Lời Chúa tuần 2 mùa chay _ câu truyện minh họa

LỜI CHÚA TUẦN 2 MÙA CHAY
CÂU TRUYỆN MINH HỌA

CNMC 2A

CNMC 2B

CNMC 2C - CHÚA GIÊSU HIỂN DUNG

THỨ HAI – HÃY SỐNG NHÂN TỪ

THỨ BA – BIỆT PHÁI GIẢ HÌNH

THỨ TƯ

THỨ NĂM - NGƯỜI GIẦU CÓ VÀ LADARÔ

THỨ SÁU - DỤ NGÔN TÁ ĐIỀN VƯỜN NHO

THỨ BẢY

LỄ KÍNH – GIUSE - NGƯỜI CÔNG CHÍNH

 

 

CNMC 2A

Lời Chúa: Mt 17, 1-9

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu đã gọi Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông này, và Người đưa các ông tới chỗ riêng biệt trên núi cao. Người biến hình trước mặt các ông: mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết.

Và đây Môsê và Êlia hiện ra, và đàm đạo với Người. Bấy giờ ông Phêrô lên tiếng, thưa Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Nếu Thầy ưng, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia.”

Lúc ông còn đang nói, thì có một đám mây sáng bao phủ các Ngài, và có tiếng từ trong đám mây phán rằng: “Ðây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người.” Nghe thấy vậy, các môn đệ ngã sấp xuống, và hết sức sợ hãi. Bấy giờ Chúa Giêsu đến gần, động đến các ông và bảo: “Các con hãy đứng dậy, đừng sợ.” Ngước mắt lên, các ông thấy chẳng còn ai, trừ ra một mình Chúa Giêsu.

Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các ông rằng: “Các con không được nói với ai về việc đã thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại.”

TRUYỆN KỂ

1. Thiên Chúa vẫn còn hiển dung

Trong cuốn sách The Golden String, văn sĩ người Anh Bede Griffiths mô tả lại một khám phá diệu kỳ của ông khi còn là một cậu học sinh.

Một buổi chiều hè, Bede Griffiths ung dung thư thái dạo chơi ở bìa rừng. Trong lúc thơ thẩn một mình bỗng dưng cậu nhận ra tiếng hót líu lo của đàn chim trên tàng cây mới tuyệt vời làm sao! Cậu rất ngạc nhiên vì từ hồi nào đến giờ chưa bao giờ được nghe chúng hót hay đến thế.

Đang lúc tiếp tục bước tới, cậu gặp thấy những đoá hoa của những bụi táo gai như đang mỉm cười niềm nở chào đón cậu trông dễ thương lạ lùng và đang toả hương trong gió. Bede cũng rất ngạc nhiên vì từ trước tới nay cậu đã từng thấy những bông hoa như thế nở rộ cả trăm lần mà không hề nhận ra vẻ đẹp tinh khôi và hương thơm dịu dàng của chúng.

Sau cùng cậu tìm đến một nơi yên tĩnh, đứng tựa vào thân cây, lặng ngắm vầng kim ô đang dần dần chìm xuống sau rặng núi lam cuối chân trời. Bỗng chốc cậu cảm thấy trời đất vô cùng huyền diệu và bất giác cậu nghiêng mình quì gối xuống biểu lộ một niềm cảm xúc rất thánh thiêng: cậu vừa trải nghiệm được sự hiện diện rất nhiệm mầu của Thiên Chúa trong tạo vật của Ngài.

2. Khi chúng ta hiển dung

Jiddu Krishnamurti, người Ấn-độ (1895- 1986) là một tác giả và nhà diễn thuyết nổi tiếng về các vấn đề triết học và tinh thần, cho rằng, trong mỗi con người có ba “nhân vật” đang chung sống:

* Một là “tôi-là.” Đây là con người thật của tôi, chân tướng của tôi. Ví dụ: bản chất tôi (tôi-là) là người tham lam, ích kỷ, lười biếng…)

* Hai là “Tôi-muốn-là.” Đây không phải là bản chất con người tôi, nhưng là con người mà tôi mong muốn trở thành. Ví dụ: Tôi hiện là người tham lam, ích kỷ, lười biếng nhưng tôi muốn sống như là người quảng đại, vị tha, năng động…

* Ba là “Tôi-tưởng-tôi-là.” Đây cũng không phải là bản chất con người tôi, nhưng là ảo tưởng tôi có về mình. Ví dụ: Một số kinh sư và Pha-ri-sêu thời Chúa Giêsu thực chất là người tham lam dối trá, nhưng cứ tưởng mình là người công chính đạo đức.

3. Hãy biết mình

Ngày xưa thỏ và sư tử sống gần nhau, nhưng sư tử rất kiêu ngạo, vẫn cho mình là to khoẻ nên xem thường loài thỏ. Sư tử thường mắng thỏ và doạ nạt thỏ suốt ngày. Thỏ tức mình không chịu nổi mới nghĩ ra cách báo thù.

Một lần kia nó nói với sư tử rằng:

- Thưa ông anh, em vừa gặp một thằng to lớn và trông giống anh lắm. Nó bảo em rằng: “Trên đời này nó chưa sợ ai, và cũng chưa ai dám đối mặt với nó.” Thằng cha này không coi ai ra gì cả!

Sư tử tức giận và bảo rằng:

- “Thế mày có nhắc đến tên tao không?”

Thỏ trả lời:

- Sao lại không? Em vừa nhắc đến tên anh thì nó lồng lộng lên và bảo rằng anh chỉ đáng đàn em nó thôi.

Sư tử càng tức điên người lên và hỏi:

- Nó ở đâu? dẫn tao đến ngay.

Thỏ liền dẫn sư tử ra sau núi, và chỉ một cái giếng ở đàng xa và bảo: Đấy, nó ở trong đó đấy!

Sư tử đi lại gần giếng vẻ mặt căm tức nhìn xuống đáy giếng. Quả thực, nó trông thấy ngay một tên, với cặp mắt giận dữ đang trừng trừng nhìn nó. Sư tử rống lên một tiếng, tên kia cũng rống lên một tiếng. Sư tử xù lông cổ lên tên kia cũng xù lông cổ lên. Sư tử nhe nanh múa vuốt đe doạ, tên kia cũng hăm dọa lại. Sư tử căm tức đến tột độ dồn hết sức mình nhảy phốc xuống giếng để cho thằng khốn nạn kia một trận. Thế là, con sư tử ngạo mạn tự huỷ diệt đời mình dưới giếng sâu…

4. Đường về đỉnh vinh quang

Đây là một câu chuyện xưa có tên “Người kế vị”, nội dung như thế này: Ở ngôi chùa kia có vị cao tăng với nhiều đồ đệ đông đến hàng trăm người. Cũng như mọi người bình thường, vị cao tăng biết rõ ràng quy luật “sinh, tử” của Tạo Hóa là không có ngoại lệ. Nay tuổi cao, sức yếu, vị cao tăng muốn tìm một người kế vị mình. Ngặt nỗi, người kế vị chỉ có một, còn đồ đệ thì rất nhiều. Vị cao tăng nghĩ là một kế và tiến hành lựa chọn người kế vị.

Cứ khoảng vài ba ngày, vị cao tăng tự đem giấu một món đồ vật và phàn nàn với đồ đệ rằng nơi đây có trộm cắp.

Ít lâu sau, vị cao tăng bỗng la lên: Trộm! Trộm! Có kẻ trộm!

Nghe tiếng thầy kêu, dù đang ngon giấc, các đồ đệ đều bật dậy, vội chạy tới. A là một đồ đệ rất siêng năng, nhanh nhẹn, tháo vát, luôn quí trọng thầy, thương yêu sẵn sàng giúp đỡ bạn, có uy tín vào bậc nhất trong các đồ đệ của vị cao tăng. A chạy đến trước tiên, hy vọng sẽ giúp thầy tìm bắt kẻ trộm, bảo vệ tài sản.

Thấy A, vị cao tăng vội túm lấy áo của A và nói lớn: Bắt được kẻ trộm rồi.

Trước đông đảo các môn đệ, vị cao tăng tuyên bố:

A là kẻ trộm vừa bắt được và đuổi A đi.

Bị thầy đuổi, không một lời thanh minh, không một lời oán thán, A nhẫn nhục ra đi.

Ba ngày sau, A trở lại Chùa, quỳ trước vị cao tăng và nói: “Thưa thầy, con ngộ (giác ngộ - nhận thức) được rồi.”

Vị cao tăng đỡ A dậy, trong lòng cảm thấy rất vui vì đã lựa chọn được người kế vị xứng đáng đúng như lòng muốn.

5. Biến hình

Một nhà giáo dục nổi tiếng người Pháp đã tâm sự về cuộc đời của ông như sau: Khi còn trẻ, tôi có tinh thần cách mạng và mỗi khi cầu nguyện, tôi luôn cầu xin Chúa một điều là: “Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi thế giới này.”

Khi đã lớn tuổi và nhận thấy gần quá nửa đời người trôi qua mà tôi không thay đổi được một người nào hết, nên tôi đã thay đổi lời cầu nguyện của tôi như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi những người trong gia đình của con.”

Giờ đây tôi đã già và những ngày còn lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay, nên lời cầu nguyện của tôi lại được thay đổi một lần nữa như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi chính mình con.”

Và ông kết luận: “Nếu tôi biết cầu nguyện như thế này từ ngày còn trẻ thì tôi đã không uổng phí cả cuộc đời.”

 6. Dõi theo bước Chúa - R. Veritas

Người ta kể rằng năm ấy dù mới lên mười tuổi, cậu Chai-san đã được bố cho đi theo một đoàn lữ hành phải vượt cao nguyên trùng điệp với những đỉnh đồi, những ngọn núi vừa hùng vĩ vừa thơ mộng. Đêm đến đoàn lữ hành trú ngụ trong những chiếc lều vải thô sơ. Một đêm nọ cậu bé Chai-san cảm thấy có một sức mạnh từ bên trong thúc đầy cậu trốn ra khỏi lều. Và kìa, giữa miền núi cao, bầu trời đầy trăng sao lấp lánh như bao trùm lấy cậu. Một cảm giác hạnh phúc nhẹ nhàng xâm chiếm tâm hồn Chai-san. Cậu có cảm tưởng như cả vũ trụ xinh đẹp này đã được tạo dựng để ban tặng cho cậu, và nó đang nâng tâm hồn cậu lên với Đấng Tạo Hóa.

Bỗng chốc bầu khí yên tĩnh và an bình bị xáo trộn vì tiếng gọi của người cha: “Chai-san, mày trốn đi đâu rồi? Trở vào lều đi.” Chai-san miễn cưỡng trở vào lều và tiếc nuối nói với cha: “Bố ơi, bầu trời trăng sao đẹp quá chừng!”

7. Chúa tỏ hiện vinh quang

Nếu có xuống Bà Rịa, đi ngang qua nghĩa địa ở làng Phước đến gần nhà thờ các Thánh Tử Đạo, hãy vào thăm một ngôi mộ, đây là ngôi mộ của một tu sĩ tên là Lazarô Phiền.

Tên của nhân vật có thể gợi lên cả cuộc đời của vị tu sĩ này là một chuỗi những ngày khổ đau, những phiền muộn. Mẹ ông qua đời vì bệnh dịch tả năm ông mới được ba tuổi. Năm ông lên mười hai tuổi, cùng với ba trăm tín hữu công giáo khác, cha của cậu bé Phiền đã bị Văn Thân thiêu sống trong ngục, còn cậu bé thì tay chân bị phỏng nặng nhưng cậu bé đã cố lết ra ngoài và được cứu thoát. Một sĩ quan Pháp thương tình đưa cậu bé Phiền lên Sàigòn và giới thiệu cho một gia đình Việt Nam giàu có. Cùng với người con trai trong gia đình này, Lazarô Phiền đã được cho ăn học đến nơi đến chốn. Sau khi đã thành tài, được bổ nhiệm đi làm thông ngôn, hai người thương nhau như là anh em ruột thịt. Tình nghĩa giữa hai người bạn lại càng thắm thiết hơn khi chính gia đình của người bạn này đã đứng ra lo chuyện gia đình cho Lazarô Phiền, nhưng niềm vui của cuộc sống hôn nhân không được trọn vẹn, bởi vì có một người đàn bà khác vì yêu Thầy Lazarô Phiền nhưng không được đáp trả nên đã tìm cách hãm hại Thầy.

Qua hai lá thư giả mạo của người đàn bà này, Lazarô Phiền nghi ngờ người vợ của mình có tư tình với người bạn thân của mình, cho nên không làm chủ được cơn ghen, ông đã lập mưu giết người bạn thân và dùng thuốc độc để sát hại vợ mình. Hai cuộc mưu sát đã được tính toán một cách tài tình, cho nên kẻ sát nhân đã tránh được lưới của pháp luật. Thế nhưng về phần mình, Lazarô Phiền ngày đêm bị tòa án của lương tâm cắn rứt. Cuối cùng ông xin vào tu trong một tu viện ở Sàigòn. Sau sáu năm tu luyện, Lazarô Phiền được thực sự trở thành một tu sĩ, mọi người trong tu viện đều thầm khâm phục sự thánh thiện của thầy, nhưng riêng thầy vì không bao giờ xưng thú hành động sát nhân của mình, cho nên đêm ngày không bao giờ được sự bình an trong tâm hồn. Phải cho đến lúc lâm bệnh nặng và ngày trước khi qua đời, thầy mới xin phép nhà Dòng cho về thăm quê hương ở Bà Rịa, tìm đến vị linh mục chánh xứ để xưng tội. Chỉ sau khi cảm nhận được ơn tha thứ của Chúa, thầy mới nhắm mắt lìa đời và ra đi trong bình an.

8. Khuôn mặt ngời sáng

Một vị ẩn sĩ nọ suy niệm và chay tịnh đến độ suốt ngày không động đến thức ăn, ai ai cũng thấy có một ngôi sao xuất hiện giữa ban ngày, đó là dấu hiệu trời cao chấp nhận lễ hy sinh của ông.

Ngày nọ, vị ẩn sĩ quyết định leo lên núi cao. Ông muốn vươn lên cao hơn trong sự khổ chế. Vừa lúc ông đang leo núi, thì một cô bé trong làng chạy tới xin đi theo. Không thể từ chối được, vị ẩn sĩ đành để cho cô bé đi cùng. Họ ra đi khi mặt trời vừa lên. Nhưng không mấy chốc, ánh nắng mỗi lúc một chói chang, cả vị ẩn sĩ lẫn cô bé đều cảm thấy khát nước. Vị ẩn sĩ vẫn cố gắng khắc phục cơn khát của mình, nhưng ông lại giục cô bé hãy uống nước. Vị ẩn sĩ không uống nước vì lời thề của mình, còn cô gái không nỡ uống một mình.

Họ càng đi, cơn khát càng dằn vặt. Đến một lúc vị ẩn sĩ không nỡ nhẫn tâm nhìn thấy cô bé phải quằn quại trong cơn khát. Ông đành lỗi lời thề. Ông cầm lấy nước đưa lên miệng và cô bé cũng mỉm cười uống nước với ông.

Sau khi đã uống nước, vị ẩn sĩ không dám nhìn lên trời cao nữa. Ông cứ đinh ninh rằng vì sao hiện ra mỗi ngày như một chứng giám cho sự khổ chế của ông, giờ đây có lẽ đã biến mất. Thế nhưng, khi ông ngước mắt nhìn lên đỉnh núi. Ngạc nhiên biết chừng nào, hai vì sao đang chiếu sáng như mỉm cười với ông.

Sau khi đã chay tịnh nhiều ngày và chấp nhận vươn lên cao trong sự khổ chế, vị ẩn sĩ đã được trời cao chứng giám bằng cách cho một vì sao ngời sáng giữa ban ngày.

9. Gọi điện thoại trong địa phương

Một người cao cấp trong ngành kinh tế Hoa-Kỳ sang thăm Canađa và đã gọi một cú điện thoại viễn liên (long distance) từ nơi ông ở Toronto sang tận Montreal. Sau khi nói chuyện xong, ông đã hỏi giá và được cho biết là cú điện thoại viễn liên ấy tốn mười bốn đồng, năm mươi xu tiền Mỹ-kim. Vị kinh tế gia ấy nổi sùng lên và nói: “Sao đắt quá vậy? Ở xứ tôi ở, tôi gọi đến hỏa ngục hay gọi từ đó cũng chỉ mất có mười bốn đồng năm mươi xu!” Nhân viên tổng đài điện thoại trả lời: “Đúng vậy thưa ông, nơi ông ở và chỗ ông gọi đó cùng trong vùng mà thôi!”

Có những lúc trong cuộc sống, chúng ta cảm thấy Chúa Toàn Năng là Đấng quá xa vời với chúng ta. Tuy nhiên, cũng có đôi lúc ta lại cảm thấy Thiên Đàng lại rất gần với chúng ta. Bài Tin Mừng hôm nay mô tả lại một mối cảm nghiệm chót đỉnh trong cuộc sống của Chúa Giêsu và ba vị Tông Đồ.

10. Hãy vâng nghe lời Người - Jude Siciliano

Một người bạn đã kể với nhóm chúng tôi về một doanh gia mà ông quen biết. Doanh gia này thường xuyên di chuyển bằng máy bay để tham dự các buổi hội họp làm ăn. Ông nói: “Tôi là khách hàng quen thuộc của một hãng máy bay, đến nỗi tôi nghĩ họ phải cho tôi một cổ phần của hãng.” Ông ta thuộc lòng các đường bay. Trước khi lên máy bay, ông mua một tờ thời báo kinh tế, một ly cà phê và rồi ở trên máy bay ông kéo hành lý của mình đến ghế dành riêng, cột dây an toàn, uống cà phê và đọc tin tức. Gần đến nơi ông coi lại các ghi chép về nội dung buổi họp sắp tới. Người nữ tiếp viên xuất hiện chỉ dẫn cách thức đề phòng các sự cố bất ngờ. Ông ta làm ngơ không để ý tới, bởi đã quá quen thuộc những thủ tục ấy. Ông lẩm bẩm với hành khách bên cạnh: “Khổ lắm, biết rồi, nói mãi.”

Ngoại trừ lần gần đây, máy bay đã tới sát phi trường, nhưng lúng túng không đáp được. Giọng nói hồi hộp của phi công từ buồng lái vọng ra: “Thưa quý hành khách, chúng ta đang gặp rắc rối, các bánh xe hạ cánh không hoạt động. Chúng ta cần lượn quanh vài vòng để xả bớt nguyên liệu, tránh may bay bốc cháy, khi đáp không bánh xe lăn.” Cô tiếp viên lại xuất hiện, cặn kẽ chỉ dẫn an toàn cho hành khách lúc gặp nguy hiểm vì đáp khẩn cấp. Người ta phải ngồi hướng về đằng trước, hai tay ôm đầu gối phía cẳng dưới. Ông thương gia kể tiếp: “Lúc ấy tôi dương to cả hai tai nghe cho tỏ. Vị trí của các cửa thoát hiểm ở đâu? Đèn báo đi ra cửa như thế nào? Dây nịt an toàn ra sao và ngồi đúng tư thế đã chỉ định, không sót chi tiết nào. Tôi tái mặt chờ đợi điều khủng khiếp sắp xảy ra. Rồi tôi lờ mờ nhìn thấy ánh sáng của các xe cứu hộ sẵn sàng hai bên đường băng và tôi ý thức ra tầm quan trọng của lời cô tiếp viên chỉ dẫn. Nó nằm giữa sự sống và cái chết. Tôi lâm râm cầu khẩn Chúa liên tục. May quá cuối cùng các bánh xe hoạt động trở lại và chuyến đáp an toàn. Mọi người thở phào nhẹ nhõm. Đó là một kinh nghiệm để đời không thể quên.”… Quý vị có lẽ đã mường tượng ra sứ điệp của câu truyện. Nó cho chúng ta hay tầm quan trọng của việc lắng nghe và làm theo những chỉ dẫn của tiếng nói định mệnh trong lúc nguy hiểm. Những lời hướng dẫn rất trọng yếu. Nó là sự sinh tử của một đời người. Nó ban cho người ta ý nghĩa để sống hay chỉ là những giây phút qua đi vô hồn hời hợt, không có mục tiêu nào cả và như thế là một kiểu chết chóc vậy.

11. Mầu nhiệm ấy phải lôi cuốn ta

Vậy biến cố Đức Giêsu biến đổi hình dạng (17,1-9) là để giúp các môn đệ thấy rõ hơn Ngài là ai theo mầu nhiệm của Thiên Chúa. Ta được đặt đối diện với vực thẳm của mầu nhiệm Thiên Chúa nơi Đức Giêsu - mầu nhiệm ấy phải đánh động ta, lôi cuốn ta, khiến ta say mê! Nhưng chìa khoá để mở cho ta thấy mầu nhiệm lại do chính Đức Giêsu nắm giữ! Một câu chuyện nhỏ có thể giúp ta nhận ra vấn đề vừa nêu.

Tác giả cuốn “Bảy Thói Quen của Những Người Thành Đạt” (The Seven Habits of Highly Effective People. Fireside. New York 1989) là ông Trần Cao Vọng (Stephen R. Covey).

Sáng Chúa Nhật hôm ấy, ông Vọng bước vào toa xe điện ngầm ở Nữu Ước. Ông đặt mình vào bầu khí yên lặng, trong đó người thì đọc báo, người trầm ngâm suy nghĩ, người trầm ngâm suy nghĩ, người lim dim ngủ. Thật là một cảnh an bình.

Bỗng một người đàn ông và các con ông bước vào toa tầu. Bọn trẻ ồn ào, khó bảo, làm cho không khí trong toa tầu thay đổi hẳn.

Ông Vọng kể lại: “Người đàn ông ngồi xuống cạnh tôi, nhắm mắt, hình như không chú ý đến những gì đang xảy ra. Bọn trẻ la hét, ném đồ vật, vồ cả mấy tờ báo của người khác. Chúng quấy phá quá sức, nhưng người đàn ông ngồi cạnh tôi vẫn không làm gì.

Thật khó mà không nổi cáu. Tôi không thể tin rằng ông ta vô tâm đến thế, để cho bọn trẻ chạy loạn lên mà không làm gì cả, choi như không có trách nhiệm. Dễ nhìn thấy những người khác trong toa cũng đều nổi giận. Sau cùng, không thể chịu đựng được nữa, tôi quay sang ông ta và nói: “Thưa ông, bọn trẻ nhà ông quấy đảo quá, ông không bảo chúng được một câu hay sao?”

Người đàn ông ngước mắt như lần đầu tiên biết được tình hình này và nhẹ nhàng nói: “Vâng, thưa ông, ông nói phải. Tôi nghĩ rằng tôi phải làm một cái gì. Vâng, chúng tôi vừa ở bệnh viện ra, mẹ các cháu vừa mất cách đây khoảng một giờ. Tôi không biết nghĩ như thế nào. Tôi cho rằng chúng cũng không biết xử trí ra sao.”

Ông Vọng nói tiếp: “Bỗng tôi nhìn sự vật một cách khác và bởi vì tôi nhìn khác nên tôi cũng nghĩ khác, cảm thấy khác, hành động khác. Cơn giận của tôi biến mất. Tôi không phải lo kiểm soát thái độ hay hành vi của tôi; con tim tôi tràn đầy nỗi đau của người đàn ông ấy. Một thiện cảm và lòng thương dâng lên trong tôi: “Vợ ông mới mất ư? Ồ, xin lỗi! Ông có thể cho tôi biết chuyện được không? Tôi giúp gì được ông đây?” Mọi cái đã thay đổi trong chốc lát.” (ibd., trang 30-31)

12. Chọn lựa là từ bỏ

Nguyễn Công Trứ là một vị quan văn võ song toàn, quê ở Hà Tĩnh. Từ thuở hàn vi, ông đã có chí lớn giúp đời, lập công danh, sự nghiệp: “Làm trai đứng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông.”

Năm 42 tuổi ông đỗ Giải Nguyên, và bắt đầu bước vào quan trường, hoạt động trong nhiều lãnh vực, từ quân sự đến kinh tế, thi ca.

Bởi bao thành tích trổi vượt trong nhiều lãnh vực, ông đã được thăng đến chức thượng thư, tổng đốc. Nhưng sự đời “vinh liền nhục”, “khóc trước cười”, năm 63 tuổi ông bị kết án trảm quyết rồi lại được tha, năm 65 tuổi bị cách làm lính thú… rồi mất ở nhà quê năm 80 tuổi.

Chua chát cuộc đời vẫn không làm ông mất đi cái khí phách quân tử, trong bài thơ gẫm cuộc đời thăng trầm: “Ngồi buồn mà trách ông xanh: Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười. Kiếp sau xin chớ làm người, làm cây thông đứng giữa trời mà reo.” (Vịnh cây thông)

13. Tự nhiên phải nhường chỗ cho siêu nhiên,

Sáng ngày 02.3.2011, ông Shahbaz Bhatti, bộ trưởng Công giáo duy nhất của Pakistan về người thiểu số đã bị một nhóm vũ trang sát hại. Tất cả đeo mặt nạ, chặn xe ông Shahbaz Bhatti lại, lôi ông ra khỏi xe và bắn thẳng vào người ông, rồi trốn chạy bằng một chiếc xe. Những kẻ giết người để lại hiện trường một bức thư ngắn, nội dung là nhóm TTP (Tehrik-e-Taliban Pakistan) nhận trách nhiệm về vụ ám sát ông, vì ông đã lên tiếng chống lại luật phỉ báng.

Shahbaz Bhatti đã đứng ra bảo vệ Asia Bibi, một Kitô hữu chịu những cáo buộc sai trái và bị kết án tử hình vì tội phỉ báng. Khi bảo vệ Asia Bibi, ông đã trở nên mục tiêu hàng đầu của những kẻ cực đoan.

Trước đó ông đã nhận được những lời đe dọa. Một người bạn của ông, Robinson Asghar, đã khuyên ông rời khỏi Pakistan một thời gian do bị đe dọa, nhưng ông đã từ chối.

ĐHY Jean Louis Tauran đã thú nhận trên Radio Vatican: “Tôi đã cảm động sâu xa khi đọc di chúc thiêng liêng mà - theo tôi - ngang tầm một bản văn của một trong những giáo phụ,” và gọi ông là một “vị tử đạo thực sự.”

ĐHY đọc di chúc của ông: “Tôi không còn sợ hãi nào nữa, tôi hiến dâng mạng sống tôi cho Chúa Giêsu. Tôi không tìm kiếm danh tiếng, tôi không muốn những vị trí quyền lực. Tôi chỉ muốn một chỗ ở chân Chúa Giêsu.” và kết luận:

Shahbaz Bhatti đã “không bao giờ có một lời hận thù. Ông đã đồng hóa Tin Mừng cách tuyệt vời. Chúng ta hết thảy đều bé nhỏ khi đối diện với một mẫu gương cao cả này. Một con người 42 tuổi - rất trẻ - đã sống như một hiến tế.”

14. Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình

 Một vị truyền giáo kể lại: Phải qua nhiều thủ tục tôi mới được phép vào thăm một tử tù. Khi đến phòng giam, tôi thấy anh đang quì, hai tay ghì chặt cây Thánh Giá mà khóc. Tôi yên lặng ngồi cạnh anh như muốn nói lên sự đồng cảm. Khi nỗi xúc động lắng xuống, người tử tù nói:

- Thưa Cha, con khóc không phải vì sợ chết, nhưng vì 40 năm qua, con đã bỏ Chúa để chạy theo những đam mê và đám bạn bè. Hôm nay sợ liên lụy, chúng làm như không hề biết con. Gia đình cũng không muốn nhìn mặt, vì phải nhục nhã và xấu hổ do những tội ác con đã làm. Giờ đây con rất hối hận và chỉ biết hoàn toàn trông cậy vào Đấng đã chết trên thập giá để tẩy xóa tội con.

Kể đến đây, vị linh mục ấy nói:

- Tôi tin rằng ơn Chúa đã biến đổi tâm hồn người tử tội và anh sẽ được hưởng lòng thương xót của Chúa như người trộm lành năm xưa.

Chúng ta không có khả năng biến đổi dung nhan và y phục như Đức Giêsu, nhưng nhờ Người và ơn Chúa Thánh Thần, cùng với quyết tâm đổi mới, chúng ta sẽ nên hoàn thiện mỗi ngày đang khi trông đợi trời mới, đất mới xuất hiện.

15. Ánh sáng tỏa lan

Trong tác phẩm “Một điều tốt đẹp cho Chúa” (Something beautiful for God), ông Malcolm Muggeridge đã viết về Mẹ Têrêxa: “Được sống một vài ngày với Mẹ, tôi vô cùng cảm kích trước sự vui tươi của các nữ tu, họ làm những công việc mà người ngoài cuộc cho là khổ sở và khó khăn không thể làm được.”

Mẹ Têrêxa có thể làm ‘một điều tốt đẹp cho Chúa’ vì Chúa đã chiếu giãi ánh sáng của đức tin vào cuộc sống Mẹ. Ánh sáng đó lôi kéo Mẹ đến một sự thay đổi triệt để trong cuộc sống, trong cái nhìn, trong cách đánh giá, theo sự khôn ngoan của thập giá Đức Kitô.

Ánh sáng đó thay thế bóng tối đời này bằng niềm vui đến từ sự khôn ngoan Nước Trời, vì “những đau khổ hiện thời chẳng thấm vào đâu so với vinh quang sắp tới sẽ được giãi bày cho chúng ta” (Rm 8,18).

Mẹ Têrêxa giải thích: “Đó là tinh thần hội dòng chúng tôi, hoàn toàn phó thác, cậy trông và vui tươi. Chúng tôi phải giãi toả niềm vui Đức Kitô qua việc làm của chúng tôi. Nếu việc chúng tôi làm chỉ là những hoạt động hữu ích mà không đem lại niềm vui cho tha nhân thì những người nghèo khổ của chúng tôi sẽ chẳng bao giờ đáp ứng lời mời mà chúng tôi muốn họ nghe theo, lời mời hãy đến cùng Thiên Chúa.”

Điểm mấu chốt là ở đó! Thiên Chúa là hạnh phúc thật của tôi. Nếu tôi để đức tin biến đổi cuộc đời, đức tin sẽ đưa tôi đến gần Thiên Chúa. Khi đó dù ở đâu, hạnh phúc cũng ở bên tôi, và tôi sẽ thốt lên: “chúng con ở đây, thật là hay.”

CNMC 2B

Lời Chúa: Mc 9, 1-9 (Hl 2-10)

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi, trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế. Rồi Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu. Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia.” Phêrô không rõ mình nói gì, vì các ông đều hoảng sợ. Lúc đó có một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người.” Bỗng nhìn chung quanh, các ông không còn thấy ai khác, chỉ còn một mình Chúa Giêsu với các ông. Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu ra lệnh cho các ông đừng thuật lại cho ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: “Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?” Đó là lời Chúa.

TRUYỆN KỂ

1. “Hãy vâng nghe lời Người”

Một hôm nhà vua triệu tập các cận thần. Vua đưa cho quan Tể Tướng một viên ngọc trai lóng lánh và hỏi:

- Ông hãy nói viên ngọc này đáng giá bao nhiêu?

- Muôn tâu, nó đáng giá còn hơn số lượng vàng khối mà 100 con lừa có thể chở.

- Ông hãy đập vỡ nó ra!

- Muôn tâu Bệ Hạ, làm sao hạ thần có thể phung phá một báu vật như thế ạ!

Nhà vua thưởng cho quan Tể Tướng một chiếc áo danh dự và lấy lại viên ngọc.

Kế đó vua đưa viên ngọc cho quan Thị Vệ, cũng hỏi:

- Theo ông, nó đáng giá bao nhiêu?

- Bằng nửa vương quốc.

- Hãy đập vỡ nó ra!

- Đập vỡ viên ngọc này ư? Muôn tâu Bệ Hạ, tay thần không thể nào làm được việc đó.

Nhà vua cũng thưởng cho ông này một chiếc áo danh dự, lại còn tăng lương cho ông.

Sau cùng nhà vua đưa viên ngọc cho Abdul:

- Ngươi có biết viên ngọc này đẹp đến mức nào không?

- Muôn tâu, đẹp không thể nói được.

- Hãy đập nát nó đi.

Lập tức Abdul lấy hai viên đá đập vỡ viên ngọc ra và nghiền nó thành bụi. Quần thần thét lên sợ hãi vì sự táo bạo của Abdul. Họ hỏi:

- Tại sao nhà ngươi dám làm thế chứ?

Abdul bình tỉnh đáp:

- Lệnh của Hoàng Thượng đáng giá hơn bất kỳ viên ngọc quý nào. Tôi tôn kính Hoàng Thượng chứ không tôn kính viên ngọc.

Nhà vua khen ngợi thái độ của Abdul và thưởng chàng trọng hậu hơn cả hai vị quan kia.

Câu chuyện giúp chúng ta hiểu tại sao khi Đức Giêsu biến hình, tiếng Chúa Cha từ trời đã phán: “Đây là Con Ta yêu dấu. Hãy vâng lời Ngài.”

2. Từ Tabor đến Golgotha

Một Linh mục qua nhiều năm coi xứ đã kể một câu chuyện khá dí dỏm và cũng rất sâu sắc như sau:

Có một đôi vợ chồng trẻ rất xinh đẹp và sống với nhau cũng rất khéo. Đúng là một cặp “trai tài gái sắc.” Có lẽ chính nét trẻ trung xinh xắn của vợ chồng đã cho họ một mùa xuân cuộc đời thật nồng cháy tình yêu và hạnh phúc.

Một ngày nọ, người vợ ăn một nửa trái táo, rồi tặng chồng phần kia. Người chồng vui vẻ đón nhận:

- Ôi nửa trái táo ân tình, công chúa của lòng anh!

Hai mươi năm sau. Cũng đôi vợ chồng ấy, cộng thêm những nét tàn tạ của thời gian. Cũng một trái táo, vợ ăn một nửa, mời chồng phần còn lại. Nhưng người chồng nhăn mặt:

- Sao lại cho nửa trái táo ăn thừa?

Tất cả nguyên trạng chỉ khác có nhan sắc. Cũng nửa trái táo dâng tặng nhưng hai mươi năm trước nhận từ tay “người đẹp” là trái táo ân tình. Hai mươi năm sau từ tay “nàng già”là trái táo ăn thừa. Nên chỉ dựa vào nhan sắc người ta sẽ mất hết tất cả với thời gian.

3. Niềm đau tượng hình.

Du khách đến Roma thường đi thăm ngôi thánh đường cổ tên là Dominus sub aquis, vì phía trên bàn thờ, có một tượng thánh giá rất đặc biệt: bất cứ ai đến qùi trước tượng thánh giá và cầu nguyện với tất cả lòng thành đều được sức mạnh và an ủi thâm sâu.

Người ta kể rằng tác giả của thánh giá bằng tượng cẩm thạch này đã mất nhiều năm mới hoàn thành được tác phẩm. Hơn hai lần, mỗi khi treo bức tượng lên để ngắm nhìn, ông lại cho kéo xuống và đập bỏ, vì ông cho rằng tác phẩm vẫn chưa diễn đạt được điều ông muốn.

Khi ông bắt tay vào công trình lần thứ ba thì cũng là lúc ông gặp nhiều thử thách nhất. Nhiều người ganh tị nên tìm cách hạ uy tín ông. Vợ con ông qua đời trong những hoàn cảnh thật đau thương.

Ai cũng tưởng rằng cơn thử thách đã khiến ông bỏ cuộc. Trái lại, ông càng miệt mài chú tâm vào công trình. Người nghệ sĩ dồn tất cả niềm đau của mình lên khuôn mặt của Đức Kitô. Bức tượng của Chúa Giêsu trên thập giá không còn là một phiến đá lạnh lùng, xa lạ, mà trở thành niềm đau đậm nét của một tâm hồn. Bức tượng đã trở nên sống động và có sức thu hút do chính tâm tình mà người nghệ sĩ muốn tháp nhập vào.

4. Hai khuôn mặt một tình yêu.

Tại nước Mêhicô, người ta thường tổ chức những cuộc đấu võ rất ác liệt. Đó là một loại võ tự do, nên các võ sĩ có thể phục sức tuỳ sở thích và có thể mang cả mặt nạ trong khi đấu võ.

Một linh mục tên là Gaêtanô đang làm công tác xã hội để giúp nuôi các trẻ em nghèo và mồ côi. Để có thêm tiền cho mục đích này, cha Gaêtanô liền nghĩ đến chuyện ghi danh tham dự các trận đấu.

Với một thân bình to lớn, thông thạo võ thuật và đầy lòng dũng cảm, mỗi khi lên võ đài, cha Gaêtanô mang một chiếc mặt nạ màu vàng để che dấu tung tích của mình. Ngài thường đấu với những đối thủ hung hãn nhất. Tất cả tiền thưởng hoặc thù lao nhận được, cha đều dành cho quĩ cứu trợ các trẻ em nghèo và mồi côi. Từ đó, chiếc mặt nạ vàng trở thành biểu tượng cho tấm lòng vàng của cha Gaêtanô.

Hai khuôn mặt, một tình yêu: Trên võ đài cha Gaêtanô là một võ sĩ mang mặt nạ vàng, ở giữa đàn con cô nhi của cha. Cha là một linh mục sống hoàn toàn cho người khác, phản ảnh tình yêu cuả Thiên Chúa, một tình yêu cho đi mà không tính toán, không so đo, không sợ thương tích.

5. Cảm nghiệm về sự hiện diện của Chúa

Maya Angelu, một thi sĩ và tác giả người Mỹ, là một người phụ nữ khôn ngoan và cũng có đời sống thiêng liêng. Chị kể là vào một ngày kia, chị đã được thức tỉnh về mặt tôn giáo. Điều này xảy ra theo một cách thức rất đơn giản. Chị ngoài 20 tuổi, và vừa mới di chuyển đến San Francisco. Chị nói rằng lúc đó, chị là một người tích cực theo thuyết bất khả tri. Điều này không có nghĩa là chị không còn tin tưởng nơi Thiên Chúa nữa, mà chỉ là dường như Thiên Chúa không còn ở nơi những người sống chung quanh mà chị thường hay giao du với.

Thế rồi có một giáo viên giới thiệu với chị một cuốn sách tựa đề là Những Bài Học về Chân Lý. Chị kể rằng vào một ngày kia, người giáo viên đó yêu cầu chị đọc cuốn sách đó cho ông ấy. Tôi lên 24 tuổi có học thức và cũng rất trần tục. Thầy giáo của tôi yêu cầu tôi đọc một phần trang sách chấm dứt bằng câu “Thiên Chúa yêu thương tôi.” Tôi đã đọc đến đây rồi gấp sách lại, nhưng thầy giáo bảo tôi “Cứ đọc lại đi.” Tôi mở sách ra, và đọc một cách mỉa mai “Thiên Chúa yêu thương tôi.” Ông bảo “Đọc nữa đi.” Sau đến 7 lần đọc đi đọc lại tôi bắt đầu cảm thấy rằng câu nói đó có thật, và có thể Thiên Chúa đã thực sự yêu thương tôi. Vâng, Người yêu thương tôi, Maya Angelu.

Đột nhiên, tôi bắt đầu khóc to. Tôi biết rằng nếu Thiên Chúa yêu thương tôi, thì tôi có thể làm được những điều kỳ diệu, tôi có thể làm được những điều vĩ đại, học hỏi, hoàn tất được bất cứ thứ gì. Bởi vì cái gì có thể chống lại tôi, nếu Thiên Chúa ở với tôi, bởi vì bất cứ người nào ở với Thiên Chúa, thì đều tạo được ưu thế.

6. Thuận theo ý Chúa

Các bài đọc Chúa nhật này bảo chúng ta hãy nghe tiếng Chúa, biết hy sinh thuận theo ý Chúa. Chúng ta không phải vất vả tìm kiếm đâu xa những dịp hy sinh thuận theo ý Chúa. Mỗi ngày sống của ta luôn luôn có những cơ hội để ta biết vâng theo ý Chúa, hãy lợi dụng những cơ hội đó, để đền đáp quảng đại, lòng thương vô biên của Chúa đã ban con một người cho ta.

Thánh Alphongsô khi bị Đức Giáo Hoàng lên án oan uổng, vì những lời gièm pha tố cáo bất công, và sau khi ngài đã phải hoàn toàn rút lui khỏi chính dòng mà ngài đã thiết lập, ngài không hề buồn sầu, không phàn nàn, không kêu ca, không nói một lời oán trách; ngài chỉ thổ lộ mấy lời anh hùng sau đây: “Đã sáu tháng nay, tôi luôn đọc lời cầu nguyện này: “Lậy Chúa, Chúa muốn sao, con cũng muốn vậy.” và ngài đã can tâm chịu đựng cho tới lúc tắt thở. Ngài không hề oán trách người đã làm khổ ngài, chinh ngài đã viết cho người cáo gian ngài: “Tôi vui mừng vì Đức Thánh Cha đã ban cho Cha nhiều đặc ân. Xin cha cứ cho tôi biết những gì may mắn, Cha nhận được để tôi cám ơn Chúa. Tôi xin Chúa yêu Cha nhiều hơn, phát triển các nhà của Cha, chúc lành cho Cha, và sứ mệnh của Cha.” (Coi Le Saint Abondon của Dom Vital Lehodey p.258 - 259)

Thánh Gioan thánh giá, đã sang tác cuốn Nhã Ca thật giá trị. Nhưng cuốn này được viết ra đúng vào lúc ngài bị mọi người cười chê, khinh miệt, tâm hồn bị nhiều đau khổ. Giữa lúc đó, thánh nhân coi những đau khổ, những sỉ nhục phải chịu là xứng đáng. Ngài nghĩ, ngài là người đầy tội lỗi, đầy khuyết điểm, phải chịu đựng như thế, vẫn còn là quá nhẹ nhàng. (Le saint Abandon p. 259).

7. Tìm kiếm điều cốt yếu

Các học giả thường hỏi Đức Giê-su đưa ba môn đệ lên núi nào để cầu nguyện? Núi Tabor (cao 300m) theo truyền thống, hay núi Hermon (cao 3000m) theo học giả W. Barclay? Thật ra, ngọn núi ở đây nhắm đến ý nghĩa thần học hơn là địa lý, núi theo Kinh Thánh là khung cảnh cho những mạc khải của Thiên Chúa. Vậy thì trên ngọn núi Si-nai mới ấy, Thiên Chúa muốn đặc biệt nói với ta điều gì? Đức Giê-su biến hình sáng láng trước mặt các môn đệ, Ngài cho các ông thấy vinh quang của một vị Thiên Chúa làm người, vinh quang mà Ngài lại sẽ chiếu tỏa vào ngày phục sinh vinh hiển. Hôm nay Ngài dứt khoát chọn con đường thập giá đau khổ để cứu độ nhân loại. Còn tuần lễ sau, Ngài bước đi trên con đường thập giá ấy cho đến giọt máu cuối cùng.

“Ai không kiếm tìm thập giá Chúa Ki-tô cũng không kiếm tìm vinh quang của Ngài” (Th. Gioan Thánh Giá). Đức Giê-su được biến hình sáng chói sau khi chọn thập giá đau khổ theo ý của Chúa Cha, và phục sinh khải hoàn sau khi hoàn thành thập giá đau khổ ấy. Cũng vậy, tâm hồn bạn cũng được biến hình rực rỡ, khuôn mặt bạn rạng rỡ hơn sau mỗi nghĩa cử hy sinh quên mình vì Tin Mừng Nước Trời.

8. Con Ta rất yêu dấu

Mẫn Tử Khiên mồ côi mẹ từ thuở nhỏ. Mẹ kế của Mẫn Tử Khiên sinh được hai người con trai. Bà chỉ thương con ruột mà ghét Tử Khiên.

Vào mùa đông giá rét, mẹ kế không cho Tử Khiên mặc áo mền bông, chỉ cho mặc áo mền hoa lau. Bị rét mướt, nhưng Tử Khiên không kêu than một lời.

Ngày nọ, Tử Khiên bị cha đánh đòn, vô tình làm áo rách, bật hoa lau ra. Người cha thấy thế căm giận người vợ kế độc ác đã bạc đãi con mình, toan đánh đuổi đi. Tử Khiên khóc lóc van xin cha rằng: “Dì con còn ở lại, thì chỉ mình con chịu rét. Dì con bị đuổi đi, thì ai sẽ may vá cho chúng con? Có lẽ cả ba anh em chúng con phải chịu rét cả.”

Người cha nghe con nói thấy xúc động trong lòng, thôi không đuổi vợ kế đi nữa. Và cũng từ đó, người “mẹ ghẻ” cũng yêu thương Mẫn Tử Khiên như con ruột vậy.

Để diễn tả việc mẹ ghẻ ghét bỏ con chồng, ca dao có câu:

Mấy đời bánh đúc có xương,
Mấy đời dì ghẻ có thương con chồng.

Tuy vậy, Mẫn Tử Khiên đã yêu thương và bênh vực cho người mẹ ghẻ đã từng đối xử tệ bạc với mình. Mẫn Tử Khiên đã được người đời ca tụng là người con chí hiếu.

Hôm nay, trong bài Tin Mừng theo thánh Marcô, Chúa Giêsu đã được chính Thiên Chúa Cha làm chứng và khen ngợi là người Con Chí Ái: “Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người.”

9. Biến hình bởi tình yêu

Nhờ vâng lời Chúa, chúng ta cũng được biến hình như Ngài: với cuộc đời hy sinh khổ ải đời này, chúng ta được biến đổi trong vinh quang sáng ngời mai sau.

Vào năm 1984, đạo diễn Trần Văn Thủy đã thực hiện một cuốn phim tài liệu gây xôn xao cả nước Việt Nam. Cuốn phim tài liệu đó mang tựa đề “Tử tế” Trong cuốn phim, tác giả đã đi tìm những mẫu người tử tế hiếm hoi trong xã hội. Một trong những cảnh gây xúc động cho người xem nhất là hình ảnh một người đàn bà phong hủi, bị xã hội xua đuổi, nhưng đêm đêm vẫn lần mò về làng và bằng hai bàn tay cùi cụt co quắp, không đủ ngón, đã đóng được 18.000 viên gạch để xây nhà cho con. Trong bóng tối của cuộc đời bất hạnh, tấm lòng của người mẹ vẫn mãi mãi sáng ngời trong lòng những người con cái.

Đó không phải chỉ là câu chuyện của một người tử tế, mà còn là câu chuyện cao cả của tình mẫu tử. Đối với người mẹ ấy, những người con luôn luôn là cái gì rất quý giá và dấu yêu.

10. Bình an của Đức Kitô

Một vị vua treo giải thưởng cho hoạ sĩ nào vẽ được bức tranh đẹp nhất về sự bình an. Có nhiều bức tranh được đem đến dự thi. Số các bức tranh đi vào vòng trong ngày càng ít đi. Sau nhiều chọn lựa, cuối cùng chỉ còn hai bức bước vào vòng chung kết. Nhà vua cân nhắc rất kỹ để chọn một trong hai. Bức thứ nhất vẽ hồ nước yên ả, mặt hồ là tấm gương phản chiếu thật đẹp những ngọn núi bao quanh, bên trên là một bầu trời xanh với vài đám mây trắng nhẹ nhàng bay.

Ai cũng có cảm tình với bức tranh đó. Nhưng cuối cùng, nhà vua lại chọn bức thứ hai, một bức tranh vẽ những ngọn núi trần trụi, lởm chởm đá, với một dòng thác ầm ầm đổ làm tung bụi trắng xoá, bầu trời bên trên toàn mây đen u ám với nhiều sấm chớp báo hiệu một trận mưa lớn.

Khi ngắm kỹ bức tranh thứ hai, người ta mới hiểu cái lý của nhà vua: Đằng sau dòng thác có một bụi cây nhỏ mọc lên từ khe nứt của một tảng đá. Trong bụi cây, một con chim mẹ đậu trên mép tổ mớm cho mấy chú chim non. Bình an giữa giông tố!

Ở trên đời, phải sống giữa vạn vật thay đổi luôn luôn, như giông như bão, người ta thấy rõ cái sự mỏng manh, sớm nở tối tàn của phận người. Nay còn mai mất nên câu chúc bình an luôn nằm trên môi mỗi khi gặp nhau. Nhưng người ta có thể tìm kiếm bình an ở đâu?

Có bình an của thế gian và có bình an của Đức Kitô.

Những người không tin vào Thiên Chúa thì bám vào sự bình an giả tạo của thế gian, của quyền lực và tài sản. Đó là bình an của người hưởng thụ hơn là gieo vãi, sẵn sàng đầu hàng hơn là hy sinh, chiến đấu…; bình an của người rất ngại nói đến phục vụ, dấn thân, quên mình.

11. Muốn được tôn vinh

Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Ngày xưa thỏ và sư tử sống gần nhau, nhưng sư tử rất kiêu ngạo, vẫn cho mình là to khoẻ nên xem thường loài thỏ. Sư tử thường mắng thỏ và doạ nạt thỏ suốt ngày. Thỏ tức mình không chịu nổi mới nghĩ ra cách báo thù.

Một lần kia nó nói với sư tử rằng:

- Thưa ông anh, em vừa gặp một thằng to lớn và trông giống anh lắm. Nó bảo em rằng: “Trên đời này nó chưa sợ ai, và cũng chưa ai dám đối mặt với nó.” Thằng cha này không coi ai ra gì cả!

Sư tử tức giận và bảo rằng: “Thế mày có nhắc đến tên tao không?”

- Thỏ trả lời: Sao lại không? Em vừa nhắc đến tên anh thì nó lồng lộng lên và bảo rằng anh chỉ đáng đàn em nó thôi.

Sư tử càng tức điên người lên và hỏi: Nó ở đâu? dẫn tao đến ngay.

Thỏ liền dẫn sư tử ra sau núi, và chỉ một cái giếng ở đàng xa và bảo: Đấy, nó ở trong đó đấy!

Sư tử đi lại gần giếng vẻ mặt căm tức nhìn xuống đáy giếng. Quả thực, nó trông thấy ngay một tên, với cặp mắt giận dữ đang trừng trừng nhìn nó. Sư tử rống lên một tiếng, tên kia cũng rống lên một tiếng. Sư tử xù lông cổ lên tên kia cũng xù lông cổ lên. Sư tử nhe nanh múa vuốt đe doạ, tên kia cũng hăm dọa lại. Sư tử căm tức đến tột độ dồn hết sức mình nhảy phốc xuống giếng để cho thằng khốn nạn kia một trận. Thế là, con sư tử ngạo mạn tự huỷ diệt đời mình dưới giếng sâu…

Thất bại của sư tử là không nhận ra mình nên đã lao vào cắn xé chính hình ảnh của mình. Sư tử chỉ muốn nhất. Sư tử chỉ muốn làm bá chủ nên sẵn sàng loại trừ tất cả các đối thủ có nguy cơ nguy hại đến vị trí số 1 của mình.

Con người là hình ảnh Thiên Chúa, nhưng đáng tiếc là nhiều người đã không nhận ra điều đó. Họ không nhận ra hình ảnh mình nơi tha nhân để có thể yêu mến tha nhân như chính mình. Họ đòi được tôn vinh, được bá chủ nên sẵn sàng cắn xé chính đồng loại của mình.

12. Mồ chôn kẻ dại khờ

Một nhà đại phú hộ người Pháp, suốt đời chỉ lo hưởng thụ mọi vinh hoa phú quí, dinh thự nguy nga đồ sộ, đầy tớ tấp nập, ra vào hầu hạ, yến tiệc xa hoa với mọi lạc thú trần gian… Rồi bỗng nhiên, một hôm ông ngã bệnh nặng, hết bác sĩ này đến danh y khác được mời đến điều trị bệnh tật cho ông với lời hứa, nếu cứu ông khỏi chết sẽ được hậu tạ, dầu phải chấp nhận bất cứ điều kiện nào… Nhưng sau khi chẩn mạch, khám nghiệm và gắng sức chữa chạy, tất cả các bác sĩ, danh y đều bó tay vì bệnh trạng của ông đã đến hồi vô phương cứu chữa.

Khi biết mình không thể sống nổi, nhà đại phú hộ rất buồn bã thất vọng, gọi vợ con đến trăng trối: “Khi ta chết rồi, hãy khắc vào một bia đá đặt trên mộ ta lời rất bỡ ngỡ nhưng chân thật này: “Đây là mồ chôn một kẻ khờ dại!”

13. Lên núi cầu nguyện

Có hai anh em ruột kia rất thương nhau, rất hợp tính và cùng có một mơ ước cao đẹp là sẽ sống một cuộc đời hết sức thánh thiện. Lớn lên, người anh cưới vợ, sinh con, chăm chỉ làm ăn và cũng không quên những bổn phận đạo đức hằng ngày. Còn người em thì đi tu, thành một thầy dòng, ngày ngày đi khắp nơi giảng đạo và giúp đỡ những người nghèo.

Mười năm sau, người em làm thầy dòng trở về quê thăm lại anh mình. Hai anh em nói chuyện với nhau thật nhiều về cuộc sống và tâm tư của mình. Người anh khám phá ra rằng ngày xưa hai anh em tâm đầu ý hợp như thế, mà sao bây giờ lại khác nhau quá xa: người em thì vẫn thích thánh thiện như xưa và còn thánh thiện hơn xưa nữa, còn mình thì sao quá tầm thường không còn chút mơ ước nào về lý tưởng thánh thiện ngày xưa nữa.

Người anh tìm đến một vị ẩn sĩ để hỏi cho biết nguyên do sự khác biệt ấy. Vị ẩn sĩ không trả lời thẳng mà dùng những hình ảnh thiên nhiên để giải thích cho anh ta.

* Trước tiên là đám mây trên trời: thường thường bầu trời ngày nào cũng có những đám mây, nhưng không có đám mây ngày nào giống đám mây ngày trước. Cũng là mây, nhưng mây ngày nay khác mây ngày hôm qua.

* Kế đến là một cái cây xanh: nó vẫn luôn luôn là cây thông xanh rì, nhưng năm trước nó nhỏ hơn, năm nay nó đã lớn hơn và cao hơn một tí, năm sau nó sẽ lớn và cao hơn tí nữa. Có nhiều cái lá của năm trước mà năm nay không còn, và có nhiều chiếc lá của năm nay sẽ rụng vào năm tới để thay bằng những chiếc lá khác.

* Và sau cùng chính là thân xác con người: các tế bào trong thân xác con người luôn luôn thay đổi, có cái chết đi và có cái sinh ra thêm. Khoa học tính rằng cứ sau 7 năm thì thân xác ta hoàn toàn đổi mới không còn một tế bào nào của 7 năm trước đây nữa. Sợi tóc, móng tay, làn da của ta năm nay hoàn toàn không chứa một tế bào nào của sợi tóc, móng tay và làn da của 7 năm trước.

Vị ẩn sĩ mới kết luận: tâm hồn con người cũng thế. Muốn lớn lên, muốn tươi trẻ mãi, muốn hăng say sinh động thì mỗi ngày cũng phải biết từ bỏ những thói quen xấu, những cám dỗ đam mê và đồng thời biết nổ lực luyện tập những nhân đức tốt. Không đào thải đi và không thu nhận vào thì nó sẽ chết khô như một thân cây chết đứng, chứ không còn là một thân cây tươi tốt sống động vươn mỗi ngày.

Sở dĩ người anh trở nên tầm thường, khô cằn vì suốt 10 năm qua anh ta luôn tự mãn với những cái mình đang có, không muốn bỏ đi cái xấu nào và cũng không nổ lực tập một nhân đức nào. Tức anh ta không chịu “lên núi” trong đời sống hằng ngày để cầu nguyện, để gặp Chúa, để được biến đổi.

14. Món quà thập giá

Có một câu chuyện kể rằng: một người đàn bà giàu có đang hấp hối trên giường bệnh, trong tờ chúc thư để lại, bà kể tên của tất cả mọi người thân thuộc và xa gần sẽ hưởng gia tài của bà, tuyệt nhiên bà không hề đá động đến cô gái nghèo và trung thành hầu hạ bà bấy lâu nay, quà tặng duy nhất mà bà để lại cho cô là một thánh giá làm bằng thạch cao.

Cô gái nhận lấy món quà nhưng lòng đầy cay đắng buồn phiền, cô tự nghĩ: mình đã trung thành phục vụ, hầu hạ sớm hôm để rồi chỉ được một món quà không ra gì, không còn đủ bình tĩnh để nuốt lấy từng giọt đắng cay, cô đã kéo thập giá xuống khỏi tường và ném mạnh trên nền nhà, cây thập giá vỡ tung, và kìa, trước sự ngạc nhiên của cô, tất cả những mảnh vụn thoát ra khỏi lớp vỏ thạch cao đều là những viên kim cương óng ánh. Cô gái chỉ có thể hiểu được lòng tốt của người chủ khi cô nhận ra giá trị của món quà.

Lắm khi Thiên Chúa cũng gửi đến cho chúng ta những món quà được bao bọc bằng hình thù của thập giá, sự sần sùi và dáng vẻ thê thảm của thập giá làm chúng ta không thể hiểu được lòng tốt của Thiên Chúa, Ngài yêu thương chúng ta, Ngài không bao giờ muốn điều dữ cho chúng ta, bởi vì tất cả mọi sự xảy đến cho chúng ta đều nhằm dẫn đưa chúng ta đến hạnh phúc cao cả hơn.

Quả thực, ở đâu và bất cứ lúc nào cũng có thập giá, đã mang tiếng khóc vào đời, con người tiến bước trong cuộc sống với tất cả gánh nặng của thập giá. Tại sao Thiên Chúa đã để cho con người phải đau khổ? Mãi mãi dường như con người sẽ không bao giờ tìm được câu giải đáp cho vấn đề đau khổ, Chúa Giêsu không bao giờ đặt vấn đề và cũng không bao giờ đem lại một giải đáp cho vấn đề, trong thinh lặng, Ngài đã vác lấy thập giá, và khi sống lại, Ngài cho chúng ta thấy rằng thập giá là con đường dẫn đến sự sống.

15. Giây phút tột đỉnh

Nhà tâm lý học Abraham Maslow kể lại câu chuyện một người mẹ trẻ tuổi như sau: “Vào một buổi sáng nọ, cô sửa soạn bữa sáng cho gia đình của cô. Nhà bếp tràn đầy những ánh sáng, những đứa con của cô đang cười đùa và nói năng vui vẻ, và chồng cô đang đùa giỡn với đứa con út. Trong khi cô đang trét bơ trên bánh mì và rót nước cam, ngay lúc đó, cô cảm thấy tràn trề niềm vui sướng và yêu thương trong gia đình của cô. Rưng rưng nước mắt, cô đã cảm động đến nỗi không thể nào nói được.”

Maslow gọi lúc đó là giây phút tột đỉnh. Nó là những giây phút ngắn ngủi quí báu chúng ta nhìn thấy những biến cố thông thường cách siêu thường. Nó là giây phút giống như là Thiên Chúa chiếu ánh sáng của Ngài vào những sự vật chung quanh chúng ta và làm cho chúng ta cảm thấy mình đang nhìn thấy một thế giới khác.

Ý tưởng về giây phút tột đỉnh giúp chúng ta thấu hiểu những gì mà Phêrô, Giacôbê và Gioan đã cảm nghiệm mà bài Phúc Âm hôm nay tả lại. Họ đã cảm nghiệm được những giây phút tột đỉnh.

16. Thiên thần cũng có thể biến thành ác quỉ:

Một hôm, một họa sĩ người Ý khá nổi tiếng đang đi bách bộ để tìm hứng sáng tác. Khi đến một khúc cua, ông chợt thấy một bé trai có khuôn mặt hồn nhiên dễ mến. Tự nhiên ông muốn vẽ lại vẻ mặt thiên thần của em. Ông nói với cậu bé rằng: “Này em, em có muốn tôi vẽ chân dung của em không?” Cậu bé gật đầu đồng ý và theo họa sĩ về xưởng vẽ của ông. Mấy giờ sau, cậu ta rất ngạc nhiên và vui mừng nhìn thấy khuôn mặt của em rạng rỡ trong bức tranh. Họa sĩ đặt tên cho bức tranh này là: “Tuổi thơ trong trắng.” Ông treo nó nơi phòng khách, và mỗi khi gặp điều gì bực mình, ông lại nhìn lên bức tranh kia và lập tức lấy lại bình an. Một số người muốn mua bức tranh với giá cao, nhưng dù gặp khó khăn về tài chính mà họa sĩ vẫn không bán.

Hai mươi năm sau. Một hôm họa sĩ cũng đang đi dạo để tìm hứng vẽ tranh. Khi tới gần khu nhà ổ chuột, tình cờ ông nhìn thấy một gã ăn xin, áo quần lôi thôi rách nát và có khuôn mặt chai lì gian ác, trông như một tên quỉ sứ. Ông suy nghĩ: “Sao trên đời này lại có người mang bộ mặt gian ác xấu xa đến thế nhỉ? Phải chi ta vẽ được gương mặt quỉ sứ này để so sánh với gương mặt thiên thần trong bức “Tuổi thơ trong trắng” trong phòng khách nhà ta thì hay biết mấy!”

Bấy giờ gã ăn mày đã chìa tay xin bố thí. Họa sĩ yêu cầu gã làm người mẫu cho ông vẽ và hứa sẽ cho gã một số tiền khá. Gã ăn xin lập tức đồng ý. Khi bức tranh đã vẽ xong, gã nhận tiền và ra về. Nhưng khi đi ngang phòng khách, gã trông thấy bức tranh “Tuổi thơ trong trắng” đang treo trên tường, gã liền dừng lại nhìn một lúc, rồi hai dòng lệ từ từ lăn trên gò má. Sau đó gã chỉ lên bức tranh và nói với họa sĩ rằng: “Thưa ông, đây chính là khuôn mặt của tôi hồi còn bé mà tôi nhớ có lần đã ngồi làm mẫu cho ông vẽ. Hôm nay ông lại vẽ khuôn mặt của tôi sau khi nó đã biến dạng!” Rồi gã thuật lại cuộc đời bất hạnh của gã như sau:

“Tôi vốn là một đứa con trai, lại là con một, nên được cha mẹ rất mực cưng chiều. Nhưng cũng vì thế mà tôi sinh ra hư hỏng. Khi cha mẹ tôi lần lượt qua đời, tôi đã bán tất cả gia sản và lao mình vào các thú vui trác táng… Chỉ sau một thời gian ngắn, tôi đã phung phí hết tiền bạc của cha mẹ và phải nhập bọn với lũ bạn đi trộm cắp. Rồi tôi bị bắt và thụ án mười năm. Trong thời gian ở tù, tôi đã trải qua rất nhiều gian khổ tủi nhục: Bị đánh đập, ứng hiếp và bị bóc lột tàn nhẫn. Nhưng rồi tôi cũng quen dần với cuộc sống đó. Cuối cùng chính tôi lại trở thành kẻ bóc lột hành hạ các tù nhân mới nhập trại và các bạn tù khác nhỏ yếu hơn tôi. Bây giờ sau khi vừa mãn hạn tù, tôi đang trong tình trạng không một đồng xu dính túi, lại còn mang thêm bệnh lao phổi sang thời kỳ thứ ba. Tôi chẳng biết làm gì hơn là phải đi ăn xin như ông thấy đó.”

Trước tâm sự của một người đã phung phí trót cả tuổi thanh xuân của mình, họa sĩ rất xúc động. Nhưng ông cũng chỉ biết khuyên bảo gã ăn xin hãy cố ăn ở lương thiện. Ít lâu sau, ông được tin gã đã nằm chết cô đơn tại một góc phố. Họa sĩ đã treo bức tranh “Ác quỉ” mà ông mới vẽ bên cạnh bức “Tuổi thơ trong trắng.” Ông cũng thường giải thích cho bạn bè và những ai thắc mắc về hai bức tranh như sau: “Hai khuôn mặt trong hai bức tranh này thực ra chỉ là một con người. Và sự khác biệt giữa hai khuôn mặt thiên thần và ác quỉ chỉ cách nhau 20 năm phóng đãng mà thôi!”

17. Luôn có niềm hy vọng cho con người

Chí Phèo (truyện ngắn của Nam Cao) là đứa con hoang, được mô tả là một người dị dạng, một tên lưu manh, nát rượu chuyên rạch mặt ăn vạ và sẵn sàng sinh sự với mọi người. Chí Phèo là kẻ trên không sợ Trời, dưới không sợ người. Người ta tránh Chí Phèo hơn tránh ôn dịch. Chí Phèo đem lòng yêu Thị Nở. Thị Nở là một cô gái xuất thân từ một nhà có mả hủi, tuổi đời ngoài 30, dở hơi, nghèo và rất xấu. Xấu ma chê quỷ hờn. Xấu đến nỗi người ta tránh thị như tránh một con vật rất ghê tởm.

Ấy vậy mà cả hai con người ấy vẫn nhận ra bản chất tốt đẹp của nhau. Thị Nở thấy Chí Phèo là một người hiền lành. Hiền như đất. Vẫn thường cho Thị xin lửa và có lần con cho Thị xin rượu về bóp chân. Ngược lại, Chí Phèo cũng thấy Thị Nở là một người có duyên. Thị Nở đã biết nấu cháo hành nóng cho Chí Phèo ăn, giúp cho Chí Phèo tỉnh cơn say và làm sống lại nơi Chí Phèo ý thức về sự lương thiện của bản thân mình.

Cuộc sống con người luôn phức tạp. Phức tạp đến nỗi khó lòng đánh giá nhau từ bên ngoài. Thực tế, vẫn có những người thân phận chẳng ra gì như Chí Phèo và Thị Nở, bị coi là cặn bã và thậm chí là quái thai của xã hội. Thế nhưng, ngay cả nơi những con người ấy bản chất tốt đẹp mà Thiên Chúa đã trao ban cho họ vẫn không hư đi, khả năng nhận ra những điều tốt đẹp nơi người khác của họ cũng không mất đi. Vì thế, không gì có thể khiến chúng ta tuyệt vọng về con người.

18. Khuôn mặt tỏa sáng

Trong quyển “Những điều tốt đẹp dành cho Chúa” Malcolm Muggeridge kể lại ấn tượng mà mẹ Têrêsa đã tạo ra nơi một cử tọa như sau: “Mọi gương mặt đều chăm chú theo dõi, không phải vỉ lời nói… mà vì chính con người của mẹ. Có một cái gì tốt đẹp bao phủ trên lời nói thu hút người nghe. Dường như có một nguồn sáng chan hòa hội trường xuyên thấu mọi tâm trí và mọi con tim.”

Câu chuyện Chúa Giêsu biến hình trên núi và câu chuyện của mẹ Têrêsa gợi nhớ những người đã gây ấn tượng sâu đậm trong đời tôi. Ai là người trong số đó?

Thánh nhân là những người có thể làm cho người khác dễ tin vào Chúa hơn. (Nathan Soderblum)

19. Chứng kiến khổ hình và vinh quang

Có một liên hệ giữa biến cố xảy ra trên núi Thabor và biến cố khác ở núi cây dầu. Trên núi Thabor, Phêrô, Giacôbê và Gioan thấy Chúa Giêsu biến hình khi thần tính Ngài biểu lộ một cách đặc biệt. Trên núi cây dầu, cũng chính ba môn đệ đó đã chứng kiến Chúa Giêsu hấp hối trong đó nhân tính Ngài được tỏ lộ một cách đặc biệt. Hai biến cố này bổ túc cho nhau theo nghĩa chúng cho thấy Chúa Giêsu toàn diện: Thiên Chúa thật và con người thật.

Tôi có khuynh hướng liên hệ với Chúa Giêsu trong đời sống cầu nguyện về phương diện thần tính hay nhân tính nhiều hơn?

Xin hãy là ánh lửa soi sáng con, là ngôi sao dẫn lối con, là con đường bằng phẳng dưới chân con. Và xin hãy là mục tử dẫn dắt con, hôm nay, đêm nay, và mãi mãi. (Thánh Columba)

CNMC 2C - CHÚA GIÊSU HIỂN DUNG

Lời Chúa: Lc 9, 28b-36

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. Và đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường và áo Người trở nên trắng tinh sáng láng. Bỗng có hai vị đàm đạo với Người, đó là Môsê và Êlia, hiện đến uy nghi, và nói về sự chết của Người sẽ thực hiện tại Giêrusalem.

Phêrô và hai bạn ông đang ngủ mê, chợt tỉnh dậy, thấy vinh quang của Chúa và hai vị đang đứng với Người. Lúc hai vị từ biệt Chúa, Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm; chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia.” Khi nói thế, Phêrô không rõ mình nói gì. Lúc ông còn đang nói, thì một đám mây bao phủ các Ngài và thấy các ngài biến vào trong đám mây, các môn đệ đều kinh hoàng. Bấy giờ từ đám mây có tiếng phán rằng: "Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người.” Và khi tiếng đang phán ra, thì chỉ thấy còn mình Chúa Giêsu.

Suốt thời gian đó, các môn đệ giữ kín không nói với ai những điều mình đã chứng kiến.

TRUYỆN KỂ

1. Biến hình và đổi đời

Michel Ange và Raphael là hai kiến trúc sư thiên tài, còn là họa sĩ và điêu khắc gia nổi tiếng nhất thế giới, đã được Đức Giáo Hoàng Juliô II trao cho nhiệm vụ thiết kế xây cất và trang trí Đại Thánh đường Thánh Phêrô và địện Vatican ở Rôma.

Suy về đề tài Chúa Biến Hình, Raphael đã thực hiện một bức họa có 3 cấp: Cấp trên là Đức Giêsu đứng giữa cụm mây sáng láng, cấp giữa là Thánh Phêrô, Gioan và Giacôbê, cấp cuối là nhóm các môn đệ và dân chúng vây quanh một thiếu nhi bệnh họan đang nằm chờ chết bên cạnh có 2 môn đệ: một môn đệ đang chỉ tay lên Đức Giêsu, môn đệ kia đang chỉ tay vào bệnh nhân” (ĐGM. Althur Tone). Bức họa đã lột được hết ý nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay là chỉ có Đức Giêsu mới biến đổi những kẻ bệnh hoạn nên lành thánh. Tin Mừng hôm nay đã giới thiệu Đức Giêsu lên núi cầu nguyện, đang lúc Người cầu nguyện dung nhan Người bỗng biến đổi sáng láng, chói lòa trong vinh quang. Người cầu nguyện để biến đổi ý mình trọn vẹn theo Thánh ý Chúa Cha, Người cầu nguyện cho cuộc tử nạn của Người sẽ phải hoàn tất tốt đẹp tại Giêrusalem và biến cuộc sống ta nên vinh hiển. Người cầu nguyện cho ánh sáng tình yêu của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần soi sáng cho khắp nhân loại, từ Adam Eva đến Abraham, Maisen, Êlia, từ Phêrô, Gioan, Giacôbê đến những người đang đứng chờ dưới chân núi được sống lại trong vinh quang nước Chúa. Người cầu nguyện nhất là cho các môn đệ và chúng ta biến thành đồng dạng với Con Chúa Cha và biết vâng lời Người: “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người.”

Phải vâng lời Người để “biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta, nên giống thân thể vinh hiển của Người.”

2. Một thoáng vinh quang

Trên núi Tabor, ánh vinh quang của Thiên Chúa đã tỏa chiếu từ thân xác Chúa Giêsu, và Ngài được biến hình. Các môn đệ đã ngây ngất trước vẻ đẹp và sự sáng ngời ấy. Đó không phải chỉ là vẻ bề ngoài, mà là vinh quang thật từ bên trong thoáng tỏ lộ ra. Nói tắt một lời: Đó là chính Thiên Chúa ở trong Chúa Giêsu.

Chúng ta cũng có vinh quang thần linh ở trong chúng ta, bởi vì chúng ta đã được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta cũng có những thoáng biến hình. Van Gogh nói: "Một người tiều phu hay một người thợ mỏ nghèo nhất cũng có thể có những thoáng cảm hứng khiến anh ta cảm thấy gần như đang ở thiên đàng.”

Một người nghèo sống trong khu nhà dành cho những kẻ vô gia cư đã kể câu chuyện sau đây. Một hôm ông đi dạo trên phố và tình cờ vào một ngôi nhà thờ lúc nào không hay. Ông không nhớ là lúc đó ông có cầu nguyện không, nhưng ông nhớ là cảm thấy tâm hồn mình chìm ngập trong ánh sáng. Mọi buồn chán đều tan biến hết, chỉ có bình an. Ông cảm thấy mình rất gần Chúa và được Chúa yêu thương. Cảm nghiệm này rất sâu đậm mặc dù chỉ thoáng qua trong phút chốc. Ông nói rằng ông sẵn sàng đánh đổi cả đời để có được một thoáng cảm nghiệm ấy. Khi ông rời nhà thờ, cảm nghiệm ấy tan loãng dần. Về sau, ông trở lại nhà thờ nhiều lần để mong có lại cảm nghiệm tuyệt vời ấy, nhưng không được.

Điều sai lầm của người vô gia cư trên là muốn bám cứng vào một cảm nghiệm thoáng qua. Nói cách khác, ông muốn đi lùi chứ không đi tới. Nói rõ hơn nữa: lẽ ra ông phải biết dùng cái cảm nghiệm thoáng qua ấy để soi sáng cuộc đời tăm tối của mình, và nhờ đó mà can đảm tiến bước trong hy vọng.

Phêrô cũng sai lầm như thế. Ông muốn ở lại mãi trên núi. Ông muốn bám cứng vào cảm nghiệm vinh quang hạnh phúc. Ông không muốn xuống núi tiếp tục cuộc sống thường ngày. Nhưng Chúa Giêsu đã giục ông xuống núi để đối diện với tương lai. Ngài không muốn cảm nghiệm trên núi ấy trở thành chỗ cho Phêrô ẩn trốn khỏi cuộc chiến đấu đang đợi chờ phía trước. Một thoáng ánh sáng Ngài ban cho ông là để giúp ông trực diện với giờ tăm tối sắp đến.

Nghe lời Chúa, Phêrô đã xuống núi. Nhưng lạ thay, cảm nghiệm thoáng qua hôm ấy vẫn còn sáng mãi trong lòng ông. Nhiều năm sau ông còn viết: "Chúng ta đã được chứng kiến vinh quang của Ngài trên núi... Khi ấy có tiếng phán từ trời rằng: Đây là Con yêu quý của Ta, Ta hài lòng về Ngài" (1 Pr 1,17-18).

3. Ngắm trời nhưng đừng quên chuyện dưới đất

Truyện ngụ ngôn kể về một nhà thiên văn có thói quen mỗi buổi tối lại nhìn lên các ngôi sao, nghiên cứu các vì tinh tú đang xoay vần, chuyển đổi trong vũ trụ bao la.

Một lần kia, đang đi dạo mát quanh vùng, mải mê suy nghĩ những chuyện trên trời, ông ta vô ý ngã xuống giếng cạn. Tiếng kêu cứu thất thanh, khiến một người đi ngang qua đó nghe được. Ông vội vàng chạy đến miệng giếng, liền đoán được việc gì đã xay ra, bèn nói với nhà thiên văn: "Này ông, ông cứ muốn biết những việc xảy ra trên trời, còn những việc sờ sờ dưới đất sao ông không thấy?"

4. Biến đổi

Một người bán gỗ cho xưởng mộc. Anh thường thủ lợi bằng cách đo gỗ thiếu. Ngày kia, có tin đồn đến xưởng là anh ta nhập đạo. Nghe thấy thế, mọi người bán tín bán nghi rồi bàn thảo mỗi người mỗi ý. Có một người lặng lẽ ra kho gỗ, một lúc sau trở vào dõng dạc tuyên bố:

- Đúng, anh ta nhập đạo thật.

- Sao anh biết?

- Tôi vừa xem lại số gỗ anh ta chở tới hôm qua. Tôi thấy là đúng với qui cách ta đặt, không thiếu nữa.

Người nào tiếp nhận đức Kitô cũng phải thay đổi cuộc đời và sống ngay chính.

5. Văn hào André Froissard.

Văn hào André Froissard thuộc Hàn lâm viện Pháp đã được ơn “trở lại” lạ thường. Ôâng đã thuật lại trong cuốn sách thời danh “Có Thiên Chúa và tôi đã gặp Ngài.” Thân phụ ông, Tổng thư ký đảng Cộng sản Pháp, đã từng tuyên bố: ”Nếu có Thiên Chúa, thì tôi khuyên “ông ấy” lo rút lui vì không ai thích ông.” Nhưng chính con ông lại được gặp gỡ Chúa và khẳng định: ”Khi người ta may mắn được gặp Thiên Chúa thì mọi sự khác chỉ là trò hề. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng không làm cho tôi thất vọng kể từ một buổi sáng năm ấy, 1935” (Phỏng vấn của Paris Match 8.4.1988)

6. Con sâu thành con bướm.

Có một con sâu nhỏ bò mãi, cho đến thời điểm cuối của cuộc đời thì tới thiên đàng. Nó gõ cửa, một giọng nói phát ra từ bên trong:

– Không có sâu bọ nào được phép vào đây. Ta thấy ngươi quá vội vã đấy.

– Lạy Chúa, xin dạy cho con biết phải làm gì bây giờ?

– Chịu đựng hơn một chút nữa, chiến đấu một chút nữa, và hãy biến thành bướm đi.

Thế là con sâu quay lại trần gian bắt đầu lại cuộc hành trình bò lên thiên đàng. Nó bò nhanh hơn, cố gắng nhiều hơn. Mồ hôi vã ra như tắm. Mồ hôi càng đổ ra, sức lực nó càng tiêu hao, nó càng cảm thấy nhẹ nhàng để bò nhanh hơn. Gần tới cửa thiên đàng rồi nhưng nhìn lại nó vẫn là con sâu xấu xí, khốn khổ. Nhưng nó vội xua nỗi buồn bằng sự cố gắng chính mình, nó rướn người lên và cảm thấy tàn hơi, kiệt sức. Chính lúc nó cúi đầu tuyệt vọng lại là lúc nó chợt cảm thấy thân hình nó nhẹ nhàng lạ thường. Nó đã hóa thành chú bướm xinh xắn bay vào khung cửa thiên đàng đang rộng mở. Nó đã biến hình trọn vẹn.

Con sâu biểu tượng mỗi con người chúng ta trong cuộc lữ hành đức tin đời mình. Chúng ta khao khát bò lên cao trên đường thánh đức với bao nỗi nhọc nhằn, vất vả. Vì phải chiến đấu chống lại những chước cám dỗ nội tâm để đáp trả tiếng nói của chân lý, hay phải đối diện với những cám dỗ thế gian đang phơi bầy trước mắt, khiến chúng ta thường có tư tưởng buông xuôi.

 Tội lỗi, yếu đuối và sự nhát đảm như chiếc vỏ bọc gồ ghề vây hãm chúng ta. Đó là lớp vỏ chúng ta cần thoát ra để trở thành con người hoàn hảo, tỏa sáng như Đức Kitô trên núi thánh nhờ vào thái độ quy phục thánh ý Cha trên trời, “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người.”

7. Hãy tự giúp mình trước.

Người ta kể rằng: một bác tiều phu kia đi lấy được một xe bò củi chất đầy. Nhưng khi đi tới một khúc đường sình lầy thì đôi bò dừng lại. Xe bò sụn lún xuống bùn. Bác ta ngồi khóc than. Khóc một hồi, bác ta nhớ ra có một vị thần và bắt đầu van xin. Vị thần hiện ra phán bảo: ”Thay vì ngồi khóc thì ngươi hãy ghé vai vào xe thử đẩy đi và ta sẽ giúp.” Bác tiều phu làm theo lời vị thần, cố gắng mọi cách, cuối cùng chiếc xe bò đã vượt qua khúc đường sình lầy.

Đó là ngụ ngôn dạy chúng ta phải cộng tác với một sức mạnh hơn để làm việc, để giải quyết mọi việc. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta còn biết nhờ vả vào những người khỏe mạnh hơn, thì tại sao chúng ta lại không cậy nhờ Chúa, là Đấng toàn năng và hay cứu giúp. Ngài sẽ giúp chúng ta vượt thắng đau khổ nếu chúng ta tin tưởng, cậy trông và kêu xin Ngài.

8. Bốc cát cọ mình.

Người ta thuật lại rằng cả một khu đất kia chỉ có một gia quyến người da đen ở. Gia quyến đó gồm có một bà vợ, một người chồng và một đứa con trai 9 tuổi, Cậu bé đi học, nhưng giữa bọn trẻ da trắng, riêng mình đen thủi đen thui, nên lắm phen bị chê cười, chế nhạo. Cậu luôn bị chọc ghẹo nên khó chịu, giống như một tấm lòng non nớt bị một vết thương sâu. Sau cùng, cậu tự hỏi mình có thể thay đổi nước da chăng, rồi nhất định làm theo ý nghĩ đó.

Bữa nọ, thầy giáo thấy cậu vắng mặt, bèn hỏi đám học sinh về cậu. Một trò thưa rằng thấy cậu đi đàng sau trường, giữa khu rừng nhỏ có rạch chảy qua. Thầy giáo ra công tìm kiếm và thấy cậu ở sát bờ rạch, đang dùng cát ướt kỳ cọ hai cánh tay đen. Thỉnh thoảng cậu dừng tay, rửa cát dính vào da, rồi nhìn xem màu da đen mất chưa. Chao ôi! Mầu đen quá sậm cậu mất công toi.

Vài phút sau thầy giáo gọi cậu:

– Này em làm gì vậy?

Cậu giật mình thưa:

– Con cố sức kỳ cọ hết màu da đen để nên người da trắng, song không sao được. (Ms Lê văn Thái, Những tia sáng, tập 2, tr 94-95)

9. Lời có sức biến đổi

Câu chuyện xẩy ra vào năm 300 trước Chúa Giáng sinh. Vào một sáng kia lúc nhà hiền triết Bolena đang chơi giải trí với các sinh viên trước hàn lâm viện thành Athène, thủ đô Hylạp, thì có một người đàn ông đến. Ông tự giới thiệu mình là một thày tướng thời danh. Các sinh viên nghe thế nên mới đề nghị ông xem cho thày mình là hiền triết Bolena một quẻ.

Ông thày tướng nhìn nhà hiền triết Bolena một lát, rồi nói: “Giáo sư của các anh chỉ là một con người “Mũi dòm miệng”, tức là con người ưa nhậu nhẹt, say xỉn. Nghe thế các sinh viên giận sôi ruột lên, định xông vào cho ông thày tướng dám nói ẩu một trận. Thế nhưng nhà hiền triết Bolena đã kịp can ngăn. Rồi sau đó ông chậm rãi giải thích cho các học trò của mình như thế này: “Này các trò, ông thày tướng này rất giỏi, ông đã coi tướng thày rất trúng; khi còn trẻ, chính thày là một thanh niên “mũi dòm miệng.” Một lần kia, sau khi đã nhậu nhoẹt say sỉn, thày đã đến Hàn Lâm Viện này, để nhạo báng các sinh viên bằng những cử chỉ và lời nói rất ư là thiếu lễ độ. Bấy giờ giáo sư của thầy là nhà hiền triết Socrate bình tĩnh, bỏ ngay vấn đề đang nói, mà bàn ngay tới vấn đề đức tính và tiết độ, làm cho con người có giá trị, đáng được trọng kính. Nhưng lời giảng dạy trên đây, đã giáo dục thày, đã làm cho thày bỏ được tính mê nết xấu, và luyện tập đức tính nên ngày nay, thày mới trở nên con người ích lợi cho xã hội và đất nước như thế này.

10. Chọn sống hay chọn chết

Ngày xưa, có một vị hiền triết sống trên đỉnh ngọn núi cao. Dân làng dưới chân núi mỗi khi gặp khó khăn thường tìm đến vị hiền triết này để xin lời khuyên.

Ngày nọ, một chàng trai được xem là khá thành đạt, đang băn khoăn cho chặng đường sắp tới của mình. Chàng quyết định lên núi gặp vị hiền triết.

- Điều gì có thể giúp con thành một người thực sự vĩ đại? Chàng trai hỏi.

Vị hiền triết nhìn thẳng vào mắt anh và hỏi:

- Con có chắc là con muốn biết điều đó không?

- Vâng! Con thực sự rất muốn biết. - Chàng trai quả quyết trả lời

- Được! - vị hiền triết đáp. - Ngươi hãy tự tìm cho mình câu trả lời qua câu chuyện ta kể sau đây: "Thuở xưa có một chàng thanh niên ở đất nước Hy Lạp mắc bệnh hiểm nghèo. Biết mình không còn sống được bao lâu nữa, anh xung phong gia nhập quân đội lúc đó đang bước vào trận chiến khốc liệt với kẻ thù. Với hy vọng được hy sinh anh dũng trên chiến trường, anh đã chiến đấu hết mình, không ngại phơi mình trước làn tên mũi đạn của kẻ thù và không mảy may lo cho mạng sống của mình. Cuối cùng, khi kẻ thù bị đánh bại, anh vẫn còn sống! Vô cùng cảm phục trước lòng dũng cảm, can trường của người lính nọ vì đã góp phần không nhỏ tạo nên chiến thắng ấy, vị tướng quyết định thăng chức và trao tặng cho anh huân chương danh dự cao quý nhất cho lòng dũng cảm.

Song, lạ thay đến ngày được trao huân chương, trông anh rất u buồn. Ngạc nhiên, vị tướng hỏi lý do thì được biết anh đang phải gánh chịu một căn bệnh nguy hiểm. Làm sao ông lại có thể để cho người lính dũng cảm của mình phải chết! Vị tướng đã cho tìm vị lương y giỏi nhất nước về trị bệnh cho anh. Căn bệnh chết người cuối cùng đã được chữa khỏi.

Nhưng từ đó trở đi người ta thấy người lính can-trường-một-thời đã không còn xuất hiện nơi tuyến đầu vất vả hiểm nguy nữa! Anh luôn né tránh mọi khó khăn và cố gắng bằng mọi cách để bảo vệ mạng sống của mình thay vì đương đầu với thử thách.

Về sau có dịp gặp lại, vị tướng đã nói với người lính nọ một câu: "Giờ đây anh mới thực là người đã chết hoàn toàn." (First news - Theo Internet)

11. Vâng lời trọng hơn của lễ

Có một nhà vua kia, một hôm cho triệu tập các cận thần lại. Vua đưa cho quan Tể Tướng một viên ngọc trai lóng lánh và hỏi:

- Ông hãy nói viên ngọc này đáng giá bao nhiêu?

- Muôn tâu, nó đáng giá còn hơn số lượng vàng khối mà 100 con lừa có thể chở.

- Ông hãy đẫp vỡ nó ra cho ta!

- Muôn tâu Bệ Hạ, làm sao hạ thần có thể đang tâm phung phí phá đi một báu vật như thế ạ!

Nhà vua thưởng cho quan Tể Tướng một chiếc áo danh dự và lấy lại viên ngọc.

Kế đó vua đưa viên ngọc cho quan Thị Vệ, và cũng hỏi:

- Theo ông, nó đáng giá bao nhiêu?

- Bằng nửa vương quốc.

- Hãy đập vỡ nó vỡ ra cho ta!

- Đập vỡ viên ngọc này ư? Muôn tâu Bệ Hạ, tay thần không thể nào làm được việc đó.

Nhà vua cũng thưởng cho ông này một chiếc áo danh dự, lại còn tăng lương cho ông.

Sau cùng nhà vua đưa viên ngọc cho Abdul một tên cận vệ tầm thường.

- Ngươi có biết viên ngọc này đẹp đến mức nào không?

- Muôn tâu, đẹp không thể nói được.

- Hãy đập nát nó ra cho ta.

Lập tức Abdul lấy hai viên đá đập vỡ viên ngọc ra và nghiền nó thành bụi. Quần thần thét lên sợ hãi vì sự táo bạo của Abdul.

Họ hỏi:

- Tại sao nhà ngươi dám làm thế chứ?

Abdul bình tỉnh đáp:

- Lệnh của Hoàng Thượng đáng giá hơn bất kỳ viên ngọc quý nào. Tôi tôn kính Hoàng Thượng chứ không tôn kính viên ngọc.

Nhà vua khen ngợi thái độ của Abdul và thưởng chàng trọng hậu hơn cả hai vị quan kia.

12. Thực lòng theo đạo

Tân là một thanh niên chuyên bán thịt bò tại một cửa hàng thịt trong chợ AĐ. Anh nổi tiếng là người bán hàng gian dối khi thỉnh thoảng lại bán thịt heo giả làm thịt bò và còn thường hay cân thiếu cho khách hàng.

Một ngày nọ, có người thấy anh theo học khóa giáo lý dự tòng để chuẩn bị kết hôn với một cô gái công giáo và sáu tháng sau anh đã được lãnh ba bí tích khai tâm gia nhập đạo. Nghe tin anh theo đạo, nhiều người quen biết tỏ vẻ không tin vì cho rằng anh chỉ giả bộ theo đạo để lấy vợ như câu người đời thường mỉa mai: “Cúi đầu lạy Chúa Ba Ngôi. Cho tôi được vợ tôi thôi nhà thờ!”

Nhưng sau nhiều ngày thấy anh cùng vợ thường xuyên dự lễ Chúa Nhật và tỏ ra vui vẻ thân thiện với mọi người, nhất là sau khi kiểm tra thấy việc buôn bán của anh không còn cảnh cân thiếu hay lừa đảo như trước thì họ mới tin anh thực tâm tin theo Chúa.

13. Được ơn chữa lành nhờ cây Thánh Giá:

Năm 1982, các nữ tu Dòng Con Đức Bà Phù Hộ ở Cáp bên Haiti, muốn thuê nhà điêu khắc Pêrikhêt làm một cây Thánh Giá lớn để đặt trong nhà thờ mới. Nhưng lúc đó, ông Pêrikhêt đã bị ung thư nặng. Bác sĩ trực nói với chị nữ tu tới gặp:

"Lẽ ra chị phải đến đây sớm hơn. Rất tiếc là bây giờ căn bệnh ung thư của ông Pêrikhêt đã quá nặng rồi."

Vài ngày sau, một nữ tu lại đến gặp ông và năn nỉ. Bác sĩ nói với nhà điêu khắc:

"Ông Pêrikhêt à, các nữ tu ở nhà thờ mới tại Cáp mong muốn ông làm cho các chị ấy một cây thánh giá thật đẹp, dài 2m.”

Nhà điêu khắc trầm ngâm suy nghĩ và cầu nguyện, rồi ông bình thản nói với chị nữ tu:

"Tôi xin nhận lời. Cây thánh giá này sẽ là tác phẩm cuối cùng, tôi sẽ làm cây thánh giá nầy để chuẩn bị chết, và xin Chúa thương xót tôi.”

Thế là nhà điêu khắc bắt tay vào công việc với tất cả tâm hồn của một người mong gặp được Chúa Giêsu. Đây thật là một công việc nặng nhọc vì bệnh tình của ông. Nhưng ông cảm thấy một điều thật lạ lùng là mỗi nhát búa đập trên thanh sắt nóng đỏ, thay vì làm cho ông mệt mỏi, thì ông lại cảm thấy như được tăng sinh lực. Ông tiếp tục làm việc ngày qua ngày, và khi ông hoàn thành thì đó là cây thánh giá rất đẹp và ông cảm thấy như khoẻ hẳn. Chúa Giêsu đã giải thoát ông khỏi căn bệnh quái ác.

Ngày nay, cây Thánh Giá này vẫn còn được treo ở nhà thờ thành phố Cáp Haiti và thu hút nhiều tín hữu tới kính viếng.

Chúng ta xác tín rằng một khi ta biết thông phần vào sự Thương khó của Chúa Giêsu thì chúng ta sẽ được thông phần vào vinh quang Phục sinh của Chúa. Amen.

14. Tạo vật mới của Chúa

Trong một nhà giam các tù nhân trọng án, có một tù nhân khét tiếng hung ác tên là SITA ĐÊLI (Starr Daily). Anh ta vào tù ra khám nhiều lần vì tội say sỉn đánh lộn làm mất an ninh trật tự xã hội. Trong lần tuyên án thứ năm, quan tòa đã tuyên bố: “Chúng tôi biết rằng có bắt anh ở tù thêm cũng chẳng có kết quả. Phải nói thật là: chúng tôi hoàn toàn thất vọng về anh! Nhưng chúng tôi không thể không tuyên án cho anh. Lần này anh bị phạt tù giam 10 năm.”

Sau khi vào nhà tù, Đêli vẫn tỏ thái độ ngoan cố và còn coi thường kỷ luật nhà tù hơn trước. Anh thường hay đánh đập các bạn tù và phản đối lại cai tù, đến nỗi anh bị biệt giam trong một căn hầm tối dơ bẩn đầy gián hôi và lũ chuột cống… Một hôm, khi đang nằm ngủ trên nền gạch lạnh giá, đột nhiên Đêli nghe có tiếng nói như sau: “Hỡi Đêli, tại sao mi lại bị nhốt riêng trong căn hầm khủng khiếp này? Tại sao mọi người đều thù ghét mi? Tại sao mi không dùng sức khỏe để phục vụ mà cứ tiếp tục làm điều ác chống lại kẻ khác như thế? ”… Tư tưởng này đã đánh động tâm hồn khiến Đêli nhiều phen suy nghĩ. Rồi một đêm kia Đêli đã gặp được Đức Giêsu trong giấc mơ, Đấng mà anh đã xua đuổi ra khỏi cuộc đời anh từ khi mười hai tuổi. Cũng từ đây, hình ảnh của Đức Giêsu thường xuyên xuất hiện trong tâm trí anh. Anh mơ thấy Người đến bên âu yếm nhìn và nói với anh những lời mà anh đã từng thuộc lòng khi còn bé: “Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng”, “Hãy yêu thương kẻ khác như yêu chính mình ngươi”… Anh cảm thấy tâm hồn được bình an mà từ trước đến nay chưa khi nào được hưởng. Rồi khuôn mặt của những kẻ đã từng bị anh hãm hại lần lượt xuất hiện trong tâm trí khiến anh rất hối hận. Lần đầu tiên, anh đã mở miệng cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội” (Lc 18,13).

Cảm nghiệm ấy đã biến Đêli từ một người hung ác gian tham và thù hận, trở thành một người đầy độ lượng nhân ái! Sự biến đổi nội tâm khiến Đêli không còn la hét đập phá như trước, Các nhân viên cai ngục đã nhận ra có sự thay đổi rõ rệt xảy ra nơi anh, họ cho phép anh được trở lại trại giam thường phạm. Tại đây anh bắt đầu đối xử tốt với các bạn tù: Anh luôn bênh vực những người mới đến, nên dần dần anh được mọi người trong trại quý mến. Rồi anh được giảm án tù từ mười xuống còn 5 năm. Mãn hạn tù, anh gia nhập vào “Nhóm cải thiện chế độ lao tù.” Cùng với cha tuyên úy và các bạn, Đêli đi thăm và động viên các tù nhân còn bị giam và khuyên họ hãy học tập cải tạo tốt. Nhờ đó nhiều bạn tù đã sớm được về đoàn tụ với gia đình. Linh mục Pitơ Mácsôn (Peter Marshall) đã bình luận về sự hóan cải của Đêli như sau: “Đây là một bằng chứng sống động cho thấy: Sita Đêli không chỉ là một người cũ được tân trang lại, nhưng chính là một tạo vật hoàn toàn mới của Thiên Chúa!”

15. Khu ổ chuột ở Ấn Độ

Một đêm nọ, ký giả Trey Ketler đi bách bộ xuyên qua một khu ổ chuột tại thành phố Calcutta, Ấn Độ. Thình lình ông nghe một âm thanh kỳ lạ. Ông quay lại và thấy một cậu bé ăn xin tàn tật đang lết về phía ông. Người ký giả lấy tiền lẻ trong túi và trao cho cậu bé. Không đầy một phút sau, ông lại nghe một cuộc chửi rủa inh ỏi. Ông quay lại, thấy cậu bé ăn xin tàn tật bị đám ăn xin tàn tật khác trấn lột!

Ngày nọ, một người nữ khác cũng đến khu ổ chuột đó. Bà thấy cảnh quá nghèo khổ của khu này, bà dốc hết những gì bà có biến đổi khu này. Đầu tiên, bà chỉ cất được một phòng học cho trẻ. Tấm bảng là nền nhà, bàn ghếcũng là nền nhà. Ít năm sau tức là năm 1997, khi bà qua đời, khu ổ chuột đã có 100 trường học trang bị đầy đủ: 750 phòng phát thuốc miễn phí, 150 nhà dành cho những kẻ bị bỏ rơi, và trên 40 ngàn thiện nguyện từ khắp nơi đến trợ giúp. Người nữ đó chính là Mẹ Têrêsa Calcutta.

Phải chăng đó là một cuộc biến hình Chúa dùng con cái Người thực hiện.

Mùa Chay Chúa muốn chúng ta thực hiện nhiều cuộc biến hình như thế.

16. Nhận lỗi để biến đổi

Liszt là một nhạc sĩ dương cầm nổi tiếng khắp nước Hungary vào cuối thế kỷ 19. Nhưng càng nổi danh ông càng bị người ta mạo danh.

Một hôm tại một thành phố bên Đức, một thiếu nữ quảng cáo buổi độc tấu dương cầm và cô ta là học trò của nhạc sĩ Liszt. Nhưng một ngày trước khi biểu diễn, cô hoảng hốt hay tin nhạc sĩ đại tài đó đến thành phố. Như thế sự mạo danh của cô sẽ bị khám phá và tương lai cô sẽ tiêu tan. Nhưng thay vì bỏ cuộc, cô đã can đảm đến gặp nhạc sĩ và thú nhận việc mạo danh của cô. Nhạc sĩ ôn tồn lắng nghe cô và dịu dàng nói:

- Cháu đã phạm một lỗi lầm. Nhưng trong đời không ai tránh được lầm lỗi. Cháu đã biết lỗi và hối hận. Điều đó tốt lắm rồi. Bây giờ cháu hãy biểu diễn thử cho bác nghe.

Cô liền ngồi lên dương cầm, biểu diễn cho ông ta nghe. Nghe xong, ông ta sửa lại những sai sót rồi nói:

- Dù bác dạy cho cháu rất ít, nhưng cháu cũng là học trò của bác. Ngày mai cháu cứ đi trình diễn và loan báo: Bác sẽ trình tấu bản cuối cùng.

Cách cư xử của nhạc sĩ Liszt trên đây nhắc chúng ta cách đối xử của Chúa đối với chúng ta. Những vấp váp lỗi lầm của chúng ta luôn được Chúa tha thứ sửa đổi lại cho tốt đẹp. Tất cả những thất bại khổ đau và ngay cả những vấp ngã của chúng ta cũng được Người biến đổi thành những cơ may để mời gọi chúng ta tiến bước theo Người, cùng vác thánh giá theo Người để được cùng Người sống lại vinh quang.

Mùa Chay chính là thời gian đặc biệt để chúng ta thực hiện điều đó.

17. Ý thức mình là con Thiên Chúa để vươn lên

Một người thợ săn bắt gặp một ổ trứng phượng hoàng trong khu rừng nguyên sinh. Anh đem ổ trứng ấy về nhà, trộn chung vào ổ trứng của gà mẹ đang ấp. Mấy tuần sau, một chú phượng hoàng con xinh đẹp chào đời và được gà mẹ dẫn đi ăn chung với đàn gà con bé nhỏ.

Phượng hoàng con lớn lên bên cạnh những con gà khác, luôn nghĩ rằng mình cũng thuộc nòi giống gà như những con gà cùng lứa, cùng cào bới đống rác, đống phân… để kiếm ăn như những con gà kia.

Thế rồi, vào ngày định mệnh ấy, một con phượng hoàng oai phong từ trên cao thình lình đáp xuống khiến cả đàn gà hoảng hốt chạy tán loạn. Phượng hoàng tiến đến gần chú phượng hoàng con, chỉ cho nó biết nó không phải là chú gà tầm thường, nhưng thuộc giống nòi phượng hoàng oai phong lẫm liệt.

Thế là từ hôm đó, phượng hoàng con ngẩng cao đầu, vươn cao cổ, bắt đầu xoè cánh tập bay và chẳng bao lâu, nó xoải rộng đôi cánh, phóng mình vút lên, bay lượn giữa khung trời cao xanh lộng gió, trông thật oai hùng.

18. Ai nô lệ, ai tự do?

Épictète là một triết gia-nô lệ tại xứ Syracuse. Vua của Syracuse rất độc tài, nhưng khi đọc sách của Épictète, nhà vua thấy hay quá nên mới ra quyết định giải thoát cho Épictète, không bắt ông làm nô lệ nữa. Thế mà Épictète lại bảo nhà vua:

- Vua hãy tự giải thoát chính mình đi.

- Nhưng ta là vua mà?, ông vua độc tài ngạc nhiên.

- Một nhà độc tài là kẻ phải làm nô lệ cho các dục vọng của mình, còn một người nô lệ làm chủ được các dục vọng của mình mới là một người tự do. Hỡi Đức Vua, hãy tự giải thoát chính mình đi.

Câu trả lời thâm thúy của Épictète cho thấy không dễ mà phân biệt giữa nô lệ và tự do. Có khi ta tưởng mình được tự do, được làm theo ý riêng mà đâu ngờ rằng mình lại đang tự buộc mình vào con đường dẫn đến cái chết của tâm hồn; ngược lại, có những người bước vào con đường thoạt trông là đau khổ mà lại tìm được sự tự do và hạnh phúc thật.

Khi loan báo Tin Mừng, kêu gọi mọi người theo mình với lời hứa về sự sống đời đời và hạnh phúc thật, Chúa lại luôn đòi hỏi cái điều kiện hết sức khó nghe đó, là ai muốn theo Chúa phải từ bỏ chính mình, vác thập giá - hình phạt dành cho dân nô lệ - mà theo. Tại sao vậy?

19. Ánh sáng Nước Trời

Trong quyển “Những điều tốt đẹp dành cho Chúa” Malcolm Muggeridge kể lại ấn tượng mà mẹ Têrêsa đã tạo ra nơi một cử tọa như sau: “Mọi gương mặt đều chăm chú theo dõi, không phải vỉ lời nói… mà vì chính con người của mẹ. Có một cái gì tốt đẹp bao phủ trên lời nói thu hút người nghe. Dường như có một nguồn sáng chan hòa hội trường xuyên thấu mọi tâm trí và mọi con tim.”

Câu chuyện Chúa Giêsu biến hình trên núi và câu chuyện của mẹ Têrêsa gợi nhớ những người đã gây ấn tượng sâu đậm trong đời tôi. Ai là người trong số đó?

Thánh nhân là những người có thể làm cho người khác dễ tin vào Chúa hơn. (Nathan Soderblum)

20. Thiên Chúa làm người để nâng con người lên

Có một liên hệ giữa biến cố xảy ra trên núi Thabor và biến cố khác ở núi cây dầu. Trên núi Thabor, Phêrô, Giacôbê và Gioan thấy Chúa Giêsu biến hình khi thần tính Ngài biểu lộ một cách đặc biệt. Trên núi cây dầu, cũng chính ba môn đệ đó đã chứng kiến Chúa Giêsu hấp hối trong đó nhân tính Ngài được tỏ lộ một cách đặc biệt. Hai biến cố này bổ túc cho nhau theo nghĩa chúng cho thấy Chúa Giêsu toàn diện: Thiên Chúa thật và con người thật.

Tôi có khuynh hướng liên hệ với Chúa Giêsu trong đời sống cầu nguyện về phương diện thần tính hay nhân tính nhiều hơn?

Xin hãy là ánh lửa soi sáng con, là ngôi sao dẫn lối con, là con đường bằng phẳng dưới chân con. Và xin hãy là mục tử dẫn dắt con, hôm nay, đêm nay, và mãi mãi. (Thánh Columba)

21. Giây phút ân sủng

Các tác giả thiêng liêng đôi khi đề cập đến “giây phút ân sủng”, trong đó biên giới giữa trời và đất xem ra biến mất trong một giây phút ngắn ngủi. Đó là giây phút sự hiện diện của Thiên Chúa thực sự chạm đến cuộc đời ta. Đó là giây phút chúng ta được chúc phúc vì nhìn thấy sự bất diệt và vinh quang của Thiên Chúa. Đó là giây phút Phêrô, Giacôbê, và Gioan có được, như được đề cập đến trong bài đọc hôm nay. Giây phút đó không bao giờ diễn ra sau đó y như vậy nữa.

Tôi có nhớ “giây phút ân sủng” hay một cái gì tương tự diễn ra trong đời tôi không? Do đâu tôi có được giây phút đó? Do tình yêu hay do lời cầu nguyện?

Thiên Chúa vẫn đứng trong bóng tối, âm thầm quan sát ta (James Russell Lowell)

THỨ HAI – HÃY SỐNG NHÂN TỪ

Lời Chúa: Lc 6, 36-38

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ. Ðừng xét đoán thì các con khỏi bị xét đoán; đừng kết án thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được tha thứ. Hãy cho thì sẽ cho lại các con: Người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con.

Vì các con đong bằng đấu nào, thì cũng được đong trả lại bằng đấu ấy!”

TRUYỆN KỂ

1. Hãy sống nhân từ.

Mahatma Ganhdi, một nhà ái quốc Ấn Độ, lúc còn trẻ, ông sang Anh quốc học nghề luật sư và nhờ đó có dịp tiếp xúc với Kitô giáo. Ông đọc Phúc âm thường xuyên và rất say mê Chúa Kitô, đặc biệt ông thán phục bản Hiến chương Tám Mối Phúc Thật và lấy đó làm nguồn cảm hứng cho đường lối bất bạo động của ông trong việc dành lại độc lập cho dân tộc mình.

Tuy nhiên, có lần ông đã tâm sự với một người thân cận rằng: dù thán phục giáo lý của Chúa Kitô, nhưng ông không thể trở thành Kitô hữu, vì ông thấy nhiều Kitô hữu không sống Tám Mối Phúc Thật của Chúa. Ông nói: “Tôi yêu mến Chúa Kitô, nhưng tôi ghét người Kitô hữu, vì họ không giống Chúa Kitô. Nếu họ giống Chúa Kitô thì dân Ấn Độ chúng tôi đã trở lại thành Kitô hữu cả rồi.”

Nhận xét của Mahatma Ganhdi trên đây phải cảnh tỉnh chúng ta về ơn gọi và trách nhiệm của chúng ta

2. Cha anh em là Đấng nhân từ

Xénophon, nhà triết lý Hy Lạp sống vào giữa thế kỷ thứ V trước Công nguyên đã kể câu chuyện ngụ ngôn về xét đoán:

“Thượng Đế đặt trên vai con người hai cái bị (túi): Một cái đằng trước và một cái đằng sau. Cái bị đằng sau chứa đựng tất cả cái xấu của chính con người mình, còn cái bị đằng trước thì đầy rẫy những cái xấu của người khác. Do đó, con người khó mà thấy được những thiếu sót của mình, nhưng lại dễ dàng nhìn thấy những khuyết điểm của người khác.”

3. Hãy biết cho đi.

Một người nọ thật giầu, muốn gì cũng có. Tuy vậy ông không thấy hạnh phúc vì ông chỉ nhận được những cái nhìn soi bói, coi thường và khinh miệt của người khác. Ông tìm đến hỏi một người nổi tiếng khôn ngoan:

- Tại sao người ta lại coi thường và khinh miệt tôi là kẻ keo kiệt bủn xỉn? Người ta đâu biết rằng sau khi chết, tôi sẽ hiến tất cả gia tài của tôi cho người nghèo và cho công việc từ thiện?

Để trả lời, nhà khôn ngoan kể cho ông một câu truyện nhỏ sau đây: Một chú heo than thở cùng chị bò cái:

- Tôi cũng như chị, chúng ta cống hiến thịt mình cho loài người. Thế mà tại sao họ thân thiện với chị mà xa lánh tôi?

Ngẫm nghĩ giây lát, chị bò trả lời:

- Thịt chúng ta chỉ công hiến cho loài người khi chúng ta chết. Còn bây giờ họ quí mến tôi hơn có lẽ tại tôi hiến cho họ sữa lúc tôi còn sống đấy chăng?

4. Tình yêu phải ở thì hiện tại

Một người nọ thật giàu muốn gì cũng có. Tuy vậy ông không thấy hạnh phúc vì ông chỉ nhận được những cái nhìn soi bói, coi thường và khinh miệt của người khác. Ông tìm đến hỏi một người nổi tiếng khôn ngoan: “Tại sao người ta lại coi thường và khinh miệt tôi cho tôi là kẻ keo kiệt bủn xỉn? Người ta đâu biết rằng sau khi chết, tôi sẽ hiến tất cả gia tài của tôi cho người nghèo và cho công việc từ thiện.”

Để trả lời, nhà khôn ngoan kể cho ông một câu chuyện nhỏ như sau: một chú heo than thở cùng chị bò cái: “Tôi cũng như chị, chúng ta cống hiến thịt mình cho loài người. Thế mà tại sao họ thân thiện với chị mà xa lánh tôi?”

Ngẫm nghĩ giây lát, chị bò cái trả lời: “Thịt chúng ta chỉ cống hiến cho loài người khi chúng ta chết. Còn bây giờ họ quý mến tôi hơn có lẽ tại tôi hiến cho họ sữa lúc tôi còn sống đấy chăng.”

5. Cho thì có phúc (hài hước)

Thầy giáo: “Tâm, bây giờ thầy nói cho em ghi nhớ phương châm này: Cho có phúc hơn nhận.”

- Em đã biết điều đó, vì là phương châm trong nghề của Ba em.

- Ồ, thật tuyệt vời! Ông ấy làm nghề gì?

- Võ sĩ.

6. Cái nhìn hẹp hòi

Đang đi dạo, tôi ngạc nhiên nhìn thấy một người ngồi trên ghế mà cuốc vườn. Tôi nghĩ: “Quá lười biếng!” Nhưng đột nhiên tôi thấy đôi nạng dựa ở ghế của anh. Thì ra anh vẫn làm việc dù bị tật nguyền.

Bài học tôi học được về sự phán đoán nông nổi vẫn khắc ghi trong tôi cho đến hôm nay: thánh giá của người khác đôi khi là do cái nhìn hạn hẹp của ta.

7. Biết cho đi.

Mẹ Têrêsa kể: “Có người hỏi một người đàn ông Hindu: “Kitô hữu là gì?” Ông trả lời: “Kitô hữu là người biết cho đi.”

Hãy mở lòng, để Thiên Chúa làm thấm nhuần tấm lòng bạn bằng tình yêu thương. Chúa yêu thương bạn với tình yêu dịu hiền. Những gì Chúa ban tặng không phải để bạn giữ lấy và khoá kỹ, nhưng để bạn cho đi.

Bạn càng dành dụm, bạn càng ít khả năng trao tặng, bạn càng có ít, càng biết rõ bạn phải cho đi bao nhiêu. Nếu có xin gì, chúng ta hãy xin Ngài giúp chúng ta sống quảng đại.

8. Hơn giải Nobel

Mẹ Teresa kể chuyện: Tại Ấn Độ, nếu ai cho người nghèo một ít gạo, họ sẽ vui vẻ mãn nguyện khi nhận quà. Tại Âu Châu, người nghèo không nhận mình nghèo, nên với nhiều người, thái độ này đã làm nảy sinh nỗi thất vọng.

Chiều muộn (khoảng 10 giờ đêm), nghe chuông reo, tôi ra mở cửa và gặp một người đàn ông đang run rẩy vì lạnh.

“Thưa mẹ Têrêsa, con nghe mẹ vừa nhận một giải thưởng lớn. Khi hay tin này, con quyết định cũng tặng Mẹ món quà gì đó. Đây mẹ nhận đi. Đó là những gì con quyên được hôm nay.”

Chỉ là một chút thôi, nhưng trong hoàn cảnh của anh, đó là tất cả.

Tôi cảm động trước “giải thưởng” của anh hơn là lúc nhận giải Nobel.

9. Món quà giá trị

Có ngày, một đôi vợ chồng trẻ đến nhà chúng tôi và xin gặp tôi.

Họ tặng tôi một món tiền lớn, tôi hỏi: “Các bạn kiếm được số tiền lớn này ở đâu?” Họ trả lời: “Chúng con mới cưới nhau hai ngày. Trước khi cưới, chúng con đã quyết định không tổ chức đám cưới, không sắm áo cưới, không làm tiệc cưới, chẳng đi trăng mật. Chúng con muốn tặng mẹ số tiền chúng con dành dụm được.”

Tôi hiểu hết ý nghĩa của quyết định đó, nhất là đối với một gia đình Hindu. Do đó tôi hỏi: “Các bạn nghĩ thế nào về chuyện đó?”

 “Chúng con yêu nhau nhiều, nên chúng con muốn chung chia niềm vui về tình yêu của chúng con với những người mẹ đang phục vụ.

10. Biết tha thứ là dấu hiệu của lòng sám hối

Liền sau thế chiến thứ II chấm dứt, bà Koritainbun một con người còn mang đầy những vết sẹo trên thân thể. Đó là những tàn tích của những khổ hình mà bà phải chịu trong trại tập trung của Đức quốc xã. Bà đã đi khắp Âu Châu rao giảng về sự tha thứ cho những kẻ đã làm hại mình.

Thế nhưng, vào một Chúa Nhật nọ, sau khi kêu gọi mọi người tha thứ cho nhau trong nhà thờ của thành phố Munich, bước ra ngoài, bất ngờ bà phải đối diện với một gương mặt rất quen thuộc, đó là dung mạo của người lính đã hành hạ làm khổ bà cũng như hàng ngàn nữ tù nhân khác trong trại tập trung. Từ thâm tâm, bà cảm thấy những tiếng than khóc, những cảnh tra tấn, và những tiếng kêu thét đòi trả thù nổi lên mạnh mẽ.

Ngay lúc đó, người đàn ông này tiến lại khiêm tốn đưa tay ra, vừa muốn bắt tay bà vừa muốn nói:

- Thưa bà, tôi rất cảm ơn những lời tốt đẹp của bà kêu gọi sự tha thứ, xin bà tha thứ cho tôi.

Bà Koritainbun như chết điếng người, vì trước đây bà đã cầu nguyện và nhất quyết tha thứ thật sự, nhưng giờ đây đối diện với con người cụ thể đã từng tra tấn mình, bà đứng lặng im, tay không tài nào đưa ra để bắt tay người đến xin bà tha thứ.

Sau này vào năm 1971, khi kể lại biến cố trong tập sách “Nơi ẩn trốn”, bà đã cho biết: Trong những giây phút thinh lặng đó, tôi đã cố gắng dâng lên Chúa lời cầu nguyện “Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể tha thứ cho con người đã làm khổ con. Xin Chúa hãy ban cho con những tâm tình của Chúa để có thể tha thứ như Chúa.”

Và chính trong lúc đó, bà đã hiểu rằng, con người chỉ có thể tha thứ cho nhau khi họ được nhận tình thương yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa.

11. Tưởng mình hay

Trước tượng Chúa chịu đóng đinh thày Cébastien quỳ cầu nguyện: “Lạy Chúa, chớ gì con được phúc lên thế chỗ của Ngài trên thập giá, để con được chia sẻ cực hình Chúa phải chịu!”

Chúa nói với thày: Được, nhưng Cha chỉ đòi con một điều là con phải im lặng, dù nhìn thấy những điều chướng tai gai mắt!

Thày thưa: Dạ được, con hứa sẽ không nói gì, điều ấy quá dễ đối với con.

Thế là Chúa biến khỏi thập giá, nhường chỗ cho thày Cébastien.

Trên thập giá thày nhìn xuống thấy một anh thanh niên chạy vào Nhà Thờ cầu nguyện, khi anh ra về có để lại một gói gì lớn, thấy thế thày định gọi anh ta lại vì nghĩ anh để quên, nhưng chợt nhớ đã hứa với Chúa, nên thày đành im lặng!

Một lát sau có một phụ nữ vào Nhà Thờ vừa khóc vừa cầu nguyện, bỗng bà quay sang nhìn thấy một gói ở bên, bà mừng rỡ cầm giấu vào áo rồi vội ra về! Thày Sê-bát-ti thấy vậy cũng định gọi bà ta lại, vì nghĩ nó không phải của bà, mà là của anh chàng kia! Nhưng thày đành im lặng, vì đã hứa với Chúa!

Lát sau, lại có một cô gái vào Nhà Thờ cầu nguyện, rồi ra về, cô vừa đến cửa Nhà Thờ thì bị công an ập đến bắt vì cho rằng cô đã giật túi tiền của một người đàn bà. Thày Cébastien nhìn thấy thế chịu không được, vì nghĩ cô này chắc chắn bị oan, bèn lên tiếng nói:

- Tôi xin làm chứng chị này không phải là người xấu, chị không phải là người đã lấy túi đồ của người đàn bà kia!

Thế là cô gái ấy được trả tự do! Chúa Giêsu liền xuất hiện đuổi thày xuống khỏi thập giá, vì đã không giữ đúng lời đã hứa. Thày liền khiếu nại:

- Lạy Chúa, con thấy sự thật trước mắt, đành phải lên tiếng bênh vực.

Chúa liền bảo:

- Con chỉ nhìn bề ngoài, còn Ta mới nhìn thấu tâm hồn của họ:

* Anh chàng thứ nhất, đúng là kẻ ăn cắp, khi hắn giật gói tiền của bà nọ, bà la toáng lên. Hắn hoảng sợ chạy vào Nhà Thờ giả vờ cầu nguyện, để tránh sự truy đuổi của công an, hắn để túi tiền lại, hy vọng sẽ quay lại lấy!

* Còn người thứ hai, người đàn bà vào Nhà Thờ vừa khóc vừa cầu nguyện và bà vui mừng khi nhìn thấy gói tiền, đó chính là người đã bị tên cướp giật trước đó!

* Cô gái là nhân vật thứ ba vừa được thả ra, vì cô đang có ý định đi vượt biên, cô vào Nhà Thờ cầu nguyện xin Chúa hướng dẫn, nếu chuyến đi không tốt thì xin Chúa cho một ngăn trở, nên cô bị công an bắt sau đó! Nếu con không lên tiếng can thiệp, thì cô gái ấy đã bị công ăn bắt tạm giam để điều tra, nên cô đã không thể có mặt trong chuyến vượt biển đầy nguy hiểm! Nhưng vì lời chứng của con mà cô gái ấy đã đi… và đã bị đắm tàu chết đuối!?

Vậy con không thể lên thế chỗ của Ta trên thập giá được, hãy nhớ rằng: “Nghe thì lanh lẹ, nhưng đừng vội nói và khoan giận!” (Gc 1,19). Bởi thế hãy cầu nguyện: “Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ,biết cả khi con đứng con ngồi, con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả, miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết!” (Tv 139/138,1-4).

12. Chớ xét đoán

Có một Linh mục mới chịu chức đã được làm cha Sở, bà cố chỉ sợ cô nào đến rủ rê, nên bà đích thân đến ở với cha con, phục vụ như người giúp việc: dọn nhà, nấu cơm, giặt quần áo…, không để “con xẽo” nào động vào. Buổi sáng nọ, cha con bất thường phải đi làm Lễ sớm, bà vội thức dậy chạy xuống bếp pha cho con ly sữa. Vì vội, nên bà đi chân đất. Bà đang pha sữa, thì một cậu giúp lễ chạy xuống nói:

- Thưa cố, con thấy có đôi dép cô nào trước cửa phòng cha.

Bà cố hối hả chạy lên, xông xáo mọi nơi trong phòng tìm cho ra “con nào” lúc bà vắng dám lẻn vào đây? Tìm mãi không thấy, bà gọi cha con lại hỏi

- Mẹ vừa xuống bếp con nào lẻn vào đây, dép nó đây, còn nó đâu?

Cha con ôn tồn nói:

- Thưa má, má nhìn xuống chân má xem, có phải là dép của má để quên hay không!?

Bà cố tẽn tò…..

Bởi thế, chúng ta phải thực hành lời thánh Phaolô dạy: Anh em đừng mắc nợ nhau điều gì trừ ra tình yêu mến (Rm 13,8).

Thực vậy, khi ta biết sống yêu, thì tình yêu vọng lại ta, trái lại, ta ghét người thì tai họa sẽ ập đến. Bạn cứ thử vào giữa những rặng núi cao mà hô lên: Tôi yêu, tất yếu sẽ nghe vọng lại: yêu… yêu…. yêu …! Nếu bạn thét lên: Tao ghét, thì chắc chắn bạn lại nghe tiếng vọng: ghét…ghét…ghét…!

13. Lòng nhân hậu qua đời sống

Chiều ngày 16-3-2025, một phụ nữ có chuyện buồn gia đình lái ô tô Mercedes đến ngã tư Thủ Đức và trong tình trạng có nồng độ cồn đã chạy vào làn đường dành cho xe máy, rồi mất kiểm soát tay lái và chân ga, gây tai nạn cho 10 xe máy đang dừng chờ đèn đỏ.

Vụ tai nạn làm 5 người bị thương, nhiều phương tiện hư hỏng nằm la liệt trên đường. Đến sáng ngày 17/3, nạn nhân Hoàng Thị Trang Thảo (28 tuổi, quê Đồng Nai) đã không qua khỏi.

Trước sự ra đi đột ngột của nạn nhân, không chỉ gia đình và người thân bàng hoàng mà nhiều bạn bè thân thiết lẫn cộng đồng mạng đều thương tiếc cô gái trẻ. Bạn bè, đồng nghiệp và những người quen biết chị đã để lại nhiều lời chia buồn xúc động.

Được biết, trước khi gặp tai nạn thương tâm, chị Trang Thảo là thành viên tích cực của cộng đồng các bạn phiên dịch viên ngôn ngữ ký hiệu. Được biết, suốt nhiều năm qua, không chỉ học về ngôn ngữ kí hiệu mà Trang Thảo còn giảng dạy và hỗ trợ những người khiếm thính, giúp họ kết nối với thế giới xung quanh.

Những ai từng làm việc cùng chị Trang Thảo đều nhớ về một cô gái luôn nở nụ cười ấm áp, tận tâm với nghề và hết lòng vì cộng đồng. Bạn bè trong giới phiên dịch viên ngôn ngữ ký hiệu không khỏi xót xa khi nghe tin dữ.

Anh Lê Đình Hiếu, Nhà sáng lập DNXH Hear Us Now (HUN) chia sẻ nỗi mất mát trước sự ra đi của chị T. trên trang cá nhân: “Em học ngôn ngữ ký hiệu gần 7 năm và cống hiến cả tuổi trẻ của mình vào việc hỗ trợ phiên dịch cho người Điếc/Khiếm thính, nguyện hết mình vì sự nghiệp vì công việc này làm cho em hạnh phúc hơn là kiếm tiền.”

Hãy cho thì sẽ cho lại các con: Người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong bằng đấu nào, thì cũng được đong trả lại bằng đấu ấy!”

THỨ BA – BIỆT PHÁI GIẢ HÌNH

Lời Chúa: Mt 23, 1-12

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: “Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ, vì họ nói mà không làm. Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy, vì thế họ nới rộng thẻ Kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là “thầy.” Phần các ngươi, các ngươi đừng muốn được người ta gọi là thầy, vì các ngươi chỉ có một Thầy, còn tất cả các ngươi đều là anh em với nhau.

Và các ngươi cũng đừng gọi ai dưới đất là cha, vì các ngươi chỉ có một Cha, Người ngự trên trời. Các ngươi cũng đừng bắt người ta gọi là người chỉ đạo, vì các ngươi có một người chỉ đạo, đó là Ðức Kitô.

Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi. Hễ ai tự nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên.”

TRUYỆN KỂ

1. Biệt Phái giả hình

Một luật sư mới ra trường thuê một căn nhà sang trọng để làm văn phòng. Nhằm gây ấn tượng nơi các thân chủ tương lai, ông cho gắn một ống điện thoại loại đắt tiền trên bàn làm việc. Ngày khai trương, ông ăn mặc chải chuốt và ngồi chờ đợi trong một tư thế rất tự tin.

Có tiếng chuông reo, ông ra mời thân chủ đầu tiên vào văn phòng và để người đó chờ hơn một khắc đồng hồ, trong khi đó ông làm như đang nghe điện thoại. Người thân chủ cười thầm khi nghe cuộc nói chuyện tưởng tượng của ông với một Giám đốc của một cơ quan rất quan trọng trong thành phố.

Chấm dứt cuộc nói chuyện tưởng tượng, ông luật sư quay sang hỏi thân chủ: “Thưa ông, tôi có thể làm gì để giúp ông?”

Người thân chủ đầu tiên trả lời: “Thưa ông, tôi là nhân viên của sở viễn thông thành phố, tôi được gửi đến để nối đường dây điện thoại cho ông.”

2. Mạnh miệng yếu lòng

Aristogiton lúc thanh bình, là một nhà ái quốc thượng thặng. Thở ra lửa trận, nói ra sấm sét. Chàng lợi dụng mọi hoàn cảnh để cổ vũ những đức tính anh hùng của người chiến sĩ yêu nước. Nghe chàng nói, thính giả có ấn tượng như chàng đang tuyên chiến với các cường quốc trên thế giới.

Nhưng đến khi phải thi hành lệnh quân dịch, người ta thấy chàng đột nhiên bước đi khập khiễng, tay chống gậy, chân thì băng bó, trông thảm não vô cùng. Biết rõ những bí ẩn của chàng, Photion trợn mắt nói: “Aristogiton đã làm một người què lại còn hèn nhát.”

3. Bé cái lầm.

Có một người đi dạo đến nơi hành hương. Vì quá mệt nhọc, ông ngồi nghỉ chân trên một bệ đá. Ông hết sức ngạc nhiên và rồi tỏ ra hãnh diện sung sướng khi thấy nhiều người đi qua trước mặt ông, họ đã ngả mũ cúi chào.

Trong khi còn đang nghĩ ngợi, thắc mắc, thì cũng có một bà già đến trước mặt ông. Sau khi cúi chào, bà đã ngước nhìn lên và miệng lâm râm nhiều lời mà ông không thể nghe rõ.

Thế rồi bà ta tiếp tục đi như những người khác. Lúc ấy ông mới quay lưng lại và nhìn lên theo hướng bà kia đã nhìn. Ông nhận ra ngay sau lưng và phía trên đầu ông có một cây Thánh giá đã được dựng lên ở đó. Và ông xấu hổ bỏ đi nơi khác.

4. Giấc mơ khủng khiếp

Tôi thấy mình đứng trước một biệt thự nguy nga. Bước vào trong tôi thấy hai hành lang với hai hàng chữ ”Bên phải dành cho người công giáo; bên trái dành cho kẻ ngoại.”

Tôi đi theo hàng lang bên phải. Đi được một lúc tôi tới ngã rẽ khác, lần này tôi đọc thấy bảng chỉ dẫn như sau ”Bên phải dành cho người có đức tin vững mạnh, bên trái dành cho kẻ có đức tin yếu kém.”

Tôi lại đi theo bên phải. Đến một ngã rẽ khác, tôi loại thấy bảng chỉ dẫn ”Bên phải dành cho những người có lòng bác ái, bên trái dành cho những kẻ ích kỷ.”

Tôi lại chạy qua bên phải. Cuối cùng tôi gặp bảng chỉ dẫn ”Bên phải dành cho những ai có đời sống thánh thiện, bên trái dành cho những kẻ tội lỗi.”

Một lần nữa, tôi chọn bên phải. Tôi đang hân hoan rảo bước thì bỗng một cảnh tượng hãi hùng khủng khiếp hiện ra ở cuối hành lang ấy: cảnh hoả ngục với muôn vàn hình khổ không lời nào tả xiết. Tôi hoảng hốt kêu rú lên và giật mình thức dậy.

Sau một phút, tôi tự hỏi: “Phải chăng cuộc sống đạo của tôi toàn là giả hình như giấc mơ hãi hùng ấy?”

5. Nói mà không làm

Trong kho tàng giai thoại văn chương thế giới, có câu chuyện này. Chuyện xảy ra vào thời Hoàng đế Néron ở Rôma. Néron nổi tiếng là ông vua tàn bạo, rất thích phạt tội nhân bằng cách cho sư tử xé xác họ ra.

Cứ mỗi lần xử, Néron lại cùng hoàng hậu và các quan văn võ lên khán đài chứng kiến. Dĩ nhiên là quần chúng cũng được phép đến xem.

Một hôm, có tên tử tội bị xử theo kiểu này. Anh ta bị đẩy ra giữa hí trường và người ta thả sư tử ra. Con sư tử gầm gừ nhảy ra. Ai nấy đều phập phồng kinh hãi cho phút thụ hình của anh ta.

Nhưng lạ thay, lần này con sư tử hung dữ thay vì cắn xé tử tội thì nó chỉ nhảy chồm lên… rồi đến trước tội nhân lấy mũi hít hít vài cái rồi thôi.

Quân lính làm thế nào nó cũng mặc. Đoạn nó cúi đầu chào tội nhân rồi ngoắt đuôi lủi thủi đi vào với vẻ mặt buồn rầu như bị một cái gì đe dọa.

Theo luật, nếu sư tử không ăn thịt thì tội nhân được tha bổng.

Néron lấy làm lạ, nên trước khi tha về, ông ta gọi tội nhân đến mà hỏi:

- Nhà ngươi làm cách nào mà con sư tử của trẫm không dám đụng đến. Phải nói cho trẫm biết, trẫm sẽ thưởng tiền để về làm ăn.

Tội nhân đáp:

- Tâu bệ hạ, thần không làm gì mà cũng không có bùa phép chi cả, mà chỉ khẽ bảo nó một câu.

- Câu gì? Néron hỏi gấp

Anh ta thưa:

- Muôn tâu bệ hạ, thần chỉ bảo: Mày muốn ăn tao, cứ việc. Nhưng tao cho mày hay ăn xong, thế nào nhà vua cũng bắt mày đọc diễn văn bày tỏ cảm tưởng và cám ơn. Vậy nếu mày muốn ăn tao, hãy lo thảo diễn văn trước đi. Muôn tâu bệ hạ, ấy thế là nó hoảng hồn bỏ đi ngay.

Câu chuyện trên đây là do nhà văn Gilbert Chesterton đặt ra chế nhạo cái phong trào đọc diễn văn của vua quan và những người quý phái ở nước Anh vào thời ông, mà dân chúng đã quá nhàm.

6. Thời gian chứng thực giá trị

Một công chúa Ả Rập quyết định cưới một trong những nô lệ của cô làm chồng. Nhà vua nói và làm đủ cách để khuyên can con gái, nhưng không thành công. Không một cố vấn nào của nhà vua có thể nghĩ ra cách nào để giúp ông. Cuối cùng, một quan tể tướng nổi tiếng khôn ngoan xuất hiện tại triều đình. Sau khi nghe câu chuyện của nhà vua, viên quan này nói:

- Bệ hạ đã được cố vấn một cách sai lầm rồi. Vì nếu bệ hạ cấm công chúa điều đó, công chúa sẽ oán trách bệ hạ và càng gắn bó hơn với anh chàng nô lệ kia.

- Vậy nhà ngươi hãy cho biết ta phải làm gì?

Quan tể tướng đề xuất một kế hoạch hành động. Nhà vua không tin tưởng lắm vào kế hoạch này, nhưng cũng quyết định thử xem sao. Ông cho gọi con gái đến và nói:

- Ta sẽ kiểm tra tình yêu của con đối với anh chàng kia. Con sẽ bị giam trong một căn phòng nhỏ với anh ta trong ba mươi ngày đêm. Nếu sau đó, con vẫn muốn cưới anh ta, ta sẽ hoàn toàn chấp thuận.

Công chúa vui mừng ôm chầm lấy thân phụ mình và chấp nhận bài kiểm tra nói trên.

Mọi sự đều trôi chảy tốt đẹp trong những ngày đầu. Nhưng chẳng bao lâu, tất cả trở nên chán chường. Chỉ sau một tuần, cô trở nên dị ứng với mọi hành vi, cử chỉ, lời nói của chàng - và ước gì mình có một sự bầu bạn khác. Sau hai tuần, cô chán anh ta đến nỗi cô thường xuyên la hét và đập vào cánh cửa. Cuối cùng khi được giải phóng, công chúa ôm chầm lấy vua cha, rối rít cám ơn cha mình đã cứu mình khỏi người đàn ông mà bây giờ cô không muốn gặp nữa.

7. Vàng thật không sợ lửa

Vào thời đệ nhị thế chiến, nhà bác học lừng danh của thế kỷ 20 là Einstein, người gốc Do Thái, ông từ nước Đức sang lánh nạn ở Mỹ, mới đến đất Mỹ, bạn bè phê bình ông không mặc y phục xứng với nhà trí thức, mà cứ trong bộ quần áo bình dân?!

Ông Einstein đáp: “Để làm gì? Có ai biết tôi là nhà bác học đâu?”

Thời gian sau, những chương trình nghiên cứu khoa học của ông đã nổi tiếng khắp nước Mỹ, bạn bè vẫn thấy ông trong bộ quần áo cũ, người ta lại gạn hỏi: “Sao ông cứ mặc y phục ấy vậy?”

Ông Einstein trả lời: “Có sao đâu, vì ai ai cũng biết tôi là nhà bác học rồi mà!”

Như thế ông Einstein đã sống Lời Đức Giêsu dạy: “Sự khôn ngoan của con người được minh chứng bằng công việc mình làm!” (Mt 11, 19b).

8. Được gọi để toả sáng

Irving Stone, người nghiên cứu “sự vĩ đại”, dành cả cuộc đời để viết tiểu sử, tiểu thuyết về các thiên tài. Ông từng được hỏi, “Liệu có một mẫu số chung nào cho tất cả các nhân vật này?” Ông nói, “Tôi viết về những con người mà một lúc nào đó trong đời, họ đã có một tầm nhìn, một ước mơ phải hoàn thành. Và họ đã nỗ lực!”; “Họ bị đánh vào đầu, bị gièm pha… và trong nhiều năm, chẳng đi đến đâu! Nhưng mỗi khi bị đánh gục, họ khiêm tốn đứng lên. Không ai có thể tiêu diệt họ! Và cuối cùng, họ toả rạng một khi đã khiêm tốn hoàn thành ‘một phần’ điều họ đặt ra. Vì lẽ, họ ‘được gọi để toả sáng!’.”

 “Có những con người đã ngã gục, nhưng khiêm tốn đứng lên; và cuối cùng, họ toả sáng!” Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tiết lộ một bí quyết để mỗi người có thể làm được điều đó, “Ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên!”; nó có tên “Khiêm Nhường!”

THỨ TƯ

Lời Chúa: Mt 20, 17-28

Khi ấy, Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, đem riêng mười hai môn đệ đi theo. Dọc đường, Người nói với họ: “Này chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp cho các vị thượng tế và luật sĩ. Người ta sẽ lên án tử cho Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại để chúng nhạo báng, đánh đòn, rồi treo Người lên thập giá, nhưng đến ngày thứ ba, Người sẽ sống lại.”

Bấy giờ bà mẹ các con ông Giêbêđê cùng với hai con đến gặp Người. Bà sấp mình xuống lạy Người, có ý xin Người điều chi đó. Người hỏi: “Bà muốn gì.” Bà ta thưa lại: “Xin Ngài hãy truyền cho hai con tôi đây được ngồi một đứa bên hữu, một đứa bên tả Ngài, trong Nước Ngài.” Chúa Giêsu đáp lại: “Các ngươi không biết điều các ngươi xin. Các ngươi có thể uống chén mà ít nữa đây Ta sắp uống chăng?” Họ nói với Người: “Thưa được.” Người bảo họ: “Vậy các ngươi sẽ uống chén của Ta, còn việc ngồi bên hữu hay bên tả, thì không thuộc quyền Ta ban, nhưng Cha Ta đã chuẩn bị cho ai, thì người ấy mới được.”

Nghe vậy, mười người kia tỏ ra bất bình với hai anh em.

Chúa Giêsu gọi họ lại mà bảo: “Các con biết thủ lãnh của các dân tộc thì thống trị họ và những người làm lớn thì hành quyền trên họ. Giữa các con thì không được thế.

Trong các con, ai muốn làm lớn, thì hãy phục vụ các con, và ai muốn cầm đầu trong các con, thì hãy làm tôi tớ các con.

Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người.”

TRUYỆN KỂ

1. Phục vụ đích thực

Alexandre Thompson năm nay 74 tuổi, hiện đang sống tại Thuỵ Sĩ. Mới đây ông đã viết thư cho toà đô chính Copenhagen để báo tin ông sẵn sàng tặng thành phố 40 triệu Mỹ kim để làm bất cứ dự án nào, với điều kiện tên tuổi ông phải được đặt cho một con đường ở thủ đô nơi ông đã sinh trưởng. Nhưng đề nghị của ông đã bị từ chối và dĩ nhiên số tiền ông hứa tặng vẫn còn giữ chặt trong tay ông.

2. Con Người đến để phục vụ

Một hôm Đức Hồng y Roncalli vừa trên xe bước xuống. Ngài mới đi xa về. Phái đoàn Tòa Giám mục ra đón. Mọi người ngạc nhiên trên vai áo Hồng y có vướng mấy cọng rơm đồng quê. Ai hỏi ngài cũng cười xòa vui vẻ, nhưng mấy nhân viên phụ tá trên xe đều hiểu chuyện.

Chiếc xe của Đức Hồng y đang từ hướng Bắc xuống miền Nam qua vùng đồng ruộng. Giữa đường một chiếc xe bò chở rơm sa hố. Người đánh xe gắng sức đẩy phụ nhưng xe không nhúc nhích. Đức Hồng y cho xe dừng lại, xắn tay áo hò dô ta đẩy phụ, và chiếc xe rơm sa lầy lại chuyển bánh tiếp tục lên đường.

Những cọng rơm trên vai Đức Hồng y đối với ngài chỉ cười xòa cho qua. Nhưng thực sự tỏ rõ cho chúng ta thấy một Hồng y không quản ngại khó khăn hay sợ bẩn chiếc áo dòng sang trọng.

Sau này khi lên ngôi Giáo hoàng - Đức Gioan XXIII vẫn tiếp tục nếp sống bình dị phục vụ.

3. Một sự hy sinh tuyệt vời.

Có hai nhà doanh nghiệp du lịch vòng quanh thế giới. Họ xem được nhiều danh lam thắng cảnh, biết được nhiều lối sống của nhiều dân tộc, thấy được bao điều mới lạ. Nhưng họ nói tại Triều Tiên đã có một hình ảnh đánh động họ nhất, làm họ ghi nhớ mãi.

Một buổi sáng nọ, họ đi dạo trên đường làng, họ thấy cảnh một ông già đang kéo cầy thay trâu, đi sau cầy là một cậu bé. Họ đứng lại xem, bộ mặt ông già không có gì là buồn khổ cả. Họ xúc động, lấy máy ảnh chụp cảnh ấy. Sau đó họ đến thăm một nhà thờ và chìa bức ảnh trên cho cha sở xem. Sau khi nhìn bức ảnh cha nói:

- Vâng, đối với các ông đây là một chuyện lạ. Nhưng tôi biết rõ cha con ông ấy. Họ rất nghèo, và khi nhà thờ này khởi công xây dựng, họ muốn đóng góp vào việc xây cất. Nhưng họ không có tiền, không có lúa để bán, và mùa đông lại sắp tới họ bèn bán con bò duy nhất để lấy tiền giúp nhà thờ. Bây giờ hai cha con phải thay bò kéo cầy làm đất.

Hai người khách nhìn nhau một lát rồi một người nói:

- Thật là một sự hy sinh ngoài trí tưởng tượng! Sao cha cho phép họ làm thế?

Cha đáp:

- Họ xem đó là chuyện bình thường. Tôi đã can ngăn, nhưng họ xem việc hy sinh con bò là dâng một lễ vật cho Chúa.

4. Chết thay cho người

Cha Maximilien Kolbe làm gương cho chúng ta về cung cách sống của người môn đệ Chúa: Một buổi sáng cuối tháng 7 năm 1941 tại trại tập trung Oswiccim của Đức quốc xã, có một người vượt ngục, 10 người khác bị xử thay vào. Các nạn nhân run rẩy bước ra, đứng không vững, khiếp đảm, không dám kêu la, trừ một người kêu ré lên ”Ôi vợ và các con tôi.”

Hàng trăm dãy tù nhân xếp hàng dài im thin thít, hú hồn vì chưa phải tên mình, không một ai dám cựa quậy. Bỗng từ dãy tù nhân bên trái, một người gầy guộc rời hàng bước về phía viên trưởng trại. Mọi người nín thở: chuyện chưa từng có! Viên trưởng trại đặt tay lên súng:

- Anh muốn gì?

- Tôi muốn chết thay một người trong bọn họ.

Viên trưởng trại sửng sốt. Y tưởng mình nghe lầm. Nhưng không, người kia thực sự xin được chết thay cho kẻ có vợ và các con đang đợi ở nhà. Sau mấy câu gượng gạo, viên trưởng trại nhượng bộ, chấp nhận lời yêu cầu. Kẻ tình nguyện đó là Maximilien Kolbe, một linh mục công giáo. Cha đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II phong thánh ngày 10.10.1982 tại Rôma.

5. Phục vụ và hy sinh

Thánh Antôn, là giám mục của vùng Firenze nước Ý vào khoảng thế kỷ thứ 15, có kể lại một câu chuyện mà ngài đã tận mắt chứng kiến trong đời mục vụ tông đồ:

Một hôm, ngài đang đi trên đường thì Thiên Chúa cho ngài thấy có một thiên thần cứ bay lượn bên trên một ngôi nhà nghèo nàn lụp xụp. Ngài ghé vào hỏi thăm cha sở vùng này thì được biết, gia đình ấy tuy rất nghèo nhưng rất đạo đức và tốt bụng, luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Thánh Antôn động lòng thương, hiểu ra ý Chúa muốn soi sáng cho mình, ngài bèn trích quỹ từ thiện, kín đáo trợ cấp hàng tháng cho gia đình đó một số tiền vừa đủ để có vốn liếng mà chí thú làm ăn cho đỡ nghèo khổ.

Bẵng đi một thời gian, ngài lại có việc đi qua vùng ấy. Ngài chợt giật mình trông thấy một tên quỉ xấu xa đang bay lượn trên mái một ngôi nhà khang trang đẹp đẽ nhất vùng. Ngài lại ghé vào cha sở để hỏi thăm, thì hóa ra đó chính là ngôi nhà của gia đình mà ngài đã từng trợ cấp lâu nay. Ngài biết họ đã cố gắng ăn nên làm ra, nhưng dần dần, vì tham lam, họ đã học đòi những thủ đoạn mánh khóe bất lương để làm giàu nhanh chóng, đời sống họ hoàn toàn vô đạo đức, trở nên ích kỷ và độc ác. Hiện tại họ lại còn thói ăn chơi trụy lạc.

Vâng! Khi có tiền có bạc con người ta dễ sinh ra ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình chứ không để ý đến người khác.

6. Sống vì người khác

Trong căn nhà nhỏ ở một vùng ngoại ô, có hai vợ chồng nọ đã luống tuổi. Họ từng trải qua những ngày tháng bên nhau đầy yêu thương và yên bình. Niềm vui chung của họ là cùng chăm sóc một vườn dưa chuột xanh tốt sau nhà.

Ông cụ chăm sóc vườn dưa rất cẩn thận, hết dậy sớm tưới nước lại bỏ công bắt sâu, nhổ cỏ. Những trái dưa chuột ngon nhất sẽ được hái để bà cụ muối dưa - bởi đó là thói quen của bà từ rất lâu. Mùa đông tới, khi vụ thu hoạch dưa chuột đã hết, ông cụ lại nghiên cứu các bảng danh sách giới thiệu hạt giống để đặt mua loại tốt nhất. Xuân về, các con của ông bà sống gần đấy giúp họ xới đất, gieo hạt.

Bà cụ lại tìm đọc các sách nấu ăn để học hỏi thêm những bí quyết làm dưa chuột muối. Trong mắt mọi người, ông bà là một cặp vợ chồng hạnh phúc. Họ sống thân thiện, gần gũi với những người chung quanh. Bất cứ vị khách nào đến chơi cũng được ông bà tặng một bình dưa chuột muối mang về.

Nhưng một ngày kia, ông cụ qua đời. Mùa xuân năm đó, tất cả con cái tụ họp bên mẹ mình và nói:

- Chúng con biết mẹ rất thích làm dưa chuột muối, nên chúng con sẽ thay cha tiếp tục đặt mua hạt giống, sẽ trồng và chăm sóc dưa chuột cho mẹ.

Người mẹ mỉm cười:

- Cảm ơn các con, các con không cần trồng dưa nữa đâu. Thật ra thì mẹ không thích ăn dưa muối nhưng vì bố các con thích trồng dưa chuột nên mẹ muối thôi.

Những người con ngỡ ngàng. Trước khi cha mất, ông từng kể với họ rằng ông không hề thích trồng dưa chuột. Ông làm điều đó chỉ vì bà thích trổ tài muối dưa mà thôi.

Vì muốn đẹp lòng người bạn đời của mình, họ chấp nhận làm những điều mình không hề thích. Họ sống vì người khác, đến mức quên cả sở thích riêng của mình.

7. Khôn và dại

Ngày kia, hai ông Phêrô và Gioan theo Chúa lên núi, Chúa bảo các ông: Mỗi người chúng con lượm hai cục đá mang theo. Nghe thế, ông Phêrô cầm hai cục đá nhỏ bằng hòn bi; còn ông Gioan lấy hai khối đá lớn vác trên hai vai. Đi được một lúc, ông Phêrô trông dáng bạn mình mệt mỏi vì mang hai cục đá lớn, liền chế nhạo:

- Coi tớ này, cũng mang đá mà có vất vả gì đâu, ai bảo cậu vác hai cục to thế mà chuốc khổ vào thân? Thầy chỉ nói mỗi người lấy hai cục đá mang theo thôi mà!

Ông Gioan trả lời:

- Ôi tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi! (x 2Cr 5, 14).

Đi một quãng xa, cả hai môn đệ cùng thưa với Chúa Giêsu:

- Thưa Thầy, chúng con đói và khát quá, chúng ta ngồi nghỉ chân một lát rồi kiếm gì ăn cho đỡ dạ!

Chúa Giêsu bảo:

- Vậy chúng ta đến gốc cây kia ngồi nghỉ mệt!

Khi Thầy trò đã dừng chân dưới gốc cây, Thầy nói:

- Bây giờ chúng con đặt hai cục đá của mình trước mặt.

Hai ông mau mắn tuân lệnh Thầy. Chúa giơ tay làm phép tức khắc đá của mỗi người: một cục biến thành bánh và cục kia hóa ra bình đầy nước! Phêrô cầm mẩu bánh bỏ vào miệng nuốt chửng, và uống miếng nước chỉ đủ ướt cổ họng. Lúc đó ông Phêrô nói với ông Gioan:

- Cho tớ ăn uống ké với cậu, tớ còn đói qúa! Chắc không đủ sức theo Thầy được!

Ông Gioan vui vẻ đáp:

- Ủa, anh đã quên là khi nãy anh nhạo tôi là thằng dại mang theo hai cục đá bự làm gì cho khổ thân? Thế tại sao bây giờ anh lại ngửa tay xin “thằng dại dột” này?!

Chúa Giêsu nhìn ông Phêrô đáng thương nên bảo ông Gioan:

- Thôi mà con, con chia cho bạn đi!

Lúc đó ông Phêrô mới hiểu Lời Thầy đã dạy: “Ai muốn đi sau Ta thì hãy chối bỏ chính mình, hãy vác lấy khổ giá của mình và hãy theo Ta. Vì kẻ nào muốn cứu lấy sự sống mình, thì sẽ mất; còn kẻ nào liều mất sự sống mình vì Ta, và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu nó” (Mc 8, 34-35).

8. Tội xa và tội gần

Một cựu chiến binh Mỹ từ Việt nam trở về đã nói: “Khi tôi ngồi trên phi cơ oanh tạc Việt nam, tôi nghe người ta tuyên bố chống lại hiện tượng gái điếm ở các thành phố Việt Nam. Giờ đây, khi trở về Mỹ và chứng kiến hiện tượng này ở các thành phố Mỹ, tôi lại nghe người ta chống lại việc ném bom Việt Nam.”

Người cựu chiến binh đưa ra một ý tưởng đáng suy nghĩ: chống lại những tội ở xa thì an toàn và ít liều lĩnh hơn chống lại những tội ở gần. Đó là điều đã khiến Giêrêmia không được lòng dân, vì đã dám lên tiếng chống lại những tội ở trước mắt.

Tôi chỉ trích “tội ở xa” của kẻ khác hơn là “tội ở gần” của chính tôi như thế nào?

[Chúa nói:] “Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ để lấy các rác trong con mắt người anh em.” (Lc 6,42)

9. Lễ đăng quang của tình yêu

Một chính khách quốc tế được xem là một vị khách danh dự trong lễ đăng quang của vua Eduard II tại Anh quốc vào năm 1901. Khi về nước, người ta hỏi cảnh tượng nào để lại ấn tượng nhất cho ông. Ông đã làm cho người hỏi ngạc nhiên khi trả lời: “Một buổi tối nọ, trên đường về khách sạn, tôi thấy một cậu bé nằm ở xó cửa với cô em nhỏ của cậu. Trời lạnh, cậu bé cởi áo khoác đắp lên mình em nó cho ấm. Cảnh tượng đó gây ấn tượng hơn cả lễ đăng quang.”

Tại sao người rất trẻ thường sống vị tha cách tuyệt vời?

Cuộc đời bắt đầu như cuộc tìm kiếm của đứa trẻ mong thành người lớn, và kết thúc như cuộc hành trình của người lớn tái khám phá mình là trẻ nhỏ. (Laurens Van Der Post).

10. Tìm một lối vào

Thế kỷ 17, Oliver Cromwell, lãnh chúa nước Anh, kết án tử hình một người lính trọng tội. Giờ hành quyết dự liệu sẽ diễn ra lúc chuông giới nghiêm đổ. Nhưng đêm ấy, chuông không đổ! Vị hôn thê của người lính đã tìm một lối vào trại binh; cô leo lên tháp, bám vào chiếc chuông, ngăn nó ngân lên. Lãnh chúa triệu tập cô, buộc cô giải trình. Cô khóc và chìa cho ông hai bàn tay rách bươm đầy máu. Phép lạ đã xảy ra! Trái tim vị lãnh chúa thổn thức; ông nói, “Tình yêu của cô sẽ tồn tại. Chuông không đổ, và máu cũng không!”

 “Chuông không đổ, và máu cũng không!”; bởi lẽ, vị hôn thê của người lính đã ‘tìm một lối vào’ khiến cho một con tim thổn thức để tình yêu được tồn tại! Cả hai bài đọc hôm nay cũng nói đến một lối vào và tình yêu của Thiên Chúa mãi tồn tại. Lối vào đó mang tên “Khổ Đau”; trên đó, Giêrêmia của Cựu Ước và Giêsu của Tân Ước sẽ phải bước đi.

Bị dân mình tẩy chay, Giêrêmia kêu cầu Chúa, “Lạy Chúa, xin nghe những kẻ tố cáo con nói đó!”; “Chúng đào hố nhằm làm con mất mạng!” - bài đọc một. Thánh Vịnh đáp ca cũng đồng tình, “Lạy Chúa, xin lấy tình thương mà cứu độ con!” Xem ra vị ngôn sứ nài van Chúa cất khỏi ông con đường “Khổ Đau”, và dường như Giêrêmia đang ‘tìm một lối ra’.

Chúa Giêsu thì ngược lại, Tin Mừng tường thuật chuyến đi lên Giêrusalem của Thầy trò Ngài. Ngài không ‘tìm lối ra’, nhưng ‘tìm một lối vào’. Tuy nhiên, dù đang ‘đi lên’ với Thầy, các môn đệ xem ra chỉ muốn ‘đi xuống!’. Bằng chứng là cuộc đối thoại không đáng có của ‘môn đệ mười ba’, bà Zêbêđê; và điều này đã khiến “mười môn đệ kia tức tối với hai anh em.” Xót xa thay! Đang khi Thầy ngưỡng chuyện trên trời, trò lại vọng chuyện dưới đất; Thầy lo chuyện bị nộp, trò tính chuyện trị vì; Thầy tìm vui lòng Cha, trò muốn thoả dạ mẹ. Rõ ràng, Thầy trò lệch pha! Thầy ‘tìm một lối vào’, trò ‘tìm một lối ra!’.

THỨ NĂM - NGƯỜI GIẦU CÓ VÀ LADARÔ

Lời Chúa: Lc 16, 19-31

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng những người biệt phái rằng: “Có một nhà phú hộ kia vận toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người hành khất tên là Ladarô, nằm bên cổng nhà ông đó, mình đầy ghẻ chốc, ước được những mụn bánh từ bàn ăn rớt xuống để ăn cho đỡ đói, nhưng không ai thèm cho. Những con chó đến liếm ghẻ chốc của người ấy.

Nhưng xảy ra là người hành khất đó chết và được các thiên thần đem lên nơi lòng Abraham. Còn nhà phú hộ kia cũng chết và được đem chôn. Trong hoả ngục, phải chịu cực hình, nhà phú hộ ngước mắt lên thì thấy đằng xa có Abraham và Ladarô trong lòng Ngài, liền cất tiếng kêu la rằng: “Lạy Cha Abraham, xin thương xót tôi và sai Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước để làm mát lưỡi tôi, vì tôi phải quằn quại trong ngọn lửa này. Abraham nói lại: “Hỡi con, suốt đời con, con được toàn sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ. Vậy bây giờ Ladarô được an ủi ở chốn này, còn con thì chịu khốn khổ. Vả chăng, giữa các ngươi và chúng tôi đây đã có sẵn một vực thẳm, khiến những kẻ muốn tự đây qua đó, không thể qua được, cũng như không thể từ đó qua đây được.”

Người đó lại nói: “Ðã vậy, tôi nài xin cha sai Ladarô đến nhà cha tôi, vì tôi còn năm người anh em nữa, để ông bảo họ, kẻo họ cũng phải sa vào chốn cực hình này.” Abraham đáp rằng: “Chúng đã có Môsê và các tiên tri, chúng hãy nghe các Ngài.” Người đó thưa: “Không đâu, lạy Cha Abraham! Nhưng nếu có ai trong kẻ chết về với họ, thì ắt họ sẽ hối cải.” Nhưng Abraham bảo người ấy: “Nếu chúng không chịu nghe Môsê và các tiên tri, thì cho dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe đâu.”

TRUYỆN KỂ

1. Có một vực thẳm

Tài sản của ba người Mỹ giàu nhất thế giới còn lớn hơn tài sản của 48 nước kém phát triển.

Bill Gates giàu hơn 100 triệu người Mỹ nghèo nhất. Chỉ cần 40 tỉ đô la của ông, Liên Hiệp Quốc đủ chi tiêu cho giáo dục cơ bản, sức khỏe, nước sạch và vệ sinh cho cả thế giới trong một thời gian dài.

Khi nhìn sự chênh lệch giữa ông nhà giàu và Ladarô, chúng ta thấy bức tranh hiện thực của thế giới. Hố sâu ngăn cách giữa giàu nghèo ở đô thị, giữa đô thị và nông thôn, càng lúc càng lớn. Có 800 triệu Ladarô đang đói nghèo cùng cực. Hơn một tỉ Ladarô bệnh tật không được chăm sóc. Vẫn có bao người chết đói mỗi ngày, vì không được hưởng gì từ các bàn tiệc rơi xuống.

2. Tội dửng dưng

Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại rằng một lần nọ đặt chân đến Ethiopi, Mẹ đã ngỏ ý với một vị Bộ trưởng để xin một khu đất xây bệnh viện cho những người cùng khốn nhất. Ông Bộ trưởng trả lời: “Thưa bà, việc săn sóc bệnh nhân và người nghèo là trách nhiệm của chính phủ, không một cá nhân hay đoàn thể nào có thể gánh được công việc này.” Mẹ liền nói: “Nhưng tôi thấy chính phủ các ông đã không chu toàn được trách nhiệm ấy; vả, việc săn sóc người nghèo khổ là trách nhiệm của mỗi người.” Và ông Bộ trưởng đã phải chấp nhận đề nghị của Mẹ.

Câu trả lời và việc làm của Mẹ Têrêxa là một minh hoạ cho giáo huấn của Chúa Giêsu về người giầu có và Ladarô nghèo khổ. Quan tâm đến người anh em, nhất là những người cùng khổ là một bổn phận, một bổn phận mà Chúa Giêsu cũng khẳng định trong diễn từ về ngày chung thẩm. Nhiều người ngỡ ngàng khi nhận ra rằng số phận mai hậu của họ gắn liền với một bát nước lã, một chén cơm họ chia sẻ cho một kẻ vô danh.

Dửng dưng trước khổ đau của người khác là một tội. Đó là điều Chúa Giêsu muốn nêu bật qua hình ảnh người giầu có trong Tin mừng hôm nay.

3. Món quà cưới đặc biệt

Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại một câu chuyện thật ấn tượng rằng: có hai bạn trẻ nghe biết các sơ trong dòng của mẹ hàng ngày nấu ăn cho 7 ngàn người, và cung cấp thực phẩm cho khoảng 9 ngàn người. Vì thế, họ đã tặng cho mẹ một số tiền lớn để giúp người nghèo. Khi được hỏi về nguồn gốc số tiền lớn mà các em dâng tặng, các em trả lời:

“Chúng con vừa cưới nhau được hai ngày. Trước ngày cưới, chúng con đã suy nghĩ nhiều. Sau cùng, chúng con quyết định không may đồ cưới, cũng không tổ chức yến tiệc linh đình, và chúng con muốn dùng khoản tiền chi phí cho đám cưới và mua tặng phẩm để cho những người không được may mắn như chúng con.” Khi thấy thế, mẹ phân vân! Hai bạn nói tiếp:

“Vì chúng con yêu nhau, chúng con muốn có cái gì đặc biệt, đẹp đẽ cho nhau. Vì thế, chúng con muốn tặng cho nhau một món quà cưới thật đặc biệt. Chúng con muốn khởi đầu cuộc chung sống của mình bằng một hy sinh mà cả hai đều dự phần vào.”

Ôi một nghĩa cử anh hùng! Vì ở bên Ấn Độ, đám cưới mà không có quần áo cưới cũng như tiệc cưới là một điều nhục nhã và gây tủi hổ cho cả hai gia đình, đàng trai cũng như đàng gái.

4. Xa lạ với văn hóa vị tha

Vào buổi sáng ngày 10.8.2012, tại ngã tư đường Tân Hoa giao với đường Tây Hoài Hải ở thành phố Thượng Hải, một cụ ông được phát hiện nằm ngất xỉu trên đường, đầu chảy nhiều máu do va đập sau cú ngã. Một vài người chứng kiến đầu tiên bấm số 120 để gọi xe cấp cứu… rồi thôi. Khi chưa có xe đến kịp để đưa ông cụ đi, người qua lại trên đường chỉ dửng dưng nhìn rồi bỏ mặc hoặc dừng lại chỉ trỏ. Họ tuyệt nhiên không có một động tác sơ cứu nào, thậm chí đến đỡ ông cụ dậy.

Một người phụ nữ nước ngoài đi ngang thấy sự việc trên. Ngạc nhiên trước thái độ vô cảm của những người chứng kiến, cô chạy đến nâng đầu ông cụ lên đặt trên một tấm khăn mềm, vừa khóc vừa khẩn nài mọi người xung quanh mau gọi xe cứu thương đến. Sự việc chỉ kết thúc khi cô này đưa tiền và thúc họ gọi xe cứu thương lần nữa. Nửa tiếng sau, ông cụ mới được đưa đến bệnh viện gần đó.

…Ông cụ bị nạn họ Tiền, 87 tuổi, được bệnh viện chẩn đoán thuyên tắc mạch máu não đột ngột khiến ông chóng mặt và ngã khuỵu trên đường. May mắn được cấp cứu kịp nên ông đã phục hồi… (Theo Tuổi trẻ Mobile)

5. Chúa đến thăm bà lão.

Chúa hứa với một bà là Ngài sẽ đến thăm bà vào ngày đó. Bà rất hãnh diện về điều này. Bà cọ rửa, lau chùi, đánh bóng, quét bụi và xếp đặt mọi thứ sẵn sàng. Bà ngồi và đợi Chúa đến.

Đột nhiên có tiếng gõ cửa. Bà vội chạy ra. Vừa đẩy cửa, bà thấy một người ăn xin đứng đó. Bà liền nói: “Không, hôm nay tôi không giúp anh, vì Chúa luôn ở với anh rồi. Tôi đang nóng lòng đợi Chúa đến, không thể giúp anh điều gì.” Bà đuổi anh và đóng cửa lại.

Mấy phút sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở cửa nhanh hơn trước. Thấy gì? Vài người già nghèo nàn. “Rất tiếc, tôi đang đợi Chúa đến. Hôm nay tôi không thể giúp đỡ ông.” Rồi bà đóng sầm cửa lại.

Một lát sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở và lại thấy một người ăn xin rách rưới. Anh xin ăn và ngủ qua đêm. “Ồ, hãy để tôi yên. Tôi đang đợi Chúa đến. Tôi không thể tiếp anh.” Người ăn xin ra đi và bà tiếp tục ngồi chờ.

Hàng giờ trôi qua và màn đêm buông xuống, nhưng cũng chẳng thấy dấu hiệu gì của Chúa. Bà băn khoăn không biết Ngài ở đâu.

Cuối cùng, bà đành lên giường nằm chờ. Bà ngủ quên và mơ thấy Chúa đến với bà và nói: “Hôm nay ta đến với con 3 lần và cả ba lần con đều đuổi Ta”

6. Chiếc vòng có phép lạ

Một ngày nọ, vua Salomon bỗng nảy ra ý muốn, muốn làm bẽ mặt Benaiah, một cận thần thân tín của mình trước mặt mọi người. Vua nói:

- Này Benaiah, trong vòng 6 tháng, ta muốn khanh mang về cho ta một chiếc vòng để đeo trong ngày lễ hội.

Benaiah trả lời:

- Nếu có một thứ gì đó tồn tại trên đời này, thì thưa đức vua, thần sẽ tìm thấy nó và mang về cho ngài nhưng chắc là chiếc vòng ấy phải có gì đặc biệt?

Nhà vua bảo:

- Nó phải có sức mạnh kỳ diệu. Nếu kẻ nào đang vui nhìn vào nó sẽ thấy buồn. Và nếu ai đang buồn, nhìn vào nó sẽ thấy vui.

Vua Salomon thừa biết sẽ chẳng đời nào có một chiếc vòng như thế tồn tại trên thế gian này, nhưng ông muốn cho người cận thần của mình nếm một chút bẽ bàng.

Mùa xuân trôi qua, mùa hạ đến nhưng Benaiah vẫn không thể tìm ra được một chiếc vòng nào như thế. Rồi chính vào đêm trước ngày lễ hội, ông lang thang đến một nơi nghèo nhất của Jêrusalem. Ông đi ngang qua chỗ người bán hàng lạc xoong với những món hàng đang được bày trên một tấm bạt tồi tàn. Benaiah dừng chân hỏi:

- Có bao giờ ông nghe nói về một chiếc vòng kỳ diệu làm cho người hạnh phúc đeo nó vào thì quên đi niềm vui sướng, và người đau khổ đeo nó vào thì quên đi nỗi buồn không?

Người bán hàng lấy từ trên tấm bạt cũ lên một chiếc vòng giản dị có khắc một dòng chữ. Khi Benaiah đọc dòng chữ, khuôn mặt ông rạng rỡ lên một nụ cười. Đêm đó toàn thành phố hân hoan, tưng bừng đón mừng lễ hội. Vua hỏi:

- Nào ông bạn của ta, ông đã tìm thấy điều ta yêu cầu chưa?

Tất cả cận thần có mặt đều cười lớn và chính vua Salomon cũng cười. Trước sự ngạc nhiên của mọi người, Benaiah đưa chiếc vòng ra và nói:

- Dạ nó đây, thưa đức vua!

Khi vua Salomon đọc xong dòng chữ, người ta thấy khuôn mặt của nhà vua biến sắc. Trên chiếc vòng đó người ta khắc dòng chữ này: “Mọi sự rốt cuộc rồi cũng qua đi.”

Chính giây phút ấy, vua Salomon nhận ra rằng: tất cả những sự khôn ngoan, vương giả, quyền uy và giàu có của ông rồi sẽ qua đi. Cả ông cũng thế. Ông cũng chỉ là một thứ phù du bởi vì một ngày nào đó, ông cũng sẽ phải trở về với cát bụi.

7. Thủ tướng Gladstone

Ở London, thủ đô nước Anh có một ngôi thánh đường rất nổi tiếng. Đó là nhà thờ Saint Paul. Nhà thờ này có một lối kiến trúc rất độc đáo làm cho những âm thanh vang đi rất xa. Nếu áp tai vào tường, người ta có thể nghe được một người nói từ phía bên kia mái vòm tròn, dầu chỉ là giọng nói thì thầm tâm sự.

Có một đôi thanh niên nam nữ đã mượn nơi nhà thờ này làm điểm hẹn hò: Chàng trai vốn là một người làm nghề thợ đóng giày than thở với người yêu rằng:

- Anh chưa thể tiến hành hôn lễ vì đang thất nghiệp, không có tiền để mua da và các vật liệu làm giày, thì đào đâu ra tiền để làm lễ cưới?

Nghe tin chẳng lành ấy, cô gái chỉ biết sụt sùi khóc và cầu nguyện:

- Lạy Chúa, xin giúp chúng con có tiền để làm lễ thành hôn!

Tình cờ, một người đi ngang qua hành lang phía bên kia nghe được câu chuyện và lời cầu nguyện của họ, ông ta quyết định giúp đỡ đôi thanh niên nam nữ này. Vì thế khi họ thất thểu ra về, ông khách cũng âm thầm theo sau để dò cho biết nhà chàng trai ở đâu, rồi lập tức ông cho người mang tặng anh ấy một số da và vật liệu để làm giày. Nhờ được giúp đỡ như vậy, nên người thanh niên bắt tay ngay vào việc và chẳng bao lâu anh trở nên phái đạt và anh sung sướng cử hành hôn lễ.

Mãi mấy năm sau, hai vợ chồng này mới biết được vị ân nhân của mình là ai khi ông trở thành vị thủ tướng nổi tiếng của nước Anh. Người đó chính là ngài William Ewart Gladstone (1809-1998).

8. Nô lệ thời hiện đại

Tội của người nhà giàu ở chỗ ông thấy những đau khổ túng cực của người khác mà không một chút mảy may thương xót quan tâm.

Mẹ Têrêsa nói: “Người nào luôn sống lệ thuộc vào đồng tiền, lúc nào cũng cũng băn khoăn lo lắng về của cải của mình, thì người đó là người thực sự nghèo khó. Ngược lại, những người biết trao ban của cải để giúp đỡ người khác, người đó mới là người thực sự giàu có thực sự. Lòng tốt làm biến đổi con người nhiều hơn là những nghiên cứu khoa học và tài hùng biện. Một khi đã nhìn thấy hình ảnh của những người anh em trong nhau, bạn nghĩ rằng chúng ta có còn cần đến xe tăng và tướng lĩnh nữa không?”

9. Tình yêu là một liên đới cụ thể

Ngày xưa, bên Tàu có một ông vua tự cho mình là người yêu nước thương dân, nhưng lại chẳng bao giờ để ý đến cảnh khổ của dân chúng. Trái lại, ông chỉ biết đến yến tiệc linh đình, trang hoàng cung điện, xây cất dinh thự, sưu tầm những kỳ hoa dị thảo, để mong được nở mày nở mặt với lân quốc.

Một hôm, nhà vua nghe nói ở một ngôi chùa trong nước có một loại hoa hồng quí hiếm, từng bông hoa to đẹp rực rỡ, bao phủ cả một khu vườn. Nhà vua báo tin cho vị sư trụ trì là ông sẽ đến thăm để biết thứ hoa hồng quí lạ. Khi được tin báo và được biết giờ vua sẽ đến, vị sư liền cắt tất cả những đóa hồng xinh tươi đổ vào hố rác chỉ để lại một bông duy nhất đang thắm nở.

Vào đến vườn, nhà vua lấy làm lạ vì thực tế khác hẳn với tin đồn. Khi biết được sự việc, nhà vua hỏi vị sư tại sao làm như thế. Vị sư từ tốn trả lời:

- Thưa bệ hạ, nếu thần để tất cả các hoa nở rộ trên cành, bệ hạ sẽ không thưởng thức được vẻ đẹp của từng bông hoa. Vì thần biết bệ hạ chỉ có thói quen nhìn đám đông chứ không để ý đến từng cá nhân.

Thiên Chúa của chúng ta không có thói quen chỉ nhìn đám đông, nhưng Người quan tâm đến từng con người.

10. Người giàu lấy trộm của kẻ nghèo

Lời giảng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ lần đầu tiên ngày 2.10.1979 đáng cho chúng ta suy nghĩ: “Chúng ta không thể thờ ơ vui hưởng của cải và tự do của chúng ta nếu bất cứ ở vùng nào đó, người nghèo khó Ladarô của thế kỷ 20 vẫn còn đang đứng chờ chúng ta ngoài cửa… Các bạn đừng bao giờ bằng lòng với hành vi chỉ cho họ những mẩu bánh vụn nơi bàn tiệc. Các bạn chỉ nên lo lắng cho đủ phần chính yếu của cuộc sống mà thôi chứ đừng tìm cách sống cho sung túc dư dật, để nhờ đó các bạn có thể giúp đỡ những người nghèo khổ. Đồng thời, các bạn hãy đối xử với họ như những thực khách trong gia đình các bạn.”

Lạy Chúa, thánh Tôma Aquinô đã dạy: “Những người giàu có đã đánh cắp của người nghèo khó khi họ tiêu xài phung phí những của cải dư thừa.” Xin cho chúng con biết san sẻ cho nhau, để trái đất này trở nên sung túc và yêu thương, vì giàu có thật là yêu thương và nghèo nàn thật là ích kỷ.

11. Lời Chúa cần được thi hành

Một tân linh mục giảng một bài thật hay. Chúa nhật kế tiếp, cộng đoàn tín hữu đông đảo chờ đợi nhưng họ ngạc nhiên khi vị linh mục lặp lại bài giảng Chúa nhật trước. Chúa nhật sau đó, ngài cũng lặp lại cùng một bài giảng. Khi tín hữu tỏ ý thắc mắc, ngài bảo họ: “Tôi lặp lại bài giảng cho đến khi thấy anh chị em thực hiện được một gì đó trong bài giảng.”

Cái gì ngăn cản tôi không quan tâm đến Lời Chúa?

Người ta không thể băng qua biển khi chỉ đứng nhìn mặt nước (R. Tagore).

12. Tội đáng sợ nhất

Tháng 9/2007, ông Nguyễn Đăng Trúc, giáo sư thần học ở Strassbourg, Pháp, có một bài viết đăng trên trang web của đài BBC kể lại một vài hồi ức về ĐHY Nguyễn văn Thuận, khi ông còn là chủng sinh.

Ông kể: “Tôi vào Tiểu chủng viện Phú xuân khoá 1959, còn linh mục Thuận đến đây thay cho linh mục Nghĩa vào đầu niên khoá 1960-61, và tôi là một trong những chủng sinh chọn ngài làm cha linh hướng…

Hè năm 1967, tôi dự định xuất tu, ngài kêu riêng và nhắn nhủ “tu cũng tốt mà về cũng là một ơn gọi riêng, nhưng con nên nhớ điều này trong đời mình: điều tệ hại trong cuộc đời không phải phạm tội, nhưng là mất đi ý thức tội lỗi.”

Vâng, tội lỗi có nặng nề đến đâu cũng không đáng sợ bằng sự mất ý thức về tội. Mất ý thức về tội là đánh mất chiều kích tâm linh trong đời sống con người.

13. Tình yêu cần bắt đầu từ nhà mình

Mẹ Têrêxa nói: “Tôi luôn luôn nói rằng yêu thương bắt đầu từ nhà mình: trước hết ở nhà bạn rồi đến thị trấn hoặc thành phố của bạn. Yêu thương một người ở xa thì dễ, nhưng không dễ khi yêu thương những người sống với chúng ta hoặc ở gần chúng ta. Tôi không đồng ý với cách thức to lớn để thực hiện các công việc – yêu thương bắt đầu với một cá nhân. Để yêu thương một người, bạn phải tiếp xúc và trở nên gần gũi với người ấy. Bạn phải đến tiếp xúc với người nghèo. Khi bạn làm điều đó, bạn vượt qua con nước to lớn ấy. Không còn những “triệu” người ấy mà một vài người bạn hiện đang tiếp xúc, gần gũi.”

Mẹ Têrêxa kể lại câu chuyện sau đây: “Một lần nọ ở Bombay có một hội nghị lớn về tình trạng nghèo khổ. Khi tôi đến nơi, ngay trước cửa của địa điểm trong đó hàng trăm người đang nói về lương thực và cái đói, tôi thấy một người đang hấp hối. Tôi đưa người ấy về nhà chúng tôi dành cho người hấp hối. Người ấy chết ở đó. Người ấy chết vì đói. Trong lúc những người ở bên trong nói về việc làm thế nào để trong mười lăm năm, chúng ta sẽ có thật nhiều lương thực và thế này thế kia – còn người đàn ông đó thì đã chết.

“Tôi không bao giờ coi các đám đông là trách nhiệm của tôi. Tôi nhìn vào cá nhân. Tôi chỉ có thể yêu thương một người ở mỗi lúc. Tôi chỉ có thể nuôi sống một người ở mỗi lúc. Tôi nhặt một người. Có lẽ nếu tôi không nhặt một người, tôi sẽ không thể nhặt đến 42.000 người. Toàn bộ công việc chỉ là một giọt nước trong đại dương. Nhưng nếu tôi không đặt giọt nước ấy vào, hẳn đại dương sẽ ít đi một giọt. Đối với bạn, cũng giống thế. Trong gia đình bạn, cũng giống thế.”

14. Người tu sĩ giàu có

Một tu sĩ lang thang đến một ngôi làng. Ông đang định nghỉ qua đêm dưới một gốc cây thì một dân làng chạy đến gặp ông và nói: “Xin thầy cho con viên ngọc quý.”

- Anh định nói về viên ngọc nào? Người tu sĩ khẽ hỏi.

- Tối qua con có một giấc mơ: nếu con đi ra bên ngoài làng lúc chạng vạng tối, con sẽ gặp được một tu sĩ và vị này sẽ cho con một viên đá quý, làm con trở nên giàu có mãi.”

Tu sĩ lục lọi trong túi xách, tìm thấy một viên ngọc và lấy ra. “Đây có lẽ là viên ngọc mà anh nói đến”, ông nói và đưa nó cho người dân làng. “Tôi tìm thấy nó trong rừng, cách đây mấy ngày. Anh hãy nhận lấy nó.”

Người đàn ông cầm viên ngọc và ngắm nghía với vẻ thán phục. Nó là một viên kim cương, viên lớn nhất mà anh ta chưa bao giờ thấy. Anh ta đem nó về nhà. Nhưng suốt đêm, anh ta trằn trọc trên giường, không thể ngủ được. Sáng sớm hôm sau anh ta trở lại gặp vị tu sĩ và nói: “Suốt đêm qua, con đã suy nghĩ nhiều. Thầy hãy lấy lại viên kim cương này. Thay vào đó, hãy cho con sự giàu có nào làm thầy cho đi viên kim cương ấy dễ dàng đến thế.”

Người giàu có sống bằng đời sống tinh thần bên trong, người bình thường sống bằng đời sống bên ngoài – điều mà người kém cỏi lại thấy cần và mong muốn.

15. Giá mà chết đi được thì hơn

Hai con lừa chở hàng về nhà, con đi trước to khỏe hơn mà chỉ phải mang một bao hàng, con kia nhỏ và yếu hơn mà phải mang tới hai bao. Đường núi quanh co, gập ghềnh khó đi. Con mang nặng đi sau nài nỉ con đi trước: “Tôi mệt quá. Anh mang đỡ giùm tôi một bao nhỏ này nhé.” Con đi trước lên mặt: “Đừng có lười, phần ai nấy mang.” Con đi sau càng đi càng mệt, nhưng vẫn rán lết đi, nó dần dần chậm hẳn lại, bước chân xiêu vẹo, mà con đi trước vẫn không đoái hoài đến.

Rồi con đi sau gục xuống mà chết… Người quản gia lúc đó bắt con đi trước mang hết số hàng hoá, lại thêm xác con lừa kia nữa. Một gánh nặng bất ngờ đè lên lưng nó. Nó muốn tắt thở vì quá sức nhọc mệt: “Giá mà chết đi được thì hơn!”

Ước mong được chết mà chi khi thể xác tuy còn sống nhưng tâm hồn thì đã chết từ lâu rồi?!

Vâng, tình yêu chân thực là tình yêu sẵn lòng hy sinh vì người mình yêu. Khi đó tình yêu là sự sống và sức mạnh của con người. Khi yêu nhau người ta sẵn lòng chịu khổ vì nhau mà không hề thấy ngần ngại, vì ngay cả cái khổ đó cũng đáng yêu.

16. Mù lòa trong tâm hồn

Tác phẩm ‘Inspirational stories’ đã trình bày về một cách bẫy khỉ rất thú vị được dùng tại châu Phi để bắt sống những con khỉ không một chút thương tích mà chuyển đến các sở thú ở Hoa kỳ: Người ta cho một nắm quả hạch thơm lừng vào trong những chai thủy tinh rất nặng, có cổ dài và hẹp, rồi bỏ những chai đó lăn lóc trong rừng. Sáng hôm sau, họ trở lại để bắt từng chú khỉ đang kẹt cứng tay trong những cái chai.

Quả hạch có mùi thơm rất hấp dẫn lũ khỉ, chúng đến gần dò dẫm và thò tay vào lòng chai nắm chặt những quả hạch thơm nức. Mùi thơm của những quả hạch làm cho chúng cứ nắm chặt tay và đành chịu bị bắt.

Bọn khỉ thật là ngốc nghếch, nhưng Lời Chúa cho thấy người ta không kém phần khờ khạo khi tự dính chặt mình vào những sự thiện hảo thế tục mà quên đi hạnh phúc đời sau: “Chúng uống rượu cả bầu, xức dầu thơm hảo hạng, nhưng chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giuse sụp đổ” (Am 6,6).

Đó không phải là những gì xa lạ, mà là sự mù tối, mê muội trong cách đánh giá, trong từng chọn lựa cụ thể trong sinh hoạt hằng ngày của con người: “Ngươi đã thấy nhiều mà vẫn chẳng lưu tâm, đã mở tai mà vẫn không nghe gì” (Is 42,20).

17. Lựa chọn sau cùng

Cha Anthony de Mello có kể một câu chuyện về một con trai biển chưa có ngọc đang vui hưởng một cuộc sống nhàn hạ, thảnh thơi thì thấy một viên ngọc lóng lánh kẹt trong một khe đá dưới lòng biển. Biết rằng con người rất thích ngọc quí nên nó xoay trở tìm cách nhặt viên ngọc lên và đặt nó ngay trên một chiếc lá mỏng bên cạnh mình, hy vọng rằng người ta sẽ nhặt viên ngọc mà tha mạng nó. Sau đó ít lâu, khi một anh thợ lặn tìm ngọc trai bơi đến gần.

Thật không ngờ là anh ta chỉ thấy con trai mà không màng chi đến viên ngọc! Anh ta bắt con trai bỏ vào giỏ, nước giao động làm cho viên ngọc lại lăn xuống khe đá.

Biết bao lần tôi đã hành xử như thế khi bỏ qua những viên ngọc quí để nhặt lấy một niềm vui chóng qua, hay sự an toàn đặt nơi tiền của.

Với kinh nghiệm về sự mù tối luôn nằm sẵn trong hành trình đức tin, lựa chọn sau cùng của mọi chọn lựa là điều được thánh Phaolô đặc biệt lưu tâm: “Anh hãy thi đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp vì đức tin, giành cho được sự sống đời đời.” (1Tm 6,12).

Tôi đang làm việc tông đồ, nhưng Thiên Chúa có phải là điều cuối cùng tôi tìm kiếm không?

18. Sức mạnh của tình yêu

Do các công việc từ thiện bác ái, Mẹ Têrêsa đã nhận được nhiều giải thưởng của chính phủ Ấn Độ, chẳng hạn giải Padna Shri (Hoa Huệ Tuyệt Vời) năm 1963. Cũng năm đó, chính phủ Philippine tặng mẹ giải thưởng Magsaysay (giải thưởng dành riêng cho vùng Đông Nam Á về các công việc xã hội.)

Năm 1971 mẹ Têrêsa lại được giải thưởng “Hòa Bình” của Đức Gioan XXIII (do chính tay Đức Phao lô VI trao tặng tại Rôma.)

Tháng 10 năm 1979, Mẹ Têrêsa lại được nhận giải thưởng Hòa Bình Nobel là giải thưởng lớn nhất và thuộc loại cao quý nhất trên thế giới.

Có một lần vị sư Phật Giáo đã nói với Mẹ:

“Tôi biết và yêu mến Đức Kitô, nhưng tôi ác cảm với Hội Thánh của Ngài. Nếu các chị làm điều các chị nói, có lẽ các chị sẽ trở lên nơi hội ngộ để chúng tôi có thể gặp gỡ Hội Thánh của Đức Kitô”

Sau một năm có dịp cùng làm việc với Mẹ Têrêsa, vị sư đó đã phát biểu:

“Tôi đã quan sát chị, bây giờ tôi thực sự tin rằng các chị đã làm việc chỉ nhằm mục đích giúp những người nghèo khổ, xấu số. Chúng tôi sẽ hiến các chị một ngôi nhà trong khuôn viên chùa chúng tôi để làm bệnh xá miễn phí ”

19. Ai giàu, ai nghèo?

Tối ngày 17/3/2025, mạng xã hội xôn xao trước bài đăng tìm vàng của một người đàn ông tên Trương Văn Sừng - 34 tuổi, trú thôn Thâm Khê, xã Hải Khê (Hải Lăng, Quảng Trị).

Theo nội dung chia sẻ thì vợ chồng anh Sừng có mượn người thân 1 cây vàng, tính đem ra tiệm vàng ở thị trấn Hải Lăng bán để góp vốn làm ăn.

Thế nhưng khi hai vợ chồng lên tới thị trấn thì tiệm vàng chưa mở vì còn quá sớm. Trong quãng thời gian chờ, vợ chồng anh Sừng cầm theo vàng rồi đi xem đua thuyền mừng ngày kỷ niệm 50 năm giải phóng huyện Hải Lăng ở khu vực bờ hồ thuộc thị trấn.

Trong lúc xem, họ bất cẩn đánh rơi cây vàng lúc nào không hay. Hai vợ chồng sau đó cố gắng chạy đi tìm xung quanh, rồi đăng thông tin lên mạng xã hội với hy vọng có thể tìm kiếm được tài sản.

Không lâu sau bài đăng tải tìm vàng của anh Sừng, một người phụ nữ có chia sẻ việc con mình nhặt được vàng và thông báo tìm người bị mất trên trang cá nhân.

Đến chiều tối ngày 19/3, thông tin trên báo chí, Công an xã Hải Khê cho biết đã liên lạc về nhà anh Sừng xác minh thông tin mất vàng để làm thủ tục trao trả. Cũng theo thông tin từ Công an xã Hải Khê, người nhặt được số vàng là một học sinh lớp 4 Trường tiểu học Hải Khê.

THỨ SÁU - DỤ NGÔN TÁ ĐIỀN VƯỜN NHO

Lời Chúa: Mt 21, 33-43. 45-46

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: “Các ông hãy nghe dụ ngôn này: Có ông chủ nhà kia trồng được một vườn nho. Ông rào dậu chung quanh, đào hầm ép rượu và xây tháp canh; đoạn ông cho tá điền thuê, rồi đi phương xa.

Ðến mùa nho, ông sai đầy tớ đến nhà tá điền để thu phần hoa lợi. Nhưng những người làm vườn nho bắt các đầy tớ ông: đánh đứa này, giết đứa kia và ném đá đứa khác. Chủ lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước, nhưng họ cũng xử với chúng như vậy. Sau cùng chủ sai chính con trai mình đến với họ, vì nghĩ rằng: Họ sẽ kính nể con trai mình. Nhưng bọn làm vườn vừa thấy con trai ông chủ liền bảo nhau: “Ðứa con thừa tự kia rồi: Nào anh em! Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó.” Rồi họ bắt cậu, lôi ra khỏi vườn nho mà giết. Vậy khi chủ về, ông sẽ xử trí với bọn họ thế nào?

Các ông trả lời: “Ông sẽ tru diệt bọn hung ác đó và sẽ cho người khác thuê vườn nho để cứ mùa nộp phần hoa lợi.” Chúa Giêsu phán: “Các ông chưa bao giờ đọc thấy trong Kinh Thánh sao:

“Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc; đó là việc Chúa làm và là việc lạ lùng trước mắt chúng ta?” Bởi vậy, Ta bảo các ông: Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái.”

Các Thượng tế và biệt phái nghe dụ ngôn đó, thì hiểu Người ám chỉ về mình. Họ liền tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì thiên hạ đều tôn Người là Tiên tri.

TRUYỆN KỂ

 1. Sám hối để được cứu độ

Trong Kinh Thánh Cựu Ước có kể câu chuyện của vua thánh Đavít như sau: khi vua Đavít đã thỏa mãn nhục dục với Bathsêba, vợ của vị tướng Uria. Không dừng lại ở đó, ông đã tìm cách để phủ lấp chuyện đồi bại của mình bằng cách đẩy Uria ra mặt trận ác liệt, ở đó, vị tướng này chắc chắn sẽ tử trận, và sự việc đúng như kế hoạch thâm độc mà nhà vua đã hoạch định.

Khi nghe biết sự tàn ác của vua Đavít như thế, tiên tri Nathan đến kể cho vua một câu chuyện nhằm cảnh báo nhà vua, ngài kể: một anh nhà giàu kia có rất nhiều chiên, nhưng khi có khách, thì lại truyền lệnh cho quân lính sang nhà hàng xóm bắt con dê của họ để làm thịt ăn mừng. Điều đáng nói là người hàng xóm này chỉ có duy nhất một con dê là tài sản của anh ta.

Nghe đến đây, Vua Đavít tức giận và tuyên bố một câu xanh rờn: thằng đó phải chết! Nghe thấy thế, tiên tri Nathanel chỉ thẳng vào mặt vua và nói: “Thằng đó chính là vua!” Đến đây, nhà vua mới giật mình nhận ra tội lỗi của ông và ăn năn sám hối.

2. Không biết chia sẻ của Chúa ban.

Một người nghèo nọ được thần tài gõ cửa, nên không mấy chốc căn nhà của anh bỗng rộn lên tiếng cười của vợ con, họ hàng và láng giềng. Một cuộc sống xứng với nhân phẩm hơn đó là điều mà con người may mắn này đã cảm nhận được.

Tuy nhiên, may mắn nào cũng kéo theo những đòi hỏi, mà đòi hỏi thách thức nhất của người nghèo bỗng trở thành giầu có là: hãy chia sẻ với người khác. Không mấy chốc, bà con họ hàng từ các nơi đổ xô về căn nhà nghèo nàn của anh để xin giúp đỡ, trước là nhận họ sau là nhận hàng, đó là thói thường của người đời.

Kẻ trúng số hiểu được các tâm lý thông thường ấy, lúc đầu được thúc đẩy bởi lòng quảng đại, ông không ngần ngại chia sớt cho mọi người. Nhưng dần dà con số người đến xin giúp đỡ ngày càng gia tăng, cho đến một lúc cuộc sống riêng tư và êm ấm của gia đình hầu như bị xáo trộn triền miên. Người đàn ông không còn đủ kiên nhẫn nữa.

Một hôm, ông đề nghị với vợ:

- Hay là ta dọn đi một nơi khác.

Người vợ lắc đầu bảo:

- Mình có đi đâu thì thiên hạ cũng tìm tới.

Nhưng người chồng giải thích:

- Mình sẽ đi đến một chỗ không ai biết, mình sẽ đổi tên đổi họ, cũng không cho ai biết mình đi đâu, và sẽ cố gắng sống một cách đơn giản để không ai để ý đến mình nữa, ngay cả mấy đứa nhỏ cũng không cho biết mình đã trúng số.

Người vợ thắc mắc:

- Còn tiền bạc thì mình để đâu?

Chồng trả lời dứt khoát:

- Mình sẽ đem chôn giấu, mình sẽ sống như thể không hề trung số, chỉ đem ra dùng khi nào cần thiết mà thôi.

Thế là cả gia đình dọn đến một nơi khác như dự kiến: họ lén lút ra đi không ai biết, tiền bạc đem chôn cất, con cái còn quá nhỏ nên không biết việc gì đã xẩy ra, họ sống nghèo nàn trong một khu ổ chuột. Ngày qua ngày, chính họ cũng quên rằng mình đã có lần trúng số, và khi họ chết thì tất cả mọi tài sản đều mất hết. Họ quên cả việc viết chúc thư cho con cái để trao lại tài sản cho chúng.

3. Tảng đá Balebon tại tiểu bang California.

Ngày nọ, có một người dân làm đơn khiếu nại sở Kiều lộ. Người này báo động rằng vì nạn đất chùi, tảng đá này có thể đổ xuống làm hư nhà cửa của họ; và thế là với hai chiếc trực thăng yểm trợ cho hai xe cẩu loại lớn, người ta đã đưa tảng đá lên xa lộ.

Theo dõi câu chuyện trên đài truyền hình, một người Úc nọ đã đến xin mua tảng đá ấy. Sở Kiều lộ của thành phố đã bán tảng đá này với giá 100 Mỹ kim. Những người có trách nhiệm của thành phố đã mừng thầm vì cảm thấy ít ra cũng có người giúp họ di chuyển cái “của nợ” ấy đi. Sau đó, người Úc kia đã bỏ ra 20.000 Mỹ kim nữa để thuê xe chuyên chở tảng đá ấy về nhà, và sau bốn tháng miệt mài làm việc, anh đã tạc được chân dung của một tài tử nổi tiếng chuyên đóng phim cao bồi. Đó là món quà quí nhất mà người này dành cho tài tử yêu quí trước khi nhắm mắt lìa đời. Không bao lâu sau đó, tác phẩm ấy đã được bán cho một người chuyên sưu tầm tượng ảnh với giá một triệu Mỹ kim.

Tảng đá Balebon trên đây đã bị nhiều người xem là một “của nợ”, nhưng một người Úc đã nhìn ra những giá trị tiềm ẩn trong đó. Nó đã trở thành một thách đố để thực hiện một công trình vĩ đại. Và cuối cùng, công trình đã được hoàn thành. Từ một tảng đá đáng bỏ đi nó đã trở thành một tác phẩm nghệ thuật và giá trị của nó không thể ngờ được.

Trước Công nghị Do Thái, thánh Phêrô đã giải thích về cái chết của Chúa Giêsu, với câu nói thời danh: “Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ đã trở thành viên đá góc tường” (Cv 4,11).

4. Hãy nhìn vào tấm gương đó để chúng ta bắt chước.

Thời Xuân Thu chiến Quốc, nước Sở và nước Lương có chung biên giới và dân cư của hai nước sống ở gần biên giới đều trồng dưa. Người bên nước Lương, vì chịu khó vun xới chăm bón cho nên dưa tốt, quả nhiều. Còn người bên nước Sở thì vừa lười vừa làm biếng, chẳng chịu chăm sóc tưới bón nên dưa xấu, quả ít. Quan huyện sở tại bên nước Sở thấy vậy thì tức giận lắm. Những người trồng dưa bên Sở thấy vậy cũng đem lòng ghen ghét, nên cứ tối tối, lẻn sang nhổ cây, bứt lá làm cho dưa bên nước Lương đang tốt tươi bỗng trở nên héo hon, xơ xác.

Những người trồng dưa bên nước Lương rình biết, bèn trình báo lên quan sở tại của mình và cũng định rắp tâm sang phá dưa bên nước Sở để trả thù. Nhưng quan sở tại của nước Lương là người thâm trầm, mưu cao liền can ngăn và bảo:

- Nếu lấy ác mà xử ác thì chỉ gây thù chuốc oán, gieo mầm loạn lạc binh đao. Thay vì trả thù, ta cứ lẳng lặng sang tưới dưa cho họ, đó mới là thiện chí.

Nói là làm. Một thời gian sau, dưa bên nước Sở xanh tốt, quả nhiều. Dân nước Sở lấy làm lạ, cũng để ý rình rập, sau mới hay người bên nước Lương sang tưới dưa cho mình. Quan bản địa bên nước Sở thấy vậy lấy làm hổ thẹn. Sự việc đến tai vua nước Sở. Vua nước Sở cũng lấy làm xấu hổ và nghĩ rằng, ngoài cái tội phá dưa của người ta ra, còn thêm một tội khác nữa là gây ra thù oán. Vua nước Sở bèn xuống chiếu trách cứ quan huyện, khuyến cáo dân chúng nước Sở, rồi viết thư sai sứ giả sang nước Lương xin lỗi, tỏ lòng hiếu hòa bang giao.

Thế là hai nước giữ được sự yên bình lâu dài và dân cư thái bình.

5. Đứa con thừa tự kia rồi

Tháng 8/1963 Martin Luther King dẹp qua một bên bài diễn thuyết được soạn sẵn, để nói thẳng với hàng trăm ngàn người nghe ông: “Hôm nay, tôi mơ ước rằng một ngày nào đó người da đen sẽ nắm tay người da trắng và cùng nhau sánh bước như anh em.”

Khi ông nói như thế, một số người đã nhạo báng: “Nào chúng ta giết hắn đi… để xem những ước mơ của hắn sẽ ra sao?”

6. Tiêu diệt kẻ thù

Một hoàng đế Trung Hoa muốn chiếm đất của kẻ thù và tiêu diệt họ. Nhưng ít lâu sau, thần dân thấy nhà vua đi lại, ăn uống với kẻ thù trước kia.

- Chẳng phải ngài đã từng nói là sẽ tiêu diệt hết kẻ thù?

- Đúng, ta đã tiêu diệt hết kẻ thù, vì ta đã biến họ thành bạn bè của ta.

8. Tình thương kiên nhẫn

Một số người giải thích dụ ngôn thế này: Vườn nho biểu hiện dân Israel. Chủ vườn nho là Thiên Chúa. Tá điền là những người lãnh đạo dân Israel. Các tôi tớ chính là các ngôn sứ. Con trai chủ vườn là Chúa Giêsu. Điểm nổi bật trong dụ ngôn là sự kiên nhẫn của Thiên Chúa. Ngài cho tá điền ba cơ hội để sửa đổi lối sống, ngay cả trước sự độc ác của họ.

Tôi biết ơn vì sự kiên nhẫn của Thiên Chúa đối với tôi như thế nào? Đưa ra vài thí dụ.

Biết lấy chi đến đáp Chúa bây giờ, Vì mọi ơn lành Ngài đã ban cho? (Tv 115,1)

9. Tôi có phải là tá điền không?

Dụ ngôn này tóm lược truyện trong Kinh thánh. Vườn nho biểu hiện dân Israel. Chủ vườn nho là Thiên Chúa. Tá điền là những người lãnh đạo Israel. Các tôi tớ là các ngôn sứ. Con trai chủ vườn là Chúa Giêsu. Các tá điền mới là các Tông đồ của Chúa Giêsu.

Xét về mặt nào đó, tôi có giống tá điền ban đầu của vườn nho không?

“Những sự việc này xảy ra cho họ để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những người đang sống trong thời sau hết này.” (1Cr 10,11)

10. Vị thiên thần dễ tính

Có một câu chuyện ngụ ngôn, với tựa đề là “vị thiên thần dễ tính” kể lại như sau: Ngày kia, có hai người xin vị thiên thần cho họ được tham dự vào quyền vạn năng của Thiên Chúa. Vị thiên thần đồng ý. Người thứ nhất xin cho có khả năng làm được những công việc vĩ đại. Vị thiên thần gật đầu ưng thuận, nhưng lại ra điều kiện: “Ngươi sẽ được quyền lực để hoàn thành những kỳ công. Nhưng ngươi lại không có sức làm những việc thông thường”. Chàng ta đọc được ý nghĩ của kẻ khác, và không ngừng chế tạo ra những phát minh vĩ đại. Ít lâu sau chàng đã trở thành tỉ phú nhờ kinh doanh những phát minh của chàng. Chàng ta rất hài lòng với những thành công đã đạt được. Nhưng chẳng bao lâu, từng người một, các bạn bè lần lượt xa lánh chàng mà chàng lại không làm gì được để giữ họ lại. Sau đó cả người vợ cũng thầm giũ áo ra đi. Chàng cũng không làm gì được để nối lại mối tình xưa. Rồi sau cùng sức khoẻ cũng giã biệt chàng, thân thể trở nên bạc nhược, đến nỗi chàng không còn đi đứng được nữa, chàng bất lực, chẳng làm gì được để phục hồi sức khoẻ ngoài việc ngồi trên xe lăn để đếm từng ngày cô đơn.

Ngược lại, người thứ hai chỉ xin được có khả năng làm tới những việc bình thường. Vị thiên thần cũng đồng ý và nhắn thêm: “Thiên Chúa sẽ không cho ngươi quyền lực nào đặc biệt để hoàn thành những việc phi thường đâu”. Chàng bình thản tiếp tục sống cuộc đời của mình, hằng ngày chàng vui vẻ chu toàn nghĩa vụ của một công dân lương thiện, một người chồng chung thuỷ, một người cha hiền tận tuỵ với con cái, một người bạn, một người láng giềng quảng đại, hào hiệp, vị tha. Chàng cảm thấy đời mình thật ý nghĩa, thật vui tươi và hạnh phúc. Chàng không còn ước muốn gì hơn là được tiếp tục sống trọn cuộc đời mình cho Thiên Chúa và tha nhân trong những gì bình thường nhất với một niềm tri ân sâu thẳm.

Biết nhìn ra những giá trị của những điều bình thường trong cuộc sống, con người mới có khả năng khám phá được sự cao cả phi thường mà Thiên Chúa cất giấu trong đời họ. Từ đó con người cũng sẽ kín múc được sức mạnh dồi dào để phát huy những giá trị của bản thân, của cuộc sống để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.

THỨ BẢY

Lời Chúa: Lc 15, 1-3. 11-32

Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: “Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ngồi ăn uống với chúng.” Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này:

“Người kia có hai con trai. Ðứa em đến thưa cha rằng: “Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về con.” Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít ngày sau, người em thu nhặt tất cả tiền của mình trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ, phung phí hết tiền của. Khi nó tiêu hết tiền của, thì gặp nạn đói lớn trong miền đó và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho.

Bấy giờ nó mới hồi tâm lại và tự nhủ: “Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói! Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi và thưa người rằng: “Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha.” Vậy nó ra đi và trở về với cha nó. Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy lại ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu. Người con trai lúc đó thưa rằng: “Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa.” Nhưng người cha bảo các đầy tớ: “Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu; hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng, vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy.” Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình.

“Người con cả đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa, anh gọi một tên đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ nói: “Ðó là em cậu đã trở về và cha cậu đã giết con bê béo, vì thấy cậu ấy trở về mạnh khoẻ.” Anh liền nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha anh ra xin anh vào, nhưng anh trả lời: “Cha coi, đã bao nhiêu năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn; còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn điếm nay trở về, thì cha lại sai làm thịt con bê béo ăn mừng nó.” Nhưng người cha bảo: “Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn tiệc và vui mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy.”

TRUYỆN KỂ

1. Chỗ dựa cho tội nhân

Văn hào Nga Dostoievki khi biết mình không còn sống bao lâu nữa, đã gọi các con đến bên giường bệnh và yêu cầu vợ đọc cho chúng nghe dụ ngôn người con hoang đàng. Khi bà vợ vừa dứt lời, Dostoievki nói như để lại di chúc riêng của ông như sau:

“Các con yêu dấu, các con đừng quên những gì các con vừa nghe đọc. Hãy tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, đừng bao giờ thất vọng về sự tha thứ của Ngài. Cha thương các con vô cùng, nhưng tình thương của cha không thể sánh được với tình yêu Thiên Chúa dành cho những ai Ngài đã tạo dựng.

“Cho dù các con có phạm tội ác, các con đừng bao giờ thất vọng về Thiên Chúa. Các con là con cái Ngài, hãy khiêm tốn đến trước mặt Ngài. Hãy xin Ngài tha thứ và Ngài sẽ vui mừng vì sự sám hối của các con, như người Cha đã vui mừng khi người con hoang trở về.”

2. Ký thác cuộc đời cho long Chúa xót thương

Danh họa Rembrandt, người Hà Lan, vào thế kỷ thứ XVII là một thanh niên kiêu hãnh, tự hào về tài năng. Anh làm ra nhiều tiền, nhưng cũng phung phí nhiều và cuối cùng mất hết tất cả.

Tiếp theo giai đoạn thành công và giàu có ngắn ngủi ấy là một chuỗi những thất bại, tai họa và phiền muộn: Năm 1635, người con trai của ông tên là Prubertus qua đời; ba năm sau đến lượt người con gái đầu tiên của ông là Cornelia cũng ra đi, hai năm sau đó, chính người vợ của ông cũng từ giã cõi đời. Ông phải sống cảnh gà trống nuôi con với một đứa con trai là Titô vừa mới được chín tháng tuổi.

Sau khi vợ chết, ông toàn gặp khổ đau và thử thách, cuộc tình bất hạnh với bà vú nuôi của Titô đã để lại cho ông thêm hai đứa con khác.

Trong những năm sau đó, mặc dù các nhà sưu tầm và giới phê bình nghệ thuật nhìn nhận tài năng của ông, nhưng tiếng tăm của ông đã bắt đầu đi xuống. Ông đã nhìn lại bản thân và cuộc đời để rồi ký thác cái nhìn về cuộc sống đầy sóng gió của mình trong bức tranh nổi tiếng “Người con hoang đàng.”

3. Chúa quên hết rồi.

Một bà già thường đến gõ cửa phòng cha xứ, kể cho ngài nghe rằng đêm qua Chúa mới hiện ra với bà. Để làm bà nản lòng đừng đến nữa, Cha xứ bảo:

- Lần sau, nếu Chúa có hiện ra, bà hãy hỏi Ngài “Cha xứ con có tội gì nặng nhất sau đó tới kể cho tôi nghe.”

Mấy ngày sau, bà già không đến nữa. Cha xứ mừng thầm vì bà đã trúng kế của ngài. Nhưng một tuần sau đó, bà già trở lại.

- Thưa cha, tối hôm qua Chúa lại hiện ra với con.

- Thế bà có hỏi Ngài không?

Cha xứ bắt đầu hồi hộp:

- Bà hỏi thế nào?

- Thì con hỏi y như cha đã bảo: “Cha xứ con có tội gì nặng nhất”?

Cha xứ càng hồi hộp thêm:

- Vậy Chúa có trả lời không?

- Có chứ.

Bây giờ thì cha xứ lo lắng thật sự:

- Chúa nói sao?

- Chúa nói: “Ta đã quên hết rồi”

Cha xứ thở phào nhẹ nhõm (Kể theo ĐHY Nguyễn Văn Thuận).

4. Lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa

Nhà truyền giáo T.R. Stevenson ở Thượng hải kể: một thương gia giầu có ở Quảng đông có hai con trai, người con lớn thường kết bè tụ đảng với bọn bất lương phá phách làng xóm. Một lần, quá túng, hắn dẫn cả một băng về cướp ngay tại nhà mình.

Khi tội hắn bị lộ, người cha cho người đến nói với hắn: nếu biết đường cải tà qui chánh thì sẽ được tha. Người nhắn còn bảo đây là lần gia ân cuối cùng của ông chủ. Hắn chầm chậm đứng lên và quay về nhà cha. Một bữa tiệc đón tiếp xem ra cũng vui vẻ, nhưng trong dĩa thức ăn của hắn có bỏ thuốc độc.

Hắn chết ngay đêm đó, nhưng người cha không bị ra toà vì theo luật Trung hoa, cha có quyền giết con. Từ câu chuyện này, các nhà truyền giáo thường đem đối chiếu với đoạn 15 Tin Mừng thánh Luca.

5. Sống như Chúa đầy yêu thương và nhân từ

Trong một tuyển tập ngụ ngôn, tác giả người Ý, ông Yacob Basavalti có kể câu chuyện như sau: Một tên cướp nọ muốn trút bỏ gánh nặng tội lỗi đang đè nặng trên lương tâm, nên đã tìm đến với một linh mục. Nhưng vừa nghe xong những lời thẳng thắn của linh mục, anh ta liền nổi giận, tuốt gươm chém chết vị linh mục.

Một thời gian sau, cảm thấy hối hận, anh ta lại tìm đến một vị linh mục khác, lần này vị linh mục cho biết để được ơn tha thứ của Chúa, anh phải đến Tòa Thánh. Cũng thấy bị xúc phạm, anh ta liền tuốt gươm kết thúc cuộc đời vị linh mục thứ hai.

Vị linh mục thứ ba mà tên cướp tìm đến xưng tội sẵn sàng ban phép giải tội cho anh, nhưng về việc đền tội, ngài yêu cầu anh hãy đi chôn cất tất cả những người chết mà anh gặp, đồng thời hãy khóc lóc như thể họ chính là người thân của anh. Vị linh mục trao cho anh một cái chai nhỏ để hứng nước mắt.

Tên cướp ra về và nghe bất cứ nơi nào có đám tang, anh cũng tìm đến, nhưng mắt anh vẫn luôn khô ráo, anh không thể nhỏ được một giọt nước mắt nào. Cho đến một hôm tình cờ anh được đối diện với Chúa Giêsu đang khóc trên một cây Thập Giá, anh nhìn lên và than thở với Chúa về nỗi khổ đau không hề biết khóc là gì. Chính lúc đó, tự nhiên nước mắt anh trào ra.

Anh lấy chai đã nhận được từ tay vị linh mục trao cho để hứng lấy và từ lúc đó anh đã hiểu được thế nào là sám hối. Sau đó anh đã tìm vào sa mạc để sống những ngày còn lại.

6. Luật công bình của tình yêu

Một ngày nọ, Thiên Chúa đi vào Thiên Đàng, và ngài ngạc nhiên khi khám phá ra tất cả mọi người đều được vào đó cả. Thế là ngài dừng lại suy nghĩ: “Phải chăng Ta không phải là Đấng công bình vô cùng.”

Ngài liền cho gọi sứ thần Gabriel:

- Ngươi hãy tập trung mọi người lại trước mặt Ta và đọc cho họ nghe 10 giới răn của Ta.

Tất cả mọi người đều đến trình diện trước tòa Chúa. Sứ thần Gabriel đọc giới răn thứ nhất, và Chúa phán:

- Tất cả những ai đã phạm giới răn thứ nhất hãy xéo khỏi mặt Ta, và đi vào hỏa ngục.

Một số người từ từ ra khỏi đám đông, buồn bã đi vào hỏa ngục.

Sứ thần tiếp tục đọc các giới răn khác, và cứ sau mỗi giới răn thì có một số người lặng lẽ đi vào hỏa ngục như trên.

Sau khi sứ thần Gabriel đọc giới răn thứ 6, thì cả đám đông đều tự động đi vào hỏa ngục, chỉ còn lại vị ẩn sĩ già, đầu hói, “béo mập.”

Thiên Chúa đưa mắt nhìn sứ thần rồi hỏi:

- Phải chăng chỉ có người này được vào Thiên Đàng thôi sao? Nếu vậy thì hắn phải cô độc lẻ loi lắm.

Nói xong, Thiên Chúa truyền lệnh cho sứ thần gọi đám đông lại và cho họ được trở lại Thiên Đàng. Nhìn thấy đám người tội lỗi xấu xa bỗng nhiên có được sự tha thứ, vị ẩn sĩ già bèn nổi giận và hằn học nói:

- Chúa không phải là Đấng công bình. Tại sao Chúa không cho con biết trước điều đó.

Đây quả là hình ảnh của người anh trong dụ ngôn: Rất hẹp hòi với anh em mình.

7. Tình yêu và tự do

Ông Voltaire, một nhà triết học nổi tiếng đã lạm dụng quyền tự do Chúa ban để chối Chúa và xúi người khác bắt chước ông qua câu chuyện ông tự dựng nên:

Thần Jupiter tự phong mình là Đấng tạo dựng vũ trụ. Ngày kia ông cho gọi Ores đến trình diện và tra hỏi:

- Này Ores, ngươi có biết Ta là ai không?

Ores khinh khỉnh:

- Ông định nói ông là Chúa của tôi chứ gì? Tôi nói cho ông hay: ông là Chúa của ai mặc ông. Nhưng tôi cấm ông không được tự cho mình là Chúa của tôi!

Thần Jupiter thịnh nộ:

- Tên khốn kiếp kia, Ta không phải là Chúa của ngươi, thì ai đã dựng nên ngươi!?

Ores cười sặc sụa:

- Ừ, thì cứ tạm cho là ông đã dựng nên tôi vậy. Nhưng ông ngu lắm không! Ông dựng nên tôi mà sơ hở để cho tôi có tự do. Vì thế tôi được tự do chối ông: Ông không phải là Chúa của tôi!?

Vậy ai không biết dùng quyền tự do để “nhận biết Thiên Chúa, thì tự bản chất nó là đứa ngu đần” (x Kn 13, 1), và kẻ nào “không yêu mến Thiên Chúa, nó là đồ khốn kiếp” (1Cr 16, 22 - Bản dịch CGKPV). Do đó “ai không đếm xỉa đến việc nhận biết Thiên Chúa, Ngài để cho trí não nó ngông cuồng làm điều bất xứng” (Rm 1, 28). Bởi đó, muốn thanh tẩy tội mình, chỉ có cách là kết hợp với Chúa Giêsu, đi chung đường phục vụ với Ngài (x 1Ga 2, 6). Đó mới thực là Đức Ái, và nhờ Đức Ái, tội lỗi ta được phủ lấp (x 1Pr 4, 8).

Chúa đã ban tự do cho con người thì không bao giờ Ngài rút lại, dù Ngài biết ta chọn lầm, Ngài cũng không cưỡng bách ta phải chọn và thi hành điều đúng. Đan cử như môn đệ Giuđa phản Thầy, nhiều lần Đức Giêsu khuyên hắn bỏ ý định nộp Thầy, nhưng rồi Ngài cũng để cho hắn tự do hành động theo ý riêng, chỉ vì chọn 30$ hơn mạng sống Thầy! Trừ khi ta biết cầu nguyện với Ngài. Do đó ông Phaolô đã ba lần xin Chúa rút cái dằm khỏi ông, đừng để Satan đâm vào thân xác (ông ở trong tình trạng tội lỗi), nhưng Chúa bảo: “Ơn Ta đủ cho ngươi, vì quyền năng của Ta chỉ biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (x 2Cr 12, 7-10). Ông Phaolô hiểu được mầu nhiệm sự dữ như thế, nên ông nói: “Thiên Chúa đã dồn mọi người vào hàng bất tuân, ngõ hầu Ngài dủ lòng thương hết mọi người” (Rm 11, 32).

8. Tự do Chúa ban để mỗi người cộng tác với ơn Chúa

Bức danh họa Tiệc Ly do ông Leonardo da Vinci vẽ trên tường rộng lớn tại nhà cơm Tu viện Đaminh Đức Mẹ Giáng Ân, trong thành Milan nước Ý, vào khoảng năm 1495. Ông Leonardo da Vinci kể lại lịch sử khi ông quyết định vẽ bức họa này:

Tôi muốn thực hiện bức họa Bữa Tiệc Ly của Chúa Giêsu, việc khó nhất của tôi là đi tìm một khuôn mặt nào thật dễ mến, đầy nghị lực, nhất là toát ra sự thánh thiện để làm mẫu vẽ Chúa Giêsu. Cuối cùng tôi đã tìm được một thanh niên tên là Pietri Bandielli! Các Tông Đồ của Chúa Giêsu thì rất dễ đối với tôi, tôi cứ tưởng tượng thế nào thì vẽ như vậy. Trừ có khuôn mặt của Giuđa, tôi chưa tìm được mẫu người để diễn tả về một kẻ tham tiền, đểu cáng…! Tôi đi khắp nơi: vào các quán rượu, xuống tận hầm mỏ, và phải mất một thời gian dài, cuối cùng thì tôi cũng chọn được một người, gặp anh ta là tôi ưng ý ngay. Tôi liền ngỏ lời: xin ngồi làm mẫu cho tôi vẽ…! Đang khi vẽ, tôi chợt cảm thấy anh này tôi đã nhìn thấy ở đâu rồi, trông quen quen! Tôi liền hỏi anh:

- Này anh, hình như tôi đã gặp anh ở đâu rồi thì phải.

Người ấy đáp:

- Ông không nhớ tôi sao, cách đây khá lâu, chính ông đã nhờ tôi làm mẫu để vẽ Chúa Giêsu, tên tôi là Pietri Bandielli. Sau ngày tôi gặp ông, tôi đã sa đà vào con đường trụy lạc, vì bị bạn bè lôi kéo, giờ tôi sống rất khổ sở…!

Lúc đó nhà danh họa nhớ lại Chúa Giêsu đã dạy:

“Khi thần ô uế xuất khỏi một người, nó đi tìm chốn nghỉ ngơi mà tìm không ra. Bấy giờ nó nói: “Ta sẽ trở về nhà ta nơi ta đã bỏ ra đi, ” khi đến nơi, nó thấy nhà để trống, lại được quét tước trang hoàng hẳn hoi, nó liền đi kéo thêm 7 thần khác dữ tợn hơn nó, và chúng ở đó. Rốt cuộc tình trạng người ấy lại tệ hơn trước!” (Mt 12, 43-45)

LỄ KÍNH – GIUSE - NGƯỜI CÔNG CHÍNH

Lời Chúa: Mt 1, 16. 18-21. 24a

Giacóp sinh Giuse là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây:

Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo.

Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì Thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội.”

Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền.

TRUYỆN KỂ

1. Thánh Gioan Phaolô II Nói Về Gương Thánh Giuse

Anh chị em rất thân mến,

Ngày 19 tháng 3, chúng ta cử hành Lễ Thánh Giuse. Vào trung tâm của Mùa Chay, Phụng vụ trình bày cho chúng ta vị thánh vĩ đại này như là gương mẫu để noi theo, và như là Ðấng bảo vệ để chúng ta cầu khẩn.

Trước hết, thánh Giuse là mẫu gương sống Ðức Tin cho chúng ta. Như Tổ Phụ Abraham, thánh Giuse đã luôn sống trong thái độ hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa; vì thế Ngài là mẫu gương khích lệ, nhất là khi chúng ta được mời gọi tin tưởng vào Chúa, dựa trên "Lời Ngài" đã phán, mà không nhìn thấy được rõ ràng Ý Ðịnh của Chúa.

Hơn nữa, chúng ta được mời gọi noi gương Ngài, trong việc khiêm tốn thực thi sự vâng phục, một nhân đức chiếu sáng nơi Ngài trong nếp sống thinh lặng và trong việc làm ẩn khuất. Trường học Nazareth quý giá biết bao cho con người thời nay, bị bao vây bởi một nền văn hóa rất thường đề cao vẻ bề ngoài và sự thành công, đề cao sự độc lập và một quan niệm sai lầm về tự do cá nhân. Ngược lại, thật là cần thiết biết bao, việc phục hồi lại giá trị của sự đơn sơ và vâng phục, sự tôn trọng và yêu mến đi tìm thánh ý của Thiên Chúa.

Thánh Giuse đã sống phục vụ cho vị hôn thê của mình và cho Con Thiên Chúa; và như thế, đối với các tín hữu, thánh Giuse trở thành chứng tá hùng hồn cho biết phải cai trị hay phục vụ như thế nào. Ðặc biệt, tất cả những ai, trong gia đình, trong trường học và trong giáo hội, có trách vụ sống làm cha, làm người hướng dẫn, đều có thể nhìn về thánh Giuse, để được huấn luyện sống tốt lành. Nhất là tôi nghĩ đến những người cha, mừng lễ của họ vào đúng ngày lễ dành cho thánh Giuse. Tôi cũng nghĩ đến tất cả những ai mà Thiên Chúa đã thiết lập trong giáo hội để thực hiện "tình cha thiêng liêng.”

Nguyện xin thánh Giuse, vị thánh mà dân Kitô tin tưởng khẩn cầu, luôn hướng dẫn những bước tiến của đại gia đình Thiên Chúa. Xin thánh nhân hãy đặc biệt trợ giúp cho những ai đang chu toàn vai trò làm cha tự nhiên hoặc thiêng liêng. Xin thánh Giuse hãy cùng đồng hành với những lời khẩn cầu của chúng ta và xin Mẹ Maria khẩn cầu cùng Chúa cho chúng ta, Mẹ là vị hôn thê đồng trinh của thánh Giuse và là Mẹ của Ðấng Cứu Chuộc.

+ Gioan Phaolô II

(bản dịch của Nguyễn Việt Nam)

2. Thánh Giuse thinh lặng--GM G.B Bùi Tuần

Đọc Phúc Âm để tìm hiểu thánh Giuse, tôi thấy một bầu khí âm thầm bao phủ Ngài. Có một chọn lựa khiêm nhường trong bầu khí đó. Khiêm nhường ấy đầy khó nghèo và khôn ngoan.

Ngắm nhìn các ảnh tượng thánh Giuse, tôi thấy lòng sùng kính các nơi dành cho thánh Giuse thực rất phong phú và đa dạng.

Nhưng năng lui tới thánh Giuse trong đời sống hằng ngày, nhất là qua các giờ phút cầu nguyện, gẫm suy, tôi thấy thánh Giuse rất gần gũi, rất sống động, nhất là rất dễ thương. Có một điểm dễ thương nơi Ngài đã gây ấn tượng sâu sắc nơi tôi, đó là sự thinh lặng của Ngài.

Sự thinh lặng của Ngài là trường dạy tôi về tu đức, mục vụ và truyền giáo. Tôi gọi đây là sự thinh lặng thánh. Bởi vì không phải thinh lặng nào cũng tốt cả. Ai cũng biết có vô số thứ thinh lặng tiêu cực. Như thinh lặng vì kiêu căng. Thinh lặng vì lập dị. Thinh lặng vì dốt nát. Thinh lặng vì sợ sệt. Thinh lặng vì bất cần. Thinh lặng vì dửng dưng. Thinh lặng vì hờn giận. Thinh lặng vì ích kỷ vv… Trái lại, sự thinh lặng của thánh Giuse là một hoạt động thường xuyên tích cực.

3. Đi trong đêm đen

Tuy đêm có đen, tuy chân có mỏi, tuy lòng có xao xuyến nhưng Thánh Giuse vẫn bước đi. Tuy thử thách có nặng nề, Thánh Giuse vẫn chiến đấu. Cha Teilhard de Chardin nói: người chiến đấu giống như người bơi lội ngoài biển ban đêm: “Ban đêm, người bơi lội vùng vẫy trong làn nước biển có chất lân tinh, làm ánh sáng loé lên chung quanh mình.”

Thánh Giuse đã chiến đấu. Những chiến đấu mạnh mẽ cũng làm loé lên chung quanh Ngài những làn ánh sáng soi bước chân Ngài đi.

Đi trong đêm tối đức tin, Ngài có ngọn lửa đức mến soi đường. Đêm đen lắm, nhưng Ngài cứ yêu mến Chúa, cứ gắn bó với Chúa, và cứ bước đi với Chúa.

Trong đêm tối im lặng. Ngài đốt lên trong tâm hồn ngọn đèn thao thức, lắng nghe, đón chờ. Niềm thao thức khiến tâm hồn Ngài nhạy bén như một phím đàn mỏng. Lời Chúa chỉ thoáng nhẹ như làn gió thoảng, phím đàn đã rung lên. Ý Chúa chỉ mờ ảo trong giấc mơ, Ngài đã đọc được và mau mắn thi hành.

Trong đêm tối lãng quên, Ngài có đèn khiêm nhường dẫn lối. Khiêm nhường chìm vào quên lãng. Khiêm nhường phục vụ, khiêm nhường sâu thẳm. Ngài có cùng tâm tình như Thánh Gioan Tẩy Giả: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.”

Trong đêm tối thử thách, Ngài thắp lên ngọn đèn tin yêu phó thác. Tin vững vàng vào Lời Chúa. Hoàn toàn phó thác cho Chúa. Để Chúa dẫn đường qua đêm đen mù mịt.

Lạy Thánh Giuse, con cũng đang đi trong đêm đen. Xin hãy thắp lên trong con những ngọn đèn của Thánh Cả, soi đường cho con đi đến nơi bình an.

4. Lễ dính hôn của Maria

Tôi nhớ lại một bức tranh của nhà danh họa Raphael với tựa đề “Lễ Đính Hôn của Maria.” Năm 1983, UNESCO có khởi xướng mừng kỷ niệm 500 năm ngày sinh của Họa sĩ Raphael, dịp đó Việt Nam đã cho in một con tem. Trên con tem in phần trọng tâm của bức họa “Lễ Đính Hôn của Maria”: cảnh Thánh Giuse đang trao nhẫn cưới cho Đức Maria, trước sự chứng kiến của một thày Tư Tế.

Nếu xem bản gốc của bức tranh, thì thấy hậu cảnh là ngôi đền thờ hình đa giác, có một sân thật rộng. Cận cảnh là lễ đính hôn. Một thầy tư tế đứng giữa thánh Giuse và Đức Mẹ. Sau và cạnh thánh Giuse là 5 chàng trai phù rể, đối diện phía bên kia, sau Đức Mẹ là 5 thiếu nữ phù dâu. Thánh Giuse đang long trọng xỏ nhẫn cho Đức Mẹ bằng tay phải. Tay trái cầm cây gậy gỗ trổ bông, dấu hiệu của người đã được tuyển chọn. Chỉ có cây gậy của Thánh Giuse trổ bông, còn những cây gậy của 5 chàng thanh niên khác thì khô chồi. Hai trong những thanh niên này, thất vọng, đang bẻ gãy cây gậy của mình.

Theo như bài chú giải về bức tranh, chiếc nhẫn nhỏ bé đó chính là trọng tâm, nói lên toàn bộ ý nghĩa của bức tranh: Lễ đính hôn của Đức Mẹ và Thánh Giuse. Hình ảnh chàng thanh niên đang chủ động xỏ chiếc nhẫn đính hôn vào tay vị hôn thê của mình với khuôn mặt tràn đầy hạnh phúc.

Có lẽ phải trải qua nhiều cố gắng lắm mới Giuse mới đạt được ước mơ của mình: có được Maria làm vị hôn thê của mình. Vì có nhiều người thanh niên khác trong làng cũng để ý Maria. Điều này họa sĩ Raphael họa lại thật sống động qua cảnh 2 chàng thanh niên, vì thất vọng và bực tức, đang bẻ gãy chiếc gậy của mình.

5. Thánh Giuse – gia trưởng

Ông Socrate, xưa là một nhà hiền triết Hy Lạp có một bà vợ dữ tợn và lắm đều, nhưng ông cứ bình tĩnh chịu đựng. Một hôm bà ta xỉa xói ông những điều thậm tệ, ông im lặng khoác áo ra đi, bà ta còn chạy theo hất một chậu nước vào ông. Nhà hiền triết quay lại thái độ bình tĩnh nói: Tôi biết mà! Sau cơn giông tố thì thể nào cũng đổ mưa! Thế rồi ông cứ bình tĩnh bước đi.

Thưa các ông là những người cha gia đình,

Sứ mạng Chúa trao cho các ông thật là cao cả tựa như sứ mạng của Thánh Giuse, trách nhiệm của các ông cũng rất nặng nề, hoàn cảnh hiện nay cũng đầy khó khăn phức tạp. Chẳng hạn gia đình túng thiếu, việc làm ăn vất vả đi sớm về khuya, còn giờ đâu mà dạy dỗ con cái. Đang khi ấy thì bao nhiêu quyến rũ bên ngoài, bao nhiêu tệ nạn xã hội lôi kéo con cái ta vào con đường hư hỏng: cờ bạc, trộm cắp, nghiện hút, bạn bè xấu, phim ảnh trụy lạc… Nhiều lúc các ông cảm thấy khổ tâm và bất lực, các ông lo lắng nhìn con cái và tự hỏi: Sau này chúng sẽ ra sao? Còn giữ vững đức tin hay bỏ đạo? Còn trung thành với nền nếp gia đình hay trở nên người hư hỏng

Dù sao chúng ra cũng không thể ngã lòng nản chí, vì quyền năng của Thiên Chúa thường biểu lộ ra trong sự yếu đuối và bất lực của con người, lúc chúng ta thấy mình yếu đuối là lúc chúng ta mạnh.

Vậy chúng ta hãy đến cùng Thánh Giuse, xin Người hộ giúp. Xưa Thánh Giuse cũng sống đời sống gia đình như ta. Người đã làm đầu coi sóc mọi sự trong nhà Đức Mẹ mà nay người là Đấng mọi nhà phải cậy trông cho được vững vàng.

Thánh Giuse thấu hiểu hơn ai hết những nỗi khó khăn phức tạp của đời sống gia đình. Người cũng hiểu hơn ai hết vai trò và trách nhiệm của người cha gia đình. Do đó, với một tình thông cảm bao la, Thánh Giuse luôn sẵn sàng hộ giúp các người cha gia đình, khi đến cầu xin Người.

Sau cùng, tôi đề nghị anh chị em, nhất là các bà mẹ, cầu nguyện nhiều cho các gia đình có một người gia trưởng giống như Thánh Giuse, thì đời sống gia đình ta sẽ hạnh phúc biết bao. Người ta kể lại: Một người mẹ gia đình đến xin một luật sư biện hộ cho mình trong dự định ly hôn với ông chồng. Bà nói: Ông nhà tôi quá thể, tôi không chịu nổi, tối nào về cũng say khướt rồi đánh mắng vợ con, đập phá đồ đạc om sòm nhà cửa… Luật sư hỏi: Khi ấy thì bà làm gì?- Tất nhiên tôi phải lên tiếng cãi lại không chịu ngồi yên. Luật sư nói: Tôi nghĩ nhà bà còn thiếu một cái. Thiếu cái gì? Thiếu một cái ghế quì. Nếu khi ông nhà bà say sưa, đánh mắng như vậy, bà cứ yên lặng quì cầu nguyện cho ông sửa đổi tính nết thì sẽ có kết quả hơn nhiều.

Trên đây là một bài học rất khôn ngoan và thâm thúy, mong rằng chúng ta đem ra áp dụng trong đời sống gia đình khi gặp trường hợp tương tự. Amen.

6. Quét lá rừng

Có một người làm công, ngày ngày đi quét lá rừng rụng xuống, gom lại một nơi rồi hốt đi. Một hôm một đoàn người lên rừng chơi, thấy người quét lá, họ rất đỗi ngạc nhiên, và họ càng ngẩn ngơ khi biết rằng chính Hội đồng Thành phố đã thuê với số lương 7000 đồng một tháng.

Sau một hồi vãn cảnh, đoàn người trở về. Một số người tìm đến ông Chủ tịch Hội đồng thành phố đề nghị hủy bỏ phụ khoản chi tiêu cho việc quét lá rừng vì quá vô ích. Ông Chủ tịch cũng như Hội đồng chẳng hiểu căn do của phụ khoản kia, vì họ chỉ làm theo truyền thống, nên cuối cùng quyết định không thuê người quét lá rừng nữa.

Ngay giữa thành phố có một cái hồ rộng lớn, nước trong xanh, cây to in bóng mát, người qua lại dập dìu. Mọi người ca tụng nó là viên ngọc trai điểm trang cho thành phố. Nhưng lạ thay, một tháng sau ngày người quét lá rừng nghỉ việc, nước hồ trở nên đục ngầu bẩn thỉu, không còn thấy bóng người hóng gió ngoạn cảnh, quán xá bên bờ hồ vắng tanh... Cả thành phố trở nên buồn tẻ mà không hiểu tại đâu. Hội đồng Thành phố nhóm ngay phiên họp bất thường để tra xét hiện tượng trên. Và sau cùng họ tìm ra nguyên nhân: do người phu quét lá rừng nghỉ việc nên lá rừng rụng xuống, gió đùa lá bay tứ tung trên mặt đường, rồi rơi xuống hồ nước trong xanh, gây nên tình trạng ô nhiễm...

Và ngay hôm đó họ tái dụng người phu quét lá với số lương còn cao hơn xưa.

7. Cao trọng trong tầm thường

a- Bài học đầu tiên là đừng coi thường những cái tầm thường, những con người bề ngoài rất tầm thường. Kinh nghiệm mục vụ linh mục của tôi cho thấy, phần đông những người thánh thiện lại có một cuộc sống rất tầm thường trước mặt mọi người. Một Gioan XXIII mà Giáo Hội đã phong lên hiển thánh nay mai. Một Têrêsa Calcutta cũng sắp được Giáo Hội tôn phong lên như thế.

b- Bài học thứ hai là thánh Giuse là tấm gương cho mọi người cha gia đình cũng như cho mọi người chúng ta: nên thánh trong việc chu toàn bổn phận tầm thường của mình một cách anh hùng.

Một cô gái kia cuộc đời thật là bất hạnh: bị mồ côi cha từ lúc 6, 7 tuổi, lúc lên 12 tuổi mẹ cô lại qua đời. Từ đó cô thay mẹ chăm sóc cho mấy đứa em nhỏ của cô. Lúc 16 tuổi cô bị lâm bệnh nặng.

Một bà đến thăm và an ủi cô. Bà này hỏi:

- Cháu có sợ chết không? Đừng sợ cháu à! Chết là được về với Chúa, đó là điều hạnh phúc nhất đấy cháu ạ.

Cô bé trả lời:

- Thưa bà, cháu không sợ chết. Nhưng cháu không biết là khi gặp Chúa, cháu sẽ phải nói làm sao vì cháu chưa làm được gì cho Chúa cả. Cháu muốn phục vụ Chúa, nhưng từ khi mẹ cháu chết, cháu phải lo nuôi mấy đứa em cháu, vì thế mà cháu chẳng còn thì giờ nào làm được việc gì cho Chúa.

Người đến thăm cô bé, nắm lấy tay cô, bàn tay gầy guộc và nói:

- Khi gặp Chúa, cháu không cần nói gì cả vì Chúa biết rõ lòng của cháu rồi, cháu đã làm tất cả những gì cháu có thể làm rồi.

Làm tất cả những gì có thể làm, đó chính là điều mà chúng ta phải cố gắng. Điều quan trọng đối với Chúa, không phải là chúng ta đã làm được những gì và làm được bao nhiêu nhưng là chúng ta có cố gắng làm những điều mà chúng ta có thể làm hay không.

Chúa ban cho chúng ta, mỗi người những khả năng khác nhau, trước mắt loài người, những khả năng đó có thể bị kẻ khác coi là tầm thường, nhưng trước mặt Chúa thì không có khả năng nào hơn khả năng nào.

Một người dù đã làm hết sức nhưng vẫn không đạt đến những thành quả được người đời đánh giá cao, thì trước mặt Thiên Chúa người đó đáng được lãnh phần thưởng trọng hậu rồi.

Trước mắt Chúa tất cả chúng ta chỉ là những người quản lý. Nhiệm vụ của người quản lý là đem hết khả năng của mình ra để làm cho số vốn đã được cấp phát sinh lợi ra. Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta có thế.

8. Chọn người

Ogilvy and Mather là một công ty quảng cáo lớn. Khi muốn lập ra công ty và muốn cho công ty đó hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận, ông David Ogilvy người sáng lập ra công ty đã nghĩ ra một cách làm như thế này: Ông đã cho mời các vị lãnh đạo cộng tác với ông lại, tặng cho mỗi người một con búp bê Nga, bên trong đó có năm tấm hình người theo thứ tự mỗi lúc mỗi nhỏ dần. Trong tấm hình người bé nhất ông dán vào đó một tờ giấy nhỏ có ghi mấy hàng chữ ”nếu mỗi người trong chúng ta chọn những cộng sự nhỏ hơn mình, chúng ta sẽ trở nên một công ty của những người lùn. Nhưng nếu chúng ta chọn những người cộng sự lớn hơn mình, thì lúc ấy Ogilvy and Mather sẽ trở thành một công ty của những người khổng lồ”

Và quả thật, Ogilvy and Mather đã trở thành một trong những công ty quảng cáo lớn nhất và được kính trọng nhất thế giới.

Những nhà lãnh đạo ngày nay cũng thường làm như vậy. Chọn những con người có trình độ, có năng lực có kinh nghiệm.

9. Đạo đức cần hơn tài năng

Chúa yêu thích sự công chính đạo đức. Tại sao thế? Chúng ta thừa biết một xã hội mà thiếu những con người đạo đức công chính thánh thiện thì xã hội ấy sẽ ra sao.

Vào năm 1729 Ben Franklin một nhà tư tưởng lớn của Mỹ đã nói những lời như thế này trước một cử tọa đến nghe ông “Nếu chúng ta vẫn chuyên chăm để trở nên vĩ đại như chuyên chăm trở nên tốt lành thì ta sẽ trở nên vĩ đại thực sự và con số những người đáng nể phục sẽ tăng lên rất nhiều. Nhưng sẽ là một sai lầm lớn nếu chúng ta nghĩ rằng mình có thể trở nên vĩ đại mà không cần có sự đạo đức” rồi như dằn từng tiếng ông khẳng định ”Và tôi khẳng định rằng không bao giờ có một con người thật sự vĩ đại mà đồng thời lại không thật sự đạo đức.”

Đây là lời của sách Khôn ngoan: “Nếu trên đời này, giàu sang là báu vật ai ai cũng khao khát, thì còn có gì giàu sang hơn Đức Khôn Ngoan, vì Đức Khôn Ngoan làm nên tất cả?” (Kn 8,5).

10. Chúa biết lòng người

Một cô kia cuộc đời thật là bất hạnh: bị mồ côi cha từ lúc 6, 7 tuổi, lúc lên 12 tuổi mẹ cô lại qua đời. Từ đó cô thay mẹ chăm sóc cho mấy đứa em nhỏ của cô. Lúc 16 tuổi cô bị lâm bệnh nặng.

Một bà đến thăm và an ủi cô. Bà này hỏi: Cháu có sợ chết không? Đừng sợ cháu à! Chết là được về với Chúa, đó là điều hạnh phúc nhất đấy cháu ạ.

Cô bé trả lời: Thưa bà, cháu không sợ chết. Nhưng cháu không biết là khi gặp Chúa, cháu sẽ phải nói làm sao vì cháu chưa làm được gì cho Chúa cả. Cháu muốn phục vụ Chúa, nhưng từ khi mẹ cháu chết, cháu phải lo nuôi mấy đứa em cháu, vì thế mà cháu chẳng còn thì giờ nào làm được việc gì cho Chúa.

Người đến thăm cô bé, nắm lấy tay cô, bàn tay gầy guộc và nói: Khi gặp Chúa, cháu không cần nói gì cả vì Chúa biết rõ lòng của cháu rồi, cháu đã làm tất cả những gì cháu có thể làm rồi.

Vâng Chúa biết rõ lòng của chúng ta. Làm tất cả những gì có thể làm, đó chính là điều mà chúng ta phải cố gắng. Điều quan trọng đối với Chúa, không phải là chúng ta đã làm được những gì và làm được bao nhiêu nhưng là chúng ta có cố gắng làm những điều mà Chúa muốn chúng ta làm hay không. Thánh Giuse đã làm như thế trong cả cuộc đời của Ngài. Và ngày nay Ngài đã được Chúa ân thưởng vinh quang trên nước trời.

11. Giá trị của thinh lặng

Xưa một nhà vua Ấn Độ, muốn thử nhân tài của một nước Chư hầu liền gửi tới nước này ba pho tượng vàng, giống hệt nhau. Nhà vua Ấn Độ yêu cầu nhà vua Chư hầu cho biết trong ba pho tượng vàng này, đâu là pho tượng quí giá nhất.

Nhà vua nước Chư hầu cho triệu tập các nhà thông thái tới để đánh giá ba pho tượng vàng này, tìm ra xem pho tượng nào quí giá nhất. Các nhà thông thái nghĩ ngay tới giá trị của mỗi pho tượng sẽ căn cứ vào cân nặng nhẹ, hoặc vào tuổi vàng tốt xấu, hoặc căn cứ vào nghệ thuật tìm thấy trên ba pho tượng vàng! Nhưng rồi các nhà thông thái đành phải bó tay, vì ba pho tượng này giống hệt nhau về nghệ thuật, khối lượng và tuổi vàng.

Nhà vua nước Chư hầu rất buồn, vì không biết được giá trị hơn kém của ba pho tượng. Vua liền cho loan báo khắp nước: Ai tìm được bí mật giá trị của mỗi pho tượng sẽ được trọng thưởng.

Có một người tù, biết chuyện xin được xem ba pho tượng và nếu anh ta tìm ra giá trị hơn kém của ba pho tượng này thì anh chỉ xin một điều kiện là cho anh được tự do. Lập tức nhà vua cho anh xem ba pho tượng. Vừa ngó xong ba pho tượng, anh ta xin một cọng rơm. Chỉ trong ít phút, anh đã khám phá ra giá trị hơn kém của ba pho tượng vàng.

Anh lấy cọng rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ nhất, thì thấy cọng rơm xuyên từ lỗ tai này sang lỗ tai kia, anh bảo: “đây là pho tượng ít giá trị nhất, vì nó tượng trưng cho hạng người nghe điều gì, vừa vào tai nọ, đã ra tai kia, không biết ghi nhớ, không để tâm gì suy nghĩ điều đã nghe.”

Anh ta lại lấy cọng rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ hai, thì thấy cọng rơm đi từ lỗ tai chạy xuống miệng pho tượng. Anh bảo: “pho tượng này hơn pho tượng trước là vì nó tượng trưng cho hạng người biết nghe, biết nhớ nhưng mắc khuyết điểm là: vừa nghe được gì đã vội nói ngay, không suy nghĩ xem điều mình nghe đúng hay sai, nói ra có lợi hay có hại.”

Anh lại lấy cọng rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ ba, thì thấy cọng rơm đi từ lỗ tai chạy xuống bụng. Anh nói: “pho tượng này quý giá nhất, vì nó tượng trưng cho hạng người biết nghe, biết nhớ, biết để lòng suy nghĩ, biết ghi vào tâm dạ mình.”

Vua nước lớn nghe được lời giải đáp của thần dân nước nhỏ thì vô cùng kính nể. Ông về nói với các quan trong triều: “Nước họ có người thông minh tài giỏi như vậy, hẳn nước họ là nước mạnh mẽ, hưng thịnh, ta nên giao hoà với họ chứ không nên giao chiến.”

Trong các sách Tin Mừng dù có nhắc tên Thánh Giuse đôi lần, nhưng không hề thuật lại bất cứ lời nào của thánh Giuse. Có lẽ không phải vì vô tình mà Thánh Kinh không ghi nhận một lời nào của Thánh Giuse, nhưng muốn đề cao giá trị của sự thinh lặng.

12. Thánh quan thầy giáo hội Việt Nam

Hôm nay, cùng với toàn thể Hội Thánh hoàn vũ, chúng ta long trọng cử hành lễ Thánh Giuse, bạn Đức Trinh Nữ Maria, Cha nuôi Chúa Cứu thế, và được mệnh danh là ‘Người Công Chính” hay là “Vị quản lý trung tín và không ngoan mà Chúa đã cắt đặt để trông coi Nhà Chúa” (CNL).

Ngày lễ nầy ra đời vào thế kỷ 15, và kể từ năm 1621 đã được mừng kính trong khắp cả Giáo Hội. Vào năm 1847, ĐGH Piô IX đã tôn phong Thánh Giuse làm quan thầy của toàn thể Giáo Hội. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã ghi tên Thánh Giuse vào lễ qui Rôma…

Đối với lịch sử Giáo Hội Việt nam, Ngày lễ Thánh Giuse 19. 3 còn là một cột mốc quan trọng trong cuộc hành trình truyền giáo: vào chính ngày nầy, 19. 3. 1627, phái đoàn truyền giáo của Cha Đắc Lộ đã cập bến Cửa Bạng ở Đàng Ngoài để đem Tin Mừng cho dân tộc Việt nam. Đó cũng là một lý do để Hội Thánh Việt nam chọn Thánh Giuse làm quan thầy.

13. Thánh Giuse, vị thánh tuyệt vời--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Tôi còn nhớ, một hôm tôi đang ngồi đọc Kinh Nhật Tụng trong phòng, nhìn ra cửa sổ, tôi thấy một chị Dân tộc vai đeo một đứa con nhỏ và tay dắt một đứa khác đang đứng ngoài sân Nhà xứ, tôi làm dấu, gấp sách lại và ra gặp chị, tôi chào và hỏi chị:

- Chị ở đâu tới đó?

Chị chào tôi: ( Niam să Bap – chào Cha ).

Tôi chào chị và nói:

- Chị đi đâu đấy?

- Con xin rửa tội cho con của con ( An dăn Bap rào tis oh ăn dê ).

- Sao chị sinh hai đứa gần nhau thế?

- Chúa, Mẹ và Thánh Giuse cho.

Tôi rất lấy làm ngạc nhiên khi chị nói tới cả Thánh Giuse và thán phục về đức tin của chị.

Tôi thầm cám ơn Chúa vì Ngài đã cho những người nhỏ bé, những người ít học, ít chữ biết Thánh Giuse. Tôi mời chị vào nhà thờ, rồi tôi rửa tội cho đứa con trai bé của chị mới sinh được hơn một tháng.

Trước ảnh Đức Mẹ Ban Ơn và Thánh Giuse, tôi đã tạ ơn hai Đấng và nói với chị cám ơn Mẹ và Thánh Giuse. Chị đã cúi đầu rất sốt sắng cầu nguyện tạ ơn Đức Mẹ và Thánh Giuse. Chị đã trao, đã dâng đứa con trai bé nhỏ cho Thánh Giuse. Tôi rất cảm động về thái độ, cử chỉ cung kính của chị dân tộc Kơho đối với Chúa, Mẹ Maria và Thánh Giuse.

Tháng thánh Giuse, người Dân tộc thường có thói quen hái bông rừng dâng kính Thánh Giuse. Hôm nay, tháng 3 đã đi được một nửa, mùa chay đã về, ngồi đây, tôi nghĩ lại những tháng ngày ở vùng truyền giáo Dân tộc Kơho. Tập tục, nhân sinh quan, vũ trụ quan của họ như: Ù dùl kơnắc (đất một cục). Rắc dùl nơm rơsòn (chim một tổ). Tê kăc kòe (tay suốt lúa). Yơng lot gùng (chân để đi) bơr rắc Yàng, dơschờ (miệng để cầu nguyện, để hát) vv…giúp tôi càng hiểu người Dân tộc hơn.

14. Thánh Giuse, người Cha tuyệt vời

Tác giả người Nga tên Mikhain Vanolov viết một truyện ngắn tựa đề “Người Cha” như sau:

Trong gia đình chỉ có hai cha con. Người cha và cô con gái. Người cha rất thương yêu cô con gái của mình. Ông chăm sóc cô thật chu đáo. Nhưng cô lại rất khó chịu về sự chăm sóc quá tỉ mỉ của người cha già. Cô thường gọi cha mình là “ông già lẩm cẩm” khi ông nhắc nhở: ra đường nhớ đội mũ nón; đi đường mắc mưa thì về phải uống thuốc kẻo bệnh. v. v…

Vì làm văn phòng cho một trường trung học nên cô gái thường về muộn. Dù mọi người đã ra về hết, nhưng cô gái vẫn phải ở lại để sắp xếp giấy tờ cho ổn định rồi mới ra về.

Hôm ấy, khi cô khóa cửa văn phòng để về thì trời bắt đầu tối. Khu trường học vắng tanh không một bóng người. Bỗng nhiên, trước mặt cô xuất hiện ba người đàn ông với bộ mặt hung dữ từ từ bước tới phía cô.

Cô gái sợ hãi hét lên cầu cứu và bỏ chạy ra phía chiếc xe hơi của cô đậu ở sân trường. Ba người đàn ông lập tức đuổi theo. Cô gái vừa chạy vừa đưa tay vào túi lấy chìa khóa. Nhưng vì quá run rẩy nên cô làm rớt chìa khóa xuống đất. Cô cúi xuống tìm kiếm. Nhưng mắt cô hoa lên không nhìn thấy gì cả. Đang khi đó, ba người đàn ông tiếp tục chạy về phía cô. Cô đành bỏ, không tìm chìa khóa nữa, chạy tiếp đến chiếc xe. Đến nơi, cô không biết làm gì hơn là đưa tay vào chiếc ví để tìm kiếm một cái gì đó có thể cứu cô trong lúc nguy hiểm này.

Thật kỳ lạ! trong một ngăn nhỏ của chiếc ví, tay cô chạm vào một vật bằng kim loại. Cô cầm lấy nó. Ồ! Chiếc chìa khóa! Không kịp suy nghĩ, cô cầm chìa khóa tra vào lỗ khóa. Cửa xe bật mở, cô lao vào xe và chiếc xe phóng đi. Ngay lúc ấy ba gã đàn ông phóng tới, nhưng không kịp. Thế là cô thoát nạn!

Về sau, cô gái mới biết: người “cha già lẩm cẩm” của cô đã đặt làm một chìa khóa khác và âm thầm bỏ vào ví cô, dự phòng lúc cô cần đến. Chiếc chìa khoá ấy đã cứu cô.

Câu chuyện trên gợi lên hình ảnh của một người cha hết lòng yêu thương chăm sóc con cái từ những việc nhỏ nhặt đến những việc lớn lao. Hình ảnh người cha ấy, cũng gợi lên hình ảnh người cha nuôi của Chúa Giêsu, thánh Giuse.

15. Cha yêu con

Anh Vũ Đức Nghĩa đã viết một câu chuyện thật cảm động, có tựa đề: Cha tôi.

“Anh con trai đi làm được vài tháng, có dịp ghé thăm nhà. Bữa cơm chiều, anh cứ nhìn chăm chăm vào chiếc đồng hồ của cha. Người cha thầm nghĩ: ‘Chắc là con nó cần’. Ăn cơm xong, người cha gọi con trai ra bàn uống nước, ông bảo: ‘Con mới đi làm, cũng cần biết giờ giấc’. Rồi ông tháo đồng hồ đưa cho con. Người con trai cầm đồng hồ, bấm lại hai nấc rồi đeo vào tay cha. Rơm rớm nước mắt, anh nghẹn ngào: ‘Dạo này ba gầy quá, dây đồng hồ tuột cả xuống bàn tay!’”

Người con đã có được tình thương đối với cha mình vì người cha luôn thể hiện được tình thương đối với con mình một cách hết sức nhạy bén. Và đấy là gia tài to lớn nhất mà người cha để lại cho con cái: Không phải là tiền bạc, mà chính là tình yêu thương và lòng đạo đức mới là quý giá nhất.

16. Chiếc hộp đựng nụ hôn

“Có một người cha nghèo đã quở phạt đứa con gái 3 tuổi của mình vì tội lãng phí cả một cuộn giấy gói quà mầu vàng. Tiền bạc eo hẹp, người cha nổi giận khi đứa bé cắt cuộn giấy quý ra thành từng mảnh nhỏ trang trí một cái hộp. Sáng sớm hôm sau, đứa con gái nhỏ mang cái hộp đến nói với cha: ‘Hôm nay là sinh nhật của bố, con không có tiền mua quà cho bố nên con xin tặng bố chiếc hộp này!’. Người cha cảm thấy hối hận vì cơn giận dữ vô lý của mình tối hôm qua. Nhưng khi mở cái hộp ra, thấy bên trong trống rỗng, thì cơn giận của ông lại bùng lên.

Ông mắng đứa con gái xối xả vì đã tặng ông chiếc hộp rỗng… Đứa con gái nhỏ ngước nhìn cha, nước mắt rưng rưng, nhỏ nhẹ thưa: ‘Bố ơi, đó đâu phải là cái hộp rỗng, con đã thổi đầy những nụ hôn vào trong hộp để tặng bố mà!’.

Người cha giật thót tim. Ông đã quá hồ đồ, xét đoán lầm đứa con hiếu thảo. Vòng tay ôm lấy đứa con gái nhỏ, ông cầu xin con tha thứ!

Sau đó không lâu, thiên thần nhỏ của ông đã qua đời trong một vụ tai nạn. Nhiều năm sau, người cha vẫn giữ khư khư chiếc hộp bên mình. Mỗi khi gặp khó khăn, buồn bực, ông lại lấy ra một ‘nụ hôn tưởng tượng’ và nghĩ đến tình yêu nồng ấm mà đứa con gái bé bỏng của ông đã thổi vào chiếc hộp.”

Trong cuộc sống, có biết bao người cha đã nhận được những chiếc hộp quý giá chứa đầy những nụ hôn chan chứa yêu thương từ con cái. Trên đời này, không có tài sản nào quý giá hơn những chiếc hộp chứa đầy tình yêu chân thành như thế!

17. Người Cha Nhân Hậu

Thánh Giuse đích thực là người cha Nhân Hậu: Trong biến cố lạc mất Chúa Giêsu trong Đền thờ, Thánh Giuse rất đau khổ và lo lắng. Nhưng khi tìm được rồi, thánh nhân không một lời trách móc. Ngài chỉ im lặng để lắng nghe Thánh ý Chúa và thực thi Thánh ý Người.

Noi gương Thánh Giuse, gia trưởng cũng nỗ lực trở nên người cha Nhân Hậu. Xin kể một câu chuyện về tình cha đến rơi nước mắt: “Con còn tiền lẻ không?”

“Học lớp 12, tôi không có thời gian về nhà xin tiền ba như 2 năm trước. Vì thế, tôi viết thư cho ba, rồi ba đích thân lên đưa tiền lên cho tôi. Từ nhà đến chỗ tôi trọ học chừng 15 km. Nhà nghèo, không có xe gắn máy, nên ba phải đi xe đạp. Chiếc xe cũng gầy gò giống như ba!!!

Cuối năm, làm hồ sơ thi đại học, tôi lại nhắn ba đưa tiền lên. Lần này, sau khi đưa cho tôi một trăm ngàn, ba hỏi: ‘Con còn tiền lẻ không?’. Tôi đáp: ‘Con còn bốn ngàn, ba ạ’. Ba nói: ‘Con cho ba hai ngàn, để lát về, nếu xe có hư như lần trước thì có tiền mà sửa’. Ba về, tôi đứng trông theo, không cầm được nước mắt, khóc òa lên!…”

18. Thánh Giuse, người chồng tốt, người cha hiền

Người ta kể một câu chuyện kỳ lạ về sự trợ giúp của thánh Cả Giuse như sau:

Tại một giáo xứ miền quê, vào một đêm kia, có ông già lạ mặt đến gõ cửa nhà xứ xin cha xứ đi xức dầu cho một bệnh nhân là một người đàn ông trong làng.

Được cụ già dẫn đi, vị Linh mục nhanh chóng đến nhà bệnh nhân. Khi đến nơi, mọi người trong nhà rất ngạc nhiên vì không có ai trong nhà đi mời vị linh mục đến xức dầu, vì mọi người đang bận rộn lo cho người bệnh đang hấp hối.

Không kịp tìm hiểu, vị linh mục ban những bí tích cuối cùng cho bệnh nhân. Thật may mắn, chỉ ít phút sau, người đàn ông ra đi bình an, kịp thời lãnh nhận các bí tích cuối cùng.

Khi xong xuôi mọi việc, vị linh mục đi tìm ông cụ già lạ mặt để hỏi cho ra lẽ. Thế nhưng, mọi người tìm kiếm khắp nơi cũng không thấy ông cụ già bí mật kia đâu. Ngay lúc ấy, vợ người chết chợt nghĩ ra một điều gì đó, thưa với vị Linh mục: “Thưa cha, con hiểu rồi! Chồng con có lòng yêu mến thánh Giuse cách đặc biệt, thường cầu khấn thánh Giuse trong những cơn nguy khốn. Con tin rằng: ông cụ già kia chính là thánh Giuse đến để giúp đỡ chồng con trong cơn nguy tử.”

Ngay lúc ấy, vị Linh mục giật mình và nhớ lại: ông cụ già kia có khuôn mặt rất giống thánh Giuse!

19. Bay trong bão

Khi đứng trước một cơn bão đang đến gần, chim đại bàng thường có một thái độ rất đặc biệt: nó không chạy trốn đến một vùng trời thanh bình, yên ổn. Trái lại, theo bản năng, nó sẽ bay lên một đỉnh cao quen thuộc trên núi và chờ cho gió ào ào thổi đến.

Khi cơn bão đến, chim đại bàng giang rộng đôi cánh, buông mình vào gió bão. Nó xòe đôi cánh để cho gió nâng nó lên và đưa nó vượt lên trên cơn bão. Khi cơn bão hoành hành ở dưới, thì đại bàng bình yên ngay ở phía trên. Nó sử dụng năng lượng của cơn bão để bay thật cao, thật xa.

Thánh Giuse không chạy trốn trước những thử thách và gian truân, nhưng người đã buông mình vào tình thương và sức mạnh của Thiên Chúa để vươn lên cao. Chúng ta hãy noi theo gương mẫu của thánh Giuse để luôn vươn lên từ những khó khăn và vất vả đời thường, trung thành đi theo Chúa trên cuộc hành trình đức tin của người kitô hữu hôm nay.

20. Thánh Giuse là đấng bầu chữa cho Giáo Hội

Thánh Giuse còn được gọi là đấng bầu chữa cho cả Giáo Hội:

Thật thế, trải qua dòng lịch sử, ai trong chúng ta cũng có thể nhận ra sự bầu chữa của thánh nhân. Ngài luôn nâng đỡ những người nghèo khổ, kém may măn trong cuộc đời và nơi cuộc sống. Hình ảnh thánh Giuse hay làm phép lạ được truyền tai nhau khắp nơi. Đến nỗi người ta có thể nói rằng: ngài không quên ai chạy đến để cầu cứu ngài.

Thánh nữ tiến sĩ Têrêsa Avila đã viết: ”Tôi nhớ rõ, chưa bao giờ tôi cầu xin sự gì cùng thánh Cả Giuse mà không được như ý. Kỳ diệu thay, những ơn đặc biệt mà Thiên Chúa đã ban đầy tràn cho tôi, và đã giải thoát tôi khỏi mọi nguy hiểm phần hồn cũng như phần xác, do lời cầu bầu của Vị Thánh vinh phúc này”; thánh Têrêsa Avila viết tiếp: ”Dường như Đấng Tối Cao ban ơn cho các thánh giúp chúng ta việc này, việc nọ, nhưng kinh nghiệm cho tôi biết thì Thánh Giuse vinh hiển có quyền năng rộng rãi giúp chúng ta trong mọi việc. Như thế là Chúa muốn cho chúng ta hiểu rằng, như xưa Chúa đã vâng phục Thánh Cả dưới thế, đã nhìn nhận Ngài với quyền làm Cha và làm Giám Quản, thì nay ở trên trời, Chúa cũng sẵn lòng chiều theo ý muốn của Ngài, mà nhận mọi lời Ngài cầu xin. Những người khác mà tôi khuyên chạy đến cùng Vị Bảo Hộ này, cũng nhận thấy điều ấy như tôi, do kinh nghiệm.”

21. Mối tình khiết tịnh

Theo tin Đài Chân Lý Á Châu loan đi khắp thế giới ngày 07-03-2012: Mẹ Dolores là một trong số các ngôi sao Holywood, tiến bước trên thảm đỏ trong buổi lễ trao giải thưởng Oscar vào ngày 26-02-2012. Vì mẹ đã đóng cuốn phim tài liệu “Chính Chúa là một Elvis lớn lao hơn” (God is bigger Elvis). Năm nay mẹ Dolores đã 73 tuổi, tu Dòng Kính Đan Viện Biển Đức Regina Laudis ở Bethlehem thuộc tiểu bang Connecticut, nước Mỹ.

Vào năm 1957, minh tinh Dolores ở tuổi 21,đã đóng nhiều phim nổi tiếng với vua nhạc rock Elvis Presley, đang ở đỉnh cao danh vọng, vì Dolores là một ngôi sao tài sắc vẹn toàn, cô đã được mời ký hợp đồng đóng phim lên tới triệu dollars. Thế mà Dolores bỏ lại những hợp đồng bạc triệu, và từ bỏ hôn ước với một kiến trúc sư giàu có, trẻ tuổi, tên là Donald John Robinson đã hết lòng yêu Dolores. Ông Donald là một trong những người thắc mắc nhất trong số những người ái mộ ngôi sao Dolores, đã theo dõi sự kiện mẹ Dolores bỏ danh vọng đi tu. Trong độ tuổi thanh xuân phơi phơi một cách dễ dàng không vương vấn, không dấu hiệu báo trước! Ngay cả vị hôn phu của cô là ông Donald cũng không thể lý giải tại sao đã năm năm Donald và Dolores hẹn hò với nhau. Ngay sau khi họ vừa làm lễ Đính hôn, cô lại tỏ ý muốn đi tu! Ông Donald đã không thể tin ở tai của mình, vì thấy Dolores vẫn tiếp tục đi đóng phim bình thường. Ông không hề ngờ rằng ơn kêu gọi dành cho Dolores đã bắt đầu từ trước khi cô quen biết ông ở tuổi 21, và sự nghiệp điện ảnh đang ở vào thời kỳ rực rỡ nhất! Một người bạn của Dolores kể lại là nghe Dolores than thở rằng đóng phim căng thẳng quá, rồi chỉ sau vài tuần lễ thì lại đường ai nấy đi. Cô phải chia tay với người bạn mới quen mà cô yêu quý. Điều này để lại nhiều trống rỗng trong lòng cô gái trẻ đẹp, đơn sơ, dễ mến. Cô đi đến nhà Dòng Biển Đức để tĩnh tâm và học hỏi lối sống và làm việc của các nữ tu, là những người cô cho là rất ổn định và đáng khâm phục. Hai năm sau Dolores đủ điều kiện nhập Dòng vào năm 1960, và đến năm 1970 thì được Khấn trọn đời, làm cho nhiều kẻ xấu miệng loan báo cô đã có bầu với Elvis, bây giờ họ phải đấm ngực!

Ông Donald bị Dolores bỏ rơi, vẫn vui lòng chấp nhận ở vậy không chịu lập gia đình với ai, vì cho rằng không ai có thể thay thế được Dolores trong tim ông. Suốt thời gian Dolores tu trì, ông Donald hằng năm hai lần vào dịp lễ Giáng Sinh và Phục Sinh đến nhà Dòng thăm Dolores. Vào tháng 11 năm 2011, ông Donald qua đời, trước đó vài tháng ông đã để lại Di chúc hiến tất cả tài sản của ông cho Đan Viện Biển Đức để nhà Dòng có thêm tài lực mà phục vụ công ích.

Ai cũng phải khâm phục mối tình của Dolores và Donald đã hơn nửa thế kỷ, cả hai đã hiến dâng tình yêu cao quý nhất cho Chúa: một người thì trung thành với lời Khấn độc thân trọn đời trong bậc tu trì; một người thì chung thủy với lời đính ước trong mối tình vợ chồng.

Lời Chúa Tuần 2 Mùa Chay
Thường niên V-GS C-PS Ngoại lịch

EDIT