CÁC BÀI SUY NIỆM
CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN - C
1V 19,16b.19-21; Gl 5,1.13-18; Lc
9,51-62
1. Lên Giêrusalem
Đoạn Tin Mừng vừa nghe được chia làm hai phần: Phần thứ nhất kể lại cuộc
hành trình của Chúa Giêsu lên Giêrusalem.
Bấy giờ, Chúa Giêsu và các môn đệ đi vào một làng xứ Samaria. Đã từ
lâu, người Do Thái vốn nghi kỵ và tránh tiếp xúc với người Samaria, vì họ cho
rằng: Những người Samaria chỉ là những kẻ lai căng và đã chạy theo những tôn
giáo ngoại bang. Thế nhưng, Chúa Giêsu lại tỏ ra không quan tâm tới sự tranh
chấp này. Trên đường lên Giêrusalem để thực hiện chương trình cứu độ, Người đã
đi ngang qua xứ Samaria. Tuy nhiên, Người và các môn đệ đã không được tiếp đón.
Thái độ thờ ơ lạnh nhạt này chính là hậu quả của những tranh chấp gữa họ và
người Do Thái.
Trước sự từ khước này, các môn đệ đã muốn thẳng tay trừng trị bằng
chính những hình phạt mà ngày xưa tiên tri Elia đã dùng để hạ bệ những kẻ thù
của ông. Nhưng Chúa Giêsu thì khác. Người đã ngăn cản các ông và nhân dịp này,
Người đã đưa các ông đi sâu vào sứ vụ của Người, và cũng là sứ vụ của các ông
sau này: Con người đến không phải để hủy diệt mạng sống người ta, nhưng đến đề
cứu chữa.
Phần thứ hai gồm một số những mẩu đối thoại giữa Chúa Giêsu và
những kẻ muốn theo Người.
Những mẩu đối thoại này có một ý nghãi rất đặc biệt, khi được đặt
vào trong viễn tượng sự ra đi của Chúa Giêsu và ngay trước việc Người sai bảy
mươi hai môn đệ tới các làng mạc và thành thị để rao giảng Nước Thiên Chúa.
Công cuộc rao giảng này dưới ngòi bút của thánh Luca mang tính cách thật cấp
bách. Chúa Giêsu không có thời giờ để dừng chân, bởi vì Người không có cả đến
một chỗ để gối đầu. Cũng vì tính cách cấp bách này, Người đã không chấp nhận để
những ai muốn theo Người, nhưng lại còn nấn ná, dù là để làm những công việc
bình thường, rất đáng làm, như chôn cất người chết, hay từ giã những người thân
yêu trong gia đình.
Từ đó, chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem chúng ta đã thực sự bước
theo Chúa, hãy vẫn còn bị những níu kéo trần gian ràng buộc. Nhất là chúng ta
đã thực sự nên giống Chúa, bằng cách đối xử khoan dung, độ lượng với những kẻ
chúng ta không mấy có cảm tình. Bởi vì sự nóng giận thường làm hỏng công việc:
Già néo thì đứt dây, giận quá thì mất khôn, và sự thù địch này sẻ nảy sinh ra
sự thù địch khác, khiến cho cuộc sống của chúng ta trở nên bất ổn, bởi vì lúc
nào cũng bị căng thẳng vì phải đối đầu với nhau.
Chính vì thế, một lần nữa tôi xin lặp lại lời Chúa Giêsu đã nhắn
nhủ cho mỗi người trong chúng ta, đó là: Các con hãy học cùng Ta, vì Ta hiền
lành và khiêm nhường trong lòng.
2. Dứt
khoát.
Vào năm 1924 ở nước Anh, Eric là lực sĩ chạy nhanh nhất trong cự ly
100m. Mọi người đều hy vọng anh sẽ đoạt huy chương vàng ở thế vận hội được tổ
chức tại Paris năm đó. Thế nhưng vào phút chót một sự việc xảy ra làm cho mọi
người đều ngỡ ngàng và bực tức. Số là việc thi đấu cho môn chạy 100m này lại
nhằm vào ngày Chúa nhật. Eric nghĩ rằng việc phụng sự Chúa không cho phép anh
thi đấu vào ngày Chúa nhật. Vì thế anh đành từ chối thi môn này. Vừa nghe tin
Eric từ chối thi đấu, lập tức mọi người tìm cách gây sức ép đối với anh. Ngay
cả hoàng tử xứ Wales cũng cố gắng thuyết phục anh vi phạm tiếng nói của lương
tâm. Thấy anh không chịu đổi ý, báo chí nước Anh đã gọi anh là tên phản bội.
Tuy nhiên Eric vẫn khăng khăng không chịu làm ngược với niềm xác tín của mình.
Cuối cùng anh đề nghị với các huấn luyện viên chọn một lực sĩ khác thay cho anh
trong môn chạy 100m, là môn anh chưa một lần thi đấu. Kết quả là trong thế vận
hội năm ấy, nước Anh đã đạt hai huy chương vàng cho môn chạy 100m và 400m.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng chiều hôm nay với
thái độ dứt khoát mà Chúa đòi hỏi, bởi vì Ngài đã phán dạy: Kẻ nào đã tra tay
vào cày mà còn ngoái cổ lại đằng sau thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa.
Chàng lực sĩ của chúng ta đã không bao giờ ngoái cổ lại đằng sau, mặc dù có
những lý do chính đáng. Một khi đã quyết định theo Chúa, là anh cứ nhắm thẳng
phía trước mà bước tới, chứ không ngó lại phía sau nữa, cho dù bị dư luận gọi
là tên phản bội tổ quốc của mình. Còn chúng ta thì sao?
Mặc dầu chúng ta đã tin nhận và bước theo Chúa, nhưng chúng ta vẫn
chưa dứt khoát lập trường, để thuộc hẳn về Ngài. Chúng ta giống như bà vợ của
ông Lót, mặc dầu đã ra khỏi thành Sođoma, nhưng vì còn ngoái cổ lại để xem sự
gì đang xảy rar ở phía sau, nên đã hoá thành tượng muối. Chúng ta giống như dân
Do Thái trong cuộc xuất hành tìm về miền đất hứa. Trước những cực nhọc vất vả
gặp phải, họ đã tưởng nhớ đến củ hành củ tỏi của Ai Cập và đã lên tiếng trách
móc Maisen. Cũng vậy mặc dầu đã tin nhận và bước theo Chúa, nhưng chúng ta vẫn
tưởng nhớ đến những củ hành củ tỏi, là những đam mê tội lỗi, là những ước vọng
xấu xa, để rồi cuối cùng, vì chạy theo tiền bạc, chúng ta đã bán Chúa như Giuđa,
vì hèn nhát chúng ta chối Chúa như Phêrô, vì sợ sệt chúng ta đã chạy trốn như
các môn đệ, vì quá quyến luyến và vương vấn với tội lỗi, chúng ta đã cúi mặt bỏ
đi như chàng thanh niên giàu có.
Để kết luận, chúng ta hãy kiểm điểm đời sống và hãy tự vấn lương
tâm xem Đức Kitô đã chiến địa vị nào trong cuộc đời chúng ta? Ngài có phải là
nhân vật số một của cõi lòng chúng ta hay chỉ là một hình ảnh đã bị phai mờ và
chìm vào quên lãng.
Truyện kể: Trong một xưởng thợ, mấy cô bạn gái cùng làm việc đang
chê bai đạo Chúa. Họ cho rằng Đạo Chúa làm mê muội trí khôn, bức hiếp lẽ phải
và làm sai lạc trí phán đoán người ta. Một nam công nhân nghe họ nói truyện và
khi họ vừa im lặng, bèn cất tiếng nói: Phải, vì đạo Chúa mà tôi đã mất tất cả.
Mọi người cùng sững sờ nhìn. Người thợ nói tiếp: Tôi thích rượu, Đạo Chúa làm
tôi bỏ rượu. Trước kia tôi chỉ mặc quần áo rách và đội cái mũ bẩn thỉu, giờ Đạo
làm tôi mất tất cả... Đạo còn làm tôi mất cả tâm địa xấu xa nữa… Xưa địa ngục
cai trị gia đình tôi, vì nếp sống gia đình đã thành ra như chốn ngục hình. Thì
nay, khi trở nên tín hữu Chúa, tôi đã mất tất cả. Hỡi các anh chị, bây giờ các
anh chị biết đức tin đã làm tôi mất những gì và được những gì. Hãy làm như tôi.
Tôi xin cam đoan chắc chắn các anh chị sẽ không phải hối hận đâu.
Trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã chọn gọi một số những vị tiên tri
như Amos, Hosea, Micah, Isaia, Zephaniah, Nahum, Habakkuk, Jeremia, Ezekiel,
Haggai, Zecharia, Obadiah, Joel, Malachi, Jonah và Elia. Ngoài ra còn một số
những vị ngôn sứ nhỏ như Nathan, Êlise…, ít được nhắc đến. Trong suốt thời gian
dài từ sau khi Dân Do-thái vào miền Đất Hứa cho đến khi Chúa Giêsu giáng trần.
Thiên Chúa luôn gởi các vị ngôn sứ đến để hướng dẫn dân đi theo đường lối của
Chúa. Tất cả sứ mệnh qui về việc tôn thờ Thiên Chúa duy nhất, giữ các giới răn,
huấn thị và chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Cứu Thế.
Xưa tiên tri Êlia được Thiên Chúa gọi và chọn để thi hành sứ vụ làm
nhân chứng cho Chúa giữa cuộc sống xã hội đa thần. Nhiều người mê lầm chạy theo
những thần giả tạo do con người sáng lập ra. Có rất nhiều tiên tri giả đã chạy
theo thần Baal và rao truyền những sự mê tín lầm lạc. Êlia đã thách thức quyền
năng của các thần và thuyết phục dân chúng tin vào Thiên Chúa duy nhất. Êlia đã
gặp rất nhiều sự khó khăn, bị bắt bớ và chạy trốn. Bàn tay quyền năng của Chúa
ở cùng ông. Ông đã chu toàn sứ mệnh của mình và Chúa đã cất nhắc ông lên bằng
xe rực lửa.
Để chuẩn bị có người kế vị, Êlia đã chọn người môn đệ tên là Êlisê
để kế thừa sứ vụ: Ông này liền để bỏ lại, chạy theo ông Êlia và nói: “Xin cho
con về hôn cha mẹ để từ giã, rồi con sẽ đi theo ông.” Ông Êlia trả lời: “Cứ về
đi! Thầy có làm gì anh đâu? (1Vua 19, 20). Êlisê tiếp nối sứ vụ mà Êlia đã
truyền lại. Êlisê đã từ bỏ nghề cầy bừa cũ, rời bỏ gia đình và bạn bè để ra đi
thi hành sứ mệnh mới: Ông Êlisê bỏ ông Êlia mà về, bắt cặp bò giết làm lễ tế,
lấy cầy làm củi nấu thịt đãi người nhà. Rồi ông đứng dậy, đi theo ông Êlia và
phục vụ ông (1V 19, 21).
Trong tất cả các loài thụ tạo, mỗi loài đều có những cách thế
truyền sinh và cơ cấu tổ chức khác nhau. Các loài động vật đã được Đấng Tạo Hóa
phú bẩm những bản năng cố định. Các con vật sống thành bầy, thành đàn, thành tổ
và chúng sống theo nhau, nối kết với nhau. Hằng năm chúng ta thường chứng kiến
những bầy chim hàng ngàn con di chuyển từ Bắc cực xuống Nam cực và sau đó lại
trở về chốn cũ. Những đàn voi, đàn trâu bò, đàn khỉ… chung sống trong hoang
địa cũng thế. Hoặc là những tổ ong, tổ kiến, tổ mối…tự nó xây cất những kiến
trúc rất tinh tế. Từ đời này qua đời khác, các con vật theo nhau hoàn thành
công việc đã được Tạo Hóa sắp đặt. Riêng con người có trí khôn, ý chí và tự do,
họ đã tạo thành từng xã hội đặc thù. Loài người tiến triển theo từng giai đoạn
để trở thành những người văn minh hơn. Con người có thể bảo tồn, truyền tụng
những suy tư, phát minh và kho tàng văn hóa qua các dấu ấn trong lịch sử xã
hội, tôn giáo và chính trị.
Sống trong xã hội có kẻ trước người sau, có thầy có trò, có người
chỉ đạo và môn sinh. Trong mọi khía cạnh sống, bất cứ một ngành nghề chuyên môn
nào cũng có những vị tiền bối muốn truyền đạt khả năng cho những người thừa kế.
Trong tôn giáo, sự lưu truyền niềm tin của đạo giáo còn quan trọng hơn nữa. Đời
sống tâm linh và tinh thần chi phối sinh hoạt của con người rất sâu thẳm. Đây
là điểm đặc thù của con người xã hội. Nếu thiếu sự hướng dẫn trong đời sống tâm
linh, con người sẽ bị tha hóa và thụt lùi trở lại sống theo bản năng giống như
các loài cầm thú. Kinh nghiệm lịch sử thế giới cho biết, hiện nay thế kỷ 21,
vẫn còn có nhiều tổ chức xã hội rất sơ khai, có những bộ lạc sống như người
tiền sử và những nhóm người sống biệt lập rất man rợ trong rừng sâu. Đời sống
của họ phát triển rất chậm và sống theo bản năng tự nhiên.
Chúa mời gọi mỗi người chúng ta đi theo Chúa một cách khác nhau. Có
người đi theo Chúa trong ơn gọi gia đình. Có kẻ sống độc thân phục vụ. Có người
hiến thân trong việc truyền giáo. Có kẻ hiến dâng mình cho Chúa trong các dòng
tu. Có người đi tu trở thành tu sĩ linh mục. Ơn gọi nào cũng qúi báu. Khi chúng
ta lãnh nhận Bí Tích Rửa tội là chúng ta đã bắt đầu bước theo đường lối của
Chúa. Chúng ta mang danh là Kitô hữu. Chúng ta là nhân chứng cho Chúa Kitô
trong mọi hoàn cảnh, môi trường và thời gian. Chúng ta là Kitô hữu suốt đời.
Làm chứng nhân cho Chúa cả thời gian chứ không chỉ bán thời hay trong một số
trường hợp đặc biệt. Chúa Giêsu đã nói rõ cho những người sẽ đi theo Chúa:“Con
chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.”(Lc 9,
58). Chúa Giêsu cần chúng ta có thái độ dứt khoát. Chúng ta không thể bắt cá
hai tay hay làm tôi hai chủ. Đáp tiếng mời gọi của Chúa là chúng ta tự do chọn
lựa trở thành môn đệ của Chúa.Đức Giêsu bảo: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của
họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều đại Thiên Chúa.”(Lc 9, 60).
Người môn đệ cần có những sự dứt bỏ những mời gọi hấp dẫn của thế
gian. Đức Giêsu bảo: “Ai đã tra tay cầm cầy mà còn ngoái lại đàng sau, thì
không thích hợp với Nước Thiên Chúa.”(Lc 9, 62). Chúng ta biết sự yếu đuối của
bản năng con người luôn kéo lôi ta trở lại sống theo thói đời. Ưa thích thỏa
mãn những nhu cầu của lòng tham sân si. Không lạ gì khi chúng ta thích thu quén
của cải, tiền bạc, chức tước và lợi lộc trần gian. Chúng ta lo làm giầu cho
cuộc sống mà bất chấp lỗi phạm lề luật và giới răn của Chúa. Thí dụ: Các giới
răn về ham mê dâm dục, ăn gian nói dối, làm chứng thề gian và lỗi luật yêu
thương. Đôi khi chúng ta cảm thấy vì theo Chúa mà bị mất mát và rồi tiếc nuối
những thỏa mãn thấp hèn. Theo Chúa, chúng ta phải phấn đấu hằng ngày với các
cơn cám dỗ. Phải kiên tâm chịu đựng và vác thánh giá mỗi ngày đi theo Chúa.
Đi theo Chúa là dâng hiến cuộc đời trong sự quan phòng của Chúa.
Chúng ta không thể cắt ngắn hay chọn lựa chỉ giữ những giới răn, lề luật hay
những huấn giáo thích hợp với sở thích của chúng ta. Thánh Phaolô nhắc nhở về
giới luật yêu thương. Giới răn căn bản làm nền tảng là: Ngươi phải yêu người
thân cận như chính mình (Gal 5, 14). Yêu thương thì chân thành, cảm thông và
chia sẻ. Yêu thương là xây dựng, đoàn kết và hòa bình. Những sự chia rẽ, cắn
xé, tranh dành và gây thù hận đều ngược lại với giới luật yêu thương: Nhưng nếu
anh em cắn xé nhau, anh em hãy coi chừng, anh em tiêu diệt lẫn nhau (Gal 5,
15). Muốn nên là nhân chứng đích thực của Chúa chúng ta phải ước muốn những
điều thuộc về Thần Khí của sự thật, tình yêu và bình an.
Lạy Chúa, xin ánh sáng Phục Sinh của Chúa Kitô soi dọi đường chúng
con đi. Xin đừng để chúng con bị lạc hướng trong đêm tối và tội lỗi của ma quỉ
và thế gian.
4. Đời là những chọn lựa – Thiên Phúc.
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Trong kho tàng chuyện ngụ ngôn có một câu chuyện dí dỏm như sau:
Một con khỉ cầm hai nắm đậu, một hạt đậu rơi xuống đất. Nó tính nhặt hạt đậu đó
lên, không ngờ vừa nhón tay lại rơi thêm hai mươi hạt nữa. Nó định nhặt hai
mươi hạt đậu đó lên, ai ngờ vừa mở ngón tay, cả nắm đậu trong tay bị bung ra
hết. Con khỉ hoảng hốt làm bung nốt nắm đậu ở trong tay kia, nó dùng cả tay lẫn
chân vét đậu lại, nhưng càng khều thì đậu càng văng ra xa. Cuối cùng cả hai nắm
đậu tản ra trên mặt đất như một đám khói.
Cuộc sống không ngừng đòi hỏi chúng ta phải chọn lựa. Và chọn lựa
nào cũng phải chịu thiệt thòi mất mát. Kẻ bắt cá hai tay vẫn luôn là người thua
thiệt nhiều nhất. Con khỉ vì tiếc một hạt đậu mà mất cả hai nắm đậu trên tay.
Người thứ nhất trong bài Tin Mừng hôm
nay xin đi theo Chúa đến bất cứ nơi đâu, nhưng Người bắt anh phải chọn lựa:
hoặc là được an toàn ổn định dưới một mái nhà, có chăn ấm nệm êm; hoặc là phải
bấp bênh phiêu bạt, không một mái nhà: “Con chồn có hang, chim trời có tổ,
nhưng Con Người không có chỗ dựa đầu” (Lc 9,58).
Người thứ hai xin đi theo Chúa, nhưng
với điều kiện cho anh về chôn cất thân sinh trước đã. Chúa trả lời: “Cứ để kẻ
chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo triều đại Thiên Chúa”
(Lc 9,54). Thế là anh phải đứng trước một chọn lựa giữa người thân và việc loan
báo Tin Mừng.
Người thứ ba xin đi theo Chúa, nhưng
xin phép về từ biệt gia đình. Chúa đòi anh phải chọn lựa dứt khoát: “Ai đã tra
tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”
(Lc 9,62).
Thực ra, Đức Giêsu rất coi trọng việc hiếu kính cha mẹ. Người phán:
“Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải
bị xử tử” (Mt 15,4). Nhưng Người cũng dạy chúng ta phải tìm kiếm Nước Thiên
Chúa trước đã, nghĩa là Người muốn chúng ta chọn lựa đâu là ưu tiên chính, đâu
là ưu tiên thứ yếu. Đối với người tín hữu Kitô, ưu tiên chính là việc tìm kiếm
Nước Thiên Chúa, nó quan trọng hơn cả cha mẹ, vợ con, anh chị em, và cả mạng
sống mình nữa (x. Lc 14,26).
Nếu cuộc đời con người là một chuỗi những chọn lựa, thì chính những
chọn lựa ấy sẽ dệt nên cuộc đời riêng của mỗi người.
Nếu cuộc đời người tín hữu Kitô là một chọn lựa dứt khoát cho việc
tìm kiếm Nước Thiên Chúa, thì đó chính là một chuỗi những lời đáp trả tiếng
Chúa vang lên từng phút giây trong cuộc sống.
Nhìn lại những chọn lựa hằng ngày, chúng ta chợt giật mình, vì thấy
chúng ta thường hay chọn mình: sở thích của mình, tự do của mình, hạnh phúc của
mình, gia đình của mình… Chúng ta chọn tất cả những gì ít nhiều dính dáng đến bản
thân. Nhưng Đức Giêsu lại dạy: “Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, còn mọi sự khác, Người sẽ
thêm cho” (Mt 6,33)
Lạy Chúa, xin giúp chúng con thoát khỏi những bận tâm về mình,
nhưng biết chọn Chúa là phần gia nghiệp và là phần phúc của chúng con.
Xin tha thứ cho chúng con vì chúng con đã chạy theo của cải, lạc
thú, danh vọng ở đời. Xin ban cho chúng con ý chí cương quyết để chúng con luôn
trung thành theo Chúa cho đến giây phút cuối cuộc đời. Amen.
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Theo một tôn giáo thường được gọi là theo đạo.
Theo đạo là theo một con đường.
Điều này đặc biệt đúng đối với Kitô giáo (x. Cv 9,2).
Làm môn đệ Đức Kitô là theo Ngài trên con đường Ngài đi, con đường
đất quanh co trong xứ Palestine hay con đường đầy chông gai nhọc nhằn của sứ
vụ.
Đức Kitô chẳng những dạy Đạo, Ngài còn là Đạo (x. Ga 14,6).
Theo đạo là theo một ngôi vị hơn là theo một giáo lý.
Sống đạo là sống như Ngài, với Ngài, cho Ngài và trong Ngài.
Phần cuối của đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại chuyện ba người muốn
theo Chúa.
Chúng ta chẳng biết họ là ai, cũng chẳng rõ cuối cùng họ có theo
Chúa hay không, nên mỗi người chúng ta dễ thấy mình nơi hình ảnh họ, để rồi
chúng ta phải đưa ra lời đáp trả của mình.
Người thứ nhất hăng hái xin theo Ngài đi
bất cứ nơi đâu.
Chúa Giêsu không giấu anh hoàn cảnh bấp bênh của mình. Ngài sống
cuộc đời phiêu bạt, không mái nhà để trú, lúc nào cũng ở trong tư thế lên
đường. Chấp nhận theo Ngài là chịu bỏ mọi an toàn, ổn định, là sống thân phận
lữ khách trên mặt đất (x. 1Pr 2,11). Theo Ngài là theo Đấng có chỗ tựa đầu, chỗ
tựa đầu tiên là máng cỏ, chỗ tựa cuối là thập giá.
Cuộc sống nghèo làm Ngài tự do hơn, sẵn sàng hơn trước những đòi
hỏi bất ngờ của Cha và nhân loại.
Người thứ hai chấp nhận theo Chúa với
điều kiện cho anh về chôn cất người cha mới qua đời trước đã.
Anh muốn chu toàn bổn phận thiêng liêng của người con. Chúa Giêsu
coi trọng việc hiếu kính mẹ cha (x.Mt 15,3-9), nhưng Ngài đòi anh dành ưu tiên
cho việc loan báo Tin Mừng.
Câu trả lời của Ngài làm chúng ta bị sốc thực sự.
Loan báo Tin Mừng ư? Cần gì phải vội vàng đến thế! Dầu sao cái sốc
giúp ta nhận ra mình vẫn quen thờ ơ trước một bổn phận thiêng liêng và hết sức
cấp bách.
Người chết nằm xuống thật đáng kính trọng; nhưng có bao người sống
đang cần phục vụ khẩn trương.
Người thứ ba xin về từ giã gia đình
trước đã.
Chúa Giêsu đòi anh dứt khoát thẳng tiến như người cầm cày, không
quay lại với những kỷ niệm quá khứ, không bị cản trở bởi những ràng buộc gia
đình, để tận tâm tận lực lo cho Nước Thiên Chúa.
Trong đời sống, nhiều lúc ta phải chọn lựa. Chọn lựa là chấp nhận
hy sinh, bỏ một trong hai.
Chúa Giêsu không dạy ta sống vô cảm hay bất hiếu... Ngài dạy ta can
đảm tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã.
Có bao nhiêu cái trước đã chi phối đời ta? Đâu là lựa chọn ưu tiên
một? Chúng ta cần sắp xếp lại thứ tự các ưu tiên cho đúng.
Nếu Chúa Giêsu gặp tôi hôm nay và mời tôi theo Ngài, tôi có xin
phép Ngài để làm cái gì đó trước đã không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Trong cuộc sống của bạn, có nhiều điều quan trọng và cần thiết. Đâu
là 3 điều mà bạn nghĩ là quan trọng và cần thiết hơn cả? Tại sao bạn chọn 3
điều ấy?
Bạn nghĩ gì về thái độ của Chúa Giêsu đối với thân mẫu của Ngài dựa
trên các sách Tin Mừng? Ngài có hiếu không? Ngài có quá lệ thuộc và Mẹ Ngài
không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, giàu sang, danh vọng, khoái lạc là những điều hấp
dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con và không cho chúng con tự do ngước lên
cao để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, nhờ
cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi bán tất cả những gì chúng con
có, để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng trước những lời mời gọi
của Chúa, không bao giờ ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương Chúa dành cho
từng người trong chúng con. Amen.
6. Người
nhất quyết lên Giêrusalem
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Đời là một con đường: đường đời.
Sống là bước vào một cuộc hành trình tiến về phía trước, để đến nơi
mình được thu hút, mời gọi. Nhưng đường đời không luôn luôn bằng phẳng. Có
những dốc cao làm chúng ta ngần ngại, có những khúc ngoặt làm chúng ta sợ hãi.
Đôi khi ta thấy mình phải đến nơi mình không muốn.
Chúa Giêsu đã trải qua kinh nghiệm này khi Ngài kiên quyết lên
đường đi Giêrusalem, dù biết có những nguy hiểm đang chờ mình ở đó.
Chúa Giêsu đã phải cố gắng như chúng ta để thắng vượt nỗi sợ hãi và
do dự, và đi hết đường đời của mình, vì đó là con đường Cha muốn Ngài đi.
Trên đường đi, Chúa Giêsu gặp sự từ khước. Một làng Samari không
muốn tiếp đón Ngài. Họ có lý do của họ, lý do có thể rất nghiêm túc. Nhưng điều
đó khiến Giacôbê và Gioan nổi giận. Hai ông đòi sai lửa từ trời thiêu rụi cả
làng.
Có cần trừng phạt vội vã như vậy không? Có cần dùng sức mạnh Thiên
Chúa để tiêu diệt mọi kẻ dữ không?
Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người, kể cả tự do của những kẻ
dữ trên mặt đất. Ngài kiên nhẫn chờ họ sám hối và biến đổi. Cả Giacôbê và Gioan
cũng phải được biến đổi. Cần có thời gian và cần được huấn luyện để những
"đứa con sấm sét" trở thành khoan dung, để Gioan trở thành vị tông đồ
dịu dàng suốt đời ca ngợi tình yêu.
Đường đời của người Kitô hữu là đường theo chân Giêsu. Tự bản chất
kitô hữu là người đi theo Chúa Giêsu.
"Thầy đi đâu, con sẽ theo Thầy đi đó" (Lc 9,57).
Ai có ngờ rằng đi theo Chúa Giêsu là đi theo một Đấng không nhà
cửa, không nơi trú ngụ, một Đấng nghèo hơn cả loài chim, loài chồn, một Đấng
luôn tín thác và chờ đợi tất cả từ Cha.
Các môn đệ đầu tiên đã sống bấp bênh từng ngày, họ đã hy sinh nghề
nghiệp ổn định để chấp nhận theo Thầy bữa đói bữa no.
Chúa Giêsu mời ta theo Ngài để loan báo Nước Thiên Chúa.
Đây là một công việc khẩn trương và quan trọng, một giá trị vượt
trên mọi giá trị khác.
Không cần phải trở về từ giã người thân yêu, không được quay lại đàng
sau khi cầm cày, vì tất cả nằm ở phiá trước.
Cũng không cần lo xong việc tống táng cha già rồi mới nghĩ đến
chuyện theo Chúa. Ở đây còn có gì trọng hơn chữ hiếu, vượt trên tình cảm tự
nhiên của con người.
Lời Chúa hôm nay dành cho mọi Kitô hữu.
Ơn gọi Kitô hữu đòi chúng ta phải hy sinh, chấp nhận sự bất ổn,
thiệt thòi và đau khổ.
"Hãy tìm Nước Thiên Chúa trước đã, còn mọi sự khác, Người sẽ
thêm cho" (Mt 6,33).
Gợi Ý Chia Sẻ
Sống đúng tinh thần của Chúa Giêsu, thực thi những lời Ngài dạy,
điều đó chẳng dễ chút nào. Riêng bạn, bạn thấy có lời nào của Ngài quá khó đối
với bạn không?
Chấp nhận đặt Thiên Chúa lên trên hết là chấp nhận đặt mọi sự khác
dưới Thiên Chúa. Bạn có khi nào trải qua một kinh nghiệm chọn Chúa trong nước
mắt không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon, một ngư phủ
ít học và đã lập gia đình, để làm vị giáo hoàng đầu tiên của Giáo Hội. Chúa xây
nền Giáo Hội trên một tảng đá mong manh, để ai nấy ngất ngây trước quyền năng
của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa, đặt Chúa
lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần
chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon, bỏ mái nhà êm ấm để
lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
Chuyện nhà Phật kể: Có một tu sĩ theo thầy học đạo đã lâu năm. Thấy
anh đã tiến bộ nhiều, Thầy cho anh sống tự lập. Anh dựng một túp lều đơn sơ
giữa cánh đồng. Ngày ngày ngoài thời gian khất thực, anh chuyên tâm đọc kinh
cầu nguyện. Anh chỉ có độc một manh áo. Cứ chiều tối, anh giặt áo, phơi khô, để
sáng hôm sau có áo mặc. Cạnh lều anh ở, có con chuột đêm đêm bò ra cắn chiếc áo
anh phơi. Buổi sáng, anh phải đi tìm kim chỉ vá áo. Buổi tối, chuột lại bò ra
cắn. Sau nhiều lần vá, anh sợ manh áo sẽ nát, nên quyết định nuôi một con mèo.
Con mèo ăn khoẻ nên thức ăn xin được không đủ. Anh phải cấy lúa để có thêm thức
ăn nuôi mèo. Vì cấy lúa, anh phải nuôi bò để cày ruộng. Bận rộn với việc đồng
áng, anh không còn giờ đọc kinh cầu nguyện. Một thiếu nữ trong làng tình nguyện
giúp, anh vui vẻ nhận lời. Vì có thêm người, nên anh phải lo làm nhà cửa cho
khang trang. Chẳng bao lâu anh trở thành chủ gia đình có vợ, có con, có nhà cao
cửa rộng, có ruộng đất, có đàn bò. Ít lâu sau, Thầy anh trở lại, nhìn nhà cửa,
ruộng nương, trâu bò, Thầy ngạc nhiên hỏi anh: “Tất cả những thứ này, tại sao
thế?” Anh trả lời: “Tất cả chỉ vì con muốn giữ cho manh áo khỏi bị chuột cắn”.
Câu chuyện trên cho thấy con người muốn vươn lên thật khó. Có nhiều
thứ vướng mắc ngăn cản bước chân. Vướng mắc kéo theo ràng buộc. Những vướng mắc
ràng buộc đan nhau thành một tấm lưới khổng lồ vây bọc con người. Muốn tự do
bay lên, phải có can đảm phá tung những mắt lưới trói buộc.
Tiên tri Êlisa là người biết phá vỡ những trói buộc đó. Ông là một
nhà nông. Khi Thầy Êlia đến tìm, ông đang cày ruộng với 12 cặp bò. Có 12 đôi bò
tức là khá giàu có. Thế mà, khi nghe Thầy Êlia kêu gọi, Êlisa đã chẻ cày làm
củi, giết bò làm lễ vật, thiêu đốt tất cả để dâng tiến Chúa, rồi lên đường theo
Thầy.
Làm nghề nông thì tài sản là ruộng đất, trâu bò, cày cuốc. Đốt cày
cuốc, giết trâu bò có nghĩa là từ bỏ tài sản của mình. Đốt cày cuốc, giết trâu
bò cũng có nghĩa là đoạn tuyệt với nghề nghiệp cũ để theo đuổi nghề nghiệp mới.
Đốt cày cuốc, giết trâu bò cũng có nghĩa là đoạn tuyệt với quá khứ để phóng
mình vào tương lai. Đó là một lựa chọn dứt khoát. Ra đi không vướng bận, vì
chẳng còn gì gắn bó, ràng buộc. Ra đi không trở lại vì đốt cày, giết bò rồi thì
đâu còn chỗ trở về nữa.
Thái độ của tiên tri Êlisa là thái độ mà Chúa Giêsu đòi hỏi trong
bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giêsu mời gọi ta bước theo Người. Để theo Người, ta phải dứt
khoát quyết liệt. Không khoan nhượng. Không lưỡng lự dùng dằng. Sở dĩ Chúa đòi chúng
ta phải dứt khoát vì Chúa biết xác thịt chúng ta yếu đuối. Tinh thần muốn vươn
cao nhưng xác thịt cứ muốn kéo ghì chúng ta xuống. Thánh Phaolô khuyên chúng ta
hãy sống theo Thần Khí chứ đừng theo xác thịt. Hơn nữa, ma quỷ rất tinh khôn,
nó cám dỗ ta từng bước, đưa ra những lý do rất hợp lý để khiến ta nhượng bộ.
Nhượng bộ xác thịt một lần rồi sẽ dẫn đến những nhượng bộ khác. Những nhượng bộ
đó kéo ta dần dần xa Chúa. Đến khi tỉnh lại thì đã muộn rồi. Như câu chuyện
người đệ tử muốn giữ manh áo rách mà ta đã nói ở đầu.
Xin Chúa ban cho chúng con được dứt khoát trên đường theo Chúa, đã
cầm cày rồi thì đừng quay lại sau lưng. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Ra đi rồi quay đầu lại. Bạn có kinh nghiệm đau đớn về điều này
chưa? Nhất là đối với những ai quyết tâm từ bỏ rượu chè, cờ bạc, tiêm chích.
Bạn có thấy điều đó không?
2- Có nhiều trở ngại ngăn cản bạn tiến bộ trên đường đạo đức. Hiện
nay, điều gì cản trở bạn nhiều nhất?
3- Đã lần nào bạn có một thái độ dứt khoát với tính mê tật xấu
chưa?
4- Thái độ của Êlisa dạy ta điều gì?
Tin mừng Chúa nhật 13 thường niên năm C là đoạn khởi đầu về cuộc
hành trình lên Giêrusalem của Đức Giêsu. Đức Giêsu lên đường đi Giêrusalem tức
là Người lên đường hướng đến cuộc khổ nạn và thực hiện trọn vẹn ơn cứu độ.
Đoạn Tin mừng này gồm hai phần:
* Câu 51 - 56: Đức Giêsu không được người Samari đón tiếp và phản
ứng của tông đồ Giacôbê và Gioan.
* Câu 57 - 62: Ba lời khuyên của Đức Giêsu cho những ai muốn đi
theo Người.
* Lời khuyên thứ nhất là khước từ những bảo đảm thường tình:
"Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có nơi gối đầu".
* Lời khuyên thứ hai là việc rao giảng Nước Thiên Chúa phải được
đặt trên hết, không được trì hoãn: "Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; phần con,
hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa".
* Lời khuyên thứ ba là hãy quên quá khứ và hướng về tương lai:
"Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng thì không xứng đáng với
Nước Thiên Chúa".
Đức Giêsu lên đường đi Giêrusalem. Đây là một giai đoạn mới trong
cuộc đời Người. Người bỏ Galilê, nơi Người đã thành công ngay từ những bài
giảng đầu tiên, đến độ người ta muốn tôn vinh Người làm thần tượng. Người lên
Giêrusalem, nơi Người sẽ phải chịu treo trên thập giá để thực hiện trọn vẹn
thánh ý Thiên Chúa Cha, để hoàn tất công trình cứu độ. Vượt qua quá khứ
"dễ dãi" và đi đến một tương lai "chẳng chắc chắn gì" theo
dự phóng của Thiên Chúa Cha quả là một thách đố. Chính trong thời điểm thách đố
đó, Đức Giêsu đưa ra những lời khuyên cho những ai muốn bước theo Người.
Đời sống kitô hữu là đời sống bước theo Chúa Giêsu, họ được mời gọi
để vượt qua những bảo đảm thường tình: tiền bạc, danh lợi, chức quyền... đồng
thời nhận lấy Đức Giêsu như là bảo đảm cho đời sống của mình. Kitô hữu là người
cố gắng thể hiện mối phúc thứ nhất trong đời sống mỗi ngày: "phúc cho
những ai có tâm hồn nghèo khó". Người có tâm hồn nghèo khó là người
"có mà như không"; đó là người có những bảo đảm thường tình, nhưng họ
không cho đó là duy nhất. Họ chỉ có một bảo đảm duy nhất là chính Thiên Chúa.
Với tâm hồn nghèo khó, không có gì hết, họ mới có khả năng đón nhận Thiên Chúa
vào đời sống của mình. Từ đó, trình bày vị Thiên Chúa của đời sống mình cho
người khác.
Hơn nữa, chúng ta được mời gọi để "bước theo Đức Giêsu trong
công trình cứu độ", nghĩa là cũng được mời gọi để "lên
Giêrusalem". Đức Giêsu mời gọi chúng ta phải rao giảng Tin mừng "lúc
thuận lợi cũng như lúc nghịch cảnh", không vì lý do gì mà có thể trì hoãn.
Rao giảng Tin mừng bằng chính đời sống bác ái có tính cách thuyết phục hơn là
những "ngôn từ đao to búa lớn". Khi những người Samari khước từ Đức
Giêsu, thánh Giacôbê và Gioan đã muốn "khiến lửa bởi trời xuống thiêu hủy
những người đó". Ngày nay, hẳn là vẫn còn những người "samari hiện đại"
không đón nhận Đức Giêsu và lời giảng của Người? Hẳn là không thiếu những thái
độ như của Giacôbê và Gioan? Là người theo Đức Giêsu trong công trình rao giảng
Tin mừng, chúng ta cần "đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào
nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem niềm vui đến chốn u sầu"
(thánh Phanxicô Assisi). Thật vậy, Tin mừng là giải thoát, là làm cho con người
được tự do. Tin mừng cần phải được tiếp nhận trong tự do và tình yêu.
Lạy Chúa,
trong một xã hội sâu xé nhau
vì quyền lợi, tiền bạc, danh vọng.
Xin cho chúng con trở thành
những con người có tâm hồn nghèo khó,
đồng thời biết chia sẻ cho người khác ơn tha thứ
và tình yêu chúng con đã nhận được từ Chúa.
9. Sống đơn giản – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Trong kho tàng văn chương tu đức Ấn Giáo có chuyện kể như sau:
Ở một làng nọ, có vị đạo sĩ, Sadhu, tu thân lâu ngày, gần đạt đến
bậc thánh nhân. Dân chúng ngưỡng mộ, quý mến nhà đạo sĩ, đến thỉnh ý, tầm thầy
học đạo.
Một ngày kia, thấy vị đạo sĩ rách rưới, kẻ qua đường biếu nhà đạo
sĩ manh vải che mình. Những lúc Sadhu ngồi thiền niệm, bầy chuột tưởng tượng
gỗ, rúc vào tấm vải gặm nhấm. Tội nghiệp, có kẻ qua đường thấy thế, biếu Sadhu
con mèo bắt chuột. Dân trong làng thương tình, thay nhau đem sữa nuôi con mèo.
Rồi ngày nọ, có kẻ hành hương từ phương xa, nghe tiếng thơm nhân đức, đến viếng
nhà đạo sĩ. Người đàn bà giàu có ấy tặng đạo sĩ Sadhu con bò để lấy sữa nuôi
con mèo. Để nuôi con bò, người ta làm cho nó cái chuồng. Từ dạo đó, con bò có
chuồng, vị đạo sĩ không có nhà. Thấy thế không ổn, dân trong làng làm cho nhà
đạo sĩ chiếc chòi lá.
Từ ngày ấy, nhà đạo sĩ không còn nhiều thời giờ tu niệm như xưa,
bận rộn nuôi con bò để lấy sữa nuôi con mèo. Nuôi con mèo để đuổi lũ chuột.
Phải lo sửa sang căn nhà. Dân trong làng không muốn nhà đạo sĩ mất thời giờ săn
sóc con bò, họ gởi một người đàn bà đến cắt cỏ nuôi con bò, săn sóc con mèo
thay cho nhà đạo sĩ có giờ thiền tu.
Nhà đạo sĩ đã có tấm vải che thân, có con mèo đuổi chuột, có con bò
cho sữa, có căn nhà để ở, có người đàn bà săn sóc cuộc đời mình. Chẳng bao lâu,
nhà đạo sĩ không còn thời gian tĩnh mịch nữa, ông đầy đủ hết rồi.
Đâu là con đường tu đạo? Ông lấy người đàn bà làm vợ, thế là chấm
dứt cuộc đời hạnh tu...
Sống đơn giản đưa Shadu vào đời sống tu hạnh. Mất đơn giản, ông mất
lý tưởng. Trong Giáo Hội, tất cả các đại thánh đều có đời sống đơn giản. Không
phải trong Giáo Hội Công Giáo mà thôi, tất cả thánh nhân trong tôn giáo khác
cũng vậy. (x.Những trang nhật ký của một linh mục, Nguyễn Tầm Thường, SJ).
Bài đọc 1 hôm nay kể chuyện Êlisa quyết tâm theo Êlia để làm Ngôn
sứ. Êlisa là nông dân, đang cày ruộng với 12 cặp bò. Nghe Thầy Êlia kêu gọi,
Êlisa đã chẻ cày làm củi, giết bò làm lễ vật, thiêu đốt tất cả để dâng tiến
Chúa, rồi lên đường theo Thầy. Ruộng đất, trâu bò, cày cuốc là tài sản của nông
dân. Đốt cày cuốc, làm thịt trâu bò, có nghĩa là từ bỏ tài sản, là đoạn tuyệt
với nghề nghiệp cũ. Đó là một lựa chọn dứt khoát. Ra đi không vướng bận, không
luyến tiếc những gì đã có. Đó là thái độ dứt khoát và phó thác, vâng phục hoàn
toàn.
Khác với thái độ của Êlisa, Tin Mừng hôm nay thuật chuyện ba người
muốn theo Chúa Giêsu, xin được làm môn đệ. Chúa đòi hỏi họ phải dứt khoát trong
chọn lựa.
- Người thứ nhất hăng hái xin theo Chúa đi
bất cứ nơi đâu.
Chúa Giêsu không giấu anh hoàn cảnh bấp bênh của mình. Ngài sống
cuộc đời phiêu bạt, không mái nhà để trú, lúc nào cũng ở trong tư thế lên
đường. Chấp nhận theo Ngài là chịu bỏ mọi an toàn, không ổn định, là sống thân
phận lữ khách trên mặt đất (x.1Pr 2,11). Theo Ngài là theo Đấng có chỗ tựa đầu.
Chỗ tựa đầu tiên là máng cỏ. Chỗ tựa đầu cuối là thập giá.
- Người thứ hai chấp nhận theo Chúa với
điều kiện cho anh về chôn cất người cha mới qua đời trước đã. Anh muốn chu toàn
bổn phận thiêng liêng của người con. Chúa Giêsu coi trọng việc hiếu kính mẹ cha
(x.Mt 15,3-9), nhưng Ngài đòi anh dành ưu tiên cho việc loan báo Tin Mừng.
- Người thứ ba xin về từ giã gia đình
trước đã.
Chúa Giêsu đòi anh ta dứt khoát thẳng tiến như người cầm cày, không
quay lại với những kỷ niệm quá khứ, không bị cản trở bởi những ràng buộc gia
đình, để tận tâm tận lực lo cho Nước Thiên Chúa.
Ba người muốn xin đi theo để làm môn đệ của Chúa Giêsu. Thế nhưng,
họ không dứt khoát chọn lựa như Êlisa, họ vẫn còn đắn đo kỹ lưỡng, chần chừ vì
những lý do xác thịt và bịn rịn gia đình. Chúa Giêsu trả lời cho cả ba trường
hợp là "hãy theo Ta" và đặt giá trị thiêng liêng lên trên mọi của cải
vật chất. Theo Chúa lên Giêrusalem là đánh đổi cuộc đời quá khứ để lấy một
tương lai mới, tuy vô định, đầy gian nan, bất trắc nhưng tươi sáng và chân thật
hơn. Ba trường hợp khác nhau, nhưng đều chung một lời mời gọi từ Chúa Giêsu. Ba
lời đối thoại trên cũng là ba đòi hỏi hướng đến điều răn thứ nhất: "Phải
yêu mến Chúa là Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn." (Mt
22, 37).
Theo Chúa phải can đảm, phải chọn lựa và ưu tiên tìm kiếm và loan
báo về Nước Thiên Chúa trước, còn mọi chuyện khác, Chúa sẽ lo cho sau. Con
đường đi tìm Chúa là con đường con đường của từ bỏ... Tuy nhiên, muốn đạt được
hạnh phúc thật thì phải lựa chọn trong tinh thần dứt khoát.
Nếu cuộc đời con người là một chuỗi những chọn lựa, thì chính những
chọn lựa ấy sẽ dệt nên cuộc đời riêng của mỗi người.
Nếu cuộc đời người Kitô hữu là một chọn lựa dứt khoát cho việc tìm
kiếm Nước Thiên Chúa, thì đó chính là một chuỗi những lời đáp trả tiếng Chúa
vang lên từng phút giây trong cuộc sống.
Nhìn lại những chọn lựa hằng ngày, chúng ta chợt giật mình, vì thấy
chúng ta thường hay chọn mình: sở thích của mình, tự do của mình, hạnh phúc của
mình, gia đình của mình... Chúng ta chọn tất cả những gì ít nhiều dính dáng đến
bản thân. Nhưng Đức Giêsu lại dạy: "Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã,
còn mọi sự khác, Người sẽ thêm cho" (Mt 6,33).
Ơn gọi của Êlisa đến trong lúc ông đang cày ruộng, đang làm những
công việc hàng ngày. Ơn gọi của Phêrô xảy đến khi ông đang thả lưới, của Môsê
khi ông đang chăn chiên, của Mathêu khi ông đang ngồi bàn thu thuế... Ơn gọi
tiêu biểu của mỗi cá nhân là ở trong bổn phận hàng ngày. Sống ơn gọi của mình
là biết chọn lựa và ưu tiên. Đó cũng là lời mời gọi, hãy đơn giản hoá cuộc
sống.
Cuộc sống thật đơn giản vì nó vốn rất đơn giản. "Khi còn nhỏ
thì đơn giản, lớn lên trở nên phức tạp. Khi nghèo khó thì đơn giản, lúc giàu có
trở nên phức tạp.Khi thất thế thì đơn giản, lúc có địa vị thì trở nên phức
tạp.Tự nhận bản thân đơn giản, đánh giá người khác phức tạp.Thật ra, thế giới
này rất đơn gỉan chỉ có lòng người là phức tạp. Mà suy cho cùng thì lòng người
cũng đơn giản, chỉ vì có lợi ích chi phối nên con người mới trở nên phức tạp.
Đời người, đơn giản thì vui vẻ. Nhưng người vui vẻ được mấy người.Đời người,
phức tạp thì phiền não. Nhưng người phiền não thì quá nhiều.Trong cuộc đời mỗi
người đều không thể tránh khỏi những lúc buồn phiền, lo lắng thậm chí là đau
khổ.Người vui vẻ không phải là người không có buồn phiền, mà là người không để
cho những nỗi buồn và niềm đau ấy khống chế" (St). Để sống bình an vui vẻ
hạnh phúc, chúng ta chỉ cần sống đơn giản. Chúa Giêsu là người thích sống đơn
giản và bình thường. Suốt ba năm rao giảng, Ngài mặc những chiếc áo, mang những
đôi dép giản dị. Ngài không nghĩ mình là Thiên Chúa, nhưng đã hạ mình trở nên
như tôi tớ rửa chân cho các môn đệ, để đến với người nghèo, bệnh nhân và tội
nhân. Chúa Giêsu thích sự đơn sơ và bé nhỏ giữa đời thường. Bởi vậy, Ngài mới
nhắn nhủ các môn đệ: "Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà
nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời " (Mt 18,4). Chúa Giêsu
đã gieo vào lòng thế giới giá trị của yêu thương và phục vụ trong đơn giản âm
thầm.
Đơn sơ là một đức tính quý báu trong linh đạo "thơ ấu thiêng
liêng" của thánh Têrêxa Hài Đồng. Sống đơn sơ và giản dị. Đối với những
tâm hồn đơn sơ, không cần có những phương thế phức tạp.Nếp sống của Têrêxa luôn
trong sáng, thành thực và tự nhiên. Con đường thơ ấu thiêng liêng là sống cuộc
sống đơn sơ, yêu mến Chúa, hướng tới trọn lành. Sống đơn giản mới có được tinh
thần thanh thoát và nhẹ nhàng, chúng ta mới nhạy bén để sống theo hướng dẫn của
Thần Khí chứ không theo xác thịt, vì "anh em được gọi để hưởng tự
do".
10. Chọn
lựa – Tổng hợp từ R.
Veritas
Trong kho tàng chuyện ngụ ngôn có một câu chuyện dí dỏm về sự chọn
lựa như sau: Một con khỉ cầm hai nắm đậu trên hai bàn tay. Khi một hạt đậu rơi
xuống đất, tiếc qúa nó bèn chọn lựa và làm một quyết định là nhặt hạt đậu đó
lên. Không ngờ khi vừa buông tay để nhặt thì lại rơi thêm mấy chục hạt đậu nữa.
Nó lại quyết định nhặt hết mấy chục hạt đậu đó lên. Ai ngờ vừa mở bàn tay, cả
nắm đậu trong tay bị bung ra hết. Con khỉ hoảng hốt làm rơi hết nắm đậu còn lại
trên tay. Tiếc quá, nó dùng cả hai tay lẫn hai chân để vơ vét các hạt đậu,
nhưng càng khều càng vét thì đậu lại càng văng ra xa hơn. Cuối cùng cả hai nắm
đậu đều tuột khỏi bàn tay, nằm vương vãi trên mặt đất.
***
Bạn thân mến! Cuộc sống không ngừng đòi hỏi ta phải chọn lựa. Có
những chọn lựa "có vẻ" như mang lại cho ta nhiều thiệt thòi mất mát ở
đời này. Tin Mừng Chúa nhật hôm nay hé mở cho ta thấy những chọn lựa ấy:
Chọn lựa thứ nhất là chọn lựa giữa cuộc
sống an toàn ổn định, có chăn ấm nệm êm dưới một mái nhà, hoặc cuộc sống của
người đi theo Chúa với những hy sinh thiệt thòi mất mát; những phiêu bạt bấp
bênh không một mái nhà trú ngụ…“Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con
Người không có chỗ dựa đầu” (Lc.9:58). Hôm nay Chúa vạch ra cho ta hai con
đường với hai cuộc sống khác nhau và mời gọi ta làm một việc chọn lựa …
Chọn lựa thứ hai là chọn lựa giữa người
thân và việc loan báo Tin Mừng. Có một người muốn đi theo Chúa, nhưng anh lại
thưa với Chúa rằng: "Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước
đã" (Lc.9:59). Chúa nói với anh: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết. Còn anh, anh
hãy đi loan báo triều đại nước Thiên Chúa” (Lc.9:60). Thế là anh phải đứng
trước một chọn lựa.
Chọn lựa thứ ba là chọn lựa một cách
cương quyết và dứt khoát để đi theo Chúa. “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái
lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” (Lc.9:62). Đó là lời
Chúa nói với người môn đệ muốn đi theo Chúa, nhưng lại xin phép về từ biệt gia
đình trước khi lên đường. Khi đi theo Chúa, người môn đệ phải chọn lựa một cách
cương quyết và dứt khoát.
Thực ra, Chúa đòi buộc ta phải thảo kính cha mẹ, phải coi trọng
tình yêu thương gia đình, nhưng Ngài cũng dạy ta phải tìm kiếm Nước Thiên Chúa
trước nhất. Ngài muốn ta chọn lựa đâu là ưu tiên chính, đâu là ưu tiên phụ. Đối
với người Kitô, ưu tiên chính là việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Đó là điều quan
trọng nhất, quan trọng hơn cả cha mẹ, vợ con, anh chị em, và cả mạng sống của
chính mình nơi trần thế này (Lc.14:26).
Mời bạn cùng với tôi, chúng ta hãy dành ra một giây phút ngắn ngủi
để đi vào lòng mình, để nhìn lại những chọn lựa mà ta đã làm trong cuộc sống
hôm nay. Nhiều lúc ta phải giật mình vì thấy những chọn lựa của ta thường hay
quy về chính mình: Ta chọn sở thích của mình, chọn tự do của mình, chọn hạnh
phúc của mình, chọn gia đình của mình… Ta chọn tất cả những gì dính bén đến bản
thân của ta, nhưng Đức Giêsu lại dạy: “Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã,
còn mọi việc khác, Người sẽ ban thêm cho” (Mt.6:33)
***
Lạy Chúa! Xin tha thứ cho con vì đã nhiều lúc con chọn lựa của cải,
danh vọng chức quyền và các thú vui vật chất của đời này. Xin ban cho con sức
mạnh của Chúa để con thoát khỏi những bận tâm về chính mình. Xin ban cho con ý
chí cương quyết để con biết chọn Chúa là phần gia nghiệp; là hạnh phúc và là
cùng đích của đời con. Amen.
(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Chúa Giêsu đi vào giai đoạn chót cuộc đời dưới thế của Người. Lần
sau cùng Chúa lên Giêrusalem, nơi đây sẽ hoàn tất số mệnh Cứu Thế của Người.
Chúa quở trách các môn đệ vì các ông muốn áp dụng luật ‘ăn miếng trả miếng’, mong ước lửa trời thiêu
hủy ngôi làng từ chối tiếp đón Thầy trò. Một bản văn khác chép thêm một lời
phán của Chúa Giêsu: “Các ngươi không biết các ngươi ứng theo thần khí nào? Vì Con Người
đến không phải để hủy diệt mạng người ta mà để cứu chúng”. Thần Khí Chúa không phải
là tinh thần thù hận, dẫu cho bề ngoài đủ lý lẽ biện minh cho thù hận. Chúa
không ép buộc phải đón tiếp, cũng không thù oán khi bị đuổi khéo. Làng Samaria
nói ở đây theo chủ nghĩa địa phương cực đoan, có lẽ sau này cùng với một làng
xóm khác đón nhận Tin Mừng Nước Trời. Đối với bất cứ xúc phạm nào, không bao
giờ Chúa làm quá để không thể hàn gắn được, Chúa biết lòng người ta hay thay
đổi, có thể một ngày nào tâm hồn sẽ mở ra đón nhận ân huệ Thiên Chúa. Sau khi
thuật lại cảnh từ chối tiếp đãi, thánh Luca thuật tiếp ba cảnh khác, nêu lên
những đòi hỏi của ơn gọi truyền giáo.
1) Cảnh một cho ta thấy Chúa Giêsu tuyên bố minh bạch trước mặt kẻ
muốn theo Chúa rằng cuộc sống kẻ ấy chẳng dễ dàng gì. Làm thế, Chúa cho thấy
không được giảm giá trị Phúc Âm vì cớ muốn lôi kéo dễ dàng hơn những kẻ nào
ngần ngại trước những yêu cầu của Phúc Âm. Không bao giờ Chúa có thái độ cứng
cỏi có thể khiến người ta xa lánh, trái lại Chúa thu hút người ta bằng lòng
nhân hậu. Tuy nhiên, không bao giờ Chúa giảm bớt tính chất gắt gao của những
yêu cầu hàm chứa trong Phúc Âm, trái lại Chúa nhấn thêm bằng những hình ảnh so
sánh mà có thể chúng ta cho là thái quá, như câu: “Con Người không có chỗ để
gối đầu”. Thái độ ấy tỏ ra Chúa trọng con người vì con người có quyền được biết
sự thật và có khả năng đáp ứng yêu cầu.
2) Trong cảnh hai, chúng ta thấy Chúa Giêsu nhấn mạnh vào việc phải
đáp ứng mau chóng khi Thiên Chúa kêu gọi. Thiên Chúa lên tiếng kêu
gọi, chúng ta nghe rõ, nhưng đôi khi có thể chúng ta muốn có thời giờ thu xếp
công việc làm ăn, lo tích trữ thứ này thứ nọ để ‘phòng hờ’, tóm lại, chúng ta
không gấp. Trường hợp ơn gọi làm linh mục hay tu sĩ, còn gì chính đáng hơn là
thu xếp công việc gia đình trước khi dấn thân theo Thầy? Đúng thế, nhưng với
điều kiện là không được trì hoãn, tới lúc phải ra đi thì can đảm chia tay những
kẻ vô cớ chèo kéo bịn rịn.
3) Trong cảnh ba, Chúa Giêsu bảo kẻ nào muốn theo Chúa phải biết rõ
mình muốn gì và chớ có nhìn lại đàng sau. Khi người ta lái xe, người
ta cũng phải nhìn vào kính chiếu hậu nữa để tránh tai nạn, nhưng không được
luyến tiếc quang cảnh bỏ lại phía sau. Chúa Kitô không muốn các môn đệ theo
Chúa mà lòng vấn vương một quá khứ nào đó. Phải quyết tâm theo Chúa, con mắt
hướng thẳng về tương lai.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller)
Trước khi đường siêu tốc có thể xây dựng, toàn thể những công nhân
phải làm sạch con đường. Đôi khi những cây cối phải được cắt bỏ, những hòn đá
phải được di chuyển đi và những ngọn đồi phải được san cho bằng. Bất cứ những
cái gì cản trở trên con đường xa lộ đều phải được chuyển đi.
Chúa Giêsu có một điều gì giống như thế, khi Ngài mời gọi mọi người
trở nên môn đệ của Ngài. Ngài trông đợi họ chuyển đi tất cả những gì cản trở
trong cuộc sống của họ trên con đường theo Người. Lời tuyên bố khó hiểu của
Ngài: “Hãy để cho kẻ chết chôn kẻ chết”. Không có nghĩa là Ngài chống đối việc
chôn cất những người thân yêu của chúng ta. Một ý nghĩa khi Ngài tuyên bố, có
nghĩa là những ai loại bỏ Người thì cũng giống như những người chết kể từ khi
họ loại trừ Chúa của sự sống, nhưng đó cũng là cách mà Chúa Giêsu nói, là chúng
ta phải quyết định không có gì quan trọng hơn việc trung thành với Người.
Bài đọc đầu tiên của ngày hôm nay miêu tả một thời kỳ của Cựu Ước,
qua đó một con người đã phải làm một quyết định. Cái áo choàng của Êlia là một
biểu hiệu chức vụ tiên tri của người. Khi ông khoác nó lên cho Êlisa, ngài muốn
mời gọi Êlisa kế tục ông như là một tiên tri trong Israel. Êlisa có vẻ do dự
mất một lúc. Ông ấy đã nghĩ về cha mẹ của mình. Ông ta đã làm gì? Sự tự do đã
cho phép ông làm một quyết định riêng cho chính mình. Một quyết định mạnh mẽ đã
bùng cháy bên trong trái tim ông. Ông đã giết bò, chẻ cày ra làm củi để nướng bò.
Điều đó có nghĩa là ông đã từ bỏ những gì có ý nghĩa cho đời sống của ông. Ông
đã gặp mọi người để từ biệt họ, bỏ mọi sự để đi theo Êlia. Chúng ta phải nói
rằng ông đã thiêu cháy cái cầu đằng sau mình.
Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta làm cùng một công việc như thế để
đi theo Người cách cởi mở. Tại phép rửa Ngài đã đặt một áo trắng trên chúng ta.
Đó là một biểu tượng có nghĩa chúng ta là một dân mới với một đời sống mới, một
đời sống của sự tự do thật. Chúa Giêsu muốn tất cả chúng ta phải giải phóng tất
cả những chướng ngại để làm viên mãn ơn gọi làm môn đệ của chúng ta nhưng sự tự
do là một thực tại phức tạp. Chúng ta sống trong một xã hội tự do nhưng những
ngày này chúng ta làm chứng phải chịu đựng sự lạm dụng tự do, xã hội chúng ta
đã thần thánh hóa câu, sự”tự do chọn lựa”, điều đó có đúng không khi chọn lựa
phá thai, tước đoạt quyền được sống của kẻ khác. Thật sự một thượng nghị sĩ Hoa
Kỳ ngày xưa đã tuyên bố như giáo điều; “Sự tự do chọn lựa là nền tảng nhất của
con người”. Ông ta sai –một cái sai chết người. Ý kiến của ông ta về sự tự do
thì không phải những gì Chúa Giêsu đã dự định cho chúng ta.
Loại tự do mà Chúa Giêsu đã trao ban cho chúng ta là vì tình yêu.
Chúa Giêsu không cưỡng bách chúng ta làm môn đệ của Người, dâng hiến cho Người,
để yêu mến Người trên hết mọi sự và trên hết mọi người. Ngài ban cho chúng ta
sự tự do để chọn lựa bởi vì tình yêu mà bị cưỡng bách thì không phải là tình
yêu nữa.
Trung thành với những ý tưởng của Chúa Giêsu là Thánh Phaolô, đấng
đã dạy chúng ta rằng;”Chúng ta đã được kêu gọi để sống trong sự tự do nhưng
không phải sự tự do để tháo thứ cho xác thịt”. Sự tự do tháo thứ này thật sự là
một nô lệ. Nếu chúng ta nghiện rượu, chúng ta sống tình dục không hợp pháp,
chúng ta tham lam hoặc giận dữ, thì chúng ta không tự do. Những vấn đề nhu cầu
không bị chôn vùi đâu. Khi chúng ta cho phép môt thói quen lớn lên, một tính
kiêu ngạo hoặc một tính ích kỷ điều khiển chúng ta, chúng ta đang lạm dụng sự
tự do của chúng ta. Tội lỗi là một thứ nô lệ và đối đầu với tự do.
Trong lời tuyên xưng Thánh Thể của chúng ta, chúng ta nhận biết
rằng Chúa Giêsu đã trả một giá đắt cho sự tự do của chúng ta: “Lạy Chúa, bằng Thánh Giá
và sự Phục Sinh của Người, Ngài đã thiết lập sự tự do cho chúng ta”. Chúa Giêsu đã giải thoát
chúng ta khỏi tội lỗi, để với ý chí tự do chúng ta có thể yêu mến Người một
cách cởi mở.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một thi sĩ Pháp đã tả lại cuộc từ bỏ để đi theo Chúa qua một bài
thơ dí dỏm mang tựa đề: “Chiếc bị” (La besace). Thi sĩ coi
Chúa như một người bạn và tâm sự rằng.
“Hôm ấy, tôi đang mê mãi bóp trán nặn vần thơ thì tôi nghe tiếng
Bạn mời. Tôi vội vã đi theo.
Tôi bỏ vào trong chiếc bị một sống tiêu bằng trúc, nhiều áo quần và
cả một tập thơ, một album kỷ niệm thân thương, với nhiều kỷ vật quý giá.
Tôi cùng Bạn lên đường khi mặt trời vừa hé.
Bạn đi trước, tay không nhẹ nhõm,
Tôi theo sau với chiếc bị nặng trĩu trên vai.
Chân kéo lê trên một quãng đường dài.
Một ngày đã trôi qua trên cánh đồng gió thoảng.
Mỏi vai, tôi xin dừng lại giữa đường.
Mở bị ra tôi quăng bớt áo quần, rồi cùng Bạn tôi rảo bước.
Vẫn tay không, Bạn nhẹ nhàng đi trước,
Tôi đi sau mồ hôi đẫm áo ngoài.
Sắp lên cầu để vượt khỏi dòng sông,
Tôi quăng đi tập thơ và sáo trúc, rồi cùng Bạn đi tiếp tục.
Đường lên cao dốc giác và uốn khúc quanh co.
Ôi cánh tay mỏi rã rời, tôi nài xin Bạn cho tôi dừng nghỉ một chút
để tìm lại tấm hình mẹ tôi, người tôi yêu dấu nhất đời, chụp vào ngày hôn lễ
với cha tôi.
Nhưng tấm hình không còn nữa, nó đã bay mất.
Tôi bỗng buông xuôi, mắt tôi tối tăm lại giữa mặt trời đúng ngọ.
Rồi đêm về khi trăng vừa mới ló trên những giọt sương rơi,
Tôi quăng luôn cả chiếc bị trên đường.
Nắm tay Bạn nhanh chân tôi đi tiếp.
Nhưng bỗng nhiên Bạn bảo tôi ngừng bước.
Dưới vòm trời trong suốt ánh trăng,
Bạn cười tươi nhè nhẹ vỗ vai tôi và nói: Hãy dừng chân vì chúng ta
đã đến nơi rồi”.
Anh chị em thân mến,
Muốn theo Chúa Giêsu đến cùng, phải ra đi tay không, phải bỏ lại
đằng sau cả hành trang, kỷ vật và người thân. Khi đã mất hết, chỉ còn lại một
mình Ngài, cuộc hành trình sẽ kết thúc êm đẹp. Đó cũng là những đòi hỏi mà Chúa
Giêsu ngỏ cùng những người muốn đi theo Ngài trong bài Tin Mừng hôm nay:
Thánh Luca kể lại, khi Chúa Giêsu đang tiến lên Giêrusalem, nơi
Ngài phải hoàn tất công cuộc cứu thế bằng tử nạn thập giá, thì một người chạy lại bày tỏ
thiện chí tối đa: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu con cũng xin theo Thầy”. Chúa Giêsu không
vồn vã cũng không xua đuổi, nhưng nói lên thân phận của Ngài để giúp cho người
kia ý thức rõ ràng những gì chờ đợi anh ta, nếu anh ta muốn theo Chúa một cách dứt
khoát và tuyệt đối như vậy, Ngài nói: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, còn
Con Người không có chỗ dựa đầu”. Điều nầy Chúa Giêsu đã thực hiện ngay từ lúc
Ngài sinh ra: “không có chỗ cho ông bà trong quán trọ”, và Ngài đã được thân
mẫu vấn tã đặt nằm trong máng cỏ. Cuối cùng, trên thập giá, chúng ta cũng đã
thất tất cả sự khốc liệt của lời tuyên bố nầy. Trong Tin Mừng thứ ba, không bao
giờ thấy nói đến một ngôi nhà riêng của Chúa Giêsu hoặc của nhóm môn đệ. Thực
tế là vậy đó, muốn theo hay không tùy ý.
Một người khác lại được Chúa Giêsu ngỏ
lời trước: “Hãy theo Tôi”. Nhưng anh ta lại xin phép trở về nhà mai táng cha
mình trước đã. Chúa Giêsu không nhượng bộ: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết, còn
anh, hãy đi loan báo Nước Thiên Chúa”. Sứ mạng loan báo Nước Trời là ở cõi
chết. Hãy để những người ở ngoài Nước Trời chôn cất những người ở ngòai Nước
Trời. Còn người đã được gọi phục vụ Nước Trời thì hãy lo bổn phận chính của
mình trước hết và trên hết, không được trì hoãn vì bất cứ lý do gì. Việc báo
hiếu cha mẹ là việc quan trọng nhất theo quan niệm thông thường của người đời,
cũng không thể làm trì hoãn việc rao giảng Nước Thiên Chúa.
Người thứ ba đến xin theo Chúa Giêsu
thì vừa xin đi theo vừa đặt điều kiện: “Thưa Thầy, con xin đi theo Thầy, nhưng
xin cho phép con về từ giã gia đình trước đã”. Chúa Giêsu nói thẳng cho anh ta
biết rằng thái độ ấy không xứng đáng với Nước Thiên Chúa. Câu chuyện nầy cho ta
liên tưởng đến câu chuyện ông Êlia gọi ông Êlizê mà chúng ta vừa nghe trong Bài
đọc I: Ông Êlizê được gọi, xin về từ giã cha mẹ trước đã. Ông Êlia đồng ý ngay.
Còn ở đây, Chúa Giêsu cho thấy đòi hỏi của Nước Thiên Chúa mãnh liệt hơn đòi
hỏi của Cựu Ước. Toan đi theo Chúa Giêsu mà còn quyến luyến cha mẹ hơn Chúa
Giêsu hti2 khác nào kẻ đã cầm cày mà còn ngoái cổ lại đằng sau. Cầm cày thì
phải nhìn về phía trước mới cày được. Muốn theo Chúa Giêsu thì không được quyến
luyến cái gì khác, kể cả cha mẹ.
Thưa anh chị em,
Ba mẫu đối thoại nầy đặt chúng ta trước ánh sáng chói lòa của những
đòi hỏi của Nước Thiên Chúa.Muốn theo Chúa Giêsu thì phải chấp nhận đồng
số phận với Ngài: nghèo khó, trần trụi, không nhà riêng, không trụ sở, không có
gì bảo đảm cho mình ở trần gian nầy; phải coi nhiệm vụ rao giảng Nước Trời là
nhiệm vụ trên hết.
Chúa Giêsu không nhượng bộ nửa bước trước những bổn phận chính đáng
nhất như mai táng, từ giã cha mẹ. Chính Ngài đã cư xử như vậy lúc Ngài ở lại
trong đền thờ năm 12 tuổi. Thánh Giuse và Đức Mẹ đã đau điếng về chuyện nầy.
Chúa Giêsu chỉ trả lời bằng một câu thật khó hiểu: “Ông Bà kh“Ông Bà không biết
rằng tôi phải lo việc của Cha tôi sao?”. Đức Mẹ đã ghi nhớ và nghiền ngẫm câu
ấy suốt đời. Những lời tuyên bố của Chúa Giêsu ở đây cũng làm cho chúng ta
choáng váng chẳng khác Đức Mẹ và Thánh Giuse lúc ấy. Muốn hiểu được, chúng ta
phải im lặng suy đi nghĩ lại trong lòng.
Đối với những người được mời gọi hiến thân phục vụ Nước Thiên Chúa,
những lời nầy mời gọi kiểm điểm lại thái độ sống của mình. Chúa Giêsu và Nước
Trời đã thực sự độc chiếm tâm hồn và cuộc đời của mình chưa? Đối với mọi Kitô
hữu, những lời nầy cũng có ý nghĩa, vì tất cả những ai muốn theo Chúa Giêsu
trên con đường tới vinh quang đều phải coi Chúa Giêsu và Nước Thiên Chúa hơn
tất cả, nếu còn ngoái cổ lại đằng sau, còn coi một cái gì hơn Chúa Giêsu thì
không xứng đáng vào Nước Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã sống điều nầy và đã phát
biểu: “Tất cả những cái tôi coi là mối lợi cho tôi, thì vì Đức Kitô, tôi đã coi
như bất lợi. Chẳng những thế, tôi còn coi mọi sự hết thảy như thua lỗ, bất lợi
hết, trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa tôi. Vì Ngài,
tôi đành bị tổn hại về mọi sự và xem như rác rưởi tất cả, để lợi được Đức Kitô”
(Pl 3,7-13).
Theo Chúa thì có nhiều người muốn theo. Nhưng lại chỉ muốn theo
Chúa như quan niệm và ý muốn của mình, chứ không theo Chúa như Chúa muốn. Vì
thế, có khi mắc phải ảo tưởng là mình đang theo Chúa, nhưng thật ra họ đang
theo mình và bắt Chúa theo mình. Theo Chúa đúng nghĩa là phải chấp nhận rủi ro,
mạo hiểm, mất gốc; phải từ bỏ tất cả những gì không phù hợp với ý Chúa, với sự
thánh thiện của Ngài, phải từ bỏ những gì là nguy cơ làm cho ta xa Chúa hay cản
trở ta kết hợp mật thiết với Chúa. Theo Chúa là phải hoàn toàn tín nhiệm vào
Chúa và thuộc trọn về Chúa.
Việc tham dự tích cưc và trọn vẹn vào mầu nhiệm chết và sống lại
của Đức Kitô được tái diễn trên Bàn Thánh nầy sẽ giúp chúng ta sống một cuộc
đời thuộc trọn về Chúa mãi mãi.
Khát vọng tự do rất mãnh liệt trong tâm hồn con người. Nhưng đâu là
tự do đích thực của người môn đệ Chúa Kitô?
MÔN ĐỆ ĐÍCH THỰC
Làm sao tìm được chân chung đích thực của người môn đệ Chúa Kitô?
Câu trả lời nằm gọn trong Tin Mừng hôm nay. Môn đệ phải phản ánh hình ảnh Thày.
Nếu Thày "nhất quyết đi lên Giêrusalem" (Lc 9:51), môn đệ cũng phải
có một gương mặt quả cảm như thế. Nhưng làm sao có thể thênh thang trên thiên
lộ như vậy, nếu Thày không phải là con người tự do? Từ tinh thần cho đến lối
sống, Thày không bị hoàn cảnh hay con người chi phối.
Tận thâm tâm, Thày không bị đam mê khuấy đục. Thất tình không thể
lung lạc tinh thần Người. Dù bị dân làng Samari lạnh nhạt, Thày cũng không
màng. Khác hẳn các môn đệ, Thày không muốn khiến lửa thiêu hủy dân làng Samari.
Trái lại, "Đức Giêsu quay lại quở mắng" (Lc 9:55). Nhờ đó, các môn đệ
mới thấy rõ tất cả giới hạn của lòng mình. Họ không thể bắt chước ngôn sứ Êlia
khiến lửa từ trời đốt cháy quân thù (2 V 1:10,12). Người không muốn người môn
đệ nuôi mối hận thù hay tìm cách ăn miếng trả miếng. Trái lại phải "yêu
thương kẻ thù" (Mt 5:44). Dù bị ghét bỏ và khinh dể, Người cũng như giả
điếc làm ngơ. Tim Người không bao giờ sôi sục niềm ân oán. Đó là một tinh thần
tự do tuyệt đối. Tinh thần đó sẽ tạo nên những giá trị lớn lao và siêu vượt
những tầm thường cuộc sống.
Tinh thần Thày vô cùng siêu thoát! Làm sao có thể siêu thoát như
thế? Trước hết, lối sống vừa phản ánh vừa góp phần xây dựng tinh thần siêu
thoát đó. Người sống khó nghèo đến nỗi "không có chỗ tựa đầu" (Lc
9:58). Một cuộc đời từ bỏ hoàn toàn. Từ một nơi vô cùng cao trọng, Người đã hạ
mình xuống đất đen. Cuộc sống không có ngày mai. Theo Thày là dấn thân vào một
cuộc mạo hiểm vô cùng thú vị, nhưng cũng đầy thách đố. Cuộc sống không bị lệ
thuộc vào bất cứ nhu cầu nào. Có gì ăn nấy. Không đòi hỏi. Sống nay chết mai.
Không có gì để mất. Không có gì tồn trữ. Nay đây mai đó. Nếu quá lệ thuộc vào
những điều kiện sống vật chất, làm sao có thể chấp nhận lối sống bấp bênh như
vậy?
Khó nghèo là điều kiện đầu tiên và tối thiểu một môn đệ phải có
trên con đường theo Đức Kitô. Nhưng để loan báo Tin Mừng, họ còn phải có một
tinh thần siêu thoát với những liên hệ tình cảm gia đình nữa. Trước bổn phận
báo hiếu đối với thân phụ mới qua đời của người thanh niên, tại sao Đức Giêsu
trả lời: "Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ" (Lc 9:60)? Phải chăng
Chúa là một con người lạnh cảm?
Dĩ nhiên, Người không dạy môn đệ khinh dể hay loại bỏ bổn phận đối
với gia đình. Gia đình là một giá trị thiêng liêng cao quí. Nhưng đứng trước
giá trị siêu việt của Tin Mừng, gia đình phải nhượng bộ. "Những đường lối
của Nước Thiên Chúa không nhất thiết sóng bước với đường lối con người"
(The New Jerome Biblical Commentary 1990:701). "Loan báo Triều Đại Thiên
Chúa" (Lc 9:60) là một bổn phận tối thượng.
Nước Thiên Chúa phải chiếm địa vị ưu việt. Giá trị tuyệt đối. Thực
vậy, "ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đằng sau, thì không thích hợp
với Nước Thiên Chúa." (Lc 9:62). Ngoái lại đằng sau có thể làm cho luống
cày không thẳng đường ngay lối. Làm việc trong cánh đồng truyền giáo cũng đòi
môn đệ phải tập trung cao độ mới có thể đem lại kết quả tốt đẹp. Nếu còn để cho
những quyến rũ bên đường thu hút, chắc chắn sẽ đánh mất giá trị lớn lao và công
việc phục vụ mất hiệu lực. Chính vì thế, một khi hiến trọn đời loan báo Tin
Mừng, thánh Phaolô phải "quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía
trước" (Pl 3:13). Người không bao giờ ngoái lại đằng sau với bao nhiêu mối
liên hệ tình cảm chằng chịt và địa vị lớn lao trong hàng ngũ Pharisêu. Bởi vì,
không giá trị nào có thể vượt trên Nước Thiên Chúa.
Chỉ có con người tự do mới có một tinh thần siêu thoát khỏi những
nhu cầu tình cảm và vật chất như thế. Đó mới là tự do đích thực. Tự do đem lại
sự giải thoát hoàn toàn. Lên tới cấp độ tự do đó, người môn đệ sẽ thấy rõ mình
"được gọi để hưởng tự do" mà "phục vụ lẫn nhau" (Gl 5:13).
Họ rất trân trọng giá trị siêu việt của tự do, vì niềm tin mạc khải: "Chính
để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta" (Gl 5:1) bằng
cái chết và sự phục sinh của Người.
Chính nhờ Thần Khí, Đức Giêsu đã hoàn thành sứ mệnh lớn lao đó.
Cũng như Đức Kitô, môn đệ cũng có sứ mạng giải thoát nhân loại để đem họ vào
miền tự do làm con cái Thiên Chúa. Nhưng sứ mệnh đó chỉ có thể thực hiện khi
người môn đệ "sống theo Thần Khí" (Gl 5:16). Chỉ Thần Khí mới có thể
hướng dẫn họ tới miền đất tự do. Họ sẽ phóng mình theo Đức Kitô để giải thoát
nhân loại khỏi vòng nô lệ tội lỗi.
TỰ DO HÔM NAY
Hôm nay khát vọng tự do vẫn sôi sục trong lòng người. Nhân danh tự
do, người ta tranh đấu cho quyền phụ nữ phá thai, bất chấp tiếng nói lương tâm.
Thực tế, "mặc dù tất cả chúng ta phải theo tiếng lương tâm, nhưng lương
tâm không có nhiệm vụ sáng tạo ra chân lý đạo đức, mà phải nhận thức ra chân lý
đó. Có thể một cá nhân nhận thức sai lạc thực tại luân lý của một hoàn cảnh đặc
biệt. Họ có thể thành thực, nhưng là sai lầm một cách thành thực" (John
Myers TGM Newark: Zenit 6/5/04).
Lúc đó, cần phải có những tiêu chuẩn khách quan để hướng dẫn mới có
thể xử dụng tự do đúng mức và đạt tới lý tưởng cuộc đời. Thực tế, có những mâu
thuẫn. Chẳng hạn, "một số người Công Giáo muốn tin tất cả những gì Giáo
Hội tin, nhưng lại muốn để cho người khác tiếp tục trực tiếp giết người vô tội.
Đó là một gương mù lớn" (John Myers TGM Newark: Zenit 6/5/04). Tự do đã
đưa con người tới những chủ trương trái nghịch với đạo lý Giáo Hội.
Nếu muốn sống theo tự do như thế, họ phải chấp nhận một thực tế.
"Những người Công Giáo công khai chống lại giáo huấn Giáo Hội về quyền
sống của tất cả các trẻ chưa sinh nên nhận thức rằng qua hành động họ đã tự do
muốn tự tách biệt khỏi những điều Giáo Hội tin tưởng và giáo huấn. Một cách
nghiêm trọng họ cũng tự tách biệt khỏi cộng đoàn Công Giáo. Tuy nhiên, "họ
vẫn còn là người Công Giáo về một phương diện nào đó, nhưng không còn đức tin
Công Giáo toàn vẹn nữa. Đối với người như thế, diễn tả việc hiệp thông với Chúa
Kitô và Giáo Hội qua việc chịu lễ là một hành vi thực sự thiếu lương
thiện" (John Myers TGM Newark: Zenit 6/5/04).
Nhân danh tự do, con người tưởng đạt tới đỉnh cao quyền làm người.
Thực tế, "không có quyền nào căn bản hơn quyền được sinh ra và nuôi dưỡng
với toàn thể phẩm vị xứng đáng với con người." Do đó, "phá thai là
một trong những bất công nghiêm trọng nhất" (John Myers TGM Newark: Zenit
6/5/04). Lý do vì con người không phải là "một hạt bụi vô dụng mất hút
trong không gian và thời gian vô nghĩa, nhưng là một phần trong chương trình
đầy khôn ngoan phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa" (Gioan Phaolô II: Zenit
5/5/2004).
15. Ơn gọi sống theo Chúa – Veritas.
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)
Các bài đọc thánh lễ hôm nay đều qui về một chủ đề chính là “Ơn Gọi Sống Theo Chúa”, hay nói theo ngôn ngữ
của bài Phúc âm hôm nay là cùng với Chúa tiến về Giêrusalem, tiến về vận mạng
cuối cùng của đời Ngài và đó cũng là vận mạng của mọi đồ đệ. Khi tiến về
Giêrusalem, Chúa Giêsu mạc khải cho các đồ đệ số phận hay đúng hơn sứ mệnh mà
Ngài đã được Thiên Chúa Cha sai xuống trần gian để thực hiện. Đó là hiến mạng
sống mình trên thập giá để cứu chuộc nhân loại. Chúa Giêsu đã phán: “Ai muốn theo Ta thì cũng
phải từ bỏ chính mình vác lấy thập giá hằng ngày mà theo Ta”.Trọn cả cuộc đời của Chúa
đều hướng về sứ mạng cuối cùng này tại Giêrusalem, nơi mà Ngài sẽ phải hy sinh
chính mình làm giá cứu chuộc nhân loại, và mọi người đồ đệ chúng ta cũng được
mời gọi cùng tiến lên Giêrusalem với Chúa để thực hiện sứ mạng của Chúa. Trên
đường đi Chúa muốn kêu gọi những đồ đệ mới cùng nhập cuộc, và bài Phúc âm hôm
nay kể lại cho chúng ta nhiều thái độ phản ứng khác nhau trước lời mời gọi nhập
cuộc đồng hành với Chúa tiến về Giêrusalem. Trước hết, có những người không
chấp nhận chút nào cả, chối từ Ngài thẳng thừng, nhưng Chúa Giêsu không ép
buộc, không trả thù, không phạt tội. Có hai tông đồ trong nhóm bực tức muốn xin
Chúa lửa bởi trời xuống thiêu hủy họ để trả thù, nhưng Chúa Giêsu trách: “Các
con không biết thần trí nào xúi giục. Con Người đến không phải để giết đi nhưng
để cứu chữa”.
Chúa Giêsu sống và thực hiện thái độ tha thứ và sẵn sàng chấp nhận kẻ chống đối, mong họ trở về với Ngài,
và trên thập giá Chúa Giêsu cũng đã thực hiện điều này: “Lạy Cha xin hãy tha
cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Với người trộm lành ăn năn Chúa phán:
“Hôm nay con sẽ lên thiên đàng cùng với Ta”. Không bao giờ Chúa thất vọng về
thái độ chống đối của con người, Ngài luôn chờ đợi và kiên nhẫn chờ đợi con
người.
Đối với những kẽ chấp nhận theo Chúa: “Thầy đi đâu tôi cũng đi theo
Thầy” thì Chúa Giêsu mời gọi họ hãy theo Ngài một cách cương quyết hơn, trọn vẹn
hơn, chấp nhận những hy sinh từ bỏ: “Con chồn có hang, chim trời có tổ nhưng
Con Người không có chỗ gối đầu”. Theo Chúa không phải để được hưởng lợi lộc
trần gian hay địa vị xã hội. Bao ơn gọi đã bị lung lay, chết khô, bị bỏ cuộc
chỉ vì lúc đó không còn những lợi lộc hay địa vị để người đồ đệ Chúa hưởng thụ
nữa.
Thánh Giáo phụ Ignhaxiô bị điệu ra trước mặt quan tòa yêu cầu ngài
từ chối đức tin không chấp nhận mình là người Kitô, là người đồ đệ của Chúa nữa
để được sống thì thánh giáo phụ đã mạnh mẽ trả lời cho những quan tòa rằng:
“Không, tôi không thể nào chối bỏ Chúa tôi, tôi hết lòng yêu mến Ngài”. Và
trong khi quan tòa nói những lời hăm dọa thì ngài vẫn bình tĩnh nói nhỏ những
lời cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa”. Quan tòa không chịu
nổi thái độ thách thức này nên ra lệnh bảo ngài im và hăm dọa: “Nếu ông không
ngưng nói những lời này thì ta sẽ ra lệnh phân thây ông thành muôn mảnh ngay”.
Thánh Giáo phụ Ignhaxiô bình tĩnh trả lời: “Tôi không thể ngưng yêu mến Chúa
tôi. Nếu ông cắt đầu tôi, miệng tôi không nói được lời này nữa, nhưng bao lâu
tim tôi còn đập thì bấy lâu lòng tôi vẫn còn nói lời yêu mến Chúa”.
Để được trung thành và kiên trì đến cùng trên con đường theo Chúa,
dám liều bỏ mọi sự thì mỗi người chúng ta cần phải có tình yêu thật mạnh mẽ đối
với Chúa. Tình yêu này cũng không phải là do tự sức riêng của mỗi người chúng
ta, nhưng là hồng ân của Chúa, là món quà Thánh Thần tình yêu mà Chúa Giêsu hứa
ban và đã ban thật sự cho mỗi người chúng ta qua Bí tích Rửa tội và nhất là qua
Bí tích Thêm sức. Tình yêu đó cần được nuôi dưỡng mỗi ngày một lớn thêm qua Bí
tích Thánh thể, qua Mình và Máu Thánh Chúa.
Nơi bài đọc II của thánh lễ hôm nay, thánh Phaolô đã khuyên anh chị
em giáo đoàn Galata hãy sống theo Thánh Thần mà đối xử với nhau để được tự do
khỏi làm nô lệ cho những tội lỗi. Nhờ tình yêu của Chúa Thánh Thần chúng ta
sống trọn vẹn ơn gọi của mình, theo Chúa cho đến cùng, cho đến Giêrusalem, cho
đến đồi Golgotha và phục vụ anh chị em.
Lạy Chúa, con yêu mến Chúa. Đó là lời cầu nguyện liên lỉ của các
thánh, của những đồ đệ cương quyết theo Chúa cho đến cùng. Ước chi đó cũng là
những lời nguyện của mỗi người chúng ta hôm nay: “Lạy Chúa, con yêu mến Chúa”.
Xin Chúa củng cố mỗi người chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau
tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.
(Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’ – André Sève)
Chúng ta sắp sửa nghe những lời rất gay go nhưng rất quan trọng đến
nỗi trước tiên phải hiểu rõ tại sao Chúa Giêsu tỏ ra gay gắt và nóng lòng: “Vì gần đến ngày Chúa
Giêsu phải lìa bỏ thế gian nên Ngài quyết định đi Giêrusalem”. “Con đường lên
Giêsuralem” chính là con đường tiến về cái chết.
Chúa Giêsu biết điều đó. Ngài đã thấy nổi lên sự chống đối, một
liên minh các thù địch đang chờ đợi Ngài trong thành phố “là nơi người ta giết
chết các tiên tri” (Lc 13,34). Có lẽ Ngài đã có thể tránh được thảm cảnh trong
khi ở lại Galilê, nhưng Ngài không tránh né sứ mạng cứu độ và những hậu quả của
nó. Nơi mà Gioan nói Ngài đi “cho đến cùng” thì Luca nói rằng Ngài “quyết định”
đi (trong bản dịch nghĩa đen: “Ngài nghiêm mặt lại”).
Cái “quyết định” này cũng phải đánh dấu những người muốn đi theo
Ngài. Điều này đặc biệt đúng đối với những “ơn gọi”, nhưng mọi Kitô hữu, theo
cách và trong hoàn cảnh của mình, được mời gọi “đi theo Đức Kitô”, nghĩa là
sống theo Tin Mừng. Do đó chúng ta có thể làm một cuộc xem lại cuộc sống Tin
Mừng bằng cách đi từ những câu trả lời sống động do Chúa Giêsu nói với ba
người.
1) Ngươi sẽ không có chỗ trú ngụ.
Một ngày kia, chúng ta la lên hoặc thì thầm lời yêu thương này với
Chúa Giêsu: “Con sẽ đi theo Ngài khắp nơi”. Câu trả lời của Ngài làm chúng ta
hăng hái. Nếu ở vào lứa tuổi 20, ý tưởng thậm chí ‘không có hang’ chỉ có thể
làm cho chúng ta vui thích mà thôi. Tập sinh nào, kẻ tiên phong nào, kẻ trở lại
với Tin Mừng nào mà quan tâm đến tiện nghi cơ chứ!
Nhưng cuộc sống sẽ nhẹ nhàng trở nên trói buộc. Biết bao tông đồ sự
tiện nghi đã làm cho uể oải! Biết bao Kitô hữu ngần ngại thực hành Tin Mừng bởi
vì phải chịu thiếu thốn và nhất là dấn thân vào sự mất an toàn. “Quyết định đi
Giêrusalem”, trước tiên đó là nhận thấy rằng chúng ta quá gắn bó với quá nhiều
vật dụng, với quá nhiều điều đảm bảo.
- Sau đó thì sao? Chơi trò vô gia cư sao?
- Không, nhưng làm một vòng căn hộ và con tim để đo lường mức độ
trưởng giả của chúng ta. Chúng ta sẽ là quan tòa duy nhất, mỗi một người trong
chúng ta có những con quỷ tiện nghi riêng.
2) Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết
Đây trước hết là mệnh lệnh không được lần chần. Có biết bao nhiêu
lý do làm chúng ta ngồi lại khi người ta đã đứng dậy để đi theo Chúa Giêsu. Nếu
chúng ta không đi theo Ngài ngay lập tức, ơn kêu gọi sẽ qua nhanh, nhanh hơn
những trì hoãn của chúng ta.
Có những chọn lựa rất khó mà dám đón nhận. Khi tôi nghe la rầy một
linh mục không quan tâm đủ đến những cuộc mai táng hoặc người nào đó vừa mới
mất, hoặc thậm chí cha mẹ của chính linh mục đó, tôi tự nhủ phải xác minh kỹ
những điều đó và trong tinh thần của Tin Mừng hôm nay. Có lẽ đó là sự hờ hững
hoặc thiếu vắng tinh thần con thảo, thế thì phải phản đối. Nhưng nếu ngược lại
đó là để phục vụ cuộc sống tốt hơn nữa, và đôi khi một cách anh hùng thì sao?
Tôi biết một bà mẹ nói với người con làm linh mục: “Đừng quan tâm đến mẹ, con
là con trai mẹ hàng ngàn lần khi con hiến thân hơn khi là khi con quan tâm đến
mẹ”. Chúng ta đã giết chết những người tông đồ trong khi kéo họ lại phía sau,
họ trở nên những người chết bận tâm đến những người chết.
Cũng ý tưởng này trong lời nói khó khăn thứ ba:
3) “Hãy nhìn về phía trước, chứ không phải phía sau, nếu không con
không xứng với Nước Trời”.
Có những cách bám víu vào quá khứ rất não nùng hoặc rất sợ hãi mà
không phải là những bước tiến quyết định hướng về Giêsusalem! Thay vì nói những
lời từ biệt không cùng, trong khi nắm lại những kỷ niệm, môn đệ của Chúa Kitô
là kẻ “hướng về phía trước” mà Phaolô đã mô tả: “Quên con đường đã qua và
hướng về phía trước, tôi đi đến đích” (Pl 3,13-14).
(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Một vị linh sư Ấn-độ đang ngồi tịnh niệm bên bờ sông thì có một
thanh niên ăn mặc bảnh bao đến xin làm đệ tử. Anh ta rón rén đến gần bên và đặt
dưới chân vị linh sư hai viên ngọc quý để như một lễ vật nhập môn. Vị linh sư
mở mắt, thấy hai viên ngọc long lanh dưới chân mình, chẳng nói một lời, cầm lấy
một viên ném xuống sông.
Hết sức ngỡ ngàng và tiếc nuối, chàng thanh niên vội nhảy xuống
sông và lặn xuống đáy cố tìm cho bằng được viên ngọc quý giá. Nhưng suốt cả
ngày hì hụp ngoi lên lặn xuống hao hơi nhọc công, viên ngọc vẫn biệt tăm.
Chiều đến, với vẻ mặt thất vọng, chàng đến gặp vị linh sư để xin
ngài chỉ đích xác nơi mà ngài đã ném ngọc xuống để may ra tìm lại dễ hơn.
Bấy giờ vị linh sư cầm lấy viên ngọc thứ hai lại ném xuống sông và
nói: "Ta đã ném nó vào chỗ nầy nầy. Anh hãy lặn xuống mà tìm kiếm."
Bấy giờ chàng thanh niên bỗng nhiên giác ngộ. Anh chợt hiểu ra rằng
bài học đầu tiên mà vị linh sư muốn dạy anh là muốn trở thành môn đệ của ngài
thì điều kiện tiên quyết là phải sẵn sàng từ bỏ lòng ham mê của cải thế
gian.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng dạy cho những ai muốn trở
thành môn đệ của Ngài phải từ bỏ những gì họ quyến luyến nhất để dành ưu tiên
cho Thiên Chúa.
Dành ưu tiên cho Chúa bản thân ta (tức là phải vì Chúa mà quên thân
mình)
"Đang khi Thầy trò đi đường thì có kẻ thưa Người rằng:
"Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo." Người trả lời:
"Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa
đầu."
Với những lời nầy, Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ người ấy phải vì Chúa
mà hy sinh bản thân mình. Theo Chúa thì không thiết đến bản thân, không tìm sự an toàn,
hạnh phúc cho mình, nhưng sẵn sàng từ bỏ mọi sự như Chúa Giêsu, trở thành người
không có chỗ dựa đầu như Chúa Giêsu... để phụng sự Thiên Chúa và Nước Trời.
Còn chúng ta hôm nay thì sao? Chúng ta vẫn đặt bản thân mình lên
trên hết. Chúng ta thường tìm kiếm mọi sự cho mình. Lo cho bản thân mình trước
hết, còn Chúa thì để lại đằng sau.
Dành ưu tiên cho Chúa tình thương của ta
Rồi Chúa Giêsu lại gặp một người khác và cất tiếng mời gọi:
"Anh hãy theo tôi. Người ấy thưa: "Thưa Thầy, xin cho phép tôi về
chôn cất cha tôi trước đã." Đức Giêsu bảo: "Cứ để kẻ chết chôn kẻ
chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa."
Tất nhiên Thiên Chúa vẫn dạy chúng ta thờ cha kính mẹ, thảo hiếu
với tổ tiên, nhưng qua sự việc nầy, Chúa Giêsu đòi người môn đệ phải dành ưu
tiên cho Chúa tình thương của mình, nghĩa là phải yêu mến Thiên Chúa hơn hết
mọi người, phải lo việc Chúa nhiều hơn là việc chăm sóc phụng dưỡng ông bà, mai
táng mẹ cha.
Còn chúng ta thì sao? Phải chăng chúng ta đã dồn tất cả tình yêu
cho những người ruột thịt, cho người thân thiết, còn tình yêu dành cho Chúa
chẳng đáng là bao?
Dành ưu tiên cho Chúa thời giờ của ta
Đi thêm chặng nữa, Chúa Giêsu gặp người khác nữa tình nguyện theo
Ngài: "Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia
đình trước đã." Đức Giêsu bảo: "Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái
lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa."
Với người nầy, Chúa Giêsu đòi phải dành ưu tiên về thời gian cho
Chúa. Việc loan Tin Mừng về Nước Trời là sứ mạng cấp bách, đừng trì hoãn đại sự
vì những vấn vương thế tục. Làm như thế thì chẳng khác gì người "đã tra
tay cầm cày mà còn ngoái lại đằng sau".
Còn chúng ta thì sao? Mỗi ngày Chúa ban cho chúng ta 24 giờ, mỗi
tuần Chúa ban 168 giờ, mỗi tháng 720 giờ, mỗi năm 8,760 giờ... nhưng rồi chúng
ta dành lại cho Chúa được bao nhiêu thời gian? Mỗi tuần đến với Chúa có 60 phút
trong ngay chúa nhật, nhưng nhiều người vẫn thấy tiếc nuối nên còn bớt đầu bớt
đuôi!
* * *
Tất cả ba điều kiện Chúa đòi người môn đệ phải giữ như trên đây
cũng chỉ là giúp ta ôn lại điều răn thứ nhất: "Ngươi phải yêu mến
Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi." (Mt 22, 37).
Sở dĩ Thiên Chúa đòi buộc chúng ta phải dành ưu tiên cho Chúa bản thân
ta, tình thương của ta, thời giờ của ta... đòi chúng ta phải yêu mến Ngài hết
lòng hết sức trên hết mọi sự là vì Ngài đã dựng nên chúng ta và đã yêu thương
chúng ta hết lòng hết sức Ngài.
Tình thương và ân sủng của Thiên Chúa bao la như trời như bể, còn
tình thương mà con người có thể có thì nhiều lắm cũng chỉ bằng chút nước trong
hồ.
Vậy nếu cả hai bên cùng dốc hết tình thương cho bên kia, thì dù sao
ta vẫn có lợi hơn nhiều!
Người ta bảo ở bên Palextina có hai biển hồ... Biển hồ thứ nhất gọi
là biển chết. Đúng như tên gọi, không có sự sống nào bên trong cũng như xung
quanh biển hồ này. Nước trong hồ không có một loại cá nào có thể sống nổi mà
người uống phải cũng bị bệnh. Ai ai cũng đều không muốn sống gần đó. Biển hồ
thứ hai là Galilê. Đây là biển hồ thu hút nhiều khách du lịch nhất. Nước ở hồ
lúc nào cũng trong xanh mát dịu, con người có thể uống được. Nhà cửa được xây
cất rất nhiều ở nơi đây. Vườn cây xung quanh tốt tươi nhờ nguồn nước này...
Nhưng điều kỳ lạ là cả hai biển hồ này đều được đón nhận nguồn nước
từ sông Jordan. Nước sông Jordan chảy vào Biển Chết. Biển chết đón nhận và giữ
lại riêng cho mình mà không chia sẻ nên nước trong biển Chết trở nên mặn chát.
Biển hồ Galilê cũng đón nhận nguồn nước từ sông Jordan rồi từ đó tràn qua các
hồ nhỏ và sông lạch, nhờ vậy nước trong biển hồ này luôn sạch và mang lại sự
sống cho cây cối, muôn thú và con người.
Đây là một định lý trong cuộc sống: có cho đi mới được lãnh
nhận. Vì "xởi lởi trời cho, co ro trời co lại". Hay ít ra cũng
là "có qua có lại mới toại lòng nhau". Người có tâm hồn quảng đại
trao ban mới có cơ hội đón nhận niềm vui và hạnh phúc của cuộc sống. Người có
tâm hồn thanh thoát khỏi những tham sân si của giòng đời mới tự do tự tại. Vì
vậy, thật bất hạnh cho những ai cả cuộc đời chỉ biết giữ riêng cho mình.
"Sự sống" trong họ rồi cũng sẽ chết dần chết mòn như nước trong lòng
Biển chết. Và thật hạnh phúc cho những ai biết trao ban. Cuộc sống họ sẽ mãi
lan tỏa và dồi dào sức sống như biển hồ Galilê.
Đó chính là cung cách sống của Chúa Giêsu. Ngài đã sống một cuộc
sống thanh thoát với những tiện nghi vật chất. Ngài đã chấp nhận cuộc sống bấp
bênh, rày đây mai đó đến độ không có nơi gối đầu. Ngài đã đi vào cuộc đời với
cảnh nghèo khó khốn cùng trong thân phận người nghèo: "sinh vô gia cư,
chết vô địa táng". Ngài đã sống một cuộc đời cho đi: cho đi tình yêu, cho
đi cả tính mạng mình vì người mình yêu. Ngài đã bỏ lại tình yêu của gia đình,
của xóm làng để ra đi rao truyền chân lý, để tìm kiếm và thực thi thánh ý Chúa
Cha. Giá tri cuộc sống của Ngài là làm theo thánh ý Chúa Cha. Ngài không làm
theo ý riêng. Ngài không tìm danh vọng cho bản thân. Ngài luôn chu toàn thánh ý
Chúa Cha và làm rạng danh Chúa Cha qua đời sống hiến dâng phục vụ nhân trần.
Hôm nay, Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy tìm kiếm ý Chúa và thực thi
trong cuộc sống. Ý Chúa có thể làm chúng ta phải thiệt thòi, nhưng là cơ hội để
chúng ta đón nhận niềm vui bất diệt trên quê hương trên trời. Ý Chúa đang mời
gọi chúng ta bỏ lại những hận thù, ghen ghét, những vinh hoa phú quý trần gian
hay những tình cảm mau qua để chọn Chúa làm gia nghiệp đời đời. Ý Chúa đang mời
gọi chúng ta đừng bám víu vào những tham vọng của danh lợi thú để tâm hồn thanh
thoát bình an. Ý Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy quảng đại trao ban, hãy cho đi
để được nhận lãnh. Ý Chúa cần thể hiện trong mỗi giây phút khi phải chọn lựa
giá trị Nước Trời hơn là những giá trị vật chất tầm thường mau qua.
Thế nhưng, giữa cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những người thích bám
víu vào của cải danh vọng trần gian, vẫn còn đó những người sống lệ thuộc vào
những tình cảm mau qua, vẫn còn đó những người vẫn để lòng tham làm hoen ố tâm
hồn, làm mất đi nét đẹp của hoạ ảnh Thiên Chúa nơi tâm hồn của mình. Họ chưa
thực sự sống tín thác vào Chúa. Họ chưa thực sự để cho Chúa làm chủ con người
của họ. Họ vẫn là những con người làm tôi hai chủ. Sống đạo nửa vời, thiếu dứt
khoát khi phải chọn lựa giữa Thiên Chúa và danh lợi thú trần gian.
Xin cho mỗi người chúng ta biết tín thác vào sự quan phòng của
Chúa, biết chọn Chúa làm nghiệp đời đời. Xin cho tâm hồn chúng ta luôn thanh
thoát khỏi những ràng buộc vật chất và những tình cảm mau qua trần gian để tâm
hồn và thân xác chúng ta luôn thuộc trọn về Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Thầy trò Đức Giêsu lên Giêrusalem ngang qua Samaria. Con đường ngắn
nhất để lên Giêrusalem là con đường đi ngang qua xứ Samaria. Dân Samaria lại
thù ghét người Do Thái. Một sự thù ghét từ lâu đời, làm cho hai dân tộc luôn
đối nghịch cùng nhau và nhiều khi đã bùng nổ thành những cuộc xung đột đẫm máu.
Vì thế, những đoàn hành hương thận trọng hơn, thường đi vòng qua bên kia sông
Gióđan, tới tận Giêricô, băng qua sa mạc Giuđêa, trước khi đặt chân vào đền thờ
Giêrusalem. Trở về thủ đô, Chúa Giêsu muốn đi qua xứ Samaria. Nhưng một làng đã
không đón tiếp Ngài khiến cho Gioan và Giacôbê nổi giận đùng đùng đòi sai lửa
từ trời xuống thiêu rụi cả làng ấy. Chúa Giêsu không chấp nhận. Ngài đã quở
trách hai môn đệ được mệnh danh là con của thiên lôi này, và Ngài quyết định đi
sang làng khác. Trên đường đi xuất hiện 3 người muốn theo Ngài làm môn đệ.
- Mẫu người thứ nhất: Theo Matthêu, đây là một luật sĩ. Chính đương sự tự giới thiệu và
đề nghị được đi theo Chúa. Không những thế, ông còn tuyên bố mạnh mẽ sẵn sàng
theo Chúa đến bất cứ đâu. Lời đề nghị này cho thấy lòng nhiệt thành nơi ông là
rất lớn. Tuy nhiên, động cơ đi theo Chúa có lẽ là vinh quang, danh vọng và địa
vị trần thế mà ông mong là Chúa Giêsu có thể mang lại. Ông thiếu sự thành tâm
thiện chí, thiếu cả ý ngay lành.
Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh trước sự ảo tưởng của ông: “Cáo có hang,
chim có tổ, còn Con Người không chỗ gối đầu.” Ở đây, ta thấy rằng Chúa Giêsu
không chiêu mộ đồ đệ theo kiểu tiếp thị ngày nay… Ngài nói rất rõ những điều
kiện khắt khe cho những ai muốn theo ngài. Theo Ngài là phải chấp nhận sự bấp
bênh thiếu an toàn tiện nghi: “Con Người không có chỗ tựa đầu.” Ngài không đưa
ra một bảo đảm nào cho cuộc sống hiện tại. Có chăng là Ngài chỉ bảo đảm cho
cuộc sống mai sau, tức là sự sống đời đời. Vậy điều kiện thứ nhất để làm môn đệ
Chúa Giêsu là biết chấp nhận cuộc sống bấp bênh, đôi khi cũng thiếu thốn cả
những tiện nghi cơ bản của cuộc sống.
- Mẫu người thứ hai: Khác với người thứ nhất, người thứ hai không tự đề nghị theo Chúa
mà chính Chúa Giêsu đính thân ngỏ lời cùng anh: “Anh hãy theo tôi!” Thái độ của
anh trước lời mời gọi của Chúa Giêsu là gì? Anh xin được về chôn cất cha anh
trước đã. Thực ra ở đây phải hiểu là không phải cha người này vừa chết; ông ta
vẫn còn sống. Ý của anh là tuy cũng muốn theo Chúa Giêsu, nhưng xin một thời
hạn chờ cho tới khi cha anh chết và được chôn cất xong xuôi đã, rồi anh mới
theo Ngài. Trong đầu anh đã có sẵn một ưu tiên: ưu tiên cho bổn phận hiếu thảo.
Có thể nói anh ta là một người rất tốt, rất có hiếu. Nhưng đề nghị của Chúa
Giêsu có vẻ như rất phủ phàng: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết”, tức là để cho
người thế gian lo việc thế gian. Như vậy rõ ràng điều kiện thứ hai của người đi
theo Chúa là phải dành ưu tiên cho bổn phận đối với Nước Thiên Chúa, trên cả
những bổn phận đối với thân nhân. Không phải Chúa Giêsu coi nhẹ những bổn phận
đối với gia đình, nhưng Ngài dạy rằng trong trường hợp có xung đột giữa hai bên
thì môn đệ phải coi trọng Nước Thiên Chúa hơn. Tin Mừng phải có chỗ đứng trên
hết, các giá trị Tin Mừng phải được đề cao tuyệt đối, sứ mạng loan báo Nước
Chúa phải có tầm quan trọng và cấp thiết hơn tất cả các nghĩa vụ khác. Ngoài ra
còn cần phải biết phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa nữa.
- Mẫu người thứ ba: Chính anh tự nguyện xin theo Chúa Giêsu. Nhưng anh lại xin thêm
một ân huệ: “Xin cho phép tôi về từ biệt gia đình tôi trước đã.” Thỉnh nguyện
của anh ta xem ra chính đáng, nhưng thực sự anh ta vẫn còn dây dưa, chưa dứt
khoát, anh vẫn còn để cho những chuyện tình cảm riêng tư ràng buộc, giống như
kiểu đi tu rồi nhưng tạm thời xin về một thời gian để chia tay với người yêu.
Lời đáp của Chúa Giêsu khiến ta nhớ lại chi tiết trong Bài đọc I. Thiên Chúa
bảo Êlia hãy chọn Êlisê làm ngôn sứ thay thế cho mình. Êlia đi tìm và gặp thấy
Êlisê đang cày ruộng. Ông quăng chiếc áo choàng của mình cho Êlisê (áo choàng
tượng trưng cho sứ mạng làm ngôn sứ). Êlisê hiểu ý, liền bỏ bò lại chạy theo
Êlia, nhưng với lời nài xin được phép về từ giã cha mẹ trước. Êlia đồng ý. Sau
khi từ giã cha mẹ, Êlisê lấy chiếc cày làm củi đốt lên quay cặp bò làm thịt cho
dân chúng ăn, rồi đi theo ngôn sứ Êlia. Dù sao đây cũng là một hình ảnh tuyệt
đẹp về ơn gọi rồi.
Thế nhưng nếu xưa kia Êlia đồng ý cho Êlisê được phép về từ giã cha
mẹ trước, thì hôm nay Chúa Giêsu lại không đồng ý. Điều kiện Ngài đưa ra là
phải dứt khoát, hơn nữa phải có một con tim không san sẻ để chỉ còn lo cho Nước
Thiên Chúa mà thôi. Không bắt cá hai tay, không để những tình cảm trần thế (dẫu
là tình cảm gia đình) chi phối và ràng buộc: “Cầm cày không ngoảnh lại.”
Theo văn mạch thì Chúa Giêsu sắp đi vào giai đoạn quyết liệt là
thương khó tử nạn và phục sinh. Ngài muốn các môn đệ mình cũng phải đi cùng một
hành trình như Ngài. Tuy nhiên, người ta có thể từ chối lời mời gọi của Ngài
bằng nhiều cách: hoặc vì những thành kiến tôn giáo như dân làng Samaria; hoặc
vì quá cậy dựa vào những bảo đảm vật chất, những quyến luyến gia đình và quyến
luyến quá khứ.
Như vậy, điều kiện thứ ba mà Chúa dạy là phải chấp nhận quên đi quá
khứ đời mình. Quá khứ đó có thể là những quyến luyến tình cảm phù du, những ước
mơ trần tục, kể cả những mặc cảm tội lỗi xa xưa,… đồng thời phải dứt khoát với
mọi thứ ràng buộc, vì người theo Chúa cần có một con tim không san sẻ để luôn
biết lo cho vinh quang Nước Trời.
Tôi có thuộc mẫu người nào trong 3 mẫu người trên không? Có khi nào
tôi thuộc cả 3 mẫu người cùng một lúc hay không? Có thể lắm. Đó là khi tôi theo
Chúa mà thiếu thành tâm thiện chí, thiếu ý ngay lành; tôi theo Chúa mà không
dứt khoát từ bỏ những ràng buộc trần thế; và nhất là chưa biết ưu tiên cho các
giá trị Tin Mừng.
Chúa Giêsu đã dạy: “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự
công chính của Người, còn các thứ khác ngài sẽ ban cho sau.” Những ai tin tưởng
điều này và ưu tiên chọn lựa Chúa và các giá trị Tin Mừng trong đời sống, chắc
chắn họ luôn xứng đáng là những người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu, và chắc
chắn sẽ là những người được Thiên Chúa chúc phúc và ban ơn cho dư dật. Amen.
Suy Niệm 1. KHÔNG QUAY ĐẦU LẠI ĐÀNG SAU
Trong cuốn tiểu sử tự thuật, Con Một, nhà văn Ailen Frank O’Connor
kể lại một cách sinh động cái đêm mà sau cùng ông đã quyết định trở thành một
nhà văn. Ông đã mất việc làm trong ngành đường sắt ở Great Southern Railway và
không có tiền. Những người láng giềng nhìn ông như một tên khùng vô tích sự.
Tuy nhiên, ông đã trình ra trước công chúng những điều ông đã viết:
“Hành động tin tưởng hy vọng quan trọng đến nỗi bằng cách nào đó, ở
nơi nào đó, tôi muốn chứng tỏ tôi không điên cũng không vô tích sự; bởi vì giờ
đây tôi nhận ra rằng tôi phải trả giá cho mọi sự, và không được quay đầu lại
đàng sau. Khi còn là những cậu bé, chúng tôi đến bức tường bao quanh một vườn
cây ăn quả, có vẻ quá cao khó mà trèo qua được, chúng tôi cởi mũ lưỡi trai ra
và ném chúng qua bức tường và rồi không có chọn lựa nào khác hơn là phải đi
theo chúng. Tôi đã ném cái mũ qua bức tường đời tôi và tôi biết rằng tôi phải
đi theo nó, bất cứ nơi nào mà nó rơi xuống”.
Trong Tin Mừng, một cách nào đó, Đức Giêsu đã đối xử tương tự với
ba người muốn trở thành môn đệ của Người. Người nói: “Ai đã tra tay cầm cày mà
còn ngoái lại đàng sau thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”. Người nêu bật
sự cần thiết phải cam kết dấn thân và nói rằng không thể quay đầu nhìn lại đàng
sau. Nếu bạn muốn cày một luống cày thẳng, bạn phải tập trung chú ý công việc
bạn đang làm, không để bị phân tâm. Nếu bạn cứ quay đầu nhìn lại đàng sau, bạn
sẽ không làm tốt công việc. Bạn cần phải có sự dâng hiến và cam kết. Nếu bạn
bắt đầu công việc như thế, thì bạn toàn tâm toàn ý với công việc ấy.
Mọi người chúng ta đều tra tay cầm cày, không cày này thì cày khác.
Thanh niên thì bắt tay vào việc học… vợ chồng thì bắt tay vào cuộc hôn nhân…
linh mục thì bắt tay vào tác vụ… còn có thể kể thêm nhiều
nữa. Và khi được rửa tội, chúng ta tra tay vào một cán cày khác –đi theo Đức
Kitô, hoặc gia nhập và hàng ngũ các môn đệ của Người.
Nếu chúng ta cứ nhìn lại đàng sau, thì sự tập trung của chúng ta bị
phân tán. Do đó năng lực của chúng ta cũng suy giảm. Chúng ta không dấn thân
trọn vẹn. Chúng ta chỉ có một nửa nhiệt tình. Chúng ta hầu như đánh mất thời
gian, đánh mất tầm nhìn hướng về mục tiêu, và bị cám dỗ quay trở lại và hoàn
toàn rời bỏ công việc. Nhìn lại đàng sau cũng gợi ý rằng chúng ta có những suy
nghĩ thứ hai, và có lẽ là nghi ngờ hoặc hối tiếc. Có lẽ chúng ta thấy rằng cái
giá phải trả quá cao. Có lẽ những việc khác mà chúng ta nghĩ rằng mình đã từ bỏ
vẫn còn giằng co trong tâm hồn chúng ta?
Nhưng nếu chúng ta nhìn tới trước, chúng ta sẽ có sự tập trung
không phân tán vào nhiệm vụ đã được chọn. Chúng ta sẽ có một sự tập trung không
phân tán vào nhiệm vụ đã được chọn. Chúng ta sẽ hoàn toàn phó thác. Chúng ta sẽ
toàn tâm toàn ý. Điều đó sẽ cho chúng ta sức mạnh to lớn. Tất cả mọi tiềm năng
của chúng ta sẽ được tập họp và triển khai cho nhiệm vụ. Chúng ta sẽ không bị
chệch hướng. Và do đó chúng ta có một cơ hội tốt nhất để hoàn thành nhiệm vụ.
Những người toàn tâm toàn ý vào công việc sẽ tìm thấy niềm vui, bất chấp gian
khổ. Những người không toàn tâm toàn ý sẽ không có được niềm vui ấy. Vậy sứ
điệp là: Đừng quay đầu lại; cũng đừng nhìn lại đàng sau.
Bài đọc một cho thấy Êlisê đã nghe theo lời gọi của Êlia như thế
nào. Sự đáp lại của ông thì toàn diện, và bằng việc giết bò, đốt cày ngăn cản
mình quay về đời sống cũ. Trong Tin Mừng chúng ta thấy gương mẫu tốt nhất trong
chính Đức Giêsu. Người hướng đến Giêrusalem dù biết rằng sự loại trừ, phản bội
và cái chết đang chờ đợi Người ở đó. Người không muốn đào thoát khỏi con đường
đó. Người đã đem lại một gương sáng cho các môn đệ của Người về loại dâng hiến
mà Người được đòi hỏi.
Loại dâng hiến ấy là một thách đố lớn. Nó có thể dễ dàng lúc khởi
đầu. Nhưng để giữ được sự kiên định, chúng ta cần có ân sủng của Thiên Chúa. Ân
sủng này sẽ giữ chúng ta trung tín với Thiên Chúa và với nhau. Thiên Chúa sẽ
giúp đỡ chúng ta kiên trì trên con đường đã chọn, bền bỉ trong nhiệm vụ đã
chọn. Lúc đó chúng ta sẽ hiểu được niềm vui của người tận hiến và đến thời gian
thuận lợi, chúng ta thấy mình đã phù hợp với Nước Trời.
Suy Niệm 2. GIỮ LÒNG TRUNG TÍN
Viktor Frankl, người đã trải qua ba năm dài ở các trại cải tạo
Auschwitz và Dachau, kể lại câu chuyện sau đây. Là một bác sĩ, ông dành phần
lớn thời gian để săn sóc cho các tù nhân bị bệnh hấp hối trong trại. Khi chiến
tranh gần chấm dứt, ông cùng một bạn tù lên kế hoạch để trốn trại.
Ông bắt đầu thu thập một ít vật dụng: một bát đựng lương thực, một
đôi găng tay bị rách, những ghi chú cho một cuốn sách mà ông hy vọng sẽ viết
ra. Rồi ông nhìn một lần cuối cùng những bệnh nhân của ông đang nằm trên những
tấm ván dài bằng gỗ mục ở mỗi góc của căn lều. Ông bước đến bên một người đàn
ông sắp chết, Frankl cố che giấu hành động chạy trốn của ông. Nhưng người đàn
ông không bị đánh lừa. Và một giọng nói buồn rầu, mệt mỏi vang lên: “Vậy ra ông
cũng bỏ đi sao?”. Frankl chối bỏ điều đó. Nhưng những lời “Vậy ra ông cũng bỏ
đi sao?” ngắt lời ông và lên án ông. Sau khi đi hết một vòng, ông trở lại với
người đàn ông. Một lần nữa, ông được đón chào bằng một cái nhìn tuyệt vọng
chiếu thẳng vào ông. Ông cảm thấy đã phản bội người đàn ông ấy. Thình lình ông
quyết định nắm lấy số phận trong đôi tay mình. Ông chạy ra khỏi căn lều và nói
với người bạn ông hãy ra đi đừng đợi ông nữa. Ông sẽ ở lại với các bệnh nhân.
Lập tức cảm giác bất hạnh của một kẻ phản bội rời bỏ ông. Và ông nói rằng cho
dù ông không có ý niệm gì về những ngày phía trước đưa ông đến đâu, ông có được
sự bình an nội tâm mà trước đó chưa bao giờ ông cảm nghiệm. Và ông vẫn còn sống
khi được giải thoát khỏi trại cải tạo.
Tin Mừng hôm nay bắt đầu với việc loan báo Đức Giêsu cương quyết
tiến về Giêrusalem. Người biết rõ điều đang chờ đợi Người ở đó –loại bỏ, phản
bội, và cái chết. Nhưng đối với Người, không có việc quay đầu lại. Chúa Cha đã
trao cho Người nhiệm vụ mang ơn cứu độ đến cho các em trai, em gái của Người.
Người không có chọn lựa nào khác.
Karen Blixen (tác giả cuốn Out of Africa) nói: “Có lẽ luôn luôn có
một lúc trong đời khi vẫn có hai khả năng để theo đuổi và một lúc khác khi chỉ
còn có một khả năng. Vào lúc cuối cùng này, tôi đã đốt những chiếc thuyền của
tôi và sau đó, không còn con đường để rút lui”. Đức Giêsu đã đạt đến điểm đó.
Với những người muốn trở thành môn đệ của Người, Người nói: “Ai đã
tra tay cầm cày mà còn quay lại nhìn đàng sau thì không thích hợp với Nước
Thiên Chúa”. Điều này đi ngược với sự cam kết và dâng hiến với nhiệm vụ đã
chọn. Lúc khởi đầu, nhiệm vụ ấy có thể dễ dàng. Nhưng với năm tháng đi qua,
những khó khăn gia tăng. Những công việc đều đặn mỗi ngày lấy đi sự kiên trì.
Chúng ta bắt đầu nhìn lại đàng sau. Trong những lúc khó khăn chúng ta dễ dàng
không giữ những điều mà chúng ta đã hứa trong những lúc vui tươi hơn. Một cái
chảo càng mau nóng thì cũng càng mau nguội. Ngày này, chúng ta sống trong thời đại
“ăn xổi ở thì”.
Lời trung tín không phải là một con đường dễ dàng. Đức Giêsu không
giấu giếm điều đó, với các môn đệ của Người. Người khuyên chúng ta sống trung
tín và chính Người nêu gương sáng cho chúng ta và hứa sẽ giúp đỡ chúng ta.
Đức Chúa vẫn còn kêu gọi người ta hôm nay và vẫn còn có những người
đáp lại. Theo Đức Kitô có nghĩa là gì đối với một con người bình thường? Nó có
nghĩa là được kêu gọi làm người Kitô hữu ở nơi bạn sống và trong nghề nghiệp
bạn đã chọn. Có nhiều cách để phục vụ Đức Kitô và Tin Mừng của Người. Trong lúc
ban đầu, ơn gọi là để trở nên một môn đệ hơn là một Tông đồ.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Dostoyevsky kể lại câu chuyện một thiếu niên bị cha cậu đưa ra khỏi
thành phố. Khi còn trẻ, cậu có nhiều mơ ước và hy vọng về một đời sống mới đang
mở ra trước mắt cậu. Tuy nhiên, không lâu sau, cậu có được bài học khắc nghiệt
về thực tế. Họ dừng lại một quán trọ để nghỉ ngơi, giải khát. Trong lúc môt
viên chức của chính phủ bước vào và nốc một cốc rượu Vốt-ka. Rồi ông ta chạy
đến chiếc xe ngựa và không một lời giải thích, nhào vô người đánh xe ngựa nghèo
nàn, bất hạnh là một anh nông dân và đấm anh này túi bụi. Rồi ông ra lệnh cho
người đánh xe ngựa cho xe đi. Người đánh xe đáp lại bằng cách quất cái roi vùn
vụt trên lưng mấy con ngựa với hết sức lực. Vừa hoảng sợ vừa đau đớn, những con
vật chồm lên kéo chiếc xe chạy lao tới.
Bạo lực nuôi dưỡng bạo lực. Nhưng Đức Kitô thách đố chúng ta đáp
trả bóng tối bằng ánh sáng, đáp trả điều xấu nhất nơi người khác bằng điều tốt
nhất trong chúng ta. Vấn đề quan trọng nhất trong thời đại chúng ta là làm thế
nào vượt qua điều xấu mà không làm thêm điều xấu trong quá trình ấy.
21. Lên đường với Ngài - R. Gutzwiller
Trên bước đường Chúa đi, nhiều thanh niên muốn theo làm môn đệ
Ngài, vì họ muốn theo gương Ngài khăng khít hơn. Họ cảm phục Ngài đức độ cao
dầy, vì giáo huấn trong sáng, vì những phép lạ kỳ diệu, vì sức mạnh việc Ngài
thực hiện, và vì dự định quả cảm của Ngài. Họ nôn nóng và tỏ ra sẵn lòng theo
Ngài, lên đường với Ngài.
Người thứ nhất.
Anh tỏ ra dứt khoát, hết sức sẵn sàng ‘tôi xin theo Thầy bất cứ
Thầy đi đâu’. Anh muốn theo Ngài bất chấp nghịch cảnh, hy sinh tất cả, dù hoàn
cảnh nào chăng nữa. Thật là tiếng đáp trả quyết liệt, vô điều kiện.
Nhưng chắc là anh còn ảo tưởng, nên Đức Giêsu khẳng định mạnh mẽ:
‘Chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có nơi gối đầu’.
Bình thường, ai cũng thích một nơi ăn chốn ở an toàn, thật bảo đảm,
nơi họ được tự do định đoạt mọi chuyện, tha hồ thoả mãn nhu cầu riêng, được
sống ‘hết sức thoải mái’, muốn làm gì thì làm, còn mặc ai nấy sống. Dù ở nơi
tầm thường, dù chỉ là một túp lều tranh sập sệ, nhưng có tự do và thoải mái vẫn
hơn.
Nhưng đi theo Chúa Kitô không đem lại cho ta thứ tình cảm an toàn
ấy. Đức Kitô vốn lang thang, nay đây mai đó. Ai quyết chí theo và vững tâm phục
vụ Ngài ắt phải như Ngài không đóng đô ở đâu cả, không ham lối sống an cư lạc
nghiệp. Có tiếng mời gọi, tức khắc cất bước lên đường, dứt khoát cả nội tâm lẫn
ngoại giới. Nơi an toàn của ta ở bên kia thế giới. Nơi nương ẩn của ta đặt ở
nơi Chúa. Và an bình thư thái thực sự lại thuộc về đời sau.
Không thể như con chồn được: chọn hang sâu hốc hiểm làm nơi an thận
bình phận: thù bất nhập, mà an toàn khỏi mọi thời khí độc hại. Cũng không thể
như con chim tự làm cho mình một tổ ấm an lành. Bởi vì đời sống luôn có những
giông bão nổi lên, tàn phá và làm tan những chòm cây an toàn đã khổ công xây
dựng cho riêng mình thay vì cho những người khác. Theo gương Đức Kitô, bước đi
theo Ngài, có nghĩa là hiến thân cho con người và sống trong sự bấp bênh.
Người thứ hai
Anh không tự quyết theo Chúa, song được Ngài mời gọi ‘hãy theo Ta’.
Anh thưa: ‘xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã’.
Theo đó, vấn đề không chỉ là việc chôn cất cho bằng anh tự cho rằng
mình còn phải có trách nhiệm với cha mình và vì tình cốt nhục mình phải ở lại
phung dưỡng cha già đến ngày ông mất. Khi ấy anh mới sẵn sàng theo. Điều này
cũng tự nhiên thôi; có lẽ, còn thuộc về bản chất tốt của người Công giáo nữa.
Dù sao, ta không thể để song thân lâm cảnh cơ cực. Phải để ý đến
anh em và phụ giúp gia đình, bỏ đi như vậy là không được. Vì công cha nghĩa mẹ,
phận làm con là phải đáp đền. Tuy hôn nhân là một bí tích, gia đình là cơ cấu
do Chúa an bài. Hơn nữa Đức Kitô đã chẳng sống ba mươi năm tại Nagiarét và
thánh hoá gia đình đó sao?
Tất cả thật là chí lý, vậy sao Đức Giêsu lại nói ‘để kẻ chết chôn
kẻ chết, phần anh hãy đi rao giảng nước Thiên Chúa’.
Thiên Chúa là Tôn sư tối cao. Ngài đã cất tiếng mời gọi thì phải
đáp lại dứt khoát. Yêu sách của Ngài phải được ưu tiên hơn mọi nhu cầu khác.
Luật Chúa phải sáng chói hơn hẳn luật con người. Ơn gọi trên cao đòi tha phải
tích cực đáp trả vô điều kiện.
Mẹ Ngài trách Ngài: ‘Tại sao con lại làm thế với cha mẹ’. Ngài đã
thưa lại: ‘Mà tại sao cha mẹ lại tìm con, cha mẹ không biết là con phải lo công
việc Cha con sao?’. Ngài không thể khép vào thế giới bé bỏng Nagiarét nhưng
thuộc về vương quốc bao la của Cha Ngài.
Ai muốn rao giảng nước Thiên Chúa ắt phải từ bỏ vợ con và gia đình.
Phải có một tâm hồn quảng đại và đôi tay thong dong, không bị ràng buộc bởi bất
cứ một trở lực nhân loại nào. Phải hy sinh cái thế giới gia đình, tuy đẹp nhưng
nhỏ bé và phấn đấu cho cái vũ trụ lớn lao là nước Thiên Chúa. Lời mời gọi của
Chúa Kitô là một lời động viên. Ai đã dứt khoát dấn thân phục vụ Thiên Chúa,
không thể để mình dan díu với những gì thuộc thế giới chết chóc được.
Người thứ ba.
Người này xem ra đắn đo hơn. Anh phát biểu sự ưng thuận của anh với
điều kiện: ‘Thưa Ngài, tôi xin theo Ngài nhưng cho phép tôi quay về từ biệt gia
đình trước đã’. Như vậy, anh ta đã sẵn sàng chưa? Hẳn là chưa. Anh tạm hoãn
quyết định của anh. Trước khi dứt khoát, anh còn có việc khác phải làm: anh xin
được trở về quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn để cáo từ cha mẹ và thân thuộc.
Qua đó, ta thấy có chút mơ mộng và tình cảm. Nhưng Đức Giêsu đáp
lại cách quả quyết: ‘Kẻ vưà tra tay cầm cày vừa ngó lại sau, không xứng đáng
với Nước Thiên Chúa’. Ta thấy ngay một lối sắp xếp giả tạo. Theo Chúa Kitô
không phải là nhìn lại phía sau mà nhìn phía trước, cứ nhắm Đấng kêu gọi mà
tiến bước, cứ dõi theo mục tiêu của con đường ta đi qua. Tình cảm sẽ làm tê
liệt. Cứng đầu cứng cổ sẽ chẳng đem lại lợi ích gì cho việc theo Chúa. Chúa là
tôn sư, Ngài đòi ta phải hy sinh trọn vẹn, nguyên tuyền và vui vẻ sẵn sàng.
Ai muốn đồng hành với Ngài, phải có quyết định gan dạ và chấp nhận
dặm trường. Ai dừng chân ở mỗi khúc quanh để ghi nhớ những hình ảnh vừa đi qua,
ngoái cổ nhìn lại, thì chính họ sống bằng quá khứ hơn là tương lai; họ không hề
biết dặm trường hiểm nguy. Nếu mỗi chặng đường đều có sẵn một chiếc ghế dài
thoải mái, hẳn họ sẽ dừng lại nghỉ ngơi và chẳng đặt vấn đề theo Chúa nữa.
Cần lưu ý nữa là ba đòi hỏi của Đức Kitô thật phù hợp với đời sống
gia đình. Với người này, Ngài nói phải từ bỏ cuộc sống an toàn của tổ ấm; với
người kia, sẽ chỉ ở lại nhà cho đến lúc anh có thể tự thoát khỏi những ràng
buộc mà không phẫn nộ. Và người thứ ba sẽ hành động mà chẳng chú ý gì đến gia
đình cả.
Nếu cùng một vấn đề được đề cập tới trong ba câu đáp thì ắt không
phải do tình cờ ngẫu nhiên. Cha mẹ và thân thuộc dễ nghĩ rằng mình được quyền
định đoạt theo quyền lợi mình. Họ không ngừng phẫn nộ khi một người trong họ
nghe theo tiếng Chúa từ bỏ gia đình cất bưóc ra đi. Có nhiều cha mẹ, anh chị em
không thông cảm nổi mỗi khi có người con trai hay gái theo tiếng gọi ấy. Nhưng
những người con này vẫn đành chấp nhận… Thiên Chúa lớn lao hơn.
Khi Ngài đặt tay trên ai thì người này hoàn toàn thuộc về Ngài.
Không có chuyện chia sớt, gây tổn hại. Rõ ràng từ bỏ là ray rứt, chia lìa là
khổ đau, Chúa diễn tả minh bạch. Chỉ có một cách giải quyết: Ai muốn đi với
Ngài, phải thành tâm theo Ngài. Và dứt khoát chỉ theo một Thày. Đó là lý do môn
đệ phải dự phần vào sự đơn độc của Ngài.
22. Điều kiện căn bản để theo
Chúa
Trước khi trở thành người sáng lập Dòng truyền giáo mới, gọi là
những nhà truyền giáo của Đức Bác Ái, Nữ Tu Thừa Sai Bác Ái, Mẹ Têrêxa thành
Calcutta đã là nữ tu khấn trọn của dòng các nữ tu Côlôrentô và đang sống an
nhàn, tiện nghi của một giáo viên trường trung học tại Calcutta, nhưng bỗng chị
như cảm thấy sự thôi thúc của Chúa Thánh Thần, từ bỏ nếp sống an lành đang có
để ra đi đến một nơi khác, dấn thân phục vụ người nghèo nhiều hơn.
Trong tập sách có tựa đề là: “Mẹ Têrêxa thành Calcutta” hay “Cây
Viết Chì Trong Tay Thiên Chúa”, kể lại giây phút thay đổi tận căn này trong
cuộc đời của Mẹ Têrêxa. Đó là vào sáng ngày 01/08/1946, Mẹ Bề Trên cộng đoàn
các nữ tu Côlôrentô nhận được bức thư của Đức Giáo Hoàng Piô XII giải lời khấn
cho chị nữ tu Maria Têrêxa để được tự do ra đi theo tiếng gọi mới của Chúa.
Phản ứng của mọi người lúc đó là ai nấy đều ngạc nhiên không biết mình có làm
gì gây phiền cho chị Maria Têrêxa hay không để chị phải ra đi như vậy. Mọi
người đều khóc khi phải chia tay chị Têrêxa, vì thật sự chị được mọi người
trong cộng đoàn yêu mến.
Phần chị Maria Têrêxa sau khi nhận được bức thư thì chị rất bình
tĩnh và nói một câu vắn tắt: “Bây giờ tôi có thể đi đến xóm nghèo”. Lúc đó chị
Maria Têrêxa Calcutta đã phải cương quyết, dứt khoát lắm để có thể bỏ lại mọi
tiện nghi vật chất đang hưởng và mọi tình thân thương của cộng đoàn. Sách tiểu
sử của chị sau này ghi lại rằng, chị ra đi khỏi cộng đoàn với đôi chân không,
hành trang của chị là một sâu chuỗi, một vé xe lửa và năm đồng Rubi trong túi,
chị đã dứt khoát từ bỏ mọi sự để theo Chúa trên con đường Chúa muốn.
Mẹ Têrêxa ra đi bắt đầu công việc phục vụ người nghèo với năm đồng
Rubi trong túi, một món tiền không đủ sống cho một ngày bình thường, Mẹ đã thực
hiện tinh thần theo Chúa như được nhắc đến trong Tin Mừng hôm nay.
Sự dứt khoát, nhất là quyết ra đi như Mẹ Têrêxa mà trong túi chỉ có
năm đồng tiền là điều mà Chúa muốn những ai theo Ngài phải thực hiện và từ bỏ
những cái đang quyến rũ hay níu kéo chúng ta trở lại phía sau, không tiến lên
theo Chúa trọn vẹn hơn. Chúa có phải là người tôi yêu mến nhất hay không?
Truyện cổ Hy Lạp có kể lại câu chuyện của vua Ả rập lên đường chu
du khắp nơi, với đoàn tùy tùng đông đảo và những con lạc đà chở theo nhiều của
cải phân phát cho dân chúng; dĩ nhiên có nhiều đầy tớ theo phục vụ nhà vua. Khi
đi được một ngày đàng, nhà vua dừng lại phân phát của cải cho dân nghèo và chỉ
giữ lại một ít của cải cho đoàn tùy tùng rồi tiếp tục lên đường. Một số những
người theo phục dịch nhà vua không tiếp tục cuộc hành trình theo nhà vua qua sa
mạc nữa, nhưng dừng lại để nhận những thùng lương thực mà nhà vua để lại phân phát
cho dân chúng.
Đi qua nửa sa mạc, nhà vua truyền dừng lại và để lại những thùng
đựng vàng, bạc, châu báu mà ban phát rồi nhà vua tiếp tục lên đường. Nhưng lần
này thì hầu như tất cả những người theo nhà vua đều ở lại để chia nhau những
thùng vàng ngọc châu báu, ngoại trừ một người phục vụ duy nhất đi theo, dù nhà
vua không còn gì để phân phối cho nữa. Lấy làm lạ, nhà vua quay lại hỏi anh ta:
- “Sao nhà ngươi theo ta mà không ở lại để chia những thùng của cải ta để lại
đó?”. Người phục vụ trả lời: “Thưa nhà vua, con theo nhà vua vì lòng yêu mến
kính phục nhà vua chứ không phải vì tiền bạc giàu sang, nhà vua là tất cả của
con”.
Trong cuộc đời ta có bao giờ ta đã thưa với Chúa như vậy chưa? Lạy
Chúa, con muốn theo Chúa vì yêu mến Chúa chứ không phải vì điều gì khác, có
Chúa là phần gia nghiệp của con thế là đủ cho con rồi. Khi dấn bước theo Chúa,
trong niềm sốt sắng chúng ta hân hoan dâng bài ca: “Chúa là gia nghiệp đời
con”, lúc đó xem ra như không còn gì phân lìa ta ra khỏi tình yêu của Chúa. Thế
nhưng tại sao với thời gian tình yêu của ta đối với Chúa bị nhạt dần, bị phai
mờ đi vì những thử thách, vì những bám víu, vì những mưu toan lo cho bản thân
mà chối bỏ Chúa, chối bỏ không dấn thân sống sứ điệp của Chúa.
Bài Phúc Âm hôm nay nhắc chúng ta nhớ lại một số điều kiện căn bản
để sống theo Chúa: “Lạy Thầy, tôi sẽ theo Thầy bất cứ nơi nào Thầy đi”. Đây là
mộ phản ứng nồng nhiệt, tình cảm, nhưng Chúa Giêsu cảnh tỉnh anh về cuộc sống
theo Chúa là không có sự an toàn êm ả trong một căn nhà êm ấm đâu, mà phải chịu
thiệt thòi, phải chấp nhận hy sinh từ bỏ, kể cả những gì con người tự nhiên có
quyền hưởng. Chúa muốn chúng ta phải có thái độ dứt khoát theo Ngài, hoàn toàn
tin tưởng vào Ngài và vì Ngài mà thôi. Chúa sẽ bù lại gấp trăm nhưng theo cách
thức mà Chúa muốn, theo ý Chúa an bài, chứ không phải theo ý riêng của chúng
ta.
Lạy Chúa, xin cho chúng con được dứt khoát theo Chúa cho đến cùng.
Amen.
Con đường ngắn nhất để lên Giêrusalem, đó là con đường đi ngang qua
xứ Samaria. Thế nhưng, dân chúng ở đây thù ghét người Do Thái. Một sự thù ghét
thật tệ hại, đã có từ lâu đời, làm cho hai dân tộc luôn ở trong tư thế đối
nghịch cùng nhau và nhiều khi đã bùng nổ thành những cuộc thảm sát dã man và
đẫm máu, nhất là khi người Do Thái có công chuyện phải đi ngang qua vùng đất
này.
Vì thế, những đoàn hành hương thận trọng hơn, thường đi vòng qua
bên kia sông Giócđan, tới tận Giêricô, băng qua sa mạc Giuđêa, trước khi đặt
chân vào đền thờ Giêrusalem.
Hôm ấy, Chúa Giêsu trở về thủ đô. Ngài muốn đi qua xứ Samaria. Vì
phải ngủ qua đêm, nên Ngài đã sai Gioan và Giacôbê đi trước để chuẩn bị. Ngài
hy vọng mọi sự được tốt đẹp, bởi vì toàn cõi Samaria đã biết đến danh tiếng
Ngài. Làm gì mà họ lại không được nghe nói tới những việc lạ lùng Ngài đã làm ở
Capharnaum và ở nhiều nơi khác.
Thế nhưng, chỉ một lúc sau, hai môn đệ được sai đi trở về, lòng đầy
căm tức. Các ông nói:
- Thưa Thầy, nếu Thầy muốn, chúng con sẽ sai lửa trời xuống thiêu
hủy họ.
Sở dĩ như vậy, vì các ông đã bị họ từ chối, không cho được một chỗ
trú ngụ qua đêm.
Chúng ta có thể tưởng tượng ra câu trả lời đầy mỉa mai của họ:
- Nếu Thầy các ông muốn lên Giêrusalem, thì hãy đi thẳng vào những
làng mạc của dân Do Thái. Chúng tôi chẳng có liên hệ gì với ông ấy và cũng
chẳng cần ông ấy làm phép lạ, bởi vì chúng tôi chẳng có người nào đau yếu bệnh
tật.
Rồi họ lại còn đe dọa, khiến cho hai ông cảm thấy cần phải tường
trình lại sự việc cho Chúa Giêsu được rõ. Họ đã không tuân giữ khoản luật về
việc cho khách đỗ nhà, lại còn miệt thị dân Do Thái và coi thường đền thờ. Hành
động như vậy phải chăng là đã đổ dầu vào lửa. Và hơn thế nữa, họ đã không đón
tiếp Thầy mình, là Đấng được Thiên Chúa sai đến.
Như vậy, phải áp dụng cho họ một hình phạt nặng nề nhất mà tiên tri
Elia ngày xưa đã dùng đến, đó là sai lửa trời xuống thiêu hủy họ.
Tuy nhiên, câu trả lời của Chúa Giêsu đã thực sự đi ngược lại với
lòng mong đợi của họ:
- Các con không hiểu gì hết. Con người đến không phải để hủy diệt,
nhưng đến để cứu vớt.
Ai sống tinh thần của Chúa sẽ không bẻ gẫy cây sậy đã bị dập nát và
không thổi tắt tim đèn còn khói.
Cho tới lúc bấy giờ, các ông có lẽ cũng chưa hiểu thấu được ý nghĩa
của dụ ngôn về tên đầy tớ độc ác, được chủ tha cho món nợ khổng lồ, nhưng lại
cư xử hà khác với người bạn mình.
Không kết án những người Samaria, Chúa Giêsu đi tới một làng khác
và thực hiện đúng như lời Ngài đã dạy:
- Nếu người ta từ chối không tiếp đón và nghe lời các con, thì các
con hãy ra khỏi nhà của họ, rồi phủi bụi dưới chân các con.
Với chúng ta cũng vậy, nhiều khi chúng ta bị cám dỗ hành động một
cách nóng nảy và vội vã như các môn đệ. Nhìn thấy tội lỗi tràn lan và những kẻ
chống đối Giáo hội không ngừng tìm mọi cách để bôi bác và hạ nhục Giáo hội,
chúng ta cũng muốn sai lửa trời xuống tiêu diệt họ.
Thế nhưng, Chúa Giêsu có lẽ cũng muốn nói với mỗi người chúng ta:
- Các con không hiểu gì hết. Con người đến không phải để hủy diệt,
nhưng đến để cứu vớt.
Bổn phận của chúng ta là phải cứu vớt những kẻ sa ngã vấp phạm, là
phải tìm kiếm những kẻ lầm đường lạc lối, là phải đem Tin mừng đến cho những người
chung quanh bằng lời cầu nguyện và nhất là bằng những hành động bác ái, là phải
lấy tình thương xóa bỏ hận thù.
Hãy bắt chước Chúa vì Ngài là Đấng nhân hậu, chậm bất bình và đầy
lòng khoan dung.
(Suy niệm của Lm. Gioan Đặng Văn Nghĩa)
Theo Chúa Kitô, không được phàn nàn vì những chọn lưạ lớn lao của
cuộc đời mình, đừng quay lại đằng sau nữa. Triết gia Alain nói: “điều quan
trọng không phải là bạn đã chọn lựa tốt, nhưng là bạn hãy làm cho điều chọn lựa
đó trở nên tốt. Bạn đã đáp trả lời mời gọi của Chúa và bạn không cảm thấy hạnh
phúc ư? Bạn hãy tự hỏi mình xem đã tiến xa trong tình yêu Thiên Chúa chưa? Bạn
đừng khéo léo lấy lại cái mà mình đã cho đi. Hãy tiếp tục cho đi hơn nữa hoặc
cho đi một cách tốt hơn”.
Cách đây trên dưới 2000 năm, sau khi suy nghĩ cân nhắc, Chúa Kitô
đã biết điều đang chờ đợi Người là quyết định lên Giêrusalem. Người biết lên
Giêrusalem là sẽ phải chịu treo trên thập giá nhuốc nha, trong khi đó thì các
môn đệ cứ tưởng rằng Người lên Giêrusalem để nắm vương quyền và đập tan thế lực
ngoại bang Roma xâm chiếm. Người bình tĩnh tiến bước. Mãi về sau này các ông
mới hiểu được sự bình tĩnh ấy là dấu chỉ của lòng can đảm. Người đi trước, thủ
lãnh của tất cả những ai theo Người cũng sẽ can đảm chịu chết vì tin mừng hoạc
vì công lý. Thầy làm gương để anh em cũng làm như vậy.
Chúa Kitô biết rằng mình phải đi chịu chết. Sau khi suy nghĩ chín
chắn chính Người đã muốn biết cái chết mà người không cần phải biết và ngay cả
cái chết dữ dằn. Chúng ta hãy chiêm ngắm Chúa bước đi lên thành phố mà Người
phải lãnh án tử hình như thế nào. Chúa Kitô can đảm, Chúa Kitô dũng cảm, Chúa
Kitô kiên cường. Đó là mẫu gương Người để lại cho tất cả những ai muốn bước đi
theo Người. Vì vậy theo Chúa Kitô, chính là: Chuẩn bị đương đầu với
thất bại và thập giá
Hãy đọc lại bài phúc âm hôm nay:
Để đi từ Galilea đến Judea, cần phải qua Samaria, người samaria
thường bị người Do Thái khinh bỉ.. Dù sao Chúa Giêsu vẫn sai một số môn đệ báo
tin trước rằng Người sẽ đến đó. Nhưng khi đến, các môn đệ thấy người Samaria
đóng sập của lại không thèm tiếp mình. Vì thế, họ trở về nổi giận lôi đình và
thưa với Chúa: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa tù trời xuống thiêu
huỷ thành này không?” Nhưng Chúa Giêsu quát mắng họ nặng lời. “Này, tụi con
đừng có cái kiểu muốn đổi hướng đi mà thầy đã chọn: chiến thắng chỉ có được nhờ
thập giá chứ không phải nhờ sức mạnh, nhờ tình yêu chứ không phải nhờ bạo loạn.
Tụi con không hiểu đó là lối sống của Thầy ư?”.
Kitô giáo không phải là một con đường trải hoa hồng đón thưởng
những ai say mê Đức Kitô. Kitô giáo cũng không phải là một tôn giáo cho những
ai yên phận không dám đi ngược dòng với thói đua đòi của môi trường chung
quanh. Kitô giáo cũng không phải là một đảm bảo may rủi chống lại những nỗi
buồn của cuộc sống.
Theo Chúa Kitô, là đi vào hiện tượng của thập giá: chấp nhận thất
bại, chấp nhận trở nên điên rồ trước mắt người đời, chấp nhận nói những câu nói
đi ngược dòng với trào lưu tư tưởng đương thời và từ chối vuốt ve quảng cáo và
bôi trơn.
Theo Chúa Kitô là bắt đầu trở về trước khi muốn làm cho người khác
trở về; chấp nhận trỗi dậy trước khi muốn người khác trỗi dậy. Theo Chúa Kitô
là cậy dựa vào sức mạnh của tình yêu, là đi gặp gỡ anh em bằng chính sự tốt
lành của Chúa Kitô.
Theo Chúa Kitô là bắt chước Chúa tôn trọng mọi người, không phải là
giáng đòn chân lý bằng những tai vạ bất ngờ, nhưng bằng sự hiền lành như chim
bồ câu, bằng sự nhẫn nại của người môn đệ biết rằng chính Thiên Chúa làm cho
trở về nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần “gió muốn thổi đâu thì thổi”.
Trở lại bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu gặp một người
sẵn sàng theo Chúa khắp nơi. Chúa Giêsu làm gì đối với anh? Người sẽ làm giảm
sự nhiệt tình của anh: “Này bạn yêu quí, tôi phục thiện chí của bạn, nhưng bạn
đừng bị mắc lừa. Nhất là bạn đừng đợi chờ tìm được một công việc béo bở, một
đảm bảo vật chất nào đâu nhé”.
Đúng vậy, Chúa Giêsu không muốn quyến rũ các tân binh của Người
bằng những món lợi vật chất hoặc một sự danh tiếng nào. Kitô giáo không phải là
một sự béo bở gì, một Tabor liên tục. Kitô giáo cũng không phải là một tôn giáo
cho những người yếu ớt và nhát đảm. Theo Chúa Giêsu là chấp nhận lời mời gọi
liên tục của Phúc Am sống khó nghèo.
Bài Phúc Âm hôm nay còn cho chúng ta thấy Chúa Giêsu mời một chàng
thanh niên khác theo Người, nhưng anh này xin Chúa gia hạn: “Thầy biết rõ, cha
tôi vừa mới qua đời… còn một số giấy tờ cần phải điều chỉnh lại… và cả gia tài,
của hồi môn cần có thời gian để phân chia. Tốt hơn là tôi có mặt ở nhà khoảng
15 ngày hoặc một tháng thì càng tốt.” Không, Chúa Kitô không phải là một con
quái vật không biết bổn phận của những người trong gia đình, nhưng trong bài
phúc âm hôm nay, Người gửi cho anh một sứ điệp quan trọng: “Đúng, anh nghĩ đến
cha anh là một việc đáng khen, nhưng anh thấy đó, cha anh đã chết, anh không
thể làm được gì hơn nữa cho cha anh. Điều thúc bách anh bây giờ đó là tất cả
những người còn sống đang chờ đợi Tin Mừng”. Đúng vậy Kitô giáo không phải là
định cư trong những tiện nghi và tình cảm gia đình. Kitô giáo không phải là một
thứ tôn giáo của một Thiên Chúa nhu nhược và cho phép tất cả. Kitô giáo là một
tôn giáo nâng đỡ, trợ lực và thức tỉnh người tín hữu và nói với họ rằng: Rao
giảng tin mừng là công cuộc khẩn cấp. Khẩn cấp về giáo lý trong một thế giới bị
vật chất hoá, khẩn cấp về quyền bình đẳng, khẩn cấp về tình yêu.
Vì thế, theo Chúa kitô là cần phải trao ban mạng sống mình như
Chúa. Đối với một gia đình, theo Chúa Kitô là vượt qua đau khổ và sống đức tin
nếu có một đứa con phải chết, là chấp nhận cho con gái vào dòng tu hoặc vui
mừng cho con trai vào chủng viện làm linh mục để phục vụ Giáo Hội. Theo Chúa
Kitô là sẵn sàng tứ chối mọi tương quan tình cảm đi ngược với chương trình của
Thiên Chúa.
Trở lại bài phúc âm hôm nay, chúng ta thấy một nhân vật khác nữa.
Anh say mê Chúa Kitô và nói với Chúa: “Con sẵn sàng theo Thầy ngay, nhưng thầy
để cho con về nhà một thời gan để nhìn lại ngôi nhà tuổi thơ ấu của con, kỷ
niệm của con và được ôm hôn mẹ một lần nữa. Elia, khi gọi Elise thay thế mình,
đã chẳng cho phép Elise thăm lại người thân thuộc đó sao?” Chúa Kitô trả lời:
“kéo dài tạm biệt chính là kéo dài chia ly. Nếu anh ra đi thì đừng hối tiếc gì
và đừng muốn trở về với quá khứ của anh nữa”.
Đúng vậy, ktô giáo không phải là một lời cam kết chỉ phục vụ Chúa
Kitô 3 năm thôi. Kitô giáo cũng không phải là một lời cam kết có điều kiện:
“Lạy Chúa, nếu con thích, con sẽ theo Chúa. Bằng không, nếu sau này con sẽ quay
lại với chọn lụa của con, Chúa sẽ tha lỗi cho con, vì con có thể sai lầm về vấn
đề này”.
Theo Chúa kitô, không được phàn nàn vì những chọn lưạ lớn lao của
cuộc đời mình, đừng quay lại đằng sau nữa. Triết gia Alain nói: “điều quan
trọng không phải là bạn đã chọn lựa tốt, nhưng là bạn hãy làm cho điều chọn lựa
đó trở nên tốt. Bạn đã đáp trả lời mời gọi của Chúa và bạn không cảm thấy hạnh
phúc ư? Bạn hãy tự hỏi mình xem đã tiến xa trong tình yêu Thiên Chúa chưa? Bạn
đừng khéo léo lấy lại cái mà mình đã cho đi. Hãy tiếp tục cho đi hơn nữa hoặc
cho đi một cách tốt hơn”.
25. Đường theo Chúa - Cố Lm Hồng Phúc
Thánh Luca dẫn nhập vào bài Phúc Âm hôm nay bằng một câu thật trang
trọng nhưng cũng bi thảm: “Vì gần đến lúc Chúa Giêsu phải cất khỏi đời này,
Ngài cương quyết lên đường đi Giêrusalem”.
Chúa Giêsu như bị giằng co giữa hai cảm quan. Theo bản tính nhân
loại, Ngài cảm thấy lo sợ vì “lên Giê-ru-sa-lem” là đi chịu chết và chết trên
cây Thập giá, nhưng Ngài đã tự vượt thắng để tuân phục Thiên Ý của Đức Chúa
Cha, đã sai Con Một Ngài xuống thế để cứu chuộc nhân loại. Cuộc day dứt nội tâm
này còn ám ảnh Ngài trong những ngày cuối đời và sẽ lên đến tột độ trong cuộc
hấp hối dưới ánh trăng mờ của vườn Giêtsêmani.
Từ đây, mỗi tín hữu cũng có đoạn đường lên Giêrusalem của mình; là
Kitô hữu, chúng ta phải vác Thập giá để đi theo Chúa Kitô.
Trên đường lên Thành Thánh, Chúa Giêsu đã gặp bốn sự kiện, gợi ý
những bài học Chúa dạy chúng ta phải thực hiện khi lên đường theo Chúa.
Trước hết, Chúa sai một số môn đệ, trong đó có hai anh em Giacôbê
và Gioan đi trước dọn chỗ cho Ngài và các môn đệ sẽ đến sau. Nhưng dân làng
Samaria không chịu đón tiếp, khiến cho hai anh em “con của sấm sét” tức mình,
đến xin Chúa cho quyền khiến lửa trên trời xuống thiêu rụi quân vô đạo ấy. Chúa
Giêsu trả lời: “Con người đến không phải để giết mà để cứu chữa”. Chúa muốn dạy
chúng ta rằng con đường theo Chúa không phải luôn thẳng tắp, không gặp trắc
trở. Vậy người muốn theo Chúa phải nhẫn nại hiền lành, lấy tinh thần của Chúa
hiền lành khiêm tốn, để đối xử lại, để chinh phục lại các linh hồn. Thánh
Phanxicô Salesiô nói: “Một thìa mật lôi kéo nhiều ruồi hơn là một xe dấm”.
Sau đó, Chúa gặp ba người đến muốn làm ứng viên đi theo Chúa, trở
nên môn đệ. Người thứ nhấttuyên bố sẵn sàng xin đi theo Ngài mọi nơi. Chúa Giêsu đọc trong
tâm hồn kẻ ấy và thoáng thấy ít nhiều vụ lợi nào đó, nên Ngài trả lời thẳng
thừng để dạy cho những ai muốn theo Chúa: phải nhắm mắt tận hiến, không tìm một
mối bảo đảm nào. Theo Chúa là từ bỏ một nếp sống có qui củ, là nhận lãnh mọi
nghịch cảnh: “Con chim có tổ, con chồn có hang, Con Người không có lấy hòn đá
gối đầu”.
Người thứ hai xin theo làm môn đệ Chúa,
nhưng xin được về lo tang sự cho thân sinh đã. Chúa trả lời: “Hãy để kẻ chết
chôn kẻ chết, phần con, hãy đi rao giảng Nước Trời”. Chúa không bãi bỏ giới
điều thứ tư, nhưng Chúa dạy rằng có những lúc phải đặt việc phụng sự Chúa
trước, và trên hết (14, 26). Phải có can đảm cắt đứt mọi giây mơ rễ má để theo
Chúa. Thánh Neron, tử đạo tại Sơn Tây, Việt Nam, trên đường xuống hải cảng
Marseille để đi truyền giáo, đã cố tình tránh cha mẹ bà con ra tiễn tại sân ga.
Nữ Thánh Chantal nước mắt tràn trụa bước qua con nằm chận cửa, không cho mẹ đi
lập Dòng Thăm Viếng.
Với người thứ ba, có thái độ chần chừ, Chúa phán: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn
quay mặt ngó lui, thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa”.
Thánh Phaolô đã thực thi lời Chúa: “Quên phía sau mà lao mình tới
trước, tôi nhắm đích chạy đến giải thưởng của ơn kêu gọi Chúa ban” (Phil. 3,
13-14).
Lạy Chúa, Chúa là phần gia nghiệp của tôi.
Tôi luôn đặt Chúa ở trước mặt, tôi sẽ không phải nao núng.
Thưa Thầy, Thầy đi đâu tôi cũng xin đi theo
Bài Tin mừng ngày hôm nay nói đến việc đi theo Đức Giêsu. Thế nhưng
mở đầu bài Tin mừng lại đề cập đến sự kiện Đức Giêsu bị một làng người Sa-ma-ri
từ chối đón tiếp. Điều đó báo hiệu cho thấy hành trình đi theo Đức Giêsu không
phải là việc dễ dàng.
Thực vậy, người thứ nhất chạy đến thưa với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin
đi theo”. Lời nói có vẻ dứt khoát, cương quyết. Thế nhưng Đức Giêsu lại trả
lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”.
Câu nói như một lời từ chối khéo léo! Vì sao Đức Giêsu lại làm giảm lòng nhiệt
thành của anh ta như vậy? Có lẽ Người nhìn thấy bên trong sự hăng say đó là một
sự bồng bột, cao hứng nhất thời. Câu nói của Đức Giêsu không hẳn là một lời từ
chối cho bằng là một lời khẳng định. Người khẳng định thực tại mà chính Người
đang trải qua và muốn anh ta ý thức rõ lời cầu xin của mình. Theo Đức Giêsu
không phải để được một chỗ ở yên ổn, được bảo đảm lương thực hằng ngày, được
theo Người đi giảng dạy và làm phép lạ cho người ta. Trái lại, theo Đức Giêsu
là chấp nhận một cuộc sống bấp bênh, nay đây mai đó. Theo Người là bước vào
cuộc hành trình cam go với nhiều rủi ro nguy hiểm. Đức Giêsu không từ chối anh
ta nhưng mời gọi anh ý thức rõ việc theo Người trước khi quyết định.
Đó cũng là lời nhắc nhở cho mỗi người chúng ta. Theo Đức Giêsu
không phải là một quyết định nông nổi theo cảm xúc nhất thời nhưng là một lựa
chọn đòi hỏi đắn đo cân nhắc. Đặc biệt là ý thức rõ con đường theo Đức Giêsu là
con đường lắm chông gai, đòi hỏi người đăng trình phải luôn sẵn sáng đón nhận
mọi nghịch cảnh.
Trường hợp thứ hai do chính Đức Giêsu chủ
động mời gọi. Thế nhưng người ấy lại chần chừ, trì hoãn. Anh xin cho được “về
chôn cất cha trước đã”. Điều đó không có nghĩa là cha anh vừa mất và anh cần
chôn cất cha trước, nhưng nó có nghĩa là anh xin về phụng dưỡng cha, cho đến
khi nào cha qua đời thì anh sẽ đi theo Người. Ý định của anh thì tốt vì anh
muốn chu toàn bổn phận của người con trước đã, trước khi theo Đức Giêsu. Thế
nhưng Đức Giêsu không đồng ý điều đó. Người không chấp nhận một sự nhượng bộ.
Bổn phận đối với Thiên Chúa phải là bổn phận được ưu tiên hàng đầu. Ngay cả bổn
phận đối với cha mẹ cũng không được xếp trên. Đó là một đòi hỏi dứt khoát.
Trong đời sống, nhiều khi chúng ta phải đắn đo suy nghĩ giữa hai sự
lựa chọn: bổn phận đối với Thiên Chúa và các công việc khác. Chẳng hạn việc lựa
chọn giữa đi lễ chiều Chúa nhật với ở nhà xem một trận bóng đá hay đi gặp gỡ,
hội họp với bạn bè; giữa việc dành một ít thời gian cho giờ kinh gia đình với
việc xem một chương trình truyền hình; giữa việc sống theo lời dạy của Đức
Giêsu với việc chiều chuộng thân xác buông theo một ham muốn dục vọng. Và còn
rất nhiều sự lựa chọn khác nữa đòi hỏi chúng ta phải quyết định hàng ngày. Giữa
những lựa chọn đó, ta có luôn ưu tiên cho công việc, bổn phận với Thiên Chúa?
Lại có một trường hợp khác, anh đến gặp Đức Giêsu và nói: “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy,
nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã”. Đức Giêsu bảo: “Ai đã tra
tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên
Chúa”. Anh muốn đi theo Đức Giêsu nhưng còn luyến tiếc gia đình nên xin về từ
biệt gia đình trước đã. Trường hợp của anh rất giống với trường hợp của ngôn sứ
Ê-li-sa (1V 19, 16-21). Nếu như trong Cựu ước, thầy Ê-li-a đã nhượng bộ, cho
phép Ê-li-sa về thì ở đây, Thầy Giêsu cương quyết hơn nhiều. Thầy Giêsu đòi hỏi
một thái độ dứt khoát, quyết liệt. Ngoái lại đàng sau, luyến tiếc quá khứ thì
không thích hợp với Nước Thiên Chúa.
Lời mời gọi theo Chúa luôn đòi hỏi một thái độ mau lẹ, dứt khoát.
Đi theo Đức Giêsu là hướng về phía trước, nơi chân trời tươi sáng đang vẫy gọi.
Muốn vậy, ta phải gạt bỏ những gì thuộc con người cũ, con người của tính xác
thịt, để mặc lấy con người mới của Thần Khí. Theo Đức Giêsu là không ngừng tiến
lên phía trước để ngày một hoàn thiện hơn như Cha trên trời. Ước gì lời Chúa
ngày hôm nay giúp cho ta nhìn lại quãng đường theo Chúa của mình để kịp thời
sữa chữa và thích ứng cho phù hợp với đòi hỏi của Đức Giêsu.
Nếu chỉ đọc lướt qua hay nghe sơ qua bài Tin Mừng, có lẽ chúng ta
sẽ ngạc nhiên: không hiểu tại sao Chúa Giêsu lại có thái độ khắt khe đối với
những người muốn theo Chúa như vậy? Tin Mừng kể lại trường hợp của ba người
khác nhau.
Người thứ nhất,
Theo Tin Mừng Matthêu, là một kinh sư, tự thân hành đến xin theo
Chúa. Anh phấn khởi và tuyên bố sẵn sàng theo Chúa khắp nơi, vì anh thấy nơi
Chúa có thể thỏa mãn được những tham vọng của anh, một thứ tham vọng theo kiểu
trần thế: giàu có, bảo đảm danh vọng, địa vị. Chúng ta hiểu như vậy là nhờ vào
câu trả lời của Chúa. Chúa đưa ra điều kiện làm anh chưng hửng: “Chồn cáo có
hang, chim trời có tổ. Còn Con Người không có chỗ tựa đầu:, nghĩa là Chúa cho
anh biết: Chúa không có gì bảo đảm cho cuộc sống trần gian, vì nghèo đến nỗi
còn thua con chim có tổ, con chồn có hang, và nghèo đến nỗi không có nơi dựa
đầu, tức là không có mái nhà để ở. Chúa nghèo như thế đó. Theo Chúa anh cũng
phải sống như vậy, anh có chấp nhận được không? Tin Mừng không cho biết anh ta
có chấp nhận điều kiện của Chúa không? Tức là anh có đi theo Chúa không?
Người thứ hai,
Chính Chúa kêu gọi anh. Anh xin phép về nhà để chôn cất cha già rồi
đến theo Chúa. Nhưng Chúa không chấp nhận. Chúa cho anh biết: chôn cất cha già
là bổn phận cao quí, nhưng còn có một bổn phận cao quí hơn, đó là xây dựng Giáo
Hội, tôn vinh Thiên Chúa, cứu vớt các linh hồn. Vì thế, Chúa bảo: “Cứ để kẻ
chết chôn kẻ chết, còn anh, anh hãy đi loan báo Triều đại Thiên Chúa”, nghĩa là
hãy để cho những kẻ trần thế lo công việc của họ, còn anh được ủy thác cho một
sứ mệnh cao cả hơn, thì anh hãy đi theo Ngài. Tức là việc phụng dưỡng cha mẹ là
cần, nhưng việc rao giảng Tin Mừng lại cần hơn, nên phải ưu tiên hơn. Tin Mừng
không cho biết anh ta có đi theo Chúa không?
Người thứ ba,
Cũng như người thứ nhất, anh tự mình đến xin theo Chúa. Anh cũng
khéo léo nối kết thêm một yêu cầu: xin về từ giã gia đình. Thật ra yêu cầu này
cũng chính đáng, nhưng Chúa bảo anh: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại
đàng sau thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”. Chúa đã dựa vào công việc
người đi cày để trả lời cho người thứ ba này về điều kiện đi theo Chúa. Người
cầm cày khi cày ruộng, thì luống cày phải thẳng, vì thế, không được ngoái cổ về
đàng sau kẻo làm luống cày vênh vẹo, khiến cho đất không cày đều, làm cho đất
không tốt cho hạt giống gieo xuống. Cũng vậy, người đã đi theo làm môn đệ Chúa
phải có một thái độ dấn thân dứt khoát, không được do dự, ngập ngừng hay chần
chừ khiến cho việc theo Chúa bị cản trở, tức là phải quay lưng lại với quá khứ
và hướng mắt nhìn về tương lai. Một khi tâm hồn thanh thản, con người dễ dành
trọn con tim cho Chúa và tha nhân. Tin Mừng cũng không cho biết người này có đi
theo Chúa không?
Qua những tìm hiểu trên, có người đã thắc mắc: tại sao muốn theo
Chúa, muốn làm môn đệ Chúa, phải chấp nhận từ bỏ nhiều thứ, kể cả những điều
rất tự nhiên, rất hợp lý như vậy? Vì thế, nhiều người cho rằng: những điều Chúa
dạy bảo ở đây chỉ hiểu về những người đi tu thôi. Nhưng theo các thánh Giáo phụ
và các nhà giải thích Kinh Thánh, thì những điều này có thể áp dụng cho tất cả
mọi tín hữu. Đúng vậy, chúng ta đã đi theo Chúa, đối với phần đông chúng ta,
Chúa không đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ tất cả mọi sự, nhưng chúng ta hãy suy
nghĩ xem: hiện tại lúc này, chúng ta có coi Chúa Giêsu và nước trời hơn tất cả
mọi người, hơn tất cả mọi sự không, hay chúng ta còn ngoái cổ lại đàng sau, còn
coi một cái gì hơn Chúa và nước trời? Chúng ta có thái độ dứt khoát và rõ ràng
đó không hay chúng ta muốn ôm đồm tất cả và tiếc rẻ tất cả?
Rồi theo Chúa, đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ những gì không phù hợp
với Tin Mừng, với giới răn của Chúa, chúng ta có thấy mình cần phải từ bỏ gì
không? Như đời sống tội lỗi, thói hư tật xấu, những hành động gương mù, lòng
độc miệng dữ, những ý nghĩ sai trái, những lời nói chua cay độc địa… chúng ta
có thấy mình cần phải từ bỏ nhiều thứ không? Tóm lại, Chúa muốn những ai theo
Chúa thì phải có thái độ dứt khoát và quảng đại.
Xin kể cho anh chị em câu chuyện mà thánh Gioan Bôscô thường kể để
dạy cho thanh thiếu niên về lòng quảng đại: Một hôm, Chúa Giêsu gọi Phêrô và
Gioan lại và bảo hai ông cùng leo núi với Ngài. Dọc đường, Ngài bảo hai ông,
mỗi người hãy mang theo một hòn đá. Phêrô suy nghĩ một lúc rồi nhặt một viên đá
bỏ vào túi. Gioan, do lòng quảng đại tự nhiên, vác cả một tảng đá lớn. Đường
dài, vác nặng, Gioan thở hỗn hển. Còn Phêrô, vừa đi vừa huýt sáo thảnh thơi.
Ông nói với Gioan: “Sao anh lại nhọc công vác một tảng đá lớn như thế?” Chúa
Giêsu nghe tất cả, nhưng Ngài thinh lặng. Khi lên tới đỉnh núi, Chúa muốn dạy
cho Phêrô một bài học về lòng quảng đại. Ngài bảo hai môn đệ ngồi xuống, rồi
đọc lời chúc tụng và biến hai viên đá thành ra bánh mì. Phêrô tiu nghỉu vì viên
đá của ông chỉ biến thành mẩu bánh mì nhỏ không đủ thỏa mãn cơn đói cồn cào
trong bụng ông.
Lần khác, Chúa Giêsu lại cũng gọi hai môn đệ Phêrô và Gioan, bảo
leo núi với Ngài một lần nữa. Lần này Ngài cũng bảo hai ông mang đá theo. Với
kinh nghiệm lần trước, Phêrô liền đi tìm tảng đá lớn để vác theo. Đường xa,
Phêrô phải cố gắng hết sức mới mang được tảng đá cồng kềnh lên đỉnh núi. Ông
chờ đợi một phép lạ mà Chúa sẽ làm để tưởng thưởng ông. Thế nhưng, vừa lên tới
đỉnh núi, Chúa chỉ nói với họ: “Nào chúng ta hãy ngồi lên tảng đá chúng ta vừa
mang theo. Không phải lúc nào ta cũng biến đá thành bánh đâu”. Phêrô cảm thấy
xấu hổ. Ông thưa Chúa: “Thì ra Thầy đã chơi khăm con”. Nhưng Chúa Giêsu mỉm
cười bảo ông: “Lòng quảng đại đích thực không phải là lòng quảng đại có tính
toán và vụ lợi”.
Chúng ta hãy nghĩ xem: chúng ta theo Chúa thế nào? Chúng ta cầu
nguyện, chúng ta hy sinh hãm mình, chúng ta làm những việc từ thiện bác ái với
thái độ và ý hướng thế nào? Chúng ta có đặt điều kiện hoặc trả giá với Chúa
không? Xin mỗi người hãy suy nghĩ.
Bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca kể lại, việc Chúa Giêsu quyết định
lên Giêrusalem để nộp mình, để thi hành thánh ý của Chúa Cha. Trên đường đi,
Ngài ghé vào thành Samaria, nhưng dân chúng không tiếp Ngài, cho nên các môn đệ
nổi nóng, đòi xin lửa từ trời tiêu diệt họ. Nhưng, các môn đệ đã bị Chúa Giêsu
khiển trách. Bởi vì, sứ vụ của Ngài đến không phải để tiêu diệt, nhưng để cứu
vớt. Và đang khi đi trên đường, có ba người muốn xin đi theo làm môn đệ Ngài.
Chúng ta không biết sau này, những người này có trở thành môn đệ của Ngài
không, nhưng lời của Chúa, có vẻ như là điều kiện quá khắt khe cho những ai
muốn theo làm môn đệ của Ngài.
Theo Chúa phải trở nên nghèo khó.
Bởi vì, câu trả lời của Chúa cho người muốn biết Ngài ở đâu. Ngài
cho thấy: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, còn Con Người thì không có nơi
gối đầu”. Cuộc đời của Chúa sống nghèo khó, Ngài không lợi dụng quyền năng để
làm giàu cho mình, để lo cho mình. Nhưng Chúa đã cứu giúp và dành cho người
nghèo, kẻ đau khổ và tội lỗi. Khi mới sinh ra, Chúa đã chọn nơi nghèo nàn nhất
để sinh ra, nơi hang bò lừa, sinh ra ở nơi chẳng xứng cho một người. Cho nên,
Ngài đã đồng hóa với người nghèo, người đau khổ. Ngài cũng dạy các môn đệ, khi
đi rao giảng, thì đừng mang theo gì. Người ta cho ăn thì anh em ăn những thứ
đó. Chính cuộc đời của Ngài và các môn đệ Ngài, là sống nghèo khó, không tạo
cho mình văn phòng, không tích lũy của cải dành riêng cho mình. Bởi vì, ai đến
với Ngài, đều được đón nhận lời Chúa, được chữa trừ mọi bệnh tật, không một
điều kiện, không đòi hỏi gì. Ngài và các môn đệ sống lay lắt, ngủ đường, ngủ
chợ. Khi rao giảng rày đây, mai đó.
Theo Chúa, đòi phải từ bỏ.
Người thứ hai xin theo Chúa, nhưng muốn về chôn cha. Ngài bảo: “Hãy
theo Ta, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết”. Câu nói này có đi trái ngược với giáo lý
Ngài dạy hay không? Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Ngài dạy: “Hãy thảo kính cha
mẹ”. Còn trong Cựu ước thì nói, kẻ bất hiếu với cha mẹ thì đáng bị xử tử. Còn
lời dạy trên đây Chúa không nghiêm khắc đến nỗi không cho người con về chôn
cha. Nhưng có lẽ, người cha của chàng thanh niên đó đang bị đau nặng. Nhưng,
đòi hỏi của Chúa, tính cấp bách của việc rao giảng Tin Mừng, là điều cấp bách,
còn hệ trọng hơn cả việc chăm sóc bệnh nhân nữa. Khi theo Chúa, thì phải biết
hy sinh, phó thác cho Chúa, biết từ bỏ đi những quyến luyến riêng tư của mình,
mà quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa. Trường hợp thứ ba, anh muốn về từ
giã gia đình. Cũng vậy, Chúa không cấm việc từ giã người thân, nhưng Chúa muốn
kẻ theo Ngài thì biết hy sinh, biết đáp trả lại ơn gọi là điều cần thiết hơn,
quan trọng hơn. Cho nên, theo Chúa thì phải biết từ bỏ, từ bỏ những gì quyến
luyến với mình, từ bỏ những cản trở để đến với Chúa, luôn sẵn sàng đáp lại lời
mời gọi của Chúa “hãy theo Ta”. Theo Chúa, đáp lại lời mời gọi của Ngài, biết
phó thác mọi sự cho Ngài. Dù có gặp nghèo khổ, dù có gặp những khó khăn hay thử
thách, nhưng người môn đệ biết luôn trung thành với Ngài. Cho nên, muốn trở nên
môn đệ Đức Kitô, thì hãy vác thánh giá hằng ngày, để theo Chúa.
Theo Chúa, phải chịu thiệt thòi.
Mỗi người Kitô hữu đều là môn đệ Chúa. Chúng ta biết rằng, mình
theo Chúa phải chịu nhiều thiệt thòi lắm! Thiệt thòi là bởi vì sống ơn gọi Kitô
hữu thì phải lội ngược dòng. Tôi không được chiếm đoạt của người khác, tôi cũng
không có quyền sống buông thả, chiều theo những dục vọng của tội lỗi. Tôi phải
sống tha thứ, ngay cả cho kẻ thù. Còn bổn phận phải chu toàn đối với Chúa nữa.
Thay vì bây giờ, tôi có thể lựa chọn ở nhà, để lai rai với bạn bè, có thể ngồi
đánh bạc, hay tán gẫu với bạn bè khác hàng giờ ở các quán cà phê, thì tôi lại
đến với Chúa, để tham dự thánh lễ, để nghe Lời Chúa. Anh chị em nghĩ coi, theo
Chúa làm cho tôi bị hạn chế rất nhiều. Nhưng mà chính trong cái hạn chế đó, tôi
biết tôi là ai, và tôi hiện diện ở cõi đời này để làm gì. Không phải là tôi chỉ
biết tôi, sống cho tôi, lo cho tôi mà thôi, nhưng tôi còn có bổn phận đối với
anh chị em sống chung quanh tôi nữa và tôi cũng phải có trách nhiệm với gia
đình của mình với khu xóm. Sống tôn trọng người khác. Chính đời sống đó làm cho
cuộc đời tôi trở nên có ý nghĩa, và có mục tiêu rõ ràng. Chính khi anh chị em
và tôi đã là Kitô hữu, là môn đệ Đức Kitô, thì những cản trở đó, sự dấn thân đó
không còn làm cho tôi mất đi tự do, mà trái lại, còn làm cho tôi có được tự do
đích thực hơn nữa là đàng khác. Nếu tôi sống trong tự do của lề luật của Chúa
thì lại càng làm cho cuộc sống này trở nên có ý nghĩa hơn, tốt hơn và không
những tình yêu của Chúa lan tỏa trong tôi mà còn lan tỏa đến mọi người nữa.
Cũng như trong Thánh vịnh 18 nói rằng: “luật pháp Chúa quả là chính trực, làm
hoan lạc tâm can”. Cho nên, luật của Chúa chính là sự sống, là con đường dẫn ta
đến với Chúa và anh chị em của mình, chứ không như sự chết thì dẫn người ta đến
ngõ cụt.
Muốn trở nên môn đệ của Chúa, đòi hỏi ta phải vác thập giá hàng
ngày để theo Chúa. Có nghĩa là biết chấp nhận sống nghèo như Chúa. Nghèo ở đây
tức là mình biết sống chia sẻ cho anh chị em túng thiếu xung quanh mình, biết
phục vụ, giúp đỡ anh chị em mình. Đó chính là sống nghèo khó thật sự là lời
chứng sống động và hùng hồn nhất của người môn đệ Chúa Kitô. Hình ảnh những
người muốn theo làm môn đệ Chúa hôm nay, còn là lời mời gọi của Chúa với chúng
ta là hãy biết từ bỏ những rào cản, những gì nó gắn bó, nó thiết thân, thân
quen với mình, đã cản trở, làm cho mình lỡ đi những cơ hội để theo Chúa… Những
quyến luyến đó là gì? Đó là những ích kỷ, những kiêu ngạo, hận thù, ngăn cách
ta đến với Chúa. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta, biết quí trọng ơn gọi làm
Kitô hữu của mình, và sống đáp lại tình thương của Chúa dành cho mình.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Một thiền sư nổi tiếng đã kể giai thoại sau đây về cuộc đối thoại
dí dỏm giữa Đức Phật và ác thần Mara:
Ngày nọ, Đức Phật đang bận việc dưới hầm, còn Ananda, đệ tử thân
tín của Ngài đứng ngoài cửa. Thình lình Ananda thấy Mara xuất hiện, Ananda cứ
tưởng rắng Mara bị lạc lối. Nhưng Mara tiến lại gần Ananda và yêu cầu cho được
gặp Đức Phật, Ananda ngạc nhiên trước yêu cầu của Mara nên hỏi lại:
- Ngươi còn đứng đây để làm gì? Ngươi không nhớ là Đức Phật đã
nhiều lần đánh bại ngươi dưới gốc cây bồ đề rồi sao? Ngươi còn vác mặt tới đây
làm gì? Ngươi không biết xấu hổ sao? Cút đi, Đức Phật không muốn thấy mặt ngươi
nữa đâu, ngươi là đồ ác, ngươi là kẻ thù của Ngài.
Nghe thế, Mara liền cười ngất: Sao, ngươi bảo là sư phụ ngươi cũng
có kẻ thù ư?
Ananda cảm thấy bối rối, anh biết Đức Phật chưa bao giờ nói rằng
ngài có kẻ thù. Đuối lý, Ananda liền xuống hầm báo tin cho Đức Phật biết Mara
xin được gặp Ngài. Anh hy vọng Đức Phật sẽ sai anh lên nói với Mara rằng: Ngài
đang bận, không thể tiếp hắn được. Nhưng trái với những dự đoán của Ananda, Đức
Phật rất vui mừng khi nghe tin có Mara muốn gặp, cứ như thể hắn là một người
bạn chí thân của Ngài, và Ngài liền thân hành đến gặp Mara. Ananda hết sức thất
vọng khi thấy Đức Phật đến trước mặt Mara cung kính bái chào hắn, rồi nhiệt
tình bắt tay hắn. Ngài niềm nở: Chào ông bạn, ông bạn có khoẻ không? Mọi việc
đều tốt đẹp cả chứ?
Nhưng Mara im lặng, không trả lời. Đức Phật mời hắn xuống hầm và
sai Ananda pha trà. Ananda bực bội lắm, anh nghĩ trong bụng: ta có thể pha trà
cho sư phụ mỗi ngày một trăm lần cũng được, nhưng pha trà cho Mara, thì ta thấy
không vui chút nào, nhưng vì đó là lệnh của Đức Phật thì làm sao có thể từ chối
được. Trong câu chuyện nghe lỏm giữa Đức Phật và Mara, Ananda nghe Mara thú
nhận một cách chản nản như sau:
- Mọi việc diễn ra không tốt đẹp chút nào, tôi quá mệt mỏi vì phải
làm Mara, tôi muốn được làm một cái gì khác cơ. Ngài biết đấy, đóng vai Mara
không phải là chuyện dễ, có nói thì nói gian nói dối, cón có làm thì làm điều
dữ điều ác. Tôi mệt mỏi lắm rồi. Nhưng điều làm cho tôi khó chịu hơn cả chính
là các môn sinh của tôi. Ngày nay, cứ mỗi lần mở miệng ra thì họ nói tới công
bình xã hội, hoà bình, bình đẳng, giải phóng, bất bạo động. Tôi nghe quá nhàm
tai rồi, tôi nghĩ đến đã đến lúc tôi xin bàn giao chúng lại cho Ngài, tôi chỉ
muốn làm một cái gì khác thôi.
Đức Phật lắng nghe với tất cả chú ý và cảm thông. Cuối cùng Ngài
nói:
- Bộ anh tưởng rằng làm Phật thì dễ hơn sao? Anh không thấy những
gì các môn sinh của tôi làm cho tôi sao? Họ đặt trên miệng tôi những lời mà tôi
chưa bao giờ thốt ra, họ xây chùa chiền cho tôi, tạc tượng tôi và đặt tôi lên
bàn thờ để thu nhặt cam chuối, tiền bạc cho riêng họ. Tôi và giáo huấn của tôi
đã trở thành đối tượng để đổi chác. Này ông bạn Mara, nếu ông biết được thế nào
là làm Phật, tôi tin chắc ông chẳng muốn làm Phật chút nào đâu.
Giai thoại trên cho thấy một nghịch lý trớ trêu nhưng lại là một
thực tế bi thảm: môn đệ của ác thần thì toàn nói chuyện nhân nghĩa, còn đệ tử
của Đức Phật lại chỉ mãi mê nghĩ đến chuyện khấn vái và cúng tế để thu nhặt cam
chuối và tiền bạc thay vì chuyên tâm tự giác giác tha. Sự thiếu nhất quán và óc
thực dụng này đã bóp méo và làm biến chất không biết bao nhiêu giáo huấn tôn
giáo cao siêu! (x. Nguyễn Thái Hợp, Chút này làm tin, Dấn Thân, Houston, 2003,
tr. 203.)
Câu chuyện trên đây gợi lên hình ảnh hai môn đệ của Đức Giêsu qua
trang Tin mừng Chúa nhật hôm nay. Gioan và Giacôbê đã nổi giận đùng đùng đòi
sai lửa từ trời xuống thiêu rụi cả làng Samaria chỉ vì dân làng không tiếp đón
Thầy của mình.
Thầy trò Đức Giêsu lên Giêrusalem ngang qua Samaria. Dân Samaria
lại thù ghét người Do Thái. Mối hận thù đã có từ lâu đời, hai dân tộc luôn đối
nghịch nhau và nhiều khi đã bùng nổ thành những cuộc thảm sát dã man đẫm máu.
Vì thế, những đoàn hành hương thận trọng hơn, thường đi vòng qua bên kia sông
Giócđan, tới tận Giêricô, băng qua sa mạc Giuđêa, trước khi đặt chân vào đền
thờ Giêrusalem.
Chúa Giêsu trở về thủ đô. Ngài muốn đi qua xứ Samaria. Ngài đã sai
sứ giả Gioan và Giacôbê đi trước để chuẩn bị với hy vọng dân làng sẽ đón tiếp
Thầy trò. Thế nhưng, hai môn đệ trở về, lòng đầy căm tức thốt lên lời giận
dữ:Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa trời xuống thiêu hủy chúng nó
không? Phải áp dụng cho họ một hình phạt nặng nề nhất mà tiên tri Êlia ngày xưa
đã dùng đến, đó là sai lửa trời xuống thiêu hủy họ (2 V 1,10-12). Chúa đã nặng
lời khiển trách, rồi Thầy trò sang làng khác. Không kết án những người Samaria,
Chúa Giêsu đi tới một làng khác, thực hiện đúng như lời đã dạy: nếu người ta từ
chối không tiếp đón và nghe lời các con, thì các con hãy ra khỏi nhà của họ,
rồi phủi bụi dưới chân các con. Hai môn đệ “con cái của thiên lôi” quá đổi ngỡ
ngàng về thái độ của Thầy trước sự “vô lễ” của dân Samaria. Họ càng
kinh ngạc hơn khi Chúa tuyên bố: anh em không biết anh em thuộc loại thần khí
nào,vì Con Người đến không phải để hủy diệt, nhưng đến để cứu sống.
Trong não trạng của các môn đệ cũng như nỗi khát khao hàng thế kỷ
của dân Do thái là mong đợi một Đấng Messia giải phóng dân tộc, phục hồi sức
mạnh trần thế của Israel. Chúa Giêsu thận trọng để không bao giờ đồng hoá với
hình ảnh một Đấng Thiên sai đã bị “chính trị hoá”. Chúa khai mở một con đường
cứu độ bằng yêu thương, khổ đau, hy sinh, nhẫn nhục…
Sự kiện Chúa chống lại cám dỗ Satan trong sa mạc là khởi đầu một
cuộc đấu tranh cam go và kiên trì kéo dài trong suốt hành trình dương thế. Chúa
đã qưở trách Phêrô khi ông đóng vai trò Satan dụng tâm cám dỗ Ngài bỏ con đường
cứu độ theo chương trình của Thiên Chúa: “Satan, xéo đi! vì tâm tư ý nghĩ của
ngươi không phải là của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 8,32). Chúa đã bỏ
trốn lên núi một mình khi dân chúng tôn Ngài lên làm vua sau phép lạ hoá bánh
(Ga 6,5-15). Nhiều lần Chúa từ chối lời yêu cầu một dấu lạ nhãn tiền vì người
ta muốn thử tài Ngài (Mt 12,38; Mc 8,11) hay để thoả mãn óc hiếu kỳ của người
đời (Lc 23,8). Chúa chẳng bao giờ chấp nhận việc dùng phép lạ để hù doạ hay
trừng phạt dân chúng. Ngay cả giây phút bi đát nhất bị quân binh vây bắt, một
môn đệ vung kiếm chém đứt tai tên đầy tớ thượng tế, Chúa liền truyền lệnh:”Hãy
xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai dùng gươm sẽ chết vì gươm. Hay anh tưởng là
Thầy không thể kêu cứu với Cha Thầy sao? Người sẽ cấp ngay cho Thầy mười hai
đạo binh thiên thần! Nhưng như thế, thì lời Kinh Thánh ứng nghiệm sao được?”
(Mt 26,52-54).
Đạo của Chúa là đạo tình thương, bao dung, nhân ái. Tin mừng cứu độ
được gửi đến mọi người, đặc biệt là những người nghèo và tội lỗi. Hình ảnh
người Mục tử tuyệt đẹp, bỏ lại 99 con chiên để vất vả ngược xuôi đi tìm con
chiên lạc và khi tìm được thì vui mừng vác chiên lên vai, hân hoan mời mọi
người chia sẻ niềm vui (Lc 15, 4-7). Con đường Chúa chọn là con đường yêu
thương của vị Mục tử nhân lành, dám hy sinh cuộc đời và tính mạng cho đàn chiên
(Ga 10,11). Nơi Ngài, sứ vụ Messia và thân phận đau thương của Người Tôi Tớ
Giavê đã quyện lẫn với nhau, như Isaia đã diễn tả trong “Bài ca về Người Tôi
Tớ” (Is 52,13-53,12). Ngài là người Tôi tớ trung tín của Giavê ”bị khai
trừ khỏi cõi nhân sinh, vì tội lỗi của dân, Ngài bị đánh phạt”(Is 53,8); “Ngài
cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca, như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm
nín khi bị xén lông, Ngài chẳng hề mở miệng”(Is 53,7) và tuyệt đối từ chối mọi
hình thức sử dụng bạo lực.
Xuyên suốt dòng lịch sử, người Công Giáo Việt Nam sống Tin Mừng
Chúa Giêsu bằng gương sáng bác ái đến nỗi đã giới thiệu được hình ảnh Đạo Công
Giáo như “Đạo Yêu Nhau” cho những người đồng thời. Sống đạo là dựa vào sức mạnh
của Thánh Thể và Lời Chúa, và thể hiện ra bên ngoài bằng những hành động bác ái
yêu thương, khiêm nhường hy sinh. Sống đạo đúng mức cũng là chấp nhận lội ngược
dòng. Sống đạo thẳng thắn cũng là chấp nhận phải thua thiệt so với những người
khác. Sống đạo trọn vẹn cũng là một cách nào đó tử đạo hằng ngày.
Hình ảnh Đấng Thiên Sai đau khổ nơi Đức Giêsu diễn tả một cách thật
hùng hồn điểm độc sáng của Kitô giáo: Thiên Chúa của Đức Giêsu không hù doạ hay
ép buộc một ai. Ngài mời gọi con người sám hối, nhưng luôn tôn trọng phẩm giá
và tự do chọn lựa của họ. Ngài tình nguyện đồng hành với anh em nhân loại trong
cảnh ngộ của cuộc sống trần thế, kể cả thất bại, khổ đau và cái chết (x.sđd tr
217).
Chúa Giêsu không muốn sử dụng phép lạ quyền uy để thu phục nhân
tâm. Ngài dùng tình thương để cảm hoá lòng người. Chúa Giêsu không xây dựng
giáo thuyết trên quyền bính trần thế mà là ở sự từ bỏ và con đường thập giá.
Chúa Giêsu đã chết để giải thoát con người khỏi xiềng xích tội lỗi. Ngài đã
phục sinh để đem lại cho nhân loại cuộc sống viên mãn, nâng con người lên địa
vị cao quý làm con Thiên Chúa.
Bước theo Chúa Giêsu, người tín hữu tìm được lẽ sống, ý nghĩa và
cùng đích cho cuộc đời mình. Đó là một cuộc sống tràn đầy yêu thương hướng đến
trọn lành.
Giữa một xã hội đang chạy theo nền kinh tế thị trường, khuynh hướng
cá nhân và hưởng thụ duy vật chất, chúng ta sống Đạo Yêu Nhau với lòng bao
dung, nhân hậu, thắp sáng lửa Tin Mừng để trở nên ánh sáng, nên muối nên men
cho cuộc đời.
(Suy niệm của Lm. Luy Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Đoạn 9:51-62 khởi đầu phần thứ hai của Tin Mừng Luca.
Trước đây, Chúa Giêsu chữa lành và rao giảng tại Galilêa. Người đã
tỏ mình ra như là Đấng Cứu Thế, Đấng Kitô (9:18-24), Con Thiên Chúa.
Bây giờ, Người làm cuộc hành trình lên Giêrusalem, để thực hiện
cuộc thương khó do vai trò cứu thế của Người đòi hỏi.
Hành trình nầy bao gồm 10 chương (9:51-19:27).
Ở câu 19:27-28, Luca ghi nhận là Chúa Giêsu đã đến Bêthphagê và
Bêthania, cạnh núi Cây Dầu. Từ đó Nguời sai hai trong số các môn đệ đi đem về
cho Người con lừa con, để Người vào thành Giêsuralem và thi hành sứ vụ cuối
cùng của Người trong thành nầy (19:28-31:38).
Hành trình lên Giêrusalem có thể chia làm ba giai đoạn, dựa trên
ghi nhận “Người lên Giêrusalem” (9:51-13:21; 13:22-17:10; 17:11-19:27).
Trong phần đầu của giai đoạn một, Luca nói đến việc tuyển chọn và
sai đi các môn đệ (9:51-10:24).
Đoạn 9:51-62 gồm hai đoạn kế tiếp nhau: - Câu chuyện khi đi ngang
qua làng Samaritanô (9:51-56); - Những đòi hỏi nơi người theo Chúa (9:57-62).
Chúa Giêsu đã ở Galilêa để chữa bệnh và giảng dạy (x. 9:10b). Giai
đoạn nầy đã hoàn tất. Sứ vụ của Người chuyển sang hướng khác là lên Giêrusalem
(9:51-56).
Để đánh dấu việc khởi đầu nầy, Luca dùng cách nói trọng thể: “khi
đã đến ngày” (x. Cv 2:1), “hướng mặt đi lên Giêrusalem”. Động từ “đi lên” và
“mặt Người” (cc. 51-53) được dùng kết hợp với nhau cho thấy hành vi có tính
cách quyết liệt và nhắm đạt đến đích. Anal#mpsis “đưa lên” vừa có nghĩa là “lên
trời”, vừa là “ra đi”. Trong Kinh Thánh chữ nầy chỉ xuất hiện duy nhất ở đây.
“Ngày của Chúa được đưa lên” có nghĩa không chỉ là ngày Người sẽ chịu chết trên
thánh giá, mà còn là ngày Người được chỗi dậy và lên trời. Tất cả những sự việc
nầy sẽ xảy ra cách liên kết với nhau.
Để đi lên Giêrusalem, họ phải đi ngang qua Samaria (9:51; x. Mt
19:1-2; Mc 10:1).
Chỉ Luca ghi lại sự kiện xảy ra tại một làng nào đó ở Samaria: sự
không hiếu khách và phản ứng của hai môn đệ Gioan và Giacôbê.
Có nhiều lý do để đặt chú tâm vào hai môn đệ hơn là sự không hiếu
khách: 1- câu chuyện nầy nằm trong văn mạch liên quan đến việc tuyển chọn và
sai các môn đệ đi. Ngay sau đoạn nầy là những đòi hỏi dứt khoát nơi người môn
đệ.
Câu chuyện một người nào đó nhân danh Chúa Giêsu của họ mà trừ quỷ
(x. 9:49-50) và câu chuyện nầy muốn nêu lên phần nào cá tính và khuyết điểm của
họ, cũng như những người sẽ đến đi theo Chúa (x. 9:57-62). 2- Chúa Giêsu sẽ
dùng những cơ hội nầy mà chỉ dạy và đòi hỏi họ thay đổi. 3- “Samaria” xuất hiện
2 lần trong tin mừng Luca với cái nhìn tích cực: hình ảnh người Samaritanô nhận
hậu (10:33), người phong cùi biết ơn (17:16). Do đó, có thể nói Luca dùng sự
kiện nầy như là khung cảnh mở đầu cho hành trình, và cũng là cơ hội cho việc bộc
lộ cá tính của các môn đệ của Người. Người Samaria không hiếu khách vì họ biết
mục đích hành trình của Chúa Giêsu (9:52).
Liên kết với đoạn trước, đoạn nầy cũng nằm trong bối cảnh Chúa
Giêsu “trên đường đi” lên Giêrusalem (c.57a).
“Trên đường đi” diễn tả cách tượng hình sự vận chuyển không ngừng
tiến về phía trước. Hình ảnh nấy gắn liền với chủ đề “đi theo” của cả đoạn nầy
(cc. 57.59.61). Đoạn nầy gồm ba cuộc gặp gỡ và đối thoại (9:57-62); trong khi
Matthêô chỉ ghi lại hai (x. Mt 8:18-21).
Chương 9 nầy nói nhiều lần nhất đến việc “đi theo” Chúa: dân chúng
(9:11), những ai muốn (9:23), người không theo Chúa mà trừ quỷ (9:49), và ba
người trong đoạn nầy (9:57.59.61). Hầu hết việc “đi theo” Chúa đều đặt ra những
điều kiện và đòi hỏi. Đòi hỏi “vác thánh giá” (9:23) là đòi hỏi tổng quát và
căn bản nhất. Ba đòi hỏi tiếp theo là cụ thể tùy theo từng cá nhân.
Trong cuộc đối thoại với người thứ nhất (9:57-58), Chúa Giêsu nói
rõ là Người không có một chỗ ở nào cả. Hình ảnh cái hang của con cáo và tổ ấm
của con chim, và nơi tựa đầu, chỉ một nơi cư ngụ. Nơi cư ngụ là đòi hỏi căn bản
nhất không chỉ của con người, mà cả muôn loài trên mặt đất. Ai cũng lo lắng cho
chuyện nầy trước tiên. Có được nó, chính là sự an toàn (x. 16:9). Cụm từ “Người
Con của Nhân Loại” trong bối cảnh “đi lên Giêrusalem” ám chỉ đến cuộc thương
khó. Người “không có nơi tựa đầu”, vì phải đi cho đến khi hoàn tất sứ mạng. Như
thế, đi theo Người “trên đường” là tiến về phía trước vì sự cấp bách của sứ
mạng, và bỏ lui đằng sau mọi sự an toàn. Chúa Giêsu sẽ chỉ dạy cho các môn đệ
thái độ không dính bén khi vào nhà nào đó khi họ được sai đi: ở lại, ăn uống
hay ra đi khỏi nhà đó (x. 10:1-12). Sứ mạng là quan trọng, chứ không phải nơi
cư ngụ. Chúa Giêsu là nơi cư ngụ và sự an toàn của người môn đệ.
Cuộc đối thoại thứ hai gồm một lời mời gọi (c.
59a), một lời yêu cầu bị từ chối (cc. 59b-60a), và một lời sai đi (9:60b). So
với Matthêô, Luca thêm câu “ra đi rao giảng Nước Thiên Chúa” (c. 60b), tạo nên
sự song song với lời yêu cầu “ra đi chôn cất cha tôi”. Luca dùng đại danh xưng
“tôi”(c. 59) và “anh” (c. 60) để nhấn mạnh là cả hai lời yêu cầu của người nầy
lẫn lời sai đi của Chúa Giêsu đều quan trọng, mạnh mẽ và cấp bách; và người nầy
phải chọn lựa. Chữ “trước” không chỉ có nghĩa về thời gian, mà còn có nghĩa “ưu
tiên”, “trước mọi sự”, nhất là khi chữ nầy được dùng với “Nước Thiên Chúa” (x.
Mt 6:33). Như thế, có thể hiểu là người nầy đặt tương quan gia đình ưu tiên hơn
lời mời gọi của Chúa, “Hãy theo tôi” (c. 59).
Cần khẳng định là lời từ chối của Chúa Giêsu không nghịch với lề
luật dạy thảo kính cha mẻ, nhất là đối với người chết (x. Tobia 1:17; 4:3;
6:15; Sirach 7:33; 22:11-12; 38:16-23).
Không thể hiểu câu Chúa nói theo nghĩa đen, vì người chết không thể
đi chôn kẻ khác. Khi nói với các môn đệ về sự chọn lựa tương quan giữa Chúa
Giêsu và gia đình, Chúa Giêsu thường dùng cách nói phóng đại “Ai đến cùng Tôi
mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả sự sống đời nầy, không thể là
môn đệ của Tôi” (14:26). Điều nầy chỉ có nghĩa là phải yêu mến Người hơn tất cả
(x. Ez 24:15-24).
Cũng phải được hiểu tương tự như thế trong trường hợp nầy. Ra đi
rao giảng Nước Thiên Chúa (x. 8:1; 9:2.11; 10:9) thì ưu tiên hơn ra đi chôn cất
người chết, dù đó là cha mình.
Kết cấu của cuộc đối thoại thứ ba tương tự như cuộc đối
thoại trước (9:60-61). Ở đây Luca đề cập đến tương quan gia đình rộng hơn,
không chỉ là với “nơi cư ngụ” (c. 58), “cha” (c. 59), mà “những người trong nhà” (c. 61).
Apotassomai có nghĩa là “giã từ”, và “bỏ đi”. Như người trước,
người nầy đặt những tương quan nầy “trước” tương quan với “Nước Thiên Chúa”.
Hậu cảnh của câu trả lời của Chúa Giêsu là câu chuyện Êlisêô đang cày với 12
đôi bò (1V 19:20).
Ý nghĩa chính của lời khôn ngoan nầy: “Đã tra tay vào cày” là đã
khởi đầu việc cày. “Nhìn lại đàng sau” theo nghĩa đen là nhìn những luống đất
đã cày. Động từ “nhìn” ở thể phân từ hiện tại chỉ hành động đang diễn ra. Vì
“đang nhìn” đàng sau, thì không thể tiến lên phía trước và cày ngay hàng thẳng
lối. Do đó, chính việc “đang nhìn lui đàng sau” nầy cản trở cho mục đích của việc
đi theo Chúa là loan báo Nước Trời.
Euthetos, có nghĩa là “hữu dụng”, “thích hợp” như hình ảnh hạt muối
(x. 14:35). Vậy, người không đặt ưu tiên cho việc đi theo Chúa thì không thích
hợp cho việc rao giảng Nước Trời.
Tâm điểm của đoạn nầy là đặt ưu tiên tương quan của người môn đệ
với Chúa Giêsu trên mọi sự.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An Khang)
Cho tới nay Đức Giêsu chỉ thực sự thực thi tác vụ của Người ở
Galilê. Bắt đầu từ đây, trong suốt mười chương (9,50- 19,20), chúng ta sẽ thấy
Đức Giêsu lên Giêrusalem. Lên Giêrusalem là một khúc ngoặt, là một quyết định
tối quan trọng đối với Người. Bởi thời gian mà Chúa Cha ban cho Người, để thực
hiện công trình tại thế sắp kết thúc và việc Đức Giêsu ra đi đã gần kề. Đức
Giêsu lên Giêrusalem để kiện toàn sứ vụ. Như Êlia, ông chỉ được rước về trời
sau khi đã hoàn tất sứ vụ (2V 2,9-11). Đức Giêsu cũng chỉ được siêu thăng hay
được rước về trời sau khi đã chịu đau khổ và phải chết. Ý thức rõ điều đó, nên
khi đi lên Giêrusalem, Đức Giêsu đã phải can đảm, phải nhất quyết. Đúng hơn
Ngài phải rắn khuôn mặt lại, làm cho khuôn mặt chai cứng, để vượt qua nỗi sợ
hãi. Giống như người tôi tớ Giavê, Isaia loan báo trong bài ca thứ ba (Is
50,7).
Lên Giêrusalem, Đức Giêsu không chỉ đi một mình. Cùng đi có Nhóm
Mười Hai, bảy mươi hai môn đệ, các cảm tình viên, các bà đạo đức... Bởi thế,
Đức Giêsu sai mấy sứ giả đi trước, họ có phận sự tìm lương thực, sắp xếp chỗ ở.
Trong số những người được sai đi, có Giacôbê và Gioan. Họ lên đường vào một làng
người Samaria, chuẩn bị cho Người đến. Nhưng dân làng không đón tiếp Người, vì
Người đang đi về hướng Giêrusalem.
Giữa người Dothái và người Samaria, có những xung khắc trên bình
diện quốc gia và trên bình diện tôn giáo. Người Samaria là miêu duệ của các bộ
lạc Đông Á, đến định cư vùng này vào thời vương quốc phương Bắc của người
Dothái, bị người Assyri chiếm đóng năm bảy trăm hai hai trước công nguyên, cũng
là miêu duệ của những người thổ dân bản xứ. Họ đã theo Dothái giáo thờ Đức
Giavê, nhưng đã xây đền thờ riêng trên núi Garizim. Họ khác với dân Dothái về
nhiều điểm trên bình diện tôn giáo. Chẳng hạn, ngoài Đức Giavê họ còn thờ các
thần riêng, có bộ lạc còn giết con trai, để tế thần riêng của mình. Người
Dothái khinh dể người Samaria, cho họ như một dân nửa lương nửa giáo, tránh
tiếp xúc với họ (Ga 4,9). Nhiều lần vì thù ghét, giữa hai dân tộc đã có những
cuộc tấn công lẫn nhau, có lần người Samaria đã quẳng xương các loài vật vào
đền thờ Giêrusalem, để đền thờ bị ô uế. Nay họ nghe biết Đức Giêsu lên Giêrusalem
để dự lễ, họ đã chống đối và từ chối đón tiếp Người. Nếu Đức Giêsu không lên
Giêrusalem, chỉ đến với họ, họ đâu có từ chối. Họ đã chẳng mời Ngài ở lại hai
ngày, khi Ngài gặp một phụ nữ của họ ở giếng Giacob đó sao?
Trước sự từ chối đó, Giacôbê và Gioan, biệt danh là con của sấm
sét, đã nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ
trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?" Êlia đã hai lần xin lửa từ trời
xuống, thiêu hủy hai sỹ quan và năm mươi binh lính của vua Akhátgia, đến gặp nhà
tiên tri đang ngồi trên núi đòi ông xuống để hỏi xem vua có khỏi bệnh hay
không? (2V 1,10). Giờ đây, Giacôbê và Gioan cũng muốn xin Đức Giêsu cho các ông
thực hiện điều đó, để thiêu huỷ dân làng Samaria, mà các ông cho là "hỗn
láo" dám khước từ đón tiếp Đấng Messia của Thiên Chúa. Giacôbê và Gioan
tưởng, làm như thế là đẹp ý Thiên Chúa và được Đức Giêsu tán đồng. Các ông lầm,
Thiên Chúa đâu hẹp hòi như các ông nghĩ. Ngài là Thiên Chúa toàn năng nhưng
không thích trừng phạt ai cho dù họ xúc phạm đến Ngài. Ngài là người cha nhân
từ, một người mẹ hiền dịu, sẵn sàng chờ đợi tội nhân hối cải. Thiên Chúa không
trừng phạt, Người luôn tha thứ. Đức Giêsu không đến để lên án, nhưng để cứu độ
(Lc 19,10). Bởi thế, Đức Giêsu quay lại quở mắng các ông. Rồi Thầy trò đi sang
làng khác.
ĐỨC KITÔ MẪU GƯƠNG VÀ TIÊU CHUẨN SỐNG
Trên đường lên Yêrusalem, Đức Yêsu linh cảm những gì đang chờ đợi
Ngài. Những gì xảy đến cho Đức Yêsu và các môn đồ của Ngài trong thời điểm này,
soi sáng những tình huống và cách cư xử của mỗi người chúng ta.
Xin cho con về hôn cha mẹ để từ giã
Ngày xưa khi Chúa truyền cho Êlia gọi Êlisa tiếp tục sứ mạng Chúa
trao cho ông, ông đã vứt áo choàng trên người Êlisa. Êlisa đã cắm cày, và xin
Êlia được phép về hôn cha mẹ để từ giã, trước khi đi theo Êlia; và Êlia đã cho
phép.
Với người “tôi xin theo Thầy nhưng xin được phép về từ biệt gia
đình trước”, Đức Yêsu trả lời: “ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đằng
sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”. Dường như Đức Yêsu đòi hỏi hơn
Êlia với những người đi theo các Ngài? Với cái nhìn của Đức Yêsu, những người
do dự, dùng dằng không dứt khoát, nuối tiếc quá khứ, không thích hợp với Nước
Thiên Chúa.
Những người được mời gọi đi theo Chúa ngày nay, cũng phải xét lại
thái độ của mình đối với Đức Yêsu, xem mình có dứt khoát theo Chúa không? Nếu
thái độ của mình không dứt khoát, còn ngoái lại đằng sau, còn quá quyến luyến
gia đình, e rằng khó có thể theo Chúa. Xin Chúa cho những người theo Ngài, được
ơn chọn Ngài là tất cả để theo Ngài.
Con người không có chỗ tựa đầu
Nếu ai muốn đi theo Đức Yêsu để có một nơi ở yên ổn, để được bảo
đảm về vật chất, thì người đó sẽ thất vọng, vì Ngài chẳng có gì: “chồn cáo có
hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”. Đức Yêsu nghèo,
nhưng Ngài có Thiên Chúa là tất cả. Gia tài của Đức Yêsu, là Thiên Chúa. Lương
thực của Đức Yêsu, là làm theo ý Thiên Chúa.
Số phận của Đức Yêsu, tuỳ thuộc thái độ sống của Ngài. Nếu Ngài
“khôn ngoan” theo kiểu người đời, chắc không đến nỗi phải chết “ô nhục” trên
thập giá. Đức Yêsu đã sống theo lẽ phải, sự thật bất chấp tất cả. Và Đức Yêsu
đã sống thật với chính Ngài và Thiên Chúa, đến độ Ngài sẵn sàng chấp nhận cái
chết. Số phận của Đức Yêsu vắn vỏi.
Theo tiêu chuẩn người đời, Đức Yêsu không “khôn”, không đạt được
những gì con người ngày nay đòi hỏi. Nếu có ai muốn theo Đức Yêsu, muốn “đồng
hình đồng dạng” với Ngài, người đó phải tự hỏi xem họ có sẵn sàng nên giống Đức
Yêsu trong cách hành xử trong chọn lựa, trong tư tưởng, lời nói, hành động
không?'
Đức Kitô giải phóng chúng ta
“Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải phóng chúng ta”.
Người đời ham tiền bạc, danh vọng, chức quyền…, Đức Yêsu tự do với tất cả những
điều đó, và Ngài trở thành mẫu gương để những ai muốn theo Ngài, cũng được tự
do với tất cả.
Nhìn những người nghiện rượu, nghiện xì-ke, mới hiểu thế nào là “nô
lệ” khi cơn nghiện hoành hành. Tiền bạc, danh vọng, trai gái, xì-ke ma
tuý, có sức hấp dẫn và trói buộc của nó, mà một khi đã vướng vào không dễ gì
thoát ra được. Có bao người quyết định bỏ thuốc, bỏ rượu nhưng không dễ để bỏ;
những điều này giúp để hiểu những người nghiện ma tuý hơn, vì chuyện nghiện hút
thuốc hay nghiện rượu là những “chuyện nhỏ” so với nghiện ma tuý. Tội
lỗi cũng có những trói buộc của nó và con người không dễ gì thoát ra được. Tội
lỗi trói buộc con người, không để con người được tự do sống theo điều lý trí
nhận thấy là đúng. Tội lỗi làm suy nhược ý chí của con người, trói buộc con
người vào con đường ác. Ai có thể làm cho người nghiện ma tuý thoát khỏi cảnh
nghiện đó? Những người thân rất muốn, nhưng không làm được. Phải chính đương sự
muốn, mới có thể làm được (cũng có những người muốn, nhưng họ không thể vượt
được khi cơn nghiện đến).
Đức Yêsu là dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương và tha tội cho con người;
Ngài cũng là đường giúp con người thoát khỏi ách nô lệ của tội. Qua chính con
người và cách sống của Ngài, Ngài dạy cho con người biết đâu là giá trị đích
thực: giá trị của cuộc sống nghèo, giá trị của một cuộc đời bình dị. Cuộc sống
và cái chết và sống lại của Đức Yêsu, có sức giải phóng con người khỏi tội và
ách nô lệ của tội.
Đức Yêsu luôn sống theo Thần Khí, Ngài sẵn sàng để Thần Khí hướng
dẫn Ngài trong mọi sự. Ngài ban Thần Khí cho con người, và chính Ngài luôn hiện
diện với con người cho đến ngày Ngài lại đến trong vinh quang. Để có sự tự do
từng ngày, con người cũng phải sống theo sự hướng dẫn của Thần Khí như Đức
Yêsu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết”. Tại sao Đức Yêsu lại đòi hỏi
những người theo Ngài như vậy?
2. Bạn có hài lòng với cuộc đời của bạn không? Nếu cho bạn chọn
cuộc đời của Đức Yêsu và cuộc đời của bạn như hiện tại, bạn chọn cuộc đời của
ai? Tại sao?
3. Bạn hiểu và kinh nghiệm gì về tự do thể lý và tự do nội tâm? Tại
sao người sống “yêu thương” là người tự do đích thực?
33. Người
không nhìn lại - Lm.
Mark Link, S.J.
Chủ đề: "Bí quyết để không nhìn lại là hướng về Đức
Giêsu"
Vào năm 1924, ông Eric Liddell là lực sĩ chạy bộ 100 thước nhanh
nhất nước Anh. Ai ai cũng tin rằng ông sẽ giựt huy chương vàng Thế Vận Hội ở
Balê vào năm đó. Nhưng đột nhiên có vấn đề làm xôn xao dư luận.
Khi chương trình Thế Vận Hội được quảng bá, cuộc chạy đua 100 thước
lại xảy ra vào ngày Chúa Nhật. Với ông Eric, giới răn "giữ ngày Chúa Nhật
thánh thiện" có nghĩa ông không được chạy đua vào ngày Chúa Nhật. Ông thật
buồn.
Khi tin đồn khắp nơi là ông Eric sẽ không dự cuộc đua 100 thước,
bao nhiêu áp lực đổ lên ông. Ngay cả Hoàng Tử xứ Wales cũng cố can thiệp vào
lương tâm của ông. Khi ông quyết định từ chối tham dự cuộc đua, báo chí Anh quốc
gọi ông là kẻ phản quốc. Nhưng ông Eric vẫn từ chối không muốn đi ngược với
điều ông tin tưởng.
Ông gặp các huấn luyện viên và đề nghị một toán lực sĩ sẽ thay ông
chạy đua 100 thước. Còn ông sẽ tham dự cuộc đua 400 thước, dù rằng chưa bao giờ
trong đời ông tham dự loại này.
Để rút ngắn câu chuyện, không những ông Eric đã đoạt huy chương
vàng cuộc đua 400 thước mà toàn đội của ông cũng đoạt huy chương vàng cuộc đua
100 thước. Thay vì chỉ được một huy chương vàng, các lực sĩ chạy đua của nước
Anh đã đoạt được hai huy chương vàng.
Một vài năm sau Thế Vận Hội, ông Erich làm thế giới ngạc nhiên khi
ông tình nguyện sang Trung Quốc truyền giáo. Sau đó, người yêu của ông cùng
tham gia với ông. Họ kết hôn và có được ba người con xinh đẹp.
Sau đó Thế Chiến II xảy ra, khi nước Nhật tham dự cuộc chiến, ông
Eric đưa gia đình sang Gia Nã Đại. Sau đó không lâu, Nhật xâm lăng Trung Quốc.
Ông Eric bị bắt và bị đưa vào trại tập trung của Nhật. Ở đây ông tiếp tục sứ
vụ, làm việc với các tù binh khác.
Một vài năm sau, ông từ trần một cách anh hùng trong trại tù.
Sau cái chết của ông, vợ ông nhận được rất nhiều lá thư nói về cử
chỉ anh hùng của ông Eric khi ở trong trại. Trong các thư khác, có hai người
viết là nhờ ông Eric mà họ đã không tự tử.
Vào năm 1980 có người muốn thực hiện cuốn phim về ông Eric và Thế
Vận Hội 1924. Khi vợ ông nghe được, lúc ấy bà đang sống ở Toronto, bà nói,
"Có ai để ý đến một biến cố xảy ra đã quá lâu về một người không muốn chạy
đua vào ngày Chúa Nhật chỉ vì đức tin Kitô Giáo?"
Kết quả không ngờ là cả hàng triệu người muốn lưu ý. Cuốn phim,
được gọi là Chariots of Fire, không chỉ phá kỷ lục số vé bán mà còn chiếm Giải
Academy năm 1982.
Câu chuyện của ông Eric Liddell cho thấy khía cạnh tích cực của lời
Chúa Giêsu trong bài phúc âm hôm nay. Chúa Giêsu nói:
"Ai bắt đầu cầy cấy mà còn nhìn lại thì không phục vụ cho Nước
Trời."
Ông Eric Liddel không bao giờ nhìn lại. Một khi ông đã quyết định
theo Chúa Giêsu, ông luôn nhìn tới trước. Ông không bao giờ nhìn lại, ngay cả
khi phải đương đầu với áp lực của quần chúng. Ông không bao giờ nhìn lại ngay
cả khi bị gọi là kẻ phản quốc.
Bí quyết nào giúp ông Eric can đảm không bao giờ nhìn lại?
Bí quyết nào giúp ông trung thành với Chúa Giêsu, ngay cả khi phải
đương đầu với sự chống đối trùm lấp?
Bí quyết này nằm trong sự nhận xét của bà quả phụ Eric khi được tờ
Toronto Star phỏng vấn. Nói về ông Erich, bà cho biết, "Ông ta luôn luôn
dùng giờ phút đầu tiên, thật sớm của một ngày để đọc Kinh Thánh, cầu nguyện và
hoạch định chương trình trong ngày."
Đó, chúng ta đã có bí quyết đằng sau sự can đảm của ông Eric. Đó,
chúng ta đã có bí quyết đằng sau sự trung thành của ông đối với Chúa Giêsu. Ông
Erich Liddell là một người siêng cầu nguyện. Ông đã có thể luôn cầm lấy cái cầy
và không nhìn lại đằng sau vì mỗi sáng ông đều gặp Chúa Giêsu trong sự cầu
nguyện.
Vào năm 1982, cùng năm cuốn phim Chariots of Fire được Giải
Academy, có một bài báo đăng trong tờ Reader's Digest. Bài này nói về một giám
đốc quảng cáo người Công Giáo, dù rất thành công, bà vẫn cảm thấy cuộc đời
trống rỗng.
Một sáng kia, trong cuộc họp với ông cố vấn về tiếp thị, bà đề cập
đến sự trống rỗng này.
Ông cố vấn hỏi, "Bà có muốn lấp đầy nó không?" "Dĩ
nhiên là có," bà trả lời. Ông nhìn thẳng vào mắt bà và nói, "Hãy bắt
đầu mỗi ngày với một giờ cầu nguyện."
Bà nhìn ông và nói, "Này ông Don, ông không đùa đấy chứ. Nếu
tôi làm như vậy thì còn thời giờ đâu để nghỉ ngơi." Ông mỉm cười và nói,
"Đó cũng là điều mà tôi đã nói cách đây 20 năm." Sau đó ông nói thêm
vài điều khiến bà phải suy nghĩ. Ông nói, "Bà chỉ muốn Thiên Chúa phải phù
hợp với chương trình của bà. Thật ra, bà phải thay đổi cuộc đời bà theo chương
trình của Thiên Chúa."
Bà rời cuộc họp trong sự bối rối. Mỗi sáng bắt đầu bằng sự cầu
nguyện sao? Mỗi sáng bắt đầu bằng một giờ đồng hồ cầu nguyện sao? Tuyệt đối
không thắc mắc!
Dù vậy, vào sáng hôm sau bà đã thi hành đúng như vậy. Và kể từ đó
trở đi bà luôn luôn cầu nguyện vào sáng sớm.
Bà thú nhận là lúc đầu điều đó không dễ. Có những sáng bà cảm thấy
bình an và vui sướng. Nhưng cũng có những sáng bà chẳng thấy gì ngoài sự buồn
chán. Và chính những sáng mệt mỏi này bà nhớ lại những điều mà ông cố vấn tiếp
thị đã nói: "Có những lần khi tâm trí bà không muốn đi vào cung thánh của
Thiên Chúa. Đó là khi bà phí một giờ đồng hồ trong phòng chờ đợi Thiên Chúa. Tuy
nhiên, bà vẫn cố ở đó, và Thiên Chúa quý trọng sự cố gắng của bà. Điều quan
trọng là lời hứa."
Câu chuyện của ông Eric Liddell và bà giám đốc quảng cáo đã thách
đố chúng ta. Chúng ta không thể chỉ nghe qua những câu chuyện này và không cảm
thấy một tiếng nói bên trong mời gọi chúng ta thi hành điều gì đó tương tự
trong đời sống chúng ta.
Nếu chúng ta có khó khăn khi phải để ý đến Chúa Giêsu, nếu chúng ta
có khó khăn nắm chặt cái cầy và đừng nhìn lại đằng sau, nếu chúng ta cảm thấy
cuộc đời trống rỗng, có lẽ chúng ta phải nghĩ đến lời hứa hằng ngày với Chúa
Giêsu.
Lời hứa đó phải là gì? Không ai có thể trả lời câu hỏi đó cho chúng
ta. Chúng ta phải tự trả lời. Nhưng chúng ta phải thi hành điều gì đó. Như ông
cố vấn tiếp thị đã nói, "Điều quan trọng là lời hứa."
Hãy kết thúc bằng lời cầu nguyện:
"Lạy Chúa, xin dạy con biết quảng đại.
Xin dạy con biết phục vụ Chúa cách xứng đáng;
biết cho đi mà không quan tâm đến giá cả;
biết tranh đấu mà không để ý đến thương tích;
biết cần cù mà không tìm sự an nhàn;
biết lao nhọc và không tìm phần thưởng,
ngoại trừ được biết là con đang thi hành thánh ý Chúa."
Chúa Giêsu biết rằng thời gian mình bị cất khỏi thế gian này đã gần
đến, đó chính là thời gian Ngài chịu đau khổ để thực hiện công cuộc cứu độ…
Chính vì thế mà Ngài đã đi lên Giêrusalem, để thực hiện cuộc hành
trình này, Ngài đã sai các môn đệ, là những sứ giả của Ngài đi trước, để chuẩn
bị nơi ăn chốn ở tại những nơi mà Ngài sẽ đi ngang qua. Cuộc hành trình sẽ phải
đi ngang qua xứ Samaria. Người Do Thái thì khinh bỉ dân Samaria vì coi họ chỉ
là những kẻ lai căng, bỏ mất truyền thống của cha ông, chạy theo những thứ tôn
giáo nhảm nhí khi tiếp xúc với dân ngoại.
Còn những người Samaria lại nhìn dân Do Thái với một cặp mắt thù
hận, nhất là những người hành hương về Giêrusalem. Bởi vì đối với họ phải thờ
kính Thiên Chúa tại Sichem, chứ không phải tại Giêrusalem.
Chính vì mối thù nghịch sâu xa và lâu đời này mà họ đã tỏ ra thờ ơ
lãnh đạm cũng như đã không tiếp đón các môn đệ và cả chính Chúa Giêsu. Thái độ
này đã làm cho Gioan và Giacôbê tức tối, đến nỗi muốn sai cả lửa trời xuống
thiêu rụi họ. Phải chăng sự hiền lành của Phúc âm đã không đem lại kết quả mong
muốn? Thế nhưng Chúa Giêsu đã trách cứ các ông thiếu tinh thần bác ái.
Bài học Chúa muốn nhắn gửi các ông cũng như nhắn gửi mỗi người
chúng ta, đó là đừng vội nóng giận, nhưng hãy cư xử một cách nhân từ, kiên nhẫn và
yêu thương, bởi vì giận quá mất khôn, hãy lấy tình thương mà xóa bỏ hận thù,
nếu như chúng ta muốn cảm hóa và dẫn đưa họ về cùng Chúa, bởi vì mật ngọt thì
chết ruồi, chúng ta có thể giết được nhiều ruồi bằng một giọt mật hơn là bằng
cả một thùng dấm chua.
Tiếp tục cuộc hành trình lên Giêrusalem, chúng ta thấy Chúa Giêsu
đã đối thoại với ba người.
Với người thứ nhất, Chúa Giêsu cho biết theo Ngài thì phải long đong vất vả, bởi vì
Ngài không có nhà cửa, không có cơ sở và không có một chốn để gối đầu, để ngả
lưng. Như thế Chúa muốn nói, để trở thành môn đệ của Ngài, thì phải từ bỏ bản
thân, từ bỏ tiền bạc vật chất, nghĩa là phải từ bỏ mọi sự.
Với người thứ hai muốn theo Chúa nhưng lại
muốn về từ giã những người thân yêu, nhưng Chúa Giêsu đã trả lời: Phải dứt
khoát lập trường, phải ra đi ngay lập tức, không chần chừ, không lưỡng lự. Bởi
vì ai đã tra tay vào cày mà còn quay lại đằng sau thì không xứng đáng với nước
trời.
Sau cùng đối với người thứ ba, Chúa Giêsu lên tiếng gọi: Hãy theo Ta. Thế
nhưng trước lời yêu cầu rất tự nhiên và rất chính đáng của anh đó là lo chôn
cất cho người cha mới qua đời, Chúa Giêsu đã trả lời: Hãy để kẻ chết chôn kẻ
chết, còn ngươi hãy đi rao giảng nước Thiên Chúa.
Như thế, qua những câu trả lời của Chúa Giêsu chúng ta thấy như có
vẻ cứng cỏi, nghiêm khắc và đi ngược lại với những thói quen của chúng ta. Thế
nhưng đó lại là sự thật, đó lại là sự đòi hỏi của Chúa.
Đứng trước lời mời gọi của Ngài, chúng ta phải mau mắn đáp trả
không chần chừ, không so đo tính toán. Phục vụ Chúa, đó phải là nỗi ưu tư số
một, còn ngoài ra, tất cả chỉ là phụ thuộc, chỉ là thứ yếu mà thôi.
Thầy là đường.
Đường đi là một trong những biểu tượng phổ quát nhất của cuộc sống
con người. Hệ thống đường xá là một trong những thể hiện của nền văn minh. Nhìn
vào các phương tiện giao thông, người ta có thể đánh giá được mức phát triển
của một quốc gia. Do đó, đường xá là hạ tầng cơ sở cần thiết cho việc phát
triển kinh tế.
Đường xá là để đi và đi là để đến một nơi nào đó. Thành ra, đường
xá cũng là biểu tượng của cứu cánh con người. Thực vậy, con người sinh ra là để
ra đi và tìm về cùng đích của mình. Phải chăng đó chính là ý nghĩa của chữ “Đạo”
trong các tôn giáo.
Khi tự xưng: Thầy là đường, Chúa Giêsu muốn khẳng định với chúng ta
rằng: Chỉ trong Ngài, với Ngài và qua Ngài, con người mới có thể đạt được cứu
cánh của đời mình. Nhưng con đường Đức Kitô vạch ra lại là con đường thập giá,
con đường đi ngang qua sự chết. Từ nay, có chết đi thì mới được sống, đã trở
thành định luật của muôn đời, một định luật không được tự nhiên lắm đối với con
người.
Khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc tử nạn, các môn đệ đã không thể,
cũng không muốn hiểu và chấp nhận một ý tưởng như thế. Không điên rồ sao khi
giữa lúc những thành công trước mắt đang hứa hẹn một tương lai sán lạn, thì lại
nói đến một cái chết nhục nhã, tiêu biểu cho một thất bại thê thảm nhất.
Qua đoạn Tin mừng hôm nay, hai môn đệ Giacôbê và Gioan cũng đã phản
ảnh sự chờ đợi và lý luận của các tông đồ. Con đường thập giá mà Chúa Giêsu
chọn là con đường của những chống đối: Chống đối từ hàng lãnh đạo tôn giáo,
chống đối từ đám đông dân chúng và ngay cả từ những người Samaria ngoại giáo.
Vì không hiểu như thế, nênh Giacôbê và Gioan đã có những phản ứng
rất người, khi xin Ngài khiến lửa trời xuống tiêu diệt những người Samaria
không đón tiếp các ngài. Chính Phêrô cũng đã có cùng một phản ứng, khi ông rút
gươm chém đứt tai tên đầy tớ vị thượng tế. Bạo động vốn là một khuynh hướng
thông thường của con người, xuất phát từ ý muốn được sống. Vì sự sống của tôi,
tôi cần phải loại trừ kẻ khác, bằng cách này hay cách kia.
Thế nhưng, Chúa Giê su đã đến để cải tạo con người và đem lại một
định nghĩa mới về sự sống. Sống đích thực là sống hiến thân cho người khác. Con
người chỉ tìm lại được bản thân bằng sự hy sinh quên mình cho tha nhân mà thôi.
Đó là chân lý được bày tỏ qua cái chết của Chúa Giêsu trên thập bía. Con đường
thập giá đã trở nên con đường sự sống. Chính Chúa Giêsu đã chứng tỏ điều đó qua
cái chết của Ngài và mời gọi chúng ta đi trên con đường sự sống ấy.
Bởi vì, ngoài con đường thập giá, mà quên mình phục vụ là một thể
hiện, sẽ không có một con đường nào khác khả dĩ dẫn chúng ta đề sự sống và niềm
hạnh phúc đích thật.
36. Tự giải thoát và tự ràng buộc
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Với 9,51, Tin Mừng Lc bắt đầu mộtphân đoạn quan trọng và là phần
thứ ba của TM, đó là bài tường thuật chuyến đi lên Giêrusalem, Thành định mệnh
(9,51–19,28). Khác với TM Mc, tác giả Lc nhiều lần nói rõ tên Giêrusalem ra
trong chuyến đi này (9,53; 13,22.33-34; 17,11; 18,31; 19,11, luôn luôn là
Ierousalêm, ngoại trừ 13,22, Hierosolyma). Ta nhận ra phân đoạn này được coi là
trọng yếu qua việc tác giả nêu tên thành ra trong liên hệ với việc Đức Giêsu
“được rước lên trời” (analêmpsis) và qua việc nhắc tới sự hoàn tất (“Thời gian
đã mãn, đến buổi Người siêu thăng” – NTT). Nói cách khác, trong TM Lc, Đức
Giêsu đi từ Galilê lên Giêrusalem không qua Pêrê (như Mc và Mt), nhưng Người
chỉ nhắm thẳng tới Thành định mệnh bằng cách băng ngang miền đất tượng trưng
cho sự đối nghịch, đó là Samari.
Cuộc hành trình lên Giêrusalem (9,51–19,28) có thể được chia ra làm
bốn phần, ba phần đầu của riêng TM Lc, mỗi phần được đánh dấu bằng mộtlời nhắc
đến mục tiêu Giêrusalem; phần cuối có chung với các TMNL khác, có câu kết nhắc
lại mục tiêu:
(1) 9,51–13,21: bắt đầu bằng “Người cương quyết lên đường đi
Giê-ru-sa-lem”;
(2) 13,22–17,10: bắt đầu bằng “Trên đường lên Giê-ru-sa-lem”;
(3) 17,11–18,14: bắt đầu bằng “Trên đường lên Giê-ru-sa-lem”;
(4)18,15–19,28: tương ứng với bài tường thuật về hành trình của các
TMNL khác; kết thúc bằng “Nói những lời ấy xong, Đức Giêsu đi đầu, tiến lên
Giêrusalem”.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba đơn vị, mộtcâu mở với hai phân đoạn
khá khác nhau:
1) Mở: Hành trình lên Giêrusalem (9,51);
2) Sự đón tiếp tại mộtlàng Samari (9,52-56);
3) Những đòi hỏi đặt ra cho ai muốn làm môn đệ (9,57-62).
3.- Vài điểm chú giải
- Khi đã tới ngày (51): dịch sát là “việc
làm đầy các ngày”. Tác giả đã tạo ra công thức này để giúp hiểu là nay chương
trình của Thiên Chúa bắt đầu chuyển sang mộtgiai đoạn mới trong tiến trình thực
hiện.
- được rước lên (51): Analêmpsis có nghĩa
là “hành vi cất đi; sự nâng lên”.
- Người nhất quyết (51): dịch sát “Người
đanh/làm chai (stêrizein) mặt lại để đi lên…”. “Mặt” trong văn chương Do Thái
chỉ cả con người. Ý nói là Đức Giêsu cương quyết đối đầu với định mệnh của
Người, Người can đảm thắng vượt nỗi sợ hãi. Ta nghe ra được âm vang của Is
50,7. Nhưng cũng có thể câu này nhắm tới sứ mạng của ngôn sứ Êdêkien tại thành
Giêrusalem (Ed 8–11).
- người Samari (52): dân cư Samari.
Samari là kinh đô của vương quốc phía Bắc do vua Omri sáng lập vào khoảng năm
870 tCN. Sau này, tên gọi “người Samari” (Hl. Samaritês) trở thành mộttên gọi
mang tính chủng tộc và tôn giáo để chỉ những người cư ngụ trong miền đất giữa
Giuđê và Galilê, về phía tây sông Giođan. Sự đoạn tuyệt giữa người Samari và
người Do Thái được giải thích khác nhau tùy mỗi bên. Thường người ta cho rằng
có sự chia lìa đó là do có việc đế quốc Átsua đưa người Do Thái đi lưu đày sau
khi chiếm được đất nước năm 722 tCN và đưa những người không phải là Do Thái
vào làm thực dân ở trong miền đó (2 V 17,24). Có lẽ cũng do đó mà sau này những
người ở lại quê nhà đã phá những người Do Thái hồi hương khi những người này
xây lại thành và Đền Thờ Giêrusalem (x. Er 4,2-24; Nkm 2,19; 4,2-9). Dù thế
nào, những người Samari chỉ chấp nhận Bộ Ngũ Thư là Kinh Thánh và đã xây mộtđền
thờ trên núi Garidim (Tell er-Râs) vào thời Hy Lạp (đền này đã bị phá hủy dưới
thời Gioan Hiếccanô, khoảng năm 128 tCN).
- vì Người đang đi về hướng Giêrusalem(53): dịch sát là “mặt
Người đang hướng tới Giêrusalem”. Mục tiêu của cuộc hành trình của Đức Giêsu
chính là lý do khiến người Samari từ chối đón tiếp Ngài.
- Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó
không? (54): Mặc dù Lc dùng analôsai (aor. act. inf. analyô, “tháo gỡ;
tiêu hủy”) thay vì kataphagein (aor. act. inf katesthiô, “ăn ngấu nghiến, thiêu
hủy, phá hủy”) của Bản LXX, câu văn vẫn là một lời nhắc rõ ràng đến 2 V 1,10
(hay 12). Các môn đệ muốn chia sẻ quyền lực của Đức Giêsu để làm mộtphép lạ
trừng phạt.
- quay lại (55): xem cả 10,23; 14,25. Tác giả cho thấy là Đức Giêsu dẫn đầu
nhóm môn đệ.
- quở mắng (55): Đức Giêsu sửa các môn đệ vì các ông vẫn chưa hiểu sứ mạng của
Người nhắm điều gì (x. 9,45). Người không chấp nhận cho người ta coi Người là
ngôn sứ Êlia, nhà cải cách được ví với lửa. Người không chấp nhận phản ứng theo
kiểu thường tình loài người (x. 6,29).
- chôn cất cha tôi (59): Theo truyền thống
kinh sư sau này, bổn phận chôn cất cha mẹ qua đời bó buộc với các na-dia
(nazir), tư tế, và cả với thầy thượng tế, cho dù tiếp xúc với mộtthi hài thường
được coi như là cớ gây nhiễm uế (x. Ds 6,6-7; Lv 21,11).
- Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ (60): Câu này được giải
thích nhiều cách, nhưng dựa vào mộtcâu tục ngữ, giáo sư J.A. Fitzmyer cho rằng
ý nghĩa của câu này là “Cứ để kẻ chết (về thiêng liêng) chôn kẻ chết (về thể
lý) của họ”.
- xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã … Ai đã tra tay cầm
cày mà còn ngoái lại đàng sau(61-62): xem truyện ngôn sứ Êlia gọi Êlisa (1 V 19,19-21). Nhưng
Đức Giêsu đòi hỏi hơn Êlia, vì vị ngôn sứ còn cho phép môn đệ về từ giã bà con
thân thuộc, còn Đức Giêsu thì không cho phép.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Mở: Hành trình lên Giêrusalem (51)
Câu mở với giọng long trọng của bài tường thuật chuyến đi lên
Giêrusalem có ba điểm:
a) Thời gian Chúa Cha ban cho Con để thực hiện chương trình của
Người trên trần gian đã đến lúc chấm dứt;
b) Đức Giêsu nhất quyết đi cho tới Thành thánh. Người biết chuyện
gì đang chờ Người ở Giêrusalem. Người thấy những đau khổ, cái chết và cả sự
sống lại đang đến gần. Ta nghe ra gợi ý xa xa về cuộc hấp hối trong vườn Ô-liu.
Khi đến lúc, Người cắt đứt những liên hệ với miền Galilê và cương quyết tiến về
Giêrusalem, hiên ngang đối diện với định mệnh của Người;
c) “Người sai mấy sứ giả đi trước”: Hẳn là tác giả Lc gợi đến sấm
ngôn thiên sai Ml 3,1, với ý nghĩa Đức Giêsu chính là Đức Chúa (Yhwh), còn các tông
đồ là những sứ giả.
* Sự đón tiếp tại một làng Samari (52-56)
Cũng như sứ vụ tại Galilê được dẫn nhập bằng mộttruyện Đức Giêsu bị
loại trừ (Lc 4,16-30), chuyến đi lên Giêrusalem cũng được dẫn nhập bằng
mộttruyện như thế. Có một làng Samari đã không đón tiếp Người vì Người lên
Giêrusalem, chứ không lên Garidim là nơi có đền thờ của người Samari. Sự từ
khước này không làm cho lòng Người ra chua chát. Người quở mắng hai môn đệ
Giacôbê và Gioan vì các ông đã đề nghị chuyện bạo lực. Người yêu cầu người ta nghe
Người, nhưng Người để cho người ta tự do, chứ không muốn ép buộc người ta phải
đón tiếp Người. Người không thể diễn tả quyết định của Người ra bằng những biện
pháp hà khắc, bất kể hoàn cảnh cụ thể của người khác.
* Những đòi hỏi đặt ra cho ai muốn làm môn đệ (57-62)
Trên con đường này, Người nhắc lại những điều kiện để đi theo
Người. Có ba người đến để xin đi theo Người. Không biết là điều gì đã thúc đẩy
họ xin như thế. Chắc chắn là họ đã bị Người thu hút, nên muốn ở với Người.
Chúng ta cũng không biết là sau đó họ có thật sự đi theo Người chăng. Nhưng
chúng ta biết những hoàn cảnh và những điều kiện cần thiết để có thể đi theo
Người.
Người thứ nhất diễn tả mộttình trạng sẵn sàng vô điều kiện. Đức
Giêsu cho anh ta biết rõ điều gì đang chờ đợi anh nếu anh bước theo Người. Đặc
điểm con đường Người đang theo là những bất ngờ và sự nghèo khó. Người không
thể cung cấp sự an toàn và tiện nghi nơi ăn chốn ở. Chính Người đã cho thấy
điều đó khi đi qua Samari: Người lệ thuộc vào sự tiếp đón của kẻ khác. Người chấp
nhận bị từ chối và lại bắt đầu tìm chỗ khác. Người từ chối những tiện lợi của
mộtnơi ở cố định. Như thế Người tự giải thoát khỏi dây ràng buộc với mộtnơi cố
định và trở thành hoàn toàn tự do mà thi hành nhiệm vụ. Người cũng yêu cầu kẻ
muốn theo Người phải có sự từ bỏ ấy, sự tự do ấy và dây liên hệ ấy.
Hai người khác nêu ra các điều kiện (chôn cất cha; từ giã người
thân). Cho cả hai trường hợp, Đức Giêsu không chấp nhận những điều kiện ấy,
trong đó luôn liên hệ đến gia đình. Đức Giêsu cho thấy rõ ràng là Người đòi hỏi
người ta bước theo Người vô điều kiện.
+ Kết luận
Khi bước theo Đức Giêsu, người ta không được nhìn lại đàng sau,
nhưng phải dứt khoát nhìn tới trước, nhìn vào chính Đức Giêsu và tất cả những
gì được hàm chứa trong quan hệ với Người. Không những trong lãnh vực của cải
vật chất, cả trong lãnh vực các tương quan người với người, liên hệ với Người
đòi hỏi mộtsố những từ bỏ đau đớn. Nhưng phải biết vấn đề ở đây là gì: đó là
gắn bó với Người, phục vụ Người, sống thân tình với Người. Phần Người, Đức Giêsu
đề nghị, nhưng luôn tôn trọng tự do của từng người.
37. Chú giải của Noel Quesson
Bài Tin Mùng cua Luca Chúa nhật này bắt đầu một giai đoạn mới trong
đời sống của Đức Giêsu. Cho đến nay. Đức Giêsu chỉ thực thi tác vụ cua Người ở
Galilê. Trong suốt mười chương bắt đầu từ đây. Chúng ta sẽ thấy Đức Giêsu
"lên Giêrusalem". Đây là một lộ trình về địa dư (Lc 9, 51; 13, 22,
22; 17, 11).
Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời...
Cách trình bày thật trang trọng. Bản văn sát nghĩa tiếng HyLạp cảm
động hơn nhiều: "Vì những ngày Người được rước lên hoàn tất..."
Cái chết đang đến gần ấy không phải là một việc ngẫu nhiên, đó là
một sự hoàn tất, một thành tựu, việc thực hiện sau cùng, việc làm tỉ mỉ sau
cùng của một đời sống rất trọn vẹn.
Nhưng đó cũng là một sự "rước lên". Ở đây, Luca dùng cùng
một từ để nói về sự Thăng Thiên: Đức Giêsu sẽ được rước lên trời (Cv 1,
2-11-22)... như ngôn sứ Êlia cũng đã được rước lên (2 V 2, 8-11) Điều "sắp
tới"... đối với Đức Giêsu, cũng như đối với mỗi người chúng ta cùng với
Người. Đó là một biến cố vừa đau thương, vừa hạnh phúc: Phục sinh, với hai mặt
của nó, cái chết và đi vào sự sống của Chúa Cha.
Người nhất quyết đi lên Giêrusalem.
Bản văn Hy-lạp của Luca chứa đựng một hình ảnh: “Người làm khuôn
mặt chai cứng lại để đi hướng về Giêrusalem"… như ngày hôm nay, chúng ta
thường nói: Người siết chặt hàm răng để cương quyết dấn thân về nơi mà Người
biết rằng Người sắp chết. Các Tin Mừng hiếm khi nhấn mạnh những trạng thái tâm
hồn của Đức Giêsu. Điều đáng lưu ý là ngày hôm đó Người phải vượt qua nỗi sợ
hãi và lấy hết sự can đảm của một con người.
Mỗi người chúng ta phải dành thời gian cùng với Đức Giêsu gợi lại
khó khăn hiện tại của mình, đối với một thanh niên có thể là thi rớt, một nỗi
đau khổ vì tình cảm cô đơn, một sự xung đột trong đời sống lứa đôi, một sự bất
ổn nghề nghiệp, một bế tắc xem ra không vượt qua nổi, một căn bệnh không chữa
khỏi, một cái tang vừa phải chịu v.v...
Thay vì buông xuôi, tại sao chúng ta không cùng với Đức Giêsu làm
cho khuôn mặt mình chai lại để giữ vững bằng bất cứ giá nào... theo gương người
"tôi tớ của Thiên Chúa" đã nói: "Có Đức Chúa là Chúa thương phù
trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt chai ra như đá. Tôi
biết mình sẽ không thẹn thùng" (Is 50,7)
Giê-ru-sa-lem hỡi! Nơi duy nhất trên cả hành tinh này: cái hố ấy
nơi trồng cây thánh giá... cái ngôi mộ trong huyệt đá ấy nơi cái chết đã thất
bại, nơi mà Thiên Chúa kêu khát và làm cho một suối nguồn sinh ra từ cạnh sườn
Người. Mọi đời sống Kitô hữu là một con đường lên Giê-ru-sa-lem!
Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một làng người
Samari để chuẩn bị cho Người đến. Nhưng dân làng không đón tiếp Người vì Người
đang đi về hướng Giê-ru-sa-lem.
Chúng ta luôn luôn có khuynh hướng giảm nhẹ Tin Mừng, như thể thời
đại của chúng ta là thời đại đầu tiên chứng kiến những xung đột về chủng tộc,
chính trị, tôn giáo xã hội.
Những người Samari bị những người Do Thái giáo trung kiên coi như
những kẻ ly giáo, từ khi họ đã xây dựng một ngôi đền thờ trên đỉnh núi
Ga-ri-dim để cạnh tranh với đền thờ Giê-ru-sa-lem. Phải tránh tiếp xúc với
những kẻ "lầm lạc" ấy (Ga 4, 9.20).
Bị những người Do Thái khinh bỉ, họ trả đũa lại và gây ra mọi thất
phiền nhiễu cho các đoàn hành hương mượn con đường ngắn nhất để đi từ Galilê về
Giê-ru-sa-lem qua các mỏm núi miền Samari. Đức Giêsu không quay lưng lại mảnh
đất bị sự phân biệt chủng tộc và sự khinh bỉ lẫn nhau tàn phá. Và hơn thế nữa,
Người từ chối bước vào sự hẹp hòi bế tắc ấy của dư luận quần chúng. Trước hết
Luca mô tả với chúng ta một Đức Giêsu hoàn toàn độc lập và làm nổi rõ đức bác
ái trọn hành động của người Samari tốt lành (Lc 10, 30). Lòng biết ơn của người
bệnh bằng được chữa lành (Lc 17,16) Đức Giêsu yêu thương tất cả mọi người kể cả
những người bị cám dỗ nguyền rủa Người.
Thấy thế, hai môn đệ Người là ông Giacôbê và ông Gioan nói rằng:
"Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng
nó không?
Đó là hành phạt mà Êlia đã bắt các đối thủ của ông phải chịu (2 V
1,10). Hai người "con trai của thiên lôi" (Mc 3,17), Giacôbê và Gioan
muốn xứng đáng với biệt danh của mình! Nhưng họ chưa hiểu gì về sứ điệp và công
việc của Đức Giêsu. Và điều nghiêm trọng hơn là họ đã tạo ra cho mình một ý
tưởng về Thiên Chúa hoàn toàn sai lầm: họ tưởng rằng mình là những người giải
thích Thiên Chúa và họ chắc rằng mình sở' hữu chỉnh lý! Thiên Chúa toàn năng có
thể nào tha thứ việc Đấng Mêsia của Người bị con người khước từ' và đối xử tùy
tiện? NGÀY NAY cũng thế, chúng ta cũng muốn thực hiện các dự án của "con
trai Thiên Lôi": Thiên Chúa phải can thiệp để tiêu diệt những kẻ thù của
Người!
Tuy nhiên, chúng ta biết rằng Đức Giêsu không đến để kết án những
người tội lỗi nhưng để cứu họ (Lc 19,10) Thiên Chúa không trùng phạt, Người tha
thứ (Lc 23,34).
Nhưng Đức Giêsu quay lại quở mắng các ông. Rồi Thầy trò đi sang
làng khác.
Ở đây Đức Giêsu cho chúng ta một hình ảnh đích thực về Thiên Chúa,
Người vốn là Đấng Toàn Năng nhưng không can thiệp như một ông vua chuyên chế để
bắt các bề tôi và kẻ thù quỳ móp nhưng chúng ta có thể nói rằng một cách khiêm
nhường và nghèo khó, Người chờ đợi sự hoán cải, như một người cha, như một
người mẹ, đồng ý cho gia hạn và chờ đợi hành trình chậm rãi của chân lý trong
lòng con người. Và Thầy trò đi sang làng khác như những người nghèo hèn ra đi
khi người ta không chịu tiếp họ: Tôi nhìn ngắm Đức Giêsu ra đi sang làng
khác... Và tôi tự hỏi về sự thiếu nhẫn nại của tôi... trước những tội lỗi của
tôi, trước những tội lỗi hoặc sự khước từ của những người khác, trước sự chậm
chạp hoặc nặng nề của Giáo Hội... Lạy Chúa xin ban cho con sự nhẫn nại Thánh
thiêng của Người.
Thầy trò đang đi trên đường thi có kẻ thưa Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu,
tôi cũng xin đi theo”. Người trả lởi: "Con chồn có hang, chim trời có tổ,
nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu".
Đúng vào lúc người ta từ chối tiếp đến" Đức Giêsu đang trên
đường Giêrusalem, thì có một người xin theo Người một cách quảng đại và có điều
kiện. Hẳn người ta có thể mong Đức Giêsu chấp nhận ngay lập tức. Vả lại thay vì
chiều theo nhiệt tình của ơn gọi này, Đức Giêsu đã đặt ra phía trước mọi khó
khăn thái độ này hoàn toàn trái ngược với mọi cách quảng cáo của chúng ta khoe
khoang các sản phẩm của mình đến độ che giấu đi các khuyết điểm. Đức Giêsu
không tìm cách tuyển mộ với bất cứ giá nào. Trái lại, Người nhấn mạnh phải chấp
nhận sự thiếu thốn, sự nghèo khó, sự bất trắc... để theo Người.
Điều đó làm nổi rõ điều mà Đức Giêsu đã ý thức khi lên
Giê-ru-sa-lem. Người tiến về một số phận bi thảm. Ai muốn theo Người cũng phải
sẵn sàng chịu ruồng bỏ. Theo sở thích tâm linh của chúng ta, chúng ta có thể
suy niệm về cuộc sống lang thang và bấp bênh của Đức Giêsu, "kẻ lang thang
không nơi trú ẩn" ấy! Đọi với một con người, không có một mái nhà để trú
ẩn và một cái giường để ngã lưng thì quả là khắc nghiệt. Vào những buổi chiều
mệt mỏi, điều đó phải trĩu nặng trong lòng. Đức Giêsu. Người lưu ý chúng ta
rằng ngay cả thú rừng còn có một nơi trú ẩn an toàn. Lạy Chúa, xin cho chúng
con lòng can đảm trong những lúc mệt nhọc thể xác hoạt tinh thần.
"Thầy đi đâu tôi cũng xin đi theo!" kẻ nói câu đó có lẽ
không biết rằng con đường của Đức Giêsu sẽ dẫn người lên Gôn-gô-tha. Nhưng
chúng ta thì biết. Và chúng ta cũng biết rằng "Qua cuộc khổ nạn và Thập
giá, chúng ta đi đến vinh quang của sự Sống lại" ánh sáng nhất định sẽ
chiếu giải trên những thử thách' của chúng ta: Giê-ru-sa-lem!
Đức Giêsu nói với một người khác: "Anh hãy theo tôi!"
Người ấy thưa: "Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chọn cất cha tôi trước đã
" Đức Giêsu bảo: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi
loan báo Triều Đại Thiên Chúa".
Đây là một trong những lời nghiêm khắc nhất trong toàn bộ Phúc
âm... một lời khiêu khích, nổi loạn. Sự mai táng những người thân của chúng ta
là một bổn phận thiêng liêng, đặc biệt lành thánh vì dựa vào một điều răn rõ
ràng của Thập giới: “ngươi phải yêu mến cha mẹ ngươi". Lời nói quá đáng
của Đức Giêsu đặt chúng ta trước một song luận:
- hoặc là Đức Giêsu là một người điên không nhận thức điều mình đòi
hỏi.
- hoặc là Đức Giêsu thuộc về một bình diện khác bình diện trần ri
thế, bên trên con người...
Sự thật là Đức Giêsu đi đến chỗ cho rằng ai không tìm kiếm Triều
Đại của Thiên Chúa là một "người chết". Bởi vì rõ ràng trong cùng một
câu, từ "kẻ chết" không có cùng một ý nghĩa: trong một trường hợp, nó
có nghĩa thông thường tức là "những người đã qua đời" nhưng trong
trường hợp kia, nó có nghĩa là tất cả những người đã không gặp gỡ Đức Giêsu và
Người dám nói rằng họ là "những người chết"? Đối với Đức Giêsu người
nào không lo lắng những sự việc của Thiên Chúa không sống theo nghĩa mạnh nhất
của từ ấy. Phải, đó là lời khó nghe nhưng là mạc khải về sự sống chân thật và
duy nhất sự sống của Thiên Chúa, của Triều Đại Thiên Chúa.
Một người khác nữa lại nói: "Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy,
nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã". Đức Giêsu bảo: "Ai
đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với nước
Thiên Chúa".
Vậy, Đức Giêsu, Ngài là ai mà đòi hỏi chúng con sự từ bỏ ấy? Tuy
nhiên Ngài cũng đã đòi hỏi chúng con yêu mến cha mẹ mình và Ngài đã làm gương
bằng một tình cảm gắn bó tinh tế với mẹ Ngài là Đức Maria khi trao phó bà cho
người bạn tốt nhất của Ngài.
Nhưng sự phục vụ Triều Đại Thiên Chúa đòi hỏi tất cả và ngay lập
tức. Thiên Chúa bác bỏ những ưu tiên của chúng ta: "Để tôi về chôn cất cha
tôi trước đã... Để tôi từ biệt gia đình trước đã..." Đó là những yêu cầu
rất chính đáng. Thật vậy đó là những Người rất nghiêm túc, đứng đắn, hiểu lý.
Họ đã "lên kế hoạch" của họ trước tiên, những công việc: của cá nhân
tôi, kế đó là những công việc của Thiên Chúa. Tôi vừa kết thúc năm học của tôi.
Tôi dự trù lập kế hoạch cho kỳ nghỉ hè: khoảng giữa tháng chín tôi sẽ tìm lại
Thiên Chúa... sau đó! Mỗi chúa nhật, nghỉ ngơi trước đã, giải trí trước đã,
dành thì giờ cho gia đình và bạn bè trước đã: sau đó... nếu còn thời gian hãy
đi dự thánh lễ.
Trước ngưỡng của mùa hè đang bắt đầu, Đức Giêsu Kitô cảnh giác tôi
về thời gian biểu của tôi! Thang giá trị của con là gì'? Những điều cấp thiết
của con là thứ bậc nào. Con đi tắm biển trước đây phải không? Sức khỏe của con
trước đã phải không? Hoặc là trước tiên là điều chủ yếu? Thánh Phaolô mời gọi
chúng ta "hãy đứng vững, đừng mang lấy ách nô lệ một lần nữa" (Gl
5,1).