LỜI CHÚA TUẦN 1 MÙA CHAY
CÂU TRUYỆN MINH HỌA
CNMC 1B - CHÚA GIÊSU CHỊU CÁM DỖ
CNMC 1C - CÁM DỖ CỦA CHÚA GIÊSU
THỨ HAI - THIÊN ĐÀNG CỦA BÁC ÁI
THỨ TƯ - DẤU LẠ CỦA THIÊN CHÚA
LẬP TÔNG TÒA THÁNH PHÊRÔ - TẢNG ĐÁ PHÊRÔ
CNMC 1A -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
CNMC 1B - CHÚA GIÊSU CHỊU CÁM DỖ
Lời Chúa: Mc 1, 12-15
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Người ở
đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu Satan cám dỗ, sống chung với dã thú và các
Thiên Thần hầu hạ Người.
Sau khi Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin
Mừng của nước Thiên Chúa, Người nói: "Thời giờ đã mãn, và nước Thiên Chúa
đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng."
TRUYỆN KỂ
1. Sống trong hoang địa
Richard Miller là một học sinh cấp ba vào thập niên đầu của thế
kỷ 20. Chàng là một thanh niên hay chống đối, coi thường quyền bính. Chàng yêu
say đắm một cô gái lối xóm tên là Muriel Mc. Comber. Cha nàng sợ lối sống lập dị
của Richard nên cố gắng dập tắt mối tình lãng mạn ấy.
Thất vọng, Richard lui tới một quán rượu, chàng gặp một phụ nữ
tên Belle. Theo ngôn ngữ thời ấy người ta gọi là “Flirt” (gái giang hồ). Một
người đàn bà đùa dỡn với tình yêu không đứng đắn. Richard uống rượu và đánh lộn
với một thương gia và bị tống cổ ra khỏi quán rượu. Cha của Richard hiểu và
thông cảm với con mình. Ông từ từ giúp chàng lấy lại quân bình. Nhờ một tin mật,
Richard được biết Muriel thực sự yêu chàng. Chàng quyết định hối cải và đợi
nàng.
Đó là cốt truyện một vở hài kịch Eugene - O’neil viết vào năm
1933 tựa đề “Ah Wilderness“ (Hoang địa) vở kịch được trình diễn rộng rãi vì nó
phát hoạ một hoàn cảnh chung, rất nhân bản trong đời sống hàng ngày, nó vẽ nên
phần nào cảnh hoang dại mà chúng ta đang sống.
Bài Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta rằng Đức Giêsu đã ở trong
sa mạc, nơi hoang dã 40 ngày đêm. Đó là lý do cho 40 ngày mùa chay. Sa mạc là
nơi trú ẩn của thần dữ. Thú dữ, tượng trưng cho sự dữ mà Đức Kitô đã đến chế ngự.
2. Cạm bẫy
Người Eskimo bắc cực có một cách bẫy chó sói rất độc đáo để lấy
bộ lông làm áo da thú.
Thợ săn cáo mài một con dao thật sắc, lưỡi dao mỏng và bén đến độ
chỉ cần vuốt nhẹ là cắt da lòi thấu xương. Họ nhúng con dao ấy vào trong máu
súc vật, rồi đem ra ngoài trời tuyết lạnh cho máu đông lại. Họ làm như thế nhiều
lần cho đến khi con dao bọc toàn máu.
Khi trời nhá nhem tối, họ đem ra cắm ngoài cánh đồng tuyết. Với
cái mũi rất thính của loài sói bắc cực, nó đánh hơi mùi máu tươi đông lạnh. Vội
vàng chạy tới liếm lấy liếm để, liếm tới tấp, liếm điên cuồng cho đến khi lưỡi
mình đã bị dao cắt đứt mà vẫn sung sướng liếm dòng máu tươi, không hề biết mình
đang liếm máu của chính mình.
Càng say máu, sói càng liếm cuồng điên, cho tới khi kiệt sức rồi
lăn ra mà chết.
3. Vượt qua thói quen để đổi mới
Một hôm nhà vua đang đi dạo trên đường phố thì gặp một người ăn
mày ngửa tay xin tiền. Nhà vua không cho tiền nhưng mời anh đến thăm hoàng
cung. Khi vào tới hoàng cung rồi, người ăn mày vô cùng bối rối vì thấy quần áo
rách rưới của mình quá tương phản với những y phục lộng lẫy của những người
trong triều. Biết thế, nhà vua tặng cho anh một bộ quần áo mới.
Ít lâu sau nhà vua lại dạo phố, lại gặp người ăn mày này và ngạc
nhiên khi thấy anh lại mặc bộ quần áo rách rưới trước kia. Tìm hiểu lý do thì
nhà vua biết được rằng sở dĩ anh không mặc quần áo mới vì nếu như thế thì anh
không thể tiếp tục sống bằng nghề cũ là ăn xin được nữa. Anh đã quá quen sinh sống
bằng nghề ăn xin rồi, đến nỗi nay không biết phải làm gì nếu không tiếp tục ăn
xin.
Câu chuyện trên muốn nói rằng thay đổi áo quần thì dễ nhưng thay
đổi cách sống rất khó; thay đổi bên ngoài thì nhanh nhưng thay đổi bên trong rất
chậm; và nhất là rất khó thay đổi thói quen.
Mùa Chay kêu mời chúng ta đổi mới, không chỉ đổi mới bên ngoài
mà phải đổi mới tận bên trong con người mình, đặc biệt là thay đổi những thói
quen xấu đã ăn rễ rất sâu trong con người chúng ta.
4. Nước mắt sám hối
Người Hồi giáo thường kể rằng: Ngày kia Đức Ala truyền cho một sứ
thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời.
Sứ thần đáp ngay xuống một chiến trường máu của các vị anh hùng
đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Ala. Nhưng xem
ra Đức Ala không hài lòng mấy.
Ngài bảo: “Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều qúi
giá, nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian."
Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám
tang của một người giầu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau
quan tài, vừa đi vừa khóc lóc vừa xông hương để biểu lộ lòng biết ơn của họ đối
với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm và mang về trời. Lần này Đức
Ala mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng.
Ngài nói: ”Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều tốt đẹp và hiếm có dưới
trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái gì tốt đẹp hơn."
Lại một lần nữa, sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm
kiếm khắp bốn phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường Ngài bỗng thấy một
người đàn ông đang khóc sướt mướt. Trước câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ thần,
người đàn ông giải thích: ”Tôi đã chiều theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước
mắt là lương thực hằng ngày của tôi."
Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng
cánh bay về trời. Đức Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói:
”Thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật, dưới trần gian không có gì
tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối. Bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một
lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành
mùa xuân ấm áp của tình yêu."
5. Mahatma Gandhi
Mahatma Gandhi có kể về cuộc đời ông như sau: Hồi tôi 15 tuổi,
tôi mắc một tật rất xấu, là tội ăn trộm. Khi đó tôi mắc nợ người bạn một số tiền
khá lớn, thế rồi tôi đã về lấy của cha tôi một vòng đeo tay bằng vàng để bán lấy
số tiền trả nợ.
Nhưng sau đó, tôi luôn luôn bị lương tâm cắn rứt, không cho tôi
được giây phút bình an. Tôi không thể sống trong tình trạng này nữa. Tôi nhất
quyết phải đến thú tội với ba tôi càng sớm càng tốt. Nhưng khi đến trước người,
vì xấu hổ và sợ hãi nên tôi không thể thốt ra lời. Sau đó tôi liền nghĩ ra một
cách thú tội bằng giấy mực. Tôi đã cầm tờ giấy đó đến trước mặt cha tôi, toàn
thân tôi run rẩy và trao tờ giấy đó cho cha tôi. Ông đã đọc tờ thú lỗi của tôi,
sau đó ông nhắm mắt lại trong giây lát và đã xé tờ giấy thành nhiều mảnh, rồi
nói với tôi: ”Biết mình là điều rất tốt”, và đến ôm chầm lấy tôi trong vòng tay
tràn đầy yêu thương, tha thứ của người. Từ giây phút đó tôi hiểu và thương mến
cha tôi hơn.
Muốn sám hối, điều kiện cần là phải biết mình, có biết mình có tội,
có biết mình mắc lỗi lầm thì mới có thể sám hối được; nếu không có tội thì làm
gì phải thống hối? Những người Luật sĩ và Pharisêu là những người không biết
mình, họ luôn tự hào là những người đạo đức thánh thiện thì làm gì phải sám hối,
làm gì phải quay trở lại? Những lời kêu mời của Chúa Giêsu chẳng có tác dụng gì
đối với họ, trái lại càng làm cho họ thêm thù ghét.
6. Thủ tướng Anh Rishi Sunak nhận lỗi
Sở cảnh sát quận Lancashire, ngày 20/1/2023 cho biết Thủ tướng
Rishi Sunak đã nhận giấy phạt vì không thắt dây an toàn trong chuyến công tác đến
vùng Tây Bắc nước Anh vừa qua, Reuters đưa tin.
Trong đoạn video được Thủ tướng Sunak đăng tải trên mạng xã hội
trong chuyến công tác trên, ông ngồi ghế phía sau nhưng không thắt dây an toàn
khi xe đang di chuyển. Đoạn video này sau đó đã nhanh chóng lan truyền trên mạng
xã hội.
Người phát ngôn của Văn phòng Thủ tướng cũng lên tiếng xác nhận
vụ việc: "Thủ tướng hoàn toàn thừa nhận đây là sai lầm và đã xin lỗi. Tất
nhiên, ông (Sunak) sẽ tuân thủ hình phạt."
Trước đó, ông Sunak đã xin lỗi về video trong chuyến đi đến vùng
Tây Bắc nước Anh đăng trên Instagram vào ngày 19/1. Sau khi video được chia sẻ
rộng rãi, nhiều người dùng nhận ra ông Sunak không thắt dây an toàn.
7. Các khuyết điểm của Chúa Giêsu
Đức hồng y F.X. Nguyễn văn Thuận trong bài giảng tĩnh tâm cho Đức
Thánh Cha Gioan-Phaolô 2 và giáo triều Roma đã trình bầy đề tài “các khuyết điểm
của Chúa Giêsu” để nói lên lòng thương yêu tha thứ của Ngài.
a) Đức Giêsu không có trí nhớ tốt
Trên thập giá, trong lúc hấp hối. Đức Giêsu nghe tên trộm bên phải
nói: ”Thưa ông Giêsu, xin nhớ đến tôi, khi ông vào nước của ông” (Lc 23,42). Giả
sử đó là tôi, thì có lẽ tôi đã trả lời: ”Tôi sẽ không quên anh nhưng anh phải đền
bù các tội ác của mình ít là khoảng 20 năm trong luyện ngục." Trái lại,
Chúa trả lời anh ta: ”Ngày hôm nay, ngươi sẽ được ở cùng Ta trên thiên đàng”
(Lc 23,43).
Điều tương tự cũng xẩy ra với người đàn bà tội lỗi đã xức dầu
thơm cho chân Chúa: Chúa Giêsu chẳng hỏi gì về quá khứ xấu xa của bà nhưng chỉ
nói: ..."tội của con tuy nhiều, nhưng chúng đều được tha hết vì con đã yêu
nhiều” (Lc 7,47).
Cũng tương tự như đứa con hoang đàng (Lc 15)
Chúa Giêsu không có một trí nhớ như trí nhớ của tôi, không những
Ngài tha thứ, và tha thứ cho mỗi người, nhưng Ngài còn quên là Ngài đã tha thứ.
b) Chúa Giêsu đi thi toán chắc rớt
Giả sử Chúa Giêsu đi thi toán, chắc Ngài bị đánh rớt. Dụ ngôn
người mục tử nhân lành chứng tỏ điều đó. Một người mục tử có một trăm con
chiên. Một con chiên bị lạc và không chần chờ gì, ông ta đi tìm chiên ấy, bỏ 99
con chiên khác nơi hoang địa. Khi tìm được chiên lạc, ông vác lên vai (x. Lc
15,4-7)
Đối với Chúa Giêsu, 1 có giá trị bằng 99... và có lẽ còn hơn thế
nữa! Có ai chấp nhận được điều đó không? Nhưng lòng thương xót của Ngài trải rộng
từ đới này sang đời khác...
c) Chúa Giêsu chả biết gì về Triết học
Ngài không hiểu gì về Luận lý học khi đưa ra dụ ngôn: một người
đàn bà có 10 đồng bạc, rủi rớt mất một đồng, bèn thắp đèn mà tìm. Khi bà tìm được
thì hớn hở gọi hàng xóm láng giềng: ”Bà con ơi, hãy chia vui với tôi vì tôi đã
tìm thấy đồng bạc bị mất” (Lc 15, 8-10)
Thật chẳng hợp lý tí nào khi mời hàng xóm như vậy vì bà phải chi
phí còn hơn đồng bạc tìm được. Nhưng, đó lại là chính cách Chúa đã dùng để chỉ
sự vui mừng của Thiên Chúa khi một người ăn năn trở lại.
Ở đây chúng ta có thể nói như Blaise Pascal: ”Con tim có những
lý lẽ của nó mà lý trí không biết được."
d) Chúa Giêsu không biết tài chính và kinh tế
Ngài chả có ý tưởng gì về kinh tế và tài chính. Trong dụ ngôn những
kẻ làm vườn nho, ông chủ trả cùng một số tiền cho những kẻ làm đầu tắt mặt tối
từ sáng tinh mơ cho đến chiều tối, và những kẻ gần chiều mới bắt tay vào việc.
Không biết Ngài có tính toán sai không? Không! Ngài chú ý làm như vậy vì Ngài
không thương chúng ta vì công trạng của chúng ta. Tình yêu của Ngài là hoàn
toàn miễn phí và vượt xa trí hiểu của chúng ta. Ngài đã có những “khuyết điểm”
vì Ngài yêu thương chúng ta. Tình yêu thực sự không có tính toán so đo, không
biên giới, không điều kiện, không ngăn cách và không nhớ những sai phạm (x. Mt
20, 1-16)
e) Chúa Giêsu là một người phiêu lưu
Chúa Giêsu là người mua lấy rủi ro về phần mình. Người ta muốn
chiêu dụ nhiều người theo mình thì hứa cho thật nhiều những điều tốt lành,
trong khi Ngài lại hứa những gian lao thử thách, bắt bớ và giam cầm cho những kẻ
theo Ngài. Trong 2000 năm qua, chúng ta đã chứng kiến bao rủi ro, thiệt thòi
cho những kẻ muốn theo Ngài, nhưng số người theo Ngài càng đông, họ dám hy sinh
cả mạng sống cho Ngài (x. Mt 820; Lc 9-23)
Để kết luận chúng ta tự hỏi: tại sao Chúa Giêsu có những khuyết
điểm như thế - Vì Ngài là Tình yêu (cf 1Ga 4,16). Tình yêu đích thực không lý
luận, không đo lường, không dựng lên những hàng rào, không so đo tính toán,
không đặt điều kiện.
(Hồng y F.X. Nguyễn văn Thuận, Chứng nhân hy vọng, tr 39-44)
8. Phải biết bắt đầu lại
Một thanh niên thấy cuộc sống mình bê bối, muốn sám hối ăn năn,
đến gặp một vị Linh mục và nói:
- Thưa cha, hôm nay con đến xin cha giúp con, con bê bối lắm
nhưng con không biết bắt đầu từ đâu cả: Mười điều răn Đức Chúa Trời, sáu điều
răn Hội thánh, bảy mối tội đầu con đều phạm hết. Con nản quá! Bạn bè khuyên
con, con trả lời rằng: Thôi đã lỡ phạm tội thì phạm cho hết mọi tội, xuống lót
đáy hỏa ngục luôn. Nằm dưới đáy có lẽ đỡ nóng, hơn là nằm hơ hơ trên ngọn lửa,
nóng lắm! Nói thì nói thế cho vui, chớ con không yên tâm chút nào.
Vị Linh mục cười và nói:
- Cha lại thích mấy con cá bự, cá nhỏ ăn hoài chán rồi.
Cả hai cha con cười xòa.
Vị Linh mục nói tiếp:
- Cha kể cho con một câu chuyện nhé: Một người con trai kia thất
nghiệp, trở về nhà buồn bã. Nguời cha an ủi: Thôi con ạ, nhất sĩ nhì nông, hết
gạo chạy rông, nhất nông thì nhì sĩ; con trở lại với miếng ruộng của gia đình
đi. Sáng mai con ra làm cỏ năm sào ruộng để mùa tới chúng ta sẽ xạ lúa. Người
con nghe lời, sơm mai vác cuốc ra đồng. Nhưng khi nhìn thấy đám ruộng mênh mông
chỉ có cỏ với cỏ, anh ngán ngẩm, tìm một gốc cây nằm ngủ.
Người cha biết sự việc, không la rầy, ôn tồn nói với con:
- Mỗi ngày con làm cho cha 20 mét vuông thôi, con làm được
không?
- Dạ, ít vậy thì được.
Và cứ như thế, chẳng bao lâu đám ruộng đã sạch cỏ.
Tâm hồn con bây giờ cũng như đám ruộng kia, đầy cỏ dại, nhưng
con hãy bắt đầu đi rồi con sẽ thấy kết quả. Rồi đây con sẽ còn sa ngã, nhưng
cái quan trọng là luôn biết bắt đầu lại. Tội con Chúa đã tha rồi, Chúa chỉ đòi
hỏi con cố gắng mà thôi.
Mười năm sau đó, vào một buổi sáng đẹp trời, một tu sĩ bước vào nhà
xứ và cúi đầu chào Linh mục, rồi nói:
- Cha còn nhớ con nữa không? Con là người cha đã chỉ cho cách
làm cỏ cách đây khoảng mười năm.
Câu chuyện trên đây nhắc cho chúng ta: biết mình lạc đường cần
trờ về, đó là điều tốt nhưng thực hiện cuộc trở về thì khó, vì chúng ta bị cám
dỗ tháo lui. Chính Đức Giêsu cũng bị cám dỗ để đi xa con đường sứ mạng cứu thế
của Ngài như ta đã suy niệm trong bài Tin mừng Chúa nhật thứ nhất Mùa chay (x.
Lc 4,1-13).
Cám dỗ cũng cần thiết vì nó có lợi cho ta, nhờ đó mới biết lòng
trung thành của ta đối với Chúa và làm cho chúng ta càng thêm công trạng như lời
Sách Thánh nói: ”Lửa thử vàng, gian nan thử người nhân đức” (Hc 2,5).
9. Kế hoạch trì hoãn
Ngày kia Satan hỏi các đồ đệ:
- Làm thế nào để chiếm đoạt được các linh hồn?
Quỉ thứ nhất nói:
- Tôi sẽ rỉ tai: không có Chúa đâu.
Satan bảo:
- Họ đâu có tin, nhìn vào vũ trụ, không thể nào chối là không có
Thiên Chúa được.
Qủi nhỏ thứ hai bảo:
- Tôi sẽ rỉ tai: chết là hết, chết là hết.
Sa tan bảo:
- Không được, vì sự sống đời đời đã được khắc ghi vào chính giữa
trái tim con người.
Thế là cả bọn cùng trầm ngâm suy nghĩ.
Bỗng một con qủa đen đủi đứng lên nói:
- Tôi có cách: tôi sẽ nhắc đi nhắc lại cho mọi người biết: Chúa
có thật và chết chưa phải là hết. Tôi bảo họ phải sám hối ăn năn và trở về với
Chúa. Nhưng tôi sẽ rỉ tai họ: gấp gì, còn chán thì giờ! Để gần chết rồi lại ăn
năn, thế là được hưởng cả đời này lẫn đời sau, phải không nào?
Qủi vương đập bàn cười ha hả:
- Tuyệt, thật tuyệt, theo kế hoạch này, chúng ta sẽ thành công.
10. Trở về trong tình yêu
Trong một buổi chia sẻ kinh nghiệm sống, một phụ nữ đã kể lại
như sau:
Tôi nhớ ngày tôi còn là một thiếu nữ, một lần kia cha mẹ tôi dắt
tôi đi xem cuốn phim tựa đề là “Ảo ảnh cuộc đời." Phim đó kể lại chuyện một
cô gái không những đã bội bạc mà còn khinh khi làm khổ người mẹ đang hết lòng
yêu thương và hy sinh cho cô. Qua nhiều biến cố thăng trầm, cuối cùng, người mẹ
đau khổ đó chết, cô gái trở về thống hối tiếc thương.
Về nhà, hôm ấy gia đình tôi bàn tán về ý nghĩa của câu chuỵện
trong phim. Tôi nhớ rõ là tôi đã bực bội phê bình to tiếng: ”Bấy giờ mới trở về
ăn năn thống hối làm gì nữa, vì mẹ đã chết rồi."
Tôi thấy mẹ tôi định trả lời, nhưng cha tôi dùng ánh mắt ngăn mẹ
tôi lại và nói: ”Không có sự trở về nào là trễ trong tình thương con ạ."
Ngày đó, thú thật tôi không hiểu gì nhiều về câu trả lời của cha
tôi. Nhưng bây giờ đã là mẹ, tôi mới thấm ý nghĩa của lời đó. Chính câu nói ấy
đã giúp tôi luôn luôn sẵn sàng thương yêu tha thứ cho con cái tôi.
11. Lòng tham
Vì tham lam đồng tiền mà họ sẵn sàng đánh đổi tất cả: danh dự,
phẩm giá và tình làng nghĩa xóm, tình cha nghĩa mẹ, tình nghĩa thầy trò cũng
không bằng ma lực của đồng tiền, như cha ông ta đã từng nói: "Còn tiền còn
bạc còn đệ tử - Hết tiền hết gạo hết ông tôi." Thật vậy, có biết bao kẻ đã
bạc tình, bạc nghĩa chỉ vì đặt đồng tiền lên trên mọi mối quan hệ giữa người với
người. Đồng tiền là đối tượng duy nhất để tôn thờ vì thế dân gian mới có câu:
"Ông tiền, ông Phật, ông Tiên - Ba ông đứng lại, ông tiền cao hơn."
Ngày xưa, có người ở nước Tề thích vàng đến mê vàng. Sáng sớm
thay áo quần đi ra chợ. Tới hàng đổi tiền, thì liền chộp vội một khối vàng rồi
chạy đi. Người ta bắt anh ta lại và hỏi:
- Tại sao giữa đám đông mà anh lại dám cướp vàng của kẻ khác như
thế?
Anh ta trả lời:
- Lúc thấy vàng, tôi đâu còn thấy thiên hạ chung quanh nữa. Trước
mặt tôi, chỉ có vàng mà thôi.
Đồng tiền liền khúc ruột nên họ lao mình vào lửa, bất chấp mọi
khó khăn gian khổ, bất chấp mọi thủ đoạn mánh mung, cho dù phải chà đạp lên người
khác bằng những phương thế bóc lột và bất công, miễn sao vơ vét, vun quén về
cho đầy túi tham của mình.
12. Ma quỷ không nghỉ ngơi
Có một nô bộc da đen hộ tống ông chủ da trắng đi săn vịt trời.
Anh ta là một ky-tô hữu. Nhân dịp nói chuyện về vấn đề tôn giáo, ông chủ hỏi
người ở da đen:
“Ta chẳng hiểu tại sao mày thường xuyên nói đến tội, đến chống
trả cám dỗ, nói đến ma quỷ. Ta chẳng phải chống trả ma quỷ bao giờ, mà ta vẫn sống
tịnh, chẳng bao giờ bị quấy phá hoặc tấn công chi cả”
Người ở da đen trả lời lại: “Tôi xin phép được giải thích việc
này. Chúng ta đang đi săn vịt. Những con nào bị ông bắn và chết liền khi rơi xuống,
thì tôi để yên đó. Nhưng con nào chỉ bị thương khi rơi xuống và tìm cách chạy
trốn, thì tôi dùng sào này mà phang cho chết hoặc không nhúc nhích được mới
thôi."
Ông ví như vịt đã bị ma quỷ bắn chết rồi, nên nó để yên ông; còn
tôi ví như con vịt mới bị thương và đang tìm cách trốn thoát, do đó Ma quỉ đang
giơ sào và tìm mọi cách đập tôi cho thật chết mới thôi.
Ma quý cám dỗ là sự thật. Ma quỷ luôn tìm cách cám dỗ con người
đi nghịch lại với đường lối Thiên Chúa. Chúa Giê-su cũng từng bị cám dỗ. Ma quỷ
đã bủa vây Chúa Giê-su bằng nhiều lời hứa đường mật, nhưng luôn theo một chủ
đích là từ bỏ Chúa Cha để hành động theo ý mình. Quả thực, trên đời chẳng có gì
cho không. Ai cho chúng ta điều gì thì thường họ cũng muốn đòi lại chúng ta một
điều nào đó, huống hồ là ma quỷ, nó sẽ không bao giờ cho không chúng ta.
13. Sống là chiến đấu
Một buổi chiều, cha bề trên một tu viện kia hỏi một tu sĩ: - Hôm
nay con đã làm gì?
- Cũng như những ngày khác, tu sĩ trả lời, con rất bận bịu mà
nguyên sức con không thể nào làm nổi, ngoài sự giúp đỡ của Chúa. Thưa cha, ngày
nào con cũng phải coi hai con chim ưng, giữ hai con nai, dạy hai con diều hâu,
thắng một con cá sấu, trị một con gấu và chăm sóc một bệnh nhân.
- Con nói gì thế? Cha bề trên cười hỏi lại, những việc như thế
làm gì có trong tu viện này?
- Thưa cha bề trên, thật đúng như thế. Hai con chim ưng là hai
con mắt của con, con phải gìn giữ cho nó luôn trong sáng, không để nó thu giữ
những hình ảnh xấu xa. Hai con nai là hai chân của con, con phải luôn trông coi
từng bước đi, để chúng bước đi trên nẻo chính đường ngay. Hai con diều hâu là
hai bàn tay của con, con phải luôn bắt nó làm những việc tốt. Con cá sấu là cái
lưỡi của con, con phải kìm hãm hằng ngày để nó khỏi thốt ra những lời nói thâm
độc và thô bỉ. Con gấu là trái tim của con, con phải trừng trị để khỏi ích kỷ
và phô trương. Còn bệnh nhân là chính thân xác con, con phải canh phòng ráo riết
để nhục dục không xâm nhập và luôn lành mạnh.
Tu sĩ này có lý, thưa anh chị em, vì sống là chiến đấu. Đời là một
cuộc trường kỳ chiến đấu, và cuộc chiến cam go nhất chính là cuộc chiến cam go
nhất chính là cuộc chiến với bản thân. Địch thù ẩn núp ngay trong bản thân mình
chứ không ở đâu xa.
14. Bảy giảng cho Má
Tháng Ba năm 1976, người ta chở Má từ nơi quản thúc tại gia ở
Cây Vông đến nhà biệt giam Nha Trang… Má bị đưa vào ở trong một căn phòng giam
nhỏ không cửa sổ, ngột ngạt, dưới chân tường chỉ có một lỗ nhỏ để thông hơi. Má
thường nằm xuống đất để mũi gần đó và thở. Vài tuần sau Bảy cũng bị bắt đưa vào
phòng biệt giam, cách Má bức tường ngăn. Ban đầu hai phòng hoàn toàn cách biệt,
nhưng về sau người ta cho đục một cửa sổ nhỏ giữa bức tường ngăn cách, và có lệnh
cấm Má và Bảy không được liên lạc với nhau qua nơi này…
Một ngày nọ qua cửa sổ, Má bảo Bảy:“Má và Bảy không biết sống chết
ra sao. Má có thể ra đi bất cứ lúc nào! Má xin Bảy cho Má một ân huệ được
không?” “Má cứ tự nhiên, con có thể làm gì để giúp Má?” Bảy đáp. “Má muốn tĩnh
tâm ba mươi ngày, nhờ Bảy giảng cho Má.” “Má nói sao? con giảng tĩnh tâm cho
Má? Con làm gì có đủ khả năng giảng cho Má. Chính Má giảng cho con chứ?” Bảy ngạc
nhiên vô cùng và tưởng chừng mình nghe lầm nên hỏi lại. “Bảy cứ làm theo ý Má
đi. Vì đây là ân huệ Má xin.” Má ôn tồn và nhỏ nhẹ bảo… “Má nói vậy thì con xin
khiêm tốn vâng lời Má.” Bảy đáp lại.
Thế là mỗi ngày Bảy giảng cho Má ba bài, bắt đầu từ lúc Chúa
Giêsu sinh ra, sống cuộc đời ẩn dật và công khai rao giảng Tin Mừng, đối đáp lại
những bắt bẻ của người Do Thái, dạy dỗ, kể dụ ngôn và làm phép lạ, đến lúc bị bắt,
chất vấn, sỉ nhục, đánh đập, con đường khổ nạn và chết trên thập giá, rồi vinh
hiển sống lại và hiện ra cho các tông đồ nhiều lần, trước khi về trời gởi Thánh
Thần xuống. Mỗi bài giảng kéo dài từ hai mươi đến ba mươi phút, sáng trưa chiều.
Sau đó Bảy còn kéo thêm được bài thứ tư vào buổi tối trước khi ngủ. Cứ vào những
giờ giấc cố định Bảy đến bên cửa sổ, phía bên kia Má đã đứng chực đó từ lúc nào
rồi. Má chăm chú lắng nghe các bài giảng, sau mỗi bài Má đều góp ý rồi cả hai
cùng hát thánh ca có khi bằng tiếng Việt, hoặc La Tinh và Má dâng lời cầu nguyện
kết thúc.
Mỗi ngày lúc ba giờ chiều là giờ tử nạn của Chúa Giêsu, Má dâng
thánh lễ với ba giọt rượu và một giọt nước trong lòng bàn tay với mẫu bánh nhỏ
được bẻ vụn ra. Bên kia bức tường của phòng giam Bảy cũng làm như thế… Cuộc
tĩnh tâm linh thao theo phương pháp thánh Ignatiô Loyola của Má kéo dài đúng một
tháng… (Nguyễn Hồng Phúc, Câu chuyện của Má và Bảy)
ĐGM Fx Nguyễn Văn Thuận (Má) đã mời Lm Giuse Nguyễn Quang Thạnh
(Bảy) giảng cấm phòng cho ngài, để chuẩn bị cuộc lữ hành gian lao ròng rã 13
năm. Ngài noi gương Thầy Giêsu vào sa mạc 40 ngày đêm, chịu Satan cám dỗ, sống
giữa loài dã thú, chay tịnh cầu nguyện, chuẩn bị đi gieo Tin Mừng.
15. Ăn chay và hãm mình
Có người ăn chay nhưng không hãm mình.
Có người hãm mình nhưng không ăn chay.
Có người vừa ăn chay vừa hãm mình.
Có người không chay cũng chẳng hãm.
Ăn chay và hãm mình thuộc về tâm hồn, nội tâm. Thực tâm đến mức
nào chỉ mình mình biết, mình mình hay. Ăn chay hãm mình thật phải là việc làm tự
nguyện, thành tâm và làm với lòng mến. Ăn chay thực cần đi đôi với hãm mình.
Thiếu hãm mình không thể nào là ăn chay vì bản chất của chay tịnh là tự chế, tự
chủ. Tuy nhiên không phải tất cả các tự chế, tự chủ đều là ăn chay. Do vậy người
ta có thể hãm mình nhưng không cần ăn chay. Ăn chay thiếu hãm mình là ngoài mặt
ăn chay nhưng tâm nghĩ mặn.
Nói đến ăn chay chúng ta nghĩ đến việc kiêng ăn, kiêng uống. Sự
việc không đơn giản thế. Ăn chay là việc làm tự nguyện, tự chủ và làm với lòng
yêu mến Thiên Chúa. Điều răn quan trọng nhất Chúa Giêsu dậy là: Mến Chúa hết sức,
hết linh hồn, hết trí khôn và yêu thương anh em như chính mình. Toàn thể con
người từ trong ra ngoài đều thể hiện lòng mến và việc làm đi đôi với yêu tha
nhân. Ngoài việc kiêng ăn, bớt uống và hạn chế hút sách chúng ta cần kềm hãm
các giác quan khác trong con người.
Hãm mắt nhìn sự việc xấu.
Hãm tai nghe điều tệ hại.
Hãm miệng nói điều chua ngoa, gian xảo.
Hãm chân đi đến những nơi tồi bại.
Hãm tay làm những việc bất công.
Hãm óc nghĩ đến những tư tưởng gian tà.
Hãm cảm nhận những cảm xúc bất chính.
Hãm chiều theo đòi hỏi của thân xác.
Hãm không cho cái tôi làm chủ.
Lm. Vũ Đình Tường
16. Nhận biết Thiên Chúa
Charles de Foucaul đến gặp một vị linh mục quen là cha Huvelin
và tâm sự: Từ ngày lên 15 tuổi, tôi như mất đức tin. Cha Huvelin nhìn con người
về từ sa mạc đó và nói: Anh hãy quì xuống xưng tội đi đã. Foucauld đã vâng lời,
khiêm tốn làm việc sám hối. Và từ đó, đời của vị sĩ quan ấy đã hoàn toàn đổi mới.
“Khi tôi vừa hiểu rằng có một Thiên Chúa thì tôi cũng hiểu rằng tôi không thể
làm gì khác hơn là chỉ sống vì Người."
“Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng."
17. Chỉ cần sống đẹp lòng Chúa
Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận có kể lại một câu
chuyện về mẹ của ngài trong một diễn văn nhân lễ mở tay mừng tân chức như sau:
"Cách đây khá lâu có hai linh mục đến thăm mẹ già của tôi tại Úc châu và hỏi
bà: "Bà cố có muốn Đức Cha Thuận làm hồng y không?"
Bà cụ (nay đã 98 tuổi) trả lời: "Không! Tôi dâng con tôi
cho Chúa là để tế lễ Người, như thế là đủ! Tôi chẳng cần con tôi làm hồng y
đâu" - "Nhưng lên hồng y sẽ làm vinh danh Chúa hơn!" - "Thế
hai cha không làm vinh danh Chúa à?"
Mới đây, sau khi Đức Cha Thuận được tấn phong hồng y thực thụ, một
trong hai linh mục hôm nọ cùng một vị khác lại gặp bà cụ và hỏi: "Nay Đức
Cha Thuận đã lên hồng y rồi, bà cố có vui không?" - "Dạ vui chớ!"
- "Sao hôm nọ, bà cố đã trả lời là không muốn con bà làm hồng y!" -
"Nay tôi vui vì đó là ơn Chúa cho. Có chức quyền to ở trần đời dễ làm bậy
lắm! Còn chức quyền to trong Giáo Hội thì phải lo mà chu toàn theo ý Chúa"
–
"Vậy bây giờ Đức Cha đã lên hồng y, bà cố cầu nguyện gì cho
đức Hồng y?" - "Tôi chỉ cầu nguyện cho con tôi sống đẹp lòng
Chúa!" - "Thế thôi à?" - "Vâng, sống đẹp lòng Chúa, đó là
điều duy nhất tôi luôn cầu nguyện cho con tôi!"
18. Tin tưởng và cải thiện
Piri Thomas có viết một tác phẩm nhan đề “Xuống Những Con Phố Tồi
Tàn” (Down These Mean Streets). Tác phẩm mô tả việc ông cải tà qui chánh từ một
người bị kết án tù, một người nghiện ma tuý, và cố tình giết người để rồi trở
thành một Kitô hữu gương mẫu.
Một đêm kia, Piri đang nằm trên giường trong phòng giam của
mình. Đột nhiên, anh nghĩ tới tình trạng hỗn loạn mà anh đã gây ra trong đời
anh. Anh cảm thấy có một ước muốn mãnh liệt là cầu nguyện. Nhưng anh đang nằm
cùng giường với một tù nhân khác mà người ta gọi là “thằng ròm." Vì thế
anh chờ đợi. Sau khi đoán chắc rằng “thằng ròm” đã ngủ, anh leo ra khỏi giường
và quì xuống nền bê tông lạnh ngắt để cầu nguyện. Anh kể lại: “Tôi bầy tỏ với
Chúa những gì có trong trái tim tôi… Tôi nói với Ngài những lời mộc mạc… chứ
không phải những lời hoa mỹ… Tôi nói với Ngài những điều tôi muốn, những thiếu
thốn của tôi, những hy vọng và thất vọng của tôi,… Tôi cảm thấy dường như tôi
có thể khóc được… Đó là một điều mà bao nhiêu năm nay tôi không thể làm."
Sau khi Piri cầu nguyện xong, một tiếng nói nho nhỏ đáp:
“Amen." Đó là tiếng của “thằng ròm." Piri nói: “Thế là hắn nằm sấp xuống,
đầu úp trên đôi tay khoanh lại, còn tôi vẫn quì yên lặng. Một lúc thật lâu
không ai nói với ai. Rồi “Thằng Ròm” nói nhỏ: “Tôi cũng tin Chúa!" Hai người
bạn trẻ nói chuyện với nhau một lúc lâu. Rồi Piri leo lên giường ngủ. Anh nói:
“chúc Chico ngủ ngon nhé. Tôi nghĩ rằng Thiên Chúa luôn luôn ở với chúng ta, chỉ
có chúng ta là không ở với Ngài thôi."
Câu chuyện này là một hình ảnh rất đẹp, minh hoạ những gì Đức
Giêsu muốn nói trong bài Tin Mừng hôm nay khi Ngài bảo: “Hãy cải thiện đời sống
và hãy tin vào Phúc Âm." Giáo huấn của Đức Giêsu gồm hai điều: trước hết
là “cải thiện” đời sống của chúng ta. Sau đó là “tin vào Phúc Âm”, chúng ta hãy
bắt đầu với điểm thứ nhất: cải thiện đời sống.
19. Ma quỷ khắp mọi nơi
Một vị tu sĩ đạo đức nọ có lần được thấy ma quỷ ngồi khắp ở mỗi
góc tu viện, cả ở nhà nguyện nữa. Khi ngài bước ra phố thì thấy rằng chỉ có một
tên quỷ đi cám dỗ mà thôi. Lấy làm lạ, vị tu sĩ mới hỏi bậc thầy về tu đức của
mình thì được vị ấy trả lời: “Sở dĩ chỉ một tên quỷ cũng đủ cám dỗ các linh hồn
ở ngoài phố, vì người ta dễ lơ là, tìm kiếm táy máy, ngó nghiêng ngó dọc, không
cố gắng chống lại, thậm chí ma quỷ chưa cám dỗ thì người ta đã tự đưa mình sa
ngã vào cám dỗ hay tìm kiếm thú vui, buông mình ầu ơ dí dầu nơi những cám dỗ.
Và với những tâm hồn lành thánh thì không phải tránh xa được ma quỷ đâu, thậm
chí cả một đạo binh ma quỷ đang rình rập tìm dịp."
Thánh Phêrô Tông đồ khuyên bảo: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh
thức, vì ma quỷ là thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn
xé” (1Pr 5,8).
20. Vợ và các con của Luxiphe
Có câu chuyện kể rằng: "sau khi bị Thiên Chúa trừng phạt,
tướng quỷ Luxiphe rất tức giận, lửa căm thù sôi sục trong lòng hắn nên đã tìm
cách để cám dỗ các tín hữu. Một hôm, hắn cho rằng phải lấy vợ gấp để có nhiều
con gái gả cho loài người, nhờ đó sẽ kéo nhiều người xuống hỏa ngục.
Luxiphe kiếm được cô nàng Bất Chính và lấy làm vợ. Rồi họ sinh
được bảy cô con gái.
- cô thứ nhất tên là Kiêu Ngạo được gả cho những nhà cầm quyền,
- cô thứ hai tên là Hà Tiện được gả cho những người giàu có,
- cô thứ ba tên là Giả Dối được gả cho những người nghèo khó,
- cô thứ tư tên là Ghen Tương được gả cho những nghệ sĩ,
- cô thứ năm tên là Giả Hình được hắn đặt vào các cộng đoàn tu trì,
- cô thứ sáu tên là Háo Danh được hắn cho làm bạn với các phụ nữ,
- cô thứ bảy tên là Dâm Ô nhưng không được gả cho người nào vì hắn
muốn cô này sẵn sàng ở với tất cả mọi người.
Mỗi ông chồng đều thích thú với cô vợ của mình, và họ cũng biết
mình có họ hàng bà con với các chị em khác. Luxiphe khôn khéo như thế đó!
Luxiphe đã chống lại Thiên Chúa và nó cũng đang cám dỗ chúng ta chống lại Thiên
Chúa.
21. Tránh xa dịp tội
Có một người giầu có rất yêu mến mẹ già. Một hôm ông muốn đi tìm
một người tài xế chở bà mẹ già đi dạo mát mỗi buổi chiều. Có ba người đến xin
chân tài xế đó. Người nhà giầu nói: "Tôi không muốn có một tai nạn nào xẩy
ra trong khi các ông đưa mẹ tôi đi dạo mát. Tôi sẽ thử cả ba ông xem các ông
lái xe giỏi đến mức nào. Tôi muốn xem các ông lái sát bên vực thẳm bao nhiêu mà
không bị rơi xuống."
- Người tài xế thứ nhất tự nhủ: "cái đó thì dễ ợt."
Ông ngồi bẻ tay lái và chạy vù xuống đường, cách vực thẳm một tấc.
- Người thứ hai thầm bảo: "mình lái ngon hơn hẳn là cái chắc."
Ông này cũng lái vèo xuống đường và chỉ cách vực thẳm có nửa tấc.
- Trong khi đó, người thứ ba chậm rãi lái cách vực thẳm những một
mét.
Hai người tài xế trước thấy thế cười đắc chí, nhưng người nhà giầu
lại nói với bác tài xế thứ ba: "tôi xin nhận bác làm tài xế cho mẹ tôi.
Tôi cần người tài xế có bảo đảm, mà một người lái có bảo đảm thì không bao giờ
lái quá sát vực thẳm vì sẽ dễ bị cám dỗ lôi cuốn."
22. Chiến đấu với chính mình
Một buổi chiều, Cha Bề Trên một tu viện kia hỏi một tu sĩ:
- Hôm nay con đã làm gì?
- "Cũng như những ngày khác, tu sĩ trả lời, con rất bận bịu
mà nguyên sức con không thể nào làm nỗi, ngoài sự giúp đỡ của Chúa. Thưa cha,
ngày nào con cũng phải coi hai con chim ưng, giữ hai con nai, dạy hai con diều
hâu, thắng một con cá sấu, trị một con gấu và chăm sóc một bệnh nhân."
- Con nói gì thế? Cha Bề Trên cười hỏi lại, những việc như thế
làm gì có trong tu viện này?
- Thưa Cha Bề Trên, thật đúng như thế. Hai con chim ưng là hai
con mắt của con, con phải gìn giữ cho nó luôn trong sáng, không để nó thu giữ
những hình ảnh xấu xa. Hai con nai là hai chân của con, con phải luôn trông coi
từng bước đi, để chúng bước đi trên nẻo chính đường ngay. Hai con diều hâu là
hai bàn tay của con, con phải luôn bắt nó làm những việc tốt. Con cá sấu là cái
lưỡi của con, con phải kìm hãm hằng ngày để nó khỏi thốt ra những lời nói thâm
độc và thô bỉ. Con gấu là trái tim của con, con phải trừng trị để khỏi ích kỷ
và phô trương. Còn bệnh nhân là chính thân xác con, con phải canh phòng ráo riết
để nhục dục không xâm nhập vào và luôn lành mạnh.
23. Ma quỷ vất vả với ai?
Một hôm Thánh Ephrem nằm mơ thấy một thành phố kia rất đông người
qua lại, nhưng ở cổng thành, ngài chỉ thấy có một tên quỉ đang ngồi ngáp ngủ. Rồi
ngài lại thấy mình có mặt tại một khu rừng vắng chỉ có một vị ẩn sĩ đang sống,
nhưng chung quanh vị này lại có cả một bầy quỉ rất đông đang tìm đủ cách tấn
công vị tu sĩ. Bấy giờ thánh nhân liền la mắng lũ quỷ như sau: “Lũ quỷ các
ngươi thật không biết xấu hổ khi kéo cả bầy đến tấn công một người. Còn trong
thành phố kia có rất đông người thì các ngươi lại chỉ bố trí có một tên đứng
không và còn ngáp đứng ngáp ngồi nghĩa là làm sao?”
Tên quỷ đầu đàn liền trả lời như sau: “Thành phố tuy đông người
nhưng chẳng cần lũ quỷ chúng ta phải ra tay cám dỗ mà chúng vẫn phạm hết tội
này đến tội khác, nên chỉ cần một tên đứng canh là đủ. Còn tại khu rừng vắng
này dù chỉ có một tên tu sĩ, nhưng hắn ta lại rất kiên cường chiến đấu. Đến nay
sau nhiều ngày tấn công cám dỗ mà chúng ta vẫn chưa cám dỗ được hắn ta phạm tội,
vì hắn luôn ăn chay cầu nguyện, năng đọc Kinh Thánh và chăm chỉ làm việc."
Thánh Phêrô dạy các tín hữu như sau: “Anh em hãy sống tiết độ và
tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi
cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự” (1 Pr 5,8-9).
24. Bé trộm trứng, lớn bắt bò
Một tên cướp nhà băng kia đã dùng súng giết chết một viên cảnh
sát và sau đó hắn bị bắt và bị tòa kết án tử hình. Bây giờ hắn đang bị cột vào
chiếc ghế điện trong nhà tù Sing Sing chờ tới giờ thi hành án. Trên đầu hắn có
đeo một chiếc vòng bằng kim loại cột nhiều thanh sắt. Khi cho dòng điện mạnh chạy
qua là hắn sẽ lập tức bị chết ngay. Người thi hành án hỏi tử tội xem có muốn nhắn
gửi điều gì trước khi chết không?
Bấy giờ hắn mới tâm sự với giọng điệu đầy hối hận muộn màng như
sau: ”Tất cả tội lỗi lớn lao của tôi hôm nay chỉ bắt đầu từ việc ăn cắp một đồng
năm xu trong túi áo của mẹ tôi hồi còn nhỏ. Rồi khi đi học tôi tiếp tục ăn cắp
các vật dụng của chúng bạn như bút vở, nhặt được đồ đánh rơi không trả cho người
bị mất, đi xe buýt hay xe lửa trốn không mua vé. Rồi khi lớn khôn tôi bắt đầu
sa vào các thói hư chơi bời hút xách bài bạc.
"Do thua cá độ một món tiền lớn, tôi và hai thằng bạn thân
rủ nhau đi cướp giật túi xách người đi đường, rồi lên kế hoạch cướp nhà băng. Một
ngày kia khi thực hiện việc cướp này và bị cảnh sát truy đuổi, tôi đã dùng súng
bắn chết một viên cảnh sát và bị tòa kết án tử hình. Như vậy, tội cướp của giết
người dẫn đến cái chết của tôi hôm nay chỉ bắt đầu từ việc ăn cắp một đồng bạc
năm xu” (A. Tonne).
25. Tình Chúa bao la
Một nhà truyền giáo trên một đảo ngạc nhiên khi nhìn thấy một phụ
nữ mang một nắm cát ướt bước vào túp lều của ông.
- Thưa cha, cha biết đây là gì không?
- Nó giống như cát.
- Cha có biết tại sao con mang nó vào đây không?
- Không, tôi không thể tưởng tương được tại sao.
- Đây là tội của con. Tội con không thể đếm được như cát biển.
Làm thế nào con có thể được tha thứ tất cả?
- Bà hãy đưa cát đó ra bãi biển và chất thành một ít cát. Rồi ngồi
nhìn xem những cơn sóng ập tới, chắc chắn sẽ cuốn đi tất cả. Đó là cách Chúa thực
hiện sự tha thứ của Ngài. Lòng nhân từ của Chúa bao la như đại dương. Hãy thành
thật hối lỗi và Chúa sẽ tha thứ.
Mùa Chay, mùa trở về cùng Chúa là Cha... bắt đầu bằng tâm tình
sám hối qua việc xức tro.... Tại sao phải xức tro và tro có ý nghĩa như thế
nào?
26. Thập giá và sự sống
Vào đầu thế kỷ 20, một văn sĩ người Anh đã kể lại trong cuốn tiểu
thuyết “Bầu trời và Thập giá” của ông, truyện một người thù ghét thập giá. Thấy
thập giá ở đâu là anh ta tìm cách phá huỷ. Gặp một bức vẽ có hình thập giá là
anh xé bỏ. Vợ anh mang một thập giá nhỏ bằng vàng, anh cũng lừa giật được và
ném đi. Anh bảo: “Thập giá là biểu tượng sự độc ác dã man đối nghịch với niềm
vui và cuộc sống."
Lòng căm ghét thập giá ăn sâu và tâm tư anh, đến mức thấy bóng
thập giá là anh như điên dại. Không chịu nổi, có lần anh leo lên tận tháp
chuông nhà thờ để phá huỷ cây thập giá trên đó. Lần khác, anh đập tan cái ban
công nhà vì ở đó anh thấy nhiều chỗ có hình thập giá… Anh nhìn đâu cũng thấy thập
giá. cuối cùng anh nổi giận đốt luôn căn nhà của mình và bị chết cháy.
27. Thủ đoạn của ma quỷ
Ma quỷ cám dỗ chúng ta dưới nhiều hình thức khác nhau về các
phương diện danh, lợi, thú. Thông thường ma quỷ không cám dỗ chúng ta phạm tội
trọng ngay nhưng chúng cám dỗ chúng ta phạm tội cách tiệm tiến từ tội nhẹ đến tội
nặng.
Có một câu chuyện vui dân gian kể rằng: Có một người nọ bị quỷ
hiện lên chận đường. Quỷ bắt anh ta phải làm một trong ba điều sau đây: một là
uống rượu thật say; hai là đốt nhà của mình; ba là giết chết vợ mình. Quá hoảng
sợ, người đàn ông đành chọn uống rượu thật say vì anh ta cho đó là việc làm đỡ
nguy hại nhất. Nào ngờ, khi say rượu, anh ta mất hết lý trí, nổi lửa đốt nhà
mình. Bà vợ ra can ngăn, anh ta điên tiết giết luôn vợ mình. Rốt cuộc là anh ta
đã làm cả ba việc mà tên quỷ đã đề ra.
28. Thủ đoạn của ma quỷ
Để bắt đầu phần chia sẻ hôm nay, tôi xin kể lại trường hợp vượt
ngục rất đặc biệt của một tù nhân. Đúng thế, ông ta bị nhốt trong một ngọn tháp
thật cao và trong phòng thì lại không có một phương tiện nào để có thể leo xuống.
Vậy ông ta đã làm gì?
Để vượt ngục, mỗi ngày ông ta chỉ nhổ có hai sợi tóc và xe lại với
nhau. Sau một thời gian, ông ta đã làm được một sợi dây bằng tóc khá dài. Ông
ta thả sợi dây tóc ấy xuống qua cửa sổ nhà tù. Ở dưới, một người bạn thân đã chờ
sẵn. Người bạn này đã buộc một sợi chỉ dài vào đầu sợi dây tóc. Rồi cuối sợi chỉ,
người ấy lại buộc thêm một sợi dây vải dài. Cuối sợi dây vải, người ấy buộc một
dây thừng nhỏ và cuối sợi dây thừng nhỏ, người bạn ấy buộc một dây thừng to.
Sau đó, tù nhân ở trên ngọn tháp cao bắt đầu kéo lên. Hết sợi dây tóc, thì nắm
lấy sợi dây chỉ. Hết sợi dây chỉ thì nắm lấy sợi dây vải. Hết sợi dây vải, thì
nắm lấy dây thừng nhỏ. Hết dây thừng nhỏ thì nắm lấy dây thừng lớn và ông ta đã
dùng dây thừng lớn này để mà vượt ngục cách an toàn trong một đêm trời tối.
Kể lại câu chuyện này, tôi thấy đó cũng chính là đường lối ma quỉ
vốn thường dùng để cám dỗ chúng ta. Thực vậy, rất ít khi ma quỉ cám đỗ chúng ta
phạm tội trọng ngay từ lúc đầu. Nếu làm thế, ma quỉ sẽ khiến cho chúng ta sợ
hãi. Nó cứ từ từ mà tiến. Lúc đầu nó chỉ cám dỗ chúng ta phạm một lỗi nhỏ, rồi
sau đó một lỗi lớn hơn và cuối cùng nó mới dẫn chúng ta đến tội trọng.
29. Bước ra khỏi tiện nghi
Một ngày nọ, lạc đà con nói chuyện với lạc đà mẹ như sau, “Mom!
Tại sao bàn chân của mẹ con mình lại có 3 ngón chân to tổ chảng vậy?” Lạc đà mẹ
trả lời, “Để chúng mình băng qua sa mạc cát mềm mà không bị lún chứ làm sao!”
“Và tại sao chúng mình có bộ lông mi dài lượt thượt và nặng nề quá vậy?” “Để
cát khỏi rơi vào mắt trên những hành trình dài trong sa mạc đó con!” “Và Mom, tại
saochúng mình lại phải mang những cái bướu quá bự trên lưng vậy?” Bây giờ thì lạc
đà mẹ không còn kiên nhẫn nổi để trả lời những câu hỏi vớ vẩn của thằng con nữa,
nhưng cũng cố trả lời, “Chúng nó giúp chúng mình dự trữ những chất béo cho những
cuộc du hành dài, nhờ đó mà mẹ con mình không cần nước trong một thời gian rất
lâu ở sa mạc!” “Đúng vậy, con biết rồi!” lạc đà con nói, “Chúng mình có ngón
chân bự để không bị lún dưới cát, lông mi dài để tránh cát bụi khỏi rơi vào mắt,
và những cái bướu trên lưng để chứa nước. Vậy thì, Mom! Tại sao chúng ta lại ở
đây, trong cái sở thú của Toronto này?
Đời sống văn minh hiện đại làm cho chúng ta có cảm giác giống
như con lạc đà trong sở thú. Chúa ban cho ta khối óc để suy nghĩ, nhưng bây giờ
đã có máy computer nghĩ hộ chúng ta rồi! Chúa ban cho ta con tim để yêu thương
tha nhân, nhưng đã có những cơ quan từ thiện làm việc bác ái rồi! Đôi khi chúng
ta cần đi vào trong “sa mạc” để khám phá lại chúng ta thực sự là ai? Mùa chay mời
gọi chúng ta đi vào trong cái cảm nghiệm của loại “sa mạc” này.
30. Giữ cho lửa thánh cháy sáng
Selma Lagerloeff trong huyền thoại “The Flanme”, đã kể câu chuyện
về chàng hiệp sĩ, sau cuộc chiến thành công vào Thánh Địa, anh đã làm một lời
thề hứa. Anh thắp lên một cây nến lấy từ ngọn lửa thánh tại ngôi mộ của Chúa
Giêsu, và mang nó trở về quê quán của anh ở tỉnh Florence, nước Ý Đại Lợi mà vẫn
còn cháy sáng. Quyết định này đã biến đổi anh trở thành một con người mới. Nó
biến đổi anh từ một người lính hiếu chiến thích đánh nhau trở thành một con người
yêu chuộng hòa bình.
Trên đường trở về nhà chàng hiệp sĩ đã bị bọn cướp bóc lột, anh
đã không rút gươm ra chống cự. Anh đã hứa cho chúng bất cứ những gì anh có miễn
là chúng không dập tắt ngọn nến cháy của anh. Bọn cướp đã tước đoạt áo giáp,
thanh gươm, con ngựa yêu quý và tiền bạc của anh. Chúng chỉ để lại cho anh một
con ngựa già. Sau khi đã trải qua tất cả các kinh nghiệm của sự nguy khốn, anh
đã cưỡi con ngựa già về đến Florence. Để bảo vệ ngọn lửa không bị tắt bởi những
cơn gió trong sa mạc, anh đã phải ngồi quay lưng lại với con ngựa, và dùng thân
mình để che chở cho ngọn lửa.
Khi những tên đểu cáng trong thị xã trông thấy anh cưỡi ngựa ngược
như vậy, chúng nghĩ anh là một tên điên khùng, và ra sức đùa nghịch để dập tắt
ngọn lửa. Nhưng anh đã làm tất cả sức mình để có thể giữ ngọn lửa cháy sáng. Và
sau cùng, anh đã mang nó về đến nhà thờ chính tòa, và dùng nó để thắp lên tất cả
những cây nến trên bàn thờ của nhà thờ chính tòa Florence. Khi người đốt đèn ở
nhà thờ hỏi anh đã phải làm gì để giữ ngọn lửa khỏi tắt, anh trả lời, “Ngọn lửa
nhỏ bé này sẽ đòi hỏi tất cả sự chú tâm của anh; nó sẽ không cho phép anh nghĩ
về bất cứ điều gì khác. Và anh sẽ không có thể cảm thấy an toàn một giây phút nào
cả. Anh phải luôn luôn chiến đấu. Bất kể là ngọn lửa có thể đã bảo vệ anh tránh
khỏi biết bao nhiêu nguy hiểm, anh phải luôn tỉnh thức để ngăn ngừa ngọn lửa
không bị đánh cắp mất khỏi anh."
31. Ma quỷ cho biết không có ma quỷ
Buổi chiều ngày cuối tháng 10 thường được người Mỹ và các nước
có ảnh hưởng của Mỹ gọi là Halloween, có nghĩa là ngày mừng lễ các thánh. Có lẽ
đã là điều còn rơi rớt lại của những ngày lễ ngoại giáo bắt nguồn từ thời của
những người Santies trước Công Nguyên mà ngày lễ vọng các thánh mang một màu sắc
ảm đạm ma quái. Trong các cửa tiệm, trưng bày những mặt nạ quái dị, những hình
nộm được tô vẽ với một bộ mặt của thần chết, những màng nhện trắng xóa giăng ra
khắp nơi, các đồ chơi của trẻ em cũng được khoác lên những nét ma quái, kinh dị,
trên màn ảnh truyền hình cũng như tại các rạp chiếu bóng, đa số các phim trình
chiếu đều mang nội dung quái đản, kinh dị.
Buổi tối ngày Halloween, thanh niên thiếu nữ thường cải trang
thành ma quái để đi từng nhà ca hát và kể cho nhau nghe những chuyện ma quái.
Phải chăng mỗi năm, người ta muốn dành một ngày để nhắc nhớ đến sự hiện hữu và
tác quái của thần dữ? Nhưng ngày nay người ta còn ý thức được tội lỗi và sự tác
động của thần dữ, tức là ma quỷ hay không? Thi sĩ Bô-đơ-le của Pháp đã có lần
nói: “Sự thành công của ma quỷ là thuyết phục được con người rằng chúng không hề
hiện hữu." Với những khám phá mới trong ngành tâm lý học cũng như bệnh lý
học, người ta cho rằng tất cả những vụ quỷ ám mà Thánh Kinh nói đến đều chỉ là
những hiện tượng tâm lý bệnh hoạn mà ngày nay con người có thể tìm ra nguyên
nhân.
Với luận điệu ấy, con người ngày nay tự hào là đã loại trừ được
ma quỷ ra khỏi cuộc sống.
32. Đứa con của kẻ vô thần
Vào tháng 5 năm 1980, tuần báo Time có đăng tải câu truyện nổi
tiếng mang tựa đề "Đứa Con Của Kẻ Vô Thần Tìm Thấy Thiên Chúa." Đứa
con đó là William Murray. Khi Murray đi học, mẹ cậu là bà Madalyn Murray tại
Baltimore, Maryland, đã ra toà kiện chống việc cầu nguyện và đọc Thánh Kinh
trong các trường học công cộng. Vụ án này đã được đến tận Toà Án Tối Cao Pháp
Viện, và kết quả là mọi hình thức cầu nguyện và đọc Thánh Kinh tại các trường học
công cộng của toàn quốc Hoa Kỳ phải chấm dứt.
Sau này khi lớn lên, Murray còn tiếp tục thành lập các cuộc vận
động chống đối Thiên Chúa bằng việc cho xuất bản những tạp chí vô thần.
Thế nhưng, Murray đã được ơn trở lại. Một đêm vào trước Lễ Giáng
Sinh, William Murray nằm mơ một giấc mộng tỏ tường về Thánh Kinh. Giấc mơ này
đã thức tỉnh ông. Cảm nghiệm của giấc mơ này thật xúc động, đến nỗi ông đã chỗi
dậy ra khỏi giường và lái xe đến một tiệm sách tại San Francisco. Ông viết:
"Tôi đã tìm thấy cuốn Thánh Kinh. Tôi lái xe về nhà và đọc Phúc Âm theo
Thánh Luca. Tại đây, tôi đã tìm thấy... Đức Giêsu Kitô." Từ đêm hôm đó, cuộc
sống của Murray được biến đổi.
Sau khi trở lại, ông viết một bức thư cho tờ báo Baltimore Sun.
Ông xin lỗi với toàn thể dân chúng về việc ông đến Toà Tối Cao Pháp Viện xin cấm
việc cầu nguyện và đọc Kinh Thánh tại các trường học Hoa Kỳ. Ông nói trong bức
thư: "Trong khi suy xét lại cuộc đời 33 năm sống ngoài đức tin, tôi chỉ
còn biết cầu xin, với sự phù giúp của Chúa, cho tôi được hoàn chỉnh lại những lầm
lỗi và điều xấu xa mà tôi đã gây ra do sự thiếu lòng tin của tôi."
Câu chuyện này là một bài quảng diễn sống động những gì Chúa
Giêsu có ý nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay:
"Thời giờ đã gần đến. Nước Thiên Chúa đã gần kề. Hãy thống
hối, và tin vào Tin Mừng."
Đấy chính là những gì William Murray đã làm. Ông đã sám hối về tội
33 năm làm một kẻ vô thần, không tin vào Phúc Âm và không biết đặt Chúa Giêsu
Kitô làm trung tâm điểm đời sống.
33. Trở lại là thế nào?
Khi mẹ Têrêxa thành Calcutta, vị sáng lập dòng nữ thừa sai bác
ái, khởi sự công cuộc phục vụ những người hấp hối tại thành phố Calcutta bên An
độ, thì vấn đề lớn nhất gặp phải đó là tìm cho ra nơi chốn để chăm sóc họ.
Chính quyền địa phương chỉ có thể dành cho công việc xã hội này khu nhà trọ của
khách hành hương tại đền thờ kính thần Kali, mà lúc bấy giờ đang là nơi chứa chấp
bọn trộm cắp và xì ke.
Thế rồi một nguồn tin bất lợi được tung ra:
- Người đàn bà ngoại quốc này có ý đồ lôi kéo những người nghèo
An độ theo Công giáo.
Trước nguồn tin này, một nhóm người đã kéo đến tòa thị chính để
phản đối, còn một nhóm khác thì đến trụ sở cảnh sát để yêu cầu trục xuất người
đàn bà đó.
Viên cảnh sát trưởng hứa sẽ giải quyết vụ này. Đích thân ông tới
xem xét ngôi nhà. Ông thấy mẹ Têrêxa đang chăm sóc một bệnh nhân có những vết
thương, vì lâu ngày không được chạy chữa, nên xông ra mùi hôi thối chịu không nổi.
Thế mà vị nữ tu này vẫn nghiêng mình cặm cụi rửa ráy, lau chùi và băng bó như
cho chính mình vậy.
Trở về trụ sở, ông gặp lại những người biểu tình và nói:
- Tôi hứa sẽ trục xuất người đàn bà ngoại quốc này ra khỏi khu vực
đền thờ kính thần Kali, nhưng trước khi hành động, tôi chỉ xin mỗi người hãy đem
theo mẹ hoặc chị em tới chăm sóc cho những người hấp hối đáng thương kia, thay
thế cho người mà tôi được yêu cầu để trục xuất.
Chính vì thế mà việc sám hối đòi chúng ta vừa hòa giải với Chúa,
lại vừa hòa giải với anh em. Vừa trở về cùng Chúa lại vừa trở về với anh em đồng
loại.
34. Chúa chia sẻ thân phận con người
Janet Frame là một tiểu thuyết gia người New Zealand. Trong suốt
những năm đầu đời, bà đã phải chịu đựng những chứng bệnh về tâm lý, và vừa mới
thoát khỏi cảnh bị ép buộc phải phẫu thuật thùy não. Cuối cùng, bà vào một bệnh
viện ở Anh để điều trị. Tại đó, bà may mắn gặp được một bác sĩ rất hiểu biết,
đã giúp đỡ bà phục hồi. Bằng cách nào vị bác sĩ đó khác hẳn với nhiều bác sĩ
khác mà bà đã từng gặp? Bà nói:
“Tôi rất dễ chịu vì biết rằng bác sĩ của tôi là một người không
e ngại thừa nhận và bày tỏ tư tưởng kỳ lạ rằng nói cho cùng, ông ấy cũng là con
người, và ông không thể làm gì được hơn, và khi giả vờ như mình là thần thánh,
thì cũng không thể thay thế được điều đó.
Trong bệnh viện đó, việc quản lý bao gồm những vị bác sĩ mà
chính họ cũng bị cản trở do không đủ tư cách pháp lý. Những bác sĩ này có thể dễ
dàng liên hệ với các bệnh nhân của họ."
Chúng ta không thể học hỏi được lòng thương xót, khi không biết
thế nào là đau khổ. Chúng ta không thực sự hiểu được lòng thương xót là gì, hoặc
không thể an ủi một người nào đó đang chịu đau khổ, trừ phi chúng ta đã từng
đau khổ. Chúng ta không thể lau khô những giọt nước mắt của người khác, trừ phi
chúng ta đã từng khóc lóc. Chúng ta không thể giúp đỡ những người lầm đường lạc
lối tìm được con đường của họ, trừ phi chúng ta đã từng bước đi trong tăm tối.
Khi đã từng chịu đau khổ, chúng ta mới có thể trở thành một con người mở đường
cho người khác.
Trong Tin Mừng, chúng ta nhận thấy Đức Giêsu đã bị cám dỗ. Bức
thư gửi tín hữu Do thái nói rằng Đức Giêsu đã trở nên “hoàn toàn giống như anh
em Người về mọi phương diện."
CNMC 1C - CÁM DỖ CỦA CHÚA GIÊSU
Lời Chúa: Lc 4, 1-13
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu được đầy Thánh Thần, liền rời vùng sông
Giođan và được Thánh Thần đưa vào hoang địa ở đó suốt bốn mươi ngày, và chịu ma
quỷ cám dỗ.
Trong những ngày ấy, Người không ăn gì và sau thời gian đó, Người
đói. Vì thế, ma quỷ đến thưa Người: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy
truyền cho đá này biến thành bánh đi.” Chúa Giêsu đáp: "Có lời chép rằng:
Người ta không phải chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng lời Chúa nữa.”
Rồi ma quỷ lại đem Người lên cao hơn cho xem ngay một lúc tất cả
các nước thiên hạ và nói với Người rằng: "Tôi sẽ cho ông hết thảy quyền
hành và vinh quang của các nước này, vì tất cả đó là của tôi và tôi muốn cho ai
tuỳ ý. Vậy nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, thì mọi sự ấy sẽ thuộc về ông!"
Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: "Có lời chép rằng: Ngươi phải thờ lạy Chúa là
Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người thôi.”
Rồi ma quỷ lại đưa Người lên Giêrusalem, để Người trên góc tường
cao đền thờ và bảo rằng: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống,
vì có lời chép rằng: "Chúa sẽ truyền cho Thiên Thần gìn giữ ông!" Và
còn thêm rằng: "Các vị đó sẽ giơ tay nâng đỡ ông khỏi vấp phải đá.” Chúa
Giêsu đáp lại: "Có lời chép rằng: Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa
ngươi!"
Sau khi làm đủ cách cám dỗ, ma quỷ rút lui để chờ dịp khác.
TRUYỆN KỂ
1. Hai lối sống
Lịch sử Việt Nam ghi lại các đời vua Chúa hầu hết ăn chơi hại
dân, hại nước, còn các hiền tài thanh liêm lại bị hãm hại. Đó là lý do tại sao
đất nước bị lạc hậu, chậm tiến, một ngàn năm bị đô hộ giặc Tàu, một trăm năm bị
đô hộ giặc Tây.
Lối sống hại dân hại nước của bọn vua Chúa như Lê Uy Mục, Lê
Tương Dựa. Uy Mục say mê tửu sắc, hung ác dữ tợn, giết các cận thần và giết cả
bà nội. Dân gọi là quỷ vương. Tương Dực lên ngôi chơi bời xa xỉ, loạn dâm. Sứ
Tàu bảo ông là tướng lợn. Lối sống tiền tài thanh liêm như Chu Văn An và Lê Quý
Đôn đều bị hãm hại cách chức. Thầy Chu Văn An tính ngay thẳng, không màng danh
lợi, thiên hạ khen ngài là bậc đạo học mô phạm. Khi vua mời dạy các thái tử
trong triều, ông dâng sớ xin chém bảy kẻ gian thần nịnh hót, làm triều đình suy
vi, đất nước nguy khốn. Vua không nghe, ông cởi áo quan chức về làng dạy học.
Lê Quý Đôn tính trung hậu, chân thành, làm quan bổng lộc bao
nhiêu thường chia hết cho họ hàng, bạn bè nghèo khó, còn ông sống tiết kiệm, chỉ
mặc áo vải, ăn cơm rau, khi làm khanh tướng, làm sứ giả sang Tàu ông vẫn học đến
nửa đêm. Khi bị cách chức về trí sĩ, sống làm nhà cỏ tranh để ở và dạy học viết
sách rất nhiều.
Tin Mừng hôm nay cũng đề cập đến hai lối sống đối kháng nhau như
thế: một lối sống của Satan quỷ vương lừa đảo hại người, một lối sống của Đức
Giêsu, Đấng Cứu thế, cứu muôn dân, muôn nước.
2. Đâu là điều tốt thật sự?
Vua nước Thục có tính tham lam. Vua Huệ Vương nước Tần muốn xâm
chiếm nước Thục nhưng vì khe núi hiểm trở, không thể đem quân sang đánh. Huệ
Vương sai lấy đá tạc hình con trâu để gần địa giới nước Thục, mỗi ngày bỏ vàng
sau đuôi con trâu và phao tin đồn rằng: "Trâu đãi ra vàng.”
Tiếng đồn ấy đến tai vua Thục. Ông liền sai xẻ núi lấp khe và
cho năm người lực sĩ vào rừng kéo con trâu về.
Huệ Vương sẵn lối đi, đem quân tiến đến cướp được nước Thục. Vua
Thục vừa mất nước, vừa hại cả mình, để lại trò cười cho thiên hạ. Thế chẳng phải
là tham chút lợi nhỏ mà để thiệt mất cái lợi to ư?
Vua Thục vì tham vàng mà mất nước, và số vàng kia cũng lọt vào
tay quân thù. Thiên hạ cười chê ông dại khờ. Nhưng thật ra thì ai cũng đã hơn một
lần khờ dại như ông. Ai cũng đã không ít lần bị cám dỗ giống ông, nếu không phải
là vàng thì cũng là của cải, sắc dục, danh vọng, quyền uy.
Bị cám dỗ là thân phận của con người. Chúa Giêsu đã từng bị cám
dỗ, vì Người muốn chia sẻ trọn vẹn kiếp người, Người muốn nên đồng số phận với
con người, và Người đã thắng cơn cám dỗ để nêu gương cho con người.
3. Mọi sự đã hoàn tất
Một cuốn phim đã gây xôn xao dư luận một thời, nhất là vào năm
1989, đó là phim "Cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa" (The last temptation
of Christ, phỏng theo quyển tiểu thuyết cùng tên, của nhà văn Hy lạp Nikos
Kazantzakis). Cuốn phim (và quyển tiểu thuyết) mô tả lúc Chúa Giêsu bị đóng
đinh trên thánh giá. Ngài đã ngất đi và thấy mình rời khỏi thánh giá, rời bỏ sứ
mạng cứu thế để sống một cuộc sống bình thường. Ngài đi tìm lại nàng Mađalêna,
cưới nàng làm vợ. Sau đó lại tìm đến với hai chị em Matta và Maria ở làng
Bêtania và cũng cưới luôn hai chị em này làm vợ. Ngài có rất nhiều con và sống
rất hạnh phúc...
Báo chí và các đài phát thanh đưa tin rằng khi cuốn phim được
trình bày chiếu lần đấu, những người có đạo đã đập phá rạp chiếu bóng tan tành,
đến nỗi lần chiếu sau phải chiếu ở một rạp đặc biệt cô lập bởi chung quanh toàn
là nước để khỏi bị đập phá lần nữa. Nếu tác giả mà viết như thế về Hồi giáo thì
chắc chắn ông cũng sẽ bị mang cùng một số phận với Salman Ruside, người đã bị
giáo chủ Hồi giáo Khômêni kêu gọi tất cả mọi tín đồ Hồi giáo trên khắp thế giới
hễ gặp mặt tác giả là có bổn phận phải giết ngay, lý do là Salman Rusdie đã viết
một quyển sách có những điều bị cho là xúc phạm đến Hồi giáo, quyển sách mang tựa
đề "Những vần thơ ác quỷ" (the satanic verses).
Thực ra, nếu chúng ta được đọc quyển "Cám dỗ cuối cùng của
Chúa" của Nikos Kazantzakis, thì chúng ta sẽ thấy chẳng có gì xúc phạm cả.
Tuy tác giả có nói Chúa Giêsu rời thập giá và cưới 3 người vợ, có nhiều con,
nhưng đó chỉ là một cơn cám dỗ của Chúa thôi. Cuối cùng Chúa đã lắc đầu không
theo cám dỗ đó. Ngài tỉnh dậy vẫn thấy mình đang bị treo trên thánh giá, và
Ngài hô lên một tiếng kêu chiến thắng "Thế là đã hoàn tất", rồi Ngài
tắt thở.
4. Người khôn ngoan biết mình
Lần kia, một vị thầy ước muốn được thoáng nhìn thấy tâm hồn của
con người và trắc nghiệm những nhận định của họ về chính bản thân mình. Ông mời
ba người đi qua đường vào nhà ông.
Quay sang người đầu tiên, ông nói “Giả thử anh nhìn thấy một cái
túi đựng đầy những đồng tiền vàng, thì anh sẽ làm gì với cái túi đó?”
Người đàn ông trả lời: “Tôi sẽ trả cái túi đó ngay cho người chủ
của nó, tất nhiên là tôi phải biết được ai là chủ nhân.”
Vị thầy kêu lên: “Thật là điên rồ?” Thế rồi ông đặt cùng một câu
hỏi cho người thứ hai.
Người đó đáp “Tôi sẽ không trả lại cái túi đó cho người chủ của
nó, mà bỏ ngay vào túi của tôi. Tôi không quá ngu xuẩn đến nỗi để mặc cho thứ của
cải từ trời rơi xuống đó trượt khỏi tay tôi như vậy đâu.”
Vị thầy kêu lên: “Đồ vô loại!” Thế rồi ông đặt cùng một câu hỏi
cho người thứ ba.
Người đó đáp “Thưa thầy, làm sao tôi có thể biết được là tôi sẽ
làm gì trong trường hợp này? Liệu tôi có khuất phục được khuynh hướng xấu xa
chăng? Hoặc sự dữ sẽ nhanh chóng chế ngự tôi, và khiến tôi cứ lấy đi thứ tài sản
thuộc về người khác? Tôi không biết nữa. Nhưng nếu có ơn Chúa ban sức mạnh cho
tôi chống lại khuynh hướng xấu, thì tôi sẽ trả số tiền đó lại cho người chủ của
nó.” Vị thầy kêu lên: “Những lời nói của anh thật là hay. Quả thật anh là một
con người khôn ngoan.”
Vị thầy cho rằng người đàn ông đầu tiên là điên rồ. Tại sao? Bởi
vì anh ta hoàn toàn thiếu sự nhận biết bản thân mình. Anh ta dám cho rằng mình
có đủ sức mạnh, để kháng cự lại chước cám dỗ giữ lại món tiền. Không ai biết chắc
chắn rằng mình không thể sa ngã được. Người ta không sa ngã bởi vì yếu đuối,
nhưng lại sa ngã là do họ nghĩ rằng mình mạnh mẽ.
Vị thầy gọi người đàn ông thứ hai là hạng vô loại, bởi vì anh ta
có ý định giữ lại tài sản không phải thuộc về mình, mà lương tâm không hề day dứt
chút nào. Đối với một con người như vậy, chước cám dỗ là một cơ hội để làm cho
mình giàu có lên, bằng tài sản của người khác.
Vị thầy khen ngợi người đàn ông thứ ba là một con người vừa tốt
bụng, vừa khôn ngoan. Đó là vì anh nhận biết rằng mình yếu đuối giống như tất cả
mọi người khác. Anh hy vọng rằng khi đương đầu với chước cám dỗ giữ lại số tiền,
thì anh sẽ có sức mạnh để làm được điều đúng đắn. Nhưng anh biết rằng để làm được
như vậy, anh cần phải có ơn Chúa giúp, và anh chuẩn bị để tìm kiếm sự giúp đỡ
đó.
5. Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh
Chắc nhiều người trong chúng ta, nhất là các người trẻ, biết tên
Chàng Ca Sĩ nổi tiếng thế giới Elvis Presley.
Elvis trở nên rất giàu có. Ông ta sở hữu 8 xe hơn, 6 xe máy, 2 máy bay, 16 T.V., một toà lâu đài rộng lớn, và nhiều tài khoản ngân hàng. Vượt lên trên tất cả những thứ đó, anh ta còn là thần tượng của nhiều người hâm mộ. Tuy nhiên, anh không hề có hạnh phúc. Giữa tất cả sự giàu có và thành công của mình, anh ta đã phải trải qua tình trạng bất ổn về tinh thần, và thường than phiền về nỗi cô đơn, buồn chán.
Thế nhưng Elvis Presley không cảm thấy hạnh phúc. Có lần chàng thú nhận: "Càng nhiều tiền thì càng nhức đầu.” Mẹ của anh rất lo lắng cho anh. Không bao giờ bà muốn anh bị những chuyện đó. Bà chỉ đơn giản mong muốn anh trở về nhà, mua một cửa hàng bán vật dụng trong nhà, cưới vợ và có con. Nhưng mong ước đơn giản như thế mà cũng không được.
Elvis Presley là một bằng chứng cho lời Chúa Giêsu nói: "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh.”
Càng ngày, anh càng trở nên sợ hãi và trầm cảm. Năm lên 22 tuổi, anh nhận thấy là không còn thế giới nào để chinh phục nữa. Tình trạng bất ổn này có thể là một cơ hội. Đây là một lời nhắc nhở rõ ràng rằng “con người không chỉ sống nguyên bằng bánh”, nghĩa là chỉ sống bằng những thứ vật chất mà thôi.
6. Mua cái bóng cây
Ngày xưa, có một người giàu có xây nhà bên đường. Trước nhà ông
có một cây to, rợp bóng rộng mát. Mùa hè, khi mọi nhà phải chịu nóng bức, ngột
ngạt thì ông nhà giàu cứ mặc nhiên ngả lưng dưới bóng cây, hưởng gió mát. Một
hôm có anh nhà nghèo đi qua, thấy bóng cây mát liền ngồi nghỉ và thiếp đi lúc
nào không biết.
- Ê, ông nhà giàu quát, ai cho phép mày nằm nghỉ ở đây? Xéo
ngay!
- Vì sao lại thế? Anh nhà nghèo hỏi.
- Cái cây này là của tao, vì vậy cái bóng của nó cũng là của
tao, ông nhà giàu lý luận.
- Nếu vậy, ông hãy bán cho tôi cái bóng. Tôi sẽ trả tiền ông
đàng hoàng. Xin ông đừng lo.
Nghe nói đến tiền, ông nhà giàu bán ngay cái bóng ấy cho anh nhà
nghèo. Từ hôm ấy, hễ trời trở nóng, anh nhà nghèo lại ra ngồi dưới bóng cây nghỉ
mát. Khi bóng cây ngả vào sân ông chủ, anh nhà nghèo cũng vào sân nghỉ; khi
bóng cây ngả vào bếp hoặc vào phòng tiếp khách, anh nhà nghèo cũng theo vào những
nơi đó. Chẳng những thế, anh còn cao hứng rủ rê bạn bè đến nghỉ. Ông nhà giầu tức
lắm nhưng đành bấm bụng chịu.
Một hôm ông nhà giàu có khách. Khi bóng cây ngả vào phòng khách,
anh nhà nghèo cùng đám bạn bè kéo luôn vào phòng khách nằm, khiến khách rất ngạc
nhiên. Hỏi nguyên cớ thì ông nhà giàu cắn môi im lặng, anh nhà nghèo giải
thích: “Cái bóng cây này là của tôi. Ông chủ đây đã đồng ý bán cho tôi rồi! Tôi
có quyền nghỉ ngơi bất kỳ lúc nào.” Đám khách cười nhạo ông chủ nhà, rồi bỏ ra
về. Ít ngày sau, ông nhà giàu bị cả làng chửi bới, còn lũ trẻ con hễ gặp ông ở
đâu là bĩu môi chế giễu: “Đồ tham lam, bán cả cái bóng cây!” Bị bẽ mặt, ông nhà
giàu đành bỏ làng đi ở nơi khác. Thế là anh nhà nghèo không những được cái bóng
cây, mà còn được cả cái cây cùng ngôi nhà của ông nhà giàu nữa.
7. Tránh dịp tội
Có một ông già kia vì thân phận cô thân cô thế nên quanh năm
ngày tháng chỉ biết vui với hoa cỏ, không có ai để bày tỏ sự tình. Một hôm kia
ông đi ra khỏi chốn quạnh hiu của mình, mong tìm được một ai đó cho có bạn.
Rất may ông gặp được một con gấu. Thân phận nó cũng cô đơn không
kém gì ông. Thế là ông già bằng lòng rước nó về nhà cùng nhau sớm hôm sum vầy.
Gấu hết lòng trung hậu, hằng ngày ra công giúp đỡ làm cho ông già đẹp dạ vui
lòng.
Một hôm, ông già ngủ trưa. Gấu ta ngồi một bên đuổi ruồi đập muỗi.
Có một con ruồi cứ bay đi bay lại rồi đậu trên mũi ông già. Gấu ta đuổi đi
nhưng nó lại bay trở lại và đậu trên đó nữa. Gấu hết sức giận, thấy bên cạnh có
một viên đá bèn bê nó lên rồi rình mà ném một cái để giết con ruồi chết đi. Thế
nhưng đâu có dè là…Con ruồi đã không hề hấn gì vì nó đã vội bay đi trước và hòn
đá kết thúc cuộc đời của ông già trước sự ngỡ ngàng của gấu!
Chơi dao có ngày đứt tay, đùa với lửa có ngày gây nên hỏa hoạn.
8. Chước cám dỗ hiểm độc của ma quỷ
Ngày xưa có một thanh niên tính tình hiền lành, luôn cư xử
hiếu thảo với cha mẹ, và rất yêu thương vợ mình. Một hôm, một con
quỷ đã hiện ra và cám dỗ anh ta phạm tội. Quỷ cho anh được quyền
chọn làm một trong ba điều xấu: Một là chửi mắng cha mẹ. Hai là
giết chết cô vợ thân yêu. Ba là uống rượu.
Bấy giờ chàng thanh niên liền suy nghĩ: Chửi mắng cha mẹ
là bất hiếu, nên ta quyết không làm. Giết chết người vợ thân ỵêu là
bất nghĩa, ta cũng không thể làm được. Chỉ có uống rượu là ta có
thể làm được thôi, vì uống rượu đâu phải quá xấu! Thế là anh ta chọn
uống rượu.
Quỷ liền sai người cung cấp cho anh ta đủ các thứ rượu
ngon trên đời. Lúc đầu chàng thanh niên còn uống hạn chế mỗi bữa một
ly nhỏ, nên không có điều gì xảy ra. Nhưng dần dần việc uống rượu trở
thành thói quen, mỗi bữa anh ta phải tăng “đô” lên và uống gấp nhiều
lần mới thấy “phê.” Cuối cùng, anh đã trở thành một tên bợm nhậu:
lúc nào cũng say xỉn! Một hôm, anh ta say đến nỗi không biết trời
trăng gì nữa. Trong cơn say, anh ta đập bể tất cả chén bát và vất đồ
đạc trong nhà ra đường. Bị cha mẹ ngăn cản rầy la, anh ta liền to
tiếng cãi lại và buông ra những lời thô tục xúc phạm đến cha mẹ. Cô
vợ thấy chồng vô lễ và bất hiếu như vậy liền chạy tới khuyên can
liền bị anh đâm một nhát dao khiến cô ngã lăn ra chết.
Thế là từ việc uống rượu tưởng chừng vô hại lúc đầu,
về sau đã thành nguyên nhân dẫn đến hai tội ác lớn lao là tội bất hiếu
khi con nói lời xúc phạm nặng nề đến cha mẹ, và tội bất nghĩa khi ra tay
giết chết chính người vợ thân yêu của mình.
9. Bắt đầu từ ăn cắp vặt
Một chàng thanh niên bị lên án tử hình: Gần tới giờ hành quyết,
người ta cột anh vào ghế điện để khi có hiệu lệnh sẽ bật công tắc là thân xác
anh dính vào ghế điện và sẽ chết ngay. Nhưng trước giây phút đó, họ cho anh gặp
linh mục vì anh là người công giáo. Anh tâm sự với cha như sau như sau: "Tất
cả tội lỗi của con đều bắt đầu từ một đồng 50 xu ăn cắp của mẹ hồi còn bé. Lớn
lên, con tiếp tục ăn trộm từ trong nhà rồi ra ngoài đường phố, càng ngày càng
ăn trộm những món đồ lớn hơn. Cần tiền tiêu xài, con đi ăn cắp cả ở tiệm vàng.
Lần cuối cùng con rủ hai anh bạn mới ra tù đi ăn cắp ở một ngân hàng. Ngân hàng
có nhân viên bảo vệ, nên con bắn chết người này. Kết cuộc là con bị bắt và bị kết
án tử hình về tội cướp đoạt tài sản và giết người.”
May mắn cho anh là giờ phút cuối cùng anh được lãnh nhận bí tích
hòa giải. Hi vọng Chúa sẽ đón nhận anh như Chúa đã ban nước Thiên đàng cho kẻ
trộm cùng bị đóng đinh bên tay hữu Chúa xưa kia!
Chúng ta dùng thời giờ Mùa Chay thánh này để noi gương Chúa
Giêsu ăn chay cầu nguyện, làm việc thiện và chống lại các chước cám dỗ để được
trung thành với Chúa cho đến cùng. Amen.
10. Làm gì để chiến thắng ma quỉ?
Một buổi chiều nọ cha bề trên đi bách bộ trong khuôn viên tu viện,
thì thấy một thày đang chăm chỉ tưới nước bón phân cho vườn rau của tu viện rất
vất vả, liền lên tiếng hỏi:
- Hôm nay từ sáng đến giờ thầy đã làm được những việc gì rồi?
- Thưa cha, cũng như mọi khi, con luôn chăm chỉ làm việc bổn phận
mà nếu không có ơn Chúa giúp, chắc con không sao làm được: Bổn phận hằng ngày của
con là: phải canh chừng hai con chim ưng, chăn giữ hai con dê, quan sát hai con
chim diều hâu, chiến thắng một con cá sấu, trị được một con gấu và phục vụ chăm
sóc một bệnh nhân.
- Con nói gì lạ thế? Cha bề trên cười hỏi lại, trong tu viện tìm
đâu ra những con vật đó?
- Thưa cha bề trên, đúng thật như thế đấy ạ. Này nhá:
Hai con chim ưng là đôi mắt con, con phải giữ chúng luôn trong
sáng, không để nó xem những hình ảnh xấu xa.
Hai con nai là đôi chân mà con phải cho chúng luôn bước đi trên
nẻo chính đường ngay.
Hai chim diều hâu là đôi bàn tay mà con bắt chúng chu toàn các
công việc lao động hằng ngày.
Con cá sấu là cái lưỡi của con, con phải tránh thốt ra những lời
kết án chỉ trích anh em.
Con gấu chính là trái tim mà con phải yêu thương mọi người,
không ích kỷ hoăc sĩ diện hão.
Còn bệnh nhân là chính con đây, con phải chăm sóc bằng cách xa
lánh dịp tội, và năng cầu nguyện để được kết hiệp mật thiết với Chúa và phục vụ
anh em.
11. Trước dịp tội hãy tránh cho xa
Một công ty nọ cần tuyển tài xế với chế độ đãi ngộ rất cao.
Vượt qua vòng đầu, lọt lại chỉ còn có 3 người.
Chánh chủ khảo hỏi họ:
Bên vực thẳm có vàng, các anh lái xe qua đấy, nên chọn khoảng
cách như thế nào?
- Người thứ nhất nói: 2 mét.
- Người thứ hai: 1 mét.
- Người thứ ba nói: tôi thì sẽ tránh càng xa càng tốt.
Kết quả, công ty đó đã chọn người thứ ba.
Chiến thuật để đừng bị mỏ vàng cám dỗ là tránh cho xa. Đào vi
thượng sách, đó chính là diệu kế để thoát khỏi cơn cám dỗ. Tránh cho xa và dứt
khoát ngay từ đầu, đó là điều Chúa Giêsu muốn chúng ta thực hiện khi đứng trước
cơn cám dỗ như trong bài Tin Mừng hôm nay.
12. Thiên Chúa ra sao?
Có một nhà thần bí nọ trở về thành phố sau một thời gian dài sống
trong sa mạc, bạn bè và người thân vây xung quanh rối rít hỏi thăm và xin ông tả
lại cho họ nghe về kinh nghiệm mà ông đã có về Thiên Chúa. Ai cũng hỏi:
"Thiên Chúa ra sao?”
Nhưng làm sao ông có thể diễn tả kinh nghiệm của tâm hồn bằng lời
nói được. Bị gạn hỏi mãi, sau cùng ông đưa ra cho họ một công thức thật mơ hồ
và bất toàn, với hy vọng khiến cho ai đó không được thỏa mãn, với câu hỏi
"quyết định tìm vào sa mạc sống kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa" như
mình.
Mọi người mừng rỡ ghi chép công thức ấy và biến nó trở thành một
văn bản thánh. Họ buộc mọi người phải thuộc bản văn đó như Kinh Tin Kính, và
không nề quản hy sinh gian khó vượt trùng dương để loan báo cho các dân, các nước
công thức ấy. Và có người trong bọn đã hy sinh cả mạng sống cho công tác loan
truyền này nữa. Nhưng không ai tìm được cho mình kinh nghiệm sống về việc gặp gỡ
Thiên Chúa cả.
Đó là điều khiến cho nhà thần bí nọ vô cùng buồn sầu và hối hận,
và ông đã thầm nghĩ rằng: Thà đừng nói gì cả có phải hay hơn không?”
13. Mình thờ mình
Một người học giỏi cậy mình thông minh. Một người có tài cậy
mình tháo vát. Một anh giàu cậy mình lắm của. Một cô duyên dáng cậy mình dễ
thương, một cô đẹp đẽ ỷ mình là Tây Thi, một người quyền thế coi mình là tất cả.
Ta thấy lặp đi lặp lại chữ “mình.” Mình là nhất, tìm cho ra được một cái nhất
nào đó để thờ mình. Nếu không đẹp, thì có duyên nhất; nếu không có duyên nhất,
thì giàu nhất; nếu không giàu nhất thì đạo đức nhất; nếu không đạo đức nhất,
thì ta đành đưa mình lên hàng khiêm nhường nhất. Mà mình là nhất thì Chúa phải
nhì! Nhất vợ thì trời phải nhì.
Có con quỉ kia cám dỗ nhà vua. Nó thấy nhà vua ngủ dậy trễ, nó đến
cám dỗ bằng cách lay nhà vua dậy để đọc kinh. Tại sao vậy? Bởi khi nhà vua dậy
đúng giờ đọc kinh, thì tự hào tự cao, còn nhà vua dậy trễ, hối hận, xin tha,
Chúa tha, là quỉ thua xa rồi. Chúa ghét kẻ kiêu ngạo, và yêu thương kẻ khiêm
nhường. Mà nhiều khi ta nghĩ ta khiêm nhường nhất, lại chính lúc ta kiêu ngạo số
một.
Quỉ cám dỗ để ta thờ ta mà ta không biết: nó núp bóng dưới một
cái nhất nào đó của ta để ta dễ vênh vang...
14. Lợn cưới áo mới
Có anh chàng tính hay khoe khoang. Một hôm, may được cái áo mới,
liền đem ra mặc, rồi đứng hóng ở cửa, đợi có ai đi qua để người ta khen. Đứng
mãi từ sáng đến chiều chả thấy ai hỏi cả, anh ta tức lắm.
Đang tức tối, chợt thấy một anh, tính cũng hay khoe, tất tưởi chạy
đến hỏi to:
- Bác có thấy con lợn cưới của tôi chạy qua đây không?
Anh kia liền giơ ngay vạt áo ra, bảo:
- Từ lúc tôi mặc cái áo mới này, tôi chẳng thấy con lợn nào chạy
qua đây cả!
15. Chúa cần tấm lòng thành
Đức HồngY FX Nguyễn Văn Thuận, Ngài đã kể câu chuyện như sau:
Có một người nông dân tên là Jim, hằng ngày vác cuốc đi làm
ngang qua nhà thờ, cậu đều vào nhà thờ rồi đi ra. Sự kiện được lập đi lập lại
nhiều lần, đến nỗi nhiều người thắc mắc, không hiểu Jim vào nhà thờ nói gì với
Chúa mà mau lẹ thế. Họ mới hỏi Jim: Anh vào nhà thờ cầu nguyện sao lại nhanh thế?
Anh đã nói gì với Chúa?
Jim đã trả lời: Tôi chỉ vào nhà thờ làm dấu rồi nói với Chúa.
"Lạy Chúa, có Jim đây" rồi tôi đi ra.
Sự kiện được tiếp diễn cho đến khi cậu Jim đã thành ông lão, nằm
kiệt quệ trên giường bệnh. Lúc đó hàng xóm láng giềng đến thăm hỏi ông và họ ngạc
nhiên khi thấy bên giường ông luôn có một cái bàn, một cái ghế và một ly nước.
Họ hỏi ông: Nhà không có khách, sao ông vẫn để một ly nước. Ông nói: "Ngày
xưa khi còn trẻ hằng ngày tôi vẫn đến với Chúa và nói với Chúa: Lạy Chúa, Jim
đây. Cho tới bây giờ, tôi đã già không còn có thể đến với Chúa được nữa, nên
Chúa vẫn hằng ngày đến với tôi và nói: Jim ơi, có Chúa đây.”
Thực vậy, cầu nguyện không phải là mình nói thật nhiều với Chúa,
hay là tìm những lời thật hay, thật văn chương để nói với Chúa, nhưng điều quan
yếu là biết dành một thời gian cho Chúa.
16. Ngọn đồi thập giá
Trong chuyến viếng thăm Giáo Hội tại Lituani vào tháng 9 năm
1993, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến cầu nguyện tại một ngọn đồi nổi tiếng
của nước nầy, thường được mệnh danh là “Ngọn đồi Thập Giá.”
Ngọn đồi này nằm tại một ngôi làng hẻo lánh. Qua suốt dòng lịch
sử của dân tộc, cứ mỗi lần có một người dân trong làng ngã gục ngoài mặt trận
thì toàn dân trong làng tập trung lại để tưởng niệm và dựng lên một cây thập
giá. Dưới thời Nga Hoàng cũng như dưới thời Liên Xô đã có không biết bao nhiêu
người dân làng ngã gục để bảo vệ nền độc lập của xứ sở. Binh lính và công an đã
làm mọi cách để triệt hạ thập giá khỏi ngọn đồi. Trong ba thế kỷ liền, ngọn đồi
thập gái đã không ngừng bị san bằng bởi những bàn tay vô đạo. Nhưng cứ đêm đến,
người dân trong làng lại lẳng lặng dựng lên những cây thập giá khác. Cuộc chiến
của thập giá cứ tiếp diễn như thế cho đến khi tự do được thực sự vãn hồi. Ngày
nay khách hành hương tìm đến ngọn đồi thập giá nầy để nhận ra biểu trưng của một
niềm tin sắt đá, của khát vọng tự do, và cuối cùng, của chiến thắng.
Có niềm tin hay không, có sống đạo hay không, dường như ai cũng
có ý thức được rằng cuộc đời là một trận chiến. Giáo Hội không ngừng mời gọi
các Kitô hữu chúng ta sống lại cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu trong sa mạc. Mời
gọi chúng ta sống lại kinh nghiệm chiến đấu của Chúa Giêsu, Giáo Hội muốn nhắc
nhở chúng ta rằng cuộc sống niềm tin Kitô là một cuộc chiến đầu trường kỳ.
17. Dấu vết của ma quỷ
Trong bài giảng sáng thứ sáu ngày 13/10/2016, Đức Giáo hoàng
Phanxicô nói đến các hành động cám dỗ của ma quỷ, rất ngọt ngào và quyến rũ; nó
xâm nhập vào linh hồn con người rất nhẹ nhàng: “gõ cửa, xin phép, bấm chuông, rất
lịch sự”; nó bước vào trong thinh lặng, bắt đầu trở thành một phần của đời sống.
Với ý tưởng và những thúc đẩy của nó, nó giúp con người sống tốt hơn, và từ đó,
bước vào đời sống, tận bên trong, bắt đầu thay đổi họ, nhưng âm thầm không gây
ra tiếng ồn. Ma quỷ từ từ thay đổi những tiêu chuẩn của chúng ta, đưa chúng ta
đến tình trạng thế tục; nó ngụy trang theo cách hành động của chúng ta và hầu
như chúng ta không thể nhận ra điều đó.[13] Ma quỷ xứng đáng với tên gọi “là
cha đẻ của sự gian dối.”
Ma quỷ không bao giờ biến mất vĩnh viễn, cho đến ngày tận thế, nó luôn tìm mọi cách để chống lại chúng ta. Mục tiêu của nó là làm cho chúng ta mất niềm hy vọng, hằng ngày gieo hạt giống bi quan và cay đắng trong tâm hồn chúng ta; nó cũng là kẻ gieo cỏ lùng để tạo nên sự chia rẽ. “Có một cám dỗ mà quỷ rất thích: cám dỗ chống sự hiệp nhất […] tạo ra chiến tranh nội bộ, một loại chiến tranh dân sự và tinh thần”… Satan là tên khuyến dụ, người đặt bẫy và người quyến rũ: “Nó khéo léo, trình bày mọi chuyện theo kiểu những chuyện này là tốt, nhưng chủ ý của nó là muốn hủy hoại tất cả.”
18. Sống thật với chính mình
Bá tước Constantin Volney (1757-1820) vốn là một học giả, một văn hào nổi tiếng của Hàn lâm viện văn chương Pháp thời Cách mạng 1789 và thời đế chính của Napoléon. Ông là hiện thân cho phái tự do tư tưởng, vô tín ngưỡng và duy vật cực đoan.
Một ngày kia, trong một cuộc du ngoạn dọc bờ biển Hoa kỳ, chiếc du thuyền ông đi chợt gặp phải một cơn giông tố dữ dội, gần như bị nhận chìm. Các hành khách đều cầu nguyện và phó mình cho Chúa và Đức Mẹ phù hộ che chở. Thế rồi cơn bão cũng qua, mọi sự yên trở lại.
Có một hành khách thuộc giới trí thức trước đó có thấy ông Volney mượn của ai một xâu chuỗi lần hạt trong lúc nguy biến. Biết Volney là người vô thần nên ông tiến lại, mỉa mai và châm biếm: “Ông Volney kính mến, nếu được, xin ông cho biết lúc nãy ông cầu nguyện với ai mà sốt sắng thế?”
Ông Volney lúng túng một thoáng, rồi quyết định nói sự thật lòng mình: “Người ta chỉ có thể làm triết gia vô thần trong phòng làm việc, chứ không thể như thế khi gặp cơn giông tố nguy tử như lúc nãy được!”
Linh hồn của chúng ta đang khao khát lương thực nuôi dưỡng. Câu chuyện về Elvis Presley minh hoạ hùng hồn cho chân lý này.
19. Cám dỗ phạm tội nhẹ thôi
Có một đàn vịt trời bay về phương nam để trú đông. Vào một buổi
chiều cả đàn đáp xuống một nông trại, thấy vịt nhà đang ăn bắp, chúng ùa theo
vào ăn ké. Hôm sau chúng lại tiếp tục cuộc hành trình. Thế nhưng có một chú vịt
con, vì được một bữa ăn ngon nên không muốn bay theo đàn, nó tự nhủ để mai mốt
bay theo cũng chưa muộn.
Thế rồi, ngày qua ngày, chú vẫn ở lì với đàn vịt nhà để được ăn
ngon mà chẳng phải vất vả gì. Mùa xuân về, đàn vịt trời bay qua. Các bạn cũ kêu
gọi nó: “Hãy theo chúng tôi. Được bay lượn trên bầu trời rộng lớn, được chu du
khắp mọi nơi, thích lắm!” Chú vịt trời ráng sức đập cánh bay lên, thế nhưng, những
bữa ăn no nê làm nó mập ú, và đôi cánh lâu nay không bay trở nên yếu ớt nên nó
chỉ bay là đà đến ngọn cây rồi té cái bịch xuống đất, nó không bay theo đàn được
nữa. Thế là dần dần quen đi, nó cam lòng sống lẹt bẹt dưới đất với lũ vịt nhà.
Trở lại trường hợp bạn Rong trên kia, nếu Rong không chịu sửa lỗi,
cứ nói dối mà trốn học, trốn lễ để chơi điện tử, rồi sẽ đến một ngày khi không
có tiền, ma quỉ xúi giục ăn cắp của má một ít, của ba một ít, ngày này qua ngày
khác… Thế là ăn cắp quen tay, lớn lên Rong có thể ăn cắp nhiều hơn, rồi đi ăn
trộm, ăn cướp…
20. Cám dỗ đi đường tắt
Một thương gia thành đạt đến một trường đại học nổi tiếng để ghi
tên cho con mình theo học. Khi xem qua danh mục các môn học, ông lắc đầu, lưỡng
lự: “Con tôi phải học tất cả những môn này sao?”, rồi ông hỏi thầy chủ nhiệm:
“Thầy không thể rút ngắn hơn sao? Nó muốn mau ra trường.”
“Dĩ nhiên cậu ấy có thể theo một khoá ngắn hơn”, thầy chủ nhiệm
trả lời, “nhưng tất cả là tùy ở chỗ cậu ấy muốn thành người như thế nào. Thiên
Chúa tạo ra cây sồi trong 20 năm, nhưng Ngài chỉ cần 2 tháng để tạo ra một cây
bí!”
Những con đường tắt luôn hấp dẫn chúng ta, và ta được tự do chọn
lựa con đường dễ hay khó; nhưng cũng như cây sồi không trưởng thành trong một
đêm, con người không lớn lên trong một ngày.
21. Ăn thua bắt đầu từ chuyện nhỏ
Cha của Don Dunn làm chủ một gara. Một hôm, người tài xế xe tải
đưa xe vào sửa chữa. Đến lúc thanh toán tiền, anh ta đề nghị cộng thêm một “khoản
phụ” và nói: “Công ty sẽ trả số này, chúng ta có thể chia số “chênh lệch.” Cha
của Don từ chối. Người tài xế nói tiếp: “Tôi sẽ là khách hàng thường xuyên ở
đây. Tại sao chúng ta không kiếm lời từ sự phục vụ rất đáng tin tưởng của ông?”
Cha của Don nói: “Tôi không quen chuyện đó.” Khi người tài xế năn nỉ, cha của
Don bảo anh ta đi nơi khác. Nhưng người tài xế nói: “Tôi sẽ không đi nơi khác.
Tôi làm chủ một công ty xe tải và chỉ muốn chắc chắn rằng ông là người thợ máy
tôi có thể tin tưởng.”
Một trong những cám dỗ lớn nhất mà tôi từng đối mặt và vượt qua
là gì?
Vì bản thân Ngài đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Ngài có thể cứu giúp những ai bị thử thách. (Dt 2,18)
THỨ HAI - THIÊN ĐÀNG CỦA BÁC ÁI
Lời Chúa: Mt 25, 31-46
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Khi Con Người đến
trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy
linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân
chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải,
còn dê ở bên trái. Bấy giờ Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng: “Hãy đến,
hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn
bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta
khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần,
các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các
ngươi đã đến với Ta."
Khi ấy người lành đáp lại rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con
thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ
khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu
đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng Chúa đâu?”
Vua đáp lại: “Quả thật, Ta bảo các ngươi: Những gì các ngươi đã
làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho
chính Ta."
“Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: “Hỡi phường bị
chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ
theo chúng. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho
uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không
cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!”
Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã
thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng
giúp đỡ Chúa đâu?”
Khi ấy Người đáp lại: “Quả thật, Ta bảo cho các ngươi biết, những
gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là
các ngươi đã không làm cho chính Ta." Những kẻ ấy sẽ phải tống vào chốn cực
hình muôn thuở, còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu."
TRUYỆN KỂ
1. Làm cho chính Ta
Thi hào Tagore trong tập thơ Gitanjali, bài số 50, có kể chuyện
một người ăn xin, tình cờ gặp nhà vua đi trên cỗ xe.
Anh đầy tràn hy vọng khi cỗ xe dừng lại gần anh, và nhà vua bước
xuống. Anh cứ nghĩ nhà vua sẽ cho anh thật nhiều, nhưng ngài lại chìa tay xin
anh. Người hành khất biết lấy gì mà cho, anh chỉ dâng ngài một hạt lúa nhỏ xíu.
Đến lúc chiều về, khi đổ những thứ trong bị ra, anh thấy một hạt
vàng rất nhỏ. Anh khóc vì tiếc mình đã không cho ngài tất cả những gì mình có.
Có khi nào nhà vua giàu có ngửa tay xin một người ăn mày không?
Hơn nữa, có khi nào Đức Kitô ẩn mình dưới dạng một người ăn xin không?
Bà Chiara Lubich, người sáng lập phong trào Focolare chủ trương
sống tinh thần Tin Mừng, chia sẻ một kinh nghiệm sống như sau: coi những kẻ
đang đau khổ là hình ảnh Chúa Giêsu đang bị bỏ rơi trên Thập giá. Cũng như Chúa
Giêsu bị bỏ rơi rất cần người an ủi giúp đỡ, ta cũng hãy giúp đỡ ủi an những kẻ
đau khổ ấy.
2. Ơn gọi thứ hai của thánh Teresa Calcutta
Trên chuyến xe lửa đi về vùng Darjeeling ở chân núi Hy-mã-lạp-sơn,
năm 1946, Chị Têrêsa Calcutta đã nhận được một ơn gọi thứ hai, dù chị đang tu ở
dòng Loreto.
“Chính trong chuyến xe lửa đó, tôi đã nghe tiếng gọi bỏ tất cả
và theo Ngài vào khu ổ chuột – phục vụ Ngài nơi những người nghèo nhất.”
Chị đã viết như thế, và chị còn giải thích thêm: “Thiên Chúa gọi
tôi để làm giảm cơn khát của Đức Giêsu bằng cách phục vụ Ngài nơi người nghèo
nhất trong số các người nghèo.”
Chị Têrêsa được ơn gặp Đức Giêsu Kitô đang đói khát, đang ở khu ổ
chuột. Chị đã cho Ngài tất cả và chị không bao giờ phải ân hận về chuyện đó.
3. Để gặp được Thiên Chúa
Một đêm trăng nọ, nhìn qua cửa sổ, một tu sĩ già bỗng nhìn thấy
một thiên thần đang ngồi viết trên một cuốn sách vàng. Lòng tràn ngập hân hoan,
vị tu sĩ rón rén đến gần và lên tiếng hỏi:
- Ngài đang viết gì trong quyển sách này thế?
Thiên thần trả lời:
- Ta đang ghi danh những ai yêu mến Thiên Chúa.
Vừa lo lắng, vừa hồi hộp, vị tu sĩ mới hỏi xem tên của mình có
trong sách không.
Thiên thần giở từng trang, chăm chú đọc từng hàng, nhưng không
thấy tên ông.
Thế nhưng điều đó không làm vị tu sĩ thất vọng, ông nói với thiên
thần:
- Xin Ngài vui lòng ghi tên tôi như một thầy dòng lúc nào cũng
yêu mến tha nhân.
Thiên thần chiều ý ông, thế là tên ông được ghi vào sổ vàng.
Tối hôm sau, thiên thần lại hiện ra và mở quyển sổ vàng cho vị
tu sĩ xem, lần này ông thấy tên mình dẫn đầu danh sách những người yêu Chúa.
Sau khi vị tu sĩ gia qua đời, xem lại nhật ký của ông, người ta
thấy dòng chữ đầu tiên trong nhật ký chính là câu trích dẫn thư 1 Ga 4,20: “Nếu
ai nói mình yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình, thì đó là kẻ nói dối, vì kẻ
không yêu mến người anh em nó thấy đó, tất không thể yêu mến Thiên Chúa mà nó
không thấy." Tiếp theo lời trích dẫn vị tu sĩ ghi chú: “Tôi đi tìm kiếm
linh hồn tôi, nhưng tôi không thấy; tôi đi tìm Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vượt
thoát khỏi tôi; tôi đi tìm người anh em, tôi đã gặp được Thiên Chúa và linh hồn
tôi."
4. Xua đuổi Thiên Chúa
Chúa hứa với một bà là Ngài sẽ đến thăm bà vào ngày đó. Bà rất
hãnh diện về điều này. Bà cọ rửa, lau chùi, đánh bóng, quét bụi và xếp đặt mọi
thứ sẵn sàng. Bà ngồi và đợi Chúa đến.
Đột nhiên có tiếng gõ cửa. Bà vội chạy ra. Vừa đẩy cửa, bà thấy
một người ăn xin đứng đó. Bà liền nói: “Không, hôm nay tôi không giúp anh, vì
Chúa luôn ở với anh rồi. Tôi đang nóng lòng đợi Chúa đến, không thể giúp anh điều
gì." Bà đuổi anh và đóng cửa lại. Mấy phút sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở
cửa nhanh hơn trước. Thấy gì? Vài người già nghèo nàn. “Rất tiếc, tôi đang đợi
Chúa đến. Hôm nay tôi không thể giúp đỡ các ông." Rồi bà đóng sầm cửa lại.
Một lát sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở và lại thấy một người ăn
xin rách rưới. Anh đến xin ăn và xin nghỉ qua đêm. “Ồ, hãy để tôi yên. Tôi đang
đợi Chúa đến. Tôi không thể tiếp anh." Người ăn xin ra đi và bà tiếp tục
ngồi chờ.
Hàng giờ trôi qua và màn đêm buông xuống, nhưng cũng chẳng thấy
dấu hiệu gì của Chúa. Bà băn khoăn không biết Ngài ở đâu.
Cuối cùng, bà đành lên giường nằm chờ. Bà ngủ quên và mơ thấy
Chúa đến với bà và nói: “Hôm nay Ta đã đến với con ba lần và cả ba lần con đều
đuổi Ta."
5. Nuôi dưỡng bằng tình yêu
Tôi xin mượn một câu chuyện được phổ biến trên mạng Internet để
trả lời:
Ngày ấy, tôi dạy mẫu giáo tại một ngôi trường nhỏ nằm gọn trong
khuôn viên của một tòa nhà xinh đẹp. Mỗi sáng, cứ đúng 9 giờ, tất cả học sinh tụ
tập trong căn phòng lớn, bắt đầu một ngày mới bằng bài thể dục đầu giờ. Hơn 50
đứa trẻ, từ 3-6 tuổi, ngồi san sát trên những chiếc ghế xinh xinh đủ màu đặt
trên tấm thảm dầy. Những gương mặt thơ ngây bừng sáng khi chúng háo hức hát
vang những bài ca, cùng chia sẻ cho nhau những cảm nhận về mọi điều tốt đẹp
trong cuộc sống.
Một buổi sáng nọ, cô hiệu trưởng gặp toàn thể học sinh trong căn
phòng lớn và thông báo:
- Hôm nay, chúng ta sẽ tiến hành một thí nghiệm mới.
Cô giơ cao hai cây trường xuân bé xíu đựng trong hai cái chậu
con giống hệt nhau.
- Chúng ta có hai cây con. Trông chúng giống hệt nhau, phải
không?
Tất cả bọn trẻ tò mò nhìn vào hai chậu cây rồi đồng thanh đáp:
- Dạ phải.
Cô nói tiếp:
- Chúng ta sẽ nuôi dưỡng hai cây con này với cùng chế độ ánh
sáng, cùng chế độ nước tưới nhưng… với sự quan tâm chăm sóc khác nhau. Rồi
chúng ta sẽ theo dõi xem, điều gì sẽ xảy ra khi đặt một cây trong nhà bếp cách
xa chúng ta, và một cây ngay tại đây, trên lò sưởi này.
Sau khi đặt một cái chậu trên lò sưởi trong bếp, cô hiệu trưởng
dắt bọn trẻ vào bếp, đặt cái chậu lên quầy. Sau đó, cô dẫn những đứa trẻ với những
đôi mắt mở to vì bỡ ngỡ trở lại căn phòng lớn.
Chúng ta sẽ đối xử với cây như một người bạn. Trong vài tháng tới,
mỗi ngày chúng ta đều hát cho cây trường xuân nghe. Chúng ta sẽ nói cho bạn ấy
biết bạn ấy xinh đẹp thế nào và chúng ta yêu mến bạn ấy biết bao. Chúng ta sẽ
luôn chúc bạn ấy mọi điều tốt đẹp…
Một bé gái giơ tay:
- Nhưng thưa cô, thế còn cây trong bếp thì sao?
Cô hiệu trưởng mỉm cười thích thú:
- Chúng ta sẽ dùng cây ấy làm cây “đối chứng” trong thí nghiệm
tuyệt vời của chúng ta. Theo các em, chúng ta sẽ làm gì?
- Chúng ta sẽ không nói chuyện với nó?
- Đúng. Dù chỉ là một lời thì thầm.
- Chúng ta sẽ không gởi cho nó một lời chúc tốt đẹp nào.
- Đúng.
Và chúng ta sẽ xem chuyện gì sẽ xảy ra.
Bốn tuần sau, mắt của tôi cũng mở to ngạc nhiên như bọn trẻ. Cây
trường xuân trong nhà bếp yếu ớt, mảnh khảnh và chẳng lớn được tí nào. Còn chậu
cây đặt trong phòng lớn, được bao bọc bởi những lời yêu thương êm dịu, được bọn
trẻ hát cho nghe mỗi ngày, đã lớn gấp ba lần với những chiếc lá xanh biếc tràn
đầy nhựa sống. Để chứng minh kết quả của cuộc thí nghiệm và cũng để lau khô những
giọt nước mắt của những đứa trẻ nhạy cảm, lo lắng cho số phận cây thứ hai khỏi
cảnh lẻ loi trong bếp, cô hiệu trưởng cho mang nó lên, đặt ở trong phòng lớn,
bên cạnh chậu thứ nhất.
Rồi sau đó họ đối xử với cây này y như đã đối xử với cây thứ nhất
trước kia.
Ba tuần sau, chậu cây thứ hai đã bắt kịp cây trong chậu thứ nhất.
Bốn tuần sau, chúng cùng lớn mạnh như nhau.
Tôi ghi nhớ mãi bài học này, và tự đúc kết cho mình câu kết luận:
Không ai, không vật gì lớn lên được nếu không có tình yêu.
Vâng, tình yêu quan trọng như thế, nên Chúa luôn đòi hỏi chúng
ta phải yêu thương nhau. “Thiên Chúa là tình yêu: ai ở trong tình yêu, người đó
ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong họ” (1Ga 4,16).
6. Bài giảng của thánh Gioan Kim Khẩu
Thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Bạn muốn tôn kính thân thể Chúa Kitô
ư? Chớ khinh chê Thân Thể ấy khi Thân Thể ấy trần trụi. Thân thể Chúa ở đây
không cần y phục, nhưng cần tâm hồn trong trắng, còn thân thể Chúa ngoài kia
thì cần được chăm lo tận tình. Hãy đem của cải phân phát cho người nghèo. Thiên
Chúa chẳng cần bình vàng hay chén vàng, nhưng cần những tấm lòng vàng.
Tôi nói thế, không phải để ngăn cản việc dâng cúng, nhưng điều
tôi xin là đồng thời với việc dâng cúng hoặc trước khi dâng cúng, hãy chia sẻ
trước. Chúa vui nhận của dâng cúng, nhưng Người vui hơn nhiều khi nhận của làm
phúc. Khi dâng cúng, chỉ có người dâng được lợi; còn khi làm phúc, cả người nhận
cũng được lợi nữa. Một đàng, xem ra dâng cúng là dịp phô trương; nhưng đàng này
trao tặng chỉ để làm phúc hay bày tỏ tình thương.
Quả thật, ích lợi gì khi bàn thờ của Đức Kitô thì chất đầy những
bình vàng, đang lúc chính Người lại phải chết vì chẳng có gì ăn?Trước hết, hãy
cho kẻ đói ăn no đã, rồi còn lại bao nhiêu sẽ đem trang hoàng cho bàn thờ của
Người. Sao bạn lại bỏ vàng ra làm chén lễ mà không chịu cho lấy một chén nước?
Bạn đem khăn vàng ra trải mặt bàn thờ cho Người làm chi vậy, đang khi chính Người
cần mảnh vải che thân, sao bạn không cho? Làm thế thì lợi ích gì? Bạn thử nói
cho tôi nghe xem: Nếu thấy Người đang cần của ăn mà không có, bạn bỏ mặc Người,
rồi cứ đem vàng ra dát lên bàn của Người,liệu Người biết ơn bạn, hay đúng hơn,
lại không nổi giận với bạn sao? Rồi chi nữa: Nếu bạn thấy người mặc đồ rách,
toàn thân rét cứng, bạn chẳng nghĩ gì đến cần áo của quần áo của Người, cứ lo
xây cho Người từ cột vàng này đến cột vàng khác, mà bảo làm như vậy là tôn kính
Người sao? Người lại chẳng nghĩ là đang bị nhạo báng và sỉ nhục đến cực độ sao?
Cũng hãy suy nghĩ điều này về Đức Kitô khi Người lang thang đó
đây làm thân lữ khách, không cửa không nhà: Bạn không đón Người vào nhà bạn, cứ
lo lát nền nhà cho đẹp, lo trang trí tường vách, trang trí các đầu cột, lấy giấy
bạc treo đèn; còn chính Người đang bị xiềng xích trong tù! Bạn còn biết lo làm
những việc khác nữa. Thậm chí tôi khuyên bạn làm phúc chia sẻ trước khi làm những
việc khác. Quả thật, không hề có ai bị kết tội vì đã không trang trí Nhà Thờ,
nhưng ai chểnh mảng việc làm phúc sẽ phải xuống hỏa ngục, chịu lửa không hề tắt
và chịu cực hình dành cho ma quỷ. Vì thế, trang trí ngôi nhà thì cũng đừng hờ hững
với người anh em đau khổ, vì người anh em ấy còn đáng giá hơn cả Đền Thờ."
7. Chay tịnh đích thực
Khi phục vụ những người nghèo trong khu ổ chuột ở Ấn Độ, mẹ
Têrêsa Calcutta trả lời các nhà phỏng vấn: “Tôi thấy Chúa qua những con người
bé nhỏ này.” Vì thế, mẹ Têrêsa đã phục vụ họ một cách trân trọng, như một con
người, mang trong mình hình ảnh Đức Ki-tô. Mẹ đã sống Lời Chúa một cách triệt để.
Bởi vì Chúa Ki-tô hiện thân nơi người nghèo, như Tin Mừng hôm nay nhắc nhở
chúng ta. Việc bác ái mang chất Ki-tô này giúp ta làm việc lành mà không cầu
danh lợi, không huênh hoang tự đắc, không tìm lời khen, không coi thường người
nghèo nhưng luôn tôn trọng họ... Chất Ki-tô khiến chúng ta làm tất cả để tôn
vinh danh Chúa, để tình người được lớn lên trong tình Chúa.
Mùa Chay kêu gọi chúng ta không phải chỉ ăn kiêng vài món bị cấm.
Nhưng sống chay tịnh là bớt những thói hư tật xấu để tập tính tốt, bớt chi tiêu
ăn uống để chia sẻ cho người nghèo hơn mình, bớt thời gian cho mình để quan tâm
đến người khác, bớt hận thù để gia tăng yêu mến, bớt nghi ngờ để thêm tin tưởng...
Đó là chay tịnh đích thực.
Cho đi cách tốt đẹp nhất là cho đi với nụ cười. Tại sao?
8. Chay tịnh bằng tha thứ
Sally đã thuật lại cho chúng tôi nghe một kinh nghiệm mà cô học
được trong một lớp ngoại khóa với tiến sĩ Smith. Cô kể rằng tiến sĩ Smith là diễn
giả nổi tiếng với những bài giảng rất tinh tế.
Một ngày nọ, khi bước vào lớp, Sally nhận thấy rằng hôm nay lớp
sẽ có một trò vui gì đấy. Trên tường là một tấm bia lớn, và trên chiếc bàn gần
đó có rất nhiều phi tiêu. Tiến sĩ Smith bảo với tất cả học sinh rằng hãy vẽ
hình của người nào mà bạn ghét nhất, hoặc là hình của ai làm cho bạn tức giận,
và ông cho phép họ ném phi tiêu vào hình vẽ đó.
Cô bạn của Sally vẽ hình cô gái đã "cướp" mất người
yêu của cô. Một người khác thì vẽ hình đứa em trai của mình. Sally cũng vẽ bức
hình của một người bạn cũ, cô dồn công sức để vẽ sao cho thật giống, ngay cả những
cái mụn trên mặt cô bạn. Xong xuôi, Sally có vẻ rất hài lòng với tác phẩm của
mình...
Cả lớp xếp hàng và bắt đầu ném phi tiêu, mọi người cười nói rôm
rả và không khí có vẻ rất vui nhộn. Một số học sinh ném phi tiêu rất mạnh đến nỗi
tấm hình của họ bị rách toạc cả ra. Sally chờ tới lượt mình... Và cô đã rất thất
vọng khi tiến sĩ Smith đề nghị mọi người dừng lại và trở về chỗ ngồi vì thời
gian có hạn.
Trong khi Sally ngồi nghĩ và hậm hực trong lòng vì không có cơ hội
để ném phi tiêu vào hình kẻ mình ghét, thì tiến sĩ Smith bắt đầu gỡ tấm bia ra
khỏi tường.
Và sau tấm bia đó là bức hình của Chúa Giêsu...
Một sự im lặng bao trùm cả lớp học khi các học sinh trong lớp
nhìn thấy bức hình của Chúa Giêsu bị rách nham nhở trên tường; Những cái lỗ và
những dấu lởm chởm trên mặt Chúa, và hai mắt Chúa bị đâm thủng.
Tiến sĩ Smith chỉ nói một câu, "Hễ các ngươi đã làm việc đó
cho một người trong những người rất hèn mọn nầy của anh em Ta, ấy là đã làm cho
chính mình Ta vậy."
Tất cả mọi người đều im lặng, nước mắt chảy dài trên khuôn mặt của
những học sinh trong lớp, mọi người nhìn vào bức ảnh của Chúa và suy gẫm cho bản
thân mình.
9. Mười điều răn cho người hiện đại
1… Thiên Chúa sẽ không hỏi bạn đã chạy loại xe nào, Người sẽ hỏi
bạn đã chở bao nhiêu người thiếu phương tiện.
2… Thiên Chúa sẽ không hỏi nhà bạn diện tích bao nhiêu, Người sẽ
hỏi bạn đã tiếp đón bao nhiêu người vào nhà.
3… Thiên Chúa sẽ không hỏi về quần áo bạn có trong tủ, Người sẽ
hỏi bạn đã giúp cho bao nhiêu người có áo quần che thân.
4… Thiên Chúa sẽ không hỏi về mức lương cao nhất. Người sẽ hỏi bạn
có bóp méo tư cách để được mức lương ấy.
5… Thiên Chúa sẽ không hỏi bạn làm nghề gì. Người sẽ hỏi bạn có
làm công việc với trọn khả năng không.
6… Thiên Chúa sẽ không hỏi bạn có bao nhiêu người bạn. Người sẽ
hỏi bạn đã làm bạn với bao nhiêu người.
7… Thiên Chúa sẽ không hỏi ai là hàng xóm của bạn, Người sẽ hỏi
bạn đã đối xử với những người hàng xóm thế nào.
8… Thiên Chúa sẽ không hỏi về màu da của bạn, Người sẽ hỏi về nội
dung của tính cách của bạn.
9… Thiên Chúa sẽ không hỏi bạn đã đọc bao nhiêu kinh Người sẽ hỏi
bạn đã làm gì cho những người bé nhỏ.
10… Thiên Chúa sẽ không hỏi về quá khứ tệ hại của bạn. Người sẽ
hỏi sao hôm nay không hoán cải để được vào nước trời.
Bạn có sẵn sàng trả lời các câu Chúa hỏi chưa ?
10. Vua tình yêu
Cách đây ít lâu, một người lính Mỹ đang đi trên một chiếc xe
buýt tại nước Thụy Điển. Anh ta khoe với người đàn ông ngồi bên cạnh: “Nước Mỹ
là quốc gia dân chủ nhất thế giới. Những công dân bình thường có thể đi tới Toà
Bạch Ốc để gặp Tổng Thống và thảo luận công việc.” Người đàn ông ngồi bên cạnh
trả lời: “Điều đó có gì đáng nói? Ở Thụy Điển, nhà vua đi xe buýt chung với dân
nữa kìa!”
Khi xe buýt dừng, người đàn ông bước xuống xe. Hành khách trên
xe nói cho người lính Mỹ biết: người đàn ông kia chính là Gustav Adolf VI, vua
nước Thụy Điển.
Một vị vua đi xe buýt chung với dân. Quả là ông vua đặc biệt, một
ông vua thật bình dân. Tuy nhiên, Đức Giêsu Kitô còn là vị vua độc đáo hơn thế
nhiều: là một Thiên Chúa cao cả, Ngài đã xuống thế làm người, đã tự nguyện
chung một số phận, một định mệnh với con người thấp hèn. Ngài chính là Vua Tình
Yêu.
11. Gia đình trong ngày phán xét
Chia sẻ bài Tin Mừng hôm nay thánh giáo hoàng Gioan-Phaolô II
tâm sự với các đôi vợ chồng nhân: “Vào ngày phán xét, có thể Đức Giê-su sẽ nói
với người vợ có chồng thất nghiệp: ‘Con là kẻ được chúc phúc, vì xưa Ta thất
nghiệp, không kiếm ra tiền để lo cho gia đình, nhưng con vẫn một niềm thương
yêu kính trọng và nâng đỡ Ta qua cơn thử thách.
Ngày ấy vị Thẩm phán sẽ nói với người chồng có vợ đau yếu: ‘Hãy
đến thừa hưởng gia nghiệp dành cho con. Vì xưa Ta đau yếu, nhan sắc tàn tạ,
đang khi con lại có nhiều cô gái vây quanh; vậy mà con vẫn một lòng chung thủy
son sắt, chăm sóc Ta ân cần, khiến Ta được an ủi rất nhiều.’ Ngài sẽ nói với
người con hiếu thảo với cha mẹ: ‘Ngày xưa Ta già yếu, khó tính, hay than phiền
con cái trong nhà. Ấy thế mà con đã không xem thường Ta, vẫn một niềm kính trọng
và chu đáo chăm nom’.”
12. Tình yêu đòi buộc hy sinh
Trong nhật ký ngày 26.11.68, bác sĩ liệt sĩ trẻ tuổi Đặng Thùy
Trâm đã viết: “Công việc bề bộn, đau đầu và mệt. Chẳng còn mong gì hơn là được
yên tĩnh quay về trong niềm an ủi của tình thương. Nhưng mong ước chỉ là mong ước,
thực tế vẫn là thực tế: Tiếng rên la xé ruột, xé lòng của bệnh nhân vẫn văng vẳng
bên tai, công việc vẫn ùn ùn kéo đến trước mắt với mọi vẻ của nó: phức tạp, khó
khăn và cả những bực dọc nữa!”
Chỉ vài lời đơn giản nhưng khi đọc lên ai cũng thấy nó thật gần
gũi với lòng mình, và thấy rõ tình yêu không chỉ là một tình cảm chóng qua mà
thực sự là một lề luật nằm sâu trong lòng người. Nó điều khiển và thúc đẩy mỗi
người làm việc phải làm, và không để ai được yên cho tới khi làm xong điều phải
làm. Lề luật đó nói lên cái địa vị cao quí của con người giữa muôn tạo vật, là
được dựng nên giống như Chúa, theo hình ảnh của Người, và được chia sẻ bản tính
yêu thương của Thiên Chúa.
Thiên Chúa là tình yêu. Bởi yêu thương mà Chúa đã dựng nên và
chăm sóc mọi người cũng như từng người, như người mục tử tận tuỵ, quên mình cho
đàn chiên: “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ...
Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương,
Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào
khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng” (Ed 34,15-16).
13. Bài giảng biết đi
Một buổi chiều năm 1953, người ta tập trung tại một nhà ga xe lửa
ở Chicago để chào đón bác sĩ Albert Schweitzer, một người vừa lãnh giải thưởng
Nobel hoà bình năm 1952. Ông là một nhà truyền giáo nổi tiếng với cả cuộc đời
hy sinh cho những người nghèo tại Phi châu.
Xe lửa dừng lại, một người đàn ông to lớn, đầu tóc gọn gàng, bước
ra. Máy ảnh chớp liên tục, các nhân vật cao cấp của thành phố dang rộng vòng
tay chào đón vị thượng khách, giữa tiếng nói cười hân hoan.
Đang luôn miệng cám ơn mọi người, bỗng ánh mắt ông hướng đến một
góc nhà ga,... ông xin kiếu vài phút, và đi thẳng đến một người đàn bà đang khệ
nệ với hai cái vali nặng. Ông đỡ lấy một chiếc vali, mỉm cười dẫn bà ra một chiếc
xe buýt gần đó, với lời chúc thượng lộ bình an. Rồi quay lại với đám đông, ông
nói: “Xin lỗi quí vị vì đã bắt quí vị phải chờ.”
Chứng kiến cách hành xử của ông, một người trong ban tổ chức đã
nói với các ký giả: “Đây là lần đầu tiên tôi thấy một bài giảng biết đi.”
Ông đã hy sinh cả đời để nên giống Đức Kitô, Đấng không chỉ rao
giảng, mà còn là bài giảng về tình thương cảm phải có trong Nước Trời: “Ra khỏi
thuyền, Đức Giê-su trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, và
chữa lành các bệnh nhân của họ” (Mt 14,13-14).
14. Tờ di chúc: hãy làm cho tôi không bao giờ chết
Rồi cũng có một ngày, bác sĩ sẽ nói với tôi rằng bộ não của tôi
không còn khả năng hoạt động nữa, hay nói cách khác là cuộc đời tôi hầu như đã
chấm dứt.
Khi điều đó xảy ra, xin đừng cố gán ghép một cuộc sống nhân tạo
vào trong cơ thể tôi bằng tất cả những thứ máy móc đó. Xin đừng gọi đó là
"giây phút lâm chung" của cuộc đời tôi, mà hãy gọi đó là một khởi đầu
của sự sống mới vì tôi sẽ góp tấm thân này để giúp những người khác có được một
cuộc sống lành lặn hơn.
Hãy đem ánh sáng của tôi dâng tặng cho một người đàn ông chưa từng
một lần nhìn thấy ánh nắng mặt trời, chưa bao giờ được thấy gương mặt dễ thương
của trẻ thơ, và chưa từng nhìn thấy tình yêu trong đôi mắt của một người phụ nữ.
Hãy tặng trái tim của tôi cho một người luôn bị trái tim mình
hành hạ bằng những cơn đau đớn triền miên.
Hãy truyền những giọt máu của tôi cho cậu bé đang thương tích đầy
mình sau tai nạn giao thông kia để nó có thể sống cho tới ngày được nhìn thấy
cháu chắt của mình.
Tôi sẽ hiến hai quả thận của mình cho những ai phải sống lần hồi
qua ngày bằng chiếc máy chạy thận nhân tạo.
Hãy lấy xương của tôi, từng thớ thịt của tôi, và tất cả những sợi
dây thần kinh này nữa nếu điều đó giúp cho những đứa trẻ tật nguyền có thể đi lại
được.
Hãy nghiên cứu từng ngóc ngách trong bộ não của tôi. Nếu cần thiết,
hãy lấy cả các tế bào, đem phát triển chúng, thí nghiệm chúng để một ngày nào
đó chúng có thể giúp cho một cậu bé câm có thể bật lên tiếng nói hay để một cô
bé bị điếc có thể nghe thấy tiếng mưa rơi bên ngoài cửa sổ.
Nếu tôi có còn lại gì thì hãy đem thiêu tất cả rồi thả tro vào
trong gió, biết đâu nhờ gió mang đi, chúng cũng giúp ích được gì cho những bông
hoa xinh đẹp kia.
Nếu buộc phải đem chôn thứ gì đó của tôi, xin hãy chôn đi tất cả
những tội lỗi, yếu kém, hay những định kiến mà tôi đã dành cho những người
chung quanh.
Hãy đem tội lỗi của tôi đến cho quỷ dữ. Đem linh hồn tôi đến cho
Thượng đế. Nếu như, dù chỉ tình cờ thôi, bạn muốn nhớ đến tôi, thì hãy thay tôi
làm những điều tốt hay nói những lời yêu thương với những ai đang cần đến bạn.
Nếu bạn làm đúng tất cả những điều tôi đã dặn, thì tôi sẽ không bao giờ chết!
15. Vua chọn người kế vị
Trong cuốn sách của mình nhan đề: The Christian Vision (Thị kiến
của người Kitô hữu) John Powell có kể lại một truyền thuyết xưa kia của Ái Nhĩ
Lan. Truyền thuyết này nói về thời còn các vị vua đang cai trị Ái Nhĩ Lan.
Ngày xưa, có một vị vua đương cai trị không có con nối dõi ngai
báu. Vì thế, ngài truyền sứ giả ghi lên các tấm biển nơi mỗi thành phố và làng
mạc trong vương quốc, để mời gọi những người đàn ông ưu tú đến cho Ðức vua phỏng
vấn.
Ðức vua làm thế với hy vọng có thể chọn được một người kế vị trước
khi Ngài chết. Hai đặc tính tiêu chuẩn đặc biệt được ngài nhấn mạnh là kẻ ấy phải
có lòng mến Chúa yêu người sâu sắc. Anh thanh niên là vai chính trong câu chuyện
truyền thuyết này nhận thấy mình có một trong các điều kiện đòi hỏi, vì thực sự
anh ta rất mến Chúa yêu người. Anh ta cảm thấy từ thâm sâu nội tâm có tiếng
thúc giục anh đi dự cuộc phỏng vấn. Nhưng anh lại quá nghèo đến mức chẳng có quần
áo tươm tất để mặc đi dự phỏng vấn và cũng chẳng có tìên mua thực phẩm cho cuộc
hành trình xa xôi đến cung điện đức vua. Vì thế anh thanh niên này đã cầu nguyện
xin ơn soi sáng cho vấn đề. Cuối cùng anh quyết định đi ăn xin quần áo và lương
thực cần thiết. Khi mọi sự đã sẵn sàng anh bắt đầu lên đường.
Sau một tháng du hành, ngày nọ anh thanh niên này đã nhìn thấy
cung điện đức vua. Anh ta ngồi xuống trên ngọn đồi phía xa. Ngay lúc đó anh
trông thấy một ông lão ăn mày nghèo khổ ngồi bên vệ đường. Ông cụ chìa tay ra
xin anh giúp đỡ. Giọng nói ông ta thật yếu ớt:
- Tôi đói và lạnh quá, cậu có thể cho tôi cái gì mặc cho đỡ lạnh
và ăn cho đỡ đói không?
Anh thanh niên nhìn ông già lòng tràn đầy xúc động. Và liền cởi
bộ đồ ấm áp mặc ngoài của mình đổi lấy tấm áo cũ tơi tả của ông già ăn xin, đồng
thời cũng cho lão ta phần lớn lương thực dự trữ mang theo trong túi xách dành
cho chuyến trở lại về nhà. Thế rồi, lòng hơi ngài ngại anh thanh niên bước tới cung
điện trong bộ đồ rách nát và lương thực mang theo không đủ cho chuyến trở về.
Khi anh ta đến lâu đài, đám lính gác chận anh ta lại tại cổng và dẫn anh đến
khu vực dành cho du khách. Sau một thời gian chờ đợi lâu, anh ta được dẫn tới
diện kiến đức vua.
Ðến trước bệ rồng anh thanh niên liền gập sâu người xuống cúi
chào. Khi ngước thẳng lên nhìn anh ta không thể nào tin nổi mắt mình và thốt
lên:
- Té ra ngài chính là ông lão ăn xin bên vệ đường!
Ðức vua đáp:
- Ðúng thế.
Anh thanh niên liền hỏi:
- Tại sao ngài lại làm điều ấy đối với kẻ tiện dân này?
Ðức vua trả lời:
- Bởi vì Trẫm muốn thử xem ngươi có thật lòng mến Chúa yêu người
không?
Dù đây là một câu chuyện giả tưởng, nhưng chủ điểm của nó rất là
vững chắc. Đây cũng chính là chủ điểm mà các bài đọc hôm nay, đặc biệt là bài
Phúc âm nêu ra. Chủ điểm ấy là:
Vào ngày cuối đời, tất cả chúng ta sẽ bị xét xử về việc chúng ta
đã phục vụ Chúa Kitô Vua như thế nào nơi kẻ hèn mọn nhất trong anh chị em chúng
ta. Hãy nhớ lại những lời Chúa Giêsu nói trong bài Phúc âm: "Ðoạn đức vua
sẽ nói “Xưa Ta đói các ngươi cho Ta ăn, Ta khát các ngươi cho Ta uống, Ta là
khách lạ các ngươi đã đón tiếp Ta vào nhà, Ta đau ốm bệnh hoạn các ngươi đã
chăm sóc Ta.” Bây giờ đám người công chính sẽ thưa với Ngài: "Lạy Chúa có
bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống đâu? Ðức vua sẽ đáp
lại: "Ta nói cho các ngươi hay, bất cứ khi nào các ngươi làm điều này cho
một trong những anh em bé mọn nhất trong các ngươi tức là các ngươi đã làm cho
chính Ta đó.”
16. Công dân Nước Trời
Ðại Hội Trẻ Thế giới tại Pháp, hàng trăm ngàn thanh niên nô nức,
tiến về thủ đô Paris dự đại hội để gặp gỡ, lắng nghe, và hiệp thông với Ðức
Thánh Cha Gioan Phaolô II, đấng thay mặt Ðức Kitô ở trần gian.
Hệ thống xe điện ngầm Métro nổi tiếng của Paris dường như lúc
nào cũng chật ních người. Hôm ấy, một cụ già ăn xin mù loà cũng cố chen lên một
toa xe nhờ chú chó dẫn đường. Cụ vừa đi, vừa chìa cái đĩa nhôm để kêu gọi lòng
hảo tâm của giới trẻ. Tuy ồn ào nhưng người ta cũng nghe được những tiếng kêu
loảng xoảng của những đồng cắc rơi vào đĩa.
Ði ngược chiều với cụ, một cô bé xanh xao gầy còm cũng ngửa nón
xin mọi người giúp đỡ. Khi hai người bất hạnh gặp nhau, cô bé tránh qua một bên
cho người hành khất mù loà tiến bước. Và đầy kinh ngạc, các bạn trẻ không thể
tin vào mắt mình, cô bé đã dốc hết số tiền kiếm được của mình đổ tất cả vào cái
đĩa nhôm kia.
Cô bé ăn xin trên xe điện ngầm trong câu chuyện trên đây, đã biết
cho đi tất cả những gì mình có, những gì cần thiết nhất để sống mà không tính
toán so đo. Ðó mới thật là công dân của Nước Trời, là thần dân đích thực của
Giêsu, Vua Tình yêu.
17. Anh gù đã khóc
Có một cảnh hung bạo trong tác phẩm “Nhà thờ Đức Bà Paris”của
Victor Hugo. Tên gù Quasimodo bị xích vào một bánh xe và bị hành hạ trước một
đám đông. Khi máu từ các vết thương chảy ra, anh ta khát và kêu xin nước uống,
đám đông đáp lại bằng cách chế nhạo và ném đá anh. Đột nhiên, một cô bé mang một
vò nước, tách đám người và đặt nó vào miệng anh ta.
Cử chỉ yêu thương đó khiến anh ta anh ta làm được điều mà những
kẻ hành hạ anh không thể làm được: một giọt nước mắt lăn dài xuống đôi má anh!
Tôi nghĩ gì khi chúng tôi cũng có mặt ở đó?
Để xoa dịu nỗi đau cuả người khác, cần phải quên đi cái tôi của
mình. (Malcom Muggeridge)
18. Hoàng tử và người hành khất
"Hoàng tử và người hành khất" là câu chuyện của Mark
Twain về hai em bé sống cách đây 300 năm ở nước Anh. Hai em bé không chỉ là bạn
tốt của nhau, mà chúng còn giống nhau như anh em sinh đôi. Một em là Edward,
hoàng tử xứ Wales, em kia là Tom Canty, một chú bé nghèo khổ.
Một ngày kia, thật là trò vui, hai em quyết định chuyển địa vị,
chúng thay đổi quần áo. Edward mặc quần áo rách tả tơi của đứa trẻ nghèo khổ và
đi lang thang khắp các khu nhà ổ chuột ở London, sát cánh với những người hành
khất và thấp kém.
Sau một thời gian hai chú bé mệt mỏi vì trò chơi của chúng.
Trong bộ quần áo rách rưới, Edward cố gắng nói cho người cảnh sát biết rằng chú
là hoàng tử. Nhưng chú bị tống giam. Ngay khi Tom sắp sửa được phong vương,
Edward tỏ lộ và thuyết phục các viên chức chú là hoàng tử thật. Do kết quả kinh
nghiệm của mình, Edward trở thành một nhà lãnh đạo công minh và nhân ái.
Tình cảnh giữa Chúa Kitô và chúng ta cũng có cái gì giống như thế.
Chúa Kitô là hoàng tử, Con thật của Thiên Chúa. Ngài đã chuyển địa vị với chúng
ta, những kẻ nghèo khó. Ngài mang lấy thể xác nghèo hèn chúng ta. Rồi Chúa Kitô
làm cho mỗi chúng ta thành hoàng tử bằng cách mặc cho chúng ta áo ân sủng của
Ngài, chia sẻ chính sự sống thần linh của Ngài cho chúng ta.
Là Thiên Chúa, Chúa Giêsu biết những thống khổ của loài người.
Nhờ trở thành con người, Ngài thực sự chịu đau khổ như mọi người phải chịu. Như
hoàng tử trong câu chuyện, Chúa Giêsu học biết yêu thương những người nghèo khổ,
Chúa Giêsu học biết yêu thương những người thiếu thốn mọi sự.
19. Giáo lý về thân thể Chúa Kitô
Một linh mục nọ ngỏ lời với
cộng đoàn phụng vụ rằng: "Khi trao Mình Thánh Chúa cho anh chị em, tôi
nâng Mình Thánh Chúa lên và nói: Mình Thánh Chúa Kitô! Tất cả anh chị em đều
tin thật đó là Mình Thánh Chúa và từng người đáp lại: Amen, nghĩa là mỗi người
tuyên xưng đó chính là Mình Thánh Chúa thật sự và cung kính rước Người vào
lòng. Thế nhưng, nếu tôi chỉ vào từng người ngồi quanh đây và nói: Đây là thân
thể Chúa Giêsu thì có lẽ anh chị em không tin người đó là thân thể Chúa, không
tỏ lòng tôn kính và không muốn đón rước người đó vào nhà mình, nếu không ưa
thích người đó.
Ngay lúc đó, dưới hàng ghế giáo dân có tiếng xì xào. Hình như
nhiều người không đồng quan điểm với Cha sở về nội dung nầy.
Sau thánh lễ hôm ấy, một thanh niên đến gặp cha sở và thưa:
- Thưa cha, trong bài giảng hôm nay, chúng con giật mình khi
nghe Cha nói từng người chung quanh chúng ta đây, kể cả những người tàn tật, bần
cùng, tội lỗi... đều là thân thể Chúa Giêsu.
- Thế anh không tin mọi người là thân thể Chúa Giêsu sao?
- Con tin tấm bánh thánh mà linh mục đã truyền phép và trao cho
giáo dân rước lễ thật sự là Thân Thể Chúa; còn người cha, người mẹ, người anh
chị em, người láng giềng... không thể là thân thể Chúa được. Cha có bằng chứng
gì chứng tỏ tha nhân là thân thể Chúa Giêsu không?
- Nói có sách, mách có chứng. Bằng chứng đây (giơ cuốn Tân Ước
ra), anh hãy đọc Thánh Phaolô, trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Cô-rin-tô:
"Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô
sao?" (I Cr 6, 15).
- Thật thế ư? Thế thì Cha có biết vì sao thánh Phaolô nói bạo
như thế không?
- Thánh Phaolô dạy điều nầy căn cứ vào kinh nghiệm bản thân. Hồi
ấy, Phaolô chưa tin vào Chúa Giêsu, ông nhiệt thành với lề luật và hăm hở tìm bắt
những người theo Chúa Giêsu. Nên nhớ là vào thời điểm đó Chúa Giêsu đã sống lại
và lên trời rồi.
Trên đường Damas, Phaolô bị quật ngã và có tiếng Chúa Giêsu vang
lên giữa thinh không: "Sao-lô, tại sao ngươi bắt bớ Ta?" Phaolô hết sức
kinh hoàng: "Thưa Ngài, Ngài là ai?" Có tiếng từ trời đáp: "Ta
là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ." (Cv 22, 6-9)
Thế là từ hôm ấy, Phaolô không dám bắt bớ các tín hữu nữa, vì
ông biết rằng: họ là những Giêsu khác, bắt bớ họ là bắt bớ Chúa Giêsu.
Người thanh niên vẫn còn hoài nghi, anh hỏi tiếp:
- Vậy thưa cha, đó là giáo lý của thánh Phaolô. Còn về phần Chúa
Giêsu, có bao giờ Người dạy như thế không?
- Có chứ! Nào, mời anh lật qua Tin Mừng Matthêu, chương 25,
trong dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng. Đó là bài chúng ta vừa nghe đọc hôm
nay đây.
Qua dụ ngôn nầy, Chúa Giêsu tỏ cho thấy những ai cho những người
đói khát đầu đường xó chợ một bát cơm thì Chúa nói là họ cho Chúa ăn. Những ai
cho người rách rưới hoặc mình trần một manh áo, thì Chúa nói là họ đã cho Người
mặc. Những ai cho người sa cơ thất thế không nơi nương tựa được trú ngụ một thời
gian thì Chúa nói là họ đã cho Chúa trọ nhà... Nói như thế, Chúa Giêsu tự đồng
hoá mình với mọi người chung quanh. Nói khác đi, bất cứ ai cũng được Chúa Giêsu
nhìn nhận là chính Người.
- Thật thế ư? Vậy mà lâu nay con không ý thức điều đó. Và thưa
cha, sách giáo lý công giáo có chỗ nào nói như thế không cha?
- Đây, giáo lý công giáo đây, anh mở ra xem, bài nói về Bí tích
thánh tẩy, số 1267: "Bí tích thánh tẩy làm cho chúng ta thành chi thể
trong Thân Thể Chúa Kitô."
- Thế các Đức Giáo Hoàng có dạy như thế không?
- Đây nữa (chìa sách ra), Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong
tâm thư gửi các gia đình có viết, anh đọc thử xem: "Thiên Chúa đã đồng hoá
với người cha, người mẹ, người con trong gia đình. Những gì mỗi thành viên
trong gia đình làm cho nhau là làm cho chính Chúa."
- Thưa Cha, khi mới bước vào gặp cha, con không tin tha nhân là
thân thể Chúa Giêsu, nhưng bây giờ thì con đã tin. Nhưng xin hỏi cha, vậy con
có buộc phải tôn kính tha nhân như tôn kính Chúa trong nhà thờ không?
- Trước hết, anh hãy nghe lời dạy của Mẹ Têrêxa Calcutta. Hôm ấy,
có một thiếu nữ Ấn-độ đến gặp Mẹ Têrêxa Calcutta để tìm hiểu Hội Dòng của Mẹ.
Trước hết, Mẹ nói với người thiếu nữ ấy: "Con hãy qua nhà hấp hối. Ở đó,
con sẽ gặp nhiều người bất hạnh nghèo khổ, bệnh tật đang nằm chờ chết. Con hãy
săn sóc an ủi họ."
Thiếu nữ vừa quay lưng đi thì Mẹ Têrêxa gọi giật lại: "Nầy
con, khi dâng thánh lễ, con thấy linh mục trân trọng mình thánh Chúa Giêsu sau
khi truyền phép thế nào, thì con cũng hãy trân trọng những con người bất hạnh ấy
như thế."
Nói như thế, Mẹ Têrêxa Calcutta muốn dạy rằng: mỗi một con người
dù bần cùng khốn khổ đến đâu cũng phải được tôn trọng như Mình Thánh Chúa.
- Ngoài Mẹ Têrêxa Calcutta, có vị thánh nào khác tôn trọng con
người như chính thân thể Chúa Giêsu nữa không?
- Có nhiều: thánh Gioan Kim Khẩu, thánh Elisabet Hung-ga-ri,
thánh Phanxicô Atxidi, vv... Có lần Phanxicô gặp một người phong hủi rất ghê tởm.
Ban đầu Anh định xa lánh, nhưng sau đó, Phanxicô cảm nhận ra người phong hủi đó
là một phần thân thể bị thương tích, bị lở loét của Chúa Giêsu, nên Anh đã đến
chào hỏi và ôm hôn người phong hủi đó.
- Thưa cha, con thấy nhiều tín hữu rất mực tôn kính Chúa Giêsu
trên bàn thờ, còn những chi thể sống động của Chúa Giêsu trong đời thường thì
hình như không được ai tôn kính.
- Đúng thế! Vì vậy, thánh Gioan kim khẩu dạy chúng ta đừng phân
biệt đối xử giữa Chúa Giêsu trong nhà thờ và Chúa Giêsu ngoài nhà thờ. Chúa
Giêsu trong nhà thờ và Chúa Giêsu ngoài nhà thờ, tức là những anh chị em khác,
phải được tôn trọng như nhau. Để tôi đọc cho anh nghe lời dạy của người:
"Bạn muốn tôn kính thân thể Đức Kitô ư? Chớ khinh chê thân
thể ấy khi thân thể ấy trần trụi. Đừng có thái độ nầy là trong nhà thờ thì tôn
kính, cho thân thể Người mang những y phục lụa là gấm vóc, nhưng ở ngoài lại
coi thường, để cho thân thể ấy phải giá lạnh và trần trụi. Thân thể Chúa ở đây
(trong nhà thờ) không cần y phục, nhưng cần tâm hồn trong trắng; còn thân thể
Chúa ngoài kia (tức là tha nhân) thì cần được chăm lo tận tình."
- Thưa cha, dường như đối với nhiều người, việc khinh dể, nhạo
báng, xúc phạm đến anh chị em chung quanh là chuyện nhỏ, chẳng có gì đáng quan
tâm.
- Đó là một sai lầm tai hại vì đến ngày phán xét, Chúa Giêsu sẽ
nói với những kẻ ấy rằng: "Quân bị nguyền rủa kia! Hãy đi cho khuất mắt Ta
mà vào chốn cực hình đời đời dành cho ma quỷ và các thần dữ, vì xưa kia, ngươi
đã khinh dể, nhạo báng, xúc phạm đến ta!"
Nội dung trên đây là giáo lý cốt tuỷ của đạo thánh Chúa. Nếu
chúng ta tuân giữ được giáo huấn cốt tuỷ nầy thì đã nắm chắc được chiếc vé vào
cửa thiên đàng trong tay, vì thánh Phaolô trong thư Rôma khẳng định rằng:
"Ai yêu thương người là đã chu toàn lề luật" (Rm 13, 10).
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta giữ trọn giáo huấn nầy để làm cho
thế giới nầy ấm lên bằng tình yêu thương nhân ái, đồng thời nhờ đó, tất cả
chúng ta mai đây sẽ được Vua Giêsu mời đón vào hưởng hạnh phúc đời đời với Người
trên thiên quốc.
THỨ BA – CẦU NGUYỆN
Lời Chúa: Mt 6, 7-15
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Khi cầu nguyện,
các con đừng nhiều lời như dân ngoại: họ nghĩ là phải nói nhiều mới được chấp
nhận. Ðừng làm như họ, vì Cha các con biết rõ điều các con cần, ngay cả trước
khi các con xin. Vậy các con hãy cầu nguyện như thế này:
“Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả
sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho
chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng con cũng
tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ đến chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng
con cho khỏi sự dữ. Amen.
“Vì nếu các con có tha thứ cho người ta những lầm lỗi của họ,
thì Cha các con, Ðấng ngự trên trời, mới tha thứ cho các con. Nếu các con không
tha thứ cho người ta, thì Cha các con cũng chẳng tha thứ lỗi lầm cho các con.”
TRUYỆN KỂ
1. Cùng Chúa làm việc
Có một nông dân xứ Ars mỗi ngày trước khi ra đồng cũng như khi
đi làm về đều ghé vào nhà thờ giây lát. Trong xứ, nhiều người để ý và kính phục.
Một hôm có người hỏi: “Ngày này ông ghé vào nhà thờ làm gì thế.” Người nông dân
trả lời: “Tôi bàn chuyện với Chúa và Chúa bàn chuyện với tôi.”
Câu trả lời của người nông dân trên đây diễn ta được cái cốt lõi
của đời sống Kitô hữu, đó là việc cầu nguyện.
Tác giả tập sách Đường Hy vọng chia sẻ kinh nghiệm: “Hoạt động
mà không cầu nguyện là vô ích trước mặt Thiên Chúa, máy móc tự động có thể làm
hơn con. Cầu nguyện là nền tảng đời sống thiêng liêng. Lúc cầu nguyện con kết
hiệp với Thiên Chúa, như một bóng điện sáng là nhờ kết hiệp với máy phát điện.
Bí quyết nuôi dưỡng đời sống Kitô là phải cầu nguyện.”
2. Tha nợ
Theo các nhà chuyên môn Kinh thánh, trong kinh Lạy Cha, câu “xin
tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” đúng hơn câu “xin
tha tội chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con.”
Câu đó nói tới thân phận của con người là con nợ không thể trả
được đối với Thiên Chúa. Đó là tình trạng của kẻ tội lỗi mà chỉ có hồng ân lạ
lùng của Thiên Chúa ân xá cho ta được thôi, còn ta không bao giờ đền bù cho đủ.
Lời cầu nguyện này nhắc nhở chúng ta nhớ tới dụ ngôn tên đầy tớ
dã tâm bất nhân. Nợ của chúng ta sẽ được tình yêu Thiên Chúa thương tha thứ nếu
chúng ta biết yêu thương tha thứ cho kẻ có nợ chúng ta.
Thánh Gio-an nói: “Nếu ai nói: tôi yêu mến Thiên Chúa, mà lại
ghét anh em mình, thì đó là kẻ nói dối. Thực vậy, kẻ không yêu anh em mình
trông thấy trước mắt thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà nó không thấy” (1Ga.
4, 20). Chúng ta có thể đánh giá khả năng của chúng ta yêu mến Thiên Chúa bằng
tình yêu chúng ta yêu người lân cận.
3. Cầu nguyện là gặp Chúa
Có một linh mục là giáo sư tín lý và luân lý tại nhiều chủng viện
và học viện Công Giáo, khi nói về kinh nghiệm của việc dạy Giáo lý dự tòng cho
người lớn tuổi, ngài chia sẻ: “Tôi đã dạy Giáo lý cho rất nhiều bạn trẻ dự
tòng, có những bạn chỉ với thời gian rất ngắn, là tôi có thể Rửa Tội cho họ được.
Tuy nhiên, có những bạn thì năm này qua năm khác, tôi vẫn không Rửa Tội cho!”
Khi chúng tôi thắc mắc thì được ngài giải thích rằng: “Rửa Tội
được hay không, đối với ngài là họ có biết cầu nguyện trong đức tin không? Nếu
họ cầu nguyện sốt sắng và tin tưởng, ấy là lúc chúng ta Rửa Tội cho họ được, vì
họ đã gặp được Chúa thực sự. Nếu không biết cầu nguyện, thì chúng ta có dạy hết
ngày này, tháng nọ hay năm kia thì họ vẫn chỉ là cái xác không hồn mà thôi!”
4. Lời kinh của tình yêu
Người con gái của Karl Marx có lần tâm sự với một người bạn:
“Tôi lớn lên mà không hề biết đến bất cứ tôn giáo nào. Tôi cũng không tin tưởng
Thiên Chúa. Thế rồi, tình cờ tôi đọc được một quyển sách trong đó có lời kinh
khác lạ. Tôi đọc hết lời kinh ấy và tự nhủ: Nếu quả thật Thiên Chúa của lời
kinh đó hiện hữu, tôi nghĩ rằng tôi có thể tin Ngài được.”
Người bạn hỏi cho biết đó là lời kinh nào. Người con gái của
Karl Marx mới từ từ đọc lại kinh Lạy Cha (…) Tình cha con và tình anh em được
Chúa Giêsu mạc khải qua kinh Lạy Cha. Sống với Cha trong tình phó thác, với anh
em trong tình bác ái.
5. Cầu nguyện và sức khỏe
Vào tháng 05 năm 1998, tại Houston, Texas, một cuộc hội thảo lớn
về Y học và Đức tin với sự tham dự của hơn 700 bác sĩ, điều dưỡng, dược sĩ, nha
sĩ.
Những báo cáo cho thấy là những người có Đức tin và được cầu
nguyện cho thì mau lành bệnh gấp 12 lần những người không có Đức tin sau khi được
giải phẫu tim. Một cuộc khảo cứu kéo dài 28 năm trên một số người lớn tuổi cho
thấy là những người chăm đi lễ nhà thờ để cầu nguyện thì ít bệnh tật từ 25% đến
35% so với những người không có tôn giáo.
Những người đi lễ nhà thờ thường xuyên có một hệ thông miễn dịch,
dễ đề kháng bệnh tật mạnh hơn mức bình thường (Nguyễn Văn Thái, Sống Lời Chúa giữa
dòng đời, năm C, tr 261).
6. Lạy Cha chúng con.
Có một Giám mục kia trên đường đi kinh lý giáo phận, ghé thăm
gia đình một bà già, người ta nói bà là tấm gương cho cả làng soi chiếu. Trong
khi thăm, vị Giám mục hỏi: “Bà thường hay đọc sách đạo đức nào nhất”? Bà trả lời:
“Thưa Đức cha, con không biết đọc, con mù chữ.” Nghe nói thế vị Giám mục lại hỏi:
“Bà thường hay cầu nguyện, bà thường hay đọc kinh gì”? Bà trả lời: “Thưa Đức
cha, con chỉ biết tràng hạt thôi: kinh Lạy Cha, kinh Kính mừng, kinh Sáng danh,
mỗi ngày con đọc đến 10 lần, nhưng không bao giờ con đọc xong.” Vị Giám mục lại
hỏi: “Tại sao thế”?
Bà nói tiếp: “Tại vì khi con bắt đầu đọc “Lạy Cha chúng con”,
con không hiểu sao Chúa có thể tốt lành đến mức cho phép một bà già hèn mọn như
con được gọi Ngài là Cha, điều đó làm con xúc động và con không thể nào đọc tiếp
nữa.” Nghe bà cụ nói thế, Giám mục khuyến khích: “Này bà cụ, đó là lời cầu nguyện
giá trị bằng tất cả lời cầu nguyện của chúng tôi, bà cứ tiếp tục và luôn cầu
nguyện theo cách đó.”
7. Khoa học và cầu nguyện
Một chàng sinh viên Văn Khoa tò mò vào Nhà Thờ, tình cờ anh gặp
thấy nhà Bác học Ampère đang chăm chú cầu nguyện. Anh đợi nhà bác học cầu nguyện
xong, anh theo nhà bác học về tới nhà và hỏi:
– Thưa ngài, con xin hỏi một điều, con học ngành Văn Khoa, nên
không dám hỏi về chuyện khoa học, con chỉ xin hỏi về vấn đề Đức Tin.
Nhà Bác học ngỡ ngàng nói lại:
– Tôi là kẻ yếu kém về Đức Tin nhất, nhưng nếu có thể giúp gì
cho anh, tôi sẵn sàng.
Chàng thanh niên mừng rỡ hỏi tiếp:
– Thưa ngài, một người vừa là một nhà khoa học vĩ đại, vừa là
người Kitô hữu siêng năng cầu nguyện được không?
Ông Ampère ôn tồn đáp:
– Chỉ thực sự là vĩ đại khi người ta biết cầu nguyện mà thôi!
Chính Chúa Giêsu là bậc vĩ đại nhất, vì Thiên Chúa là Cha toàn năng, muốn gì được
nấy, cho kẻ đói ăn, chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền, xua trừ ma quỷ… thế mà Ngài
vẫn chu đáo việc cầu nguyện trước những sinh hoạt trong ngày. Điều ấy Đức Giêsu
đã khẳng định với mọi người: muốn là người vĩ đại, phải ưu tiên việc cầu nguyện
(x Mc 1, 32-39). Chính vì vậy mà Ngài dạy mọi người rằng: “Chúng con hãy cầu
nguyện luôn đừng nhàm chán!” (Lc 18, 1).
8. Thế nào là cầu nguyện
Cha Anthony de Mello giảng về việc cầu nguyện, ngài nói cầu nguyện
chính là “đốt lửa”, theo nghĩa là “yêu thương”; không có “lửa” thì không có cầu
nguyện gì cả, dù người ta có cả núi lời hay ý đẹp. Còn thánh Têrêsa Avila, được
tôn vinh là bậc thầy cầu nguyện, xác nhận rằng cầu nguyện là sống tình bạn với
Chúa, rằng cầu nguyện hệ tại ở tâm tình chứ không ở các ý tưởng.
Quả thật, những cách diễn đạt trên chung qui là vọng lại nghệ
thuật cầu nguyện của chính vị “vạn thế sư biểu” là Chúa Giê-su: “Khi cầu nguyện,
anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng cứ nói nhiều là được nhận lời…”
Chúa chủ trương ‘quí hồ tinh bất quí hồ đa’! Và tất cả tâm tình tinh túy để cầu
nguyện được kết đọng trong Kinh Lạy Cha do chính Chúa dạy.
9. Gọi Chúa là Cha
Hồi năm 2006, khi bản dịch Việt ngữ mới của Sách Lễ Rôma được phổ
biến, người ta đã tốn nhiều giấy mực để tranh luận về câu cú, chữ nghĩa – trong
đó có cuộc tranh luận về việc nên gọi “Chúa” hay “Cha” trong một số văn mạch.
Điều thật rõ ràng là Đức Giêsu đã dạy các môn đệ Người ngày xưa (và chúng ta
hôm nay) gọi Thiên Chúa là Cha. Điều này không thấy nơi bất cứ tôn giáo nào
khác. Không ai gọi Thần, Phật, Thượng Đế, Đấng Tối Cao là cha của mình cả… Các
Đấng ấy xem chừng quá cao, quá xa – và người ta giữ thái độ “kính nhi viễn
chi”…
Tiếng “Cha” mà người Kitô hữu dùng để gọi Thiên Chúa, vì thế, là
một cuộc cách mạng, một mạc khải thật lớn và thật bất ngờ: Thiên Chúa là Cha
chúng ta, Ngài luôn ở gần bên ta, Ngài yêu thương và biết rõ ta cần gì trước cả
khi ta lên lời, Ngài hằng quan tâm săn sóc ta.
Chúa Giêsu khuyên ta “đừng lải nhải như dân ngoại,” vì “không phải
nói nhiều là được nhận lời.” Người dạy ta cầu nguyện với Cha trên trời bằng
Kinh Lạy Cha. Với trọn tâm tình, ta xin cho Danh Cha cả sáng, Nước Cha hiển trị,
thánh ý Cha được thực hiện… Chúng ta cũng xin Cha ban cho mình những phương tiện
để sống, và nhất là ta xin Cha thứ tha những lỗi lầm, kèm với lời hứa rằng mình
sẽ tha thứ cho anh chị em…
Quả thực, Kinh Lạy Cha là lời cầu nguyện mẫu mực.
10. Mọi người là anh em trong kinh Lạy Cha
Đan viện Nữ Cát Minh tại Giêrusalem trên núi Ô-liu có một ngôi
nhà nguyện được xây dựng tại vị trí mà tương truyền Chúa Giêsu đã ngồi để dạy
kinh Lạy Cha cho các môn đệ. Các bức tường của tu viện được dát bằng 140 tấm gốm
sứ, trên mỗi tấm có khắc bản kinh Lạy Cha bằng một ngôn ngữ khác nhau. Ngoài
ra, tu viện còn sưu tầm được bản kinh này bằng 1642 thứ tiếng. Kinh Lạy Cha là
lời tuyên ngôn rằng muôn dân trên khắp thế giới có chung một cha trên trời, là
anh em một nhà với nhau, có thể nắm tay nhau chung một lời nguyện cầu cho những
điều chung nhất mà mọi người không trừ ai đều mong mỏi, đều cần đến.
Kinh Năm Thánh 2010 là lời vọng lại của kinh Lạy Cha với những
điểm nhấn:
– chúng ta quyết tâm “xây dựng Giáo Hội Việt Nam thành một gia
đình là con một Cha, là anh em một nhà”;
– khi ước nguyện “Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến” chúng ta
xin cho “mọi người trên đất nước chúng con và cả thế giới đón nhận Tình Yêu cứu
độ của Cha” để được “qui tụ trong Nước Cha, Nước Sự Thật và Sự Sống, Yêu Thương
và An Bình;”
– chúng ta xin Cha “thứ tha mọi lỗi lầm thiếu sót đối với Cha và
mọi người… và giúp chúng con biết tránh xa tội lỗi…”
11. Thiên Chúa muốn bản thân chúng ta
Charles Colson là một phụ tá của Nhà Trắng vào thập niên 1970.
Ông bị kết tội và bị giam tù vì vụ Watergate.
Sau đó, ông đã hoán cải về mặt tôn giáo. Giờ đây, ông đi khắp nước,
rao giảng những điều căn bản trong Phúc âm của Chúa. Đặt biệt ông chống lại những
kẻ rao giảng xa sự thật, những kẻ giảng dạy một Phúc âm “thời thịnh vượng”, một
Phúc âm coi của cải dồi dào như dấu chỉ tình thương của Chúa và để cho người
nghèo tự lo cho bản thân của họ. Colson phản đối luận cứ của họ: Nếu bạn sống
“cuộc sống tốt lành”, Thiên Chúa sẽ chúc phúc để bạn được của cải vật chất và
thành đạt. Colson nói: “Thiên Chúa không muốn những thành công, mà là muốn
chính bản thân chúng ta.”
Tôi giải thích thế nào lời Chúa Giêsu: “Những người có của thì
khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” (Lc 18,24).
Chúa Giêsu nói: “Kho tàng anh em ở đâu, thì lòng anh em cũng ở
đó” (Lc 12,34)
12. Sống lời kinh Lạy Cha
Quyển nhật ký của Dag Hammaskjold, tổng thư ký trẻ tuổi nhất của
LHQ, cho thấy ông là một người rất sâu sắc trong đời sống cầu nguyện, mặc dù
ông không thuộc một tôn giáo chính thống nào. Ông chịu trách nhiệm về việc xây
phòng suy niệm tại trụ sở Liên Hiệp Quốc. Một lời cầu nguyện được ông suy gẫm rất
nhiều đó là Kinh Lạy Cha. Nhật ký của ông có nhiều nơi ám chỉ điều này: “Danh
Ngài được vinh hiển, chứ không phải danh con. Nước Ngài trị đến, chứ không phải
nước con. Ngài được phục vụ, chứ không phải con.”
Thánh Augustinô ngụ ý gì khi viết: “Những gì chúng ta phải cầu
nguyện đã có trong Kinh Lạy Cha, còn những gì không có trong đó phải chăng
chúng ta không phải cầu nguyện?”
Kinh Lạy Cha có thể học thuộc lòng rất nhanh, nhưng thấm vào
lòng lại chậm chạp (F.D. Maurice).
13. Thuộc kinh không quan trọng
Một ngày nọ, sau khi tham dự thánh lễ, một môn sinh trẻ nói với
vị thày: “Con đã đọc quyển Kinh Thánh đến chín lần.” Vị thày không nói gì. Người
môn sinh lặp lại như lần trước. Lúc đó vị thày mới nhẹ nhàng nói: “Điều quan trọng
không phải là con thường đọc Kinh thánh, nhưng Kinh thánh thường tác động đến
con như thế nào?
Câu Kinh thánh nào tác động đến tôi nhiều nhất như kim chỉ nan
trong cuộc sống?
Giả như ta quẳng quyển Kinh thánh xuống đại dương, nghĩa vụ của
ta đối với Thiên Chúa vẫn không thay đổi. Đường đi không đổi, nhưng ta mất đi
người hướng đạo. Hành trình vẫn phải thực hiện, nhưng kim chỉ nam bị lạc hướng.(Henry
Ward Beecher)
14. Tìm ý Chúa
Khi đang đi dọc theo bờ biển, một phụ nữ phát hiện ra một con sò
nhỏ. Bà nhặt nó lên và nói: “Mi là món quà kỳ nghỉ Thiên Chúa gửi đến, ta sẽ
đem mi về và đặt trên bàn của ta.” Rồi khi mọi thứ trở nên náo động, mi sẽ bảo
ta: “Dừng lại ! Hãy tĩnh lặng ! Hãy thư giãn tam hồn !”
Điều này rất phù hợp với lời giáo huấn của Chúa Giêsu trong bài
đọc hôm nay. Lời cầu nguyện tốt nhất thường diễn ra khi ta ngồi thinh lặng và lắng
nghe trong sâu thẳm tâm hồn ta.
Tôi thoải mái thế nào với việc lắng nghe khi cầu nguyện? Làm thề
nào để được thoải mái hơn?
Càng lắng nghe tiếng nói tâm hồn bằng đức tin, bạn càng có thể
nghe được âm vang bên ngoài.(Dag Hammarskjld)
15. Cầu nguyện để thêm thân mật
Khi đang đi dọc theo bờ biển, một phụ nữ phát hiện ra một con sò
nhỏ. Bà nhặt nó lên và nói: “Mi là món quà kỳ nghỉ Thiên Chúa gửi đến, ta sẽ
đem mi về và đặt trên bàn của ta.” Rồi khi mọi thứ trở nên náo động, mi sẽ bảo
ta: “Dừng lại ! Hãy tĩnh lặng ! Hãy thư giãn tam hồn !”
Điều này rất phù hợp với lời giáo huấn của Chúa Giêsu trong bài
đọc hôm nay. Lời cầu nguyện tốt nhất thường diễn ra khi ta ngồi thinh lặng và lắng
nghe trong sâu thẳm tâm hồn ta.
Tôi thoải mái thế nào với việc lắng nghe khi cầu nguyện? Làm thề
nào để được thoải mái hơn?
Càng lắng nghe tiếng nói tâm hồn bằng đức tin, bạn càng có thể
nghe được âm vang bên ngoài.(Dag Hammarskjld)
16. Ý riêng và cầu nguyện
Sau khi nghe bài giảng của một nhà truyền giáo, một cô gái giơ
tay hỏi: “Thưa Ngài, xin cho biết cách nào vừa sống theo đường lối Chúa vừa vẫn
theo đường lối riêng của mình?” Nhà truyền giáo bí không trả lời nổi. Có lẽ đó
cũng là câu chúng ta thường tự hỏi. Mà cứ hỏi như thế thì sẽ không bao giờ trả
lời được, bởi vì làm thế nào có thể đi đường của Chúa mà vẫn giữ lại con đường
ý riêng mình cho được! (Christian Youth)
Nhiều người nghĩ rằng sống theo ý Chúa thật là khó. Thực ra điều
này thoải mái và dễ chịu như nằm trên một chiếc gối bông, bởi vì ta không thể
chọn được thứ gì tốt cho bằng thứ Chúa đã chọn sẵn cho ta, không thể nhắm tới
thứ gì hay cho bằng thứ Chúa đã nhắm sẵn cho ta, sống theo ý Chúa thì ta không
còn gì phải lo, và không có gì an toàn hơn được. (Gospel Herald).
17. Ý riêng và cầu nguyện
Một du khách đến cầu nguyện bên cạnh bức tường gọi là “bức tường
than khóc”, dưới chân nền Đền thờ xưa kia của thành Jêrusalem. Trước hết du
khách cất tiếng kêu xin:
– Lạy Chúa là cha chúng con, xin Chúa làm cho thế giới này không
còn nghèo khổ và đói khát nữa.
Nghe du khách cầu nguyện như vậy, người hướng dẫn viên Do Thái
khuyến khích:
– Thật là một lời nguyện hay! Ông hãy cầu nguyện thêm một lời nữa
đi!
Du khách trở lại bên bức tường và cầu nguyện thêm:
– Lạy Chúa, xin cho giặc giã, chiến tranh không còn trên mặt đất
này.
Anh hướng dẫn viên Do Thái lại khuyến khích người du khách thêm
một lời nguyện nữa cho hòa bình trên thế giới. Người du khách liền sốt sắng tiếp
theo:
– Lạy Chúa, xin cho cuộc tranh chấp hiện nay tại Trung đông được
giải quyết tốt đẹp, cho người Ả-Rập và Do Thái được sống chung hòa bình, và cho
người Do Thái biết trả lại cho người Ả-Rập tất cả những đất đai họ đang chiếm
đóng.
Nghe đến đây, anh hướng dẫn viên Do Thái vội vàng ngắt lời người
du khách với một giọng giận dữ: – Xin lỗi ông, ông đang nói chuyện với bức tường
đấy!
Nói thế rồi anh ta vội kéo du khách đi nơi khác.
18. Xin cho ý Cha được thể hiện
Người thanh niên tên là Tony Melendez bỗng trở nên quen thuộc với
nhiều người, kể từ khi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến viếng thăm tiểu bang
California bên Hoa Kỳ, dạo mùa hè 1987. Nhiều người đã được chứng kiến buổi đón
tiếp Đức Thánh Cha hôm ấy và khó mà quên được hình ảnh vô cùng cảm động khi Đức
Giáo Hoàng từ lễ đài cao bước xuống để ôm và hôn một người thanh niên đang hát
với tiếng đàn ghi ta của mình. Điều gì đã làm cho cảnh ấy trở nên khác lạ và
giây phút ấy trở nên luyến nhớ cho nhiều người? Thưa rằng, bởi vì người thanh
niên ấy đã chơi đàn ghi ta bằng những ngón chân của mình!
Tony Melendez là hiện thân của niềm hy vọng. Anh đã chào đời
không có hai cánh tay, nhưng anh đã biết tận dụng các ngón chân của mình để học
đàn ghi ta. Không những thế, anh còn dùng chân vào nhiều công việc khác nữa
như: gấp quần áo, vắt một ly nước chanh… Anh đã biết biến sự tàn tật kém may mắn
của mình thành một khả năng thuần thục. Ngạc nhiên trước khả năng lạ lùng ấy của
anh, nhiều người đã hỏi anh:
– Bí quyết nào đã giúp anh chẳng những chấp nhận mình để sống
bình thường, mà còn sử dụng ghi ta một cách tuyệt diệu như thế?
Người thanh niên tàn tật trả lời:
– Tôi đã cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, xin nhận lấy con và
dùng con theo Thánh ý Chúa. Tôi đã tự hiến cho Chúa như một của lễ sống động và
Chúa đã nhận lời tôi.”
THỨ TƯ - DẤU LẠ CỦA THIÊN CHÚA
Lời Chúa: Lc 11, 29-32
Khi ấy, thấy dân chúng từng đoàn lũ tụ tập lại, Chúa Giêsu phán
rằng: “Dòng giống này là dòng giống gian ác. Chúng đòi điềm lạ, nhưng sẽ không
ban cho chúng điềm lạ nào, ngoài điềm lạ của tiên tri Giona.
Vì Giona đã nên điềm lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con
Người cũng sẽ là điềm lạ cho dòng giống này như vậy. Ðến ngày phán xét, nữ
hoàng phương nam sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này, vì bà đã từ tận
cùng trái đất mà đến nghe sự khôn ngoan của Salomon. Nhưng ở đây còn có người
hơn Salomon. Dân thành Ninivê cũng sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này,
vì họ đã sám hối theo lời Giona giảng, nhưng ở đây còn có người hơn Giona nữa."
TRUYỆN KỂ
1. Phép lạ và dấu lạ
Giáo Hội Công Giáo luôn tin có phép lạ, nhưng trong thực tế lại
tỏ ra vô cùng thận trọng trong việc nhìn nhận các phép lạ; cụ thể là những gì
đã và đang xảy ra tại Trung tâm Thánh Mẫu Lộ Ðức bên Pháp: từ hơn 100 năm nay,
đã có trên 2,000 trường hợp khỏi bệnh được nhiều người xem là phép lạ, nhưng
cho tới nay, Giáo Hội Công Giáo chỉ chính thức nhìn nhận 65 vụ thực sự là phép
lạ theo đúng nghĩa mà thôi.
Thế nào là phép lạ? Theo quan niệm thông thường, khi một sự kiện
có giá trị tích cực không thể giải thích được thì đó là phép lạ. Những người có
niềm tin tôn giáo thì cho rằng phép lạ là một sự can thiệp của Chúa.
Ngài đã nhập thể làm người và sống cho đến tận cùng thân phận
làm người. Cái chết trên thập giá vốn là tuyệt đỉnh của thân phận làm người, do
đó trở thành dấu lạ cả thể nhất mà Thiên Chúa đã thực hiện, đó là dấu lạ của
tình yêu.
Tình yêu vốn là sức mạnh vĩ đại nhất, nhưng thường lại được bày
tỏ qua những cử chỉ nhỏ bé và âm thầm nhất. Một nụ cười thân ái, một cái xiết
tay, một lời an ủi, một cử chỉ tử tế, một ánh mắt cảm thông và tha thứ, đó là
những cử chỉ nhỏ, nhưng lại là biểu hiện của dấu lạ cả thể nhất là tình yêu.
2. Dấu lạ để thức tỉnh
Một học giả kia rất thông thái nhưng cũng rất đãng trí. Một hôm
ông cưỡi lừa đi thăm một người bạn. Dù đang cưỡi lừa, ông vẫn cứ dán mắt vào
quyển sách, tay buông lỏng dây cương. Do đó con lừa sau khi đi một đoạn đường
đã quay trở lại chính ngôi nhà của ông. Ông tưởng đó là ngôi nhà của người bạn.
Ông nhìn ngôi nhà từ trên xuống dưới, từ trước tới sau, và kết luận: “Ông bạn của
ta cẩu thả quá, nhà hư gần sập tới nơi mà không sửa sang gì cả."
Vợ ông bước ra tiếp lời: “Ông nhận xét đúng đấy. Nhưng đây là
ngôi nhà của chính ông."
Nhiều người rất sáng về chuyện người khác, nhưng rất mù về những
khuyết điểm của chính mình.
3. Để làm chứng
Khi được hỏi làm sao để có thể giúp đỡ cho rất đông người nghèo
khó như vậy, Mẹ Têrêsa Calcutta trả lời: “Chúng tôi không phục vụ để thành
công, chúng tôi phục vụ để làm chứng cho sự hiện diện của Thiên Chúa Tình
yêu."
Trong niềm tin của người Do thái, câu chuyện tiên tri Giona là một
câu chuyện lạ lùng. Ông là một người nước ngoài, nhưng đã đến thành Ninivê để
loan báo Lời Thiên Chúa. Dân ở đây tin tưởng ông và hoán cải. Đức Giêsu cũng đã
đến, đã làm nhiều phép lạ và kêu gọi dân sám hối, nhưng họ không nghe vì không
tin Người đến từ Thiên Chúa.
4. Hai chữ S và T.
Tại một miền quê ở nước Mỹ vào thời mới lập quốc, có hai anh em
nhà kia bị bắt quả tang đang ăn cắp cừu, dân chúng trong làng đã mở tòa án nhân
dân để trừng phạt.
Sau khi nghe báo cáo về tội trạng của họ, mọi người nhất trí trừng
phạt bằng cách khắc trên trán tội nhân hai cữ viết tắt ST, có nghĩa là “kẻ trộm
cừu” (sheep thief). Người ta đã dùng sắt nung đỏ khắc trên trán họ hai chữ ST rồi
thả về. Hai chữ ST thành hai vết sẹo rõ ràng trên trán họ, khiến họ xấu hổ vô
cùng. Vì thế, một trong hai người ăn trộm không chịu nổi sự xỉ nhục nên đã trốn
sang một vùng khác để sống. Nhưng anh không thể xóa nhòa được hai chữ viết tắt
trên trán của mình. Bất cứ người lạ nào gặp anh đều hỏi anh về ý nghĩa của hai
chữ ấy. Một lần nữa, không chịu nổi sự nhục nhã, anh lại rời bỏ nơi ấy và lang
thang sang miền khác, nhưng đến đâu anh cũng bị người ta hỏi về hai chữ tắt ấy.
Cuối cùng mòn mỏi trong cay đắng anh đã bỏ mình nơi đất khách quê người.
Đó là người anh, còn người em thì sao? Anh ta nghĩ rằng: “Nếu
anh mình đã bị sự nhục nhã gậm nhấm đến độ phải trốn suốt cả cuộc đời, thì anh
lại tự nói với mình, tôi không thể bỏ trốn chỉ vì ăn cắp mấy con cừu, tôi phải ở
lại đây và tôi phải tạo lại sự tin tưởng nơi những người xung quanh và nơi
chính tôi." Với quyết tâm đó, anh đã ở lại trong xứ sở của mình, và không
bao lâu anh đã xây dựng được cho mình một sự nghiệp cũng như danh thơm của một
người thanh liêm chính trực.
Nhưng cho dù năm tháng có qua đi, hai chữ ST vẫn còn ghi đậm tên
vầng trán của anh. Ngày kia, một người lạ mặt hỏi cụ già trong làng về ý nghĩa
hai chữ viết tắt ấy. Cụ già suy nghĩ một lúc rồi trả lời: “Tôi không nhớ rõ lai
lịch của hai chữ viết tắt ấy, nhưng cứ nhìn vào cuộc sống của người đó, tôi
nghĩ rằng chữ viết tắt ấy có nghĩa là “ông thánh” (saint viết tắt là ST).
5. Giá trị của lòng sám hối
Đức Cha Pierre de Corbeille Tổng Giám Mục giáo Phận Seine nước
Pháp, một ngày nọ thấy một tội nhân đến quì sụp dưới chân ngài để xin xưng tội.
Anh ta tha thiết van nài ngay từ đầu là xin ngài hãy bắt anh nhận một việc đền
tội thật nặng.
Sau khi nghe xưng thú, Đức Cha bảo:
- Tất cả tội lỗi của con hết sức nghiêm trọng. Vì vậy theo như ý
con mong muốn, ta ra việc đền tội cho con là phải tự đánh đòn mỗi ngày trong 7
năm.
Anh ta ngước mắt lên khóc ròng:
- Thưa Đức cha, như thế vẫn còn quá nhẹ, không đủ đền bù tội lỗi
của con, con xin được làm việc ấy vĩnh viễn cho đến chết!
Đức Cha nghe vậy thì chậm rãi bảo anh:
- Vì tấm lòng thành của con, ta quyết định bớt cho con: chỉ còn
ba năm phải ăn chay và uống nước lã!
Thế nhưng, anh ta lại đấm ngực thổn thức:
- Thưa không, lạy Đức Cha, việc đền tội như thế chưa cân xứng với
tội lỗi con đã phạm. Nói cho cùng con chỉ xứng đáng lãnh nhận cái chết mà thôi!
Cảm động trước lòng ăn năn thống hối của anh ta, Đức Cha Pierre
de Corbeille đã đỡ anh ta dậy, nhìn thẳng vào đôi mắt đẫm lệ của anh rồi bảo:
- Này con thân yêu, việc đền tội của con bây giờ chỉ còn là đọc
một kinh lạy Cha, chỉ một kinh lạy Cha thôi. Ta tin chắc Thiên Chúa sẽ hài lòng
về con!
Quả thật, dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng
lòng sám hối. Bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có
sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp tình yêu.
6. Nước Trời vui mừng
Tạp chí kinh tế Viễn Đông mới đây có ghi lại chuyện tự nộp mình
rất đáng khâm phục của một tên cướp như sau: Một đêm nọ, vì quá mỏi mệt với cuộc
sống chui lủi, tên cướp khét tiếng đã ra đầu thú. Trước thái độ hồ nghi của
viên công an trực, tên cướp đã chỉ vào vết sẹo để khẳng định rằng, chính mình
là người đã từng bị lực lượng an ninh tầm nã trong mấy tháng qua. Nhân viên
công an vẫn tiếp tục nghi ngờ, nhất định không cho anh vào khám, còn kẻ cướp
thì dứt khoát không chịu bỏ đi. Phải đợi đến sáng hôm sau, các viên chức công lực
mới nhận diện được người mà họ đã truy nã trong mấy tháng qua.
Tên cướp cho biết, anh đã kiệt sức vì cuộc chạy trốn, hằng đêm
anh không thể ngủ yên khi nghe tiếng chó sủa, ngay cả tiếng gà gáy. Bước vào
phòng giam, tên cướp nhìn vào viên công an trực của đêm hôm trước với vẻ đắc thắng.
Mọi người chúng ta đều là tội nhân. Vì thế mà từng người chúng
ta cần phải sám hối. Việc sám hối như thế sẽ làm vui lòng Thiên Chúa và thần
thánh trên trời. Chúa Guêsu nói: “Cả Thiên Đàng sẽ hân hoan vì một tội nhân hối
cải” (Lc 15,7).
7. Đời thay đổi khi nhận biết ơn Chúa
Ông Barty vốn dĩ là người Công Giáo, nhưng không nhận ra ơn Chúa
gọi ông, đặc biệt từ khi ông lãnh Bí tích Thánh Tẩy, ông đã được nhận sứ mệnh
tư tế, ngôn sứ, vương đế, để ông loan báo kỳ công của Thiên Chúa không thua các
tạo vật.
Thế mà ông đã vô ơn Chúa sống không lý tưởng, không tìm được ý
nghĩa niềm vui trong cuộc sống, dù ông rất giàu có. Ông muốn tự tử, nhưng sợ
không có ai chôn ông, nên ông đã bỏ ra 200. 000 dollars để trả công cho người
thanh niên, sau khi ông xuống hố nằm mà sáng hôm sau anh chàng không thấy ông
bò dậy thì lấy xẻng lấp đất. Nhưng người thanh niên không có can đảm làm việc ấy.
Ông lại nhờ một Linh mục trẻ giúp ông, nhưng Linh mục ấy cho ông
biết: ông tự tử như thế là vi phạm điều răn thứ V, nên Linh mục không thể làm
theo yêu cầu ông được. Ông nói lại: Sống không hạnh phúc, chỉ gây u sầu cho những
người xung quanh, thì tội ấy nặng hơn tự tử.
Ông lại đi thuê một người làm trong Viện Bảo tàng, người này nói
với ông: tôi làm trong Viện này, nhìn thấy các vật cổ Chúa đã cho người ta khéo
tay để họa lại những kỳ công Chúa thực hiện nơi vạn vật. Tôi cảm thấy mình đang
sống trong ơn huệ Thiên Chúa, Ngài đã làm bao nhiêu phép lạ bao phủ lấy tôi.
Cho nên tôi không nhận tiền công của ông để chôn sống ông được!
Thế là ông Barty phải tự sát, vì không ai giúp ông chết, ông
quàng dây thừng lên cây dâu và thắt thòng lọng để chui đầu vào đó. Nhưng chính
lúc ấy, tay ông lại động vào trái dâu chín mọng,ông nếm thử và chưa thấy có
trái nào ngọt lịm như vậy, lúc đó ông mới ngộ ra rằng Chúa đâu có phải cho mình
một trái dâu, mà Ngài cho cả vũ trụ này, nhất là “Chúa ban Con Một Người, ngõ hầu
ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi, nhưng được sự sống đời đời” (Ga 3,16).
Thế là ông từ bỏ ý định tự tử.
8. Có tin mới thấy
Con người ngày nay có thể lên tận cung trăng và xa hơn nữa, và tuyên
bố rằng không thấy Thiên Chúa đâu cả! Giống như những người Pha-ri-sêu đòi dấu
lạ để tin, dù đã thấy bao phép lạ Chúa làm, thế mà rốt cuộc, họ có tin đâu! Đức
tin là hồng ân Chúa ban, cùng với sự tự do đáp trả của con người, với thái độ
khiêm tốn, cởi mở, xóa bỏ mọi thành kiến.
Không cần đến những quảng cáo rầm rộ phô trương, chính cuộc Nhập
Thể, cái chết và sống lại của Đức Giê-su, sự hiện diện của Ngài trong bí tích
Thánh Thể đã là những phép lạ lớn lao, những phép lạ của tình yêu, có thể biến
đổi cuộc sống của những ai tin, và dám sống hết mình với niềm tin ấy.
Đừng chạy theo thế giới tục hóa, chỉ tin vào hiệu năng của khoa
học, đòi Thiên Chúa làm phép lạ để tin. Phép lạ vẫn diễn ra hằng ngày trong đời
bạn, trong thế giới. Cần những phút thinh lặng để lắng nghe và nhận ra Thiên
Chúa đang bày tỏ lòng yêu thương bạn. Biết Ngài yêu thương bạn, bạn hãy đáp lại
và tin vào Ngài.
9. Tin là bắt tay vào việc
Có một truyện vui về một cụ già thấy một con chim sẻ đang nằm chỗng
chân lên trời. Cụ già hỏi con chim sẻ: “Tại sao lại nằm như thế?” Chim sẻ nói rằng:
“Người ta bảo rằng hôm nay trời sẽ sập.” Cụ già cười ầm lên và nói: “Mình nghĩ
là đôi chân bé nhỏ của ngươi có thể chống trời được sao?” Chim sẻ đáp: “Không
nhưng tôi phải làm những gì có thể.”
Đến lúc phải loan báo Tin mừng, theo triết lý của kẻ đầu hàng:
“Người như tôi thì làm được gì?” Hay theo triết lý của con chim sẻ: “Tôi phải
làm những gì có thể.”
Thất bại duy nhất là không chịu cố gắng.
10. Tin là thống hối
Thiên Chúa sai ngôn sứ Giôna đến cảnh tỉnh dân thành Ninivê rằng
nếu không thống hối, họ sẽ bị trừng phạt. Chúa Giêsu so sánh lời rao giảng của
Giôna cho dân Ninivê với lời giảng dạy của Ngài cho dân Israel. Nhưng dân
Israel đã không thống hối như dân Ninivê. Điều này giải thích tại sao Chúa Giêsu
nói: “Trong ngày Phán Xét, dân thành Ninivê sẽ chỗi dậy để kết án các ngươi.”
Tôi đã lắng nghe lời kêu gọi thống hối của Chúa Giêsu nghiêm chỉnh
đến mức nào? Tôi đã biểu hiện cụ thể ra sao để chứng tỏ tôi đã nghiêm túc thống
hối?
Trong tất cả các hành động của con người, thống hối là hành động
thánh thiêng nhất. (Thomas Caryle)
11. Tin thì sám hối, sám hối thì hoán cải
Chúa Giêsu thường dùng hình ảnh so sánh thật đậm nét khiến cho
không ai có thể hiểu sai sứ điệp của Ngài. Vị trí của dân thành Ninivê ở rất xa
trong chương trình cứu chuộc so với dân Ítraen, dân riêng của Chúa. Còn ngôn sứ
Giôna dẫu sao cũng chỉ là sứ giả, hoàn toàn không thể so sánh với Đức Kitô: “Ở
đây còn hơn ông Giona nữa.” Nếu như dân Ninivê đã sám hối ngay khi vừa nghe
Giona rao giảng, thì dân riêng của Chúa còn phải sám hối cách mau mắn và triệt
để hơn biết bao!
Công Đồng Trentô định nghĩa: “Sám hối là cảm thấy đau buồn gớm
ghét tội đã phạm và quyết chí chừa cải” (DZ. 1676).
12. Bỏ mồi bắt bóng
Cha James F. Keenan, Dòng Tên, khai triển một luận đề luân lý rất
thú vị rằng “người ta phạm tội vì họ quá mạnh chứ không phải vì họ quá yếu.”
Nghịch lý này còn được thấy nơi nhiều trường hợp khác nữa. Thiếu, không phải vì
thiếu, mà vì có quá nhiều. Như cá giữa đại dương mà loay hoay đi tìm… nước! Như
người Việt Nam ta từng bị mang tiếng là ‘chết trên đống thuốc’ (có ý nói rất
nhiều cây cỏ quen thuộc của chúng ta là những vị thuốc quí giá mà ta không ngờ!).
Chung qui, vấn đề nằm ở chỗ hoặc do người ta vô minh, hoặc do bướng bỉnh, hoặc
do cả hai. Đây cũng là vấn đề của những người Do Thái thời Đức Giêsu. Họ có điều
quí nhất trong tầm tay, nhưng họ không nhận ra, và họ mải kiếm tìm những thứ
khác thôi.
Nhìn lại những kinh nghiệm ‘bỏ mồi bắt bóng’ trong cuộc đời
mình. Phải chăng chỉ khi sực tỉnh, ta mới thấy rõ rằng mình dại? Ta sẽ đi tìm
ánh sáng và sự khôn ngoan đích thực ở đâu, nếu không phải nơi Lời Chúa vốn luôn
trong tầm tay ta? Ta sẽ tìm sự sống và sức mạnh tinh thần ở đâu, nếu không phải
là nơi Thịt Máu Chúa vốn được trao ban cho ta mỗi ngày?
Mỗi ngày, tiếp cận với Lời Chúa và cử hành Thánh Thể, ta ý thức
rằng mình đang có được điều quí nhất có thể có dưới gầm trời này.
13. Dân Ninivê tin vào Chúa…
Một tạp chí đăng hình những tù nhân trong một chương trình cải tạo
lao động. Họ đang trùng tu một ngôi nhà. Vài ngày sau, một trong số tù nhân viết
cho tờ báo rằng lần cuối cùng anh ta được đăng hình trên báo là lúc anh ta bị kết
án. Anh viết: “Thật là niềm vui khi thấy hình mình trên tờ báo đang làm việc tốt.
Khi vào tù, tôi giống như ngôi nhà chúng tôi vừa trùng tu. Nhưng Thiên Chúa chịu
trách nhiệm về đời tôi và biến đổi tôi thành một người mới trong Chúa Kitô.”
Câu chuyện về dân Ninivê và người tù mời gọi tôi tự hỏi: tôi có
sẵn sàng để Thiên Chúa đi vào cuộc đời tôi và đổi mới tôi thành con người mới
trong Chúa Kitô không?
Phàm ai ở trong Chúa Kitô đều là thụ tạo mới. Cái cũ đã qua, và
cái mới đã có đây rồi. (2Cr 5,17)
14. Chúa đặt hy vọng vào mọi người
Một truyền thuyết cổ phác họa những gì xảy ra bên ngoài cổng
thiên đàng sau ngày tận thế. Nhóm các thánh và những tội nhân thống hối cuối
cùng vừa leo lên chiếc thang vàng nối từ đất lên trời. Ngoại trừ Chúa Giêsu, tất
cả đều mang tâm trạng phấn khích, ca hát và nhảy múa. Ngài đứng một mình trên đỉnh
thang và nhìn xuống trần gian. Rõ ràng là Ngài đang tìm một ai đó. Khi một vị
thánh hỏi Ngài tìm ai, Chúa Giêsu nói: “Ta tìm Giuđa, hy vọng anh ta sẽ hoán cải
trước khi chết và có thể nhập đoàn với chúng ta.”
Câu chuyện trên nói lên điều gì? Nó nói với tôi điều gì về một
con người được yêu thương?
Không có gì là vô vọng, ngoại trừ kẻ trở nên vô vọng về chính
mình. (Chare Booth Luce)
15. Dấu lạ của lòng thương xót
Sau người Do Thái mấy ngàn năm, chúng ta vẫn còn khó thoát ra khỏi
cơn cám dỗ khoanh tay chờ Chúa làm phép lạ. Mỗi khi gặp cảnh khó khăn, chúng ta
thường ao ước Chúa ra tay quyền phép can thiệp cách đặc biệt để giải cứu; hoặc
khi chịu cảnh bất công, chúng ta thường ước chi Chúa lấy “lửa từ trời” trừng trị
nhãn tiền những kẻ áp bức. Có như thế những kẻ làm ác mới khiếp sợ và chúng ta
mới cảm thấy hả hê. Nhưng Chúa không ban cho chúng ta “dấu lạ” để trình diễn
cũng không làm phép lạ như một hình thức báo thù. Dấu lạ Giôna trước hết là dấu
lạ của lòng Chúa thương xót: Ông ở trong bụng cá ba ngày và được cứu thoát là để
loan báo lòng thương xót của Chúa, để rao giảng sự sám hối để được cứu độ. Dấu
lạ Giôna được tiếp nối bởi dấu lạ Ninivê, dấu lạ của lòng sám hối: đó là lời
đáp trả của con người trước lòng thương xót của Thiên Chúa.
Mời bạn nhìn lại cách bạn lãnh nhận bí tích hoà giải: Bạn đi
xưng tội theo kiểu hưởng ứng phong trào hay như một thủ tục phải có trước những
ngày lễ lớn? Có bao giờ bạn cảm nhận lòng thương xót của Chúa đánh động bạn khiến
bạn cảm thấy thúc bách phải thống hối trở về với Ngài không?
Trong công thức xá giải, linh mục đọc: “Xin Chúa dùng tác vụ của
Hội Thánh để ban cho con ơn tha thứ và bình an.” Bạn có cảm nghĩ gì về “ơn tha
thứ và bình an” mà bạn nhận được trong bí tích giải tội?
Hãy lãnh nhận bí tích hoà giải thường xuyên, đừng đợi đến các dịp
lễ lớn.
THỨ NĂM -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
THỨ SÁU - THA THỨ
Lời Chúa: Mt 5, 20-26
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Nếu các con không
công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời
đâu.
Các con đã nghe dạy người xưa rằng: Không được giết người. Ai giết
người, sẽ bị luận phạt nơi toà án. Còn Ta, Ta bảo các con: Bất cứ ai phẫn nộ với
anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt. Ai bảo anh em là “ngốc”, thì bị phạt
trước công nghị. Ai rủa anh em là “khùng”, thì sẽ bị vạ lửa địa ngục.
Nếu con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em
đang có điều bất bình với con, thì con hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm
hoà với người anh em con trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ. Hãy liệu làm
hoà với kẻ thù ngay lúc còn đi dọc đường với nó, kẻo kẻ thù sẽ đưa con ra trước
mặt quan toà, quan toà lại trao con cho tên lính canh và con sẽ bị tống ngục.
Ta bảo thật cho con biết: Con sẽ không thoát khỏi nơi ấy cho đến khi trả hết đồng
bạc cuối cùng!”
TRUYỆN KỂ
1. Tha thứ
Vào thời thế chiến thứ nhất, khi nhận được tin con trai yêu quí
của mình tử trận, nữ bá tước Litsi rất đau khổ và hầu như mất cả nghị lực. Tuy
nhiên bà vẫn cố gắng lao mình vào việc chăm sóc bệnh nhân trong bệnh viện do bà
sáng lập.
Một ngày nọ, một binh sĩ Đức được chở tới bệnh viện. Dù người
lính này thuộc phe đối nghịch nhưng bà vẫn tận tình săn sóc. Khi soạn đồ đạc của
anh, bà thấy chiếc ví và đồng hồ của con trai mình trong túi áo người lính. Vừa
bàng hoàng, vừa tức giận, bà đã thốt lên: “Đây đúng là kẻ đã giết con
tôi." Nhưng ngay lúc đó một mảnh giấy trong chiếc ví của con bà rơi ra, bà
vội nhặt lên đọc; nét chữ quen thuộc đập vào mắt bà: “Mẹ yêu quí, con luôn nhớ
đến và cầu nguyện cho mẹ. Nếu chẳng may con tử trận, xin mẹ đừng quá đau buồn,
hãy can đảm chịu đau khổ và cầu nguyện cho con." Sau một hồi xúc động, bà
cúi xuống tiếp tục săn sóc người lính một cách tận tình. Những giọt nước mắt
tha thứ trào ra từ đôi mắt bà.
2. Sự thánh thiện đích thực
Chân phước Marchello, một kỹ nghệ gia giàu có người Italia, đã
bán hết tất cả gia sản và sang Châu Mỹ La tinh phục vụ những người phong cùi,
có kể lại câu chuyện như sau:
Tại một viện bài phung giữa rừng già miền Amazone, có một người
đàn bà thoạt nhìn qua ai cũng thấy đáng thương. Từ nhiều năm qua, vì phong cùi,
bà bị chồng con bỏ rơi, bà sống đơn độc trong một túp lều gỗ, mặt mũi đã bị đục
khoét đến độ không còn hình tượng con người nữa.
Mang đến cho bà vài món quà, chân phước Marchello hỏi bà:
- Bà làm gì suốt ngày? Có ai đến thăm bà không?
Người đàn bà trả lời:
- Tôi sống đơn độc một mình. Tôi không còn làm được gì nữa, tay
chân bại liệt, mắt mũi lại chẳng còn trông thấy gì nữa.
Marchello tỏ ra cảm thông trước nỗi khổ của bà, ngài hỏi:
- Vậy chắc bà phải cô đơn buồn chán lắm phải không?
Người đàn bà liền nói:
- Thưa ngài, không. Tôi cô độc thì có, nhưng tôi không hề cảm thấy
buồn hoặc bị bỏ rơi, bởi vì tôi cầu nguyện suốt ngày và tôi luôn cảm thấy có
Chúa bên cạnh.
Ngạc nhiên về lòng tin của bà, chân phước Marchello hỏi tiếp:
- Thế bà cầu nguyện cho ai?
Người đàn bà như mở to được đôi mắt mù lòa, bà nói:
- Tôi cầu nguyện cho Ðức Giáo Hoàng, cho các Giám Mục, Linh mục,
Tu sĩ. Tôi cầu nguyện cho những người phong cùi bị bỏ rơi, cho các trẻ em mồ
côi, cho tất cả những ai giúp đỡ trung tâm này.
Chân phước Marchello ngắt lời bà:
- Bà không cầu nguyện cho bà sao?
Với một nụ cười rạng rỡ, người đàn bà quả quyết:
- Tôi chỉ cầu nguyện cho những người khác mà thôi, bởi vì khi
người khác được hạnh phúc, thì tôi cũng được hạnh phúc.
3. Hoàng đế Othon làm hòa với em.
Dưới thời Hoàng đế Othon I, các vương hầu nổi lên làm loạn nhiều
lần. Đặc biệt chính bá tước Henri, em ruột của Hoàng đế lại là kẻ cầm đầu quân
phản loạn. Nhiều lần bị Hoàng đế đánh bại, ba lần bị lên án tử hình, nhưng được
ân xá nhờ lời cầu khẩn của hoàng thái hậu Mathilde. Lần thứ tư Henri lại nổi loạn,
bị bắt, lại bị xử tử hình. Hoàng để nổi giận không muốn nghe sự thỉnh cầu của bất
cứ ai. Mặc dầu biết mất hết mọi hy vọng, nhưng Henri cố gắng lần cuối.
Đó là hôm áp lễ Noel năm 945, Hoàng đế và các vương hầu khanh tướng
đến dự lễ tại nhà thờ chính tòa Quellimbourg. Đến phần Phụng vụ Lời Chúa, bá tước
Henri mặc áo nhặm xuất hiện trong nhà thờ, tiến đến và sấp mình dưới chân Hoàng
đế để xin tha mạng, nhưng Othon nhìn bá tước nghiêm khắc và nói: “Ba lần ta đã
tha chết cho ngươi mà ngươi vẫn cố tình, đừng xin xỏ nài nỉ gì nữa, ba ngày tới
đầu ngươi sẽ rơi." Đang lúc đó vị chủ tế mở sách Phúc âm và đọc đoạn thánh
Phêrô hỏi Chúa: “Lạy Thầy, con phải tha cho anh em bao nhiêu lần? Có phải 7 lần
không”? Chúa đáp: “Ta không nói với con là 7 lần mà là 70 lần 7."
Nghe lời đó, Hoàng đế rúng động tâm can đến phát khóc và không
những Hoàng đế tha mạng cho đứa em phản loạn, mà còn ôm vào lòng rồi ban cho em
lãnh thổ Bavier nữa (Quê Ngọc, Dấu ấn tình yêu, năm A).
4. Tin mừng thứ 5
Trong tác phẩm có tựa đề “Quyển Tin Mừng thứ 5”, tác giả, một
người Ý, đã tưởng tượng một câu chuyện như sau:
Ngày kia các thánh trên Thiên Đàng không còn chịu nổi sự xúc phạm
của con người đối với Thiên Chúa nữa, cho nên các ngài mới họp công nghị để tìm
cách chận đứng tội lỗi của loài người. Sau nhiều buổi họp, cuối cùng, các vị
thánh mới đồng thanh biểu quyết rằng: việc con Thiên Chúa chịu chết trên Thập
Giá vẫn chưa đủ để làm cho con người sáng mắt. Vậy, cần phải dùng đến sức mạnh
may ra mới trừng trị và thuyết phục được con người. Các ngài họp thành một đạo
binh hùng mạnh và xâm nhập vào trái đất. Chỉ trong nháy mắt, đạo binh các thánh
đã chinh phục được toàn bộ thế giới. Các ngài giao việc cai trị trái đất cho một
số người công chính còn sót lại giữa loài người. Còn các kẻ tội lỗi thì các
ngài tập trung tất cả về một thung lũng lớn. Tại đây, các ngài đã dựng sẵn một
giàn hỏa thiêu cực lớn để tiêu diệt tất cả bọn họ. Các ngài tin chắc rằng, sau
lần thanh lọc này, dòng giống con người trên mặt đất này sẽ chỉ còn lại những
người công chính mà thôi. Khi mọi việc đã sẵn sàng để tiến hành sự hủy diệt,
các thánh bỗng nhận thấy ở giữa đám người tội lỗi có một người đang vác Thập
Giá đi về phía giàn thiêu. Hắn đang ra hiệu cho những người khác đến giúp đỡ hắn.
Nhìn thấy cảnh tượng ấy, các thánh càng bực tức hơn:
- Tại sao người tội lỗi này lại muốn được xử theo hình phạt chỉ
dành riêng cho Con Thiên Chúa?
Nghĩ thế, nên các thánh cho điệu kẻ vác Thập Giá đến, trói chân
tay hắn lại, rồi giải đến trước mặt thánh Phêrô để xin Ngài xét xử. Vừa nhìn
thoáng qua kẻ vác Thập Giá, vị thủ lãnh các tông đồ đã nhận ra đó chính là thầy
mình. Các thánh ngỡ ngàng khi nghe thánh Phêrô tiết lộ rằng:
- Con Thiên Chúa đang lẫn lộn giữa những người tội lỗi.
Lúc đó, các ngài mới nhớ lại lời của Chúa Giêsu: “Con người
không đến để cứu thoát những người công chính, mà chính là cứu những kẻ tội lỗi”
(Mt 9,13).
Trước sự ngỡ ngàng của các thánh, Chúa Giêsu nói: “Ta muốn chết
một lần nữa cho các tội nhân. Bởi vì trên trần gian không có người nào có thể cứu
thoát kẻ có tội khỏi cơn thịnh nộ của các thánh."
5. Túi khoai tây.
Vào một buổi học, thầy giáo chúng tôi mang vào lớp rất nhiều túi
nhựa và một bao khoai tây thật to. Thầy chậm rãi giải thích với mọi người rằng,
mỗi khi cảm thấy oán giận hoặc không muốn tha thứ lỗi lầm cho ai, hãy viết tên
của người đó lên một củ khoai tây rồi cho vào túi nhựa. Chúng tôi thích thú viết
tên những người mình không ưa hay ghét hận rồi cho vào túi. Chỉ một lúc sau,
chiếc túi nào của chúng tôi cũng đã căng nặng, đầy khoai tây. Thậm chí có người
một túi không chứa hết khoai, phải thêm một túi nhỏ kèm theo.
Sau đó, thầy yêu cầu chúng tôi hãy mang bên mình túi khoai tây
đó bất cứ nơi đâu và bất cứ lúc nào trong thời gian một tuần lễ. Đến lớp thì
mang vào chỗ ngồi, về nhà thì mang vào tận giường ngủ, thậm chí khi vui chơi
cùng bạn bè cũng phải đem theo.
Chỉ sau một thời gian ngắn, chúng tôi bắt đầu cảm thấy mệt mỏi
và phiền toái vì lúc nào cũng có một túi khoai tây nặng nề kè kè bên cạnh. Tình
trạng này còn tệ hơn nữa khi những củ khoai tây bắt đầu thối rữa, rỉ nước. Cuối
cùng, chúng tôi quyết định xin thầy cho quẳng hết số khoai ấy đi và cảm thấy thật
nhẹ nhàng, thoải mái trong lòng.
Lúc ấy, thầy giáo của chúng tôi mới từ tốn nói: “Các em có thấy
không, lòng oán giận hay thù ghét người khác đã làm chúng ta thật nặng nề và khổ
sở! Càng oán ghét và không tha thứ cho người khác, ta càng giữ lấy gánh nặng
khó chịu ấy mãi trong lòng. Lòng vị tha, sự cảm thông với những lỗi lầm của người
khác không chỉ là món quà quý giá để ta trao tặng cho mọi người, mà đó còn là một
món quà tốt đẹp mỗi chúng ta dành tặng bản thân mình."
Mẹ Têrêsa bảo: “Nếu thực sự muốn yêu thương, ta phải học cách
tha thứ."
6. Tha thứ là truyền đạo
Cha Giuse Đinh Quang Thịnh kể: Bà B, người Công Giáo, sáng nào
trước khi gánh xôi đi bán, bà cũng ra giếng trước nhà giặt một thau quần áo và
phơi lên dây ở gần đó. Lát sau có bà C, ngoại giáo, nhà sát bên cạnh bà B, sáng
sáng cũng đem quần áo giặt nhờ giếng của bà B. Một ngày nọ, sau khi giặt xong,
bà ngẩng lên thấy dây phơi đã đầy kín quần áo, bà liền đưa tay kéo hết quần áo
đang phơi còn nhỏ nước về một bên, rồi phơi quần áo nhà bà lên!
Vừa lúc ấy, bà B từ trong nhà đi ra, thấy thế liền chửi bà C kia
thậm tệ! Bà hàng xóm cũng đanh đá không kém, bà dùng những lời lẽ chẳng hay ho
gì để đấu khẩu với đối phương! Bà B tức quá xông đến giật tất cả quần áo của bà
C xé ra! Bà con lối xóm thấy thế chạy đến cản ngăn…!
Ít ngày sau đó, bà B đi dự lễ Chúa nhật, khi nghe cha đọc bài
Phúc Âm: “Khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em
đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm
hòa với người ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5, 23-24). Bà cảm thấy
hối hận vì hành vi của mình hôm trước, bà liền ra khỏi Nhà Thờ và đi một mạch tới
chợ mua một số bộ quần áo đưa đến nhà bà ngoại giáo ôn tồn nói:
- Chị à, tôi thật lòng xin lỗi chị, mấy hôm trước vì quá nóng
nên tôi đã nói những lời không hay với chị, nhất là tôi đã xé quần áo của các
cháu, bây giờ tôi xin chị tha thứ và nhận số quần áo này cho các cháu mặc đỡ!
Trước cử chỉ đó, bà C đứng sững người ra, nước mắt rưng rưng, bà
không dám nhận số quần áo đó, nhưng bà B cứ nài ép mãi bà mới chịu nhận. Thế rồi
cả hai bà ôm nhau khóc!
Từ ngày ấy về sau, hai gia đình trở nên thân thiết, có gì cũng
chia sẻ cho nhau. Hai bà sống như thế đã diễn tả lời thánh Phaolô dạy: “Kẻ thù
ngươi đói, hãy cho nó ăn; nó khát, hãy cho nó uống. Làm thế, như ngươi đã chất
than hồng trên đầu nó. Chớ để dữ thắng được ngươi, nhưng hãy lấy lành mà thắng
dữ!” (Rm 12, 20-21).
Chẳng bao lâu sau, gia đình bà C xin theo đạo Công Giáo, tình
nghĩa xóm làng càng thêm thắm thiết đậm đà!
7. Chuẩn mực của Chúa
Kỷ lục chạy 100m từ bao đời nay dường như không thể vượt qua ngưỡng
10 giây, nay đã liên tục bị phá đổ bởi Usain Bolt (Yu-sên Bôn), tay đua người
Jamaica biệt danh “Tia Chớp”, với 9.69 giây năm 2008, và tạm dừng ở mức 9.58
giây trong năm 2009. Với phương châm Olympic “nhanh hơn, cao hơn, xa hơn”,
không ai biết anh sẽ phá kỷ lục của chính mình tới mức nào. Cũng thế đối với đời
sống thiêng liêng mà thánh Phao-lô ví như một “cuộc chạy đua” (1Cr 9,24) trong
đó ta phải luôn nhắm thẳng tới đích (Pl 3,12-14) để “chạy hết chặng đường” và
“giữ vững niềm tin” (2Tm 4,7) thì Chúa Giê-su đưa ra phương châm “công chính
hơn”: không chỉ như “các kinh sư và người Pha-ri-sêu” mà phải là “nên hoàn thiện
như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).
Sống “công chính hơn” không hệ tại ở một số việc làm hình thức
bên ngoài mà ở cả tấm lòng yêu mến: không phải cứ dâng nhiều lễ vật lên Chúa là
đủ mà trước hết phải sống hoà bình với nhau; giới răn “chớ giết người” không chỉ
cấm xâm phạm mạng sống con người, mà còn đòi loại bỏ khỏi tâm trí mọi ý tưởng
giận ghét anh em nữa, bởi vì “ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân” (1Ga
3,15).
8. Tình yêu gieo bình an
Cuộc sống của Mary Ehrlichmann rơi vào vực thẩm sầu đau khi chồng
bà bị ám sát bởi những kẻ vô danh đi nhờ xe. Trong nỗi đau tột cùng, bà viết một
lá thư công khai cho những kẻ đã giết chồng bà như sau: “Nếu các người đọc được
thư này, hãy tìm một thánh đường, nơi mà các người có thể ở lại một mình, rồi đọc
lại một lần nữa. Hãy biết rằng Thiên Chúa đã tha thứ cho các người, cả gia đình
tôi và tôi cũng tha thứ cho các người, rồi hãy ra đi và làm điều gì đó có ích
cho quãng đời còn lại của các người.”
Đối với tôi, hành động tha thứ nào khó thực hiện nhất?
Tội lỗi không thể xóa bỏ được, điều chính yếu là tha thứ (Igor
Stravinsky).
9. Giận dữ là tự sát
Một con rắn bị bẫy có thể giận dữ đến độ cắn chính mình. Đó là
hình ảnh thích hợp để diễn tả điều gì sẽ xảy ra, nếu chúng ta để cơn giận làm
chủ chúng ta. Rốt cuộc, chúng ta tự hại mình, chứ không phải là kẻ thù hại
chúng ta. Càng ngày càng có nhiều bác sĩ khuyến cáo rằng nguyên nhân chính của
nhiều căn bệnh là do cơn giận không được kiềm chế. Thuốc sẽ vô hiệu, nếu bệnh
nhân không giải quyết được cơn giận của mình.
Tôi có gắng giải quyết cơn giận ra sao khi nó sục sôi trong tôi?
Tha thứ tiết kiệm cái giá phải trả do giận dữ, ghen ghét và lãng
phí năng lượng. (E.C.McKenzie)
10. Giận dữ là giải pháp xấu hơn
Ngay khi đèn giao thông bật xanh, động cơ xe hơi của một phụ nữ
bị chết máy. Khi bà ta không thể khởi động lại máy, người tài xế xe sau bà bắt
đầu nhấn còi. Bà ta cố gắng nhiều lần, nhưng không có kết quả. Lúc đó người tài
xế xe sau hết sức tức giận và nhấn còi inh ỏi. Cuối cùng, người phụ nữ ra khỏi
xe, đi về phía người tài xế và nói: “Tôi rất sẵn lòng nhấn còi dùm ông, nếu ông
khởi động hộ tôi chiếc xe.”
Sự bình tĩnh của người phụ nữ mời gọi tôi tự hỏi: Tôi có thể làm
gì để xoay sở những tình huống khó xử?
Phúc cho ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là Con Thiên
Chúa. (Mt 5,9)
11. Tự mãn là dừng tiến bộ
Steve Jobs, một thiên tài với khả năng sáng tạo dường như vô tận,
có một câu nói được nhiều người nhớ là: “Tôi nghĩ rằng nếu bạn làm được một điều
gì đó rất tốt, bạn nên đứng dậy và làm những thứ khác tuyệt vời hơn, thay vì ngồi
một chỗ tự mãn và tận hưởng chiến thắng. Hãy nghĩ xem cái gì nên được làm tiếp
theo.” Chỉ có cái chết mà ông gọi là “phát minh duy nhất, tuyệt vời nhất” mới
ngăn cản ông không làm được điều tiếp theo.
Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải “công chính hơn” những người
Pharisêu và các kinh sư vì họ cho rằng việc giữ luật Môsê của họ là quá tuyệt vời
rồi, không thể tốt hơn nữa. Trong khi đó Chúa dạy phải nên “hoàn thiện như Cha
anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Vì thế, các kitô hữu phải nỗ lực
để nên công chính hơn, bằng cách luôn hướng đến Chúa Cha, Đấng hoàn thiện, là
gương mẫu và cùng đích của mình.
Sự tự mãn là liều thuốc độc làm tê liệt mọi khả năng thăng tiến,
cách riêng trong đời sống thiêng liêng.
THỨ BẢY - YÊU MẾN THÙ ĐỊCH
Lời Chúa: Mt 5, 43-48
Khi ấy, Chúa phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đã nghe dạy:
Ngươi hãy yêu thân nhân, và hãy thù ghét địch thù. Còn Ta, Ta bảo các con: Hãy
yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con; hãy cầu nguyện cho những
ai bắt bớ và nguyền rủa các con, để như vậy các con nên con cái của Cha các
con, Ðấng ngự trên trời: Người khiến mặt trời mọc lên cho người lành kẻ dữ, và
cho mưa xuống trên người liêm khiết và kẻ bất lương.
Vì nếu các con yêu thương những ai mến trọng các con, thì các
con được công phúc gì? Các người thu thuế không làm như thế ư? Nếu các con chỉ
chào hỏi anh em mình thôi, thì các con đâu có làm chi hơn? Những người ngoại
giáo không làm thế ư?
Vậy các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Ðấng
hoàn hảo."
TRUYỆN KỂ
1. Yêu kẻ thù
“Tại sao anh lại bắn tôi
khi cả hai chúng ta đều tin vào sự hiện hữu của một Thiên Chúa duy nhất.”
Đó là một câu trong lá thư Đức Thánh Cha Gioan Phaolô định gửi
cho anh Ali Agca, người đã ám sát ngài vào ngày 13-5-1981 tại Rôma. Nhưng ngài
đã đích thân thăm anh trong tù năm 1983, và đã tha thứ cho anh.
Vào Đại Năm Thánh 2000, ngài đã xin Tổng Thống Ý cho anh được ân
xá. Điều đáng nói là anh đã chẳng bao giờ công khai xin ngài tha lỗi.
“Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù” (c.43). Đức Giêsu mời ta
vượt qua khuynh hướng tự nhiên là chỉ yêu kẻ yêu mình. Tình yêu Kitô vươn đến cả
những kẻ ghét và làm hại mình nữa.
Hãy yêu kẻ thù, nhưng yêu lại không phải là một tình cảm tự
nhiên. Yêu là một thái độ của lòng nhân được diễn tả bằng những hành động cụ thể.
Yêu là cầu nguyện cho kẻ bách hại, là chào hỏi và chúc bình an cho họ.
“Tôi luôn cầu nguyện cho người anh em đã bắn vào tôi”, Đức Gioan
Phaolô II đã tuyên bố như thế sau khi hồi phục.
Yêu kẻ thù làm chúng ta được ơn trở nên con cái Cha trên trời
(c. 45), trở nên giống Cha là Đấng ban mặt trời và mưa cho kẻ bất chính.
2. Là kẻ thù của chính mình
Đời nước Tề, có một người nằm mơ thấy có người đem gươm vào nhà
ông mắng chửi rồi giận dữ bỏ đi. Ông ta giật mình tỉnh dậy nhưng không tài nào
ngủ lại được. Sáng hôm sau, ông nói với người bạn: “Từ nhỏ đến giờ, tôi vốn là
người trí dũng, đến nay đã 80 tuổi, tôi chưa hề bị ai hạ nhục, thế mà đêm qua
có người đến làm nhục tôi, tôi cảm thấy bứt rứt và cố tìm gặp cho được người
đó, nếu không tôi phải chết mất."
Thế là ngay sáng hôm ấy, ông cùng với người bạn đi tìm kẻ thù.
Năm năm trôi qua mà ông vẫn chưa thấy được kẻ thù. Tức tối vì bị kẻ thù làm nhục,
hậm hực vì không tìm được kẻ thù, ông ta về nhà mất ăn mất ngủ mà chết.
Cicéron đã nói: “Con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của chính
mình”, vì con người tự tạo cho mình kẻ thù để rồi tự tiêu diệt chính mình.
Mỗi người là kẻ thù của chính mình. Mỗi khi chúng ta cưu mang
thù hận thì đó là lúc chúng ta tự tạo nên kẻ thù và tự tiêu diệt mình. Mỗi khi
chúng ta khước từ tha thứ và không thi ân cho những kẻ thù ghét bách hại chúng
ta, đó là lúc chúng ta tự giam hãm trong thù hận để tự huỷ hoại mình.
Kẻ thù khủng khiếp nhất, kẻ thù tiếp cận với con người nhất là
cõi lòng tích chứa thù hận. Nếu loại bỏ thù hận ra khỏi lòng mình, chúng ta sẽ
biến đổi kẻ thù thành bạn hữu, và lúc đó sự bình an và vui sống cũng được tái lập
trong tâm hồn chúng ta.
3. Vua nước Pháp không phải là công tước xứ Orléans
Khi vua Louis XII được tấn phong ở Reims, ông truyền đem lại
danh sách các kẻ thù nghịch của ông,. Khi đọc qua danh sách, ông đánh dấu thập
đỏ bên cạnh một số tên, nhất là những người chống đối ông khi ông còn là công
tước xứ Orléans. Những người vô phúc không được lòng sủng ái của vua đâm hoảng
sợ khi biết rằng không sớm thì muộn họ cũng sẽ bị thanh trừng. Do đó, họ tìm
cách lẩn tránh khỏi triều đình. Khi được báo cáo lý do rút lui của những người
này, vua Louis XII cười rộ lên và truyền lệnh gọi tất cả họ lại. Cơn sợ hãi của
họ càng tăng lên bội phần.
Nhưng nhà vua nói với họ: “Ta ngạc nhiên về sự rút lui bất chợt
và về lý do của sự đào thoát này của các người. Ta không hề bao giờ có ý hại
các người: Vị vua nước Pháp không can dự gì vào các tranh chấp của công tước xứ
Orleans. Hơn nữa, dấu thập đỏ mà ta đánh dấu bên cạnh tên của các người thay vì
kích thích ta trả thù các người, thì lại khuyến khích ta khoan dung. Đúng thế,
ta phải tha thứ các lỗi lầm mà các người đã làm cho ta, như Đức Giêsu Kitô trên
cây thập giá đã xin Cha Người tha thứ cho những kẻ đã đóng đinh Người."
4. Ngài đã dạy cho tôi biết Đức Kitô
Ngày nọ, Đức Giám Mục John Selwyn thấy một cậu con trai người bản
địa cư xử thô bạo với kẻ khác, ngài gọi cậu lại khiển trách. Chẳng những không
chịu nghe, cậu ta còn vung tay đánh vào mặt vị Giám Mục. Mọi người thấy vậy đứng
chết trân. Nhưng vị Giám Mục không cho họ làm gì. Rồi Ngài quay lưng bỏ đi.
Nhiều năm sau. một nhà truyền giáo được mời đến với một bệnh
nhân. Ông sắp chết và xin được rửa tội. Khi nhà truyền giáo hỏi anh muốn lấy
tên thánh là gì. Anh đáp: “Xin đặt là John Selwyn vì chính ngài đã dạy cho tôi
biết Đức Kitô là ai khi tôi đánh Ngài”
5. Cái giá của thù ghét
Philipphê, vua nước Macedonia, khi đang đem quân vây thành
Meton, có một tên cung thủ đại tài tên là Asthê đến xin vua cho hắn được sát nhập
vào đội tinh binh của nhà vua. Người ấy khoe rằng, tài nghệ cung tên hay lắm,
chim bay dầu lẹ đến mức nào, y cũng bắn không sai bao giờ. Vua mỉa mai bảo:
- Được, để bao giờ đánh trận với chim sẻ ta sẽ dùng đến tài
ngươi.
Asthé nghe câu nói mỉa mai ấy, lấy làm căm tức vô cùng, liền chạy
thẳng vào thành đang bị vây để chờ dịp trả thù.
Một hôm, Asthé đứng trên bờ thành, thấy vua Philipphê đang đi
kinh lý các trại đóng binh ở ngoài thành. Asthé liền lấy một cây tên, viết vào
mấy chữ: gửi cho con mắt bên phải của vua Philipphê rồi bắn xuống. Tên trúng giữa
mắt phải của vua. Nhà vua tức giận vô cùng, truyền cho cận vệ ghi lên mũi tên ấy
câu này: “Ta mà lấy được thành này, Asthé sẽ bị xử giảo”, rồi truyền cho quân
sĩ bắn tên ấy vào thành.
Sau quả đã xảy ra đúng như vậy.
Vua Philipphê thật đã mua một giá rất đắt cái thú được nói một lời
có ý mỉa mai. Nhưng mà Asthé lại mua đắt hơn cái thú trả được thù.
6. Tiêu diệt kẻ thù bằng tình yêu
Hai người cùng bán hàng tại một khu phố. Vì tranh giành khách
hàng nên hai người đã trở nên kình địch với nhau.
Một trong hai người này xin trở lại đạo Công Giáo. Một hôm người
này đến hỏi cha xứ:
- Thưa Cha, con vẫn ghét kẻ thù địch của con, con không biết làm
thế nào để có thể lướt thắng được điều này. Xin Cha giúp ý cho con.
Cha xứ hỏi:
- Kẻ thù của ông là ai?
Sau khi đã nghe biết đầu đuôi câu chuyện, cha xứ góp ý:
- Mỗi lần có khách hàng nào đến cửa tiệm của ông mà ông không có
món hàng người đó muốn mua, ông hãy giới thiệu cho người khách đó qua cửa tiệm
của người đang kình địch với ông. Ông hãy cứ thử làm như thế xem sao!
Người kia đã về làm như lời cha xứ dạy và kết quả là số khách
hàng đến cửa hàng của người không Công giáo mỗi ngày một đông. Nhưng đồng thời
người này cũng nhận ra rằng, hàng hóa của ông bán cũng chạy hơn kể từ ngày ông
thực hiện lời khuyên của cha xứ.
7. Lincoln biến thù thành bạn
Phương thuốc hay nhất để diệt kẻ thù là biến kẻ thù trở thành bạn.
Khi đó chúng ta không mất người, nhưng lại còn được thêm bạn.
Tổng thống Abraham Lincoln của Hoa Kỳ có thói quen áp dụng
phương pháp bất thường để kết bạn.
Một lần kia ông đã dùng lời hay ý đẹp để nói tốt về những chính
trị gia đối lập với mình. Nghe biết thế, một phụ nữ thắc mắc:
- Tại sao ông lại ca ngợi những địch thù của mình như vậy, khi
mà lẽ ra ông phải phê bình chỉ trích để làm hạ giá và hủy diệt họ?
Tổng thống Abraham Lincoln đã trả lời người đã hỏi ông về vấn đề
này bằng một câu nói:
- Biến thù thành bạn, đó lại không phải là cách tôi tiêu diệt kẻ
thù hay sao?
8. Xin Chúa quay mặt đi
Cha Giuse Đinh Quang Thịnh kể: Trong dịp lễ thánh Giuse, quan
thày của Đại Chủng Viện, có tổ chức thi đấu banh chuyền giữa hai đội: các cha
Giáo và các thầy. Trên sân banh các thầy hay chơi xấu, trái lại đội các cha
Giáo thì rất tuân thủ kỷ luật, vì vị thế là thầy dạy. Kết qủa, đội các thầy thắng.
Sau trận đấu, một cha Giáo sư ấm ức vì bị thua, không phải do tài khéo của các
thầy mà là do vài thầy chơi xấu! Để dằn cơn tức giận, cha Giáo vào Nhà nguyện
quỳ trước tượng Chúa Giêsu Chịu Nạn xin được ơn biết tha thứ! Một thầy biết
mình đã làm cha Giáo buồn, nên cũng vào Nhà nguyện sám hối! Sau đó thầy rón rén
đến đứng sau lưng cha Giáo thưa:
- Con xin cha tha lỗi cho con, lúc ở sân banh con đã làm cha buồn!
Cha Giáo đứng phắt dậy, vừa lật tượng Chịu Nạn quay vào tường vừa
nói:
- Con xin Chúa quay mặt đi một lát, để con…
Và ngài quay lại tát vào mặt thầy ấy một cái!?
Rồi cha Giáo lại lật tượng Chúa ra và quỳ:
- Lạy Chúa, con nóng quá, xin Chúa tha lỗi cho con.
Thật là lúc bị nhục, bị khổ, ta mới hiểu được phần nào tâm tư
thánh Phêrô khi ông đặt câu hỏi: “Thưa Thày, con tha thứ cho anh em 7 lần được
chưa?” Và càng thấy khó có thể thực hiện được Lời dạy của Chúa Giêsu: “Không phải
tha 7 lần mà là 70x7” (x Mt 18, 21-22), trừ khi ta có lòng khiêm nhường nhận biết
mình cũng là kẻ bất lương đang cần được Chúa tha thứ.
9. Tình yêu chữa lành
Một cô giáo dạy trẻ, vào buổi sáng kia tập họp các em tại phòng
khách, cô hớn hở đầy tin tưởng nói:
- Hôm nay chúng ta sẽ bắt đầu một bài học mới, đây là bài học rất
thú vị, và cô muốn các con hãy ghi nhớ nó.
Vừa nói cô vừa mang hai chậu cây hoa hướng dương nhỏ xíu mới chỉ
được hai chiếc lá. Cô nói:
- Đây là hai cây hướng dương, trông chúng giống nhau không nào?
Cả lớp gật đầu, và rất nghiêm túc.
- Bây giờ cô trò mình sẽ có một cuộc thí nghiệm: chúng ta sẽ
cung cấp cho cả hai cây lượng ánh sáng và nước như nhau, rồi đặt mỗi chậu cây ở
hai cửa sổ phòng khách này. Mỗi ngày cô trò mình sẽ hát cho một trong hai chậu
cây này nghe, và chúng ta sẽ nói những lời yêu thương, ngợi khen sự phát triển
Chúa ban cho nó.
Một em giơ tay phát biểu:
- Còn cây kia thì sao thưa cô?
Cô giáo mỉm cười.
- Chậu cây kia chúng ta không thèm ngó nó.
Một em khác thắc mắc hỏi:
- Mình cũng không nghĩ tốt về nó nữa hả cô?
- Đúng thế. Chúng ta sẽ chờ xem chuyện gì sẽ xảy ra.
Hai tuần lễ kế tiếp, những đôi mắt ngây thơ của các em lúc nào
cũng mở to, háo hức chờ đợi kết quả. Thỉnh thoảng một vài em trong lớp lén lút
nhìn cây không được nghe những lời tốt đẹp của các em, nhưng không dám nhìn lâu
vì sợ mất linh nghiệm. Quả thật, cây không được các em quan tâm chúc mừng mỗi
ngày, trông thật yếu ớt, xem như nó chẳng lớn thêm được chút nào, trái với cây
được các em ca hát quanh nó, dường như nó cảm nghiệm được tình cảm và sự quan
tâm của cô và các trò: với những câu nói dịu dàng và những suy nghĩ tốt đẹp đầy
yêu thương, nó đang vươn lên mạnh mẽ và căng tràn nhựa sống.
Và đúng hai tuần sau cô giáo đưa hai chậu cây xếp bên cạnh nhau,
rồi đề nghị các em: “Chúng ta hãy chúc mừng cho cả hai cây, để không còn cây
nào phải chịu cảnh cô đơn nữa."
Đến tuần lễ thứ tư, hai cây lớn bắt kịp nhau, không còn sự khác
biệt nào nữa.
Lúc ấy cô giáo nói với các em:
- Hai cây nó không biết suy nghĩ như chúng ta, nhưng khi chúng
được yêu thương như nhau, thì chúng phát triển cũng giống nhau. Vậy trong các
em chớ khi nào ghét bạn mình và đẩy bạn vào cảnh cô đơn, thì thật là tội nghiệp
cho bạn đó không thể lớn lên trong vui vẻ như mọi em trong lớp được. (Theo
“Chicken Soup For The Soul”)
10. Buồn tê tái, buồn đến chết được
Câu chuyện về Lm Piô Ngô Phúc Hậu, một linh mục cao niên vùng
truyền giáo, được mời đi xức dầu bệnh nhân. Khi về, ngài lẳng lặng đi vào
phòng riêng, đóng cửa và gục đầu xuống trên bàn viết. Buồn quá! Buồn tê tái! Buồn
đến chết được! Cả đời mới có một lần buồn như thế!…
Nhiều năm sau cha già mới kể lại chuyện buồn hôm ấy…
– Nguyễn – Trần là hai dòng họ nổi tiếng của giáo xứ P.H., đông
nhân danh nhất, giàu nhất, có nhiều người làm công chức nhất, công chức bên đạo
cũng như bên đời, có nhiều người đi tu nhất, dâng cúng tiền bạc nhiều nhất cho
nhà thờ và các cơ sở tôn giáo.
– Hai dòng họ ganh đua nhau từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn. Họ Trần
dâng cúng cho nhà thờ một trăm triệu đồng, thì họ Nguyễn sẽ dâng cúng một trăm
mốt. Họ Nguyễn có mười người học đại học, thì họ Trần phải cố gắng có mười một.
Bên họ Trần có mười người đi tu thì bên họ Nguyễn sẽ có mười một người…
– Một lần kia có cuộc tranh chấp về đất đai. Không bên nào chịu
thua. Ban đầu thì cãi nhau to tiếng. Sau đó là chửi nhau thô tục. Cuối cùng là
đánh nhau dữ dội. Cả hai bên đều có người u đầu, phù mỏ. Ông trưởng tộc họ Nguyễn
bị trọng thương năm thở thoi thóp, rên hư hư…
Cha xứ được mời đi xức dầu bệnh nhân. Cha xứ và nạn nhân nhìn
nhau bằng ánh mắt thương cảm. Trước khi xá giải và xức dầu, cha xứ mở lời:
– Xin ông giục lòng ăn năn tội, xin Chúa tha thứ mọi tội, nhất
là tội đánh nhau. Vậy ông có sẵn sang tha thứ cho người đánh ông không?
– Thưa cha không. Đây là mối thù truyền kiếp con không thể tha
được.
Cha xứ moi trong túi kẻ liệt ra một cây Thánh giá giơ cao lên và
rỉ rả khuyên lơn.
– Ông xem Chúa bị đóng đinh đau đớn vô cùng, oan khiên vô cùng.
Vậy mà Chúa vẫn cứ một niềm: “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ không biết việc
họ làm.”
– Chúa khác, con khác. Chúa tha thứ kệ Chúa. Còn con thì chết
cũng không tha.
Khuyên nhủ không được, nói ngọt không được, cha xứ đổi giọng, giọng
cứng cỏi, giọng chua chát:
– Nếu ông không tha thứ cho người ta thì Chúa cũng không tha thứ
cho ông đâu. Ông phải xuống Hỏa Ngục đấy.
– Xuống thì xuống. Còn tha thứ thì không bao giờ.
Hù dọa không xong, cha xứ chuyển sang chiến thuật năn nỉ:
– Xin ông nhìn xem Chúa bị đóng đinh và xin Chúa ban cho ông ơn
quảng đại, bao dung, tha thứ…
– Thôi, thôi, đã nói là thôi…!
Ông trưởng tộc họ Nguyễn không thèm nhìn ảnh Chúa thọ nạn. Ông
quay mặt nhìn vào bức tường. Cha xứ thất vọng ôm mặt khóc thầm. Bỗng có tiếng
gào lên: “Bố đi mất rồi...”
Cha xứ lủi thủi ra về. Không Bí tích Hòa Giải, không Bí tích Xức
Dầu, không trao Mình Chúa. Sau lưng cha xứ chỉ còn tiếng khóc hậm hực, tiếng
khóc oán thù. Chập trùng. Chập trùng.
Một kỷ niệm buồn, buồn tê tái, buồn chưa từng có trong đời mục vụ
của một linh mục.
Nghe cha già kể chuyện, mình thấy xót xa trong tim, mình thấy tê
tái trên làn da. Buồn quá!
Buồn vô cùng! Buồn lâu lắm rồi mới hồi tỉnh để đặt vấn đề.
– Tại sao một Kitô hữu, một người đạo dòng, một người đang đứng
bên bờ vực thẳm của sự chết, mà lại chống đối luật bác ái của Chúa một cách quyết
liệt và cực đoan đến như thế?
– Phải chăng “yêu kẻ thù và chúc lành cho kẻ thù” là điều không
thể thực hiện được đối với thân phận con người?
– Phải chăng luật bác ái Kitô giáo thay vì nâng con người lên
hàng thần thánh, thì lại ném nó xuống làm thân phận con thú?
Hình ảnh ông trưởng tộc họ Nguyễn tắt thở ngay sau khi từ chối
nhìn Đức Giêsu thứ tha làm lương tâm mình bứt rứt khôn nguôi. Mình liên tưởng đến
những kỷ niệm chồng chất trên đường truyền giáo.
۩ Mình mở một lớp Giáo lý dự tòng. Học
viên ngồi đầy phòng lớp. Mình thấy phấn khởi quá chừng. Hôm ấy mình nói về bác
ái Kitô giáo. Mình nhắc lại nguyên văn giáo huấn của Đức Giêsu: “Nếu không cầu
nguyện và chúc lành cho kẻ thù, thì không xứng đáng làm con của Đấng đã cho mặt
trời mọc lên soi sáng cho cả người lành lẫn người dữ...” Mình đang cao hứng
khai triển bài Tin Mừng, thì bỗng cụt hứng.
Một người đàn bà đứng lên dõng dạc phát biểu: “Đạo này khó quá
à, tôi theo không được đâu. Tôi có một đứa con dâu, nó hỗn lắm, tôi không thể
tha thứ được. Tôi đã ghi băng đàng hoàng dặn con cháu tôi không được coi nó như
con cái trong gia đình.” Vừa dứt lời, bà ngoe ngoảy ra về và… không bao giờ trở
lại lớp học nữa. Buồn ơi là buồn!
۩ Hôm ấy mình đang rảo bước trên đường
phố, thì bỗng phải dừng lại để chứng kiến một chuyện buồn. Một thằng cu tí bên
hàng xóm chạy về. Khóc hu hu. Khóc hậm hực. Mẹ nó đằng đằng sát khí.
– Tại sao mày khóc?
– Thằng Tèo nó đánh con.
– Nó đánh mày thì mày đánh nó. Tại sao mày ngu mà khóc?
Người đàn bà đằng đằng sát khí ấy là một Kitô hữu trong họ đạo của
mình. Bà dạy con mình trả thù,ngược lại với giáo huấn của Đức Giêsu. Buồn ơi là
buồn!
Chuyện buồn này gọi nhớ về một chuyện xa xưa.
۩ Thằng cu tí đang chập chững tập đi.
Nó vấp phải cái ghế, lăn đùng ra, khóc òa lên. Mẹ nó lấy roi mây quất lên cái
ghế vô tri, vừa quất vừa dạy đời: “cái ghế này làm cho con tao ngã. Tao đánh
mày. Tao đánh mày. Chừa nhá.” Được mẹ trả thù giùm, thằng cu tí thôi khóc, sung
sướng quá chừng. Người mẹ cũng sung sướng, vừa sung sướng vừa hãnh diện về tài
dỗ trẻ em của mình. Bà không ngờ rằng chính bà đang đào tạo đứa con để nó không
thể tha thứ như Chúa muốn. Từ bà mẹ này mình nhớ đến một bà mẹ khác.
۩ Bà đang bồng con, thì ông nội đến
chơi. Ông nội đón cháu từ tay bà mẹ. Ông cưng cháu, nựng cháu. Nựng theo kiểu đấng
nam nhi đội đá vá trời xanh. Ông hôn cháu như bão táp. Ông chà cái cằm râu lởm
chởm của mình lên mặt mũi nõn nà của thằng cháu mới lên hai tuổi. Thằng cháu
khóc òa lên. Ông nội cười khằng khặc. Bà mẹ lấy tay đánh nhẹ lên vai ông nội, vừa
đánh vừa la: “Mẹ đánh ông nội này!… Nín đi con.” Thằng bé được mẹ trả thù giùm,
nín ngay. Bà mẹ cười hả hê.
Bà mẹ ấy ơi, bà đã vô tình gieo hạt giống hận thù vào tâm não của
em bé. Hạt giống ấy nảy nở và lớn lên bao trùm hết cuộc đời của nó. Thế là nó
không thể tha thứ theo yêu cầu của Đức Giêsu. Đáng tiếc vô cùng!
Sau khi ôn lại những kỷ niệm buồn rải rắc đó đây, mình ngẫm nghĩ
và ngộ ra rằng “yêu kẻ thù, cầu nguyện cho kẻ thù, chúc lành cho kẻ thù, để xứng
đáng làm con của Cha trên trời” là một giáo lý cao siêu nhưng không vượt tầm với
của con người. Loài người có thực hiện được giáo huấn ấy hay không là do những
nguyên nhân rất cụ thể.
– Nếu bà mẹ nào cũng lấy roi trừng phạt cái ghế vì nó làm cho
con của bà vấp ngã ; nếu bà mẹ nào cũng giả vờ đánh ông nội, để cho con mình
nín khóc…, luật “yêu kẻ thù” sẽ mãi mãi ở ngoài tầm với của loài người.
– Nếu có những bà mẹ khuyến khích, năn nỉ con cái tha thứ và cầu
nguyện cho những người ghét mình, nói xấu mình… thì giáo huấn “yêu kẻ thù” bắt
đầu thăng hoa. Nếu tối nào cha mẹ cũng dạy con xin lỗi nhau trước khi đi ngủ,
thì giáo huấn “yêu kẻ thù” đang là hiện thực.
– Thánh Phaolô yêu cầu tín hữu: “Giận ai thì giận nhưng khi mặt
trời lặn xuống thì hãy quên hết đi.” Đó là tập luyện tha thứ, y như võ sĩ: tập
luyện cơ bắp. Thời gian yêu kẻ thù như một tập quán sẽ chẳng còn xa bao nhiêu nữa.
– Trong thực tế, đã có biết bao nhiêu người sẵn sàng yêu kẻ thù,
thứ tha cho người làm khổ mình một cách bất công. Cụ thể là Thánh Stêphanô. Kẻ
thù ném đá vào ngài như mưa. Vậy mà ngài vẫn một niềm tha thứ, yêu thương như Đức
Giêsu trên khổ giá: “Lạy Chúa, xin Chúa tha cho họ.” Tuyệt vời! Trên tuyệt vời!
“Yêu kẻ thù” là đỉnh điểm chót vót của bác ái Kitô giáo. Khó lắm,
nhưng không khó quá. Để vươn tới đỉnh điểm ấy, thì giáo dục và luyện tập là
phương tiện cần thiết. Nhưng có bao nhiêu người đang tập luyện yêu thương và
tha thứ?
11. Yêu thương là hình ảnh Thiên Chúa
Chuyện kể rằng một khách bộ hành thấy một cậu bé vừa đói vừa lạnh
run, đang ngồi ăn xin nơi lề đường, ông liền nghĩ: “Sao Chúa không làm gì để
giúp cậu bé này nhỉ?” Tức thì ông ta nghe tiếng Chúa nói trong lòng: “Ta đã làm
rồi!” Người bộ hành thắc mắc: “Con có thấy Chúa làm gì đâu?” Và ông liền nghe
tiếng Chúa nói: “Ta đã dựng nên con đó.”
Chúng ta được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, không chỉ ở sự
tự do và thánh thiện, mà còn ở khả năng yêu thương như Ngài. Mỗi người mang nơi
mình khuôn mặt của Thiên Chúa và bổn phận của mỗi người chúng ta làm cho mình
ngày càng nên hoàn thiện như chính khuôn mẫu đã dựng nên chúng ta là chính
Thiên Chúa mang khuôn mặt của Tình Yêu.
12. Những vết đinh
Một cậu bé nọ có tính xấu là rất hay nổi nóng. Một hôm, cha cậu
bé đưa cho cậu một túi đinh rồi nói với cậu: "Mỗi khi con nổi nóng với ai
đó thì hãy chạy ra trước nhà và đóng một cái đinh lên chiếc hàng rào gỗ.”
Ngày đầu tiên, cậu bé đã đóng tất cả 37 cái đinh lên hàng rào.
Nhưng sau vài tuần, cậu bé đã tập kiềm chế dần cơn giận của mình và số lượng
đinh cậu đóng lên hàng rào ngày một ít đi. Cậu nhận thấy rằng kiềm chế cơn giận
của mình dễ hơn là phải đi đóng một cây đinh lên hàng rào.
Đến một ngày, cậu đã không nổi giận một lần nào trong suốt cả
ngày. Cậu đến thưa với cha và ông bảo: "Tốt lắm, bây giờ nếu sau mỗi ngày
mà con không hề giận với ai dù chỉ một lần, con hãy nhổ cây đinh ra khỏi hàng
rào.”
Ngày lại ngày trôi qua, rồi cũng đến một hôm cậu bé đã vui mừng
hãnh diện tìm cha mình báo rằng đã không còn một cái đinh nào trên hàng rào nữa.
Cha cậu liền đến bên hàng rào. Ở đó, ông nhỏ nhẹ nói với cậu:
"Con đã làm rất tốt, nhưng con hãy nhìn những lỗ đinh còn để
lại trên hàng rào. Hàng rào đã không giống như xưa nữa rồi. Nếu con nói điều gì
trong cơn giận dữ, những lời nói ấy cũng giống như những lỗ đinh này, chúng để
lại những vết thương khó lành trong lòng người khác. Con đừng bao giờ quên rằng:
vết thương tinh thần còn đau đớn hơn cả những vết thương thể xác.”
Nhìn thấy lỗ đinh lởm chởm trên hàng rào, cậu bé mới thấm thía sự
xấu xa của từng lần xung đột, bất kể đúng hay sai, phải hay trái. Nó khẩn khoản
hỏi cha nó: “Con phải làm gì đây để xóa sạch những dấu đinh này.”
“Dấu vết của hận thù chỉ có thể được chữa lành bởi tình yêu,”
người cha nói.
“Nhưng cha ơi, con phải làm gì đây?” cậu con trai hỏi.
Người cha trả lời: “Nếu những lời nói trong cơn giận có thể để lại
những vết sẹo còn mãi trong lòng người khác, thì sự cảm thông, bao dung, tha thứ
lại có thể làm được điều ngược lại. Chỉ tình yêu mới là phương thuốc có thể chữa
lành cho những vết thương lòng.
“Mỗi khi con tha thứ, bao dung, cảm thông, giúp đỡ hay an ủi một
ai, con hãy vẽ thêm một bông hoa trên các vết đinh.”
Mỗi ngày một chút, hàng rào thêm xinh xắn bởi những nét vẽ ngọng
nghịu. Thế nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó, ai bước vào cũng phải tấm tắc
khen cái hàng rào xinh xắn ấy!
13. Nghịch cảnh luyện chí
Hàn Tín, người đời Hán Cao Tổ, thuở hàn vi phải đi câu cá đổi gạo
ăn. Thế mà có những lúc không đủ ăn, nên được bà lão thợ giặt gọi về cho ăn cơm.
Vào thời đó, đi đâu Hàn Tín thường mang thanh gươm kè kè bên mình.
Một hôm, một tên đồ tể tên Ác Thiểu muốn hạ nhục Hàn Tín, chận
đường thách:
- Chú thường mang gươm, chả biết đề làm gì. Bây giờ tôi không
cho chú đi. Chú có gan thì sẵn có gươm đó, hãy chém tôi mà đi, bằng không thì
phải lòn trôn tôi mà qua.
Hàn Tín chẳng chút do dự, lòn trôn tên hạ tiện đó mà đi, tự nhủ:
"Giết thằng này thì được rồi, nhưng mà phải lấy mạng mình đổi mạng nó, thì
không đáng tí nào.”
Sau Hàn Tín nhờ có công giúp Hán Cao Tổ dựng nước mà dược phong
làm vua Tam Tê. Lúc bấy giờ, Hàn Tín bèn mời bà thợ giặt đến biếu nghìn lạng
vàng để tạ ơn.
Rồi không những không thèm trả thù tên đồ tể mất dạy ngày xưa, lại
phong cho hắn chức Trung úy. Ác Thiểu rất ngạc nhiên, khúm núm nói:
- Lúc trước tôi ngu lậu thô bỉ, đã dại dột xúc phạm oai nghiêm của
ngài, nay tội ấy được tha chết là may, còn dám mong đâu được ban chức tước?
Hàn Tín ôn tồn bảo:
- Ta chẳng phải là kẻ tiểu nhân hay cố chấp, đem lòng cừu hận.
Hành động của ngươi ngày xưa tuy quá đáng, nhưng cũng là bài học luyện chí cho
ta. Vậy nhà ngươi chớ tị hiềm mà hãy nhận chức ta ban.
Lối báo đền ân oán của Hàn Tín thật là hay. Hay vì hướng thượng,
hay vì nhìn ra điều tốt trong điều xấu. Chính vì thế, với người ân thì Hàn Tín
ban thưởng vì cảm chữ tình chữ nghĩa; còn với người oán cũng vẫn ban thưởng vì
nhờ người đó mà mình nên người, ”ngọc bất trác bất thành khí.”
Hơn nữa, khi trả thù mình chẳng được gì mà lại lấy chuốc oán hận,
còn tha thứ thì có ngay một người bạn trọn tình vẹn nghĩa với mình. Thật là cái
khôn của bậc quân tử!
H.G Bohn nói: "Lối trả thù cao thượng nhất là tha thứ.”
John Ray cũng nói: "Quên đi một lỗi lầm là một sự phục thù
lương hảo nhất.”
Lời Chúa dạy: "Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình,
thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế
sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường
đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao? Vậy anh em hãy nên hoàn
thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5,46-48)
14. Ôm hôn địch thù
Christopher Matthews là một nhà bình luận và là cựu phụ tá phát
ngôn viên chính phủ Tip O’Neill. Ông trích dẫn câu châm ngôn Texas xưa: “Hãy ôm
hôn bạn bè cho chặt, nhưng hãy ôm hôn kẻ thù chặt hơn.” Matthews sửa đổi một
chút cho hợp với thực tế mà mọi chính sách có thể hiểu được ngay: “Những nhà
lãnh đạo tài khéo biết rằng địch thủ trong trận chiến này thường là đồng minh
quí giá trong trận chiến khác.”
Động lực thúc đẩy nhà chính trị “ôm hôn” địch thủ mời gọi tôi tự
hỏi: động lực “ôm hôn” kẻ thù của tôi là gì?
Luôn tha thứ cho kẻ thù. Đừng bực mình vì họ quá nhiều. (Oscar
Wilde)
15. Có tình yêu của Chúa
Tạp chí Newsweek đã đăng hình cậu bé đang quì gối cầu nguyện
trong nhà thờ. Câu chuyện kể tiếp: cha mẹ các em bị chết khi một quả bom phát nổ
trên một chiếc máy bay bay qua Colorado gây thiệt mạng 41 hành khách. Các bạn học
sinh trường St.Gabriel noi các em đang theo học đề nghị tổ chức một buổi cầu
nguyện cho cha mẹ các em. Em lớn nhất đồng ý. Rồi em nói thêm: “Chúng ta cũng
có thể cầu nguyện cho người đã giết cha mẹ tôi không?”
Đôi khi trẻ em thực hành những giáo huấn khó khăn của Chúa Giêsu
tốt hơn người lớn. Tại sao?
[Chúa Giêsu nói:] “Nếu anh em không thay đổi mà nên như trẻ nhỏ,
anh em sẽ chẳng bao giờ được vào Nước Trời.” (Mt 18,3)
16. Quy luật của xe rác
Một hôm tôi nhảy vào một chiếc Taxi để ra phi trường.
Đang chạy đúng làn bỗng từ bãi đậu xe phía trước một chiếc xe
nhà màu đen phóng ra. Người lái Taxi thắng kêu một tiếng két và tránh không va
chạm xe kia trong đường tơ kẽ tóc!!
Người lái xe kia ngoái đầu mắng chúng tôi !!
Người lái Taxi chỉ cười vẫy chào lại. Tôi thấy anh thật là tử tế.
Thế nên tôi hỏi "Sao anh hiền vậy? Anh kia suýt tông hư xe
anh và mình có lẽ đã phải nhập viện!!"
Bấy giờ anh lái Taxi dạy tôi bài học này, tôi gọi nó là: Quy luật
của xe rác (The Law of the Garbage Truck).
Anh giải thích rằng nhiều người hành động cứ như là xe rác vậy.
Họ chạy suốt ngày mang theo đầy rác, đầy bực dọc, đầy nóng giận và chán chường.
Vì rác của họ đầy ắp, họ cần nơi đổ rác và đôi khi họ trút lên bạn. Đừng mang
nó vào mình. Chỉ cần mỉm cười, vẫy chào, chúc điều tốt lành rồi ta đi tiếp, đừng
thèm lấy rác đó rồi mang rải cho người khác nơi sở làm… đừng rải trên dọc đường
bạn đi… nhất là đừng mang rác ấy về nhà bạn… Người khôn quyết không để cho mấy
xe chở rác làm hỏng ngày của mình...
Đời người ngắn ngủi nên đừng để bị hối tiếc vì những việc ngu xuẩn!!
Hãy yêu thương người cư xử Tốt với mình… và cầu nguyện cho ai xử
Tệ với bạn!!
Cuộc sống này bạn tạo nên nó chỉ có Mười phần trăm, còn Chín
Mươi phần trăm là tùy thuộc cách bạn Tiếp Nhận nó…
Chúc bạn một ngày Không Có Rác!!
"Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy
ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những
kẻ ngược đãi anh em.” (Mt 5,43-44)
17. Biến kẻ thù thành bạn bè
Một vị vua nước Pháp tuyên bố sẽ tiêu diệt tất cả kẻ thù của
ông. Nhưng chỉ ít lâu sau, người ta thấy nhà vua đi lại vui chơi ăn uống với những
kẻ thù trước kia, họ thắc mắc và lên tiếng hỏi:
- Chẳng phải ngài đã từng nói là sẽ tiêu diệt hết kẻ thù hay
sao?
- Đúng thế! Ta đã tiêu diệt
hết kẻ thù, vì ta đã biến họ thành bạn bè của ta.
Bạn thân mến! Lời Chúa trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng nhắc
đến kẻ thù: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy
anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Ðấng ngự trên trời”
(Mt.5:44-45)
“Yêu thương tha thứ và cầu
nguyện cho kẻ ngược đãi anh em." Đó là lời mời gọi Chúa gởi đến mỗi người
chúng ta hôm nay.
Ta không chỉ trở thành con cái Thiên Chúa vào ngày rửa tội,
nhưng trở thành “con ngoan” của Thiên Chúa nhờ những hành vi tha thứ yêu thương
mỗi ngày.
LẬP TÔNG TÒA THÁNH PHÊRÔ - TẢNG ĐÁ PHÊRÔ
Lời Chúa: Mt 16, 13-19
Khi ấy, Chúa Giêsu đến miền Xêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ
rằng: "Người ta bảo Con Người là ai?"
Các ông thưa: "Kẻ thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là
Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một trong các tiên tri!"
Chúa Giêsu nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy
là ai?"
Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng
sống."
Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có
phúc, vì chẳng phải xác thịt máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Ðấng
ngự trên trời. Vậy Thầy bảo con biết: Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội
Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được."
TRUYỆN KỂ
1. Chân dung hoàng đế
Ngày kia, Hoàng đế của một vương quốc lớn đã mời gọi các nghệ sĩ
từ nhiều nước đến dự cuộc thi “mô tả chân dung hoàng đế." Các nghệ sĩ Ấn Độ
đến với đầy đủ dụng cụ và các thứ đá hoa kim cương quí nhất. Các nghệ sĩ Ai cập
thì mang đến đủ thứ đồ nghề và một khối cẩm thạch hảo hạng. Sau cùng người ta rất
nhạc nhiên khi thấy phái đoàn Hy Lạp chỉ mang vỏn vẹn một gói thuốc đánh bóng.
Mỗi phái đoàn dự thi trong một căn phòng đặc biệt của cung điện.
Khi thời gian đã hết, Đức vua cho trưng bày các tác phẩm tranh giải. Ông hết sức
khen các bức chân dung của chính mình do các nghệ sĩ Ấn Độ và Ai cập tạc nên.
Sau cùng đến phòng trưng bày của người Hy Lạp, Hoàng đế chỉ thấy duy nhất một bức
tường đã được đánh bóng đến độ khi Hoàng đế nhìn vào ông thấy khuôn mặt của
mình hiện ra từng nét. Và phái đoàn Hy Lạp đã đoạt giải nhất trong cuộc thi đó.
Sứ mệnh căn bản của mỗi kitô hữu là hoạ lại dung nhan của Đức
Kitô nơi cuộc sống và tâm hồn của mình. Để đạt được điều đó, chúng ta phải đục
đẽo, phải loại bỏ tất cả những gì là gồ ghề, thô nháp, những thói hư tật xấu và
phải cầu xin để có một đức tin vững mạnh.
Ông Simon Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống."
2. Tìm thấy Chúa trong tha nhân
Một đêm trăng nọ, nhìn qua cửa sổ, một tu sĩ già bỗng nhìn thấy
một thiên thần đang ngồi viết trên một cuốn sách vàng. Lòng tràn ngập hân hoan,
vị tu sĩ rón rén đến gần và lên tiếng hỏi:
- Ngài đang viết gì trong quyển sách này thế?
- Ta đang ghi danh những ai yêu mến Thiên Chúa.
Vừa lo lắng vừa hồi hộp, vị tu sĩ mới hỏi xem tên mình có trong
sách không. Thiên thần giở từng trang, chăm chú đọc từng hàng, nhưng không thấy
tên ông. Thế nhưng điều đó không làm cho tu sĩ thất vọng. Ông nói với thiên thần:
- Xin Ngài vui lòng ghi tên tôi như một thầy dòng lúc nào cũng
yêu mến tha nhân.
Thiên thần chiều ý ông. Thế là tên ông được ghi vào sổ vàng.
Sau khi vị tu sĩ già qua đời, xem lại nhật ký của ông, người ta
thấy dòng chữ đầu tiên trong nhật ký chính là câu trích dẫn thư 1Ga 4,20: “Nếu
ai nói mình yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình thì đó là kẻ nói dối, vì kẻ
không yêu mến người anh em nó thấy đó tất không thể yêu mến Thiên Chúa mà nó
không thấy."
Tiếp theo lời trích dẫn vị tu sĩ ghi chú: “Tôi đi tìm kiếm linh
hồn tôi, nhưng tôi không thấy; tôi đi tìm Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vượt
thoát khỏi tôi; tôi đi tìm người anh em, tôi đã gặp được Thiên Chúa và linh hồn
tôi”
3. Làm con Thiên Chúa và môn đệ Chúa Kitô
Idaho người Ấn Độ mới trở lại công giáo và đã được chịu phép rửa
tội. Lần kia có người vô thần hỏi:
- Anh là người Kitô hữu, vậy anh có biết gì về Đức Kitô không?
Người tân tòng trả lời tôi có biết.
Người vô thần hỏi thêm:
- Đức Kitô sinh vào năm nào?
Người tân tòng trả lời ấp úng. Người vô thần lại hỏi thêm:
- Đức Kitô chết lúc bao nhiêu tuổi?
Người tân tòng cũng trả lời trật lơ. Nghe thế người vô thần mới
bảo:
- Như vậy thì anh có biết gì về Chúa Giêsu đâu?
Anh tân tòng thưa:
- Tôi biết ít lắm, nhưng tôi biết chắc điều này, là hai năm trước
đây tôi say xỉn, cờ bạc, nằm đường nằm chợ, lười biếng làm việc. Hai năm trước
đây, vợ tôi rất ít mỉm cười, con cái sợ sệt khi gặp tôi. Nhưng ngày nay, tôi là
người đàn ông tiết độ, chịu khó làm việc, nên đã nuôi sống gia đình, lại còn đủ
tiền mua một căn nhà mới. Ngày nay vợ tôi tươi cười, con cái vui vẻ quấn quít
tôi. Chính đức Kitô đã làm cho tôi tất cả những điều ấy. Như vậy mà ông bảo tôi
không biết rõ Đức Kitô là Chúa Cứu thế sao. Ngài đã chữa thế gian cho khỏi tội,
và Ngài đã cứu chính tôi trước.
4. Tất cả vì Hội Thánh
Trong một bữa cơm thân mật, có người hỏi Đức ông Polgallo:
- Đức ông là người thân cận Đứa Thánh Cha, vậy có điều gì nơi Đức
Thánh Cha đánh động Đức ông hơn cả?
- Dĩ nhiên Đức Thánh Cha Phaolô VI là một vị Giáo Hoàng rất
thông minh và thánh thiện. Nhưng riêng tôi, điều làm cho tôi cảm kích hơn cả
nơi ngài là lòng ngài muốn hy sinh vì yêu Hội thánh. Mỗi khi hòa mình vào đám
đông ở Bombay, ở Manila chẳng hạn, hầu như ngài quên tất cả Ngài để cho mọi người
lôi kéo. Chúng tôi, những kẻ có nhiệm vụ bảo vệ ngài, phải lắm phen cực nhọc...
Nên những lúc thân mật cha con, chúng tôi vẫn thưa với ngài: “Thưa Đức Thánh
Cha, chúng con thấy Đức Thánh Cha vất vả quá với muôn ngàn lo âu, thức khuya dậy
sớm, lắm phen nguy hiểm đến tính mạng. Đức Thánh Cha để cho đám đông lạ mặt lôi
kéo mình như thế, chúng con ngăn cản bảo vệ không nổi. Xin Đức Thánh Cha giữ
gìn sứcc khỏe cho."
Nhưng mỗi lần như thế, ngài đều đáp lại với chúng tôi như một điệp
khúc nhỏ nhẹ, dịu dàng: “Tất cả vì Hội thánh! Vì Hội thánh!” Nhiều khi chúng
tôi mệt lả, ngao ngán, nhưng nhớ đến câu nói của ngài, chúng tôi phải vươn lên
theo ngài, không thể bỏ ngài, và cảm phục kính mến ngài hơn!
5. Thầy là Đức kitô, Con Thiên Chúa hằng sống
Ben Hur trong bộ phim cùng tên đã thốt lên: "Tại sao Con
Thiên Chúa không muốn làm vua Do Thái hở mẹ? Những điều kỳ diệu Ngài làm khiến
con kinh ngạc. Chỉ cần một hơi thở của Ngài đủ hủy diệt sức mạnh Roma. Thế mà
Ngài lại từ chối sự trợ giúp của các binh đoàn, khiến bao gian lao trở thành vô
ích? Chúng ta lại phải rên siết dưới sự bảo hộ của Roma và để vũ khí mà ta khổ
công rèn đúc phải rỉ sét ư?"
Anh cũng như nhiều đồng hương đã thất vọng về Đức Giêsu, vì chờ
đợi Ngài như Đấng Cứu Thế vinh quang bằng cách trừng phạt quân đội Roma, mang lại
phồn vinh cho trần thế qua sức mạnh chinh phục. Ngài quả thật là Con Thiên Chúa
hằng sống, là Đức Kitô Cứu Thế như Phêrô tuyên xưng. Thế nhưng, là người Con hiếu
thảo với Cha, đời Ngài chỉ canh cánh một điều là làm đẹp ý Cha trong mọi sự. Thế
mà ý Cha là sai Con mình đến, không phải để luận phạt, nhưng để cứu thế gian và
để thế gian nhờ đó được sống dồi dào.
6. Ai là người phá Giáo Hội?
Đức Pio X. vào trường Truyền Giáo Roma hỏi các Đại chủng sinh:
- Quyền lực nào phá Hội Thánh mạnh nhất?
- Thưa những gia đình Công Giáo ly dị nhau.
- Không phải.
- Thưa Cộng sản vô thần duy vật.
- Không phải.
- Quyền lực Satan.
- Càng không phải. Vì Chúa Giêsu đã nói với ông Phêrô: “Quyền lực
tử thần sẽ không thắng nổi con” (Mt 16,18b).
Cuối cùng không ai trả lời được. Lúc đó Đức Giáo hoàng nghiêm sắc
mặt nói: Những người Công Giáo ngu dốt về giáo lý mới chính là sức mạnh tàn phá
Hội Thánh.
7. Các con bảo Thầy là ai
Trước khi trở lại đạo, Genesius, vị thánh quan thầy của giới tài
tử sân khấu, là một kịch sĩ nổi tiếng có nhiều ác cảm với đạo. Một phần ghét đạo,
một phần lại sống trong thời của vị hoàng đế bắt đạo Diocletianus, nên anh định
viết một vở hài kịch chế diễu các nghi lễ Kitô giáo. Để viết kịch, anh phải giả
làm dự tòng đến một giáo đoàn ở Rôma để xin học đạo, định bụng là sau khi biết
đủ những gì cần biết, anh sẽ viết một vở kịch chế diễu phép rửa tội.
Nhưng khi nói với các diễn viên về phép rửa trong lúc tập kịch,
tự nhiên Genesius lại thấy mình muốn tin và ước ao chịu phép rửa. Lòng ao ước
đó cứ lớn dần lên trong anh, cho đến hôm lần đầu diễn vở kịch cho hoàng đế và
quần thần xem, thì Thánh Thần tác động lên anh, anh không đóng kịch nữa mà kêu
lên từ đáy lòng: “Hỡi các bạn hề của tôi, tôi ao ước được trở nên một Kitô hữu.”
Các bạn diễn hỏi tại sao thì anh nói: “Suốt đời tôi chỉ là phù
du, nay tôi đã tìm thấy Thiên Chúa.” Mọi người, kể cả hoàng đế rũ ra mà cười,
nghĩ rằng Genesius nhập vai rất hay. Hai kịch sĩ bước vào, một đóng vai linh mục,
một phù thủy. Khi họ hỏi anh muốn gì, anh lập lại ước muốn được rửa tội. Hai kịch
sĩ đó rửa tội cho anh đúng như anh chỉ cho họ.
Rồi Genesius nói với hoàng đế, binh lính và dân chúng: “Tôi viết
và đóng kịch để chế diễu (…) nhưng nay tôi đã tin và khi tôi nói những lời này,
tôi thấy thiên thần của Chúa ở quanh tôi. Các thiên thần cho tôi biết nước rửa
tội đã rửa tôi sạch hết mọi tội lỗi cũng như các sự dữ tôi đã làm. (…)
“Hỡi hoàng đế, hãy tin vào những mầu nhiệm này! Tôi sẽ dạy cho
ngài và ngài sẽ biết Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật.”
Lời Genesius làm đám đông nhốn nháo cả lên, hoàng đế cho trói
anh lại mà đánh đòn và xẻo thịt anh. Dù phải đau đớn, anh vẫn tuyên xưng Giêsu
là Thiên Chúa. Khi hoàng đế ra lệnh chém đầu, anh kêu to: “Đức Giêsu Kitô là
Thiên Chúa và chúng ta sẽ có sự sống nhờ danh Ngài.”
8. Tin vào Chúa Kitô
Ngày 5/7/1885, Pasteur tiêm vắcxin bệnh dại cho Meister, một cậu
bé bị chó dại cắn, một căn bệnh vô phương cứu chữa thời đó, và cậu bé đã được
chữa khỏi. Thành công vang dội đó mở ra một kỷ nguyên mới cho y học cũng như
cho nhiều ngành khoa học và công nghệ khác nữa. Để đạt được kết quả này,
Pasteur đã kiên trì theo đuổi xác tín mà ông khám phá hàng chục năm trước đó rằng
hiện tượng lên men (rượu, bia, v.v…) hay một số bệnh tật không phải là do tự
sinh như nhiều người lúc đó vẫn tưởng mà là do một số vi sinh vật gây ra.
Lời tuyên tín của Phêrô “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”
không phải là kết quả của những nghiên cứu, thí nghiệm nhưng do Thiên Chúa mạc
khải, cũng là một xác tín mãnh liệt có sức thay đổi cả cuộc đời. Cuộc đời của
Phaolô thay đổi tận gốc rễ cũng do một xác tín mãnh liệt như thế về Đức Kitô:
“Ta là Giêsu mà ngươi đang tìm bắt” (Cv 9,5). Niềm xác tín Kitô của hai tông đồ
đã góp phần hình thành kỷ nguyên mới của Hội thánh Chúa Kitô.
Niềm xác tín Kitô khiến thánh Phêrô thổ lộ: “Bỏ Thầy, chúng con
biết theo ai?” (Ga 6,68). Còn thánh Phaolô thì khẳng định: “Đối với tôi, sống
là Đức Kitô” (Pl 12,21). Cả hai ngài dấn thân vì Tin Mừng Đức Kitô đến độ hy
sinh cả mạng sống. Còn bạn, niềm xác tín Kitô của bạn đã và đang tác động đến đời
sống bạn thế nào?