CÁC BÀI SUY NIỆM NHẬT 2 PHỤC SINH
LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA
MỤC LỤC
1. Tôma
2. Tôma.
3. Từ sợ hãi đến niềm tin
4. Tôma.
5. Đã thấy, đã không thấy
6. Khoa học và đức tin
7. Niềm tin có tính toán cẩn thận
8. Lòng từ bi – Lm. Giuse Trần Việt Hùng.
9. Suy niệm của Lm Giuse Phạm Ngọc Khuê
10. Thắp sáng niềm tin – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
11. Suy niệm của Lm. GB. Hiếu
12. Gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh TGM Ngô Quang Kiệt
13. Lạy Chúa Là Thiên Chúa Con
14. Tôma đa nghi – Flor McCarthy
15. Đức tin ngọn đuốc cuộc đời - Cố Lm Hồng Phúc
16. Chúa có mắt không - Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
17. Tần số tình yêu – Thiên Phúc
18. Nỗi oan Tôma - ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống.
19. Dấu chứng Phục Sinh
20. Niềm tin Chúa Phục Sinh – Noel Quesson.
21. Mối phúc thật Đức Tin – Cố Lm Hồng Phúc
22. Lòng Chúa xót thương – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
23. Niềm tin.
24. Lòng thương xót.
25. Tin.
26. Sống đức tin.
27. Mọi sự đều có thể.
28. Đức tin.
29. Lỡ hẹn
30. Tin.
31. Chúng tôi đã thấy Chúa.
32. Vui mừng vì thấy Chúa.
33. Củng cố đức tin.
34. “Tôi nhận ra bạn…” – Maurice Brouard.
35. Ý nghĩa các vết sẹo – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
36. Hãy nhìn xem
37. Cuộc sáng tạo mới – Lm Ignatiô Trần Ngà
38. Dấu ấn của đau khổ
39. Tôma
40. Tin
41. Thánh Toma và vết thương lòng thương xót Chúa
42. Tôma, con người đa nghi.
43. Lòng thương xót – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
44. Hơi thở của Chúa – Peter Feldmeier
45. Phục sinh
46. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
47. Dấu chân của Thiên Chúa – R. Veritas
48. Bình an cho các con
49. Đóng bè để giữ vững đức tin
50. Tôma và con mắt thứ ba – Lm. Trần Ngà
51. Suy niệm của Achille Degeest
52. Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ
53. Chú giải của Noel Quesson.
2. Tôma.
3. Từ sợ hãi đến niềm tin
4. Tôma.
5. Đã thấy, đã không thấy
6. Khoa học và đức tin
7. Niềm tin có tính toán cẩn thận
8. Lòng từ bi – Lm. Giuse Trần Việt Hùng.
9. Suy niệm của Lm Giuse Phạm Ngọc Khuê
10. Thắp sáng niềm tin – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
11. Suy niệm của Lm. GB. Hiếu
12. Gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh TGM Ngô Quang Kiệt
13. Lạy Chúa Là Thiên Chúa Con
14. Tôma đa nghi – Flor McCarthy
15. Đức tin ngọn đuốc cuộc đời - Cố Lm Hồng Phúc
16. Chúa có mắt không - Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
17. Tần số tình yêu – Thiên Phúc
18. Nỗi oan Tôma - ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống.
19. Dấu chứng Phục Sinh
20. Niềm tin Chúa Phục Sinh – Noel Quesson.
21. Mối phúc thật Đức Tin – Cố Lm Hồng Phúc
22. Lòng Chúa xót thương – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
23. Niềm tin.
24. Lòng thương xót.
25. Tin.
26. Sống đức tin.
27. Mọi sự đều có thể.
28. Đức tin.
29. Lỡ hẹn
30. Tin.
31. Chúng tôi đã thấy Chúa.
32. Vui mừng vì thấy Chúa.
33. Củng cố đức tin.
34. “Tôi nhận ra bạn…” – Maurice Brouard.
35. Ý nghĩa các vết sẹo – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
36. Hãy nhìn xem
37. Cuộc sáng tạo mới – Lm Ignatiô Trần Ngà
38. Dấu ấn của đau khổ
39. Tôma
40. Tin
41. Thánh Toma và vết thương lòng thương xót Chúa
42. Tôma, con người đa nghi.
43. Lòng thương xót – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
44. Hơi thở của Chúa – Peter Feldmeier
45. Phục sinh
46. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
47. Dấu chân của Thiên Chúa – R. Veritas
48. Bình an cho các con
49. Đóng bè để giữ vững đức tin
50. Tôma và con mắt thứ ba – Lm. Trần Ngà
51. Suy niệm của Achille Degeest
52. Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ
53. Chú giải của Noel Quesson.
54. Các môn đệ vui mừng vì. . . Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
55. Phúc cho ai không thấy mà tin Lm Giuse Đinh lập Liễm
56. Đức tin là một sự tăng trưởng Lương Thực Ngày Chúa Nhật
58. Một nền tảng cho niềm tin Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
59. Lạy Chúa con lạy Thiên Chúa của con Cha Mark Link, S. J.
60. Chúa sống lại củng cố niềm tin Catholic. org. tw
61. Lòng Chúa thương xót Lm.
Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Phúc cho những ai
không thấy mà tin.
Với đà tiến bộ của
khoa học kỹ thuật, con người thường phán đoán dựa vào những gì họ thấy tận mắt,
sờ tận tay, những gì họ cân đo đong đếm, và kiểm chứng được, thì mới chấp nhận.
Tôma có lẽ thuộc týp người này. Tuy nhiên có những sự con người tiếp xúc thường
xuyên, mà vẫn không hiểu, chẳng hạn như cây cỏ, vạn vật trên hoàn vũ, hoặc một
cảnh đẹp, một bông hoa thơm, một trái ngọt... Con người thưởng thức, nhưng vẫn
không biết được nguồn gốc sâu xa của chúng.
Đứng trước ngôi mộ
rỗng, chúng ta ghi nhận hai thái độ khác nhau: Phêrô thấy mồ rỗng nhưng không
tin, còn Gioan đã thấy và đã tin. Trực giác của Gioan cho ta hiểu rằng: Muốn
tin, thì thấy mà thôi chưa đủ, còn phải có tình yêu. Như thế, người ta không
phải chỉ thấy bằng lý trí, không chỉ thấy bằng đôi mắt, mà còn phải thấy bằng
tâm hồn, bằng con tim, như một câu danh ngôn đã bảo: Con tim có những lý lẽ mà
lý trí không thể giải thích.
Xét về một phương diện
nào đó, chúng ta có thể nói đức tin có những lý lẽ mà lý trí không thể nào giải
thích. Đức tin có những lý lẽ mà những ai không tin không thể hiểu được. Chúng
ta hiểu được thế giới chung quanh và con người không chỉ bằng lý trí, bằng khoa
học, mà còn cả bằng đức tin nữa. Sự kiện Tôma cũng cho chúng ta hiểu được rằng:
Đức tin đúng nghĩa trước tiên là do ơn Chúa ban, rồi kế đó, mỗi người phải biến
đức tin trở thành một xác tín cá nhân, phải được củng cố bằng chính trải nghiệm
bản thân của từng người.
Nói cách khác, người
có đức tin đích thực là người đã có một kinh nghiệm bản thân trong mối tương
quan giữa mình với Thiên Chúa, là kinh nghiệm cá nhân của riêng mình, do mình
xác tín, chứ không phải dựa vào ai khác.
Chính nhờ Tôma, chúng
ta được có lời Chúa chúc phúc đầy khích lệ và đầy thuyết phục: Phúc cho những
ai không thấy mà tin. Chính vì chúng ta, vì con người ở mọi nơi và trong mọi
lúc, mà sự kiện Tôma được ghi lại trong Phúc Âm, để củng cố niềm xác tín của
chúng ta vào việc Chúa phục sinh. Cùng với Tôma, chúng ta hãy tuyên xưng rằng:
Chúa đã sống lại thật. Alleluia.
Sau một cuộc giao
tranh ác liệt, giữa bao xác chết ngổn ngang trên trận địa, người ta tìm thấy
bức thư của một người lính Nga, đã ngã gục dưới bom đạn. Bức thư ấy có một nội
dung hết sức lạ lùng về lòng tin của một thanh niên đã từng lớn lên và được
giao dục theo chủ nghĩa vô thần. Anh đã nhận thấy Thiên Chúa thực sự hiện hữu
khi nhìn lên bầu trời lấp lánh ánh sao. Anh không chỉ tin vào Ngài trong đầu óc
anh, nhưng trái tim anh đã thực sự rung động khi anh viết những hàng chữ sau
đây để thân thưa với Chúa:
“Lạy Chúa, Chúa có
nghe thấy tiếng con hay không? Con chưa hề nói chuyện với Chúa bao giờ. Nhưng
hôm nay con cảm thấy cần phải chào hỏi Chúa. Con biết rằng ngay từ thời còn thơ
ấu, người ta đã không ngừng lặp đi lặp lại với con rằng: Không có Chúa. Ngài
chỉ là một câu chuyện hoang đường. Và con đã tin thật điều đó. Cho đến những
năm tháng khôn lớn, con cũng chưa bao giờ để ý hoặc chiêm ngưỡng vẻ đẹp của
thiên nhiên. Chỉ đến ngày hôm nay, con mới nhận ra vẻ đẹp này. Con lặng lẽ
chiêm ngắm bầu trời với muôn ngàn tinh tú. Và con biết rằng Chúa thực sự hiện
hữu”.
Từ mẩu tâm sự trên,
chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay với niềm tin của Tôma. Thực vậy, Đức
Kitô Phục sinh đã chiếu cố đặc biệt tới ông khi hiện ra. Chính nhờ vậy mà lòng
tin của ông đã được chuyển biến, để rồi ông đã thưa lên: Lạy Chúa tôi, lạy
Thiên Chúa của tôi. Còn chúng ta thì sao?
Dĩ nhiên là chúng ta
không có may mắn như Tôma, là được chiêm ngắm Chúa nhãn tiền. Hiện thời, chúng
ta là những người đi trong sương mù. Đức tin của chúng ta còn nhiều hồ nghi,
còn nhiều thắc mắc, còn nhiều trăn trở. Nhưng có lẽ vì thế mà đức tin của chúng
ta có một giá trị to lớn như lời Chúa đã xác quyết: Phúc cho những ai không
thấy mà tin. Mặc dầu chúng ta không nhìn thấy Chúa, nhưng chúng ta vẫn có thể
nhận ra những dấu ấn của Ngài trong thiên nhiên, như người lính Nga đã nhận ra
Ngài khi chiêm ngắn bầu trời lấp lánh ánh sao. Với trí khôn, khi nhìn ngắm trật
tự lạ lùng cùng với những kỳ công trong vũ trụ, chúng ta sẽ nhận ra sự hiện
diện đầy quyền năng của Chúa và chúng ta có thể xác quyết người là một con vật
có tôn giáo. Đồng thời thiên nhiên là một cuốn sách vĩ đại, trong đó, mỗi
trang, mỗi dòng đều nói cho chúng ta biết về Chúa.
Chính vì thế, chúng ta
hãy xin Chúa củng cố niềm tin nhỏ bé của chúng ta, nhờ đó chúng ta sẽ nhận biết
Ngài qua Kinh Thánh cũng như qua thiên nhiên.
3. Từ sợ hãi đến niềm tin
Một cơn dịch xuất
hiện, dân làng hoảng sợ dắt díu nhau chạy trốn vào rừng sâu, bỏ mặc những con
bệnh đang nằm chờ chết. Trước thảm cảnh này, một vị linh mục thừa sai đã quyết
định ở lại cùng với mấy người thiện chí, ra sức chạy chữa cho những người mắc
bệnh. Nhờ sự hy sinh tận tụy này, cơn dịch bị đẩy lui, dân chúng trở về làng để
tiếp tục cuộc sống.
Từ câu chuyện trên,
chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay và chúng ta ghi nhận được sự sợ hãi của
các môn đệ sau ba ngày đen tối.
Thực vậy, mười hai
tông đồ là những người nòng cốt được Chúa Giêsu kêu gọi và huấn luyện. Cả nhóm
đã từng hy vọng Ngài sẽ thiết lập vương quốc và mình thì sẽ làm lớn và chiếm
một chức vụ quan trọng.
Nhưng rồi những biến
cố đau thương dồn dập xảy đến, làm cho hiện tại của các ông trở nên đen tối và
tương lai thì mù mịt. Một người trong nhóm đã phản bội, nộp Ngài cho người ta
đem đi giết. Con người phản bội ấy đã thắt cổ vì tuyệt vọng. Còn Phêrô là
trưởng nhóm, cũng đã chối Ngài ba lần. Một vài môn đệ khác đã lên đường trở về
quê cũ, như hai môn đệ đi Emmaus.
Từ bối cảnh này, chúng
ta thấy mười một người còn lại như bị co rúm trong căn phòng đóng kín vì sợ người
Do Thái. Thế nhưng, chính trong cái bối cảnh không mấy sáng sủa ấy, Đức Kitô
Phục sinh đã hiện ra, nhờ đó mà niềm tin của các ông được củng cố. Chỉ cần điểm
qua những nhân vật của buổi sáng Chúa nhật Phục sinh, chúng ta sẽ nhận ra điều
đó.
Trước hết là Madalêna. Cô tới mộ từ sáng sớm. Khi thấy cửa mộ mở
tung, cô nghĩ rằng người ta đã ăn trộm xác và đem ra khỏi mộ. Và như vậy, cô
vẫn chưa tin Chúa đã sống lại. Cô chỉ tin khi đã được nghe tiếng Chúa Giêsu gọi
cô và chính cô được thấy Ngài.
Kế đến là Phêrô và
Gioan. Khi tới mộ, hai ông thấy khăn liệm và dây băng đã được xếp lại
cẩn thận. Phêrô thì bán tín bán nghi, nhưng Gioan thì đã tin. Còn nhóm mười một
đã tiến từ sợ hãi đến niềm tin, khi các ông được nhìn thấy Ngài. Cuối cùng là
Tôma. Ông đã khởi đi từ tình trạng không tin, nếu mắt không thấy và tay không
sờ. Thế nhưng, chính Chúa đã mời gọi ông đi vào niềm tin ấy.
Qua những nhân vật kể
trên, chúng ta thấy tin không phải chỉ là chuyện chấp nhận một số những tín
điều. Trái lại tin chính là gặp gỡ Đức Kitô Phục sinh và nhận được ơn biến đổi
của Ngài. Và ơn biến đổi đầu tiên chính là nhận ra Ngài đã bị đóng đinh vào
thập giá, nhưng đồng thời đã được sống lại. Đó là dấu chứng của tình yêu lớn
lao nhất khiến các ông tràn ngập niềm vui.
Và hơn thế nữa, qua
Đức Kitô Phục sinh, các ông nhận biết Ngài là Thiên Chúa. Bản tính Thiên Chúa
ấy được dấu ẩn trong suốt những năm tháng đã qua, bây giờ mới được tỏ hiện với
tất cả vẻ huy hoàng, để rồi từ đó, với niềm xác tín sâu xa, các ông đã lên
đường rao giảng Tin Mừng Phục sinh cho muôn dân.
Còn chúng ta thì sao?
Chúng ta đã thực sự là những chứng nhân cho Đức Kitô Phục sinh giữa lòng cuộc
đời này hay chưa?
Qua đoạn Tin Mừng sáng
hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ trong một căn phòng
đóng kín vì sợ người Do Thái. Thân xác vinh quang của Ngài tựa hồ như một luồng
ánh sáng chiếu qua những khung cửa kính. Để củng cố niềm tin, Ngài cho các ông
xem những vết thương trên tay chân Ngài khiến cho các ông hết sức vui mừng. Rồi
Ngài nói với các ông: Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con. Điều đó có
nghĩa là: Chúa Cha đã sai Ngài đến trong thế gian để cứu chuộc nhân loại, thì
Ngài cũng sai các ông đi để đem lại ánh sáng và sức mạnh của Tin Mừng cứu rỗi
cho muôn dân.
Ngài thổi hơi để thông
ban thần khí cho các ông và nói: Các con hãy lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Các con
tha tội ai thì tội người ấy được tha, các con cầm tội ai thì tội người ấy bị
cầm lại. Với tác động của Chúa Thánh Thần, Ngài đã trao ban cho các ông một uy
quyền thiêng liêng, đó là quyền tháo cởi. Quyền tha thứ và cầm buộc nếu như tội
nhân chưa được xứng đáng.
Thế nhưng ngày hôm đó
Tôma lại vắng mặt, ông đã tỏ ra cứng lòng khi nghe các môn đệ kể lại sự việc.
Chúng ta có thể nghĩ rằng sự cứng lòng của Tôma là một sai lỗi, là một khuyết
điểm may mắn, vì nhờ đó mà chúng ta có được một bằng chứng về sự sống lại của
Đức Kitô, bởi vì các môn đệ không phải là những người cả tin, dễ nghe theo
những lời đồn thổi, nhưng các ông đã đòi phải có những chứng cớ hiển nhiên.
Cũng chính nhờ sai lỗi
và khuyết điểm này chúng ta mới có được những lời lẽ đầy an ủi của Chúa Giêsu:
Vì con đã thấy nên con mới tin, nhưng phúc cho ai không thấy mà tin. Khi phán
những lời ấy, có lẽ Chúa Giêsu đã nghĩ tới hàng triệu triệu người qua dòng thời
gian luôn tin tưởng nơi Ngài, mặc dù đã không một lần nhìn thấy Ngài trên mặt
đất này. Và cũng thật hạnh phúc cho chúng ta, bởi vì chúng ta chưa được nhìn
thấy Ngài, chưa được sờ tới gấu áo Ngài, chưa được nghe Ngài nói, chưa được
chứng kiến những phép lạ Ngài làm, cũng như chưa được ăn và uống với Ngài.
Nhưng chúng ta đã tin tưởng nơi Ngài dựa vào những chứng cớ của các tông đồ, là
những người đã dám chết để làm chứng cho sự phục sinh của Đức Kitô.
Thánh Gioan đã viết
trong sách Phúc Âm như sau: Sở dĩ một số các phép lạ được kể lại là để anh em
tin rằng Chúa Giêsu là Đấng cứu thế, đồng thời nhờ niềm tin tưởng này mà anh em
có được sự sống, dĩ nhiên đó phải là sự sống vĩnh cửu mà chính Ngài muốn đem
đến cho thế gian.
Chúng ta hãy Chúa xin
củng cố niềm tin của chúng ta, để một khi đã xác tín việc Chúa sống lại, chúng
ta cũng sẽ mạnh dạn làm chứng cho Chúa như các môn đệ ngày xưa.
5. Đã thấy, đã không thấy
(Suy niệm của Lm Trịnh
Ngọc Danh)
Sau khi sống lại, vào
ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Giêsu đã hiện ra lần thứ nhất với các tông đồ,
nhưng vắng mặt ông Tôma. Ngài đã chúc bình an và cho các ông xem tay và cạnh
sườn Ngài. Các môn đệ vui mừng vì đã được xem thấy Chúa, và họ đã cho ông Tôma
biết: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa”; nhưng ông này cương quyết: “ Nếu tôi không
nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu
tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin.”
Tám ngày sau, các môn
đệ lại họp nhau trong nhà; lần này có mặt ông Tôma. Chúa Giêsu lại hiện ra lần
thứ hai cùng các ông. Sau khi chúc bình an, Ngài đã cho ông Tôma xem những dấu
đanh nơi bàn tay và vết thương nơi cạnh sườn Ngài và đã khiển trách ông: “ Chớ
cứng lòng, nhưng hãy tin”. Và ông Tôma chỉ còn biết kêu lên: “ Lạy Chúa tôi,
lạy Thiên Chúa tôi”. Và Ngài nói tiếp với ông: “ Tôma, vì con đã xem thấy Thầy,
nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”.
Đã xem thấy, đã tin
Cũng như các môn đệ
khác, ông Tôma cũng đã từng được nghe những giáo huấn của Chúa, đã được xem
thấy những việc kỳ lạ Ngài đã làm, và cũng được nghe Ngài tiên báo về cái chết
và sự phục sinh của Ngài...; nhưng ông vẫn còn bán tín bán nghi về việc chết đi
sống lại của Thầy mình; vì, Chúa quyền năng có thể làm cho người chết sống lại
như trường hợp ông Lagiarô thì còn hiểu được; nhưng đàng này, chính Chúa lại
phải chết và lại tự cho mình sống lại thì thật là một việc quá sức tưởng tượng
của ông: Làm sao lại có thể có chuyện ấy được! Và đức tin của ông đã bị chao
đảo! Ông nghi ngờ đòi cho được tận mắt thấy những dấu đanh nên thân thể Chúa
mới tin cũng phải thôi, vì ông đã một lần thất vọng khi thấy Thầy, một Đấng
quyền phép mà ông đã tin, lại phải chịu nhục hình cho đến chết trên thập giá.
Cũng còn may là ông còn lui tới với cộng đoàn, không như hai môn đệ trên đường
Êmau, sau khi Thầy chết, đã thất vọng, sợ hãi tìm đường trốn chạy. Điều đó cho
thấy ông vẫn còn tin tưởng vào Thiên Chúa, vẫn còn muốn đạt đến một đức tin
viên mãn để được cứu độ.
Tuy bị Thầy khiển
trách là cứng lòng tin, nhưng qua đó, ông đã thấy và ông đã tin. Đức tin của
ông đã được củng cố cho vững mạnh hơn bao giờ hết đến nỗi ông đã kêu lên: “Lạy
Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi”.
Cũng không phải chỉ có
ông Tôma mới nghi ngờ sự sống lại của Thầy mình, mà ngay chính những người được
tận mắt thấy ngôi mộ trống cũng bán tín bán nghi.
Ngày thứ nhất trong
tuần, từ sáng tinh mơ, các bà mang theo thuốc thơm đã chuẩn bị sẵn. Thấy hòn đá
đã lăn ra khỏi mồ, bước vào trong, không thấy xác Chúa, bà Maria Mađalêna đã
hốt hỏang chạy về báo: “ Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không
biết người ta đã để Thầy ở đâu” ( Ga 20: 2); và đang khi còn ngơ ngác, vào
trong mồ, thì thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo dài trắng, nên các bà
khiếp sợ. Nhưng người đó bảo các bà: “ Các bà đừng sợ. Các bà đi tìm Chúa Giêsu
Nagiareth chịu đóng đinh, nhưng người đã sống lại…”. Các bà chạy ra và trốn
khỏi mồ, vì các bà run rẩy bàng hoàng. Các bà không nói gì với ai, vì các bà sợ
hãi... (Mc. 16, 6-8)
Trở về nhà, các bà
thuật lại cho các tông đồ; “nhưng những lời đó, các ông cho là truyện vớ vẩn,
nên các ông không tin” (Lc. 24,11)
Vì không thấy, nên ông
Tôma chỉ đòi hỏi thấy mới tin, nhưng các bà và các tông đồ đã thấy, đã nghe nói
về việc ngôi mộ trống, về việc Chúa đã sống lại, thế mà các bà thì sợ hãi cho
là ma, còn các ông thì cho đó là truyện vớ vẩn. Ai là người kém lòng tin hơn
ai?
Hơn nữa, đứng về
phương diện đức tin, thì có thể ông Tôma là người cứng lòng tin, nhưng đứng về
phương diện khoa học, thì sự nghi ngờ của ông lại là điều cần thiết để tìm ra
sự thật. Nếu khoa học kiểm chứng được những gì chúng ta phải tin, thì những
điều chúng ta tin mà khoa học khám phá, chứng minh được, thì cũng chẳng còn gì
là siêu việt đối với trí óc của con người.
Ông Tôma cứng lòng
tin, vì ông muốn lấy lý trí để củng cố cho lòng tin của ông. Có thể ông đã nghĩ
rằng: Nghe người ta nói Chúa đã phục sinh chưa đủ, tôi còn phải tận mắt nhìn
thấy Ngài, và phải được tiếp cận thân thể đầy thương tích của Ngài, thì tôi mới
tin.Và cuối cùng, Tôma đã thấy và ông đã tin: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa
tôi”.
Việc ông Tôma đòi hỏi
được nhìn, được sờ, được kiểm chứng Đấng Phục sinh không chỉ là một đòi hỏi cho
riêng ông, nhưng cũng là một chứng tích cho chúng ta hôm nay.
Đã không thấy mà tin
Và sau khi nhân định
về lòng tin của ông Tôma: Vì con đã thấy và con đã tin; Chúa lại đưa ra một mẫu
lòng tin khác được chúc phúc; đó là: Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”.
Qua sự việc của ông
Tôma, Chúa đã gián tiếp nói với chúng ta là những người sinh ra “hậu Phục
sinh”, những người đã không thấy Chúa sống, chết và phục sinh, nhưng chúng ta
tin. Chúng ta chỉ được đọc, được nghe về Thiên Chúa, về Người Con Duy Nhất của
Thiên Chúa xuống thế làm người vì yêu thương con người, để rồi chịu chết và đã
phục sinh…; nhưng chúng ta không được may mắn như dân Chúa xưa kia hay gần gũi
hơn là các môn đệ đã thấy và đã tin.
Cám ơn các tông đồ và
đặc biệt cám ơn ông Tôma đã giúp chúng ta xác tín mạnh mẽ hơn về việc Chúa sống
lại, về lòng tin của mình.
Từ ngàn xưa, con người
nói chung và con cái Thiên Chúa nói riêng đã thấy, đã tin, nhưng vẫn còn vô số
người đã thấy, nhưng vẫn chối từ, vẫn không tin. Đã không thấy mà tin là một
đòi hỏi rất khó đối với đức tin, đồng thời cũng là một yếu tố xác định mức độ
lòng tin của chúng ta.
Đức tin và bình an
Trong cuộc hành trình
đức tin, những người đã không thấy mà tin và ngay cả những người đã thấy và đã
tin vẫn luôn gặp những trở ngại, nghi ngờ, lo lắng, bất an.
Các môn đệ, sau cuộc
“bức tử” của Thầy Giêsu, họ đã hoang mang, lo lắng, sợ sệt, bất an: số phận của
họ rồi sẽ ra sao? Ai sẽ là người hướng dẫn để tiếp tục công việc của Thầy?...
Tụ lại với nhau, nhưng cửa đóng then cài.
Và những người đã
không thấy mà tin thì sao? Đức tin của chúng ta ở mức độ nào? Chúng ta tin,
nhưng đã sống và chết vì đức tin như thế nào?
Đức tin chưa đủ mạnh,
chưa quyết liệt, chưa xác tín..thì luôn gặp những bất an. Thử thách, gian nan,
khổ cực là thước đo đức tin, là những bất an trong tâm hồn.
Hiểu được tâm trạng lo
lắng, sợ sệt, bất an của các môn đệ, nên qua hai lần hiện ra với các ông sau
khi sống lại, lời trấn an đầu tiên mà Chúa gửi đến các ông là: “Bình an cho các
con” và Ngài hứa sẽ sai Thánh Thần xuống để cùng đồng hành với họ. Như thế là
họ sẽ được bình an, được an tâm để lên đường tiếp tục công việc của Thầy, không
còn phải lo lắng, hoang mang.
Và cũng hiểu được tâm
trạng bất an của chúng ta ngày nay, Chúa cũng đã chúc bình an và hứa với chúng
ta rằng: “Thầy sẽ xin Cha Thầy, và Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ
khác để Ngài ở với các con luôn mãi”. (Ga. 14,15). Cũng như các môn đệ họp nhau
vào ngày thứ nhất trong tuần, Chúa đã hiện ra và chúc bình an cho họ, ngày Chúa
nhật họp nhau tham dự Thánh Lễ, chúng ta cũng đón nhận bình an của Thiên Chúa
và chúc cho nhau bình an của Ngài để rồi lại ra đi trong bình an của Ngài đến
với anh em. Bình an ấy là kết qủa của đức tin.
Chúng ta là những
người “đã không thấy mà tin”, và đã được Chúa chúc phúc; vì, như Thánh Gioan
Tồng đồ đã viết trong thư thứ nhất của ngài: “Ai tin rằng Chúa Giêsu là Đấng
Kitô, thì kẻ ấy sinh bởi Thiên Chúa, và ai yêu mến Đấng sinh thành, thì cũng
yêu mến kẻ sinh ra bởi Đấng ấy. Cứ dấu này chúng ta nhận biết rằng chúng ta yêu
mến con cái thiên Chúa, là khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thực hành các
giới răn Người…, và giới răn Người không nặng nề. Vì những gì sinh bởi Thiên
Chúa đều chiến thắng thế gian, và đây là cuộc thắng trận thế gian, là chính đức
tin của chúng ta. Ai là người chiến thắng thế gian nếu không phải là người tin
rằng Chúa Giêsu là Con Chiên Chúa? (1Ga. 5,1-6)
Đức tin đem lại cho
chúng ta bình an của Thiên Chúa. Không những chúng ta phải tuyên xưng đức tin
mà còn phải sống đức tin: “Một thân xác không hơi thở là một xác chết; cũng
vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết.” (Gc. 2,26)
6. Khoa học và đức tin
Trong một cuộc hội
thảo về tôn giáo, viên kỹ sư thao thao bất tuyệt chứng minh tôn giáo chỉ là thuốc
phiện mê hoặc dân chúng. Thế nhưng khi bàn bạc và trao đổi, thì một cụ già đã
phát biểu như sau: - Theo tôi thì khoa học chỉ là chuyện bịa đặt và láo khoét.
Viên kỹ sư ngạc nhiên hỏi cụ già tại sao nói thế, thì cụ già đã trả lời: - Ngài
chẳng biết gì về tôn giáo, nhưng lại lên tiếng chỉ trích tôn giáo, thì tôi đây,
tôi chả biết gì về khoa học, thì liệu tôi có quyền phê bình khoa học như tôi
vừa phát biểu hay không?
Khoa học và đức tin,
phải chăng là hai thái cực đối nghịch. Làm thế nào để dung hòa đức tin và khoa
học.
Từ những ý nghĩ trên,
chúng ta đi vào đoạn Tin mừng sáng hôm nay và chúng ta có thể nói: Thánh Tôma,
nếu không phải là thánh tổ của các nhà khoa học thì cũng là một vị thánh có
tinh thần khoa học, bởi vì các nhà khoa học chỉ tin, chỉ công nhận là thật
những gì mình có thể kiểm chứng được. Nhà khoa học trước khi tin, thường nghi
ngờ. Cái đó gọi là óc phê bình.
Jean Guitton đã nói:
Tôi luôn hoài nghi. Chính vì hoài nghi mà tôi có được óc phê bình, nhờ đó mà
tôi có thể tin vững chắc. Tuy nhiên, liệu chúng ta có quyền xử dụng óc phê bình
trong lòng tin hay không? Dẫu muốn hay không, thì trong quá trình của lòng tin,
chúng ta thường gặp rất nhiều nghi ngờ như Bernanos đã nói: Tin là hai mươi bốn
giờ nghi ngờ trong một ngày, trừ những giây phút trông cậy. Làm sao chúng ta có
thể dung hòa được giữa khoa học và tôn giáo, giữa lý trí và đức tin. Nếu phân
tích, chúng ta sẽ thấy điểm cuối cùng của khoa học và đức tin nhằm tới chính là
Thiên Chúa, tuy nhiên phương pháp xử dụng thì khác biệt nhau.
Phương pháp của khoa
học là phương pháp thực nghiệm, đi từ những sự việc cụ thể, để rồi dần dần tiến
đến cùng Thiên Chúa, là tác giả của những sự việc cụ thể ấy. Trong khi đó, đức
tin thì xuất phát từ Thiên Chúa dựa vào những điều Ngài mạc khải, Ngài tỏ lộ để
tìm biết về Ngài. Cũng theo Jean Guitton, thì phải làm sao cho lý trí biết tin
và nhất là làm cho lòng tin trở nên có lý. Đó là chuyện của các nhà chuyên môn.
Còn đối với chúng ta,
những người tín hữu bình thường thì không đặt vấn đề như thế. Chúng ta thường nói
tin yêu. Càng yêu mến nhiều, thì càng tin tưởng vững chắc. Và những người có
lòng kính mến Chúa thì thường không cần phải tin, vì họ đã thấy.
Đây là trường hợp của
Gioan, khi nhìn thấy bóng người đi trên mặt biển, trong khi các tông đồ bảo là
ma, thì chỉ mình Gioan đã kêu lên: Thày đấy.
Rồi trong ngôi mộ
rỗng, với những dây băng và khăn liệm được xếp gọn ghẽ, thì Gioan đã tin rằng
Chúa đã sống lại. Sở dĩ Gioan đã thấy, đã tin chỉ vì ông có lòng yêu mến. Bởi
đó, chúng ta hãy xin Chúa thắp lên trong chúng ta ngọn lửa yêu mến, nhờ đó mà
lòng tin nhỏ bé của chúng ta sẽ được củng cố và trở nên vững vàng.
7. Niềm tin có tính toán cẩn thận
(Barbara E.
Reid, O.P – Nữ Tu Đaminh thuộc cộng đoàn Đaminh ở Grand Rapids, Michigan, Giáo
sư môn Tân Ước tại Đại Học Công Giáo ở Chicago, Illinois, và là phó trưởng khoa
tại Đại Học này. - Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Ngài thổi hơi vào các
ông và nói với họ: Hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22)
Để xác định một người
đã chết, ngày xưa người ta thường đặt một tấm gương dưới hai lỗ mũi của thi hài
người chết để xem người đó còn thở hay không. Ngày nay, với phương pháp đo điện
tâm đồ và kiểm tra hoạt động của phổi, người ta sẽ kết luận một người đã chết
thực sự khi họ ngưng thở hoàn toàn. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Kitô Phục Sinh
đã “thổi hơi sự sống” vào buồng phổi nhỏ bé của cộng đoàn những người tin, giải
thoát họ khỏi sợ hãi, làm cho họ được lưu thông huyết mạch đức tin để họ có thể
cùng nhau “thở” và sống cách sung mãn cho sứ mệnh được gửi trao.
Các môn đệ đầy sợ sệt
đang co rúm lại với nhau trong căn phòng đóng kín cửa vì “sợ người Do Thái”.
Sau khi Đức Giêsu bị hành quyết, nỗi khiếp sợ này cũng dễ hiểu, vì họ sợ sẽ đến
lượt mình. Trong Tin Mừng của Thánh Gioan, từ ngữ “Người Do Thái” đồng nghĩa
với những con người không tin vào Đức Giêsu, và chống đối Ngài, cho dầu chính
Đức Giêsu và những học trò đầu tiên của Ngài cũng là người Do Thái. Đối tượng
sự sợ hãi nơi các môn đệ, chính là những người cũng giống họ về người gốc dân
tộc, nhưng khác họ ở niềm tin vào Đức Giêsu.
Đôi khi, điều làm
chúng ta khiếp sợ nhất là phải trực diện những gì chúng ta không muốn xảy ra
cho mình như đã từng xảy ra cho người khác. Giữa lúc sợ hãi cao điểm như thế
nơi các tông đồ, Chúa Giêsu đã hiện ra và đến với họ, mời gọi họ đón nhận sự
bình an mà Ngài mong muốn đem đến cho họ. Đó không phải là sự bình an cất giấu
đi sự tàn bạo hằn sâu nơi thân thể Ngài, khi Ngài vạch mở cho họ thấy những vết
thương lồ lộ vẫn còn nguyên trạng nơi xác thân Ngài. Nhưng đó là sự bình an với
nhận thức đầy đủ về sự khủng khiếp đối với những gì đã xảy ra nơi cái chết của
Chúa, nhưng bình an sẽ đến trong tiến trình chữa lành những vết thương đó,
trong tinh thần tha thứ và hoà giải chứ không phải là bạo lực hay oán thù. Ngắm
nhìn những vết tích nơi thân thể Chúa, phải có một cái nhìn khác. Không phải là
một cái nhìn mang tính hận thù, nhưng là một cái nhìn được Chúa Kitô khởi dẫn
để chữa lành, với tinh thần và bình an của Ngài, để giúp các môn đệ thoát vượt
sợ hãi, vươn tới niềm vui thực sự.
Kết quả, chính là sự
hồi sinh của cộng đoàn. Cũng giống như Đấng Tạo Hoá ban đầu đã thổi hơi vào lỗ
mũi của nguyên tổ để trao ban sinh khí (St 2,7), Đức Kitô Phục Sinh cũng đem
lại sự sống cho cộng đoàn những kẻ theo Ngài, đang trong cơn khiếp sợ. Đây
không phải là một tiến trình dễ dàng, không gây nhức nhối.
Tôi có một người bạn
bị viêm phổi nặng, sự đau đớn ghê gớm mà người bạn đó đã kinh qua khi buồng
phổi đang bị tàn phá khủng khiếp, làm tôi liên tưởng gần sát với những khó khăn
mà những học trò của Đức Giêsu đã trải qua trong tiến trình biến đổi đức tin.
Trước khi thụ nạn, Đức Giêsu đã nói với họ về những thống khổ như là nỗi đau
quặn của một phụ nữ khi sinh nở, để sau đó có được niềm vui khi một mầm sống
mới được khai sinh (Ga 16, 20-22).
Đối với vài người
trong nhóm họ, sự tái sinh này xảy ra vào ngày thứ nhất trong tuần sau khi Đức
Kitô Phục Sinh. Nhưng không phải tất cả đã hiện diện ngày hôm ấy và đã cảm
nghiệm được giai điệu huyền nhiệm này. Tuần sau, vài người trong họ vẫn còn sợ
và đóng kín cửa. Họ vẫn đưa ra những điều kiện dường như bất khả thi để có thể
tin. Tôma đã lên tiếng bộc lộ sự nghi ngại “Tôi cần phải thấy tận mắt, sờ tận
tay, mới tin.” Đây không phải là một sự phản kháng ngoan cố trước những gì các
bạn hữu khác đã trải nghiệm và truyền đạt lại, nhưng thực sự Tôma muốn nói lên
rằng mọi người và từng mỗi người cần được tiếp cận trực tiếp với Đức Kitô để có
thể tin.
Ở đây, không có chuyện
Tôma đã thể hiện một thứ đức tin hạng hai. Chứng tá của các bạn khác dẫn ông
đến với Đức Giêsu, nhưng không thay thế cho kinh nghiệm của chính bản thân ông
để có thể thấy được nhãn tiền, khi ông cần phải gặp gỡ Đức Giêsu một cách trực
tiếp, cũng như từng người một trong nhóm họ. Tin Mừng cho phép người ta có thể
dùng nhiều phương pháp khác nhau để có được đức tin. Một vài người có thể thủ đắc
đức tin bằng việc nhìn thấy, những người khác có thể không cần. Cả hai thái độ
này đều tốt và được Chúa chúc lành. Cách thức đến với đức tin, điều đó không
quan trọng, trong một cộng đoàn mà đức tin luôn được toan tính cẩn thận, nhưng
trong đó mọi người cùng “thở” chung với nhau bằng hơi thở của Thần Khí, Đấng sẽ
đẩy lùi mọi sợ hãi bằng khí cụ của bình an, của sự tha thứ và của sự giao hoà.
8. Lòng từ bi – Lm. Giuse Trần Việt Hùng.
Truyện kể: Một võ sĩ
đã trở lại đạo. Ngày kia, người bạn của anh gặp mặt và hỏi: Tôi nghe anh mới
tòng giáo, thật tức cười. Võ sĩ nói: Sao lại tức cười, đó là điều tốt mà anh.
Người bạn nói thêm: Nếu vậy, liệu anh xoá nổi chân tướng du côn cao bồi trước
chăng? Những vết sẹo trên mặt anh sẽ tố cáo tung tích của anh. Võ sĩ trả lời:
Tôi không ngại chi về điều đó. Những vết sẹo kia, nay trở thành cửa sổ cho ơn
Chúa chảy vào hồn tôi. Cũng vậy, những tội của chúng ta đã được tha, tuy còn
dấu vết, nhưng là dấu vết của tình thương Chúa vậy.
Đôi khi chúng ta tự
hỏi: Tại sao Chúa Giêsu còn giữ những vết sẹo trên lòng bàn tay, bàn chân và
cạnh sườn từ khi bị đóng đinh thập giá? Vì khi Chúa Phục Sinh, Chúa có thể chọn
bất cứ hình hài và thân xác hoàn hảo như các thiên thần. Khi xuất hiện, Chúa đã
giữ nguyên những vết sẹo để các môn đệ có thể thấy và có thể sờ chạm. Tông đồ
Tôma tỏ ra nghi ngờ, đã được Chúa mở lòng: Rồi Người bảo ông Tôma: "Đặt
ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn
Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." (Ga 20,27). Sự kiện Chúa Kitô Phục
Sinh sẽ không hoàn toàn thuyết phục, nếu không có những vết sẹo trên tay, chân
và cạnh sườn của Chúa. Chúng ta biết khi con người mơ ước, ai trong chúng ta
cũng ước mong có khuôn mặt tươi tắn, hàm răng đẹp, làn da mịn màng và thân hình
thon đẹp. Chúng ta mong ước một thân xác hoàn hảo không vết nhăn. Nhưng Chúa
Kitô Phục Sinh đã xuất hiện một cách ngoại thường, trên thân mình vẫn mang
những vết sẹo hằn sâu để nhắc nhớ chúng ta sự hy sinh đau khổ để cứu chuộc nhân
loại.
Chúng ta đặt niềm hy
vọng vào những vết sẹo nơi thân xác Chúa Kitô. Trong các nhà thờ Công giáo, nơi
gian cực thánh, treo hình tượng Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá với mạo
gai trên đầu, chân tay và mình mẩy đầy thương tích loang máu đào. Vết sẹo nơi
cạnh sườn như còn rướm máu. Giáo Hội không lùi bước chỉ nhìn vào đau khổ và
chết chóc, nhưng Giáo Hội muốn mọi tín hữu cùng chia sẻ, cảm thông và lãnh nhận
ân sủng cứu độ qua giá máu châu báu của Chúa. Sau khi sống lại từ cõi chết,
Chúa Kitô đã trao ban sứ mệnh cho các Tông đồ: Người lại nói với các ông:
"Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh
em." (Ga 20,21). Các Tông đồ là những nhân chứng sống động và chân thành.
Với ơn trợ giúp và quyền năng của Chúa Thánh Thần, các ngài đã can đảm ra đi
truyền rao ơn cứu độ. Ra đi với hai bàn tay trắng, các tông đồ không có tiền
bạc, địa vị, học vị hay cơ sở vật chất. Các ngài đã lãnh nhận nhưng không và
giờ đây cũng đem Tin Mừng biếu không: Nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện
trong dân, nhờ bàn tay các Tông đồ (Cv 5,12).
Chúa Kitô Phục Sinh
hiện diện với các Tông đồ qua quyền năng của Ngài. Chúa trao cho các ngài uy
quyền chữa lành tất cả các bệnh hoạn tật nguyền và xua trừ ma quỷ. Rất nhiều
người đã tuôn đến xin ơn lạ và lãnh nhận ơn cải đổi tâm hồn: Nhiều người từ các
thành chung quanh Giêrusalem cũng lũ lượt kéo đến, đem theo những kẻ ốm đau
cùng những người bị thần ô uế ám, và tất cả đều được chữa lành (Cv 5,16). Hạt
giống đức tin được gieo vào lòng người. Từng tâm hồn hối cải trở về với Chúa.
Họ đã được lãnh nhận ơn sủng chữa lành phần xác và tô điểm tâm hồn. Họ là những
tín hữu nồng cốt xây dựng Hội Thánh sơ khai trên trần thế. Giáo Hội bắt đầu nẩy
mầm và phát triển sinh hoa kết trái: Càng ngày càng có thêm nhiều người tin
theo Chúa: cả đàn ông đàn bà rất đông (Cv 5,14).
Lòng thương xót Chúa
trải qua đời nọ đến đời kia. Điều vô cùng quan trọng là Chúa Giêsu trao ban
quyền tháo cởi và cầm giữ cho các tông đồ. Các tông đồ nhận lãnh ơn chữa lành
và thực hành các phép lạ để đặt nền móng cho Giáo Hội sơ khai. Nhưng chìa khoá
của sự tháo cởi và cầm buộc tinh thần được lưu truyền qua ngàn muôn thế hệ.
Thánh Gioan diễn tả rằng Chúa Giêsu trực tiếp ban ơn: Người thổi hơi vào các
ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì
người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ." (Ga
20,22-23). Chúa Giêsu thấu tỏ sự ương ngạnh cứng cỏi cũng như sự yếu đuối thấp
hèn và tội lỗi của con người. Chúa đã lập Bí tích Hoà Giải để mọi người có cơ
hội hối lỗi trở về với lòng nhân từ của Chúa. Chúa tin tưởng vào quyền tài phán
của các tông đồ và những người kế vị. Chúa đã trao quyền cho Giáo Hội qua biểu
tượng của chiếc chìa khoá Thánh Phêrô. Biết rằng trao chìa khoá cho ai là đặt
niềm tin tưởng nơi người đó.
Trong Sách Khải Huyền,
Gioan đã được thị kiến sự lạ lùng vượt trên lòng trí, Chúa Kitô đã mạc khải: Ta
là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ
chìa khoá của Tử thần và Âm phủ (Kh 1,18). Sau khi phục sinh từ cõi chết, Chúa
Kitô là chủ của sự sống và không còn chết nữa. Chúa đã chiến thắng tử thần và
tội lỗi. Ngài về trời ngự bên hữu Chúa Cha và mọi đầu gối sẽ quỳ phục dưới chân
Ngài. Chúa Kitô có uy quyền trên hết mọi loài, mọi vật, sự sống và sự chết.
Niềm tin vào Chúa Kitô sống lại là niềm hy vọng vào sự sống viên mãn đời đời.
Thánh Gioan được linh hứng để viết sách Khải Huyền: Vậy ngươi hãy viết những gì
đã thấy, những gì đang diễn ra và những gì sẽ xảy ra sau này (Kh 1,19). Khải
Huyền là cuốn sách cuối cùng của bộ Tân Ước. Có rất nhiều chi tiết cao siêu như
trên các tầng trời, chúng ta chẳng thể hiếu thấu. Chúng ta chỉ có thể nhận diện
được phần nào những điều đã qua hoặc đang diễn ra trong cuộc sống mà thôi.
Tương lai ngày mai phó thác trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu nhắc nhở
các Tông đồ: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không
thấy mà tin!" (Ga 20,29). Các Tông đồ đã được diễm phúc nhìn thấy Chúa
Phục Sinh nhãn tiền. Các ngài được gặp gỡ, ngồi chung bàn bẻ bánh, đàm thoại,
ăn uống và được Chúa ban bình an chúc lành. Các Tông đồ sẵn sàng ra đi làm nhân
chứng. Làm nhân chứng là phải đối diện với sự sống sự chết. Tất cả mười một vị
Tông đồ đã đổ máu đào chứng minh niềm tin sắt son vào Chúa Kitô Phục Sinh.
Thánh Gioan là nhân chứng sống động cho tình yêu Chúa. Mọi lời rao giảng dạy dỗ
của Thánh Gioan đều quy về tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Các Tông đồ đã
can đảm sống cho tình yêu và chết cho tình yêu.
Chúa Giêsu chúc phúc
cho những ai không thấy mà tin. Mỗi ngày chúng ta tuyên xưng Chúa Kitô qua việc
ghi dấu thánh giá trên mình. Chúng ta tuyên xưng Chúa là Ngôi Hai, Con Thiên
Chúa, là Đấng Cứu Độ, là Thầy và là Chúa. Tin vào Chúa là lắng nghe và thực
hành lời Chúa. Chúa đã mở cửa rộng rãi đón nhận và chúc phúc cho mọi người: Mẹ
tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành
(Lc 8,21). Nước Chúa rộng mở đón nhận mọi thành phần, nhưng điều quan trọng là
chúng ta cần tin tưởng vào tình yêu của Chúa và tuân giữ lời Ngài. Vì đức tin
không có thực hành thì đức tin chỉ là những triết thuyết viển vông và trống
rỗng.
Mỗi lần tham dự Thánh
lễ, chúng ta cử hành mầu nhiệm sự chết và sống lại của Chúa Kitô. Chúng ta sẽ
loan truyền ơn cứu độ cho tới khi Chúa lại đến. Lạy Chúa, những vết sẹo nơi
thân mình đã nhắc nhở chúng con về lòng thương xót vô bờ của Chúa. Xin nguồn
bình an và ân sủng của Chúa Kitô Phục Sinh tràn đổ trên tâm hồn mỗi người chúng
con. Amen.
9. Suy niệm của Lm Giuse Phạm Ngọc Khuê
CON ĐƯỜNG TIẾP NHẬN
CHÚA QUA VIỆC NGÀI HIỆN RA
Niềm tin vào Chúa Phục
Sinh khởi đi từ sự kiện mồ trống. Trong ngày thứ nhất trong tuần, các bà đạo
đức phát hiện thấy mồ trống nên chạy về báo tin cho các môn đệ Chúa Giêsu về
những điều xẩy ra xung quanh ngôi mộ. Hai môn đệ Gioan và Phêrô cùng chạy ra mộ
Chúa. Phêrô đi vào trong mộ và chứng kiến những tấm khăn liệm và dây băng cuốn
xác Chúa được gấp cuộn hẳn hoi. Chứng kiến sự kiện này, thánh Gioan thuật lại
niềm tin của các môn đệ: Các ông đã thấy và đã tin rằng Chúa đã sống lại.
Tuy nhiên, tin Chúa
phục sinh nơi các môn đệ không dừng lại nơi sự kiện mồ trống, Chúa còn cho họ
gặp Ngài nhiều lần bằng việc hiện ra với họ.
Chúa Nhật II PS nhấn
mạnh khía cạnh khác của đức tin: đó là con đường tiếp nhận Chúa qua việc Ngài
hiện ra. Như vậy, đức tin vào Chúa Phục Sinh vừa được xây dựng trên sự kiện
lịch sử (mồ trống), vừa trên sự gặp gỡ tiêp xúc siêu nhiên. Chúa hiện ra hôm
nay hoàn toàn thần thiên, vì cửa đóng then cài mà Ngài vẫn xuất hiện giữa các
ông. Sau khi từ cõi chết sống lại, Chúa Giêsu đi vào trong cõi thần thiên, Ngài
không còn bị lệ thuộc thời gian và không gian nữa.
Thánh Gioan cho biết,
Chúa hiện ra vào ngày thứ nhất trong tuần và lại hiện ra vào “Tám” ngày sau, và
đều hiện ra vào lúc các môn đệ đang hội họp. Các môn đệ hội họp vào ngày thứ
nhất trong tuần, chính là ngày chúa nhật, ngày Giáo Hội mừng ngày Chúa Phục
Sinh. Việc các môn đệ hội họp trong ngày ấy, chính là cử hành bí tích thánh
thể.
Cử hành bí tích thánh
thể là cách cụ thể hiện tại hóa của tử nạn và phục sinh của Chúa, nên các môn
đệ được tiếp xúc với chính Chúa. Các dấu đinh ở tay, chân và cạnh sườn, chính
là lời tuyên xưng của Giáo Hội vào mầu nhiệm thánh thể. Qua cử hành thánh thể,
Chúa Giêsu thực hiện cuộc thương khó và phục sinh của Người các bí tích trên
bàn thờ.
Trong việc cử hành
thánh thể, các tông đồ gặp gỡ đấng phục sinh và nhờ đó đức tin các ngài được
củng cố và gia tăng.
Ngày nay, cũng một thể
thức ấy, Giáo Hội cử hành thánh thể nhằm tái diễn cuộc tử nạn và phục sinh của
Chúa. Giáo Hội tin rằng Chúa hiện diện cách đích thực trong bí tích thánh thể
và chính tại nơi đây Ngài ban thêm đức tin cho chúng ta.
Nghe Lời Chúa và cử
hành mầu nhiệm thánh thể hằng ngày của cộng đoàn chúng ta là cách tích cực nhất
để gặp gỡ Chúa Giêsu Phục Sinh, nhờ đó đức tin của mỗi người chúng ta mạnh mẽ
thêm.
Ước gì mỗi người chúng
ta luôn ý thức sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu nơi bí tích thánh thể, mà
siêng năng cử hành và rước mình máu thánh Ngài để mỗi ngày chúng ta được lớn
lên đạt tầm vóc viên mãn của Đức Kitô, nhờ đó chúng ta luôn được ơn an bình của
Chúa Phục Sinh, đồng thời có nhiệt huyết tông đồ lên đường làm chứng cho Chúa
trước mặt mọi người, để cả thế giới được hương ơn phục sinh của Chúa.
Xin được chọn câu Lời
Chúa: Phúc cho những ai đã không thấy mà tin, làm châm ngôn cho ngày sống hôm
nay để luôn ý thức sự hiện diện của Chúa nhờ đó đức tin của chúng ta mỗi ngày
được mạnh mẽ và sốt sáng hơn. Amen.
10. Thắp sáng niềm tin – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Cả bốn Tin mừng đều
thuật lại những lần hiện ra của Chúa Phục Sinh với những cá nhân (Ga 20,14-17;
Mt 278,5-7; Lc 24,25-31; Mc 16,9-13) và những nhóm môn đệ khác nhau (Mt
28,16-20;Lc 24,36-49;Ga 21,1-23).
Tường thuật Chúa Phục
Sinh đến với Nhóm Mười Hai vào ngày thứ nhất trong tuần có một tầm quan trọng
đặc biệt. Nhóm Mười Hai trở thành nền tảng của cộng đoàn Phục Sinh, thành những
chứng nhân mắt thấy tai nghe về Chúa Phục Sinh, để loan báo Tin Mừng Phục Sinh
cho mọi người ( x. Cv 4,20).
Khi Chúa đến với Nhóm
Mười Hai lần đầu tiên vào chiều ngày thứ nhất trong tuần thì Tôma vắng mặt. Các
Tông đồ đã nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa"(Ga 20,25). Đây
vừa là lời tuyên xưng đức tin vừa là lời làm chứng về Chúa Phục Sinh. Những lời
này có tác dụng chuẩn bị và khơi dậy đức tin đã phai lạt nơi Tôma.
Tám ngày sau,cũng
trong cộng đoàn đó, Tôma tìm lại được đức tin của mình. Chính cộng đoàn đã thắp
sáng lên niềm tin cho người anh em. Bởi đó, khi Chúa Phục Sinh với lời mời gọi
yêu thương: "Tôma,hãy xỏ ngón tay con vào lỗ đinh,hãy đặt bàn tay con vào
cạnh sườn Thầy.Chớ cứng lòng nhưng hãy tin", lập tức Tôma được biến đổi từ
bóng tối nghi nan sang ngời sáng niềm tin: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên
Chúa của con"(Ga 20,28).
Một trong những khuyết
điểm lớn nhất của Tôma là ông đã tự tách rời khỏi các Tông Đồ khác, rời khỏi
đời sống cộng đoàn. Trong sự choáng váng, thất vọng, chán nản, trong tâm trạng
hoài nghi, đau khổ, ông đã tự nhốt mình trong cô đơn xa lánh anh em,tìm quên
lãng trong phiền muộn nên đánh mất cơ hội gặp Chúa Phục Sinh. Chỉ đến khi tham
gia trở lại với cộng đoàn, Tôma mới gặp gỡ Người và nhờ đó ông đã tìm lại được
lòng tin mạnh mẽ, kiên trung.
Hành trình của Tôma đi
qua ba giai đoạn: vắng mặt, nghi ngờ và tuyên xưng đức tin. Một lộ trình dài
hơn mọi anh em, nhưng Tôma đã đến gần Chúa Giêsu hơn mọi anh em khác. Truyền
thống Giáo hội kể lại, Tông đồ Tôma đã đưa Tin Mừng tới tận Ba Tư, Syria và Ấn
Độ và chịu tử đạo ở đó.
Đức tin của người tín
hữu được trao ban và nhận lãnh nơi cộng đoàn Phục Sinh, cộng đoàn giáo xứ. Nơi
cộng đoàn này, người tín hữu được nuôi dưỡng và lớn lên trong đức tin, hoặc tìm
lại được niềm tin của mình.
Đức tin Kitô giáo vừa
có chiều kích cộng đoàn vừa có chiều kích cá nhân. Đức tin cá nhân được cộng
đoàn nuôi dưỡng và làm thành đức tin cộng đoàn. Cộng đoàn lớn lên và phát triển
là nhờ đức tin cá nhân. Cộng đoàn làm cho đức tin cá nhân phong phú và độc đáo.
Lời Chúa được công bố
giữa cộng đoàn Thánh Thể chính là Lời Phục Sinh. Mỗi tín hữu lắng nghe và chấp
nhận cho riêng mình. Mỗi người, nhờ lòng tin và lòng mến mà Lời Chúa sẽ sinh
hoa kết quả trong tâm hồn.
Mình Máu Chúa được
trao ban cho mọi tín hữu trong cộng đoàn Thánh Thể, mỗi cá nhân tín hữu lại đón
nhận với mức độ đức tin khác nhau. Người tín hữu phải đủ đức tin khi rước Thánh
Thể của Đấng đã chết và sống lại. Không chỉ ăn uống Mình Máu Chúa mà còn là gặp
gỡ riêng tư với Chúa Phục Sinh như Tôma vậy.Trong cuộc gặp gỡ riêng tư này, người
tín hữu được đón nhận sự sống dồi dào vào tâm hồn mình.
Đời sống cộng đoàn
thật quan trọng cho niềm tin người tín hữu. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong
Tông Huấn "Người Kitô hữu giáo dân" đã đưa ra bốn hình ảnh về giáo
xứ, cộng đoàn Phục Sinh, cộng đoàn Thánh Thể.
* Giáo xứ là một gia
đình của Thiên Chúa chan hoà tình bác ái huynh đệ: mọi người được đón tiếp chân
thành,được sống trong bầu khí bác ái,được cảm thấy mình được kính trọng, được
yêu thương che chở,ai cũng cảm thấy mình thuộc về giáo xứ là một vinh dự.
* Giáo xứ là một cộng
đoàn nuôi dưỡng đức tin:Mọi người được bồi dưỡng đức tin,được kêu gọi sống đức
tin,được giúp hiểu biết các vấn đề đức tin. Các Thánh lễ, các giờ giáo lý,các
buổi cầu nguyện luôn hướng về Thiên Chúa, được Lời Chúa và lời Giáo hội soi
sáng để người tín hữu hiểu biết những biến cố cuộc đời.
* Giáo xứ là một cộng
đoàn có tổ chức: Mọi người được sắp xếp trong một hệ thống trật tự,có phân
công, có trách nhiệm.Tất cả liên hệ với nhau trong tinh thần hiệp thông, cộng
tác và trách nhiệm để xây dựng giáo xứ tốt đẹp.
* Giáo xứ là một cộng
đoàn truyền giáo: Đây là hình ảnh mà Công Đồng Vatian II đề cao nhất,hình ảnh
cộng đoàn truyền giáo. Mọi người được nuôi dưỡng đức tin, được sống tình bác ái
để ra đi truyền giáo, loan báo Tin Mừng Phục Sinh, rao truyền niềm vui, niềm hy
vọng như cộng đoàn Nhóm Mười Hai đã ra đi đến với muôn dân.
Cộng đoàn phụng vụ
ngày Chúa Nhật là điểm hẹn chính thức và thường xuyên của Chúa Phục Sinh với
các tín hữu.Không nên lỗi hẹn với Chúa trong các cuộc họp cộng đoàn (x.Dt
10,25).Cần chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ với Chúa Phục Sinh. Người luôn có mặt để
giải thích Kinh Thánh đồng thời mở lòng mở trí cho các tín hữu hiểu Lời Người
(x.Lc 24,32.45) và hiến ban chính mình để nuôi sống người tín hữu chúng ta.
Cám ơn thánh Tôma. Nhờ
ngài, các môn đệ khác được chứng kiến tỏ tường Chúa sống lại, được nhìn thấy
những vết thương ở tay chân và cạnh sườn Chúa. Nhờ ngài, Chúa Giêsu lại hiện ra
một lần nữa. Và nhất là nhờ ngài, chúng con có được mối phúc thứ chín:
"Phúc cho ai không thấy mà tin"(Ga 20,29). Mối phúc này nghe như có
lời dặn dò: muốn thấy điều mình tin, hãy bắt đầu bằng cách tin điều mình không
thấy và chừng như cũng có lời ước hẹn: tin điều mình không thấy sẽ thấy điều
mình tin.
Mỗi tín hữu vững tin
sẽ thấy điều mình tin để nói được rằng: "Tôi đã thấy Chúa"(Ga 20,18),
nhờ đó cả cộng đoàn cũng đều nói lên: "Chúng tôi đã thấy Chúa"(Ga
20,25).
Thánh Tôma đã nhờ cộng
đoàn anh em yêu thương nâng đỡ nên tìm lại được niềm tin.Nơi Tôma có cái gì
đáng yêu đáng ngưỡng mộ, tuy cứng lòng tin nhưng lại dễ dàng khiêm nhường đón
nhận những góp ý chân thành của cộng đoàn.
Chúa Kitô Phục Sinh
chính là nền tảng và trung tâm của đời sống đức tin Kitô giáo. Đấng Phục sinh
đã chọn "ngày thứ nhất trong tuần" làm ngày gặp gỡ các Tông Đồ. Như
thế, "Ngày thứ nhất trong tuần" đã trở thành ngày của cộng đoàn, ngày
của gặp gỡ, ngày hát mừng niềm vui Phục sinh, và nhất là ngày của cuộc
"sáng tạo mới".
Xin cho mỗi ngày Chúa
nhật trở thành ngày bồi bổ đức tin, bồi dưỡng tâm linh, bồi đắp tình huynh đệ,
giúp mỗi tín hữu sống thánh thiện, hiệp thông, yêu thương...Nhờ đó, mỗi người
trở thành chứng nhân cho sự hiện diện sống động của Đấng Phục Sinh.
11. Suy niệm của Lm. GB. Hiếu
NHẬP LỄ
Nguyên nhân của những
mối nghi ngờ chính là vì sự việc vượt quá tầm nhận thức, hiểu biết của con
người -nhất là về phuơng diện đức tin. Do đó việc Thánh Tôma nghi ngờ như trong
trình thuật Tin Mừng, cũng là điều tự nhiên.Tuy nhiên điều mà Thánh Tôma có
lỗi, chính là vì đã không tin vào lời Chúa. Như Thánh Tôma, chúng ta cũng đã
nhiều khi không tin vào lời Chúa như vậy. Xin Chúa tha lỗi cho chúng con.
- Lạy Chúa, vì niềm
tin vào Chúa của chúng con được truyền lại từ các Tông Đồ. Xin Chúa thương xót
…
- Lạy Chúa, vì Chúa là
“Đấng Hằng Sống” và “giữ chìa khoá của tử thần và âm phủ” (Kh1,18). Xin Chúa
Kitô …
- Lạy Chúa, vì Chúa đã
đến để cứu chuộc và ban bình an cho chúng con. Xin Chúa thương xót …
GIẢNG
Có thể nói là từ xưa
đến nay, Thánh Tôma hầu như đã bị người ta ghim chết trong định kiến một con
người cứng lòng tin. Thế nhưng có mấy ai nghĩ cho ngài là con người tiên phong
trong việc tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa và là Thiên Chúa ? Nếu hiểu được điều
đó, chúng ta mới có thể thấy được câu nói của Chúa Giêsu vừa là lời trách cứ,
nhưng cũng là lời khích lệ niềm tin cho ngài cũng như cho tất cả chúng ta bất
kỳ thời đại nào : “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không
thấy mà tin” (Ga 20,29).
Quả vậy, Thánh
Tôma không hẳn là người môn đệ duy nhất cứng tin. Các môn đệ khác cũng thế.
Trong Tin Mừng theo Thánh Máccô, đã có lần Chúa Giêsu khiển trách các ông không
tin và cứng lòng, “vì đã không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi
Người sống lại” (Mc 16,14). Ngay cả khi tiễn Chúa về trời, Thánh sử Mátthêu vẫn
còn ghi lại : “Có mấy ông lại hoài nghi” (28,17). Thực ra, niềm tin không phải
là định kiến bất dịch, nhưng là một sức sống. Sức sống thì phải được nuôi
dưỡng, phải có di chuyển. Nuôi dưỡng thì tất nhiên phải có thời để cảm nhận đói
và thời được no; nghĩa là có tình trạng hao hụt để tiến tới thời sung mãn.
Những lần Chúa hiện đến, đâu có phải ai ai cũng nhanh chóng nhận ra người đứng
trước mặt mình là Chúa -Chúa Giêsu Phục Sinh ! Chỉ sau khi được nhắc bảo, các
môn đệ mới ngạc nhiên hướng nhìn Người ! Cho nên ai cũng có thể sai lầm, cũng
có thể lỡ bước. Điều quan trọng, chính là biết thức tỉnh để đi đến cùng, đến
cùng sự thật.
Thánh Tôma trong trình
thuật hôm nay, bước đầu có thể như hơi quá lời khi thách thức các môn đệ khác :
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh
và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20,25b). Tuy
nhiên sau đó, khi Chúa ngự đến, Thánh nhân không chỉ giữ im lặng như những
người khác, nhưng đã tuyên xưng niềm tin của mình : “Lạy Chúa của con, lạy
Thiên Chúa của con” (c.28). Ngài công bố chấp nhận Đức Giêsu -người đang đứng
trước mặt ngài- là con người đã chết đi nhưng đã sống lại thực sự, chẳng những
là chủ nhân có thể ra lệnh sai khiến chỉ bảo, mà còn là Thiên Chúa -Đấng tạo
sinh nên mình nữa ! Điều mà Giáo Hội tuyên xưng Chúa Giêsu trong kinh Tin Kính
từ thời các Tông Đồ cho đến ngày nay, đâu có gì vượt quá điều Thánh Tôma đã
tuyên xưng trước mặt Chúa ngày hôm nay : “Lạy Chúa của con; lạy Thiên Chúa của
con !” Thánh nhân không chỉ tuyên xưng Chúa đã sống lại, nhưng còn tin nhận
Chúa là Đấng Cứu Thế phải đến thế gian và là Thiên Chúa. Như thế, đức tin còn
phải vượt qua điều thấy trước mắt để thấy được điều cần phải thấy, phải tin. Đã
chắc gì các vị môn đệ khác thấy con người Chúa phục sinh hôm đo, mà tin nhận
ngay hay thấy ngay được Chúa là Thiên Chúa tối cao đáng kính, đáng tôn thờ ?
Ngôi Lời Thiên Chúa khi trở nên xác phàm, là muốn để cho nhân loại thấy Chúa
Giêsu có thân xác. Nhưng để được đi vào mầu nhiệm cứu rỗi và để sống trong Tình
Yêu của Thiên Chúa, con người phải thấy được Chúa Giêsu tỏ hiện trong vinh
quang Thiên Chúa tính của Người. Mối hạnh phúc mà Chúa Giêsu chúc mừng cho
Thánh Tôma, chính là điều Thánh nhân đã “thấy” -thấy vượt qua cái thấy trước
mắt- và đã nhanh chóng tuyên xưng lòng xác tín của mình vào điều đã thấy ngoài
điều nhìn bắng ánh mắt đó. Nhờ xác tín như thế mà Thánh nhân đã không ngần ngại
mang Tin Mừng của Chúa sang rao giảng tận Batư, Xyri; và tại Ấnđộ, ngài đã sẵn
sàng đổ máu đào làm chứng cho Chúa.
Chúng ta cũng đã không
thấy Chúa nhãn tiền như các Tông Đồ hay như Thánh Tôma xưa. Nhưng liệu đó có
phải là đầu mối đem lại hạnh phúc cho chúng ta, vì chúng ta đã cố gắng khám phá
và tuyên xưng Chúa đang sống trong cuộc đời mình chăng ? Lời Chúa khích lệ
Thánh Tôma ngày xưa vẫn còn mãi mãi giữ giá trị cho chúng ta ngày hôm nay :
“Phúc thay những người không thấy mà tin !” (Ga 20,29).
Lạy Chúa, dù cuộc đời
con có tăm tối, hay trống rỗng; dù đời con có thất bại nặng nề, muộn phiền hay
lo âu, xin cho con luôn vững tin nơi Chúa, để nhìn thấy Chúa đang hiện diện bên
cạnh và nâng đỡ con. Amen.
12. Gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh.
(Suy niệm của ĐTGM.
Giuse Ngô Quang Kiệt)
Trong suốt tuần Bát
Nhật, từ đêm vọng Phục sinh tới hôm nay, Chúa nhật 2 Phục sinh, các bài đọc đã
trình bày cho ta nhiều lần Đức Kitô phục sinh hiện ra. Từ những lần thấy Đức
Kitô phục sinh hiện ra ấy, các môn đệ đã có những cảm nghiệm sau đây:
1. Cảm nghiệm đầu tiên
là, Đức Kitô đồng hành với họ trên mọi nẻo đường.
Đức Kitô phục sinh
không còn bị giới hạn trong không gian. Người có thể cùng lúc xuất hiện ở nhiều
nơi khác nhau. Ngươì xuất hiện trong vườn, gần mồ chôn Người. Người xuất hiện
bên bờ hồ, nơi các môn đệ đang chài lưới. Người xuất hiện ở làng Emmau, cách
Giêrusalem một quãng đường dài. Người xuất hiện trong phòng đóng kín cửa, nơi
các môn đệ tụ họp. Sau này, Người còn xuất hiện ở mãi tận Damas, bên nước
Syrira, nơi Phaolô lùng bắt người theo đạo. Không gian xa xôi không làm chậm
bước Ngài. Không gian khép kín không ngăn được bước Ngài. Đức Kitô phục sinh ra
khỏi mồ có mặt trên mọi nẻo đường của cuộc sống.
Đức Kitô phục sinh
cũng không bị giới hạn trong thời gian. Người xuất hiện với Maria khi trời còn
đẫm sương khuya. Người xuất hiện bên bờ hồ với các môn đệ khi bình minh vừa ló
rạng. Người xuất hiện trong phòng tiệc ly ngay giữa ban ngày. Người xuất hiện ở
Emmau khi trời sụp tối. Trong mọi lúc của cuộc đời, Đức Kitô luôn có mặt. Không
có thời gian nào Người không ở bên ta.
Đức Kitô phục sinh
không còn bị giới hạn, trong một cảnh ngộ cuộc sống nhất định. Trong vườn,
Người xuất hiện như người làm vườn.. Bên những người chài lưới, Người xuất hiện
như một bạn chài chuyên nghiệp, rành rẽ đường đi của đàn cá. Trên đường Emmau,
Người xuất hiện như một khách hành hương, đồng hành với hai linh hồn buồn bã, e
ngại đường xa. Người xuất hiện để khích lệ các môn đệ đang lo buồn sợ hãi.
Người xuất hiện để soi chiếu niềm nghi ngờ tăm tối của Tôma.
2. Cảm nghiệm thứ hai
là, Đức Kitô phục sinh khơi dây niềm bình an, tin tưởng.
Biết các môn đệ đang
buồn sầu, bối rối, bấn loạn sau cái chết của Thầy, Đức Kitô phục sinh mỗi lần
hiện ra, đều chúc các ông: “Bình an cho các con”. Người còn thổi hơi vào các
ông và nói: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Cử chỉ thổi hơi nhắc
cho ta nhớ lại việc sáng tạo. Khi ấy vũ trụ còn là một khối hỗn mang, vô định
hình. Rồi Thần Linh Chúa bay là là trên mặt nước. Nhờ đó mọi vật dần dần có
hình hài vóc dáng, đi vào trật tự, ổn định.
Sau cuộc khổ nạn của
Đức Kitô, tâm hồn các môn đệ cũng tan nát như một khối hỗn mang, vô định hình.
Đức Kitô thổi hơi ban Thánh Thần trong một tạo dựng mới, đem lại trật tự ổn
định, uốn nắn các môn đệ thành những con người mới, tràn đầy bình an của Chúa
Thánh Thần. Sau khi gặp Đức Kitô phục sinh, Maria buồn bã trở nên vui tươi, hai
môn đệ Emmau u sầu tuyệt vọng trở nên phấn khởi, các môn đệ chài lưới mệt mỏi rã
rời được hồi phục sức lực, các môn đệ sợ sệt bối rối ẩn núp trong phòng được
bình an, Tôma nghi nan bối rối được vững niềm tin mến. Đức Kitô phục sinh chính
là niềm bình an cho các ông.
3. Cảm nghiệm thứ ba,
cũng là cảm nghiệm quan trọng nhất, Đức Giêsu phục sinh làm cho cuộc đời có ý
nghĩa.
Sau khi Đức Kitô bị
hành hình, cả một bầu trời sụp đổ. Các môn đệ tuyệt vọng. Họ sống trong lo sợ,
buồn bã, chán chường. Không, họ không còn sống nữa vì cuộc đời đối với họ chẳng
còn ý nghĩa gì. Họ như đã chết với Thầy. Chỉ còn nỗi lo sợ, nỗi buồn, niềm
tuyệt vọng sống trong họ thôi. Đức Kitô là linh hồn của họ. Linh hồn đã ra đi.
Xác sống sao được.
Khi Đức Kitô phục sinh
trở lại, những xác chết bỗng hồi sinh, những bộ xương khô bỗng chỗi dậy, mặc
lấy da thịt, trở lại kiếp người, những trái tim nguội lạnh trở lại nhịp đập,
ánh mắt nụ cười lại rạng rỡ tươi vui, vì cuộc sống từ nay có một linh hồn, cuộc
sống từ nay có một ý nghĩa.
4. Cảm nghiệm cuối
cùng là, Đức Kitô phục sinh sai họ đi loan báo Tin Mừng Phục sinh.
Đức Giêsu Phục sinh đã
biến đổi toàn bộ cuộc đời các môn đệ. Đức Kitô phục sinh là Tin Mừng lớn lao
trọng đại đem lại ý nghĩa cho cuộc đời. Nên các môn đệ không thể không loan báo
Tin Mừng lớn lao đó. Maria lập tức chạy về loan tin cho các môn đệ, mời Phêrô và
Gioan đến xem ngôi mộ trống. Hai môn đệ Emmau lập tức trở về Giêrusalem bât
chấp trời đã tối đen. Phêrô chạy bay ra mồ dù còn sáng sớm và còn bị nỗi sợ
người Do Thái ám ảnh. Và sau này, Phaolô, sau khi ngã ngựa, đã trở thành một
người loan báo Tin Mừng không biết mệt mỏi.
Hôm nay chính Đức Kitô
Phục Sinh nói với các ông: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”.
Tất cả những người đã
thấy Đức Giêsu Phục Sinh đều trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục
Sinh. Tất cả các môn đệ đều đã lấy máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì
Đức Kitô phục sinh là một Tin Mừng không thể không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của
Đức Kitô là một lệnh truyền không thể chống cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã
nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.
Hôm nay Đức Giêsu Phục
Sinh cũng đang hiện diện bên ta. Người luôn ở bên ta trong mọi thời gian. Từ
buổi bình minh khi ta mới chào đời cho đến lúc mặt trời chói lọi của tuổi thanh
niên. Từ lúc xế chiều của đời xế bóng cho đến lúc bóng đêm tuổi già phủ xuống
đời ta.
Người vẫn ở bên ta
trong mọi không gian: trong nhà thờ, nơi trường học, ở sở làm, nơi giải trí,
trong gia đình, trong chòm xóm.
Người vẫn ở bên ta
trong mọi cảnh ngộ vui buồn của cuộc đời. Người ở bên em bé mồ côi đang khóc
đòi vú me. Người ở bên em học sinh đang miệt mài đèn sách. Người ở bên cô thiếu
nữ đau buồn vì bị tình phụ. Người ở bên chàng thanh niên lạc hướng giữa ngã ba
đường. Người ở bên ngững cuộc đời bế tắc không lối thoát.
Chỉ cần quay đầu, dừng
bước là gặp được Người. Hãy khao khát đón chờ Người. Hãy tỉnh thức lắng nghe
tiếng bước chân Người. Bước chân Người rất nhẹ nhàng, không ồn ào. Đừng bỏ lỡ
cơ hội gặp Người.
Gặp được Người, lòng
ta sẽ bình an, linh hồn ta sẽ hồi sinh, cuộc đời ta sẽ sống, sống mãnh liệt,
sống phong phú, sống dồi dào.
Lạy Đức Kitô Phục
Sinh, con đang chìm trong cái chết dần mòn. Xin hãy đến và cho con được Phục
Sinh với Người.
13. Lạy Chúa Là Thiên Chúa Con
(Trích trong ‘Niềm Vui
Chia Sẻ’)
Trong tạp chí
Guidepots, bác sĩ Scott Harrison, một chuyên viên phẫu thuật bàn tay có viết
rằng: lần nào giải phẫu ông cũng đều kêu lên vào một lúc nào đó: “Lạy Chúa là
Thiên Chúa của con!”. Ông có thói quen lạ lùng nầy từ hồi ông còn ở Việt Nam.
Một đêm nọ, vừa mới rời trường Y, ông được kêu đi gắp một viên đạn bị kẹt trong
tay một người lính. Đã vậy, ông còn phải giải phẫu dưới ánh sáng của ngọn đèn
pin. Cuộc giải phẫu ấy khiến ông cảm xúc sâu xa đến nỗi sau khi cuộc chiến kết
thúc, ông đã quyết định đi chuyên ngành giải phẫu bàn tay. Nhờ đi sâu vào lãnh
vực chuyên môn nầy, ông đã thẩm định được cách sâu sắc cơn đau khủng khiếp do
một vật gây ra, chẳng hạn như một viên đạn, khi vật ấy xuyên thủng lớp xương,
lớp gân và những sợi dây thần kinh nơi bàn tay con người. Nhà phẫu thuật ấy kể
rằng ông thường giật thót người mỗi lần nghĩ đến cơn đau kinh khiếp Chúa Giêsu
phải chịu khi đôi tay Ngài bị đóng đinh vào thập giá.
Khi chia sẻ bài Tin
Mừng hôm nay, ông nói rằng theo ông, tiếng kêu “lạy Chúa là Thiên Chúa của con”
của Thánh Tôma không chỉ là một lời tuyên xưng đức tin, mà còn là tiếng kêu đầy
rung động khi vị tông đồ nhìn thấy dấu vết của đôi bàn tay bị xé toạc ra của
Chúa Giêsu. Chỉ đến lúc đó, Tôma mới hoàn toàn nhận thức được cơn đau đớn Chúa
Giêsu đã phải chịu trên thập giá. Theo nhận định của nhà phẫu thuật, khám phá
nầy hầu như vượt quá mức chịu đựng của Tôma. Và ông đã kết thúc bản văn đầy cảm
động đó với lời chứng sau đây: “Mỗi lần giải phẫu mà nhìn phía dưới làn da của
bàn tay con người, tôi luôn nhớ tới Chúa Kitô đã hy sinh đôi tay toàn hảo của
Ngài cho tôi, và cũng như Tôma, tôi thốt lên: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con”.
Thưa anh chị em,
Câu chuyện trên làm
nổi bật một điểm thuộc về đức tin mà chúng ta rất thường hay quên. Đó là mỗi
người chúng ta phải tiếp xúc trực tiếp với Chúa Giêsu qua đức tin. Không phải
vì cha mẹ, họ hàng, bạn hữu chúng ta tin nên chúng ta tin theo. Đức tin của họ
giúp ích cho chúng ta rất nhiều, nhưng chỉ như thế mà thôi thì chưa đù. Chúng
ta phải tực tiếp xúc trực tiếp bằng đức tin với Chúa Giêsu giống như nhà phẫu
thuật trong câu chuyện hoặc giống như Thánh Tôma trong Tin Mừng hôm nay. Ông
nghĩ mình có quyền được xem thấy Chúa sống lại tí là như các anh em khác. Các
tông đồ kia lúc đầu cũng chẳng ai tin Chúa đã sống lại. Các ông chỉ tin sau khi
được tiếp cận với Chúa Giêsu, được sờ đến thân xác Ngài, được ăn uống với Ngài.
Vì thế, Tôma thấy mình thiệt thòi và thua kém. Cho nên ông cương quyết không
chịu tin lời anh em kể lại và ông đòi phải được sờ vào những dấu đinh ở tay
Ngài.
Ông Robert Cleath, một
tác giả viết sách đã trở lại với đức tin khi ông suy niệm về sự biến đổi kỳ
diệu đã đến với các môn đệ Chúa Giêsu vào dịp lễ Phục Sinh. Trước biến cố nầy,
họ là đám người thất vọng thảm bại, thế mà sau biến cố nầy, họ đã được biến đỏi
kỳ diệu và còn có năng lực làm phép lạ nữa. Ông nói: “Không có cách giải
thích nào hữu lý về sự biến đổi của họ hơn là sự giải thích của chính họ: đó là
vì họ đã nhìn thấy Chúa Giêsu hiện đang sống”.
Blaise Pascal, nhà
thiên tài toán học, được hấp dẫn đến với đức tin khi ông suy niệm về sự kiện
không có sự đe dọa giết chóc nào có thể ngăn cản các môn đệ Chúa Giêsu nói thật
to cho thế giới biết rằng Chúa đã sống lại. Pascal nói ông tin chắc chắn vào kẻ
nào dám sẵn sàng chịu “chém đầu” vì lời rao giảng của mình.
Trong cuốn sách mang
tựa đề “Ngang qua thung lũng sông Kwai”, Ernest Gordon đã kể lại câu
chuyện đám tù binh hai ngàn tù binh đã bị chết vì bệnh tật và vì bị đối xử tàn
tệ. Thế nhưng, họ được lôi cuốn đến với đức tin qua cảm nghiệm riêng tư về
quyền năng Chúa Giêsu đang hoạt động trong cuộc sống của họ. Chúng ta hãy nhớ
lại đám tù binh nầy từng lao động đầu trần chân đất dưới cơn nóng cháy da miền
nhiệt đới. Trong chỉ vài tuần lễ, từ những người đàn ông lực lưỡng, họ đã biến
thành những bộ xương biết đi. Tinh thần họ bị xuống đến mức tệ nhất. Người ta
lo sợ sắp có điều gì xảy ra. Thế nhưng vào ngay thời điểm ấy, hai tù nhân đã
đứng lên tổ chức đám tù còn lại thành những nhóm tìm hiểu Kinh Thánh. Nhờ suy
tư tìm hiểu Kinh Thánh, các tù nhân đã học biết rằng Chúa Giêsu Phục Sinh đang
ở giữa họ. Họ chỉ việc tiếp xúc với Ngài. Và sau khi tiếp xúc với Ngài, đám tù
đã được biến đổi kỳ diệu trong cuộc sống từng người. Chính cảm nghiệm thiêng
liêng nầy khiến họ quỳ gối xuống thưa Chúa Giêsu “Lạy Chúa là Thiên Chúa
của con”.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta cũng phải
biểu lộ niềm tin trực tiếp vào Chúa Giêsu như thế. Chúng ta cũng phải tìm được
lý do riêng tư thôi thúc chúng ta quỳ gối xuống thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa
là Thiên Chúa của con!”. Dĩ nhiên chúng ta không thể leo lên cỗ máy thời gian
bay ngược dòng lịch sử cách đây hơn 2000 năm để dự lễ Phục Sinh đầu tiên. Chúng
ta cũng không thể đặt ngón tay vào lỗ đinh nơi tay Chúa Giêsu giống như Thánh
Tôma. Vậy thì chúng ta có thể làm gì?
Chúng ta có thể làm
như đám tù nhân ở bờ sông Kwai. Chúng ta có thể tin vào Tin Mừng, có thể tiếp
xúc với Chúa Giêsu bằng đức tin, có thể tự cảm nghiệm được Chúa Giêsu Phục sinh
đang ngự giữa chúng ta: Ngài sẵn sàng giúp đỡ chúng ta như Ngài từng giúp đỡ
đám tù binh nọ. Đây là lời mời gọi mà Tin Mừng hôm nay dành cho chúng ta. Đây
là lời mời gọi Chúa Giêsu ngỏ với chúng ta như Ngài nói với Thánh Tôma: “Tôma,
vì con đã thấy nên con mới tin, nhưng phúc cho kẻ nào không thấy mà tin”.
Thưa anh chị em,
Khi Chúa Giêsu nói với
Thánh Tôma: “Phúc cho ai không thấy mà tin” là Ngài đang ngỏ lời với chính
chúng ta cũng như với triệu triệu Kitô hữu trong suốt dòng lịch sử. Phúc cho
chúng ta nếu chúng ta tin vào Tin Mừng. Phúc cho chúng ta nếu chúng ta tiếp xúc
với Chúa Giêsu bằng đức tin. Thật vậy, phúc cho chúng ta, vì cũng như các tù
binh nọ, chúng ta sẽ khám phá được Chúa Giêsu đã sống lại và hiện đang sống
ngay lúc nầy đây giữa chúng ta và luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng ta.
Cuối cùng, đức tin còn
phải được nuôi dưỡng bằng những dấu hiệu, dấu chỉ. Không có các bí tích, không
có Thánh Thể, chúng ta sẽ tìm đâu ra cơ hội để gặp thấy sự hiện diện của Đức
Kitô Phục Sinh? Một khi đức tin của chúng ta đã được các dấu hiệu, các bí tích
nầy thức tỉnh rồi, thì mọi sự sẽ có thể trở thành dấu hiệu về sự hiện diện của
Chúa Kitô: các biến cố, các hoàn cảnh, tha nhân… Mỗi giây phút đưa chúng ta đến
với một cuộc gặp gỡ và chúng ta lại có thể tuyên xưng như Thánh Tôma tông đồ: “Lạy
Chúa, lạy Thiên Chúa của con”.
14. Tôma đa nghi – Flor McCarthy
(Trích trong ‘Phụng Vụ
Chúa Nhật và Lễ Trọng’)
Bài giảng 2: Học hỏi
từ Tôma
Thật dễ sai lầm khi cho
rằng những ai đã nhìn thấy Đức Giêsu, thì dễ có lòng tin hơn so với chúng ta.
Tin Mừng chứng tỏ rằng có nhiều người đã được nhìn thấy Đức Giêsu, nhưng vẫn
không có lòng tin nơi Người. Nhìn thấy không nhất thiết là tin. Động tác tin
tưởng lôi kéo theo một quyết định tin tưởng.
Trên thực tế, Tin Mừng
còn cho thấy rằng ngay cả các Tông đồ mà còn có vấn đề về lòng tin. Tôma không
phải là người Tông đồ duy nhất nghi ngờ về sự sống lại. Tất cả các Tông đồ đều
như vậy cả. Thánh Maccô kể cho chúng ta nghe rằng khi Đức Giêsu hiện ra với họ
vào buổi tối Phục sinh, “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng,
bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người, sau khi Người chỗi
dậy”. (Mc 16: 14).
Chúng ta có thể thông
cảm cho các Tông đồ. Cảnh Đức Giêsu bị đóng đinh đã làm cho họ bị tuyệt vọng.
Họ đã dành cho Đức Giêsu một tầm quan trọng lớn lao. Họ đã bỏ hết công việc của
mình, và để lại mọi sự để đi theo Người. Thế mà Người lại đột ngột ra đi. Càng
nghe nói thật về cái chết của Người, thì sự mất mát của họ càng trở nên lớn lao
hơn. Giá trị và ý nghĩa của tất cả mọi sự đều bị đe doạ: tình bạn đồng hành,
lòng tin và toàn bộ cuộc sống của họ.
Và rồi một điều không
thể tin nổi đã xảy ra – một lần nữa, Người lại đứng giữa họ. Việc đầu tiên mà
Người làm, là chỉ cho các ông nhìn thấy những vết thương của Người. Tại sao
Người lại làm như vậy? Trước hết, bởi và những vết thương này giúp cho các ông
nhận ra Người chính là Đấng đã bị đóng đinh. Thứ hai, những vết thương này là
bằng chứng tình yêu của Người đối với họ. Tình yêu phải được chứng tỏ bằng
những hành động cụ thể. Sau đó, Người còn mời gọi các ông “nhìn xem và sờ
tay vào”.
Trường hợp của Tôma
đặc biệt soi sáng chúng ta. Ông đã chứng tỏ một sự chân thành thật thú vị. Ông
không hề cố gắng che đậy những nghi ngờ của mình. Người ta thường nhìn sự hoài
nghi như là một dấu hiệu của sự yếu đuối. Chúng ta thường hay mang mặc cảm tội
lỗi, vì đã có những hoài nghi. Nhưng hoài nghi có thể là một điểm nói lên sự
đang phát triển, là một hòn đá bước lên để đi vào sự hiểu biết sâu xa hơn. Đây
là điều chắc chắn đối với Tôma, bởi vì trong Tin Mừng theo Thánh Gioan, ông đã
tiến tới việc diễn tả lời tuyên xưng cao cả nhất về lòng tin nơi Đức Giêsu: “Lạy
Chúa, Lạy Thiên Chúa của con”.
Ở nơi đây, trên trái
đất này, người ta không thể tuyệt đối biết chắc chắn về những điều thiêng
liêng. Nếu biết chắc chắn, thì không còn cần đến lòng tin nữa. Sự tuyệt đối
chắc chắn có thể đưa đến thói kiêu ngạo, không khoan dung và sự ngu xuẩn. “Kẻ
tin nào không bao giờ tỏ ra hoài nghi, thì không phải là kẻ tin nữa”
(Thomas Merton).
Một cộng đoàn đều có
thể rút được kinh nghiệm từ một nhân vật như Tôma, nghĩa là một người có can
đảm đặt ra những câu hỏi mà không một người nào khác dám hỏi. Đó là người chân
thành, người như vậy cũng giúp cho những người khác giữ được chân thành. Họ làm
cho những kẻ tin tức giận, khi bày tỏ sự mỏng dòn nơi lòng tin của họ; họ làm
cho những kẻ hoài nghi tức giận, khi làm cho những người này cảm thấy sự dằn
vặt của nỗi trống rỗng trong tâm hồn.
Sau khi chế ngự được
khủng hoảng lòng tin của mình, Thánh Tôma đã tiếp tục can đảm làm chứng cho Đức
Giêsu, và trở thành một trong những nhà truyền giáo vĩ đại nhất của Giáo Hội
tiên khởi. Theo truyền thống, ngài đưa Tin Mừng tới tận Ba Tư, Syria và Ấn Độ,
là nơi ngài chịu tử đạo. Thánh Tôma là người Tông đồ đầu tiên chịu chết vì đức
tin.
Đức Giêsu mời gọi
chúng ta tiếp cận với Người trong lòng tin, và nhìn vào những vết thương của
Người. Mặc dù chúng ta không được đụng chạm vào Người về mặt thể lý, nhưng
chúng ta vẫn có thể tiến lại gần Người về mặt thiêng liêng. Và chúng ta cũng
được kêu gọi mang lời chứng đến cho những người khác. Công việc của Chúng ta là
làm cho Đức Giêsu trở thành “nhìn thấy được” trên thế giới. Các môn đệ
đầu tiên đã làm theo cách này. Một khi đã được nhìn thấy Đức Kitô, họ cảm thấy
bắt buộc phải làm cho người khác nhận biết người.
Thế giới ngày nay đầy
rẫy những kẻ hoài nghi và không tin tưởng. Cách thức duy nhất khiến cho họ được
biến đổi trong lòng tin, đó là làm như thể họ “nhìn thấy” Đức Giêsu và “đụng
chạm” vào Người thông qua những kẻ đi theo Người. Nhưng kẻ đi theo Người
lại không hề có vết thương tình yêu để bày tỏ ra cho họ, vì thế, chưa chắc có
thể thuyết phục được những kẻ không tin.
Xin cho chúng ta xứng
đáng được kể và số những người mà Đức Giêsu chúc phúc, nghĩa là “những kẻ
không thấy mà tin”
Bài giảng 3: trào lưu
chính thống
“Nếu tôi không thấy
dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, và không đặt bàn
tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”. Tôma đang tìm kiếm sự tuyệt
đối chắc chắn. Chúng ta có thể gọi ông là một người theo trào lưu chính thống.
Đối với người theo trào lưu chính thống, vấn đề chỉ là trắng hoặc đen. Nếu có
một điều gì đó chưa đích thực theo sát nguyên văn, thì đúng là điều đó không hề
có thật.
Ngày
nay,
trào lưu chính thống đang trên đà gia tăng. Vì sự thiếu chắc chắn gây ra nỗi e ngại, nên họ có rút lại vào trào lưu chính thống. Trào lưu này
có thể rất hấp dẫn. Đối với người theo trào lưu chính thống, đường lối phải
thẳng tắp, câu trả lời phải đơn giản. Nhưng trào lưu chính thống là một cách
thức nghèo nàn trong việc nhìn nhận chân lý. Điều này tước đoạt mất sự phong
phú của lòng tin, hậu quả là đưa đến một thứ tôn giáo cứng rắn, đơn giản, thuần
theo luân lý và độc đoán. Điều này làm cho người ta biến thành một đám người
chỉ đi theo đúng một đường lối, hơn là một nhóm người bao gồm những cá nhân,
mỗi người đều có câu chuyện riêng của mình để kể ra, và một đường lối đặc biệt
riêng để đi theo.
Sau đây là một câu
chuyện ngụ ngôn: có hai người đi đường tự nhận thấy mình đang giáp mặt với một
cánh rừng. Bởi vì chung quanh đó không còn một con đường nào, nên họ không còn
chọn lựa nào khác, ngoài cách phải băng qua cánh rừng đó. Tự nhiên họ cảm thấy
khiếp sợ, họ e ngại rằng mình có thể bị lạc lối trong rừng. Nhưng họ thật may
mắn khi gặp được một người gác rừng, người này đã cho họ một bản đồ vạch ra
những con đường mòn đi xuyên qua rừng.
Sau khi xem xét tấm
bản đồ, thì người thứ nhất phát hiện được một con đường mòn dường như có vẻ đi
thẳng trực tiếp nhất, và anh ta đã kiên quyết đi theo con đường mòn đó. Khi làm
như vậy, anh đã tìm kiếm được nhiều thì giờ, lo lắng và nguy hiểm. Nhưng anh ta
cũng tự làm cho mình mất đi cơ hội khám phá được vẻ phong phú cả khu rừng.
Người thứ hai nghiên
cứu từng chi tiết của tấm bản đồ một cách cẩn thận. Anh đã ghi nhận rằng những
con đường mòn chính không chỉ xuyên suốt được khu rừng, mà còn là những lối đi
ngắn hơn nhiều. Đối với anh, không nhất thiết là phải tuyệt đối theo sát tấm
bản đồ, nhưng mục đích chính của tấm bản đồ này là nhằm cung cấp cho anh những
phương hướng, đế mặc dù đang ở bất cứ chỗ nào trong rừng, anh cũng sẽ không bị
lạc lối. Khi sử dụng bản đồ theo cách này, là mở ra cho anh toàn thể khu rừng,
và giúp cho anh phát hiện được tất cả vẻ phong phú sẵn có của nó.
Khu rừng tiêu biểu cho
thế giới của chân lý. Tấm bản đồ tiêu biểu cho đức tin của người Kitô hữu.
Những con đường mòn tiêu biểu cho các học thuyết về đức tin.
Người thứ nhất tiêu
biểu cho loại người theo trào lưu chính thống. Anh ta suy nghĩ về các học
thuyết đức tin theo một cách thế hẹp hòi, theo sát từng chữ và dường như không
liên quan gì đến những gì còn lại của cuộc sống. Người thứ hai đã sử dụng cũng
những chân lý đó để cung cấp cho anh những phương hướng. Bằng cách này, những
chân lý đó mở ra tất cả cho anh. Chúng giúp anh có thể tự đắm mình vào cuộc
sống, với tất cả những nét phong phú đa dạng và tuyệt vời của nó. Chúng đem đến
cho anh một chiếc chìa khoá, để giải mã mầu nhiệm của cuộc sống.
Đức tin của người theo
trào lưu chính thống tạo ra một đường lối an toàn. Đức tin này bảo về người đó
khỏi phải làm một công việc khó nhọc, đó là đi tìm kiếm ý nghĩa và những giá
trị của bản thân mình. Nó giảm bớt cho người đó khỏi nỗi lo lắng phải đương đầu
với sự chọn lựa, với trách nhiệm, và sự thay đổi liên tục trong ý thức về bản
thân mình. Trào lưu chính thống là một đức tin đã được xác nhận bằng sự thiếu
tự tin.
Đối với một người theo
trào lưu chính thống, tôn giáo chỉ là một phần của cuộc sống. Còn đối với người
không đi theo trào lưu chính thống, tôn giáo chính là cuộc sống được nhìn và
sống theo viễn cảnh tôn giáo. Mỗi sự kiện đều được tiếp nhận gấp đôi, nếu không
muốn nói là gấp ba lần ý nghĩa, và do đó, từng sự kiện lại được phong phú hơn
và bí nhiệm hơn. Đức tin lấp đầy cuộc sống của chúng ta bằng những sự kiện mà,
nếu không có chúng, thì cuộc sống của chúng ta sẽ không có ý nghĩa, và linh hồn
của chúng ta sẽ bị khô héo và chết đi.
Đức Giêsu không cổ vũ
cho trào lưu chính thống. Người không muốn những kẻ đi theo Người cách mù
quáng. Trái lại, Người đã cố gắng mở mắt mọi người, mà không hề đe doạ hoặc ép
buộc ai cả, Người chỉ mời gọi, mong muốn người ta tự nguyện đi theo Người, bằng
tất cả sự sáng suốt của họ. Và Người còn đi đến chỗ mong muốn chúng ta có thể có được sự sống, không chỉ ở cuộc sống mai sau, mà còn
ở nơi đây, trên trái đất này nữa, để có được một cuộc sống dồi dào.
Tiếp Cận Khác: Khủng
hoảng đức tin
Tông đồ Tôma đã trải
qua một cơn khủng hoảng đức tin. Nhiều người cũng đang khủng hoảng đức tin.
Tolstoy là một con người mẫu mực, ngoại trừ cuộc sống của ông cũng đang bị một
cơn khủng hoảng về mặt ý nghĩa.
Năm 1879, ông được 51
tuổi. Ông có lý do để mãn nguyện với chính mình. Ông đã hoàn thành hai cuốn
tiểu thuyết, Chiến tranh và Hoà bình và Anna Karenina. Nếu ông không
viết một tác phẩm nào khác nữa, thì hai cuốn tiểu thuyết này đủ đảm bảo cho ông
có một vị trí xứng đáng trong cuốn sử biên niên của nền văn học thế giới. Văn
phong của hai cuốn sách này đã giúp cho ông có thể diễn tả được tính cách vĩ
đại và khả năng sáng tạo của ông. Đáng lẽ ông rất hạnh phúc. Tuy nhiên, ông lại
cảm thấy đau khổ. Ông cảm thấy cuộc sống của mình không có ý nghĩa. Có một câu
hỏi cứ lảng vảng trong ông: “Liệu có bất cứ ý nghĩa nào trong cuộc sống của
tôi sẽ không bị cái chết huỷ hoại đi chăng?”.
Đối với ông, đây là
một thời kỳ nguy hiểm và đau đớn –ông đã từng dự tính tự tử. Ông tìm kiếm một
lời giải đáp cho những câu hỏi của ông trong từng lãnh vực của kiến thức nhân
loại. Ông cứ kiên nhẫn tìm kiếm, cả ngày lẫn đêm, giống như một người đang giãy
chết tìm cách để được cứu thoát. Nhưng ông vẫn không hề tìm thấy gì cả.
Thế rồi ông quay trở
lại với niềm tin của các Kitô hữu. Ông đã từng được nuôi dưỡng trong lòng tin,
nhưng ông đã từ bỏ đức tin đó từ lâu rồi. Ông cảm thấy khó chịu đối với niềm
tin này, và coi đó như là thứ vô nghĩa lý trên môi miệng của những kẻ có cuộc
sống trái ngược hẳn với cuộc sống của ông. Nhưng khi nhìn vào những con người
sống bằng niềm tin, thì cũng chính niềm tin này lại lôi cuốn ông và dường như
gây cho ông sự xúc động.
Từ đó, ông được lôi
kéo quay trở lại với niềm tin này và ông đã nhận ra được ý nghĩa của niềm tin.
Ông nói:
“Tôi đã từng suy nghĩ
rằng trong cuộc sống, không hề có chân lý chắc chắn. Nhưng rồi tội đã tìm thấy
một nguồn ánh sáng đó từ trong Tin Mừng, và nét rạng ngời của ánh sáng đó đã làm
ngây ngất cõi lòng tôi. Trong những lời giảng dạy của Đức Giêsu, tôi nhận ra
rằng đó là một học thuyết tinh tuyền nhất và đầy đủ nhất trong cuộc đời. Từ
2000 năm nay, lời rao giảng cao cả và quý giá của Đức Giêsu đã tạo ra một ảnh
hưởng trên con người, theo cách thức mà không có bất cứ người nào khác có thể
tạo ra được. Một ánh sáng đã chiếu toả trên con người tôi và chung quanh tôi,
và kể từ đó, ánh sáng này không bỏ rơi tôi nữa”.
Một số người đã được
đưa ra vào lòng tin tôn giáo ngay từ lúc mới sinh, và theo năm tháng, họ nhận
thấy lòng tin này càng ngày càng mạnh mẽ và vẫn được duy trì. Khi có được lòng
tin như vậy, thì đó là một ơn phúc lớn lao. Nhưng đối với những người khác,
lòng tin là một cuộc đấu tranh liên lỉ. Thật vậy, có thể một số người đã phải
trải qua một cơn khủng hoảng, rồi mới đến được một lòng tin sâu xa và mang tính
cách cá nhân.
Chỉ có lòng tin mới có
thể trả lời cho những câu hỏi sâu xa nhất và quan trọng nhất trong cuộc đời.
Nhưng chúng ta không được mong đợi lòng tin soi sáng tất cả mọi sự, bởi vì
chúng ta có lòng tin, điều đó không có nghĩa là chúng ta biết được tất cả mọi
câu trả lời. Nhưng chúng ta không nhất thiết biết tất cả những câu trả lời.
Lòng tin là sự tin tưởng, chứ không phải là biết chắc chắn.
Câu chuyện của Tôma đa
nghi giúp chúng ta hiểu rằng ân sủng lòng tin được chứa đựng trong bình chứa là
con người nhân loại thật mỏng dòn biết bao. Và điều này cũng chỉ ra cho chúng
ta rằng lòng tin Kitô giáo nhất thiết phải là lòng tin đối với một Đấng đã yêu
thương chúng ta –và Người đã có những vết thương để chứng tỏ tình yêu này. Tất
cả cốt lõi của lòng tin trong Kinh Thánh không chỉ là lòng tin mà chúng ta có
được nơi Thiên Chúa, nhưng còn là lòng tin mà Thiên Chúa có nơi chúng ta.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Walter Ciszek, một
linh mục dòng Tên người Ba Lan, đã trải qua 15 năm sống trong các trại cưỡng
bức lao động tại Siberia. Trong suốt những năm tháng đó, ông thuộc về những lữ
đoàn thấp kém nhất, đã ép buộc ông phải làm những công việc bẩn thỉu nhất – đào
nền bằng tay, khiêng vác những vật liệu xây dựng nặng nề, bò qua những khu hầm
mỏ tối tăm, ẩm thấp, tại đó, chỉ cần sơ ý một chút là đủ đưa đến cái chết.
Điều gì đã giúp cho
ông tồn tại được? Ông nói “Nhiều người đã chết, đặc biệt khi mất đi niềm hy
vọng. Nhưng tôi tin tưởng nơi Thiên Chúa, và nhờ đó, không bao giờ tôi cảm thấy
mất niềm hy vọng. Không phải là tôi duy trì được lòng tin, nhưng chính lòng tin
đã giúp tôi tồn tại”.
Hạnh phúc cho những ai
có được một lòng tin như thế.
15. Đức tin ngọn đuốc cuộc đời - Cố Lm Hồng Phúc
Ngày Chúa nhật là
“ngày của Thiên Chúa”, là một lễ Phục Sinh.
Viết đoạn Phúc Âm này
sau 60 năm sự kiện xảy ra, Thánh Gioan Tông đồ cảm thấy như còn thật mới mẻ
sống động, một biến cố mà mình là nhân chứng.
Câu chuyện muốn nói
lên rằng Chúa Giêsu sống lại chính là Đấng trước đây, nhưng cũng khác trước
đây. Gioan đã nhìn thấy Ngài bị đâm thấu cạnh sườn trên Thập giá (19,34) thì
hôm nay, Ngài tỏ cho thấy vết thương nơi tay và cạnh sườn. Chính là Ngài, nhưng
Ngài đã đi vào một cõi sống mới, không lệ thuộc không gian và thời gian. Ngài
đem đến sự bình an và vui mừng. Chúa đã sống lại.
Chúa đã hoàn tất công
cuộc cứu chuộc bằng sự chết và sự sống lại của Ngài. Hôm nay, Ngài đến để trao
cho các ông sứ mạng phổ cập ơn cứu rỗi đó. “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai
chúng con”. Sứ mạng biệt sai phát xuất từ Thiên Chúa Ba Ngôi. Ngài thổi hơi và
phán: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”. Một trong mục đích của cuộc biệt sai
là ban ơn tha thứ: “Các con tha tội ai thì tội kẻ ấy được tha; các con cầm tội
ai, thì tội người ấy bị cầm lại”.
Ơn tha tội được bảo
đảm bằng sự chết và sống lại của Chúa Giêsu, qua Chúa Giêsu và nhờ Chúa Giêsu,
nhưng cũng qua trung gian của Giáo hội: tha cho ai, cầm buộc ai, kẻ ấy được tha
hay bị cầm buộc. Thật là một quyền năng lớn lao và vĩ đại.
Sự kiện xảy ra chiều
Phục Sinh.
Nhưng hôm ấy, trong
nhóm môn đệ, thiếu mặt Tôma, một người không phải là dễ bảo.
Người ta thường dùng
giác quan để tiếp xúc với ngoại giới, mắt thấy, tai nghe, tay sờ đụng. Người ta
dùng lý trí để lý luận, kiểm chứng. Nhưng người ta cũng có thể dựa trên niềm
tin để tăng phần kiến thức.
Khi nghe các bạn cho
biết họ đã nhìn thấy Thầy vì Thầy đã sống lại, Tôma không tin. Là người thực tế
ông muốn được kiểm chứng bằng giác quan, mắt thấy tai nghe, tay sờ đụng, ông
mới tin.
Tám ngày sau, Chúa
Giêsu lại hiện ra với các môn đệ, có Tôma ở với các ông. Chúa Giêsu cho Tôma và
qua Tôma cho chúng ta, một bài học về Đức Tin. TIN không phải là nhìn thấy, sờ
đụng, mà là dựa trên chứng từ những kẻ đã “thấy” và “chiêm gưỡng” vinh quang
của Chúa. Niềm tin vào mầu nhiệm sống lại của chúng ta dựa trên chứng tích của
các Tông đồ và của Giáo hội. Trong bài giảng đầu tiên, Phêrô tuyên bố: “Đức
Giêsu, Thiên Chúa đã cho sống lại; chúng tôi hết thảy xin làm chứng về điều ấy”
(Cv 2, 32).
Đó là căn bản nhưng
cũng là phần thưởng của Đức Tin: “Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”, và
nhờ đó chúng ta được sống nhờ danh Ngài.
Hồi ấy, dân chúng đồn
thổi và kéo nhau đi xem một phép lạ Phép Thánh Thể. Có người mời Vua Thánh
Louis (1214-1270) cùng đi xem. Thánh nhân từ chối vì “không muốn mất phần
thưởng về Đức Tin”.
Chúng ta hãy cám ơn
Chúa đã ban cho chúng ta ơn Đức Tin và hãy gìn giữ, bám víu lấy Đức Tin, ngọn
đuốc soi sáng ta trên cuộc đời đen tối.
Lạy Chúa, xin ban thêm
lòng tin cho chúng con.
16. Chúa
có mắt không -
Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
Cách đây khoảng 104
năm, vào Chúa nhật thứ nhất sau lễ Phục sinh, tức Chúa nhật Quasimodo, chiếc
tàu Titanic đã chìm xuống lòng biển Đại tây dương mang theo trên một ngàn sinh
mạng. Rất nhiều chi tiết liên quan đến con tàu định mệnh đã được báo chí đăng
tải, nhưng có một chi tiết rất đáng chú ý: ngay phần hông tàu phía dưới mặt
nước là dòng chữ “No God, no Pope” (Không Thiên Chúa, không Giáo hoàng).
Dường như khi khoa học
kỹ thuật càng phát triển con người càng đánh mất niềm tin vào Thượng đế. Lắm kẻ
dám nói: không có Thiên Chúa, vì họ có thấy đâu. Họ chỉ tin khi nào khoa học
chứng minh điều đó. Nói cách khác, họ muốn tiếp cận với Thiên Chúa qua phương
pháp khoa học thực nghiệm, nghĩa là bằng thấy, sờ, lý luận, phân tích, và xác minh.
Những đòi hỏi như thế
đâu phải chỉ mới xuất hiện sau những tiến bộ vượt bậc của khoa học hôm nay.
Đúng ra nó đã xuất hiện cách đây hai ngàn năm rồi. Khi mà người ta đòi phải
thấy được Chúa nhãn tiền, sờ được Ngài, thọc tay vào lỗ đinh, xác quyết tường tận
Đấng đã chết trên thập giá mà nay sống lại. Đó không phải là một niềm tin đòi
được xét nghiệm bằng khoa học à?
Nhưng đức tin đâu có
nằm trong phạm trù khoa học. Khoa học chỉ nghiên cứu các dữ kiện, định luật và
nguyên nhân thuộc phạm vi vật chất. Ngoài đó nó không có chỗ đứng. Nói như thế
không có nghĩa là khoa học chẳng dính dáng gì đến niềm tin và niềm tin không
cần đến khoa học. Trái lại nếu thành tâm sử dụng thì khoa học vẫn là một phương
thế rất tốt giúp con người khám phá sâu rộng sự hiện hữu của Thiên Chúa. Còn
càng tự mãn trong khoa học người ta sẽ càng rời xa chân lý tuyệt đối.
Chuyện kể về một bác
học người Pháp muốn làm một cuộc nghiên cứu trong sa mạc. Ông chọn mấy người Ả
rập làm hướng dẫn viên. Một buổi chiều, khi mặt trời sắp lặn, một người trong
nhóm dẫn đường trải tấm thảm xuống cát và ngồi lên đó trong dáng điệu trầm tư.
Thấy thế nhà bác học buộc miệng hỏi:
- “Ngươi làm gì thế?”
- “Dạ, tôi cầu
nguyện,” người kia trả lời.
- “Cầu nguyện à, thời
buổi này mà còn cầu nguyện à, vậy ra ngươi còn tin có Thiên Chúa? Mà ngươi đã
thấy Chúa chưa,” Nhà bác học như muốn bắt bẻ.
- “Dạ chưa.”
- “Vậy ngươi nghe Chúa
nói chưa?”
- “Dạ chưa.”
- “Vậy ngươi đã sờ
chạm được Chúa chưa?”
- “Dạ chưa,” người
hướng dẫn khiêm tốn trả lời.
- “Nếu thế thì ngươi
là một tên điên khi tin vào một Thiên Chúa mà chưa bao giờ thấy, không bao giờ
nghe, và cũng chẳng bao giờ đụng đến.”
Thế rồi mọi người đi
ngủ. Sáng hôm sau, trước lúc hừng đông, nhà thông thái vừa bước ra khỏi lều đã
vội kêu lên:
- “Ồ, tối hôm qua có
một con lạc đà đi qua nơi này!”
Người hướng dẫn viên
trợn mắt kinh ngạc:
- “Vậy chứ Ngài thấy
con lạc đà đó đi qua đây à?”
- “Không,” nhà thông
thái tự đắc trả lời.
- “Vậy chứ Ngài đụng
phải nó à?”
- “Không.”
- “Vậy chứ ngài nghe
nó kêu à?”
- “Không.”
Người hướng dẫn reo
lên:
- “Thế thì ngài là kẻ
điên khi tin có một con lạc đà mà ngài không thấy, không nghe, và không đụng
đến.”
Nhà thông thái đáp
lại:
- “Nhưng ta biết được
qua những dấu chân còn trên cát của nó kia kìa.”
Ngay lúc đó mặt trời
mọc lên, toả muôn tia sáng rực rỡ lung linh. Người hướng dẫn viên liền chỉ tay
về phía mặt trời và nói: “Thế thì tôi cũng nhìn vào cái dấu vết kia để thấy
rằng có một Thiên Chúa đang đi qua cuộc đời.”
Không ít người đã dùng
những khám phá của khoa học để tuyên bố không có Thiên Chúa, chỉ có con người
là chúa vũ trụ, và niềm tin thượng đế đang bị khoa học bóp chết. Thế nhưng,
cùng lúc đó lại có rất nhiều người, qua khoa học, nhìn thấy thế giới này sao có
nhiều điều bí ẩn, kỳ lạ, siêu vời mà tài sức con người chỉ mới vén mở được một
phần rất bé. Từ đó họ càng nhận rõ dung mạo của một Đấng siêu vượt trên vũ trụ,
khoa học, và tất cả-Đấng mà người Kitô hữu tin là nguyên lý siêu đẳng đã tạo
nên trời đất bao la.
Thế nhưng cũng không
ít người đặt vấn đề: nếu Thiên Chúa hiện hữu thì Thiên Chúa không phải là một
Đấng yêu thương, vì nếu yêu thương, cớ sao Ngài lại để cho thế giới gặp nhiều
bất hạnh khổ đau? Tại sao Thiên Chúa không can thiệp, loại trừ những tác oai
tác quái của nó?
Nói như thế thì chẳng
khác chi tự dưng phủ nhận và khước từ sự sống. Vì có sự sống nào phát sinh mà
không có sự đau đớn. Có chồi non nào mọc lên mà nhánh cây hay hạt giống đã
không phải chịu nứt toác thân mình.
Nhưng điều cần nói
không phải là cứ trước những gian nan trắc trở khổ đau của cuộc đời mà cho là
không có Thiên Chúa, hay Thiên Chúa độc ác, bất lực, không biết yêu thương.
Song điểm đáng ghi nhận chính là: người càng tin tưởng Thiên Chúa càng có sức
mạnh để mang vác gánh nặng của cuộc đời; những ai mà tâm càng thành lòng càng
trong thì càng dễ cảm nghiệm và tin tưởng vào Chúa hơn, cho dù gánh khổ của
cuộc đời không vơi đi chút nào và cảnh chướng tai gai mắt vẫn còn đó.
Tôi vẫn thích nhắc đến
câu chuyện “Chúa Có Mắt Không” khi nói về những sự ngang trái trong đời: Một
buổi sáng đẹp trời nọ, một thầy dòng bước ra vườn cây, vừa dạo cảnh thiên nhiên
vừa cầu nguyện. Đứng trước hàng cây chôm chôm, nhìn những chùm trái nho nhỏ
xinh xinh, bên cạnh đó là gốc bí với những hàng quả thật lớn bám trên những
chiếc dây leo mỏng manh, bất chợt thầy nghĩ: “Chẳng biết Chúa có mắt không! Tại
sao những trái chôm chôm bé tí teo kia lại mọc trên những cành cây cứng cáp
chắc chắn, còn mấy trái bí khổng lồ như thế này lại bám vào những dây leo tí
tẹo? Chẳng hợp tình hợp lý chút nào. Tại sao thứ mình thích thì lại nhỏ xíu,
còn thứ không thích thì cứ to ơi là to?”
Trưa đó, sau lúc dạo
và gặp phải ngày thời tiết nóng nực, thầy nằm hóng mát dưới một gốc cây và thiu
thiu ngủ lúc nào không hay. Một làn gió thoảng qua. Cành lá rung động. Chợt một
trái chôm chôm khô rơi trúng đầu thầy. Giật mình bật dậy. Rồi như vừa tỉnh khỏi
cơn mộng thầy quì xuống cầu nguyện: “Ôi lạy Chúa, may mà Chúa có mắt, chứ để
trái chôm chôm to bằng trái bí thì còn gì cái đầu của con.”
Thiên Chúa biết rõ
những gì tốt nhất cho chúng ta. Ngài luôn làm mọi sự vì yêu thương con người.
Vấn đề không phải là có Thiên Chúa không; Ngài có mắt hay có tai không; nhưng
vấn đề là con người có mở mắt, mở lòng, mở tai để nhận ra sự hiện diện yêu
thương và bàn tay quyền năng của Ngài không thôi. Trước một sự cố trong đời, có
kẻ chống Chúa, từ Chúa, nhưng cũng có người tin yêu gắn bó với Ngài hơn. Thử
hỏi bạn đang thuộc hạng người nào.
Lời của vị tu sĩ “Ôi
lạy Chúa, may mà Chúa có mắt” sao nghe giống lời của Tôma quá. Theo sự tường
thuật của Thánh Kinh, chẳng thấy Tôma nhìn vào vết đinh trên tay Chúa, cũng
không xỏ bàn tay vào cạnh sườn Ngài, nhưng ông lại cảm nghiệm được sự hiện hữu
của Thiên Chúa cách rõ ràng.
“Lạy Chúa tôi, lạy
Thiên Chúa của tôi” hay “Lạy Chúa, đúng là Chúa có mắt” chính là những lời
tuyên xưng đức tin một cách sống động và hùng hồn vô cùng.
Thiết tưởng đời người
Kitô hữu cũng nên thấm được niềm xác tín vững vàng như thế. Dù đứng trước phong
ba bão táp, dù phải khốn đốn vì bao thăng trầm của cuộc đời, hãy cứ tin tưởng
rằng Thiên Chúa luôn hiện hữu bên ta, rất nhẹ nhàng và rất quyền năng: nhẹ
nhàng như làn gió lay động nhành lá trong vườn, và quyền năng như lúc cửa đóng
kín mà Ngài vẫn đến được với các tông đồ.
17. Tần số tình yêu – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy
Đã Yêu’)
Người cha dắt đứa con
nhỏ đi dạo ngang qua một đài phát thanh của thành phố. Đứa bé chỉ ngọn tháp cao
vút hỏi người cha: - Ba ơi! Cái tháp đó để làm gì vậy?
Người cha giải thích:
- Con ạ! Đó là ăng-ten của đài phát thanh, hàng giây hàng phút nó phát đi những
tin tức, âm nhạc và các chương trình hữu ích cho đại chúng.
- Nhưng thưa ba, con
có nghe thấy gì đâu!
- Muốn nghe được những
thông tin và các chương trình bổ ích đó, con chỉ cần có một cái máy thu thanh
thật tốt, mở đúng tần số là con sẽ nghe rõ ràng, như cha con mình đang nói
chuyện với nhau đây!
Chiều Phục Sinh đầu
tiên, Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ, vắng mặt Tôma, một con người thực tế,
muốn kiểm chứng bằng mắt thấy, tai nghe, tay sờ thì mới tin. Tám ngày sau, Đấng
Phục Sinh lại hiện ra với các ông, có cả Tôma. Người gọi đích danh ông: “Tôma,
hãy nhìn xem tay Thầy, hãy đặt ngón tay vào cạnh sườn Thầy. Đứng cứng lòng nữa,
nhưng hãy tin” (Ga 20,27). Ông chỉ còn biết run sợ mà thưa với Người: “Lạy
Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28).
Tại sao Gioan chỉ cần
nhìn thấy ngôi mộ trống và tấm khăn liệm xếp gọn gàng là ông đã tin Thầy sống
lại, còn Tôma đã được các môn đệ làm chứng Thầy đã phục sinh mà ông lại không
tin. Vậy điều khác nhau cơ bản giữa Gioan và Tôma chính là chiếc máy thu thanh
của Tôma không mở đúng tần số, đó là tần số Tình Yêu, tần số của con tim. Tôma
đòi phải xỏ tay vào lỗ đinh ở chân tay Thầy ông mới tin; còn Gioan, không cần
thấy Thầy bằng con mắt thịt nhưng bằng con mắt đức tin, con mắt tình yêu. Chính
tình yêu đã khiến Gioan chạy đến mộ Thầy nhanh hơn Phêrô, chính tình yêu đã mở
mắt cho Gioan nhận ra Thầy đầu tiên trên bờ biển Galilê, chính tình yêu đã làm
cho ông trở nên “người môn đệ Đức Giêsu thương mến” (Ga 21,7).
Tại sao Phêrô và Gioan
đều thấy mộ trống và khăn liệm, mà Phêrô thì “rất đỗi ngạc nhiên” còn
Gioan thì “Ông đã thấy và ông đã tin”? (Ga 20,8). Vì thế, Phêrô phải cố
gắng vượt qua những dấu chỉ khả giác để đến với niềm tin, và Tôma cũng phải
vượt qua cái nhìn của giác quan để đến với cái thấy của đức tin. Nhưng Đức
Giêsu đã nói: “Phúc thay những người đã không thấy mà tin!” (Ga 20,29).
Đó cũng chính là phần thưởng của đức tin.
Sở dĩ Gioan nhận ra sự
kiện ngôi mộ trống và khăn liệm như dấu chỉ của sự phục sinh, là vì ông đã nhớ
lại lời Kinh Thánh: “ngày thứ ba, (Người) sẽ cho chúng ta chỗi dậy” (Hs
6,2) và phép lạ “ông Giôna ở trong bụng cá ba ngày ba đêm” (Gn 2,1).
Vâng, chính Kinh Thánh sẽ soi sáng, hướng dẫn chúng ta nhận ra những dấu chỉ
của Thiên Chúa trong mỗi biến cố hằng ngày.
Niềm tin vào mầu nhiệm
phục sinh của chúng ta hôm nay không phải là một niềm tin mơ hồ, mà là một niềm
xác tín vào lời chứng chắc chắn của các Tông Đồ qua Kinh Thánh. Trong bài giảng
đầu tiên của ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô đứng chung với mười một Tông Đồ lớn tiếng
tuyên bố rằng: “chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều
này, tất cả chúng tôi xin làm chứng” (Cv 2,32). Vâng, chính sự phục sinh
của Đức Giêsu đã bảo đảm cho niềm tin của chúng ta. Thánh Phaolô viết: “Nếu
Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em
vẫn còn sống trong tội lỗi của mình” (1Cr 15,17).
Lạy Chúa, xin ban cho
chúng con tình yêu nhiều hơn nữa, để chúng con tin Chúa mãnh liệt hơn.
Xin dạy chúng con biết
siêng năng suy niệm Lời Chúa, để Lời Chúa mãi là đèn soi cho chúng con bước, là
ánh sáng chỉ đường chúng con đi. Amen.
18. Nỗi oan Tôma - ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống.
Đối với phần đông tín
hữu Việt Nam, danh xưng Tôma khơi gợi về một thái độ, rất riêng tư nhưng cũng
rất điển hình, chẳng những không tích cực mà xem ra còn để lại nhiều tai tiếng.
Gặp một tâm hồn cứng cỏi trước những biểu cảm của niềm tin, người ta đã khéo ví
von “cứng lòng như Tôma”; thấy ai biểu lộ do dự hoặc nghi ngờ trước những sự
kiện tôn giáo, người ta đã vội đưa vào gia phả “con cháu thánh Tôma”. Kể cũng
oan.
Thật ra, đi liền với
danh xưng Tôma lại là một bài học dẫn đến niềm tin, và cũng còn đó lời gọi sống
sao cho mối phúc thứ chín, như người ta gọi về lời Chúa Giêsu kết thúc trang
Tin Mừng hôm nay “Phúc cho kẻ không thấy mà tin”, được trở thành hiện thực
trong đời mỗi Kitô hữu.
1. LẠY CHÚA TÔI, LẠY THIÊN
CHÚA CỦA TÔI
Niềm tin của Tôma vào
Đấng Phục Sinh là cả một chặng đường trong đó yếu tố trước hết chính là cộng
đoàn: “Chúng tôi đã được thấy Chúa”. Chính vì chứng từ của cộng đoàn này mà
Tôma đã tự vấn để rồi sau đó mới đi tới đức tin. Ngay việc các môn đồ hội họp
vào ngày thứ nhất trong tuần cùng với lời chúc bình an của Đấng Phục Sinh, làm
bối cảnh hình thành truyện Tôma, cũng cho thấy vai trò của cộng đoàn trong việc
khai sinh đức tin nơi một người.
Nhưng yếu tố chủ động
hơn phải được tìm thấy trong phản tỉnh của cá nhân ông. “Nếu tôi không thấy…
tôi không tin”. Câu nói tự phát ấy đã trở thành tai tiếng khiến nhiều người
nghĩ rằng Tôma là một kẻ cứng đầu cứng cổ, đòi hỏi, nghi ngờ. Nhưng thực ra,
ông là người thực tiễn. Chính nhờ ông lên tiếng mà ta mới thấy rõ hơn thế nào
là trăn trở của đức tin thuở ban đầu và thế nào là nỗ lực cá nhân làm cho niềm
tin có được bản sắc riêng không thể lẫn với người khác. Nếu hôm trước Tôma đòi
thấy mới tin, thì tám ngày sau, qua tiếp xúc cá nhân với Đấng Phục Sinh, ông đã
tuyên xưng không phải bằng công thức chung nữa, mà bằng một cách rất riêng làm
thành đỉnh cao tuyên tín Phục Sinh: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.
Và niềm tin chỉ có thể
đạt được kết quả khi có yếu tố quyết định chính là hồng ân Thiên Chúa, như một
bao trùm từ khởi sự cho đến hoàn thành. Nguyện vọng của Tôma xem ra ngược ngạo,
nhưng đã được Đức Giêsu thanh luyện, để cuối cùng khi dâng lời tuyên tín, cũng
là lúc ông được dẫn vào một nhận thức mới mẻ hoàn toàn. Thay vì phải thấy mới
tin, ông nhận ra rằng phải tin mới thấy trọn vẹn: thấy Đấng Phục sinh và con
người Giêsu cũng là một, thấy Đấng Phục sinh rốt cuộc là Chúa và là Thiên Chúa
của mình, và thấy niềm tin vượt lên tất cả sẽ trở thành hạnh phúc.
2. ĐỪNG CỨNG LÒNG,
NHƯNG HÃY TIN
Chuyện lòng riêng của
Tôma cũng là chuyện lòng chung của muôn lòng tín hữu. Từ nỗi oan Tôma, ngày nay
người ta hiểu hơn rằng niềm tin không phải là một yếu tố đơn thuần, mà là một
tổng hợp giữa ơn thánh và nghị lực con người, trong đó có cộng đoàn và mỗi cá
nhân.
Chỉ dựa vào ơn thánh,
người ta có nguy cơ rơi vào thái độ coi mọi sự là bởi Chúa nên không cần phải
đào sâu tìm hiểu nữa. Có biết đâu tin như thế là không còn tin nữa, mà một cách
nào đó đã là cả tin. Vì tin tất cả nên cả tin, hay vì cả tin nên tin tất cả? Chỉ
dựa vào lý trí, người ta lại có nguy cơ khác là thái độ muốn giới hạn tri thức
về thực tại và tiêu chuẩn của kinh nghiệm khả giác hoặc khả năng suy luận:
những gì không hiểu, không đo lường sờ chạm, đều bị chối từ. Có biết đâu tin
như thế cũng không còn là tin nữa, mà xem ra lại gần với sự bất tín! Nếu chỉ
dựa vào cộng đoàn thôi, người ta còn có thêm một nguy cơ nữa là thái độ tiêu
cực. Bên ngoài có vẻ ngoan ngùy, nhưng thực chất là dấu hiệu của một niềm tin
hời hợt. Lúc đạo giáo hưng thịnh xem ra không có vấn đề, nhưng khi sự đạo phải
bước vào thầm lặng thì biết đâu bởi vì dễ tin nên cũng dễ bỏ niềm tin trước bất
cứ ai?
Thành ra, phải xem
trường hợp Tôma như một kinh nghiệm, và cần xem chặng đường niềm tin của ông
như một kinh điển cho niềm tin đang dấn bước đi trong cuộc sống. Đừng cứng
lòng! Phải chăng là lời gọi hãy xa đi những thái độ không phù hợp, để chẳng
những tránh được khủng hoảng, mà dường như còn nghe lại từng ngày lời ân cần đã
một lần ngỏ với Tôma ở cuối chặng đường gặp gỡ: “Nhưng hãy tin!”
3. PHÚC CHO KẺ KHÔNG
THẤY MÀ TIN
Cũng từ nỗi oan Tôma,
tín hữu hôm nay cảm nhận hơn niềm vui trong đức tin của mình. Niềm vui của Tôma
là được thấy Chúa nên tin, còn niềm vui của đời tín hữu lại là tin để được thấy
Chúa. Tin như thế là một hạnh phúc.
Trong hạnh phúc ấy,
sau này các tông đồ đã qui tụ cho Chúa những kẻ tin, và những kẻ tin sơ khai đã
vui mừng cử hành niềm tin của mình một cách sống động, không những qua nghi
thức phụng vụ, mà còn qua cách sống cộng đoàn biết chia sẻ và phục vụ lẫn nhau,
và niềm hạnh phúc, cuối cùng, sẽ là sức mạnh chiến thắng.
Nhưng với kẻ tin hôm
nay, tất cả vẫn còn ở phía trước. Bổn phận của ta là phải khổ công vun đắp niềm
tin của mình sao cho thắm đượm hồng ân Thiên Chúa mà vẫn không quên nỗ lực đóng
góp của con người, sao cho chan hòa với nhịp sống cộng đoàn mà vẫn không triệt
tiêu bản sắc cá nhân. Và một khi niềm tin muốn khơi dậy niềm tin, thì cái bổn
phận kia đã trở thành trách nhiệm loan báo hạnh phúc cho những người đồng thời.
Tuy nhiên, phải thú
nhận rằng niềm tin hạnh phúc ấy còn lắm nhạt nhòa. Đó đây trong nhịp sống chung
Giáo Hội cũng như trong nếp sống riêng mỗi tín hữu, vẫn có thể có những lúc
ngại tin hoặc chậm tin vào điều mình không thấy. Nhất là phải hy sinh những
hạnh phúc chính đáng thấy được để vươn đến một thứ hạnh phúc ở ngoài tầm nhìn
khả giác. Quả là vất vả. Nhưng chính lúc ấy, Tôma xuất hiện như một người bạn
tri âm, như một người thầy đã từng trải nghiệm. Và lời Đức Giêsu nói với ông
lại trở thành lời vỗ về đem lại sức mạnh. Nghe trong mối phúc thứ chín có lời
dặn dò: muốn thấy điều mình tin, hãy bắt đầu bằng cách tin điều mình không
thấy; và chừng như cũng có lời ước hẹn:tin điều mình không thấy sẽ được thấy
điều mình tin.
Ngày nay nỗi oan Tôma
vẫn còn đó. Một mình ông chịu tai tiếng để sau này người ta biết đường mà
tránh. Một mình ông chịu quở là cứng lòng tin để tín hữu hiểu rằng phải vượt
trên những điều nhìn thấy mới gặp được lối đi hạnh phúc của niềm tin. Và như
thế, liệu ta có thể bảo rằng nỗi oan Tôma là một nỗi oan hạnh phúc? Cùng với
mầu nhiệm đức tin khi bánh rượu được truyền phép hôm nay, ta sẽ lặp lại lời
tuyên xưng của Tôma. Để xin thêm đức tin cho những tấm lòng còn nghi ngại, củng
cố đức tin cho những người đang yếu đuối, và xin được hạnh phúc cho mọi kẻ tin.
19. Dấu chứng Phục Sinh
(Trích trong ‘Niềm Vui
Chia Sẻ’)
“Nếu tôi không thấy
dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay
vào cạnh sườn Ngài, tôi chẳng có tin”. Đó là thách thức của tông đồ Tôma. Đó cũng là
đòi hỏi của con người khoa học thực nghiệm ngày nay: phải thấy, phải đụng chạm,
phải kiểm nghiệm được mới tin.
Ngày 23 thánh 9 năm
1968, cha Piô, linh mục nổi tiếng dòng Capucinô đã qua đời trong một tu viện
tại Italia. Suốt 50 năm cha Piô mang năm dấu thánh, nghĩa là trên hai tay, hai
chân và ngực ngài được in năm vết thương của Chúa Giêsu. Những vết thương mà
Chúa Phục Sinh đã tỏ cho ông Tôma tông đồ trong Tin Mừng hôm nay. Nhiều người
trên khắp thế giới đã đến xưng tội với vị linh mục thánh thiện này và tham dự
thánh lễ cha cử hành. Khi cha Piô dâng lễ, cả ngài và dân chúng đều nhận thức
rõ ràng ngài mang trên thân thể ngài những dấu thương tích mà Chúa đã chịu trên
thập giá, những vết thương làm cha đau đớn khôn tả. Thỉnh thoảng những giọt máu
rỉ ra trên tay của cha, hai tay chỉ để trần khi dâng lễ. Lúc khác, hai tay ngài
được bao lại trong đôi gang tay màu nâu. Khi dâng lễ, ngài thường gồng như một
người vác thập giá. Ngài thường khóc khi nhìn thánh Thể, mặt ngài như thiên
thần, nhưng người có mặt cảm thấy bình an.
Với một số người, câu
chuyện của cha Piô coi như chuyện đạo đức giả tưởng ở thời Trung cổ. Nhưng thực
ra đây là một con người của Chúa sống trong thế kỷ của chúng ta. Hằng trăm ngàn
người thuộc đủ mọi tín ngưỡng hay không tín ngưỡng đã thấy tận mắt, đã đến thăm
viếng ngài. Ngài cũng chịu đủ mọi khám nghiệm y khoa cũng như khoa học. Tất cả
đều chứng minh rằng không có lối giải thích tự nhiên nào đối với các vết thương
trên cơ thể ngài. Và cũng không có cách nào chữa trị được.
Chúa chọn vị linh mục
thánh thiện này để chia sẻ nỗi khổ thể xác của Con Chúa. Để làm cho sự chia sẻ
này hiển nhiên hơn, xúc động hơn, Chúa đã để cho xuất hiện những vết thương
trên thân xác cha Piô. Và trong lịch sử đã có hàng trăm người khác cũng đã được
in dấu thánh, đặc biệt là cha Thánh Phanxicô thành Assisi, để họ trở nên những
nhân chứng sống động cho cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Đức Ktô.
Chúa Kitô Phục Sinh là
một Tin Mừng, nhưng là một Tin Mừng không dễ tin, đặc biệt đối với những người
theo Chúa, như các tông đồ. Nguyên sự kiện ngôi mồ trống không đủ bằng chứng để
họ tin. Cần phải có những lần hiện ra của Chúa Giêsu mới củng cố được lòng tin
của các ông. Thánh Gioan đã ghi lại câu chuyện Chúa hiện ra cho các tông đồ và
cho Tôma là để chúng ta tin. Thế nhưng, trong những lần hiện ra đó, cái gì đã
giúp cho những người thân của Chúa Giêsu nhận ra Ngài? Có thể là một tiếng gọi
(với Maria), một cử chỉ bẻ bánh (với hai môn đệ Emmau) hoặc cũng có thể là một
phép lạ xẩy ra theo lệnh truyền của Chúa (như mẻ cá đầy ở biển hồ Tibêria),
nhưng đặc biệt là những thương tích nơi tay chân và cạnh sườn của Ngài. Ông
Tôma đã thưa cùng với Chúa: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con” khi Chúa Giêsu
cho ông thấy những dấu đinh của cuộc khổ nạn trên thân thể Ngài và nói với ông
những lời không thể ngờ được: “Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy.
Đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin!”.
Như thế, dấu chỉ để
người nhận ra Chúa Phục Sinh không phải là vinh quang chói lọi hay cái gì khác,
mà là chính dấu đinh. Nếu chính Đứng Phục Sinh vinh hiển đã không
muốn dùng vinh quang và sức mạnh chiến thắng của mình mà khuất phục thế gian,
thì phương chi là chúng ta. và nếu Chúa đã muốn dùng những dấu đinh nơi chân
tay và cạnh sườn làm những dấu chứng phục sinh, thì mỗi người chúng ta cũng
không có dấu chỉ nào ý nghĩa hơn là những vết thương của các cuộc khổ nạn mà
chúng ta có thể đã, đang và sẽ còn chia sẻ với Chúa. Chính với những dấu chỉ
này mà chúng ta có thể làm chứng cho Chuá Phục Sinh một cách sống động nhất. Từ
hơn 2000 năm nay, Thánh giá mới thực sự là biểu hiện vinh quang, và dấu đinh
mới là dấu chỉ của Chúa Phục Sinh. Hãy nhận ra Chúa nơi năm dấu thánh, chứ
không phải trong ánh hào quang. Chúa Kitô thực sự là “người” khi “đầu đội vòng
gai, mình mặc áo đỏ” (Ga 19,5) nghĩa là khi Ngài bị đánh đập sỉ vả; Ngài thực
sự là “Chúa” khi bị đóng đinh trên thập giá. Ngày nay Ngài cũng vẫn đang hiện
diện giữa chúng ta như là “người” và là “Chúa” trong những người anh em bị đau
khổ, bị ngược đãi, sỉ nhục, bị tù đày, tra tấn, bị đói khát, trần truồng, bị chối
bỏ, bị giết vì tình yêu Thiên Chúa và tình yêu nhân loại.
Nhưng thưa anh chị em,
Giáo hội nói chung và
mỗi người tín hữu chúng ta nói riêng có sẵn sàng mang dấu tích của Chúa Phục
Sinh, có sẵn sàng trở nên khí cụ bình an của Chúa hay không? Nói khác đi, chúng
ta có sẵn sàng chịu đau khổ, chịu đóng đinh để làm chứng cho Chúa Phục Sinh
không? Có sẵn sàng hoà giải nhân loại với Chúa, hoà giải nhân loại với nhau,
bằng những hy sinh và cả giá máu mà chúng ta phải sẵn sàng đổ ra hay không?
Con người ngày nay không
dễ tin. Họ cũng đòi hỏi như ông Tôma, phải được trông thấy, phải được kiểm
nghiệm, phải có dấu chứng khả giác mới chịu tin. Chúng ta có nghiệm vụ trình
bày cho họ thấy rõ khuôn mặt thật của Chúa Phục Sinh. Làm sao họ có thể nhận ra
khuôn mặt của Chúa Giêsu, nếu họ không nhìn thấy những vết thương, những chứng
tích của Chúa Kitô đóng đinh nơi tay chân, nơi thân xác, nơi cuộc sống cuả
người Kitô hữu? Làm sao họ có thể tin được, nếu họ không thấy chứng tích của
những bàn tay chai cứng vì lao động, của những khuôn mặt đẫm mồ hôi vì phục vụ,
của những cuộc đời xả thân hy sinh cho tha nhân? Làm sao có thể tin được, nếu
họ không thấy dấu chứng của cộng đoàn Kitô hữu tương tự như cộng đoàn Kitô hữu
tiên khởi ở Giêrusalem sau ngày Chúa Phục Sinh theo sách Công vụ mô tả: “Những
kẻ tin, muôn người như một, chuyện cần với lời giảng dạy của các tông đồ, hiệp
nhất và cùng chung lo cho người nghèo khó bằng cách để chung tiền của, họ đồng
tâm nhất trí chia sẻ bánh thánh và cầu nguyện”. Đời sống chứng tá đó đã
thu hút những người không tin, nên “số những người tin Chúa mỗi ngày càng thêm
đông” (X. Cv 4,32-35; 2,42-47). Đó chính là chứng tích của tình yêu. Con người
ngày nay cũng đang đòi kiểm nghiệm những chứng tích tình yêu của cộng đoàn Kitô
hữu chúng ta. Đạo của anh là đạo tình yêu ư? Xin đừng nói nhiều, hãy cho tôi
xem những chững chứng tích tình yêu của anh đi!
Ước gì mỗi người chúng
ta đều mang những chứng tích tình yêu của Chúa Kitô đóng đinh trên tay chân,
trên thân xác, trong cuộc sống… để chia sẻ với Chúa Giêsu những vết thương của
các cuộc khổ nạn đang diễn ra trên thế giới ngày nay, nhờ đó chúng ta mới có
thể làm chứng cho chiến thắng vinh quang của Chúa Kitô Phục Sinh.
20. Niềm tin Chúa Phục Sinh – Noel Quesson.
“Nếu tôi không thấy
dấu đinh ở tay Người… và không đặt tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”.
Một hôm ma quỷ muốn
cám dỗ Thánh Martinô vào đường sai lạc, hắn hiện hình một vị vua oai phong đến
bảo Thánh nhân:
- Hỡi Martinô, Cha cám
ơn con đã tin Cha. Con biết rằng Cha luôn tin tưởng con. Cha mong từ nay con
luôn ở bên Cha và tín nhiệm vào Cha.
Martinô chăm chú nhìn
vào ông vua và hỏi:
- Nhưng thưa ông, ông
là ai vậy?
Ông vua đáp:
- Ta là Đấng Kitô đây
mà!
Martinô lại hỏi:
- Vậy thì những vết
thương bị đóng đinh ở tay chân Ngài đâu?
- Ta từ vinh quang
trên trời xuống, nên đâu còn thương tích gì.
Martinô nói:
- Tôi không muốn nhìn
Đức Kitô không thương tích.
Vua quỷ liền biến mất.
Đức Kitô khi đã Phục
sinh vẫn giữ những thương tích của cuộc khổ nạn và những lần xuất hiện đầu
tiên, Chúa thường cho các môn đệ xem những thương tích này để họ dễ nhận ra
Chúa và cũng để nhắc lại cái chết với dấu tích yêu thương trọng đại của Chúa
đối với họ.
Qua Tin Mừng hôm nay,
chúng ta thấy Chúa đã hiện ra với các Môn đệ trong những buổi họp mặt thường
lệ. Các tín hữu, bắt đầu có buổi họp hàng tuần. Lễ hội đã chuyển từ ngày Sabat
sang ngày Chúa nhật, ngày Chúa sống lại. Niềm tin và phương thức thờ tự đã
chuyển từ Cựu ước sang Tân ước, từ Do thái giáo sang Kitô giáo. Mỗi Chúa nhật
khi chúng ta họp nhau để phụng thờ Chúa đó là một lễ Phục sinh, và Chúa ở giữa
các tín hữu Người. Cho dù chúng ta khoá kín cửa, cho dù tâm hồn ta còn ngổn
ngang nhiều trở ngại, nhưng khi chúng a họp nhau lại vì Danh Chúa, thì Chúa có
mặt với chúng ta.
Tin Mừng hôm nay kể
lại hai lần Chúa xuất hiện sau khi người sống lại. Và lần xuất hiện thứ hai chú
trọng đặc biệt tới Tôma. Tông đồ Tôma là người nhiệt tình và thẳng thắn, nghĩ
sao nói vậy. Ông đã mạnh dạn biểu lộ nỗi nghi nan trước sự kiện Chúa sống lại.
Khi hiện ra lần sau, Chúa đã bảo ông Tôma: “Đây là vết thương của Ta, Con hãy
đặt tay vào và đừng hoài nghi nữa”. Có lẽ Chúa đã mỉm cười trước sự nghi nan
này. Chúa cho ta biết dù Người không có mặt, Người vẫn nghe mọi lời nói, vẫn
thấy mọi tâm tình, mọi suy tư của chúng ta. Sự kiện đó giúp chúng ta dễ tin vào
lời hứa của Chúa: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” cho dù chúng
ta không thấy Chúa.
Chúng ta không thấy
Chúa mà vẫn tin, vẫn thi hành lời Chúa, vẫn trung thành thực hiện sứ mệnh Chúa
trao, đó là căn bản cuộc sống và của niềm tin. Nhờ đó chúng ta đáng lãnh phần
thưởng như lời Chúa: “Phúc cho ai không thấy mà tin”.
Lạy Chúa, xin thêm
lòng tin cho chúng con mỗi khi chúng con ngắm nhìn những thương tích nơi chân
tay và cạnh sườn Chúa. Chúng con xin tạ ơn Ngài.
21. Mối phúc thật Đức Tin – Cố Lm Hồng Phúc
Chúng ta đang ở vào
cuối tuần bát nhật Lễ Phục Sinh. Mầu nhiệm Phục sinh là mầu nhiệm lớn lao hơn
cả. Mầu nhiệm căn bản của Đức Tin chúng ta. Thánh Phaolô nói: “Nếu Chúa Giêsu
không sống lại thì niềm tin của chúng ta vẫn còn trong tội lỗi” (1 Cr 15, 17).
Tại Nhã điển, thủ đô
Hy lạp, Phaolô gặp ngoài đường phố những bàn thờ “kính thần vô danh”. Phaolô
dùng sự kiện ấy làm nhập đề và giảng một bài cho giới trí thức tại Tối cao Pháp
viện. Ngài trình bày việc Chúa Giêsu đã Phục sinh sống lại từ cõi chết. Vừa
nghe đến việc người chết sống lại, một nhà trí thức đứng lên, nhắc cho Phaolô
biết lời của nhà hiền triết Eschyle rằng: “Khi tro bụi đã uống máu một con
người, người ấy không bao giờ sống lại”. Phaolô buồn “rũ áo” đi đến cùng dân
ngoại (Cv 17, 22-33).
Đạo Kitô giáo không
phải là một triết lý theo quan niệm Hy lạp, một thứ tam đoạn luận, mà là một
cái gì cao siêu hơn: một mầu nhiệm, một sự sống, một niềm Tin.
Mầu nhiệm ấy, Thiên
Chúa không mặc khải cho người khôn ngoan hiền triết mà cho kẻ bé mọn, để bẻ gãy
sự kiêu căng của người khôn ngoan.
Bài Phúc Âm hôm nay là
một bằng chứng.
Chiều thứ nhất Phục
sinh, các môn đệ họp nhau trong nhà Tiệc ly nơi Chúa đã lập phép Thánh Thể thứ
năm tuần trước và hứa rằng Ngài sẽ trở lại. Bỗng nhưng, trong khi đóng cửa then
cài, Ngài xuất hiện. Ngài đứng đó và nói: Shalom - Bằng an cho các con. Ngài
đến đem sự bìng an vui mừng cho họ và sai họ đi phổ cập ơn cứu rỗi: “Như Cha đã
sai Thầy, Thầy cũng sai chúng con”. Chúa Giêsu nhận lấy cho mình quyền năng tha
tội, quyền năng của một Thiên Chúa (Mt 9, 2-8). Hôm nay, Ngài trao lại cho các
môn đệ bằng một lời nói, bằng một hơi thở, “Ngài thổi hơi trên họ và nói: Hãy
chịu lấy Thánh Thần. Các con tha tội cho ai thì tội họ được tha, các con cầm
tội ai thì tội họ bị cầm lại”. Ngày khai thiên lập địa, Chúa thổi hơi ban sự
sống cho nguyên tổ Ađam (St 2,7) thì nay, hơi thở ấy chính là Ngôi Ba Thiên
Chúa mà một trong hoa quả là bình an (Ga 5, 22).
Nhưng chiều hôm ấy,
trong một nhóm môn đệ thiếu mặt Tôma, một con người thực tế, khó bảo.
Người ta thường dùng
giác quan để tiếp xúc với ngoại giới, mắt thấy tai nghe, tay sờ đụng, nhưng
người ta cũng dùng lý trí để kiểm chứng, dùng niềm tin để tăng phần hiểu biết.
Tôma nghe các bạn cho
biết, họ đã nhìn thấy Thầy vì Thầy đã sống lại. Tôma không tin. Có lẽ ông nói:
“Còn khuya tôi mới tin”, nếu tôi không kiểm chứng bằng mắt thấy, tay sờ đụng.
Thái độ của Tôma lại càng làm nổi bật sự hiển nhiên của dữ kiện sống lại.
Hôm nay, Chúa hiện ra
với các môn đệ có Tôma hiện diện. Chúa nhắc lại các đòi hỏi của Tôma kéo dài cả
tuần lễ nay. Tôma không biết làm gì hơn là phủ phục xuống và tuyên xưng Đức
Tin, “Lạy Chúa là Chúa Trời tôi”, một lời tuyên xưng trong sáng, tóm tắt tất cả
Tin Mừng của Gioan và của chúng ta.
Ngài là Cứu Chúa đã
chết để đền tội ta nhưng nay Ngài đã phục sinh trở về với Thiên Chúa, đồng hàng
với Thiên Chúa, chính là Thiên Chúa. Trong dịp này. Ngài cũng để cho chúng ta,
qua Tôma, một mối phúc thật khác là phúc thật Đức Tin. Ngài nói: “Tôma, vì con
đã xem thấy Thầy, nên con đã tin, Phúc cho ai không thấy mà tin” (Gio 20, 29).
Đức Tin là một đặc ân của Thiên Chúa, người ta có thể thành tâm đón nhận cũng
như có thể, như dân Do thái xưa, từ chối ơn Chúa.
Tại Lộ-Đức, Đức Mẹ đã
ban nhiều ơn và làm nhiều phép lạ. Cách đây 50 năm, có hai người thời danh là
Bác sĩ Alexis Carrel và nhà văn Emile Zola cùng đi Lộ-đức để quan sát. Cả hai
cũng chứng kiến một ơn lạ nhãn tiền. Tại nhà ga Austerlitz, Zola gặp một người
đàn bà hấp hối, bệnh lao đến thời kỳ tuyệt vọng. Bà tên là Marie Lebranche, Zola
nói: “Bà này đến Lộ-Đức khỏi bệnh thì tôi tin!” Người đàn bà sắp chết đó đi tắm
suối Đức Mẹ run rẩy nhưng sau đó chỗi dậy, cất tiếng hát Ave Maria, rồi tự đi
ra hang đá quì cầu nguyện một giờ. Bác sĩ khám, phổi nguyên lành. Zola ứa nước
mắt. Bác sĩ Carrel cũng xúc động, được ơn trở lại. Bác sĩ viết cuốn “Hành trình
Lộ-Đức” để nói lên sự thật; Zola chối sự thật trong cuốn “Lourdes” của ông.
“Tôma, vì con thấy
Thầy nên con tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Xin Chúa ban cho con
mối phúc thật niềm Tin ấy.
22. Lòng
Chúa xót thương – Lm
Giuse Tạ Duy Tuyền
Nếu tình yêu là bản
tính của Thiên Chúa thì lòng thương xót là cách thức Chúa bày tỏ tình yêu, là
dấu chỉ cho tình yêu vững bền của Ngài. Lòng thương xót nhìn kẻ tội lỗi, không
oán giận, không trả thù bằng sự giận dữ hay chừng phạt, nhưng xót xa vì họ lầm
đường lạc lối, xót xa vì họ đang đi đến hố diệt vong. Lòng thương xót tựa như
ánh mắt của tình yêu, giúp người ta nhận ra nhu cầu của tha nhân để chia sẻ,
cảm thông, nâng đỡ, xoa dịu hay chữa lành. Chúng ta có thể cảm nghiệm lòng
thương xót của Chúa qua dọc dài lịch sử cứu độ.
Khởi từ tội lỗi của
Adam, Chúa không đoạn nghĩa dứt tình với Adam. Chúa vẫn thương Adam và xót xa
dường nào khi thấy Adam tủi hổ lẩn trốn trong vườn địa đàng. Adam là kẻ phản
bội làm sao dám vác mặt gặp Chúa. Tội lỗi làm cho người ta mặc cảm, xấu hổ và
lo sợ khi phải đối diện với sự thật. Thế nhưng Adam phần nào đã bớt đi sự sợ
hãi, bớt đi áp lực tâm lý khi nghe tiếng gọi: "Adam, Adam ngươi đang ở
đâu?". Âm thanh của tiếng gọi không mang âm sắc của giận dữ hay quở mắng,
nhưng tiếng gọi vẫn thân thương dịu ngọt, có điều pha trộn chút âm điệu xót xa.
"Phải chăng ngưoi đã ăn trái cây trong vườn mà ta đã cấm?".
Tội có thể được tha,
nhưng hình phạt vẫn phải chịu. Nhưng ai là người phải chịu phạt thay cho tội
Adam. Thiên Chúa không suy tính thiệt hơn. Không đắn đo suy xét. Ngay tức thời,
lời hứa cứu độ đã được ban ra. Chính Ngôi Hai Thiên Chúa sẽ gánh lấy tội Adam
và đền thay cho tội lỗi Adam. Có thể nói, lòng thương xót của Chúa được tỏ bầy
cụ thể và rõ nét trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Cả cuộc đời luôn sống vì người
khác, luôn đi đến mọi hang cùng ngõ hẻm để thi ân giáng phúc. Cả trong những
lúc đau khổ nhất của cuộc đời, Ngài vẫn không nghĩ đến mình: Ngài xót thương
các bà mẹ thành Giêrusalem "đừng than khóc Ta nhưng hãy than khóc con cháu
các người; Ngài xót thương những kẻ đã làm hại mình, vì "họ không biết
việc họ làm"; Đỉnh cao của lòng thương xót đó là ơn tha tội và ban thưởng
hạnh phúc trường sinh. Đó là đặc ân mà anh trộm lành được diễm phúc đón nhận
đầu tiên từ cây thập giá: "ngay đêm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với
Ta".
Chính điểm này mà
trong dịp giảng tĩnh tâm Giáo triều Rôma, Đức cố hồngY Phanxicô Nguyễn Văn
Thuận đã nêu ra 10 điểm khiếm khuyết của Chúa Giêsu trong đó có sự hay
quên: chỉ 1 câu nói thành thật với chính mình của tên trộm lành mà Chúa
đã quên cả quá khứ tội lỗi của anh. Chỉ cần thấy bóng dáng thằng con trời đánh
bỏ nhà đi hoang nay thất thểu trở về là người cha đã quên hết quá khứ đi hoang
của người con. Lòng thương xót của Thiên Chúa là vậy. Một vì Thiên Chúa chậm
bất bình và rất mực khoan dung mà vua Đavít đã từng nói lên rằng: Nếu Chúa chấp
tội nào ai đứng vững. Tình yêu Chúa cao hơn tội lỗi chúng ta, đến nỗi có thể
phủ lấp muôn vàn tội lỗi chúng ta.
Tác giả Ron Lee đã
viết một câu chuyện trong cuốn "Một Thiên Chúa Tha thứ trong một thế giới
không tha thứ" như sau:
Có một vị linh mục là
một người rất yêu mến Chúa, nhưng ông luôn bị ám ảnh bởi một tội mà ông đã phạm
trong quá khứ. Ngài đã ăn năn sám hối nhưng vẫn không bình an tâm hồn. Cho tới
một hôm nghe nói có một phụ nữ trong giáo xứ hay được tiếp xúc và nói chuyện
với Chúa trong giấc mơ. Vị linh mục không tin, nên muốn thử bà ta và nói: lần
sau bà có nói chuyện với Chúa thì hỏi xem, tôi đã phạm tội gì? Thế là mấy ngày
sau gặp lại, vị linh mục đã hỏi bà là Chúa đã nói gì? Bà trả lời: Chúa nói
rằng: Ta chẳng còn nhớ gì nữa!
Bài Phúc âm hôm nay
cũng cho chúng ta thấy khi hiện ra với các tông đồ, Chúa Giêsu không hề nhắc
tới những chuyện đáng tiếc đã xảy ra: nơi Phêrô kẻ chối Chúa ba lần; nơi các
tông đồ hèn nhát bỏ chạy nơi vườn Giệtsêmani; nơi Tôma kẻ bi quan, cố chấp luôn
đòi sự kiểm chứng minh nhiên và cụ thể. Dường như Chúa đã quên hết và còn ban
bình an cho các ông.
Hôm nay kính nhớ lòng
thương xót của Chúa, Giáo hội mời gọi chúng ta nhận ra mình là một tội nhân đã
được Chúa cứu chuộc bằng giá máu cực thánh, chúng ta hãy biết đền đáp tình yêu
Chúa bằng sự hoàn thiện con người của mình như Cha chúng ta ở trên trời. Đồng
thời chúng ta cũng dâng hy sinh, lời cầu nguyện cho các tội nhân được ơn trở về
với Chúa.
Có lẽ đây là vấn đề mà
những người Kitô hữu phải lo lắng quan tâm. Vì qua báo chí và các phương tiện
truyền hình truyền thanh chúng ta không khỏi đau xót khi nhìn thấy một thế hệ
trẻ sa đoạ, cuồng loạn và lạc mất hướng đi của đời người. Con số thống kê về sì
ke, ma túy, mại dâm, phá thai, bệnh nhân nhiễm HIV hay Aid mỗi ngày một tăng
theo cấp số nhân, mà một ai đó đã nói một cách mỉa mai rằng: những điều tốt thì
không thấy tăng, nhưng tội phạm thì năm nào cũng được nghe câu nói quen thuộc:
"năm nay cao hơn năm trước".
Có lẽ Chúa cũng đang
cần những con người thanh sạch như như ông Lót trong thành Sôdôma. Ông đã bị
dày vò bởi những cảnh đồi bại luân lý diễn ra hằng ngày quanh mình. Ông cố
thuyết phục dân thành ăn năn hầu tránh cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, nhưng không
ai nghe ông. Rồi Abaraham cũng nài xin Chúa tha thứ nhưng lại không kiếm được
10 người công chính, thế là cả thành bị tiêu diệt.
Và hôm nay, Chúa đang
cần có nhiều người như thánh nữ Faustina, biết dâng những hy sinh đau khổ của
mình như lễ vật tôn thờ Thiên Chúa và cứu thế gian khỏi cơn thịnh nộ của Thiên
Chúa. Biết phó dâng bản thân, gia đình và nhân loại cho lòng thương xót của
Chúa. Ước gì mỗi người chúng ta hãy sám hối về lỗi phạm của mình và hãy dâng
những hy sinh và lời cầu nguyện cho kẻ có tội được ơn trở về với Chúa. Nguyện
xin Chúa là Đấng giầu long xót thương tha thứ và ban bình an cho mỗi người
chúng ta. Amen.
23. Niềm tin.
Qua đoạn Tin Mừng vừa
nghe, tôi muốn suy nghĩ về thái độ của Tôma. Tôma không phải là một kẻ cứng
lòng, ông chỉ muốn tin vào những gì là rõ ràng và hiển nhiên. Vì thế, khi nhìn
thấy Chúa, ông đã vội vã kêu lên:
- Lạy Chúa tôi, lạy
Thiên Chúa của tôi.
Và Chúa Giêsu đã nói
một lời đem lại cho chúng ta nhiều an ủi và khích lệ:
- Phúc cho ai không
trông thấy mà tin.
Có lẽ khi nói lời này
Chúa Giêsu đã nghĩ tới hằng triệu triệu người tin tưởng và trung thành phụng sự
Ngài, dù chưa một lần nhìn thấy.
Chúng ta cũng vậy.
Chúng ta chưa một lần nhìn thấy Ngài, chưa một lần được đụng tới gấu áo Ngài,
chưa một lần được nghe Ngài giảng, chưa một lần được chứng kiến phép lạ Ngài
làm. Dầu vậy, chúng ta vẫn tin tưởng, yêu mến và thờ lạy Ngài.
Thế nhưng có kẻ đã
bảo:
- Đó chỉ là một niềm
tin tưởng mù quáng vào một người đã sống cách đây hơn 2000 năm, niềm tin tưởng
ấy không còn thích hợp với não trạng của con người thời nay.
Tôi xin trả lời:
- Đức tin của chúng ta
không mù quáng, nhưng dựa trên những cơ sở vững chắc.
Thực vậy, sự hiện diện
của Chúa Giêsu là một sự kiện lịch sử như sự hiện diện của César, của Khổng Tử.
Hàng ngàn năm về trước, các tiên tri đã loan báo và trong Tân Ước, cuộc đời
Chúa Giêsu đã được xác định một cách rõ ràng và cụ thể, cùng với những lời Ngài
đã dạy và những việc Ngài đã làm. Qua đó chúng ta thấy được rằng: Ngài là Thiên
Chúa. Bởi vậy, chúng ta hãy tin tưởng vào lời Chúa, dù lời ấy nó không phù hợp
với sở thích và nguyện vọng riêng tư của chúng ta.
Thế nhưng, có kẻ lại
bảo:
- Nếu đó là những sự
kiện cụ thể và hiển nhiên, tại sao không lôi kéo được hết mọi kẻ tài cao và học
rộng?
Dĩ nhiên chúng ta
không chối cãi, ngày nay có nhiều người trí thức vỗ ngực tự xưng mình là kẻ
không tin tưởng. Để có một cái nhìn đứng đắn, chúng ta cần phải xác định: Những
chân lý siêu nhiên không phải là những chân lý toán học như hai với hai là bốn.
Để đón nhận, cần phải có một tâm hồn sẵn sàng. Đức tin mãi mãi vẫn là một hồng
ân của Thiên Chúa. Những đam mê vẩn đục thường là những chướng ngại vật cản
ngăn con đường đức tin.
Tôi xin lấy một thí
dụ: Chúa Giêsu đã làm cho Lagiarô chết bốn ngày sống lại. Đó là một sự kiện lạ
lùng, thế nhưng, những kẻ chứng kiến đã có phản ứng như thế nào? Phúc âm đã kể
lại:
- Có những người đã
tin vào Chúa, nhưng có những kẻ lại hậm hực tức tối, để rồi tìm mọi cách để
giết Chúa. Trước một sự kiện hiển nhiên như thế, người thì bảo: Ngài thực là
Thiên Chúa hãy tin vào Ngài. Kẻ thì bảo: Ông ta là một tay nguy hiểm, cần phải
khử trừ.
Ngày nay cũng thế. Có
những nhà bác học Công giáo thì cũng có những nhà bác học vô thần. Và đây chính
là vai trò của tác dụng ơn Chúa trong tâm hồn mỗi người. Người thì công nhận,
kẻ thì từ khước và làm cho ơn Chúa trở nên vô hiệu quả, như một câu danh ngôn
đã nói:
- Chính trái tim làm
cho đầu óc bị hư hỏng.
Cho đến tận cùng thời
gian, nhân loại này luôn luôn chia thành hai giới tuyến: Giới tuyến của những
người tin tưởng vào Chúa và giới tuyến của những kẻ chối bỏ Ngài. Cũng như trên
thiên đàng vào thời nguyên thủy đã có những thần lành và thần dữ. Vậy thì chúng
ta thuộc về giới tuyến nào? Hãy tuyên xưng đức tin như Tôma ngày xưa: Lạy Chúa
tôi, lạy Thiên Chúa tôi.
24. Lòng
thương xót.
Trong cuốn “A
Forgiving God In An Unforgiving World”, “Một Thiên Chúa Tha Thứ Trong Một Thế
Giới Không Tha Thứ”, của Ron Lee Davis, kể lại câu chuyện về một linh mục người
Phi Luật Tân như sau:
Vị linh mục là một
người rất yêu mến Thiên Chúa, nhưng ông luôn luôn bị ám ảnh bởi một tội bí ẩn
đã phạm nhiều năm trước đây. Ngài đã ăn năn sám hối, nhưng vẫn không cảm thấy
bình an vì chưa cảm nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa. Trong giáo xứ của ngài
có một người phụ nữ có lòng yêu mến Thiên Chúa rất sâu xa và tuyên bố là được
ơn biết những điều Chúa Giêsu muốn nói với bà. Riêng vị linh mục lại không tin
điều này. Để thử thách bà, ngài nói: “Lần sau bà nói chuyện với Chúa Giêsu, tôi
muốn hỏi Ngài xem tội của tôi đã phạm trong thời gian còn học ở chủng viện là
tội gì”. Người phụ nữ đã đồng ý.
Vài ngày sau đó, vị
linh mục hỏi bà, “Này bà, bà đã gặp Chúa Giêsu trong giấc mơ chưa?” Bà trả lời,
“Rồi”, “Vậy bà có hỏi Ngài tôi đã phạm tội gì trong chủng viện không?” ngài
hỏi. “Có chứ”. “Vậy thì Ngài nói gì?” Người phụ nữ mỉm cười và nói, “Một điều
rất thú vị mà tôi chưa bao giờ nghe Ngài nói khi tôi hỏi Ngài rằng cha đã phạm
tội gì, Ngài chăm chú nhìn tôi và nói, “Ta chẳng còn nhớ nữa!”
Thật vậy, khi hiện ra
Chúa Giêsu đã không hề nhắc tới các việc ba lần Phêrô chối Ngài, sự đào ngũ của
các tông đồ ở vườn Giệtsimani, sự nghi ngờ của Tôma. Ngài đã tha thứ tất cả!
Đây là điều an ủi lớn cho chúng ta.
Tuy nhiên, Ngài đã đòi
hỏi chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho
người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em
không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em”.
Ngày 13.5.1881, Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã bị bắn bởi Mehmet Ali Agca. Trong khi còn đang
nằm trong phòng cấp cứu, ngài nói, “Tôi cầu nguyện cho người anh em đã bắn tôi,
và tôi thành thật tha thứ cho anh ta”. Vào ngày 27.12.1983, ngài đã đến nhà tù
thăm anh, nói chuyện và ôm anh.
Bà Barbara Reynolds
trước đây là một ký giả của tờ nhật báo USA Today. Khi còn bé đã bị lạm dụng
tình dục bởi một người trong họ hàng. Đến tuổi trưởng thành, bà gặp lại người
đàn ông đó và đối chất với ông về sự kiện loạn luân. Bà đã chia sẻ như sau:
“Khi tôi đối chất với người họ hàng, kẻ đã lạm dụng tình dục lúc tôi còn nhỏ.
Một cách kỳ lạ, ông ta đã không nhận ra sự đau khổ của tôi. Ông đã không năn nỉ
xin tha thứ. Ông chỉ nhìn chằm chặp vào tôi với những ánh mắt trống rỗng và
chán chường, rồi nói, “Tôi như thế đó!” Do vậy tôi có thể làm gì được? Bắn ông
ta hả? Thưa kiện? Tránh mặt? Đến lúc đó ông ta vẫn không hiểu. Có lẽ ông sẽ
không bao giờ hiểu. Bởi vậy, tôi chỉ có thể làm được hai điều. Trước hết, tôi
bỏ đi, và không bao giờ nói chuyện với ông ta nữa. Thứ đến, tôi đã tha thứ cho
ông “.
Bà Reynolds kể rằng
sau nhiều năm đi đến các nhà phân tích tâm lý học, sự tha thứ vẫn là phương
thuốc trị liệu tốt nhất. Chúng ta tha thứ cho người khác không phải chỉ vì ích
lợi linh hồn của người đã làm điều sai trái cho chúng ta, nhưng còn vì ích lợi tinh
thần của chính chúng ta. Tuy vậy, sự tha thứ không phải dễ!
Cô Corrie Ten Boom đã
diễn tả sự tha thứ giống như buông tay ra khỏi sợi dây chuông. Bạn có bao giờ
nhìn thấy một ngôi thánh đường với tháp chuông cao vút chưa? Để nghe được tiếng
chuông kêu, bạn phải kéo thật mạnh một lúc. Ngay khi tiếng chuông đã bắt đầu
vang lên, chỉ cần giật nhẹ tay theo đà chuyển động. Bao lâu bạn tiếp tục kéo,
chuông cứ vang. Cô Corrie đã so sánh rằng sự tha thứ chính là buông tay ra khỏi
sợi dây chuông. Đơn giản là như vậy!
Khi bạn làm như thế,
tiếng chuông vẫn cứ tiếp tục vang, vì sự chuyển động vẫn còn làm việc. Tuy
nhiên, nếu bạn buông tay ra khỏi sợi dây, tiếng chuông sẽ bắt đầu chậm lại, rồi
dần dần ngưng hẳn. Giống như vậy, khi bạn quyết định tha thứ, những cảm giác
không tha thứ xưa kia có lẽ vẫn còn tiếp tục, vì chúng vẫn còn nhiều chuyển
động. Nhưng nếu bạn quyết định tha thứ, cái tinh thần không tha thứ kia sẽ bắt
đầu chậm lại và dần dần im bặt. Sự tha thứ không phải là một cảm giác, nhưng là
một hành động. Đó là buông tay ra khỏi sợi dây oán thù.
Trong thành
Giêrusalem, ai nấy đều rõ: Ông Giêsu, người làng Nagiaret, đã chết. Thế nhưng,
việc Ngài đột ngột sống lại đã gây nên nhiều thái độ khác nhau: Tin và không
tin, chấp nhận và chống đối. Chúng ta cùng nhau phân tích thái độ của Tôma, vì
nó rất gần gũi với chúng ta, cũng như soi sáng cho chúng ta tin vào Đức Kitô
Phục sinh hơn.
Trước hết tin là phải
chấp nhận có một thế giới khác vượt ngoài tầm tay và suy tưởng của chúng ta.
Trong thời đại khoa học này, chúng ta dễ bị cám dỗ, chỉ tin vào những gì thấy
được và hợp lý mà thôi.
Chính vì thế một bác
sĩ giải phẫu đã tuyên bố:
- Tôi đã mổ nhiều
người nhưng chẳng thấy linh hồn ở đâu.
Hay như một phi hành
gia sau lần bay quanh mặt trăng ba vòng cũng tuyên bố:
- Tôi đã lên thật cao
mà chẳng thấy Chúa nào ở trên trời cả.
Tôma cũng đòi phải
thọc chính tay mình vào cạnh sườn Chúa thì ông mới tin. Thường tình con người
vẫn muốn coi mình là trung tâm điểm và bắt Thiên Chúa phải thế này thế nọ thì
chúng ta mới tin.
Tiếp đến, tin vào Chúa
Phục sinh đòi chúng ta phải dám liều. Hai người yêu nhau dù có tâm sự tính toán
kỹ với nhau, nhưng rồi cuối cùng cũng vẫn phải dám liều. Biết ngày mai sẽ ra
như thế nào. Nếu chắc chắn thì còn thề thốt làm chi.
Chẳng bao giờ con
người có thể hiểu hết về Thiên Chúa cũng như về thế giới bên kia. Tin đây là
tin Đấng đã chết mà nay sống lại, đồng thời Ngài đã hứa ban cho chúng ta đời
sống vĩnh cửu sau khi chết.
Cũng như Tôma, chúng
ta chỉ được nghe nói lại. Ngài là Đấng vô hình và dường như luôn vắng bóng và
im tiếng, dù Ngài luôn ở bên cạnh chúng ta. Tin như vậy không phải là dám liều,
dán trao cả cuộc đời và con người chúng ta vào tay Đấng vô hình đó sao. Với
Tôma, tin Ngài sống lại có nghĩa là phải tiếp tục từ bỏ những dự định riêng tư
để bước theo Ngài.
Sau cùng, tin đòi phải
chiến đấu. Đức tin không đem lại sự yên ổn. Sở dĩ như vậy vì đức tin đòi phải
phá hủy con người cũ trong chúng ta. Bởi đó chúng ta phải chiến đấu với chính
mình. Con người vẫn có khuynh hướng ôm chắc lấy những gì có sẵn, không muốn
đánh mất thế giới họ đã tạo ra như của cải, mạng sống.
Tin vào Chúa Phục sinh
là hướng cả cuộc sống về đời sau Chúa hứa. Do đó, đức tin đòi chúng ta phải đặt
lại giá trị tất cả những gì chúng ta đang có hay sẽ kiếm được, ngay cả đến mạng
sống. Nhiều khi đức tin còn đòi chúng ta phải có thái độ dửng dưng và từ bỏ,
nếu của cải, mạng sống ngăn cản Tin Mừng. Nếu không chiến đấu với những khuynh
hướng đi xuống như vậy, chúng ta sẽ bị kéo ghì và ở lại mãi trong thế giới vật
chất…
Hơn nữa, đó cũng chính
là não trạng chung của những người chung quanh. Họ sẽ trấn an để chúng ta sống
như thể chẳng có Tin Mừng Phục sinh. Sống ngược với não trạng trần thế ấy đòi
chúng ta phải có một ý chí phấn đấu và mạnh mẽ. Đáp lại, Tin Mừng thường làm
chúng ta có cảm giác lạc lõng và bơ vơ, không giống ai và bị thiệt thòi ở đời
này.
Sống đức tin và đón
nhận niềm vui của Đấng đã sống lại là điều khó khăn, chúng ta luôn bị cám dỗ
đặt lại vấn đề đức tin, linh hồn, đời sau, giống như người Do Thái ngày xưa
luôn muốn trở lại với kiếp nô lệ nhưng no nê, bảo đảm, và bàn tay khỏi lo lắng
và đòi hỏi.
Hãy vững niềm tin vì
Chúa đã sống lại, Ngài ở với chúng ta luôn mãi.
26. Sống đức tin.
Ngày nay, người ta
muốn đặt lại tất cả các vấn đề, kể cả vấn đề niềm tin Chúa Kitô Phục sinh. Bởi
thế, chúng ta không cảm thấy khó chịu với tông đồ Tôma, là người đã không muốn
chấp nhận những gì người ta nói, và chống lại những điều được chấp nhận theo sự
lôi cuốn của đám đông. Tôma khăng khăng muốn chính mình kiểm chứng điều mà các
tông đồ khác nói lại là chính họ đã được thấy, được gặp Chúa Kitô Phục sinh.
Đúng ra ông không có lý do chính đáng để nghi ngờ nữa. Khiêm nhường một chút
thì chắc hẳn ông đã dễ dàng chấp nhận rồi. Nhưng như thế thì lại thiệt cho
chúng ta, mất một bằng chứng cụ thể, sống động về Chúa Kitô Phục sinh, và nhất
là câu nói bất hủ của Chúa: “Phúc thay những người không thấy mà tin”.
Đàng khác, khiển trách
Tôma kém lòng tin thì Chúa đã khiển trách với thái độ êm dịu và trìu mến:
“Tôma, đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Chúng ta thấy khác hẳn khi Chúa
khiển trách những người Pharisêu hay các tông đồ khác. Như thế, Chúa còn thông
cảm nhiều với Tôma. Tại sao? Vì Chúa thấy những thiếu sót của Tôma: ông không
chống đối để đi đến việc từ chối đức tin, nhưng là khát vọng thấy rõ hơn để
tin. Bởi thế, trong thời đại chúng ta, có phản chứng chăng nữa thì cũng đừng
ngạc nhiên và lo lắng, ngược lại, phải hy vọng, vì đó là thái độ tìm kiếm sâu
xa, nó là dấu hiệu của lòng tin hoạt động và tự do, của những người đang tìm
kiếm, nhờ đó mà người ta khám phá ra những giá trị chân thực. Do sự tìm kiếm
này người ta nhận ra được điều chính yếu của Kitô giáo là đức tin. Điều chính
yếu ở đây là tin vào Đức Kitô.
Vậy đức tin là gì? Đức
tin là tiếng kêu. Thật vậy, Tin Mừng đã nói lên như thế. Khi Chúa Giêsu hiện ra
đứng trước Tôma, thì ông run sợ và phát ra tiếng kêu này “Lạy Chúa của con, lạy
Thiên Chúa của con”. phải chăng chính những lời bộc phát đó đã diễn tả điều sâu
thẳm nhất nơi tâm hồn người ta? Phải chăng đó là tiếng nói của trái tim, của
tâm hồn, khắc hẳn với sự đắn đo so nghĩ của con người để tìm những lời lẽ hợp
tình hợp lý, trước khi muốn nói lên?
Những nơi khác trong
Tin Mừng cũng cho thấy cảnh tương tự, như lời tuyên xưng của Phêrô. Khi Chúa
Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta bảo Thầy là ai?” Thì Phêrô đã trả lời mà kêu
lên: “Thầy là Đức Kiô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Và Chúa đã xác định ngay rằng
đó là tiếng kêu đức tin: “Phêrô, con có phúc, vì không phải xác thịt hay máu
huyết tỏ cho con biết điều đó, nhưng là Cha Ta trên trời”.
Cũng vậy, đám đông tụ
họp bên Chúa Giêsu sau phép lạ hóa bánh, lúc bấy giờ Chúa nói về bánh ban sự
sống, Ngài làm cho họ chưng hửng khi Ngài quả quyết: “Phải ăn thịt và uống máu
Ngài mới được sự sống đời đời”, nghe Chúa nói thế họ bỏ đi, còn các môn đệ ở
lại, Chúa hỏi: “Anh em có muốn bỏ Thầy mà đi không?” Một lần nữa, tiếng kêu lại
vang lên và cũng là tiếng kêu của Phêrô: “Chúng con sẽ theo ai, Thầy mới có
những lời ban sự sống đời đời”.
Với Martha, chị của
Lagiarô, Chúa đã hỏi bà: “Thầy là sự sống lại và là sự sống, con có tin điều đó
không?” Martha trả lời: “Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải
đến trong thế gian”. Đó cũng là một tiếng kêu tuyên xưng đức tin.
Đức tin là một tiếng
kêu, nhưng sau đó là gì? Là nhận biết. Đối với một vật nào đó thì người tìm ra,
khám phá được. Nhưng đối với một người thì người nhận biết. Đức tin là nhận
biết một Đấng. Đức tin giống như tia chớp nơi một người chồng đang chờ đợi một
người vợ tương lai mà anh ta đã yêu thương. Và rồi, giữa đám đông, anh đã nhận
ra người anh thương yêu, chỉ có mình nàng thôi. Đấng mà đức tin nhận biết là
Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, và chỉ mình Ngài thôi.
Chúng ta tin Chúa
Giêsu, chúng ta nhận biết Chúa rồi, chúng ta phải làm gì? Chúng ta phải sống
niềm tin đó. Sống niềm tin có nghĩa là chúng ta phải thể hiện niềm tin ấy
trong đời sống. Đó là cách thẩm định đức tin của chúng ta. Bất cứ du khách nào
sau một lần viếng thăm nước Mỹ, cũng đều có thể rút ra một bài học. Dù muốn dù
không, du khách nào cũng phải thán phục tinh thần làm việc và óc thực dụng của
người Mỹ. Người Mỹ không áp dụng chính sách hay một phát minh mới như một đồ
trang sức, mà ngược lại, họ tìm cách ứng dụng vào đời sống thực tế.
Người Kitô hữu có thể
nhìn vào đó để làm bài học cho đức tin của mình. Chúng ta có ứng dụng đức tin
vào đời sống hằng ngày không? Chúng ta tin Thiên Chúa là Đấng quan phòng và là
Cha nhân từ. Niềm tin ấy có được thể hiện bằng một cuộc sống tin tưởng, lạc
quan, phó thác, hân hoan, ngay cả khi gặp gian nan thử thách không? Chúng ta là
tín hữu của Đấng đã sống và đã chết cho tha nhân, và là Đấng dạy chúng ta phải
sống yêu thương, bác ái với mọi người. Niềm tin ấy có được thể hiện bằng những
việc làm cụ thể của yêu thương, quảng đại, quên mình, tha thứ với mọi người
không? Chúng ta tin có một cuộc sống mai hậu, vĩnh cửu, bất diệt. Niềm tin ấy
có được thể hiện bằng những hy sinh phấn đấu không?
Đức tin của chúng ta
chỉ đáng tin cậy, chỉ có giá trị khi được thể hiện bằng những việc làm cụ thể.
Giống như cái đèn được đốt lên, cần đặt ở chỗ cao để soi sáng cho mọi người,
thì đức tin của chúng ta cũng cần phải được thắp lên chiếu sáng cho mọi người.
Nó cần phải được đốt lên một cách liên tục trong cuộc sống hằng ngày.
Cuộc sống mỗi ngày với
những độc điệu, phiền toái và thử thách của nó, chính là nơi để chúng ta sống
một cách cụ thể niềm tin của chúng ta. Những mối tương quan hằng ngày với những
người chung quanh chính là môi trường để chúng ta diễn đạt niềm tin của chúng
ta. Xin Chúa cho cả cuộc sống của chúng ta trở thành chứng tích của tình yêu
Chúa đối với mọi người. Và xin cho tất cả những ai gặp gỡ chúng ta đều có thể
nhận ra được tình yêu của Chúa.
27. Mọi sự đều có thể.
Có câu chuyện kể rằng
có một người muốn xin gia nhập trong một đoàn xiếc. Anh nói: “Tôi sẽ biểu diễn
bằng cách trèo lên bậc cao khoảng 50 mét và nhảy xuống một đống mùn cưa”. Chủ
đoàn xiếc nói, “Nghe anh nói thật hấp dẫn. Dầu vậy tôi cũng cần phải coi anh
biểu diễn ra sao đã”. Sau đó, họ làm một dàn nhảy cao cỡ 50 mét, và anh xin
việc bắt đầu biểu diễn. Khi anh ta từ trong đống mùn cưa ngoi ra, thân xác say
sứt, mặt mày méo mó thì ông chủ đoàn xiếc nói với anh ta rằng, “Thật là tuyệt.
Tôi nhận anh vào đoàn xiếc. Chúng tôi sẽ trả anh 250 Đô La một tuần”. Anh ta
lắc đầu nói, “Cám ơn, nhưng tôi không muốn”. Ông chủ nâng tiền lương lên dần từ
250 tới 500 và 1000 đô la một tuần. Thế nhưng anh kia vẫn không chịu. Ông chủ
không hiểu nổi nên nói, “Sao anh kỳ vậy? Anh cần việc mà!” Anh ta trả lời, “Tôi
đau lắm... Tôi không bao giờ dám nữa đâu!” Anh thanh niên này có ước vọng tốt
nhưng khi gặp điều khó, anh ta không dám dấn thân. Anh ta bỏ lỡ cơ hội cho một
tương lai tốt.
Trong bài Tin Mừng hôm
nay, các môn đệ thân yêu của Chúa Giêsu tụ họp cách bí mật trong phòng kín, vì
họ sợ rằng những người giết Chúa cũng sẽ tìm kiếm và giết họ như vậy. Thế rồi
Đức Kitô Phục Sinh đã hiện ra với họ và ban cho họ sự bình an của Ngài. Thánh
Gioan đã nói: “Các môn đệ đã vui mừng khi nhìn thấy Ngài”. Nhưng sau đó khi họ
nói với Tôma (Tôma là người không có mặt khi Chúa Giêsu hiện ra) là “chúng tôi
đã nhìn thấy Chúa”, ông trả lời: “Trừ phi tôi nhìn thấy bàn tay của Ngài và
những lỗ đinh, xỏ ngón tay tôi vào những lỗ đinh đó, và thọc tay tôi vào cạnh
sườn Ngài, thì tôi không bao giờ tin điều ấy” (Ga 20,25). Tám ngày sau đó, Đức
Kitô Phục Sinh lại hiện ra với các tông đồ, và lần này dĩ nhiên có Tôma đang ở
với họ và chính mắt ông đã nhìn thấy Chúa; bởi đó ông chỉ còn biết thưa: “Lạy
Chúa, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu đã nói với Tôma: “Con tin vì đã nhìn
thấy Thầy, nhưng phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20,28-29).
Tin luôn đòi có sự dám
liều, có sự dấn thân.
Khi niềm tin của ta là vô điều kiện, chúng ta biết rằng mọi cái đều có thể là
nguyên nhân cho sự việc xảy ra. Cũng như Tôma, chúng ta thường thấy rằng rất
khó quay lại với Chúa khi có quá nhiều sự đòi buộc chúng ta. Tin vô điều kiện
vào Chúa, dạy cho chúng ta biết là Ngài có sự đòi buộc mà chúng ta không thể
ngờ được. Đó là điều kiện để đi theo một người mà người đó lại là một người mà
chúng ta luôn luôn không thể biết và làm chúng ta ngạc nhiên.
“Mọi sự đều có thể cho
những kẻ tin”, chính Chúa Giêsu đã nói điều ấy với đám đông dân chúng đã chứng
kiến những phép lạ Người làm. Mọi sự đều có thể cho những ai tự đặt mình dưới
chân Chúa cách vô điều kiện như trẻ nhỏ tin vào cha mẹ em. Mọi sự đều có thể
xảy ra cho những ai sẵn sàng chấp nhận hy sinh đời sống mình vào Quyền Năng
Phục Sinh của Chúa.
Trong những giới hạn
khả năng của riêng bạn mà bạn muốn trở nên con người và nhận ra toàn diện bản
chất con người của mình như Chúa muốn, thì xin bạn hãy nhớ rằng chẳng có gì có
thể xảy ra được nếu như bạn không làm một sự thay đổi và “trở nên như trẻ nhỏ”.
Nhưng khi bạn làm sự thay đổi đó thì bạn trở nên con người vĩ đại. Khi bạn
quyết định thay đổi con người mình thì mọi sự đều có thể xảy ra!
Chúa Giêsu đã nói với
chúng ta rằng nếu chúng ta muốn cảm nghiệm một cuộc sống hạnh phúc mà Ngài đã
làm cho chúng ta qua đời sống, sự chết và phục sinh của Ngài thì chúng ta phải
trở về với Thiên Chúa là Cha chúng ta. Chúng ta phải trở về với Cha trên trời
trong cùng một tâm hồn của trẻ thơ hoàn toàn phó thác vô điều kiện trong tay
cha mẹ trần gian của bé.
Mọi cái đều có thể cho
những ai mở rộng đôi mắt và thưa cùng Chúa, “Xin hãy làm cho con được ngạc
nhiên!”
28. Đức tin.
Trong sinh hoạt bình
thường, đôi khi chúng ta có dịp gửi đến cho nhau những quà tặng. Chẳng hạn như
ngày cưới, ngày sinh nhật… Thế nhưng, có những quà tặng chẳng mang lại một ý
nghĩa nào cả, hay ít nữa một sự tiện dụng nào đó. Người tặng cũng chỉ tặng cho
xong bổn phận, cho xong món nợ. Còn người nhận thì cũng miễn cưỡng vui vẻ lúc
bấy giờ, còn sau đó thì xếp quà tặng vào một xó góc tăm tối, bụi bậm và có lẽ
chẳng bao giờ ngó ngàng tới.
Phải chăng đó cũng
chính là hình ảnh đức tin của nhiều người trong chúng ta. Một thứ quà tặng mà
chúng ta không phải vất vả mua sắm. Một thứ đơn thuốc đã được ghi sẵn: phải làm
cái này và phải tránh cái kia. Một thứ đồ vật đã lỗi thời, bị phế thải và không
còn dùng vào việc chi, thoảng hoặc họ mới ngó ngàng tới, như người ta vốn mỉa
mai diễn tả:
- Một năm họ tới nhà
thờ ba lần để rửa tội, để kết hôn và để vĩnh viễn ra đi. Một tuần nếu có đi lễ
ngày Chúa nhật, thì cũng chỉ đứng tận đàng xa, tít ngoài sân cho qua lần chiếu
lệ. Trong suốt thời gian còn lại, đức tin được xếp vào một xó góc tăm tối, hay
một ngăn tủ khóa kín.
Với chúng ta thì khác,
đức tin không phải là một quà tặng bất đắc dĩ, không phải là những hình thức bề
ngoài, cũng không phải là một cái gì đã chết. Nhưng đức tin chính là sự sống.
Bởi đó thánh Gioan đã viết:
- Sự chiến thắng trên
thế gian là đức tin của chúng ta.
Kinh nghiệm trong
những trại giam cho chúng ta thấy: những người có được một nền giáo dục tôn
giáo vững chắc mới dễ dàng tránh được những hành vi dã man và độc ác. Đồng thời
dựa vào những bản thống kê, thì số người Công giáo tự tử chỉ là một con số nhỏ
nhoi khiêm tốn. Nếu đức tin không phải là sức mạnh thì làm sao người Công giáo
có đủ khả năng chịu đựng.
Đức tin chính là sự
sống.
Thân xác của chúng ta, chẳng hạn, là một vật sống động. Ở đó có máu huyết lưu
thông, để không ngừng phát triển, không ngừng lớn lên và đổi mới.
Ngày rửa tội, đức tin
được gieo trồng trong tâm hồn chúng ta, nó cần phải nẩy mầm, lớn lên, đâm bông
và kết trái. Điều đó có nghĩa là Đức Kitô sống trong tôi và tôi sống trong Đức
Kitô. Toàn thể con người tôi được ơn sủng thấm nhập, được gìn giữ trong tình
yêu của Ngài. Được trở nên cao cả với địa vị là con cái Ngài. Được vượt trên
trần thế để tiến vào quê hương nước trời.
Như một mầm non phải
được chăm sóc thì mới có thể phát triển, bằng không nó sẽ bị thui chột. Đức tin
của chúng ta cũng vậy. Nó phải được chăm sóc, được nuôi dưỡng bằng việc
đọc và suy gẫm lời Chúa cũng như các sách đạo đức, nhờ đó tìm thấy
những tiêu chuẩn hướng dẫn cho hành động.
Tiếp đến bằng
việc cầu nguyện. Chúng ta sẽ không thể nào có được một đức tin trưởng
thành mà không cầu nguyện. Cầu nguyện ở đây không phải chỉ là đọc một số kinh
dọn sẵn, nhưng là thực sự tâm tình và kết hiệp với Chúa.
Nếu chúng ta chỉ sống
đạo ở cái mức tối thiểu: dự lễ một tuần một lần, xưng tội rước lễ thì một năm
một lần, thì chúng ta không hy vọng gì thắng nổi thế gian. Cứ như thế, đức tin
dần dần thui chột để rồi chỉ còn lại một bộ xương cách trí, một tín đồ hữu danh
vô thực mà thôi.
Và tới một lúc nào đó,
chúng ta sẽ dễ dàng bán Chúa vì một lợi lộc nhỏ nhoi, sẽ dễ dàng chối Chúa chỉ
vì một lý do không đâu mà thôi.
29. Lỡ hẹn
Qua đoạn Tin Mừng vừa
nghe, chúng ta thấy Tôma đã không được thấy Chúa vì ông đã lỡ hẹn.
Thực vậy, buổi chiều
ngày thứ nhất trong tuần đối với các môn đệ là một sự kiện có tầm mức quan
trọng đặc biệt, vì nhờ buổi chiều này, mà niềm xác tín của các ông vào việc
Chúa Phục sinh được củng cố.
Thế nhưng, đối với
Tôma, buổi chiều này lại là một buổi chiều lỡ hẹn, một buổi chiều đã bị lỡ
chuyến tàu.
Có thể vì sợ người Do
thái, nên Tôma đã không dám tụ họp chung với các môn đệ, để được cùng đón nhận
ơn sủng và sự bình an của Chúa Phục sinh.
Trong cuộc sống, chúng
ta thấy có những cái lỡ hẹn hay trễ hẹn, đem lại những hậu quả khác nhau.
Thực vậy, những cái lỡ
hẹn hay trễ hẹn không gây nên một hậu quả nào vì nó có thể được đền bù bằng một
lần gặp gỡ khác.
Chẳng hạn người bạn
hẹn tôi đi chơi, hay đi ăn nhậu, nhưng vì kẹt công việc, tôi đành phải khất đến
một dịp khác.
Có những cái lỡ hẹn
hay trễ hẹn chỉ gây thiệt thòi đôi chút và sự mất mát được ghi nhận là không
đáng kể.
Chẳng hạn tôi ký hợp đồng
buôn bán với người ta và đã giam tiền cọc, thế nhưng tới ngày giao hàng, tôi
không thể thực hiện được như hợp đồng đã ký kết. Và như vậy tôi mất đi số tiền
đã đặt cọc.
Thế nhưng có những cái
trễ hẹn hay lỡ hẹn đem lại những hậu quả thật nghiêm trọng, mất mát thì thật
nhiều, thậm chí có thể mất mát cả một đời, vì không bao giờ được hẹn lần thứ
hai.
Chẳng hạn đến ngày
thi, tôi bị đau nên không thể tham dự và thế là sau đó cuộc đời tôi xoay chuyển
qua một hướng khác, thay vì tiếp tục đại học, thì tôi phải lên đường thực thi
nghĩa vụ quân sự, làm người lính trong quân đội.
Chẳng hạn chị hẹn gặp
anh, nhưng anh vi ham vui với bè bạn nên không tới. Và thế là chị nổi giận, cắt
đứt mọi liên hệ khiến cho cuộc tình của họ bị tan vỡ.
Rất may cho Tôma và
cũng để khích lệ con người ở mọi nơi và trong mọi lúc, Tôma đã được gặp lại
Chúa ở một lần hẹn khác. Chính trong cuộc gặp gỡ này, không chỉ là niềm vui,
niềm xác tín của Tôma, mà còn là niềm vui, niềm xác tín của mọi người chúng ta
hôm nay.
Có thể nói được rằng:
chính nhờ cuộc lỡ hẹn của Tôma mà đức tin của chúng ta được củng cố, đồng thời
cũng nhờ đó mà niềm xác tín của chúng ta vào màu nhiệm Chúa Phục Sinh càng thêm
mạnh mẽ hơn nữa.
Và nhất là chúng ta
được vui mừng và phấn khởi đón nhận “mối phúc thật thứ chín” của Chúa, đó là:
- Phúc cho những ai
không thấy mà tin.
Tuy nhiên trong cuộc
sống hằng ngày, chúng ta cũng cần phải kiểm điểm lại xem: Chúng ta đã thực sự
gặp Chúa hay chưa?
Thực vậy, Chúa hẹn gặp
chúng ta ở nhiều nơi và trong nhiều lúc. Những địa chỉ Ngài thường dùng để gặp
gỡ chúng ta đó là lời Ngài trong Kinh Thánh, đó là Bí tích Thánh Thể nơi nhà
thờ, đó là những người chung quanh chúng ta, nhất là những kẻ đau khổ, nghèo
túng và bất hạnh, đó là những biến cố xảy đến trong đời sống, là như những dấu
chỉ của thời đại qua đó Chúa tỏ lộ cho chúng ta biết thánh ý của Ngài.
Điều quan trọng đó là
chúng ta đừng để lỡ hẹn hay trễ hẹn, trái lại phải lắng nghe và nhận ra tiếng
gọi cũng như thánh ý của Chúa và nhất là phải mau mắn tìm gặp Ngài tại những
địa chỉ ấy.
30. Tin.
Ngày nọ, nhà của một
vị tu sĩ bốc cháy. Để được an toàn, thầy vội leo lên mái nhà. Các bạn hữu tụ
tập bên dưới rất lo lắng vì mạng sống thầy chỉ còn “ngàn cân treo sợi tóc”. Họ
liền căng một tấm thảm, giữ lấy bốn góc rồi giơ cao và hô lớn:
- Nhảy đi, thầy nhảy
xuống đi!
Thầy Nasruddin nói:
- Không được, tôi
không nhảy đâu. Thế nào các anh cũng rút tấm thảm đi, để biến tôi thành một trò
hề!
- Ôi, thầy ơi! Không
phải trò đùa đâu, thầy nhảy mau đi!
Thầy Nasruddin vẫn
ngoan cố:
- Không! Tôi chẳng tin
ai cả. Cứ trải thảm xuống đất đi, tôi sẽ nhảy.
Bài Tin Mừng này khiến
tôi phải suy nghĩ rất nhiều.
Điều thứ nhất khiến
tôi suy nghĩ là điều kiện mà Tôma đặt ra: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu
tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài thì
tôi không tin”. Mặc dù xem ra Đức Giêsu không tán thành thái độ của Tôma, nhưng
trong thâm tâm tôi, tôi vẫn tán thành, bởi vì đó là thái độ của người chín
chắn, cẩn thận, không nhẹ dạ. Trong những giao tế xã hội, tôi vẫn giữ thái độ
cẩn thận ấy. Chẳng hạn khi tôi đi mua hàng, tôi không thể chỉ dựa vào những lời
quảng cáo của người bán hàng để rồi mau chóng tin theo mà bỏ tiền ra mua ngay
một món hàng mà tôi chưa thử. Huống chi câu chuyện mà Tôma nghe các bạn thuật
lại là một chuyện: “động trời” chưa bao giờ xảy ra: một người chết sống lại!
Đòi hỏi phải kiểm nghiệm xong rồi mới tin là một đòi hỏi hợp lý.
Nhưng khi tôi tán
thành với Tôma, phải chăng là tôi không tán thành với Đức Giêsu? Ngài đòi tôi
“không thấy mà tin”. Phải chăng Ngài đòi hỏi một điều không hợp lý?
Suy nghĩ thêm, tôi mới
hiểu rằng: tương quan giữa những người yêu thương nhau, không nên cái gì cũng
đối xử với nhau bằng lý, mà phải đối xử với nhau bằng tình. Thí dụ cha mẹ nói
với đứa con rằng “Con đừng thọc tay vào ổ điện nhé, điện giật chết đấy!” Nếu
đứa con không tin, đòi thử nghiệm xong rồi mới tin thì nó sẽ ra sao? Nó phải
tin cha mẹ chứ, vì nó biết cha mẹ yêu thương nó. Vì Đức Giêsu yêu tôi nên Ngài
có quyền đòi hỏi cao hơn sự hợp lý, Ngài có quyền đòi hỏi sự hợp tình.
Tôi cũng suy nghĩ về
chữ “phúc”
trong câu Đức Giêsu nói với Tôma: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”. Đọc
Tin Mừng theo thánh Matthêu, tôi đã biết có tám mối phúc. Bây giờ tôi biết thêm
mối phúc thứ chín nữa. Tại sao không thấy mà tin thì có phúc? Tôi nghĩ rằng
hạnh phúc thường đi đôi với tình yêu. Khi yêu ai thì người ta dễ tin vào người
ấy. Tin thể hiện yêu, và chính vì yêu nên hạnh phúc. Đến đây tôi khám phá một
dây liên hệ giữa ba điều: Yêu – Tin – và Hạnh phúc.
Và kết luận tôi rút ra
được từ bài Tin Mừng này là:
- Trong tương quan với
những người không thân thiết lắm, tôi có thể cẩn thận đòi hỏi sự hợp lý.
- Nhưng trong tương
quan với những người thân yêu, tôi phải cư xử sao cho hợp tình.
- Nhất là trong tương
quan với Chúa, tôi phải tin Ngài để chứng tỏ là tôi yêu Ngài. Và nếu tôi tin
yêu Ngài như thế thì tôi là người hạnh phúc.
31. Chúng tôi đã thấy Chúa.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Sau khi được phục
sinh, Đức Giêsu được tôn vinh lên làm Chúa, nhưng Ngài vẫn dễ thương như xưa.
Nỗi bận tâm lớn nhất
của Ngài là các môn đệ. Việc làm quan trọng nhất của Ngài là đi thăm các ông.
Ngài đưa các ông ra
khỏi nỗi sợ hãi co quắp, khỏi căn nhà đóng kín cửa âm u. Ngài chúc cho họ bình
an ba lần (c.19.21.26), thứ bình an ngay giữa những bất an, dao động.
Đức Giêsu phục sinh
cho họ xem các vết thương. Thân xác chiến thắng của Ngài sẽ mãi mãi mang dấu
tích của cuộc khổ nạn.
Các môn đệ vui mừng vì
được thấy Chúa, vì được Ngài cho tham dự vào cùng một sứ mạng: “Như Cha đã sai
Thầy, Thầy cũng sai anh em.”
Chỉ có một người không
vui, đó là ông Tôma. Ông này vốn có óc thực tiễn (Ga 11,16; 14,5). Chẳng rõ vì
sao ông hụt gặp Đức Giêsu phục sinh. Chỉ biết ông đã “không ở với” các môn đệ,
lúc Ngài đến. Có vẻ giữa ông và cả nhóm có cái gì xa cách. Sự xa cách này trở nên
rõ rệt hơn, khi ông thẳng thắn từ chối tin vào lời chứng của các bạn: “Chúng
tôi đã thấy Chúa.” Nhưng ông lại rất tin vào chính mình, vào giác quan. “Nếu
tôi không thấy... nếu tôi không xỏ ngón tay... nếu tôi không thọc bàn tay...
tôi sẽ chẳng tin đâu.” Ông có thái độ như một nhà khoa học thực nghiệm.
Đức Giêsu phục sinh
đến với nhóm, nhưng không quên một ai. Ngài muốn cho Tôma được toại nguyện.
Tuần sau, khi Tôma ở
với nhóm, thì Ngài hiện đến. Ngài chê ông cứng lòng trước những lời chứng của
anh em, nhưng Ngài vẫn thoả mãn từng điều ông đòi hỏi. Rốt cuộc Tôma cũng được
thấy và tin như anh em.
Đức tin của chúng ta
hôm nay dựa trên đức tin của những người đã thấy và đã tin, đã dám hy sinh mạng
sống để nói rằng Ngài sống lại.
Quanh chúng ta vẫn có
nhiều người giống Tôma. Họ đòi “thấy và chạm đến” những thực tại vô hình, như
Thiên Chúa, linh hồn, đời sau.
Nếu “thấy và chạm” có
nghĩa là “có cảm nghiệm”, thì đòi hỏi trên thật là chính đáng. Đức Giêsu đã cho
Tôma được thấy và chạm đến Ngài.
Chúng ta cũng phải có
khả năng giúp người khác thấy và chạm đến những điều vô hình nhưng có thật.
Chúng ta cần sống như
người đang thấy Thiên Chúa, cần thanh thoát như người đã đụng đến trời cao, cần
bay lên khỏi cái nặng nề của thân xác như người đã cảm được cái nhẹ bổng của
linh hồn.
Truyền giáo là làm cho
người ta tin, làm cho người ta thấy và chạm đến Thiên Chúa. Nhưng trước hết,
mỗi người chúng ta phải nói được rằng: “Tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,18). Và tất cả
cộng đoàn chúng ta phải nói được rằng: “Chúng tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,25).
Gợi Ý Chia Sẻ
1. Bạn nghĩ gì về đức
tin của bạn? Có khi nào bạn thấy đức tin đó mạnh không? Nếu bạn thực sự tin vào
Chúa, vào sự phục sinh, bạn có thấy cuộc đời bạn sẽ có những thay đổi và chuyển
biến lớn lao không?
2. Có ai là Tôma trong
nhóm của bạn không? Có ai chưa được hưởng niềm vui phục sinh? Bạn đã làm gì để
nâng đỡ họ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục
sinh, Chúa đã sống đến cùng cuộc Vượt qua của Chúa, xin cho con biết sống cuộc
Vượt qua mỗi ngày của con,
Vượt qua sự nhỏ mọn và
ích kỷ.
Vượt qua những đam mê
đang kéo ghì con xuống.
Vượt qua nỗi sợ khổ
đau và nhục nhã.
Vượt qua đêm tăm tối
cô đơn của Vườn Dầu.
Vượt qua những khắc
khoải của niềm tin.
Vượt qua những thành
kiến con có về người khác...
Chính vì Chúa đã phục
sinh nên con vui sướng và can đảm vượt qua, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con biết noi
gương Chúa phục sinh gieo rắc khắp nơi bình an và hy vọng, tin tưởng và niềm
vui.
Ước gì ai gặp con cũng
gặp thấy sự sống mãnh liệt của Chúa.
32. Vui mừng vì thấy Chúa.
(Chúa Nhật Lòng Nhân
Hậu Chúa)
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
"Chúng tôi đã
được thấy Chúa"
Đó là tiếng reo vui
ngây ngất của các môn đệ.
Thầy Giêsu, người đã
bị đóng đinh, chết và chôn cất,
nay bất ngờ hiện đến,
đứng giữa họ thật gần gũi.
Động từ
"thấy" được nhắc đến 6 lần trong bài Tin Mừng này.
Thấy Thầy vẫn như xưa,
với những dấu đinh và vết đâm.
Nhưng Thầy cũng khác
xưa, nên không dễ nhận ra ngay.
Maria Macđala cứ tưởng
Thầy là người làm vườn.
Để thấy được Chúa phục
sinh, cần có đức tin.
Ai tin mới thấy, và thấy
để rồi tin hơn.
"Phúc cho ai
không thấy mà tin"
Chúng ta vẫn tin bao
điều mình không thấy.
Các bạn trẻ vẫn tin
vào tình yêu, tình bạn.
Các đôi vợ chồng vẫn
tin vào sự chung thủy của nhau,
dù chẳng ai thấy rõ
hết lòng dạ con người.
Tin không phải là một
hành vi mù quáng, phi lý.
Tin chẳng hề làm hạ
giá con người.
Trái lại, chỉ con
người mới biết tin và dám tin.
Nhờ tin, tôi không còn
bị giam trong thế giới chật hẹp
của cân đo đong đếm,
của vật chất khả giác,
nhưng được đưa vào một
thế giới phong phú hơn nhiều:
thế giới của những
ngôi vị tự do, của chính Thiên Chúa.
Tin là chấp nhận bấp
bênh, là có thể bị lừa.
Nhưng nếu không tin
thì không thể sống được.
Vấn đề là tôi phải
biết tôi đã tin vào ai.
Khủng hoảng lớn nhất
là khủng hoảng niềm tin:
niềm tin vào Thiên
Chúa và niềm tin vào con người.
Cả hai niềm tin nâng
đỡ nhau và cho tôi hạnh phúc.
Ông Tôma không tin vào
lời chứng của các bạn,
nên ông chậm tin vào
việc Chúa phục sinh.
Khi Chúa giúp ông lấy
lại niềm tin vào Chúa,
ông sẽ gắn bó hơn
nhiều với cả tập thể.
Chúng ta là những kẻ
không thấy mà tin.
Không thấy bằng mắt
thường,
nhưng vẫn thấy bằng
con mắt đức tin.
Tin là một cách thấy
nghiêm túc.
Người tin là người
thấy bằng trái tim.
Họ thấy được Đấng Vô
Hình rõ hơn cả cái hữu hình.
Kitô hữu là người tin
Chúa, nên cũng là người thấy Chúa.
Thấy Thiên Chúa hiện
diện như người Cha nhân từ.
Thấy Đức Giêsu là Con
Thiên Chúa làm người trên trái đất,
sống chết chỉ vì say
mê Cha và say mê con người
và đã sống lại để cho
cuộc đời một ý nghĩa mới.
Thấy mọi người là con
cái Cha và là anh em của nhau.
Dù những điều chúng ta
tin thật là mầu nhiệm,
nhưng đó không phải là
chuyện mơ hồ, viễn vông.
Thế giới hôm nay chỉ
tin vào những người đã thấy.
Ước gì chúng ta dám
mạnh dạn tin Chúa hơn,
để có thể thấy Chúa tỏ
tường hơn
và giúp người khác
thấy điều mình đã thấy.
Gợi Ý Chia Sẻ
Nhiều khi chúng ta
không thấy Chúa chỉ vì chúng ta không dám liều lĩnh tin vào Ngài. Có khi nào
bạn gặp được Chúa, vì đã dám quên mình để sống cho tha nhân không?
Có khi nào bạn gặp
khủng hoảng đức tin chưa (mất lòng tin vào Thiên Chúa và vào con người)? Đâu là
nguyên nhân của cuộc khủng hoảng? Đâu là cách bạn giải quyết?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục
sinh,
lúc chúng con tìm kiếm
Ngài trong nước mắt,
xin hãy gọi tên chúng
con
như Chúa đã gọi tên
chị Maria đứng khóc
lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản
và bỏ cuộc,
xin hãy đi với chúng
con trên dặm đường dài
như Chúa đã đi với hai
môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa
vì sợ hãi,
xin hãy đến và đứng
giữa chúng con
như Chúa đã đến đem
bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp
và xa cách anh em,
xin hãy kiên nhẫn và
khoan dung với chúng con
như Chúa đã không bỏ
rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả
suốt đêm
mà không được gì,
xin hãy dọn bữa sáng
cho chúng con ăn,
như Chúa đã nướng bánh
và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu phục
sinh,
xin tỏ mình ra
cho chúng con thấy
Ngài mỗi ngày,
để chúng con tin là
Ngài đang sống, đang đến,
và đang ở thật gần bên
chúng con. Amen.
33. Củng
cố đức tin.
Có một chi tiết đặc
biệt liên quan tới đoạn Phúc Âm vừa nghe, đó là cùng một đoạn Phúc Âm này đã
được chọn để dùng cho Chúa Nhật thứ hai phục sinh cho ba năm liền A, B, và C,
nghĩa là năm nào vào Chúa Nhật thứ hai phục sinh, chúng ta cũng đều đọc, nghe
đoạn Phúc Âm này. Chi tiết này nói lên tầm quan trọng và ý nghĩa phong phú
trong Mùa Phục Sinh. Chúa Giêsu Phục Sinh là trung tâm và là nguồn năng
lực tái tạo cộng đoàn những đồ đệ của Chúa.
Ngay từ khởi đầu đoạn
Phúc Âm, chúng ta được nhắc lại việc Chúa Giêsu hiện ra cho các tông đồ nhưng
lại vắng mặt Tôma, và trong lần hiện ra này, Chúa đã ban cho các tông đồ sự
bình an: "Bình an cho các con". Sự bình an này làm cho các tông đồ
thực sự được vui mừng. Các tông đồ được vui vì thấy Chúa, rồi Chúa trao ban cho
các tông đồ Chúa Thánh Thần, quyền năng tha tội và sai các ông ra đi làm chứng
cho Chúa. Các tông đồ có thể nói được trong giai đoạn này - trong phần thứ nhất
của đoạn Phúc Âm hôm nay - đã tin phần nào và đã chia sẻ cho Tôma: "Chúng
tôi đã xem thấy Chúa", nhưng Tôma không tin và đòi kiểm chứng một cách cụ
thể. Có thể nói, đây là giai đoạn thứ hai của cộng đoàn. Thái độ cứng lòng tin
của Tôma đã gây chia rẽ hay làm yếu kém đi sức mạnh làm chứng của cộng đoàn cho
Chúa Phục Sinh. Một cộng đoàn chia rẽ như vậy thì chắc chắn không thể nào có sự
bình an, không thể nào có niềm vui để làm chứng cho Chúa Phục Sinh.
Cộng đoàn Kitô chúng
ta ngày hôm nay là một cộng đoàn của những người tin Chúa Phục Sinh đã qui tụ
lại. Chắc chắn Chúa Phục Sinh hiện diện ở giữa chúng ta, Ngài là trung tâm liên
kết và nâng đỡ sự hiệp nhất của cộng đoàn chúng ta, Ngài là nguồn mạch của sự
bình an và niềm vui của cộng đoàn chúng ta. Chúa Phục Sinh ban cho cộng đoàn
các đồ đệ đầu tiên sự bình an, Chúa Thánh Thần và sức mạnh làm chứng cho Chúa.
Đó là một cộng đoàn lý tưởng cho tất cả mọi cộng đoàn Kitô khác rải rác khắp
nơi trên thế giới, qua muôn thế hệ. Đó là một cộng đoàn lý tưởng, trong đó niềm
vui và sự bình an đã thay thế cho sự u buồn thất vọng: thấy Chúa các tông đồ
đều vui mừng. Và niềm vui, sự bình an này luôn luôn là dấu chỉ cho sự hiện diện
của Chúa. Nhưng vì là những con người cụ thể, như chúng ta đây, mỗi người đều
có những giới hạn của mình và cộng đoàn của chúng ta, cộng đoàn của các môn đệ
Chúa chắc chắn phải trải qua những thử thách, những trở ngại.
Sự vắng mặt, sự cứng
lòng tin của Tôma, thái độ của Tôma, tất cả những điều đó đã góp phần hay ảnh
hưởng trên sự hiệp nhất của cộng đoàn. Sự vắng mặt của chúng ta, sự cứng lòng
tin của mỗi người chúng ta hay thái độ của chúng ta đối với Chúa Giêsu cũng như
đối với anh chị em, thái độ đó cũng có ảnh hưởng trên sự hiệp nhất của cộng
đoàn. Chúa Giêsu đã đáp lại khuyết điểm này của cộng đoàn các tông đồ để mang
lại niềm vui và sự bình an, để trao ban sứ mạng qua việc Chúa đáp lại đòi hỏi
của Tôma để biến đổi ông, và Tôma đã tin và tuyên xưng: "Lạy Chúa tôi, Lạy
Chúa Trời tôi, Lạy Chúa và là Chúa Trời con". Và Chúa Giêsu dường như muốn
cho các môn đệ của Ngài từ đó không nên thách thức như Tôma nữa: "Phúc cho
những ai không thấy mà tin".
Cộng đoàn chúng ta hôm
nay cần thực hiện lý tưởng của cộng đoàn Kitô tiên khởi của các đồ đệ. Hãy để
cho Chúa Giêsu Phục Sinh qui tụ chúng ta lại trong tình yêu của Người, hãy đón
nhận sự bình an của Chúa trong niềm vui nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần để làm
chứng một cách xứng đáng cho Chúa. Nhưng như vừa nói chúng ta đây là những con
người có giới hạn và Chúa Phục Sinh cũng đã hiểu như thế nên Ngài đã thiết lập
và để lại cho chúng ta một phương thế để tái tạo sự hiệp nhất của cộng đoàn, để
gìn giữ cộng đoàn được luôn hiệp nhất với Chúa và giữa mọi người với nhau,
phương thế đó là bí tích Hòa Giải: "Các con tha tội cho ai thì trên trời
cũng tha; các con cầm tội ai thì trên trời cũng cầm lại".
Không có phương pháp
nhân loại nào khác có sức phục hồi và củng cố sự hiệp nhất cộng đoàn các môn đệ
Chúa cho bằng phương thế siêu nhiên mà Chúa Giêsu đã thiết lập và muốn cho các
tông đồ sử dụng, và chúng ta biết rất rõ phương thế đó là phương thế nào. Đó là
sự tha thứ bí tích, và đó cũng là bí tích của sự tha thứ. Dĩ nhiên, để lãnh
nhận bí tích tha thứ của Chúa để chúng ta được tha thứ và tha thứ cho nhau, để
xây dựng lại sự hiệp nhất cộng đoàn các môn đệ Chúa, để làm cho cộng đoàn chúng
ta có thể chu toàn sứ mệnh Chúa đã trao phó "Hãy làm chứng cho Thầy",
thì mỗi người chúng ta cần hành động như Tôma, cần kiểm điểm lại đức tin của mình
và loại bỏ đi những gì không phù hợp với đức tin trong nếp sống của chúng ta,
để có thể khiêm tốn tuyên xưng mỗi ngày, mỗi giây phút: "Lạy Chúa, Lạy
Chúa Trời con, Lạy Chúa, con tin Chúa là Thiên Chúa và Đấng Cứu Độ của
con." Cần phải canh tân đức tin hàng ngày để đức tin của chúng ta được
củng cố thêm mãi, để chúng ta có được sự bình an, niềm vui và sức mạnh làm
chứng cho Chúa mọi nơi, mọi lúc.
Xin Chúa giúp mỗi
người chúng ta canh tân đức tin và củng cố đức tin.
34. “Tôi nhận ra bạn…” – Maurice Brouard.
Bối cảnh. Tường thuật này đến sau việc viếng mồ và việc
Chúa hiện ra cho bà Maria Macdala, việc Tôma tuyên xưng đức tin mạnh nhất trong
Tin Mừng, đưa chúng ta trở về lời tựa của thánh Gioan, tuyên bố thần tính của
Chúa Giêsu.
Một việc nhìn nhận.
Hôm đó, người ta đang
nghĩ đến một việc gì khác. Bỗng chốc có ai đó xuất hiện, “một người quen biết”
mà người ta tuyệt đối không thể nhận ra được; sau một lúc do dự, nghi ngờ,
người ta đã phá vỡ được khối băng: “Càng nhìn bạn, bạn càng làm tôi nhớ đến ai
đó mà tôi đã gặp, tôi đã trông thấy bạn ở đâu đó rồi… Tôi quen biết bạn nhưng
không thể nào nhớ ra tên bạn…”. Dần dần, trong ý thức hiện ra kỷ niệm này, hoàn
cảnh kia… Rồi bỗng chốc niềm xác tín “tôi nhận ra bạn rồi… tôi đã gặp bạn
tại…”. Ai lại đã chẳng có một kinh nghiệm như thế, gần giống với kinh nghiệm
hoàn toàn độc nhất vô nhị của các Tông đồ.
Kinh nghiệm của các
Tông đồ.
1. Chúa Giêsu có sáng
kiến.
Chúa Giêsu không đến
gặp môn đệ vì các ông đã có hẹn với Ngài. Các ông chẳng còn chờ đợi gì nơi Đấng
đã chịu đóng đinh thập giá nữa. Không một người Do Thái nào, dù say mê gắn bó
với Chúa Giêsu, đã nhận ra Ngài là Đấng Mêsia. Và giờ này đây, “Ngài đến và
đứng ở giữa họ”. Chính Ngài đã có sáng kiến đến gặp gỡ họ.
Chúng ta có thể nào
được kinh nghiệm này của các Tông đồ không? Có và không. Kinh nghiệm của các
ngài về những lần Chúa hiện ra quả là độc nhất vô song và kinh nghiệm đó chính
là nền tảng cho đức tin của chúng ta. Vả lại, cũng như các ngài, chúng ta gặp
Chúa Kitô trong đức tin: chúng ta cảm thấy mối liên lạc sống động với Chúa như
với một người bạn, sự hiện diện của Ngài vừa bao quát vừa làm chúng ta phấn
khởi. Ngài đã hứa với chúng ta rằng: “Ai yêu mến Thầy… thì Cha Thầy và Thầy,
chúng ta sẽ đến lưu lại nơi người ấy”.
2. Họ nhận ra Ngài.
Nhờ lời chào của Ngài
“Bình an cho các con!” và việc Ngài cho xem tay và cạnh sườn của Ngài, các môn
đệ nhận ra Đấng đã chịu đóng đinh thập giá ngày thứ sáu tuần thánh. Tôma nghi
ngờ trước khi có được một đức tin đầy xúc động và hăng say.
3. Họ được sai đi thi
hành sứ vụ.
Chúa Giêsu không hiện
ra để cho người ta chiêm ngắm Ngài, nhưng để sai họ đi tiếp tay với Ngài mà
loan báo Tin Mừng: “Cũng như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”.
Kinh nghiệm của chúng
ta.
1. Cũng như Đấng Phục
Sinh đã có sáng kiến hiện ra với các tông đồ, cũng vậy, chính Ngài đến gặp gỡ
chúng ta, Ngài đến bất ngờ trong cuộc sống chúng ta. Đức tin là một hồng ân của
Thiên Chúa, Đấng chiến thắng những mối nghi ngờ của chúng ta.
2. Ngài cho ta nhận ra
được Ngài nhờ sự bằng an của Ngài, nhờ lời Ngài nói trong nội tâm ta. Ngài nói:
“Chính Thầy đây”. Tôi gặp gỡ Ngài trong Lời của Ngài đang hiện tại hóa việc rao
giảng của Ngài khi xưa và trong Thánh Thể, hiện tại hóa hy tế của Ngài.
3. Một khi chính bản
thân tôi đã gặp Ngài, tôi có thể mang Lời Ngài đến cho anh em tôi, tôi có thể
phục vụ thế giới bằng hành động.
Câu hỏi.
Tôi có chỉ bằng lòng
đọc Tin Mừng, chia sẻ, lắng nghe Tin Mừng, cử hành Thánh lễ mà không làm gì hơn
nữa chăng? Nếu đúng vậy, thì đó là tránh né: khi tôi không thao thức làm cho
Chúa Giêsu hiện diện trên thế giới thì tôi đã không chu toàn sứ vụ mà tôi đã
được trao phó.
Lời Chúa và Thánh Thể.
Như thánh Tôma, chúng
ta hết thảy đều ước mong kiểm chứng cách khả giác sự hiện diện thực sự của Chúa
Kitô Phục Sinh trong Thánh Thể. Câu trả lời của Chúa Giêsu vẫn luôn luôn có giá
trị: “Phúc thay những kẻ không thấy mà tin”.
35. Ý nghĩa các vết sẹo – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Trong mùa Phục Sinh,
các bài đọc sách Tin Mừng và Công vụ Tông đồ thuật lại: mỗi lần Chúa Giêsu hiện
đến với các môn đệ, Ngài đều trao ban bình an: “bình an cho các con” và “cho
các ông xem tay chân và cạnh sườn” là những vết thương cuộc khổ nạn của Ngài.
Điều quan trọng được
Thánh Kinh ghi nhận là thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang thương
tích của cuộc khổ nạn, vẫn còn lỗ đinh ở chân tay và vết giáo đâm ở cạnh sườn.
Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành nay thành những vết
sẹo.Tôma muốn sờ đến để biết chắc Thầy đã sống lại.Khi Chúa Phục Sinh mời gọi
Tôma: “hãy đặt ngón tay vào lỗ đinh và hãy đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn”,
chắc hẳn Tôma đã nhìn thật lâu những dấu đinh. Khi ấy, Tôma khám phá thật sâu
một Tình Yêu.Tình yêu hy sinh mạng sống và đủ mạnh để lấy lại.Tình yêu khiêm hạ
cúi xuống để chinh phục ông.Các vết sẹo của Thầy đã chữa lành vết thương hoài nghi
của Tôma. Lòng ông tràn ngập niềm cảm mến tri ân. Ông thoát ra khỏi sự cứng
cỏi, khép kín, tự cô lập, để bước vào thế giới của lòng tin. Tôma đã tin vượt
quá điều ông thấy. Ông chỉ thấy và chạm đến các vết sẹo của Thầy, nhưng ông tin
Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông.
Tại sao thân xác phục
sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang các thương tích của cuộc khổ nạn? Các vết sẹo
ấy có ý nghĩa gì đối với chúng ta?
1. Những vết sẹo giúp
các môn đệ nhận ra Chúa
Chúa Giêsu phục sinh
giúp các môn đệ nhận ra Ngài nhờ những vết sẹo. Ngài cho họ xem những vết sẹo ở
tay và cạnh sườn. Những vết sẹo nói lên một điều quan trọng: Thầy chính là Đấng
đã bị đóng đinh và đâm thâu; Thầy đã chết nhưng Thầy đã thắng được tử thần.Các
môn đệ mặc dầu được tiên báo trước về cuộc Phục sinh (Mt 18,31-34), nhưng những
tang tóc và lo sợ xâm chiếm hết tâm hồn họ lúc này. Cho nên để họ được an tâm
và bình an hơn, Chúa nói: “hãy xem chân tay Thầy đây...”. Thân xác phục sinh
của Chúa bây giờ vẫn còn mang những dấu vết của cuộc thụ nạn như các dấu đinh,
lằn roi... Chúa bảo họ cứ sờ vào đó để khỏi còn phải nghi ngờ về bóng ma hay
thần linh nào khác “Chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương thịt như anh
em thấy Thầy có đây” (Lc 24,39); “Người đưa tay chân ra cho các ông xem” (Lc
24,40). Bàn tay mang dấu đinh là bàn tay nhen lửa và nướng cá bên biển hồ
Tibêria. Bàn tay trao tấm bánh đời mình trong bữa Tiệc Ly bây giờ trao tấm bánh
mình mới nướng cho môn đệ.(x.Ga 21,1-14).
Các Tông đồ đã thấy
được thân xác vinh quang phục sinh của Chúa.
Thân xác Chúa phục
sinh cũng là thân xác trước khổ nạn, nhưng nay không còn bị lệ thuộc vào không
gian vào thời gian như thân xác trước nữa. Chúa ra khỏi mồ (Lc 24,3), Chúa vào
giữa nhà các Tông đồ đang cửa đóng then cài (Ga 20,19), Chúa đi trên biển (Ga
21,7). Vì thế, thánh Phaolô gọi thân xác phục sinh của Chúa là thân xác thiêng
liêng, chí thiện (1Cr 15,40). Thánh Thần tràn ngập trong thân xác ấy.Thân xác
Chúa Kitô Phục Sinh được Kinh Thánh gọi là: bất tử (1Cor 15,53), bất diệt, linh
thiêng (1Cor 15,44), bất khả thực (Kh 7,16), huyền diệu (Mt 28,1; Ga 20,19).
Lanh lẹ (Lc 24,26). Chúa Kitô Phục Sinh đã cởi bỏ tất cả những yếu hèn của nhân
loại như đói khát, mệt mỏi. Dù Chúa có ăn uống chút ít, song đó không phải là
nhu cầu tự nhiên. Nhưng Chúa làm như vậy để các Tông đồ xác tín hơn rằng Ngài
đã sống lại thật với cùng một thân xác trước kia.
2. Những vết sẹo là
chứng tích của tình yêu cao cả
Thương tích trên thân
thể phục sinh của Chúa Giêsu là một nhắc nhở rằng, Ngài là Thiên Chúa nhưng
cũng là một con người như chúng ta, và Ngài đã chịu đau khổ để thông cảm với
mọi đau khổ của loài người và để làm gương cho chúng ta.
Khi nhìn đến Chúa
Giêsu với các thương tích của cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ cảm thấy an ủi hơn, gần
gũi hơn với Thiên Chúa và cố gắng vươn lên, không chìm đắm trong buồn sầu cay
đắng, không tầm thường hóa cuộc đời trong tội lỗi và vững tin rằng, sự sống lại
vinh hiển có giá trị hơn đời này gấp bao lần mà chính Chúa Giêsu đã mở đường đi
về sự sống mới.
Qua cuộc khổ nạn mà
các vết sẹo vẫn còn lưu lại trên thân thể, Chúa Giêsu Phục Sinh muốn nói với
chúng ta rằng sự đau khổ, trong ý nghĩa tích cực là những hy sinh có giá trị
cứu độ. Với các vết sẹo ấy, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng, đau khổ
không là một bất hạnh cần phải lẫn tránh, mà tội lỗi gây ra đau khổ mới là điều
xấu xa cần phải tránh xa.
Thiên Chúa đã yêu
thương nhân loại đến nỗi ban chính Người Con Một; và Người Con Một đã yêu cho
đến cùng, đã chịu khổ nạn với trái tim bị đâm thâu khi tự hiến trên thánh giá.
Chúng ta cũng phải đáp trả sao cho cân xứng với tình yêu ấy.
Có câu chuyện “Trái
tim có nhiều vết sẹo” diễn tả tình yêu chia sẽ trao ban qua những thương tích
cuộc đời.
Một buổi chiều trong
công viên, có một chàng trai đang chăm chú vẽ một trái tim. Trên khung giấy
trắng dần dần hiện ra một trái tim thật đẹp, thật hoàn hảo khiến mọi người đứng
xem đều trầm trồ khen ngợi.
Bỗng một ông lão đi
đến. Ông trầm tư ngắm nghía bức tranh của chàng trai một hồi lâu, rồi lặng lẽ
mượn bút vẽ một hình thoạt nhìn rất lạ, nhìn thật kỹ mới nhận ra đó là hình một
trái tim…
Chàng trai ngac nhiên
nhìn trái tim ông lão vừa vẽ, nó bị chắp vá chằng chịt, nhưng rõ ràng vẫn là
một trái tim. Trên trái tim ấy, có chỗ như bị khuyết lõm, có chỗ như bị cắt đi
và được ghép nối bởi những mảnh to nhỏ khác nhau. Mọi người bắt đầu bàn tán và
lắc đầu tỏ ý không hiểu ý nghĩa hình vẽ trái tim của ông lão.
Chàng trai thắc mắc:
- Cụ ơi! Cháu không
hiểu vì sao ông lại vẽ trái tim như vậy? Làm sao trái tim lại mang nhiều vết
sẹo và ráp nối như thế?
Ông cụ mỉm cười rồi
nói:
- Đúng! Trái tim của
ta có thể không hoàn hảo, nhưng nó là một trái tim thật sự. Đấy chỉ là do trái
tim này đã có thời gian sống và trải nghiệm nhiều hơn trái tim của cậu. Hãy
nhìn những dấu vết này! Tuy có nhiều thương tích nhưng tôi luôn tự hào về nó.
Cậu biết không, khi tôi trao một mảnh tim của tôi cho một người thân, cha mẹ,
anh chị, bạn bè và cả những người mà tôi tình cờ gặp được… thì ngược lại, họ
cũng trao cho tôi một mảnh tim của họ để đắp vào chỗ trống ấy. Những mảnh tim
này không hoàn toàn giống nhau: phần trái tim mà cha mẹ trao cho tôi bao giờ
cũng lớn hơn phần tôi trao lại; con gái tôi dành cho tôi phần trái tim trong
trẻo nhất; bạn đời tôi tặng cho tôi phần trái tim đẹp nhất và chung thủy nhất…
Những mảnh tim ấy đã ghép vàp nhau và tạo thành những vết chắp vá của trái tim
tôi. Chính điều này luôn nhắc tôi nhớ về những người tôi yêu dấu, những tình
yêu mà tôi đã được chia sẻ trong đời…
Ông lão nói tiếp:
- Còn những vết lõm
này là phần trái tim tôi trao đi mà chưa được nhận lại. Cậu biết đấy, tình yêu
trao đi chẳng cần đến sự đền đáp. Dù những khoảng trống này nhiều lúc làm tôi
đau đớn, nhưng cũng chính nhờ chúng mà tôi có động lực để khao khát được sống,
và có niềm tin vào một ngày mai tốt đẹp hơn. Chàng trai ạ, nhờ những mảnh chắp
vá này mà trái tim của tôi có sức sống mãnh liệt, trưởng thành và cảm nhận cuộc
sống trọn vẹn, sâu sắc hơn.
Đám đông im lặng, còn
chàng trai không giấu được nỗi xúc động đang dâng trào trong lòng. Anh tự hào
cầm bút cắt đi một mảnh trong trái tim hoàn hảo của mình và đắp vào một phần
khuyết của trái tim ông lão. Đáp lại, ông lão cũng tặng anh một mảnh trái tim
ông.
Giờ đây, trái tim của
chàng trai đã có một vết sẹo. Tuy không còn hoàn hảo nữa, nhưng chàng trai cảm
thấy trái tim mình đầy sức sống hơn bao giờ hết. Anh nhận ra sức mạnh và vẻ đẹp
của trái tim không phải ở chỗ nó được giữ kỹ để không có một vết tích, tổn
thương nào của cuộc đời mà trái lại, càng hòa nhập và biết chia sẻ, dám yêu,
dám sống và sẵn sàng cho đi, trái tim của con người càng trở nên nhạy cảm, sâu
sắc và đập mạnh mẽ hơn...
3. Những vết sẹo là
dấu chứng của phục sinh
Thân xác Chúa Phục
Sinh mang những vết sẹo cuộc khổ nạn. Những cái sẹo ấy sẽ ở mãi với Ngài trên
thiên quốc. Những cái sẹo gợi lên những kỷ niệm buồn phiền, thất bại, đớn đau.
Nhưng nếu không có những cái sẹo thì cũng chẳng có phục sinh.Chúa Giêsu vượt
thắng sự chết, đập tan quyền lực của tử thần, Ngài phục sinh và bước vào một
cuộc sống mới viên mãn hơn, vững bền hơn. Dẫu rằng vẫn còn đó những dấu vết của
thương đau, những vết sẹo của bạo lực bất công, nhưng giờ đây Ngài đã khởi sự
một sự sống bất diệt, vượt trên vòng lao lý của khổ đau, của giới hạn kiếp
người, Ngài đã bước vào thế giới của niềm vui, của Tình Yêu!
Con người chúng ta, ai
cũng thường mang những vết sẹo trên thân xác. Có những vết sẹo gợi lại cả một
vùng trời kỷ niệm. Sống chiều kích Phục Sinh trong ý nghĩa trao ban và tận hiến
chính là sống ý nghĩa “trái tim có nhiều vết sẹo”.
Nếu hiểu cuộc phục
sinh của Chúa Giêsu là sự vượt qua nghịch cảnh để bước vào đời sống mới, thì
mỗi khi một cá nhân, một gia đình hoặc một tập thể vượt qua được những nghịch
cảnh của đời mình thì cũng có thể gọi đó là sự phục sinh!
Tony Melendez là một
người Nicaragua, sinh năm 1962 và bị mất cả hai tay vì ảnh hưởng tai hại của
một loại thuốc cảm cúm mà bà mẹ đã uống khi không biết là bà đang mang thai.
Sau khi Tony được 1 tuổi, cả gia đình được ông ngoại bảo lãnh sang Los Angeles
Hoa Kỳ, ở đây Tony học sử dụng mọi thứ bằng đôi chân, kể cả học đánh đàn ghita.
Đến năm 16 tuổi, với cây đàn ghita, anh thường hát dạo ở một góc phố Laguna
Beach để kiếm tiền cho gia đình. Anh cũng rất chán nản với tương lai đi ăn xin
như vậy, và anh tự hỏi, "chẳng lẽ cuộc đời mình chỉ đi ăn xin như thế thôi
hay sao?".
Rồi một ngày kia anh
nhận được lá thư mời đến trình diễn cho Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong
ngày Đại Hội Giới Trẻ vào tháng 9 năm 1987 ở Los Angeles. Trong cuộc họp mặt đó
có trên 6.000 người trẻ từ khắp nơi đến tham dự.
Anh đã nhận lời trình
diễn và cũng kể từ đó cuộc đời anh thay đổi. Sau khi trình diễn một bài do anh
sáng tác, cả hội trường đứng dậy hoan hô anh, ngay cả Đức Giáo Hoàng cũng đứng
dậy và đi đến tận bục trình diễn để hôn anh, và điều quan trọng là câu nói của
Đức Gioan Phaolô II. Ngài nói, "Tony, con là một người thực sự can đảm.
Con đang đem lại hy vọng cho mọi người ở đây. Cha ao ước con sẽ tiếp tục đem hy
vọng cho tất cả mọi người".
Từ lúc đó trở đi, anh
được mời đi lưu diễn ở nhiều nơi trong nước, và bất cứ ai trông thấy một thanh
niên cụt hai tay nhưng vui vẻ dùng đôi chân đánh đàn và say sưa cất tiếng hát
với những lời lẽ không than van, không cay đắng, không oán hờn thì tất cả mọi
người đều ngập tràn hy vọng. Chính Tony, anh chia sẻ như thế này: "Có lúc
tôi thực sự tin rằng tôi phải có đầy đủ chân tay, mắt mũi để yêu thương, để
phục vụ, để lo lắng cho người khác. Tôi nghĩ là tôi cần những điều đó. Dĩ
nhiên, có đôi tay thì giúp đỡ người khác dễ dàng hơn. Nhưng tình yêu thì không
cần đôi tay. Để yêu thương ai đó, tất cả những gì bạn cần là con tim và để ý
đến họ."
Với thân thể tật
nguyền, Tony Melendez đã đem lại hy vọng cho những người thấy anh trình diễn.
Đó là chứng từ của một hành trình phục sinh.
36. Hãy nhìn xem
Suy Niệm
Thân xác chúng ta
thường mang những vết sẹo, hậu quả của những lần bị trầy trụa, té ngã. Có những
vết sẹo gợi lại cả một vùng kỷ niệm.
Dù vui hay buồn thì
cũng là chuyện đã qua. Vết sẹo làm ta kém đẹp, nhưng không làm đau như xưa.
Khi Chúa Giêsu phục
sinh hiện ra thăm các môn đệ, Ngài giúp họ nhận ra Ngài nhờ những vết sẹo.
Ngài cho họ xem những
vết sẹo ở tay và cạnh sườn. Những vết sẹo nói lên một điều quan trọng: Thầy
chính là Đấng đã bị đóng đinh và đâm thâu; Thầy đã chết nhưng Thầy đã thắng
được cái chết.
Chúng ta ngỡ ngàng khi
thấy Chúa phục sinh có sẹo, dù điều đó chẳng đẹp gì.
Ngài không ngượng mà
cho các môn đệ xem.
Những cái sẹo sẽ ở mãi
với Ngài trên thiên quốc. Chúng gợi lên những kỷ niệm buồn phiền, thất bại, đớn
đau. Nhưng nếu không có chúng thì cũng chẳng có phục sinh.
Chẳng cần phải xóa đi
khỏi ký ức cuộc khổ nạn kinh hoàng và cái chết nhục nhã.
Chúng ta cũng lên
thiên đàng với các vết sẹo của mình.
Sống ở đời sao tránh
khỏi những dập gẫy, thương tích.
Nếu chúng ta đón nhận
mọi sự với tình yêu thì mọi sự sẽ trở nên nhịp cầu cứu độ.
Tin Mừng phục sinh là
Tin Mừng về các vết thương đã lành. Có những vết thương tưởng chẳng thể nào
thành sẹo.
Chúng ta có dám cho
người khác thấy sẹo của mình không?
Cuộc khổ nạn của Thầy
đã làm các môn đệ bị thương. Các vết sẹo của Thầy sẽ chữa lành những vết thương
đó.
Hẳn Tôma đã nhìn thật
lâu những dấu đinh. Chính lúc đó ông khám phá thật sâu một Tình Yêu.
Tình yêu hy sinh mạng
sống và đủ mạnh để lấy lại.
Tình yêu khiêm hạ cúi
xuống để chinh phục ông.
Ông đâu dám mong Thầy
sẽ đích thân hiện đến để thỏa mãn những đòi hỏi quá quắt của mình. Lòng ông
tràn ngập niềm cảm mến tri ân.
Ông ra khỏi được sự
cứng cỏi, khép kín, tự cô lập, để bước vào thế giới của lòng tin.
Tôma đã tin vượt quá
điều ông thấy.
Ông chỉ thấy và chạm
đến các vết sẹo của Thầy, nhưng ông tin Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông.
Tin bao giờ cũng đòi
một bước nhảy vọt khỏi cái thấy.
Chúng ta không được
phúc thấy Chúa theo kiểu Tôma, nhưng chúng ta vẫn được thấy Chúa theo những
kiểu khác.
Cần tập thấy Chúa để
rồi tin.
Có khi phải tập nhìn
lại những vết sẹo của mình, của Hội Thánh, của cả thế giới, để rồi tin rằng
Chúa phục sinh vẫn đang có mặt giữa những trăn trở và vấp váp, thất bại và khổ
đau.
"Phúc cho những
ai không thấy mà tin", và phúc cho những ai biết thấy nên tin.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đọc lại bài Tin Mừng
trên, bạn thấy Chúa Phục Sinh đã tặng cho các môn đệ những món quà nào?
Chắc các môn đệ khác
đã thấy khó chịu trước thái độ của ông Tôma. Tập thể nào cũng có những Tôma!
Thái độ của Chúa Giêsu có giúp bạn giải gỡ những xung đột trong nhóm của bạn
không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin cho con
luôn vui tươi.
Dù có phải lo âu và
thống khổ, xin cho con đừng bao giờ khép lại với chính mình; nhưng biết nghĩ
đến những người quanh con, những người - cũng như con - đang cần một người bạn.
Nếu như con nên yếu
đuối, thì xin cho con biết yêu thương và sáng suốt hơn, thông cảm và nhân từ
hơn.
Nếu bàn tay con run
rẩy, thì xin giúp con luôn biết mở ra và cho đi.
Khi lâm tử, xin cho
con biết đón nhận khổ đau và bệnh tật như một lời kinh. Ước chi con sẽ chết
trong khiêm hạ và tín thác, như một lời xin vâng cuối cùng. Và con sẽ về nhà
Chúa, để dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.
37. Cuộc sáng tạo mới – Lm Ignatiô Trần Ngà
Ngày thứ nhất của nhân
loại cũ
Từ khởi thuỷ, sau khi
dựng nên trời đất muôn vật, Thiên Chúa lấy bùn đất dựng nên Ađam. Mới đầu thân
thể ông chỉ là một khối đất bất động, không hề có dấu hiệu của sự sống.
Thế rồi, Thiên Chúa
thổi hơi vào lỗ mũi Ađam (St 2,7), tức thì Ađam bắt đầu mở mắt, cựa mình và
vươn vai chỗi dậy thành một con người đầy sức sống và được trở thành thuỷ tổ
loài người đông đảo trên khắp trái đất.
Đó là ngày thứ nhất
của lịch sử loài người, ngày khai sinh nhân loại cũ, khởi đi từ con người đầu
tiên được Thiên Chúa tạo dựng, thông ban sự sống và những phẩm tính cao đẹp của
Ngài.
Tiếc thay, con người
tuyệt vời được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Ngài lại lâm vào vòng sa đoạ,
đánh mất phẩm chất cao đẹp mà Thiên Chúa đã phú cho và phải mang lấy án phạt
đời đời nên Thiên Chúa phải thực hiện kế hoạch kiến tạo một nhân loại mới.
Ngày thứ nhất của nhân
loại mới
Thế rồi, "vào
ngày thứ nhất trong tuần - và cũng là ngày thứ nhất trong lịch sử nhân loại mới
- nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Dothái. Đức Giêsu
đến, đứng giữa các ông và nói: "Chúc anh em được bình an!" (Ga 20,
19-22)
Kế đó, như thời khởi
thuỷ, Thiên Chúa thổi hơi vào lỗ mũi Ađam để thông truyền sự sống cho ông, thì
nay Chúa Giêsu cũng thổi hơi trên các tông đồ đang co cụm như những xác không
hồn để thông ban Chúa Thánh Thần cho họ: "Người thổi hơi vào các ông và
bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần" (Ga 20, 22)
Thế là từ đây, các
tông đồ bắt đầu đón nhận sức sống mới, các ông được hồi sinh, được trở nên can
đảm mạnh mẽ, thoát ra khỏi căn phòng đóng kín như hầm mộ u tối chôn vùi các ông
suốt mấy tuần qua để ra đi khắp các nẻo đường, hô vang Tin Mừng cứu độ.
Đó là ngày thứ nhất
trong tuần đồng thời cũng là ngày thứ nhất trong lịch sử của nhân loại mới.
Ngày thứ nhất trong
cuộc đời người môn đệ
Vậy mà cho đến hôm
nay, sau hơn hai ngàn năm Chúa Giêsu khai sinh nhân loại mới, vẫn còn trong ta
sự ương ngạnh của Ađam, muốn sống theo dục vọng của mình bất chấp lời giáo huấn
của Thiên Chúa. Vẫn còn trong ta tính ù lì khiếp nhược của các tông đồ sau biến
cố Thầy Giêsu thụ nạn, tự giam mình trong phòng kín như mộ địa tối tăm. Vẫn còn
trong ta con người ích kỷ chỉ biết sống cho mình, cho gia đình mình mà chưa mở
ra với tha nhân và lối xóm.
Thế nên, hơn lúc nào
hết, chúng ta cần Chúa Giêsu hiện đến thổi hơi truyền ban Thần Khí cho chúng ta
như Ngài đã thực hiện cho các tông đồ xưa, để chúng ta được hồi sinh, được vượt
ra khỏi ngục tù do lòng tham lam ích kỷ dựng nên, thoát ra khỏi mộ địa do chính
sự hèn yếu của chúng ta vây bọc.
Và nhờ đó, ngày thứ
nhất trong cuộc đời người môn đệ được khai mở trong ta.
38. Dấu ấn của đau khổ
Tôi không ngạc nhiên
trước lời đòi hỏi của Tôma. Điều làm tôi suy nghĩ trong lúc này đó là tại sao
thân xác phục sinh của Đức Kitô lại còn mang những thương tích, những dấu ấn
của đau khổ?
Tôi cứ nghĩ rằng: sau
khi sống lại, thân xác vinh quang của Đức Kitô hẳn không còn vết tích nào của
những cực hình phải chịu.
Bởi vì, sau cuộc
thương khó là sự sống lại, sau đau khổ là vinh quang, sau ngày thứ sáu tuần
thánh là sáng Chúa nhật phục sinh. Sự tương phản mãnh liệt đến độ chúng ta
tưởng như có một bước nhảy vọt, cắt đứt và chia lìa giữa hai tình trạng kể
trên, như thể sự phục sinh và vinh quang là phần thưởng cho những đau khổ Ngài
đã phải chịu trong suốt cuộc thương khó, để rồi chúng ta sẽ dần dần quên đi
những kỷ niệm bi đát ấy.
Trong cuộc sống chúng
ta thấy người ta thường tặng thưởng huân chương cho những kẻ can đảm cứu vớt
người bị chết đuối hạy gặp phải tai ương hoạn nạn. Tấm huân chương xứng đáng
với những hy sinh mà kẻ ấy đã phải gánh chịu. Thế nhưng, đó cũng chỉ là một qui
ước do xã hội đặt ra.
Sự phục sinh của Đức
Kitô thì khác. Đó không phải chỉ là một dấu chứng của chiến thắng, của phần
thưởng mà thôi, nhưng còn là một diễn tiến liên tục nơi thân xác Đức Kitô.
Chính Ngài đã cắt nghĩa:
- Như hạt lúa mì rơi
xuống đất, có mục nát đi thì mới trổ sinh nhiều bông hạt.
Giữa hạt giống được
gieo trồng và bông lúa chín vàng dưới ắng nắng mặt trời có một sự liên tục
trong phát triển. Bông lúa chỉ là kết quả của hạt giống được gieo trồng.
Nơi khác, Ngài cũng
nói:
- Như người đàn bà lo
âu khi giờ của mình đã đến, nhưng sau đó thì vui mừng vì đã sinh được một người
cho thế gian.
Sự sinh nở chỉ là kết
quả của việc thai nghén. Giữa hai sự kiện này luôn có một sự liên tục trong
phát triển.
Cũng thế, Đức Kitô đã
bước vào sự chết và sống lại. Chúa nhật phục sinh không phải chỉ đến sau ngày
thứ sáu tuần thánh, mà còn là một sự tiếp nối, một kết quả, một hoa trái.
Chính vì thế, chúng ta
hiểu được tại sao Tôma có thể nhìn thấy những dấu ấn của đau khổ, của cực hình
trên thân xác sống lại của Đức Kitô.
Vinh quang xuất phát
từ thập giá và những dấu đanh đã không làm xấu đi, trái lại còn làm đẹp thêm
cho thân xác phục sinh của Ngài.
Cũng giống như trên
khuôn mặt nhăn nheo của một cụ già. Những nếp nhăn ấy chính là kết quả những
năm tháng dài của cuộc đời với những khổ đau và tang tóc, những hy sinh và gian
khổ, những yêu thương và phục vụ. Những nếp nhăn ấy tạo nên vẻ đẹp của kinh
nghiệm, của già dặn và chín chắn. Và rồi cặp mắt của cụ già sáng lên niềm hy
vọng được gặp lại chính cái nhìn của Thiên Chúa.
Để kết luận, chúng ta
hãy suy gẫm lời Chúa đã phán để hiểu được toàn bộ cuộc đời của Ngài, đó là Con
người phải chịu đau khổ, và phải chết đi trước khi được bước vào vinh quang.
39. Tôma
Bài Tin Mừng kể lại
câu chuyện Chúa Kitô Phục sinh hiện ra với các môn đệ vào ngày thứ tám sau khi
Chúa sống lại. Vì thế, hôm nay là ngày thứ tám sau lễ Phục sinh, tức là ngày cuối
cùng của tuần bát nhật mừng đại lễ Phục sinh, chúng ta nghe đọc lại câu chuyện
này. Thực vậy, vào buổi chiều chính ngày Chúa nhật Phục sinh, Chúa Kitô đã hiện
đến với các môn đệ đang tụ họp nhau trong căn phòng ăn bữa tiệc ly trước đó ba
ngày, Chúa cho họ xem các thương tích ở tay và cạnh sườn Ngài để chứng thực
Ngài đã sống lại. Nhưng hôm ấy không có mặt ông Tôma. Vì thế, khi nghe các bạn
kể lại, ông không tin và khi nào tự tay kiểm chứng mới tin. Tám ngày sau, tức
là Chúa nhật liền sau đó, Chúa Kitô hiện đến lần nữa và gọi ông Tôma ra kiểm
chứng tay và cạnh sườn Ngài. Chúa đáp lại tất cả lời thách đố của Tôma. Khi ấy,
ông cung kính và run sợ nói lên lời tuyên xưng lòng tin: “Lạy Chúa của con, lạy
Thiên Chúa của con”. Chúa âu yếm nhìn ông và nói: “Hỡi Tôma, vì đã thấy Thầy,
nên anh tin”. Rồi Chúa đưa mắt nhìn tất cả và nói: “Phúc thay những người không
thấy mà tin”. Qua câu chuyện Tin Mừng kể lại, có người coi ông Tôma như là “bổn
mạng” của những kẻ hoài nghi, cứng lòng, hoặc như là “ông tổ” của phái duy lý,
duy thực nghiệm, chỉ tin những gì nhìn thấy được, sờ mó được. Nói thế quả là
quá đáng và bất công. Nhưng dầu sao trong thái độ của ông Tôma, chúng ta cũng
thấy phản ảnh thái độ hoài nghi và kém lòng tin của nhân loại, của mỗi người
chúng ta. Trong đời sống hằng ngày, chúng ta dễ tin lời người ta nói, dễ tin
quảng cáo, tuyên truyền, nhưng trong phạm vi tôn giáo, chúng ta lại dễ hoài
nghi, yêu sách lý lẽ minh bạch và đòi bằng chứng rõ ràng. Cho nên đừng vội
trách ông Tôma, vả lại, thái độ toàn diện của ông rất đáng cho chúng ta khâm
phục. Quả thực, lúc ban đầu, ông Tôma tỏ ra một thái độ cứng lòng, khó tin
những điều các bà đạo đức, các bạn tông đồ kể lại, ông cho là ảo tưởng, không
đáng tin. Chúa nhân từ và nhẫn nại, Ngài vui lòng chờ đợi qua tám ngày rồi mới
hiện ra để thỏa mãn những yêu sách quyết liệt của ông. Nhưng trước bằng chứng
quá hiển nhiên ấy, ông phục xuống và kêu lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa
của con”. Theo cha Larăng, một học giả Kinh thánh nổi tiếng: đây là lần thứ
nhất Chúa Giêsu được gọi bằng danh hiệu “Thiên Chúa” rõ rệt. Cho nên đây là một
tác động đức tin hoàn toàn và quyết liệt sau một thời gian hoài nghi và từ
khước. Tác động đức tin này có giá trị, vì thực sự ông Tôma đã vượt qua hình
dáng bên ngoài để tới thực tại tiềm ẩn. Mắt ông chỉ nhìn thấy con người Chúa
Giêsu, tay ông chỉ sờ tới những vết thương vật chất hữu hình, nhưng ông tuyên
xưng Chúa là Thiên Chúa của ông.
Lúc ấy Chúa phán một
câu mà muôn đời sẽ suy niệm và trở nên nguồn an ủi phấn khởi cho mọi thế hệ về
sau: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin”.
Nói điều ấy Chúa có ý nhằm đến chúng ta và muôn thế hệ sau nữa, là những người
không được đặc ân chiêm ngưỡng dung nhan nhân loại của Chúa, không được đặc ân
nghe tiếng Ngài, đụng chạm tới thân xác thánh thiện của Ngài. Chúng ta tin theo
bằng chứng của các tông đồ và lời giảng dạy của Giáo Hội. Đức tin ở đây không
phải là tin theo một học thuyết, một chân lý viễn vông, nhưng là tin vào một
nhân vật lịch sử, sống động: Chúa Kitô chết và Phục sinh. Quả thực, sự hy sinh
lớn lao của Chúa Kitô trên núi Sọ được Thiên Chúa đáp ứng, đó là Chúa Kitô đã
sống lại. Nếu Chúa không sống lại thì tất cả cuộc khổ nạn của Ngài chỉ là một
đường hầm mù mịt, chẳng dẫn đến đâu hết. Thứ Sáu Tuần Thánh và Chúa nhật Phục
sinh là hai mặt của chung một thực tại. Giả sử thiếu một trong hai biến cố:
Chúa chết, Chúa sống lại, thì sự việc thành vô nghĩa. Tất cả những điều trên
đây làm cho chúng ta phấn khởi và tăng thêm niềm xác tín vào mầu nhiệm Phục
sinh của Chúa Kitô. Tuy nhiên, thái độ cứng lòng tin của ông Tôma cũng là điều
có lợi cho chúng ta. Việc ông không tin lúc đầu là một bảo đảm làm cho niềm tin
của chúng ta thêm vững chắc, vì niềm tin Chúa sống lại của chúng ta không chỉ
dựa trên những lời nói suông, nhưng được xây dựng trên đức tin của một người
thực tế, bình dân, đã nhìn thấy tận mắt và sờ tới tận tay vào thân xác sống lại
của Chúa. Do đó, cùng với thánh Gơrêgôriô, chúng ta có thể kết luận: “Ngón tay
đa nghi của ông Tôma đã trở nên ông thầy của toàn thể thế giới; bàn tay đa nghi
của ông Tôma đã dạy cho mọi người một sự thật rất chắc chắn, đó là thân xác
Chúa Giêsu Kitô đã Phục sinh”.
40. Tin
Thị kiến của thánh
Gioan trong bài đọc 2 hôm nay trình bày tổng quát Kitô học với toàn thể cuốn
sách: Tôi thấy một Đấng giống như Con Người. Qua Giáo Hội, Gioan đã nhìn nhận
ra Đức Kitô, nhưng hình ảnh vẫn chưa rõ ràng. Ở đây Gioan dùng một hình ảnh của
Cựu ước trích từ sách Đaniel chương 7 nói về Con Người. Kiểu nói “giống như” nói lên tính cách huyền nhiệm và mỹ diệu của
Chúa Kitô giống hình ảnh của Con Người. Sau hình ảnh tổng quát về Con Người,
Gioan mô tả thêm cách đặc biệt về Con Người và được đọc nơi bài đọc 2. Chúng ta
có thể nói qua ở đây để thấy đầy đủ quyền hành của Đức Kitô mà Gioan thấy trong
thị kiến. Ngài mặc áo choàng trắng, chỉ vương quyền tư tế vương giả của Chúa
Kitô. Đứng trước thị kiến Con Người, Gioan cũng như các tiên tri khác và các
tông đồ đều lo sợ, vừa trông thấy Ngài tôi đã ngã xuống như chết dưới chân
Ngài.
Thế giới thần thiêng
không thể tỏ hiện cho con người mà không gây nên nơi họ một tâm tình lo sợ
không thôi, nhưng đồng thời tin cậy. Chỉ khi nào được khích lệ trấn an người ta
mới yên lòng. Ngài đặt tay lên tôi và nói đừng sợ, có Chúa nâng đỡ khích lệ
Gioan.
Sau cùng khi mạc khải
cho Môisê, Thiên Chúa nói: “Ta là Đấng Có”. Câu nói này các thánh có những suy
tư là: là đầu, là sau hết, là Alpha và Omêga, Đức Kitô là Thiên Chúa hằng có
đời đời. Các tước hiệu về Thiên Chúa đã được Giáo Hội sơ khai tin tưởng đặt nơi
Chúa Kitô. Ta là Đấng đã chết, nhưng nay Ta vẫn sống đến muôn đời.
Sống là đặc quyền của
Thiên Chúa. Người ta vẫn đặt điều này làm chủ chốt cho các vấn đề quan trọng.
Ba đặc tính “là đầu, là sau hết, là sống”. Nơi Cựu ước hay áp dụng cho Chúa
Kitô, nơi Giáo Hội sơ khai không chỉ suy tôn Chúa Kitô là Thiên Chúa nhưng còn
nhận nơi Ngài là vị đã sống, chết và sống lại do quyền năng Thiên Chúa ban cho
Ngài.
Trong các phần sau của
sách Khải huyền, nguồn tư tưởng này được diễn tả qua hình ảnh chiên được sát tế
và được tôn vinh ngự trên ngai vàng để thống trị mọi loài. Tư tưởng này dựa vào
một sự kiện lịch sử trong bản văn Hy lạp, tác giả viết: Ta đã bỏ nên người chết
thật rồi, nhưng này đây Ta vẫn sống và còn sống cho đến muôn đời. Uy quyền của
Đức Kitô còn ảnh hưởng đến sự chết. Ta giữ chìa khóa sự chết và địa ngục.
Ngày nay sự chết không
còn quyền gì với Ngài. Chúa Kitô đã sống lại và cứu vớt những kẻ chết và tin
vào Ngài. Ngài không cần để cho thế giới của địa ngục hoành hành tác hại nữa.
Qua sự việc sống lại của Chúa Kitô đã thắng vượt tất cả.
Cùng với Chúa Kitô
Phục sinh chúng ta phải dám tin Ngài, thông phần chịu mọi đau khổ của cuộc đời
trong sự chiến thắng Phục sinh của Chúa Kitô. Cuộc sống này chính là cuộc sống
mà tác giả sách Khải huyền đã sống, đã trải qua. Dưới ánh sáng đức tin, chúng
ta cần phải tin vững mạnh vào Chúa Kitô đã chết và đã sống vì chúng ta. Xin
Chúa thêm đức tin, niềm cậy trông và sự chịu đựng mãnh liệt cho tất cả chúng
ta, để chúng ta vững bước trên con đường tiến về quê hương Thiên Quốc.
41. Thánh Toma và vết thương lòng thương xót Chúa
(Suy niệm của Lm.
Đaminh Nguyễn Ngọc Long – Chúa nhật lễ Lòng thương xót Chúa 2013)
Nói đến vết thương, ai
cũng rùng mình không muốn nhìn, chứ chưa nói tới đụng chạm vào. Vì sợ máu chảy
cùng gây ra đau đớn. Nhưng Thánh Tông đồ Toma lại nằng nặc đòi cho bằng được
đụng chạm xỏ ngón tay vào vết thương của Thầy mình.
Một đòi hỏi táo bạo
phiêu lưu mạo hiểm!
Thông thường thân xác
hình hài diện mạo, tiếng nói, mầu da tóc cùng cá tính của một người là những
đặc điểm giúp dễ nhận ra người đó hơn cả. Nhưng với Thánh Toma lại khác. Theo
Ông những vết thương nơi thân xác Thầy Giêsu mới là đặc điểm giúp Ông nhận ra
Thầy mình.
Vì thế Ông qủa quyết
với các Bạn Tông đồ:“ Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không cỏ
ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có
tin.“ ( Ga 20, 25.)
Một người có tầm nhìn
suy nghĩ khác lạ không giống ai. Nhưng lại ẩn chứa một sự gì sâu xa bí nhiệm.
Vậy Ông Thánh Toma là
ai, và đòi hỏi cùng suy nghĩ khác lạ của Ông mang ẩn chứa sứ điệp đức tin gì?
1. Thánh Toma Điđymô
Trong Hội Thánh Công
giáo có nhiều Thánh cùng tên Toma, như Thánh Toma Aquino, Toma Morus... Nhưng
vị Thánh Toma và vết thương Thầy Giêsu là một trong 12 Thánh Tông đồ được Chúa
Giêsu tuyển chọn kêu gọi ngay từ lúc đầu Ngài ra đi giảng đạo.
Thánh Tông đồ Toma đã
được học nghe Chúa giảng dậy, cùng chứng kiến những phép lạ Chúa làm, cùng sống
trải qua cuộc đau thương khổ nạn của Chúa, được nhìn thấy Chúa Giêsu đã sống
lại, Chúa trở về trời và được tiếp nhận trực tiếp Đức Chúa Thánh Thần hiện
xuống ngày lễ Ngũ tuần.
Sau đó Thánh Tông đồ
Toma đã vâng mệnh Chúa Giêsu, sau khi Ngài trở về trời, ra đi rao giảng nước
Thiên Chúa, thành lập Hội Thánh ở chân trời vùng Á Châu bên nước Ấn Độ.
Không có sử sách nào
ghi chép về nơi chốn cùng ngày tháng sinh ra của Thánh Toma. Chúa Giêsu kêu gọi
Toma làm Tông đồ ở Galilea nước Do Thái, khi đó Ông đang là một bác thuyền chài
đánh cá ở sông hồ. Tên Toma trong danh sách 12 Tông đồ Chúa Giêsu nơi ba Thánh
sử Phúc âm Matheo (10,3), Maco ( 3,18) và Luca (6,15) được nói đến bên cạnh
Thánh Tông đồ Matheo, còn trong sách Công vụ Tông đồ ở bên cạnh Thánh Philippus
( Cv 1,13).
Tên Toma có nguồn gốc
từ tiếng Do Thái mang ý nghĩa là sinh đôi. Trong phúc âm theo Thánh Gioan Ông
được gọi là Toma Điđymô, theo tiếng Hylạp cũng có nghĩa là sinh đôi (Ga 11,16;
20,24)
Hội Thánh Công gíao
Roma mừng lễ kính Thánh Toma Tông đồ vào ngày 03.Tháng Bảy hằng năm. Giáo Hội
Chính Thống mừng lễ Thánh Toma vào Chúa nhật thứ hai sau lễ Chúa phục sinh.
Con đường theo làm môn
đệ Chúa Giêsu của Toma cũng đã trải qua giai đoạn phải quyết tâm chọn lựa cùng
chia sẻ với Thầy mình, và đòi Thầy mình mạc khải cho biết Thầy mình là ai.
2. Con đường theo chân
Chúa
Không biết khi Chúa
Giêsu kêu gọi Toma, và những vị khác làm thành nhóm 12 Môn đệ đầu tiên của
Ngài, họ đã có ý nghĩ về con đường đời sống, cùng công danh sự nghiệp trong
nước Thiên Chúa như thế nào?
Thánh Toma khi nghe
Chúa Giêsu nói đến nỗi đau khổ cùng nguy hiểm, Ngài sẽ phải gánh chịu trong đời
sống khi lên Giêrusalem, Ông đã mạnh dạn nói cùng các anh em Tông đồ: “Cả chúng
ta nữa, chúng ta cùng đi để chịu chết với Thầy” (Ga 11,16)
Đức nguyên Thánh Cha
Benedicto XVI. đã có suy tư về cung cách này của Thánh Toma „ Đó là một qủa
quyết của lòng trung thành một mực theo chân Chúa cho dù phải đi tới đâu. Đây
là mộ ví dụ điển hình trong mối tương quan theo chân Chúa: cùng sống, cùng
chết, cùng cư ngụ ở trong trái tim người như Người ở trong trái tim ta.“
Thánh Toma khi nghe
Chúa Giêsu thầy mình nói đến sự thương khó cái chết gần kề của Ngài, Ông một
mặt nói ngay lời tuyên xưng lòng trung thành của mình. Thầy đi đâu, con theo
tới đó (Ga 14,4) Và Ông cũng thắc mắc hỏi Thầy mình ngay, nhưng chúng con không
biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con có thể biết con đường đó?
Câu hỏi của Toma, cũng
theo Đức nguyên Thánh Cha Benedicto XVI. „tương đối ở bình diện hiểu biết thấp.
Nhưng lại là dịp lúc Chúa Giêsu nói lên những lời mạc khải về chính Ngài, và
những lời đó trở nên thời danh cho mọi thế hệ: “Thầy là con đường, là sự thật
và là sự sống“ (Ga 14,6).
Rồi mỗi khi chúng ta
nghe hay đọc những lời này, chúng ta có thể nghĩ rằng như đang đứng bên Thánh
Toma nghe Chúa Giêsu nói với mình như Ngài đã nói với Thánh Toma khi xưa. Và
chúng ta cũng được đặt ra câu thắc mắc của mình xin Chúa Giêsu cắt nghĩa cho
hiểu, điều mình chưa hiểu. Đây là cung cách cầu nguyện với Chúa Giêsu trong sự
tin tưởng cùng với sự giới hạn hiểu biết của mình.”
Xưa nay trong đời sống
đạo Công giáo, khi nói đến Thánh Toma Tông đồ không ai có thể quên bỏ qua mà
không nghĩ tới, như tường thuật trong Phúc âm Thánh Gioan, về sự hoài nghi của
Thánh Toma - trong dân gian vẫn quen gọi là Toma yếu kém lòng tin - , và từ sự
hoài nghi đó dẫn đưa Ông tới đức tin vào Chúa Giêsu phục sinh.
3. Vết thương lòng
thương xót Chúa Giêsu
Anh em Tông đồ kể
thuật lại cho Ông nghe về việc Chúa Giêsu sống lại hiện ra với họ. Nhưng Ông
không tin vào những lời kể đó. Ông muốn chính mình phải được nhận ra Chúa Giêsu
theo cung cách của Ông: Đụng chạm vào vết thương lòng thương xót của Thầy
Giêsu.
Ông muốn được đụng
chạm vào những vết thương của Thầy Giêsu.Vì với Ông đó là dấu ấn đặc điểm của
Chúa Giêsu đã hy sinh chịu chết trên thập gía.
Ông không muốn đức tin
vào Chúa Giêsu phục sinh chỉ ở tầng bên trên. Nhưng cần phải đi sâu vào tận vết
thương tình yêu của Chúa.
Với Ông, những vết
thương đóng đinh nơi Chúa Giêsu là hình ảnh lòng thương xót của Ngài đối với
con người, cùng quan trọng cho đức tin vào Chúa Giêsu.
Chúa Giesu hiện ra cho
Ông được nhìn thấy những vết thương nơi thân thể Ngài, sự hoài nghi nơi Ông liền
biến ngay. Và từ đó đã dẫn đưa Ông tới đức tin vào Chúa Giêsu phục sinh qua lời
tuyên tín và cũng là lời cầu nguyện thâm sâu: Lạy Chúa, lạy Chúa của con. (Ga
20,28)
Đức nguyên Thánh Cha
Benedicto XVI. trong bài giáo lý về Thánh Toma Tông đồ đã có suy tư: „ Trường
hợp của Thánh Tông đồ Toma với chúng ta có ít nhất ba điều quan trọng: Thánh
Toma mang lại niềm an ủi cho chúng ta trong những khi chúng ta gặp hoài nghi;
Thánh Toma chỉ cho chúng ta, hoài nghi có thể dẫn đưa tìm đến ánh sáng giúp
vượt qua sự bấp bênh mù mịt, và như Thánh Toma, những lời của Chúa Giêsu nhắc
nhớ chúng ta đến ý nhĩa chính thật của đức tin. Đồng thời cũng giúp chúng ta
can đảm, cho dù có những khó khăn hoài nghi, tiếp tục trung thành theo Chúa.”
******************
Sách giáo huấn các
Thánh tông đồ Didache viết vào thế kỷ thứ nhất sau Chúa giáng sinh, cũng đề cập
đến Thánh Tomas tông đồ đi truyền gíao ở bên Ấn độ và thành lập Giáo Hội ở đó.
Gíao phụ Origines viết
tường thuật, Thánh tông đồ Toma trước hết đi rao giảng Phúc âm ở Irak. Sau đó
bước chân truyền giáo của Thánh nhân đi sang tới miền Nam Ấn Độ. Và vào khoảng
những năm 70. của thế kỷ I. sau Chúa Giáng sinh ngài bị chết vì đức tin ở
Mailapur.
Hội Thánh Công giáo
bên Ấn Độ, hoa trái kết qủa việc truyền giáo của Thánh tông đồ Toma, ngày nay
là một trong những Hội Thánh phát triển về nếp sống lòng đạo đức sầm uất, phát
triển lớn mạnh cả về phương diện số giáo dân giữa lòng đất nước quê hương của
Phật giáo và Ấn Độ giáo.
Hội Thánh Công gíao
bên Ấn Độ, hoa trái kết qủa truyền giáo xây dựng đức tin của Thánh tông đồ Toma
đang có nhiều ơn kêu gọi tu trì.
Và Hội Thánh Công gíao
ở đây góp phần đáng kể vào việc giáo dục, bác ái xã hội cho đời sống cho con
người.
42. Tôma, con người đa nghi.
(Suy niệm của Lm.
Giuse Tạ Duy Tuyền)
Chúng ta gặp Tôma đầu
tiên trong câu chuyện của Lagiarô chết. Lúc bấy giờ Chúa và các môn đệ đang ở
ngoài vùng Giuđê là nơi mà người Do Thái quá khích tranh luận, đã hai lần ở
vùng này đòi bắt giữ và ném đá Chúa, nhưng Chúa Giêsu đều lánh đi sang bên kia
bờ sông Giordan. Bây giờ Chúa muốn trở lại Giuđêa để phục sinh La-gia-rô. Tôma
thấy ngay sự nguy hiểm đang rình chờ. Ông liền quay lại nói với các tông đồ:
“Nào cả chúng ta nữa, hãy đi qua đó để chết với Ngài” (Jn 11,16). Câu nói xem
ra có tính cách nhiệt thành nhưng cũng tỏ lộ một nội tâm bi quan, buồn thảm
nhìn vấn đề dưới khía cạnh mặt trái, đen tối thất bại... Tại sao ông không nghĩ
đến Thiên Chúa uy quyền có thể biến giông tố im lặng, có thể tự cứu mình, mà
lại nghĩ đến cái chết thất bại phải nhờ đến sự hỗ trợ của các tông đồ? Tại sao
lại tắt đi hy vọng, cam chịu một định mệnh là bị dân chúng dồn vào chân tường?
Lần thứ hai chúng ta
gặp Tôma bên bàn tiệc ly. Mọi người yên lặng vào nghe Chúa dạy: “Lòng các con
đừng xao xuyến, hãy vững tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở và
Thầy đã dọn sẵn cho các con rồi, Thầy sẽ đến đem các con đi. Thầy ở đâu các con
ở đó. Thầy đi đâu các con biết đường đi rồi” (Jn 14, 1–4).
Tôma thấy khó hiểu,
vấn đề nghe lạ tai. Một đàng Chúa tiên báo cái chết, một đàng lại nói đến chỗ
ở, đường đi, sự sống... Tôma không thể im lặng được nữa nên phát biểu: “Lạy
Thầy, chúng con nào biết đi đâu, thì làm sao biết được đường đi lối về” (Jn 14,
5–6). Một câu nói mang dáng dấp của đêm đen giăng kín, đến mức độ chẳng biết
đường đi!
Lần thứ 3 là dịp Chúa
Phục Sinh. Phúc âm kể rằng: mọi người đều ngồi nói chuyện với nhau về những lần
Chúa hiện ra. Mọi người đều vui mừng vì Thầy đã sống lại. Tại sao chỉ một mình
Tô-ma lại không tin. Ông không tin vì Chúa không hiện ra với ông? Ông không tin
vì ông bỏ cộng đoàn? Sống một mình trong thất vọng, u sầu? Có lẽ đúng. Tôma đã
bỏ cộng đoàn! Tôma có lẽ đã nghe cả thành xôn xao về sự kiện Chúa đã sống lại,
nhưng lòng ông quá thất vọng nên không thể đón nhận niềm vui Chúa phục sinh. Có
lẽ ông đã mang tâm trạng thất vọng, nên bỏ lỡ cơ hội nhận ra Chúa như hai môn
đệ Emmau đã từng không nhận ra Chúa đang đồng hành với mình.
Phúc âm ghi lại: Chúa
phục sinh đã hiện ra với các tông đồ, trừ Tô-ma. Tô-ma đã vắng mặt ngày hôm đó.
Không rõ lý do tại sao vắng mặt, nhưng nếu có thể đoán với tính tình mau nản dễ
bỏ cuộc của ông. Ông đã tách lìa công đoàn. Ông đã quá quen với những tin tức
đen tối u buồn, cho nên những tin tức nào có tính cách đau thương, thất bại,
bách hại thì ông mới tin. Ông không đủ lạc quan để tin vào niềm vui Chúa sống
lại. Do đó, các tông đồ là những người xưa nay ông vốn kính trọng, vốn tín
nhiệm, nay đưa tin Chúa Giêsu phục sinh, thì ông không tin được vì ông chưa
thấy trong nhân loại có chuyện phục sinh bao giờ. Đức tin của ông đòi sự kiểm
chứng. Ông đã hùng hồn tuyên bố: nếu tôi không xỏ ngón tay vào cạnh sườn, vào
lỗ đinh ở tay, chân Chúa thì tôi không bao giờ tin. Rồi một tuần sau đó, cũng
tại căn nhà tiệc ly. Tôma đã nấc nghẹn từng lời để thốt lên: “Lạy Chúa của con,
lạy Thiên Chúa của con”.
Cuộc đời chúng ta đôi
khi cũng đánh mất đi quá nhiều cơ hội, bỏ lỡ nhiều dịp may để hy vọng, để tin,
để sống... Chúng ta bỏ lỡ đi sự hiện diện, cứu giúp của Chúa, ơn tha thứ của
Chúa. Thế nên, cuộc đời chúng ta vẫn chìm đắm trong đau khổ và thất vọng. Có một
điều chúng ta phải học nơi Tôma là ông dám làm lại cuộc đời sau khi gặp được
Chúa. Sau khi Chúa bảo Tôma “hãy tra tay sờ vào các lỗ đinh cạnh sườn...” Từ đó
con người Tôma biến đổi hơn. Từ một con người thờ ơ lãnh đạm, nghi ngờ yếu
đuối, ông trở thành một người tuyên xưng đức tin hùng mạnh: “Lạy Chúa, lạy Chúa
tôi”.
Tôma chính là mẫu
gương cho đời sống đức tin của chúng ta. Có những lúc chúng ta bước đi trong
đêm tối của cuộc đời. Muốn buông xuôi. Muốn bỏ cuộc. Có những lúc chúng ta thất
vọng muốn xa rời cộng đoàn, chẳng dám tin ai. Tô-ma đã từng xa lìa cộng đoàn.
Sống trong cô đơn, thất vọng. Nhưng ông đã trở về với cộng đoàn. Ông bám vào
cộng đoàn, nhờ đó mà ông tìm được niềm vui Chúa phục sinh.
Nguyện xin Chúa Phục
sinh ban cho chúng ta ơn bình an và lòng tin mạnh mẽ để có thể tuyên xưng Chúa
trong mọi biến cố vui buồn trong đời. Xin cho chúng ta đừng bao giờ rời xa cộng
đoàn, nhưng luôn hiệp nhất với nhau trong một đức tin, đức cậy, đức mến nồng
nàn. Amen.
43. Lòng thương xót – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Giáo Hội dành Chúa
Nhật thứ hai Phục Sinh để kính nhớ Lòng Thương Xót của Chúa Giêsu. Sau khi sống
lại từ cõi chết, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các môn đệ và nói rằng: Bình an
cho các con (Ga 20,19). Bình an là món qùa vô giá. Sự bình an sẽ xóa bỏ mọi nỗi
lo âu, sợ hãi, áy náy, buồn phiền và chán nản. Chúa đã ban cho các tông đồ một
sự bình an nội tâm. Sự bình an đích thực trong tâm hồn. Chúa Giêsu sống lại đã
mở con đường cứu rỗi trong ánh sáng chan hòa. Chúa đã tiêu diệt bóng tối sự
chết và sự dữ. Chúng ta không còn sợ hãi con đường cụt hay vực thẳm của cõi
nhân sinh. Chúa Kitô chính là niềm hy vọng và là đường dẫn chúng ta đến sự sống
thật. Chúa Giêsu đã hứa:Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã
nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em (Ga 14,2).
Chúa Phục Sinh đã từng
bước củng cố lại lòng tin yêu nơi các tông đồ. Ngài cảm thông sự yếu đuối, nỗi
đau đớn và sợ hãi của các ông. Với lòng nhân hậu và khoan dung, Chúa không
trách cứ về sự nghi ngờ và cứng lòng tin của các tông đồ. Tôma đòi hỏi được
thọc ngón tay vào bàn tay Chúa, Chúa cho ông toại nguyện:Rồi Người bảo ông
Tôma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt
vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin."(Ga 20,27).Đức tin
là nhân đức đối thần. Gọi là đức tin vì cần xác tín trong sự phó thác hoàn
toàn. Các tông đồ đã nhìn thấy Chúa tận mắt, sờ tận tay và đối thoại trực tiếp
với Chúa. Đây sự sự thật rõ ràng. Chúa Giêsu nói với Tôma rằng: Vì con đã xem
thấy thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin. Các tông đồ đón
nhận tin vui với niềm hân hoan vui sướng có Chúa ở cùng.
Khi hiện ra với các
tông đồ, Chúa không kể lại sự thống khổ mà Chúa đã phải trải qua. Chúa hiện đến
với các tông đồ và chúc bình an. Với lòng khoan dung nhân hậu, Chúa khởi lại từ
đầu để qui tụ các tông đồ đang tản mác, an ủi khích lệ, củng cố niềm tin và sai
các ông ra đi làm nhân chứng Chúa Kitô sống lại. Chúa không muốn khơi dậy sự
yếu đuối hay hèn nhát của các ông. Chúa muốn các tông đồ hướng về phía trước và
ra đi làm nhân chứng cho tình yêu. Lòng thương xót của Chúa vượt qua mọi biên
giới tính toán hạn hẹp và ích kỷ của con người. Thiên Chúa đã tỏ lòng thương
xót nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống. Chúa đã xóa sạch mọi vết nhơ
tội lỗi, lầm lạc và yếu hèn của mọi người.
Vào ngày 30 tháng 4
năm 2000, trong dịp lễ phong thánh cho Dì Maria Faustina Kowalska, Tông đồ Lòng
Thương Xót (1905-1938), Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị đã loan báo rằng
Chúa Nhật sau Lễ Phục Sinh sẽ được gọi là Chúa Nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa
(Divine Mercy Sunday). Lòng thương xót của Chúa trải rộng từ đời này tới đời
kia. Mỗi một lời nói, hành động và ý muốn của Chúa đều diễn tả tình yêu nhân
lành và lòng xót thương. Sự tôn sùng Lòng Chúa Thương Xót được mọi người đón nhận
một cách rộng rãi chân thành. Chương trình cứu độ của Chúa là một giao ước của
tình yêu. Đây là tình yêu trao ban, tình yêu hiến thân và tình yêu vô điều
kiện. Không mấy ai có thể đáp trả tình yêu thương xót của Chúa cho cân xứng.
Chúa chính là nguồn tình yêu tuôn đổ trong tâm hồn con người. Mọi người được
ngụp lặn trong tình yêu lòng thương xót của Chúa.
Những tâm tình và lời
cầu nguyện được gồm tóm trong lời kinh: Lạy Cha hằng hữu, con xin dâng lên Cha
Mình và Máu, Linh hồn và Thần tính của Đức Giêsu Kitô, Con yêu dấu Cha, Chúa
chúng con.Để đền vì tội lỗi chúng con và toàn thế giới. Chuỗi hạt Lòng Thương
Xót:Vì cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giêsu Kitô. Xin Cha thương xót chúng
con và toàn thế giới. Kết thúc:Lạy Đấng Chí Thánh, là Thiên Chúa Toàn Năng Hằng
Hữu. Xin thương xót chúng con và toàn thế giới.
Có nhiều người say mê
cầu nguyện và tôn sùng Lòng Chúa Thương Xót mỗi ngày. Những lời kinh đọc và
những sự suy gẫm mang lại phần ích lợi cho tâm hồn chúng ta. Chúng ta cảm nhận
được tình Chúa yêu thương. Trái tim bị đâm thâu luôn đầy ắp yêu thương, chúng
ta chẳng cộng thêm điều gì cho Chúa. Điều quan trọng là chúng ta hãy sống những
tâm tình từ bi, nhân hậu như Chúa đã đối xử đại lượng với chúng ta. Học nơi
lòng thương xót của Chúa, chúng ta cũng phải trải rộng lòng xót thương của ta
tới những người chung quanh. Chúng ta không chỉ ngồi chiêm ngắm, ca hát, suy
gẫm, cảm thông, khóc than về cuộc khổ nạn đau thương và chịu chết của Chúa
nhưng chúng ta hãy sống tinh thần xót thương. Chúa Giêsu đã dậy:Phúc thay ai
xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương (Mt 5,7).
Chúa Giêsu chúc phúc
cho ai biết xót thương người. Xót thương là biết cảm thông những nhu cầu cần
thiết cả về tâm linh lẫn thể chất của người khác. Xót thương là muốn đem yêu
thương hòa giải vào những nơi tranh chấp, oán ghét và hận thù. Xót thương là
cùng chia xẻ cơm áo gạo tiền cho người đói khổ cùng khốn. Xót thương là sống
thứ tha và rộng lòng quảng đại. Việc tốt luôn luôn là một hạt giống tốt. Thực
hành một việc tốt, dù nhỏ mọn cũng sẽ sinh nhiều bông hạt tốt lành. Lòng xót
thương cứ thế mà nhân lên và sinh xôi nẩy nở. Hãy nhớ việc bác ái cần có thái
độ: Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh
bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả
lại cho anh (Mt 6,3).Điều hạnh phúc nhất là chúng ta sẽ được Chúa xót thương.
Tôn sùng Lòng Chúa
Thương Xót, chúng ta tuyên xưng: Lạy Chúa, chúng con tín thác nơi Chúa (Lord
Jesus, I trust in you). Tin tưởng và phó thác cuộc đời trong tay Chúa, chúng ta
không còn sợ bị cô đơn hay bị sai lầm lạc lối. Chỉ nơi Chúa Giêsu Kitô, chúng
ta sẽ tìm ra lẽ sống và cùng đích của cuộc đời. Con đường Chúa đã mở ra cho
chúng ta rất rõ ràng minh bạch. Chúa đã khuyên dạy chúng ta về bổn phận đối với
Thiên Chúa, cách đối xử với tha nhân và thái độ sống nội tâm cầu nguyện, bác
ái, tha thứ, chân thật và yêu thương. Lời Chúa là tin mừng và là lời hằng sống
cho mọi người trong mọi thời. Hãy chú tâm học hỏi, suy gẫm và đem lời Chúa ra
thực hành trong đời sống, chúng ta sẽ cảm nghiệm được lòng Chúa xót thương là
dường nào.
Chưa từng có ai chạy
đến xin ơn Chúa, mà Chúa chối từ. Thánh Matthêô diễn tả: Thiên hạ đem đến cho
Người mọi kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền: những kẻ bị quỷ ám, kinh
phong, bại liệt và Người đã chữa họ (Mt 4,24). Chúa Giêsu đã chữa lành cho từng
người và từng tâm hồn. Chúa động chạm đến vết thương sâu kín riêng tư của họ.
Chúa quan tâm đến đời sống tâm linh và nội tâm của từng người. Chúa chữa họ qua
quyền năng của ý muốn, lời nói và cử chỉ hành động. Chỉ cần họ có lòng tin vào
Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã dậy: Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy,
cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho (Mt 7,7). Chúng ta hãycầu xin Chúa với lòng chân
thành và tin tưởng. Chúa sẽ xót thương.
Chúng ta cùng cầu xin
cho được ơn an bình, theo lời cầu của linh mục trong phần Hiệp Lễ: Chúa đã nói
với các Tông đồ rằng: "Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an
của Thầy cho các con". Xin đừng chấp tội chúng con,nhưng xin nhìn đến đức
tin của Hội Thánh Chúa;xin đoái thương ban cho Hội Thánh được bình an và hợp
nhất theo thánh ý Chúa. Lạy Chúa, xin thương xót chúng con và xin nhậm lời
chúng con khẩn nguyện.
44. Hơi thở của Chúa – Peter Feldmeier
(Lm. GB. Văn Hào SDB,
chuyển ngữ)
“Bình an cho anh em” (Ga 20,9).
Hồi còn là sinh viên,
tôi bắt đầu thích thú tìm hiểu các chân lý Kitô giáo, khởi đầu qua một sự kiện.
Trong lớp học hôm đó, một bạn sinh viên trong lớp thách thức một thần học gia
và khẳng định rằng những gì không được kiểm chứng cụ thể thì không phải là chân
lý đáng để chúng ta tin theo. Tôi rất tâm đắc lời khẳng quyết này. Là một Kitô
hữu, tôi cũng đã từng có kinh nghiệm khá nhiều về tình yêu của Thiên Chúa phủ
ngập trong cuộc đời tôi. Nhưng phải thú thật, chỉ những Kitô hữu tốt lành và
thánh thiện mà tôi đã gặp, mới là những chứng nhân và gương sáng rất cụ thể, đã
đánh động và kiện cường đức tin nơi bản thân tôi. Thái độ và cách sống của họ
biểu tỏ cho thấy họ đã trải nghiệm thực sự bình an của Chúa nơi tâm hồn, và
được biểu thị rõ ràng qua cuộc sống của họ, một cuộc sống được đổi mới trong
Thần khí. Trong bài đọc thứ hai của phụng vụ hôm nay, Thánh Gioan tông đồ cũng
khẳng quyết “Mọi kẻ được Thiên Chúa sinh ra, đều thắng được thế gian” (1Ga
5,4). Như thế, những người được tái sinh bởi Thần khí sẽ không còn lý do gì để
phải sợ hãi. Họ có được an bình trong tâm hồn, giống như những Kitô tốt lành mà
tôi đã gặp gỡ.
Trong trình thuật Tin
mừng hôm nay, Thánh Gioan cho ta thấy các tông đồ cũng được tái tạo, được đổi
mới nhờ hơi thở linh thánh của Đấng Phục Sinh. Đây chính là hơi thở mà ngay từ
thuở ban đầu, Thiên Chúa đã thổi vào để tác sinh con người. Sách Sáng thế viết
“Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ
mũi, và con người trở nên một sinh vật.” (St 2,7). Vào buổi chiều ngày Phục
sinh, các tông đồ sợ sệt, ngồi co rúm lại với nhau trong một căn phòng đóng
kín. Họ đã trải nghiệm niềm vui tột cùng khi được gặp gỡ Đấng Phục sinh, người
Thầy đáng kính của họ. Đức Giêsu đến, đứng ở giữa họ và nói “Bình an cho anh
em”. Khi nói xong, Ngài thổi hơi trên họ và nói “Anh em hãy lãnh nhận Thánh
Thần”.
Các Ngài đã lãnh nhận
hơi thở thần thiêng, đã được sinh ra “từ trên cao”, tức là các Ngài đã được đổi
mới hoàn toàn, bởi vì “những gì sinh ra bởi xác thịt là xác thịt, và những gì
sinh bởi thần khí chính là thần khí (Ga 3,6.7). Rồi sau đó Đức Giêsu ủy trao
sức mạnh thần thiêng cho các tông đồ. Họ đã nhận lãnh quyền năng từ chính Đấng
Phục sinh “Anh em tha tội cho ai, người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, người
đó bị cầm giữ”. Tôi không nghĩ rằng, lúc đó Đức Giêsu có ý ám thị về bí tích
tha thứ nơi tòa giải tội, cho dù sau này, Giáo hội vẫn hiểu như thế, và chắc
chắn Đức Giêsu đã trao ban năng quyền bính tha tội cho các thừa tác viên nơi
tòa cáo giải. Nhưng thiết tưởng, động thái của Đức Giêsu thổi thần khí vào các
tông đồ, là nhằm tái sinh các ông, ban cho các ông một sự sống mới, để họ được
thông dự vào sức sống và quyền năng của Đấng Phục sinh từ sâu tận trong tâm hồn
các ngài. Đức Giêsu thổi hơi thở của Ngài, hơi thở của Thần khí trên các tông
đồ. Đây là sinh khí và sức sống biểu thị sứ mạng cứu thế và quyền năng của Đấng
Sống lại. Trong bài đọc thứ nhất hôm nay, tác giả sách tông đồ công vụ cũng cho
thấy, các tông đồ đã có đầy quyền năng (mega dynamis), một năng động lực với uy
quyền để làm chứng cho Đấng Sống Lại.
Tuy nhiên, Tôma không
có mặt, không gặp được Chúa buổi chiều ngày hôm đó. Tôma đã không tin, chính
xác hơn là ông chưa tin. Tuần sau, Ngài lại hiện đến, với sự hiện diện của
Tôma. Vị tông đồ này không chỉ tin, nhưng còn mạnh mẽ thốt lên “Lạy Chúa, Thiên
Chúa của con”. Hành vi tuyên tín của Tôma giống như một động thái mang tính
tiên tri, đã mở toang cánh cửa của căn phòng đóng kín, và khai mở sứ vụ rao
giảng Tin mừng nơi toàn thể Hội thánh. Trọng tâm của Tin mừng là sứ vụ công bố
cho thế giới “Lời” và “Ánh Sáng thật” (Ga 1,1-4) , là chính mầu nhiệm Đức
Giêsu, Đấng đã chết và đã sống lại. Được ơn soi sáng, Tôma đã can đảm nói lên
lời xưng thú và dũng cảm tuyên xưng đức tin. Hành vi tuyên tín của ông có vẻ
như đầy kịch tính, nhưng mở ra cho giáo hội một viễn ảnh mới để công bố và làm
chứng cho Tin mừng Phục sinh.
Có lẽ, chúng ta dễ
nghĩ tưởng rằng Thomas đã tự dàn dựng một khung cảnh để bào chữa cho mình. Ngài
đã được các tông đồ khác thuật lại câu chuyện tiếp cận trực tiếp với Đấng Sống
Lại, và họ cũng kỳ vọng Thomas sẽ tin mà không cần kiểm chứng hoặc hỏi han điều
gì. Khi tôi nghe một ai thuật lại một câu truyện về kinh nghiệm thiêng liêng
của họ, ví dụ họ đã được thị kiến gặp thấy Chúa, tôi luôn đặt vấn đề, xem có
thực sự đó là một ơn ngoại thường Chúa ban riêng cho họ, hay chỉ là một sự bịa
đặt hoang tưởng. Thái độ của Thomas cũng phản ánh những suy nghĩ mang tính loại
suy như của các Kitô hữu sau này, bởi vì họ cũng không gặp trực tiếp Đức Giêsu
Phục sinh. Chúng ta nghe Chúa Giêsu nói với ông “Có phải vì anh đã thấy Thầy
nên anh tin? Phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Câu nói của Đức Giêsu
ngỏ trao cho Tôma cũng là sự nhắc nhở Chúa gởi đến mỗi người chúng ta hôm nay.
Liệu có phải chúng ta cần những chứng cứ cụ thể để tin, hay chúng ta muốn trở
nên những người được Thiên Chúa chúc phúc vì đã tin cho dù không thấy? Vấn đề ở
đây, không phải là Tôma cần những bằng chứng cụ thể, và càng không phải là một
con người cố chấp, cứng lòng, không tin. Điều quan trọng, là ông đã cảm nghiệm
thực sự và bị cột trói vào những gì rất rõ ràng mà ông cảm nhận được. Ông đã
tận mắt thấy sự biến đổi sâu xa nơi các bạn đồng nghiệp. Họ đã được đổi mới
hoàn toàn. Từ những con người tuyệt vọng và nhát đảm, họ đã trở nên những con
người can đảm và tràn đầy hy vọng. Từ những con người ẩn nấp trong bóng tối nơi
căn phòng khép kín, các ông đã mở toang cánh cửa, cánh cửa của ngôi nhà chật
chội đóng khép, cũng như cánh cửa của ngôi nhà mù tối nơi tâm hồn họ. Giờ đây,
các ông ngập tràn niềm tin và được phú trao quyền năng mạnh mẽ. Các ông đã có
được quyền năng siêu phàm của Đấng Phục sinh để diễn bày tình thương tha thứ
đến cho mọi người. Nhưng trên hết, sự sợ hãi và bất an nơi các học trò Đức
Giêsu đã được thay thế bằng sự an bình trong Thần khí mà Đức Giêsu đem lại. Đó
chính là quà tặng vô giá. Bởi vì, quà tặng bình an là món quà lớn nhất mà họ đã
sở đắc được. Đây là chứng từ mạnh mẽ mà Tôma đã thấy. Ông đã tận mắt mục kích
và cảm nghiệm một sức sống mới, tuôn trào mãnh liệt từ sự Phục sinh của Chúa
Giêsu. Đó quả là một cuộc tái tạo trong chính Thần khí của Đức Kitô, Đấng Phục
sinh. Tôma đã trở nên như một hình mẫu đức tin cho chúng ta.
45. Phục sinh
Chứng lý về sự Phục
sinh của Chúa Kitô, không chỉ dựa vào sự kiện ngôi mộ trống, mà còn phải kể đến
những lần Đấng Phục sinh hiện ra với nhiều người, cũng như phải quan tâm đến
những lời chứng của những người đã tận mắt nhìn thấy Chúa Kitô sống lại. Trang
Tin Mừng hôm nay sẽ cung cấp cho chúng ta những chứng lý quan trọng và sống
động ấy.
Chúa Kitô Phục sinh
hiện đến vào lúc thánh Tôma vắng mặt, cho nên ông đã không tin rằng Chúa Giêsu
sống lại. Vì thế, ông đòi hỏi một sự kiểm chứng. Thử hỏi 10 vị tông đồ kia, nếu
không tận mắt nhìn thấy và đích thân gặp gỡ Đấng Phục sinh, các ông có thể dễ
dàng chấp nhận lời của anh em khác không? Chúng ta rất hồ nghi. Bởi lẽ, chuyện
kẻ sống lại là chuyện rất khó chấp nhận. Và chính các ông đã không ít lần tỏ ra
nghi ngờ, nao núng, kể cả sau khi đã gặp Đấng Phục sinh.
Chúng ta không nên
trách Tôma, ngược lại phải biết ơn ngài. Bởi vì chính “sự cứng lòng” của ngài
lại làm kiên vững cho niềm tin yếu đuối của chúng ta, khi Đấng Phục sinh đáp
trả đòi hỏi sự kiểm chứng bằng giác quan của thánh Tôma: “Tôma hãy đặt ngón tay
vào đây và hãy xem tay Thầy; đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy”. Điều này
không chỉ để thỏa mãn đòi hỏi riêng của thánh Tôma, mà còn đáp trả cho yêu cầu
của tất cả chúng ta, những kẻ “không thấy” mà được gọi là “tin”, nhất là trong
thời đại khoa học thực nghiệm hôm nay.
Đồng thời, “sự cứng
lòng” của thánh Tôma cũng làm cho lời chứng của cộng đoàn thêm mạnh mẽ. Ngày
nay, chúng ta đều là những người không thấy mà tin dựa vào lời chứng của các
tông đồ – những kẻ dám sống, dám chết cho niềm tin của mình.
Thánh Tôma là môn đệ
cuối cùng tin Chúa sống lại, nhưng lại là người đầu tiên tuyên xưng đức tin.
Sau khi được kiểm chứng về việc Phục sinh, ngài đã tin – một niềm tin đầy đủ
nhất khi ông tuyên xưng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con”. Khi ông tuyên
xưng như thế, thì lời chứng của các tông đồ thật sự trở thành “đắt giá”, thật
sự trở thành nền tảng vững chắc cho việc tuyên xưng đức tin của bao thế hệ Kitô
hữu.
Hơn thế nữa, Đấng Phục
sinh hiện ra không chỉ để chứng minh Người đã sống lại, nhưng còn để ban cho
các ông sự sống mới “Người thổi hơi vào các ông…”
Con người vốn chỉ là
bùn đất và chỉ có thể trở nên sống động qua việc “thổi hơi” của Thiên Chúa. Thì
ở đây, chúng ta cũng nói được rằng chính Đấng Phục sinh đã thực hiện một cuộc
sáng tạo mới, Ngài thổi hơi để biến đổi các tông đồ từ những con người yếu
đuối, nhút nhát trở thành những con người mới với sức sống mới, trở thành những
khí cụ sắc bén trong Thánh Thần để rao giảng Tin Mừng Phục sinh.
Đồng thời với việc ban
sự sống mới là mệnh lệnh sai đi: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”.
Tiếng “như”
ở đây không phải là so sánh, mà là nền tảng và cội nguồn: nguồn cội của mệnh
lệnh là chính Chúa Cha và nền tảng của mệnh lệnh là sứ vụ cứu thế mà Đấng Phục
sinh hoàn thành. Các tông đồ được sai đi để làm chứng về Đấng Phục sinh và để
nối dài hành động của Người trong thế giới. Hành động này giải thoát thế giới
khỏi sự thống trị của tội lỗi, mà sức mạnh lớn nhất của nó là sự chết đã bị
vượt qua.
Mỗi chúng ta, nhờ bí
tích Thêm sức cũng được mời gọi trở nên những tông đồ hăng say làm chứng cho
Chúa ngay trong môi trường sống của mình.
Trong thời đại hôm
nay, chúng ta làm chứng cho Chúa Kitô Phục sinh không chỉ bằng lời rao giảng mà
còn phải bằng chính cuộc sống của chúng ta. Cụ thể trong xã hội hôm nay, có rất
nhiều người nhất là những người trẻ, họ luôn sống trong lo âu, sợ hãi, khủng
hoảng hoặc không cần biết đến ý nghĩa cuộc sống, họ lao vào những tệ nạn xã hội
mà không thoát ra được. Trước tình trạng đó, lẽ nào chúng ta ngồi yên? Là những
con người của thiên niên kỷ mới này, chúng ta phải là những người đi bước trước
đem sự bình an và đức tin sâu sắc giúp họ thoát khỏi thất vọng để tìm ra ý
nghĩa cho cuộc sống.
Mỗi chúng ta cần phải
mở rộng lòng dám đi sâu vào thế giới để tìm hiểu và đem Chúa Phục sinh vào mọi
lãnh vực, không bo bo trong vỏ ốc nhưng phải mở rộng ra khắp thế giới.
Có một câu chuyện kể
lại rằng, một nhà thông thái kia muốn sáng lập một tôn giáo mới. Ròng rã nhiều
năm, ông đem tất cả sự khôn ngoan của mình ra thuyết phục thiên hạ mà chẳng
thấy ai theo. Ông bèn than thở với một người bạn thì nhận được một lời khuyên:
“Nếu anh muốn người ta theo anh thì dễ thôi, anh hãy làm thế này: Thứ năm anh
ăn bữa tiệc cuối cùng, thì thứ sáu anh để người ta đóng đinh anh trên khổ giá
rồi chôn cất, Chúa nhật anh sống lại! Chắc chắn người ta sẽ theo anh rất
đông?”.
Quả là lời khuyên độc
đáo, và lại càng lý thú hơn, khi tác giả của lời khuyên này chính là Napôlêon!
Điều mà Napôlêon muốn
nhấn mạnh ở đây, đều có sức lôi cuốn người ta chính là sự sống lại.
Thực vậy, biến cố Chúa
Kitô Phục sinh chính là nền tảng và trung tâm của đời sống đức tin Kitô giáo
chúng ta.
Đấng Phục sinh đã chọn
“ngày thứ nhất trong tuần” làm ngày gặp gỡ các tông đồ. Như thế, “Ngày thứ nhất
trong tuần” đã trở thành ngày của cộng đoàn, ngày của gặp gỡ, ngày hát mừng
niềm vui Phục sinh, và nhất là ngày của cuộc “sáng tạo mới”. Xin cho mỗi ngày
Chúa nhật cũng trở thành một ngày giúp chúng ta sống thánh thiện, hiệp thông,
yêu thương… Để mỗi chúng ta trở thành một bằng chứng cho sự hiện diện sống động
của Đấng Phục sinh.
46. Suy
niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
NHƯ CHA ĐÃ SAI THẦY
THẦY CŨNG SAI ANH EM
Đức Yêsu đã phục sinh.
Nhưng điều này đâu có quan hệ gì đến tôi, nếu Đức Yêsu cũng tương tự như bao
người khác, cũng chỉ là một người như bao người khác: họ được nhưng đâu có
nghĩa rằng tôi được? Đức Yêsu Phục Sinh chỉ ảnh hưởng tuyệt đối đến tôi, nếu
Ngài là Thiên Chúa.
Qua các tông đồ Thiên
Chúa của Đức Yêsu Phục Sinh hiện diện
Sau khi Đức Yêsu phục
sinh, với sự trợ giúp của Thánh Thần, các tông đồ đã nhận biết Đức Yêsu là
Thiên Chúa. Và dưới tác động của Thánh Thần các tông đồ đã can đảm tuyên xưng,
rao giảng Đức Yêsu bị đóng đinh đã sống lại. Và hôm nay sách tông đồ công vụ
cho thấy những người tin vào Đức Yêsu đã trở thành một nhóm đặc biệt, trở thành
dấu chỉ của Đức Yêsu Phục Sinh cho con người thời đó.
Thánh Phêrô trở thành
khí cụ Thiên Chúa dùng để ban ơn cho con người. Bóng của Ngài ngả xuống trên
bệnh nhân nào thì người đó được khoẻ lại. Có người nghĩ: không chừng các tông
đồ còn làm được những điều lớn lao hơn cả Đức Yêsu. Chính Đức Yêsu cũng nói:
“Kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm người ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những
việc lớn lao hơn thế nữa, vì Ta về cùng Cha” (Ga.14, 12).
Ngày xưa khi Chúa về
trời, các tông đồ đã thành dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện; và ngày nay qua Hội
Thánh nơi các tín hữu, Thiên Chúa cũng hiện diện với con người hôm nay.
Đức Yêsu Phục Sinh là
Thiên Chúa
Đức Yêsu khi còn tại
thế, Ngài đã nói những lời người Do Thái không thể chấp nhận được, như Ngài
nhận Ngài có quyền tha tội (Mc.2,7), Ngài có trước Abraham (Ga.8, 58), Ngài là
một với Thiên Chúa Cha (Ga.10, 30), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa Cha (Mc.14,
62). Người Do Thái không thể chấp nhận những lời đó, nên đã lấy đá định ném
chết Ngài. Nếu Ngài không là Thiên Chúa, quả thật Ngài phạm tội “phạm thượng”:
là người phàm mà dám nhận mình ngang hàng với Thiên Chúa.
Ngài đã sống lại,
nghĩa là, những điều Ngài nói là thật, vì nếu Ngài nói dối, Thiên Chúa đâu có
phục sinh Ngài! Như vậy, Ngài có quyền tha tội (mà chỉ Thiên Chúa mới có quyền
tha tội), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa, Ngài là Con Thiên Chúa, Ngài là Thiên
Chúa thật.
Ngài là Thiên Chúa
thật, nghĩa là Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Và do đó, người ta biết Thiên Chúa
yêu thương con người vô cùng, vì nếu không yêu con người, tại sao Thiên Chúa
nhập thể làm người? Tại sao Ngài phải chấp nhận cái chết ô nhục trên thập giá?
Tại sao Ngài mãi mãi là người? Chính vì tình yêu, vì yêu con người, mà Thiên
Chúa trở thành một người như bao người. Thiên Chúa làm tất cả cho con người.
Như Cha đã sai Thầy,
Thầy cũng sai các con
Khi hiện ra với các tông
đồ vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, Đức Yêsu nói với các tông đồ: “như Cha
đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Như vậy, các tông đồ, và sau đó là các
Kitô hữu, có cùng sứ mạng với Đức Yêsu.
Sứ mạng của Đức Yêsu,
của Ngôi Lời nhập thể, là làm sao để con người nhận biết và tin vào tình yêu
Thiên Chúa! Để làm được điều này, Lời Thiên Chúa đã nhập thể, đã sống như một
người hoàn toàn, đã hiến mình làm của ăn cho con người, đã chấp nhận cái chết ô
nhục trên thập giá vì yêu con người, đã yêu con người đến chết.
Sứ mạng của các tông
đồ, của Hội Thánh ngày nay, của mỗi người tín hữu, là làm chứng cho tình yêu,
làm cho thế gian biết rằng Thiên Chúa yêu thương họ vô cùng. Để làm được điều
này, cũng đòi tín hữu phải hy sinh, phải yêu thương con người ngày nay đến độ
quên mình như Đức Yêsu. Thập giá minh chứng tình yêu. Lửa thử vàng, gian nan
thử tình yêu. Tình yêu cải biến, chinh phục lòng người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Theo bạn, do đâu
các tông đồ tin Đức Yêsu là Thiên Chúa?
2. Các tông đồ tin Đức
Yêsu là Thiên Chúa khi nào? Tại sao bạn biết vậy?
3. Sứ mạng của các
Kitô hữu hôm nay là gì?
47. Dấu chân của Thiên Chúa – R. Veritas
(Trích trong ‘Niềm Vui
Chia Sẻ’)
Nhiều năm trước đây có
một nhà bác học vượt qua sa mạc với mấy người Ả Rập thông thạo dẫn đường. Nhà
bác học để ý thấy cứ chiều đến, khi hoàng hôn sắp lặn sau bãi cát mênh mông vô
tận, thì những người Ả Rập cùng đi đường đều dừng lại trải chiếu trên cát, mặt
hướng về mặt trời chắp tay cầu nguyện. Nhà bác học hỏi:
- Các ông làm gì vậy?
Họ thản nhiên trả lời
không chút do dự: Chúng tôi sấp mình thờ lạy và cầu nguyện cùng Allah là Thiên
Chúa của chúng tôi.
Nhà bác học hỏi lại
một cách mỉa mai:
- Vậy chứ các ông đã
thấy Chúa bao giờ chưa? Có sờ tay đụng tới Ngài chưa? Hoặc đã nghe thấy tiếng
của Ngài khi nào chưa?
Hướng dẫn viên Ả Rập
mỉm cười đáp lại:
- Chưa, thực ra chúng
tôi chưa hề mắt thấy tai nghe tiếng Chúa bao giờ cả?
Nhà bác học sửng sốt
lên giọng:
- Các ông thực là
những người điên, các ông mù quáng sấp mình thờ lạy một Chúa mà các ông chưa hề
xem thấy hoặc tai chưa hề nghe tiếng Ngài.
Hướng dẫn viên Ả Rập
giữ im lặng không đáp lại lời nào hết.
Sáng hôm sau, mặt trời
chưa ló dạng, nhà bác họ đã thức dậy, bước ra khỏi lều và nói với hướng dẫn
viên:
- Ông hãy nhìn xem,
chắc chắn là tối hôm qua có con lạc đà nào đã đi qua đây rồi.
Một tia sáng đầy hy
vọng và vui mừng loé lên trong ánh mắt hướng dẫn viên. Ông cất tiếng hỏi nhà
bác học những câu hỏi liên tiếp:
- Vậy thì chắc là ông
đã thấy lạc đà đi ngang qua đây tối hôm qua chứ? Hoặc là tay ông đã sờ tới lông
nó đang lúc ông ngủ chăng?
Nhà bác học thật thà
đáp lại:
- Không, tối hôm qua
tôi ngủ ngon, đâu có thấy lạc đà và cũng không sờ tới lông nó.
Hướng dẫn viên nói:
- Vậy thì ông cũng
chẳng khác gì người điên. Ông quả quyết là lạc đà đã đi ngang qua đây tối hôm
qua, trong khi ông lại nói là mắt ông không thấy, tai ông cũng không nghe tiếng
chân lạc đà.
Nhà bác học cương
quyết cãi lại:
- Nhưng đây là bằng
chứng rõ ràng: Ông không trông thấy dấu chân lạc đà còn y nguyên trên mặt cát
hay sao?
Cùng lúc đó, mặt trời
từ từ ló rạng kéo dài những tia sáng rực rỡ trên mặt cát bao la. Hướng dẫn viên
Ả Rập giang tay trịnh trọng tuyên bố:
- Này ông bạn của tôi
ơi! Ông hãy nhìn xem mặt trời và những tia sáng rực rỡ huy hoàng kia, đó chính
là dấu chân huy hoàng của Thiên Chúa, Chúa mà chúng tôi tôn thờ.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu Phục Sinh
đã nói với ông Tôma: “Phúc cho ai không thấy mà tin”. Thời đại chúng ta đang
sống là thời đại khoa học. Đời sống được xây dựng trên khoa học, được hướng dẫn
bởi khoa học, được đánh giá bằng khoa học. Cái gì cũng phải có khoa học. Mà
khoa học thì phải chính xác, rõ ràng, có thể phân tích, mổ xẻ và kiểm nghiệm
được. Tinh thần khoa học thực nghiệm được áp dụng vào mọi lãnh vực, kể cả tôn
giáo. Người ta nhân danh khoa học mà phê phán tôn giáo. Cái gì có tính khoa
học, kiểm nghiệm được mới đáng tin, ngoài ra là vấn đề tình cảm, cuồng tín, mê
tín. Thái độ phê phán và não trạng thực nghiệm của con người thời nay không
khác bao nhiêu so với tâm tính thực nghiệm và cứng rắn của Tông đồ Tôma thời
xưa trong câu truyện Tin Mừng hôm nay.
Nghe các bạn kể lại:
“Chúng tôi đã xem thấy Chúa Phục Sinh”, ông Tôma vẫn không tin. Ông muốn dựa
vào kinh nghiệm giác quan, chứ không phải dựa trên các chứng từ. Chúa Giêsu đã
sẵn sàng đáp ứng và thoả mạn nguyện vọng của ông. Ngài đã hiện ra và bảo ông:
“Tôma, hãy đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy… Hãy đưa bàn tay ra mà
đặt vào cạnh sườn Thầy”. Đồng thời Chúa Giêsu cũng mời gọi ông: “Đứng cứng lòng
tin nữa, nhưng hãy tin…”. Không những tin vì đã thấy mà còn phải tiến đến chỗ
tin cho dù không được thấy. Dựa vào Lời Chúa, ông Tôma đã tin mà không cần kiểm
chứng nữa. Lúc ấy, Chúa Giêsu mới mạc khải chân lý này: “Ai không thấy mà tin
mới là người có phúc”.
Thưa anh chị em,
“Ai không thấy mà tin
mới là người có phúc”. Lời này như được ngỏ với chúng ta, những người tín hữu
Kitô hôm nay mà lòng tin dựa trên chứng từ của các Tông đồ, chứ không dựa vào
kinh nghiệm giác quan: sống cách xa biến cố Chúa Phục Sinh gần 2000 năm, chúng
ta hãy khiêm tốn lãnh nhận đức tin. Tin nơi Thánh Kinh, tin nơi Giáo Hội, những
bảo chứng đáng tin nhất, không còn cách nào khác. Với ơn đức tin, chúng ta có
thể gặp Chúa và tiếp cận với Ngài. Đó là một hạnh phúc thật sự. Theo ý hướng
đó, lời tuyên xưng của ông Tôma cũng phải là lời tuyên xưng đức tin của Hội
Thánh, của mỗi người ca vào Đức Kitô ”Lạy Chúa là Thiên Chúa của con!”.
Niềm tin vào Đức Kitô
Phục Sinh thực sự đem lại cho người Kitô hữu một niềm hân hoan khôn tả, như
Thánh Phêrô đã xác quyết: “Dù bây giờ anh em không thấy Ngài, nhưng anh em tin,
nên anh em sẽ được vui mừng khôn tả, vì đã nắm chắc thành quả của đức tin anh
em, là ơn cứu độ” (1Pr 1,9). Niềm hân hoan đó không chỉ lắng sâu trong tâm hồn,
mà còn tràn ra bên ngoài trong cuộc đời các Kitô hữu. Điển hình là niềm vui trong
cuộc sống của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi: “Họ chuyên cần nghe các Tông đồ
giảng dạy, luôn luôn sống với nhau trong tình huynh đệ, siêng năng tham dự lễ
Bẻ Bánh và cầu nguyện không ngừng… Tất cả các tín hữu, đều một lòng đoàn kết và
để mọi sự làm của chung… Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn thể dân chúng mến
thương. Và số người cứu độ gia nhập cộng đoàn ngày càng thêm đông” (Cv
2,42-47).
Anh chị em thân mến,
nếu Giáo Hội hôm nay có được cuộc sống như các tín hữu tiên khởi thì Giáo Hội
lo sợ gì trước những tra vấn của khoa học. Chẳng những thế, Giáo Hội còn có khả
năng cống hiến cho thời đại khoa học một lời chứng sống động, hùng hồn về hoạt
động của Đấng Phục Sinh trong lịch sử, ngang qua cuộc sống dấn thân của các
Kitô hữu để đem lại tình yêu và sự sống cho anh em đồng loại.
Con đường của lòng tin
chúng ta hôm nay là con đường của lòng mến. Càng yêu mến nhiều, càng tin vững
chắc. Và những người có lòng mến Chúa thường không cần phải tin, mà họ thấy.
Thánh Tôma tiến sĩ cầu nguyện: “Chúa ơi, con không xin được xem thương tích
Chúa như ông Tôma, nhưng con tuyên xưng Chúa là Chúa của con. Hãy làm cho con
luôn tin vào Chúa, cậy trông Chúa và yêu mến Chúa hơn nữa”. Và có lẽ đó cũng là
lời cầu xin của mỗi người tín hữu chúng ta, trong cuộc hành trình đức tin trên
trần thế này cho đến ngày được xuất hiện trong vinh quang với Đấng Phục Sinh.
48. Bình an cho các con
Trong bài Phúc Âm hôm
nay diễn tả buổi tối ngày thứ nhất phục sinh. Các môn đệ Chúa Giêsu đang ẩn núp
trong căn nhà đã được khóa kỹ và suy nghĩ, "Bây giờ mình phải làm
gì?" Nói về sự trung thành với Chúa Giêsu, họ đã nhát gan chạy trốn. Một
câu ngạn ngữ mà người ta thường dùng là 'họ không thể nào chịu nổi sức nóng,
nên họ đã đi ra khỏi nhà bếp'. Người vụng về nhất lại là người cầm đầu trong
các môn đệ, Simon Phêrô, không những đã chối không biết Thầy, mà chối đến ba
lần. Cho dù là đến bây giờ Maria Magđalêna đã báo cho họ biết về sự phục sinh
của Chúa Giêsu, nhưng họ vẫn còn rất hèn nhát. Họ đang trốn chạy. Họ đang run
sợ. Đùng một cái, một sự việc đã xảy ra: những người môn đệ vụng về, nhát đảm,
này được chan chứa niềm vui bởi vì họ nhìn thấy Chúa Giêsu ở giữa họ.
"Bình an cho các
con," Chúa Giêsu phán. Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn Ngài, và Ngài
tiếp, "Bình an cho các con."
Một đứa bé viết thư cho
Chúa, "Thưa Chúa, người đàn ông và người đàn bà hàng xóm của con cứ chửi
nhau lớn quá. Tại sao Ngài không để cho người tốt lấy nhau? Karen."
Một đứa bé trai 6 tuổi
ghi, "Thưa Chúa, người bố của con thật là dữ tợn. Xin làm cho bố con hiền
lành, nhưng đừng làm hại bố con nhá! Johnny."
Một đứa bé khác thưa
với Chúa: "Khi con lớn lên, Con muốn trở nên giống như Chúa. Tommy."
Chúa Giêsu, Hoàng Tử
của hòa bình, đã sai các môn đệ Ngài đi rao giảng giống như Ngài! Chúa Giêsu,
Hoàng Tử của Bình An, muốn chúng ta trở nên giống Ngài. Chúng ta là những người
xây dựng hòa bình mà Ngài sai đi. Tuy nhiên, để chúng ta có thể trở nên những
người xây dựng hòa bình, chúng ta cần phải có sự hòa bình trong chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, chúng
con muốn trở nên giống như Chúa. Chúng con muốn là những người xây dựng hòa
bình.
Tháng Mười Một, năm
1940, lúc đó là Đại Thế Chiến II, tại Anh quốc. Một nhà thờ chánh tòa Coventry
đã bị phá hủy. Sau đó, trong đống đá vụn, người ta đã lượm được một số lớn đinh
từ thời Trung Cổ. Các cây đinh đó đã được dùng để làm thành một cây thánh giá,
và được mạ bằng bạc. Cây thánh giá được dựng lên và ở đằng sau có hàng chữ,
"LẠY CHA, XIN THA." Sau đó, nhiều cây Thánh Giá nhỏ làm bằng những
cây đinh đã được gởi đi các nước đã lâm vào cảnh chiến tranh. Hàng ngàn tấm
hình đã được in trên các loại postcards cây Thánh Giá làm bằng đinh với hàng
chữ " LẠY CHA, XIN THA." Cây Thánh Giá tại nhà thờ chánh tòa Coventry
đã trở nên một dấu chỉ của sự tha thứ, giải hòa, và bình an!
Bài Phúc Âm hôm nay
thuật lại cho chúng ta thêm một lần nữa, "Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất
trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do
thái. Chúa Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: 'Bình an cho anh em!'" (Ga
20:19). Trong một câu nói này, Thánh Gioan chú tâm vào hai khía cạnh của sự
sống đã được phân tích do sự phục sinh của Chúa Kitô: Thứ Sáu Tuần Thánh và
Chúa Nhật Phục Sinh. Bắt đầu câu, diễn tả thứ Sáu Tuần Thánh và được kết câu
bằng sự phục sinh. Các môn đệ đã sống trong tình trạng đau khổ và thất vọng, và
khi Chúa Giêsu đến thì tất cả những bi quan đó đã được thay thế bằng niềm hy
vọng và vui sướng. Lo âu và chán nản đã được thay thế bằng sự bình an. Qua sự
cảm nghiệm Chúa Kitô phục sinh, các môn đệ đã tự trấn tĩnh chính bản thân mình.
Họ trở nên giống Chúa Kitô! Họ trở nên những người xây dựng hòa bình!
"Lạy Chúa, chúng
con muốn trở nên giống như Chúa!" Nếu chúng ta muốn trở nên những người
làm phép lạ, người xây dựng hòa bình, thì chúng ta phải bắt đầu từ đâu? Tôi xin
phép đề nghị: mỗi buổi sáng, các bạn hãy cầu xin cho được một ánh mắt tình yêu
để nhìn tất cả sự vật. Sau đó, bạn bắt đầu ngày sống của bạn, hãy nhìn tạo vật
với cặp mắt tình yêu. Hãy nhìn những người đang sống chung quanh bạn với ánh
mắt đầy sự kính trọng. Khi bạn đang làm những công việc hằng ngày, mỗi lần bị
cám dỗ để suy nghĩ một chuyện đau khổ hoặc là một phiền muộn, bạn hãy nhớ đến
lời nguyện trước tấm kiếng của bạn. Hãy nhớ mở lòng bạn ra với những vẻ kỳ diệu
của tạo vật và những phép lạ của tình yêu Ngài. Hãy nhớ rằng bạn muốn là những
sứ giả hòa bình. Hãy nhớ rằng bạn mong muốn lớn lên trên đường thiêng liêng để
trở nên giống Chúa Giêsu.
49. Đóng bè để giữ vững đức tin
Kính Lòng Thương Xót
Chúa
Có ai dám cả gan bơi
ngược lại dòng nước chảy mạnh xuống dốc, cuốn theo những vật trên mặt nước, hay
chỉ có những người liều lĩnh mới làm như vậy? Những trào lưu tư tưởng phóng
khoáng, những lối sống buông thả, sa đoạ trong xã hội hiện đại với nhiều phương
tiện truyền thông cận đại và nhanh chóng, giống như những dòng nước chảy mạnh.
Bên cạnh dòng nước chảy mạnh, còn có những dòng nước nhỏ, chảy chậm hai bên bờ.
Để khỏi bị lôi cuốn vào dòng nước chảy mạnh, người ta phải dùng một trong hai
giải pháp. Một là dùng thuyền nhỏ, đi mon men sát bờ, đôi khi cần bám vào những
gốc rể cây. Hai là đóng bè lớn cho vững chắc, rồi chung sức lèo lái: người thì
dùng chèo hoặc gậy để chống cho thuyền khỏi trôi xuôi dòng nước, người khác
dùng sào dài để đẩy cho thuyền đi ngược dòng từng nấc và cứ thế từng nấc một.
Sống trong xã hội hiện nay, người ta chỉ cần nhấn con chuột là tin tức và hình
ảnh có thể hiện ra trên màn ảnh máy điện toán ngay tại phòng ngủ, người ta ít
có cơ hội chọn giải pháp đi mon men hai bên bờ. Vì thế người ta cần đóng bè để
giúp nhau giữ vững đức tin.
Người ta cũng đóng bè
với nhau vì hai lý do. Một là cùng chung một đối tượng, một mục đích như cùng
xuống đường để đòi hỏi một quyền lợi hay phản đối điều gì. Hai là cùng chia sẻ
một cảm tình như lo sợ, vui mừng... chẳng hạn dự đám cưới để chung vui, dự đám
tang để chia buồn.. Sau biến cố tử nạn của Thầy mình, các tông đồ tìm đến với
nhau để đóng bè. Vì sợ người Do Thái tầm nã như Phúc âm hôm nay kể lại mà các
tông đồ tụ họp trong phòng lầu tại Giêrusalem, đóng cửa và gài chốt bên trong.
Trong cảnh tang thương bi đát trước cuộc tử nạn của Thầy mình, các ông tụ họp
nhau lại cầu nguyện để an ủi, nâng đỡ nhau. Bỗng nhiên Chúa Giêsu hiện ra trước
mắt các ông để củng cố đức tin gần như bị tàn lụi của các ông.
Riêng có ông Tôma lại
tách rời ra khỏi các bạn đồng chí hướng. Do đó đức tin của ông đã bị dập tắt:
Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào vết đinh
và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi nhất định không tin (Ga 20:25).
May phúc cho ông là chính Chúa Giêsu lại đích thân hiện ra để phục hồi đức tin
của ông. Lúc này ông kêu lên: Lạy Chúa của con. Lạy Thiên Chúa của con (Ga
20:28).
Cộng đồng Kitô giáo
hay chặt chẽ hơn là cộng đồng Công giáo được gọi là cộng đồng đức tin, gồm
những người cùng chia sẻ một niềm tin và cùng theo đuổi một mục đích. Nếu muốn
giữ vững đức tin, người ta cần ở lai trong cộng đồng, thờ phượng và sinh hoạt
với cộng đồng đức tin. Khi người ta liên kết và thờ phượng với cộng đồng đức
tin, đức tin của họ sẽ được củng cố. Nếu đức tin của người ta vững mạnh, họ có
thể giúp làm tăng triển đức tin của người yếu đức tin. Các tín hữu thời Giáo
hội sơ khai, theo sách Công vụ Tông đồ, nhờ có đức tin tập thể của người nọ
nâng đỡ người kia, mà họ có thể để mọi sự làm của chung (Cv 2:44). Còn thánh
Gioan thì cho rằng nhờ đức tin mà người tín hữu thắng được thế gian (1Ga 5:4).
Đức tin của người công
giáo dựa trên hai chiều: chiều dọc và chiều ngang. Theo chiều dọc thì Thiên
Chúa từ trên, mời gọi ta đến đời sống đức tin và ta đáp trả. Còn đức tin dựa
theo chiều ngang có nghĩa là ta cần dựa vào cha mẹ, họ hàng, bạn hữu và những
người cùng chung một niềm tin, để giúp nhau duy trì và phát triển đức tin. Ta
cần tìm đến những người có đức tin mạnh, những người có tâm hồn đạo hạnh, để
hun đúc lại đức tin của mình. Ngoài ra đức tin cần phải được thực hành. Nếu
không thì như Thánh Giacôbê quả quyết: Đức tin không có việc làm, là đức tin
chết (Gc 2:26). Vì thế những người chủ trương giữ đạo tại tâm là tự lừa dối
mình. Tách biệt ra khỏi cộng đồng đức tin, đức tin của người tín hữu có thể bị
lung lạc, khi bị gièm pha và tấn công bởi những người chống đối đạo mà họ tin
theo.
Để áp dụng thực hành,
người ta cần biểu lộ đưc tin bằng việc làm như cầu nguyện, dự lễ, hi sinh, bác
ái. Nếu là thiên thần, người ta không cần biểu hiệu. Là loài người có xác,
người ta cần biểu lộ đức tin bằng những cử chỉ đạo hạnh như qùi gối, chắp tay,
cúi đầu... để khơi dạy tâm tình đạo đức bên trong. Người ta cũng cần những biểu
hiệu như tượng ảnh đạo treo trong nhà, hay trong phòng để nhắc nhở cho mình về
sự hiện diện của Chúa, Mẹ Maria và các thánh.
Nhà thờ giáo xứ là
biểu hiệu đức tin và là trung tâm điểm của đời sống đức tin. Sau khi sinh ra,
ta được mang đến nhà thờ để chịu Phép Rửa tội. Ta Rước lễ lần đầu ở trong nhà
thờ. Ta chịu Phép Thêm sức cũng ở trong nhà thờ xứ đạo. Và ta lãnh nhận Bí tích
Hôn phối cũng ở trong nhà thờ. Khi nằm xuống vĩnh viễn, thân xác ta còn được
mang đến nhà thờ để được cử hành lễ an táng. Đến nhà thờ cầu nguyện và dâng
thánh lễ là cách biểu lộ đức tin một cách cụ thể nhất. Như vậy đức tin của
người công giáo được hỗ trợ một cách tối đa bằng việc bàu cử của Mẹ Maria và
các thánh, bằng lời cầu nguyện và gương sáng của người tín hữu khác. Không tìm
đến sức hỗ trợ thiêng liêng, là tự cô lập hoá đức tin của mình.
Hôm nay cũng là Chúa
Nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa. Năm 1931, Chúa Giêsu hiện ra và yêu cầu nữ tu
Faustina Kowalska cổ võ lòng thương xót Chúa. Chúa bảo thánh nữ cho vẽ bức ảnh
mô tả lòng thương xót Chúa như thánh nữ đã thấy trong thị kiến với lời ghi chú:
Lậy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa. Thứ Sáu Tuần thánh 1937, Chúa yêu cầu
thánh nữ cổ võ làm Tuần Cửu nhật bắt đầu từ Thứ Sáu Tuần thánh bằng cách dùng
tràng hạt đọc chuỗi thương xót: Vì cuộc Thương khó của Chúa Giêsu, xin thương
xót chúng con và toàn thế giới như khi lần hạt mà đọc kinh Kính mừng, để mừng
Lễ Kính Lòng Thương Xót của Chúa.
50. Tôma và con mắt thứ ba – Lm. Trần Ngà
Cách xử sự của Tôma
cũng là cách xử sự thông thường của nhiều người. Người ta chỉ chấp nhận là có
thật những gì mà người ta có thể xem bằng mắt, bắt bằng tay, những gì cân, đo,
đong, đếm... được. Còn những gì người ta không thấy, bị xem như là không có.
Khi tôi hỏi bạn bè: Tại sao bạn không tin Thiên Chúa, không tin có linh hồn,
không tin có sự sống đời sau? Họ trả lời thật đơn giản: "Có thấy đâu mà
tin!"
Thế nhưng, có nhiều
điều chúng ta không thấy nhưng chúng ta vẫn phải nhận là chúng hiện hữu. Người
ta không thể nhìn thấy tình mẫu tử nơi người mẹ, không nhìn thấy ý chí kiên
cường nơi bậc anh hùng, không nhìn thấy trí khôn tuyệt vời của nhà khoa học (
bởi vì tình yêu, ý chí, trí tuệ... là những thực tại vô hình, không màu sắc,
không trọng lượng, không khối lượng )... nhưng không ai dám phủ nhận rằng những
thực tại nầy không có.
Với đôi mắt trần nầy,
tầm nhìn của người ta rất hạn hẹp, như "ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng
vung".
Với đôi mắt trần nầy,
chúng ta chỉ nhận thấy một ít sự vật phù du mà thôi. Còn những điều quan trọng,
những điều chính yếu thì không thể nhận thấy. Nhà văn Saint-Exupéry đã khám phá
ra điều nầy, ông viết: "L'essentiel est invisible pour les yeux" (
Thực tại thiết yếu thì mắt trần không thấy được ). Do đó, nhân loại cần đến
những con mắt khác, những con mắt thứ ba để nhận thức những thực tại cao siêu.
Con mắt nầy giúp người ta nhìn xa, nhìn rộng, nhìn sâu, nhìn thấy điều thiết
yếu, nhìn thấy chân lý...
Con mắt thứ ba của các
nhà vi trùng học là ống kính hiển vi. Nhờ con mắt nầy, nhà nghiên cứu có thể
nhìn thấy vi trùng và những siêu vi cực nhỏ... Con mắt thứ ba của các nhà thiên
văn là ống kính thiên văn, nhờ đó các nhà khoa học có thể thấy được những ngôi
sao cách mặt đất đến mười tỉ năm ánh sáng... Con mắt thứ ba của các nhà quân sự
là màn ảnh ra-đa, là vệ tinh quan sát... Chúng giúp các nhà quân sự nắm rõ địa
hình cũng như các bí mật quân sự của đối phương nhằm đạt tới chiến thắng.
Trong Phật giáo, con
mắt thứ ba của nhà tu hành đạt đạo là 'huệ nhãn', giúp người ta thấy được những
thực tại tâm linh siêu hình. Đối với Đức Giêsu, con mắt thứ ba mà Ngài mong
muốn các môn đệ Ngài phải có là Đức Tin. Nhờ "Con Mắt Đức Tin", nhân
loại có thể nhận ra Thiên Chúa là Cha yêu thương, nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu
Độ, nhận ra mình có hồn thiêng bất tử, biết mình có cuộc sống mai sau, có thiên
đàng hoả ngục...
Tông đồ Tôma chưa có
con mắt thứ ba. Anh chỉ tiếp cận với thế giới qua đôi mắt trần. Anh chủ trương
chỉ những gì được xem thấy tận mắt, được sờ tận tay... mới là điều có thực.
Chính vì thế, khi nghe các môn đệ bảo anh: "Nầy Tôma, Thầy đã sống lại và
đã hiện ra với chúng tôi", Tôma cho là chuyện đùa.
Cho dù Tôma có thấy
Chúa tận mắt đi nữa, chắc gì anh đã tin, vì biết đâu đó chỉ là bóng ma của Chúa
Giêsu hiện về. Anh đòi phải kiểm chứng bằng cách xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt
bàn tay vào cạnh sườn... thì anh mới tin! Chúa Giêsu không hài lòng với quan
điểm đó. Ngài nói: "Tôma, vì anh đã thấy Thầy nên anh mới tin. Phúc cho
những ai đã không thấy mà tin."
Như thế, phúc cho
những ai không dùng đôi mắt trần, nhưng dùng con mắt thứ ba, "Con Mắt Đức
Tin" để nhận ra Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa
luôn tuyên dương những ai có Đức Tin vì đó là con mắt tối cần giúp thấy được
những thực tại siêu nhiên và đạt tới ơn cứu độ. Chúa luôn khiển trách các môn
đệ khi các ông yếu lòng tin. Chúa buồn phiền vì dân chúng thiếu lòng tin. Chúa
khiển trách Tôma là kẻ cứng lòng tin. Xin khai mở cho chúng con con mắt thứ ba,
con mắt Đức Tin, để chúng con nhận biết Thiên Chúa Cha là Cha yêu thương, nhận
biết Đức Giêsu là Đấng cứu độ nhân loại và nhận biết Thánh Thần Chúa là Đấng
thánh hoá mọi người, cùng nhận biết mọi người là anh em thật của chúng con
trong Chúa Kitô. Amen.
51. Suy niệm của Achille Degeest
PHÚC THAY NHỮNG KẺ
THÂN THIẾT TRỞ NÊN THÂN THIẾT HƠN
Bài Phúc Âm hôm nay
đáng nên suy niệm rất lâu. Chúng ta đơn giản ghi lấy một số yếu tố để hiểu rõ
nội dung hơn.
1) Ngày hôm đó, ngày
đầu trong tuần,
là ngày Chúa sống lại, là Chúa nhật của chúng ta ngày nay. Các môn đệ hội họp,
có lẽ là do Phêrô (người đã nhìn thấy ngôi mộ trống) triệu tập. Các cửa đóng
chặn kỹ, biết đâu được phản ứng của nhà chức trách Do thái ra sao. Chúa đột
nhiên ở giữa các ông, cho các ông tức khắc trông thấy Người đang sống trong trạng
thái phục sinh, Người không trở lại trạng thái trước đây nữa. Câu nói đầu tiên
của Chúa là: “Bình an cho anh em!”. Đó là câu chào người ta thường dùng, nhưng
ta có thể nghĩ rằng nghe thấy câu đó các môn đệ bớt được phần nào băn khoăn, vì
cung cách cư xử của họ đối với Thầy hai hôm trước khiến họ không an tâm. Đàng
khác, câu chúc bình an của Chúa luôn luôn là một ân huệ. Chúa ban cho các ông
bình an của Người, bao gồm tha thứ, nhân từ và yêu mến, mà thành quả là niềm
vui. Chúa nói thêm: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em … Anh
em tha tội cho ai, thì người ấy được tha…”
2) “Như Chúa Cha đã
sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. Chúa Giêsu sai các môn đệ. Chúng ta lưu ý về
hai tính chất của sự sai phái này. Chúa sai các ông thi hành một sứ mạng giống
sứ mạng của Người, cho các ông một quyền như Người. Đích phải đạt là cứu độ thế
giới bằng cách loan báo Đấng là sự thật và có quyền tha tội. Quyền là do Thiên
Chúa, do Cha. Cũng như Chúa Giêsu được Cha uỷ nhiệm làm Đấng cứu chuộc nhân
loại, các môn đệ được Chúa Giêsu đặt làm sứ giả, làm tông đồ của ơn cứu độ.
Cũng như quyền hành sứ mạng của Chúa Giêsu là do Cha, quyền hành sứ mạng của
các môn đệ là do Chúa Giêsu. Đối với Phúc âm, tự ý trao cho bất cứ ai đã chịu
phép thánh tẩy sứ mạng rao giảng Phúc âm cứu độ – là một sự lầm lẫn rất nặng
nề. Các môn đệ là những người được Chúa Giêsu tuyển chọn, kêu gọi và trao
quyền. Sự rao giảng chân truyền bắt buộc phải theo đúng ý muốn của Chúa. Điều
này không giảm nhẹ nghĩa vụ mỗi tín hữu phải làm việc tông đồ theo phương pháp
rất hiệu quả, rất hào hiệp, đồng thời rất được linh ứng và rất thực tiễn. Nhưng
không phải bất cứ tín hữu nào cũng có sứ mạng đặc biệt được quyền rao giảng.
3) “Anh em tha tội cho
ai, thì người ấy được tha…”. Truyền
thống Kitô giáo luôn luôn thừa nhận trong câu này sự thiết lập bí tích Giải
tội. Kitô hữu là kẻ từ khoảnh khắc gặp Chúa Giêsu Kitô, phát hiện bản thân mình
tội lỗi, nghĩa là thấy mình khốn khổ và có tội. Người tín hữu biết rằng niềm
tin của mình trong Chúa Giêsu Kitô làm cho mình hiệp thông với một vận dụng cứu
độ, tha tội và tái sinh. Khi Chúa thiết lập một bí tích, nghĩa là khi lập ra
một dấu chỉ rõ ràng về ơn tha thứ và tái sinh, Chúa muốn cho kẻ có tội dễ dàng
gặp ơn cứu độ. Ở đây cũng vậy, không phải bất cứ ai cũng có trách nhiệm ban
phép bí tích. Nói với các môn đệ (và những vị thừa kế các ông sau này), Chúa
phán: “Anh em tha tội (dẫu cho người ta giải thích lời Chúa Giêsu theo một
nghĩa rộng hơn, cũng không phải tất cả mọi người trong Giáo Hội đều có quyền
giải tội). Các ông sẽ làm việc ấy với quyền hành sứ mạng. Tuy Giáo Hội quy định
rõ thể thức về bí tích Giải tội, nhưng phải xác nhận bí tích này xuất phát từ
chính lời Chúa Giêsu. Phúc thay những bạn hữu của Chúa Giêsu trở nên thân thiết
với Chúa hơn vì đã được tha thứ và tái sinh.
52. Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ
(Suy niệm của Lm FX.
Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Dựa theo bố cục tổng
quát của Tin Mừng Gioan, đoạn văn này nằm trong chương 20 là chương cuối cùng
của phần B (Sách về Giờ của Đức Giêsu), kèm theo lời kết cho thấy mục tiêu của
tác giả khi viết Tin Mừng.
Trong tình trạng tranh
tối tranh sáng lúc bình minh, Maria Mácđala đi đến mộ Đức Giêsu và thấy mộ đã
được mở và trống không. Cho tới nay, có hai sứ điệp của Đức Giêsu Phục Sinh đã
bao trùm ngày Phục Sinh (20,2.17). Vào buổi chiều ngày dài này, Đấng Phục Sinh
đã đến gặp các môn đệ Người. Người gặp họ khi họ đang ở trong phòng cửa đóng
kín: họ còn đang ở trong mộ của nỗi sợ hãi, chứ chưa được thông dự vào sự sống
của Người. Đức Giêsu đã đưa các môn đệ ra khỏi tình trạng bế tắc do phản bội,
do sợ hãi. Và Người đã trao sứ mạng để các ông trở thành sứ giả đi khắp nơi mà
ban ơn tha tội, ban sự bình an.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia
thành ba phần:
1) Đức Giêsu hiện ra
với các môn đệ không có Tôma (20,19-23):
a) Lời chào “bình an”
thứ nhất với việc chứng minh (cc. 19-20),
b) Lời chào “bình an”
thứ hai với sứ mạng (cc. 21-23);
2) Đức Giêsu hiện ra
với các môn đệ và Tôma (20,24-29):
a) Tôma không tin anh
em (cc. 24-25),
b) Đức Giêsu và Tôma
(cc. 26-31);
3) Kết luận Kitô học:
Tóm tắt mục tiêu sứ mạng của Đức Giêsu (20,30-31).
3.- Vài điểm chú giải
- Vào chiều ngày ấy,
ngày thứ nhất trong tuần
(19): Cuộc hiện ra xảy ra tại Giêrusalem vào ngày Chúa Nhật. Bản văn Lc
24,33-49 cho biết Đức Giêsu hiện ra vào buổi chiều, bởi vì vào lúc xế chiều,
Người đã ngồi ăn với hai môn đệ tại Emmau, rồi hai ông đã trở lại Giêrusalem
ngay trước khi Đức Giêsu hiện ra với cả nhóm. Rất có thể tác giả dùng từ ngữ
“ngày ấy” mà chỉ ngày Chúa Nhật ấy là có ý coi đây là ngày cánh chung, ngày mà
Đức Giêsu ban Thánh Thần để ở lại mãi mãi với các môn đệ (xem thêm cc. 14,20;
16,23.26). Tác giả dùng công thức “Ngày thứ nhất trong tuần” cho cả hai lần
hiện ra ở đây (lần sau đúng một tuần sau) rất có thể là vì ông muốn nhắc đến
thói quen của các Kitô hữu cử hành Thánh Thể vào “ngày thứ nhất trong tuần” (Cv
20,7; xem thêm 1 Cr 16,2).
- các cửa đều đóng kín (19): Lý do nêu ra trong bản văn là “vì các
ông sợ người Do Thái”, nhưng có lẽ tác giả cũng còn muốn cho thấy là thân thể
Đức Giêsu Phục Sinh có thể đi qua cửa đóng kín. Đây cũng có thể là một ghi nhận
về hoàn cảnh hiện tại của các môn đệ.
- Bình an cho anh em (19): Trong tiếng Hípri, shâlôm (= bình an,
HL eirênê) là một lời chào thông thường. Nhưng trong văn cảnh long trọng ở đây,
lời của Đức Giêsu có ý nghĩa khác, không phải chỉ là “Cầu chúc anh em được bình
an”, như thể họ còn phải chờ đợi sự bình an đến trong tương lai. Ở đây, lời Đức
Giêsu nói là một nhận định về thực tại: chắc chắn họ đang có sự bình an của
Người.
- Như Chúa Cha đã sai
Thầy
(21): Trong các Tin Mừng khác, cũng có lời sai đi này (x. Mt 28,19; Lc 24,47),
nhưng ở đây, mẫu mực cho việc sai đi là quan hệ của Con với Cha (một đề tài
thần học của Ga, xem 17,18).
- Người thổi hơi vào
các ông...
Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần (22): Hành động này nhắc nhớ đến
làn hơi sáng tạo của Thiên Chúa trong St 2,7. Làn hơi của Đức Giêsu chính là
Thánh Thần. Trên thập giá, Người đã “trao Thần Khí” (paredôken to pneuma; trước
đây, vì không quan tâm đến thần học của tác giả Ga, người ta đã dịch là “trút
hơi thở”) (19,30): Người đã trao ban Thánh Thần cho những người đứng dưới chân
thập giá, đặc biêt cho thân mẫu Người, tượng trưng Hội Thánh hoặc Dân mới của
Thiên Chúa, và cho người môn đệ Người thương mến, tượng trưng các Kitô hữu.
- Anh em tha tội cho
ai...; anh em cầm giữ ai... (23): Câu này có vọng lại Ds 22–24 bằng tiếng
Hy Lạp (Bản LXX), Truyện Bilơam: chẳng hạn so sánh Ga 20,23 // Ds 22,6 LXX.
Theo bản văn Hípri, vua Balác xác tín rằng “kẻ nào bị ông nguyền rủa thì mắc
họa/bị nguyền rủa” (Ds 22,6 Hípri), nghĩa là sẽ bị nguyền rủa qua lời nguyền
Bilơam tuyên bố. Ông không bận tâm với quyền năng của Thiên Chúa Israel, là
Đấng có đồng ý thì Bilơam mới có thể chúc phúc hoặc nguyền rủa (Ds 22,12;
23,8). Ngược lại, trong bản văn Hy Lạp, lời của Balác ở 22,6 có một ý nghĩa có
thể giải thích theo hai hướng: có thể hiểu “được phúc” (eulogêntai) và “mắc
họa/bị nguyền rủa” (kekatêrantai) vừa theo nghĩa một hậu quả sẽ xảy ra trong
tương lai gần (bản văn Hípri: dạng phân từ và vị hoàn), vừa theo nghĩa một lời
thú nhận không chủ ý rằng chỉ những ai đã được Thiên Chúa chúc phúc hoặc bị
Thiên Chúa nguyền rủa thì Bilơam mới có thể chúc phúc hoặc nguyền rủa. Đó chính
là điều Thiên Chúa đã nói với Bilơam: “Ngươi không được đi với chúng! Không
được nguyền rủa dân đó, vì nó đã được chúc phúc (estin gar eulogêmenon)”.
Bilơam không thể nguyền rủa kẻ đang sống trong tình trạng được chúc phúc, từ đó
chúng ta hiểu là kẻ nào ông nguyền rủa được, kẻ ấy đã đang bị Thiên Chúa nguyền
rủa rồi. Balác đã nói như thế và ông có lý, mà ông không biết.
Dạng hoàn thành
apheôntai (“được tha”) và kekratêntai (“bị cầm giữ”) ở Ga 20,23 có thể được
hiểu như thế.
- Chúng tôi đã được
thấy Chúa
(heôrakamen ton kyrion, 25): Heôrakamen là thì hoàn tất của động từ horaô, diễn
tả việc “thấy” kèm theo sự hiểu biết thật sự.
- Nếu tôi không thấy
dấu đinh... (25):
Đây là lời Tôma khẳng định rằng ông không tin, hoặc để ông tin, Đức Giêsu cũng
phải hiện ra với ông, như đã hiện ra với các môn đệ kia. Đức Giêsu đã đáp ứng
yêu cầu của ông, Người đã mời ông làm như ông nói lúc này, để có thể tin.
- Đừng cứng lòng nữa,
nhưng hãy tin
(27): Dịch sát là “đừng cứ tiếp tục không tin nữa, nhưng hãy bắt đầu tin đi”.
Đức Giêsu mời Tôma thay đổi thái độ.
- Lạy Chúa của con,
lạy Thiên Chúa của con
(28): Đây vừa là một tiếng kêu vừa là một hô-cách dưới dạng chủ-cách (= “Lạy
Chúa và lạy Thiên Chúa của con!”) vừa là một lời tuyên xưng đức tin (= “Ngài là
Chúa và Thiên Chúa của con”) độc đáo chưa ai làm. “Chúa của con” nhắm đến Đức
Giêsu của lịch sử, còn “Thiên Chúa của con” là một lượng định mang tính thần
học về bản thân Người. Tuyên xưng Đức Giêsu là “Đức Chúa” thì Maria Mácđala và
các môn đệ đều đã làm (20,18.25); nhưng tuyên xưng vị “Chúa tể” này là “Thiên
Chúa”, thì chỉ có Tôma mới làm ở đây. Vì thế, cũng có thể hiểu câu này là một
phép thế đôi (hendiadys): “Chúa của con” cũng là “Thiên Chúa của con”.
- là để anh em tin
rằng
(31): Bản văn Hy Lạp ghi “để anh em tin” là hina pisteu[s]ête (với con chữ
sigma nằm trong ngoặc đơn), tức là có thể đọc hina pisteusête hoặc hina
pisteuête. Cả hai cách đọc đều có thể chấp nhận, nhưng đưa tới hai ý nghĩa rất
khác nhau:
(1) Cách đọc thứ
nhất, hina pisteusête (subjuntive aorist): Cách đọc này có thể dịch ra như sau:
“để anh em có thể đi đến đức tin”. Trong trường hợp này, mục tiêu của bài tường
thuật là truyền giáo. Những người nhận bản văn hẳn là những người ở bên ngoài
cộng đoàn Kitô hữu.
(2) Cách đọc thứ
hai, hina pisteuête (subjuntive present): Cách đọc này có thể dịch ra như sau:
“để anh em tiếp tục tin”. Trong trường hợp này, mục tiêu của bài tường thuật chỉ
là khuyến thiện. Những người nhận bản văn hẳn là những người thuộc về cộng đoàn
Kitô hữu.
Cho dù cách hợp lý hơn
là cách đọc thứ hai, ta cũng không thể chỉ vì có hoặc không có một con chữ
sigma (s) mà phân biệt để xác định rằng mục đích của tác phẩm là truyền giáo
hay không. Ta còn phải khảo sát tất cả các cách dùng liên từ hina, rồi khảo sát
cấu trúc văn chương tổng quát của tác phẩm. Dù sao, khi nghiên cứu TM IV kỹ
càng hơn, ta có thể nghĩ rằng tác phẩm được ngỏ với những người đã là Kitô hữu.
4.- Ý nghĩa của bản
văn
Trong cả hai lần Đức
Giêsu hiện ra, thời gian là “ngày thứ nhất trong tuần”, “ngày của Chúa”, ngày
Chúa Nhật. Người chào các môn đệ với những lời như nhau, “Bình an cho anh em!”.
Đây là cuộc gặp gỡ hàng tuần của cộng đoàn Kitô hữu. Đức Giêsu Phục Sinh tỏ
mình ra cho các môn đệ của Người.
* Đức Giêsu hiện ra
với các môn đệ không có Tôma (19-23)
Các môn đệ đang sống
trong căn nhà cửa đóng then cài, “vì sợ người Do Thái” (c. 19). Điều này hiểu
được sau khi Đức Giêsu qua đời, nhưng có lẽ cũng phản ánh hoàn cảnh của các môn
đệ vào lúc Gioan viết Tin Mừng. Nhiều lần, trong tác phẩm, ta thấy những ai
thuộc về nhóm Đức Giêsu đều sợ bị đuổi ra khỏi hội đường (x. 9,22). Các môn đệ
lúc này không còn là mười hai nữa, mà là mười một, rồi đọc thêm nữa thì thấy
chỉ còn có mười. Khi hiện ra, điều đầu tiên Đức Giêsu làm là cho các môn đệ
thấy rằng các ông có Người đang sống giữa các ông. Rồi Người nói: “Bình an
(eirênê) cho anh em!” (c. 19). Không chỉ nói về bình an, Người còn cung cấp nền
tảng chắc chắn cho lời của Người: các vết thương (tay [chân] và cạnh sườn). Vậy
Người chính là Đấng đã chết trên thập giá, nhưng Người đã thắng cái chết. Không
có sự buồn phiền khi trông thấy các dấu vết của cuộc Thương Khó. “Các môn đệ
vui mừng vì được thấy Chúa” (c. 20). Chỉ có niềm vui bởi vì thời điểm tiêu cực
cuộc cuộc Thương Khó đã bị vượt qua. Các môn đệ vui mừng bởi vì Đức Giêsu vui
mừng và chuyển thông niềm vui cho họ. Các ông cũng vui mừng bởi vì Đức Giêsu đã
hoàn tất sứ mạng của Người.
Đức Giêsu lại ban cho
sự bình an cho các ông một lần nữa, rồi cho các ông được thông phần vào chính
sứ mạng, chính sự sống và quyền của Người là tha tội. Sau khoảnh khắc nhận
biết, như trong trường hợp Maria Mácđala, bây giờ đến một loại tương quan khác.
Ở c. 20, Đức Giêsu nói tiếp: “Như (kathos) Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng
sai anh em” (c. 21). Chỉ là một chuyển động duy nhất: Trong tư cách Chúa Con,
Người làm chứng về Chúa Cha; trong tư cách môn đệ Người, các môn đệ đi làm
chứng về Người và đưa người ta tới chỗ tin vào Người, để rồi trong Người, các
ông được thông hiệp với Chúa Cha. Điểm này rất quan trọng: tất cả những gì các
môn đệ làm, các ông không tự mình mà làm, nhưng làm theo lệnh Đức Kitô.
Thế rồi để các ông chu
toàn được sứ mạng, Đức Giêsu ban cho các ông Chúa Thánh Thần: “Anh em hãy nhận
lấy Thánh Thần” (c. 22). Chính Thánh Thần sẽ ban cho các môn đệ sức mạnh để làm
chứng “ad extra” (hướng ra bên ngoài). Nhưng không chỉ có thế. Dấu chỉ cụ thể
của ân ban này là sự tha tội: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh
em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (c. 23). Nối tiếp sứ mạng của Người,
các môn đệ sẽ tha tội và cầm buộc. Có dây liên kết rõ ràng giữa ân ban Thánh
Thần và quyền tha tội để xây dựng nội bộ cộng đoàn. Đều này nêu bật chiều kích
“ad intra” (hướng vào bên trong). Sứ mạng và sự tha tội đi chung với nhau và là
hoa trái của cùng một Thánh Thần do Đức Giêsu ban tặng.
Ở trong một thế giới
đang làm cho các ông phải lo sợ, các ông đã có ở giữa mình Đấng chiến thắng thế
gian (x. 16,33) và được đầy sự bình an và niềm vui của Người. Đức Giêsu đã mở
cửa ra cho các ông và làm cho các ông có thể đi vào thế giới và mang các ân huệ
đến cho thế giới. Các môn đệ không được khép mình lại trong nỗi sợ hãi trước
thế giới, nhưng phải đầy tin tưởng đi vào thế giới.
* Đức Giêsu hiện ra
với các môn đệ và Tôma (24-29)
Khi Đức Giêsu đến,
Tôma, một trong Nhóm Mười Hai, không ở với các môn đệ. Các môn đệ đã gặp Đức
Giêsu Phục Sinh hiện ra và được Người sai đi (cc. 19-23) đảm bảo với Tôma rằng:
“Chúng tôi đã được thấy Chúa (heôrakamen ton kyrion)!” (c. 25). Đây không phải
chỉ là lời chia sẻ thông tin về một sự kiện, mà còn là một lời tuyên xưng đức
tin: các ông (“chúng tôi” , tương tự cộng đồng Hội Thánh) đã thấy Thầy, mà các
ông gọi là “Chúa” (danh xứng của Đức Giêsu sau Phục Sinh), và các ông đã hiểu,
đã tin. Nhưng Tôma không tin anh em; ông nêu ra những điều kiện: “Nếu tôi không
thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt
bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (c. 25). Tôma muốn làm cho rõ ra
là Đấng Phục Sinh chẳng phải là ai khác, mà chính là Đấng đã chịu đau khổ và đã
chết, là đây không phải là một Giêsu khác, nhưng vẫn là Giêsu như trước đây.
Trách Tôma cứng tin, hay không hiểu gì cả, là quá đáng! Ông muốn có một kinh
nghiệm cá nhân, ông muốn chính ông đạt tới đức tin. Đức Giêsu đã chấp nhận các
điều kiện của ông. Người chấp nhận tỏ mình ra theo cách có thể giúp Tôma nhận
biết Người.
Đức Giêsu lại hiện ra
với các môn đệ, và cũng như lần trước, Người ban bình an, sự vững vàng an toàn
và sự che chở. Rồi Người ngỏ lời với Tôma. Làm sao Người biết những chuyện đã
xảy ra? Chúng ta không biết, vì bản văn không nói, nhưng khả năng hiểu biết này
của Đức Giêsu chứng tỏ rằng kể từ nay, Người hiện diện gần gũi với các môn đệ,
cho dù về thể lý, họ không nhìn thấy Người. Người bảo Tôma: “Đặt ngón tay vào
đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy” (c. 27).
Người cho Tôma thấy những dấu chỉ của cái chết và tình yêu của Người, và cũng
chứng minh rằng Người là nguồn mạch ơn cứu độ. Có người cho rằng Tôma đã đưa
tay chạm tới Đức Giêsu. Hẳn là không cần như thế. Tôma đã tuyên xưng niềm tin
vào Đức Giêsu, một lời tuyên xưng chưa hề có ai nói lên: “Lạy Chúa của con và
là Thiên Chúa của con” (c. 28). Ông đi theo một lộ trình dài hơn mọi anh em,
nhưng ông đã đến gần Đức Giêsu hơn mọi anh em. Vì đối với cá nhân ông, Đức
Giêsu là Đức Chúa và Thiên Chúa. Người là Đức Chúa, có quyền năng cứu độ. Quan
hệ với Người có tính vững bền trọn vẹn mãi mãi vì Người là Thiên Chúa. Sau đó,
Đức Giêsu đã đưa ra một sự đối lập giữa “thấy” (horaô) và “tin” (pisteuô) (cc.
8b. 18. 20b. 25ab. 27. 29ab; x. 1,45; 4,50), và nhìn đến các thế hệ tín hữu
tương lai. Kể từ nay, chứng từ về kinh nghiệm mà các môn đệ đã có về Đức Giêsu
Phục sinh phải là động lực đưa moi người đến đức tin, chứ không phải là kinh
nghiệm về một cuộc hiện ra trực tiếp của Đấng Phục Sinh hay về một thánh tích.
* Kết luận Kitô học:
Tóm tắt mục tiêu sứ mạng của Đức Giêsu (30-31)
Cuối cùng, tác giả TM
IV tóm tắt mục tiêu của công trình của Đức Giêsu và cho thấy, đối với những
người không được thấy, đâu là nẻo đường đưa tới đức tin. Các tín hữu hôm nay
được mời gọi tin vào Đức Giêsu là Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Đức tin nối kết
chúng ta với Người, và nhờ Người là Chúa Con, chúng ta được đưa vào thông hiệp
với Chúa Cha. Đó là sự sống đời đời. Phải chăng ở đây có nguy cơ chủ quan?
Chính là xuyên qua tính chủ quan mà ta đạt được tính khách quan. Kinh nghiệm
đức tin của một người riêng lẻ phải được đối chiếu với kinh nghiệm đức tin của
cộng đoàn. Đức tin của một người tự nó không đủ. Chứng từ của cộng đoàn luôn
cần để bảo đảm cho đức tin của từng người. Tuy nhiên, đức tin của cộng đoàn
không bao giờ thay thế đức tin của từng người. Nếu TM IV có nhấn mạnh là nhấn
mạnh trên điểm này: chiều kích cá vị của tương quan với Đức Giêsu Phục Sinh.
+ Kết luận
Chúng ta có thể đọc
bản văn trên đây như một bức tranh bộ đôi: trong tất cả các bài tường thuật
này, ta ghi nhận chiều kích cá vị trong tương quan với Đức Giêsu. Ân ban căn
bản của Đấng Phục Sinh là sự bình an (20,19.21.26). Ngay trong các diễn từ cáo
biệt, Đức Giêsu đã hứa ban sự bình an này cho các môn đệ. Người có tư cách để
ban sự bình an này vì Người về cùng Chúa Cha (14,27) và vì Người thắng thế gian
(16,33). Nay Người đã thực sự thắng cái chết, là dấu chỉ tối hậu về sức mạnh
tiêu diệt của thế gian, và đã thật sự lên cùng Chúa Cha. Người đã đạt tới mục
tiêu của Người, Người lại đang sống giữa các môn đệ trong tư cách là Đấng chiến
thắng. Chính Người là nền tảng của sự bình an của các ông.
Đã nhận được các lời
chứng của các môn đệ, kinh nghiệm của Tôma, các Kitô hữu hôm nay được mời gọi
xác tín: quả thật, Đức Giêsu là Đức Kitô, là Con Thiên Chúa, và hãy tin vào
Người. Niềm tin nối kết họ với Người, và nhờ Người là Chúa Con, các Kitô hữu
được đưa vào hiệp thông với Thiên Chúa Cha.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Các môn đệ của Đức
Giêsu cần xác tín rằng Đấng đang sống giữa họ cũng chính là Đấng đã chết trên
thập giá; các ông cũng phải nhận biết rằng Người vẫn mang những vết tích của
cuộc Thương Khó, dù đã sống lại; Người chính là “Con Chiên đứng như thể đã bị
giết” (Kh 5,6). Các vết thương ấy là dấu chứng tỏ tình yêu vô biên của Người,
nhưng cũng là dấu cho thấy sự tàn ác của loài người: dấu của tình yêu vô biên,
để họ luôn luôn tin tưởng dấn thân; dấu của sự tàn ác con người, để họ có cái
nhìn thực tế, biết rằng mình dấn thân vào trong thế giới nào.
2. Tôma đã tuyên xưng
đức tin vào Đức Giêsu theo cách chưa ai làm: “Lạy Chúa của con và lạy Thiên
Chúa của con”. Ông đã đi theo con đường dài hơn con đường của các anh em, nhưng
đã đến gần Đức Giêsu hơn. Đối với cá nhân ông, Đức Giêsu là Đức Chúa và là
Thiên Chúa. Ông tin, ông quy phục Đức Giêsu, ông bày tỏ niềm tin vào Người.
Maria Mácđala cũng như các môn đệ đã tin vào Đức Giêsu như là Đức Chúa. Tương
quan của họ với Người nay có giá trị vĩnh viễn và trọn vẹn, bởi vì Đức Chúa ấy
chính là Thiên Chúa. Đức Giêsu chính là Thiên Chúa đang tìm đến gần con người
để ban cho con người sự sống đời đời. Tôma nhận biết Đức Giêsu như thế và gắn
bó với Người. Do đó, người nào chỉ nói đến một Tôma thiếu lòng tin, là quên mất
là ông đã đạt đến niềm tin nào nhờ sự trợ giúp của Đức Giêsu. Thật ra các tông
đồ đều thấy tin vào sự Phục Sinh là điều không dễ chút nào!
3. Chúng ta thấy Đức
Giêsu để cho mình được nhận biết bởi bà Maria Mácđala, bởi người môn đệ Người
yêu mến và bởi Tôma theo cách khác nhau. Đây là nét đặc trưng của Tin Mừng
Gioan. Các “dấu chỉ” hoặc các “bằng chứng”, được thích ứng với từng người. Đức
Giêsu thuận theo các đòi hỏi của mỗi người. Rồi Người đưa mỗi người đến với đức
tin ở bên kia các dấu chỉ ấy. Luôn luôn cần những dấu chỉ, nhưng cũng phải luôn
luôn vượt qua các dấu chỉ. Đàng khác, kinh nghiệm đức tin của mỗi người phải
được đối chiếu với kinh nghiệm đức tin của cộng đoàn.
4. Nghe lời “Phúc cho
những người không thấy mà tin”, chúng ta cảm thấy phấn khởi vì chúng ta đâu có
được thấy Đức Giêsu bằng xương bằng thịt! Nhưng tại sao lại “có phúc” có lẽ
chúng ta nghĩ rằng bởi vì tin dù không thấy thì khó hơn, nên có công trạng hơn.
Thật ra, “có phúc” là vì niềm tin này trung thực hơn, tinh trong hơn. Người nào
thấy thì đã có sự chắc chắn, có chứng cớ không thể chối cãi về một sự kiện,
nhưng như thế thì không phải là đức tin.
5. Hôm nay, ngày lễ
“Lòng Thương xót Chúa” mà Đức cố giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã thiết lập ngày
30-4-2000, chúng ta nhớ đến hình ảnh Đức Giêsu từ bi thương xót do thánh
Faustina Kowalska (1905-1938; Đức Gioan-Phaolô II phong thánh 30-4-2000 và
thiết lập lễ Lòng Thương Xót Chúa) để lại: Người mặc y phục trắng, bàn tay phải
ban phép lành, bàn tay trái vén mép áo ngực, từ đó thoát ra các tia sáng xám và
đỏ, tượng trưng Bí tích Thánh Thể và Bí tích Rửa Tội. Đức Giêsu là hiện thân
Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Chúng ta hãy cùng với thánh nữ Faustina
Kowalska và Đức Gioan-Phaolô II thưa với Người: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác
vào Người!” Chúng ta hãy trở thành hiện thân của Lòng Chúa thương xót qua lối
sống hợp nhất, chia sẻ nâng đỡ nhau, sẵn sàng tha thứ cho nhau.
53. Chú giải của Noel Quesson.
Vào chiều ngày ấy,
ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở... Tám ngày sau, các môn đệ Đức
Giêsu lại có mặt trong nhà đó.
Trang Tin Mừng hôm nay
thuật lại cho chúng ta hai lần Đức Giêsu Phục sinh “hiện ra” cách nhau tám
ngày. Tự nhiên chúng ta dễ để tâm chú ý dện lần hiện ra thứ hai với “Tôma” hơn,
vì ta thường đồng hóa với ông, khi trên thực tế ta cũng thấy nơi mình một “kẻ
hồ nghi”, một “kẻ cứng lòng tin” và có thể gặp được nơi ông một thứ biện minh
cho thái độ thiếu đức tin của ta.
Nhưng dù có thông đồng
với Tôma, ta cũng không thể bỏ qua việc đọc trọn vẹn bản văn trên.
Trước tiên, ta cần lưu
ý, Đức Giêsu hằng sống thường hiện ra vào Chúa nhật, ngày thứ nhất trong tuần,
đó có phải là điều ngẫu nhiên không? Ta quá biết rõ, thời đó các Kitô hữu tiên
khởi đâu có ngày nào cũng họp nhau lại. Hằng ngày mỗi người đều phải lo sinh
kế. Họ không thể luôn sống bên nhau. Vì thế, Đức Giêsu Phục sinh chỉ hiện “đến”
trong khung cảnh buổi họp mặt hằng tuần của họ. Chúng ta có thể nhầm lẫn khi
coi đức tin như một vân đề hoàn toàn “riêng tư” hay “cá nhân”: ta thấy rằng sự hiện diện của
Đức Kitô Phục sinh đăc biệt được nhận biết, thấu cảm, và xác nghiện trong khuôn
khổ một cuộc gặp gỡ tập thể. Họ cùng hiện diện với nhau, tập họp chung ‘trong
Giáo Hội’.
Các cửa đều đóng kín,
vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông.
Vào lúc thánh Gioan
viết những dòng trên. Giáo hội đang gặp sợ hãi và bách hại. Các môn đệ Đức
Giêsu đã có thói quen tụ họp này tại nhà ông này, mai tại nhà ông khác. Họ đón
tiếp nhau. Họ kiểm tra lẫn nhau: có những người rút lui, có những kẻ bồ đức
tin, bỏ nhóm. Họ đâm hoảng sợ. Họ đóng kín cửa. Nhưng giờ đây mỗi Chúa nhật như
“Chúa nhật đầu tiên” này, “dấu chỉ” bữa tiệc ly lại được cử hành và một cách
huyền nhiệm, Đức Giêsu lại lướt qua những kẻ thuộc về Người, trong “nơi mà họ
hiện diện” tại Êphêxô, Côrintô, Giêrusalem, Rôma. Đúng vậy mỗi Chúa nhật là
ngày Phục sinh! Chúa vẫn luôn hiện diện giữa cuộc sống chúng con. Chính Chúa
làm cho chúng con sống động, dù không thấy Chúa nhưng chúng con vẫn tin.
Lạy Chúa, ngày nay
chúng con cũng dễ khóa chặt cửa lại vì sợ hãi, khi Thánh Thần Chúa thổi đến,
xin cho những bức tường vây hãm chúng con sụp đổ, để chúng con trở lại thời ca
vang: Nào ta hãy mở rộng cửa cho Đức Kitô Phục sinh.
Trước khi đi xa hơn
trong việc suy niệm đoạn tin Mừng trên, chúng ta tự hỏi Đức Giêsu muốn giải
thoát để phục sinh chúng ta khỏi những tình trạng nào? Khỏi tình trạng bí bức
không lối thoát, khỏi tình trạng sợ hãi, đóng cửa cài then, khỏi tình trạng
“nguy tử” cho mình? Đó có thể là tội lỗi, thử thách về sức khỏe, đau đớn và
thất vọng, khó khăn thuộc phạm vi gia đình, nghề nghiệp. Đó là “Nơi các môn đệ
đang hiện diện: đóng cửa cài then!”
Người nói với các ông:
“Chúc anh em được bình an”. Thế rồi, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn.
Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người lại nói với các ông: “Chúc anh em
được bình an!”.
Niềm vui Phục sinh,
niềm vui Kitô hữu, trước hết không phải là niềm vui dễ dàng, niềm vui tự phát;
nghĩa là niềm vui tự nhiên làm ta thấy phấn khởi khi mọi sự đều ổn thỏa, tình
trạng sức khỏe khả quan, “tuổi trẻ” vẫn tràn đầy sinh lực, công việc đều thành
công, tương quan bạn hữu và gia đình luôn thoải mái. Nhưng niềm vui Phục sinh
là niềm vui đến ‘sau' sự sợ hãi! Đó là niềm vui và sự bình an khơi dậy từ một
tình trạng hoàn toàn tuyệt vọng (từ cái chết của một kẻ bị đóng đinh) mà từ đó
trở đi không có gì để cướp đi khỏi họ niềm vui này: đó là niềm vui và sự bình
an phát xuất từ “lòng tin” vào Đức Giêsu. Cũng như ngày thứ nhất trong tuần đó,
mỗi buổi họp mặt Chúa nhật, Đức Giêsu đều chúc bình an cho ta, qua tiếng nói
của Linh mục: “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em” và Công đồng Vatican II đã
tái lập truyền thống xưa “hôn chúc bình an”: các Kitô hữu được mời gọi trao
bình an cho nhau, nhân danh Đức Kitô: bắt tay nhau, ôm hôn, mỉm cười với nhau
và chào chúc: “Bình an Đức Kitô. Đó không phải là cử chỉ tầm thường, nhưng là
“trở nên Đức Kitô” đối với người gần cận của mình; “khi nhiều người tụ họp nhân
danh Thầy, thì Thầy hiện diện ở đó giữa họ”
Như Chúa Cha đã sai
Thầy, thì bây giờ Thầy cũng sai anh em.
Đó! Chúng ta đâu có
thể tưởng tượng được một lời nói như vậy! Thế mà chính Đức Giêsu lập lại cho
ta. Tôi là một con người đâu có ra gì, thế mà lại trở nên Đức Giêsu, được sai
gởi đến với anh em tôi y như Người đã được “Chúa Cha” sai gởi đến trần gian.
Chúng ta đừng lướt qua nhanh những lời trên. Cũng đừng vội vàng gán cho Tôma là
kẻ cứng lòng tin. Hãy dừng lại nơi những lời nói trên đây của Đức Giêsu. Ta hãy
hiểu biết trách nhiệm trọng đại mà Người trao phó cho ta: “sứ vụ” của Đức Kitô
được trao phó cho Giáo Hội và một phần cho tôi. Tôi được Đức Giêsu “sai đi” như
Đức Giêsu được Chúa Cha “sai đến”. Một lần nữa tôi phải tìm hiểu ý nghĩa của
hai từ trên: “sứ vụ” có nghĩa là “sự sai đi” (bởi tiếng La tinh là “missus”) và
“tông đồ” có nghĩa là “kẻ được sai đi” (bởi tiếng Hy Lạp là ‘apostolos’). Khi
tôi gặp một người nào trong công việc làm ăn, trong môi trường sống của tôi,
thì không phải chỉ nhân danh cá nhân, hay vì lợi ích riêng của tôi, mà chính vì
tôi được Đức Kitô sai đến? Tôi phải truyền thông cho bạn một sứ điệp của Đức
Giêsu: chính Người nói với bạn những gì tôi sẽ nói với bạn; Người luôn “sống
động” trong tôi. Tôi là “miệng lưỡi” của Người, là “thân thể” Người, kề cạnh
bạn, để thông tỏ cho bạn tình yêu của Chúa Cha.
Nói xong, Người thổi
hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Đó là việc ban Thánh
Thần, một cuộc “tạo thành mới”: Thần Khí của Đức Giêsu được thông truyền cho
các môn đệ. Đức Giêsu đã chết “đã tiến về gặp gỡ Chúa Cha” các Kitô hữu tiếp
tục công trình của Người. Họ sẽ mang hơi thở sống động của Người, mang Thần Khí
Người. Họ sẽ tiếp tục thể hiện những việc làm của Người. Sau này thánh Phaolô
sẽ nói: “Anh em là thân hình Đức Ki tô. Anh em là Đền thờ của Thánh Thần”. Còn
thánh Gioan cho ta biết, Đức Giêsu lập lại cử chỉ của Thiên Chúa Đấng tạo thành
trong sách Sáng thế (St 2,7): “Lạy Thánh linh tạo dựng, xin hãy đến!”.
Đối với Gioan, việc
Thánh Thần ngự đến đã xảy ra vào chiều ngày Phục sinh: hoạt động cốt thiết của
Đức Giêsu sau khi chiến thắng tử thần, là thông ban “Thánh Thần, Đấng đã Phục
sinh Đức Giêsu từ cõi chết” (Rm 8,11). Trong kinh Tin kính đó là điều cốt yếu
ta kháng định về Thánh Thần: “Người là Thiên Chúa, và là Đấng ban sự sống”.
Thần Khí được trao ban cho các môn đệ ngay buổi chiều ngày Phục Sinh, sẽ hiện
lộ ngời sáng trên công trường năm mươi ngày sau đó, vào ngày lễ Ngũ tuần. Đó là
thần khí của Thiên Chúa vừa mới thành công rực rỡ, ta dám nói như thế - khi
giật Đức Giêsu ra khỏi quyền lực tử thần, và mạc khải Ngài như con Thiên Chúa,
nhờ cuộc Phục sinh. “Xét như Đấng đã được Thần Khí thánh hóa, Người đã được đặt
làm con Thiên Chúa với tất cả quyền năng, do việc Người từ cõi chết sống lại”
(Rm 1,4).
Anh em tha tội cho ai,
thì người ấy được tha.
'Thắt buộc” và “tháo
cởi”, “tha giải” và “cầm giữ”. Kiểu nói này là một hình thức văn phạm của tiếng
Aramên: theo đó, người ta dùng hai từ nghịch nghĩa nhau để xác nhận một thực
tại cách mạnh mẽ hơn, và để nhấn mạnh tới từ mang tính “tích cực”. Như thể, khi
trao ban cho các môn đệ Thần Khí Ngài, Đức Giêsu cũng thông nho họ quyền tháo
gỡ con người khỏi sự ác: kể từ đó, ngay tại trần gian, các ông trở nên những kẻ
mang” tình xót thương của Thiên Chúa cho mọi người, cũng như Đức Giêsu đã trở
nên hiện thân của tình thương đó! “Như Chúa Cha đã sai Thầy thì bây giờ Thầy
cũng sai anh em”. Người Kitô hữu cũng được trao ban cho chính sứ vụ mà Đức
Giêsu đã tuyên bố là của Người, trong Hội đường Nagiarét, vào lúc khởi đầu tác
vụ: “Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo
Tin mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố một năm hồng ân của Chúa, trả lại tự do cho
người bị áp bức” (Lc, 4,18-19). Tôi có mang thần khí đó, Thần khí giải phóng,
Thần khí ban sự sống, Thần khí yêu mến và tha thứ nhân danh Đức Giêsu không?
Tha thứ là một ân huệ Phục sinh.
Một người trong nhóm
Mười Hai, nên là Tôma, không có mặt khi Đức Giêsu đến. Ông nói: “Nếu tôi không
thấy... tôi chẳng có tin”.
Đó là “con người chậm
trễ”. Sau buổi lễ gặp mặt, ông mới tới. Trong Tin Mừng, Tôma luôn là người chỉ
tin vào lương tri của mình, là người thiết thực nên nghi ngại cả thái độ liều
lĩnh của Đức Giêsu: “Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu? (Ga. 14,15).
Khi Đức Giêsu nói đến sự phục sinh cho Lagiarô, thì Tôma chỉ thấy trước mắt cái
chết (Ga 11,15-16).
Tám ngày sau... Đức
Giêsu lại đến và nói: “Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy, đừng cứng
lòng tin nữa”.
Một tuần. Tôi thấy như
Đức Giêsu đang mỉm cười hóm hỉnh trao đổi với Tôma. Người có vẻ đang nói với
ông: “Này anh bạn, bạn tưởng tôi đã chết và khuất mặt, khi bạn bày tỏ thái độ
không tin. Nhưng tôi vẫn hiện diện lúc đó, cách vô hình, chứng kiến các bạn nói
chuyện với nhau. Tuy nhiên, lúc đó tôi không tỏ mình ra với các bạn”. Đó là
thái độ kiên nhẫn của Thiên Chúa. Người đã chọn thời gian của Người.
Ong Tôma thưa Người:
“Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con!”
Đó là tiếng kêu diễn
từ một lòng tin của con người đã đòi “chạm, thấy”. Ong đã hiểu được Đức Giêsu
cho dù không hiện hình, vẫn có đó! Người hiện diện cả vào giờ phút ông nghi
ngờ.
Vì thấy Thầy, nên anh
đã tin. Phúc thay những người không thấy mà tin.
Đó là mối phúc, mối phúc
cuối cùng. Những thực tại cao siêu nhất của Thiên Chúa, ta không thể tự mình
thấy được. Chỉ có “đức tin” dẫn đưa chúng ta tiến sâu vào những thực tại đó. Và
đó chính là hạnh phúc đích thực!