CÁC BÀI SUY NIỆM
LỄ THÁNH GIA – NĂM B
LỄ THÁNH GIA – NĂM B
Hc
3,3-7.14-17a hay St 15,1-6; 21, 1-3;
Cl 3,12-21 hay Dt 11, 8.11-12, 17-19;
Lc 2, 22-40 hay 2, 22. 39-40
Cl 3,12-21 hay Dt 11, 8.11-12, 17-19;
Lc 2, 22-40 hay 2, 22. 39-40
MỤC LỤC
1. Vươn cao hơn
2. Những nhân vật
3. Gia đình nhân loại
4. Giáo Hội cỡ nhỏ
5. Dung mạo Chúa Cứu Thế – Thiên Phúc
6. Nhìn ngắm gia đình Chúa Giêsu Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà
7. Gia đình Kitô hữu cũng là thánh gia
8. Tình yêu trong gia đình
9. Lễ của mỗi gia đình – ViKiNi
10. Gia đình là trường thực tập yêu thương – JNK
11. Gia Đình - Con Đường ĐTGM Ngô quang Kiệt
12. Gia Đình Thánh
13. Bài giảng lễ Thánh Gia Thất
14. Cầu nguyện, sống còn của gia đình
15. Gia đình của tôi ơi!
16. Đức Kitô tiếp tục lớn lên
17. Gia đình, cộng đoàn yêu thương
18. Mái nhà lý tưởng
19. Dâng Chúa trong đền thờ - R. Gutzwiller
20. Gương mẫu Thánh Gia
21. Gia đình Giuse - Maria - Hài Nhi Giêsu
22. Để cứu các gia đình Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
23. Hạnh phúc gia đình - JKN
24. Tiến dâng cho Chúa
25. Tình yêu và lòng kính trọng trong gia đình
26. Tầm quan trọng của đời sống gia đình
27. Thánh hóa gia đình – AM Trần Bình An
28. Suy Niệm của Lm. Jos. Đăng
29. Bếp lửa
30. Dung mạo
31. Gia đình gương mẫu
32. Gia Đình vui sống theo Luật Chúa
33. Giáo hội nhỏ
34. Vai trò của gia đình
36. Gia đình tôn thờ Thiên Chúa
37. Gia đình cầu nguyện – Lm Mark Link, SJ
38. Thánh Gia Thất- Lm. Munachi Ezeogu
39. Mái ấm gia đình – Lm Vũ Đình Tường
40. Thánh Gia
41. Lớn lên
42. Lớn lên
43. Dâng Chúa Giêsu trong đền thánh
44. Lễ thánh gia Noel Quesson
45. Tổ ấm
46. Thánh gia là gương mẫu mọi gia đình
Thánh Vịnh & Đáp Ca Nhóm Thánh Vịnh Nauy
Thánh gia thất là gương mẫu gia đình catholic.org.tw
Gương mẫu mọi gia đình Lm. Carolô Hồ Bạc Xái
Xây dựng gia đình kitô hữu Lm Giuse Đinh lập Liễm
Sống thánh thiện...trong gia đình Lm. Phêrô Lê văn Chính
Một gia đình tuyệt vời Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Sồng hạnh phúc gia đình Linh Mục Anphong Trần Đức Phương
Tổ ấm Lm. Đỗ Vân Lực, OP
Lê thánh gia
Gia đình thánh Chân Lý Á Châu
Gia đình thánh Lm. Munachi Ezeogu
Trình dâng Chúa Giêsu tại đền thờ GH Học Viện Đà Lạt
Lòng tin không đắn đo Fiches Dominicales
Gia đình Chúa Giêsu Chú giải của William Barclay
Cha mẹ con cái Sưu tầm
Thánh Gia Sưu tầm
Thánh gia 2017 Lm Giuse Đinh tất Quý
Thánh hòa gia đình Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
1. Vươn
cao hơn
Theo Tin Mừng kể lại, thì Thánh gia không phải chỉ gặp toàn những
chuyện may mắn và suôn sẻ. Trái lại, thánh Giuse có lần đã tính đến chuyện tháo
lui. Còn Chúa Giêsu, lúc được đưa tới đền thờ, khi còn đang ăm ngửa, đã được
tiên đoán là sẽ trở thành như một lưỡi gươm đâm thâu qua cõi lòng người mẹ. Vào
dịp theo cha mẹ lên đền thờ tham dự lễ Vượt Qua năm mười hai tuổi, Ngài đã là
duyên cớ của những nỗi khổ tâm không cầm nén được của cha và mẹ Ngài. Có một
lúc nào đó, trong khi giảng dạy, Ngài đã tuyên bố: Ngài đến không phải là để
đem lại sự hòa thuận, mà là sự chia rẽ giữa các thành viên trong gia đình.
Những đoạn Phúc âm ngắn ngủi và họa hiếm về Thánh gia và về mối
quan hệ thân thuộc, lại không phải là những bức họa rõ nét của một gia đình
gương mẫu, hiểu theo nghĩa thông thường. Không ai có thể hồ nghi về sự thánh
thiện của từng thành viên trong gia đình này. Vậy phải chăng Thánh gia không
còn là gương mẫu cho các gia đình Kitô hữu nữa sao?
Hoàn toàn không phải là như vậy. Thánh gia vẫn luôn là mẫu mực cho
các mối quan hệ giữa các thành viên của gia đình Kitô hữu. Thực vậy, Đức Maria
vẫn một lòng tin tưởng và tôn trọng việc làm của Người Con, dù rằng có những
lức Mẹ đã tỏ ra không hiểu hết tầm mức của việc làm đó. Không chỉ tôn trọng mà
thôi, Mẹ còn dõi theo những bước chân Con đi, dù là những bước chân dẫn lên Núi
Sọ. Còn thánh Giuse thì vẫn âm thầm lao động để tìm kiếm chén cơm manh áo, nuôi
sống cả gia đình, cũng như chu toàn thánh ý của Thiên Chúa ở mọi nơi và trong
mọi lúc. Còn Chúa Giêsu, Ngài đã thể hiện và hoàn tất công việc của Chúa Cha,
không chỉ đối với các thành viên của gia đình ruột thịt, mà còn để mọi người
trở thành anh em trong gia đình của ơn cứu chuộc.
Thánh gia là gương mẫu của một tình yêu vượt ra ngoài giới hạn của
những quan hệ bình thường theo một nghĩa nào đó, vốn được gọi là tự nhiên, ruôt
thịt, họ hàng, chủng tộc. Thánh Gia là gương mẫu cho một mối quan hệ đi ngược
lại với óc cục bộ và sự kỳ thị, cho một lối sống gắn bó, không chỉ với những
người thân quen, mà còn với hết mọi người.
Nhìn vào cuộc sống Thánh gia, chúng ta nhận ngay ra rằng: Còn có
một cái gì lớn hơn cuộc sống gia đình, mà chính cuộc sống gia đình phải hướng
tới. Tứ hải giai huynh đệ. Bốn bể đều là nhà. Bốn bể đều là anh em. Từ quan hệ
ruột thịt tiến tới quan hệ của một huynh đệ, của một tình liên đới, của một
tình đồng loại, một tình của những người con làm theo ý Chúa, hoạt động cho
chính nghĩa, cho lẽ phải.
Con Thiên Chúa giáng sinh làm người, trở nên con của thánh Giuse
và Mẹ Maria, để mọi người chúng ta được trở thành con Thiên Chúa và trở thành
anh em với nhau.
Giờ đây chúng ta cùng nhau dừng lại để tìm hiểu về những nhân vật
qua đoạn Tin Mừng vừa nghe.
Trước hết là Chúa Giêsu
Từ thuở thơ ấu, ngay cả khi chưa nói được, Chúa Giêsu đã hoàn tất
các lời Thánh Kinh. Hôm nay Ngài thực hiện lời hứa đã được ban cho Đaniel,
Malakia và nhiều tiên tri khác. Hôm nay trong con người hài nhi Chúa Giêsu,
chính Thiên Chúa trở lại cung thánh đã bị bỏ phế của Ngài. Dù tội của Israel có
thế nào chăng nữa, Thiên Chúa vẫn trung thành với lời mình đã hứa. Sự bất trung
của Israel chỉ làm trì hoãn việc thực hiện các lời hứa ấy chứ không thể huỷ bỏ
chúng được.
Trong cuộc đời chúng ta cũng thế. Ngày chúng ta được rửa tội,
Thiên Chúa đã nhận chúng ta làm nghĩa tử. Mặc dù chúng ta có lắm bất trung,
Ngài vẫn không khi nào ruồng rẫy. Mặc dù chúng ta có xua đuổi Ngài ra khỏi cung
lòng chúng ta, Ngài vẫn tìm mọi cách giúp đỡ chúng ta ăn năn sám hối. Hôm nay,
chúng ta hãy mở rộng cung thánh tâm hồn chúng ta cho Ngài, hãy mời Ngài đến ở
mãi trong cuộc đời chúng ta, để rồi chúng ta sẽ trở nên ánh sáng chiếu soi cho
những người chúng ta gặp gỡ trên vạn nẻo đường đời.
Tiếp đến là Maria và Giuse
Các Ngài đã chấp nhận chu toàn mọi lề luật. Các Ngài vâng phục đến
độ còn thi hành thói quen đạo đức là trình dâng con trai đầu lòng tại đền
thánh, một điều luật không đòi hỏi. Sở dĩ các Ngài đã đi quá lề luật như thế là
vì các Ngài đã tuân phục với tình yêu chứ không vì sợ hãi. Riêng Mẹ Maria là
thụ tạo tinh tuyền nhất của nhân loại, đã khiêm tốn chấp hành nghi thức thanh
tẩy. Phần chúng ta là những kẻ bị tội lỗi làm cho trở nên xấu xa, chúng ta hãy
khiêm tốn lãnh nhận bí tích Cáo giải để tâm hồn được thanh tẩy.
Sau khi nghe ông già Simêon nói về hài nhi Giêsu, hai ông bà đã
ngạc nhiên. Sở dĩ như vậy vì các ngài chưa hoàn toàn thấu triệt mầu nhiệm sâu
xa che phủ trên Con mình. Dù được sống thân mật với Chúa Giêsu, các ngài vẫn
phải tiến tới trong đức tin. Nhưng đức tin các ngài luôn được đào sâu, vì các
ngài suy gẫm trong lòng. Đối với chúng ta, cũng chẳng có gì lạ, nếu chúng ta
không hiểu hết được những mầu nhiệm của Thiên Chúa. Dù qua hai mươi thế kỷ,
Giáo Hội vẫn luôn tiếp tục đào sâu mầu nhiệm Đức Kitô. Nơi Đức Kitô, đức tin
của chúng ta cũng phải triển nở và lớn lên trong sức mạnh và ơn sủng. Đức tin
của chúng ta chính là sự tăng trưởng liên tục của Đức Kitô trong tâm hồn chúng
ta.
Sau hết là ông Simêon và bà Anna
Chúa Thánh Thần đã ở trên ông Simêon, mạc khải cho ông biết Đấng
Messia trước khi qua đời, thúc đẩy ông vào đền thờ chờ đón Hài Nhi Giêsu đến.
Đối với chúng ta cũng vậy, chúng ta có thể sống dưới sự hoạt động của Chúa
Thánh Thần cách thường xuyên, nếu chúng ta ở trong ơn nghĩa và biết chăm chỉ
tuân theo những thúc đẩy bên trong của Ngài. Chúa Thánh Thần cũng có thể trở
nên trong chúng ta một nguồn ánh sáng giúp chúng ta hiểu rõ hơn đức tin và bổn
phận của chúng ta. Ngài đem đến một nguồn sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta
can đảm sống đời sống chứng nhân cho Thiên Chúa.
Simêon và Anna đã suốt đời chờ mong Đức Kitô. Với chúng ta họ là
những tấm gương hy vọng và trung tín. Lòng trung tín của họ đã được ân thưởng.
Họ đã được niềm vui bồng ẵm trên tay ánh sáng dân ngoại, vinh quang Israel, là
chính Chúa Giêsu. Trong mùa Giáng sinh này, chúng ta cũng hãy chuẩn bị và đón
nhận hồng ân Thiên Chúa trong sự trung tín đợi chờ và đón nhận nó với tất cả
tâm tình biết ơn ơn Simêon và Anna ngày xưa.
Giáo Hội đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng gia đình Kitô hữu
thành một cái nôi của tình thương, thành một mái trường dạy cho chúng ta những
bài học làm người. Trong chiều hướng đó, Thánh Gia với Chúa Giêsu, Mẹ Maria và
thánh Giuse vốn được coi là những mẫu gương sáng chói của gia đình công giáo.
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã không muốn đóng khung nhãn giới của chúng
ta trong khuôn khổ một gia đình theo huyết thống. Bài học lớn nhất Ngài để lại
cho chúng ta đó là bài học làm người trong xã hội. Ngài không vun xới cho gia
đình riêng của mình, nhưng Ngài lại xây dựng đại gia đình nhân loại được cứu
chuộc.
Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu ngay từ lúc lọt lòng mẹ đã phải trải
qua một cuộc bôn ba, đã là một con người bị ruồng bắt bởi quyền lực thế gian.
Con đường trốn qua Ai Cập cũng chính là con đường dân riêng của Chúa đã đi qua
thuở xưa, con đường dẫn tới cuộc sống nô lệ trong suốt 400 năm. Nhưng rồi Ngài
cũng được đưa về lại Galilê tượng trưng cho cuộc xuất hành của dân riêng khỏi
đất nô lệ Ai Cập. Như thế Phúc Âm đã tóm gọn cuộc đời Chúa Giêsu và đặt cuộc
đời ấy trong lịch sự của dân Chúa.
Qua Ai Cập và từ Ai Cập trở về, Chúa Giêsu đã không chỉ đi với cha
mẹ Ngài mà còn đi với dân của Ngài. Qua cái chết và sống lại của Ngài, một dân
mới được thiết lập và các môn đệ của Ngài được sai đi đến tận cùng trái đất để
mọi người, không phân biệt màu da, tiếng nói, ý thức được mình là con Thiên
Chúa và là anh em với nhau.
Việc xây dựng đại gia đình nhân loại nhiều khi vượt lên trên quyền
lợi của gia đình ruột thịt hay dòng họ. Chúa Giêsu đã khẳng định điều đó một
cách thật rõ ràng. Ngài đã từng cho người ta hiểu rằng Ngài đến không phải để
đem hoà bình mà là gươm giáo, đến để chia rẽ con cái khỏi cha mẹ, nàng dâu khỏi
mẹ chồng và làm coh những người trong gia đình trở thành kẻ thù của nhau. Những
lời lẽ quả là lạ lùng, khó nghe. Dĩ nhiên chúng ta không thể coi Ngài như một
kẻ chủ trương phá hoại gia đình hay coi nhẹ giá trị gia đình. Nhưng Ngài muốn
cho người ta hiểu rằng: Còn một gia đình khác lớn hơn phải được xây dựng. Cái
mối quan hệ lớn lao, cao quý mà người ta cần phải quan tâm thiết lập và vun
xới, không phải là mối quan hệ cha con, anh em theo máu huyết. Mà là mối quan
hệ cha con, anh em theo việc thực thi ý định của Chúa: Ai là mẹ Ta và ai là anh
em Ta. Đó là người nghe và thực hành lời Chúa.
Nếu mọi thành phần trong gia đình cùng nhìn về một phía, cùng theo
đuổi một lý tưởng phục vụ hạnh phúc của con người trong xã hội. Đó chính là gia
đình gương mẫu, thánh thiện theo cái nhìn của Tin Mừng. Để đạt tới lý tưởng ấy,
mỗi người trong gia đình cần phải tìm hiểu và đào sâu những đòi hỏi của Tin Mừng,
thấy rõ trách nhiệm làm người và làm môn đệ của Chúa trong xã hội và trong thế
giới hiện tại, đồng thời cố gắng giúp nhau chu toàn trách nhiệm ấy.
Gia đình là tế bào sống động của quốc gia, của nhân loại, cũng như
của Hội Thánh. Tế bào căn bản này có khỏe mạnh và phát triển, thì toàn thể thân
xác mới khỏe mạnh và phát triển. Sức khỏe và sự ổn định của gia đình ảnh hưởng
tới sức khỏe và sự ổn định của quốc gia và Giáo Hội. Chính vì thế chúng ta phải
đem vào trong gia đình một tinh thần Kitô giáo đích thực.
Thế nhưng ngày nay, vì chiến tranh, vì những trào lưu duy vật và
chối bỏ đức tin, gia đình đã bị khủng hoảng và suy sụp, tế bào nền tảng này đã
bị nhiễm độc. Vậy chúng ta phải làm gì để cứu vãn tình thế?
Điều tôi nhấn mạnh giờ đây, đó là tinh thần cộng đoàn. Thực vậy,
mỗi người chúng ta phải biết từ bỏ tính ích kỷ để tiến đến một sự hòa hợp và
yêu thương, như hình ảnh về thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô mà thánh Phaolô đã
đề cập tới. Gia đình là một Giáo Hội cỡ nhỏ, là một nhiệm thể được thu hẹp. Đây
không phải chỉ là một hình ảnh tượng trưng, mà còn là một thực thể sống động.
Người cha là đầu thân thể như Đức Kitô là đầu Giáo Hội. Người mẹ
là thân thể như vai trò của Giáo Hội, và con cái là những phần tử như những tín
hữu là chi thể của Đức Kitô.
Một gia đình đích thực phải hiệp nhất và trở nên một: Một tư
tưởng, một ước muốn, một cõi lòng, một con tim. Người cha tìm kiếm cơm áo,
người mẹ phân phát cơm áo và con cái thì lãnh nhận máu huyết và sự sống nơi cha
mẹ. Người cha thì giống với Đức Kitô là đầu nhiệm thể. Người mẹ thì giống với
Giáo Hội, còn con cái thì giống những chi thể trong nhiệm thể ấy.
Bởi đó hãy đón nhận và thực thi tinh thần hợp nhất. Là con cái,
hãy nhìn thấy Đức Kitô nơi người cha, hãy yêu mến và trọng kính Đức Kitô nơi
người cha của mình. Trgkhi đó, những người cha hãy sống như Đức Kitô và điều
hành gia đình của mình trong tinh thần yêu thương.
Còn người mẹ, hãy lấy Giáo Hội làm lý tưởng cho mình, để có sự
trung thành và hiền dịu. Con cái chính là những tế bào, trong đó Đức Kitô phải
lớn lên, phải trưởng thành. Muốn thấm nhuần tinh thần ấy, chúng ta phải cần đến
một bầu khí đạo đức. Bầu khí đạo đức này được tạo nên do thánh lễ, do phụng vụ,
do các bí tích và đặc biệt do những giờ kinh chung trong gia đình.
Đây là những giây phút linh thiêng, cha mẹ, vợ chồng, con cái cùng
quây quần bên nhau và cùng nhau quây quần bên Chúa, để dâng lên Ngài của lễ
chung là những hy sinh gian khổ trong cuộc sống. Đây cũng là một liều thuốc
thần diệu hàn gắn những đổ vỡ, vì trong những phút giây ấy chúng ta thực sự trở
nên một.
Hãy xây dựng gia đình mình trong tinh thần hợp nhất như các chi
thể hợp nhất với nhau và nhất là như Đức Kitô hợp nhất với Giáo Hội của Ngài.
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)
Hoàng đế của một vương quốc hung vường vag thịnh vượng, một ngày
kia đã triệu tập các nghệ nhân từ khắp các nước đến dự một cuộc tranh tài. Cuộc
thi mô tả dung mạo hoàng đế.
Các nghệ nhân Ấn Độ đến với đầy đủ dụng cụ và các loại đá hoa
cương quí hiếm. Các nghệ nhân Acmêni mang theo một loại đất sét đặc biệt. Các
nghệ nhân Ai Cập mang đủ loại đồ nghề và khối cẩm thạch hảo hạng.
Sau cùng, người ta hết sức ngạc nhiên vì phái đoàn nghệ nhân Hy
Lạp chỉ mang đến vỏn vẹn một gói thuốc đánh bóng.
Mỗi phái đoàn thi thố tài năng của mình trong một phòng riêng. Khi
thời gian ấn định đã hết, hoàng đế đến từng gian phòng để thưởng thức các tác
phẩm. Vua hết lời khen ngợi bức chân dung của mình do các họa sĩ Ấn độ vẽ. Ông
càng than phục hơn khi nhìn ngắm các pho tượng của chính ông mà các người Ai
Cập và Acmêni điêu khắc.
Sau cùng, đến phòng trưng bày của người Hy Lạp, hoàng đế không
nhìn thấy gì cả, duy chỉ có bức tường của căn phòng được đánh bóng đến độ khi
nhìn vào ông thất chân dung mình hiện ra từng nét.
Dĩ nhiên, giải nhất thuộc về các nghệ nhân Hy Lạp. Bởi vì đã hiểu
rằng chỉ có hoàng đế mới họa được dung mạo của chính mình.
Muốn họa lại dung mạo Đức Kitô, chúng ta cần phải đánh bóng long
mình cho sạch mọi vết nhơ, mọi tì ố của tâm hồn. Một khi đã nên sáng bóng như gương,
chúng ta sẽ tiếp nhận được khuôn mặt rạng ngời của Chúa.
Khi Đức Maria và Thánh Giuse dâng Chúa Hài Nhi trong đền thánh, có
biết bao tư tế và luật sĩ thông thái, giỏi giang, am tường Kinh Thánh, và hiểu
rõ các lời tiên tri loan báo về Đấng Cứu Thế, nhưng họ đã không nhận ra Chúa.
Duy chỉ có ông Simeon, và bà Anna đã nhận ra được dung mạo của Người.
Simeon và Anna đã dâng hiến trọn vẹn con người và cuộc đời, đã mài
bóng đời mình bằng đạo hạnh và khiêm tốn, đã tôn thờ Chúa trong tin yêu và phó
thác. Vì thế, dung mạo của Đấng Cứu Thế đã tỏ hiện sáng ngời trước mặt các
ngài.
Simeon và Anna đã đón nhận Đấng Cứu Thế như những người nghèo hèn
bé nhỏ. Các ngài đã được bồng ẵm Chúa, được thay mặt cho cả nhân loại nói lời
đầu tiên tôn vinh Chúa đến cứu độ con người.
Lễ Thánh Gia mời gọi chúng ta nhìn vào các gia đình. Truyền thống
gia đình ngày càng sút giảm. Ly thân, ly dị, trẻ em lang thang, thanh niên nổi
loạn, phá thai, mại dâm, ma túy ngày càng gia tăng. Gia đình là nền tảng của xã
hội. Nếu không có những gia đình lành mạnh thì không thể có một xã hội tốt đẹp.
Cuộc sống của gia đình phải tỏa hương thơm của thiên đàng.
Hơn bao giờ hết, các gia đình chúng ta phải nhìn lên Thánh gia
thất: một gia đình lý tưởng, đạ đức bình thường và chăm lo cho nhau. Thánh Luca
đã ghi lại hình ảnh rất đẹp của Thánh gia như sau: “Đức Giêsu đi xuống cùng với
ch amẹ, trở về Nadaret và hằng vân phục các ngài. Riêng mẹ Người hằng ghi nhớ
tất cả những điều ấy trong long. Còn Đức Giêsu ngày càng khôn lớn, và được
Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến” (Lc 2, 51-52).
Xã hội chúng ta không thiếu các mẫu gương đạo hạnh: Louis Pasteur,
nhà bác học thời danh, đã tâm sự khi đặt tấm bia kỷ niệm tại gia đình ông:
“Kính thưa cha mẹ thân yêu của con đã khuất bóng,các ngài đã khiêm tốn sống
trong nếp nhà bé nhỏ này. Con mắc nợ công ơn cha mẹ về hết mọi điều…”.
Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo Hội Pháp
cũng tâm sự: “Những lời khuyên nhủ dịu dàng của mẹ tôi, gương đạo đức, lòng
nhiệt thành hâm nóng linh hồn nguội lạnh của tôi,khuyến khích nâng đỡ tăng sức
mạnh cho tôi. Chính nhờ giáo huấn của người mà tôi có đức tin”.
Có lẽ thế giới biết nhiều đến Thủ Tướng Thái Lan, nhưng ít ai biết
được cậu Chuam Leekpai còn là một người con giàu cảm xúc, hiếu thảo, và luôn
nghĩ đến bậc sinh thành. Ông nói với mẹ: “Giờ đây, con đã là một chính trị gia
và con không còn thời gian về thăm mẹ thường xuyên nữa. Điều này làm con cứ áy
náy mãi. Tuổi mẹ càng cao thì nỗi lo của con càng nhiều. Do đó con cố gắng tìm
mọi cơ hội về thăm mẹ”.
Đức Piô XI trong thông điệp về Giáo dục Kitô giáo có viết: “Nền
giáo dụchữu hiệunhất và bền bỉnhất là nền giáo dục được nhận lãnh từ một gia
đình Kitô giáo có qui củ và khuôn phép. Những gương lành của cha mẹ và của
những người trong gia đình càng chiếu tỏa và bền bỉ, thì kết quả của giáo dục
càng lớn lao”.
Lạy Đức Giêsu, xin dạy chúng con biết theo gương Chúa, luôn sống
trung hiếu với Cha trên trời, thảo kính với ông bà cha mẹ, và sống hết tình với
anh chị em chung quanh.
Xin cho chúng con luôn biết đánh bóng đời mình, bằng tấm long
khiêm tốn và đạo hạnh, bằng việc tôn thờ Chúa trong tin yêu và phó thác, để
dung mạo của Chúa ngày càng tỏ hiện sáng ngời trong cuộc đời chúng con. Amen.
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Bài Tin Mừng hôm nay mời chúng ta nhìn ngắm một gia đình rất đặc
biệt với ba nhân vật độc đáo: Mẹ Maria, Thánh Giuse và Chúa Giê-su.
Trước hết, chúng ta hãy nhìn ngắm hài nhi Giê-su.
Đây là nhân vật bé nhỏ nhất trong gia đình nầy và cũng là nhân vật
quan trọng nhất. Ngài là một huyền nhiệm vượt quá trí tưởng tượng của loài
người.
Có ai ngờ một Đấng tạo dựng nên muôn loài muôn vật trong vũ trụ vô
biên nầy lại chấp nhận hóa thành một bào thai nhỏ bé nằm trong lòng mẹ suốt
chín tháng mười ngày và được sinh ra bởi một người mẹ trần gian là một thiếu nữ
miền quê không được mấy người biết đến.
Có ai ngờ một Đấng vô cùng giàu sang, là chủ nhân của tất cả mọi
kho báu trên toàn thế giới và trong cả vũ trụ càn khôn, giờ đây lại trở thành
một trẻ thơ nghèo hèn, không có một mái nhà, không giường chiếu và không cả một
chiếc nôi cỏn con… đến nỗi phải nằm run rẩy trong máng súc vật lót rơm, giữa
một chuồng bò tứ bề trống trải chơ vơ giữa không gian vắng lặng.
Có ai ngờ Đấng nuôi dưỡng chim trời cá nước, ban phát lương thực
cho tất cả người thế hưởng dùng lại cậy nhờ đến từng giọt sữa của người mẹ trần
gian để được tăng trọng và lớn lên thành người.
Có ai ngờ một Đấng vốn là Thiên Chúa Ngôi Hai đồng quyền năng phép
tắc như Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, có sức mạnh lay chuyển cả vũ trụ càn khôn,
có quyền năng dập tắt bão tố… lại trở thành một trẻ thơ nhỏ nhoi, yếu đuối,
thân mình bầm tím vì giá lạnh đêm đông, phải cậy nhờ đến sự ấp ủ của người mẹ
trần gian để sống, phải cậy trông vào sự che chở của người cha nuôi vốn là một
anh thợ nghèo miền quê, mới có thể lánh thoát lưỡi gươm oan nghiệt của bạo chúa
Hê-rô-đê.
Ngoài ra, khi có một vị vua, một tổng thống hay thủ tướng một đất
nước nào đó trong vai khách mời đến thăm chính thức quốc gia sở tại, thì những
vị vua hay những nhà lãnh đạo cao cấp nhất của Chính Phủ sẽ trải thảm đỏ và ra
tận sân bay để tiếp đón cách trọng thị, thì tại Bê-lem năm xưa, khi Chúa Tể
trời đất đặt chân đến viếng thăm địa cầu và thăm viếng nhân loại, thì chỉ có
những người chăn chiên nghèo khổ đến tiếp đón Ngài mà thôi.
Tiếp theo, chúng ta hãy nhìn ngắm nhân vật thứ hai trong gia đình
nầy là Mẹ Maria.
Khi một người mẹ chuyển dạ sinh con, tối thiểu phải liệu cho bà
một căn phòng kín đáo, thế mà khi chuyển dạ, Mẹ Maria chẳng tìm đâu được một
căn buồng, mà phải nương thân nơi chuồng súc vật trống trải giữa cánh đồng
hoang vu.
Nếu cùng cực lắm, không kiếm cho sản phụ một căn phòng kín đáo, ít
nhất phải kiếm cho bà một chiếc giường, một tấm nệm hay tấm chiếu cho bà sinh
con; đằng nầy, khi sinh con, Mẹ Maria không có giường êm, không nệm ấm, không
được cả một manh chiếu đơn sơ, mà phải hạ sinh con ngay trên lớp rơm mỏng giữa
chuồng bò!
Bao giờ sản phụ sinh con cũng có cô đỡ bên cạnh, để giúp sản phụ
vượt cạn đầy khó khăn và cứu giúp bà thoát khỏi những nguy hiểm khó lường; đằng
nầy, khi Mẹ Maria sinh con, chỉ có người bạn đời là thánh Giuse bên cạnh, mà
người đàn ông thì chẳng biết phải xoay xở thế nào trong những trường hợp khó
khăn như thế.
Còn nhân vật thứ ba là thánh Giuse.
Chắc chắn vào lúc bấy giờ, tâm hồn ngài đầy lo âu, buồn phiền và
bối rối.
Lo âu vì thấy người bạn đời đang lúc chuyển dạ sinh con lại phải
miệt mài gõ hết cửa nầy đến cửa khác ở các quán trọ ở Bê-lêm, mà không được một
ai thương xót đoái hoài, nhường cho một chỗ trọ qua đêm.
Lo âu buồn phiền vì cuối cùng, đành phải đưa Mẹ Maria ra ngoài
đồng vắng, dắt người bạn đời sắp vượt cạn vào một chuồng súc vật bẩn thỉu tanh
hôi! Ngài cố tìm một tấm ván hay một vật gì đó tạm thay giường nằm cho Mẹ Maria
cũng không có, thôi thì quơ đại ít rơm rạ vương vãi chung quanh để lót thành
một ổ rơm nho nhỏ cho sản phụ có chỗ nằm.
Càng bối rối hơn khi đến giờ phút Mẹ Maria sinh con. Tìm đâu ra
một cô đỡ trong nơi hoang vắng nầy! Biết làm thế nào trợ giúp một sản phụ đang
sinh con! Mền không, chiếu cũng không. Thôi thì lót tạm ít rơm vào trong máng
súc vật cho Hài Nhi mới sinh có một chỗ nằm thay nôi.
Ôi thôi! Càng ngắm, càng suy, càng thấy gia đình nầy thật là bi
đát, cùng cực. Không ai trong chúng ta bị lâm vào hoàn cảnh đáng thương như
thế.
***
Vì yêu thương nhân loại lỗi lầm, Ngôi Hai Thiên Chúa đã từ bỏ ngai
trời xuống thế, chấp nhận sinh ra trong cảnh nghèo hèn cùng cực, hạ mình xuống
tận đáy cuộc đời để chia sẻ cảnh lầm than khốn khổ của kiếp người. Qua sự việc
nầy, Chúa muốn nói với chúng ta rằng: Hỡi những ai nghèo thiếu cùng cực trên
thế gian, hãy vững lòng, hãy đứng vững và đừng tuyệt vọng vì có Ta đến chia sẻ
sự túng cực của các con, cùng đồng hành với các con qua mọi gian lao của cuộc
sống.
Và hỡi những gia đình đang lâm cơn quẫn bách nghèo túng, đừng lo
âu sợ hãi, đừng xấu hổ vì gia cảnh nghèo túng của mình, vì gia đình của Ta hôm
xưa còn lâm cảnh nghèo hèn khốn khổ hơn gia đình các con. Ta luôn ở cùng các
con để che chở bảo vệ các con cho đến mãn đời.
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Vào ngày thành hôn của anh chị Trung và Hiếu, một người bạn của
đôi vợ chồng nầy tặng cho đôi tân hôn bức tranh thánh gia thất Nadarét. Cuối
bức ảnh có ghi dòng chữ: "Mến tặng thánh gia Trung-Hiếu. Cầu chúc thánh
gia của Anh Chị nên giống thánh gia thất của Chúa Giêsu".
Sau khi bức tranh nầy được treo lên tường, có người lên tiếng phê
bình:
Tại sao lại viết là "thánh gia Trung-Hiếu"? Chỉ có một
thánh gia thất duy nhất là thánh gia của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh cả
Giuse, chứ làm gì có cái gọi là "thánh gia Trung-Hiếu". Viết như thế
chẳng phải là làm giảm giá trị của thánh gia Nadarét sao?
Thế là từ lúc đó, nổ ra một cuộc tranh luận giữa hai nhóm có ý
kiến đối lập ngay giữa tiệc cưới. Cuộc tranh luận rất sôi nổi và khá ồn ào vì
hai phe đều tìm đủ mọi lý lẽ để biện minh cho quan điểm của mình. Để tiết kiệm
thời gian, tôi xin gom lại những lý lẽ chính của đôi bên.
Nhóm bài bác cho rằng gia đình kitô hữu không thể gọi là thánh gia
vì:
Thứ nhất, gọi như vậy là làm giảm giá trị của thánh gia thất Chúa
Giêsu. Xưa nay, Giáo Hội chỉ dùng hai từ thánh gia để chỉ thánh gia Nadarét của
Chúa Giêsu mà thôi.
Thứ hai, không ai chối cãi Chúa Giêsu, Mẹ Maria, thánh cả Giuse
thật sự là ba đấng thánh. Gia đình nầy gồm có ba đấng thánh nên mới được gọi là
thánh gia. Còn gia đình các kitô hữu gồm những người phàm, làm sao gọi là thánh
gia được?
Nhóm ủng hộ bảo rằng: Gia đình các kitô hữu cũng là thánh gia vì
các lý do sau đây:
Thứ nhất, bất cứ ai đã lãnh nhận bí tích thánh tẩy đều đã được
thánh hiến, được trở nên thánh. Họ là thánh vì bí tích thánh tẩy làm cho họ trở
nên chi thể của Đấng rất thánh là Chúa Giêsu. Thánh Phao-lô ngày xưa chẳng gọi
các kitô hữu tại Cô-rinh-tô, Rô-ma, Ga-lát... là thánh đó sao?
Thứ hai, Chúa Giêsu đã lập bí tích hôn phối để thánh hiến đời sống
gia đình, nâng gia đình kitô hữu lên một tầm cao mới.
Thứ ba, Công Đồng Vatican II gọi gia đình là Hội Thánh thu nhỏ
(Hội Thánh tại gia) (xem LG 11, giáo lý công giáo 1656) và Đức Giáo Hoàng Gioan
Phao-lô II cũng thường gọi gia đình là Hội Thánh tại gia. Gọi như thế có khác
gì gọi gia đình kitô hữu là thánh gia?
Thứ tư, theo giáo lý công giáo số 1657, gia đình "là nơi thể
hiện đặc biệt chức tư tế cộng đồng của người cha, người mẹ, con cái và mọi phần
tử trong gia đình", "là cộng đồng ân sủng và cầu nguyện, là trường
học phát triển các đức tính tự nhiên và đức mến Kitô giáo" (Glcg số 1666)
Ngoài ra, xét theo khía cạnh mục vụ, một khi các kitô hữu ý thức
rằng gia đình mình đúng thật là thánh gia, họ sẽ cố công xây dựng gia đình sao
cho xứng đáng với danh hiệu đó. Thế là những tệ nạn thường xảy ra trong đời
sống gia đình có nhiều cơ may được xoá bỏ và những phẩm chất xứng hợp với một
thánh gia sẽ được phát huy.
* * *
Khi xây dựng một ngôi nhà, chúng ta cần một bản thiết kế thật hoàn
chỉnh hay ít ra cần dựa vào một ngôi nhà đẹp mà chúng ta ưa thích để dựa theo
đó mà xây ngôi nhà của mình.
Hôm nay, nhân lễ kính thánh gia thất của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và
thánh cả Giuse, Thiên Chúa muốn chúng ta nhìn ngắm lại một kiệt tác gia thất
của Người, do chính Người xây dựng với sự hợp tác của thánh Giuse và Mẹ Maria
và mời gọi chúng ta hãy xây dựng gia đình mình theo mô hình lý tưởng đó.
Xây dựng gia đình mình theo mô hình thánh gia Nadarét là mọi người
trong gia đình phải cư xử với nhau như ba Đấng trong thánh gia nầy. Cụ thể là người
chồng phải yêu thương và phục vụ vợ con như thánh Giuse đã yêu mến và phục vụ
Mẹ Maria; người vợ phải yêu thương và săn sóc chồng như Mẹ Maria đã yêu mến và
phục vụ thánh Giuse; cha mẹ phải yêu mến và chăm lo cho con cái như thánh Giuse
và Mẹ Maria chăm lo phục vụ Chúa Giêsu; con cái trong gia đình phải hiếu kính
mẹ cha, biết thờ cha kính mẹ, phụng dưỡng cha mẹ như Chúa Giêsu đã làm đối với
Đức Mẹ và thánh Giuse.
Có như thế, gia đình tín hữu mới xứng đáng với danh hiệu là thánh
gia, xứng đáng với hồng ân đã nhận ngày lãnh bí tích hôn phối, làm cho gia đình
trở nên tổ ấm yêu thương hạnh phúc và thánh thiện.
1. GIA ĐÌNH LÀ HÌNH ẢNH CỦA BA NGÔI THIÊN CHÚA
Nếu con người là hình ảnh của Thiên Chúa, thì có thể nói rằng gia
đình là hình ảnh của Ba Ngôi Thiên Chúa. Thiên Chúa của chúng ta không phải là
một Thiên Chúa sống đơn độc, mà là một Thiên Chúa mang tính gia đình, trong đó
Ba Ngôi khác biệt nhau nhưng yêu thương nhau, sống chung, làm việc chung, và
kết hợp với nhau thắm thiết như trong một gia đình, tới mức độ tuy là Ba Ngôi
nhưng chỉ là một Thiên Chúa duy nhất. Nếu Thiên Chúa là tình yêu, thì "Tập
Thể Ba Ngôi" là một môi trường để Ba Ngôi Thiên Chúa thể hiện tình yêu của
mình với nhau. Vì Ba Ngôi yêu thương nhau vô cùng, nên sự hiệp nhất của Ba Ngôi
đạt được mức độ tối đa là trở thành một Thiên Chúa duy nhất. Tình yêu và sự
hiệp nhất ấy tạo nên thiên đàng hay hạnh phúc của Ba Ngôi.
Cũng vậy, nếu gia đình là hình ảnh của Ba Ngôi, thì mọi thành viên
trong đó phải yêu thương nhau, hòa hợp với nhau đến mức hiệp nhất với nhau. Nhờ
đó gia đình trở thành một thiên đàng tại thế. Như vậy, mọi thành viên của gia
đình đã được hưởng nếm trước phần nào hạnh phúc của thiên đàng mai sau. Hạnh
phúc trong những gia đình yêu thương nhau - được biểu lộ và hình thành cụ thể
bằng việc quan tâm, lo lắng và hy sinh cho nhau - chính là hình ảnh trung thực
của thiên đàng vĩnh cửu. Trái lại, nếu các thành viên trong gia đình không yêu
thương nhau, không sẵn sàng hy sinh cho nhau, thì họ sẽ biến gia đình thành hỏa
ngục tại thế, là hình ảnh của hỏa ngục vĩnh cửu. Trong 8 cái khổ mà Đức Phật kể
ra, có cái khổ gọi là "oán tắng hội khổ", nghĩa là khổ vì không ưa
nhau, ghét nhau mà lại phải sống chung với nhau.
2. TÍNH ÍCH KỶ, NGUỒN GỐC BẤT HẠNH CỦA MỌI GIA ĐÌNH
Nhìn vào bất cứ một gia đình bất hạnh nào - nghĩa là một gia đình
không hạnh phúc - ta luôn luôn thấy bóng dáng tính ích kỷ của một thành viên
nào đó trong gia đình. Chính tính ích kỷ của thành viên này là nguồn gây nên
đau khổ trong gia đình. Nếu thành viên ích kỷ ấy là người cha hay người mẹ, thì
đau khổ trong nhà sẽ hết sức lớn lao. Gia đình nào càng có nhiều người ích kỷ,
gia đình ấy càng bất hạnh. Gia đình mà càng có nhiều người sống vị tha, biết hy
sinh cho người khác, gia đình ấy càng ít bất hạnh. Một gia đình mà mọi thành
viên đều vị tha, đều quan tâm, chăm sóc và hy sinh cho nhau, đều sẵn sàng thông
cảm và tha thứ cho nhau, gia đình ấy chắc chắn hạnh phúc.
Câu chuyện minh họa về thiên đàng và hỏa ngục sau đây thật phù hợp
với thiên đàng và hỏa ngục của gia đình. Cả thiên đàng và hỏa ngục đều dùng bữa
với những thức ăn y như nhau, trong khung cảnh giống y hệt nhau, trong đó mỗi
người đều phải dùng một đôi đũa dài cả thước để ăn. Thiên đàng và hỏa ngục chỉ
khác nhau ở chỗ này: trên thiên đàng, mọi người không ai tự gắp thức ăn cho
mình, mà gắp cho người khác ăn, vì thế, ai cũng được ăn no. Còn trong hỏa ngục,
mọi người chỉ biết nghĩ đến mình, chỉ biết gắp thức ăn cho mình, nhưng vì đũa
quá dài, chẳng ai gắp cho mình được gì cả, thế rồi chẳng ai được no, hết giờ ăn
mà đói vẫn hoàn đói, từ đó họ trở nên căm thù nhau.
Cũng vậy, trong gia đình, không ai tự tạo hạnh phúc cho mình được
mà không cần đến người khác, nên nếu ai cũng chỉ biết lo cho hạnh phúc của
mình, thì chẳng ai hạnh phúc cả, và rồi sẽ phát sinh đủ thứ đau khổ. Tuy nhiên
trong gia đình, người ta có thể tạo hạnh phúc cho người khác, vì thế, nếu mọi
người trong nhà đều biết lo cho nhau, tạo hạnh phúc cho nhau, thì ai nấy đều
hạnh phúc.
Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là tình thương,
nên bản chất của con người cũng là tình thương. Vì thế, chỉ khi con người sống
phù hợp với bản tính của mình là yêu thương, và thể hiện cụ thể tình yêu thương
ấy với những người chung quanh, thì con người mới hạnh phúc. Nếu con người sống
ích kỷ, tức ngược lại bản chất yêu thương của mình, con người sẽ đau khổ và làm
cho những người chung quanh đau khổ.
3. LÀM SAO ĐỂ CÓ TÌNH YÊU THƯƠNG?
Nhưng làm sao người ta có thể yêu thương nếu không có một động
lực, một nguồn yêu thương ngay từ trong lòng mình phát xuất ra? Làm sao có được
nguồn yêu thương ấy? - Vì "tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa" (1 Ga 4,
7), nên chính "Thiên Chúa là nguồn yêu thương" (2 Cr 13, 11). Vì thế,
muốn yêu thương, muốn loại trừ tính vị kỷ, con người phải kết hợp làm một với
Thiên Chúa, nguồn tình thương. Kết hợp với Thiên Chúa là luôn luôn ý thức rằng
mình "là hình ảnh của Thiên Chúa" (St 1, 27; 9, 6; Ep 4, 24), được
tạo dựng giống như Thiên Chúa (x. St 1, 26; 5, 1), và "được thông phần bản
tính của Thiên Chúa" (2 Pr 1, 4), một Thiên Chúa mà bản chất là yêu thương
(x.1 Ga 4, 8.16).
Nếu bản chất của Thiên Chúa là yêu thương, mà ta giống Ngài, là
hình ảnh của Ngài, được thông phần bản tính Ngài, tất nhiên bản chất của ta
cũng là yêu thương. Ta không yêu thương hay không yêu thương đủ, là ta sống
không đúng với bản chất của ta. Nhờ thường xuyên ý thức như thế, tình yêu và
sức mạnh của tình yêu ngày càng lớn mạnh trong ta, khiến ta ngày càng yêu
thương mọi người cách dễ dàng, và sẵn sàng làm tất cả để mọi người được hạnh
phúc. Sống đúng với bản chất của mình là yêu thương, là hình ảnh Thiên Chúa,
chính là sống thánh thiện.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ - Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
1. Lễ Thánh gia là lễ của mỗi gia đình. Văn hóa Đông phương đặt
nền tảng gia đình trên đức Hiếu. Người nổi tiếng chí Hiếu nhất Đông phương là
Vua Thuấn. Thiếu thời, Vua Thuấn là con nhà bần tiện. Bố là Cổ Tẩu dở dở ương
ương, mắc tật nghiện rượu. Mẹ có tật lắm điều, ngồi lê mách lẻo. Anh là Tượng
hỗn xược du đãng. Một cảnh gia đình địa ngục. Nhưng Thuấn dù nhỏ, ngày ngày ra
đồng làm việc, thường kêu khóc với trời, tự mình nhận lấy tội lỗi của bố mẹ.
Phụng sự bố mẹ rất kính cẩn, sợ hãi làm cho bố mẹ biết lo sửa mình (Kinh Thư ;
Thuấn Điển 6 và Đại vũ mõ 21).
Nhờ đâu một con nhà tiện dân đã trở nên bậc thánh hiền chí hiếu?
Thứ nhất nhờ vào niềm tin trời đất thâm sâu sống động của Vua.
Khổng Tử kể: Ngay còn nhỏ, Thuấn ngày ngày ra đồng làm việc với nước mắt, kêu
khóc với Trời: “Đế sơ vàng vu điền, nhật hào khấp mân thiên”.
Thứ hai: “Vu điền” - ông ra đồng chăm chỉ làm việc để phụng dưỡng
gia đình, làm sao nuôi nổi ba miệng lười biếng ăn chơi phung phá! Ông phải tận
lực hy sinh làm việc mà không một lời phàn nàn than thân trách phận giữa cảnh
gia đình đầy thói hư tật xấu.
Thứ ba: “Phụ tội dẫn thắc” – Thuấn còn hy sinh tự mình nhận lấy
tội lỗi của bố mẹ. Một tinh thần trách nhiệm cao thượng. Người ta thường nói:
Tội quy vu trưởng, pháp luật thường phạt cha mẹ khi con cái vị thành niên phạm
pháp. Trái lại: ở đây tội quy vu ấu. Ấu thơ đã biết gánh lấy tội của gia đình
để ăn năn kêu khóc với trời tha thứ và cứu giúp.
Thứ bốn: “Tái kiến Cổ Tẩu, quỳ quỳ trai lật” – Thăm viếng Cổ Tẩu
kính cẩn, lo sợ đến mức nhịn ăn chay tịnh để chăm lo cho cha mẹ mọi sự, chỉ sợ
cha mẹ buồn phiền than trách. Dù cha mẹ nhiều tật xấu đến đâu Thuấn cũng không
dám tỏ vẻ bất kính.
Đức Hiếu của đứa con tiện dân đã thấu đến Đế Nghiêu, thấu đến
Thượng Đế, cho nên Vua Nghiêu đã nhường cho Thuấn làm vua. Thuấn đã tu thân tề
gia tốt đẹp, chắc chắn trị quốc, bình thiên hạ cũng được an vui thịnh vượng.
“Đại hiếu tôn thân, kỳ thứ phất nhục, kỳ hạ năng dưỡng”: Đại hiếu thứ nhất tôn
kính cha mẹ, thứ đến không làm nhục, sau là chăm nuôi (Lễ ký tế nghĩa).
2. Lễ Thánh gia mới thực sự hướng dẫn chúng ta thi hành trọn vẹn
đạo Hiếu theo đúng giới răn thứ bốn của Thiên Chúa: Đạo làm con, đạo làm cha
mẹ, vợ chồng.
Trước hết, Đạo làm con phải biết nhớ: “Công cha như núi Thái sơn,
nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Ơn sinh thành, ơn thương mến của cha mẹ
đã chảy ra từ nguồn sống tình yêu của Thiên Chúa, ban cho con cái sự sống.
Không có vàng bạc châu báu nào so sánh được: Ca dao nói: “Mạng sống hơn đống
vàng”. Phúc Âm cũng dạy: “Dù được lời lãi cả thế gian mà mất mạng sống nào được
ích gì”.
Sinh thành mạng sống con, cha mẹ còn hết lòng, hết trí khôn lo
lắng ấp ủ âu yếm, đùm bọc. Mạng sống con cũng là mạng sống, là xương thịt của
cha mẹ: “Máu chảy ruột mềm”. Con đau khổ, cha mẹ ăn không ngon, ngủ không yên.
Và để cho mạng sống của con được tăng trưởng lớn khôn, cha mẹ đã đổ ra bao
nhiêu mồ hôi nước mắt, và sức lực hy sinh, làm ăn nuôi dưỡng, dạy dỗ, những
công ơn đó chồng chất cao hơn núi Thái sơn.
Con biết ơn cha mẹ thì phải thảo kính, yêu mến, chăm sóc, chia vui
sẻ buồn, làm vinh danh cha mẹ nhất là lúc già yếu. Đừng bao giờ: “Con nuôi mẹ,
con kể từng giờ”.
Đạo Nho còn biết dạy: “Sống thì lấy lễ mà thờ, chết lấy lễ mà
táng, lấy lễ mà tế” (Luận ngữ II, 5) huống chi Đạo Chúa.
Thứ đến: Đạo làm cha mẹ biết đón nhận con cái như con cái Thiên
Chúa ban cho mình. Ý thức rõ như vậy, Đức Maria và thánh Giuse đã mau mắn dâng
con cho Thiên Chúa trong đền thờ. Ngoài ra, các ngài dâng con là để tạ ơn Thiên
Chúa đã cứu sống dân tộc thoát ách nô lệ Ai cập trở về Đất Hứa vẻ vang. Vì thế,
sinh ra, lớn lên, sống còn của con dân này là một ân huệ vĩ đại của Thiên Chúa
ban. Họ đã hiến dâng, phó thác trọn vẹn cuộc sống con mình trong tay Thiên Chúa
toàn năng.
Hôm nay cha mẹ Hài Nhi Giêsu dâng con trong đền thờ, còn đặc biệt
dâng lên Chúa Cha một thế hệ mới, một thế hệ được thanh tẩy bằng nước và Thánh
Thần, một thế hệ được ghi ấn tín Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần để làm
nên một trang sử vinh quang muôn đời trong nước Trời.
Cho nên, sứ mạng làm cha mẹ là một ân huệ từ trời ban xuống. Cha
mẹ được vinh phúc tiếp tay với Thiên Chúa cộng tác vào chương trình sáng tạo,
mặc khải và cứu chuộc con cái.
Để thực hiện tốt đẹp thiên chức cao cả đó, cha mẹ phải biết xây
dựng gia đình mình thành một tổ ấm, một cái nôi chan hòa “tình thương yêu êm
ái, nhân hậu, khoan dung, hiền lành, nhẫn nại, chịu đựng và tha thứ cho nhau,
cởi mở chân thành để liên kết với nhau trong mối giây bác ái yêu thương tuyệt
hảo”.
Hơn nữa, cha mẹ phải tạo dựng gia đình thành một đền thờ, trong đó
“dâng lên Thiên Chúa những bài Thánh vịnh, những khúc hát Thánh ca, do Chúa
Thánh Thần linh ứng. Hãy dùng lời Chúa dạy dỗ răn bảo nhau cho thật khôn ngoan
để lời Chúa Kitô sinh hoa kết quả dồi dào trong gia đình. Khi làm gì, nói gì,
hãy làm và nói nhân danh Đức Giêsu Kitô, và nhờ Người mà cảm tạ Chúa Cha” (Bài
II. Cl. 3, 12-21). Như thế gia đình chúng ta sẽ trở nên như gia đình Thánh Gia.
3. Lễ Thánh Gia cho chúng ta thấy rõ Thánh Gia là đền thờ hoàn
toàn dành riêng phụng thờ Thiên Chúa.
Giuse là Cha nuôi, nhưng hơn tất cả mọi người cha ruột thịt, Ngài
đã âm thầm hy sinh, hiến trọn mạng sống mình để phụng dưỡng Con Thiên Chúa, bảo
vệ an toàn gia đình thoát khỏi bàn tay khát máu của Hêrôđê, khỏi mọi gian nguy
trên đường tỵ nạn băng qua sa mạc đến Ai cập và trở về Nagiareth bình an.
Maria, người mẹ thánh thiêng trinh trong tuyệt vời, luôn luôn sống
với tinh thần tôi tớ của Thiên Chúa, sống dịu hiền, thương mến, thăm viếng,
phục vụ bà con xóm làng, tích cực cộng tác với Con Thiên Chúa trong công trình
cứu độ muôn dân và xây dựng Hội thánh. Quả thực, không một ai đứng kề thánh giá
của con bằng Mẹ, không một ai sống giữa các môn đệ trong lúc cô đơn xao xuyến
để cầu nguyện Thánh Linh xuống soi sáng và củng cố tinh thần các môn đệ bằng
Mẹ.
Chúa Giêsu, Người chí hiếu, con thảo độc nhất của gia đình. Người
con chí ái độc nhất của Thiên Chúa, đã sinh ra trong hang lừa hèn hạ, đã lớn
lên trong cảnh lao động nghèo khó. Nhưng, cháu bé này là nguồn an bình muôn
thuở cho những cụ già như Simêon ẵm bế, là nguồn hy vọng vinh phúc cho những bà
góa neo đơn như Anna, là nguồn sáng soi đường cứu độ cho muôn dân và vinh quang
cho Israel dân Ngài.
4. Giêsu – Maria – Giuse, còn gia đình nào tầm thường như gia đình
các Ngài! Còn gia đình nào siêu phàm như gia đình các Ngài! Xin dạy gia đình
chúng con biết sống giữa cảnh phàm trần với tinh thần người con, người mẹ,
người cha chí ái, chí nhân, chí thánh. Xin cho chúng con biết mừng lễ Thánh Gia
với cõi lòng chan chứa yêu thương, với tâm trí đầy tràn niềm tin, và với tâm
hồn chan hòa ơn thánh. Amen.
Để giúp con người có một môi trường thuận lợi để phát triển và
thực tập tình yêu thương, Thiên Chúa đã tạo dựng và đặt con người sống trong
gia đình. Khi vừa sinh ra, mọi người đều nhận được một tình thương dồi dào, vô
điều kiện và vô vị lợi của cha mẹ - một tình yêu thuộc loại tốt đẹp nhất trên
thế gian - đồng thời được mời gọi đáp lại tình yêu thương ấy. Đó là một bài tập
hết sức dễ dàng về yêu thương mà mỗi người đều có thể thực tập ngay từ thuở
nhỏ. Không gì dễ dàng bằng yêu thương người đã hết lòng yêu thương mình và hy
sinh cho mình. Tình yêu đáp trả này tự phát sinh do mình nhận được từ cha mẹ
mình quá nhiều. Đây là thứ tình yêu nhận nhiều hơn cho.
Lớn lên một chút, mỗi người khám phá ra, ngoài cha mẹ mình, thì
các anh chị em mình cũng yêu thương mình bằng một tình yêu tương đối vô vị lợi.
Với tình yêu này, con người phải tập cho nhiều hơn và nhận ít hơn so với tình
yêu đối với cha mẹ. Ngoài gia đình, mỗi người còn có bạn bè do chính mình chủ
động chọn lựa và yêu thương.
Đến khi trưởng thành, con người có tình yêu hôn nhân. Tình yêu này
là một tình yêu do mình chọn lựa và tương đối có điều kiện: mình yêu và đòi hỏi
người kia phải yêu lại, nếu đơn phương thì tình yêu sẽ khó tồn tại. Con người
chủ động hiến thân và hy sinh cho người mình yêu với một ý chí tương đối tự do.
Đến khi có con cái, con người tự nhiên yêu thương con bằng một
tình yêu vô vị lợi, vô điều kiện, không lựa chọn. Đó là tình yêu cao cả nhất và
phản ảnh trung thực nhất tình yêu của Thiên Chúa mà con người kinh nghiệm được
trong đời sống gia đình.
Như vậy con người thực tập yêu thương - từ dễ đến khó - trong môi
trường gia đình. Trong gia đình, con người kinh nghiệm tình yêu một cách tự
nhiên và sâu xa: con người được yêu và chủ động yêu, nhận hy sinh từ người khác
và chính mình cũng hy sinh cho người khác.
Thế nhưng con người còn được mời gọi yêu một cách rộng rãi hơn,
vượt khỏi phạm vi gia đình, để đến với những người ngoài, không ruột thịt máu
mủ. Các tín đồ trong các tôn giáo, đặc biệt người Ki-tô hữu, còn được mời gọi
yêu thương cả những người không hề quen biết, thậm chí cả kẻ thù. Yêu như thế
khó hơn rất nhiều, nhưng nhờ áp dụng những kinh nghiệm về yêu thương đã có
trong gia đình, việc yêu thương người ngoài gia đình, thậm chí kẻ thù, trở nên
khả thi hơn.
Như vậy, vai trò của gia đình trong việc đào luyện tình yêu cho
con người thật hết sức quan trọng, không gì thay thế được.
Nếu những người trong gia đình - là những người cùng máu mủ ruột
thịt, những người tự nhiên yêu thương ta nhất và ta dễ yêu thương nhất - mà ta
không yêu thương được, thì làm sao ta có thể yêu những người xa lạ, những người
khó có cảm tình, nhất là những người thường gây bất lợi cho ta?
Kinh nghiệm cho tôi thấy, những ai đối xử đã không tốt với chính
cha mẹ, với vợ, với chồng, với con cái, với anh em mình, thì khi họ đối xử tốt
với những người khác, sự tốt ấy thật đáng nghi ngờ! Rất có thể chỉ là giả tạo
để đạt một mục đích nào đó, chứ không thể là thực tình được! Vậy, các bậc cha
mẹ hãy cho con cái mình những kinh nghiệm về yêu thương tốt đẹp nhất có thể. Đó
là những gì tốt đẹp nhất mà họ có thể làm cho con cái họ!
Lạy Mẹ Maria, Mẹ và Thánh Giuse đã làm cho gia đình của mình trở
thành một gia đình gương mẫu vì mọi trong đó đều yêu thương nhau. Xin cho mọi
người trong gia đình con thực tập từ bỏ tính ích kỷ để biết yêu thương nhiều
hơn, hy sinh cho nhau nhiều hơn, để nên thánh thiện hơn.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Tục ngữ Việt nam có câu: "Con nhà tông không giống lông cũng
giống cánh". Đứa con nào cũng ít nhiều mang khí huyết của cha, mang thịt
máu của mẹ.
Nếu trong sinh học, yếu tố di truyền là tất yếu thì trong đời sống
luân lý, nề nếp gia phong cũng ảnh hưởng sâu xa đến con người. Trẻ thơ vốn dễ
bắt chước. Đứa trẻ lớn lên trong gia đình sẽ nói ngôn ngữ của cha mẹ, học lề
thói cư xử của anh chị, tiếp thu những quy ước, hít thở thấm tẩm bầu khí gia
đình. Gia đình là vườn ươm. Vườn ươm cung cấp những tố chất đầu tiên cho cây
giống. Những tố chất tốt sẽ giúp cây lớn mạnh, sinh hoa kết quả tốt đẹp. Gia
đình là con đường. Con đường thẳng sẽ dẫn trẻ đạt ước mơ, lý tưởng.
Qua bài Tin Mừng, ta thấy Thánh Gia thật là một vườn ươm tốt đẹp
đã ấp ủ hạt mầm Giêsu, một con đường thẳng tắp đưa Đức Giêsu tiến trên con
đường vâng phục Thánh Ý Chúa Cha.
Thánh Giuse và Đức Maria đưa Hài Nhi Giêsu lên Giê-ru-sa-lem để
dâng cho Thiên Chúa. Thực ra luật Mô-sê không buộc phải đưa con lên Đền Thờ,
chỉ buộc nộp một số tiền nếu đó là con đầu lòng (Xh 13,13; 34, 20). Việc dâng
Đức Giêsu trong Đền Thờ cho thấy Thánh Gia nhiệt thành chu toàn lề luật và tha
thiết gắn bó với Đền Thờ.
Sự nhiệt thành đối với lề luật và tha thiết với Đền Thờ còn được
tỏ lộ qua việc hằng năm các ngài hành hương lên Giê-ru-sa-lem. Đức Giêsu bắt
đầu được tham dự cuộc hành hương khi lên 12 tuổi.
Như những người Do-thái thuần thành, hằng tuần các ngài vào hội
đường Na-da-rét để đọc và nghe Sách Thánh. Việc đến hội đường vào ngày Sa-bát
đã trở thành thói quen của gia đình và sau này Đức Giêsu vẫn duy trì. Tất cả
những nề nếp đó in sâu vào Đức Giêsu.
Đức Giêsu tha thiết với Đền Thờ nên không những giữ trọn luật hành
hương mà Người còn ra công tẩy uế (x. Ga 2, 13-17). Đức Giêsu yêu mến Đền Thờ
đến nhỏ lệ thương cho Đền Thờ sẽ bị tàn phá cùng với Thành Thánh Giê-ru-sa-lem
(x. Lc 19, 41; 21, 5-6). Đức Giêsu yêu mến lề luật nên không huỷ bỏ dù là một
chấm, một phẩy, mà chỉ kiện toàn cho luật nên hoàn hảo (x. Mt 5, 17). Đức Giêsu
vẫn thường xuyên vào Hội Đường, nên khi trở về thăm làng quê Na-da-rét,
"Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát và đứng lên
đọc Sách Thánh" (Lc 4, 16).
Xem thế đủ biết nề nếp đạo đức gia đình đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến
cuộc đời Đức Giêsu như thế nào. Chắc chắn Đức Giêsu không chỉ thừa hưởng từ nơi
Thánh Giuse và Đức Maria lòng yêu mến lề luật, gắn bó với Đền Thờ, thói quen
siêng năng nghe và đọc Lời Chúa, mà còn thừa hưởng nơi các ngài sự mau mắn vâng
phục Thánh Ý Chúa, thái độ hiền lành khiêm nhường, tinh thần phục vụ quên mình,
sự chuyên chăm làm việc, sự ân cần âu yếm với con cái... mà ta thấy bàng bạc
trong những lời Người giảng dạy và nhất là trong đời sống của Người. Chính
trong bầu khí gia đình nề nếp ấy, Đức Giêsu đã phát triển về mọi mặt,
"càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng
Thiên Chúa".
Gia đình thật quan trọng. Chính gia đình quyết định tương lai trẻ
thơ. Gia đình là vườn ươm. Hạt mầm trẻ thơ có lớn mạnh được là nhờ vườn ươm có
đầy đủ nước, phân bón và đất tốt. Gia đình là bầu khí quyển. Bầu khí có trong
lành bổ dưỡng thì trẻ thơ mới phát triển được về mọi mặt. Gia đình là con
đường. Đường có ngay thẳng, có định hướng thì tương lai trẻ thơ mới tươi sáng
không đi vào ngõ cụt.
Lạy Thánh Gia, xin nâng đỡ gia đình chúng con.
Quý ông bà anh chị em thân mến!
Nên thánh, làm thánh là mơ ước của mọi người Kitô hữu. Ai cũng
muốn làm thánh. Ai cũng muốn được vào Nước Trời. Nhưng con đường nên thánh đòi
hỏi chúng ta phải biết từ bó ý riêng để ý Chúa được thực hiện trong cuộc đời
chúng ta. Con đường nên thánh đòi hỏi chúng ta phải vào cửa hẹp và tránh tìm sự
dễ dãi bản thân. Vì đường thênh thang thì nuông chiều bản thân và tính xác
thịt. Đường thênh thang chỉ dẫn tới diệt vong. Còn đường hy sinh, đường từ bỏ
mới giúp cho chúng ta chiến thắng sự yếu duối bản thân để nên thánh từng ngày
trong cuộc sống.
Nhìn vào gia đình thánh gia, chúng ta thấy các ngài luôn đi vào
con đường hẹp. Các ngài luôn sống công chính trước mặt Chúa. Sự công chính hệ
tại ở việc để thánh ý Chúa được nên trọn trong cuộc đời các ngài. Chúa Giêsu
hằng luôn tìm kiếm ý Chúa Cha và thực thi. Thánh Giuse đã đón nhận ý Chúa khi
nhận Maria về nhà làm vợ. Mẹ Maria đã bỏ ý riêng để sống cho ý Chúa qua lời
thưa xin vâng. Nếu Chúa Giêsu không đón nhận ý Chúa Cha thì chén đắng cứu độ sẽ
không thể thực hiện. Nếu Mẹ Maria không từ bỏ ý riêng để sống cho ý Chúa thì
mùa xuân của ơn cứu độ vẫn chưa thực hiện. Nếu thánh Giuse không bằng lòng đón
nhận Mẹ Maria vì ý Chúa thì sự nguy hiểm thật ghê sợ có thể xảy đến với Mẹ. Thế
nhưng, ý Chúa các ngài đã thực thi. Chương trình của Chúa Cha đã hoàn tất nhờ
sự vâng phục của các ngài. Cũng nhờ sự chung lòng chung ý mà gia đình thánh gia
luôn gìn giữ được sự bình an và hạnh phúc trong cuộc sống hằng ngày.
Thực vậy, nếu trong gia đình mà mỗi người một ý, gia đình ấy sẽ
tan nát, chẳng ai nghe ai. Trong gia đình mà ai cũng đề cao ý riêng của mình,
thì gia đình ấy sẽ là một hỏa ngục, vì lúc nào cũng xảy ra tranh cãi tương tàn.
Nhưng nếu mỗi người biết bỏ ý riêng để ý Chúa được thực hiện, thì gia đình ấy
sẽ có những giây phút bình an hạnh phúc. Chính khi biết từ bỏ ý riêng, con
người mới khiêm tốn đón nhận nhau, yêu thương nhau hầu tránh được những bất hòa
đổ vỡ. Nhất là biết đón nhận nhau vì Chúa, thì chắc chắn sẽ xây dựng được một
gia đình thánh, một thiên đường hạnh phúc ngay ở cuộc đời này.
Thực thi ý Chúa không phải là lời mời gọi mà là luật buộc chúng
ta, vì không phải những ai kêu lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời đâu mà
là những ai thực thi lời Chúa mới được vào Nước Trời.
Có một câu chuyện kể rằng: Một nông dân nghèo được vào thiên đàng,
ông nhìn thấy người ta mang những vật rất kỳ lạ vào trong nhà bếp. Ông thắc mắc
và lên tiếng hỏi: Cái gì thế? Có phải để nấu súp không?
Không phải. Đó là những cái tai của con người. Khi sống ở trần
gian, tai giúp họ nghe những điều tốt lành, nhưng họ không làm điều tốt lành
đó. Khi chết, chỉ có tai của họ được vào thiên đàng thôi, những phần khác của
cơ thể thì không được vào.
Một lát sau, người nông dân lại nhìn thấy người ta mang vào nhà
bếp những vật kỳ lạ khác. Ông cũng lên tiếng hỏi: Cái gì thế? Có phải để nấu
súp không?
Không phải. Đó là những cái lưỡi của con người. Khi sống trên đời,
lưỡi khuyên bảo người khác làm điều tốt và sống tốt, nhưng chính họ lại không
sống; không làm những điều tốt lành đó. Khi chết, chỉ có lưỡi của họ được vào
thiên đàng thôi, những phần khác của cơ thể thì không được vào.
Gia đình nào cũng muốn được hạnh phúc. Gia đình nào cũng muốn
thuận vợ thuận chồng để gia đình thăng tiến. Điều tiên quyết là mỗi người hãy
để cho ý Chúa dẫn dắt. Hãy trở thành một khí cụ để thực hiện chương trình của
Chúa. Hãy là những người không dừng lại ở lời nói lạy Chúa, lạy Chúa mà là
những người luôn lắng nghe và thực thi Lời Chúa.
Ước gì, mỗi gia đình trong giáo xứ chúng ta đều là những gia đình
thánh. Ước gì từng người luôn là thánh khi biết chết đi cái tôi của mình để
sống cho gia đình và nhất là cho ý Chúa được thể hiện. Amen.
(Trích website ‘Giáo Phận Thái Bình’)
Khi chiêm ngắm những tấm ảnh gia đình Thánh Gia, chúng ta thường
thấy một cảnh sống thật thanh bình: Đức Mẹ ngồi khâu vá, Thánh Giuse đang làm
mộc, còn Chúa Giêsu đang quan sát cha làm việc. Nếu cứ nhìn vẻ bề ngoài như
vậy, bất cứ ai cũng đều nghĩ rằng, đời sống gia đình Thánh Gia quả là một đời
sống lý tưởng, bởi nhịp sống mỗi ngày cứ trôi đi một cách hoàn toàn phẳng lặng.
Thế nhưng, trong thực tế, gia đình Thánh Gia cũng gặp phải những khó khăn,
những sóng gió như bất cứ một gia đình nhân loại nào khác.
Gia đình là nền tảng của Xã hội và Giáo Hội. Thế nhưng một thực tế
là, ở nhiều nơi, “cái nôi” đó đang bị đe dọa, đang bị lung lay tới tận gốc rễ.
Gia đình đang mất dần vai trò là “tổ ấm” của mình do tình trạng lục đục trong
hôn nhân của các cặp vợ chồng. Hậu quả của những đổ vỡ đó dẫn đến việc nhiều
đứa trẻ phải sống trong cảnh thiếu tình cha, vắng tình mẹ; dần dà trở thành
những nạn nhân của những tệ đoan xã hội.
Nhận thấy tầm quan trọng của gia đình trong việc Giáo dục con cái,
Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong tông huấn về gia đình “Familiaris
Consorto” đã khuyến cáo các bậc phụ huynh: “Cha mẹ phải nhìn nhận rằng, chính
họ là những nhà giáo dục đầu tiên và trên tất cả đối với con cái. Vai trò giáo
dục của họ quyết liệt đến nỗi thật khó tìm được bất cứ điều gì có thể đền bù
vào sự thất bại của họ. Cha mẹ phải nhận trách nhiệm tạo bầu khí gia đình đầy
linh hoạt trong tình yêu và tôn kính Thiên Chúa và mọi người, để sự phát triển
hoàn mỹ về cá tính và xã hội được nẩy nở trong con người. Vì vậy, gia đình là
trường học đầu tiên cho tất cả những đức tính Giáo hội và xã hội mà bất cứ xã
hội nào cũng cần phải có”. Muốn được như vậy, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta
hãy cùng nhìn ngắm vào mẫu gương gia đình Nazarét.
Từ mẫu gương Gia đình Nazarét
Khi chiêm ngắm những tấm ảnh gia đình Thánh Gia, chúng ta thường
thấy một cảnh sống thật thanh bình: Đức Mẹ ngồi khâu vá, Thánh Giuse đang làm
mộc, còn Chúa Giêsu đang quan sát cha làm việc. Nếu cứ nhìn vẻ bề ngoài như
vậy, bất cứ ai cũng đều nghĩ rằng, đời sống gia đình Thánh Gia quả là một đời
sống lý tưởng, bởi nhịp sống mỗi ngày cứ trôi đi một cách hoàn toàn phẳng lặng.
Thế nhưng, trong thực tế, gia đình Thánh Gia cũng gặp phải những khó khăn,
những sóng gió như bất cứ một gia đình nhân loại nào khác.
Còn thử thách nào lớn hơn cảnh nghèo. Vì nghèo mà biết bao gia
đình sinh ra bất hoà, ấy thế mà Thánh Gia đã phải trải qua những kinh nghiệm
của kiếp nghèo. Ngay khi Chúa Giêsu chuẩn bị ra đời, gia đình Thánh Gia đã bị
người ta xua đuổi, bị hất hủi đến nỗi phải trú ngụ trong chuồng bò lừa. Thê
thảm hơn nữa, phải sinh con giữa bầy súc vật, không giường chiếu chăn màn.
Còn gì buồn hơn là bị thù ghét, bị săn đuổi? Thánh Gia sống hiền
lành khiêm nhường, thế mà phải chịu đựng sự thù ghét của Hêrôđê. Vừa sinh ra,
còn trẻ còn non nớt mà cha mẹ đã phải bồng bế con chạy trốn, xa quê hương đất
nước, sống nơi đất khách quê người.
Còn cảnh nào bi đát bằng cảnh vợ chồng hiểu lầm nhau? Thế mà Thánh
Giuse đã hiểu lầm Đức Mẹ khi Đức Mẹ thụ thai bởi quyền phép Đức Chúa Thánh
Thần. Ai đã trải qua cảnh nghi ngờ bị phản bội sẽ hiểu Thánh Giuse đã bị giày
vò đau đớn đến mức nào.
Còn gì khiến cha mẹ buồn hơn khi thấy con cái không ngoan ngoãn
vâng lời, bỏ nhà ra đi? Vậy mà Thánh Giuse và Đức Mẹ đã phải chứng kiến cảnh
đứa con ngoan ngoãn của mình tự động ở lại Đền Thờ mà không xin phép cha mẹ.
Các ngài vất vả lo âu tìm kiếm thì ít, nhưng buồn phiền đau khổ thì nhiều. Làm
sao các ngài tránh khỏi buồn phiền khi nghĩ rằng người con mà các ngài rất mực yêu
quý đã không vâng lời cha mẹ?
Những sóng gió mà Thánh Gia đã phải đương đầu như thế có lẽ nhiều
và nặng nề hơn những gia đình bình thường. Thế nhưng các ngài vẫn giữ được hạnh
phúc gia đình. Vậy nhờ bí quyết nào các ngài đã vượt qua được biết bao cơn sóng
gió như thế?
Trước hết các ngài luôn tìm thánh ý Chúa. Mỗi khi gặp gian nan thử
thách, các ngài không tìm ý riêng mình, cũng không tìm ý thích của người đời,
nhưng luôn đi tìm ý Thiên Chúa. Tìm ý Chúa mạc khải trong Kinh Thánh, qua các
biến cố xảy đến. Tâm sự với Chúa trong giờ cầu nguyện. Hỏi ý kiến Chúa nơi các
vị đại diện.
Khi biết được thánh ý Chúa, các ngài lập tức mau mắn vâng lời. Đức
Mẹ muốn giữ mình đồng trinh, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người làm Mẹ Đấng
Cứu Thế, Đức Mẹ liền thưa: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, tôi xin vâng lời thiên
sứ truyền”. Thánh Giuse đang muốn bỏ đi, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người ở
lại, Người đã vâng lời ngay không ngần ngại.
Sau cùng, các ngài luôn quên mình vì hạnh phúc của mọi người trong
gia đình. Thánh Giuse tuy là gia trưởng, nhưng đã hết tình phục vụ Đức Mẹ và
Đức Giêsu. Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng lại xưng mình là tôi tớ của Thiên
Chúa. Còn Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng lại trở thành người con bé nhỏ nhất
trong gia đình.
Đến Gia đình chúng ta
Ngày nay, nhiều gia đình gặp khủng hoảng, lâm vào cảnh cơm chẳng
lành canh chẳng ngọt, vì đã không biết áp dụng những bí quyết của Thánh Gia.
Mỗi khi gặp khó khăn, thay vì cầu nguyện, đọc Phúc Âm để tìm ý Chúa thì lại đi
tìm ý kiến ở những nơi mê tín dị đoan. Thay vì vâng lời Chúa qua các vị bề trên
thì lại chỉ tìm ý riêng mình. Thay vì khiêm nhường quên mình thì lại kiêu ngạo
tự ái, bắt người khác phải phục vụ mình.
Vậy đâu là phương thế giúp chúng ta có thể trở nên những gia đình
mẫu mực như lòng Chúa ước mong? Lời Chúa trong thứ của Thánh Phaolô tông đồ gửi
tín hữu Côlôxê (Cl 3,12-21) đã cho chúng ta biết: “Anh em hãy có lòng thương
cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho
nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia”. Người
Việt Nam có câu: “Một sự nhịn, chín sự lành”. Trong đời sống gia đình, làm sao
có thể tránh khỏi những lúc xô xát, cãi cọ… nhưng nếu, vợ chồng biết nhường
nhịn nhau thì cửa nhà sẽ êm ấm. “Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn” là
vậy. Ở đây, lý do mà Thánh Phaolô đưa ra khiến ta phải tha thứ cho nhau là vì:
Chúa đã tha thứ những lỗi lầm cho chúng ta (x. Cl 3, 13).
Tiếp đến, để giữ được mối thuận hảo trong gia đình, thì: “Trên hết
mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl
3,14). Lòng bác ái ở đây phải phát xuất từ con tim chân thành, không kiêu căng,
không tự ái, như trong “Bài ca đức ái” mà thánh Phaolô đã dạy: Bác ái là tha
thứ, là tin tưởng cậy trông tất cả. Là thông cảm và luôn thứ tha.
Sau cùng, thánh Phaolô khuyên chúng ta: “Anh em có làm gì, nói gì,
thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giê-su và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa
Cha” (Cl 3,17). Mỗi khi hành xử, chúng ta hãy đặt câu hỏi rằng: tôi làm điều
này, nói điều kia có nhân danh Chúa hay không?
***
Đức Gioan Phaolô II đã viết: “Hôn nhân và gia đình là một trong
những tài sản quí báu nhất của nhân loại” (Tông thư Familiaris consortio, số
1). Đã là tài sản quý, thì ai cũng phải có bổn phận giữ gìn, nâng niu và trân
trọng. Mừng lễ Thánh Gia thất hôm nay, Giáo Hội ước muốn mỗi gia đình chúng ta
hãy nhìn lên tấm gương của gia đình Nazarét để học biết cách gìn giữ hạnh phúc
gia đình mình. Nguyện chúc cho tất cả các gia đình luôn sống trong sự bao bọc
chở che của tình yêu Chúa, để mai ngày, mọi thành viên trong gia đình chúng ta
sẽ được cùng hân hoan vui mừng đoàn tụ với nhau trên thiên quốc để ca tụng tình
yêu Chúa muôn đời. Amen.
(Suy niệm của Lm. Minh Anh)
Anh chị em thân mến,
Khi các bài ca của thiên thần ngưng bặt,
Khi những chòm sao trên nền trời Bêlem lặng khuất,
Khi ba vua đã trở lại quê nhà,
Khi các mục đồng cùng đoàn vật đã rút lui,
Thì bấy giờ, công việc Giáng Sinh lại bắt đầu
để tìm kiếm những gì đã mất,
để hàn gắn những gì đổ gãy,
để các tâm hồn được chữa lành,
để các nước được dựng xây trên công lý và hoà bình…
và để nhân loại được sống trong một nền văn minh mới, văn minh
tình thương Kitô.
Vậy mà tất cả ấy lại được bắt đầu từ một mái ấm, từ một gia đình,
gia đình Nazareth mà chúng ta quen gọi là gia đình Thánh Gia.
Như bao gia đình khác, Thánh Gia cũng đã trải qua những ngày nắng
ấm, những chiều giông bão; cả những khoảnh khắc an vui lẫn những phút giây bồi
hồi; nhiều lúc rộn rã tiếng cười, bao lần sùi sụt tiếng khóc.
Thử nhìn lại cái thuở ban đầu lưu luyến ấy của đôi bạn trẻ Giuse -
Maria. Từ phút truyền tin, từ buổi đón nhau về cho đến ngày sinh con giữa đồng
không mông quạnh, hay khi phải ẵm con đỏ hỏn làm khách trọ quê người…, Thánh
Gia phải đương đầu với bao thử thách. Thử thách bên ngoài do hoàn cảnh, thử
thách bên trong như các trình thuật Tin Mừng cho thấy, “Ông Giuse liền chỗi
dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập”; “Con ơi, sao con
làm thế, này cha con và mẹ phải lo lắng tìm con?”; “Cha mẹ không biết rằng con
phải lo việc nhà Cha con sao?”... Đó là cả một khủng hoảng, một thử thách.
Ngước nhìn lên hang đá, bóng thánh giá đã thấp thoáng ở đó.
Ấy thế, kính thưa Anh Chị em,
Gia đình ấy vẫn là một gia đình hạnh phúc nhất trần gian, gia đình
ấy vẫn trở nên thước ngọc khuôn vàng cho mọi gia đình trong nhân loại. Bởi lẽ,
gia đình đó là một gia đình kính sợ Chúa, một gia đình cầu nguyện, một gia đình
mà con cái là tất cả của cha mẹ và cha mẹ là tất cả của con cái. Ở đó, cha mẹ
là cả một bầu trời cho con cái và con cái là cả một bầu trời của cha mẹ.
Ở đó, có một người cha chăm chỉ làm việc, một người mẹ ít nói
nhưng cầu nguyện nhiều và cả hai cùng ra sức làm gương tốt để nuôi dạy và giáo
dục trẻ Giêsu nên người, nên thánh. Ở đó, người con Giêsu hằng vâng lời tùng
phục cha mẹ mình.
Trước bao khủng hoảng của cuộc sống hôm nay, nền đạo đức luân lý
gia đình đang hấp hối, không ít gia đình đang đối diện bên bờ vực đổ vỡ. Đời
sống vật chất của một xã hội tiêu thụ và hưởng thụ đang chực nuốt chửng cái giá
trị đạo đức truyền thống của gia đình. Cha mẹ ít có thời giờ cho nhau, chẳng có
thời giờ để ở với con cái. Chưa bao giờ mà con cái vuột mất khỏi tầm tay cha mẹ
như hôm nay. Cha mẹ mất con ngay khi con đang ở trong nhà. Gương lành gương tốt
đang trở nên một cái gì xa xỉ và hiếm hoi. Đó là chưa nói đến gương mù gương
xấu nhan nhản trên báo chí, trên phim ảnh, trên truyền hình...
Hỡi những người làm cha làm mẹ, cả những người làm con, hãy nhìn
lên Thánh Gia. Hãy chiêm ngắm Giuse, Maria và trẻ Giêsu: những tấm gương ngời
sáng của một người cha, một người mẹ và một người con hết lòng vì gia đình. Hãy
làm sống lại truyền thống gia phong Á Đông của cha ông.
Chuyện kể về một người chuyên nuôi cá cảnh. Một hôm, trong kỳ hè,
khi đang dạo chơi trước các quầy hàng dọc theo bờ biển, anh thấy một con cá ngũ
sắc tuyệt đẹp trong một chậu thủy tinh ở quầy. Đó là một con cá nước mặn xinh
xắn mà anh chưa từng thấy, anh quyết định mua về. Về đến nhà, anh ra sức chăm
sóc nó và áp dụng những phương pháp tốt nhất của một nhà chuyên môn.
Trước hết, anh đặt cá vào chậu nước mặn, cá lội tung tăng trong
môi trường quen thuộc. Thế nhưng, một tuần sau, với sáng kiến, anh thêm vào một
ít nước ngọt, mỗi ngày một ít. Cứ thế, anh tăng dần nước ngọt cho đến khi chú
cá quen hẳn với môi trường mới. Không dừng lại ở đó, anh tiếp tục luyện cá. Mỗi
ngày, anh bắt đầu đổ vào chậu một ít bùn, và cứ thế, sau nhiều tuần, nhiều
tháng, lượng bùn được tăng lên cho đến khi con cá quen hẳn với việc ngày ngày
nằm trên mặt bùn đớp mồi như một loài bò sát. Chưa hết, anh tập cho cá ra khỏi
chậu và lẽo đẽo theo anh như một con cún cưng. Anh đã thành công, vì mỗi lần
anh đi đâu, con cá màu ngoan ngoãn theo sau. Cho đến một ngày kia, chuyện đã
xảy ra khi anh có việc sang nhà một người bạn, có chú cá cùng đi. Lúc trở về,
trời đổ mưa, anh phải chạy thật nhanh và quên mất chú cá. Sực nhớ, anh quay lại
tìm, nhưng chẳng thấy đâu cho đến khi gặp một vũng nước trên đường, thì hỡi ôi,
chú cá yêu quý của anh nằm chết trong đó vì nó không biết bơi.
Anh Chị em,
Câu chuyện khiến chúng ta rùng mình sởn ốc khi nhớ đến trách nhiệm
và bổn phận của một người làm cha làm mẹ trong việc giáo dục và làm gương sáng
cho con cái. Vì “nửa cuộc đời còn lại của một con người được hình thành từ
những thói quen có được từ nửa cuộc đời trước đó”. Thói quen cầu nguyện, thói
quen đạo đức, thói quen lễ phép, thói quen dùng thời giờ, thói quen học hành,
thói quen dùng tiền…, nghĩa là giáo dục thế nào, kết quả thể ấy.
Muốn được như thế, gia đình chúng ta phải là một gia đình mà Thiên
Chúa phải chiếm địa vị tối thượng tuyệt đối trong bậc thang các giá trị. “Không
ai hơn Chúa, không chi bằng Chúa, Chúa trên hết, Chúa trước hết”. Bởi lẽ, gia
đình được dựng xây và phát xuất từ gia đình yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Nếu Thiên Chúa không chiếm địa vị độc tôn tối thượng, mọi trật tự sẽ đảo lộn.
Có Chúa, gia đình sẽ là một gia đình cầu nguyện. Nhưng để trở nên một gia đình
cầu nguyện, để nuôi dưỡng đời sống đức tin, chúng ta phải lưu ý đến ba hình
thức cầu nguyện:
1. Trước hết là hình thức cầu nguyện riêng tư, cá nhân. Mỗi người
trong gia đình cầu nguyện riêng với Chúa. Đời sống đức tin phải được đặt nền
tảng trên việc trải nghiệm cá nhân với Chúa. Một trong những món quà quý báu
nhất mà cha mẹ có thể ban tặng cho con cái là tập tành dạy dỗ và làm cho chúng
biết yêu thích cùng thưởng thức những giây phút cầu nguyện một mình. Không cách
nào để thực hiện điều đó tốt hơn là dùng chính những gương sáng cầu nguyện của
mình.
2. Hình thức thứ hai của việc cầu nguyện trong gia đình là cầu
nguyện chung: kinh nguyện gia đình. Kinh nghiệm cho thấy, các gia đình bỏ kinh,
bỏ cơm chung... là dấu hiệu cho thấy sự rạn nứt. Có hình ảnh nào dễ thương hơn
khi mọi người được lắng nghe Lời Chúa trong những giây phút này. Hãy để Chúa
Thánh Thần dạy dỗ mỗi khi đêm về nhiều hơn thay vì cả nhà ngồi chầu trước con
quái vật một mắt để nghe con người dạy bảo.
Thống Tướng Douglas MacArthur, Tham Mưu Trưởng Lục Quân Hoa Kỳ
Quân Đội Philippines thập niên 1930, người đã để lại một câu nói bất hủ:
"In war, there is no substitute for victory", “Trong chiến tranh,
không có gì thay thế được chiến thắng”; vậy mà trong tiểu sử của ông còn có một
câu nói bất hủ hơn: “Tôi là một quân nhân chuyên nghiệp, tôi hãnh diện về điều
ấy. Nhưng tôi còn hãnh diện hơn, hãnh diện hơn rất nhiều vì được làm một người
cha… và niềm hy vọng của tôi là: Khi tôi đã về bên kia thế giới, thì con tôi
vẫn nhớ đến tôi không phải với những hình ảnh oanh liệt ở chiến trận mà là
những hình ảnh ở nhà tôi, khi tôi cùng đọc với nó những lời kinh thường đọc
hằng ngày: “Lạy Cha chúng con ở trên trời…”.
3. Cuối cùng, cầu nguyện với cộng đoàn, Nhà Thờ phải là ngôi nhà
thứ hai của mỗi gia đình. Ở đó, cùng với cộng đoàn, mỗi người thờ phượng và tạ
ơn Thiên Chúa, được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và các Bí Tích cùng những sinh
hoạt không thể thiếu khác với cộng đoàn dân Chúa.
Lễ Thánh Gia hôm nay là dịp để chúng ta tự vấn về việc cầu nguyện
trong gia đình của mình. Cầu nguyện có phải là một phần sống chết của gia đình
tôi không? Cụ thể hơn là chúng ta - cha mẹ, con trai, con gái - đã góp phần và
làm gương sáng vào đời sống cầu nguyện trong gia đình thế nào?
Để kết thúc, chúng ta cùng hiệp thông cầu nguyện với Nguyên Soái
Douglas McArthur khi ông đang ở chiến trường Philippines trong những ngày mở
đầu cuộc chiến Thái Bình Dương.
“Lạy Cha, xin ban cho đứa con của con đủ sức mạnh để biết được lúc
nào nó yếu đuối, đủ dũng cảm để đối diện với chính mình khi nó cảm thấy sợ hãi…
Xin đừng để cho đứa con của con chỉ biết ước muốn mà không dám hành động… Xin
đừng để nó đi vào con đường dễ dãi tiện nghi, nhưng hãy hướng dẫn nó đi vào con
đường bắt buộc nó phải cố gắng vượt qua những khó khăn thử thách.
Xin hãy tập cho nó đứng vững trong bão tố, nhưng lại biết thông
cảm với những ai gục ngã.
Xin hãy ban cho đứa con của con có một trái tim trong sạch, có một
mục đích cao cả, biết tự chủ lấy mình trước khi muốn làm chủ người khác, biết
lo lắng cho tương lai mà không bao giờ quên lãng quá khứ.
Và khi Chúa đã ban cho nó tất cả những điều ấy, xin cũng hãy ban
cho nó có đủ tính hài hước để có thể luôn nghiêm nghị nhưng không bao giờ
nghiêm nghị một cách quá đáng.
Như vậy, là cha nó, con dám tự nhủ rằng, con đã không sống một
cách vô ích”.
Mừng kính Thánh Gia hôm nay, chúng ta cầu nguyện cho các bậc làm
cha mẹ luôn ý thức tầm quan trọng của việc hình thành những chiếc khuôn giáo
dục nhân cách, đạo đức cho con cái. Xin cho mọi thành phần trong gia đình luôn
biết làm gương sáng cho nhau, gương sáng cầu nguyện, gương sáng yêu thương quên
mình. Ở đó, tình yêu, chứng tá hùng hồn nhất của Tin Mừng luôn được hâm nóng và
toả sáng cho mọi người chung quanh. Nguyện xin Thánh Gia luôn che chở, cầu bầu
và ban bình an cho gia đình Anh Chị em trong Mùa Giáng Sinh hồng ân và suốt cả
Năm Mới này. Amen.
(Tham khảo thêm New Sunday & Holy Day Liturgies by Flor
McCarthy)
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Chúng ta cùng cả Giáo Hội Việt Nam dành năm 2014 cho việc nhìn lại
đời sống gia đình để cùng nhau làm cho Tin Mừng trở nên mới mẻ và thành động
lực sống cho gia đình. Lý do Giáo Hội Việt Nam và Giáo phận chúng ta chọn năm
nay cho việc Sống và loan báo Tin Mừng là vì trong những năm vừa qua nhìn lại
lại đời sống của các gia đình, nó đã mất đi nhiều vẻ đẹp và sự tươi sáng của
một mái ấm, mà thay vào đó, gia đình đang chịu sức ép và sự công phá nặng nề
bới các khuynh hướng của xã hội đưa đến sự đổ vỡ, bất hạnh và nạn nhân đầu tiên
của các cuộc chiến trong gia đình chính là con cái.
Ai cũng biết rằng gia đình là tế bào đầu tiên của xã hội, là Hội
Thánh tại gia, thế nhưng nhiều gia đình đã bỏ quên đời sống cầu nguyện, đã
không còn phải là một tổ ấm hiệp nhất yêu thương, đã không còn là nơi an toàn
cho con cái và sự sống, và mất đi nhiệt tâm sống đạo và giới thiệu về Chúa Kitô
cho người bên cạnh.
Nhìn vào những bản thống kê gần đây thực sự đã gây lo ngại cho
tương lai của các gia đình, các cuộc hôn nhân không tình yêu, hôn nhân vì kinh
tế với người ngoại kiều gia tăng. Tình trạng hôn nhân tan vỡ đã lên đến mức báo
động khoảng 40%, trong đó người Công Giáo khoảng 15%. Tình trạng bỏ quê lên
thành phố hoặc vào Nam làm ăn khiến cho hàng chục triệu người phải ly tán xa
gia đình vì công ăn việc làm. Con số ca nạo phá thai ở một số các bệnh viện lớn
khoảng 300.000 ca trong một năm… và bao nhiêu vấn đề về kinh tế, lối sống khác
nữa đang ảnh hưởng đến gia đình.
Trong bối cảnh ấy chúng ta mừng lễ Thánh Gia Chúa Giêsu Đức Mẹ và
Thánh Giuse, đồng thời mừng các gia đình kỷ niệm giáp năm ngày thành hôn, đây
là dịp tốt nhất để chúng ta nhìn vào mẫu gương gia đình của Chúa để soi rọi và
điều chỉnh gia đình của mình.
Không phải chỉ ngày nay mới có nhiều khó khăn cho gia đình, nhưng
có thể nói thời nào cũng có những khó khăn riêng của nó, và vì thế Giuse Maria
cũng có những khó khăn riêng trong gia đình của các Ngài, nhưng các Ngài vẫn
giữ gìn được sự bình an và làm cho gia đình mình trở thành một gia đình tuy
nghèo nàn đơn sơ, nhưng rất ấm cúng, hạnh phúc và thánh thiện. Các Ngài đã làm
cách nào?
Các Ngài đã biến gia đình mình trở thành một gia đình cầu nguyện.
Nói như thế không có nghĩa là lúc nào họ cũng đọc kinh, mà là gia đình của các
ngài luôn sống trong bầu khí cầu nguyện, luôn có tâm tình cầu nguyện. Vì Giuse
Maria rất ý thức về sự hiện diện của Chúa trong gia đình của mình, Đức Giêsu
vừa là con, song lại vừa là Thiên Chúa đang ở trong gia đình, nên mọi công
việc, mọi lo toan trong gia đình, hai ông bà đã làm vì Chúa và làm mọi việc để
cho Chúa được lớn lên trong gia đình. Chính vì thế họ dễ dàng nhận ra tiếng nói
của Thiên Chúa qua lời mộng báo đem trẻ Giêsu và Mẹ Người trốn qua Ai Cập để
tránh nguy hiểm cho Giêsu.
Chắc chắn nhìn vào khung cảnh của hang đá giáng sinh chúng ta đã
có thể thấy được bầu khí đạo đức thánh thiện và yêu thương toát lên từ gia đình
này. Gia đình này đã nêu gương cho tình tình yêu chung thủy. Có những lúc Giuse
bị “cám dỗ” giải quyết vấn đề theo thói thường của xã hội, tức là chấp nhận một
cuộc ly hôn, bỏ trốn một mình. Thế nhưng trong hoàn cảnh ấy, Giuse vẫn dằn vặt
để mong tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa trong thử thách đầu đời cuộc sống gia đình
của mình. Vì trăn trở và lo lắng cho Maria, nên Giuse đã không tố cáo Maria, mà
lại đón nhận Maria về nhà theo lời của Sứ thần mộng báo. Điều đó chứng tỏ Giuse
đã chọn để trung tín trong cuộc sống hôn nhân mà Chúa đã muốn, là đón nhận và
yêu thương Maria như là vợ của mình.
Kế đến Gia đình Thánh Gia nêu gương bảo vệ sự sống. Sự sống là quà
tặng của Thiên Chúa, thuộc chủ quyền của Thiên Chúa, con người không bao giờ
được phép định đoạt cho đứa con này được sống, được sinh ra, đứa kia phải chết.
Giuse và Maria ý thức rất rõ mầm sống trong lòng của Maria là chính Thiên Chúa
nữa. Vì thế mà Giuse và Maria đã hết lòng để bênh vực và bảo vệ sư sống này.
Khi vua Herode ra lệnh tiêu diệt tất cả các hài nhi trong vùng, thì Giuse đã
dựa vào giải pháp của Thiên Chúa, đó là đem Hài nhi và Mẹ Người trốn qua Ai
Cập. Một cuộc tẩu thoát như thế quả thật là nhiều nguy hiểm gian nan, nhưng
bằng mọi giá, Giuse đã đem Maria và Hài nhi ra đi ngay lúc nửa đêm để tránh bàn
tay độc ác của Herôđe và bảo vệ sự an toàn cho hài nhi. Rồi khi được lệnh trở
về, Giuse cũng đã khôn ngoan để chọn vùng Nazaret là một làng quê bình yên để
cư ngụ giúp cho sự an toàn của hài nhi và cả gia đình.
Sau cùng, Gia đình Thánh gia đã nêu gương cho chúng ta trong việc
sống và loan báo Tin Mừng. Nếu hiểu Tin Mừng là tin vui cứu độ, tin giải thoát
cho nhân loại và chính con người của Chúa Giêsu là Tin Mừng, Ngài đến từ Thiên
Chúa để ở với con người, thì Giuse Maria quả thật đã trở thành tấm gương sống
và loan báo Tin Mừng này. Giuse Maria đã sống Tin Mừng bằng cách mở rộng tâm
hồn để cho Thiên Chúa, Đấng cứu thế bước vào tâm hồn và chi phối cuộc đời của
mình. Cả Giuse và Maria không thể hiểu hết những lời giải thích của sứ thần về
việc đầu thai của Hài nhi, của việc đón nhận Hài nhi và đặt tên là Giêsu, song
ông bà đã xin vâng không hề nghi nan. Trong khung cảnh Giáng sinh thì chính
Giuse và Maria đã giới thiệu Hài nhi mới sinh bọc trong khăn và đặt nằm nơi
máng cỏ cho các mục đồng, cho các nhà đạo sĩ và chắc chắn các mục đồng các đạo
sĩ không chỉ thờ lạy Hải nhi mà còn được ẵm bế hài nhi và tin rằng Ngài là tin
vui cho toàn dân.
Thưa quý OBACE, với trách nhiệm làm cha mẹ, có khi nào chúng ta tự
đặt vấn đề với nhau hoặc với chính mình để tìm nguyên nhân tại sao gia đình
mình không hạnh phúc? Tại sao gia đình mình hay lục đục cãi vã…? Đừng tránh né
sự thật hãy đặt vấn đề với chính lương tâm của mình chúng ta sẽ tìm được câu
trả lời.
Nhiều gia đình hôm nay đã để cho cái ti vi và các chương trình
trên đó thống lĩnh suốt ngày trong gia đình và khiến họ không còn giờ cho việc
đọc kinh mỗi tối, không còn giờ để nói chuyện với nhau, và thậm chí bữa cơm gia
đình mọi người cũng dán mắt vào cái tivi và không còn cười đùa được với nhau
nữa. Vì không nói chuyện được với nhau, khiến họ cũng không thể hiểu nhau và
không còn thông cảm yêu thương nhau được nữa.
Nhiều cha mẹ vì ích kỷ hẹp hòi, vì thiếu lòng quảng đại mà họ biến
gia đình mình trở thành lò sát sinh, giết chết nhiều đứa con của mình. Một gia
đình như thế sẽ không thể có bằng an trong tâm hồn và vì thế sẽ không thể nào
có bình an trong gia đình, ngược lai chỉ có sự dằn vặt và cắu gắt mà thôi.
Nhiều gia đình khác đã không biết phải dạy dỗ con cái thế nào, đã để cho công
việc, ăn uống say sưa, cờ bạc, cá độ và bạn bè chiếm hết thời giờ của con cái,
khiến cho con cái cảm thấy lạc lõng ngay trong gia đình.
Hãy tạ ơn Chúa vì hồng ân gia đình Chúa ban cho mỗi người, và tạ
ơn Chúa vì món quà là vợ, là chồng, là con cái Chúa đã ban tặng cho gia đình.
Hãy đón nhận nhau như là quà tặng của Thiên Chúa để biết trân trọng đối với
nhau và nhất là trân trọng với Đấng đã trao tặng mình. Hãy nhìn vào gia đình
Thánh gia để học ở nơi đó tấm gương của người chồng, người vợ thánh này, mà
biết vun đắp cho gia đình mình trở nên một gia đình thánh thiện, ấm cúng, thuận
hòa.
Điều chúng ta cần quan tâm không chỉ là gia đình chúng ta ăn cái
gì, mua sắm cái gì, điều mà mọi người cần phải đầu tư nhiều hơn đó là gia đình
chúng ta sống như thế nào, có hạnh phúc hay không. Đó mới là điều đáng hãnh
diện và mơ ước. Khi vun đắp cho gia đình mình mỗi ngày như thế, thì chúng ta sẽ
là gia đình sống và làm chứng về Chúa cho người chung quanh. Amen.
Đoạn Phúc âm được đề nghị với chúng ta hôm nay thuật lại những sự
kiện khá đơn giản, xét về bản chất chúng ta. Nếu coi đó như một đoạn văn, không
hơn không kém thì có thể đặt một vài câu hỏi, về chi tiết thôi, chẳng hạn: sau
khi dâng Con trẻ Giêsu trong Đền thờ, ông Giuse và bà Maria có thể trở về
Nazaret ngay không? Vụ lánh nạn sang Ai Cập xảy ra lúc nào? Chúng ta đừng tìm
kiếm trong Phúc âm một thứ tự rõ ràng, chắc chắn, cho ngày tháng và sự kiện.
Điều chắc là thời kỳ Con trẻ Giêsu hết là ‘bé thơ’, giờ là một ‘nhi đồng’, đang
lớn lên về phạm vi thiêng liêng – hai ông bà đã trở lại Nazarét rồi. Nghiên cứu
đoạn văn người ta có thể dừng lại ở hai nhận vật Simêon và Anna, để suy niệm về
sự kiện tâm trông đợi Đấng Cứu Thế và cầu nguyện của hai vị về lời tiên tri
Simêon, khiến cho Maria lo sợ một kết cục đau khổ (cuộc thương khó của Đức
Giêsu). Tốt hơn, chúng ta hãy chọn một đề tài cao hơn, đó là một tư tưởng lớn
nằm trong hạ tầng toàn bộ Phúc âm và được thánh Luca diễn tả như sau: Con trẻ
lớn lên, thân thể phát triển và được ơn khôn ngoan sung mãn. Ý niệm lớn đó là ý
niệm tăng trưởng.
1) Chúng ta gặp thấy sự tăng trưởng thiêng liêng trước hết ở bà
Maria và ông Giuse. Maria được gọi là người có phúc lớn, vì đã tin, trong biến
cố Truyền tin. Rõ ràng là ở giây phút ấy nàng tin vào đề nghị của Thiên Chúa
yêu cầu nàng ưng thuận một sự kiện xảy ra lúc đó. Đức tin của nàng không cho
nàng xem thấy trước phối cảnh tương lai của toàn thể lịch sử Đức Giêsu, lúc đó
mới sinh ra trong lòng nàng. Do một sự ưng thuận mỗi ngày, liên tục, nàng tiến
dần vào mầu nhiệm định mệnh đời mình. Niềm tin Maria là 1 niềm tin luôn luôn
tăng trưởng. Lời tiên tri của Simêông cho nàng biết trước 1 đường đời đau khổ,
nhưng không cho rõ chi tiết. Do sự ưng thuận ngày một đổi mới, nhắc đi nhắc
lại, Trinh nữ Maria hiểu rõ thêm Thiên Chúa đòi hòi gì ở nàng, biết rõ thêm Con
Trẻ Giêsu là ai. Đối với Giuse cũng vậy. Đây là một điều quan trọng đối với
chúng ta. Dường như mầu nhiệm tăng trưởng nhân tính của Đức Giêsu có mục đích
là nhờ đức tin đưa chúng ta tiến vào mầu nhiệm tăng trưởng thần tính của chúng
ta. Sự tăng trưởng thần tính đó, Maria và Giuse là những người đầu tiên được
hưởng. Thật là một điều tốt lành khi nghĩ rằng hai ông bà rất gần với chúng ta
trong điểm đó. Vì đã trải qua nên biết rõ, hai ông bà cầu bầu cho niềm tin của
chúng ta tăng trưởng tốt.
2) Con trẻ lớn lên… Điều ghi nhận này liên hệ trực tiếp đến sự
tăng trưởng thể chất của Đức Giêsu. Đó là một sự kiện trong phần lịch sử đã
qua, thật sự qua rồi. Tuy nhiên có một sự kiện khác thuộc lĩnh vực mầu nhiệm,
được hoàn tất trong lịch sử của chúng ta, ngày nay Đức Kitô tiếp tục lớn lên.
Thật vậy, Người không những là Giêsu, một người như những người khác, đã sống ở
Palextin từ năm nào đến năm nào đó. Người còn là Con Thiên Chúa đã xuống thế để
thần hoá nhân loại. Người tiếp tục lớn lên trong nhân loại. Thánh Phaolô nói
đên sự xây dựng thân thể mầu nhiệm Đức Kitô cho đến khi chúng ta hết thảy đạt
thấu sự duy nhất trong kính tin và am tường về Con Thiên Chúa, mà nên người
thành toàn, đạt đến tầm vóc xứng với sự viên mãn của Đức Kitô (Eph.4,13). Như
vậy, Đức Kitô lớn lên trong tâm khảm sâu thẳm của mỗi người chúng ta. Dịp lễ
Thánh Gia Thất, Giáo Hội dùng một đoạn Phúc âm gợi lên một trong những mối quan
tâm chủ yếu của mọi gia đình, đó là sự lớn lên của đứa con. Chúng ta có thể từ
đó suy niệm về sự lớn lên của Đức Kitô trong đại gia đình loài người, nghĩa là
trong tâm hồn mỗi chúng ta.
Khi gợi lại kỷ niệm đáng ghi nhớ về gia đình của mình, Đức cố Hồng
Y Marty, nguyên Tổng Giám Mục Giáo phận Paris, đã nói: “Tôi đã bập bẹ những
tiếng đầu tiên về Thiên Chúa, khi nhìn mẹ tôi và cha tôi đọc kinh cầu nguyện.
Tôi đã học biết sự sống, học biết sự chết, tôi đã học biết thế nào là yêu
thương trong cuộc sống hằng ngày, khi tôi giao tiếp với thân nhân và những
người quen thuộc. Tôi yêu mến Thiên Chúa, yêu mến Giáo Hội như đã yêu mến mẹ
tôi. Tôi không học mà cũng biết người phụ nữ đó đã cho tôi sự sống và mạc khải
cho tôi tình yêu”. Gương sáng của cha mẹ đã giáo dục cho con cái nhiều điều
tốt.
Chúa Giêsu đã sinh ra trong một gia đình, mà lại là một gia đình
nghèo. Ngài cũng có cha mẹ như bao trẻ thơ khác, như mỗi người chúng ta. Và cha
mẹ Ngài cũng là những người lao động, phải sống bằng mồ hôi nước mắt như hầu
hết các gia đình khác. Là Thiên Chúa, Ngài đã đến với loài người như một con
trẻ, bé bỏng, cần đến sự đùm bọc, che chở của những người thân. Cũng như bao
trẻ em khác, Ngài cũng bị những biến cố lớn nhỏ của gia đình và xã hội chi
phối, đưa đẩy, ảnh hưởng.
Rồi những năm thơ ấu, những thời kỳ thơ ấu và thành niên, Chúa
Giêsu đã sống bên cạnh Đức Maria, Mẹ Ngài và Thánh Giuse, cha nuôi Ngài. Ngài
cũng đã phải tập đi, tập nói, tập đọc, tập viết. Ngài cũng đã phải học Thánh
Kinh, Lề Luật. Ngài cũng đã phải tập lao động với những dụng cụ như cưa, bào,
đục… trên những khúc cây, tấm ván. Ba mươi năm tại Nagiarét là một chuỗi ngày
bình dị, như hàng trăm gia đình cùng thôn làng, như hàng triệu cuộc sống của
con người qua các thời đại.
Đó là thời kỳ ẩn dật, vì Chúa Giêsu không để lộ chân tính đích
thực của mình ra cho những người chung quanh biết. Đó cũng là thời gian chuẩn
bị cho quãng đời công khai của Ngài, theo nghĩa là Ngài tích lũy cho mình những
kiến thức và kinh nghiệm cần thiết cho việc rao giảng Nước Thiên Chúa sau này.
Dưới một khía cạnh khác, chúng ta có thể nói, đó là những năm
tháng trao đổi, cho và nhận giữa Con Thiên Chúa và gia đình nhân loại, được đại
diện nơi Thánh Giuse và Đức Maria. Nếu chỉ là Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế không
cần phải nhận ở nhân loại một thứ gì cả. Nhưng vì Ngài là Thiên Chúa làm người
và ở giữa chúng ta, nên Chúa Giêsu đã nhận rất nhiều của những người thân, nhất
là của Mẹ Maria: cưu mang, sinh đẻ, nuôi dưỡng, giáo dục. Ngài cũng đã nhận rất
nhiều từ cộng đoàn Nagiarét, từ Hội đường Do Thái, từ cuộc sống của những người
chung quanh, nhất là những người nghèo khổ, bệnh tật, lao động. Chúng ta khó
hình dung được những điều đó, vì chúng ta có khuynh hướng đặt Thiên Chúa ở chốn
cao xa mà quên điều hệ trọng là Thiên Chúa đã làm người, đã nhập thể và nhập
thế.
Chúa Giêsu đã nhận rất nhiều từ gia đình nhân loại, nhưng thực ra
Ngài còn cho nhiều hơn, vì Ngài đã cống hiến tất cả cho chúng ta, cả bản thể
Thiên Chúa, cả năm tháng, cuộc sống và cái chết của Ngài, một cách âm thầm,
khiêm tốn vô vị lợi.
Trong cuộc sống bình dị nhưng chất chứa bao tình thương ấy, Chúa
Giêsu đã sống thân mật với Cha Ngài, đã sống hiếu thảo với cha mẹ trần thế của
Ngài, đã sống chan hòa bác ái với những người chung quanh. Rồi cha mẹ Ngài là
những người kính sợ Thiên Chúa cũng đã sống hết mình với Thiên Chúa, tận tụy và
thương yêu con cưng của mình. Giữa Đức Maria và Thánh Giuse thì thật là một mối
liên hệ có một không hai trong lịch sử loài người, chắc chắn tình yêu thương
đậm đà và lòng tôn kính là những nét đặc thù nhất, khiến Thánh Giuse được gọi
là người công chính, còn Maria là người có phúc hơn mọi người phụ nữ.
Sách Huấn ca hôm nay đã nhấn mạnh đến lòng hiếu thảo của người con
đối với cha mẹ trong gia đình, khiến chúng ta dễ hình dung ra cách sống của Con
Thiên Chúa làm người dưới mái nhà Nagiarét. Thư thánh Phaolô gởi tín hữu Côlôsê
đề cập đến mối quan hệ giữa những người được Thiên Chúa yêu thương, tuyển chọn
sống thành gia đình, gia đình của Thiên Chúa: đó là lòng từ bi, nhân hậu, là
khiêm cung, ôn hòa, là nhẫn nại chịu đựng, chấp nhận nhau và tha thứ cho nhau.
Gia đình của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse là một gia đình đã sống trọn
vẹn hơn ai hết tinh thần ấy, vì các thành viên trong gia đình thánh này đều là
những tôi tớ của Thiên Chúa, trong ý nghĩa là mỗi vị và cộng đoàn ba vị đều
lãnh nhận từ Thiên Chúa một sứ mạng đặc biệt. Gia đình Nagiarét là gương mẫu,
là lời mời gọi đối với mỗi người chúng ta, đối với mỗi gia đình Công giáo ngày
nay.
Ngày nay, hơn bao giờ hết, với sự tiến bộ của ngành khoa học nhân
văn và xã hội, con người càng khám phá ra chiều kích xã hội của mình và tầm
quan trọng của cộng đoàn gia đình trong đời sống xã hội. Gia đình là cái nôi
đầu tiên đón tiếp con người và cung cấp cho con người những điều kiện cần thiết
của cuộc sống và hạnh phúc. Đối với các kitô hữu, gia đình còn mang một ý nghĩa
khác nữa: đó là một cộng đoàn yêu thương phản ảnh cộng đoàn của Thiên Chúa,
theo gương gia đình Nagiarét. Trách nhiệm thật lớn lao của các bậc làm cha làm
mẹ. Chức năng nhiệm vụ ấy cha mẹ chỉ có thể hoàn thành được nếu biết yêu thương
và tha thứ như chính Chúa Kitô đã yêu thương và tha thứ cho chúng ta. Đó là quy
luật trọng yếu trong mối quan hệ giữa vợ chồng, giữa con cái và cha mẹ. Vì
trong cuộc sống gia đình, con người có thể biến cuộc sống ấy thành thiên đàng
hay hỏa ngục trần gian. Cuộc sống gia đình tạo cho cha mẹ những cơ hội quý báu
để thực hiện tinh thần yêu thương quên mình, mưu tìm hạnh phúc cho người khác.
Cuộc sống gia đình luôn luôn đòi hỏi cha mẹ phải dẹp bỏ ý riêng mình, quan điểm
riêng của mình, để tôn trọng và giúp đỡ con cái phát triển về mọi mặt.
Do sự khác biệt về tính tình, môi trường giáo dục, tuổi tác và sở
thích, nên chuyện xung đột, căng thẳng, là chuyện đương nhiên không thể tránh
được giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái. Nhất là trong một vài hoàn cảnh khó
khăn về kinh tế tài chính. Muốn vượt qua những cảnh xung đột, những giờ phút
căng thẳng ấy, mỗi người, dù là vợ hay chồng, cha mẹ hay con cái, đều phải thấm
nhuần tinh thần của Chúa Kitô: “Tôi đến để phục vụ chứ không để được phục vụ”.
“Ai muốn làm đầu thì hãy làm tôi tớ phục vụ mọi người” (x. Mt 20,26-28). Ở đây,
cha mẹ có trọng trách nêu gương cho con cái, vợ chồng có trách nhiệm làm chứng
cho nhau tình yêu quảng đại và vô vị lợi của Thiên Chúa. Lời căn dặn của Thánh
Phaolô phải là phương châm cho các bậc cha mẹ cũng như con cái trong gia đình:
“Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Đức Giêsu Kitô, và nhờ
Ngài mà cảm tạ Chúa Cha”(Cl 3,17).
Như thế, gia đình kitô hữu, theo gương đời sống gia đình của Thánh
Gia Thất, với tình yêu thương và tha thứ, với tinh thần phục vụ quảng đại và vô
vị lợi, sẽ là ngọn đèn tỏa sáng, sẽ là cái nôi hạnh phúc và đem lại hạnh phúc
cho anh em đồng bào trong xã hội chúng ta hôm nay.
Những biến cố chung quanh việc thụ thai và sự ra đời của Đức Giêsu
đánh dấu rằng Người là một con trẻ đặc biệt, với một vận mệnh duy nhất. Thông
qua Người, lời hứa đối với ông Apbraham sẽ được nên trọn. Người sẽ trở thành
niềm hy vọng và an ủi của dân Israen, và là ánh sáng cho các dân tộc. Nhưng Tin
Mừng cũng nói về sự khước từ Đức Giêsu, một sự khước từ sẽ gây ra một lưỡi gươm
đâm thấu qua trái tim của Đức Maria. Cha mẹ chia sẻ niềm vui và nỗi đau khổ của
con cái họ, và ngược lại.
Không có lý do gì để tin rằng Đức Maria và thánh Giuse hiểu biết
rõ ràng trọn vẹn hoặc về vận mệnh vĩ đại của Con Trẻ Giêsu. Tuy nhiên, khi đón
nhận Người vào trong cuộc đời của mình, và nuôi dưỡng Người trong lòng tin và
tình yêu thương, các ngài đã góp phần trong việc giúp đỡ Người nhận ra vận mệnh
của mình. Tin Mừng cho thấy rằng tại nhà Nagiarét, các ngài đã tạo ra một bầu
khí mà trong đó, Đức Giêsu có thể phát triển đến khi trưởng thành.
Mỗi đứa con đều là một quà tặng của Thiên Chúa. Và mỗi đứa con đều
có một vận mệnh duy nhất. Nhưng vận mệnh đó còn ẩn giấu đối với cha mẹ. Họ thắc
mắc không biết con cái họ sẽ trở thành gì. Một cách tự nhiên, họ mong muốn điều
tốt đẹp nhất cho chúng. Nhưng tất cả điều mà họ có thể làm được, đó là khai mở
cho chúng trên con đường đời của chúng. Vượt lên trên tất cả, họ phải cẩn thận
để không ngăn cản kế hoạch của Thiên Chúa đối với con cái.
Cha mẹ nên cầu xin Thiên Chúa hướng dẫn con cái của mình theo
những chọn lựa mà chúng thực hiện. Nếu chúng ta phải hoàn tất điều mà Thiên
Chúa muốn chúng ta hoàn tất, thì tất cả chúng ta đều cần sự hướng dẫn của
Người.
Nói một cách lý tưởng, gia đình phải là một cộng đoàn yêu thương
nhỏ bé. Bầu khí trong gia đình là yếu tố quan trọng nhất. Bầu khí đó được xác
định do phẩm chất của các mối tương quan. Cha mẹ và con cái đều đóng góp vào
việc tạo ra bầu khí đó.
Cuộc sống gia đình mang rất nhiều thử thách. Gia đình không chỉ
biết tiếp nhận; mà còn phải biết cống hiến nữa. Những mối dây liên kết trong
gia đình làm cho chúng ta được phong phú, nhưng cũng ràng buộc chúng ta. Chúng
lôi kéo theo những ràng buộc của trách nhiệm và tình yêu thương.
Thánh Luca không nói gì cho chúng ta về thời niên thiếu của vị
tiền hô, tất cả thời tuổi trẻ của vị này đều chìm trong im lặng và cô đơn. Trái
lại, thời niên thiếu của Chúa Giêsu được kể lại trong ba trường hợp. Trường hợp
thứ nhất là lễ cắt bì, chỉ được kể lại trong có một câu. Sự cốt yếu của lễ này
là đặt tên Giêsu, tên đã được Thiên thần nói trước, tên này nêu rõ bản tính của
Hài nhi trong những ngày sắp tới. Chính do danh hiệu đó mà Giáo Hội mừng kính
bằng một lễ đặc biệt, cũng chính danh hiệu đó mà biết bao người không ngớt
chiêm niệm và đã là nguồn hân hoan vui sướng cho các nhà Thần bí: danh hiệu mà
theo kiểu nói của Thánh Phaolô, mọi gối phải quỳ lạy ở trên trời, lẫn dưới thế
và cả dưới hoả ngục.
Đang khi đó thì Thánh Luca lại viết lại cho chúng ta về lễ dâng
Chúa trong đền thờ với nhiều chi tiết hơn và khiến ta phải lưu ý tới hai điều
sau:
1. Những biến cố.
Nhìn bên ngoài, chẳng thấy có gì đáng lưu tâm. Hàng năm có cả trăm
đôi cha mẹ trẻ bước lên Đền thờ tiến vào cửa trước dành cho các phụ nữ để được
thanh tẩy theo nghi lễ và chuộc lại đứa con mới sinh. Luật buộc thanh tẩy vì sự
thụ thai và sinh con đã liên kết chặt chẽ với tội lỗi và với đam mê hỗn độn.
Theo chương trình của Thiên Chúa, cả hai việc đó, phải là cái gì mang tính chất
bí tích vì đã chuyển đời sống siêu nhiên đồng thời với đời sống tự nhiên. Nhưng
tội đã làm nào loạn nguồn mạch và như vậy, tội lẫn vào việc lành, ‘nhân loại
đầy trần tục’ với thần thiêng. Lễ tế được đặt ra đối với người mẹ là bà cần
phải thanh tẩy để có thể bước vào đền thờ. Đức Maria không có tiền để mua một
con chiên làm lễ tế và phải đành lòng như bao người mẹ nghèo nàn khác, dâng một
ccặp chim câu để làm lễ vật. Việc chuộc lại đứa trẻ trai được đặt ra vì tất cả
những của đầu mùa, nơi ruộng nương, nơi đoàn vật và nhất là nơi con người đều
đặc biệt thuộc về Giavê. Như vậy cậu con trai phải chuộc lại để có thể sống đời
sống của mình. Tất cả những điểm đó chẳng có chi đặc biệt và đáng lưu tâm.
Tuy nhiên, nội dung của sự việc mới có khác biệt. Đức Maria rõ
ràng là người Mẹ chẳng có dính bén chút gì để phải thanh tẩy. Mẹ đâu thụ thai
bởi phàm nhân, mà do phép Chúa Thánh Thần. Mẹ cũng chẳng có một ước muốn xấu xa
gì, vì Mẹ ‘không biết đến người nam’. Vì thế, việc chuộc lại Hài nhi chỉ mang
hình thức bên ngoài. Chúa Giêsu xét là con đầu lòng của Chúa Cha, thì thuộc
quyền sở hữu của Người. Nhưng Ngài sẽ chuộc lại những người khác và giá Ngài
phải trả là giá máu của tim Ngài, chứ không phải bằng tiền bạc.
Như Đức Kitô tuân phục Lề luật Môisen hay sắc lệnh của Xêsarê,
người Kitô hữu cũng phải phục tùng các quyền hành bên ngoài điều khiển nhân
loại bằng ý muốn hay với phép của Thiên Chúa và tuân hành các quy luật như
những người khác trong lãnh vực luật pháp. Bên ngoài chẳng có gì lạ kỳ đánh dấu
sự hiện hữu và đời sống của người Kitô hữu. Vì không nhất thiết là sự biến đổi
nội tâm trước nhan Chúa phải kéo theo sự cách mạng môi trường mình sống.
2. Những lời nói
Những biến cố này có thể qua đi mà ít được biết tới nếu không có
một người đến gặp đôi vợ chồng trẻ để chào thăm Hài nhi với những ngôn từ lạ
lùng. Ông này không phải là tư tế, mà chỉ là một người dân thường, một người
thực công chính, đang chờ đợi ‘niềm an ủi của Israel’, chờ đợi Đấng Messia. Đầy
Thần linh Thiên Chúa và nhờ ơn soi sáng, ông đã nhận ra Đấng Messia nơi Hài nhi
do người Mẹ khiêm hạ này bồng trên tay.
Lời đầu tiên của ông là lời thân thưa với Thiên Chúa. ‘Muôn lạy
Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi’.
Thiên Chúa là Chủ Tể, ai muốn phục vụ Ngài, là tôi tờ của Ngài. Đời sống của cụ
già Simêon là một sự hiện hữu và là một công việc phục vụ Thiên Chúa, được kể
như một cuộc phục dịch, nhưng bây giờ đã tới lúc nghỉ ngơi sau chuỗi ngày dài
lao động. Sự chết là một cuộc nghỉ việc, một sự giải phóng trong an bình và về
với an bình.
Hy vọng và ơn cứu độ là phần thưởng lúc trời chiều ngả bóng, đã
nâng đỡ ông suốt thời gian thi hành nhiệm vụ khó khăn. Đấng Cứu độ đã đến, công
việc đã có được ý nghĩa và đời sống dấn thân trên con đường cứu độ lời kinh
‘muôn lạy Chúa’ (Nunc dimittis) là lời kinh tối của Giáo Hội.
‘Mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ’. Cụ Simêon, con người ưu tư, suy
nghĩ, hẳn phải đau khổ vì những cảnh vô đạo chung quanh. Chính đôi mắt này đã
từng chứng kiến những cảnh tội lỗi và phản giáo, nay thấy Đấng mang lại ơn cứu
độ và sự thánh thiện. Đức Kitô là thày thuốc sẽ chữa trị tất cả và là Đấng
Thánh sẽ thánh hoá tất cả.
‘Chúa dọn ra trước mặt người trần’. Những chướng ngại hạn hẹp của
Israel đã bị phá đổ, chiều kích của Giáo Hội phổ quát tỏ hiện. Israel ra đi mở
rộng chân trời của Simêon và làm cho người ta nghĩ đến những khuôn khổ mới mẻ
của tinh thần và con tim.
‘Ánh sáng rạng soi dân ngoại’. Những lời tiên tri của Isaia (đoạn
42 và 29) đã được nhắc lại ở đây. Dân ngoại không còn là người bị khinh khi,
xua đuổi; không còn bị cái nhìn trịch thượng của những người đã được chọn ném
xuống. Vì ánh sáng của Đức Kitô sẽ đâm thấu đêm đen, đuổi đi tất cả những bóng
tối và đem đến một ngày mới không có chiều tà.
‘Còn Israel dân Chúa được vinh quang’. Nhờ Chúa Giêsu, cái cây của
dân này sẽ triển nở sinh hoa kết quả. Israel xấu sẽ trở nên đối tượng của vấp
phạm và tên nó sẽ bị nhiều người nhạo báng và ghét bỏ. Còn Israel chân thật sẽ
là cánh đồng nơi các hoa mầu quý giá mọc lên, sẽ là núi đá vọt ra những dòng
suối, sẽ là nền trời nơi mặt trời toả sáng; nên các tín hữu sẽ nhắc đến tên nó
với lòng kính trọng và biết ơn.
Theo lời của Simêon, Israel đặt sự cao cả đã nhận được từ nơi
Chúa, dưới chân Chúa nhập thể. Bài tang ca của Israel là một bài thánh thi cho
Đức Kitô; Israel đã tàn lụi trong những tia sáng của luồng ánh sáng rạng rỡ
hơn; Israel chết đi để được đưa vào một đời sống mới nhờ Đức Giêsu Đấng Thiên
Sai.
Lời thứ hai của Simêon là lời nói với Đức Maria: ‘Hài nhi con bà
sẽ được đặt lên để nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay chỗi dậy và làm dấu
gợi lên chống đối’. Kitô giáo không cưỡng chế và cũng chẳng dùng sức mạnh để
bắt buộc ai, trái lại chỉ là lời mời mọc và kêu gọi. Con người phải quyết định.
Họ có thể nói nhận hay không. Nhờ lời ‘nhận’ họ sẽ đứng thẳng lên như người bị
tê liệt được chữa khỏi, vì họ sẽ bước đi trên con đường của Thiên Chúa. Với
tiếng ‘không’ họ tự mình chỗi dậy và tin rằng mình đã hoàn hảo: sự suy sụp của
họ đã đến. Tất sẽ kết thúc bằng đổ vỡ và đồi bại.
Giữ một chỗ đối với Đức Kitô là quyết định số phận con người và
nhân loại trước nhan Thiên Chúa. Đức Kitô đưa ra hai nẻo đường lớn dẫn tới cứu
độ và sa ngã, dòng nước đôi ngả, sự nhận thức giữa chân và giả. Đối với Mẹ
Ngài, việc biết được Đức Kitô, Đức Kitô đích thực, sẽ gặp chống đối và phản
kháng hẳn phải là nỗi đau đớn ghê gớm trong đời Mẹ: ‘Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu
tim chị’. Vì tiếng ‘nhận’ và ‘không’ sẽ làm lộ nhiều tâm hồn trong Israel. Cái
bị che dấu sẽ đưa ra ánh sáng. Cứng lòng, ý tưởng bất chính, ích kỷ cá nhân,
kiêu ngạo và ghen tương… tất cả những gì là xấu xa, kẻ thù của Thiên Chúa, đều
tỏ lộ ra. Tất cả những gì là bỉ ổi, suy đồi và hôi thối đều bị thấy rõ. Nhìn
thấy các tư tưởng con người hệ ở chỗ vạch trần những giả dối và mở toang những
nấm mồ quét vôi trắng. Nhưng trên hết phải là sự dửng dưng không tiếp nhận tình
yêu Nhập thể, đó mới chính là mũi gươm đâm sâu vào trái tim người mẹ giầu tình
thương này. Như vậy, ngay từ đầu đời Chúa Giêsu, người ta đã nhìn thấy ‘ Bà mẹ đau
khổ’ là chính Người đứng dưới chân thánh giá, vào những giây phút cuối cùng với
con bị đâm thấu tim, hoàn tất lễ hiến tế mạnh mẽ hơn lòng ghét ghen của nhân
loại.
Khi Tin mừng nói rằng, ‘Cha và Mẹ Ngài ngạc nhiên về những gì nói
về Ngài’ đã chứng tỏ cho ta thấy chính các vị cũng phải lần bước trong ánh sáng
đức tin, đang khi luôn nhận thức và xác quyết những chân lý mới.
Hợp với ông già Simêon, có bà già khả kính Anna, đại diện cho cả
dân tộc, nam cũng như nữ, ca tụng Thiên Chúa và mang tới một sứ điệp ‘cho những
người đang trông đợi phúc cứu chuộc Israel’.
Người ta không thấy nhắc gì tới cái chết của ông già bà cả này.
Các cụ đã làm tròn sứ mạng của mình và đã sang thế giới bên kia với tâm hồn
bình an và vui sướng trong cũng một cảm nghĩ rằng Israel chân chính mới mẻ là
người luôn cởi mở trong Đấng Messia.
“Theo luật Môsê… cha mẹ dâng con cho Chúa”.
Một ông vua muốn thử tài phán đoán của các con, ông đưa ra hai
viên ngọc quý, một viên thật, một viên giả, viên ngọc thật ông gói trong giấy
báo cũ, còn viên giả ông để trong một hộp thật đẹp. Ông gọi người con đầu tới
và bảo anh chọn lấy một viên. Anh bỏ qua gói giấy xấu, lựa lấy viên trong hộp
đẹp. Thế là anh đã chọn viên ngọc giả. Đến lượt người con thứ, vua cha cũng bảo
như thế, anh này vốn là đứa con hiếu thảo, anh nói: “Thưa cha, con xin cha lựa
giùm con”. Dĩ nhiên vua cha lựa cho anh viên ngọc thật.
Chúa Cứu Thế đến trần gian cũng ví được như một ngọc quý nhưng
được che phủ trong dáng vẻ bình dị, tầm thường, ít người nhận ra. Muốn nhận ra
Chúa Cứu Thế phải có ơn đặc biệt, phải chuẩn bị tâm hồn xứng hợp.
Chúa Giáng Sinh chẳng những như một em bé bình thường, mà còn kém
các em bé bình thường nữa. Chúa cũng tuân giữ luật lệ như mọi người, dù em bé
Giêsu là Thiên Chúa, dù Đức Maria vô cùng tinh sạch, Mẹ cũng bồng Chúa lên đền
thờ làm nghi thức thanh tẩy và dâng lễ vật chuộc Chúa về. Một cặp chim, đó là
lễ vật của nhà nghèo. Gia đình Chúa lên đền thờ như một gia đình nghèo khó thi
hành luật định. Chúa như là viên ngọc dấu kín, thế nhưng đã có ông Simêon và bà
Anna nhận ra Người.
Trong đền thánh có bao nhiêu người giỏi giang, thông thái như các
tư tế, các luật sĩ. Họ am tường Kinh Thánh, hiểu rõ các lời ngôn sứ tiên báo về
Chúa Cứu Thế, nhưng họ không nhận ra Chúa, vì Chúa quá nghèo khó bình dị. Trong
khi ông chỉ là một ông lão nghèo. Bà Anna chỉ là một quả phụ, bần cùng yếu
đuối, không quyền hành trong xã hội. Nhưng họ vốn là những người con hiếu thảo
của Thiên Chúa: khiêm tốn, đạo hạnh, biết thờ Chúa với tất cả tấm lòng tin yêu
phó thác vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Họ giống như người con
thứ của vua trong câu chuyện kể trên. Họ đã được Chúa Thánh Thần soi sáng để
nhận ra Chúa Cứu Thế qua dáng vẻ tầm thường của một hài nhi. Họ đã được đón
nhận Chúa Cứu Thế, như những người nghèo hèn bé nhỏ được Chúa chúc phúc vậy.
Simêon và Anna nghèo khó đã hân hạnh được bồng ẵm Chúa Cứu Thế,
được thay mặt nhân loại nói lời đầu tiên tung hô Chúa đến.
Simêon cũng đã tiên báo Chúa Cứu Thế sẽ là một báu vật được giấu
kín giữa lòng thế nhân. Vì vậy có người nhận ra nhưng đa số vẫn từ chối Ngài,
thậm chí còn chống đối Ngài. Do đó Ngài sẽ là duyên cớ cho nhiều người vấp ngã.
Và thái độ họ sẽ như một lưỡi gươm đâm thấu trái tim Đức Maria, sẽ làm Mẹ tan
nát cõi lòng như ta thấy về sau.
Chu toàn bổn phận theo luật định xong, gia đình Chúa Giêsu trở về
Nagiarét. Ở đó, Chúa Giêsu lớn khôn, học hành, tập nghề thợ mộc như các bạn
thiếu nhi. Cuộc sống Chúa vạch rõ tầm quan trọng của gia đình, cái nôi cần
thiết cho mọi người. Chúa sống ở trần gian 33 năm, thì đã sống 30 năm bình
thường trong gia đình nghèo khó.
Xin Chúa giúp chúng con theo gương Chúa sống trung hiếu với Cha
trên trời, thảo kính ông bà cha mẹ ở trần gian và sống tình huynh đệ với mọi
người. Biết vâng giữ luật Chúa, luật Hội Thánh và các luật lệ chính đáng trong
xã hội.
Đề tài "gia đình" là một đề tài xưa như trái đất, mà
cũng rất thời sự như "tình yêu", "tình yêu và tuổi trẻ",
"dự bị hôn nhân", "thăng tiến hôn nhân", vân vân và vân
vân...
Ai cũng biết rằng tất cả các tạo vật - giống nào theo giống đó -
có một mối tương quan rất chặt chẽ, một sự hỗ tương tác dụng để "sinh sôi
nẩy nở" (Kn 1,22) và lan tràn khắp mặt đất, bầu trời lẫn biển khơi. Riêng
loài người thì được Đấng Tạo Hóa ban cho quyền năng "sinh sôi nẩy nở và
nên đầy dẫy trên mặt đất, và làm bá chủ muôn loài" (Kn 1,28-31). Đó là
"tính xã hội" của muôn loài nói chung, của loài người nói riêng = xã
hội loài người thành hình.
Quả thật "không ai là một hòn đảo" (Thomas Merton), mặc
dầu dưới một góc độ nào đó, "mỗi người là một hòn đảo" (Carl Rogers).
Tựu trung, có lẽ ngoại trừ ông Adong và bà Eva [và cả hài nhi Giêsu? - ai muốn
kiểm chứng thì hỏi hài nhi Giêsu đi!] còn hết thảy chúng ta, ai cũng có lổ rốn.
Phải chăng lổ rốn là dấu chứng rõ nét nhất của mối tương quan giữa các tạo vật,
giống nào theo giống đó, đặc biệt là giống người? = nhân tố của xã hội loài
người: gia đình.
Trong chiều hướng đó, Ngôi Lời mặc xác phàm đến ở-với-chúng-ta
trong một gia đình - một gia đình rất đặc biệt, có thể nói rằng gia đình duy
nhất ở trần gian biểu hiện nếp sống hoàn toàn phù hợp với ý định của Đấng Tạo
Hóa khi tạo dựng loài người, và là mẫu mực cho tất cả mọi gia đình của nhân
loại trong tiến trình đón nhận ơn cứu độ, ơn canh tân đổi mới để đạt đến sự
viên mãn của "Bình An dưới thế cho người Chúa thương".
Chúng ta đã suy niệm và hân hoan ca hát: "Vinh Danh Thiên
Chúa trên trời - Bình An dưới thế cho người Chúa thương". Và chúng ta cũng
biết rằng Đêm Giáng Sinh chỉ là khởi điểm của chương trình "tạo dựng
mới" mà Thiên Chúa đã hứa ban cho loài người ngay sau khi tổ tông phạm
tội.
Tiến trình canh tân đổi mới này phải có "hợp đồng hai
chiều" giữa Thiên Chúa và loài người, như thánh Augustinô đã nói:
"Thiên Chúa tạo dựng chúng ta mà không hỏi ý kiến chúng ta, nhưng Thiên
Chúa sẽ không cứu độ chúng ta nếu không có sự đồng tình của chúng ta". -
Ai không muốn kiểu "hợp đồng hai chiều" này thì "thương lượng
lại" với Đấng Tạo Hóa đi!!!
Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa đầy quyền năng, là Cha rất nhân từ hằng
yêu thương hết mọi người (đọc lại Matthêu, 5-7) - Người không để chúng ta thiệt
thòi trong "hợp đồng hai chiều" này đâu! Trái lại, như một nhà giáo
dục tuyệt vời, Người còn mách lối chỉ đường cho chúng ta, không chỉ bằng Lời
giảng dạy, mà nhất là bằng gương mẫu nếp sống cụ thể của chính Ngôi Lời
ở-với-chúng-ta trong một gia đình bằng xương bằng thịt như chúng ta: gia đình
Giuse-Maria-Giêsu.
Trước khi vào nếp sống gia đình, cô nàng thùy mị Maria đã phải
đương đầu với một cuộc thương lượng gay go: hợp đồng với Thiên Chúa để bắt đầu
thực hiện chương trình canh tân đổi mới tạo vật bất chấp mọi dư luận thế gian
trần tục? [chưa cưới mà mang thai!]
Trước khi vào nếp sống gia đình, anh chàng Giuse đã phải ký kết
hợp đồng với Thiên Chúa, một hợp đồng mà xét theo con mắt trần tục, phần thua
thiệt chua cay đau khổ thì Giuse hoàn toàn lãnh đủ!
Vừa bước vào "nếp sống gia đình" (nếp sống gia đình
trong dấu ngoặc kép), cả hai Giuse và Maria đều vỡ mộng: lời hứa hẹn của thiên
sứ, nào là "Người sẽ làm vua", nào là "Người sẽ cứu dân độ
thế"... hóa ra là lời hứa cuội. Tìm chỗ trú ẩn tầm thường để Maria sinh ra
"vua cả trời đất" mà cũng chẳng ai thèm cho!
Ngày "vua cả trời đất" sinh ra, họa chăng có vài mục tử
nghèo hèn đến viếng thăm. Rồi nghe đâu có ba (3) nhà hiền sĩ từ phương Đông tò
mò đến như thể để kiểm chứng sự khám phá "ngôi sao lạ" vừa xuất hiện
trên bầu trời.
"Hoàng Nhi" vừa thôi nôi mã đã có người tìm giết cho
bằng được. Giuse lại phải đương đầu với hợp đồng ông đã ký kết với Thiên Chúa:
dẫn "hiền thê" và "Con đầu lòng" đi trốn sang Ai-Cập, nơi
mà hơn 1000 năm trước, các tổ phụ của Giuse đã bị bắt làm nô lệ...
Thời đó chắc chưa có chính sách tị nạn, nghĩa là chưa có
"green card" hoặc "thi nhập quốc tịch", Giuse lại phải tiếp
tục chấp hành đúng theo điều cam kết trong hợp đồng với Thiên Chúa: đem
"hiền thê" và "Hoàng Nhi" về quê cũ.
Ôi! con đường Thiên Chúa dẫn dắt gia đình Giuse-Maria-Giêsu đến sự
"Bình An dưới thế cho người Chúa thương" thật kỳ lạ, vượt xa mọi tư
tưởng và cảm nhận của người trần thế!
Đấng Tạo Hóa "khôn" lắm! Người biết thế nào chúng ta
cũng so đo phàn nàn về "hợp đồng hai chiều" mà phần thua thiệt - dưới
con mắt trần tục của chúng ta - bảo đảm chúng ta phải lãnh đủ, nên gần 500 năm
trước khi Ngôi Lời mặc xác phàm đến ở-với-chúng-ta, Người đã dùng miệng ngôn sứ
Isaia báo trước: "Quả thế, ý nghĩ của Ta không phải là ý nghĩ của các
ngươi, và đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi... Vì trời cao
hơn đất (bao nhiêu), cũng vậy, đường lối của Ta vượt hơn đường lối của các
ngươi, và ý nghĩ của Ta vượt hơn ý nghĩ của các ngươi." (Is. 55:8-9)
Trong suốt 30 năm Ngôi Lời mặc xác phàm ở-với-chúng-ta, gia đình
Giuse-Maria-Giêsu hầu như im hơi lặng tiếng - chỉ một lần lúc Giêsu lên 12 tuổi
(tuổi "có trí khôn" theo quan niệm thời bấy giờ?), Thiên Chúa hé mở
cho chúng ta thấy thế nào là nếp sống gia đình gương mẫu, một nếp sống trông
rất bình thường nhưng vượt trên mọi sự bình thường:
+ Giuse thì luôn luôn LẮNG NGHE và THI HÀNH tiếng nói của lương
tri, của Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn trong mọi biến cố của cuộc đời;
+ Maria thì luôn luôn "suy niệm trong lòng", nhận ra
Thánh Ý Thiên Chúa qua mọi biến cố và XIN VÂNG;
+ Giêsu thì luôn luôn "ở nơi nhà Cha" (Luca 2:49), tùng
phục cha mẹ, và "lớn lên [bình thường như mọi người] càng thêm tuổi, càng
thêm khôn ngoan và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người ta"
(Luca 2:51).
Quả là một cuộc thách đố Đấng Tạo Hóa "trêu" con người!
Nhưng "vui mừng và hy vọng" thay! Chương trình tái tạo
muôn loài nhờ Ngôi Lời mặc xác phàm ở-với-chúng-ta đã thành tựu = gia đình
Giuse-Maria-Giêsu làm chứng điều đó, và trải qua gần 2000 năm nay, biết bao
nhiêu gia đình - cộng đoàn tu sĩ nam nữ cũng là những gia đình trong ý nghĩa
trọn vẹn của gia đình - đã noi theo gương Thánh Gia làm chứng điều đó.
Phần chúng ta hôm nay, bây giờ, gia đình chúng ta có muốn theo
gương các vị tiền nhân, ký kết "hợp đồng hai chiều" với Thiên Chúa để
mỗi một chúng ta: cha mẹ, con cái, anh chị em chúng ta đạt đến sự viên mãn của
"Bình An dưới thế cho người Chúa thương" không? - Nhờ ơn Chúa hợp với
tâm tình LẮNG NGHE và THI HÀNH tiếng nói của Thần Khí Thiên Chúa của chúng ta,
chắc chắn chúng ta sẽ thu lợi trong "hợp đồng" này.
ĐỂ CỨU CÁC GIA ĐÌNH, CHÚA CỨU THẾ ĐÃ CHỌN SINH RA TRONG GIA ĐÌNH
Hôm nay chúng ta cùng nhau cử hành lễ kính Thánh Gia Thất, trong
bối cảnh Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình vừa được cử hành là chặng đầu
tiên của một lộ trình sẽ kết thúc vào tháng 10 năm tới với một Hội nghị về đề
tài "Ơn gọi và sứ mệnh của gia đình trong Giáo Hội và trong thế
giới". Giáo hội Việt Nam lấy năm Tân Phúc-Âm-Hoá gia đình làm tiền đề để
bước vào năm Tân Phúc-Âm-Hoá giáo xứ. Đẹp biết bao khi nhìn vào hang đá chúng
ta thấy Chúa Cứu Thế đến trần gian, đã chọn sinh ra trong một gia đình nhân
loại, mà chính Người đã thành lập, để cứu các gia đình. Mừng Chúa Cứu Thế đến
cũng là mừng Thánh Gia Thất, nơi Ngài sinh sống.
Các bài đọc hôm nay từ Cựu Ước đến Tân Ước thật là đẹp, đẹp về
cách hành văn, đẹp về nội dung, nhất là đẹp tuyệt vời về cách sống trong gia
đình. Nếu bài đọc I trích sách Đức Huấn Ca dạy con cái phải thảo cha kính mẹ:
"Hỡi kẻ làm con, hãy gánh lấy tuổi già cha ngươi, chớ làm phiền lòng người
khi người còn sống", cùng với những phần phúc cho những người con biết tôn
kinh mẹ cha là: "Ai yêu mến cha mình, thì đền bù tội lỗi; ai thảo kính mẹ
mình, thì như người thu được một kho tàng", nhất là được trường thọ:
"Ai thảo kính cha mình, sẽ được sống lâu dài. " Thì bài đọc II, Thánh
Phaolô khuyên những người làm vợ làm chồng: "Hỡi các bà vợ, hãy phục tùng
chồng trong Chúa cho phải phép. Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình,
đừng đay nghiến nó". Ngài cũng khuyên cha mẹ phải tôn trọng, yêu mến con
cái: "Hỡi những người cha, đừng nổi cơn phẫn nộ với con cái, kẻo chúng nên
nhát đảm sợ sệt" (Cl 3, 21). Bài Tin Mừng nêu bật vai trò quan trọng của
Thánh Giuse, mẫu gương cho bậc làm cha, làm chủ, làm chồng trong các gia đình.
Thảo kính cha mẹ
Để giữ cho gia đình hạnh phúc, Thiên Chúa đã ban cho Giới răn thứ
Bốn trong Mười Điều răn: “Thứ Bốn thảo kính cha mẹ”,
Có nhiều kẻ làm con đã hỏi: Vậy, tước phẩm làm cha làm mẹ là thế
nào để con cái phải tôn kính. Quyền bính cha mẹ tự đâu mà có?
Để có một cuộc sống đích thực, nhân loại phải có quyền bính, nếu
không xã hội không thể có được, và phải đi tới nguyên tắc căn bản: không có
Thiên Chúa, không có quyền bính. Vì thế, kẻ làm con, người làm bề dưới phải
vâng lời cha mẹ, tùng phục người trên là vì thấy trong trật tự ổn định là quyền
lực, là thế giá của Thiên Chúa. Đứa trẻ thấy quyền lực Thiên Chúa nơi cha mẹ,
học trò ở nơi thầy cô, người dân thấy ở nhà cầm quyền. Phải, quyện lực của cha
mẹ là do Thiên Chúa mà ra.
Chúa dạy: "Hãy tôn kính cha ngươi và mẹ ngươi ". Và
Thánh Phaolô khuyên: "Hỡi những người con, hãy vâng lời cha mẹ trong mọi
sự " (Cl 3, 20). Giới răn không nói yêu mến nhưng là tôn kính. Người ta
yêu anh chị em, yêu tha nhân, song đối với cha mẹ, phải tôn kính. Đó là điều mà
phận làm con, kẻ bề dưới ngày nay không muốn biết nữa. Tôn kính có nghĩa là khi
cha mẹ nói, dạy điều gì, con cái phải im lặng, lập tức thi hành, dù là ước muốn
nhỏ nhất: "Vì đó là đẹp lòng Chúa" (Cl 3, 20). "Hãy tôn kính cha
con và mẹ con" ; "Đứa con nào mà đánh đập cha mẹ mình thì phải
chết" ( Xh 20;21)
Phu phụ tương kính như tân
Thiên Chúa dựng nên con người có nam có nữ giống hình ảnh Chúa, và
cho hai người kết hợp với nhau nên một bằng mối giây loài người không thể tháo
cới, để mỗi người phát triển nảy nở trong hạnh phúc, và sinh con cái nối giòng
dõi loài người và Hội Thánh.
Khi nói thế, người chồng có thể đòi người vợ phụng tùng chồng một
cách mù quáng không? Không, người này phải phục tùng người kia cho phải đạo, cả
hai đều phải phục tùng Đức Kitô như toàn thể Giáo hội.
Người nam có biết khi được làm đầu thì phải làm gì không? Thánh
Phaolô kêu gọi: " Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình, đừng đay
nghiến nó" (Cl 3, 20).
Người ta thường nói: chồng là đầu gia đình, vợ là trái tim gia
đình. Nói đúng hơn: chồng là cả hai, vừa là đầu, vừa là trái tim. Người ta cũng
ví người chồng giữ vai trò như người lái thuyền, phải đưa thuyền đi đúng hướng,
là bảo vệ sự an toàn cho mọi người trong thuyền, phục vụ mọi người với tình yêu
thương, như yêu thương chính mình, để cùng nhau hướng tới hạnh phúc.
Cha mẹ tôn trọng và yêu mến con cái
Giới răn thứ Bốn này có hai chiều: con cái và cha mẹ, cha mẹ và
con cái. Nếu con cái phải tôn kính cha mẹ, thì cha mẹ cũng phải tôn trọng, yêu
mến con cái: "Hỡi những người cha, đừng nổi cơn phẫn nộ với con cái".
Cha mẹ quí mến con cái, vì con cái trước hết không thuộc về các cha mẹ mà thuộc
về Thiên Chúa. Con cái là kho tàng Thiên Chúa trao cho, một ngày kia Chúa sẽ
đòi cha mẹ phải trả lẽ. Vậy, cha mẹ phải yêu quí, tôn trọng sự sống con cái,
ngày từ khi còn trong lòng mẹ, chớ làm phương hại đến chúng. Tôn trọng con cái
từ lúc còn thơ đến tuổi trưởng thành...
Chăm lo cho con cái về mặt tinh thần cũng như thể xác, nhất là
linh hồn, vì trước hết chúng thuộc về Thiên Chúa. Cha mẹ không thể lên thiên
đàng một mình, phải có con cái đi theo. Con cái không lên thiên đàng được, cha
mẹ cũng không lên được. Chúng ta thấy Mẹ Maria, Thánh Giuse, và Chúa Giêsu, cả
Ba Đấng đều lên Đền thờ dự lễ theo luật.
Khi có chuyện chẳng lành trong gia đình, lời thánh Phaolô sau đây
như là khuôn vàng thước ngọc về lẽ sống và cách đối nhân xử thế của các thành
viên trong gia đình: "Anh em thân mến, như những người được chọn của Thiên
Chúa, những người thánh thiện và được yêu thương, anh em hãy mặc lấy những tâm
tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, và hãy
tha thứ cho nhau nếu người này có chuyện phải oán trách người kia. Như Chúa đã
tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau. Và trên hết mọi sự, anh
em hãy có đức yêu thương, đó là dây ràng buộc điều toàn thiện".
Noi gương Mẹ Maria và Cha thánh Giuse, mỗi gia đình kitô giáo hãy
đón rước Chúa Giêsu, lắng nghe Người, nói chuyện với Người, gìn giữ Người, che
chở Người, lớn lên với Người, và như thế chúng ta mới phúc âm hóa gia đình,
canh tân giáo xứ và cải tiến thế giới được. Hãy dành cho Chúa một chỗ trong
trái tim và ngày sống của chúng ta.
Lạy Thánh Gia Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse, xin chở che
gìn giữ gia đình nhân loại chúng con. Amen.
Câu hỏi gợi ý:
1. Qua bài Tin Mừng, bạn thấy Giuse có những nỗi khó khăn nào? Và
ông đã có thái độ nào khi giải quyết những khó khăn ấy?
2. Hạnh phúc gia đình tùy thuộc vào ai nhiều nhất? Tại sao?
3. Để gia đình được hạnh phúc, mọi người trong gia đình cần có
tinh thần nào?
Suy tư gợi ý:
1. Giuse, người chủ gia đình gương mẫu
Bài Tin Mừng hôm nay chủ yếu nói về thánh Giuse với tư cách chủ
của gia đình Nagiarét. Ngài đã phải hết sức cực nhọc vất vả vì gia đình của
mình, nhất là vì con trẻ Giêsu, kể từ khi thấy Đức Maria mang thai, một cái
thai không phải là của mình, nhưng trước mắt mọi người thì lại chính thức là
của mình. Thử đặt mình vào địa vị Giuse, ta sẽ thấy vai trò của ngài không phải
dễ dàng.
Đối với con trẻ Giêsu, cho đến lúc lìa đời, thánh nhân luôn luôn
phải dùng con mắt đức tin, tin vào lời sứ thần hiện ra trong giấc mơ, để khỏi
nghĩ rằng mình đang phải nuôi đứa con của người đàn ông khác. Cuộc đời đâu phải
lúc nào cũng phẳng lặng để Giuse có thể yên ổn với niềm tin ấy. «Cũng có lúc
mưa dồn sóng vỗ», đức tin của Giuse chắc chắn bị thử thách nhiều phen, nhất là
những lúc phải vượt thắng những khó khăn vượt quá sức mình như tình huống của
bài Tin Mừng hôm nay.
Từ khi nhận Maria về nhà mình đến giờ, khó khăn cứ dồn dập xảy
tới. Chưa yên thân với Maria tại nhà mình, thì có lệnh phải đưa Maria – đang
mang thai đã đến thời sinh nở – từ miền Bắc vào miền Nam, từ Nagiarét xứ Galilê
đến Bê-lem xứ Giuđê theo lệnh kiểm tra dân số của Hoàng Đế Augústô (x. Lc
2,1-6). Cuộc hành trình mà theo đường chim bay đã dài tới 120km, và đương nhiên
phải đi bằng một phương tiện rất thô sơ của những người nghèo thời đó, có thể
chỉ là một con ngựa hay con la. Người nghèo đi tới đâu cũng gặp khó khăn, chẳng
mấy ai giúp đỡ. Và Maria đã bị buộc phải sinh hạ con trẻ Giêsu – mà Giuse tin
là đấng Thiên Sai – trong một chuồng bò lừa. Là chủ gia đình, chắc chắn Giuse
không tránh khỏi đau lòng và nhục nhã trước sự nghèo nàn và bất lực của mình! Nhưng
nào đã hết! Con trẻ mới sinh chưa được bao lâu, đang chuẩn bị đưa hai mẹ con
hồi hương, thì lại có lệnh của thiên thần – cũng lại trong giấc mơ – buộc phải
đưa cả hai mẹ con trốn sang Ai-Cập. Chỉ thẳng đường chim bay từ Bê-lem tới biên
giới Ai Cập thôi đã phải là 100km. Hành trình lần này chắc chắn vất vả hơn lần
trước, vì có thêm con trẻ Giêsu hết sức yếu đuối, dễ nhiễm bệnh. Ở nơi đất
khách quê người, Giuse phải tìm cho ra chỗ ở, việc làm tạm thời để nuôi sống cả
gia đình, chắc hẳn điều ấy không luôn luôn dễ dàng. Rồi cuối cùng lại phải đưa
cả gia đình về Nagiarét. Tại đây Giuse phải bao bọc, che chở và nuôi sống gia
đình, đồng thời giáo dục con trẻ Giêsu nên người. Đối với Đức Giêsu, câu «công
Cha như núi Thái Sơn» chắc chắn cũng rất đúng khi áp dụng cho cha nuôi của
mình.
Tất cả những khó nhọc vất vả ấy đòi hỏi Giuse phải có rất nhiều
tình yêu và nhiều đức tính mới có thể vượt qua một cách tốt đẹp. Nếu Giuse và
Maria sống đời vợ chồng bình thường, thì những khó nhọc của Giuse sẽ được bù
đắp bởi những giây phút hạnh phúc thân mật bên Maria. Nhưng theo niềm tin Công
giáo, Giuse bảo vệ cho Maria sống đồng trinh trọn đời, nên tình yêu đầy tính
thiên thần và hết sức cao thượng của Giuse đối với Maria phải hết sức lớn lao.
Ngài thật là một người đàn ông cao cả, và là một người chủ gia đình hết sức
gương mẫu. Thiết tưởng bất kỳ người chủ gia đình nào bắt chước Giuse cũng sẽ
làm cho gia đình mình yên vui hạnh phúc.
2. Hạnh phúc gia đình tùy thuộc người chồng rất nhiều
Hạnh phúc gia đình có hay không, và đến mức nào, tùy thuộc vào tất
cả mọi thành viên trong gia đình, nhất là vào cách đối xử của hai vợ chồng đối
với nhau. Muốn gia đình hạnh phúc, mọi thành viên phải thực hiện những điều
Thánh Phaolô đề nghị trong bài đọc 2: «Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế
mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng
cay nghiệt với vợ. Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều
đẹp lòng Chúa. Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã
lòng».
Nhưng nếu so sánh giữa hai vợ chồng, thì theo sự thường, nghĩa là
trong đa số các trường hợp, hạnh phúc và sự êm ấm trong gia đình tùy thuộc vào
người chồng nhiều hơn. Câu nói trên của thánh Phao-lô hàm ẩn những điều kiện
trong đó. Muốn vợ phục tùng chồng, thì người trước đó người chồng cần phải tỏ
ra yêu thương vợ một cách cụ thể, qua việc đối xử độ lượng, không cay nghiệt
với vợ, biết thông cảm, hy sinh, thường xuyên giúp đỡ vợ trong mọi việc, nỗ lực
bao bọc che chở vợ mình trong mọi hoàn cảnh. Người vợ có cảm thấy được chồng
yêu thương, có cảm phục chồng vì tính quảng đại, cao thượng, bỏ qua mọi lầm lỗi
nhỏ nhặt, thì mới dễ dàng phục tùng chồng. Nói chung, tâm lý của mọi người là
chỉ tự nguyện phục tùng những ai mình nể phục và yêu mến mà thôi. Người vợ
không thoát ra ngoài tâm lý chung ấy. Người chồng không nên lấy quyền làm
chồng, hoặc dùng bạo lực hay áp lực kinh tế để ép buộc vợ phải phục tùng mình.
Làm như thế thì có khác gì mình đang thực hiện một chế độ độc tài nho nhỏ trong
gia đình. Người vợ cảm thấy mình bị áp bức một cách bất công, tất nhiên – như
một định luật – là sẽ có ngày nổi loạn, nhất là khi người chồng trở nên yếu
thế, không còn khả năng về kinh tế hay thể chất nữa. Lúc đó người chồng không
thể chỉ biết trách vợ, mà trước tiên hãy nhận ra lầm lỗi của mình.
Ngược lại, muốn được chồng yêu thương, người vợ cũng cần phải tỏ
ra mình là một người dễ thương, nghĩa là nói năng dịu dàng, ngọt ngào, biết
chiều ý chồng, biết hy sinh tận tụy phục vụ gia đình, làm tròn mọi bổn phận của
mình trong gia đình, nhất là biết tỏ ra nể phục chồng. Mình không dễ thương thì
dù là chồng mình cũng chẳng thể thương mình được.
Tâm lý chung của mọi người đàn ông là dễ đem lòng yêu thương những
phụ nữ tỏ ra nể phục mình, và tâm lý chung của mọi phụ nữ là dễ yêu thương
những người mà mình nể phục. Nhưng làm sao người phụ nữ có thể yêu thương một
người mà mình khinh thường vì thấy không có gì đáng nể phục? Và làm sao người
đàn ông có thể yêu thương được người vợ không kính nể mình? Do đó, để gia đình
hạnh phúc, yếu tố rất quan trọng là người chủ gia đình phải có một điều gì đấy,
một đức tính nào đấy khiến người vợ cũng như con cái trong nhà nể phục. Có thể
chỉ cần một đức tính nào đó thật nổi bật, không cần nhiều. Nhưng càng nhiều thì
càng tốt! Nhưng đức tính không thể thiếu được là lòng độ lượng, bao dung, và sự
hy sinh quả cảm.
Gia đình thánh gia rất dễ có hạnh phúc, một phần rất lớn là vì
Giuse, người chủ gia đình, có rất nhiều đức tính đáng để Maria kính phục. Có
thể nói bản lĩnh, cách hành xử cao thượng, và sự quảng đại trong yêu thương của
người đàn ông là nền tảng và là yếu tố đầu tiên cần thiết cho hạnh phúc của cả
gia đình. Thiếu nó, gia đình khó có hạnh phúc.
3. Quên mình để yêu thương hữu hiệu, là bí quyết gây hạnh phúc gia
đình
Một trong những trở ngại lớn nhất của hạnh phúc gia đình là cái
tôi và ý riêng của mỗi thành viên. Nói chung, ai cũng coi cái tôi và ý riêng
của mình là quan trọng, và tỏ ra rất bực mình khó chịu khi thấy cái tôi và ý
muốn của mình bị coi thường, hoặc không được ai để ý tới. Ai cũng bị cái tôi và
ý riêng của mình thu hút đến độ quên đi cái tôi và ý muốn của người khác vốn
cũng thu hút hết tâm trí của họ. Ai cũng muốn cái tôi và ý kiến của mình được
mọi người quan tâm chú ý, nhưng chẳng ai muốn quan tâm đến cái tôi và ý kiến
của kẻ khác. Chính vì thế, chẳng ai được thỏa mãn, cuộc sống chung do đó chẳng
hạnh phúc, thậm chí biến thành hỏa ngục. Muốn làm cho người khác hạnh phúc,
nghĩa là làm cho họ được thỏa mãn vì cảm thấy cái tôi và ý kiến của họ được tôn
trọng, thì chính tôi phải quên cái tôi và ý riêng của mình đi để đặt nặng cái
tôi và ý kiến của họ lên. Như thế họ cảm thấy hạnh phúc khi ở bên cạnh tôi. Nếu
người ấy cũng biết làm như thế đối với tôi, thì tôi cũng cảm thấy hạnh phúc, và
thế là cả hai đều hạnh phúc. Nhưng cách tốt nhất và bảo đảm nhất để được hạnh
phúc là tôi lấy hạnh phúc của người tôi thương làm hạnh phúc của mình. Như thế
tôi sẽ hạnh phúc khi làm cho họ được hạnh phúc.
Hạnh phúc gia đình luôn luôn đòi hỏi phải có một ai đó trong nhà
biết quên mình, biết quên cái tôi của mình đi, để quan trọng hóa cái tôi của
người khác lên. Thái độ ấy như một cái ngòi khởi động, làm cho những người khác
trong nhà cũng hành động như vậy, và nhờ đó, hạnh phúc gia đình mới bùng lên.
Thái độ khởi động ấy phải được lập lại hàng ngày hàng giờ trong đời sống gia
đình. Ai sẽ khởi sự thái độ quan trọng ấy nếu không phải là chính bạn, là người
ý thức được bí quyết hạnh phúc đó, bất kể bạn là vợ hay chồng? Thật vô phúc cho
gia đình nào không có ai tự nguyện làm cái ngòi khởi động tình yêu thương ấy
hàng ngày trong cuộc sống!
Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha đã chọn thánh Giuse là người đứng đầu gia đình
Nagiarét với những đức tính rất cần thiết của một người làm chủ gia đình để gia
đình ấy được hạnh phúc. Xin cho tất cả những người làm chủ trong các gia đình
Ki-tô hữu biết noi gương bắt chước Ngài, biết coi nhẹ cái tôi của mình để
thường xuyên quan tâm đến hạnh phúc của mọi thành viên khác trong gia đình. Xin
cho những người làm vợ và làm mẹ noi gương Đức Maria biết luôn tỏ ra dễ thương,
dịu dàng, và biết hy sinh ý riêng của mình cho hạnh phúc gia đình. Và xin cho
mọi con cái trong gia đình Ki-tô hữu biết noi gương Đức Giêsu luôn kính trọng
và vâng phục cha mẹ mình. Amen
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Chấp nhận làm người là chấp nhận thuộc về một gia đình. Ngôi Lời
làm người chấp nhận có mẹ, có cha. Tuy thánh Giuse và Đức Maria không có tương
giao vợ chồng, nhưng tình yêu chẳng bao giờ thiếu ở Nagiarét.
Chúng ta không biết nhiều về đời sống của Thánh Gia, nhưng chúng
ta thấy Hai Đấng luôn ở bên nhau, đi chung với nhau trên những con đường, chia
sẻ với nhau mọi nỗi buồn vui, trong thời gian Đức Giêsu còn thơ ấu.
Thánh Giuse đã đưa Đức Maria đi Bêlem. Đoạn đường cam go đối với
người gần ngày sinh nở. Thánh Giuse cũng đã đưa Hài Nhi và Mẹ Ngài trốn sang Ai
Cập, rồi lại đưa về làng cũ. Có lần cả hai phải vất vả mấy ngày tìm con trong
âu lo và nước mắt.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy cả gia đình thánh lên Đền Thờ lần
đầu tiên. Một đôi vợ chồng nghèo với đứa con còn nhỏ.
Đây là một gia đình gắn bó với luật Chúa. Luật dạy người mẹ phải
tẩy uế sau khi sinh con. Đức Maria vui lòng giữ luật ấy, dù Mẹ biết Đấng được
Mẹ sinh ra là Đấng Thánh. Luật dạy phải chuộc lại đứa con trai đầu lòng vì nó
thuộc quyền sở hữu của Thiên Chúa. Đức Giêsu chẳng những đã được chuộc lại, mà
còn được cha mẹ Ngài tiến dâng cho Chúa.
Con Thiên Chúa đã lớn lên trong bầu khí gia đình. Ngài đã tập làm
người. Mái nhà là trường học đầu tiên. Thầy cô đầu tiên là cha mẹ. Đức Giêsu
lớn dần về mọi mặt thật hài hòa. Bé Giêsu, anh Giêsu, chú Giêsu, Ông Giêsu...
Ngài lớn lên trong dòng thời gian. Thời gian là ánh mặt trời làm
cho trái chín. Nhờ lao động với Cha nuôi mà Ngài trở nên vững vàng và đủ sức
khỏe để đảm nhận sứ vụ. Nhờ chuyên cần học tập mà Ngài thêm khôn ngoan. Dù Ngài
là sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa, nhưng Ngài vẫn học hỏi nơi bạn bè, kinh sư,
nơi kinh nghiệm rút ra từ cuộc sống.
Nhờ được dạy cầu nguyện mà Ngài có tình thân với Cha. Những lời
kinh đầu tiên được bập bẹ trên gối mẹ. Nagiarét đã thành trường huấn luyện Đức
Giêsu trở nên người biết sống cho người khác, và nên vị tông đồ tuyệt vời cho
Cha và nhân loại.
Có bao bài học sống động ở dưới mái ấm này. Bài học yêu thương,
cảm thông, tha thứ, bài học phục vụ, quên mình, khiêm hạ xin vâng...
Ước gì mọi gia đình Kitô hữu đều là một Thánh Gia, để mỗi người
con đều trở nên một Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Xã hội suy sụp vì gia đình đổ vỡ. Đâu là những mối đe dọa mà gia
đình hôm nay đang gặp phải? Một gia đình Kitô hữu dựa vào đâu để vượt qua những
khó khăn đó?
Để có một gia đình hạnh phúc, cần có những người vợ, người chồng
"đủ tiêu chuẩn". Theo ý bạn, đâu là những tiêu chuẩn mà một bạn trẻ
cần có trước khi lập gia đình?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sau hơn 30 năm sống dưới mái nhà ở Nagiarét, Chúa
đã thành một người chính chắn và trưởng thành, sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng Cha
giao.
Bầu khí yêu thương đã góp phần không nhỏ trong việc hình thành
nhân cách của Chúa.
Chúa đã học nơi thánh Giuse sự lao động miệt mài, sự mau mắn thi
hành Thánh ý Thiên Chúa, sự âm thầm chu toàn trách nhiệm đối với gia đình.
Chúa đã học nơi Mẹ Maria sự tế nhị và phục vụ, sự buông mình sống
trong lòng tin phó thác và nhất là một đời sống cầu nguyện thâm trầm.
Xin nhìn đến gia đình chúng con, xin biến nó thành nơi sản sinh
những con người tốt, biết yêu thương tha thứ, biết cầu nguyện và phục vụ.
Ước gì xã hội chúng con lành mạnh hơn, Giáo hội chúng con thánh
thiện hơn, nhờ có những con người khỏe mạnh, khôn ngoan và tràn đầy ơn Chúa.
Hơn hết tất cả, lễ Giáng sinh thật sự là một lễ dành cho gia đình.
Và trong khi tâm trí chúng ta còn đang hướng về Bêlem và Thánh gia, thì các bài
đọc Phụng vụ hôm nay lại nhắc đến nhiều khía cạnh khác nhau trong đời sống gia
đình. Nói đến Thánh Gia, có lẽ là nói đến một cái gì xa vời chăng, vì gia đình
chúng ta đây có lẽ còn quá cách xa gia đình lý tưởng này.
Chúng ta đừng quên rằng Maria và Giuse, cũng như các bậc cha mẹ
khác, đều phải đương đầu đối diện với biết bao vấn đề khó khăn. Bóng đen của
thập giá đã phủ xuống chiếc nôi ở Bêlem, đã tràn vào trái tim Mẹ Maria khi nghe
lời tiên tri lạnh lùng của Simêon, nào là Con trẻ sẽ nên cớ vấp phạm của nhiều
người trong Israel, nào là trái tim của Mẹ sẽ bị lưỡi gươm sắc đâm thâu qua.
Ngày từ đầu con trẻ mà Maria và Giuse hết lòng yêu thương trìu mến lại là một
huyền nhiệm to lớn, và khi con trẻ trưởng thành dưới sự bao bọc của mình, Maria
và Giuse chỉ biết hết lòng phó thác tín nhiệm vào Thiên Chúa mà thôi. Chúng ta
cũng phải làm như thế thôi. Gia đình là một định chế lâu đời nhất của nhân
loại, và gia đình đã tồn tại đến ngày nay là vì nó được xây dựng trên nền tảng
tình yêu. Chúng ta có thể không có khả năng làm xoay chuyển thế giới nhưng ảnh
hưởng của chúng ta vẫn có thể vươn ra bao bọc lấy gia đình tổ ấm chúng ta.
Cũng giống như bất cứ kế hoạch đáng giá nào khác, cuộc sống gia
đình muốn thành công mỹ mãn phải cần đầu tư nhiều thời giờ và sức mạnh. Gia
đình hạnh phúc không tự dưng mà đến. Tình yêu, hoà điệu, kính trọng lẫn nhau,
vốn là những yếu tố cơ bản của một gia đình hạnh phúc, phải được chứng minh
bằng hành động cụ thể. Câu Latinh “Lời nói bay qua, gương bày lôi kéo” (Verba
volant, exampla trahunt). Gương sáng là những lời giảng dạy hùng hồn nhất.
Những thái độ yêu thương ân cần chăm sóc, vốn rất cần trong những buổi ban đầu,
cũng có nhiều ảnh hưởng sâu đậm và dài lâu. Trong cuộs sống sau này, con cái sẽ
trở nên những gì mà chúng được nhào nặn, uốn nắn, được hấp thụ, và mội khi
chúng học được cách cho đi và nhận lãnh, thì đồng thời chúng cũng sẽ phát triển
được sự hiểu biết tha nhân một cách trưởng thành hơn.
Đây là cơ hội tốt cho những người mới trưởng thành suy nghĩ lại về
tình yêu và lòng kính trọng mà họ cần biểu lộ với cha mẹ mình, vì đối xử tử tế
với cha mẹ là một việc quí giá trước nhan Thiên Chúa. Buồn thay, về phương diện
này, giới trẻ thường không sống phù hợp với tinh thần phúc âm cho lắm.
Cha mẹ ngày nay thường hay bị hoang mang bối rối không biết cái gì
đang xẩy ra, khi thấy con cái đang trưởng thành lại hay diễn tả những giá trị
cũng như niềm tin khác với thế hệ trước. Cũng cần phải tỏ lòng tôn kính đặc
biệt với ông bà nội ngoại trong quãng đời về chiều, và đừng để các ngài kết
thúc cuộc đời trong nỗi cô đơn dày vò. Hơn bất cứ gì khác, điều đáng nói nhất
là cần sống bình an trong vòng tay êm ấm của gia đình. Đã đành một gia đình
được chu cấp đầy đủ, và một mức sống tươm tất là điều quan trọng nhưng chúng ta
cũng cần nhớ rằng nếu như gia đình không duy trì cầu nguyện hướng về cuộc sống
thiêng liêng, thì mọi chuyện khác cũng nhất định sẽ trục trặc mà thôi.
Đời sống gia đình không bao giờ trôi chảy êm ả mãi, ngày nay còn
có biết bao khó khăn phải nỗ lực phấn đấu hơn xưa nhiều lắm. Nhưng đó là những
nguyên liệu chúng ta sử dụng để hình thành nên đời sống thánh thiện của chính
mình. Nhân dịp Lễ Thánh Gia, chúng ta cầu xin Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse giúp gia
đình chúng ta biết sống đẹp lòng Chúa hầu đem lại một tinh thần mới cho đơn vị
cơ bản nầy của xã hội loài người.
Giáo hội thiết lập Lễ Thánh gia để chỉ cho ta thấy cái tầm quan
trọng của đời sống gia đình, và cái gương mẫu của gia đình thánh. Chính Chúa
Giêsu đã chỉ cho ta thấy cái tầm quan trọng của đời sống gia đình qua cuộc đời
của Người tại thế. Chúa chỉ dành có ba mươi năm - nhiều hơn 10 lần - sống trong
trong bầu khí gia đình, có Mẹ có Cha, để thu thân luyện đức. Theo chương trình
quan phòng của Thiên Chúa, trinh nữ Maria được chọn làm mẹ Đấng cứu thế. Còn
thánh Giuse được chọn làm cha nuôi để săn sóc cho gia đình thánh. Chúa Giêsu
bắt đầu sống trong gia đình theo nhân tính của Người như mỗi người để giúp ta
dễ liên kết với Người.
Gia đình đời nay lớn hay nhỏ là đá tảng của đời sống quốc gia.
Trong quá khứ, nhiều quốc gia đã muốn tiêu diệt đơn vị gia đình, nhưng thất
bại. Sống và lớn lên không có gia đình, người ta có thể mất đi cái thăng bằng
về đời sống tâm linh và tình cảm. Khi gia đình đổ vỡ, những căn tính về phái
tính về gia đình của con cái sẽ bị thuyên giảm. Nói theo phương diện đạo đức
thì gia đình là một đơn vị tôn giáo đầu tiên. Chính trong bầu khí an toàn và
cái khung cảnh ấm cúng của gia đình mà những giá trị nhân bản, luân lý và đạo
giáo được truyền đạt xuống cho con cháu và con cháu học được những việc làm đạo
hạnh của ông bà cha mẹ.
Thiên Chúa biết rõ trước khi Người tạo dựng A-đam và Ê-va. Sách
Sáng Thế Sử ghi lại: Thiên Chúa tác thành con người theo hình ảnh Thiên Chúa
(St 1,26). Thiên Chúa hài lòng với công việc Người tạo dựng, chúc lành cho
người nam và người nữ, và phán: Hãy sinh sản cho đầy mặt đất, và khắc phục đất
đai (St 1,28). Thiên Chúa tạo dựng người nam và người nữ để làm thành gia đình,
có cha có mẹ và con cái để yêu thương săn sóc lẫn nhau. Sợi dây ràng buộc gia
đình lại với nhau là tình yêu. Chính tình yêu đã khiến Chúa Giêsu mặc lấy thân
xác loài người và sinh ra giữa nhân loại. Chính tình yêu đã khiến trinh nữ
Maria chấp nhận địa vị làm mẹ Đấng cứu thế. Chính tình yêu đã khiến thánh Giuse
đưa Hài nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập (Mt 1,25).. Và cũng chính tình yêu đã
đưa gia đình thánh trở về Na-za-rét. Ở đó thánh Giuse cung phụng cho gia đình
thánh như có thể bằng cách làm nghề thợ mộc. Giáo hội thánh hoá đời sống gia
đình qua Bí tích hôn phối. Giáo hội coi Bí tích hôn phối là thánh thiện vì đời
sống nhân loại mong được thánh thiện nếu muốn được phản ảnh Gia đình thánh. Gia
đình thánh nêu ra tấm gương mà mỗi gia đình tốt phải noi theo. Gia đình
Na-gia-rét được gọi là thánh, không phải chỉ tại Chúa Giêsu là thánh, mà còn
tại Gia đình thánh đã đem ra thực hành những lời khuyên dạy khôn ngoan mà người
Do thái đã tích lũy cho đời sống gia đình hạnh phúc. Đó là điều mà bài sách
Huấn ca hôm nay dạy ta: Ai vâng lệnh Chúa, sẽ làm cho mẹ an lòng (Hc 3,6). Điều
đó có nghĩa là người mẹ sẽ được hạnh phúc khi con mình vâng lệnh Chúa là nguồn
mạch mọi sự khôn ngoan.
Giáo hội trình bày Gia đình Na-gia-rét là Gia đình lý tưởng cũng ý
thức được những khiếm khuyết mà có thể làm ly tán bất cứ đời sống gia đình nhân
loại nào. Đó là lý do tại sao trong thư gửi tín hữu Co-lo-sê thánh Phaolô
khuyên họ làm sao sống tinh thần Ki-tô giáo. Thánh nhân khuyên họ hãy mặc lấy
những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn
nhau và hãy tha thứ cho nhau (Cl 3,12-13). Trong gia đình, các phần tử được kêu
gọi mang trách nhiệm cho nhau. Thành phần tàn tật, thành phần đổ vỡ trong gia
đình phải được coi là thành phần trong gia đình. Và thành phần quá cố trong gia
đình cũng phải nằm trong lời cầu nguyện của gia đình.
Gia đình thánh mà Giáo hội mừng lễ hôm nay phải là mẫu mực cho mọi
gia đình noi theo. Mỗi phần tử trong gia đình có thể bắt chước được những gì
nơi Chúa Hài nhi, nơi mẹ Mara, nơi thánh Giuse? Và ta cũng cầu nguyện cho sự
thành đạt và hạnh phúc cho đời sống gia đình.
Tổ chức Kỷ lục Việt Nam được sự hỗ trợ của Trung ương Hội Người
cao tuổi Việt Nam vừa qua đã công nhận kỷ lục cặp vợ chồng cao tuổi nhất Việt
Nam thuộc về vợ chồng cụ Cao Viễn (SN 1908) và Vũ Thị Hai (SN 1914) ở làng
Phượng Lịch, xóm Hai, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, Nghệ An.
Cụ Cao Viễn chia sẻ bí quyết sống lâu của hai cụ là sống thật lạc
quan và vui vẻ. Dù đều đã bước qua tuổi 100 nhưng hai cụ vẫn còn rất khỏe mạnh
và minh mẫn. Cụ ông Cao Viễn vẫn còn rất lanh lợi. Hai cụ vẫn có thể đọc báo,
xem ti vi, làm những công việc trong gia đình, nuôi dạy các cháu, chắt. Cụ ông
vẫn viết nhật ký, làm thơ, viết chữ với những nét rõ ràng khiến nhiều người trẻ
phải bái phục.
Vừa mở chiếc ti vi nhỏ của gia đình cụ, ông Cao Viễn vừa tâm sự:
“Tôi rất thích xem các chương trình thời sự, tin tức và đọc báo. Thấy chúng tôi
sống “lâu quá”, người ta cứ đồn thổi rằng chúng tôi có bí quyết, hay thuốc gia
truyền gì. Nhưng điều đó là hoàn toàn không có. Chúng tôi cũng chỉ ăn uống bình
thường, thậm chí có thời gian còn không có cháo mà ăn ấy chứ”, nói đoạn cụ ông
Cao Viễn nhìn sang vợ mình cười hạnh phúc.
Hai cụ kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện từ nạn đói 1945. Lúc
đó các con còn nhỏ, hai vợ chồng cụ phải chia bát cháo ít ỏi cho các con ăn cầm
hơi. Rồi đến những ngày đất nước chìm trong khói lửa chiến tranh, lúc cụ ông
lên đường nhập ngũ, rồi lần lượt các con cũng ra chiến trận. Trong trí nhớ của
hai cụ, lịch sử vẫn còn vẹn nguyên, không hề bị xáo trộn.
Lấy nhau sinh được 8 người con (3 trai, 5 gái), hiện hai cụ đã có
34 cháu nội, ngoại. Cùng nhau bước qua thế kỷ thứ 2, đôi vợ chồng già vẫn vẹn
nguyên những hạnh phúc như thuở ban đầu.“Ngày trước có những năm đến cháo không
có mà ăn gia đình phải đào cả củ chuối, nhặt từng cái rễ khoai mà ăn chứ nói
đến thuốc thang hay bí quyết gì để mà sống được lâu. Nhưng với vợ chồng chúng
tôi, khi nào gia đình cũng phải vui vẻ lạc quan, sống nhân đức, hòa thuận. Khó
khăn thì phải cùng nhau khắc phục chứ không được cãi cọ hay mâu thuẫn. Như vậy
mình mới sống được mà không đau ốm bệnh tật và sống được lâu với con cháu” - cụ
bà Vũ Thị Hai chia sẻ về cuộc sống hạnh phúc của gia đình vợ chồng mình suốt 2
thế kỷ qua.
Hiện tại con cháu hai cụ đều đã ra ở riêng, thỉnh thoảng mới đến
chăm sóc được bố mẹ. Vì vậy mọi sinh hoạt thường nhật từ bữa cơm, giấc ngủ hai
vợ chồng cụ đều tự lo liệu. Tất cả mọi công việc hai cụ đều cùng nhau làm, từ
xem ti vi, dọn dẹp nhà cửa đến nấu một nồi cháo. Cũng vì cuộc sống viên mãn,
trường thọ của hai cụ mà người dân trong vùng thường xuyên nhờ hai cụ làm người
chúc phúc lành cho những cặp vợ chồng mới cưới. (Nguyễn Tình - Lany Nguyễn, Dân
Trí, Cặp vợ chồng cao tuổi nhất Việt Nam chia sẻ bí quyết trường thọ)
Hôm nay, Hội Thánh long trọng mừng Lễ Thánh Gia, khuôn mẫu lý
tưởng cho mọi gia đình sống hạnh phúc, bình an và vững bền. Khi tất cả thành
viên gia đình đều quy hướng về Đức Giêsu, luôn là trọng tâm của mỗi người, thì
cuộc sống gia đình mãi ổn định và phát triển.
Sống cùng
Mẹ Maria được sứ thần Gabriel loan báo vinh dự được làm Mẹ Đấng
Cứu Thế, cũng như Người Công Chính, Thánh Giuse được báo mộng đón nhận bổn phận
cao cả làm cha nuôi Đức Giêsu. Cả hai đấng cùng nhau đồng tâm thực hiện Thánh Ý
Chúa trao phó, mặc bao gian nan, thử thách. Cùng nhau lận đận về quê Bêlem, khi
Mẹ Maria sắp đến ngày lâm bồn. Chật vật, khó khăn, thiếu thốn khi sinh nở. Trốn
tránh, tản cư, vượt biên, khi vua Hêrôđê tàn sát con trai đầu lòng. Thánh Gia
vẫn bền vững trong bao cơn sóng gió, vì Thánh Giuse và Mẹ Maria luôn vâng theo
Thánh Ý hướng dẫn, và luôn có Chúa ở cùng.
Bao lâu, có Chúa cùng đồng hành, thì gia đình vượt qua tất cả mọi
nghịch cảnh, mọi thách đố, kể cả bệnh tật, tai ương, hoạn nạn. Có Chúa sống
cùng trong tâm hồn, trong lời nói, trong hành xử, trong việc làm, mọi thành
viên gia đình thảy đều đồng cảm, đồng tâm, đồng hành với nhau, như Thánh Phaolô
khuyên sống hòa đồng, hòa hợp cùng nhau: “Vui với người vui, khóc với người
khóc” (Rm 12, 15).
Sống cho
“Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng
ngày mà theo.” (Lc 9, 23) Để có Chúa hiện diện trong tâm hồn, thì tiên quyết
phải xả kỷ, từ bỏ bản ngã, cái tôi hẹp hòi, độc đoán bất nhân, bất nghĩa, bất
khoan dung, để sống cho người, cho tha nhân. “Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như
sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.” Người Công Chính không so đo, tự ái, vị kỷ,
không bối rối vương vấn, không sống theo ý riêng, quyết tâm vâng theo Thánh Ý
Chúa, nhiệt thành, hăng say, cộng tác, phục vụ đắc lực chương trình Cứu Độ.
Mẹ khiêm hạ, tự xóa mình đi, sẵn sàng vâng theo Thánh Ý, khi thưa
sứ thần: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi, như lời sứ
thần nói.” (Lc 1, 38) Mẹ hoàn toàn phó thác, sống cho Ơn Gọi.
Còn Đức Giêsu gặp lại cha mẹ sau ba ngày ở lại đền thờ giải đáp
Kinh Thánh, cũng luôn tuân phục Thánh Giuse và Mẹ Maria. “Người đi xuống cùng
vời cha mẹ, trở về Nadareth và hằng vâng phục các ngài. (Lc 2, 51) Thánh Phaolô
cũng dạy dỗ con cháu biết hiếu thảo cha mẹ: “Con cháu phải học cho biết ăn ở
hiếu thảo đối với gia đình mình, và đền ơn đáp nghĩa các bậc sinh thành. Đó là
điều đẹp lòng Thiên Chúa.” (1Tm 5, 4).
Sống vì
Ông bà cụ Cao Viễn kể trên đã sống đúng theo truyền thống dân tộc:
"Sống vì mồ mả, không sống vì cả bát cơm." Sống không phải bon chen,
giành giựt, gian ác, làm giàu, mà nghĩ đến khi qua đời, làm sao mồ yên mả đẹp,
để lo tu thân tích đức.Nên dù khó khăn, đói rách, các cụ vẫn vui vẻ chia sẻ,
phục vụ lẫn nhau, con cháu và xóm giềng, mong để lại phúc đức cho con cháu
hưởng nhờ. Người Kitô hữu có mục đích sống còn linh thiêng, cao quý hơn nữa. Đó
là sống vì đạo. Trở nên chứng nhân của Đức Giêsu, giữa xã hội xô bồ tôn thờ bái
vật.
Thánh Phaolô vạch rõ mục đích sống của Kitô hữu: “Không ai trong
chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta
có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù
chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa.Vì Đức Kitô đã chết và sống lại, chính là để
làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết” (Rm 14,7-9).
Me Maria luôn sống vì Con Mẹ, đồng cảm, đồng hành cùng Người suốt
33 năm, âm thầm đau khổ trước thái độ chống báng và ám hại của thần quyền lẫn
thế quyền đối với Con Mẹ, như ông Simêôn đã tiên tri: “Còn chính bà, một lưỡi
gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà.” (Lc 2, 5)
“Phần thứ nhất của tiệc cưới Cana là yêu thương và hưởng thụ,
nhưng giữa tiệc cưới chỉ còn nước! Đôi tân hôn mới ý thức rằng: phương tiện
mình hạn hẹp, tình yêu mình lạnh nhạt!
Phần thứ hai của tiệc cưới Cana là khám phá ra kho tàng đạo đức
chưa được sử dụng, rượu sau ngon hơn rượu trước: Một tình yêu chân thực, một
quả tim biết thắng mình, quên mình, trung thành và hiến dâng không đòi lui.”
(Đường Hy Vọng, số 464)
Lạy Chúa Giêsu, xin Người dạy chúng con biết sống cùng nhau, chia
sẻ ngọt bùi cay đắng, biết sống cho đi, phục vụ tha nhân, cũng như biết sống vì
Chúa, làm chứng nhân Tình Yêu. Kính xin Người ban Đức Chúa Thánh Thần xuống cho
chúng con, biết can đảm sống theo Lời Chúa.
Lạy Mẹ Maria, kính xin Mẹ cầu bầu, chỉ dạy chúng con noi gương Mẹ,
luôn sống bên Chúa, luôn vâng theo Thánh Ý Chúa, cùng luôn chấp nhận đau thương
vì Chúa. Amen.
Con trẻ lớn lên, đầy khôn ngoan, ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người
Hôm nay chúng ta mừng kính Thánh Gia Thất: Chúa Giêsu, Đức Bà và
Thánh Giuse, một gia đình gương mẫu cho mọi gia đình trên thế giới. Bài Tin
Mừng cho chúng ta một hình ảnh của đời sống gia đình, dù đó là gia đình Thánh.
Các Ngài đã chu toàn lề luật Do Thái lúc đó: "Đủ ngày thanh tẩy theo luật
Môisen, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho
Chúa... và cũng để dâng lễ vật cho Chúa". Chính tại nơi đó Thánh Thần Chúa
đã tỏ cho ông Simêon và và Anna về ơn Cứu Độ của Thiên Chúa đối với dân Người.
Cũng tại nơi đây, được ơn linh ứng, ông già Simêon đã tiên báo về sự tham gia
của Đức Maria trong cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu sau này.
Nhìn vào xã hội ngày nay, nhiều nền tảng gia đình lung lay, rối
loạn và khủng hoảng. Đây chính là lúc mỗi người tín hữu Kitô phải nhìn lại mình
trong ơn gọi gia đình qua gương mẫu của gia đình Thánh Gia Thất mà củng cố gia
đình trong đức tin và cuộc sống. Một trong những điều căn bản nơi hạnh phúc gia
đình mà nhiều khi người ta quên lãng, tức mỗi thành viên gia đình biết trao
tặng tình yêu thương và thời giờ cho nhau. Chúng ta thường mong đợi người khác
quan tâm đến những nhu cầu vật chất và tinh thần của mình, nhưng chính chúng ta
lại ít khi nhớ tới hoặc để ý tới nhu cầu của những người thân yêu của mình. Bởi
vì tình yêu thương không phải là cho đi cái gì, mà chính là cho đi bản thân
mình. Nhưng không thể nói được là chúng ta đã cho đi chính mình hay tận hiến
nếu chúng ta còn là nô lệ "cái tôi" ích kỷ nơi chính bản thân mình.
Bao lâu chúng ta biết biến đổi bản thân mình để chấp nhận một cuộc sống yêu
thương nơi tương quan vợ chồng, cha mẹ với con cái, chúng ta sẽ thể hiện một sự
tận hiến của tình yêu thương.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II hằng nhắc nhở chúng ta về sự thánh
thiêng của gia đình khi ngài gọi gia đình là: "Nền tảng của Giáo
Hội". Còn Đức Phaolô VI gọi gia đình là: "Cung Thánh của Giáo Hội",
là "trường học đầu tiên của con cái, mà cha mẹ là thầy dạy". Thật
vậy, gia đình là Giáo Hội đầu tiên, nơi tình yêu chung thủy của hai vợ chồng
thể hiện như dấu chỉ tình yêu chung thủy giữa Chúa Kitô và Giáo Hội: gia đình
nơi trẻ em được Rửa tội qua đức tin của cha mẹ, ông bà. Gia đình còn là trường
học đầu tiên, nơi bàn ăn gia đình, các em được học hiểu ý nghĩa của Tiệc Thánh
Thể trước khi các em được Rước lễ lần đầu; cũng nơi đó mỗi thành viên gia đình
tha thứ cho nhau những lầm lỗi, để cho con cái học hiểu hiệu quả nơi nhiệm tích
Hòa giải. Gia đình còn là nơi đặc biệt sống lời Chúa Giêsu đã phán: "Đâu
có hai ba người hợp nhau cầu nguyện nhân danh Thầy, Thầy ở giữa họ" (Mt
18,20)
Như vậy, trong cuộc sống hôn nhân và gia đình, khi mỗi người chúng
ta biết thành tâm tìm kiếm Chúa và phụng sự Ngài, chắc chắn mỗi gia đình sẽ thể
hiện được ơn gọi sống Thánh giữa đời của mình, tìm được bình an hạnh phúc cho
nhau ở trần gian và đạt được hạnh phúc vĩnh cửu quê trời. Vì Thiên Chúa luôn là
chìa khóa của hạnh phúc nơi cuộc sống gia đình.
Ước mong mỗi bậc cha mẹ luôn là tấm gương của tình yêu chân thành,
tình yêu vô vị lợi, của hy sinh, chấp nhận, tha thứ và quảng đại trong cuộc
sống hôn nhân. Vì con cái chỉ có thể lớn lên, khôn ngoan, có ơn nghĩa cùng
Thiên Chúa nếu như chúng cảm nhận một bầu khí thánh thiện đạo đức nơi cha mẹ,
như gương lành của Đức Maria và Thánh Giuse khi xưa.
Ước mong con cái ngày nay biết nhìn gương Chúa Giêsu đã vâng lời
khiêm hạ với Đức Mẹ và Thánh Giuse suốt 30 năm trường dưới mái nhà Nazareth để
trở nên một tấm gương hiếu thảo cho mọi người con biết thực thi lệnh truyền của
Thiên Chúa: Vâng lời và yêu mến cha mẹ. Vì niềm vui và hạnh phúc của cha mẹ
cũng là nơi con cái mình.
Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Chúa, nhóm lên trong
mỗi phần tử trong gia đình ngọn lửa tình yêu Chúa để mỗi người biết sống trọn
vẹn ơn gọi của mình, để gia đình chúng ta có hạnh phúc thật như gia đình
Nazareth xưa. Amen
Lễ Giáng sinh là lễ của ánh sáng. Đêm Noel, không những trong ngôi
thánh đường này, mà khắp nơi trên thế giới, ánh sáng rực rỡ hơn mọi ngày. Không
phải chỉ là ánh sáng vật chất bên ngoài, nhưng chính là ánh sáng chân thật của
Đấng Cứu thế bừng lên trong lòng thế giới. Sự kiện lớn lao ấy đã bắt đầu một
cách khiêm tốn tại một nơi được dùng để nhốt thú vật, một nơi tối tăm hôi thối
và ẩm ướt. Việc đầu tiên của thánh Giuse khi tới đó, là nhóm lên một bếp lửa,
cho ấm áp và sáng sủa để dọn dẹp.
Trong triết học người ta thích định nghĩa ngôi nhà bằng bếp lửa.
Nếu chỉ có bốn bức vách và hai mái che mưa nắng thì chưa được gọi là nhà, cần
phải có một bếp lửa nữa mới thực sự là chỗ ở của con người.
Bếp lửa cần thiết không những để sưởi ấm mà còn để nuôi sống con
người. Một trong những điểm làm cho con người khác hẳn con vật là biết dùng
lửa. Khi bếp lửa được nhóm lên nơi hang đá Bêlem, thì chỗ cư ngụ của thú vật đã
trở nên một tổ ấm, một mái nhà cho một gia đình nghèo khổ của thánh Giuse, Đức
Mẹ và hài nhi Giêsu, cũng như đã trở nên một hình ảnh tượng trưng cho thế giới,
cho nhân loại.
Thực vậy, từ đầu Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ và Ngài đã đem tình
thương của Ngài đặt vào đó, và thế giới này trở thành một quê hương, một tổ ấm
của con người. Thế nhưng con người đã từ chối tình thương ấy, khi xua đuổi
Thiên Chúa. Con người đã dập tắt bếp lửa yêu thương mà Thiên Chúa đã nhóm lên
trong lòng họ. Từ đó, chỗ ở của họ đã trở thành hoang vu, tình thương đã bị
thay thế bằng hận thù, sự thật đã bị thay thế bằng gian tham lừa đảo.
Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn không bỏ mặc con người. Ngài đã sai con
Ngài sinh ra trong cảnh tiêu điều tăm tối, để nhóm lại bếp lửa, biến đổi nơi
hoang tàn trước kia trở thành một tổ ấm. Đức Kitô đã trở nên anh em của loài
người. Ngài đã qui tụ tất cả lại trong gia đình con cái Thiên Chúa.
Vì vậy tiên tri Isaia đã xác quyết: Nhân loại bước đi trong u tối
đã nhìn thấy ánh sáng chan hòa. Anh sáng ấy, ngọn lửa ấy không phải là của một
que diêm, một bó đuốc, nhưng là của mặt trời. Đức Kitô là mặt trời công chính
soi chiếu khắp chốn trần gian. Ngài là tình thương của Thiên Chúa sưởi ấm loài
người.
Kể từ nay, thế giới biến thành một tổ ấm, một gia đình của con cái
Thiên Chúa, vì có bếp lửa là chính Chúa Giêsu ở giữa. Hôm nay, ánh sáng không
phải chỉ bao trùm trên những người chăn chiên, mà còn bao trùm trên toàn thể
Bêlem, toàn thể xứ Giuđêa và toàn thể địa cầu.
Thế nhưng Bêlem vẫn ngủ mê, Giuđêa vẫn đắm chìm trong quên lãng và
nhân loại vẫn vùi sâu trong lầm lạc. Chỉ có những tấm lòng đơn sơ nhỏ bé như
những người chăn chiên mới đón nhận được ánh sáng ấy.
Đức Kitô đã biến thế giới này trở thành một tổ ấm, một gia đình
cho những người con cái Thiên Chúa, nhưng điều ấy có ý nghĩa gì nếu chính gia
đình nhỏ bé của chúng ta vẫn hoang tàn lạnh lẽo thiếu hẳn hơi ấm yêu thương,
chỉ còn là một chỗ cho cãi cọ, xích mích và đay nghiến.
Bởi đó, hãy nhóm lại bếp lửa yêu thương cho gia đình chúng ta. Đây
không phải là một chuyện quá khó, bởi vì lễ Giáng sinh nhắc cho chúng ta nhớ
rằng: Anh sáng mặt trời đã tràn ngập, chỉ cần mở rộng cửa cho ánh sáng ấy tràn
vào. Hãy đón Chúa Giêsu vào nhà để Ngài qui tụ mọi người thành con cái Thiên
Chúa.
Hãy để tình yêu Ngài tràn ngập hầu gia đình chúng ta thực sự là
một mái ấm đầy tràn hạnh phúc của những người con Thiên Chúa.
Hoàng đế của một vương quốc hùng cường và thịnh vượng, một ngày
kia đã triệu tập các nghệ nhân từ khắp các nước đến dự một cuộc tranh tài. Cuộc
thi mô tả dung mạo hoàng đế.
Các nghệ nhân An Độ đến với đầy đủ dụng cụ và các loại đá hoa
cương quí hiếm. Các nghệ nhân Acmêni mang theo một loại đất sét đặc biệt. Các
nghệ nhân Ai Cập mang đủ loại đồ nghề và khối cẩm thạch hảo hạng. Sau cùng,
người ta hết sức ngạc nhiên vì phái đoàn nghệ nhân Hy Lạp chỉ mang đến vỏn vẹn
một gói thuốc đánh bóng. Mỗi phái đoàn thi thố tài năng của mình trong một
phòng riêng. Khi thời gian ấn định đã hết, hoàng đế đến từng gian phòng để
thưởng thức các tác phẩm. Vua hết lời khen ngợi bức chân dung của mình do các
họa sĩ An Độ vẽ. Ông càng thán phục hơn khi nhìn ngắm các pho tượng của chính
ông mà các người Ai Cập và Acmêni điêu khắc. Sau cùng, đến phòng trưng bày của
người Hy Lạp, hoàng đế không nhìn thấy gì cả, duy chỉ có bức tường của căn
phòng được đánh bóng đến độ khi nhìn vào ông thấy chân dung mình hiện ra từng
nét. Dĩ nhiên, giải nhất thuộc về các nghệ nhân Hy Lạp. Bởi vì họ đã hiểu rằng
chỉ có hoàng đế mới họa được dung mạo của chính mình.
Muốn họa lại dung mạo Đức Kitô, chúng ta cần phải đánh bóng lòng
mình cho sạch mọi vết nhơ, mọi tì ố của tâm hồn. Một khi đã nên sáng bóng như
gương, chúng ta sẽ tiếp nhận được khuôn mặt rạng ngời của Chúa.
Khi Đức Maria và thánh Giuse dâng Chúa Hài nhi trong đền thánh, có
biết bao tư tế và luật sĩ thông thái, giỏi giang, am tường Kinh Thánh, và hiểu
rõ các lời tiên tri loan báo về Đấng Cứu thế, nhưng họ đã không nhận ra Chúa.
Duy chỉ có ông Simêon, và bà Anna đã nhận ra được dung mạo của Người. Simêon và
Anna đã dâng hiến trọn vẹn con người và cuộc đời, đã mài bóng đời mình bằng đạo
hạnh và khiêm tốn, đã tôn thờ Chúa trong tin yêu và phó thác. Vì thế, dung mạo
của Đấng Cứu thế đã tỏ hiện sáng ngời trước mặt các ngài. Simêon và Anna đã đón
nhận Đấng Cứu thế như những người nghèo hèn bé nhỏ. Các ngài đã được bồng ẵm
Chúa, được thay mặt cho cả nhân loại nói lời đầu tiên tôn vinh Chúa đến cứu độ
con người.
Lễ Thánh Gia mời gọi chúng ta nhìn vào các gia đình. Truyền thống
gia đình ngày càng sút giảm. Ly thân, ly dị, trẻ em lang thang, thanh niên nổi
loạn, phá thai, mại dâm, ma túy ngày càng gia tăng. Gia đình là nền tảng của xã
hội. Nếu không có những gia đình lành mạnh thì không thể có một xã hội tốt đẹp.
Cuộc sống của gia đình phải tỏa hương thơm của thiên đàng.
Hơn bao giờ hết, các gia đình chúng ta phải nhìn lên Thánh Gia
thất: một gia đình lý tưởng, đạo đức, yêu thương và chăm lo cho nhau. Thánh
Luca đã ghi lại hình ảnh rất đẹp của Thánh Gia như sau: “Đức Giêsu đi xuống
cùng với cha mẹ, trở về Nagiarét và hằng vâng phục các ngài. Riêng Mẹ Người
hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu ngày càng khôn lớn,
và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến”.
Xã hội chúng ta không thiếu các mẫu gương đạo hạnh: Louis Pasteur,
nhà bác học thời danh, đã tâm sự khi đặt tấm bia kỷ niệm tại gia đình ông:
“Kính thưa cha mẹ thân yêu của con đã khuất bóng, các ngài đã khiêm tốn sống
trong nếp nhà bé nhỏ này. Con mắc nợ công ơn cha mẹ về hết mọi điều…”.
Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo Hội Pháp
cũng tâm sự: “Những lời khuyên nhủ dịu dàng của mẹ tôi, gương đạo đức, lòng
nhiệt thành hâm nóng linh hồn nguội lạnh của tôi, khuyến khích nâng đỡ tăng sức
mạnh cho tôi. Chính nhờ giáo huấn của người mà tôi có đức tin”.Có lẽ thế giới
biết nhiều đến thủ tướng Thái Lan, nhưng ít ai biết được cậu Chuam Leekpai còn
là một người con giàu cảm xúc, hiếu thảo, và luôn nghĩ đến bậc sinh thành. Ông
nói với mẹ: “Giờ đây, con đã là một chính trị gia và con không còn thời gian về
thăm mẹ thường xuyên nữa. Điều này làm con cứ áy náy mãi. Tuổi mẹ càng cao thì
nỗi lo của con càng nhiều. Do đó con cố gắng tìm mọi cơ hội về thăm mẹ”.
Đức Pio XI trong thông điệp về Giáo dục Kitô giáo có viết: “Nền
giáo dục hữu hiệu nhất và bền bỉ nhất là nền giáo dục được nhận lãnh từ một gia
đình Kitô giáo có qui củ và khuôn phép. Những gương lành của cha mẹ và của
những người trong gia đình càng chiếu tỏa và bền bỉ, thì kết quả của giáo dục
càng lớn lao”.
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Con Thiên Chúa đã sinh ra làm người và sống trong một gia đình.
Gia đình của Ngài gồm có Thánh Giuse, Đức Mẹ Maria và Ngài. Một gia đình rất
thánh thiện, gương mẫu. Hôm nay dâng lễ mừng kính Thánh Gia, chúng ta hãy học
nơi các Ngài những đức tính cần có trong cuộc sống gia đình, và chúng ta xin
các Ngài ban ơn cho gia đình chúng ta.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta hãy ăn năn sám hối vì những thiếu sót của chúng ta đối
với những người trong gia đình mình.
Chúng ta hãy ăn năn sám hối vì chưa dành chỗ xứng đáng cho Chúa
trong gia đình mình.
Chúng ta hãy ăn năn sám hối vì những gương xấu mà gia đình mình đã
gây ra cho những gia đình chung quanh.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I: Hc 3, 3-7. 14-17a
Huấn ca là một tập sách luận bàn về cách sống khôn ngoan trong
nhiều lãnh vực. Trong đoạn này, tác giả, Ben Sira, đưa những lời khuyên về cách
sống trong gia đình. Điều quan trọng nhất là con cái phải thảo kính cha mẹ. Tác
giả kể ra những ích lợi của việc này:
Việc thảo kính cha mẹ sẽ đền bù được tội lỗi
Người thảo kính cha mẹ đến khi có con cái thì được con cái mình
thảo kính.
Người thảo kính cha mẹ khi cầu nguyện sẽ được Chúa nhậm lời.
Phải thảo kính cha mẹ nhất là khi các ngài già yếu.
2. Đáp ca: Tv 127
Tv này được hát lúc hành hương lên Đền thờ Giêrusalem. Người tín
hữu hành hương tin chắc rằng ai sống công chính thì sẽ được Thiên Chúa ban
phúc. Các ơn phúc Chúa ban trước hết là những ơn cho cuộc sống gia đình: việc
làm ăn có kết quả, vợ con mạnh khoẻ, sống lâu v.v.
3. Tin Mừng: Lc 2, 22-40
Tường thuật việc Thánh gia lên Đền thờ Giêrusalem để dâng con cho
Thiên Chúa. Trong dịp này, cụ ông Simêon và cụ bà Anna nói những lời tiên tri
về tương lai của Đức Giêsu.
Một số điều đáng lưu ý:
Thánh gia là một gia đình nghèo (lễ vật của người nghèo), nhưng
giữ luật đạo rất chín chắn (luật thanh tẩy người mẹ sau khi sinh con, luật cắt
bì cho con, luật dâng con đầu lòng cho Thiên Chúa).
Các phần tử của Thánh gia rất hiệp nhất với nhau: tất cả đều cùng
nhau lên Đền thờ mặc dù luật không buộc như thế (chẳng hạn luật tẩy uế cho
người mẹ chỉ buộc người mẹ lên đền thờ thôi).
Khi đó cha mẹ Đức Giêsu chưa hiểu hết mầu nhiệm con mình. Bởi vậy,
khi nghe Simêon nói, hai ông bà "kinh ngạc".
4. Bài đọc II: Cl 3, 12-21
Thánh Phaolô giảng về "nếp sống mới" của những người đã
cùng chết và cùng sống lại với Đức Giêsu. Nếp sống này gồm:
Những đức tính nhân bản: "Từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn
hòa, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau".
Nền tảng và nguồn gốc của những đức tính trên là chính Thiên Chúa:
"Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau. Trên
hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương".
Bí quyết để sống được như trên là luôn suy gẫm Lời Chúa.
Và dịp tốt thường có để thực hành các đức tính ấy chính là trong
gia đình.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Gia đình Nadarét và gia đình chúng ta
Gia đình Nadarét vừa giống nhưng cũng vừa khác phần lớn gia đình
chúng ta:
Như phần lớn gia đình chúng ta, gia đình Nadarét nghèo. Trong Tin
Mừng ta tìm thấy hai dấu chỉ tình trạng nghèo của các ngài: Khi đến Bêlem, Thánh
Gia không đủ tiền để thuê một chỗ trọ trong hàng quán nên phải ở tạm trong hang
súc vật; khi đem con đầu lòng dâng trong đền thờ cùng với lễ vật theo luật
định, Thánh Gia chỉ dâng một đôi chim câu, là thứ lễ vật của người nghèo.
Như phần lớn gia đình chúng ta, gia đình Nadarét phải sinh nhai
bằng chính sức lao động của mình. Có lẽ các ngài không có vốn để đầu tư, buôn
bán. Thánh Giuse và Đức Giêsu kiếm tiền sinh sống bằng nghề thợ mộc.
Như phần lớn gia đình chúng ta, vì nghèo và vì theo nghề lao động,
nên gia đình Nadarét không được người ta coi trọng cho lắm. Mãi sau này khi Đức
Giêsu đã thôi làm ăn để đi rao giảng, thế mà nhiều người vẫn nhắc với giọng mỉa
mai "Ông ta là con bác thợ mộc".
Nhưng gia đình Nadarét khác hầu hết gia đình chúng ta ở nhiều điểm:
một là dù nghèo nhưng không gian tham trộm cắp; hai là dù nghèo nhưng không lục
đục với nhau; ba là dù nghèo nhưng vẫn thu xếp công việc được để chu toàn mọi
bổn phận trong đạo.
Những nét giống giữa gia đình Nadarét và gia đình chúng ta khiến
chúng ta cảm thấy gần gũi với Thánh gia, và nhớ đó chúng ta biết mình có thể
học với các ngài ở những điểm khác biệt với chúng ta.
* 2. Tương lai của đứa con gia đình
Trong ngày lễ đặt tên cho Gioan Tẩy giả, bà con lối xóm đã đặt câu
hỏi "Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào?" (Lc 1, 66). Đây là câu hỏi của
mọi người làm cha mẹ. Càng thương con bao nhiêu, câu hỏi đó càng là mối băn
khoăn cho cha mẹ bấy nhiêu, bởi vì cha mẹ thương con chỉ muốn cho con mình có
một tương lai tốt đẹp, nhưng tương lai ấy lại không do cha mẹ hoàn toàn lo liệu
cho con được.
Cha mẹ Đức Giêsu cũng thế. Bởi vậy, sau khi nghe cụ Simêon nói về
tương lai của trẻ Giêsu bằng những lời rất khó hiểu, Tin Mừng viết, "Cha
mẹ Ngài đều kinh ngạc".
Nhưng tương lai của đứa con không hoàn toàn không có phần của cha
mẹ. Điều này rất rõ trong trường hợp Đức Giêsu:
Người ta vẫn nói Ngài là "con bác thợ mộc" (Mc 6, 3).
Đức Giêsu có thói quen cầu nguyện và sống với Chúa Cha. Thói quen
này hẳn là Ngài đã học được từ gia đình. Tin Mừng tuy nói rất ít về thời thơ ấu
của Ngài, nhưng cũng đủ cho ta thấy Thánh gia rất quan tâm chu toàn những bổn
phận tôn giáo.
* 3. Dung mạo Chúa cứu thế
Hoàng đế của một vương quốc hùng cường và thịnh vượng, một ngày
kia đã triệu tập các nghệ nhân từ khắp các nước đến dự một cuộc tranh tài. Cuộc
thi mô tả dung mạo hoàng đế.
Các nghệ nhân Ấn Độ đến với đầy đủ dụng cụ và các loại đá hoa
cương quí hiếm. Các nghệ nhân Acmêni mang theo một loại đất sét đặc biệt. Các
nghệ nhân Ai cập mang đủ loại đồ nghề và khối cẩm thạch hảo hạng.
Sau cùng, người ta hết sức ngạc nhiên vì phái đoàn nghệ nhân Hy
Lạp chỉ mang đến vỏn vẹn một gói thuốc đánh bóng.
Mỗi phái đoàn thi thố tài năng của mình trong một phòng riêng. Khi
thời gian ấn định đã hết, hoàng đế đến từng gian phòng để thưởng thức các tác
phẩm. Vua hết lời khen ngợi bức chân dung của mình do các họa sĩ Ấn Độ vẽ. Ông
càng thán phục hơn khi nhìn ngắm các pho tượng của chính ông mà các người Ai
Cập và Acmêni điêu khắc.
Sau cùng, đến phòng trưng bày của người Hy Lạp, hoàng đế không
nhìn thấy gì cả, duy chỉ có bức tường của căn phòng được đánh bóng đến độ khi
nhìn vào ông thấy chân dung mình hiện ra từng nét.
Dĩ nhiên, giải nhất thuộc về các nghệ nhân Hy Lạp. Bởi vì họ đã
hiểu rằng chỉ có hoàng đế mới họa được dung mạo của chính mình.
*
Muốn họa lại dung mạo Đức Kitô, chúng ta cần phải đánh bóng lòng
mình cho sạch mọi vết nhơ, mọi tì ố của tâm hồn. Một khi đã nên sáng bóng như
gương, chúng ta sẽ tiếp nhận khuôn mặt rạng ngời của Chúa.
Khi Đức Maria và Thánh Giuse dâng Chúa Hài Nhi trong đền thánh, có
biết bao tư tế và luật sĩ thông thái, giỏi giang, am tường Kinh Thánh, nhưng họ
đã không nhận ra Chúa. Duy chỉ có ông Simêon, và bà Anna đã nhận ra được dung
mạo của Người.
Simêon và Anna đã dâng hiến trọn vẹn con người và cuộc đời, đã mài
bóng đời mình bằng đạo hạnh và khiêm tốn, đã tôn thờ Chúa trong tin yêu và phó
thác. Vì thế, dung mạo của Đấng Cứu Thế đã tỏ hiện sáng ngời trước mặt các
ngài.
Simêon và Anna đã đón nhận Đấng Cứu Thế như những người nghèo hèn
bé nhỏ. Các ngài đã được bồng ẵm Chúa, được thay mặt cho cả nhân loại nói lời
đầu tiên tôn vinh Chúa đến cứu độ con người.
Lễ Thánh Gia mời gọi chúng ta nhìn vào các gia đình. Truyền thống
gia đình ngày càng sút giảm. Ly thân, ly dị, trẻ em lang thang, thanh niên nổi
loạn, phá thai, mại dâm, ma tuý ngày càng gia tăng. Gia đình là nền tảng của xã
hội. Nếu không có những gia đình lành mạnh thì không thể có một xã hội tốt đẹp.
Cuộc sống của gia đình phải tỏa hương thơm của thiên đường.
Hơn bao giờ hết, các gia đình chúng ta phải nhìn lên Thánh gia
thất: một gia đình lý tưởng, đạo đức, yêu thương và chăm lo cho nhau. Thánh
Luca đã ghi lại hình ảnh rất đẹp của Thánh Gia như sau: "Đức Giêsu đi
xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadaret và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ
Người hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu ngày càng
khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến" (Lc. 2,
51-52).
Xã hội chúng ta không thiếu các mẫu gương đạo hạnh: Louis Pasteur,
nhà bác học thời danh, đã tâm sự khi đặt tấm bia kỷ niệm tại gia đình ông:
"Kính thưa cha mẹ thân yêu của con đã khuất bóng, các ngài đã khiêm tốn
sống trong nếp nhà bé nhỏ này. Con mắc nợ công ơn cha mẹ về hết mọi
điều..."
Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo hội Pháp
cũng tâm sự: "Những lời khuyên nhủ dịu dàng của mẹ tôi, gương đạo đức,
lòng nhiệt thành hâm nóng linh hồn nguội lạnh của tôi, khuyến khích nâng đỡ sức
mạnh cho tôi. Chính nhờ giáo huấn của người mà tôi có đức tin".
Có lẽ thế giới biết nhiều đến Thủ tướng Thái Lan, nhưng ít ai biết
được cậu Chuam Leekpai còn là một người con giàu cảm xúc, hiếu thảo, và luôn
nghĩ đến bậc sinh thành. Ông nói với mẹ: "Giờ đây, con đã là một chính trị
gia và con không còn thời gian về thăm mẹ thường xuyên nữa. Điều này làm con cứ
áy náy mãi. Tuổi mẹ càng cao thì nỗi lo của con càng nhiều. Do đó con cố gắng
tìm mọi cơ hội về thăm mẹ".
Đức Piô XI trong thông điệp về Giáo dục Kitô giáo có viết:
"Nền giáo dục hữu hiệu nhất và bền bỉ nhất là nền giáo dục được nhận lãnh
từ một gia đình Kitô giáo có qui củ và khuôn phép. Những gương lành của cha mẹ
và của những người trong gia đình càng chiếu tỏa và bền bỉ, thì kết quả của
giáo dục càng lớn lao".
*
Lạy Đức Giêsu, xin dạy chúng con biết theo gương Chúa, luôn sống
trung hiếu với Cha trên trời, thảo kính với ông bà cha mẹ, và sống hết tình với
anh chị em chung quanh.
Xin cho chúng con luôn biết đánh bóng đời mình, bằng tấm lòng
khiêm tốn và đạo hạnh, bằng việc tôn thờ Chúa trong tin yêu và phó thác, để
dung mạo của Chúa ngày càng tỏ hiện sáng ngời trong cuộc đời chúng con. Amen.
(Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 4. Con cái
Con cái các bạn không phải là con cái của các bạn
Chúng đến qua các bạn chứ không phải từ các bạn.
Mặc dù chúng ở với các bạn nhưng chúng không thuộc về các bạn.
Các bạn có thể cho chúng tình thương nhưng không thể cho chúng ý
tưởng, bởi vì chúng có những ý tưởng riêng của chúng.
Các bạn có thể lo nơi ăn chốn ở cho thân xác chúng chứ không thể
cho linh hồn chúng, vì linh hồn chúng ở một nơi thuộc tương lai mà các bạn
không thể đến thăm, ngay cả trong giấc mơ.
Các bạn có thể cố gắng để giống như chúng, nhưng đừng cố bắt chúng
giống như các bạn.
Bởi vì cuộc sống không đi giật lùi và cũng không ngừng mãi ở ngày
hôm qua.
Các bạn là những chiếc cung, và những mũi tên từ đó phóng đi chính
là con cái của các bạn. (Kahil Gibran)
* 5. Đạo hiếu
Bài trích sách Huấn Ca (bài đọc I, được chỉ định đọc trong năm A,
nhưng cũng có thể đọc trong năm B và C) có câu: "Ai thờ cha thì bù đắp lỗi
lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu"
Những từ mà Thánh Kinh dùng rất quen thuộc với người Việt Nam. Thí
dụ như câu ca dao: "Một lòng thờ mẹ, kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là
đạo con".
"Thờ" và "kính" chính là những việc làm trong
tôn giáo. Hiếu thảo với cha mẹ chính là Đạo.
Câu Huấn ca và câu ca dao trên giúp ta ý thức rằng hiếu thảo với
cha mẹ không chỉ là một tình cảm, cũng không phải chỉ là một lẽ công bình, mà
là một Đạo. Mà lỗi đạo tức là phạm tội chứ không chỉ là một sự thiếu sót.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã làm cho Thánh gia trở
nên đền thánh của sự sống, của tình thương, và của niềm vâng phục ý Chúa. Hôm
nay mừng lễ Thánh Gia, chúng ta đặc biệt hướng về các gia đình và dâng lời cầu
nguyện:
1. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh là gia
đình của Chúa / luôn cố gắng sống hiệp thông với nhau / để làm chứng cho tình
yêu Chúa cho thế giới.
2. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các bậc làm cha mẹ và các nhà
giáo dục / biết hướng dẫn và cộng tác với các con em mình / để xây dựng gia
đình thành một tổ ấm đầy tình yêu thương.
3. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người không gia đình / hoặc
sống trong gia đình đang bị khủng hoảng xáo trộn / được ơn can đảm để nhẫn nhục
chịu đựng / và tích cực góp phần hàn gắn lại những gì đã tan vỡ.
4. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người làm cha mẹ cũng như
làm con cái trong xứ đạo chúng ta / luôn ý thức trách nhiệm của mình đối với
hạnh phúc gia đình / để biết cởi mở, đối thoại, thông cảm và cô#ng tác với nhau
theo thánh ý Chúa.
Chủ tế: Lạy Chúa, xin chấp nhận những lời cầu chúng con dâng lên
Chúa nhân dịp lễ Thánh Gia, để nhờ ơn Chúa giúp, mỗi người trong gia đình đều
cộng tác làm cho gia đình trở nên Đền Thánh của sự sống của tình thương, và
niềm vâng phục ý Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Ngoài gia đình tự nhiên, người kitô hữu
chúng ta còn có được một gia đình siêu nhiên trong đó Thiên Chúa là Cha, mọi
người là anh em với nhau, và Đức Giêsu là anh cả. Trong tình nghĩa gia đình ấy,
chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa lời kinh Lạy Cha.
- Trước lúc Rước lễ: Thánh lễ là một bữa ăn gia đình. Chúa là gia
trưởng, các tín hữu là con cái ngồi quanh bàn ăn. Phúc cho những ai được mời
vào bàn ăn gia đình ấy.
VII. Giải tán
Sau khi được khuyến khích bởi tấm gương gia đình Nadarét, giờ đây
anh chị em trở về sống với gia đình mình và các gia đình hàng xóm. Anh chị em
hãy sống theo gương thánh gia. Chúc anh chị em bình an.
(Suy niệm của Lm. Nhất Tiến)
Trong Phụng vụ Lời Chúa lễ kính Thánh Gia hôm nay, chúng ta được
nghe lại đoạn Tin mừng (Lc 2:22-40) kể lại việc Đức Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse
dâng Chúa Giêsu Hài Nhi vào Đền Thờ Giêrusalem. Đặc biệt, ngay từ câu đầu tiên
(22), trình thuật đã cho chúng ta thấy cả ba thành viên của Gia Đình Thánh lần
đầu tiên cùng đi lên Giêrusalem với mục đích rõ ràng là để “chu toàn lề luật”.
Trước hết, chúng ta thấy chỉ trong một câu chuyện, từ ngữ theo
“luật - law - loi” đã được Thánh ký Luca nhắc đến 5 lần (22,23,24,27,39). Như
vậy, Thánh Gia lên Thành Thánh Giêrusalem là để tỏ lòng trung tín với Luật
Môse; nói cho đúng hơn, để thi hành Luật Chúa (24) qua Môse truyền cho dân
Israel, bao gồm quy định người mẹ phải được thanh tẩy sau khi sinh con và người
con trai đầu lòng thì phải được sớm hiến thánh cho Thiên Chúa (cf. Lev.12:8;
Nkm.10:36-37). Thế là, bởi hành vi theo Lề Luật, Chúa Giêsu đã được cha mẹ dâng
hiến và chuộc lại bằng lễ vật hạng nhà nghèo, để nên đồng hoá với anh em nhân
loại của mình mọi đàng - ngoại trừ tội lỗi (Dt.4:15). Nhưng cũng là để qua hành
vi khiêm tốn vâng phục Lề Luật này, Chúa Giêsu vừa trình diện trước Thánh Nhan
Chúa Cha như một người Con Rất Yêu Dấu, lại vừa công khai xuất hiện trước Cộng
Đoàn Do Thái đại diện cho cả nhân loại, trong thân phận giới hạn của một Hài
Nhi yếu đuối, sinh ra và sống dưới chế độ lề luật (cf. Gal 4:4). Nói cách khác,
Đức Kitô, Con Thiên Chúa đến để bày tỏ Mạc Khải Cứu Độ cao vời của Thiên Chúa
ngay trong phạm vi không gian và thời gian, trong sự lệ thuộc vào những quy
định dành cho con người.
Như thế, Thánh Gia, từ ban đầu và trong tất cả, đã thực sự tự tình
sống trong sự vâng phục Lề luật, như một bảo đảm cho cả gia đình được sống
trong Ánh nhìn quan phòng yêu thương của Chúa Cha nhân từ. Con Thiên Chúa đến
cứu độ nhân loại đã thật sự hoà nhịp vào cuộc sống thực tại nhân sinh; với hoàn
cảnh, môi trường, giới hạn, quy định, luật lệ… cho trọn nghĩa kiếp phận con
người. Nói khác đi, cả nhà gồm cha - mẹ - con đã vui lòng sống trong tinh thần
lụy phục và phó dâng, trong thái độ nghiêm cẩn và khiêm hạ, trong trạng thái
đón đợi Thánh Ý Thiên Chúa và chấp nhận cảnh vực trần gian với những quy luật
cần thiết và chính đáng. Cũng vậy, tâm tình ngoan thảo và thái độ vâng phục của
chúng ta đối với Thiên Chúa giữa thực tại gia đình, trong cộng đoàn và ngoài xã
hội không phải chỉ là để tuân thủ luật pháp ràng buộc con người cho được sống bình
an, hạnh phúc mà thôi; nhưng còn là để không ngừng được thăng hoa và vui tươi
hơn nữa trong vị thế tự do của con cái Thiên Chúa.
Thứ đến, như trên đã nói, không những ông bố Giuse và bà mẹ Maria
ẵm con trẻ Giêsu lên Đền Thờ Giêrusalem để thánh hiến cho Đức Chúa, mà còn để
công khai giới thiệu Đấng Cứu Thế với cộng đoàn nhân loại. Cụ Simêon, mặc dầu
không phải là tư tế, nhưng với tư cách là một tiên tri cao niên và nhờ Thánh
Thần thúc đẩy, đã vui mừng và công khai xác nhận Ánh Sáng Thiên Tính của Đấng Cứu
Độ muôn dân giữa trung tâm Đền Thờ tôn nghiêm, bằng bài ca “Nunc dimit is”
(29-32) bất hủ của cụ. Và rồi, cùng với bà Anna, cụ Simêon đã chúc phúc cho hai
ông bà và tuyên xưng Vinh Quang Thiên Chúa đã đến giữa nhân trần.
Như vậy, một khi ý thức cùng đưa nhau đến với Chúa qua Giáo Hội và
sống chan hoà với mọi người chung quanh, các gia đình Kitô hữu sẽ tìm ra nhiều
cơ hội thích hợp và điều kiện thuận lợi để cùng nhau ca tụng, ngợi khen Chúa vì
cuộc sống chung tươi đẹp Chúa thương ban trong bậc sống gia đình, đồng thời hy
vọng được nhận lãnh muôn phúc lành từ Thiên Chúa, nơi cộng đoàn Giáo Hội và qua
các thánh nhân, người lành khi ở giữa khung cảnh thánh thiện của những nơi dành
riêng cho việc thờ phượng Người. Ở bất cứ nơi đâu và trong hoàn cảnh nào, các gia
đình thân yêu của chúng ta cũng có thể cùng nhau đồng hành trọn vẹn trong đời
sống thiêng liêng và đạo đức. Hơn bao giờ hết, trong thời đại ngày nay, việc
cầu nguyện cho nhau trong tình thân, quan tâm đến nhau trong cuộc sống chung,
nhất là cùng thúc đẩy nhau sống Lời Chúa ngay trong môi trường gia đình, cộng
đoàn và xứ đạo là tuyệt đối cần thiết! Cách riêng, gia đình vẫn là môi trường
giáo dục tuyệt hảo đầu tiên, trong đó ông bà, cha mẹ, anh chị có cơ hội tốt để
làm gương và dậy dỗ con cái, cháu em của mình sống trong sự hiện diện thật sự
của Chúa và cảm nhận sự đồng hành sống động của Người giữa cuộc sống chung gia
đình và trong cuộc đời cá nhân mỗi người; từ đó đưa dẫn những người thân yêu
của mình đến lãnh nhận phúc lộc an vui từ nơi Thiên Chúa ăm ắp tình thương.
Tôi chợt nhớ đến một hình ảnh đẹp: Trên một chuyến tàu điện metro
ở thủ đô Manila - Philippines, tôi ngồi đối diện với một bà mẹ trẻ đẹp, quần áo
hợp thời, đang ôm chặt đứa con trai nhỏ xinh xắn trong lòng. Tay phải của chị
không ngừng mân mê tràng chuỗi Mân Côi đơn sơ. Đặc biệt, mỗi khi tàu điện chạy
ngang qua một nhà nguyện hay nhà thờ, chị đều nhắc con trai nhỏ của mình hướng
ánh nhìn về những nơi đó và cúi đầu chào Chúa. Một lúc sau, tôi thấy chị không
cần phải nhắc nữa, nhưng đứa bé cứ nhìn chăm chú ra ngoài cửa sổ và tự động cúi
đầu xuống mỗi khi thấy một ngôi nhà thờ, nhà nguyện hay đơn giản chỉ là một cây
thánh giá trên nóc một toà nhà. Một hình ảnh đẹp khác, như một bài học sống đạo
đơn sơ mà sâu sắc từ một bà mẹ dáng nhỏ nhắn ở một giáo xứ vùng quê Cái Sắn,
miền tây Việt Nam mà tôi đã từng đến giúp mục vụ ít tuần. Sau mỗi thánh lễ
chiều, bà mẹ nhà quê ấy bồng đứa con trai nhỏ trên tay, nhanh chân đi về phía
đài Đức Mẹ, theo sau bà là đứa con gái khoảng 3 tuổi bám chặt lấy tà áo bà ba giản
dị của mẹ. Đến trước đài Đức Mẹ, bà cầu nguyện một chút, rồi cả ba mẹ con cúi
mình chào kính Đức Mẹ thật sâu rồi mới ra về. Đôi khi, bà phải lấy một tay nhấn
đầu đứa con trai bé bỏng mà bà đang bế, để nó cúi hẳn đầu xuống mà cùng bà chào
kính Đức Mẹ.
Thật là hai hình ảnh tuyệt đẹp của cùng một cung cách bày tỏ Niềm
Tin truyền thống và bình dân giữa cuộc sống đời thường. Trong khuôn viên nhà
thờ miền quê hay trên hành trình xe điện thành phố, cả hai bà mẹ đều thực hành
việc Giáo Dục Đức Tin cho con cái mình thật đơn thành nhưng đầy hiệu quả. Giáo
Dục Đức Tin ngay từ trong gia đình là rất cần thiết, đặc biệt trong thời đại
hôm nay không ít người còn rất trẻ nhưng đã sớm thất vọng não nề sau những cơn
mê đắm khoái lạc giả tạo và thần tượng vô bổ chóng qua. Thực vậy, đối với các
gia đình Kitô hữu, vắng bóng Thiên Chúa đồng nghĩa với bề tắc cuộc đời. Cầu
mong các bậc phụ huynh của các gia đình Kitô Giáo thực sự nhận thức trách nhiệm
đối với các con em mình, biết can đảm nêu gương sáng đạo đức và tích cực giáo dục
người trẻ ân cần “giữ đạo” cách xác tín và “sống đạo” cách trưởng thành; bằng
cách không ngừng thúc đẩy và dẫn đưa chúng tìm đến Thiên Chúa là Cội nguồn Tình
yêu và Ân sủng, Bình an và Hạnh phúc đích thực trường cửu.
“Lạy Thánh Gia Nazareth, xin làm cho các gia đình chúng con trở
nên Nơi hiệp thông và Nhà tạm của cầu nguyện, trở thành Trường học đích thực
của Phúc Âm và Giáo Hội bé nhỏ tại gia…” (trích Lời kinh Đức thánh cha Phanxicô
soạn trong dịp chuẩn bị Thượng hội đồng Giám mục về Gia đình, 10.2014).
Hôm nay Giáo Hội muốn chúng ta chiêm ngưỡng Thánh Gia: Chúa Giêsu,
Đức Maria và thánh Giuse, một gia đình kiểu mẫu cho mọi gia đình. Vậy theo
gương Thánh Gia, mỗi gia đình Công giáo phải thế nào?
Tình yêu không phải là một xa xỉ phẩm, nó là một thứ tối cần để
nâng đỡ và xây dựng cuộc sống. Tình yêu làm nên hạnh phúc. Vì thế, đi tìm và
đón nhận tình yêu không phải là việc không quan trọng. Nhưng trước khi đi tìm
tình yêu ở nơi khác, hãy tìm và hun đúc tình yêu nơi chính gia đình mình.
Tình yêu gia đình là tình yêu tự nhiên nhất, sớm sủa nhất và lành
mạnh nhất. Gia đình phải là một tổ ấm tình yêu, để rồi lại trở thành nền tảng
cho mọi thứ tình yêu khác. Tuy nhiên, tình yêu nào mà lại chẳng có hy sinh.
Tình yêu thiếu hy sinh là tình yêu dỏm. Hy sinh thiếu tình yêu là hy sinh thừa.
Tình yêu trong tổ ấm gia đình không phải là một luật trừ, cho dù gia đình gồm
toàn những người rất thánh, cũng khó tránh khỏi những chuyện làm buồn lòng
nhau. Vì thế, điều quan trọng không phải là tránh được hết mọi chuyện không
vui, nhưng là biết lợi dụng tất cả những vui buồn để dắt nhau về cõi phúc. Nếu
biết hiểu như thế, nhất là nếu biết thực hiện như thế, thì gia đình sẽ vừa là
tổ ấm tình yêu, vừa là nơi đặt nền cho mọi tình thương, và cũng là lò luyện hy
sinh.
Mỗi gia đình là một Giáo Hội, một Giáo Hội rút gọn. Đã là một Giáo
Hội rút gọn thì mỗi gia đình phải lập lại hình ảnh Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa
Con và Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi hiệp nhất, yêu dấu và chia sẻ mọi sự với nhau
thế nào, thì mỗi gia đình cũng phải đoàn kết trong tình yêu thương lẫn nhau
giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái như vậy. Mỗi người không còn ích kỷ, tìm lợi
riêng cho mình, nhưng quên mình để làm sao cho những người khác trong gia đình
được nâng đỡ, được hạnh phúc vui tươi trong bầu khí yêu thương đó.
Nếu mọi người trong gia đình biết sống như thế thì gia đình thật
là một Giáo Hội nhỏ, sống trong tình thương, và dâng lên Thiên Chúa những của
lễ thiêng liêng là những hoạt động hằng ngày của gia đình. Như thế, dù chúng ta
ở đâu, gần nhà thờ hay xa nhà thờ, gia đình chúng ta vẫn là một đền thờ tốt đẹp
quí báu.
Một gia đình sống theo những điều trên đây sẽ là một trường rất
tốt để dạy đức tin cho con cái. Có nhiều người trong gia đình chỉ lo làm ăn và
nuôi dưỡng phần tự nhiên cho con cái. Điều đó tốt thôi, nhưng nếu xao lãng
không quan tâm một chút nào đến việc dạy dỗ đức tin cho con cái thì là một
thiếu sót lớn. Đàng khác, có nhiều gia đình cũng quan tâm đến việc ấy nhưng lại
ỷ vào người khác như các cha, các tu sĩ, các giáo lý viên, các hội đoàn. Như
vậy cũng không được. Đã đến lúc những người làm cha mẹ phải ý thức: công việc
đó trước tiên là công việc của mình và chính mình phải chịu trách nhiệm về đức
tin của con cái trước mặt Thiên Chúa sau này, như trong Hiến Chế về Giáo Hội,
Công Đồng Vaticanô II đã nói: “Những người đầu tiên phải lấy lời nói và gương
sáng mà dạy dỗ đức tin cho con cái chính là cha mẹ”.
Thực vậy, gia đình là trường dạy đức tin cho con cái tốt nhất, vì
không phải chỉ dạy một tuần một hai giờ mà dạy hằng ngày, luôn luôn. Ước chi
các bậc cha mẹ đều bắt chước thánh Giuse và Đức Mẹ như Tin Mừng nói: “Các ngài
luôn vâng giữ lời Chúa và siêng năng dự các lễ nghi như luật dạy”. Nếu các
người làm cha mẹ có lòng tin vững chắc, biết truyền lại cho con cái niềm tin
của mình, bằng lời dạy dỗ, bằng gương sáng trong cách ăn ở hằng ngày, thì con
cái chắc chắn sẽ theo đường lối ấy. Ước chi mỗi gia đình Công giáo đều hiểu và
sống như vậy.
Nếu chúng ta trồng cây nơi đất trống, thì cây đó sẽ rất dễ bị lay
động, vì đành phải phó mặc cho cơn gió thổi. Nếu còn sống sót, nó sẽ bị cong
queo, trơ trụi, có thể trở thành một mẫu vật nghèo nàn. Nếu muốn trồng một cây
để nó được phát triển với đầy đủ tiềm năng của nó, thì bạn phải trồng nó ở một
nơi mà nó có thể được che chở nhiều hơn. Bạn đừng trồng cây đó ở riêng một chỗ,
mà phải trồng nó cùng với một số cây khác.
Điều quan trọng sống còn là cần phải có một khoảng cách thích hợp
giữa các cây. Chúng phải gần nhau đủ, để có khả năng cung cấp chỗ trú ẩn và bảo
vệ cho nhau. Tuy nhiên, chúng không được quá gần gũi nhau, đến nỗi có thể hiếp
đáp nhau. Chúng phải được trồng xa nhau vừa đủ, đảm bảo sao cho mỗi cây đều có
một khoảng cách thích hợp, để phát triển với đầy đủ tiềm năng của nó.
Trồng cây một mình một chỗ là không tốt. Cũng vậy, nếu chúng ta ở
một mình thì cũng không tốt. Vì tính cách toàn diện, và vì sức khỏe tinh thần
của mình, chúng ta cần ràng buộc tình yêu và tình bạn với người khác. Thiên
Chúa không dựng nên chúng ta để ở một mình, nhưng là để sống cộng đồng. Bản
thân con người chúng ta không đủ để đáp ứng cho chính mình. Chúng ta cần có
người khác nữa, để trở nên những gì Thiên Chúa chờ đợi nơi chúng ta.
Đây cũng là trường hợp được ứng dụng cho các gia đình. Cây cối
được trồng trong cái hố nhỏ là hình ảnh tốt về gia đình. Trong một gia đình lý
tưởng, phải có sự gần gũi, đồng thời cũng phải có một khoảng cách nhất định.
Cần có sự gần gũi để các phần tử có thể giúp đỡ nhau. Cần có khoảng cách để đảm
bảo rằng họ không xâm phạm vào sự riêng tư của mỗi người. Mỗi phần tử cần có một
giới hạn, một sự thân mật và ấm cúng mà mỗi người cần có. Tuy nhiên, cũng cần
phải có một khoảng không gian, để mỗi người phát triển đúng tiềm năng của mình.
Đây là một thách đố lớn: Đó là phải làm thế nào để đạt được sự gần gũi, mà
không xâm phạm hoặc thống trị nhau.
Trong gia đình, chúng ta học hỏi để hình thành những mối tương
quan với những người khác, một điều gì đó là quan trọng sống động đối với chúng
ta. Khi không có khả năng quan hệ, đó là sự cản trở và buồn phiền lớn. Nếu
không có quan hệ gần gũi, chúng ta đành phải phó mặc cho cơn gió lạnh của nỗi
buồn phiền và cô đơn.
Trong cộng đồng nhỏ bé của gia đình, chúng ta học hỏi để liên đới
với người khác. Ở đây, chúng ta tạo ra một căn phòng cho người khác trong đời
sống của chúng ta. Ở đây, chúng ta học hỏi cách thức chia sẻ và sống có trách
nhiệm với người khác.
Trong xã hội, gia đình bị đặt dưới nhiều sức ép. Nhưng không phải
vì thế mà chúng ta không coi trọng giá trị của gia đình. Đó là vì chúng ta
không được chuẩn bị các nguyên tắc để giữ được bầu khí êm thấm trong gia đình.
Gia đình được xây dựng dựa trên những cam kết của lời hứa, sự trung thành và tự
hiến. Bằng cách sống trong cộng đồng nhỏ bé của tình yêu với Đức Mẹ, thánh
Giuse ở Nagiarét, Đức Giêsu có thể lớn lên trong sự khôn ngoan và nhân đức,
trong lòng yêu mến của Thiên Chúa và loài người.
Trong cộng đồng nhỏ bé của gia đình, chúng ta có một nơi chốn,
chúng ta có những ràng buộc, chúng ta có một căn tính, chúng ta có gốc rễ. Mặc
dù gia đình nào cũng đều có khó khăn, nhưng đây không hẳn là điều xấu. Khó khăn
có thể là một ân huệ. Những cây nào bị trồng trong đất xấu, thì cần phải có một
bộ rễ vững chắc. Vì vậy, cần phải co sự đoàn kết với nhau hơn, để chống trả lại
với những bão táp không thể tránh khỏi của cuộc đời.
35. Cha mẹ và con cái
Bài đọc 1 tường thuật về giới răn thứ bốn “Hãy thảo kính cha mẹ”.
Thật đáng tiếc, người ta lại hay nhìn vào giới răn này theo nghĩa hẹp. Có ba
yếu tố chính trong giới răn này:
Trước hết, bổn phận đầu tiên của cha mẹ là phải yêu thương và săn
sóc con cái. Chúng ta nhận thấy tấm gương tốt đẹp nhất về phương diện này trong
bài Tin Mừng hôm nay. Trong Tin Mừng, chúng ta nhận thấy những điều mà Đức Mẹ
và thánh Giuse đã làm để bảo vệ sự an toàn cho con trẻ Giêsu. Ngay khi các ngài
biết rằng đời sống con trẻ bị nguy hiểm, các ngài đã ra đi sống tha phương. Và
khi cơn hiểm nguy qua đi, các ngài lại quay trở về quê hương của mình, và đã
định cư ở Nagiarét. Trong nhà của mình tại Nagiarét, các ngài đã tạo ra được
một môi trường mà trong đó, theo Tin Mừng thuật lại, Đức Giêsu có thể lớn lên
trong sự khôn ngoan, có tầm cỡ, và trong lòng yêu mến đối với Thiên Chúa và mọi
người.
Thứ đến, con cái bắt buộc phải vâng lời cha mẹ. Ở Nagiarét, Đức
Giêsu là nhân vật chính đối với Đức Mẹ và thánh Giuse. Đức Mẹ là người phụ nữ
của lòng tin, ngài đã yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn, hết trí khôn. Còn thánh
Giuse đã được Tin Mừng mô tả là một người công chính, nghĩa là một người luôn
sống và làm việc theo luật của Thiên Chúa. Các ngài đã nuôi dưỡng, dạy dỗ và
uốn nắn con trẻ Giêsu nên người.
Tại Nagiarét, Đức Giêsu có thể âm thầm lớn lên trong sự che chở
của cha mẹ Người. 30 năm đầu đời của Đức Giêsu rất quan trọng đối với Người.
Trong suốt 30 năm ấy, Người đã lớn lên, trưởng thành và đã chín mùi. Trong suốt
những yếu tố ảnh hưởng trên chúng ta, gia đình là yếu tố gây ảnh hưởng nhiều
nhất. Những ảnh hưởng của gia đình tồn tại nơi chúng ta suốt đời.
Thứ ba, những người con đã trưởng thành bắt buộc phải đảm bảo cho
cha mẹ khi về già, có thể được sống thoải mái, xứng đáng với nhân phẩm. Đây là
trọng tâm của bài đọc 1.
Điều này liên quan đặc biệt đến thời đại chúng ta, khi những người
lớn tuổi có khuynh hướng hay bị đẩy ra ngoài lề xã hội. Với sức mạnh của mình,
chúng ta dễ dàng quên rằng họ là những người yếu đuối, và có lẽ hơi bị lão suy
rồi. Có một câu tục ngữ “Một mẹ có thể nuôi được 10 con, nhưng 10 con không thể
nuôi được một mẹ”. Dưới nhan Thiên Chúa, chúng ta mắc nợ cha mẹ chúng ta đủ
thứ. Tác giả sách Giảng Viên đã quả quyết rằng lòng tận tụy của con cái đối với
cha mẹ đặc biệt làm hài lòng Thiên Chúa, Người đón nhận tấm lòng đó như là một
hành động chuộc lại lỗi lầm.
Gia đình Thánh Gia là mẫu mực. Khi Đức Giêsu sắp trút hơi thở cuối
cùng trên thánh giá. Người đã nghĩ đến Mẹ Người, và đã trao phó Mẹ Người cho
môn đệ Gioan chăm sóc. (Theo truyền thống, lúc đó thánh Giuse qua đời rồi).
Ngoài ra, việc quan tâm chăm sóc người thân trong họ hàng cũng
không phải là điều dễ. Khi hoàn cảnh bắt buộc chúng ta phải nuôi dưỡng những
người đó, thì quả thật là khó khăn. Nhất là đối với những người vốn có tính hay
yêu sách. Mặc dù thế, khi chúng ta cư xử với họ bằng lòng từ tâm, là chúng ta
đã làm một công việc thánh thiện nhất. Cũng như khi nhân danh Thiên Chúa, chúng
ta cho người anh em một ly nước, đó là chúng ta đã phục vụ chính Thiên Chúa
vậy.
Một bà mẹ trẻ ngồi ôm cậu con trai 4 tuổi trong lòng, bà nói với
con là nó sắp có em bé. Bà mẹ giải thích cho con mình rằng nó có thể giúp săn
sóc cho em bằng cách cầm chai sữa, đi lấy tã cho em khi cần, và đẩy xe cho
em... Sau khi nghe mẹ nói một hơi, chú bé tuột xuống khỏi lòng mẹ, đứng nhìn
vào mẹ và nói một cách nghiêm nghị:
- Vậy là bao nhiêu việc con phải làm hết, còn mommy không phải làm
gì sao?
Gia đình là cộng đoàn tình yêu trong đó mỗi phần tử đều có vai trò
phải chu toàn, đóng góp. Vợ chồng phải biết kính trọng yêu thương nhau. Cha mẹ
có trách nhiệm dưỡng nuôi và dạy dỗ con cái nên người tốt, giúp ích cho xã hội.
Con cái phải vâng lời, thảo kính cha mẹ. Đó là trật tự Thiên Chúa đã xếp đặt để
mỗi người được sinh ra và lớn lên trong một bầu khí tràn đầy tình thương. Tuy
nhiên trật tự đó đã bị con người ngày nay làm hư hại nặng nề vì cuộc sống buông
thả theo tính dục. Con cái sinh ra không có gia đình yêu thương bao bọc, để rồi
lớn lên trong sự hờ hững, hất hủi, đưa đến kết quả mang tâm trạng nổi loạn, bất
cần đời, hận thù, giết hại người khác.
Gia đình là viên gạch xây dựng xã hội. Khi viên gạch bị hư hỏng,
mục nát thì xã hội cũng bị xụp đổ, điêu tàn. Muốn gây dựng lại xã hội, người ta
phải gầy dựng lại gia đình. Muốn tái lập gia đình, con người phải đặt Thiên
Chúa vào địa vị tối cao nơi gia đình. Đó là bài học con người ngày nay cần học
nơi Thánh Gia.
Bài Phúc Âm hôm nay diễn tả một hình ảnh đẹp của gia đình: Thánh
Giuse và Đức Mẹ bế Chúa Giêsu hài nhi vào Đền thờ để dâng của lễ, phụng thờ
Thiên Chúa. Tại Đền Thờ, Đức Maria đã được mạc khải rằng tương lai và sứ mạng
của Mẹ gắn liền với Chúa Kitô trong những khổ đau đem lại ơn cứu chuộc cho nhân
loại. Thánh gia đã đến thờ phượng Thiên Chúa như một gia đình. Từ đó Thiên Chúa
đã mạc khải cho mỗi người nhận ra vai trò của mình nơi gia đình và trong xã
hội. Muốn cho gia đình được đời sống êm ấm, hạnh phúc, chúng ta phải đặt tinh
thần thờ phượng Thiên Chúa lên trên hết. Tinh thần đó thể hiện qua việc tham dự
thánh lễ Chúa Nhật. Gia đình cùng đi dự lễ, cùng ngồi với nhau. Cha mẹ dùng dịp
này để giáo dục cho con cái về ý nghĩa việc dự lễ, ý nghĩa các bài đọc, lời
linh mục giảng. Đứa trẻ nào cũng có vài cảm nghĩ nào đó mỗi khi dự lễ, về nhà
thờ, về ca đoàn, về linh mục, về những nghi thức phụng vụ... Dò hỏi các em về
những cảm nghĩ đó để hiểu biết tâm tư các em, lợi dụng cơ hội đó để dạy cho các
em biết tham dự thánh lễ cách có ý nghĩa hơn. Ngoài ra gia đình nên có giờ đọc
kinh tối mỗi ngày sao cho thích hợp với tuổi trẻ: một vài chục kinh Mân Côi,
một đoạn Kinh Thánh với vài lời suy niệm, một lời nguyện tự phát dâng lên
Chúa... Điều đó đem lại nhiều lợi ích cho người trẻ hơn những tràng kinh vô
cùng, không Amen.
Cách đây ít lâu, tạp chí Reader’s Digest có đăng một bài báo tựa
đề “thăm dò gia đình”. Bài này gồm 12 câu hỏi dành cho các bậc cha mẹ. Một
trong những câu hỏi đó như sau: “Hôm lễ Giáng Sinh, trong bữa ăn tối có mời
khách, bạn có cảm thấy thoải mái, dễ dàng khi bạn yêu cầu bất cứ một đứa con
nào của bạn đọc kinh không?”. Câu hỏi này khiến ta phải lưu ý tới một trong
những vấn đề chính yếu phải quan tâm của mọi gia đình đó là đời sống cầu nguyện
trong gia đình.
Đời sống cầu nguyện trong gia đình phải được thực hiện dưới ba
hình thức khác nhau:
Trước hết là hình thức cầu nguyện riêng tư, cá nhân. Mỗi người
trong gia đình cầu nguyện riêng với Thiên Chúa. Chẳng hạn người cha cầu nguyện
trên đường đi tới sở làm việc. Người mẹ cầu nguyện khi chăm sóc đứa con sơ sinh
bị đau. Các con trong nhà cầu nguyện trước khi đi ngủ. Có nhiều cách cầu nguyện
riêng một mình.Có thể cầu nguyện bằng cách đọc kinh đã làm sẵn, chẳng hạn như
kinh Lạy Cha, vừa đọc vừa suy gẫm những lời ta đọc. Cũng có thể cầu nguyện bằng
Thánh Kinh bằng cách đọc một đoạn ngắn rồi suy gẫm những tư tưởng trong đó.
Chúng ta cũng có thể cầu nguyện bằng chính những lời lẽ của mình, tự do nói với
Thiên Chúa những tâm tình từ trái tim mình.
Chúa Giêsu thường cầu nguyện một mình. Chẳng hạn Ngài cầu nguyện
khi để Gioan tẩy Gỉa rửa tội cho mình tại dòng sông Giođan. Ngài cầu nguyện khi
thi hành tác vụ rao giảng Tin Mừng của Ngài. Ngài hay cầu nguyện ở trong các
khu vườn.
Một trong những món qùa qúi báu nhất mà cha mẹ có thể ban tặng cho
con cái là làm cho chúng biết yêu thích và thường thức những giây phút cầu
nguyện một mình. Không có cách nào thực hiện điều đó tốt hơn là dùng chính
những gương sáng của mình.
Dorothy Day là một phụ nữ được báo New York Times gọi là “người có
nhiều ảnh hưởng nhất trong lịch sử công giáo Hoa kỳ”, bà nói rằng một trong
những hấp lực đầu tiên lôi kéo bà đến với đạo công giáo là khi còn nhỏ bà được
nhìn thấy một người công giáo đứng tuổi đang cầu nguyện. Bà viết: “hôm đó vào
khoảng 10 giờ sáng, tôi đến nhà Kathryn để thăm và để rủ cô ấy đi chơi. Lúc đó
không có ai ngoài hành lang hay trong nhà bếp cả…Tôi bước đại vào nhà thì thấy
bà Barrett đang qùi đọc kinh ở phòng ngoài. Bà quay lại bảo tôi rằng Kathryn và
bọn trẻ đã đi ra cửa hàng mua đồ, rồi bà lại tiếp tục cầu nguyện. Thế là tôi
cảm thấy có một niềm yêu thương ấm áp nẩy sinh trong tâm hồn tôi đối với bà
Barrett”. Đó là một cảnh tượng thật đẹp, và tôi chắc chắn rằng nhiều người
trong chúng ta cũng có thể kể những thí dụ tương tự về những người công giáo đã
lớn tuổi đang cầu nguyện như thế.
Hình thức thứ hai của việc cầu nguyện trong gia đình là cầu nguyện
chung: mọi người trong gia đình cầu nguyện chung với nhau. Chẳng hạn cầu nguyện
lúc mọi người tề tựu chung quanh bàn ăn để dùng bữa hay lúc chuẩn bị đi ngủ,
hay vào những lúc thuận tiện khác. Đức Giêsu thường cầu nguyện chung với gia
đình Ngài. Người Do Thái đặt rất nặng việc cầu nguyện chung trong gia đình, đặc
biệt vào các bữa cơm gia đình. Người Do Thái có một câu tục ngữ cổ nói rằng ai
ăn mà không tạ ơn Thiên Chúa thì đó là người ăn cắp của Thiên Chúa. Đức Giêsu
thường cầu nguyện trong các bữa ăn. Chẳng hạn Người cầu nguyện khi cho đám dân
chúng đang đói được ăn no trên sườn đồi (Lc.9,16). Ngài cầu nguyện trong bữa
tiệc ly (Lc.22, 19). Ngài cầu nguyện khi ăn chung với hai môn đệ làng Emmau (Lc
24,30).
Một lần nữa, ta có thể nói rằng một trong những món qùa qúi báu
nhất mà cha mẹ có thể ban tặng cho con cái là làm cho chúng biết yêu thích và
thưởng thức việc cầu nguyện chung cho gia đình. Trong tiểu sử của tướng Douglas
Mac Arthur, Couttney Whitney có trưng dẫn một câu nói của ông: “Tôi là một quân
nhân chuyên nghiệp, tôi hãnh diện về điều ấy. Nhưng tôi còn hãnh diện hơn, hãnh
diện hơn rất nhiều vì được làm một người cha…và niềm hy vọng của tôi là: Khi
tôi đã về bên kia thế giới, thì con tôi vẫn nhớ đến tôi không phải với những
hình ảnh ở trận chiến mà là những hình ảnh ở nhà tôi, khi tôi cùng đọc với nó
bài kinh thường đọc hàng ngày: “Lạy Cha chúng con ở trên trời…”
Cuối cùng là hình thức cầu nguyện với cộng đoàn, trong đó gia đình
cầu nguyện với những gia đình khác, vào các ngày Chúa nhật. Dĩ nhiên không phải
lúc nào cũng tổ chức được những buổi cầu nguyện chung cho nhiều gia đình như
thế. Nhưng nếu các gia đình đều cố gắng thực hiện những điều đó, thì vẫn có thể
tổ chức được dưới hình thức này hay hình thức khác. Chẳng hạn các gia đình công
giáo ở gần nhau, trong cùng một khu vực, một xóm hay một làng, có thể cùng tụ
họp ở một gia đình nào đó, luân phiên nhau nay nhà này mai nhà khác, để cùng
cầu nguyện chung với nhau hằng ngày hay hằng tuần. Nhờ vậy các gia đình trở nên
gần gũi nhau hơn, sự gắn bó và đoàn kết các gia đình trở nên chặt chẽ hơn.
Thông thường hơn cả là các gia đình tụ họp chung tại nhà thờ họ đạo vào những
giờ giấc nhất định trong ngày, chẳng hạn như vào các buổi tối, như một sinh
hoạt bình thường của họ đạo.
Đức Giêsu thường cầu nguyện theo kiểu này. Ngài cùng cầu nguyện
chung với các gia đình khác. Thánh Luca có viết trong Tin Mừng của ngài: “Đức
Giêsu trở về Nazaret nơi Ngài sinh trưởng, hôm đó là ngày Sabat, Ngài đến hội
đường (để đọc Kinh Thánh và cầu nguyện ) như thường lệ (Lc. 4.16)
Lễ Thánh Gia hôm nay là một dịp để chúng ta tự vấn về chất lượng
cầu nguyện trong gia đình của mình. Nói cụ thể hơn là chúng ta – cha mẹ, con
trai, con gái- đã góp phần vào đời sống cầu nguyện trong gia đình như thế nào.
Chúng ta hãy nhớ lại cách mà bài “thăm dò về gia đình” đặt vấn đề đối với các
bậc cha mẹ: “hôm lễ Giáng Sinh, trong bữa ăn tối có mời khách, bạn có cảm thấy
thoải mái, dễ dàng, khi bạn yêu cầu bất kỳ đứa con nào của bạn đọc kinh không
?” Nếu chúng ta trả lời không (nghĩa là không thoải mái dễ dàng), thì những bài
đọc Thánh Kinh hôm nay là một sứ điệp quan trọng đối với chúng ta.
Để kết thúc, chúng ta hãy cầu nguyện bằng một bài kinh. Tướng
Douglas Mac Arthur viết bài kinh này khi ở Philippines trong những ngày mở đầu
cuộc chiến tranh tại Thái Bình Dương. Mặc dù đó là bài kinh ông cầu nguyện cho
các con trai ông, nhưng nó cũng thích hợp cho các thiếu nữ. Xin mọi người hãy
im lặng và cùng cầu nguyện với tôi:
“Lạy Chúa, xin hãy ban cho đứa con trai của con được đủ sức mạnh
để biết được lúc nào nó yếu đuối, đủ dũng cảm để đối diện với chính mình khi nó
cảm thấy sợ hãi…Xin đừng để cho đứa con trai của con chỉ biết ước muốn mà không
dám hành động…Xin Chúa đừng để nó đi vào con đường thích dễ dãi tiện nghi, nhưng
hãy hướng dẫn nó đi vào con đường bắt buộc nó phải cố gắng vượt qua những khó
khăn thử thách.
“Xin hãy tập cho nó đứng vững trong bão tố, nhưng lại biết thông
cảm với những ai gục ngã.
“Xin hãy ban cho đứa con trai của con có một trái tim trong sạch, có
một mục đích cao cả, biết tự chủ lấy mình trước khi muốn làm chủ người khác,
biết lo lắng cho tương lai mà không bao giờ quên qúa khứ.
“Và khi Chúa đã ban cho nó tất cả những điều ấy, xin Chúa hãy ban
cho nó có đủ tính khôi hài để nó có thể luôn luôn nghiêm nghị nhưng không bao
giờ nghiêm nghị một cách qúa đáng.
“Như vậy, là cha nó, con dám tự nhủ rằng con đã không sống một
cách vô ích”.
Một cậu bé đón cha mình đi làm về và hỏi: “Bố ơi! bố đi làm được
bao nhiêu tiền một giờ?”. Ông bố rất ngạc nhiên và bảo: “Này con, ngay cả mẹ
của con cũng chẳng biết, đừng quấy rầy bố vì bố đang mệt.” Cậu bé lại hỏi: “Bố
cứ cho con biết, lương của bố mỗi giờ được bao nhiêu tiền?” Cuối cùng thì ông
bố bảo rằng: “Mỗi giờ bố được hai mươi đồng”. Cậu bé liền hỏi: “Vậy bố cho con
mượn mười đồng”. Ông bố tỏ vẻ giận và mắng con: “Thì ra đấy là lý do con muốn
biết tiền lương của bố? Bây giờ đi ngủ đi và đừng quấy rầy bố nữa”.
Đêm hôm ấy, ông bố nghĩ lại những điều đã nói với con mình và cảm
thấy hối hận. Ông cho rằng có thể con mình đang cần tiền để mua món gì mà nó
đang cần. Ông sang phòng của con mình và hỏi: “Con đã ngủ chưa?” Con ông đáp:
“Con chưa ngủ”. Ông bố đưa tiền và bảo: “Đây là tiền con hỏi xin lúc nãy” Nó
vui vẻ cám ơn bố, rồi lấy thêm tiền trong gối ra và nói: “ Con đã có đủ rồi!
hai mươi đồng. Bây giờ bố bán cho con một giờ của bố.”
Bài phúc âm hôm nay nhắn nhủ ông bố kể trên và tất cả chúng ta là
hãy dành cho gia đình mình nhiều thì giờ hơn nữa.
Thánh Luca đã cho chúng ta thấy Đức Giêsu ở tuổi mười hai, lứa
tuổi được xem là trưởng thành và mọi thiếu niên Do Thái ở tuổi ấy phải tuân giữ
luật Do Thái. Đây cũng là lúc thiếu niên Do Thái được chúc mừng để trở thành
người lớn. Kể từ đấy, họ phải tuân giữ luật lệ và phải tham dự hành hương hằng
năm tại đền thánh Giêrusalem. Thời ấy, có những thanh niên thì đánh dấu ngày
này bằng cách đi chơi hoặc làm những điều không đúng với điều mà luật Do Thái
đòi hỏi. Chúng ta thường cảm thấy con của mình đã lớn, khi chúng đi chơi với
bạn bè mà không xin phép. Như chúng ta đã biết, Đức Giêsu cũng vậy. Để đánh dấu
ngày đến tuổi trưởng thành theo luật Do Thái, Ngài đã tham dự lớp học kinh
thánh tại đền thờ mà không báo cho cha mẹ mình biết. Khi cha mẹ tìm được Người
sau hai ngày tìm kiếm khắp nơi, Người chỉ trả lời rằng “Sao cha mẹ lại tìm con?
Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Luca 2:49). Ngay
cả thánh gia đôi khi cũng có những lúc căng thẳng và những hiểu lầm.
Điều làm cho chúng ta thắc mắc là trong đoạn cuối cuả phúc âm hôm
nay “Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nazaret và hằng vâng phục
các ngài.” (Luca 2:51). Thiếu niên Giêsu mười hai tuổi, đã biết rằng sứ mạng
của mình là ở trong nhà của Cha mình và thực thi những sứ mạng ấy. Trong thời
gian ngắn ngủi tại Giêrusalem, Người đã chứng tỏ khả năng và sự hiểu biết của
Người, vì “Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối
đáp của cậu” (Luca 2:47). 1 Điều làm cho chúng ta phải suy nghĩ là: Nếu Đức
Giêsu đã được mười hai tuổi, đã sẵn sàng và bằng chứng là có khả năng để bắt
đầu sứ vụ giảng dạy công khai. Vậy tại sao Người lại đi xuống cùng với cha mẹ,
trở về Nazaret và sống ẩn dật mười tám năm trong căn nhà nghèo nàn của người
thợ mộc, và chỉ bắt đầu sứ vụ giảng dạy công khai ở tuổi ba mươi? Vậy mười tám
năm ấy là vô vị và không có ích lợi gì chăng? Chắc chắn làcó lợi ích! Điều
chúng ta nên tìm hiểu là cuộc sống ẩn dật cuả Đức Giêsu tại Nazaret là một phần
trong sứ vụ của cuộc sống công khai của Người. Phúc âm nhắc chúng ta rằng: “Còn
Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với
Thiên Chúa và người ta” (Luca 2:52). Khi chúng ta suy niệm về điểm này, thì cứ
một năm Người giảng đạo thì mười năm Người ở với gia đình. Từ đấy chúng ta sẽ
hiểu tầm quan trọng và sự ưu tiên Người đã dành cho đời sống gia đình như thế
nào.
Đời sống của chúng ta được chia thành hai phần: gia đình và công
việc. Hai phần này thông thường thì phải hài hòa nhưng đôi khi lại đối chọi
nhau và gây ra căng thẳng. Đức Giêsu đã hóa giải sự căng thẳng ấy bằng cách
dành sự ưu tiên cho đời sống gia đình. Còn chúng ta thì thường hay cố gắng giải
quyết mối căng thẳng ấy bằng cách dành sự ưu tiên cho công việc của mình, và để
cho đời sống gia đình chịu tổn thương. Bà Rose Sands viết về người đàn ông bất
hạnh, người mà chỉ nghĩ rằng mình có thể chứng minh tình thương của mình đối
gia đình là phải làm việc hết sức mình “Để chứng tỏ tình yêu đối với vợ mình,
ông ta bơi qua khúc sông sâu nhất, vượt vùng sa-mạc rộng nhất và leo ngọn núi
cao nhất. Vợ của ông đã lìa bỏ ông, vì ông ta chẳng bao giờ có mặt ở nhà”.
Hôm nay, nhân dịp chúng ta mừng kính lễ Thánh Gia của thánh Giuse,
Đức Maria và Chúa Giêsu, chúng ta hãy ôn lại và nhắc nhở chính chúng ta rằng:
hãy đặt giá trị của đời sống gia đình lên trên công việc của mình, kể cả những
việc quan trọng như việc bảo tồn thế giới này.
Mái ấm gia đình là ngôi trường đầu tiên và là ngôi trường quan
trọng nhất trong đời. Gia đình không những đã nuôi dưỡng ta mà còn cho ta vào
đời. Qua mái trường gia đình ta được nuôi dưỡng bằng tình thương, nghe giọng
nói ngọt ngào và thưởng thức những ca khúc êm dịu ru con mắt lim dim. Phong tục
tập quán, truyền thống văn hoá, chuyện cổ tích dân tộc đều được mái ấm gia đình
truyền thụ. Cha mẹ chúng ta học những phong tục đó từ cha ông và truyền lại cho
chúng ta và rồi chúng ta lại truyền đạt cái hay đó cho thế hệ kế tiếp. Mái
trường gia đình là nơi đào tạo ta trở thành con người xã hội tương lai. Mái
trường gia đình cách nào đó gieo vào lòng ta mầm mống của ước mơ và hy vọng
tương lai. Nếu gieo những hạt giống tốt ta sẽ trở thành người tốt, người hữu
dụng. Nếu gieo cỏ dại ta sẽ sống với cỏ dại, dần dần kéo bè, kết phái và sẽ xa
dần những tấm lòng chân tình. Quanh ta toàn nịnh bợ hay lời nói ngon ngọt đầu môi.
Những gì ta học ở gia đình ảnh hưởng rất nhiều đến con người tương
lai và niềm tin gia đình gieo vào lòng ta lúc ấu thơ sẽ ảnh hưởng đến cách xử
thế sau này. Nếu gia đình tạo cho ta một nền tảng đức tin vững chắc ta sẽ trở
thành chứng nhân Kitô tốt lành. Không những ta có một đời sống tốt lành mà còn
hiểu rõ í nghĩa và cùng đích cuộc đời. Cùng đích của niềm tin Kitô là giúp
chúng ta sống tốt lành trong xã hội trước khi bước vào cuộc sống vĩnh cửu trên
quê trời vì thế mái ấm gia đình cách nào đó vạch cho ta một con đường tiến về
quê hương vĩnh cửu. Con đường đó được chỉ đạo bằng Lời Hằng Sống đó là Lời Chúa
và giáo huấn của Ngài. Ngoài Lời Chúa và giáo huấn của Ngài ra thế giới này
không thể bảo đảm cho hạnh phúc thật. Thế giới chỉ có thể cho hạnh phúc nhất
thời bởi chính sự vật của thế giới cũng chỉ là nhất thời nên chúng chỉ có khả
năng làm điều đó.
Để giáo huấn của Đức Kitô hướng dẫn cuộc đời chúng ta học biết đón
nhận tình yêu Chúa ban, đồng thời học chia sẻ tình yêu đó cho tha nhân. Chính
việc đón nhận và chia sẻ tình yêu giúp ta tiến trên con đường lành thánh. Mừng
kính lễ Thánh Gia Thất chúng ta mong học được các nhân đức từ gia đình Thánh
Gia. Một gia đình sống trong tình yêu Chúa và chia sẻ tình yêu đó là bằng chứng
cho thấy điều Chúa muốn ta thực hiện thuộc khả năng của mọi người. Gia đình
thánh là gia đình sống không cho chính mình nhưng chung sống với tha nhân và
trên hết mọi sự sống cho Thiên Chúa và thực hiện í Chúa trong cuộc sống hàng
ngày. Bà Maria từ bỏ í riêng sống độc thân để trở thành Mẹ Thiên Chúa. Ông
Giuse định từ bỏ mà Maria cách kín đáo và rồi từ bỏ í riêng đón nhận í Chúa làm
cha nuôi Đấng Cứu Thế. Đức Kitô trong cuộc đời rao giảng công khai tuyên bố:
Ta không đến để làm theo í Ta nhưng theo í của Cha Ta Gn 6,38.
Một nhân đức rất quan trọng khác đó là khiêm nhường mà chúng ta
cần học theo, bắt chước. Gia đình Thánh Gia nhận biết tất cả những gì chúng ta
có trong tay đều không phải của riêng ta mà là của Chúa ban cho, kể cả sức khoẻ
và sự sống đang có trong tay cũng đều do Chúa ban vì thế Chúa có toàn quyền xử
dụng những gì thuộc về Chúa, hành xử theo í Chúa mà í Chúa chính là mang tình
yêu của Ngài đến cho mọi người. Xem thế việc thực thi í Chúa không gì khác hơn
là đối xử bình đẳng và yêu thương mọi người. Gia đình Thánh Gia thể hiện điều
này qua việc Đức Trinh Nữ xin vâng, thánh Giuse vâng phục hướng dẫn của Thánh
Thần và Đức Kitô nghiêng vai vác thập giá trên đường lên núi thánh.
Lễ Thánh Gia chúng ta cảm tạ Chúa cho cha mẹ chúng ta đã hy sinh
cuộc sống riêng mình đồng thời rèn luyện đức tin của ta trong tình yêu Chúa.
Chúc Mừng Giáng Sinh an bình và Năm Mới phúc lộc đến quí vị.
Có người cho rằng Thánh gia là một gia đình thánh. Còn chúng ta là
người phàm, yếu đuối, làm sao bắt chước cho được. Hơn nữa, các Ngài sống trong
bầu khí bình lặng, êm đềm, ít phải cạnh tranh và chụp dựt, ít bị những ảnh
hưởng xấu như thời buổi hiện đại. Quả thật, Thánh gia là một gia đình thánh,
nhưng sự thánh thiện ấy không miễn chuẩn cho các Ngài những khó khăn vất vả,
những cố gắng bươm chải. Cứ đọc lại Tin Mừng thời thơ ấu của Chúa Giêsu là
chúng ta sẽ thấy: Có những thức thách khi Giuse thấy Mẹ Maria bỗng dưng có thai
mà ngài không biết. Có những vất vả của hành trình từ Nagiarét lên Giêrusalem
để kiểm tra dân số đang lúc Mẹ Maria sắp nở nhuỵ khai hoa. Có những buồn tủi
khi không còn chỗ cho Mẹ Maria trong quán trọ, khiến Con Thiên Chúa phải sinh
ra nơi máng cỏ khó nghèo. Và chắc hẳn Thánh gia đã thấu hiểu thế nào là thân
phận lưu lạc nơi đất khách quê người bên Ai Cập để trốn thoát âm mưu hãm hại
của bạo vương Hêrôđê. Trước những thử thách ấy, Thánh gia có hai phương thức để
giải quyết.
Trước hết là tình yêu. Thực vậy, ngày nay hơn bao giờ hết, người
ta càng khám phá ra tầm quan trọng của gia đình trong đời sống xã hội: gia đình
là cái nôi của con người, vì chính ở đó con người được sinh ra. Là mái trường
đầu tiên của con người, gia đình giữ một vai trò đặc biệt trong sự hình thành
cá tính và nhân phẩm của con người. Nhưng cũng chính ngày nay, người ta phải
chua chát thừa nhận rằng đang có những khủng hoảng trầm trọng làm lung lay tận
nền tảng gia đình. Chính trong bối cảnh ảm đạm đó, hình ảnh Thánh gia vụt sáng
lên như ánh sao chỉ đường. Vâng. Thánh gia mời gọi các gia đình hãy biết yêu
thương và sống cho nhau. Nước chảy không ngược dòng, cây không sống cho chính
mình nhưng sống cho quả. Cũng vậy, cha mẹ sống cho con cái. Thánh Giuse với tư
cách là gia trưởng đã miệt mài làm việc để nuôi sống gia đình, ngài ghi dấu ấn
lao động trên cuộc đời của người con, khiến sau này Chúa Giêsu khi rao giảng
Tin Mừng, người ta đã phải tự hỏi: Ông ấy không phải là con bác thợ mộc và
Maria sao? Còn Mẹ Maria với tư cách nội trợ, Mẹ đã tập cho Chúa Giêsu cầu
nguyện, giúp cho con biết quan sát thế giới chung quanh. Phải chăng những lời
dạy dỗ của Mẹ Maria vẫn tiềm ẩn trong cung cách rao giảng của Chúa Giêsu sau
này khi Ngài nói: Nước trời giống như men, như muối… Và cậu bé Giêsu dưới mái
nhà Nagiarét đã chia sẻ mọi cảnh ngộ của gia đình, đã sống đạo làm con đối với
cha mẹ trong tinh thần yêu thương và vâng phục. Như thế, mẫu gương yêu thương
và sống cho nhau đã được mọi thành viên trong Thánh gia thực hiện. Cha mẹ không
chỉ nuôi con bằng cơm bánh vật chất, nhưng còn dạy dỗ, làm gương sáng cho con,
còn người con đáp trả bằng tình hiếu thảo và vâng phục. Phải chăng chính sự yêu
thương và ân cần dưỡng dục của cha mẹ đã ghi dấu ấn sâu xa trong tâm hồn Đức
Giáo Hoàng Gioan 23, nên trong ngày sinh nhật thứ 50 của mình, ngài đã viết thư
cho cha mẹ như sau: Thưa ba má, hôm nay con được 50 tuổi. Chúa thương ban cho
con nhiều chức vụ trong Hội Thánh. Con đã đi nhiều nơi, đã học nhiều sách,
nhưng không trường nào dạy dỗ con, làm ích cho con như hồi con được ngồi bên ba
má.
Tiếp đến, phương thức thứ hai đó là ý Chúa. Thực vậy, yêu thương
và sống cho nhau vẫn chưa đủ, đối với người Kitô hữu, tình yêu thương còn phải
được định hướng bằng thánh ý Chúa. Thiếu sự định hướng này, lắm khi tình thương
chỉ còn là tiếng loa dội lại của lòng ích kỷ, hoặc biến thành một thứ tình cảm
mù quáng sai lầm. Không ít bậc cha mẹ, theo như kinh nghiệm cho thấy, đã giết
chết tuổi thanh xuân của con cái qua sự cưng chiều quá đáng của mình. Cho nên
cha mẹ thương con mà phải nhận ra rằng yêu thương không có nghĩa là chiếm đoạt,
giữ rịt cho riêng mình. Mẹ Maria sẵn lòng trao Hài nhi Giêsu cho ông cụ Simêon,
cũng như sau này, Mẹ dâng con trên đỉnh cao thập giá.Và Mẹ ý Chúa là trên hết.
Mẹ Maria và thánh Giuse đã vâng theo ý Thiên Chúa ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Một khi đã lấy ý Chúa làm ngọn đèn hải đăng hướng dẫn thuyền đời, thì mái ấm
của chúng ta chắc chắn sẽ vượt qua được những sóng gió của đại dương cuộc đời.
Ở Chicago, khi trời vừa lập đông, từng đàn ngỗng lũ lượt kéo nhau
bay hàng ngàn dặm về phương Nam đi tìm nắng ấm. Chúng kêu gọi nhau xôn xao. Có
những con lạc bầy vừa bay vừa kêu: “Quéc! Quéc! Quéc!” Khiến kẻ tha phương cũng
phải chạnh lòng buồn theo vì nhớ mái ấm gia đình! Các nhà khoa học nghiên cứu
cuộc di cư hằng năm đi tìm nắng ấm của loài ngỗng đã đưa ra sáu điểm nhận xét
giúp ta suy nghĩ về đời sống gia đình nhân dịp lễ Thánh Gia Thất hôm nay:
1. Chúng bay với nhau theo hình chữ vê ngược. Mỗi con đều vỗ cánh
rất nhịp nhàng, êm ái. Một hàng chữ vê ngược bay chung với nhau như vậy sẽ tạo
thêm được 17 phần trăm sức mạnh hơn là từng con bay riêng rẽ.
Đúng là “Hợp quần gây sức mạnh”. Tất cả mọi người trong một gia
đình hay cộng đoàn hợp tác với nhau làm việc sẽ nhanh hơn và dễ hơn, vì họ cùng
thúc đẩy và nâng nhau lên. “Niềm vui góp lại, niềm vui lớn. Nỗi lo chia sẻ, nỗi
lo vơi!”
2. Khi có con nào bị rơi ra khỏi hàng ngũ, nó phải tìm cách mau
chóng trở về hàng ngay để có sức mạnh nâng đỡ của cả bầy. Nếu không nó phải bay
cô đơn một mình!
Bước ra khỏi gia đình hay cộng đoàn, ta sẽ cảm thấy bơ vơ lạc
lõng, mất đi một điểm tựa nâng đỡ lớn lao. Khi phải một thân một mình chống
chọi giữa đời, ta mới cảm thấy sự quý giá của mái ấm gia đình. Khi mồ côi ta
mới thấy giá trị của tình phụ mẫu.
3. Khi con ngỗng dẫn đàn ở chính giữa mệt mỏi, nó sẽ trở xuống
hàng phía dưới, con khác sẽ thay phiên lên dẫn đầu.
Thật là bất công khi trong gia đình hay cộng đoàn, có những người
phải làm việc quá sức đang khi đa số những người khác lại nhàn hạ. Có nhiều gia
đình cha mẹ phải làm việc đầu tắt mặt tối, trong khi con cái chơi bời lêu lổng
suốt ngày. Theo thống kê, chỉ có 20/o số người đứng ra làm việc, nhưng phải đảm
đương tới 80/o công việc của một tập thể, hay cộng đoàn!
4. Những con ngỗng vừa bay vừa kêu “Quéc! Quéc!” Am thanh vang dội
trong bầu trời. Cuộc hành trình dài muôn ngàn dặm. Cứ thẳng cánh mà bay. Những
con bay phía sau kêu lên để khích lệ những con phía trước phải cố gắng giữ cho
đúng tốc độ.
Trong gia đình hay cộng đoàn thường có sự ghen tương, dèm pha lẫn
nhau hơn là khích lệ, cổ võ, và khen ngợi những ưu điểm của nhau! Trong cuốn
“Người Trung Quốc Xấu Xí” của Bá Dương, bản dịch của Nguyễn Hồi Thủ, tác giả đả
kích tính ích kỷ, ghen tương, đấu đá lẫn nhau của người Trung Hoa bằng một kinh
nghiệm như sau: “Ví dụ tôi đến thăm anh, thấy anh nhà cao cửa rộng, học vấn
uyên bác, trong lòng tôi kính phục, hâm mộ anh. Trên đường về đáng lẽ tôi nghĩ
phải cố gắng phấn đấu, làm việc, học hành để có thể được như anh. Đằng này lúc
ra khỏi nhà anh tôi lại bảo: Ở nhà đẹp thế! Không biết ăn cắp hay ăn cướp ở đâu
ra lắm tiền! Cầu trời cho ngày mai có đám cháy thiêu rụi cái nhà nó đi cho
rồi!” Tác giả dẫn chứng sự mất đoàn kết của người Trung Hoa bằng câu nói mỉa
mai: “Một Hoà Thượng gánh nước uống. Hai Hoà Thượng khiêng nước uống. Ba Hoà
thượng không có nước uống!”
5. Khi nào dừng cánh nghỉ ngơi, kiếm ăn trên đồng cỏ, không bao
giờ tất cả mọi con ngỗng đều cúi đầu xuống ăn cùng một lượt! Luôn luôn có 4 hay
5 con canh chừng trong khi những con khác ăn. Chờ đợi cho những con khác ngẩng
đầu lên, lúc đó chúng mới cúi xuống.
Trong gia đình hay cộng đoàn, chúng ta phải biết tỉnh thức, canh
chừng và bảo vệ nhau tránh khỏi những nguy hiểm của ma thù. Đừng vì say mê
hưởng thụ vật chất mà quên đi những kẻ thù tinh thần rình rập trên hành trình
tiến về quê trời.
6. Khi một con ngỗng bị bệnh hay bị bắn thương tích rơi xuống đất,
sẽ có 2 con khác bay theo xuống đất để giúp đỡ và bảo vệ. Chúng ở lại cho đến
khi con bị thương có thể bay được, hay phải chết, chúng mới bay đi nhập vào một
hàng khác để bắt kịp bầy cũ của mình.
Tình nghĩa gắn bó, liên kết mọi người sống chết với nhau trong gia
đình. Thường thường trước khi nhắm mắt xuôi tay, cha mẹ, vợ chồng, anh chị em,
đều muốn có nhau trong giờ phút cuối. Ai cũng muốn ra đi trong tình thương mến
của gia đình. Không ai muốn chết trong cô đơn buồn tủi.
Trong bài Phúc âm hôm nay, thánh Luca kể lại việc Đức Mẹ Maria và
thánh Giuse đưa Hài Nhi Giêsu lên đền thờ “để hiến dâng Ngài cho Thiên Chúa… Và
khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về
thành mình là Nagiarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn
nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người.
Thánh Phaolô còn diễn tả chi tiết hơn những đặc tính của gia đình
Thánh Gia ở Nagiarét, nơi Chúa Giêsu đã sinh ra và lớn lên: “Như những người
được Thiên Chúa chọn, những người thánh thiện và được yêu thương anh em hãy học
lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, nhẫn nại, chịu đựng lẫn
nhau, và hãy tha thứ cho nhau…
Có một chú rể nọ, trước ngày cưới, cùng với cô dâu đến xin lời
khuyên của cha mẹ vợ trước khi về chung sống ăn ở với nhau. Cha mẹ vợ đã có
tuổi, ống rất hạnh phúc với nhau trong 40 năm. Nhìn vào gương sáng của cha mẹ,
chàng rể xin các ngài dạy cho bài học phải làm sao để giữ hạnh phúc trong gia
đình. Ông bố vợ mới dạy một bí quyết như sau: “Để giữ cho gia đình hạnh phúc,
êm ấm, bố mẹ đã cố gắng giữ một nguyên tắc như sau: Trong gia đình, bất cứ
chuyện gì quan trọng, bố quyết định hết!” Nghe vậy, chú rể khoái chí, thúc cùi
chỏ vào cô dâu dặn dò: “Nghe rõ chưa em?” “Những chuyện nhỏ, mẹ con quyết
định!” Ông bố nói tiếp: “Nhưng trong 40 năm chung sống với mẹ của các con, bố
chưa thấy có chuyện gì đáng kể là quan trọng cả!”
Thánh Kinh đề cao những nhân đức giúp cho gia đình hạnh phúc. Các
nhân đức này đều nhằm đến việc duy trì một hòa khí yêu thương, đồng tâm nhất
trí, ý hợp tâm đầu. Đây chính là chìa khoá mở cửa hạnh phúc gia đình. Sau đây
là bức thư đăng trong mục Ann Landers trên các tờ nhật báo lớn ở Mỹ.
Ann Landers thân mến.
Tôi năm nay 46 tuổi, ly dị chồng, đang sống với ba đứa con thơ.
Tiếp theo việc giải phẫu ngực vì ung thư, vài tháng sau đó tôi được điều trị
bằng hóa chất – chemotherapy. Tôi sắp xếp mọi công việc để đi bác sĩ khám bệnh
lại, và vô cùng tuyệt vọng vì ung thư lại tái phát mạnh mẽ hơn trước!
Những người thân trong gia đình chẳng ai nâng đỡ, ngó ngàng gì đến
tôi cả. Tôi là người đầu tiên trong gia đình bị ung thư, nên có lẽ chẳng ai
biết cư xử với tôi ra sao. Họ cố gắng tử tế với tôi, nhưng tôi có cảm giác rằng
họ sợ bị lây bệnh. Họ giữ khoảng cách ở xa xa, và gọi điện thoại hỏi thăm qua
loa. Điều này làm tôi tủi thân và đau lòng.
Chúa nhật vừa qua tôi đem quần áo ra tiệm giặt. Tôi cũng gặp gỡ
những khuôn mặt quen thuộc như mọi lần, cũng chào hỏi qua loa, nói vài câu. Tôi
cố gắng giữ không tỏ lộ sự buồn bã, nhưng tinh thần sa sút trầm trọng. Đang khi
đưa quần áo từ ngoài xe vào trong tiệm giặt, ngẩng đầu lên, tôi bắt gặp một
người đàn ông, khuôn mặt quen quen. Ông vừa giặt xong, đang đưa quần áo ra xe
đi về. Ông mỉm cười và chào tôi. Hôm nay có khoẻ không?” Tôi bị mất tự chủ,
trút hết nỗi lòng: “Hôm nay là ngày tệ nhất trong đời tôi! Ung thư lại nặng
thêm!” Rồi tôi bật lên khóc nức nở.
Ông choàng tay qua vai tôi, để tôi khóc tức tưởi, rồi nói, “Tôi
hiểu chị. Vợ tôi cũng đã bị như vậy”. Sau vài phút tôi cảm thấy dễ chịu hơn,
cám ơn ông vì sự thông cảm của ông, rồi bưng thùng quần áo đưa vào tiệm giặt.
Khoảng 15 phút sau, người đàn ông tôi vừa gặp trở vào cùng với vợ ông. Chị bước
đến với tôi, và không cần phải nói lời nào, chị ôm lấy tôi và nói, “Đừng ngại
ngùng gì, hãy tâm sự với tôi, xưa kia tôi cũng đã từng bị như chị bây giờ. Tôi
biết những khó khăn chị đang phải chịu”.
Bà Ann thân mến, tôi không thể diễn tả ra được cử chỉ của chị ấy
đã giúp tôi là dường nào. Ở đây một người hòan tòan xa lạ, bỏ công lao, thì giờ
ra để nâng đỡ và khích lệ tôi can đảm hướng về tương lai vào một thời điểm mà
tôi dường như sắp sửa muốn buông xuôi. Tôi hy vọng Thiên Chúa sẽ ban cho tôi cơ
hội để làm cho một người nào đó điều mà người phụ nữ tốt lành kia đã làm cho
tôi. Nhưng trong lúc chờ đợi cơ hội đó, bà Ann thân mến, hãy làm ơn cho độc giả
biết rằng mặc dù có rất nhiều người cứng lòng trên thế gian này, nhưng cũng có
những người rộng lượng và nhân hậu không thể tưởng tượng được”.
Ngày nay đời sống hôn nhân và gia đình ở các nước tân tiến đang
gặp khủng hoảng trầm trọng. Cuộc sống vật chất và ích kỷ đã tạo ra những sự sụp
đổ trong quan hệ gia đình và vợ chồng. Theo thống kê một nửa hôn nhân kết thúc
bằng ly dị!
Vì tình trạng gia đình tan vỡ, nên có nhiều trẻ em lớn lên không
có cha hay mẹ săn sóc. Theo sách Sáng Thế, Thiên Chúa đã hoạch định cho con
người có đời sống hôn nhân không phải vì ích lợi của đôi vợ chồng, bớt cô đơn,
“người đàn ông ở một mình không tốt”, mà còn để sinh sản và giáo dục con cái
trong sự quân bình tâm lý của một gia đình, biết được cả nam lẫn nữ là cha mẹ
mình.
Nhân dịp đầu năm 1994, cử hành thánh lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa,
và cầu nguyện cho hoà bình thế giới, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đề cập
đến việc trẻ em học được sự hòa bình qua đời sống gia đình ấm áp và yêu thương
nhau giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái. Ngài nói: “Một người hoạt động để xây
dựng đời sống gia đình tốt đẹp là làm việc cho hòa bình”.
Hôm nay mừng lễ Thánh Gia, ước gì những lời khuyên nhủ của thánh
Phaolô gửi cho tín hữu Côlossê là yếu tố có thể thay đổi được tình trạng suy
đồi nơi các gia đình và hôn nhân hiện nay. Những nhân đức đó, giúp cải thiện sự
liên hệ giữa con người với con người, và tạo nên hòa khí trong một gia đình
hạnh phúc, yêu thương nhau như gia đình Thánh Gia.
(Suy niệm của Lm. FX Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Chương 1–2 của Tin Mừng Luca có ý tưởng chủ đạo là sự hoàn tất lời
Thiên Chúa hứa ban Đấng Mêsia. Các truyện kết cấu nhịp nhàng và đạt tới đỉnh
điểm khi Đức Giêsu được dâng trong Đền Thờ. Trong biến cố này, tác giả đã nhìn
thấy Đức Giêsu tỏ mình công khai. Ngài diễn tả được điều đó khi dùng Đanien
9–10 trong các lời loan báo cho Đức Maria và Dacaria, cũng như khi dùng Malakhi
3 trong lời loan báo cho Dacaria, trong bài ca “Chúc tụng” (Benedictus) và
trong truyện Dâng con trong Đền Thờ. Được quy tụ lại quanh khái niệm “sự hoàn
tất các ngày” (= đã mãn: 1,23.57; 2,6.21-22), các bản văn thiên sai này nêu bật
ý tưởng là thời thiên sai đã đến. Vậy các chương này thuộc lịch sử tôn giáo
được viết theo ngôn ngữ Kinh thánh.
Lc 1,5–2,22 là một chuỗi các thời điểm. Tác giả đã muốn nối kết
biến cố sứ thần Gabriel hiện ra ở Đền Thờ với việc Đức Giêsu tỏ mình ra cũng
tại đấy bằng một con số huyền bí (70 tuần 7 ngày):
- 6 tháng (Lc 1,26.36) kể từ khi Dacaria được báo tin tới khi Đức
Maria được báo tin: 30 ngày x 6 = 180 ngày
- 9 tháng kể từ khi Đức Maria được truyền tin đến khi Đức Giêsu
chào đời: 30 ngày x 9 = 270 ngày
- 40 ngày kể từ khi Đức Giêsu chào đời cho đến khi được tiến dâng:
= 40 ngày
Tổng cộng: = 490 ngày = 70 tuần 7 ngày.
Thế mà theo lời sấm Đn 9,21-24, sau 70 tuần, Israel sẽ được thanh
tẩy khỏi các tội và Đền Thờ Giêrusalem sẽ được tái cung hiến (thời vua Antiôkhô
IV Êpiphanê / Giuđa Macabê). Tác giả Lc muốn cho thấy rằng việc Đức Giêsu được
tiến dâng trong Đền Thờ đã khởi sự việc “Vinh quang” của Thiên Chúa (x. cụ
Simêôn gọi Đức Giêsu là “vinh quang của Israel”) đến cư ngụ vào thời cánh chung
để thanh tẩy Đền Thờ và Israel. Việc này cũng làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Ml
(3,1).
2.- Bố cục
Nên đọc bản văn này từ câu 21, để duy trì được sự song đối giữa
Gioan và Đức Giêsu. Do đó, chúng tôi xác định bố cục có cả c. 21. Đoạn này gồm
hai phần chính và một kết luận:
1) Hai khúc dạo đầu (2,21-24):
- cắt bì và đặt tên (c. 21),
- thanh tẩy Đức Maria và dâng Đức Giêsu (cc. 22-24).
2) Hai cuộc tỏ mình (2,25-38):
- tỏ mình cho cụ Simêôn (cc. 25-35),
- tỏ mình cho bà Anna (cc. 36-38).
3) Kết: Nhắc lại điệp khúc của bài tường thuật về Thời thơ ấu
(2,39-40).
3.- Vài ghi chú về chú giải
- Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài (22): “Các ngài” là
Đức Maria và Giuse? hay là Đức Maria và Đức Giêsu? Luật không buộc thanh tẩy
người chồng hoặc đứa con trai sơ sinh. Tuy vậy, “các ngài” phải được hiểu là
quy về Giuse và Đức Maria, bởi vì các ngài là chủ từ của động từ “đem [con]
lên”. Các nhà chú giải nhìn nhận rằng tác giả Lc, vì không phải là một Kitô hữu
gốc Do Thái Paléttina, nên đã không được hiểu biết chính xác về tập tục thanh
tẩy một phụ nữ sau khi sinh con. Và đây cũng là một dấu cho thấy rằng thông tin
ngài có được không phát xuất từ những kỷ niệm hay ghi nhớ của Đức Maria.
- theo Luật Môsê(22): Theo Lêvi 12,2-8, một phụ nữ sinh một con
trai bị coi là ô uế trong vòng 40 ngày: sau 7 ngày, đứa bé phải được cắt bì
(vào ngày thứ tám), và người mẹ còn phải chờ ở nhà 33 ngày nữa, “cho đến khi
mãn thời gian thanh tẩy của bà” (Lv 12,4), trước khi bà được đụng chạm vào bất cứ
vật thánh nào hoặc đi vào các sân Đền Thờ. Sau ngày thứ bốn mươi (hoặc thứ tám
mươi), bà phải đem đến cho vị tư tế phục dịch tuần ấy tại Lều Hội Ngộ hay Đền
Thờ một con chiên một tuổi làm lễ toàn thiêu và một bồ câu non hay một chim gáy
làm lễ tạ tội. Nếu không thể dâng con chiên, bà phải dâng hai chim gáy hoặc hai
bồ câu non.
- để tiến dâng cho Chúa (22): Chi tiết này mô phỏng truyện bà Anna
dâng Samuen ở 1 Sm 1,22-24. Tuy vậy, đến câu sau, tác giả Lc nối kết việc dâng
Đức Giêsu với luật về đứa con đầu lòng. Đức Giêsu được gọi là “con trai đầu
lòng” ở 2,7, và việc chuộc lại Người là nhiệm vụ của cha mẹ Người. Trong Xh
13,1-2, chúng ta đọc: “Đức Chúa phán với ông Môsê: ‘Hãy thánh hiến cho Ta mọi
con so, mọi con đầu lòng trong số con cái Israel, dù là người hay là thú vật:
nó thuộc về Ta”. Sự thánh hiến này sẽ bảo đảm phúc lành cho những đứa con đến
sau. Đứa con đầu lòng được chuộc lại bằng cách trả năm sê-ken (= mười lăm chỉ
bạc), tính theo đơn vị đo lường của thánh điện (Ds 3,47-48; 18,15-16), nộp cho
một thành viên của gia đình tư tế, khi đứa bé đã được một tháng. Tác giả Lc
không nhắc gì đến việc trả số bạc; thay vào đó, ngài diễn tả việc chuộc con như
là việc dâng con vào Đền Thờ Giêrusalem, một tập tục không có chỗ nào trong Cựu
Ước hoặc sách Mishnah nói cả.
- để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền (24): Hy lễ không phải là
cho việc chuộc con đầu lòng, nhưng là cho việc thanh tẩy bà mẹ.
- công chính và sùng đạo (25): Các chi tiết mô tả cụ Simêôn đã đặt
ông cùng với Dacaria và Êlisabét, Giuse và Đức Maria, và bà Anna, vào số những
đại diện của những người Do Thái trung thành đang sống tại Paléttina vào thời
gian sát ngay trước khi Đức Giêsu chào đời.
- niềm an ủi của Ít-ra-en (25): Ta hiểu đây là niềm hy vọng hậu
Lưu đày: dân trông chờ Thiên Chúa khôi phục lại chế độ thần quyền tại Israel
(x. Is 40,1; 61,2).
- ra đi (29): Ông Simêôn dùng ngôn ngữ của người canh đêm, sau khi
đã hoàn tất công việc, xin được nghỉ ngơi.
- một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà (35): Có những tác giả cho
rằng “thanh gươm” đây là nỗi ngờ vực về chân tính sâu xa của Con mà Đức Maria
sẽ cảm nghiệm khi nhìn Đức Giêsu bị đóng đinh (chẳng hạn Origiênê, Reuss,
Bleek…). Cách giải thích này không tương ứng với TM Lc, và có vẻ là một cách
giải thích theo tâm lý không có cơ sở. Cách giải thích truyền thống (kể từ
Paulin de Nole và thánh Âutinh) đã coi “thanh gươm” này là nỗi đau đớn đồng cảm
Đức Maria cảm nhận khi chứng kiến Con mình bị đóng đinh. Tuy nhiên, cách giải
thích này cũng không phù hợp với TM Lc, bởi vì Đức Maria chỉ xuất hiện dưới chân
thập giá trong TM Ga mà thôi (Ga 19,25-27) và cũng chỉ trong Ga, cạnh sườn của
Đức Giêsu mới bị một ngọn giáo đâm thâu (Ga 19,34). TM Lc không bao giờ nói
rằng Đức Maria ở trong số các phụ nữ đã đi theo Người từ Galilê (Lc 23,49.55;
24,10). Cách giải thích này lại cắt ngang chuyển động của bản văn và dường như
đưa vào đó một ngoặc đơn (x. bản dịch Bible de Jérusalem, CGKPV) hơi lạ. Cách
giải thích này cũng giới hạn quá đáng vào cá nhân Đức Maria, điều này dường như
trái với cái nhìn của tác giả Lc: đối với ngài cũng như đối với tất cả các tác
giả Tân Ước, tâm lý của các nhân vật không đáng kể bằng vai trò của họ trong
Lịch sử cứu độ (ta thấy điều này trong các bản văn về Thời thơ ấu: Đức Maria
chỉ luôn đóng một vai trò lệ thuộc vào vai trò của Đức Giêsu). Đã thế, lối giải
thích này lại chỉ ưu tiên chú ý đến Núi Sọ. Cần phải tìm ý nghĩa của lời này
của ông Simêôn trong nhãn quan của tác giả Lc về Đức Maria.
(1) Ở trong Cựu Ước, hình ảnh “thanh gươm” là biểu tượng của sự
“chia rẽ” và “mâu thuẫn" (x. Ed 12; 14;...). Ở Is 49,2, Thiên Chúa đã làm
cho miệng lưỡi Người Tôi Trung nên như một “lưỡi gươm sắc bén”. Sách Khải huyền
đã lấy lại hình ảnh này và áp dụng cho Đức Kitô (1,16; 2,12.16; 19,15.21). Khi
ta thấy rằng viên Kỵ sĩ trong Kh được gọi là “Lời của Thiên Chúa” và “từ miệng
Người phóng ra một thanh gươm sắc bén” (Kh 19,13.15), đàng khác, ta lại nhận
thấy rằng Is 49,2 chỉ đi trước Is 49,6 một chút, trong đó Người Tôi Trung được
gọi là “ánh sáng muôn dân”, tức khắc ta nghĩ rằng hai câu này hiện diện trong tâm
trí tác giả Lc khi ngài viết cc. 32.35a, và thanh gươm phân rẽ giữa lòng Israel
chính là Lời mạc khải của Thiên Chúa là chính Đức Giêsu, Lời mang lại ơn cứu
độ, nhưng cũng là Lời sẽ phán xét (x. Dt 4,12). Thế mà dọc theo hai chương đầu,
ta thấy tác giả Lc giới thiệu Đức Maria như là Thiếu nữ Sion, nghĩa là Israel
được nhân-cách-hóa (đọc Lc 1,28 dưới ánh sáng của Xp 3,14-15 và Dcr 2,14). Theo
hướng này, ta hiểu tác giả đang vận dụng một kiểu nhân-cách-hóa tiên trưng để
trình bày hoạt cảnh Dâng Con trong Đền Thờ, và như vậy, ngài đã đặt vào miệng
ông Simêôn c. 35a để ngỏ lời với Đức Maria trong tư cách là Thiếu nữ Sion: nơi
Mẹ, chính là Israel sẽ bị thanh gươm của Đức Chúa đâm thâu.
Cách giải thích này (được gợi ý bởi Sahlin, Black, Laurentin,
Boismard, Benoýt…) có điểm thuận lợi là làm cho c. 35a ăn khớp hài hòa với ngữ
cảnh. Thay vì đưa vào đó một ngoặc đơn, chi câu này trở thành một mắt xích của
một phần triển khai, trong đó tư tưởng trước được nối tiếp và tư tưởng sau được
chuẩn bị. Các câu 34 và 35a mô tả cuộc khủng hoảng gây ra nơi Israel bởi “dấu
hiệu gây chống báng” được ngôn sứ Êdêkien coi như một thanh gươm của Thiên Chúa
đâm thâu tâm hồn dân Chúa; còn c. 35b là kết luận: sự thử thách gây ra bởi việc
Đức Giêsu đến, do việc đòi hỏi phải chọn lựa theo hay chống Người, sẽ đưa tới
chỗ thâm tâm của người ta phải lộ ra.
Hiểu như thế, cc. 34-35 hoàn toàn di theo và minh họa cc. 30-32.
Lời sấm của ông Simêôn được phân phối thành hai cánh của một bức tranh bộ đôi:
một cánh thì cho thấy Dân Ngoại được ánh sáng soi đường và muôn dân được cứu
độ, và đây phải là vinh quang cho Israel; cánh kia cho thấy khủng hoảng của
chính Israel này, khiến nhiều con cái của Dân Chúa chọn phải vấp ngã. Vậy đây
chính là toàn thể tấn bi kịch của Lịch sử cứu độ được ông Simêôn trình bày cô
đọng, và sẽ được tác giả Luca tiếp tục trình bày trong Tin Mừng cũng như trong
Công vụ.
(2) Có một cách giải thích khác cũng có thể chấp nhận như một tầng
ý nghĩa khác của câu này, và như một cách chứng minh kiểu tiêu cực cho cách
trên đây. Trong Ed 14,17 (Hy Lạp), có nối kết “thanh gươm” với “đâm thâu (=
xuyên qua)”. Theo hình ảnh này, thanh gươm phân biệt ra (chọn ra) một số người
để bị tiêu diệt và một số người để được cứu độ (x. Ed 5,1-2; 6,8-9). Trong ngữ
cảnh của Lc, hình ảnh này phát xuất từ ý tưởng nói rằng vai trò của Đức Giêsu
là làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Đức
Maria, là thành viên của Israel, cũng sẽ phải chịu ảnh hưởng. Trong Lc, chính
Đức Giêsu sẽ được mô tả như một người gây chia rẽ trong các gia đình
(12,51-53). Như vậy, với hình ảnh thanh gươm đâm thâu Đức Maria, ông Simêôn gợi
đến khó khăn mà Mẹ sẽ gặp thì mới học ra rằng việc vâng phục Lời Thiên Chúa
phải vượt lên trên cả những dây liên hệ gia đình (x. 8,21; 11,27-28).
4.- Ý nghĩa bản văn
* Hai khúc dạo đầu (21-24)
Cũng như việc cắt bì và đặt tên cho Gioan là cơ hội để con trẻ tỏ
mình ra và để Dacaria nói lên một lời sấm, ở đây cũng vậy, việc cắt bì và đạt
tên cho Đức Giêsu là cơ hội để Người tỏ mình ra. Cũng như Gioan, Đức Giêsu được
ghi dấu ấn là dấu chỉ của giao ước (St 17,11) và tháp nhập vào Israel (x. Gs
5,2-9). Ngài cũng được đặt tên là Giêsu, một tên được chính Thiên Chúa ban cho.
Bản văn nhấn mạnh trên việc đặt tên hơn là trên việc cắt bì.
Trong cc. 22-24, có hai biến cố được kể lại nhân dịp Đức Giêsu tỏ
mình ra: (a) việc thanh tẩy Đức Maria, 40 ngày sau khi sinh Đức Giêsu (cc.
22a.24); và (b) việc chuộc lại Đức Giêsu, một tháng sau khi sinh (cc. 22b.23).
Dường như Luca đã mô phỏng truyện dâng Samuel (1 Sm 1,22-24) mà tả cảnh này.
Bản văn nhấn mạnh trên sự trung thành của Đức Maria và ông Giuse, như là những
người Do Thái đạo đức, khi thi hành những điều buộc của Luật Môsê. Trong các
câu này, Luật được nhắc đến 3 lần (cc. 22a.23a.24a) và trong truyện tỏ mình ra
cho ông Simêôn (c. 27) và trong phần kết (c. 39). Hình thái cứu độ mới của
Thiên Chúa đến với việc vâng phục Luật này.
* Hai cuộc tỏ mình (25-38)
Hình ảnh ông Simêôn gợi nhớ đến tư tế Êli trong 1 Sm 1–2 cũng như
Dacaria trong truyện Gioan Tẩy Giả. Cũng như Dacaria đã tiên báo sự cao cả của
Gioan Tẩy Giả trong bài ca “Chúc tụng”, nay sự cao cả của Đức Giêsu được ông
Simêôn ca tụng. Do có sự song đối như thế, đến đây ông Simêôn nói hai lời tuyên
bố, một là bài thánh ca ở cc. 29-32 và một là lời sấm ở cc. 34-35. Bài thánh ca
công bố hình thái cứu độ mới của Thiên Chúa. Lời sấm được ngỏ với Đức Maria để
nói về sứ mạng của Đức Giêsu và thân phận của Mẹ.
Tác giả luôn luôn viết một truyện về phái nam đi song song với một
truyện về phái nữ, ở đây cũng vậy: bà Anna song đối với ông Simêôn. Sự cao cả
của Gioan được Dacaria công bố trong bài ca của ông; nhưng sự cao cả của Đức
Giêsu lại không chỉ được ông Simêôn công bố mà được cả bà Anna giới thiệu nữa.
Tuy nhiên, bà Anna không nói một tuyên bố nào; vai trò của bà là phổ biến tin
mừng về hài nhi mà ông Simêôn đã nhận biết.
* Nhắc lại điệp khúc của bài tường thuật về Thời thơ ấu (39-40)
Hai câu kết làm vọng lại điệp khúc đã có trong bài tường thuật về
Thời thơ ấu (1,80; 2,52). Câu này nhắc lại từng chữ bản mô tả Gioan (1,80).
Toàn c. 40 gợi lại truyện Samuen, nhất là 1 Sm 2,21c.26.
+ Kết luận
Câu truyện này là một lễ mừng các cuộc gặp gỡ trong niềm vui.
Truyện được kể cho chúng ta ở đây cho thấy nhiều tương quan khác nhau. Chúng ta
thấy Đức Giêsu trong dây liên hệ có một không hai với Thiên Chúa. Chúng ta cũng
thấy cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và ông Simêôn, Đức Maria và bà Anna. Gặp gỡ Đức
Giêsu đưa lại niềm vui vô biên, nhưng cũng tạo nên một quan hệ buộc người ta
phải rảo qua trọn con đường với Người và phải luôn luôn ở gần kề với Người.
5.- Bài học
1. Hôm nay, trong bản thân hài nhi Giêsu, chính Thiên Chúa trở lại
với thánh điện của Ngài lâu nay bị bỏ hoang. Cho dù tọi lỗi của Israel có thế
nào, Thiên Chúa vẫn trung thành giữ những lời đã hứa. Vào dịp chúng ta chịu
phép rửa tội, Thiên Chúa đã nhận chúng ta làm con. Cho dù chúng ta có bất trung
thế nào, Người vẫn không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Cho dù các tội lỗi của chúng
ta đã xua đuổi Người ra khỏi thánh điện là trái tim chúng ta, Người vẫn tìm mọi
cách để đưa chúng ta đến chỗ hoán cải. Hãy mở rộng thánh điện tâm hồn mà đón
Đức Kitô.
2. Chúa Thánh Thần luôn luôn có mặt và làm việc. Chúng ta cũng có
thể sống thường xuyên dưới tác động của Người nếu chúng ta ở trong ơn nghĩa với
Thiên Chúa và chăm chú đi theo những gợi ý của Người trong lòng. Khi đó, Chúa
Thánh Thần có thể trở thành một nguồn ánh sáng giúp chúng ta hiểu niềm tin của
chúng ta rõ hơn cũng như hiểu bổn phận của chúng ta chính xác hơn, một nguồn
sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta can đảm sống đời môn đệ của Đức Kitô, một
nguồn gợi hứng trong khi chúng ta cầu nguyện cũng như sống nếp sống hằng ngày.
3. Ông Simêôn và bà Anna là gương mẫu cho chúng ta về cách sống hy
vọng và trung thành. Sự trung thành của họ đã được ban thưởng. Mỗi khi chúng ta
rước lễ, chúng ta cũng được nhận ân huệ ấy. Do đó, cần chuẩn bị với thái độ chờ
đợi trung thành và nhận Thánh Thể với những tâm tình biết ơn.
4. Tất cả cuộc sống của Đức Maria và ông Giuse tập trung vào Đức
Giêsu, trong khi Người lớn lên bình thường như mọi trẻ em khác. Nhưng “ơn nghĩa
của Thiên Chúa vẫn ở trên Đức Giêsu” (c. 40) đã tạo nên trong gia đình này một
bầu khí hiệp nhất, êm đềm, yêu thương. Bí quyết của hạnh phúc đơn giản và siêu
nhiên ấy, chính là sự hiện diện phong phú của Đức Giêsu. Đây là điển hình hoàn
hảo cho mọi gia đình Kitô hữu. Nếu Đức Kitô thật là trung tâm của gia đình, thì
mặc dù có những thử thách của cuộc đời, chúng ta vẫn sẽ cảm nhận được hạnh phúc
lớn lao là được yêu thương người khác và được người khác yêu thương, dưới cái
nhìn của Thiên Chúa.
5. Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa đã đi vào Đền Thờ của Người. “Đó mãi
mãi là cách Thiên Chúa đến viếng thăm …” sự thinh lặng, sự bất ngờ dưới mắt thế
gian, mặc dù có những lời tiên báo mà mọi người đều biết … Không thể khác được.
Các lưu ý của Thiên Chúa thì rõ ràng, nhưng thế giới vẫn tiếp tục dòng lưu
chuyển của nó; khi đã dấn thân vào các hoạt động của họ, loài người không biết
biện phân ra ý nghĩa của lịch sử. Họ coi các biến cố lớn là những sự kiện không
quan trọng và do lường giá trị các thực tại theo một tầm nhìn hoàn toàn loài
người… Thế giới vẫn mù lòa, nhưng sự Quan phòng ẩn tàng của Thiên Chúa thì tự
thể hiện ngày qua ngày” (Hồng Y John Henry Newman, 1801-1890).
Khi đã đến ngày phải làm lễ tẩy uế theo luật Môsê... tiến dâng như
Luật Chúa quy định... để chu toàn nghi thức theo Luật Chúa truyền...theo như
những gì đã ghi trong luật... khi họ chu toàn nghi lễ, như thiên hạ thường làm
theo luật.
Chắc chắn, đây không phải là ngẫu nhiên mà Luca nhấn mạnh tới 5
lần (các câu 22, 23, 24, 27, 39) về việc chu toàn lề luật. Dù là "Con
Thiên Chúa" Đức Giêsu đã tuân theo lề luật của con người. Đó là nét thâm
sâu và sự thật về mầu nhiệm nhập thể. Ngài không tự coi mình như “có đặc
quyền". Người hành xử "như mọi người" không có gì phân biệt Người
với kẻ khác. Tôi dùng thời giờ để suy niệm lâu hơn về sự khiêm hạ phi thường
này, rnà Thánh Phaolô gọi là: một "cuộc làm cho mình hóa ra không",
một “kénose" (Pl 2,7). Đừng tự đặt mình vào số ngoại lệ. Không nên đòi hỏi
những đặc quyền. Nên thực tế chấp nhận những nghịch chướng thường có trong cuộc
sống, những dịch vụ không vinh dự của thân phận chúng ta.
Cha mẹ Đức Giêsu đem Người lên Giêrusalem... vào Đền thờ.
Cuộc lên đường này mang đầy ý nghĩa. Đó là đỉnh cao của "hai
chương" Luca dành cho tuổi thơ của Gioan Tẩy Giả và của Đức Giêsu. Nhưng
Luca hữu ý tạo cho bước đường của Đức Giêsu sự ngược với Gioan. Việc báo tin
cho Dacaria diễn ra trong khung cảnh trang trọng và huyền diệu của buổi lễ tế
tự nơi Đền Thánh (Lc 1,0) nhưng Gioan con trai của ông lại ẩn mình "trong
hoang địa" (Lc l,80). Còn việc truyền tin cho Maria xảy ra tại làng
Nagiarét nhỏ bé tầm thường (Ga l,46), nhưng Giêsu con trai của bà lại được nhận
biết như Đấng "Mêsia" trong thành thánh Giêrusalem; tại Đền thờ, giữa
trung tâm thành phố, nơi hiện diện kỳ diệu của Thiên Chúa (Lc 2,27; 2,37). Như
thế là chúng ta dang dừng lại trước " trang cuối cùng"... kết thúc
Cựu ước! Những người Do Thái, đôi vợ chồng trẻ, đang "chu toàn lề luật
Môsê”. Một cách tượng trưng, lề luật được chấm dứt với cử chỉ này sẻ không cần
tới Đền thờ nữa: người ta cũng sẽ phá hủy Đền. thờ, đó là "cuộc trở lại
đầy Vinh quang của Thiên Chúa giữa Dân Người" như vị ngôn sứ loan báo (Ml
3, 1-4). Nhưng Thiên Chúa đến cách đột xuất, bất ngờ biết bao "! Không khi
nào Người đến như người ta chờ đợi.
Có một người tên là Simêon. Ông là người công chính và sùng đạo...
Lại cũng có một bà ngôn sứ tên là Anna.. Bà ở góa, đến nay đã 84 tuổi, sớm hôm
thờ phượng Thiên Chúa trong Đền thờ”.
Không phải ngẫu nhiên mà ta thích thú nhận ra rằng, theo Luca,
không phải giới có thẩm quyền như các thầy tư tế các kinh sư nhận biết Đức
Giêsu.. mà là những con người tầm xoàng, nhưng kẻ nghèo khó? Qua hai người tiêu
biểu cho những kẻ "bé mọn" trên đây, thì toàn thể dân chúng thuộc
"nhóm người nghèo Thiên Chúa yêu thương" đã đến gặp gỡ Đấng Cứu độ
của họ. Đằng khác, điều đó cũng đã được các ngôn sứ loan báo: "Ta sẽ chừa
lại giữa ngươi một dân khiêm nhu hèn mọn..:" một số nhỏ "còn sót lại
(Xp 3,12; Is 16.14 + 30, 17,37.4; Gr 6,9; Ge 3,5) Simêon và Anna tiêu biểu cho
những người nghèo. Họ đều đã già cả; thuộc hạng người mà toàn thể xã hội muốn
quên bỏ không mấy trân trọng "(Kn 3,13). Hơn nữa, Anna lại là cụ già
"góa bụa", nghĩa là theo ngôn ngữ Kinh thánh, là cái nghèo hiện thân,
vì cụ đã mất đi tất cả những gì đảm bảo cho mình chỗ đứng trong một xã hội mà
chỉ người chồng mới có quyền pháp lý. Lạy Chúa, xin biến trái tim chúng con trở
nên những tâm hồn của người nghèo, để chúng con biết nhận ra Chúa, trong những
dạng bề ngoài khó nghèo mà Chúa thường ẩn dấu...
Simêon ẵm lấy hài nhi trên tay... Đấng Mêsia của Chúa... ơn cứu độ
dành sẵn cho muôn dân... ánh sáng soi đường cho dân ngoại... vinh quang của
Israel...
Thiên Chúa ưa đột xuất, dễ gây ngỡ ngàng! Người ta mong chờ
"vinh quang", "quyền lực"! Thì Ngài lại xuất hiện trong
thân phận một "trẻ nhỏ", một bé thơ thật sự khóc oe oe, chưa biết
đứng thẳng, phải bồng ẵm trên tay! Chỉ có cụ già đó, tự để cho Đức tin và Thánh
Thần mở mắt mình! Ba lần gọi tên trong bản văn, mới có thể nhận thấy được sự
khám phá ra được điều đó, cần phải trở nên khó nghèo, Đức tin là một thứ nghèo
khó: người ta nhìn mà không nhận biết (Ga 20,29). ấy thế mà dưới lớp vẻ bề
ngoài nghịch thường bé bỏng của em nhỏ (ta nghĩ đến "hình dạng bề
ngoài" của bánh mà ta lãnh nhận...), lại chính là lễ tấn phong cách công khai
của Đức Giêsu "trong Đền thờ của Người": Những tước hiệu mà hai người
nghèo khó trên đây tặng cho Người, thật là ngời sáng! Đức Giêsu – gói thịt đáng
thương này (và Ngôi lời đã mặc xác phàm) lại chính là Đấng Mêsia của Thiên
Chúa... "ơn cứu độ của muôn người "... "ánh sáng"...
"Vinh quang"... "Sự giải thoát" Giêrusalem... Lạy Chúa, xin
ban cho chúng con đức tin.
Những lời ông Simêon nói về Hài nhi làm cho cha mẹ Người ngạc
nhiêm bỡ ngỡ.
Như thế, đây cũng là lời xác nhận rằng, "đức tin của cha
mẹ" cũng cần phải tiến triển! Không biết lòng tin của họ ra sao, nhưng
Maria và Giuse đều rất đỗi ngạc nhiên và bỡ ngỡ trước những "tước hiệu” mà
ngời ta gán cho con mình. Biến cố này gợi lên lòng tin của ông bà. Mười hai năm
sau, tại Đền thờ này, ông bà cũng sẽ không hiểu gì (Lc 2,48-50) và vẫn còn ngạc
nhiên. Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa giúp chúng con luôn được ngạc nhiên bỡ
ngỡ như thế.
Ông bà đem con lên Giêrusalem để tiến dâng cho Chúa... và dâng của
lễ theo luật định.
Đó là hai kiểu nói Luca đã sử dụng để trình bày "nghi
thức" mà đôi vợ chồng trẻ trên đây đã thi hành. Động từ Hy-lạp được dùng ở
đây là (“parastènai": "dâng hiến"), cũng chính là từ mà Phaolô
sẽ dùng để nói lên thái độ căn bản của Kitô hữu. Đừng quên rằng, Luca là thư ký
của Phaolô, và các bức thư đều được viết trước các Tin Mừng. Thế nên, Luca đã
chủ ý dùng một ít mang ý nghĩa. "Anh em đừng hiến thân xác anh em phục vụ
tội lỗi nữa, nhưng anh em hãy hiến toàn thân để phục vụ Thiên Chúa" (Rm
6,13). "Anh em hãy hiến thi thể anh em để phục vụ sự công chính, để trở
nên thánh thiện" (Rm 6,19). "Thưa anh em, tôi khuyên nhủ anh em hãy
hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa.
Đó là cách thực xứng hợp để anh em thờ phượng Người" (Rm 12,1.).
Như vậy, Maria và Giuse đến thi hành trước, điều mà sau này chính
Đức Giêsu sẽ thực hiện trong bữa tiệc ly và trên thập giá... và mọi Kitô hữu
được mời gọi thể hiện trong mọi thánh lễ: hiến dâng mạng sống của mình!
"Đây là mình Thầy sẽ bị nộp vì các con". Lạy Chúa, khi thông hiệp với
Chúa, chớ gì con biết hiến mạng sống mình vì yêu. Để làm nổi bật hai sự việc
trên chỉ là một ("tiến dâng con" và "hiến dâng của lễ"),
Luca trích dẫn hai đoạn văn Kinh Thánh, khi cần vẫn có thể tăng cường chiều
kích "vượt qua" của trình thuật này: "Tất cả các con trai đầu
lòng đều được thánh hiến dành cho Thiên Chúa" (Xh 13,2.12.15). Chúng ta
hãy nhớ lại nguồn gốc của nghi thức này. Dân tộc Israel làm nô lệ bên Ai Cập.
Để chấp nhận việc giải phóng vượt qua, vua Pharaô đã phải chứng kiến mọi con
trai đầu lòng thuộc xứ sở mình đều chết hết. Một của lễ chiên vượt qua ghi dấu
máu nơi cửa nhà Do Thái. Và để "ghi nhớ" ngày cứu độ giải phóng này,
mọi con trai đầu lòng người Israel đều thuộc về Thiên Chúa! Muốn dẫn chúng trở
lại gia đình, cần phải "chuộc lại". Đó là biểu tượng lạ thường. Một
vật thuộc về Thiên Chúa? Muốn dân chúng trở lại gia đình, cần phải "chuộc
lại". Đó là biểu tượng lạ thường. Một vật thuộc về Thiên Chúa: là một vật
được hiến thánh!
Chính Đức Giêsu cũng được "hiến thánh" cách trọn vẹn! Và
việc đó được diễn ra vào "ngày thứ bốn mươi", thời gian tròn đầy.. và
sau này còn có một "ngày thứ bốn mươi" nữa, để kết thúc mùa phục sinh
dẫn tới biến cố lên trời làm cho sự hiện diện hữu hình của Đấng phục sinh biến
khỏi. Đúng vậy, toàn bộ Tin Mừng đang nằm ở trang này. Và một cảnh vượt qua
khác cũng sẽ diễn ra "ở Giêrusalem" (Lc 24, 47-52).
Phép rửa đã thánh hiến tôi cho Chúa. Biến cố đó có ý nghĩa gì đối
với tôi không?
Của lễ là một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu non…
Thật là cảm động, phải không? Nhưng coi chừng, ta có thể biến toàn
thể trình thuật trên đây của Luca thành giai thoại mất thôi! Một lần nữa, ta
cần ghi nhận rằng, Luca đã không thêm bớt gì. Rõ ràng ông chỉ dựa vào những
thực hành tôn giáo Do Thái hiển nhiên. Nhưng ta cũng có thể nhìn ra, tại sao
Đức Giêsu lại không được miễn chước khỏi việc tuân giữ những tập tục đó. Mà
thôi, đối với Luca, điều quan trọng thực sự đó là "nội dung” thần học, là
"ý nghĩa" thâm sâu của các sự kiện lịch sử. Vậy ta cứ chấp nhận quan
điểm của người thuật chuyện. Nào ta sẽ đọc toàn bộ bản văn mà Luca đã trích dẫn
một đoạn nơi sách Lêvi (12,8): "Nếu người mẹ không đủ khả năng kiếm đủ
tiền mua con vật, thì có thể dùng đôi phim gáy hay một cặp bồ câu. Đó! đúng là
lễ vật của người nghèo. Maria đã không thể làm gì hơn được. Bà không thể trả
tiền cao hơn! Đó là điều mà Luca nhằm gợi lên cho ta, nếu ta biết đoán ra ý
người viết, và ta biết rằng toàn bộ Tin Mừng của ông sẽ là "tin vui cho
người nghèo (Lc 4,18). Phải, toàn bộ Tin Mừng đã nằm ở trang này, bề ngoài xem
ra đầy hình ảnh dân gian. Phúc thay những người nghèo, vì nước trời là của họ.
Được “thánh hiến" cho Thiên Chúa... điều đó không đòi hỏi
những dấu hiệu huy hoàng. Mọi người nghèo trên thế giới với áo quần rách rưới,
lại "xứng đáng" với Thiên Chúa và được thánh hiến... Những người
nghèo được "thánh hiến"! Tôi có kính trọng họ không?
Cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải hư vong hay
được ơn cứu độ, cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng.
Đức Giêsu cũng là một "dấu hiệu”, một "dấu hiệu bị chống
báng", một "dấu hiệu mà người ta có thể phủ nhận". Thiên Chúa
không muốn áp đặt. Người đã trao ban tự do. Người chấp nhận " dấu chỉ tình
yêu của Người có thể bị người đời chối bỏ! Péguy sẽ nói: "Những khúm núm
lụy phục của kẻ nô lệ không nói lên cho Người điều gì cả". Như thế mỗi
người phải tự quyết định trước trường hợp "Giêsu” Ta có thể từ chối Ngài,
nghĩa là phải hy vọng, phải quỳ xuống... ta có thể đón nhận Người, nghĩa là
được ơn cứu độ được nâng lên...
Ngay tại trang này, ta đã có Đấng "Thẩm phán vũ trụ”, Đấng
phân chia loài người ra làm hai trong Ngày cánh chung (Mt 25-31). Lạy Chúa xin
nâng con lên. Xin giúp con biết chọn Chúa.
Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như luật Chúa truyền, thì trở
về nơi cư ngụ là thành Nagiarét, miền Galilê, còn hài nhi ngày càng lớn lên,
thêm vững mạnh... tiến triển...
Cuộc hành trình lên thủ đô đã kết thúc. Đôi vợ chồng trẻ lại trở
về miền quê tăm tối của mình. Nhưng giờ đây, chính Thiên Chúa luôn ở cùng.
Người sắp sống tại xưởng thợ nơi gia đình. Dần dần, Người sẽ tập sống làm
người. Người sẽ học đời, học đi (ban đầu có thể lao đao, rồi té xuống). Người
sẽ học đọc tại trường, học nghề thợ mộc... ôi thôi! kéo cưa của cậu mới ‘tập
sự’ chưa giúp được việc gì. Những, Người cứ tập tành... Người sẽ tiến bộ.
(Chuyển ngữ từ Beliefnet.com – Trầm Thiên Thu)
“Uống nước nhớ nguồn, làm con phải hiếu. Công cha như núi Thái
Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Người ơi, làm người ở trên đời, nhớ
công người sinh dưỡng, đó mới là hiền nhân. Vì đâu anh nên người tài ba…”. Đó
là lời trong ca khúc “Ơn Nghĩa Sinh Thành” của cố nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, đầy
tính nhân bản, khá phổ biến suốt nhiều chục năm qua. Kinh thánh dạy: “Hãy thảo
kính cha mẹ” (Hc 3:1-16), kinh Phật dạy: “Tột cùng thiện không gì bằng có hiếu,
tột cùng ác không gì bằng bất hiếu”.
Nói đến gia đình là nói đến yêu thương. Gia đình là Tổ ấm. Có tình
yêu thương thì gia đình mới “ấm”, đầy ắp tiếng cười, chan hòa niềm cảm thông và
tha thứ; ngược lại, thiếu tình yêu thương thì gia đình sẽ “lạnh”, không khí
ngột ngạt, khó thở. Thật vậy, ở đâu có tình yêu thương thì ở đó có Thiên Chúa
hiện diện. Có Thiên Chúa thì gia đình nghèo khó vẫn “ấm”, vắng Thiên Chúa thì
gia đình giàu sang vẫn “lạnh”.
(Hc 3:3-7,14-17 Sách Huấn ca phân tích: “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi
lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu. Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái,
khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe. Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai
vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng. Người đó phục vụ các bậc sinh thành
như phục vụ chủ nhân” (Hc 3:3-7). Không chỉ vậy, chính lòng hiếu nghĩa đối với
cha mẹ sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho chính mình (x. Hc 3:14).
Điều đó chứng tỏ Chúa và Giáo hội Công giáo rất tôn trọng chữ Hiếu, không như
người ta lầm tưởng. Ai làm ngược lại là mắc trọng tội, vì “ai bỏ rơi cha mình
thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc giận mẹ mình, sẽ bị Đức Chúa nguyền rủa” (Hc
3:16).
Ca dao Việt Nam cũng so sánh:
Con có cha như nhà có nóc
Con không cha như nòng nọc đứt đuôi
Và xác định:
Dù cho đi hết cuộc đời
Cũng không đi hết những lời mẹ ru
Ơn cha và nghĩa mẹ thật cao vời và bao la biết bao! Mỗi thành viên
gia đình đều phải cộng tác với nhau để tạo nên một tổ ấm đích thực, một gia
đình thánh cho hợp Thánh Ý Chúa. Đáp ca lễ Thánh Gia dùng Tv 128 nói về các giá
trị gia đình: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của
Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may.
Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa
những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn” (Tv 128:1-3). Tác giả Thánh vịnh
cho rằng “đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128:4).
Cl 3:12-21; 3:12-17 Thánh Phaolô nói: “Anh chị em là những người
được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh chị em hãy có
lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và
tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người
kia. Chúa đã tha thứ cho anh chị em, thì anh chị em cũng vậy, anh chị em phải
tha thứ cho nhau” (Cl 3:12-13). Yêu thương và tha thứ luôn có liên kết với
nhau: Tha thứ là thể hiện tình yêu thương, mà yêu thương thì phải tha thứ.
Không thể làm cái này mà bỏ điều kia, làm một trong hai chỉ là nói dối.
“Trên hết mọi đức tính, anh chị em phải có lòng bác ái: đó là mối
dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3:15). Yêu thương là đức mến, mà đức mến lại quan
trọng nhất trong ba đức đối thần, đến khi vào Thiên đàng rồi cũng vẫn còn và
chỉ còn đức mến, không còn đức tin và đức cậy nữa. Thánh Phaolô nói thêm: “Anh
em hãy dạy dỗ khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan” (Cl 3:16), và “anh chị
em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giêsu và nhờ Người mà
cảm tạ Thiên Chúa Cha” (Cl 3:17).
Thánh gia là gương mẫu cho các gia đình, nhưng có thể chúng ta chỉ
“nghe và biết” mà không triệt để và tích cực thi hành. Do đó, thánh Phaolô nói
chi tiết về vai trò và bổn phận của các thành viên trong gia đình: “Người làm
vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. Người làm
chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ. Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ
trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho
con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng” (Cl 3:18-21). Ai cũng biết trách nhiệm
riêng và làm tròn bổn phận mình thì gia đình chắc chắc là một Tổ ấm thực sự
vậy.
Gia đình như con thuyền lênh đênh trên “biển đời”, có lúc sóng yên
biển lặng, nhưng có lúc lại đầy cuồng phong sóng vỗ. Thánh gia đã từng như vậy,
không chỉ trước khi Chúa Con sinh ra mà vừa sinh ra cũng chẳng yên thân với
những người ác – điển hình là vua Hêrôđê. Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, sứ
thần Chúa hiện ra báo mộng cho Đức Thánh Giuse: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và Mẹ
Người trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp
tìm giết Hài Nhi đấy!” (Mt 2:13). Thế nên “gia trưởng” Giuse, người chống mũi
chịu sao, liền trỗi dậy để đưa Vợ Con trốn sang Ai-cập ngay giữa đêm tối. Thánh
gia phải lưu trú ở đó cho đến khi vua Hêrôđê băng hà, và cũng là để ứng nghiệm
lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: “Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập” (Mt
2:18).
Sau khi vua Hêrôđê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với Đức Thánh
Giuse bên Ai-cập, báo mộng cho ông: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và Mẹ Người về
đất Ítraen, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi”. (Mt 3:20). Đức Thánh
Giuse liền trỗi dậy đưa Hài Nhi và Mẹ Người về đất Ítraen. Thật vất vả cho Đức
Thánh Giuse! Cũng chưa yên, vì nghe biết Áckhêlao đã kế vị phụ vương Hêrôđê và
cai trị miền Giuđê, nên Đức Thánh Giuse sợ không dám về đó, đành đưa Vợ Con lui
về miền Galilê, đến ở thành Nadarét (Mt 2:21-22). Từ đó, Đức Giêsu nghiễm nhiên
trở thành người Nadarét.
Người cha và người chồng có cái khổ của người cha và người chồng,
người mẹ và người vợ có cái khổ của người mẹ và người vợ. Ai có bổn phận và
trọng trách của riêng mình. Chồng hoặc vợ cũng đều lo cho gia đình và con cái,
và cũng là lo cho hạnh phúc của riêng mình, đừng vì lý do gì mà “tị nạnh” hoặc
“chảnh” mà lênh mặt và khinh miệt nhau. Trọng trách đó cũng chính là Ơn Gọi mà
Thiên Chúa kêu mời để thực hiện trọn vẹn để chính mình nên thánh, đồng thời
giúp các thành viên trong gia đình cùng nên thánh.
Gia đình là tế bào xã hội, là tế bào cơ bản, để từ đó có những đại
gia đình khác là gia đình cộng đồng, gia đình làng xóm, gia đình quốc gia, gia
đình nhân loại, gia đình Công giáo,…
Lạy Chúa, xin cho mỗi chúng con biết noi gương Thánh gia từng giây
phút để có thể kiến tạo hòa bình và công lý, xây dựng văn minh tình thương, văn
hóa sự sống, xứng đáng là thành viên thánh trong đại gia đình Công giáo. Chúng
con cầu xin nhân Danh Hài Nhi Giêsu, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
***
BÀI 2: Trường học Gia đình
Khi nhập thể và nhập thế, Con Thiên Chúa là Đức Kitô Giêsu đã sinh
trong một gia đình. Khi đi lễ đền, Ngài ở lại “lo việc của Chúa Cha” nhưng cha
mẹ Ngài không biết, sau ba ngày, Ngài ngoan ngoãn theo cha mẹ về quê và hằng
vâng phục cha mẹ (Lc 2:51). Điều đó chứng tỏ gia đình là quan trọng và là
trường học đầu tiên của mọi người.
Văn sĩ Charles Dickens (1) nhận định: “Gia đình là một cái tên,
một từ ngữ mạnh mẽ, mạnh hơn lời của những pháp sư hay tiếng đáp của các linh
hồn. Đó là lời nguyện cầu hùng mạnh nhất”.
Các nhà xã hội học coi gia đình là nơi đặt những “viên gạch đầu
tiên” trong việc hình thành nhân cách con người. Điều đó cho thấy gia đình là
trường học đầu tiên của mỗi con người. Quả thật, giáo dục gia đình rất quan
trọng, đặc biệt là người mẹ, vì người mẹ gần gũi con cái ngay từ khi nó mới
sinh ra và suốt những tháng năm đầu đời.
Nhân cách là tính cách của một con người, và rồi con người đó có
thể tốt hoặc xấu. Vì thế, giáo dục nhân cách rất quan trọng, phải bắt đầu từ
gia đình, nhưng giáo dục gia đình lại là vấn đề rộng lớn. Ở đây chúng ta nói về
vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục hình thành nhân cách cho trẻ em ở Việt
Nam hiện nay.
Như đã nói, gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên, tức là
trường học đầu tiên của bất kỳ con người nào. Mỗi con người đều được sinh ra từ
cha và mẹ. Đứa trẻ luôn gần gũi và lắng nghe những “âm thanh cuộc sống” đầu
tiên từ cha mẹ – đặc biệt là từ người mẹ. Người mẹ hiền lành, dịu dàng, ăn nói
nhẹ nhàng, đứa trẻ đều nhận biết và chịu ảnh hưởng. Ngày xưa, người mẹ ru con
bằng những câu hò, ca dao, điệu lý,... nhẹ nhàng và trong sáng. Rất tiếc là
ngày nay không phổ biến, nhưng vẫn còn phần nào những lời “ầu ơ”, “ví dầu”,…
khi mẹ ru con ngủ. Lời ru không thể nào gắt gỏng hoặc như “dùi đục chấm mắm
cáy”, vì thế mà đứa trẻ vẫn ảnh hưởng sự dịu dàng của lời mẹ ru.
Khi con trẻ chập chững những bước đi đầu đời, người đầu tiên chỉ
dạy cho bé cách đi đứng, nói năng, không ai khác là cha mẹ. Vì vậy, cha mẹ là
người thầy đầu tiên của con cái. Điều đó xác định việc giáo dục gia đình vô
cùng quan trọng trong việc hình thành nhân cách của con cái. Dĩ nhiên, vì lý do
nào đó, có những đứa trẻ thiếu sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ nhưng nó vẫn có
thể hình thành nhân cách tốt, đó là nhờ quá trình tự giáo dục tốt. Nhưng hầu
như sự giáo dục gia đình không tốt thì nhân cách đứa trẻ ắt có phần khiếm
khuyết, đôi khi hoàn toàn xấu. Do đó, giáo dục gia đình rất quan trọng đối với
mỗi con người, vì còn trẻ người non dạ, không ai có thể hiểu biết về mình, về
xã hội, về cuộc sống,... nhưng được gia đình định hướng và dạy dỗ, nhờ đó mà
tích lũy kinh nghiệm và trưởng thành dần theo thời gian.
Ngoài ra, gia đình còn là hành trang “ắt có và đủ” đối với mỗi con
người. Trong thời gian đầu đời, ai cũng được sống với ông bà, cha mẹ, anh chị
em. Lớn lên, những người lập gia đình rồi có con, cháu. Trong gia đình, mọi
người đùm bọc nhau về vật chất, tinh thần, tâm linh,... Người trẻ có điều kiện
để lớn khôn, người già có nơi nương tựa, người u buồn được an ủi, người yếu đau
được nâng đỡ,… Như vậy, gia đình là một cộng đồng luôn gắn bó với nhau trên
từng bước đường của cuộc sống. Dù là ai, được sống trong tình yêu thương của
gia đình là hạnh phúc. Ai không được như vậy thì thật là nỗi bất hạnh. Trong
quá trình sống với gia đình, cùng trao và nhận tình yêu thương, mỗi người lại
tiếp tục tự hoàn thiện mình và tự hoàn thiện nhân cách.
Gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình luôn có mối quan hệ mật
thiết với xã hội, đơn giản nhất là quan hệ với làng xóm, khu phố. Như tục ngữ
có câu: “Bán anh em xa mua láng giềng gần”. Động từ “bán” và “mua” ở đây không
mang nghĩa “thương mại”, nhưng có ý nói rằng láng giềng gần gũi và cần thiết
lắm. Họ là những người “tối lửa tắt đèn có nhau”, mình có chuyện gì thì thân
nhân ở xa đâu biết được, chỉ có láng giềng biết. Nói theo Công giáo, đó là
những người lân cận, những người mà Đức Giêsu đề cao qua dụ ngôn “Người Samari
Nhân Hậu” (Lc 10:29-37).
Gia đình cũng là nơi tái tạo con người. Thành viên nào lỗi lầm vẫn
được gia đình an ủi, khuyên nhủ, che chở, bảo vệ, nâng đỡ,... Nhờ đó mà người
lầm lỗi có thể đứng dậy và làm lại cuộc đời. Mỗi thành viên gia đình là một
người tốt thì xã hội sẽ tốt, đất nước có những công dân tốt, Giáo hội cũng có
những “chiên ngoan”. Xã hội có nhiều công dân tốt, ắt hẳn đất nước có thể vững
mạnh, xã hội có thể văn minh, cộng đồng ít tệ nạn. Có ít cái xấu sẽ có nhiều
cái tốt, con người quan tâm đối xử với nhau bằng tình thân ái và lòng nhân hậu.
Nói vậy có nghĩa là cả xã hội phải thực sự chú tâm tới sự nghiệp giáo dục,
không thể lơ là hoặc “đánh trống bỏ dùi”. Vì chú trọng số lượng hơn chất lượng,
chạy theo thành tích, không lo “tiên học lễ, hậu học văn” nên đạo đức mới bị sa
sút trầm trọng, đi đâu cũng thấy tội phạm! Học sinh cần phải được giáo dục về
giao tiếp và ứng xử ngay trong cộng đồng, hội đoàn, đặc biệt phải bắt đầu từ
gia đình.
Xã hội càng ngày càng văn minh và tiến bộ, đó là niềm vui. Nhưng
cứ đua đòi hoặc chạy đua theo lối sống xa hoa thì dễ sa đọa, đi đâu cũng thấy
treo bảng “văn hóa” nhưng lối sống chẳng thấy gì là văn hóa. Trị bệnh phải trị
tận căn, nhổ cỏ phải nhổ tận gốc. Nhiều hiện tượng xã hội mới liên quan vấn đề
trẻ em đặt ra những thách thức mới trong việc giáo dục gia đình: Trẻ em lang
thang, trẻ em phạm pháp, trẻ em bị lạm dụng tình dục, trẻ em bị bóc lột sức lao
động, trẻ em quan hệ tình dục sớm, ấu dâm, mại dâm trẻ em, lạm dụng ma tuý, lạm
dụng chất có men,… Điều đó đòi hỏi việc quản lý và kiểm soát chặt chẽ của các
nhà hữu trách, nhưng vấn đề chính vẫn là phải giáo dục trước tiên từ gia đình.
Một việc không dễ, vì vừa đòi hỏi gia đình phải phát huy hết các sức mạnh, vừa
đòi hỏi các thành viên trong gia đình phải chung tay góp sức và phải là những
tấm gương sáng lẫn nhau – đặc biệt là đối với trẻ em. Cây phải được uốn từ lúc cây
còn nhỏ, con người cũng vậy, phải được uốn nắn từ nhỏ và ngay tại gia đình, sau
đó mới tới nhà trường và xã hội.
Đã có nhiều trường hợp con cái hư, rồi lấy cớ là bận rộn, lo làm
ăn. Không thể viện cớ như vậy! Các cha mẹ khá giả chiều chuộng con cái quá mức,
để chúng tự do, muốn gì được nấy, tiêu xài xả láng, cứ tưởng như vậy là yêu
con, sai lầm nghiêm trọng. Tục ngữ Việt Nam rất chí lý: “Thương con cho roi cho
vọt, ghét con cho ngọt cho bùi”. Về tâm linh, Thánh Phaolô cũng nói: “Chúa
thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi
cho vọt” (Dt 12:6).
Gia đình nào thường xuyên cãi cọ, mâu thuẫn, xung đột, bạo lực,...
nhất là các gia đình có cha mẹ ly hôn hoặc ly thân, con cái bị ảnh hưởng rất
nặng về cả tâm lý lẫn sinh lý. Trẻ em không được chăm sóc, nhất là khi bị tổn
thương về tình cảm hoặc tinh thần, nhiều trẻ em đã bỏ nhà đi bụi đời, sống lang
thang, bất cần đời, rồi dễ sa vào tội lỗi và tệ nạn xã hội. Nguyên nhân là
chúng mất cái gốc quan trọng là gia đình, không được dưỡng dục thể chất và tinh
thần để có thể nên người. Trước thực trạng đó, việc giáo dục trẻ em ở gia đình
càng trở nên cấp bách hơn.
Quả thật, chuẩn mực đạo đức và trình độ nhận thức của một con
người phải được hình thành từ nhỏ, bắt đầu từ môi trường gia đình. Việc giáo
dục đạo đức dần dần đưa chúng vào nền nếp gia phong từ những gì nhỏ nhất trong
cuộc sống hằng ngày như thật thà, vị tha, không vị kỷ, biết giữ lời hứa, lễ
phép, nhân hậu, hiền dịu, hiếu thảo, nhường nhịn,... Nói chung là biết quên
mình mà sống vì người khác. Đơn giản nhất là các động thái nhỏ về ứng xử, lời
ăn, tiếng nói: Chào hỏi, xin phép, xin lỗi, cảm ơn,... Đó là phép lịch sự tối
thiểu trong phép xã giao. Tục ngữ Việt Nam đã cảnh báo: “Lỗ nhỏ làm đắm
thuyền”. Đừng khinh suất những điều nhỏ!
Sống tốt không chỉ là tránh điều xấu mà còn phải tích cực làm điều
thiện. Sống thật thà không chỉ là không ăn gian, không nói dối, mà còn phải tôn
trọng những gì là của người khác: Thấy tiền hoặc vật dụng của người khác mà
không nổi máu tham thì mới là thật thà, chứ không thấy thì có gì mà tham, mà
lấy? Về tâm linh cũng vậy, có dịp phạm tội mà không phạm thì mới là thánh
thiện, chứ không có dịp phạm tội thì chưa biết ai hơn ai.
Gia đình là vườn ươm mầm đời sống và là nơi tôi luyện các nhân đức
của con người. Cha mẹ không nên khắt khe, nhưng phải cương nghị, thấy con cái
sai thì phải nghiêm túc chấn chỉnh ngay, không được làm ngơ! Cha mẹ nên hiền
từ, nhưng đừng nhu nhược. Cha mẹ nhu nhược cũng “tiếp tay” cho con cái hư hỏng.
Văn sĩ Robert Anson Heinlein (2) khuyên: “Đừng gây bất lợi cho con cái bạn bằng
việc cho chúng cuộc sống dễ dàng”.
Cha mẹ phải là người đầu tiên điều chỉnh con cái, để chúng không
chỉ chấp nhận mà còn tích cực cố gắng sửa đổi ngay. Cha mẹ cũng không được hành
động cho thỏa cơn giận, nhưng phải kiên nhẫn, tìm hiểu, để biết rõ nguyên nhân,
để ngày càng thích ứng và sống chan hòa với con cái.
Hiện nay, không ít cha mẹ lo nuôi con về thể lý mà coi thường việc
giáo dục tinh thần, lo đầu tư cho việc dạy chữ mà quên việc dạy người. Có những
cha mẹ không chú ý vai trò làm “người thầy đầu tiên” của con cái, phó mặc mọi
việc giáo dục con cho nhà trường. Đó là sai lầm lớn cần chấn chỉnh càng sớm
càng tốt!
Giáo dục đa dạng, đơn giản là hai phần chính: Giáo dục thể lý và
giáo dục tinh thần. Nhưng có một phần quan trọng không được bỏ quên, đó là việc
giáo dục tâm linh. Mến Chúa thì phải yêu người. Thánh Gioan giải thích: “Ai nói
rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói
dối, và sự thật không ở nơi người ấy. Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại
ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối” (1 Ga 2:4 và 9).
Chính Chúa Giêsu cũng đã xác định: “Ai thi hành ý muốn của Cha
tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mt 12:50; Mc
3:35; Lc 8:21). Chỉ có những người như vậy mới thực sự là thành viên trong Đại
Gia Đình Kitô Giáo, Đại Gia Đình của Thiên Chúa.
--------------
(1) Charles John Huffam Dickens (1812–1870) có bút danh là Boz.
Ông là tiểu thuyết gia người Anh nổi tiếng nhất thời đại Nữ hoàng Victoria. Ông
được coi là một trong những văn sĩ vĩ đại viết bằng Anh ngữ, được ca ngợi về
khả năng kể chuyện và trí nhớ, được nhiều người ở khắp nơi yêu mến. Các tác
phẩm của ông chủ yếu dành cho thiếu nhi và mang tính chất hiện thực.
(2) Robert Anson Heinlein (1907–1988) là nhà văn khoa học viễn
tưởng Mỹ. Ông được coi là văn sĩ gạo cội trong lĩnh vực khoa học viễn tưởng, là
một trong những tác giả nổi tiếng nhất có ảnh hưởng nhất và cũng gây nhiều
tranh cãi nhất về thể loại này. Ông đã lập ra một chuẩn mực cao đối với sự hợp
lý về khoa học kỹ thuật trong văn học và góp phần thúc đẩy chất lượng chung của
thể loại khoa học viễn tưởng. Ông là văn sĩ khoa học viễn tưởng đầu tiên thu
hút được sự chú ý của công chúng, đặc biệt trên những tạp chí chính thống như
tờ “The Saturday Evening Post” vào cuối thập niên 1940. Ông cũng là một trong
những tiểu thuyết gia thành công đầu tiên về thể loại khoa học viễn tưởng thời
hiện đại.
Minh họa Lời Chúa Lễ Thánh Gia Thất
1. Gia đình cầu nguyện
Một trong những việc gia đình làm để thờ phượng Chúa là đọc kinh
cầu nguyện.
Tạp chí Reader’s Digest của Hoa Kỳ có đăng một bài báo tựa đề:
“Thăm dò gia đình”, gồm 12 câu hỏi. Một trong những câu hỏi đó như sau: “Dịp
một lễ của gia đình, bạn có mời khách đến dự, bạn có thấy thoải mái dễ dàng yêu
cầu mọi người trong gia đình bạn đọc kinh không?”
Câu hỏi này khiến chúng ta phải lưu ý đến một việc chính yếu của
gia đình biết noi gương Thánh Gia Thất, siêng năng cầu nguyện để thờ phương
Chúa.
Cầu nguyện trong gia đình có thể thực hiện dưới ba hình thức:
1. Cầu nguyện riêng tư, cá nhân. Mỗi người cầu nguyện riêng với
Chúa. Như người Cha cầu nguyện khi đi làm… Chúa Giêsu thường cầu nguyện theo
hình thức này.
2. Mọi người trong gia đình cũng cầu nguyện, như cầu nguyện khi
mọi người tề tựu chung quanh bàn ăn, nhất là trước bàn thờ tối sáng… Chúa Giêsu
cũng thường cầu nguyện theo cách này: như trong Bữa Tiệc Ly (Lc.9,16), với hai
môn đệ Emmau (Lc.24,30)
3. Cầu nguyện với cộng đoàn, cùng với các gia đình khác trong một
xóm đạo hay trong nhà thờ… Chúa Giêsu cũng nêu gương cầu nguyện theo hình thức
này. (Lc.4,6)
----------
Lễ Thánh gia hôm nay là dịp hy hữu để chúng ta tự vấn về việc cầu
nguyện trong gia đình của chúng ta. Nói cụ thể hơn là chúng ta (gồm cả ông bà,
cha mẹ, con cháu trong gia đình) có đọc kinh cầu nguyện không? Đọc kinh cầu
nguyện sốt sắng không? Đọc kinh cầu nguyện thường xuyên không?
2. Không có thời giờ
Một linh mục đang kiểm điểm tình hình sống đạo trong giáo xứ. Ngài
hỏi một gia đình:
- Chúng con có thường xuyên cầu nguyện chung trong gia đình không?
Người gia trưởng trả lời:
- Thưa Cha, chúng con bận việc quá, không có giờ đọc kinh cầu
nguyện.
- Giả như con biết đứa con nào của con sẽ bị bệnh nếu chúng con
không cầu nguyện, thì gia đình chúng con có cầu nguyện không?
- Ồ chắc chúng con sẽ cầu nguyện.
- Giả như con biết ngày nào gia đình chúng con lười biếng cầu
nguyện thì một đứa con phải bị tai nạn. Các con có cùng cầu nguyện không?
- Tất nhiên chúng con sẽ cầu nguyện.
- Giả như ngày nào chúng con không đọc kinh cầu nguyện thì phạt
năm chục ngàn. Chúng con có bỏ việc cầu nguyện không?
- Chắc chúng con không dám bỏ cầu nguyện. Nhưng thưa Cha, Cha hỏi
như thế có ý gì?
- Vì con nói không có thời giờ cầu nguyện, tại con chưa xác tín
rằng: nhờ lời cầu nguyện Chúa sẽ ban mọi ơn lành cho vợ cùng con cái con. Chúa
sẽ cứu giúp gia đình con khỏi mọi gian nan thử thách. Nhất là con sẽ chu toàn
bổ phận thờ phượng Chúa theo gương Thánh gia Thất. (Theo “Minh họa Lời Chúa”)
3. Lời cầu nguyện rất hiệu nghiệm
Một đứa trẻ nhờ cha mẹ dạy và làm gương, nên luôn giữ thói quen
đọc kinh trước khi đi ngủ. Ngày nọ em bị bệnh nặng phải vào nằm bệnh viện. Bác
sĩ cho biết em phải qua một cuộc phẫu thuật mới hỏi bệnh. Trước khi tiêm thuốc
mê để mổ, bác sĩ cho em biết: em sẽ ngủ một giấc thật lâu. Nghe noi đến ngủ, em
xin bác sĩ chờ em một chút, để em cầu nguyện như thường lệ. Và em kết thúc lời
nguyện bằng cầu:
- Lạy Chúa, xin cho con mau hết bệnh.
Sau đó em tự nằm xuống cho bác sĩ thi hành việc của ông… Khi thức
dậy, câu hỏi đầu tiên của em là:
- Thưa bác sĩ, cháu có lành bệnh không?
Bác sĩ nhìn em và cảm động nói:
- Cháu hãy để Chúa lo liệu… Điều bác tin chắc là lời cầu nguyện
của cháu rất hiệu nghiệm. Chúa đã cứu được một người là chính bác. Từ lâu bác
không đến nhà thờ, không đọc kinh cầu nguyện, cũng chẳng bao giờ nhớ đến Chúa.
Nhưng hôm nay khi cháu cầu nguyện sốt sắng, Chúa đã đánh động lòng bác. Sáng
sớm hôm nay, bác đã đến nhà thờ xưng tội rước lễ và đọc kinh cầu nguyện.
--------
Lời cầu nguyện chẳng những để thờ phượng Chúa theo gương Thánh Gia
Thất, mà còn cứu được chính mình và kẻ khác phần hồn phần xác. (Theo “Minh họa
Lời Chúa”).
4. Quà tặng
Đức Tổng Giám Mục Milan ở phía Bắc nước Ý có kể câu chuyện:
Vào dịp lễ Giáng Sinh có đông trẻ em, Chúa Giêsu đến với các em.
Thấy Chúa, các em mừng quá, vỗ tay treo hò vang dội. Bỗng có một em xin Chúa
tặng quà mừng Sinh Nhật của Chúa. Và tất cả các em khác đồng thanh hưởng ứng.
Chúa Giê su có vẻ suy nghĩ lo lắng một lúc, vì dường như Người nghèo quá không
có quà tặng. Rồi Người mỉm cười giang rộng hai tay ra ôm các trẻ. Nhưng các em
vẫn chờ đợi quà. Một em nói với đứa bạn bên cạnh:
- Ngài không tặng quà cho mình đâu. Thật đúng như lời người ta
nói: Tôn giáo không có ích gì, vì nó đâu có mang lại cho chúng ta món quà nào.
Nhưng em đó trả lời:
- Khi Chúa Giê su giang rộng hai tay ôm lấy chúng ta là Ngài ban
tặng chính Ngài cho chúng ta. Chính Ngài là quà tặng cho chúng ta đó.
----------
Chúng ta noi gương Thánh Gia Thất cầu nguyện. Thay vì ban ơn này
ơn khác cho chúng ta, Chúa Cha đã ban Con Một của Người cho chúng ta. Và chính
Chúa Giêsu là quà tặng cho chúng ta, yêu thương gia đình chúng ta, chịu chết
cứu gia đình chúng ta, sống lại và lên trời để dọn chỗ sẵn cho gia đình chúng
ta… (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập 1)
5. Dung mạo Chúa Cứu Thế
Ngày nọ hoàng đế của một nước hùng cường thình vượng triệu tập các
nghệ nhân các nước đến dự cuộc thi, mô tả dung mạo hoàng đế.
Các nghệ nhân Ấn Độ, Acmêni, Ai cập mang đầy đủ vật liệu và dụng
cụ đến. Còn nghệ nhân Hy Lạp chỉ mang vỏn vẹn thuốc đánh bóng.
Mỗi phái đoàn thi thố tài năng trong một phòng riêng. Đến ngày giờ
ấn định, hoàng đế và đoàn tùy tùng đến từng phòng chấm điểm, ông hết sức khen
ngợi các nghệ nhân Ấn độ đã vễ chân dung ông đặc sắc, các nghệ nhân Acmêni và
Ai cập điêu khắc dung mạo ông cũng không khém sắc sảo. Nhưng khi đến phòng các
nghệ nhân Hy Lạp, nhà vua chẳng thấy gì, chỉ có bức tường của căn phòng được
đánh bóng sáng chói, đến độ ông nhìn vào thì thấy chân dung mình rõ nét. Thế
là giải nhất thuộc về các nghệ nhân Hy Lạp.
---------------
Muốn mang lại dung mạo Chúa Kitô, cần đánh bóng lòng mình cho sạch
mọi vết nhơ. Một khi tâm hồn đã được đánh bóng sáng ngời, chúng ta sẽ thấy dung
mạo Chúa Kitô rạng ngời trong đó.
Lúc Thánh Giuse và Đức Mẹ dâng Chúa Hài Nhi trong đền thờ, có biết
bao tư tế và luật sĩ ở đó thông thạo Kinh Thánh, am tường các lời ngôn sứ,
nhưng họ không nhận ra Chúa, duy chỉ có ông Simêon và bà Anna nhận ra dụng mạo
Chúa Cứu Thế.
Sở dĩ hai người này nhận ra Chúa Cứu Thế là vì họ đã mài bóng đời
mình bằng đạo đức và bằng lời cầu nguyện, việc hi sinh hãm mình hằng ngày trong
Đền Thờ.
Lễ Thánh Gia mời gọi chúng ta nhìn vào các gia đình. Truyền thống
tốt đẹp gia đình ngày càng sa sút: ly thân, ly dị, phá thai, mại dâm, trẻ bụi
đời, ma túy ngày càng gia tăng!... Gia đình là nền tảng của xã hội và Giáo Hội.
Nếu gia đình không lành mạnh, làm sao xã hội và Giáo Hội tốt đẹp?!...
(Theo “Như Thầy đã yêu”).