đó là tội lỗi hay ít là không đạo đức bằng chúng ta. Như thế không phải là có một ông Pharisêu đang “ngự” trong lòng mình đó sao?

10. Thấy điều cần thấy

Một học giả Tây phương khoe khoang với một người Ảrập về sức mạnh của viễn vọng kính. Người Ảrập chăm chú lắng nghe. Khi học giả ngừng nói, người Ảrập lên tiếng: “Người Tây phương các ông thấy hàng triệu tinh tú và không thấy gì khác nữa. Còn người Ảrập chúng tôi, chúng tôi chỉ thấy một số tinh tú và Thiên Chúa.”

Tôi có thể là người Tây phương chỉ thấy hàng triệu tinh tú và không thấy gì khác nữa không? Tôi có học để thấy Đấng Tạo Hóa xuyên qua các tinh tú không?

Mặt trời quá lớn đến độ có thể chứa được cả triệu trái đất. Có nhiều ngôi sao trong không gian cũng quá lớn đến độ có thể chứa được năm trăm triệu mặt trời (Morris Mandell)

11. Luật lệ và tâm hồn

Nghi thức rửa tay bắt đầu bằng việc đổ nước trên đầu ngón tay, rồi trên ngón tay, và cuối cùng trên cổ tay. Nghi thức này bắt đầu kết thúc bằng cách làm ngược lại, tức là đổ nước trên cổ tay, rồi đến ngón tay và đầu ngón tay. Chúa Giêsu không để ý đến những nghi thức như thế. Ngài không quan tâm đến những nghi thức cho bằng giáo huấn của Thiên Chúa qua việc chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ, cho kẻ mình trần áo che thân (Is 58, 7)

Trong việc thực hiện đức tin tôi chỉ chú tâm đến chuyện đi nhà thờ và tuân giữ luật lệ thôi chăng?

Khi nghe chúng ta nói lời Thiên Chúa, người ta kinh ngạc vì vẻ đẹp và sức mạnh của lời Chúa. Nhưng khi thấy Lời Chúa ít có ảnh hưởng đến cuộc sống hằng ngày của chúng ta, họ sẽ cười nhạo những gì chúng ta nói ra.

12. Dấu hiệu của đức ái

Hầu như tất cả chúng ta đều nhớ đến kiến thức hóa học từ hồi trung học này: giấy quỳ sẽ hóa đỏ khi đặt vào dung dịch axit. Nói khác đi, giấy quỳ hóa đỏ là dấu hiệu cho thấy axit hiện diện. Đức tin và đức ái một cách nào đó cũng như giấy quỳ khi giờ cứu rỗi đến. Nói khác đi, đức tin được đồng hành với tình yêu là dấu hiệu cho thấy ơn cứu rỗi hiện diện.

Dùng đức tin và đức ái như việc thử nghiệm bằng giấy quỳ, sự cứu rỗi hiện diện thế nào trong đời tôi?

Giả như có người anh em hay chị em cần giúp đỡ, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no, nhưng lại không cho họ những gì cần thiết, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết. (Gc 2, 15-17)

13. Tôi có và tôi là

Nhu cầu làm sạch là nhu cầu thiết yếu của con người. Trong điều kiện môi trường ô nhiễm ngày nay, đây lại là vấn đề sống còn. Tẩy rửa, làm sạch là nỗ lực tách những gì dính bám vào làm cho đồ vật đó ra mất đi giá trị, vẻ đẹp nguyên sơ của nó. Trong đời sống tâm linh, cũng có một nhu cầu tương tự. Người Do Thái rất coi trọng nghi thức thanh tẩy để giữ mình khỏi dơ bẩn: họ cẩn thận rửa tay trước khi ăn để khỏi bị ra nhơ uế. Nhưng những thực hành đó chỉ là dấu chỉ bên ngoài, làm sao người ta có thể dùng để thanh tẩy tấm lòng là thứ nằm sâu bên trong được?

Phương thế mà Chúa Giêsu dạy là hãy đem “bố thí” tất cả những gì ở bên trong thì mọi sự sẽ nên trong sạch. Bởi vì Đấng làm ra cái bên ngoài cũng là Đấng đã làm ra cái bên trong.

Thanh tẩy đích thực được Chúa Giêsu gọi tên là “bố thí” có nghĩa là gỡ bỏ mọi thứ vỏ bọc, tức là những thứ “TÔI CÓ”,-đó là tiền của, chức quyền, địa vị,v.v…-đang bám dính quá chặt vào linh hồn tôi đến độ tôi tưởng lầm đó là cái “TÔI LÀ”, là con người thật của tôi.

Thanh tẩy là cho đi, là chia sẻ, để trả lại vẻ đẹp rực rỡ của linh hồn mà Chúa đã tạo dựng từ thuở ban sơ, để dâng cho Ngài chính bản thân mình trinh nguyên như thuở ban đầu.

14. Đẹp từ trong ra ngoài

Ca dao có câu: “Sông sâu còn có kẻ dò, nào ai bẻ thước mà đo lòng người." Quả thật, người ta có thể đo đạc được biển sâu, núi cao, đo cả đến những vì sao xa lắc xa lơ; thế nhưng lòng người thì không có thứ máy móc chuyên dụng nào có thể đo được. Lòng người thật bí hiểm và rắc rối, khôn dò. Vì thế, đã có lắm trường hợp vì cả tin mà phải thiệt của, hay thậm chí thiệt thân. Thế nhưng, người ta quên rằng có một Đấng đo được lòng người, dù nó được ngụy trang khéo léo đến đâu, Đấng ấy là Thiên Chúa. Đức Giêsu nhắc ta nhớ rằng Thiên Chúa nhìn thấu suốt tâm can, và Ngài muốn ta, bên cạnh việc cố gắng làm đẹp phong cách bên ngoài, cũng hãy thanh tẩy tâm hồn bên trong khỏi những tư tưởng ô uế, gian tà.

Hãy chú ý đến việc làm đẹp nội tâm bằng hai cách:

1/ loại trừ những tư tưởng ích kỷ, chỉ tìm niềm vui cho mình;

2/ nuôi dưỡng tâm tình yêu mến, quảng đại.

Tôi có tìm cách làm đẹp phong cách, dáng vẻ bên ngoài, mà ít quan tâm đến việc làm đẹp tâm hồn bên trong không?

THỨ TƯ – CHÚA GIÊSU DẠY CẦU NGUYỆN

Lời Chúa: Lc 11, 1-4

Ngày kia, Chúa Giêsu cầu nguyện ở một nơi. Khi Người cầu nguyện xong, có một môn đệ thưa Người rằng: "Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông.”

Người nói với các ông: "Khi các con cầu nguyện, hãy nói: "Lạy Cha, nguyện danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ.”

TRUYỆN KỂ

1. Chúa dạy các môn đệ Kinh Lạy Cha

Thời Chúa Giêsu, mỗi nhóm tín ngưỡng có một bài kinh riêng, đặc trưng của nhóm mình. Bài kinh mà Chúa Giêsu sắp dạy cũng là đặc trưng của Kitô giáo. Kinh Lạy Cha là lời cầu nguyện tuyệt vời nhất được chính Chúa Giêsu dạy cho chúng ta.

Còn gì hạnh phúc bằng khi chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha. Khi đã ở trong tương quan Cha – con, thì trước hết, chúng ta phải nghĩ đến danh Cha và Nước Cha. Còn nhu cầu của chính chúng ta chắc chắn Cha chúng ta sẽ lo liệu. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải trình bày lên Cha sự thiếu thốn mọi mặt của chúng ta trong sự khiêm tốn và phó thác.

2. Lạy Cha chúng con...

Có một Giám mục trên đường kinh lý giáo phận, ghé thăm một bà lão. Người ta nói bà là tấm gương cho cả làng soi chung. Trong khi thăm, vị Giám mục hỏi:

- Bà thường đọc sách đạo đức nào nhất?

- Thưa Đức Cha, con không biết đọc – bà cụ trả lời. Nghe thế vị Giám mục hỏi: “Nhưng bà hay cầu nguyện cơ mà”? Thấy vị Giám mục muốn biết bí quyết của mình, bà thật thà thưa:

- Thưa Đức Cha, con chỉ biết tràng hạt thôi: kinh Lạy Cha, kinh Kính mừng và kinh Tin kính. Mỗi ngày con khởi sự đọc tới 10 lần, nhưng thường thì con không đọc xong.

- Tại sao thế? – Bà cụ thưa: “Tại vì khi bắt đầu đọc: Lạy Cha chúng con... con không hiểu tại sao Chúa có thể tốt lành đến mức cho phép một bà già hèn mọn như con được gọi Ngài là Cha. Điều đó làm con bật khóc và rồi con không thể nào đọc tiếp hết chuỗi được.” Nghe thuật lại kinh nghiệm trên, vị Giám mục khuyến khích:

- À, này bà cụ, đó là lời cầu nguyện giá trị bằng tất cả những lời cầu nguyện của chúng tôi. Bà cứ tiếp tục cầu nguyện theo câu đó nhé!

3. Có chúa là Cha

Một cậu bé bệnh nặng sắp chết. Cha cậu bé hỏi:

- Con sợ chết không con?

- Thưa ba, không, nếu như Thiên Chúa cũng giống như ba, cậu đáp (“Sunday school Times”)

4. Tình cha

Thái tử Absalom nổi loạn định lật đổ cha là Đavít. Nhưng quân đội của Đavít đã phản công và giết chết Absalom. Khi một người lính từ chiến trường trở về vui mừng báo tin cái chết của kẻ phản loạn, Đavít đã xé áo mình ra và kêu lên thảm thiết “Absalom con ơi, Absalom con ơi. Phải chi cha được chết thay cho con!”

5. Tình cha – con –anh em

“Người con gái của Karl Marx có lần tâm sự với một người bạn: “Tôi lớn lên mà không hề biết đến bất cứ tôn giáo nào. Tôi cũng không tin tưởng Thiên Chúa. Thế rồi tình cờ tôi đọc được một quyển sách trong đó có lời kinh khác lạ. Tôi đọc hết lời kinh ấy và tự nhủ: nếu quả thật Thiên Chúa của lời kinh đó hiện hữu, tôi nghĩ rằng tôi có thể tin Ngài được.” Người bạn hỏi cho biết đó là lời kinh nào. Người con gái của Karl Marx mới từ từ đọc lại Kinh Lạy Cha (...) Tình cha con và tình anh em được Chúa Giêsu mặc khải qua kinh Lạy Cha. Sống với Cha trong tình phó thác, với anh em trong tình bác ái”

6. Cầu nguyện và làm việc

Một bác chèo đò chở một thanh niên trên chiếc thuyền của mình. Chiếc thuyền có hai mái chèo. Trên một mái chèo có chữ “cầu nguyện”, trên mái chèo kia có chữ “làm việc.” Chàng thanh niên nói với giọng châm biếm:

- Nếu đã làm việc thì cần gì phải cầu nguyện nữa.

Bác lái đò chẳng nói gì, buông tay không chèo mái “cầu nguyện” nữa, chỉ chèo bằng mái chèo “làm việc.” Chiếc thuyền cứ quay vòng vòng chẳng tiến được chút nào cả. Khi ấy chàng thanh niên hiểu rằng ngoài mái chèo “làm việc” còn cần thêm mái chèo “cầu nguyện” nữa thì thuyền đời mới tiến được.

7. Kinh Lạy Cha và thực tế cuộc sống

Một lần kia cùng dự Thánh lễ với một nhóm sinh viên, tôi cầm lòng cầm trí đọc chung Kinh Lạy Cha với họ, và bỗng cảm thấy những điều Chúa Giêsu bảo tôi xin chứa đựng rất nhiều ý nghĩa:

- Lạy Cha chúng con…: tất cả chúng tôi đang ở đây đều có một người Cha chung.

- Nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đền, ý Cha thể hiện…: nhưng chỉ có một nhóm nhỏ này được biết Cha, còn biết bao nhiêu sinh viên học sinh khác nữa…

- Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày: tôi nghĩ đến những bạn chung quanh. Họ ăn cơm tháng, mỗi tháng chỉ hơn 100 ngàn, đồ ăn rất đạm bạc, buổi sáng thường nhịn đói.

- Và tha nợ chúng con: họ là những người trẻ, nhiều sai sót lỗi lầm, nhiều tội..

- Xin cớ để chúng con sa chước cám dỗ: có biết bao cám dỗ vây quanh họ, trong trường học, ngoài xã hội, ở chợ đời…

8. Cầu nguyện là việc cần thiết

Một thanh niên Scotland làm mướn cho gia đình khá giả, nhưng hai tuần sau, anh xin nghỉ. Một người bạn hỏi:

- Có phải công việc quá nặng không?

- Không.

- Hay lương thấp?

- Không, lương cao.

- Có lẽ thức ăn không hợp với anh?

- Thức ăn rất ngon.

- Thế sao anh nghỉ việc?

- Tại vì "Nhà đó không có mái che.”

Ở Scotland, thành ngữ đó ám chỉ không có sự cầu nguyện trong gia đình.

9. Cầu nguyện và nhận biết Chúa

Một nhà truyền giáo đến kiểm tra trình độ giáo lý một bà già 73 tuổi để bà được nhập đạo

- Đức Kitô là ai?

- Là người đã chết cho con.

- Người chết thế nào?

- Con không biết.

- Ai là môn đệ đức Kitô?

- Con không nhớ. Con không biết chữ.

- Bà có biết một cuốn sách Thánh Kinh nào không?

- Thưa không. Với người mù chữ...

Đức Kitô sống ở nước nào ?

Bà không trả lời được.

Nhà truyền giáo dừng lại. Bà già tỏ vẻ đau khổ vô cùng.

Người hướng dẫn cho bà nói: "Bà này là người rất vững tin luôn có mặt trong các buổi phụng vụ, dù ở cách xa đó 3 dặm. Bà luôn sẵn lòng cho đi những gì có thể. Trước đây tính khí thất thường, nhưng từ ngày học đạo, bà trở nên hiền hoà và rộng lượng. Mọi người đều thấy thế." Nhà truyền giáo nhìn người đàn bà 73 tuổi. Bà chẳng còn sống bao lâu nữa, một năm cũng khó. Và ngài quyết định tiếp tục:

- Thiên Chúa là ai ?

- Thiên Chúa là Cha trên trời.

- Thiên Chúa ở đâu?

- Con ở đâu, Ngài ở đó.

- Bà có hay thưa chuyện với Ngài?

- Rất thường. Làm việc ngoài đồng hay làm bữa trong nhà lúc vui cũng như lúc buồn, con đều thân thưa với Chúa. Lúc có nhiều chuyện, con nói lâu. Khi có ít, con nói vắn hơn. Có gì trong lòng, con đều trình bày với Ngài hết. Và lòng con thấy rộng mở.

10. Xao lãng cầu nguyện

Một phụ nữ kia có một giấc mơ kỳ lạ: Một thiên thần đưa bà ta đến nhà thờ để làm việc thờ phượng. Người chơi organ dạo đàn, những phím đàn lên xuống, những chẳng nghe thấy tiếng nhạc. Bài thánh ca được hát lên, nhưng cũng chẳng nghe được lời nào. Cộng đoàn tín hữu cầu nguyện, nhưng cũng không nghe thấy âm thanh gì. Người phụ nữ quay về phía thiên thần và hỏi: “Tại sao tôi không nghe thấy gì?” Thiên thần trả lời: “Chẳng có gì để nghe cả.”

Tôi có cố gắng thờ phượng Thiên Chúa một cách tin tưởng không những bằng môi mìệng, mà bằng con tim và cuộc đời tôi không?

Vấn đề của thế kỷ 19 là Thiên Chúa đã chết. Còn vấn đề của thế kỷ 20 là con người đang chết dần chết mòn (Erich Fromm)

11. Biết luật mà không giữ

Tháng 9.2007, Tòa án tối cao tại Hải Phòng đã tuyên án một Giám đốc Sở cùng với 6 cán bộ nhà nước về tội lợi dụng chức quyền trong quản lý đất đai làm thiệt hại 14 tỉ đồng. Thêm nữa, trong vụ “đề án 112” một Phó chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ và 7 cán bộ khác đã sa lưới pháp luật chờ ngày xét xử. Những việc làm sai trái rành rành của các “Biệt phái” này bấy lâu vẫn được che đậy bằng “những lớp vải thưa” hòng bịt mắt công luận. Chúa Giêsu cũng cảnh báo chúng ta khi Ngài lên án gắt gao thái độ giả hình của các Pharisêu. Là những ‘cán bộ’ đạo đức giả, họ có thể che mắt được người đời, nhưng làm sao họ qua mặt được Thiên Chúa, Đấng thấu suốt cả nơi bí ẩn.

 ‘Nói vậy mà không phải vậy’ là câu nói trên môi miệng nhiều người thời nay, phản ảnh sự thiếu trung thực, giả hình giả bộ, chạy theo cái bề ngoài của thời đại hôm nay. Đồ giả tràn lan khắp thế giới; buôn bán lừa đảo nhau là chuyện cơm bữa; mánh khóe chính trị thì không thời nào bằng...

THỨ NĂM - DÒNG MÁU CỨU ÐỘ

Lời Chúa: Lc 11, 47-54

Khi ấy, Chúa phán: "Khốn cho các ngươi! Hỡi những người xây cất mồ mả các tiên tri, mà tổ phụ các ngươi đã giết chết. Thật, các ngươi làm chứng và tán thành những hành động của tổ phụ các ngươi: vì thực ra họ đã giết các vị tiên tri, còn các ngươi thì xây mồ mả cho họ. Bởi đó mà sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã nói: Ta sẽ sai đến với chúng các tiên tri và các tông đồ, trong số các vị đó, người thì chúng giết đi, người thì chúng bách hại, khiến cho dòng giống này sẽ bị đòi nợ máu của tất cả các tiên tri đã đổ ra từ lúc tạo thành vũ trụ, kể từ máu của Abel cho đến máu của Giacaria, người đã bị sát hại giữa bàn thờ và thánh điện. Phải, Ta bảo các ngươi, dòng giống này sẽ bị đòi nợ máu.

Khốn cho các ngươi! Hỡi những tiến sĩ luật, vì các ngươi cất giữ chìa khoá sự hiểu biết. Chính các ngươi đã không được vào, mà những người muốn vào, các ngươi đã ngăn cản họ lại."

Khi Người phán bảo cùng các biệt phái và tiến sĩ luật những lời đó, thì họ bắt đầu oán ghét Người một cách ghê gớm, và chất vấn Người về nhiều vấn đề, cố gài bẫy Người để may ra bắt bẻ được lời gì do miệng Người thốt ra chăng.

TRUYỆN KỂ

1. Dòng Máu Cứu Ðộ

Với lý thuyết: "Người chết không nói", các đối thủ của những người thường dùng bạo lực để thủ tiêu những người can đảm đóng vai trò tiên tri để nói lên sự thật chống lại kỳ thị bất công, bênh vực quyền lợi của những người nghèo khổ. Từ máu Abel, người vô tội đầu tiên đổ ra vẫn luôn nhuộm hồng với máu các tiên tri thuộc mọi màu da, tiếng nói: một Martin Luther King, mục sư chủ trương bất bạo động để tranh đấu cho sự phân biệt và kỳ thị mầu da ở xã hội Mỹ và bị bắn ngã ngày 4/4/1968; hay một Oscar Roméro, vị giám mục thật sự yêu mến người nghèo đã bị ám sát khi đang dâng Thánh Lễ tại một bệnh viện vào chiều ngày 23/4/1980.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cập đến việc lấy máu đào làm chứng cho sự thật nơi các tiên tri, Ngài cũng nói đến việc phải trả nợ máu. Ðoạn Tin Mừng còn cho thấy lòng oán ghét của các Luật sĩ và Biệt phái đối với Chúa Giêsu ngày càng gia tăng, và chính lòng oán ghét này đã dẫn Chúa Giêsu đến cái chết đẫm máu trên Thập Giá, để Ngài thực sự chia sẻ số phận của các tiên tri. Những dòng máu chảy từ thân xác Chúa Giêsu đã không đòi nợ máu, trái lại còn giải nợ máu, bởi vì những dòng máu chảy ra vì tình yêu và vâng phục đối với Chúa Cha, đã phá tan vòng luẩn quẩn của hận thù và oán ghét, qua lời Chúa Giêsu xin Cha tha thứ cho những kẻ hành khổ và xử tử Ngài.

2. Gieo và gặt

Vào năm 70 sau Công nguyên, vị tướng La Mã Titô đem đại quân vây hãm thành Giêrusalem. Ông ra lệnh không được đốt phá.

Thế nhưng, một quân nhân như bị thúc đẩy bởi một sức kỳ lạ đã cầm bó đuốc đang cháy ném vào bên trong đền thờ, lửa bốc cháy nhanh, không chữa được. Sau khi đám cháy tàn lụi, Titô ra lệnh phá hủy thành và đền thờ, ngoại trừ ba lều tháp và một bức tường, để cho hậu lai thấy sự kiên cố của thành đã bị phá. Tất cả những sự việc trên được sử gia Josèphe sống trong thời đó ghi chép lại cho hậu thế...

Ðức Giêsu khóc thương thành vì sẽ có ngày thành huy hoàng bị phá huỷ… Sau này, trong cuộc thương khó, dân chúng đấm ngực và thương khóc khi thấy Chúa Giêsu vác thánh giá. Chúa Giêsu nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi, hãy khóc cho thân phận mình và cho con cháu” (Lc 23,27-28). Ngài yêu thương thành Giêrusalem. Nhưng dân thành cố tình chối bỏ Ngài để chạy theo những mê muội của trần gian. Ngài cảm thấy xót xa khi người ta từ chối tình yêu của Ngài. Ngài đến cho họ tình yêu nhưng họ không đón nhận cho nên họ phải đau khổ. Tất cả mọi sự đã xảy ra như lời Chúa Giêsu đã loan báo: Vào năm 70 sau Công nguyên quân đội Rôma do tướng Titô chỉ huy đã phá hủy và bình địa thành nguy nga này.

Ngày nay, chúng ta cũng như dân thành Giêrusalem ngày xưa: Cố tình chối bỏ Chúa để chạy theo những vật chất, quyền bính danh vọng trần gian. Ðức Giêsu vẫn đang than khóc và đau khổ vì tội lỗi con người...

3. Giá trị con người ở đâu?

Chuyện kể rằng: một người được mời đến dự buổi tiệc lớn. Ông vui vẻ nhận lời và khoác bộ áo xấu nhất. Đến nơi, không ai thèm cười và để ý đến ông. Ông quay về, khoác bộ áo đẹp có đính kim cương và các hạt nút bằng vàng. Trong khi ấy yến tiệc vẫn tiếp tục. Ông quay trở lại, lập tức bao lời mời đẹp nhất, danh dự nhất đều dành cho ông. Thịt béo rượu thơm lúc này được bày ra trước mắt ông và ông được mời chỗ nhất.

Ông liền đứng lên, cởi áo, trèo lên ghế, đoạn lấy thức ăn đưa cho cái áo và nói: “Mày ăn uống đi, người ta mời mày đó." Mọi người hết sức ngạc nhiên, nhưng đều hiểu ý ông này. Ông muốn nói với mọi người rằng: giá trị của con người không ở bộ áo xúng xính hay cái mã bên ngoài, nhưng đó là tấm lòng bên trong, không ở những cái mình có nhưng ở cái mình là.

4. Thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu

Lịch sử còn ghi lại: Năm 66, người Do Thái đã tàn sát những binh lính Rôma trong đồn binh Antônia. Lập tức, hoàng đế Néron gởi tướng Vespasiano với một đạo binh hùng hậu đến Giuđê. Giữa chiến dịch thì Néron chết và Vespasiano lên ngôi hoàng đế. Ông này trao quyền chỉ huy quân đội cho con là Titus. Titus vây hãm thành vào lễ vượt qua năm 70. Jêrusalem, lúc đó đang có khoảng một triệu rưỡi người Do Thái tụ họp lại nhân ngày lễ, bị vây hãm kín mít. Chẳng bao lâu, đói kém xảy ra và mỗi ngày có cả ngàn người chết đói.

Titus trả thù bằng cách cho đóng đinh 300 người Do Thái tại chân núi Sọ, sau đó mỗi ngày lại cho đóng thêm gần 500 người Do Thái. Nhiều người bị mổ bụng vì lính Rôma nghi họ nuốt vàng. Khi đã làm chủ được tình hình, người Rôma cho đốt thành phố lẫn đền thờ. Jêrusalem bốc cháy hai ngày hai đêm. Ngày thứ ba nó chỉ còn là một đống gạch vụn hoang tàn. Hơn 200.000 người bị chôn vùi dưới đó. 97.000 người bị bắt làm nô lệ ở Rôma, và bị bán với giá rẻ mạt cho hí trường để đánh nhau với thú dữ hoặc chiến đấu giết nhau làm trò vui cho người Rôma. 2.000 nhà quí tộc Do Thái phải dự buổi khải hoàn của Titus ở Rôma.

Họ phải mặc áo trắng, phải vác lấy chiến lợi phẩm lớn lao mà người chiến thắng đem về từ Jêrusalem. Khi đến đền Chiếm Thần, thì họ bị giết và đó là lễ đăng quang của cuộc chiến đẫm máu được trả giá bằng mạng sống của hơn một triệu người Do Thái. Sử gia Josephus, một nhà biên niên sử thời đó, người đã kể lại sử truyền này, đã cho rằng những điều kinh tởm của cuộc vây hãm thành Jêrusalem kinh khủng đến nỗi thế giới sẽ không bao giờ chứng kiến những điều như vậy.

5. Thảm họa không tên

Lòng yêu mến Thiên Chúa trở nên cốt yếu cho đời sống linh mục, nếu thiếu tình yêu ấy, đó sẽ là một “thảm họa không tên.” Lòng yêu mến ấy được thể hiện đặc biệt trong cử hành Thánh Lễ, vì theo Cha Sở Thánh Vianney, “tất cả các công việc tốt lành hợp lại không tương đương được với hy tế Thánh Lễ, bởi vì Thánh Lễ là công trình của Thiên Chúa.” Từ đó, Ngài xác tín rằng, “Nguyên nhân sự buông thả nơi linh mục, đó là người ta không chú tâm đến Thánh Lễ! Than ôi! Lạy Thiên Chúa của con! Linh mục thật đáng thương biết bao khi ngài thực thi điều đó như là một điều tầm thường.”

Cử hành Thánh Lễ với lòng mến yêu Chúa sẽ giúp linh mục luôn dâng hy tế cuộc sống của ngài và sẽ giúp đào tạo đức tin của giáo dân. Trong thư gởi các linh mục nhân kỷ niệm 150 năm ngày mất của Cha Sở Thánh, Đức Thánh Cha Bênêđitô quả quyết, bất hạnh thay và cũng chẳng bao giờ chữa lành hết những lở lói trong các giáo xứ có những linh mục thiếu lòng yêu mến Chúa.

6. Thế gian thích xét đoán

Một nhà hài hước nói đại loại thế này: “Nếu tôi cố gắng kiếm tiền, tôi là kẻ tham lam. Nếu tôi không cố gắng, tôi là kẻ lười biếng. Nếu tôi tiết kiệm tiền, tôi là kẻ keo kiệt. Nếu tôi không tiết kiệm, tôi là kẻ vô trách nhiệm. Nếu tôi quảng đại cho đi tiền bạc, tôi là kẻ khờ dại. Nếu tôi bo bo giữ lấy, tôi là kẻ ích kỷ.” Nhà hài hước muốn nói lên điều này: cho gì chúng ta làm gì, thì một ai đó sẵn sàng đưa ra những xét đoán. Vậy phải là gì? Một phụ nữ trả lời: “Hãy bình an với những gì bạn làm và không để ý đến những lời xét đoán xung quanh mà chỉ những kẻ khờ dại mới quan tâm đến chuyện đó.”

Tôi có khuynh hướng xét đoán những người cùng sống và làm việc với tôi như thế nào? Tại sao?

Khi gặp gỡ ai, bạn xét đoán người đó theo cách ăn mặc. Khi rời họ, bạn lại xét đoán người đó qua tâm hồn họ (Ngạn ngữ Nga)

7. Kiên nhẫn trong đường công chính

Chuyên gia về tiềm năng con người là Joel Weldon nói rằng một mầm tre phải mất năm năm mới nảy mầm được. Sau đó, mầm lớn lên một cách nhanh khoảng 30 thước trong 6 tuần lễ. Theo Weldon thì điều này chẳng có gì lạ, bởi vì trong năm năm nằm yên, mầm tre tạo được một bộ rễ với hàng trăm rễ. Chính bộ rễ này gia tăng sức mạnh để cây có thể tăng triển nhanh chóng chỉ trong một thời gian ngắn như vậy.

Sự kiên nhẫn và tự chủ của người trồng tre mời gọi tôi tự hỏi: tôi kiên nhẫn và tự chủ thế nào khi không thấy ngay kết quả của công việc tôi làm?

Anh em… hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới (Gc 5,8)

8. Giả hình là chết từ bên trong

Một phụ nữ kia có một giấc mơ kỳ lạ: Một thiên thần đưa bà ta đến nhà thờ để làm việc thờ phượng. Người chơi organ dạo đàn, những phím đàn lên xuống, những chẳng nghe thấy tiếng nhạc. Bài thánh ca được hát lên, nhưng cũng chẳng nghe được lời nào. Cộng đoàn tín hữu cầu nguyện, nhưng cũng không nghe thấy âm thanh gì. Người phụ nữ quay về phía thiên thần và hỏi: “Tại sao tôi không nghe thấy gì?” Thiên thần trả lời: “Chẳng có gì để nghe cả.”

Tôi có cố gắng thờ phượng Thiên Chúa một cách tin tưởng không những bằng môi mìệng, mà bằng con tim và cuộc đời tôi không?

Vấn đề của thế kỷ 19 là Thiên Chúa đã chết. Còn vấn đề của thế kỷ 20 là con người đang chết dần chết mòn (Erich Fromm)

THỨ SÁU - ÐỪNG SỢ

Lời Chúa: Lc 12, 1-7

Khi ấy, có nhiều đám đông dân chúng đứng chung quanh, đến nỗi chen đạp lẫn nhau, nên Chúa Giêsu bắt đầu dạy các môn đệ trước tiên rằng: "Các con hãy ý tứ giữ mình khỏi men biệt phái, nghĩa là sự giả hình.

Không có gì che đậy mà không bị tiết lộ ra, và không có gì giấu kín mà chẳng biết được. Vì vậy, những điều các con nói trong nơi tối tăm, sẽ được nói ra nơi sáng sủa, và điều các con nói rỉ tai trong buồng kín, sẽ được rao giảng trên mái nhà. "Thầy bảo các con là những bạn hữu của Thầy rằng: Các con đừng sợ chi những kẻ giết được thân xác, rồi sau đó không thể làm gì hơn được nữa. Thầy sẽ chỉ cho các con biết phải sợ ai: Hãy sợ Ðấng, sau khi đã giết chết, còn có quyền ném vào địa ngục. Phải, Thầy bảo các con hãy sợ Ðấng ấy.

"Chớ thì năm con chim sẻ không bán được hai đồng tiền sao? Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa. Hơn nữa, mọi sợi tóc trên đầu các con cũng đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn trọng hơn nhiều con chim sẻ."

TRUYỆN KỂ

1. Các Con Ðừng Sợ

Thánh Justinô là một triết gia nổi tiếng của Kitô giáo vào thế kỷ thứ 2; ngài đã bị bắt giam tại Rôma cùng với một số Kitô hữu khác, vì tội tuyên truyền tôn giáo trong trường học do ngài điều khiển. Ra trước tòa, khi được hỏi về hành động của mình, thánh nhân dõng dạc tuyên bố:

- Suốt đời tôi, tôi đã đi tìm kiếm chân lý; tôi đã nghiên cứu sâu xa các triết lý Ðông Phương, Hy Lạp và Rôma; thế nhưng cuối cùng tôi đã tìm được giáo thuyết chân thật.

Quan tòa liền hỏi giáo thuyết chân thật đó là gì? Thánh nhân giải thích:

- Thưa là giáo thuyết của Chúa Giêsu Nazaret, giáo thuyết này nhằm giải phóng chúng ta khỏi các ngẫu tượng và dạy chúng ta thờ phượng một Thiên Chúa độc nhất, hằng sống và chân thật, là Ðấng tạo thành trời đất, là Ðấng cứu rỗi nhân loại.

Quan tòa lại hỏi: - Vậy ông là một Kitô hữu ư?

Thánh nhân liền tuyên xưng:

- Phải, tôi là một Kitô hữu và tôi lấy làm vinh dự được làm Kitô hữu cùng với các bạn tôi đây.

Quan tòa ra lệnh cho thánh nhân và các bạn của ngài phải tế thần, thánh nhân trả lời một cách cương quyết:

- Chúng tôi không tôn thờ ngẫu tượng, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng tôi là những người vô thần. Chúng tôi thờ lạy một Thiên Chúa thiêng liêng, Cha của Chúa Giêsu. Một người có đầu óc lành mạnh không thể từ bỏ tôn giáo chân thật để chạy theo một tôn giáo giả.

Thấy không thể thuyết phục được thánh nhân bỏ đạo, quan tòa ra lệnh đánh đòn rồi xử trảm thánh nhân và các bạn.

2. Đức Tổng giám mục Oscar Romero

Khi mới lên Tổng Giám mục giáo phận San Salvador, Đức cha Oscar Romero vẫn còn theo lập trường bảo thủ. Nhưng chẳng bao lâu sau, khi nhìn thấy những bất công xã hội, ngài đã thay đổi cái nhìn của mình.

Mỗi ngày Chúa nhật, ngài giảng ở nhà thờ chính toà để tố cáo những tội ác đã diễn ra mà đa số là các viên chức chính phủ. Các bài giảng của ngài như một luồng điện mạnh chạm đến toàn xã hội. Khi ngài nói, hầu như mọi người đều ngưng làm việc để lắng nghe ngài.

Ngài bị đặt vào trong tình trạng bị đe dọa thường xuyên. Một vài bạn bè thân thích của ngài đã bị giết chết. Nhưng ngài vẫn không im tiếng, cũng không lánh đi nơi khác an toàn hơn cho riêng mình. Ngài nói: “Một mục tử chân chính khi thấy nguy hiểm không thể bỏ đoàn chiên để cứu lấy mạng sống mình. Nhưng tôi sẽ ở lại với dân tôi."

Và ngài đã bị chết dưới làn đạn của kẻ thù vào tháng ba năm 1980 đang lúc ngài dâng thánh lễ.

3. Tình yêu thật khó hiểu

Một hôm Đức Ala gọi một Thiên sứ đến và truyền lệnh: “Ngươi hãy xuống trần gian để đưa về đây người đàn bà góa có 4 đứa con thơ." Thiên sứ ra đi, gặp ngay người đàn bà góa đang cho đứa con nhỏ nhất bú. Ngài nhìn người đàn bà với 4 đứa con dại, rồi lại lên Đức Ala để tha thiết nài xin rút lại lệnh truyền. Làm sao có thể nhẫn tâm tách lìa người mẹ khỏi những đứa con thơ ấy? Nhưng lời van xin của Sứ thần chẳng mảy may đánh động được Đức Ala. Cuối cùng Sứ thần đành phải vâng lệnh Đức Ala mà cướp người mẹ góa khỏi bầy con thơ và đưa về trời.

 Hoàn thành công tác, nhưng xem chừng vị thiên sứ lại có vẻ buồn. Phải, làm sao vui được trước cảnh chia ly giữa mẹ và con? Thấy sứ thần buồn, Đức Ala gọi đến và đưa vào sa mạc. Ngài chỉ cho sứ thần thấy một tảng đá lớn và bảo đập nó ra. Tảng đá vừa vỡ đôi, sứ thần ngạc nhiên vô cùng, vì từ trong tảng đá một con sâu nhỏ từ từ bò ra. Chợt hiểu được ý nghĩa của sự kiện ấy, sứ thần bỗng thốt lên: “Ôi lạy Đấng tối cao, mầu nhiệm thay công cuộc sáng tạo của Ngài. Với sự khôn ngoan thượng trí và tình yêu vô biên, Ngài đã không bỏ mặc một tạo vật bé nhỏ như con sâu kia, thì hẳn Ngài cũng sẽ không quên được 4 đứa trẻ mồ côi là con cái của Ngài.”

4. Không sợ ánh sáng

Ông Dung là chủ một nhà giữ xe và sửa xe rất lớn. Hôm ấy có người lái chiếc xe Cam-nhông ghé vào vì cần được sửa chữa đôi chút.

Xong việc, ông chủ tiệm trao cho anh tài xế xe Cam-nhông tờ hóa đơn để trả tiền.

Xem xong người tài xế trao lại cho ông chủ tiệm và đề nghị ông lấy thêm tiền cho vài dịch vụ khác nữa, dầu sao thì công ty cũng sẽ trả hết, như thế phần thặng dư sẽ chia đôi giữa người tài xế và ông chủ tiệm.

Vốn là người liêm chính, ông Dung từ chối thi hành lời đề nghị gian dối ấy.

Như không muốn bỏ mất cơ hội tốt đẹp, ông tài xế năn nỉ thêm và hứa sẽ trở thành khách hàng thường xuyên đến với ông. Tại sao lại không lợi dụng cơ hội tốt như thế này? Nào có ai biết gì đâu?

Một lần nữa, ông Dung thẳng thắn từ chối và nói thêm:

- Ðó không phải là cách làm việc của tôi.

Người lái xe năn nỉ thêm và cố tình thuyết phục ông chủ.

Ông chủ trả lời cách dứt khoát:

- Nếu ông muốn làm những chuyện gian tham đến như thế, xin ông hãy đi đến nơi khác, ở đây chúng tôi không thể chấp nhận bất cứ hình thức gian dối nào cả.

Trước cử chỉ anh dũng của ông chủ, bấy giờ người tài xế lịch sự nói với giọng đầy thán phục:

- Thưa ông, tôi đây chính là chủ hãng xe Cam-nhông, tôi chỉ muốn thử và tìm xem đâu là nơi sửa xe đáng được tín nhiệm nhất.

5. Sự sống trong tay Chúa

Một giáo sư thực vật học tay cầm một hạt giống nhỏ màu nâu và nói với cả lớp rằng: - Tôi biết rõ hợp chất của hạt giống này. Nó gồm hydro, carbon và nitro. Tôi biết đúng tỉ lệ và có thể tạo ra một hạt giống khác trông y như hạt giống này.

Một học sinh đứng lên hỏi: - Thưa thầy, nếu đem hạt giống thầy chế tạo đó mà gieo xuống đất, nó có thể mọc lên không ạ?

Giáo sư trả lời: - Với hạt giống của tôi, điều đó không thể được. Nhưng nếu tôi đem hạt giống mà Thiên Chúa đã làm ra, nó sẽ mọc lên thành cây, vì nó chứa đựng nguyên tắc nhiệm mầu mà chúng ta gọi là nguyên tắc sinh tồn.

6. Con gì lớn nhất

Có một lần tôi hỏi một em bé từ trong lớp Giáo Lý đi ra:

- Con gì to nhất?

Tôi nghĩ chắc chắn em sẽ trả lời là con voi, con khủng long. Thế nhưng em nhanh miệng nói:

- Thưa Cha, con Đức Chúa Trời ạ!

Đấy là một em bé nhờ học Giáo Lý mà em đã nhận ra giá trị con người được Chúa sinh lại làm con Chúa trổi vượt hơn mọi động vật khác. Do đó, Ngài chăm sóc ta được sống dồi dào không phải chỉ vì thương mà còn vì danh dự của Ngài nữa! (x Tv 143/142,11; Ga 10,10). Do đó dẫu ta phải đương đầu với kẻ có men gian ác Biệt phái,Chúa vẫn động viên ta : “Cứ mạnh dạn rao giảng trên mái nhà, tức là leo lên cao loan báo Tin Mừng cách công khai, đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác chúng con, mà không diệt được hồn xác người nào, một chỉ sợ nhiễm men Biệt phái, là kẻ sẽ bị Chúa diệt cả hồn xác trong hỏa ngục!” (x Lc 12, 2-5: Tin Mừng).

7. Thiên Chúa là Cha nhân từ

Có một lần tôi hỏi một em bé từ trong lớp Giáo Lý đi ra:

- Con gì to nhất?

Tôi nghĩ chắc chắn em sẽ trả lời là con voi, con khủng long. Thế nhưng em nhanh miệng nói:

- Thưa Cha, con Đức Chúa Trời ạ!

Đấy là một em bé nhờ học Giáo Lý mà em đã nhận ra giá trị con người được Chúa sinh lại làm con Chúa trổi vượt hơn mọi động vật khác. Do đó, Ngài chăm sóc ta được sống dồi dào không phải chỉ vì thương mà còn vì danh dự của Ngài nữa! (x Tv 143/142,11; Ga 10,10). Do đó dẫu ta phải đương đầu với kẻ có men gian ác Biệt phái,Chúa vẫn động viên ta : “Cứ mạnh dạn rao giảng trên mái nhà, tức là leo lên cao loan báo Tin Mừng cách công khai, đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác chúng con, mà không diệt được hồn xác người nào, một chỉ sợ nhiễm men Biệt phái, là kẻ sẽ bị Chúa diệt cả hồn xác trong hỏa ngục!” (x Lc 12, 2-5: Tin Mừng).

8. Ta chẳng quên người bao giờ

Một phụ nữ trẻ không đến nhà thờ trong 12 năm kể từ khi tốt nghiệp đại học. Chỉ mới đây, bà và chồng bà có những biến đổi. Cả hai đều là những người thích đọc sách, do đó có đến hàng chục cuốn sách được xếp lên giá. Một đêm kia, bà ngồi đọc lại cuốn “Chiếc áo dài”, trong đó một người lính La Mã đã trở thành tín hữu sau khi thấy Chúa Giêsu chết. Bà nhớ lại cuốn “Mẹ các tín hữu”, một cuốn sách mà người ta tặng cho bà cách đây nhiều năm. Giờ đây, khi đọc lại nó, bà thấy xúc động lạ thường. Thật ra đó là cuốn đầu tiên mà bà mở ra, nhưng lại chứa đựng những gì bà cần đến. Hôm sau, bà ta trở lại với Giaó hội.

Có khi nào tôi ý thức bàn tay Chúa hướng dẫn tôi vào giây phút nào đó trong đời tôi? Có khi nào tôi quên mất Thiên Chúa không?

Ta sẽ chẳng quên ngươi bao giờ… Ta sẽ ghi khắc tên ngươi trong lòng bàn tay Ta (Is 49, 15)

9. Đâu là điều đáng sợ?

Khi gõ chữ “sợ” vào trang điện tử google, chúng ta sẽ có được khoảng 20.800.000 kết quả tìm kiếm. Thực tế mỗi người đều sợ một thứ gì đó. Ngôi sao điện ảnh chuyên thủ vai điệp viên 007, Sean Connery sợ đèn đỏ ở các cột giao thông. Nữ tài tử Sharon Stone sợ tivi nổ tung bất cứ lúc nào. Tiền đạo của Arsenal, Adebayor sợ đi máy bay. Ca sĩ Phương Thanh sợ xe container… Chung quy mọi nỗi sợ đều quy về một mối là sợ chết.

Người kitô hữu vì đức tin và vì yêu mến Thiên Chúa không sợ roi vọt, không sợ tù đầy, không sợ những kẻ giết thân xác. Nhưng thứ họ sợ nhất chính là tội lỗi, bởi vì tội lỗi làm họ xa cách Thiên Chúa, trở thành nô lệ ma quỷ, và hậu quả là bị ném vào hoả ngục. Nói như thánh Phaolô: “Vì tội lỗi nên sự chết đã nhập vào thế gian” (Rm 5,12). Thật hợp lý, tránh tội lỗi thì sẽ tránh được sự chết, cái chết cả xác lẫn hồn.

Mời Bạn: Bạn đang lo sợ điều gì? Phải chăng bạn không dám sống như một kitô hữu vì sợ trở ngại cho con đường tiến thân? Phải chăng bạn không dám bênh vực cho công bằng và lẽ phải vì sợ tai bay vạ gió? Phải chăng bạn không dám trung thực trong việc học hành thi cử vì sợ thua thiệt…? Những nỗi sợ đó có thật chính đáng khiến bạn phải mất bình an không? Làm gì để thoát khỏi nó?

THỨ BẢY - THÁNH THẦN SẼ DẠY

Lời Chúa: Lc 12, 8-12

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hễ ai xưng nhận Thầy trước mặt người đời, thì Con Người cũng sẽ xưng nhận nó trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa; nhưng ai chối bỏ Thầy trước mặt người đời, thì sẽ bị chối bỏ trước mặt thiên thần của Thiên Chúa. Và hễ kẻ nào nói phạm đến Con Người, thì nó sẽ được tha. Nhưng kẻ nào nói phạm thượng đến Thánh Thần, thì sẽ không được tha.

"Khi người ta điệu các con vào các hội đường, đến trước mặt vua quan và chính quyền, các con chớ lo lắng phải thưa làm sao, hay phải nói thế nào, vì trong giờ ấy, Thánh Thần sẽ dạy các con phải nói thế nào."

TRUYỆN KỂ

1. Tội Phạm Ðến Chúa Thánh Thần

Ông Charles Darwin, khi về già đã tâm sự: lúc còn trẻ, ông cũng rất yêu thích thi ca và âm nhạc, thế nhưng, công việc nghiên cứu đã chiếm hết thời giờ của ông. Dành trọn cuộc đời cho sinh vật học, cho nên ông đã mất dần khả năng thưởng thức thi ca và âm nhạc, đến nỗi về sau, thi ca đối với ông chỉ còn là những lời vô bổ và âm nhạc chỉ là những tiếng động ồn ào mà thôi. Cuộc đời ông đã thiếu hẳn vẻ tươi mát và trẻ trung. Thế nên, nếu được sống lại tuổi trẻ lần nữa, ông sẽ dành thời giờ tìm đến thi ca và âm nhạc, để khỏi mất đi khả năng thưởng thức chúng, một khả năng giúp cho cuộc đời thêm hương vị.

Lời tâm sự của Charles Darwin giúp chúng ta hiểu thêm phần nào về tội phạm đến Chúa Thánh Thần được Chúa Giêsu nói đến trong Tin Mừng hôm nay.

2. “Đừng sợ” Chúa Thánh Thần sẽ nói thay

Đọc lại lịch sử các thánh Tử đạo Việt Nam, chúng ta thấy: rất nhiều vị thánh xuất thân từ nhà quê, chẳng được học hành là bao, lại phải lam lũ khổ sở, suốt ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời! Ấy vậy mà khi bị bắt, bị tra tấn, đánh đập, nhất là khi bị hỏi cung, các ngài đã trả lời hết sức trôi chảy. Không những thế, các ngài còn lý luận và bẻ gãy những lời nói phi nhân, bất nghĩa của vua quan. Mặt khác, nhân cơ hội, ngoài chuyện làm chứng cho Chúa bằng đời sống, các ngài còn rao giảng Lời Chúa cho những người đang làm hại mình nữa. Tất cả những chuyện đó, chúng ta, ai cũng hiểu là Chúa Thánh Thần nói trong và hành động nơi các thánh.

Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng nói cho các môn đệ biết, các ông sẽ phải chịu đau khổ, bách hại và gặp muôn điều khó khăn, tuy nhiên, các ông đừng sợ, những lúc như thế, Chúa Thánh Thần sẽ giúp các ông để cho các ông biết phải làm gì và nói gì.

3. Có, tôi tin chứ

Trong một tu viện đang bị quân đội Xô Viết chiếm đóng, một cuộc đối thoại đang diễn ra giữa Tu viện trưởng và một sĩ quan Xô Viết. Ông này nói: - Hiện giờ chỉ có hai chúng ta, không một ai chứng kiến, vậy ông hãy nói sự thật, đừng sợ gì cả! Hãy nói cho tôi biết là ông không tin vào tất cả những chuyện Chúa Bà, tôn giáo mà ông tuyên xưng đây.

Vị Tu viện trưởng trả lời: - Có, tôi tin chứ!

Viên sĩ quan liền rút súng lục ra, gí thẳng vào thái dương cha và nói:

- Nếu ông không nói là ông chẳng tin gì cả thì tôi sẽ bắn!

Và Tu viện trưởng lặp lại một lần nữa lời tuyên xưng của mình. Viên sĩ quan hạ súng xuống và kêu lên vui vẻ: - Đây là điều mà tôi trông đợi, đây là người mà tôi tìm kiếm. Tôi cũng vậy, bây giờ tôi tin vào Chúa Kitô.

Rồi cuộc đối thoại tiếp tục trong hướng tinh thần đó (Trích trong cuốn “Bưng biền của Thiên Chúa” của cha Georges).

4. Sợ tội thì không sợ gì hết

Triều đình Hoàng Ðế Hy Lạp đã nhóm họp để bàn cách trả thù thánh Gioan Kim Khẩu vì ngài đã thẳng thắn khiển trách bà Hoàng Hậu.

Kế hoạch I: Bỏ tù.

- “Nhưng ông ấy sẽ được dịp cầu nguyện, chịu khó vì Chúa như ông hằng mong muốn.”

Kế hoạch II: Lưu đầy.

- “Nhưng đối với ông ấy, đâu cũng là đất Chúa.”

Kế hoạch III: Tử hình.

- “Ông sẽ được tử đạo, chúng ta sẽ thỏa mãn nguyện vọng ông: được về với Chúa.”

“Tất cả kế hoạch I, II và III không làm cho ông khổ đau, ngược lại ông sẽ vui sướng chấp nhận.”

Kế hoạch IV: “Chỉ có một điều ông khiếp sợ nhất, gớm ghét nhất là tội lỗi, nhưng bắt ông phạm tội không được!”

Nếu con chỉ sợ tội, thì không ai mạnh hơn con. (Đường Hy Vọng số 991)

5. Hãnh diện thì không sợ

Một vị tuyên úy người Mỹ vừa giảng một bài cho các binh sĩ Mỹ trong một thánh lễ tại một giáo đuờng ở Châu Âu. Chủ đề của bài giảng là: “Hãy tự hào về Đức tin Công giáo của bạn: Đừng xấu hổ khi phải tuyên xưng nó."

Một người lính thuỷ nghe và cảm thấy hết sức xúc động nên sau thánh lễ người này đã chận vị tuyên úy lại ngay trước cửa giáo đường và hỏi: - Thưa Cha, cha có bằng lòng nghe con xưng tội không?

Vị tuyên úy trả lời: - Tôi rất hạnh phúc được nghe anh xưng tội.

Thế là chàng lính thủy quì ngay xuống lối đi bên cạnh ngay trước giáo đường. Vị tuyên úy vội nói:

- Đừng quì gối kẻo thiên hạ nhìn kìa!

Chàng lính thủy đáp lại: - Kệ họ, thưa cha, cứ để họ nhìn, con hãnh diện về đức tin của con.

6. Tác động của Thánh Thần

Dạo tháng 2/1996, cùng với phái đoàn của Hội đồng Giám mục Pháp, một linh mục ký giả là cha Daniel, đã đến thăm một số giáo phận tại Việt Nam. Trong một bài ký sự được đăng trên một tờ báo Công giáo Pháp, cha Daniel đã gọi Việt Nam là đất thơm mùi máu các thánh tử đạo.

Chứng kiến cuộc sống sinh hoạt tôn giáo hàng ngày của các xứ đạo ở vùng quê, tác giả đã ghi lại từng chi tiết mà người dân Tây Phương ngày nay chỉ có thể ngỡ ngàng mà thôi: bốn giờ sáng chuông nhà thờ đổ hồi. Bốn giờ mười lăm phút, mọi người từ trẻ đến già lũ lượt đến nhà thờ. Bốn giờ ba mươi phút đọc kinh. Năm giờ, thánh lễ hoặc tham dự phụng vụ Lời Chúa.

Tại một nhà thờ chính tòa nọ, tác giả đã sửng sốt khi chứng kiến năm ngàn người đứng chật ních nhà thờ trong thánh lễ bốn giờ ba mươi phút mỗi ngày trong tuần.

Tác giả nhận định về thời khóa biểu tôn giáo này như sau: “Rõ ràng là ở đó, người ta chỉ sống cho Thiên Chúa, cho niềm vui con người, ở đó Thiên Chúa là niềm vui của người nghèo.”

Còn Đức Tổng Giám mục Claudio Celli, sau những ngày làm việc của ngài tại Việt Nam hồi trung tuần tháng 10/1996, Ngài nói như sau: “Con người có thể đặt ra những giới hạn cho sinh hoạt của Giáo Hội, nhưng không thể ngăn chặn tác động của Chúa Thánh Thần."

7. Chúa Thánh Thần soi sáng lúc khó khăn

Tại Việt Nam, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Đức Giám mục nào muốn phong chức Linh mục cho ai thì phải được sự đồng ý của chính quyền. Thế mà Đức cha Nam, Giám mục Mỹ Tho tự ý truyền chức Linh mục cho 30 thầy. Sau đó chính quyền mời ngài đi làm việc, họ tra vấn

- Tại sao ông phong chức Linh mục mà không hỏi ý kiến chúng tôi?

Đức cha bình tĩnh đáp lại

- Ấy tôi phong các phó Linh mục.

- Đúng thế không?

- Quý vị cứ đến các xứ có tân phó Linh mục, các ông ấy không phải là Linh mục chánh xứ.

- Thế ra các ông ấy mới là phó Linh mục ư?

- Đúng thế.

Rõ ràng Đức cha đã được Chúa Thánh Thần hướng dẫn để thoát nạn!

Đúng như Chúa đã nói: “Thần Khí sự thật sẽ làm chứng về Thầy. Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng về Thầy” (Ga 15,26b. 27a: Tung Hô Tin Mừng).

8. Thánh Thần dạy anh em nói

Đứng trước toà án quan Thượng Vương, người thanh niên 19 tuổi vẫn “cả lòng, lại quyết mình không lầm, cứ nói rằng mình là bổn đạo thờ Chúa Trời Đất, dù cách nào cũng không bỏ, lại sẵn sàng chịu mọi hình phạt, cả đến mất mạng sống nữa.” Và với những lời nói đó, người thanh niên ấy, chính là thầy giảng Anrê Phú Yên, đã hy sinh mạng sống để làm chứng nhân đức tin. Những lời nói của thầy Anrê Phú Yên được cha Đắc Lộ ghi lại đó chắc chắn không phải là lời của phàm nhân nhưng là lời mà “Thánh Thần dạy anh em nói” khi phải ra trước mặt vua chúa quan quyền để làm chứng cho Chúa Kitô.

Thánh Thần chỉ nói thay cho chúng ta khi chúng ta sống trong ơn nghĩa Chúa và kết hiệp mật thiết với Ngài nhờ đời sống cầu nguyện và bí tích.

9. Hạnh phúc thực và ảo

Một nhà truyền giáo suốt đời sống ở Trung Quốc và một ca sĩ chỉ sống ở đó hai tuần, cả hai cùng trở về quê hương trên một chuyến tàu. Hàng ngàn người chào đón chàng ca sĩ, nhưng chẳng một ai chào đón nhà truyền giáo. Lúc đó, nhà truyền giáo thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con đã hiến dâng Ngài đời con, còn anh ta mới chỉ cho Ngài hai tuần, vậy mà hàng ngàn người chào đón anh ta khi trở về, còn con thì chẳng được ai chào đón.” Thiên Chúa trả lời: “Này con, con vẫn chưa về nhà mà.”

Tôi có tìm kiếm và chờ đợi vinh dự vì những gì tôi đã làm cho thế gian này không?

Chúa Giêsu nói: “Hãy tích trữ kho tàng trên trời. Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó” (Mt 6,20-21).

10. Gian nan cần cho niềm tin

Trong Tự Sắc “Cánh Cửa Đức Tin,” Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI nói: “Giáo Hội tiếp tục cuộc lữ hành giữa những cuộc bách hại trần thế và những an ủi của Thiên Chúa, loan báo cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa cho đến khi Ngài đến.” Trong Năm Đức Tin, Chúa Giêsu nhắc nhở rằng chúng ta vẫn luôn trải qua những gian nan cho niềm tin của mình. Nhưng có Chúa nâng đỡ và phù trì, sự gian nan khốn khố ấy không làm chết nghẹt đức tin và lòng cậy của chúng ta. Vậy, chúng ta hãy can đảm đối đầu, chấp nhận chịu đựng gian nan khốn khó vì Chúa và vì Tin Mừng, đó là bằng chứng niềm tin hùng hồn và tình mến nồng nàn đối với “Đấng đã yêu thương và hiến mạng vì tôi” (Gl 2,20).

Để loan báo Tin Mừng cho Nước Chúa, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải hy sinh, từ bỏ. Cho nên, khi chấp nhận hy sinh của cải, danh dự, sự nghiệp hay từ bỏ thói hư tính xấu dù phải thiệt thòi, thiệt thân, chính lúc đó đức tin của chúng ta được vững mạnh và vẹn toàn.

Lời Chúa Tuần 28 Thường Niên
Thường niên V-GS C-PS Ngoại lịch