Các bài suy niệm LỄ PHỤC
SINH – Năm C
MỤC LỤC
1. Chiến thắng
2. Marathon.
3. Chúa Giêsu khai sinh kỷ nguyên mới
4. Ngôi mộ là điểm khởi đầu hay là điểm cuối?
5. Niềm tin.
6. Đức Kitô sống lại
7. Đức Giêsu vẫn sống – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
8. Chúa Giêsu phải từ cõi chết sống lại.
9. Rao truyền ơn Phục Sinh Tgm Ngô Quang Kiệt
10. Ánh sáng và bóng tốI _ Tgm Ngô Quang Kiệt
11. Chúa đã sống lại thật rồi
12. Suy niệm của Lm. GB. Nguyễn Văn Hiếu
13. Kỷ nguyên cứu rỗi _ Thiên Phúc
14. Tình yêu dẫn đến đức tin – Radio Veritas Asia
15. Chúa đã sống lại – Radio Veritas Asia.
16. Sự nhầm lẫn – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền.
17. Sống lại trong lịch sử
18. Mừng Vui Lên (Lc 24, 1-12)
19. Người đã trỗi dậy rồi
20. Nguồn hy vọng sống lại - Cố Lm Hồng Phúc
21. Mặt trời hé mọc
22. Đức Giêsu đã Phục Sinh
23. Các nhân chứng phục sinh
24. Ngôi mộ trống.
25. Ông đã thấy và đã tin.
26. Phục Sinh.
27. Mầu nhiệm.
28. Niềm vui Phục Sinh Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC.
29. Ánh Lửa Phục Sinh - Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
30. Đức Kitô Phục Sinh niềm vui cuộc sống
31. Thánh Giá viết trên Cây Nến
32. Niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh.
33. Xác nhận lòng tin - McCarthy
34. Phục Sinh.
35. Phục Sinh
36. Niềm hy vọng
37. Lòng tin
38. Chúa Giêsu Nagiarét sống luôn mãi
39. Đức Kitô chiến thắng
40. Biến đổi trở thành con người mới
41. Hai cái nhìn
42. Ngôi mộ trống -JKN
43. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour
44. Chú giải của Noel Quesson
45. Chú giải của Fiches Dominicales
46. Chúa đã sống lại rồi Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
47. Chúa đã sống lại thật Lm Giuse Đinh lập Liễm
48. Con người hơn loài vật Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
49. Chúa Giêsu phải từ cõi ....Yvon Daigneault
50. Niềm tin vào Đức Kitô phục sinh Achille Degeest
51. Chúa Giêsu phải trỗi dậy Chú giải của Noel Quesson
52. Ngôi mộ mở tung và trống rỗng Fiches Dominicales
53. Sự biến đổi kỳ diệu Cha Mark Link, S.J.
54. Tìm hiểu về đại lễ Phục Sinh Lm Alphong Trần Đức Phường
2. Marathon.
3. Chúa Giêsu khai sinh kỷ nguyên mới
4. Ngôi mộ là điểm khởi đầu hay là điểm cuối?
5. Niềm tin.
6. Đức Kitô sống lại
7. Đức Giêsu vẫn sống – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
8. Chúa Giêsu phải từ cõi chết sống lại.
9. Rao truyền ơn Phục Sinh Tgm Ngô Quang Kiệt
10. Ánh sáng và bóng tốI _ Tgm Ngô Quang Kiệt
11. Chúa đã sống lại thật rồi
12. Suy niệm của Lm. GB. Nguyễn Văn Hiếu
13. Kỷ nguyên cứu rỗi _ Thiên Phúc
14. Tình yêu dẫn đến đức tin – Radio Veritas Asia
15. Chúa đã sống lại – Radio Veritas Asia.
16. Sự nhầm lẫn – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền.
17. Sống lại trong lịch sử
18. Mừng Vui Lên (Lc 24, 1-12)
19. Người đã trỗi dậy rồi
20. Nguồn hy vọng sống lại - Cố Lm Hồng Phúc
21. Mặt trời hé mọc
22. Đức Giêsu đã Phục Sinh
23. Các nhân chứng phục sinh
24. Ngôi mộ trống.
25. Ông đã thấy và đã tin.
26. Phục Sinh.
27. Mầu nhiệm.
28. Niềm vui Phục Sinh Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC.
29. Ánh Lửa Phục Sinh - Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
30. Đức Kitô Phục Sinh niềm vui cuộc sống
31. Thánh Giá viết trên Cây Nến
32. Niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh.
33. Xác nhận lòng tin - McCarthy
34. Phục Sinh.
35. Phục Sinh
36. Niềm hy vọng
37. Lòng tin
38. Chúa Giêsu Nagiarét sống luôn mãi
39. Đức Kitô chiến thắng
40. Biến đổi trở thành con người mới
41. Hai cái nhìn
42. Ngôi mộ trống -JKN
43. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour
44. Chú giải của Noel Quesson
45. Chú giải của Fiches Dominicales
46. Chúa đã sống lại rồi Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
47. Chúa đã sống lại thật Lm Giuse Đinh lập Liễm
48. Con người hơn loài vật Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
49. Chúa Giêsu phải từ cõi ....Yvon Daigneault
50. Niềm tin vào Đức Kitô phục sinh Achille Degeest
51. Chúa Giêsu phải trỗi dậy Chú giải của Noel Quesson
52. Ngôi mộ mở tung và trống rỗng Fiches Dominicales
53. Sự biến đổi kỳ diệu Cha Mark Link, S.J.
54. Tìm hiểu về đại lễ Phục Sinh Lm Alphong Trần Đức Phường
1. Chiến thắng
Thời gian gần đây, tại Việt Nam nhiều nhà
thờ đã trưng bày trên cung thánh tượng Chúa Giêsu sống lại hoặc tay cầm thánh
giá nhỏ, hoặc lưng tựa vào cây thánh giá lớn. Đó là một sáng kiến gợi ý. Bởi vì
sự phục sinh của Đức Kitô không thể tách rời khỏi thập giá. Hơn nữa, nhờ việc
Đức Kitô sống lại, cây thánh giá không còn là biểu tượng của sự thất bại, mà đã
trở nên dấu chỉ của sự chiến thắng.
Thực vậy, khi các thượng tế và luật sĩ chủ
mưu tiêu diệt Đức Kitô bằng bản án thập giá, họ ghét con người Đức Kitô thì ít,
mà ghét chủ trương và đường lối của Người thì nhiều. Chủ trương của Người là
bác ái. Đường lối của Người là cơi mở, bao dung, để phản ảnh khuôn mặt đích
thực của Thiên Chúa, là tình yêu giàu lòng thương xót. Chủ trương ấy, đường lối
ấy không phù hợp với họ. Hơn nữa, chủ trương ấy, đường lối ấy đã đụng chạm tới
cái tôi ích kỷ, hẹp hòi và tự mãn của họ. Đó chính là những động lực thúc đẩy
họ tiêu diệt Đức Kitô.
Thiết tưởng trong họ cũng có chúng ta. Vậy
chúng ta đừng bao giờ chúng ta quên điều đó. Dù bị kết án oan và dù biết mình
có sức thoát khỏi cuộc tử nạn, nhưng Đức Kitô, vì yêu thương, vẫn đễ cho các
làn sóng hận thù, ghen ghét vùi dập Người cho đến chết. Kiêu căng và ích kỷ xem
ra như đã thắng. Và thập giá bị coi như là dấu ấn thất bại được dành cho Đức
Kitô.
Tuy nhiên, không phải là như thế, cái chết
trên thập giá không phải là tiếng nói sau cùng. Bởi vì Đức Kitô đã sống lại
vinh hiển. Khi sống lại rồi, Đức Kitô không oán thù ai, không phô trương gì cả,
Ngài vẫn tiếp tục theo đuổi đường lối và chủ trương của bác ái, của khiêm
nhường, của bao dung, như những tháng năm về trước. Ngài vẫn dạy các môn đệ
Ngài hãy sống như Ngài đã dạy và đã làm gương. Bởi vì chỉ tình thương mới có
sức cứu độ, chỉ bác ái mới có sức phục sinh.
Như thế, nhờ sự sống lại của Đức Kitô, cây
thập giá đã trở nên Tin Mừng, làm chứng cho một tình yêu chiến thắng. Chiến
thắng bằng những phấn đấu gay go, dũng cảm và kiên trì chống lại những tội lỗi
và những khuynh hướng xấu xa. Chiến thắng bằng những việc làm bác ái, cởi mở,
bao dung, thăng tiến có kế hoạch và chấp nhận hy sinh.
Từ mầu nhiệm phục sinh của Ngài, chúng ta
đi đến một kết luận quan trọng, đó là kể từ nay, dù là ai, và dù sống trong
hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn có quyền tin tưởng được Ngài lắng nghe, đón nhận và
yêu thương, bởi vì Người là Đấng Cứu Độ giàu lòng thương xót. Người đến để
chúng ta có sự sống và được sống dồi dào. Người đã thắp lên trong cõi lòng
chúng ta niềm vui mừng và hy vọng, bởi vì thập giá của Người là nguồn ơn cứu độ
và cách sống của Ngài là con đường dẫn tới phục sinh. Hãy hân hoan bước theo
Người và hãy vui mừng được thuộc về Người. Chính trong chiều hướng đó mà tôi
xin cầu chúc cho mỗi người một lễ phục sinh đầy vui mừng và hy vọng với ơn lành
và tình yêu thương của Đức Kitô.
2. Marathon.
Hàng năm, báo chí cũng như truyền thanh và
truyền hình đều thường tường thuật về những cuộc chạy marathon. Vậy chạy
marathon là gì? Tôi xin thưa đó là chạy đua đường dài, với khoảng cách là 40
cây số. Nguồn gốc của việc chạy marathon là như thế này: Vào năm 490 trước Công
nguyên, tướng Miltiade, người Hy Lạp, đã chiến thắng quân Ba Tư tại Marathon,
một ngôi làng cách thủ đô Athène 40 câu số. Liền sau cuộc chiến thắng, tướng
Miltiade đã phái một người chạy bộ, vượt khỏang đường dài này, để loan báo tin
vui cho dân chúng thủ đô Hy Lạp. Người chạy đem tin vui này vừa vào tới thành
thì liền tắt thở vì kiệt sức. Vì thế, anh đã trở thành biểu tượng cho những
cuộc chạy đua đường trường trên thế giới.
Từ cây chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn
Tin Mừng hôm nay, và chúng ta nhận thấy vào buổi sáng Chúa nhật Phục Sinh, đã
có hai cuộc chạy marathon. Cuộc thứ nhất là của Mađalena. Cuộc thứ hai là của
Phêrô và Gioan. Vậy động lực nào đã thúc đẩy họ lên đường, để rồi loan báo Tin
Mừng Phục Sinh cho toàn thế giới?
Như chúng ta đã biết: dưới thập giá của
Chúa Giêsu lại chính là cuộc chiến thắng vĩ đại. Một đàng, Ngài trở nên như con
rắn đồng mà Maisen đã treo nơi sa mạc, để những ai bị rắn độc cắn mà nhìn lên
rắn đồng ấy thì sẽ được chữa lành. Đàng khác, cái chết tự nguyện của Ngài trên
thập giá đã trở nên dấu chỉ chiến thắng của tình yêu Thiên Chúa: Ngài đã yêu
thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải
chết, nhưng được sống muôn đời. Bằng cái chết, Đức Kitô đã lôi kéo chúng ta đến
với Ngài, như lời Ngài xác quyết: Ngày nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo
mọi sự đến cùng Ta.
Trở lại với cuộc chạy marathon đi tìm dấu
vết của Đấng Phục Sinh, chúng ta thấy: ở đểm xuất phát, Mađalena chạy đến mồ
trước tiên khi trời còn tối. Thấy tảng đá ở cửa mộ đã bị lăn qua một bên, cô
chưa tin gì về Chúa Phục Sinh, nên nghi người ta đã lấy trộm mất xác Thầy. Cô
liền chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan.
Đến lượt hai ông này cùng chạy đến một.
Gioan tới trước, nhưng vì kính lão đắc thọ, nên còn đứng chờ Phêrô. Khi cả hai
cùng vào mộ, liền nhận ra ai đó đã sắp xếp để khăn che đầu ở một nơi. Với trực
giác nhạy bén, Gioan hiểu ngay là không có chuyện ăn cắp xác mà lại để các khăn
liệm thứ tự như vậy. Gioan đã thấy và đã tin.
Từ những điều vừa trình bày chúng ta thấy
được hình ảnh của Giáo Hội sơ khai đi tìm dấu vết Chúa Phục Sinh. Giáo Hội ấy
gồm những người như Mađalena, Phêrô và Gioan. Đó là những con người rất khác
biệt nhau nhưng lại bổ túc lẫn cho nhau trong cuộc hành trình tìm kiếm Chúa
Giêsu. Nếu Mađalena không tới một sớm để thấy mộ trống rồi về loan báo tin ấy
cho các tông đồ, thì Giáo Hội vẫn còn im lìm, chưa có sự sống. Thế nhưng giữa
những cuộc chạy marathon mà chưa có phản ứng đức tin của Gioan thì Giáo Hội vẫn
chưa thực sự là Giáo Hội vì chưa sống bằng đức tin, một đức tin thấm nhuần lời
Chúa. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã thực sự gặp được Đức Kitô Phục Sinh
trên những bước đường của cuộc sống chưa, và nhất là chúng ta đã trở nên những
chứng nhân cho Đức Kitô Phục sinh giữa lòng cuộc đời hay chưa?
3. Chúa Giêsu khai sinh kỷ nguyên mới
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Thế là cuối cùng, sau bao ngày chịu bắt bớ,
xét xử, vu cáo, chịu đòn vọt rách nát thịt da, chịu vác thánh giá nặng nề tiến
lên núi sọ trong khi sức tàn lực kiệt ngã lên té xuống nhiều lần, rồi lại phải
chịu đóng đinh thân mình rất đỗi đau thương vào thập giá... Chúa Giêsu đã gục
đầu tắt thở và được mai táng trong mồ. Tảng đá lấp cửa mồ đã đóng lại, đóng lại
lịch sử một đời người đã làm những việc diệu kỳ. Cuối cùng, ngôi mộ đá được
đóng lại, chôn vùi một Con Người tưởng là sẽ đem lại niềm hy vọng cho Israel.
Thế là hết! Còn đâu nữa những ngày nắng đẹp
Ngài ngồi trên núi giảng bài tám phúc giữa đám đông quần chúng. Còn đâu nữa
những buổi chiều trong hoang địa Ngài hoá bánh ra nhiều nuôi trên năm ngàn
người ăn. Còn đâu nữa vị ngôn sứ oai hùng quát bảo cho sóng yên biển lặng. Còn
đâu nữa Con Người làm cho kẻ chết đội mồ sống lại, người phong hủi được chữa
lành, người câm được nói, người điếc được nghe... Còn đâu nữa vị ngôn sứ đầy
quyền năng trong lời nói và hành động phán bảo những điều đem lại phấn khởi cho
bao người...
Đức Giêsu đã chết thật rồi, chẳng còn hy
vọng gì nữa. Những môn đệ thân tín sau khi hoàn tất việc an táng Thầy thân yêu,
giờ đây ra về trong u sầu tuyệt vọng. Mọi sự như chìm vào tang tóc đau thương.
Thế rồi điều kỳ diệu xảy ra: qua ngày thứ
ba, từ lúc tờ mờ sáng, Maria Madalêna đi viếng mộ ngay từ sáng sớm cho vơi bớt
đau thương. Tới nơi, bà hoảng hồn vì mồ đá mở toang. Nhìn vào bên trong không
còn thấy thi hài của Thầy đâu nữa. Bà hoảng hốt chạy về báo tin cho các môn đệ.
Các môn đệ ra tận nơi xem xét ngôi mộ trống và rồi sau đó lại ngỡ ngàng gặp gỡ
Chúa phục sinh. Niềm vui tràn ngập cõi lòng. Bấy giờ các ngài mới biết là Chúa
Giêsu đã sống lại. Ngôi mộ đá tưởng là nơi chôn vùi, nơi xoá sổ cuộc đời Thầy
dấu ái, là điểm tận cùng của Chúa Giêsu nay đã trở thành khởi điểm cho một đời
sống mới, thành tảng đá đầu tiên xây dựng Vương Quốc trường sinh.
Hôm nay, từ ngôi mộ trống và qua những lần
hiện ra với các môn đệ sau khi phục sinh, Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta thấy Ngài
là Sự Sống lại và là Sự Sống như đã từng khẳng định với chị em Mác-ta và Maria:
"Ta là sự sống lại và là sự sống! Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được
sống. Và bất cứ ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ."
* * *
Từ thời nguyên tổ phạm tội đến nay, tội lỗi
thống trị và huỷ diệt sự sống con người. Con người vừa được sinh ra là đã mang
án chết, như hoa còn đang nụ mà đã chớm lụi tàn, như nhộng chưa thành bướm mà
đã phải tiêu vong... Mầm mống chết chóc hiện diện ngay giữa lòng cuộc sống và
một sớm một chiều sẽ phá huỷ sự sống đi. Lưỡi hái tử thần như đang kề cổ mọi
người và cướp đi sinh mạng của mọi người chẳng trừ ai.
Thế rồi qua sự phục sinh vinh hiển, Chúa
Giêsu đã mở ra một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên của sự sống vĩnh hằng. Ngài đã
thắng sự chết. Thần Chết phải buông khí giới quy hàng. Loài người không còn
phải bị tiêu diệt bởi lưỡi hái tử thần nhưng đã được cứu sống bởi quyền lực của
Chúa Giêsu phục sinh. Sự sống đã được khai thông. Cái chết đã bị đẩy lùi. Ngôi
mộ không còn là điểm tận cùng của kiếp người nhưng là khởi điểm cho một đời
sống mới. Cái chết không còn là dấu chấm hết của cuộc đời nhưng là khúc dạo đầu
cho bản giao hưởng trường sinh. Sự phục sinh của Chúa Giêsu đã xoá đi đêm dài
tăm tối của kiếp sống đau thương để làm bừng lên bình minh của cuộc đời vĩnh
cửu.
Xin mọi người hãy đến cùng Chúa phục sinh
để đón nhận cuộc sống hồng phúc Ngài ban tặng.
4. Ngôi mộ là điểm khởi đầu hay là điểm cuối?
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Ngôi mộ là điểm cuối của cuộc đời?
Đối với người vô thần, thì ngôi mộ là điểm
tận cùng của một kiếp người. Nơi đây vua cũng như dân, tướng cũng như quân, bậc
anh hùng cũng như tên vô lại, người quyền quý cũng như kẻ cơ bần... đều phải
vùi mình xuống, mục nát đi và trở thành cát bụi. Theo quan điểm nầy, ngôi mộ là
điểm tận cùng của kiếp người, là dấu chấm hết cho tất cả sự nghiệp.
"Trăm năm còn có gì đâu?
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì". (Nguyễn Du).
Ngôi mộ là cửa đưa xuống âm ty?
Theo quan niệm của một số người khác, tuy
ngôi mộ không phải là điểm tận cùng, là điểm kết thúc của kiếp người, nhưng
được xem là một cánh cửa hãi hùng: cửa đưa xuống âm ty hay vào chín tầng địa
ngục.
Ngôi mộ không còn là cửa tử nhưng là cửa
sinh.
Bằng cuộc Vượt Qua của mình, Chúa Giêsu đã
bật tung cửa mồ sống lại, đẩy lùi quyền lực sự chết đang bao trùm thế giới.
Người biến ngôi mộ là điểm cuối của đời
người trở thành cửa ngõ dẫn vào cõi trường sinh; Người khiến cho cửa mồ đã từng
há rộng nuốt lấy bao người xuống cõi âm ty trở thành cổng chào hân hoan tiếp
đón nhân loại vào thiên quốc; Người đã biến đau thương của sự chết thành niềm
hoan lạc của ngày phục sinh; biến ngày cuối của kiếp sống trần gian trở thành
ngày thứ nhất trong đời sống mới!
Từ đây ngôi mộ không là cửa tử nhưng là cửa
sinh, đưa muôn người vào đời sống vinh quang bất diệt.
Phục sinh với Chúa Giêsu
Để cho ngôi mộ không còn là điểm tận cùng
bi đát nhưng trở thành ngõ vào cuộc sống vinh quang thì trước hết chúng ta hãy
gắn bó với Chúa Giêsu như chi thể liên kết với thân mình và vững tin vào Người
như lời Người mời gọi: "Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù
đã chết cũng sẽ được sống. Hễ ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ".
(Ga 11, 25).
Vậy thì cùng với Đức Giêsu Kitô, chúng ta
hãy giã từ ngôi mộ giam nhốt chúng ta lâu nay trong tội lỗi. Cùng với Đức Giêsu
Kitô, chúng ta hãy cởi bỏ những giây băng, những khăn trùm đầu, những tấm vải
liệm ràng buộc gò bó chúng ta bấy lâu nay để vùng đứng lên bước vào đời sống
mới. Cụ thể là chúng ta hãy từ bỏ những đam mê tội lỗi vốn trói buộc chúng ta và
làm cho đời sống tâm linh chúng ta giẫy chết.
Chúa Giêsu là Đầu của chúng ta đã khải hoàn
bước vào thiên quốc, là thân mình của Người, chúng ta chắc chắn sẽ được cùng
Người tiến vào cõi vinh quang bất diệt.
Vậy ngay hôm nay, chúng ta hãy bắt đầu ngày
thứ nhất của cuộc đời mới với Chúa Giêsu bằng tiếng reo alleluia và với niềm
vui tràn ngập tâm hồn.
5. Niềm tin.
Kết quả một cuộc điều tra mới đây tại Pháp
cho thấy 84% người Pháp cho mình là người công giáo, nghĩa là có lãnh nhận Bí
tích Rửa Tội. Nhưng chỉ có 32% là con tin vào sự sống lại. Và người ta phỏng
đoán đến năm 2020 thì con số những người tin vào sự sống lại sẽ giảm xuống, chỉ
còn độ 10%. Nếu số liệu trên là sát
với thực tế và điều phỏng đoán trên là đáng tin cậy, thì tình trạng niềm tin
hôm nay quả là bi đát. Tại sao lại có hiện tượng ấy?
Phải chăng con người ngày nay quá quen với
những kỹ thuật khoa học có thể kiểm chứng, để không còn nhạy cảm đủ với niềm
tin, vốn khởi đi từ những cảm nghiệm. Hay nói theo kiểu thánh Phaolô: Vì quá
mải mê những sự dưới đất đến nỗi không còn tha thiết với những sự trên trời.
Chính vì thế, chúng ta cần phải khám phá lại niềm tin vào Đức Kitô phục sinh,
là nền tảng cho cuộc sống của người tín hữu hôm nay.
Như chúng ta đã biết Phục Sinh là một biến
cố quan trọng bởi vì không có nó thì niềm tin sẽ trở thành một việc luống công
vô ích, thế mà biến cố quan trọng ấy chỉ được ghi nhận bằng một sự kiện đơn
giản: Ngôi mộ trống rỗng. Thế nhưng điều đơn giản ấy nếu không là dấu
chứng lịch sử để mà biện bạch thì lại là dấu chỉ mở về một thực tại khác. Đó là
niềm tin Phục Sinh qua những chặng đường khám phá.
Thực vậy, từ khám phá đầu tiên về cửa mồ mở
toang, khiến Mađalena phải hốt hoảng, tới khám phá tiếp theo về dây băng còn
nguyên và khăn liệm được cuộn lại, khiến Phêrô phải kinh ngạc không nói nên
lời, để rồi kết thúc bằng khám phá bất ngờ của Gioan khi ông nối kết những dấu
chỉ kia với lời Kinh Thánh để làm bừng lên một cảm nghiệm mới và hết sức lạ
lùng: ông đã tin.
Mồ rỗng và khăn liệm còn đó là gì nếu không
phải là một dấu chỉ cho sự phục sinh theo Kinh Thánh. Thực vậy, Đức Kitô là
Thiên Chúa hằng sống, nên Ngài không thể bị chôn vùi trong cõi chết. Là Đấng
quyền năng, nên Ngài không thể bị giam hãm trong ngục thất của tử thần. Là Đấng
của vĩnh cửu, nên Ngài không thể bị giới hạn trong thời gian. Là ánh sáng, lẽ
nào Ngài lại bị bao vây bởi bóng tối. Là Đấng tạo dựng, lẽ nào Ngài lại bị thân
phận con người cầm chân. Bởi đó không còn một cách nào khác hơn là Ngài đã phục
sinh.
Từ đó, ngày Phục Sinh được gọi là ngày Chúa
nhật, ngày của Chúa. Biến cố Phục Sinh không phải chỉ là một biến cố có tính
cách lịch sử mà hơn thế nữa, còn là một biến cố làm nên lịch sử, vì biến cố ấy
không ngừng được công bố và trở thành nền tảng niềm tin cho cả Giáo Hội. Bởi vì
một khi Đức Kitô là đầu đã sống lại, thì chúng ta là chi thể, một ngày kia cũng
sẽ sống lại, nếu như chúng ta trung thành gắn bó mật thiết với Ngài.
6. Đức Kitô sống lại
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng
nhau chia sẻ về ba thái độ. Trước hết là thái độ của Mađalena.
Thực vậy, tập tục liệm xác của người Do
Thái bao gồm việc rửa xác, ướp thuốc thơm và gói lại bằng tấm vải trắng, lấy
dây băng cuộn lại từ đầu đến chân, xong xuôi đâu đó thì đem đặt xác vào trong
huyệt được đục sẵn nơi vách đá và lấy tảng đá to lấp đậy cửa hang.
Vì hối hả, nên khi về nhà, Mađalêna mới
nhận ra rằng mình đã không cẩn thận đủ đối với Chúa Giêsu, bà nóng lòng chờ đến
sau ngày thứ bảy, tức là ngày thứ nhất trong tuần.
Phải, vào sáng ngày thứ nhất trong tuần,
đối với chúng ta hiện nay thì đó là ngày Chúa nhật, bà đem thuốc thơm đến mồ để
ướp xác lại. Khi đến nơi, bà thấy ngôi mộ trống trơn. Cửa đã được đẩy qua một bên và Chúa Giêsu không còn ở trong đó nữa. Vì
thế, bà vội vã chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan. Rồi cả hai ông đều chạy đến
mồ. Đối với Mađalêna, bà đến mồ chỉ mong để ướp xác Chúa lại cho chu đáo hơn,
nói cách khác, bà đến mồ chỉ để tìm lại một xác chết. Với tâm trạng như thế,
khi nhìn thấy ngôi mộ trống trơn, bà khó có thể nhận ra Chúa đã sống lại.
Còn Phêrô? Ông đã sợ hãi, ông đã
chối Chúa vì sợ bị liên luỵ. Chúa đã chết và nghỉ yên trong mồ. Điều ông mong
muốn lúc đó là đừng có gì rắc rối xảy ra nữa. Xin được hai chữ bình yên. Nhưng
tại sao lại có sự kiện mất xác Chúa? Ông chạy đến mồ với tất cả mọi lo sợ trong
đầu óc. Ông lo sợ một nhóm nào đó, sau khi giết Chúa Giêsu, lại tìm cách phá
rối các ông để kết án và xử tử các ông.
Là trưởng nhóm, ông chạy đến mồ, quan sát
những gì đã xảy ra và tìm cách biện minh: Tại sao thế này và tại sao thế nọ?
Với một tâm trạng như thế, ông cũng khó có thể nhận ra Chúa đã sống lại.
Sau cùng là thái độ của Gioan. Ông
yêu thương Chúa Giêsu và biết rằng Chúa cũng rất yêu thương ông. Tình yêu của
ông được biểu lộ nhất là trong những giờ phút sau hết của Chúa Giêsu. Ông đã
theo chân Chúa trên con đường thập giá cho đến phút cuối cùng và chỉ trở về nhà
với Mẹ Maria sau khi đã chôn cất Chúa.
Kinh nghiệm cho thấy khi yêu thương ai,
chúng ta luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của người ấy trong
cuộc đời mình, cho dù hoàn cảnh bắt buộc phải xa cách nhau. Với cái nhìn đó,
Gioan đã dễ dàng nhận ra sự kiện Chúa đã sống lại: Ông đã thấy và ông đã tin.
Từ đó, chúng ta kết luận: tình yêu
dẫn đến đức tin. Những lo lắng trần gian, như lo lắng của Mađalêna đi
tìm xác chết không vượt lên được. Những suy tư lý luận của Phêrô chẳng đưa tới
đâu, chỉ có tình yêu của Gioan mới dẫn ông mau chóng tới niềm tin vào Chúa
Giêsu phục sinh.
Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta chỉ
có thể cảm thấy sự hiện diện của Chúa và chỉ có thể hiểu được mọi biến cố trong
cuộc đời mình, nếu chúng ta noi gương Gioan, để cho lòng trí mình luôn tiến
triển trên con đường tình yêu của Chúa.
7. Đức Giêsu vẫn sống – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Sáng ngày thứ nhất trong tuần, khi đến thăm
mồ Đức Giêsu, chị Maria Magdala phát hiện không có xác Đức Giêsu trong đó. Chị
cho rằng có ai đã lấy xác Đức Giêsu và quăng đi đâu đó, vì có lẽ chị không biết
mồ nơi chôn táng Đức Giêsu là tài sản của ông Giuse Arimathia. Chị chạy về báo
tin cho các tông đồ, cụ thể là cho Phêrô và Gioan. Hai môn đệ này tới, và cũng
nhận thấy xác Đức Giêsu không còn trong mồ nữa. Tin mừng Gioan cho thấy “người
môn đệ đến trước”, đã thấy và đã tin (Ga.20, 8); tuy nhiên tin mừng lại không
cho thấy ông tin điều gì. Theo tin mừng Maccô, không có tông đồ nào tin Đức
Giêsu Phục Sinh khi các chị phụ nữ báo tin Đức Giêsu đã phục sinh (Mc.16,
9-14).
Tất cả các tông đồ chỉ tin Đức Giêsu Phục
Sinh, khi các ông gặp gỡ Ngài. Trong lần hiện ra đầu tiên cho các tông đồ,
Thomas không ở đó nên không thấy, nên ông đã không tin Đức Giêsu phục sinh cho
dù các tông đồ khác và các chị phụ nữ loan tin cho ông. Tám ngày sau, khi Chúa
Phục Sinh hiện ra với ông, ông mới tin. Phục Sinh, là điều vượt trên kinh
nghiệm bình thường của con người, nên các tông đồ không tin Đức Giêsu Phục
Sinh, cũng là điều dễ hiểu. Đã đành các tông đồ có kinh nghiệm người chết sống
lại như trường hợp con trai bà góa thành Naim, con gái ông Giairô, Lazarô em
của Matta và Maria, nhưng Đức Giêsu Phục Sinh khác với những người khác sống
lại. Ngài vẫn sống nhưng người ta không giữ Ngài lại được. Ngài hiện ra và biến
đi, không gì ngăn cản được Ngài.
Những người được Đức Giêsu phục sinh như
Lazarô, con trai bà góa thành Naim, ai muốn gặp có thể tới để gặp họ. Đức Giêsu
Phục Sinh thì không như vậy. Chỉ người nào Ngài muốn, người đó mới được gặp
Ngài mà thôi. Trong khoảng 40 ngày, các tông đồ còn có thể gặp Ngài (Cv.1, 3);
nhưng sau thời điểm này, không ai được diễm phúc gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh
nữa. Ai tin Ngài, là ngang qua những chứng nhân để tin vào Ngài. Đức Giêsu phục
sinh là một biến cố mà người ta phải tin để biết. “Phúc cho những ai không thấy
mà tin”. Bao nhiêu người tin vào Đức Giêsu Phục Sinh, đều là những người được
ơn đức tin. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là hồng ân lớn lao. “Không ai có thể tuyên
xưng Đức Giêsu là Chúa mà không nhờ Thần Khí” (1Cor.12, 3).
Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là một hành vi tự
do. Những lý chứng cho thấy Đức Giêsu phục sinh, không đạt được tính buộc người
ta phải chấp nhận như luận chứng toán học 2+2=4. Người ta vẫn tự do để tin Đức
Giêsu phục sinh hay không. Tin cũng là biết. Hai anh chị yêu nhau, người này
nói yêu người kia, và người kia cần tin. Tin vào người khác, là một cách biết
người đó. Tin ai đó, cho rằng những điều người đó nói hay làm chứng là đúng, và
nếu không tin thì không thể biết được vậy.
Tất cả các tông đồ chỉ tin Đức Giêsu Phục
Sinh, sau khi các ngài đã được thấy Đức Giêsu Phục Sinh. Sau đó những ai tin
vào Đức Giêsu Phục Sinh đều phải tin qua lời chứng của các tông đồ. Các tông đồ
đã dùng chính mạng sống của mình để làm chứng rằng những gì các ngài nói là sự
thật. Từ ngữ tử đạo (martureô) có nghĩa là làm chứng. Lời chứng đáng tin
nhất, là lời chứng của người dám dùng chính mạng sống mình để bảo đảm rằng điều
mình khẳng quyết là sự thật. Tất cả các tông đồ đều tử đạo trừ tông đồ Gioan.
Không tin Đức Giêsu Phục Sinh, đây là điều
bình thường. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là một ơn vô cùng lớn. Kitô hữu không
ngạc nhiên khi người ta không tin Đức Giêsu Phục Sinh. Kitô hữu cũng biết rằng
họ muốn người khác chia sẻ niềm tin với họ, là để người đó hạnh phúc hơn. Tuy
nhiên, đức tin là một hồng ân, là điều vượt khả năng của Kitô hữu. Chỉ có Thiên
Chúa mới có thể ban hồng ân ấy cho người ta. Muốn ai Đức Giêsu Phục Sinh, Kitô
hữu phải cầu xin Chúa ban ơn ấy cho người đó. Không phải vì người Kitô hữu
giảng hay, dạy tốt mà người đó tin vào Đức Giêsu Phục Sinh. Tin Đức Giêsu Phục
Sinh, không phải là chuyện con người có thể làm được. Đó là hồng ân của Thánh
Thần.
Để có thể đón nhận đức tin, để có thể biết
như người của Thiên Chúa, người đó phải có đời sống có thể đón nhận đức tin.
Nếu một người có đời sống bất lương, nếu người đó chỉ tin vào mình, thì cũng
khó có thể tin Đức Giêsu Phục Sinh. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, đòi người đó phải
đổi đời, phải có đời sống mới, phải sống lương thiện. Không sẵn sàng đổi đời để
thành người lương thiện, người đó sẽ tìm mọi cách để biện luận từ khước tin vào
Đức Giêsu Phục Sinh.
Kitô hữu không là những người mê tín, nhưng
là những người ý thức mình được ơn đặc biệt. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là hồng
ân vô cùng lớn. Niềm tin này làm Kitô hữu có cái nhìn mới về thế giới, về Thiên
Chúa, và về con người. Tin vào Đức Giêsu Phục Sinh, Kitô hữu nhận ra mình được
Thiên Chúa yêu thương vô cùng. Và một khi biết Thiên Chúa yêu thương mình, mình
có thể phó thác đời mình trong tay Thiên Chúa, Đấng yêu thương mình vô cùng,
Ngài sẵn sàng làm tất cả mọi sự để được mình.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Tại sao có những người trẻ hổ thẹn khi
người khác biết họ là Kitô hữu?
2. Đâu là lý do chính nhất làm bạn tin Đức
Giêsu Phục Sinh?
8. Chúa Giêsu phải từ cõi chết sống lại.
(Suy niệm của Yvon Daigneault)
Mở đầu.
Bất chấp những bài hát, những lời tung hô
và những bài giảng tuyên bố Chúa Giêsu đã sống lại, mầu nhiệm này vẫn hoàn toàn
là mầu nhiệm đối với chúng ta và nó mãi mãi là mầu nhiệm cho đến tận cùng, cho
đến khi chúng ta được hưởng kiến Thiên Chúa cùng với Chúa Kitô Phục Sinh. Vì
vậy Tin Mừng mà chúng ta vừa mới đọc có một tầm quan trọng đặc biệt. Với một
khoa tâm lý sâu sắc bài Tin Mừng này cho thấy nỗi bàng hoàng của các môn đệ sau
cái chết của Chúa Giêsu – “người ta đã lấy Chúa khỏi mồ, và chúng tôi không
biết họ đặt Ngài ở đâu”, và nó mời gọi chúng ta phải có một thái độ đúng đắn,
thái độ chính yếu mà Chúa chờ mong, đó là đức tin, - “ông đã thấy và đã tin”.
Sự Phục Sinh.
Người ta thường hay nói về sự Phục Sinh
trong nhiều trường hợp: thiên nhiên sống lại; một người được đưa đến bệnh viện
đã hoàn sinh trở về. Người ta muốn làm sống lại những truyền thống dân gian
hoặc những thói quen tốt đã bị mai một, tất cả những gì đã bị thời gian làm cho
mục nát tiêu tan.
Tất cả những điều đó chẳng liên quan gì đến
sự Phục Sinh của Chúa Giêsu cả. Trong những thí dụ trên đây, đó chỉ là việc trở
lui về quá khứ, tìm lại cái đã mất mà thôi. Chúa Giêsu không bắt đầu lại cuộc
sống của Ngài như trước kia. Không thể nào nghĩ rằng Chúa Giêsu tìm lại những
con đường xứ Palestine, những đóm lửa ven bờ hồ, những cuộc gặp gỡ trên đường,
hoặc Ngài tiếp tục sứ vụ của mình trước đây, như thể cuộc tử nạn chỉ là một sự
cắt đứt bất hạnh và tạm thời thôi.
Chúa Kitô đã chết thật sự. Điều này không
chỉ có nghĩa là kết thúc tất cả mạng lưới tương quan, công việc và dự tính, như
cái chết của mọi con người.
Chúa Kitô đã Phục Sinh. Không có nghĩa là
Chúa Kitô tìm lại được sự sống sinh học và những sinh hoạt của Ngài trước kia,
nhưng là Thiên Chúa ban cho Ngài một cuộc sống hoàn toàn mới mẻ trong một cách
hiện hữu tuyệt đối mới mẻ mà nhân tính của Ngài tham gia trọn vẹn. Chúa Giêsu
Phục Sinh hiệp thông hoàn toàn với chính cuộc sống của Thiên Chúa, với Ánh Sáng
của Thiên Chúa, với Quyền Năng của Thiên Chúa, mà vẫn không ngừng đời đời là
chính mình với thân xác của Ngài đã trở nên thần thiêng, và với tất cả những gì
thuộc về thân xác: những mối dây thân ái, những kinh nghiệm đã có được, những
bài học của một cuộc đời và cả những thử thách, những tương quan, những ký ức…
Mầu nhiệm Đức Tin.
Khi chúng ta tuyên xưng đức tin: “Chúa Kitô
đã Phục Sinh!”. Chúng ta khẳng định rằng giờ đây Ngài tràn đầy sự sống của
Thiên Chúa và tất cả những gì liên kết Ngài với chúng ta, thay vì kết thúc, đã
được thể hiện cách sung mãn. Vì vậy chúng ta đã tuyên bố rằng cả chúng ta nữa,
vì thuộc về Chúa Kitô, chúng ta sẽ phục sinh với Ngài để dự phần vào vinh quang
của Ngài.
Phục Sinh không phải là một kỷ niệm đẹp
nhưng là biến cố luôn luôn hiện tại và hậu quả của nó liên lỉ được thấy rõ trên
thế giới này, nhất là trong việc thông ban Thánh Thần, Đấng mà Chúa Cha và Chúa
Con ban cho các môn đệ để biến đổi các ông và biến đổi thế giới này.
Phục Sinh là biến cố phải được biết, đón
nhận và sống trong đức tin. Đức tin không phải là nhắm mắt mà nói “đúng thế”
mặc dù tôi không hiểu gì hết, nhưng là tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng thực hiện
biến cố này và khẳng định nó nhờ chứng tá của Thần khí Ngài.
Kết luận.
Đón nhận biến cố Phục Sinh với niềm tin,
tức là tin tưởng vào Thiên Chúa Đấng đã mặc khải biến cố này trước hết cho các
tông đồ, và sau đó cho chúng ta, qua các ngài. Nếu đối với các ngài mồ có vẻ
trống, thì từ ngày ấy nó còn trống hơn nữa và không nơi nào từ hai ngàn năm qua
người ta đã nhìn thấy Chúa Kitô trên trần thế này, nhưng Quyền Năng của Chúa
Kitô hằng sống vẫn không ngớt biểu lộ.
9. Rao truyền ơn Phục Sinh
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Sau, ngày Chúa chịu chết, các môn đệ rơi
vào một tình trạng thê thảm: buồn rầu, sợ hãi, chán nản, thất vọng.
Còn đâu niềm vui khi được ở bên người Thầy
yêu dấu. Còn đâu an ủi khi thấy những người đói khát được ăn no, người bệnh tật
được chữa lành, kẻ tội lỗi được tha thứ, người chết được sống lại. Còn đâu niềm
hy vọng tràn trề khi chứng kiến ma quỷ bị xua đuổi.
Tất cả đã chìm vào quá khứ. Giờ đây sự ác
đã chiến thắng, sự dữ đã thống trị. Cả một bầu trời tang tóc phủ trùm trên
những người tin Chúa. Tâm hồn các ngài như đã chết. Niềm tin yêu hy vọng của
các ngài như cùng bị chôn táng trong mộ với người Thầy yêu quý.
Giữa lúc ấy, Chúa sống lại khải hoàn. Chúa
Giêsu Phục Sinh đã khiến cuộc đời các ngài thay đổi tận gốc rễ.
Khi tảng đá lấp cửa mộ tung ra cũng là lúc
tâm hồn các ngài thoát khỏi màn đêm vây phủ. Khi gặp được Chúa Phục Sinh, tâm
hồn các ngài bừng lên sức sống mới. Máu chảy rần rần. Tim đập rộn ràng. Mắt
sáng. Miệng tươi.
Các ngài như người đã chết nay sống lại.
Chúa Giêsu đã Phục Sinh tâm hồn các ngài. Sự sống mới của Chúa đã tràn vào các
ngài. Ơn Phục Sinh đã được ban cho các ngài. Sự sợ hãi đã trở thành mạnh dạn.
Sự yếu đuối đã trở nên mạnh mẽ. Sự thất vọng đã biến thành hy vọng. Nỗi sầu khổ
đã biến thành niềm vui.
Cảm nghiệm ơn Phục Sinh rồi, các môn đệ
không còn có thể ngồi yên trong căn phòng đóng kín cửa nữa. Các ngài mở tung
cửa, hăng hái ra đi đem Tin Mừng Phục Sinh chia sẻ cho mọi người. Các ngài muốn
vực dậy những mảnh đời đang chết dần mòn. Các ngài muốn phục hồi những tâm hồn
đang héo úa. Các ngài muốn thế giới biến đổi trong một đời sống mới, tươi vui,
hạnh phúc, dồi dào hơn.
Hôm nay Chúa muốn cho tất cả mọi người
chúng ta, noi gương các Thánh Tông đồ, tiếp nối công việc của Chúa, đem ơn Phục
Sinh đến với mọi người.
Có những người đang chết dần mòn vì không
đủ cơm ăn áo mặc. Có những cuộc đời tàn lụi đi vì bệnh hoạn tật nguyền. Có
những tấm thân gầy mòn vì lao lực vất vả. Có những cuộc đời trẻ thơ bị giam kín
trong tăm tối thất học, nghèo nàn. Tất cả đang đợi chờ được Phục Sinh.
Có những tâm hồn đang ủ rũ vì buồn phiền.
Có những mạch máu như ngừng chảy vì đau khổ. Có những trái tim đang tan nát vì
bị phản bội. Có những cuộc đời cay đắng vì thất bại. Có những tương lai bị chôn
kín trong những nấm mồ đen tối không lối thoát. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục
Sinh.
Nhất là có những tâm hồn đang lún sâu trong
vũng lầy tội lỗi. Có những linh hồn đang tự huỷ hoại trong đam mê tiền bạc,
quyền lợi, danh vọng. Có những niềm tin héo úa vì lạc hướng. Có những đời sống
đang rỉ máu vì chia rẽ bất hoà. Có những cuộc đời đang chao đảo vì gặp khó khăn
thử thách. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.
Đem Tin Mừng Phục Sinh đó là giúp cuộc đời
anh em thoát khỏi những bế tắc, giúp cho linh hồn anh em được sống cao thượng
và khôi phục niềm tin yêu của anh em vào Thiên Chúa, vào con người và vào cuộc
đời.
Tuy nhiên, để có thể đem Tin Mừng Phục Sinh
đến với mọi người, bản thân ta cần được Phục Sinh trước.
Trong chính bản thân ta cũng đang chất chứa
những mầm mống chết chóc đó là những tội lỗi, đam mê, dục vọng. Trong chính bản
thân ta cũng đang ấp ủ những lực lượng tàn phá đó là thói kiêu căng, ích kỷ,
chia rẽ, bất hoà, tham lam, bất công. Trong chính bản thân ta đức tin đang héo
úa, lòng mến đang nguội lạnh, niềm hy vọng đang lụi tàn.
Để đón nhận được ơn Phục Sinh và để ơn Phục
Sinh có thể thấm vào mọi ngõ ngách trong tâm hồn, ta phải cộng tác với Chúa,
tẩy trừ mọi lực lượng sự chết ra khỏi tâm hồn ta. Cuộc chiến đấu sẽ khốc liệt
vì ta phải chiến đấu với chính bản thân mình. Nhưng với ơn Chúa Phục Sinh trợ
giúp, chắc chắn ta sẽ toàn thắng.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có nhận thấy những lực lượng sự chết
đang ở trong lòng người bạn không? Bạn có muốn loại trừ chúng không?
2. Bạn có thấy ơn Phục Sinh là cần thiết
không?
3. Bạn có sẵn sàng đem ơn Phục Sinh cho mọi
người không?
4. Tuần này, bạn sẽ sống mầu nhiệm Chúa
Phục Sinh thế nào?
(Suy niệm của ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Phụng vụ hôm nay trình bày cho ta sự tương
phản giữa bóng tối và ánh sáng.
Mở đầu phần nghi thức, nhà thờ chìm vào
bóng tối. Bóng tối tượng trưng cho thế lực sự dữ, sự ác. Khi Đức Giêsu chưa
Phục Sinh, sự dữ, sự ác còn thống trị. Nhân loại chìm ngập trong bóng tối sự
chết.
Cây nến Phục Sinh tượng trưng cho Đức Kitô
Phục Sinh. Đức Kitô Phục Sinh chiếu lên nguồn sáng mới, xua tan đi bóng đêm.
Đức Kitô Phục Sinh là sự sống mới đã chiến thắng sự chết.
Như cây nến muốn chiếu sáng phải tiêu hao
chính mình. Đức Kitô đã phải chịu tiêu hao đi trong những đớn đau, khổ cực, tủi
nhục và cả trong cái chết, mới đem lại ánh sáng sự sống cho ta.
Chúng ta là con cái Chúa, là con cái của sự
sáng. Nhưng trong ta còn nhiều phần chưa thuộc về Chúa. Nhiều phần trong tâm
hồn ta còn thuộc về bóng tối.
Có thứ bóng tối tội lỗi nhận chìm
linh hồn ta trong những vực sâu tối đen không có đường thoát ra.
Có thứ bóng tối đam mê dục vọng gìm
linh hồn ta trong cơn mê ngủ miệt mài, mất hết ý chí phấn đấu tiến lên.
Có thứ bóng tối tham lam ích kỷ làm
lu mờ lương tâm, lý trí, khiến ta coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa. Vì tiền
bạc mà dám phạm những tội ác tày trời. Vì lợi nhuận của mình mà làm thiệt hại
cho người khác.
Có thứ bóng tối ghen ghét oán thù nó
làm cho tâm hồn ta không lúc nào bình an, vì chìm ngập trong nỗi hận thù dai
dẳng.
Có thứ bóng tối tự ái kiêu căng
khiến cho linh hồn ta không tìm thấy niềm vui trong sự khiêm nhường tha thứ.
Tất cả những bóng tối đó đang khiến linh
hồn ta suy yếu, chết dần chết mòn. Tất cả những bóng tối đó ngăn chặn ánh sáng
của Chúa, ngăn chặn dòng suối ơn lành của Chúa đổ vào hồn ta.
Để ánh sáng Phục Sinh của Chúa tràn vào hồn
ta, ta phải quét sạch những bóng tối còn vương vấn trong tâm hồn.
Cũng như cây nến phải chịu tiêu hao mòn mỏi
mới nuôi được ánh sáng soi chiếu đêm tối, ta cũng phải phấn đấu với chính bản
thân mình, quên mình, chịu chết cho tội lỗi, để ta sống một đời sống mới.
Khi phấn đấu đẩy lùi bóng tối tội lỗi, ta
thoát được ách ma quỷ và được sống trong ánh sáng của Chúa, trở nên con cái ánh
sáng.
Lạy Đức Kitô Phục Sinh, Chúa đã chiến thắng
ma quỷ, xin giúp chúng con chiến đấu với ma quỷ, để được sống một đời sống mới
trong ánh sáng của Chúa.
11. Chúa đã sống lại thật rồi
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Ngày thứ nhất trong tuần, ngày mà nước mắt
chưa vơi, tình người chưa cạn. Maria Mađalêna, người đàn bà rất thật đàn bà,
mạnh mẽ phi thường. Lúc các môn đệ, giới mày râu vai u thị bắp, có những vị
được mệnh danh là con cái sấm sét, đang ẩn đâu đấy sau khi thầy bị bắt, bị giết
và an táng trong mồ, thì Maria Mađalêna vẫn can đảm dõi bước theo Thầy trong
hành trình Thương Khó, tận mắt thấy cảnh Thầy bị đánh đòn vai mang thập giá,
can đảm hơn bà còn đứng dưới chân Thánh giá, chôn cất Thầy, nay lại ra viếng mồ
Thầy khi trời còn chưa sáng như Gioan thuật lại trong Tin Mừng hôm nay:
"Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối"
(Ga 20, 1). Lúc tranh tối tranh sáng, người ta thường hay sợ thế lực nào đó,
Maria đã chứng tỏ bản lĩnh của mình.
Bà tới mộ, ô kìa, chuyện gì đã xảy ra vậy?
Sao tảng đá lấp cửa mồ lại lăn ra, xác Thầy tôi đâu? Cho dù can đảm, nhưng vốn
bà vẫn là phái yếu, liễu yếu đào tơ, cần tìm người trợ giúp, hiển nhiên phải là
các ông rồi. Bà liền tức tốc quay về tìm Simon Phêrô và người môn đệ kia được
Chúa Giêsu yêu mến, với hy vọng mấy ông sẽ tìm ra thủ phạm, bà nói với các ông
rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta
đã để Thầy ở đâu?" (Ga 20, 2). Chúng ta cứ tưởng tượng xem, khi hay tin,
tâm trạng các ông như thế nào lúc "cả hai cùng chạy, nhưng một ông chạy
nhanh hơn, tới mộ trước cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông
không vào trong"(x. Ga 20, 4). Tại sao ông lại không vào trong? Ông không
vào là vì ông tôn trọng Phêrô là đầu của nhóm. Ông thấy và ông tin Người
phải sống lại từ cõi chết, đúng như lời Kinh Thánh.
Chúa đã sống lại thật rồi! Allêluia!
Allêluia! Allêluia! Chúng ta có tin không?
Hôm nay Giáo hội mừng Chúa sống lại với
niềm vui khôn tả. Chúa Giêsu sống lại là một thực tế của lịch sử mà những người
phụ nữ thánh thiện, các tông và môn đệ chứng thực, họ đã nhìn thấy và nhất là
đã đụng chạm vào Chúa Giêsu Phục sinh. Lời của Phêrô là bằng chứng: "Chúng
tôi là chứng nhân tất cả những gì Người đã làm trong nước Do-thái, và tại
Giêrusalem, Người là Đấng người ta đã giết treo Người trên thập giá. Nhưng ngày
thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà
là với chúng tôi là nhân chứng " (Cv 10, 37-41).
Chính Phaolô, người Do thái nhiệt thành
cũng quả quyết: "Vì tiên vàn mọi sự, tôi đã truyền lại cho anh em, điều mà
chính tôi cũng đã chịu lấy: là Ðức Kitô đã chết vì tội lỗi ta, theo lời Kinh
thánh, là Ngài đã bị chôn cất, là Ngài đã sống lại, ngày thứ ba, theo lời Kinh
thánh, là Ngài đã hiện ra cho Kêpha, đoạn cho nhóm Mười hai. Rồi Ngài hiện ra
cho hơn năm trăm anh em một lần, trong số đó phần đông hiện nay cũng còn sống,
nhưng cũng có người đã yên nghỉ. Rồi Ngài đã hiện ra cho Giacôbê; đoạn cho các
tông đồ hết thảy. Cuối hết Ngài đã hiện ra cho cả tôi nữa, không khác một
đứa con ranh" (1 Cr 15, 3-8; Ga 20, 1-29); Mt 28, 9-10). Những người dân
ngoại và Do thái cũng là những chứng nhân rất đặc biệt!
Bài Ca Tiếp Liên chúng ta hát trong ngày
hôm nay nhắc lại biến cố lịch sử quan trọng này. Maria Madalêna đã thực sự gặp
các thiên thần làm chứng tỏ tường, thấy y phục và khăn liệm của Đức Kitô Phục
Sinh. Với hồng ân đức tin, đến lượt chúng ta phải công bố tin mừng Chúa phục
sinh (x. Ca Tiếp Liên lễ Phục Sinh).
Mừng lễ Chúa Kitô Phục sinh là dịp để người
kitô chúng ta vui mừng hân hoan và tràn trề niềm hy vọng vào một tương lai huy
hoàng sáng lạng trong nước Thiên Chúa sau khi đã hoàn tất cuộc đời lữ thứ trần
gian. Chúa Kitô Phục sinh khải hoàn, đó là niềm tin và lẽ sống của người Kitô.
Hôm nay chúng ta hân hoan vui mừng với tinh thần mà thánh Phaolô nói: "Vì
Chiên Vượt Qua của ta, là Đức Kitô, đã chịu sát tế. Cho nên ta hãy mừng lễ,
đừng với men cũ, và men gian tà, ác độc, nhưng là với Bánh không men của lòng
tinh tuyền và chân thật" (1Cr 5,7-8). Từ nay chúng ta quả quyết mà không
sợ sai lầm rằng, cái chết không phải là tiếng nói cuối cùng nữa, bởi vì ngày
chúng ta chịu phép rửa tội, "nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng làm một
với Ngài trong sự chết, ngõ hầu như Ðức Kitô, nhờ bởi vinh quang của Cha, mà
được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống
mới" (Rm 6, 4). Ước mong niềm tin vào Đấng Phục sinh luôn đem đến cho Giáo
hội, cho thế giới và mọi người trên trái đất này sự bình an, ơn hiệp nhất để
cùng hướng về mục đích đệ nhất của kiếp người là được hưởng sự sống vĩnh hằng
trong ngày sau hết.
Sau khi hân hoan mừng Chúa Phục Sinh. Giáo
hội muốn nhắn gửi mỗi người chúng ta rằng: hãy lên đường, để sự hiện diện của
ta là lời chứng rao giảng hùng hồn về Đức Kitô đã chết đi, loan tin Người đã
sống lại, trong vinh quang mai Người lại đến đón chúng ta, những người tin vào
Đức Kitô lên trời về với Chúa Cha. Vì quê hương chúng ta là quê Trời, nước
chúng ta là Nước Trời. Thánh Phao lô khuyên chúng ta "hãy tìm những sự
trên trời, nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa" (Cl 3, 3).
Chúa sống lại thật rồi, Allêluia! Kính dâng
Người vinh quang và uy quyền đén muôn đời muôn thuở. Allêluia!
12. Suy niệm của Lm. GB. Nguyễn Văn Hiếu
NHẬP LỄ
Chúa nhật là Ngày Của Chúa. Ngày đó, Chúa
làm chủ, vì Chúa đã chiến thắng sự chết và đã sống lại. Chúa Nhật cũng là Ngày
Thứ Nhất trong tuần. Thời sáng tạo, ngày thứ nhất Thiên Chúa đã tạo dựng ánh
sáng. Phục sinh, ngày thứ nhất Chúa cũng đem lại ánh sáng và sức sống mới cho
nhân loại.
- Lạy Chúa, sau ngày phục sinh, ánh sáng
mới và sức sống mới Chúa ban cho chúng con là tinh thần hiệp nhất và sức sống
liên kết (x.Cv 4,32). Xin Chúa thương xót chúng con.
- Lạy Chúa Ki-tô, sau ngày phục sinh, ánh
sáng mới và sức sống mới Chúa ban cho chúng con là lòng vâng phục và yêu mến
Thiên Chúa (x.1Ga 5,1). Xin Chúa Ki-tô thương xót ...
- Lạy Chúa, sau ngày phục sinh, ánh sáng
mới và sức sống mới Chúa ban cho chúng con là bình an của ơn tha tội và được
sai đi để ban ơn tha thứ của Chúa (x.Ga 20,21). Xin Chúa thương xót ...
GIẢNG
Chúa Giê-su đã sống lại. Việc Chúa sống lại
/ không chỉ được chứng minh bằng ngôi mộ trống và các lần Chúa tỏ mình ra cho
người này người khác, ở nơi này hay nơi kia. Đoạn Tin Mừng theo Thánh Gio-an mà
chúng ta nghe hôm nay, còn cho chúng ta thấy những hiệu quả xác thực việc Chúa
sống lại đó. Nhờ Chúa sống lại, mà đời sống của Giáo Hội có được sức sống mới.
Sức sống mới này được nhận thấy hiệu quả
trước tiên là bình an và hoan lạc trong tâm hồn. Trước khi Chúa hiện diện, “nơi
các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái” (Ga 20,19a).
Nhưng khi Chúa đến, “đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em” thì mọi
người đều vui mừng (Ga 20,19b.20b). Sức sống mới là bình an và hoan lạc này,
không ai có, mà có thể khư khư giữ lại cho riêng mình, nên niềm vui ấy đã được
loan báo lại cho ông Tô-ma ~người không biết vì lý do gì vắng mặt chiều hôm ấy.
Sức sống mới ấy đã được đích thân Chúa
Giê-su truyền lại cho các môn đệ. Người ban “bình an cho anh em” và Người thổi
hơi, ban Chúa Thánh Thần xuống cho: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (20,22).
Thánh Thần của Chúa Giê-su chính là Thần Khí đã tạo nên sự sống thời nguyên
thuỷ. Thánh Thần của Chúa là nguyên uỷ của sự sống. Nhờ Chúa sống lại và hiện
diện, ban xuống Chúa Thánh Thần, nên sức sống trong Giáo Hội đã được đổi thay.
Đổi thay, là con người từ nay được tha tội
và được Chúa Phục Sinh sai đi để thực thi quyền tha tội: “Như Chúa Cha đã sai
Thầy, thì Thầy cũng sai anh em... Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha;
anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (20,21b.23). Sức sống mới ấy, trước
ngày Chúa sống lại, Giáo Hội làm gì đã có năng quyền và thẩm quyền?! Ngày nay,
Giáo Hội thực thi thẩm quyền này, chính là một cách mạnh mẽ rao giảng và minh
chứng quyền năng Chúa đã sống lại.
Sức sống mới ấy không chỉ ẩn sâu trong tâm
hồn người tín hữu, nhưng nhờ Chúa sống lại mà “các tín hữu thời bấy giờ đông
đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của
riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung” (Cv 4,32). Sức sống từ Chúa
Phục Sinh hiện diện, đã biến cải tâm hồn con người, tạo cho các tín hữu ~những
người đã tin Chúa sống lại~ một sự sống mới. Sự sống mới ấy có nghĩa là từ nay
không ai sống cho riêng mình, nhưng sống cho mọi người, bởi vì Chúa cũng đã
chết và sống lại cho mọi người. Tình yêu đích thật của Chúa đã chan hoà nơi
lòng mọi kẻ tin thờ Chúa. Thánh Gio-an viết: “Phàm ai tin rằng Đức Giê-su là
Đấng Ki-tô, kẻ ấy đã được Chúa sinh ra. Và ai yêu mến Đấng Sinh Thành, thì cũng
yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra” (1Ga 5,1).
Chúng ta đừng nghĩ rằng tất cả các tín hữu
thời xưa đã có sự sống mới, nếp sống mới, đều là những người đã được thấy nhãn
tiền Chúa Phục Sinh hiện diện. Cũng có rất nhiều người không được nhìn thấy
Chúa như chúng ta ngày nay. Nhưng chúng ta nhớ Chúa đã nói với Thánh Tô-ma:
“Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,29). Các tín hữu ấy đã tin
lời các Tông Đồ truyền lại. Họ đã thay đổi nếp suy tư và cách sống.
Lời rao giảng của các Tông Đồ vẫn còn được
tiếp tục truyền lại cho chúng ta ngày hôm nay. Cho nên, nếu chúng ta tin, chấp
nhận Chúa đã sống lại, thì nếp sống của chúng ta cũng phải được thay đổi, phải
được biến chuyển:
- Chúng ta đón nhận mọi hoàn cảnh sống
trong niềm vui hoan lạc và bình an,
- Chúng ta đón nhận Chúa trong việc lãnh
nhận bí tích Hoà Giải, tạo cho mình một nếp sống tràn đầy sức mạnh của Chúa
Thánh Thần ~nghĩa là sẵn sàng vâng theo mệnh lệnh, ơn soi sáng của Chúa Thánh
Thần,
- Chúng ta quảng đại, bao dung đón nhận anh
em, sẵn sàng chia sẻ, cộng tác với mọi người trong một nếp sống chung tương
thân tương ái.
Như thế là chúng ta đã tin nhận, đồng thời
cũng là rao giảng Chúa sống lại và chấp nhận mệnh lệnh Chúa sai đi, như các
Tông Đồ và các giáo hữu thời xưa vậy.
13. Kỷ nguyên cứu rỗi – Lc 24,1-12
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên
Phúc)
Một bề trên tu viện Công Giáo đến tìm một
ẩn sĩ Ấn Giáo tại chân núi Hy Mã Lạp Sơn. Ông lo âu trình bày về tình trạng bi
đát của tu viện. Trước kia tu viện này là một trung tâm thu hút nhiều khách
hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân khắp nơi tuôn đến.
Nhà dòng không còn chỗ nhận thêm người xin gia nhập. Thế mà bây giờ tu viện
chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng. Tu sĩ thì leo teo
mấy người. Cuộc sống thật là buồn tẻ. Vị bề trên hỏi tu sĩ Ấn Giáo cho biết
nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã đưa tu viện tới tình trạng trên đây. Tu sĩ
Ấn Giáo ôn tồn bảo: Tội của cộng đoàn đó là tội vô tình. Và ông giải thích:
Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quý vị, nhưng quý vị không nhận
ra Người.
Từ đó, mọi người đối xử với nhau như với
Đấng Cứu Thế. Chẳng bao lâu bầu khí yêu thương huynh đệ thắm thiết, sức sống
mới nảy sinh, và niềm vui tràn ngập tu viện. Khắp nơi người ta lại tìm đến tu
viện tĩnh tâm, cầu nguyện. Nhiều bạn trẻ lại đến xin gia nhập cộng đoàn.
“Sao các bà lại tìm người sống giữa kẻ
chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã chỗi dậy rồi” (Lc 23,5-6). Buổi sáng Phục Sinh đầu tiên, Đức Giêsu
đã vinh thắng ra khỏi mộ tối, để mở đầu cho một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên cứu
rỗi. Người đã hiện ra với Mađalêna, với Phêrô, với hai môn đệ trên đường Emmau,
với các môn đệ đang tập họp trong nhà cửa đóng kín, trên bờ biển Tibêria. Và
Người vẫn còn hiện diện giữa chúng ta, những kẻ tin vào Người, ở mọi nơi, trong
mọi thời đại. Đó là một Tin vui không chỉ cho thành Giêrusalem mà còn cho toàn
thế giới.
Tin vui chính là Đức Giêsu Phục Sinh, ánh
sáng rạng ngời đã xóa tan bóng tối của tử thần và tội lỗi, để dẫn đưa con người
bước vào miền ánh sáng sự sống.
Tin vui chính là Đức Giêsu Phục Sinh luôn
hiện diện giữa những kẻ tin Người sống lại, để mang lại cho họ niềm vui và an
bình trong cuộc sống mới.
Nếu ngôi mộ tối đã không thể giam giữ Đức
Giêsu Phục Sinh, và xiềng xích của sự chết đã bị Người bẻ gẫy, thì không còn gì
có thể tiêu diệt chúng ta được. Thánh Phaolô viết: “Ai có thể tách chúng ta
ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách,
hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8,35). Vì thế, Sống niềm vui Phục Sinh
chính là chết đi cho tội lỗi để sống lại với Chúa trong đời sống mới, đời sống
Phục Sinh.
Sống niềm vui Phục Sinh chính là tin rằng
Chúa đã sống lại và đã cứu thoát chúng ta khỏi vòng tội lỗi, nên chúng ta hãy
đặt niềm tin và hy vọng nơi Người.
Sống niềm vui Phục Sinh chính là sống vui
tươi, an bình và yêu thương trong sự hiện diện của Đức Giêsu Phục Sinh.
Cộng đoàn tu viện trong câu chuyện kể trên
chỉ tìm được bầu không khí yêu thương và niềm vui huynh đệ khi mà mọi người
nhận ra Đấng Cứu Thế đang ở giữa họ, trong người anh em.
14. Tình yêu dẫn đến đức tin – Radio Veritas Asia
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’)
Trong Tin Mừng Chúa Nhật Phục Sinh, thánh
Gioan kể lại cho chúng ta câu chuyện 3 người đi tìm Chúa: Maria Mađalêna, Gioan
và Phêrô.
Khi đọc đoạn Phúc Âm đó, chắc chắn mỗi
người chúng ta đều nhận thấy rằng tất cả 3 người đều đến mồ, đều thấy cùng một
sự kiện mồ trống và khăn liệm, nhưng chỉ có mỗi mình Gioan là tin Chúa Giêsu đã
sống lại. Thánh Gioan đã viết về chính mình rằng: "Ông thấy và ông đã
tin".
Để hiểu rõ câu chuyện, chúng ta hãy trở lại
chương 16. Sau khi Chúa Giêsu chết, người Do Thái đến xin Philatô cho hạ xác
những người đóng đinh xuống vì họ không muốn thấy xác chết treo trên thập giá
trong ngày thứ bảy, ngày sabbat, nhất là ngày sabbat trong lễ Vượt Qua của họ.
Phép tắc, thủ tục xong, xác Chúa được hạ
xuống. Theo phong tục người Do Thái, họ tính bắt đầu ngày mới từ lúc mặt trời
lặn.
Maria Mađalêna và các môn đệ có mặt lo hối
hả để chôn xác Chúa cho xong và ra về trước khi mặt trời lặn, nếu không họ sẽ
lỗi luật tôn giáo vì ngày sabbat chỉ được đi bộ một quãng bằng ném hòn đá mà
thôi.
Chúng ta cũng nên biết qua cách liệm xác
của người Do Thái. Cách liệm xác của họ là rửa xác, ướp thuốc thơm và gói lại
bằng tấm vải trắng, lấy băng quấn lại từ đầu đến chân như người ta băng bó vết
thương, xong xuôi đâu đó đem đặt xác vào trong hang huyệt đục sẵn trong đá và
lấy tảng đá to đậy cửa hang lại.
Vì hối hả nên Maria Mađalêna về nhà nhận
thấy mình không cẩn thận đủ đối với Thầy Giêsu của mình và nóng lòng chờ đến
sau ngày thứ bảy. Vào ngày thứ nhất trong tuần, tức ngày Chúa nhật, bà đem
thuốc thơm đến mồ để ướp xác lại. Khi đến nơi bà thấy mồ trống, cửa đã được đẩy
ra và Thầy không còn trong đó nên vội vã chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan.
Gioan là thanh niên trai trẻ chạy nhanh hơn Phêrô nên ra đến mồ trước. Đến nơi
Gioan chỉ đứng ngoài khom người nhìn vào chờ Phêrô đến, cả hai cùng vào mồ, họ
đều thấy dây băng liệm và vải liệm, nhưng Gioan thú thực trong lòng ông đã tin
Chúa sống lại. Phân tích tâm lý của 3 nhân vật, chúng ta sẽ thấy tại sao?
Đối với Maria Mađalêna, bà
đến mồ chỉ mong để ướp xác Thầy lại cho chu đáo hơn. Bà cầm thuốc thơm trong
tay và đầu óc chỉ nghĩ đến thân thể đã nằm yên bất động. Nói tắt một lời: Bà
đến mồ chỉ để tìm xác chết. Một tâm trạng như thế, thấy mồ trống không, bà khó
có thể nhận ra tức thì Chúa Giêsu đã sống lại.
Còn Phêrô, ông đã sợ hãi. Ông
đã chối Thầy của mình trong giờ phút Thầy bị hành hạ nhục nhã vì ông sợ bị liên
lụy. Thầy đã chết và nằm yên trong mồ. Điều ông mong muốn lúc đó là xin đừng có
gì rắc rối xảy ra nữa, xin được hai chữ "bình yên". Nhưng tại sao lại
có sự kiện mất xác này. Ông chạy đến mồ với tất cả mọi lo âu trong đầu. Ông lo
nhóm nào đó sau khi giết Thầy lại tìm cách phá rối các tông đồ để kết án họ và
xử tử họ nữa chăng. Ông là trưởng nhóm, vậy ông chạy đến mồ để quan sát những
gì đã xảy ra. Vậy ông chạy đến mồ mà trong lòng chỉ lo nghĩ đến việc tại sao
thế này, tại sao thế nọ để tìm cách đối phó. Với tâm trạng đó, Phêrô khó có thể
nhận ra Chúa Giêsu đã sống lại.
Phần Gioan, ông yêu thương
Chúa Giêsu và ông biết rằng Chúa Giêsu đã yêu thương ông. Trong Phúc Âm, khi
ông viết một điều gì có đề cập đến mình trong đó, thánh Gioan luôn dùng kiểu
nói "người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến". Thánh Gioan đã yêu mến Chúa
Giêsu thật sự, tình yêu mến đó đã thể hiện ra bên ngoài, nhất là trong những
giây phút cuối cùng của Chúa Giêsu. Thánh Gioan đã theo chân Chúa Giêsu trên
con đường thập giá và là tông đồ duy nhất đứng dưới chân thánh giá cho đến giờ
phút cuối cùng và chỉ trở về nhà với Mẹ Maria sau khi đã chôn cất Chúa Giêsu.
Kinh nghiệm cho thấy, khi yêu ai thì ta luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy
sự hiện diện của người ấy trong cuộc đời mình cho dù hoàn cảnh bắt buộc phải xa
nhau. Thánh Gioan luôn nhớ lại lời giảng dạy của Thầy trong lòng và hy vọng
Thầy sẽ sống lại vì Thầy đã báo trước. Với cái nhìn đó, Gioan đã nhận ra dễ
dàng sự kiện sống lại. Ông đã thấy và ông đã tin.
Qua câu chuyện, chúng ta thấy rõ ràng rằng:
Tình yêu dẫn đến đức tin. Những lo âu trần gian như lo lắng của Maria Mađalêna
đi tìm xác chết không vượt lên được. Những suy tư, lý luận lo âu của Phêrô đã
không đưa đến đâu. Chỉ có tình yêu Chúa Giêsu của thánh Gioan đã đưa ông nhanh
chóng đến đức tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh.
Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta
cùng tìm Chúa, chúng ta có thể cảm thấy sự hiện diện của Chúa, chúng ta có thể
hiểu được ý nghĩa của mọi biến cố trong cuộc đời mình nếu chúng ta noi gương
Gioan, để cho lòng trí mình luôn tiến trên con đường tình yêu Chúa.
15. Chúa đã sống lại – Radio Veritas Asia.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Trong đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan chúng
ta vừa đọc trên đây, tác giả chỉ nhắc đến bà Maria Madalena, nhưng qua ba Tin
Mừng Nhất Lãm, chúng ta biết có thêm một vài người nữ cùng ra mộ Chúa Giêsu với
bà. Các bà đi đến mộ và hốt hoảng khi thấy tảng đá chặn cửa mộ đã bị mở ra. Tại
sao có chuyện kỳ cục như thế? Có ai muốn phá rối chăng? Bà Maria Madalena vội
vàng chạy về báo tin cho Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến. Hai ông
hối hả chạy đến mộ, hai ông đã thấy mộ trống với các khăn liệm còn lại ở đó,
nhưng họ chẳng thấy xác Ngài đâu. Nhìn thấy quang cảnh, người môn đệ Chúa Giêsu
thương mến biết rằng Thầy đã sống lại như lời Thầy đã nói.
Ngôi mộ trống là một dấu chỉ mà Chúa Giêsu gửi đến các môn đệ sáng
ngày hôm đó. Đứng trước ngôi mộ trống, mỗi người có một phản ứng khác nhau. Các
bà thì hoảng hốt, chạy về nhờ cậy các ông tới cứu. Ông Phêrô thì ngạc nhiên về
sự việc xảy ra. Còn người môn đệ Chúa Giêsu thương mến thì tin rằng Thầy đã
sống lại. Chúa đã sống lại thật. Allêluia.
Sự thật này có sức mạnh biến đổi cuộc đời
chúng ta, đưa chúng ta ra khỏi bóng tối của sự sợ sệt, của nghi nan, để sống
đến cùng đức tin của mình vào Chúa Kitô. Một ngôi mộ trống nhưng được giải
thích bằng nhiều cách khác nhau, sẽ dẫn đến những phản ứng khác nhau.
Trong cuộc sống đức tin, mỗi người chúng ta
đã nhiều lần đứng trước ngôi mộ trống của Chúa Giêsu, đó là những lần chúng ta
băn khoăn đi tìm câu trả lời cho ý nghĩa đích thực của đời Kitô. Dù đã được học
hỏi về đức tin Kitô, đã được nghe giảng Lời Chúa, đã được chia sẻ kinh nghiệm
sống đức tin của biết bao thế hệ tín hữu, nhưng những điều ấy không miễn cho
chúng ta phải đối diện với đức tin của chính mình.
Như nhóm người cùng đi đến mộ Chúa Giêsu
sáng sớm hôm ấy, chúng ta cùng hiệp thông với nhau nhưng không thể quyết định
thay thế cho nhau. Giáo Hội khuyên chúng ta phải trả lời những câu hỏi về đức
tin đặt ra cho chính mình. Có nhiều lúc chúng ta như rơi vào đêm tối bất an,
tương tự như các môn đệ trong thời gian sau biến cố tử nạn của Chúa Giêsu,
chúng ta nửa tin nửa ngờ. Một mặt chúng ta biết rằng đức tin vào Chúa Kitô có
sức giải thoát chúng ta khỏi vòng vây tội lỗi và mang lại cho chúng ta một cuộc
sống an bình hạnh phúc. Mặt khác, chúng ta phải đối diện với những thực tế cấp
bách, thực tế xem ra không trùng khớp bao nhiêu với những điều mà đức tin dạy
bảo chúng ta. Đức tin dạy chúng ta phải xây dựng hạnh phúc trên những nền tảng
siêu nhiên. Thực tế lại cho thấy dường như những điều siêu nhiên chẳng giúp
chúng ta đạt hạnh phúc mà đôi khi còn gây ra cho chúng ta bao nhiêu điều thiệt
thòi phiền toái. Đức tin dạy chúng ta phải tập trung đầu tư cho cuộc sống vĩnh
cửu mai sau, thực tế lại cho thấy mọi người đều dồn hết sức lực để xây dựng cho
cuộc sống vắn vỏi ở đời này. Ai đúng, ai sai, ai khôn, ai dại? Chúng ta bối rối
không biết phải theo ai bỏ ai đây? Trước những câu hỏi hóc búa này, chúng ta
loay hoay tìm câu trả lời. Chúng ta cầu xin Chúa Giêsu soi sáng cho chúng ta.
Nhưng có lúc, thay vì trực tiếp trả lời, Chúa Giêsu đưa chúng ta tới ngôi mộ
trống của Người. Người gởi đến cho chúng ta những mật thư, những dấu chỉ, những
lời nói, những biến cố đặc biệt xảy đến cho chúng ta. Muốn tìm ra lời đáp,
chúng ta phải giải mã những tín hiệu này.
Khi nhìn thấy ngôi mộ trống, người môn đệ
Chúa Giêsu thương mến nhanh chóng nhận ra rằng Thầy mình đã sống lại, ông không
nhìn bằng đôi mắt nhưng đã nhìn bằng con tim. Tác giả Tin Mừng theo thánh Gioan
đã kín đáo không nêu tên người môn đệ này, nhưng truyền thống Giáo Hội vẫn cho
đó chính là tông đồ Gioan. Ông là người được Chúa Giêsu yêu thương cách đặc
biệt và ông cũng đáp lại Thầy mình với tình yêu thương nồng nàn. Chính tình yêu
này mách bảo cho ông biết đích xác chuyện gì đã xảy ra với Thầy. Tình yêu hun
đúc niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, nhiều lúc con
phải giải mã các tín hiệu mà Chúa gởi đến cho con trong cuộc sống. Xin Chúa
giúp con luôn trung kiên trong tình yêu, để con nhanh chóng nhận ra sứ điệp mà
Chúa muốn gởi đến cho con trước ngôi mộ trống của Chúa, xin cho con vững tin
rằng Chúa đã sống lại thật. Allêluia.
16. Sự nhầm lẫn – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền.
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Người ta kể rằng: ở một cửa hàng bán hoa
vừa xảy ra một sự nhầm lẫn thật ngộ nghĩnh. Ngày hôm đó, người bán hoa làm hai
lẵng hoa cho hai khách hàng khác nhau. Một là để chúc mừng ngân hàng mới mở
thêm một chi nhánh mới, và một là để chia buồn cho một đám tang. Thế nhưng, hai
tấm thiệp đính kèm hai bó hoa bị đặt lộn, thành ra lẵng hoa gửi cho đám tang
lại nhận được lời chúc: "chúc mừng khai trương cơ sở mới". Ngược lại,
thiệp trao cho ngân hàng lại ghi hàng chữ: "Thành thật chia buồn".
Xem ra sự nhầm lẫn này tuy không hợp tình
nhưng lại hợp lý. Vì đời là bể khổ. Ra khỏi cuộc đời là thoát khỏi khổ luỵ trần
gian. Chết là lìa bỏ chỗ ở dưới đất mà lên trời. Chết là bỏ trần gian với bao
bon chen vật lộn để về quê trời vĩnh cữu không còn khổ luỵ của tham sân si phàm
trần. Chết là về nhà cha trong niềm vui của đứa con xa nhà nay được hồi hương
trở về. Như vậy, chết là vui mừng chứ không còn là thương tiếc. Ai lại thương
tiếc khi một đứa con xa nhà nay trở về? Ai lại buồn khi được đoàn tụ bên Cha
trên trời?
Truyền thống văn hoá Việt Nam vẫn tin rằng:
chết là sự trở về, là quy tiên, là trở về nơi mình đã xuất phát ra đi. Ngày xưa
tại các nghĩa trang miền quê, người ta thường chôn người chết dưới lòng đất và
vun phần trên thành hình một người phụ nữ mang thai. Điều này ngụ ý về một cuộc
trở về với lòng đất mẹ. Chính nơi lòng mẹ, ta đã sinh ra. Đó là nơi kín đáo
nhất, ấm cúng nhất. Khi chết là trở về nơi lòng đất mẹ cũng là nơi kín đáo và
ấm cúng. Như thế, nấm mồ không phải là dấu chỉ về một con người đã chết dưới
lòng đất lạnh mà là dấu chỉ cho cuộc trở về nguồn cội đích thực của mình, về
nơi mà mình đã xuất phát ra đi.
Hôm nay, các người phụ nữ đến bên nấm mồ
của Chúa. Họ đã kinh ngạc và hãi hùng. Vì tảng đá che cửa mộ đã bị bật tung ra
ngoài. Họ vào trong nhưng không thấy gì. Họ tưởng rằng xác Chúa đã bị ai đó lấy
đi. Họ tìm kiếm nhưng vô vọng. Họ thấy một người mặc áo trắng, tưởng là người
làm công nên mới hỏi: "Ai đã lấy xác Chúa tôi rồi?". Nhưng các bà lại
nghe một lời mà chưa bao giờ được nghe: "Tại sao các bà lại tìm người sống
ở giữa kẻ chết? Người đã trỗi dạy và ra khỏi mồ". Nấm mồ này và khăn liệm
này đã không còn dùng để phủ kín một đời người nữa! Nó không có ích cho người
còn sống, có chăng là dấu chỉ cho sự thật hiển nhiên là Chúa đã sống lại từ
trong cõi chết. Người không còn ở đây. Người đã ra khỏi mồ. Hãy đi báo tin cho
các môn đệ và Người sẽ gặp các ông tại Ga-li-lê-a.
Vâng, Chúa đã phục sinh. Nấm mồ của sự chết
đã bị bật tung. Sự lặng vắng cô quạnh của đêm tối sự chết đã bị đẩy lùi bằng
ánh sáng phục sinh huy hoàng. Con người sinh ra không phải để chờ chết như bao
người lầm tưởng. Sinh ra - lớn lên - gia nua - rồi chết. Thế là hết một cuộc
đời. Sứ điệp phục sinh cho chúng ta hiểu rằng: con người sinh ra là bước vào một
cuộc hành trình tiền về nhà cha. Nơi mà ngày xưa Adam - Eva đã từ đó ra đi, nay
nhờ cuộc Tử Nạn và Phục sinh của Chúa khai mở cho chúng ta con đường trờ về Nhà
Cha. Chúa Phục sinh. Cửa trời rộng mở. Con người có thể hành hương về trời. Về
với hạnh phúc bất diệt, là nơi "không còn sự chết, không còn than khóc đau
thương nữa". Nơi đó, không còn đêm tối, không còn những cuộc chia ly từ
biệt, cũng không còn nước mắt nhớ thương.
Hôm nay Chúa đã phục sinh. Lòng chúng ta
hãy trào dâng niềm hân hoan vì Chúa đã về nhà Cha. Ngài đã hứa thiên đàng cho
người trộm lành. Ngài cũng hứa thiên đàng cho những ai tin theo Ngài: "Ta
đi để dọn chỗ cho các con, để Thầy ở đâu các con cũng ở đó với Thầy". Đó
chính là nền tảng niềm tin của chúng ta. Chúng ta tin vào Đấng hằng sống để
chúng ta được sống muôn đời.
Ước gì niềm vui Phục sinh sẽ biến đổi chúng
ta thành con người mới. Con người của ân sủng. Con người của tự do không bị
những đam mê thấp hèn thống trị, không bị những thói đời gian dối làm mất đi vẻ
đẹp của phẩm giá cao quý của con người được tạo dựng giống hình ảnh Chúa. Ước
gì niềm tin Chúa đã phục sinh giúp chúng ta biết chiến đấu mỗi ngày để chiến
thắng cái ác, chiến thắng tật xấu bằng những hy sinh khổ chế, bằng cuộc sống
bác ái yêu thương để mai này chúng ta cũng được phục sinh vinh hiển với Chúa.
Nguyện xin Chúa là Đấng đã phục sinh từ cõi chết nâng đỡ chúng ta trên đường
thánh giá hôm nay, để ngày sau chúng ta cùng được chung hưởng hạnh phúc quê
trời. Amen.
17. Sống lại trong lịch sử
(Lm. G.B. Trần Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Còn chúng tôi đây xin làm chứng về
mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do Thái và tại chính Giêrusalem” (Cv 10,39)
Khi đặt vấn đề Đức Giêsu lịch sử trong cái
nhìn hiện đại, chúng ta ngay từ đầu sẽ vấp phải vấn nạn không dễ chấp nhận: đó
là các Kitô hữu ban đầu đã xác tín rằng Đức Giêsu sau khi bị đóng đanh dẫn đến
cái chết, đã sống lại. Thánh Phêrô đã tuyên bố “Họ đã treo Người trên cây gỗ và
Người đã chết. Nhưng vào ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và Người
đã hiện ra không phải với mọi người, nhưng với chúng tôi, là những kẻ được
Thiên Chúa tuyển chọn để làm chứng cho Người, và là những kẻ được cùng ăn cùng
uống với Người sau khi Người chỗi dậy từ cõi chết”.
Lời chứng của các Kitô hữu về việc Chúa
sống lại đặt căn bản trên những biến cố của lịch sử, nhưng làm sao để những lời
chứng này am hợp với suy luận của lý trí con người ngày nay. Làm sao một con
người với đầu óc lý luận thực tiễn có thể tin vào những lời chứng này? Bởi vì,
theo suy luận mang tính duy nghiệm, người chết không thể sống lại được.
Tuy nhiên, Phêrô và nhiều tín hữu buổi sơ
khai đã làm chứng rằng Đức Giêsu đã từ cõi chết sống lại. Họ xác quyết Ngài đã
từng đồng hành với họ, trò chuyện với họ và ăn uống với họ. Có phải họ nói dối?
Hay lầm lẫn? Hoặc hoang tưởng? Hay họ thêu dệt bịa đặt câu chuyện, chỉ vì hụt
hẫng khi Thầy của họ đã mất mà còn cố gượng gạo muốn Thầy vẫn còn gắn bó
với cuộc sống của mình? Tất cả những vấn nạn này do các học giả đưa ra khi
nghiên cứu về Đức Giêsu lịch sử, thay vì dễ dàng chấp nhận những xác quyết của
các Kitô hữu thuở sơ khai về việc Đức Giêsu đã sống lại. Nhưng chúng ta phải
nhớ rằng, theo não trạng của những người thuộc thế giới cổ đại bấy giờ, cho dù
nói chung họ thơ ngây và dễ tin, nhưng vẫn không phải dễ dàng và thông thường
xác tín rằng người chết đã sống lại. Họ có nhiều kinh nghiệm cụ thể với thế
giới người chết và tiếp cận với những người sắp chết hơn là những người Đông
Phương hiện đại thời bây giờ. Họ hiểu thế nào là sự chết.
Với việc Đức Giêsu phục sinh, các môn đệ
của Đức Giêsu thời sơ khai đã đồng lòng xác quyết một điều gì đó đã xảy ra, một
điều rất lạ lùng, rất khác thường và tất cả đều trải nghiệm trực tiếp về điều
lạ lùng và khác thường này. Ở đây chúng ta có thể đi đến kết luận, như cách nói
của Ben Meyer “Mặc dù những người làm chứng cho một sự lạ đưa ra những lý chứng
không mấy thuyết phục, hoặc có thể không trung thực hay tự đánh lừa chính mình,
hoặc những lý chứng của họ không mấy tương hợp với sự xác tín hay với những
tính chất đặc thù của sự kiện, nhưng như một định luật thiên nhiên không
thể che đậy được, là họ đã thấy, họ đã tin và đã làm chứng như vậy. Tất cả mọi
người: Phêrô, Maria Maddalêna, Salômê, Maria mẹ của Giacôbê, bà Gioanna,
Giacôbê, Gioan, Nathanael thành Cana, ông Tôma và các Môn đệ khác… chẳng lẽ họ
đều là những con người khờ khạo, gian dối hay tự đánh lừa chính mình?
Các môn đệ Đức Giêsu đã không kỳ vọng vào
việc sống lại. Cleopas trên đường đi Emmaus, đã nói giữa đám môn đệ về một cảm
giác hụt hẫng “Chúng tôi kỳ vọng Ngài chính là người sẽ giải phóng Israel” (Lc
24,21). Maria Maddalêna đứng bên ngôi mộ trống đã buồn bã thốt lên “Người ta đã
lấy cắp xác Chúa tôi mang đi khỏi ngôi mộ, và chúng tôi không biết họ đặt Người
ở đâu”. Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu đã nói cho các môn đệ rằng Ngài sẽ phải
chịu đau khổ, phải chết và sau ba ngày sẽ chỗi dậy, nhưng họ không hiểu điều
Ngài nói cho tới khi trực diện tiếp cận với Đức Giêsu – Đấng Phục Sinh. Điều đã
làm thay đổi đầu óc nơi họ, chắc chắn không phải là một lời nói dối, một lời
hứa hão huyền, hay một ảo giác của cả một tập thể, nhưng là một kinh nghiệm có
thật về Đức Giêsu – Đấng đã sống lại và ở giữa họ.
Nhưng để có được trải nghiệm về Đức Giêsu
Phục Sinh, một sự kiện gây chấn động, họ phải mở rộng tâm hồn đón nhận thực tại
Thiên Chúa. Họ phải mở lòng để đón nhận Thiên Chúa – Đấng đang tác động trong
lịch sử, một Thiên Chúa thể hiện chương trình cứu độ đếm với con người, thông
qua thân xác mong manh của Đấng bị đóng đanh, nhưng đã sống lại để khai mở một
kỷ nguyên mới, một cuộc sống mới bất diệt. Nếu ai đó không tin vào Thiên Chúa,
sẽ khó mà tin được Thiên Chúa đã sai gửi người con của Ngài, và hiển nhiên Ngài
đã có một người con yêu dấu để trao ban cho chúng ta. Hơn nữa, nếu có ai không
tin Thiên Chúa đang hoạt động trong lịch sử, sẽ khó mà chấp nhận rằng Thiên
Chúa đã can thiệp vào lịch sử bằng cách cho người con của Ngài sống lại để cứu
chuộc con người.
Các Môn đệ đã tin rằng Đức Giêsu chính là
Đấng Messia, Đấng sẽ chuộc lại dân Israel. Tuy nhiên, khi Ngài tiến nhận cái
chết, họ đã phải tự thẩm định lại xem họ đã tin gì và Đấng mà họ đã đi theo là
ai? Sự tái thẩm định niềm tin đó đã mau chóng xảy ra khi đối diện trước những
biến cố làm chao đảo những kỳ vọng nơi họ, và cuối cùng họ đã cảm nhận
được mầu nhiệm Chúa phục sinh, chỉ vì biết mở lòng để Thiên Chúa tác động trong
lịch sử hầu thực hiện kế hoạch cứu chuộc loài người. Sự phục sinh khiến họ thay
đổi tận sâu thẳm tâm hồn, nhưng họ đã tin bởi vì họ đã trải nghiệm được điều
chân thực này. Tất cả những việc còn lại cần phải làm và có thể làm, là họ sẽ
mang chở chứng tá cho một thực tại rất rõ ràng “Đức Giêsu đã sống lại và đã đến
ở giữa họ”.
18. Mừng Vui Lên (Lc 24, 1-12)
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Mừng vui lên… vui lên, hỡi Mẹ Hội Thánh vui
lên…hãy vang lên tiếng ca hát của toàn dân. Vâng đêm nay là “đêm của Đức Chúa” (Xh 12, 42), đêm Thánh “mẹ của mọi đêm thánh” (thánh
Augustinô). Đêm đêm tôn vinh và cảm tạ, vì Thiên Chúa đã, đang và mãi mãi yêu
thương con người, đêm nối kết trời với đất, con người với Thiên Chúa, và con
người trần thế với nhau.
Lễ nghi Canh Thức long trọng đêm nay làm
cho chúng ta sống lại biến cố Chúa Phục Sinh, một biến cố có tính cách quyết
định và luôn thời sự, Mầu Nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo. Đêm nay, vô số
những cây nến phục sinh được đốt lên trong các nhà thờ tượng trưng ánh sáng
Chúa Kitô đã và còn đang sáng soi nhân loại, ánh sáng không bao giờ lụi đi, ánh
sang chiến thắng bóng tối của tội lỗi và sự dữ…(x. Exsultet). Còn hạnh phúc và
hy vọng nào lớn lao hơn, khi Con Thiên Chúa sống lại, để tất cả những ai tin
vào Người cũng sẽ được sống lại vinh quang. Vì thế, Giáo hội trần thế đêm nay
với niềm vui khôn tả đều đồng thanh công bố Tin Mừng Phục Sinh cho toàn thế
giới: “Mừng vui lên”, mừng vui lên hỡi muôn lớp cơ binh thiền thần…Cùng vui lên
hỡi các nhiệm mầu thánh này…Và vui lên, toàn trái đất…Cùng vui lên, ôi Mẹ Hội
Thánh…(x. Exsultet) vì Chúa đã sống lại.
Chúa Giêsu thành Nagiarét, Đấng chịu đóng
đinh, đã sống lại từ trong cõi chết sau ba ngày bị mai táng trong mồ, đúng như
lời Kinh Thánh. Lời loan báo của “hai người đứng gần các bà, y phục sáng chói”
(Lc 24,4) làm “các bà kinh hãi cắm mặt xuống đất” (Lc 24,5). Thấy vậy, hai
người lên tiếng: “Tại sao các bà tìm người sống nơi những kẻ chết? Người không
còn ở đây. Người đã sống lại”(Lc 24, 5-6). Vâng Người đã sống lại rồi.
Chúng ta cứ thử tưởng tượng xem tâm tình
của mấy phụ nữ “vừa tảng sáng, đi ra mồ mang theo những thuốc thơm đã dọn sẵn”
(Lc 24,1), hết sức bàng hoàng khi thấy: “Hòn đá đã lăn ra khỏi mồ?” (Lc 24,2).
Nhờ lời của hai người lạ kia, các bà nhớ lại lời Người đã nói: “Con Người phải
bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi, bị đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba sẽ
sống lại” (Lc 24,7).
Vâng, Chúa Kitô đã sống lại sáng láng bước
ra khỏi mồ, sau khi tiêu diệt sự chết, bẻ gãy mọi ràng buộc của ngôi mộ. Chính
vì thế mà các Thiên Thần từ trời cao đã tuyên bố: “Người không còn ở đây. Người
đã sống lại” (Lc 24, 6). Con Thiên Chúa không còn ở trong mộ, bởi vì Người
không thể nào là người tù của sự chết (x. Cv 2, 24) và ngôi mộ không thể nào
giữ lại “Đấng hằng sống” (Kh 1,8), Đấng là chính nguồn mạch của sự sống đã kết
thúc cuộc hành trình nơi ngôi mộ như mọi người, nhưng Người đã chiến thắng sự
chết, sống lại ra khỏi mồ. Người đã mở lòng đất và mở ra thật rộng để hướng về
Trời, đưa chúng ta ra khỏi mồ tăm tối, dẫn chúng ta từ đất về trời với Chúa
Cha.
Mừng vui lên, sao không thể không vui, bởi
vì đêm nay Chúa Kitô ra khỏi ngục vinh thắng, đêm mà xiềng xích sự chết do Tội
tổ tông gây ra bị bẻ gãy. Sự chết đó đã khiến cho bao người thất vọng, làm tiêu
tán hết mọi nỗ lực của con người. Nay Con Thiên Chúa, vì yêu thương đã vâng
phục, với cái giá phải trả là chết trên thập giá, để hòa giải tội nhân với
Chúa, mang lại sự sống cho con người. Từ nay con người phải chết sẽ được sống,
ơn làm con cái Chúa được phục hồi, sự chết sẽ không còn cơ hội để khống chế và
tiêu tan những cố gắng của con người nữa. Nhờ bí tích Rửa Tội, chúng ta được
kết hiệp với Chúa Kitô, sự Phục Sinh của Người trở thành sự phục sinh của chúng
ta, như lời tiên tri Ezechiel đã loan báo: “Đây, Ta mở ra các mồ mả của các
người; Ta phục sinh các người từ các mồ mả, hỡi dân ta ơi, và ta sẽ dẫn các
người trở lại xứ sở của Israel” (Ed 37,12). Những lời tiên tri trên có một giá
trị đặc biệt trong ngày Chúa phục sinh, bởi vì hôm nay được nên trọn lời hứa của
Đấng Tạo Hóa.
Ngày hôm nay, trong thời đại chúng ta đây,
thời đại bị ghi dấu bởi sự lo âu và không chắc chắn, thời đại khủng hoảng, mất
niềm tin vào nhau, chúng ta được sống biến cố Phục Sinh, một biến cố đã thay
đổi dung mạo cuộc đời chúng ta, đổi thay cả lịch sử nhân lọai. Tất cả những ai
đang bị áp bức bởi những mối dây ràng buộc của đau khổ, của sự chết, đang chờ
đợi niềm hy vọng từ Chúa Kitô Phục Sinh, cả đôi khi họ chờ đợi một cách vô ý
thức.
Cùng với Giáo Hội, những lời của bài
ca Exsultet, “Hãy vui lên, hỡi ca đoàn các thiên thần, hãy hát lên... hỡi trái
đất, hãy nhảy mừng”. Biến cố Phục Sinh của Chúa bao trùm toàn thể vũ trụ, và
liên kết đất trời chung lại với nhau. Một lần nữa, với những lời của bài ca
“Hãy vui lên”, chúng ta có thể cao rao: “Chúa Kitô... Đấng từ cõi chết sống lại
và chiếu toả ánh sáng bình an của Người trên toàn thể nhân loại, Đấng là Con
Thiên Chúa, là Đấng hằng sống và hằng trị mãi mãi muôn đời”. Amen.
19. Người đã trỗi dậy rồi
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Có vẻ sau cái chết của Thầy Giêsu chẳng ai
buồn nghĩ đến chuyện Thầy sẽ sống lại.
Các phụ nữ chỉ quan tâm đến việc xức xác
Thầy. Nhưng khi thấy ngôi mộ trống trơn, họ phân vân và bối rối không hiểu.
Là những Kitô hữu ngoan đạo, chúng ta thấy
mình quá quen với chuyện Chúa phục sinh, đến độ coi đó là chuyện tự nhiên.
Chính vì thế ta không cảm được nỗi lo lắng, ngỡ ngàng của các phụ nữ và các môn
đệ vào buổi sáng tinh mơ của ngày thứ nhất.
Các bà chẳng biết làm gì với số thuốc thơm
đã chuẩn bị. Cửa mộ đã mở toang, thi hài Thầy đâu còn.
Nếu sứ thần không hiện ra giải thích thì
ngôi mộ trống vẫn là một bí ẩn khôn dò.
Khi các bà trở về kể lại cho Nhóm Mười Một
những gì đã xảy ra ngoài mộ đá, các ông đã không tin, cho là chuyện lẩn thẩn.
Có lẽ ho nghĩ các phụ nữ là người yếu bóng vía. Làm gì có chuyện sứ thần bảo là
Thầy đã phục sinh!
Phêrô đứng lên chạy ra mộ (Lc 24,12).
Ông cũng thấy như các phụ nữ kể lại. Nhưng
ông chỉ kinh ngạc thôi, chứ không tin.
Quả thật tin Thầy đã sống lại là điều khó,
dù Đức Giêsu đã báo trước nhiều lần về cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Các môn đệ chỉ nhớ được nửa đầu của lời
loan báo.
Dường như nỗi đau quá lớn làm họ mau quên,
vì thế sứ thần hiện ra là để nhắc cho họ nhớ (c.6), và họ đã nhớ lại những gì
Ngài dạy (c.8).
Đức Giêsu phục sinh hiện ra cũng nhắc cho
họ nhớ (c.44).
Về sau Thánh Thần cũng sẽ làm công việc
này, đó là nhắc cho họ nhớ mọi lời Đức Giêsu đã nói (Ga 14,26).
Nhắc nhớ là nối quá khứ với hiện tại và
tương lai.
Quá khứ bị ám ảnh bởi cái chết đau thương.
Chúng ta dễ bị sa lầy trong quá khứ u buồn, không còn khả năng để hy vọng và
vui sống.
"Sao các bà lại tìm Người Sống ở nơi
kẻ chết".
Đức Giêsu đã mở tung cửa mộ vào sáng phục
sinh. Muốn gặp được Ngài, phải tìm Ngài ở ngoài phần mộ.
Kitô giáo không kết thúc bằng thập giá và
phần mộ.
Đức Giêsu bây giờ là Đấng tràn trề sự sống
mới. Xác Ngài không còn nằm đó, nhưng đã chỗi dậy.
Ngài vẫn đi với ta trên cùng một con đường.
Ngài đến khi cả đêm ta không được một con cá nhỏ. Ngài ở lại nhà ta khi ta đóng
cửa vì sợ hãi.
Chúng ta vẫn thường tìm sai địa chỉ của
Ngài, bởi chúng ta không tin Ngài đã sống lại thật.
Nếu chúng ta tin Ngài là Sự Sống và là
Nguồn Sống, cuộc đời chúng ta sẽ chẳng như xưa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Cuộc đời con người kết thúc nơi nấm mộ.
Nhưng người Kitô hữu lại tin nấm mộ là nơi sự sống mới nẩy mầm. Con người sinh
ra là để sống mãi. Riêng bạn, tại sao bạn tin có cuộc sống đời sau? Niềm tin đó
có ảnh hưởng gì trên cuộc sống đời này không?
Lễ Giáng Sinh và lễ Phục Sinh, theo bạn, lễ
nào vui hơn, lễ nào lớn hơn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
Lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,
xin hãy gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc, xin hãy
đi với chúng con trên dặm đường dài như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin hãy
đến và đứng giữa chúng con như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em,
xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma
cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được
gì, xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy
môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi
ngày, để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến, và đang ở thật gần bên chúng
con. Amen.
20. Nguồn hy vọng sống lại - Cố Lm Hồng Phúc
Trong tuần vừa qua, một màn tang tóc đã bao
trùm Giáo hội. Giáo hội mặc niệm cuộc Thương khó Chúa Giêsu, vì thương yêu ta
đã chết để đền tội nhân loại.
Nhưng hôm nay, mùa tang đã hết. Giáo hội vui
mừng hát lên lời Alleluia, vì Chúa đã toàn thắng sự chết và đã sống lại.
Phúc Âm kể rằng sau khi Chúa Giêsu tắt thở
trên thập giá, các môn đệ đã hạ xác, liệm vào khăn, đặt vào mồ, lấy hòn đá lớn
che lại và ra về. Người Do-thái đã nghe nói đến lời tiên tri Chúa phán về việc
ngài sẽ sống lại, nên đâm bối rối. Và để ăn chắc, đã lấy ấn niêm phong cửa mồ
và cho bộ đội canh phòng cẩn mật, làm một việc xưa nay chưa từng làm là canh
chừng một xác chết vì sợ xác chết ấy sống lại.
Sáng Chúa nhật hôm ấy như sáng Chúa nhật
hôm nay, khi trời còn tờ mờ sáng, Maria Madalena đi ra phần mộ. Bà thấy hòn đá
đã lăn ra, liền chạy vội về báo tin cho các môn đệ. Các ông cho rằng đây là
chuyện đàn bà dễ tin. Nhưng rồi Pherô và Gioan cũng quyết định chạy ra mộ xem
sao. Đến nơi, họ nhận thức cảnh mộ trống. Mộ còn đó mà người nằm trong mộ biến
đâu mất. Vậy sự kiện lịch sử đầu tiên về việc Phục Sinh là cảnh ngôi mộ trống.
Nhưng dữ kiện ấy thôi không đủ để gây niềm tin. Vì biết đâu rằng mộ trống vì có
người ăn trộm xác, rồi dấu tiệt đâu mất, như luận điệu người Do-thái tung ra để
ém nhẹm sự Chúa phục sinh, sống lại. Vậy, với sự kiện mộ trống, còn kèm theo
một sự kiện lịch sử thứ hai là người nằm trong mộ đã hiện ra. Vậy trong ngày
trọng đại hôm nay, Đấng nằm trong mộ, Đấng mà dân Do-thái đã huyên hoang cho
rằng họ đã giết chết, đã chôn chặt trong lòng đất, Đấng ấy đã phục sinh, đã
sống lại, và đã hiện ra nhiều lần cho nhiều người xem. Ngài đã hiện ra với
Madalena, với Pherô, với hai môn đệ trên đường Emmaus và với các môn đệ đang
họp nhau trong nhà cửa đóng then cài, kín bưng kín bít vì sợ người Do-thái.
Thánh Gioan viết: “Chúng tôi thấy và chúng
tôi tin: CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI”. Lòng tin của các môn đệ dựa trên hai sự việc như
vừa nói: ngôi mộ trống và người chết nằm trong mộ đã hiện ra. Pherô, trong bài
đọc I, đã long trọng tuyên bố: “Đức Giêsu mà Davit đã tiên báo thân xác Ngài
không phải thấy mục nát. Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã cho sống lại. Chúng tôi
hết thảy xin làm chứng” (Cv 2, 32). Và niềm tin ấy là niềm tin của Hội Thánh,
là niềm tin căn bản của chúng ta.
1) Chúng ta là người tín hữu. Người tín hữu
là người tin rằng Chúa đã sống lại và đã cứu thoát ta khỏi vòng tội lỗi.
Thánh Phaolô nói: “Nếu Chúa Giêsu không
sống lại thì đức tin của chúng ta sẽ ra huyền ảo vô ích, và chúng ta vẫn còn ở
trong tội lỗi” (1 Cor 15, 17). Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì đạo thánh
chúng ta đã tan ra mây khói từ lâu rồi.
Nhưng sự Chúa Phục sinh sống lại bảo đảm
cho lòng tin của chúng ta, lòng tin dựa trên một Đấng là Thiên Chúa, Đấng có
quyền trên sự sống và sự chết. Đấng mà trong cuộc đời đã 3 lần đến gần sự chết
và đã phán một lời thì sự chết rút lui, người chết sống lại. Đấng ấy hôm nay đã
toàn thắng sự chết nơi chính mình, đã phục sinh sống lại. Vì Ngài không phải
chỉ là một người mà là một vị Thiên Chúa làm người nhập thể. Sự chết và sống
lại của Ngài là niềm tin và nguồn hy vọng của chúng ta.
Ngày xưa, khi Đức Khổng Phu Tử qua đời, các
đồ đệ vì thương nhớ Thầy đã xây nhà xây cửa xung quanh phần mộ Thầy để được gần
Thầy. Là một nhà hiền triết, nhưng cũng là một người như ai, Đức Khổng cũng chỉ
để lại một nắm xương tàn và với thời gian đồ đệ cũng tản mát bốn phương. Chúa
Kitô sau khi sống lại đã qui tụ đàn chiên đang tản mát, đã khai sinh Hội Thánh
và là nguồn hy vọng sống lại của chúng ta.
2) Người tín hữu còn là người Phục Sinh.
Chúng ta đã chịu phép Rửa tội, và phép Rửa tội, như Phụng vụ Vọng Phục sinh tối
hôm qua đã nói lên, là một sự chết đi cho tội lỗi để sống lại với Chúa, một
cuộc vượt qua biển máu tội lỗi để vào cuộc sống Thiên Chúa. Vì thế Giáo hội dạy
chúng ta xưng tội chịu lễ mùa Phục sinh để sống lại với Chúa trong đời sống
thiêng liêng. Và như Chúa sống lại, Ngài không chết nữa, thì mỗi người chúng ta
cũng phải xa lánh tội lỗi để giữ đời sống thiêng liêng.
Xưa Thiên Thần đã nói với người phụ nữ ra
mộ: NON EST HIC – Ngài không còn ở đây nữa, thì nay Thiên Thần cũng chỉ vào quá
khứ tội lỗi ta và nói như vậy. Người ấy không còn ở đây nữa. Ngài đã sống lại,
Alleluia.
21. Mặt trời hé mọc
Suy Niệm
Để hiểu sâu mầu nhiệm Vượt qua, chúng ta
cần dừng lại thật lâu bên mộ Chúa. Một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai (x. Ga
19,41). Ngôi mộ này của ông Giô-xép, người trong Thượng Hội Đồng, và cũng là
một môn đệ âm thầm của Đức Giêsu. Ông đã đến xin xác và tẩm liệm Thầy cẩn thận.
Hãy đến thăm mộ và ngày thứ bảy, không có
ai. Ngôi mộ nằm im lìm như trăm ngàn ngôi mộ khác. Một tảng đá to ngạo nghễ che
cửa mồ.
Kẻ thù Chúa hả hê vui sướng vì đã nhổ được
một cái gai. Tử thần đắc ý vỗ tay reo vì Đấng là Sự Sống đã bị nuốt chửng.
Xác Đức Giêsu nằm trong mộ, tối tăm, như hạt
lúa ủ trong lòng đất. Có ai nghe được tiếng hạt giống cựa mình? Có ai thấy được
một mầm non đang nhú?
Đêm dài quá! Ba phụ nữ chỉ mong cho chóng
sáng. Họ thấp thỏm không ngủ được, chỉ nghĩ đến ngôi mộ, với xác của Thầy nằm
đó.
Và khi loé lên những
tia nắng đầu tiên của mặt trời, thì cả ba đã sẵn sàng ra thăm mộ, với dầu thơm
vừa mua được để ướp xác.
Khi đi đường, họ chỉ có một nỗi bận tâm:
"Ai sẽ lăn giùm tảng đá ra cho chúng ta?" Tảng đá to thật là một trở
ngại. Nhưng lạ thay, khi đến nơi, các bà thấy tảng đá được lăn ra một bên rồi,
và xác của Thầy cũng không còn ở chỗ cũ. Sứ thần Chúa loan báo Tin Mừng: Đấng
bị đóng đinh đã chỗi dậy rồi, Ngài hẹn gặp lại các môn đệ tại Galilê.
Từ ngôi mộ, từ tối tăm, chết chóc, rữa nát,
sự sống đã bật dậy, làm bàng hoàng sửng sốt.
Không cần phải lăn tảng đá. Không cần phải
xức dầu thơm.
Cửa mộ đã mở toang, vì ngôi mộ không thể
chứa được Đấng đang sống, Đấng đang đến để nối lại một cái hẹn.
Vẫn có những ngôi mộ trong đời ta.
Những ngôi mộ chôn vùi bao ước mơ, hy vọng,
bao điều chúng ta yêu mến và ấp ủ. Chúng như dấu hiệu của những đổ vỡ, đớn đau.
Ta có chờ gì nơi đó, hay chỉ biết tiếc nuối?
Chỉ sự phục sinh của Đức Kitô mới làm ta
tin rằng chẳng có mất mát, khổ đau, thất bại nào lại không thể làm ta lớn lên
và cứng cáp.
Ước gì giữa nước mắt, ta cảm nghiệm được
niềm vui, dám chôn đi điều phải chôn, mất đi điều phải mất.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có những tảng đá chắn ngang, khiến đời tôi
như ngôi mộ khép kín. Hiện nay có điều gì khiến bạn cảm thấy bị nghẽn lối, đi
vào ngõ cụt? Tin Mừng Phục Sinh có giúp bạn ra khỏi không?
Đức Giêsu chỉ phục sinh sau khi đã chết và
được mai táng. Bạn thấy mình có những điều cần phải chôn, cần phải quên, cần
phải từ bỏ không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Xin ban cho con sự sống của Chúa, sự sống
làm đời con mãi mãi xanh tươi.
Xin ban cho con bình an của Chúa, bình an
làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa, niềm vui
làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa, hy vọng
làm con lại hăng hái lên đường.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa, Thánh
Thần mỗi ngày làm mới lại đời con.
22. Đức Giêsu đã Phục Sinh
(Suy niệm của Lm Giuse Phạm Thanh Liêm)
Đức Giêsu đã phục sinh, thế nhưng không
phải mọi người đều biết. Đây không phải là biến cố bình thường, nhưng là biến
cố “đức tin”. Những người không sẵn sàng mở rộng tâm hồn, những ký lục biệt
phái và thượng tế không sẵn sàng đón nghe sự thật, không thể đón nhận thực tại
“vô tiền khoáng hậu” này.
Tin Đức Giêsu phục sinh là điều rất khó
Đức Giêsu khi còn sống, Ngài đã cho một số
người chết sống lại, như con gái ông Gairô (Lc.8, 40-56), con trai bà góa thành
Naim (Lc.7, 14-15), Lazarô em của Matta và Maria (Ga.11, 43-44). Tuy dù Ngài đã
báo trước ba lần rằng “Ngài sẽ chết và sống lại” (Mc.8, 31; 9, 31; 10, 33),
nhưng khi Ngài sống lại không có tông đồ nào tin (Mc.16, 9-14) cho tới khi Ngài
hiện ra cho các ông.
Không phải chỉ có tông đồ Thomas không tin
Chúa phục sinh cho tới khi Ngài hiện ra cho ông vào tám ngày sau (Ga.20,
25-29), nhưng cả mười tông đồ khác cũng không tin cho tới khi họ được thấy Chúa
vào buổi chiều (Ga.20, 19-24). Các tông đồ đã không tin vào lời các chị phụ nữ
làm chứng đã thấy Chúa phục sinh!
Nếu chính các tông đồ, những người thân cận
của Đức Giêsu, được báo trước Ngài sẽ sống lại, còn chưa dám tin Ngài sống lại,
mãi cho đến khi được thấy Ngài, thì làm sao những ký lục biệt phái và các
thượng tế có thể tin Đức Giêsu sống lại được?
Cũng không lạ, nếu con người ngày nay không
tin Đức Giêsu sống lại. Đúng hơn không tin “người chết sống lại” mới là chuyện
bình thường, còn “Đức Giêsu sống lại” mới là chuyện “bất thường”.
Tin Đức Giêsu sống lại, là một hồng ân vô
cùng lớn
“Vì anh đã thấy Thầy nên anh tin, phúc cho
những ai không thấy mà tin” (Ga.20, 29). Những người tin vào Đức Giêsu, là
những người được chúc phúc. Họ là những người được một ơn lớn mà nhiều khi họ
không ý thức. Làm sao tin người chết sống lại được, làm sao tin Đức Giêsu phục
sinh được? Ấy thế mà các Kitô hữu tin.
Các Kitô hữu không chỉ gồm những người ít
học, nhưng gồm cả những người có học, và hơn nữa có nhiều người thông thái. Họ
không tin mù quáng. Họ biết điều họ tin là chuyện rất khó, nhưng họ đã được một
ơn để tin. Tạ ơn Chúa vì hồng ân kỳ diệu này.
Thánh Phaolô nói: “không ai có thể tuyên
xưng Đức Giêsu là Chúa, mà không nhờ bởi Thánh Thần” (1Cor.12, 3). Là Kitô hữu
là một hồng ân vô cùng lớn. Tạ ơn Chúa.
Được gì khi Đức Giêsu phục sinh
Nếu Đức Giêsu không sống lại, các tông đồ
đã không đi rao giảng, và các ngài đã không phải “tử đạo”, và đã không có Kitô
giáo như hôm nay, cũng không có nhiều “anh hùng tử đạo”, cũng không có nhiều
người dâng hiến đời mình cho Chúa, cũng không chắc “chúng ta như hiện tại”, có
lẽ chúng ta không biết tha thứ và yêu thương!
Nếu Đức Giêsu không sống lại, những lời
giảng dạy của Đức Giêsu về chính Ngài như Ngài có quyền tha tội (Mc.2, 5), Ngài
có trước Abraham (Ga.8, 58), Ngài là một với Thiên Chúa (Ga.10, 30), Ngài ngự
bên hữu Thiên Chúa (Mc.14, 62), là những điều dối trá, và Ngài là kẻ bịp bợm
thời danh.
Còn nếu Đức Giêsu sống lại, nghĩa là những điều
Ngài nói là đúng sự thật, nghĩa là Ngài là Đấng có quyền tha tội, Ngài có trước
Abraham, Ngài là một với Thiên Chúa Cha, Ngài ngang hàng với Thiên Chúa Cha.
Ngài là Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa nhập thể làm người. Vì nếu Ngài nói dối,
Ngài đâu phải là người của Thiên Chúa, và Thiên Chúa đâu có phục sinh Ngài.
Và nếu Ngài là Thiên Chúa nhập thể, nghĩa
là: Thiên Chúa yêu con người đến độ nhập thể làm người. Đức Giêsu phục sinh,
bằng chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Xin bạn trình bày cho một người “ngoại”
lý do tại sao bạn tin Đức Giêsu sống lại?
2. Đâu là bằng cớ cho thấy Thiên Chúa yêu
thương con người?
3. Bạn có thể làm gì để giúp một người tin
Đức Giêsu phục sinh?
23. Các nhân chứng phục sinh
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Có ba nhân chứng về Tin Mừng Phục Sinh được
nhắc tới trong bài trình thật phục sinh của cuốn Phúc Âm thứ tư, đó là Maria
Mácđala, Phêrô và Gioan. Họ được coi như các nhân chứng diện F1 duy nhất của
cái biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại: một tử tội đã chết treo
trên cây thập tự, đã được mai tang trong mồ, thì nay đã sống lại. Thế nhưng
chứng cứ lịch sử khách quan, hay tất cả những gì họ có thể chưng ra làm bằng
chứng cho cái biến cố trọng đại ấy thì lại quá giản dị: ‘lúc trời còn tối, bà
Maria Mácdala đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ’, Gio-an ‘tới mộ
trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó’, Simon Phêrô theo
sau cũng đến nơi, ‘ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn
che đầu đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp
riêng ra một nơi’… Chi tiết thật đấy, nhưng chỉ có thế; hầu như những chứng cứ
họ đưa ra chẳng thuyết phục nổi ai! dầu vậy thì Gioan, một người trong số họ,
vẫn đưa ra lời xác quyết hùng hồn; “Ông đã thấy và đã tin”. Chỉ với các tang
chứng mơ hồ trên đã đủ để ông minh định, không phải chỉ một sự kiện mà còn cả
một niềm tin có khả năng thay đổi cuộc sống của chính ông và của toàn nhân
loại. Sau này ông còn dành trọn cuộc đời còn lại để loan truyền biến cố này, và
sẵn sàng chết để minh chứng nó.
Tại sao lại như vậy?; chúng ta hãy cùng
nhau đi vào tâm tình của các nhân chứng này, mong hiểu ra rằng: niềm tin Phục
Sinh luôn gắn liền với các cảm nghiệm riêng tư sâu lắng nhất.
Phêrô: Khi chạy ra ngôi mộ, ông đang trải nghiệm một điều có
thể coi là đáng xấu hổ nhất trong đời: phản bội Thầy mình. Qua kinh nghiệm
sống, ông đã từng trải sự mỏng dòn của con người với bao tội lỗi và khiếm
khuyết; vì thế mà ông rất chân thành khẩn khoản: “Lạy Thầy, xin xa con ra, vì
con là người tội lỗi!” (Lc 5:8) Thế nhưng ông chưa bao giờ hình dung nổi sự yếu
hèn của mình lại có thể rơi xuống tới mức hạ đẳng đến thế. Được chọn làm môn đệ
tiêu biểu, ông đã từng quả quyết cách chắc nịch: “Cho dầu mọi người có bỏ Thầy,
con quyết không bao giờ!” (Mt 26:33) giờ thì… ông đâu có ngờ mình lại như thế!
Chính với cái trải nghiệm đáng xấu hổ này mà ông tiến vào ngôi mộ trống, quan
sát đống vải liệm… để rồi tin. Niềm tin cho phép ông thoáng nhận biết, với các
tang chứng vật chứng này, có một điều gì còn mạnh hơn cả cái chết, mạnh hơn cả
sự đốn hèn của con người, mạnh hơn cả ‘chối bỏ Thầy’ mà ông đã phạm. Ngôi mộ
trống đối với ông là cả một khám phá mới, một sức mạnh mới, một hy vọng mới:
lòng nhân ái của Thiên Chúa (tỏ hiện nơi Đức Kitô) vượt trên tất cả, vượt xa
hơn tất cả.
Gioan:
là môn đệ được Đức Giêsu thương mến, ông đã cảm nhận được tình yêu đó trong bữa
tiệc ly khi tựa đầu vào ngực Người, đã chứng kiến tình yêu đó khi nhìn thấy
giọt máu hòa với nước cuối cùng vọt ra từ con tim bị đâm thủng của Người. Tuy
nhiên, yêu bao nhiêu thì lại đau buồn thất vọng bấy nhiêu, nhất là khi ông phải
chứng kiến: tình yêu nồng ấm đó đi tới hồi kết thúc, bị chôn vùi trong nấm mồ
hoang lạnh. Khi tiến vào ngôi mộ mở toang, với các băng vải còn ở đó, Gioan lần
đầu tiên nghiệm ra: tình yêu đó, không chỉ mãnh liệt, trọn vẹn, mà còn vĩnh cửu
trường tồn. Tình yêu đó không những mạnh hơn cái chết hiểu theo nghĩa thông
thường (đám chết vì yêu), mà còn chứa đựng một nội dung cho tới nay chưa từng được
minh chứng: tình yêu đó vĩnh viễn toàn thắng sự chết, cả về thể lý cũng như
trong diện tinh thần thiêng liêng, tới độ không gì ngăn cản nổi nó; bất cứ ai
tin và chấp nhận tình yêu này sẽ không bao giờ phải thất vọng. Quả thật, ông
được thuyết phục: Thầy Giêsu đích thực là sự sống lại, như chính Người đã từng
tuyên bố, Người là sự sống vĩnh cửu trong tình yêu.
Maria Mácđala: nhân chứng số một của biến cố Phục Sinh trọng đại.
Được đặc ân này có lẽ vì bà đã gộp được cả hai trải nghiệm của Phê-rô lẫn của
Gio-an lại thành một. Trải nghiệm tội lỗi, đối với bà, là trải nghiệm của thân
phận cả một kiếp người bị đầy đọa tới đáy vực thẳm, còn trải nghiệm yêu thương,
là trải nghiệm gắn liền với việc gặp được lòng nhân lành thứ tha, đã nâng bà
lên tới trởi. Cái cảm nghiệm được giải phóng đó do Thầy Giêsu mang lại đang
thăng hoa thì đột nhiên rơi vào bế tắc cùng với cái chết Thập Giá của Người, đã
bị chặn đứng sau hòn đá che lấp phần mộ. Chính vì thế mà bà khắc khoải muốn tìm
lại Thầy cho bằng được: “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi
biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về”, đồng thời cũng nhận ra ngay cái
chi tiết nhỏ, nhưng rất quan trọng đối với bà: ‘hòn đá đã lăn khỏi mồ’. Thầy
Giêsu đã sống lại và ra mồ…, hòn đá đã được lăn ra, có nghĩa là giải phóng sẽ
là vĩnh viễn, và thăng hoa sẽ là bất tận.
Là Kitô hữu, tôi không chỉ mừng lễ Chúa
Phục Sinh, mà còn phải làm chứng nhân việc Chúa đã sống lại, hay đúng hơn làm
chứng về một tình yêu tha thứ trở nên bền vững. Vậy thì hãy để tâm lắng nghe
cảm nghiệm sâu lắng nhất trong tôi vào lúc này: phải chăng đó có thể là
cảm nghiệm của Phêrô, hay của Gioan, hay của Maria Mácđala, hay của cả ba gộp
lại?
Lạy Chúa Phục Sinh, con vui mừng vì Chúa đã
sống lại! Đời con đã không thiếu những trải nghiệm đớn hèn của Phêrô hay
Macđala; con cũng không phải là không có chút ít trải nghiệm của Gioan, nhất là
trong ơn gọi Kitô hữu, tu sĩ Sa-lê-diêng và linh mục của mình. Xin cho con
hưởng trọn niềm vui Phục Sinh vĩ đại xuất phát từ chính những kinh nghiệm bản
thân, để con có thể chân thành ca ngợi việc Chúa Sống Lại và loan truyền Tin
Mừng Phục Sinh vẻ vang cho mọi người cách thâm tín và phấn khởi nhất. Amen.
24. Ngôi mộ trống.
Tại một nghĩa trang bên Đức, có mội ngôi mộ
rất được chú ý, đó là ngôi mộ được làm bằng đá hoa cương, bên dưới đúc xi măng
cột sắt rất kiên cố. Ngôi mộ được nhiều người chú ý vì đó là ngôi mộ của một
người đàn bà giàu có. Trong chúc thư, bà yêu cầu người ta xây cho bà một ngôi
mộ kiên cố, để nếu có sự sống lại của người chết, thì bà vẫn nằm yên dưới mộ.
Trên mộ, bà ta xin được ghi: “Đây là ngôi mộ sẽ không bao giờ mở ra”.
Thời gian trôi qua, ngôi mộ xem ra vẫn kiên
cố. Thế nhưng một hôm có một hạt giống rơi vào khe đá của ngôi mộ, gặp đất bên
dưới, nó bắt đầu nẩy mầm, lớn lên thành cây, rễ của nó đâm xuyên qua ngôi mộ để
rồi cuối cùng làm cho quan tài của người đàn bà vỡ ra.
Câu truyện trên đây có thể là một dụ ngôn
về tình yêu vô bờ của Thiên Chúa đối với con người, khi Ngài cho Đức Kitô sống
lại từ cõi chết để mở lối cho con người vào sự sống vĩnh cửu với Ngài. Con
người có thể chối bỏ và khước từ Thiên Chúa, nhưng với muôn ngàn cách thế mà
con người khôn lường được, Thiên Chúa vẫn tiếp tục theo đuổi con người. Con
người tưởng mình có thể lẩn trốn được Thiên Chúa, nhưng khi một hạt giống nhỏ bé,
tình yêu của Ngài vẫn tiếp tục len lỏi vào tâm hồn của con người. Thiên Chúa là
Chúa của sự sống. Vinh quang, danh dự và niềm vui của ngài là con người được
sống. Cho dù con người có loại bỏ Thiên Chúa để đi tìm cái chết, ngài vẫn đeo
duổi và chờ đợi con người.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu đi vào cõi chết của con người.
Người ta đã chôn ngài trong mộ đá. Nhưng rồi sang ngày thứ nhất trong tuần,
người ta không thấy xác Ngài ở đó nữa. Bà Maria Mađalêna ra thăm mộ đã hoảng
hốt kêu lên: “Người ta đã lấy mất xác thầy rồi!” Hai môn đệ Phêrô và Gioan chạy
ra mộ kiểm chứng. Hai ông thấy ngôi mộ mở toang. Nhì vào trong thấy khăn liệm
còn đó, nhưng xác Ngài đã biến mất. Phêrô im lặng suy nghĩ, còn Gioan, người
môn đệ Chúa yêu đã thấy và đã tin: “Đúng như Thầy đã nói, Thầy đã sống lại thật
rồi”.
Thưa anh chị em,
Tất cả khởi đầu với ngôi mộ trống. Nhưng
nếu chỉ có ngôi mộ trống mà thôi thì cũng chẳng làm nên chuyện. Câu chuyện chỉ
thực sự có ý nghĩa khi nó có nội dung, và nội dung ở đây là: “Ngài không còn ở
trong mộ nữa, vì Ngài đã sống lại như Ngài đã nói”. Từ ngôi mộ ấy đã bật lên sự
sống. Đó là niềm tin của chúng ta. Cả cuộc đời Kitô hữu là những cuộc mai táng
liên tục, nhưng caí chết và từ bỏ liên tục. Đừng sợ những ngôi mộ. Đừng sợ chôn
đi điều phải chôn, mất đi điều phải mất. Đừng sợ bị thối rữa hay bị tảng đá to
che chặt đời mình. Ước gì mọi ngôi mộ của chúng ta cũng giống như ngôi mộ của
Chúa Giêsu: bị mở tung để sự sống bừng dậy.
Nếu Chúa Kitô đã không sống lại, thì mọi sự
sẽ vẫn như cũ: sự sống có nghĩa lý gì, nếu bao giờ nó cũng kết liễu bằng cái
chết như một trái thúi rơi nát dưới gốc cây? Con người có nghĩa là gì, nếu mọi
cố gắng đạt hạnh phúc chỉ bảo tồn được ảo tưởng của hạnh phúc, của những hạnh
phúc luôn bị cái chết đe dọa từ bên trong? Tình yêu có nghĩa là gì, nếu mọi cú
sét ái tình sẽ tắt nghẽn trên nấm mộ phân ly? Sống mà giả quên sự chết hiện
diện khắp nơi, phải chăng là một trò chơi không xứng với một con người? Trò
chơi của cuộc sống ấy sẽ phi lý và thất vọng, nếu Chúa Kitô đã không sống lại.
Thánh Phaolô đã nói: Nếu Chúa Kitô đã không
sống lại, thì chúng ta là những người vô phúc nhất, ngu đần nhất, vì chúng ta
đặt tin tưởng vào một chuyện hão huyền. Nếu Chúa Kitô đã không sống lại thì
chúng ta vẫn còn mang tội lỗi ở trong mình và không ai giải cứu được chúng ta,
không ai đem chúng ta đến gặp Thiên Chúa được. Nếu Chúa Kitô không sống lại,
thì thập giá chỉ là dấu hiệu của nhục nhã, đau khổ của con người sẽ không có
lối thoát và cái chết của con người sẽ là đường cùng, là ngõ cụt. (x. 1Cr
15,12tt)
Nhưng, Chúa Kitô đã sống lại thật rồi. Ngài
đã đem theo những đau khổ của loài người qua bên kia bờ tuyệt vọng. Ngài đã làm
cho những quằn quại đau thương của người sắp bị cái chết tiêu diệt, nhưng là
nỗi đau của người mẹ đang sinh con, nỗi đau sẽ phát sinh sự sống mới, một niềm
vui mới. Ngài đã làm cho cuộc sống trần gian không còn là một ảo tưởng, nhưng
là một phản ảnh và là con đường đưa tới cuộc sống vĩnh cửu.
Đức Kitô đã sống lại: Từ nay thập giá không
còn là dấu hiệu của nhục nhã, nhưng là dấu hiệu của vinh quang. Chúa Kitô đã
sống lại, cái chết của con người không còn là đường cùng, là ngõ cụt, vì ánh
sáng của Chúa Kitô đã bừng lên trong đêm tối, đã chiếu sáng ở cuối con đường
hầm. Chúa Kitô đã sống lại, niềm hy vọng Phục Sinh của thân xác chúng ta không
phải là hão huyền, vì Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài đang điều khiển
giòng lịch sử và khi Ngài xuất hiện trong vinh quang, thì chúng ta cũng được
xuất hiện trong vinh quan cùng với Ngài.
Chúa Kitô là người chiến thắng chung quyết
trên đau khổ, tội lỗi và sự chết. Trong Ngài, mỗi người và cả nhân loại, quá
khứ, hiện tại và tương lai đều phải chết và đã sống lại. Không còn người nào,
không còn một tội nào, không còn một giây phút nào của cuộc sống chúng ta thoát
khỏi cuộc chiến thắng của Chúa Kitô. Không có gì nằm ở ngoài cuộc cứu độ mà
Chúa Kitô đã vĩnh viễn hoàn thành. Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.
Anh chị em thân mến,
Chúa Kitô đã Phục Sinh, Ngài đang sống
trong vinh quang của Chúa Cha. Chính vì chúng ta tin rằng chúng ta đã được Phục
Sinh trong Chúa Kitô và sau này sẽ được Phục Sinh như Ngài, nên chúng ta đón
nhận cuộc đời, kể cả đau khổ và cái chết, một cách tích cực, chủ động và vui
tươi. Đau khổ không còn phi lý nữa, bởi vì thập giá đã được đưa vào vinh quang
Phục Sinh. Không còn gì là tuyệt đối bi đát, tuyệt đối hư hỏng, vì từ cái chết,
Thiên Chúa đã làm phát sinh sự sống trong Chúa Kitô. Nếu chúng ta đã tin vào sự
Phục Sinh, vào chiến thắng chung quyết của Chúa Kitô, thì chúng ta sẽ không còn
lo âu buồn phiền, không còn sống ích kỷ hẹp hòi, mà dám từ bỏ, hy sinh, xả
thân, liều mạng vì sự sống và hạnh phúc của mọi người. Phục Sinh không chỉ nhằm
ngày mai, nhằm bên kia thế giới, nhằm thiên đàng đã được hứa ban. Phục Sinh
cũng nhằm và còn nhằm hôm nay, nhằm chính cuộc sống cụ thể của chúng ta.
Chúng ta có thể thực hiện trước kỳ hạn lễ
Vượt Qua của chúng ta trên miền đất chúng ta đang sống hằng ngày bằng cách sống
cho tình yêu, chết vì tình yêu: yêu Chúa, yêu anh em, yêu quê hương, yêu đồng
bào, đó phải là chương trình mới của cuộc sống vượt qua của chúng ta ở cõi đời
này: chương trình Phục Sinh.
25. Ông đã thấy và đã tin.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Niềm vui phục sinh khởi sự bằng thái độ hốt
hoảng.
Tảng đá che cửa mộ đã bị ai đó lăn ra.
Xác của Thầy đặt bên trong đã biến mất.
Thật là chuyện kinh khủng đối với bà Maria
Macđala!
Bà đã đi thăm mộ lúc trời còn tối.
Có lẽ cả đêm qua bà không chợp mắt được,
chỉ mong cho chóng sáng để lên đường.
Ai có thể hiểu được trái tim của bà?
Tình yêu đã khiến bà đứng dưới chân thập
giá (Ga 19,25) và tham dự cuộc mai táng Thầy Giêsu (Mt 27,61).
Bây giờ tình yêu ấy lại thúc đẩy bà ra mộ
trước tiên, trước cả người môn đệ được Đức Giêsu thương mến...
Maria hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn
đệ.
Bà nghĩ chắc có kẻ đã ăn cắp xác Thầy.
Vấn đề duy nhất làm bà âu lo khắc khoải, đó
là họ đang để Người ở đâu (Ga 20,2.13.15).
Bà cần biết chỗ đó, để lấy ngay xác về.
Maria chẳng nghĩ gì đến chuyện Chúa phục
sinh, bà chỉ mong tìm lại xác của Thầy đã chết.
Maria chạy về để kéo theo Phêrô và Gioan
chạy đến mộ, những bước chân hối hả vội vàng.
Chỉ có ngôi mộ trống và những băng vải đặt
ở đó, còn khăn che đầu thì được cuốn lại, xếp riêng.
Thấy mọi điều đó, Gioan tin rằng Thầy đã
phục sinh.
Chẳng ai ăn cắp xác mà để lại gọn ghẽ khăn
vải liệm.
Chúng ta cần có lòng mến thiết tha của bà
Maria Macđala, nhưng cũng cần có sự nhạy cảm để tin như Gioan.
Khi tin, người ta khám phá ra ý nghĩa của
các biến cố: ý nghĩa của cái chết bi đát trên núi sọ, ý nghĩa của ngôi mộ trống
và tấm khăn xếp gọn gàng.
Chúng ta cần có lòng tin để khỏi rơi vào sự
thất vọng hay hốt hoảng, trước những thất bại, đổ vỡ mất mát trong cuộc đời.
Đời chúng ta lắm khi giống ngôi mộ trống
trải.
Những gì chúng ta yêu quý nay chẳng còn.
Chúng ta đôn đáo kiếm tìm điều đã mất,
trong nước mắt đau khổ như bà Maria (Ga 20,11)
Nhưng nếu xác Đức Giêsu cứ nằm yên trong
mồ, để cho bà Maria đến thăm viếng, thì làm gì có chuyện Chúa phục sinh?
Phiến đá cửa mộ không giữ được Ngài, những
băng vải không ngăn được Ngài ra đi.
Sự sống bật dậy từ tro tàn của cái chết.
Ánh sáng bừng lên từ bóng tối mịt mù.
Tình yêu thắng trận khi tưởng như bị hận
thù nuốt chửng.
Niềm vui phục sinh là quà tặng bất ngờ cho
Maria.
Bà sẽ chẳng bao giờ tìm thấy xác Thầy trong
mộ đâu, nhưng bà sẽ gặp chính Đấng Phục Sinh ở ngoài mộ đá.
Gợi Ý Chia Sẻ
1. Trong cuộc khổ nạn, Đức Giêsu đã vui
lòng mất tất cả: danh vọng và mạng sống; nhưng rồi Ngài đã lấy lại được tất cả.
Bạn có dám tin rằng cuối cùng, tình yêu sẽ thắng hận thù, ánh sáng sẽ thắng
bóng tối, chân lý sẽ thắng sự dối trá không?
2. Chúa Giêsu đã phục sinh và hiện ra với
các môn đệ. Đời của họ giở sang một trang mới. Đời của bạn có đổi khác vì tin
rằng Chúa đã phục sinh không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa phục sinh, vì Chúa đã phục sinh
nên con thấy mình chẳng còn gì phải sợ.
Vì Chúa đã phục sinh nên con được tự do bay
cao, không bị nỗi sợ hãi của phận người chi phối, sợ thất bại, sợ khổ đau, sợ
nhục nhã và cái chết lúc tuổi đời dang dở.
Vì Chúa đã phục sinh nên con hiểu cái liều
của người Kitô hữu là cái liều chín chắn và có cơ sở.
Cái liều của những nữ tu phục vụ ở trại
phong.
Cái liều của cha Kolbê chết thay cho người
khác.
Cái liều của bậc cha ông đã hiến mình vì
Đạo.
Sự phục sinh của Chúa là một lời mời gọi
mang một sức thu hút mãnh liệt khiến con đổi cái nhìn về cuộc đời: nhìn tất cả
từ trên cao để nhận ra giá trị thực sự của từng thụ tạo.
Sự phục sinh của Chúa giúp con dám sống tận
tình hơn với Chúa và với mọi người. Và con hiểu mình chẳng mất gì, nhưng lại
được tất cả.
26. Phục Sinh.
Có một chàng sinh viên, vừa thất bại trong
việc học hành, lại vừa thất bại trong tình yêu của mình. Buồn chán, tối hôm đó,
chàng đi lang thang ngoài bãi biển. Chàng ngồi nơi mỏm đá nhìn những ngọn sóng
xô vào bờ dưới ánh trăng. Thế rồi, những chuyện đau buồn dần dần chìm lắng. Tất
cả dường như đã qua đi. Chàng biết rằng: mặt trời lại sắp sửa mọc lên ở phương
đông. Và khi mặt trời mọc lên, chàng cảm thấy như đón nhận được một nguồn sinh
lực mới. Mọi dự tính ồ ạt trở về để rồi chàng đã quyết định một cách hăng say:
sẽ bắt đầu lại tất cả.
Từ mẩu chuyện này, chúng ta đi vào biến cố
Phục sinh mà chúng ta mừng kính hôm nay. Vậy biến cố này có ý nghĩa gì đối với
chúng ta? Phục sinh có nghĩa là cảm nghiệm được quyền năng của Chúa Giêsu đang
biến đổi thảm cảnh cuộc đời chúng ta trở thành một khởi đầu vinh quang đầy mới
mẻ.
Đây cũng là điều đã xảy ra cho các môn đệ.
Thực vậy, trước buổi chiều ngày thứ sáu Tuần thánh, các môn đệ đã tìm thấy một
hướng đi, một ý nghĩa cho cuộc sống, các ông đã dâng hiến bản thân cho Ngài và
đã đặt mọi ước mơ vào Ngài.
Thế nhưng với cái chết của Ngài trên thập
giá, thì mọi hy vọng, mọi mơ ước đều tan theo mây khói. Và khi bóng tối buông
xuống, thì cuộc đời các ông dường như cũng bị chôn vùi trong lòng huyệt lạnh.
Mọi sự thế là đã chấm dứt. Tan vỡ và phá sản, có những ông đã vội vã trở về với
làng xưa và nghề cũ, như hai môn đệ trên đường đi Emmaus. Thế nhưng biến cố
Phục sinh đã xảy ra và làm đảo lộn tất cả. Mặt trời mọc lên và Đức Kitô đã sống
lại.
Kể từ lúc đó, quyền năng của Đấng Phục sinh
bắt đầu hoạt dộng và biến đổi các ông. Từ một nhóm người tuyệt vọng, các ông
trở thành một binh đoàn thừa sai gan dạ. Theo lệnh Chúa, các ông đã lên đường
loan báo Tin mừng Phục sinh cho muôn dân.
Bất cứ nơi nào các ông rao giảng, thì quyền
năng của Đấng Phục sinh cũng đều hoạt động trong mọi người, như đã từng hoạt
động trong chính các ông. Và những điều kỳ diệu bắt đầu xảy ra. Tuyệt vọng đã
nhường bước cho hy vọng. Hận thù đã nhường bước cho thương yêu. Đau khổ đã
nhường bước cho niềm vui. Còn chúng ta, chúng ta phải làm gì để hưởng được
những sự kỳ diệu ấy?
Trước hết, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta
hãy mở rộng cõi lòng cho Đức Kitô để Ngài thực hiện nơi chúng ta
những điều Ngài đã thực hiện cho các môn đệ và cho những người nghe lời các ông
giảng dạy.
Tiếp đến, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy
để cho Đức Kitô giúp chúng ta biết yêu thương trở lại sau khi
tình yêu của chúng ta đã bị ai đó khước từ, đồng thời hãy để cho Đức Kitô giúp
chúng ta tin tưởng trở lại sau khi niềm tin của chúng ta đã bị ai đó phản bội,
cũng như hãy để cho Đức Kitô giúp chúng ta hy vọng trở lại sau khi chúng ta
nhìn thấy niềm hy vọng của chúng ta bị lung lay và tàn lụi.
Sau cùng, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy
để cho Đức Kitô giúp chúng ta lau khô những giọt nước mắt, tìm
thấy nguồn sinh lực mới, sau khi đã thất bại, đã khổ đau. Đó là ý nghĩa, là Tin
mừng mà Đức Kitô Phục sinh đem lại cho chúng ta.
27. Mầu nhiệm.
Chúa Giêsu Kitô, một vị tướng lãnh có một
chiến lược hết sức ly kỳ: lùi một bước để tiến hai bước, Ngài lùi để tiến mạnh
mẽ và chắc chắn hơn, Ngài nhượng bộ cho địch thù, để đang khi họ đàn hát vui
mừng vì đã loại trừ được một đối thủ nguy hiểm thì Ngài quay lại mà chiếm cuộc
toàn thắng cuối cùng, Ngài đã tự nộp mình cho những vua quan văn võ đạo đời về
cả hai dân Do Thái và Rôma, họ đã đối xử với Ngài như bọn sói rừng hung dữ xông
vào cắn xé con chiên hiền lành: đánh đập Ngài, bắt Ngài vác thập giá và căng
thây Ngài trên cái giá khổ hình đó, họ đã giết Ngài, chưa hết, một tên lính lại
lấy lưỡi đòng đâm thủng trái tim Ngài. Lẽ nào một người đã bị đâm thủng trái
tim mà còn sống được sao? Một người đã được chôn táng cẩn thận trong mộ đá mà
còn sống sao?
Đúng thế, đúng như Chúa đã báo trước nhiều
lần: “Con Người sẽ bị nộp cho kẻ gian ác, chúng sẽ giết Người, nhưng ngày thứ
ba Người sẽ sống lại”. Hôm nay, không riêng gì Giáo Hội Công giáo mà tất cả
những người tin Chúa Kitô trên khắp thế giới đều hân hoan mừng cuộc chiến thắng
khải hoàn của Chúa Giêsu: Ngài đã sống lại, Ngài đã Phục sinh. Không có tác giả
Tin Mừng nào thuật lại chính sự việc Chúa sống lại: Ngài sống lại đích xác vào
giờ nào và như thế nào, điều đó không ai được biết, nhưng cả bốn sách Tin Mừng
khi kể biến cố Chúa Giêsu sống lại đều nhất trí về ba điều: Thứ nhất, thời gian
sống lại là sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, theo cách tính bây giờ là sáng
sớm ngày Chúa nhật. Thứ hai, sự việc xảy ra là mộ trống, Chúa Giêsu không còn ở
trong mộ, có những nhân vật chứng kiến sự kiện này là cô Maria Macđala, hai
tông đồ thế giá nhất là Phêrô và Gioan. Thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần
với các tông đồ và với nhiều người khác trong những hoàn cảnh khác nhau.
Quả thực, một con người có tên là Giêsu, và
còn được gọi là Kitô, đã từng khuấy động cả nước Do Thái, con người đó đã bị
xét xử trong một vụ án công khai làm xôn xao cả thủ đô Giêrusalem, liên hệ đến
cả chính quyền bảo hộ cao cấp nhất thời đó ở Palestine, con người đó đã bị giết
chết trên thập giá, được an táng trong mộ đá, và mộ đã được niêm phong cẩn thận
có lính gác. Thế rồi, đúng như đã nghe nói trước, ngày thứ ba sau khi chết, con
người đó không còn trong mộ, Ngài đã sống lại. Đây là một biến cố vĩ đại, một
sự kiện vô tiền khoáng hậu, độc nhất vô nhị, có một không hai trong lịch sử:
Chúa Giêsu Kitô Phục sinh.
Đây là một sự kiện minh giáo hùng hồn nhất,
chứng tỏ sứ mệnh thần linh của Chúa Giêsu, đồng thời đây cũng là một chân lý
nòng cốt của đức tin Công giáo, là nền tảng căn bản cho lâu đài đức tin của
chúng ta: Chúa sống lại mới cứu chuộc được nhân loại, nếu như Ngài chết luôn
như các giáo chủ khác thì Ngài không có quyền gì cứu chuộc chúng ta, nhưng Ngài
đã sống lại để chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa, là Thiên Chúa hằng sống và là nguồn
sống, từ đó Ngài ban sự sống cho tất cả mọi người, ai tin vào Ngài thì được
sống đời đời.
Như vậy, một điều chắc chắn: sự kiện Chúa
Phục sinh không thể minh chứng một cách rõ ràng như chúng ta minh chứng một sự
kiện tự nhiên, không thể chụp hình, đo lường hay thí nghiệm được, vì cả nhân
loại chỉ có một mình thân xác Chúa sống lại, lấy đâu mà thí nghiệm, kinh
nghiệm, cho nên, việc Chúa sống lại, vấn đề chính yếu là đức tin: không thấy mà
tin, bởi vì sự việc đó vượt trên phạm vi của khoa học thực nghiệm cũng như
không thể nào dùng những lý luận hay những bằng chứng khoa học để minh chứng.
Tuy nhiên, khi xem xét hậu quả của niềm tin nơi mầu nhiệm đó, người ta có thể nhận
ra mầu nhiệm ấy chân thật, vững chắc.
Hậu quả của niềm tin đó là Kitô giáo nói
chung và Giáo Hội Công giáo nói riêng. Nói rõ hơn, Kitô giáo chính là bằng
chứng lịch sử cho sự kiện Phục sinh của Chúa Kitô, chính sự kiện Chúa Kitô Phục
sinh đã phát sinh ra Kitô giáo, và cho đến ngày nay mầu nhiệm Phục vinh vẫn là
nền tảng của Kitô giáo, không có Chúa Kitô Phục sinh không thể có Kitô giáo,
hủy bỏ được Chúa Kitô Phục sinh, đạo Kitô không còn. Lời thánh Phaolô xưa kia
đã đúng, ngày nay vẫn đúng và sẽ còn đúng mãi: “Nếu Đức Kitô không sống lại thì
tất cả niềm tin của chúng ta sụp đổ”. Như vậy, tất cả những điều trên đây cho
chúng ta biết: mặc dầu Kinh Thánh đã cống hiến cho chúng ta một số bằng chứng
về sự Phục sinh của Chúa Kitô, nhưng đối với mầu nhiệm cao cả và nòng cốt này
vẫn đòi hỏi chúng ta phải có một niềm tin, hay đúng hơn, một đức tin. Nếu Chúa
Giêsu đòi hỏi chúng ta phải tin những điều Ngài giảng dạy và những việc Ngài
làm nhân danh Thiên Chúa, thì Ngài lại càng đòi hỏi chúng ta phải đặt niềm tin
sắt son gắn bó với mầu nhiệm Phục sinh, là cao điểm, là trung tâm điểm của toàn
thể các mầu nhiệm của Ngài.
Tóm lại, sự kiện Chúa Kitô Phục sinh là một
trong những chân lý đức tin, một mầu nhiệm. Đây là chân lý nền tảng cho cuộc
sống đức tin và niềm hy vọng của chúng ta. Chân lý đức tin này giúp cho chúng
ta có một cái nhìn mới về Thiên Chúa, về chính mình, về cuộc đời, về sự sống,
sự chết, đời này, đời sau, về lịch sử, về những biến cố thăng trầm… những cái
nhìn mới ấy không sách vở nào ban cho chúng ta được, mà chính mỗi người phải
cảm nghiệm để hướng dẫn và giúp chúng ta sống mỗi ngày một tốt đẹp hơn. Như vậy
cũng có nghĩa là chúng ta đừng bao giờ hài lòng với một đức tin lý thuyết và
hình thức, nhưng phải sống một đức tin chân thật và thân ái. Nói rõ hơn, chính
cách sống tốt đẹp của chúng ta, như thực hành các việc đạo đức cho nghiêm
chỉnh, sống hài hòa, công bằng và yêu thương với mọi người… Sống như vậy là
chúng ta đang thể hiện niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh và sự phục sinh của
chính mình.
28. Niềm vui Phục Sinh.
Niềm vui mà các tông đồ cảm nghiệm được
trong ngày Phục sinh hẳn phải lớn lao biết bao. Câu chuyện sau đây sẽ giúp
chúng ta hiểu được phần nào cảm hứng nơi niềm vui của họ:
Trong thế chiến thứ nhất, một người Nga
Cô-dắc có hai cậu con trai tên Peter và Gregory. Ngày kia, ông nhận được một lá
thư từ tiền tuyến. Vì không biết đọc, nên ông đã đưa cho cô con gái. Đó là lá
thư từ viên sĩ quan chỉ huy của Gregory, được mở đầu như sau: “Tôi rất tiếc khi
báo tin cho ông biết rằng cậu con trai của ông là Gregory đã bị tử nạn trong
khi thi hành công vụ vào ngày 10 tháng 7. Gregory là một anh lính xuất sắc, và
đã chết một cái chết anh dũng. Ông có đủ lý do để tự hào về anh ấy…”
Tin này gây ra hậu quả ngay tức khắc và
hoảng hốt đối với người cha. Dường như ông bị suy kiệt một cách rõ rệt. Chỉ
trong khoảng vài ngày, ông già hẳn đi, gần như trong một đêm, mái tóc của ông
đã ngả màu bạc. Trí nhớ của ông bắt đầu xuống dốc, và thậm chí trí khôn của ông
cũng bị ảnh hưởng. Ông bắt đầu uống nhiều rượu.
Ông đặt lá thư đó bên dưới tượng thánh
trong nhà bếp. Mỗi ngày, ông đều lấy lá thư đó ra, và yêu cầu cô con gái của
ông đọc lại. Nhưng ngay khi cô bắt đầu đọc “Tôi rất tiếc khi báo tin cho ông
rằng…” thì ông liền lấy lá thư đó lại và cất đi. Sau khi vị linh mục ở địa phương
dâng thánh lễ cầu hồn cho con trai ông, thì ông cảm thấy hơi khá hơn.
Mười hai ngày qua đi trong tình trạng đó.
Đến ngày thứ mười ba, một lá thư thứ hai gửi về từ tiền tuyến. Lá thư này nói
rằng con trai của ông chưa chết! Anh chỉ bị thương, và bị bỏ mặc cho chết ở
trên chiến trường. Sáng hôm sau, anh đã bò suốt 4 dặm đường, để trở về hàng ngũ
của anh, kéo lê theo một sĩ quan cũng bị thương. Anh đã được phong quân hàm hạ
sĩ, và được trọng thưởng huy chương ghi nhận sự can đảm của anh. Cho đến nay, những
vết thương của anh đã được phục hồi tại bệnh viện, và anh sẽ sớm được trở về
với gia đình.
Khi nghe đến đây, người cha sôi sục niềm
vui, ông chộp lấy lá thư, và đem vào làng. Ông chặn lại bất cứ người nào ông
gặp gỡ trên đường, ép từng người đọc lá thư đó. Ông giải thích “Con trai tôi
vẫn còn sống! Nó đã được trọng thưởng huy chương vì lòng can đảm của nó!”.
Câu chuyện này đem đến cho chúng ta một số
ý tưởng về niềm vui mà các môn đệ cảm nghiệm được trong lễ Phục sinh đầu tiên.
Nhưng cũng có những sự khác biệt. Con trai của người Cô-dắc thực sự chưa chết.
Đức Giêsu đã chết. Các môn đệ đã chứng kiến tận mắt cái chết của Người. Lúc bấy
giờ, ngôi mộ trống trơn, và họ đã thấy Đức Giêsu vẫn sống! Tuy nhiên, chúng ta
phải ghi nhớ rằng sự sống lại không phải là trở về với cuộc sống trần thế – Đức
Giêsu sống lại với một sự sống mới vượt ra ngoài cái chết.
Niềm vui của họ sôi sục lên, vì Đức Giêsu,
người đứng đầu và bạn bè của họ, đã bẻ gãy những xiềng xích của sự chết bằng
chính sức mạnh của Thiên Chúa. Sự chết, kẻ thù cuối cùng và vĩ đại nhất, đã bị
khuất phục nơi Người.
Niềm vui của các tông đồ cũng có nghĩa là
niềm vui của cả chúng ta nữa. Điều này không ngay tức khắc lấy đi khỏi chúng ta
nỗi sợ hãi đối với cái chết. Bởi vì chúng ta vẫn còn phải đi ngang qua cái
chết. Nhưng chính bằng cách đi ngang qua cái chết, mà Đức Giêsu đã khuất phục
được nó. Như vậy, điều này cũng dành cho chúng ta, là những kẻ tin tưởng nơi
Người.
Nếu không có lễ Phục sinh, thì câu chuyện
về Đức Giêsu sẽ chỉ sáng hơn đôi chút, so với một ánh lửa lóe lên trong đêm tối
mà thôi. Bóng tối sẽ vẫn còn có tiếng nói sau cùng. Nhưng với sự sống lại,
chúng ta biết rằng bóng tối sẽ không có tiếng nói sau cùng nữa. Chúng ta đừng e
ngại trong việc tắm mình trong ánh sáng rạng ngời, mà Đức Kitô sống lại đã đưa
vào thế giới bóng tối và cái chết của chúng ta.
Chúng ta không bao giờ nên để cho bất cứ
điều gì lấy đầy nỗi buồn nơi chúng ta, đến nỗi chúng ta quên mất niềm vui Phục
sinh, niềm vui của Đức Kitô sống lại từ cõi chết.
29. Ánh Lửa Phục Sinh - Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
Nếu cuộc đời của Đức Kitô bị chấm hết bằng
cái chết thì quả đó là một thất bại ê chề, không hơn không kém. Thất bại vì
không cứu được nhân loại. Thất bại vì phải chết nhục nhã dưới bàn tay con
người. Chắc hẳn, sau khi đóng đinh Đức Giêsu lên thập giá, các trưởng tế và
biệt phái đang dương dương nắm chắc phần thắng khi niêm phong cửa mồ với thân
xác vô hồn của Ngài trong đó. Bao niềm mong đợi, tin tưởng của các môn đệ dường
như cũng bị chôn sâu vào huyệt đá.
Thế nhưng, ngày thứ ba, sau hôm các tử tội
bị xử tử, lúc trời vừa chớm sáng, Maria Magđalêna, kẻ được Đức Giêsu cải hoá
cuộc đời, đã vội đi thăm mộ người ân nhân vĩ đại nhưng vắn số của mình. Nỗi xót
xa thương tiếc thúc đẩy nàng ra bãi tha ma, khóc than cho niềm hạnh phúc quá
ngắn ngủi. Ước mong của nàng là làm sao lăn được tảng đá lấp mồ, ướp chút hương
trầm trên thân xác Giêsu, Đấng đã cứu mình khỏi vũng lầy tội lỗi.
Nhưng kìa, quân canh đâu rồi? Mồ trống. Xác
Thầy biến mất. Chỉ còn các tấm khăn liệm được xếp lại để đó. Sững sờ. Hoảng
hốt. Maria chạy ào về báo tin cho Phêrô và Gioan. Lập tức hai ông chạy bay ra
mồ. Nét âu lo lộ trên khuôn mặt hai ông. Chuyện gì đã xảy ra? Phải chăng người
Do thái không thoả mãn với cái chết tàn khốc trên thập giá của Đức Giêsu nên đã
đánh cắp luôn xác Ngài để thủ tiêu? Hay có môn đệ nào đã lấy trộm xác lúc các
lính canh đang ngủ? Nếu thế thì vô lý quá. Người ta đã cẩn thận niêm ấn cửa mồ
và cho quân canh gác xung quanh cơ mà. Với lại, nếu ngủ thì làm sao biết được
những kẻ trộm xác là các môn đệ? Nếu biết tại sao lại không ra tay ngăn lại?
Nhưng rõ ràng là chẳng có dấu hiệu nào của
trộm xác. Các giây vải, khăn che mặt đều được sắp xếp gọn gàng. Tấm khăn liệm
bó mình Đức Giêsu vẫn còn đó. Vị trí không có gì thay đổi như lúc táng xác.
Nhìn vào thì trông như thân thể Đức Giêsu đã bị bốc hơi khỏi tấm khăn. Không có
dấu hiệu gỡ ra.
Phêrô bước vào mộ và thấy như vậy. Gioan,
người đến mộ trước nhưng vào sau, cũng thấy như thế. Nhưng Thánh kinh ghi nhận
phản ứng của Gioan: “Ông đã thấy và ông đã tin” (Ga 20:8).
Gioan đã tin gì? Phải chăng ông tin các lời
tiên báo phục sinh của Đức Giêsu đã thành sự?
Chắc hẳn ngay giây phút “ông thấy” cũng là
lúc ông nhớ lại lời nói của Chúa Giêsu sau khi đuổi phường buôn bán ra khỏi đền
thờ: “Hãy phá đền thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại” (Ga 2:19).
Ông cũng còn nhớ điềm lạ của Giona với lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Như
Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong
lòng đất ba ngày đêm như vậy” (Mt 12:40). Rồi sau lúc biến hình trên núi Tabo,
Đức Giêsu cũng đã căn dặn các ông không được nói lại với ai về chuyện đó, cho
đến khi Ngài sống lại từ cõi chết (Mc 9:9).
Chưa hết, trước lúc lên đường về Giêrusalem
để dự lễ Vượt qua, Ngài cũng đã nói với 12 môn đệ thân tín: “Này, chúng ta lên
Giêrusalem và sẽ hoàn tất cho Con Người mọi điều các tiên tri đã viết. Vì chưng
Ngài sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, hành hạ, khạc nhổ, và sau khi đã
đánh đòn Ngài, người ta sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại” (Lc
18:31-33). Và mới đây nhất là lời tâm sự của Chúa Giêsu trong buổi tiệc ly:
“Hết thảy các ngươi sẽ vấp ngã vì Ta trong đêm nay… Nhưng sau khi Ta sống lại,
Ta sẽ đi trước các ngươi tới Galilê” (Mt 26:31-32).
Thế ra điều Gioan xác tín ngay khi bước
chân vào mồ chính là: Đức Giêsu đã phục sinh. Niềm tin này không dừng chân nơi
ngôi mộ trống, với các dải vải còn nguyên, nhưng tiếp tục được củng cố qua bao
lần tiếp xúc ăn uống với Đấng Phục sinh của các môn đệ. Niềm tin ấy kiên cường
đến độ các nhân chứng dám loan truyền với tất cả nhiệt tình, thậm chí dám hy
sinh đến tính mạng cho niềm xác tín đó.
Thử hỏi có ai ngây dại khi lấy sự sống mình
vun bón cho một sự chết. Nhưng nếu chỉ nói đến Chúa Giêsu phục sinh như một sự
kiện của ngày hôm qua, và nếu sự kiện đó không gây một tác động chân thực nào
trên cuộc sống hôm nay của tôi, thì đó cũng chỉ là một thứ ngây dại không kém.
Thế nên, âm vang của tin mừng Phục sinh
phải trở nên động lực chi phối làm bừng dậy nếp sống đức tin của tôi, để rồi nó
tiếp tục lan tới tất cả mọi người xung quanh. Điều đáng ghi nhận ở đây: tình
yêu phải là động lực làm nên âm hưởng phục sinh.
Nhờ tình yêu nồng nàn dành cho Đức Giêsu mà
Maria Magđalêna đã thắng được nữ tính nhút nhát, dám đi ra mồ mả lúc trời còn
tranh sáng tranh tối để trở thành người nữ đầu tiên loan báo tin mừng Phục
sinh.
Nhờ tình yêu chân thành dành cho Thầy mình
mà Gioan đã trở nên người nam đầu tiên, bằng niềm tin, khám phá ra tính chất
bất diệt của tình yêu. Tình yêu không thể bị chôn vùi trong huyệt mả của khổ
đau, u sầu, thất vọng, nhưng sẽ chảy tràn niềm vui, vinh quang, và sự sống.
Tình yêu không thể chết với cái chết mục nát. Trái lại sẽ làm sống lại những gì
tan vỡ.
Chính Tình yêu Thiên Chúa đã phục sinh Đức
Giêsu Kitô tử nạn. Và chính Đức Giêsu Phục sinh đã mang lại niềm hy vọng chiến thắng
trên mọi khổ đau, chết chóc, thất vọng của con người. Nên khi, mừng Chúa Phục
sinh, một lần nữa tôi cầu xin Tình yêu của Ngài tác động và dẫn lối con người
trong mọi quan hệ hàng ngày, từ vợ chồng con cái đến bạn bè thân nghĩa, từ gia
đình làng xóm đến cộng đoàn xứ đạo. Để rồi như ánh lửa được đốt lên và chuyền
thắp đến mọi ngọn nến trong đêm vọng Phục sinh thế nào, người tin vào Chúa Kitô
cũng sẽ là ánh sáng do tình yêu Thiên Chúa đốt cháy và thắp lên nơi tâm hồn mọi
người như vậy.
30. Đức Kitô Phục Sinh niềm vui cuộc sống
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Giáo Hội Chính Thống có một truyền thống
rất ý nghĩa về lễ Phục Sinh: Sau Thánh Lễ mỗi người được phát cho một quả trứng
gà đã được làm phép. Khi đến chúc mừng lễ cho nhau, người ta đập vỡ quả trứng
và nói: “Đức Kitô đã sống lại”. Người kia cũng đập quả trứng và đáp lại: “Quả
thật, Đức Kitô đã sống lại, Halleluia”.
Ngày nay, ở các nước Âu Châu vào dịp lễ
Phục Sinh, người ta vẫn thấy trưng bày các quả trứng được trang trí tô vẽ đủ
màu sắc rực rỡ, thậm chí có cả những quả trứng chocolate
lớn nhỏ đủ cỡ dành để làm quà tặng mừng Chúa Phục Sinh.
Thưa anh chị em,
Quả trứng có vỡ ra, con gà mới có thể chào
đời. Cũng thế, ngôi mồ có mở ra, Đức Kitô mới sống lại từ cõi chết. Trước khi
đập vỡ quả trứng để chào đời, con gà đã phải ngủ vùi trong quả trứng. Cũng thế,
Đức Kitô đã bị chôn vùi trong mồ ba ngày rồi mới sống lại. Tin Mừng hôm nay đã
cho chúng ta thấy ngôi mồ trống và loan báo tin Đức Kitô đã sống lại.
Ngài đã chết. Người ta đã chôn Ngài trong
mồ đá. Cửa mồ mở ra. Xác Ngài không còn đó nữa. Maria Madalena hoảng hốt kêu lên; “Người ta đã lấy mất xác Thầy rồi!”. Hai môn đệ Phêrô và
Gioan chạy ra mồ kiểm chứng. Hai ông thấy mồ mở toang. Nhìn vào trong thấy khăn
liệm còn đó, nhưng xác Ngài đã biến mất. Gioan, người môn đệ Chúa yêu, đã thấy
và đã tin: Chúa đã sống lại thật như Ngài đã tiên báo.
Chúa đã sống lại. Chúa đã từ trong cõi chết
sống lại. Ngài sống lại thật sự chứ không phải chỉ sống trong tưởng tượng,
trong lòng tin của chúng ta, tuy chúng ta không thấy Ngài, tuy chúng ta chỉ
nhận ra Ngài nhờ đức tin. Nhưng Ngài đang sống thật, dù chúng ta không tin.
Ngài cũng đang sống thật, đang điều khiển dòng lịch sử.
Chúa Giêsu đã sống lại. Ngài không tỏ mình
cho quần chúng từng đi theo Ngài khi Ngài đi rao giảng, nhưng chỉ cho một số
người được tuyển chọn để làm chứng nhân. Họ đã được thấy Ngài Phục Sinh, được
ăn uống với Ngài sau khi Ngài từ cõi chết sống lại.
Người Do Thái không chịu tin, đút tiền cho
lính canh để lấp liếm. Người Hy Lạp cười khinh bỉ khi nghe Thánh Phêrô nói đến
hai tiếng “Phục Sinh”. Nhưng đối với chúng ta thì Chúa Giêsu sống lại đem ý
nghĩa cho cuộc sống của chúng ta: Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta vẫn
còn mang tội lỗi trong mình và không ai giải cứu được chúng ta, không ai đem
chúng ta đến gặp Thiên Chúa được. Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta sẽ là
những người vô phúc nhất, ngu đần nhất, vì chúng ta đặt tin tưởng vào một
chuyện hão huyền. Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì thập giá chỉ là dấu hiệu
của ô nhục, những đau khổ của con người không có lối thoát và cái chết của con
người là ngõ cụt, là đường cùng.
Nhưng Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã cho
chúng ta niềm hy vọng. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người qua bên
kia bờ tuyệt vọng, làm cho những đau thương quằn quại của con người không còn
là nỗi quằn quại của kẻ sắp bị cái chết tiêu diệt, nhưng là nỗi đau của người
mẹ đang sinh con, nỗi đau làm phát sinh sự sống mới. Chúa Kitô đã sống lại,
thập giá không còn là dấu hiệu của ô nhục, nhưng là dấu hiệu của vinh quang.
Tin Mừng theo Thánh Gioan quan niệm thập giá là nơi Chúa Giêsu được tôn vinh.
Cái “Giờ” mà Chúa Giêsu vừa trông đợi vừa lo sợ, chính là giờ Ngài được giương
cao trên thập giá để kéo mọi người lên cùng Ngài. Chúa Giêsu đã sống lại, khiến
cho cái chết của chúng ta không còn là ngõ cụt, không còn là đêm tối tuyệt vọng
nữa, vì ánh sáng của Chúa Kitô đã bừng lên trong cõi chết. Chúa Kitô đã sống
lại, niềm hy vọng của chúng ta không phải là hão huyền, vì Ngài đang ngự bên
hữu Thiên Chúa, Ngài đang điều khiển dòng lịch sử, và khi Ngài tỏ hiện trong
vinh quang, thì chúng ta cũng được xuất hiện cùng với Ngài trong hạnh phúc và
vinh quang bất diệt.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta đã được sống lại với Chúa Kitô
Phục Sinh. Nhờ phép Rửa, chúng ta đã được tham dự vào sự chết và sự sống lại
của Chúa Kitô, được mang mầm sống mới trong mình, mầm sống ấy phải lớn lên
trong cuộc sống mỗi ngày và sẽ đưa chúng ta vượt qua chính cái chết tự nhiên
của con người để vào cuộc sống vinh quang với Chúa Kitô. Sự sống của chúng ta,
vinh quang của chúng ta được dấu ẩn trong Chúa Kitô. Hiện giờ chúng ta chưa
thấy vinh quang ấy như thế nào, nhưng khi Chúa Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ
thấy. Vì Ngài thế nào thì chúng ta cũng sẽ giống như vậy.
Chúa Kitô đã chết và đã sống lại vì chúng
ta, chính là để chúng ta không còn sống cho mình nữa, không còn khư khư giữ lấy
mạng sống, giữ lấy sự bảo đảm an toàn ích kỷ của mình nữa, nhưng là phải sống
cho Chúa Kitô và như Chúa Kitô, hoàn toàn vì Thiên Chúa và cho tha nhân. Nếu đã
được sống lại với Chúa Kitô, chúng ta đừng tìm những gì con người ích kỷ hẹp
hòi, con người theo xác thịt xui chúng ta tìm kiếm; nhưng hãy nhìn thẳng về
cùng đích của chúng ta mà tiến lên. Chúa Kitô đã mang lại cho những đau khổ của
con người một ý nghĩa, đã làm cho cuộc sống trần gian nầy không còn là một ảo
tưởng, nhưng là một phản ảnh và là con đường đưa đến cuộc sống vĩnh cửu.
Nếu sự Phục Sinh của Chúa Giêsu thật là cần
thiết cho chính Ngài và cho những người tin vào Ngài, thì nó cũng lại rất cần
cho cuộc sống hôm nay của chúng ta, khi mà nhiều người chán sống, khi mà cuộc
đời có quá nhiều cái làm chết con người hoặc coi thường mạng sống con người.
Chúa sống lại là một tin vui cho người đang tin vào cuộc sống đời sau, và còn
là lời cảnh tỉnh cho người tưởng chết là hết, chết là giải quyết tất cả…
Nếu chúng ta tin như vậy, thì hơn ai hết,
chúng ta phải làm chứng cho niềm tin Phục Sinh nầy bằng cách dám chấp nhận gian
khổ, chấp nhận hy sinh, để cùng với mọi người xây dựng một xã hội tốt đẹp, cho
mọi người được sống xứng đáng phẩm giá con người hơn. Nếu chúng ta tin rằng mọi
sự từ bỏ đều được Chúa đền bù, mọi hy sinh đều là tham dự vào hy sinh cao cả
của Chúa Kitô, thì tại sao chúng ta không dám từ bỏ, không dám hy sinh? Nếu
chúng ta tin rằng: Chúa Kitô đã giải thoát chúng ta khỏi ách tội lỗi, khỏi con
người theo xác thịt ích kỷ hẹp hòi và cho chúng ta một Thần Khí mới, một tinh
thần mới, thì tại sao chúng ta cứ tiếp tục sống ích kỷ hẹp hòi? Tại sao chúng
ta cứ khư khư giữ lấy sự an toàn bản thân, không dám liều mạng, xả thân vì anh
em, vì tha nhân? Hạt giống chỉ có thể nẩy mầm khi nó có thể phá huỷ được cái vỏ
bao bọc nó. Con gà chỉ có thể ra đời khi phá vỡ vỏ trứng. Con tằm phải phá ổ
kén mới thành con bướm. Có cuộc chuyển hoá hay vượt qua nào mà không đau khổ,
rướm máu?
Trong ngày mừng Chúa Phục Sinh, chúng ta
hãy kiểm điểm xem: chúng ta đã thật sự sống niềm tin Phục Sinh chưa? Chúng ta
đã đánh giá đúng những thực tại trần thế chưa? Chúng ta đã nhìn gian khổ, hy
sinh, nỗ lực của con người bằng cặp mắt nào, cặp mắt của một người chỉ tin vào
của cải vật chất hay của một người tin vào một cuộc sống vượt trên cuộc sống
trần gian nầy và làm cho cuộc sống trần gian nầy có ý nghĩa cao cả thật sự của
nó?
Trong Thánh Lễ Phục Sinh hôm nay, khi chúng
ta mừng Chúa Kitô đã chết và đã sống lại vì chúng ta, chúng ta hãy cầu xin Ngài
cho chúng ta biết sống như Ngài: sống cho Chúa và sống cho mọi người anh
em.
31. Thánh Giá viết trên Cây Nến
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Trong đêm Vọng Phục Sinh, Cây Nến Phục Sinh
là tâm điểm của cử hành Phụng Vụ. Đức Giêsu Kitô đã ra khỏi mồ tối tăm, đã
chiến thắng thần chết, và trở thành Nguồn Ánh Sáng, Sự Sống cho nhân loại.
Để đánh mốc thời gian lịch sử cứu độ, trong
đêm ấy, linh mục chủ tế khắc ghi trên nến với những dấu chỉ như sau:
- "Đức Kitô là một, (vẽ đường dọc)
- Hôm qua cũng như hôm nay, (Vẽ đường
ngang)
- Là Alpha và là Omega, (Viết chữ
Alpha trên cây Thánh Giá)
- Nghĩa là Khởi nguyên và tận cùng,
(Viết chữ Omega ở phía dưới Thánh Giá)
- Người làm chủ thời gian, (Viết số
đầu của năm đó bên góc trái phía trên Thánh Giá).
- Và muôn thế hệ, (Viết số thứ hai
của năm nơi góc phải phía trên Thánh Giá).
- Vạn Tuế Đức Kitô, Đấng vinh hiển quyền
năng, (Viết số thứ ba của năm góc trái phía dưới Thánh Giá).
- Vạn vạn tuế. Amen, (Viết số thứ tư của
năm nơi góc trái phía dưới Thánh Giá).
Với năm hạt hương biểu thị năm dấu đinh của
Chúa Giêsu khổ nạn được gắn trên cây nến Phục Sinh, gắn trên mỗi góc của Thánh
Giá, vừa gắn vừa đọc:
- Vì năm vết thương
- Chí thánh và vinh hiển.
- Xin Chúa Kitô
- Gìn giữ
- Và bảo vệ chúng ta." (Sách Lễ
Roma).
Khi ghi dấu năm cứu độ chung quanh trục cây
Thánh Giá, Giáo hội cũng ghi khắc vào đó cả khối tình tri ân của những năm
hưởng nhờ hồng ân cứu độ trong lịch sử thời gian. Thánh Giá nối trời với đất
trong không gian mênh mông. Thánh Giá là điểm thâu họp lịch sử dọc theo dòng
thời gian. Thánh Gía bao gồm hai chiều kích ấy. Đức Kitô là trung tâm điểm của
không gian và thời gian.
Hình Thánh Giá viết trên Cây Nến Đêm Vọng
Phục Sinh, có ý nghĩa thâu họp vạn vật, mang ý nghĩa vũ trụ. Thánh Irénée viết:
"Ngài đã đến dưới dạng hữu hình với những gì thuộc về Ngài, Ngài đã trở
thành xác thịt và xác thịt ấy đã được treo lên cây Thập tự để bằng cách ấy thâu
họp vào mình cả vũ trụ". Thánh Giá trở thành trục thế giới. Thánh Cyrille
ở Jérusalem viết: “Chúa Trời đã dang hai tay trên cây Thập Tự để ôm lấy bờ cõi
Vũ trụ và vì vậy núi Golgotha là trục thế giới". Trên trục vũ trụ ấy có
treo lên một người Con của Thiên Chúa. Thánh Phaolô thì diễn tả trục này:
"Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất
dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô" (Ep 1, 10).
Là Trục của thế giới, Thánh Giá có trung
tâm điểm là Đức Giêsu Kitô. Nhìn theo chiều kích cánh chung, thời gian sau cùng
nhân loại sẽ chịu sự phân chia, bên tả hoặc bên hữu. Đó là thời gian của sự
phán xét. Trục còn có nghĩa là mốc tuyển chọn, những người được tuyển chọn và
những người tự mình đánh rơi. Thánh Phaolô nhìn trục này như sự phân chia Lề
Luật và Đức Tin, phân chia tâm hồn con người thành hai phần, nhục thể và Thần
Khí, để rồi cho thấy sự thống nhất của phân chia là việc hóan cải, tái sinh,
công chính hóa, lề luật, nhờ vào niềm tin cuộc khổ nạn của Đức Giêsu trên Thánh
Giá.
Là trục của thế giới, nhìn theo chiều kích
cánh chung, Thánh Giá biểu trưng là chiếc thang, một chiếc thang đưa con người
đi lên tham dự vào đời sống của Thiên Chúa. Một chiếc thang để đất trời không
còn xa nhau. Chiếc thang nhiệm mầu mà thánh Nữ Perpétue thấy trong ngày chịu tử
đạo: "Tôi nhìn thấy một cái thang bằng đồng thanh, cao khác thường, vươn
tới tận trời, nhưng hẹp tới mức chỉ có thể đi lên từng người một: Hai bên thang
tua tủa các khí giới: Kiếm, giáo, móc câu, gươm, như vậy mà nếu người nào lên
mà lơ đãng, không chú ý nhìn lên trên cao, sẽ bị tan nát thịt da, để lại những
mảng thịt mắc vào những khí giới đó. Và bên dưới cái thang có một con rồng to
lớn dị thường, nằm đó chăng bẫy những ai đạp chân lên thang, làm cho họ khiếp
sợ không dám trèo lên. Còn tôi, khi tôi đặt chân lên trên bậc thang thứ nhất,
tôi đã đạp lên đầu con rồng đó, thế là tôi đi lên được và nhìn thấy một khu
vườn rộng mênh mông". Chiếc thang có những bậc của thử thách. Niềm an bình
sẽ xuất hiện khi bước lên bậc thang thứ nhất. Và cứ thế theo từng bậc niềm an
bình sẽ được gia tăng cho đến khi hòan tòan ở trên đỉnh thang. Muốn đi lên cao,
cần rũ bỏ, rũ bỏ làm cho nhẹ nhàng thanh thóat trên đường đi lên. Đó cũng là
thời gian dành cho việc cầu nguyện và ăn chay thực thi đức ái để trút bỏ mỗi
ngày trong cuộc sống.
Thánh Giá là sự khôn ngoan và quyền năng
của Thiên Chúa.Bởi vì“Sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người,
và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người” (1Cr 1, 24
-25).Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu hy vọng và sự sống.
Thánh Phaolô có một ước muốn: “Ước chi tôi
chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6,14).
Đức Cha Lambert de la Motte sáng lập Dòng
Mến Thánh Giá. Chắc hẳn ngài đã cảm nghiệm sâu sắc về Cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô
nên mới có ý tưởng này! Dòng Mến Thánh Giá là Hội Dòng chọn Đức Kitô chịu đóng
đinh là đối tượng duy nhất của tình yêu của lòng trí. Kể cũng thật lạ! Không
chọn cái gì nhẹ nhàng mà lại chọn Đấng chịu đóng đinh trên Thánh Giá, phải vác
phải mang ách nữa chứ! Ngài có thành công gì đâu trước mắt người đời! Có nhẹ
nhàng gì đâu trước mắt trần thế! Thế nhưng, Đấng chịu đóng đinh là hồng ân cứu
rỗi. Chọn con đường theo Chúa là đi vào con đường hẹp. Một chọn lựa khôn ngoan
vì đã chọn chính Đấng Cứu Độ. Thánh Giá là đỉnh cao ơn cứu độ. Mến Thánh Giá là
tình yêu cao nhất của đời dâng hiến. Từ đó nẻo đường cứu độ mở ra cho bản thân
và có khả năng giúp cho những người khác tiến vào nẻo đường ấy.
Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa
Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn
thập giá vẫn hiển hiện vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua
thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy
làm thay đổi tất cả.
Đêm Vọng Phục Sinh, cả nhà thờ lung linh
ánh nến. Từ cây nến mẹ, nến Phục Sinh ánh sáng thắp lên các cây nến nhỏ trên
tay mọi người. Lửa Phục Sinh bừng cháy, sáng rực nhà thờ, rạng rỡ từng khuôn
mặt, ấm áp mọi tâm hồn. Cử chỉ chuyển lửa Phục Sinh, thắp sáng cho nhau là một
hình ảnh tuyệt đẹp. Đây là đêm rất đẹp trong ánh sáng chứa chan tình Chúa, tình
người.
Ánh Sáng Phục Sinh đem lại sự sống mới cho
toàn thể loài người khi tất cả được nâng lên và được kéo về bình diện siêu
nhiên qua Thánh Giá, trong tình yêu viên mãn của Đấng Cứu Độ. Chúa Kitô đã tỏa
chiếu Ánh Sáng Tình Yêu qua toàn bộ hành vi yêu thương trên Thánh Giá.
Nếu như thập giá phô diễn bạo lực tội ác và
đau thương thì Thánh Giá mạc khải Tình Yêu Thiên Chúa đối với nhân loại. Trong
Tình Yêu ấy, Đức Kitô đã chỉ cho nhân loại con đường sống ngang qua cái chết.
Trong Tình Yêu ấy, chúng ta ngắm nhìn, chiêm ngưỡng suy niệm để nhận ra những
giá trị đích thực của cuộc sống qua Mầu Nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu
Kitô.
Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì
Đấng chịu đóng đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt
hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Chúa Kitô đã
dùng tình yêu biến đau khổ thành niềm vui. Tình yêu làm cho thập giá trở thành
Thánh Giá.
Thánh Giá biểu tượng cho cuộc chiến đấu của
Chúa Giêsu và cũng là biểu tượng cho tình yêu mạnh hơn sự chết và cho sự Thiện sẽ
giành chiến thắng cuối cùng trên sự Ác.
Thánh Giá là cánh cổng dẫn vào sự sống,
thất bại chuyển thành chiến thắng, sự sống bị tước đoạt trở thành sự sống viên
mãn, ai đánh mất mạng sống mình sẽ tìm gặp lại sự sống, ai can đảm chết cho
Chúa Kitô sẽ được sống muôn đời.
Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ ngày
nay, bóng tối của quyền lực, tiền của, danh vọng, lạc thú đang che mờ bóng
thánh giá. Con người đang lao mình vào bóng tối bằng mọi giá. Xã hội hôm nay
cần phải được ánh sáng của Thánh Giá soi dẫn. Từ Thánh Giá Ðức Kitô, tình
thương chúc phúc thế gian, sự sống chan chứa cho lòng người.
32. Niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh.
(Suy niệm của Achille Degeest)
Những bài tường thuật khác nhau về Chúa
Phục Sinh trong bộ Phúc Âm hoặc trong các thư thánh Phaolô
đặt ra một vấn đề đồng nhất. Những bài ấy cùng nói về một sự kiện, nhưng không
hoàn toàn giống nhau. Nhiều công trình khảo cứu cố gắng tìm những điểm trùng
hợp trong các bản văn nói trên để đem lại những thành quả có thể thoả đáng
nhưng không giải quyết được chú ý nhiều là của cha de Grandmaison trình bày
trong cuốn “Đức Giêsu Kitô”. Lĩnh vực này vẫn mở ra cho môn nghiên cứu Kinh
Thánh và có nhiều quan điểm mới mẻ xuất hiện kể từ sau cha de Grandmaison).
Nhân bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta có thể chú ý đến một số điểm nổi bật như
những đỉnh cao của một dãy núi, cho thấy ý nghĩa tổng quát của những sự kiện.
1) Sự kiện Phục Sinh đặt nền tảng cho niềm
tin của các tông đồ và cộng đồng giáo hữu tiên khởi.
Người ta cho rằng có thể có những bài tường
thuật khác nhiều chi tiết hơn và có tính chất mô tả. Thật ra không phải vậy.
Trong những đoạn thuật về sự kiện Phục Sinh, không có điểm nào cho trí tưởng
tượng khai thác. Chúng ta phải nhìn nhận rằng đôi khi những yêu cầu hợp lý của
hành vi tin như vậy là tốt.
2) Việc phát hiện ngôi mộ trống không khiến
cho những phụ nữ đạo đức cũng như các tông đồ tức khắc xác tín rằng Chúa đã
sống lại.
Câu của thánh Gioan: Ông đã thấy, và ông đã
tin, phải được đặt trong tương quan với sự thấu hiểu Kinh Thánh –và không có
bằng chứng nào rằng niềm tin của thánh Gioan đột xuất như một làn chớp, cho dẫu
ngài hiểu biết nhanh hơn các tông đồ khác. Ở đây sự kiện lịch sử là ngôi mộ
trống trở nên như một thứ cầu nhún bỗng nhiên được một lò xo bí ẩn nhập vào làm
bật lên, phóng tâm trí vượt lên cao quá tầm lịch sử. Thuộc về thượng tầng ấy là
những lần Chúa hiện ra cho các môn đệ, và hành vi tin do đó phát sinh –là sự
thấu hiểu Kinh Thánh- là sự làm chứng của các tông đồ. Ở đây chúng ta tiếp xúc
với một điều gì khiến chúng ta có được niềm vững tin mạnh hơn sự kiểm chứng
lịch sử, đó là hành vi tin, một hành vi không do sự cưỡng ép bên ngoài hay bên
trong, nhưng được kích động cả ngoài và trong, một hành vi hợp lý, tự do, được
sự giúp đỡ của ân sủng –hành vi ấy là hành vi tin của chúng ta ngày nay.
3) Những lần Chúa hiện ra cho các môn đệ
làm biến đổi tâm hồn các ông.
Chúa hiện ra bất thần, trong những trường
hợp các ông ý thức rõ về bản thân mình, Chúa chợt đến trong đời sống thật sự
của các ông. Điều đó cần nói rõ ra để thấy những thuyết chủ trương ảo giác là
không vững. Điều quan trọng nhất: Đức Giêsu đảo ngược tâm trạng và não trạng
các môn đệ. Não trạng Do Thái của các ông không chấp nhận cuộc thương khó, vậy
mà giờ đây các ông chấp nhận cuộc khổ nạn của Thày là liên quan mật thiết với
chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Các ông đã ngã lòng, vậy mà bây giờ các ông
có một niềm xác tín chiến thắng. Các ông đại diện cho Giáo Hội đang phát triển
cách mạnh mẽ và hân hoan, các ông phát khởi một lịch sử và một mầu nhiệm ngày
nay chưa chấm dứt sức năng động làm cho nhân loại dậy lên (Tất nhiên phải hiểu
rằng những hình ảnh trên đây chỉ muốn gợi ý cho sự suy niệm và cầu nguyện,
tuyệt nhiên không có cao vọng bàn đến những vấn đề bao quanh lịch sử và mầu
nhiệm Phục Sinh của Chúa).
33. Xác nhận lòng tin - McCarthy
Suy Niệm 1. BƯỚC NHẢY VỌT CỦA LÒNG TIN
Đôi khi, chúng ta ghen tị
với các Tông đồ và các môn đệ đầu tiên. Chúng ta cho rằng họ có lợi thế hơn tất
cả các Kitô hữu sau này, bởi vì họ thực sự nhìn thấy Đức Giêsu, đôi bàn tay của
họ đã được đụng chạm vào Người. Do đó, lòng tin thật dễ dàng đối với họ. Và
chúng ta cho rằng cũng thật dễ dàng đối với chúng ta, nếu giống như các Tông
đồ, chỉ cần cá nhân chúng ta có thể được gặp gỡ Đức Giêsu, hoặc giống như các
môn đệ đầu tiên, chúng ta được nhìn thấy những phép lạ mà Người đã thực hiện
cho chúng ta.
Vâng, các môn đệ đầu tiên có lợi thế được
tận mắt nhìn thấy Đức Giêsu. Nhưng phải chăng điều đó tạo ra bất cứ sự dễ dàng
nào hơn cho lòng tin của họ? Khi nhìn vào Đức Giêsu, họ có thể nhìn thấy gì? Họ
không thể nhìn thấy và không thể nhìn thấy được Thiên Chúa, bởi vì không ai
ngay lập tức có thể nhìn thấy và nhận biết Thiên Chúa được. Nơi Đức Giêsu, họ
chỉ nhìn thấy một con người có bên ngoài hình giống như họ.nhưng khởi đi từ đó,
để tin tưởng được rằng Người chính là Con Thiên Chúa, đòi hỏi một động tác vĩ
đại của lòng tin.
Điều này giải thích cho sự kiện rằng có
nhiều người đã từng được nghe Đức Giêsu nói và được nhìn thấy Người hành động,
mà vẫn không hề có lòng tin nơi Người. Ngay cả chính bản thân các Tông đồ, đã từng
được ở với Người ngay từ đầu, mà vẫn tỏ ra chậm tin. Được nhìn thấy không nhất
thiết là tin tưởng.
Cú sốc do cuộc thương khó và cái chết trên
thánh giá của Người gây ra, quả thật là quá lớn lao, đến nỗi làm cho các Tông
đồ chậm tin tưởng vào nguồn tin tức về Sự Sống Lại. Khi Đức Giêsu hiện ra với
họ vào buổi tối ngày Phục Sinh. Người đã khiển trách họ vì sự không tin tưởng
và sự cứng lòng của họ, bởi vì họ đã không chịu tin lời những người đã được
nhìn thấy Người, sau khi Người sống lại (Mc 16,14).
Tất cả những điều này để lại cho cái gì cho
chúng ta? Chúng ta không thể nhìn thấy Đức Giêsu theo cách thức mà các Tông đồ
đã nhìn thấy Người. Chúng ta không thể hiện diện trong căn phòng nơi diễn ra
các sự kiện của Tuần Thánh, khi Đức Giêsu ghé vào. Chúng ta không thể được xỏ
tay vào những vết thương của Đức Giêsu. Chúng ta không thể được nhìn vào khuôn
mặt của Người và nói “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con”. Chúng ta phải sống
bằng lòng tin, chứ không phải bằng sự nhìn thấy. Tuy nhiên, nếu tin tưởng nơi
Đức Giêsu, thì chúng ta phải nhìn thấy Người bằng một cách nào đó. Nhưng bằng
cách nào để những người như chúng ta có thể nhìn thấy Đức Giêsu? Chúng ta phải
làm gì, để có được lòng tin?
Chúng ta là những môn đệ gián tiếp. Mà vì
là những môn đệ gián tiếp, nên mọi sự đều khó khăn hơn theo cách thức nào đó,
nhưng lại dễ dàng hơn theo cách khác. Mọi sự đều khó khăn hơn, bởi vì 20 thế kỷ
đã trôi qua, kể từ khi Đức Giêsu bước đi trên trái đất này. Nhiều lớp bụi đã
phủ lên, ánh sáng đã bị phai mờ. Nhưng về khía cạnh tích cực, khái niệm rằng
Con Thiên Chúa bước đi trên trái đất đã trở nên “tự nhiên” theo thời gian, và
vì thế, theo cách thức nào đó, đã lại trở nên dễ dàng hơn để tin. Nhưng đến khi
mãn thời, thì về cơ bản, tất cả các môn đệ đều như nhau –tất cả đều phải làm
một cú nhảy của lòng tin. Chúng ta trở nên những người môn đệ thông qua lòng
tin.
Các bạn bè của Đức Giêsu đã được nhìn thấy
và nghe tiếng Người nói, chỉ một thời gian ngắn sau ngày Phục Sinh, nhưng cuộc
sống của họ đã được hoàn toàn thay đổi. Và bằng cách chia sẻ lòng tin của họ,
cuộc sống của chúng ta cũng sẽ được thay đổi. Chúng ta sẽ có khả năng bước đi
trong niềm hy vọng, bởi vì chúng ta biết rằng lòng tốt sẽ chiến thắng sự dữ, và
sự sống sẽ chiến thắng cái chết, bởi vì Đức Giêsu đã sống lại.
Suy Niệm 2. VIẾNG MỘ
Vào buổi sáng Phục Sinh, các phụ nữ đi ra
ngôi mộ, nơi chôn cất Đức Giêsu. Họ phải thực hiện một công việc u buồn –hoàn
tật việc ướp xác Đức Giêsu. Nhưng đó không phải là lý do duy nhất để họ đi ra
mộ. Họ muốn được gần gũi với Đấng đã đem lại thoả mãn cho cuộc sống của họ, và
cái chết của Người đã nhận chìm họ vào một nỗi u buồn không thể nào khuây khoả
được.
Bản thân chúng ta cũng thường làm điều
tương tự như vậy. Khi một người thân yêu nào đó của chúng ta qua đời, chúng ta
nhận thấy thật khó chấp nhận được là người đó đã vĩnh viễn rời xa khỏi chúng
ta. Chúng ta cảm thấy có nhu cầu duy trì mối quan hệ với người chết. Một trong
những cách thức để chúng ta đáp ứng được nhu cầu này, đó là đi viếng mộ. Tuy
nhiên, thay vì làm dịu đi nỗi đau của sự mất mát, thì điều này lại có thể làm
cho nỗi đau đó càng gia tăng thêm. Điều này thậm chí có khuynh hướng làm cho kẻ
chết lại càng đúng là kẻ chết hơn, bởi vì không có nơi nào làm cho chúng ta tin
chắc chắn rằng người thân yêu của chúng ta đã bị chết, cho bằng ở ngay tại mộ.
Trong buổi sáng ngày Phục Sinh đầu tiên đó,
nếu mọi việc cứ diễn tiến như lòng mong muốn, thì các phụ nữ sẽ ướp xác Đức
Giêsu, đóng cửa mộ lại, và hơn bao giờ hết, họ càng thêm tin tưởng rằng sự kiện
xảy ra trong ngày Thứ Sáu không phải là một cơn ác mộng, mà là một thực tại
khủng khiếp. Nhưng mọi việc lại không diễn ra như dự định.
Tại mộ, họ đã gặp hai thiên thần, hai vị đó
đã nói với họ “Tại sao các bà lại đi tìm người sống giữa kẻ chết? Người không
còn ở đây nữa, nhưng Người đã sống lại rồi”. Sứ điệp Phục Sinh lần đầu tiên
được gửi đến cho những nữ môn đệ có lòng tin này: Đức Giêsu không chết, Người
đang sống. Như vậy, họ không được phí phạm thì giờ trong việc tìm kiếm Người
tại chốn mồ mả.
Tất cả chúng ta thường cảm thấy đau buồn khi
ở trong nghĩa trang, vì tại đó, tất cả mọi sự đều nói lên cái chết. Tuy nhiên,
chính tại một nơi như vậy, mà lần đầu tiên sự sống lại đã được loan báo. Thật
là phù hợp khi tại nơi đây, một nơi dường như cái chết thống trị, mà tin vui về
sự sống lại của Đức Giêsu lần đầu tiên đã được công bố.
Thông qua tiếng nói của Phụng vụ, cũng sứ
điệp đó đem đến cho chúng ta: Đừng tìm kiếm người thân yêu của bạn tại mộ.
Người chết không còn ở đó nữa. Đức Giêsu đã chế ngự cái chết, không phải chỉ
cho bản thân Người, nhưng cho tất cả chúng ta. Người là Đấng đầu tiên sống lại
từ cõi chết, chúng ta sẽ được đi theo Người. Vậy đối với người Kitô hữu, theo ý
nghĩa cuối cùng của sự huỷ diệt, không có điều gì giống như cái chết. Những
người thân yêu đã qua đời của chúng ta không phải là người chết nữa, họ vẫn còn
sống, thậm chí họ còn được sống một cuộc sống thực sự và đẹp đẽ hơn cả chúng
ta. Họ không ở cách xa chúng ta. Những người nào được chết trong ơn nghĩa Chúa,
họ không ở cách xa chúng ta hơn so với Thiên Chúa, mà Thiên Chúa thì rất gần
gũi với chúng ta.
Chúng ta hãy tiếp tục cầu nguyện cho những
người thân yêu đã qua đời của chúng ta, trong trường hợp họ vẫn còn cần đến sự
giúp đỡ của chúng ta. Và chúng ta hãy tiếp tục đi viếng nghĩa trang, nếu điều
này giúp cho ký ức về họ được sống động. Nhưng chúng ta đừng tìm kiếm họ tại
đó. Và nếu nỗi buồn vẫn cứ đeo đẳng trong tâm hồn chúng ta, thì nhờ sự kiện đã
xảy ra vào buổi sáng ngày Phục Sinh, nỗi buồn của chúng ta sẽ được hoà lẫn với
một niềm hy vọng âm thầm.
NHỮNG CÂU CHUYỆN KHÁC
1. Viktor Frankl đã trải qua 3 năm tại
Auschwitz. Anh vẫn còn sống sót, mặc dù vợ và gia đình của anh đều đã chết. Anh
kể lại rằng vào một ngày kia, liên sau khi được phóng thích khỏi trại giam, anh
đã đi bộ xuyên suốt vùng đồng quê, hướng về khu phố chợ, cách trại giam vài dặm
đường.
Cánh đồng cỏ trổ đầy hoa. Những con chim
chiền chiện hót vang trong khi bay vào bầu trời. Suốt nhiều dặm khắp chung
quanh đó, anh không nhìn thấy một người nào, không có gì cả, ngoại trừ mặt đất
và bầu trời bao la, tiếng hót của những con chim chiền chiện, và sự thoáng đãng
của không gian. Anh dừng chân lại, nhìn ra chung quanh mình, rồi ngước mắt nhìn
lên bầu trời trong xanh. Thế rồi anh quỳ gối xuống cám ơn Thiên Chúa, vì đã
được phóng thích. Trong khi cầu nguyện, một câu nói chợt nảy đến trong anh,
diễn tả được cảm giác mà anh đang có: “Tôi đã kêu cầu Thiên Chúa từ nơi nhà tù
chật hẹp của tôi, và Người đã đáp lại trong sự tự do của không gian”.
Anh không thể nói được là mình đã quỳ gối
tại đó trong bao lâu, miệng cứ lập đi lập lại câu nói này. Nhưng sau này, anh
kể “Trong ngày hôm đó và ngay tại thời điểm đó, cuộc sống mới của tôi bắt đầu.
Tôi tiến triển từng bước một, cho đến khi một lần nữa, tôi được trở thành một
con người”.
Chúng ta không thể tách biệt niềm vui mà
Frankl đã cảm nhận được ngày hôm đó, trong một cánh đồng phủ đầy hoa, với nỗi
đau khổ mà anh đã trải qua trong trại giam. Trên thực tế, niềm vui này sẽ không
có ý nghĩa, nếu trước đó, không xảy ra nỗi đau khổ. Tương tự như vậy, chúng ta
không thể tách biệt sự sống lại của Đức Giêsu với cuộc thương khó và cái chết
của Người. Không thể tách biệt vinh quang của Người với nỗi đau đớn của Người.
Mặc dù một cách chậm chạp, nhưng các Kitô hữu tiên khởi đã thấu hiểu rằng cuộc
thương khó và cái chết của Đức Giêsu chính là cách thế để
Người đi vào trong vinh quang của Người. Chúng ta không thể có được ngày Chúa
Nhật Phục Sinh, mà không có ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Nhưng khi đang trải qua
ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, thì chúng ta nên nhớ đến ngày Chúa Nhật Phục Sinh.
2. Sáng ngày Chúa Nhật Phục Sinh, khi các
nữ môn đệ lên đường đi ra viếng mộ Đức Giêsu, thì họ rất thắc mắc rằng: Ai đã
lăn tảng đá lớn đặt ở lối đi vào mộ?
Có một người đàn ông đã cãi nhau với cha
của mình, hậu quả là suốt mấy năm trời, anh ta không hề nói chuyện với ông cụ,
mặc dù hai cha con chỉ sống cách xa nhau vài dặm đường. Anh ta là người con
trai duy nhất; mẹ của anh đã rời bỏ gia đình. Vì thế hiện nay, ông cụ sống cô
đơn một mình. Thế giới của ông càng ngày càng nhỏ bé và tối tăm hơn, với từng
ngày trôi qua. Ông cụ chưa chết đi, nhưng về mặt ý nghĩa, thì ông cụ đã như ở
trong mồ rồi.
Chúng ta kinh ngạc về năng quyền mà Đức
Giêsu có, để cho kẻ chết sống lại, quả thật đúng là như thế. Chẳng hạn, người
con trai trong câu chuyện trên có thể lăn tảng đá ra khỏi ngôi mộ của người
cha. Bằng một lời nói hoặc một cử chỉ, anh ta có thể giải thoát ông cụ khỏi
ngôi mộ của nỗi cô đơn và tuyệt vọng của ông. Và bằng cách giúp đỡ người cha,
anh ta cũng sẽ giúp đỡ được chính bản thân mình. Đây là một trong những cách
đền bù đáng quý của cuộc sống, mà chúng ta không thể làm phấn chấn tinh thần
cho người khác, nếu chúng ta không biết cũng tự gây phấn khởi cho chính bản
thân mình.
34. Phục Sinh.
Hôm nay, không riêng gì Giáo Hội Công giáo
mà tất cả những người tin Chúa Kitô trên khắp thế giới, đều hân hoan mừng kính
cuộc chiến thắng khải hoàn của Đấng Cứu Thế trên tội lỗi và sự chết. Chúa Giêsu
đã bị giết chết trên thập giá, được an táng trong mộ đá, nhưng ngày thứ ba sau
khi chết, Ngài đã sống lại. Đây là một biến cố vĩ đại, một sự kiện vô tiền
khoáng hậu, độc nhất vô nhị, có một không hai trong lịch sử.
Chúa đã sống lại thế nào? Ai đã khám phá ra
điều này? Cả bốn sách Tin Mừng đều tường thuật về biến cố này nhưng đều không
cho biết Chúa Giêsu đã sống lại thế nào. Vì thật sự không có ai có mặt để chứng
kiến biến cố lịch sử quan trọng đó. Nhưng có những nhân chứng đã nhìn thấy ngôi
mộ trống, họ quả quyết xác Chúa không còn trong mộ và sau đó Chúa đã hiện ra
nhiều lần với họ, xác nhận Ngài đã sống lại, đồng thời dạy bảo họ nhiều điều.
Đó là các tông đồ và một số phụ nữ… những nhân chứng về sự sống lại của Chúa
Giêsu.
Như vậy, một điều chắc chắn: sự kiện Chúa
Giêsu Phục sinh không thể minh chứng một cách rõ ràng như chúng ta minh chứng
một biến cố, một sự kiện tự nhiên, nghĩa là không thể chụp hình, đo lường hay
thí nghiệm được, vì cả nhân loại chỉ có một mình thân xác Chúa sống lại, lấy
đâu mà thí nghiệm, kinh nghiệm. Cho nên, việc Chúa sống lại, đối với chúng ta
hôm nay, vấn đề chính yếu là tin: không thấy mà tin.
Anh chị em có bao giờ thấy, chụp hình hay
đo lường được tình yêu không? Chỉ thấy qua hậu quả thôi phải không? Thấy họ hay
đi với nhau, thấy họ thường ngồi nói chuyện với nhau, thấy họ có những cử chỉ
thân mật với nhau… chúng ta biết họ yêu thương nhau. Niềm tin vào Chúa Giêsu
Phục sinh cũng thế, chúng ta không thấy Chúa sống lại, nhưng chúng ta tin, vì
Kinh Thánh đã nói về việc Ngài Phục sinh, lòng tin của Giáo Hội hai mươi thế kỷ
qua: Chúng ta tôn thờ Đấng bị đóng đinh trên thập giá, chúng ta tôn thờ Đấng
đang ngự trong nhà chầu… là chúng ta tin Chúa Giêsu đang sống, chứ không phải
tôn thờ Ngài đã chết, không còn liên hệ gì đến chúng ta. Không, chúng ta tin
Chúa đang sống, Ngài đang điều hành vũ trụ này, Ngài có mặt khắp nơi, Ngài đồng
hành với chúng ta trên mọi nẻo đường, ngõ ngách… đâu đâu cũng có Ngài, Ngài là
Thiên Chúa toàn năng và hằng hữu. Vì thế, biến cố Phục sinh là nòng cốt của
niềm tin Công giáo. Niềm tin này kéo theo nhiều niềm tin khác: tin Chúa Giêsu
Phục sinh không chỉ là một nhân vật lịch sử được ghi chép lại, nhưng là một
lòng tin vẫn sống động trong lịch sử hôm nay. Chúng ta không chỉ biết về Ngài
mà thôi, nhưng chúng ta thực sự gặp gỡ chính Ngài, như Ngài đang sống động hiện
diện giữa chúng ta.
Nói rõ hơn, vì Chúa đã sống lại thật, nên
chúng ta không chỉ nghe biết về Chúa như nghe biết một nhân vật nào đó, chẳng
hạn như ông tổng thống Mỹ, ông chủ tịch nhà nước Trung Quốc, ông vua này, bà
hoàng nọ. Nhưng có một khác biệt sâu xa giữa việc nghe biết về một con người
bình thường hay về những nhân vật lịch sử, vì họ đã chết và đã biến khỏi mặt
đất. Với Chúa Giêsu thì khác hẳn, Ngài đã sống lại và đang sống. Chúng ta biết
Ngài và gặp gỡ Ngài một cách thực sự.
Tiếp đến, chúng ta tin Chúa sống lại là
chúng ta tin chúng ta được cứu chuộc. Bởi vì Chúa sống lại mới cứu chuộc được
nhân loại. Nếu như Ngài chết luôn như các giáo chủ khác, thì Ngài không có
quyền gì cứu chuộc chúng ta, nhưng Ngài đã sống lại để chứng tỏ Ngài là Thiên
Chúa và Ngài có quyền cứu chuộc tất cả chúng ta.
Đàng khác, Chúa sống lại còn là niềm hy
vọng cho chúng ta: tất cả chúng ta cũng sẽ sống lại. Thân xác chúng ta sẽ sống
lại, đúng như chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người
ngày sau sống lại”. Bởi vì thân xác sống lại là hiệu quả của mầu nhiệm Phục
sinh của Chúa Giêsu, như Kinh Thánh đã nói: “Đấng đã làm cho Chúa Giêsu sống
lại cũng sẽ làm cho chúng ta sống lại với Chúa Giêsu”. Như vậy, Chúa Giêsu đã
chiến thắng sự chết và cho hết thảy chúng ta được chung hưởng chiến thắng đó.
Tóm lại, ngày đại lễ Phục sinh hôm nay,
chúng ta xác tín: Chúa Giêsu đã sống lại. Ngài đã chiến thắng tội lỗi và sự
chết. Ngài đang sống thật sự và đang ở với những ai tin Ngài, trong đó có chúng
ta. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa và cố gắng sống như những người đã được cứu chuộc:
sống công bình và yêu thương, sống vui vẻ và phấn khởi, để cuộc đời chúng ta
luôn là một lời ca “Allêluia” chứng nhân cho Chúa.
35. Phục Sinh
Tầm thức trả thù ăn sâu vào trong con người
tội lỗi chúng ta đến nỗi chết rồi mà cũng không dung tha. Thật là một tâm thức
nghịch lại với thái độ sống của Chúa Kitô, Ngài đã giảng dạy sự tha thứ, đã
chịu chết và đã sống lại, đã tha thứ cho con người và dạy con người sống tha
thứ cho nhau.
Tin Mừng Chúa sống lại là Tin Mừng của sự
tha thứ. Thiên Chúa tha thứ cho con người và con người một khi chấp nhận Tin
Mừng sống lại cũng phải sống tinh thần tha thứ này. Chúa Kitô sống lại có ích
gì cho chúng ta, nếu chúng ta không sống lại, không để cho ơn Chúa biến đổi
mình trở nên con người mới giống hình ảnh của Ngài.
Nơi bài đọc 2 chúng ta nghe thánh Phaolô
khuyên các tín hữu Côlôsê như sau: “Nếu anh em đã sống lại với Đức Kitô thì anh
em hãy tìm những sự trên trời nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy
nghĩ đến những sự trên trời chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất”. Những sự trên
trời đó không phải là những viễn vông, mơ mộng, không thực tế theo tâm thức
người đời, không tin Thiên Chúa, nhưng là những điều rất đòi hỏi và rất thiết
thực. Đó là sự sống đời đời, và để đạt đến sự sống đời đời này người đồ đệ của
Chúa phải cố gắng hết sức mình để yêu thương phục vụ anh chị em.
Sống hướng về trời để có đủ tinh thần mà tha thứ những xúc phạm của tha
nhân và hy sinh những lợi lộc ích kỷ mà từ bỏ những mưu toan hại người, để ra
tay nâng đỡ phục vụ anh chị em, nêu cao khuyến khích anh chị em khi anh chị em lỡ
lầm đồng thời giúp họ đừng tiếp tục làm điều xấu nữa.
Sống hướng về trời, về những điều trên trời là điều cần thiết như người
đi ngoài biển khơi không có địa bàn phải nhìn lên những ánh sao sáng trên trời
để định hướng thuyền đời mình đạt đến bến bờ. Chúng ta sẽ bị lạc vào trong
những tranh chấp hận thù, bị rơi vào trong sự u buồn liên lỉ, trong sự áy náy
bứt rứt lương tâm, nếu chúng ta không hướng về Chúa và lãnh nhận ơn Phục sinh
của Ngài.
Các tông đồ đã sống trong lo âu hồi hộp khi
Chúa bị treo trên thập giá, khi họ chưa hiểu gì về mầu nhiệm sống lại của Chúa.
Biến cố mồ trống mà Phúc âm hôm nay kể lại cho chúng ta là một lời mời gọi
Maria, Gioan, Phêrô, mời gọi những kẻ đã theo Chúa hãy vượt qua những giới hạn
của tâm thức trần tục của họ để nhìn thấy được sự Phục sinh của Chúa, để cho ơn
Chúa biến đổi cuộc đời mình, hầu giúp chúng ta trở thành những chứng nhân rao
giảng sự tha thứ của Thiên Chúa.
Có một du khách đến thăm xưởng chế tạo các
địa bàn, khi qua phòng trưng bày các mẫu kiểu địa bàn, du khách đã thắc mắc
hỏi: Tại sao có một số địa bàn có cây kim luôn chỉ về hướng bắc, còn một số địa
bàn khác thì không, kim chỉ lung tung. Hướng dẫn viên trả lời: Những địa bàn có
kim chỉ đúng phương hướng là những địa bàn đã thực sự trọn hảo, đã được chuyển
sức hút từ trường vào trong đó để cây kim chính luôn hướng về hướng bắc. Còn
những địa bàn có kim chỉ lung tung là những địa bàn chưa nên trọn, chưa có sức
từ trường và không thể hoạt động theo từ trường. Đây là những mẫu trưng cho du
khách nhìn chơi mà thôi, chứ không có ích lợi gì cả.
Hình ảnh chiếc địa bàn có thể được dùng để
nói về người đồ đệ của Chúa Giêsu Kitô trong một thời đại, như có hai loại địa
bàn cũng có thể có hai loại người Kitô. Chiếc địa bàn chưa trọn không có sức từ
trường tượng trưng cho người Kitô “hữu danh vô thực”, có tên gọi là người Kitô
hữu nhưng không có thực tế, không có sức sống của Chúa Kitô Phục sinh chuyển
vào, nên như chiếc địa bàn chỉ lung tung, làm lung tung, nói lung tung, dở dở
ương ương đang theo những chiều gió cám dỗ thổi đâu cũng được.
Còn mẫu người Kitô hữu thứ hai như những
địa bàn đã nên trọn, đã hoàn tất, có sức thu hút từ trường. Họ là những người
Kitô hữu đã lãnh nhận sức sống từ Chúa Phục sinh, luôn luôn sống kết hợp với
Chúa, luôn qui hướng về Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh như địa bàn chỉ về hướng
bắc mà do đó mới có thể trở nên trọn nơi chính thực thể của mình và nên hữu ích
cho anh chị em xung quanh.
Việc chuyển sức từ trường vào chiếc địa bàn
là một tác động tự động máy móc, việc chuyển sức sống của Chúa Kitô Phục sinh
vào con người chúng ta là một hành động đặc biệt không thể nào giống như một
trò ảo thuật chỉ hô một tiếng thì có liền ngay.
Chúa Kitô đã chọn các tông đồ và huấn luyện các ngài nhiều năm tháng với nhiều công sức, chuẩn bị
cho các ngài trong giây phút trọng đại cuối cùng để tin nhận Chúa Giêsu Kitô,
Đấng đã đi qua cái chết để tiến đến sự Phục sinh, để thực hiện trọn vẹn ơn cứu
chuộc con người. Nhưng thử hỏi chúng ta đã nhìn thấy gì? Chúng ta đã nhìn thấy
thái độ của các tông đồ như thế nào trước biến cố chết và sống lại của Chúa hay
không?
Một thái độ không tin, lưỡng lự hay có tin
thì cũng chưa vững vàng lắm. Hai người nữ đến mồ Chúa nhìn thấy dấu lạ, hòn đá
che cửa mồ đã bị đẩy qua một bên thì vội vàng kết luận là có người ăn cắp xác
của Thầy mình. Phêrô chạy đến nhìn thấy sự việc cũng không hiểu sao, chỉ có
tông đồ Gioan người được Chúa Giêsu yêu dấu thì thấy và tin, nhưng thái độ tin
lúc này cũng mới là khởi đầu. Lòng tin đó cần phải tiến sâu hơn nữa nhờ lời cầu
nguyện, suy niệm lại những lời Chúa nói, những việc Chúa làm và được Chúa Thánh
Thần tiếp sức thì mới đủ mạnh để làm chứng cho Chúa, để luôn luôn sống định
hướng về Chúa như chiếc địa bàn đã được chuyển sức từ trường.
Từ một Phêrô lưỡng lự chưa hiểu Kinh Thánh,
chưa hiểu chương trình hành động cứu rỗi của Thiên Chúa. Qua Chúa Kitô Phục
sinh đến, một Phêrô đã vững tin dám đứng trước dân chúng để rao giảng Chúa Kitô
Phục sinh là Đấng cứu rỗi duy nhất như được mô tả trong bài đọc 1 của thánh lễ
hôm nay.
Chúng ta hiểu là phải có biến cố tiếp sức
của Chúa, biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống tràn đầy trên các tông đồ, trong
mọi đồ đệ của Chúa Kitô. Không thể nào chỉ dừng lại ở Chúa Kitô chịu đóng đinh
trên thập giá để than khóc lo sợ, nhưng không thể nào chỉ chú mình tôn thờ Chúa
Kitô Phục sinh cho riêng mình như Maria khi được Chúa hiện ra thì bà sụp lạy quỳ dưới chân Chúa. Chúa bảo bà hãy ra đi, hãy mang Tin Mừng
đến cho các tông đồ khác, cho những ai chưa tin. Chúa muốn như chiếc địa bàn
chỉ hướng về phía bắc. Người tín hữu Kitô chỉ hướng về một Chúa Kitô Phục sinh
để từ đó mà có sức làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Mừng lễ Phục sinh hôm nay, chúng ta hãy đem
cuộc đời mình đến cho Chúa chuyển sức sống vào đó, cho chúng ta được Phục sinh
với Chúa, được sống sức sống của Chúa, trở thành người Kitô hữu sống động.
36. Niềm hy vọng
Bản tin trên Internet ngày 23-3-1998 có
ghi: “Nạn tự tử tại Nhật Bản đạt tới mức kỷ lục. Các giới Nhật Bản cho biết mức
độ tự tử trong nước tăng đến mức báo động. Trong mười tháng của năm 1998, hơn
27.000 người tự sát. Hầu hết những người tự tử là các nhà quản lý hay doanh
nghiệp, do ảnh hưởng tình trạng suy thoái kinh tế trong nước Nhật kéo dài”. Và
báo Công giáo và Dân tộc số 1296 năm 2001: ở An Độ đã có nhiều nông dân tự tử
vì cảm thấy không còn lối thoát nào khác, khi giá nông sản giảm sút trầm trọng.
Năm 2003 vừa qua có 120 người tự tử tại bang Pradesh và ở các bang khác cũng có
những người tự tử tương tự.
Không chỉ riêng những nhà doanh nghiệp Nhật
Bản, và các người nông dân An Độ mà còn nhiều người khác nữa, khi họ đặt mục
tiêu của cuộc đời là sống thành công, thành công trong học hành, trong gia
đình, trong việc làm và thành công ngoài xã hội. Họ bỏ mọi công lao, sức lực,
tài trí để mong đạt được ước mơ này. Nhưng khi kỳ vọng đó gặp trở ngại, thất
bại, họ cảm thấy chán nản, đau buồn vô vọng và tìm cách quyên sinh.
Đối với các môn đệ Đức Giêsu, biến cố ngày
thứ sáu đã làm cho dự tính tương lai của các ông tan thành mây khói. Bao nhiêu
hy vọng đã bị chôn vùi trong ngôi mộ cùng với thân xác Đức Giêsu. Ngôi mộ biểu hiện
cho sự thất bại hoàn toàn. Tâm trạng các môn đệ cũng giống như tâm trạng của
những người nông dân An Độ hay những thương gia Nhật Bản, cũng đau khổ thất
vọng, tương lai xán lạn nay đã bị chôn vùi. Không những thế
các môn đệ còn lo sợ, lo sợ bị truy lùng bởi hàng lãnh đạo Do thái. Họ đã giết
Thầy, thì coi chừng môn đệ họ cũng không tha. Vì thế các ông phải trốn tránh.
Nhưng, khi nghe bà Maria Madalena báo tin:
“Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết để Người ở đâu?”, thì
tâm trạng của các ông lại biến đổi ngược lại, theo lẽ bình thường, khi nghe báo
tin người ta đem xác Chúa đi đâu mất, thì sự sợ hãi của các ông càng tăng lên
gấp bội. Nhưng ở đây, hai ông lại thoát khỏi tính e dè, khỏi sự im lặng sợ sệt.
Các ông rời bỏ nơi ẩn nấp, vội vã chạy đến mộ. Trong sự vội vã và náo nức ấy,
chúng ta thấy có một cái dấu hiệu gì đó, một dấu hiệu hy vọng loé
lên, các ông đang hướng về một niềm hy vọng, niềm hy vọng này còn mơ hồ, nghi
ngại, nhưng các ông vẫn chạy. Dù các ông đã biết xác Chúa không còn trong mộ
nữa, nhưng họ vẫn chạy ra mộ, ra mộ không phải để thấy xác Chúa, mà họ hy vọng
một tương lai, và để rồi chính nơi đây niềm hy vọng đã loé
lên trong họ bây giờ được bừng sáng.
Thế nhưng, các ông đã thấy điều gì? Đã thấy
Thầy mình chăng? Không! Các ông không thấy gì ngoài ngôi mộ trống rỗng với tảng
đá lớn đã bị đẩy sang một bên, và những khăn liệm bên trong. Thánh Gioan cho
chúng ta thấy Phêrô là người đầu tiên đi vào trong mộ. Ông thấy băng vải để ở
đó và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng
cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Nhưng không nói Phêrô có nhận ra dấu chỉ hay
không? Phúc âm thánh Luca tường thuật lại rằng Phêrô chứng kiến ngôi mộ trống,
nhưng trở về nhà “rất đỗi ngạc nhiên, không hiểu gì hết”. Còn Gioan, người môn
đệ Đức Giêsu thương mến, ông cũng bước vào, ông đã thấy. Ông thấy cái gì? Ông
cũng chỉ thấy những điều Phêrô đã thấy mà thôi. Nhưng ông đã nhận ra, nhận ra
sự Phục sinh của Chúa Giêsu. Nếu như xác bị ăn trộm, thì kẻ trộm đâu có thời
giờ để gỡ vải liệm, và khăn cuốn đầu được cuộn lại và đặt đúng chỗ, bên trong
băng vải? Như vậy không có bàn tay bên ngoài tham dự vào. Chỉ một mình Gioan,
với tâm hồn nhạy cảm, ông đã nhận ra Thầy mình hiện đang ở đâu qua ngôi mộ
trống. Chúng ta tự hỏi chỉ qua ngôi mộ trống mà Gioan xác tín Đức Giêsu đã Phục
sinh? Thì xem ra niềm tin của Gioan không vững chắc, vì với một dấu chỉ mơ hồ
là ngôi mộ trống mà ông đã tin: thật ra ông tin không phải dựa vào ngôi mộ, mà
qua ngôi mộ và cách sắp xếp trong ngôi mộ, ông đã nhận ra Lời Chúa dạy dỗ các
ông đã được ứng nghiệm: “Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ
sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người,
khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người. Ba ngày sau, Người sẽ
sống lại.
Trong cuộc sống của chúng ta có biết bao
dấu chỉ, thế nhưng chúng ta có hiểu được, có đọc được ý nghĩa của dấu chỉ đó
hay không? Một cử chỉ, một lời nói, một sự vật… là những
dấu chỉ còn hàm hồ, ẩn chứa bí mật! Chúng ta cần được giải thích: sự việc đó muốn
nói gì? Cử chỉ đó hiểu như thế nào? Đó là một điều khó đối với chúng ta. Nhưng
nếu chúng ta để cho Lời của Chúa soi sáng, để Chúa Thánh Thần hướng dẫn, chúng
ta sẽ hiểu được các biến cố đó.
Biến cố Phục sinh làm biến đổi hoàn toàn
đời sống các môn đệ. Đời của họ đã giở sang một trang mới, mà không một khó
khăn nào cản trở được niềm tin vào Đức Kitô, tin rằng sẽ được hưởng phúc vinh
quang với Ngài, cho dù bao nhiêu lần bị đói khát, đánh đòn, tù đày… Nếu sự Phục
sinh của Chúa Giêsu thật cần thiết cho các môn đệ, thì sự Phục sinh cũng thật
cần thiết cho cuộc sống hôm nay của nhân loại, một cuộc sống còn nhiều khó
khăn, đau khổ, chết chóc… Những lúc đó, chúng ta cần phải có sự nhạy cảm như
Gioan, nhận ra Đấng Phục sinh, Đấng của niềm hy vọng. Người đã Phục sinh để
khai mở một thế giới mới, một thế giới của công bình và bác ái, hoan lạc và
bình an, khai mở một nhân loại mới, trong đó mọi người là anh em. Khi khai mở
một thế giới mới, một nhân loại mới, Người đã cống hiến cho
chúng ta một tương lai có khả năng lấp đầy những khát vọng sâu xa chất chứa
trong lòng con người, khát vọng vốn làm nên biết bao dự phóng đời người.
Thế nhưng, trong đời sống nhiều khi chúng
ta còn gặp biết bao nhiêu khó khăn, thử thách: trong công việc làm ăn, chúng ta
cố gắng làm ăn lương thiện, nhưng vẫn thất bại, trì trệ không phát triển được;
rồi bao nhiêu cố gắng trong việc giáo dục con cái, thế nhưng vẫn không thành
công, cũng như nhiều lần bị hiểu lầm, bị lừa gạt làm cho chúng ta đánh mất đi
niềm tin trong cuộc sống. Những lúc đó chúng ta có còn nhận ra sự hiện diện của
Thiên Chúa, có còn dám tin tưởng và đặt hy vọng vào Đức Kitô hay không? Và nếu
như một khi nhìn ra sự hiện diện và nghe được lời mời gọi của Đấng Phục sinh,
đặc biệt là những biến cố đau thương, chúng ta có khả năng biến cuộc sống thành
lời hy vọng hay không?
Như vậy, hy vọng của chúng ta, không phải
là những thành công, những lợi lộc, tiếng tăm… ở trần gian này, vì chúng ta
biết rằng đây chỉ là điều tạm thời, chóng qua, không có giá trị lâu bền, nó
không làm cho tâm hồn chúng ta hạnh phúc được và khi chết chúng ta cũng chẳng
mang đi được. Hy vọng của chúng ta chính là Đức Kitô, là Đấng đang sống, hiện
đang ngự bên hữu Chúa Cha và đang cầu bầu cho chúng ta.
Trong niềm vui của ngày Chúa Phục sinh,
chúng ta xin Chúa Kitô ban cho chúng ta nguồn hy vọng để biết nhìn thấy quyền
năng sống lại của Thiên Chúa trong các cơn thử thách. Xin Ngài lăn tảng đá che
lấp hy vọng ra khỏi cuộc đời chúng ta. Để rồi mỗi người chúng ta trở nên chứng
nhân hy vọng, là dấu chỉ, là ánh sáng phục sinh chiếu toả
cho những anh chị em đang sống trong sự thất vọng.
Mỗi năm, vào ngày Chúa nhật Phục sinh, hàng
chục ngàn khách hành hương tụ họp tại Quảng Trường thánh Phêrô ở Rôma, để được
lãnh nhận phép lành Phục sinh của Đức Thánh Cha. Đây là một cơ hội tuyệt vời,
bởi vì người kế vị thánh Phêrô công bố thông điệp Phục sinh: “Đức Kitô đã sống
lại, Allêluia”. Ngài đang làm điều mà thánh Phêrô đã làm trong ngày lễ Phục
sinh đầu tiên – ngài đang xác nhận lòng tin của các tín hữu. Và có thể chắc
chắn rằng điều này xác nhận lòng tin của những người có dịp may được hiện diện
tại đó.
Phêrô đang làm điều mà Chúa đòi hỏi nơi ông
trong bữa Tiệc Ly, khi Người nói: “Simon, Simon ơi, kìa Satan xin được sàng anh
như sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh, để anh khỏi mất lòng tin. Phần
anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh”.
Phêrô phải củng cố lòng tin nơi các anh chị
em của ông! Khi chúng ta xem xét cách thức ông hành động trong suốt cuộc thương
khó, thì dường như ông có vẻ là người xa lạ. Làm thế nào một người có lòng tin
không kiên định như vậy, mà lại xác nhận được lòng tin cho bất cứ ai? Chúng ta
hãy nhớ lại một cách ngắn gọn hành động của ông trong đêm Đức Giêsu bị bắt.
Chúng ta vẫn nhớ những lời nói can đảm của
ông trong bữa Tiệc Ly: “Thưa Thầy, ngay cả khi mọi người đều mất lòng tin vào
Thầy, thì con sẽ không bao giờ mất lòng tin vào Thầy”. Ông thực sự chân thành
khi nói những lời đó. Ông nghĩ rằng mình can đảm và mạnh mẽ. Nhưng chỉ một lúc
sau, khi Đức Giêsu cảm thấy đau buồn, cô độc và sợ hãi trong vườn Cây Dầu,
Người đã yêu cầu Phêrô canh thức với Người, nhưng ông vẫn không thể nào làm
được điều đó – ông đã lăn ra ngủ vùi. Ông đã bỏ mặc Đức Giêsu phải uống chén
đắng một mình. Điều tệ hại hơn đã phải đến.
Một lúc sau, trong đêm hôm đó, nơi sân nhà
của vị thượng tế, có người quay sang Phêrô và nói “Thế chẳng phải ông là một
trong những kẻ thuộc về ông Giêsu đó sao? Chẳng phải ông đã cùng ở trong vườn
với ông ta sao?”. Và điều gì xảy ra? Không phải là một lần, mà đến ba lần,
Phêrô đã chối Đức Giêsu, ông chối rằng mình chưa từng bao giờ biết Người. Thế
rồi gà gáy. Đến lúc đó, Đức Giêsu quay lại nhìn Phêrô, và ngay tức khắc, Phêrô
nhận ra được điều mình đã làm – ông đã chối không quen biết chính người bạn của
mình. Rồi ông đi ra ngoài và khóc lóc thảm thiết.
Đó là giây phút thấp hèn nhất trong cuộc
đời ông. Ông đã nhận ra được một sự thật rất đau lòng về bản thân. Ông không
thể mạnh mẽ, không thể can đảm hoặc quảng đại như ông đã nghĩ về mình. Nhưng
Đức Giêsu không hề coi ông là đồ bỏ đi. Người đã nhìn thấy trước tất cả điều
này. Thậm chí Người còn ngăn cản điều đó nữa. Nhưng Người vẫn tiếp tục tin
tưởng nơi ông. Người biết rằng có một khía cạnh khác tốt đẹp hơn nơi Phêrô. Sau
khi sống lại, Người đã phục hồi lại một Phêrô khôn ngoan hơn và khiêm tốn hơn
ngay tại nơi mà Người đã từng ở trước đây, và đặt ông làm viên đá mà trên đó,
Người sẽ xây dựng Giáo Hội của Người.
Và Phêrô đã trở nên người tốt lành. Ông
được phục hồi và tiếp tục củng cố lòng tin cho những anh chị em trong cộng
đoàn. Chính ông là người đã dẫn dắt các tông đồ, trong việc làm chứng về sự
sống lại. (Bài đọc 1). Chính ông là người qui tụ lại những kẻ đi theo Đức Giêsu
vốn đã bị tản mác. Chính trên nền tảng lời chứng của ông, mà cả cộng đoàn đều
trầm trồ: “Chúa đã sống lại thật rồi, và Người đã hiện ra với ông Phêrô”.
Ông Phêrô được gọi là một vị thánh đã từng
vấp ngã. Ông được nhiều người quí mến, chắc hẳn là bởi vì nhược điểm của ông
làm cho chúng ta cảm thấy gần gũi với ông. Sự can đảm không đáp ứng được cho
tất cả chúng ta. Cuối cùng, tất cả chúng ta đều chỉ là những con người hay
chết, không nhất quán trong lòng tin của mình. Nhưng chúng ta không được phán
xét bản thân mình và người khác qua những sai sót có tư cách nhất thời, nhưng
là qua lời cam kết đối với lòng tin của mình trong cả một thời gian dài.
Chính Đức Giêsu đã xác nhận lòng tin cho
Phêrô. Cũng chính Đấng sống lại đã xác nhận lòng tin của chúng ta. Chúng ta là
một cộng đoàn của những kẻ tin, mà lòng tin phổ biến của những kẻ tin thì củng
cố lòng tin của mỗi cá nhân.
38. Chúa Giêsu Nagiarét sống luôn mãi
Một người đàn bà nọ thường hay than phiền
với bác sĩ tâm thần là bà thường hay thấy ngứa ngáy. Lạ kỳ thay, bệnh ngứa
thường xảy ra là lúc mà bà ta ở trong nhà thờ. Sau một thời gian nói chuyện, bác
sĩ nhận ra là sự thù ghét đã ăn rễ sâu trong lòng bà ta. Bà mang tư tưởng thù
ghét người chị của bà bởi vì bà nghĩ rằng khi người cha của bà chết, người chị
đã không chia gia tài một cách đồng đều. Sau đó, vị bác sĩ tâm thần đã cho bà
thử qua cuộc xác nghiệm "eczema", và kết quả là bà ta ngứa ở trong
tâm thần chứ không phải ở ngoài thân xác. Vị bác sĩ nói, "Chỉ khi nào bà
biết chữa chạy cái bệnh ở trong tâm linh của bà thì bà mới hết được cái bệnh
ngứa."
Ngày xưa, Chúa Giêsu đi tới đâu là Người
thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi bệnh tật. Chúa Phục Sinh vẫn tiếp
tục làm điều mà Ngài đã làm.
Hôm nay ở tại thành thánh Giêrusalem, những
người hành hương sẽ tấp nập chen nhau vào cái chỗ mà người ta gọi là ngôi mộ
của Chúa Giêsu. Một vài người hành hương vẫn đả kích những thói tục hoá của những nơi thánh thiện. Họ bảo ngôi mộ thánh thiện là
chỗ những người hành khất đi xin ăn, những người bán rong lợi dụng các du khách
để bán đồ, còn các tu sĩ thì lợi dụng chỗ thánh để xin dâng cúng. Hôm nay, ngày
mừng kỷ niệm Chúa Phục Sinh, chúng ta đến đây để gặp gỡ một Chúa Kitô Phục
Sinh.
Đấng phục sinh không phải là Chúa Giêsu của
Madison Avenue, hoặc của Roma, hoặc của Athens, nhưng là Chúa Giêsu Nagiarét:
một chỗ bình thường, một chỗ mà không có gì hay ho cả.
Thánh Phêrô đã diễn tả về Chúa Giêsu
Nagiarét như sau, "Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu
tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi
kẻ bị ma quỉ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người" (Cv 10:38). Điều mà
Ngài đã làm, bây giờ Ngài vẫn đang làm. Cách mà Ngài đã hiện diện, thì bây giờ
cũng đang hiện diện.
Những kẻ tìm kiếm Ngài sẽ không phải thất
vọng. Đúng thế, quyền năng cao cả của Ngài đã được tỏ bày trong những lá cây
hoặc những ngọn cỏ. Thế nhưng, chúng ta có thể tìm thấy Ngài hiện diện một cách
đích thật hơn hết là ở trong những anh chị em của chúng ta, những người đang
mong mỏi thoát khỏi cái ách của ma quỉ, đói khát, chiến tranh, cô đơn, và thất
vọng.
Chúa Giêsu Nagiarét là "Ai" trong
mùa Phục Sinh? Và chuyện gì đã xảy ra trong mùa Phục Sinh này? Cái chết của
Ngài không phải là một biểu tượng, nhưng là một cái chết thật mà không có hoá trang, hoa lá, và âm nhạc. Sự phục sinh của Chúa Kitô
không phải là sự sống lại theo nghĩa tượng trưng, nhưng là một sự khải hoàn
thật sự của Ngài. Cộng đoàn Kitô giáo đã không gọi "Linh hồn của Ngài sống
mãi", hoặc là "Tư tưởng của Ngài còn sống", hay là "Ngài
sống qua những người môn đệ." Không phải thế, Chúa Giêsu Nagiarét sống luôn
mãi! Một vài người đã muốn dùng khoa học để chứng mình sự phục sinh, thế nhưng
phương thức của khoa học là so sánh một sự việc này với một sự việc khác để xác
nghiệm, còn sự phục sinh thì không thể nào làm như vậy được, bởi vì nó vượt
trên mọi sự ở thế gian này. Những điều mà Thánh Kinh kể lại cho chúng ta chưa
từng có bao giờ xảy ra. Có một số người đã sống lại theo như các Phúc Âm kể
lại, nhưng rồi họ lại phải chết. Chúa Giêsu đã sống lại và không chết nữa, và
Ngài khải hoàn trong sự sống mới. Ngài đã mở cửa Nước Trời, nơi mà sự chết không
còn thống trị. Sự sống lại của Chúa Giêsu là dấu cho những người môn đệ theo
Ngài, đó là những ai sống theo tinh thần của Ngài thì một ngày cũng sẽ được
vinh hiển như Ngài.
Chúng ta hãy nghe những lời Thánh Phaolô
gởi giáo đoàn Colôxê: "Anh em đã được chỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy
tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa.
Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào
những gì thuộc hạ giới. Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em
hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa" (Col 3:1-4).
Bạn có nhớ lúc nào mà bạn đã bắt gặp Chúa
Kitô? Nói một cách rõ ràng hơn, lúc nào Chúa Kitô đã bắt gặp bạn? Qua Bí tích
Rửa Tội, bạn đã trở nên một phần thân thể của Ngài, đó chính là Giáo Hội. Chúa
Kitô Phục Sinh đã nối kết bạn với Ngài qua sự tụ họp ở nơi bàn tiệc thánh ở
đây. Chúa Kitô Phục Sinh đổi mới bạn qua bài giảng này, và qua Lời của Ngài.
Tính chất độc nhất của chúng ta hiện thời bây giờ bị ẩn dấu, nhưng rồi sẽ đến
một ngày sự ẩn dấu này sẽ được mặc khải mà "mọi đầu gối sẽ phải quỳ xuống khi nghe tên danh thánh Chúa Giêsu." Khi tiếng
loa cuối cùng được thổi lên để báo hiệu lịch sử của con người đã đến chỗ hoàn
thành, thì chúng ta sẽ được biết một cách hoàn toàn điều mà chúng ta đang biết
một phần ở đời này. Và chúng ta sẽ được cảm nghiệm sự vinh thắng mà chúng ta
đang phải dùng đức tin.
Thánh Phêrô viết: "Chúc tụng Thiên
Chúa và là Cha của Chúa chúng ta, Đức Giêsu Kitô, Đấng đã thể theo lòng thương
hải hà mà tái sinh chúng ta cho hy vọng hằng sống nhờ sự phục sinh từ cõi chết
của Đức Giêsu Kitô" (1 Pt 1:3). Chúng ta tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ cứu
chữa chúng ta, sẽ ban cho chúng ta sự sống mới và đường hướng mới, sẽ tăng
cường sức mạnh cho chúng ta bằng tình yêu.
39. Đức Kitô chiến thắng
Tại công trường thánh Phêrô ở Rôma, có một
đài tưởng niệm hoàng đế Caligula. Đài tưởng niệm này là một phiến đá cẩm thạch
cao 30 thước, được mang về từ Ai Cập. Đỉnh cao là một cây thánh giá. Trên phiến
đá này, người ta đã khắc ghi hàng chữ sau đây:
Christus vincit, Christus regnat, Christus
imperat. Có nghĩa là Đức Kitô chiến thắng, Đức Kitô thống trị, Đức Kitô hiển
trị.
Giờ đây, chúng ta cùng nhau chia sẻ về ý
tưởng thứ nhất: Đức Kitô chiến thắng.
Phải, Đức Kitô Phục sinh đã chiến thắng tội
lỗi, đau khổ và sự chết. Đồng thời, Ngài cũng đã chiến thắng kẻ thù của Ngài.
Đúng thế, kẻ thù của Ngài đang reo mừng
ngạo nghễ vì đã nhìn thấy Ngài trút hơi thở cuối cùng một cách tủi nhục ê chề
trên thập giá. Từ nay, Ngài không còn giảng dạy và hoạt động nữa. Từ nay họ có
thể yên tâm ngủ quên trên tội ác của họ. Đức Kitô đã bị mai táng trong mồ. Thế
nhưng, cũng chính từ ngôi mộ này mà Ngài đã bước ra để khởi đầu cho một trang
sử mới, một trang sử bất tận.
Kẻ thù của Ngài reo mừng vì nghĩ rằng: Ngài
cùng với giáo lý của Ngài đã bị chôn vùi dưới lòng huyệt lạnh.
Dioclétien đã phát hành một loại tiền và
trên loại tiền này có ghi hàng chữ:
- Kỷ niệm ngày quét sạch danh hiệu Kitô.
Thế nhưng, sự thật thì trái ngược hẳn lại.
Dioclétien cùng với đế quốc Lamã của ông đã bị quét sạch khỏi mặt đất này từ
lâu. Ông tưởng rằng mình đã huỷ diệt được Kitô giáo, nhưng
nếu giờ đây được sống lại, ông sẽ phải ngạc nhiên vì trải qua 20 thế kỷ, Kitô
giáo vẫn không ngừng phát triển, vẫn không ngừng lớn lên.
Vào thế kỷ 18, Voltaire đã nói:
- Chỉ 20 năm nữa, Đức Kitô sẽ bị chìm vào
quên lãng.
Nhưng sự thật thì trái ngược hẳn lại, bởi
vì chính 20 năm sau, Voltaire đã chết trong kinh hoàng khiếp hãi và phải ra
trước toà án tối cao của Đức Kitô.
Rồi trong cuộc Cách mạng Pháp, năm 1789 một
ông bộ trưởng đã nói:
- Đức Kitô chỉ còn là một thây ma cho chúng
ta đẩy xuống hố.
Nhưng sự thật thì trái ngược hẳn lại, bởi
vì chẳng bao lâu chính ông bộ trưởng này đã bị xử tử và thi thể của ông đã bị
đẩy xuống hố. Chống lại Đức Kitô là giơ chân đạp mũi nhọn. Chỉ những kẻ ngu
xuẩn mới dám làm cái hành động liều lĩnh và dại dột ấy mà thôi.
Còn Đức Kitô, Ngài vẫn sống, vẫn tươi mới
như mỗi độ xuân về của một năm, hay như mỗi khoảng bình minh của một ngày.
Những bạo vương, những hoàng đế, những kẻ bách hại Ngài ở đâu bây giờ? Có ai
còn nhắc đến họ và van xin họ? Lòng đất đã chôn vùi sự nghiệp của họ và thời
gian đã đẩy họ vào quên lãng, như Nguyễn Du tiên sinh đã phát biểu:
- Bất tri tam bách du niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.
Có nghĩa là:
- Biết rồi ba trăm năm sau,
Nào ai còn khóc một câu thương mình.
Đức Kitô của chúng ta thì khác hẳn. Cho đến
bây giờ, Ngài vẫn còn là một vấn đề thời sự nóng bỏng. Người ta không ngừng học
hỏi và tìm hiểu về Ngài. Và giờ đây, trong giây phút này, hằng triệu cặp môi
vẫn còn cầu khẩn và ca tụng Ngài.
Những bắt bớ và cấm cách của kẻ thù, giống
như một trò chơi của con trẻ. Vì tức giận với biển cả, nên đã cầm một cục đá và
ném xuống lòng biển. Hòn đá được ném đi chỉ đủ gây nên một vài vòng tròn dao động trong thoáng chốc trên sóng nước mà thôi, còn biển cả
thì vẫn bao la và hùng vĩ.
Những bắt bớ và cấm cách của kẻ thù, giống
như hành động của một tên điên khùng. Hắn bực bội với mặt trời vì mặt trời luôn
chiếu sáng. Vì thế vào lúc giữa trưa nắng gắt, hắn ngửa mặt lên và phun nước
miếng vào mặt trời. Thế nhưng những giọt nước miếng do hắn phun ra thay vì rớt
vào mặt trời thì lại rơi vào chính khuôn mặt của hắn.
Đức Kitô đã chiến thắng và chỉ mình Ngài
mới trường tồn, mới bất diệt như lời thánh Phaolô Tông đồ:
- Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn
chỉ là một.
Chúng ta hãy mượn lời thánh vịnh 73 như một
kết luận:
- Lạy Chúa, Ngài là vua chúng tôi từ muôn
thuở, Đấng đã từng chiến thắng trên toàn cõi địa cầu.
40. Biến đổi trở thành con người mới
Một câu chuyện dụ ngôn của Nhật Bản kể về
Hoàng tử bị gù lưng, theo tục lệ của Hoàng Triều đang trị nước, bất cứ Hoàng tử
nào được chỉ định thế nghiệp Vua Cha thì phải đúc tượng của mình đặt vào trong
Bảo Tàng Viện của Quốc Gia để lưu danh muôn thuở. Tiếc thay vị Hoàng tử được
chỉ định này lại là vị Hoàng tử bị khuyết tật gù lưng nên nhất định không chịu
cho tạc tượng mình trưng trong Bảo Tàng Viện.
Cuối cùng với áp lực của nhà Vua, Hoàng tử
chấp nhận nhưng với hai điều kiện:
Thứ nhất, tạc tượng Hoàng tử không bị gù
lưng, nhưng đứng thẳng người như thể không bị khuyết tật nào cả.
Thứ hai, Hoàng tử được giữ bức tượng này
trong phòng riêng cho tới khi nào mình chết thì bức tượng mới được đem trưng
trong Bảo Tàng Viện Quốc Gia.
Làm như vậy Hoàng tử muốn giấu đi những
khuyết tật của mình không cho thần dân trong nước biết đến. Vua cha để tuỳ ý. Sau khi đã có bức tượng rồi, Hoàng tử đem trưng trong
phòng riêng, hàng ngày đứng ngắm mình lâu trước bức tượng, vừa cố gắng thẳng
người lên như bức tượng và điều lạ lùng xảy ra, sau thời gian dài ngắm bức
tượng thẳng người, Hoàng tử cảm thấy mình như thật sự đã đứng thẳng người,
không còn gù lưng nữa.
Đây là một chuyện dụ ngôn nhưng cũng có thể
được người Kitô chúng ta áp dụng vào trong cuộc sống tinh thần của mình. Đến
với Chúa Giêsu Kitô, khuyết tật gù lưng thể xác không có gì là xấu phải giấu
diếm, nhưng gù lưng tinh thần không những là khuyết tật xấu, mà còn là tội lỗi,
là những tật xấu bám chặt với điều xấu.
Hoàng tử gù lưng không bằng lòng với khuyết
tật thân thể của mình. Người Kitô chúng ta cũng ý thức về những khuyết tật tinh
thần của mình.
Không bao giờ bằng lòng với những khuyết
tật này, Hoàng tử có một ước muốn mãnh liệt thoát ra cảnh gù lưng. Người Kitô
cũng cần có ước muốn mạnh mẽ thoát ra khỏi những tật xấu của mình. Hoàng tử nhờ
nhìn vào bức tượng thẳng người, là lý tưởng của mình và trở thành thẳng người;
người Kitô chúng ta cần nhìn thẳng vào lý tưởng của chúng ta là Chúa Giêsu Kitô
và không những phải nhìn từ cái nhìn bên ngoài mà thôi mà còn thực hiện điều
Chúa Giêsu mong ước, đó là sống kết hiệp với Ngài để trở nên giống Chúa đến mức
độ trở nên giống Chúa đến mức độ như thánh Phaolô Tông Đồ đã sống: "Tôi
sống nhưng không phải tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi".
Tôi sống nhưng không phải là tôi mà là
chính Chúa Kitô sống trong tôi. Chúa Giêsu là mẫu gương của chúng ta, Chúa đã
thực hiện cuộc vượt qua, đã chết và sống lại để thực hiện ơn cứu rỗi cho chúng
ta, để giải thoát chúng ta khỏi những gì gù lưng tật xấu, để trở thành của ăn
nuôi sống chúng ta và biến đổi chúng ta thành con người mới được tái tạo theo
hình ảnh Chúa Kitô, và chúng ta cần luôn nhìn vào Chúa Giêsu Kitô để giải thoát
mình khỏi những tật xấu, để chúng ta không còn bị gù lưng tinh thần mà đứng
thẳng lên sống lại cuộc sống mới với Chúa.
Vậy mừng Lễ Phục Sinh hôm nay, chúng ta
phải nhất quyết luôn nhìn vào Chúa để sống đồng hoá với
Chúa, để mình sống sự sống của Chúa, để trở nên giống như Chúa và được phục
sinh với Chúa. Alleluia.
Trước ngôi mồ trống của Đức Giêsu, có hai
cái nhìn, dẫn đến hai cái thấy khác nhau:
- Cái nhìn của bà Maria Magdala
là cái nhìn tự nhiên, bị ảnh hưởng bởi tình cảm: chỉ mới nhìn tảng đá đã lăn
khỏi mộ, tình cảm của bà bị tác động ngay khiến bà không còn thấy thêm điều gì
khác mà chỉ nghĩ đến tình huống xấu nhất: “Người ta đã đem
Chúa ra khỏi mộ!” Cái nhìn tình cảm này không giúp thấy được sự thật mà chỉ làm
cho bà buồn rầu, lo lắng, khóc lóc.
- Cái nhìn của người môn đệ Chúa yêu
được đức tin hướng dẫn: Ông nghe nói tảng đá đã lăn khỏi mộ, ông chạy đến nơi
để xem và xem xét rất kỹ. Ông cúi xuống nhìn vào trong, quan sát những tấm khăn
liệm và dừng lại để suy nghĩ. Rồi ông nhớ lại những lời Thánh kinh mà Đức Giêsu
đã dạy. Cái nhìn này giúp ông thấy được sự thật: Đức Giêsu đã sống lại. Cái
nhìn đức tin này đem lại cho ông niềm vui: “Ông đã thấy và đã tin”.
Có thể so sánh cái nhìn đức tin giống như
người ta nhìn các sự vật trong đêm tối bằng ánh sáng của tia hồng ngoại, nên có
thể thấy được những điều mà mắt thường không trông thấy. Theo định nghĩa, “Tín hữu” là người tin. Vì thế tín hữu vừa có cái nhìn
tự nhiên như mọi người, vừa phải có cái nhìn đức tin. Ai biết nhìn sự việc bằng
đức tin thì sẽ thấy mọi sự rất thanh thản và lạc quan.
Chẳng hạn thánh Phaolô trong lúc đang ngồi
tù và sắp bị đem ra xử, ông nghĩ đến hai tình huống có thể xảy ra: một là bị xử
tử, hai là được tự do. Bằng cái nhìn đức tin, ông đã thấy sống hay chết đều tốt
cả: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi”. Còn thánh nữ Têrêxa
Hài Đồng Giêsu sau khi đã nhìn lại mọi sự việc xảy đến trong đời mình bằng cặp
mắt đức tin, đã kết luận “Tất cả là hồng ân”.
Đức Giêsu Phục sinh đã chiếu một luồng sáng
mới lên tất cả mọi sự. Thiết tưởng, việc đầu tiên mà chúng ta cần cố gắng và
cũng là ơn đầu tiên mà chúng ta cần xin trong mùa Phục sinh là biết nhìn mọi sự
bằng cặp mắt đức tin. Có như thế, trong tất cả mọi sự chúng ta mới đều có thể
lạc quan cất lên tiếng hát đặc trưng của Mùa Phụng vụ này: Halleluia!
42. Ngôi mộ trống -JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Việc Đức Giêsu sống lại có ảnh hưởng gì
trên đời sống của bạn không? Đã bao giờ làm cho bạn thật sự thay đổi con người
bạn chưa?
2. Muốn được sống lại với Đức Giêsu trong
tâm hồn, nghĩa là trở nên con người mới, con người sống theo Thần Khí, điều cần
thiết và cụ thể là ta phải làm gì?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giêsu sống lại, một biến cố vĩ đại.
Hôm nay, chúng ta hân hoan kỷ niệm ngày Đức
Giêsu phục sinh. Ngài phục sinh sau khi chịu khổ nạn, chết trên thập tự và mai
táng trong mồ. Đó quả là một biến cố vĩ đại, làm nền tảng cho niềm tin của
chúng ta. Thánh Phaolô nói: «Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng
của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng» (1Cr
15,14); «Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em thật hão
huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người
đã an nghỉ trong Đức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức
Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi
người» (1Cr 15,17-19).
2. Ngài sống lại thì ích lợi gì cho cuộc
sống hiện sinh của tôi?
Nhưng thử hỏi biến cố Đức Giêsu sống lại có
ảnh hưởng hay ích lợi gì cho đời sống hiện sinh của tôi, nghĩa là đời sống thực
tế bây giờ và tại đây của tôi? Biến cố này có ảnh hưởng trên đời sống của tôi,
hay nó chỉ là một kỷ niệm được lập lại hàng năm, chỉ để tưởng nhớ một biến cố
đã hoàn toàn qua đi? Vì biết bao năm phụng vụ trôi qua, năm nào cũng có Tuần
Thánh, cũng có lễ Phục Sinh, mà nào tôi có thay đổi gì đâu! Chuyện Đức Giêsu
sống lại với một đời sống mới, con người mới, cách hiện hữu mới, tất cả đều đã
trở thành quá khứ, chẳng có ảnh hưởng gì trên hiện tại của tôi, nên tôi vẫn
sống với con người cũ, cách sống cũ, chẳng có gì thay đổi! Phải vậy chăng, hay
việc Ngài sống lại vẫn là một biến cố hiện sinh, vẫn có khả năng biến cải đời
tôi?
Nếu Ngài chỉ sống lại trong lịch sử, cách
đây 2000 năm, mà không sống lại trong lòng tôi, thì việc sống lại ấy ích lợi gì
cho tôi? Vấn đề quan trọng là Ngài phải sống lại trong tâm hồn tôi. Và vấn đề
ấy tuỳ thuộc ở tôi rất nhiều, ở quan niệm và thái độ nội tâm
của tôi đối với việc sống lại của Ngài.
3. Ngài sống lại để biến ta thành con người
mới
Đức Giêsu sống lại là để đem lại cho chúng
ta sự sống mới, và trở nên những con người mới, ngay bây giờ và chính tại đây,
như thánh Phaolô nói: «Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm
cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ
cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho
thân xác của anh em được sự sống mới» (Rm 8,11). Điều quan trọng là làm sao có
được sự sống mới ấy? Câu Kinh Thánh vừa trưng dẫn cho biết: Thần Khí làm cho
Đức Giêsu sống lại, cũng chính Thần Khí ấy sẽ biến cải chúng ta nên con người
mới, với sức sống mới. Chỗ khác, thánh Phaolô nói: «Thiên Chúa đã làm cho Chúa
Kitô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta
sống lại» (1Cr 6,14). Nhưng vấn đề cụ thể là chúng ta phải làm gì để Thần Khí
ấy biến cải chúng ta nên con người mới?
4. Muốn nên con người mới, con người cũ
phải chết đi
Đức Giêsu chỉ sống lại sau khi chết đi, nên
ta chỉ có được sự sống mới sau khi chết đi con người cũ. Vì thế, muốn có sự
sống mới, muốn trở nên con người mới, ta phải cùng chết với Đức Giêsu, chết với
tất cả những thói hư tật xấu và tội lỗi của con người cũ: «Chúng ta biết rằng,
con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy,
con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ
cho tội lỗi nữa» (Rm 6,6). Thánh Phaolô còn nói rõ hơn: «Anh em phải cởi bỏ con
người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa
dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người
mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống
công chính và thánh thiện» (Ep 4,22-24).
5. Con người cũ là con người ích kỷ, cần
được lột bỏ
Như vậy, để có được sự sống mới, ta phải
dứt khoát từ bỏ con người cũ, là con người ích kỷ, chỉ nghĩ tới mình, lo cho
mình, chỉ quan tâm tới hạnh phúc và đau khổ của chính mình, không quan tâm gì
tới ai, không lo cho ai. Nếu đã lấy mình làm trung tâm thì sẽ coi mọi người chỉ
là phương tiện. Có diệt trừ thói ích kỷ, là nguyên nhân mọi tội lỗi, chúng ta
mới có được sự sống mới: «Nếu sống nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi
của con người ích kỷ nơi anh em thì anh em sẽ được sống» (Rm 8,13).
Sự sống mới là một sự sống phong phú, nhưng
lại đòi hỏi một sự lột xác, một tinh thần tự huỷ: «Nếu hạt
lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn mãi là hạt lúa; còn nếu chết
đi, nó sẽ sinh nhiều hạt khác» (Ga 12,24). Tương tự, hạt nguyên tử, nếu không
bị phá huỷ, nó sẽ mãi mãi là một nguyên tử nhỏ bé, im lìm,
bất động, không làm nên một công lực hữu ích nào; nhưng nếu bị phá huỷ, nó sẽ phát sinh một năng lượng khủng khiếp, có thể làm
nên những thành tựu lớn lao. Cũng vậy, khi ta phá huỷ «cái
tôi ích kỷ» của ta, thì «cái tôi» ấy không hề mất đi, mà chuyển hoá thành một thực tại mới, con người mới, vĩ đại, cao quý, và sức sống của con người mới ấy sẽ phong phú, mạnh
mẽ và có ý nghĩa hơn lên ngàn lần.
6. Một nghịch lý thực tế
Đừng tưởng cứ ôm khư khư lấy «cái tôi ích
kỷ» của mình, chăm chút lo cho nó, thì nó sẽ có một sức sống phong phú, tốt đẹp
và hạnh phúc. Trái lại, càng quá quan tâm đến nó, thì lại càng làm cho sức sống
của nó hạn hẹp lại, càng làm giảm bớt giá trị và hạnh phúc của nó. Đức Giêsu
nói: «Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở
đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời» (Ga 12,25). Kinh nghiệm cho
ta thấy: những kẻ ích kỷ, chỉ lo lắng cho bản thân mình, không bao giờ được
hạnh phúc và cũng chẳng làm cho ai hạnh phúc. Họ không bao giờ hài lòng với
chính họ, với những gì họ đang có. Và càng tìm kiếm thêm cho mình, càng lo cho
bản thân mình nhiều hơn, thì họ càng lún sâu vào đau khổ hơn. Trái lại, những
vị thánh, những người sống quên mình, xả thân, lại là những người cảm thấy hạnh
phúc nhất, mặc dù xem ra họ có vẻ bị thiệt thòi nhất, phải chịu khổ cực nhiều
hơn ai hết.
7. Con người mới là con người vị tha, biết
yêu thương
Con người mới được thánh Phaolô xác định:
«Con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa» (Ep
4,24); «con người mới là con người đổi mới luôn luôn để nên giống như hình ảnh
Đấng dựng nên mình» (Cl 3,10). Như vậy, con người mới chính là con người hoàn
nguyên, nghĩa là trở về với tình trạng tốt đẹp nguyên thuỷ
khi được Thiên Chúa tạo dựng, trước khi con người phạm tội. Đó là con người
phản ánh trung thực bản chất của Thiên Chúa, là Tình Yêu. Vậy, để có một đời
sống mới, một tinh thần mới, để trở nên con người mới, với một sức mạnh mới, ta
cần có một quyết tâm từ bỏ con người cũ là con người ích kỷ, chỉ quan tâm lo
cho bản thân mình, để mặc lấy con người mới là con người sống vị tha, sống yêu
thương, sống vì tha nhân. Khi ta quyết tâm như thế, với một ý chí cương quyết,
lập tức, Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại, sẽ tiếp sức
với ta, biến đổi ta nên con người mới. Điều quan trọng và tối cần thiết là ta
phải quyết tâm từ bỏ nếp sống vị kỷ để sống đời sống vị tha, sống yêu thương.
Sau đó, «hãy để Thần Khí canh tân đổi mới anh em thấu tận trí khôn» (Ep 4,23);
«Hãy để cho Thiên Chúa biến hoá anh em cho tâm trí anh em
đổi mới» (Rm 12,2). Nếu ta tiếp tục quảng đại, Ngài sẽ biến đổi ta một cách
toàn diện, từ quan niệm, cách suy nghĩ, đến cách ăn nói, hành động để trở thành
con người mới thực thụ. Có như thế, việc sống lại của Đức Giêsu mới thật sự ích
lợi cho đời sống Kitô hữu của ta.
Cầu nguyện
Lạy Cha, đã bao năm qua, con mừng Đức Giêsu
phục sinh chỉ như kỷ niệm một biến cố hoàn toàn quá khứ, chẳng ăn nhập gì tới
đời sống cụ thể của con. Vì thế, đã bao năm, con chẳng có gì thay đổi. Nhưng
năm nay, con quyết tâm trở nên một con người mới, một con người sống vị tha,
yêu thương mọi người. Xin Thánh Thần của Cha hãy biến đổi con.
43. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour
CHÚA GIÊSU SỐNG LẠI
NHỮNG LẦN HIỆN RA
Các chương 20 và 21 thuật lại bốn lần Chúa
Giêsu hiện ra khi Người sống lại: hiện ra với bà Maria Macđala (cc. 14-18), với
các môn đệ mà không có ông Tôma (cc.19-23), với các môn đệ có ông Tôma trong tuần
sau đó (cc. 19-23), với các môn đệ bên bờ Biển Hồ (chương 21 là chương mới được
thêm vào Tin Mừng sau này). Một phần của nội dung trần thuật này đều thống nhất
ở cả bốn Tin Mừng (ngôi mộ trống, hiện ra với các bà và với các Tông đồ). Thế
nhưng Gioan, quả có sẵn trong tay các nguồn văn giống như các Tin Mừng Nhất
Lãm, đã khôi phục lại cách rất khéo léo. Đặc biệt ông đã cá nhân hoá các kinh nghiệm về đức tin sau Phục Sinh, bằng cách quy
kết các kinh nghiệm này cho những cá nhân riêng biệt, cũng như đánh dấu riêng
các hình thức tin rất khác biệt: môn đệ được Chúa Giêsu thương mến tin mà không
cần thấy (20,8); bà Maria Macđala chỉ nhận biết Chúa Giêsu khi Người gọi tên bà
(20,16); các môn đệ thấy Người và tin vào Người (20,20); còn ông Tôma không
muốn tin mà không thấy trước và sờ được Người.
Đối với Gioan, cuộc Thương Khó và cái chết
là Giờ được tôn vinh. Sự sống lại của Chúa Giêsu và những lần Chúa Giêsu hiện
ra trong vinh quang quả là quan trọng, vì chúng đến thánh hoá
toàn bộ quá trình của Chúa Giêsu, suy diễn từ buổi sơ khai bắt đầu từ sự sống
lại sau cùng: “Khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói
điều đó; họ tin vào Kinh Thánh và lời Chúa Giêsu đã nói” (2,22). Ngoài ra,
chúng còn chuẩn bị thời kỳ của Giáo Hội khi Chúa Giêsu lên cùng Chúa Cha.
BÀ MARIA MACĐALA, ÔNG SIMON PHÊRÔ VÀ NGƯỜI
MÔN ĐỆ KIA
Tiểu đoạn 1-18 được xây dựng chung quanh
bốn nhân vật: bà Maria Macđala, ông Phêrô và người môn đệ kia và Chúa Giêsu. Sự
việc diễn ra gần bên mộ, sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần. Bà Maria Macđala mở
đầu và kết thúc bài trần thuật với hai sứ điệp dành cho các môn đệ, thoạt đầu
đưa tin Chúa bị đem đi khỏi mộ (c.2), sau đó loan báo sự Phục Sinh (c.18). Có
nhiều cảnh tượng khác nhau; đoạn dành cho bà Maria Macđala bị việc đi thăm mộ
của hai môn đệ làm gián đoạn. Tuy vậy độ cao bi thảm hiện rõ trong những lần
liên tiếp chạy đi chạy lại ngôi mộ: Bà Maria “thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ”
(c.2); người môn đệ kia “thấy những băng vải (vải liệm theo bản dịch phụng vụ)
còn ở đó”. Ông Phêrô thấy “băng vải và khăn che đầu” (c.7). Cuối cùng người môn
đệ kia “thấy và tin” (c.8). qua các dấu chỉ càng lúc càng rõ nét, độc giả được
chuẩn bị đi từ các dấu lạ tiến đến mặc khải về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu.
NGÔI MỘ TRỐNG
Gioan có trước mặt trình thuật liên quan đến
nhiều phụ nữ (chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu). Các Tin Mừng Nhất Lãm
ghi nhận có hai bà (Mt 28,1), ba bà (Mc 16,1) hoặc nhiều hơn nữa (Lc 24,10).
Gioan chọn xây dựng bài trần thuật của mình chung quanh một mình bà Maria
Macđala. Việc bà đi đến mộ không nhằm mục đích thực dụng, bởi vì việc tẩm thuốc
thơm đã được hai người đàn ông thực hiện vào áp ngày Sabát. Bà đến mộ trong tư
thế thân thương và hiếu hạnh nhằm làm chậm đi sự chia cách với Chúa Giêsu và
kéo dài tang lễ (như đã xảy ra trong Ga 11,31). Tình huống nhắc đến đêm tối
(của sự chết) và một bước khởi đầu (ngày thứ nhất). Tảng đá đã bị lăn khỏi mộ.
Giống như các thánh sử khác, Gioan phòng giữ mầu nhiệm về sự can thiệp của
Thiên Chúa diễn ra mà không có nhân chứng, trước khi bà Maria đến. Cuộc gặp gỡ
giữa bà Maria và Chúa Giêsu bị chậm lại vì được xen vào việc bà Maria chạy về
gặp hai môn đệ.
HAI MÔN ĐỆ
Ông Phêrô và môn đệ Chúa Giêsu thương mến,
cả hai đều có mặt ngay từ khởi đầu cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu trong một sự
hết sức gần gũi với Người, đau thương cho ông Phêrô vì đã chối Thầy, trung
thành nơi người môn đệ kia. Tích cực trong cuộc Thương Khó, hai ông còn tích
cực hơn nữa trong việc khám phá mầu nhiệm Phục Sinh. Có sự chênh lệch giữa hai
người cũng như có sự trổi vượt trong đức tin của người môn đệ được Chúa Giêsu
thương mến, bởi lẽ môn đệ kia chạy tới mộ nhanh hơn (dấu chỉ sự vồn vã ân cần
lớn hơn chăng?), sau đó “ông thấy và tin”: dụng ngữ rõ ràng diễn đạt quá trình
từ “thấy” đến sự gắn bó trọn vẹn với Chúa Giêsu Phục Sinh. Cảnh tượng đồ liệm
hoặc trật tự các đồ này được sắp xếp chứng tỏ rằng thi hài của Chúa Giêsu không
bị đánh cắp, mà Chúa Giêsu đã bỏ đi, để lại khăn có thứ tự nếp nang và đặt đúng
vị trí Người mặc. Khác với anh Ladarô ra khỏi mồ, chân tay còn quấn vải, Chúa
Giêsu không còn cần đến khăn vải nữa vì lẽ Người lìa bỏ thế giới loài người.
Gioan không hề nói gì đến đức tin của ông Phêrô (Lc 24,12 nhấn mạnh ông Phêrô
rất đỗi ngạc nhiên khi thấy những khăn liệm). Cho đến lúc ấy Kinh Thánh chưa
hoàn toàn thuyết phục, tiếp nhận sự chứng nhận của nhiều dấu chỉ dồn dập trên
đường của các môn đệ. Họ trở về nhà, nơi mà bà Maria Macđala sẽ mang Tin Mừng
đến cho họ. Không tranh luận, không cạnh tranh ngoài mặt, cả hai môn đệ ra khỏi
bài trần thuật cùng với sự trổi vượt thích đáng cho mỗi người: ông Phêrô được
gia nhập trước tiên, trở nên cho Giáo Hội sơ khai một chứng nhân không thể chối
cãi được. Còn người môn đệ kia trổi vượt hơn ông bởi sự gắn bó với Đức Kitô.
Mối tương quan phức tạp giữa hai môn đệ này sẽ được minh giải nơi chương 21.
44. Chú giải của Noel Quesson
Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần
Cả bốn Tin Mừng đều đồng ý về điểm lịch sử
này. Đó là biến cố Phục sinh xảy ra vào hôm sau ngày Sabát, hôm sau ngày Lễ
Vượt qua của người Do Thái. Là người rất nhạy cảm với các biểu tượng, Gioan cho
rằng, "ngày thứ nhất" trên đây gợi lên một thế giới mới đang khởi
đầu; một cuộc tạo dựng mới, một tuần lễ sáng thế mới.
Đau khổ và cái chết là những chứng cớ hiển
nhiên chống lại sự hiện diện của Thiên Chúa: Làm sao lại xảy ra việc Thiên Chúa
có thể tạo dựng một thế giới đầy bất hạnh như thế?
Vấn nạn đó không thể trả lời được, nếu ta
phủ nhận biến cố Phục sinh. Các giáo phụ cũng như những người quen suy niệm
Kinh Thánh, đều nghĩ rằng, Thiên Chúa có thể không bao giờ "dựng nên"
công cuộc sáng tạo đầu tiên (mọi tạo vật đều phải chết), nếu Người đã không
tiên liệu từ thuở đời đời công cuộc sáng tạo thứ hai của Người, nhờ đó sẽ không
còn sự chết, cũng không còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ
đã biến mất" (Kh 21,4).
Lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến
mộ
Bốn Tin Mừng đều nhất trí về sự kiện lịch
sử trên. Đó là các phụ nữ là những người đầu tiên đã khám phá ra “biến
cố". Là người ở trong cuộc, Gioan đặc biệt quan tâm tới một người phụ nữ,
chị Maria Mácđala. Ông gán cho chị là Người đã được Đức Giêsu hiện ra đầu tiên
(Ga 20,11-18).
Thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy
về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến
Chi ta "chạy". Chi tiết này rất
có ý nghĩa.
Chị chưa gặp Đức Giêsu. Chị chưa tin. Chị
mới chỉ đứng trước sự kiện ngôi mộ mở ngỏ! Đó là điều bất thường. Chị không ngờ
được việc đó. Chị cảm thấy hốt hoảng. Chị chạy đi báo tin cho các vị có trách
nhiệm. Ở đoạn văn trên, ta nên ghi nhận một tên gọi đặc biệt được gán cho
"môn đệ" không nêu rõ danh tánh: "Người môn đệ Đức Giêsu thương
mến". Truyền thống vẫn thừa nhận Gioan, tác giả của trình thuật trên, là
chính người môn đệ đó. Ngoài ra, trong nhóm Mười Hai, không phải là không có sự
ghen tị, vì Gioan vẫn thường được Đức Giêsu quan tâm cách hết sức đặc biệt. Chi
tiết này cũng rất quan trọng. Ta nên ghi nhận điều đó.
Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi
mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu
Lúc này, chị mới chỉ đưa ra giả thuyết:
Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ. Người ta không giải thích sự kiện theo lý trí:
Vì quá mong ước Người sống lại, nên không tránh khỏi một ảo giác. Đúng ra, tất
cả các bản văn đều nói ngược lại.
Rõ ràng, trình thuật trên được kể lại để
giúp ta cảm thấy rằng, sự kiện ngôi mộ trống không là một bằng chứng, tự nó có
khả năng khiến ta tin. Tuy nhiên, ngôi mộ trống kỳ diệu đó là một đối tượng đòi
hỏi ta phải thắc mắc. Chỉ vỏn vẹn trong một trang, mà từ "ngôi mộ” được
nhắc tới bảy lần! Cho đến lúc này, mới chỉ có thế!
Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả
hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước
Gioan nhớ lại, ông đang ở đó. Nhưng giải
thích chi tiết hơn, chỉ nguyên dựa vào sự kiện chưa đủ. Còn một yếu tố khác
Gioan nhận ra một biểu tượng: Phêrô có thể tự để cho kẻ khác vượt qua mình, để
cho các môn đệ hăng say hơn đi trước ông. Và đó không phải là trường hợp duy
nhất Gioan đã đi trước Phêrô (Ga 13,24; 18,12-16; 21,20-23). Nhưng tại sao ở
đây lại nhấn mạnh đến điểm bất thường này?
Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải
còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng
trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này
không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi.
Cách dịch sát nhất bản văn Hy Lạp, do Gioan
đã mục kích và viết lại có thể như sau: "ông nhìn thấy băng vải bung ra,
và khăn quấn đầu Ngài, không tuột ra cùng với băng vải, nhưng được cuốn lại
riêng biệt, đặt đúng chỗ của nó”.
Tóm lại, không có bàn tay bên ngoài nào đã
tham dự vào. Chỉ thấy thân xác đã biến mất, và những khăn liệm tuột bung ra tại
chỗ. Gioan cũng ghi nhận rằng, khăn quấn đầu (đó là thứ băng vải quấn chung
quanh đầu để giữ quai hàm, theo như tập quán tẩm liệm của người Do thái) vẫn
còn ở đó, được cuốn lại đặt đúng chỗ, bên trong băng vải.
Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ
trước, cũng đi vào
Gioan nhấn mạnh: chính ông cũng bước vào!
Đó không thể là một chi tiết không quan
trọng, không ý nghĩa.
Ông đã thấy và đã tin.
Phêrô vẫn chưa hiểu gì. Khi thuật lại cảnh
Phêrô đến thăm mộ, Luca nói rõ ràng, ông ta chỉ chứng kiến, nhưng trở về nhà
rất đỗi ngạc nhiên, không hiểu gì hết” (Lc 24,12).
Maria Mácđala đã giải thích theo kiểu nhân
loại: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ".
Phêrô thì không hiểu gì hết.
Còn Gioan sáng suốt hơn, "ông đã thấy
và đã tin".
Vây ông đã thấy những gì?
Ông đã chứng kiến cũng một sự việc như
Phêrô, nhưng Phêrô không biết giải thích.
Để tin, cần phải có đôi mắt của tâm hồn.
Cần những con mắt của tình yêu. Giờ đây chúng ta mới hiểu rõ, tại sao Gioan lại
nói đến "người môn đệ Đức Giêsu thương mến". Vì tình yêu này mà Gioan
đã chạy nhanh hơn! Vì tình yêu này mà ông là người đầu tiên đã tin sau này,
trên bờ hồ Galilê, chính "người môn đệ Đức Giêsu thương mến" sẽ nhận
ra Đức Giêsu trước Phêrô (Ga 21,7).
Ở đây chúng ta lại nhận thấy tình yêu luôn
tác động tới đức tin. Những người nắm giữ quyền bính trong Giáo hội chưa hẳn đã
có đặc ân này. Thay vì ganh tị nhau "quyền bính", trong Giáo hội, tất
cả chúng ta được mời gọi trở nên những người đi tiên phong "trong tình
yêu”. Đó là điều quan trọng hơn cả.
Ông đã thấy và đã tin.
Đối với Gioan, sự kiện khăn liệm được sắp
xếp gọn gàng là một dấu chỉ còn ý nghĩa hơn ngôi mộ trống. Khi vừa nhìn thấy
"băng vải tuột ra” và "khăn quấn đầu vẫn ở nguyên tại chỗ", nhờ
một thứ trực giác soi sáng, ông đã nhận ra ngay rằng, Người đã không thể dùng
tay chân mà di động thân xác ra khỏi mộ, nhưng chỉ có thể Người đã hết hiện hữu
cách thể lý bên trong những khăn băng tẩm liệm vẫn còn y nguyên.
Thế mà những dấu chỉ đó đã không nói lên
điều gì với Phêrô.
Dấu chỉ không có khả năng "trao ban
đức tin" cho một ai. Dấu chỉ không tuyệt đối thúc ép ta. Cần phải vượt qua
“cái thấy được”, để đi tới "điều tin nhận". Chính Đức Giêsu sắp tuyên
bố: "Phúc thay những người không thấy mà tin" (Ga 20,29). Như thế,
Gioan đã tỏ ra là một môn đệ tuyệt vời: Ông tin, dù không thấy.
Đức tin cũng tương tự như những thực tại
thâm sâu của con người. Chúng ta không bao giờ thấy được tình yêu mà những
người yêu chúng ta. Chúng ta chỉ nhận được những dấu hiệu của tình yêu. đó. Do
đó, những dấu chỉ trên đây chỉ thông tỏ ý nghĩa cho những ai biết đoán nhận ra
chúng. Một cử chỉ, một lời nói, một sự vật là những cử chỉ còn hàm hồ, bấp
bênh! Chúng cần phải được giải thích, nhưng không phải là không có nguy cơ sai
lầm: "Sự việc đó muốn nói với tôi điều gì đây? Tôi cần phải hiểu cử chỉ đó
thế nào?" Đó là điều rất cảm động trong mọi cuộc gặp gỡ của con người.
Cuộc gặp mặt nào cũng đòi buộc những kẻ tham dự phải ở trong tình trạng cởi mở
và quan tâm chú ý. Tất cả chúng ta đâu có kinh nghiệm chua xót, vì đã ra một
dấu hiệu mà không được hiểu biết, đã phát biểu một lời mà không được đón nhận,
đã làm một cử chỉ mà người ta giải thích sai. Hai người cần phải yêu thương
nhau hết tình thì sứ điệp trao đổi mới được nhận biết trọn vẹn ý nghĩa.
Vì thế, sự kiện “mộ trống" và
"những khăn liệm được sắp xếp gọn gàng”, chỉ những ai yêu nhiều, mới có
thể hiểu được.
Ta cũng cần hiểu các bí tích, như những dấu
chỉ giống thế.
Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng:
theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết
Đúng hơn, ta nên dịch câu trên như sau:
"Các ông không hiểu Kinh Thánh nói rằng, Ngài phải Phục sinh kẻ
chết".
Thực vậy, các sự kiện chưa đủ! "Ngôi
mộ trống" chỉ là một dấu chỉ đối với Gioan, trước khi ông gặp Đức Giêsu
trong những lần hiện ra, bởi vì ông đã để cho Thánh Thần lay chuyển, mạc khải
cho ông ý nghĩa của dấu chỉ. Trước những chứng cớ ông ghi nhận, Gioan còn biết
nhớ lại những đoạn Kinh Thánh của Đức Giêsu đã trích dẫn cho các ông (Hs 6,2;
Tv 2,7; Gn 2,I).
Ta cũng nên hành xử như thế, trước những biến
cố của đời sống. Chúng ta chỉ có thể hiểu sâu sắc các biến cố đó, nếu ta làm
sáng tỏ chúng, nhờ việc luôn suy niệm Lời Chúa, trong Thánh Thần.
Chính tình yêu làm cho ta hiểu rõ chân lý:
Muốn tin, cần phải yêu mến.
45. Chú giải của Fiches Dominicales
NGÔI MỘ MỞ TUNG VÀ TRỐNG RỖNG
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Người đang sống
Thật nghịch lý, Tin Mừng ngày lễ Phục sinh
chỉ dừng lại ở chỗ khám phá ra ngôi mộ mở tung và trống rỗng mà không dẫn ta đi
đến cùng câu chuyện, cho đến khi gặp Maria Madalêna cùng với Đấng Phục sinh và
lời loan báo cho các môn đệ: "Tôi đã thấy Đức Chúa, và đây là lời Người
nói với tôi (câu 28). Dường như phụng vụ hôm nay muốn mời ta đi lại hành trình
đức tin theo gót những chứng nhân đầu tiên.
Trong đoạn Tin Mừng ta đọc sáng nay, tác
giả rõ ràng đã sắp xếp một quá trình "tiệm tiến gây ấn tượng".
- Trước tiên đó là những "di
chuyển" rất nhiều và rất nhanh: động từ "chạy” được lặp lại ba lần
chỉ trong một câu. Sau khi khám phá ra ngôi mộ mở tung, Maria Madalêna chạy đi tìm Simon Phêrô và môn đệ kia. Simon Phêrô và môn đệ kia chạy
đến mồ, môn đệ kia tới trước. Các cuộc chạy nối tiếp nhau để tìm ra một câu trả
lời đầu tiên cho câu hỏi không thể hiểu nổi về ngôi mộ mở tung và trống rỗng.
- Kế đó là những “dấu chỉ" ngày càng
rõ nét (với những động từ "nhìn", "thấy"), và "lời
giải thích" về các dấu chỉ do chính các tác nhân đưa ra.
- Maria Madalêna "thấy" phiến đá
lập cửa mồ "được cất đi”, và kết luận rằng thi thể của Thầy mình cũng đã
"bị lật đi". Môn đệ kia tới trước. Tuy nhiên ông không vào mộ trước
Phêrô, "cúi xuống, ông thấy tấm khăn liệm còn
đó".
- Còn Simon Phêrô, sau khi đã vào trong mộ.
"Ông nhìn tấm khăn liệm nằm đó, tấm vải phủ đầu không ở cùng chỗ với khăn
liệm, nhưng cuộn lại và để riêng ra". Khác với Tin Mừng của Luca (24, 12)
gợi lên ở đây sự "kinh ngạc" của Phêrô, thánh Gioan không đi xa hơn
những gì nhận thấy. Mãi sau này, khi đã gặp gỡ Đấng Phục sinh và đã nhận tràn
đầy Thánh Thần, Phêrô mới hiểu tại sao ngôi mộ lại trống và tâm hồn ông mới mở
ra để hiểu lời Thánh Kinh. Tin Mừng thứ tư nói rõ: "Thật vậy cho đến lúc
ấy các môn đệ vẫn chưa tin rằng theo Thánh Kinh Đức Giêsu phải phục sinh từ
trong kẻ chết".
- Riêng người môn đệ kia, sau đó cũng vào
mộ, ông nói rằng ngay lần cảm nghiệm phục sinh đầu tiên đó "ông đã thấy và
ông đã tin".
2. Và ông đã tin
Dưới mắt Giáo Hội, Phêrô vào trước và đương
nhiên trở thành chứng nhân thứ nhất. Trái lại, "Môn đệ kia" được
trình bày ở đây như mẫu mực của người môn đệ, người môn đệ tuyệt hảo;
"Người môn đệ được Đức Giêsu yêu mến"; Người trong bữa Tiệc ly đã
"tựa đầu vào lòng Đức Giêsu", với trực giác của tâm hồn, đã nhìn thấy
trong cõi rỗng không của ngôi mộ, vị trí của tấm vải liệm -xếp đặt gọn gàng chứ
không bừa bãi- biết bao dấu chỉ về một thực tại khác, chỉ có đức tin mới cảm
nhận được: "Ông đã thấy và ông đã tin". Theo ông, chẳng có ai
"lấy đi" thi thể của Đức Giêsu như Maria Madalêna đã loan báo: Kẻ cắp
nếu đã lấy trộm xác Thầy làm sao có thời giờ cởi bỏ vải liệm rồi cẩn thận xếp
đặt gọn gàng đến thế? Theo ông, sự chết đã hoàn toàn bị sự sống tước đoạt hết
sức mạnh. Trong ông đã hình thành một ‘chuyển biến từ thấy đến hoàn toàn tin’
vào Đức Giêsu phục sinh. Khăn liệm được xếp đặt ngay ngắn đã chứng tỏ rằng thi
thể Đức Giêsu không hề bị lấy cắp, nhưng chính Đức Giêsu đã đi ra, để lại khăn
liệm gọn gàng thứ tự tại nơi Người đã được liệm. Khác với Lazarô đi ra vẫn quấn
khăn liệm, Đức Giêsu chẳng cần y phục vì Người giã từ thế giới loài người"
(A. Marchadour, “Tin Mừng thánh Gioan". Ccnturion, trg 244).
Là một trong những chứng nhân đầu tiên đã
"thấy Đức Giêsu Phục sinh, người môn đệ kia đồng thời là mẫu mực cho những
ai tin theo lời chứng của ông: "tin dù không thấy" (Ga 20, 29, Tin
Mừng Chúa nhật tới).
BÀI ĐỌC THÊM
1. Khi sinh ra trong đức tin. Phêrô và
Gioan mời ta theo các ngài:
(‘Cử hành’ -tạp chí của Trung tâm Quốc gia
về Mục vụ và phụng vụ, số 237, trg 41-42).
Các động từ chỉ sự di chuyển tràn ngập
trình thuật: ra đi, chạy, vào những động từ ấy nói lên các giai đoạn trong hành
trình của các môn đệ đồng thời kéo theo hành trình của độc giả. Hành trình này
không kết thúc ở đoạn cuối của một giai thoại. Các cuộc hiện ra với Maria
Mađalêna, với các môn đệ, với Tôma, vẫn còn biết bao chặng đường thiết yếu để
đi đến cùng: "Tin dù không thấy" và “tin nhờ vào quyển sách của các
chứng nhân” (Ga 20, 29-31).
Trong chặng đầu tiên, ta đuổi theo một câu
trả lời đầu tiên. Bí hiểm ngay ở khởi điểm: "Chúng tôi không biết họ đã
đặt Đức Chúa ở đâu". Cần một cuộc điều tra. Một hoạt động từ thứ hai điểm
nhịp theo tiến trình: nhìn, thấy. Ta đi từ ghi nhận này đến ghi nhận khác. Ghi
nhận đầu tiên là của Maria Mađalêna: tảng đá được cất đi, thi thể bị lấy đi.
Ghi nhận thứ hai là của các môn đệ: vải liệm xếp gọn gàng. Ghi nhận thứ ba
nhưng liệu có trùng với hai ghi nhận trên không? Người môn đệ Đức Giêsu yêu quý
"đã thấy và đã tin".
Ánh sáng đức tin phát xuất từ Kinh Thánh và
Lời Đức Giêsu. nhưng ngôi mộ mở tung, đầy những dấu chỉ của một thi thể người
chết nhưng biến mất, bước đầu cho phép ta có cảm tưởng rằng Đức Chúa đang sống
ở nơi khác. Hai con người đang sinh ra trong đức tin, mỗi người cất bước theo
con đường riêng, dắt dìu nhau. Họ mời ta hãy bước theo họ.
2. Tại ngôi mộ để ngỏ
(G. Boucher trong "Thiên đường tại
thế")
Buổi sáng hôm ấy một phụ nữ, Maria Madalena
đến viếng mộ Đức Giêsu. Nhưng, sững sờ: cửa mộ để ngỏ, mở tung ra. Ai đã lăn
tảng đá lấp cửa mộ ra rồi. Thoạt nhìn ngôi mộ mở tung gợi lên một trò lừa đảo,
gian lận, một trò bỡn cợn đê tiện hoặc một sự tục hoá không
chấp nhận được.
Phải, phản ứng thế nào trước một xì căng
đan như thế trước hết Maria Madalêna tham vấn các môn đệ. Bà chạy đến với
Phêrô. Tức tốc Phêrô và Gioan thoát ra khỏi tính e dè, khỏi sự im lặng sợ sệt.
Ông rời bỏ nơi ẩn náu. ông chạy đến xem và ghi nhận tại chỗ. Thật là một sự
báng bổ, ghi nhận đầu tiên là thế.
Phêrô và Gioan cùng chạy. Họ chạy đến ngôi
mộ mở ngỏ. Họ phải đối diện với một biến cố quan trọng. Và Gioan đã thấy. Ông
đã thấy và đã tin.
Gioan thấy. Mà thấy gì? Chẳng thấy gì cả!
Có gì đâu mà thấy. Vậy mà điều ông thấy đã khiến ông tin.
Ta hãy cùng Gioan cúi xuống. Ta thấy gì?
Một lỗ hổng đen ngòm, đầy màu trắng. Một sự trống rỗng mênh
mông chứa đầy sự sống. Những vật trang hoàng cho lễ tang đã biến thành y phục
sáng láng. Một sự vắng mặt la lên sự có mặt. Một sự im lặng chết chóc hùng hồn
hơn tất cả những bài diễn văn. Một bức tường chỉ thấy được phần bị khoét lỗ.
Một kết thúc tất cả mang vóc dáng sự khởi đầu. Một cái chết nối kết với một
sinh thành. Một mầu nhiệm mà ta khám phá ra bí quyết.
Ai đã sáng chế ra từ ngữ ngôi mộ trống
rỗng? Ngôi mộ đâu có trống rỗng. Bằng chứng là Gioan thấy được trong mộ chân
dung đích thực của Đức Giêsu, bạn ông.
Ngôi mộ đâu có trống rỗng. Đâu có hoang vu.
Đâu có câm nín. Đâu có bay mùi chết chóc. Ngôi mộ nói. Nó sẽ nói. Hôm nay nó
vẫn còn nói với ta. Ta sẽ bỡ ngỡ. Vì sự vắng mặt ấy tuy to lớn như một nấm mồ,
lại là một sự hiện diện, vĩ đại như một phép lạ.
Dưới ánh mắt của não trạng hiện đại đã ăn
sâu vào mỗi người, chết là chấm dứt tất cả. Là dấu chấm hết. Sau đó chẳng còn
gì. Chẳng còn gì ngoài đêm đen. Chẳng còn gì ngoài sự trống rỗng và hư vô. Cái
chết khép lại tất cả. Cái chết giam kín ta.
Nhưng này đây cái chết mở ra. Ngôi mộ của
Người mở tung. Mở ra một mầu nhiệm lớn lao. Một mầu nhiệm loan báo sự sống. Có
tên là chỗi dậy. Phục sinh.
Ngôi mộ mở tung lòng trí và tâm can ta. Ký
ức ta lấy được sự sống và hồi sinh. Ta mở lòng ra cho đức tin. Sau cùng ta hiểu
rằng khi vượt qua bức tường sự chết, khi nâng tảng đá cửa mộ lên, Đức Giêsu
hoàn thành cuộc phục sinh đã báo trước.