CUỘC HIỆN XUỐNG MỚI
“Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào
lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5)
Cuối thế kỷ 18 số người Tây phương đến
các hòn đảo Hawaii lên đến khoảng ba trăm ngàn người, nhưng rút xuống chỉ còn
vài chục ngàn người vào cuối thế kỷ 19. Bệnh truyền nhiễm lan tràn trên các hòn
đảo, nhất là phong cùi là thứ bệnh nguy hiểm và thiệt hại hơn hết.
Không thể kiểm soát được dịch cùi,
chính quyền đưa hết các bệnh nhân cùi lên một đảo xa tên là Molokai, bắt họ ở
đó cho đến chết. Sống chờ chết, ở trong những chòi lá hay hốc đá, phải tự lo
cái ăn cái mặc nên cuộc sống dân chúng trên đảo Molokai rất tồi tệ, vô luật lệ
và vô luân lý.
Thấy tình cảnh bi đát đó, cha Đamien
xin phép bề trên cho ngài đến phục vụ người cùi trên đảo Molokai. Năm 1873, mới
33 tuổi, trẻ trung và khoẻ mạnh, ngài đặt chân lên đảo, với cuốn sách kinh và
ít quần áo.
Cuộc sống của người cùi trên đảo từ
hôm đó có nhiều thay đổi lớn lao: Người chết thay vì vất ra ven rừng cho thú ăn
thịt thì được an táng, một tay cha vừa đào huyệt vừa là chủ lễ. Một nhà nguyện
nhỏ là trung tâm cho cuộc sống mới của một giáo xứ trên đảo. Một tập thể an vui
trong tình thân hữu thay thế dần dần cho bầu khí u ám xâu xé lẫn nhau trước
đây. Những ngôi nhà sạch sẽ dần dần mọc lên.
Dù rất sợ bị lây, cha vẫn phải sống
chung và ăn uống chung với người cùi… cho đến một ngày năm 1884, khi bị phỏng
mà không thấy đau, cha biết rằng mình đã bị kết án tử với bệnh cùi. Chân tay và
mặt mũi dần dần biến dạng, tai sưng to và méo mó.
Một hôm báo chí nước Bỉ có bài đề
cao gương phục vụ người cùi trên đảo Molokai của cha Đamien. Các em của cha cho
bà cố xem bài báo. Mắt kém không đọc được tên con trai nên bà hỏi: “Hình ai đây mà trông dễ sợ vậy?” Các
con trả lời: “Đó là một người cùi trên đảo
Molokai của anh Đamien đó, mẹ.”
“Không còn dáng vẻ người ta nữa” là những từ
được dùng để mô tả dung mạo Đấng Cứu Thế. Chúa là tình yêu, con đường Chúa đi
là con đường tình yêu, một tình yêu hiến thân vì bạn hữu. Chân dung của Đấng Cứu
Thế đã được Isaia tiên báo: “Bao kẻ đã sửng
sốt khi thấy tôi trung của Ta mặt mày tan nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ
người ta nữa” (Is 51,14) - chân dung của một tình yêu vượt trên mọi tình
yêu.
Đúng thế, chính khi “không còn dáng vẻ người ta nữa” mà Đức
Kitô trở nên kiểu mẫu hoàn hảo cho một cuộc sống đầy tràn tình yêu, đầy tràn sự
sống Thiên Chúa, và do đó mà đầy tràn hạnh phúc.
Ngay từ ban đầu, tình yêu - đã được
in sâu trong bản tính nhân loại, nhưng tội lỗi đã bóp méo cái nhìn của con người
làm cho người ta trở nên đối kháng với sự sống của chính mình: “Thưa anh em, anh em đừng ngạc nhiên, nếu thế
gian ghét anh em. Chúng ta biết rằng: chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống,
vì chúng ta yêu thương anh em. Kẻ không yêu thương, thì ở lại trong sự chết.”
(1Ga 3,14-15)
Vì thế, Đức Kitô đã đem đến cho nhân loại tình
yêu - sự sống Thiên Chúa. Đó là một ân huệ vượt trên suy tính và ao ước của con
người: “Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng
hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho
những ai mến yêu Người.” (1Cr 2,9)
Ân huệ đó lên đến tột đỉnh trong ân
ban Thánh Thần, hoa trái đầu mùa của ơn cứu độ, để nhân loại bắt đầu một sự sống
mới, sự sống của Thiên Chúa nơi con người. “Thiên
Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban
cho chúng ta” (Rm 5,5)
Năm 1979, trên đường về nhà sau khi
lãnh giải Nobel, Mẹ Têrêxa đã ghé qua Rôma. Rất nhiều ký giả bao vây để chụp
hình và muốn phỏng vấn. Một ký giả táo bạo hỏi Mẹ:
- Năm nay Mẹ đã 70 tuổi. Khi Mẹ qua đời
thế giới cũng vẫn như trước! Chẳng có gì thay đổi sau bao nhiêu cực nhọc?
- Anh thấy đó, tôi không bao giờ nghĩ rằng
mình có thể thay đổi thế giới. Tôi chỉ tìm cách làm một giọt nước trong, một giọt
nước lóng lánh rạng ngời tình yêu Thiên Chúa. Anh cho là quá ít sao? Mẹ
trả lời với một nụ cười thật tươi.
Anh ta lúng túng… các ký giả khác lặng
thinh. Mẹ nói tiếp:
- Anh hãy cố gắng trở thành một giọt nước
trong. Như thế sẽ có hai giọt nước trong. Anh lập gia đình chưa?
- Dạ rồi.
- Vậy anh cũng hãy nói với vợ như thế, và
chúng ta sẽ là ba giọt nước trong. Anh có con chưa?
- Thưa Mẹ, ba đứa.
- Tốt lắm. Vậy anh cũng nên nói với các
con, và như thế, tất cả chúng ta sẽ là sáu giọt nước trong.
Từ một đến hai, đến ba, rồi đến sáu
giọt nước trong. Những giọt nước lóng lánh rạng ngời tình yêu Chúa. Đang dồn sức
cho việc tông đồ, tại sao tôi lại không nghĩ đến một cuộc hiện xuống mới của
Chúa Thánh Thần theo cách trình bày của Mẹ Têrêxa? Nhỏ bé thôi mà rất vĩ đại!
Giọt nước đầu tiên là tôi. Hãy là giọt
nước lóng lánh rạng ngời tình yêu Chúa.