SUY NIỆM
LỜI CHÚA LỄ HIỂN LINH – Năm B
LỜI CHÚA LỄ HIỂN LINH – Năm B
Is 60,1-6; Ep 3,2-3a.5-6; Mt 2,1-12
MỤC LỤC
1. Gặp Chúa
2. Ngôi Sao Giáng Sinh
3. Gặp gỡ Chúa
4. Thiên Chúa tỏ mình
5. Ánh sao đạo đức - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
6. Ánh sáng đức tin – Thiên Phúc
7. Hãy làm cho Ánh Sáng tỏa sáng ra
8. Lễ vật lòng thành – ViKiNi
9. Hãy tỏa sáng - Lm. Ignatiô Trần Ngà
10. Tìm gặp Thiên Chúa giữa lòng đời Lm. Ignatiô Trần Ngà
11. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
12. Cuộc hành trình đức tin
13. Ánh sáng và bóng tối – Thiên Phúc
14. Lễ Hiển Linh
15. Tìm gặp Chúa Kitô
16. Tìm gặp Chúa
17. Tỏ mình
18. Thông điệp
19. Lễ Hiển Linh
20. Lễ Giáng Sinh của muôn dân
21. Ánh sao lạ
22. Ánh Sao Nhiệm Mầu
23. Đi Tìm Gặp Chúa
24. Ngôi sao sáng
25. Suy niệm của Lm An Phong, OP
26. Một ngôi sao để đi theo
27. Gặp được Chúa Cứu Thế
28. Lý do Chúa làm người
28bis. Mỗi người là một ánh sao dẫn đường
29. Mỗi người là một ánh sao cho nhau
30. Gặp Chúa – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền.
31. Thiên Chúa cho ai nhận biết Người?
32. Thiên Chúa của các dân tộc
33. Hành trình của các đạo sĩ
34. Tìm Đức Kitô
35. Ba vua
36. Ra đi
37. Ngôi sao dừng lại
38. Niềm tin của các đạo sĩ
39. Mục đồng và đạo sĩ
40. Ngôi sao dẫn đường
41. Chúa tỏ mình ra cho ... ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
42. Thành tâm thiện chí sẽ gặp Chúa. ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
43. Thiên Chúa tỏ mình
44. Ánh sáng chiếu soi muôn dân
45. Đi tìm Chúa nhờ ngôi sao lạ
46. Gọi tên ngày lễ - ĐGM Giuse Vũ Duy Thống.
47. Niềm tin: một chuyến đi ĐGM Giuse Vũ Duy Thống
48. Hãy đứng lên, hãy tỏa sáng ra
49. Những con mắt hiển linh
50. Từ bỏ
51. Đến thờ lạy.
52. Nên thánh
53. Nên thánh
54. Những đạo sĩ hôm nay
55. Giờ được sinh ra
56. Những chặng đường lữ hành
57. Tiếp nối những bước chân anh hùng
58. Cuộc Hiển Linh vẫn kéo dài
59. Quay về phía dân ngoại Suy Niệm của JKN
60. Chiếc ghế trong tôn giáo Do thái Suy niệm của JKN
61. Truyền giáo
62. Chúa tỏ mình – Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng
63. Tìm Chúa - Ánh sao
64. Tôi đi tìm Thiên Chúa
65. Thái độ của con người đối với Thiên Chúa
66. Suy niệm của nhóm Đồng Hành
67. Lễ vật
68. Ngôi sao
69. Tỏ mình
70. Ngôi sao hy vọng
71. Món quà trao tặng Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
72. Hành trình đức tin
73. Tìm kiếm
74. Lễ Hiển Linh - Lm. Munachi Ezeogu
75. Chúa Nhật Lễ Chúa Hiển Linh
76. Ngôi Sao phương đông
77. Khiêm nhường để nhận biết Chúa.
78. Suy niệm của Lm Jude Siciliano
79. Món quà của các Đạo Sĩ - Lm Mark Link
80. Tiến dâng lễ vật
81. Ở phía sau mọi sự: Thiên Chúa
82. Dân ngoại đứng trước Đức Vua của người Do thái
83. Đức Kitô ở đâu?
84. Sân khấu cuộc đời
85. Chúa Nhật Lễ Chúa Hiển Linh
86. Chú giải của William Barclay
87. Chú giải mục vụ của Claude Tassin
88. Của lễ của mọi người Noel Quesson
89. Một chút quà dâng tiến Hài Nhi
Thánh Vịnh & Đáp Ca Nhóm Thánh Vịnh Nauy
Chúa Giêsu là ánh sáng Lm Carolo Hồ Bạc Xái
Hãy là ánh sao nhỏ Lm Giuse Đinh lập Liễm
Bước đi theo ánh sáng Lm. Phêrô Lê văn Chính
Theo lối sống của Đức Kitô Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Một ngôi sao đê đi theo Jean-Yves Garneau
Gặp được Chúa Cứu thế Radio Veritas Asia
Ánh sao lạ Sưu tầm
Dân ngoại đứng trước Đức Vua...Lm. FX Vũ Phan Long
Con dường tìm đến Chúa Antôn Phêrô Nguyễn
Ánh sao lạ Lm Giuse Đinh tất Quý
1. Gặp Chúa
2. Ngôi Sao Giáng Sinh
3. Gặp gỡ Chúa
4. Thiên Chúa tỏ mình
5. Ánh sao đạo đức - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
6. Ánh sáng đức tin – Thiên Phúc
7. Hãy làm cho Ánh Sáng tỏa sáng ra
8. Lễ vật lòng thành – ViKiNi
9. Hãy tỏa sáng - Lm. Ignatiô Trần Ngà
10. Tìm gặp Thiên Chúa giữa lòng đời Lm. Ignatiô Trần Ngà
11. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
12. Cuộc hành trình đức tin
13. Ánh sáng và bóng tối – Thiên Phúc
14. Lễ Hiển Linh
15. Tìm gặp Chúa Kitô
16. Tìm gặp Chúa
17. Tỏ mình
18. Thông điệp
19. Lễ Hiển Linh
20. Lễ Giáng Sinh của muôn dân
21. Ánh sao lạ
22. Ánh Sao Nhiệm Mầu
23. Đi Tìm Gặp Chúa
24. Ngôi sao sáng
25. Suy niệm của Lm An Phong, OP
26. Một ngôi sao để đi theo
27. Gặp được Chúa Cứu Thế
28. Lý do Chúa làm người
28bis. Mỗi người là một ánh sao dẫn đường
29. Mỗi người là một ánh sao cho nhau
30. Gặp Chúa – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền.
31. Thiên Chúa cho ai nhận biết Người?
32. Thiên Chúa của các dân tộc
33. Hành trình của các đạo sĩ
34. Tìm Đức Kitô
35. Ba vua
36. Ra đi
37. Ngôi sao dừng lại
38. Niềm tin của các đạo sĩ
39. Mục đồng và đạo sĩ
40. Ngôi sao dẫn đường
41. Chúa tỏ mình ra cho ... ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
42. Thành tâm thiện chí sẽ gặp Chúa. ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
43. Thiên Chúa tỏ mình
44. Ánh sáng chiếu soi muôn dân
45. Đi tìm Chúa nhờ ngôi sao lạ
46. Gọi tên ngày lễ - ĐGM Giuse Vũ Duy Thống.
47. Niềm tin: một chuyến đi ĐGM Giuse Vũ Duy Thống
48. Hãy đứng lên, hãy tỏa sáng ra
49. Những con mắt hiển linh
50. Từ bỏ
51. Đến thờ lạy.
52. Nên thánh
53. Nên thánh
54. Những đạo sĩ hôm nay
55. Giờ được sinh ra
56. Những chặng đường lữ hành
57. Tiếp nối những bước chân anh hùng
58. Cuộc Hiển Linh vẫn kéo dài
59. Quay về phía dân ngoại Suy Niệm của JKN
60. Chiếc ghế trong tôn giáo Do thái Suy niệm của JKN
61. Truyền giáo
62. Chúa tỏ mình – Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng
63. Tìm Chúa - Ánh sao
64. Tôi đi tìm Thiên Chúa
65. Thái độ của con người đối với Thiên Chúa
66. Suy niệm của nhóm Đồng Hành
67. Lễ vật
68. Ngôi sao
69. Tỏ mình
70. Ngôi sao hy vọng
71. Món quà trao tặng Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
72. Hành trình đức tin
73. Tìm kiếm
74. Lễ Hiển Linh - Lm. Munachi Ezeogu
75. Chúa Nhật Lễ Chúa Hiển Linh
76. Ngôi Sao phương đông
77. Khiêm nhường để nhận biết Chúa.
78. Suy niệm của Lm Jude Siciliano
79. Món quà của các Đạo Sĩ - Lm Mark Link
80. Tiến dâng lễ vật
81. Ở phía sau mọi sự: Thiên Chúa
82. Dân ngoại đứng trước Đức Vua của người Do thái
83. Đức Kitô ở đâu?
84. Sân khấu cuộc đời
85. Chúa Nhật Lễ Chúa Hiển Linh
86. Chú giải của William Barclay
87. Chú giải mục vụ của Claude Tassin
88. Của lễ của mọi người Noel Quesson
89. Một chút quà dâng tiến Hài Nhi
Thánh Vịnh & Đáp Ca Nhóm Thánh Vịnh Nauy
Chúa Giêsu là ánh sáng Lm Carolo Hồ Bạc Xái
Hãy là ánh sao nhỏ Lm Giuse Đinh lập Liễm
Bước đi theo ánh sáng Lm. Phêrô Lê văn Chính
Theo lối sống của Đức Kitô Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Một ngôi sao đê đi theo Jean-Yves Garneau
Gặp được Chúa Cứu thế Radio Veritas Asia
Ánh sao lạ Sưu tầm
Dân ngoại đứng trước Đức Vua...Lm. FX Vũ Phan Long
Con dường tìm đến Chúa Antôn Phêrô Nguyễn
Ánh sao lạ Lm Giuse Đinh tất Quý
CHÚA TỎ MÌNH RA CHO NHỮNG TÂM HỒN THIỆN CHÍ
Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra những chi tiết tương phản lạ thường.
Tương phản giữa Giêrusalem và Bêlem: Giêrusalem, thủ đô hoa lệ,
trung tâm văn hoá chính trị của nước Do thái, nhưng đã khước từ, không đón tiếp
Đấng Cứu thế. Trong khi đó, Bêlem, một thị trấn bé nhỏ, nghèo nàn lại là nơi
đón tiếp Đấng Cứu thế hạ sinh.
Tương phản giữa những người có đạo và những người ngoại đạo: Các
bậc chức sắc thông thạo Kinh thánh, nhưng chỉ ngồi im tại kinh thành, không
chịu lên đường, nên không gặp được Đấng Cứu thế. Trái lại, ba nhà đạo sĩ mà ta
quen gọi là Ba Vua, là những người ngoại đạo, không am tường Kinh thánh, nhưng
đã biết tìm tòi học hỏi, dấn thân lên đường, nên đã gặp được Chúa.
Tương phản giữa Vua giả và Vua thật: Hêrôđê được gọi là Vua, nhưng
lại cứ nơm nớp lo âu, sợ mất ngai vàng, nên tìm cách tiêu diệt người khác.
Trong khi đó, Đức Giêsu Kitô, Vua Trời lại thản nhiên bình an trong cảnh khó
nghèo, mở rộng vòng tay đón tiếp mọi người xa gần.
Tất cả những tương phản ấy đáng cho ta suy nghĩ. Đấng Cứu thế
không đến theo cơ chế, nhưng rất bất ngờ. Người không đến trong những cung điện
sang trọng nhưng đến trong một chuồng bò tăm tối, hôi tanh. Người không đến
trong quyền lực nhưng trong sự yếu đuối, khiêm nhường.
Tất cả những tương phản ấy khiến ta phải lo sợ. Không phải cứ có
đạo là gặp đựơc Chúa. Không phải cứ giỏi giáo lý là biết Chúa. Muốn gặp được
Chúa phải có thiện chí đi tìm. Muốn biết Chúa, phải dấn thân lên đường.
Ba Vua là những người ngoại đạo đến từ rất xa, nhưng đã trở nên
gương mẫu cho ta trong việc đi tìm và hiểu biết Chúa. Các Ngài là những tâm hồn
thiện chí.
Là những tâm hồn thiện chí, luôn luôn khao khát điều lành, nên các
Ngài luôn để tâm tìm kiếm. Đêm đêm ngước mắt lên trời cố dò tìm dấu vết thần
linh. Chắc chắn không phải chỉ trong phút chốc mà các Ngài phát giác ra ngôi
sao lạ, nhưng phải trải qua nhiều năm tháng kiên trì chiêm ngắm bầu trời, cặn
kẽ theo dõi đường chuyển dịch của các vì tinh tú, các Ngài mới có thể nhận biết
ngôi sao lạ khi nó xuất hiện.
Việc đi theo ngôi sao lạ cũng không giản đơn. Trước hết việc lên
đường đòi phải ra khỏi nhà, giã từ những tiện nghi dễ chịu, từ bỏ những sinh
hoạt quen thuộc, chấp nhận những thiếu thốn, những nguy hiểm, những bất tiện
trên đường đi. Thiện chí của các Ngài rất cao, nên khi ngôi sao biến mất, các
Ngài vẫn không nản lòng bỏ cuộc, nhưng tìm mọi cách vượt qua khó khăn, tìm mọi
cách để đến gặp được Chúa. Chúa đã chúc lành cho thiện chí của các Ngài, nên đã
cho các Ngài được gặp Chúa.
Đời sống chúng ta là một cuộc đi tìm Chúa. Trong cuộc đi tìm, ta
phải có thiện chí như Ba Vua, biết dấn thân lên đường, biết phấn đấu chấp nhận
hy sinh gian khổ, biết kiên trì không nản lòng bỏ cuộc khi gặp thử thách.
Ba Vua không thể đến với Chúa nếu không có ngôi sao dẫn đường. Hôm
nay, Chúa muốn mỗi người chúng ta là một ngôi sao lạ, loan báo tình thương của
Chúa, đưa dẫn những tâm hồn thiện chí đến với Chúa. Hãy là ngôi sao sáng trong
đời sống công bình. Hãy chiếu sáng đức thương yêu của Chúa. Hãy toả ánh sáng ấm
áp tình người. Qua những làn ánh sáng ấy, mọi người sẽ nhận biết và tìm về với
Thiên chúa là ánh sáng chân thật.
Để kết thúc, tôi xin kể một câu chuyện có thật. Một buổi chiều,
một người lái xe con đi trên con đường miền núi vắng vẻ. ở một khúc quanh,
người ấy phát hiện một gia đình bị hỏng xe. Đường vắng, trời tối, họ lo âu sợ
hãi vì đó là đoạn đường thường xảy ra cướp bóc. Biết sửa chữa xe, nên người ấy
đỗ xe, xuống giúp sửa chữa. Xe hỏng nặng. Người ấy phải chui vào gầm xe, tháo
ra từng bộ phận. Tối mịt xe mới nổ máy. Cả gia đình mừng rỡ, muốn trả công cho
người ấy. Nhưng người ấy không lấy công. Cả gia đình cám ơn rối rít và xin địa
chỉ hẹn ngày lên thăm. Khi lên thăm, gia đình mới biết đó là một vị giám mục.
Gia đình đem lòng cảm phục và xin theo đạo cả nhà. Vị Giám mục ấy chính là một
Đức Cha ở cao nguyên Trung phần vào những năm 60.
Nhân dịp đầu năm mới, tôi xin cầu chúc tất cả anh chị em có một
đời sống đạo trong sáng như ngôi sao sáng để đưa dẫn nhiều tâm hồn về với Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Ba Vua thiện chí ở những điểm nào?
2. Bạn có gặp thử thách trong đời sống đạo không? Khi gặp thử
thách, bạn đã ứng xử thế nào?
3. Theo bạn, cách nào hữu hiệu nhất để làm chứng cho Chúa: giảng
giáo lý, tranh luận, sống bác ái?
4- Tuần này, bạn quyết tâm làm gì để thực hành Lời Chúa?
(Suy niệm của ĐTGM Ngô Quang Kiệt)
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình ra. Việc Chúa sinh ra được loan
báo cho mọi người biết dưới nhiều hình thức khác nhau như: lời các ngôn sứ loan
báo từ nhiều thế kỷ trước, đạo binh thiên thần ca hát, ngôi sao lạ xuất hiện…
Tuy nhiên không phải ai cũng gặp được Chúa.
Có những người không gặp Chúa, dù biết rõ những chỉ dẫn về Người.
Đó là những kinh sư, biệt phái. Họ hiểu biết Thánh Kinh. Khi ba nhà đạo sĩ đến hỏi thăm, họ đã
đọc vanh vách lời ngôn sứ loan báo Đấng Cứu Thế sinh ra tại Bêlem. Nhưng họ
không gặp được Chúa, vì họ hiểu biết lý thuyết mà không thực hành. Ngồi một chỗ
mà không chịu lên đường. Chỉ chú ý tới chữ nghĩa sách vở mà không chú ý tới
cuộc sống con người. Chỉ tìm trong sách vở mà không tìm những dấu chỉ trong đời
thường.
Đó là Hêrôđê. Bạo vương này muốn tìm Chúa
nhưng không gặp Chúa, dù ông có binh hùng tướng mạnh trong tay. Ông không gặp
Chúa vì ông tìm Chúa không phải vì Chúa mà vì quyền lợi của ông. Ông tìm Chúa
không phải để thờ lạy nhưng để giết chết. Ông tìm Chúa không phải để tôn vinh
Chúa nhưng để tôn vinh bản thân. Ông tìm Chúa không phải để làm theo ý Chúa
nhưng để bắt Chúa phải theo ý ông. Vì thế Chúa đã vượt thoát khỏi tầm tay của
ông. Vĩnh viễn ông không gặp được Chúa.
Những người xem ra gần gũi nhất, hiểu biết nhất, có phương tiện
nhất đã không gặp được Chúa. Trái lại, những người có vẻ nghèo hèn, thiếu thốn
phương tiện, xa xôi cách trở lại gặp được Chúa. Đó là các mục đồng và đặc biệt ba nhà đạo sĩ mà ta nhớ đến trong thánh lễ hôm nay.
Họ đã gặp Chúa vì họ đã lên đường. Dù không biết lời tiên tri loan báo, không biết lời hứa, không
thuộc Thánh Kinh, nhưng khi thấy ngôi sao lạ, họ đã lên đường ngay tức khắc.
Lên đường nói lên thái độ ngoan ngoãn tuân theo ơn Chúa soi sáng. Lên đường nói
lên thái độ dấn thân. Lên đường nói lên lòng cương quyết đi tìm. Lên đường là
chấp nhận gian khổ để đạt được điều mơ ước.
Họ lên đường và đã gặp Chúa vì lòng họ khao khát. Khao khát chân lý nên đêm đêm
họ không ngừng quan sát bầu trời tìm kiếm ánh sao, vì thế cả một bầu trời bao
la, chỉ một ánh sao lạ xuất hiện, họ đã nhận biết. Khao khát chân lý nên khi
Chúa vừa tỏ mình qua dấu hiệu ngôi sao, họ đã vội vã theo sát dấu ánh sao đi
tìm. Khao khát gặp Chúa nên khi ánh sao vụt biến mất, họ đã không nản lòng,
quyết tâm dò hỏi cho ra.
Họ đã gặp Chúa vì tâm hồn họ đơn sơ thành thực. Đi tìm Chúa chứ không tìm bản thân. Đi tìm Chúa để thỏa lòng
khao khát chân lý chứ không để thỏa mãn những tham vọng đen tối. Đi tìm Chúa để
thờ lạy Chúa chứ không vì lợi lộc cá nhân. Với tâm hồn đơn sơ, họ đã nhận ra ý
Chúa, dù ý Chúa chỉ nhẹ nhàng qua một ánh sao. Với tâm hồn đơn sơ, họ đã nhận
ra chính Chúa, dù Chúa có ẩn thân dưới hình dáng một em bé yếu ớt nghèo nàn,
trong khung cảnh rất tồi tàn của chuồng bò hôi hám.
Đời sống đạo của tôi cũng là một cuộc đi tìm Chúa. Tôi sẽ chỉ gặp
được Chúa nếu tôi noi gương ba vua, có tâm hồn đơn sơ thành thực, có lòng khao
khát Chúa vì chính Chúa, và dám dấn thân thực hành những điều Chúa truyền dạy,
đặc biệt là giới răn bác ái, phục vụ Chúa trong những anh em nghèo khổ.
Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường lối của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Tại sao những kinh sư, biệt phái và Hêrôđê không gặp được Chúa?
2) Có những người ngoại đạo thành tâm thiện chí như ba vua. Bạn đã
gặp ai như thế chưa? Bạn nghĩ gì về họ?
3) Muốn gặp Chúa, bạn phải làm gì?
4) Ba vua nhờ ngôi sao dẫn đến gặp Chúa. Bạn phải làm gì để trở
thành ngôi sao đưa người khác đến với Chúa?
Không biết từ lúc nào câu chuyện ba nhà đạo sĩ đã gắn liền với
biến cố Thiên Chúa giáng sinh làm người. Chúa đến làm người không dành riêng
cho người Do Thái nhưng là cho tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc. Danh từ Hiển
Linh trong Kinh Thánh mang ý nghĩa Thiên chúa tỏ mình ra cho loài người. Theo
phụng vụ Giáo hội Đông phương, lễ Hiển linh là lễ Chúa mở đầu việc rao giảng
công khai. Nhưng theo phụng vụ Giáo hội La mã, lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ
mình ra cho dân ngoại, khi ba nhà đạo sĩ tìm đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu.
Hình ảnh ba nhà đạo sĩ trở nên rất quen thuộc. Họ là đại diện cho
những tâm hồn thiện chí đi tìm sự thật, với một tinh thần khát khao cháy bỏng.
Họ luôn nhạy cảm trước một dấu hiệu lạ kỳ, báo hiệu một vì vua đã sinh ra. Các
đạo sĩ Đông phương thời ấy rất giỏi về triết học, y học và khoa học tự nhiên.
Nhiều người còn gọi họ là những bậc thánh nhân.
Vào thời đó, mọi người tin tưởng ở khoa chiêm tinh. Họ tin rằng
dựa vào các vì sao họ có thể tiên đoán tương lai vận mệnh của con người. Số
mệnh một người được an bài bởi một ngôi sao đã xuất hiện lúc người ấy sinh ra.
Điều này cũng dễ hiểu, thông thường các ngôi sao xuất hiện theo một vị trí cố
định. Chúng tượng trưng cho trật tự của vũ trụ. Nếu thình lình có một vì sao
sáng xuất hiện thì dường như Thiên Chúa đã can thiệp trực tiếp vào chính trật
tự của Ngài để loan báo một sự kiện đặc biệt sắp xảy ra.
Hài nhi Giêsu chính là vì vua tình yêu, là ánh vinh quang mà Thiên
Chúa ban cho nhân loại đang khao khát mong chờ Đấng cứu độ. Họ khắc khoải trong
sự đợi chờ thì Chúa Giêsu đã đến. Con người từ khắp nơi, từ những phương trời
xa xôi nhất đã về tề tựu quanh Ngài. Đó là dấu hiệu và biểu tượng đầu tiên
chinh phục thế giới của Hài Nhi Giêsu.
Chúa Giêsu là điểm đến sau cùng cho mọi nỗ lực tìm kiếm của nhân
loại. Nhìn vào những lễ vật dâng lên vàng, nhũ hương, mộc dược, người ta nhận
thấy mỗi lễ vật đều tương ứng với đặc điểm và sứ mệnh của Ngài. Ngài là vị vua
thật, là thầy lế lễ vẹn toàn và là Đấng cứu độ cao cả mà loài người đợi trông.
Chúa Giêsu chính là vua thật
Vàng được mệnh danh là vua của mọi kim loại. Vàng thường được coi
là của lễ xứng hợp nhất để dâng tiến vua. Chúa Giêsu sinh ra để làm vua. Vị vua
này không cai trị bằng vũ lực nhưng bằng tình yêu. Ngài cai quản lòng người
không từ ngai vàng mà từ thập tự giá. Sự có mặt của Ngài đã biến đổi thế giới
loài người, mang lại hạnh phúc cho nhân loại. Bệnh tật được chữa lành (Mt 8,
16-17), tang tóc được hân hoan (Lc 7, 11-17), tội lỗi được tha thứ (Mt 2,5),
ngay cả sự chết đối với Ngài chỉ là giấc ngủ bình an (Mc 5, 39). Vì vua này
xuất hiện luôn ban cho con người một niềm vui, một niềm hy vọng "Phúc cho
anh em, là những người nghèo, vì triều đại Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho
anh em là những người đói khát vì anh em sẽ được no nê. Phúc cho anh em là
những người đang khóc vì anh em sẽ được vui cười" (Lc 6, 20-21).
Chúa Giêsu là tư tế.
Nhũ hương dâng cho Hài nhi là thứ hương liệu có mùi thơm dịu mà
thầy tư tế thường dùng trong các nghi thức thờ phượng. Thầy tư tế chính là
trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Vị tư tế cũng chính là người mở đường
dẫn lối để con người đến được với Thiên Chúa. Anh sao soi đường đến nơi thì đã
tắt, bởi lẽ Chúa Giêsu chính là ánh sáng thật để soi rọi con người tìm ra chân
lý. Chân lý con người tìm kiếm là tình yêu và gia nghiệp của Ngài. Chính chúa
Giêsu sẽ dẫn đưa con người về với Chúa Cha.Thư gửi Ephêsô, thánh Phaolô đã
khẳng định: "Trong Đức Giêsu Kitô và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại cũng được
thừa kế gia nghiệp với người do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia
sẻ điều Thiên Chúa hứa ban" (Eph 3,6).
Chúa Giêsu là hy tế
Mộc dược là lễ vật dành cho người chết, là hương liệu để xông xác
người. Chúa Giêsu đến thế gian để sống cho con người và cuối cùng chết cho con
người. Cái chết của Ngài biểu lộ sự trung thành đối với loài người mà Ngài đã
yêu thương đến tận cùng (Eph13,1). Chúa Giêsu không nghĩ tới mình, vì lẽ đó
Ngài có thể đón tiếp mọi người và lắng nghe mọi người đến với Ngài. Cuộc sống
Chúa Giêsu là một cuộc tự hiến cho con người để cứu độ con người.
Chúa Giêsu là vì vua chân thật, là thầy tế lễ vẹn toàn, là đấng
cứu độ cao cả thế mà Ngài luôn bị con người chối từ thậm chí tỏ ra chống đối.
Các Thượng tế, Kinh sư là những người tự cho mình là hiểu biết Kinh Thánh nhưng
lại tỏ ra hững hờ, bất lực không muốn ra đi. Trong khi đó các đạo sĩ là những
người ngoại giáo lại dám lên đường và họ đã gặp Đấng cứu độ. Vua Hêrôđê cũng
chẳng khá hơn gì. Một vì vua đang nắm quyền nhưng lại nơm nớp lo sợ trước một
Hài nhi Bêlem vừa mới sinh. Trình thuật Tin Mừng cho ta chứng kiến những hình
ảnh đối lập nhau. Một bên là những người đói khát ơn cứu rỗi, họ đang hết tâm
vận dụng toàn lực để tìm kiếm Thiên Chúa. Một bên thì đau đớn nghĩ rằng việc
vua mới sinh sẽ làm đảo lộn cuộc đời của họ nên đem lòng thù nghịch Đấng
Messia.
Vị Vua tình yêu đã giáng sinh, đã cho con người lần tìm ra chân
lý. Biết bao lương dân giờ đã nhận biết Ngài, biết bao người tội lỗi đã trở về
Thiên Chúa. Chúng ta thật hạnh phúc vì là thần dân của vị Vua đầy tình yêu này.
Một vị vua không hề biết nói đến sự tiêu diệt. Một vị vua không ngồi trên ngai
để cai trị nhưng luôn hiện diện trên thập giá để sẵn sàng chịu chết thay cho
dân Ngài. Đó chính là Vua Giêsu, là hiện thân tình yêu của Thiên Chúa và là
Đấng Cứu Độ nhân trần. Tình yêu của Ngài giờ đây trải rộng đến khắp muôn dân.
Hiện nay còn biết bao người đang sống trong tăm tối thiêng liêng,
họ đang lầm lủi bước đi trong lầm lạc. Họ đang khao khát chân lý. Họ không ngớt
đặt vấn nạn với chúng ta: "Đức Giêsu là ai?". Hãy trả lời cho họ đi.
Đức Giêsu chính là tình yêu của Thiên Chúa. Ngài đến phá đỗ mọi hàng rào ngăn
cách mà con người đã dựng nên, nhất là những hàng rào kỳ thị: kỳ thị chủng tộc,
màu da, tôn giáo, giai cấp, giàu nghèo....
Chúng ta hãy cộng tác với Thiên Chúa để làm bừng sáng mầu nhiệm
tình yêu giữa lòng nhân loại. Mỗi người hãy là ánh sao dẫn đường để soi dẫn cho
nhiều người biết khám phá gương mặt đích thực của Đức Giêsu trong đời sống
thường ngày.
45. Đi tìm Chúa nhờ ngôi sao lạ
Hằng năm cứ gần đến lễ Giáng sinh, đi ngang các Nhà thờ Công giáo
hay vào các xóm đạo chúng ta sẽ thấy người ta nô nức cùng nhau làm ngôi sao.
Dường như thiếu ngôi sao thì lễ Giáng sinh không thành được. Cho nên bằng mọi
cách người ta phải cố gắng làm theo khả năng của mình. Nơi nào khá thì làm ngôi
sao đẹp và đắc tiền hơn. Hình ảnh ngôi sao trong mùa Giáng sinh phải chăng là
nhắc tới ngôi sao lạ đã dẫn đường cho ba vua đến thờ lạy Hài nhi Giêsu.
Ba vua này được gọi là những nhà chiêm tinh. Họ đã nghiên cứu và
thấy được có một ngôi sao lạ xuất hiện bên phương đông. Từ đó họ đã quyết định
lên đường tìm Hài nhi Giêsu để thờ lạy cùng mang theo những lễ vật quý giá là
vàng, nhũ hương và mộc dược để dâng tiến Người.
Điều đáng nói ba vị vua này lại là lương dân từ xa đến. Đang khi
đó vua Hêrôđê là vua Do thái ở kế bên đó thì lại chẳng hay biết. Tại sao ba vua
này lại được thấy ngôi sao lạ còn vua Hêrôđê thì không. Chúng ta nhớ có lần
Chúa Giêsu đã thưa cùng Chúa Cha: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin
ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những
điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn" (Mt 11, 25). Thật ra
Chúa chẳng muốn giấu ai. Người luôn muốn cho tất cả mọi người đều được chiêm
ngưỡng Con Mình. Tuy nhiên ở đây còn tùy vào sự đón nhận của con người. Ngôi
sao thì có sẵn trên bầu trời nên chỉ có những ai thành tâm thiện chí và thật
lòng khao khát thì mới được gặp Người.
Vua Hêrôđê chỉ vì tham quyền cố vị và tưởng rằng mình là nhất trên
đời nên chẳng muốn đón nhận gì thêm. Hơn nữa, khi nghe biết có Hài nhi Giêsu
sinh ra thì ông lại sợ mất quyền ảnh hưởng nên cũng căn dặn ba vua: "Xin
quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho
tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người." (Mt 2, 8). Đó chỉ là lời lẽ che đậy
âm mưu bên trong. Bằng chứng sau đó ông đã ra lệnh: "giết tất cả các con
trẻ ở Bê-lem và toàn vùng lân cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng
ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh". (Mt 2, 16b)
Hằng ngày Thiên Chúa đã gởi đến cho chúng ta rất nhiều ngôi sao
lạ. Đó là tiếng nói của Chúa trong lương tâm.Tiếng nói lương tâm thúc đẩy ta
làm lành lánh dữ. Đó là những lời nhắc nhở của người thân. Đặc biệt là lời Chúa
và những chỉ dẫn của Giáo hội.
Mừng lễ Hiển linh năm nay, chúng ta hãy thành tâm xét mình trước
Chúa về cách đón nhận những ngôi sao lạ mà Chúa đã gởi đến cho mình. Hãy xin
Hài nhi Giêsu cho chúng ta thêm lòng tin và quảng đại đón nhận những ngôi sao
lạ đó để chúng ta ngày càng được đến gần Chúa hơn.
(Trích trong ‘VỚI CẢ TÂM TÌNH’ – Trg. 31)
Trong dịp tĩnh tâm Mùa Vọng ở một giáo xứ, có người bạn trẻ đã nêu
lên câu hỏi liên quan đến Thánh Lễ hôm nay: “Tại sao ngày nay Phụng Vụ không sử
dụng tên gọi lễ Ba Vua nữa? Phải chăng rốt cuộc chẳng có ông vua nào đến viếng
Hang đá cả?”.
Câu hỏi ấy trực tiếp về mặt kiến thức, không khó trả lời; nhưng
gián tiếp về mặt tâm linh, lại hé mở cho thấy đức tin hôm nay xem ra đang có
nhu cầu tìm hiểu. Đã đành, hiểu chưa phải là tin hay chưa hẳn đã tin, nhưng một
phần nào cũng góp phần dẫn tới đức tin cho người chưa tin, đào sâu đức tin cho
người đã biết, và cũng quan trọng không kém là củng cố sức mạnh cho những niềm
tin đang ở trong tình trạng nhạt nhòa.
Niềm tin là một công trình còn phải dựng xây và là một hành trình
còn phải tiếp tục. Trên cơ sở ấy, xin đi vào Thánh Lễ hôm nay.
1) Từ tên gọi “lễ Ba Vua”…
Đây là tên gọi quen dùng đối với tín hữu Việt Nam, để chỉ về việc
các Đạo sĩ Đông Phương tìm đến Hang đá viếng Chúa Hài Đồng. Gọi là vua vì họ là
những bậc quyền quý đến từ phương Đông theo nhãn giới của bài đọc thứ nhất; và
xác định con số ba vì có ba sắc dân được nói đến trong Isaia 60, mà cũng vì lễ
vật tiến dâng được liệt kê ba món rành rành là vàng, nhũ hương và mộc dược, như
chuyện kể của Phúc Âm. Để rồi cứ thế theo truyền thống, Ba Vua đã trở nên tên
gọi cho ngày lễ.
Nhưng điều quan trọng không phải là lo xác định họ là vua hay
không phải là vua, họ có ba vị hay có thể có nhiều hơn nữa, mà chính là hãy
nhìn họ như hình ảnh sống động của tất cả những ai trong đời đã có một lòng
khát khao chân thành tìm kiếm Thiên Chúa khởi đi từ những thiện hảo tốt lành,
để rồi với sự trợ giúp của ơn thánh, tới lúc Chúa muốn và bằng muôn ngàn cách
thế linh động theo sáng kiến của Ngài, họ sẽ được dẫn tới gặp gỡ Đấng họ nỗ lực
tìm kiếm.
Dưới cái tên gọi “lễ Ba Vua”, chính là một thiện chí tìm kiếm đức
tin. Nhưng cũng dưới tên gọi ấy, trong bối cảnh của trang Tin Mừng, người ta
lại còn thấy cả một đối chứng đau lòng. Trong khi dân ngoại từ xa, dẫu chẳng hề
biết đến lời hứa để mà hy vọng, chẳng hề có được giao ước để mà tin tưởng, và
cũng chẳng hề được dẫn đường bởi lề luật, nhưng lại chân thành tìm kiếm và sẵn
sàng vượt qua những chặng đường gian khổ để mà tìm gặp; thì ngược lại, dân Do
Thái ở gần, dẫu có tất cả thuận lợi của một truyền thống dài lâu chờ mong Đấng
Cứu Thế, lại không mảy may kiếm tìm, và tệ hại hơn nữa, còn xôn xao về chính
việc Chúa đến, không phải vì hối hận về việc mình không sẵn sàng, mà vì lo ngại
rằng Chúa đến sẽ đặt dấu chấm hết cho cả một cơ chế họ đã bao đời gầy dựng.
Không lạ gì nếu cơ chế ấy đã sản sinh ra những khuôn mặt như Hêrôđê!
Hóa ra, Ba Vua tìm Chúa với lễ vật lòng thành, khi về đã thấy mình
là những kẻ tin; còn Hêrôđê tìm Chúa với ác tâm tận diệt, mãi mãi sẽ thấy mình
chỉ là một bạo chúa.
2) … Đến tên gọi “lễ Hiển Linh”…
Mặc dù tên gọi “lễ Ba Vua” vẫn giữ nguyên giá trị cổ kính, nhưng
ngày nay Phụng Vụ thích sử dụng tên gọi “lễ Hiển Linh” hơn, chẳng phải vì tên
gọi đó nghe kêu hơn hoặc hiểm hóc hơn, cũng chẳng phải để tránh né những câu
hỏi không cần thiết về những chi tiết nhiều khi chỉ làm cho ngày lễ thêm rườm
rà; mà thật ra là để làm nổi bật lên ý định mầu nhiệm chung nhất của Thiên Chúa
trong Mùa Giáng Sinh. Đó là: Ngài muốn tỏ mình ra cho tất cả mọi người, mọi
thời, bất luận họ là ai và ở đâu, miễn là họ biết chân thành kiếm tìm Ngài.
Nếu “Ba Vua” là tên gọi nói lên thiện chí của con người, thì “Hiển
Linh” là danh xưng khẳng định hồng ân của Thiên Chúa. Thiện chí thôi, dẫu rất
lớn, vẫn chỉ là khởi điểm; nhưng chính hồng ân Hiển Linh mới là kết điểm mở ra
những mùa gặp gỡ. Và tới phiên mình, mỗi lần gặp gỡ tại kết điểm hành trình,
lại là một khởi điểm mới cho hành trình tìm kiếm mới, với những thiện chí mới
nhằm vươn lên những đỉnh cao mới.
Và gặp gỡ như thế là một cuộc đổi đời. Vì thiện chí luôn tìm kiếm
hồng ân, mà cũng vì hồng ân luôn đợi chờ một thiện chí biến đổi cuộc đời. Ba
Vua gặp Chúa với cả tâm tình được thể hiện qua những lễ vật tiến dâng, họ đã
được soi sáng để theo đường khác mà về nhà. Và ở đó sẽ là những cuộc Hiển Linh
mới trong đời sống thường ngày.
Gặp ai thì cũng có thể gỡ ra được, nhưng thiện chí con người một
khi đã gặp được Thiên Chúa vốn từ bao giờ đã sẵn tỏ mình ra, thì sẽ không thể
gỡ ra được nữa. Người ta thành người nhà của Thiên Chúa, và trong mắt nhìn của
Phaolô, người ta dẫu xa cũng hóa gần, dẫu lạ cũng nên quen, dẫu gốc gác thế nào
đi nữa “cũng cùng được thừa hưởng gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành
một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (bài đọc thứ hai). Hiển Linh
chính là tên gọi khác của mầu nhiệm Nhập Thể, của danh xưng Emmanuel và của bốn
mùa gặp gỡ.
3) … Để dẫn tới sứ điệp đời sống.
“Lễ Ba Vua” hay “Lễ Hiển Linh”, mỗi tên gọi có những bước nhấn
riêng, nhưng rốt cuộc cũng chỉ là một mầu nhiệm gặp gỡ mà Thiên Chúa từ bao
thuở đã mở ra cho những kẻ biết kiếm tìm. Thế nên đây không chỉ là một biến cố
của ngày đã qua, mà còn là một sứ điệp của ngày hôm nay và cho những ngày sẽ
tới. Chúa vẫn tỏ mình, nhưng vấn đề là người ta có thiện chí đến gặp Ngài
không.
Hôm qua đã có một nghịch lý là những kẻ đến gặp Chúa đều là những
kẻ thành tâm như các mục đồng tại Bêlem, như cụ già Simêon tại Đền Thánh, như
những Đạo sĩ hôm nay từ xa đến; còn toàn thể xã hội tôn giáo Do Thái lại hầu
như vắng bóng, hay nếu có thì chỉ như một lực cản đáng buồn. Thế đấy! điều tưởng
như thuận lợi lại là một cạm bẫy dẫn tới sự thảm bại, còn điều tưởng chừng như
bất lợi lại trở nên lợi thế cho việc gặp Chúa. Liệu nghịch lý ấy hôm nay còn có
mặt trong đời sống đức tin của cộng đoàn cũng như của mỗi cá nhân?
Trả lời câu hỏi ấy với quyết tâm khởi hành trên con đường mới,
thiết tưởng sẽ là một điều tích cực trong Mùa Giáng Sinh. Nhưng điều tích cực
hơn của ngày lễ hôm nay không chỉ là sứ điệp hoán cải, mà chính là lời mời gọi
mở rộng tấm lòng, mà trân trọng tất cả những người không cùng chia sẻ một niềm
tin với mình, bởi lẽ họ cũng có chỗ đứng trong tấm lòng hiển linh của Chúa. Ơn
cứu độ là phổ quát. Và nếu nét đặc trưng của lễ Hiển Linh là ánh sao dẫn đường,
thì trách nhiệm của những kẻ đã được gặp gỡ Thiên Chúa sẽ không chỉ thu hẹp trong
đời sống cá nhân tu thân tích đức, mà còn hướng tới sứ vụ đối với những kẻ lân
cận mình. Những chứng tá đức tin cậy mến, những gương sáng đời sống gia đình,
những nỗ lực thực thi các giá trị Phúc Âm chính là những ánh sao cụ thể soi
đường truyền giáo.
Nếu mỗi kẻ tin là ánh sao, con đường gặp gỡ biết bao sáng ngời, và
lời tiên báo của tiên tri Isaia sẽ nên hiện thực hiển linh cho đời.
Tóm lại, khởi đi từ cách hiểu về tên gọi của ngày lễ để dẫn tới
đời sống đức tin, đó là chủ đích của những điều chia sẻ trên đây. Nhưng từ hiểu
biết đến đức tin, khoảng cách vẫn không nhỏ. Chính Phúc Âm hôm nay là một kinh
nghiệm. Xin đừng để kinh nghiệm ấy mãi còn là một nghịch lý không thể vượt qua.
Nhưng hãy để kinh nghiệm ấy biến thành những kinh nguyện quyết tâm mở sang cuộc
sống mới. Và đó chính là cách gọi tên cụ thể một ngày lễ.
(Trích trong ‘LÀM NỤ HOA TRẮNG’ – ĐGM Giuse Vũ Duy Thống)
Phúc Âm hôm nay rất sống động. Cứ như cuốn phim mô tả cuộc hành
trình đầy kịch tính của những khách lạ phương xa: từ ngạc nhiên khám phá ngôi
sao lạ, qua xáo động tại Giêrusalem, tới Bêlem nghiêng mình thờ kính, rồi dắt
díu nhau lặng lẽ tìm đường khác về nhà. Cứ như xô đẩy nhau xuất hiện trên màn
ảnh những cuộc đối đầu càng lúc càng thêm căng thẳng: giữa chính diện và phản
diện, giữa lo sợ của bên này và thanh thản của bên kia, giữa tìm gặp hướng tới
và lạc mất nẻo đi. Cứ như í ới cơ man nào là tiếng nhỏ to bàn bạc chen lẫn
tiếng ồn ào bàn tán của những kẻ bị xem là xa nhưng lại biết bàn vào và của
những người được coi là gần nhưng chỉ biết bàn ra.
Nhưng giữa những chi tiết tưởng như bất ngờ trên hành trình rất
dài và rất xa ấy, người ta thấy lấp lánh hình ảnh của niềm tin như một chuyến
đi với những đặc tính tiêu biểu:
1) Niềm tin: một chuyến đi biết tiếp nhận hồng ân Thiên Chúa.
Những vai chính trong cuộc hành trình tìm tới Bêlem “triều bái Vua
dân Do Thái mới sinh” được truyền thống giới thiệu bằng nhiều kiểu nói khác
nhau, lúc thì gọi là Vua, lúc khác là Đạo sĩ hoặc Chiêm tinh gia. Gọi sao cũng
được: Vua vì những của lễ tiến dâng, Đạo sĩ vì hành trình tìm kiếm, Chiêm tinh
gia vì nhìn thấy ngôi sao và dựa vào ánh sao mà xác định lối đường. Chỉ biết họ
là những người thiện chí kiếm tìm chân lý và vận dụng tốt những phương tiện
đang có để tìm gặp chân lý bằng cách lên đường không mỏi mệt.
Khởi điểm cuộc hành trình là một ánh sao lạ xuất hiện phía trời
Đông, tượng trưng cho ơn thánh dẫn khởi từ Thiên Chúa, để ai biết tiếp nhận, sẽ
trở nên ánh sáng soi đường. Nhìn thấy ánh sao hằng hà sa số trên bầu trời đêm
là một điều bình thường ai cũng có thể làm được, nhưng nhận thấy giữa muôn vàn
lấp lánh ấy chỉ một ánh sao lạ thôi lại là chuyện chẳng bình thường chút nào,
nếu không muốn nói là do tổng hợp giữa kiếm tìm và gặp gỡ, hay đúng ra giữa ơn
Trời ban và lòng người biết mở ra tiếp nhận.
Tương tự, niềm tin trước hết là hồng ân đến từ tình thương Thiên
Chúa dành cho hết mọi người, nhưng chỉ những ai biết tiếp nhận với tâm thành
chí thiện, họ mới có thể có được niềm tin vào Chúa để sẵn sàng khăn gói lên
đường khởi sự chuyến đi. Ra khỏi nếp nghĩ thường ngày để tiếp nhận ý Chúa, ra
khỏi thói quen khô cứng lâu đời do cha ông truyền lại để mạo hiểm một phen bước
theo ánh sáng trời cao, ra khỏi những tiện nghi đủ đầy dậm chân tại chỗ để cơm
mắm cơm muối gieo bước lữ hành.
2) Niềm tin: một chuyến đi biết chấp nhận những thử thách
Là hồng ân Chúa ban, nhưng đức tin cũng còn là nỗ lực đóng góp
không ngơi nghỉ của con người, để vượt qua những thử thách và kinh qua những
thử luyện được xem là những thách đố trong chiều dài cuộc sống. Đây không chỉ
là chuyện “thức lâu mới biết đêm dài” để con người chứng minh sức bền tin tưởng
tháng năm, mà còn là chuyện “lửa thử vàng gian nan thử đức” trong những lúc
Thiên Chúa xem ra ẩn mặt và hồng ân xem ra vắng bóng, như lúc “ba Vua toan mất
hướng, ánh sao bỗng vụt lặn”. Đấy là chưa kể đến những lúc phải đối diện với âm
mưu chủ ý của những người đồng đạo, cũng tin Chúa nhưng không thành tâm, thậm
chí còn gài bẫy ngọt ngào giả nhân giả nghĩa như Hêrôđê; hay cũng biết cách quy
chiếu Thánh Kinh nhưng không để tìm ra lối sống ngay chính, trái lại, chỉ lợi
dụng để toa rập lừa gạt phỉnh phờ người khác như một số thượng tế và kinh sư
trong dân.
Đêm Noel Chúa sinh ra đem xuống niềm vui, nhưng thành phố nào đó
của Iran chẳng những không có niềm vui mà còn phải chịu động đất làm chết nửa
thành phố. Chúa như vắng mặt. Thử thách. Đêm Noel thiên thần hát khúc bình an
mà tại Bêlem chính nơi Chúa sinh ra hôm nay vẫn còn chiến tranh, chết chóc.
Chúa như vắng mặt. Se lòng.
Thử thách đối với đức tin như gió đối với lửa: gió thổi tắt lửa
yếu, nhưng làm bừng lên lửa sáng. Vấn đề là cần biết can đảm và bền chí. Những
thử thách trong cuộc sống niềm tin không phải là dấu hiệu Thiên Chúa bỏ rơi con
người, mà là những cơ hội để con người chứng minh phẩm chất niềm tin. Niềm tin
không thử thách: niềm tin dễ dàng; niềm tin thất bại trước thử thách: niềm tin
dễ dãi; niềm tin chấp nhận thử thách mới là niềm tin đích thực cho dẫu nhiều
khi chẳng dễ chịu chút nào.
3) Niềm tin: chuyến đi biết đón nhận đồng hành
Không phải vô tình mà lễ Hiển Linh vẫn được truyền thống gọi là lễ
Ba Vua, có nơi kể tên các vị đến hàng chục (theo kiểu đồng bằng sông Cửu Long
thì còn có cả chục 12, chục 16 cơ đấy), nhưng chừng như hữu ý cho thấy niềm tin
không phải là cuộc đơn hành mà là một chuyến đi biết đón nhận đồng hành, không
chỉ vì lý do “càng đông càng vui” mà vì giới luật yêu thương là biểu hiện rõ
nhất của đức tin cũng là cách cụ thể sống động nhất để diễn đạt đức tin. Con
người thời nào cũng thế, không thích bị chinh phục bởi giáo điều nhưng lại tự
nguyện buông mình chịu khuất phục vì gương sáng đức tin. Nhớ lại ở Thăng Long
thuở hạt giống Tin Mừng mới được gieo vào thửa đất Việt Nam, tín hữu thương
nhau quá trời đến nỗi người ngoài đời đã gọi tín hữu là những người theo “Đạo
yêu nhau”, tức là những người cùng đi với nhau trên nẻo sáng yêu thương.
“Ngựa chạy có bầy, chim bay có bạn”, tín hữu đồng hành bên nhau
còn để nâng đỡ nhau, nhất là trong cơn nguy biến như Ba Vua gặp Chúa tại Hang
đá rồi, phải dìu nhau lên con đường khác để tránh âm mưu đen tối của Hêrôđê.
Ngoài miệng thì bảo là đi triều bái, còn trong hành động lại làm điều trái, tàn
sát thê lương, “giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và vùng phụ cận, từ hai tuổi
trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh”. Con
đường khác ấy sẽ mới hơn, lạ hơn và cũng có thể sẽ gặp rủi ro nhiều hơn, nhưng
đã có bạn bè thân quen bên cạnh đồng hành, nên cứ an lòng nương tựa vào nhau mà
dấn bước.
Giống như Kinh Tin Kính, dẫu tín hữu tuyên xưng mang tính bản thân
cá nhân “Tôi tin”, nhưng không là đơn độc một mình giữa nhà thờ trống vắng mà
là giữa cộng đoàn Phụng Vụ một ngày lễ trọng, nên bỗng lấp lánh như thể đồng
thanh tuyên tín “Chúng tôi tin”. Tôi và chúng ta chỉ là những cách biểu lộ khác
nhau của cùng một niềm tin đón nhận đồng hành.
Tóm lại, dựa vào hành trình của những vai chính ngày lễ Hiển Linh
để phác vẽ niềm tin như một chuyến đi biết tiếp nhận hồng ân Thiên Chúa, biết
chấp nhận thử thách và biết đón nhận đồng hành là cùng lúc tích cực hòa mình
vào biến cố Chúa tỏ mình ra cho muôn dân. Nếu Chúa luôn có cách tỏ mình của
Ngài thì tín hữu cũng cần lên đường đúng cách Chúa tỏ ra cho mình biết. Như thế
niềm tin mới là chuyến đi đẹp lên ý nghĩa kiếm tìm và gặp gỡ. Và đó cũng là
những hình ảnh sinh động mang tính hiển linh của kẻ tin trước mắt người đồng
thời, giống như hình ảnh của những vai chính trong chuyến đi hôm nay: ở bước
truy tìm họ được mệnh danh là Chiêm tinh gia, khi đã bước lên đường họ được gọi
là Đạo sĩ và khi tới đích với lễ dâng thành kính họ được xưng tụng là Ba Vua.
Các bài đọc của lễ Hiển Linh đều hướng về một chủ đề chính:
"Chúa Kitô là ánh sáng chiếu soi muôn dân". Nơi bài đọc I được trích
từ sách tiên tri Isaia: "Hãy đứng lên, hãy tỏa sáng ra" (Is 60,1-6).
Đó là lời tiên tri Isaia loan báo về tương lai huy hoàng của
Giêrusalem. Giêrusalem có được như vậy, được trở thành trung tâm của muôn dân
đổ dồn về đó là vì nhờ Giêrusalem có Thiên Chúa hiện diện ở giữa. Không có
Thiên Chúa hiện diện thì Giêrusalem vẫn chỉ như bao thành khác. Ánh sáng mà
Giêrusalem nhận được từ Chúa đã chiếu soi muôn người, ánh sáng đó lôi kéo tất
cả mọi người, không trừ một ai đến với Chúa. Giêrusalem ngày xưa là hình ảnh
của Giáo Hội, vì Giáo Hội là nơi qui tụ tất cả mọi dân tộc.
Lời tiên tri Isaia loan báo về tương lai huy hoàng cho Giêrusalem
được ứng nghiệm trong biến cố các vua từ Phương Đông tìm đến Vua dân Do Thái
mới sinh đã được thánh sử Luca ghi lại (x.Lc 2,1-12).
Gặp được Chúa Giêsu và thờ lạy Ngài, đó là mục đích cuối cùng của
đời người chúng ta, và đó cũng là trung tâm của bài Tin Mừng Lễ Hiển Linh hôm
nay. Các mục tiêu cuối cùng trên, chúng ta thấy có những nhân vật nổi bật như
vua Hêrôđê, các trưởng tế và luật sĩ tại Giêrusalem, các đạo sĩ từ Phương Đông.
Mỗi một người trong hoàn cảnh riêng của họ đều được Chúa mạc khải cho, được
Chúa mời gọi đến với Ngài bằng những con đường khác nhau. Các đạo sĩ nhờ ngôi
sao sáng của thiên nhiên trong vũ trụ, một kỳ công sáng tạo của Thiên Chúa. Các
trưởng tế và luật sĩ thì qua con đường mạc khải của Kinh Thánh, qua lời dạy của
các tiên tri mà họ biết nằm lòng. Vua Hêrôđê thì qua chứng tá của những kẻ qua
con đường gặp Chúa, qua chứng tá của các đạo sĩ và các trưởng tế, luật sĩ tại
Giêrusalem. Nhưng rồi chỉ có các đạo sĩ là đi đến cùng con đường, là gặp được
Chúa Giêsu và thờ lạy Ngài.
Chúa ban cho mỗi người, cho mọi người con đường để gặp Ngài, nhưng
chỉ có những ai thành tâm thiện chí và can đảm đi đến cùng, đi trọn con đường
thì mới thành công trong việc gặp gỡ được Chúa.
Trong ngày Lễ Ba Vua hay Lễ Hiển Linh hôm nay, chúng ta trước nhất
vui mừng vì thấy rõ hành động Thiên Chúa không dành riêng ân sủng của Ngài cho
một nhóm người nào, nhưng Ngài kêu gọi tất cả mọi người đến với Ngài, đồng thời
chúng ta cần tự vấn chính mình về thái độ trước Chúa Kitô, chúng ta đã thực sự
gặp Chúa và tôn thờ Ngài hay chúng ta cũng có thái độ giống như vua Hêrôđê xem
Chúa như là kẻ thù, như là người cản trở sự thành đạt của mình, vì đó mà hành
động ngấm ngầm chống lại Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con được bắt chước thái độ của các đạo sĩ ngày xưa
muốn ra đi khỏi nơi an toàn tự nhiên của mình để gặp Chúa và tôn thờ Chúa tại
nơi mà Chúa muốn dùng để mạc khải cho chúng con về Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con được gặp Chúa và tôn thờ Chúa là Đấng cứu
rỗi duy nhất đời con. Amen.
49. Những con mắt hiển linh
Trong bài Phúc Âm của lễ Hiển Linh có một từ đáng cho chúng ta suy
niệm: thấy. Có mắt để phát hiện những
điều bí ẩn, những con mắt hiển linh như các nhà đạo sĩ:“Họ thấy Con Trẻ và
Mẹ Ngài và họ liền sấp mình thờ lạy Ngài”.
Họ thấy gì? Họ tưởng tượng điều gì? Từ bậc quyền cao chức trọng
nào họ phải xuống để thích ứng ngay với thực tế rất khiêm hạ này: một cặp vợ
chồng và đứa con của họ? Các đạo sĩ đã “thấy”.
Lời mời gọi đầu tiên của lễ Hiển Linh là: thấy Con Trẻ. Thấy tất cả những gì có nơi
Đấng Tuyệt Đối duy nhất này, thầm bảo rằng qua Ngài chúng ta có thể thấy Thiên
Chúa, như phụng vụ Acmêni diễn tả rất hay: Hôm nay, Đấng vô hình hiển linh.
Đấng mà con người không thấy nay tỏ hiện để chúng ta được thấy.
Làm sao không nghĩ đến câu nói nổi tiếng của thánh Irênê mà luôn
luôn phải trích dẫn nguyên vẹn: “Vinh quang của Thiên Chúa chính là sự sống
của con người, và sống đối với con người chính là thấy Thiên Chúa”.
Thấy Chúa. Thánh Gioan nói trong đoạn mở đầu Phúc Âm của mình: “Không
ai thấy Thiên Chúa; chính Con duy nhất ngự trong lòng Chúa Cha mới tỏ bày Ngài
cho chúng ta”.
Ước gì chúng ta có mắt để thấy những điều này! Con mắt đức tin,
con mắt xưa kia, ở Palestine, biết mở ra để nhìn vào mầu nhiệm của Chúa Giêsu,
và cái nhìn nội tâm giờ đây làm chúng ta phải sấp mình trước mặt Ngài. Thánh nữ Têrêsa thành Avila đã viết: “Cái gì ngăn cản chúng
ta dùng con mắt của tâm hồn để nhìn về Chúa? Ngài chỉ chờ đợi cái nhìn của
chúng ta mà thôi”.
Cái nhìn nội tâm này, sức mạnh của con mắt đức tin này không được
đóng kín chúng ta trong một tháp ngà nhỏ: “Anh và tôi!” hoặc trong một tháp ngà
lớn hơn: “Chúng ta, những người theo Kitô giáo”. Đây là lời kêu gọi thứ hai của
lễ Hiển Linh: nhận rõ ràng Con Trẻ xuất hiện vì tất cả
chúng ta. Đàng sau các đạo sĩ, ta thấy được những đám
đông mà các vị là biểu tượng, những đám đông mà Isaia phát hiện bằng con mắt
hiển linh: “Hãy nhìn xem, hỡi Giêrusalem! Bóng tối bao trùm muôn dân nhưng
Chúa sẽ xuất hiện trên ngươi, các dân tộc hướng về ánh sáng của ngươi. Hãy nhìn
xem! Họ đang quy tụ lại”.
Người ta nói rằng định mệnh hạn chế cái nhìn của chúng ta. Chúng
ta được tạo dựng cho những gì là to lớn của một thế giới đang chờ đợi Chúa và
chúng ta cúi xuống nhìn vào cuộc sống của chúng ta và nhìn vào giáo xứ của
chúng ta. Thỉnh thoảng, những đám đông hoan hô Đức Thánh Cha làm cho chúng ta
cảm nhận làn sóng Công Giáo, nhìn thấy muôn dân họp lại đời đời. Nhưng chúng ta
nhanh chóng trở về với chúng ta, những nhóm nhỏ đang hành đạo.
Chúng ta có quá dễ dàng chấp nhận làn sóng những người không tin
đang gia tăng hay không? Quen sống trong những khu vực theo Kitô giáo, ở giữa
những môi trường mà hai tiếng Thiên Chúa không còn ý nghĩa gì nữa có phải là
điều bình thường hay không?
Lạy Chúa, xin khơi dậy nơi chúng con lòng nhiệt thành của những
người theo Kitô giáo đầu tiên mà đối với họ lời của Chúa Giêsu vẫn còn sống
động: “Các con hãy đi dạy dỗ muôn dân” (Mt 28,19). Ước chi Giáo Hội của Ngài,
Giáo Hội vào thời đại có nhiều người không tin này, không ngừng chọn lựa làm
những người thừa sai, ước chi trong số mười linh mục người ta không chọn chín
vị để nâng niu chiều chuộng các tín hữu và một vị để xông pha những chỗ mà Chúa
không còn ở đó nữa.
Trong khi cầu nguyện như thế con cảm thấy con cũng thiếu tinh thần
truyền giáo. Hay có lẽ con sợ hãi. Con sống ở giữa những anh chị em không thấy
Chúa và con làm như thể con cũng là một người không thấy Chúa. Nhưng làm sao để
nói với những người ở ngoài đường, ở trong các cửa hàng và trong nhà máy về
Chúa? Và thậm chí đơn giản hơn là nói với anh A chị B mà con thường gặp từ bao
nhiêu năm nay nhưng không nói gì với họ về Chúa? Tôn trọng ý kiến, lương tâm
của họ chăng? Phải tôn trọng rồi. Con coi thường khi người ta nói về những
chứng nhân của Giêhôva nhưng con, con làm gì để truyền giáo?
Con làm chứng nhân như thế nào đây? Thật đơn giản khi nhắc lại
rằng người ta làm chứng bằng cuộc sống của mình, con biết rõ rằng đôi khi việc
loan báo Tin Mừng cần đến lời nói, thế mà con im lặng. Thậm chí sau cùng thì
con không còn thấy những người có lẽ đang chờ đợi chứng tá của con nữa. Xin
Chúa cho con có những cặp mắt của người tông đồ, những con mắt hiển linh.
50. Từ bỏ
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Hiển linh, ngày Thiên Chúa tỏ mình cho
muôn dân, mà đại diện là ba nhà đạo sĩ, ba nhà bác học phương đông.
Câu hỏi thứ nhất: các ngài là ai?
Phúc âm đã dùng danh từ “magi” để nói về các ngài. Magi có nghĩa
là các vị tư tế, ngoài việc tôn giáo, họ còn chuyên môn về khoa học, nhất là
thiên văn, vì thế họ thường được triều đình tôn làm cố vấn. Ngoài ra, magi còn
có nghĩa là các nhà đạo sĩ, dùng phép thuật của mình như một kế sinh nhai. Phúc
âm không xác định rõ các ngài thuộc vào hạng người nào.
Tuy nhiên, chúng ta có thể tin chắc chắn các ngài là những người
học rộng biết nhiều và thông thạo về thiên văn. Bởi đó, gọi các ngài là những
nhà bác học, thiết tưởng cũng không sai cho lắm.
Ngoài ra, dựa vào những lễ vật dâng tiến, cũng như dựa vào thánh
vịnh 71:
- Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm,
Hàng vương giả sẽ về triều cống.
Cả những vua Ả-rập, Xơ-va,
Cũng đều tới tiến dâng lễ vật.
Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng,
Muôn dân nước thảy đều phụng sự.
Tertulianô đi tới kết luận: các người là những bậc vương đế. Vì
thế, từ xa xưa người ta thường gọi lễ này là lê Ba Vua. Tuy nhiên, lập luân
trên không được xác thực cho lắm.
Câu hỏi thứ hai: các ngài có bao nhiêu người?
Những bức bích họa dưới các hoang toại đạo vào những thế kỷ đầu,
có bức vẽ hai vị, có bức vẽ ba vị, có bức vẽ bốn vị, thậm chí có bức vẽ
tới…mười hai vị. Ngày nay, chúng ta thường nói tới ba vị, vì dựa vào ba thứ lễ
vật các ngài dâng tiến.
Câu hỏi thứ ba: các ngài từ đâu mà tới?
Magi là hạng người xuất hiện đầu tiên tại Ba Tư. Các họa sĩ cổ xưa
thường vẽ các ngài với y phục Ba Tư, nên nhiều người đã xác quyết các ngài từ
Ba Tư mà đến. Tuy nhiên, lý luận này cũng không được ổn cho lắm. Phúc âm chỉ
nói các ngài từ phương đông mà tời. Và phương đông là tên người Do Thái thường
dùng để gọi xứ Ả Rập. Hơn nữa, những lễ vật như vàng, nhủ hương và mộc dược, là
thổ sản của xứ này. Như vậy, các ngài từ Ả Rập mà đến thì có lẽ đúng hơn.
Sau cùng, câu hỏi thứ bốn: đâu là bài học
chúng ta cần ghi nhận?
Bài học chúng ta ghi nhận hôm nay, đó là sự tử bỏ. Thực vậy, các
ngài là những người giàu sang, có một địa vị lớn trong xã hội thời bấy giờ, thế
nhưng một khi đã nhận biết ý Chúa qua ánh sao lạ, các ngài đã can đảm, dám
liều, dám từ bỏ tất cả để lên đường tìm đến với vị vua mới sinh ra.
Đúng thế, các ngài đã để lại sau lưng nào vợ đẹp con khôn, nào
tiền bạc giàu sang, nào địa vị chức auyền, để dấn thân vào một cuộc phiêu lưu
vô định, dưới sự soi dẫn của một ánh sao. Các ngài đã phải vượt qua biết bao
nhiêu khó khăn, đã phải chấp nhận biết bao nhiêu nguy hiểm: nào là những nụ
cười mỉa mai của bà con bè bạn, nào là những vất vả cực nhọc suốt khoảng đường
dài…Thế nhưng, các ngài vẫn cất bước tiến lên với một lòng tin tưởng vững chắc.
Nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy bất kỳ ơn gọi nào cũng đều đòi hỏi
chúng ta phải từ bỏ, phải hy sinh, như lời Chúa đã phán:
- Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.
Tôi xin đưa ra hai trường hợp tiêu biểu. Trước hết, đó là trường
hợp của Abraham. Ông đang sống yên ổn với gia đình trong cảnh giàu sang, thế
nhưng Thiên Chúa đã hiện ra bảo ông phải lên đường tới một vùng đất nào đó mà
Ngài sẽ trao ban làm sản nghiệp. Abraham liền cúi đầu vâng nghe. Rồi khi tới tuổi
già và có được một mụn con trai để nối dõi tông đường, thế mà Thiên Chúa lại
truyền phải sát tế mà dâng kính Ngài. Abraham cũng đã cúi đầu vâng nghe.
Tiếp đến, đó là là trường hợp của các tông đồ. Các ông đang sống
yên ổn bằng nghề chài lưới, thế rồi một hôm Chúa Giêsu đi ngang qua và lên
tiếng gọi:
- Hãy theo ta.
Lập tức các ông từ bỏ ghe thuyền, chài lưới và những người thân
yêu để bước theo Chúa.
Với Mathêu cũng vậy, đang làm giàu với nghề thu thế, nhưng sau khi
nghe tiếng gọi của Chúa, ông cũng đã từ bỏ tất cả để đi theo Ngài.
Từ mẫu gương của ba nhà ba nhà bác học phương đông, của Abraham và
của các tông đồ, chúng ta đi tới một kết luận: Muốn theo Chúa, muốn chu toàn
thánh ý của Ngài, chúng ta cũng phải dám liều, dám từ bỏ mọi sự, dám hy sinh
tất cả, dám dấn thân vào một cuộc phiêu lưu đầy bấp bênh. Thế nhưng liệu chúng
ta có đủ quảng đại để đáp trả tiếng gọi của Chúa và có đủ can đảm để thực hiện
những điều ấy không?
Xưa kia có một tu sĩ thánh thiện sống ở Ai Cập. Một ngày nọ có
chàng thanh niên đến thăm và muốn xin ngài dạy bảo. Anh thỉnh cầu với tu sĩ:
“Thầy là người thánh thiện, xin thầy chỉ cho con biết làm thế nào tìm thấy
Thiên Chúa”. Tu sĩ là người khỏe mạnh và lực lưỡng. Ngài hỏi chàng thanh niên:
“Anh có thực sự muốn đi tìm Thiên Chúa không?” Chàng thanh niên trả lời: “Đúng
vậy, thưa ngài, con thực sự ước ao muốn tìm kiếm Thiên Chúa”.
Sau đó tu sĩ dẫn chàng thanh niên xuống bờ sông. Thình lình, ngài
túm lấy cổ anh rồi nhấn đầu xuống nước. Thoạt tiên chàng thanh niên nghĩ rằng
tu sĩ ban cho anh nghi thức thanh tẩy đặc biệt giống như Phép Rửa tội của thánh
Gioan Tẩy giả ở bờ sông Giođan. Nhưng sau gần hai phút tu sĩ vẫn không buông
ra, anh bắt đầu vùng vẫy. Dù vậy tu sĩ vẫn dìm anh dưới nước. Bị ngộp thở,
chàng thanh niên đã phải vùng vẫy mãnh liệt hơn nữa. Sau vài phút, tu sĩ lôi cổ
anh lên khỏi mặt nước và nói: “Khi nào anh ước muốn tìm Thiên Chúa mạnh mẽ như
anh ước ao có không khí để thở, lúc ấy anh sẽ tìm thấy Thiên Chúa”.
Hôm nay thánh Matthêu nói với chúng ta về những người có một ước
muốn mãnh liệt đi tìm kiếm Đấng Cứu Chuộc nhân loại. Đó là các nhà đạo sĩ.
Một số người Kitô hữu gốc Do Thái trong cộng đoàn của Matthêu thắc
mắc rằng theo Đức Giêsu có phản bội lại đức tin của tổ tiên không. Họ hỏi:
“Thưa ngài Matthêu tại sao nhiều người không phải là Do Thái đang đi theo Chúa
Giêsu, trong khi đa số những người đồng hương Do Thái lại từ chối Ngài?”
Matthêu đã trả lời rằng vì những người không phải Do Thái, những người ngoại
trở lại đã có một lòng ước muốn mãnh liệt tìm kiếm Đấng Cứu Thế. Trái lại,
những vị lãnh đạo Do Thái nghĩ rằng họ đã có Thiên Chúa rồi, họ nhận thấy không
có lý do gì phải đi tìm kiếm Đấng họ đã có. Đối với họ, có Đấng Cứu Thế thì
cũng tốt, nhưng không phải là vấn đề cấp thiết như sự sống và sự chết. Do đó,
họ đã không có một lòng ước ao mãnh liệt để tìm kiếm Ngài.
Các nhà đạo sĩ chính là những nhà thiên văn đã kiên trì nghiên cứu
trong Thánh Kinh, sách của người Do Thái, nói về những dấu hiệu xuất hiện trên
trời, những dấu hiệu của Đấng Cứu Thế đang đến. Họ theo dõi hằng đêm, cho đến
khi khám phá thấy một vì sao. Vì lòng ao ước tìm kiếm chân lý mãnh liệt họ đã
từ bỏ xứ sở của mình và lên đường. Đây là cuộc hành trình rất vất vả, khổ cực
và đầy nguy hiểm trong sa mạc với đoạn đường dài 800 dặm, khoảng 1280 km, từ
Babylon tới Giêrusalem. Còn chúng ta, chúng ta có khao khát muốn tìm gặp Chúa
hay không?
G.K. Chesterton, tác giả nổi tiếng người Anh, đã viết một câu
chuyện thú vị về ba nhà thông thái hiện đại. Họ đã nghe biết rằng có một thành
phố hòa bình, một thành phố mà chưa bao giờ có chiến tranh, loạn lạc, giặc giã
và khổ đau. Họ cũng nghe biết rằng, phải mang theo những lễ vật đến để chứng tỏ
họ là những con người của hòa bình, và đóng góp vào việc duy trì hòa bình trong
thành phố này. Do đấy họ lên đường đi tới thành Bêlem mới này với những lễ vật
họ tin chắc rằng sẽ bảo đảm giữ được hòa bình và cho phép họ ở lại trong thành
phố đó.
Khi đến cổng thành họ gặp thánh Giuse đứng kiểm soát những lễ vật
của họ. Nhà thông thái hiện đại thứ nhất mang vàng đến. Ông giải thích rằng
vàng có thể mua được mọi thứ khoái lạc trên trần gian. Hưởng khoái lạc rồi
người ta không còn muốn chiến tranh nữa. Nhà thông thái hiện đại thứ hai đã
không mang nhũ hương, mà mang hóa chất đến. Ông mang khoa học hiện đại vào
thành phố. Với khoa học kỹ thuật ông có thể làm cho tâm trí con người ngủ mê
trong hạnh phúc trần gian. Ông có thể chế ra những hạt giống nhân tạo phát sinh
hoa trái và kiểm soát dân số trên mặt đất. Lúc đó dân chúng có thể thỏa mãn được
tất cả nhu cầu cần thiết, và như vậy họ không phải đánh nhau nữa. Nhà thông
thái hiện đại thứ ba mang một phân tử hạch nhân đến để chế bom nguyên tử, một
thứ mộc dược mới, một biểu tượng mới của sự chết. Ông lập luận cứng rắn rằng
bất cứ ai chống đối lại con đường hòa bình sẽ phải chết.
Sau khi khám xét lễ vật, thánh Giuse đã khước từ không cho bất cứ
người nào vào cả. Họ lao nhao lên phản đối rằng: “Chúng tôi đã mang theo tất cả
những phương tiện để cung cấp sự giàu có, kiểm soát thiên nhiên, và tiêu diệt kẻ
thù. Chúng tôi còn phải mang thêm cái gì đến nữa để chứng tỏ rằng chúng tôi là
những con người của hòa bình?” Thánh Giuse bèn kề vào tai mỗi người rồi thì
thầm một lúc. Sau đó họ lặng lẽ bỏ ra đi trong buồn bã. Bạn có biết thánh Giuse
nói gì với họ không? Ngài nói rằng họ đã quên mất chính Hài Nhi Giêsu!
Đó cũng là lời khuyên của Công đồng Vatican II cho thế giới văn
minh khoa học ngày nay: “Chính Chúa Con Nhập Thể là thái tử của hòa bình, đã
dùng thập giá của Người để hòa giải mọi người với Thiên Chúa. Người đã tái lập
sự hiệp nhất mọi người thành một dân tộc và một thân thể”.
Ngày nay với chủ trương duy khoa học kỹ thuật, với sự giàu có và
quyền lực, con người nghĩ rằng họ là những nhà thông thái hiện đại. Họ có thể
xây dựng hòa bình mà không cần hài Nhi Giêsu. Thế nhưng họ đã lầm! Hòa bình và
hạnh phúc không thể có nếu thiếu Hài Nhi Giêsu. Ngài là “Thái Tử của Hòa Bình”.
Tách rời ra khỏi Thiên Chúa, con người không thể tự tạo ra hòa bình được.
Trong tông huấn Tertio Millennio Adveniente, Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II cũng cho rằng càng phát triển về văn minh vật chất, con người càng
trở nên nghèo nàn về tinh thần và tạo nên cơn khủng hoảng văn minh hiện nay.
Ngài nói: “Đứng trước cơn khủng hoảng văn minh đó, cần phải đáp lại bằng văn
minh của tình yêu – đặt nền tảng trên các giá trị phổ quát là hòa bình, liên
đới, công lý và tự do, là những giá trị gặp thấy nơi Đức Kitô sự kiện toàn đầy
đủ của chúng ta”. “Chúng tôi đến để thờ lạy Người”. Tìm kiếm và thờ lạy Thiên
Chúa là ước vọng thâm sâu nhất của con người như thánh Augustinô đã nói: “Chính
Ngài đã thúc đẩy con người làm như thế bằng cách làm cho con người thấy khoái
trá khi ca tụng Ngài, vì Ngài đã tạo thành chúng con cho Ngài, và tâm hồn chúng
con sẽ không an vui bao lâu chưa được an nghỉ nơi Ngài”.
Sách Giáo lý Công giáo cũng dạy rằng: “Sự ước ao Thiên Chúa đã
được ghi sâu trong tâm hồn con người, bởi vì con người đã được sáng tạo bởi
Thiên Chúa và cho Thiên Chúa”.
Tìm kiếm Thiên Chúa để trở nên giống như Ngài, vì con người đã
được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa, với phẩm giá của mình, với ơn gọi
là con cái Thiên Chúa được chia sẻ hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài. Bởi thế, con
người phải trở nên hoàn thiện như Ngài. Đó là ơn gọi làm thánh (sainthood). Mỗi
người được mời gọi để trở nên thánh thiện như Thiên Chúa Cha là Đấng thánh.
Thánh Phaolô đã nhắc nhở các Kitô hữu thời Giáo Hội sơ khai như
sau: “Kính gửi tất cả anh chị em ở Rôma, những người được Thiên Chúa yêu
thương, được gọi là thánh, xin Thiên Chúa là Cha chúng
ta, và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an”. “Kính gửi Hội
thánh của Thiên Chúa ở Côrintô, những người đã được hiến thánh trong Đức Kitô
Giêsu, được gọi là thánh…”
Các Kitô hữu đã được thánh Phaolô gọi là thánh, vì đã có lòng ước
ao tìm kiếm Thiên Chúa mãnh liệt, đã ăn năn sám hối và canh tân đời sống mỗi
ngày để trở nên thánh.
Một vị thánh sẽ không bao giờ dám tự coi là mình đã chiếm hữu được
chân lý, đã có Thiên Chúa, hay đã biết tất cả mọi điều về Thiên Chúa! Đối với
các ngài, luôn luôn có những khám phá mới mẻ về Thiên Chúa, bởi lòng ước ao tìm
kiếm và yêu mến Thiên Chúa sẽ không bao giờ vui thỏa. Nói như thánh Augustinô,
các ngài chỉ vui thỏa khi nào nghỉ yên trong Chúa.
Câu chuyện Thánh Kinh về ba nhà đạo sĩ Đông phương nói với chúng
ta rằng đời sống tinh thần sẽ chỉ bắt đầu khi một người có một lòng ước muốn
mãnh liệt đi tìm kiếm Thiên Chúa. Khi một người cảm nghiệm được sự thúc bách
nội tâm, một lòng khát khao muốn có một sự liên hệ cá nhân sâu xa với Chúa
Giêsu, cuộc hành trình tinh thần của người đó mới bắt đầu khởi sự.
Trước đệ nhị thế chiến, có một cô gái người Pháp, trẻ đẹp, hát hay
và khiêu vũ rất giỏi. Nhờ thế cô rất nổi tiếng dưới ánh đèn sân khấu trong các
vũ trường ở thủ đô Paris. Đúng lúc đó thế chiến thứ hai bùng nổ, nước Pháp lâm
nguy nên mọi người ra sức bảo vệ tổ quốc. Cô gái tài sắc đó đã trở thành y tá
cứu thương trên chiến trường. Chẳng may cô bị thương và rủi hơn nữa chính vết
thương này đã khiến cô không còn khả năng sinh sản. Với lòng ước ao mạnh mẽ để
được làm mẹ và trước những đau khổ mất mát của tha nhân, cô đã không buông xuôi
thất vọng, trái lại cô còn có một quyết tâm khác thường.
Thay vì làm mẹ ruột, cô làm mẹ nuôi của các trẻ mồ côi bị bỏ rơi.
Để có điều kiện thực hiện ý định đó, cô trở lại làm nghề vũ nữ và ra sức lao
động cật lực. Cùng lúc cô đi tìm kiếm các trẻ mồ côi đủ mọi quốc tịch, màu da
để nuôi nấng yêu thương. Đứa bé cuối cùng cô nhặt được trong một thùng rác ở
thủ đô Paris vào đêm Noel 1983 là một em bé người Pháp. Bây giờ cô trở thành
người mẹ nuôi của 12 em, 12 quốc tịch và màu da khác nhau. Với 12 miệng ăn cô
không đủ tiền chi phí nên phải bán đồ đạc trong nhà để sống thêm được một thời
gian. Sau đó, mẹ con dắt nhau đi lang thang ăn xin. Biết được tình cảnh đáng
thương đó, công chúa Monaco đã cho mẹ con cô tá túc trong lâu đài của mình. Hai
năm sau cô qua đời và báo chí đã đặt tên cho gia đình cô là một “gia đình Liên
Hiệp Quốc”.
Lễ Hiển Linh nhắc nhở chúng ta rằng Ngôi Hai Thiên Chúa đến viếng
thăm tất cả mọi người có lòng ao ước tìm kiếm và đến thờ lạy Ngài. Không một ai
bị loại trừ ra khỏi tình yêu Thiên Chúa. Thật “Vui mừng cho những tâm hồn tìm
kiếm Thiên Chúa” (Tv 105, 3).
Suy nghĩ về lễ Hiển Linh, ngày Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân
ngoại, tôi có một nhận xét nho nhỏ, xin được chia sẻ. Nhận xét ấy như thế này:
Các nhà đạo sĩ phương đông là những người ít được chuẩn bị, ít
được hiểu biết về Kinh Thánh, nhưng lại có một tấm lòng quảng đại, sẵn sàng đáp
trả tiếng gọi của Thiên Chúa. Các ông đã lên đường, dấn thân vào một cuộc phiêu
lưu hoàn toàn bấp bênh, để rồi cuối cùng các ông đã có được diễm phúc gặp gỡ
Chúa nơi máng cỏ Bêlem dưới vóc dáng của một hài nhi nhỏ bé, nghèo túng và tầm
thường.
Các ông là những người tuy xa mà lại gần.
Trong khi đó, các luật sĩ, tư tế và biệt phái sống tại Giêrusalem.
Họ là những người đã được chuẩn bị rất kỹ lưỡng. Họ thông thuộc Kinh thánh.
Bằng cớ là họ đã trả lời vanh vách nơi Đức Kitô sinh ra, thế nhưng họ đã không
dám lên đường tìm gặp Ngài. Và hơn thế nữa, họ còn tiếp tay với Hêrôđê để sát hại
Ngài.
Sở dĩ như vậy vì họ muốn Đấng Cứu Thế của họ phải được sinh ra
trong lầu đài cung điện, để rồi một mai khi lớn lên, Đấng ấy sẽ là một ông vua
hùng mạnh như Đavít, khôn ngoan như Salomon, sẽ giải thoát họ khỏi ách thống
trị của đế quốc La Mã và dẫn đưa dân tộc họ tới một thời đại hoàng kim, khiến
cho mọi dân nước phải quy phục và triều cống. Họ không muốn chấp nhận Ngài dưới
vócdáng của một hài nhi nhỏ bé, nghèo túng và tầm thường. Và họ đã không lên
đường tìm gặp Ngài.
Họ là những người tuy gần mà lại xa.
Cũng trong chiều hướng ấy, tôi nghĩ rằng những người dám hy sinh,
dám dấn thân, dám lên đường tìm gặp Chúa nơi những kẻ nghèo túng và bất hạnh,
để yêu thương và giúp đỡ, họ chính là những nhà đạo sĩ của thời buổi hôm nay.
Đúng thế, ngày hôm nay vẫn có những nhà đạo sĩ tìm gặp Chúa nơi
những người anh em khổ đau và cùng khốn.
Có những người như Mẹ Têrêxa thành Calcutta, vừa mới được phong
lên hàng chân phước, hằng ngày không ngần ngại đi lượm từng hình hài sắp chết,
từng con trẻ bị bỏ rơi… rồi mang về chăm sóc.
Có những người như Cha Prado bên Pháp, đã sang tận Ấn độ để đem
lại sức sống mới cho một cộng đoàn nghèo, hết lẽ sống và cũng hết muốn sống.
Có những người như những tu sĩ đã biến nhà mình thành nơi cư trú
cho những trẻ em bị bại liệt, hay những thanh thiếu niên bụi đời, lang thang
nơi đầu đường xó chợ.
Có những người như Đức Cha Casaldaliga, đã lập tòa giám mục của
mình trên một chiếc thuyền độc mộc để ngày ngày, tay chèo tay chống, đi đấu
tranh với các công ti tư bản cũng như với quân độ Brasil, vì quyền lợi của đám
dân da đỏ mà Chúa đã trao ban như là những con chiên của Ngài.
Gần chúng ta và bên cạnh chúng ta, cũng không thiếu gì những mẫu
gương sống động như thế.
Họ là những nữ tu trong bệnh viện. Họ là những thày cô công giáo
trong các trường học. Họ là những công nhân có đạo trong các xưởng thợ. Họ là
những y tá, những bác sĩ kitô hữu đã dành thời giờ mình được quyền nghỉ ngơi
cho những người phong cùi, cũng như cho những bệnh nhân ở những vùng xa xôi hẻo
lánh, thiếu thốn những tiện nghi vật chất.
Họ không phải chỉ làm những công việc này vì lòng đạo đức và tình
bác ái, mà hơn thế nữa, vì họ đã nhận ra nơi những kẻ nghèo túng va bất hạnh mà
họ đang phục vụ khuôn mặt đích thực của Đức Kitô.
Đúng như lời Đức Giám mục Bossuet đã nói:
- Người nghèo ở đâu thì Nước Trời ở đó. Người nghèo chính là một
bí tích, một dấu chỉ của Đức Kitô.
Thế nhưng, liệu chúng ta có dám lên đường tìm gặp Chúa nơi những
người anh em bất hạnh và khổ đau hay không?
Trong khi chúng ta tiến vào năm mới, thật là an ủi khi biết rằng
các tinh tú sao trời đang chiếu cố chúng ta. Đây là thời của Chòm Sao Bảo Bình
(Aquarius).
Khi ánh trăng mọc trên nóc nhà thứ bảy
Và khi Mộc Tinh thẳng hàng với Hỏa Tinh
Thì an bình sẽ dẫn dắt các hành tinh
Và tình yêu sẽ xâm nhập các tinh tú
Đấy chính là những gì các nhà thiên văn đang nói cho chúng ta, và
nó không có khó khăn nhấn mạnh về sự kiện rằng khoảng chừng 50 triệu người Bắc
Mỹ tham khảo "Tử Vi" trên những tờ nhật báo, và rằng những sách về
thiên văn được tiêu thụ hàng trăm ngàn cuốn mỗi năm. Giữa các người trẻ, thiên
văn chính là môn thích thú của họ -- bất hạnh thay, trong nhiều trường hợp, nó
là loại thay thế cho tôn giáo mà họ đang chối bỏ. Với nhiều hình thức dự đoán,
thiên văn có thể thật là phiền hà bởi vì nó thường hay mập mờ và rất khó chú
giải. Một người nói với một người bạn của anh rằng một nhà thiên văn đã nói với
anh, "Người chồng thứ hai của vợ anh thật là giàu có, thông thái và đẹp
trai." Và người bạn hỏi, "Anh chẳng tức tối khi nghe thấy lời dự đoán
đấy sao?" "Đúng, nó làm tôi thật tức giận," người đàn ông trả
lời. "Tôi không biết vợ tôi đã xuất giá trước kia hay không." Dĩ
nhiên, đối với một số người những dấu chỉ tinh tú có thể mang ý nghĩa những gì
mà họ muốn chúng mang ý nghĩa. Thế nhưng cũng thật là hứng thú khi để ý rằng
người ta chú giải những dấu chỉ tinh tú để mang ý nghĩa mà chúng ta đang tiến
đến một kỷ nguyên mới của tình huynh đệ, an bình và yêu thương. Đây phải là
điểm quan trọng nhất với chúng ta những người Kitô hữu bởi vì nguồn đáng tin
cậy nhất của chúng ta về tin tức liên quan đến vận số của thế giới -- Tân Ước
-- cũng nói cùng một sự thể. Và, thật là không ngờ, nó khởi đầu kể cho chúng ta
câu chuyện hạ sinh của một hài nhi.
Việc hạ sinh một hài nhi luôn luôn là một biến cố vô cùng đặc
biệt. Tất cả chúng ta ai cũng có những hồi ước đặc biệt trong tâm khảm của
chúng ta về sự diệu kỳ của việc hạ sinh hài nhi. Tuy nhiên, cái mà làm cho
chúng ta thật sự bỡ ngỡ chính là sự kiện cuộc hạ sinh lần đầu vẫn chưa đủ. Sứ
điệp của Tân Ước chính là sự trọn vẹn hòa hảo của chúng ta lệ thuộc và cuộc hạ
sinh khác, cuộc hạ sinh thứ hai. Chúng ta phải trở nên giống như con trẻ bé nhỏ
một lần nữa. Khác với lần hạ sinh lần thứ nhất, cuộc hạ sinh lần thứ hai là tự
nguyện. Sự chọn lựa thuộc về chúng ta: noi theo giáo huấn của Chúa Giêsu để trở
nên những con trẻ bé nhỏ hay là chối bỏ nó.
Phúc Âm Thánh Gioan, ông Nicôđêmô người Pharisiêu đến với Chúa
Giêsu và hỏi, "Làm sao một người lại sinh ra lần nữa khi họ đã già rồi?
Người ấy phải nhập vào lòng mẹ và tái sinh ư?" (Jn 3:4). Giống như
Nicôđêmô, chúng ta muốn biết thực sự điều ấy có nghĩa gì. Chúng ta không thông
suốt. Chúng ta cố tìm một phương thế có thể để thoát ly khỏi nó. Một số chúng
ta bắt chước Nicôđêmô cố khởi đầu bằng những lý lẽ thần học với Chúa Giêsu về
vấn đề này. Trong trường hợp nào, việc "tái sinh" theo nghĩa Thánh
Kinh mang ý nghĩa gì?
Chữ Hy Lạp mà chúng ta chuyển dịch thành "tái sinh" hay
"sinh ra" thật sự mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Thế nhưng khi chúng
ta ghép chúng lại hầu cố đưa ra một ý nghĩa đơn giản và rõ ràng nhất, điều mà
nó truyền đạt cho chúng ta chính là sự biến đổi tận gốc thì cần thiết trong đời
sống các bạn cũng như của chính tôi: một sự thay đổi hoàn toàn, một khởi đầu
mới.
Thiên Chúa yêu thương chúng ta quá sức khi Ngài kêu mời chúng ta
vào trong sự sống, vào trong lòng tốt lành vĩ đại của Ngài. Ngài ban cho chúng
ta hai lần sinh ra: Lần sinh ra thứ nhất là mang chúng ta vào trong thế gian
này và rồi lần sinh ra thứ hai là mang chúng ta vào trong sự sống.
"Chúng tôi đã thấy ngôi sao Ngài mọc tại Phương Đông và đã
đến để triều bái Ngài." Trong ngày Chúa Nhật đầu tiên của Năm Mới, nếu
chúng ta khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa thẳm sâu trong chính trung tâm
nội tại của ta thì chúng ta sẽ không bỏ lỡ ngôi sao của Chúa Giêsu mọc tại
Phương Đông, và chúng ta sẽ biết phải triều bái Ngài như thế nào. Giống như các
nhà chiêm tinh thời xưa, chúng ta sẽ là những Người Mang Lễ Vật tới Thiên Chúa
tại trung tâm điểm của đời sống chúng ta; chúng ta sẽ triều bái Con Trẻ mới
sinh qua những lễ vật của lòng trắc ẩn, kiên nhẫn và quan tâm đến tha nhân. Lễ
vật vĩ đại nhất của chúng ta cho thế giới trong Năm Mới này chính là món quà
của bản thân. Đây chính là lễ triều bái chúng ta dâng lên Ngài: yêu thương tha
nhân như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP)
Chuyện xưa kể lại: ngày ấy, có một người tên là Ápram, cùng với vợ
là Xarai và người cháu tên là Lot, sinh sống trong một nông trại ở một miền đất
gọi là Kharan. Ông ao ước có một đứa con để nối dõi tông đường, nhưng chẳng
được. Súc vật, đồng cỏ, mọi thứ có đầy đủ, thế mà ông Ápram vẫn cảm thấy thiếu
thốn. Đời sống cứ thế qua đi, cho đến một hôm, ông Ápram nghe được một tiếng
nói lạ lùng “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi mà đi tới miền đất Ta
sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho
ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng và ngươi sẽ là một mối phúc lành.
Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi. Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ
nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (St 12,1-3).
Bảy mươi lăm tuổi đầu rồi đâu còn trẻ gì nữa, làm sao có thể chịu đựng
những nỗi vất vả, những hành trình; của cải cũng đầy đủ quá rồi, còn mong ước
gì hơn nữa. Lại còn chuyện sẽ được cai quản một dân lớn, làm tổ phụ cả một đoàn
dân đông đảo; ôi những chuyện xa vời quá, làm sao chấp nhận nổi?
Ápram phân vân, đắn đo suy nghĩ ông cảm thấy tiếng nói lạ lùng ấy
đầy uy lực, thôi thúc ông phải thi hành. Và ông đã chấp nhận lên đường, bỏ lại
quê cha, bỏ lại mồ mả tổ tiên, bỏ lại mảnh đất thân yêu, bỏ cả sự an toàn đang
có ông chỉ mang theo những gì có thể, và dấn mình vào trong cuộc phiêu lưu liều
lĩnh với muôn ngàn bất trắc, chưa xác định nơi nào sẽ định cư. Tất cả chỉ dựa
trên một lời hứa, một lời hứa linh thiêng và bí nhiệm.
Apram đã không lầm. Những chi tiết của lời hứa đã được thực hiện.
Ong đã được dẫn tới một miền đất phì nhiêu, ông đã có được nhiều của cải, chiên
bò, gia súc, v.v… và có nhiều nhân viên giúp việc. Đời sống của ông bây giờ
sung túc hơn xưa nhiều. Điều vui mừng hơn hết là Apram có được một cậu con
trai, người con bấy lâu ông hằng mơ ước. Cuộc đời ông tưởng như không còn ước
mong gì hơn nữa … (x. St 21,1-7).
Câu chuyện lại không chấm dứt ở chỗ này. Một lần nữa, tiếng nói lạ
lùng năm xưa lại đến với ông, cũng đầy uy dũng và thúc bách: “Hãy đem con của
ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Ixaác, hãy đi đến xứ Moria mà dâng nó
làm lễ tòan thiêu” (x. St 22,1-2).
Sao? Lệnh truyền gì mà lạ lùng thế! Lần trước tiếng nói ấy đã cho
ông biết: ông sẽ là tổ phụ của một dân lớn, con cháu ông sẽ đông như sao trên
trời, như cát dưới biển. Thế mà giờ đây lại được lệnh đem sát tế, đem giết đi
đứa con độc nhất, đứa con nối dõi.
Apraham đã được đổi tên – cảm thấy như có một sức mạnh linh diệu
thôi thúc ông, đồng thời dựa trên những kết quả từ lời hứa lần trước, ông quyết
định thi hành.
Kết cuộc câu chuyện ra sao, chúng ta đã biết rồi, vào lúc Apraham
sửa soạn thi hành lệnh truyền, thì đứa con đã được cứu thóat do một sự can
thiệp lạ lùng …
Với những hành động can đảm và liều lĩnh ấy, kèm theo một lòng tín
trung phó thác mãnh liệt, Apraham trở thành cha của tất cả những ai có niềm
tin, trở thành con người khai mở cả một chặng đường, một hành trình nhiều đột
biến nhưng thật phấn khởi, trở thành gương mẫu điển hình cho lòng vâng phục,
cho hy vọng …
Một câu chuyện khác.
Cách đây hơn 2000 năm, hay có khi trước đó nữa, đã có những nhà chiêm
tinh, căn cứ vào những điềm xảy ra trong vũ trụ để nghiên cứu những biến cố. Đó
là công việc của những nhà giàu có, sẵn tiền của và thời giờ. Ở vùng đất xa xôi
nọ, theo truyền thuyết, có ba nhà đạo sĩ cùng làm công việc ấy. Ngày nọ, ba
người thấy xuất hiện trên bầu trời một vì sao lạ, một vì sao chưa thấy xuất
hiện lần nào. Ba ông ngạc nhiên và bàn tính với nhau: Hẳn đây là một điềm báo
trước một biến cố trọng đại. Nghiên cứu tìm tòi, ba ông được biết vì sao ấy ám
chỉ một ông vua mới sinh. Vì vua ấy chắc là cao sang lắm! Nên mới có ngôi sao
lạ. Ba ông đều muốn lên đường đến chiêm bái vị vua mới sinh. Ba ông quyết định
từ bỏ cả của cải, đem theo những báu vật để dâng cúng vị vua mới sinh.
Và ba ông đi mãi, đi mãi, dưới sự hướng dẫn của ba sao lạ … Và đến
đây chúng ta đã biết được phần cuối của câu chuyện rồi. Đó là ba nhà đạo sĩ đến
kính bái Chúa Giêsu mới giáng sinh ở Bêlem (Mt 2,1-12).
Apraham, ba nhà đạo sĩ đã đi trên một con đường: con đường của tìm
kiếm, con đường của đức tin, con đường dẫn tới tương lai, dẫn tới sự sống. Các
vị đã chọn đi trên con đường đó với bao quả cảm, với bao nỗ lực và phấn đấu.
Con đường ấy dẫn đưa các vị đến những thành đạt kỳ ảo nhất và cũng dễ hiểu
nhất. Con đường ấy là con đường duy nhất, vì kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng,
chẳng còn con đường nào khác. Con đường ấy thật nhiều đột biến, thật nhiều thử
thách và gian nan, đôi khi rất tăm tối, nhưng cũng đầy hứng thú và kỳ diệu …
Con đường đức tin hay hành trình chinh phục chân lý. Con đường dẫn
con người đến những đỉnh cao, những thực tại siêu vời của cuộc sống …
Đó cũng là con đường của chúng ta, của mọi người. Mỗi người đều
được mời gọi hướng về sự thật, hướng về vô biên. Con đường ấy cho cả hôm nay,
hôm qua và ngày mai, không thể có một con đường nào khác. Chỉ có đức tin mới
dẫn đến sự thật, chỉ có tín trung mới dẫn đến sự sống. Đó là chấp nhận phiêu
lưu, chấp nhận mạo hiểm, như nhà leo núi chấp nhận những khó khăn để đạt được
danh hiệu cao quý nhất của nhà chinh phục.
Chân lý – sự sống. Đó là nguyên lý cao nhất. “Phải sẵn sàng hy
sinh những gì yêu quí nhất để theo đuổi cuộc tìm kiếm ấy, dù có phải hy sinh cả
cuộc sống” (Gandhi).
Mãi mãi đi trên hành trình của Apraham, của ba nhà đạo sĩ, hành
trình của lòng tin và hy vọng.
(Suy niệm của Lm Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Trước đây chúng ta quen gọi lễ hôm nay là lễ Ba Vua. Các ông ấy có
phải là vua không? Không phải, họ chỉ là những nhà quý phái thuộc về hoàng tộc,
vì nếu họ là vua thì không lý gì mà vua Hê-rô-đê lại không biết đến xuất xứ của
họ. Đàng khác, nếu họ là vua thì không thể ra đi âm thầm như vậy, mà phải có
tiền hô hậu hét với nhiều người hộ tống và với lễ nghi ngoại giao đàng hoàng.
Một lý do nữa chứng tỏ họ không phải là vua, đó là căn cứ vào nghề nghiệp của
họ, là nghề thiên văn. Ở vào thời đó chỉ có các nhà quý tộc mới ưa thích và
chuyên về thiên văn. Tóm lại, họ chỉ là các đạo sĩ, học rộng, hiểu biết nhiều
về chiêm tinh, nên có thể gọi họ là những nhà chiêm tinh như thuật lại trong
Tin Mừng.
Một điều nữa, có ba ông hay nhiều hơn? Tại Xy-ri và Ác-mê-ni,
người ta nói có 12 ông, chúng ta thường kể có ba ông, hoặc là căn cứ vào ba sắc
dân được nói đến trong sách ngôn sứ Isaia, hoặc là vì lễ vật tiến dâng có ba
thứ là vàng, mộc dược và nhũ hương. Nhưng theo chuyện kể, họ đã gây ảnh hưởng
xôn xao cho cả thành Giê-ru-sa-lem, thì có lẽ đông hơn số ba. Tin Mừng chỉ nói
“có mấy nhà chiêm tinh”, tức là ở số nhiều, chứ không nói rõ bao nhiêu. Đến thế
kỷ IX, người ta coi như quả quyết có ba ông và đặt tên cho một ông là Gát-pa,
đại diện cho dân da vàng, một ông là Ban-tha-sa, đại diện cho dân da đen, một
ông là Men-ki-o, đại diện cho dân da trắng. Nhưng điều quan trọng không phải là
xác định họ là vua hay không phải là vua, có ba ông hay nhiều hơn, mà chính là
hãy nhìn họ như hình ảnh sống động của tất cả những ai trong đời đã có một lòng
khao khát chân thành tìm kiếm Thiên Chúa, khởi đi từ những thiện hảo tốt lành,
nghĩa là họ là dân ngoại, từ xa xôi, không biết Kinh Thánh, nhưng lại chân
thành và sẵn sàng vượt qua những chặng đường gian khổ để tìm gặp Chúa, trong
khi đó dân Do Thái ở gần, hiểu biết Kinh Thánh, lại không mảy may kiếm tìm.
Mặc dầu cách gọi Ba Vua vẫn giữ nguyên giá trị cổ kính, nhưng ngày
nay phụng vụ sử dụng tên gọi Hiển Linh để làm nổi bật ý định mầu nhiệm chung
nhất của Thiên Chúa trong mùa Giáng Sinh, đó là Ngài muốn tỏ mình ra cho tất cả
mọi người, mọi thời, bất luận họ là ai và ở đâu, miễn là họ biết chân thành
kiếm tìm Ngài. Vì thế, đây không chỉ là một biến cố của ngày đã qua mà còn là
một sứ điệp của ngày hôm nay và cho những ngày sẽ tới, Chúa vẫn tỏ mình, nhưng
vấn đề là người ta có thiện chí đến gặp Ngài không.
Thực vậy, Hiển Linh có nghĩa là Thiên Chúa tỏ mình ra, cụ thể ở
đây Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc ngoài Do Thái. Đúng vậy, Thiên Chúa không
chỉ tỏ mình cho dân Do Thái, Ngài còn tỏ mình cho các dân tộc khác, vì Ngài
muốn cứu độ mọi người chẳng trừ ai. Đối với các nhà chiêm tinh phương Đông là
đại diện cho dân ngoại, Ngài đã dùng một ngôi sao lạ để mời họ lên đường đi gặp
Đấng Cứu Độ. Họ đã sẵn sàng mang theo lễ vật lên đường theo ánh sao để đi tìm
Chúa, không quản gian nan vất vả, không ngại đường xa vô định, không sợ phải hy
sinh công sức, thời giờ và tiền bạc, không nản chí thất vọng khi gặp trở ngại
dọc đường. Chính vì đầy thiện chí như vậy nên cuối cùng họ đã gặp được Chúa.
Ngày nay, Thiên Chúa vẫn ngỏ lời với những ai chưa biết Ngài bằng
nhiều cách khác nhau, Ngài vẫn làm sáng lên muôn ánh sao, không phải ở trên
trời cao, nhưng ở trong lòng người. Ánh sao đó có thể là một lý tưởng, một khát
vọng mãnh liệt, khát vọng sự thật, tự do, ấm no, hạnh phúc...Ánh sao đưa con
người lên đường tìm kiếm, nếu có thiện chí họ sẽ gặp được Chúa.
Đối với chúng ta cũng vậy, dù chúng ta đã gặp Chúa, dù chúng ta đã
được rửa tội, dù chúng ta đã gia nhập Giáo hội, chúng ta vẫn còn phải đi tìm
Chúa, cuộc đời chúng ta luôn là một cuộc lên đường theo ánh sao, và Chúa vẫn
luôn gửi tới chúng ta nhiều dấu chỉ như những ánh sao để chỉ dẫn cho chúng ta.
Ánh sao đó có thể là những biến cố vui buồn của cuộc sống, có thể là những
người sống quanh chúng ta, có thể là một lời dạy dỗ, nhủ khuyên, có thể là một
gương sáng chúng ta được nghe, được thấy. Nhưng muốn nhìn những điều tốt đẹp đó
như ánh sao của Chúa, chúng ta phải chuẩn bị tâm hồn như những thửa đất đã cày
bừa dọn sạch gai góc, sỏi đá, sẵn sàng đón nhận hạt giống tốt. Phải biết tìm
hiểu ý Chúa nơi mỗi biến cố trong cuộc sống và cố gắng thực hiện những gợi ý
Chúa gửi tới.
Đàng khác, chúng ta vừa là người đi tìm kiếm vừa là ánh sao cho
người khác đi tìm Chúa. Đúng vậy, mỗi Kitô hữu luôn phải là một ánh sao: lời
nói, việc làm, cách xử thế của mỗi người phải nên gương mẫu cho bạn bè, cho
người còn xa cách Chúa. Một nụ vười, một ánh mắt, một lời khích lệ, một sự cảm
thông, chia sẻ, giúp đỡ… là những ánh sao đưa anh em về với Chúa. Như vậy, lễ
Hiển Linh cũng nhắc nhở chúng ta về việc truyền giáo.
Xưa kia, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho các nhà chiêm tinh bằng ánh
sao lạ, chính nhờ ánh sao ấy các ông đã đi tìm và gặp thấy Chúa Giêsu giáng
sinh để thờ lạy. Từ đó Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình ra cho nhân loại để con
người nhận biết sự thật và đón nhận sự sống. Cũng như ngày xưa, Thiên Chúa đã
mời gọi các ngôn sứ cộng tác, cũng như Đức Kitô đã mời gọi các môn đệ cộng tác,
ngày nay Ngài cũng mời gọi chúng ta cộng tác vào công cuộc cao cả ấy. Vẫn cần
có những ánh sao để chỉ đường dẫn lối cho những người khác gặp thấy Chúa. Người
Kitô hữu được mời gọi trở thành những ánh sao cho những người chung quanh ngay
trong cuộc sống bình thường hằng ngày của mình, để trong sinh hoạt bình thường
ấy, người ta có thể gặp được những tín hiệu dẫn đưa đến Thiên Chúa, đó là ánh
sao của cho đi, của quên mình, của bác ái, của phục vụ… những ánh sao đó có sức
tỏa sáng giúp ngưới ta nhận ra Thiên Chúa, nhận ra tình thương của Ngài.
Trước đây chúng ta gọi ngày lễ hôm nay là lễ Ba Vua, đây là cách
gọi quen thuộc đối với giáo dân Việt Nam để nói về việc các nhà chiêm tinh
phương Đông tìm đến Bê-lem viếng Chúa Hài Đồng. Gọi là vua vì họ mặc phẩm phục
như các vị đế vương, và xác định là ba người, vì có ba sắc dân được nói đến
trong sách ngôn sứ Isaia, mà cũng vì lễ vật tiến dâng có ba thứ rõ ràng là
vàng, nhũ hương và mộc dược như Tin Mừng thuật lại. Cứ thế, theo truyền thống,
Ba Vua trở nên tên gọi cho ngày lễ.
Nhưng điều quan trọng không phải là xác định họ là vua hay không
phải là vua, họ có ba vị hay bao nhiêu vị, mà chính là hãy nhìn họ như hình ảnh
sống động của tất cả những ai trong đời đã có một lòng khao khát chân thành tìm
kiếm Thiên Chúa khởi đi từ những thiện hảo tốt lành, nghĩa là họ là dân ngoại
từ xa, không biết Kinh Thánh, nhưng lại chân thành và sẵn sàng vượt qua những
chặng đường gian khổ để tìm gặp Chúa, trong khi đó dân Do Thái ở gần, hiểu biết
Kinh Thánh, lại không mảy may kiếm tìm.
Mặc dầu tên gọi Ba Vua vẫn giữ nguyên giá trị cổ kính, nhưng ngày
nay Phụng vụ sử dụng tên gọi Hiển Linh để làm nổi bật ý định mầu nhiệm chung nhất
của Thiên Chúa trong Mùa Giáng Sinh, đó là Ngài muốn tỏ mình ra cho tất cả mọi
người, mọi thời, bất luận họ là ai và ở đâu, miễn là họ biết chân thành kiếm
tìm Ngài. Vì thế, đây không chỉ là một biến cố của ngày đã qua mà còn là một sứ
điệp của ngày hôm nay và cho những ngày sẽ tới, Chúa vẫn tỏ mình, nhưng vấn đề
là người ta có thiện chí đến gặp Ngài không.
Trong một tập truyện ngụ ngôn xuất bản gần đây, một linh mục đã
tưởng tượng ra một câu chuyện như sau: có một người đạo đức kia ước ao được xem
thấy Chúa trước khi chết, ngày ngày bà ăn chay, cầu nguyện để ước nguyện này
được Chúa nhận lời. Thế là một đêm nọ trong một giấc mơ, bà được Chúa cho biết
sẽ đến thăm bà, suốt ngày hôm sau, bà quét dọn và trang hoàng nhà cửa để đón
rước Chúa, thế nhưng bà chờ mãi mà không thấy Chúa đến.
Trong đêm kế tiếp, có tiếng Chúa hỏi: tại sao bà không tiếp đón
Ngài? Người đàn bà trả lời bà đã chờ đợi Chúa ở cửa trước. Chúa cho bà biết
Chúa đã chờ đợi ở cửa sau. Ngày hôm sau, người đàn bà lại chờ đợi Chúa ở cửa
sau, nhưng bà vẫn không thấy bóng dáng Chúa. Đêm đến lại có tiếng Chúa hỏi tại
sao bà không đón tiếp Chúa, bởi vì Ngài đến qua các cửa sổ. Suốt ngày hôm sau,
người đàn bà hết ra cửa trước lại về cửa sau và nhìn qua các cửa sổ, nhưng bà
cũng không hề thấy tăm hơi của Chúa. Đêm đến, bà lại nghe có tiếng nói của
Chúa, và lần này Chúa bảo bà hãy tìm Ngài bên giếng sau nhà. Cũng thế, người
đàn bà đã chạy ra bờ giếng, nhưng cũng không thấy Chúa đâu. Không còn đủ kiên
nhẫn nữa, bà đã trách Chúa tại sao lại chơi trò cút bắt với bà. Bấy giờ Chúa
mới nói: “Nếu con định đón rước Ta ở một nơi nào đó thì mãi mãi sẽ không bao
giờ thấy Ta ở đâu cả, thay vì tìm kiếm khắp nơi, con hãy mở mắt tâm hồn và con
sẽ thấy Ta”.
Đêm đó, người đàn bà không còn nghe thấy tiếng Chúa nữa, nhưng chung
quanh mình, bà chỉ thấy bóng đêm dầy đặc, nhưng chính lúc đó, khi con mắt tâm
hồn bà đã được mở rộng, bà đã nhìn thấy Chúa ở khắp mọi nơi. Đúng vậy, chúng ta chỉ có thể thấy Chúa bằng con mắt tâm hồn mà
thôi, nếu tâm hồn chúng ta rộng mở, nếu tâm hồn chúng ta trong sạch, nghĩa là
không bị ngăn chặn bởi bất cứ bức tường nào của dục vọng, của đam mê, ích kỷ,
tiền bạc…thì chúng ta có thể thấy Chúa ngay cả trong mỗi người chúng ta gặp gỡ.
Xưa kia Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho ba nhà chiêm tinh bằng ánh
sao lạ, chính nhờ ánh sao này, các ông đã đi tìm và đã gặp được Chúa Giêsu
giáng sinh để thờ lạy. Từ đó Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình ra cho nhân loại
để con người nhận biết sự thật và đón nhận sự sống. Cũng như ngày xưa Thiên
Chúa đã mời gọi các ngôn sứ cộng tác, cũng như Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ
cộng tác, ngày nay Ngài cũng mời gọi chúng ta cộng tác vào công cuộc cao cả ấy,
vẫn cần có những ánh sao để chỉ đường dẫn lối cho những người khác gặp thấy
Chúa. Người Kitô hữu được mời gọi trở thành ánh sao cho những người chung quanh
ngay trong cuộc sống bình thường hằng ngày của mình, để trong sinh hoạt bình
thường ấy, người ta có thể gặp được những tín hiệu dẫn đưa đến Thiên Chúa, đó
là ánh sao của cho đi, của quên mình, của bác ái, của phục vụ…những ánh sao đó
có sức tỏa sáng, giúp người ta nhận ra Thiên Chúa, nhận ra tình thương của
Ngài.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Trước đây chúng ta gọi ngày lễ hôm nay là lễ Ba Vua, đây là tên
gọi quen thuộc đối với giáo dân Việt Nam để nói về việc các nhà chiêm tinh
phương Đông tìm đến hang đá Bê-lem kính viếng, thờ lạy Chúa Hài Đồng. Gọi là
vua vì thấy họ mặc phẩm phục như các vị đế vương, và xác định là có ba vị, vì
có ba sắc dân được nói đến trong sách ngôn sứ Isaia, mà cũng vì lễ vật tiến
dâng có ba thứ là vàng, mộc dược, và nhũ hương.
Nhưng điều quan trọng không phải là xác định họ là vua hay không
phải là vua, họ có ba người hay có thể có nhiều hơn nữa, mà chính là hãy nhìn
họ như hình ảnh sống động của tất cả những ai trong đời đã có một lòng khao
khát chân thành tìm kiếm Thiên Chúa, khởi đi từ những thiện hảo tốt lành. Vì
thế, ngày nay phụng vụ sử dụng tên gọi “Hiển Linh” để làm nổi bật ý định mầu
nhiệm chung nhất của Thiên Chúa trong mầu nhiệm Giáng Sinh, đó là Ngài muốn tỏ
mình ra cho tất cả mọi người, mọi thời đại, bất luận họ là ai và ở đâu, miễn là
họ biết chân thành kiếm tìm Ngài. Vì thế, đây không chỉ là một biến cố của ngày
đã qua, mà còn là một sứ điệp của ngày hôm nay và cho những ngày sẽ tới, đó là
Thiên Chúa vẫn tỏ mình ra, nhưng vấn đề là người ta có thiện chí đến gặp Ngài
không.
Trở lại bài Tin Mừng, chúng ta thấy với một dấu hiệu không rõ rệt,
không chắc chắn, không đầy đủ là ngôi sao lạ, thế mà các nhà chiêm tinh đã nhất
định ra đi tìm “vua mới”, đúng là “trên vạn nẻo đường”, biết bắt đầu đi về đâu?
Thực là “đáy biển mò kim”, và thực là một cuộc phiêu lưu nguy hiểm.
Nhưng bất chấp tất cả mọi nguy hiểm, mọi khó khăn, các ông kiên
quyết dõi theo ánh sao thực hiện lòng tin của mình, cuối cùng các ông cũng tìm đến
nơi, các ông không gặp thấy một trẻ sơ sinh nằm trong nhung lụa mà chỉ thấy một
hài nhi nằm trong máng cỏ. Các ông đi tìm vua Do Thái mà lại chỉ gặp một hài
nhi nghèo khó. Nhưng không vì thế mà các ông thất vọng, ngược lại, các ông vẫn
tin, và lòng tin đó được biểu lộ một cách cụ thể bằng việc phủ phục xuống một
cách khiêm tốn để thờ lạy và dâng lễ vật.
Câu chuyện các nhà chiêm tinh đi tìm kiếm Chúa vẫn luôn luôn hợp
thời và có giá trị cho mọi người, bởi vì cuộc đời chúng ta ở trần gian luôn
phải đi tìm kiếm Chúa và sống vai trò “ngôi sao dẫn lối” cho người khác. Đó là
hai điều chúng ta cần ghi nhớ hôm nay. Qua đoạn Tin Mừng, có thể nói có ba hạng
người đối với việc tìm Chúa: hạng thứ nhất, là các nhà chiêm tinh, là những
người tuy chưa biết Chúa, nhưng khi vừa nhận được một tia sáng đã vội vã đi
tìm. Hạng thứ hai là các tư tế, những người Pha-ri-sêu và kinh sư, họ là những
người thông thạo Kinh Thánh, biết rất nhiều về Chúa, đến nỗi có thể chỉ đường
chính xác cho kẻ khác tìm gặp Chúa ở Bê-lem, nhưng chính họ lại không đi tìm.
Hạng thứ ba là vua Hê-rô-đê và những người thuộc hạ, khi được các nhà chiêm
tinh cho biết Chúa sinh ra, họ không những không vui mừng mà còn bày mưu tính
kế để sát hại Ngài, do lòng gian ác thúc đẩy. Ngày nay, trong xã hội, chúng ta thấy
vẫn luôn có ba hạng người trên: có những người chân thành tìm kiếm để thờ
phượng Chúa, những người khác lại dửng dưng với đức tin tôn giáo, và thậm chí
có những người còn thù ghét và tìm cách tiêu diệt Chúa.
Riêng đối với chúng ta, dù chúng ta đã gặp Chúa, dù chúng ta đã
được rửa tội, dù chúng ta đã gia nhập Giáo Hội, chúng ta vẫn còn phải đi tìm
Chúa, chúng ta có thể tìm thấy Chúa ở đâu? Trong một tập truyện ngụ ngôn xuất
bản gần đây, một linh mục đã tưởng tượng ra một câu chuyện như sau:
Có một người đàn bà đạo đức kia ước ao được xem thấy Chúa trước
khi chết, ngày ngày bà ăn chay cầu nguyện để điều ước mong này được Chúa nhận
lời. Thế là một đêm nọ trong một giấc mơ, bà được Chúa cho biết Chúa sẽ đến
thăm bà. Suốt ngày hôm sau, bà quét dọn và trang hoàng nhà cửa để đón rước
Chúa, nhưng bà chờ mãi mà không thấy Chúa đến.
Trong đêm kế tiếp, có tiếng Chúa nói: tại sao bà không tiếp đón
Ngài? Người đàn bà thưa bà đã chờ đợi Chúa suốt đêm ngay ở cửa trước. Chúa cho
bà biết Chúa đã chờ đợi ở cửa sau. Ngày hôm sau, người đàn bà lại chờ đợi Chúa
ở cửa sau, nhưng bà vẫn không thấy bóng dáng Chúa. Đêm đến lại có tiếng Chúa
nói tại sao bà không đón tiếp Chúa? bởi vì Ngài đến qua ngã cửa sổ. Suốt ngày
hôm sau, người đàn bà hết ra cửa trước, lại về cửa sau và nhìn qua các cửa sổ,
nhưng bà cũng chẳng thấy Chúa. Đêm đến, bà cũng lại nghe có tiếng Chúa nói, và
lần này Chúa bảo bà hãy tìm kiếm Ngài ở bờ giếng sau nhà. Cũng thế, người đàn
bà ngồi đợi Chúa ở bờ giếng suốt ngày, nhưng cũng không thấy Chúa đâu. không
còn đủ kiên nhẫn nữa, bà trách Chúa tại sao lại chơi cút bắt với bà. Bấy giờ
Chúa mới nói: “Nếu con định tìm kiếm và tiếp đón Ta ở một nơi nào đó, thì mãi
mãi sẽ không bao giờ thấy Ta ở đâu cả. Thay vì tìm kiếm khắp nơi, con hãy mở
mắt tâm hồn và con sẽ thấy Ta”.
Đêm đó, người đàn bà không còn nghe thấy tiếng Chúa nói gì nữa,
chung quanh bà chỉ thấy bóng đêm dầy đặc, nhưng chính lúc đó, khi con mắt tâm
hồn bà đã được mở rộng, bà đã nhận thấy Chúa ở khắp mọi nơi.
Đúng vậy, chúng ta chỉ có thể thấy Chúa bằng con mắt tâm hồn mà
thôi. Nếu tâm hồn chúng ta rộng mở, nếu tâm hồn chúng ta trong sạch, nghĩa là
không bị ngăn cản bởi bất cứ bức tường nào của dục vọng, của đam mê, ích kỷ,
của tiền bạc, của lạc thú, thì chúng ta có thể thấy Chúa ngay cả trong mỗi
người.
Xưa kia, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho ba người chiêm tinh bằng ánh
sao lạ, chính nhờ ánh sao này, các ông đã đi tìm và đã gặp thấy Chúa Giêsu
giáng sinh để thờ lạy. Từ đó Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình ra cho nhân loại
để con người nhận biết sự thật và đón nhận sự sống. Cũng như ngày xưa, Thiên
Chúa đã mời gọi các ngôn sứ cộng tác, cũng như Đức Kitô đã mời gọi các môn đệ
cộng tác, ngày nay, Ngài cũng mời gọi chúng ta cộng tác vào công cuộc cao cả
này, bởi vì vẫn cần có những ánh sao để chỉ đường dẫn lối cho những người khác
gặp thấy Chúa. Mỗi người Kitô được mời gọi trở thành ánh sao cho những người
chung quanh ngay trong cuộc sống bình thường hằng ngày, đó là ánh sao của cho
đi, của quên mình, của bác ái, của phục vụ, hoặc một nụ cười, một ánh mắt, một
lời hỏi thăm, một lời khích lệ, một sự cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ… đó là những
ánh sao đưa anh em về với Chúa, những ánh sao đó có sức tỏa sáng, giúp anh em
nhận ra Chúa và nhận ra tình yêu thương của Ngài.
(Suy niệm của Lm. Minh Vận)
Một ngày kia, có một vị Hoàng Đế cùng với đoàn cận vệ vào rừng săn
nai. Đang lúc hứng thú rượt theo con mồi, thì bỗng nhiên nghe tiếng hát từ đâu
vọng lại, tiếng hát thật véo von thánh thót làm say mê đoàn người săn bắn, đến
nỗi khiến họ quên cả con mồi, để rồi cùng nhau đi tìm gặp cho được vị danh ca
nào đó đang náu ẩn đâu đây. Sau một hồi lâu kiếm tìm, họ đã gặp, nhưng không
phải một danh ca như họ thường lầm tưởng, mà trái lại, một người thanh niên có
thân mình tiều tụy xanh xao gầy còm, áo quần rách rưới nghèo nàn đang ngây
ngất, sốt sắng như một Thiên Thần, dâng lời ca tiếng hát ngợi khen Thiên Chúa
trong một túp lều tranh xiêu vẹo. Một điều làm cho đoàn người săn bắn phải sửng
sốt, là thấy người thanh niên có thân xác đau thương đó, lại luôn tỏ ra lòng
đầy hoan lạc hạnh phúc. Vì quá bỡ ngỡ, vị Hoàng Đế cất tiếng hỏi: "Ông tới
đây làm gì?" Vị Ẩn Sĩ không trực tiếp trả lời, nhưng hỏi lại: "Vậy
thưa ngài, ngài tới đây làm gì?" Vị Hoàng Đế đáp lại: "Trẫm tới đây
để săn thú vật". Bấy giờ vị Ẩn Sĩ mới tỏ ra sung sướng đáp lời: "Thưa
ngài, còn tôi, tôi đến đây tìm kiếm Thiên Chúa!"
Tại sao con người có thân xác đau thương ấy lại tỏ ra lòng đầy vui
sướng, vang lên những lời ca tiếng hát khiến cho người nghe phải say mê khoái
thú? Phải chăng vị Ẩn Sĩ đó đã cảm nghiệm được niềm hoan lạc, khi thấy chẳng
bao lâu nữa, bức tường thân xác sụp xuống và Thầy sẽ gặp được Chúa, Đấng mà
suốt đời Thầy hằng phụng sự và khao khát kiếm tìm, để được thỏa lòng yêu mến
Ngài!
I. CHÚNG TÔI TÌM ĐẾN TRIỀU BÁI NGÀI
Hôm nay, chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội mừng Lễ Hiển Linh, là
lễ Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc mà đại diện là ba nhà bác học. Bài Tin Mừng
chúng ta vừa nghe, tường thuật lại việc các nhà bác học từ Đông Phương tìm đến
Jerusalem thăm dò tin tức: "Vua người Do Thái mới sinh ra hiện đang ở đâu?
Vì chúng tôi nhận thấy ngôi sao của Người ở Phương Đông, và chúng tôi tìm đến
để triều bái Người" (Mt 2:2). Được tin đó, Vua Herođê và dân thành
Jerusalem đều xôn xao náo động. Vua tỏ ra rất hoảng hối lo sợ, cấp tốc triệu
tập các vị Đại Giáo Trưởng và các Luật Sĩ, những nhà thông Kinh Thánh, để điều
tra cho biết nơi Đức Kitô sinh ra. Sau khi được nghe các nhà thông Kinh Thánh
cho biết, Đức Kitô sinh hạ tại Belem theo như lời tiên tri đã báo trước. Vua
liền ngầm triệu tập các nhà bác học lại, hỏi han cặn kẽ, rồi phái họ đi và căn
dặn: "Các khanh hãy đi, điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy,
hãy báo lại cho trẫm, để cả trẫm cũng đến triều bái Ngài!" (Mt 2:8).
Nhưng với tấm lòng đơn thành sùng mộ, các nhà bác học đã tìm gặp được
Chúa như lòng mong ước, họ tin kính Hài Nhi là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, là
Vị Cứu Tinh nhân loại hằng trông đợi, họ phủ phục tôn thờ và dâng lễ vật triều
bái Ngài, họ được mãn nguyện vì đã gặp được Đấng là nguồn Ơn Cứu Độ, là sự
sống, là an bình và hạnh phúc.
Trái lại, Hêrođê với tâm ý nham hiểm, ông muốn tìm kiếm Ngài,
không vì tin yêu ngưỡng mộ, nhưng vì thù ghét muốn tiêu diệt Ngài, vì sợ ngai
vàng của ông sắp sụp đỗ, nên ông đã không xứng đáng gặp được Ngài. Do đó, ông
đã nổi cơn xung giận, phạm thêm một tội ác tầy trời, là truyền giết chết tất cả
các nam hài nhi từ hai tuổi trở xuống trong thành Belem và các vùng phụ cận để
hả cơn tức giận, với hy vọng tiêu diệt được cả Đức Vua mới sinh. Hêrođê đã phải
tuyệt vọng, sống bất an và đã bị lịch sử muôn đời nguyền rủa.
II. MỤC ĐÍCH CUỘC SỐNG TRÊN TRẦN GIAN
Mục đích con người sống trên trần gian là để tìm gặp Thiên Chúa,
Đấng làm thỏa mãn mọi khát vọng, Đấng là Chân Thiện Mỹ, là Hạnh Phúc vĩnh cửu,
đáng mọi loài thụ tạo trên trời dưới thế khát mong tìm kiếm.
Nhưng nếu con người chỉ tới khu rừng trần gian này "Để Săn
Thú Vật" là tình, tiền, tài, danh vọng, chức quyền thì chắc chắn không bao
giờ họ được mãn nguyện! Biết bao người đã hao tốn bao công sức trong suốt cả
cuộc đời, với bao nhiêu xảo kế quỉ quyệt lừa đảo, để hy vọng đạt được những
tham vọng ngông cuồng thiên đàng dương thế... Nhưng sau cùng, họ khác nào như
kẻ vồ bóng, càng vồ bóng càng thoát khỏi vòng tay họ, và họ đã phải tuyệt vọng,
lại phải mang hận suốt đời. Cái hậu quả tai hại của những con người cuồng tín,
tin theo thuyết vô thần cộng sản trên 70 năm qua tại Nga Sô, đã là một bằng
chứng thật cụ thể và chua cay.
Trái lại, nếu con người sống trên trần gian như là đường đưa tới
cùng đích, họ sử dụng của cải đời này như phương tiện để đi tìm gặp Thiên Chúa,
chắc chắn họ sẽ được mãn nguyện. Chính Chúa đã truyền dạy và hứa ban: "Các
con hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự Công Chính của Người trước, rồi mọi sự
khác Người sẽ ban cho các con sau cách dư dật" (Mt 6:33).
III. CHÚNG TA ĐÃ GẶP ĐƯỌC CHÚA CHƯA
Là con cái Chúa, chúng ta đã "Tìm kiếm Nước Thiên Chúa và Sự
Công Chính của Người trước", là đặt Chúa làm cùng đích tối thượng và tối
hậu, là hạnh phúc vĩnh cửu, là gia nghiệp đời đời, là Đấng chúng ta hằng khao
khát kiếm tìm; hay chúng ta còn đặt tiền, tình, tài, danh, lợi, thú hơn Thiên
Chúa? Nếu chúng ta đã thực sự đặt Chúa trên hết, đã chu toàn thánh ý Người, đi
đúng theo đường lối Chúa chỉ định, chắc chắn chúng ta sẽ gặp được Chúa, chúng
ta sẽ được hạnh phúc và được thỏa mãn mọi ước nguyện trong Chúa, vì chính Chúa
là Nguồn Hạnh Phúc của chúng ta.
Là những linh hồn đã tình nguyện làm tông đồ rao giảng sứ điệp Tin
Mừng của Chúa cho mọi người, chinh phục tha nhân về với Chúa để họ cũng được
hưởng Ơn Cứu Độ của Chúa, chúng ta đã thực sự tìm gặp được Chúa, cảm nghiệm
được niềm an vui hạnh phúc nơi một mình Chúa, chỉ khát khao chu toàn thánh ý
Chúa, muốn điều Chúa muốn, làm điều Chúa muốn và chỉ có một ước vọng duy nhất
làm vui lòng Chúa?
Hay trái lại, chúng ta còn đặt chính mình làm cùng đích, hoặc đặt bất
cứ tham vọng trần gian nào hơn Chúa, trái với sứ mạng tông đồ của chúng ta?
Kết Luận
Chúa Cha đã ban Con Một Người cho nhân loại qua tay Mẹ Maria. Do
đó, không một ai trong nhân loại được nhận biết Chúa và được diễm phúc lãnh
nhận Ngài ngoài Mẹ Maria. Các nhà bác học Đông Phương là những người thành tâm
thiện chí, các mục tử Belem là những người chất phác quê mùa, đơn sơ khiêm tốn
đã nhận ra Chúa, được diễm phúc lãnh nhận Ngài do tay Mẹ Maria trao ban.
Xin cho mỗi người chúng ta cũng được tâm hồn đơn thành khiêm tốn,
để đáng được Mẹ Maria tỏ cho chúng ta thấy Chúa Giêsu Con Mẹ nơi tha nhân, nơi
các công trình sáng tạo của Người, nơi mọi biến cố may rủi của cuộc sống, để
chúng ta luôn được nếm hưởng hạnh phúc của những tâm hồn đơn thành khiêm tốn
như các Thánh, những người con ngoan thảo của Chúa và Mẹ.
67. Lễ vật
Các nhà bác học đã dâng tiến cho Chúa Hài Nhi vàng, nhũ hương và
mộc dược. Vàng để chỉ Hài Nhi Giêsu là vua, nhũ hương để chỉ Hài Nhi Giêsu là
Chúa và mộc dược để chỉ đến cái chết đau khổ của Hài Nhi Giêsu sau này… Thế
nhưng những lễ vật này có ý nghĩa gì đối với chúng ta.
Trước hết là vàng. Vàng nói lên lòng yêu mến của chúng ta, một lòng yêu mến tinh
ròng, cao cả và mãnh liệt như lời Ngài đã xác định:
- Hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn và hết sức lực
ngươi.
Đồng thời thánh Phaolô còn nhấn mạnh:
- Ai có thể phân rẽ tôi ra khỏi lòng yêu mến đối với Đức Kitô, dù
bắt bớ, dù tù đày, dù đòn vọt, dù đói khát cũng không thể nào được.
Vàng còn làm lên sự trung kiên của chúng ta, không vì một lý do,
một hoàn cảnh nào mà bị chao đảo, mà bị lung lay để rồi đi đến chỗ phản bội.
Hãy trung thành với Chúa cho đến chết, vì không ai yêu hơn người hiến mạng sống
mình vì bạn hữu.
Sau hết, vàng còn nói nói lên sự chân thật của chúng ta. Thực vậy,
chúng ta có thể lừa dối kẽ khác chứ chẳng thể nào lừa dối được Thiên Chúa. Con
người thời nay thường thích hóa trang, thường thích đeo mặt nạ. Nhưng người
Kitô hữu phải luôn biểu lộ con người và bộ mặt thật của mình. Phải là một thứ
vàng ròng chứ không phải là một thứ vàng dổm.
Tiếp đến là nhũ hương. Nhũ hương nói lên tâm tình thờ lạy của chúng ta đối với Đức Kitô.
Thực vậy, trong những nghi thức phụng vụ, nhũ hương thường được dùng khi đọc
Phúc âm, khi dâng Mình Thánh, khi chầu Thánh Thể.
Qua hình ảnh nhũ hương chúng ta tìm thấy một niềm tin tưởng mãnh
liệt vào bản tính Thiên Chúa của Đức Kitô. Đây không phải là một niềm tin tưởng
có tính cách giáo điều hay lý thuyết mà là một niềm tin tưởng sống động và mãnh
liệt, vì Đức Kitô là Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta và trở nên lương thực nuôi
sống linh hồn chúng ta qua Bí tích Thánh Thể, cũng như đang giảng dạy chúng ta
qua lời Ngài trong Phúc âm.
Nhũ hương còn là tượng trưng cho tâm tình kinh nguyện, như thánh
vịnh đã viết:
- Lạy Chúa, xin cho lời con nguyện cầu tựa hương thơm bay lên tôn
nhan Chúa.
Sự cầu nguyện là một việc làm riêng tư, một sự kết hợp giữa tâm
hồn chúng ta với Thiên Chúa, nó xuất phát tự cõi lòng, tự con tim chúng ta.
Đồng thời sự cầu nguyện còn mang tính cách cộng đồng vì lời nguyện đẹp lòng
Chúa hơn cả là lời nguyện của Giáo Hội và với Giáo Hội, vì qua lời nguyện của
Giáo Hội chúng ta tìm thấy lời nguyện của Đức Kitô, là đầu của nhiệm thể.
Sau cùng là mộc dược. Mộc dược là niềm tin tưởng vào Đức Kitô bị đóng đinh, mà bây giờ
được tái diễn qua lễ dâng trên bàn thờ:
- Mỗi khi anh em ăn bánh này, anh em loan truyền việc Chúa chịu
chết cho tới khi Ngài trở lại.
Chính vì thế, thánh Phaolô khuyên nhủ chúng ta:
- Anh em hãy mang lấy dấu tích của Đức Kitô nơi thân xác anh em.
Vì thế, mộc dược có ý nói tới việc hy sinh hãm mình, như lời Chúa
đã phán:
- Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà
theo Ta.
Tiếp đến, mộc dược còn nói lên những hy sinh trong cuộc sống. Hãy
chấp nhận những khổ đau vì lòng yêu mến Chúa và hãy dâng tiến Chúa như một lễ
vật nhỏ mọn, bấy giờ những đau khổ của chúng ta sẽ trở nên là một góp phần vào
những đau khổ của Đức Kitô, là những giọt máu tử đạo chúng ta có thể đổ ra từng
giây từng phút để làm chứng cho Chúa.
Mỗi người chúng ta hãy suy nghĩ và tự hỏi: Chúng ta đã dâng gì để
làm lễ vật cho Chúa Hài Nhi hay chưa?
Dựa vào câu chuyện các nhà hiền sĩ bước theo ngôi sao lạ để tìm
đến Bé Giêsu, người Việt công giáo chúng ta thường treo lồng đèn ngôi sao mỗi
độ Giáng Sinh về. Người công giáo Mỹ thì không làm lồng đèn, nhưng lại đính
ngôi sao lên chóp cây Noel, như ánh sáng trên chóp đỉnh cây sự sống. Lồng đèn
Việt, hay ngôi sao trên chóp cây thông Mỹ nhắc chúng ta nhớ đến Bé Giêsu là ánh
sáng muôn dân: Chư dân sẽ lần bước tìm về ánh sáng của Ngươi. Và các vua hướng
về ánh bình minh rạng ngời trên Ngươi.
Là Nhiệm Thể của Đức Kitô, Giáo Hội trở nên ánh sáng của muôn dân.
Nhờ phép Rửa, chúng ta đã được tháp nhập vào Nhiệm Thể Đức Kitô, không phải
chúng ta sống nữa, nhưng là chính Chúa Giêsu sống trong ta (Gl 2,20). Chúng ta
có bổn phận phải trở nên ánh sáng cho con em, học trò, bạn bè của chúng ta.
Chúng ta không thể sung sướng, thỏa mãn, an vui ôm lấy ngôi sao, chỉ đính lên
chóp cây thông trong nhà mình, chỉ nhà mình hưởng, nhưng phải là lồng đèn chiếu
sáng, đem treo ngoài ngõ, cho người khác chung hưởng nguồn vui của ơn cứu sống
Thiên Chúa đã ban qua Con của Người: Chính anh chị em là ánh sáng cho trần
gian. Một thành xây trên núi không tài nào che dấu được. Cũng chẳng có ai thắp
đèn lên rồi lấy thùng ụp lại, nhưng đặt trên đế, và nó soi sáng cho mọi người.
Cũng vậy, ánh sáng của anh chị em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ
thấy những công việc tốt đẹp anh chị em làm, mà tôn vinh Cha của anh chị em,
Đấng ngự trên trời (Mt 5,14-16). Chúng ta đã trở nên ngôi sao, và chúng ta phải
sống cho xứng là ngôi sao lạ dẫn lối cho lương dân đến cùng Bé Giêsu: Con em,
học sinh, bạn bè sẽ lần bước tìm về ánh sáng của Chúa Kitô. Và họ sẽ hướng về
ánh bình minh rạng ngời trên chúng ta.
Cũng như ngôi sao lạ trong chuyện ba vua, lắm khi ngôi sao của
chúng ta cũng biến mất, tịt luôn. Là thân phận con người, ai mà không quên sót,
phạm tội, hay ngã lòng. Nhưng Thiên Chúa vẫn hằng tin nhờ con người yêu đuối
chúng ta. Chúng ta chỉ cần trông cậy vào ơn thánh, rồi gắng xuất đầu lộ diện
trở lại, như ngôi sao lạ đã hiện ra lại cho các nhà hiền sĩ trong Tin Mừng: Bấy
giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi
ở, mới dừng lại. Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Họ vào nhà, thấy Hài
Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình bái lạy Người, rồi mở bảo tráp,
lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. Sau đó, họ được báo mộng là đừng
trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
Nếu bạn đã tạm ngưng làm tông đồ, làm giáo lý viên... thì nay xin
mời bạn tái xuất giang hồ nhe. Hãy dấn thân trở lại. Hãy là ngôi sao lạ cho
người chung quanh. Trông thấy bạn trở lại, họ sẽ mừng rỡ vô cùng. Bạn và tôi,
chúng ta được mời gọi làm ngôi sao lạ, không phải để cho con em, học trò, bạn
bè chiêm ngắm mình, rồi trầm trồ ca ngợi, nhưng là để dẫn con em, học sinh, bạn
bè đến NHÀ HÀI NHI. Và một khi các nhà hiền sĩ đã vào NHÀ BÉ GIÊSU đã gặp Ngài,
gặp Mẹ Ma-ri-a và thánh cả Giu-se, thì không còn ai nhắc đến ngôi sao nữa. Đời
tông đồ của chúng ta cũng thế: phải quy về Kitô, và chỉ quy về Kitô. Ơn giáo
dục của chúng ta chỉ là sứ mạng dẫn trẻ đến cùng Chúa Giêsu. Nếu chúng ta cứ
đứng chình ình ra đó, thu hút trẻ đến với mình, thì cũng có thể chúng ta thành
công trong một thời gian ngắn. Nhưng chúng ta sẽ như những sao xẹt. Trái lại,
nếu chúng ta biết lui vào quên lãng sau khi dẫn trẻ vào Nhà của Chúa Giêsu, thì
chúng ta sẽ được Ngài biến thành sao lạ, cho sáng chói giữa muôn vì sao:Những
ai giảng dạy đường công chính cho nhiều người sẽ muôn đời sáng chói như tinh
sao. Lạy Chúa Giêsu, chỉ có Chúa là cùng đích, chỉ có Chúa là nguồn gốc mọi ơn
tông đồ.
Trước đây chúng ta gọi ngày lễ hôm nay là lễ Ba Vua, đây là cách
gọi quen thuộc đối với giáo dân Việt Nam, để nói về việc các nhà chiêm tinh
phương Đông tìm đến Bêlem viếng Chúa Hài Đồng. Gọi là vua vì họ mặc phẩm phục
như các vị đế vương, và xác định là ba người, vì có ba sắc dân được nói đến
trong sách ngôn sứ Isaia, mà cũng vì lễ vật tiến dâng có ba thứ rõ ràng là
vàng, nhũ hương và mộc dược như Tin Mừng thuật lại. Cứ thế, theo truyền thống,
Ba Vua trở nên tên gọi cho ngày lễ.
Nhưng điều quan trọng không phải là xác định họ là vua hay không
phải là vua, họ có ba vị hay bao nhiêu vị, mà chính là hãy nhìn họ như hình ảnh
sống động của tất cả những ai trong đời đã có một lòng khao khát chân thành tìm
kiếm Thiên Chúa khởi đi từ những thiện hảo tốt lành, nghĩa là họ là dân ngoại
từ xa, không biết Kinh Thánh, nhưng lại chân thành và sẵn sàng vượt qua những
chặng đường gian khổ để tìm gặp Chúa, trong khi đó dân Do Thái ở gần, hiểu biết
Kinh Thánh, lại không mảy may kiếm tìm.
Mặc dầu tên gọi ba vua vẫn giữ nguyên giá trị cổ kính, nhưng ngày
nay Phụng Vụ sử dụng tên gọi Hiển Linh để làm nổi bật ý định mầu nhiệm chung
nhất của Thiên Chúa trong Mùa Giáng Sinh, đó là Ngài muốn tỏ mình ra cho tất cả
mọi người, mọi thời, bất luận họ là ai và ở đâu, miễn là họ biết chân thành
kiếm tìm Ngài. Vì thế, đây không chỉ là một biến cố của ngày đã qua mà còn là
một sứ điệp của ngày hôm nay và cho những ngày sẽ tới, Chúa vẫn tỏ mình, nhưng
vấn đề là người ta có thiện chí đến gặp Ngài không.
Trong một tập truyện ngụ ngôn xuất bản gần đây, một linh mục đã
tưởng tượng ra một câu chuyện như sau: Có một người đạo đức kia ước ao được xem
thấy Chúa trước khi chết, ngày ngày bà ăn chay, cầu nguyện để ước nguyện này
được Chúa nhận lời. Thế là một đêm nọ trong một giấc mơ, bà được Chúa cho biết
sẽ đến thăm bà, suốt ngày hôm sau, bà quét dọn và trang hoàng nhà cửa để đón
rước Chúa, thế nhưng bà chờ mãi mà không thấy Chúa đến.
Trong đêm kế tiếp, có tiếng Chúa hỏi: Tại sao bà không tiếp đón
Ngài? Người đàn bà trả lời bà đã chờ đợi Chúa ở trước cửa. Chúa cho bà biết
Chúa đã chờ đợi ở cửa sau. Ngày hôm sau, người đàn bà lại chờ đợi Chúa ở cửa
sau, nhưng bà vẫn không thấy bóng dáng Chúa. Đêm đến lại có tiếng Chúa hỏi tại
sao bà không đón tiếp Chúa, bởi vì Ngài đến qua các cửa sổ. Suốt ngày hôm sau,
người đàn bà hết ra cửa trước lại về cửa sau và nhìn qua các cửa sổ, nhưng bà
cũng không hề thấy tăm hơi của Chúa. Đêm đến, bà lại nghe có tiếng nói của
Chúa, và lần này Chúa bảo bà hãy tìm Ngài bên giếng sau nhà. Cũng thế, người
đàn bà đã chạy ra bờ giếng, nhưng cũng không thấy Chúa đâu. Không còn đủ kiên nhẫn
nữa, bà đã trách Chúa tại sao lại chơi trò cút bắt với bà. Bấy giờ Chúa mới
nói: “Nếu con định đón rước Ta ở một nơi nào đó thì mãi mãi sẽ không bao giờ
thấy Ta ở đâu cả, thay vì tìm kiếm khắp nơi, con hãy mở mắt tâm hồn và con sẽ
thấy Ta”.
Đêm đó, người đàn bà không còn nghe thấy tiếng Chúa nữa, nhưng
chung quanh mình, bà chỉ thấy bóng đêm dầy đặc, nhưng chính lúc đó, khi con mắt
tâm hồn bà đã được mở rộng, bà đã nhìn thấy Chúa ở khắp mọi nơi. Đúng vậy,
chúng ta chỉ có thể thấy Chúa bằng con mắt tâm hồn mà thôi, nếu tâm hồn chúng
ta rộng mở, nếu tâm hồn chúng ta trong sạch, nghĩa là không bị ngăn chặn bởi
bất cứ bức tường nào của dục vọng, của đam mê, ích kỷ, tiền bạc… thì chúng ta
có thể thấy Chúa ngay cả trong mỗi người chúng ta gặp gỡ.
Xưa kia Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho ba nhà chiêm tinh bằng ánh
sao lạ, chính nhờ ánh sao này, các ông đã đi tìm và đã gặp được Chúa Giêsu
giáng sinh để thờ lạy. Từ đó Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình ra cho nhân loại
để con người nhận biết sự thật và đón nhận sự sống. Cũng như ngày xưa Thiên
Chúa đã mời gọi các ngôn sứ cộng tác, ngày nay Ngài cũng mời gọi chúng ta cộng
tác vào công cuộc cao cả ấy, vẫn cần có những ánh sao để chỉ đường dẫn lối cho
những người khác gặp thấy Chúa. Người Kitô hữu được mời gọi trở thành ánh sao
cho những người chung quanh ngay trong cuộc sống bình thường hằng ngày của
mình, để trong sinh hoạt bình thường ấy, người ta có thể gặp được những tín
hiệu dẫn đưa đến Thiên Chúa, đó là ánh sao của cho đi, của quên mình, của bác
ái, của phục vụ… những ánh sao đó có sức tỏa sáng, giúp người ta nhận ra Thiên
Chúa, nhận ra tình thương của Ngài.
Tại nước Camơrun ở Phi Châu, có một vùng đất tên là Fontem, dân số
khoảng 20 ngàn người, là một bộ lạc bị đe dọa tuyệt chủng vì nhiều thứ bệnh,
nhất là bệnh ngủ và bệnh giun chỉ.
Tộc trưởng của bộ lạc Fontem đã đi cầu cứu nhiều nước và nhiều tôn
giáo nhưng không kết quả. Cuối cùng, ông đã đến với Đức cha Peters thuộc giáo
phận Buca ở Camơrun, đặt vào tay ngài một số tiền và nói: “Bộ lạc chúng tôi
chẳng tốt lành gì để đáng được Chúa thương nhận lời, vậy chúng tôi xin Đức cha
và các tín hữu của ngài cầu cùng Chúa cho chúng tôi. Hy vọng Chúa sẽ nhận lời”.
Đức Cha Peeters và giáo dân của người không chỉ cầu nguyện mà còn
hành động. Họ chung tay góp sức làm cho bộ lạc Fontem ngày càng tốt đẹp hơn.
Khởi đầu là 2 bác sĩ, 1 bác sĩ thú y, cùng với 3 phụ nữ thuộc phong trào Giáo
dân Hoạt động cho thế giới được Hiệp nhất trong Yêu thương.
Ngày nay, bộ lạc Fontem đã hoàn toàn đổi mới. Xưa kia là rừng thiêng
nước độc thì nay là phố xá đô hội. Điều bất ngờ là chính thành phố này lại là
chiếc nôi của một phong trào Giáo dân Thiện nguyện tới phục vụ ở rất nhiều nước
tại Phi Châu. Số người xin học đạo và gia nhập Giáo hội nhiều vô kể.
“Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện”. Các nhà đạo sĩ đã
nhìn thấy ánh sao lạ, và đã mau mắn lên đường trong niềm hy vọng tràn đầy.
Vâng, chính trong niềm hy vọng tràn đầy mà tộc trưởng Fontem đã hăng hái đến
với Đức cha Peeters như ánh sao hy vọng. Ong hy vọng bộ lạc của ông sẽ thoát
cảnh bệnh tật và nghèo đói, ông hy vọng dân tộc mình sẽ bước theo kịp văn minh
tiến bộ của nhân loại. Cuối cùng, hoa hy vọng đã khai mùa mở cánh. Bộ lạc của
ông đã được ngôi sao hy vọng tỏa sáng để họ không chỉ đến với nền văn minh khoa
học mà còn tiến bước vào nền văn minh tình thương.
Ngôn sứ Isaia đã nói: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một
ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng
lên chiếu rọi”.
Ánh sáng bừng lên chiếu rọi, chính là Đức Giêsu Kitô, Ngôi Sao Hy
Vọng của muôn dân. Kể từ khi nguyên tổ phạm tội, ánh hào quang của địa đàng vụt
tắt, nhân loại mò mẫm trong bóng đêm tội lỗi, mỏi mòn chờ mong ánh sáng cứu độ
chiếu rọi nhân gian.
Ngôi Sao Hy Vọng đã xuất hiện ở trời Đông, và sẽ không bao giờ lặn
đi.
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình cho dân ngoại, mà đại diện là ba
nhà đạo sĩ, trong đó có tất cả chúng ta.
Nếu Chúa là Ngôi Sao Hy Vọng, đã chiếu rọi vào cuộc đời tăm tối
của chúng ta, thì Người cũng muốn chúng ta sẽ là những ánh sao, luôn chiếu tỏa
niềm tin yêu và hy vọng nơi con người.
Nếu Chúa là Ngôi Sao Hy Vọng, đã không bao giờ thất vọng về con
người, cho dù con người thất trung phản bội, thì chúng ta cũng đừng bao giờ
thất vọng về chính mình.
Nếu Chúa là Ngôi Sao Hy Vọng, đã không hề để ai phải thất vọng khi
trông cậy nơi Người, thì chúng ta cũng đừng bao giờ để một nỗi thất vọng nào
chạm được đến anh em.
Tuy Ngôi Sao Hy Vọng xuất hiện ở Phương Đông đã 2000 năm qua,
nhưng tại Á Châu này tỷ lệ những người được Ngôi Sao chiếu rọi mới chỉ có
10,4o/o. Đó là nỗi thao thức của Giáo hội và cũng là trách nhiệm của mỗi người
chúng ta. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II bày tỏ trong Tông Huấn “Giáo hội tại Á
Châu” như sau: “Những kẻ tin vào Chúa Kitô vẫn là một thiểu số bé nhỏ trong lục
địa mênh mông và đông dân nhất này. Nhưng không phải là một thiểu số nhút nhát,
họ sống đức tin cách sống động đầy hy vọng và ban sức sống, mà chỉ có duy nhất
tình yêu, mới có thể mang lại”.
“Tham vọng duy nhất của Giáo hội là tiếp tục sứ mạng phục vụ và
yêu thương của mình, để tất cả dân Á Châu “có sự sống và sống dồi dào”.
71. Món quà trao tặng
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.)
Nhìn vào các hang đá, ngoài những nhân vật quen thuộc như Chúa
Giêsu Hài đồng, Đức Maria, thánh Giuse, mấy mục đồng… Chúng ta còn thấy ba
người mặc phẩm phục như những ông vua, tay mang lễ vật, đang khúm núm rất trịnh
trọng trước hài nhi mới sinh. Họ là ai? Họ từ đâu đến? Họ thuộc nước nào? Tại
sao họ có mặt ở đây?
Theo mẫu đối thoại thánh Matthêu kể lại trong Tin Mừng, người ta
truyền tụng nhau và gọi họ là ba vua. Nhưng thực sự Tin Mừng không nói thế mà
chỉ gọi họ là các nhà chiêm tinh, tức là các ông lớn, những nhà thông thái,
chuyên nghiên cứu thiên văn, nghiên cứu các ngôi sao để cố vấn cho nhà vua
trong vấn đề chính trị.
Có nhiều người lại đặt ra vấn đề: các ông này có thật không hay
chỉ là một huyền thoại? Cho đến nay, ngoài phạm vi tôn giáo, chưa có một nguồn
tài liệu nào khẳng định rõ ràng dứt khoát. Ở vùng Trung Đông có rất nhiều nước
kể chuyện này và được coi như một chuyện cổ tích. Nhưng đối với chúng ta, dựa
vào Tin Mừng, thì sự hiện diện của ba vị này ở hang đá Bêlem là chuyện có thực.
Nhưng các ông từ đâu đến thì chúng ta không thể căn cứ vào đâu mà xác quyết. Có
một điều chắc chắn là cũng chỉ ở trong vùng Trung Đông thôi. Tuy nhiên, những
chi tiết đó không quan trọng, điều quan trọng nhất là bài học mà các vị này để
lại cho chúng ta.
Trước hết, cuộc hành trình của các nhà chiêm
tinh được xem là hình ảnh cuộc hành trình đức tin của chúng ta. Với một dấu hiệu không chắc
chắn, không rõ rệt là một ngôi sao, các ông đã lên đường tìm kiếm sự thật. Với
tấm lòng yêu chuộng sự thật, các ông đã miệt mài tìm kiếm cho đến khi biết được
sự thật và gặp được Chúa Giêsu. Cuộc đời của chúng ta cũng phải luôn đi tìm
Chúa. Dù chúng ta đã có đức tin, nhưng lòng tin của chúng ta có những lúc bị
chao đảo, bị thử thách vì những khó khăn, đau khổ của cuộc sống. Nhưng dù hoàn
cảnh thế nào, chúng ta vẫn kiên quyết giữ đức tin và sống đức tin.
Chúng ta phải sống bằng đức tin chứ không thể sống bằng tình cảm.
Trong tình cảm có vui có buồn. Nhưng vui buồn lúc có lúc không. Nếu chúng ta
chỉ dựa vào niềm vui và khi vui mới khiến chúng ta tin. Vậy khi hết niềm vui
thì sao? Lòng tin của chúng ta sẽ bị suy giảm. Hay khi gặp những chuyện buồn
thì sao? Chúng ta còn tin không? Vì thế, chúng ta phải sống bằng niềm tin vững
chắc, không lệ thuộc vào ai, cũng không lệ thuộc vào hoàn cảnh.
Hơn nữa, đức tin của chúng ta phải được thể hiện bằng những việc
làm cụ thể. Thánh Giacôbê đã nói: “Đức tin không có việc làm là một đức tin
chết”. Chúng ta tin vào tình yêu Chúa Kitô. Niềm tin ấy không chỉ là một hạt
giống gieo trong lòng chúng ta rồi nằm yên đấy. Một niềm tin như thế có lẽ
chẳng ích lợi gì cho chính mình hay cho bất cứ ai. Đức tin của chúng ta cần
phải trổ sinh hoa trái bằng việc làm để mọi người có thể hiểu được thế nào là
tình yêu mà chúng ta tin và có thể nhận ra khuôn mặt của Đấng mà chúng ta suy
phục, tôn thờ.
Thứ hai, các vị này đã dâng cho Chúa Hài đồng
vàng, nhũ hương và mộc dược. Đó là ba loại lễ vật đặc biệt và quí giá nhất
của Đông phương. Nhưng những lễ vật vô tri kia chỉ là dấu hiệu biểu lộ tâm hồn
của họ, chứng tỏ lòng ngưỡng mộ, tôn kính và yêu mến của họ đối với Chúa Hài
đồng.
Văn sĩ Dô-ơ-den-sen (Joergensen), người Đan Mạch đã nghĩ ra một câu
chuyện minh họa cho chúng ta thấy rõ điều đó. Ông đã tưởng tượng ra một vị
chiêm tinh thứ tư. Vị này đến gặp Chúa Giêsu hài đồng sau ba vị kia. Gặp Chúa,
nhưng ông rất buồn vì không còn gì để dâng tặng cho Ngài. Trước khi lên đường,
ông đem theo ba viên ngọc quí giá. Dọc đường, ông gặp một cụ già đói nghèo, ông
tặng viên ngọc thứ nhất. Đi thêm một đoạn đường, ông gặp một toán lính đang làm
nhục một cô gái. Ông lấy viên ngọc thứ hai thương lượng với chúng để chuộc cô
gái. Cuối cùng, khi đến Bêlem, ông gặp một người lính do vua Hêrôđê sai đi để
tàn sát các hài nhi, ông lấy viên ngọc thứ ba cho anh ta và thuyết phục anh ta
từ bỏ hành động gian ác. Đến khi gặp được Chúa Hài đồng, ông chỉ còn hai bàn
tay trắng. Ông bối rối kể lại cuộc hành trình của mình. Nhưng thật lạ lùng,
Chúa Giêsu đưa hai tay ra và mỉm cười nói với ông: “Con đã dâng cho Ta món quà
quí giá nhất. Nó không phải là vàng bạc châu báu, nhưng được dệt bằng những
nghĩa cử đối với tha nhân”.
Chúa Giêsu đã nói: “Bất cứ điều gì các con làm cho người khác là
làm cho chính Ta”. Chúng ta vẫn luôn gặp Chúa trong cuộc sống hằng ngày qua
những anh chị em sống với chúng ta, và tất cả những gì chúng ta làm cho họ là
chúng ta làm cho chính Chúa. Như vậy, lễ vật làm hài lòng Chúa nhất chính là
những gì chúng ta trao tặng cho tha nhân.
Truyện kể trong một khu rừng kia có con cáo mù bị lạc đường. Đamg
lúc lo âu sốt ruột, đột nhiên nghe tiếng bước xa xa đến gần, con cáo vội vàng
hỏi trong vui sướng:
- Chào anh bạn, xin hỏi đường về nhà tôi đi bằng cách nào?
- Anh không thấy đường sao?
- Thấy thì còn hỏi anh làm gì.
Đối phương lần chần một chút rồi trả lời:
- Được rồi, anh đi với tôi. Con cáo đi sau lưng anh bạn ấy, bảo
sao nghe vậy. Đi không bao lâu, hai đứa tập tễnh tiến vào ngõ cụt, đi mãi mà
không ra khỏi đó, cuối cùng con cáo chịu không nổi phải thốt lên.
- Anh dẫn đường nhưng rốt cuộc anh dẫn như thế nào đấy chứ?
Hồi lâu, chỉ nghe đối phương biết lỗi nói: Xin lỗi bởi vì tôi cũng
mù như anh vậy.(Hàn Lâm Tử)
Câu chuyện trên cho ta thấy con cáo mù rất muốn tìm đường về nhà,
chắc chắn là nó rất lo lắng bối rối và sợ lắm. Khi gặp được người bạn dẫn đường
thì cáo mừng lắm, nhưng cuối cùng thì cả hai đều bị đi vào ngõ cụt vì không có
ai thấy ánh sáng thấy đường để mà đi. Trong cuốc sống rất có thể chúng ta đang
là một con cáo mù, vì không biết mở mắt ra để đón lấy ánh sáng. Chúng ta không
khác gì dân thành Giêrusalem xưa, trong cùng một cảnh ngộ mà các nhà đạo sĩ từ
phương xa lại nhìn thấy ánh sáng để đi tìm Đấng Cứu Thế. Còn họ thì lo mãi mê
yêu đời, sống cuộc sống hưởng thụ, vui chơi với tất cả tiện nghi, một cuộc sống
không thiếu thốn sự gì. Ngày nay với nên khoa học tiên tiến, đưa con người đến
ánh sáng hiện đại nhưng lại đẩy họ vào ánh sáng tội lỗi; biết những nơi ăn chơi
thác loạn mà không bao giờ tìm tới nhà thờ, ham thích nhảy múa ca hát mà không
bao giờ biết dùng lời kinh cầu nguyện dâng lên Chúa. Các đại gia dám bỏ ra hàng
triệu dollar để ăn chơi trác táng, mà không dám bỏ ra 500 đồng để làm việc bác
ái... rất nhiều, còn rất nhiều việc làm của chúng ta đang ở trong bóng tối,
ngôi sao sáng của Chúa vẫn đang sẵn sàng chiếu tỏa ánh sáng, chỉ cần chúng ta
đừng vô tình, đừng dửng dưng nữa mà hãy quyết tâm bằng cả thiện chí đứng lên và
bước ra khỏi đời sống tầm thường đó, cùng đi với các đạo sĩ theo ánh sao lạ dẫn
đường tìm Đấng Cứu Thế.
Con cáo mù không về nhà được vì người bạn dẫn đường cũng bị mù.
Nhiệm vụ truyền giáo là công việc của tất cả những người Kitô hữu, đó là dẫn
mọi người "bị mù" tìm gặp ánh sáng Chúa Kitô. Con đường truyền giáo
hoàn toàn không dễ như ta tưởng, nếu không khéo ta cũng giống như người bạn của
con cáo mù, không những đưa bạn về không được mà cả mình cũng không thể về.
Điều cần thiết là mỗi người chúng ta phải là ánh sáng chiếu soi trong bóng tối,
và trong tâm hồn những người thiện chí vì như Chúa Giêsu đã nói: "Các con
là ánh sáng trần gian" ( Mt 5, 14). Khi nghe câu nói đó, tôi nhận ra ngay
một điều là Thiên Chúa muốn gởi đến cho chúng ta một thông điệp truyền giáo và
ngay lúc này chúng ta phải là muối là ánh sáng.
Ánh sáng Tin Mừng đã được rao giảng hơn 2000 năm, nhưng cánh đồng
truyền giáo vẫn còn bao la bát ngát. Đặc biệt là trong cánh đồng truyền giáo ở
Việt Nam , còn rất nhiều người đang mò mẫm tìm đường đi. Do đó, chúng ta phải
là ngôi sao dẫn đường cho anh chị em lương dân, ở giữa họ với một con tim cởi
mở và yêu thương. Nhất là qua đời sống hàng ngày họ sẽ tìm gặp được Hài Nhi
trong hành động của chúng ta.
Chúng ta cũng rất dễ rơi vào thái độ dửng dưng với lời kêu gọi của
Giáo hội, cứ nghĩ nếu ta không làm thì vẫn còn người khác làm. Nếu ai cũng nghĩ
như ta thì làm gì có các nhà truyền giáo, làm gì có hạt giống Tin Mừng nào được
gieo ở Việt Nam và chúng ta vẫn là con cáo mù vẫn chưa tìm được đường về nhà.
Nhưng ngược lại, nếu tất cả các tín hữu Việt Nam nghe theo lời mời gọi truyền
giáo, và mau mắn đáp trả thì Hội Thánh Chúa đã có những bước tiến rất xa. Vậy
ta hãy ý thức mình vẫn là một hạt cát quan trọng trong sa mạc truyền giáo của
Chúa.
Lạy Chúa, Xin giúp con trở thành một ánh sao soi đường, dẫn lối
cho những người xung quanh trên bước đường tìm gặp Chúa.
Có một giai thoại nói rằng không chỉ có ba nhà đạo sĩ, mà đến bốn
vị. Tên của vị thứ tư là Artaban. Ông cũng nhìn thấy ngôi sao và đã quyết định
dõi theo ngôi sao, ông mang đi một viên hồng ngọc, một viên ngọc bích và một
viên kim cương làm quà biếu vị Vua mới. Ba người đồng hành là Caspar, Melchior,
và Balthasar đang chờ đợi ông tại một điểm hẹn. Tuy nhiên, trên đường đến đó,
ông gặp một người bị thương nằm bên vệ đường. Ông đưa vào quán trọ, và săn sóc
người đó.
Cuối cùng, khi đến điểm hẹn, ông phát hiện rằng những người bạn
đồng hành của ông đã bỏ đi rồi. Vì cần có một con lạc đà và những đồ dự trữ để
vượt qua sa mạc, nên ông đã bán đi một viên ngọc bích để mua những thứ đó. Khi
gần đến Bêlem, một lần nữa, ông lại đến quá trễ, Đức Maria và thánh Giuse đã
đưa con trẻ trốn sang Ai cập, để lẩn tránh những tên giết người của vua Hêrôđê.
Trong ngôi nhà mà ông đang tá túc, có một đứa bé trai lên 1 tuổi.
Bà mẹ rất lo sợ cho mạng sống của con trai bà. Vào một buổi tối, quân lính đến
gõ cửa, Artaban đi ra gặp họ. Ông lấy viên hồng ngọc hối lộ cho quân lính không
vào nhà, và đã cứu thoát được đứa trẻ. Bà mẹ rất đỗi vui mừng. Tuy nhiên,
Artaban lại buồn rầu bởi vì lúc bấy giờ, ông chỉ còn lại một viên kim cương duy
nhất để làm quà biếu vị Vua mà thôi.
Trong suốt những năm sau đó, ông đã đi nhiều nơi để tìm kiếm vị
Vua. Nhưng dường như ông luôn luôn đến trễ. Khoảng 30 năm sau, ông đến
Giêrusalem. Bấy giờ, ông đã già yếu kiệt sức, và mất nhuệ khí. Ngay hôm ông đến
đó, thì có một số người bị đóng đinh. Ông kinh hãi khi nghe tin rằng Đức Giêsu
ở trong số những người đi xử tử. Ông vội vàng đến ngọn đồi nơi diễn ra cuộc
hành quyết. Có lẽ với viên kim cương, ông có thể cứu thoát được mạng sống của
Đức Giêsu.
Tuy nhiên, trên đường đến đồi Can-va-riô, ông gặp một cô gái đang
chạy trốn một toán lính. Cha của cô gái đó đã bị mắc lừa những khoản nợ lớn, và
cô gái bị bán đi làm nô lệ. Artaban lấy viên kim cương của ông ra, đưa cho quân
lính, và cô gái đó đã được thả cho đi. Nhưng bây giờ, ông phải đến gặp vị Vua
với hai bàn tay trắng.
Ngay sau đó, bầu trời bắt đầu tối tăm u ám. Một trận động đất rung
chuyển mặt đất. Các nhà cửa bắt đầu bị lay động. Những viên ngói trên mái nhà
bắt đầu bay vèo vèo. Một trong những viên ngói đó rơi trúng vào đầu của
Artaban. Ông gắng sức vật lộn với vết thương chết người đó. Nhưng ông đã chết
trước khi đến gần được ngọn đồi nơi diễn ra cuộc hành quyết. Ông không bao giờ
gặp gỡ được vị Vua.
Tuy nhiên, về mặt ý nghĩa, Artaban luôn luôn có vị Vua của ông.
Trong suốt những năm tháng đó, ông đã mang vị Vua này trong tâm trí và cõi lòng
của ông. Vị Vua này đã truyền lại cho ông những hành động đầy yêu thương, quảng
đại, và đã soi sáng cho cuộc hành trình của ông đầy ý nghĩa và hy vọng.
Artaban đã tìm thấy vị Vua của mình, bởi vì người nào, thực sự tìm
kiếm Thiên Chúa, thì đã tìm thấy Người rồi. Artaban là một gương mẫu của lòng
tin. Những ai tin tưởng và yêu mến Đức Giêsu thì đều được thay đổi: họ hành
động và sống một cách khác hẳn.
Trong một buổi sáng lạnh lẽo, ba người làm nghề hái dừa đang sưởi
ấm quanh đống lửa. Khi ấy, hai người trong bọn họ tranh luận với nhau để so
sánh xem đạo của ai là đạo thật. Okoro, người cao tuổi nhất trong bọn chỉ ngồi
yên lặng nghe hai người kia tranh luận. Đột nhiên, hai người kia quay sang nói
với Okoro rằng: “Quyết định dùm chúng tôi, Okoro. Tôn giáo nào đúng?” Okoro
vuốt râu, ngẫm nghĩ và nói: “Các anh nên biết rằng, có ba lối để đi từ đây lên
xưởng ép dầu. Anh có thể đi thẳng lên đồi, đấy là lối ngắn nhất nhưng phải leo
dốc cao nhất. Anh có thể đi quanh bên phải của ngọn đồi, lối ấy không xa nhưng
đường gập ghềnh và nhiều ổ gà lồi lõm. Hoặc là anh có thể đi quanh bên trái của
ngọn đồi, đấy là đường xa nhất nhưng lại là lối đi dễ nhất”. Okoro nói thêm
rằng: “Các anh nên biết rằng, khi các anh đến nơi, người chủ không hỏi các anh
đến bằng cách nào. Ông ta chỉ hỏi hoa quả các anh mang đến có tươi tốt không?”
Trong những câu chuyện kể về Đức Giêsu sinh ra, có hai nhóm người đến
kính viếng hài nhi mới sinh, đó là mục đồng và ba vua. Tại sao giáo hội không
có lễ kính các mục đồng để tưởng nhớ việc họ đã kính viếng Chúa Hài Đồng, nhưng
hôm nay giáo hội lại đặc biệt cử hành lễ Hiển Linh để kính nhớ ngày ba vua kính
viếng Hài Nhi Giêsu? Bởi vì sự viếng thăm của ba vua là một bất ngờ. Các mục
đồng biết được việc Chúa sinh ra là do các thiên thần trực tiếp hiện đến trong
đêm vắng để báo tin. Đấy là sự bày tỏ tự nhiên và hầu hết mọi người trong chúng
ta đều lãnh hội được. Về phần ba vua thì khác, họ biết tin Chúa sinh ra là do
họ quan sát một ánh sao. Ngôi sao chẳng nói với họ điều gì. Họ đã phải tự tìm
hiểu dấu hiệu tự nhiên của ánh sao để biết ý nghĩa và nơi mà ánh sao đã dẫn đưa
họ đến. Nếu chúng ta nhớ rằng, ba vua là những người thờ lạy thiên nhiên, sùng
bái tạo vật qua việc quan sát sự di chuyển của tinh tú và các thiên thể Chúa
tạo dựng, thì chúng ta sẽ thấy rằng việc ba vua chiêm bái Hài Nhi Giêsu là một
thách đố cho niềm tin của chúng ta.
Như những người hái dừa, người theo đạo thường tin rằng chỉ có
truyền thống tôn giáo của mình mới đúng là đường đến với Chúa. Đây là điều
chúng ta thường nghe khi đề cập đến lời của Đức Giêsu: “Chính Thầy là con
đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”
(Gioan 14:6). Chúng ta vội vã kết luận rằng con đường của Chúa tương đương với
truyền thống tôn giáo của mình. Nhưng sấm ngôn của Chúa cảnh cáo chúng ta về
những diễn giải hạn hẹp ấy rằng: “Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư
tưởng của các ngươi, đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Isaia
55:8); đấy là lý do làm cho chúng ta ngỡ ngàng về việc ba vua kính viếng Chuá
Hài Đồng, và là câu chuyện lạ thường để cho chúng ta biết rằng Chúa không giới
hạn bất kỳ một truyền thống tôn giáo nào.
Nên để ý xem có bao nhiêu truyền thống tôn giáo khác nhau tìm biết
Con Thiên Chúa giáng trần. Bọn mục đồng, bị xem là hạng người dơ bẩn không đáng
được vào Đền Thờ cầu nguyện nếu không trải qua thời kỳ thanh tẩy; họ đã tìm
biết Chúa qua các thiên thần trực tiếp hiện ra báo tin. Ba vua đã tìm biết Chúa
bằng sự quan sát ánh sao. Và các kinh sư của vua Hêrôđê thì tìm biết Chúa qua
sách ngôn sứ. Thị ứng, ánh sao, sách thánh... Nhiều cách khác nhau nhưng đã đưa
đến một chân lý. Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là bất cứ truyền thống tôn
giáo nào cũng tốt lành như nhau. Thánh Matthêu cho chúng ta biết rằng khi ánh
sao dẫn lối đến Giêrusalem thì tắt, và ba vua đã phải nhờ các kinh sư chỉ lối
đến Bê-Lem. Tuy rằng đã có ánh sáng tự nhiên của ánh sao, ba vua vẫn cần ánh sáng
siêu nhiên của sách thánh, để cuối cùng tìm đến được với Chúa.
Vậy câu hỏi chính của câu chuyện là: “Ai đã thật sự tìm biết Chúa
Giêsu?” Vua Hêrôđê và các kinh sư, người có ánh sáng siêu nhiên là kinh thánh
nhưng lại không tìm thấy Chúa, nhưng ba vua là những người đi theo ánh sáng tự
nhiên của ánh sao đã có thể tìm ra Chúa. Tại sao? Vì giới cầm quyền Do-Thái có
được chân lý tỏ ra trong sách thánh nhưng họ đã không tin theo. Họ đã không
bước đi trong ánh sáng của thánh kinh. Còn ba vua thì khác, họ chỉ biết ánh sao
và bước theo ánh sao dẫn lối. Việc có được chân lý không quan trọng cho bằng
làm thế nào để chuẩn bị bước đi trong ánh sáng của chân lý ấy mà chúng ta đang
nhận biết. Thà rằng chúng ta có ánh sao mờ dẫn lối, còn hơn là có được ánh sáng
siêu nhiên chói chan của thánh kinh mà chúng ta lại sao lãng, hững hờ.
Là Kitô hữu, chúng ta hằng tin rằng chính tôn giáo cho ta có con
đường công chính. Nhưng điều ấy có đem lại bổ ích gì nếu chúng ta không bước đi
theo con đường công chính ấy. Những người sùng bái thiên nhiên hoặc kẻ không
biết Chúa, họ chỉ biết thành tâm quyết chí theo ánh sáng mờ ảo của thiên nhiên;
họ có thể đến với Chúa Giêsu trước những Kitô hữu hằng tán tụng Thiên Chúa,
nhưng không bước đi trong đức tin. Đấy thật là một thách đố mà chúng ta cần đối
diện trong câu chuyện ba vua, những người đã tìm và đã gặp được Chúa.
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR)
Không mấy ngạc nhiên là trong thời đại khoa học và lý luận này,
người ta đều quan tâm nhiều đến tinh tú, chiêm tinh, tướng số tử vi. Ai nấy đều
hài lòng khi đọc thấy trước một điều gì ngoạn mục sắp xẩy đến. Hành trình của
ba Đạo sĩ theo ánh sao trời đi qua bao đồi núi sa mạc đã làm xôn xao tâm hồn
chúng ta. Chúng ta cảm thấy mình cũng có những vì sao riêng cho mình dõi theo,
một con đường riêng mà chỉ một mình chúng ta được kêu gọi dấn bước.
Khi ba vị đạo sĩ tìm thấy Hài Nhi Giêsu, bằng đôi mắt đức tin, các
ngài có thể nhận ra qua dáng vẻ bên ngoài của trẻ bé này Ánh Sáng Thiên Chúa đã
đến trần gian. Từ đó về sau, các ngài không còn được sao trời dẫn đường nữa, mà
là được soi đường dẫn lối bằng chính Ánh Sáng của Hài Nhi ấy, Đấng mà các ngài
nhận ra là Đấng Cứu Chuộc Trần Thế. Chúng ta cũng được trao ban đôi mắt đức tin
để giúp chúng ta tiếp tục hành trình trong khi chúng ta theo Chúa trên khắp nẻo
đường đời, kể cả những khi băng qua những lối mòn hoang vắng của cô đơn, đau
đớn thất bại và bệnh tật...
Có một cái gì đó tuyệt đẹp trong câu chuyện Ba Vua. Ba Đạo Sĩ năm
xưa đại diện cho tất cả chúng ta trên con đường thiêng liêng kéo dài suốt cuộc
đời. Chúng ta đây sẽ là ba đạo sĩ của thời nay, có nhiệm vụ làm cho cả và thế
giới nhận biết Đức Chúa Giêsu là Đấng Cứu Chuộc nhân loại. Nhiệm vụ đặc biệt
của chúng ta là làm cho mọi người sẵn sàng rộng mở tâm hồn đón tiếp Lời Chúa để
có thể nhận ra Chúa Giêsu dọc theo mọi nẻo đường đời. Đức Giêsu cần chúng ta
cộng tác để nối dài công trình của Người.
Ba vị đạo sĩ xưa kia đã không đến với Chúa với bàn tay trắng,
nhưng mỗi người một món quà đặc tuyển để nói lên lý do mục đích tìm kiếm của
các ông. Ngày nay chúng ta cũng không được phép đến với Chúa với bàn tay không.
Tuy chúng ta không có vàng, nhũ hương, và mộc dược, nhưng chúng ta có thể dâng
cho Người món quà của chính chúng ta là cả nhân loại tháp nhập với Đức Kitô.
Dâng hiến bản thân là một món quà quí giá không bao giờ hao mòn.
Hôm nay Giáo Hội mong muốn tất cả chúng ta vui mừng, vì đây là
ngày công bố cho cả thế giới rằng Đức Chúa Giêsu đến trần gian để cứu chuộc mọi
người, và ảnh hưởng của ơn cứu chuộc ấy không giới hạn vào bất cứ nền văn hoá
nào.
Lễ Giáng Sinh đã tạo ra hai cuộc hành trình: một hành trình tới
Bêlem, và một hành trình trở về quê nhà bằng con đường khác. Tất cả chúng ta
hiện đang trên đường trở về quê trời. Đã một lần tìm đến Bêlem trong đời, chúng
ta hy vọng rằng vào cuối cuộc hành trình cuộc đời, chúng ta sẽ lại gặp nhau nhờ
Đức Chúa Giêsu và Mẹ Maria.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
“Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem miền Giuđê thời Vua Hêrôđê trị vì,
có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem và hỏi: Đức Vua dân Do thái
mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương
Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2,1-2).
Các nhà chiêm tinh Đông phương nhìn thấy ngôi sao xuất hiện và lên
đường tìm kiếm. Họ đã tìm ra Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ hang lừa. Đó
chính là vị Cứu tinh mà Israel từ lâu mong đợi. Vị Cứu tinh chào đời tại Bêlem
như lời Ngôn sứ Mikha đã loan báo “Phần ngươi, hỡi Bêlem Epratha, ngươi nhỏ bé
nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị lãnh tụ
chăn dắt dân Israel” (Mk 5,1). Các nhà chiêm tinh vui mừng tôn kính dâng lễ vật
bái thờ Người.
Ngôi sao xuất hiện ở phương Đông được ông Bilơam tiên báo: “Một Vì
Sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24,17). Các
nhà chiêm tinh đến từ vùng đất phương Đông, quê hương của Bilơam. Ngôi sao họ
nhìn thấy vốn là dấu hiệu chỉ vương quyền. Ngôi sao nhắc lại lời sấm chúc phúc
của Bilơam thuở xưa nói về triều đại Đavít và về chính Đấng Mêsia.
Câu chuyện lời chúc phúc của Bilơam rất ly kỳ được kể trong Sách
Dân Số chương 22-24.
Trên đường tiến về miền đất hứa, dân của Môsê đã giao tranh với
nhiều lân bang. Đoàn dân nhỏ bé ấy lại có sức mạnh đánh đâu thắng đó. Các nước
lân bang đều run sợ. Người Môáp khiếp sợ. Vua người Môáp sai sứ đến với Bilơam
thuộc đất dân Ammon để xin ông này nguyền rủa dân Israel “may ra nhờ thế ta có
thể đánh bại được nó và đuổi nó ra khỏi lãnh thổ của ta”. Các sứ giả lên đường
tìm gặp Bilơam để trao cho ông lời sấm “chúc dữ” dân Israel. Bilơam mời các sứ
giả nghỉ qua đêm để ông thỉnh ý Đức Chúa. Sáng hôm sau, Bilơam nói cùng các sứ
giả rằng ông không thể làm theo yêu cầu của vua Môáp được. Nhưng đến lần thứ
hai, dưới tác động của Thiên Chúa “cứ chỗi dậy, đi với chúng, nhưng chỉ được
làm điều Ta bảo ngươi”, ông chấp nhận ra đi với các sứ giả vua Môáp. Bilơam đến
miền đất dân Môáp để chúc dữ cho dân Israel trên lưng một con lừa cái và đi
cùng với hai chú tiểu đồng. Trên đường đến với vua Môáp, con lừa của Bilơam
thấy Thần sứ của Thiên Chúa đứng cản đường cùng với thanh gươm cầm sẵn trong
tay. Thấy thế, con lừa cái bèn tránh đường đi xuống ruộng. Bilơam đánh đập con
lừa và bắt nó phải đi trên đường. Khi đến con đường mòn hai bên đều xây tường,
con lừa cái khi thấy Thần sứ liền ép sát vào tường làm cho chân của Bilơam bị
cọ sát trầy xước. Tức giận ông lại đánh con lừa cách thậm tệ. Nhưng đến khi đến
đoạn đường hẹp không thể nào đi được nữa vì Thần sứ chận đứng, con lừa đành
phải nằm bẹp xuống chân ông Bilơam. Thấy vậy, Bilơam càng tức giận. Ông nổi
nóng dùng gậy tới tấp đánh con lừa. Đến lúc này, con lừa lên tiếng: “Tôi đã làm
gì ông mà ông đã đánh tôi đến ba lần”. Bilơam nhìn lên thì thấy Thần sứ Thiên
Chúa thì run sợ. Theo hướng dẫn của Thần sứ Thiên Chúa, Bilơam đến với vua Môáp
nhưng không phải để chúc dữ cho dân Israel mà là chúc phúc. Trong bài diễn văn
chúc phúc đó, Bilơam đã tiên báo về Ngôi sao xuất hiện trong nhà Giuđa:”Một Vì
Sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24, 17).
Một ngôi sao lạ ở phương Đông xuất hiện trên bầu trời đầy sao.Các
nhà chiêm tinh nhận ra ngôi sao lạ. Họ tin rằng có một vị vua mới sinh ra ở đất
Do thái. Họ lập tức khởi hành, lên đường tìm kiếm. Con đường đi của họ dẫn qua
sa mạc, bụi bặm, nóng bức và giá lạnh. Đó là một con đường đầy chông gai khó
khăn, vất vả và nguy hiểm. Họ luôn nhìn lên ngôi sao dẫn đường và tiến bước.
Khi đến thủ đô Giêrusalem, các nhà chiêm tinh dò hỏi tông tích của
vị tân vuơng. Nghe tin ấy vua Hêrôđê bối rối liền triệu tập các thượng tế và
kinh sư lại hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Vua phái các vị ấy đi
và dặn “xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi và khi đã tìm thấy, xin báo
lại cho tôi để tôi cùng đến bái lạy Người”. Họ ra đi “Bấy giờ ngôi sao họ đã
thấy ở phương Đông lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở mới dừng lại”. Họ
mừng rỡ vô cùng. Họ gặp Hài Nhi, liền sấp mình bái lạy, với lòng thành họ dâng
tiến lễ vật vàng, nhũ hương và mộc dược.
Câu chuyện Phúc âm tuyệt đẹp. Ba nhà chiêm tinh đi tìm Đấng Cứu
Thế theo ánh sao lạ. Nếu Thiên Chúa đã dùng cột mây lửa để dẫn dân Do thái đi
trong hoang địa về Đất hứa thì Người cũng có thể dùng ngôi sao lạ để dẫn đường
cho các nhà chiêm tinh đến Bêlem để gặp Đấng Cứu Tinh.
Nhưng sự thật vô cùng trớ trêu là khi vị Cứu tinh xuất hiện sau
bao thế kỷ chờ đợi thì Dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm. Các thượng tế, các kinh
sư có thái độ dửng dưng thụ động. Họ rành rẽ Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh của
Đấng Cứu Thế nhưng họ chẳng cất bước đến Bêlem. Còn Hêrôđê thì hốt hoảng bối
rối, sợ ngai vàng bị lung lay nên tìm cách loại trừ với mưu mô cạm bẫy.
Tấn bi kịch cuộc đời Hài Nhi bắt đầu, bị người đồng hương từ
khước, bị tẩy chay, bị giết chết. Chỉ có các nhà chiêm tinh hăng hái lên đường
lao vào cuộc phiêu lưu tìm kiếm. Họ đã làm tất cả miễn sao gặp được Đấng Cứu
Tinh. Cho dù Đấng ấy chẳng uy nghi ngự trong lâu đài điện ngọc nhưng họ vẫn vui
mừng đón nhận, xin được bái kiến và dâng lễ vật quý giá với cả tấm lòng thành.
Phụng vụ đọc câu chuyện tuyệt đẹp này trong ngày Lễ Hiển Linh
“Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại”. Các nhà chiêm tinh là dân ngoại, họ đại
diện cho mọi dân tộc, họ khao khát tìm kiếm ơn cứu độ. Sau này Chúa Giêsu đã
xác định: từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng tổ phụ
Abraham, Isaac, Giacop trong nước trời.
Các thượng tế và các kinh sư thông hiểu Thánh Kinh, họ giảng giải
thật hay cho Hêrôđê, nhưng chỉ là lý thuyết. Họ tìm Đấng Cứu Thế trong sách vở
nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những quan
điểm cố định của họ. Những người chuyên nghiên cứu sách vở đầy sự uyên bác
thông thái, nếu không lên đường, không thao thức tìm kiếm thì chẳng bao giờ gặp
được Thiên Chúa.Trái lại, những tâm hồn đơn sơ, khó nghèo như các mục đồng, hay
cởi mở và khao khát chân lý như các nhà chiêm tinh lại được diễm phúc gặp gỡ
Người vì họ đã dám mạo hiểm lên đường tìm kiếm, bước đi theo các dấu chỉ.
Thiên Chúa vẫn luôn tỏ mình ra cho nhân loại qua những dấu chỉ tự
nhiên của trời đất, qua từng biến cố lịch sử, qua Lời Người trong Thánh Kinh,
qua sự hiện diện của Dân Chúa là Giáo hội, qua các bí tích. Muốn gặp được Thiên
Chúa, nhất thiết phải nổ lực tìm kiếm. Cho dầu có những thử thách, cam go,
những hiểm nguy cạm bẫy, vẫn luôn kiên trì trong đức tin, bền đổ trong lòng
mến.
Hôm nay, không có ngôi sao đông phương nào xuất hiện trên bầu trời
để soi đường cho chúng ta đi tìm Chúa. Chúng ta có một ánh sáng khác rực rỡ hơn
giúp tìm gặp Người. Đó là ánh sáng của Lời Chúa "Lời Chúa là ngọn đèn soi
cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.". Bước đi trong ánh sáng Lời
Chúa, chúng ta sẽ trở nên ngôi sao dẫn đường cho nhiều người tìm đến Thiên
Chúa. Thánh Phaolô mời gọi: “Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm
trời”(Pl 2,15).
Tại sao các Kitô hữu được gọi là các vì sao? Thánh Gioan giải
thích: “Thiên Chúa chưa ai thấy bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau thì Thiên
Chúa ở lại trong chúng ta”(1Ga 4,12). Nói cách khác, Thiên Chúa của chúng ta là
một vị “Thiên Chúa ẩn mình”, nhưng Người muốn tỏ mình ra cho người ta thấy qua
cách sống yêu thương của chúng ta. Nói cách khác nữa, khi chúng ta yêu thương
nhau thì Thiên Chúa ở trong chúng ta, bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu”(1Ga
4,18). Cho nên cách sống yêu thương của người Kitô hữu làm cho người ta nhìn
thấy và nhận biết được Thiên Chúa tình yêu. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã so
sánh thế gian như vòm trời tăm tối, và khuyến khích các Kitô hữu hãy sống yêu
thương để có thể thành những vì sao chiếu sáng trên vòm trời ấy.
Trong đời sống xã hội hôm nay, có rất nhiều ngôi sao trên bầu trời
nghệ thuật, đủ mọi lãnh vực. Ngôi sao nhạc Rock, ngôi sao điện ảnh, ngôi sao
bóng đá…thôi thì đủ các loại sao! Có những người chưa xứng đáng là “sao” mà
cũng tự nhận mình là sao, thậm chí có những người vênh váo tự phong mình là
“siêu sao”!
Trong phạm vi tôn giáo, ta thấy có những Kitô hữu âm thầm sống bác
ái yêu thương, chiếu tỏa nhân đức cho những người chung quanh, nhưng chỉ dám
nhận mình là tôi tớ vô dụng ( Lc 17,10). Thời nay, Mẹ Têrêxa Calcutta với tấm
lòng yêu thương bao la cũng là một vì sao chiếu sáng trên vòm trời.
Ngôi sao đông phương dẫn các nhà chiêm tinh đến gặp Chúa Hài Nhi
và tiến dâng lệ vật. Chúng ta nhờ ánh sáng Lời Chúa soi dẫn trên hành trình
cuộc đời. Lời Chúa là ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp chúng sáng lên niềm tin.
Chính Chúa Giêsu là ngôi sao mai dẫn chúng ta đi vào một con đường mới, con
đường chói ngời ngọn lửa đức mến. Người Kitô hữu tiếp nhận ánh sáng từ Chúa
Giêsu để chiếu lên làn ánh sáng hy vọng, ánh sáng tin yêu, ánh sáng công bình
bác ái. Những chứng tá đức tin cậy mến, những gương sáng đời sống gia đình,
những nỗ lực thực thi các giá trị Phúc Âm chính là những ánh sao cụ thể soi
đường truyền giáo.
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu An)
Chu kỳ Giáng Sinh gồm Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh. Phụng Vụ cử hành
việc Thiên Chúa tỏ mình cho nhân loại. Hai biến cố quan trọng cũng là hai lễ
lớn của chu kỳ là Lễ Giáng Sinh và Lễ Hiển Linh. Lễ Giáng Sinh, Thiên Chúa tỏ
mình cho dân Do-thái. Lễ Hiển Linh, Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại.
Gaspar, Melchior và Balthasar là ba nhà Đạo Sĩ nổi tiếng ở Đông Phương được mệnh danh là con của
các vì sao sáng, huyền phái của khoa học vũ trụ. Họ đã theo ngôi sao lạ đến
Bê-lem, xứ Giu-đê để thờ lạy Đấng Cứu Thế. Họ đã dâng cho Hài Nhi vàng, nhũ
hương và mộc dược.
Chúng ta cùng dừng lại nơi Hang đá Bê-lem có Hài Nhi Giêsu để suy
niệm về sự lạ lùng của cuộc gặp gỡ kỳ diệu giữa các Mục Đồng, các Đạo Sĩ với
Đấng Cứu Thế. Chỉ có các Mục Đồng, các Đạo Sĩ tìm gặp được Chúa. Có các Thiên
thần, có một ngôi sao rực rỡ trong ánh sáng thần linh chiếu sáng cho họ. Đức
Cha Fulton Sheen, nhà giảng thuyết lừng danh đã gọi họ những người đơn sơ và
những người thông thái.
Khi các Mục Đồng canh giũ chiên ở ngọn đồi Bê-lem, họ bỡ ngỡ vì vẻ
đẹp của Thiên Thần: Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng
đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng cứu độ đã sinh ra cho anh
em trong thành của vua Đa-vít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa (Lc 2, 10-12). Còn
các Đạo Sĩ ở bên kia xứ Ma-đi-an và Ba-tư nghiên cứu bầu trời đã thấy một ngôi
sao chiếu sáng như chiếc đèn của nhà tạm vũ trụ, điện thờ của Thiên Chúa. Họ
theo ánh sao tìm đến Hang đá tìm gặp Hài Nhi.
Như những cánh bướm bị thu hút bởi ngọn lửa, các Mục Đồng và các
Đạo Sĩ tiến đến ngai vàng chỉ là một Hang đá, đến với Thiên Chúa chỉ là một Hài
Nhi. Thiên Chúa Hài Nhi ngước nhìn từ Máng cỏ chỉ thấy hai hạng người tìm gặp
Ngài và chỉ duy họ tìm gặp Ngài cho đến tận cùng thời gian. Đó là các Mục Đồng
và các Đạo Sĩ, những người đơn sơ và những người thông thái.
Các Mục Đồng là những người đơn sơ. Họ chẳng biết gì tới chính
trị, văn chương, nghệ thuật. Họ chỉ biết hai điều quan trong là Thiên Chúa ở
trên họ và họ ở giữa đoàn chiên. Đêm hôm đó bầu trời rộng mở để loan báo Tin
mừng. Thiên Thần cho biết Đấng họ nóng lòng chờ đợi vừa sinh ra trong Hang đá
Bê-lem nhỏ bé. Họ đã tìm và gặp Đấng Chăn Chiên của họ
Các Đạo Sĩ tìm gặp Đấng Cứu Thế là những người thông thái. Họ
không là những vua chúa. Họ không phải là những người nghiên cứu nông cạn mà là
những bậc thầy hoàng vương, những nhà tinh thông về vũ trụ và họ đã khám phá ra
một ngôi sao lạ. Đối với khoa học và tôn giáo họ được liệt vào hàng đầu trong
nước của họ. Các vua chúa bàn hỏi với họ trước khi xuất chinh. Các nông dân hỏi
ý kiến họ trước khi trồng tỉa. Hàng ngàn người đã thấy ngôi sao, nhưng sự uyên
bác của ba Đạo Sĩ làm cho họ lên đường khám phá.
Chính nhà bác học Newton đã thốt lên khi quan sát vũ trụ: Tôi thấy
Thiên Chúa đi qua kính viễn vọng của tôi. Đối với kẻ kiêu ngạo, tự phụ, ngôi
sao chỉ là ngôi sao, nhưng đối với người thông thái đó là một dấu chỉ thời đại,
một tác phẩm của Thiên Chúa. Thế nên các Đạo Sĩ đã đi theo ánh sáng ngôi sao
với bao gian lao, đầy mạo hiểm. Đến nơi, mặc phẩm phục và quỳ trên nệm rơm, các
Đạo Sĩ chiêm ngắm một trẻ sơ sinh chưa thể hỏi han hay đối đáp được điều gì. Họ
tiến dâng Ngài tặng phẩm và tâm hồn để chứng tỏ sự thần phục của thế gian. Tặng
phẩm là vàng, nhũ hương, mộc dược. Vàng, vì Hài Nhi sẽ là vua. Nhũ hương, vì
Ngài sẽ là Tư Tế. Mộc dược, vì Ngài sẽ chết như mọi người. Các Đạo Sĩ đã tìm
gặp được Đấng Khôn Ngoan.
Chỉ có các Mục Đồng và các Đạo Sĩ đã tìm gặp được Đấng Cứu Thế.
Trong khi đó các người nổi nang trong đạo Do thái không gặp được Ngài. Bởi lẽ:
Các Luật sĩ chỉ thao thức về lề luật. Các Thượng tế chỉ nhạy bén về đền thờ.
Các Kỳ lão chỉ lo lắng về truyền thống. Hêrôđê cũng là con người tìm tòi, ông
đã cặn kẽ điều tra nơi Hài Nhi ở, không phải để đến thờ lạy mà tìm cách hủy
diệt. Loại người nào cũng tự mãn trong những cơ chế phức tạp cứng nhắc (Đức Cha
Bùi Tuần).
Thời nay cũng thế, đầy dẫy những triết gia, những nhà khoa học,
những người vô thần theo thuyết bất khả tri... nhưng không ai trong họ đã nhìn
thấy một thiên thần hay ánh sáng một ngôi sao. Dòng dõi của những Hê-rô-đê kiêu
ngạo cho tới thời nay đã không tìm thấy Thiên Chúa vì họ muốn dùng lý trí để
nắm bắt siêu việt. Họ quá phức tạp nên không hiểu lời xác quyết đơn sơ của các
Mục Đồng, quá đầy kiến thức khoa học để lãnh hội chân lý do các Đạo Sĩ đem đến.
Dòng dõi này che đậy tính kiêu ngạo và đi tới chỗ coi Giáo Hội là một thể chế
đã lỗi thời cần loại bỏ.
Điều kiện tiên quyết để gặp được Thiên Chúa, đó là lòng khiêm
nhường, chung cho cả người đơn sơ lẫn người thông thái. Những tâm hồn đơn sơ
như các Mục Đồng mới gặp được Thiên Chúa bởi họ ý thức mình không biết gì cả.
Những người thông thái đích thực như các Đạo Sĩ gặp được Thiên Chúa bởi vì họ ý
thức mình không biết gì cả.
Chúa Giêsu không sinh ra ở giữa trời, nơi người ta có thể đứng
thẳng. Ngài đã Giáng sinh trong Hang đá, nơi người ta phải cúi mình để đi vào.
Đó là một cử chỉ khiêm nhường. Các Mục Đồng và các Đạo Sĩ đủ đơn sơ để nghiêng
mình xuống. Khi làm như vậy, họ thấy mình ở trong Hang đá. Tại đó, một người nữ
diễm lệ, đầu đội mặt trời, chân đạp mặt trăng và đôi tay ẵm lấy Hài Nhi, Đấng
dùng những ngón tay bé nhỏ của mình nâng đỡ trái đất. Khi các Mục Đồng và các
Đạo Sĩ quỳ gối, có lẽ các Đạo Sĩ ghen với các Mục Đồng vì con đường của các Mục
Đồng ngắn hơn, họ tìm thấy sự khôn ngoan là chính Thiên Chúa mau hơn.
Bước vào ngàn năm mới, Thiên Chúa vẫn không ngừng lôi kéo cả nhân
loại đến với Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Ngài vẫn không ngừng cho những
ánh sao dẫn đường. Không phải là ánh sao trên trời cao mà là ánh sáng Ngài gieo
vào lòng người. Mỗi người cần phải trung thành với ánh sáng đó, dấn bước trên
hành trình đức tin đầy mạo hiểm của mình.
Các Thượng Tế, các Kinh Sư thông hiểu Thánh Kinh, họ cắt nghĩa cho
Hê-rô-đê rất hay nhưng họ vẫn ngồi yên tại chỗ. Họ tìm Đấng Thiên Sai trong
Thánh Kinh, nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với
những quan điểm cố định của họ. Những tâm hồn đơn sơ như các Mục Đồng, những
tâm hồn cởi mở khao khát chân lý như các Đạo Sĩ lại được hạnh phúc nhận biết
Người.
Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình cho thế giới qua các dấu chỉ tự
nhiên của trời đất, của lịch sử, qua Thánh Kinh, qua Giáo Hội, qua các Bí Tích,
qua cuộc sống hàng ngày. Để gặp Ngài, chúng ta cần có lòng khiêm nhường. Nhờ sự
gặp gỡ này, mỗi người sẽ trở nên ánh sao dẫn lối cho nhiều người nhận biết và
yêu mến Chúa.
Những tặng phẩm là nhũ hương, mộc dược và vàng ám chỉ thần tính,
nhân tính và vương quyền của Đức Giêsu.
William Sydney Porter, một nhà văn Mỹ chuyên viết chuyện ngắn sống
vào giữa thế kỷ này. Ông rất nổi tiếng qua bút hiệu O. Henry của ông. Ông được
độc giả nhớ đặc biệt là do ông luôn luôn kết thúc các câu chuyện của ông bằng
cách gây ngạc nhiên hứng thú. Một trong những câu chuyện nổi tiếng của ông lấy
tựa đề từ ý nghĩa của đại lễ hôm nay. Câu chuyện đó nhan đề “Món quà của vị đạo
sĩ”. Nói về một cặp vợ chồng trẻ tên Jim và Dela. Họ nghèo tiền của nhưng rất
giàu tình thương đối với nhau.
Giáng sinh sắp tới, Dela tự hỏi phải làm quà Giáng Sinh cho Jim
bằng món gì đây. Nàng muốn tặng chàng, nhưng nàng không có đủ tiền để mua. Vì
thế nàng nẩy sinh một sáng kiến. Nàng có một bộ tóc dài rất đẹp. Nàng quyết
định cắt ngắn bộ tóc của nàng và đem bán để mua cho Jim sợi giây đồng hồ.
Hôm áp lễ giáng sinh, nàng từ phố về, trên tay mang một chiếc hộp
rất đẹp, trong đó có sợi giây đeo đồng hồ làm bằng vàng, mà nàng vừa đổi bằng
mái tóc của nàng. Bỗng nhiên, Dela chợt cảm thấy lo lắng nàng tự hỏi Jim rất
yêu quí mái tóc dài của nàng, và nàng tự hỏi không hiểu chàng có buồn phiền vì
nàng cắt và bán nó đi không. Chỉ có thời gian mới trả lời nàng thôi.
Dela leo nốt đợt cầu thang cuối cùng dẫn đến căn hộ nhỏ của hai
đứa nàng. Nàng mở cửa và thấy Jim đang đợi nàng. Trong tay chàng có một cái hộp
gói lại thật đẹp đựng món quà chàng mua cho nàng. Khi Jim nhìn thấy mái tóc
ngắn của Dela, chàng bắt đầu rươm rướm nước mắt. Nhưng chàng không nói gì cả.
Chàng cố cầm những giọt lệ của mình và tặng nàng chiếc hộp. Khi Dela mở hộp ra,
nàng không thể tin vào mắt mình được. Trong hộp có một bộ lược rất đẹp để nàng
chải mái tóc thướt tha của nàng. Và khi Jim mở món quà của mình ra, chàng cũng
khó mà tin được đôi mắt của chàng. Trong hộp có một sợi giây đồng hồ rất đẹp
dùng cho chiếc đồng hồ bằng vàng của chàng. Chỉ lúc đó Dela mới nhận ra rằng
Jim đã bán chiếc đồng hồ bằng vàng để mua cho nàng những cái lược để nàng chải
tóc.
Có những người nghĩ rằng kết thúc của câu chuyện tuy gây ngạc
nhiên nhưng bi thảm quá. Còn đa số cho rằng kết thúc như thế rất đẹp. điều làm
cho kết thúc đó đẹp không phải là những món quà mà là tình yêu được những món
quà đó biểu tượng và nói lên.
***
Câu chuyện đó dẫn chúng ta trở về với việc mừng kính lễ Hiển Linh
hôm nay, cũng gọi là Lễ Ba Vua (tức 3 nhà đạo sĩ). Tôi không hiểu rõ tại sao O.
Henry lại đề tựa cho câu chuyện ấy là “Món quà của nhà Đạo Sĩ”. Có lẽ vì những
món quà của các đạo sĩ cũng đầy những ý nghĩa thâm sâu như thế. Chúng ta hãy
suy nghĩ về ý nghĩa của những món quà ấy.
Chúng ta hãy bắt đầu bằng mộc dược. Thời xưa, người ta dùng mộc
dược để ướp xác người chết trước khi đem đi mai táng. Chẳng hạn, vào sáng sớm
ngày đầu tuần, các phụ nữa đã đem mộc dược đến mộ Chúa Giêsu. Vì mộc dược có
tương quan đến sự chết, nên nó tượng trưng sự yếu đuối, dễ bị thương tổn của
con người.
Vì thế món quà bằng mộc dược tượng trưng cho nhân tính của Đức
Giêsu. Nó nói với chúng ta rằng Đức Giêsu cũng có những yếu đuối, mỏng giòn, dễ
bị thương tổn vì ngài là người. Cũng như chúng ta, Ngài cảm nghiệm được toàn bộ
mọi thứ cảm xúc của con người, vui, buồn, sợ hãi, thất vọng, cô đơn.,…Ngài cũng
không khác gì chúng ta, ngoại trừ tội lỗi mà thôi.
Bây giờ chúng ta nói về nhũ hương. Ngày xưa, người ta dùng nhũ
hương trong việc phụng tự tôn giáo hương thơm và làn khói bay lên trời cao,
khiến họ liên tưởng đến các vị thần linh và thần tính của các ngài. Vì thế, món
quà bằng nhũ hương tượng trưng cho Thượng Đế tính của Đức Giêsu. Thánh Phaolô
đã nói về Thượng Đế tính của Ngài trong thư gởi cho cộng đoàn giáo dân ở
Philipphê: “Đức Giêsu vốn bản tính Thiên Chúa, nhưng Ngài…. Đã trở nên giống
người phàm, và chấp nhận vâng phục mọi đàng cho đến chết, và chết trên thập
giá. Vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài lên địa vị cao cả nhất trên trời” (Pl
2,6-9)
Cuối cùng chúng ta nói tới vàng. Ngày xưa, người ta coi vàng là
vua của mọi thứ kim loại. Vì thế, vàng tượng trưng cho đức vua. Nhà vua là vị
thủ lãnh ở bên trên tất cả. Ông vua lý tưởng thì lãnh đạo bằng tình thương. Đối
với dân chúng, ông bảo đảm là mình có chính nghĩa. Ông làm cho người khác ủng
hộ. cộng tác với ông nhờ chính nghĩa của mình. Đức Giêsu chính là một vị vua
như thế. Ngài lãnh đạo bằng tình thương. Ngài bảo đảm có chính nghĩa khi thiết
lập Nước Thiên Chúa ở trần gian. Và Ngài thôi thúc mọi người cộng tác với Ngài
trong công việc ấy. Điều đó dẫn chúng ta đến với sứ điệp thực tiễn của ngày lễ
Hiển Linh hôm nay.
Hiện nay trong nhiều quốc gia, lễ Hiển Linh được mừng long trọng
hơn lễ Giáng sinh. Sở dĩ như thế là vì lễ này mừng việc Đức Giêsu tự tỏ mình ra
với thế giới ngoại giáo. Cũng y như lễ Giáng Sinh mừng việc Đức Giêsu tự tỏ
mình ra đặc biệt với những người Do Thái, thì lễ Hiển Linh mừng việc Đức Giêsu
tự tỏ mình ra đặc biệt với dân ngoại. Vì thế, lễ này là “Lễ của Chư Dân”.
Những gì được Đức Giêsu khởi sự trong thời của Ngài thì cũng phải
được chúng ta tiếp tục trong thời của chúng ta. Nếu Đức Giêsu phải được rao
giảng cho mọi dân mọi nước, thì việc rao giảng đó phải được thực hiện bằng
chính những cố gắng của chúng ta. Chúng ta phải loan báo cho mọi dân tộc trên
thế giới biết “Tin Mừng” này là Đức Giêsu Con Thiên Chúa, đã mặc lấy xác thịt
và sống giữa chúng ta chúng ta phải nói cho họ biết rằng Đức Giêsu đã đi vào
lịch sử không phải chỉ để cứu độ người Do Thái vào thời của Ngài, mà cứu độ tất
cả mọi dân tộc, mọi quốc gia trong mọi thời đại nữa.
Đức Giêsu đến để lập Nước Trời tại trần gian, để lập nên một thế
giới mới, thế giới mà trong đó không còn đau khổ, buồn phiền nữa, thế giới mà
trong đó những người nghèo khổ sẽ tìm được những người bạn chân tình, yêu
thương, nơi mà trước đó họ chỉ tìm thấy những người xa lạ lạnh nhạt. đó chính
là “Tin Mừng” mà chúng ta phải loan báo cho thế giới. Đó là sứ điệp thực tiễn
của lễ Hiển Linh hôm nay. Đó là một sứ điệp kêu gọi mỗi người chúng ta phải
hành động.
Tôi xin kết thúc bài giảng hôm nay bằng bài thơ của một thi sĩ vô
danh. Bài thơ này tóm tắt sứ điệp của lễ Hiển Linh hôm nay bằng một hình ảnh
rất sống động.
“Khi bài ca của các thiên thần ngừng bặt,
khi ngôi sao trên bầu trời đã biến mất,
khi các vua chúa và hoàng tử đã ở nhà,
khi các mục đồng cùng đàn súc vật đã trở về,
thì công việc Giáng sinh mới bắt đầu
“Để tìm lại những gì đã mất,
để hàn gắn những gì đã gẫy đổ,
để người đói được ăn no,
để tù nhân được giải phóng,
để các nước xây dựng lại,
để đem lại hoà bình cho mọi người,
và để hoà nhạc bằng trái tim”.
Anh chị em thân mến.
Trong khung cảnh của ngày lễ khánh thành nhà thờ, nhiều người cùng
tiến bước lên đường, hướng về cùng một nơi, đó là nơi mà ngôi nhà thờ mới được
hoàn thành. Những người này đã được báo tin qua những cánh thiệp mời, qua những
lời tha thiết. Những người tới đây cùng hoà chung niềm vui của biết bao người,
cùng tận hưởng niềm vui chung với sự chuẩn bị thật chu đáo, bằng công sức, của
cải vật chất mà họ gọi là lễ vật. Còn những người không có mặt thì sao? Có phải
không được biết gì hết không?
Có người không hay biết gì hết về ngày lễ hôm nay, nên họ không
thể đến được. Có người biết rất rỏ ngày giờ và lý do của ngày lễ, nhưng họ
không được mời trực tiếp, nên họ không thể hoà niềm vui chung. Nhưng cũng có
những người biết rỏ và được báo tin, được mời gọi tha thiết, vậy mà giờ này họ
cũng không có mặt để hoà cùng niềm vui với mọi người. Sự vắng mặt với đầy đủ lý
do, có khi chính đáng, cũng có khi không chính đáng. Có những người cũng lên
đường nhưng lại không đến nơi được. Có những người không cảm thấy vui cùng niềm
vui với mọi người nên họ cũng không đến.
Những nhà đạo sĩ từ phương xa họ nhận được lời mời, họ vui mừng
chuẩn bị hành trang lên đường, họ vui mừng vì lễ vật của họ đã được trao một
nơi thật xứng đáng, họ càng vui mừng hơn khi họ đã hoà được niềm vui của mọi
người và Thiên Chúa.
Những người Do Thái, những người kinh thành và cả Hêrôđê đã nhận
được lời mời trước tiên. Họ lại tính toán hơn thiệt, họ không dám lên đường, vì
họ sợ. Trước tiên họ sợ cực khổ cho bản thân; họ không muốn vất vã để đến với
người khác, vì họ quen ở yên một chỗ để người khác đến với họ và cung phụng cho
họ. Tiếp đến họ sợ mất đi danh vọng mà họ cố công để tìm kiếm được, nên giờ đây
họ không muốn từ bỏ nó. Họ cũng sợ mất đi những của cải vật chất mà họ rất trân
trọng, vì họ sợ phải tiến dâng lễ vật, họ không muốn từ bỏ. Họ còn sợ mất đi
bản thân mình vì họ quá coi trọng bản thân và yêu quý nó. Nên họ tìm cách phá
đi sự việc mà họ lo sợ. Nhưng họ đâu biết rằng: những gì là của Thiên Chúa thì
con người không thể làm gì được. Chính vì thế họ luôn sống trong lo sợ, họ
không thể có được niềm vui.
Niềm vui chỉ đến được với những tâm hồn thư thái, biết từ bỏ và
cho đi, còn với những tâm hồn luôn tính toán và so đo thì khó mà tìm được niềm
vui.
Trong cuộc sống đời người, chúng ta cũng mãi miết đi tìm, nhưng
chúng ta có tìm được gì không? Giờ đây, mỗi người để một ít phút suy tư, nhìn
lại quãng đời đã qua .... Chúng ta đã từng được mời gọi đến với Chúa, trở về
với Chúa, mời gọi sống trong niềm vui của Ngài. Chúng ta càng biết rất rõ mình
phải làm gì và chuẩn bị những gì.
Có nhiều lúc trong cuộc sống, chúng cũng cảm thấy hối hận về những
việc mình làm cho người khác, hối hận về những bất công, về sự ích kỷ chỉ biết
lo cho mình mà quên đi những lời kêu than của người chung quanh, không nhìn
thấy nỗi đau xé lòng mà mình gây nên cho họ. Nhưng nỗi lo sợ lại nỗi lên: sợ
mất danh dự, mất uy tín, mất thời giờ, tiền bạc .... nên đến giờ nầy, chúng ta
vẫn không tìm được niềm vui trong Chúa. Con người của bao nhiêu năm vẫn không
khá hơn mà trái lại, có khi giờ nầy, mình còn nham hiểm độc hại hơn trước. Đó
có phải là chúng ta lập lại công việc mà ngày xưa vua Hêrôđê và những người
kinh thành Jerusalem đã đối xử với Chúa Giêsu và các nhà đạo sĩ phương xa sao?
Nếu có lần trong cuộc sống, chúng ta biết nới rộng vòng tay yêu
thương để ban phát cho những người kêu cầu đến. Đó là lúc chúng ta nhận ra được
lời mời gọi và cất bước lên đường với những lễ vật trong tay. Nếu chúng ta nhận
thấy được những lỗi lầm thiếu sót của mình mà sẵn sàng sữa đỗi cho tốt hơn, nếu
chúng ta biết sống quảng đại, để biết thông cảm và tha thứ thì thật hạnh phúc
cho chúng ta, vì khi đó chúng ta tìm găp được Chúa và dâng lên Ngài lễ vật mà chính
bản thân đã chuẩn bị bằng cả cuộc đời.
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta được sáng suốt để biết lắng
nghe lời mời gọi và đáp lại cho xứng đáng.
Hầu như tất cả những người lính khi đến Trung Đông để chiến đấu
đều cảm nghiệm được vẻ tuyệt mỹ về ban đêm khi nhìn lên bầu trời trong đêm.
Chân trời được trải rộng từ đông sang tây, từ bắc xuống nam, và đượm đầy những
ngôi sao kim cương lóng lánh mà không bị một chút ảnh hưởng nào của đèn đuốc.
Hôm nay mừng Lễ Hiển Linh hoặc còn gọi là Lễ Chúa tỏ mình cho dân
ngoại được đại diện bằng ba nhà chiêm tinh. Có lẽ thời đó, ba nhà chiêm tinh
cũng đã nhìn lên bầu trời đen tuyền rực rỡ đầy sao để học hỏi về thiên văn. Tuy
họ không biết gì về khoa học thiên văn như chúng ta thời nay một cách rõ rệt,
nhưng một điều mà họ đã bắt gặp là sự xuất hiện của một ngôi sao lạ.
Khi chúng ta đọc Sách Sáng Thế Ký, chúng ta thấy Thiên Chúa tạo
dựng nên trời đất một cách lạ lùng. Ngón tay của Ngài đã tạo dựng nên bầu trời
và sắp đặt trong đó những vì sao lấp lánh xoay vần theo định luật của chúng.
Chúng ta có thể suy ra rằng tác giả sách Sáng Thế Ký đã nhìn lên bầu trời và
nhận ra cảnh đẹp lộng lẫy của nó, và từ từ suy ra sự hiện diện của Thiên Chúa
và uy quyền của Ngài.
Chúng ta ngày nay cũng nhận ra vẻ uy linh đó trong tất cả mọi sự
hiện hữu trong vũ trụ này. Chúng ta biết rằng tất cả mọi sự trong vũ trụ đều
được Thiên Chúa quan phòng từ sự di chuyển các hành tinh cho đến sự mọc lên một
ngọn cỏ nhỏ bé.
Phía sau ổ bánh mì là bột lúa mạch,
Phía sau bột lúa mạch là cái máy xay bột,
Phía sau cái máy xay bột là lúa mạch và mưa gió,
Phía sau nữa là mặt trời... Thiên Chúa
Các nhà chiêm tinh từ Phương Đông đến Giêrusalem và hỏi Vua
Hêrôđê: Vua mới sinh ở đâu... Chúng tôi đã nhìn thấy ngôi sao của Ngài ở Phương
Đông (Mt 1:2). Cũng thế, phía sau của ngôi sao là sự quan phòng của Thiên Chúa.
Khi ba nhà chiêm tinh lúng túng không biết đi đâu để tìm kiếm Vua
mới sinh ở Giêrusalem thì ngôi sao lạ lại xuất hiện và dẫn họ đến nơi ở của Vua
mới sinh... Cũng thế, phía sau Chúa Hài Đồng, Đức Mẹ, và Thánh Giuse là Thánh ý
của Chúa Cha.
Cuộc Giáng Sinh của Chúa Kitô nói cho chúng ta rằng ở giữa tâm
điểm của vũ trụ có một Đấng Toàn Năng đang hiện hữu một cách thật sự.
Sự hiện hữu của Thiên Chúa nói cho chúng ta rằng trong giây phút
hiện tại không chỉ bao gồm bằng những sự việc và những gì gọi là "đẹp
đẽ" nhưng còn có những sự việc "xấu xa" đang xảy ra khắp nơi.
Cho dù thế nào đi nữa, chúng ta biết rằng ở đằng sau mọi sự đều có sự hiện diện
quan phòng của Thiên Chúa Toàn Năng.
Các nhà chiêm tinh đã hớn hở vui mừng đến gặp Chúa Hài Đồng và họ
quì xuống sụp lạy Ngài. Hôm nay, chúng ta tụ tập trong Thánh Đường này và chúng
ta cũng làm như các nhà chiêm tinh, chúng ta tìm đến gặp Chúa Hài Đồng và thờ
lạy Ngài. Tuy nhiên, chúng ta không thể cứ ở lại nơi Thánh Đường để thờ lạy
Ngài, nhưng chúng ta còn phải ra đi để đem Tin Mừng ơn cứu độ đến cho những
người khác để họ cũng biết đến để thờ lạy Chúa Hài Đồng. Chúng ta hãy nói cho
thế giới biết rằng ở đằng sau tất cả mọi sự là ngón tay quan phòng của Đấng
Toàn Năng.
Mùa Giáng sinh nào tôi cũng rảo qua các Nhà thờ để xem hang đá.
Thôi thì đủ loại, đủ cỡ, đủ hình dạng, màu sắc. Có cái rất hoành tráng, trang
trí cầu kỳ, từ những vật dụng đắt tiền; nhưng cũng có cái làm từ phế liệu. Đặc
biệt nhất là bộ tượng. Ngoài những bộ tượng theo truyền thống Do thái, còn có
cả những bộ tượng người Tàu, người Mông Cổ, Ả rập, Châu Âu và cũng không thiếu
những bộ tượng người Việt với trang phục khăn đóng - áo dài hay khăn rằn - áo bà
ba rặt nam bộ. Nói chung, Tin Mừng đi đến dân tộc nào thì hang đá và các nhân
vật trong hang đá mang hình ảnh dân tộc đó. Người thiết kế muốn diễn tả hình
ảnh Thiên Chúa thật giống với người bản địa. Điều nầy chắc không làm Thiên Chúa
phiền lòng bởi từ trời cao Ngài đã xuống trần chẳng phải là để cho gần con
người sao?
Nhưng đáng buồn thay. Trong khi Thiên Chúa đang cố gắng rút ngắn
khoảng cách cách giữa Ngài và con người, thì con người lại hững hờ không muốn
đón nhận thiện ý đó. Dân tộc mà lẽ ra phải mở tiệc tưng bừng để đón Sinh Nhật
Vua Trời thì lại lạnh lùng từ chối. Vua Hêrôđê tỏ ra quan tâm, ân cần với các
nhà hiền sĩ Đông phương: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tần về Hài Nhi, và
khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bài lại Người" (Mt
2,8). Hoàn toàn không phải vì ý tốt mà là muốn giết Chúa Giêsu để níu giữ ngai
vàng sắp đổ của mình.
Vào lễ Hiển Linh năm nào ta cũng nghe câu chuyện ba nhà Đạo Sĩ đi
theo ngôi sao tìm Chúa. Rồi sau đó dâng lễ vật lên Chúa Hài Đồng. Cảnh tượng
thật xúc động! Càng xúc động hơn khi biết rằng cả ba nhà Đạo Sĩ đều là dân
ngoại - một dân tộc không biết gì về Thiên Chúa lại được Thiên Chúa tỏ mình ra.
Còn dân Do thái đã không hề biết chuyện gì đang xảy ra. "Nay mầu nhiệm
được mạc khải là các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp" (Ep 3,6).
Nói vậy, chẳng phải là Thiên Chúa thiên lệch, cho người nầy không
cho người khác, nhưng bởi dân Do Thái thiếu lòng tin đó thôi. Hơn thế, chẳng
đời nào Ngài lại bỏ đứa con mà Ngài đã từng cưu mang.
Ba nhà đạo sĩ vất vả lên đường tìm Chúa. Họ đã phải luôn miệng
hỏi: "Đức Giêsu - Vua dân Do thái mới giáng sinh ở đâu?". Ngày nay,
ta không còn vất vả nữa, vì Chúa đã được các nhà truyền giáo đem đến tận tay
chúng ta rồi. Chúng ta chẳng còn phải nghi ngờ Đức Giêsu là ai, sinh ra ở đâu
nữa. Nhưng liệu chúng ta có giống dân Do Thái xưa không? Thấy đó, nhưng không
thể nào tin được? Ngày Rửa Tội ta được xếp vào hàng con cái Chúa. Ngày chịu
phép Thêm Sức ta được mời gọi lên đường làm chứng, rao giảng Nước Chúa. Nhưng
chính bản thân chúng ta cũng chưa một lần thể hiện được lòng tin của mình thì
làm sao chúng ta có thể giới thiệu được một Đức Giêsu bé nhỏ, trần trụi, nghèo
nàn đó cho trần gian? Hãy mạnh mẽ đi theo hướng khác mà trở về nhà mình, đừng ù
lì trong những lề thói ấu trĩ, ích kỷ của chính mình nữa. Hãy đứng dậy lên
đường giới thiệu Đức Kitô bằng đời sống yêu thương của mình.
Hơn 2000 năm qua, Đức Giêsu vẫn giáng sinh mỗi ngày trong trần
gian. Ngài không chỉ giáng sinh nơi hang đá Bêlem thuộc xứ Palestine, trong
dòng tộc Đavit nữa; mà Ngài hiện diện trong từng con người cụ thể trên khắp
hành tinh nầy, trong tất cả mọi sắc tộc, trong mọi nền văn hóa. Ngài ở giữa
chúng ta qua Bí tích Thánh thể. Ngài còn ở trong chính ngôi nhà tồi tàn, rách
nát của một vùng quê nào đó. Ngài đang bị cầm tù, đang cô đơn trong những nhà
dưỡng lão, những trại mồ côi, bệnh viện, trại tập trung. Ngài là em bé bị lạm
dụng sức lao động, đang ngày đêm giơ tay cầu cứu sự giúp đỡ. Ngài là những công
nhân cần có những đồng lương xứng hợp. Ngài là những nạn nhân của những cuộc
xung đột, chạy đua vũ trang, hay của những chế độ độc tài, bất công, nghèo
đói... Bạn không cần phải đi qua tận thánh địa xa xôi để mong gặp Chúa, mà bạn
hãy đi ra khỏi lòng mình. Ra khỏi những ích kỷ, tư lợi, đam mê thấp hèn của
chính bạn. Rồi bạn sẽ gặp Đức Kitô ngay thôi. Ngài đang hiện diện ngay trước
mặt bạn đấy!
Chúng ta vừa mừng sinh nhật lần thứ 2017 của Đức Giêsu. Nói đến
lần thứ 2017, thì có nghĩa là phải có lần thứ nhất. Như vậy, chúng ta lấy mốc
thời gian nào để tính là năm thứ nhất. Câu trả lời là dựa vào năm Đức Giêsu
sinh ra. Như vậy, biến cố Đức Giêsu ra đời là khởi đầu của một kỷ nguyên mới
trong lịch sử nhân loại. Dù ngày hôm nay, các chuyên viên có tính lại là năm
Chúa Giêsu sinh ra không phải là năm thứ 1, nhưng Ngài được sinh ra vào khoảng
năm thứ 6 trước Công nguyên. Đấy là vì ông Denise thuộc thời Trung cổ tính sai.
Dẫu vậy, nhưng trong tâm trí của ông Denise và cũng như của tất cả nhân loại
đều lấy ngày Chúa Giêsu giáng sinh là trung tâm của lịch sử. Ngài đã bước vào
lịch sử của nhân loại và làm xoay chiều lịch sử ấy. Ngài mặc cho lịch sử trần
tục của con người một ý nghĩa mới, lịch sử cứu độ. Từ đây, Thiên Chúa đã làm
người và ở với con người. Thiên Chúa đã từ trời cao xuống trần gian để cho con
người trần gian được bước lên trời. Đất với trời đã giao duyên!
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Hiển Linh, nghĩa là chúng ta mừng
kính việc Đức Giêsu bày tỏ vinh quang của Ngài cho 3 nhà đạo sĩ Đông phương và
cũng là cho tất cả chúng ta. Nhưng biến cố ấy thay vì trở thành niềm vui cho
hết nhân loại thì lại trở thành tin buồn và thảm hoạ cho một số người. Tại làm
sao lại có chuyện ấy xảy ra? Có phải vinh quang của Thiên Chúa không có sức
mang lại hạnh phúc cho con người không? Có phải Thiên Chúa đã chịu thua sự nhẫn
tâm của con người rồi chăng? Ngày Chúa Giêsu sinh ra, các Thiên thần đồng thanh
tung hô rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài
người Chúa thương", nhưng xem ra việc Chúa Giáng trần chỉ mang lại tai hoạ
cho con người mà thôi!
Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của tình yêu. Ngài yêu
thương hết thảy con người cho dẫu rằng con người có nhận ra điều đó hay không?
Chúa không muốn biến con người thành những cổ máy Robot, nên đã trao cho họ tự
do. Và vì lạm dụng tự do, nên con người đã chống lại Thiên Chúa; coi Thiên Chúa
như đối thủ của mình, như người tranh giành hạnh phúc của mình. Thật là một
điều đáng buồn cho con người.
Chúa Giêsu vẫn sinh ra cho con người dẫu rằng con người có đón
tiếp Ngài hay không? Và quả thực, con người đã chối từ Ngài ngay từ giây phút
đầu tiên của cuộc đời dương thế của Ngài. Nhưng Ngài chấp nhận tất cả và chịu
sinh ra trong cảnh nghèo nàn nhất của kiếp người. Nhà bảo sanh là chuồng bò,
chiếc nôi là máng cỏ, thời tiết là giữa mùa Đông giá rét run người. Người ta
không muốn đón tiếp Chúa vì Chúa đến trong thân phận của người nghèo khổ và quá
âm thầm.
Hơn nữa, ngày mà Chúa tỏ vinh quang cho nhân loại thì lại trở
thành ngày buồn thảm: Hêrôđê bối rối vì sợ bị chiếm ngôi, các gia đình có con
trẻ từ 2 tuổi trở xuống ở vùng Giuđêa và các vùng lân cận phải một trận khóc
than thảm thiết vì con trẻ của họ bị giết! Lý do là vì sự độc ác của con người,
cụ thể là vua Hêrôđê. Vua Hêrôđê là đại diện cho tất cả những con người ham hố
quyền lực trên thế giới. Họ sẵn sàng gây ra bao nhiêu đau khổ, chết chóc cho
nhân loại để bảo vệ uy quyền cho mình. Ngày nào trên thế giới còn có những con
người ham hố quyền lực thì ngày đó nhân loại còn phải chịu đau khổ và chết
chóc.
Sân khấu lịch sử cuộc đời còn có vai của những con người trong vai
các kinh sư và luật sĩ. Họ thông thạo Thánh kinh, biết rõ nhiều vấn đề nhưng họ
sợ cực khổ, sợ mất mát, ngại hy sinh nên đem những hiểu biết của mình chôn vùi
trong tủ kính. Vì thế, những hiểu biết của họ không giúp ích gì cho ai và cũng
chẳng mang lại lợi ích gì cho bản thân họ. Họ là hạt giống có lớp vỏ vàng óng.
Họ cố bảo vệ lớp vỏ của mình cho thật đẹp và không chịu làm trở thành thân phận
của hạt giống, phải chịu thối đi để sinh ra trăm nghìn bông hạt mới. Vì thế,
mãi mãi họ là hạt lúa cô đơn, hạt lúa vàng vô ích và sẽ có ngày sẽ hư mất.
Nhưng cũng may là thế giới này cũng còn có những con người khát
khao tìm kiếm chân lý như 3 nhà Đạo sĩ Phương Đông. Nếu không, thì cuộc đời này
sẽ biến thành nghĩa trang lạnh lùng, đầy dẫy những xác chết, và trái tim con
người sẽ hoá đá! Hình ảnh 3 nhà Đạo sĩ Phương Đông trở thành mẫu mực cho những
ai khao khát sự thật và sự sống. Khi nhận ra được ánh sáng chân lý rồi, thì họ
không ngần ngại hy sinh, sẵn sàng chịu cực khổ, mất mát và nguy hiểm để lên
đường tìm kiếm. Và những cố gắng của họ đã được đền bù xứng đáng. Họ đã được
Thiên Chúa đong đầy sự khao khát của họ. Vì "Phúc cho ai biết khao khát
nên trọn lành và tìm kiếm chân lý, vì họ sẽ được Thiên Chúa ban cho được đầy
no".
Mừng lễ Chúa Hiển Linh hôm nay, chúng ta hãy tự kiểm lại chính
mình xem chúng ta đang có trong mình hình ảnh của ai? Của Hêrôđê, của những
Kinh sư hay của ba nhà Đạo sĩ Phương Đông? Chúng ta có phải là những người đang
ham hố quyền lực để sẵn sàng tiêu diệt, loại trừ người khác để bảo vệ uy thế và
chỗ đứng cho mình không? Hay chúng ta lại là những người Kinh sư, thông thạo
Thánh kinh, biết rất nhiều về Lời Chúa nhưng lại không làm theo và không màng
gì đến những Lời ấy? Hay chúng ta là những Nhà Đạo sĩ đang khao khát và kiếm
tìm chân lý, để khi nhận ra được chân lý đang soi dẫn cuộc đời của mình thì sẵn
sàng chấp nhận mọi gian nan, hy sinh mọi sự để lên đường tìm kiếm chân lý? Phúc
cho chúng ta nếu chúng ta đang mang trong mình hình ảnh của những nhà Đạo sĩ
Phương Đông ngày xưa!
(Suy niệm của Lm. John Trần Khả)
Một người bị rơi xuống một thung lũng sâu tối tăm. Ông ta cố gắng
tìm cách để trèo lên nhưng quá khó khăn không thể tự mình trèo lên để ra khỏi
cái hang tối tăm đó. Khổng Tử đi ngang qua nhìn thấy người đó ở dưới thung lũng
bèn nói, "Thật đáng tiếc, giá nó nghe lời giáo huấn khôn ngoan của ta thì
nó đâu có phải rơi xuống cái thung lũng tối tăm đó!" Và rồi đức Khổng Tử
tiếp tục lên đường.
Sau đó thì Đức Phật đi ngang qua và cũng trông thấy người đó dưới thung
lũng bóng tối. Đức Phật liền nói, "Thật tội nghiệp giá hắn ta lên được
trên này có thể ta sẽ giúp đỡ hắn." Và sau đó thì Đức Phật cũng tiếp tục
lên đường.
Sau cùng thì Đức Giêsu đi ngang qua. Ngài nhìn thấy người đàn ông
cố gắng trong vô vọng và bất lực dưới thung lũng tối tăm. Ngài thương cảm và
liền nhẩy xuống để cứu ông ta lên. (Jack Mcardle "Incarnation", 150 More Stories for
Preachers and Teachers # 98).
Ý Nghĩa Hiển Linh
Lễ Hiển Linh có nghĩa là ngày lễ kỷ niệm việc Thiên Chúa tỏ mình
ra cho nhân loại qua việc Chúa Giêsu Kitô sinh xuống làm người ở giữa nhân
loại. Tiên tri Isaiah trong bài đọc thứ nhất công bố rằng Thiên Chúa sẽ xuất
hiện cách rõ ràng sáng tỏ. Vinh quang của Thiên Chúa sẽ xuất hiện và chư dân sẽ
tìm về sự sáng. Tất cả sẽ tuyên rao lời ca ngợi Chúa. Bài trích thư gởi tín hữu
Ephêsô trong bài đọc hai xác nhận rằng những lời tiên tri và mặc khải của Thiên
Chúa đã được thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô. Ngài là nguyên nhân cho sự đoàn kết
hợp nhất của mọi dân tộc. Bài Phúc âm kể lại câu truyện ba nhà Đạo sỹ từ Đông
phương nhận ra ngôi sao lạ, và họ đã tìm đến Giêrusalem hỏi thăm, "Vua
người Do Thái mới sinh ra hiện đang ở đâu?" Họ đã tìm đến để thờ lạy tôn
phục và dâng lên Người lễ vật của họ bởi vì họ đã lâu ngày dầy công tìm hiểu và
họ nhận ra danh tánh của Hài Nhi Giêsu nơi Bethlehem là ai.
Thiên Chúa Hiện Diện
Văn hóa thời xưa nhận ra Thiên Chúa và quyền lực của Ngài qua
thiên nhiên, nơi bão gió, sắm sét, mặt trời, mặt trăng và tinh tú sao trời, cây
cối cổ thụ, sông núi biển khơi. Nhiều nơi tôn thờ thần núi, thần sông, thần
cây, thần cá, thần đá.. . Những người Hy Lạp và La mã cổ xưa tìm Thiên Chúa qua
những huyền bí và những giấc mơ thần tiên. Văn hóa Đông phương tìm Thiên Chúa
qua năng lực của tâm lý linh thiêng nơi con người, và qua vận mệnh tướng số.
Người Do Thái tôn thờ một Thiên Chúa qua lịch sử của dân tộc. Và từ Do Thái
Giáo, Kitô giáo trở nên một tôn giáo có đặc tính riêng tin tưởng rằng Thiên
Chúa đã bày tỏ chính Ngài qua việc Đức Giêsu Kitô sinh hạ làm người. Qua nhiều
thời đại, con người đã suy nghĩ tìm hiểu lý do và ý nghĩa của việc Con Thiên
Chúa xuống thế làm người. Nhưng Mầu nhiệm Đức Giêsu Con Thiên Chúa xuống thế
làm người chỉ có thể hiểu được qua lăng kính tình yêu. Đức Giêsu Kitô là dấu
chứng của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại. Ngài thương yêu nhân loại và
Ngài xuống thế làm người để cứu nhân loại. Chúng ta có nhận ra Đấng Cứu Thế và
tình yêu của Ngài dành cho chúng ta hay không?
Thấy Hài Nhi
Khi những nhà đạo sỹ đến Bethlehem và nhìn thấy Hài Nhi Giêsu,
chắc hẳn họ đã không nhìn thấy một em bé có hào quang lộng lẫy và ánh sáng tỏa
chiếu khác thường để nói cho họ biết đó là Vua trời đất và là Con Thiên Chúa.
Trái lại bằng con mắt nhân loại, họ cũng chỉ nhìn thấy Chúa Giêsu Hài Đồng như
một em bé đơn sơ yếu đuối, bọc trong khăn nằm trong máng cỏ. Họ chỉ nhận ra Hài
nhi Giêsu là Con Thiên Chúa, là ánh sáng thế gian nhờ con mắt của đức tin.
Chúng ta thấy có một sự liên hệ gần gũi thật đẹp với những nhà Đạo
Sỹ. Họ đại diện cho chúng ta là những người ở các thế hệ sau vẫn tiếp tục trong
cuộc hành trình đức tin đi tìm gặp Đấng Cứu thế. Từ đâu đó lóe lên trong chúng
ta một sự hiểu biết và một ước muốn đi tìm chân lý. Chúng ta cũng là những
người đang nhìn và bước đi trong ánh sáng đức tin trong mọi nẻo đường của cuộc đời,
khi vui cũng như khi buồn, khi cô đơn đau khổ cũng như lúc hạnh phúc vui tươi;
khi thành công cũng như lúc thất bại; khi khỏe mạnh cũng như lúc yếu đau. Chúng
ta đang là những nhà đạo sỹ, những người khôn ngoan của thời đại đi tìm gặp
Đấng Cứu Thế và làm sáng tỏ sự hiện diện của Ngài trong thế giới. Chúng ta có
vai trò phải đóng và nghĩa vụ phải chu toàn; đó là làm sáng tỏ sự hiện diện của
Thiên Chúa trong mọi nẻo đường của cuộc sống bằng cách luôn biết tìm hiểu và
đón nhận Ngôi Lời của Thiên Chúa. Thiên Chúa cần sự cộng tác của chúng ta để
tiếp tục công việc của Ngài. Thêm vào đó, những nhà Đạo Sỹ khôn ngoan đã không
đến gặp Chúa với đôi bàn tay trắng, nhưng họ đã đến với những lễ vật đặc biệt
quý giá biểu tượng cho sự dấn thân và quy phục của họ đối với Con Thiên Chúa.
Chúng ta cũng có thể dâng lên Thiên Chúa lễ vật bằng sự dấn thân hy sinh của
chính chúng ta và những sản vật do tay chân và công sức của chúng ta để nói lên
sự quy phục đối với Đức Kitô Đấng Cứu Thế của chúng ta.
Lời Mời Gọi của Lễ Hiển Linh
Do đó, Lễ Hiển Linh không phải là chỉ là lễ nói lên tình yêu của
Thiên Chúa dành cho nhân loại mà thôi; trái lại lễ Hiển Linh cũng còn là một
lời mời gọi chúng ta chiếu tỏa tình yêu của Thiên Chúa nơi cuộc sống của mỗi
người. Là con cái của Thiên Chúa và là anh chị em của Đức Giêsu, chúng ta được
kêu gọi trở nên chính sự bày tỏ của tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa là Tình
yêu. Do đó bằng một cách nào đó, tất cả mọi tình yêu đều bày tỏ Thiên Chúa. Đây
chính là lý do và ý nghĩa làm Kitô hữu: Bày tỏ sự hiện diện của Thiên Chúa qua
việc chúng ta dấn thân quyết tâm sống yêu thương. Thiên Chúa vẫn luôn luôn vô
hình cho tới khi được chúng ta bày tỏ Ngài qua những cử chỉ và lối sống yêu
thương của chúng ta đối với nhau.
Bạn và tôi chúng ta có bằng lòng chấp nhận cái ách làm Kitô hữu
như thế hay không? Chúng ta có bằng lòng làm cho sự hiện diện của Thiên Chúa
được bày tỏ qua lối sống yêu thương hay không?
(Suy niệm của Lm Nguyễn Khoa Toàn)
Câu chuyện về ba đạo sĩ vượt đường xa vạn dặm dậng tiến Chúa Hài
Nhi vàng, mộc dược và nhũ hương chỉ được ghi lại qua thánh Matthêo. Cả ba quà
tặng qúy giá kia tượng trưng toàn bộ đời sống con nguời về vật chất và cả về
tâm linh phải được nhìn qua lăng kính của những người khách lạ rất khôn ngoan
đến từ phương Đông. Ngày xưa, và ngay cả ngày nay cũng thế, phương Đông tượng
trưng cho những gì lạc hậu, chậm tiến và nhất là lạc giáo.
Lễ Ba Vua là dịp cảnh tỉnh những người nặng đầu óc cục bộ chủ quan
chỉ môi miệng hào nhoáng thờ phượng Thiên Chúa nhưng lòng dạ lại dẫy đầy những
tính toán vật chất thế trần. Đây cũng là cơ hội để chúng ta khiêm cung nhận
chân tinh thần đạo đức và lòng bác ái vị tha nơi các tôn giáo khác cũng như
truyền thống văn hoá từ những dân tộc, quốc gia trên khắp cùng thế giới.
Soren Kierkegaard, trong "Only a Rumor" viết rằng dẫu
cho những đại giáo trưởng và luật sĩ đã có thể biết đích xác ngày giờ và nơi
chốn Con Thiên Chúa giáng lâm, họ đã không buồn theo bước ba đạo sĩ phương
Đông. Có thể chúng ta cũng thế! Lắm khi chúng ta thông suốt ngọn nguồn điều răn
giáo lý, thuộc nằm lòng từng chữ từng kinh nhưng vẫn không buồn lê buớc có lẽ
vì đôi chân đã chĩu nặng những phấn bụi đường đời!
Thật là một nghịch lý khôn cùng, Kierkegaard chua chát nhận xét.
Ba Vua chỉ mới nghe đồn thôi mà họ đã vội vã ra đi, còn những nhà thông thái
kia vẫn không một mảy may biến động. Và ai sẽ tìm đuợc chân lý? Những người
khách lạ từ phuơng Đông xa xôi kia? Hay những người địa phương ung dung tự mãn
với một chút kiến thức nhỏ nhoi hạn hẹp nơi mình? Và từ những hạn hẹp nhỏ nhoi
kia đưa đến một cuộc thảm sát dã man thương tâm nhất trong lịch sử con người.
Ngay từ lúc mới mở mắt chào đời, Hài Nhi Giêsu đã hiểu đuợc rằng
từ đây số phận Người đã gắn chặt cùng những kẻ khốn cùng nhất trong những kẻ
khốn cùng. Những em bé thơ ngây trong trắng thành Bêlem đã là những thánh tử
đạo tiên khởi của toàn nhân loại chỉ vì Thiên Chúa, ngay từ giây phút đầu tiên
nhập thể, đã thách thức những quyền thần thế lực dương trần.
Hành động kinh khiếp kia của Hêrôđê nhắc nhở rằng suốt cuộc đời
của Chúa Giêsu từ hang Bêlem âm u đến đồi Golgotha trống vắng, Người đã thở hơi
đầu tiên với bò lừa và đã trút hơi thở cuối cùng bên hai tên tử tội. Và vì Hêrôđê,
Người đã đồng hoá cùng những người phải lìa bỏ quê cha đất tổ vì bạo chúa bạo
quyền. Người đã tha phuơng cầu thực nên những đau đớn họ đã tủi nhục kinh qua,
Người đã sống, đã từng...
Joy Carroll Wallis đã viết là quyền uy và tình thương của Thiên
Chúa đã biểu hiện thật tận cùng trong những kẻ đói nghèo nhưng rất khao khát tự
do hoà bình công lý. Trong những kẻ đói nghèo kia, có hàng triệu triệu nguời tỵ
nạn. Và những thuyền nhân mang hai chữ Việt Nam. Hãy đừng mặc cảm tự ti về thân
phận và danh xưng tỵ nạn của mình, nhưng hãy hãnh diện với tước hiệu rơm rác
kia, vì chính rơm rác cùng các mục đồng và ba đạo sĩ phương Đông đuợc gần Chúa
Hài Nhi trước nhất. Và đó cũng là món quà hiếm quý nên dâng tiến lên Đấng Cứu
Tinh.