Lời Chúa tuần 2 mùa vọng _ câu truyện minh họa

 

LỜI CHÚA TUẦN 2 MÙA VỌNG
CÂU TRUYỆN MINH HỌA

CNMV 2A -

CNMV 2B - DỌN ĐƯỜNG CHỜ CHÚA

CNMV 2C - DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA

THỨ HAI – BỆNH CỦA TÂM HỒN VÀ TÌNH LIÊN ĐỚI

THỨ BA - CON CHIÊN LẠC ĐÀN

THỨ TƯ - DỊU HIỀN VÀ KHIÊM NHƯỢNG TRONG LÒNG

THỨ NĂM - GIOAN TẨY GIẢ ĐƯỢC CHÚA KHEN

THỨ SÁU - CHỦ QUAN, PHIẾN DIỆN

THỨ BẢY - GIOAN TẨY GIẢ LÀ ELIA

 

CNMV 2A -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

CNMV 2B - DỌN ĐƯỜNG CHỜ CHÚA

Lời Chúa: Mc 1, 1-8

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khởi đầu Phúc Âm của Ðức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa.

Như có lời Tiên tri Isaia chép rằng: Ðây Ta sai Thiên Thần của Ta đến trước mặt ngươi để dọn đường cho ngươi.

Có tiếng kêu trong hoang địa rằng: "Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng." Gioan Tẩy Giả xuất hiện trong hoang địa, rao giảng phép rửa sám hối cầu ơn tha tội. Dân cả miền Giuđêa và Giêrusalem tuôn đến với người, thú tội và chịu phép rửa trong sông Giođan. Lúc đó Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, ăn châu chấu và uống mật ong rừng.

Người rao giảng rằng: "Ðấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi dây giày Người. Phần tôi, tôi lấy nước mà rửa các ngươi, còn Ngài, Ngài sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần."

TRUYỆN KỂ

1. Dọn đường cho Chúa

Trong một trận lũ lụt kia, nhiều du khách trên tuyến đường Bắc - Nam bị kẹt ở miền Trung. Lý do là đèo Hải Vân bị sạt lở, xe cộ không đi lại được. Nhiều đoạn đường sắt bị nước lũ cuốn đi, nên tàu Bắc - Nam cũng đành ủ rũ nằm chờ. Nhiều làng bị nước ngập, dân làng muốn thoát ra nhưng không đi được vì đường sá không còn. Nhiều đoàn cứu trợ muốn đến những làng xa xôi, nhưng không có đường đi, nên đành chịu bó tay.

Những con đường thật là quan trọng. Đường đi giúp cho người bị nạn có thể thoát ra. Đường đi giúp cho người bị nạn đón nhận được sự cứu trợ. Đường đi nối liên lạc giữa người với người. Đường sá hư hỏng làm giao thông ngừng trệ, chậm trễ việc cứu trợ, ngăn cách người với người. Muốn cho giao thông mau lẹ, muốn việc cứu trợ có kết quả, muốn cho con người gần gũi nhau, phải sửa chữa đường đi cho thật tốt.

Con đường vật lý đã cần. Nhưng con đường tâm lý còn cần hơn. Nếu con đường tâm lý bị hư hỏng thì dù có ở sát cạnh nhau, người ta cũng vẫn cứ xa nhau.

Tương tự như thế, ta cần có con đường thiêng liêng thật tốt để đón Chúa đến.

Phương thế thứ nhất là vào sa mạc. Sa mạc là nơi hoang vu vắng vẻ giúp ta sống cô tịch. Trong cô tịch, ta dễ chìm sâu xuống đáy lòng mình để gặp gỡ Chúa.

Phương thế thứ hai là mặc áo da thú. Một tâm hồn mặc áo da thú là một tâm hồn biết sống thực với chính mình, biết nhìn nhận những yếu đuối lỗi lầm và xin Chúa tha thứ.

Phương thế thứ ba là ăn châu chấu và mật ong rừng. Đây có ý nói về một đời sống khổ chế.

2. Hãy dọn đường

Trong cuốn “Nội lực nơi bạn” (the power within you), Pat William ở tiểu bang Philadelphia có kể một câu chuyện đặc biệt sau đây:

Năm 1980, vào một buổi trưa Chúa nhật nóng bức, một bệnh nhân trẻ bị chứng tê liệt não bộ tên là Cordell Brown đang đi bộ đến câu lạc bộ quán quân thế giới Philadelphia Phillies. Cordell bước đi hết sức khó khăn, nói năng cũng rất là khó. Ăn uống đối với anh là một bổn phận hết sức nặng nhọc. Khi thấy Cordell tới, nhiều người quay mặt đi đàng khác, hoặc cố tình không nhìn thấy anh. Đó là cách phản ứng của một số người trong hội Phillies khi thấy Cordell đi tới câu lạc bộ.

Cordell làm gì trong câu lạc bộ Phillies vậy? Anh được mời tới đó để nói chuyện với những tay ăn chơi trong một buổi nói chuyện tại nhà nguyện câu lạc bộ.

Cordell có thể nói gì với những ngôi sao màn bạc như Steve Carleton và Mike Schmit, những người sống rất xa cách với thế giới đau khổ và dị tật của anh?

Một vài người trong hội Phillies cũng tự hỏi như thế khi họ ngồi xuống để chuẩn bị nghe anh nói. Cordell bắt đầu bằng cách làm sao cho các tay ăn chơi đó cảm thấy thoải mái dễ chịu. Anh nói: "Tôi biết rằng tôi rất là khác biệt với các bạn." Rồi anh trưng đoạn thư Thánh Phaolô (1Cr. 15,10): nhưng nhờ ơn của Thiên Chúa mà tôi được như thế này.

Suốt 20 phút kế đó, Cordell đã nói về lòng nhân hậu của Thiên Chúa được thể hiện trong cuộc sống của anh. Anh kết luận bằng cách trả lời cho câu hỏi này: Anh có thể nói gì với những siêu minh tinh nổi tiếng như Steve Carleton và Mike Schmit, là những người sống hết sức xa cách với thế giới của những người đau khổ tật nguyền như anh?

Cordell nói một cách rất duyên dáng: "Bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời, và lãnh cả triệu đôla mỗi năm, nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp hòm quan tài của bạn lại, thì bạn sẽ chẳng khác tôi chút nào. Đó là lúc mà mọi người chúng ta đều y như nhau. Tôi không cần tới những gì các bạn đang có trong cuộc sống, nhưng có một điều tôi chắc chắn rằng: các bạn cần một điều mà tôi đang có, đó là Đức Giêsu Kitô."

3. Chúng ta cũng phải sám hối.

Sám hối, theo tiếng Hy lạp có nghĩa là thay đổi não trạng. Theo tiếng Do thái là quay trở về, trở lại, tức là trở về với Chúa, với giao ước của Chúa. Gioan rao giảng kêu gọi mọi người sám hối. Ai nghe lời ngài giảng mà sám hối thì được ngài làm phép rửa. Nhưng phép rửa của ngài chỉ có tính cách giúp người ta thống hối, sửa soạn cho việc tha tội, chứ không phải là một bí tích như phép rửa Chúa Giêsu sẽ thiết lập sau này.

Sám hối là biết trở về, nghĩa là phải nhận biết tội lỗi của mình, biết nhìn nhận ra thực trạng của linh hồn mình, nhưng mấy người biết nhìn ra tội lỗi của mình. Biết thực trạng con người của mình là điều kiện cần thiết của sự sám hối.

Gần 20 thế kỷ nay, thánh Phaolô tông đồ đã nói: “Tôi xử sự như một thằng điên và sai lầm của tôi thì nhiều vô kể."

Hùm thiêng khi đã sa cơ như Napoléon lúc ngồi vò võ tại đảo Sainte Hélène cũng phải tự thú: “Sự sụp đổ này là tại chính tôi, tôi là tử thù của tôi, là nguyên nhân mạt kiếp của tôi."

Tâm hồn thánh thiện như thánh Phaolô, một bộ óc vĩ đại như Napoléon mà còn buông ra những lời tự thú như vậy thì huống hồ là chúng ta...hay làm lỗi mà ít khi chịu nhận là mình lầm lỗi.

Triết gia Elbert Hubbart nói: “Người nào cũng sai lỗi ít là 5 phút mỗi ngày. Bậc thánh nhân là không để vượt qua thời gian kỷ lục ấy."

4. Biết nhận lỗi mình.

Công tước d’Ossone, một nhà chính trị trứ danh, vào năm 1624 lên chức phó vương ở Naples. Một hôm, ông đến thăm nhà ngục và hỏi từng phạm nhân là đã làm gì mà mình bị giam

Tất cả mọi tù nhân đều kêu là mình bị oan, duy chỉ có một anh cúi đầu nhận tội, và còn nói đáng lẽ ra mình phải chịu phạt hơn nữa mới xứng đáng. Thấy hắn khiêm nhường nhận lỗi, công tước bảo: “Như vậy thì anh ở đây không phải chỗ: anh có tội mà sao lại ở giữa những người vô tội này? Hãy ra khỏi đây, Ta tha cho anh."

Chúa cũng sẽ tha tội cho tất cả những ai thành thật thú nhận tội lỗi của mình, bởi vì bản tính của con người là hay sa ngã, còn bản tính của Thiên Chúa là hay tha thứ!

Đức Khổng Tử đưa ra môt chương trình giáo dục mà ngày nay vẫn còn có giá trị. Chương trình đó là: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”: muốn cai trị được thiên hạ, muốn đem lại được bình an thịnh vượng cho thế giới thì trước tiên phải “tu thân”, phải sửa mình cho nên tốt đã. Mình có tốt thì mới điều khiển được thiên hạ, mới có thể đưa xã hội vào con đường ngay chính, mới đưa đến trật tự an toàn, mới có hoà bình trật tự. Còn nếu muốn điều khiển thiên hạ mà mình chưa tốt thì sẽ rơi vào tình trạng “Thượng bất chính, hạ tắc loạn”:

5. Kinh nghiệm của một triết gia.

Một vị thiền sư Ấn giáo vào tuổi cao niên đã phát biểu cảm nghĩ về cuộc đời của ông từ nhỏ tới lớn đã từng trải qua như sau:

- Lúc còn trẻ, tôi là một thiếu niên có những suy nghĩ táo bạo và đầy quyết tâm. Khi nhìn thấy thế giới chung quanh đầy tội lỗi gian ác, tôi đã mạnh dạn cầu nguyện với Thượng Đế như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con có đủ khôn ngoan để biến đổi thế giới tội lỗi xấu xa này nên thánh thiện tốt đẹp hơn."

- Rồi khi đến tuổi trưởng thành, tôi đã nghiệm ra rằng: Tôi đã trải qua nửa đời người rồi mà vẫn chưa biến đổi được ai nên tốt hơn. Lúc đó, tôi đã thay đổi lời cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, xin cho con đủ sức biến đổi mọi người trong gia đình và bè bạn của con nên tốt hơn. Và như vậy đã đủ làm cho con thỏa mãn."

- Nhưng giờ đây đến tuổi xế chiều, “răng nong tóc bạc”, khi ngày tháng đời tôi sắp đến lúc chấm hết, tôi mới nhận ra rằng: tôi đã thật khờ dại biết bao! Tôi đã chẳng làm được điều tốt nào cho ai cả. Bây giờ tôi chỉ còn biết khiêm tốn cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, xin giúp con đủ nghị lực để biến đổi chính bản thân con… Giả như tôi đã sớm hiểu biết và cầu nguyện quyết tâm như vậy ngay từ lúc còn trẻ, thì tôi đã không phí thời gian cách vô ích rồi."

6. Dâng yếu đuối và tội lỗi

Vào một đêm lễ Giáng Sinh kia. Giêrônimô đang cầu nguyện trong một hang đá ở rừng vắng, ngài suy niệm về mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người.

Đột nhiên Chúa Giêsu hiện ra hỏi ngài: “Giêrônimô, con có gì làm quà cho Ta trong ngày sinh nhật của Ta không?" Ngài thưa: “Lạy Chúa, con xin dâng Chúa trái tim của con." Chúa nói: “Còn gì khác nữa không?" Ngài thưa: “Lạy Chúa, con xin dâng Chúa tất cả những gì con có và tất cả những gì con có thể." Chúa lại hỏi: “Còn điều gì khác nữa không?" Ngài thưa: “Lạy Chúa, con mới dịch sách Thánh xong, con xin dâng Chúa bản dịch công lao vất vả của con." Chúa nói: “Tốt lắm, con còn điều gì nữa không?"

Ngài thưa: “Lạy Chúa, con còn gì nữa đâu?" Chúa bảo: “Còn sự yếu đuối và tội lỗi của con, con hãy dâng những thứ ấy cho Ta." Giêrônimô hốt hoảng thưa: “Lạy Chúa, làm sao con dám dâng những cái ấy?" Chúa nói: “Được chứ, Ta muốn con dâng những cái đó cho Ta để Ta tha thứ cho con. Đó là điều Ta mong đợi."

Câu chuyện trên nhắc nhở: Chúng ta phải có tâm hồn sám hối để được Chúa tha thứ.

7. Sám hối - điều kiện để được tha tội:

Một hôm, vị Phó Vương xứ Naples là công tước d’ Osone khi mới lên nhậm chức, ông quyết định sẽ ân xá cho các tù nhân có biểu hiện sám hối thực sự. Ông đã đích thân đến thăm nhà ngục và xét hỏi từng người để sẽ ban lệnh ân xá cho họ. Khi được hỏi, hầu hết tù nhân đều kêu mình bị oan. Riêng chỉ có một người là sẵn sàng nhận tội, và còn nói lẽ ra mình phải chịu mức án nặng hơn mới đáng với tội của mình. Thấy phạm nhân thành tâm nhận lỗi, vị công tước liền nói với anh như sau: ”Anh đã nhận mình là tội nhân đang khi nhiều người khác lại chối tội. Như vậy nhà tù này không hợp với anh, nên anh được ân xá và sẽ lập tức được trở về nhà."

Một người phàm như công tước xứ Naples mà còn có lòng thương xót và sẵn sàng tha thứ cho một tù nhân có lòng khiêm hạ sám hối, phương chi Thiên Chúa là Cha giàu lòng từ bi thương xót lại không tha thứ lỗi lầm cho những hối nhân sám hối và quyết tâm cải tà quy chính hay sao? Bởi vì nếu bản tính của loài người là kẻ yếu hèn và dễ phạm tội, thì Thiên Chúa lại là “Đấng từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi. Ngài không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm” (TV 103,8-10).

8. Gương sáng hiệu quả hơn lời giảng:

Vào thế kỷ 12, nhiều tệ đoan đã xảy ra trong nội bộ Hội thánh, nhiều bè phái đã nổi lên ở khắp nơi phê phán chỉ trích nếp sống xa hoa của nhiều chủ chăn trong Hội thánh.

Lúc đó hai thánh Phan-xi-cô thành Át-si-si và thánh Đa-minh đã được Thiên Chúa sai đến với sứ mạng thức tỉnh và canh tân Hội thánh. Các ngài đã không lớn tiếng phê phán bất cứ ai, nhưng luôn ý thức người phải ăn năn sám hối trước hết là chính bản thân các ngài. Các ngài không khoe khoang thành tích đã làm được, không tham lam của cải vật chất và địa vị quyền hành, không sống giả hình đạo đức…

Tuy cả hai vị đều thuộc dòng dõi quý tộc, nhưng các ngài đã từ bỏ tất cả địa vị danh vọng tiền của vật chất để chọn lối sống khó nghèo, hiền hòa và khiêm tốn phục vụ người nghèo của Chúa Giêsu trong Tin Mừng.... Thánh Đa-minh đã lập dòng “Anh em thuyết giáo” (OP), còn thánh Phan-xi-cô lập dòng “Anh em hèn mọn” (OFM).

Các tu sĩ của hai dòng khổ tu này có nếp sống đơn giản: ăn mặc quần áo vải thô, ngày ngày đi chân đất qua các xóm làng khất thực và đến tối lo dạy giáo lý cho người lớn và trẻ em tại các nhà thờ lâu ngày bỏ hoang, tổ chức những tuần tĩnh tâm cho các tín hữu. Chẳng mấy chốc tiếng lành đồn xa, cuộc sống nghèo khó và đạo đức của các ngài đã được nhiều vị chủ chăn và các tín hữu nhận biết nể phục. Nhiều tội nhân và người theo lạc giáo đã được ơn Chúa hồi tâm sám hối trở về với Hội thánh Công giáo.

Nhờ sự quyết tâm canh tân vừa bằng lời giảng kèm theo gương sáng của các vị chủ chăn, các tu sĩ nam nữ và các tín hữu mà con thuyền Hội Thánh đã vượt qua nhiều cơn phong ba bão táp có nguy cơ chìm đắm.

9. Tha thì quên

Có anh chồng kia xúc phạm đến chị khi đi lăng nhăng gì đó. Chị biết được, nên chàng xin lỗi chị, chị tha cho. Nhưng thỉnh thoảng chị vẫn nhắc lại chuyện xưa. Hơi bị chạm, nên chàng nói.

- “Chuyện đó em đã tha thứ cho anh rồi mà.”

- “Thì em nhắc lại cho anh biết là em đã tha thứ.”

Tha nhưng không quên thì cũng gần như chưa tha. Đài truyền hình Mỹ kia tuần nào cũng có một chương trình mang tựa đề: Forgive and Forget. Tha thứ và Quên luôn. Bấy giờ cuộn gai mới được dẹp lại cất đi, chứ nếu dẹp lại rồi để đó thì con đường vẫn có thể bị chặn lại, vì sơ ý là kẽm gai bung ra liền. Hãy dọn đường bằng cách cuộn kẽm gai lại cất đi thì mới không chặn bước Chúa đến với bạn.

10. Nhận sai, sửa sai

Alfred Nobel được biết tới như người cổ súy mạnh mẽ cho hòa bình, chống lại chiến tranh. Nghiệt ngã thay, các sản phẩm sáng tạo nổi tiếng nhất của Nobel lại là thuốc nổ, những công trình nghiên cứu chấn động với chất nitroglycerine và các loại thuốc nổ khác.

Khi tạo ra thuốc nổ, Nobel chưa từng nghĩ rằng các phát minh của ông rồi sẽ được dùng để phục vụ chiến tranh. Tuy nhiên khả năng tàn phá của thuốc nổ nhanh chóng được biết tới và người ta đã đưa chúng vào sử dụng trong chiến tranh.

Vô tình năm 1888, tờ báo Pháp đăng tin nhà khoa học phát minh ra chất nổ Alfred Nobel qua đời với dòng tin:

"Tiến sĩ Alfred Nobel, người trở nên giàu có nhờ tìm cách giết người nhanh hơn bao giờ hết, đã qua đời hôm qua." Tờ báo dành cả trang để đăng bài cáo phó với ngôn từ mỉa mai Nobel, "tưởng nhớ" ông như một "kẻ buôn bán tử thần." Nhưng người chết khi đó là anh trai ông, Alfred Ludvig.

Bàng hoàng trước nhận định ấy, Nobel quyết định sử dụng tài sản tặng thưởng cho những thành tựu đem lại lợi ích cho nhân loại. Theo di chúc của Nobel, giải này sẽ chỉ được trao cho những con người có công lao gây dựng tình anh em giữa các quốc gia, giúp xóa bỏ hoặc giảm bớt quy mô quân đội thường trực và cổ súy cho các hội nghị hòa bình.

11. Lầm lỗi và sám hối

Có đôi vợ chồng nọ, mới cưới nhau về được khoảng một tuần, anh nói với vợ rằng,

- Xin em hứa với anh là đừng bao giờ mở cái hộp này ra, bao lâu anh đang còn sống.

- Người vợ gật gù đồng ý.

- Sau bốn mươi năm sống chung, gia đình rất hạnh phúc. Một hôm ông đi vắng, bà ở nhà một mình, tò mò lấy cái hộp từ dưới chân giường ra, không hiểu là ông đã giấu cái gì trong hộp. Người vợ nghĩ rằng đã sống với nhau bốn mươi năm, cái gì cũng biết hết rồi, ngoài trừ cái hộp này.

- Bà liền mở hộp ra xem, và trong hộp có năm vỏ bia, và một trăm hai mươi lăm đồng, năm chục xu. Bà nghĩ rằng chỉ có vậy thôi mà sao ông bí mật thế.

- Khi Ông đi làm về, bà liền đến tự thú với ông. Và bà hỏi ông rằng, tại sao trong hộp lại có năm vỏ bia? Ông trả lời, năm vỏ bia là tượng trưng cho mỗi lần tôi làm lỗi với bà, thì tôi uống một lon. Người vợ thấy vậy cũng vui vui, vì nghĩ rằng, sống với nhau bốn mươi năm, mà ông chỉ làm lỗi với mình chỉ có năm lần, kể cũng quá ít.

- Bà tiếp, vậy còn một trăm hai mươi lăm đồng, và năm chục xu thì sao?

- Ông đáp, "thì là tiền bán vỏ lon bia."

- Bà...."ố trời ơi!!!!!"

12. Giấc mơ hay hiện thực

Một người kia kể lại giấc mơ khủng khiếp như sau: Tôi thấy mình đứng trước một biệt thự nguy nga. Bước vào trong, tôi thấy hai hành lang với hai hàng chữ: Bên phải dành cho người Công giáo, bên trái dành cho kẻ ngoại đạo. Theo bảng chỉ dẫn, tôi đi theo hành lang bên phải dành cho người Công giáo.

Đi được một lúc, tôi thấy mình đứng trước một ngã rẽ khác. Lần này tôi đọc thấy bảng chỉ dẫn như sau: Bên phải dành cho kẻ có đức tin vững mạnh, bên trái dành cho kẻ có đức tin yếu kém. Và tôi lại đi bên phải.

Đến một ngã rẽ khác, tôi lại thấy một bảng chỉ dẫn: Bên phải dành cho những người có lòng bác ái, bên trái dành cho những người ích kỷ. Tôi lại chạy qua bên phải mà đi.

Cuối cùng tôi gặp một bảng chỉ dẫn: Bên phải dành cho những ai có đời sống thánh thiện, bên trái dành cho những kẻ tội lỗi. Một lần nữa tôi cứ chọn bên phải mà đi. Nhưng tôi đang hân hoan rảo bước, thì bỗng một cảnh tượng hãi hùng khủng khiếp hiện ra ở cuối hành lang ấy: cảnh hỏa ngục với muôn vàn hình khổ không lời nào tả xiết. Tôi hoảng hốt kêu rú lên và giật mình thức giấc.

Sau một phút tôi hoàn hồn và tự hỏi: “Phải chăng đời sống đạo của tôi cũng chỉ là một giấc mơ hãi hùng?"

13. Hai chìa khóa thiên đàng

Và Đức cha JB. Bùi Tuần đã kể lại câu chuyện như sau:

Trong một phòng khách của Đức Giáo Hoàng, tôi thấy có một bức tượng thánh Phêrô bằng đồng đen, đặt trên bệ cao.

Có lần tôi tò mò lại gần xem, thì thấy tay ông thánh Phêrô cầm một chùm hai chìa khóa.

Tôi tự hỏi: mở cửa thiên đàng thì một chìa là đủ, sao lại phải hai chìa?

và đột nhiên một ý tưởng thoáng qua trả lời rằng:

Chùm này là để mở lòng người. Kẻ tội lỗi cứng lòng thì một chìa là đủ. Còn người công chính cứng lòng, thì hai chìa chưa chắc đã mở được.

Người tự coi mình là công chính, đạo đức mà cứng lòng và tự mãn thì thật khó trở về.

14. Người dọn đường tâm hồn--Lm. Nguyễn Minh Hùng

Mỗi lần chuẩn bị cho xa giá của nhà vua đi qua một nơi nào đó, thường có một người lính cầm loa phóng thanh đi trước hô to để dọn đường. Khi nghe tiếng loa báo hiệu như thế, dân chúng sẽ thu dọn mọi thứ rác rến bừa bãi, thu dọn những gì bị coi là không đẹp mắt, làm cho con đường sạch đón vua đi qua.

Cũng thế, mỗi lần có một phái đoàn quan trọng của chính phủ đi trên đường phố, thường có xe cảnh sát và đoàn xe mô tô đi trước, làm nhiệm vụ bảo vệ và dọn đường để chuẩn bị cho xe của phái đoàn cấp cao đi qua.

Nhiệm vụ của thánh Gioan Tẩy giả vừa giống như thế, nhưng cũng vừa không giống như thế. Giống là vì thánh Gioan cũng được gọi là người dọn đường. Không giống là vì nhiệm vụ của thánh Gioan quan trọng hơn, cao cả hơn: Thánh Gioan không dọn đường đi như những người dọn đường cho vua chúa, nhưng là Dọn Đường Tâm Hồn.

Dọn đường cho chính Thiên Chúa đi vào tâm hồn con người. Người dọn đường tâm hồn nhắn gởi đến mọi người lời kêu gọi thống thiết: "Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng."

Cùng với lời kêu gọi dọn đường cho Chúa là rao giảng phép rửa sám hối để đem mọi người trở về với lòng ăn năn tội nhằm xin ơn tha thứ. Hóa ra dọn đường cho Chúa ngự vào tâm hồn, không có gì khác hơn, nhưng chính là hoán cải đời sống và thú nhận tội lỗi để được ơn tha thứ. Chỉ có tâm hồn trong sạch, một tâm hồn hoàn toàn không vướng mắc tội lỗi mới xứng đáng cho Chúa ngự vào.

Dù lời mời gọi của thánh Gioan Tẩy giả: "Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng" đã có từ rất lâu, nhưng vẫn rất phù hợp với mọi người hôm nay. Vì ở đâu có tội lỗi, ở đó rất cần ơn ăn năn sám hối. Bạn và tôi có tội. Cách duy nhất để dọn đường và sửa đường đón Chúa ngự vào tâm hồn là ăn năn sám hối.

15. Thái độ cần có với Chúa

Charles Lamb là một văn sĩ nổi tiếng của nước Anh vào thế kỷ thứ 18. Buổi tối nọ, năm sáu văn sĩ khác tụ họp ở nhà ông để thảo luận về các đề tài văn chương. Bỗng nhiên, có người đặt vấn đề: Chúng ta sẽ làm gì nếu được gặp gỡ các danh nhân thế giới trong các thời đại đã qua. Có người gợi ý:

- Nếu giờ đây Dante bước vào phòng này?

- Giả như đêm nay có Shakespeare cùng tham gia thảo luận với chúng ta?

Charles Lamb hô to: - Tôi sẽ hân hoan giơ tay đón tiếp các vị như các hoàng đế của tư tưởng.

Cuối cùng một người nói:

- Còn nếu bây giờ Đức Kitô bước vào phòng này?

Charles Lamb nghiêm nét mặt nói:

- Dĩ nhiên tất cả chúng ta đều quỳ xuống.

Đó là thái độ đúng đắn để tiếp đón Chúa Kitô. Người khác với mọi danh nhân trong lịch sử, vì Người là Thiên Chúa.

16. Nước mắt sám hối:

Người Hồi Giáo có câu truyện sau đây:

Ngày kia, Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời. Sứ thần đáp xuống ngay một chiến trường, nơi máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Ala. Nhưng xem ra Đức Ala không hài lòng mấy. Ngài bảo: Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều quý giá, nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian."

Sứ thần đành xuống thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giàu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc, vừa xông hương, để tỏ lòng biết ơn đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm đem về trời. Lần này Đức Ala mĩm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng. Ngài nói: Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều hiếm có và tốt đẹp nơi trần gian. Nhưng ta nghĩ cần có một cái gì đó tốt đẹp hơn.

Lại một lần nữa, sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp bốn phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường, ngài bỗng thấy một người đang khóc sướt mướt. Trước những câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ thần, người ấy giải thích: “Tôi đã chìu theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi." Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời. Đức Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mĩm cười nói: “Thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ."

Quả thật dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối, bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp của tình yêu, và đánh động lòng trắc ẩn của Thiên Chúa, khiến Người ban Con Một xuống thế làm Người cứu rỗi thiên hạ.

17. Sứ giả dọn đường

Anh Weaver làm công nhân hầm mỏ. Có lần anh vô tình làm cho một công nhân khác giận. Anh này gầm thét lên: chắc tao phải cho mày mấy bạt tai quá. Weaver đáp: Nếu anh thấy cần.

Thế là người đó tát Weaver một cái. Anh đưa má kia, lại một tát nữa… Đến lần thứ 6, người đó hậm hực bỏ đi. Weaver nói theo: Chúa tha cho anh. Tôi cũng thế. Và xin Chúa cứu anh.

Sáng hôm sau khi xuống mỏ, người đầu tiên mà Weaver gặp là kẻ đã tát anh. Anh mĩm cười bắt tay. Người ấy bật khóc lên nói trong tiếng nức nở: Ôi anh Weaver, anh thực sự tha cho tôi?!

Phải chăng việc làm của anh Weaver, công nhân hầm mỏ này đã dọn đường cho Chúa đến với bạn mình như lời Thánh Gioan Tầy Giả kêu gọi: “Hãy dọn sẵn con đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi."

18. Cái gì thuyết phục?

Một vị khách đến ủy lạo thương binh trong bệnh viện. Ông hỏi:

- Anh thuộc giáo hội nào?

- Tôi thuộc Giáo Hội của Chúa Ki tô.

- Cái gì thuyết phúc anh vào Giáo Hội đó?

- Thuyết phục ư? Rồi nhìn lên tượng chịu nạn, anh tiếp: Phải, tôi bị Ngài thuyết phục đến dộ ngay cả sự sống sự chết, thần quyền thế quyền… Khôn có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng mến Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô.

19. Bán tất cả

Một đệ tử thắc mắc hỏi Thầy Rapbi:

- Thưa thầy, trong Phúc Âm Chúa Giêsu bảo người thanh niên giàu có bán hết gia tài bố thí cho kẻ nghèo rồi đến theo Người. Như thế là phải từ bỏ hết mọi sự trên đời này phải không?

Thầy Rapbi trả lời bằng câu chuyện sau đây: Có một người rất ham đọc Phúc Âm. Một hôm ông mở Kinh Thánh ra thấy ngay đoạn con nói đó. Ông vui mừng vì ông là người muốn tìm đường cứu rồi. Lập tức ông bán hết tài sản bố thí cho người nghèo.

Thực hiện Lời Chúa dạy xong, ông mở Kinh Thánh ra, cũng thấy ngay đoạn đó nữa. Ông nghĩ là mình đã vâng Lời Chúa, bán hết gia tài sản nghiệp bố thí rồi, còn gì nữa đâu. Bỗng ông sực nhớ còn quyển Kinh Thánh, thế là ông đem bán nốt…

20. Khách dọn đường

Một khách du lịch nhân lúc mệt mỏi trưa vắng đã ghé vào túp lều tranh của vị thừa sai trong một làng xa xôi hẻo lánh tại Ấn Độ. Bước vào lều, người khách chỉ thấy có vài cái chỏng tre trải chiếu sơ sài, cái bàn cái ghế cũng bằng tre với đống sách trong góc nhà.

Anh không hiểu sao một linh mục thừa sai mà sống đơn sơ nghèo khó đến thế, có thể nói được khắc khổ nữa là khác. Anh ngạc nhiên hỏi linh mục:

-Thưa Cha, đồ đạc của Cha chỉ có bấy nhiêu đó thôi sao?

Vị thừ sai mỉm cười đáp:

-Vậy chớ đồ đạc của anh bao nhiêu? Chỉ có chiếc ba lô nhỏ đó chớ gì.

Anh thành thật đáp:

Nhưng con chỉ là khách du lịch. Con đi đường vài ngày, đâu cần mang theo đồ đạc nhiều. Còn cha ở luôn đây.

Vị thừa sai hóm hỉnh nói:

-Anh là khách đi đường. Tôi cũng thế. Tôi chỉ là khách dọn đường…

21. Tuyên xưng đức tin

An là một học sinh tiểu học bán trú và là một người Công giáo rất ngoan đạo vì em được giáo dục đức tin từ thưở bé. Chuyện xảy ra là trong một giờ ăn trưa, khi các bạn bè của An ngồi vào bàn ăn và ăn ngay những thức ăn được dọn sẵn.

Còn An thì chậm rãi là dấu Thánh giá và thì thầm trong miệng lời kinh Lạy Cha mà em vẫn được dạy đọc trước mỗi giờ ăn. Các bạn bè của An nhìn An một cách tò mò và tỏ vẻ khó chịu. Thế rồi có một đứa bạn của An chạy đến chỗ thầy giáo đang dùng cơm ở phòng kế bên và nói: "Thầy ơi, bạn An đọc thần chú trước bữa ăn đó thầy."

Chờ các học trò ăn xong, thầy giáo gọi An lên hỏi xem em đã làm gì. An bình thản trả lời: "Em chỉ làm dấu thánh giá và đọc kinh Lạy Cha để cám ơn Chúa đã ban cho em bữa ăn thôi." Thầy giáo cố nén vẻ xúc động và chân thành nói: "An à, em tốt lắm. Em là người can đảm. Em làm cho thầy cảm thấy mình thật xấu hổ, vì thầy cũng là người Công giáo, nhưng thầy chỉ đọc kinh khi ở một mình. Còn khi có ai, thầy cảm thấy mắc cỡ nên không đọc. Từ nay, thầy sẽ noi theo gương của em để tuyên xưng niềm tin của mình."

Câu chuyện rất đơn sơ nhưng thật cảm động. An đã là một cử chỉ rất thiết thực để rao giảng về Chúa Kitô cho người khác và cho những ai còn non kém về niềm tin của họ.

22. Chúng ta đợi chờ

Truyện cổ Đông Phương kể về một con cá con bơi dọc theo bờ sông. Cạnh bờ sông, ông giáo đang dạy khoa học cho các học trò đang quây quanh ông. Thày giáo giảng: "Nước tuyệt đối cần thiết cho sự sống. Không có nước trong một tuần lễ chúng ta sẽ chết."

Một con cá con nghe vậy liền tự nghĩ: "Trời! Nếu nhà khoa học đó nói đúng, tôi phải đi tìm cái mà người ta gọi là nước đó, nếu không tìm được mấy ngày nữa tôi sẽ chết." Nó hỏi mọi con cá khác nó gặp có biết nước là gì không, nhưng không ai trả lời cho nó. Họ chỉ biết để ý đến tìm của ăn nuôi sống. Nhiều con cá còn cho nó là dại gì mà nghĩ những chuyện đâu đâu. Nó tiếp tục đợi chờ đi tìm cái gọi là nước.

Rồi một hôm nó cố hỏi con cá lớn tuổi, có phần khôn ngoan: "Làm ơn chỉ cho tôi cái chất mà người ta gọi là nước là gì và tìm đâu ra nó?" Con cá lớn trả lời: "Nước hả! Mày đang ở trong đó, mày sinh ra và lớn lên trong đó. Nước bao quanh mày và mày cứ ngụp lặn, hút lấy nó thì mày sống được."

Con cá đang sống trong nước mà nó không nhận ra. Cũng thế, chúng ta đang sống trong sự hiện diện của Chúa mà chúng ta không nhận ra Ngài.

23. Dọn đường

Trong truyền thống Zen của Đông phương có ghi lại một câu chuyện sau đây của một ông giáo sư đại học đến gặp vị thiền sư để xin lời chỉ dạy: Thưa thầy, xin dạy con phải làm gì để có một đời sống hạnh phúc. Con đã học thánh kinh, con đã học hỏi với những bậc đại sư, nhưng con chưa tìm thấy câu trả lời, xin thầy làm ơn chỉ dạy cho con biết cách nào đây?

Nghe xong câu hỏi, vị thiền sư rót nước trà mời khách. Ngài rót trà đầy tách của khách, rồi tràn cả ra ngoài, nhưng ngài vẫn cứ rót thêm mãi, tới nỗi nước trà chảy xuống bàn, rồi từ bàn chảy xuống sàn nhà. Ông giáo sư nhìn thấy thế, không thể kềm hãm mình được nữa, bèn nói lớn: “Ngưng đi! Ngưng đi! Đầy quá rồi! Không còn chỗ… tràn cả ra nhà."

“Giống như cái tách trà này!”Vị thiền sư nói. Ông đã đổ đầy những suy nghĩ và ý kiến của ông vào rồi. Làm thế nào tôi có thể chỉ cho ông cách nào được nữa, trừ phi ông phải làm trống rỗng cái tách của ông trước đã.

24. Chờ đợi và sám hối

Một tờ báo tại Paris (thế kỷ 19) quảng cáo tìm người truyền giáo hải ngoại như sau: “Không lương bổng, không bảo hiểm, không tiền hưu trí, nhưng rất nhiều việc cực nhọc, một chỗ ở tồi tàn, rất ít an ủi, rất nhiều phũ phàng, đau ốm triền miên, một cái chết do bạo hành hay cô đơn và một ngôi mộ vô danh.” Cũng như các vị truyền giáo, Gioan đã sống tất cả những khó khăn thử thách của người dọn đường cho Chúa. Ông sống đời chay tịnh, cô độc trong hoang địa đá vôi khô khốc, với cái nóng khắc nghiệt, giữa Giuđê và Biển Chết. Ông sống khó nghèo, áo bằng da lạc đà, thức ăn đạm bạc (châu chấu và mật ong rừng). Kêu gọi người khác dọn đường, chính Gioan đã là con đường đưa con người đến với Đức Giêsu. Mời gọi người khác sám hối, Gioan đã sống tâm tình sám hối ấy trước.

Mỗi mùa Vọng, đến hẹn Gioan lại lên. Mùa Vọng là mùa đợi chờ Đức Giêsu đến lần thứ hai. Gioan chính là người giúp ta sống tâm tình chờ đợi tuyệt vời hơn cả, vì nơi ông, lối sống đi đôi với lời loan báo, hành động sánh vai với ý hướng. Đặc biệt hơn, ông không hướng người ta về với mình, nhưng chỉ dẫn họ đến với Chúa. Để là người giới thiệu Chúa cho người lân cận, bạn hãy sống như Gioan.

25. Mở đường bằng hành động sám hối

Kho tàng thần thoại Hy Lạp đã ghi lại câu chuyện về hai cha con Idam và Ika. Người cha là Idam, một kiến trúc sư kiêm điêu khắc, ông đã xây một “bát quái trận đồ” để giam con quái vật có đầu người mình thú. Nhưng sau đó, vua Minos đã bắt giam hai cha con vào đó. Tuy nhiên, với tài khéo của người cha, họ đã chế tạo được cho mình những đôi cánh bằng sáp, để bay lên cao thoát ra khỏi nơi bị giam cầm. Thích thú với cảnh trên không trung, đứa con là Ika cứ muốn bay cao hơn, cao hơn nữa, mặc cho người cha cản ngăn. Ika càng lúc càng bay cao đến gần mặt trời, đôi cánh bằng sáp không chịu nổi sức nóng và bắt đầu tan chảy. Cuối cùng đôi cánh tan rã và Ika rơi xuống chết thảm thương.

Thi hào Shakespeare đã nói “Chỉ có người ngu mới tin mình là thánh và chỉ có bậc thánh mới biết cái ngu của mình.” Biết cái giới hạn, biết những tật xấu của mình mới là kẻ tỉnh thức và hy vọng được cứu sống.

Mùa Vọng mời gọi hãy mở đường bằng việc sám hối. Hãy vào sa mạc là nơi thanh tịnh để con người dễ dàng gặp gỡ Thiên Chúa và thuận tiện để nhìn rõ chính bản thân mình.

26. Tha thứ là tự cởi trói

Văn hào Nga Leon Tonstoï kể câu chuyện ngụ ngôn như sau: Có người hành khất nọ đến trước cửa nhà của một người giàu để xin bố thí. Một đồng xu nhỏ hay miếng bánh vụn, đó là tất cả những gì người ăn xin chờ đợi. Nhưng, mặc cho người khốn khổ van xin, ông nhà giàu vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Ðến lúc không còn chịu nổi những lời nài nỉ của người hành khất, thay vì bố thí, ông phú hộ đã lấy đá ném vào con người khốn khổ kia.

Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi lẩm bẩm trong miệng: “Ta mang hòn đá này cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi.” Từ ngày đó, đi đâu và làm gì, người hành khất đều mang theo hòn đá ấy. Tâm hồn ông lúc nào cũng cưu mang sự báo thù.

Năm tháng qua đi, lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận, ông nhà giàu bị tước đoạt tất cả tài sản và tống giam vào ngục. Ngày hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh người ta áp giải ông phú hộ vào trại giam. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng, ông đi theo đoàn người áp tải, tay không rời hòn đá mà người giàu đã ném vào ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá ấy vào người tù để rửa sạch mối nhục hằng đeo đẳng. Nhưng khi nhìn thấy gương mặt tiều tụy đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, ông thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: “Tại sao ta lại phải mang nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua? Con người ấy, giờ đây, cũng chỉ là một kẻ khốn khổ như ta.”

27. Tha thứ là nên giống Thiên Chúa

Charlie Rumbaugh lớn lên ở trường cải tạo, nhà tù và bệnh viện tâm thần. Năm 17 tuổi, anh trốn khỏi phòng dành cho người loạn trí, tìm được một khẩu súng và giết người trong một vụ ẩu đả vì cố gắng ăn cướp. Bồi thẩm đoàn Texas kết án tử hình anh. Trong khi chờ đợi bị hành hình, anh nói với những người hiện diện: “Các người không thể tha thứ cho tôi vì những việc tôi đã làm, nhưng tôi tha thứ cho những ai đã từng chống lại tôi.”

Tôi tha thứ và cầu xin để có thể tha thứ cho những người đã làm tổn thương tôi như thế nào?

Chúng ta giống cầm thú khi giết chóc. Chúng ta giống con người khi xét đoán. Chúng ta giống Thiên Chúa khi biết tha thứ.

28. Để mùa xuân mọc lên

Mùa Xuân. Hai hạt giống được gieo trên miếng đất màu mỡ. Hạt thứ nhất lo lắng:

“Tôi sợ quá! Nếu cắm rễ xuống đất, tôi chẳng biết sẽ gặp thấy gì trong lòng đất tối tăm;

“nếu tìm đường xuyên qua lớp đất cứng bên trên, rất có thể những chồi non yếu ớt của tôi bị thương tổn...

“khi một búp non của tôi xoè lá thì lấy gì làm chắc là không có một con sâu rình sẵn đó để xơi tái đọt lá xanh;

“và nếu tôi nở hoa, một em bé có thể nhổ cả rễ tôi lên!

“Thôi, tôi cứ đợi thêm một ít xem sao rồi hãy mọc lên.”

Thế là trong buổi sáng đầu Xuân, chị gà mái vừa chạy ra vườn bới đất kiếm ăn đã thấy ngay một hạt giống nằm sẵn ở đó, chị ta mổ lấy và nuốt ngon lành!!

Còn hạt thứ hai thì sao? Nó rất hứng khởi:

“Tôi muốn mọc lên! Tôi muốn cắm rễ sâu xuống lòng đất và đâm chồi xuyên qua lớp đất cứng bên trên;

“tôi muốn giương những búp chồi non mơn mởn như những lá cờ báo mùa Xuân đến...

“tôi muốn để ánh mặt trời mơn man ấm áp trên nhuỵ và mấy giọt sương mai mát lạnh đọng trên cánh hoa.”

Và mùa Xuân mọc lên!

Bất chấp bao nhiêu tội ác, gian tà, nhất là sự cứng lòng của nhân loại, một mùa Xuân mới, mùa Xuân của tình yêu, đã được gieo vào lịch sử nhân loại. Tin vui ơn cứu độ đã được loan báo: “Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta” (Is 40,3).

CNMV 2C - DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA

Lời Chúa: Lc 3, 1-6

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Đời hoàng đế Tibêriô năm thứ mười lăm, Phongxiô Philatô làm toàn quyền xứ Giuđêa, Hêrôđê làm thủ hiến xứ Galilêa, còn em là Philipphê làm thủ hiến xứ Ituria và Tracônitêđê; Lysania làm thủ hiến xứ Abilêna; Anna và Caipha làm thượng tế; có lời Chúa đã kêu gọi Gioan, con Giacaria, trong hoang địa.

Ông liền đi khắp miền sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối cầu ơn tha tội, như lời chép trong sách Tiên tri Isaia rằng: "Có tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa."

Đó là lời Chúa.

TRUYỆN KỂ

1. Bắt đầu từ chính mình

Ngày xưa có một vị vua trị vì một đất nước thịnh vượng. Một ngày nọ ông đi kinh lí đến một vùng xa xôi hẻo lánh trong nước. Khi trở về dinh, ông phàn nàn rằng đôi bàn chân ông rất đau nhức vì đây là lần đầu tiên ông đi một chuyến dài như vậy, và con đường mà ông đã đi rất gồ ghề, đầy đá sỏi lại thêm những ổ gà chi chít. Sau đó, ông muốn truyền lệnh cho thần dân của mình phải bọc da mọi con đường trong nước. Chắc chắn điều này sẽ cần đến da của hàng triệu con vật, và sẽ tốn một số tiền rất lớn. Nhưng trước khi mệnh lệnh được ban ra, một vị bá quan khôn ngoan đã dám chất vấn vua: “Tại sao ngài phải tiêu số tiền không cần thiết đó? Tại sao ngài không cắt một miếng da nhỏ để bọc chân của ngài?” Nhà vua rất ngạc nhiên, và ngay sau đó đồng ý với lời đề nghị của viên quan để làm một chiếc “giày” cho chính mình.

2. Tìm đến thần linh để trưởng thành

Nơi một số nền văn hóa bản địa của lục địa Bắc và Nam Mỹ, nghi thức chứng nhận tuổi trưởng thành dành cho những người trẻ gồm một đòi hỏi được gọi là truy tìm thần linh. Bắt buộc đối với trẻ em trai và khuyến khích đối với các em gái, tục lệ này yêu cầu mỗi em phải một mình đi đến một nơi hẻo lánh, cách làng một khoảng thật xa. Đương sự phải nhịn ăn và tịnh tâm nhiều ngày.

Người ta tin rằng một vị thần hộ mệnh sẽ ban cho người trẻ này một thị kiến, sẽ truyền cảm hứng và định hướng cho anh ấy/ cô ấy về bước đường tương lai của mình. Sau khi trở lại cộng đồng bộ tộc, thị kiến sẽ là nguồn sức mạnh và sự khích lệ cho anh ấy/ cô ấy, đặc biệt là trong những thời điểm khó khăn.

3. Đàn hay chỉ dành cho người chơi giỏi

Tại một nhà thờ lớn nọ ở châu Âu, nơi có một cây đàn phong cầm ống thật giá trị mà chỉ người chơi đàn của nhà thờ đã được chỉ định mới được phép chơi.

Một ngày nọ, khi ông từ nhà thờ đang kiểm tra gác xép của ca đoàn trước khi đóng cửa nhà thờ, ông ta nghe thấy tiếng bước chân của một người lạ bước vào phòng gác xép. Người lạ cầu xin: “Thưa ông, tôi đã đi một chặng đường dài chỉ để muốn được ngồi và chơi cây đàn kỳ diệu này. Tôi có thể được phép để làm như vậy không?” Ông từ trả lời: “Không, nhạc cụ này chỉ có thể được duy nhất một người chơi. Nếu tôi cho phép bạn, tôi có thể bị mất việc làm.”

Người lạ hiểu ra, và tỏ ra vô cùng thất vọng. “Nhưng,” anh ta vẫn tiếp tục, “tôi có thể chơi một vài hợp âm được không? Tôi hứa sẽ không lâu đâu. Một vài phút là tất cả những gì tôi mong muốn.”

Ông từ động lòng trắc ẩn và cho phép người lạ đó chơi chiếc đàn phong cầm ống, với điều kiện ông phải dừng lại sau một vài ô nhịp. Di chuyển đến chỗ ngồi trước chiếc đàn uy nghi đó, người lạ nhắm mắt lại một lúc rồi bắt đầu.

Ngón đàn của ông ta quá điêu luyện và những âm thanh thú vị phát ra đến nỗi ông từ như thể chết đứng tại đó. Ông không thể tin vào tai mình. Người lạ là một nhạc sĩ tài giỏi và một tay danh cầm organ nổi tiếng. Vài phút sau, kẻ lạ mặt dừng lại và nhấc bàn tay khỏi bàn phím. Ông cảm ơn người giữ cửa nhà thờ đã cho ông đặc ân hiếm có đó và chực bỏ đi. “Chờ đã,” ông từ cầu xin: “Tôi chưa bao giờ được nghe những dòng âm thanh như vậy trước đây từ cây đàn này. Xin vui lòng cho tôi biết quý danh của ông?”

Người lạ trả lời: “Mendelssohn.”- “Gì?” Ông từ kinh ngạc thốt lên, “ông thực sự là nhà soạn nhạc và nhạc sĩ nổi tiếng, Felix Mendelssohn, phải không ạ?” “Vâng, thưa ông,” người lạ đáp và khiêm tốn bước đi.

4. Tạo nên sự khác biệt

Một nữ giáo viên nọ ở New York đã quyết định tôn vinh từng học sinh lớp 12 của mình trong trường trung học phổ thông bằng cách nói cho họ biết mỗi người trong họ là một con người đặc biệt.

Đầu tiên, cô nói với từng người trong số họ rằng họ đã tạo ra sự khác biệt như thế nào đối với cô và cả lớp. Sau đó, cô tặng cho mỗi người một dải ruy băng màu xanh có in dòng chữ vàng với nội dung: “Tôi là người tạo nên sự khác biệt.” Cô cũng trao cho mỗi học sinh thêm ba dải ruy băng và hướng dẫn các em đi ra ngoài và truyền bá cách thức thừa nhận này.

Cuối ngày hôm đó, một trợ tá điều hành cấp dưới đến gặp ông chủ của anh ta, người được cho là một gã cục cằn thô bạo; anh mời ông chủ của mình ngồi xuống và nói với ông rằng, anh vô cùng ngưỡng mộ ông vì ông là một thiên tài sáng tạo. Ông chủ tỏ ra rất ngạc nhiên. Người trợ tá hỏi ông liệu ông có muốn nhận món quà là dải ruy băng màu xanh lam hay không, và anh lấy ngay dải băng đặt nó vào trên áo khoác của sếp phía trên trái tim của ông.

Khi rời đi, anh ấy nói: “Ông có lấy thêm dải băng này và chuyển nó để tôn vinh người khác không?” Tối hôm đó ông chủ về nhà, gặp đứa con trai 14 tuổi của mình và bảo cậu ta ngồi xuống. Ông nói với cậu: “Điều ngạc nhất đã xảy ra với cha ngày hôm nay. Khi cha đang ở trong văn phòng của mình thì một trợ lí điều hành cấp dưới bước vào và nói với cha rằng anh ngưỡng mộ cha và tặng cha một dải ruy băng xanh vì cha là một thiên tài sáng tạo. Anh ấy đưa thêm cho cha một dải ruy băng khác và nhờ cha tìm một người khác để tôn vinh.

Khi lái xe về nhà tối nay, cha bắt đầu nghĩ về người mà cha sẽ vinh danh với dải băng này và bỗng cha nghĩ về con. Cha muốn tôn vinh con. Những ngày của cha thực sự rất bận rộn và mỗi khi trở về nhà, cha không có thời giờ quan tâm đến con. Tối nay, cha chỉ muốn cho con biết rằng con đã tạo ra sự khác biệt đối với cha như thế nào. Ngoài mẹ con ra, con là người quan trọng nhất trong cuộc đời của cha. Con là một đứa trẻ tuyệt vời và cha yêu con!” Cậu bé cảm thấy thổn thức, bắt đầu khóc nức nở và không thể ngừng khóc. Cậu ngước nhìn cha mình và nói trong nước mắt: “Con đã định ngày mai tự tử, bố ạ, vì con không nghĩ rằng bố yêu con. Bây giờ con biết bố quan tâm đến con. Đây là ngày hạnh phúc nhất mà con từng biết đến.”

Ông chủ đi làm trở lại, nhưng đã trở nên một người được biến đổi. Ông không còn là một kẻ cục cằn nữa mà dịu dàng với tất cả nhân viên của mình. Đến lượt mỗi công nhân cũng tạo ra sự khác biệt bằng cách sống hài hòa với người khác. Và cậu bé cảm nhận được tình thương của cha cũng đã sống hết mực hiếu thảo với cha mẹ mình.

5. Sự khác biệt giữa thiên đàng và hỏa ngục

Một câu chuyện kể về một người lính đã hỏi một nhà sư: “Hãy chỉ cho tôi biết sự khác biệt giữa thiên đàng và hỏa ngục.” Nhà sư nói: “Rõ ràng bạn là một kẻ hèn nhát, không phải là một chiến binh. Hơn nữa, tôi tin rằng bạn còn không biết cách sử dụng khẩu súng đó.” Người lính rất tức giận đến nỗi rút khẩu súng lục từ bao da định bắn nhà sư.

Khi chuẩn bị bóp cò súng, nhà sư điềm tĩnh nói: “Đó là địa ngục.” Người lính bị xúc phạm đó lập tức tỉnh ngộ và đặt súng trở lại bao da. Và nhà sư khẽ nói: “Đó là thiên đàng.”

6. Kẻ ngốc hơn

Ngày xưa một vị vua của một đất nước nọ được triệu tập, phải thực hiện một cuộc hành trình đến một vương quốc khác. Cuộc hành trình đòi phải băng qua một khu rừng rộng lớn, vì vậy vua đã yêu cầu một số chúng dân đi cùng với mình. Ông giao cho một người đặc trách chuẩn bị mọi hành trang cần thiết cho tập thể trong chuyến đi, và họ sẽ sớm lên đường.

Khi đoàn lữ hành đi qua khu rừng, họ bất ngờ gặp một con hổ. Nhà vua yêu cầu một khẩu súng từ người mà ông đặt phụ trách mọi công việc. Anh này nói với vua rằng anh ta không nghĩ đến việc mang theo súng. Nhà vua rất tức giận và nói với anh ta: “Anh thật là một thằng ngốc! Làm thế nào anh có thể quên chuẩn bị cho một tình huống như thế này trong cuộc hành trình của chúng ta?”

Sau đó vua đưa cho anh ta một cây gậy và nói: “Đây, cầm lấy cây gậy này và dẫn chúng ta đến đích. Và sau đó hãy mang nó theo luôn bên mình cho đến khi anh tìm thấy kẻ ngu ngốc hơn mình; khi đó anh có thể chuyển nó cho người đó.”

Người tôi hiền tiếp tục giữ cây gậy nhà vua trao cho mình trong nhiều năm. Thời gian trôi qua, nhà vua trở nên già yếu và suy kiệt sức khỏe. Những ngày cuối cùng của cuộc đời ông đã gần kề và vì vậy ông bắt đầu nhận được những cuộc thăm hỏi từ các thần dân bên giường bệnh của mình.

Một ngày nọ, người đàn ông mà vua đã trao cây gậy vì “ngốc như vậy” cũng đến gặp nhà vua. Ông ta vẫn mang theo cây gậy. Ông đến gặp vua và nói với vua: “Thưa bệ hạ, nếu ngài cho phép, tôi có thể hỏi ngài một câu được không ạ?” Và sau khi được cho phép, ông nhẹ nhàng hỏi nhà vua: “Tâu đại vương, chẳng hay ngài đã chuẩn bị kỹ càng cho chuyến hành trình quan trọng mà ngài sắp thực hiện chưa?” Nhà vua nhìn ông ta với vẻ ngạc nhiên và sau đó nói: “Chuẩn bị cho cuộc hành trình này à? Tôi đau ốm và sắp chết; tôi phải chuẩn bị như thế nào cho một cuộc hành trình như vậy?”

Lão thần đáp lại và nhẹ nhàng trao cây gậy cho vua: “Vậy ngài có cây gậy này và giữ nó bên mình.” Và rồi ông lặng lẽ bước đi.

7. Hãy là một cái vịnh

Một tu sĩ trẻ đến gặp một người đan sư giàu kinh nghiệm trong sa mạc. Anh ấy bày tỏ sự thất vọng của mình: “Con cảm thấy bản thân mình rất hạn chế. Con vẫn còn trì trệ như ở trong một cái ao hay một vũng nước.”

Vị đan sư già đáp: “Vậy thì đừng làm cái ao. Hãy là một cái vịnh.” Một vịnh tất nhiên là hòa với đại dương bao la. Mỗi ngày nó được thay nước mới. Nó hiếm khi bị đình trệ.

Thánh Gioan Tẩy Giả là như vậy. Ngài đang ở một nơi cực kỳ cô đơn vắng lặng, sa mạc Giuđê. Nhưng sa mạc là nơi mà người ta gặp gỡ Thiên Chúa. Và như vậy ngài không bị trì trệ, vì ngài luôn kết nối mình với đại dương lớn, là lòng thương xót của Thiên Chúa. Vì vậy, trong Mùa Vọng này khi chuẩn bị cho biến cố Chúa quang lâm, chúng ta hãy kết nối với đại dương bao la là Thiên Chúa, vì tình thương đã đến với chúng ta, để rồi cuối cùng, “Mọi xác phàm sẽ được nhìn thấy sự cứu độ của Chúa!”

8. Tiếng kêu dọn đường

Đôi khi trong cuộc sống, chúng ta muốn tự định nghĩa về mình. Chúng ta tự hỏi mình là ai.

Đây là một câu hỏi quan trọng và cần thiết. Gioan Tẩy Giả cũng đã đặt cho mình câu hỏi tương tự. Nhiều người nghĩ rằng ông là đấng Mêsia, là Êlia... Còn ông, ông biết rõ ông là ai. Gioan không đánh lừa mình hay đánh lừa người khác. Ông tự định nghĩa: "Tôi là tiếng kêu trong sa mạc. Hãy dọn đường cho Chúa đến" (Ga 1, 23).

Cả cuộc đời Gioan là một tiếng kêu.

9. Dọn đường cho Chúa--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Trong những trận bão lụt tại miền Trung nước Việt, nhiều làng bị nước ngập; nhiều đoạn đường bị nước lũ cuốn đi hay bị sạt lở, xe cộ không đi lại được… Dân làng muốn thoát ra nhưng không đi được vì đường sá không còn xử dụng được nữa. Nhiều đoàn cứu trợ muốn đến những làng xa xôi, nhưng không có đường đi, nên đành chịu bó tay.

Những con đường thật là quan trọng. Đường đi giúp cho người bị nạn có thể thoát ra. Đường đi giúp cho người bị nạn đón nhận được sự cứu trợ. Đường đi nối liên lạc giữa người với người.

Đường sá hư hỏng làm giao thông ngừng trệ, chậm trễ việc cứu trợ, ngăn cách người với người. Muốn cho giao thông mau lẹ, muốn việc cứu trợ có kết quả, muốn cho con người gần gũi nhau, phải sửa chữa đường đi cho thật tốt.

Bạn thân mến, Con đường vật lý đã cần, nhưng “con đường thiêng liêng” còn cần hơn…Con đường thiêng liêng có thật tốt mới giúp ta lãnh nhận Ơn Chúa và nhất là đón nhận chính Chúa đến. Thật ra Chúa đã đến từ lâu, nhưng ta chưa đón nhận được Ngài vì con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta đã bị hư hỏng.

10. Sẵn lòng bị bỏ quên

Một linh mục kia được các linh mục bạn và các giáo dân ngưỡng mộ, quý mến. Thế rồi ngài mắc một chứng bệnh nên bị buộc phải về hưu, cả quãng đời còn lại phải ngồi trên chiếc xe lăn. Ban đầu, người ta đến nhà hưu thăm ngài rất đông. Nhưng năm tháng trôi qua, dòng người tuôn đến thăm viếng ngày càng giảm bớt và cuối cùng khô cạn hẳn. Không một bức thư, không một cú điện thoại. Tuyệt đối không còn gì cả, mà chỉ toàn là cô độc, lặng thinh, trống vắng. Ngài buồn nản vô cùng, nhất là những khi nhớ lại bao nhiêu công sức mình đã nhiệt tình đổ ra để phục vụ mọi người.

Rồi một hôm có một linh mục cùng lớp ngày xưa ghé thăm. Vị linh mục về hưu mừng rỡ vô hạn. Hai người đã nói chuyện huyên thuyên với nhau rất lâu. Cuối cùng vị linh mục về hưu hỏi: "Anh nghĩ là có ai còn nhớ đến tôi không?" Vị linh mục bạn không trả lời. Mà biết trả lời thế nào đây!

11. Khi tôi yếu đó là lúc tôi mạnh

Có một thầy tu kia tên là Ambrôsiô, rất đạo đức, rất thông minh, và cũng rất cần cù. Thầy được mời đi giảng tĩnh tâm nhiều nơi, và ai nấy đều kinh ngạc vì kiến thức và uy tín của Thầy. Thầy sung sướng vì đã làm chủ được mọi việc mình làm.

Nhưng đột ngột thầy ngã bệnh, không còn làm gì được nữa. Ban đầu thầy rất tuyệt vọng. Nhưng sau một thời gian, thầy chợt nghĩ phải biết cách dùng cơn bệnh của mình để hiểu được những khổ đau của người khác. Thế là thầy vui sống với cơn bệnh của mình. Khi có ai đến với thầy, thầy chia xẻ những suy nghĩ của mình và an ủi, khuyến khích họ. Kết quả là thời gian nằm bệnh của thầy còn sinh hoa quả nhiều hơn thời gian thầy còn khoẻ mạnh. Trước khi chết, Thầy viết: "Trước đây tôi đã đi theo một hướng, rồi thình lình tôi bị buộc phải đi theo một hướng khác. Nhưng nhờ đó tôi đã học biết về bản thân mình và về người khác nhiều hơn gấp bội so với những gì tôi học biết trong những năm trước khi bệnh.”

Có rất nhiều hoàn cảnh lạ lùng mở lòng chúng ta ra đón nhận những điều Chúa muốn ban cho chúng ta. Khi chúng ta đến với Chúa trong tư thế của người tự mãn và hùng mạnh, thì khi đó chúng ta đẩy Ngài ra xa. Còn khi chúng ta đến với Ngài mà cảm thấy yếu đuối, nghèo nàn, thì khi đó chúng ta mời Ngài vào lòng mình.

12. Sám hối canh tân

Ðời chiến Quốc, nhà du thuyết Tô Tần sang Nước sở, phải đợi suốt ba ngày mới được vào ra mắt vua Sở.

Nói xong câu chuyện, Tô Tần xin cáo biệt đi ngay.

Vua Sở bảo:

- Quả nhân nghe tiếng tiên sinh quý như nghe tiếng một bậc danh nhân xưa. Nay tiên sinh đã không quản xa xôi, đến chơi với quả nhân, lại không chịu ở lại là cớ làm sao?

Tô Tần thưa:

- Tôi xem ra thấy nước Sở này có đồ ăn đắt hơn ngọc, củi đắt hơn quế, quan khó được trông thấy như ma, vua khó được yết kiến như trời. Nay nhà vua muốn bắt tôi ở lại để ăn ngọc thổi quế, nhờ ma thấy trời hay sao?

Vua Sở khẩn khoản nói:

- Xin mời tiên sinh cứ ở lại, quả nhân đã hiểu rõ quá rồi.

Một đất nước mà vật giá đắt đỏ: "Củi quế gạo châu", vua quan xa cách dân chúng, thì nhân dân trong nước khổ sở biết bao. Cái đáng khen của vua Sở là sau khi nghe Tô Tần bình phẩm về tình hình kinh tế chính trị của đất nước mình, thì ông liền nhận ra sai lầm và quyết tâm sửa chữa.

Mỗi lần Mùa Vọng đến, lại có một Tô Tần xuất hiện để vạch ra những lỗi lầm của chúng ta và nhắc chúng ta sám hối canh tân. Ðó chính là Gioan Tẩy Giả: "Có tiếng kêu trong hoang địa. Hãy dọn đường cho Chúa sửa lối cho thẳng để Người đi" (Lc 3,4).

13. Chờ đợi không tuyệt vọng

Tôi đưa một người bạn mù ra sân bay. Khi đến nơi, tôi bảo người đó "Tôi đi lo chút việc. Anh đứng đây chờ tôi nhé. Ðừng đi đâu cả.” Rồi tôi đi mua vé, gởi một lá thư và đọc thông báo về các chuyến bay. Khi tôi quay lại, tôi thấy người bạn mù vẫn đứng đấy. Người ta chen lấn chung quanh anh, một người phu khuân vác đây xe trước mặt anh, một đứa bé ngạc nhiên nhìn anh chăm chăm, một người bán báo rao inh ỏi trước mặt anh... Nhưng anh vẫn đứng yên, nét mặt bình thản, không chút nghi ngờ, không hề sợ sệt. Anh tin chắc tôi sẽ trở lại đón anh.

Cảnh một người mù nhắm mắt đứng yên chờ tôi trở lại khiến tôi liên tưởng tới thái độ người tín hữu phải có trong Mùa Vọng để đón chờ Chúa đến. (Willi Hoffsuemmer).

14. Lòng tham vô đáy.

Người Trung hoa có câu truyện ngụ ngôn nói lên được cái dục vọng thầm kín của con người muôn thuở:

Một người bị giam ở địa ngục, sắp được đi đầu thai. Anh ta tâu với Diêm Vương:

- Như quả thật Đại Vương muốn cho tôi trở về dương thế, thì xin cho tôi được mấy đặc ân.

Diêm Vương hỏi:

- Ngươi xin điều chi?

Anh ta đáp:

- Tôi xin đầu thai làm con một vị tể tướng, làm cha một vị trạng nguyên. Tôi xin được một ngôi nhà ở giữa một khu đất vạn mẫu, có ao thả cá, có cây trái đủ thứ. Tôi xin có một người vợ tuyệt sắc, nhiều tì thiếp diễm lệ, tất cả đều chung tình ngoan ngoãn chiều chuộng tơi. Tôi xin được châu báu chất đầy phòng, lúa thóc đầy lẫm, tiền bạc đầy rương. Tôi xin được làm một vị quan công khanh, suốt đời vinh hoa phú quí, sống lâu trăm tuổi. Chỉ bấy nhiêu thôi.

Diêm Vương đáp:

- Trần thế mà có được người như vậy, thì ta đây đã đầu thai thế cho ngươi rồi.

15. Giỏi gì đâu.

Trần-nghiêu-Tử làm quan tiết độ sứ đời Tống, là người tài bắn, thiên hạ khen phục, Nghiêu Tử cũng lấy làm kiêu căng tự đắc.

Nghiêu Tử thường bắn ở trong vườn nhà mình. Một hôm có ông lão bán dầu đi qua, thấy Nghiêu Tử bắn, đặt gánh xuống, ngấp nghé đứng xem. Ông lo thấy Nghiêu Tử bắn 10 phát trúng 7, 8 thì hơi gật gù và mỉm miệng cười.

Nghiêu Tử thấy thế, gọi vào bảo:

- Nhà ngươi cũng biết bắn chứ? Người cười ta bắn không được phải không?

ông lão đáp:

- Giỏi gì đâu, chẳng qua là quen tay đấy thôi.

Nghiêu Tử giận, nói:

- A, nhà ngươi dám khinh ta không bắn giỏi có phải không?

Ông lão bán dầu đáp:

- Khinh hay không ngài cứ xem, tôi rót dầu đây thì biết!

Nói xong, ông lão lấy ngay cái bầu đặt xuống đất, trên miệng bầu để một đồng tiền rồi từ từ rót dầu qua lỗ mà không nhiễu một tí dầu nào ra lỗ đồng tiền cả.

Rót đoạn, ông lão ngẩng mặt lên Trần nghiêu Tử:

- Như tôi đây cũng chẳng giỏi gì đâu, chỉ quen tay đó thôi.

Nghiêu Tử cười, khen phải và từ đó không lên mặt là tay bắn giỏi nữa.

16. Bán cam thối.

Lưu Cơ một danh sĩ nước Tầu về đời nhà Minh có viết một bài văn kể lại câu chuyện sau đây. Chuyện kể rằng:

Ở Hàng Châu (bây giờ là tỉnh Chiết giang) có người bán các thứ hoa quả, anh ta để dành cam rất khéo, để lâu không ủng, vỏ vẫn đỏ tươi, trông đẹp như vàng ngọc. Anh đem ra chợ bán rất đắt người người tranh nhau mua.

Ta thấy vậy, cũng lại mua một quả đem về. Nhưng bóc ra thì hơi xông lên mũi như xác bông nát. Vì thế, ta phải ra chợ tìm người bán cam, trách rằng:

- Anh bán cam cho người ta để làm cúng lễ, để đi khách khứa, hay là chỉ làm cho choáng bề ngồi để đánh lừa người ta. Tệ thật, sao anh làm người mà giả dối như vậy?

Người bán cam cười đáp:

- Tôi làm nghề này đã lâu năm để kiếm tiền nuôi thân. Tôi bán, thiên hạ mua chẳng ai nói gì chi nhiều. Ông ơi, người đời giả dối nhiều, há phải một mình thằng tôi đâu. Sao ông trách tôi mà không nghĩ. Kìa người đeo hổ phù ngồi da cọp, hùng dũng trông thật đáng quan võ, nhưng xét sự thật được bằng Tôn Tẫn, Ngô Khởi hay không? Người đội mũ cao, thắt đai dài, đường hoàng ra vẻ quan văn lắm, nhưng xét sự thật hỏi được như Y Doãn, Cao Dao hay không? Than ôi, giặc giã không biết dẹp, dân khổ không biết cứu, quan lại tham nhũng không biết trừng trị, pháp độ mục nát không biết sửa, ngồi rồi ăn lương không biết xấu. Thế mà lúc ở công đường ăn của quí, uống rượu ngon, đi xe ngựa, trông thật oai vệ, thật vô cùng hách dịch. Đó bề ngoài chẳng như vàng như ngọc mà trong như bông nát là gì? Sao ông không xét những người ấy lại chỉ chú ý vào quả cam của tôi.

Ta nghe nói, nín lặng không trả lời sao được, và nghĩ người ấy có giọng khôi hài nên có cảm tưởng:

- Dễ chừng anh ta ghét kẻ gian tà, giận phường thế tục, mới nhận chuyện bán cam để dạy mình đây chăng?

17. Sẵn sàng về với Chúa.

Vài năm trước đây, tạp chí This Week có thuật lại câu chuyện cảm động về một cậu bé 17 tuổi người Ha lan đã từng trốn khỏi trại tập trung Đức quốc xã, nhưng đã bị bắt lại và bị kết án tử hình. Ngay trước khi bị hành hình, cậu đã gửi cho bố cậu lá thư sau đây. Xin trích lại: “Bố thân yêu, thật khó khăn lắm con mới viết được cho bố lá thư này, nhưng con vẫn phải cho bố hay rằng con đã bị toà án quân sự kết tội tử hình. Xin bố đọc lá thư này một mình và khéo léo bảo cho mẹ biết dùm con… Chẳng bao lâu nữa, lúc đúng 5 giờ, điều đó sẽ xẩy đến cho con… chỉ một chốc thôi thế là con sẽ về với Chúa, Nói cho cùng đấy có phải là cuộc chuyển tiếp đáng kinh hãi không?..Con cảm thấy rõ ràng rằng mình đang ở gần bên Chúa, con đã chuẩn bị sẵn sàng đón chờ cái chết… Con nghĩ rằng con còn đỡ đau khổ hơn bố nhiều, vì con biết rằng mình đã xưng hết tội lỗi, và hiện tâm hồn con hoàn toàn thanh thản… Ký tên: “Kless.”

18. Lòng trắc ẩn và vết trầy xe

Trên một con đường vắng, một chiếc xe đang phóng nhanh, chợt đột ngột thắng gấp lại và tấp vào lề đường. Ai đó vừa ném một viên đá vào cánh cửa chiếc xe. Bước ra khỏi xe, liếc nhìn chỗ xe bị ném, người lái xe bực tức chạy nhanh đến tóm ngay thằng bé dứng gần đó - chắc chắn nó là tác giả của vết trầy trên chiếc xe. Trước đó anh đã thấy nó vẫy xe, chắc là để đi nhờ.

- Không cho đi nhờ mà mày làm như vậy hả?

Anh vừa gằn giọng vừa nắm chặt cổ áo đẩy cậu bé sát vào chiếc xe...

Cậu bé lắp bắp sợ hãi:

- Em xin lỗi! Nhưng em em... không biết làm cách nào khác. Nếu em không ném vào xe của anh thì anh đã không dừng xe... Nãy giờ em đã vẫy biết bao nhiêu xe mà không có ai chịu dừng.

Nói đến đó, nước mắt cậu bé lăn dài trên má. Cậu chỉ tay về vệt cỏ phía bên kia đường.

- Có một người... anh ấy bị ngã và chiếc xe lăn của anh ấy cũng ngã. Em tình cờ đi ngang qua thấy vậy nhưng không thể đỡ nổi anh ấy vì anh ấy nặng quá.

Giọng ngắt quãng vì những tiếng nấc liên tục cậu bé nài nỉ:

- Anh có thể giúp em đưa anh ấy trở lại chiếc xe lăn được không ạ? Anh ấy ngã chắc là đau và đang bị chảy máu.

Lời nói của cậu bé khiến anh thanh niên không thể thốt lên được lời nào. Anh thấy cổ mình như nghẹn lại vì bất ngờ và xúc động. Anh đến đỡ người bị ngã trở lại ngồi ngay ngắn trên chiếc xe lăn, băng vết thương và cùng cậu bé kéo xe lên đường. Người bị ngã cảm ơn anh rồi chiếc xe bắt đầu lăn đi về phía đường ngược lại, cậu bé phụ đẩy phía sau. Anh dõi mắt nhìn theo cho đến khi hình ảnh cậu bé và chiếc xe lăn khuất hẳn.

Anh bước thật chậm về phía chiếc xe của mình, cảm giác giận dữ trong anh không còn nữa và những bước chân ngập ngừng cũng không thể diễn tả hết tâm trạng của anh lúc này. Anh quyết định không sửa lại vềt trầy trên xe. Anh muốn nó sẽ nhắc anh về câu chuyện xúc động hôm nay về một điều mà trước nay anh không để ý đến và cũng không có thời gian để nghĩ đến. Anh đã không nhận ra, không có được lòng trắc ẩn như cậu bé kia. Anh đã tiếc thời gian và đi quá nhanh đến nỗi phải có ai đó ném một viên đá mới làm anh dừng lại.

19. Dọn đường

Có một ông vua kia, để thử lòng dân, ông đã cho đặt ở giữa đường một tảng đá lớn. Vua bèn núp rình xem người ta phản ứng thế nào.

Kết quả là rất nhiều người đi ngang qua, lớn tiếng càu nhàu nhà chức trách đã không giữ cho đường xá được an toàn và sạch đẹp, nhưng không ai chịu khó dừng lại, để dẹp chướng ngại vật đó ra khỏi đường.

Cuối cùng có một bác nông phu nghèo dừng lại và ra sức lăn tảng đá đi. Ông vô cùng ngạc nhiên khi thấy một túi vàng dưới tảng đá. Đang lúc lúng túng không biết giải quyết ra sao, với một kho báu từ trên trời rơi xuống như thế, thì người nông phu phát hiện bên cạnh túi vàng có một mảnh giấy viết rằng: đây là phần thưởng nhà Vua tặng cho bất kỳ ai dẹp chướng ngại vật này.

Như vậy, chúng ta thấy bác nông phu là một con người có trách nhiệm, vì là người có trách nhiệm nên ông đã tìm cách lăn tảng đá ra, để dọn đường cho mọi người đi. Và ông xứng đáng được phần thưởng.

20. Dọn tâm hồn

Kho truyện cổ Tây Phương có kể tích truyện một anh hề trong cung điện nhà vua, được vua trao cho phủ việt, biểu tượng của vương quyền, để giúp nhà vua khỏi ưu phiền. Một hôm nhà vua gọi anh hề lại và truyền cho anh: "Ngươi hãy giữ lấy phủ việt này cho đến khi tìm được người nào ngây ngô khờ dại hơn ngươi thì ngươi hãy trao lại cho người ấy.” Từ đó, mỗi khi có việc thết đãi triều thần, anh hề đều đến với cây phủ việt trên tay, dáng điệu vênh váo, ngông nghênh, cốt mua vui cho nhà vua.

Mấy năm sau, nhà vua lâm bệnh nặng. Biết mình sắp chết, nhà vua cho gọi anh hề lại và buồn bã nói: "Ta sắp sửa đi du lịch ở một nơi xa lắm.”

- "Đức vua sắp đi đến nơi nào vậy?", anh hề hỏi.

- "Ta cũng chẳng biết nữa.”

- "Đức vua đi có lâu không?”

- "Đi mãi mãi không bao giờ trở lại nữa.”

- "Đức vua đã chuẩn bị hành trang mang theo chưa?"

- "Chưa.”

Bấy giờ anh hề liền cười hóm hỉnh và lễ phép tâu vua: "Vậy xin Đức Vua hãy cầm lấy cây phủ việt này. Thảo dân xin trao lại cho Đức Vua, bởi vì hôm nay thảo dân đã tìm thấy một người ngây ngô khờ dại hơn thảo dân rồi.”

Lời Chúa cũng nhắc nhở mỗi người chúng ta trong Mùa Vọng này: "Hãy sẵn sàng, vì lúc anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến.” Đừng khờ dại khi sống không mục đích, không biết sẽ có ngày mình phải chết, phải ra đi với hai bàn tay trắng.

21. Giải thưởng Nobel

Vào ngày 3 tháng 9 năm 1864, nhà máy Nobel phát nổ, rất nhiều công nhân bị thiệt mạng, trong đó có cả E-mil là em út của Nobel. Khi ấy Nobel bàng hoàng khi hầu hết các tờ báo phát hành ngay từ sáng sớm đều loan tin sai lạc về cái chết của chính ông, người mà họ mô tả là kẻ đã sáng chế ra cốt mìn, một thứ vũ khí giết người hàng loạt. Các bài viết mang những tựa đề lớn như: “Nhà buôn cái chết đã chết” – hoặc: "Tiến sĩ Alfred Nobel, người đã trở nên giàu có sau khi phát minh ra cách thức giết con người nhanh chóng hơn bao giờ hết, đã qua đời vào ngày hôm qua.” Thực ra báo chí đã hiểu lầm về bản chất con người ông. Việc phát minh ra chất nổ của Nobel ban đầu chỉ là công trình khoa học nhằm phục vụ cho nhân loại. Chẳng hạn: Phá đá làm đường hầm xuyên qua núi, hoặc lấy đá làm nguyên liệu xi măng xây dựng đường xá, cầu cống, nhà cửa và các công trình phục vụ công ích. Nhưng về sau khi chiến tranh nổ ra, chính quyền đã lạm dụng phát minh của No-bơn để chế tạo mìn sát thương trái với ý muốn của ông.

Ngay sáng hôm đó, Nobel đã quyết định nhờ luật sư làm di chúc để tình nguyện hiến toàn bộ tài sản to lớn của ông để phục vụ nhân lọai. Đó là nguồn gốc của giải thưởng Nobel được công bố hằng năm ngày nay. Mỗi năm, số tiền lời phát sinh từ tài sản kếch xù ban đầu của Nobel đã được sử dụng làm giải thưởng có giá trị cao cho bất cứ người nào, không phân biệt quốc tịch, có công sáng chế những phát minh phục vụ nhân lọai về năm lãnh vực: vật lý, hoá học, y học, văn học và đấu tranh cho hòa bình.

22. Tiếng kêu trong sa mạc

Một mẩu chuyện của người Phi Châu kể lại rằng: Một người Ả Rập sống ở sa mạc có thói quen nằm sát xuống đất, úp tai trên cát từng giờ lâu. Có người hỏi tại sao làm thế. Anh ta giải thích như sau: “Tôi nghe sa mạc khóc vì nó rất muốn được làm một ngôi vườn xinh tươi.”

Sa mạc mong mỏi được trở thành ngôi vườn, cũng vậy, tâm hồn con người luôn hướng tới về điều thiện. Khoảng cách giữa sa mạc và ngôi vườn xinh tươi đó là nước non, điều kiện thời tiết và nhất là công lao của con người.

23. Điều gì thúc đẩy tôi?

Theo truyền thuyết, lúc nhà danh họa Leonardo da Vinci vẽ bức tranh “Bữa Tiệc ly” của Chúa Giêsu, ông có việc cải vã với một người và đi đến xô xát nhau. Sau đó, ông vào phòng làm việc, cầm cọ lên định vẽ gương mặt của Chúa, nhưng ông không phác họa được nét nào. Ngồi mãi không vẽ được, buộc lòng ông phải quyết định làm một việc mà ông tin chắc nó sẽ giúp ông vẽ được gương mặt Chúa… Ông đặt cọ xuống, đi thẳng đến gặp người ông vừa ẩu đả và làm hòa. Sau đó, ông trở lại phòng làm việc, và vẽ được gương mặt Chúa dễ dàng.

Có bao giờ tôi trải qua một kinh nghiệm như ông Leonardo không? Điều gì thúc đẩy tôi thống hối tội lỗi?

Điều khiến tôi thống hối tội lỗi, không những vì tội lỗi đưa đến hỏa ngục, mà nhất là vì tội lỗi ngăn cản Chúa đến với tôi, không thể đem ơn cứu rỗi cho tôi và mọi người cũng như ngăn cấm ông Leanardo vẽ gương mặt Chúa.

24. Người giàu có nhất

Một chủ nông trài về nhà sau một chuyến du lịch. Sau khi gặp gỡ gia đình mừng rỗ, ông đi thăm nông trại và người đầu tiên ông gặp là người tá điền trung thành nhất của ông. Ông gặp ngay lúc người tá điền vào bàn ăn, và trước khi ăn, người đó đọc kinh cầu nguyện và cám ơn Chúa.

Thấy vậy, ông ta nói: - Nếu Chúa ban cho tôi bữa ăn tồi tệ như thế, tôi không bao giờ cám ơn Chúa.

Nghe vậy, người tá điền liền nói: - Tôi rất mừng được gặp lại ông hôm nay, vì tối qua tôi mơ thấy người giàu nhất trong làng này sẽ qua đời trong đêm nay.

Người chủ nông trại nghe nói thế thì hết sức bối rối lo sợ, vì có ai là người giàu nhất trong làng nầy.

Thế là tối hôm đó ông ta mời bác sĩ đến khám sức khỏe. Bác sĩ bảo ông rất khỏe mạnh, dù vậy ông vẫn ăn ngủ không yên. Đêm đó ông nằm mãi vẫn không ngủ được, bỗng có tiếng gõ cửa. Ông hé cửa ra, một gương măt hớt hải loan báo:

- Thưa ông, người tá điền của ông vừa qua đời:

Người chủ ông nông trại thở ra nhẹ nhõm, vì tử thần chưa gõ cửa nhà ông. Nhưng ông lại chợt nghĩ: “Người giàu nhất trong làng này không phải là ta…”

25. Tìm Chúa

Một thiếu nữ nghe nói Chúa ở trên ngọn núi tận cùng trái đất. Nàng muốn tìm gặp Chúa để Chúa cứu giúp nàng. Nàng đi lên ngọn núi đó. Nhưng ngay lúc nàng khởi sự leo lên thì Thiên Chúa tự nhủ:

- Làm thế nào Ta chứng tỏ cho loài người biết Ta thương mến họ. Ta biết rồi: Ta sẽ xuống núi ở giữa họ.

Thế là khi cô thiếu nữ leo lên đến đỉnh núi, thì Chúa không còn ở đó nữa. Nàng nghĩ:

- Thiên Chúa không có ở đây, như thế là chẳng có Thiên Chúa.

Câu chuyện trên muốn nói với chúng ta: Nhiều khi chúng ta tìm Chúa sai chỗ: Thiên Chúa đã xuống thế làm ngời ở giữa chúng ta. Ngạn ngữ Do thái có câu: “Thiên Chúa ngự ở bất cứ nơi nào chúng ta để cho Ngài vào ở.”

Muốn Chúa đến ở với chúng ta, cứu vớt chúng ta, chúng ta phải nghe tiếng Người: “hoán cải tâm hồn”, phải nghe lời thánh Gioan Tiền hô: “Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, đường lồi lõm phải san cho phẳng. Rồi mọi người phàm sẽ thấy ơn Thiên Chúa cứu độ”

26. Cú sút trật đích rồi

Một ngày chúa nhật vào tháng sáu oi ả, hàng triệu người Mỹ đang theo dõi truyền hình trận tranh giải toàn quốc môn Golf tổ chức trên sân cỏ lộ thiên. Ở phút gay go của trận đấu: máy thu hình tâp trung vào Jack Nicklaus. Anh đang giữ banh ở khu đất lởm chởm và đang chuẩn bị sút bóng. Chậm rãi nhưng quả quyết, anh giơ chiếc gậy nhắm vào quả banh, và suốt 20 giây trên màn hình người ta thấy anh chần chừ, chuẩn bị sút bóng. Nhưng rồi đột nhiên vào giây cuối cùng anh bỏ mặc qủa bóng và nói to cho mọi người nghe: "Cú sút này trật đích rồi." Bình luận viên thể thao trận đấu bối rối thốt lên: "Nhưng anh đã không sút bóng: không hiểu chuyện gì xảy ra với anh?" … và cuộc tranh giải lại tiếp tục.

Về sau Nicklaus giải thích rõ ràng tại sao như vậy trong cuốn sách của anh nhan đề: Golf My Way (lối chơi gôn của tôi). Anh mô tả cách thức anh chuẩn bị cho từng cú sút bóng như thế nào: đầu tiên, anh sắp xếp các cú sút trong trí, nghĩa là anh tưởng tượng ra trước từng cú sút, sau đó anh mới vung gậy đánh thực sự trên sân. Anh nói: "Y hệt một cuộn phim màu, trước hết tôi mường tượng trái banh tôi sắp vung gậy đánh, trái banh trông xinh xắn, trắng trẻo đang nằm trên sân cỏ xanh thắm, rồi hình ảnh trong trí chuyển biến thật lẹ làng và tôi thấy đường banh đang lăn, và thấy cả cách thức nó chạm đất ra sao nữa, rồi cảnh ấy nhoà đi nhường cho cảnh tiếp theo. Cảnh này chỉ cho tôi cách vung gậy để đưa những hình ảnh đã mường tượng trước đó trở thành hiện thực.

Điều mà Jack Nicklaus thực hiện trên sân golf vào trưa chúa nhật nóng bức ấy chính là điều Giáo Hội khuyên chúng ta nên làm trong suốt Mùa Vọng này, nghĩa là chúng ta phải chuẩn bị tâm trí để đón tiếp Chúa Kitô.

27. Sám hối, hoán cải tâm lòng

Thomas Merton là một tiểu thuyết gia nổi tiếng lan rộng khắp thế giới. Vào thập niên 60, chàng theo Anh giáo, nhưng sống như người vô thần. Một ngày nọ, tình cờ đi ngang một nhà thờ Công Giáo, chàng được Chúa thúc đẩy ghé vào nhà thờ trong chốc lát. Từ trước tới nay Thomas Merton cũng đôi lần đi nhà thờ đó, nhưng vì tò mò, vì theo anh em bạn cho vui hơn là vì lòng tin, dầu chàng đã được cha mẹ cho rửa tội ngày còn nhỏ. Sau này, khi đã theo đạo Công Giáo và nhập vào Trappiste khổ tu, Thomas Merton đã kể lại biến cố ấy như sau:

"Khi bước vào trong nhà thờ, điều đầu tiên lôi kéo sự chú ý của tôi đó là, tôi trông thấy một cô gái duyên dáng tuổi chừng 15, 16 đang quì cầu nguyện một cách vô cùng sốt sắng, không để ý đến chuyện gì khác xảy ra chung quanh. Khi cả lúc tôi bước vào nhà thờ, tôi rất đỗi ngạc nhiên trước sự kiện, một thiếu nữ từng ấy tuổi lại quì cầu nguyện trong ngôi thánh đường lặng lẽ, một cách hết sức tự nhiên và say đắm trong lời cầu, như thể bị hút hồn. Dĩ nhiên, là cô gái nọ vào nhà thờ không phải là để cho người ta ngắm nghía, mà là để cầu nguyện và chỉ để cầu nguyện mà thôi. Và nàng đã cầu nguyện chăm chú, sốt sắng như các thánh trong một ngôi thánh đường thanh vắng. Cuộc gặp gỡ và thân tình ấy của thiếu nữ đó với Thiên Chúa trong khung cảnh hoàn toàn vắng lặng của ngôi thánh đường hôm đó, đó là một trong các nhân tố dẫn đưa tôi đến chỗ gặp Chúa và theo đạo sau này.”

Ngôi thánh đường công giáo vắng lặng ấy, đó là một bãi sa mạc nơi con người có thể gặp gỡ Thiên Chúa giữa lòng xã hội loài người nhiều bôn chôn, dao động này.

28. Sợ ngày Chúa đến

Ngày tận thế, ngày kết thúc lịch sử của nhân loại luôn là đề tài gây nhiều chú ý cho con người. Chẳng hạn như ở năm 1843-1844, giáo chủ Cơ đốc phục lâm William Miller (1782-1849) ở Mỹ tin Chúa sẽ trở lại vào ngày 21.03.1844. Ông lan truyền thông điệp: "Chúa đã chọn thời điểm hủy diệt trái đất, thế giới sẽ hoàn toàn biến mất. Hãy sẵn sàng để gặp Chúa.” Thông tin trên khiến hàng nghìn người dân trong vùng bán hoặc cho hết toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, "ngày tận thế" bình yên trôi qua mà không thấy Chúa xuất hiện.

Năm 1992, một mục sư người Hàn Quốc, tên Lee Jang Rim, viết trong cuốn sách thuộc loại bán chạy có tựa đề “Sắp đến gần ngày tận thế" (Getting Close to the End), ông dự đoán ngày 28.10.1992 là ngày tất cả tín đồ Ki-tô giáo đều được lên trời.” Tuyên bố này gây nên sự hỗn loạn trong xã hội Hàn Quốc. Tại Seoul, 5.000 người bỏ việc, bán nhà và từ bỏ gia đình vì tin vào tin đồn trên.

Và theo tin đồn gần đây nhất, 21.12.2012 sẽ là ngày diệt vong của nhân loại dựa theo sự kết thúc lịch của người Maya. Tin đồn này khiến nhiều người trên thế giới lo sợ. Họ đã tích cực mua nến, tích đồ lương thực, xây dựng hầm trú ẩn... để mong muốn khỏi bị những thảm họa của ngày tận thế.

Thưa anh chị em, tất cả những dự đoán trên về ngày tận thế nơi con người đều không đúng, không xảy ra nhưng đã làm cho con người hoang mang sợ hãi. Con người sợ hãi vì không biết ngày Chúa đến sẽ như thế nào.

29. Sám hối là món quà quý giá nhất

Người Hồi Giáo Ảrập có kể một giai thoại nói về sám hối rất hay: một ngày kia, Đức Thánh Ala cho gọi một thiên sứ đến và bảo: "Ngươi xuống trần gian kiếm cái quý giá nhất của con người và mang về đây cho Ta.” Thiên sứ ra đi thi hành mệnh lệnh.

Lần đầu tiên, ngài mang về cho Đức Thánh Ala một bình máu của các chiến sĩ mà ngài hứng được trong trận chiến giữa người Hồi và người Ấn Giáo (đó là máu của các vị tử đạo theo quan niệm của người Hồi Giáo). Lần thứ hai thiên sứ mang về là hương thơm của lòng biết ơn mà người dân dành cho vị trưởng làng qua cái chết của ông. Cả hai lần, Đức Thánh Ala rất vui, vì đó là những điều quý ở trần gian mà sứ thần tìm kiếm được. Tuy nhiên, đây vẫn không phải là món quà quý giá mà Đức Thánh Ala muốn tìm. Và, Ngài lại sai thiên sứ đi lần thứ ba. Lần này, thiên sứ vừa đi vừa suy nghĩ, điều quý giá nhất ở trần gian là cái gì? Bỗng nhiên, từ đàng xa, thiên sứ nghe thấy tiếng khóc của một phụ nữ. Đến gần, thiên sứ cảm thương hỏi: "sao cô khóc"? Không có tiếng trả lời! cô gái lại càng khóc nức nở hơn trước. Bấy giờ vị thiên sứ tiến lại gần nắm lấy tay cô và hỏi: "sao cô khóc nhiều đến thế, có gì nói cho tôi nghe với"? Bấy giờ có tiếng nói từ miệng cô thoát ra hòa lẫn tiếng nấc cùng với dòng nước mắt tuôn rơi. Cô gái nói: "thưa ngài con đau khổ quá, con đau khổ vì lỗi lầm của con, con đã xúc phạm đến nhiều người và làm trái với lòng mình... Bây giờ con hối hận lắm....” Thật cảm động! thiên sứ liền hứng những giọt nước mắt của cô mang về cho Đức Thánh Ala. Lần này Ngài vui mừng và reo lên: "đây chính là điều Ta mong muốn. Giọt nước mắt của lòng sám hối chính là món quà quý giá nhất mà Ta cần.”

30. Ai cần dọn đường?

Có một nhà giảng thuyết nổi tiếng, cứ hết Chúa nhật này đến Chúa nhật khác, đều đến giảng tại một cộng đoàn rộng lớn. Họ rất chăm chú lắng nghe. Vào một Chúa nhật, khi ông đang đi đến bục giảng, thì những lời trong Tin Mừng vang bên tai ông: “Hãy dọn sẵn con đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.”

Từ trên bục giảng, ông nhìn vào các gương mặt đang chờ đợi của giáo dân, và tự hỏi không biết những lời đó có ý nghĩa gì đối với họ. Những điều cần phải chấn chỉnh trong cuộc sống của họ là gì? Ông nhận ra rằng chỉ bản thân họ mới có thể trả lời câu hỏi này. Tuy nhiên, có một lãnh vực mà ông cảm thấy đáng nói đến: các mối quan hệ thường xuyên bị bóp méo và rối loạn của họ.

Ông đã quen biết những người này cả một thời gian dài. Họ đã từng đến với ông, để được giúp đỡ và hướng dẫn qua những vấn đề của họ. Ông biết những đố kỵ nhỏ nhặt làm cho tâm hộn họ bực bội, những hận thù khiến cho người này chống lại người kia, những cuộc cãi vã vặt vãnh vẫn còn tồn tại, những ghen tỵ và hiểu lầm, sự tự hào xuẩn ngốc.

Ông quyết định gởi một thông điệp cho những con người cố chấp, đầy cay đắng, không chịu tha thứ và bỏ qua đó. Ông sẽ ghi khắc nơi họ ý tưởng rằng cuộc đời vốn dĩ quá ngắn ngủi rồi, không ai nên gây hận thù và bất mãn cho nhau nữa. Ông sẽ van nài họ nên cư xử trong sự hiểu biết và khoan dung đối với nhau. Ông sẽ nói với họ từ tận tâm hồn của ông, như thể ông đang nói riêng với từng người vậy. Một ý tưởng bất chợt đến với ông, thế là ông bắt đầu: “Thiên Chúa không cần chúng ta phải sửa đường cho Người, nhưng chính chúng ta mới cần.”

31. Dọn đường đến với nhau

Một thương gia trong một thị trấn nhỏ nọ có hai người con trai sinh đôi. Hai chàng trai cùng làm việc tại cửa hàng của cha mình.

Khi ông qua đời, họ thay ông trông coi cửa hàng. Mọi việc đều êm đẹp cho đến một ngày kia, khi một tờ giấy bạc biến mất…

Người em đã để tờ giấy bạc đó trên máy đếm tiền rồi đi ra ngoài với khách. Khi quay lại, tờ giấy bạc đã biến mất.

Người em hỏi người anh: – “Anh có thấy tờ giấy bạc đâu không?” – “Không!”, người anh đáp.

Tuy thế, người em vẫn không ngừng tìm kiếm và gạn hỏi: – “Anh không thể không đụng đến nó. Tờ giấy bạc không thể tự đứng dậy và chạy đi được! Chắc chắn anh phải thấy nó!”

Sự buộc tội phảng phất trong giọng nói của người em. Căng thẳng bất đầu tăng lên giữa hai anh em. Sự oán giận cũng theo đó mà len vào.

Không lâu sau, một hố ngăn cách gay gắt và sâu thẳm đã chia cách hai chàng trai trẻ. Họ không thèm nói với nhau một lời nào. Cuối cùng không làm chung với nhau, và một bức tường ngăn cách đã được xây ngang giữa cửa hàng. Sự thù địch và oán giận cũng lớn lên tiếp theo 20 năm sau đó, lan đến cả gia đình họ.

Một ngày nọ, một người đàn ông đỗ xe ngay trước của hàng. Ông bước vào và hỏi người bán hàng: - “Anh đã ở đây bao lâu rồi?” Người bán hàng đáp rằng anh đã ở đây cả cuộc đời. Vị khách nói tiếp: - “Tôi phải nói với anh điều này 20 năm trước tôi đang đi xe lửa và tạt vào thị trấn này. Lúc đó vì tiền khô cháy túi tôi đã phải chịu đói khát suốt 3 ngày trời. Khi tôi đến đây bằng cửa sau thấy tờ giấy bạc trên máy tính tiền, tôi đã bỏ vào túi mình rồi ra ngoài. Những năm qua tôi không thể quên điều đó. Tôi biết nó không phải là món tiền lớn nhưng tôi phải quay lại đây và xin anh tha thứ lỗi.”

Người đàn ông ngạc nhiên khi thấy những giọt nước mắt lăn trên má của người bán hàng trạc tuổi trung niên này.

“Ông có vui lòng sang cửa hàng bên và kể lại chuyện này cho người đàn ông trong cửa hàng đó được không.” Anh ta đề nghị.

Rồi người khách lạ càng ngạc nhiên hơn khi thấy hai người đàn ông trung niên, trông giống nhau, ôm nhau khóc ngay trước cửa hàng.

Sau 20 năm, rạn nứt giữa họ đã được hàn gắn. Bức tường thù hận chia cắt hai anh em họ đã được đập bỏ.

32. Sám hối như thế nào?

Vicka là một trong sáu thị nhân tại Mễ du, được chính Đức Mẹ dạy dỗ, khi có người hỏi: “Theo cô biết, ăn năn trở lại là thế nào?”

- Ăn năn hối cải là ý thức rằng chúng ta đang sống trước mặt Thiên Chúa, đêm cũng như ngày, và chúng ta chịu trách nhiệm về tất cả những gì thuộc bản thân ta, cũng như những gì thuộc quyền sở hữu của ta. Mẹ đã đến kêu gọi mọi người thế hãy nghe theo các sứ điệp của Mẹ mà ăn năn hối cải. Sống trong tội quả là điều nguy hiểm! Những tai hoạ ghê gớm đang chờ đợi những kẻ không quay trở về cùng Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa luôn tha thứ cho ta, dầu tội lỗi đến như thế nào đi nữa. Không có tội nào quá lớn đến nỗi Thiên Chúa không tha thứ được. Tình yêu Thiên Chúa luôn mãi lớn hơn tội lỗi chúng ta. Tất cả những gì ta có thể làm là nài xin. Đức Mẹ đến để bảo ta nài xin Chúa tha thứ ngay bây giờ. Mẹ nhắc lại cho ta rằng Thiên Chúa không bao giờ từ chối tha thứ cho bất cứ ai xin Người.

- Và khi được hỏi về mức độ khẩn trương phải ăn năn, Vicka đáp: “Đức Mẹ phải khóc vì những đứa con của mình không biết Thiên Chúa, hoặc quay lưng với Thiên Chúa, hoặc bất tuân các giới răn của Người.

- Rồi sau khi được Đức Mẹ dắt đi tham quan thiên đàng, luyện ngục và hoả ngục, cùng với Jakov, trong một cuộc phỏng vấn, có người hỏi: “Từ khi thấy hoả ngục lời cầu nguyện của cô có khác gì không?” Vicka đáp ngay: “Ồ! Dĩ nhiên là có. Bây giờ tôi cầu nguyện cho kẻ tội lỗi ăn năn hối cải. Tôi biết cái gì đang chờ đợi họ, nếu họ từ chối quay trở về.

- Vậy điều gì xảy ra đối với kẻ phạm tội?

- Hết thảy chúng ta đều phạm tội. Đó là lý do Đức Mẹ kêu gọi ta làm hoà lại với Thiên Chúa và với anh em ta, chị em ta, ngay từ bây giờ. Ta càng cứng đầu chống nghịch đường lối của Thiên Chúa, thì ta càng rời xa Nước Thiên Chúa. Và khi được hỏi: “Làm sao để chúng ta quay trở lại?” Vicka cho biết: “Đức Mẹ bảo rằng bao lâu còn sống trên trần, ta còn có thể trở lại với Thiên Chúa mọi giờ mọi phút, bằng cách ăn năn sám hối. Và cũng vì thế, ăn năn hối cải không phải là một việc nhất thời, làm một lần là xong. Đó là con đường xuyên suốt đời người, và lúc đầu, người ta có thể gặp nhiều khó khăn, vì satan rất mạnh, nó tìm mọi cách để cản trở việc ăn năn hối cải của ta. Càng gặp khó khăn ta càng phải cầu nguyện. Ăn năn hối cải không thể là chuyện trên đầu môi chót lưỡi, song bằng hành động, bằng tình yêu, một công việc kiên trì mỗi ngày.”

- Còn Jakov, khi được hỏi ăn năn hối cải có ý nghĩa thế nào đối với cậu? Cậu trả lời: “Khi em còn nhỏ, em chỉ biết sơ sơ về Thiên Chúa. Cũng có đi dự lễ, đi nhà thờ, nhưng không bao giờ thực sự cảm nghiệm được Thiên Chúa. Đi là chỉ do sự thúc đẩy. Cần nhất là Thiên Chúa phải sống trong ta. Em không cảm nghiệm được điều ấy cho đến khi các cuộc hiện ra xảy ra. Em có thể nói ăn năn trở lại là Thiên Chúa sống trong em và em nhận biết sự ấy.”

- Rồi khi được hỏi: “Làm thế nào để cảm nghiệm được Thiên Chúa hiện diện trong đời sống? Jakov được Đức Mẹ dạy, trả lời: nhờ cầu nguyện. Và như vậy, phương thế để ăn năn trở lại đó là: dành thời giờ để cầu nguyện.

Bạn đã sám hối như thế nào? Và quyết định mỗi ngày dành ra bao nhiêu thời giờ để cầu nguyện?

33. Chính Người cất ách tù đày cho chúng ta

Cô Angelina Jolie là một nữ minh tinh trong phim trường Hollywood nổi tiếng nhất thế giới, có lối sống thác loạn về tình dục! Nhưng năm 2004 cô được chọn trong số 25 người làm việc từ thiện, và cô đã trở thành Đại sứ thiện chí của Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc. Được phỏng vấn, cô khiêm tốn thú nhận đời tư của mình:

Trước đây khi còn làm diễn viên, cách sống của tôi vô cùng tồi tệ, không xứng đáng là người, sự bình an không bao giờ đến với tôi! Nhưng từ ngày tôi dốc của vào việc từ thiện và dấn thân phục vụ người xấu số, tôi thoát được nếp sống hèn hạ trước đây, và sự bình an đến tràn ngập tâm hồn tôi!

Lối sống cải thiện của cô minh tinh này, mới có thể cất lời nói với mọi người: “Kìa Đức Vua là Chúa Tể hoàn cầu ngự đến. Chính Người sẽ cất ách tù đày cho chúng ta” (Tung Hô Tin Mừng).

34. Trở về với Chúa

Bức tranh Gác Đêm của Rembrandt nổi tiếng nhờ độ tương phản giữa màu sáng và màu tối của tuyệt tác này. Để bảo vệ tranh, mỗi thế hệ lại đắp thêm nhiều lớp sơn dầu, khiến màu sáng trở thành mờ tối. Nhờ kỹ thuật xử lý bằng hóa chất, người ta đã phục hồi được nguyên bản. Thế nhưng, lắm người thất vọng thốt lên: “Đây không còn là Rembrant của tôi nữa.” Quá quen nhìn những lớp sơn dầu thêm vào, họ nhận thấy tranh gốc xa lạ và nhạt nhẽo. Cũng vậy, có thể do đọc Lời Chúa qua những lớp “sơn dầu” quen thuộc, ta cảm thấy Lời ấy xa lạ, mất sức mạnh, đôi khi còn gây sốc cho mình. Trong khung cảnh của hoang địa thanh vắng, ông Gioan có cơ hội thuận tiện để tiếp cận với Lời Chúa. Lời Chúa ông nghe và sống đã thúc đẩy ông trở thành ngôn sứ, nghĩa là thành người mời gọi người khác nghe và sống theo Lời Ngài.

Sứ mạng của các ngôn sứ qua mọi thời đại là “nuôi dưỡng và khơi gợi một ý thức và cảm nhận khác với ý thức và cảm nhận của nền văn hóa trổi vượt chung quanh ta” (Brueggemann).

35. Sa mạc

Thomas Morton là một tiểu thuyết gia nổi tiếng. Mặc dù theo Anh giáo, nhưng khi còn trẻ, chàng đã sống như một kẻ vô thần. Sau khi trở lại, chàng đã vào dòng khổ tu. Chàng đã ghi lại biến cố làm đảo lộn cuộc đời chàng như sau:

Hôm đó tình cờ tôi bước chân vào một nhà thờ Công giáo. Điều đầu tiên lôi kéo sự chú ý của tôi đó là một cô gái duyên dáng đang quỳ cầu nguyện một cách sốt sắng, không để ý tới những gì xảy ra chung quanh. Tôi tự hỏi: Tại sao một thiếu nữ trẻ đẹp lại có thể quỳ cầu nguyện trong một ngôi thánh đường lặng lẽ, một cách hết sức tự nhiên và say đắm như thể bị hút hồn?

Dĩ nhiên cô gái vào nhà thờ không phải là để cho người ta nhìn ngắm, mà là để cầu nguyện và chỉ để cầu nguyện mà thôi. Cuộc gặp gỡ thân tình của cô gái với Thiên Chúa trong khung cảnh vắng lặng ấy đã là một trong những yếu tố dẫn đưa tôi đến chỗ gặp Chúa và theo đạo sau này.

Ngôi thánh đường, trong bầu khí trang nghiêm và thinh lặng ấy, phải chăng là hình ảnh của một sa mạc, nơi con người có thể gặp gỡ và sống thân mật với Thiên Chúa giữa dòng chảy của một cuộc đời nhiều bon chen và dao động này.

36. Trong tiền vé cả rồi

Một gia đình nọ lâm cảnh túng nghèo, khánh tận tài sản. Họ quyết định bỏ lại tất cả để đến nhà một người thân mà gầy dựng lại công ăn việc làm. Hàng xóm tốt bụng góp tiền cho đủ vé tàu đưa cả gia đình đến New York. Họ chưa từng đi tàu xa đến 14 ngày đêm như thế bao giờ nên họ chuẩn bị phó mát, rau cỏ, bánh sandwich và chất tất cả trong cabin của cả gia đình. Dù ăn uống rất dè sẻn, nhưng đến ngày thứ 12, họ chỉ còn vài cái bánh sandwich để nhấm nháp.

Lúc cả nhà gần như đói lả, đứa con trai út lại nài nẵng xin cha `mẹ một xu để lên boong mua một cục kẹo hay một cái bánh. Họ không nỡ lòng từ chối nên đưa tiền cho đứa bé. Nó cầm tiền đi ra.

Một giờ sau cũng không thấy nó trở lại, cả nhà phát hoảng, ông bố lên boong tàu tìm con. Trên boong tàu ông thấy con trai ông ở giữa đám người ngồi chật ních quanh các bàn ăn đầy thức ăn ngon lành, miệng ngồm ngoàm nhai ngấu nghiến. Ông đến quát lớn với cậu:

- Sao con dám ăn uống như vậy, bố làm sao có đủ tiền trả cho con! Ai bảo con ăn như vậy?

- Bố đoán thử xem đi … Bố ơi, chúng ta đáng ra đã được ăn uống như thế này từ đầu đấy. Người ta đã tính cả vào vé tàu rồi mà, cậu bé tươi cười trả lời.

Chúa không dựng nên con người để đày đọa, mà để được hạnh phúc khi thi hành thánh ý Chúa: “Theo quyết định Chúa, mọi loài tồn tại mãi đến nay, vì muôn sự đều phục vụ Chúa. Nếu luật Ngài chẳng làm con vui thoả, gặp cơn khổ nhục, con đã tiêu vong” (Tv 119,91-92)

37. Hãy xét lại đường lối con đi

Một lần nọ, Mark Twain gặp một người hợm mình mộ đạo. Người đó nói: “Trước khi chết, tôi sẽ đi hành hương Đất Thánh. Tôi sẽ leo lên đỉnh núi Sinai và đọc to Mười Điều Răn của Thiên Chúa!”

Mark Twain đáp lại: “Tôi có một ý tưởng hay hơn! Tại sao ông không ở nhà và giữ Mười Điều Răn?”

Không giữ Mười Điều Răn, tôi đang mong ai đến?

Lời Chúa rõ ràng: “Con xét lại đường lối con đi, và quay gót trở về cùng thánh ý. Con mau lẹ chứ không trì hoãn tuân theo mệnh lệnh Ngài” (Tv 119,59-60). Bởi đó, thánh Phaolô khẩn khoản nài xin cho mọi tín hữu “được nên tinh tuyền và không làm gì đáng trách, trong khi chờ đợi ngày Chúa Kitô quang lâm” (Pl 1,10)

38. Sống trong hy vọng

Ai cũng có lúc thấy đời mình như một cuộc đoạ đày. Ông Gióp đã than thở: “Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao? Và chuỗi ngày lao lung vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê? Tựa người nô lệ mong bóng mát, như kẻ làm thuê đợi tiền công, cũng thế, gia tài của tôi là những tháng vô vọng, số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề. Vừa nằm xuống, tôi đã nhủ thầm: 'Khi nào trời sáng?' Mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: 'Bao giờ chiều buông?' Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng”

Và cái đau đớn nhất của kiếp người là đánh mất niềm hy vọng: “Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hy vọng.” (G 7,1-4.6)

Nhưng Chúa không dựng nên con người để đày đọa, mà để được hạnh phúc. Người ta tìm thấy hạnh phúc đó khi thi hành thánh ý Chúa: “Nếu luật Ngài chẳng làm con vui thoả, gặp cơn khổ nhục, con đã tiêu vong” (Tv 119,92)

39. Vẽ dung nhan Chúa

Truyền thuyết kể rằng trong khi vẽ bức “Tiệc Ly” danh họa Leonardo da Vinci đã đánh nhau với một người. Sau đó, ông đến phòng làm việc, cầm cọ lên chuẩn bị vẽ mặt Chúa Giêsu, nhưng ông hết sức chán nản, vì không thể phác một nét nào ra hồn. Ông đặt cọ xuống, đến làm hòa với người ông vừa ẩu đả. Sau đó, ông trở lại phòng làm việc và bắt đầu vẽ lại khuôn mặt Chúa Giêsu.

Tôi đã bao giờ trải qua một kinh nghiệm như Leonardo không? Cái gì thúc đẩy tôi thống hối tội lỗi?

Điều khiến ta thống hối tội lỗi, không những vì tội lỗi đưa chúng ta xuống hỏa ngục, nhưng còn vì tội lỗi là điều bất chính và xúc phạm đến Thiên Chúa, và cũng là xúc phạm đến chính bản thân. (Gardiner Spring)

THỨ HAI – BỆNH CỦA TÂM HỒN VÀ TÌNH LIÊN ĐỚI

Lời Chúa: Lc 5, 17-26

Ngày ấy, Chúa Giêsu đang ngồi giảng, có cả những người biệt phái và tiến sĩ luật từ các làng mạc xứ Galilêa, xứ Giuđêa và Giêrusalem đến nghe Người, và Người dùng quyền lực của Thiên Chúa chữa nhiều người. Người ta khiêng một người bất toại đến, họ tìm cách vào nhà để đặt người bất toại trước mặt Người. Nhưng không tìm được lối vào, vì dân chúng quá đông, họ liền trèo lên sân thượng và thả người bất toại xuống giữa cử toạ trước mặt Chúa Giêsu. Thấy lòng tin của họ, Người nói: "Hỡi người kia, tội ngươi đã được tha!"

Các luật sĩ và biệt phái bắt đầu lý luận rằng: "Người này là ai mà dám nói phạm thượng? Trừ một mình Chúa, ai có quyền tha tội?" Chúa Giêsu biết rõ điều họ suy tính, liền nói với họ: "Sao các ngươi lại nghĩ trong lòng như vậy? Nói rằng: "Các tội của ngươi đã được tha", hay nói: "Ngươi hãy đứng dậy mà đi", đàng nào dễ hơn? Song (như thế là) để các ngươi biết Con Người có quyền tha tội ở dưới đất." Người nói với người bất toại rằng: "Ta bảo ngươi, hãy chỗi dậy vác giường về nhà."

Tức thì anh ta chỗi dậy vác giường đi về nhà và ca tụng Thiên Chúa. Ai nấy đều sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa; họ kinh sợ và nói: "Hôm nay chúng ta đã thấy những việc lạ lùng."

TRUYỆN KỂ

1. Bệnh của tâm hồn

Bệnh tật nơi thân xác con người có thể tượng trưng cho một thứ bệnh tật nào đó nơi tinh thần.

Ít người mắc bệnh câm, nhưng ai cũng có kinh nghiệm về sự câm nín, do sợ hãi của chính mình hay do bị đe dọa bắt phải im. Ít người mắc bệnh điếc, nhưng lại có quá nhiều cuộc đối thoại mà hai bên chẳng hiểu nhau, vì mất khả năng nghe.

Người mù không phải chỉ là người không thấy ánh mặt trời, nhưng còn là người không dám thấy ánh sáng của sự thật, không nhận ra hình ảnh người anh em nơi khuôn mặt kẻ thù.

Không phải ai cũng có bàn tay khô bại, không duỗi ra được, nhưng ai cũng có lần thấy mình khó đưa tay ra để bắt tay người khác.

Đức Giêsu đã chữa cả thảy bao nhiêu bệnh nhân, chúng ta không biết. Nhưng chắc Ngài đã không dừng lại ở việc chữa lành thân xác. Ngài muốn một sự lành mạnh nơi toàn diện con người."Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai” (Is 35, 6).

2. Tâm hồn bình an.

Một buổi sáng tháng 7/1971, tại một thành phố bên Hoa Kỳ, một người đàn ông đến nộp mình tại một trạm cảnh sát gần nhà. Ông thú nhận đã giết một người đàn bà cách đó 21 năm. Ông cho biết trong 21 năm qua, ông không bao giờ chợp mắt được mỗi khi màn đêm phủ xuống. Ông nói: “Chỉ vì một phút say sưa, tôi đã biến 21 năm qua thành một cơn ác mộng. Giờ đây sau khi thú nhận tội lỗi, tôi cảm thấy thanh thản trong lương tâm. Tôi cảm thấy như được tái sinh."

Những câu chuyện nộp mình và thú nhận tội lỗi như trên đây không phải là chuyện hiếm có trong lịch sử nhân loại. Riêng với người Kitô hữu, đó là một phần của cuộc sống đức tin. Trong những cao điểm của năm phụng vụ, lời nhắc nhở của Giáo Hội về ý nghĩa này lại càng tha thiết hơn. Đặc biệt mỗi khi Mùa Vọng về, Giáo Hội khẩn kêu mời chúng ta chuẩn bị tâm hồn đón Chúa giáng sinh, Chúa của hoà bình. Làm sao chúng ta cảm nhận được bình an tâm hồn, nếu tội lỗi vẫn còn đè nặng lương tâm của chúng ta?

3. Phép lạ ở Lộ Đức

Serge Francois mắc chứng thoát vị đệm (hernia) từ nhiều năm và được giải phẫu hai lần, khiến cho chân trái gần như hoàn toàn tê liệt. Ngày 12/4/2002, ông đến hang đá Massabielle tại Lộ Đức để cầu nguyện. Ông đã bị một cơn đau khủng khiếp khiến ông tưởng như sắp chết. Sau những giây phút cầu nguyện chỉ vài phút sau đó, cơn đau đã nhường chỗ cho một cảm giác khỏe khoắn và ấm áp. Chân trái ông hết đau và từ từ cử động được.

Ngày 01/12/2008, sau nhiều năm nghiên cứu hồ sơ, Ủy ban Khoa học quốc tế trung tâm hành hương Lộ Đức, gồm khoảng 20 bác sĩ (có cả thành viên không Công giáo và vô thần), nhìn nhận rằng việc khỏi bệnh của Francois không thể giải thích được về mặt y khoa, vì diễn ra bất ngờ, toàn diện và lâu bền mà không qua bất cứ một trị liệu y khoa.

Thiên Chúa chọn Lộ Đức để biểu lộ tình thương của Ngài qua trung gian nhờ lời cầu bầu của Đức Mẹ. Qua đó, Ngài đã bầy tỏ vinh quang cho nhân loại, khi chữa lành nhiều bệnh tật của nhiều anh chị em được đem đến Lộ Đức.

4. Tha tội trước

Tờ New York Times ngày 17. 3. 1994 có đăng câu chuyện có thật của một phạm nhân tên là Ricardo Caputo như sau:

Ông ta là một tội phạm nghiêm trọng của tòa án liên bang. Ông đã cưới và ăn ở với 4 người vợ trong suốt 20 năm trời và đặc biệt là ông đã giết chết cả bốn người vợ đó. Rồi bằng nhiều thủ đoạn khéo léo, ông đã trốn thoát khỏi tất cả những mạng lưới bao vây lùng bắt của pháp luật. Tuy nhiên, sau 20 năm, ông ta đã tự ra đầu thú tại sở cảnh sát Mineola, New York. Bởi vì lương tâm ông cắn rứt làm ông không thể chịu nổi. Khi đầu thú, ông cho biết, ông thà bị giam cầm trong ngục còn sướng hơn bị lương tâm cắn rứt và tội lỗi dày vò.

Chúa Giêsu tha tội trước khi chữa cho người bại liệt được khỏi vì theo Chúa tội lỗi cũng là một thứ bệnh. Hơn nữa, nó còn là một thứ bệnh nguy hiểm, nhiều khi còn nguy hiểm hơn cả bệnh phần xác. Lý do vì tội làm cho con người phải xa lìa Thiên Chúa nên không thể có hạnh phúc.

5. Chữa lành tâm hồn

Tại một phòng cấp cứu khoa tim mạch, người ta mới chuyển đến một gã đàn ông tóc dài, râu tua tủa, vừa dơ bẩn vừa béo ị một cách bệnh tật. Ông khoác hờ hững một chiếc áo jacket bằng da đã cáu bẩn và rách tươm. Toàn thân ông toát ra mùi nồng nặc của rượu và mồ hôi, và nhất là cái mùi của những bãi rác mà ông thường lê la ở đó.

Thoạt nhìn thấy ông được đẩy vào phòng, những nữ y tá đã giật mình và bối rối nhìn nhau. Và dường như những y tá đang muốn nói với nhau qua ánh mắt của mỗi người:

- Không, tôi không muốn chăm sóc người này.

 Họ lấm la lấm lét nhìn Bonnie, người y tá trưởng vốn nổi tiếng nghiêm khắc và nguyên tắc. Ai cũng sợ bị phân công tắm rửa cho người đàn ông mới được chuyển vào. Bonnie nhìn quanh một lượt rồi quyết định một điều mà không ai có thể nghĩ đến:

- Đây sẽ là bệnh nhân của tôi.

Bonnie nhanh nhẹn mang găng tay cao su và một mình chuẩn bị xà phòng, thuốc sát trùng, dao cạo ...

Dịu dàng và dè dặt, Bonnie vừa tẩy rửa, vừa giúp người đàn ông đáng thương này. Cô nhẹ nhàng nói:

- Vào những ngày lễ chúng tôi rất bận. Nhiều khi việc vệ sinh cho các bệnh nhân cũng được làm qua loa. Ông hãy thư giãn cơ thể và cảm nhận làn nước mát này. Nó sẽ làm ông cảm thấy dễ chịu vì bệnh viện là nơi làm cho người ta thấy yêu cuộc sống hơn.

Thân thể người đàn ông đầy những vết sẹo nham nhở. Có thể ông đã nghiện rượu, nghiện ma tuý, đã từng tham gia trong các băng đảng ... Bonnie vừa chùi rửa vừa cầu nguyện cho một linh hồn bị vùi dập trong cuộc đời khắc nghiệt.

Công đoạn cuối cùng của Bonnie là xoa sữa làm ấm cơ thể và thoa phấn trẻ em lên người bệnh nhân. Ngược với vóc dáng dữ tợn, khi úp mặt vào gối để được xoa bóp ở lưng, người đàn ông không giấu được sự cảm động. Ông tấm tức khóc. Khi quay lại, đột nhiên ông ta nhìn Bonnie với một ánh mắt xanh lơ đẹp kỳ dị:

- Cám ơn cô. Đã lâu lắm rồi, không có ai chạm vào người tôi một cách dịu dàng thế này! Dường như trái tim tôi cũng đang liền sẹo!

Mẹ Têrêsa đã có lần nói: "Nghèo khó, không chỉ là đói ăn thiếu mặc, mà còn là sự cô độc và thiếu tình thương."

6. Khiêng người bệnh

Bỏ đạo từ lâu và khi biết mình sắp chết, người anh của giám mục H. Camara (Braxin) hỏi ngài: “Lâu nay tôi để ý thấy không có sự cách biệt nào giữa lời giảng và việc làm của chú. Vậy tôi có thể dựa vào lòng tin của chú mà rước Chúa không?” – Em tin Chúa lòng lành thương anh. Thế nhưng, sau khi xưng tội và rước Chúa, anh thều thào: “Bây giờ tôi tin không phải dựa vào lòng tin của chú mà thực sự tôi xác tín Chúa thương tôi.” Người bại liệt trong bài Tin Mừng được cứu nhờ niềm tin của bạn bè. Tự bản thân không đến được với Đức Giêsu, anh đã nhờ sự giúp đỡ của bốn người khiêng. Những người này không đến được với Ngài bằng cửa chính, họ phải nghĩ đến con đường gay go hơn: bằng mái nhà. Niềm tin đích thực sẽ chắp đôi cánh đưa ta vượt qua mọi trở ngại trên đường đến với Chúa.

Sử gia T. Carlyle nói rằng tiếng mẹ ông như luôn vang vọng bên tai: “Con hãy tin cậy Chúa và làm điều lành.” Bao người con đã trở thành người tốt nhờ đức tin của cha mẹ; cũng như bao con người trở nên tốt đẹp hơn nhờ đức tin của những bạn thân. Hôm nay Chúa cũng mời gọi bạn tích cực hơn để đem niềm tin đến cho người khác.

7. Đừng sợ

Jo Jo Starbuck là một người trượt băng người Mỹ nổi tiếng. Khi còn trẻ, cô phải phấn đấu để trở thành người trượt băng giỏi. Cô thường chán nản trở về nhà vì bị huấn luyện viên la rầy. Những lúc như thế, mẹ cô thường động viên cô. Jo Jo nói: “Tôi trở về nhà, khóc lóc và bỏ cuộc. Nhưng mẹ tôi thường xuyên nâng đỡ tôi. Người khuyên bảo tôi cho tới khi tinh thần tôi được phục hồi.”

Những lời nâng đỡ của mẹ Jo Jo và những lời đầy khích lệ của ngôn sứ Isaia mời gọi tôi tự hỏi: tôi nâng đỡ và khích lệ những người cần được phục hồi tinh thần như thế nào?

Điều tuyệt vời nhất bạn có thể làm, không chỉ là chia sẻ của cải, mà là giúp người khác nhận ra được chính mình. (Benjamin Disraeli)

8. Tha thứ để giúp người chỗi dậy

Cách đây nhiều năm, Joe Queen lái một chiếc xe kem, trên xe có gắn hai chuông đồng mà Joe lắc để cho biết anh đang có mặt ở khu vực. Vào một buổi sáng ngày giáng sinh, Joe lúc đó đã về hưu, tìm thấy một hộp bìa cứng trên sân. Trong đó có hai chuông đồng, một hộp bánh, và một mẩu giấy viết như sau: “20 năm trước đây, tôi đã đánh cắp những chiếc chuông khỏi xe của ông. Xin lỗi. Chúc mừng Giang sinh!” Joe nói: “Nếu tôi đã thấy anh ta khi trả lại những chiếc chuông, tôi đã bắt tay anh ta và bảo rằng anh ta được tha thứ.”

Sự sẵn sàng tha thứ của Joe là một hình ảnh về sự sẵn sàng tha thứ của Chúa Giêsu. Nó khiến tôi tự hỏi: tại sao tôi lại do dự tha thứ hoặc xin được tha thứ?

Tha thứ là câu trả lời cho giấc mơ trẻ thơ: những gì đổ vỡ được hàn gắn lại và những gì vấy bẩn sẽ được tẩy sạch (Dag Hammarskjold)

9. Cầu nguyện để đón nhận tình thương

Hồng y Bernadin nhận xét rằng trước khi có thể theo Chúa Giêsu, chúng ta phải trải qua một quá trình hoán cải. Chúng ta phải nhận biết và yêu mến Ngài. Một cách để nhận biết Chúa Giêsu là mở rộng lòng mình đón nhận Ngài qua lời cầu nguyện đều đặn mỗi ngày.

Nhận xét của Hồng Y Bernadin và việc Chúa Giê su chữa lành người bại liệt mời gọi tôi nhìn vào lòng mình và tự hỏi: Điều gì khiến tôi không mở rộng lòng mình hơn nữa với Chúa Giê su trong lời cầu nguyện?

Chúa phán: “Ta sẵn sàng đáp lời khẩn nguyện của dân Ta, nhưng chúng không hề nguyện xin. Ta sẵn sàng chờ đón chúng tìm gặp Ta, nhưng chúng chưa một lần cố gắng.” (Is 65,1)

10. Họ dỡ mái nhà bởi lòng khao khát

Có lẽ số phận ngồi tù là một trong những hoàn cảnh bế tắc nhất của một người, thế nhưng chẳng có gì ngăn cản tâm hồn khao khát Chúa như ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận làm chứng: “Ban đêm, các tù nhân thay phiên nhau thờ lạy Chúa. Với sự hiện diện lặng lẽ, Chúa Giêsu Thánh Thể đã làm nên những việc kỳ diệu… Và thế là đêm tối của nhà tù đã trở thành ánh sáng Phục sinh… Nhà tù trở thành trường dạy giáo lý.”

Với cuộc sống hiện đại dư thừa tiện nghi vật chất, người ta dửng dưng không cần đến Chúa. Phần bạn, điều gì thúc bách bạn khao khát tìm đến Chúa để được Ngài cứu độ?

Trong ngày, bạn dành ít phút hồi tâm hoặc viếng Thánh Thể để khơi dậy lòng khao khát Chúa: Như nai rừng mong mỏi, tìm về suối nước trong, hồn con luôn mong mỏi, tìm gặp Ngài, lạy Chúa.

THỨ BA - CON CHIÊN LẠC ĐÀN

Lời Chúa: Mt 18, 12-14

Khi ấy Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con nghĩ sao? Nếu ai có một trăm con chiên mà lạc mất một con, thì người đó lại không bỏ chín mươi chín con trên núi, để đi tìm con chiên lạc sao? Nếu người đó tìm được, thì quả thật, Thầy bảo các con, người đó sẽ vui mừng vì con chiên đó hơn chín mươi chín con chiên không thất lạc.

Cũng vậy, Cha các con ở trên trời không muốn để một trong những kẻ bé nhỏ này phải hư đi."

TRUYỆN KỂ

1. Chiên lạc

Một nhà truyền giáo trong vùng Thái bình dương có kể lại sự kiện như sau: Ngày nọ có một người đàn bà bước vào lều của Ngài với đôi bàn tay nắm chặt cát ướt. Bà hỏi ngài:

- Cha có biết cái gì trong tay con không?

Vị linh mục đáp:

- Hình như chị đang cầm cát trong tay thì phải?

Người đàn bà lại hỏi tiếp:

- Cha có biết tại sao con mang cát ấy đến đây không?

Nhà truyền giáo lắc đầu.

Người đàn bà liền giải thích:

- Thưa cha, đây là tội lỗi của con, tội con nhiều như cát biển, làm sao con có thể được tha thứ?

Lúc bấy giờ vị linh mục mới an ủi:

- Có phải chị lấy cát từ bờ biển không, vậy chị hãy quay trở lại bờ biển và giống như các em bé vẫn thường làm, chị hãy xây một núi cát, rồi chị ngồi đó và ngắm những đợt sóng biển, sóng biển sẽ vỗ vào bờ và cuốn đi ngọn núi cát của chị. Ơn tha thứ của Chúa cũng giống như thế, lòng nhân từ của Ngài bao la như đại dương, chị hãy thành tâm thống hối và Chúa sẽ tha thứ cho chị.

2. Tình yêu không biết đếm

Ở Phi châu, có một bộ tộc khá kì lạ. Họ không bao giờ đếm, không ai biết tí gì về toán học. Có người hỏi một người dân bản địa có bao nhiêu cừu.

Anh đáp: “Không biết. ”

“Vậy nếu lỡ mất một hai con, làm sao anh biết."

Câu trả lời thật ý nhị: “Không phải tôi mất một con số, mà mất một bộ mặt."

3. Tình mẹ tha thứ.

Ở Batna, có một gia đình nằm vào địa điểm hẻo lành, gồm bà mẹ với các con, mà thằng con lớn phản bội vô số kể, tên là Sidi Melkassen, ưa a tùng với côn đồ du đãng, bị mẹ khiển trách hằng ngày. Mất tự do, thằng đó bực tức, nhất định hai mẹ con không đội trời chung. Liền bắt mẹ đem giam cầm vào một nhà cô tịch tăm tối. Lấy sợi xích lớn mà xiềng hai chân mẹ nó lại, đoạn đục vào tường gắn móc khóa lại và giữ chìa khóa trong túi. Đành lòng đóng cửa lại trước những tiếng kêu la, khóc lóc, van nài của mẹ.

Trên ba năm trời tù túng, nóng nực, lạnh lẽo, không mền, không chiếu, bữa no bữa đói, người mẹ than khóc đã khô nước mắt, kêu không ai nghe, buồn không một lời an ủi.

Chiều nọ, một nàng dâu thảo giật được chìa khóa và mở cửa, tháo xiềng giải thoát cho người mẹ vô phúc. Bà đi ra giữa thanh thiên bạch nhật, không còn hình tượng người nữa, ai nấy đều thương hại. Việc này thấu đến tai nhà chức trách, thằng con bất hiếu bị bắt và kêu án sáu tháng tù ở. Ai nấy đều ca tụng công lý. Chỉ có bà mẹ quên tội của con, cất tiếng lên vừa than khóc vừa xin tòa đừng tống giam con mình tội nghiệp.

4. Cái chết của Chúa cho thấy giá trị của sự sống

Đã có lần tôi cảm thấy ngao ngán khi phải đến thánh đường. Tất cả những sinh hoạt tôn giáo đối với tôi chỉ mất thời gian và vô nghĩa. Chúa ở đâu? Tôi chẳng cần biết nữa. Và tôi tự giải thoát bằng đam mê học tập, lo toan kiếm sống và chạy theo những thú vui… Cuộc sống vẫn trôi, vẫn vui.

Rồi một ngày, trên đường đến trường, tôi gặp đám tang của một bạn trẻ. Sau quan tài, bà mẹ được hai người dìu bước, khóc nức nở… Cảnh tượng ấy làm tôi hết sức xúc động. Nhìn gương mặt tươi trẻ của anh trong khuôn ảnh, tôi tự hỏi: Cuộc sống chỉ có thế thôi sao? Bạn ấy sẽ đi về đâu? Còn tôi? Chẳng lẽ cuộc sống lại kết liễu dễ dàng như vậy sao? Tôi cảm thấy băn khoăn, trống rỗng. Chẳng biết phải làm gì nữa, tôi lại tìm đến Chúa… Nhìn lên thập giá, Chúa Giêsu đang dang tay, đầu gục xuống, như mong mỏi, chờ đợi tôi từ lâu. Trong thinh lặng, tôi đã nhận ra chính Ngài đã kiếm tìm tôi qua sự kiện bất ngờ ấy.

Lạy Chúa, xin cho con luôn cảm nhận được tình Ngài luôn dõi bước theo con, kiếm tìm con, chờ đợi con, dẫu có những lúc con đã quên Ngài (Epphata).

5. Tình yêu của Thiên Chúa

Truyền thống Do Thái kể rằng: Để dạy cho Môisen bài học về sự yêu thương mà ông sẽ phải đem ra áp dụng với đoàn dân Chúa trao sau này, thì một hôm lúc ông còn đang lẩn trốn trong sa mạc, Chúa đã cho ông gặp một người chăn chiên. Ông đã sống trọn ngày với người chăn chiên này và giúp anh ta vắt sữa. Chiều đến, ông thấy anh ta đổ thứ sữa tốt ấy vào trong một cái bát lớn, đặt nó trên một hòn đá cách đó không xa. Môisen hỏi thì anh trả lời:

- Đó là sữa dành cho Thiên Chúa. Người chăn chiên trả lời.

Môisen tự cho mình có bổn phận phải giải thích cho thanh niên biết rằng, Thiên Chúa là Thần Linh. Người không uống sữa. Người thanh niên không muốn tin điều này cho nên sau một hồi tranh luận, Môisen gợi ý để cho anh đến núp sau bụi cây và rình xem Thiên Chúa có đến uống sữa của anh ta không ... Đêm đó, người chăn chiên núp sau một bụi cây, dưới ánh trăng, anh nhìn thấy một chú chồn tơ đến liếm một cách thèm thuồng bát sữa của anh. Xong chú chồn chạy biến vào sa mạc.

Sáng hôm sau, Môisen gặp lại người chăn chiên trong trạng thái sa sút tinh thần. Môisen hỏi anh:

- Hình như anh có điều gì không ổn?

Người chăn chiên chậm rãi trả lời:

- Ông quả có lý! Thiên Chúa là Thần Linh, Người không thèm sữa của tôi.

Ngạc nhiên, Môisen nói lớn:

- Bây giờ anh đã biết Thiên Chúa hơn rồi! Đáng lý ra anh phải hài lòng và vui lên mới phải chứ!

- Vâng, anh ta đáp - Tuy nhiên, cách tốt nhất để cho tôi biểu lộ tình yêu đối với Ngài đã bị mất.

Lúc đó, được Chúa soi sáng, Môisen đã chợt hiểu. Ông rút lui vào nơi thanh vắng. Ông cầu nguyện thâu đêm. Đêm đó, Thiên Chúa hiện ra với ông và nói:

- Môisen, ngươi đã lầm! Ta là Thần Linh. Điều này rất đúng nhưng không phải vì thế mà Ta đã không ưa thích đón nhận bát sữa của người chăn chiên dâng lên cho Ta để tỏ lòng thương mến Ta. Tuy nhiên, bởi vì Ta không cần dùng sữa, Ta đã chia sẻ bát sữa ấy với chú chồn tham ăn kia!

Vâng! Tình yêu của Chúa là thế.

6. Tình yêu không biết lên án

Trong một nhà thờ ở Tây Ban Nha, người ta tôn kính một cây Thánh Giá cổ xưa mà cánh tay phải của Chúa tách rời khỏi đinh. Cây Thánh Giá này có lịch sử như sau:

Ngày nọ, một tội nhân “gạo cội” đến xưng thú tội mình dưới cây Thánh Giá này với tất cả dấu hiệu của một sự thống hối chân thật. Cha giải tội do dự ban phép tha tội cho ông ta vì các tội của ông ta nhiều và nặng. Tội nhân nài xin sự tha thứ.

 - Tôi ban phép giải tội cho ông, vị linh mục nói, tuy nhiên, ông không được tái phạm nữa nhé!

 Tội nhân xin hứa và giữ được một thời gian. Nhưng rồi, vì yếu đuối ông lại sã ngã lại. Lòng thống hối thúc đẩy ông đến toà giải tội. Vị linh mục bảo ông:

- Lần này thì tôi không ban phép giải tội cho ông đâu!

- Con thống hối, - tội nhân đáp lời vị linh mục - con rất chân thành khi đoan hứa với cha, nhưng con yếu đuối! Xin hãy tha thứ cho con!

Cha giải tôi tha thứ và nói thêm:

- Đây là lần cuối cùng đó nhé!

 Một thời gian khá lâu sau đó, một phần theo thói quen, một phần vì yếu đuối, ông lại rơi vào vòng tội lỗi.

- Bây giờ thì dứt khoát! –vị linh mục bảo - ông luôn rơi lại trong cùng một tội lỗi. Sự thống hối của ông không chân thành.

- Thưa Cha, con rất chân thành thống hối. Con sa ngã vì con yếu đuối. Con thẳng thắn, chân thực, nhưng con bệnh hoạn.

- Không, không còn sự tha thứ cho ông nữa.

Vào chính lúc đó người ta nghe có tiếng người khóc và có tiếng động phát xuất từ cây Thánh Giá: một cánh tay rời khỏi đinh, giơ lên và vạch trên đầu tội nhân dấu hiệu sự tha thứ, đồng thời có một tiếng nói: “Ngươi, ngươi có đổ máu ngươi ra cho người này đâu!”

7. Ai đã bảo vệ con cừu yếu ớt?

Trong một cuộc mít tinh tại Nga, một diễn giả theo chủ nghĩa duy vật vô thần đã thao thao diễn thuyết cho rằng không có Thượng Đế: ”Sự sống tự nhiên mà có và phát triển bằng cách "tuyển chọn" và "đào thải" tự nhiên. Trong cuộc chiến đấu sinh tồn này, những thú vật mau và mạnh thì thắng, còn những thú vật yếu thì bị tiêu diệt.”

Thình lình một Kitô hữu đứng lên đặt câu hỏi:

- Nếu vậy, thì tại sao con cừu không bị tuyệt diệt mà vẫn sống còn cho đến bây giờ? Tại sao chó sói không diệt hết được chúng? Chó sói có thể sinh một lúc năm, sáu sói con, trong khi cừu chỉ có thể sinh từng con một. Sói lại có răng nhọn, móng vuốt, có sức mạnh và nhanh nhẹn, còn cừu thì không có gì hết để tự vệ. Vậy tại sao cừu vẫn sống còn?

Bị hỏi bất ngờ, diễn giả lúng túng không biết phải trả lời làm sao, thì người kia vừa hỏi vừa giải thích:

- Vậy xin hỏi: Ai đã bảo vệ những con cừu yếu ớt này? Con người có thể giải thích nhiều sự kiện mà không cần gì đến Thượng Đế, nhưng loài cừu không thể sống, nếu không có Thượng Đế. Và nếu không có Thượng Đế, thì đàn chiên cừu đáng thương của Chúa Giêsu làm sao sống được khi mà Hội Thánh đã bị cấm cách nghiệt ngã từ khi được thành lập cho đến hôm nay.

8. Tiếng Chúa với Augustino

Trước khi hoán cải vào năm 389, thánh Augustino đã luôn lo lắng cho đời mình. Ngài muốn “lấp đầy mọi thung lũng” của tham lam và “bạt núi đồi” của kiêu ngạo, nhưng không thể được. Thế rồi một ngày nọ, Ngài bắt đầu cầu nguyện sốt sắng. Đột nhiên Ngài nghe một tiếng nói: “Hãy cầm lấy mà đọc.” Ngài cầm lấy cuốn kinh thánh, đọc và bắt gặp những lời này: “Hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô và đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng” (Rm 13,14). Sau đó thánh nhân nói: “Tâm hồn tôi bỗng được chan hòa ánh sáng…để lại cho tôi niềm an bình sâu xa.” Giây phút đó đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời của thánh Augustino.

Đâu là giây phút chan hòa trong cuộc đời tôi?

Con đường đến ánh sáng thường đi qua tội lỗi.

9. Tình yêu không bỏ rơi một ai

Một người mẹ được thông báo rằng đứa con trai bị lãng tai của bà là khó dạy. Bà ta trả lời: “Chính tôi sẽ dạy dỗ nó.” Đứa con ấy là Thomas Edison, người đã phát minh ra ánh sáng điện.

Câu chuyện của bà Edison mời gọi tôi tự hỏi: Tôi có thể làm gì để góp phần thực hiện chương trình của Thiên Chúa để: “không ai trong những kẻ bé mọn này” phải hư mất?

Tôi tin rằng mỗi đứa trẻ sinh ra đều có một sứ điệp chuyển đến cho nhân loại. Vì vậy nó phải được đối xử như một cái gì thánh thiên nhất (Sam Levinson)

10. Thiên Chúa muốn cứu sống

Trong diễn văn nhận chức, cố Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc D. Hammarskjold đã hỏi: “Phải chăng sẽ có ngày mà niềm vui sẽ lớn và nỗi buồn sẽ nhỏ?” Và ông trả lời: “Đến ngày mà chúng ta cảm thấy mình sống với bổn phận đã hoàn thành và đáng làm, ngày ấy sẽ lớn và ta có thể coi nỗi buồn là chuyện nhỏ.”

Qua bài dụ ngôn chiên lạc hôm nay, Đức Giêsu nói rằng với Thiên Chúa, có một ngày mà niềm vui của Ngài thật lớn lao. Đó là ngày Ngài tìm được, gặp lại một con người xa lìa Ngài, cắt đứt mối thân tình với Ngài. Dù chỉ một con người bình thường thôi trong bảy tỷ người hiện nay (2010), Thiên Chúa cũng không muốn họ hư mất. Ngài không thể ngồi chờ đợi con người đến với mình, Ngài đi tìm họ và vui mừng khi có dịp cứu vớt họ, nghĩa là đem lại hạnh phúc thật sự cho họ.

Câu Mt 18,14 trích dẫn trên đây là đỉnh cao của Tin Mừng: Thiên-Chúa-muốn-cứu-độ-mọi-người là lý do giải thích mọi sự kiện trong đời Đức Giêsu: nhập thể, rao giảng Tin Mừng, Khổ nạn và phục sinh. Mời bạn chậm rãi đọc đi đọc lại từng lời của câu Tin Mừng này, để có thể nghiệm thấy tình thương bao la và nhiệm mầu của Thiên Chúa dành cho bạn và cho mọi người.

THỨ TƯ - DỊU HIỀN VÀ KHIÊM NHƯỢNG TRONG LÒNG

Lời Chúa: Mt 11, 28-30

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an.

Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng.

TRUYỆN KỂ

1. Giận vì hết quên

Sách "Liệt Tử" có câu truyện như sau: Nước Tống có một người đã đứng tuổi tự nhiên mắc phải chứng bệnh quên lãng. Buổi sáng lấy gì của ai, buổi chiều đã quên. Hôm nay ai cho cái gì ngày mai lại chẳng nhớ. Ra đường quên cả đi, về nhà quên cả ngồi. Trước đã làm gì và bây giờ đang làm gì đều quên hết, sau này cũng chẳng nhớ. Cả nhà rất lo lắng về bệnh tình của anh nên đã mời thầy thuốc, chạy đủ hết mọi cách mà cũng chẳng khỏi.

Sau đó có ông thầy đồ người Lỗ nói rằng là tôi chữa được.

Người bệnh hứa với ông đồ: Hễ chữa được bệnh sẽ chia cho ông một phần gia tài.

Trước khi trả lời đáp ứng nhận chữa bệnh, ông đồ dùng nhiều cách thức khác nhau để tìm hiểu khả năng trí nhớ của người bệnh này. Trước hết ông đồ thử bằng cách lột áo của người bệnh để rét lạnh thì thấy anh ta xin áo. Bỏ đói không cho ăn thì anh ta xin ăn. Ðem anh ta vào chỗ tối tăm thì anh ta xin ra chỗ sáng. Sau đó ông đồ mới nhận lời chữa bệnh. Chẳng biết ông đồ chữa thế nào mà sau bảy ngày anh ta đã hết bệnh và trở lại bình thương.

Tuy nhiên, khi đã tỉnh táo như thường thì anh ta lại nổi giận, chửi vợ đánh con, cầm dao rượt đuổi ông đồ.

Người ta bắt giữ anh ta lại hỏi: Tại sao anh lại giận dữ như vậy?

Anh ta trả lời: Lúc trước tôi mắc bệnh quên thì lòng tôi thảnh thơi khoan khoái, trời đất có còn hay không tôi cũng chẳng cần biết. Nay tôi lành bệnh, tôi nhớ lại tất cả những chuyện của mấy mươi năm về trước như chuyện buồn, vui, yêu, ghét, thành công, thất bại, lòng tôi trở nên bối rối, ngổn ngang trăm mối. E rằng sau này các việc ấy cứ bám cứng lấy tâm trí tôi thì dù cho muốn quên chúng đi trong một giây, một phút liệu tôi có được như ý muốn hay không?

2. Lạn Tương Như và Liêm Pha.

Lạn Tương Như được phong làm tướng quốc. Liêm Pha cậy mình có nhiều công hơn mà lại bị đứng dưới, nên tức giận lăm le hễ gặp mặt Tương Như là giết đi. Tương Như vì thế cứ lánh mặt mãi ...Một hôm Tương Như ra ngoài, gặp toán lính tiền đạo của Liêm Pha, vội sai tên đánh xe đi tránh vào trong ngõ, đợi Liêm Pha đi qua rồi mới đi ra. Bọn xá nhân thấy thế càng giận bèn họp nhau hỏi Tương Như:

- Chúng tôi bỏ nhà cửa, xa thân thích đến đây hầu ngài, tức coi ngài là bậc thượng phu nên mến mà theo. Nay ngài cùng Liêm tướng quân cùng hàng mà hạng thứ lại ở trên. Liêm Pha dọa, ngài đã không báo lại, đã tránh ở triều, nay lại tránh ở ngoài đường. Sao ngài lại sợ quá như vậy? Chúng tôi lấy làm xấu hổ, vậy xin đi thôi không ở nữa.

Tương Như nói:

- Các ngươi xem tướng quân có hơn được vua Tần không?

Bọn xá nhân đáp: - Không.

Tương Như nói:

- Lấy cái oai của vua Tần, thiên hạ ai dám chống, mà Trương Như này dám mắng giữa triều đình, lại làm nhục cả quần thần nữa. Tương Như dẫu hèn, há lại sợ một Liêm tướng quân ư? Nhưng ta nghĩ, Tần Sở dĩ nhiên không dám đánh Triệu vì e có ta và Liêm tướng quân. Nay hai con hổ tranh nhau, thế không cùng sống. Tần nghe tin, tất thừa cơ đánh Triệu. Ta sở dĩ chịu nhục tránh Liêm tướng quân là coi việc nước là trọng và thù riêng là khinh vậy thôi.

Bạn xá nhân mọp lạy mà rằng:

- Tiểu nhân chúng tôi trí hẹp làm gì hiểu nổi đại chí của tướng công.

Liêm Pha khi nghe thuật lại việc làm của Tương Như cả thẹn mà rằng: “Ta thật còn kém Lạn Tương Như xa lắm." Bèn đến tạ tội với Tương Như, quì mọp mà rằng: “Tôi tính thô bạo, đội ơn tướng quân bao dung, nghĩ lấy làm hổ thẹn quá." Tương Như đỡ dậy, nắm tay cùng khóc và kết làm bạn sống chết có nhau”

3. Tôi thắng không kịp

Một buổi chiều nọ, ngồi trong tiệm sửa xe đạp, tôi có dịp quan sát khung cảnh náo nhiệt của một đoạn đường trong thành phố. Bỗng một chiếc Honda của một thanh niên từ trong hẻm lao thẳng ra và tông vào xe của một thiếu nữ. Rất may, cả hai người đều không bị thương tích; nhưng chiếc quai giỏ bên tay xe của chị bị đứt. Trước mặt họ, những trái hồng văng tung toé. Hối hận vì hành động của mình, anh thanh niên vội bước đến xin lỗi và nhặt những trái hồng lên cho chị. Với thái độ điềm tĩnh, chị mỉm cười nói: “Xin lỗi anh, tôi thắng không kịp."

Quả là điều thật dễ thương trong cuộc sống, khi con người biết biểu lộ tình thương, sự hiền lành và khiêm nhường của chính Chúa Giêsu, vị Thầy của chúng ta. Thật dễ thương nhưng chẳng dễ thực hiện, bởi dư luận vẫn cho rằng hiền lành là ngu xuẩn và khiêm nhường là nhu nhược.

Lạy Chúa, xin giúp con can đảm sống tinh thần của Chúa, dù có phải đi ngược lại những quan điểm của thế gian, hay bị người đời xử tệ.

4. Để sống khiêm nhường

Thầy Đô-đi-kê nổi tiếng thánh thiện nhất trong dòng và hay làm phép lạ. Tin đồn rằng bất cứ điều gì Thầy xin đều được Chúa nhận lời.

Một hôm dân làng kéo đến xin Thầy cầu nguyện cho trời mưa. Nhưng thay vì trời mưa thì lại nắng lâu hơn nữa.

Một người mẹ đến xin Thầy cầu nguyện cho đứa con đang đau được chữa lành. Nhưng đứa con đã chết sau đó vài ngày.

Vài người khác đến xin Thầy làm phép lạ cho đá thành bánh. Nhưng đá vẫn trơ ra đấy.

Sau những lần thử thách mà không được gì cả, dân làng nổi giận đuổi Thầy ra khỏi phạm vi của làng, cấm không cho Thầy trở về tu viện nữa.

Thầy đành phải đi tìm một hang đá trong sườn núi để ẩn mình, rồi than thở với Chúa:

- Lạy Chúa, con không hiểu tại sao lại xảy ra như vậy. Con cầu xin Chúa cho mưa xuống thì Chúa lại làm cho nắng hạn lâu hơn. Con cầu xin cho đứa trẻ mau lành bệnh thì Chúa lại cho nó chết. Con xin Chúa cho dân làng bánh ăn thì Chúa cứ để những viên đá trơ trơ ra đó. Vì thế Chúa xem đây, con bị mọi người xua đuổi, coi con như một kẻ tội lỗi ghê gớm nhất.

Nói xong, thầy nghe có tiếng từ trời phán:

- Hỡi con, bởi vì Ta đã cho điều con cầu xin lúc trước rồi đó.

Thầy Đô-đi-kê không còn nhớ thầy đã xin gì trước đó nữa nên mới hỏi lại:

- Nhưng lạy Chúa, con đã xin Chúa điều gì?

Tiếng lạ đáp:

- Trước đây con đã chẳng cầu xin Ta cho con được dịp sống khiêm nhường đó sao?

5. Tin yêu mạnh hơn cái chết

Sinh năm 1984, Chiara Corbella lớn lên trong một gia đình Kitô hữu, công dân nước Ý. Chiara (tiếng Anh là Clare) nghĩa là trong sáng; Corbella là con tim tốt đẹp, tâm hồn mỹ miều. Từ thuở ấu thơ, mấy chị em cô đã được giáo dục về đức tin thuần thành. Trong hồi ức viết vào tháng Giêng 2011, Chiara kể rằng chính mẹ cô đã xây đắp hành trình đức tin cho các con:

“Hành trình đó góp phần cho tôi lớn lên, dạy tôi biết cầu nguyện, và hướng về Đức Giêsu đơn thuần như một người bạn, là người tôi có thể thổ lộ hết mọi phiền muộn âu lo cũng như những nghi nan ngờ vực. Chính hành trình đức tin đó còn dạy tôi biết cách sẻ chia đức tin với các anh chị em đang đồng hành cùng tôi trên con đường ấy.”

Năm 2002, cô gái xuân xanh phơi phới này tao ngộ anh Enrico Petrillo tại thánh địa Mễ Du (Medjugorje, trước kia thuộc nước Nam Tư, nay thuộc nước Bosnia và Herzegovina). Chiara kể:

“Mười tám tuổi, trong một lần hành hương, tôi gặp Enrico và vài tháng sau chúng tôi đính hôn. Thời gian đính hôn dài gần sáu năm. Trong thời gian đó Chúa thử thách đức tin của tôi và những giá trị tôi tin tưởng. Sau bốn năm, cuộc đính hôn bắt đầu lung lay để rồi tan vỡ. Những lúc ấy lòng tôi khổ đau và tôi phản kháng lại Chúa vì nghĩ rằng Chúa không lắng nghe những lời tôi cầu nguyện; rồi tôi tham dự một khóa học về ơn gọi (a vocational course) tại Assisi [thuộc tỉnh Perugia, nước Ý]. Tại đó tôi tìm thấy sức mạnh để khởi đầu khôi phục lòng tin Chúa. Tôi cũng bắt đầu nối lại những lần hò hẹn với Enrico và cả hai chúng tôi đều được một vị giám đốc linh hướng giúp đỡ.”

Chiara diễn bày hành trình khôi phục đức tin Chúa như sau:

“Cuộc đính hôn không có kết quả tốt đẹp cho tới khi tôi ngộ ra Chúa chẳng tước đoạt của tôi bất kỳ điều gì, mà trái lại Chúa đang ban cho tôi mọi thứ và chỉ có Chúa mới biết ai là người để tôi sẻ chia cuộc sống đời tôi. Trước lúc ngộ ra như thế, tôi mờ mịt chẳng hiểu chi hết! Sau cùng, khi đã giải thoát khỏi những ước vọng tự gây tạo cho bản thân, bằng nhãn quan mới mẻ, tôi có thể nhìn thấy những gì Chúa muốn dành cho tôi. Không lâu sau đó, mặc kệ những điều từng ước vọng, vượt qua những sợ hãi, chúng tôi quyết định cưới nhau.”

Ngày 21.9.2008, Chiara hai mươi bốn tuổi trở thành “bà Chiara Corbella Petrillo.” Sau lễ cưới không lâu, Chiara mang thai. Bất hạnh thay, ngay trong lần siêu âm đầu tiên, thầy thuốc chẩn đoán bé Maria bị dị tật khuyết não (anencephaly)! Hai vợ chồng trẻ dũng cảm chấp nhận giữ lại đứa con đầu lòng bạc phước để rồi khoảng hơn kém nửa giờ sau khi con gái chào đời, họ đọc kinh đưa tiễn linh hồn bé nhỏ trở về với Chúa.

Mấy tháng sau, Chiara mang thai lần thứ hai. Kết quả siêu âm lần này cũng chẳng có gì tốt đẹp: Bé trai thiếu đôi chân! Nhưng Enrico và Chiara vẫn cam lòng vác thánh giá thêm lần nữa. Họa vô đơn chí! Khi thai nhi được khoảng bảy tháng, kết quả siêu âm cho thấy cháu bị các dị tật về phủ tạng (visceral malformations) do thiếu hai chân và sẽ không có nhiều khả năng sống sót. Mặc kệ, hai vợ chồng trẻ vẫn kiên quyết giữ lại thai nhi. Ngày Davide lọt lòng cũng chính là ngày cháu lập tức rời khỏi bố mẹ vĩnh viễn, để nối gót Maria tìm về Nước Chúa.

Chiara vẫn không nguôi khao khát làm mẹ. Chị mang thai lần thứ ba, siêu âm xác định thai nhi bình thường, bé Francesco sẽ sinh ra khỏe mạnh... Trớ trêu thay! Cái tin rất vui đó không có nghĩa là hai vợ chồng trẻ không còn phải vác thánh giá thêm lần nữa. Bởi lẽ, khi Chiara mang thai được năm tháng, các thầy thuốc phát hiện chị bị tổn thương ở lưỡi, chính là bệnh ung thư biểu bì (carcinoma).

Bất chấp tất cả sự thật phũ phàng, Chiara và Enrico chỉ muốn bảo vệ con trẻ lành lặn. Để không gây ảnh hưởng xấu tới sức khỏe thai nhi, Chiara kiên quyết không chữa bệnh cho bản thân, đồng nghĩa với việc tự đặt tính mạng chị vào sự nguy hiểm. Muốn phẫu thuật, hóa trị hay xạ trị cho Chiara, thì phải đợi sau khi Francesco đã lọt lòng mẹ an toàn.

Qua hồi ức tháng Giêng 2011, Chiara tâm sự:

“Trong đời sống hôn nhân chúng tôi, Chúa ban cho vợ chồng tôi hai đứa con rất đặc biệt: Maria Grazia Letizia và Davide Giovanni. Chúa yêu cầu chúng tôi đồng hành cùng hai bé chỉ cho tới lúc hai bé chào đời mà thôi: Chúng tôi đã được ôm ấp hai bé, làm phép rửa cho hai bé và phó thác hai bé vào đôi tay của Cha với lòng an lạc lạ thường. Giờ đây Chúa tin tưởng giao phó cho chúng tôi đứa con trai thứ ba là Francesco, khỏe mạnh và cháu sẽ chào đời. Đồng thời Chúa yêu cầu chúng tôi hãy tiếp tục tin cậy Chúa bất chấp căn bệnh ung thư vừa phát hiện ở tôi cách đây vài tuần. Bệnh ung thư này đang cố làm cho chúng tôi sợ hãi tương lai, nhưng chúng tôi tiếp tục tin rằng lần này Chúa cũng sẽ làm những điều kỳ diệu.”

Cả ba lần mang thánh giá liên tiếp như vậy, hai vợ chồng trẻ đều giữ nụ cười tin tưởng, nhẫn nại phó thác cuộc sống của họ vào sự quan phòng của Chúa. Họ chấp nhận mọi chén đắng Chúa đã trao ban, tin tưởng rằng không có cái gì là ngẫu nhiên, là tình cờ xảy ra trong đời mình. Hàng ngày họ lần chuỗi mân côi, đọc kinh cầu nguyện Đức Mẹ Maria, và hiến dâng các bé Maria, Davide và Francesco lên Đức Mẹ...

Vì hy sinh cho sinh mệnh con trai, thể xác Chiara không ngừng bị căn bệnh ung thư hủy hoại. Chị nói chuyện rất khó khăn, chẳng những thị lực sa sút mà còn hỏng cả mắt phải. Nhưng chị không hề đánh mất nụ cười của mình.

Một hôm, Chiara ngồi trên xe lăn, đang trìu mến ngắm tượng Chúa thì Enrico lấy hết can đảm để hỏi vợ một câu mà bấy lâu anh chẳng dám hở môi. Nhớ đến lời Chúa chép trong Kinh Thánh (Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng - Mt 11,30), thế nên anh hỏi: “Cái ách này, thánh giá này, có thật sự êm ái như Đức Giêsu bảo không, hở em?”

Với nụ cười vừa nở trên miệng, Chiara quay lại nhìn chồng và nói khẽ: “Có đấy, anh Enrico à, rất êm ái.”

Hai mươi tám tuổi, Chiara qua đời ngày 13.6.2012, trong nhà mình, với gia đình và người thân vây quanh, để lại bé trai Francesco một tuổi. Cuộc đời chị được hai bạn thân là Simone Troisi và Cristiana Paccini viết thành sách (tiếng Ý), rồi Charlotte Fasi dịch sách sang tiếng Anh (Nxb Sophia Institute, dày 184 trang). Chính chồng chị là Enrico Petrillo viết lời Tựa. Tháng 9.2015 sách phát hành; đông đảo bạn đọc đón nhận, thương cảm và ngưỡng mộ Chiara. Theo CNA, Sophia Institute, và nhiều trích dẫn trên Internet, có vị hồng y đã gọi Chiara là “một vị Thánh cho thời đại chúng ta / a Saint for our times.”

Huệ Khải

6. Êm ái và thích hợp

Ách là một bộ cương bằng gỗ được dùng để nối cổ hai con bò lại, nhờ đó chúng có thể kéo chung một xe. Người thợ mộc chuốc những cái ách sao cho thích hợp với mỗi con vật để nó khỏi bị đau. Một truyền thuyết kể lại rằng Chúa Giêsu làm những cái ách ở xưởng mộc Nazaeth. Vì vậy, Ngài biết rõ mình nói gì khi tuyên bố “Ách tôi êm ái.” Từ “êm ái” có thể dịch là “rất thích hợp.” Nói khác đi, Chúa Giêsu muốn nói rằng: “Hãy tin tôi và trao ách của anh em cho tôi. Khi hợp tác với nhau, chúng ta có thể kéo bất cứ gánh nặng nào.”

Điều gì ngăn cản tôi tin tưởng? Tôi và Chúa có thể cùng kéo gánh nặng nào?

Chúng ta định hướng cách an toàn qua mọi cơn bão, miễn là trái tim ta tốt, ý định hăng say và niềm tin kết hợp ta với Chúa cách vững bền (Francis de Sales).

7. Sức mạnh của thiên nhiên và con người

Nhiều ngày sau khi chiếc tàu Titanic chìm ở Bắc Đại Tây Dương, một tờ báo đưa ra hai tấm hình trái ngược nhau. Bức đầu tiên chỉ phần con tàu bị đập thủng bởi tảng băng to lớn, với lời chú giải: “Sự yếu đuối của con người và sức mạnh của thiên nhiên.” Bức thứ hai là hình ảnh hành khách nhường chỗ trên tàu cứu nạn cho một phụ nữ với đứa con trên tay, kèm theo lời chú giải: “Sự yếu đuối của thiên nhiên và sức mạnh của con người.”

Có lẽ tôi không hát bài ca ngợi Chúa, vì tôi có khuynh hướng tập trung nhiều vào bức ảnh đầu tiên về chiếc tàu Titanic (sức mạnh của thiên nhiên), và không quan tâm đủ đến bức ảnh thứ hai (sức mạnh của con người được tăng tiến nhờ ơn Chúa) chăng?

“Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.” (2Cr 12,9)

8. Đời là bể khổ

Hai vợ chồng nhà nọ nuôi một con trâu và một con chó. Con chó được ở trong nhà còn con trâu phải ở riêng ngoài chuồng. Mỗi ngày trâu ra đồng cày bừa từ sáng sớm đến chạng vạng tối mới về, còn chó chỉ việc nằm ở cổng rào canh chừng cửa.

Một hôm nọ trâu đi làm về, thấy chó nằm trước cửa nhà phe phẩy cái đuôi trông thật sướng, đang lúc mệt nhoài nó nổi cáu bảo:

- Không có ai sung sướng bằng mày, chỉ ăn rồi nằm. Thật là đồ vô tích sự!

Con chó nghe con trâu hậm hực nặng nhẹ mình thì buồn bã trong lòng, nghĩ trâu tuy to xác nhưng không có trí. Nó bèn nói với trâu:

- Anh trâu không hiểu đâu, tôi nào có sung sướng như anh tưởng. Anh tuy làm lụng nặng nhọc ngoài đồng nhưng có giờ có giấc, sáng ra đồng, chiều lại về, tối còn được nghỉ ngơi, cứ lăn ra mà ngủ. Còn tôi, tuy nằm canh cửa giữ nhà trông có vẻ nhàn hạ hơn anh, nhưng thật sự thì mệt cầm canh đâu có ai biết. Nằm lim dim mà lòng không yên, phải để tâm canh giữ cửa nhà, không dám lơ là công việc.

Nếu ngủ quên hoặc bất cẩn để xảy ra mất trộm thì tôi khó mà sống được. Đêm đêm trong khi mọi người ngon giấc, tôi có được nghỉ ngơi đâu, tôi phải lắng tai nghe ngóng, đưa mắt nhìn trông, hễ nghe có động tĩnh gì thì phải sủa to để cảnh báo.

Lúc chủ nhà vui thì tôi còn được ăn no, chứ khi họ có chuyện buồn bực trong lòng thì bỏ mặc tôi đói khát, không ai để mắt quan tâm. Những lúc sân si nổi lên họ còn trút giận lên đầu tôi không thương tiếc, họ đánh họ đá, xua đuổi, chửi mắng tôi. Mỗi khi bạn bè, người thân của họ đến chơi mà tôi không biết, tôi sủa tôi vồ thì họ đánh tôi, chửi tôi là đồ ngu. Bạn bè họ đến chơi thì không sao, còn bạn bè tôi đến chơi thì bị họ đuổi đi, ném đá đến toạc đầu đổ máu. Ngẫm lại coi, anh và tôi ai sướng hơn ai chứ?

Con trâu nghe nói mới hiểu tình cảm của con chó, nghĩ mà thương nên an ủi:

- Đúng là mày cũng không sung sướng gì. Tao với mày ở chung nhà mà chưa một lần trò chuyện với nhau nên không hiểu nhau. Bây giờ tao đã hiểu nỗi khổ của mày, mày cho tao xin lỗi. Nghe mày nói tao mới biết cả hai chúng ta đều khổ cả.

Đang nói con trâu bỗng nghe tiếng chim ríu rít trên cành cây cao, nó nhìn nên rồi than thở:

- Bọn chim trời cá nước sung sướng làm sao! Chúng có thể tự do tự tại bên ngoài, không bị ai giam cầm quản thúc, không phải làm việc nặng nhọc vất vả, không phải chịu nỗi khổ của kiếp tôi đòi. Giá mà chúng ta có được cuộc sống vui vẻ như thế.

Khi ấy một chú chim nghe thấy lời trâu, bèn đáp lên lưng trâu nói:

- Anh trâu ơi, anh không biết đâu, tôi cũng không sung sướng hơn các anh đâu. Tuy loài chim chúng tôi không phải giữ nhà, không phải đi cày ruộng, không phải chịu cảnh tù túng bó buộc, nhưng chúng tôi cũng có nỗi khổ của mình.

Hiểm họa luôn rình rập chúng tôi, những kẻ thợ săn có thể bắn chết chúng tôi bất cứ lúc nào. Tổ của chúng tôi làm khó khăn vất vả biết bao, chưa chắc ở được lâu vì sự phá hại của con người. Trứng chúng tôi sinh ra chưa kịp nở con thì đã bị con người lấy mất. Loài người biết thương con của mình nhưng nào biết thương con của kẻ khác. Các anh chỉ bị hành hạ, còn tôi bị cướp đi mạng sống của mình, chết rồi còn bị nhổ lông, xẻ thịt,nấu nướng, thân thể không vẹn toàn. Loài người ỷ mạnh hiếp yếu, nào biết tôn trọng sự sống muôn loài.

Các anh có cái khổ của các anh, chúng tôi cũng có cái khổ của chúng tôi, không có ai sung sướng cả.

Bày cá đang ở dưới mé nước nghe trâu nói mình sướng cũng không đồng tình:

- Còn loài cá chúng tôi cũng không sung sướng đâu. Nhà cá chúng tôi thường bị loài người đánh bắt, mỗi lần bị sát hại chết đến cả bầy đàn. Không nơi nào là nơi để chúng tôi yên tâm mà sống, đâu đâu cũng có lưới bủa câu giăng, đâu đâu cũng có bàn tay con người truy bắt.

Trâu nghe chim và cá nói thì ngao ngán thở dài não nuột:

- Hóa ra tụi mày cũng khổ. Hiểu biết của tao hạn hẹp quá nên không biết còn nhiều nỗi khổ trên đời này.

Nói như thế rồi trâu buồn bã đi vào chuồng, nó nằm mông lung suy nghĩ về thân phận của nó và bạn bè. Nó nghĩ, loài nào cũng bị con người hiếp đáp, làm hại. Cuộc đời thật bất công, loài người đối xử tệ bạc với các loài khác mà lại được sung sướng, không phải chịu sự khổ sở nào.

Đang lúc đó bỗng trâu nghe tiếng quăng bát ném đĩa trong nhà vọng ra. Nó lắng tai nghe kỹ mới biết ông bà chủ đang gây gổ. Tiếng ông chủ gào lên:

- Sao tôi khổ đến thế này, không bằng con trâu con chó nữa! Con trâu đi cày còn được nghỉ, còn tôi suốt tháng quanh năm phải bận bịu với nhà cửa, vợ con, cơm áo gạo tiền, làm quần quật đêm ngày không lúc nào rảnh rỗi. Tôi khổ sở như vậy là vì ai? Vậy mà bà vẫn không để cho tôi yên, hễ thấy mặt là hạch sách, càm ràm, đay nghiến. Vừa phải thôi, làm quá tôi cho cả nhà ra chuồng trâu mà ở!

Nghe chủ nhà nói thế trâu bỗng giật mình, bất giác than rằng:

- Hóa ra sống ở trên đời đâu có ai không khổ!

9. Ơn Ta đủ cho con

Bod Richards là nhà vô địch môn nhảy sào thế vận hội Mỹ. Một kỉ niệm đáng nhớ của ông về những ngày thế vận hội, đó là Fred Hansen, một vận động viên nhảy sào người Mỹ khác. Fred rất căng thẳng và lo lắng, vì không đạt thứ hạng cao trong môn nhảy sào. Fred ngừng lại “trong cuộc tranh đua gay cấn” để đọc bức thư trong đó cha của anh nhắc nhở rằng anh có thể được chắp vào đôi cánh đại bàng. Được khích lệ bởi những người trích dẫn sách ngôn sứ Isaia của cha anh, Fred đã nhảy qua được mức xà tiếp theo.

Tôi có nhớ lần nào Thiên Chúa có dùng người khác để đổ tràn ân sủng vào cuộc đời tôi không?

Thiên Chúa đến với mỗi người bằng một con đường riêng (Ralph Waldo Emerson).

10. Thiên Chúa ở ngay bên

Roger Bolduc chết ở Waterville, Maine, sau một căn bệnh ung thư kéo dài. Cho đến lúc chết ông vẫn xem căn bệnh của ông như là một món quà của Thiên Chúa. Ngay trước đó, ông viết: “Nhiều thứ trước đây tôi cho là quan trọng, thì bây giờ chỉ là vụn vặt, Thiên Chúa đã trở nên quá hiện thực. Tôi đã luôn cảm nhận và giờ đây còn cảm nhận hơn nữa sức mạnh và sự gần gũi của Thiên Chúa. Tôi cảm thấy mình được yêu thương.”

Khi nào tôi cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa nhất: Khi thịnh vượng hay lúc rủi ro? Tôi giải thích điều này ra sao?

Vào giữa mùa đông cuối cùng tôi nhận ra rằng trong tôi có một mùa hè không thể nào dập tắt được. (Albert Camus).

11. Sức mạnh của lòng nhân hậu

Những tác phẩm của Thomas Merton vẫn còn tác động mạnh đến suy nghĩ của thế giới. Một ngày nọ, khi ông đang ngồi ngoài trời, một con bướm bay đến đậu trên tay ông. Ông viết: “Chú bướm không bay đi, cho đến lúc cần đến bàn tay, tôi thổi nhẹ (và nó tung cánh bay về khu rừng). Hình ảnh này có một điều gì đẹp đẽ, diu dàng. Đó là điều mà có lẽ Chúa Giê su đã làm.

Sự dịu hiền của Chúa Giêsu khiến tôi tự nhìn lại cuộc sống của mình. Tôi đã đối xử với người khác và với thiên nhiên ra sao?

Chúa phán: “Ta sẽ đổ đầy thần khí Ta trên tôi tớ Ta. Ngài sẽ không bẻ gãy cây lau bị dập, cũng không dập tắt tim đèn còn khói” (Is 42,1-3)

12. Võ công thượng thừa

Các bậc võ sư công phu đã đạt tới mức thượng thừa bao giờ cũng có những ngón đòn ruột, những thế võ bí truyền mà các vị chỉ dạy cho những môn đệ thân tín nhất, những người trung thành và có khả năng kế thừa sự nghiệp của mình. Ngón bí truyền mà Thầy Giê-su dạy chúng ta “hãy học với Chúa” không phải là khả năng làm phép lạ chữa bệnh hay trừ quỉ, càng không phải là tài giảng thuyết hùng biện hấp dẫn. Đó là những đòn tuyệt chiêu đem lại chiến thắng trước kẻ thù hung hãn nhất là ma quỉ.

 · Đòn số Một: Hiền Lành, đòn này có thể khuất phục tất cả mọi thứ bạo lực.

· Đòn số Hai: Khiêm Nhường, liên hoàn với đòn số một, có khả năng hoá giải được cả nọc độc kiêu căng của ma quỉ.

Lắm khi chúng ta tưởng lầm rằng hiền lành và khiêm nhường là dấu hiệu của sự yếu đuối, khiếp nhược hèn hạ. Xin bạn nhớ cho rằng nhờ hiền lành và khiêm nhường mà Thầy Giê-su đã tiêu diệt được tội lỗi và sự chết. Cứ chiêm ngắm cuộc đời và nhất là cuộc thương khó của Ngài thì rõ.

13. Biết Chúa hết khổ

Có một đề thi dành cho các thí sinh đau khổ thuộc mọi lứa tuổi như sau: “Bạn hãy chứng minh bạn khổ.”

Thí sinh thứ nhất, một người đàn ông chừng sáu mươi, chứng minh: Tôi lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo. Bố mẹ tôi quanh năm ‘bán mặt cho đất – bán lưng cho trời’. Vì nhà nghèo nên tôi phải nghỉ học sớm để đi làm kiếm tiền mưu sinh. Nghĩ mà tủi thân!.

Thí sinh thứ hai, một phụ nữ trẻ, dẫn chứng: Tôi là người kém sức khoẻ. Từ nhỏ đã hay đau yếu. Mỗi lần trái gió trở trời là tôi lại xụt xịt. Rất khó chịu!.

Thí sinh thứ ba, một thanh niên tuổi chừng hăm mấy, viết ngay không chần chừ: Tôi chẳng có tài cán gì. Giữa đám đông bạn bè, tôi chẳng biết ca hát. Mấy đứa bạn cứ trêu chọc bảo tôi giọng ngang như cua bò. Bực tức và chán ghê!.

Thí sinh thứ tư toan đặt bút xuống viết thì khựng lại. Rồi anh suy nghĩ có vẻ rất căng thẳng. Cuối cùng, quyết định nộp giấy trắng.

Kết quả cuộc thi: Ba thí sinh đầu tiên được 1 điểm an ủi vì đã có… công viết. Còn thí sinh thứ tư thì phải lên gặp thầy để trình bày rõ lý do tại sao lại để giấy trắng.

Trong giờ sửa bài, giáo sư nhận xét chung:

- Các bạn không được điểm cao vì bài các bạn không thể hiện được tư duy sâu sắc. Các bạn chỉ liệt kê những điều không như ý xảy ra trong cuộc đời. Ai cũng làm được như thế. Thực ra nó không đủ chứng minh rằng các bạn khổ vì góc nhìn đó quá hẹp.

Rồi giáo sư quay sang thí sinh thứ tư và hỏi:

- Tại sao bạn để giấy trắng?

- Thưa giáo sư, thoạt đầu tôi cũng có khuynh hướng vội vàng liệt kê như các bạn kia. Nhưng tôi chợt giật mình…

- Sao bạn lại giật mình?

- Dạ, xin cho phép tôi đứng lên trước mọi người để trình bày được dễ dàng hơn.

Thế rồi cậu khập khiễng bước lên trên. Quay xuống nhìn mọi người, cậu nở một nụ cười thân thiện. Người ta thấy mặt cậu một bên bị nám đen. Cậu nói:

- Hồi tôi còn nhỏ, bố mẹ phải đi làm ngoài đồng, chỉ có chị tôi và tôi ở nhà. Một hôm, chị đang nấu cơm thì bị cháy nhà. Như quý vị thấy, tôi bị phỏng nặng, bây giờ vẫn còn dấu cháy trên mặt. Năm tôi lên bảy, bố tôi qua đời. Một buổi tôi đi học, một buổi tôi phải đi bán vé số ở khu chợ gần nhà để phụ mẹ. Cách đây ít năm, trên đường đi nhà thờ về, có một chú kia nhậu say lái xe tông vào tôi khiến chân tôi bị tật từ hồi đó. Bây giờ mỗi khi trời trở lạnh, chân tôi cũng khá đau. Gần đây, tôi thú thật là tôi yêu một người con gái, nhưng tôi thế này thì làm sao xứng với người ta được!

Trong phòng lúc ấy có nhiều người. Giọng cậu yếu ớt nhưng ai cũng nghe rõ vì bầu khí lặng im đến lạ thường.

- Nhưng sao bạn không viết những điều đau khổ này vào bài thi?

- Dạ không, vì tôi giật mình. Tôi giật mình khi tôi chợt nhớ lại lời của bạn tôi trong nhà thờ hôm Chúa Nhật. Anh ấy nói với mấy người nghèo khổ rằng: “Anh em thật có phúc.” Thế là tôi khựng lại để suy nghĩ. Rồi tôi nhận ra: để chứng minh tôi thực sự khổ thì tôi phải chứng minh cho được rằng tôi không có gì để hạnh phúc.

Mọi người càng chăm chú. Vị giáo sư lên tiếng:

- Hay! Xin lỗi bạn, tôi không phải là Kitô hữu, vậy cho tôi hỏi anh bạn gì gì đó của bạn nói như thế nào về việc may phúc khiến bạn thay đổi cách nhìn như thế?

- Dạ thưa giáo sư, bạn tôi tên là Giêsu. Anh ấy nói: “Mắt anh em thật có phúc vì được thấy những điều đang thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe những điều đang nghe. Nhiều người mong mỏi được như anh em mà không được.” (Mt 13:16-17) Thưa giáo sư, lúc ấy tôi chợt nhìn thấy và nghe được nhiều điều may mắn trong cuộc sống của tôi. Tôi có mẹ có chị. Nhà chúng tôi tuy chẳng kín cổng cao tường nhưng đùm bọc nhau ấm áp. Tôi có trái tim biết rung động. Tôi có lòng quảng đại. Tôi có lương tâm. Tôi có bạn bè nói chuyện. Tôi có nhiều người cầu nguyện cho tôi. Tôi được đi học. Tôi có trí khôn để nhận ra trong cái xui có cái hên, tức là trong nghịch cảnh có ân sủng. Ví dụ: Vì lớn lên trong cảnh khó khăn, tôi thấy mình biết cảm thương với người nghèo hơn. Vì mang tật nguyền trên mình, tôi hiểu được nỗi đau của tha nhân. Vì thấy mình giới hạn, tôi đặt niềm tin vào Chúa nhiều hơn. À, cuối tuần nào tôi cũng được cùng mẹ và chị đi Lễ với bà con chòm xóm để nghe Lời Chúa. Vui lắm!

Bạn thân mến, nếu bạn cùng chia sẻ cách nhìn cuộc đời của thí sinh thứ tư này, mời bạn trở lại với lời của Thầy Giêsu khi Thầy nói các môn đệ thật diễm phúc. Tụi mình đây, so với các môn đệ hồi đó, không chừng còn có phúc hơn các ngài vì tụi mình nghe và nhìn thấy nhiều điều hơn. Trong những điều diễm phúc thí sinh này nêu lên, mình muốn dừng lại thêm một chút ở diễm phúc được biết Chúa và nghe Lời Chúa. Tuy tuổi đời còn non trẻ, mình đã được cơ hội nghe nhiều người, đặc biệt những ai đã từng trải qua đau khổ, tâm sự rằng: “Không có Chúa hiện diện, tôi không biết mình sẽ ra sao khi gặp bế tắc. Không có Lời Người hướng dẫn, tôi không biết sẽ làm gì khi gánh đời trĩu nặng, khi cô đơn lạc lõng, khi vất vả chán chường…. Trải qua nhiều biến cố thăng trầm, tôi nhận ra rằng điều may mắn nhất của tôi trên đời này là được biết Chúa.”

THỨ NĂM - GIOAN TẨY GIẢ ĐƯỢC CHÚA KHEN

Lời Chúa: Mt 11, 11-15

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Ta bảo thật các ngươi, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả, nhưng người nhỏ nhất trong nước trời lại cao trọng hơn ông.

Từ thời ông Gioan Tẩy Giả đến giờ, nước trời phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy, và những kẻ mạnh mẽ can đảm mới chiếm được. Tất cả các tiên tri và lề luật đã tuyên sấm cho đến Gioan và nếu các ngươi muốn hiểu, thì chính Gioan là Elia, kẻ phải đến.

Ai có tai, thì hãy nghe!"

TRUYỆN KỂ

1. Ai có tai thì hãy nghe

Lustiger là người Do Thái đã từng chứng kiến cảnh phân biệt chủng tộc và việc Đức quốc xã tiêu diệt người Do Thái. Là người Do Thái, nhưng có bạn là người Công giáo, một hôm theo bạn đến nhà thờ và từ đó muốn trở lại Công giáo. Anh muốn thuộc về Chúa và dâng hiến cuộc đời cho Chúa. Mặc dù ông bố không chấp thuận, nhưng anh nhất quyết đi tu để phục vụ người nghèo khổ, yếu đuối.

Năm 1954, thụ phong linh mục. Năm 1964 được chọn làm Giám mục và được đề cử về làm Tổng Giám mục Paris. Bị một số người bất bình phản đối, nhưng ngài vẫn kiên vững trong đức tin và quan tâm phục vụ mọi người.

Bài Tin Mừng hôm nay nói đến một con người đặc biệt, có sứ mệnh chuẩn bị tâm hồn người Do Thái đón nhận Chúa, con người ấy là Gioan Tẩy giả. Kể từ khi gặp Chúa Giêsu, nhất là từ khi bị Hêrôđê tống ngục, cố gắng quan trọng của Gioan là làm sao cho môn đệ của ông nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Thiên sai.

2. Muốn vào hàng trai tráng.

Trong nhiều bộ lạc Da Đỏ Mỹ Châu, họ hay có nghi thức huấn luyện và thu nhận thiếu niên vào hàng ngũ trai tráng trong làng. Người ta tổ chức như sau: Khi mặt trời sắp lặn, người bố sẽ dắt đứa con của mình vào sâu trong một cánh rừng. Đứa bé được trao cho một cây lao với lời nhắn nhủ: “con sẽ ở một mình trong rừng đêm nay." Sau đó người bố rút lui.

Màn đêm buông xuống rất nhanh. Không gian chập chờn với bao tiếng gầm rú rợn rùng. Người ta dễ có cảm tưởng đang bị thú dữ rình chờ tấn công. Thỉnh thoảng, vài tiếng vỗ cánh của con chim ăn đêm cũng có thể làm cho người yếu vía giật mình. Thời gian chậm chạp trôi qua. Mỗi giây phút là cả một khoảng dài vô định.

Nhưng cuối cùng, màn đêm cũng rút lui. Bầu trời từ từ bừng sáng. Nỗi sợ hãi của đứa bé cũng phai mờ theo. Từ trong một lùm cây, một bóng người xuất hiện: cha của đứa bé. Đứa bé nhận ra và vui mừng chạy đến ôm chầm lấy bố, reo lên: “Bố đã trở lại." Người cha sẽ hãnh diện khi thấy con mình trải qua đêm đen như một người trưởng thành. Đứa bé không hề biết rằng suốt đêm qua cha nó không ngừng trông chừng nó.

3. Ai mạnh sức thì chiếm được

Nhà giam chìm ngập trong khói lửa. Gió xô rạp những cành cây khẳng khiu, ngập ngụa trong khói đen dầy đặc. Bọn quan, lính chạy lăng xăng canh giữ mọi cửa nhà giam. Làng xóm lịm đi trước cuộc tàn sát dã man. Ba trăm giáo dân xứ Thơm tỉnh Bà Rịa bị thiêu đốt trong lửa đỏ. Họ đã chiến thắng và chiếm lĩnh Nước Trời bằng chính mạng sống mình.

Có những lúc tôi đã không dám làm dấu thánh một cách nghiêm túc trước bữa ăn ở nơi có đông người. Tôi vẫn thường yếu đuối như thế khi phải tuyên xưng lòng tin, lòng cậy trông nơi Chúa của mình.

4. Hy sinh vì sứ mạng.

Một nông dân đi xe ngựa ra phố. Đến một cửa tiệm, ông dừng xe vào mua đồ. Ông vừa tới cửa thì con ngựa hí lên và bỏ chạy. Ông vội vàng chạy ra xiết chặt dây cương.

Con ngựa càng hoảng sợ hơn và chạy tứ tung trên đường, kéo theo người nông dân tội nghiệp. Dân chúng đổ xô ra, đến khi ghìm được ngựa thì người nông dân bê bết máu và thoi thóp thở. Một người nói:

- Sao mà ông dại dột hy sinh đời mình vì con ngựa và chiếc xe như thế?

Ông thều thào:

- Cứ nhìn vào trong xe thì biết!

Họ nhìn vào và thấy đứa con nhỏ của ông còn đang ngủ.

Người nông dân hy sinh vì đứa con. Gioan Tẩy Giả hy sinh vì sứ mạng.

5. Gieo và gặt

Một mùa xuân, anh nông dân đứng bên cạnh thửa ruộng, đưa mắt nhìn những luống cày thân yêu đang phơi mình dưới ánh sáng và tự hỏi:

- Năm nay, hỡi mảnh ruộng của ta, mi có đem lại cho ta cái gì chăng?

Những mảnh ruộng kia lại trả lời bằng một câu hỏi khác:

- Nhưng thưa ông, trước hết ông hãy cho tôi biết ông định cho tôi cái gì đã?

Người bạn trẻ cũng dừng bước trước cánh cửa nhiệm mầu của đời sống và cũng hỏi một lời tương tự:

- Hỡi đời sống, mi có dành cho ta cái gì không? Cái gì sẽ chờ đợi ta từ năm này sang năm khác?

Nhưng đời sống sẽ đáp lại chàng trẻ tuổi:

- Hỡi anh, điều đó còn tùy ở những gì anh cho tôi, phần của anh sẽ được xứng với công việc của anh. Anh sẽ hái quả của hạt giống anh gieo.

6. Nước Trời thuộc về người có sức mạnh

Vào thời kỳ cấm đạo đẫm máu trong thế kỷ thứ nhất của đạo Thiên Chúa, một người dân quê tên là Barlaam bị bắt và bị dẫn ra trước tượng thần Jupiter.

Người ta giục anh: "Hãy bỏ hương vào lửa rồi dâng cúng cho Thần Linh chúng ta đi!"

- "Không"! Anh trả lời.

Người ta bắt đầu hành hạ anh, nhưng anh vẫn đứng im. Người ta nâng tay anh lên trên ngọn lửa, người ta nhét hương vào bàn tay anh và bảo anh chỉ có việc bỏ rơi hương xuống lửa:

- Hãy bỏ hương xuống, mày sẽ được tự do!

- Không.

Barlaam, người dân quê đó vẫn trả lời như thế. Anh vẫn đứng im, tay giơ lên ... ngọn lửa bốc mạnh liếm hẳn vào bàn tay anh, hương bắt đầu bén khói, nhưng anh vẫn không động đậy ...

Bàn tay anh bị cháy xém với hương, nhưng Barlaam thà chịu chết vì Đạo còn hơn chối Chúa.

7. Mang một dòng máu

Chắc nhiều người Việt còn nhớ vào năm 1972 chuyện tổng thống Bokassa người Phi Châu. Thời gian ở Việt Nam, Bokassa có yêu và làm đám cưới với cô Nguyễn Thị Huệ. Việc lấy được một người lính lê dương làm chồng đã giúp bà Huệ có một cuộc sống khá thoải mái. Tuy nhiên, khi Pháp thua trận tại Điện Biên Phủ, phải ký hiệp định đình chiến ngày 20/7/1954, rồi rút quân đội về nước, thì Bokassa lúc này cũng phải theo đoàn quân thua trận của Pháp lên tàu về nước, để lại cái thai trong bụng bà Huệ, không biết là gái hay trai!

Sau khi chồng về nước, bà Huệ phải một thân một mình tự bươn chải, sống một cuộc sống nghèo khổ. Martine lớn lên cũng chỉ biết mặt bố mình qua một số bức ảnh kỷ niệm mà bà Huệ còn giữ lại. Vào thời điểm ngay trước khi có thông tin Tổng thống Bokassa đi tìm người con rơi ở Sài Gòn thì Martine đang làm… bốc vác cho nhà máy xi măng Hà Tiên, gần Thủ Đức. Những lúc rảnh thì lại đi làm… phu thợ hồ để kiếm thêm thu nhập!

Khi lên làm Hoàng đế Bokassa của nước Trung Phi, và bằng con đường ngoại giao ông nhờ tìm đứa con lạc loài, đã thể hiện tinh thần trách nhiệm, một người đàn ông có đạo đức, khiến cho mọi người xúc động, cảm kích. Lúc ấy, có rất nhiều bà dẫn con đến tòa Đại sứ Trung Phi nhận là vợ - con ông Bokassa. Nhưng nhờ khoa học người ta đã xác định ai là con thật của vị Hoàng đế này. Đó là bà Huệ và cô con gái Martine ở Tân Thuận Đông. Thế là mẹ con bà từ kiếp sống bần cùng, xã hội không ai quan tâm, nghiễm nhiên trở thành hoàng hậu và công chúa. Khi cô Martine được đón sang Trung Phi, thời gian sau được người giàu có đến cầu hôn, trong đám cưới ấy, VN phải cử đại diện sang chúc mừng.

8. Ơn gọi chứng nhân

Cha của một cậu bé 4 tuổi nằm mơ thấy con mình hiện giờ là một thiếu niên. Cậu đi bộ xuống đường và đột nhiên rẽ vào một con đường tối. Khi cậu biến mất trong sương mù, cậu la lên: “Cha chẳng bao giờ dạy cho con nẻo đường ngay thẳng.” Giấc mơ sống động đến mức làm ông thức dậy. Cảm thấy bối rối, ông đánh thức vợ và kể cho bà nghe sự kiện này. Trước khi ngủ lại, họ quỳ gối cầu nguyện cho đứa con trai của họ và quyết định dạy con nẻo đường ngay thẳng.

Tôi xác tín thế nào việc Thiên Chúa đã chọn tôi để hướng dẫn người khác, nhất là những người trẻ?

Trẻ con không bao giờ muốn nghe, nhưng lại luôn bắt chước người lớn (James Baldwin)

THỨ SÁU - CHỦ QUAN, PHIẾN DIỆN

Lời Chúa: Mt 11, 16-19

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Ta sẽ so sánh thế hệ này với ai? Họ giống như bọn trẻ ngồi nơi phố chợ, gọi lũ trẻ khác mà rằng: "Chúng tôi thổi sáo, sao các bạn không múa nhảy; chúng tôi than vãn, sao các bạn không khóc lên!" "Vì Gioan đến, không ăn không uống, thì họ nói: "Ông ta phải quỷ ám!"

Con Người đến, ăn uống giống như thường, thì họ nói: "Ðó là người mê ăn mê uống, là bạn của quân thu thuế và những kẻ tội lỗi."

Nhưng sự khôn ngoan được biện minh bằng các công việc của mình."

TRUYỆN KỂ

1. Phiến diện và chủ quan

Âu dương tử, một học giả Trung hoa có viết câu chuyện sau:

Giáp hỏi Ất: Lấy đồng đúc thành chuông, đẽo gỗ làm cái dùi, lấy dùi đánh vào chuông, thì tiếng kêu phát ra đó do gỗ hay do đồng?

Ất đáp: Lấy dùi gõ vào tường vách thì không kêu, mà gõ vào chuông lại kêu, vậy tiếng kêu do bởi đồng.

Giáp lại hỏi: Lấy dùi gõ vào đồng tiền bằng đồng thì không kêu, vậy có chắc tiếng kêu là do đồng chăng?

Ất đáp: Đồng tiền đặc, cái chuông rỗng, vậy tiếng kêu phát ra là do các vật mỏng.

Giáp hỏi tiếp: Lấy gỗ, lấy đất sét khoét làm chuông, đánh lên đâu có boong boong, thế thì có chắc gì tiếng kêu phát ra là do đồ vật rỗng?

Cuộc tranh luận nếu cứ đà ấy sẽ kéo dài lẩn quẩn và chẳng có câu giải đáp nào thỏa đáng, nếu họ chỉ nhìn vấn đề một cách chủ quan, phiến diện, chỉ giải quyết vấn đề từng góc cạnh riêng rẽ.

2. Trò chơi có của trẻ Do Thái

Chúa lấy trò chơi của trẻ em Do thái để nói lên ý của Ngài: Các em thường được chia làm hai phe, một bên xướng câu tiểu khúc điệu vui hoặc điệu buồn, rồi bên kia đáp lại: Nếu xướng điệu ca buồn giả làm đám ma, thì bè bên kia than khóc, đấm ngục rên xiết. Nếu bè bên này xướng ca vui giả vờ làm đám cưới thì phe bên kia vui hát nhảy múa hòa nhịp. Nếu hai bên xướng đáp hòa hợp như vậy thì trò chơi rất vui.

Nhưng nhiều khi gặp những kẻ khó nết lì lợm, hay theo ý riêng, không hòa hợp thì làm cho trò chơi mất vui: vì “chúng tôi thổi sáo mà các anh không nhảy múa” ... !

3. Lấy mình làm chuẩn mực

Trong một lá thư gửi các chủng sinh, Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI viết như sau: ”Đời sống tập thể không chỉ cần thái độ quảng đại, bao dung và chịu đựng lẫn nhau, nhưng điều quan trọng là làm cho nhau được thêm phong phú, đến độ mỗi người có thể đóng góp năng khiếu riêng của mình cho tập thể, trong khi tất cả đều phục vụ cùng một Giáo hội, cùng một Chúa."

Hôm nay, Đức Giêsu phê phán những người Do thái vì thái độ tự cho mình là chuẩn mực và bắt người khác phải làm theo ý mình, lấy mình làm khuôn vàng thước ngọc bắt người khác noi theo. Khi dựng nên con người, Thiên Chúa trao cho mỗi chúng ta những “nén bạc” khác nhau (x. Lc 19,13). Chắc chắn rằng, mỗi người sẽ đáp lại hồng ân ấy theo những cách thức khác nhau, tùy theo khả năng Chúa ban.

4. Giá trị không theo dáng vẻ

Một hôm, hoàng tử gọi vào đền vua một người lái buôn chuyên nghề bán ngựa. Ông ta dẫn đến trước mặt hoàng tử hai con ngựa bạch đã được huấn luyện rất kỹ đề hoàng tử kén chọn. Bề ngoài, hai con ngựa trông giống hệt nhau, nhưng con này gấp đôi giá con kia. Hoàng tử liền gọi các quan cận thần đến mà bảo:

- Ta có thể tặng hai con ngựa này cho ai giải thích cho ta biết tại sao con ngựa này giá gấp đôi giá con ngựa kia?

Các quan cận thần đến gần hai con ngựa và quan sát thật kỹ, nhưng không một ai nhận ra có điều gì khác biệt. Thấy vậy, hoàng tử cho gọi hai người lính hầu đến và sai họ cưỡi lên hai con ngựa, hy vọng rằng các quan cận thần sẽ nhận ra giá trị của mỗi con. Sau mấy vòng phóng ngựa chung quanh sân, không ai trong các quan nhận ra sự khác biệt về giá trị của hai con ngựa. Cuối cùng, hoàng tử phải lên tiếng giải thích cho họ:

- Chắc các ngươi đã nhận ra rằng: trong khi ngựa chạy quanh sân, con ngựa thứ nhất không để lại dấu vết gì đằng sau, nó chạy cách nhẹ nhàng như bay. Trái lại, con ngựa thứ hai để lại lớp bụi bay ngợp trời, chính vì lý do đó mà con ngựa thứ nhất có giá trị gấp đôi con ngựa thứ hai.

5. Theo Chúa

Đại văn hào Rabbindranath Tagore mặc dù không phải là người Công giáo nhưng ông rất yêu mến Chúa Giêsu. Đây là câu chuyện ông viết ra để cho người ta biết khi theo Chúa thì người ta phải sống như thế nào.

"Sáng hôm nay, con được làm bạn đường cùng đi với Chúa về làng. Con cứ thắc mắc mãi: ở nhà quê thì có cái gì vui đâu mà lại đi tổ chức ... du lịch?

Vậy mà ngang qua một bờ đê, Chúa đã dừng lại để lội xuống ruộng, đón lấy tay cày đằng sau con trâu gầy còm của một bác nông dân. Rồi Chúa lại còn cùng tát nước với họ vào một mảnh ruộng khác đang khô nước. Chúa làm một cách say mê vui vẻ trong khi nắng đã lên cao, trời nóng dần đến mức như đổ lửa... Con cũng đành phải làm theo Chúa mà miệng thì cứ lẩm bẩm: đúng là đang đâu lại đi chuốc vào thân những vất vả cực nhọc! Rõ khổ!

Đến quá trưa, Chúa chia tay với những người dân cày chất phác và vui tính sau khi uống một bát nước vối họ mời. Chúa quay lại bảo con: "Nào, chúng mình về một khu ngoại thành đi!" Con cứ ngỡ Chúa sẽ vào một quán nước có máy lạnh dành cho khách du lịch để nghỉ ngơi ...

Vậy mà, vừa gặp một tốp thợ đang thi công một đoạn quốc lộ, Chúa lại ghé vào, xắn tay áo xin cùng làm với họ. Chúa cũng xúc đá, cũng gánh sọt cát trên vai hoặc lăn một thùng hắc ín đến lò nấu dã chiến bên vệ đường với họ ... Cứ thế, Chúa vừa làm vừa trò chuyện thân tình với họ, mặc cho mồ hôi muối túa ra ướt đẫm cả lưng áo. Con lại cũng đành phải làm theo Chúa, cố tình chọn một việc nhẹ nhất cho đỡ mệt. Hơi sức đâu mà đánh liều với thứ công việc khổ sai như thế.

Sập tối, Chúa chia tay với cánh thợ bộc trực và gân guốc, sau khi rít một điếu thuốc rê với họ. Chúa lại bảo con đi tiếp đến một thị trấn nhỏ gần đó. Con cứ ngỡ phen này Chúa sẽ tìm một khách sạn để nghỉ ngơi và dùng cơm tối ... . Đói bụng lắm rồi còn gì.

Thế mà khi ngang qua một vùng ven thị trấn, Chúa lại bảo con ghé vào thăm một làng phong. Ở đây, Chúa đã ngồi xuống bên những bệnh nhân tật nguyền, xúc cơm, đổ thuốc, lau mặt, thay áo cho họ, mặc cho những vết thương lở loét của họ bốc lên mùi hôi tanh ghê sợ. Chúa còn đến tận giường để an ủi nâng đỡ một cụ già đang hấp hối sau cả một đời gánh chịu căn bệnh đau đớn cùng với những nỗi tủi nhục vì bị con cháu và xã hội xua đuổi. Con cũng đành phải làm theo Chúa, nhưng chỉ là phụ giúp giặt khăn, rót nước hoặc lấy bông băng đưa cho Chúa mà thôi.

Mãi đến khuya, Chúa mới chịu chia tay với những người phong cùi sau khi vuốt mắt cho cụ già vừa qua đời.

Về lại thành phố, con đang thầm lo: không biết Chúa còn định đi những đâu nữa đây, khổ quá đi mất! Du lịch mà cứ như là một chuyến công tác xã hội từ thiện. Biết vậy, hôm nay con đã chẳng nhận lời theo Chúa đi lang thang vật vã như thế này.

Thế rồi, ngang qua một nguyện đường nhỏ bé của một dòng tu, Chúa bảo con: "Mình cùng vào cầu nguyện một chút nhé" Con thở phào yên tâm. Nhưng tối khuya thế này, ai mà mở cửa cho vào? Không ngờ Chúa dừng lại trước cánh cửa lớn nhà thờ, quỳ xuống thềm và bắt đầu cầu nguyện với Thiên Chúa là Cha của Ngài: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha giấu không cho các người khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha ... " (Lc 10,21)

Đến lúc này thì con mới chợt hiểu tất cả ... để lặng lẽ quỳ xuống bên Chúa, lòng bật lên lời tâm nguyện:

"Con cố gắng cúi mình khiêm nhu,
xuống dấu chân nơi Ngài dừng lại
nhưng sâu hút vô ngần Ngài ơi,
vẫn không sao chạm được ... " (Thơ R. Tagore)

6. Dần người khác theo Chúa

Cha của một cậu bé 4 tuổi nằm mơ thấy con mình hiện giờ là một thiếu niên. Cậu đi bộ xuống đường và đột nhiên rẽ vào một con đường tối. Khi cậu biến mất trong sương mù, cậu la lên: “Cha chẳng bao giờ dạy cho con nẻo đường ngay thẳng.” Giấc mơ sống động đến mức làm ông thức dậy. Cảm thấy bối rối, ông đánh thức vợ và kể cho bà nghe sự kiện này. Trước khi ngủ lại, họ quỳ gối cầu nguyện cho đứa con trai của họ và quyết định dạy con nẻo đường ngay thẳng.

Tôi xác tín thế nào việc Thiên Chúa đã chọn tôi để hướng dẫn người khác, nhất là những người trẻ?

Trẻ con không bao giờ muốn nghe, nhưng lại luôn bắt chước người lớn (James Baldwin)

7. Lúc nào cũng đúng

Một bộ phim hoạt hình cho thấy một người thợ săn Châu Âu khoác lác về tài thiện xạ của mình với nhóm thổ dân trên một hòn đảo. Ngay lúc đó một con chim bay trên đầu, anh ta khoác lác la lên: “Nhìn đây!” Anh ta bóp cò súng, nhưng con chim vẫn bay. Anh ta sợ hãi nói: “Này các bạn, các bạn đang chứng kiến một cảnh hiếm có: con chim vẫn bay, dù đã chết.”

Nhận định của thiên hạ đối với Chúa Giêsu và người thợ săn đối với nhóm thổ dân cho thấy điều gì đã xảy ra khi chúng ta khép kín trước thực tế: chúng ta không thấy được bản chất đích thực của sự việc. Điều gì gợi lên câu hỏi: có thể có lúc nào trong đời, tôi khép kín trước thực tế không?

Trái tim có cách để mách bảo lý trí những gì nó muốn.

8. Tùng xẻo Thiên Chúa

Thần thoại Hy lạp có kể câu chuyện một tên tướng cướp biệt danh là Procrustes. Hắn ta tính tình cổ quái, cướp của ai rồi, trước khi giết, hắn bắt người ấy nằm trên một cái giường; nếu người đó ngắn hơn, thì hắn kéo giãn ra cho vừa; còn nếu dài hơn, hắn chặt bỏ khúc dư. Không chỉ trong thần thoại Hy Lạp mà nơi những người đương thời với Chúa Giêsu cũng có cung cách tương tự khi Ngài sánh ví họ với đám trẻ nô đùa ngoài chợ: có những đứa bỗng dưng “nổi chướng” bắt các bạn phải khóc phải cười theo ý thích không giống ai của chúng.

Quả thật kiểu áp đặt thô bạo này vẫn có thể tồn tại ở mọi nơi và với mọi người. Lắm khi chúng ta thích lấy ý riêng mình làm khuôn mẫu bắt mọi người phải theo, và thậm chí còn áp đặt cả Thiên Chúa cũng phải nằm lên “cái giường của Procrustes” đó: đó là khi chúng ta bắt Thiên Chúa phải chiều theo lối giữ đạo “thời vụ” của mình, khi chúng ta lý luận, gia giảm, châm chước, “lách” luật Chúa cho phù hợp với nhu cầu của mình (chẳng hạn “lách” luật “giữ ngày Chúa Nhật”). Coi chừng bạn đang “tùng xẻo” cả Thiên Chúa đấy! Để có thể gạt bỏ mọi định kiến, và mọi áp đặt ý Chúa, trước tiên bạn hãy hồi tâm tìm lại sự bình an và sẵn sàng lắng nghe tiếng Chúa; và rồi mời bạn suy niệm Lời Chúa nói, chiêm ngắm cách Chúa làm. Lúc đó bạn sẽ thấy được ý Chúa.

THỨ BẢY - GIOAN TẨY GIẢ LÀ ELIA

Lời Chúa : Mt 17, 10-13

Khi xuống núi, các môn đệ hỏi Chúa Giêsu rằng: "Tại sao các luật sĩ lại nói Elia phải đến trước đã?"

Chúa Giêsu trả lời: "Thật Elia phải đến để chấn hưng mọi sự. Và Thầy bảo các con, Elia đã đến rồi, và họ không nhận biết ông, nhưng đã đối xử với ông như ý họ. Cũng vậy, Con Người sẽ phải đau khổ bởi họ."

Bấy giờ các môn đệ hiểu Chúa Giêsu nói với họ về Gioan Tẩy Giả.

TRUYỆN KỂ

1. Êlia đã đến rồi

Các nhà thông luật, dựa trên ngôn sứ Malakhi, nói rằng Êlia phải đến trước để dọn đường cho Chúa (c. 10), để “đưa tâm hồn cha ông trở lại với con cháu, và đưa tâm hồn con cháu trở lại với cha ông” (Ml 3, 1. 24).

Đức Giêsu nhất trí với họ, nhưng nhấn mạnh: “Êlia đã đến rồi, và họ đã không nhìn nhận ông, nhưng đã xử với ông theo ý họ muốn” (c. 12a).

Theo Đức Giêsu, chẳng cần phải đợi Êlia nữa. Gioan Tẩy giả chính là Êlia (c. 13).

2. Xe ủi mở đường

Mỗi khi muốn làm đường, người ta cho xe ủi đi trước để san lấp, tạo mặt bằng tốt. Xe ủi thật mạnh mẽ. Nó càn lướt qua các chướng ngại. Nó bạt núi san đồi. Đi đến đâu xe ủi làm cho mặt đất bằng phẳng đến đấy. Không một chướng ngại nào có thể ngăn chặn xe ủi. Ê-li-a và Gio-an Tẩy giả là những chiếc xe ủi mở đường cho Chúa Cứu Thế đến.

Như chiếc xe ủi các ngài có một đời sống mãnh liệt. Đó là những cuộc đời rực lửa. Sách Huấn ca miêu tả Ê-li-a là ngọn lửa bừng bừng nên đã đem lửa thiêu đốt mặt đất. Gio-an Tẩy giả được Chúa khen là ngọn đèn rực nóng. Ê-li-a có thể đi một mạch 40 đêm ngày đến núi của Thiên Chúa. Gio-an Tẩy giả từ bỏ thị thành sống trong hoang địa, ăn châu chấu và mật ong rừng, y phục chỉ là tấm da thú khoác trên mình. Thật là những cuộc đời rực lửa lý tưởng.

3. Êlia sẽ đến lại.

Ngày 10/11/1948, Đại hội đồng Liên hiệp quốc đã long trọng công bố bản Tuyên ngôn nhân quyền. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, cộng đồng thế giới đã đảm nhận trách nhiệm quảng bá và bênh vực quyền con người như một nghĩa vụ trường kỳ. Gia nhập Liên hiệp quốc có nghĩa là ký tên vào bản tuyên ngôn này và đương nhiên cam kết bênh vực quyền con người.

Thật ra, chỉ Thiên Chúa là Đấng có thể ban cho con người quyền và phẩm giá được làm người mà thôi. Trong tác phẩm: “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng” Đức Gioan Phaolô II đã viết:

“Thật hiển nhiên là quyền con người đã được Đấng sáng tạo ghi khắc trong trật tự của công cuộc sáng tạo. Như vậy chúng ta không thể nói đến những ban nhượng từ phía các tổ chức của con người. Những tổ chức này không làm gì khác hơn là diễn tả những gì chính Thiên Chúa đã ghi khắc trong trật tự Ngài đã tạo dựng: trong lương tâm hay trong quả tim con người như Phaolô đã giải thích trong thư Rôma. Tin Mừng là sự khẳng quyết trọn vẹn nhất về mọi quyền con người. Không có Tin Mừng, chúng ta rất dễ xa lạc với chân lý về con người. Thật thế, Tin Mừng cho thấy các luật thần linh đang bảo toàn trật tự luân lý của vũ trụ và củng cố nó, nhất là qua cuộc Nhập thể. Con người là ai mà Con Thiên Chúa mặc lấy bản tính con người. Con người phải là ai nếu Con Thiên Chúa đã phải trả một giá đắt nhất cho phẩm giá của nó. Mỗi năm, phụng vụ diễn tả sự thán phục sâu xa của mình khi chiêm ngắm chân lý và mầu nhiệm này trong lễ Giáng sinh cũng như trong đêm Vọng Phục Sinh. “Ôi tội hồng phúc vì ngươi đã mang lại cho chúng ta Đấng Cứu chuộc cao cả." Đấng Cứu chuộc khẳng quyết quyền con người bằng cách tái lập sự toàn ven của phẩm giá mà con người đã lãnh nhận khi Thiên Chúa tạo dựng nó theo và giống hình ảnh Thiên Chúa.

4. Con Người sẽ phải đau khổ với họ

Trong tác phẩm “Đường Hy vọng”, Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận nói: “Thông thường người ta rất quí trọng những người mang dấu thánh của Chúa, nhưng lại sợ chính mình phải mang những dấu thánh ấy." Đức Giêsu, dẫu là Con Thiên Chúa, nhưng đã phải trải qua đau khổ và cái chết mới được đến với vinh quang phục sinh.

Người Kitô hữu không bao giờ tôn sùng đau khổ, nhưng sẵn sàng đón nhận đau khổ vì tình yêu. Đức Giêsu đã được phục sinh cùng với những dấu thánh của mình, thì cũng vậy, chúng ta sẽ chỉ được phục sinh, một khi chúng ta được giương lên cao cùng với thánh giá đời mình. Điều này nhắc nhở mọi người hãy vác thánh giá cuộc đời trong tâm tình vui vẻ, đồng thời kết hợp với đau khổ của Đức Giêsu trên Thánh giá năm xưa, hầu đền tội cho mình và cầu nguyện cho mọi người

5. Muốn gặp Chúa.

Trong kho tàng văn chương Ấn giáo, có một câu truyện sau đây:

Một đệ tử đến thưa vị linh sư của mình: - Thưa thầy, con muốn gặp Chúa.

Vị linh sư chỉ đáp trả bằng một cái mỉm cười thinh lặng.

Ngày hôm sau người môn sinh trở lại và bầy tỏ cùng một ước muốn. Vị linh sư cũng chỉ mỉm cười và tiếp tục giữ thinh lặng.

Rồi một ngày đẹp trời, ông dẫn người đệ tử đến một dòng sông. Thầy trò cùng dìm mình xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng nước mát. Bất thần vị linh sư mới túm lấy cổ anh và dìm xuống nước một hồi lâu. Người thanh niên cố gắng vùng vẫy để ngóc đầu lên khỏi mặt nước.

Bấy giờ vị linh sư mới hỏi anh:

- Khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?

Không chút suy nghĩ, người đệ tử đáp ngay:

- Thưa, con cần không khí để thở.

Lúc bấy giờ vị linh sư mới giải thích:

- Con có cảm thấy ước ao được gặp Chúa như vậy không? Nếu con khao khát Chúa như vậy con sẽ gặp được Ngài tức khắc. Ngược lại, nếu con không có ước muốn ấy, thì cho dù có vận dụng hết cả tài năng và sức lực con sẽ chẳng bao giờ gặp được Ngài.

6. Gặp Chúa

Đức Giám mục Curtis giáo phận Wilington và Đức Hồng Y Newman là hai người bạn thân thiết. Cả hai trước kia là Anh giáo, nhưng đã trở lại công giáo. Một bữa nọ, Đức Giám mục Curtis đến thăm Đức Hồng Y. Trong câu chuyện, Đức Hồng Y cho biết Ngài đã được đặc ân của Tòa Thánh giữ Mình Thánh Chúa trong nhà ngài ở.

Ý nghĩ Thiên Chúa ở với các ngài trong cùng một nhà đã gây xúc động nhiều cho Đức Giám mục Curtis, nhưng khi Đức Hồng Y mời ngài ở lại đêm với mình, ngài từ chối và nói: "Con sẽ không chợp mắt được tí nào trong đêm, nếu con nghĩ và biết rằng Chúa đang ở cùng một nhà với con."

Chúa đã đến, nhưng chúng ta đã gặp được Chúa chưa?

7. Không ngờ đã gặp Chúa

Vào buổi sáng nọ, bác thợ giầy thức dậy thật sớm. Bác quyết định sửa soạn chiếc xưởng nhỏ của bác cho tươm tất rồi vào phòng chờ cho được vị khách quí. Và người khách đó không ai khác là Chúa, bởi vì tối qua trong giấc mơ, Ngài đã hiện ra và báo cho bác biết Ngài sẽ đến thăm bác trong ngày hôm sau.

Người thợ giầy ngồi đợi, tâm hồn tràn ngập hân hoan. Khi những tia nắng vừa rọi qua khung cửa, bác đã nghe được tiếng gõ cửa. Lòng bác hồi hộp, sung sướng, hẳn là Chúa đã đến. Bác ra mở cửa. Thế nhưng, người đang đứng trước mặt bác không phải là Chúa mà là người phát thư.

Sáng hôm đó là ngày cuối đông. Cái lạnh đã khiến mặt mũi, tay chân người phát thư đỏ như gấc. Người thợ giầy không nỡ để ông run lẩy bẩy ngoài cửa. Bác mời ông ta vào nhà và pha trà mời khách. Sau khi đã được sưởi ấm, người phát thư đứng dậy cám ơn và tiếp tục công việc.

Người thợ giày trở vào phòng khách chờ Chúa. Nhìn ra cửa sổ bác thấy có một em bé đang khóc sướt mướt trước cửa nhà. Bác gọi em bé đó lại để hỏi cho biết lý do. Nó mếu máo cho biết đã lạc mất mẹ và không biết đường về nhà. Người thợ giầy lấy tờ giấy viết vài chữ để trên bàn, báo cho người khách quí biết là mình phải đi ra ngoài.

Nhưng tìm đường dẫn đứa bé về nhà. Mãi đến chiều tối bác ta mới tìm thấy nhà đứa bé, và khi bác về lại nhà thì phố xá đã lên đèn.

Vừa bước vào nhà bác thấy có người đang đợi, nhưng không phải là Chúa mà là một người đàn bà với dáng vẻ tiều tụy. Suốt mấy ngày nay, bà đã không có gì bỏ bụng. Vì bị đói như thế cho nên bà cũng không còn sữa cho con bú. Bác thợ giầy tận tụy lo lắng cho cả hai mẹ con.

Công việc xong xuôi thì đã quá nửa đêm. Mệt quá bác để nguyên quần áo và lên giường ngủ.

Thế là một ngày đã qua mà chưa thấy Chúa đến, nhưng đột nhiên trong giấc ngủ người thợ giày nghe thấy tiếng Chúa nói với bác:

- Cám ơn con đã dọn trà nóng cho Ta uống.

- Cám ơn con đã dẫn đường cho Ta về nhà.

- Cám ơn con đã săn sóc ủi an Ta.

- Cám ơn con đã tiếp đón Ta trong ngày hôm nay.

Giáng Sinh lại sắp về với chúng ta. Chúa đã đến và Ngài đang đến với mỗi người, đến qua Lời của Ngài, qua những biến cố và qua những con người. Ai là người sẽ gặp được Chúa? Đó là những con người có một trái tim quảng đại, đôi bàn tay giang ra, với cặp mắt cảm thông. Ngài cần một tách trà, một chén cơm, một ly nước, một lời khích lệ, một sự đồng cảm, tha thứ.

8. Dọn đường cho Chúa

Người ta quan sát một đàn ngỗng bay, chúng luôn luôn bay hình chữ A: đuôi cánh con phía trước là đầu mỏ con kế nó. Lý do chúng bay tạo hình như vậy là nhờ cánh ngỗng lớn, khi chúng vỗ cánh bay nó tạo ra một sức hút phía sau cánh, làm cho con bay đằng sau giảm bớt được 71% sức lao động. Do đó con đầu đàn chỉ bay được một quãng xa là nó lùi về phía sau cho con kế nó tiến lên đầu đàn, và cứ lần lượt tiếp sức nhau như vậy, những con bay sau vừa bay vừa reo vang trời để động viên cho con đầu đàn tăng tốc!

Vậy khi sống trong tập thể, ai cũng phải có trách nhiệm động viên tinh thần người anh em cố vươn lên giống Thiên Chúa, cuộc đời bớt khổ và sẽ vui hơn. Bởi thế tác giả thư Do Thái nhắc nhở các tín hữu: “Ta hãy nghĩ đến nhau mà lo đôn đốc lòng mến cùng các việc lành” (Dt 10, 24).

Sống như thế là Chúa đã đến giúp ta chu toàn nhiệm vụ “dọn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi, hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3, 4. 6: Tung Hô Tin Mừng).

9. Hãy nên giống Chúa Giêsu

Chuyện đã xảy ra tại thủ đô nước Pháp trong ngày 13/11/2015 thật kinh hoàng! Một số người xông vào nhà hát, sân vận động, cầm súng bắn xối xả vào đám đông, trong khi một số người khác mang bom đứng bên ngoài chờ sẵn. Phút chốc, hàng trăm người chết và bị thương. Lời Chúa Giê-su nói về thái độ của người Do thái đối với các tiên tri có thể dùng để nói về những tay súng khủng bố nói trên: họ đã xử với đám đông vô tội đó theo ý họ muốn.

Thế nhưng, người Pháp đã bình tĩnh và vượt qua sợ hãi, trở lại nhịp sống. Những tiên tri của Thiên Chúa cũng vậy, họ không để sự sợ hãi làm tê liệt vai trò loan báo của mình. Ê-li-a, Gio-an Tẩy Giả chấp nhận sự bạc đãi của người đồng hương để trung thành với sứ vụ ngôn sứ. Và như Chúa Giê-su báo trước, Ngài sẽ chịu đau khổ vì người đồng hương như thế, nhưng Ngài chấp nhận “chén đắng” do người đồng hương gây nên và Ngài chu toàn ý Chúa Cha.

Nhiều lần trong đời, chúng ta quá sợ hãi nên không dám nói về lòng Chúa thương xót ngay cả cho người trong gia đình. Hoặc đôi khi chúng ta giải thích một lòng thương xót khác lạ để làm vừa lòng người khác và tránh phiền phức. Bạn không biết bạn được mời gọi nên giống Chúa Giê-su sao?

10. Đấng Cứu Thế bé nhỏ, khiêm nhường

Các môn đệ loáng thoáng nhận ra sự thực về Thầy trong vinh quang của biến cố Hiển Dung, họ thắc mắc tại sao các kinh sư lại nói Ê-li-a phải đến trước! Thật vậy, dầu thông thạo Kinh Thánh, các kinh sư đã không nhận ra vai trò của Gio-an Tẩy Giả, vì họ chờ một gương mặt khác, theo trí tưởng tượng của họ. Khi giáp mặt, hai bên đã trở nên xa lạ, và Gio-an Tẩy Giả đã bị xử theo như ý họ muốn. Với Chúa Giê-su cũng vậy, người Do Thái chờ một Đấng Ki-tô đến trong uy linh, với binh hùng tướng mạnh để giải thoát họ khỏi những bế tắc chính trị. Một Đấng Ki-tô bé nhỏ, khiêm nhường, và đau khổ xa lạ với họ biết bao! Và đôi khi, với chính chúng ta, có phải hình ảnh một Thiên Chúa vĩ đại vẫn hấp dẫn chúng ta hơn là một vị Thiên Chúa bé nhỏ, nghèo hèn, hạ mình vâng phục cho đến chết?

Chúa đến với chúng ta cách bất ngờ, không như chúng ta muốn, không theo cách chúng ta mường tượng. Hãy nhớ lại rằng vua Hê-rô-đê và cả dân thành Giê-ru-sa-lem bối rối thế nào khi nghe lời báo tin của các đạo sĩ. Chúng ta cũng dễ rơi vào tình huống như thế, nếu chúng ta cứ vẽ vời theo trí tưởng tượng của mình mà không sống tinh thần tỉnh thức của Mùa Vọng.

11. Tiếp nối sứ mạng

Trong lịch sử nước Mỹ, có hai vị tổng thống, Lincoln và Kennedy, giống nhau một cách kỳ lạ từ cuộc sống, sự nghiệp cho đến cái chết. Người ta liệt kê được hàng chục điểm tương đồng giữa hai bậc danh nhân đó. Trong lịch sử cứu độ cũng có hai nhân vật như thế: Nói đến Gioan Tẩy Giả lại nhớ tới ngôn sứ Êlia. Êlia bị truy nã săn đuổi bởi bà hoàng độc ác Ideven (1V 19,1tt). Gioan cùng chung số phận: bị chém đầu do sự xúi xiểm của Hêrôđia, người phụ nữ lăng loàn (Mt 14,3tt). Gioan không chỉ nối tiếp sứ mạng của “Êlia, người phải đến." Cuộc sống và cả cái chết của ông còn là một chứng từ cho Đấng phải đến sau ông: Con Người, tức là Đức Ki-tô, sẽ phải chịu đau khổ giống như thế.

Hãy Iệt kê những điểm giống nhau không phải để mua vui, mà để nhận ra điều Đức Kitô muốn gửi gắm cho bạn: sứ mạng của bạn là tiếp nối sứ mạng của Chúa Kitô, là trở thành chứng nhân trung thành cho Ngài trong cuộc sống của bạn, sao cho mọi người nhìn vào công việc bạn làm mà nhận ra sự hiện diện của Ngài.

Tính cách nào của Chúa Giêsu đánh động bạn nhất và bạn muốn thể hiện trong cuộc sống của bạn nhất?

Trước khi làm một công việc gì, bạn tự hỏi nếu là Giê-su, Ngài sẽ làm công việc này như thế nào?

12. Êlia đến rồi mà không ai biết

Nhiều người Do thái vẫn đặt một chiếc ghế cho Êlia hoặc một chiếc tách trên bàn cho ông. Họ hi vọng đây sẽ là năm Êlia trở lại như tiên báo. Một số người Do thái thời Chúa Giêsu thì nghĩ rằng Chúa Giêsu chính là Êlia.

Nhưng Chúa Giêsu cho thấy rõ Ngài không phải là Êlia. Hơn nữa, Ngài còn nói Êlia đã đến nhưng nhiều người không nhận ra ông. “Bấy giờ các môn đệ hiểu Ngài có ý nói về Gioan Tẩy giả.” (Mt 17,13) là người đã nói với dân chúng: “Anh em hãy sám hối” (Mt 3,2)

Đâu là tội mà tôi thấy khó sám hối? Tại sao?

Tôi không tin mình có thể thay đổi bất cứ gì trong thế gian, cho đến khi tôi thay đổi được chính mình trước. (E.C.McKenzie)

13. Chúa bị ruồng bỏ

“Ánh sáng mùa đông” là bộ phim nổi tiếng của Ingmar Bergman. Một trong những nhân vật của bộ phim là người gác cửa tàn tật của một nhà thờ. Ông thường xuyên phải chịu đựng đau đớn ở lưng và trong xương. Một ngày nọ, ông còn phải chịu đựng một nỗi đau đớn tinh thần khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Việc chiêm ngắm này đưa ông đến kết luận rằng nỗi đau đớn lớn nhất của Chúa Giêsu là nỗi đau đớn về tinh thần. Mặc dù đã yêu thương, đã thi ân và hiến dâng chính mình, nhưng nhiều người vẫn không biết đến Ngài, không quan tâm đến Ngài, không đi theo Ngài. Nếu không xét kĩ, thì cuộc đời và cái chết của Chúa Giêsu xem như vô nghĩa và thât bại.

Cách đối xử của người ta đối với Gioan và với Chúa Giêsu nói lên điều gì đối với tôi?

[Chúa Giêsu nói:] “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác, mà không giết được linh hồn.” (Mt 10,28)

Lời Chúa Tuần 2 Mùa Vọng
Thường niên V - GS C - PS Ngoại lịch

edit