SUY NIỆM
LỜI CHÚA LỄ HIỂN LINH – Năm B
LỜI CHÚA LỄ HIỂN LINH – Năm B
MỤC LỤC
1. Gặp Chúa
2. Ngôi Sao Giáng Sinh
3. Gặp gỡ Chúa
4. Thiên Chúa tỏ mình
5. Ánh sao đạo đức - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
6. Ánh sáng đức tin – Thiên Phúc
7. Hãy làm cho Ánh Sáng tỏa sáng ra
8. Lễ vật lòng thành – ViKiNi
9. Hãy tỏa sáng - Lm. Ignatiô Trần Ngà
10. Tìm gặp Thiên Chúa giữa lòng đời Lm. Ignatiô Trần Ngà
11. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
12. Cuộc hành trình đức tin
13. Ánh sáng và bóng tối – Thiên Phúc
14. Lễ Hiển Linh
15. Tìm gặp Chúa Kitô
16. Tìm gặp Chúa
17. Tỏ mình
18. Thông điệp
19. Lễ Hiển Linh
20. Lễ Giáng Sinh của muôn dân
21. Ánh sao lạ
22. Ánh Sao Nhiệm Mầu
23. Đi Tìm Gặp Chúa
24. Ngôi sao sáng
25. Suy niệm của Lm An Phong, OP
26. Một ngôi sao để đi theo
27. Gặp được Chúa Cứu Thế
28. Lý do Chúa làm người
28bis. Mỗi người là một ánh sao dẫn đường
29. Mỗi người là một ánh sao cho nhau
30. Gặp Chúa – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền.
31. Thiên Chúa cho ai nhận biết Người?
32. Thiên Chúa của các dân tộc
33. Hành trình của các đạo sĩ
34. Tìm Đức Kitô
35. Ba vua
36. Ra đi
37. Ngôi sao dừng lại
38. Niềm tin của các đạo sĩ
39. Mục đồng và đạo sĩ
40. Ngôi sao dẫn đường
41. Chúa tỏ mình ra cho ... ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
42. Thành tâm thiện chí sẽ gặp Chúa. ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
43. Thiên Chúa tỏ mình
44. Ánh sáng chiếu soi muôn dân
45. Đi tìm Chúa nhờ ngôi sao lạ
46. Gọi tên ngày lễ - ĐGM Giuse Vũ Duy Thống.
47. Niềm tin: một chuyến đi ĐGM Giuse Vũ Duy Thống
48. Hãy đứng lên, hãy tỏa sáng ra
49. Những con mắt hiển linh
50. Từ bỏ
51. Đến thờ lạy.
52. Nên thánh
53. Nên thánh
54. Những đạo sĩ hôm nay
55. Giờ được sinh ra
56. Những chặng đường lữ hành
57. Tiếp nối những bước chân anh hùng
58. Cuộc Hiển Linh vẫn kéo dài
59. Quay về phía dân ngoại Suy Niệm của JKN
60. Chiếc ghế trong tôn giáo Do thái Suy niệm của JKN
61. Truyền giáo
62. Chúa tỏ mình – Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng
63. Tìm Chúa - Ánh sao
64. Tôi đi tìm Thiên Chúa
65. Thái độ của con người đối với Thiên Chúa
66. Suy niệm của nhóm Đồng Hành
67. Lễ vật
68. Ngôi sao
69. Tỏ mình
70. Ngôi sao hy vọng
71. Món quà trao tặng Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
72. Hành trình đức tin
73. Tìm kiếm
74. Lễ Hiển Linh - Lm. Munachi Ezeogu
75. Chúa Nhật Lễ Chúa Hiển Linh
76. Ngôi Sao phương đông
77. Khiêm nhường để nhận biết Chúa.
78. Suy niệm của Lm Jude Siciliano
79. Món quà của các Đạo Sĩ - Lm Mark Link
80. Tiến dâng lễ vật
81. Ở phía sau mọi sự: Thiên Chúa
82. Dân ngoại đứng trước Đức Vua của người Do thái
83. Đức Kitô ở đâu?
84. Sân khấu cuộc đời
85. Chúa Nhật Lễ Chúa Hiển Linh
86. Chú giải của William Barclay
87. Chú giải mục vụ của Claude Tassin
88. Của lễ của mọi người Noel Quesson
89. Một chút quà dâng tiến Hài Nhi
Thánh Vịnh & Đáp Ca Nhóm Thánh Vịnh Nauy
Chúa Giêsu là ánh sáng Lm Carolo Hồ Bạc Xái
Hãy là ánh sao nhỏ Lm Giuse Đinh lập Liễm
Bước đi theo ánh sáng Lm. Phêrô Lê văn Chính
Theo lối sống của Đức Kitô Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Một ngôi sao đê đi theo Jean-Yves Garneau
Gặp được Chúa Cứu thế Radio Veritas Asia
Ánh sao lạ Sưu tầm
Dân ngoại đứng trước Đức Vua...Lm. FX Vũ Phan Long
Con dường tìm đến Chúa Antôn Phêrô Nguyễn
Ánh sao lạ Lm Giuse Đinh tất Quý
1. Gặp Chúa
2. Ngôi Sao Giáng Sinh
3. Gặp gỡ Chúa
4. Thiên Chúa tỏ mình
5. Ánh sao đạo đức - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
6. Ánh sáng đức tin – Thiên Phúc
7. Hãy làm cho Ánh Sáng tỏa sáng ra
8. Lễ vật lòng thành – ViKiNi
9. Hãy tỏa sáng - Lm. Ignatiô Trần Ngà
10. Tìm gặp Thiên Chúa giữa lòng đời Lm. Ignatiô Trần Ngà
11. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
12. Cuộc hành trình đức tin
13. Ánh sáng và bóng tối – Thiên Phúc
14. Lễ Hiển Linh
15. Tìm gặp Chúa Kitô
16. Tìm gặp Chúa
17. Tỏ mình
18. Thông điệp
19. Lễ Hiển Linh
20. Lễ Giáng Sinh của muôn dân
21. Ánh sao lạ
22. Ánh Sao Nhiệm Mầu
23. Đi Tìm Gặp Chúa
24. Ngôi sao sáng
25. Suy niệm của Lm An Phong, OP
26. Một ngôi sao để đi theo
27. Gặp được Chúa Cứu Thế
28. Lý do Chúa làm người
28bis. Mỗi người là một ánh sao dẫn đường
29. Mỗi người là một ánh sao cho nhau
30. Gặp Chúa – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền.
31. Thiên Chúa cho ai nhận biết Người?
32. Thiên Chúa của các dân tộc
33. Hành trình của các đạo sĩ
34. Tìm Đức Kitô
35. Ba vua
36. Ra đi
37. Ngôi sao dừng lại
38. Niềm tin của các đạo sĩ
39. Mục đồng và đạo sĩ
40. Ngôi sao dẫn đường
41. Chúa tỏ mình ra cho ... ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
42. Thành tâm thiện chí sẽ gặp Chúa. ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
43. Thiên Chúa tỏ mình
44. Ánh sáng chiếu soi muôn dân
45. Đi tìm Chúa nhờ ngôi sao lạ
46. Gọi tên ngày lễ - ĐGM Giuse Vũ Duy Thống.
47. Niềm tin: một chuyến đi ĐGM Giuse Vũ Duy Thống
48. Hãy đứng lên, hãy tỏa sáng ra
49. Những con mắt hiển linh
50. Từ bỏ
51. Đến thờ lạy.
52. Nên thánh
53. Nên thánh
54. Những đạo sĩ hôm nay
55. Giờ được sinh ra
56. Những chặng đường lữ hành
57. Tiếp nối những bước chân anh hùng
58. Cuộc Hiển Linh vẫn kéo dài
59. Quay về phía dân ngoại Suy Niệm của JKN
60. Chiếc ghế trong tôn giáo Do thái Suy niệm của JKN
61. Truyền giáo
62. Chúa tỏ mình – Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng
63. Tìm Chúa - Ánh sao
64. Tôi đi tìm Thiên Chúa
65. Thái độ của con người đối với Thiên Chúa
66. Suy niệm của nhóm Đồng Hành
67. Lễ vật
68. Ngôi sao
69. Tỏ mình
70. Ngôi sao hy vọng
71. Món quà trao tặng Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
72. Hành trình đức tin
73. Tìm kiếm
74. Lễ Hiển Linh - Lm. Munachi Ezeogu
75. Chúa Nhật Lễ Chúa Hiển Linh
76. Ngôi Sao phương đông
77. Khiêm nhường để nhận biết Chúa.
78. Suy niệm của Lm Jude Siciliano
79. Món quà của các Đạo Sĩ - Lm Mark Link
80. Tiến dâng lễ vật
81. Ở phía sau mọi sự: Thiên Chúa
82. Dân ngoại đứng trước Đức Vua của người Do thái
83. Đức Kitô ở đâu?
84. Sân khấu cuộc đời
85. Chúa Nhật Lễ Chúa Hiển Linh
86. Chú giải của William Barclay
87. Chú giải mục vụ của Claude Tassin
88. Của lễ của mọi người Noel Quesson
89. Một chút quà dâng tiến Hài Nhi
Thánh Vịnh & Đáp Ca Nhóm Thánh Vịnh Nauy
Chúa Giêsu là ánh sáng Lm Carolo Hồ Bạc Xái
Hãy là ánh sao nhỏ Lm Giuse Đinh lập Liễm
Bước đi theo ánh sáng Lm. Phêrô Lê văn Chính
Theo lối sống của Đức Kitô Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Một ngôi sao đê đi theo Jean-Yves Garneau
Gặp được Chúa Cứu thế Radio Veritas Asia
Ánh sao lạ Sưu tầm
Dân ngoại đứng trước Đức Vua...Lm. FX Vũ Phan Long
Con dường tìm đến Chúa Antôn Phêrô Nguyễn
Ánh sao lạ Lm Giuse Đinh tất Quý
1. Gặp Chúa
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta cùng nhau dừng lại để tìm
hiểu về thái độ của những nhân vật liên hệ.
Trước hết là các thượng tế và kinh sư. Khi được hỏi Đức Kitô sinh ra ở đâu, thì họ đã trả lời vanh vách:
Tại Bêlem, miền đất Giuđa, vì trong sách tiên tri có chép rằng: Phần ngươi, hỡi
Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là
nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời. Sự hiểu biết của họ thật chính
xác, nhưng mới chỉ là một sự hiểu biết hoàn toàn theo sách vở, cho nên đã không
đủ mạnh để thúc đẩy họ đi vào hành động. Không một ai trong hõ đã nghĩ tới
chuyện đến Bêlem xem lời tiên tri ấy đã ứng nghiệm như thế nào?
Tiếp đến là thái độ của dân thành Giêrusalem. Trước nguồn tin một vị vua
của họ mới chào đời, Đấng họ trông chờ và tin rằng sẽ đến để giải thoát họ,
thay vì vui mững và chuẩn bị nhập cuộc, thì họ lại hoảng hốt như chính Hêrôđê,
kẻ thống trị họ đã hoảng hốt. Họ đã quen với cuộc sống mà họ biết là sẽ phải
chấm dứt, để bước sang một cuộc sống mới, nhưng khi thời cơ đến, họ lại e ngại,
sợ hãi vì phải dấn thân vào một cuộc phiêu lưu, bởi vì con đường giải thoát
thực sự là một cuộc dấn thân và chỉ dành cho những ai biết chỗi dậy và lên
đường.
Cuối cùng, chính các nhà đạo sĩ từ một phương
trời xa lạ, không phải chỉ xa lạ về mặt địa dư, mà còn xa
lạ cả về mặt tôn giáo và tín ngưỡng, lại gặp được Chúa, mà họ gọi là Vua dân Do
Thái mới sinh ra, không phải tại Belem mà thôi, mà còn cả trong một thứ lòng
tin nào đó. Ba nhà đạo sĩ được ngôi sao dẫn đến nơi Hài Nhi Giêsu ở, họ đã quì
lạy Ngài và tiến dâng Ngài lễ vật là vàng, nhũ hương và mộc dược.
Câu chuyện thánh Matthêu kể lại và chúng ta vừa nghe, đã không
chấm dứt với ba nhà đạo sĩ, với các thượng tế và kinh sư, với Hêrôđê và dân
thành Giêrusalem, mà còn được tiếp diễn cho tới ngày hôm nay. Bởi vì người hôm
qua là đạo sĩ, nghĩa là người ngoại đạo, thì hôm nay rất có thể đã trở thành
những thượng tế, những kinh sư, những người thành Giêrusalem, nghĩa là những
người trong nhà. Đồng thời cũng rất có thể xảy ra trường hợp những người trong
nhà đã đánh mất khả năng nhận ra Đấng Cứu Thế và tiếp nhận Ngài, cũng như đã
đánh mất khả năng nhận ra những dấu chỉ về sự hiện diện của Ngài trong thế giời
hôm nay.
Đúng thế, trong thế giới hôm nay cũng như hôm qua và mãi mãi về
sau, không biết có bao nhiêu người bị xếp vào phía bên tả trong ngày phán xét,
chỉ vì đã không cho kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống, kẻ trần trụi được mặc,
kẻ đau yếu và bị cầm tù được viếng thăm. Họ đã không nhận ra Thiên Chúa nơi
những người anh em cùng khổ.
Còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta đã gặp được Chúa nơi những người anh em của chúng ta
hay chưa? Và như ba nhà đạo sĩ, chúng ta có biết dâng lên Chúa lễ vật là những
sự trợ giúp chúng ta dành cho những người anh em bất hạnh hay chưa?
Quan đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, có một chi tiết làm cho tôi suy
nghĩ đó là ngôi sao bỗng biến mất khi các nhà đạo sĩ tới Giêrusalem, và rồi lại
hiện ra, khi họ rời bỏ thành thánh để đi Bêlem. Tại sao lại như thế?
Như chúng ta đã biết Giêrusalem được coi là thành thánh, bởi vì ở
đó có di tích, nơi mà xưa kia tổ phụ Abraham đã đem con mình là Isaác để sát tế
cho Thiên Chúa. Chính nơi đây, vua Salomon đã xây dựng một đền thờ nguy nga
bằng gỗ quý từ Libăng đem về. Vào thời Đức Kitô, ngôi đền thờ ấy đã được xây
dựng lại. Một công trình vĩ đại, phải mất 46 năm trời người ta mới hoàn tất. Vì
là thành thánh và là nơi có đền thờ, nên không lạ gì khi các nhà đạo sĩ, đi tìm
vua dân Do Thái mới sinh, lại không dừng chân, tưởng đó là chặng đường chót.
Nhưng oái oăm thay, ngôi sao lạ đã biến mất, còn trong thành cũng chẳng thấy ai
bàn tán xôn xao về tin tức một vị tân vương mới ra đời. Ba nhà đạo sĩ chỉ là
những người khách lạ, nhưng đã đem đến một tin làm chấn động cả dân thành,
khiến từ vua chúa quan quyền cho đến bậc thứ dân đều sửng sốt hoang mang.
Nhà vua liền triệu tập các học giả vốn được coi là những người đoán
biết được mệnh trời. Các vị ấy liền tìm ra ngay nơi Chúa sinh ra, đó là Bêlem.
Nhưng đáng ngạc nhiên thay, nhà vua cùng các bậc học giả uyên thâm đó, chẳng
một ai nghĩ là chính mình cần phải đi tìm vị tân vương. Họ chỉ hướng cho ba nhà
đạo sĩ đi Bêlem, nhưng rốt cuộc chính ngôi sao lạ đã hướng dẫn ba vị khách
phương xa tìm ra Đức Kitô. Vậy tại sao ngôi sao lại biến mất trên nền trời thủ
đô Giêrusalem?
Ở mọi nơi và trong mọi lúc, chúng ta đều nhận thấy: Tôn giáo nào
cũng có những nơi được dành riêng cho việc thờ phượng, nào là nhà thờ, nào là
chùa chiền, nào là thánh thất. Điều đó thật tốt, nhưng đối với chúng ta ngày
hôm nay thì không đủ, bởi vì Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta.
Tin Mừng đã khởi đầu từ trong căn nhà nhỏ bé ở Nadarét với biến cố
truyền tin, rồi được công bố cho những kẻ chăn chiên trên cánh đồng Bêlem. Tin
Mừng ấy đã được diễn tả cụ thể trong cuộc sống và hành động của Đức Kitô tại
Nadarét và trên khắp các nẻo đường Palestine. Tin Mừng ấy đã được hoàn thành
trong cái chết của Ngài ở ngoài đền thờ, ngoài thành thánh, và trong sự phục
sinh của Ngài, để rồi từ đó được loan truyền đi khắp thế gian. Điều đó muốn nói
lên rằng thờ phượng Thiên Chúa nơi thánh đường mà thôi chưa đủ, chúng ta còn
phải nhập cuộc, còn phải hoà mình đối với mọi người, nhất là những kẻ đau yếu,
bậnh tật khổ đau.
Ngày nay ngôi sao Giáng sinh hình như cũng đang biến dần và những
người tìm Chúa lại phải ra khỏi thành thánh, hướng về những Bêlem mới, đó là
những kẻ bất hạnh đang bị bóc lột, và khinh bỉ như các người chăn chiên thuở
trước. Thế nhưng liệu chúng ta có dám tìm Chúa theo sự hướng dẫn của ngôi sao
lạ như thế, hay là chúng ta lại ngại ngùng không dám bước theo, để rồi cuối
cùng trong tay chỉ còn là một cánh sao bằng giấy.
Những hạng người nào đã được diễm phúc gặp gỡ Hài Nhi Giêsu nơi
máng cỏ Bêlem? Trước hết là các mục đồng, những người canh giữ đoàn
vật. Họ là những người nghèo và hơn thế nữa, họ còn là những người bị khinh dể
bị coi thường. Các luật sĩ và Biệt phái thường gọi họ là bọn dân đen. Cái đám
người không biết đến lề luật, họ là những kẻ bị chúc dữ. Thế nhưng, chính đám
người bị chúc dữ ấy, chính đám người không biết đến lề luật ấy lại là những
người đầu tiên được đón nhận Hài Nhi Giêsu.
Tiếp đến là những nhà bác học xa lạ. Đường không quen, nẻo không thuộc. Họ từ xa mà đến, dám chấp nhận
mọi hy sinh gian khổ. Cái nghèo của những người này chính là thái độ sẵn sàng
của họ. Các Luật sĩ và Biệt phái coi họ là dân ngoại. Thế nhưng, cái đám dân
ngoại này lại được diễm phúc gặp được Hài Nhi Giêsu.
Từ những sự kiện trên chúng ta rút ra được hai nhận định. Nhận
định thứ nhất đó là sự gặp gỡ giữa người giàu và kẻ nghèo nơi Hài nhi Giêsu.
Đúng thế, từ xưa cho đến nay vẫn có một hố ngăn cách giữa giàu và nghèo. Sự
ngăn cách này được tạo nên bởi những nghi ngờ và thù oán. Mỗi bên đều có cái lý
của mình. Tuy nhiên trong lịch sử đã có một khoảnh khắc trong đó giàu và nghèo
không còn đố kỵ nhau, đó là khoảng khắc Chúa Giêsu sinh ra. Bởi vì có những
người giàu, giàu về tiền bạc cũng như giàu về kiến thức đã đến viếng thăm một
Hài nhi nghèo nàn, sinh ra không cửa không nhà.Thế nhưng, cái nghèo của Hài Nhi
Giêsu mà ba nhà đạo sĩ khám phá ra đã không đẩy lùi họ, trái lại còn hấp dẫn
họ, không làm cho họ hổ thẹn, trái lại còn làm họ cảm thấy được tôn vinh. Vì
vậy, không ngỡ ngàng, không nghi vấn, họ tự dâng của lễ cho một Hài Nhi của người
nghèo, như triều cống cho một hoàng tử của đế vương.
Nhận định thứ hai đó là các mục đồng và dân ngoại là những người
ít được chuẩn bị nhất lại nhận ra Chúa. Trong khi đó các Luật sĩ, Biệt phái và
tư tế, là những người đã được chuẩn bị nhiều nhất, đã được thông tin hoàn toàn
nhất, bởi vì chính họ đã cho các đạo sĩ biết rõ nơi gặp gỡ đích thực của vị Vua
mới sinh ra, thế nhưng cuối cùng họ đã không nhận ra Ngài. Họ có dư khả năng để
biết nhưng lại không có khả năng để hiểu. Đúng thế, họ biết được bằng trí tuệ,
bằng những phương tiện thông tin đầy đủ có trong tầm tay, nhưng muốn hiểu thì
còn cần đến tấm lòng, cần đến con tim nữa.
Các mục đồng là những kẻ thiếu học, còn các nhà đạo sĩ là những
người thiếu thông tin. Họ không có khả năng để biết, nhưng lại có khả năng để
hiểu. Không phải chỉ sáng trí, có học là đủ để đi vào những mầu nhiệm của Thiên
Chúa. Trái lại, cần phải có thiện chí, cần phải có tấm lòng, dám chấp nhận
những hy sinh, dám từ bỏ cái tự cao tự đại của mình, thì mới có thể đến gần và
gặp gỡ Chúa.
Bởi đó, là những người có đức tin, thế nhưng chúng ta đã gặp gỡ
Chúa như các mục đồng và như ba nhà đạo sĩ phương đông hay chưa?
Ngày hôm nay Thiên Chúa tỏ mình ra cho ba nhà đạo sĩ đến từ phương
Đông, nghĩa là những người ở ngoài dân Chúa và bị người Do Thái xếp vào hàng
dân ngoại. Chính vì thế lễ Hiển Linh có thể được coi như là lễ Giáng sinh của
người ngoại. Tuy nhiên, qua phụng vụ chúng ta thấy được tính cách bi đát của
chương trình cứu độ như thánh Gioan đã diễn tả: Ngài đã đến nơi nhà Ngài mà các
người thân đã không tiếp nhận Ngài.
Thực vậy, Isaia đã đưa ra những lời tiên đoán đầy phấn khởi về
Giêrusalem vào ngày Đấng cứu thế xuất hiện. Ngày ấy, Giêrusalem sẽ trở thành
trung tâm ánh sáng và mọi người từ bốn phương trời sẽ tiến về đó với muôn vàn
lễ vật. Nhưng trớ trêu thay, vào ngày Con Thiên Chúa giáng sinh làm người, theo
như lời tiên tri Isaia loan báo, ánh sáng đã chiếu trên Giêrusalem, nhưng lại
chỉ có những người ở ngoài mới nhận ra ánh sáng ấy, còn dân trong thành thì vẫn
tiếp tục sống trong u tối. Giêrusalem đã có thể chỉ rõ nơi vua dân Do Thái mới
sinh ra, nhưng lại chỉ có những người ở ngoài mới tới thờ lạy Ngài.
Một ngôi sao xuất hiện trên bầu trời thì có chi đáng quan tâm.
Nhưng tất cả cuộc hành trình kỳ diệu lại khởi đầu từ đó. Đêm hôm ấy, hẳn cũng
đã có nhiều người nhìn lên trời, ngắm những vì sao nhưng lại không thấy được vì
sao của Ngài. Cũng thế, những biến cố, những sự kiện diễn ra hằng ngày trên
đường phố, trong xã hội. Chúng ta cũng có thể đọc được những sự kiện, những
biến cố ấy trên cùng một trang báo, qua cùng một chương trình thời sự, nhưng có
mấy khi chúng ta thấy được trong một biến cố, trong một sự kiện dấu chỉ về một
đòi hỏi của Chúa?
Tuy nhiên, các nhà đạo sĩ đã không chỉ bằng lòng với việc thấy được
vì sao của Ngài. Các ông còn chuẩn bị lễ vật và hăm hở lên đường với một cuộc
hành trình mang tính cách phiêu lưu, tiến tới một nơi vô định mặc dầu có ánh
sao dẫn lối. Tin Mừng cho thấy là cũng đã có lúc không còn ánh sao nữa và các
ông đã phải hỏi thăm về nơi các ông phải tới với những người không quen biết.
Và không phải là không có những cạm bẫy. Hêrôđê có đó với tấm lòng nham hiểm
đằng sau những lời nói đầy vẻ ân cần. Vượt không biết bao nhiêu dặm đường để
rồi cuối cùng đứng trước một hài nhi yếu ớt, nhưng các ông cũng đã sấp mình thờ
lạy, và dâng lễ vật với lòng hân hoan toại nguyện. Phải chăng đó chính là thái
độ của một lòng tin đích thật. Các thượng tế và luật sĩ, mặc dù thông hiểu Kinh
Thánh, nhưng vẫn ngồi yên tại chỗ. Sự hiểu biết của họ như đã không đủ sức để
lay chuyển họ. Là những người ở trong, họ đã tự đặt mình thành những kẻ ở
ngoài. Trong khi đó, những người vẫn bị xếp vào hạng ở ngoài, vì đã đi theo
tiếng gọi của Chúa, mà đã trở thành những người ở trong. Những điều chúng ta
thấy và hiểu biết về Tin Mừng, về Đức Kitô, về Nước Trời, về ơn cứu độ, có đủ
sức lay chuyển chúng ta đi theo tiếng gọi của Chúa hay không?
Hôm nay, Ba Vua trên đường tìm đến thờ lạy Chúa Cứu Thế Giáng
Sinh. Ba Vua là những người phương xa, không có đạo. Các Ngài tìm đến Chúa theo
ánh sáng của ngôi sao lạ. Theo ngôi sao, các Ngài đến được Giêrusalem và được
nghe giải nghĩa Thánh Kinh. Theo ngôi sao đưa đường dẫn lối các Ngài đã gặp
được Chúa. Ánh sao đã chiếu sáng bầu trời đen tối, giúp các Ngài nhận định được
hướng đi. Lời Thánh Kinh là một ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp họ sáng lên niềm
tin. Nhưng chính Đức Giêsu mới là ngôi sao mai dẫn họ đi vào một con đường mới,
con đường chói ngời ngọn lửa đức mến.
Ngày nay có nhiều người đang tìm kiếm Chúa. Nhiều người muốn biết
Chúa để theo Chúa. Nhưng họ không biết đường biết hướng. Cũng như Ba Vua, họ
cần có những ánh sao soi đường dẫn lối.
Tìm đâu ra ngôi sao xưa đã soi đường cho Ba Vua? Ngày nay, Chúa
không dùng ngôi sao xuất hiện trên trời, nhưng muốn mỗi người chúng ta trở
thành một vì sao soi dẫn mọi người đến với Chúa.
Là ngôi sao có nghĩa là phải có ánh sáng. Ngôi sao chỉ chiếu sáng
khi chính bản thân nó có ánh sáng. Người Kitô hữu chỉ chiếu sáng khi chính cuộc
sống của họ mang ánh sáng, phản chiếu ánh sáng nhận tự nơi Thiên Chúa.
Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng hy vọng. Niềm hy vọng
vào ơn cứu độ của Chúa giúp ta vừng bước trên đường lý tưởng. Niềm hy vọng vào
một trời mới đất mới cho ta thêm sức mạnh góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp.
Niềm hy vọng vào hạnh phúc thiên đàng giúp ta đánh gía đúng mức của cải vật
chất đời này. Hy vọng là ánh sáng làm tươi đẹp con người và cuộc đời.
Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng tin yêu. Tin yêu Chúa
và tin yêu người. Tin yêu để xây dựng một cuộc sống chan hoà tình người. Tin
yêu đẻ tha thứ hoà giải. Tin yêu để vượt qua mọi bóng tối thù hận, chia rẽ, bất
hoà. Tin yêu là làn ánh sáng ấm áp làm cho thế giới trở nên gần gũi, con người
trở nên thân thiện, cuộc đời trở thành đáng yêu đáng mến.
Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng công bình, bác ái. Niềm
hy vọng, niềm tin yêu được chứng minh bằng đời sống công bình, bác ái. Tin Chúa
được biểu lộ qua sự công bình trong đời sống. Yêu Chúa được thể hiện qua tình
bác ái với tha nhân.
Tất cả những làn ánh sáng nói trên góp lại thành ánh sáng đạo đức.
Đắm chìm vào vật chất sẽ khiến con người rơi vào bóng tối tuyệt vọng, không lối
thoát. Nghi ngờ con người sẽ khiến cuộc đời chìm vào bóng tối cô đơn. Thiếu
công bình bác ái sẽ phủ lên thế giới mới một bóng tối phi nhân, tàn nhẫn. Chỉ
có ánh sáng đạo đức mới đủ sức phá tan những bóng tối ấy. Chỉ có ánh sáng đạo
đức mới làm cho thế giới thành vui tươi hạnh phúc.
Thế giới đang mong chờ ánh sao dẫn đường. Chúa đang mời gọi chúng
ta trở thành một ngôi sao chiếu lên làn ánh sáng đạo đức. Chính qua làn ánh
sáng ấy, mọi người sẽ nhận biết và yêu mến Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp con sống xứng đáng là người con của Chúa sự
sáng. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn nghĩ gì về cuộc tìm kiếm của Ba Vua? Bạn có kiên trì tìm
Chúa như Ba Vua không?
2. Bạn nghĩ gì về bổn phận làm chứng cho Chúa? Bạn có mong ước trở
thành ngôi sao dẫn đưa mọi người đến với Chúa không?
3. Đâu là những ánh sáng người Kitô hữu phải có để dẫn người khác
tới Chúa? Trong năm mới này, bạn sẽ làm gì để làm chứng cho Chúa?
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Arthur Jones gia nhập không lực Hoàng gia, anh được huấn luyện
trong một trại lính cùng với 30 binh sĩ khác. Ngay đêm đầu tiên, anh đã phải
cân nhắc về một quyết định: “Có nên quì gối đọc kinh như thói quen ở nhà
không?”. Ban đầu anh cảm thấy hơi ngượng, nhưng rồi anh tự nhủ: “Chẳng lẽ mình
phải thay đổi cách sống vì sợ kẻ khác dòm ngó sao?”
Anh liền quyết định cứ quì gối đọc kinh như thói quen. Khi vừa làm
dấu kết thúc buổi cầu nguyện, mọi người mới biết anh là người Công giáo. Hơn
nữa, anh lại là người Công giáo duy nhất trong trại lính. Tuy nhiên, anh vẫn
quì gối cầu nguyện hàng đêm, và sau đó thường dẫn đến những cuộc tranh cãi hàng
giờ.
Cuối khóa huấn luyện, có người đến nói với anh:
- Anh là người Kitô hữu tốt nhất mà tôi gặp.
Anh liền đáp lại:
- Cám ơn bạn, tôi không nghĩ mình là Kitô hữu tốt nhất đâu. Có thể
tôi là người Công giáo dám công khai biểu lộ đức tin.
Ánh sáng Đức Tin của người lính đã tỏa sáng trong trại huấn luyện
của không lực hoàn gia. Đúng như lời Đức Giêsu đã nói: “Các con là ánh sáng thế
gian” (x. Mt 5,14-16). Như ánh sao lạ đã mọc lên để dẫn đường cho các đạo sĩ,
ngôi sao Tin Mừng cũng đã xuất hiện để soi dọi vào tâm hồn tăm tối của chúng
ta. Để từ đây, ánh sáng đức tin luôn tỏa rạng ngời.
Nhưng Tin không phải là thấy. Tin là dựa vào lời Chúa mà liều
mình, mà dấn thân và nhiều khi phải vượt qua gian nan thử thách.
Các đạo sĩ khi nhìn thấy ánh sao lạ, họ đã tin tưởng vào một Đấng
Cứu Tinh mà ngôi sao là dấu chỉ, họ vội vã lên dường mà không biết ngôi sao sẽ
dẫn đi đâu. Khi ánh sao biến mất, họ không thất vọng, không bỏ cuộc, nhưng dò
hỏi kiếm tìm. Hành trình của họ là hành trình Đức Tin, con đường của họ là con
đường thánh giá.
Để giữ vững Đức Tin, nhiều khi chúng ta phải can trường lướt thắng
bản thân, phải liên lỉ chiến đấu hy sinh, phải anh dũng biểu lộ niềm tin. Tổng
Giám Mục Fulton Sheen khẳng định: “Để trắc nghiệm Đức Tin của chúng ta, cần
phải xem phản ứng lúc đau khổ và thử thách, chứ không pải lúc đời lên hương,
thuận buồn xuôi gió”.
Như các đạo sĩ tìm lại ánh sao sau khi lạc mất, người tín hữu Kitô
được mời gọi nhìn lên ánh sao của niềm hy vọng. Chính trong niềm hy vọng mà
chúng ta can đảm dấn thân đi tới.
Trong cuộc sống đời thường, có rất nhiều dấu chỉ như ánh sao dẫn
ta đến với Chúa. Có thể là:
- Một câu kinh thánh đánh động lòng ta.
- Một nghĩa cử yêu thương nồng ấm.
- Một lời khuyên nhắc nhớ chân tình.
- Một gương sáng làm ta xúc động.
Nếu cuộc đời chúng ta đã từng có những ánh sao dẫn đường, thì đến
lượt mình, hãy là những vì sao ngời sáng như kim cương trên bầu trời, là những
ánh đèn đêm hoa đăng ngày đại hội. Eliot đã viết:
“Nếu bạn không thể là ngôi sao sáng,
Thì hãy là ánh lửa non cao.
Nếu không thể là ánh lửa non cao,
Xin hãy làm ánh nến tỏa sáng trong gia đình”.
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II trong Giáo lý Năm Thánh 2000 có
viết: “Việc giáo dân tham dự và cùng có trách nhiệm trong cộng đồng Kitô hữu,
cùng với nhiều hình thức tông đồ và phục vụ của họ trong xã hội, khiến chúng ta
có lý mà hy vọng rằng, vào buổi bình minh của thiên niên kỷ thứ ba, sẽ có một
cuộc “hiển linh” trọn vẹn và tốt đẹp nơi thành phần giáo dân”.
***
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận ra những ánh sao Chúa gởi đến
trong cuộc đời chúng con.
Xin biến chúng con thành những ánh sao ngày càng rực sáng và lan
tỏa khắp thế giới. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Tiếp liền sau Đại lễ Giáng Sinh, Giáo hội cử hành lễ Chúa Hiển
Linh hay còn gọi là lễ Chúa Tỏ Mình. Theo một truyền thống rất xa xưa từ thế kỷ
thứ II, thánh Giustinô đã nói tới là Chúa Giêsu đã sinh ra trong một chuồng bò
lừa tại Belem. 40 ngày sau, thánh Giuse và Đức Maria đem Hài Nhi lên Đền thờ
Giêrusalem để dâng cho Thiên Chúa như luật dạy. Phúc Âm Thánh Matthêô cho biết:
sau khi dâng Chúa trong Đền Thánh, Thánh Gia không trở về Nagiarét ngay. Trong
khoảng thời gian này đã xảy ra nhiều việc liên quan với nhau. Từ Đền Thờ, Thánh
Gia lại trở về Bêlem. Chính nơi đây, các đạo sĩ, do một ngôi sao dẫn đường từ
phương Đông tới thờ lạy Chúa Giêsu và dâng cho Người lễ vật: vàng, nhũ hương và
mộc dược. Hêrôđê thấy các đạo sĩ không trở lại Giêrusalem báo tin như lời mình
dặn, sợ ngai vàng của mình bị đe dọa, ông ra lệnh truyền giết các trẻ em ở
Bêlem và các miền phụ cận từ 2 tuổi trở xuống. Thánh Giuse được Thiên thần báo
tin, đã đem Chúa Giêsu và Đức Mẹ sang Ai-Cập và ở đó cho tới khi Hêrôđê băng hà
mới trở về Nagiarét (x. Mt 2).
Như thế, chúng ta thấy Lễ Chúa Hiển Linh trước hết có nghĩa là lễ
Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc, mà ba nhà đạo sĩ là những đại diện.
"Epiphaino" có nghĩa là Thiên Chúa tự mặc
khải trong nhân tính của Đức Kitô, tự làm cho mình có thể trông thấy được. Cụ
thể như dùng ánh sao đêm biểu lộ cho ba đạo sĩ biết, dẫn họ lên đường đến nơi Hài
Nhi vừa mới sinh để nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Nếu lễ Giáng Sinh người
ta nêu bật sự ẩn mình của Thiên Chúa trong sự khiêm hạ với điều kiện là người,
nơi Trẻ Thơ Bêlem. Thì lễ Hiển Linh lại nêu bật việc Thiên Chúa tự tỏ mình,
xuất hiện qua chính nhân tính.
Việc các đạo sĩ đến tôn thờ Chúa Hài Nhi đã sớm được nhìn nhận như
là ứng nghiệm những lời tiên tri trong Kinh Thánh. Isaia có viết: "Các dân
tộc sẽ bước đi theo ánh sáng của ngươi, và các vua chúa tiến bước theo nguồn
sáng của ngươi đang mọc lên" (Is 60,3.6). Ánh sáng của Chúa Kitô, khi xưa
như được chiếu tỏa trong hang Bêlem, nay tỏa sáng trên khắp địa cầu.
Trong lễ Chúa Tỏ Mình, Giáo Hội đề nghị một văn bản rất ý nghĩa
của ngôn sứ Isaia: "Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng
của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi. Kìa tối
tăm đang bao bọc địa cầu, vì u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi Chúa
đang đứng dậy, vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần
bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của
ngươi" (Is 66,1-3).
Đây là một lời mời hướng tới Giáo hội Chúa Kitô và hướng tới từng
người trong chúng ta, mời gọi ta ý thức hơn về sứ mệnh và trách nhiệm của mình
đối với thế giới trong việc làm chứng và đem ánh sáng mới của Tin Mừng đến khắp
địa cầu. Trong số mở đầu Hiến chế về Giáo Hội có viết: "Ánh sáng muôn dân
là chính Chúa Kitô, nên Thánh Công Đồng đang nhóm họp trong Chúa Thánh Thần hết
lòng mong ước soi dẫn mọi người bằng ánh sáng của Chúa phản chiếu trên dung
nhan Giáo Hội bằng việc rao truyền Phúc âm cho mọi tạo vật" (LG, 1). Tin
Mừng là ánh sáng không được dấu đi, nhưng để trên giá. Giáo hội không phải là
ánh sáng, nhưng nhận ánh sáng của Chúa Kitô, tiếp nhận nó để được soi chiếu, và
phổ biến ánh sáng đó ra với tất cả sự rạng ngời. Và đây là điều cũng phải xảy
ra trong cuộc sống cá nhân mỗi người chúng ta.
Các thượng tế tại Giêrusalem được Hêrôđê triệu tập để tư vấn cho
ông về nơi Đấng Cứu Thế đã được sinh ra, cũng như cung cấp cho nhà vua các
thông tin mà họ đã thu thập được trong truyền thống Kinh Thánh. Tuy nhiên, ý
Chúa nhiệm mầu, vì ý định của Hêrôđê không trong sạch, ý định đó các nhà đạo sĩ
là sứ giả cho những người tìm kiếm Thiên Chúa đã được mộng báo. Việc các nhà
đạo sĩ đến kính viếng Chúa Hài Nhi cho ta thấy sứ mạng của Đức Giêsu không chỉ
dành cho Dân được tuyển chọn, nhưng cho cả nhân loại. Việc ba nhà đạo sĩ đến
Giêrusalem hỏi đường, cho thấy mối liên lạc giữa sự khôn ngoan ngoại giáo và
mạc khải Kitô Giáo thể hiện nơi con người của Chúa Giêsu thành Nagiarét mà con
người khát mong tìm kiếm. Sứ vụ phổ quát của Chúa Kitô được Thánh Phaolô gọi là
sự mặc khải của mầu nhiệm: " Ấy vì dân ngoại, cùng (với Israel) là kẻ thừa
tự, là Thân mình, và là đồng hưởng lời hứa trong Đức Yêsu Kitô, nhờ bởi Tin
Mừng" (Ep 3, 2). Ơn cứu chuộc sẽ mở ra cho muôn người thuộc mọi quốc gia,
và các dân ngoại đã trở thành người đồng thừa tự, cùng được chia sẻ lời hứa
trong Chúa Giêsu Kitô (Ep 3, 6). Sự gặp gỡ giữa sự khôn ngoan của những người
sống bên ngoài mạc khải ( là các đạo sĩ, dân ngoại), và những người hiển nhiên
thừa hưởng lời hứa (Dân Do Thái) từ sự ra đời của Chúa Kitô chứng tỏ sứ mệnh
của Chúa Giêsu trong sứ vụ công khai của mình, và bản chất của Giáo hội mà Chúa
Giêsu sẽ xây dựng.
Tước hiệu "Vua Do Thái", mà ba nhà đạo sĩ ám chỉ Hà Nhì
mới sinh sẽ xuất hiện trên miệng của Philatô vào lúc ông xét xử Chúa Giêsu và
trên bảng ghi trên thập giá.
Trước câu hỏi của ba nhà đạo sĩ, "Vua người Do-thái mới sinh
ra hiện đang ở đâu? " khiến nhà vua, các đại giáo trưởng và luật sĩ thông
thạo Thánh Kinh bối rối. Đó cũng là thái độ của các nhà lãnh đạo Do Thái trong
đời sống cộng đoàn và Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu sau này.
Vì thế sự tỏ mình của Chúa Giêsu cho các đạo sĩ chính là khởi điểm
của việc thể hiện tỏ tường sẽ được thực hiện trong sự chết và phục sinh của Đức
Kitô, nhất là bừng sáng vào ngày Ngũ Tuần.
Giáo hội với sứ mạng phổ quát của mình, phải là nơi đáp ứng những
khát vọng sâu xa của con người mọi nơi, mọi thời đại về Thiên Chúa. Giống như
Chúa Kitô, Người đã chiếu tỏa vinh quang cho dân ngoại. Giáo hội cũng mời gọi
chúng ta dõi theo ánh sao cùng ba nhà đạo sĩ đến chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu,
Thiên Chúa làm người trong khiêm hạ và nghèo khó, nhất là đón nhận chính Hài
Nhi ấy là Ánh Sáng và là Chúa Kitô vào trong chúng ta, để chúng ta có sống là
sống chính sự sống của Người, và lấy các tâm tình, tư tưởng và hành động của
Người làm tâm tình, tư tưởng và hành động của chúng ta. Như thế, mừng Giáng
Sinh là biểu lộ niềm vui, sự mới mẻ, ánh sáng mà biến cố Giáng Sinh này đã đem
lại trong toàn cuộc sống chúng ta, để chúng ta cũng là những người đem niềm
vui, sự mới mẻ đích thật, và ánh sáng của Thiên Chúa đến cho mọi người. Amen.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Các đạo sĩ là ai?
Các ông là người phương Đông. Người phương Đông không như người
phương Tây. Phương Tây tìm Chúa để chiếm hữu Chúa như họ chiếm hữu vùng đất mới
sau bao nhiêu cuộc mạo hiểm. Họ chiếm hữu để thỏa mãn lòng tham giàu có, danh
vọng. Người Do thái cũng như người phương Tây. Họ cầu mong Đấng Cứu Thế đến để
thỏa mãn nguyện vọng bá chủ thiên hạ, làm cho dân Israel chiến thắng vinh
quang, cho “Giêrusalem bừng sáng lên, cho nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả,
cho của cải muôn dân nước sẽ đến với ngươi, cho lạc đà từng đàn che rợp đất từ
Madian, Êpha, Saba, hết thảy kéo đến mang theo vàng với trầm hương đổ vào nước
ngươi” (Is. 60, 1-6).
Người phương Đông tìm Chúa, không để chiếm hữu Ngài, Ngài là Đấng
tối cao, chí linh, chí thánh, vô biên. Họ kính Ngài ngự chốn rất cao xa. “Kính
nhi viễn chi”. Họ biết mình thân phận thụ tạo hèn mọn, không dám gần Ngài. Dù
là kẻ phàm trần được Ngài cho làm vua, mệnh danh là thiên tử. Họ cũng không dám
ngẩng mặt nhìn dung nhan ông vua của họ. Huống chi là Thượng Đế chí tôn. Vậy họ
tìm Chúa làm gì? Họ tìm Chúa, thực ra là để tìm thiên mệnh, là thánh ý Chúa.
Qua tri thiên mệnh, qua các hiện tượng của trời đất, các tinh tú, thời tiết,
qua các tâm hồn thánh nhân, qua cuộc sống của hiền nhân quân tử, và nhất là qua
lương tâm trong sáng của lòng họ: “Tri tâm tắc tri thiên” (Mạnh Tử. Tận tâm.
Thượng 1). Cho nên, không biết thiên mệnh không đáng làm quân tử: “Bất tri
mạng, vô dĩ vi quân tử” (Luận Ngữ xx. 3). Không biết thánh ý Chúa, không thể
làm con Chúa.
Biết thánh ý Chúa là điều quan trọng nhất của người phương Đông để
biết phép tắc của trời và sống đúng theo ý trời:
“Thiên hữu hiển đạo, quyết loại duy chương” – Trời có đạo lý rõ
ràng, các loài phải thấy rõ mà theo (Kinh Thư. Thái hệ hạ 2).
Khổng Tử sở dĩ trở thành “vạn thế sư biểu” và “Thánh chi thời” là
nhờ ông lo tìm biết ý trời mãi tới năm mươi tuổi mới thấu được thiên mệnh, đến
sáu mươi tuổi mới thuận theo được ý trời và tới bảy mươi tuổi tâm tưởng hoàn
toàn không trái phép trời: “Ngũ thập nhi tri thiên mạng, lục thập nhi nhĩ
thuận, thất thập nhi tùng tâm sở dục, bất du củ” (LN. II, 4).
Chính Hài Nhi Giêsu khi đến thế gian đã thưa với Chúa Cha rằng:
“Này con xin đến để làm theo tôn ý Cha”. Lúc lên mười hai tuổi, Người cũng đã
thưa với thân mẫu trần gian rằng: “Tại sao tìm con, con phải lo làm việc của
Cha con đó” (Lc. 2, 49).
Tri thiên mệnh, làm theo ý Chúa Cha đó là lễ vật lòng thành hoàn
hảo nhất mà ba vua đem đến dâng tiến Chúa Giáng Sinh qua ba lễ vật hữu hình:
vàng, nhũ hương và mộc dược.
Vàng là kim loại óng ánh, rực rỡ,
tinh ròng để trang sức cho trần gian, các ông dâng lên Ngài, làm ngai vàng cho
Ngài ngự trị, tôn vinh Ngài làm vua trên hết các vua. Các vua còn muốn nó thay
cho lòng mến nồng nhiệt, bền vững nhất gói ghém trọn vẹn cả tâm tư, trí khôn, ý
chí, sức lực của chính các ông và muôn dân mà các ông là đại biểu cho họ hôm
nay và mãi mãi.
Nhũ hương: một thứ nhựa cây tầm thường,
không mùi vị, nhưng khi đốt vào lửa hồng, nó tỏa hương thơm ngào ngạt, bay lên
những làn khói trắng nhẹ nhàng. Các ông muốn nó thay cho mọi của cải trần gian
từ nay chỉ được dùng tiến dâng tế lễ Ngài, không bao giờ để nó làm tôi đòi cho
các thần tượng bất chính. Mọi sự do Ngài dựng nên, trao ban cho loài người, thì
phải dùng để tôn thờ Thiên Chúa. Các ông còn ước ao những làn hương thơm đó ôm
ấp những lời nguyện hèn mọn của các ông và của hết mọi người ở khắp nơi, bay
tỏa lên trước tôn nhan Thiên Chúa, xin Ngài làm cho bao nhiêu nỗi âu lo, buồn
phiền cay đắng, nhọc nhằn, khốn cực của nhân loại được trở nên dịu dàng, thơm
tho, ngọt ngào trong lửa kính mến Ngài.
Mộc dược là nước lấy từ thứ cây có vị
đắng và thơm, để tắm gội, thanh tẩy và ướp xác khi khâm liệm. Ba vua dâng lễ
vật này lên Hài Nhi đang nằm trong nơi hôi thối, để cảm tạ Ngài đã hy sinh
giáng trần, thí mạng sống lấy máu thịt Ngài ướp lấy mạng sống của các ông và
của cả nhân dân thế giới khỏi dòi bọ tội lỗi phá hủy, các ông dâng mộc dược còn
tượng trưng sự hy sinh hãm mình của chính các ông đã ra sức thanh tẩy đầu óc mê
tín dị đoan của các tà thần dân ngoại. Những cố gắng từ bỏ lối sống ham danh
trục lợi, ăn chơi tội lỗi. Đặc biệt các ông dâng lên Ngài lòng biết ơn sâu xa
của các ông mà Ngài đã ban cho các ông biết hy sinh lớn lao cho công cuộc
nghiên cứu khoa học, tìm tới chân lý, nhất là Ngài đã dạy các ông biết thực thi
bác ái, cứu giúp đồng bào.
Đã từ lâu, Chúa Hài Nhi hằng mong chờ lễ vật lòng thành của tôi.
Tôi đã có một chút lòng mến óng ánh như vàng, một chút kinh nguyện nồng nàn
thâm trầm như hương thơm ngọt ngào, một chút hy sinh cay đắng như mộc dược dâng
lên Ngài chưa?
Lạy Chúa, Người là tình yêu, Người yêu con vô bờ, chẳng cần chi
thiên phúc, sống thân phận bần cùng đồng hàng với con hèn, cho con được đồng
phận thiên phúc của Người. Lạy Chúa, con đền ơn trời biển làm sao? Xin cho con
biết hiến dâng cho Người: một con tim nồng ấm dạt dào thương mến như Người, một
khối óc cởi mở đón nhận chân lý hằng sống của Người, một thân xác lành mạnh
luôn luôn biết phụng sự các chi thể của Người.
9. Hành trình Ba Vua – AM Trần Bình An
Sao chổi Halley, tên được đặt chính thức là 1P/Halley một sao chổi
được đặt tên theo nhà vật lý thiên văn học người Anh Edmund Halley, là một sao
chổi có thể nhìn thấy cứ mỗi 75 đến 76 năm. Nó là sao chổi nổi tiếng nhất trong
các sao chổi theo chu kỳ. Dù trong mỗi thế kỷ đều có nhiều sao chổi có chu kỳ
dài xuất hiện với độ sáng và ngoạn mục hơn nhưng sao chổi Halley là một ngôi
sao chổi chu kỳ ngắn có thể thấy rõ bằng mắt thường và do đó, là sao chổi có
thể nhìn thấy bằng mắt thường chắc chắn có thể trở lại trong một đời người. Sao
chổi Halley xuất hiện lần cuối bên trong Hệ Mặt Trời vào ngày 9 tháng 2 năm
1986, và sẽ xuất hiện trở lại vào ngày 28 tháng 7 năm 2061.
Theo thuyết Newton, một số sao chổi quay chung quanh Mặt trời trên
những quỹ đạo hình ellip. Nhà thiên văn học Edmund Halley, người Anh (thế kỷ
thứ 17-18) áp dụng định luật Newton để tính quỹ đạo cho biết là các sao chổi
hiện ra những năm 1531, 1607 và 1682, có quỹ đạo giống nhau và chỉ là một thiên
thể. Cứ khoảng 74 - 76 năm thì sao chổi lại quay trở lại gần Mặt trời và được
nhìn thấy từ Trái Đất. Ông tiên đoán là sao chổi này sẽ trở lại năm 1758.
Đúng hôm lễ Giáng sinh năm đó, sao chổi hiện lên bầu trời, nhưng
tiếc thay ông đã mất trước và không được biết là tiên đoán của ông được xác
minh. Sao chổi này được đặt tên là sao chổi Halley để ghi nhớ thành tích khoa
học của ông. (Wikipedia)
Chưa có tài liệu nào xác nhận sao chổi Halley đã dẫn dắt ba nhà
chiêm tinh từ phương Đông đến bái lạy Hài Nhi Giêsu. Nhưng điều quan trọng là
các nhà chiêm tinh đã tìm được Đấng Cứu Thế, sau cuộc ra đi gian nan, đầy thách
đố. Đó cũng là cuộc hành trình đức tin của từng Kitô hữu thiện tâm.
Tỉnh thức
Chẳng lẽ không có ai, ngoài ba nhà chiêm tinh dân ngoại, nhìn thấy
một ngôi sao bỗng dưng rực sáng trên bầu trời? Hẳn nhiên có nhiều người Do Thái
cùng nhìn thấy, nhưng chắc chắn chẳng thể nào hiểu được dấu chỉ Đấng Messia
nhập thế. Như thế, để có thể giải mã được dấu chỉ của Thiên Chúa, tiên quyết
cần thành tâm, ao ước, khao khát Đấng Cứu Thế với tinh thần nhạy bén, sẵn sàng
và tỉnh thức. Đức Chúa Thánh Thần luôn rộng ban ơn Thông minh, ơn Hiểu biết cho
những người thiện tâm. “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã
thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy
Người.” (Mt 2, 2)
“Một hồi chuông, một ngọn tháp nhắc nhở con: Chúa đang ở trong Nhà
Tạm gần con, lòng con nóng nảy, hướng đến thờ lạy, yêu mến Chúa.” (Đường Hy
Vọng, số 233)
Dấn thân
Các vị chiêm tinh không phái người hầu, kẻ hạ đi tìm Đức Giêsu, mà
đích thân họ cất bước ra đi. Chẳng hề quản ngại lời dèm, tiếng chê, hay do dự
vì cách trở, xa xăm, hiểm nguy, khó nhọc, họ dám lấy chính mạng sống đánh cược,
can đảm, xông pha lên đường, liều lĩnh viễn du tìm Đấng Thiên Sai.
“Đã ra đi phải bất chấp lưỡi thiên hạ đàm tiếu. Ba Đạo sĩ ra đi,
hy vọng gặp Chúa Cứu Thế, họ đã gặp; Phanxicô Xaviê ra đi, hy vọng cứu các linh
hồn, ông đã gặp; Goretti ra đi, thoát cơn cám dỗ, hy vọng gặp Chúa, Chị đã
gặp.” (Đường Hy Vọng, số 7)
Thử thách
Rồi bỗng dưng ngôi sao lạ biến mất, biết đâu mà lần? Biết đâu mà
đi? Thách đố đã không hề thiếu trên con đường thiên lý tìm Chúa. Cạm bẫy, cám
dỗ, lạc lối, trộm cướp, đạo tặc, ma quỷ, không thiếu. Bệnh hoạn, đuối sức, đói
khát chẳng thiếu trong suốt hành trình. Nếu không vững niềm Tin, Cậy, Mến, làm
sao các nhà chiêm tinh vượt qua nổi?
“Mất để được, chết để sống, từ để gặp. Ba Đạo sĩ liều hiểm nguy,
chế nhạo. Phanxicô liều xa cha mẹ, mất của cải, thú vui. Goretti liều mạng
sống.” (Đường Hy Vọng, số 8)
Tín thác
Dù mất dấu vết ngôi sao lạ, ba nhà chiêm tinh vẫn không hề nao
núng, lung lạc, ê chề thất vọng, bỏ cuộc, dang dở hành trình. Họ chủ động dò
hỏi khắp nơi. Thậm chí vào cả hoàng cung, trực tiếp hỏi thẳng Vua Hêrôđê. Gián
tiếp qua các thượng tế và kinh sĩ, họ tìm đến Kinh Thánh, Lời Hằng Sống, để
được hướng dẫn đi đúng đường. Đây chính là chánh đạo để gặp được Đấng Cứu Thế.
Họ đã hoàn toàn tín thác vào Lời Chúa. “Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương
Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại.” (Mt 2, 9)
“Thành tín trên con đường con đi, Phêrô không nộp Chúa, không cáo
Chúa, nhưng Phêrô không được một lời bênh Chúa, “Tôi không biết người ấy,”
Phêrô muốn yên thân, khỏi liên lụy: Phêrô bỏ Chúa dọc đường và tháo lui.”
(Đường Hy Vọng, số 46)
Vâng phục
“Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng.” (Mt 2, 10) Hành động
theo Lời Chúa đương nhiên gặp Chúa mọi nơi, mọi lúc. Khi các vị chiêm tinh nghe
theo chỉ dẫn của Kinh Thánh qua lời các thượng tế và kinh sư, thì họ lại trông
thấy ngay ngôi sao dẫn đường, thoát khỏi sự mù lòa, lầm lạc bi đát. Vâng phục
luôn là đức tính quan trọng và cần thiết để tìm Chúa và theo Chúa.“Sau đó, họ
được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ
mình.” (Mt 2, 12)Ba vị Chiêm tinh lần nữa tiếp tục vâng theo sứ thần, để được
sống, thoát khỏi bàn tay nhuốm máu của vua Hêrôđê.
“Có người phục mà không vâng, có người vâng mà không phục, có
người vâng và phục, vì thượng cấp”đúng điệu” với mình, có người vâng và phục vì
Chúa.” (Đường Hy Vọng, số 397)
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, khấn xin Người ban cho chúng con Đức Chúa
Thánh Thần, để lửa Tin, Cậy Mến bùng cháy trong lòng chúng con, để Tình Yêu
Chúa chiếm hữu hoàn toàn tâm can chúng con. Hầu chúng con luôn cố gắng, quyết
tâm ra đi tìm Chúa, gặp Chúa và theo Chúa, vượt qua bao gian nan, thử thách cam
go, như ba vị chiêm tinh ngày xưa.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ đoái thương cứu giúp chúng con đang trầm luân
trong thung lũng đầy nước mắt, đang lặn lội, mê muội, mù lòa, trong những cám
dỗ phù phiếm thế gian. Mẹ là ngôi sao sáng giữa biển khơi mịt mù, xin dẫn dắt
chúng con tìm đến Chúa Giêsu, cội nguồn ơn cứu rỗi. Amen.
Hôm ấy, đang khi vị linh mục giảng tĩnh tâm cho gần 500 tín hữu
trong một hội trường rộng lớn về đề tài “Hãy làm gương sáng”, thì điện bị cúp
trong toàn khu vực (cúp điện theo chiến thuật!). Cả hội trường chìm trong bóng
tối.
Bấy giờ ngài bật lên một que diêm, giơ cao lên và cất tiếng
hỏi: “Anh chị em có thấy ánh sáng từ que diêm nầy không?”
Mọi người trong hội trường đáp lại: “Thưa có”
Vị linh mục tiếp: “Dù bóng tối phủ dày nhưng chỉ cần ánh
sáng của một que diêm thôi cũng đủ cho nhiều người chung quanh nhìn thấy. Như
thế, ánh sáng của việc tốt, dù nhỏ bé thôi, cũng có thể tỏa ra trước mắt nhiều
người trong một xã hội dẫy đầy bóng tối.”
Sau đó, ngài mời gọi những ai mang theo hộp quẹt trong túi, hãy
bật cho lửa sáng lên. Nhiều người hưởng ứng. Thế là bóng tối bị đẩy lùi, cả hội
trường sáng lên bởi rất nhiều ánh lửa nhỏ từ các hộp quẹt của những người hiện
diện.
Bấy giờ vị linh mục tiếp: “Nếu mỗi người chúng ta cố gắng
thực hiện một việc tốt mỗi ngày thì cuộc đời chúng ta sẽ tỏa sáng như những đốm
lửa trên tay chúng ta đây. Nhờ đó bóng tối của thói hư tật xấu và của tệ nạn
đang bao trùm thôn xóm sẽ dần dần bị đẩy lùi.” (Phỏng theo một cốt truyện trên internet)
* * *
Hôm xưa, nhờ ánh sáng của ngôi sao lạ rực sáng lên ở phương đông,
các nhà chiêm tinh mới lần theo ánh sao, tìm đến thờ lạy Chúa Hài Nhi. Hôm nay,
mỗi người tín hữu theo Chúa Kitô phải trở thành những ánh sao mới để dẫn lối
cho bao người tìm về với Chúa.
Lời Chúa trong sách tiên tri Isaia được trích đọc vào thánh
lễ hôm nay vang lên như một lời mời gọi tha thiết, thúc giục chúng ta hãy toả
sáng.
“Hãy đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi.
Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi.
Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân;
còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu toả,
vinh quang Ngài xuất hiện trên ngươi.
Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi,
vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước.” (Isaia
60,1)
Ngoài ra, qua thư gửi tín hữu Phi-lip-phê, thánh Phao-lô
nhân danh Thiên Chúa kêu gọi chúng ta tỏa sáng: “Giữa một thế hệ gian tà sa
đoạ… anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời.” (Philip 2,15)
Phải tỏa sáng cách nào?
Trước hết là bằng cách phát huy nếp sống đẹp: đẹp trong lời
ăn tiếng nói, đẹp trong cách cư xử giao tế với người chung quanh, nhưng đẹp
nhất là có lòng bác ái, yêu thương, tôn trọng và sẵn sàng phục vụ những người
chung quanh… Ai thực hiện được những điều đó, thì họ là những ánh sao dẫn đường
về với Chúa, về với Chân Thiện Mỹ. Thế giới và xã hội rất cần những ngôi sao
như thế để soi đường dẫn lối cho bao người.
Như giọt sương mai
Những giọt nước bẩn đọng lại đây đó trên những lá cây bên
đường không thể tỏa ra chút ánh sáng nào; tuy nhiên những giọt sương mai còn
đọng lại trên các ngọn cỏ lại trở nên long lanh tuyệt đẹp dưới ánh bình minh.
Vậy thì các tín hữu cần loại trừ khỏi cuộc sống mình những
tệ nạn và thói hư tật xấu, bấy giờ tâm hồn họ sẽ trở nên trong sáng như những
hạt sương mai.
Kế đó họ cần học hỏi và để cho Lời Chúa thấm đẫm tâm hồn.
Một khi Tin Mừng Chúa Kitô được chiếu giọi tận đáy sâu tâm hồn thì Ánh Sáng Tin
Mừng sẽ làm cho họ trở nên lấp lánh giữa cuộc đời, như ánh sáng mặt trời ngời
sáng trên những giọt sương mai.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin giúp chúng con tỏa sáng, dù không như ánh sao giữa bầu
trời đêm thì ít nữa cũng như một cây nến sáng trong gia đình, để nhờ gương lành
việc tốt của chúng con, gia đình, thôn xóm chúng con được bừng sáng, vì
“gần mực thì đen, gần đèn ắt phải sáng”.
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Chính những Lời Chúa dạy là ánh sao sáng, còn sáng hơn sao Bê-lem
năm xưa, soi sáng cho chúng ta biết Chúa đang ở ngay trong gia đình, trong làng
xóm chúng ta.
Theo ánh sáng của ngôi sao lạ, ba nhà chiêm tinh đã tìm đến cung
điện của vua Hêrôđê để thờ lạy kính bái, vì nghĩ rằng nếu có vị vua mới sinh
thì ắt vua đó phải sinh ra nơi cung vàng điện ngọc, nơi chốn cao sang. Nhưng
thực ra không phải thế. Khi ba vị đến ngay cung điện vua Hêrôđê và hỏi:
"Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của
Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người," thì vua
Hêrôđê tỏ hết sức ngạc nhiên. (Mt 2, 2)
Bấy giờ "nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh
sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời:
"Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: “Phần
ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của
Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời.” (Mt 2,
4-6)
Thật bất ngờ, Chúa Cứu Thế không sinh ra trong cung vàng điện ngọc
mà lại sinh ra trong nơi quê mùa heo hút, nơi làng Bê-lem là phần đất nhỏ bé
của miền Giu-đa.
Như thế, nhờ ánh sáng từ Kinh Thánh soi sáng mà vua Hêrôđê, cả
triều thần của vua cũng như ba nhà chiêm tinh biết được nơi Chúa Cứu Thế giáng
sinh. Cũng nhờ ánh sáng nầy, ba nhà chiêm tinh tiếp tục đến tận nơi để thờ lạy
và dâng lễ vật cho Người, tại một nơi nghèo nàn tầm thường mà ba vị không ngờ
trước được.
Hôm nay, không có ngôi sao lạ nào xuất hiện trên bầu trời để soi
đường cho chúng ta đi tìm Chúa, nhưng chúng ta có một ánh sáng khác rực rỡ hơn
giúp ta tìm gặp Người. Đó là ánh sáng của Lời Chúa, như lời Thánh Vịnh:
"Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con
đi." (Thánh vịnh 119, câu 105)
Vậy ánh sáng Lời Chúa soi đường cho chúng ta tìm thấy Chúa nơi
đâu? - Ở nơi mà không mấy ai tin là có: Ở ngay trong nhà, trong xóm chúng ta.
Thật quá bất ngờ!
Ba nhà chiêm tinh ngày xưa ban đầu cứ ngỡ rằng vua mới ra đời ắt
phải sinh ra trong cung điện Hêrôđê, không ngờ Lời Chúa lại chỉ cho họ tìm gặp
Đấng Cứu Thế mới sinh tại một làng quê Bê-lêm hẻo lánh, trong hình hài một trẻ
sơ sinh yếu ớt, tại một túp lều nghèo nàn đơn sơ.
Chúng ta cũng thế, ban đầu chúng ta cứ tưởng Chúa chỉ ngự trên
chốn trời cao, Chúa chỉ hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể, chỉ ngự trong các
thánh đường... Nào ngờ Chúa cũng hiện diện trong chính gia đình chúng ta, trong
thôn xóm nghèo nàn của chúng ta.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong tâm thư gửi các gia đình đã
viết: "Thiên Chúa đồng hoá với con người, với những người trong gia đình.
Thiên Chúa là một với người cha, người mẹ, người bạn trăm năm, người con cái
trong gia đình."
Qua dụ ngôn dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng trong Tin Mừng
Mátthêu, Chúa Giêsu tỏ cho thấy những ai cho những người đói khát đầu đường xó
chợ một bát cơm thì Chúa nói là họ cho Chúa ăn. Những ai cho người rách rưới
hoặc mình trần một manh áo, thì Chúa nói là họ đã cho Người mặc. Những ai cho
người sa cơ thất thế không nơi nương tựa được trú ngụ một thời gian thì Chúa
nói là họ đã cho Chúa trọ nhà… Nói như thế, Chúa Giêsu tự đồng hoá mình với mọi
người chung quanh. Nói khác đi, bất cứ ai cũng được Chúa Giêsu nhìn nhận là
chính Người. (xem Mt 25, 31-46)
Khi chưa nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa, Phaolô ra tay bách hại
các môn đệ của Người dữ dội. Vì thế, ông đã bị quật ngã trên đường Đamát và có
tiếng Chúa Giêsu vang lên giữa thinh không: "Saolô, tại sao ngươi bắt bớ
Ta?" Phaolô hết sức kinh hoàng: "Thưa Ngài, Ngài là ai?" Có
tiếng từ trời đáp: "Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ". (Cv 22, 6-9).
Chính từ hôm đó, Sao-lô (tức thánh Phaolô tông đồ) mới nhận ra các tín hữu cũng
chính là Chúa Giêsu nên người thường nhắc nhở mọi người ghi tâm khắc cốt lời
nầy: "Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức
Kitô sao?" (I Cr 6, 15).
Chính những Lời Chúa dạy trên đây là ánh sao sáng, còn sáng hơn
sao Bê-lem năm xưa, soi sáng cho chúng ta biết Chúa đang ở ngay trong gia đình,
trong làng xóm của chúng ta, để chúng ta đến hầu hạ phục vụ và dâng lễ vật cho
Người.
Lễ vật của chúng ta không phải là vàng, nhũ hương và mộc dược
nhưng là một tấm áo cho cha, một bát cơm cho mẹ, là sách vở bút mực cho con cái
học hành, là sự ân cần săn sóc cho những người đau khổ chung quanh chúng ta. Đó
là những lễ vật quý báu mà Chúa Giêsu đang thiết tha chờ đợi. Ước gì chúng ta
mau mắn và quảng đại hiến dâng cho Người.
Lễ Chúa Hiển Linh là cao điểm của mùa Giáng Sinh. Ta đã có dịp suy
niệm Lời Chúa về ý nghĩa của biến cố Ngôi Hai làm người sinh xuống và ở giữa
nhân loại. Sự hiện diện của Chúa Giêsu trong thế giới luôn luôn là một dấu chỉ,
một ngôn ngữ để Thiên Chúa nói với loài người. Vậy qua biến cố Giáng Sinh,
Thiên Chúa muốn tỏ mình ra, muốn “lộ diện” với nhân loại, để nhân loại thấy
được Thiên Chúa vô hình và kế hoạch ân sủng của Người (xem Ga 1,18).
1. Vinh quang của Thiên Chúa chiếu tỏa trên nhân loại (bài đọc Cựu Ước – Is 60,1-6)
Qua cái nhìn của ngôn sứ Isaia, Giêrusalem không còn là thủ đô của
dân tộc nhỏ bé Ít-ra-en nữa, nhưng nó đã trở nên “đô thành của Thiên Chúa” và
trung tâm cứu độ của toàn thể thế giới rồi. Từ bao lâu nay, thế giới nằm dưới
ách thống trị của bóng tối và mây mù tội lỗi. Tình trạng của Giêrusalem cũng
không hơn gì thế giới, vì cũng ở trong tối tăm và chẳng dân tộc nào nhận ra nó.
Nhưng khi Giêrusalem được mặt trời công chính ngự đến thì chỗ đứng của nó hoàn
toàn thay đổi. Giêrusalem đã được chọn làm nơi “vinh quang của Đức Chúa như
bình minh chiếu tỏa”. Vì thế ngôn sứ kêu gọi Giêrusalem hãy đứng cao lên để
toàn thế giới nhận được ánh bình minh của Đức Chúa. Giêrusalem sẽ chứng kiến
tầm quan trọng của nó vì nó trở nên nguồn sáng lôi cuốn và hướng dẫn toàn nhân
loại đến một vương quốc mới.
Ngôn sứ Isaia sử dụng hình ảnh giàu có phong phú của một quốc gia
trần thế để diễn tả một thực tại thiêng liêng là vương quốc ân sủng của Thiên
Chúa. Theo quan niệm Do-thái, một quốc gia hùng mạnh là quốc gia đông dân cư và
giàu sang, với của cải vàng bạc từ các nước thiên hạ đổ về qua đường biển, hoặc
qua đường bộ và chở đầy trên lưng đàn lạc đà không sao đếm xuể. Hình ảnh ấy
tượng trưng cho sự sung mãn ân sủng Thiên Chúa ban cho nhân loại khi Con Một
xuống thế làm người tại Giêrusalem mới. Muôn dân nước “đều tập hợp, kéo đến” để
nhìn nhận “vinh quang của Thiên Chúa”.
Nhưng vinh quang của Thiên Chúa phải chăng là quyền năng cao cả
của Người? Đúng vậy. Tuy nhiên hơn thế nữa, quyền năng cao cả ấy được biểu hiện
qua việc làm yêu thương của Thiên Chúa khi Người ban cho ta Con Một. “Tình yêu
của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con
Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (l Ga 4,9).
Thiên Chúa có cả một kế hoạch để chiếu tỏa vinh quang của Người trên Giêrusalem
mới, tức là kế hoạch ân sủng được thực hiện một cách lạ lùng qua Đức Giêsu Kitô
và thánh Phaolô Tông đồ gọi đó là Mầu nhiệm Đức Kitô.
2. Mầu nhiệm Đức Kitô được mặc khải cho cả Ít-ra-en lẫn dân ngoại (bài đọc Tân Ước – Ep
3,2-3a.5-6)
Thần học gia Phaolô cho ta một cái nhìn thật rõ ràng về kế hoạch
cứu độ của Thiên Chúa. Kế hoạch cứu độ, những từ này nói lên công việc Thiên
Chúa làm và sự rỗi của ta là đối tượng của công việc ấy. Những từ này nhấn mạnh
về phía Thiên Chúa chủ động. Nhưng đối với thánh Phaolô, việc cứu rỗi không
phải là việc làm của mình Thiên Chúa, mà còn phải có sự đáp trả của ta. Thiên
Chúa ban ân sủng cứu độ, nhưng ta là kẻ được lãnh nhận cần phải cộng tác tích
cực, sử dụng ân sủng đó để sống như con cái Thiên Chúa hầu đạt tới mức sung mãn
trong Đức Kitô. Do đó, thánh Phaolô gọi kế hoạch đó là “kế hoạch ân sủng”, vì
Đấng ban ân sủng cũng như những kẻ lãnh nhận ân sủng sẽ cùng cộng tác với nhau
mà đến với nhau và làm cho quan hệ đôi bên được vững bền muôn đời. Ta không thể
tưởng tượng nổi tại sao Thiên Chúa lại chọn cách thế như vậy để đến với nhân
loại và cứu độ con người. Quả thực là một mầu nhiệm! Trong tiếng La-tinh, mầu
nhiệm cứu độ thường được gọi là “kế hoạch cứu độ” (economia salutis). Mầu nhiệm
này được Thiên Chúa tỏ ra và thực hiện qua Đức Kitô nên thánh Phaolô gọi là
“Mầu nhiệm Đức Kitô”.
Thánh Phaolô cho ta một định nghĩa đầy đủ về mầu nhiệm này. “Mầu
nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa
kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ
điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3,6).
Vậy Thiên Chúa muốn tỏ cho ta biết những gì qua “Mầu nhiệm Đức
Kitô”? Có ba điểm cốt yếu trong chân lý mầu nhiệm này. Trước hết Thiên Chúa muốn mọi người không trừ ai, Do-thái cũng như
dân ngoại, đều được cùng hưởng phần phúc gia nghiệp của Người, tức là lời hứa được cứu độ. Mầu nhiệm Đức Kitô khẳng định tính
cách phổ cập của ơn cứu độ. Dù thuộc bất cứ dân tộc nào, nền văn hóa nào, hoặc
giai cấp nào trong xã hội mọi người đều được mời gọi đón nhận ơn cứu độ của
Thiên Chúa, vì đây là kế hoạch ân sủng dành cho tất cả nhân loại. Nhờ chia sẻ
cùng một bản thể nhân loại với Đức Kitô nên ta được mời gọi lãnh ân sủng Thiên
Chúa ban cho ta trong Đức Kitô.
Điểm thứ hai mầu nhiệm Đức Kitô cho ta thấy vai trò quan trọng của Đấng thực hiện kế hoạch ân sủng là Đức Kitô
Giêsu. Thiên Chúa không đặt kho tàng ân sủng cứu độ
ấy ở trên trời hay một địa điểm đặc biệt nào đó dưới thế gian, vì như thế làm
sao con người có thể tìm kiếm được. Nhưng Người đặt nguồn ơn cứu độ ấy “trong
Đức Kitô Giêsu”, Đấng được Chúa Cha sai đến “làm người để chuộc tội cho thiên
hạ” (Rm 8,3). Đức Kitô vừa là Thiên Chúa vừa là người phàm, cho nên khi Đức
Kitô thực hiện kế hoạch ân sủng cứu độ qua bản thể nhân loại và bản thể Thiên
Chúa của Người, thì tất cả những lời giảng, việc làm, cái chết và sự phục sinh
của Người đều có giá trị của Thiên Chúa và có khả năng cứu độ mọi người. Người
chịu cuộc Thương Khó, chết và sống lại, để được Thiên Chúa tôn vinh và đặt làm
anh cả của một đoàn em đông đúc, tức là nhân loại mới (Rm 8,29).
Điểm thứ ba nói lên phương thức giúp mọi người nhận
biết và tin vào Đấng Cứu Độ. Đó là “nhờ Tin Mừng”. Tin
Mừng cứu độ này “những người thuộc các thế hệ trước”, tức là các vị ngôn sứ
thời Cựu Ước, không có diễm phúc biết tới. Chỉ có các thánh Tông đồ mới là
những người được biết và được Thiên Chúa trao phó cho nhiệm vụ rao giảng Tin
Mừng ấy. Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phaolô nói về sứ vụ rao giảng Tin
Mừng như sau: “Thế nhưng làm sao người ta kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ
tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe nếu không có ai rao giảng? Làm sao
mà rao giảng, nếu không được sai đi?... Nhưng không phải mọi người đều đã vâng
theo Tin Mừng; chính ngôn sứ Isaia đã nói: Lạy Đức Chúa, ai đã tin khi nghe
chúng con giảng? Ấy vậy, có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe
công bố lời Đức Kitô” (Rm 10,14-17).
3. “Từ phương Đông chúng tôi đến bái lạy Người” (bài Tin Mừng – Mt 2,1-12)
“Nhưng không phải mọi người đều đã vâng theo Tin Mừng”, thánh
Phaolô đã phải cay đắng nói lên sự thật phũ phàng ấy. Thánh Gio-an Tông đồ cũng
đồng quan điểm khi ngài khẳng định ngay trong lời tựa sách Tin Mừng: “Người đã
đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Câu truyện các
nhà chiêm tinh phương Đông đến bái lạy Hài Nhi Giêsu trong khi vua Hê-rô-đê bối
rối và dân thành Giêrusalem xôn xao đã chứng thực điều các thánh Tông đồ khẳng
định là một sự thật. Chúa Giêsu Kitô được sai đến để cứu độ mọi người và mọi
người được mời gọi đón nhận Người, đó là một tin mừng. Nhưng người ta từ chối
không tin nhận Người là Đấng Cứu Độ. Như thế Tin Mừng đã trở thành tin buồn đối
với họ rồi.
Rõ ràng có hai lớp người khác nhau theo câu truyện trong bài Tin
Mừng. Các nhà chiêm tinh đại diện cho những người tin vào Đức Kitô, còn vua
Hê-rô-đê và dân Giêrusalem thay mặt cho những kẻ chối bỏ Đức Kitô. Gặp được Đức
Kitô, các nhà chiêm tinh đã thay đổi cuộc đời mình. Hình ảnh các ông “đi lối
khác mà về xứ mình” thật có ý nghĩa. “Lối khác” đây chính là con đường Đức Kitô
dạy trong Tin Mừng của Người. Còn “xứ mình” không phải là phương Đông nữa, mà
là quê hương đích thực của họ, tức nhà Cha trên trời.
Bài Tin Mừng là một kết luận của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, đặt ta
trong tư thế phải trả lời dứt khoát: tin Đức Kitô và đón nhận ân sủng cứu độ,
hay là chối bỏ Người và hư mất đời đời.
4. Sống Lời Chúa
Thiên Chúa yêu thương ta và muốn tỏ cho ta biết Người yêu thương
ta đến ngần nào. Qua biến cố Giáng Sinh của Chúa Giêsu, Thiên Chúa cho ta biết
Người là ai và muốn làm gì để ta được làm con cái Người và được cứu độ. Điều
đáng mừng nhất, đó là ơn cứu độ đã được ban cho mọi người không trừ ai. Dĩ
nhiên ta không phải là người Do-thái, nhưng cũng không bị loại bỏ, trái lại
được quyền đến chia sẻ cùng một gia nghiệp của Thiên Chúa. Nhưng điều quan
trọng là ta có thực lòng và hăng hái đón nhận Đức Kitô như các nhà chiêm tinh
phương Đông hay không.
Suy nghĩ: Các nhà chiêm tinh “đã đi lối khác mà về xứ mình”. Các vị ấy đã từ
bỏ lối sống cũ để đi theo lối sống của Đức Kitô. Vậy lối sống cũ của tôi là lối
sống nào? Ngôi sao tức là Ánh Sáng Tin Mừng đã soi lối cho tôi bước đi. Vậy tôi
có đi theo Ánh sao ấy không hay vẫn “đường xưa lối cũ” từ bao năm nay?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, hôm nay Chúa đã khiến
ngôi sao chỉ đường mà mặc khải cho muôn dân nhận biết Con Một Chúa. Phần chúng
con đã nhận biết Chúa nhờ đức tin dẫn lối đưa đường, xin dủ lòng thương đưa
chúng con về chiêm ngưỡng Thánh Nhan vinh hiển. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô,
Chúa chúng con. Amen. (Lời Nguyện Nhập Lễ, Lễ Chúa
Hiển Linh).
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
TỪ MỘT VÌ SAO LẠ…
Có ba thái độ khác nhau khi con người phát hiện ra một vì sao lạ:
Thái độ Thành Tâm Thiện Chí của các nhà chiêm
tinh. (thường gọi Ba Vua)
Khi phát hiện ra một vì sao lạ, các nhà chiêm tinh từ phương Đông
đã đến Giêrusalem để tìm “Đức Vua dân Do Thái”.
“Vào thời đó mọi người đều tin vào khoa chiêm tinh. Họ tin rằng,
dựa vào vì sao họ có thể tiên đoán tương lai. Họ cũng tin rằng số mệnh một
người được an bài bởi ngôi sao đã xuất hiện lúc người ấy sinh ra. Điều này cũng
dễ hiểu, vì các ngôi sao đi theo một đường cố định, chúng tượng trưng cho trật
tự vũ trụ. Nếu thình lình có một vì sao sáng xuất hiện, nếu trật tự của từng
trời bị dao động bởi một hiện tượng đặc biệt, thì dường như Thiên Chúa đang can
thiệp vào chính trật tự của Ngài để loan báo một sự việc nào đó.” (William
Barclay).
Lịch sử cho thấy, vào thời điểm Chúa Giêsu giáng sinh, trong thế
giới lúc ấy cũng có sự chờ mong một vị vua sẽ đến. Như ở Roma, sử gia Suetonius
đã viết: “Khắp phương Đông có một niềm tin là vào thời đó, nhất định có người
từ Giuđa đến cai trị thế giới”, (Suetonius, Đời sống Vespasian 4,5). Sử gia
Tacitus cũng đã viết: “Có một xác tín rằng trong chính thời gian này, phương
Đông trở nên hùng mạnh và những người cai trị đến từ Giuđê sẽ chiếm được đế
quốc toàn cầu” (Tacitus, Biên niên sử 5,13). Người Do Thái cũng tin: “Vào
khoảng thời gian đó, một người trong xứ họ sẽ trở thành vua của mọi dân trên
mặt đất” (Josephus, Những cuộc chiến tranh của người Do Thái 6,5)…
“Khi Chúa Giêsu đến thì thế gian đang thiết tha trông đợi. Loài
người thật đang trông chờ Thiên Chúa. Sự khao khát nung nấu lòng người. Họ đã
nhận biết mình không thể tạo được thời đại hoàng kim nếu không có Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã ngự đến với một thế gian đang khắc khoải đợi mong và khi Ngài
đến, con người từ những phương trời xa xôi nhất đã tề tựu quanh nôi Ngài. Đó là
dấu hiệu và biểu tượng đầu tiên Chúa Giêsu chinh phục thế giới.” (William
Barclay).
"Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy
vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy
Người." (Mt.2,2).
Họ bái lạy với trọn vẹn lòng thành sau cuộc hành trình xa xôi vất
vả. Niềm tin vào “Đức Vua dân Do Thái mới sinh ra” là hoàn toàn chân thật và họ
đã dâng lên Hài Đồng Giêsu những lễ vật tượng trưng sự cao trọng và ý nghĩa
nhất dành cho Đấng Cứu Thế.
“Vàng là để tặng vua, nhũ hương tặng thầy tế lễ, mộc dược dành cho
Đấng phải chịu chết. Đấy là những lễ vật của các nhà chiêm tinh dâng ngay trước
nôi của Chúa Giêsu. Những lễ vật đó có ý nghĩa Ngài là vua chân thật, thầy tế
lễ trọn vẹn và sau hết, Ngài là Đấng Cứu Thế cao cả của loài người” (William
Barclay).
Thái độ Ganh Ghét và Thù Địch của vua Hêrôđê.
“Con vua thì được làm vua. Con sãi ở Chùa thì quét lá đa”.
Vua nào cũng muốn bảo vệ ngai vàng của mình, và cho con cháu sau
này. Nên khi nghe nói có một hài nhi sinh ra sẽ là vua thì tất nhiên vua nào
cũng lo lắng. Nhưng, đối với con người của Hêrôdê, thì sự lo lắng càng dữ dội
hơn nữa, vì cá tính đầy tham vọng của ông.
Lịch sử cho biết ông là một người đa nghi. Về điểm này, ông rất
giống Tào Tháo. Sẵn sàng giết chết bất cứ ai mà ông nghi làm tổn hại đến quyền
hành của ông. Ông đã giết vợ là Mariamne cùng mẹ nàng là Alexandra. Con cả là
Antipater và hai con trai khác là Alexander, Aristobulus cũng bị ông sát hại.
Hoàng đế Rôma là Augustus cay đắng nói rằng: “Làm con heo của Hêrôdê còn an
toàn hơn làm con trai ông ta”.
Một con người đầy tham vọng như vậy làm sao có thể đón nhận được
Thiên Chúa, Vua Tình Thương.
Vì thế, ông tìm cách loại trừ Hài Nhi Giêsu.
Thái độ Dửng Dưng như không hay biết gì của
các thượng tế và kinh sư.
“Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân
lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: Tại Bê-lem,
miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền
đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị
lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời." (Mt. 2,4-6).
Các thượng tế và kinh sư quả thấm nhuần Kinh Thánh, nhưng rõ ràng
thái độ của họ xem những gì nói đến trong Kinh Thánh như những chuyện huyền
thoại xa xưa không dính líu gì với cuộc đời họ. Và rồi, có hay không có Giêsu
cũng không thành vấn đề gì đối với họ.
Họ đang no đầy những lợi lộc và cả quyền lực. Họ không thể thay
đổi con đường của họ đang đi. Họ bằng lòng với những gì đang có, cuộc sống của
người khác mặc họ. Một Đấng Cứu Tinh không như ý họ thì cần gì phải quan tâm
đến.
… ĐẾN VÌ SAO THÁNH GIÁ
Ở quê tôi, tôi quen biết một anh công giáo rất tốt. Anh thường
xuyên đi lễ ngày thường, và giúp nhiều việc nhà thờ. Nhưng sau 1975, anh không
đến nhà thờ nữa. Một ngày kia, sau khi nhận một chức vụ lớn ở xã, anh dẹp bàn
thờ Chúa và Đức Mẹ mà anh đang để nơi trang trọng nhất giữa nhà. Bước vào nhà anh,
không còn dấu vết gì là người Công Giáo. Sau ba bốn năm làm việc, rồi anh cũng
đã quay về, dựng lại bàn thờ xưa. Đường công danh thấy cũng không đến đâu.
Ở quê tôi, có một anh cũng có một chức vụ quan trọng. Anh này
không chỉ xoá dấu vết Công Giáo ở nhà, mà muốn khẳng định mình đã đoạn tuyệt
với Đạo. Lúc ấy, tôi chưa biết anh, tôi nghe đồn là anh ta đã kích Đạo dữ lắm.
Một hôm, tình cờ tôi đi dự tiệc giỗ cùng với một Cha và ngồi cùng bàn với anh
ta, và được một người giới thiệu danh tánh và chức vụ của anh. Đang giữa tiệc,
anh xé một miếng bánh mì và nói: “Này là mình ta…”, rồi anh cầm lấy ly rượu,
nói tiếp: “Này là máu ta…”. Vị linh mục và tôi bước ra khỏi bàn …Sau này, anh
mất chức. Nghe nói có một người có chức vụ lớn đã nói về anh ta: “Là một người
Công Giáo được dạy dỗ từ nhỏ mà anh ta còn quay lại xúc phạm đến thế, thì có
thể tin anh sẽ là người trung thành khi anh là một người mới gia nhập vào một
tổ chức nào đó không?”.
Đã hơn hai ngàn năm qua, Thiên-Chúa-làm-người-và-ở-cùng-chúng-ta
vẫn mời gọi con người đến với Ngài sau khi Ngài đi bước trước là “đã đến với
nhân loại”. Tình yêu không thể đơn phương, tình yêu cần có sự đáp trả. Con
người cần có thành tâm thiện chí để đến với Ngài.
Thành tâm thiện chí như các đạo sĩ phương đông. Không ngừng tìm
hiểu dấu chỉ của Thiên Chúa (khám phá ra vì sao lạ). Hành trình Đức Tin (tìm
đến với Thiên Chúa). Vượt qua mọi thử thách (khi vì sao lạ khuất bóng). Thờ lạy
Chúa hết lòng (dâng lễ vật) và luôn biết khôn ngoan để bảo vệ niềm tin (đi con
đường khác trở vể quê hương).
Xem đó, chúng ta thấy cần có một con tim yêu thương mãnh liệt để
đáp lại tình yêu vô bờ bến mà Thiên Chúa đã dành cho con người.
Nếu không, tiền, tình, danh vọng; tham, sân, si, sẽ là những
chướng ngại vật, những rào cản tách con người xa lìa Thiên Chúa, chống lại
Thiên Chúa, hờ hững với Thiên Chúa.
Chúng ta có thể tìm thấy trong thế giới hôm nay hình ảnh những
Hêrôđê, những thượng tế và biệt phái thời đại, và có khi, chúng ta cũng tìm
thấy những hình ảnh ấy ở trong chính ta.
Tôi nhớ ngày xưa có lần tôi xem một câu truyện cổ tích.
Câu chuyện kể về một mối tình thật đẹp của một đôi nam nữ. Nhưng
một bà phù thủy độc ác đã ganh tỵ muốn xé lẻ đôi uyên ương ấy, bà hô lên lời
nguyền biến chàng trai thành một con dã nhân trông ghê rợn và chỉ trở lại kiếp
người như xưa nếu có một ngày nào đó cô gái ấy dám nhìn thẳng vào đôi mắt của
anh. Chính anh cũng không biết được chiếc chìa khóa ấy để giải lời nguyền của
bà phú thủy độc ác. Nhận ra mình mang lốt loài thú hoang dã, không còn nói được
tiếng người, anh đau buồn và âm thầm lánh xa cô gái. Cô gái không hay biết điều
gì. Cô vô cùng đau khổ vì người yêu bổng dưng bỏ cô đi đâu biền biệt.
Một bà tiên hiền lành đã thương tình muốn cứu chàng trai và trả
lại tình yêu trong sáng cho họ. Bà gặp cô gái và trao cho cô một “viên ngọc dẫn
đường” để cô đi tìm người yêu. Cô đặt viên ngọc trước mặt, nó lăn đi qua muôn
nẻo đường băng sông vượt núi. Cô gái đáng thương cứ bám theo viên ngọc. Có lúc
cô gục ngã và đứng lên tiếp tục cuộc hành trình không có điểm hẹn, không có
giới hạn thời gian. Có lúc tưởng như cô bỏ cuộc. Có lúc tưởng như cô không còn
đủ sức đứng lên.
Cuối cùng, cô đến một bờ rừng. Cô gặp một dòng suối, cô cố gắng
cúi xuống uống vài ngụm nước và mệt mỏi nằm bất động bên bờ suối. Tiếng muôn
thú trong rừng về đêm nghe ghê rợn, nhưng cô gái tội nghiệp không hay biết gì.
Cô đã chìm sâu trong giấc ngủ.
Cô tỉnh dậy, muôn tiếng chim đua hót líu lo hòa vang khúc nhạc
ngày mới. Nắng ban mai xuyên qua cành lá như những sợi tơ vàng óng ánh quanh
cô. Cô gái đẹp như tiên nữ dạo chơi trần thế, nhưng nỗi sầu trong lòng cô vẫn
đang trĩu nặng. Viên ngọc dẫn đường nằm im lìm và cô không biết phải đi đâu
nữa.
Chợt cô nghe tiếng vỡ gẫy của những nhành cây cỏ dại. Cô quay nhìn
lại, phía sau cô, nép mình sau gốc cổ thụ, một bóng hình đen đúa như ma quái.
Một con quái vật! Cô gái thét lên và bỏ chạy. Cô không còn sức nữa, cô ngã
xuống và nằm im một lúc. Cô ngồi dậy, đứng lên định chạy nữa, rồi lại té xuống,
cứ thế, đôi ba lần. Cô liết nhìn con quái vật, đầy sợ hãi. Con vật vẫn còn đó.
Nó đứng im.
Cuối cùng, cô đứng dậy. Can đảm nhìn về con quái vật. Lúc này, cô
thấy rõ đó là con dã nhân. Cô nhìn nó. Nó không có vẻ gì hung dữ. Nó không có
vẻ gì đang muốn hãm hại cô.
Con dã nhân tiến lại gần cô. Những ngày tháng đi theo “viên ngọc
dẫn đường”, cùng với những giây phút sự sợ hãi hôm nay đã làm cô kiệt sức. Cô
đứng im lặng, thu hết can đảm để nhìn con dã nhân đang tiến lại mỗi lúc một gần
cô hơn. Gần hơn... rất gần. Mắt cô nhìn thẳng và đôi mắt nó.
Trong khoảnh khắc tột cùng sợ hãi, cô ngỡ ngàng nhận ra một ánh
mắt thật quen không thể nào hòa lẫn với ánh mắt nào khác. Cũng trong khoảnh
khắc huyền diệu ấy, cô gái nhận ra người yêu cô đang đứng trước mặt.
Viên ngọc dẫn dường nằm ở đâu đó lóe sáng lên và biến mất.
Nếu Giáng Sinh đầu tiên có một vì sao lạ đã dẫn đưa ba nhà đạo sĩ
tìm đến Hang Đá thờ lạy Đấng Cứu Thế, thì ngày nay, vì sao Thánh Giá dẫn đưa
nhân loại về với Thiên Chúa để cùng chung tôn thờ Thiên Chúa và xây dựng một
thế giới yêu thương huynh đệ.
Cuộc hành trình này còn đầy gian nan thử thách. Còn đòi hỏi nhiều
hy sinh. Không có tình yêu thánh giá, con người không thể nào đi đến bến bờ
đoàn tụ yêu thương.
Lạy Chúa,
Xin cho mọi người nhận ra một vì sao lạ:
-“Vì sao Thánh Giá”
tỏa sáng muôn nơi,
khắp mọi phương trời,
dẫn đưa con người,
về miền đất hứa:
-“Thế giới đệ huynh
anh em một nhà,
Thiên Chúa là Cha.” Amen.
Nhà đại thiên văn Kepler khám phá ra rằng vào năm Chúa Giáng Sinh,
có một hiện tượng bất bình thường xảy ra giữa các vì sao. Ông nói về hai ngôi
sao Jupiter và Saturn rằng, bình thường chúng vẫn quay cách đều nhau, năm đó
chúng sáp lại gần nhau đến độ ánh sáng của ngôi sao này cộng hưởng với ánh sáng
của ngôi sao kia, tạo ra một luồng sáng khác thường và kéo dài đến cả mấy
tháng.
Phải chăng đó chính là ngôi sao lạ đã dẫn đường cho Ba Vua tìm ra
Chúa Hài Nhi?
“Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện
bên phương Đông” (Mt 2,2). Người xưa cho rằng ngày ra đời của
các vĩ nhân thường được báo hiệu bằng sự xuất hiện của các ngôi sao lớn. Các
chiêm tinh gia thường nghiên cứu chuyển động của các vì tinh tú để đoán biết
định mệnh con người. Vì thế, khi nhìn thấy ngôi sao lạ, các đạo sĩ đã nhận ra
sự sinh hạ của Đấng Cứu Thế, Vua dân Do thái.
Quả thật, người Do thái đã trông đợi Đấng Cứu Tinh từ bao thế kỷ,
Đấng ấy được ví như một vì sao từ Giacóp, như có lời trong Kinh Thánh: “một vì
sao xuất hiện từ Gia-cóp, một vương trượng trỗi dậy từ Ít-ra-en” (Ds 24,17).
Tiên tri Mikha cũng đã tiên báo: “Hỡi Bêlem Épratha, ngươi nhỏ bé nhất trong
các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống
lãnh Ítraen” (Mk 5,1)
Nếu Thiên Chúa đã dùng cột mây cột lửa để hướng dẫn dân Do thái đi
trong hoang địa về đất hứa, thì Người cũng có thể dùng ngôi sao dẫn đường cho
các đạo sĩ đến Bêlem để gặp Đấng Cứu Tinh.
Nhưng có một sự thật vô cùng trớ trêu: là khi vị Cứu Tinh xuất
hiện sau bao thế kỷ đợi chờ, dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm, các thượng tế và
kinh sư thì dửng dưng thụ động, cho dù họ thông thạo Kinh Thánh và biết rõ nơi
sinh của Đấng Cứu Thế. Hêrôđê lại còn hoảng hốt vì sợ ngai vàng của mình bị
lung lay. Chỉ có các đạo sĩ đại diện cho lương dân lại hăng hái lên đường, hăm
hở tìm kiếm, cho dù cuộc kiếm tìm đầy phiêu lưu trắc trở. Và khi tìm được rồi,
Đấng Cứu Thế cũng chẳng có vẻ gì là một vị quân vương, không uy nghi trong cung
điện đền vàng, nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận, xin được bái kiến và dâng lễ vật
quý giá với tất cả tấm lòng thành.
Sau này, Chúa Giêsu đã phải thốt lên: “Từ phương đông phương tây,
nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong
Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài”
(Mt 8,11-12)
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình cho dân ngoại, nhắc chúng ta đến việc truyền giáo.
Nhờ ngôi sao lạ mà các đạo sĩ đã tìm ra Đấng Cứu Thế; chúng ta
cũng hãy là những ánh sao sáng thu hút những tâm hồn đang khao khát tìm kiếm
Chúa.
Nếu con người đang đi trong bóng tối của gian dối, hận thù; chúng
ta hãy là những ánh sao của chân thành, phục vụ và yêu thương.
Nếu thế giới đang chìm đắm trong bóng tối của buồn phiền, thất
vọng; chúng ta hãy là những ánh sao của niềm vui, an bình và hy vọng.
Nếu Chúa đã gọi: “Chúng con là ánh sáng thế gian” (Mt 5,14), thì
đó là một vinh dự vô cùng lớn lao, nhưng cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Chúng ta đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng hãy dấn thân thắp
lên những ngọn nến sáng: Nến sáng của tin yêu và hy vọng, của bác ái và vị tha,
để cả trái đất này tràn ngập ánh sáng tình yêu Chúa.
Có một câu truyện về một ông vua trẻ mới lên ngôi kế vị cha. Nhà
vua trẻ này rất yêu thương và cảm thông với thần dân trong vương quốc. Thế
nhưng, xem ra dân chúng không màng chi đến sự quan tâm săn sóc của nhà vua
khiến nhà vua rất buồn lòng. Sau khi lắng nghe ý kiến của các quan cận thần,
nhà vua cải trang thành một thường dân, rời bỏ cung điện và đến sống giữa những
người dân của mình. Ngoài những giờ làm việc, ông đi thăm những người nghèo
chung quanh, giúp đỡ những người đau yếu, khuyên nhủ những ai gặp khó khăn, cứ
như thế chẳng mấy chốc ông đã chiếm được cảm tình của mọi người. Thế rồi một
hôm ông bỗng biến mất, và sau đó xuất hiện trở lại như một vị vua. Lúc đó dân
chúng mới nhận ra người nghèo lạ lùng này chính là vua của họ, kể từ đó dân
chúng yêu thương hiệp nhất với nhau và quan tâm đến những dự án mà nhà vua thực
hiện để nâng cao mức sống của họ.
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Hiển Linh, nghĩa là lễ Thiên Chúa tỏ mình
ra cho con người. Nếu lễ Giáng Sinh nhấn mạnh đến khía cạnh nhập thể từ trên
cao xuống, thì lễ Hiển Linh cho thấy chiều kích hiển linh của mầu nhiệm nhập
thể và nhắc nhớ con người rằng Hài Nhi Giêsu là Con Thiên Chúa, là Vua vũ trụ.
Tin mừng hôm nay nêu bật hai thái độ khác nhau của con người đối
với Con Thiên Chúa nhập thể, đó là chấp nhận hoặc chối từ. Hêrôđê đã xem Chúa
như kẻ thù, như một người sẽ chiếm lấy địa vị và quyền lực của ông. Ông đã
không biết theo ơn Chúa soi sáng để nhìn thấy dấu chỉ Thiên Chúa thực hiện
trong lịch sử và thiên nhiên để đi tìm và nhìn nhận Chúa. Còn các đạo sĩ phương
Đông đã dám ra khỏi cảnh sống thường ngày của mình, từ bỏ tiện nghi mình đang
hưởng, để đi theo sự soi sáng của ân sủng Chúa, để nhận ra lời mời gọi của Chúa
qua ánh sao dẫn đường. Họ thành tâm đi tìm và đã gặp; và khi gặp được, họ không
thắc mắc tại sao, nhưng khiêm tốn tôn thờ Vua vũ trụ nơi dung mạo một Hài Nhi
yếu đuối, nghèo hèn, cũng như dân chúng trong câu truyện trên đã nhận ra vua
của họ qua dung mạo một người nghèo sống giữa họ.
Thiên Chúa vẫn luôn mạc khải chính mình cho chúng ta qua dung mạo
người anh em, qua các bí tích, qua những dấu chỉ tầm thường đơn sơ của đời sống
mỗi ngày, nhưng liệu chúng ta có đủ khiêm tốn để nhìn thấy, lắng nghe và chấp
nhận Chúa hay không? Xin Chúa giúp chúng ta thành tâm đi tìm Chúa để được gặp
Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc các đạo sĩ Đông Phương đã theo
ánh sao tìm đến triều bái Hài Nhi Giêsu mới giáng sinh tại Bêlem. Lời tiên tri
Isaia từ 600 năm trước đã được thực hiện: ‘Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của
ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước… Lạc đà đàn đàn
che rợp đất, lạc đà Mađian và Epha, dân Saba hết thảy kéo lại, tải đến vàng với
trầm hương và chúng cao rao lời khen ngợi Giavê’.
Chúng ta hãy theo sau các nhà đạo sĩ trung thành với ánh sáng đã
nhận được: ‘Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Ngài bên trời Đông, và chúng tôi đến
bái yết Ngài’. Đối với chúng ta, ngôi sao đó chính là ý muốn của Thiên Chúa, là
đức tin vào Chúa Kitô, hay đúng hơn là chính Chúa Kitô – ánh sáng soi cho mọi
dân tộc. Ánh sáng đó vẫn luôn chiếu sáng, nhưng sở dĩ chúng ta không nhận ra là
vì chúng ta còn yêu tối tăm hơn ánh sáng, và vì con mắt tâm hồn chúng ta còn bị
cái đà của ích kỷ che khuất. Để tìm gặp Chúa Kitô, chúng ta cũng phải liều mạng
như các đạo sĩ để ra khỏi xu hướng thích dễ dãi, hưởng thụ, ngại gian khổ.
Cũng như các đạo sĩ đã gặp thấy Hài Nhi cùng Đức Maria, Mẹ Ngài,
chúng ta cũng không thể tìm Chúa Kitô riêng rẽ tách biệt khỏi Mẹ Ngài được, bởi
lẽ sau khi thụ thai và sinh hạ Ngài, Đức Maria còn có sứ mạng trao tặng Ngài
cho chúng ta. Do đó tình yêu của chúng ta đối với Chúa Kitô không thể tách khỏi
tình yêu đối với Đức Trinh Nữ Maria.
Các đạo sĩ đã dâng tiến Hài Nhi Giêsu lễ vật: vàng, nhũ hương, mộc
dược, chúng ta cũng hãy dâng tiến Ngài tấm lòng vàng, hương thơm lời cầu
nguyện, và mộc dược hy sinh hằng ngày để mưu cầu ơn thánh cho các linh hồn. Ý
thức hiến dâng càng sinh động và liên tục, hiệu quả lời cầu nguyện càng được
bảo đảm.
Sau cùng chúng ta đừng quên cầu nguyện cho các nhà truyền giáo,
bởi vì nhờ các ngài mà đức tin đã đến với chúng ta. Nhờ các ngài mà chúng ta
được niềm vui hiển linh, đó là Chúa Kitô tỏ mình ra cho chúng ta hôm qua, hôm
nay và mãi mãi.
Với lễ Giáng sinh, chúng ta nhận thấy Thiên Chúa đã làm người và ở
giữa chúng ta để chúng ta có thể gặp gỡ Ngài. Gặp gỡ Ngài không phải chỉ ở
trong đền thờ nguy nga, mà còn gặp gỡ Ngài nơi những con người bình thường.
Ngài đó, một Hài nhi bé nhỏ, nằm trong máng cỏ ngoài đồng vắng Bêlem. Đồng
thời, không phải chỉ có một hạng người nào đó mới có quyền được gặp gỡ Ngài, mà
ngay cả những kẻ tầm thường như những trẻ mục đồng cũng có thể gặp gỡ Ngài.
Để niềm vui của Chúa Giêsu được trọn vẹn, lễ Hiển Linh hôm nay đã
gợi lên cho chúng ta một xác tín mới: Thiên Chúa không phải chỉ đến với dân Do Thái,
mà còn đến với cả những người từ phương Đông, nghĩa là những người không thuộc
về dân riêng của Chúa, những người vẫn bị liệt vào hàng dân ngoại.
Xác tín này đã được thánh Phaolô diễn tả một cách rõ ràng trong
bức thư gởi tín hữu Ephêsô: Nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự,
cùng một thân thể và cùng thông phần với lời hứa của Ngài trong Đức Giêsu Kitô.
Với lễ Hiển Liên, Thiên Chúa đã đến với tất cả mọi người, Ngài phá
đổ những hàng rào tạo nên sự kỳ thị: Kỳ thị tôn giáo, kỳ thị giai cấp, kỳ thị
màu da, kỳ thị tiếng nói. Thực sự thì đó chỉ là những hàng rào do chính con
người dựng lên để bảo vệ những quyền lợi cho riêng mình.
Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa của tất cả, và điều Ngài ước mơ vẫn
là tập hợp muôn dân nước dưới ánh sáng của Ngài. Ngài đã đến với chúng ta,
nhưng điều quan trọng đó là chúng ta có tiến tới để gặp gỡ Ngài hay không? Bàn
tay Ngài đã giơ ra, nhưng điều quan trọng đó là chúng ta có nắm lấy để được cứu
vớt hay không, bởi vì như lời thánh Augustinô đã nói:
- Khi tạo dựng nên chúng ta Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta,
nhưng để cứu độ chúng ta Ngài đòi chúng ta phải ưng thuận và cộng tác với Ngài.
Sự thực đã cho chúng ta thấy: Ánh sáng đã chiếu trong u tối, nhưng
u tối lại không tiếp nhận ánh sáng. Ngài đã đến nhà Ngài, nhưng những người
thân thuộc đã không tiếp nhận Ngài.
Thực vậy, Ngài đã đến nhưng không phải tất cả mọi người đều tới
gặp gỡ Ngài. Một Hêrôđê cũng đã ngỏ ý muốn đến triều bái Ngài nhưng với một âm
mưu thâm độc, ông muốn giết hại Ngài để được ngồi mãi mãi trên chiếc ngai vàng
của ông. Các luật sĩ và tư tế thì lại thoả mãn với những hiểu biết của mình, để
rồi chẳng biết lên đường tìm gặp Ngài? Còn dân thành Giêrusalem thì lại ngại
đổi thay và chuyển biến.
Để đến với Chúa, chúng ta cần phải lên đường như ba nhà đạo sĩ
phương Đông, không phải trong tối tăm mò mẫm, bởi vì chúng ta luôn có ánh sao
lạ, đó là Tin Mừng, thập giá và sự phục sinh của Ngài soi đường dẫn lối.
Lễ Giáng sinh và lễ Hiển Linh chính là một cuộc gặp gỡ. Thiên Chúa
đến với con người và con người nhận biết Ngài nơi hài nhi Giêsu.
Như các nhà đạo sĩ phương Đông, mỗi người chúng ta cũng được mời
gọi lên đường đến với hài nhi Giêsu. Lên đường ở đây có nghĩa là từ bỏ những
bảo đảm để tiến tới phía trước. Ngài đến trong những cái bất ngờ của những sự
kiện diễn ra trong cuộc sống thường ngày. Tuy nhiên chúng ta có sẵn sàng lên
đường, đi theo ánh sao là Tin Mừng của Chúa hay không?
Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay đều qui về một điểm chính là:
“Thiên Chúa mạc khải chính Ngài cho tất cả mọi người”, không phân biệt ai, cho
dù người Do thái hay kẻ ở ngoài Kitô giáo, như các đạo sĩ từ Phương đông đến.
Nhưng đáp lại, không phải tất cả mọi người đều đáp lại ơn Chúa mà chấp nhận từ
bỏ cuộc sống của mình, từ bỏ cuộc sống theo tính hư nết xấu của mình để đến gặp
và sấp mình khiêm tốn thờ lạy Chúa. Thiên Chúa mạc khải cho con người, cho tất
cả mọi người bằng nhiều cách khác nhau.
Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay, nhất là bài Phúc âm trình bày
cho chúng ta thấy hai con đường, hai thái độ đáp trả lời mời gọi của Thiên
Chúa. Con đường thứ nhất là con đường mạc khải chính thức trong lịch sử cứu độ
do Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử của dân Chúa. Con đường thứ hai có thể
nói là con đường tự nhiên qua các biến cố xảy ra trong thiên nhiên, trong vũ
trụ, trong sinh hoạt hàng ngày của con người. Và chúng ta cũng nhìn thấy hai
thái độ chấp nhận của các đạo sĩ từ phương xa và thái độ từ chối lơ là không
màng chi đến việc đón nhận Chúa như vua Hêrôđê và các thầy thượng tế tại
Giêrusalem.
Kinh Thánh đã chỉ cho họ biết, và họ thuộc lòng Kinh Thánh để biết
rằng: Con Thiên Chúa sẽ Giáng sinh tại Belem, nhưng họ lơ là hoặc quá say mê
hưởng thụ những lợi lộc vật chất mà không chấp nhận từ bỏ, không chấp nhận ra
đi đến nơi Thiên Chúa chờ sẵn để gặp họ, để gặp Con Người. Tệ hơn nữa, vua
Hêrôđê lại sợ rằng Chúa đến để chiếm lấy quyền của ông, làm cho ông mất danh
vọng, mất quyền hành, mất địa vị. Chính vì thế mà ông đã ngấm ngầm muốn hại
Chúa, nên ông đã cho triệu tập riêng các đạo sĩ lại để hỏi cặn kẽ về ngày giờ,
để rồi như chúng ta đã biết là sau đó, khi vua Hêrôđê đã thấy các đạo sĩ không
trở lại với mình nữa, thì nhà vua đã tức giận và ra lệnh giết tất cả các hài
nhi trong vùng, trong khoảng từ hai tuổi trở xuống. Ông hy vọng rằng trong số
các hài nhi bị giết chết đó có Con Thiên Chúa, có Đấng mà người ta gọi là Đấng
Thiên sai, Đấng đến để hướng dẫn dân tộc Do thái, để cứu rỗi nhân loại.
Mừng lễ ba vua hôm nay hay nói được là lễ Hiển linh, lễ Chúa tỏ
mình ra cho các dân tộc, cho tất cả mọi người. Lễ này chúng ta có thể nói là bổ
túc cho lễ Giáng sinh mà chúng ta đã mừng trước đây.
Lễ Giáng sinh nhìn trên một phương diện nào đó chúng ta có thể nói
đó là lễ Chúa mạc khải chính mình Chúa, Chúa đến với dân tộc của Ngài là dân
tộc Do thái, và lễ Hiển Linh là Chúa đến với dân tộc ngoài Do thái, với tất cả
mọi người và cách thức Chúa đến với họ khác với điều họ mong ước. Chúa đến với
họ bằng một đứa trẻ mới sinh nghèo hèn, không ai chấp nhận. Chúa đến với họ
trong nghèo hèn, trong khiêm tốn, trong âm thầm ngoài tưởng tượng của những
người đáng lẽ ra phải nhận biết Chúa như vua Hêrôđê, các đạo trưởng, luật sĩ
trong dân Do thái thời đó.
Thiên Chúa dùng mọi phương thế, mọi con đường, để đến với mọi
người ở trong cũng như ở ngoài Giáo Hội Chúa. Con đường của mạc khải Lời Chúa
qua lời giảng dạy của Giáo Hội cũng như con đường của các biến cố trong thiên
nhiên, trong cuộc sống hằng ngày để nhắc chúng ta rằng, Ngài đang đợi ở nơi đó,
Ngài đã hẹn trước với chúng ta để mong gặp chúng ta. Nhưng chúng ta có đáp lại
lời mời gọi của Chúa hay không? Ta có đủ can đảm như các nhà đạo sĩ thực hiện
một cuộc phiêu lưu từ bỏ nếp sống hưởng thụ vật chất, từ bỏ ngôi nhà vinh quang
để đi gặp Chúa hay không?
Trở về cách đây hơn 2000 năm thì chúng ta thấy rằng, phương tiện
di chuyển thời đó đường xa và không có nơi cư ngụ tiện nghi như ngày nay. Và để
đi đường xa như vậy, từ một vùng đất xa lạ đến một xa lạ khác, và đi tìm một
con người mà không ai trong ba nhà đạo sĩ này có thể biết trước là ở đâu, thì
các vị đạo sĩ này hẳn đã phải cố gắng thật nhiều, và có lòng can đảm khác
thường để liều lĩnh chấp nhận những cuộc hành trình và đích điểm còn mơ hồ chưa
xác định được. Các ngài đã chứng tỏ cho chúng ta thấy là ơn Chúa đã chiến thắng
nơi các ngài. Để lên đường đi tìm Chúa, các ngài đã can đảm chấp nhận những hy
sinh, những liều lĩnh, cốt sao là tìm được trẻ thơ như trong giấc chiêm bao.
Nhìn về mỗi người chúng ta, chúng ta cũng có thể nói: mỗi người
chúng ta đã được Thiên Chúa dựng nên để hướng về Ngài, tâm hồn luôn khao khát
hướng về Thiên Chúa và khi Thiên Chúa cho ta biết Ngài đến gặp gỡ chúng ta,
muốn gặp ta qua những biến cố trong cuộc sống hàng ngày, thì liệu chúng ta có
đủ can đảm chấp nhận hy sinh như các nhà đạo sĩ để ra đi để gặp gỡ Chúa hay
không? Chúa đến với chúng ta, Chúa tìm chúng ta trước với những ơn lành của
Ngài, những ơn soi sáng trực tiếp cũng như dấu chỉ mời gọi xảy ra trong cuộc
sống, trong lịch sử của chính chúng ta cũng như lịch sử của dân tộc, của quốc
gia và cả trong những biến cố lịch sử thế giới.
Thiên Chúa đi tìm con người để đưa con người trở về với Ngài.
Nhưng mỗi người chúng ta có thành tâm thiện chí, có can đảm đủ để nhìn ra những
dấu chỉ, những lời mời gọi của Chúa hay không? Hay chúng ta nuôi dưỡng những
thiện chí đó trong suốt cuộc hành trình giữa những khó khăn mà chúng ta gặp
phải hoặc chúng ta bỏ dở nửa chừng vì những khó khăn đủ loại cản bước chúng ta
tìm Chúa. Hay chúng ta sợ Chúa đến tách mất khỏi chúng ta những lợi lộc vật
chất, những vinh quang, những uy quyền mà chúng ta đang hưởng như vua Hêrôđê.
Thông thường mỗi sự kiện quan trọng trong đời sống đều nói đến một
thông điệp nào đó. Chẳng hạn, như lụt lội hoành hành là sự trả thù của thiên
nhiên đối với sự phá phách môi trường của con người. Tình trạng bạo hành hiện
nay trên thế giới là kết quả của một lối sống buông thả, chọn tự do và quá đề
cao bản ngã cá nhân. Vấn đề quan trọng là phải đọc được nội dung của thông điệp
đó. Nội dung này đôi khi ẩn dấu rất khó khám phá, nhưng không vì thế mà không
có những dấu chỉ để khi xem thì người ta thấy chứ không phải xem để mà xem.
Do đó, xem một sự kiện và thấy ý nghĩa của nó chính là một yêu cầu
của mỗi người chúng ta khi nhìn xem những dấu chỉ thời đại. Những điều này cũng
đã xảy ra cách đây hơn 2000 năm trên đất nước Palestin vào thời Đức Giêsu sinh
ra và các đạo sĩ đã thấy được nội dung thông điệp khi nhìn xem ngôi sao lạ tại
phương đông.
Các đạo sĩ đã xem thấy ánh sáng.
Các đạo sĩ đông phương những bậc thông thái về bói toán, y học,
chiêm tinh và giải mộng. Họ không phải là người Do thái nhưng là dân ngoại. Họ
đã lên đường tìm đến Giêrusalem để “bái lạy Người”. Họ đã thấy gì? Họ đã thấy
“vì sao của Người xuất hiện bên phương đông”. Điều mà họ thấy là Hài Nhi mới
sinh chính là Vị Cứu Tinh (Đấng Mêssia) mà dân Do thái từ lâu mong đợi. Hơn
nữa, họ cũng thấy một vương quyền toàn cầu từ nơi Hài Nhi này. Tức là điều mà
họ thấy là Thiên Chúa cứu độ đã tỏ mình ra, đã hiển linh cho thế giới, Người là
Đấng đến cứu người tội lỗi, Người là ánh sáng huy hoàng bừng lên cho đoàn người
đi trong đêm tối. Người là Đấng Mêssia được xức dầu để loan báo Tin Mừng. Những
điều này có lẽ Hêrôđê và dân thành Giêrusalem không biết.
Ánh sáng Chúa Kitô không làm cho người ta ngạc nhiên, nhưng để
người ta thấy sứ mệnh của Ngài: Ánh sáng đó là để chiếu soi muôn dân.
Ánh sáng chiếu soi muôn dân.
Chính Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe nói lên cho chúng ta rằng có
một sự biểu lộ đồng thời về sự phổ quát của ơn cứu độ và sự tập hợp mọi người
trong ánh sáng Chúa Kitô, vì không ai bị loại bỏ khỏi Vương quốc của Người.
Chúa Giêsu không phải của dân Do thái. Người cũng không phải của
riêng ai. Chúa Giêsu là của mọi người. Người là ánh sáng chiếu soi muôn dân. Vì
thế, cụ già Simêon đã chào mừng Đức Giêsu như “Ánh sáng soi đường cho dân
ngoại, là vinh quang của Israen dân Ngài”. Người chính là Lời của Thiên Chúa,
là sự sống và là ánh sáng cho con người, là ánh sáng đích thực chiếu soi mọi
người khi Người đến trong thế gian. Ánh sáng đã đến thế gian và đẩy lùi bóng
đêm của sự dữ và tội lỗi. Các đạo sĩ đã nhận ra ánh sáng chỉ Đấng Cứu Tinh, họ
đã theo ánh sáng và đã gặp được Đức Giêsu. Ánh sáng này còn biểu trưng cho ân
sủng, tác động của Thiên Chúa trong tâm trí mọi người, và hướng dẫn mọi người
đến với Đức Kitô. Vâng, Thiên Chúa đã âu yếm nhìn các nhà đạo sĩ ngoại giáo
đang tiến về Đức Giêsu. Trong cuộc đời của mỗi người chúng ta, cũng có ân sủng
đang hướng dẫn chúng ta tìm kiếm Đức Giêsu. Mỗi người chúng ta có can đảm đi
theo ân sủng đó hay không?
Hãy bước theo ánh sáng.
Vậy đâu là dấu chỉ ngày nay để chúng ta nhận ra ánh sáng, ân sủng,
và sự can thiệp của Chúa trong cuộc đời? Điều gì cho phép chúng ta và cũng làm
cho chúng ta bắt đầu một cuộc mạo hiểm thiêng liêng như các đạo sĩ năm xưa?
Quả thật, đây là vấn đề ám ảnh mọi người lo âu tìm kiếm chân lý.
Các đạo sĩ đã được ngôi sao hướng dẫn đến Giêrusalem, như những đại diện của
các quốc gia được thu hút bởi ánh sáng vinh quang của Đấng Toàn năng mà ngôn sứ
Isaia đã nhắc tới. Một cách tương tự, 2000 năm sau, những dấu chỉ mà chúng ta
cảm nhận hướng dẫn chúng ta đến với Lời Chúa được gìn giữ bởi Giáo Hội và được
mạc khải bởi sự chăm sóc mọi thời.
Các đạo sĩ đã biểu lộ sự khao khát tìm kiếm chân lý với thái độ
đầy ý nghĩa. Nhìn thấy ngôi sao, họ biết được dấu chỉ chất chứa nội dung thông
điệp. Họ sẵn sàng bỏ lại quá khứ và lên đường tìm kiếm. Nhờ vào Lời Chúa với những
cố gắng vượt qua những thử thách, họ đã tiếp cận với chân lý tại Bêlem. Nếu các
bạn dám mạo hiểm, liều mình theo Lời Chúa, thì các bạn sẽ gặp được niềm vui như
các đạo sĩ năm xưa. Sau khi vượt qua dấu chỉ đầu tiên đến sứ điệp phổ quát, một
hòa điệu sẽ được khám phá giữa thông điệp ánh sáng của Chúa và kinh nghiệm của
đời sống thường nhật. Có như thế, chúng ta mới có thể nhận biết Đấng hiện diện
ngay trong chính đời sống của chúng ta.
Như thế, qua việc đọc Lời Chúa chúng ta sẽ thấy, sẽ khám phá, sẽ
hiểu được dấu chỉ. Dấu chỉ đó có thể là một hài nhi đang nằm trong máng cỏ hay
là một con người bị thất bại đau thương trên thập giá; đó cũng có thể là một
người lang thang không nhà ở, đang gặp đau khổ cần sự giúp đỡ. Nhưng đó chính
là chân lý, là nguồn hạnh phúc của chúng ta, vì đó là dấu chỉ sự hiện diện và
thông điệp của ánh sáng.
Ánh sáng dịu êm! Xin hướng dẫn chúng con từng bước, từng bước một
thôi để đến với Ngài. Và một khi đến và gặp gỡ Ngài xin cho cuộc đời chúng con
cũng được biến đổi và trở thành ánh sáng để soi dẫn người khác đến với Ngài –
Đấng là đường, là sự thật và là sự sống.
Khi ngôi sao chiếu sáng trên bầu trời Bêlem, là lúc tình trạng dân
Israel như thầy tư tế già Dacaria phát biểu “ngồi trong nơi tối tăm và trong
bóng tử thần” (Lc 1,79). Tuyển dân của Chúa mà còn như thế huống nữa là dân
ngoại. Thánh Phaolô phác hoạ tình trạng thuộc linh của dân ngoại: “Thuở ấy anh
em không có Đức Kitô, không được hưởng đặc quyền của Israel, xa lạ với các Giao
Ước dựa trên lời hứa của Thiên Chúa, không có niềm hy vọng, không có Thiên Chúa
ở trần gian này” (Ep 2,12). Tóm lại, lúc Đấng Kitô giáng thế là lúc thế gian
suy đồi cùng cực, đang đứng trên bờ vực thẳm, thì ngay khi ấy ngôi sao xuất
hiện ở Đông Phuơng đem theo lời hứa vĩ đại Tin Mừng.
1. Ngôi sao của hy vọng.
Trong quan niệm của người Đông Phương, sự xuất hiện của một vì sao
trên trời có quan hệ tới một nhân vật dưới trần, nhất là các vị đế vương, người
ta vẫn gọi đó là ngôi sao chiếu mạng. Các nhà chiêm tinh Đông Phương đều tin
như vậy, vì thế nảy sinh hẳn một môn học chiêm tinh với các khoa tử vi. Lịch sử
Trung quốc ghi lại truyện hoàng đế Quang Vũ đời Đông Hán rất kính trọng ông
Nghiêm Tử Lăng, sai sứ đi nhiều lần mới mời được ông vào triều, nhà vua tiếp
đón ông rất mực kính trọng và thân thiết, giữ ông lại trong cung đến đêm và nằm
chung một giường. Nửa đêm, Tử Lăng gác một chân lên bụng nhà vua, nhà vua không
nỡ làm ông thức giấc, cứ để yên cho ông làm như vậy. Sáng hôm sau liền có quan
thái sử tâu lên vua rằng hồi hôm xem điềm trời, thấy sao của khách xâm phạm sao
nhà vua rất gấp, xin hoàng thượng nên để ý. Vua Quang Vũ cả cười nói rằng: “Ta
biết rồi, việc này xảy ra chỉ vì ta và Tử Lăng cùng nằm chung một giường, và
chân của Tử Lăng gác lên bụng ta mà thôi, các khanh chớ lo!”. Đối với các nhà
bác học Đông Phương, sự xuất hiện của một ngôi sao như thế là thực hiện một
mong ước từ lâu, vì khi nghiên cứu các tinh tú, họ nhận thức rằng ngôi sao là
đại biểu cho “ý muốn vĩnh cửu”. Quan niệm của họ cũng tương hợp với lời tiên
tri của Kinh Thánh: “Một vì sao hiện ra từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ
Israel” (Ds 24,17). Vì vậy khi họ thấy ngôi sao xuất hiện, liền biết thời giờ
đã đến, nên chẳng ngần ngại lặn lội đường xa rủ nhau đi tìm cho thấy “vì sao
xuất hiện từ Gia cóp” hầu tìm ra con đường sáng cho mình trong một thế giới u
minh.
2. Ngôi sao thần bí
Khi nghe được tin này Hêrôđê hết hồn, với tầm óc hiểm độc và quỷ
quyệt nhà vua coi đây là một điều rất dữ. Sự xuất hiện của ngôi sao cũng như sự
xuất hiện những chữ viết trên bức tường của cung điện vua Benxatxa ngày xưa, dự
báo sự diệt vong của nhà vua. Điều đó có nghĩa là sẽ có một vua Giuđa thay cho
mình ngồi trên ngai vàng. Do đó nhà vua phải sử dụng đến mọi thủ đoạn ác độc để
diệt trừ hậu hoạ khi còn trong trứng nước. Nhưng mưu độc của loài người làm sao
phá hỏng được kế hoạch của Thiên Chúa. Con Trẻ mà Hêrôđê tìm giết lại là Con
Trẻ thoát khỏi tai hoạ.
Một điều lạ kỳ ấy là ngôi sao một đàng là hy vọng, là niềm vui lớn
cho mọi người thiện tâm, lại nên điềm dữ báo nguy cho hạng người tàn ác. Ý
nghĩa cao đẹp của nó được những tấm lòng ích kỷ tham lam nhận ra. Sự xuất hiện
của ngôi sao báo hiệu ngày tàn của họ đã tới!
3. Ngôi sao dẫn đường.
Ngôi sao trên bầu trời Bêlem đã dẫn các đạo sĩ Đông Phương trải
qua cuộc lữ hành xa lạ, đầy khó khăn nguy hiểm đã đem các ông tới nơi Con Trẻ
mà các ông muốn kiếm tìm. Chính ngôi sao đã bảo tồn cho họ niềm hy vọng, ước
nguyện, đức tin mà Thiên Chúa đã mặc khải cho. Cũng chính ngôi sao đã cho họ
thấy Con Trẻ cũng là vua của họ để họ chuẩn bị lễ vật triều kính Ngài.
Ngôi sao trên bầu trời Bêlem vẫn luôn là ngọn đuốc soi đường cho
tất cả những ai cần tìm chân lý, muốn được cứu rỗi linh hồn, và mong nhận được
lòng yêu thương vĩ đại của Thiên Chúa.
4. Ngôi sao của vui mừng.
“Khi thấy ngôi sao dừng lại chỗ Con Trẻ, các hiền sĩ hết sức vui
mừng”. Vì đối tượng mà họ khổ công tìm kiếm nay đã thấy rồi, lòng khao khát
chân lý với nếp sống quang minh chính trực nay đã được hoàn toàn thoả mãn. Niềm
vui của họ là điềm báo ân phúc lớn lao sau này Chúa dành cho các môn đệ: “Thầy
nói điều đó với anh em để niềm vui của Thầy ở cùng anh em và niềm vui của anh
em nên trọn vẹn” (Ga 15,11).
Trong những năm sau khi Chúa Giêsu giáng thế, sự vui mừng mà các
hiền sĩ Đông Phương đã được hưởng, thì bao nhiêu người khác cũng được huởng nhờ
ngôi sao chỉ đường dẫn lối. Lòng khao khát chân lý của họ cũng được đền đáp vì
họ nhận được lòng yêu thương vĩ đại của Thiên Chúa dành cho mọi người thiện
tâm.
Và nếu ngôi sao trên bầu trời Bêlem này như ngọn đuốc soi đường
dẫn các hiền sĩ tới mục tiêu, thì cái thế giới mà chúng ta đang sống đây mới
tìm ra được ý nghĩa mới, vui mừng và hy vọng mới thay vì tuyệt vọng và sầu thảm
của những ngày cũ.
Henry van Dyke có thuật lại câu chuyện nhan đề: “Còn một nhà đạo
sĩ khác nữa” (The Other Wise Man), kể về một nhà đạo sĩ thứ tư là người đáng lẽ
đã cùng ba nhà đạo sĩ kia đi tìm vị Vua vừa sinh ra ở Bêlem. Nhà đạo sĩ này tên
là Artaban. Trong lúc chuẩn bị lên đường, Artaban đã chọn ba viên ngọc quý nhất
trong kho tàng của ông để dâng tặng Hài Nhi Giêsu. Thế nhưng trên đường đến gặp
ba nhà đạo sĩ kia để cùng đi, gặp bất cứ ai xin, ông cũng đem ra tặng hết.
Người thứ nhất mà ông đã gặp được là một bà cụ già rét run vì lạnh. Động lòng
trắc ẩn, ông đã tặng cho cụ già viên ngọc thứ nhất. Đi thêm một đoạn đường nữa,
ông gặp một toán lính toan làm nhục cô gái. Ông đành đem viên ngọc thứ hai ra
thương lượng với chúng để chuộc lại cô gái. Cuối cùng khi tiến vào địa hạt
Bêlem, ông gặp một người lình do vua Hêrôđê sai đi để tàn sát các hài nhi trong
một ngôi làng lân cận. Ông đành phải rút ra viên ngọc cuối cùng để tặng cho
người lính và thuyết phục anh từ bỏ ý định gian ác.
Tìm được Hài Nhi Giêsu, nhà đạo sĩ thứ tư này chỉ còn lại hai bàn
tay trắng. Ông bối rối và kể lại cuộc hành trình của mình. Nghe xong câu
chuyện, Hài Nhi Giêsu mỉm cười đưa bàn tay bé nhỏ ra nhận quà của ông. Nó không
phải là vàng bạc châu báu, nhưng là tấm lòng vàng được dệt bằng những nghĩa cử
đối với tha nhân, nhất là những người túng thiếu, đói khổ, những người cần giúp
đỡ. Chính nhờ những nghĩa cử này mà Thiên Chúa mới được tỏ mình ra cho mọi
người.
Lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho mọi người. Thiên Chúa
không chỉ tỏ mình ra cho riêng Dân của Ngài mà còn cho muôn dân. Bởi đó, mọi
người trong chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa để làm bừng sáng lên ánh sáng
đã xuất hiện từ Phương Đông. Chúng ta phải là ánh sao dẫn đường cho mọi người
đến với Chúa. Tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất hôm nay đã mở ra cả một
viễn tuợng lớn lao: đó là ngày và thời vinh quang của Thiên Chúa chiếu trên Dân
Chúa và biến Dân Chúa thành điểm thu phục muôn dân. Mọi người từ mọi phương
hướng sẽ cùng quy về một mối trong tiếng ngợi ca Thiên Chúa.
Nội dung của lòng tin tưởng này đã được Thánh Matthêu diễn tả một
cách sống động qua câu chuyện về Ba Vua, đúng hơn là ba nhà đạo sĩ đi tìm gặp
Chúa Giêsu mới sinh tại Bêlem. Xưa chúng ta quen gọi đây là Ba Vua, do đó Lễ
Hiển Linh này cũng gọi là lễ Ba Vua. Nhưng điều mà đoạn Tin Mừng ở đây muốn
nhấn mạnh đến là: các đạo sĩ, có thể là các nhà bác học hay thiên văn học, đã
từ Phương Đông mà tới (Phương Đông vẫn thường được coi là phương trời của những
dân ngoại), họ là những người ở ngoài Dân riêng của Chúa, không thuộc dân Do
Thái nhưng họ đã tìm đến và được lãnh nhận ơn cứu độ. Có thể nói, đoạn Tin Mừng
này đã diễn tả tất cả tấn bi kịch của công cuộc cứu chuộc đối với Dân riêng của
Chúa và đồng thời cũng nói lên tấm lòng đại độ của Thiên Chúa: Hêrôđê tượng
trưng cho quyền lực, một thứ quyền lực xảo quyệt chỉ biết khư khư giữ lấy ngai
vàng của mình như một lẽ sống. Còn dân thành Giêrusalem đáng lý ra phải vui
mừng khi hay tin “Vua người Do Thái mới sinh”, Đấng họ trông chờ như Vị Cứu
Tinh, thì trái lại, họ đã hoảng hốt cùng với Hêrôđê người cai trị trên họ.
Dường như họ ngại phải dấn mình vào một sự đổi thay, dù họ tin rằng sự đổi thay
đó đem lại sự giải thoát cho họ. Còn những Tư Tế và những nhà thông luật, biết
rõ nơi Vị Cứu Tinh ra đời, nhưng chẳng ai màng đến với Ngài. Để rồi cuối cùng,
chỉ có những người bị liệt vào hàng “dân ngoại” lại hăm hở đến với “Vua người
Do Thái”, cũng là Vị Cứu Tinh của nhân loại.
Thưa anh chị em,
Lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra. Chúng ta biết được qua
bài Tin Mừng, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho muôn dân. Thánh Gioan viết: “Thiên
Chúa nào có ai thấy Ngài bao giờ, và làm sao thấy Ngài được? Nhưng người Con
duy nhất của Ngài đã làm người, và cho ta thấy được Thiên Chúa mang bản tính
con người, làm người như chúng ta và ở giữa chúng ta”. Từ khi Ngôi Lời nhập
thể, ai tin nhận Đức Kitô là tin nhận Thiên Chúa, ai từ khước Đức Kitô là từ
khước Thiên Chúa.
Vấn đề được nêu lên hôm nay, là ai làm cho người ta biết Đức Kitô,
nếu không phải là mỗi người chúng ta? Tuy nhiên, hãy tự vấn rằng bản thân chúng
ta đã biết Đức Kitô đến mức độ nào? Nhất định chúng ta chỉ biết Ngài với một
mức độ thật giới hạn. Xét về việc giảng giải bằng lời nói, chúng ta có thể bập
bẹ đưa ra một số chi tiết về con người của Đức Kitô, về giáo thuyết, về thân
thế và sự nghiệp của Đức Kitô; những điều mà người thiện chí không thể không
nhìn thấy. Còn nếu chứng minh bằng chính đời sống, để nói được với bất cứ ai,
như Thánh Phaolô đã nói: “Xin ông bà, anh chị, hãy bắt chước tôi, như tôi đã
sống noi gương Đức Kitô”, thì lắm kẻ không dám nói, và không được phép nói. Bởi
vì cuộc sống hiện tại của họ, mọi người đều biết nó như thế nào rồi! Nói cách
khác, bản thân tôi chưa gặp được Thiên Chúa, mặc dù miệng tôi luôn nói: Thiên
Chúa ở khắp mọi nơi, Thiên Chúa ở trong tôi, Thiên Chúa ở trong mọi người.
Nhưng thực sự, tôi không thấy Thiên Chúa nơi ai cả, ít là trong những cử chỉ
tôi đối với những người chung quanh đã nói lên rõ rệt như vậy. Và cũng thế,
chưa ai thấy Thiên Chúa ở nơi tôi cả vì chình cuộc sống của tôi đã nói lên rõ
ràng như vậy.
Thật vậy, còn có biết bao người đang sống trong tăm tối thiêng
liêng; họ đang lầm lũi bước đi trong lầm lạc; họ đang khao khát chân lý; họ
không ngớt đặt vấn nạn với chúng ta: “Đức Vua Dân Do Thái sinh ra ở đâu?” hoặc:
“Đức Giêsu là ai vậy?. Vậy thì, hỡi các Kitô hữu, hãy trả lời cho họ đi: “Đức
Kitô là ai?”. Nhưng xin đừng mở cuốn Kinh Thánh ra nói như một nhà thông thái.
Chắc chắn họ không xin chúng ta một Đức Kitô đóng khung trong sách vở, nhưng là
một Đức Kitô sống động qua con người của chúng ta. Không có con đường nào khác
đưa người ta trở về hoặc khám phá ra Chúa Kitô ngoài con đường Tin Mừng đã
vạch, đó là con đường yêu thương. Thật vậy, chính tình yêu là sức mạnh khiêm
tốn nhất nhưng lại mãnh liệt nhất để đưa con người đến với nguồn chân lý.
Khi người Kitô hữu chỉ đóng khung đời sống đạo của mình trong nhà
thờ, giữa những nghi lễ, mà không nhận ra những nhu cầu, những đòi hỏi của xã
hội chung quanh; khi một cộng đoàn Kitô hữu quá bám víu vào những thứ gọi là
quyền lợi tôn giáo của mình mà làm ngơ trước những đau khổ, bất hạnh của kẻ
khác thì chính họ đang làm dập tắt những ánh sáng dẫn đường tới Chúa Kitô.
May mắn là vào thời đại chúng ta, có Mẹ Têrêsa Calcutta. Qua chính
cuộc sống đầy hy sinh vì mọi người, Mẹ Têrêsa đã làm cho mọi người thấy Thiên
Chúa. Thật kỳ diệu: ngay Cuba rồi Liên Xô cũng mời Mẹ Têrêsa đến thăm và cho
phép lập Dòng các chị em Thừa Sai Bác Ái với quyền thu nhận tập sinh, đang khi
các Dòng khác đã có mặt từ lâu, vẫn chưa được phép này. Tại sao? Cuộc đời hy
sinh của Mẹ Têrêsa, từ khi là nữ tu trẻ, từ năm 1918, đã dám mạo hiểm, mạo hiểm
trong khiêm tốn nhưng lòng đầy tình yêu Thiên Chúa và con người. Sống trong tập
thể tu viện với đầy đủ tiện nghi của một Dòng chuyên dạy con gái nhà giàu, được
bảo đảm hơn là cô đơn giữa xóm ổ chuột. Thế mà, trong thời gian dài, nữ tu
Têrêsa là con người lang thang trên các nẻo đường ở Calcutta, vì Têrêsa thấy rõ
Chúa Giêsu đang sống trong những người nghèo bên các vỉa hè của những người dư
giả, giả vờ quên rằng có Lazarô đang nằm chết đói ngoài cửa nhà mình, đang chờ
một phần ăn rất nhỏ, vất đi từ một bàn tiệc linh đình sang trọng. Tình yêu, yêu
Thiên Chúa, yêu Chúa trong mọi người, đã biến đổi sự yếu hèn của nữ tu Têrêsa
nên sức mạnh vô địch. Không bao lâu, căn nhà nhỏ của Mẹ Têrêsa phải nới rộng,
nới rộng đến nhiều quốc gia trên thế giới, cả đến nước Liên Xô. Đoàn Thừa Sai
Bác Ái chưa đầy 40 năm đã chóng lớn như phép lạ, và Mẹ Têrêsa được trao tặng cả
vinh dự lớn nhất của người đời: “giải thưởng Nobel Hoà Bình”. Mẹ Têrêsa đã làm
cho mọi người thấy thế nào là Thiên Chúa.
Thiên Chúa của những năm cuối thế kỷ 20 là như thế đó. Thiên Chúa
trong viễn tưởng năm 2000 phải như thế đó. Thiên Chúa của những cá nhân ích kỷ,
của những tập thể ích kỷ, Thiên Chúa của người “tôi” ích kỷ đã chết, và phải
chết đi với cái người “tôi” ích kỷ. Như thế sẽ chiếu tỏ một Thiên Chúa, thực sự
là Thiên Chúa tình thương, hy sinh Con Một cho nhân loại phản bội. Thiên Chúa
là Đức Kitô dám chết cho kẻ mình yêu tuy chúng ta không đáng yêu.
May mắn là trong xã hội chúng ta, ngay giữa chúng ta, trong những
giờ này, có những mẫu người hy sinh, quên mình, lo cho người đau khổ, nghèo
đói, bệnh tật, trong các bệnh viện, đặc biệt ở những trại cùi. Những con người
Kitô hữu đó được công khai bầu lên là người mẫu của tình yêu vị tha, những nhân
chứng đích thực của Chúa Kitô.
Có những người, giờ này, đang âm thầm vào các bệnh viện, tìm thăm
những bệnh nhân bại liệt tại giường, không gia đình thăm viếng, chăm sóc; anh
chị em đó đã đến, hỏi thăm sức khoẻ, chạy dùm một số việc, giặt giũ, vệ sinh cá
nhân… Xin Chúa ban cho có nhiều tông đồ, nhân chứng của tình yêu Chúa với những
việc làm cụ thể như thế để tạo được sự Hiển Linh, làm cho đồng bào được thấy
Thiên Chúa, và ước gì những chứng nhân ấy lại là chính chúng ta. Ước gì được
như vậy!
Hôm nay chúng ta mừng lễ Hiển Linh, ngày Thiên Chúa tỏ mình cho
dân ngoại. Câu chuyện đã xảy ra như sau:
Bấy giờ một ngôi sao lạ xuất hiện trên bầu trời và ba nhà đạo sĩ
phương Đông, là những người nghiên cứu về những hiện tượng thiên nhiên, đã hiểu
được ý nghĩa của ngôi sao lạ.Họ đã lên đường, bước đi dưới sự soi dẫn của ánh
sao và cuối cùng đã gặp được Hài Nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem, mà họ tin rằng
Ngài chính là vua dân Do Thái. Trước khi trở về quê cũ, họ đã thờ lạy và dâng
lên Hài Nhi lễ vật của địa phương mình, đó là vàng, nhũ hương và mộc dược.
Từ câu chuyện trên, tôi muốn rút ra một kết luận: Ngoài ánh sao lạ
đã soi đường cho ba nhà đạo sĩ tới máng cỏ Bêlem, thì mỗi người chúng ta cũng
phải trở nên một ánh sao, dẫn lối cho những người chung quanh, nhất là những
người thân yêu cùng sống trong một mái ấm gia đình tìm gặp được Thiên Chúa.
Thực vậy, như chúng ta thường xác quyết:
- Gia đình là mái trường đầu tiên dạy cho chúng ta những bài học
làm người.
Dưới mái nhà thân yêu này, trước hết chính cha mẹ phải là một ánh
sao dẫn đưa con cái đến cùng Chúa, bởi vì tại đây, ngoài cái nền giáo dục nhân
bản, tức là đào luyện cho con cái trở nên những người biết sống tự lập và biết
sống với người khác, hầu đem lại lợi ích cho quốc gia, cho xã hội, là người tín
hữu, chúng ta còn phải cho con cái một nền giáo dục Kitô giáo, tức là uốn nắn
chúng để chúng trở nên những người con cái Chúa.
Vì thế, ngay từ hồi còn tấm bé, cha mẹ đã dạy cho chúng qua đôi
tay vụng dại lên làm dấu thánh giá, còn môi chúng bập bẹ những lời kinh đơn sơ.
Hơn thế nữa, đời sống gương mẫu của cha mẹ sẽ có được một sức lôi
cuốn hấp dẫn con cái đến cùng Chúa, vì lời nói như gió lung lay, còn việc làm
thì như tay lôi kéo.
Augustinô là một chàng trai chơi bời trác táng, thế nhưng nhờ lời
cầu nguyện và gương sáng của bà mẹ là thánh nữ Monica, cuối cùng Augustinô đã
trở lại cùng Chúa và trở nên một vị giám mục thánh thiện và khôn ngoan,
Tiếp đến vợ chồng cũng phải trở nên một thứ ánh sao cho nhau, có
nghĩa là vợ chồng phải biết giúp nhau tìm đến cùng Chúa bằng lời nói và việc
làm của mình. Tôi xin đưa ra một thí dụ: Người chồng là một tân tòng, nếu không
được gương sáng của người vợ thúc đẩy, thì đức tin vừa mới nảy mầm, chẳng bao
lâu cũng sẽ bị thui chột.
Có một ông bố rượu chè cờ bạc, thường bỏ nhà để đàn đúm ăn nhậu
với bè bạn. Ngày kia, khi ông trở về thì trời đã khuya, nhìn vào nhà ông thấy
vẫn còn ánh đèn, lại có cả những tiếng thì thầm. Tiếng thì thầm ấy chính là
tiếng người vợ đang dạy cho đứa con cầu nguyện cho ông. Như được một luồng ánh
sáng chiếu soi, ông bừng tỉnh, từ bỏ con đường tội lỗi để trở về cùng Chúa.
Một khi mọi người trong mái ấm thân yêu có được một đời sống gương
mẫu, thì chắc chắn gia đình của chúng ta sẽ trở nên như một ánh sao lạ, qua đó
người khác sẽ nhận ra sự hiện diện đầy yêu thương của Thiên Chúa.
(Suy niệm của Lm An Phong, OP)
Các đạo sĩ ở phương Đông đã nhận ra một vì sao lạ; nhưng chính
Hêrôđê và dân cư ở Giêrusalem lại không nhìn thấy. Các đạo sĩ nhìn thấy ánh sao
và biết rằng "Vua dân Do Thái mới sinh"; còn dân của Chúa, bao năm
mong chờ Đấng Cứu Tinh lại không nhận ra điều gì cả. Các đạo sĩ từ phương Đông
đã "đến để triều bái Người"; còn Hêrôđê lại dò hỏi để tìm cách giết
Người.
Cái nghịch lý của ánh sao là như thế. Ánh sao đó xuất hiện cho
những người thành tâm thiện chí, soi đường cho những người khát khao muốn tìm
sự thật; nhưng ánh sao đó lại biến mất trước những người chỉ mải mê với cuộc
đời của mình, ánh sao đó làm bối rối và xôn xao đối với những người đang lo xây
dựng "ngai vàng" cho cuộc đời mình.
Ánh sao nhiệm mầu đó không phải là ánh sao bình thường, nhưng là
dấu chỉ của Thiên Chúa tỏ bày cho con người. Dấu chỉ đó không chỉ hạn hẹp cho
những người "Do Thái", cũng như không phải chỉ những người "có
đạo" mới nhìn thấy được. Thiên Chúa "Hiển Linh" là Thiên Chúa tỏ
bày vinh quang của Ngài cho mọi người, cho những người chưa biết Chúa. Các đạo
sĩ phương Đông là đại diện cho những người thành tâm thiện chí ở khắp nơi trên
thế giới.
Người ta không thể chờ một ánh sao lù lù hiện ra trước mặt để chỉ
cho biết Chúa đến. Nhưng chính thái độ mở lòng ra, tâm tình chờ đợi, lòng tin
tưởng vào Chúa sẽ giúp người ta nhận ra những lời nhắn nhủ của Ngài, sự chỉ dẫn
sáng suốt của Ngài, tình thương và hồng ân của Ngài.
Chúa đã đến và Ngài vẫn đang đến. Chúa đã tỏ bày ánh sao của Ngài
cho các đạo sĩ và Ngài vẫn luôn tỏ bày ánh sáng nhiệm mầu của Ngài cho những ai
chuẩn bị để đón nhận.
Lạy Chúa Giêsu!
Xin cho chúng con
biết phát hiện ra quyền năng của Chúa trong thế giới.
Xin cho chúng con biết nhận ra bàn tay của Chúa trong lịch sử.
Xin cho chúng con
sống với Chúa trong cuộc sống thường ngày.
Lạy Chúa Giêsu, nếu con có con mắt Đức Tin,
chắc hẳn con sẽ nhìn thấy Chúa không ở đâu xa.
Nếu con có đôi chân của lòng Trông Cậy,
con sẽ bước đi trong bàn tay nâng đỡ của Chúa. Và
Nếu con có trái tim của Đức Mến,
con sẽ có thể yêu Chúa nơi mọi người xung quanh con.
Lạy Chúa Giêsu, xin củng cố để con nhận ra
Chúa đang Hiển Linh trong chính cuộc sống của con.
(Suy niệm của Lm An Phong, OP)
Hôm nay, chúa nhật lễ Hiển Linh (vẫn quen gọi là lễ Ba Vua), hay
là lễ Chúa Giêsu tỏ mình ra cho dân ngoại mà đại diện là ba nhà Chiêm tinh đến
từ phương đông, theo dấu ngôi sao lạ, để "sấp mình thờ lạy" Người,
đồng thời "lấy vàng, nhũ hương, mộc dược mà dâng tiến" lên.
Cử hành lễ Hiển Linh là cử hành việc Thiên Chúa đến với dân ngoại.
Thiên Chúa chỉ tỏ mình ra cho những ai biết tìm kiếm và đón nhận Người.
Đời sống chúng ta là một hành trình tiến về quê hương vĩnh cửu là
Nước Thiên Chúa. Đã là hành trình thì chắc chắn sẽ có những khó khăn, vất vả,
nhưng cũng có những lúc bình an, hạnh phúc. Trên hành trình này, Chúa sẽ là
niềm vui, niềm hy vọng, vì vinh quang Chúa xóa tan mây mù, bóng tối và vinh
quang Chúa sẽ xuất hiện, làm cho "mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng dạ ngươi hớn
hở tưng bừng" (Is 60,4). Trên hành trình này, Thiên Chúa đã dùng Thần Khí
của Người để cho chúng ta được "thừa hưởng gia nghiệp, cùng làm thành một
thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa" (Ep 3,6). Như thế, hành
trình này sẽ là hành trình của niềm vui và hy vọng.
Đời sống chúng ta là một hành trình tìm kiếm Thiên Chúa. Thiên
Chúa vốn là Đấng "ẩn giấu", tức là Người chỉ tỏ hiện rõ ràng cho
những ai thành tâm tìm kiếm Người. Các Kinh sư và cả thành Giêrusalem đã không
nhận ra Vị Cứu tinh vừa xuất hiện tại Belem, vì họ có não trạng hẹp hòi, thiếu
quảng đại. Còn ba nhà Chiêm tinh đã khám phá nơi hài nhi bé nhỏ chính là Đấng
Thiên Chúa gởi đến, vì họ thành tâm tìm kiếm. Trong lịch sử Giáo hội, một
Phanxicô đã nhận ra Chúa hiện diện nơi các tạo vật (Trường ca tạo vật), Mẹ
Têrêsa Calcutta đã nhận ra Chúa nơi những mảnh đời rách nát "họ đã sống
không ra người, cần cho họ chết cho ra người"... Tận điểm của hành trình
tìm kiếm là gặp gỡ. Ba nhà Chiêm tinh đã đến Belem, đã gặp được ĐấngCứu thế, đã
quì xuống thờ lạy Người. Đời sống kitô hữu là một hành trình gặp gỡ Thiên Chúa qua
công việc mỗi ngày. Sống đức tin thực sự là sống đức ái thực sự. Đức ái thực sự
là phục vụ vô vị lợi. Sự phục vụ vô vị lợi dẫn đến những cuộc gặp gỡ. Chúng ta
gặp gỡ Thiên Chúa nơi con người. Thiên Chúa hiện diện nơi từng biến cố, từng sự
kiện, từng con người...
Như thế, đời sống kitô hữu là đời sống đi tìm kiếm Thiên Chúa và
gặp gỡ Người trong hoàn cảnh, môi trường hiện tại. Đời sống đó là một hành
trình tràn đầy niềm vui và hy vọng, vì có Thiên Chúa đồng hành.
Lạy Chúa,
Xin cho lòng con bình an đón nhận ngày vừa sáng lên.
Xin giúp con luôn tựa nương vào ý Ngài.
Xin hướng dẫn con tìm ra ý Ngài
trong mỗi giờ phút của ngày hôm nay.
Xin chúc lành cách đối nhân xử thế của con.
Xin dạy con đón nhận mọi cái bất ngờ trong ngày hôm nay
với một tâm hồn thanh thản.
Xin Chúa hướng dẫn tư tưởng và tâm tình của con
trong mọi lời nói và hành động.
Xin dạy con biết cương quyết và khôn ngoan khi hành động,
mà không khiêu khích người khác
hoặc làm cho họ buồn tủi.
Xin cho con sức mạnh
để chịu đựng những mệt nhọc của ngày hôm nay.
Xin Chúa định hướng ý chí con.
Xin dạy con cầu nguyện.
Xin Chúa cầu nguyện trong con. Amen.
(Suy niệm của Lm Anphong Trần Đức Phương)
Lễ Hiển Linh trước đây gọi là Lễ Ba Vua vì căn cứ vào ba của lễ
qúy giá các 'Đạo Sĩ' dâng lên Chúa Hài Nhi: Vàng, Nhũ hương và Mộc dược
(Matthêu 2,11). Ba lễ vật này thời đó rất qúy giá, chỉ có trong các hoàng tộc;
nên lúc đầu, người ta tưởng phái đoàn đến thờ lạy Chúa Hài Nhi gồm có Ba Vua và
gọi lễ này là Lễ Ba Vua. Sau này, khoa khảo cổ tiến bộ, người ta tìm hiểu kỹ
hơn và nhận ra phái đoàn gồm có các nhà "Thông thái" hay "Đạo
sĩ" hoặc "Chiêm tinh" dịch từ chữ 'Magi' (số nhiều của chữ
'magus') là danh từ của người Ba Tư thời đó để chỉ những người tài giỏi, thông
thái được chọn vào hàng tư tế, hoặc cố vấn cho các triều vua (New American
Bible dùng chữ 'Magi'; có những bản dịch khác dùng chữ 'Wise Men' (những Nhà
Thông Thái).
Theo bài Phúc Âm hôm nay (Matthêu 2, 1-12), các 'đạo sĩ' đã được
ơn soi sáng qua ngôi sao mới xuất hiện và nhận ra có một vị 'Cứu Tinh' mới sinh
ra ở nước Do Thái, và họ lên đường theo ngôi sao sáng xuất hiện dẫn đường. Các
vị này (Đại diện các dân tộc ngoài Do Thái) từ "Phương Đông" (tức là
từ nước Ba Tư hay một nơi nào phía Đông nước Do Thái), tới nước Do Thái và tìm đến
Belem để chiêm bái và tôn kính Chúa Hài Nhi mới sinh.
Hai Bài đọc trong Chúa Nhật này đều nói lên ý tưởng chính là việc
Thiên Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc ngoài Do Thái.
Bài Đọc I: Tiên Tri Isaia (60, 1- 6) đã báo trước việc 'Vinh quang
Thiên Chúa sẽ xuất hiện trên các dân tộc và dẫn đưa mọi người tìm đến Ánh Sáng
thật là Thiên Chúa chân thật, Đấng Cứu Độ trần gian.' Bài Đọc II trích trong
thơ Ephêsô (3, 2-3; 5-6): Thánh Phaolô nói đến việc các dân tộc ngoài Do Thái
cũng được mời gọi để chung phần cứu rỗi của Thiên Chúa Nhập Thể để cứu chuộc
nhân loại.
Căn cứ vào các tư tưởng chính của Thánh Lễ hôm nay, các Nhà Phụng
Vụ ngày nay gọi lễ này là Lễ Hiển Linh để chỉ việc Thiên Chúa tỏ hiện vinh
quang của Ngài cho các dân tộc đến tận cùng trái đất. (Trong tiếng Anh, Lễ này
gọi là 'The Epiphany' gốc từ chữ Hy Lạp 'Epiphaneia'có nghĩa là 'sự tỏ hiện').
Thánh lễ hôm nay hướng tâm trí chúng ta cùng với các 'đạo sĩ' đến
để chiêm bái và thờ lạy Chúa Hài Nhi sinh ra trong hoàn cảnh khó nghèo; đồng
thời cũng dậy chúng ta bài học dấn thân và chia sẻ.
Bài học dấn thân: cũng như các mục đồng đã bỏ
giấc ngủ ngon ban đêm để đến thờ lạy Chúa Hài Nhi trong hang đá bò lừa, các
'đạo sĩ' cũng bỏ cuộc sống êm ấm trong gia đình để lên đường chịu bao mệt nhọc
vất vả để tìm đến thờ lạy Đấng Cứu Tinh. Chúng ta cũng phải dám dấn thân chấp
nhận mọi vất vả, khó nhọc hàng ngày để đến thờ lạy Chúa, để sống đức tin chân
thật của chúng ta trong thế giới hôm nay.
Bài học chia sẻ: Xin Chúa cũng giúp chúng ta
noi gương các 'đạo sĩ': biết sống khó nghèo để dành dụm những gì mình có để
dâng lên Chúa, qua việc giúp đỡ những người nghèo khổ, bệnh hoạn ở các nơi đang
cần sự giúp đỡ của chúng ta. Tránh may sắm, trưng diện quá, ăn uống tiêu xài
hoang phí, để tiết kiệm giúp đỡ những người thiếu thốn. Nhất là khi chúng ta
được sống trong hoàn cảnh có công ăn việc làm vững chắc, nhà ở rộng rãi, cuộc
sống phong phú, đầy đủ.
Hơn nữa, mỗi người tín hữu của Chúa cũng phải là những Ngôi Sao
Sáng chỉ đường cho mọi người nhận ra con đường Sự Thật và Sự Sống, con đường đi
đến với Chúa, bằng đời sống lương thiện, công bằng, hoà hợp yêu thương. Tránh
xa những thói xấu của xã hội hôm nay, như tự do luyến ái, phá thai, li dị, gian
lận trợ cấp, kết hôn giả, cờ bạc, nghiện ngập..vv... Đó là những thói xấu thế
gian, những thói xấu biến chúng ta thành những 'ngôi sao lạc' dẫn đưa vào nơi
tăm tối lầm lỗi.
Chúng ta, tất cả đều chỉ là những con người mang nhiều tật xấu,
tham lam, ham danh, ham lợi. Chúng ta hãy khiêm nhượng chiêm ngắm cảnh khó
nghèo của Hang Đá Belem và cầu nguyện chung cho nhau, nâng đỡ lẫn nhau để chúng
ta biết sống khó nghèo, khiêm tốn và ngay thẳng, xứng đáng con cái Chúa.
Xin Chúa 'thắp sáng lên trong chúng ta' ngọn lửa tình yêu để chúng
ta nhận ra 'con đường ngay thẳng', 'con đường công chính' và dám dấn thân đến
với Chúa và đem Chúa đến cho mọi người trong gia đình chúng ta, mọi người chúng
ta gặp gỡ trong cuộc sống hàng ngày.
THIÊN CHÚA TỎ HIỆN CHO NHỮNG TẤM LÒNG CHÂN THÀNH TÌM KIẾM NGƯỜI
Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện Ba nhà khôn ngoan theo dấu
sao lạ tìm đến Be Lem và nhận ra Hài nhi, vua dân Do Thái.
Hẳn là chúng ta có thể nhận ra mình nơi hình ảnh Ba nhà khôn ngoan
đi tìm kiếm Thiên Chúa.
Hẳn là vị Thiên Chúa vốn "ẩn giấu" chỉ tự bộc lộ cho
những ai chân thành tìm kiếm Người.
* Cuộc đời là một cuộc hành trình, là một cuộc lên đường tìm kiếm,
tìm kiếm hạnh phúc, tìm kiếm an bình, tìm kiếm tất cả những gì làm cho cuộc
sống tốt hơn. Với tiếng khóc oe oe chào đời, con người đã là kẻ lên đường; và
tất yếu mọi bước đường đời cũng là những cuộc lên đường đi tới. Đã sống làm
người là phải đi tới và đi tới mãi, không còn có thể quay đầu thoái lui nữa.
Như thế, hạnh phúc, chân lý, bình an, hy vọng… cũng chỉ đến với
những ai sẵn sàng lên đường trong tâm trạng khắc khoải kiếm tìm quê hương đích
thực "Lạy Chúa; tâm hồn con khắc khoải cho đến khi nghỉ an trong
Chúa" (thánh Augustinô). Có lẽ mỗi người chúng ta đều mang trong mình hình
ảnh Ba nhà khôn ngoan đi tìm kiếm Thiên Chúa. Bởi lẽ đức Tin chính là một cuộc
gặp gỡ cá vị với Đức Giêsu, không phải là tin vào một số lý thuyết; và đức Tin
chỉ là một quà tặng cho những ai sẵn sàng mở tâm hồn ra để đón nhận.
* Ý nghĩa căn bản của mầu nhiệm hiển linh cũng là ý nghĩa của mầu
nhiệm nhập thể: mầu nhiệm Thiên Chúa tỏ mình ra. Nhưng ngay khi tỏ mình ra,
Thiên Chúa vẫn là một Thiên Chúa ẩn giấu; Ngài ẩn mình nơi một con người, một
trẻ bé bình thường; Ngài ẩn giấu trong một hình bánh rượu; Ngài hiện diện cách
ẩn giấu nơi nào có hai ba người tụ họp nhân danh Ngài; Ngài ẩn giấu nơi những
người nghèo…
Thiên Chúa vẫn luôn là như thế và Ngài vẫn còn đang ẩn giấu dưới
thiên hình vạn trạng trong cuộc đời. Thiên Chúa chỉ "hiển linh" với
những tâm hồn bé thơ, những người dám lên đường tìm kiếm, những người biết mở
tâm hồn ra để đón nhận; và những người đó sẽ nhận ra Ngài đang ẩn giấu ngay
trong những dáng vẻ bình thường của cuộc sống.
Ôi lạy Chúa,
Có phải Chúa đã cho người mù nhìn thấy
và kẻ câm nói được?
Con van nài Chúa thêm một lần nữa!
Xin hãy mở mắt con ra cho con thấy;
Xin hãy mở tai con cho con nghe rõ hơn;
vì con vẫn thường muốn giả điếc làm ngơ.
(Michel Quoist)
(Suy niệm của Jean-Yves Garneau)
Một ngày lễ đầy màu sắc.
Có lễ nào mang nhiều màu sắc hơn lễ Hiển linh? Có những nhân vật
(người ta nói là ba nhưng Tin Mừng không khẳng định điều này) không biết chính
xác đến từ đâu (thánh Matthêu viết rằng từ phương Đông; nhưng phương Đông lớn
lắm!). Người ta không biết tên của họ (dù họ mang tên Mechior, Balthasar và
Gaspar, theo một truyền thống rất cổ xưa mãi từ thế kỷ thứ 5, nhưng đó không
phải là một điều chắc chắn mang tính khoa học). Và có ngôi sao! Ngôi sao mà
người ta đã nói và viết nhiều về nó. Nó hướng dẫn các vị hiền sĩ của chúng ta
(có lẽ là những nhà chiêm tinh và chúng ta đã gọi họ là vua) và nó đã dừng đúng
chỗ, đúng lúc: Trên ngôi nhà có Đức Maria và Hài Nhi Giêsu! Lại có vàng, nhũ
hương và mộc dược nữa…
Hai sứ điệp.
Lễ Hiển linh thật là hấp dẫn, tuy nhiên chúng ta đừng để mình quá
bị chi phối bởi những chi tiết dù có quan trọng đi nữa. Ta hãy quan tâm tới
điều chính yếu: hãy chú ý đến sứ điệp, sứ điệp này gồm hai điều:
Một là, lễ hiển linh nói với chúng ta rằng Chúa Giêsu không đến
trong thế gian vì một số người mà thôi (những người thân cận với Ngài), rằng
Ngài không nhập thế duy chỉ vì một dân tộc (dân tộc Do Thái), nhưng vì tất cả
các dân tộc trên trần thế và vì tất cả mọi người sống trên quả đất này. Thậm
chí quốc gia bé nhỏ nhất cũng không thể bị quên lãng. Không ai, thực sự không
người nào bị loại trừ khỏi những bận tâm của Chúa Giêsu. Ngài sinh ra cho hết
thảy mọi người. Tất cả mọi người, đàn ông đàn bà, lớn bé, giàu nghèo ở khắp mọi
nơi chốn và mọi thời đại đều được mời gọi đến lãnh ơn cứu độ. Chúa Giêsu đến để
soi sáng và cứu vớt toàn thể nhân loại. Những bản văn Thánh Kinh được công bố hôm
nay khẳng định rõ ràng điều đó (x. Ep 3,6: “Mầu nhiệm này là những kẻ ngoại
giáo được thông phần cùng một di sản, cùng một thân thể…” Is 60,3-4: “Chư dân
sẽ bước đi hướng về ánh sáng của Ngài… hết thảy họ đều tụ họp lại…”).
Điều thứ hai của sứ điệp dạy chúng ta rằng Chúa Giêsu đã bị những
kẻ thuộc về Ngài không biết đến, thậm chí còn ruồng bỏ, nhưng lại được những kẻ
xa lạ, các hiền sĩ, tìm kiếm, khám phá, đón nhận và tôn thờ. Không có chỗ cho
Ngài nơi những kẻ thuộc chủng tộc Ngài, nơi quán trọ, ngày Ngài chào đời! Không
có những người trong làng tìm đến máng cỏ đến Giáng Sinh, chỉ có các mục đồng
thôi! Còn Hêrôđê, ông vua thời đó, người ta biết rằng ông muốn giết Đấng đến để
cứu ông!
Hai áp dụng cụ thể.
Ta có thể rút ra từ sứ điệp trên đây hai áp dụng cụ thể.
Trước hết, ta phải tự nhủ rằng bao giờ cũng có thể sống bên cạnh
Chúa Kitô mà không quan tâm đến Ngài, và cũng có thể biết tên của Ngài mà không
thực sự biết chính Ngài. Lúc đó ta có thể mang nhãn hiệu Kitô nhưng kỳ thực ta
không phải là Kitô hữu. Về mặt lý thuyết, ta khẳng định Chúa Kitô hiện diện
trên thế giới, nhưng ta không rút ra được từ đó một kết luận thực tiễn nào cả
cho những ứng xử của cá nhân mình và cho cách điều khiển xã hội.
Sau đó ta phải tự nhủ –đây là áp dụng cụ thể thứ hai- rằng ta luôn
luôn phải để cho một ngôi sao hướng dẫn mình, phải luôn luôn lên đường tìm kiếm
Chúa Kitô, luôn luôn cố gắng hiểu rõ Ngài hơn… vì nơi chúng ta bao giờ cũng còn
lại một cái gì ngoại giáo! Ở đây tôi nghĩ đến tất cả những ngẫu tượng mà ít
nhiều chúng ta còn tôn thờ hoặc để cho mình bị chúng thôi miên mà không hay
biết. Những ngẫu tượng này là; tham tiền bạc, cá nhân chủ nghĩa thúc đẩy chúng
ta quên đi số phận của kẻ khác. Ta cũng có thể gọi là ngẫu tượng óc tiêu thụ
quá đáng rất thường điều khiển chúng ta và nhất là cái nhìn hoàn toàn duy vật
của chúng ta về cuộc sống.
Tìm ngôi sao dẫn đến nơi có Chúa Giêsu và Mẹ Ngài, từ bỏ xứ sở, đi
đến một nơi xa lạ, dám sống một cuộc mạo hiểm thiêng liêng trong đó ta dấn thân
hoàn toàn và vì đó ta cho đi cái tốt nhất nơi mình, đấy là những gì các hiền sĩ
đã làm. Còn chúng ta, quá thường sống như người ngoại đạo trong một đất nước
còn mang tên Kitô, chúng ta có can đảm lên đường tìm kiếm Chúa Kitô không?
Chúng ta có biết đi theo ngôi sao của các hiền sĩ còn đang chiếu sáng cho những
kẻ đói khát Thiên Chúa không?
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
Hôm nay chúng ta mừng lễ ba Vua, tức lễ Hiển Linh. Dựa vào Thánh
Kinh và Thánh Truyền kể lại việc tìm kiếm Chúa của Ba Vua từ Phương Đông miền
đất Palestina, theo sự hướng dẫn của một vì sao lạ. Các ngài đã khám phá ra dấu
lạ, rủ nhau lần mò dò dẫm tìm đến Bethlem, và cuối cùng sau cuộc lộ trình đường
xa nhiều gian khổ và nguy nan, các ngài đã gặp được Chúa Cứu Thế.
Như ngày lễ Giáng Sinh, lễ Hiển Linh biểu lộ một niềm vui, đó là
những hình ảnh, những gói quà, lạc đà, Ba Vua, ngôi sao, nhưng còn vui hơn vì ý
nghĩa quan trọng chứa đựng trong ngày lễ này, đó là việc Chúa tỏ mình ra cho
các dân, các nước. Ngài là Vua các vua và mọi dân tộc khắp bờ cõi trái đất đều
phải tôn thờ Ngài.
Nơi bài đọc I, Giáo hội dùng bài ca trở về của dân Do Thái nơi
sách tiên tri Isaia để diễn tả niềm vui của người được cứu thoát khi vinh quang
của Chúa bừng dậy. Một số những người nô lệ ở Babylon thuộc dân Do Thái nghĩ
mình đang sống trong đêm tối, họ mất hết niềm vui, không còn hứng thú gì để đàn
ca xướng hát. Họ đặt những nhạc khí, họ treo những cây đàn nơi gốc cây, nơi
cành cây dọc bên bờ sông Babylon, và nơi bờ sông họ ngồi khóc nhớ Sion, nhớ về
Thành Thánh Jérusalem.
Nhưng vui mừng biết bao ngày cứu thoát đến, ngày trở về quê hương,
ngày được gặp lại Jérusalem, được lên đền thờ dâng lễ tạ ơn Chúa. Và điều đặc
biệt là ánh sáng bừng lên ở Jérusalem. Đây không phải là ánh sáng của trần gian
mà là ánh sáng của chính Thiên Chúa. Thiên Chúa là ánh sáng và khi Chúa là ánh
sáng thì Ngài không phải chỉ là ánh sáng của Israel mà thôi nhưng Ngài còn là
ánh sáng của muôn dân, muôn nước. Từ đó những kho tàng bể khơi tuốn đến
Jérusalem, nguồn phú túc của chư dân sẽ tới Jérusalem. Tất cả muôn người lũ
lượt từ các nơi tuôn đến Jérusalem. miệng cao rao những lời ngợi khen Thiên
Chúa.
Nếu bài đọc I trình bày một hình ảnh vui tươi của Jérusalem ngày
đại lễ, ngày muôn dân tiến đến trong huy hoàng rực rỡ sang trọng, thì nơi bài
đọc II thánh Phaolô đưa hình ảnh ấy lên hàng siêu nhiên. Nơi bài I sự giàu sang
phú quí từ các nơi được đưa về để tung hô Chúa, thì nơi bài đọc II đáp lại ân
sủng Chúa ban phát dư tràn cho mọi người qua các tông đồ, các tiên tri, nhờ
Chúa Thánh Thần thánh hóa. Nhờ lòng thương xót bao la ấy của Thiên Chúa, tất cả
dân tộc trên mặt đất đều trở nên người thừa tự, trở nên người cùng một thân thể
và thông phần với lời hứa của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô.
Nhìn chung cả hai bài đọc đều diễn tả tình yêu thương hài hòa giữa
Thiên Chúa và con người với nhau. Con người một lòng một dạ nhìn nhận Thiên
Chúa là Vua. Chúa ban ơn cho con người, nhất là ơn được làm nghĩa tử trong Đức
Giêsu Kitô, không phân biệt ai cả.
Bài Phúc Âm diễn tả rõ ràng hơn, cụ thể hơn và sinh động hơn trước
mắt ta cuộc tìm kiếm Chúa, rồi được Chúa giúp đỡ ban ơn hướng dẫn. Con người
không ngại gian lao cực nhọc và cuối cùng gặp được Chúa. Con người quì gối sụp
lạy và dâng lễ vật cho Ngài. Xong trở nên con người mới, đi con đường khác, trở
nên với đời sống hằng ngày của mình.
Dựa vào đoạn Phúc Âm duy nhất của thánh Matthêu diễn tả cuộc viếng
thăm kỳ diệu này, người ta hay trưng bày vao hang đá trong ngày lễ Hiển Linh ba
vị vua. Thật ra, không có chỗ nào nói đó là các vị vua, cũng không có chỗ nào
cho biết con số của họ là bao nhiêu. Nhưng truyền thống gọi là ba, vì dựa vào
ba lễ vật thánh Matthêu kể ra: vàng, nhũ hương và mộc dược.
Về tên của ba vua là: Kalbar, Manthior và Bankasa, nhưng đến thế
kỷ IX người ta mới đề cập đến. Thật ra, tất cả những chi tiết nhỏ này không có
nền tảng trong Kinh Thánh và ngôi sao lạ hiện vẫn còn là đối tượng của những
giải thích khác nhau. Dầu vậy những điểm chính đã dễ cho chúng ta suy niệm đó
là những con người đến từ những xứ xa xôi để tìm vị Vua Do Thái mới sinh ra và
khi gặp được Ngài, họ quì gối xuống sụp lạy Ngài.
Hình ảnh ấy cho chúng ta thấy mãi mãi bao lâu Phúc Âm còn rao
giảng đều luôn luôn có những đạo sĩ, đó là những người tìm kiếm Chúa bằng cách
này hay bằng cách khác. Và khi đã gặp được Chúa, thì thành tâm thực lòng thờ
lạy Chúa, nhìn nhận Người là Vua, là Chúa của mình, của đời sống mình, của gia
đình mình và cuối cùng là của toàn thể nhân loại.
Cùng với Ba Vua bên máng cỏ, chúng ta hãy tôn thờ uy quyền tối cao
của Hài Nhi Giêsu và xin cho chúng ta luôn nhạy cảm đối với những cảm hứng
khích lệ của quyền năng Chúa trong tâm hồn mình.
Để có việc làm cụ thể, trong tuần này tôi hình dung ra những tác
động của Ba Vua trên con đường tìm Chúa. Đó là để tâm, để ý tìm hiểu sự kiện.
Dám chấp nhận dấn thân quyết chí tìm gặp cho được Chúa. Khi gặp được Người thì
phủ phục tôn thờ và dâng lễ vật. Rồi sau cùng, từ bỏ con đường cũ, đi theo con
đường mới, con đường của tin yêu và hy vọng, con đường của sự sống bất diệt
trên thiên quốc.
28. Lý do Chúa làm người
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Có anh chàng trai chẳng hề tin hay nghĩ tưởng gì đến Chúa. Chàng
cũng làm ngơ các thánh lễ hằng tuần. Vợ chàng trái lại rất sùng đạo. Nàng cố
gắng nuôi dạy con cái thấm nhuần lòng tin vào Chúa, mặc kệ những lời xỏ xiên
của người chồng cứng lòng.
Đêm vọng Giáng Sinh, khi nghe vợ con ngỏ ý mời mình đi dự lễ đêm,
chàng càu nhàu: “Vô nghĩa! Việc gì Thiên Chúa lại phải hạ mình đến nỗi trở
thành phàm nhân sống đời khổ sở như thế! Nghe như chuyện khôi hài!”
Vợ con đi rồi, chàng ở nhà một mình. Qua khung cửa sổ, chàng thấy
những mảng tuyết đang đổ xuống theo từng đợt gió giật. Nhìn ra khoảnh sân,
chàng thấy cả một bầy ngỗng trời ở đâu kéo tới. Chắc hẳn, trên đường xuôi nam,
bọn ngỗng gặp bão thành ra lưu lạc chốn này. Chúng như mất hướng, bay lòng vòng
quanh quẩn, chắc đang tìm thức ăn và chỗ nào đó kín khuất để tá túc. Chàng bỗng
động lòng, nghĩ đến dãy trại sau nhà, nơi được coi là ấm cúng và yên ổn cho
chúng tạm trú qua đêm chờ cơn bão tan. Nghĩ thế, chàng mò ra phía sau nhà, đến
đầu dãy trại, mở toang cánh cửa lớn ra như để đón chào đàn ngỗng lưu lạc. Thế
nhưng, dường như mắt chúng ra như mù loà, không hề nhìn thấy cánh cửa trại đã
mở toang hoác, càng không hề biết đến hảo ý của chàng. Chúng cứ tiếp tục bay
nhảy vô định, lại chạm vào khung kính, và đụng vào hàng giậu thưa. Càng cố làm
cho chúng chú ý đến mình, thì chúng lại càng tỏ ra hoảng sợ chàng, và tản ra xa
hơn. Càng cố lùa chúng hướng về phía cửa trại thì chúng lại càng đi sang hướng
khác. Thì ra chúng vẫn sợ chàng, vẫn không dám theo chàng, bởi vì chàng đâu
phải đồng loại của chúng đâu. Nghĩ thế rồi, chàng bước vào trại, ôm lấy một con
ngỗng đang nuôi trong trại, mang ra nhử nhử rồi thả chung với đàn ngỗng trời.
Con ngỗng của chàng đã quen thuộc với đường đi lối về, liền lăm lăm đi trở vào
cổng trại để trốn giá lạnh mùa đông. Thế là từng con ngỗng trời nối đuôi theo
nó, đi dần vào bên trong trại, ấm áp và an toàn.
Như chợt nhận ra điều gì đó, chàng suy nghĩ về lời mình đã càu
nhàu với vợ: “Việc gì Thiên Chúa lại phải hạ mình đến nỗi trở thành phàm nhân
sống đời khổ sở như thế!”. Rồi chàng bỗng thấy đây không còn là chuyện khôi hài
nữa. Lần đầu tiên trong đời, chàng hiểu ý nghĩa của ngày Lễ Giáng Sinh.
Ngoài trời, bão tuyết đã ngừng, và gió đã lặng. Trong tâm tư chàng,
cơn bão hoài nghi cũng biến tan. Có một chút yên lành len lỏi vào tâm hồn
chàng. Bỗng dưng, chàng quỳ gối xuống, chắp đôi tay lại. Lời kinh từ thuở tấm
bé mà chàng đã được học bỗng nhiên khe khẽ rung trên bờ môi: “Con cám ơn Đức
Chúa Trời… đã cho Ngôi Hai xuống thế làm người, chịu nạn chịu chết vì con…”.
Thiên Chúa làm người để cho con người làm con Thiên Chúa. Chúa cúi
xuống thân phận loài người để dẫn loài người về bến bờ bình yên là hạnh phúc
Nước Trời. Đàn ngỗng cần lắm một con ngỗng quen thuộc đường đi lối về mới có
thể dẫn cả đàn thoát giông bão hiểm nguy. Ngôi Hai Thiên Chúa đã từ trời xuống
trần, thế nên, chỉ mình Ngài mới có thể dẫn con người về với trời cao. Cũng như
chiếc phi cơ phải hạ cánh thì mới đưa hành khách bay bổng lên trời. Không có sự
xuống thế của Ngôi Hai Thiên Chúa thì không có cuộc về trời của con người.
Nhưng đâu là dấu chỉ về Con Thiên Chúa làm người? Làm sao con
người có thể nhận ra đâu là Thiên Chúa qua thân phận con người? Năm xưa, các
mục đồng đã nhờ thiên thần loan báo mà biết Con Thiên Chúa hạ sinh. Ba vua từ
phương đông đã nhờ ánh sao dẫn đường để tới bái kiến Vua Trời giáng sinh. Chúa
Giêsu đã nhờ Gioan để dọn đường và giới thiệu khi người đến.
Thiên Chúa đã làm người và ở cùng chúng ta. Ngài đang cần chúng ta
là những mục đồng loan tin Chúa cứu thế hạ sinh. Ngài đang cần niềm tin của
chúng ta phải tỏa sáng như ánh sao dẫn lối tha nhân đến với Chúa. Ước mong niềm
vui giáng sinh được lan tỏa đến mọi người và mọi nhà nhờ vào ánh sáng niềm tin
của chúng ta. Một niềm tin được tỏa sáng qua đời sống thanh thoát khỏi những
đam mê tội lỗi, những trào lưu tục hóa đang thống trị thế giới. Một niềm tin
trung kiên để từ khước những bổng lộc trần gian để sống trung tín với giới luật
của Chúa. Một niềm tin sắt son để luôn lắng nghe và thực thi lời Chúa trong
cuộc sống.
Chính nhờ đức tin ấy,lối sống đạo ấy mà chúng ta trở thành ánh sao
dẫn lối cho muôn dân tìm gặp và tôn thờ Chúa. Amen.
28. Mỗi tín hữu là một Ánh Sao dẫn đường
(Suy niệm của Giuse Đỗ Văn Phi, OP)
Trình thuật Tin Mừng theo thánh Mátthêu hôm nay cho chúng ta biết:
Bê-lem là nơi Hài Nhi Giêsu đã cất tiếng khóc chào đời, thời vua Hêrôđê trị vì.
Như thế, thánh Mátthêu đã gián tiếp khẳng định: Đức Giêsu là người của lịch sử,
cách riêng Ngài là người của lịch sử dân tộc Do-thái – dân riêng của Thiên
Chúa.
Chính Đức Giêsu là con người chiếu sáng cho cả quá khứ và đem lại
ý nghĩa cho cả giòng lịch sử dân Chúa. Chính Ngài sẽ căn cứ vào lịch sử quá khứ
dân tộc mình để từng bước nhận ra được ý nghĩa sứ mạng của mình và cách thức
hoàn thành sứ mạng ấy.
Sau khi xác định nơi chôn nhau cắt rốn của Đấng Cứu Thế, thánh
Mátthêu tiếp tục kể lại biến cố các đạo sĩ phương Đông tới bái lạy Hài Nhi
Giêsu. Đó là những nhà chiêm tinh, có thể họ đã đọc được dấu lạ do thấy ánh
sáng của hành tinh sao mộc và sao thổ lồng vào nhau. Hay nói một cách đơn giản:
lời loan báo về ngôi sao phát xuất từ nhà Gia-cóp đã được ứng nghiệm với biến
cố sinh ra của Đức Giêsu là vị cứu tinh. (x. Ds 24,17)
Nhưng điều được nhấn mạnh trong bài Tin Mừng hôm nay là dân ngoại
mà các đạo sĩ là người đại diện, đã đến bái lạy Hài Nhi Giêsu. Trái ngược với
sự hăng say nhiệt thành của các đạo sĩ phương Đông là sự bàng quan của các nhà
lãnh tụ đạo và đời tại thành thánh Giêrusalem, họ không hề nhúc nhích. Riêng
vua Hêrôđê có nói đến việc vua sẽ đến bái lạy Hài Nhi mới sinh, nhưng thực ra
ông ta chỉ muốn đến để mưu sát Ngài mà thôi.
Các nhà chiêm tinh là dân ngoại. Họ đại diện cho mọi dân tộc, cho
chính chúng ta. Họ khao khát tìm ơn cứu độ. Qua những dấu chỉ kỳ diệu hay đơn
sơ trong vũ trụ, họ nghe thấy lời mời gọi lên đường. Chấp nhận lên đường là
chấp nhận bỏ lại tất cả và sẵn sàng bước đi trong đêm tối. Các nhà chiêm tinh
không dựa vào điều gì khác ngoài ánh sao khi tỏ khi mờ. Cần có đức tin cứng cáp
mới dám dựa vào một dấu chỉ mong manh như thế. Cũng cần có đức tin mạnh mẽ lắm
mới dám tin rằng vị vua mới sinh đang khiêm tốn sống trong một hang bò lừa ở
Bêlem, chứ không uy nghi ngự giữa hoàng cung lộng lẫy. Cần có một đức tin khiêm
tốn biết chừng nào mới có thái độ sấp mình bái lạy trước Hài Nhi, và tiến dâng
lễ vật quý giá.
Thiên Chúa vẫn không ngừng lôi kéo cả nhân loại đến với Con Một
của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Ngài vẫn không ngừng cho những ánh sao dẫn đường.
Không phải là ánh sao trên trời cao, mà là ánh sáng Ngài gieo vào lòng người.
Mỗi người chúng ta phải trung thành với ánh sáng đó, và bước vào cuộc hành
trình đức tin đầy mạo hiểm, như các nhà chiêm tinh ngày xưa.
Đôi khi chúng ta có nét giống Hêrôđê, sợ hãi bối rối trước sự xuất
hiện của Đấng Cứu Độ. Hãy để Chúa làm lung lay ngai vàng của chúng ta, đưa
chúng ta vào sự bấp bênh, mong manh, để rồi cuối cùng chúng ta gặp được sự vững
vàng trong Chúa.
***
Cuộc sống ngày hôm nay đặt con người trước nhiều thách đố phải
chọn lựa. Thách đố phải sống cho sự công bằng trong một xã hội có quá nhiều bất
công. Thách đố phải sống tình liên đới và yêu thương trong một xã hội có quá
nhiều chiến tranh và hận thù. Chúa Kitô đã đến và chiếu tỏa ánh sáng của Ngài
vào thế gian. Ngài mời gọi mỗi người chúng ta hãy bước theo ánh sáng của Ngài,
ánh sáng của yêu thương, hoà bình và xây dựng.
‘Giáng Sinh’ gợi lại cho chúng ta một biến cố trọng đại: biến cố
Ngôi Hai xuống thế làm người. Ngài đến với tất cả mọi người, thuộc mọi quốc gia
và ngôn ngữ. Ngài đến để mang lại niềm vui và bình an, mạc khải cho con người
một vương quốc vĩnh cửu, mời gọi chúng ta bước theo ánh sáng của Ngài, ánh sáng
dẫn vào sự sống.
Trong giây phút thinh lặng này, chúng ta hãy để cho ánh sáng của
Chúa chiếu tỏa tâm hồn chúng ta, hầu nhận ra Chúa đang hiển linh trong chính
cuộc sống của mình.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, Chúa đã đến thế gian để con người được
sống và sống dồi dào. Xin cho mọi người luôn biết tôn trọng sự sống là ân huệ
Chúa ban, để không còn cảnh các thai nhi bị từ chối quyền được sinh ra nhưng
các em sẽ được sống xứng đáng với nhân phẩm của mình.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con đang sống giữa một thế giới mà nhiều
người chưa nhận biết Chúa, nhiều người đang đánh mất niềm tin vào Chúa, sống
như thể không có Thiên Chúa. Xin biến đổi cuộc đời chúng con thành ánh sao dẫn
đưa những ai đang lầm đường lạc lối trở về với Chúa để họ được sống và sống dồi
dào trong tình thương của Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Người ta vẫn thường ví von mỗi người là một ánh sao. Mỗi một con
người sẽ tương ứng với một ánh sao trên trời. Bài hát sinh hoạt thiếu nhi cũng
ví von: con người là một ánh sao, có ánh sao xanh, có ánh sao hồng nhưng không
có ngôi sao nào là ngôi sao đen. Bởi vì công dụng của sao là toả sáng, là soi
dẫn, thế nên phải là ánh màu lung linh, không thể là ngôi sao đen giữa đêm tối
nên sẽ chẳng có tác dụng gì với con người.
Hôm nay, ba vua cũng nhờ một ánh sao dẫn lối đưa đường đến triều
bái Đấng cứu tinh nhân loại. Ánh sao đã dẫn họ đến hang Belem, nơi hài nhi, Con
Vua Trời mới hạ sinh. Họ đã tin vào ánh sao để nhận ra thân phận vị cứu tinh
nhân trần từ chính khung cảnh nghèo nàn của kiếp người. Họ đã tin vào ánh sao
để có thể cúi mình thờ lạy một hài nhì yếu ớt con của một gia đình nghèo khó.
Họ đã nhờ ánh sao để tìm thấy chân lý trong nghịch cảnh đời sống.
Vâng, Đấng cứu tinh mà họ mong gặp là một hài nhi được bọc trong
khăn, đặt nằm trong máng cỏ. Đấng ấy đáng lẽ phải được toàn dân Giê-ru-sa-lem
đón chào như vị cứu tinh duy nhất của họ, nhưng lạ lùng thay, họ không chỉ thờ
ơ mà còn muốn loại trừ. Ngay cả những con người được coi là người quyền cao
chức trọng vẫn không thể gặp được Ngài. Các luật sĩ chỉ thao thức về lề luật.
Các thượng tế chỉ nhạy bén về đền thờ. Các kỳ lão chỉ lo về truyền thống.
Hê-rô-đê thì tìm kiếm nhưng không phải để triều bái mà là để tìm cách huỷ diệt.
Chỉ có các mục đồng và các đạo sĩ đã tìm gặp được Đấng Cứu Thế. Họ
là đại diện cho những con người thành tâm thiện chí đi tìm chân lý và khao khát
an bình. Họ đã nhận ra thân phận hài nhi yếu đuối nằm trong máng cỏ lại là Vua
Cả Trời Đất. Đấng phải đến trong thế gian để đem lại công lý và hoà bình cho
trần gian.
Ánh sao từ trời cao hôm nay vẫn chiếu xuống nhân trần. Ánh sao hôm
nay vẫn là ý Chúa mà con người phải thực hiện, vẫn là tiếng nói lương tâm mời
gọi con người sống ngay lành, đừng làm điều dữ, đừng sống quanh co giả dối. Hãy
từ bỏ lối sống đam mê lầm lạc của bóng tối tội lỗi để bước đi trong ánh sáng lề
luật. Nhưng tiếc thay, nhiều người vẫn sống chai lỳ trong bóng tối tội lỗi.
Biết bao bạn trẻ vẫn lao mình trong những đam mê lầm lạc của xì-ke ma tuý và
thác loạn. Biết bao người vì danh lợi thú trần gian mà đánh mất lương tri con
người. Biết bao người vì đam mê bất chính mà sống thiếu trách nhiệm với gia
đình và bản thân. Biết bao người vẫn tìm kiếm thú vui trần thế mà bán rẻ nhân
cách, nhân phẩm của chính mình.
Sứ điệp của ngày lễ hiển linh còn là tiếng mời gọi con người hãy
là ánh sáng của nhau. Ánh sáng của con người ngay thẳng, không gian tham, xảo
quyệt. Ánh sáng của bác ái yêu thương để đối xử khoan dung nhân ái với nhau.
Thế giới hôm nay rất cần ánh sáng của niềm tin để xoá tan nghi kỵ, hiểu lầm.
Ánh sáng của tình yêu để cảm thông nâng đỡ nhau. Ánh sáng của bao dung để xoá
bỏ hận thù, chiến tranh. Ánh sáng ấy cần tỏ hiện trong từng gia đình. Nơi mà các
thành viên cần phải là ánh sáng để dẫn dắt nhau. Nơi gia đình không thể thiếu
ánh sáng niềm tin, tình yêu và tha thứ. Cần có ánh sáng của niềm tin để mọi
người tin tưởng lẫn nhau. Không có niềm tin gia đình sẽ không có thuận hoà, chỉ
có đố kỵ và ghen tương. Gia đình cần có ánh sáng tình yêu và tha thứ để mọi
người biết cảm thông và nâng đỡ nhau, hầu giúp nhau sống đúng phẩm giá làm
người và làm con Thiên Chúa.
Ước gì đời sống của người ky-tô hữu chúng ta luôn toả sáng những
hành vi bác ái, yêu thương, những nghĩa cử nhân ái bao dung để nâng đỡ những ai
đang cô đơn, thất vọng, đang sống trong cảnh lầm than tìm được niềm vui và hạnh
phúc trong cuộc sống. Amen.
Một cậu bé lần nọ quyết định sẽ đi gặp bằng được Thiên Chúa. Cậu
biết rằng chuyến đi sẽ dài và vất vả lắm nên xếp vào túi xách bánh và thức
uống.
Khi đã đi qua ba dãy phố, cậu bé gặp một bà lão. Bà ngồi trong
công viên, đôi mắt dừng lại ở những chú chim bồ câu. Cậu bé đến ngồi cạnh bà và
mở túi xách của mình. Hình như bà lão đang đói, cậu bé nhận ra điều này và mời
bà một chiếc bánh. Bà lão cười với cậu. Nụ cười dịu dàng đến nỗi cậu bé muốn
nhìn thấy nó hiện ra một lần nữa. Cậu lại mời bà thức uống. Nụ cười lại hiện ra
trên khuôn mặt phúc hậu của bà làm cậu cảm nhận được sự ấm áp. Họ ngồi suốt
buổi chiều ăn uống và không nói một lời.
Mãi đến khi trời sụp tối cậu bé mới rời chỗ. Rồi bất ngờ cậu quay
lại, chạy đến chỗ bà lão và ôm lấy bà từ biệt. Món quà mà bà lão đã tặng cho
cậu là nụ cười đẹp và rộng mở nhất của mình.
Khi cậu bé mở cửa vào nhà, người mẹ vô cùng ngạc nhiên vì nét rạng
rỡ còn ngập tràn trong ánh mắt cậu: - Điều gì hôm nay đã làm con hạnh phúc vậy?
Cậu bé đáp:
- Con đã ăn trưa với Chúa. Mẹ biết không, Chúa có nụ cười tuyệt
đẹp trên đời!.
Trong khi đó bà lão cũng bừng tỉnh với niềm vui và trở về nhà. Đứa
con trai nhận ra vẻ thanh thản trên gương mặt mẹ và hỏi:
- Điều gì hôm nay đã làm mẹ hạnh phúc?
Bà lão đáp:
- Mẹ đã ăn bánh cùng với Chúa bên cạnh những chú chim bồ câu. Con
biết không, Chúa trẻ trung hơn chúng ta ngỡ rất nhiều.
Khi làm người, Con Thiên Chúa đã sinh ra trong thân phận người
nghèo. Ngài đã chọn chốn hang bò lừa làm nơi để sinh. Ngài đã chọn gia đình
nghèo làm gia đình của mình. Ngài đã hoà mình như bao người lao động nghèo làng
quê Nagiaret. Ngài đã sống một cuộc đời nghèo khó đến độ không có nơi gối đầu.
Ngài còn tự đồng hoá mình với những mảnh đời bất hạnh lầm than. Ngài còn hứa
ban hạnh phúc Nước Trời cho những ai đón nhận Ngài qua những người đói, rách,
tù đầy...
Cậu bé trong câu chuyện đã tìm gặp Chúa nơi bà lão nghèo ngoài
công viên. Và bà lão cũng tìm gặp được Chúa qua tình yêu của cậu bé dành cho
bà. Có thể nói tình yêu đã nối kết họ nên một trong tình yêu Chúa. Tình yêu đã
giúp họ nhận ra Chúa nơi người mình đang tiếp xúc. Ước mơ của cậu bé là mong
được nhìn thấy Chúa đã thành hiện thực khi cậu trao ban miếng bánh thơm ngon
cho bà lão. Cậu cũng đâu ngờ rằng tình yêu của cậu làm cho bà lão nhận ra Chúa
đang hiện diện nơi tấm lòng nhân ái của cậu.
Năm xưa, ba nhà đạo sĩ đã tìm gặp Chúa không phải nơi cung điện
nguy nga, nhưng lại là nơi đồng hoang mông quạnh. Họ đã gặp vị quân vương vừa
mới hạ sinh nơi máng cỏ hôi tanh của đám bò lừa. Họ đã bái quỳ trước một hài
nhi bé nhỏ con của một gia đình nghèo khó. Họ đã dâng cho hài nhi những lễ vật
quý giá là vàng, nhũ hương và mộc dược, tượng trưng cho quyền bính của vị quân
vương.
Hôm nay, Chúa vẫn đang hiện diện giữa chúng ta qua tha nhân là
hình ảnh của Chúa. Chúa còn hiện diện cách đặc biệt qua những người nghèo khó,
những người già neo đơn, những người đau yếu đang sống trong cô đơn tuyệt vọng.
Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta dâng cho Chúa tình yêu hiến thân phục vụ tha
nhân một cách quảng đại. Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta hãy nhận ra Chúa nơi
anh em đang sống bên cạnh chúng ta. Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy dâng tặng cho
Chúa món quà quý hoá nhất chính là tấm lòng biết yêu thương.
Ước gì mỗi người chúng ta biết dâng tặng cho Chúa món quà của yêu
thương để mang lại niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Amen.
31. Thiên Chúa cho ai nhận biết Người?
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Như đã nói, thật là dại dột nếu muốn xem ký sự của thánh Matthêu
như một phóng sự lịch sự tuyệt đối chính xác. Sự kiện đã xảy ra thật, được
thánh chép sử- hoặc cựu truyền mà ông nhắc lại lồng trong một hình thái ký sự
hoà hợp với văn hoá Cựu Ước và não trạng người đương thời. Những sự kiện rất
thật lẫn lộn với những yếu tố được rút ra từ ký ức tôn giáo của dân tộc và cả
từ Kinh Thánh nữa. Đối với chúng ta, điều chủ yếu là thu lượm ký sự này lời
giáo huấn mà thánh sử muốn truyền đạt. Vả lại ông cũng không chú ý đến sự kiện
lịch sử vì bản chất của nó, chỉ cốt soi sáng để làm nổi rõ tầm mức của sự kiện.
1) Sự kiện ba nhà Đạo sĩ đến thờ lạy ‘Vua của người Do Thái’ làm
cho Hêrôđê động tính hiếu kỳ, rốt cục nổi giận, sự kiện đó cho thấy Đức Giêsu
được thụ phong một vương quyền thời đó, thánh Matthêu đem đối chiếu thái độ các
đạo sĩ nó tương phản với cách xử sự của Hêrôđê. Một bên là những người tìm kiếm
Chúa – bên kia là một ông vua chuyên chế bị tư lợi và kiêu ngạo làm mờ mắt.
Điều này mời chúng ta nhớ lại tính chất của Vương quyền Chúa. Chúa Kitô đã vâng
lời cho đến chết, và vì thế Người được Chúa Cha tôn vinh, và đã vào trong Vinh
Quang Nước Người. Mọi vật điều suy phục Người, cho đến khi Người cùng với mọi
tạo vật suy phục Chúa Cha, để Thiên Chúa nên tất cả trong mọi người. Người cũng
thông ban cho các môn đệ quyền bính đó để họ được hưởng sự tự do vương giả và
chiến thắng ách thống trị của tội lỗi nơi họ, bằng một đời sống từ bỏ và thánh
thiện, hơn nữa, để khi phụng sự Chúa Kitô nơi tha nhân, họ khiêm nhượng và kiên
nhẫn dẫn đưa anh em mình đến cùng Đức Vua, Đấng mà những kẻ phụng sự cũng là
những kẻ thống trị có quyền bính. Triều đại Chúa là một triều đại của Chân Lý
và sự sống của ân sủng và thánh thiện, của công lý tình yêu và hoà bình’ (Ánh
sáng muôn dân, 36). Sự phủ phục của các đạo sĩ dưới chân Hài Nhi Giêsu nhắc
chúng ta nhớ lại điều này: muốn nhận biết Thiên Chúa thì phải ao ước thánh
thiện, công lý, tình yêu và hoà bình. Ngược lại, hướng của Hêrôđê chứng minh
rằng khi lòng bị sa lầy trong tham vọng, khắc nghiệt, bất công, thì trí sinh mù
quáng.
2) Tại sao sau khi cho tin đúng, cấp lãnh đạo dân tộc và những ký
lục không chịu khó đi tìm ‘Vua của người Do Thái’. Chắc là vì họ không cho rằng
công phu tìm kiếm của các đạo sĩ là quan trọng. Có thể đây là hạng người thần
cảm – họ nghĩ vậy – còn mình là cấp hữu trách, mình phải sáng suốt. Bất hạnh
thay, lý trí họ đã biến thành chủ trương hệ thống hoá cứng rắn. Đa số trong bọn
họ thành tâm muốn trung thành với Thiên Chúa, nhưng lại dựng lên giữa Thiên
Chúa và họ một hệ thống chủ thuyết – lý luận, định kiến – hệ thống đó khiến cho
trí tuệ họ không thể hấp thụ được cái chưa từng thấy, cái bất ngờ. Đó là tình
trạng của bất cứ khoa học nào không quan tâm trước hết đến sự cởi mở do cầu
nguyện đem lại. Càng thu thập về kiến thức vế trí tuệ, càng phải phát triển
kiến thức về tâm hồn, là loại kiến thức giữ cho tâm khảm trong tư thế sẵn sàng
nghênh tiếp những sự can thiệp của Thiên Chúa. Cấp lãnh đạo dân Do Thái đã
không nhận ra Đức Giêsu vì họ muốn Đấng Cứu Thế hiển linh ở trình độ họ, trong
uy thế của quyền bính, thông tuệ, hành động. Nhưng Đấng Cứu Thế đó lại xuất
hiện với nét mặt một đứa trẻ, con nhà nghèo. Những kẻ khiêm nhượng và những kẻ
nghèo hèn đã nhận ra Ngài. Chúng ta tự hỏi: chúng ta đi tìm kiếm Đức Giêsu ở
đâu?
(Trích trong “Niềm vui chia sẻ”)
Một linh mục thừa sai Pháp tên là Henri, đi truyền giáo ở Gabon,
Phi Châu. Nhân dịp lễ Giáng sinh, cha Henri về nghỉ ở nhà người chị ruột thuộc
gia đình Delvart. Ngài đem theo một đứa bé da đen mồ côi được ngài nuôi từ nhỏ
và rửa tội với tên thánh là Giacôbê. Trong gia đình chị của ngài cũng có đứa
con trai tên là Giacôbê, đồng trang lứa với cậu bé Giacôbê da đen. Hai đứa trẻ
quen nhau dễ dàng và người lớn chỉ còn phân biệt chúng qua hai màu da: Giacôbê
đen và Giacôbê trắng. Đứng bên hang đá, Giacôbê trắng cố gắng giải thích cho
bạn Giacôbê đen của mình hiểu được vẻ đẹp của mầu nhiệm Giáng sinh, từ Bêlem
cho đến chuồng bò, máng cỏ chiên lừa, đến cả giấc mộng của Thánh Giuse, rồi kết
thúc với hình ảnh Mẹ Maria, Mẹ của hết mọi người.
Giacôbê đen nghe Giacôbê trắng một cách chăm chỉ. Nhưng cậu bé da
màu sầm mặt xuống, thoáng lộ vẻ buồn. Cậu hỏi như than thở với bạn:
- Bạn trắng ơi! Bạn thật may mắn.
- Sao vậy?
- Bạn có Chúa Giêsu da trắng, có một người mẹ ở nhà đây rồi lại có
thêm một người mẹ ở trên Thiên đàng nữa.
- Nhưng ăn thua gì, bạn trắng đáp lại. Chúa Giêsu là Chúa của hết
mọi người và Mẹ Maria cũng là Mẹ của hết mọi người kia mà. Nhất là Mẹ của những
đứa con thơ ấu côi cút như bạn.
Nhưng Giacôbê đen không yên tâm. Cậu bé vừa đưa tay chỉ tượng Đức
Mẹ vừa buồn rầu nói: Đức Mẹ trắng tinh, còn mình thì đen thui!
- Bạn trắng nói: Có hề gì, Đức Mẹ đâu có căn cứ vào màu da.
- Chứ còn gì nữa, bạn đen cãi lại. Người mẹ trắng thì làm sao có
đứa con đen.
Thế rồi sáng ngày 24 tháng 12 người ta thấy Giacôbê trắng một mình
từ dưới kho đi lên, tay cầm một cái lon nhỏ và một cây cọ, tiến về phía nhà
thờ. Cậu bước ngay tới máng cỏ, tại đây với lon sơn đen, cậu biến tượng Chúa
Hài Đồng da trắng thành một Chúa Hài Đồng da đen, y như màu da của bạn Giacôbê
đen vậy.
Giáng Sinh năm ấy, cả họ đạo vừa ngạc nhiên thích thú, vừa vui vẻ
sốt sắng đón mừng Chúa Giáng Sinh có sắc da màu. Còn Giacôbê đen không ngớt nở
nụ cười để lộ hai hàm răng trắng toát. Em sung sướng nghĩ rằng: với Chúa Hài
Đồng da màu, em cũng có được một bà mẹ da màu trên Thiên đàng.
Một câu chuyện giữa hai trẻ nhỏ nhưng lại mang một ý nghĩa cho
người lớn chúng ta trong ngày lễ Hiển Linh hôm nay: Chúa Giêsu giáng trần không riêng cho một ai, một dân tộc nào,
nhưng là cho hết mọi người, mọi dân tộc: da trắng, da đen, da đỏ, da vàng. Ngay trong ba đạo sĩ tìm đến hang đá Bêlem người ta cũng thấy có
một vị da màu. Có thể nói, lễ Hiển Linh là Lễ Thiên Chúa
đến với mọi người. Với biến cố Thiên Chúa Giáng
Sinh làm người trong hang đá Bêlem, Thiên Chúa như phá đổ mọi hàng rào ngăn
cách mà con người đã xây dựng nên: hàng rào kỳ thị, kỳ thị chủng tộc, màu da,
tôn giáo, giai cấp… Bởi đó, mọi người trong chúng ta phải cộng tác với Thiên
Chúa làm bừng sáng lên mầu nhiệm này. Chúng ta phải là ánh sao dẫn đường cho
người ta đến với Chúa.
Thời đại chúng ta, Chúa không dùng lời ca của các thiên thần hoặc
ánh sao của ngôi sao lạ để giới thiệu Chúa Giêsu cho thế giới. Chính mỗi người
chúng ta được mời gọi đóng vai “nhà đạo sĩ” để chiêm ngắm khuôn mặt Chúa Giêsu rồi loan truyền về Ngài cho anh
em khác. Phương thức tốt nhất để làm điều đó là nói và hành động như Đức Giêsu.
Cha mẹ là “nhà đạo sĩ” thích hợp nhất để trình bày
khuôn mặt Chúa Giêsu cho con cái mình. Các thầy, cô giáo là những người cộng
tác với “các nhà đạo sĩ”. Các nhà truyền giáo: giáo dân, tu sĩ, linh
mục, là những “nhà đạo sĩ” đi đây đó để giới thiệu Chúa
Giêsu cho những người khác.
Mới đây, cuộc triển lãm mỹ thuật với chủ đề: “Đức Giêsu Kitô trong hội họa” tại Tòa Giám Mục thành phố Hồ Chí Minh từ đầu Mùa Vọng vừa bế mạc,
quả là một cuộc giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người. Đã có hàng vạn lượt người
đến xem, kể cả người ngoài Công Giáo và các tôn giáo bạn, đặc biệt là các bạn
trẻ. Nhiều bạn đã ghi lại những dòng cảm tưởng chất chứa nhiều cảm xúc, chẳng
hạn: “Tôi là một con chiên lạc của Chúa. Trong chiều nay sau một cơn mưa,
tôi đã được tĩnh lặng để ngắm nhìn những tác phẩm hội họa về Đức Giêsu với
những cảm xúc lắng đọng nhất. Tôi yêu con người Giêsu và Đức Chúa Giêsu” (Tường Tường, 5.12.96, trang 45). Một bạn sinh viên khác đã viết:
“Con không biết gọi Người là gì, không biết Người là ai vì con không phải là
đạo Thiên Chúa. Nhưng hôm nay con tin là có Người, có Người từng hiện hữu trong
thế giới này, và có Người trong tâm hồn con ngày hôm nay và mãi về sau. Con xin
cám ơn tất cả những điều con được biết ngày hôm nay, cám ơn tất cả, con cám ơn
Người cho con lòng tin”. (Hồ Thị Phương Nga, SV năm 3 ĐH. kiến trúc TPHCM.
10.12.96 trang 87) v.v… Cuộc triển lãm đã đem lại nhiều
kết quả thầm kín bất ngờ.
Một khi khám phá ra gương mặt đích thực của Đức Giêsu, chúng ta
hãy đem Chúa ra giới thiệu cho mọi người. Còn có biết bao người đang sống trong
tăm tối thiêng liêng, họ đang lầm lũi bước đi trong lầm lạc. Họ đang khao khát
chân lý. Họ không ngớt đặt vấn nạn với chúng ta: “Đức Vua dân Do Thái sinh
ra ở đâu?” Cũng chính là câu hỏi: “Đức Giêsu là ai?” vậy thì, hỡi các kitô hữu, hãy
trả lời cho họ đi, Đức Giêsu Kitô là ai? Nhưng xin đừng mở sách Kinh Thánh ra
nói như một nhà thông thái. Chắc chắn họ không xin chúng ta một Đức Kitô đóng
khung trong sách vở, nhưng là một Đức Kitô sống động qua con người của chúng
ta. Không có con đường nào khác đưa người ta trở về hoặc khám phá ra Đức Giêsu
Kitô ngoài con đường Tin Mừng đã vạch: con đường yêu thương. Chính tình yêu là
sức mạnh khiêm tốn nhất nhưng lại mãnh liệt nhất để đưa con người đến với nguồn
chân lý, nguồn tình yêu và sự sống.
Như ánh sao dẫn đường ba đạo sĩ lên đường đến với Chúa Giáng Sinh,
chúng ta hãy từ bỏ những lời nói trống rỗng, những công thức, những khuôn mẫu
có sẵn và tìm Chúa trong mọi biến cố cuộc đời, để từ đó chúng ta giới thiệu
Chúa cho anh em đồng bào bằng chính cuộc sống của chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Khi đọc tác phẩm Tây Du Ký của nhà văn Ngô Thừa Ân, nhiều người tỏ
ra cảm phục trước ý chí vượt khó diệu kỳ của thầy trò Đường Tăng. Quả vậy, để
đến được núi Tây Thi thỉnh Kinh Phật, họ đã phải trãi qua một cuộc hành trình
dài với bao nhiêu chông gai thử thách. Đường xa vạn dặm, lại thêm vô vàn cạm
bẫy của đủ thứ yêu ma quỉ quái khiến cho cả 4 thầy trò nhiều phen muốn bỏ cuộc.
Hành trình đó thực sự là một cuộc thử thách của cả lý trí (biểu tượng qua nhân
vật Tôn Ngộ Không) lẫn con tim (biểu tượng qua nhân vật Tam Tạng).
Đọc lại trình thuật Tin mừng Mathêu, chúng ta thấy hành trình của
ba nhà đạo sĩ Phương Đông cũng không kém phần gian truân. Nhưng đó cũng là một
hành trình rất đẹp. Để có thể triều yết Đấng mà họ gọi là Đại Vương, Vua Dân
Dothái, họ đã phải vượt qua một chặng đường dài thăm thẳm. Dĩ nhiên đây là một
cuộc hành trình có thật, chứ không phải do tác giả hư cấu như hành trình của
thầy trò Đường Tăng. Ở đây chúng ta thấy hành trình của các đạo sĩ quả là một
hành trình của lý trí, của con tim và của đức tin.
- Hành trình của các đạo sĩ, hành trình của lý trí khám phá:
Là những nhà Thiên văn, các ông đã biết dùng những kiến thức của
mình để khám phá những dấu chỉ của điềm trời, đặt biệt là ánh sao chiếu mệnh.
Họ đã biết sử dụng chất xám để nghiên cứu các hiện tượng lạ trong thiên nhiên,
trong vũ trụ. Và chỉ có họ mới phát hiện ra ánh sao lạ, bởi lý trí của các ông
đã được dùng đúng chổ, nhằm phục vụ cho chân lý, chứ không phải để phục vụ cho
danh lợi thú đời này như Hêrôđê, như các Luật sĩ và Biệt phái. Đặc biệt là
trong thời đại ngày hôm nay, rất nhiều người sử dụng lý trí của mình không đúng
mục đích. Thậm chí còn sử dụng để phục vụ cho những ý đồ đen tối, thay vì để
phục cho công lý, cho sự thật và đem lại lợi ích cho đồng loại. Các đạo tặc tìm
kiếm những chiêu thức nhằm lường gạt và hãm hại người khác. Các gian thương tìm
cách làm hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng; các tin tặc tạo ra các loại
vi rút máy tính phá hoại các chương trình, các dữ liệu; các nhà khoa học vô
lương tâm sáng chế ra các thứ vũ khí huỷ diệt hàng loạt....
Các nhà đạo sĩ luôn là một điểm son cho chúng ta noi theo trong
việc sử dụng lý trí của mình.
- Hành trình của các đạo sĩ, hành trình của con tim khao khát:
Con tim khao khát tìm kiếm chân lý. Con tim thao thức dấn thân lên
đường tìm gặp sự thật. Điều này không có nơi Hêrôđê và có rất ít nơi dân thành
Giêrusalem và những người Biệt phái.
Vì khao khát tìm kiếm chân lý nên họ sẵn sàng bỏ lại tất cả: gia
đình vợ con, quê hương xứ sở, nhà cửa sự nghiệp,... để lên đường theo ánh sao
lạ. Vì khao khát kiếm tìm sự thật, nên họ bất chấp tất cả: đường xá hiểm nguy,
núi rừng cách trở, thử thách đợi chờ. Thật đáng khâm phục. Họ ra đi mà không
biết sẽ đi đến đâu. Họ ra đi mà không biết ngày nào trở lại, tựa như Abraham
ngày xưa vậy. Chính tình yêu đối với vị "Chánh Vương" là động cơ thôi
thúc họ thượng lộ khẩn trương. Đúng như lời quả quyết của thánh Phaolô sau này:
"Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi".
- Hành trình của các đạo sĩ, hành trình của đức tin soi dẫn:
Khi thấy sao lạ xuất hiện, đức tin đã mách bảo cho các ông biết có
Đại Vương, có Đấng Cứu Tinh xuất hiện. Khi ánh sao biến mất, đức tin đã chỉ lối
cho các ông tìm đến với Giêrusalem - Kinh đô của Kinh Thánh để được tham vấn.
Khi đối diện với một hài nhi nghèo hèn nằm trong máng cỏ, theo lý trí tự nhiên
không ai dám mạnh dạn tuyên xưng đó là Con Thiên Chúa, nhưng đức tin đã soi
sáng cho các ông nhận ra đó chính là Đấng Cứu Thế muôn dân đang trông đợi. Và
cũng chính đức tin đã biến đổi cuộc đời họ. Họ đã trở thành những vị tông đồ
đích thực của Đấng Thiên Sai Giêsu. Theo khẩu truyền, ba nhà đạo sĩ đã đi giảng
đạo tới tận trời Tây, và hiện nay một ngôi mộ được coi là của ba nhà đạo sĩ ấy,
vốn rất được nhiều người kính viếng ở thành Phố Cologne, bên bờ sông Rhin, nước
Đức.
Như vậy, rõ ràng hành trình của các đạo sĩ không chỉ là hành trình
của lý trí khám phá, của con tim khao khát, mà còn là hành trình của đức tin
soi dẫn. Vì nếu không có đức tin soi dẫn thì có lẽ họ đã lạc lối, và bỏ cuộc
khi gặp thử thách. Nếu không có đức tin mách bảo thì có lẽ họ đã không nhận ra
một trẻ thơ nghèo hèn là một bậc Đế Vương, là một vị Cứu Chúa. Và nếu không có
đức tin soi sáng, chắc chắn họ không dại gì phải sụp lạy trước một hài nhi bé
bỏng yếu ớt, càng không dại gì phải uổng phí những lễ vật quí báu của mình, nếu
họ không tin nhận đó là Vị Cứu Tinh của họ. Theo ngôn ngữ Thánh Kinh, từ ngữ
"sụp lạy" ám chỉ một sự qui phục chỉ dành cho Thiên Chúa.
Phần tôi thì sao? Tôi đang sử dụng lý trí của mình, kiến thức của
mình thế nào? Con tim của tôi đã đặt đúng chổ chưa? Tôi thường yêu mến, thường
khao khát những gì? Có phải là "sự công chính, bình an và hoan lạc trong
Thánh Thần"; hay chỉ là tiền tài, danh vọng, sắc dục và những thú vui
hưởng thụ đời này? Trong hành trình dương thế của tôi, đức tin đóng vai trò
nào? Tôi có coi trọng và biết cầu xin ơn đức tin mỗi ngày, nhất là trong những
lúc gặp thử thách, gặp bế tắc trong cuộc sống hay không?
Ước gì gương của ba nhà đạo sĩ luôn được chúng ta soi nhìn. Để
trong cuộc lữ hành trần thế, chúng ta luôn đi đúng đường, đúng hướng và đạt tới
cùng đích mà chúng ta mong ước. Đó là Nước Chúa, nơi Đức Kitô đang đợi chờ
chúng ta. Amen.
34. Tìm Đức Kitô
Ba vua tìm Chúa Giêsu. Có phải họ đã bị đánh động bởi ý tưởng của
người Do Thái về một thời đại vàng son do Đấng Cứu Thế mang lại, và niềm tin ấy
có thể đã lan tràn ra hàng trăm cây số về phía đông xứ Palestine chăng? Có
người đã nêu ra giả thuyết rằng có những cuốn lịch trong các miền nói trên ghi
rằng trong thời gian ấy Vị Chúa Tể của thời đại cuối cùng sẽ sinh ra ở
Palestine. Dù sao, chúng ta thấy một số người lên đường đi tìm Chúa Giêsu. Về
đề tài này, ta có thể nêu lên vài suy nghĩ sau đây:
1) Tìm Chúa Kitô đòi hỏi trước hết phải có một thái độ tinh thần
căn bản
Người ta sống trong tình trạng báo động để nhận ra dấu hiệu có thể
đưa tới Chúa. Cứ chấp nhận rằng ba nhà đạo sĩ sống trong một bầu không khí mong
chờ một ông vua Cứu Thế, dường như một lúc nào đó họ đã nhận thấy một ngôi sao,
một dấu hiệu, tâm hồn họ tỉnh thức. Chúng ta có thuộc về hạng người biết nhận
ra, giữa trăm ngàn yếu tố tạo nên đời sống mình, cái dấu hiệu dẫn đưa ta đến
Đức Kitô không? Dấu hiệu ấy có thể là một khó khăn, mà đột nhiên ta cảm thấy
cần phải phó thác cho Chúa, vì chỉ mình Người có sức soi sáng và giải quyết. Có
thể là một niềm vui lớn lao, từ đó ta thấy hiển nhiên là cần phải cảm tạ Chúa.
Dấu hiệu ấy cũng có thể là một chi tiết đời sống ta, trong đó, nếu biết nhìn,
ta sẽ nhận ra sự hiện diện kín đáo của Chúa. Trong các trường hợp như thế, ta
cần phải để ý tới những dấu hiệu dẫn ta tới Đức Kitô.
2) Ba đạo sĩ đã lên đường
Muốn tìm Đức Kitô, ta buộc phải ra khỏi tình trạng ‘yên chuyện’ và
‘an tọa’ của mình. Có người ‘an tọa’ trong những hệ thống tư tưởng; kẻ khác,
trong một địa vị ‘ngon lành’; một số thì ngồi yên trong một tiện nghi lương
thiện v.v… Bằng cách này hay cách khác, dấu hiệu của Đức Kitô mời gọi ta đừng
tự đóng kín trong tình cảnh ‘yên thân’, nhưng phải bước ra khỏi đó để khám phá
ra một cái gì lạ lùng, chưa hề thấy, một cái gì mà ta cảm thấy là đáp lại được
sự mong chờ của ta, với điều kiện là ta chờ đợi Đức Kitô.
3) Ba đạo sĩ tìm kiếm một cách tích cực
Bao lâu ánh sao còn le lói trước mặt, họ để cho ánh sao dẫn đường.
Nhưng kìa, ngôi sao biến mất, họ buộc phải tự tìm đường. Vẫn hy vọng. Không hồ
nghi về tính xác thực của ông Vua đã được ngôi sao kia báo hiệu. Thiếu vật chỉ
đạo lạ lùng, tức ngôi sao, họ dùng tới những phương tiện thông thường là hỏi
han. Họ đi đến những nhà hữu trách tôn giáo. Những người này không muốn bị
phiền hà về vụ ông Vua mới sinh ra, nhưng họ cho ba người khách những lời chỉ
dẫn đúng. Thế là các đạo sĩ được ‘thưởng công’: họ tìm thấy Chúa Giêsu. Trong
đời ta có thể đã có những dấu này, dấu nọ báo tin Chúa Giêsu, rồi tan biến đi.
Bổn phận ta bây giờ là tiếp tục nỗ lực tìm kiếm với những phương tiện thông
thường sẵn có. Lúc ấy Đức Kitô sẽ không lẩn tránh đâu.
Lễ Hiển Linh, đó là ngày Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, mà
đại diện là ba nhà đạo sĩ phương đông, để thực hiện lời tiên tri Isaia đã loan
báo:
- Dân ngồi trong tăm tối sẽ được nhìn thấy ánh sáng chói lòa.
Đồng thời đây cũng là ngày trọng đại cho mỗi người chúng ta, vì ơn
cứu độ đã được thực hiện cho muôn dân.
Chúng ta hãy nhìn vào cung cách của ba nhà đạo sĩ để rồi từ đó
cùng nhau tự vấn lương tâm và kiểm thảo đời sống của mình.
Điểm thứ nhất, đó là ba nhà đạo sĩ đã nhìn
thấy ánh sao lạ và trong thinh lặng các ngài đã suy nghĩ để tìm ra sứ điệp mà
Chúa muốn gửi đến. Trong khi đó những người khác cũng đã nhìn mà chẳng thấy và
chẳng hiểu.
Có lẽ chúng ta cũng vậy, chúng ta đã đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ
trước lời mời gọi của Chúa. Chúng ta để cho tâm trí bận rộn và quay cuồng trước
đam mê dục vọng, tiền bạc và lạc thú. Rồi từ đó, ánh sao cuộc đời và tiếng nói
của Chúa cứ mờ dần, cứ tắt dần trong cõi lòng chúng ta.
Điểm thứ hai, đó là sau khi nhận ra sứ điệp
của Chúa, các ngài đã lên đường mặc cho những khó khăn chờ đón. Các ngài có thể
đưa ra 1001 lý do để ở lại nhà, từ chối dấn thân vào một cuộc phiêu lưu mạo
hiểm bấp bênh. Tuy nhiên, các ngài đã dứt khoát lên đường, không chần chừ do
dự, và đã trung thành với quyết định của mình cho đến cùng. Mặc cho người đời
cười chê, các ngài vẫn chỉ nuôi một ước vọng: Tìm gặp và thờ lạy vua dân Do
Thái.
Thái độ của các ngài hoàn toàn khác xa với thái độ của dân Do
Thái, đã được thánh Augustinô diễn tả như sau:
“Các ngài đến chiêm ngắm Đấng Cứu thế trên quê hương của dân Do
Thái, nhưng còn họ, họ lại không biết đến. Các ngài đã tìm thấy Chúa Giêsu dưới
hình dáng một hài nhi nằm yên trong máng cỏ. Còn họ, họ đã chối bỏ Chúa Giêsu
ngay cả khi Ngài rao giảng công khai, ngay cả khi Ngài làm các phép lạ. Các
ngài từ xa mà đến, và đã gặp được Chúa. Còn họ, họ ở rất gần mà cũng chẳng
thấy”.
Có lẽ chúng ta cũng không hơn gì những người Do Thái. Chúng ta ở
cách nhà thờ đôi ba trăm thước mà chúng ta cũng rất ít khi đến tìm gặp Ngài.
Chúa còn hiện diện nơi những kẻ cùng khốn bên cạnh chúng ta, thế nhưng chúng ta
cũng rất ít khi nhận ra và giúp đỡ.
Điểm thứ ba, đó là sau khi đã khám phá ra
và thờ lạy Hài nhi Giêsu, các ngài đã dâng cho Chúa lễ vật, đó là vàng, nhũ
hương và mộc dược, tượng trưng cho tấm lòng quảng đại của mình.
Còn chúng ta, chúng ta sẽ dâng gì cho Chúa trong Mùa Giáng sinh
này, cũng như ở chặng cuối cùng của cuộc đời chúng ta? Hay là chúng ta đến gặp
Chúa với đôi bàn tay trống trơn, không một chút công nghiệp, và với một tâm hồn
nhàu nát vì tội lỗi.
Sau cùng, các ngài định trở lại Giêrusalem để tường trình cho
Hêrôđê, nhưng được thiên thần báo mộng, các ngài đã tuân theo, đi một con đường
khác mà trở về quê hương xứ sở của mình.
Qua đó chúng ta thấy, mặc dù là những người có thế giá, các ngài
vẫn luôn luôn tuân phục lệnh truyền của Chúa một cách tuyệt đối, không bàn cãi.
Còn chúng ta thì sao? Phải chăng cuộc đời của chúng ta là một thảm
trạng, trong đó, chúng ta luôn luôn chống lại lệnh truyền của Chúa, bằng những
vấp ngã, bằng những phản bội.
Hãy noi gương ba nhà đạo sĩ phương đông, hãy lên đường tìm kiếm và
thờ lạy Chúa. Hãy bảo toàn đức tin của mình, dù có phải hy sinh, dù có bị thiệt
thòi.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Thiên Chúa không chỉ tỏ mình cho dân Israel. Ngài còn tỏ mình cho
các dân tộc khác, vì Ngài muốn cứu độ mọi người chẳng trừ ai.
Các nhà chiêm tinh vùng Babylon là đại diện cho dân ngoại.
Đối với họ, bầu trời là một cuốn sách, các vì sao nói về những
biến cố trên địa cầu. Có thể Thiên Chúa đã muốn dùng sự xuất hiện của một vì
sao để báo hiệu Con Ngài chào đời.
Thiên Chúa chấp nhận dùng thứ ngôn ngữ đầy khiếm khuyết đó để mời
họ lên đường đi gặp Đấng Cứu Độ.
Hôm nay, Ngài vẫn ngỏ lời với những ai chưa biết Ngài bằng muôn
vàn cách thức khác nhau, khiến họ hiểu được.
Thiên Chúa vẫn làm sáng lên muôn ánh sao, không ở trên trời cao,
nhưng ở trong lòng người.
Ánh sao có thể là một lý tưởng, một khát vọng mãnh liệt: khát vọng
sự thật, tự do, ấm no, hạnh phúc?
Ánh sao đưa con người lên đường tìm kiếm, và Ngài không ngừng ban
niềm vui trong suốt cuộc hành trình.
Các nhà chiêm tinh đã phải ra khỏi nhà, ra khỏi mình, ra khỏi những
định kiến, để đón tiếp cái bất ngờ.
Họ chỉ mong được bái lạy vị Vua mới sinh. Nhưng vị Vua này chẳng ở
Giêrusalem cao sang, mà lại ở vùng Bêlem bé nhỏ.
Vị lãnh tụ dân Israel chỉ là một hài nhi bình thường, sống trong
một căn nhà bình thường.
Hêrôđê bối rối lo sợ khi nghe tin sinh hạ Vua Do thái.
Các thượng tế và kinh sư tuy biết rõ nơi Ngài sinh, nhưng họ không
muốn lên đường tìm kiếm.
Các nhà chiêm tinh chỉ có một cái biết mơ hồ, nhưng họ đã can đảm
ra đi, tích cực tìm kiếm, tin tưởng sấp mình bái lạy và cung kính dâng lễ vật.
Vẫn có đám đông những người không phải là Kitô hữu đang miệt mài
nghiên cứu trong mọi lãnh vực, khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật, tư tưởng...,
đang gắng công tu tập trong các tôn giáo, hay đang tận tụy làm cho trái đất
được tốt đẹp hơn. Có ánh sáng nào soi chiếu nẻo đường họ đi. Họ đã chấp nhận
bao hy sinh từ bỏ, để nhẹ nhàng, thanh tịnh mà tiến bước.
Các nhà chiêm tinh ngày xưa đã gặp được Đấng họ tìm.
Hôm nay, còn bao người vẫn trên đường dong ruổi. Thiên Chúa đồng
hành với họ mà họ chẳng hay. Họ đã ở gần Chúa ngay khi chưa gặp Ngài.
Lễ Chúa Hiển Linh mời ta nhận ra và trân trọng hoạt động của Thiên
Chúa nơi anh chị em ngoài Kitô giáo.
Có khi chúng ta giống các thượng tế và kinh sư tự mãn với cái biết
lý thuyết của mình về Thiên Chúa, nên chẳng muốn lên đường gặp mặt Ngài.
Ước gì chúng ta không coi mình như người đã tìm thấy, nhưng khiêm
tốn học hỏi nơi những người đang tìm kiếm.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn có nhìn thấy Thiên Chúa đang hoạt động nơi những anh chị em
ngoài Kitô giáo không? Bạn có quen ai làm bạn cảm phục không?
Thiên Chúa đến với bạn qua những đại lộ (là Thánh Lễ, các Bí
Tích...) Nhưng Ngài cũng đến với bạn qua các ngõ hẻm (một biến cố, một bài báo,
một câu nói bâng quơ...). Đâu là những ngõ hẻm Chúa thường đến với bạn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ, nhờ đó con dễ
nghe được tiếng Chúa nói, dễ thấy Chúa hiện diện và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa, xin cho con đừng trở
nên cứng cỏi, khép kín và nghi ngờ. Xin dạy con sự hiền hậu để con biết cảm
thông và bao dung với tha nhân. Xin dạy con sự khiêm nhu để con dám buông đời
con cho Chúa. Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm, vui tươi đi trên con
đường hẹp với Ngài, hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
37. Ngôi sao dừng lại
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Người Do Thái đợi chờ Đấng Mêsia từ bao thế kỷ. Đấng Mêsia được ví
như một vì sao từ nhà Giacóp (x.Ds 24,17).
Nói một cách thi vị, chờ đợi Đấng Mêsia là chờ đợi một vì sao xuất
hiện.
Hình ảnh vì sao gợi lên trong lòng người Do Thái niềm nôn nao đợi
chờ Đấng Cứu Độ cho dân tộc mình và cho cả thế giới (x. Ds 24,7).
Nhưng không phải chỉ người Do Thái mới biết đợi chờ. Theo các sử
gia đáng tin cậy ở thế kỷ đầu, cả dân ngoại cũng tin rằng Đấng cai trị thế giới
sẽ được sinh ra từ xứ Giuđê.
Phải chăng đó là lý do khiến các nhà chiêm tinh từ vùng Ba tư, Ả
rập xa xôi đã lặn lội đến Giêrusalem để bái yết tân vương, khi họ thấy trên bầu
trời xuất hiện vì sao lạ?
Tuy nhiên, trong thực tế có nhiều phản ứng khác nhau trước sự hạ
sinh của Vua dân Do Thái.
Hêrôđê thì sợ hãi vì thấy ngai vàng bị lung lay. Ông dò hỏi về nơi
sinh và ngày sinh của vị Vua mới để âm mưu loại trừ một đối thủ.
Các thượng tế và kinh sư ở Giêrusalem lại có thái độ dửng dưng thụ
động. Họ rành rẽ Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh của Vua Mêsia, nhưng họ chẳng
buồn cất bước tới Bêlem.
Còn các nhà chiêm tinh là đại diện cho dân ngoại, đã hăm hở lên
đường, lao vào cuộc phiêu lưu tìm kiếm. Họ làm tất cả miễn sao gặp được Đấng
quân vương. Dù Đấng ấy chẳng uy nghi ngự trong lầu vàng điện ngọc, nhưng họ vẫn
vui mừng đón nhận với cả lòng thành.
Lễ Hiển Linh nhắc chúng ta về việc truyền giáo.
Các nhà chiêm tinh đã đến gặp Chúa nhờ ánh sao. Con người hôm nay
nhờ ánh sáng nào mà gặp được Chúa?
Mỗi môi trường cần một thứ ánh sáng riêng. Mỗi con người nhạy cảm
với một loại ánh sáng. Chúng ta phải tìm hiểu xem đâu là thứ ánh sáng thu hút
được lòng con người.
Ánh sáng của sự chân thành, của phục vụ yêu thương;
Ánh sáng của niềm vui an bình, của can trường bất khuất.
Một nụ cười, một ánh mắt, một lời khích lệ cũng bừng sáng rực rỡ
chẳng kém một vì sao.
"Giữa một thế hệ sa đọa, anh em hãy tỏa sáng như những vì sao
trên vòm trời" (Pl 2,15).
Chúng ta chỉ là những vì sao sáng khi chúng ta để mọc lên trong
lòng chúng ta (x. 2Pr 1,19) ngôi sao mai là chính Đức Kitô (x.Kh 2,28).
Ước gì mỗi Kitô hữu trở thành một ánh sao: ánh sao nói được điều
gì đó với người đang chờ đợi, ánh sao đồng hành với nhân loại trên mọi nẻo
đường, ánh sao ngừng lại trước nhà của Con Thiên Chúa để Con Thiên Chúa và thế
giới hôm nay gặp nhau.
Gợi Ý Chia Sẻ
Những người dân ngoại ở xa có thể gặp Chúa, còn những kinh sư
thông thạo Kinh Thánh ở sát Bêlem lại không gặp được Ngài. Theo bạn, để gặp
được Chúa, cần có thái độ nào, điều kiện nào?
Ở môi trường bạn đang sống và làm việc, người ta cần thứ ánh sáng
nào? Bạn có thứ ánh sáng đó không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Tạ ơn Chúa đã cho chúng con ánh sáng mặt trời, mặt trăng, và ánh
sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất.
Tạ ơn Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng.
Đó là vinh dự và cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Xin cho chúng con có khả năng đẩy lui bóng tối của hận thù và bất
công, của buồn phiền và thất vọng. Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa mà
Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con, và biết vâng theo những soi sáng của
Chúa qua từng phút giây của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu,
cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn còn tiếp diễn trên thế
giới và trong lòng chúng con.
Ước gì chúng con đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm
thắp lên những ngọn lửa, để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Những khi ngắm cảnh chiều hoàng hôn nhẹ buông hay bình minh lên
rực rỡ,ta cảm nhận vẻ đẹp huyền diệu của trời đất.Biết thưởng thức vẻ đẹp thiên
nhiên, ta sẽ thấy sự huyền diệu của Đấng Tạo Hoá.
Những đêm đẹp trời, nhìn lên bầu trời đầy sao, ta thấy Sao Bắc
Đẩu. Sao Bắc Đẩu nằm trong chòm sao Gấu Lớn (còn gọi là Đại hùng tinh) và nằm ở
phương Bắc. Người đi biển không có la bàn hay người đi rừng thường nhìn sao Bắc
đẩu để nhắm hướng Bắc, nhờ đó họ có thể đi biển an toàn, không sợ lạc trên biển
cả mênh mông, trong rừng già hoang vắng. Sao Bắc Đẩu là sao định hướng.
Cách đây hơn 2000 năm, trên bầu trời đầy sao bổng xuất hiện một
ngôi sao lạ ở phương Đông.Các nhà chiêm tinh nhận ra ngôi sao lạ vì họ chuyên
nghiên cứu các vì sao.Ngày xưa người ta tin rằng những vĩ nhân chào đời thường
được báo hiệu bằng những ngôi sao. Bởi đó khi thấy xuất hiện một ngôi sao lạ,
họ đã nghiên cứu đối chiếu với lời tiên báo trong trong sách Dân số ” Một vì
sao xuất hiện từ Giacop,một vương trượng chỗi dậy từ Israel”( 24,17), họ tin
rằng có một vị vua mới sinh ra ở đất Do thái.Họ lập tức khởi hành, lên đường
tìm kiếm.
Khi đến thủ đô Giêrusalem, các nhà chiêm tinh dò hỏi tông tích của
vị tân vuơng.Nghe tin ấy vua Hêrôđê bối rối liền triệu tập các thượng tế và
kinh sư lại.Khi biết rằng Đấng Kitô hạ sinh ở Bê lem theo lời tiên báo các ngôn
sứ, Hêrôđê bày trò gian xảo nhằm tiêu diệt ấu vương.Con cáo già giở giọng ngọt
ngào: xin quý Ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi và khi đã tìm thấy, xin báo
lại cho tôi, để tôi cùng đến bái lạy Người. Không gạt được các nhà chiêm tinh,
vị bạo chúa ra lệnh giết hết con trẻ ở Bêlem và các vùng lân cận từ hai tuổi
trở xuống tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẻ các nhà chiêm tinh.
Ngôi sao lạ lại xuất hiện dẫn đường, các nhà chiêm tinh mừng rỡ
tìm đến Bêlem. Họ đã gặp Hài Nhi liền sấp mình bái lạy, với lòng thành họ dâng
tiến lễ vật vàng, nhũ hương và mộc dược.
Câu chuyện tuyệt đẹp, ba nhà chiêm tinh đi tìm Đấng Cứu Thế theo
ánh sao lạ. Nếu Thiên Chúa đã dùng cột mây lửa để dẫn dân Do thái đi trong
hoang địa về Đất hứa thì Người cũng có thể dùng ngôi sao lạ để dẫn đường cho
các Đạo sĩ đến Bêlem để gặp Đấng Cứu tinh.Nhưng sự thật vô cùng trớ trêu là khi
vị cứu tinh xuất hiện sau bao thế kỷ chờ đợi thì Dân Do thái lại thờ ơ lãnh
đạm. Các thượng tế, kinh sư có thái độ dửng dưng thụ động. Họ rành rẽ Kinh
Thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế nhưng họ chẳng cất bước đến Bêlem.
Còn Hêrôđê thì hốt hoảng bối rối, sợ ngai vàng bị lung lay nên tìm cách loại
trừ với mưu mô cạm bẫy.
Tấn bi kịch cuộc đời Hài Nhi bắt đầu, bị người đồng hương từ
khước, bị tẩy chay, bị giết chết. Chỉ có các đạo sĩ hăng hái lên đường lao vào
cuộc phiêu lưu tìm kiếm. Họ đã làm tất cả miễn sao gặp được Đấng Cứu Tinh. Cho
dù Đấng ấy chẳng uy nghi ngự trong lâu đài điện ngọc nhưng họ vẫn vui mừng đón
nhận, xin được bái kiến và dâng lễ vật quý giá với cả tấm lòng thành.
Phụng vụ Giáo Hội đọc câu chuyện này trong ngày Lễ Hiển Linh,Thiên
Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại. Các đạo sĩ là dân ngoại, họ đại diện cho mọi dân
tộc, họ khao khát tìm kiếm ơn cứu độ. Sau này Chúa Giêsu đã xác định: từ phương
đông phương tây nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng tổ phụ Abraham, Isaac, Giacop
trong nước trời.
Các thượng tế và các kinh sư thông hiểu Thánh kinh, họ giảng giải
thật hay cho Hêrôđê, nhưng chỉ là lý thuyết. Họ tìm Đấng Cứu Thế trong Thánh
kinh nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những
quan điểm cố định của họ. Những người chuyên nghiên cứu sách vở đầy sự uyên bác
thông thái, thế nhưng chỉ ngồi bàn giấy, không lên đường, không thao thức tìm
kiếm thì chẳng bao giờ gặp được Thiên Chúa.Trái lại những tâm hồn đơn sơ, khó
nghèo như các mục đồng, hay cởi mở và khao khát chân lý như các đạo sĩ lại được
diễm phúc gặp gỡ Người vì họ đã dám mạo hiểm lên đường tìm kiếm, bước đi theo
các dấu chỉ.
Thiên Chúa vẫn luôn tỏ mình ra cho nhân loại qua những dấu chỉ tự
nhiên của trời đất, qua từng biến cố lịch sử, qua Lời Người trong Thánh kinh,
qua sự hiện diện của Dân Chúa là Giáo hội, qua các bí tích. Muốn gặp được Người
nhất thiết phải nổ lực tìm kiếm. Cho dầu có những thử thách, cam go, những hiểm
nguy cạm bẫy vẫn luôn kiên trì trong đức tin, bền đổ trong lòng mến.
Niềm tin các đạo sĩ chính là hành trình đức tin của người Kitô
hữu.Có những gian truân vất vả vẫn vững tin rằng tất cả sẽ kết thúc trong ánh
sáng huy hoàng.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Chu kỳ Giáng Sinh gồm Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh. Phụng Vụ cử hành
việc Thiên Chúa tỏ mình cho nhân loại. Hai biến cố quan trọng cũng là hai lễ
lớn của chu kỳ là Lễ Giáng Sinh và Lễ Hiển Linh. Lễ Giáng Sinh, Thiên Chúa tỏ
mình cho dân Do-thái. Lễ Hiển Linh, Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại.
Gaspar, Melchior và Balthasar là ba nhà Đạo Sĩ nổi tiếng ở Đông
Phương được mệnh danh là con của các vì sao sáng, huyền phái của khoa học vũ
trụ. Họ đã theo ngôi sao lạ đến Bêlem, xứ Giuđê để thờ lạy Đấng Cứu Thế. Họ đã
dâng cho Hài Nhi vàng, nhũ hương và mộc dược.
Chúng ta cùng dừng lại nơi Hang đá Bêlem có Hài Nhi Giêsu để suy
niệm về sự lạ lùng của cuộc gặp gỡ kỳ diệu giữa các Mục Đồng, các Đạo Sĩ với
Đấng Cứu Thế. Chỉ có các Mục Đồng, các Đạo Sĩ tìm gặp được Chúa. Có các Thiên
thần, có một ngôi sao rực rỡ trong ánh sáng thần linh chiếu sáng cho họ. Đức
Cha Fulton Sheen, nhà giảng thuyết lừng danh đã gọi họ những người đơn sơ và
những người thông thái.
Khi các Mục Đồng canh giữ đàn chiên ở ngọn đồi Bêlem, họ bỡ ngỡ vì
vẻ đẹp của Thiên Thần: Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng
trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng cứu độ đã sinh ra
cho anh em trong thành của vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa ( Lc 2, 10 –
12 ). Còn các Đạo Sĩ ở bên kia xứ Mađian và Batư nghiên cứu bầu trời đã thấy
một ngôi sao chiếu sáng như chiếc đèn của nhà tạm vũ trụ, điện thờ của Thiên
Chúa. Họ theo ánh sao tìm đến Hang đá tìm gặp Hài Nhi.
Như những cánh bướm bị thu hút bởi ngọn lửa, các Mục Đồng và các
Đạo Sĩ tiến đến ngai vàng chỉ là một Hang đá, đến với Thiên Chúa chỉ là một Hài
Nhi. Thiên Chúa Hài Nhi ngước nhìn từ Máng cỏ chỉ thấy hai hạng người tìm gặp
Ngài và chỉ duy họ tìm gặp Ngài cho đến tận cùng thời gian. Đó là các Mục Đồng
và các Đạo Sĩ, những người đơn sơ và những người thông thái.
Các Mục Đồng là những người đơn sơ. Họ chẳng biết gì tới chính
trị, văn chương, nghệ thuật. Họ chỉ biết hai điều quan trong là Thiên Chúa ở
trên họ và họ ở giữa đoàn chiên. Đêm hôm đó bầu trời rộng mở để loan báo Tin
mừng. Thiên Thần cho biết Đấng họ nóng lòng chờ đợi vừa sinh ra trong Hang đá
Bêlem nhỏ bé. Họ đã tìm và gặp Đấng Chăn Chiên của họ
Các Đạo Sĩ tìm gặp Đấng Cứu Thế là những người thông thái. Họ
không là những vua chúa. Họ không phải là những người nghiên cứu nông cạn mà là
những bậc thầy hoàng vương, những nhà tinh thông về vũ trụ và họ đã khám phá ra
một ngôi sao lạ. Đối với khoa học và tôn giáo họ được liệt vào hàng đầu trong
nước của họ. Các vua chúa bàn hỏi với họ trước khi xuất chinh. Các nông dân hỏi
ý kiến họ trước khi trồng tỉa. Hàng ngàn người đã thấy ngôi sao, nhưng sự uyên
bác của ba Đạo Sĩ làm cho họ lên đường khám phá.
Chính nhà bác học Newton đã thốt lên khi quan sát vũ trụ: Tôi thấy
Thiên Chúa đi qua kính viễn vọng của tôi. Đối với kẻ kiêu ngạo, tự phụ, ngôi
sao chỉ là ngôi sao, nhưng đối với người thông thái đó là một dấu chỉ thời đại,
một tác phẩm của Thiên Chúa. Thế nên các Đạo Sĩ đã đi theo ánh sáng ngôi sao
với bao gian lao, đầy mạo hiểm. Đến nơi, mặc phẩm phục và quỳ trên nệm rơm, các
Đạo Sĩ chiêm ngắm một trẻ sơ sinh chưa thể hỏi han hay đối đáp được điều gì. Họ
tiến dâng Ngài tặng phẩm và tâm hồn để chứng tỏ sự thần phục của thế gian. Tặng
phẩm là vàng, nhũ hương, mộc dược. Vàng, vì Hài Nhi sẽ là vua. Nhũ hương, vì
Ngài sẽ là Tư Tế. Mộc dược, vì Ngài sẽ chết như mọi người. Các Đạo Sĩ đã tìm
gặp được Đấng Khôn Ngoan.
Chỉ có các Mục Đồng và các Đạo Sĩ đã tìm gặp được Đấng Cứu Thế.
Trong khi đó các người nổi nang trong đạo Do thái không gặp được Ngài. Bởi lẽ:
Các Luật sĩ chỉ thao thức về lề luật. Các Thượng tế chỉ nhạy bén về đền thờ.
Các Kỳ lão chỉ lo lắng về truyền thống. Hêrôđê cũng là con người tìm tòi, ông
đã cặn kẽ điều tra nơi Hài Nhi ở, không phải để đến thờ lạy mà tìm cách hủy
diệt. Loại người nào cũng tự mãn trong những cơ chế phức tạp cứng nhắc ( Đức
Cha Bùi Tuần ).
Thời nay cũng thế, đầy dẫy những triết gia, những nhà khoa học,
những người vô thần theo thuyết bất khả tri... nhưng không ai trong họ đã nhìn
thấy một thiên thần hay ánh sáng một ngôi sao. Dòng dõi của những Hêrôđê kiêu
ngạo cho tới thời nay đã không tìm thấy Thiên Chúa vì họ muốn dùng lý trí để
nắm bắt siêu việt. Họ quá phức tạp nên không hiểu lời xác quyết đơn sơ của các
Mục Đồng, quá đầy kiến thức khoa học để lãnh hội chân lý do các Đạo Sĩ đem đến.
Dòng dõi này che đậy tính kiêu ngạo và đi tới chỗ coi Giáo Hội là một thể chế
đã lỗi thời cần loại bỏ.
Điều kiện tiên quyết để gặp được Thiên Chúa, đó là lòng khiêm
nhường, chung cho cả người đơn sơ lẫn người thông thái. Những tâm hồn đơn sơ
như các Mục Đồng mới gặp được Thiên Chúa bởi họ ý thức mình không biết gì cả.
Những người thông thái đích thực như các Đạo Sĩ gặp được Thiên Chúa bởi vì họ ý
thức mình không biết gì cả.
Chúa Giêsu không sinh ra ở giữa trời, nơi người ta có thể đứng
thẳng. Ngài đã Giáng sinh trong Hang đá, nơi người ta phải cúi mình để đi vào.
Đó là một cử chỉ khiêm nhường. Các Mục Đồng và các Đạo Sĩ đủ đơn sơ để nghiêng
mình xuống. Khi làm như vậy, họ thấy mình ở trong Hang đá. Tại đó, một người nữ
diễm lệ, đầu đội mặt trời, chân đạp mặt trăng và đôi tay ẵm lấy Hài Nhi, Đấng
dùng những ngón tay bé nhỏ của mình nâng đỡ trái đất. Khi các Mục Đồng và các
Đạo Sĩ quỳ gối, có lẽ các Đạo Sĩ ghen với các Mục Đồng vì con đường của các Mục
Đồng ngắn hơn, họ tìm thấy sự khôn ngoan là chính Thiên Chúa mau hơn.
Bước vào năm mới, Thiên Chúa vẫn không ngừng mời gọi cả nhân loại
đến với Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Ngài vẫn không ngừng cho những ánh
sao dẫn đường. Không phải là ánh sao trên trời cao mà là ánh sáng Ngài gieo vào
lòng người. Mỗi người cần phải trung thành với ánh sáng đó, dấn bước trên hành
trình đức tin đầy mạo hiểm của mình.
Các Thượng Tế, các Kinh Sư thông hiểu Thánh Kinh, họ cắt nghĩa cho
Hêrôđê rất hay nhưng họ vẫn ngồi yên tại chỗ. Họ tìm Đấng Thiên Sai trong Thánh
Kinh, nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những
quan điểm cố định của họ. Những tâm hồn đơn sơ như các Mục Đồng, những tâm hồn
cởi mở khao khát chân lý như các Đạo Sĩ lại được hạnh phúc nhận biết Người.
Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình cho thế giới qua các dấu chỉ tự
nhiên của trời đất, của lịch sử, qua Thánh Kinh, qua Giáo Hội, qua các Bí Tích,
qua cuộc sống hàng ngày. Để gặp Ngài, chúng ta cần có lòng khiêm nhường. Nhờ sự
gặp gỡ này, mỗi người sẽ trở nên ánh sao dẫn lối cho nhiều người nhận biết và
yêu mến Chúa.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Đoạn Tin Mừng trên nói về các nhà chiêm tinh dân ngoại theo ánh
sao mà tìm đến bái yết Hài Nhi
Một loạt câu hỏi thường được đặt ra hôm nay. Làm sao một ngôi sao
có thể dẫn đường cho họ đi? Nếu đó là một ngôi sao sáng lạ lùng thì tại sao
thành Giêrusalem lại không nhận biết? Bởi đâu ngôi sao lại không đi thẳng tới
Bêlem? Có tin được chuyện ngôi sao ngừng lại trước cửa nhà không? Các câu hỏi
trên đều xoay quanh ngôi sao lạ. Một ngôi sao như thế có thật không hay đây chỉ
là một truyền thuyết?
Thánh Mátthêu đã viết đoạn Tin Mừng này theo một thể văn đặc biệt
của người Do Thái. Chúng ta không nên hiểu mọi chi tiết theo nghĩa đen. Điều
quan trọng không phải là có một ngôi sao lạ, một ngôi sao thông minh biết dẫn
lối chỉ đường. Điều quan trọng là điều Mátthêu muốn nói với ta: Đức Giêsu không
phải chỉ là Mêsia cho dân Do Thái, Ngài còn là Đấng Cứu Độ cho cả nhân loại.
Các nhà chiêm tinh là dân ngoại. Họ đại diện cho mọi dân tộc, cho
chính chúng ta. Họ khao khát tìm ơn cứu độ. Qua những dấu chỉ kỳ diệu hay đơn
sơ trong vũ trụ, họ nghe thấy lời mời gọi lên đường. Chấp nhận lên đường là
chấp nhận bỏ lại tất cả và bước đi trong đêm tối. Các nhà chiêm tinh không dựa
vào điều gì khác ngoài ánh sao khi tỏ khi mờ. Cần có đức tin cứng cáp mới dám
dựa vào một dấu chỉ mong manh như thế. Cũng cần có đức tin mạnh mẽ mới dám tin
rằng vị vua mới sinh đang khiêm tốn sống trong một ngôi nhà ở Bêlem, chứ không
uy nghi ngự giữa hoàng cung lộng lẫy. Cần có một đức tin khiêm tốn biết chừng
nào mới có thái độ sấp mình bái lạy trước Hài Nhi, và tiến dâng lễ vật quý giá.
Thiên Chúa vẫn không ngừng lôi kéo cả nhân loại đến với Con Một
của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Ngài vẫn không ngừng cho những ánh sao dẫn đường.
Không phải là ánh sao trên trời cao, mà là ánh sáng Ngài gieo vào lòng người.
Mỗi người chúng ta phải trung thành với ánh sáng đó, và bước vào cuộc hành
trình đức tin đầy mạo hiểm, như các nhà chiêm tinh ngày xưa.
Đôi khi chúng ta có nét giống Hêrôđê, sợ hãi bối rối trước sự xuất
hiện của Đấng Cứu Độ. Hãy để Chúa làm lung lay ngai vàng của bạn, đưa bạn vào
sự bấp bênh, mong manh, để rồi cuối cùng bạn gặp được sự vững vàng trong Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Sống đời Kitô hữu là bước vào một cuộc hành trình đức tin. Trong
cuộc hành trình đầy cam go ấy, vẫn thường có những ánh sao. Có khi nào bạn gặp
được một ánh sao lạ hướng dẫn bạn không?
Thiên Chúa đi tìm con người và con người đi tìm Thiên Chúa. Bạn có
thấy đó là hai yếu tố quan trọng trong đời sống người Kitô hữu không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa đã cho chúng con ánh sáng mặt trời, mặt
trăng, và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất.
Tạ ơn Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng. Đó là vinh dự và
cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Xin cho chúng con có khả năng đẩy lui bóng tối của hận thù và bất
công, của buồn phiền và thất vọng.
Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa mà Chúa đã thắp lên trong
lòng chúng con, và biết vâng theo những soi sáng của Chúa qua từng phút giây
của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu, cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn còn tiếp
diễn trên thế giới và trong lòng chúng con. Ước gì chúng con đừng chỉ lo nguyền
rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa, để cả trái đất ngập tràn
ánh sáng Chúa.