Các bài suy niệm Lễ CTT Hiện Xuống
27. Video Thánh
Vịnh Nhóm thánh vịnh Nauy
28. Hãy nhận lầy
Thánh Thần catholic.org.tw
30. Tiến bước
cùng Thánh Thần trong ... Lm. Phêrô Lê văn Chính
31. Sự thật trọn
vẹn MANNA
32. Cuộc sáng
tạo mới Linh mục
Inhaxiô Trần Ngà
35. Chúa và
nguồn sinh khí Niềm
Vui Chia Sẻ
1. Chúa Thánh Thần
Trong phần chia sẻ sáng hôm nay tôi muốn đưa ra một câu hỏi như
thế này: Chúa Thánh Thần là Đấng nào? Với câu hỏi này chúng ta đi sâu vào bản
tính Thiên Chúa, nhưng chỉ có đức tin mới trả lời được cho chúng ta mà thôi.
Đúng thế, thánh Tôma tiến sĩ đã nói: Hiện tại chúng ta không thể nào hiểu thấu
vì mầu nhiệm ấy vượt quá khả năng hạn hẹp của trí khôn con người.
Trong Cựu Ước chúng ta chỉ ghi nhận được một vài hình ảnh thật
mù mờ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng ta phải chờ đến Đức Kitô, người
Con duy nhất của Thiên Chúa đến và mạc khải, chúng ta mới thấy được cái đặc
tính cốt yếu của Thiên Chúa, đó là tình yêu.
Còn về Chúa Thánh Thần, trong kinh Tin Kính chúng ta đã tuyên
xưng Ngài là Thiên Chúa ngôi thứ ba, là Đấng ban sự sống, Ngài bởi Đức Chúa Cha
và Đức Chúa Con mà ra. Ngài cũng được phụng thờ và tôn vinh với Đức Chúa Cha và
Đức Chúa Con, Ngài đã dùng các tiên tri mà phán dạy.
Qua Chúa Con, Thiên Chúa Cha đã tỏ lộ tình yêu của Ngài cho
chúng ta như lời thánh Gioan đã xác quyết: Thiên Chúa đã yêu thương thế gian
đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để những ai tin nơi Con Một Ngài thì sẽ có sự sống
vĩnh cửu. Ngay từ thuở đời đời, Chúa Cha đã sinh ra Chúa Con và sợi dây liên kệ
thắm thiết và đầy yêu thương ấy chính là Chúa Thánh Thần.
Thực vậy, Chúa Thánh Thần chính là sợi dây yêu thương nối kết
Chúa Cha và Chúa Con, chi phối nhịp điệu của đời sống Ba Ngôi Thiên Chúa, cũng
như toả lan cho tất cả chúng ta. Như thế, qua Chúa Thánh Thần chúng ta hiểu
được bản chất tình yêu của Thiên Chúa. Đồng thời Chúa Thánh Thần cũng đã trực
tiếp cộng tác vào công trình cứu độ, một công trình của tình thương yêu mà
Thiên Chúa đã ươm mơ từ muôn thuở trước.
Đức Kitô vâng theo thánh ý của Chúa Cha và với sự cộng tác của
Chúa Thánh Thần đã chết đi để đem lại sự sống cho trần gian. Kể từ khi được
diễm phúc làm con cái Thiên Chúa, chúng ta đã được Ngài yêu thương như lời
thánh Phaolô đã xác quyết: Nhờ Chúa Thánh Thần mà tình yêu Thiên Chúa được toả
lan trong tâm hồn chúng ta. Để rồi từ đó, tất cả những tình yêu trong lành nhất
của chúng ta đều là một tia sáng, một phản ánh trung thực cho tình yêu của
Thiên Chúa. Bởi vì Thiên Chúa là tình yêu và chúng ta chỉ có thể yêu thương một
cách đúng nghĩa khi liên kết với Ngài.
Đúng thế Ngài ở giữa những cặp vợ chồng để họ biết trung thành
và hy sinh cho nhau. Ngài ở giữa những người con để họ biết nói lên hai tiếng
thưa ba, thưa má với tất cả tấm lòng chân thành của mình. Ngài ở giữa những
người bạn để họ biết tâm đầu ý hiệp với nhau.
Trong ngày lễ Hiện Xuống hôm nay, Giáo Hội mừng kính Chúa Thánh
Thần, Giáo Hội mừng kính tình yêu của Thiên Chúa, được tượng trưng qua hình
lưỡi lửa trên đầu các tông đồ. Giáo Hội cũng muốn chúng ta thành khẩn kêu xin:
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến, xin hãy ngập tràn tâm hồn các tín hữu Chúa và
xin thắp lên trong chúng con ngọn lửa tình yêu Chúa. Ngài không phải là một vị
Thiên Chúa vô danh và bị quên lãng. Trái lại Ngài luôn ở giữa chúng ta và hoạt
động. Ước gì mỗi người chúng ta hãy cộng tác với Ngài bằng cách thắp lên một
ngọn lửa yêu thương, bởi vì chỉ có tình yêu mới có thể làm tiêu tan thù hận,
thất vọng và tăm tối.
2. Nói được các thứ tiếng
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Lễ Ngũ Tuần là một lễ lớn của người Do Thái.
Nhiều người Do Thái sùng đạo từ nước ngoài về Giêrusalem dự lễ.
Còn Nhóm Mười Hai và mấy phụ nữ, trong đó có Đức Maria, thì cầu
nguyện tại lầu trên một căn nhà trong thành.
Chính trong bầu khí của một cộng đoàn cầu nguyện mà Thánh Thần,
Đấng Cha hứa ban, đến với họ.
Thánh Thần chẳng có một khuôn mặt để ta ngắm nhìn nhưng ta vẫn
nhận ra Ngài nhờ những dấu chỉ khả giác: một tiếng từ trời như tiếng gió thổi
dữ dội, những lưỡi lửa tản ra và đậu xuống từng người.
Bổng chốc Thánh Thần đầy tràn mọi người hiện diện.
Có cái gì đó được mở tung, để tự do bay bổng. Có ngọn gió ùa đầy
nhà làm căng buồng phổi. Có ngọn lửa ấm lan tỏa trong trái tim.
Có cái gì thôi thúc người ta mở cửa, đi ra và cất tiếng.
Phải kêu to cho mọi người, chẳng có gì phải sợ, về những kỳ công
Thiên Chúa đã làm cho Thầy Giêsu.
Trước mặt mười hai ông đánh cá quê mùa ít học, người từ khắp nơi
trên thế giới đổ về.
Họ là những người Do Thái sinh sống ở nước ngoài, nên họ đã kinh
ngạc, sửng sốt, thán phục, khi họ nghe các ông nói được tiếng của vùng đất họ
sống.
Ơn nói được nhiều thứ tiếng là ơn của Thánh Thần, nhằm giúp cho
việc loan báo Tin Mừng nơi mọi dân tộc.
Tin Mừng bằng tiếng mẹ đẻ giúp người nghe cảm thấy gần gũi.
Rồi Tin Mừng ấy lại trở thành gạch nối liên kết mọi người, thuộc
mọi ngôn ngữ, màu da, xã hội, văn hoá khác biệt.
Như thế Thánh Thần làm con người hiểu nhau, gần nhau, và giúp
Hội Thánh trở thành Hội Thánh của mọi dân tộc.
Thánh Thần làm vết thương của tháp Babel được lành.
Đã có lúc những người nói cùng một thứ tiếng mà vẫn không hiểu
nhau.
Lễ Hiện Xuống là lễ khai sinh một Hội Thánh truyền giáo.
Đức Giêsu đã chào đời tại Châu Á từ 2,000 năm. Làm sao để người
Châu Á hiểu được Tin Mừng: đó là vấn đề mà tất cả chúng ta hết sức quan tâm.
Hiểu được là bước đầu để đón nhận và tin theo.
"Chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan
báo những kỳ công của Thiên Chúa" (c.11).
Làm sao chúng ta sử dụng nhuần nhuyễn các ngôn ngữ Á Châu để
trình bày mặc khải của Đức Giêsu Con Thiên Chúa? Phong tục, văn hoá, tín
ngưỡng, luân lý, truyền thống của họ cũng là những thứ ngôn ngữ mà ta cần trân
trọng tìm hiểu.
Xin Thánh Thần giúp ta học được ngôn ngữ Việt Nam hôm nay, để
nói cho người Việt hiểu và hiểu được điều họ nói.
Xin cho Hội Thánh biết khiêm tốn và can đảm học lại ngôn ngữ của
những người mà Chúa sai ta đến.
Kinh Thánh đã được dịch ra 2,197 ngôn ngữ.
Chúng ta còn cần dịch ra một thứ ngôn ngữ ai cũng hiểu, đó là
ngôn ngữ của phục vụ và yêu thương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Nhờ sức mạnh Thánh Thần, những ông đánh cá đã mạnh dạn đứng lên
loan báo Tin Mừng. Bạn đã nhận Thánh Thần khi được rửa tội và thêm sức; có khi
nào bạn dám can đảm nói lên niềm tin của bạn không?
Gia đình, cuộc sống, nghề nghiệp của bạn cũng là những thứ ngôn
ngữ. Bạn có thấy mình nói về Chúa qua những ngôn ngữ ấy không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa là Thần Khí Sự Sống và Tình Yêu, xin ban cho con một
thời để yêu và một thời để sống; để con sống vì tình yêu Thiên Chúa, để con yêu
vì cuộc sống muôn loài.
Xin dạy con biết yêu những điều tốt đẹp, cao quý và biết ghét
những điều đê tiện, xấu xa.
Xin dạy con luôn sống vì những điều mình yêu, và dám chết vì
những điều mình ghét.
Xin cho con biết đưa tình yêu vào cuộc sống để mỗi giây phút
sống con đều cảm nhận được niềm hạnh phúc yêu thương.
Xin cho con biết đưa cuộc sống vào tình yêu để từng giây phút
yêu, con đều làm cho cuộc sống thêm giá trị.
Cuối cùng, xin cho con biết hoà nhập cả hai nên một: để sống là
yêu và yêu là sống, vì hiểu được rằng Thiên Chúa Hằng Sống cũng chính là Thiên
Chúa Tình Yêu. Amen.
3. Hãy nhận lấy Thánh Thần
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Lúc đến Êphêsô, Phaolô hỏi một số môn đệ ở đó: "Khi vào
đạo, các ông đã nhận lãnh Thánh Thần chưa?". Họ trả lời: "Ngay cả
việc có Thánh Thần, chúng tôi cũng chưa hề được nghe nói tới" (Cv 19,1-2).
Chúng ta đã được nghe nói và đã lãnh nhận Thánh Thần, nhưng có
thể Ngài vẫn là Đấng xa lạ với ta.
Bí tích Thêm sức chỉ còn là một kỷ niệm đẹp, nhưng nó không làm
ta ý thức về sự hiện diện của Thánh Thần, Đấng đang ở trong ta và sai ta đi làm
chứng.
Khi Đức Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ, Ngài đã làm một
việc quan trọng, đó là mời họ tiếp tục sứ mạng mà Ngài đã bắt đầu.
"Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ" (Mt
28,19).
"Hãy đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo" (Mc
16,15).
Trong Tin Mừng hôm nay, Đấng phục sinh nói với các môn đệ:
"Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em" (Ga 20,21)
Đức Giêsu cho các môn đệ được tham dự vào sứ mạng của mình. Chỉ
có một sứ mạng duy nhất là sứ mạng Chúa Giêsu nhận được từ Chúa Cha. Sứ mạng
của các môn đệ nối dài sứ mạng duy nhất ấy.
Ai sẽ giúp các ông thực hiện sứ mạng này? Ai sẽ cho các ông sức
sống để dám mở toang cánh cửa mà lên đường loan báo Tin Mừng phục sinh?
Sức sống ở nơi hơi thở.
Đức Giêsu phục sinh đã trao hơi thở của mình, hơi thở của sức
sống thần linh cho các môn đệ.
Khi được trao ban Thánh Thần, họ trở thành con người mới, sẵn
sàng lên đường.
Thánh Thần chẳng ở xa mỗi người chúng ta.
Ngài có mặt khi ta rung động trước một đoạn Lời Chúa, và muốn
sống Lời Chúa trong đời thường.
Ngài có mặt khi ta gọi tên Chúa Giêsu trên môi (1Cr 12,3), và
gọi Thiên Chúa là Cha đầy lòng từ ái (Rm 8,15).
Ngài có mặt khi ta muốn tiến một bước mới trong đời sống cầu
nguyện, trong đời sống thiêng liêng.
Thánh Thần chẳng ở xa Giáo Hội.
Ngài làm cho Giáo Hội được hiệp nhất bằng cách ban những đặc
sủng khác nhau cho nhiều người để họ phục vụ lợi ích chung.
Ngài hiện diện nơi các vị lãnh đạo Giáo Hội, nhưng Ngài cũng có
mặt nơi các nhóm giáo dân.
Ngài hiện diện trong các bí tích, trong mỗi thánh lễ. Ngài thánh
hóa bánh rượu để chúng trở nên Mình và Máu Đức Kitô.
Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội; không có Ngài, Giáo Hội chỉ
là một cơ cấu đáng ngờ.
Nếu chúng ta mềm mại hơn để cho Ngài dẫn dắt, nếu chúng ta bớt
cứng cỏi để cho Ngài canh tân, nếu chúng ta đừng dập tắt tiếng của Ngài, thì
chúng ta sẽ thấy những biến đổi kỳ diệu.
Gợi Ý Chia Sẻ
1. Bạn có thấy Chúa Thánh Thần soi sáng và nâng đỡ bạn trong
cuộc sống hàng ngày không? Ngài có hoạt động trong nhóm của bạn không?
2. Trong thế giới hôm nay, thế giới gồm cỏ lùng và luau, bạn có
thấy hoạt động âm thầm nhưng hiệu quả của Chúa Thánh Thần không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Thánh Thần,
Xin Ngài hãy đến như cơn gió mát thổi vào đời con, thổi vào Giáo
Hội, thổi vào thế giới, để đem lại cho chúng con sự tươi mới nhẹ nhàng, sự tự
do thanh thoát.
Xin Ngài hãy đến như dòng nước trong chảy vào đời con, chảy vào
Giáo Hội, chảy vào thế giới, để cuốn trôi đi mọi nhơ nhớp, khô cằn, cứng cỏi,
và làm bật dậy những mầm xanh sự sống nơi chúng con.
Xin Ngài hãy đến như ngọn lửa hồng chiếu sáng đời con chiếu sáng
Giáo Hội, chiếu sáng thế giới, để chúng con không còn đồng lõa với tối tăm,
nhưng mang trong tim một ước mơ nóng bỏng, đó là làm cho vũ trụ này rực sáng
Tình yêu.
4. Người thổi hơi vào các ông
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Những vết chân trên cát cho ta biết có người đã đi qua.
Nhìn hàng cây xa lay động, ta biết có gió.
Đức Giêsu đã ví Thánh Thần như cơn gió: "Gió muốn thổi đâu
thì thổi... Chẳng ai biết gió từ đâu đến và sẽ đi đâu" (Ga 3,8).
Chúng ta chỉ thấy những dấu vết hoạt động của Thánh Thần, nhưng
không thấy được chính Ngài, cũng không nắm được đường đi nước bước của Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay đã mô tả Thánh Thần như hơi thở của Chúa
Phục Sinh.
Hơi thở là dấu hiệu của Sự Sống.
Thiên Chúa đã thở hơi vào Ađam vă cho ông sống. Đức Giêsu Phục
Sinh đã thở hơi trên các môn đệ, để họ nhận một sự sống mới hoàn toàn.
Đời sống Kitô hữu là đời sống trong Thánh Thần.
Ngay từ giây phút đầu tiên trong lòng mẹ, Đức Giêsu đã được đầy
tràn Thánh Thần.
Khi lãnh nhận phép rửa của Gioan, Ngài đã được Thánh Thần ngự
xuống và lưu lại.
Cũng chính Thánh Thần đưa Ngài vào sa mạc để cầu nguyện, ăn chay
và định hướng cuộc đời.
Tại Galilê, Đức Giêsu đã bắt đầu sứ mạng trong quyền năng của
Thánh Thần (Lc 4,14).
Ngài đã nhờ Thánh Thần mà đuổi quỷ (Mt 12,28), và khi được hân
hoan trong Thánh Thần, Ngài đã thốt lên lời ca ngợi Cha (Lc 10,21).
Quả thật Đức Giêsu là con người sống trong Thánh Thần, Đấng mà
Ngài đã nhận được một cách vô hạn (Ga 3,34).
Đôi khi chúng ta cảm thấy xa lạ với Ngôi Ba, dù thực sự Ngài là
người Bạn, người Thầy quá ư gần gũi và cần như hơi thở.
Tôi gọi Thiên Chúa là Cha, cũng nhờ Ngài (Rm 8,15).
Nhờ Ngài tôi biết cầu nguyện, và nếm được sự ngọt ngào của Lời
Chúa.
Nhờ Ngài Hội Thánh vẫn được canh tân liên tục bằng những luồng
gió bất ngờ, những lôi cuốn mạnh mẽ không sao cưỡng lại.
Xin cho tôi can đảm để cho ngọn gió của Ngài thổi tung mọi sợ
hãi, rụt rè, khép kín.
Xin cho tôi lưỡi lửa để tôi ra đi loan báo Tin Mừng với trái tim
bừng cháy.
Xin cho tôi hơi thở của Ngài để tôi biết sống và yêu nồng nàn.
Gợi Ý Chia Sẻ
Mọi sáng kiến canh tân đều có thể là do Thánh Thần thúc đẩy.
Trong giáo xứ, gia đình, cộng đoàn hay nhóm của bạn, bạn có gặp thấy những người
biết thao thức và dám đưa ra sáng kiến canh tân không?
Thánh Thần vẫn lên tiếng qua những người có trách nhiệm, qua bạn
bè, qua hoàn cảnh mới cần thích nghi. Có lần nào bạn nghe được lời mời của
Thánh Thần không? Bạn đáp lại ra sao?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ban sức sống cho chúng con.
Xin cho cuộc đời Kitô hữu chúng con đừng rơi vào sự đơn điệu
nghèo nàn, vào những lối mòn quen thuộc, nhưng xin canh tân và tái tạo chúng
con mỗi ngày.
Xin nuôi chúng con bằng những thức ăn mới, cho chúng con khám
phá ra những chiều sâu khôn dò của Đức Kitô, và ý nghĩa thâm thúy của Tin Mừng.
Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng Ban Sự Sống, thế giới hôm nay luôn
bị đe dọa bởi bạo lực, khủng bố, chiến tranh; mạng sống con người bị coi rẻ.
Xin cho chúng con biết say mê sự sống, và gieo vãi sự sống khắp
nơi.
Ước gì Chúa ban cho nhân loại một lễ Hiện Xuống mới, để con
người có thể hiểu nhau hơn và đón nhận nhau trong yêu thương.
5. Lửa Thánh Thần – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã nhiều lần hứa sẽ gửi Thánh Thần
đến an ủi các môn đệ. Quả thật, các ngài không phải chờ đợi lâu. Vào ngày lễ
Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần xuống đầy tràn trên các ngài. Ơn Chúa Thánh Thần thật
mãnh liệt. Chúa Thánh Thần đã đụng chạm đến các ngài. Chúa Thánh Thần như nguồn
nhựa sống thấm tẩm vào từng chân tơ kẽ tóc làm cho các ngài thay đổi da thịt,
trở thành con người mới. Các ngài đã cảm nghiệm được sự tác động ấy. Đó là cảm
nghiệm về một ngọn lửa.
Chúa Thánh Thần là ngọn lửa thanh luyện.
Giống như ngọn lửa thanh luyện vàng và kim loại khỏi các tạp
chất, ngọn lửa Thánh Thần tẩy sạch con người cũ của các tông đồ. Trước kia các
tông đồ là những người nhỏ nhen ích kỉ, ham hố danh vọng, thường tranh nhau chỗ
cao chỗ thấp. Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các Ngài trở nên quảng đại,
hy sinh quên mình, chỉ nghĩ đến phục vụ Nước Chúa. Trước kia các Tông đồ là
những người nhút nhát, dễ thay đổi. Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các
Ngài đã trở nên cam đảm, trung thành làm cho Chúa đến nỗi dám hy sinh mạng sống
để làm chứng cho Chúa. Hơi ấm của Chúa Thánh Thần băng bó những vết thương làm
cho tâm hồn các Ngài liền da liền thịt, sạch hết mặc cảm, trở nên những con
người hoàn toàn mới.
Chúa Thánh Thần là ngọn lửa soi sáng.
Ai đã có lần đi trong hang động tối tăm mới hiểu được nỗi khổ
của người mò mẫm lần từng bước dò đường đi. Những tảng đá lởm chởm, những thú
vật độc ác, những vực sâu hiểm nghèo đang rình chờ cướp mạng sống của người mạo
hiểm. Hạnh phúc biết bao khi có ánh sáng tới. Đường đi xuất hiện rõ ràng. Khách
bộ hành an tâm mạnh dạn tiến bước.
Trước kia, các Tông đồ giống như người đi trong đêm tối, không
biết đường biết hướng về đâu. Lửa Chúa Thánh Thần đến soi sáng trí khôn biến
những bác ngư phủ quê mùa trở nên sáng suốt thông minh, hiểu biết Lời Chúa. Lửa
Chúa Thánh Thần soi sáng đường đi, biến những môn đệ mất Thầy như bầy ong vỡ tổ
trở nên những người lãnh đạo dẫn đường cho một đoàn dân mới tiến về Quê Trời.
Chúa Thánh Thần là ngọn lửa sự sống.
Sau ngày Chúa Giêsu chịu chết, các Tông đồ sợ hãi tản lạc tứ
phía. Các ngài phải trốn chạy. Các ngài phải ẩn nấp, Các ngài sống trong sợ sệt
lo âu. Các ngài phải đóng kín cửa nhà vì sợ người Do thái. Các ngài sống như
tựa như đã chết. Các ngài giống như cái xác không hồn. Nhưng sau khi nhận được
ơn Chúa Thánh Thần, các ngài nhận được nguồn sống. Các ngài bừng tỉnh như sau
một giấc ngủ. Các ngài mạnh mẽ như người hồi phục sau cơn trọng bệnh. Sự sống
mãnh liệt trào tuôn khiến các ngài không còn có thể bó gối ngồi một chỗ, nhưng
mạnh mẽ mở cửa ra đi rao giảng Lời Chúa. Sự sống mãnh liệt trào tuôn khiến các
cộng đoàn phát triển mau chóng. Ngọn lửa Chúa Thánh Thần đã đem lại sự sống, sự
sống lại và là sự sống mới cho các Tông đồ, cho các tín hữu.
Ngày nay chúng ta cảm ơn Chúa Thánh Thần hơn bao giờ hết. Trong
bản thân cũng như trong cộng đoàn chúng ta có nhiều tì tích hoen ố. Chỉ có ngọn
lửa của Chúa Thánh Thần mới có thể thanh luyện tâm hồn chúng ta. Thế giới hôm
nay đầy những bóng tối. Chỉ có ngọn lửa Chúa Thánh Thần mới có thể soi sáng cho
chúng ta biết đường lối mà đi. Thế giới hôm nay chứa đầy văn minh sự chết, đưa
con người tới huỷ diệt. Chỉ có ngọn lửa Chúa Thánh Thần mới hồi phục, đưa ta
vào sự sống mới trong Đức Kitô.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến sửa lại mọi sự trong ngoài
chúng con. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Ngọn lửa Thánh Thần có tác dụng gì trên các Tông đồ, làm cho
các ngài thay đổi mãnh liệt?
2) Bạn có cảm nhận được Chúa Thánh Thần trong đời bạn không?
3) Để mình bị biến đổi, để mình bị thúc đẩy trên đường dấn thân
làm việc phục vụ, dễ hay khó?
6. Đấng đổi mới -
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN, ĐẤNG ĐỔI MỚI
(Cv 2,1-11)
Qua bài trích sách Công Vụ Tông Đồ, ta thấy Đức Chúa Thánh Thần
là Đấng đổi mới.
Ngài đã đổi mới trí khôn các Tông đồ. Các Tông đồ là những người
làm nghề chài lưới, ít học. Suốt 3 năm ở bên cạnh Chúa Giêsu, các ngài đã được
Chúa dạy dỗ nhiều điều. Nhưng các ngài không hiểu. Nhưng sau khi nhận được ơn
Chúa Thánh Thần, trí khôn các ngài như được mở ra. Không những các ngài hiểu
biết về Chúa, hiểu biết giáo lý của Chúa, mà còn có thể đi giảng dạy cho người khác
nữa. Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người thất học nên
hiểu biết. Ngài đã đổi những tâm trí u mê thành sáng suốt.
Ngài đã đổi mới ý chí các Tông đồ. Từ khi Chúa Giêsu bị bắt và
bị kết án, các Tông đồ sống trong sợ hãi. Các ngài đã trốn chạy. Các ngài đã
chối Chúa. Các ngài đã ẩn nấp trong nhà đóng kín cửa. Nhưng khi nhận được ơn
Chúa Thánh Thần, con người các ngài hoàn toàn thay đổi. Các ngài mở tung cửa ra
đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Bị đe doạ, các ngài vẫn không sợ. Bị đánh
đòn, các ngài vẫn kiên cường. Không gì có thể ngăn cản các ngài rao giảng, làm
chứng cho Đức Kitô Phục Sinh. Sau cùng tất cả các ngài đã chịu đổ máu, hiến
mạng sống mình để làm chứng cho Chúa, ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã
biến những con người yếu đuối nên vững mạnh. Ngài đã biến những con người nhút
nhát nên can đảm.
Ngài đã đổi mới trái tim các Tông đồ. Trước kia các ngài còn
mang nặng những ước mơ trần tục. Theo Chúa để mong được chức trọng quyền cao.
Mong được ngồi bên tả bên hữu Chúa. Tranh dành nhau chỗ cao chỗ thấp. Có thể
nói, trước kia các ngài theo Chúa vì bản thân, vì chính các ngài. Các ngài chưa
yêu mến Chúa bằng yêu mến bản thân. Nhưng từ khi được ơn Chúa Thánh Thần, trái
tim của các ngài đã hoàn toàn thay đổi. Từ nay các ngài dành trọn trái tim cho
Chúa, yêu mến đến sẵn sàng chịu mọi đau khổ, và nhất là sẵn sàng chết vì Chúa.
Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Đã biến đổi những trái tim chai đá thành những
tái tim bằng thịt. Đã biến đổi những trái tim ích kỷ thành trái tim yêu thương.
Đời sống ta có quá nhiều yếu đuối. Trí khôn ta u mê không hiểu
Lời Chúa, không nhận biết thánh ý Chúa. Ý chí ta bạc nhược không đủ sức làm
việc lành, hèn nhát không dám làm chứng cho Chúa. Trái tim ta nhơ uế vì những
ích kỷ nhỏ nhen, vì những ham muốn trần tục. Hôm nay ta hãy tha thiết xin ơn
Chúa Thánh Thần đến đổi mới con người xưa cũ của ta. Để ta thấu hiểu Lời Chúa,
thấu hiểu thánh ý Chúa muốn trong đời. Để ta mạnh mẽ can đảm làm chứng cho Chúa
trong đời sống và để trái tim ta được thanh luyện luôn quảng đại cho đi, dâng
hiến.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.
Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Đức Chúa Thánh Thần đã đổi mới các thánh Tông đồ như thế nào?
2. Trong tôi còn những gì xưa cũ cần đổi mới?
3. Ai cũng có nhu cầu đổi mới nhà cửa, đời sống vật chất. Bạn có
thấy nhu cầu đổi mới tâm hồn không?
7. Đấng ban Sự Sống - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN, ĐẤNG BAN SỰ SỐNG
(Ga 20,19-21)
Hơi thở tượng trưng cho sự sống. Còn thở là còn sống. Hết thở là
hết sống. Hôm nay, Đức Giêsu thổi hơi ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Thổi
hơi để chỉ rằng Đức Chúa Thánh Thần là hơi thở. Thở hơi để truyền sự sống. Ta
vẫn thường tuyên xưng trong kinh Tin Kính: Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là
Đấng Ban Sự Sống.
Đức Chúa Thánh Thần là Đấng ban Sự Sống. Điều này được diễn tả
trong sách Sáng Thế. Thuở tạo thiên lập địa, cả vũ trụ chưa nên hình nên dạng,
chưa có sự sống. Trời đất là một khối hỗn mang. Thánh Thần Chúa bay là là trên
mặt nước (cf. St 1,1). Thánh Thần Chúa bay lượn trên mặt nước để vũ trụ được
định hình. Thánh Thần Chúa ban cho trời đất một diện mạo. Và trên hết Thánh
Thần Chúa ban sự sống cho muôn loài.
Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống lại. Ngôn sứ Êdêkien đã được
thấy trong một thị kiến như sau: “Tay Đức Chúa đặt trên tôi. Đức Chúa dùng Thần
Khí đem tôi ra, đặt tôi giữa thung lũng; thung lũng đầy xương cốt. Người đưa
tôi đi ngang, đi dọc giữa chúng. Những xương ấy nằm la liệt trên mặt thung lũng
và đã khô đét. Người bảo tôi: “Hỡi con người, liệu các xương này có hồi sinh được
không?”. Tôi thưa: “Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, chính Ngài mới biết điều đó”.
Bấy giờ Người bảo tôi: “Ngươi hãy tuyên sấm trên các xương ấy; ngươi hãy bảo
chúng: Các xương khô kia ơi, hãy nghe lời Đức Chúa. Đức Chúa là Chúa Thượng
phán thế này: Đây Ta sắp cho Thần Khí nhập vào các ngươi và các ngươi sẽ được
sống… Ngươi hãy nói với Thần Khí: Từ bốn phương trời, hỡi Thần Khí, hãy đến
thổi vào những người đã chết này cho chúng được hồi sinh. Thần Khí liền nhập
vào những người đã chết; chúng được hồi sinh và đứng thẳng lên”” (Ed 37,1-10).
Thánh Phaolô quả quyết: Đức Chúa Thánh Thần đã làm cho Đức Giêsu sống lại cũng
sẽ làm cho chúng ta sống lại trong ngày sau hết.
Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống mới. Sách Công vụ Tông đồ thuật
lại: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời
phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang
tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu
xuống từng người một. Và ai nấy đều được đầy tràn Chúa Thánh Thần, họ bắt đầu
nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,1-4).
Từ khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các tông đồ trở nên khác
hẳn. Trước kia các ngài nhút nhát sợ hãi, nay các ngài mạnh dạn hăng hái. Trước
kia các ngài chỉ là những ngư phủ thất học, không am hiểu giáo lý, nay các ngài
cất tiếng rao giảng Tin Mừng cho mọi người thuộc đủ mọi tầng lớp, mọi chủng
tộc. Trước kia các ngài còn nghĩ đến bản thân, tranh giành nhau chỗ cao chỗ
thấp, nay các ngài chỉ nghĩ đến Nước Chúa, sẵn sàng hy sinh mạng sống để làm
chứng cho Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần đã đổi mới tâm hồn các ngài. Các ngài đã
nhận được sự sống mới, sự sống của Chúa, để sống vì Chúa và sống cho Chúa.
Ngày chịu phép rửa tội, ta đã nhận được sự sống của Chúa. Tuy
nhiên có nhiều chỗ trong linh hồn ta không có sự sống vì tội đã ngăn cản ơn
thánh và làm chết đi nhiều phần trong linh hồn. Những dục vọng, đam mê, tham
vọng, tinh thần thế tục giống như vi trùng len lỏi vào linh hồn làm cho sự sống
của Chúa bị tổn thương. Linh hồn suy nhược không còn tha thiết làm việc lành.
Hôm nay ta hãy xin Đức Chúa Thánh Thần xuống Phục Sinh những thành phần chết
chóc trong tâm hồn ta. Và nhất là xin Người ban sự sống mới cho tâm hồn ta.
Giúp ta biết tẩy bỏ lối sống, lối suy nghĩ, lối cư xử xưa cũ theo tinh thần thế
tục, để sống một đời sống mới, sống nhiệt thành, sống bác ái, sống quên mình,
sống dấn thân phục vụ Thiên Chúa và tha nhân hơn.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến sửa lại mọi sự trong ngoài
chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống lại và ban sự sống mới. Bạn
có thấy linh hồn bạn cần những sự sống này không?
2. Sau khi nhận ơn Đức Chúa Thánh Thần, các Tông đồ đã thay đổi
đời sống. Bạn cũng đã nhận ơn Chúa Thánh Thần, đời sống bạn có thay đổi gì
không?
3. Đức Chúa Thánh Thần luôn sai đi. Hôm nay bạn cảm thấy Chúa
Thánh Thần sai bạn đi làm gì?
8. Niềm vui bởi Chúa Thánh Thần - Achille
Degeest
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Hôm nay chúng ta hãy dừng lại ở câu: “Các môn đệ được đầy tràn
vui mừng”. Các ông vui mừng vì giữa lúc hoang mang lại thấy Chúa và việc ấy đã
khiến các ông tìm lại niềm cậy trông. Các ông đã đặt niềm hy vọng nơi Chúa
Giêsu. Thập giá đã khiến các ông bàng hoàng kinh khiếp; và nay Chúa Giêsu lại
hiện ra sống động. Niềm hy vọng của các ông được bảo toàn và củng cố. Vì thế
niềm vui các ông bao la. Dịp này nhắc nhớ chúng ta rằng Chúa Thánh Thần do Chúa
Giêsu ban là Thánh Thần của vui mừng.
1) Phúc Âm mở đầu bằng một mầu nhiệm vui mừng Chúa Thánh Thần,
từ khởi đầu cuộc sống nhân loại của Chúa Giêsu tạo ra hai lần bộc lộ niềm vui:
Isave, chị họ Đức Maria, thốt lên tiếng vui mừng vì mẹ Đấng Cứu Thế đến thăm
bà; Đức Maria hát lên nỗi vui sướng của mình trong kinh Magnificat. Sau đó
không lâu, các thiên thần loan báo cho các mục đồng một Trẻ Thơ sinh ra, sẽ
khiến cho toàn dân hân hoan… Thánh sử Gioan sau lại nói rằng cụ tổ Abraham đã
nhảy mừng khi nghĩ đến ngày xuất hiện hoa quả của Thánh Thần. Cụ đã thấy và đã
vui mừng (Ga 8, 5-6). Chúng ta có vui mừng niềm vui của kinh Magnificat, vì
Chúa Thánh Thần do đức tin vào Đức Kitô nảy sinh trong chúng ta hay không?
Ngược lại, chúng ta thử tưởng tượng nỗi buồn và u uất vô cùng, nếu chẳng may
thiếu mất lòng tin vào Đức Kitô.
2) Chúa Giêsu nói với các môn đệ: Hãy lãnh nhận Thánh Thần. Làm
như thế Ngài thực thi một lời hứa Ngài đã báo trước cho các môn đệ sẽ có một
lúc các ông sẽ không còn thấy Ngài. Đó là thời thất vọng, khóc lóc và buồn sầu.
Nhưng nỗi buồn sẽ mau biến thành niềm vui: Ta sẽ gặp lại các con, tâm hồn chúng
con sẽ vui mừng, vì niềm vui các con lúc ấy không ai có thể lấy đi được (Ga
16,22). Có phải giới hạn ý nghĩa lời nói ấy của Chúa Giêsu vào giai đoạn gặp gỡ
trong những lần hiện ra hay không? Không, Chúa nghĩ đến sự hiện diện liên tục
của Ngài trong Giáo Hội nhờ tác động của Thánh Thần. Thời của Giáo Hội là thời
của niềm vui mặc dù cũng là thời tiếp tục Thánh Giá. Chúng ta có vui mừng vì
nghĩ rằng nhờ Chúa Thánh Thần mà Chúa Giêsu hiện diện trong đời sống chúng ta
hay không?
3) Thánh Phaolô nói về niềm vui từ Chúa Thánh Thần đến (1Tx
1,6). Niềm vui ấy là niềm vui của cậy trông và bác ái. Có thể trong cuộc sống
riêng của chúng ta và trong cuộc sống với người khác, chúng ta mắc ảo tưởng, ít
nhiều chán nản, thoái chí. Chúng ta cần sống trong Thánh Thần bác ái. Biết rằng
mình được yêu mến, chúng ta hãy vui mừng. Quả thực tình yêu Thiên Chúa không
bao giờ thất vọng vì chúng ta. Về phía chúng ta, đừng bao giờ nản chí yêu
thương anh em chúng ta. Niềm cậy trông hoà hợp với đức bác ái trong lòng chúng
ta khởi đầu một con sông hân hoan do Chúa Thánh Thần khơi nguồn.
9. Chân lý đòi hỏi rất nhiều - Achille
Degeest
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Chúa phán bảo các môn đệ: Hãy chịu lấy Thánh Thần. Chúng ta lưu
ý mấy nét đặc biệt về Chúa Thánh Thần, nhất là cung cách thánh Gioan nói đến
Chúa Ngôi Ba.
1) Người là Thần Khí sự thật.
Ta sẽ xin Cha và Cha sẽ ban cho các ngươi một Đấng Bầu Chữa khác
để Người ở với các ngươi luôn mãi, là Thần Khí sự thật, thế gian không thể lĩnh
nhận vì không thấy cũng không biết Người, còn các ngươi biết Người vì Người lưu
lại với các ngươi và ở trong các ngươi (Ga 14,16-17). Đấng Bàu Chữa mà từ nơi
Cha, Ta sẽ sai đến với các ngươi, Thần Khí sự thật từ Cha mà ra, chính Người sẽ
làm chứng về Ta. Chúng ta nhớ lại, Đức Giêsu tuyên bố chính Người là Sự Thật.
Tác động Chúa Thánh Thần là dẫn đưa chúng ta đến hiệp nhất với Đức Kitô. Ngôi
Ba Thiên Chúa tác động trong chúng ta cách thích hợp, khiến chúng ta cảm ứng
đối với Đức Kitô, với ngôi vị của người, với giáo huấn của Người. Bất cứ học
thuyết, chủ thuyết, tư tưởng nào từ ngoài đến, nếu không phù hợp với sự cảm hoá
tâm hồn đối với Đức Giêsu Kitô, chúng ta phải đặt nghi vấn. Chúa Thánh Thần làm
chứng cho Đức Kitô trong chúng ta. Chúng ta phải làm chứng về Đức Kitô trong
môi trường sinh hoạt của mình. Nếu chúng ta thật sự biết nghe lời Thần Khí sự
thật, lời chứng của chúng ta sẽ phát xuất từ nguồn mạch thông thái thiêng liêng
duy nhất của chúng ta là Đức Kitô. Sau này thánh Phaolô sẽ nói: Tôi chỉ muốn
nơi anh em về Đức Kitô mà thôi. Có lẽ chúng ta nên cầu xin Chúa Thánh Thần giúp
chúng ta bảo tồn ý nghĩa chân truyền của Phúc Âm, đặc biệt trong thời buổi có
nhan nhản những sự mập mờ đáng nghi trong việc sử dụng Phúc Âm.
2) Người là Thần Khí thánh thiện.
Sự thánh thiện của người Kitô hữu không có nghĩa là làm được
những điều phi thường, mà phải khởi sự từ đức tin. Trong đức tin, người Kitô
hữu cố gắng cách ngay thẳng nhất ở trong tình bằng hữu với Thiên Chúa. Muốn
được thế, phải từ trong thâm tâm thiết tha gắn bó với sự thật – không chỉ có
đức tính tri thức là thành thật ngay thẳng, đó là điều tối thiểu phải có, mà
phải đón nhận cách mật thiết tác động của Chúa Thánh Thần. Như chúng ta biết,
bất cứ sự thật nào cũng đòi hỏi phải tích cực, Thần Khí sự thật đòi hỏi rất
nhiều nơi người Kitô hữu. Philatô bỏ chạy khi nghe Chúa đáp: Kẻ nào thuộc về sự
thật thì nghe sự thật. Người ta có thể trốn tránh sự thật vì lẽ sự thật đòi hỏi
rất nhiều. Trái lại, tâm trí kẻ nghe Lời Chúa Thánh Thần giống một bầu trời gió
thổi càng mạnh càng vén sạch mây mù, nền trời càng trở nên quang sáng. Ở đây là
một sự vâng lời thực tiễn, là thái độ không một giây phút chậm trễ sống những
điều trí khôn hiểu được về chân lý. Thái độ ấy mệnh danh là cư xử theo chân lý,
là “đi trong sự thật”. Thánh Gioan nhắn nhủ các tín hữu: tôi vui mừng quá đỗi
vì đã gặp trong hàng con cái Bà có những kẻ đi trong sự thật (thư thứ 2,4).
Được như vậy, trong con người Kitô hữu, lời nguyện của Đức Giêsu sẽ thực hiện:
Xin Cha hãy thánh hoá chúng trong sự thật… (Ga 17,17).
10. Thần Khí đổi mới
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Tại một giáo xứ ở miền Sicilia, thuộc miền Nam nước Ý, có một
tập tục khá ngộ nghĩnh và lý thú. Mỗi năm vào dịp lễ Chúa Thánh Thần Hiện
Xuống, sau bài Tin Mừng, cha xứ ra lệnh thả ra trong nhà thờ một con chim bồ
câu tượng trưng cho Chúa Thánh Thần. Khi con chim câu nầy đậu xuống trên vai
hay đầu ai thì người ấy không được tránh né hoặc đuổi đi, nhưng phải quyết tâm
thực hiện một công tác cụ thể, to hoặc nhỏ tùy theo khả năng của mình, để chứng
tỏ rằng mình làm công việc ấy là do sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.
Lịch sử giáo xứ ấy có ghi lại một số sự kiện điển hình như sau:
- Một lần chim câu đã đậu xuống trên vai ông hiệu trưởng. Kết
quả là ông đã quyết tâm thực hiện một cuốn sách giáo khoa rất có giá trị.
- Lần khác, chim câu đáp xuống trên đầu một công tước vùng ấy,
khiến ông ta phải ra tay nghĩa hiệp, bỏ tiền xây một hệ thống dẫn nước được đặt
tên là “hệ thống dẫn nước Chúa Thánh Thần”.
- Có một linh mục trẻ được chỉ định đến thay thế cho cha xứ già
đã đến tuổi hưu. Dù không tán thành nhưng cũng chưa dứt khoát bỏ đi tập tục đã
thành truyền thống kia. Vào dịp lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống đầu tiên của ngài
ở xứ mới, vị linh mục trẻ vẫn cho giữ thông lệ thả chim câu, nhưng ra lệnh mở
hết tất cả các cửa chính và cửa sổ với hy vọng là chú chim câu sẽ bay ra ngoài
để tung cánh trong bầu trời cao rộng. Trớ trêu thay, sau khi bay lượn vài vòng
từ đầu này đến đầu kia của nhà thờ, chim câu đã đáp xuống vai phải của cha xứ
mới trong tiếng vỗ tay vang dội của giáo dân. Phải hứa làm gì cụ thể bây giờ
đây? Cha xứ mới chỉ tuyên bố là ngài sẽ đầu tư mọi khả năng và thời giờ để phục
vụ tốt cộng đoàn giáo xứ. Và ngài đã giữ lời hứa.
Thưa anh chị em,
Với mỗi người chúng ta hôm nay, Chúa Thánh Thần vẫn là Đấng
thiêng liêng. Chúng ta không thể giới hạn cách thức tỏ hiện của Ngài trong hình
thức của trận cuồng phong, lưỡi lửa, của chim bồ câu hay bất cứ một hình thức
nào khác. Quả thực, Ngài không ngừng hiện diện và tác động nơi chúng ta cách tự
do và rộng khắp. Ơn của Ngài nhằm thôi thúc chúng ta phải làm gì cụ thể trong
việc đổi mới đời sống con cái đối với Thiên Chúa, góp phần phục vụ tha nhân,
phục vụ cộng đoàn.
Bài sách Công vụ Tông đồ hôm nay kể lại cho chúng ta những sự lạ
đã xảy ra bên trong và bên ngoài ngôi nhà nơi các môn đệ đang hội họp, có Đức
Maria ở giữa. Bên trong có tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào nhà. Có những lưỡi
lửa xuất hiện trên mỗi người. Họ tràn đầy Thánh Thần. Bên ngoài dân chúng bỡ
ngỡ kéo đến bao vây. Sự gì đã xảy ra? Phêrô, con người nhát đảm ấy, hôm nay mở
tung cửa và bước ra, theo sau là các môn môn đệ khác. Họ lâng lâng như người
say rượu, khiến dân chúng bàn tán, nhưng họ không say rượu mà say Chúa! Vì hôm
nay, ứng nghiệm lời tiên tri Gioel đã tiên báo: “Ta sẽ đổ Thánh Thần xuống và
chúng sẽ nói tiên tri”. Phêrô giảng bài đầu tiên làm cho 3.000 người trở lại.
Các Tông đồ khác cũng bắt đầu sứ mạng rao giảng, với đặc ân Thánh Thần ban cho
là nói được tiếng bản xứ của mỗi thính giả từ các nơi đổ về.
Giáo Hội sinh từ ngày Thánh Thần hiện xuống. Ngày nay Giáo Hội
đã có một trang sử dài gần 20 thế kỷ. Giáo Hội cũng cần một luống gió mạnh thổi
đến, lùa vào hầu có thể đổi mới mọi sự. Xưa Phêrô đã mở tung cửa đón nhận Thần
Khí Thiên Chúa thì ngày nay các vị đại diện Phêrô cũng đã khai mở Công Đồng
“như một lễ Hiện Xuống mới”, đem lại cho Giáo Hội một bộ mặt mới, một luồng gió
mới.
Mỗi lễ Hiện Xuống là một ngày khai sinh mới của Giáo Hội, Thánh
Thần là ai? – Thánh Phaolô, trong bài đọc II đã giải thích gồm tóm trong ý
tưởng rằng, Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội. Thánh Thần ban cho mọi tín hữu
nhận lãnh Phép Rửa một niềm tin duy nhất, là “Chúa Giêsu là Thiên Chúa đã sống
lại”. Chúng ta phải tin, phải sống và phải loan báo. Tuy rằng đức tin là một,
nhưng Thánh Thần sẽ ban cho mỗi người, mỗi thời đại, những đặc sủng riêng tư,
thích hợp cho từng dịch vụ, từng sinh hoạt, từng nơi chốn. Thánh Thần như linh
hồn của Giáo Hội, hằng huy động, hướng dẫn, thống nhất để xây dựng Giáo Hội.
Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII là một điển hình. Khi mới được bầu
làm Giáo Hoàng, Ngài là một cụ già đã 77 tuổi, cục mịch như một cha xứ nhà quê,
ai cũng cho là “một Giáo Hoàng giao thời”. Nhưng ai ngờ con người ấy, trong
triều đại chỉ 5 năm, trở thành dụng cụ của Chúa Thánh Thần để đổi mới, để thực
hiện chính sách mà Ngài gọi là “ cập nhật hóa” (aggiomento), mở cửa để Giáo Hội
bắt gặp đà tiến triển của thời đại văn minh. Ngày nay, Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II, trong Tông thư “Tiến tới Thiên niên kỷ thứ ba” chuẩn bị cho toàn thể
Giáo Hội mừng Đại Năm Thánh 2000 đã kêu gọi “trân trong đặc biệt tất caw những
gì Chúa Thánh Thần đã nói với Giáo Hội và với Giáo Hội (Kh 2,7) cũng như những
gì Thánh Thần nói với các cá nhân qua các đoàn sủng phục vụ cộng đoàn”. Đức
Thánh Cha nói tiếp: “Tôi muốn nhấn mạnh những gì mà Chúa Thánh Thần gợi ý cho
các cộng đoàn khác nhau, từ những cộng đoàn nhỏ nhất- như gia đình, đến những cộng
đoàn lớn hơn – như các quốc gia, các tổ chức quốc tế, kể cả những nền văn hóa,
văn minh và những truyền thống lành mạnh” (TMA. Số 23).
Nhiều người tín hữu ngày nay vẫn còn có thái độ như nhóm nhỏ
Tông đồ ngày xưa. Họ sợ sệt, cửa đóng then cái, e rằng Thầy ra đi là đi mãi,
tương lai mù mịt. Nhưng Thánh Gioan cho biết, ngay chiều Phục sinh, Chúa Giêsu
đã hiện đến trấn an các ông: “Bình an cho các con”. Rồi Ngài thổi hơi trên các
ông: “các con hãy nhận lấy Thánh Thần”. Ai lại không liên tưởng đến “ làn hơi
Thiên Chúa” thổi đến trên mặt nước “trong ngày khai thiên lập địa” (St 1,2) đến
làn sinh khí mà Thiên Chúa thổi vào con người trong ngày tạo dựng Ađam (St
2,7). Ngày nay, làn hơi ấy chính là Chúa Thánh Thần, là làn hơi ban sự sống (Ga
3, 5-6) và là sức mạnh tầy xóa mọi tội lỗi: “các con tha tội cho ai, thì tội
người ấy được tha, các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại” (Ga 20,23).
Qua làn hơi thở của Chúa, qua sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các Tông đồ cũng
như chúng ta ngày nay phải trở nên những chứng nhân của Chúa cho đến tận cùng
trái đất.
Anh chị em thân mến,
Ngày lễ Chúa Thánh Thần ngày khai sinh của Giáo Hội, là ngày nhờ
sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội mở rộng vòng tay ôm cả thê1 giới. Chúa
Thánh Thần thôi thúc bên trong để chúng ta hành động cụ thể, tỏ lộ ơn Ngài ra
bên ngoài và chúng ta sẽ chỉ có thể vững tin rằng mình đang sống dưới sự tác
động của Chúa Thánh Thần, khi mọi nỗ lực của chúng ta luôn theo sát với giáo
huấn của Chúa Kitô và đều hướng đến việc kiến tạo tình yêu thương cảm thông
nhau hơn. Chớ chi từ nay, chúng ta luôn biết mở mắt tâm hồn của mình để nhận
diện ra bao cuộc hiện xuống của Chúa Thánh Thần trong đời mình và mở rộng tâm
hồn sống theo ơn Ngài thôi thúc, hầu cuộc sống của chúng ta có thể đổi mới
không ngừng trong tình yêu thương xây dựng.
11. Hơi thở của Thiên Chúa
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trong kho tàng văn chương Ấn giáo có ghi lại câu chuyện như sau:
Có một đệ tử đến thưa với vị linh đạo của mình: “Thưa thầy, con muốn gặp Chúa”.
Vị linh đạo chỉ đáp trả bằng một cái mỉm cười thinh lặng.
Ngày hôm sau, người môn sinh trở lại và bày tỏ cũng một ước
muốn. Vị linh đạo vẫn mỉm cười tiếp tục giữ sự im lặng cố hữu của ông. Một ngày
đẹp trời nọ, ông đưa người thanh niên đến một dòng sông. Thầy trò cùng trầm
mình xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng
nước mát, bất thần vị linh đạo túm lấy anh và dìm xuống nước hồi lâu. Người
thanh niên cố gắng vùng vẫy đế trồi lên mặt nước. Lúc bấy giờ vị linh đạo mới
hỏi anh: “Khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?”. Không
một chút suy nghĩ, người đệ tử đáp: “Thưa thầy, con cần có không khí để thở””.
Lúc bấy giờ vị linh đạo mới dẫn giải: “Con cảm thấy cần gặp Chúa
như con cần khí thở không? Nếu con cảm thấy cần như thế, con sẽ gặp được Ngài
tức khắc. Ngược lại, nếu con không hề cảm thấy cần như thế thì cho dù con có
vận dụng tất cả tài trí và cố gắng, con cũng sẽ không bao giờ gặp được Ngài”.
Anh chị em thân mến,
Sự sống của chúng ta là do Thiên Chúa ban tặng. Chính nhờ tham
dự vào sự sống của Ngài mà chúng ta được sống. Bao lâu còn hơi thở là còn sống.
Tắt thở là chết. Trong buổi đầu công trình tạo dựng. Thiên Chúa đã thổi hơi vào
Ađam, con người đầu tiên, để Ađam có sự sống, để Ađam trở nên bạn hữu của Thiên
Chúa. Chúa Giêsu Phục Sinh cũng đã lặp lại hành động ấy khi Ngài xuất hiện giữa
các môn đệ và thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga
20,22). Nhận lấy Thánh Thần là nhận lấy sự sống của Thiên Chúa, là nhận lấy
tinh thần của Thiên Chúa. vì Thánh Thần là Thần Khí, là Hơi Thở của Thiên Chúa.
Ađam đã nhận được hơi thở của Thiên Chúa để sống vai trò nguyên
tổ của loài người. Các môn đệ cộng đoàn Phục Sinh đã nhận được hơi thở của
Thiên Chúa để làm chứng về Chúa Giêsu Kitô. Mỗi người chúng ta, cũng đã nhận được
hơi thở của Thiên Chúa khi chúng ta được dìm trong Nước Thánh Tẩy và được xức
dầu trong bí tích Thêm Sức. Hơi thở, sức sống, tinh thần của Thiên Chúa được
“hà hơi” vào trong ta. Vấn đề là chúng ta có biết sống bằng hơi thở Thần Linh
ấy không. Thánh Phaolô khi nói về các ơn sủng Thiên Chúa ban cho mọi chi thể
thuộc thân thể Đức Kitô đã đề cao Đức Ái như một đặc ân của Thánh Thần.
“Đức Ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh
vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng
giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy
điều chân thật. Đức Ái tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr
13,4-7).
Sống đức Ái, sống yêu thương là sống bằng hơi thở của Thiên
Chúa, là kết hợp với Thiên Chúa Tình Yêu, là sống trong Thánh Thần. Chỉ có yêu
thương mới làm cho con người sống và phát triển thực sự. Chỉ có yêu thương mới
làm cho con người thay đổi, canh tân, hoán cải. Ai yêu thương nhiều là người ấy
thay đổi nhiều, vì tình yêu sẽ dẫn đưa chúng ta đến chốn vô cùng, vô tận của
cuộc sống. Ai yêu thương nhiều và yêu thương thực tình sẽ không còn là mình
nữa, mà là dụng cụ của Tình Yêu Thiên Chúa, sẽ nên giống như Thiên Chúa.
Thưa anh chị em,
Một cộng đoàn thiếu yêu thương thì không bao giờ có hợp nhất,
không bao giờ có sức thuyết phục được những người chung quanh. Vì chỉ có yêu
thương mới san bằng được những khoảng cách, mới lấp đầy những cách biệt, mới
giúp bổ túc cho nhau giữa những cái chênh lệch, khác biệt nhau. Các tín hữu
tiên khởi đã bán hết của cải ruộng đất để làm của chung, để sống giới răn yêu
thương của Thầy. Đó phải là hình ảnh gợi ý cho những sáng kiến yêu thương của
chúng ta. Chỉ khi nào mỗi thành viên của Hội Thánh đem hết tài năng, đặc sủng
của mình đã nhận lãnh làm thành của chung của cộng đoàn, thì lúc ấy mới có sự
hợp nhất thực sự của một thân thể nhiều chi thể là Hội Thánh Chúa Kitô.
Nhưng chúng ta chỉ biết sống yêu thương nếu như chúng ta biết
đặt mình dưới sức tác động của Thánh Thần: Chẳng những Ngài là Đấng An Ủi, soi
sáng mà Ngài còn là Đấng Thanh Tẩy chốn nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, chữa
lành thương tích, uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng… (Ca tiếp liên).
Chỉ có Thánh Thần mới làm cho các tổ chức của con người có sức sống, có tinh
thần Tin Mừng… Đổi mới tư duy, đổi mới đời sống, đổi mới cơ chế xã hội đều cần
đến sức mạnh và ân sủng của Thánh Thần Thiên Chúa, vì Ngài là hơi thở của Thiên
Chúa, hơi thở không ngừng làm sống mọi tạo vật.
Anh chị em thân mến,
Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận những luồng gió mới mà Thánh Thần
Chúa đang thổi trong lòng các dân tộc, trong lòng con người trước ngưỡng cửa
Thiên Niên Kỷ Thứ Ba. Chớ gì Thánh Thần Thiên Chúa cũng thổi vào lòng chúng ta,
vào cộng đoàn chúng ta một luồng gió đổi mới cũng mạnh liệt như thời các Tông
đồ, để Hội Thánh luôn tươi trẻ và tràn đầy sức sống.
Xin hãy đến, lạy Chúa Thánh Thần và xin canh tân bộ mặt trái đất
của chúng con.
12. Ngọn gió
Bấy giờ các môn đệ họp lại ở một nơi. Bỗng dưng có tiếng từ trời
đến, ào ào như gió thổi khắp nhà các đấng đang ngồi. Lại thấy có hình lưỡi lửa
tỏa ra, đổ trên đầu từng người một và tất cả đều được tràn đầy Thánh Linh. Qua
vài dòng tường thuật ngắn ngủi trên, chúng ta cùng nhau chia sẻ về hình ảnh
ngọn gió.
Hậu quả đầu tiên mà gió đem lại, đó là quét sạch bụi bặm và rác
rưởi. Chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô: Gió muốn thổi
đâu thì thổi, ngươi nghe tiếng gió, nhưng lại không biết gió từ đâu mà đến và
sẽ đi về đâu, những kẻ sinh bởi Thần Khí cũng thế. Thực vậy, gió thổi chỗ này,
gió thổi chỗ khác. Không ai có thể vạch đường cho gió. Gió thổi theo những luật
lệ riêng của gió. Cũng vậy, tình yêu chân thực sẽ vượt qua mọi thúc ép bên
ngoài. Và khi tình yêu cao cả nhất là Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các tông
đồ, thì đó cũng là lúc những thái độ bên ngoài, những nghi lễ của Môisen, những
quan niệm hẹp hòi của bọn biệt phái bị sụp đổ. Tin Mừng tràn lan như một ngọn
gió. Và Tin Mừng ấy thổi đến đâu, thì sẽ lật đổ mọi tượng thần nhảm nhí, làm
cho trong sạch và dịu mát bầu khí luân lý và đạo đức vốn đã bị ô nhiễm. Cùng
với ngọn gió của ngày lễ Hiện Xuống, một con người mới được sinh ra với một lý
tưởng mới và những khát vọng mới. Một thế giới được khởi đầu đó là thế giới
Kitô giáo. Thế giới cũ không thể nào chống lại sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Như một bức tường xiêu vẹo và đổ nát, không thể nào cản được sức mạnh của cơn
gió xoáy.
Giáo hội khởi đầu chỉ là một nhóm nhỏ gồm mười hai tông đồ. Tuy
nhiên, Chúa Thánh Thần đã hoạt động trong các ông, thôi thúc các ông ra khơi và
thả lưới, lên đường và chinh phục thế giới về cho Đức Kitô. Ý tưởng này làm cho
chúng ta thêm phấn khởi và cảm thấy được an ủi. Dù hoàn cảnh có đen tối, dù số
phận có thê thảm, dù giông tố có nổi lên, dù bắt bớ có xảy ra, nhưng có Chúa
Thánh Thần hoạt động trong cộng đoàn tín hữu, thì không có một thế lực nào,
không một gian nguy thử thách nào có thể chiến thắng nổi chúng ta. Mọi sự sẽ
qua đi, nhưng Chúa Thánh Thần sẽ chẳng qua đi bao giờ.
Trong thời gian khó khăn tại Liên Xô, chỉ có một chủng viện
nhưng phải sinh hoạt âm thầm và lén lút. Ngày kia một ký giả may mắn gặp được
một thanh niên hơn hai mươi bốn tuổi, với khuôn mặt sáng sủa và thân hình gầy
còm vì đói. Anh cho biết mình là một đại chủng sinh, đang chuẩn bị lãnh nhận
chức phó tế. Ban ngày anh phải đi làm như một người thợ, một công nhân. Ban đêm
mới học. Học không sách vở, học không ánh sáng. Họ sống và cầu nguyện chung với
nhau, nhưng luôn phải canh chừng. Phải chăng Kitô giáo đã tàn lụi trên đất nước
Liên Xô? Không phải thế. Dù chỉ còn một nhóm nhỏ thì Chúa Thánh Thần vẫn hoạt
động. Để rồi cuối cùng, mọi sự sẽ qua đi, nhưng Chúa Thánh Thần sẽ chẳng qua đi
bao giờ.
Biết bao lần chúng ta thất vọng khi nhìn thấy tội ác thắng thế
và cất cao tiếng cười ngạo nghễ. Biết bao lần chúng ta hoài nghi vì thiện chí
của chúng ta bị coi thường và xuyên tạc. Thế nhưng, nếu thực sự có Chúa Thánh
Thần ngự trị, chúng ta sẽ không bao giờ ngờ vực, sẽ không bao giờ thất vọng.
Vậy chúng ta phải có thái độ nào? Chúng ta hãy lắng nghe lời thánh Phaolô
khuyên nhủ: Đừng làm buồn lòng Chúa Thánh Thần và đừng dập tắt ngọn lửa của
Ngài. Nhưng thế nào là làm buồn lòng Chúa Thánh Thần, thế nào là dập tắt ngọn
lửa của Ngài? Chúng ta sẽ làm buồn lòng Chúa Thánh Thần nếu chúng ta chống lại
những hành động hướng dẫn, giáo huấn và thánh hóa của Ngài. Chúng ta hãy để cho
Ngài thúc đẩy, để chúng ta chỉ suy nghĩ những tư tưởng của Chúa, chỉ lắng nghe
những lời Chúa nói. Chúa Thánh Thần là người nghệ sĩ, còn tâm hồn chúng ta là
cây đàn. Nếu chúng ta để cho Ngài gẩy, thì tâm hồn chúng ta sẽ vang lên những
khúc nhạc tuyệt vời. Chúng ta có thể nói cuộc đời của người có Chúa Thánh Thần
ngự trị sẽ là như một con đường ngập ánh nắng mặt trời, dù họ phải đi qua bóng
tối của gian nan và thử thách. Hơn nữa, cuộc đời của người có Chúa Thánh Thần
ngự trị sẽ là một khúc hoan ca, dù họ gặp phải những cay đắng chua xót. Ngoài
ra, cuộc đời của người có Chúa Thánh Thần ngự trị sẽ là một ngày hội lớn, một
ngày khải hoàn chiến thắng, dù họ phải luôn chiến đấu không ngừng.
Ngọn gió của Chúa Thánh Thần có thể thổi đến với tôi bất kỳ lúc
nào và bất kỳ ở đâu: trong giờ kinh nguyện, trên đường phố, bên giường bệnh
nhân, trong cơn cám dỗ…sức mạnh của Chúa Thánh Thần sẽ truyền sang cho tôi. Và
thật là diễm phúc, nếu tôi biết lắng nghe và tuân theo sự thôi thúc của Chúa
Thánh Thần, bởi vì tôi sẽ được Ngài hướng dẫn và ủi an.
13. Vai trò của Thần Khí – McCarthy
Suy Niệm 1. ƠN CỦA THẦN KHÍ
Chúng ta muốn bám chặt vào một người mà chúng ta yêu mến và phụ
thuộc. Chúng ta không thể chịu nổi ý tưởng người ấy rời bỏ chúng ta. Khi Đức
Giêsu nói với các Tông đồ rằng Người sắp rời bỏ họ, họ rơi vào sự u sầu. Nhưng
Người nói với họ: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không
ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai
Đấng ấy đến với anh em”.
Các Tông đồ khó mà hiểu được bằng cách nào Đức Giêsu ra đi thì
có lợi cho họ. Những minh hoạ sau đây sẽ chiếu soi một số ánh sáng trên đề tài
ấy.
Bạn hãy tưởng tượng bạn đang ngắm mặt trời lặn xuống. Và khi nó
lặn, có vẻ như nó đem cả thế giới này theo nó.
Đồng thời, mặt trăng lên cao trong bầu trời. Nhưng mặt trăng mờ
nhạt đến nỗi bạn phải nhìn kỹ mới thấy. Dường như mặt trăng không đóng góp điều
gì cho trái đất.
Rồi bạn nhận thấy một điều đẹp đẽ và kỳ lạ. Mặt trời càng xuống
thấp trong bầu trời, mặt trăng càng trở nên sáng hơn. Sau cùng, mặt trời rồi
cũng biến mất khỏi quang cảnh, mặt trăng được biến đổi hoàn toàn. Và giờ đây,
mặt trăng đương nhiên là vật sáng nhất trong bầu trời. Và khi bạn nhìn chung
quanh, bạn ngạc nhiên và thích thú nhận thấy rằng thế giới cũ kỹ này không
những đã được phục hồi hoàn toàn đối với bạn, nhưng còn được làm cho mới mẻ,
sáng tươi và quyến rũ. Chỉ khi mặt trời rút lui, bạn mới có thể thấy sự đóng
góp của mặt trăng.
Yêu thương đôi khi lúc có nghĩa phải sống xa cách người mình
yêu. Điều này có nghĩa là người ta được tự do phát triển theo đường lối của
riêng mình. Người được yêu thương cảm thấy mình đã góp phần xây dựng nên tình
cảm đó và được tự do tiếp nhận từ một người khác.
Tuy nhiên, chúng ta thường bám chặt ánh đèn sân khấu. Chúng ta
muốn lúc nào cũng có mặt ở đó. Chúng ta không biết nên rút lui khi nào hoặc
bằng cách nào. Vì thế, bằng một thái độ vô tâm và vị kỷ, chúng ta làm chủ những
người khác. Chúng ta bóp nghẹt sự phát triển của họ. Chúng ta đặt họ vào vị trí
phụ thuộc, và kết quả là họ ở mãi trong tình trạng kém phát triển.
Điều này đem lại cho chúng ta một sự hiểu biết sâu sắc điều Đức
Giêsu muốn nói khi Người cho rằng Người ra đi thì có lợi cho các Tông đồ, nếu
không có Thần Khí sẽ không đến. Nếu Người cứ duy trì sự hiện diện thể chất với
họ thì chính họ sẽ không bao giờ trưởng thành nổi.
“Tôi không có gì cho người khác; nhưng tôi có bổn phận hướng
người ấy về với chính cuộc đời người ấy và chấp nhận người ấy là chính người
ấy” (Michel Quoist).
Không bao giờ có người nào tỏ ra tín nhiệm và tôn trọng con
người như Đức Giêsu. Người đã không thống trị họ. Người đã cho họ một cơ hội để
toả sáng. Người chuyển giao toàn bộ công trình của Người cho họ. Người biết
rằng họ vẫn cần được giúp đỡ. Đó là lý do Người sai Thần Khí đến với họ.
Điều mà Thần Khí đã làm là biểu lộ ra bên ngoài những sự việc đã
có bên trong họ. Tình yêu của Thần Khí đánh thức những năng lực có bên trong họ
mà họ không biết đã có đó, vì thế họ có thể làm được những việc mà họ không
nghĩ rằng họ có khả năng làm. Sau ngày Hiện Xuống, tâm hồn họ như lửa đốt và có
gió thổi mạnh vào sau lưng.
Chúng ta cũng cần có Chúa Thánh Thần. Chúng ta cần Người giúp đỡ
chúng ta thực hiện quyền bính và những ơn đã có trong chúng ta. Chúng ta cần
Người khai thác quyền bính ấy và phát huy những ơn Người ban ngõ hầu chúng ta
cũng có thể trở thành nhân chứng không sợ hãi cho Đức Kitô.
Suy Niệm 2. PHÉP LẠ CỦA SỰ ĐỔI THAY
Trước khi Chúa Thánh Thần đến, các Tông đồ gần như sống trốn
tránh trong một phòng trên lầu. Đức Giêsu đã giao phó cho họ một nhiệm vụ cao
cả. Tuy nhiên họ đã không có cả sức mạnh lẫn ý chí để bắt tay vào việc. Nhưng
sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, họ là những người đã thay đổi.
Vậy Chúa Thánh Thần đã làm gì cho họ và phép lạ làm thay đổi
chính xác như thế nào? Mặc dù chúng ta không biết một tí gì về điều đó.
Chúng ta phải nhận thức rằng các Tông đồ là những người bị tổn
thương. Họ bị tổn thương bởi nghi ngờ và đau buồn, bởi sợ hãi và thất bại, và
trên tất cả bởi ý thức về sự bất toàn.
Jean Vanier là một người biết rất nhiều về điều gì giúp đỡ những
người bị tổn thương thay đổi. Ông đã thiết lập những cộng đoàn nhỏ khắp thế
giới cho những người thiểu năng (tâm thần). Khi người thiểu năng bị nhốt trong
những cơ chế, người ta đã gây ra cho tâm trí họ sự thiệt hại khủng khiếp. Một
thân thể bị tổn thương sẽ lành lại một cách tự nhiên, nhưng một tâm hồn bị tổn
thương thì không như thế. Một tâm hồn tổn thương sẽ chai cứng; chỉ để sống còn
và vì thế đầy ắp sự tức giận và cay đắng.
Nhưng khi người thiểu năng được đưa ra khỏi những cơ chế ở đó họ
cảm thấy chán ghét, và được đặt vào những cộng đoàn ở đó họ được yêu thương.
Vanier đã nhiều lần chứng kiến phép lạ làm họ thay đổi.
Điều này giúp chúng ta hiểu được điều gì xảy ra cho các Tông đồ.
Khi nói rằng các Tông đồ bị tổn thương, người ta không có ý nói họ bị tổn
thương ở mức độ như những người thiểu năng. Nhưng dù sao họ cũng bị tổn thương.
Tuy nhiên sau khi Chúa Thánh Thần đến, họ là những con người đã thay đổi. Họ
rời bỏ nơi họ trốn tránh và bắt đầu rao giảng Tin Mừng.
Chúng ta không nên nghĩ rằng sự thay đổi chỉ thực hiện trong
trong một lúc. Nó phải là một việc có cấp bậc và một quá trình phát triển. Sự
phát triển có thể chậm chạp đau đớn. Chúng ta không dễ dàng gạt bỏ những tập
quán và thái độ cũ.
Con người thay đổi khi có người mang lại cho họ niềm hy vọng;
khi có người tin tưởng họ và cho họ một nhiệm vụ để hoàn thành. Nhất là, họ
thay đổi khi họ được yêu thương. Họ bước ra khỏi vỏ ốc của mình và những năng
lực giấu kín của họ được giải phóng từ bên trong họ. Phép lạ làm con người thay
đổi là một phép lạ chân thật.
Mọi người chúng ta đều có khả năng làm điều tốt. Chúng ta có tay
để có thể chăm sóc, có mắt để có thể nhìn, có tai để có thể nghe, có lưỡi để có
thể nói, có chân để có thể đi và trên hết có một tấm lòng để có thể yêu thương.
Nhưng mỗi người chúng ta đều có một khuyết tật kềm hãm không cho
chúng ta giải phóng bản thân chân thật và tràn đầy. Chúng ta cần có một ai đó
đánh thức những gì ở bên trong chúng ta. Một ai đó kêu gọi chúng ra sống và
giúp đỡ chúng ta trưởng thành.
Đối với chúng ta, những môn đệ của Đức Kitô, một ai đó chính là
Chúa Thánh Thần. Quyền lực đã biến đổi các Tông đồ, quyền lực hiền hoà của Chúa
Thánh Thần cũng có giá trị và hiệu lực đối với chúng ta. Thần Khí ấy đánh thức
những năng lực trong chúng ta, kêu gọi chúng ta sống, giúp đỡ chúng ta trưởng
thành. Nhà thơ Pablo Neruda đã nói: “Tôi muốn làm cho bạn điều mà mùa xuân làm
cho cây anh đào”. Đó là điều mà Thần Khí đang thực hiện.
14. Tác động của Chúa Thánh Thần
Chúa Thánh Thần làm gì cho chúng ta? Đó là vấn đề chúng ta cùng
nhau tìm hiểu và chia sẻ trong một vài phút ngắn ngủi này.
Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy các môn đệ, mặc dù đã bước theo
Chúa, mặc dù đã được lắng nghe những lời khôn ngoan Chúa dạy, mặc dù đã được
nhìn thấy những việc lạ lùng Chúa làm, thế nhưng các ông cũng chẳng lĩnh hội
được bao nhiêu và đức tin cũng chưa bén thể rễ sâu trong cõi lòng các ông.
Sở dĩ như vậy vì đầu óc các ông còn u mê dốt nát và mang nặng
tinh thần thế gian.
Thực vậy, cũng như phần đông những người Do Thái khác, các ông
đang trông chờ, mong đợi một đấng cứu thế trong lãnh vực chính trị và xã hội.
Đấng ấy phải hùng mạnh như Đavít với kỵ binh và cbiến mã rợp
trời. Đấng ấy phải khôn ngoan như Salômon, khiến cho muôn dân nước phải nể
phục. Đấng ấy sẽ đến để giải thoát họ khỏi ách nô lệ của đế quốc La Mã, dẫn đưa
dân tộc họ bước vào một thời đại hoàng kim.
Và lúc bấy giờ các ông sẽ được làm lớn và giữ những chức vụ quan
trọng trong vương quốc của Ngài, cùng với một cuộc sống nhiều đặc ân và bổng
lộc, giàu sang và quyền thế, theo kiểu “vinh thân phì gia”.
Chính vì thế, các ông thường tranh cãi xem ai là người cao trọng
nhất, đồng thời các ông không thể nào chấp nhận được những khổ đau và cái chết
tủi nhục trên thập giá mà Chúa Giêsu đã tiên báo.
Thế nhưng, sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, các ông đã đổi
đời, đã thoát xác, đã trở nên những con người mới, am hiều và thông suốt về
giáo lý của Chúa Giêsu, nhất là về màu nhiệm thập giá, để rồi hôm nay, ngày lễ
Ngũ tuần, Phêrô thay mặt cho nhóm mười hai đã lên tiếng rao giảng về chính
những điều trước đây ông đã không hiểu cũng như không muốn hiểu.
Ngoài ra, Chúa Thánh Thần còn làm gì nữa?
Nhìn vào các tông đồ, chúng ta thấy các ông không phải chỉ là
những kẻ u mê và dốt nát, mà còn là nhưng kẻ hèn nhát và sợ sệt. Phúc âm đã ghi
lại như sau:
Khi thấy sóng gió nổi lên, các ông đã hoảng sợ đến cuống cuồng,
khiến Chúa Giêsu phải lên tiếng trách:
- Hời những kẻ hèn tin, tạo sao các con sợ hãi.
Sự sợ hãi này còn được biểu lộ một cách rõ rệt hơn nữa trong
cuộc thương khó. Giuđa đã bán Chúa với giá ba mươi đồng bạc, giá bán một tên nô
lệ, và chỉ bằng một phần mười giá bán một chai thuốc thơm, Mađalêna đã dùng để
xức vào chân Chúa Giêsu. Phêrô đã chối Chúa ba lần trong sân nhà thầy cả thượng
phẩm chỉ vì một câu hỏi vu vơ. Còn các môn đệ khác đều đã bỏ Chúa mà chạy trốn,
ngoại trừ Gioan là đã theo Chúa đến cùng và đã có mặt dưới chân cây thập giá.
Ngay cả sau khi Chúa đã sống lại, các ông tụ họp với nhau trong phòng, mà cửa
thì đóng kín vì sợ người Do Thái.
Thế nhưng, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, các ông đã hoàn
toàn đổi mới: từ những kẻ hèn nhất và sợ sệt, các ông đã trờ nên những con
người can đảm và hăng say rao giảng Tin mừng.
Hơn thế nữa, các ông còn sẵn sàng chấp nhận cái chết, cũng như
đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng để làm chứng cho tình yêu của Đức Kitô.
Thực vậy, trong số mười hai tông đồ, thì đã có tới mười một ông
hy sinh mạng sống cho Tin mừng, chỉ trừ một mình Gioan là đã chết già tại cộng
đoàn Êphêsô mà thôi.
Còn chúng ta thì sao?
Rất có thể lúc này chúng ta cũng đang là những kẻ mê muội và dốt
nát, chẳng hiểu biết được bao nhiều về giáo lý của Chúa.
Rất có thể lúc này chúng ta cũng đang là những kẻ hèn nhát và sợ
sệt, chúng ta sẵn sàng bán Chúa và chối bỏ Ngài bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào và
bất cứ vì lý do gì.
Chính vì thế, chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần ngự xuống
trong tâm hồn, để biến đổi chúng ta trở thành những con người mới luôn hiểu và
sống Tin mừng, cũng như luôn hăng say phục vụ Chúa nơi những người anh em bất
hạnh và khổ đau.
15. Đón nhận
Các bài đọc thánh lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống xoay quanh hai
chủ đề chính: Thứ nhất tường thuật biến cố lịch sử việc Chúa Thánh Thần Hiện
xuống trên các tông đồ như lời Chúa Giêsu đã hứa biến đổi con người yếu đuối
của các ngài thành những kẻ hiểu biết và phân phát mầu nhiệm Thiên Chúa. Và ý
nghĩa thứ hai là ý nghĩa thiêng liêng đi liền với biến cố lịch sử, một biến cố
Chúa Thánh Thần Hiện xuống. Chúa Thánh Thần là linh hồn của đời sống Kitô hữu
trong nhiệm thể duy nhất của Chúa Kitô.
Biến cố Chúa Thánh Thần Hiện xuống vào ngày lễ Ngũ tuần của
người Do thái, 50 ngày sau lễ Vượt qua. Người Do thái mừng lễ Giao ước, nhắc
lai giao ước Thiên Chúa đã ký kết với dân Thiên Chúa đã chọn, và mỗi thành phần
của dân Chúa chọn cam kết sống trung thành với giao ước này. Chúa Giêsu đến để
thiết lập giao ước mới bằng chính Máu của Ngài trên thập giá, và qua việc chọn
ngày lễ Ngũ tuần để thực hiện biến cố Chúa Thánh Thần Hiện xuống trên các tông
đồ, Chúa Giêsu muốn cho các ngài hiểu rằng, từ nay, Giáo Hội được khai sinh và
cũng từ Giao ước mới này mỗi tín hữu được mời gọi sống đời sống mới, một cuộc
sống làm chứng cho Chúa Kitô.
Mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống, mỗi người chúng ta được mời
gọi dấn thân thực hành và nhớ lại Giao ước mới đã được Chúa Giêsu Kitô thực
hiện cho mỗi người chúng ta. Chúa Thánh Thần hiện diện trong Giáo Hội, hướng
dẫn Giáo Hội trải qua các thời đại vẫn phát triển, vẫn trung thành, mặc dù đôi
khi còn những sa ngã, những sai lầm, những tội lỗi làm cho một số người xa lìa
Giao ước mới.
Biến cố lịch sử Chúa Thánh Thần Hiện xuống trên các tông đồ
không những chỉ có chiều kích thiêng liêng canh tân cá nhân mà thôi, nhưng còn
mang chiều kích Giáo Hội nữa. Đó là liên kết mọi kẻ tin Chúa mà lãnh nhận Thánh
Thần trong một cộng đoàn, một thân thể, sống liên đới với nhau như bài đọc II
nhắc lại cho chúng ta, nhưng đồng thời cũng là một cộng đoàn có tổ chức, có
người lãnh đạo, chịu trách nhiệm thừa hành quyền lãnh nhận từ Chúa, như được
nhấn mạnh nơi bài Phúc âm: Chúa Giêsu đến ban bình an, đổi mới các tông đồ rồi
trao quyền cho họ: “Chúng con hãy nhận lãnh Thánh Thần, chúng con tha tội cho
ai thì tội người đó được tha, chúng con cầm tội ai thì tội người đó bị cầm
buộc”.
Các tông đồ lãnh nhận Chúa Thánh Thần và đồng thời chia sẻ quyền
bính tha tội của Chúa, sống bên cạnh Chúa, thực hiện những phép lạ để chứng
minh quyền tha tội của Ngài, nên khi nghe lời Chúa phán, các tông đồ hiểu rõ
hơn ai hết những lời này có nghĩa gì? Các ngài được biến đổi để trở thành những
kẻ tiếp tục sứ mạng của Chúa: “Hãy ra đi rao giảng cho mọi dân nước những gì
Thầy đã truyền cho chúng con, dạy họ tuân giữ những gì Thầy truyền và rửa tội
cho họ”.
Mỗi thành phần trong Giáo Hội đều đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần,
nhưng trong những cấp bậc khác nhau qua Bí tích Rửa tội và Thêm sức, Bí tích
Truyền Chức thánh trở thành thừa tác viên thánh của Chúa. Mỗi người chúng ta
đều đã được canh tân, được biến đổi để chu toàn những trách vụ khác nhau nhưng
cùng một Thánh Thần.
Ước chi ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống mời gọi mỗi người
chúng ta trở về với ơn gọi nguyên thủy của mình, trở về với sự soi sáng của
Chúa Thánh Thần, canh tân đời sống cá nhân và chu toàn sứ mạng trong sự hiệp
nhất và hiệp thông với Nhiệm thể Chúa Kitô. Xin Chúa Thánh Thần luôn hiện diện
và hướng dẫn cuộc đời chúng ta, để giúp chúng ta thực hiện thánh ý Chúa một cách
trọn vẹn và tốt đẹp hơn.
16. Đổi mới
Cách đây 50 ngày, chúng ta đã mừng lễ Chúa Giêsu Phục sinh và
Chúa nhật trước, lễ Chúa Giêsu lên trời. Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Thánh
Thần Hiện xuống và cũng là lễ kết thúc mùa Phục sinh.
Chính hôm nay Chúa Thánh Thần Hiện xuống. Hôm nay Chúa Giêsu
Phục sinh thực hiện lời hứa và ban Thánh Thần cho chúng ta. Việc Thánh Thần đến
vào ngày lễ Ngũ tuần là dấu chỉ Đức Kitô được tôn vinh, Ngài được ngồi bên hữu
Chúa Cha, được đặt làm “Chúa”. Chúa Thánh Thần đã được hứa ban, Người tới,
Người hiện diện đó và Người hoạt động để thực hiện một cuộc đổi mới, tạo dựng
một nhân loại mới. Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cùng khám phá lại hoạt động
của Chúa Thánh Thần nơi các tông đồ, về sự hiện diện và hoạt động của Ngài nơi
mỗi người chúng ta để rồi chúng ta biết sống theo sự hướng dẫn của Ngài.
Thời Cựu ước ngôn sứ Edêkien đã tiên báo là Thần khí sẽ đến và
ban cho con người một tâm hồn mới, một trái tim mới.
Thật vậy, trong bữa tiệc ly Chúa Giêsu cũng đã nhắc lại lời hứa
đó và báo trước là Chúa Thánh Thần sẽ đến trong lòng các tín hữu để soi sáng
họ, nhắc nhở họ những lời của Thiên Chúa, và thanh tẩy họ bằng cách tha thứ các
tội lỗi.
Bài trích sách Công vụ Tông đồ thuật lại. Vào ngày lễ Ngũ tuần
đang khi các tông đồ họp nhau cầu nguyện thì Thánh Thần đến như một cơn gió,
bất ngờ và không thể cưỡng lại. Thánh Thần phủ trên cả nhóm tông đồ đang tụ họp
nhưng cũng được ban phát cho từng người dưới hình lưỡi lửa.
Thánh Thần đã thực hiện một cuộc biến đổi ngoạn mục nơi các tông
đồ: từ những người nhút nhát, sợ sệt, chậm hiểu họ đã được biến đổi thành những
người can đảm, xác tín và dấn thân vào công cuộc rao giảng Tin Mừng của Thiên
Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại: Vào chiều ngày Phục sinh Đức
Giêsu đã hiện ra, thổi hơi trên các tông đồ và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh
Thần”. Hình ảnh “thổi hơi” gợi lại tác động của Giavê Thiên Chúa, lúc tạo dựng
đã thổi hơi trên Ađam để ban sự sống. Nhận lấy Thánh Thần là nhận lấy sự sống
của Thiên Chúa. Vì Thánh Thần là Thần khí, là hơi thở của Thiên Chúa.
Sự sống mới mà hôm nay Đức Giêsu trao ban cho các tông đồ cũng
là sự sống bởi Thánh Thần. Nhưng đây là Thánh Thần của Đấng Phục sinh, Thánh
Thần của Đấng đã chiến thắng tử thần, và vì thế, sự sống đó chính là sự sống
đời đời. Chính Thánh Thần của Đức Giêsu Phục sinh đang thực hiện một cuộc tạo
dựng mới, tạo dựng một nhân loại mới.
Sau khi đã được giải thoát khỏi vòng nô lệ của tội lỗi và sự
chết, nhân loại mới này đã đón nhận được sự sống mới, sự sống đời đời.
Sự sống mới này, ngày nay cũng được tiếp tục trao ban cho các
Kitô hữu là những người tin vào Chúa Kitô.
Chúa Thánh Thần là hơi thở của Chúa Giêsu Phục sinh, hơi thở ấy
Chúa Giêsu Phục sinh chuyển thông cho Giáo hội để Giáo hội sống chính đời sống
của Người, đời sống làm con cái Thiên Chúa. Qua Bí tích Rửa tội các Kitô hữu
nhận lãnh Chúa Thánh Thần, được tái sinh trong đời sống mới.
Chúa Thánh Thần tẩy rửa mỗi tâm hồn khỏi tội lỗi và làm cho trở
nên chi thể của Chúa Kitô và là con cái của Chúa Cha, thánh Gioan nhấn mạnh tới
vai trò của Chúa Thánh Thần trong mỗi tâm hồn. Sau khi ban Thánh Thần rồi Chúa
Giêsu nói với các môn đệ: “Các con tha tội cho ai, tội người ấy được tha”. Ơn
tha tội phát xuất từ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần mà Giáo hội thông ban qua
Bí tích Rửa tội và Hòa giải. Chính qua hai bí tích ấy mà mỗi người được giao
hòa với Thiên Chúa được trở thành một tạo vật mới để sống một đời sống mới.
Chúng ta còn có thể thấy rõ tác động của Chúa Thánh Thần nơi các
Kitô hữu là sự hiệp nhất. Ngày xưa, tại tháp Babel tội lỗi chia rẽ loài người
làm cho mỗi người nói một thứ tiếng. Nay Chúa Thánh Thần thiết lập lại sự hiệp
nhất, Thánh Thần mà các Kitô hữu lãnh nhận qua Bí tích Rửa tội là Thánh Thần
đem lại bình an: bình an của ơn tha thứ và hòa giải. Thật vậy, hiệu quả đầu
tiên của Chúa Thánh Thần chính là làm cho mọi người tuy khác biệt về màu da
chủng tộc, ngôn ngữ mà vẫn có thể hiểu nhau và hiệp nhất thành một cộng đoàn.
Lễ Hiện xuống mà chúng ta cử hành hàng năm không phải là một kỷ
niệm trống rỗng: đây là một ngày lễ đổi mới chúng ta trong quyền năng và hoạt
động của Thánh Thần, nếu chúng ta đón nhận Ngài. Những gì Chúa Thánh Thần đã
làm nơi các tông đồ xưa kia, bây giờ Ngài cũng thực hiện nơi chúng ta.
Hôm nay khi tưởng niệm lại việc Đức Kitô Phục sinh đã ban Thánh
Thần cho các tông đồ, chúng ta hãy ý thức là chúng ta cũng đã được lãnh nhận ơn
Chúa Thánh Thần nhờ Bí tích Thanh tẩy và Thêm sức. Nhờ ơn Thánh Thần, chúng ta
chẳng những có sự sống tự nhiên, mà nhất là sự sống siêu nhiên tức là địa vị
làm con cái Thiên Chúa như Đức Kitô vậy. Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài
đã ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta. Cũng như lý trí soi dẫn cuộc đời bình
thường của con người thế nào, thì chúng ta cũng xin Chúa Thánh Thần, là khôn
ngoan, là sức mạnh và là tình yêu của Thiên Chúa soi sáng, sưởi ấm và củng cố
tâm hồn chúng ta.
Rồi trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta cố gắng sống cho đẹp
lòng Chúa Thánh Thần. Và vì Chúa Thánh Thần là Thần chân lý, là Thần tình yêu,
nên sự cố chấp, sự gian dối, sự chia rẽ là những điều trực tiếp phản nghịch với
Chúa Thánh Thần. Trái lại, nếu chúng ta cố gắng sống khiêm nhường, chân thành
và bác ái thì Chúa Thánh Thần sẽ không ngừng ở với ta. Người sẽ soi sáng chúng
ta, dẫn dắt chúng ta dần dần tiến sâu vào vương quốc của Thiên Chúa, là vương
quốc của tình thương và bình an, bởi vì hoa trái của Chúa Thánh Thần là bác ái,
hoan lạc, bình an. Nói cách khác, Nước Thiên Chúa là đời sống trong Chúa Thánh
Thần với những hậu quả cụ thể là sự công chính, bình an và hoan lạc trong mỗi
tâm hồn tín hữu cũng như trong các tương quan với nhau.
Một trong những dấu hiệu cụ thể và rõ ràng nhất về sự hiện diện
và tác động của Chúa Thánh Thần là tinh thần bác ái và phục vụ cộng đoàn. Trong
bài đọc thứ hai thánh Phaolô đã ví Giáo hội như là thân mình của Đức Kitô trong
đó các chi thể yêu mến nhau và phục vụ lẫn nhau. Nếu chúng ta cố gắng thể hiện
ra trong đời sống tinh thần yêu thương, tinh thần phục vụ, thì chúng ta có thể
tin chắc là chúng ta đang để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta. Đó là dấu
hiệu chúng ta là con cái của Thiên Chúa.
17. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Ngày nay, tại sao Giáo Hội lại kém phát triển về số lượng,
chưa nói tới chất lượng? Có phải vì cách loan báo Tin Mừng của chúng ta không
phù hợp với thời đại? Người thời đại mong mỏi Giáo Hội làm gì cho xã hội, thế
giới?
2. Con người thời đại, nhất là người nghèo, người bị áp bức, cần
chúng ta thể hiện tình thương đối với họ qua sự chăm sóc, giúp đỡ, nâng họ lên,
hay họ cần chúng ta rao giảng Đức Kitô cho họ? Họ cần chân lý hay tình thương?
Suy tư gợi ý:
1. Thánh Thần tạo biến đổi lạ lùng nơi các tông đồ
So sánh tâm lý của các tông đồ trong bài Tin Mừng và trong bài
đọc I hôm nay, ta thấy có sự biến đổi hết sức lạ lùng trong một thời gian hết
sức ngắn: chỉ hơn một tháng. Sau khi Thầy mình bị giết, các ông sợ hãi người Do
Thái đến độ phải ở chung với nhau cho đỡ sợ, và phải đóng kín cửa. Thế mà ngay
sau khi Thánh Thần hiện xuống, các ông trở nên hết sức dạn dĩ: dám công khai
biểu lộ và làm chứng niềm tin của mình vào Đức Giêsu Kitô và sự sống lại của
Ngài, bất chấp bị bắt bớ, tù đày và cả cái chết lúc nào cũng sẵn sàng đến với
các ông. Bị tù nhiều lần, nhưng lần nào cũng như lần nấy, vừa ở tù ra là các
ông lại tiếp tục rao giảng Đức Kitô một cách công khai, không lén lút. Chính vì
thế, hầu hết các tông đồ đã bị giết một cách thê thảm vì danh Đức Giêsu.
Tâm lý con người ai cũng ham sống sợ chết, ham sướng sợ khổ, ham
giàu sợ nghèo, ham vinh sợ nhục. Nhưng tình yêu đối với Thiên Chúa và nhân
loại, cùng với ơn biến đổi của Thánh Thần, đã làm các tông đồ và rất nhiều Kitô
hữu vượt lên những nỗi sợ đó, để dám làm những gì lý tưởng và lương tâm mình
đòi buộc: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29).
2. Thánh Thần biến đổi là để thi hành sứ mạng
Bài Tin Mừng cho ta thấy lời chúc bình an, lời sai đi, và việc
lãnh nhận Thánh Thần đi chung với nhau. Đức Giêsu nói: “Chúc anh em được bình
an! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. Nói xong, Người thổi
hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Như vậy, việc lãnh
nhận Thánh Thần là để thực hiện sứ mạng mà Đức Giêsu sai chúng ta làm, với tâm
hồn bình an, không sợ sệt lo lắng. Thánh Thần làm cho tâm hồn các tông đồ bình
an, và có bình an trong tâm hồn, các ông mới đủ can đảm để công khai làm chứng
cho Đức Giêsu. Do đó, để lãnh nhận Thánh Thần và ơn bình an, chúng ta phải có
lý tưởng là sẵn sàng làm chứng cho Đức Giêsu Kitô, cho Thiên Chúa, cho chân lý,
cho công lý, cho hòa bình giữa mọi người. Thánh Thần không ban ơn của Ngài cho
những người không có lý tưởng, không có tình yêu đối với Thiên Chúa và tha
nhân. Vì giả như có được ơn Thánh Thần, họ cũng chẳng ích lợi gì cho ai, mà
thậm chí gây hại, vì khi không có tình yêu và lý tưởng, họ sẽ lạm dụng những ơn
ấy.
3. Sứ mạng của người Kitô hữu
Ngày nay, tỷ lệ Kitô hữu tại châu Âu bị suy giảm trầm trọng, và
có vẻ như không tăng lên tại châu Á. Điều ấy khiến mọi Kitô hữu phải suy nghĩ
và đặt lại vấn đề cách thức loan báo Tin Mừng của mình, có thể nó không hợp với
nhu cầu hay đòi hỏi của thời đại. Con người thời đại này đã thay đổi rất nhiều
so với cách đây 50 năm. Hoàn cảnh (văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội, trình
độ khoa học kỹ thuật, nhu cầu con người, v.v…) đã thay đổi, khiến não trạng,
cách nhìn, cách suy nghĩ, lối sống của con người không còn như xưa. Vì thế, nếu
chúng ta vẫn giữ cách thức loan báo Tin Mừng như thời tổ tiên ta, e rằng việc
loan báo không còn hợp thời và hữu hiệu nữa.
Người thời nay chịu ảnh hưởng não trạng khoa học thực nghiệm rất
nhiều. Họ không thể tin vào lời nói xuông như cha ông họ cách đây 50 hay 100
năm. Họ cần thực chứng, vì đầu óc của họ thực tế hơn xưa rất nhiều. Ngày nay,
người ta không thể tin được một Kitô hữu miệng thì luôn luôn nói về tình
thương, mà cách sống thì tỏ ra chẳng tình nghĩa với ai. Giới trẻ thời nay đã
chán ngấy cái cảnh cha mẹ mình hằng ngày đi lễ, rước lễ, xin Chúa xót thương
ban cho mình đủ thứ ơn lành, nhưng lại luôn luôn tỏ ra ích kỷ, bảo thủ quyền
lợi, và lãnh đạm trước sự đau khổ hay nhu cầu cấp bách của người chung quanh.
Não trạng thực tế khiến người thời đại nhìn thấy rất rõ sự tương phản giữa lời
rao giảng và cách sống của những người chuyên loan báo Tin Mừng. Lời rao giảng
dù có hay, hùng hồn, hấp dẫn, nhưng không được minh chứng bằng đời sống thực tế
của người rao giảng, thì chẳng lôi cuốn được ai!
Ngày nay, khắp nơi trên thế giới, chỗ nào cũng có những bất
công, đàn áp, người nghèo bị khinh miệt và càng ngày càng nghèo hơn, người bị
gạt ra ngoài lề xã hội ngày càng nhiều, sự bóc lột giữa người với người ngày
càng tinh vi, sự chênh lệch giữa người giầu và người nghèo, giữa nước giầu với
nước nghèo ngày càng lớn, và biết bao thảm trạng khác. Nhưng thử hỏi: mỗi người
Kitô hữu chúng ta đã làm gì trước tình trạng xấu ác đó? Biết bao Kitô hữu không
hề quan tâm, đến nỗi không ý thức gì về tình trạng ấy! Biết bao Kitô hữu biết
nhưng mặc kệ, ai ra sao thì ra, miễn đời sống mình bình an đầy đủ là được rồi!
Biết bao Kitô hữu đã im lặng vì muốn an thân, không muốn bị liên lụy, cho dù sự
lên tiếng của mình có thể cải thiện được tình trạng không nhiều thì ít! Biết
bao Kitô hữu chẳng những không lên tiếng, mà còn thỏa hiệp hay hùa theo sự ác,
chỉ vì quyền lợi của mình! Bất chấp và mặc kệ cho sự ác, sự khổ, bất công,
nghèo đói hoành hoành, nhiều Kitô hữu vẫn an tâm rao giảng thứ Tin Mừng giải
phóng, là “Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, cho kẻ bị giam cầm được tha, cho người mù
được sáng mắt, cho kẻ bị áp bức được tự do, v.v…” (Mt 4,18). Làm sao người thời
nay với não trạng khoa học thực nghiệm có thể tin vào lời của những ngôn sứ
không hề có những hành động nào đích thực là ngôn sứ? Những người nghèo khổ,
những người bị áp bức, những người bị bất công đang chờ đợi hay mong mỏi chúng
ta làm gì? Họ mong chúng ta cứu họ thoát khổ, lên tiếng chống lại áp bức bất
công, hay họ mong chúng ta rao giảng Đức Giêsu Kitô cho họ, hoặc cho họ biết
rằng Ngài là Cứu Độ duy nhất? Họ cần chúng ta cụ thể hóa tình thương của ta đối
với họ, hay họ cần chúng ta rao giảng chân lý? Chúng ta đã làm gì?
Đã từ lâu, chúng ta quá hăng say rao giảng chân lý, mà quên mất
hoặc không để ý đến những nhu cầu cụ thể và thực tế của dân chúng. Họ cần tình
thương, nhưng chúng ta chỉ cho họ chân lý! nói đúng hơn là cho họ một mớ lý
thuyết về chân lý! Đạo của chúng ta mà như thế thì còn hấp dẫn được ai? Vì thế,
đừng lấy làm lạ tự hỏi tại sao Kitô giáo lại bị giảm sút tại châu Âu và không
phát triển được tại châu Á. Người Kitô hữu hãy yêu nhau và yêu tất cả mọi người
trước đã, đừng quan tâm tới việc rao giảng vội! Chính đời sống yêu thương của
người Kitô hữu mới là lời giảng hùng hồn và hữu hiệu nhất cho thời đại khoa học
thực nghiệm hiện nay. Người Kitô hữu cứ sống yêu thương và thực hiện hay làm
chứng cho công lý trước đã, toàn thế giới sẽ tự động trở nên Kitô hữu sau. Còn
hăng say rao giảng mà không yêu thương, mà coi nhẹ công lý, thì mọi lời rao
giảng đều “chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng” (1 Cr
13,1), hoàn toàn vô ích!
4. Cần có sự biến đổi
Giáo Hội hiện nay cần Thánh Thần biến đổi hơn bao giờ hết. Biến
đổi trước hết là não trạng loan báo Tin Mừng. Chúng ta chỉ thích loan báo bằng
lời nói, chứ không phải bằng đời sống, bằng việc làm cụ thể. Cần phải thay đổi
não trạng đó nếu muốn Giáo Hội tồn tại và phát triển. Sứ mạng của Giáo Hội là
sống và thực hành yêu thương hơn là rao giảng chân lý. Tôi không có ý coi nhẹ
việc rao giảng chân lý, nhưng phải coi việc sống yêu thương là quan trọng hơn,
và quan trọng hơn rất nhiều. Và chỉ có tình thương đích thực mới làm chúng ta
mạnh dạn, can đảm như các tông đồ, dám coi thường tất cả (bắt bớ, tù đày, chết
chóc) để nói lên tiếng nói ngôn sứ của mình. Cũng như chỉ có tình thương đối
với con mình mới có thể thúc đẩy người cha hay người mẹ xông vào hiểm nguy để
cứu lấy con mình. Ơn Thánh Thần mà Giáo Hội và mọi Kitô hữu rất cần hiện nay là
tình yêu thương.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Thánh Thần, xin đổ ơn của Ngài xuống trên từng người
chúng con, đặc biệt ơn biết yêu thương, biết hy sinh vì người khác, để chúng
con loan báo Tin Mừng một cách hữu hiệu bằng chính đời sống yêu thương được
biểu hiện bằng những hành động cụ thể như Đức Giêsu đã dạy, chứ không chỉ loan
báo bằng lời nói xuông. Amen.
18. Đấng an ủi và giáo huấn
Hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu hai tước hiệu Giáo Hội vốn
thường dùng để ca tụng Chúa Thánh Thần. Trước hết, Ngài là Đấng an ủi, như
trong Ca tiếp liên của thánh lễ hôm nay:
- Lạy Đấng an ủi tuyệt vời, xin hãy đến. Ngài là sự nghỉ ngơi
trong cảnh lầm than, là sự nâng đỡ trong những lúc lệ sầu.
Niềm tin tưởng vào Chúa Thánh Thần sẽ khắc ghi trong tâm trí
chúng ta và làm cho cõi lòng chúng ta tràn ngập một niềm vui dạt dào. Thực vậy,
theo thánh Phaolô thì hậu quả của Chúa Thánh Thần là gì, nếu không phải là yêu
thương, vui mừng và bình an. Đó là tất cả những gì chúng ta cần đến trong cuộc
sống.
Thực vậy, con người chúng ta luôn khao khát vì tìm kiếm niềm
vui. Thế nhưng, những niềm vui mà thế gian đem lại thì chóng qua và giả trá,
như chúng ta thường bảo:
- Ngày vui thì qua mau, lễ hội thì chóng tàn và khoái lạc thì
chợt tắt trong giây lát, để chỉ còn lại một sự mệt mỏi, chán chường và tuyệt
vọng. Khát vọng này nảy sinh ra khát vọng khác và con người chúng ta sẽ chẳng
bao giờ được no thỏa.
Chúng ta hãy nghe lời cảnh cáo của thánh Phaolô:
- Nước Trời không phải là chuyện ăn uống, nhưng là công chính,
bình an và mừng vui trong Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần là Đấng an ủi tuyệt vời, như lời Chúa Giêsu đã
phán hứa:
- Thầy đã cầu xin với Chúa Cha và Ngài sẽ sai đến với chúng con
một Đấng an ủi khác. Ngài là Thần Chân Lý và sẽ ở cùng các con luôn mãi.
Sở dĩ Chúa Thánh Thần là Đấng an ủi tuyệt vời vì Ngài biết chúng
ta cần phải được nâng đỡ và khích lệ trong cuộc sống trần gian với biết bao
nhiêu đau khổ, cay đắng, cô đơn và biệt ly. Trong tất cả những trường hợp ấy,
Chúa Thánh Thần sẽ ban cho chúng ta một niền an ủi và một nguồn sức mạnh.
Thế nhưng, niềm vui cao cả nhất là gì? Tôi xin thưa đó là niềm
vui được làm con cái Thiên Chúa. Thực vậy, Chúa Thánh Thần là sợi dây tình yêu
liên kết Chúa Cha với Chúa Con thế nào, thì Ngài cũng sẽ là sợi dây tình yêu
liên kết Chúa Cha với chúng ta như vậy. Ngài sẽ thánh hóa để chúng ta xứng đáng
được Chúa Cha yêu thương, cũng như để chúng ta xứng đáng được tham dự vào bản
tính của Thiên Chúa, như lời thánh Phaolô đã viết:
- Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em
trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên
nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: "Abba! Cha ơi!"
Chúa Thánh Thần sẽ hoạt động để chúng ta nên giống Thiên Chúa,
và được tham dự vào bản tính tuyệt vời của Ngài, như lời tục ngữ Việt Nam cũng
đã bảo:
- Cha nào con nấy. Con nhà tông không giống lông cũng giống
cánh.
Chúa Giêsu đã thực hiện chương trình cứu độ và trao ban cho
chúng ta quyền làm con Thiên Chúa. Thế nhưng, chúng ta lãnh nhận được địa vị
cao cả ấy nhờ Chúa Thánh Thần, như lời thánh Phaolô đã viết:
- Không ai có thể gọi Đức Kitô là Chúa, nếu không phải bởi Chúa
Thánh Thần.
Tiếp đến, Chúa Thánh Thần là Đấng giáo huấn. Thực vậy, nhìn vào
đời sống của cá nhân cũng như của Giáo hội, chúng ta sẽ nhận ra hoạt động giáo
huấn của Chúa Thánh Thần.
Trước hết là nơi nơi tâm hồn mỗi người chúng ta, cho dù chúng ta
đã phạm nhiều tội lỗi, thì những nhân đức cũng vẫn còn tồn tại: Nào là tuân giữ
những giới răn của Chúa, nào là kìm hãm bản thân, nào là chấp nhận những hy
sinh và thử thách … trong tất cả những điều đó chúng ta thực hiện được là do sự
trợ giúp của Chúa Thánh Thần.
Tiếp đến là trong Giáo hội. Trải qua bao cơn sóng gió, Giáo hội
vẫn đứng vững, vẫn phát triển truyền thống đức tin, luân lý và phụng vụ. Suốt
dọc hai mươi thế kỷ, Giáo hội đã cống hiến cho nhân loại biết bao nhiêu vị
thánh, biết bao nhiêu mẫu gương sáng chói. Và ngày hôm nay, Giáo hội vẫn còn là
điểm qui tụ của mọi dân nước, của mọi ngôn ngữ, của mọi nền văn hóa. Hình ảnh
của ngày lễ Hiện xuống với một đám đông thuộc mọi thành phần, thuộc mọi tiếng
nói, nhưng đã đứng chung cùng nhau tại công trường Giêrusalem, để nghe và hiểu
những lời các tông đồ truyền dạy. Đây chính là cuộc qui tụ đầu tiên của mọi dân
tộc kể từ ngày bị phân tán bởi ngọn tháp Baben còn dang dở.
Và ngày hôm nay, Giáo hội vẫn còn nắm giữ vai trò nối kết, quy
tụ muôn tâm hồn rải rắc trên khắp cùng bờ cõi trái đất về với mình, để rồi lấy
sợi dây tình yêu của Chúa Thánh Thần mà liên kết nên một. Bất kỳ nơi nào Chúa
Thánh Thần ngự trị, sẽ không còn bất hòa, khủng bố và chiến tranh.
Bởi đó, chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần ngự đến để canh tân tâm
hồn chúng ta cũng như được đổi mới mặt địa cầu.
19. Hiện diện
Trước khi về trời, nhiều lần Chúa Giêsu đã nói và đã hứa với các
môn đệ: Ngài sẽ ban Chúa Thánh Thần xuống. Lời hứa đó đã được hoàn tất trong
ngày lễ Ngũ Tuần, tức là lễ ngày thứ 50 tính từ lễ Vượt Qua của người Do Thái,
và từ khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, lễ này được gọi là lễ Hiện Xuống. Chúa
Thánh Thần đã hiện xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa và biến đổi các
ông thành những con người mới. Như vậy, Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá là
điều kiện để ban Chúa Thánh Thần cho Giáo Hội. Và khi được vinh quang bên hữu
Chúa Cha. Chúa Giêsu đã sai Chúa Thánh Thần xuống và ban Chúa Thánh Thần cho Giáo
Hội như linh hồn của Giáo Hội.
Đối với Giáo Hội nói riêng và đối với toàn thể nhân loại nói
chung, ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống thật là quan trọng, vì đánh dấu một kỷ
nguyên mới: kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần, kỷ nguyên áp dụng ơn cứu độ, thời kỳ
cuối cùng, thời kỳ cánh chung, trước khi Chúa Kitô trở lại để xét xử kẻ sống và
kẻ chết. Nhưng tại sao chúng ta có thể nói hay dám nói Chúa Thánh Thần được ví
như linh hồn của Giáo Hội? Bởi vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, cũng như linh hồn quan trọng đối với thân xác thế nào
thì Chúa Thánh Thần cũng quan trọng đối với Giáo Hội như vậy. Bởi vì Giáo Hội
được ví như một thân thể nhiệm mầu, mà Chúa Kitô là đầu và tất cả chúng ta là
thân mình. Vậy nếu đã là một nhiệm thể thì cần phải có một linh hồn, linh hồn
của Giáo Hội là Chúa Thánh Thần.
Thứ hai, cũng như linh hồn ở khắp thân thể và ở trong từng phần
thân thể, thì Chúa Thánh Thần cũng ở trong toàn thể Giáo Hội và trong từng
người. Linh hồn là nguyên lý, là căn bản của sự sống tự nhiên của thân thể,
không có linh hồn thì chúng ta không sống được, không có linh hồn thì thân thể
chúng ta là cái xác chết. Chúa Thánh Thần cũng là nguyên lý căn bản siêu nhiên
nơi đầu là Chúa Kitô và nơi các chi thể là chúng ta, Ngài trực tiếp ban ơn
thánh cho từng thành phần để sinh hoa quả là những việc lành.
Thứ ba, cũng như nơi con người, linh hồn hoạt động qua trí khôn,
ý chí, tình cảm. Cũng vậy, Chúa Thánh Thần hoạt động qua những khả năng siêu
nhiên là bảy ơn Chúa Thánh Thần, qua ba nhân đức đối thần là tin, cậy, mến.
Chúa Thánh Thần gìn giữ, thánh hóa, biến đổi từng tâm hồn. Chẳng hạn: 12 tông
đồ trước kia nhút nhát, sợ hãi, Chúa Thánh Thần đã làm cho họ mạnh bạo, can
đảm. Rồi suốt hai mươi thế kỷ qua, biết bao gương anh dũng của các thánh đồng
trinh, hiển tu, tử đạo… và hôm nay cả tỷ con cái Chúa đang được Chúa Thánh Thần
thôi thúc bước mau về trời, Ngài hướng dẫn, trợ giúp chúng ta trên đường về
trời.
Thứ tư, cũng như một linh hồn hiện diện nơi mỗi người làm cho
người đó thành một người riêng biệt, khác với những người khác, thì Chúa Thánh
Thần cũng hiện diện nơi mỗi tín hữu, để làm thành những tín hữu khác nhau: Chúa
Giêsu, Đức Maria, các thánh, kẻ lành… và ơn Chúa Thánh Thần khác nhau, nên có
những loại thánh khác nhau, rồi lại có những ơn sủng khác nhau, tùy theo chức
bậc: người truyền giáo, người làm cha mẹ, người đi tu v.v…
Ngoài ra, ngày lễ Hiện xuống, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống dưới
hình lưỡi lửa. Hình ảnh này thật đầy ý nghĩa: Giáo Hội của Chúa được ví như một
đống củi, được lửa của Chúa Thánh Thần đốt cháy lên và sưởi ấm trần gian lạnh
lẽo. Không có Chúa Thánh Thần, Giáo Hội chỉ là một tổ chức trần gian như bao
hội khác trên đời này, nhưng suốt hai mươi thế kỷ qua, Chúa Thánh Thần luôn ở
giữa Giáo Hội, hướng dẫn mọi hoạt động của Giáo Hội và Ngài vẫn tiếp tục hoạt
động mãi cho đến tận thế.
Mỗi người chúng ta đều đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần ngày chúng
ta chịu phép Rửa tội, và nhất là khi lãnh nhận phép Thêm sức, Ngài luôn ở cùng
chúng ta, hướng dẫn và trợ giúp chúng ta. Vậy chúng ta chớ dập tắt Chúa Thánh
Thần. Nếu dập tắt Chúa Thánh Thần thì chẳng khác gì chiếc tàu bỏ bánh lái, đoàn
xe lửa bỏ đầu tàu, con người bỏ trái tim. Chúng ta có thể dập tắt Chúa Thánh
Thần thế nào? Nhiều cách lắm, chẳng hạn: chúng ta không sử dụng tối đa những ân
huệ Ngài ban, những khả năng, những tiền bạc Chúa ban để chúng ta làm lợi ích
cho linh hồn, cho gia đình, chúng ta sử dụng vào những việc có hại cho mình và
cho người khác. Chẳng hạn: Chúa cho chúng ta cơ hội để phục vụ Chúa và Giáo
Hội, nhưng chúng ta không lợi dụng những cơ hội đó, bỏ dịp tốt qua đi đó là dập
tắt Chúa Thánh Thần.
Đàng khác, Chúa Thánh Thần là Đấng Phù Trợ. Phù trợ chứ không
phải là làm thay chúng ta. Chúng ta phải làm hết sức mình, hết khả năng mình,
phải học hỏi, phải nghiên cứu, phải thực hiện hết sức của mình, Chúa Thánh Thần
sẽ phù trợ thiện chí của chúng ta. Ngài không bao cấp làm thay chúng ta. Nếu
chúng ta không cố gắng đổi mới chính mình, đổi mới môi trường của mình, nếu chỉ
cậy trông suông, khoán trắng cho Chúa Thánh Thần, thì Chúa Thánh Thần sẽ không
làm thay. Bởi vì trách nhiệm ấy thuộc về chúng ta, những người Chúa đã trao cho
những khả năng để có thể làm được, không nhiều thì ít, không việc lớn thì việc
nhỏ, ai cũng có khả năng làm việc tốt.
Xin Chúa Thánh Thần khơi dậy trong chúng ta những nguồn sinh lực
mới, để chúng ta biết quyết tâm đổi mới chính mình, biết quyết tâm góp phần xây
dựng thời đại chúng ta. Sự quyết tâm này chúng ta sẽ gửi gắm nơi Chúa Thánh
Thần. Ngài sẽ ban phép lành cho chúng ta, Ngài sẽ phù trợ cho chúng ta thực
hiện. Mặc dầu hôm nay chúng ta không thấy kết quả nhưng hãy kiên trì nhẫn nại
như những người gieo giống, mùa màng không thấy ngay, nhưng mùa màng nếu làm
đúng, làm với cố gắng, với ơn phù trợ của Chúa Thánh Thần, chắc chắn sẽ thành
công và hiệu quả sẽ phong phú.
20. Thánh Thần Tình Yêu – Lm. Phạm Thanh
Liêm
Mùa phục sinh kết thúc với Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Chúa
Nhật sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là lễ Chúa Ba Ngôi, và Chúa Nhật sau lễ
Chúa Ba Ngôi là lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu.
Các con hãy nhận lấy Thánh Thần
Buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu Phục Sinh đã hiện
ra cho các tông đồ. Ngài thổi hơi trên các ông và bảo: “các con hãy nhận lãnh
Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì người ấy được tha”.
Trong ca tiếp liên: “Nếu không có Chúa trợ phù, trong con người
chẳng còn chi thanh khiết, không còn chi vô tội. Xin Chúa rửa sạch điều nhơ
bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và chữa lành nơi thương tích”. Trong lời tha tội
của bí tích xá giải, linh mục đọc: “Thiên Chúa là Cha nhân từ hay thương xót,
Chúa đã dùng cái chết và sống lại của Con Chúa để giao hoà thế gian với Chúa,
và đã ban Thánh Thần để tha tội…”
Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hoá, Đấng làm cho con người được
giao hoà với Thiên Chúa, Đấng tha tội cho con người, Đấng làm cho con người trở
thành con Thiên Chúa.
Thánh Thần- Đấng trợ phù
“Không ai có thể nói ‘Đức Giêsu là Chúa’ mà không nhờ bởi Thánh
Thần”. Thánh Thần giúp con người tin vào Đức Giêsu. Không có ơn của Chúa Thánh
Thần, không ai có thể tin vào Đức Giêsu được.
Có nhiều ân sủng, có nhiều đặc sủng, nhưng chỉ do một Thánh
Thần. Thánh Thần ban cho người này ơn tiên tri, ban cho người kia ơn thông
hiểu, ban cho người khác ơn lãnh đạo,… Có nhiều chức vụ, nhiều đặc sủng, nhưng
tất cả đều do bởi một Thánh Thần. Cũng chính Thánh Thần liên kết chúng ta nên
một, dù chúng ta thuộc thành phần nào, dân tộc nào, chúng ta vẫn làm nên một
thân thể trong Đức Giêsu, cũng nhờ chỉ một Thánh Thần. Thánh Thần làm cho con
người hiểu nhau, thông cảm lẫn nhau, thương yêu nhau, giúp đỡ lẫn nhau.
Thánh Thần giúp chúng ta cầu nguyện, giúp chúng ta sống đẹp lòng
Chúa, làm chúng ta trở nên con người mới. Thánh Thần là Đấng làm mới tất cả.
Thánh Thần là Thiên Chúa
Nhờ Đức Giêsu phục sinh, và các tông đồ nhớ lại những gì Đức
Giêsu đã nói với các ngài khi Đức Giêsu còn sống đời dương thế, các tông đồ
“với ơn của Thánh Thần” đã nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa, và sau đó Thánh
Thần là Thiên Chúa.
Thánh Thần có cùng nguồn gốc nơi Thiên Chúa, Ngài ở nơi Thiên
Chúa “Khi Đấng bảo trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha”
(Ga 15, 26), được Cha và Đức Giêsu sai gởi “Nhưng Đấng bảo trợ là Thánh Thần
Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm
cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga.14, 26).
Sứ mạng của Thánh Thần là ở với con người: “Thầy sẽ xin Chúa Cha
và Người sẽ ban cho anh em Đấng bảo trợ khác, đến ở với anh em luôn mãi”
(Ga.14, 16), dạy con người mọi sự (Ga.14, 26), làm chứng cho Đức Giêsu (Ga.15,
26), dẫn con người tới sự thật trọn vẹn (Ga.16, 13).
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Bạn có cảm nghiệm Thánh Thần luôn ở với bạn, và gần gũi với
bạn không?
2. Thánh Thần có thể làm bạn trở thành “con người mới”. Bạn hiểu
“con người mới”, là người như thế nào?
3. Lời kinh nào về Chúa Thánh Thần mà bạn thích nhất?
21. Thánh Thần, Đấng ban bình an
Tự thâm tâm sâu thẳm của từng người, cách này hay cách khác, mỗi
người chúng ta đều khát khao hạnh phúc và một trong những dấu hiệu của một tâm
hồn hạnh phúc, đó là sự bình an. Bình an là một cái gì không thể thiếu trong
đời sống của con người. Vì thế, chúng ta tìm mọi cách để có được bình an. Trong
quá trình tìm kiếm đó đã có không ít người nghĩ rằng: tiền bạc, danh vọng có
thể đem lại cho họ hạnh phúc và sự bình an. Do đó, họ tìm mọi cách kiếm cho
thật nhiều tiền, nhiều quyền. Đối với họ: “Đồng tiền là Tiên là Phật, là sức
bật của tuổi trẻ, là sức khoẻ của ông già, là cái đà danh vọng, là cái lọng che
thân, là cán cân công lý. Đồng tiền là hết y”. Với sức mạnh của kim tiền, có
những lúc, người ta có thể đổi trắng ra đen, nói trái thành phải. Họ nghĩ rằng
có tiền, họ có thể mua được mọi sự kể cả hạnh phúc. Nhưng thực tế có đúng như
vậy không?
Với kinh nghiệm của cuộc sống, hẳn mỗi người chúng ta đều nhận
ra rằng: Tiền bạc nay còn mai mất, nay trong tay ta mai ở trong tay người và
quan trọng hơn: Tiền bạc không mang lại cho ta sự bình an và không những nó
không mang lại hạnh phúc, mà lắm khi nó còn là nguyên nhân của biết bao nỗi bất
hoà, lục đục trong gia đình: giữa cha mẹ với con cái, giữa anh chị em với nhau.
Nó còn là nguyên nhân của biết bao cuộc tranh chấp, cãi vả thậm chí dẫn đến
việc người ta giết nhau, gia đình tan vỡ, anh chị em thưa kiện nhau cũng chỉ vì
đồng tiền.
Nhận ra được nỗi thao thức, khắc khoải của con người, Đấng Phục
Sinh, khi hiện ra với các môn đệ, cùng với việc trao ban Thánh Thần, Ngài đã
ban bình an cho các ông và cũng là cho từng người chúng ta: “Bình an cho các
con”. Bình an mà Thiên Chúa ban là sự bình an nội tâm khác hẳn với bình an của
con người.
1. Đặc điểm của bình an nội tâm
Bình an nội tâm mà Thiên Chúa ban không lệ thuộc vào ngoại cảnh,
thánh Phaolô kêu gọi chúng ta: “Hỡi anh em, hãy vui mừng trong Chúa” (Pl 3, 1).
Thánh nhân kêu gọi chúng ta vui trong Chúa, vì ngoại cảnh có thể không làm
chúng ta vui, nhưng trong Chúa, chúng ta vẫn có thể vui và bình an. Điều này
chúng ta dễ dàng nhận ra khi nhìn lại hoàn cảnh của các Tông đồ lúc bấy giờ.
Sau khi Thầy của mình đã bị bắt và giết, các ông hoang mang, lo lắng, sợ hãi
như lời tường thuật của thánh Gioan trong bài Tin mừng mà chúng ta vừa nghe:
“Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng
kín, vì sợ người Do Thái” (Ga 20, 19). Nhưng ngay sau đó, khi gặp được Đấng
Phục Sinh và nhận lãnh được Thánh Thần, các ông đã vui mừng cho dù ngoại cảnh
vẫn không thay đổi, như lời thánh Gioan kể lại cho chúng ta: “Bấy giờ các môn
đệ vui mừng vì xem thấy Chúa.” (Ga 20, 20). Các tông đồ vui mừng vì tìm lại
được Chúa là nguồn bình an. Và niềm vui thật sự và mạnh mẽ đó, các ngài đã
không thể giữ nó cho riêng mình. Các ngài đã biến niềm vui đó thành một hành
động thật cụ thể. Các ngài đã mạnh dạn mở tung cửa rao giảng tin mừng Phục Sinh
cho mọi người như trong bài sách Tông đồ Công Vụ chúng ta vừa nghe.
Như thế, bằng hai cách khác nhau, thánh Gioan và thánh Luca cùng
diễn tả đặc điểm của tâm hồn bình an. Đó là tâm hồn của một người không lệ
thuộc vào ngoại cảnh, một tâm hồn luôn quy hướng về Chúa, có Chúa ở cùng, một
tâm hồn chan chứa niềm vui. Sự bình an nội tâm đó còn được được tác giả Thánh
vịnh 4 diễn tả thật cụ thể như sau: “Thư thái bình an, vừa nằm con đã ngủ, vì chỉ
có mình Ngài, lạy Chúa, ban cho con được sống yên hàn.” (Tv 4, 9-10). Vâng, một
hình tượng thật cụ thể và cũng thật súc tích: “Thư thái bình an, vừa nằm con đã
ngủ”. Biết bao đêm trường chúng ta thao thức, trằn trọc cho dù tiền của, danh
vọng chúng ta không thiếu. Chúng ta thao thức bởi tâm hồn chúng ta không có sự
bình an. Sự bình an này không do chúng ta, nhưng là do ân ban của Thiên Chúa.
Và đây mới là sự bình an thực sự. Nhưng chúng ta phải làm thế nào để nhận lãnh
được sự bình an này?
2. Bình an nội tâm, điều kiện để lãnh nhận Thánh Thần
Trong bài Tin Mừng hôm nay, có lẽ không phải vô tình mà Đức
Giêsu trước khi thổi hơi và ban Thánh Thần cho các tông đồ đã lập lại một lần
nữa lời cầu chúc “Bình an cho anh em!”. Như vậy phải chăng để nhận lãnh Thánh Thần,
thì điều kiện quan trọng là phải có tâm hồn bình an? Và đồng thời bình an cũng
lại là kết quả của một tâm hồn tràn đầy Thánh Thần (x. Gl 5, 22)? Thực ra, điều
kiện quan trọng để nhận được Thánh Thần là phải có tình yêu đối với Thiên Chúa
và tha nhân, nghĩa là phải có tâm hồn trong sạch. Chính vì thế mà Giáo Hội buộc
những ai lãnh nhận bí tích Thêm Sức - tức lãnh nhận Thánh Thần - phải sạch tội,
nghĩa là có ân nghĩa với Thiên Chúa, yêu mến Thiên Chúa. Một khi đã sạch tội,
sống trong ân nghĩa với Thiên Chúa, sống theo tinh thần của Ngài thì đương
nhiên sẽ có sự bình an trong tâm hồn.
Sống theo tinh thần của Đức Kitô hay của Thánh Thần là sống tinh
thần hiệp nhất, vì như lời thánh Phaolô trong bài đọc hai tất cả chúng ta được
nhận lãnh cùng một Thánh Thần để làm nên một Thân Thể. Do đó, bình an này chỉ
đến với hoặc ở với những ai biết sống hiệp nhất kiến tạo hoà bình. Mặt khác,
bình an này cũng chỉ được ban cho những ai có lối sống siêu thoát xứng đáng với
nó. Những người chạy theo tinh thần thế tục, coi trọng tiền bạc, danh vọng, địa
vị hơn tình nghĩa, sống ích kỷ, vụ lợi, tham lam… không thể có được thứ bình an
sâu xa này. Do đó, thay vì nói có ân nghĩa và tình yêu đối với Thiên Chúa là
điều kiện để lãnh nhận Thánh Thần, có thể nói cách khác: bình an nội tâm là
điều kiện để lãnh nhận Thánh Thần. Thánh Thần có thể được ban cho người không
có bình an vật lý hay thể lý, nhưng chắc chắn không thể ban cho người không có
bình an nội tâm.
Tóm lại, để có được bình an, mỗi người chúng ta cần có một tâm
hồn trong sạch, ngay thẳng không quanh co dối trá. Vì thế, mừng lễ Chúa Thánh
Thần hôm nay, mỗi người chúng ta hãy dọn mình sốt sắng, để con người chúng ta
xứng đáng trở nên đền thờ cho Ngài ngự đến, nhờ đó, tâm hồn chúng ta luôn được
bình an và hạnh phúc. Sự bình an của một người có Chúa ở cùng. Amen.
22. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour
CHÚA HIỆN ĐẾN (20,19-20)
Cảnh tượng diễn ra có chiều ngày hôm ấy. Các tiểu đoạn trước xem
chừng không thay đổi cách hành xử của các môn đệ (ta có thể nghĩ rằng các môn
đệ ở đây ám chỉ nhóm Mười Một, dù rằng Lc 24,33 thêm “các bạn hữu” vào nhóm
Mười Một này). Các ông sống trong lo âu sợ hãi và trốn tránh. Chính trong nơi
cửa đóng then cài này mà Chúa Giêsu ngự đến. Sự hiện diện của Người không còn
lệ thuộc vào luật lệ thể xác và những điều bó buộc tự nhiên như những sự bó
buộc của con người với thể xác mình. Không thấy nói Chúa đi xuyên qua tường:
đơn giản Người có thể hiện diện cách khác hơn loài người.
Chúa đến, như thuở sinh thời, là nguồn bình an. Người nói “Chúc
anh em được bình an”, điều này không chỉ là một lời chúc xã giao, mà còn có
nghĩa là món quà hữu hiệu của ơn cứu độ, của niềm vui và của sự bình an. Các
dấu vết đóng đinh trên tay và cạnh sườn của Chúa Giêsu chứng tỏ rằng, bất chấp
các tình huống kỳ lạ về sự xuất hiện của Chúa Giêsu, thánh sử không muốn rằng
độc giả xem Chúa như một bóng ma, nghĩa là ai đó khác với Đấng chịu đóng đinh.
Hẳn thật sự hiện diện thể lý bình thường của Chúa Giêsu đã chấm dứt, tuy nhiên
con người đang đứng ở giữa họ là Chúa Giêsu, nghĩa là cũng một con người như
Đấng họ đã biết và y trong, nhưng mà từ nay sự Phục Sinh đã làm biến đổi. Sự lo
âu sợ hãi tiêu tan, các môn đệ hân hoan vui mừng.
SỨ VỤ (20,21-23)
Những lần hiện ra tự nó không nhằm mục đích riêng. Chúng mở màn
cho một sứ vụ. “Như”: đây không chỉ là một sự so sánh, đây là căn nguyên và nền
móng. Các môn đệ được sai đi (theo từng chữ “làm Tông đồ”) để kéo dài hoạt động
của Chúa Giêsu. Đây là lần đầu tiên trong Tin Mừng của mình, Gioan gán tước
hiệu Tông đồ cho nhóm Mười Một. Chủ đề sai đi này đã được trình bày sâu rộng
trong diễn từ tư tế (17,17-19). Như Thiên Chúa đã thổi sinh khí trên Ađam (St
2,7), như Thần Khí đã ngự xuống trên Chúa Giêsu (1,33-34), Chúa Giêsu mà Thiên
Chúa đã tôn làm Chúa, thổi (cũng động từ Hy Lạp ở đây như trong St 2,7) quyền
năng của Thần Khí trên các môn đệ (x. 14,26). Người là Đấng đến để có kinh
nghiệm về cái chết, tự tỏ mình ở đây như là Chúa Tể sự sống. Còn các môn đệ,
cho đến lúc ấy còn sợ hãi, bây giờ mặc lấy sức mạnh của Thiên Chúa. Như Thiên
Chúa, rồi Đấng được sai đến là Chúa Giêsu, họ có thể tha tội, nghĩa là thanh
tẩy tội lỗi trong quyền năng cái chết cảu Chúa Giêsu. Thần Khí kết buộc họ với
Thiên Chúa chặt chẽ đến nỗi, khi họ được tha cho ai hoặc cầm giữ tội của ai,
thì chính Thiên Chúa qua họ mà tha cũng như cầm giữ tội lỗi. Chúng ta có ở đây
một dạng văn phạm gọi là “thì thụ động thần linh” nhằm tránh tên gọi Thiên Chúa
qua thì thụ động. Ta có thể dịch như thế này: “Bất cứ người nào anh em tha…
Thiên Chúa sẽ tha tội cho họ… Bất cứ người nào… Thiên Chúa sẽ cầm giữ tội họ”.
Chúa đến lần này, cũng như lần tiếp theo, đều diễn ra vào “ngày
của Chúa’, nghĩa là vào lúc các Kitô hữu tiên khởi hội họp cử hành phụng vụ,
thời điểm đặc biệt để Thiên Chúa hiện diện với cộng đoàn của Người và mỗi khi
họ tập hợp để bẻ bánh cũng là mỗi lần hiện thực hóa một lần nữa việc sai họ đi
khắp thế gian.
Chiều ngày thứ nhất trong tuần...
Trong Tin Mừng theo thánh Gioan, Thánh Thần được trao cho các
tông đồ, ngay chiều Phục sinh, trong bước đầu của cuộc sống lại, và Giáo hội
được khai sinh nhờ khí thế của Đức Giêsu. Trong trình thuật trên, so sánh với
bản văn của Luca trong Công vụ Tông đồ, Đức Giêsu xem ra giữ ưu thế hơn Thánh
Thần. Thánh Gioan giúp chúng ta quen nhận ra trong Tin Mừng của ông, một nội dung
thần học phong phú, nhờ các biểu tượng Kinh Thánh.
“Ngày thứ nhất trong tuần”. Một thế giới mới khởi sự một cuộc
tạo dựng mới. Đó là một Sáng Thế mới. Thiên Chúa lại cầm “con người" trong
bàn tay, và nhào nắn nó lại trong một thứ "đất sét" hoàn toàn mới.
Và từ hôm đó, các Kitô hữu không ngừng tụ họp lại từ “ngày thứ
nhất trong tuần" này đến ngày thứ nhất trong tuần khác.... từ Chúa nhật
này đến Chúa nhật khác. Giáo hội phát sinh từ cuộc tập họp nhịp nhàng như thế,
trong suốt dòng thời gian, ngày nay vẫn còn tiếp diễn. Cần phải tổ chức những
Chúa nhật, để giúp mọi Kitô hữu dần dần... sống nhịp theo những lần "hiện
đến" của Đức Giêsu. Chúng ta không thích "nghĩa vụ dự lễ Chúa
nhật" một cách nhạt nhẽo, với vẻ bề ngoài quá vụ luật. Vì đó là một nhu
cầu sống! "Cần phải thở hít mà"? Do đó, không phải một năm chỉ dự lễ
một lần.
Nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do
Thái.
Sợ hãi! Thế giới của chúng ta luôn được xây dựng trên sợ hãi.
Ngăn ngừa nguyên tử, là vì nó "gây khiếp sợ".
Trước khi đi sâu hơn vào cầu nguyện, tôi cần phải nhìn thẳng
thắn vào đời sống riêng tư của mình, xem những nỗi sợ hãi của tôi là gì? Nơi
"xảy ra biến cố Phục sinh", là nơi mà các môn đệ đóng cửa, tự đề
phòng, là nơi họ đang sợ sệt.
“Nơi" mà Thần Khí Thiên Chúa có thể xuất hiện trong tâm hồn
tôi, đó là điểm gây thương tích nội tâm, là nơi dễ bị tổn thương, rủi ro, đau
khổ.
Đối với tôi tình huống nào làm tôi dễ "đóng cửa then cài”?
Trường hợp, tội lỗi, băn khoăn nào thường đồng kín tôi? Thánh
Phao lô đã ý thức về thực tại này, như một kiểu chết chóc: "Sự chết hoạt
động nơi chúng tôi... Nhưng, chúng tôi không chán nản, bởi vì, dù con người bên
ngoài của chúng tôi có tiêu tan đi, thì con người bên trong của chúng tôi ngày
càng đổi mới... Thật vậy, một chút gian truân tạm thời: trong hiện tại sẽ mang
lại cho chúng tôi cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời" (2 Cr 4, 12.
16. 17).
Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông
Không phải ngẫu nhiên mà Gioan liên kết biến cố Phục sinh của
Đức Giêsu với việc trao ban Thần Khí. Trong Kinh Tin Kính, chúng ta quả quyết
rằng, Thánh Thần là "Thiên Chúa, là Đấng ban sự sống". Việc trao ban
sự sống này, trước hết chính Đức Giêsu đã đón nhận: khi lôi kéo Đức Giêsu ra
khỏi quyền lực của tử thần, Thần Khí của Thiên Chúa đã đạt thành tích của bậc
thầy!
Trong con người thụ tạo của ta, vì không phải là thần linh, nên
mang tính hữu hạn, thì "tinh thần" và "thân xác" liên kết
với nhau trong mọi tình huống. Nhưng dù mạnh đến đâu, tinh thần trong ta cũng
nhận ra một suy sụp cuối cùng, không cho phép nó cầm giữ lại thân xác của mình:
“con người" cũng có nghĩa là phải chết! Nhưng trước vũ trụ thụ tạo hay
chết đó, Đức Ki tô không những được trang bị những năng lực hữu hạn của tinh
thần con người, nhưng Người còn nhận được những năng lực vô biên dành riêng cho
Thiên Chúa. Đức Kitô mang trong mình một Thần Khí hoàn toàn khác với tinh thần
của con người, nên không sử dụng Thánh Thần, là Đức Chúa và là Đấng ban sự
sống? Đức Giêsu phá bỏ mọi thứ rào cản sự kiện Ngài đột nhiên xuất hiện giữa
các môn đệ đang bị nhốt kín, chứng tỏ rằng Người không để cho bất cứ một chướng
ngại vật nào có khả năng cầm giữ được Người đến "đứng giữa các người thuộc
về mình. Sáng nay, Người đã nhận một luồng sinh khí đặc biệt mới mẻ, biến Người
trở thành một "thân thể thiêng liêng", một thân thể được sống sự sống
của Thánh Thần tác động (1 Cr 15, 44). Trước khi trực tiếp trao ban Thần Khí
cho các bạn hữu của mình, Đức Giêsu
Phục sinh đã được Thiên Chúa Cha Người, ra tay uy quyền nâng lên
cao và trao cho Người Thánh Thần đã hứa" (Cv 2,33). Chính Thánh Phêrô đã
công bố mạc khải kỳ diệu trên, vào ngày Lễ Hiện Xuống.
Vâng, sự Phục sinh là một công trình, của Thánh Thần.
Người cho các ông xem tay và cạnh sườn
Bạn muốn tìm nơi xuất hiện biến cố Phục sinh: Bạn sẽ thấy khó
phát hiện ra sự hiện diện của Thần Khí?
Do đó, hôm nay, bạn hãy cố khám phá ra những vết sẹo những
thương tích đang ở đâu trong trái tim, trong đời sống bạn, cũng như trong thế
giới hay trong Giáo hội.
Chúc anh em được bình an! Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.
Từ sợ hãi đến vui mừng, nhờ lời chúc bình an.
Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.
Họ đang bị "nhốt kín", giờ lại được "sai
đi".
Việc sai đi thi hành sứ vụ, không hẳn được nhìn theo quan điểm
một tổ chức nào đó: không phải là một thứ "xí nghiệp" quảng cáo được
trang bị đầy đủ đồ hàng. Và Đức Giêsu không thực dụng giúp Giáo hội bước vào
con đường “thừa sai" Theo Người, chỉ có một điều quan trọng: đó là nguồn
gốc phát sinh công cuộc thừa sai: “mối dây thân mật liên kết Đức Giêsu với Chúa
Cha". Thực vậy, chỉ có một sứ vụ: sứ vụ của Chúa Cha, cũng là sứ vụ của
Đức Giêsu, và trở thành sứ vụ của Giáo hội.
Nói xong, Người thổi hơi vào các ông
Ở đây Gioan sử dụng một thứ ngôn ngữ Kinh Thánh, đặc biệt ám chỉ
tới hai bản văn sáng giá sau đây:
Cuộc tạo dựng đầu tiên: "Thiên Chúa thổi vào mũi con người
một sinh khí" (St 2,7).
Cuộc sáng tạo cuối cùng: "Hãy thổi vào các bộ xương chết
khô này, để chúng được sống” (Ed 37,9).
Có một cuộc sáng tạo trong, quá khứ đó là sự phát sinh sức sống
đầu tiên lúc khởi sự thời gian. Cũng sẽ có một cuộc sáng tạo trong tương lai,
đó là sự sống lại sau cùng, vào ngày tận thế. Nhưng luôn có một cuộc sáng tạo
hiện hành: đó là "Hơi thở" của Thiên Chúa đang hoạt động. Tôi tin
Thánh Thần là Thiên Chúa, và là Đấng ban sự sống!
Đó là hơi thở mang sức sống! Tự nhiên bạn lại không thấy mình có
khả năng để diễn tả sự hiện diện của Thiên Chúa và hoạt động của Người trong
thế giới, nhờ vào sự kiện thông thường nhất nhưng cũng cốt thiết nhất: đó là
hít thở hay sao? Mọi sinh vật, từ vi sinh vật cho đến những ác thú lớn lao, đều
hít thở cùng một thứ ô-xy, được cống hiến cho tất cả chung quanh hành tinh
chúng ta. Thế nên, chính tôi cũng hô hấp hơi thở của mọi sinh vật. Đó là hình
ảnh cảm kích về Thiên Chúa duy nhất, Đấng làm cho tất cả chúng ta sống động!
Khi đàm đạo với ông Nicôđêmô, Đức Giêsu đã dùng chính hình ảnh đơn sơ về gió
trên đây: "Gió muốn thổi đâu thì thổi. Gió làm cho sống động" (Ga
3,6-8).
Anh em hãy nhận lấy
Tôi cầu nguyện theo lời mời gọi trên. Tâm trạng của người thời
nay không thích "nhận": người ta từ chối việc lệ thuộc kẻ khác. Đó là
thứ tội nguy hiểm nhất: tự phụ mình "như thần thánh". Nhưng điều đó
đâu có thuộc quyền năng của con người. Dù muốn hay không, con người vẫn là một
sinh vật phải lệ thuộc, hoàn toàn phải phụ thuộc: Con người cần đón nhận sự
sống để sống. Tôi nhận lãnh sự sống từ cha mẹ. Tôi nhận lấy sự sống của mặt
trời, giúp tôi có lương thực. Tôi tùy thuộc vào từng ngàn sự việc, từng ngàn
con người, và rất nhiều điều kiện.
"Hãy nhận lấy mà ăn. Này là Mình Thầy". Cần phải
"nhận "lãnh" "Thân Thể". Nên cũng cần phải "nhận
lãnh" Thần Khí đó!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết tiếp nhận, biết đồng ý nhận
lấy ân huệ mà Chúa trao ban.
Thánh Thần
Nhân loại cần đón nhận cộng đồng Thần Khí hiện hữu giữa Chúa Cha
và Chúa Con. Dù nhiều, nhưng chỉ là một! Như thế, chúng ta cũng khám phá ra
rằng, trong sứ vụ của Giáo hội, không chỉ có Chúa Cha và Chúa Con mà Người sai
gửi đến, nhưng là mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa.
Giáo hội, như Công đồng Vatican II nói, là sự mở rộng tới mọi
người, cộng đồng yêu thương luôn liên kết Ba Ngôi Thiên Chúa.
Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai,
thì người ấy bị cầm giữ.
Vai trò và sứ vụ của Giáo Hội là loan báo ơn tha thư và hồng
phúc cứu độ! Diễn tiến của trang Tin Mừng theo thánh Gioan trên đây thật sống
động:
Một cộng đồng những con người đã trải qua kinh nghiệm với Chúa
Phục sinh.
- Việc sai gửi đi thi hành sứ vụ của cộng đồng này phát sinh từ
kinh nghiệm ai đó.
- Việc thông ban Thánh Thần làm cho cộng đồng có khả năng thi
hành sứ vụ.
Sứ vụ đó chính là thông truyền ơn cứu độ, sự tha thứ, sự Thánh
thiện.
Như thế, vai trò của Giáo hội là giải phóng! Là cống hiến tình
yêu vô biên của Thiên Chúa. Kiểu nói đối chiếu, có tinh tiêu cực trên đây, hiển
nhiên không có nghĩa là: Giáo hội có thể hành xử một thứ quyền phán quyết độc
đoán. Đừng bao giờ nên hỏi: "Liệu Thiên Chúa có tha thứ cho tôi không?
Thập giá của Đức Giêsu đã trả lời cho câu hỏi này. Nhưng quan trọng, vẫn là câu
hỏi: Liệu tôi có "lãnh nhận" ơn tha thứ đó không?
24. Chú giải của Fiches Dominicales
NGÀY ĐẦU TIÊN CỦA TẠO THÀNH MỚI ĐỨC GIÊSU PHỤC SINH THỔI HƠI VÀO
CÁC MÔN ĐỆ VÀ BẢO ANH EM HÃY NHẬN LẤY THÁNH THẦN
1/ Đấng Phục sinh chủ động đến.
Các môn đệ tụ họp trong một căn phòng đóng kín cửa. Họ sợ người
Do Thái, đúng hơn, sợ các vị chức sắc trong giáo quyền Giêrusalem. Với chi tiết
này, có lẽ tác giả muốn các độc giả Tin Mừng của mình liên tưởng đến các cuộc
bách hại mà tới lúc này đã lan rộng. Bị trục xuất khỏi hội đường vì dám tin
nhận Chúa Giêsu là Đức Kitô (người mù bẩm sinh bị đuổi khỏi hội đường: Ga
9,34). Họ như dần dần được chỉ dẫn đức tụ họp ở một nói riêng tránh sự dòm ngó
của những kẻ bách hại họ.
Họ tụ tập. Đức Giêsu đến trước mặt họ. Lời đầu tiên Người nói là
lời cầu chúc bình an: Bình an cho anh em (Shalom). Không chỉ là lời chào xã
giao, nhưng là một xác nhận ân huệ phát sinh: vui mừng, bình an.
2/ Nhận ra Đức Giêsu đang sống sau khi biết rõ người đã chết.
Đức Giêsu chỉ cho họ thấy tay và cạnh sườn Ngươi (liên tưởng tới
lưỡi giáo đâm: Ga 19,34). Alain Marchadour chú giải rằng: Dù thuật lại những
lần hiện ra lạ lùng của Đức Giêsu, thì những vết đinh đóng và cạnh sườn bị đâm
thủng chứng tỏ rằng thánh sử không muốn độc giả lầm tưởng đó là bóng ma, nghĩa
là, một ai khác chứ không phải Đấng chịu đóng đinh. Đúng ra, sự hiện diện thể lý
thông thường đã chấm dứt, nhưng Đấng đã hiện diện trước mặt họ đây, chính là
Đức Giêsu họ biết là yêu mến, từ nay đã thăng hoa bởi sự phục sinh. Không sợ
hãi nữa, các tông đồ trở nên vui mừng" ("L'evangile de Jean,
Centurion". trg 246).
3/ Tiếp nhận sứ mệnh Đấng Phục sinh trao.
Đấng Phục sinh hiện đến, không phải chỉ là một chuyến ngao du,
nhưng còn để trao một sứ mệnh. Sai họ đi với sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Để
đem Tin Mừng ơn Tha Thứ của Thiên Chúa đến cho mọi người.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Một hơi thở nhẹ như làn gió thoảng.
Làm thế nào mà một hơi thở từ cửa miệng lại có thể trở thành cơn
bão trong lịch sử? Người ta sẽ không bao giờ nói cho hết được về làn gió thoảng
đổi mới vũ trụ này. Từ buổi bình minh của vũ trụ, nó đã lên tiếng ngợi ca làm
bừng lên dòng nhựa sống đầu tiên. Ngôn sứ Êdêkiel đã trông thấy nó làm sống lại
cả một cánh đồng đầy xương khô: đó là hình ảnh dân tộc bị lưu đày biệt xứ và bị
hạ nhục vào thế kỷ thứ VI trước Công nguyên. Và giờ đây, Đức Giêsu đang mấp máy
môi, dường như để ban cho các bạn hữu của Người đang hoảng sợ một linh hồn
khác: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Chính Thần Khí này đã bay lượn trên làn nước nguyên sơ, đã vực
các ngôn sứ đứng lên, đã đánh thức cả một dân tộc đang mê ngủ. Trong ngôn ngữ
Hípri. từ Thần Khí thuộc giống cái. Dường như hơi thở của Thiên Chúa có chức
năng từ mẫu là sinh sản một nhân loại tương lai, tương lai mà Người muốn cho họ
được hưởng.
Hiệu quả của nó thật là khôn lường và ấm áp. Còn đâu nữa cánh
cửa cài then vì sợ hãi. Nhưng bình an đang tỏa lan trên những khuôn mặt. Bình
an vì không còn chinh chiến. Bình an của tâm hồn. Họ ra đi người này đến với
người kia như những người được Thiên Chúa sai đi, giống như chàng thợ mộc thành
Nadarét xưa đã chứng tỏ tình thương của Chúa Cha bằng những việc làm đầy tình
thương xót. Họ sẽ mạnh hơn cả tội lỗi vốn làm méo mó, ti tiện và xuyên tạc hình
ảnh con Người. Vì Thiên Chúa đã ban cho họ năng lực biến đổi của Người là ơn
tha thứ, một sức mạnh lạ lùng nhất của vũ trụ, có thể biến đổi những con người
lúc này và mãi mãi muôn đời.
Họ sẽ không quên những thương tích của Đấng Công chính bị tử
hình vì dòng họ đi đôi khi sẽ là gian khổ. Họ sẽ không quên lời Người nói vì
như lời Người, men của họ sẽ làm dậy các tâm hồn. Họ sẽ không quên các việc
Người làm, vì nhờ đó, họ sẽ lay chuyển và luôn thúc đẩy mọi người, mọi nhóm,
mọi xã hội lại cất bước lên đường. Không hoàn cảnh thực tế nào sẽ làm cho những
hạt giống này chết đi và làm tiêu ma sự bảo đảm của Thiên Chúa. "Các môn
đệ lòng đầy hân hoan”.
Liệu chúng ta có biết lắng nghe và cảm nhận luồng hơi thở nhẹ
như gió thoảng kia là sự sống của Thiên Chúa chăng?
2. Người Canh tân bộ mặt địa cầu:
Thần Khí luôn luôn đi đôi với những gì là đổi mới, là tái tạo là
cởi mở và giải thoát, là sai đi và qui tụ. Người là tác nhân không mệt mỏi luôn
canh tân và hiện tại hóa mọi sự. Từ một đám đông gồm nhiều thành phần khác
nhau, Người làm nẩy sinh và khơi dậy sự hiệp nhất và cả tình hiệp thông.
Là nguồn sự sống không bao giờ cạn kiệt, Thần Khí không ra khỏi
thế giới sau hành động ban đầu còn ghi trong sách Sáng thế. Và cũng vậy, sự can
thiệp "ồn ào" của Người nơi các môn đệ hoảng sợ đến tê liệt, không
phải là lễ Hiện Xuống duy nhất và cuối cùng, chỉ gợi cho lòng ta luyến tiếc mỗi
khi nhớ lại mà thôi Thiên Chúa không ngừng gởi hơi thở của Người đến và ta vẫn
còn có thể nghe biết Người, tuy không biết hơi thở từ đâu đến và sẽ đi đâu. Thế
nhưng, người ta có thể cảm nhận rõ sự hiện diện và hoạt động của Người đem lại
hiệu quả thực sự. Thần Khí mở toang mọi cánh. Người làm cho người ta phải bung
ra khỏi những bức tường khép kín và giã từ những tổ ấm được coi là an toàn,
vững chắc và đạo đức phô trương.
Thần Khí đánh thức, chỉ trích và uốn nắn. Người dứt ta ra khỏi
niềm luyến tiếc về quá khứ, khỏi nỗi nhớ nhung tìm lại "thiên đường đã
đánh mất" để hòa nhập với hiện tại luôn biến chuyển như bãi phù sa, cho
lòng ta tràn đầy hy vọng để chuẩn bị cho ngày mai. Thần Khí làm trẻ lại những
con người trì trệ, khiến người bại liệt đứng dậy và chạy nhảy. Người ban cho
những ai bị suy sụp tinh thần vì thứ tôn giáo sợ sệt, vì thứ lề luật cứng ngắc
và mù quáng và vì những mớ giáo lý khô khan, tìm lại được can đảm, mạnh bạo về
niềm vui. Thần Khí dẫn ta vào cốt lõi của Thiên Chúa, và của con người: tức là
chân, thiện, mỹ, nghĩa là mối quan hệ hoàn hảo, sự truyền thông thành công, sự
hiệp thông. Thần Khí không phải là Thiên Chúa tự hiến mình đó sao? Và hoa quả
đầu tiên mà người đem đến cho kẻ tiếp nhận Người, không phải là đức ái đó sao?
Cũng phải kể là dấu chỉ của Thần Khí, khi tính đồng nhất nhường
chỗ cho sự hiệp nhất, khi tính đa dạng được canh tân nhờ những ân huệ và đặc
sủng, nhờ những chức năng và hoạt động, đẩy lui được những cám dỗ muốn thống
trị và độc quyền, tính cạnh tranh là ghen tuông, tính tự tôn và những phán
quyết không thể thay đổi. Thần Khí là sự dịu hiền và là sức mạnh, là nước và
ánh sáng, là quyền năng và êm ái. Người là tiếng thì thầm và là gió bão, là lửa
cháy. Người canh tân bộ mặt trái đất.
3. Chúa Thánh Thần hiện tại hóa sự hiện diện của Đấng Phục sinh
trong đời sống Kitô hữu.
Đức Giêsu hứa sẽ gởi Chúa Thánh Thần đến cho các môn đệ, khi
Người “vượt qua” trần thế để về cùng Cha, như vậy chắc hẳn ân huệ của Thánh
Linh liên hệ rõ rệt với mầu nhiệm vượt qua. Tiếp nối sự hiện diện hữu hình của
Đức Giêsu, giờ đây là một quan hệ khác với người, quan hệ trong Thánh Thần,
Đấng được mô tả như là:
- "Paraclet", Đấng bảo trợ, bênh vực nơi tòa án trong
vụ kiện chống các nhân chứng, giống như Đức Giêsu.
- "Thầy chân lý", giống như Đức Giêsu, chứng nhân của
chân lý (18,37). Người được Chúa Cha ban "để ở với anh em luôn mãi"
và ở với mọi người được sai đi. Thánh Linh như chính Đức Giêsu, hiện diện bên
các môn đệ suốt thời kỳ của Hội Thánh.
Hoạt động của Người nơi các tín hữu được mô tả là:
- Người là tác nhân tạo nên sự trung thành với Lời của Đức Giêsu
và Tình yêu của Người.
- Người là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện: "Chúng ta sẽ đến
và ở lại với người ấy".
- Người dần dần dẫn dắt họ tới sự hiểu biết đầy đủ sứ điệp của
Đức Giêsu: "Người sẽ giúp anh em nhớ lại mọi điều”. Với tư cách Đấng Bảo
Trợ, là Hiện diện, là Ký ức, Thần Khí hiện tại hóa sự có mặt của Đấng Phục sinh
trong cuộc sống người Kitô hữu.
25. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
THẦN KHÍ CỦA ĐẤNG PHỤC SINH
1. Vào chiều phục sinh, Chúa Giêsu đã hai lần chúc cho các tông
đồ đang hội họp (có lẽ tại nhà Tiệc ly): “Bình an cho các con”, và giữa hai lần
chúc này, Ngài tỏ cho họ thấy dấu đinh nơi chân tay và vết đâm cạnh sườn Ngài.
Lời cầu chúc trước và sau khi nhắc lại cuộc tử nạn xem ra rất phù hợp với một ý
hướng đặc biệt của Chúa Giêsu. Thật vậy, việc lặp lại lời chúc này cho thấy đây
không phải là một công thức chào hỏi thông thường, như là thứ bình an hòa lẫn
với các dấu vết cuộc tử nạn, và như thế vượt quá bình an thông thường. Nỗi đau
khổ biệt ly không thể biến thành một niềm vui chóng qua làm ta quên mất cuộc tử
nạn. Nỗi khổ đau ấy phải trở nên một niềm vui hằng cửu, được chín mùi trong đau
khổ; đó là niềm vui của Chúa Giêsu cũng như của các môn đệ, thứ niềm vui không
ai có thể cướp mất được (16,20-22). Niềm vui này là niềm vui của mùa gặt, kết
quả của sức cần lao và khổ cực của cuộc tử nạn (4,38; 17,13).
2. Nếu phải có thần khí trợ giúp, các môn đệ mới hiểu được “chân
lý” huống hồ để làm cho người khác hiểu chân lý, các ông phải cần đến thần khí
dường nào nữa. Cũng như Thiên Chúa đã thổi hơi sự sống cho con người đầu tiên
(St 2,7; Kng 15,11). Cũng vậy, Chúa Giêsu hôm nay thổi Thánh thần, hơi thở Thần
linh cho các môn đệ (ruah trong tiếng Hy bá, và pneuma trong tiếng Hy lạp đều
có nghĩa: hơi thở, gió). Giờ đây, họ được tái tạo để thi hành sứ mệnh. Việc
trao ban thần khí ở đây không chủ yếu nói lên việc tái sinh các môn đệ trong
nước trời và trong sự sống siêu nhiên (3,3-8), nhưng nhằm đến sứ mệnh được trao
cho họ: sứ mệnh thôi thúc kẻ khác đến cùng chính sự sống ấy.
3. Tại sao Thần khí đã được trao ban cho các môn đệ ngay từ ngày
Chúa phục sinh, trong lúc đó Giáo hội sơ khai cho rằng Thần khí được tuôn tràn
trong dịp lễ Ngũ tuần (Cv 2,1-4). Lc chỉ nói đến một lời hứa sẽ được thực hiện
vào lễ ngũ tuần (Lc 24,49), nhưng ông đưa về tác phẩm thứ hai của ông là sách Cv,
còn Gioan thì không. Như vậy thần khí phải chăng là một sản phẩm có điều kiện?
hoặc thần khí được trao ban cách “nhỏ giọt”?
Đã có nhiều câu giải đáp. Sau đây là hai cách giải đáp khá hấp
dẫn:
a. Theo một vài tác giả, thật là sai lầm khi muốn dung hòa Gioan
và Công vụ, bằng cách giả thiết Gioan nói đến việc trao ban Thần khí lần thứ
nhất, còn Luca nói đến việc trao ban Thần khí lần thứ nhì. Không có một dấu chỉ
nào cho thấy hai tác giả của hai tác phẩm này biết tới hoặc để ý tới vấn đề mà
tác giả kia bàn đến. Và như tế người ta có thể nói mỗi tác giả đều mô tả cùng
một biến cố: chỉ có một thần khí được Đấng phục sinh và lên trời trao ban cho
các môn đệ. Nhưng hai tác giả phúc âm đã diễn tả cách khác nhau tùy khuynh
hướng, thần học riêng của mỗi người. Chúng ta không thấy hiện tượng các tác giả
trình bày khác nhau cùng một biến cố thuộc sứ vụ Chúa Giêsu đó sao? Đặc biệt
Gioan và Công vụ chỉ định hai thời gian khác nhau cho việc trao ban cùng chính
một thần khí không phải là một chướng ngại bất khả vượt. Như nhiều kẻ đã lưu ý,
ngày giờ mà Chúa Giêsu hiện ra lần đầu tiên cho các môn đệ, theo Gioan ghi
chép, chỉ có tính cách giả tạo, vì hình như Galilê mới là nơi được hẹn để hiện
ra lần đầu tiên hơn là Giêrusalem (x. Mc 16,7 và Mt 28,7), và nếu vậy thì đương
nhiên loại bỏ việc xem ngày chúa nhật Phục sinh như là ngày Chúa hiện ra lần
đầu tiên. Còn sách Cv lại mang nhiều yếu tố biểu tượng trong việc chọn ngày lễ
Ngũ tuần, vì Lc dùng (như là hậu cảnh) chủ đề giao ước Sinai, chủ đề mà ông sẽ
nối kết với lễ ngũ tuần khi diễn tả việc thần khí đến. Dù sao, có thể Lc đã giữ
lại một kỷ niệm xác thực về việc Thần khí lần đầu tiên đã hiện xuống trên cộng
đoàn tiên khởi vào một ngày lễ ngũ tuần nào đó. Điểm đáng chú ý là hai tác giả
đều đặt việc trao ban thần khí sau khi Chúa Giêsu đã về với Chúa Cha, dù hai
ông đã quan niệm việc về cùng Cha cách khác nhau. Vì thế, với một ít lý do xác
đáng, ta có thể nói Ga 20,22 trình bày “lễ hiện xuống” theo nhãn quan Gioan
(Pêntêcôte johannique).
b. Cách giải đáp thứ hai theo một đường khác, có tính cách thần
học hơn là chú giải. Một số tác giả quan niệm việc trao ban thần khí được thực
hiện cách tiệm tiến. Thần khí không phải là một chân lý tĩnh, để trong túi như
một đồ vật quí giá. Đối với tín hữu, Thần khí là sự sống tuyệt hảo. Ngài được
trao ban không ngừng không những vào dịp lễ ngũ tuần, mà sau đó nữa. Việc tuôn
tràn thần khí dịp phục sinh, Hiện xuống và các dịp sau đó đều là những dấu chỉ
của cùng một thực tại đã biến đổi thế giới (3,3-8), từ khi Chúa Giêsu được tôn
vinh (7,37-39). Việc phân biệt hai lần trao ban thần khí và lễ phục sinh và lễ
ngũ tuần chỉ là phụ tùy, nhất là đối với Gioan, vì theo ông, hai biến cố này
phát xuất từ cùng một “giờ”. mọi cuộc tuôn đổ thần khí chỉ là một. Ngày phục
sinh, các môn đệ nhận thần khí để thi hành sứ mệnh; Thần khí trở lại trên họ
khi dân mới của Thiên Chúa được thiết lập (Cv 2,1-4) và sau đó Thần khí tiếp
tục phù trợ họ.
Thật khó mà biết phải chọn lối giải thích nào. Dù sao đây là vấn
đề phụ thuộc, vì những thế hệ Kitô hữu đầu tiên không mấy lưu tâm đến vấn đề,
bởi lẽ họ thâu nhận vào trong kinh điển các sách linh ứng cả hai cách trình bày
việc trao ban Thần khí.
4. Quyền tha tội và cầm tội trao ban ở đây cho các tông đồ và
những người kế vị trong Giáo hội Đức Kitô, được diễn tả rõ ràng qua chính những
lời của Chúa; mà truyền thống Kitô giáo luôn công nhận, chính những lời của
Chúa; mà truyền thống Kitô giáo luôn luôn công nhận như là lời thiết lập bí
tích cáo giải. Đó là điều đã được công đồng Tridentinô định tín (Ds 1670,1703)
chống lại phái Luthêrô; những người này chỉ cho đó là quyền rao giảng sự tha
tội cho các tín hữu hối cải ăn năn.
KẾT LUẬN
Cũng như đã được Cha sai, Chúa Giêsu sai các môn đệ vào trong
thế gian để tiếp tục công việc của Ngài. Những lời nói của Ngài đây cũng chính
là những lời Ngài đã dùng trong lời nguyện hiến tế ở chương 17 (c.8). Lần này
nói cho các tông đồ, các lời ấy củng cố họ trong ơn gọi họ. Từ đây các ngài ra
mắt với thế gian nhân danh Đức Kitô Phục sinh và trong quyền năng của thần khí.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Khi thông ban thần khí Ngài cho các tông đồ, Chúa Giêsu đã
thổi hơi trên họ và phán: “Hãy lãnh nhận Thánh Thần”. Cử chỉ của Chúa Giêsu
tiếp nối một trong những đề tài được ưa chuộng nhất trong Thánh Kinh: Thánh
Thần, hơi thở của Thiên Chúa. Và có lẽ đây là hình ảnh minh bạch nhất để nói về
Thần Khí: Ngài giống như luồng gió thổi.
Người ta không thấy gió, không biết nó đi từ đâu và ngừng lại
chỗ nào. Dĩ nhiên, nhà khí tượng học có thể đưa ra cho chúng ta nhiều lý thuyết
về việc phát sinh và tàn lụi của các trận bão. Nhưng người đang bị gió bão cuốn
đi thì chỉ có một ấn tượng mình bị bao bọc bởi một cái gì huyền bí và mãnh
liệt. Thật vậy, gió rít gào và gầm thét. Gió bẻ gãy, uốn cong và bứt tung.
Chính gió chở mây, mang bụi. Chính gió tàn phá và làm cho đất được hoa màu. Đó
là chủ tể của sự sống. Khi thì tưới mát, lúc thì đốt thiêu. Chúng ta không thấy
được gió, chỉ nhận ra nó qua bao hiệu quả muôn vàn.
Hơi thở của thần Thiên Chúa cũng vậy, Ngài hung hăng len lỏi
khắp nơi. Ngài bẻ gãy, bứt tung, tàn phá những gì trong chúng ta đang chống lại
tình yêu (dĩ nhiên với điều kiện chúng ta chiều theo hoạt động của Ngài, vì
Ngài bất lực trước tự do của con người từ khước) và Ngài cũng làm tươi mát,
biến đổi nên phì nhiêu những tâm hồn phó thác cho hoạt động của Ngài. Hơi thở của
Thiên Chúa không ngừng thổi trong tâm hồn chúng ta: ngọn gió của Thiên Chúa sẽ
đưa chúng ta đến nhà Cha hay không là tùy chúng ta.
2. “Các môn đô mừng rỡ": nỗi vui mừng này là do việc thấy
lại Chúa sau khi quá chán nản thất vọng. Họ đã hy vọng vào Chúa Giêsu, nhưng
thập giá đã làm cho họ nản lòng, và này đây Ngài lại hiện ra sống động, niềm hy
vọng lại được đảm bảo và củng cố. Nỗi vui mừng ngập tràn. Điều này nhắc lại cho
chúng ta nhớ rằng Thánh Thần Chúa Giêsu ban là thần khí của niềm vui.
Tin mừng mở ra với một mầu nhiệm vui: Thánh Thần, ngay từ đầu
cuộc hiện hữu nhân loại cùa Chúa Giêsu, đã tạo nên hai niềm vui lớn: Elizabet
chị họ Đức Maria, nhảy mừng vì được Mẹ Đấng cứu thế viếng thăm; và Maria, dưới
sự thúc đẩy của Thánh Thần hát lên niềm vui của mình trong kinh Magnificat. Ít
lâu sau đó, các thiên thần loan báo cho các mục đồng một cuộc đản sinh gây bao
phấn khởi vui mừng cho cả toàn dân. Thánh Gioan cũng nói “Abraham cũng hân hoan
khi nghĩ đến ngày xuất hiện hoa quả của thánh thần, ông đã được thấy và đã reo
mừng (Ga 8,56). Chúng ta có vui được niềm vui của kinh Magnificat vì thánh Thần
làm phát sinh trong ta niềm tin vào Đức Kitô không? Ngược lại hãy thử tưởng
tượng: nếu không có đức tin vào Đức Kitô, đức tin do Chúa Thánh Thần phát sinh
trong ta, thì chúng ta sẽ buồn bã biết chừng nào.
3. Chúa Giêsu nói cùng các môn đệ: “Hãy lãnh nhận Thánh Thần”.
Có nên giới hạn ý nghĩa lời Đức Kitô đây trong câu chuyện ghi lại các lần hiện
ra không? Không! Chúa luôn nghĩ đến sự hiện diện thường xuyên của Ngài trong
Giáo hội nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần. Thời gian của Giáo hội là thời gian
Thánh Thần hiện diện trong thế giới. Chúng ta có vui mừng khi nghĩ rằng Thánh
Thần làm cho Chúa Giêsu hiện diện trong đời sống chúng ta không?
4. Thiên Chúa ban cho chúng ta không những chỉ các hồng ân thụ
tạo và đầy giới hạn của Ngài, nhưng còn ban chính mình Ngài, với tự do của tình
yêu Ngài, với vinh phúc của cuộc sống Ba Ngôi. Ân huệ cao vời này, chúng ta gọi
là Thánh Thần. Ngài thuộc về chúng ta. Ngài hiện diện trong mỗi tâm hồn kêu cầu
Ngài với lòng khiêm nhường và tin cậy Ngài thuộc về chúng ta đến nỗi người ta
không thể nói con người là gì mà không thêm yếu tố này là Thiên Chúa cũng đã là
một thành phần trong sự hiện hữu của con người. Thiên Chúa đã trở thành Thiên
Chúa của chúng ta. Đó là tất cả sứ điệp của lễ Thánh Thần hiện xuống.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Chúa nhật tuần trước,
chúng ta đã mừng lễ Chúa Giêsu lên trời, kỷ niệm việc Ngài được về trời ngự bên
hữu Chúa Cha. Trước khi về trời, Đức Giêsu đã trao ban cho các môn đệ sứ mạng
rao giảng Tin mừng cho muôn dân để tiếp nối công việc cứu chuộc của Ngài. Sứ
mạng này thật vinh dự nhưng cũng không kém phần khó khăn. Cảm thông được với sự
giới hạn của thân phận các Tông đồ và của chúng ta, trước khi về trời, Ngài còn
căn dặn các Tông đồ hãy ở lại Giêrusalem chờ đợi điều Ngài đã hứa trước
kia:”Hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa... Ít ngày nữa, các con sẽ chịu phép rửa
trong Thánh Thần”. Lời hứa đó hôm nay đã thành hiện thực với việc Chúa Thánh
Thần được ban xuống cho các Tông đồ trong ngày lễ Ngũ tuần, mà chúng ta vừa
nghe trong bài 1 ở sách Công vụ Tông đồ.
Chúa Thánh Thần hiện
xuống để ban cho các Tông đồ bảy ơn cả của Ngài. Ngài đến đổi mới mặt địa cầu,
thay lòng đổi dạ các Tông đồ để biến các ông thành chứng nhân dũng cảm của Chúa
giữa lòng đời. Trong các ơn Chúa Thánh Thần đã ban cho Giáo hội, ta thấy Thánh
Thần là nguyên lý hiệp nhất. Ngài là ân huệ của Đấng Phục sinh, và là nguồn sức
mạnh nối kết muôn dân và các tín hữu nên một trong cùng một phép Rửa và một
niềm tin vào Đức Giêsu Kitô, như lời thánh Phaolô trong bài đọc hai:”Không ai
có thể nói: Đức Giêsu là Chúa mà lại không do Thánh Thần”.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Cv 2,1-11.
Đoạn sách Công vụ Tông đồ
hôm nay tường thuật việc Chúa Thánh Thần ngự xuống trên cácTông đồ. Thánh Luca
cho biết: vâng theo lời căn dặn của Đức Giêsu Phục sinh, các Tông đồ họp nhau
lại trong nhà Tiệc ly, tại Giêrusalem, chờ đợi điều Đức Giêsu đã hứa: đón nhận
Chúa Thánh Thần.
Khi các Tông đồ đang hội
họp nhau cầu nguyện thì sự kiện lạ lùng xẩy ra: từ trời phát ra một tiếng động,
như tiếng gió mạnh ùa vào đầy căn nhà. Tiếp theo người ta nhìn thấy những gì
như hình lưỡi lửa đậu trên đầu mỗi Tông đồ, và ai nấy được đầy tràn Chúa Thánh
Thần. Sau đó, mọi người nói được các thứ tiếng lạ khác nhau, ai nghe cũng hiểu
được.
Các hình biểu tượng đó
đều có ý nghĩa: Lưỡi tượng trưng cho lời nói. Lửa tượng trưng cho tình yêu và
lòng nhiệt thành. Với ơn Chúa Thánh Thần, các Tông đồ trở nên nhiệt thành can
đảm đi rao giảng Tin mừng và làm chứng cho Chúa nơi các dân tộc.
+ Bài đọc 2: 1Cr
12,3b-7.12-13.
Trong thư gửi cho tín hữu
Côrintô, thánh Phaolô nhắc nhở cho các tín hữu - để tránh sự chia rẽ đang nhen
nhúm trong cộng đoàn - hiểu rằng Thánh Thần là nguyên lý của sự hiệp nhất. Ngài
nhắc lại cho họ biết: trong Giáo hội sơ khai, Chúa Thánh Thần đã ban nhiều đặc
sủng khác nhau cho nhiều người. Nhưng tất cả những đặc sủng ấy chỉ nhằm xây
dựng cộng đoàn, chứ không phải để phục vụ lợi ích cá nhân.
Trong mọi trường hợp,
những đặc sủng ấy đều nhằm hướng tới sự hiệp nhất các Giáo hội. Vì thế, một mặt
các tín hữu phải tránh sự chia rẽ đang tiềm tàng nơi cộng đoàn, mặt khác phải
nỗ lực dùng mọi ân huệ Chúa Thánh Thần ban mà xây dựng thân thể Giáo hội.
+ Bài Tin mừng: Ga
20,19-23.
Theo quan điểm của Gioan,
việc trao sứ mạng và ban Thánh Thần cho các môn đệ đã xẩy ra ngay buổi chiều
chính hôm lễ Phục sinh. Như vậy, căn bản mầu nhiệm Chúa Thánh Thần hiện xuống
đã được biểu lộ trọn vẹn trong ngày ấy. Tuy nhiên, theo quan điểm Luca thì
Thánh Thần được ban trong lễ Ngũ tuần. Thực ra, Luca và Gioan đều nói cùng một
điều: Chúa sống lại ban ân sủng là Thánh Thần, và khai mở sứ vụ Giáo hội. Cách
mô tả của hai thánh sử chỉ khác nhau ở thời điểm, do những quan niệm thần học của
các ngài.
Thật vậy, Gioan nhìn mầu
nhiệm Giáo hội “từ phía” Đức Kitô, nên từ quan điểm này, rõ ràng là Giáo hội
được sinh ra trong hành động tuyệt đỉnh của hy tế thập giá. Nhưng nếu cũng mầu
nhiệm này được nhìn “từ phía” các Tông đồ thì để trở nên những cột trụ của Hội
thánh, rõ ràng các Tông đồ cũng phải làm một hành trình thiêng liêng, vừa đi
vừa điều chỉnh đức tin dần dần theo sự thực của Chúa sống lại (Jean Frisque).
Trong lần hiện ra lần đầu
tiên với các Tông đồ, ngoài việc ban Thánh Thần cho các ông, Đức Giêsu còn cầu
chúc bình an, ban quyền tha tội và sai các ông đi rao giảng Tin mừng cứu độ cho
muôn dân.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Hiệp nhất trong Giáo hội
Chúa Kitô.
I. CHÚA THÁNH THẦN ĐƯỢC BAN XUỐNG
1. Lời hứa ban Thánh
Thần.
Nhìn lại những đoạn Tin
mừng theo thánh Gioan được trích trong hai tuần lễ vừa qua, chắc hẳn chúng ta
đều nhận ra rằng lời hứa ban Thánh Thần là điều được Đức Giêsu lặp đi lặp lại
rất nhiều lần. Chính Ngài đã khẳng định với các Tông đồ:”Thầy đi thì ích lợi
cho các con, vì nếu Thầy không đi, thì Đấng Phù Trợ sẽ không đến với các con,
nhưng nếu Thầy ra đi, Thầy sẽ sai Người đến với các con”(Ga 16,7).
Và lời hứa ấy đã được
thực hiện ngay khi Đức Giêsu sống lại hiện ra với các Tông đồ tại nhà Tiệc ly
vào ngày thứ nhất trong tuần. Sau khi chào thăm các ông, Ngài thở hơi và nói
với các ông:”Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”. Như thế, đối với Gioan. việc Đức
Giêsu Tử nạn – Phục sinh – Ban Thánh Thần chỉ là một. Chính vì thế, phụng vụ đã
chọn đọc bài Tin mừng hôm nay chính thức hai lần trong mùa Phục sinh: một là
vào ngày Chúa nhật trong tuần Bát nhật Phục sinh và hôm nay, trong ngày lễ Chúa
Thánh Thần hiện xuống. Cũng theo chiều hướng đó, thánh Gioan đã gắn liền cái
chết của Đức Giêsu trên thập giá với việc trao ban Thần Khí, thánh sử đã thuật
lại giờ ra đi của Đức Giêsu như sau:”Ngài gục đầu xuống và trao ban Thần
Khí”(Ga 19,30).
Như vậy, ngày Phục sinh
Đức Giêsu đã trao ban Thánh Thần cho các Tông đồ (Ga 20,21-23), nhưng ngày lễ
Hiện xuống, Chúa Thánh Thần đến một cách long trọng và là ngày khai sinh Giáo
hội (Cv 2,1-13). Cũng như qua bí tích Rửa tội, chúng ta đã lãnh nhận Chúa Thánh
Thần rồi, nhưng qua bí tích Thêm sức, chúng ta lãnh nhận Chúa Thánh Thần cách
long trọng để trở thành người chiến sĩ của Nước Trời vậy.
2. Chúa Thánh Thần được
ban xuống.
Vào địp lễ Ngũ tuần, tức
là 50 ngày sau lễ Vượt Qua, theo lời dặn của Đức Giêsu, các Tông đồ họp nhau
lại tại nhà Tiệc ly để đón nhận Chúa Thánh Thần. Sách Công vụ tông đồ kể lại
cho chúng ta những sự lạ đã xẩy ra bên trong và bên ngoài ngôi nhà nơi các môn
đệ đang hội họp, có Đức Mẹ ở giữa. Bên trong có tiếng gió mạnh thổi đến, lùa
vào nhà, có những lưỡi lửa xuất hiện và đậu trên đầu từng người. Họ được tràn
đầy Chúa Thánh Thần. Bên ngoài dân chúng bõ ngỡ kéo đến bao vây. Sự gì đã xẩy
ra? Phêrô, con người nhát đảm ấy, hôm nay mở tung cửa và bước ra, theo sau là
các môn đệ khác. Họ lâng lâng như người say rượu, khiến dân chúng bàn tán,
nhưng họ không say rượu mà say Chúa! Vì hôm nay, ứng nghiệm lời tiên tri Joel
đã tiên báo:”Ta sẽ đổ Thánh Thần xuống và chúng sẽ nói tiên tri”. Phêrô giảng
bài đầu tiên làm cho 3000 người trở lại. Các Tông đồ khác cũng bắt đầu sứ mạng
rao giảng, với đặc ân Thánh Thần ban cho là nói được tiếng bản xứ của mỗi thính
giả từ các nơi đổ về.
II. THÁNH THẦN, ĐẤNG BAN SỰ HIỆP NHẤT.
1. Ngày khai sinh Giáo
hội.
Trước hết, Chúa Thánh
Thần, chính là Đấng qui tụ muôn dân nên một trong Giáo hội. Thật vậy, các Tông
đồ trước khi nhận lãnh Thánh Thần đã “đóng kín cửa vì sợ người Do thái”. Thế
nhưng, sau khi đã nhận được sức mạnh của Thánh Thần, các ngài đã mở tung cửa
mạnh dạn bước ra rao giảng cho mọi người Tin mừng về Đấng Phục sinh khiến mọi
người đều bỡ ngỡ.
Theo sách Công vụ Tông đồ thuật lại lúc đó, tại Giêrusalem có
rất nhiều người thuộc các dân tộc với nhiều tiếng nói khác nhau, từ muôn nơi
trở về nhân dịp lễ Vượt Qua, nhưng có một điều lạ là tất cả đều nghe rõ và hiểu
điều các Tông đồ loan báo, họ thắc mắc:”Tại sao mỗi người chúng tôi lại nghe họ
nói tiếng bản xứ của chúng tôi: Chúng tôi là người Parthi, Mêđi, Êlam, Mésopotamia,
Giuđêa, Pontô, Tiểu á, Phrygia, Pamphilia, Ai cập, Lybia, cận Cyrênê, và người
Rôma cư ngụ tại đây , là Do thái và tòng giáo, là người Crêta và Ảrập, chúng
tôi đều nghe họ nói tiếng của chúng tôi mà ca tụng những kỳ công của Thiên
Chúa”.
Khi nêu lên danh sách các
dân tộc này, thánh sử Luca đã cho thấy tính phổ quát của Tin mừng cứu độ. Mọi
dân nước dù xa xôi như Rôma, mút cùng thế giới theo quan điểm của người Do
thái, hay bé nhỏ như Pamphylia, một thành phố rất nhỏ của đế quốc Rôma, cũng
phải được nghe loan báo Tin mừng và qui tụ về thành một đoàn chiên duy nhất
dưới quyền của một chủ chiên là Đức Kitô. Như thế, Chúa Thánh Thần chính là mối
dây liên kết muôn dân nên một, như lời khẳng định của thánh Phaolô trong bài
đọc 2:”Vì chưng trong cùng một Thánh Thần, tất cả chúng ta được thanh tẩy để
làm nên một thân thể, cho dù là Do thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do: tất cả
chúng ta đã uống trong một Thánh Thần”.
2. Những ân ban của Chúa
Thánh Thần.
Khi chịu phép Thêm sức,
người tín hữu học về Ngôi Ba Thiên Chúa, về ơn Chúa Thánh Thần và những hoạt
động của Chúa Thánh Thần trong Giáo hội và trong đời sống người tín hữu. Giáo
lý Công giáo dạy có 7 ơn Chúa Thánh Thần là ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn lo
liệu, ơn sức mạnh, ơn thông thái, ơn đạo đức, và ơn kính sợ Thiên Chúa. Đó là
những ơn căn bản cần thiết cho đời sống người Kitô giáo. Còn có những ơn khác
nữa như ơn nhẫn nại, chịu đựng, ơn đơn sơ, hồn nhiên... Thánh Phaolô trong thư
gửi cho tín hữu Côrintô giải thích là ơn Chúa Thánh Thần không chỉ giới hạn nơi
các tông đồ mà thôi, nhưng còn được tác động trong nhiều cách thế, nơi nhiều
người khác nhau.
Trong ngày lễ Hiện xuống
hôm nay, chúng ta đặc biệt chú trọng đến ơn mà Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta
là qui tụ mọi dân tộc lại trong một cộng đoàn tức là Giáo hội. Ngài là hồn sống
của Giáo hội và của từng người một. Bài tường thuật của sách Công vụ hôm nay là
đối trọng của bài tường thuật tháp Babel thời Cựu ước.
Ngày xưa, ở Babel, con
cháu ông Noe đang nói cùng một thứ tiếng, nghĩa là đang hiểu nhau và đoàn kết
với nhau, bỗng dưng để cho tính kiêu ngạo xúi dục muốn xây một cái tháp cao hơn
trời để tỏ ra mình cao hơn Thiên Chúa, nên đã bị phạt khiến họ nói nhiều thứ
tiếng, người này không còn hiểu người kia nữa, và chia rẽ nhau. Chuyện tháp
Babel ngụ ý rằng khi con người không qui tụ quanh Thiên Chúa thì sẽ chia rẽ
nhau, không hiểu nhau và không thông cảm cho nhau.
Hôm lễ Ngũ tuần, Chúa
Thánh Thần sửa lại sự hư hại đó: tất cả mọi người dù thuộc những dân tộc và
những ngôn ngữ khác nhau nhưng đã hiểu nhau. Nhờ đâu? Nhờ chính Chúa Thánh
Thần, nguyên lý đoàn kết và hiệp nhất (Lm Carolô, Sợi chỉ đỏ, năm A, tr 226).
III. TA XÂY DỰNG HỘI THÁNH HIỆP NHẤT.
1. Vai trò của mỗi Kitô hữu.
Khi được chịu phép rửa
tội, chúng ta trở thành một phần tử trong Giáo hội, thành một chi thể mầu nhiệm
của Chúa Kitô. Mỗi người phải có một vai trò trong Giáo hội tùy theo khả năng
mà Chúa Thánh Thần sắp xếp. Không ai được đứng bên lề Giáo hội.
Ta thấy ơn Chúa Thánh
Thần tác động như thế nào trong đời sống của Giáo hội như thánh Phaolô chỉ
dạy:”Có nhiều thứ ân sủng, nhưng chỉ có một Thánh Thần, có nhiều chức vụ, nhưng
chỉ có một Chúa, có nhiều thứ công việc, nhưng chỉ có một Thiên Chúa là Đấng
hoàn thành mọi sự trong mọi người”(1Cr 12,3). Như vậy tất cả các phần tử trong
Giáo hội đều đóng những vai trò quan trọng khác nhau và thi hành những phận vụ
khác nhau. Ơn Chúa Thánh Thần ban cho mỗi phần tử khác nhau là để hợp nhất các
phần tử. Và cái dấu chỉ của việc hoạt động tông dồ nhằm mục đích vinh danh
Chúa.
Chúa Thánh Thần vẫn âm thầm
lặng lẽ hoạt động nơi ta và Giáo hội mà ta không thấy. Có người tự hỏi tại sao
Chúa Thánh Thần không làm những việc lạ lùng vĩ đại trong thời đại ta đang
sống? Để trả lời, ta cần nhận định là Thiên Chúa vẫn làm những công việc lạ
lùng trong thời đại chúng ta đang sống, miễn là ta biết mở rộng tâm hồn và cộng
tác với ơn Chúa và để Chúa làm chủ đời sống.
2. Tránh gây sự chia rẽ.
Công đồng Vatican II dưới
sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần đã làm sáng tỏ trong việc giáo huấn là tất cả
mọi phần tử trong Giáo hội đều được gọi để sống đời sống thánh thiện và làm
chứng của đức tin. Như vậy thì tất cả mọi người đều được gọi đóng vai trò của
mình trong việc hoạt động tông đồ của Giáo hội tùy theo khả năng và phương tiện
có thể.
Theo thánh Phaolô, Chúa
Thánh Thần là mối dây liên kết mọi thành phần trong Hội thánh, nên mỗi thành
phần không đứng riêng rẽ, nhưng liên đới và gắn bó chặt chẽ với nhau như các
chi thể trong cùng một thân thể:”Cũng như chỉ có một thân thể, nhưng có nhiều
chi thể, mà các chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân thể, thì Chúa Kitô
cũng vậy”.
Nhìn vào con người chúng ta, chỉ có một thân thể mà có
nhiều chi thể: tai, mắt, mũi, miệng, chân tay... Mỗi chi thể có nhiệm vụ khác
nhau. Chi thể nọ cần đến chi thể kia để bổ túc cho nhau và để nhằm lợi ích cho
toàn thân. Và cái dụng cụ Chúa dùng trong việc mở mang Nước Chúa không chỉ tùy
thuộc vào cái tài khéo, mức độ học vấn, hay địa vị của mỗi người mà thôi, nhưng
còn tùy thuộc vào quyền năng của Chúa với sự cộng tác của mỗi người với Chúa.
Truyện: Bất đồng ý kiến.
Hai người bơi chung một
chiếc xuồng trên dòng sông nước ngược. Vì có sự bất đồng ý kiến nên qua một hồi
lời qua tiếng lại, anh ngồi phía trước gác dầm không bơi nữa.Anh phía sau lái
thấy vậy mới nói:
- Này anh, tôi với anh dù
có bất đồng ý kiến, nhưng chúng ta cùng đi chung trên một chiếc xuồng, cùng
tiến chung về cùng một mục tiêu, anh không thể để mặc tôi bơi một mình như vậy
được.
Anh ở trước mũi trả lời
tỉnh bơ:
- Chiếc xuồng có hai
phần, lái và mũi. Phần lái thuộc về anh. phần mũi thuộc về tôi. Anh cứ bơi phần
anh, phần tôi, tôi bỏ, tôi thả trôi thì mặc tôi.
Anh phía sau tức quá,
nhưng cũng ráng bơi, vì nếu bỏ thì chiếc xuồng sẽ trôi ngược và không ai tới
đích. Không ngờ chỉ một lúc sau, anh nghe tiếng nước tràn vào phía sau, anh quay
lại thì thấy anh chàng kia không còn đủ bình tĩnh nữa, đang đục một lỗ để định
nhận chìm xuống. Anh kia hoảng sợ nói:
- Ơ này, anh có giận tôi
thì giận, chứ anh nhận chìm xuồng, tôi không biết bơi đâu đấy nhé.
Anh phía sau thản nhiên
nói:
- Chiếc xuồng có hai
phần, phần mũi và phần lái. Phần mũi của anh, còn phần lái của tôi, tôi nhận
chìm kệ tôi chứ!
Thế là chẳng mấy chốc cả
hai đều chết chìm trong lúc vẫn cứ cố gắng cãi nhau hơn là nỗ lực bơi vào bờ!
3. Sống hiệp nhất yêu
thương.
Tính cách cộng đoàn của
lễ Hiện xuống đòi hỏi phải có đức bác ái huynh đệ: Thánh Thần không đến trên
từng cá nhân riêng rẽ, nhưng trong một tập thể được nối kết bằng hiệp nhất yêu
thương. Nơi nhóm người họp nhau tại căn phòng, Chúa Thánh Thần muốn nối kết
thành cộng đoàn hiệp nhất, cộng đoàn này luôn luôn mở rộng ra khắp thế giới mà
vẫn luôn giữ được mối hiệp nhất.
Ngày Hiện xuống này chính là ngày thành lập Hội thánh. Thế
nên, Chúa Kitô muốn tất cả các môn đệ của mình cùng lãnh nhận Thánh Thần ở
Giêrusalem bằng một biểu lộ hiệp nhất. Các môn đệ đã thực hiện sự hiệp nhất này
qua việc chung sống yêu thương. Sự chung sống yêu thương này khác hẳn thái độ
ghen tỵ vẫn thường xẩy ra trong đời sống công khai của Đức Giêsu. Đây chính là
kiểu mẫu bác ái phải có nơi các Kitô hữu khắp mọi nơi.
Truyện: Tha nhân là chính Chúa.
Một bề trên tu viện công
giáo đến tìm một ẩn sĩ Ấn giáo tại chân núi Himalaya. Ông lo âu trình bầy về
tình trạng bi đát của tu viện ông.
Trước kia tu viện này là
một trung tâm thu hút khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của
giáo dân đến từ khắp nơi. Trong tu viện không còn chỗ nhận thêm người vào tu
hằng ngày đến gõ cửa nữa. Thế mà bây giờ tu viện chẳng khác nào một ngôi chùa
hoang phế. Nhà thờ vắng lặng, tu sĩ thì leo teo mấy người. Cuộc sống thật là
buồn tẻ.
Vị bề trên hỏi tu sĩ Ấn
giáo cho biết nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã đưa tu viện tới tình trạng
trên đây.
Tu sĩ Ấn giáo ôn tồn bảo:
- Các tội đã và đang xẩy
ra tại cộng đoàn đó là tội vô tình. Và giải thích: Đấng Cứu thế đã cải trang
thành một người trong qúi vị, nhưng qúi vị không nhận ra Ngài.
Nhận được câu trả lời
giải đáp, vị Bề trên hối hả quay về tu viện. Ông tập họp cộng đoàn lại, và loan
báo cho mọi người biết Đấng Cứu thế đang cải trang thành một người trong nhà.
Các tu sĩ đều mở to đôi mắt và quan sát nhau. Ai là Đấng Cứu thế cải trang vậy?
Nhưng có một điều chắc là một khi Ngài đã cải trang thì không ai có thể nhận ra
Ngài được. Mỗi người trong họ đều có thể là Đấng Cứu thế.
Vậy là từ đó, mọi người
đều đối xử với nhau như với Đấng Cứu thế. Chẳng bao lâu bầu khí yêu thương
huynh đệ, sức sống và niềm vui đã trở lại với tu viện. Từ khắp nơi người ta lại
tìm đến tu viện tĩnh tâm và cầu nguyện. Nhiều người trẻ cũng đến xin gia nhập
cộng đoàn.
(D. Wahrheit, Món quà
Giáng sinh, tr 287)