Lời Chúa tuần 1 mùa vọng _ câu truyện minh họa

LỜI CHÚA TUẦN 1 MÙA VỌNG
CÂU TRUYỆN MINH HỌA

CNMV 1A - PHẢI SẴN SÀNG

CNMV 1B – HÃY TỈNH THỨC

CNMV 1C – TÌNH THỨC VÀ CẦU NGUYỆN LUÔN

THỨ HAI - NIỀM TIN ĐÍCH THỰC

THỨ BA - MẶC KHẢI CHO KẺ BÉ MỌN

THỨ TƯ - HÓA BÁNH RA NHIỀU LẦN 2

THỨ NĂM - NGƯỜI KHÔN NGOAN THỰC SỰ

THỨ SÁU – CHỮA LÀNH HAI NGƯỜI MÙ

THỨ BẢY - LÚA CHÍN ĐẦY ĐỒNG, THỢ GẶT THÌ ÍT

LỄ KÍNH THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ - RAO GIẢNG CHO MỌI DÂN TỘC

LỄ KÍNH ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI - XIN VÂNG

 

CNMV 1A - PHẢI SẴN SÀNG

Lời Chúa: Mt 24, 37-44

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Trong thời ông Noe xảy ra thế nào, thì lúc Con Người đến cũng như vậy. Cũng như trong những ngày trước đại hồng thuỷ, người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng, mãi đến chính ngày ông Noe vào tàu mà người ta cũng không ngờ, thình lình đại hồng thuỷ đến và cuốn đi tất cả, thì khi Con Người đến, cũng sẽ xảy ra như vậy.

Khi ấy sẽ có hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi. Và có hai người đàn bà đang xay bột, một người được tiếp nhận, còn người kia bị bỏ rơi. Vậy hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến.

"Nhưng các con phải biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông ta sẽ canh phòng, không để cho đào ngạch khoét vách nhà mình.

Vậy các con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến.”

TRUYỆN KỂ

1. Hãy sẵn sàng--‘Manna’

Vào một ngày của tháng 10 năm 1992, một số người Nam Hàn tụ tập ở các nhà thờ để chờ ngày tận thế đến vào lúc nửa đêm. Có người đã bán nhà và xin nghỉ việc, nhưng dĩ nhiên đó không phải là ngày tận thế.

Kinh Thánh chẳng hề nói tận thế đến vào lúc nào. Đức Giêsu cũng bảo là Ngài không biết (Mt 24,36). Chính vì thế Kitô hữu không tin những lời đồn thổi, nhưng kiên tâm chờ đợi trong hy vọng.

Đây không phải là thứ nơm nớp chờ đợi, khoanh tay, nhưng là thứ chờ đợi bằng cách sống hết mình để chuẩn bị cho trái đất đón Chúa trở lại. Mùa Vọng là thời gian đặc biệt để tập sống chờ đợi. Không phải chỉ là chờ mừng lễ Giáng sinh mà nhất là chờ đợi Chúa đến kết thúc dòng lịch sử.

Ngày tận thế và ngày Chúa quang lâm là một. Đó là một ngày đáng sợ, không phải vì những hiện tượng kinh khủng sẽ xảy ra, nhưng vì là ngày Chúa đến phán xét kẻ sống người chết.

Ngày đó còn là một ngày hội vui: ngày vui của Chúa Giêsu toàn thắng vinh quang, ngày vui của những người được cứu chuộc, ngày vui của cả vũ trụ vật chất được giải phóng.

2. Lòng hiếu khách

Cuộc gặp gỡ giới trẻ châu Á do Cộng đoàn Taizé tổ chức tại Hong Kong vào tháng 8 năm 2019 đã chọn đề tài “Chúng ta đừng quên lòng hiếu khách.” Câu Kinh Thánh này được trích dẫn từ Thư gửi tín hữu Do Thái: “Anh em đừng quên tỏ lòng hiếu khách, vì nhờ vậy, có những người đã được tiếp đón các thiên thần mà không biết” (Dt 13,2). Nếu chúng ta cần tỏ lòng hiếu khách, là vì Thiên Chúa cũng rất quảng đại đón tiếp chúng ta. Qua công trình tạo dựng, Ngài đã gọi chúng ta từ hư vô tới hiện hữu. Khi chúng ta phạm tội, Ngài đã giang rộng vòng tay đón chào chúng ta trở về. Lòng hiếu khách của Thiên Chúa, vừa tạo dựng chúng ta, vừa tha thứ cho chúng ta với tình cha nhân hậu thắm thiết.

Chúng ta đã bước vào Mùa Vọng, là thời điểm nhắc nhớ chúng ta: Con Thiên Chúa đã đến trong lịch sử. Tài liệu hướng dẫn suy niệm của Cộng đoàn Taizé viết: “Chúa Giêsu bày tỏ cho chúng ta thấy Thiên Chúa là tình yêu, trao gửi cho chúng ta tình bằng hữu. Một cách khiêm nhường, Chúa Kitô đứng trước nhà chúng ta và gõ cửa. Như một người nghèo, Người hy vọng và chờ đợi sự hiếu khách của chúng ta. Nếu ai đó mở cửa cho Người, Người sẽ bước vào.” Vâng, Chúa Giêsu đã đến trần gian cách đây hơn hai ngàn năm. Ngày hôm nay, Người vẫn tiếp tục đến trong tâm hồn chúng ta. Người kiên nhẫn gõ cửa và chờ đợi chúng ta mở cửa. Đó không phải là cánh cửa của một căn nhà, nhưng là cửa tâm hồn. Những ai mở rộng cửa tâm hồn để đón chào Chúa, chắc chắn sẽ gặp được bình an và hạnh phúc.

Lòng hiếu khách đối với Ngôi Lời nhập thể, nhưng mỗi chúng ta cũng phải có lòng hiếu khách đối với anh chị em mình, bởi vì, như lời tác giả thư Do Thái trích dẫn trên đây, trong khi chúng ta đón tiếp anh chị em, chúng ta được đón tiếp các thiên thần của Thiên Chúa và được đón tiếp chính Chúa Giêsu, vì Người đã tự đồng hóa với những người bé mọn, cô thế cô thân và không nơi nương tựa.

3. Mùa Vọng: Mùa màu xanh--Trích từ ‘Nút Vòng Xoay’--GM. Giuse Vũ Duy Thống

Tuần qua có dịp về quê, mới bước vào nhà, đứa cháu nhỏ ở tuổi mẫu giáo đi học giáo lý về tiến đến chào mọi người. Khi biết tôi đang ở đó, nó chạy lại quấn quít hỏi: “Mùa Vọng, bác có lì xì cho cháu không?” Tôi chưa biết trả lời ra sao thì nó đã líu lo quanh quẩn giải thích. Thì ra ở lớp giáo lý, giáo lý viên đã dạy rằng: tuần tới, tức hôm nay, Phụng Vụ chuyển sang năm mới được khởi đầu bằng Mùa Vọng. Đứa bé chẳng biết Phụng Vụ là gì, nhưng đã nhớ rất kỹ chữ “năm mới”, vì thế mới có chuyện vòi lì xì. Đành phải chiều thôi. Nhưng chỉ được một lát, nó đã vòng lại khoe: cháu còn biết viết chữ “mùa vọng” nữa. Tôi bảo nó viết. Nó nằm bò trên sàn nhà nắn nót ra chiều khổ sở lắm, rồi cuối cùng cũng xong và đưa đến cho mọi người xem. Nhưng ôi thôi, thay vì “Mùa Vọng”, cháu đã viết lộn một nét để thành “Màu Vọng” khiến cả nhà được cười một trận.

Tôi ra đi trong tiếng cười ấy và sự lẫn lộn của đứa cháu như đeo bám lấy mình, để cuối cùng bất giác tự hỏi: Mùa Vọng màu gì nhỉ? Xin được mượn tâm tư ấy làm chủ đề cho Mùa Vọng năm nay. Đó là gọi tên Mùa Vọng bằng những sắc màu.

Hôm nay Chúa Nhật I Mùa Vọng, xin được gọi Mùa Vọng là mùa màu xanh, hay đúng hơn là mùa xanh lên niềm hy vọng, là mùa Thiên Chúa hy vọng vào con người, cũng là mùa con người hy vọng vào Thiên Chúa.

4. Phải biết nuôi hy vọng

Alan Platon là một nhà văn Nam Phi, tác giả một quyển sách nhan đề Cry the Beloved Country trong đó ông mô tả hoàn cảnh khốn khổ của nước Nam Phi dưới chế độ phân biệt chủng tộc apartheid. Platon có một giấc mơ: ông mơ có một ngày mà mọi người dân trong đất nước của ông đều được đối xử công bình và bình đẳng. Và để thực hiện giấc mơ ấy, ông đã lao mình vào chính trị, đấu tranh suốt mấy mươi năm để xoá bỏ chế độ apartheid ấy. Nhiều người cho rằng mơ ước và việc làm của Platon là không thể nào thực hiện được. Nhưng ông vẫn kiên trì vì tin rằng ngày mơ ước ấy sẽ đến. Chỉ tiếc là ông đã chết trước khi thấy được ngày đó, nhưng lịch sử chứng minh rằng ông đã đúng.

Ngôn sứ Isaia còn có một giấc mơ táo bạo hơn nữa: Ông mơ tới ngày các nước sẽ không còn tuốt gươm chém giết lẫn nhau nữa, người ta sẽ lấy gươm rèn thành lưỡi cày, lấy giáo rèn nên lưỡi liềm, và mọi người sẽ bước đi trong ánh sáng của Chúa. Thật là một giấc mơ tuyệt vời! Có người cho rằng giấc mơ ấy sẽ đến khi Ðấng Messia đến. Người khác cho rằng nó chỉ sẽ đến khi Ðấng Messia lại đến lần thứ hai. Có kẻ nói nó sẽ chẳng bao giờ đến, đó chỉ là nằm mơ giữa ban ngày. Nhưng vẫn có người tin rằng thế nào nó cũng đến nên miệt mài theo đuổi như Alan Platon trong chuyện trên.

5. Hai người, hai số phận

"Hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi. Hai người đàn bà đang xay bột, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi.”

Ðức Giêsu chỉ nói tình trạng như thế thôi chứ không nói rõ lý do tại sao. Tuy nhiên chúng ta có thể biết lý do qua câu chuyện Ngài kể về thời ông Nôe: Ông Nôe chính là người được tiếp nhận, nhờ ông đã tỉnh táo nghe được lời Chúa báo sắp có nạn Hồng thuỷ, và ông đã tích cực chuẩn bị đóng tàu. Còn mọi người khác là những kẻ bị bỏ rơi, vì họ chẳng để ý tới việc gì khác ngoài cuộc sống vật chất, "ăn uống, dựng vợ gả chồng.” Những bận tâm đó đã chiếm hết tâm trí họ rồi, còn tâm trí đâu mà để ý đến lời Chúa. Giả như ông Nôe có kể lại cho họ nghe lời cảnh báo của Chúa thì họ cũng không tin và còn cho là chuyện viễn vông, không thiết thực như chuyện "ăn uống, dựng vợ gả chồng.”

Trong cuộc sống của chúng ta, giữa những bề bộn lo lắng về vật chất, thế tục, Lời Chúa vẫn vang lên để nhắc chúng ta phải biết quan tâm đến nhiều việc khác thuộc phương diện tinh thần, phương diện siêu nhiên, phương diện đời đời... Ai tỉnh táo thì nghe được và sẽ "được tiếp nhận", kẻ nào mãi thờ ơ thì như "đàn gãy tai trâu" và sẽ "bị bỏ lại.”

6. Chúa cấm con thất vọng

* Hãy cố gắng, dù yếu đuối ngã sa, con hãy xin Chúa thứ tha và tiếp tục tiến. Trên võ đài, trong vận động trường quốc tế, các lực sĩ cũng lắm lần ngã quỵ, bị nhiều cú đấm, bị thương tích, nhưng cứ vùng dậy, cứ hy vọng, họ đã đoạt giải vô địch quốc tế (ÐHV 971)

Cha Charles de Foucauld có để lại mấy giòng sau đây. Ðọc kỹ, con sẽ thấy phấn khởi tâm hồn và lấy lại được niềm tin, nhất là những lúc hầu như con thất vọng:

- "Dù con xấu xa, dù con tội lỗi, con cũng trông cậy vững chắc rằng con sẽ được lên trời. Chúa cấm con thất vọng về điều đó.”

- "Dù con bội bạc cách mấy, khô khan cách mấy, hèn nhát cách mấy, lợi dụng ơn Chúa cách mấy. Chúa cũng vẫn bắt con phải hy vọng được sống đời đời dưới chân Chúa trong tình thương và sự thánh thiện.”

- "Chúa cấm con ngã lòng trước sự khốn nạn của con. Chúa không cho con nói 'Tôi không thể đi tới được, đường lên trời khó khăn quá, tôi phải thụt lùi và trở xuống chỗ thấp'"

- "Trước những sa ngã trở đi trở lại của con, Chúa lại cấm không cho con nói: 'Tôi không hề sửa mình được, tôi không có sức để nên thánh, tôi không xứng đáng để vào thiên đường...'"

- "Vậy Chúa muốn con phải trông cậy Chúa luôn, vì Chúa ra lệnh và vì con phải tin ở tình thương và quyền năng của Chúa" (ÐHY NVT, Trên đường lữ hành)

7. Thức dậy

Ở Mêhicô, giáo phận của Ðức Cha Samuel Ruiz có tới 80% giáo dân là người da đỏ bản xứ. Bản thân ngài nổi tiếng là người bênh vực cho dân da đỏ. Nhưng không phải tự nhiên mà ngài làm được việc đó đâu. Trong một buổi nói chuyện ở Nhà thờ Chính tòa Westminster Mùa Chay 1996, ngài đã thố lộ tâm sự như sau: "Suốt 20 năm làm giám mục giáo phận này, tôi như một con cá đang ngủ, nghĩa là mắt vẫn mở nhưng chẳng thấy gì. Tôi còn hãnh diện vì giáo phận có nhiều nhà thờ và giáo dân đông đúc. Rồi một hôm tôi gặp cảnh một người da đỏ bị trói vào một thân cây và bị ông chủ dùng roi quất túi bụi vì lý do người này không chịu làm thêm 8 giờ phụ trội nữa." Chính cái biến cố đó đã làm cho Ðức Cha Samuel Ruiz "thức dậy.” Từ đó trở đi, ngài hăng hái tranh đấu cho quyền lợi người da đỏ.

Chuyện trên cho ta thấy hai điều:

1/ Thiên Chúa có nhiều cách để kêu gọi người ta thức dậy;

2/ Và cũng có nhiều cách thức dậy: thức dậy về thể xác (thôi ngủ), thức dậy về xã hội, thức dậy về đạo đức v.v.

8. Biến cố bất ngờ.

Ai cũng biết ngọn núi lửa Sainte Hélène ở tiểu bang Washington. Ngày Chúa nhật 18 tháng 5 năm 1980, có một nhà địa chất học còn trẻ tên là David Johnston, với 30 bạn tổ chức cắm trại cách quả núi 8 cây số. Lúc ấy là 8 giờ 31 phút sáng Chúa nhật, bỗng nhưng một tiếng nổ vang trời động đất mạnh bằng 500 quả bon nguyên tử nổ cùng một lúc. Các thành phố chung quanh bị chôn vùi dưới trận mưa tro. Johnston co giò chạy, nhưng một dòng sông lửa đã chận đường anh, chôn vùi anh và các bạn anh dưới nấm mồ tro hừng cháy (Lm Hồng Phúc, Suy niệm Lời Chúa, năm A, tr 4).

Trong câu chuyện ngày xưa, Noê đã chuẩn bị cho mình khi thời tiết còn tốt sẽ sẵn sàng cho cơn nước lụt đến, thì ông đã chuẩn bị, nhưng những người còn mải mê ăn uống, cưới vợ gả chồng nên bị nước lụt cuốn đi cách bất ngờ. Những câu này là lời cảnh cáo cho lòai người, đừng miệt mài trong cõi đời tạm mà quên đi cõi đời đời, đừng bao giờ quá quan tâm đến việc thế gian, mà quên rằng có một Thiên Chúa, và vấn đề sống chết nằm trong tay của Ngài. Bất cứ khi nào Ngài gọi, buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều, chúng ta đều phải sẵn sàng.

9. Tư thế sẵn sàng.

Vào năm 79 trước công nguyên, núi Vésuve bất thình lình phun lửa dữ dội, chôn vùi thành phố Pompei phồn vinh dưới một lớp nham thạch dầy tới 7 mét. Năm 1748, sau 18 thế kỷ, người ta bắt đầu khai quật thành phố xấu số này. Giữa bao dinh thự đổ nát, bao đồ vật ngổn ngang, bao người chết đau đớn hỏang sợ, người ta ngạc nhiên tìm thấy xác của 38 người lính La mã đang thi hành nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự trong lúc xẩy ra tại họa khủng khiếp đó. Điều đáng nói là những người lính này đang tuần canh, tay còn cầm gươm, đi trong tư thế thi hành nhiệm vụ mặc dù cái chết kề bên.

10. Tha nhân là anh em.

Một vị sư phụ đã nêu câu hỏi với các học trò của mình:

- Chúng con có biết khi nào đêm chấm dứt và lúc nào ngày bắt đầu?

Một anh nhanh nhảu đáp:

- Thưa thầy, ấy là lúc ta thấy một con vật từ đàng xa và phân biệt nó là con bê hay con lừa.

Một anh khác, sau lúc suy tư cũng xin góp ý:

- Thưa thầy, khi nào con nhìn thấy người bộ hành và phân biệt được là thù hay bạn.

Nhiều câu trả lời khác cũng được đưa ra, nhưng dường như vị sư phụ không thóang một chút hài lòng. Cuối cùng cả đám nhao nhao xin thầy giải thích. Sau phút trầm ngâm như thấm sâu giòng tư tưởng, vị sư phụ lên tiếng:

- Khi nào các con nhìn vào tha nhân và nhận ra đó chính là anh em chị em mình thì đêm đã tàn và ngày đã tới.

Thế ra, không phải việc “phân biệt” con vật này hay con vật kia hoặc người này hay người nọ, song là “nhận ra” tha nhân là anh chị em mình, mới làm cho bóng tối tan đi và ánh sáng tỏa rạng. Đêm đen sẽ mãi thống trị tâm hồn nếu đời ta cứ đắm chìm trong hiềm khích, hận thù, bất công, chia rẽ, lừa dối… Còn khi để cho yêu thương dẫn lối cuộc sống, ngày mới cuộc đời bắt đầu lên ngôi, nhờ ánh quang soi tỏ mọi đường lối.

11. Quỉ học việc

Có một truyện ngụ ngôn về ba con quỉ học việc. Chúng đến trần gian để tập sự. Chúng nói với Satan là chúa quỉ về những kế họach cám dỗ lòai người.

Con quỉ thứ nhất nói:

- Tôi sẽ bảo với lòai người là không có Thiên Chúa.

Con quỉ thứ hai nói:

- Tôi sẽ bảo họ là không có hỏa ngục.

Satan trả lời:

- Mi sẽ không lừa dối ai được bằng cách đó, ngay đến bây giờ lòai người vẫn biết có một hỏa ngục dành cho tội nhân.

Con quỉ thứ ba nói:

- Tôi sẽ bảo với lòai người đừng có vội vã làm gì.

Satan đáp:

- Đi đi, mày sẽ làm hại được vô số lòai người bằng cách đó.

Ai tưởng nguy hiểm nhất là ảo tưởng cho rằng mình còn lắm thời giờ. Cái ngày nguy hiểm nhất trong đời của một người là khi người đó học được chữ ngày mai, và trì hõan vì không ai biết ngày mai có đến với mình nữa không.

12. Tướng quân Archais.

Chúng ta nhớ lại giai thoại về tướng quân Archais của Hy Lạp năm xưa. Ông là một vị tướng giỏi, đánh trận nào thắng trận đó. Sau một trận thắng lớn, ông khao quân lính một bữa tiệc thịnh soạn. Giữa cuộc vui, một sứ giả đem đến cho ông bức thư khẩn và báo tin là ông đang bị mưu sát để biết cách đề phòng.

Thay vì mở thư ra đọc và cảnh giác, ông nhét thư vào túi, vẫn tiếp tục nhậu nhẹt và tự nhủ: “Thôi để mai hãy tính.” Ngay đêm đó, ông bị giết chết. Câu chuyện gợi nhắc sứ điệp mà các bài đọc Lời Chúa hôm nay mang chở. Những gì cần phải làm hôm nay, đừng để đến ngày mai.

Tướng quân Archais đã hất sứ điệp ấy qua một bên vì ông nghĩ hãy còn nhiều thời giờ. Quan tổng đốc Phêlít ngày xưa đã run rẩy trước sứ giả của Chúa là Phaolô nhưng vẫn chần chừ nói rằng: “Bây giờ ngươi hãy lui ra, đợi khi nào rảnh, ta sẽ gọi lại.” Nhưng từ chỗ đó chúng ta không thấy chỗ nào nói đến ông ta rảnh cả.

13. Chiếc quan tài.

Tại chùa Tô châu, có một nhà sư tên là Viên Phủ Trung, tu hành đắc đạo, nhà sư thường bày trên án thư, trước chỗ ngồi, một cái quan tài con bằng gỗ bạch đàn, dài độ 5 tấc, có một cái nắp đậy mở được.

Khách đến chơi trông thấy cười nói rằng:

- Ngài chế ra cái này dùng để làm gì?

Vị sư trả lời:

- Người ta sống tất có chết, mà chết thì vào ngay cái này. Ta thực lấy làm lạ: người đời ai ai cũng chỉ biết có phú quý, công danh, tài sắc thị hiếu lo buồn vất vả suốt đời, chẳng biết cái chết là gì.

Như ta đây, mỗi khi có việc không được như ý, ta cầm lấy cái này mà ngắm xem, là tức khắc trong lòng được yên ổn, mà muôn nghìn sự tư lự đều biến tan đi.

14. Quá chậm

Một thiếu nữ người Mã lấy chồng khá giàu quê ở Nữu Ước. Ngày kia trên đường từ California trở về nhà, cô gặp tai nạn đường sắt, bị thương rất nặng và ít hi vọng sống. Lúc còn trẻ, cô rất đạo đức, vì xuất thân từ một gia đình tốt và có giáo dục. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân đã đưa cô vào một môi trường khác hẳn. Ở đây, không còn một ai nói tới Thiên Chúa và vĩnh cửu, không một ai nghĩ đến phần rỗi linh hồn mình. Lúc đầu, thái độ và bầu khí dửng dưng với tôn giáo này làm cho cô khó chịu, nhưng dần dần, cô tiêm nhiễm sự xa hoa và lạc thú, để rồi cuối cùng, chính cô cũng không còn lưu tâm gì đến Thiên Chúa và linh hồn. Và bất ngờ, một tai nạn đã kéo cô ra khỏi vùng xoáy của các lạc thú để ném cô vào vòng tay của Tử thần.

-Tôi sẽ chết ư? Nàng khắc khoải hỏi vị bác sĩ đang đứng bên cạnh.

- Thưa bà, tôi cũng lo sợ như thế.

- Tôi còn sống được bao lâu nữa?

- Có thể một giờ.

Nghe vậy, toàn thân cô rùng mình. Cô đưa tay che mặt lại và nằm yên, không động đậy trong giây lát. Sau đó, hình như cô lấy hết sức còn lại, nói với giọng truyền lệnh: “Hãy đưa tôi về Nữu Ước.”

- Không thể được! Người thầy thuốc nhẹ nhàng trả lời. Cô hãy nằm yên, mọi cử động lúc này đều nguy hại cho cô.

- A, bác sĩ ơi! Tôi đã có thể làm biết bao điều tốt lành, với tiền của tôi. Nếu tôi trung thành với đức tin thời thơ bé, tôi đã có thể làm biết bao điều tốt lành cho những kẻ sống quanh tôi! Nhưng tôi chỉ nghĩ đến những cuộc giải trí và trang điểm. Và bây giờ tôi chỉ còn sống được một giờ nữa thôi! Bây giờ thì quá chậm rồi!

Cô gái đáng thương này thực ra không sống được một giờ như dự đoán, bởi vì sự giao động đã cướp đi mạng sống của cô vài phút sau đó.

Vị bác sĩ sau đó đã tuyên bố rằng ông chưa bao giờ nghe một điều đáng sợ hơn hai tiếng “quá chậm” của người thiếu phụ sắp chết này!

15. Luôn luôn sẵn sàng

Một ông thanh tra học đường khi đến thăm trường tiểu học nói với các em học sinh rằng: “Tôi sẽ trở lại đây. Vậy từ nay cho đến ngày tôi tới, trò nào giữ được bàn mình sạch sẽ, thì sẽ được thưởng.

- Khi nào ông trở lại? Vài học sinh hỏi.

- Chưa biết hôm nào! Vị thanh tra trả lời.

Trong số các học sinh trong trường, có một cô bé quả quyết rằng mình sẽ chiếm được phần thưởng. Ai nghe cũng phải cười vì cô gái ấy có tiếng là không chỉnh tề. Có người hỏi:

- Bàn của cô có tề chỉnh bao giờ đâu mà mong được phần thưởng?

- Từ nay, mỗi buổi sáng tôi sẽ thu xếp một lần, cô bé đáp.

- Nhưng nếu ông thanh tra đến vào buổi chiều hay buổi tối thì sao? Người ấy hỏi lại. Cô gái yên lặng một lúc rồi nói: thôi, tôi hiểu rồi! như thế thì lúc nào tôi cũng phải giữ bàn của tôi cho được tề chỉnh.

Nếu chúng ta muốn được Chúa thưởng ban thì cũng phải tỉnh thức và cầu nguyện như vậy.

16. Sống như con Thiên Chúa

Một ngày kia có người lượm được một quả trứng của chim phượng hoàng, liền đặt nó vào ổ gà đang ấp ở sân sau. Từ quả trứng đó nở ra một chim phượng hoàng con và nó lớn lên giữa bầy gà con. Những ngày tháng đầu của cuộc đời phượng hoàng nhỏ này hoạt động như những gà con vì nó tưởng mình là một gà con như những gà con khác. Nó cũng bới đất tìm sâu, cũng kêu chiêm chiếp như gà con và cũng dương cánh lên một chút như gà con vậy. Nó vẫn nghĩ mình là gà con mà!

Cho tới một ngày đẹp trời, nó thấy một chú chim bay lượn hết sức nhẹ nhàng trên bầu trời quang đãng. Nó chiêm ngưỡng chim đó trong một màn biểu diễn tuyệt vời. Giữa cảnh trời gió lộng mà mà chim đó không hề đập cánh! Nó tò mò hỏi đàn gà chung quanh: “Ô kia! Gà gì mà bay lượn ngọan mục thế nhỉ?” Nó được cho biết rằng đó là phượng hoàng, ông vua các loài chim chứ đâu phải là gà.

Thế rồi bổng chính chú chim phượng hoàng đó từ trời cao nhào xuống bên cạnh nó và hỏi nó: “Anh làm gì ở đây vậy?’ Nó thưa: “Tôi đang bới đất tìm ăn với bọn gà.”

Phượng hoàng sửng sốt nói: “Nhưng anh cũng là phượng hoàng như tôi đây, anh có phải là gà đâu! Hãy coi đôi cánh dũng mãnh mà anh được trang bị để bay lên cao. Chúng ta được sinh ra để làm vua các loài chim, chứ đâu phải sinh ra để làm mồi cho dã thú! Nào, ta hãy cùng bay theo hướng mặt trời.”

Vậy là lần đầu tiên bỏ lại đàn gà đang bới đất ở sân sau, chim phượng hoàng tung cánh bay lượn một cách hạnh phúc giữa trời cao.

Chính Đức Giêsu Kitô đã xuống thế làm người để nói cho chúng ta biết chúng ta là con cái Thiên Chúa và được sinh ra nhắm đến trời cao. Đức Giêsu không những đã thay đổi hình ảnh chim phượng hoàng tức loài người có về mình. Ngài còn dìu chúng ta lên cao giúp trãi qua kinh nghiệm đầu tiên, như chim phượng hoàng bay lượn gần mặt trời.

17. Hãy tỉnh thức và sẵn sàng--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê

Ngày 10 tháng 4 năm 1912, tàu Titanic được hạ thủy và trực chỉ New York. Titanic có nghĩa là không thể chìm. Nhưng, nó đã chìm sâu dưới đáy Đại Tây Dương, làm hơn 1.500 người chết, chỉ sau 4 ngày khởi hành.

Không ai trên tàu nghĩ đó là chuyến đi định mệnh ! Thật đúng là: lúc người ta không ngờ, tai họa thình lình ập đến.

Làm thế nào để giảm nguy cơ, tránh tai họa, nhất là những vấn đề thuộc đời sống thiêng liêng, sự sống đời đời?

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta: “Hãy tỉnh thức và sẵn sàng !” (Mt 24, 44).

Tỉnh thức là thấy, nhận diện, hiểu rõ những gì sắp xảy ra, có thể cảm thức bằng trực giác, bằng đúc kết kinh nghiệm, bằng cách đọc ra được những dấu chỉ thời đại...

Còn sẵn sàng là khôn ngoan ứng chiến, sử dụng công cụ hỗ trợ thích hợp đối phó tình huống xẩy ra dành lấy lợi thế về mình.

18. Sống giây phút hiện tại

Đức Hồng Y Phanxicô Saviê Nguyễn Văn Thuận, con người của niềm hy vọng, đã nêu gương tuyệt hảo trong việc sống và thánh hóa giây phút hiện tại. Ngài nói: “Con chỉ có một giây phút đẹp nhất: giây phút hiện tại, sống trong tình yêu Chúa cách trọn vẹn; đời con sẽ tuyệt đẹp nếu kết tinh bằng từng giây phút đẹp nhất. Con thấy đơn sơ, không phải khó.” (Đường Hy vọng 997). Đức Hồng Y càng sống niềm hy vọng, ngài càng ra sức thánh hóa phút hiện tại.

Ngày 15/8/1975, vừa khi bị bắt, ngài hụt hẩng, cô đơn vì không còn được thực hành mục vụ của một chủ chăn giáo phận. Nhưng ngay sau đó, Đức Hồng Y nhận ra, một tù nhân như ngài, không thể chờ đợi bất cứ tương lai nào. Ngài quyết định: Chỉ có thánh hóa và sống giây phút hiện tại. Ngài đã làm cho phút hiện tại chất chứa đầy tình thương.

Quá khứ đã qua, tương lai còn phía trước, chỉ có hiện tại nằm trong tầm tay của ta. Phút hiện tại sẵn sàng đồng hành với ta, giúp ta thể hiện mọi tư tưởng, thi hành mọi hành động trong cuộc sống và cho cuộc sống.

19. Đừng ảo tưởng

Vào dịp cuối năm, Lu-xi-phe triệu tập đại hội đồng quỷ sứ để kiểm điểm tình hình hoạt động suốt năm qua.

Quỷ già, quỷ cái, quỷ con đều họp mặt đông đủ và báo cáo cho Quỷ Vương Lu-xi-phe biết tình hình cám dỗ của toàn bầy quỷ sứ.

Nói chung, hoạt động cám dỗ không đạt kết quả như chỉ tiêu đã đề ra và tỉ số người phải xuống hoả ngục xem ra không gia tăng đáng kể.

Vì thế, khi bước qua phần hai của chương trình thảo luận, Quỷ Vương Lu-xi-phe kêu gọi hội đồng quỷ hãy đề ra những chiêu thức cám dỗ hữu hiệu hơn, liệu sao để lôi kéo được nhiều linh hồn sa hoả ngục hơn.

Các quỷ tham gia tranh luận sôi nổi, bày ra nhiều mưu chước nhằm làm cho loài người sa vòng tội lỗi. Ý kiến thì nhiều, nhưng chỉ nêu ra đây một số ý kiến tiêu biểu. Có quỷ đề nghị hãy cám dỗ các bạn trẻ rằng: "Không có Thiên Chúa, không có thiên đàng hoả ngục. Thiên đàng là ảo tưởng do Giáo Hội bày ra để dụ khị loài người; hoả ngục chỉ là sản phẩm do Cha Cố thêu dệt để hù doạ những người yếu bóng vía. Đừng dại dột tin vào Thiên Chúa, vào sự sống đời sau mà phí cả cuộc đời!” Mưu chước nầy cũng chưa thuyết phục nên không được đa số chấp nhận.

Có quỷ thì hiến kế nên thuyết phục người ta biết rằng Đức Giêsu chỉ là hạng phàm phu tục tử, Phúc Âm của Ngài gồm toàn những chuyện bịa đặt viển vông..." nhưng rồi ý kiến nầy cũng không được hưởng ứng.

Cuối cùng có lão quỷ già có tiếng là đa mưu túc kế lên tiếng: "Theo tôi, chúng ta nên cám dỗ thế nầy: "có Thiên Chúa, có thiên đàng hoả ngục, có linh hồn, có sự sống đời sau... (mình phải nói như vậy để người ta tin mình đã, rồi ta sẽ thêm) nhưng bạn hãy nhớ rằng: Đời bạn còn dài mà, bạn chưa chết đâu! Vậy hãy vui hưởng lạc thú đời nầy đi! Đợi đến khi già yếu rồi ăn năn sám hối cũng chưa muộn."

Một tràng pháo tay giòn vang tán thưởng diệu kế của lão quỷ già thâm độc. Thế là hội nghị nhất trí với phương thức cám dỗ được xem là sẽ rất kiến hiệu của lão quỷ già đa mưu.

20. Từ chối lời khôn ngoan

Ngày xưa có một ông cụ già cố cứu kinh thành Sôđôm khỏi bị Chúa tiêu diệt bằng cách mỗi ngày đi gặp người dân trong thành để cảnh cáo và kêu gọi mọi người tin Chúa, thờ Chúa cho khỏi bị tiêu diệt. Không ai chịu nghe lời ông cụ mà còn chế diễu là mê tín dị đoan nữa. Ông cụ vẫn bền chí đi hết nhà này sang nhà nọ để kêu gọi họ thống hối ăn năn. Thấy chuyện vô tích sự của cụ, nên có người hỏi:

- Tại sao cụ nói cho họ biết làm gì cho mệt. Họ có nghe cụ và thay đổi gì đâu? Nói với họ cũng như nước đổ đầu vịt!

Ông cụ bình tĩnh đáp:

- Có lẽ tôi không thuyết phục nổi ai, cũng không thay đổi được ai đâu. Nhưng làm như thế cũng là giúp tôi, đừng lao vào cuộc sống sa đoạ như họ.

Câu truyện kể trên chỉ là một dụ ngôn. Nhưng trên thực tế ông Lót ngày xưa sống trong kinh thành Sôđôm. Chính là ông già đó.

21. Màu Tím hy vọng

Ở quê tôi, không nhớ rõ năm nào, chỉ biết là trước năm 1975, người ta báo tin một chiến sĩ tên Sang tử trận. Phải mất gần ba ngày sau, gia đình người thân mới đi lãnh xác về được trong chiếc quan tài được hàn chì bên trong cẩn thận.

Thật khó mà tả được hình ảnh người mẹ đau khổ. Bà ôm chiếc quan tài và tha thiết xin được nhìn mặt con lần cuối, nhưng không ai đáp lại nguyện vọng của bà. Vì ai cũng hiểu: chẳng còn hình thù gì nữa để nhìn. Người ta giữ lại chiếc quan tài một đêm để cầu lễ và dự định ngày hôm sau thánh lễ an táng sẽ cử hành lúc 2 giờ chiều.

Buổi sáng ngày dự định chôn cất, lúc ấy khoảng 8g, khi người mẹ còn đang thỉnh thoảng bước lại nhìn di ảnh đứa con trai cưng của mình, thắp vài nén hương trong nước mắt, thì một người ở ngoài đường hối hả chạy vào nhà báo tin: “Mẹ ơi, người ta điện về xã cho biết tên Sang đó không phải là người ở xã của mình, ở nơi khác. Mẹ ơi, anh Sang còn sống! Mẹ ơi, anh Sang còn sống!”

Người mẹ đứng chết trân, ngỡ ngàng, không biết mơ hay thực, nước mắt tiếc thương chưa kịp khô, những giọt nước mắt vui mừng trào trào ra tuôn dòng trên đôi má nhăn nheo.

Ngay ngày hôm sau, người ta cho anh Sang về phép. Có lẽ ai đó có trách nhiệm trong việc lầm lẫn tai hại này muốn chuộc lại lỗi lầm chăng. Hay muốn bảo đảm chắc chắc rằng người nằm trong quan tài kia không phải là Sang ở gia đình này. Sau đó, người ta đem chôn tạm chiếc quan tài kia ở phía sau ruộng. Gần một tháng sau mới có thân nhân đến tìm mộ.

Mấy ngày sau, tôi đến thăm người mẹ đó. Bà nói câu nào cũng khóc. Khóc rồi cười. Cười rồi lại khóc. Đó là thứ ngôn ngữ diễn tả niềm vui quá sức lớn lao đến mức người ta có thể điên lên được vì hạnh phúc đến quá bất ngờ. Thật không ngờ! Tôi cứng rắn lắm, vậy mà cũng khóc. Tôi khóc vì cảm động trước lòng mẹ.

Có một chút màu trắng trinh nguyên,

Có một chút màu đen bóng tối,

Có một chút màu xanh hy vọng,

Có một chút màu đỏ tình yêu.

Đan quyện lấy nhau.

Pha trộn vào nhau.

Để cho ra màu tím.

Màu Tím Mùa Vọng.

Màu của đợi chờ.

Lạy Chúa,

Cho con cúi xuống, chẳng dám nhìn lên,

Dòng lệ ăn năn khóc đời lầm lỡ.

Cho con ngước lên, dòng lệ òa vỡ,

Trông chờ Chúa thương cứu chuộc đời con. Amen.

22. Gặp Chúa để đổi đời

Một người thuộc bộ lạc miền núi cả đời như chưa từng thấy ánh sáng văn minh. Một hôm ông được đưa xuống thăm một đô thị. Ngay đêm đầu tiên, ông giật mình thức giấc vì tiếng trống vang cùng khắp đô thị. Sau khi được người chung quanh cho biết đó là tiếng trống báo động về một cuộc hỏa hoạn vừa xảy ra tại một khu phố. Người dân miền núi nhìn ngọn lủa đang bốc cháy tại một góc trời, rồi ông trở lại giường ngủ tiếp.

Trở về làng, ông báo cáo với các chức sắc trong làng như sau: Người dân thành thị có một hệ thống chữa cháy rất kỳ diệu. Khi có hỏa hoạn, người ta chỉ cần đánh trống là ngọn lửa được dập tắt ngay tức khắc. Nghe nói thế, các chức sắc liền sai người đi mua đủ các loại trống phát cho dân làng. Không bao lâu sau đó, hòa hoạn xảy đến trong làng, tất cả dân làng đều đem trống ra khua inh ỏi vì tin chắc tiếng trống sẽ xua đuổi được thần lửa. Thế nhưng ngọn lửa cứ vô tình thiêu rụi từ căn nhà này đến căn nhà khác trước cái nhìn ngỡ ngàng và thất vọng của mọi người.

Tình cờ ghé thăm bộ lạc và được nghe kể lại diễn tiến cơn hỏa hoạn, một người dân thành thị mới giải thích cho dân làng như sau: Các người thật ngây ngô, các người tưởng tiếng trống có thể dập tắt được ngọn lửa ư? Không phải thế đâu. Tại thành phố, người ta đánh trống để đánh thức dân chúng và kêu gọi họ tích cực tham gia chữa cháy, chứ không ngồi đó mà chờ ngọn lửa tắt đâu.

Gặp Chúa để đổi đời không phải là chuyện dễ ợt, mà là một cuộc phấn đấu nhọc mệt, là cả một cuộc hành trình cam go và mạo hiểm, một cuộc sống khôn ngoan biết tiên liệu và tỉnh táo đối diện với những “bất trắc đột xuất”, như hình tượng Noe trong biến cố “Nạn Đại Hồng Thủy”, hay hình ảnh canh chừng kẻ trộm trong đêm khuya mà Đức Kitô đã diễn tả.

23. Và con tim đã vui trở lại

Elena Frings là một thiếu nữ mới 20 tuổi nhưng đau tim nặng. Các bác sĩ cho biết cô chỉ còn sống được 6 tháng. Cô bỏ việc làm ở sở để đi làm việc xã hội trong một tổ chức thiện nguyện ở Nam Mỹ. Cô làm việc rất đắc lực và có hiệu quả đến nỗi cô được mời đến New York để thuyết trình. Tại New York cô may mắn gặp một bác sĩ giỏi. Ông này giải phẫu cho cô và chữa cô khỏi bệnh tim. Sau khi khỏi bệnh, cô không quay lại sở làm nhưng quay lại Nam Mỹ với những công việc hàng ngày phục vụ những người khốn khổ, bởi vì điều đã ban cho đời cô có ý nghĩa và đã định hướng cho đời cô không phải là cuộc giải phẫu mà là cảm nghiệm về cái chết gần kề (Christopher Notes).

Vâng, sống Mùa Vọng là sống như thế đó. Bởi chưng Mùa Vọng của Phụng vụ cũng chính là Mùa Vọng của cuộc đời. Đức tin không cho phép chúng ta đầu hàng hay tìm một lối mòn dễ dãi; cũng không có quyền nhắm mắt đưa chân mặc tới đâu thì tới, hay tìm lãng quên trong hưởng thụ, trong bon chen trong trác táng thả buông…Nhưng đức tin gọi mời chúng ta ngẫng cao đầu tiến về phía trước trong một con tim mới, cõi lòng mới như bài hát của nhạc sĩ Đức Huy: “và con tim đã vui trở lại”:

Và con tim đã vui trở lại, Tình yêu đến cho tôi ngày mai. Tình yêu chiếu ánh sáng vào đời. Tôi hy vọng được ơn cứu rỗi. Và con tim đã vui trở lại. Và niềm tin đã dâng về người. Trọn tâm hồn, Nguyện yêu mãi riêng người mà thôi...

24. Tai họa khủng khiếp

Tai họa khủng khiếp, đó là tựa đề một cuốn chuyện của Mark Twain, một nhà văn nổi tiếng người Mỹ, mô tả một nhóm người đang lâm vào một tình cảnh bi đát. Chết đến nơi rồi mà họ vẫn chưa tìm được lối thoát. Đúng là họ đang nằm trên bờ một tai họa khủng khiếp. Tác giả không muốn cho câu chuyện kết thúc một cách bi thảm, nhưng ông không biết làm cách nào để cứu nhóm người đó. Vì thế ông đã viết: Tôi lỡ đặt các nhân vật của tôi vào một tình cảnh cực kỳ gian nan, đến nỗi tôi không thể nào cứu gỡ được. Ai nghĩ rằng mình có thể cứu gỡ được thì xin vui lòng chỉ giùm.

Xét về một mặt thì đây là một kết cục không hợp lý, nhưng xét về mặt khác thì đây lại là một kết cục hay, vì nó đòi buộc chúng ta phải suy nghĩ, phải can dự vào.

Cũng thế, hàng ngàn năm trước, nhân loại đã rơi vào một tình cảnh thật bi đát. Tội lỗi đã đột nhập vào trần gian và tràn lan như một đám cháy. Nhân loại bị vây khốn và không tìm được lối thoát cho chính mình. Thiên Chúa đã nhìn thấy tình cảnh bi đát ấy. Ngài không muốn câu chuyện kết thúc một cách buồn thảm, bởi vì Ngài quá yêu thương nhân loại. Ngài đã nghĩ đến phương cách giải cứu, đó là sai chính Con một Ngài đến trần gian, để cứu chúng ta khỏi vòng nô lệ tội lỗi và thiết lập vương quốc của Ngài. Vương quốc ấy đã được khởi sự rồi, nhưng cho đến nay vẫn chưa hoàn tất. Ngài ủy thác việc hoàn tất ấy cho chúng ta.

25. Hãy sẵn sàng

Sách “Cổ Học Tinh Hoa” có kể lại một câu chuyện như sau: Bấy giờ vua nước Ngô định đem quân đánh nước Tề, nhiều người lên tiếng can ngăn, nhưng vua chẳng chịu nghe, lại còn ra lệnh nếu ai nói tới việc đình chiến thì sẽ bị chém đầu.

Một vị quan trẻ tuổi nhưng nổi tiếng khôn ngoan, luôn ba ngày liền cứ sáng sớm mang cung đến khu vườn trong hoàng cung. Không đếm xỉa gì tới sương rơi và nắng gội. Ngày thứ ba, vua gặp và hỏi:

- Khanh là chi đó?

- Thưa trên ngọn cây cổ thụ này có con ve sầu hút gió, uống sương và kêu ve ve suốt ngày. Tưởng mình yên thân, song đằng sau xa xa có con bọ ngựa đang rình nhảy tới vồ. Trong khi bọ ngựa định tóm cổ ve sầu, thì ở gần đó có con chim sẻ dòm ngó, tính bắt con bọ ngựa. Nhưng chính con chim sẻ này lại không dè dưới gốc cây có người đang nhắm bắn mình. Chính tôi đây đang rình bắn con chim sẻ, thì lại quên rằng sương rơi và nắng gội có thể làm mình bị cảm và chết. Cũng như nhiều người, tôi chỉ nhìn thấy cái lợi nhỏ nhen trước mắt mà quên mất cái hại tày đình sau lưng.

Hiểu vị quan này có ý thức tỉnh mình, vua nước Ngô đã nghĩ lại, đình chỉ việc đem quân xâm lấn nước Tề.

Cũng vậy, vì đam mê chạy theo tiền tài, danh vọng và lạc thú, chúng ta quên mất thần chết đang rình rập ở sau lưng. Thực vậy, ai trong chúng ta cũng biết rằng mình sẽ phải chết và hằng ngày luôn đối đầu với nó. Cái chết ở trước mặt người già và ở sau lưng người trẻ. Cái chết thì chắc chắn, nhưng giờ chết lại bấp bênh vô định.

26. Tỉnh thức

Một vị linh mục lớn tuổi đã kể lại câu chuyện sau đây. Xưa kia ở New York, có một bà mẹ sống với một người con trai. Chẳng may đứa con trai bị bệnh nặng. Bà mẹ không còn mong muốn gì hơn là tìm gặp được người thầy thuốc giỏi chữa lành bệnh cho con bà. Bà nghe người ta đồn về một ông bác sĩ rất giỏi từ Vienna, Áo quốc, sẽ ghé thăm thành phố New York, và bà hy vọng sẽ mang đứa con trai đến cho ông chữa bệnh. Vào một buổi tối mùa đông, thời tiết rất xấu, bên ngoài trời mưa lạnh, bà nghe rõ có tiếng gõ cửa. Mở hé cửa ngó ra ngoài bà chỉ nhìn thấy một người đàn ông tóc phủ bờ vai cùng với bộ râu dài và lướt thướt. “Thưa bà, trời đêm tối lạnh lẽo và ướt át, tôi có thể vào nhà bà được không?” Người đàn ông hỏi. “Rất tiếc,” người đàn bà nói, “tôi không thể đón tiếp ông được!” Rồi bà đóng sầm cánh cửa và khóa kín lại.

Ngày hôm sau, người đàn bà mở tờ nhật báo ra. Ngay trang nhất, bà đọc được hàng chữ lớn in đậm: “Vị Bác Sĩ Nổi Tiếng Từ Vienna Viếng Thăm New York.” Phía dưới hàng chữ là bức hình chụp của ông bác sĩ. Với sự ngạc nhiên và buồn rầu, đây chính là người đàn ông tóc dài với bộ râu lướt thướt đã gõ cửa nhà bà tối hôm qua!

Tỉnh thức có nghĩa là chúng ta phải sống mỗi ngày như là một ngày cuối cùng, “cố gắng làm đẹp lòng Thiên Chúa trong mọi việc.”

27. Con vẫn tiếp tục chơi

Trong cơn hấp hối, người ta đã hỏi thánh nữ Marguerite Alacoque rằng:

- Còn cần sự gì nữa chăng?

Thánh nữ đã trả lời:

- Không, vì tôi đã sẵn sàng.

Cũng vậy trong giờ chơi, một xơ đã hỏi các em nhỏ:

- Nếu như bây giờ được Chúa gọi về, các em sẽ làm gì?

Em thì bảo sẽ giục lòng ăn năn tội cách trọn, em thì bảo sẽ vào nhà thờ đọc kinh cầu nguyện. Thế nhưng có một em đã trả lời:

- Phần con, con vẫn tiếp tục chơi như thường vì con đã sẵn sàng.

Em bé ấy sau này đã trở nên một vị thánh đó là thánh Gioan Berchmans.

Vậy mỗi ngày sống, chúng ta có biết chuẩn bị cho cuộc hành trình cuối cùng này hay không?

28. Nơi trời với đất gặp nhau

Chuyện kể rằng, một thày dòng nọ đọc đâu được trong bộ sách khôn ngoan cũ kỹ mách bảo cho biết rằng: “Tận cùng chân trời của trái đất là nơi trời với đất gặp gỡ nhau.”

Phấn khởi vui mừng, thầy lên đường tìm kiếm nơi trời mới đất mới gặp nhau và sẽ không trở về nhà cho tới khi tìm được. Ngày tháng trôi qua, thầy vẫn kiên nhẫn rảo bước khắp nơi với niềm hy vọng mãnh liệt trong tâm hồn, bất chấp mọi khó khăn gian khổ và thử thách, những lần phải chịu đói khát, giá rét và không gì có thể lay chuyển được ý định của thầy.

Trong bộ sách khôn ngoan cũ kỹ ấy có chỉ thêm rằng: “Khi tới chỗ đất với trời gặp nhau sẽ thấy có một cánh cửa, chỉ cần gõ nhẹ cánh cửa sẽ mở ra và người ấy sẽ gặp thấy Thiên Chúa.”

Thật vậy, sau nhiều ngày tháng đi tìm kiếm đó đây khắp mặt đất, cuối cùng thầy dòng đã tới trước cánh cửa. Thầy vui mừng gõ cửa bước vào, lúc đó thầy dòng mới hoảng hồn nhận ra đó là Tu viện cũ của thầy, là cửa của căn phòng mà thầy đã từng sống bao nhiêu năm qua.

Trong Phúc âm, Chúa Giêsu đã hứa với dân chúng rằng: “Ai xin sẽ được, ai tìm sẽ thấy, ai gõ cửa sẽ mở cho.” Đời sống trần thế là thời gian tìm kiếm Chúa với hy vọng vững chắc là sẽ được gặp Ngài, nhưng cần phải tìm kiếm Chúa ở đâu?

Thật sự không cần phải đi tìm kiếm Chúa ở tận nơi xa xôi hoặc mãi nơi chân trời nào cả, Thiên Chúa hiện diện ngay trong tâm hồn mỗi người, cùng đồng hành với mỗi người trong mọi hoàn cảnh vui buồn, sướng khổ của cuộc sống. Vấn đề quan trọng là có biết nhận ra những giờ, những nơi hẹn mà Chúa đang chờ đợi ta hay không?

29. Chờ đón Chúa đến thăm

Có một câu chuyện ngụ ngôn nhiều ý nghĩa về việc chuẩn bị đón Chúa đến. Vào buổi chiều hôm ấy, bác thợ giầy thức giấc thật sớm. Bác quyết định chuẩn bị căn phòng làm việc của mình cho gọn ghẽ, để chờ đón một vị khách qúy là chính Chúa Giêsu, vì trong giấc mộng ban đêm, Ngài đã hiện ra báo cho bác biết, Ngài sẽ ghé thăm ngay hôm nay.

Bác thợ đánh giầy ngồi chờ, tâm hồn tràn ngập hân hoan. Những tia nắng ban mai dọi qua khung cửa làm cho căn phòng ấm áp thêm. Chợt nghe tiếng gõ cửa nhè nhẹ, lòng bác thêm hồi hộp, sung sướng vì được Chúa ghé thăm. Nhưng khi cánh cửa mở ra, người khách đối diện lại là ông đưa thư quen thuộc, tay chân tím bầm, mặt mũi xám ngoách, vì trời cuối đông lạnh buốt. Không nỡ để ông run rẩy ra đi, bác mời ông vô nhà pha trà tiếp khách. Sau khi được sưởi ấm tấm thân, người đưa thư đứng dậy cám ơn rồi ra đi tiếp tục công việc.

Bác thợ giầy trở lại chỗ cũ chờ đón Chúa đến. Nhìn qua khung cửa hàng, bác thấy một em bé đang khóc xướt mướt trước cửa nhà. Bác ra mở cửa gọi nó lại, hỏi nguyên do, nó mếu máo cho biết là nó lạc mất mẹ và không biết đường về. Bác thợ giầy lấy giấy viết vài chữ nguệch ngoạc đặt trên bàn, báo cho người khách qúy biết mình phải đi ra ngoài lo tìm nhà cho em bé. Nhưng tìm đường dẫn em về nhà không phải là chuyện nhỏ. Mãi đến sẩm tối bác mới tìm được và khi trở về nhà thì phố đã lên đèn.

Vừa bước vào đã thấy có người ngồi đợi, nhưng đó không phải là Chúa Giêsu, mà là một người đàn bà tiều tụy, mệt lả vì có con ốm nặng cần giúp đỡ. Bác thợ giầy thấy thế liền vội vàng đến nhà giúp đỡ em bé, đến nửa đêm mới về. Bác lăn vô giường ngủ chẳng kịp thay quần áo.

Thế là một ngày qua đi mà Chúa cũng chưa đến thăm bác nữa. Nhưng trong giấc ngủ vùi vì mệt mã, bác nghe thấy tiếng Chúa nói: "Cám ơn con đã dọn trà cho Ta uống, đã dẫn Ta về nhà, đã săn sóc an ủi Ta đau yếu. Cám ơn con đã tiếp đón Ta hôm nay.”

30. Xin cứ sai con

Ngày nọ, trong khi sắp xếp lại giấy tờ, người thư ký của tông thống John F. Kennedy gặp được ghi chú do chính tay tổng thống viết như sau: “Tôi biết có một Thiên Chúa và tôi thấy một cơn giông tố đang đến. Nếu Ngài cho tôi một chỗ, tôi tin rằng tôi sẽ sẵn sàng.”

Lời cảnh báo của Chúa Giêsu hãy sẵn sàng và sự sẵn sàng phục vụ của ông Kennedy mời gọi tôi đặt câu hỏi: Tôi có sẵn sàng đáp ứng bất cứ điều gì Thiên Chúa đòi hỏi tôi không?

Tôi nghe tiếng Chúa: “Ta sẽ sai ai?” Tôi đã trả lời: “Con muốn đi! Xin cứ sai con.” (Is 6,8).

31. Hy vọng

Một trận động đất khủng khiếp đã chôn vùi 30,000 người ở Armenia vào năm 1989. Không lâu sau khi thảm họa xảy ra, một người cha chạy đến trường của đứa con và ông rụng rời nhìn thấy ngôi trường hoàn toàn sụp đổ.

Nhớ đến vị trí lớp học của đứa con là ở một góc trường, ông chạy đến đó và bắt đầu đào xới, với hai bàn tay ông lôi ra những mảng gạch vụn.

Các phụ huynh khác, đang đứng than khóc gần đó, tìm cách ngăn cản ông, họ nói, “Trễ quá rồi! Tất cả chúng nó đều chết hết! Trễ quá rồi!” Ngay cả cảnh sát cũng tìm cách can gián ông. Nhưng ông tiếp tục đào xới.

Ông đào trong 36 giờ đồng hồ không ngừng nghỉ. Vào giờ thứ 38 ông nghe có tiếng nói. Ông la lên, “Armand!” Tiếng đứa con trai gọi lại, “Bố!”

Sau đó là một cuộc đối thoại lạ thường. Đứa con trai la lên từ đống gạch vụn: “Bố ơi! Có 14 đứa chúng con ở đây. Con nói tụi nó là đừng có lo. Con nói với tụi nó là bố sẽ đến.”

Khi người ta nghe tiếng của Armand, họ cùng với người cha đào xới. Trong vòng nhiều phút sau đó, tất cả 14 đứa con trai được cứu sống. Chúng được bình an, chỉ sợ hãi, đói và khát một chút.

Khi tòa nhà đổ xuống, căn phòng chúng ở thì sập xuống thành hình tam giác, giữ cho chúng khỏi bị đè bẹp (trích từ câu chuyện của Mark V. Hansen trong cuốn Chicken Soup for the Soul).

32. Chúa giúp ai biết cố gắng

Mẹ của Bs. Ben Carson lớn lên trong hoàn cảnh nghèo nàn tồi tệ ở Detroit. Chồng bà từ bỏ bà khi Ben tám tuổi.

Bà thấy hai mẹ con bị kẹt trong một sự suy sụp về luân lý và tinh thần của thế giới chung quanh. Nhưng thay vì tuyệt vọng, bà bám víu lấy tia sáng đức tin nơi Thiên Chúa, sâu thẳm trong linh hồn của bà.

Tia sáng đức tin đó đã đem cho bà sức mạnh để làm ba công việc ít lương cùng một lúc để sống còn.

Trong hoàn cảnh đó, bà tìm chút thời giờ để khích lệ Ben, bà nói, “Con có thể trở nên bất cứ gì con muốn, nếu con tin rằng Chúa sẽ giúp con, nếu con tự giúp chính mình.”

Được khích lệ bởi lời của mẹ, Ben đã thi hành đúng như vậy.

Ngày nay, Bác Sĩ Ben Carson là một trong những bác sĩ não khoa hàng đầu quốc gia và cũng là tiếng nói hy vọng hàng đầu của ngành y khoa này.

Nói với các học sinh trung học ở trường cũ của ông, bác sĩ Ben nói:

“Hãy nghĩ đến điều vĩ đại! Hãy đặt tầm nhìn thật cao như ngọn Everest. Không ai được sinh ra để thất bại.” (Câu chuyện Carson, trích từ Christopher News Notes, February 1993)

33. Tại sao Thiên Chúa lại?

Biến cố ngày 11/9/2001 làm cho cả nước Mỹ bàng hoàng. Trong chương trình truyền hình Early Show, Jane Clayson đã phỏng vấn Anne Graham, con gái của nhà giảng thuyết nổi tiếng Billy Graham: “Làm sao Chúa có thể để cho một điều như thế xảy ra được?”

Câu trả lời của Anne Graham rất thâm trầm và sâu sắc: “Tôi tin Chúa cũng buồn bởi việc này lắm, như chúng ta vậy, nhưng từ nhiều năm qua chúng ta đã bảo Chúa ra khỏi trường học của chúng ta, khỏi chính quyền, khỏi đời sống chúng ta. Là người lịch thiệp, tôi tin Ngài đã điềm tĩnh rút lui. Làm sao chúng ta có thể mong đợi ơn phúc và sự bảo vệ của Chúa khi chúng ta yêu cầu Ngài để cho chúng ta được yên?

“Tình hình gần đây … những kẻ khủng bố tấn công, thảm sát trong trường học, v.v… Tôi cho là đã bắt đầu khi Madeleine Murray O’Hare kêu ca không muốn cầu kinh trong trường học và chúng ta đã đồng ý.”

Lịch sử Dân Chúa cho ta thấy Chúa là sức mạnh và sự thịnh vượng của họ, “vì đâu có phải nhờ gươm giáo mà họ chiếm đất đai, đâu có phải cánh tay họ đem được thắng lợi về. Nhưng chính là nhờ tay hữu Chúa, tay mạnh mẽ và ánh tôn nhan Ngài, vì Ngài yêu thích họ.” (Tv 43,4)

Thế nhưng tính ngạo mạn làm cho người ta không thấy được sự yếu hèn của mình, và từ bỏ Chúa. Được dựng nên theo hình ảnh Chúa nên chúng ta sẽ mất, mất trắng tay, đánh mất chính mình, nếu vắng bóng Chúa: “với quân đội nhà, Ngài chẳng còn xuất trận, làm chúng con thua giặc chạy dài, kẻ ghét chúng con cứ mặc tình cướp phá.” (Tv 43,10- 11)

Sau khi tàu Titanic được hoàn thành, một phóng viên hỏi viên kỹ sư thiết kế tàu Titanic về sự an toàn của nó. Ông ta tỏ ra rất tự tin: “Ngay cả Thiên Chúa cũng không thể đánh chìm được nó.” Câu trả lời đã được phán quyết cho Titanic ngay trong chuyến đi đầu tiên.

34. Cuối cùng chúng cũng được treo lên

Paul Cézanne (1839-1906) là một hoạ sĩ nổi tiếng người Pháp theo phái Ấn tượng. Tranh của ông hôm nay được đánh giá cao, nhưng từ đầu thì không như thế: Ông bắt đầu vẽ tranh từ năm 1863, nhưng những bức tranh đầu đời hoạ sĩ của ông không được ai ưa thích, ngay cả Salon de Paris cũng từ chối trưng bày tranh của ông trong những cuộc triển lãm hằng năm từ năm 1864.

Tuy thế, ông vẫn tiếp tục vẽ tranh theo những gì ông thấy là đẹp dù ông chỉ được sự ủng hộ của Georges Rivière và một số rất ít các nhà phê bình. Tranh của ông, vì thế, chỉ có thể bán được một ít với giá rẻ mạt.

Mãi đến năm 1895, tranh của ông mới được trưng bày tại phòng triển lãm không mấy tiếng tăm của Ambroise Vollard, và rồi càng ngày càng được nhiều người nhận biết giá trị. Khi tranh của ông lần đầu được trưng bày, ông đến phòng triển lãm cùng với con trai, thốt lên trong giọt nước mắt: “Cuối cùng, chúng cũng được treo lên”

Dù vẫn còn sống trong bóng đêm của tội lỗi và sự dữ nhưng tôi được mời gọi “ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng” (Rm 13,13-14).

CNMV 1B – HÃY TỈNH THỨC

Lời Chúa: Mc 13, 33-37

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì các con không biết lúc đó là lúc nào. Ví như người đi phương xa, để nhà cửa lại, trao quyền hành cho các đầy tớ, mỗi người một việc, và căn dặn người giữ cửa lo tỉnh thức.

Vậy các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ nhà trở về, hoặc là chiều tối, hoặc là nửa đêm, hoặc là lúc gà gáy, hay ban sáng, kẻo khi ông trở về thình lình, bắt gặp các con đang ngủ. Ðiều Ta bảo cho các con, thì Ta bảo cho tất cả mọi người là: Hãy tỉnh thức!"

TRUYỆN KỂ

1. Maranatha

Trong niềm hy vọng sẽ nắm bắt được trọn vẹn ơn cứu độ, nên các tín hữu thời Giáo Hội sơ khai khi cử hành Phụng Vụ họ luôn cất tiếng cầu nguyện: “Maranatha” (1Cr 16,22; Kh 22,20). Lời này theo tiếng Aram hiểu theo thời hiện tại, hay tương lai, tùy theo cách đọc:

- Maran – atha: Con thờ lạy Chúa đang ở với chúng con.

- Marana – tha: Lạy Chúa, xin hãy đến với chúng con.

Đúng với khát vọng dân Chúa cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin tỏ cho chúng con thấy tình thương của Chúa, và ban ơn cứu độ cho chúng con” (Tv 85/84,8: Tung Hô Tin Mừng).

Nếu ta không có Chúa trong thời hiện tại, thì chắc chắn ta cũng không có Ngài trong tương lai. Nói cách khác, ơn cứu độ Chúa ban là bề dầy ơn Ngài ban cho ta trong từng giây phút hiện tại. Ơn ấy luôn hướng lòng ta kết hợp với Chúa Giêsu Phục Sinh qua Phụng Vụ, nhất là Thánh Lễ, để “từ nguồn sung mãn của Người tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga.1,16) làm cho ta được mạnh sức trên đường đang tiến về Quê Trời, trỗi vượt hơn đất chảy sữa và mật Chúa đã hứa ban cho dân Do Thái (Xh.3,8)

2. Hy vọng Chúa đến

Khi bị vây khốn ở đất Khuông, Khổng Tử nói: “Trời chưa muốn Đạo ta mất, thì người đất Khuông làm gì được ta?” (LN. XIV,36 “Đạo tôi thi hành được là do mệnh Trời …”). Nguyễn Trãi đã tin vào lời cha là Nguyễn phi Khanh khuyên: “Nếu Trời muốn cho nước ta tiêu diệt thì lưới thù sẽ úp xuống đầu xanh. Không bao giờ! Trãi con ơi! tương lai đầy ánh sáng, cha đứng đây trông suốt được ngàn thu …." Cha bị quân Tầu bắt, Nguyễn Trãi đã không theo cha. Ông nghe lời cha, đã hy sinh trở về lập chí cứu quốc và đã chiến thắng quân Tầu.

Một đàng, Khổng Tử tin Trời vững chắc, ông hy vọng đạo thánh hiền sẽ tỏa sáng trong tương lai. Ông không sợ kẻ thù có thể hại ông. Ông đã quyết tâm truyền bá đạo lý và đã trở thành vạn thế sư biểu.

Một đàng, Nguyễn Trãi hy vọng vào tương lai đầy ánh sáng, ông quyết tâm tìm đường cứu quốc, và ông đã trở thành Đệ nhất khai quốc công thần.

3. Mong đợi Chúa đến

Vào một ngày đẹp trời, ông già ngồi trên ghế xích đu, lòng mong đợi Chúa đến. Tình cờ, một bé gái đang chơi banh để lọt vào sân nhà ông, cô gái chạy lại nhặt trái banh và mở lời làm quen:

- Thưa ông, ngày nào ông cũng ngồi trên chiếc xích đu này, ông đang chờ ai vậy?

- Cháu còn nhỏ quá làm sao hiểu được điều ông mong đợi.

- Có lẽ cháu nhỏ thật, nhưng mẹ cháu nói: có điều gì trong lòng thì hãy nói ra, có nói ra mới hiểu rõ hơn.

Nghe cô bé nói có lý, ông liền thổ lộ:

- Ông đang chờ đợi Chúa đến.

Cô bé tròn xoe đôi mắt kinh ngạc. Ông già mới giải thích:

- Trước khi nhắm mắt, ông muốn tin chắc rằng có một Thiên Chúa, ông cần một dấu hiệu cháu à!

Bấy giờ cô bé mới lên tiếng:

- Ông chờ một dấu hiệu ư? Thưa ông, Chúa đã cho ông một dấu hiệu: mỗi khi ông hít thở không khí, mỗi khi ông nghe tiếng chim hót, mỗi khi ông nhìn hạt mưa rơi. Chúa đã cho ông một dấu hiệu trong nụ cười trẻ thơ, trong nước mắt người đau khổ. Ông ơi, Chúa ở trong ông, Chúa ở trong cháu, không cần phải tìm kiếm, vì Người luôn ở đó.

4. Tỉnh thức và sẵn sàng

Waiting for Godot (Chờ Godot) là vở kịch của nhà văn Samuel Beckett. Ông được trao giải Nobel Văn học 1969. Tác phẩm này được coi là Vở kịch tiếng Anh đáng lưu ý nhất thế kỷ 20.

Hai nhân vật Estragon và Vladimir thất nghiệp tìm mọi cách giết thì giờ trong khi chờ đợi một người được gọi là Godot, nhưng cuối cùng đợi không được; Godot có thể tồn tại, cũng có thể không tồn tại, kịch kết thúc, Godot cũng không đến. Toàn bộ tác phẩm ngoài việc đợi chờ, không có một điều gì khác phát sinh, tại sao lại đợi Godot, Godot là ai, tại sao Godot không đến, tất cả những điều này đều không quan trọng.

Tác phẩm dùng cốt truyện không kịch như vậy là để nói lên một điều, nhân loại ngoài việc đợi chờ vô vọng hoặc ngồi đó chờ chết thì không còn con đường nào khác; con người đã không thể biết được về vận mệnh của mình, không thể suy tư về tất cả những thứ quanh mình, cho nên, ngoài việc đợi chờ đầy tiêu cực, ngoài những việc vô nghĩa như vậy, còn biết làm gì đây? Tác phẩm không có nội dung cụ thể, đợi chờ mù quáng và vô vọng chính là nội dung, ý nghĩa của nó là sự vô nghĩa của đợi chờ.

Waiting for Godot là một tác phẩm tiêu biểu cho loại kịch phi lý. Nó không có cốt truyện, cũng không có cao trào. Cũng có thể gọi nó là bi kịch mang tính chất trào lộng. Tuy nhiên, thông điệp đó lại được thể hiện hết sức thú vị qua những tình tiết hài hóa bi kịch. Beckett đã đưa triết học hiện sinh chủ nghĩa lên sân khấu và gây sự kích động mạnh mẽ trong công chúng và cả giới phê bình.

Trong bối cảnh hoang tàn sau thế chiến II, thuyết Hiện Sinh nở rộ tại Âu Châu, nghi hoặc những gì cao siêu, thiếu cụ thể, chỉ bằng lòng những gì đang hiện hữu cảm nhận được. Nên bản ngã lên ngôi, tha hồ hưởng lạc, coi tha nhân là hỏa ngục.

Hoàn toàn trái ngược với Kitô giáo, tín hữu biết mình là ai, sống làm chi và biết mình chờ ai. Sinh ký tử quy, tín hữu Kitô biết mình sẽ trở về trình diện Đấng Thẩm Phán chung cuộc.

5. Mong đợi Chúa đến

Vào một ngày đẹp trời, ông già ngồi trên ghế xích đu, lòng mong đợi Chúa đến. Tình cờ, một em bé gái đang chơi banh để lọt vào sân nhà ông, cô gái chạy lại nhặt trái banh và mở lời làm quen:

- Thưa ông, ngày nào ông cũng ngồi trên chiếc xích đu này, ông đang chờ ai vậy?

- Cháu còn nhỏ quá làm sao hiểu được điều ông mong đợi.

- Có lẽ cháu nhỏ thật, nhưng mẹ cháu nói: có điều gì trong lòng thì hãy nói ra, có nói ra mới hiểu rõ hơn.

Nghe cô bé nói có lý, ông liền thố lộ:

- Ông đang chờ đợi Chúa đến.

Cô bé tròn xoe đôi mắt kinh ngạc. Ông già mới giải thích:

- Trước khi nhắm mắt, ông muốn tin chắc rằng có một Thiên Chúa, ông cần một dấu hiệu cháu à!

Bấy giờ cô bé mới lên tiếng:

- Ông chờ một dấu hiệu ư? Thưa ông, Chúa đã cho ông một dấu hiệu: mỗi khi ông hít thở không khí, mỗi khi ông nghe tiếng chim hót, mỗi khi ông nhìn hạt mưa rơi. Chúa đã cho ông một dấu hiệu trong nụ cười trẻ thơ, trong nước mắt người đau khổ. Ông ơi, Chúa ở trong ông. Chúa ở trong cháu, không cần phải tìm kiếm, vì Người luôn ở đó.

6. Ngủ mê trong thói quen

Tất cả chúng ta, chỉ trừ những đứa trẻ, đều không nhiều thì ít sống theo thói quen. Người ta nói rằng chúng ta sống một nửa cuộc đời phần sau dựa vào những thói quen đã có từ nửa cuộc đời phần trước. Như thế thật có lợi cho những ai đã tập được những thói quen tốt, tuy nhiên cũng thật tai hại cho những ai đã nhiễm phải những thói quen xấu.

Một việc được lập đi lập lại nhiều lần sẽ thành thói quen, khi đó người ta sẽ làm việc đó một cách rất dễ dàng và còn khéo léo nữa. Có thể nói thói quen là bản năng thứ hai của con người.

Tuy nhiên cứ làm theo thói quen riết rồi người ta sẽ trở thành một chiếc máy vô hồn, không ý thức mình đang làm gì nữa, không suy nghĩ, không tâm tình.

Nếu bạn để một con nhái vào một bình nước nóng, nó sẽ lập tức phóng ra ngay. Nhưng nếu bạn để nó trong một bình nước lạnh, rồi đun nóng lên từ từ. Con nhái không cảm thấy gì lạ cả nên cứ ở yên trong đó. Vì nó đã quen dần nên không thấy nguy hiểm gì cả. Muốn nó nhảy ra thì cần phải lấy một cái gì đó chọc vào nó.

Với thời gian, cuộc sống đạo của chúng ta dần dần trở thành thói quen. Nhiều việc đã không còn ý thức, huống chi nhiều thói xấu đã bám rễ dần dần. Ước gì Mùa vọng là một cú chọc mạnh khiến chúng ta giật mình ý thức lại và sửa đổi cho tốt hơn.

7. Biết tỉnh thức và cầu nguyện

Cụ Chu, người xướng kinh trong nhà thờ ở Gx tôi đã yếu liệt bỏ ăn bỏ thuốc cả tuần nay. Anh em đến thăm cụ và đọc kinh xin ơn chết lành. Sau giờ kinh, chuyện trò với cụ. Cụ vui vẻ nói “Xin Chúa đến rồi, mà mấy hôm nay Chúa bận quá. Để từ từ Chúa sắp xếp. Chờ thôi. Chắc thứ sáu." Thiết nghĩ, cụ đã làm gương cho chúng tôi về việc tỉnh thức, cầu nguyện và sẵn sàng đón Chúa đến.

Lạy Chúa, xin cho chúng con tỉnh thức trước những nguy cơ xa cách Chúa và luôn biết khát khao kết hiệp với Chúa từng phút giây trong cuộc đời, để Chúa làm chủ mọi ý tưởng, lời nói, việc làm của chúng con.

8. Tiếp tục chơi

Người ta kể chuyện rằng ngày kia Thánh Lu-y Gonzaga còn chơi với bạn bè, thình lình cha bề trên đến tập họp tất cả lại và hỏi thử: "Giả sử như chúng con đang chơi mà Chúa đến báo cho chúng con biết chúng con chỉ còn sống 5-10 phút nữa thôi, thì chúng con sẽ làm gì?" Bấy giờ mọi người bổng trở nên căng thẳng. Người thứ nhất trả lời: " Con sẽ đi gặp cha linh hướng" Người thứ hai nói:"Con sẽ vào nhà thờ cầu nguyện trước Nhà Tạm." Riêng Lu-y vẫn bình thản trả lời:" Thưa cha, con sẽ tiếp tục chơi."

Đó là câu trả lời của một đấng thánh và đáng lý mỗi người kitô hữu đều phải có thể trả lời như thế. Chơi đùa, giải trí cũng làm đẹp lòng Chúa nếu đó là việc phải làm theo nhu cầu đúng đắn hoặc theo bổn phận. Vậy không phải chỉ bằng đọc kinh, cầu nguyện, mà bằng cả yêu thương, đau khổ, lao động, nghỉ ngơi, giải trí, nghĩa là bằng cả cuộc đời mà chúng ta đón chờ Chúa và chuẩn bị cho hạnh phúc đời đời của chúng ta.

9. Gặp Chúa thì vui

Có một cậu bé muốn được gặp Chúa. Cậu biết rằng phải đi cả một quãng đường rất dài mới có thể đến được nơi ở của Người, nên gói ghém mang theo bên mình những chiếc bánh Twinkie và cả sáu hộp nước trái cây, rồi bắt đầu cuộc hành trình.

Khi qua được khoảng ba dãy phố, cậu gặp một bà lão. Bà đang ngồi trong công viên, lặng nhìn đàn chim bồ câu đang ríu rít trước mặt. Cậu bé ngồi xuống cạnh bà và mở túi xách của mình ra. Cậu định uống một hộp nước trái cây, nhưng chợt để ý đến bà lão có vẻ đói, nên không ngần ngại mời bà một chiếc bánh. Bà cầm lấy và mỉm cười với cậu. Nụ cười của bà tươi tắn đến nỗi cậu bé muốn trông thấy một lần nữa, thế nên cậu mời bà một hộp nước trái cây. Bà lại cười với cậu. Cậu bé cảm thấy rất vui sướng!

Cả buổi chiều, hai bà cháu cứ ngồi bên nhau, vừa ăn, vừa mỉm cười, nhưng không nói với nhau lời nào.

Khi trời bắt đầu sẩm tối, cậu bé cảm thấy mệt nên đứng dậy ra về. Đi được một lúc, cậu quay trở lại, chạy đến bên bà và ôm bà. Bà cười với cậu – một nụ cười đẹp nhất mà cậu từng được thấy.

Cậu bé bước vào nhà, mẹ cậu rất đỗi ngạc nhiên vì nét mặt tươi tắn hân hoan của cậu. Bà hỏi: “Hôm nay có chuyện gì mà trông con vui thế?"

Cậu trả lời: - “Con đã ăn trưa với Chúa mẹ à! Mẹ biết không, Người có nụ cười tuyệt nhất mà con từng thấy!”

Trong khi đó, bà lão cũng về tới nhà, khuôn mặt rạng rỡ niềm vui.

Con trai bà lấy làm ngạc nhiên trước niềm hạnh phúc rạng ngời trên gương mặt bà: - “Mẹ ơi, hôm nay có chuyện gì khiến mẹ vui đến thế?

Bà hân hoan: - “Mẹ ăn bánh Twinkie trong công viên với Chúa. Con biết không, Người còn bé hơn là mẹ nghĩ nữa cơ đấy!"

10. Tỉnh thức để gặp Chúa

Tỉnh thức để tránh cạm bẫy kẻ thù và được vui mừng đón tiếp Chúa viếng thăm ta. Nếu tỉnh thức chỉ để tránh được cạm bẫy kẻ thù mà không được đón tiếp Chúa, thì tỉnh thức đó chẳng có ý nghĩa gì. Đó là một sự “an toàn” vô nghĩa!

Trong một cuộc tập dượt tác chiến, viên sĩ quan chỉ huy dặn dò:

- “Trong khi lâm trận, các anh em phải biết ngụy trang. Ngụy trang càng tốt, mức an toàn càng cao! Ngụy trang sao cho “địch không thể thấy ta mà ta thấy địch."

Và các tân binh bắt đầu ngụy trang để tập trận.

Sau cuộc tập trận, khi điểm danh, thiếu một anh chiến sĩ. Đồng đội chia nhau đi tìm.

Cuối cùng, họ cũng tìm ra anh lính “mất tích” đó. Nguyên nhân là anh tân bình này ngụy trang quá sức kỹ, kỹ tới mức “Địch không thấy anh, mà anh cũng không thấy địch!" Anh nằm “an toàn” trong cái ổ ngụy trang kín mít của anh, không thấy gì bên ngoài, nên không hay biết cuộc tập trận đã kết thúc rồi!

Tỉnh thức để tránh cạm bẫy kẻ thù và được vui mừng đón tiếp Chúa viếng thăm ta. Nếu tỉnh thức chỉ để tránh được cạm bẫy kẻ thù mà không được đón tiếp Chúa, thì tỉnh thức đó chẳng có ý nghĩa gì. Đó là một sự “an toàn” vô nghĩa!

11. Sau đó thì sao?

Ngày kia, một sinh viên Rôma tới gặp thánh Philipphê Nêri. Anh say sưa nói về kế hoạch xây dựng tương lai đời mình. Anh sẽ học luật, anh có đủ khả năng và kế hoạch đạt tiến sĩ luật.

Thánh nhân hỏi anh: - Sau đó thì sao?

Chàng trai hăng hái trả lời: - Con sẽ tham gia bào chữa những vụ kiện lớn và con sẽ thành công.

- Sau đó thì sao? Thánh nhân hỏi tiếp.

- Rồi con nổi tiếng, con sống thoải mái hạnh phúc, giàu sang.

- Rồi sao nữa? Nghe hỏi tiếp, người thanh niên hơi bối rối.

- Dĩ nhiên rồi con cũng chết như mọi người.

Thánh nhân vẫn tiếp tục câu hỏi cũ:

- Sau đó thì sao? Con sẽ là gì khi xuất hiện trước phiên tòa cuối cùng? Con sẽ là bị cáo và Thiên Chúa sẽ là thẩm phán tối cao?

Chàng trai im lặng cúi đầu. Từ đó anh suy nghĩ nhiều về ý nghĩa cuộc đời.

12. Tai điếc, mắt mù

Vào thời Xuân Thu, khoảng 500 năm trước Chúa Giáng Sinh, vua nước Việt (một trong nhiều nước tại Trung Quốc thời đó) tên là Câu Tiễn muốn đánh bại vua Ngô để phục thù mối nhục lớn, nhưng Ngô là nước mạnh, còn Việt là nước yếu, vua nước Việt biết mình không thể thắng Ngô bằng sức mạnh quân sự nên phải dùng những mưu kế sau đây, cốt làm cho vua Ngô trở nên mê muội, mất tỉnh táo mà phải bại vong.

Thứ nhất là tìm cách làm cho vua Ngô mê muội, chẳng còn tỉnh táo trước nguy cơ mất nước.

Để thực hiện được việc nầy, Câu Tiễn dâng cho vua Ngô nhiều gái đẹp, đặc biệt là Tây Thi, được xem là phụ nữ đẹp nhất trong lịch sử Trung Quốc thời Xuân Thu, để làm cho vua Ngô ngày đêm say đắm sắc đẹp và lạc thú mà quên lo việc nước.

Đồng thời, dâng cho vua Ngô nhiều thợ giỏi và gỗ quý để vua Ngô xây dựng lâu đài thật nguy nga tráng lệ, khiến cho ngân quỹ triều đình cạn kiệt, đồng thời lâu đài nầy là nơi cuốn hút vua Ngô hưởng lạc mà bỏ bê công việc triều đình.

Thứ hai là tìm cách làm cho vua bỏ ngoài tai những lời cảnh báo khôn ngoan của Ngũ Viên là vị quan đại thần có lòng giúp vua giữ nước.

Để thực hiện âm mưu nầy, Câu Tiễn mua chuộc một vị đại thần có tính xu nịnh trong triều đình vua Ngô tên là Bá Hi, để ông nầy xui khiến vua Ngô đừng nghe lời can gián sáng suốt và xây dựng của Ngũ Viên là vị quan trung thành cương trực, rồi dần hồi, bức tử Ngũ Viên.

Lâm vào diệu kế của Câu Tiễn, vua Ngô đâm ra mê đắm sắc đẹp của Tây Thi, ngày đêm vui chơi hưởng lạc quên việc triều đình, lại nghe lời nịnh hót của Bá-hy mà giết hại trung thần Ngũ Viên. Thế là từ đó, nhà vua không còn tỉnh táo để nhận ra nguy cơ mất nước vào tay quân thù. Kết cục là vua Ngô bị Câu Tiễn đem quân đánh bại và cuối cùng phải tự đâm vào cổ tự sát.

13. Ba cách ngủ quên

Có ba quan niệm dễ dàng tạo nên một thái độ tiêu cực trong cuộc đời:

Một là cho rằng chết là hết, không còn gì nữa. Nếu quả thực mọi sự sẽ chấm dứt với cái chết, nếu số phận người tốt kẻ xấu rồi sẽ như nhau cả, thì người ta có lý để lập luận rằng: Hãy ăn uống, vui chơi, hưởng thụ giây phút hiện tại.

Hai là tin vào thuyết định mệnh, nghĩa là cho rằng mọi sự đã được an bài sẵn và số phận của mỗi người đã được định đoạt do các vị thần thánh.Nếu thế thì con người chẳng cần làm gì nữa, chẳng cần cố gắng hy sinh hoặc sáng tạo.

Ba là tin vào thuyết luân hồi, hết kiếp này qua kiếp khác. Nếu kiếp này chưa đạt hạnh phúc thì ta còn có thể chờ kiếp sau đầu thai lại và tiếp tục xây dựng hạnh phúc.

Quan niệm Kitô giáo về cuộc đời, về thời gian và về lịch sử rất khác với những quan niệm trên. Đó là một quan niệm có tính biện chứng. Người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại hết sức nghiêm chỉnh như thế là sẽ mãi mãi ở đây vì đó là thánh ý Chúa và vì số phận của mình được định đoạt ngay trên cõi đời này, đồng thời họ lại thanh thoát, tự do, sẵn sàng rời bỏ mọi sự bất cứ lúc nào Chúa gọi họ ra đi. Quan niệm Kitô giáo là một quan niệm cho những con người trưởng thành. Bởi vì, hãy tỉnh thức có nghĩa là hãy sống có trách nhiệm.

14. Sắp sẵn.

Powell, ông tổ của ngành hướng đạo, hồi còn là đại tá chỉ huy những cuộc chiến đấu tại Âu Châu, lần kia đoàn quân của ông có một ngàn mà phải đương đầu với địch quân những chín ngàn. Suốt trong 217 ngày đợi chờ được cứu viện, ông đã dùng chiến thuật nghi binh.

Ở mặt trận, ban ngày thỉnh thoảng ông cho nổ chỗ này chỗ khác mấy trái lựu đạn. Còn ban đêm trong một vùng rộng lớn, ông cho thắp đèn sáng tại nhiều nơi, mục đích là để đánh lừa đối phương, khiến chúng tin rằng ông có nhiều lính và hiện diện ở khắp nơi, chớ có liều lĩnh mà tấn công. Khi viện binh tới, ông mới tấn công đối phương và đã dành được thắng lợi.

Giữa lúc chính phủ nước Anh định nâng ông lên cấp bậc thống tướng thì ông lại rút lui, để rồi lập nên phong trào hướng đạo, huấn luyện các em thiếu nhi trở thành những người hữu ích cho bản thân, gia đình và xã hội.

Mục đích của hướng đạo là lúc nào cũng phải tỉnh thức và sẵn sàng để đương đầu với mọi hoàn cảnh.

15. Làm cho chủ và cho mình

Ngày kia có một khách du lịch dừng chân trước một biệt thự rất sang trọng cạnh một hồ nước trong xanh ở Thụy Sỹ, nhưng không phải trên con đường mà khách vãng cảnh thường qua lại. Khách du lịch gõ vào hàng rào sắt, tức thì một cụ già coi vườn ra mở cái cổng nặng nề vẫn đóng chặt. Sung sướng vì được thấy một người khách, cụ dẫn ông tham quan cả một khu vườn rộng lớn. Người khách hỏi:

- Cụ ở đây bao lâu rồi?

- Thưa ông, tôi ở đây đã được hai mươi bốn năm.

- Chủ của cụ ít khi ngủ lại biệt thự này, có phải không? Cụ đã trông thấy ông ta mấy lần rồi?

- Tôi đã trông thấy ông ấy bốn lần. Lần cuối cùng cách đây đã mười hai năm.

- Ông có viết thư cho cụ chăng?

- Chẳng bao giờ.

- Thế ai trả công cho cụ?

- Người quản gia của ông.

- Thế người quản gia này có năng đến đây không?

- Tôi chưa hề thấy mặt ông. Ông ấy luôn liên lạc với tôi qua thư từ.

- Thế thì ai hưởng sự đẹp đẽ này?

- Trừ vợ tôi và tôi thì không ai hưởng hết.

- Cụ à, tôi có cảm giác như là cụ coi sóc vườn này, sân hoa này, bãi cỏ này cách chu đáo, như là ngày mai ông chủ cụ sẽ đến vậy!

- Ồ! Thưa ông, tôi phải làm như chủ tôi phải đến ngày hôm nay, vâng thưa ông, ngày hôm nay.

Vâng chúng ta hãy sống như là chủ – Chúa của chúng ta đến với chúng ta ngay trong ngày hôm nay. Nếu chúng ta tỉnh thức như thế thì chắc chắn chúng ta sẽ không phải ngỡ ngàng và phần thưởng cho một người sẽ nằm trong tay chúng ta.

16. Samson làm nô lệ

Samson là vị thủ lãnh của dân Do thái. Anh có sức mạnh phi thường, quân Philitinh khiếp sợ.

Ngày kia, một con sư tử gấm bất thần tấn công, Samson xé xác nó với hai bàn tay dũng mãnh. Có lần bị quân Philitinh vây chặt tư bề, Samson chộp lấy một chiếc xương hàm của con lừa gần đó và quật chết rất nhiều đối thủ. Sức mạnh vô song của Samson làm cho quân Philitinh phải khiếp đảm.

Không thắng được Samson bằng sức mạnh, người Philitinh tìm cách tiêu diệt anh bằng mỹ nhân kế. Nàng Đaliđa, một thiếu nữ Philitinh có nhan sắc tuyệt đẹp. Nàng đến với Samson và đã chiếm lấy trái tim vị anh hùng. Đaliđa gạn hỏi: do đâu anh có được sức mạnh phi thường? Samson tiết lộ bí mật, sức mạnh liên hệ đến mái tóc, khi nào tóc bị cắt, sức lực sẽ không còn. Samson ngủ, Đaliđa lén cắt tóc rồi báo tin. Quân Philitinh xông đến tóm lấy anh, xiềng lại bằng những sợi xích đồng. Chúng tàn nhẫn khoét đôi mắt và bắt anh ngày ngày kéo cối xay như một con trâu ngoan.

Một Samson vạm vỡ với sức mạnh kinh hồn bạt vía, tay không quật ngã và xé xác con sư tử gấm to lớn, một thủ lãnh bách chiến bách thắng từng làm cho quân Philitinh phải kinh khiếp. Giờ đây, anh chỉ là một tù nhân mù loà, tay chân mang xiềng xích, một tên nô lệ, ngày ngày cúi đầu làm thân trâu ngựa nhẫn nhục thay trâu bò kéo cối xay! Than ôi! Một thời oanh liệt nay còn đâu!

Chỉ vì không tỉnh táo trước kế mỹ nhân. Samson đã sa cạm bẫy và chịu hậu quả đau thương.

Nhưng rồi từ cái đầu bị cạo trọc, tóc ông lại mọc ra. Các vương hầu Phi-li-tinh họp lại để long trọng tế thần Đa-gôn của chúng và ăn mừng. Chúng nói: "Thần của ta đã trao vào tay ta tên Samson, kẻ thù của ta."

Khi nhìn thấy ông, dân chúng reo hò tung hô thần của chúng và nói: "Thần của ta đã trao vào tay ta tên Samson, kẻ thù của ta, kẻ tàn phá xứ sở ta, kẻ tăng thêm số tử vong của ta."

Trong khi lòng hả hê, chúng nói: "Hãy gọi Samson ra làm trò tiêu khiển cho chúng ta! " Vậy chúng kêu ông Samson từ nhà tù đến; và ông làm trò tiêu khiển trước mặt chúng. Rồi chúng đặt ông đứng giữa các cột. Bấy giờ ông Samson nói với cậu thiếu niên đang dắt tay ông: "Cậu dẫn tôi đi và cho tôi sờ vào các cột cái chống đỡ toà nhà, để tôi dựa lưng."

Toà nhà lúc đó đầy chật đàn ông đàn bà. Tất cả các vương hầu Phi-li-tinh đều ở đó, và trên sân thượng có khoảng ba ngàn đàn ông đàn bà đang coi ông Samson làm trò tiêu khiển. Ông Samson kêu cầu Chúa và thưa: "Lạy Chúa là Chúa Thượng của con, xin nhớ đến con và ban sức cho con lần này nữa thôi, ôi lạy Thiên Chúa, để chỉ đánh một trận là con trả thù được quân Phi-li-tinh đã móc mắt con."

Bấy giờ ông Samson rờ vào hai chiếc cột ở giữa, là những cột cái chống đỡ toà nhà, và ông tì vào các cột ấy, tay mặt bên này, tay trái bên kia. Rồi ông Samson nói: "Đành chết với bọn Phi-li-tinh vậy! " Đoạn ông dùng sức đẩy mạnh, và toà nhà sụp đổ đè các vương hầu và tất cả dân chúng có mặt ở đó.

Thành ra số người ông giết được khi ông chết lại đông hơn số người ông đã giết được khi còn sống. Anh em ông và cả nhà cha ông xuống đưa ông về chôn cất giữa Xo-rơ-a và Ét-ta-ôn trong phần mộ ông Ma-nô-ác, cha ông. Ông làm thủ lãnh Ít-ra-en được hai mươi năm.

17. Luôn yêu thương

Mẹ Têrêxa Calcutta kể chuyện một cậu bé nhận đóng vai ông chủ trọ trong hoạt cảnh Giáng sinh tại một khu nhà ổ chuột. Vai này phải nói câu: “Xin lỗi, trong quán không còn phòng nào trống”, nhưng cậu bé thành thật nói: “Con không thể nói như vậy với thánh Giuse đâu.” Một sơ phải cắt nghĩa rằng đó chỉ là đóng kịch giả bộ thôi thì cậu bé mới đồng ý.

Đến lúc nhập vai, cậu bé lại nói rằng: “Trong quán trọ không còn phòng nào trống, nhưng nếu ông muốn uống một chút, xin mời vào”

Một câu nói đơn sơ mà toát lên cả một lòng mến tinh tuyền. Cuộc đời là một cuộc chọn lựa liên tục, mà mỗi ngày qua đi là một chọn lựa không còn thay đổi được nữa; và dung mạo Đức Kitô ngày chung thẩm sẽ tuỳ thuộc vào từng chọn lựa của tôi ở đây, và bây giờ.

Chọn lựa của Chúa là yêu tôi, và muốn tôi luôn sống trong tình yêu Chúa: “Anh em hãy canh thức để được sẵn sàng.” Còn tôi?

18. Tỉnh thức và cầu nguyện

Cuộc đời của thánh Phanxicô Borgia, vị tổng quyền thứ ba của dòng Tên là một trong muôn vàn gương sáng về thái độ tỉnh thức và cầu nguyện.

Thánh nhân sinh năm 1510 tại Valenxia, Tây Ban Nha, được chú là tổng giám mục thành Saragossa trực tiếp giáo dục. Từ nhỏ ngài muốn sống ơn gọi tu trì, nhưng ý hướng tốt đẹp ấy sớm bị những thú vui và sự xa hoa nơi cung đình vùi lấp. 19 tuổi Phanxicô kết hôn với Êlêanor Castrô, họ sống rất hạnh phúc và sinh được tám người con. Ngài từng là cố vấn cho nhà vua, làm phó vương Catalônia, là công tước xứ Ganđia và trưởng tộc dòng họ Borgia.

Năm 1539, trong lễ an táng hoàng hậu Isabella, khi thấy hoàng hậu lúc còn sống rất xinh đẹp và đầy quyền lực, giờ đây là thân xác bất động và đang thối rữa, Phanxicô đã suy nghĩ nhiều về cuộc sống, sự chết và đời sống vĩnh cửu.

Đặc biệt khi người vợ yêu quý qua đời năm 1546, Phanxicô Borgia buồn khổ cùng cực nên tìm an ủi trong lời cầu nguyện và các bí tích. Năm sau ngài quyết định chia gia tài cho các con rồi gia nhập dòng Tên, và được thụ phong linh mục năm 1550. Đời sống thánh thiện và lời giảng dạy tràn đầy lửa yêu mến của Cha Phanxicô đã giúp ích cho rất nhiều người. Năm 1565, ngài được chọn làm bề trên tổng quyền dòng Tên. Bảy năm trong sứ vụ nặng nề ấy, ngài đã đem hết tài năng và nhiệt tâm để chu toàn, ngày 30/ 09/ 1572 ngài qua đời, và được Đức Giáo Hoàng Clemente X tuyên phong hiển thánh năm 1671.

19. Nhận ra mình là ai

Cha Anthony de Mello là một linh mục dòng Tên, người Ấn Độ. Cha rất nổi tiếng với những câu truyện có tính cách ẩn dụ về đời sống tu đức. Năm 1992, cha xuất bản cuốn sách mang tựa đề “Thức Tỉnh.” Trong đó, cha đã kể câu truyện ngụ ngôn như sau:

Ngày kia, một con sư tử đến gần một đàn cừu và nó rất đỗi ngạc nhiên khi nhận ra ở giữa đàn cừu có một con sư tử. Con sư tử này vốn được đàn cừu nuôi dưỡng từ khi còn bé. Nó cũng kêu be be và chạy quanh quẩn như một chú cừu. Con sư tử “khách” tiến thẳng tới chỗ nó. Khi đối diện với sư tử thật, chú sư tử “cừu” run lẩy bẩy, hết sức sợ hãi. Sư tử thật bảo nó: “Chú mày làm gì ở giữa đàn cừu này?” Sư tử “cừu” trả lời ngay: “Tôi là một con cừu.” Sư tử thật bảo nó: “Ồ, không phải thế đâu, chú mày hãy theo tao.” Thế là, nó đưa chú sư tử “cừu” đến một ao nước và bảo: “Chú mày hãy nhìn đi nào!” Vừa trông thấy hình ảnh mình phản chiếu trên mặt nước, sư tử “cừu” gầm lên một tiếng vang dội. Ngay lúc đó, nó thức tỉnh và nhận ra nó chính là con sư tử dũng mãnh, chứ không phải là chỉ là một con cừu nhát đảm.

20. Chết khát bên dòng sông

Cha Anthony de Mello có kể một câu chuyện lý thú về những người nằm chết khát trên chiếc bè nằm lênh đênh ngoài khơi bờ biển Bra-xin. Họ không hề hay biết nước biển ngay chỗ bè họ trôi là nước ngọt. Thật vậy, dòng chảy của con sông mạnh đến nỗi nó tống ra biển xa đến hai dặm và nước ngay chỗ họ vẫn là nước sông. Nhưng họ không hề hay biết. Cũng tương tự như vậy, quanh chúng ta biết bao niềm vui hạnh phúc, yêu thương... phần lớn người ta chẳng hay biết gì.”

Sống gần kề dòng sông ân sủng của Thiên Chúa nhưng rất có thể chúng ta không nhận ra được điều đó, để rồi, trong đời sống thiêng liêng, ta sống lây lất, dở sống dở chết. Mùa Vọng gióng lên hồi chuông để ta tỉnh thức trong giờ Chúa đến bất chợt; trước mắt nó thúc giục ta tỉnh thức hầu nhận ra vô vàn ơn huệ Thiên Chúa ban cho ta trong đời sống.

Những gì làm tôi nhận ra và không nhận ra ơn Chúa ban trong đời sống?

21. Ngựa gỗ thành Troa

Truyện cổ Hy Lạp có kể chuyện người Hy Lạp, để chiếm thành Troa, dùng kế dâng cho vua thành ấy một con ngựa gỗ khổng lồ. Nào ngờ trong bụng con ngựa gỗ ấy chứa đầy quân lính. Nửa đêm toán lính chui ra, mở cửa thành cho đại quân tiến vào chiếm thành. Ngày nay người ta dùng điển tích ấy - gọi là “trojan” (trô-dân) - để đặt tên một thứ phần mềm máy tính nguỵ trang có vẻ vô hại, nhưng một khi đột nhập vào hệ thống máy tính rồi, nó sẽ phá hoại dữ liệu, đánh cắp thông tin máy chủ, tác hại khôn lường. Chúa Giê-su dùng hình ảnh “người giữ cửa phải canh thức” có ý nhắc ta phải sẵn sàng đón Chúa đến bất cứ lúc nào, và cũng để đề phòng kẻ trộm nhằm lúc bất ngờ nhất đào ngạch khoét vách, lẻn vào căn nhà tâm hồn tác hại từ bên trong.

Thực trạng xã hội cho thấy người ta đã mở “cổng sau” cho những “trojan” đột nhập và ngấm ngầm tác hại lên nếp sống của cá nhân, cộng đoàn. Các công ty dám xả nước thải ra sông ra biển mà không áy náy vì đã từ lâu, người ta vẫn “vô tư” quét rác rưởi ra đường phố hay xuống cống rãnh. Báo đài dám đưa thông tin dối trá, nhà trường dám gian lận bài thi, giả bằng cấp, vì đã từ lâu người ta cầu an hưởng thụ, không dám chấp nhận thách đố để sống chân thật, công bằng.

Lương tâm là người giữ cửa tâm hồn bạn phải canh thức, để không lẫn lộn coi điều xấu thành điều tốt. Để người giữ cửa tâm hồn của bạn tỉnh thức cần có một nếp sống tiết độ và chuyên cần cầu nguyện.

22. Tỉnh thức là biết mình

Biển Thước là thầy thuốc hay có tiếng thời Xuân Thu. Ông đến yết kiến Hoàn Hầu, tâu rằng: ”Vua có bệnh trong bì phu, không chữa sợ đau nặng." Hoàn Hầu bảo: ”Ta vô bệnh." Biển Thước đi ra.

Mười hôm sau, Biển Thước nói: ”Vua có bệnh ở gan ruột, không chữa mau, sau khó lòng." Vua tỏ vẻ không bằng lòng.

Cách mười hôm, ông lại vào, vừa thấy nhà vua liền chạy ra ngay. Hoàn Hầu gọi lại hỏi thì ông tâu: ”Bệnh ở bì phu còn châm trích được, bệnh ở gan ruột còn thuốc thang được, chứ bệnh đã vào xương tủy, thì không tài nào chữa được nữa. Bây giờ bệnh nhà vua đã vào tới xương tủy, cho nên tôi không dám nói, mà phải ra ngay." Sau đó Hoàn Hầu phát bệnh, không thầy nào chữa được nên qua đời.

Kẻ thù nguy hiểm nhất cho sự sống đời đời nằm ở nơi những điều nguy hại có thể biết mà không muốn biết hay sống như không biết. Vì thế mà Chúa đã cảnh báo trong bài giảng cuối cùng: “nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình."

24. Tỉnh thức là nhìn với cái nhìn của đức tin

Mẹ của Bác Sĩ Ben Carson lớn lên trong hoàn cảnh nghèo nàn tồi tệ ở Detroit. Chồng bà từ bỏ bà khi Ben tám tuổi. Bà thấy hai mẹ con bị kẹt trong một sự suy sụp về luân lý và tinh thần của thế giới chung quanh. Nhưng thay vì tuyệt vọng, bà bám víu lấy tia sáng đức tin nơi Thiên Chúa, sâu thẳm trong linh hồn của bà.

Tia sáng đức tin đó đã đem cho bà sức mạnh để làm ba công việc ít lương cùng một lúc để sống còn. Trong hoàn cảnh đó, bà tìm chút thời giờ để khích lệ Ben, bà nói, “Con có thể trở nên bất cứ gì con muốn, nếu con tin rằng Chúa sẽ giúp con, nếu con tự giúp chính mình.”

Được khích lệ bởi lời của mẹ, Ben đã thi hành đúng như vậy. Ngày nay, Bác Sĩ Ben Carson là một trong những bác sĩ não khoa hàng đầu quốc gia và cũng là tiếng nói hy vọng hàng đầu của ngành y khoa này.

Nói với các học sinh trung học ở trường cũ của ông, bác sĩ Ben nói: “Hãy nghĩ đến điều vĩ đại! Hãy đặt tầm nhìn thật cao như ngọn Everest. Không ai được sinh ra để thất bại.” (Câu chuyện Carson, trích từ Christopher News Notes, February 1993)

CNMV 1C – TÌNH THỨC VÀ CẦU NGUYỆN LUÔN

Lời Chúa: Lc 21, 25-28. 34-36

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến.

Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất.

Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!"

TRUYỆN KỂ

1. Sa mạc trong tâm hồn

Lạy Chúa, Con thường thấy mình không có giờ cầu nguyện, không có giờ đi vào sa mạc để ở bên Chúa và trò chuyện với Ngài. Nhưng thật ra sa mạc ở sát bên con. Chỉ cần một chút cố gắng của tình yêu là con có thể tạo ra sa mạc.

Mỗi ngày có biết bao giây phút có thể gặp Chúa mà con đã bỏ mất: khi chờ một người bạn, chờ đèn xanh ở ngã tư, chờ món hàng đang được gói; Khi lên cầu thang, khi đến nơi làm việc, khi kẹt xe, khi cúp điện bất ngờ.

Thay vì bực bội hay nóng ruột con lại thấy mình sống an bình trong sự hiện diện của Chúa.

Lạy Chúa, Những sa mạc ngắn ngủi hằng ngày giúp con tỉnh thức để nhạy cảm với ý Chúa. Xin cho con yêu mến Chúa hơn để tìm ra những sa mạc mới và vui vẻ bước vào.

2. Tai họa và hy vọng

Bài Tin Mừng nói đến ngày Chúa quang lâm, vừa xảy ra những tai họa, vừa đem lại nguồn hy vọng bất diệt.

Thực vậy cuộc sống của con người trên trái đất giống như đoàn người trên con tàu vĩ đại Titanic dài 271 mét, rộng 28 mét, cao 22 mét, có 8 tầng lầu với đủ các tiện nghi, có phố chợ, hồ tắm, sân chơi, rạp hát, vườn bông, khách sạn, con tàu chỉ chở những nhân vật tai to mặt lớn: những ông hoàng, bà chúa, những đại phú gia. Nó đi từ Southampton, hải cảng Anh quốc, vượt Đại Tây Dương để đến NewYork là thành phố lớn nhất, giàu nhất thế giới thời đó. Họ tưởng đi trên con tàu đó sẽ an toàn vững chắc như trên mặt đất, nhưng nó vừa khởi hành được mấy ngày thì đụng vào băng sơn gãy đôi, chôn sống hơn 1.500 người vào ngày 14-04-1912.

Trái đất này đối với vũ trụ bao la, nó còn nhỏ hơn con tàu Titanic đối với đại dương, nó trôi nổi bồng bềnh trong không gian như con tàu trên sóng nước, có ngày sẽ đụng vào tinh tú, băng thạch sẽ vỡ tan, chính trái đất cũng mang trong mình những bệnh tật như: núi lửa, động đất, bão tố, lụt lội rồi chết rữa giống như thân xác con người và muôn vật.

Lời Chúa hôm nay báo động cho chúng ta biết sẽ có những tai họa kinh khủng khắp nơi trong trời đất, cũng có những niềm hy vọng muôn thuở tuyệt vời cho những người đang mong chờ Chúa đến.

3. "Hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên"

Thời Ðức quốc xã thế chiến II. Một thanh niên 17 tuổi bị giam, vượt ngục, bị bắt lại và bị lên án tử, anh viết thư cho cha mình:

"Thưa ba, con cảm thấy rất khó khi viết bức thư này, nhưng con phải báo cho ba hay là tòa án quân sự đã tuyên cho con một bản án rất nặng. Xin Ba đọc thư này một mình rồi sau đó tìm cách khéo léo kể lại cho má biết... Chỉ vài ngày nữa thôi, lúc 5 giờ sáng thì sự việc sẽ xảy đến... và con sẽ về với Chúa...

Phải chăng đó là một chuyến đi khủng khiếp? Tuy nhiên giờ đây con thấy mình rất gần Chúa và con đang chuẩn bị chết... Con nghĩ điều đó thật là xấu đối với ba hơn là đối với con. Vì con biết, con đã xưng hết mọi tội của con rồi. Bây giờ con rất bình an..."

4. Tỉnh thức và cầu nguyện

Trong cuộc chiến khốc liệt giữa Pháp và Ðức năm 1870, tại một bệnh viện Pháp, có một thương binh vốn là sĩ quan người Ðức đang bị bắt làm tù binh. Một hôm, bác sĩ cho biết anh sẽ không qua khỏi vì vết thương ngày càng trầm trọng. Viên sĩ quan tỏ ra bất cần một cách ngạo nghễ và can đảm chờ đợi cái chết.

Chị y tá nữ tu Dòng Nữ Tử Bác ái Vinh Sơn vốn chăm sóc anh từ lâu, ân cần ngỏ ý khuyên anh nên xin gặp một vị linh mục để dọn mình trước khi chết. Anh nhận mình là người Công giáo nhưng đã bỏ đạo từ lâu, nên một mực từ chối lời đề nghị chân thành này.

Chị nữ tu vẫn dịu dàng nói:

- Nếu vậy, tôi sẽ cầu nguyện xin Chúa cho ông mau hồi tâm trở về với Chúa.

Viên sĩ quan mỉa mai:

- Chỉ cực nhọc vô ích mà thôi

Chị nữ tu vẫn kiên nhẫn thuyết phục:

- Thú thật với ông, đã "16 năm" nay, các chị em trong Dòng vẫn luôn cầu nguyện cho một người trở về cùng Chúa.

Viên sĩ quan ngạc nhiên:

- 16 năm rồi cơ à? Thế người được các chị cầu nguyện chắc "phải là ân nhân của nhà Dòng?

Chị nữ tu trả lời:

- Cách đây rất lâu, mẹ tôi là người hầu cho một nữ Nam tước người Ðức. Trong một lần tôi tới thăm mẹ, bà Nam tước biết tôi là nữ tu nên đã xin cầu nguyện cho con trai bà. Anh đã mất đức tin, sống phóng túng, đam mê danh vọng và quyền lực. Ðã 16 năm qua, tôi và cả Nhà Dòng vẫn luôn cầu nguyện cho anh.

Người sĩ quan gặng hỏi:

- Thế mẹ của chị có phải là bà Béate không?

Chị nữ tu vô càng ngạc nhiên:

- Nhưng tại sao ông lại biết tên mẹ tôi?

Ðến đây thì viên sĩ quan nghẹn ngào thú nhận:

- Thưa chị, tôi chính là Nam tước Charles, con trai của nữ Nam tước mà mẹ chị đã tận tuỵ hầu hạ bấy lâu. Chính tôi là người mà chị và Nhà Dòng đã cầu nguyện cho suốt 16 năm qua.

5. Những cây trường xuân

Trong quyển "The legend of the Bells", John Shea kể rằng sau khi tạo dựng các giống cây, Thiên Chúa muốn ban một món quà cho mỗi giống. Nhưng trước đó Ngài muốn làm một cuộc thử nghiệm để xem cây nào xứng đáng nhận món quà nào. Ngài bảo "Ta muốn các ngươi luôn tỉnh thức suốt 7 đêm.”

Những cây trẻ rất nôn nao nhận quà nên thức suốt đêm chẳng có gì khó khăn. Tuy nhiên sang đêm thứ hai thì điều ấy không còn dễ nữa. Hoàng hôn vừa buông xuống là một số cây đã ngủ thiếp đi. Ðêm thứ ba, số cây ngủ tăng thêm. Và cứ thế. Qua khỏi đêm thứ bảy thì chỉ còn một số cây còn thức, đó là cây tuyết tùng, cây thông, cây vân sam, cây linh sam, cây nhựa ruồi và cây nguyệt quế.

Thiên Chúa rất vui lòng với những cây này. Ngài phán: "Các ngươi đã kiên trì một cách rất đáng khen. Ta ban cho các ngươi món quà đặc biệt là được xanh tươi mãi mãi. Các ngươi sẽ là những cây bảo vệ cho cả khu rừng. Ngay cả khi giá lạnh mùa đông làm cho những cây khác phải chết thì các ngươi và con cháu các ngươi vẫn sống và mãi mãi xanh tươi.”

Từ đó trở đi, người ta gọi những cây ấy là những cây trường xuân.

Kitô hữu phải là những cây trường xuân giữa khu rừng nhân loại. Thế giới chung quanh có thể ngủ vùi hoặc dần dà khô héo, nhưng kitô hữu vẫn tỉnh táo, vẫn thức, vẫn mọc lên những chồi xanh tốt bằng cuộc sống chứng nhân của mình. Nói cách khác, kitô hữu vẫn yêu thương giữa một thế giới hận thù, vẫn sống hòa thuận giữa một thế giới đấu tranh, vẫn giữ vững tâm hồn chính trực giữa một thế giới dối gian, vẫn hy vọng giữa một thế giới tuyệt vọng, vẫn tỏa ánh sáng rạng ngời giữa một thế giới tối tăm.

Nói một cách khác nữa, họ là những người thợ, những giáo viên, những y sĩ, những cha mẹ, những con cái v.v. lúc nào cũng tận tuỵ chu toàn trách nhiệm của mình. Họ chính là những cây trường xuân.

6. Kinh nghiệm về sự chết.

Một vị đan tu tên là Mésique. Bất trung với ơn gọi, ông đã sống một cuộc đời không mấy tốt đẹp trong nhiều năm. Đột nhiên ông bị bệnh nặng. Thiên Chúa cho ông rơi vào tình trạng hôn mê trong một tiếng đồng hồ. Khi tỉnh dậy ông không nói gì về những điều đã cảm thấy trong thời gian một tiếng đồng hồ ấy. Ông xin người ta cho ông ở một mình trong một căn phòng xây kín, và ông đã ở đó suốt 12 năm trời.

Hằng ngày, qua một cửa sổ nhỏ người ta đem đến cho ông một chút bánh mì và nước uống. Một hôm người ta tưởng ông đã chết nên đập phòng đi vào thì thấy ông đang hấp hối. Trước mặt các tu sĩ đang vây quanh, ông nói với họ những lời cuối cùng trước khi ra đi:

- Anh em thân mến của tôi, người nào luôn khắc ghi vào tâm khảm ý tưởng về sự chết, người đó sẽ không bao giờ phạm tội.

Nói thế rồi, ông tắt thở, để cho mọi người một ấn tượng sâu đậm.

7. Tận thế ở Đại hàn.

Hồi cuối tháng 10 năm 1992, hàng chục ngàn người Hàn quốc thuộc một giáo phái đã tụ tập tại hơn 150 nhà thờ ở nhiều nơi trong nước để chuẩn bị đón Chúa Kitô tái lâm và phán xét thế gian.

Theo giới lãnh đạo của giáo phái này: ngày tận thế sẽ xẩy ra vào đúng nửa đêm 28.10.1992. Các tín đồ của giáo phái này trưng nhiều biểu ngữ với câu: ”Chúng ta sẽ gặp lại nhau trên trời.” Trong khi đó, hàng ngàn cảnh sát Hàn quốc được đặt trong tình trạng báo động trên toàn quốc để phòng ngừa một cuộc tự sát tập thể, nếu tận thế không xẩy ra. Một cuộc tự sát như thế có thể xẩy đến, bởi vì nhiều người đã bỏ tài sản, gia đình để chuẩn bị cho biến cố này.

Thế nhưng, cuối cùng tận thế đã không xẩy ra, nên giáo phái này đã tự động giải tán.

8. Chiếc tầu Titanic.

Con tầu vĩ đại Titanic dài 271 mét, rộng 28 mét, cao 22 mét, có 8 tầng lầu với đủ các tiện nghi, có phố chợ, hồ tắm, sân chơi, rạp hát, vườn bông, khách sạn. Con tầu chỉ chở những nhân vật tai to mặt lớn: những ông hoàng, bà chúa, những đại phú gia. Nó đi từ Southampton, hải cảng Anh quốc, vượt Đại tây dương để đến New York là thành phố lớn nhất, giầu nhất thế giới hồi đó. Họ tưởng đi trên con tầu đó sẽ an toàn vững chắc như trên mặt đất, nhưng nó vừa khởi hành được mấy ngày thì đụng vào băng sơn gẫy đôi chôn sống hơn 1500 người vào ngày 14.04.1912 (Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, C, tr 6).

Cái chết thường đến đột ngột bất ngờ. Trong bài Tin mừng này, Đức Giêsu đã nói rõ điều ấy: ”Các con hãy tỉnh thức vì các con con không biết ngày nào giờ nào.” Đành rằng có nhiều người bệnh một thời gian khá lâu rồi mới chết, nhưng chẳng ai ngờ mình sẽ chết vào giờ này, ngày này.

Tuy bất ngờ nhưng không phải hoàn toàn bất ngờ, vì Chúa thương chúng ta, Chúa luôn ban cho chúng ta nhiều tín hiệu báo trước trước cái chết để chúng ta kịp chuẩn bị. Ví dụ: mỗi khi chúng ta thấy một người khác chết, đó là một tín hiệu; mỗi khi chải đầu thấy mái tóc mình bạc hơn… Đó là những tín hiệu mà Chúa gửi trước cho chúng ta vì Chúa thương chúng ta. Vì thế chúng ta đừng giả mù, giả điếc trước những tín hiệu tình thương ấy. Tốt nhất là đón nhận chúng, nhận ra ý nghĩa của chúng và chuẩn bị.

9. Những câu hỏi phải trả lời

Sống ở trên đời, mỗi người phải đặt ra những thắc mắc, những ưu tư và phải tìm ra câu giải đáp. Ưu tư của chúng ta là khi rời bỏ thế gian này rồi sẽ ra sao? Chính vì vậy cổ nhân đã đưa ra cho chúng ta 3 câu hỏi và phải tìm ra câu giải đáp:

+ Nhân sinh hà tại: con người bởi đâu mà đến?

+ Tại thế hà như: đến để làm gì?

+ Hậu thế như hà: sau này sẽ ra sao?

- Con người bởi đâu mà đến? Thánh kinh viết: ”Ta hãy dựng nên loài người giống hình ảnh Ta”(St 1,26). Do đó chúng ta biết con người do Thiên Chúa mà đến.

- Đến để làm gì? Thánh kinh đáp: ”Con phải kính mến Thiên Chúa hết lòng và thương yêu đồng loại như mình.” Do đó, chúng ta lại biết con nguời đến để phụng thờ Thiên Chúa và giúp đỡ lẫn nhau.

- Sau này sẽ đi đâu? Thánh kinh lại minh chứng: ”Ai nấy sẽ về nhà đời đời của mình”(Kn 12,5) và ở đó sẽ được thưởng theo công trạng mình đã lập được”(x. Mt 10,19; Lc 10,7).

10. Hãy học với thần chết

Có câu chuyện về một người tên Cataneda tìm thầy học đạo, chàng đến với đạo sư Don Juan. Đạo sư chỉ cho anh một bí quyết: học với thần chết.

Dĩ nhiên, chàng đệ tử không muốn nghĩ đến sự chết, anh chỉ muốn học hỏi những kiến thức kỳ lạ, những pháp thuật, nên đạo sư tỏ ra khó chịu, bèn bảo anh: ”Con chớ nên bắt chước mọi người cứ nghĩ rằng mình chẳng bao giờ chết mà đòi làm những việc vĩ đại, kinh thiên động địa, vá trời lấp biển mà nên ý thức rằng Thần Chết là vị khôn ngoan nhất mà con sẽ gặp.

11. Hãy đứng thẳng

Mới đây các nhà khảo cổ đã tìm ra một thành phố cổ xưa đã bị chôn vùi trong lòng đất hàng ngàn năm, do núi phun lửa làm cho nham thạch bất ngờ ập xuống thành phố. Rất nhiều người đã bị chôn vùi trong lớp nham thạch nóng bỏng và chết lập tức.

Nhiều xác chết đã được đào thấy bị chết khi đang ở trong những tư thế khác nhau: có người chết khi đang ngủ trên giường, người khác chết đang khi ngồi bàn ăn uống. Đặc biệt người ta đào được xác của một người lính bị chết trong tư thế đang đứng gác và đang cầm một cây giáo dài trong tay.

12. Ham mê ăn uống.

Câu chuyện ngụ ngôn kể về một con chim ưng. Đang khi đói, nó bay qua một nông trại, nhìn xuống thấy biết bao nhiêu giun dế. Nó thèm lắm, nhưng lại sợ chết nên nó phải hạ cánh bay xuống sát mặt đất của nông trại để thương lượng với ông nông dân.

Con chim ưng sẵn sàng đổi cho ông cứ mỗi cái lông lấy một con giun. Vì háu ăn, con chim đã ăn quá nhiều giun, và như thế nó cũng mất đi rất nhiều lông cánh tới độ nó không còn có thể bay lên cao được nữa. Dù nó nhận biết rằng thân phận của nó là phải bay trên bầu trời cao, nhưng những con giun đã làm cho nó mê muội rồi quên đi khung trời cao xanh ở trên, mà chỉ biết tới những con giun dưới đất.

13. Hãy tỉnh thức và ngẩng cao đầu

Trong cuốn "Giai thoại về những cái chuông" (The legend of the Bells) John Shea có kể một câu chuyện như sau:

Khi Thiên Chúa dựng nên cây cối, Người ban cho mỗi loài cây một ân huệ. Nhưng ban đầu, khi Người đưa ra một cuộc tranh luận, để xác định xem ân huệ nào có lợi ích nhất. Người nói với chúng: “Ta muốn các ngươi phải thức tỉnh và tiếp tục coi sóc cả mặt đất trong vòng bảy đêm.”

Những thân cây còn non rất phấn khởi, vì được Người tin tưởng giao phó cho một công việc quan trọng như vậy, đến nỗi trong đêm đầu tiên, chúng nhận thấy việc canh thức không có gì là khó khăn cả. Tuy nhiên, trong đêm thứ hai, thì việc đó không còn dễ dàng nữa, và trước khi đến lúc rạng đông, một số cây đã lăn ra ngủ. Trong đêm thứ ba, các thân cây thì thầm nhắc nhở nhau cố gắng giữ mình, để khỏi bị cám dỗ của cơn ngủ. Mặc dù vậy, điều này chứng tỏ là quá sức đối với một số cây. Trong đêm thứ tư, lại có thêm vài cây ngã gục.

Đến đêm thứ bảy, những thân cây duy nhất còn tỉnh thức là cây tuyết tùng, cây thông, cây vân sam, cây linh sam, cây nhựa ruồi và cây nguyệt quế.

Thiên Chúa nói với chúng: “sức chịu đựng của các ngươi thật tuyệt vời! Các ngươi sẽ được ban cho một ân huệ là giữ được mầu xanh tươi mãi mãi. Các ngươi sẽ trở thành những kẻ canh gác khu rừng. Ngay cả trong mùa đông dường như mang lại cảnh chết chóc, thì các ngươi vẫn bảo vệ được sự sống trên những cành cây của các ngươi.” Kể từ đó, tất cả các cây cối và thực vật đều bị rụng lá và ngủ trong suốt mùa đông, trong khi đó các cây kể trên vẫn thường xanh tươi ngay cả trong mùa đông.

14. Bài học trong 36 tiếng

Cách đây mấy năm, tại Hollywood, có một tài tử điện ảnh đột nhiên ngã bệnh. Sau khi khám cho anh, bác sĩ riêng đã thẳng thắn nói cho chàng tài tử biết: “Tình trạng sức khoẻ của anh bi đát lắm! Chúng tôi cần phải thực hiện một cuộc giải phẫu kéo dài 36 tiếng đồng hồ mới may ra cứu sống anh được.”

Về sau, chàng tài tử ấy thực sự thú nhận: “Trong 36 tiếng đồng hồ ấy, tôi đã học được nhiều điều hơn 36 năm trước đó của tôi, và tôi đã cảm nghiệm được niềm vui mà trước đó tôi chưa bao giờ cảm nghiệm được. Tôi khám phá ra rằng tôi chẳng hề sợ chết vì trước đó tôi có thói quen mỗi ngày cầu nguyện với Chúa Giêsu và bây giờ khi phút giây cam go xảy đến, tôi cảm nhận được kết quả của lời cầu nguyện ấy. Chính lúc đó tôi mới khám phá ra rằng nhờ những lần tâm sự, nói chuyện hằng ngày với Chúa Giêsu truớc đó, mà giữa Ngài và tôi chẳng xa lạ gì nhau, chúng tôi đã trở nên đôi bạn chí thân.”

15. Ngày Cánh Chung

Trong khi một số nhà tiên tri loan báo ngày tận thế là ngày 21/12/2012, Đức Giáo hoàng Benedictô thứ 16 trong thánh lễ hôm 18/11/2012 tại Vatican, đã kêu gọi các tín đồ công giáo không nên dừng lại ở “sự tò mò về thời điểm và các lời dự báo về ngày tận thế.”

Từ cửa số bao lơn nhìn ra quảng trường Thánh Phêrô, Đức Giáo hoàng Benedictô 16 đã rao giảng bài Phúc âm trong ngày, trong đó Chúa Giêsu nói với các thánh tông đồ về ngày Ngài lại xuống thế gian vào lúc tận thế, khi “bầu trời trở nên âm u” và “các vì sao rơi rụng xuống từ trời.” Theo Đức Giáo hoàng, thì Chúa Giêsu không hành động như một “nhà tiên tri” mô tả “ngày tận thế”, mà ngược lại muốn giải thoát vĩnh viễn các môn đệ và dân chúng thoát khỏi các lời tiên đoán về thời điểm thế giới sẽ bị tận diệt

Đức Giáo hoàng Benedictô 16 giải thích, Chúa Giêsu “muốn mang lại cho các tín đồ chiếc chìa khóa cho sự suy ngẫm sâu sắc hơn, đúng bản chất hơn, và nhất là chỉ ra con đường phải đi hôm nay và ngày mai để bước vào cuộc sống vĩnh hằng.” Ngài nói tiếp: “Tất cả rồi sẽ trôi qua, nhưng lời của Chúa không hề thay đổi.”

16. Gieo gì gặt nấy

Có một bác thợ xây đến tuổi nghỉ hưu, nói với người chủ những dự định của mình về cuộc sống nhàn nhã khi nghỉ hưu. Người chủ rất buồn khi người thợ giỏi của mình xin nghỉ, nhưng ông cũng đề nghị bác thợ xây giúp ông xây một căn nhà cuối cùng trước khi về nghỉ.B ác thợ xây đồng ý cách miễn cưỡng và nghĩ rằng “mình đã xin về hưu mà ông chủ còn muốn vét cạn sức lực của mình.” Bác làm việc cẩu thả, chọn những chất liệu kém chất lượng và chỉ muốn mau chóng làm cho xong việc để còn về hưu.

Căn nhà được xây lên cách vội vàng, bác thợ xây đến gặp ông chủ để bàn giao. Bác thợ xây gởi lại chìa khóa nhà cho ông chủ: "Thưa ông, đây là chìa khóa căn nhà ông yêu cầu tôi xây dựng.” Nhưng ông chủ mỉm cười đôn hậu nói: "Đây là ngôi nhà của bác, tôi tặng bác để tỏ lòng biết ơn vì sự trung thành và tận tâm của bác cho công ty của tôi.” Người thợ xây hết sức bất ngờ và cảm thấy hổ thẹn. Nếu như bác biết rằng mình đang xây ngôi nhà cho chính mình thì bác đã làm hoàn toàn khác. Còn bây giờ, bác phải sống trong ngôi nhà xấu xí mà bác vừa xây.

17. Thiếu tỉnh thức

Theo kinh thánh, Sam-son là vị thủ lãnh có sức mạnh phi thường, trở thành nỗi kinh hoàng cho quân Phi-li-tinh.

Ngày nọ, với hai bàn tay không, Sam-son anh dũng chống cự với một con sư tử gấm và xé xác nó ra khi nó bất thần lao vào tấn công ông.

Có lần bị quân Phi-li-tinh vây chặt, trong tay không một tấc sắt, Sam-son chộp ngay một chiếc xương hàm của con lừa và dùng vật nầy như khí giới chống lại quân thù và quật chết rất nhiều đối thủ dám khiêu khích ông.

Sức mạnh của Sam-son làm cho quân Phi-li-tinh vô cùng khiếp sợ. Khi không thắng được Sam-son bằng sức mạnh, người Phi-li-tinh tìm cách diệt ông bằng mưu kế.

Một chiếc bẫy được giương ra: đó là nàng Đa-li-đa, một thiếu nữ người Phi-li-tinh xinh đẹp và lôi cuốn. Cô nàng đến với Sam-son và chiếm lấy trái tim anh. Đaliđa gạn hỏi Sam-son do đâu mà anh có sức mạnh kinh hồn. Được Sam-son tiết lộ cho biết sức mạnh của anh có liên hệ đến mái tóc, khi nào tóc bị cắt đi thì sức lực anh không còn.

Biết thế, Đa-li-đa lén cắt tóc Sam-son trong khi anh ngủ rồi báo tin cho các thủ lĩnh Phi-li-tinh. Quân Phi-li-tinh xông đến, quật ngã anh, xiềng anh lại bằng những sợi xích đồng, tàn nhẫn khoét luôn cả hai mắt anh và bắt anh ngày ngày kéo cối xay quay như một con trâu ngoan ngoãn.

18. Không ai biết được ngày mai

Người Việt Nam có câu "nước tới chân mới nhảy" thì quá trễ. Người Miền Trung và cao nguyên trung phần Việt Nam đã quá thấm thía câu nói này qua cơn lũ lịch sử vào ngày 11 tháng 10 vừa qua. Bất ngờ đột ngột giông bão và cơn lũ đổ về đã khiến cho hàng trăm người thiệt mạng, hàng ngàn ngôi nhà bị xóa sổ, thậm chí cả một xóm Trường ở Phú Yên bị xóa sổ hoàn toàn. Cuộc đời có qúa nhiều cái đột ngột bất ngờ đã lấy đi biết bao tính mạng của con người. Bất ngờ xảy ra đối với con người trong mọi hoàn cảnh như: tai nạn giao thông, tai nạn nghề nghiệp, tai nạn bởi thiên tai. Với biết bao cái chết đột ngột, bất ngờ khiến chúng ta cảm thấy cuộc đời thật mong manh, kiếp người sao quá mỏng dòn. Cuộc đời đến rồi đi dường như không theo tính toán của con người. Con người dường như bất lực trước định mệnh sống còn của cá nhân mình.

Người ta kể rằng: Có một tai nạn máy bay đã xảy ra và trong đám hành khách bị thiệt mạng, người ta tìm thấy một anh chàng văn sĩ. Anh chàng văn sĩ này, trước đó mấy tiếng đồng hồ, đã ba hoa hăng say nói với một người bạn tại phi trường Rôma về những tiến bộ của khoa học và kỹ thuật. Anh chàng văn sĩ ấy nói: "Này bạn, bạn thấy trí óc con người tuyệt diệu đấy chứ... Sáng nay, tôi đã uống cà phê tại Bá Linh. Bây giờ là buổi trưa, tôi với bạn dùng cơm tại Rôma. Và tối nay, tôi sẽ đi nghe nhạc tại Paris.” Nhưng sự thật đã xảy ra khác hẳn. Tối nay chàng văn sĩ ấy đã xuất hiện trước tòa án tối cao của Thiên Chúa, thay vì đi nghe nhạc tại một nhà hàng nổi tiếng của Paris.

19. Giúp cho người là giúp cho mình

Ngày xưa có một ông cụ già tên là Lót, ông cố cứu kinh thành Sô-đô-ma khỏi bị Chúa tiêu diệt bằng cách mỗi ngày đi gặp người dân trong thành để cảnh cáo và kêu gọi mọi người tin Chúa, thờ Chúa cho khỏi bị tiêu diệt. Không ai chịu nghe lời ông cụ mà còn chế diễu là mê tín dị đoan nữa. Ông cụ vẫn bền chí đi hết nhà này sang nhà nọ để kêu gọi họ thống hối ăn năn. Thấy chuyện vô tích sự của cụ, nên có người hỏi:

- Tại sao cụ nói cho họ biết làm gì cho mệt. Họ có nghe cụ và thay đổi gì đâu? Nói với họ cũng như nước đổ đầu vịt!

Ông cụ bình tĩnh đáp:

- Có lẽ tôi không thuyết phục nổi ai, cũng không thay đổi được ai đâu. Nhưng làm như thế cũng là giúp tôi, đừng lao vào cuộc sống sa đoạ như họ.

20. Những nụ cười đáng buồn

Có ba xác chết đều có bộ mặt đang mỉm cười được đặt tại Trung tâm điều tra hình sự. Ông quản lý đang trả lời nhà báo về nguyên nhân của những cái chết.

- Đây là ông John. Ông ta chết ngay sau khi biết tin mình trúng xổ số 10 tờ độc đắc.

Ông ta bước đến xác thứ hai:

- Đây là Geogre. Ông ta chết khi nghe tin toà án cho ly dị vợ mà không phải chia gia sản được hưởng toàn bộ.

Đến cái xác thứ ba:

- Đây là Tom. Ông ta chết vì bị sét đánh.

- Hai người trước thì có thể hiểu được nụ cười, còn ông này cười cái gì?

- Ồ, ông này say rượu, khi thấy tia sáng của sét đánh xuống mà ông ta cứ ngỡ mình đang được chụp hình nên vẫn cứ cười!

21. Đừng để đến ngày mai

Cách đây hơn 20 năm, có một trận động đất dữ dội xảy ra tại California Hoa kỳ. Một cô gái trẻ bị vùi lấp trong đống đổ nát, và người ta lập tức chuyển ngay cô vào bệnh viện. Trước đây cô ta sống trong một gia đình khá đạo đức, nhưng từ khi lấy chồng, sự giầu có đã làm cô gái lạc mất định hướng cuộc đời mình. Cô ta sống phóng túng như một kẻ vô thần. Nằm trên giường cấp cứu, cô gái cố gắng thu gom hết tàn lực cuối cùng để hỏi bác sĩ: “Liệu tôi có qua khỏi hay tôi còn sống được bao nhiêu năm nữa?” Bác sĩ thành thật nói với cô ta rằng ông cố gắng lắm chỉ giúp cô sống thêm được vài tiếng đồng hồ nữa thôi. Nghe nói thế, cô gái ôm mặt khóc nức nở và đau đớn thốt lên: “ Ôi muộn quá rồi.” Có lẽ rất nhiều người trong chúng ta cũng sẽ phải thốt lên câu này khi đối diện trước cái chết.

Chúng ta nhớ lại giai thoại về tướng quân Archais của Hy Lạp năm xưa. Ông là một vị tướng giỏi, đánh trận nào thắng trận đó. Sau một trận thắng lớn, ông khao quân lính một bữa tiệc thịnh soạn. Giữa cuộc vui, một sứ giả đem đến cho ông bức thư khẩn và báo tin là ông đang bị mưu sát để biết cách đề phòng. Thay vì mở thư ra đọc và cảnh giác, ông nhét thư vào túi, vẫn tiếp tục nhậu nhẹt và tự nhủ: “ Thôi để mai hãy tính.” Ngay đêm đó, ông bị giết chết. Câu chuyện gợi nhắc lời Chúa nói trong bài Tin mừng hôm nay: “Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em” (Lc 21, 34).

Thánh Gioan Bosco vẫn tổ chức tĩnh tâm hàng tháng cho các học sinh và Ngài gọi đó là ‘ngày dọn mình chết lành’. Đây không phải là một động thái mang tính tâm lý, nhưng là một việc thực hành trong đức tin. Chúa Giêsu đã nói “ Anh em không biết ngày nào giờ nào con Người sẽ đến.” (Mt 24, 24)

22. Mười Điều Tâm Niệm cho Hôm Nay của Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII

1. Hôm nay, tôi sẽ gắng sống suốt ngày một cách tươi vui tích cực mà không ước ao phải giải quyết mọi vấn nạn của đời tôi một lúc.

2. Hôm nay, tôi sẽ hết sức để ý đến dung diện của mình: tôi sẽ ăn mặc đoan trang; tôi sẽ không lớn tiếng; tôi sẽ giữ thái độ lịch duyệt; tôi sẽ không phê phán ai; tôi sẽ không đòi cải thiện hay kỷ luật bất cứ ai trừ bản thân tôi.

3. Hôm nay, tôi sẽ sống hạnh phúc trong sự xác tín rằng tôi được dựng nên để hạnh phúc không phải chỉ trong đời sau nhưng ngay cả trong đời này.

4. Hôm nay, tôi sẽ thích ứng với các hoàn cảnh mà không đòi mọi hoàn cảnh phải thích hợp với các ước muốn của tôi.

5. Hôm nay, tôi sẽ dành ra 10 phút để đọc sách tốt, luôn nhớ rằng như đồ ăn cần cho sự sống thể xác, việc đọc sách tốt cũng cần cho đời sống linh hồn như vậy.

6. Hôm nay, tôi sẽ làm một việc tốt và sẽ không nói với bất cứ ai về việc ấy.

7. Hôm nay, tôi sẽ làm ít nhất một việc mà tôi không thích; và nếu tôi cảm thấy bị đau đớn điều gì, tôi sẽ cố không để ai nhận thấy.

8. Hôm nay, tôi sẽ xếp chương trình cho chính tôi. Có thể tôi sẽ không theo sát từng chữ, nhưng tôi vẫn phải có chương trình. Và tôi sẽ đề phòng hai điều tai hại: hấp tấp và không quyết định.

9. Hôm nay, tôi sẽ tin chắc rằng dù cuộc sống có thế nào, sự quan phòng tốt lành của Chúa vẫn săn sóc tôi như không có ai khác trên thế giới này.

10. Hôm nay, tôi sẽ không sợ chi. Đặc biệt, tôi sẽ không sợ thưởng thức những gì xinh đẹp và tin vào sự thiện.

23. Chờ Chúa đến

Vào Mùa vọng năm 2008, cha Gioan Nguyễn Tươi có dịp đi vào những vùng sâu, và viếng thăm những người nghèo. Cha kể:

Tôi đến thăm một bé trai 9 tuổi bị bệnh ung thư máu, em đã nằm trên giường bệnh nhiều năm, thân hình tàn tạ chỉ còn da bọc xương, em đang chờ đợi cái chết sẽ xẩy đến trong một thời gian ngắn nữa thôi. Lúc ấy, tôi thầm nghĩ trong lòng, tôi sẽ giúp đỡ và đưa em đi bệnh viện để em có thể sống được lâu hơn, vì nhà em quá nghèo, đến nỗi gia đình không có tiền để mua một hộp sữa cho em uống.

Tôi hỏi người mẹ có cho em ăn gì chưa? Chị ta trả lời: "Hôm nay, nhà em không còn gì để cho cháu ăn" Nghe lời chị ta nói, lòng tôi bị thắt lại. Ngôi nhà thì rách nát, tả tơi, ngay cả chỗ em nằm cũng không được bảo đảm chen nắng che mưa. Khi nhìn thấy hoàn cảnh đứa bé, tôi xúc động trước nỗi bất hạnh của em.

Tôi đến cầm lấy tay và đỡ em ngồi dậy. Tôi nhìn đôi mắt của em, hai dòng nước mắt chảy xuống trên đôi má gầy gò da bọc xương, và lúc đó tôi cũng không thể cầm được nước mắt của mình. Và tôi cũng không thể nói được điều gì với em, nhưng tôi tin chắc rằng, em sẽ hiểu được tình cảm của tôi qua ánh mắt yêu thương dành cho em. Trước khi từ giã em ra về, tôi có hứa với em rằng, tôi sẽ trở lại để đưa em đi bệnh viện.

Đó là điều mong ước nhỏ nhoi của tôi. Thế nhưng, điều ước mơ đó, tôi chưa thực hiện được, thì em đã vĩnh viễn ra đi, lòng tôi đau khắc khi lời hứa tôi chưa thực hiện được trong đời mục vụ. Mỗi lần Mùa Vọng đến lại gợi lại trong tôi một kỷ niệm buồn, nhưng tôi tin rằng em đã về với Chúa trên thiêng đàng và mong rằng em sẽ hiểu và cầu nguyện cho tôi.

Mùa vọng là cơ hội tốt để cho chúng ta nhìn lại thời gian qua, sống với giá trị hiện tại, và hướng tới tương lai vĩnh cửu.

24. Thế nào là tỉnh thức?

Có một anh thanh niên, một hôm, gặp thần chết đến với mình. Anh sợ hãi, nài nỉ thần chết đừng hại nhưng hãy cho anh ta sống thêm một thời gian. Thần chết đồng ý. Nhưng không hiểu sao hôm ấy thần chết lại dễ tính quá. Sau khi để cho anh được sống, thần chết còn hứa, nếu sau này, khi nào thần chết đến gọi anh ra khỏi cuộc đời, thần chết sẽ báo trước để anh chuẩn bị. Anh mừng rỡ và cám ơn thần chết rối rít.

Thế là từ đó, biết rằng cái chết của mình sẽ được báo trước, anh thanh niên bắt đầu một cuộc sống rất thoải mái. Anh dung túng cho bản thân mình đến mức đêm ngày ngụp lặn trong tội lỗi, bất kể Thiên Chúa, bỏ mặc vợ con, mải miết đắm chìm trong những thú vui đồi bại. Không những thế, khi vợ con lên tiếng phản đối, anh còn tặng lại cho họ những trận đòn chí tử…

Rồi một ngày, anh bị một cơn bạo bệnh bất ngờ ập đến. Mọi người đều lo lắng cho anh. Ai cũng sợ anh phải chết. Riêng anh thanh niên vẫn thản nhiên vì mãi cho đến lúc này, lúc mà anh trở nên yếu sức vô cùng, anh vẫn chưa thấy thần chết nói gì. Và đúng như thế. Sau cơn bạo bệnh, anh nhanh chóng lấy lại sức khỏe như chưa hề có bệnh tật gì. Anh càng chắc mẫm rằng, ngày tận số của mình vẫn còn dài. Từ đó anh càng lao thân như điên như dại vào vũng bùng thối tha nhưng đối với anh, nó thật êm ái.

Lần khác, anh cùng vợ mình đang ngồi trên một toa xe lửa. Vì quá tủi buồn cho bản thân và cô đơn trong đời sống vợ chồng, vợ anh đã nhảy khỏi xe lửa trước mặt anh. Các bánh xe của đoàn tàu thản nhiên lăn trên thân thể của chị thật kinh hoàng. Bất giác làm anh rùng mình khiếp sợ. Nhưng giây phút chứng kiến cảnh tượng đó mau chóng biến tan. Không những anh vẫn thản nhiên sống, mà còn xem đó là cơ hội để thoát khỏi sự ràng buộc của vợ. Vợ anh chết, chứ thần chết có nói gì với anh đâu!

Một lần khác, anh lại bị một tai nạn khi đang đi đường. Anh ngất xỉu, máu me đầy người, nằm mê man, không hề biết gì. Đưa anh vào bệnh viện mà mọi người chẳng còn chút hy vọng nào cho sự sống của anh. Nhưng thần chết vẫn chưa đến, vẫn chưa báo trước điều gì. Và anh đã tỉnh lại. Lại thêm một lần, anh thầm cám ơn thần chết, vì ông đã không phản bội lời hứa của chính mình. Cuộc sống của anh lại bắt đầu và tiếp diễn.

Nhưng thật lạ lùng. Một hôm, khi anh vẫn đang là người khỏe mạnh, vẫn đang sống cuộc sống trác táng của mình, chính lúc ấy, anh lại gặp thần chết. Một lần nữa, thần chết viếng thăm anh. Anh lo sợ quá sức, bủn rủn tay chân. Dường như đất dưới chân anh đang quay cuồng. Tâm trí anh hoàn toàn sụp đổ. Thần chết mỗi lúc một đến gần hơn. Ông cho biết, hôm nay ông sẽ cất mạng sống của anh. Anh van lạy thần chết một cách tuyệt vọng và đớn đau. Anh trách móc thần chết đã quên lời hứa, đã không báo trước giờ chết của anh.

Nhưng thần chết rất bình tỉnh, từ tốn nói với anh: “Ta đã báo cho ngươi biết trước giờ chết của ngươi, không phải một nhưng đã nhiều lần. Ngươi đâu có nghe ta, vì thế hôm nay người đừng van xin gì hết. Đã đến lúc ngươi phải theo ta.” Anh thanh niên vẫn tìm cách kéo dài sự sống: “Nhưng thưa thần chết, tôi đâu có bao giờ nghe thấy ông nói gì với tôi?” “Ngươi đừng cố viện lý do. Qua những lần ngươi đau nặng, và qua chính cái chết tang thương của vợ ngươi, ta đã báo cho ngươi biết. Chính cuộc sống, sự đau khổ, bệnh tật, cái chết của bản thân và của mọi người xung quanh là bài học kinh nghiệm quý giá cho ngươi học lấy, đó chính là sự nhắc nhở của ta dành cho ngưoi. Nhưng ngươi vẫn không nghe, vẫn cứng đầu, vẫn cố tình ở lỳ trong tội của ngươi. Vì thế hôm nay ngươi phải đền tội.” Và thần chết tiến tới lôi anh đi trong khi lòng anh run sợ…

25. Sẵn sàng

Ngày kia Thánh Luy Gonzaga còn chơi với bạn bè, thình lình cha bề trên đến tập họp tất cả lại và hỏi thử: “Giả sử như chúng con đang chơi mà Chúa đến báo cho chúng con biết chúng con chỉ còn sống 5-10 phút nữa thôi, thì chúng con sẽ làm gì?”

Bấy giờ mọi người bỗng trở nên căng thẳng. Người thứ nhất trả lời: “Con sẽ đi gặp cha linh hướng” Người thứ hai nói:”Con sẽ vào nhà thờ cầu nguyện trước Nhà Tạm.”

Riêng Luy vẫn bình thản trả lời: “Thưa cha, con sẽ tiếp tục chơi.”

26. Người quản gia trung thành.

Tại Thụy sĩ, có một vườn hoa tuyệt đẹp, đủ loại hoa, đủ màu sắc. Nằm giữa vườn là một tòa nhà tráng lệ. Nhìn vườn hoa với cảnh phối trí, cắt tỉa, uốn nắn… ai cũng phải công nhận đã có một sự chăm sóc kỹ lưỡng, kèm theo một óc thẩm mỹ hiếm có của người chủ vườn. Một du khách đi qua đây, thoáng nhìn ông đã thấy như say mê. Giữa lúc đó, người làm vườn bước ra. Chủ khách chào hỏi lẫn nhau. Rồi từ chuyện hoa cỏ, cách chăm bón, trồng tỉa, sự phối hợp màu sắc… câu chuyện đi đến chỗ thân tình.

Du khách hỏi: “Xin lỗi cụ, cụ ở đây được bao lâu rồi?”- “Khoảng 40 năm rồi” – “Tôi đoán, có lẽ ông chủ của cụ rất sành về nghề cảnh, chắc giờ này ông có nhà?” – “Ông ta không ở đây, thỉnh thoảng mới ghé qua đây thôi” – “Ông có thư từ gì với cụ không?” – “Không, ông ta bận lắm” – “Ông không về cũng không thư từ, thì ai trả lương cho cụ?” – “Hàng tháng tôi chỉ nhận được ngân phiếu từ ông ta để chi phí mọi sự cho khu vườn này” – “Thế tội gì cụ phải chăm sóc kỹ lưỡng thế này, ông chủ có mấy khi đến thưởng ngoạn đâu?” – “Tôi thì lại không nghĩ thế, mình là một gia nhân được chủ tín nhiệm trao phó việc bảo quản khu vườn này, mình phải tận tụy chứ lúc nào ông về cũng được, ông sẽ hài lòng với công việc của tôi. Hơn nữa, khi làm đẹp khu vườn cho chủ, chính tôi cũng được thưởng ngoạn cảnh đẹp do chính tay mình làm nên.”

Người gia nhân trên đây thật đáng ca tụng. Ông làm việc không vì sợ nhưng vì yêu, làm việc với một tinh thần trách nhiệm. Ông coi việc của chủ như việc của mình nên làm việc hết tấm lòng. Ông thực là một gia nhân tốt, một quản lý trung thành.

27. Tinh thần cầu nguyện

Cha Anthony de Mello, giảng viên nổi tiếng người Ấn Độ kể:

Một hôm con trai của Giáo chủ đạo Bà hai bên Ấn Độ được mời vào một gia đình khá giả. Bà chủ nhà vốn có lòng hiếu khách, trổ tài nấu ăn cho vui lòng khách quý.

Tiếc thay khi dọn cơm lên, bà khiêm tốn xin lỗi khách, vì cái mùi khen khét của các món ăn. Bà phân trần:

- Vì muốn bữa cơm thật ngon nên trong khi nấu nướng, tôi lo cầu nguyện nên quên chú tâm vào việc nấu ăn.

Vị khách mỉm cười đáp:

- Việc cầu nguyện là điều rất cần và rất tốt. Nhưng lần sau khi làm bếp, bà hãy cầu nguyện với quyển sách dạy nấu ăn hơn là cuốn Kinh Thánh.

28. Đùa cợt với chuyện đời đời

Nước Mỹ này có nhiều tờ báo nối tiếng nhưng bên cạnh cũng chẳng thiếu những tờ lá cải đăng tin giật gân để thỏa tính tò mò của độc giả. thí dụ một tờ báo Mỹ đã đăng cái tin sau đây: "Ngày 20 tháng 6 năm 1997 quân đội Mỹ khám phá ra 1 đĩa bay bị đâm nhào xuống vùng sa mạc New Mexico. Họ lôi ra 1 người hành tinh từ trong đĩa bay và bí mật đưa về Washington DC để thẩm vấn.

“Người hành tinh này rất thông minh, gấp 500 lần trí thông minh của con người. Hắn ta học tiếng Mỹ trong vòng 24 giờ là có thể nói lưu loát. Hắn ta sống trong một hành tinh rất xa trái đất. Dân tộc của hắn cũng là những thụ tạo Chúa dựng nên nhưng họ cũng ham thích giầu có, quyền lực và phạm tội xác thịt nên dù bị Chúa cảnh cáo nhưng dân tộc hắn vẫn cứ xúc phạm tới Chúa.

“Người hành tinh này nói Thiên Chúa nổi giận với các thụ tạo khắp mọi nơi chứ không riêng gì trái đất. Và Chúa đã hủy diệt 4,000 hành tinh rồi, trái đất này sẽ là kế tiếp. Tin cuối cùng người hành tnh này cho biết là ngày 11 tháng 1 năm 2000 trái đất này sẽ bùng cháy và bị phá hủy hoàn toàn.”

Và có nhiều người đã tin.

29. Hãy tỉnh thức

Một ngày trong tháng 12, cậu Gary Schneider 16 tuổi và hai người bạn lên đường để leo núi Mt.Hood dự tính trong vòng 4 ngày.

Lên được 9.000 bộ (tức gần 3 km), ba cậu bé bị một cơn bão tuyết có lẫn đá thổi tới và vùi lấp. Chẳng bao lâu tuyết đã ngập khỏi đầu các cậu. Các cậu bèn đào hầm chui vào đống tuyết để thoát khỏi những luồng gió lạnh buốt thổi tới và để chờ đợi cho qua trận bão tuyết.

Mười một ngày sau, trận bão tuyết vẫn còn tiếp tục thổi dữ tợn. Các túi dùng để chui vào ngủ của các cậu đã bị ướt và đông cứng lại. Thức ăn dự trù chỉ còn đủ cho mỗi người mỗi ngày được hai muỗng bột làm bánh. Nguồn an ủi duy nhất của các cậu bây giờ là cuốn Thánh kinh gọn nhỏ mà một cậu đã mang theo trong túi hành trang.

Các cậu mở sách Thánh Kinh và đọc mỗi ngày tám tiếng. Đúng là một cảnh tượng ngộ nghĩnh: trong một cái hầm đào trong tuyết rộng 5 bộ vuông (chưa đầy 1m2), có ba cậu bé mới mười mấy tuổi đầu đang ngồi chồm hổm trên những cái túi ngủ đọc sách. Chỉ có một chút ánh sáng mờ ảo phản chiếu từ cái lỗ hầm nho nhỏ ở phía trên.

Tại đó, ba cậu tụm lại với nhau hết giờ này tới giờ khác, ngày này qua ngày khác, cùng nhau lắng nghe Lời Chúa bất chấp tiếng gió hú bên trên.

Cuốn Thánh Vịnh dường như là cuốn nói hay nhất về tình trạng hiện tại của các cậu. Đavid có viết một vài bài khi ông bị lâm vào những tình trạng không khác gì các cậu; đói, cô đơn, không biết chuyện gì sắp xẩy đến, chỉ còn biết tin tưởng ở Chúa.

Nếu có ai cứu giúp, thì người đó chỉ có thể là Thiên Chúa. Chờ đợi như thế không phải chuyện dễ. Các cậu chỉ còn biết cầu nguyện, hy vọng cơn bão tuyết sẽ chấm dứt và sẽ có người tới cứu giúp.

Cuối cùng, vào ngày thứ 16, bầu trời trong sáng trở lại, các cậu bò ra khỏi hầm bằng tuyết của mình. Qua cơn ngặt nghèo ấy các cậu trở thành yếu đuối, và ra khỏi hầm các cậu chỉ có thể bước đi được một vài bước. Ngày hôm sau có một nhóm người cứu trợ bắt gặp các cậu trong tình trạng như thế. Cuối cùng cơn thử thách khiến các cậu phải chờ đợi lâu dài đó đã chấm dứt.

30. Hãy nhìn đường

Ít năm trước đây, một tài xế xe buýt thuộc bang Oklahoma đạt kỷ lục xuất sắc. Trong 23 năm, anh lái xe buýt trên 1.500.000 km không gây một tai nạn nào. Khi được hỏi làm sao anh đạt được kỷ lục ấy, anh trả lời đơn giản: "Hãy nhìn đường"

Bài Tin mừng hôm nay cho một lời khuyên tương tự "Hãy tỉnh thức luôn.”

31. Tưởng mình tỉnh thức mà coi thường dịp tội

Ngày xưa có một thanh niên tính tình hiền lành, luôn ăn ở hiếu thảo với cha mẹ, và rất yêu thương vợ mình. Một hôm, một con quỷ đã hiện ra và cám dỗ anh ta phạm tội.

Quỷ cho anh được quyền chọn làm một trong ba điều xấu: Một là chửi mắng cha mẹ. Hai là giết chết cô vợ thân yêu. Ba là uống rượu. Bấy giờ chàng thanh niên liền suy nghĩ như sau: “Chửi mắng cha mẹ là bất hiếu, nên ta quyết không làm. Giết chết người vợ thân ỵêu là bất nghĩa, ta cũng không thể làm được. Chỉ có uống rượu là ta có thể làm được thôi, vì uống rượu đâu phải là điều quá xấu xa!”

Thế là anh ta chọn uống rượu. Quỷ liền sai người cung cấp cho anh ta đủ các thứ rượu ngon trên đời. Lúc đầu chàng thanh niên còn uống hạn chế mỗi bữa một ly nhỏ, nên không có điều gì xảy ra. Nhưng dần dần việc uống rượu trở thành thói quen, mỗi bữa anh ta phải tăng "đô" lên và uống gấp nhiều lần mới thấy "phê.” Cuối cùng, anh đã trở thành một tên bợm nhậu: lúc nào cũng say xỉn!

Một hôm, anh ta say đến nỗi không biết trời trăng gì nữa. Trong cơn say, anh ta đập bể tất cả chén bát và vứt mọi thứ đồ đạc trong nhà ra đường. Bị cha mẹ ngăn cản rầy la, anh ta liền to tiếng cãi lại và buông ra những lời thô tục xúc phạm đến cha mẹ. Cô vợ thấy chồng vô lễ và bất hiếu như vậy liền chạy tới khuyên can liền bị anh đâm một nhát dao khiến cô ngã lăn ra chết. Thế là từ việc uống rượu tưởng chừng vô hại lúc đầu, về sau đã trở nên nguyên nhân dẫn đến hai tội ác lớn lao là bất hiếu xúc phạm cha mẹ, và bất nghĩa giết người vợ thân yêu của mình.

32. Giấc ngủ của người vô thần.

Một chế độ chính trị ổn định, một nền kinh tế phát triển, một hệ thống giáo dục vững mạnh, một gia đình hạnh phúc... là thành công. Đó là quan niệm chung của con người thế kỷ 21 này, hay nói rõ hơn là quan niệm của những người không tin vào thượng Đế.

Thế nhưng, đó là sự thành công trong một giấc ngủ say. Một lý tưởng sống rất tầm thường, một thái độ đang chối bỏ sự thật. Người vô thần cho rằng tất cả những gì họ làm là cho con người. Họ cố gắng rất nhiều, nỗ lực rất nhiều. Lẽ ra họ phải được coi là những người tỉnh táo và sáng suốt hơn bất kỳ ai. Tại sao cho rằng họ đang ngủ say?

Rõ ràng một người duy trì một chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, gia đình ổn định, là những người có năng lực. Tôi dám khẳng định họ có khả năng lên kế hoạch, dự phóng rất tốt về tương lai trong 5 năm hay 10 năm. Tôi biết rõ họ chuẩn bị cho những kế hoạch đó rất kỹ lưỡng, chu đáo. Tôi tin rằng họ sẽ thành công. Thế nhưng, một biến cố bất ngờ về sự ra đi ngày mai của họ. Một sự thật mà họ không tin, không muốn nghĩ đến. Và giả có nghĩ đến thì cũng không dự đoán được. Vậy đương nhiên là không có chuẩn bị gì cho ngày thế mạt đó.

Đó phải chăng là một giấc ngủ say của cuộc đời?

33. Tỉnh thức và đề phòng

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tỉnh thức và cầu nguyện, tức là Ngài muốn chúng ta phải sẵn sàng luôn trong mọi hoàn cảnh và tình huống, bởi vì:

- Có những người tỉnh thức nhưng không đề phòng, đó là những người ăn thua đủ bên canh bạc thâu đêm.

- Có người tỉnh thức nhưng không đề phòng, đó là những người đang say đắm trong đam mê xác thịt, thân xác thì thức để chờ đợi cơn khát vọng của nhục dục, nhưng tâm hồn thì đã ngủ mê trong tội lỗi.

- Có người tỉnh thức nhưng không đề phòng cảnh giác, đó là những người kiêu ngạo, họ tỉnh thức trong kiến thức hạn hẹp của mình khi ai đó phê bình góp ý cho việc làm của mình, nhưng tâm hồn thì đã thoả mãn trong sự đắc thắng của mình...

Người Kitô hữu không thức tỉnh để ăn thua với canh bạc, vì đó là chuyện của con cái tối tăm; người Kitô hữu cũng không tỉnh thức để chờ đợi cuộc nhậu thâu đêm. Nhưng người Kitô hữu tỉnh thức để chờ đợi ngày sum họp với Chúa Giêsu, Đấng đã và đang đến trong cuộc sống của họ...

34. Tỉnh thức

Có một bà già nóng tính, đi trên một chuyến tàu lửa. Khi xe đang xuống dốc, bà liền hỏi bác tài công:

- Chúng ta có thể dừng lại được không?

Bác tài công trả lời ngay:

- Được chứ, chúng tôi có chiếc thắng điện mà.

Bà già chưa lấy làm thỏa mãn, nên hỏi tiếp:

- Nhưng nếu chiếc thắng điện không ăn, thì bác có thể dừng lại được không?

Bác tài công vui vẻ trả lời:

- Được chứ, chúng tôi còn chiếc thắng tay nữa.

Bà già liền nói:

- Lỡ chiếc thắng tay cũng không ăn thì sao?

Bác tài công vẫn không mất kiên nhẫn:

- Chúng tôi còn một chiếc thắng đặc biệt dành cho những trường hợp khẩn cấp.

Bà già vẫn không an tâm, nên hỏi:

- Nếu cả chiếc thắng đặc biệt này cũng không ăn, thì số phận chúng ta sẽ ra sao?

Bác tài công tỏ vẻ bực bội:

- Nếu chiếc thắng đặc biệt này mà không ăn, thì một số người trong chúng ta sẽ lên thiên đàng, còn một số người khác sẽ xuống hỏa ngục.

Thực vậy, qua đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ với mỗi người rằng: Mỗi ngày qua đi là một bước chúng ta tiến dần đến cái chết, để rồi tới một lúc nào đó, chúng ta sẽ phải ra trước tòa án tối cao mà tính sổ cuộc đời với Chúa. Liệu mỗi người chúng ta có sẵn sàng cho phiên tòa định mệnh này hay chưa?

35. Hãy nên một với Chúa

Một linh hồn kia tới trước của thiên đàng, vừa ngơ ngác, lại vừa sợ hãi, nhưng cũng đưa tay ra và gõ. Khi được hỏi là ai, linh hồn ấy đã trả lời:

- Lạy Chúa, con đấy ạ.

Bỗng một tiếp đáp lại: - Nếu ngươi là con, thì ngươi chưa sẵn sàng để vào thiên đàng.

Trở lại trần gian, linh hồn ấy lo ăn chay cầu nguyện, hãm mình phạt xác. Cũng trong thời gian này, linh hồn ấy học hỏi và biết được rằng trong ngày phán xét, Chúa sẽ hỏi: - Ngươi có mang hình ảnh Ta trong tâm hồn ngươi hay không?

Ngày kia, linh hồn ấy cũng lên tới của thiên đàng và khi nghe tiếng hỏi: - Ai đó?

Linh hồn ấy đã thưa lên: - Chúa đấy.

Lập tức có tiếng vọng lại: - Hỡi đầy tớ trung thành và khôn ngoan, hãy vào lãnh lấy phần thưởng của ngươi.

36. Chuẩn bị cho sự sống đời đời

Chúng ta lấy câu chuyện của Tom Anderson ở Bernardsville, NJ làm ví dụ. Tom mướn một căn phòng tại một bãi biển khi anh đi nghỉ hè. Khi anh lái chiếc xe ra biển với người vợ, anh đã tự làm một lời hứa trịnh trọng rằng trong hai tuần này, anh sẽ cố gắng để làm một người chồng tốt.

Trong hai tuần đó, anh đã không gọi điện thoại về hãng, hãm lại cái lưỡi của anh khi anh muốn nói những lời bực tức. Trong hai tuần đó, Tom là người suy nghĩ chín chắn, dễ thương, và biết quan tâm đến người khác.

Vợ của Tom nhận ra điều khác thường đó nên tối cuối của hai tuần nghỉ, chị nhìn thẳng vào anh một cách âu yếm và gương mặt đượm một nỗi lo âu. Thấy thế, anh hỏi chị: "Em ơi, chuyện gì vậy?"

Nước mắt từ từ trào ra trên má, chị đáp: "Có phải anh biết điều gì đó mà em không biết?"

"Em nói như vậy có nghĩa gì?" anh hỏi lại.

"Thì," chị trả lời, "tuần trước khi em đi gặp bác sĩ để khám tổng quát. Xin anh hãy nói sự thật cho em biết đi. Có phải ông bác sĩ đã nói với anh là em có chuyện gì phải không? Có phải ông đã nói là em sắp chết? Có phải vì lý do đó mà anh đã đối xử rất tử tế với em?"

Tom đã lăn ra cười. Đặt vòng tay vào lưng vợ, Tom trả lời: "Em ơi, em không chết đâu! Chỉ là vì bây giờ anh mới bắt đầu sống."

37. Thế giới mong Chúa đến

Ngày 03/2/1994, trong bài diễn văn tại Bữa Điểm tâm Cầu nguyện tại Washington, DC., Mẹ Têrêxa nói: “Tôi ngạc nhiên khi thấy tại phương Tây có rất nhiều bạn trẻ nghiện ngập ma túy. Và tôi thử tìm hiểu nguyên do tại sao như vậy trong khi các bạn trẻ phương Tây có đầy đủ vật chất hơn các bạn trẻ phương Đông. Câu trả lời là bởi vì chẳng có ai trong gia đình tiếp nhận họ (…) cha mẹ thường quá bận bịu, không dành thời giờ cho con cái, thậm chí có khi cha mẹ vẫn chưa chịu kết hôn hay đã hủy bỏ hôn ước của mình. Vì thế, những đứa trẻ đó lang thang trên đường phố và sa vào ma túy hay những thứ khác.”

Vâng, Thế giới bất ổn vì thiếu vắng tình yêu. Thiên Chúa là tình yêu, và tình yêu bền vững của Chúa là chỗ dựa vững chắc cho mọi người, cách riêng là các kitô hữu. Yêu như Chúa yêu cũng là quy luật sống mang lại hạnh phúc không bao giờ chấm dứt cho nhân loại hôm nay. Hôm nay và hơn lúc nào hết, thế giới cần đến sự hiện diện của Thiên Chúa tình yêu.

Vâng, phương thuốc cứu chữa nhân loại trong mọi thời đại là sự công chính của Chúa: “Xin dẫn con đi theo đường chân lý của Ngài và bảo ban dạy dỗ, vì chính Ngài là Thiên Chúa cứu độ con.” (Tv 25,5), là tình yêu vị tha đến quên mình của Chúa dành cho mọi người, và mọi người phải dành cho nhau: “Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết”(1Tx 3,12)

Thiên Chúa tình yêu đang ở đâu trong đời sống tôi? Đó là câu hỏi cần được trả lời nếu tôi thấy cuộc đời là chán ngắt và có nhiều chuyện phải bồn chồn, lo lắng.

38. Dọn dẹp đồ đạc trên tàu chìm?

Đêm 15.04.1912, tàu Titanic đang chạy trên vùng Bắc Đại Tây Dương thì đụng vào một tảng băng, con tàu lâm nguy và bị đắm, hơn 1.500 người thiệt mạng. Đó là một trong những tai nạn đường biển khủng khiếp nhất trong lịch sử từ trước tới nay.

Cách đây vài năm, có một tạp chí đã nhắc lại thảm hoạ này và nêu ra cho độc giả một câu hỏi nghe lạ tai mang đầy tính châm biếm: "Lúc tàu Titanic đang chìm, nếu chúng ta có mặt ở đó, liệu chúng ta có còn tiếp tục dọn dẹp bàn ghế trên tàu không?"

Thoạt tiên ai cũng tự nhủ: "Câu hỏi này mới khôi hài làm sao!, vì ngay lúc còi hụ báo tàu đang chìm thì người có tâm trí bình thường; ai mà lo đi thu xếp bàn ghế? Người có chút tỉnh táo thì ai lại có thể phớt lờ tiếng kêu la của đám người sắp chết đuối, để mải mê lo dọn dẹp bàn ghế!"

Tuy nhiên, cứ tiếp tục đọc bài báo đó, chúng ta sẽ hiểu được tại sao tác giả lại nêu lên câu hỏi kỳ quặc trên, để rồi đột nhiên chúng ta sẽ tự hỏi chính mình "Khi chiếc tàu đang chìm xuống như thế, biết đâu chừng mình lại tiếp tục dọn dẹp bàn ghế? Chẳng hạn như mình vẫn cứ mải mê lo những chuyện vật chất đời này đến nỗi bỏ bê cả những việc thiêng liêng đạo đức của mình? Hay mình cứ miệt mài kiếm sống đến nỗi chả còn đầu óc để chú ý đến cùng đích cuộc sống là gì nữa? Hay mình đã quá đắm mình trong cuộc sống đến nỗi quên mất lý do tại sao Chúa đã trao ban cuộc sống ấy cho mình?

"Khi chiếc tàu đang chìm, liệu chúng ta có mải mê lo thu xếp đồ đạc trên tàu mà quên mất mình sắp chết đến nơi chăng?"

Câu hỏi đó trùng hợp một cách lạ lùng với câu hỏi mà Giáo Hội muốn nêu ra cho chúng ta trong Mùa Vọng này. Cả ba bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay đều kêu gọi chúng ta tự vấn "Liệu chúng ta có tiếp tục mải mê thu xếp đồ đạc mà quên mất nguy hiểm là chiếc tàu đang chìm không? Chúng ta có quá bận rộn với cuộc sống này đến nỗi quên rằng mục đích cuộc sống này là để chuẩn bị cho cuộc sống mai sau không?"

39. hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn

Nông dân hằng ước sao lắm nước mưa nhiều ngay sau khi cây giống hạ thổ. Rồi khi cây mọc lên và đâm chồi nảy lộc, họ lại mong cho mưa nắng thuận hòa. Lý do là muốn cho rễ cây cắm sâu vào lòng đất để tìm nguồn nước, chứ không bò lan trên mặt đất. Rễ cái của cây nếu không tìm được mặt nước ngầm thì chỉ khô héo khi nắng mùa hè tràn tới, vì lúc đó chẳng còn cách nào để hút nước.

Đời sống cầu nguyện của chúng ta cũng vậy. Thiên Chúa thường cho chúng ta một buổi đầu tốt đẹp. Thế rồi, Ngài mặc cho khô hạn kéo tới nhằm tôi luyện rễ cây tinh thần của chúng ta cho đạt tới mức tối hậu của đức tin, chứ không để cho rễ cây tinh thần nằm ở mức cảnh giác.

Tại sao những người cầu nguyện phải lấy việc trau dồi đức tin hơn là cảm giác, làm nhiệm vụ quan trọng chủ yếu?

Chính khi người cầu nguyện cảm thấy rối bời và trái tim trở nên chai đá, thì cũng là lúc tình yêu thuần khiết và lời cầu nguyện được thể hiện. (Thomas Merton)

THỨ HAI - NIỀM TIN ĐÍCH THỰC

Lời Chúa: Mt 8, 5-11

Khi ấy, Chúa Giêsu vào thành Capharnaum, thì có một viên đại đội trưởng đến thưa Chúa rằng: "Lạy Thầy, thằng nhỏ nhà tôi đau nằm ở nhà, nó bị tê liệt và đau đớn lắm!" Chúa Giêsu phán bảo ông rằng: "Tôi sẽ đến chữa nó." Nhưng viên đại đội trưởng thưa Người rằng: "Lạy Thầy, tôi không đáng được Thầy vào dưới mái nhà tôi, nhưng xin Thầy chỉ phán một lời, thì thằng nhỏ của tôi sẽ lành mạnh. Vì chưng, cũng như tôi chỉ là người ở dưới quyền, nhưng tôi cũng có những người lính thuộc hạ, tôi bảo người này đi thì anh đi; tôi bảo người kia đến thì anh đến; tôi bảo gia nhân làm cái này thì nó làm!"

Nghe vậy, Chúa Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta không thấy một lòng tin mạnh mẽ như vậy trong Israel. Ta cũng nói cho các ngươi biết rằng: nhiều người từ phương đông và phương tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong nước trời. Còn con cái trong nước sẽ bị vứt vào nơi tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng."

TRUYỆN KỂ

1. Lòng tin mạnh mẽ

Trong quân đội Roma, danh từ "bách quan" hay "đại đội trưởng" dùng để chỉ những người có một trăm tên lính trong tay. Nếu ở chốn đế đô, họ chẳng là gì thì tại các vùng thuộc địa họ là những viên chức đầy uy quyền góp phần cai trị hà khắc của đế quốc. Có thể gọi họ là chất xúc tác và là thước đo lòng căm thù đế quốc của người Do Thái. Ðối với đế quốc cai trị, họ là những người trực tiếp áp đặt chính sách lên dân chúng.

Luật Do Thái đã khắt khe trong việc giao tế với dân ngoại thì lại càng khắt khe hơn đối với những người đang giày xéo lên mảnh đất Thánh của Giavê Thiên Chúa. Người Do Thái sẽ không bước vào nhà dân ngoại vì đó là những nơi không thanh sạch. Sách Midna đã viết: "Mọi nơi cư ngụ của dân ngoại đều là chỗ không thanh sạch", thế mà Chúa Giêsu lại không ngần ngại đi đến nhà viên bách quan để chữa bệnh cho gia nhân của ông. Chúa Giêsu có ý gì khi hành động như vậy? Nếu luật lệ Do Thái khắt khe với dân ngoại mà Chúa Giêsu và các tông đồ lại nghiêng về phía họ thì hẳn việc làm của Chúa Giêsu và các tông đồ phải mang một ý nghĩa thiết thực trong cuộc sống.

Viên bách quan hội tụ hai yếu tố căn bản mà mỗi người trong chúng ta cần phải có để khiêm nhượng trước mặt Chúa và bác ái với anh em. Một gia nhân hay đúng hơn một tên nô lệ chẳng là gì trước mặt viên bách quan, ông có thể sử dụng như một món đồ vật, không dùng thì quăng đi cần gì phải bận tâm. Thế mà ở đây ông lại quan tâm đến tên gia nhân cách đặc biệt. Ngoài ra theo đoạn Tin Mừng song song của Luca, ông còn là người giúp đỡ cho Hội Ðường Do Thái.

2. Chúa ơi, xin về với con đi

Trong lớp Giáo lý Dự tòng, có một bà năm nay đã gần 80 tuổi xin theo học. Bà góa chồng đã 7 năm. Từ ngày chồng bà chết, nhiều lần bà muốn theo đạo, nhưng vì nhiều lý do khách quan, bà không thực hiện được tâm nguyện của mình.

Đến nay, thuận lợi, bà xin học đạo để được gia nhập Giáo Hội. Trước khi ban Bí tích Rửa Tội cho bà, cha xứ có hỏi: ”Bà có ý định theo đạo lâu chưa?”; Bà trả lời: ”Khoảng 7 năm”; Cha xứ hỏi tiếp: ”Thế bà muốn theo Chúa, nhưng bà có cầu nguyện với Chúa bao giờ không?” Bà nói: ”Thưa có”; “Bà cầu nguyện thế nào”; “Thưa Cha, con cầu nguyện rằng: ‘Chúa ơi, xin Chúa về với con đi!’." Cha xứ tỏ vẻ thán phục niềm tin chân thành và đơn sơ của bà, và ngài đã sẵn lòng Rửa Tội cho bà để bà được gia nhập Giáo Hội.

Câu chuyện của bà cụ rất trùng hợp với một nhân vật cũng khá đặc biệt trong bài Tin Mừng hôm nay, đó là viên sĩ quan, người dân ngoại. Ông là một người ngoại đạo, tức không thuộc về Dothái giáo, nhưng tâm hồn lại có đạo hơn ai hết bởi sự chân thành, đơn sơ nhưng mãnh liệt nơi ông. Vì thế, ông đã được thúc đẩy từ bên trong, nên ông nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, trong khi những người Dothái lại không nhận ra!

3. Tin thì không điều kiện

Một người vô thần rơi từ một vách đá dốc. Giữa chừng, anh bị vướng vào một bụi cây mọc ngay sườn núi. Anh gần như tuyệt vọng khi nhìn lên là đỉnh núi, nhìn xuống là vực thẳm. Trong lúc tuyệt vọng, anh ngửa mặt lên trời và la lớn: “Nếu có Chúa, hãy cứu tôi."

Một giọng ầm ầm trả lời: “Nếu ngươi thật sự tin vào Chúa, hãy buông tay ra đi." Anh nhìn lên rồi nhìn xuống và hoảng sợ. Anh thét lên: “Có ai ở trên đó không?"

4. Tin hay không?

Một doanh nhân giàu có ở một Tiểu bang nam Hoa Kỳ có sáng kiến ngộ nghĩnh để thử lòng người: ông cho in rất nhiều bích chương và dán khắp nơi trong thành phố nơi ông đang ở. Đại khái nội dung những tấm bích chương loan báo: bất cứ ai mắc nợ, nếu đến văn phòng của ông ngày đó, tháng đó từ 9g-12g đều được ông giúp đỡ để trả nợ. Dĩ nhiên mọi người đều bàn tán về lời mời gọi này, nhưng đa số đã xem đây là một trò đùa. Đúng ngày hẹn, doanh nhân đến ngồi trong văn phòng của mình. Hai giờ đồng hồ trôi qua mà không thấy người nào đến. Mãi tới 11g mới có một người đàn ông rụt rè đến... Doanh nhân ký cho ông một ngân phiếu để trả hết nợ. Gần 12g một vài người nữa cũng đến... và dĩ nhiên họ cũng được giúp đỡ tận tình. Còn tất cả những người khác khi hiểu được lời mời gọi của doanh nhân thì đã quá muộn. Khi người ta không tin ở lòng tốt của con người, thì làm sao có thể tin tưởng ở lòng tốt của Thiên Chúa?

5. Có lòng tốt mới tin

Một hôm hoàng đế Napoléon của Pháp cải trang đi vi hành. Vì không muốn cho ai nhận ra mình nên hoàng đế và viên sĩ quan tùy viên ăn mặc như thường dân. Ông vào một nhà hàng nọ.

Sau khi hai người ăn uống xong, chủ quán đến tính tiền. Tổng cộng là 14 quan. Sĩ quan tùy viên lấy tiền trả. Nhưng bỗng mặt ông tái mét đi vì ông quên không đem tiền theo.

Thấy thế hoàng đế Napoléon hiểu ngay, ông nói nhỏ:

- Không sao, đừng lo để tôi trả cho.

Hoàng đế lục xét hết túi trên rồi túi dưới nhưng cũng không có đồng nào.

- Làm sao bây giờ đây?

Viên sĩ quan tùy viên nói với bà chủ nhà hàng:

- Thật là xui cho chúng tôi. Hôm nay, chúng tôi quên đem theo tiền. Xin bà vui lòng cho chúng tôi khất một giờ đồng hồ thôi tôi sẽ trở lại để thanh toán số tiền này cho bà.

Bà chủ nhà hàng nhất định không chịu và còn dọa là nếu hai người không trả tiền tức khắc thì bà sẽ cho gọi cảnh sát.

Rất may cho hai người là trong tiệm đó có một người bồi bàn rất tốt. Được chứng kiến và theo dõi câu chuyện từ đầu, anh cảm thương hai người khách nên nói với bà chủ:

- Quên đem theo tiền trong túi là một điều có thể xảy ra cho bất cứ ai. Điều đó quá thường mà bà. Xin bà đừng gọi cảnh sát làm gì. Tôi xin trả 14 quan thay cho hai ông khách này đây. Xem ra hai ông đây là người thật thà chứ không phải muốn lường gạt gì đâu.

Thế là nhờ anh giúp bàn trong nhà hàng có lòng tốt mà hoàng đế Napoléon và viên sĩ quan tùy tùng mới có thể rời quán bình an.

Và... chỉ một lát sau, viên sĩ quan tùy viên trở lại nhà hàng. Ông hỏi bà chủ nhà hàng:

- Bà đã tốn bao nhiêu tiền để mở nhà hàng này?

Bà chủ trả lời:

- 30.000 quan.

Viên sĩ quan lấy từ trong túi ra số tiền 30.000 quan và đặt trên bàn rồi nói:

- Vâng lệnh của chủ tôi là hoàng đế Napoléon, tôi xin bà sang lại quán này cho người giúp việc của bà, người đã giúp chúng tôi trong lúc chúng tôi kẹt không đem tiền theo.

Người bồi bàn trong quán nhà hàng hôm nay quả là một người vừa tốt vừa có lòng thương người. Việc nhà vua Napoléon và viên sỹ quan tuỳ tùng rất may mà gặp được người tốt như thế này. Nếu không thì không biết sự việc sẽ ra sao.

6. Cánh diều là vũ khí

Người Nhật tổ chức một ngày lễ có tên gọi là “Đại tiệc diều”: Trong ngày đó trẻ con và người lớn thả diều rợp trời. Nhìn những cách diều dập dờn trên đầu, người ta thật khó tượng tượng được những cánh diều đầu tiên đã được sử dụng như một thứ vũ khí chiến tranh.

Edward Hays viết: “Vào năm 1200 trước công ngyên, người Trung Hoa đã dùng diều dể đưa những bức mật mã giữa các trại lính với nhau. Họ làm những cách diều nhẹ tênh như máy bay không người lái, và cuộc không tặc đầu tiên là cuộc xâm chiếm một quần đảo bằng lực lượng diều.”

Điều gì tôi có thể làm cho thế giới được hòa bình hơn?

Khi ờ trên biển hồ Galilê, Chúa Kitô thí thầm hai tiếng “hòa bình” (John Greenleap Whittier).

7. Lòng tin sinh trái tốt

Một cậu bé Italia đã ngày đêm làm việc để kiếm đủ tiền nhằm tiếp tục học ca hát. Một ngày nọ, giáo sư thanh nhạc nói rằng cậu đang lãng phí thời giờ và tiền bạc. Mẹ của cậu, một nông dân nghèo, không ngừng khuyến khích cậu theo đuổi giấc mơ thay vì bỏ cuộc. Thậm chí bà không mang cả dép để có tiền cho cậu đi học. Niềm tin và sự kiên trì của bà đã được hồi đáp. Con bà, Enrico Caruso lớn lên và trở thành một trong những ca sĩ giọng nam cao vĩ đại nhất thế giới.

Tôi sẵn sàng ra sao để hy sinh hoặc phục vụ những người cần đến tôi, những người như Enrico hoặc tên đầy tớ của tên sĩ quan?

Thước đo sự vĩ đại không phải là số người đầy tớ bạn có, mà chính là số người mà bạn phục vụ.

8. Hiểu thì không cần tin, tin thì không cần hiểu

Năm 1842, Quốc hội Mỹ cười đùa khi Samuel Morse giải thích ý tưởng truyền tin bằng giây kim loại. Năm 1878, Nghị viện Anh cười đùa khi Thomas Edison giải thích ý tưởng tạo ra ánh sáng trong một cái lọ thủy tinh. Năm 1908, viên chức J.P Morgan cười đùa khi Bill Durant đưa ra ý tưởng một ngày nào đó nửa triệu xe hơi mỗi năm sẽ di chuyển trên các nẻo đường quốc gia.

Khi tôi nghe một ai đó, đặc biệt một người trẻ tuổi, trình bày một ý tưởng mà tôi không hoàn toàn lĩnh hội được hoặc không đồng ý, tôi thường phản ứng ra sao? Tôi nên phản ứng thế nào? Vì sao?

Một ý tưởng mới là rất mong manh. Nó có thể bị giết chết chỉ vì một cái cười khẩy hay một cái ngáp; bị đâm chết bời một lời châm biếm và nhai nghiến đến chết bởi cái cau mày của một người đáng kính. (Charles Brower)

9. Tin và cầu nguyện

Một giáo viên ở vùng quê luôn nhắc nhở học trò rằng Chúa Giêsu sẵn lòng giúp đỡ chúng những khi cần thiết. Một ngày mùa đông nọ, một trận bão tuyết ập đến. Cô giáo cho lớp học nghỉ sớm và dẫn học trò đi xuyên qua tuyết và gió. Nói một cách văn chương, cô ta đang lôi kéo chúng qua vũng tuyết dày đặc. Đột nhiên, một cậu bé nói với cô giáo: “Em nghĩ đã đến lúc phải kêu cầu Chúa Giêsu.”

Tôi có nhớ đã bao giờ, sau khi cố gắng làm những gì có thể, tôi hướng về Chúa Giêsu để xin Ngài trợ giúp không? Tôi đã đạt kết quả gì?

Cầu nguyện là cách diễn tả chúng ta là ai… Cuộc sống chúng ta chưa được hoàn thành. (Thomas Merton)

10. Thật khó hiểu Thiên Chúa

Trong ca khúc “Dấu chấm hỏi,” nhạc sĩ Thế Hiển than thở: “Đứa bé mồ côi, đang nằm co ro như dấu chấm hỏi đặt giữa cuộc đời. Tại sao sinh em trong cuộc đời? Mà sao không cho em tình người? Em nào có tội gì đâu?” Trong “mùa Vọng” hiện nay của nhân loại, biết bao mảnh đời bất hạnh đang kêu gào vì thiếu đói tình người. Bạn nhớ rằng mỗi con người, dù bé nhỏ, xấu xí, bệnh tật cũng mang trong mình hình ảnh của Thiên Chúa. Chúa Giêsu xuống thế làm người để đem tình Chúa gieo vào thế giới để tình người được nảy nở và hình ảnh của Thiên Chúa được lớn lên trong tâm hồn mỗi người.

Bạn nghĩ gì khi nói mến Chúa yêu người là chu toàn luật Chúa?

THỨ BA - MẶC KHẢI CHO KẺ BÉ MỌN

Lời Chúa: Lc 10, 21-24

Khi ấy, Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần, Người nói: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ. Vâng lạy Cha, đó là ý Cha đã muốn thế. Cha Ta đã trao phó cho Ta mọi sự. Không ai biết Chúa Con là ai, ngoài Chúa Cha; cũng không ai biết Chúa Cha là Ðấng nào, ngoài Chúa Con, và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết!"

Rồi Chúa Giêsu quay lại phía các môn đệ và phán: "Hạnh phúc cho những con mắt được xem những điều chúng con xem thấy; vì chưng Ta bảo các con: có nhiều tiên tri và vua chúa đã muốn xem những điều chúng con thấy, mà chẳng được xem, muốn nghe những điều chúng con nghe, mà đã chẳng được nghe.

TRUYỆN KỂ

1. Hiểu biết Thiên Chúa

Thế giới không ngừng bị xâu xé vì thảm cảnh chiến tranh, vì xung đột quyền lợi. Ai cũng mơ ước một thế giới hòa bình nơi mọi người, mọi quốc gia dân tộc, mọi chủng tộc, mọi ngôn ngữ có thể sống chung hài hòa bên nhau.

Tiên báo đó ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Người tràn đầy Thánh Thần đã khai mạc Vương Quốc bình an. Vương quốc đó được mặc khải cho những người bé nhỏ, khiêm tốn, nghèo hèn. Những người giầu sang, kiêu căng, hung ác bị gạt ra, không được hiểu biết Nước Thiên Chúa cho đến khi họ ăn năn sám hối.

Khi hiểu biết Thiên Chúa, họ sẽ tỉnh ngộ và sẽ tự biến đổi. Như con sói hết nhe nanh đe dọa để có thể ở với chiên con. Như con beo cụp hết móng vuốt để có thể nằm bên dê nhỏ. Như sư tử thôi ăn thịt, bắt đầu ăn rơm để có thể sống chung với bò tơ. Như con rắn hết thâm trầm hiểm độc để được ở với em bé. Người ta sẽ không còn sống theo xác thịt với những toan tính thấp hèn, theo thói thế gian. Nhưng sẽ sống theo Thần Khí. Siêu thoát trần tục. Trở nên như trẻ thơ. Hiền hoà. Trong trắng.

Vì thế sống tâm tình Mùa Vong ta phải trở nên bé nhỏ, khiêm nhường để được Chúa cho biết mầu nhiệm Nước Trời.

2. Kém trí thì huênh hoang

Một chú ếch nọ suốt đời ngồi dưới đáy giếng. Một hôm, nó ngạc nhiên vô cùng khi thấy một con ếch khác xuất hiện trên bờ giếng. Nó lên tiếng hỏi: “Chú mày từ đâu đến?” Từ trên miệng giếng, khách lạ tra lời: “Tôi đến từ một vùng biển."

Lần đầu tiên nghe nói đến biển, con ếch dưới đáy giếng thắc mắc: “Thế biển là gì? Biển giống như cái gì?” Khách lạ lắc đầu đáp: “Biển mênh mông, biển không cùng, không thể dùng bất cứ hình ảnh nào để nói cho một kẻ suốt đời ngồi dưới đáy giếng hiểu được thế nào là biển."

Nghe thế, con ếch ngồi dưới đáy giếng mới nghĩ thầm: “Từ trước đến nay, ta gặp không biết bao nhiêu kẻ lường gạt, nhưng tên này hẳn phải là kẻ trí trá vô liêm sỉ nhất."

3. Cái biết của người bé mọn

Tháng 6/2000, Francis Collins công bố khám phá quan trọng của ông về hệ “gen”, giải mã bí mật liên quan đến sự hình thành của con người. Điều đáng nói là ngay trong những lời phát biểu đầu tiên của mình, Collins, khoa học gia hàng đầu thế giới và là người vô thần, khẳng định mình đã bị Thiên Chúa chinh phục vì vẻ đẹp kỳ diệu của hệ gen mà ông gọi là ”ngôn ngữ riêng của Thiên Chúa."

Trong Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu ngợi khen Chúa Cha về ngôn ngữ độc đáo của Người, vốn được giấu kín trước những “bậc khôn ngoan thông thái”, mà chỉ mạc khải cho ”những người bé mọn." Hay nói cách khác, chỉ những ai có cặp mắt trẻ thơ mới có thể đọc hiểu được ngôn ngữ ấy, ngôn ngữ của tình yêu quan phòng. Đó là cặp mắt biết ngạc nhiên trước kỳ công của Chúa, và đặt mình trong bàn tay của Chúa. Không chỉ có thế, Đức Giêsu còn khẳng định họ sẽ “được thấy” những điều cao cả lớn lao bao người hằng mong ước.

4. Có được cái biết của Chúa

Chị thánh Têrêsa Hài Đồng cảm nghiệm được Nước trời vì mang tinh thần đơn sơ bé nhỏ: làm những việc bé nhỏ, như chị đã thổ lộ và cầu nguyện: “Con là một linh hồn rất bé mọn chỉ có thể dâng những điều bé mọn cho Chúa."

Nhờ tinh thần phó thác vào Chúa, chị cảm nhận ra tình yêu Chúa ngay cả những giây phút đen tối của tâm hồn, chị vẫn cảm nghiệm được Nước trời: “Ngay cả những khi gặp thử thách ốm đau, con không sợ, vì Chúa luôn ở bên con, vì Ngài đã nâng đỡ con từ khi con còn tấm bé, và sẽ nâng đỡ con mãi mãi cho đến hơi thở cuối cùng."

Chính tinh thần nhỏ bé tín thác khiến chị sờ tới Nước trời, trong Thiên Chúa chị được sự bình an tâm hồn khi đặt mỗi gánh nặng bệnh tật vào Thiên Chúa.

Nhỏ bé, nép mình vào lòng Chúa, phó thác tất cả để được Thiên Chúa đỡ nâng.

5. Biết rằng mình biết có giới hạn

George Washington Carver, nhà khoa học nổi tiếng, có lần đã nói về cách ông hỏi Chúa: “Lạy Chúa, vũ trụ được làm bằng gì?”

Chúa trả lời: “George, vũ trụ quá lớn, con không thể hiểu được. Con cứ để ta chăm sóc vũ trụ."

Ông lại hỏi cách khiêm tốn: “Lạy Chúa, nếu vũ trụ quá lớn đối với con, còn hạt đậu thế nào?” Chúa nói: “George, con đã hỏi điều hợp với con. Con có thể hiểu một hạt đậu, nên Ta sẽ giúp con."

Vì thế, George đã để vũ trụ cho Chúa chăm sóc và ông khám sức mạnh to lớn của hạt đậu nhỏ bé. Và từ hạt đậu, ông đã phát triển được 200 sản phẩm hữu dụng.

Chẳng bao giờ ông phàn nàn rằng Chúa không cho ông biết những điều huyền bí sâu xa hơn.

6. Chìa khóa thiên đàng

Có một ông vua rất giàu sang và quyền thế, sau khi đã chinh phục các quốc gia láng giềng và những gì vua ưa thích, vua còn muốn tìm kiếm một kho tàng quý hơn nữa là chìa khóa mở cửa Thiên đàng, nhưng không một ai có thể làm thỏa mãn lòng vua được, vua sai các quan tướng đi kiếm khắp nơi trong nước, từ trên núi cao xuống tận đáy biển, trong rừng sâu tới chốn bùn lầy nhưng cũng chỉ tốn của uổng công. Sau cùng chính vua quyết định đích thân đi tìm chìa khóa cổng Thiên đàng.

Một hôm, nhà vua cỡi ngựa đến trước một bức tường cao có tháp canh, cổng sắt rất kiên cố, trước cổng cao có thiên thần canh gác rất kỹ, nhà vua tiến lại gần thân thưa:

- Tôi sẽ không được bình an trong tâm hồn cho đến khi tìm được chìa khoá mở cửa Thiên đàng.

Thiên thần cười đáp:

- Thật ra trên trần gian này có hàng trăm hàng ngàn thứ chìa khóa mở cửa Thiên đàng được, các chìa khóa ở ngay dưới chân vua, người ta dẫm lên chúng, nhà vua có thể tìm được chìa khóa mở cửa Thiên đàng nếu nhà vua bền tâm chịu khó tìm kiếm.

Từ ngày đó, nhà vua xuống ngựa bách bộ lang thang đó đây. Năm tháng trôi qua, mặc dầu nhà vua đã mệt mỏi tìm kiếm khắp nơi trên trái đất nhưng vẫn không tìm thấy.

Một ngày kia, đang lúc đi dạo trong rừng, nhà vua vấp ngã vào một gốc cây nhỏ bé gần như sắp tàn héo bên vệ đường, vì mắt đã già, sức yếu nên nhà vua cũng cảm thấy tự nhiên thích quan tâm đến những vật nhỏ bé, nhà vua nhổ cây nhỏ sắp chết đem về hoàng cung rồi tự tay chăm bón phân đất cho cây, tưới nước hằng ngày, các quan cận thần trong hoàng cung thấy vậy liền nói với nhà vua:

- Tâu Chúa thượng, sao Chúa thượng lại phải bận tâm đến một cây bé nhỏ héo tàn như vậy? Chắc gì nó sống lại được, và nếu nó có sống được thì với tuổi tác trên vai, làm sao hoàng thượng còn hy vọng nghỉ dưới bóng cây của nó hoặc hưởng dùng hoa trái của nó được, nhà vua thản nhiên trả lời:

- Một ngày nào đó, tuy ta không còn sống nữa, nhưng sẽ có người khác đến ngồi dưới bóng cây và họ sẽ sung sướng được thưởng thức hoa trái của nó; điều đó đủ để ta cảm thấy vui sướng ngay từ lúc này rồi. Vừa nói xong, nhà vua đưa chân bước đi thì kìa một chìa khóa từ dưới đất mọc lên như một cái nấm. Chìa khóa làm bằng một thứ kim loại rất lạ đủ màu, xanh đỏ thêm sắc vàng.

Đức Tin, Cậy, Mến là chìa khóa mở cửa Thiên đàng đã được ban tặng cho các tín hữu trong ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội. nhà vua trong câu chuyện ngụ ngôn trên đây tưởng có thể tìm được chìa khóa mở cửa Thiên đàng bằng tiền bạc hay quyền thế nhưng đã hoàn toàn thất bại. Tuy nhiên nhờ nhà vua biết tự hạ mình, biết khiêm tốn thực thi lòng tin, cậy, mến. Nhờ đó nhà vua đã tìm được chìa khóa mở cửa Thiên đàng. Việc làm của nhà vua tuy bé nhỏ nhưng là biểu hiện lòng tin, cậy, mến của người tín hữu Kitô trong đời sống thực tế.

7. Tách phải rỗng

Vào thời Minh Trị (1786-1912), có một giáo sư đại học muốn tìm hiểu về thiền với một thiền sư nổi tiếng người Nhật tên là Nam-in.

Thiền sư Nam-in chào hỏi, tiếp đón rất lịch sự nhưng sau đó khi rót nước trà mời khách thì thiền sư cố ý rót đầy tách trà của khách. Tách đã đầy nhưng thầy vẫn cứ tiếp tục rót thêm!

Vị giáo sư ngồi nhìn nước trong tách tràn ra cho đến khi không kềm mình được nữa, ông lên tiếng:

- Đầy quá rồi, xin đừng rót nữa.

- Giống như cái tách này. Nam-in nói. Ông cũng đầy ắp những quan niệm, những tư tưởng của ông, làm sao tôi có thể bày tỏ Thiền cho ông được, trừ phi ông cạn cái tách của ông trước!

8. Cần biết mình yếu đuối

Một kịch tính xảy ra: Nơi tòa án, khi Đức Giêsu trả lời câu hỏi giáo lý của thượng tế Caipha: “Cứ hỏi người nghe tôi nói”, thì trong sân tòa, người ta liền hỏi ông Phêrô, thủ lãnh Nhóm Mười Hai đã từng được nghe Đức Giêsu giảng dạy:

- Chắc bác thuộc về ông Giêsu?

Ông Phêrô giật bắn người lên, chối ngay:

- Tôi không hề biết ông ấy.

Ở sân ông Phêrô chối Thầy, thì trước tòa án, Đức Giêsu lại giục người ta: “Cứ hỏi người đã nghe tôi nói.” Thế là người khác lại đến hỏi ông Phêrô:

- Tôi biết bác ở vườn Cây Dầu với ông Giêsu mà?

Ông Phêrô lại kéo gân cổ lên thề:

- Tôi thật không biết gì về ông Giêsu đó cả!

Đức Giêsu thấy Phêrô còn chối, Ngài lại bảo người ta:

- Cứ hỏi người nghe tôi nói.

Thế là một đứa tớ gái cất tiếng hỏi ông Phêrô:

- Nghe giọng bác nói, tố cáo bác là người Galilê, đồng hương với ông Giêsu? (Không biết người khác nghe giọng ta nói, họ có nhận ra ta là người Công giáo, thuộc về Đức Giêsu hay không?!)

Ông Phêrô vẫn quyết liệt chối:

- Tôi thề là tôi thật không biết chị nói gì?

Tức thì gà liền gáy, ông Phêrô sực nhớ lại lời Thầy đã nói cho ông biết: “Trước khi gà gáy, con đã chối Ta ba lần!” Ông òa lên khóc, tỏ dấu sám hối!

9. Người khiêm tốn mới biết Nước Trời

Louis Pasteur là nhà khoa học nổi tiếng không riêng chi ở Pháp, nhưng là khắp thế giới. Ông thường lần hạt khi ngồi trên xe lửa. Nhà khoa học danh giá A. Ampère đã cầu nguyện khi người vợ yêu quý qua đời: “Lạy Thiên Chúa Nhân Hậu, xin kết hiệp con với những người Chúa cho con yêu mến trên trần thế nay đang ở trên trời.”

Vào cuối đời, ông đọc Kinh Thánh và các giáo phụ mỗi ngày. Là giới trí thức, nhưng hai ông -cũng như nhiều nhà khoa học khác- là những người có lòng khiêm tốn và đơn sơ. Không phải người trí thức thông thái chối từ Tin Mừng Nước Trời, nhưng là kẻ kiêu căng. Cũng vậy, chẳng phải sự ngu dốt đón nhận đức tin vào Đức Giêsu, nhưng là lòng khiêm tốn, tâm hồn đơn sơ.

Trong Nước Trời của Đức Giêsu, chỉ có ai có lòng đơn sơ khiêm tốn mới có thể lãnh hội được chân lý hoặc sự khôn ngoan đích thực của Nước Trời. Bạn biết Chúa không phải chỉ bằng trí óc, nhưng bằng cả con tim. Bạn không chỉ biết về Chúa, nhưng là biết chính Chúa. Hồng ân từ trời này chỉ dành cho những ai khiêm tốn mở lòng đón nhận trong tâm tình tri ân.

10. Phúc cho người bé mọn

“Thất bại lớn nhất của đời người là tự đại” (14 điều Phật dạy). Người tự đại luôn cho mình là người biết mọi sự, không chấp nhận mình giới hạn. Trong truyền thống Hassidim của người Do Thái, ta đọc thấy: “Tôi yêu mến ác nhân là người biết mình tội lỗi, hơn là yêu mến người công chính là người biết mình công chính, dù đứng trước cửa hỏa ngục cũng sẽ không cải thiện lối sống của mình, vì họ nghĩ rằng họ đang được dẫn tới hỏa ngục để giải thoát những linh hồn đang bị giam cầm trong đó.”

Hôm nay Chúa Giêsu cho ta thấy cái phúc của những người bé mọn: họ được gần Thiên Chúa và được hiểu lẽ khôn đích thực!

Buớc vào Mùa Vọng với tâm hồn khiêm tốn để sẵn sàng hoán cải đời sống. Sống khiêm tốn là nhìn nhận những giới hạn và yếu đuối của mình và tín thác vào tình Chúa bao la.

11. Biết nhìn để có hạnh phúc

Ngạn ngữ Trung Quốc nói: “Tôi buồn vì không có tiền mua giày, cho đến ngày tôi gặp người cụt chân.” Trong khóa tĩnh tâm, một người khiếm thị nọ chia sẻ: “Tôi buồn vì không thấy những gì tôi ăn, đang khi ấy có bao người chết đói vì không có gì để ăn,” và anh cho biết suy nghĩ đó đã biến đổi hẳn đời anh.

Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta đang được sống trong hạnh phúc mà không biết, hạnh phúc vì được thấy nhiều điều kỳ diệu: cảm thấy được Thiên Chúa đang hiện diện và ban muôn hồng ân cho mình trong cuộc đời, nhận thấy Đức Giêsu nơi người anh chị em chung quanh, nhìn thấy cuộc đời mình có ý nghĩa thế nào, và kết cuộc, đi về đâu. Khám phá hạnh phúc ấy phải làm thay đổi hẳn cuộc đời chúng ta.

Nhìn lại những gì xảy đến cho mình với ý hướng tích cực để nhận ra hạnh phúc, niềm vui mình đang được hưởng để rồi luôn biết sống tâm tình tạ ơn Thiên Chúa trong suốt cuộc đời.

12. Muốn sống cần biết Chúa

Harold Hughes, cựu thống đốc của bang Iowa thú nhận rằng hồi trẻ, ông là một người say rượu, dối trá, lừa đảo. Một đêm nọ, ông phạm lỗi và quyết định tự tử.

Nhưng trước khi kết liễu cuộc đời, ông muốn giải thích với Thiên Chúa tại sao lại làm điều khủng khiếp này. Khi ông thổn thức nói với Chúa, thì một cái gì đó đáng chú ý xảy đến. Ông nói trong cuốn tự thuật: “Như một đứa trẻ bị lạc trong bão tố, tôi tình cờ rơi vào vòng tay ấm áp của cha… Tôi phó thác hoàn toàn cho Ngài và nói: “Con sẽ làm bất cứ gì Ngài muốn.”

Tôi mong mỏi học biết thánh ý Thiên Chúa và làm những gì Ngài muốn không?

Không ai bước đi đơn lẻ trên đường. Chúng ta gieo hạt nào, sẽ hái được quả nấy. (Edwin Markham)

13. Mở lòng để biết

Mục giáo sư phái Luthero tên là Dietrich Bonhoeffer bị Đức Quốc Xã tống ngục. Ngay trước lễ Giáng Sinh năm 1943, ông viết: “Cuộc sống tù đầy gợi cho ông nhớ tới hồng ân Mùa Vọng, nhưng cuối cùng, điều chúng ta làm chỉ đóng vai trò nhỏ bé. Cánh cửa đóng kín và chỉ có thể mở được từ bên ngoài.”

Điều này mô tả nhân loại trước khi Chúa Giêsu đến. Chúng ta bị giam cầm trong tội lỗi Cửa Nước Trời đóng kín và chỉ có thể mở được từ bên ngoài. Đó chính là điều Chúa Giêsu đã làm: Ngài đến và mở cửa.

Tôi đang làm gì với sự tự do mới mà Chúa Giêsu đã giành được cho nhân loại và cho tôi?

Người ta chẳng bao giờ để tâm đến những gì đã được thực hiên, mà chỉ để ý tới những gì đang còn được thực hiện (Marie Curie).

14. Biết điều cần tìm

Họa sỹ người Hà Lan là Vincent Van Gogh đã vẽ được hơn 1.700 bức họa trong suốt cuộc đời ông. Ông chỉ bán được một bức trong số đó với giá 85 đô la. Van Gogh chết đang khi nghĩ rằng mình là người thất bại. Tuy nhiên, một nửa thế kỷ sau, bức vẽ “Bác sĩ Gachet” của ông bán được 82,5 triệu đô la.

Trong suốt cuộc đời mình, Van Gogh đã không bao giờ được thấy điều ông mong ước và cũng chẳng bao giờ ông được nghe những điều ông muốn nghe. Nhưng cũng như các ngôn sứ và các vua chúa xưa, Van Gogh đã đi cho đến cùng con đường của mình. Tấm gương của Van Gogh thúc đẩy tôi tự hỏi: đâu là động lực chính trong con đường mà tôi đang theo đuổi?

Người hạnh phúc nhất trong anh em là người đã tìm thấy con đường sống phục vụ. (Albert Shweitzer).

THỨ TƯ - HÓA BÁNH RA NHIỀU LẦN 2

Lời Chúa: Mt 15, 29-37

Khi ấy, Chúa Giêsu đến gần biển Galilêa, và Người lên ngồi trên núi; dân chúng lũ lượt đến cùng Người, đem theo kẻ câm, mù, què, liệt và nhiều người khác, và đặt họ dưới chân Người. Người đã chữa lành họ. Dân chúng kinh ngạc nhìn thấy kẻ câm nói được, người què bước đi, người đui lại thấy, và họ tôn vinh Thiên Chúa Israel.

Còn Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ mà phán: "Ta thương xót đoàn lũ này, vì đã ba ngày, họ ở lại với Ta, nhưng không có gì ăn. Ta không muốn cho họ về bụng đói, sợ họ té xỉu dọc đàng." Các môn đệ thưa Người: "Chúng con lấy đâu đủ bánh trong hoang địa này mà cho ngần ấy dân chúng ăn no?" Chúa Giêsu nói với họ: "Các con có bao nhiêu chiếc bánh?" Họ thưa: "Có bảy chiếc, và ít con cá nhỏ."

Người truyền dân chúng ngồi xuống đất. Người cầm lấy bảy chiếc bánh và mấy con cá, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các môn đệ đem cho dân chúng. Tất cả đều ăn no, và mảnh vụn còn lại người ta thu lượm được bảy thúng đầy.

Số người đã ăn lên tới bốn ngàn, không kẻ đàn bà con nít.

Sau khi giải tán dân chúng, Người bước lên thuyền và đến địa phận Magađan.

TRUYỆN KỂ

1. Cần có một tấm lòng

Ngày nay, nhiều người giáo dục con cái về tình thương, nhân ái, liên đới với mọi người bằng cách: khi ra đường, thấy những người ăn xin..., họ thường đưa tiền cho con cái của họ và dặn các cháu lễ phép, kính trọng biếu những người đó. Hay khi bỏ tiền vào rỏ ở nhà thờ hay đền thánh..., họ cũng thường đưa cho các bé bỏ vào. Qua đó, họ muốn con họ sau này sống có tình thương, chia sẻ, liên đới.

Hôm nay, Đức Giêsu đã thực hiện một phép lạ cả thể là chữa lành bệnh tật và làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng. Ngài không muốn làm một mình, nhưng Ngài muốn các môn đệ chung chia nỗi thao thức với Ngài, vì thế, Ngài đã gọi các ông lại và nói: "Ta thương xót đoàn lũ này, vì đã ba ngày, họ ở lại với Ta, nhưng không có gì ăn. Ta không muốn cho họ về bụng đói, sợ họ té xỉu dọc đàng." Đức Giêsu đã khéo khơi gợi lòng bác ái nơi các môn đệ, và như thế, Ngài đã dạy cho các ông bài học quý báu là phải biết lo lắng cho những người đang cần sự giúp đỡ của họ.

2. Chỉ cần biết chia sẻ

Một hôm có một người đàn ông vào nhà một bà dân làng để xin ăn. Bà này từ chối với lời nói chân thật: “Xin lỗi, hiện giờ trong nhà tôi không còn gì có thể ăn được."

Người khách lạ nói: “Không sao, chỉ nhờ bà cho tôi mượn một nồi nấu súp thật lớn. Tôi có một viên sỏi có thể nấu thành một nồi súp đặc biệt ngon, từ trước tới giờ chưa từng có món ăn nào ngon bằng món tôi nấu."

Bà chủ nhà bằng lòng. Người khách lạ đổ nước vào nồi, bỏ viên sỏi vào nồi rồi bắt đầu nấu. Trong khi đó, bà chủ nhà sang nhà bà hàng xóm tiết lộ bí mật của nồi súp tuyệt vời ấy. Người hàng xóm này lại tiết lộ cho người hàng xóm khác. Chẳng bao lâu sau căn nhà đầy ắp người.

Khi nước bắt đầu sôi, người khách lạ múc lên một muỗng nếm thử: “Chà, rất ngon. Nhưng phải chi có thêm chút khoai tây nữa thì sẽ ngon tuyệt." Một người vội vàng chạy về nhà lấy khoai tây bỏ vào. Lát sau người khách lại nếm và lại nói: “Ngon hơn trước rồi. Phải chi có thêm một chút thịt nữa thì hết chỗ chê." Một người khác vội chạy về lấy thịt. Cứ như thế, cứ như thế...

Cuối cùng nồi súp chín. Người khách mời mọi người ngồi vào bàn. Mỗi người một tô. Ai nấy đều khen món súp ngon tuyệt vời. Còn người khách lạ thì vớt từ đáy nồi lên viên sỏi của mình, bỏ vào túi, rồi vui vẻ chào mọi người và ra đi.

3. Mua một nụ cười

Tại văn phòng của một Cố vấn Tâm lý, một thiếu phụ vừa trẻ vừa giàu giải bày tâm sự: “Bất cứ thứ gì tôi muốn thì chồng tôi đều cho cả. Tôi có đủ mọi “sự” nhưng trong lòng trống vắng vô cùng. Xin bà hãy cho tôi một lời khuyên." Nhà Cố vấn tâm lý không trả lời, nhưng bảo cô thư ký của bà kể chuyện đời cô. Cô này kể: chồng tôi đã chết, cách nay 3 tháng con tôi cũng chết vì xe đụng. Tôi cảm thấy mất tất cả, tôi không ngủ được, tôi không muốn ăn uống, tôi không bao giờ cười. Một hôm tôi đi làm về hơi khuya. Có một chú mèo con cứ đi theo sau tôi. Trời lạnh. Tôi cũng tội nghiệp nó, nên tôi mở cửa cho nó vào nhà. Tôi pha cho nó một ly sữa. Nó kêu meo meo và cọ mình vào chân tôi. Lần đầu tiên tôi cười. Rồi tôi nghĩ: nếu việc giúp cho một chú mèo con có thể làm tôi cười, thì việc giúp cho người nào đó chắc có thể làm tôi hạnh phúc. Thế là hôm sau tôi nướng vài ổ bánh đem cho bà cụ hàng xóm đang bệnh. Mỗi ngày tôi cố làm vài việc gì đó cho những người tôi gặp được vui vẻ. Và quả thực tôi đã thấy hạnh phúc. Tôi nghiệm ra được điều này là ta sẽ không hạnh phúc khi ta chỉ chờ người khác đem lại hạnh phúc cho mình; ngược lại ta sẽ hạnh phúc thật khi ta làm cho người khác hạnh phúc." Nghe đến đó, người thiếu phụ trẻ bật khóc. Cô đã có bất cứ thứ gì đồng tiền có thể mua được nhưng cô đã đánh mất những thứ mà đồng tiền không mua nổi. Và cô quyết định noi gương cô thư ký nọ. (Charlene Johnson).

4. Điều kiện của hạnh phúc là phải được chia sẻ

Trong bài giảng số 178, thánh Augustinô có kể lại câu chuyện xảy ra lúc ngài sống tại Milanô Bắc Italia như sau:

Ngày kia có một người nghèo nhặt được một cái ví, trong đó có hai trăm đồng vừa vàng vừa bạc. Nhớ lại Lời Chúa, người đó muốn trả lại cái ví cho người chủ. Nhưng không biết tìm đâu ra người chủ. Người nghèo liền viết một tấm bảng kêu gọi người mất ví tìm đến nhà mình, để nhận lại.

Đọc được tấm bảng, người mất ví tìm đến nhà người nghèo để xin nhận lại cái ví. Sau khi tra hỏi kỹ càng, người nghèo liền trao cái ví cho người chủ. Người này cảm ơn rối rít và tặng cho người nghèo hai mươi đồng, tức là mười phần trăm số tiền có trong ví, theo như qui định thời bấy giờ. Nhưng người nghèo nhất quyết không nhận món quà. Người chủ liền trao cho ông mười đồng, nhưng ông cũng từ chối. Cuối cùng, người chủ nài nỉ ông nhận cho năm đồng, người nghèo cũng một mực không nhận.

Khổ tâm vì không thể nói lên được lòng biết ơn của mình, người chủ đành ném cái ví xuống đất rồi nói như sau: “Bởi vì ông không chịu nhận một đồng nào, nên tôi tuyên bố là tôi cũng không hề mất một đồng nào."

Nghe thế, người nghèo đành phải nhận món quà của người giàu. Nhưng tức khắc ông đem chia sẻ tất cả cho những người nghèo khổ hơn ông và ông cảm thấy lòng mình thảnh thơi.

Byron nói: “Phương thế tốt nhất để bảo toàn hạnh phúc là biết chia sẻ hạnh phúc."

Vua Baudouin thì cầu nguyện: ”Lạy Chúa, xin cho chúng con biết đau cái đau của người khác, biết khắc khoải nỗi khắc khoải của người khác. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết chia sẻ với người khác mọi hạnh phúc chúng con đang có."

5. Mục tử như lòng Chúa mong ước

Ngày 11/10/2009 Giáo Hội đã tuyên phong hiển thánh cho cha Đamiano, “cha của những người phong cùi” tại đảo Molokai. Hằng ngày cha băng bó vết thương, chôn cất người qua đời, xây dựng nhà ở, nhà thờ, bệnh viện, lo cho những người cùi từng chén cơm manh áo. Cha còn băng bó cho họ cả những vết thương tinh thần. Cha đã biến “địa ngục Molokai” thành một cộng đoàn bác ái yêu thương. Cuối cùng cha đã qua đời vì bệnh phong cùi sau 16 năm xả thân phục vụï. Cha đã làm dịu đi “cơn đói” cả về thể xác lẫn tinh thần cho đoàn chiên cha chăm sóc, cha quả là một “mục tử như lòng Chúa mong ước."

Cầu nguyện, nâng đỡ và cộng tác với các linh mục trong sứ vụ mục tử; góp phần vun trồng ơn gọi trong gia đình và trong giáo xứ. Ý thức ơn gọi và sứ mạng tông đồ của mọi kitô hữu, mời bạn sẵn sàng tham gia vào sứ vụ mục tử của Chúa Giêsu trong đời sống gia đình, cộng đoàn cũng như xã hội.

6. Đừng hỏi tại sao tôi cô đơn

Nhà bình luận Ann Lauders đặc trách công tác khuyến dụ hơn 30 năm. Một ngày nọ, một phóng viên hỏi bà: “Đâu là câu hỏi bà hay được hỏi nhất?” Bà Ann trả lời rằng đó là một câu rất đơn giàn: “Tôi đang có gì rắc rối? Tại sao tôi lại quá cô đơn lẻ loi?” Trả lời cho câu hỏi này, bà nói: “Hãy quên nó đi. Hãy làm điều gì đó cho người khác, và những người cần được bạn giúp đỡ, mà bất cứ ở đâu, nếu để ý tới, bạn sẽ trông thấy họ.”

Lời khuyên của Ann Landers và tấm gương của Chúa Giêsu mời gọi tôi tự hỏi: Ai là người mà tôi có thể giúp đỡ?

Hy sinh chính mình không bao giờ hoàn toàn là sự rộng lượng, bởi người cho đi không bao giờ không nhận được lại (Delores McGuire).

7. Cho hết và dư đầy

Nhà bình luận Ann Lauders đặc trách công tác khuyến dụ hơn 30 năm. Một ngày nọ, một phóng viên hỏi bà: “Đâu là câu hỏi bà hay được hỏi nhất?” Bà Ann trả lời rằng đó là một câu rất đơn giàn: “Tôi đang có gì rắc rối? Tại sao tôi lại quá cô đơn lẻ loi?” Trả lời cho câu hỏi này, bà nói: “Hãy quên nó đi. Hãy làm điều gì đó cho người khác, và những người cần được bạn giúp đỡ, mà bất cứ ở đâu, nếu để ý tới, bạn sẽ trông thấy họ.”

Lời khuyên của Ann Landers và tấm gương của Chúa Giêsu mời gọi tôi tự hỏi: Ai là người mà tôi có thể giúp đỡ?

Hy sinh chính mình không bao giờ hoàn toàn là sự rộng lượng, bởi người cho đi không bao giờ không nhận được lại (Delores McGuire).

8. Nhà cô có nến không?” .”

Có một cô gái trẻ vừa chuyển nhà mới. Cô phát hiện ra hàng xóm nhà mình là một phụ nữ goá chồng, nghèo, sống với hai đứa con nhỏ.

Một ngày nọ, khu phố bị mất điện đột ngột. Cô gái trẻ đang lục lọi trong ngăn kéo bàn để lấy nến ra thắp sáng căn phòng.

Đúng lúc đó thì có tiếng gõ cửa. Hoá ra là đứa bé nghèo con nhà hàng xóm.

Nó hồi hộp hỏi: "Cô ơi cô, nhà cô có nến không ạ?"

Cô gái trẻ nghĩ: " Nhà nó nghèo đến nỗi nến cũng không có mà dùng ư? Cho nhà nó một lần, lần sau nó lại sang xin nữa cho mà xem!"

Thế là cô gái xẵng giọng lạnh lùng nói: "Không có!"

Cô đang định đóng cửa lại thì đứa trẻ nghèo nhà hàng xóm mỉm cười nói: "Cháu biết ngay là nhà cô không có nến mà!"

Nói xong, nó chìa ra hai cây nến: "Mẹ cháu với cháu sợ cô chỉ sống có một mình, cúp điện không có nến nên bảo cháu mang nến sang cho cô dùng tạm nè"

Cô gái đứng sững sờ không nói được một lời....

Trong cuộc sống của chúng ta cũng sẽ có những lúc như thế. Dù con người sống trong hoàn cảnh khó khăn hay giàu có, họ đều cần đến sự quan tâm, an ủi từ ai đó.

Đừng ích kỷ, hãy lắng nghe âm thanh của cuộc sống. Cuộc sống của ta sẽ không tệ, mà thậm chí nó còn đẹp hơn khi chúng ta biết cho đi.

Bởi... CHO đi chính là NHẬN lại!

THỨ NĂM - NGƯỜI KHÔN NGOAN THỰC SỰ

Lời Chúa: Mt 7, 21. 24-27

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không phải tất cả những ai nói với Ta, 'Lạy Chúa, lạy Chúa!', là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Ta ở trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời.

"Vậy ai nghe những lời Ta nói đây và đem ra thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên nền đá.

Và hễ ai nghe những lời Ta nói đây mà không đem ra thực hành, thì giống như người ngu đần, xây nhà mình trên cát, khi mưa sa nước lũ, gió thổi và lùa vào nhà đó, nhà sẽ sập và sẽ trở nên đống hoang tàn."

TRUYỆN KỂ

1. Xây trên nền đá

Sau khi một cơn bão đi qua thành phố, người ta ngạc nhiên khi thấy những căn nhà sụp đổ lại là những công trình mới xây chưa được bao lâu. Còn những công trình xưa lại hiên ngang đứng vững.

Cũng có khi sau một cơn dông, một cây còn xanh bỗng nhiên ngã đổ. Người ta lại gần và thấy ruột của cây đã bị mục từ lâu.

Dông bão làm lộ ra sự thật, vén mở chân tướng, vì khi biển lặng, ai cũng có thể là hoa tiêu.

2. Ý Chúa nhiệm mầu

Vào năm 33 tuổi, Thánh Ambrôsiô đã có tất cả mọi sự -- một sự nghiệp đầy hứa hẹn là luật sư, một vị thế quan trọng trong chính trường là tổng trấn Milan, ngoài ra ngài còn là người bạn và đồng chí với hoàng đế, cùng với một gia tài kếch sù.

Và rồi vị giám mục của Milan từ trần. Vào lúc ấy, khoảng năm 374, nhiều tà giáo muốn tiêu diệt Giáo Hội. Vị cố giám mục Milan từng hậu thuẫn cho lạc giáo Arian chống lại giáo huấn về thiên tính của Ðức Kitô. Vậy ai sẽ là người kế vị -- người Công Giáo hay người của phe Arian? Cả hai phe đụng độ nhau ở vương cung thánh đường và một cuộc bạo động xảy ra.

Duy trì trật tự công cộng là trách nhiệm của quan tổng trấn Ambrôsiô, nên ngài vội vã chạy đến nhà thờ và hùng hồn lên tiếng, không ủng hộ phe phái nào cả, nhưng ủng hộ sự hoà bình. Ngài xin dân chúng hãy bình tĩnh, kềm chế sự nóng nẩy và chọn lựa giám mục mà không cần phải xô xát.

Trong khi ngài đang nói, bỗng dưng có người hô to, "Bầu Ambrôsiô làm giám mục!" Thế là tất cả mọi người đều đồng thanh, "Ambrôsiô là giám mục!"

Ambrôsiô bị ép buộc phải chấp nhận chức giám mục, nên sẽ không ai ngạc nhiên nếu ngài vẫn tiếp tục lối sống cũ, như trước khi được tấn phong. Tuy nhiên, ngay sau đó Ambrôsiô đã phân phát tài sản cho người nghèo và tự đặt mình dưới sự chỉ dẫn của Thánh Simplician để học thần học và Kinh Thánh.

3. Thực thi chân lý

R. Khrisna, nhà thần bí Ấn độ có kể câu chuyện như sau: một ông vua nọ có thói quen mỗi ngày nghe một đoạn trong kinh Bagavad Gita. Người phụ trách việc đọc kinh này là một nhà sư đạo đức, thông thái. Cứ mỗi lần đọc xong một đoạn kinh, ông lại dùng đến kiến thức uyên bác của mình để giải thích cho vua nghe. Và ngày nào ông cũng đặt câu hỏi:

- Bệ hạ có hiểu những gì thần vừa dẫn giải không?

Nhưng lần nào nhà vua cũng chỉ trả lời:

- Khanh nên hỏi điều đó với khanh trước đã.

Ngày nọ, giữa lúc đọc kinh, ông bỗng được giác ngộ và nhận ra tất cả mọi sự đều là hão huyền. Thế là nhà sư quyết từ bỏ mọi sự và lên đường bắt đầu cuộc sống của một người hành khất. Trước khi ra đi, ông nói với nhà vua:

- Tâu bệ hạ, thế là cuối cùng, hạ thần đã hiểu được....

Sự giác ngộ của nhà sư trên đây có thể gợi lên cho chúng ta lời nhắn nhủ của thánh Gioan Tông đồ. Trong thư thứ nhất, ngài lặp đi lặp lại nhiều lần: “Chúng ta phải thực thi chân lý, chúng ta phải sống chân lý. Ai thực thi chân lý sẽ đến với ánh sáng." Giác ngộ đích thực, hiểu biết chân lý chính là thực thi chân lý.

4. Thiện chí không hành động là một cái bẫy

Phương có câu châm ngôn: "Hoả ngục được lát toàn bằng những thiện chí"

Cha Jean Weslay là một nhà giảng thuyết nổi tiếng. Một hôm có một bác nông phu người Anh đến nghe cha giảng. Hôm đó, cha giảng về đề tài dùng của cải. Ông nhà quê này chăm chú nghe.

Bài giảng chia làm 4 phần:

Phần 1: Hãy tìm cho được của cải. Đầu đề này làm ông kia hài lòng quá, thúc tay vào người ngồi cạnh ông nói nhỏ: hay quá, thật tuyệt.

Phần 2: Hãy tiết kiệm: người kia sung sướng ngồi thẳng lên, chăm chú nhìn cha và nuốt lấy từng lời cha nói. Ông nghĩ cha nói đúng quá. Chính mình cũng vẫn chủ trương như vậy.

Phần 3: Đừng xài phí: Người nhà quê gật gù hài lòng. Ông nghĩ mình phải thầm cám ơn Chúa vì mình vẫn nghĩ và hành động đúng như vậy.

Phần 4: Hãy rộng rãi làm phúc.

Nghe đến đây, ông nhăn mặt khó chịu, thở dài đứng lên bỏ về.

5. Hiền lành và khiêm nhượng - Bài học đòi thực hành

Có một đứa bé lẻn vào nhà ăn trộm tiền của Cha Jean Marie Vianney, cha sở họ Ars. Hai thầy giúp việc cho Cha sở coi đây là việc hệ trọng nên báo cáo cho xã trưởng biết. Ông này bèn cho gọi em nhỏ ấy đến làm bộ tra vấn răn đe cốt để em nhỏ sợ sau không dám tái phạm nữa. Bà mẹ em nhỏ nghi ngờ chính là cha sở đã tố cáo con bà, bà hùng hổ chạy thẳng ra nhà thờ, đến chỗ cha đang ngồi giải tội. Nhìn thấy điệu bộ bà hằm hằm cơn lôi đình, hai thầy bảo nhau:

- Nguy đến nơi rồi.

Rồi cả hai cùng chạy ra nhà thờ xem sự thể ra sao.

Đang lúc quá giận, bà tiến thẳng đến tòa giải tội, gọi cha ra ngay. Vừa giải tội xong một người, cha bước ra. Bà này liền nói một thôi một hồi:

- Con tôi còn nhỏ tuổi, có tinh nghịch chăng nữa thì đã đến nỗi nào mà cha nộp nó cho xã trưởng?

Bà nhiếc móc một hồi cho hả giận. Cha Vianney đứng khoanh tay nghe phán xét, rồi bình tĩnh trả lời vắn tắt:

- Bà nói phải đấy, xin bà cầu cho cha sửa mình lại!

Nói thế rồi, Ngài lại vào tòa tiếp tục giải tội như trước.

6. Nghe và làm

Ngày 27/06/07, ba tháng trước khi cầu Cần Thơ sập, kỹ sư Hiroshi Kudo đã cảnh báo về độ thiếu an toàn hệ thống khuôn đúc đường dẫn cầu và biện pháp thi công của nhà thầu. Nhưng lời cảnh báo ấy bị bỏ ngoài tai, nên mới xảy ra thảm hoạ xây dựng lớn nhất trong lịch sử Việt Nam khiến cho 64 người chết và hơn 80 người bị thương. Hôm nay Chúa Giêsu cũng đang cảnh báo chúng ta rằng: Lời Chúa chính là nền tảng vững chắc để xây dựng đời sống Kitô hữu, đã nghe thì phải thực hành, nếu không “ngôi nhà đức tin” của mình sẽ “sụp đổ, sụp đổ tan tành." Lúc đó thảm họa còn khốc liệt hơn biết chừng nào.

Trong trường giáo dục đức tin thì học nhất thiết phải đi đôi với hành: Lời Chúa phải được thực hành bằng chính sự hoán cải tấm lòng, chứ không chỉ để chia sẻ hay rao giảng cho người khác. Để sống được Lời Chúa, bạn hãy bắt đầu bằng sự thay đổi chính mình, bạn sẽ khám phá ra điều Chúa muốn bạn sống, trước khi bạn nói người khác sống.

7. Đánh trống bỏ dùi

Có một cách hiểu thành ngữ “đánh trống bỏ dùi”, theo đó “dùi” là những tiếng trống lẻ theo sau hồi trống dài. Gọi là “lẻ” nhưng những “dùi” này rất quan trọng vì nó giúp phân biệt các mệnh lệnh khác nhau. Như “ba hồi chín dùi” là họp toàn dân, trong khi “ba hồi ba dùi” nghĩa là có cha về dâng thánh lễ.

Vậy “đánh trống bỏ dùi” là chỉ đánh những trống hồi, còn bỏ không đánh những tiếng trống lẻ theo sau. Nó ám chỉ cung cách làm việc thiếu chu đáo, thiếu tinh thần trách nhiệm, không làm đến nơi đến chốn, nửa làm nửa không. Theo cách hiểu này, cũng là “đánh trống bỏ dùi” nếu chỉ nói tin Chúa mà lại không sống đức tin ấy. Chúa Giêsu cho biết đức tin ấy không thể đem lại ơn cứu rỗi: “Không phải bất cứ ai....”

Tin trong lời mà không tin trong đời, người ta mắc phải căn bệnh “đánh trống bo dùi” với các triệu chứng: nói mà không làm, nói nhiều làm ít, nói hay làm dở, làm nửa vời bỏ dở dang.

Khi chia sẻ Lời Chúa, ta mắc bệnh này khi chỉ đề ra những lý giải thật hay mà không hoán cải đời sống, không thực thi Lời Chúa. Nó biến việc chia sẻ Lời Chúa thành giờ lý thuyết suông, bày biện những “ngôn từ” vô bổ.

8. Giá trị không như người ta nghĩ

Ngôi sao nhạc kinh Lily Pons đã từng dùng bữa tối với các tổng thống và vua chúa. Sau khi bà chết, người ta tổ chức một cuộc đấu giá những bất động sản của bà. Mô tả điều đó, nhà bình luận Maryln Shwartz viết: “Một bức ảnh bữa tiệc của bà với diễn viên Humphrey Bogart giá 50 xu. Những bức thư từ công chúa Garce và hoàng tử Rainier, lời ghi chú của công chúa Elizabeth cám ơn vì đã hiện diện tại tiệc cưới Pons trị giá 5 đô la.”

Câu chuyện về Lily Pons mời gọi tôi tự hỏi: có một vài điều gì hiện giờ tôi cho là quý giá, nhưng sẽ chẳng còn được đánh giá cao khi tôi chết?

“Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tang dưới đất… Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời” (Mt 6,19-20).

9. Cái giá của lòng chân thật

Barbara Arustein kể rằng bà nhận được một cú điện thoại của anh taxi. Anh báo rằng bà đã để quên chiếc ví trên xe của anh. Khi nhận lại chiếc ví mà không mất một thứ gì, bà xúc động đến độ muốn tặng cho anh tài xế một món quà. Anh từ chối, mà rằng: “Chỉ cần bà cho tôi biết bà có bao nhiêu tiền trong chiếc ví ấy.” Một chút ngạc nhiên, bà nói với anh ta biết. Anh ta rút ra cuốn sổ tay nhỏ ghi vào số tiền, và nói: “Tôi đang kiểm chứng xem lòng chân thật của tôi đáng giá bao nhiêu.”

Anh tài xế taxi đã làm điều Chúa Giêsu dạy phải làm. Chúng ta phải làm hơn là chỉ nói bằng môi miệng. chúng ta phải làm những gì Chúa muốn. Lòng chân thật của tôi đáng giá bao nhiêu đối với tôi?

Là Kitô hữu chẳng những là tin bằng khối óc, mà còn là thi hành lời dạy.

10. Chúa muốn điều gì?

G.Gordon Liddy, người phụ tá ở Nhà Trắng đã bị buộc tội trong vụ Watergete khiến tổng thống Nixon phải từ chức. Sau khi ra tù, Liddy đã trải qua một cuộc hoán cải trong đời sống tôn giáo. Ông nói: “Điều khó nhất đối với tôi lúc này là cầu xin: Chúa Giêsu muốn gì chứ không phải Gordon muốn gì?”

Lời cầu nguyện của Liddy cũng mời tôi tự hỏi Chúa giêsu muốn gì, chứng không phải tôi muốn gì. Điều đó khiến tôi tự hỏi: Chúa Giêsu mạc khải cho những người như tôi biết phải làm gì?

(Một ngôi sao bóng đá viết: “Tôi thường tự hỏi cuộc đời tôi đang đi đâu? Mục đích của đời tôi là gì ngoài những trò chơi xuẩn ngốc mà tôi tham gia mỗi Chúa nhật? Tôi cảm thấy cuộc sống phải có cái gì hơn thế nữa” (Jerry Kramer).

11. Năm căn bệnh trầm kha của người công giáo Việt Nam

Linh mục Nguyễn Trọng Viễn, dòng Đa minh đã chỉ ra năm căn bệnh trầm kha của Giáo hội Việt Nam.

1. “Đạo” sinh hoạt: Người Ki-tô hữu thường sống đạo theo kiểu gắn đời mình vào trong những sinh hoạt giáo xứ, ít quan tâm tương quan cá vị với Thiên Chúa...

2. “Đạo” kính sợ: Dễ thấy trách nhiệm với Chúa nhưng lại khó nhận ra tình thương của Chúa...

3. “Đạo” thiêng liêng: Đức tin được biểu lộ trong sinh hoạt tôn giáo, trong nhà thờ nhưng lại tách rời cuộc sống, thiếu bác ái trong đời sống hằng ngày...

4. “Đạo” luân lý: Ít bận tâm đến nỗ lực tu sửa và tập luyện nhân đức nhưng thường xuề xòa với các tính xấu của mình...

5. “Đạo” thực dụng: quan tâm đến những lợi ích trong mọi sự, tính toán được hay mất (danh dự, vật chất). Ngoài ra, chúng ta còn có thể kể đến những căn bệnh “nhẹ” khác như: bệnh sáo ngữ, bệnh hình thức, bệnh đoàn lũ và bệnh chủ quan nơi tầng lớp giáo sĩ. Theo đạo không dừng lại ở việc “lạy Chúa." Theo đạo là sống bạn hữu với Đức Giê-su, Đấng Đang Sống.

Người khôn ngoan xây nhà trên đá. Chớ gì bạn và tôi nhận ra sự khôn ngoan là neo tựa nơi đá tảng Giê-su, Đấng Đang Sống và sống tri âm tri kỷ với Ngài. Đó là tâm tình “Lạy Chúa” đích thực.

THỨ SÁU – CHỮA LÀNH HAI NGƯỜI MÙ

Lời Chúa: Mt 9, 27-31

Khi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua, có hai người mù chạy theo Chúa và kêu lớn tiếng rằng: "Hỡi Con vua Đavít, xin thương chúng tôi.”

Khi Chúa tới nhà, những người mù tiến lại gần Chúa. Chúa Giêsu phán bảo họ: "Các ngươi có tin rằng Ta có thể làm việc ấy không?" Họ thưa: "Lạy Thầy, có.” Bấy giờ Chúa sờ vào mắt họ và phán: "Các ngươi tin thế nào, thì hãy được như vậy.” Mắt họ liền mở ra, nhưng Chúa Giêsu truyền cho họ rằng: "Coi chừng, đừng cho ai biết.” Nhưng vừa ra đi, họ liền đồn tiếng Người trong khắp miền ấy.

TRUYỆN KỂ

1. Người mù ở Việt Nam

Ở Việt Nam hiện nay có khoảng 500 ngàn người bị mù hai mắt, và 900 ngàn người mù một mắt. Tỉ lệ người mù như thế là cao so với nhiều nước khác.

Bao cố gắng được đưa ra để giảm số người bị mù, trong đó có việc mổ cho 350 ngàn người mắc bệnh đục thủy tinh thể. Người ta hy vọng nhờ đóng góp của các ân nhân, sẽ có 100 ngàn người nghèo được mổ trong năm 2010.

2. Lòng Tin Khiến Họ Ðược Chữa Lành

Roberto Newman là một người mù từ lúc mới sinh, và mãi đến năm 50 tuổi, một cuộc giải phẫu mới cho phép ông được thấy ánh sáng đầu tiên trong cuộc đời. Với ánh sáng, toàn thể thế giới như thay đổi hẳn viễn tượng trong tâm trí ông với những điều bấy lâu ông hằng tưởng tượng.

Khi được phỏng vấn, ông đã trả lời tờ báo Chicago như sau: "Ðược nhìn thấy mọi vật quả là một diễm phúc trên đời. Tôi không ngờ rằng một giáo thuyết đã dạy tôi sẽ nhìn thấy mọi vật quanh tôi và đêm về tôi có thể nhìn ngắm các vì sao, những vật thể li ti của dãy ngân hà trên thiên không diệu vời. Bạn sẽ chẳng bao giờ thấy chúng tuyệt vời đến thế nào đối với tôi.”

Nhận xét của Roberto thật xác đáng. Những ai đã một lần mất đi ánh sáng trong cuộc đời để rồi đánh giá trị của khả năng nhìn ngắm. Hôm nay thánh sử Matthêu cũng thuật lại cho chúng ta câu chuyện hai người đang cần ánh sáng và cuộc tìm kiếm của họ.

3. Mù tâm linh

Tính tự phụ và kiêu căng thường dẫn đến sự mù quáng, không nhìn ra sự thật. Do đó, Lon Jacob đã sáng tác ra câu truyện ngụ ngôn: Con sư tử đến hỏi con tê giác: “Ai là chúa tể khu rừng này”? Con tê giác đáp: “Là sư tử chứ ai.” Sung sướng quá, sư tử đến hỏi con hà mã: “Ai là chúa tể khu rừng này”? Và hà mã cũng trả lời: “Là sư tử chứ ai.” Sư tử lại đến hỏi con voi: “Ai là chúa tể khu rừng này”?

Voi chẳng nói chẳng rằng, dùng vòi túm lấy sư tử, quăng nó lên trời. Khi rơi xuống đất, con sư tử choáng váng mặt mày, mình mẩy ê ẩm, nhưng cũng ráng nói vớt vát: “Vì ngu quá chẳng biết trả lời nổi câu hỏi của ta nên ta không thèm ăn thua với mi.”

4. Thầy bói sờ voi

Trong kho tàng truyện cổ Ấn Độ có một câu chuyện ngụ ngôn như sau: Ngày xưa có mấy anh mù rủ nhau đi xem voi. Họ được dẫn đến một con voi rất to để họ dùng tay mà sờ vào nó.

Anh thứ nhất sờ được vào cái vòi của con voi. Sờ xong anh ta đắc chí hô to:

- Tôi biết con voi giống cái gì rồi, nó giống như cái vòi lớn.

Anh thứ hai sờ vào chân voi rồi nói:

- Đâu phải, tôi thấy con voi giống như cột nhà.

Anh thứ ba sờ vào sườn voi, phản đối:

- Các anh điên hả? Tôi thấy con voi giống như một bức tường chứ!

Anh thứ tư sờ vào tai voi, bật cười:

- Các anh nói gì vậy? Tôi thấy con voi giống như một tầu là chuối.

5. Mù vì không muốn thấy

Dân thành Athena mù quáng kính thần Vô Danh, họ thờ vị thần mà họ không biết lý lịch, khi họ nghe ông Phaolô giảng về Đức Kitô cho kẻ chết sống lại, thì họ chế nhạo và đuổi khéo ông đi nơi khác, như lời họ nói: “Thôi ông để khi khác chúng tôi nghe” (x Cv 17,32). Như thế họ mang danh là giới trí thức, mà lại mù không biết đón nhận Đấng họ tôn thờ là Chúa Giêsu Phục Sinh, chỉ có Ngài mới đáp ứng mọi nhu cầu sự sống của loài người (x Cv 4,12).

Loại mù này là những kẻ ngu đần xây nhà không theo kỹ thuật phải đặt móng trên nền đá, nhưng lại xây trên cát, khi giống tố xảy đến kéo sập nhà, chôn sống mọi người đang ở trong đó(x Mt 7,24). Khốn nạn hơn nữa trở thành kẻ sát nhân, không trừ người vô tội. Đan cử ông Saulô, khi chưa được học Giáo Lý nơi môn đệ Đức Giêsu, dù mắt vẫn mở nhưng ông chẳng nhìn thấy gì, đang lúc ông xông đến Đamas đòi tiêu diệt hết những người Công Giáo vô tội (x Cv 9,8). Vậy mà ông cứ tưởng làm như thế là tôn vinh Thiên Chúa (x Ga 16,2).

6. Trái tim mới thấy

Năm 1974, ông Jacques Lebreton được 78 tuổi, mới được Đức Giám mục địa phận Beauvais nước Pháp truyền chức Phó tế cho.

Người ta thắc mắc:

- Trước đây ông là một đảng viên Cộng sản vô thần, vì một tai nạn xe hơi, ông đã bị cụt hai tay, và mù cả hai mắt! Chức Phó tế cần phải đọc sách mới có khả năng giảng. Mắt đâu để đọc sách? Tay đâu,để đổ nước ban Bí tích Thánh Tẩy cho người ta. Thế thì truyền chức Phó tế cho ông để làm gì?!

Đức Giám mục trả lời:

- Jacques Lebreton còn trái tim.

Quả thực, sau khi lãnh Phó tế, thầy Jacques Lebreton đã giảng mỗi năm khoảng 200 bài Thánh Kinh trong các trường Đại học, được rất nhiều sinh viên ca tụng.

Tâm tình của thầy Jacques Lebreton rất giống tâm tình của thánh Phaolô: “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng, tự ý làm việc ấy thì tôi có công, còn nếu ngoài ý tôi, thì đó là trách nhiệm Chúa đã ký thác cho tôi!” (1 Cr 9,16-17).

7. Đức tin trông thấy

Có một xứ đạo kia ở trong vùng nắng hạn đã lâu ngày không một hạt mưa. Giáo dân tập trung đến nhà thờ cầu nguyện xin cho trời mưa. Trong số đó, có một cô bé đang cầu nguyện và bên cạnh có một cái dù rất dễ thương. Buổi cầu nguyện sắp kết thúc thì trời đổ cơn mưa rất nặng hạt.

Dường như Chúa đang nói với họ đồng thời cũng nói với em bé kia: “Các con tin thế nào thì được như vậy.” Tin Mừng hôm nay thuật lại Chúa Giêsu làm phép lạ cho hai người mù được sáng mắt; nhưng dường như lòng thương xót và quyền năng vô biên của Ngài chỉ có thể tỏ ra nhờ vào đức tin mạnh mẽ của họ.

Phép lạ của Chúa là dấu chỉ của ơn cứu độ cho con người. Ngài cho thấy chính Ngài là Ánh Sáng thật cho họ nhìn ra “Con Người cứu độ.”

Đức tin chỉ ở trong lòng thôi thì chưa đủ mà còn phải biểu lộ ra bên ngoài nữa. Cách bạn dự lễ nghiêm trang, cầu nguyện sốt sắng, sống công bình bác ái là dấu hiệu thể hiện đức tin của bạn. Mời bạn hãy sống niềm tin ấy thật mạnh mẽ.

8. Mù không phải là không thấy

Tháng 9/2012, cô Christine Hà, người Mỹ gốc Việt, đoạt chức vô địch giải đầu bếp danh giá toàn nước Mỹ mặc dù cô là người khiếm thị. Mất thị lực từ năm 16 tuổi do một chứng bệnh quái ác, cô đã dùng các giác quan khác để “thấy” và thể hiện niềm đam mê nấu ăn của mình khiến vị giám khảo khó tính Gordon Ramsay phải thốt lên: “Cô có đánh lừa chúng tôi rằng cô mù không đấy?” Bằng đam mê và nghị lực, cô Christine Hà đã “thấy” được.

Thế nhưng để có thể thấy thực sự bằng đôi mắt đã mù của mình, và nhất là “thấy” được Thiên Chúa bằng đôi mắt tự nhiên của mình thì phải có đức tin. Chúa hỏi hai người mù có tin vào Ngài không, và ngay khi họ bày tỏ lòng tin, Chúa đã chữa lành cho họ: “Các anh tin thế nào thì được như vậy.”

Trong cuộc sống xô bồ nhiều lo toan này, lắm khi cái bóng của tiền bạc, thú vui, danh vọng quyền lực làm cho cặp mắt ta hoá mù không thấy được Chúa hiện diện nơi tha nhân nữa. Tôi có thao thức, khao khát được chữa lành bệnh mù này không? Năm Đức Tin này nhắc nhở chúng ta rằng chính Đức Tin là phương thế để ơn Chúa có thể chữa lành tật bệnh linh hồn cho tôi.

9. Đức tin đổi mới cuộc đời

Bob Evans bị mù từ bẩm sinh. Một ca phẩu thuật đã phục hồi đôi mắt và đem lại cho anh một cuộc sống mới. Bob mô tả cuộc sống ấy như sau: “Đó là điều ngạc nhiên nhất… Mỗi sang tôi đã không thể chờ đợi thức dậy để được nhìn thấy… Bạn không bao giờ biết được mọi thứ đều tuyệt vời làm sao.”

Câu truyện trên giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc lời tiên tri Isaia nói về cuộc sống sẽ thay đổi thế nào khi Đấng Cứu Thế đến, hoặc cuộc sống mới thay thế cuộc sống cũ.

Tôi mong đợi gì ở cuộc sống mai sau?

Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Ngài. (1Cr 2,9)

10. Tin là thấy

Niềm tin vào Chúa Giêsu về căn bản là phó thác vào việc đón nhận Chúa Giêsu như Con Thiên Chúa. W.H.Murray nói: “Dù người ta tin tưởng phó thác, thì vẫn còn có sự do dự. giây phút mà ta hoàn toàn phó thác chính mình, Thiên Chúa cũng tỏ mình ra đến nỗi mọi sự xảy ra đến không ai ngờ tới.”

Tôi vững vàng phó thác bản thân vào Chúa Kitô như thế nào? Tôi đã bao giờ cảm nghiệm được điều không ai ngờ tới đã xảy ra nhờ phó thác vào Chúa chưa?

Chính tình yêu làm nên đức tin, chứ không phải đức tin tạo ra tình yêu (John Henry Newman).

11. Ơn đức tin

Bộ phim hoạt hình “Peanuts” có cảnh Charlie Brown đứng trước của nhà. Anh ta đã lên với những khách qua đường: “Hãy tin tôi.” Nhưng chẳng ai chú ý đến anh cả. Cuối cùng, Charlie thở dài và buồn bã nói: “Tôi không thể làm cho người ta tin được.”

Chúa Giêsu đã gặp cùng một tình huồng như vậy. Nhiều người đã từ chối tin vào Ngài. Tuy nhiên, những ai tin vào Ngài đều cảm nghiệm những điều kỳ diệu trong cuộc đời họ. Điều gì đã khiến lòng tin của tôi nơi Chúa Giêsu không được lớn mạnh?

(Chúa Giêsu nói:) “Nếu anh có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì anh có thể bảo cây dâu này: “Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc” nó cũng sẽ vâng lời anh em” (Lc 17,6).

THỨ BẢY - LÚA CHÍN ĐẦY ĐỒNG, THỢ GẶT THÌ ÍT

Lời Chúa: Mt 9,35 - 10,1. 6-8

Khi ấy, Chúa Giêsu đi rảo khắp các thành phố làng mạc, dạy dỗ trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn, Người liền bảo môn đệ rằng: "Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa."

Và Người triệu tập mười hai môn đệ, ban cho họ quyền năng trên các thần ô uế, để họ xua đuổi chúng, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Người bảo: "Các con hãy đi đến cùng chiên lạc của nhà Israel trước đã, và rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Hãy chữa lành người liệt, phục sinh kẻ chết, chữa lành người phung, và xua trừ ma quỷ. Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không."

TRUYỆN KỂ

1. Nhà truyền giáo đích thực

Vào thời Trung cổ, một số tín hữu giàu có muốn sống theo tinh thần của thánh Benado đã từ bỏ mọi tiện nghi và ngay cả ngôi thánh đường ấm cúng của họ để đến cư ngụ trên một đỉnh núi cao. Mục đích của họ là để cảm thông với những khách bộ hành lạc lối giữa núi rừng, nhất là vào mùa đông tuyết rơi. Những tín hữu này quyết định ngày đêm túc trực ở đó để kịp thời cứu vớt những ai kêu cứu. Để làm việc đó, họ đã huấn luyện một đàn chó đi tìm người lạc lối, đưa về nhà Dòng để được tận tình săn sóc.

Sự cảm thông không chỉ là một cảm xúc trong tâm hồn, mà còn là đến gần để lắng nghe, chia sẻ, trao ban. Thiên Chúa là Đấng cảm thông đích thực: Ngài không thể hiện sự cảm thông duy chỉ bằng cái nhìn từ trời cao, nhưng Ngài đã hoá thân làm người, chia sẻ hoàn toàn kiếp sống khốn cùng của con người. Tin mừng hôm nay nói lên sự cảm thông của Thiên Chúa bằng câu: “Ngài động lòng xót thương họ." Chúa Giêsu quả thực chính là Trái tim của Thiên Chúa, một Trái tim không những rung động trước nỗi khốn khổ của con người, mà còn đến ở bên con người.

2. Mục tử đích thực

Hôm nay, Tin Mừng cho thấy Đức Giêsu một lần nữa thi hành sứ vụ Mục Tử của mình khi ”chạnh lòng thương” để chữa lành bệnh tật, xua đuổi ma quỷ và giải thoát họ khỏi những sự kiềm chế của tội lỗi.

Kế đó, Đức Giêsu đã mời gọi các môn đệ ra đi thi hành cùng một sứ vụ như Ngài và đồng thời trao ban cho các ông những quyền năng cần thiết để hỗ trợ việc rao giảng như khả năng chữa bệnh, trừ quỷ, khuất phục thiên nhiên.... Tuy nhiên, vì Ngài biết rõ sự nguy hại của kẻ kiêu ngạo, nên không quên nhắc các ông: ”Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không."

3. Biết cảm thông

Đây là bức thư của một bạn trẻ bị bệnh sida: “Trước đây tôi không phải là một Kitô hữu. Tôi sống trong tuyệt vọng vì số phận đã bị kết án bởi sida. Thế rồi, nhờ một người bạn, tôi đã gặp Chúa. Bắt đầu từ ánh mắt nhìn tôi, và tôi đã tin vào Chúa. Tôi đã tìm ra ý nghĩa của cuộc sống, và nhận thức được giá trị đời mình ngay trong quãng đời vắn vỏi còn lại."

Hãy xin Chúa cho chúng ta một con tim rộng mở, luôn biết cảm thông và trân trọng anh em đồng loại, để thế giới tràn đầy niềm hy vọng.

Ra đi loan báo Tin Mừng còn có nghĩa là ra đi khỏi con người của mình. Ra khỏi con người thiển cận, ích kỷ của mình để mặc lấy cái nhìn nhậy cảm hơn trước sự hiện diện của tha nhân đang cần đến sự giúp đỡ của chúng ta.

Một cô gái Phi châu nói: “Khi muốn truyền đạo cho một làng chúng tôi, chúng tôi không cho họ sách. Chúng tôi gửi một gia đình Kitô giáo đến sống trong làng. Và họ sẽ làm cho mọi người thành Kitô hữu."

4. Đức tin sống động.

Felix Frankfurter là một quan tòa nổi tiếng của tòa án tối cao của Hoa Kỳ. Một lần kia ông được đưa vào bệnh viện, ở đó ông quen biết một y tá có tên là Lucy. Họ có những lúc ngồi nói chuyện thân mật và ông biết nhiều điều về Lucy.

Trước đó, chưa bao giờ ông gặp được người nào có lòng quảng đại và nhân hậu như chị. Và ông đã bắt đầu tự hỏi và suy nghĩ, cố gắng khám phá suối nguồn của thái độ của chị. Điều ông khám phá như sau: Suối nguồn ấy không có gì là bí ẩn. Nó đơn giản, chỉ là sự áp dụng thực hành đức tin của chị.

Lucy không bao giờ biết đức tin sống động của chị có ảnh hưởng như thế nào, nhưng chị đã làm cho Đức Giêsu hiện diện cụ thể trong bệnh viện này. Chị đem đến đôi bàn tay mà Đức Giêsu cần đến. Đức Giêsu cần những nhân chứng cho người ta như chị Lucy đến nỗi Người có thể thành Đấng an ủi như Người muốn làm.

5. Món quà cao quý

Hồi đó, Hoàng Đế Sabat cai trị vương quốc Ba Tư và rất được toàn dân mến phục. Nhà vua thường cải trang như một thường dân để tiếp xúc với dân chúng. Một hôm, nhà vua cải trang như một nhân công nghèo khổ lần mò các bậc thang để xuống tận dưới hầm tối của lâu đài là nơi cư ngụ của một cụ già chuyên lo việc củi lửa sưởi ấm cho cả lâu đài. Giường ngủ của cụ là đống tro tàn và lương thực hàng ngày là mẩu bánh mì đen với ly nước lã. Nhà vua đến ngồi bên cạnh cụ già và bắt đầu gợi chuyện. Đến bữa ăn, cụ già mời nhà vua chia sẻ mẩu bánh mì khô cứng thấm mềm trong ly nước lã. Cả hai cùng ăn và tiếp tục chuyện trò thân mật.

Nhà vua động lòng thương cụ già và từ ngày đó, nhà vua nhiều lần cải trang để đến thăm cụ. Riêng cụ già, tuy không biết lý lịch của người đến thăm mình là ai, nhưng vẫn tiếp tục đáp trả cử chỉ nhân đạo của nhà vua. Sau cùng, nhà vua tự nhủ: ta sẽ tỏ lộ cho cụ già này biết ta là ai, để xem ông ta sẽ xin ta điều gì. Ít hôm sau, nhà vua xuống hầm tối thăm cụ già trong y phục sang trọng và nói:

- Bấy lâu nay có lẽ ông tưởng ta chỉ là một công nhân ngèo khổ như ông, nhưng nay ta nói thật ta là vua, ta rất qúi mến tình bạn của ông, vậy ông muốn gì, cứ nói, ta sẽ ban.

Nhà vua tưởng cụ già sẽ xin tiền bạc hoặc ân huệ, nhưng ông chỉ ngồi yên lặng. Tưởng cụ già không hiểu mình nói gì, nhà vua cắt nghĩa thêm.

- Có lẽ ông chưa hiểu rằng ta là vua, ta có thể làm cho ông lên giàu sang, danh vọng.

Cụ già cúi đầu đáp:

- Tâu Hoàng Thượng, con đã hiểu tấm lòng của Hoàng Thượng trong những lần đến hầm tối này để thăm con và không ngần ngại chia sẻ với con mẩu bánh mì đen và ly nước lạnh. Đó là món quà cao qúi nhất rồi, con không muốn gì hơn nữa, con chỉ xin một điều là Hoàng Thượng đừng bao giờ lấy lại món quà quí giá ấy bao lâu con còn sống trong cảnh cô đơn nghèo khổ này.

6. Món quà cảm thông

Ở góc phố, một người hành khất đang chìa tay xin khách bộ hành bố thí. Sau khi đã lục tìm khắp hết các túi trong ngoài của mình, Lev Tolstoi, nhà văn Nga, nói với người hành khất với giọng của một người có lỗi: “Này anh bạn, xin lỗi nhé! Tôi không còn gì để có thể cho anh. Hẹn anh lần sau. Chúc anh một ngày tốt lành!” Người hành khất hớn hở trả lời nhà văn: “Không, ông đã cho tôi rất nhiều! Lâu nay, ai cũng coi thường tôi. Còn ông, ông gọi tôi là ‘anh bạn’. Vậy là ông đã cho tôi nhiều nhất rồi đó. Cám ơn ông!” Tin Mừng hôm nay khắc họa một “Đức Giê-su thấy đám đông thì chạnh lòng thương.” Ngài thấy họ “như bầy chiên không người chăn dắt.” Vì thế, Ngài đã gọi mười hai môn đệ lại và sai các ông đi, với lệnh truyền: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.” Người môn đệ Chúa Giê-su, vì thế, luôn luôn vẫn có cái gì đó để cho đi một cách vô điều kiện.

Nhiều khi chúng ta nghĩ rằng chẳng có gì để cho người khác. Thế nhưng, sự cảm thông và tình thương vẫn luôn là món quà quý báu mà chúng ta có thể trao đi bất cứ khi nào.

7. Chạnh lòng thương

Thay vì lập sân gôn trên những “bờ xôi ruộng mật” tại Hoà Liên, Hòa Sơn (Đà Nẵng), ông Chung, doanh nhân Hàn Quốc đã chọn những ngọn đồi trọc ở Hòa Phú. Ông giải thích: 100 hộ dân với mồ mả phải di dời, 120 lao động không có việc làm và cả trăm trẻ em phải chuyển trường… “Tôi không thể dùng tiền để tước đoạt của họ những thứ đó.” Ông đã tỏ ra nhạy cảm trước nỗi khốn khổ của người dân nghèo. “Chạnh lòng thương” là tâm tình thường gặp nơi Đức Giêsu mỗi khi gặp nỗi khổ của con người. Nó diễn tả lòng trắc ẩn của Ngài rung cảm sâu đến tận đáy lòng. Trái tim nhói đau ấy sẽ tìm ra những giải pháp thích hợp nhất để xoa dịu, giảm đi nỗi đau của từng khuôn mặt cụ thể: cho con trai bà goá Naim sống lại, chữa người phong lành bệnh…

Con người hôm nay nhìn người lân cận như dụng cụ, nghĩa là theo hiệu năng, nhất là giá trị kinh tế. Vì thế, người khác chỉ được tôn trọng khi còn hay có hiệu năng cao. Chúa dạy ta đối xử với người khác với trọn tấm lòng, nhìn họ như người anh-em, chị-em, như hình ảnh của Thiên Chúa.

8. Niềm tin vào Thiên Chúa

Trước trận chiến Gettysburg, tổng thống Lincoln đã kêu cầu Thiên Chúa cứu trợ giúp. Ông mô tả điều đó với tướng Sickles như sau: “Tôi biết sự thất bại trong trận chiến quan trọng này ở đất Bắc liên quan đến sự sống còn của Washington. Tôi đi vào phòng, quì gối và cầu nguyện. Chua bao giờ tôi cầu nguyện nghiêm túc đến thế. Tôi thấy rằng mình phải đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa tối cao… Tôi không còn e sợ gì về kết quả.”

Lời ngôn sứ Isaia và câu truyện của Lincoln mời gọi tôi kiểm điểm lại niềm tin của tôi là Thiên Chúa lắng nghe tiếng kêu cầu của tôi để trợ giúp.

Đừng xin được sống dễ dãi, nhưng xin được mạnh mẽ hơn. Đừng xin sứ mệnh vừa tầm sức bạn, nhưng hãy xin sức mạnh để đảm nhận công việc khó khăn (Philip Brooks).

9. Đưa Chúa vào đời

“Kết quả của việc chia thế giới thành những vùng thánh thiêng và những vùng trần tục đã trở nên tai họa.” Thomas Carruthers đã lưu ý như thế. “Chúng ta chỉ đến với những vùng nhỏ, tốt đẹp và dán nhân tôn giáo ở đó, nhưng như thế chưa đủ. Chúng ta phải đưa Chúa vào nhà máy, trường học, văn phòng, kinh doanh, gia đình, và mọi nơi.”

Ý của Carruthers rất quan trọng. Chúa Giêsu không muốn chỉ một số môn đệ nào đó, nhưng là tất cả phải tham gia vào “mùa gặt.”

Tôi có thường chia thế giới thành những vùng thánh thiêng và trần tục không? Tôi có thể làm gì hiệu quả để đem Chúa vào môi trường sống của tôi?

Hãy làm những gì có thể bằng những gì bạn sẳn có nơi bạn đang sống (Theodore Roosevelt).

10. Bắt đầu từ lòng thương xót

Thánh Catherine Drexdel xuất thân từ một gia đình giàu có ở Philadelphia. Một ngày nọ, trong khi thăm viếng khu ổ chuột của thành phố, ngày cảm thấy tràn ngập lòng thương xót khi nhìn thấy những trẻ em sống ở đó. Nhận thấy rằng: "Lúa chính đầy đồng mà thợ gặt lại ít”, ngài quyết định lập một dòng nữa để giúp những trẻ em này.

Điều gì trong thế giới ngày nay đã làm tôi chạnh lòng thương xót? Tôi có thể làm gì để giúp giải quyết vấn đề ấy một cách cụ thể?

Thế nào là chân dung của tình yêu? Tình yêu có đôi chân để đến với người nghèo. Tình yêu có đôi mắt để nhìn thấy nỗi bất hạnh và thiếu thốn. Tình yêu có đôi tai để nghe được tiếng thở than và buồn phiền của người khác.” (Th. Augustino)

LỄ KÍNH THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ - RAO GIẢNG CHO MỌI DÂN TỘC

Lời Chúa: Mc 16, 15-20

Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép Rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không Tin, sẽ bị luận phạt.

Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thày, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc, thì không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh.”

Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.

Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo. Đó là lời Chúa.

TRUYỆN KỂ

1. Nhiệt tâm với các linh hồn

Ba mươi sáu tuổi bắt đầu công việc của một nhà truyền giáo ở Goa, Phanxicô chịu mọi lao nhọc để giảng dạy và rửa tội cho người bản xứ. Rồi Phanxicô lại lên đường đi Malaixia, Inđônêsia. và là một trong những nhà truyền giáo đầu tiên tại Nhật Bản.

Nhưng trái tim Phanxicô vẫn chưa dừng ở đó. Ngài còn muốn đặt chân đến Bắc Kinh để gặp Hoàng đế Trung Quốc. Phanxicô chết vì kiệt sức khi đang chờ trên hòn đảo Thượng Xuyên, mắt vẫn hướng về Quảng Đông chỉ cách đó 14 cây số.

Hôm ấy là ngày 3-12-1552, khi Phanxicô mới bốn mươi sáu tuổi. Mừng lễ thánh Phanxicô, Bổn mạng các xứ truyền giáo, chúng ta nhớ Việt Nam vẫn là nơi cần được loan báo Tin Mừng, và Trung Quốc vẫn là nơi gần như Kitô giáo chưa được biết đến.

2. Trộm hấp hối và trộm còn sống

Một mục sư nói chuyện với một tín đồ lười biếng:

- Anh có thường đến nhà thờ không?

- Không. Người trộm lành hấp hối trên thập giá đâu cần đến nhà thờ thế mà vẫn lên thiên đàng.

- Có khi nào anh nói về Chúa cho bạn bè nghe không?

- Không. Người trộm hấp hối ấy đâu có nói về Chúa cho ai nghe.

- Anh có đi truyền giáo không?

- Không. Người trộm hấp hối ấy đâu có truyền giáo cho ai.

- Anh tưởng mình giống người trộm ấy ư? Không đâu. Có một khác biệt cơ bản: anh ta là một tên trộm đang hấp hối, còn anh là một tên trộm còn sống nhăn. (Ottobein Teacher)

3. Loan báo bằng cách sống đời thường

Chỉ có một cách loan báo Tin mừng thích hợp với mọi người, mọi nơi, mọi lúc, đó là loan báo bằng cách sống đời thường với châm ngôn: “Các con là ánh sáng thế gian. Các con là muối đất. Các con là men trong bột.” Các cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên đã loan báo bằng cách này và đã được một tác giả cổ xưa mô tả và gửi cho ông Thêôphilê như sau:

“Các Kitô hữu không khác người ta về xứ sở, ngôn ngữ và tập quán trong đời sống. Họ không ở trong những thành phố riêng, không dùng ngôn ngữ lạ thường, cũng không sống một đời sống khác biệt. Giáo lý của họ không phải do một sự suy tư nào đó, hay do mối bận tâm của những con người ham tìm hiểu nghĩ ra. Họ không bảo trợ một hệ thống triết lý nào do loài người chủ xướng như một số người kia.

“Họ ở trong các thành phố văn minh cũng như bán khai, tuỳ theo số phận mỗi người đưa đẩy. Họ theo tập quán của dân địa phương trong cách ăn mặc và trong lối sống, mà vẫn cho thấy một nếp sống lạ lùng và ai cũng phải nhận là khó tin. Họ sống ở quê hương mình mà như người khách kiều cư. Họ có chung mọi thứ như công dân, nhưng phải gánh chịu đủ thứ như khách lữ hành. Miền đất lạ nào cũng là quê hương của họ, nhưng quê hương nào cũng là đất khách đối với họ. Họ lập gia đình và sinh con cái như mọi người, nhưng không phá thai. Họ ăn chung với nhau một bàn, nhưng không chồng chung vợ chạ”

4. Đọc Thánh kinh hằng ngày

Có một người Kitô hữu tầm thường, thấy bên cạnh mình có một người tự xưng mình là vô thần. Lòng nhiệt thành đã thúc đẩy họ tìm cách giới thiệu Chúa cho họ. Người này đi mua một cuốn Thánh kinh biếu cho người láng giềng ấy, hy vọng họ đọc và sẽ nhận ra Thiên Chúa. Người láng giềng vui vẻ đón nhận và hứa sẽ đọc…

Sau một thời gian, người Kitô hữu sang chơi nhà láng giềng, tình cờ thấy cuốn Thánh kinh nằm trong sọt rác. Người Kitô hữu ngạc nhiên hỏi người láng giềng:

- Sao ông không đọc Kinh thánh? Nếu đọc, ông sẽ nhận ra Thiên Chúa.

Người láng giềng lạnh nhạt trả lời:

- À suốt trong 10 năm qua, mỗi ngày tôi đều đọc cuộc sống của anh!!!

Câu chuyện kết thúc ở đây. Chúng ta hãy suy nghĩ về câu trả lời của người láng giềng vô thần ấy. Chúng ta hãy suy nghĩ xem, người vô thần ấy muốn nói gì?

Có một bài viết ngắn về điều này:

“Tôi là cuốn sách Kinh thánh đối với người hàng xóm của tôi; người đó đọc tôi mỗi khi gặp tôi.

Hôm nay, anh ta đọc tôi trong ngôi nhà của tôi, ngày mai, anh ta đọc tôi trên đường phố.

Anh ta có thể là một người họ hàng, một người bạn, hoặc chỉ là một người quen biết sơ giao mà thôi.

Thậm chí anh ta có thể không biết tên tôi, tuy nhiên, anh ta vẫn đang đọc Kinh thánh qua cuộc đời của tôi” (Flor McCarthy).

5. Phương pháp của Ngài là luôn kết hiệp mật thiết với Chúa.

Ở thành phố Yamaguchi miền Nam nước Nhật, Ngài dựng được một túp lều nhỏ để làm nhà nguyện. Ngài vẫn dâng lễ và cầu nguyện ở đó hàng ngày. Nhiều buổi sáng sớm người ta phát hiện Ngài ngủ say mê ngay cạnh bàn thờ.

Người ta nói rằng có nhiều ngày Ngài làm việc say mê đến mức độ không có đến cả giờ để đọc sách nguyện. Tuy nhiên, dù đêm khuya, Ngài vẫn muốn đến chia sẻ gian khổ và hy vọng của mình với người bạn chí thân là Chúa Giêsu. Lịch sử kể lại rằng một lần kia ngài quì gối trước Chúa Giêsu Thánh Thể, nhưng vì quá mệt mỏi nên ngài ngủ gục ngay trên bục bàn thờ. Biết rằng làm như thế là không phải nên ngài đã cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, nếu linh hồn con không tỉnh thức được với Chúa thì ít nữa xác con đây muốn ở gần Chúa"

Rồi ngài đã lăn ra ngủ thiếp đi cho đến sáng.

6. Cuộc sống của một chứng nhân.

Một ngày kia Thánh Phanxicô Xaviê đang giảng trong một thành phố Nhật bản, một người đến gặp ngài và muốn nói chuyện riêng với ngài. Ngài cúi đầu xuống để nghe cho rõ, thì bỗng nhiên kẻ kiêu ngạo đã nhổ nước miếng vào mặt ngài. Không có một lời hay có cử chỉ phản đối, ngài lấy khăn tay lau mặt và tiếp tục cuộc nói chuyện. Chàng kia kinh ngạc, tỏ vẻ kính phục thánh nhân.

Một trong những người trí thức nhất thành phố có mặt một hôm ấy nhận định rằng đức tính khiêm hạ có sức nâng cao lòng đạo đức, tính can đảm và tự chủ như thế, chỉ có thể xuất phát từ ơn Thiên Chúa ban cho các tôi trung của Chúa. 

Cử chỉ khiêm hạ của Thánh Phanxicô đã đánh động lòng ông, ông trở lại đạo công giáo và lôi cuốn rất nhiều người khác theo đạo. Đức khiêm hạ của nhà truyền giáo đã mang lại biết bao thành công cho việc mở mang nước Chúa.

Đây là lời dạy của Chúa Giêsu: “Hãy học cùng ta, vì ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11,29). Và lời Đức Mẹ: “Chúa hạ kẻ quyền thế khỏi địa vị của họ và nâng các kẻ khiêm nhường lên” (Lc 1,52)

7. Giác ngộ

“Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì?”.. Lời thách thức này của Tin Mừng đã khiến cho một vị giáo sư trẻ tuổi bỏ tương lai đầy hứa hẹn, bỏ tất cả để chỉ còn đeo đuổi một mục đích duy nhất trong cuộc đời: sự sống đời đời của chính mình và của người đồng loại.

Vị giáo sư trẻ tuổi đó chính là Thánh Phanxicô Xaviê, bổn mạng của các xứ truyền giáo, mà hôm nay Giáo Hội kính nhớ... Chưa tròn 25 tuổi, Phanxicô đã nổi tiếng như một giáo sư triết học tài ba tại đại học Paris. Giữa lúc danh vọng đang đến, Phanxicô Xaviê đã nhận được những lời thách thức trên đây từ người bạn thân Inhaxiô Loyola.

Không còn chống cưỡng lại với lời Chúa, Phanxicô Xaviê đã đến Montmartre để cùng với Inhaxiô sống đời khó nghèo, khuyết tịnh và phục vụ tông đồ, theo những chỉ dẫn của Ðức Thánh Cha.

Năm 1537, nghĩa là 3 năm sau khi đã tuyên khấn, Phanxicô lãnh chức linh mục. Từ Italia, ngài sang Lisboa của Bồ Ðào Nha để lên đường đi truyền giáo tại Ấn Ðộ. Trong 10 năm ngắn ngủi, Phanxicô Xaviê đả rảo bước đi khắp nơi để đem Tin Mừng đến cho dân tộc Nhật Bản, Mã Lai và Ấn Ðộ. Cuộc sống của ngài là một chia sẻ cảm thông sâu xa với những người nghèo khổ nhất...

Chưa đạt được giấc mơ đặt chân đến Trung Hoa và Việt Nam, thánh nhân đã qua đời trong kiệt sức, tại một hải đảo cách Hồng Kông 100 cây số. Bị những người lái buôn Bồ Ðào Nha bỏ rơi trên bãi cát, thánh nhân đã qua đời trong sự trơ trụi nghèo nàn.

Danh vọng, tiền tài, ngay cả sức khỏe... tất cả đều được đốt cháy để tìm được niềm vui đích thực cho tâm hồn và mang niềm vui đó đến với mọi người: đó là sứ điệp mà thánh Phanxicô Xaviê đã để lại cho tất cả chúng ta...

8. Tiểu sử thánh Phanxicô Xaviê

Phanxicô sinh năm 1506 tại Xaviê thuộc giáo phận Pampelune nước Tây Ban Nha trong một gia đình quyền quý. Năm 19 tuổi, ngài sang Ba Lê để tiếp tục việc học. Tám năm sau, ngài tốt nghiệp và trở thành giáo sư đại học đó. Ðược nổi tiếng nhờ trí thông minh, Phanxicô ngày đêm miệt mài theo đuổi danh vọng thế tục.

Nhưng một ngày kia, Chúa đã dùng miệng lưỡi thánh Ignatiô, cũng là thầy dạy, để nói cùng ngài: “Ðược lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích chi?” Và Chúa đã hoàn toàn chiếm đoạt trái tim thánh nhân, biến ngài trở thành một khí cụ tuyệt vời cho cánh đồng truyền giáo. Năm 1539, Phanxicô hăng hái lãnh sứ mệnh nơi Ðức Giáo Hoàng Phaolô III là đem ánh sáng Phúc Âm đến cho dân tộc Ấn Ðộ.

Mười một năm trường nhiệt thành với nhiệm vụ loan báo Tin Mừng, đời sống thánh nhân là một cuộc hành trình không ngừng. Bước chân ngài len lỏi qua khắp các thành thị cũng như thôn quê để rao giảng Phúc Âm Chúa Giêsu. Tiếng ngài vang vọng từ Ấn Ðộ, Tích Lan đến Nhật Bản. Riêng tại Ấn Ðộ, ngài đã đem về cho Chúa hàng trăm ngàn linh hồn và Rửa Tội cho nhiều bậc quân vương. Dù vậy, ngài luôn ấp ủ một tâm hồn khiêm nhượng hiếm có: Ngài thường quỳ gối để viết thư cho thánh Ignatiô là Bề Trên của mình. Chúa đã hỗ trợ lòng nhiệt thành của thánh nhân bằng nhiều phép lạ phi thường.

Ngày 02/12/1552, khi đang trên đường tới gần Trung Hoa thì ngài ngã bệnh và từ trần tại đảo Tân Châu (Sancian). Xác ngài được đem về mai táng tại thành Goa bên Ấn Ðộ.

Ðúng 70 năm sau, Ðức Grêgôriô XV đã phong ngài lên bậc Hiển Thánh (1622).

Và đến năm 1904, Ðức Thánh Cha Piô X đặt ngài làm quan thầy các xứ truyền giáo.

9. Tình anh em, bạn bè

Nhắc lại vài đoạn trong bút tích Thánh Phanxicô Xaviê cũng đủ thấy tình anh em bạn bè luôn nâng đỡ ngài trên hành trình truyền giáo. Tất cả anh em trong Dòng hiện diện liên lỉ trong tâm trí tôi (Bt 48,1);(bút tích Thánh Phanxicô Xaviê, tài liệu 48 số 1); Ở Ấn Độ, để giải trí, tôi rất thường nhớ đến anh em trong Dòng, và nhớ đến thời gian, vì Chúa quá thương, tôi đựoc biết anh em và sống với anh em. Nhờ lời anh em cầu nguyện, và vì anh em luôn nhớ đến tôi, Chúa ban cho tôi ơn rất lớn là dù xa cách anh em về thể xác, nhưng nhờ anh em nâng đỡ và giúp đỡ, Chúa cho tôi cảm thấy muôn vàn tội lỗi của mình, và cho tôi sức mạnh để đến giữa dân ngoại (Bt 20,14)…

Để đừng bao giờ quên anh em trong Dòng, và lúc nào cũng nhớ đặc biệt đến anh em, tôi đã cất tên của anh em trong các thư từ chính tay anh em viết cho tôi, tôi có thể luôn luôn mang trên mình, cùng với lời khấn của tôi. Điều này đem lại cho tôi nhiều an ủi…

Tôi cảm thấy sung sướng khi mang tên của anh em trên mình (Bt 55,10). Gặp anh em thì tâm hồn tôi đựơc an ủi hơn nhiều. Vậy mà tôi cứ phải viết thư cho anh em, lại không chắc thư đến, vì từ Ấn Độ đến Roma xa quá…

Tôi nghĩ mình không lầm khi nói xa cách phần xác không làm cho chúng ta, vốn yêu mến nhau trong Chúa bớt yêu mến và nghĩ đến nhau (Bt 48,1).

Đặc biệt đối với Cha Ignatiô, Phanxicô đã xúc động thổ lộ tâm tư. Chúa đã ban ân huệ lớn lao khi cho tôi được biết Cha Ignatiô. Bao lâu còn sống, không bao giờ tôi trả được món nợ đối với ngài (Bt,16)…

Trong số nhiều lời thánh thiện và an ủi của ngài, tôi đọc được những lời thế này: “hoàn toàn thuộc về nhau. Không bao giờ quên được nhau.” Tôi đã rơi lệ khi đọc những chữ ấy, và cũng rơi lệ khi kể lại, vì nhớ lại thời gian đã qua, nhớ đến ngài đã và vẫn luôn luôn rất thương tôi, và nhờ những lời khẩn nguyện thánh thiện của ngài, Thiên Chúa đã cho tôi thoát đựoc bao gian nan, bao nguy hiểm (Bt 97,1)…

Đó là một con người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, đời sống không có gì chê trách đựoc (Bt 1,7).

Trên đường truyền giáo đến Nhật bản và Trung Quốc, Phanxicô Xaviê đã tuôn trào ngấn lệ khi đọc lá thơ của Inhaxiô. Cuộc trao đổi thơ từ đã làm cho tình bạn của họ trở nên sinh động, gây phấn chấn cho nhau dù không còn gặp lại nhau nữa. Họ cảm nhận được tình yêu thương nồng hậu của nhau, và điều đó đã giúp Phanxicô can đảm thực hiện cuộc hành trình đầy nguy hiểm và hoàn tất sứ vụ. Chính tình bạn thâm sâu tự cõi lòng đã hình thành những dòng chữ có giá trị vô song, khơi dậy sự sống tinh thần và niềm tin yêu quả cảm.

Trên hành trình truyền giáo, thánh nhân kết thân rất nhiều bạn bè. Đặc biệt, tại Maluco, Phanxicô quen thân vua Hồi giáo Hairun. Nhà vua mong mỏi Hồi giáo và Thiên Chúa giáo sau cùng có thể gặp nhau. ”Nhà vua tỏ ra ưu ái tôi khiến những kỳ lão buông lời trách móc. Nhà vua muốn tôi kết thân và nhà vua sẽ chịu phép rửa tội. Hairun muốn rằng tôi là bạn thân, vì người Công giáo và Hồi giáo đều là con một cha và một ngày kia cả hai sẽ hiệp nhất..”

Một tình bạn trong sáng, thủy chung, nâng con người lên những tầm cao của sứ vụ loan báo Tin Mừng.

10. Triều thiên Hiển Thánh.

Cuộc đời truyền giáo của Phanxicô Xaviê tuy ngắn ngủi, nhưng công lao sự nghiệp của ngài thật lớn lao. Trong 12 năm truyền giáo, ngài đã đi bộ tới 100 ngàn cây số, và đã rửa tội với con số kỷ lục phỏng độ ba vạn người.

Dẫu được thành công, và làm được những việc lớn lao, như lần kia có một người chết chôn từ hôm trước mà cha đã gọi ra khỏi mồ, thánh nhân vẫn một mực khiêm tốn, vâng lời bề trên. Mỗi khi viết thơ cho bề trên, bấy giờ là thánh Inhaxiô, Phanxicô Xaviê qùy gối mà viết.

Với sự nghiệp và nhân đức như vậy, Phanxicô Xaviê xứng đáng được Giáo Hội liệt kê vào sổ những bậc đại thánh và làm gương mẫu muôn đời cho các nhà truyền giáo.

Cha Phanxicô được phong Chân phước năm 1619 và được cất lên bậc hiển thánh năm 1622. Đức Giáo hoàng Biển Đức XIV lại đặt Thánh Phanxicô làm quan thầy nước Ấn Độ. Về sau Đức Giáo hoàng Piô XI lại tuyên phong thánh nhân làm quan thầy các xứ truyền giáo bên Á đông.

Giáo dân Việt Nam từ lâu hằng tỏ lòng kính mến thánh Phanxicô Xaviê cách riêng. Nhiều xứ đạo, nhiều nam nhân đã nhận Ngài làm bổn mạng.

11. Chứng nhân Tin Mừng

Ở Châu Âu thế kỷ 18, các thầy ngay khi được thụ phong linh mục đã nhận sứ mạng rao giảng Tin Mừng ở các nước Viễn Đông. Năm 1927, vị mục tử trẻ người Pháp thuộc Hội Thừa sai Paris đã đến miền đất Di Linh – Lâm Đồng nơi dân tộc K’Ho sinh sống. Buổi đầu về nhận xứ, linh mục bận rộn với nhiều công việc khác nhau: truyền và dạy đạo lý Công giáo và nâng cao đời sống cho người dân. Ngài cũng thấu hiểu nổi khổ của các bệnh nhân phong, nên còn xây dựng các ngôi nhà tranh để chăm sóc và ngài ở trong trại phong Di Linh do mình thành lập cho đến khi qua đời năm 1973. Đó là Giám Mục Jean Cassaigne là một trong số 25 người Công giáo được Hội Giáo hoàng Truyền giáo, chọn làm mẫu gương cho đời sống đức tin và loan truyền đức tin Công giáo.

Hồng Y Bergogilo (Giáo Hoàng Phanxicô) chia sẻ: “Giáo Hội được kêu gọi ra khỏi chính mình, để đi đến các vùng ngoại vi, không chỉ về mặt địa lý, còn đến các vùng ngoại vi về mặt hiện sinh: vùng ngoại vi của huyền nhiệm tội lỗi, của nỗi đau, của bất công, của dốt nát và lãnh đạm với tôn giáo, của những trào lưu tư tưởng và của mọi hình thức nghèo khổ”.

Sứ điệp Tin Mừng hôm nay là lời truyền cho các môn đệ: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép Rửa, thì sẽ được cứu độ: ai không Tin, sẽ bị luận phạt.” Hiện nay, Giáo Hội Việt Nam đã triển khai rất nhiều giáo điểm, các linh mục và nữ tu sĩ đã lên đường với lòng nhiệt thành đem Lời Chúa đến tận các vùng heo hút, chấp nhận cuộc sống thiếu thốn để hòa đồng và gắn bó với người dân tộc, người nghèo khổ… Là Huynh đoàn giáo dân Đa Minh chúng ta có cảm nhận được điều mà Thánh Phanxicô Assisi đã nói: “Nếu chúng ta không rao giảng bằng chính cuộc đời của mình, thì dù có đi bất cứ nơi đâu rao giảng cũng vô ích.”

Theo thống kê tôn giáo năm 2019, đạo Công giáo có hơn 9 triệu Kitô hữu, con số còn khiêm nhường so với 96 triệu người Việt, cánh đồng truyền giáo còn rất mênh mông, đang cần chúng ta chung sức với Giáo Hội.

Chúa vẫn luôn đồng hành và chúc lành cho những người thực hiện sứ mạng rao giảng: “Và đây là phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc, thì không bị hại.”

12. Say mê các linh hồn

Chuyện kể lại rằng, một đêm kia, trong lúc ngủ, thánh Phanxicô đã kêu lên: “mas, mas, mas.” Và sau này, chính ngài giải thích: “Tôi thấy công việc truyền giáo quá mênh mông, nhiều mệt nhọc và nhiều ưu phiền gây nên bởi đói khát, giá lạnh, các chuyến ra đi, những vụ đắm tàu, những cuộc bách hại, những phản bội và nhiều hiểm nguy khác… được gửi đến cho tôi; vì lòng yêu mến mà chính Chúa ban cho tôi và với ơn trợ giúp của Người, tôi chịu đựng được. Vì thấy chưa đủ, tôi xin Người ban thêm và luôn luôn thêm mãi; nên tôi đã thốt lên những lời ‘mas, mas, mas’, có nghĩa là: ‘nhiều hơn nữa, nhiều hơn nữa, nhiều hơn nữa.’” Những lời “nhiều hơn nữa” của Thánh Phanxicô dường như là những thúc đẩy thần bí làm cho thánh nhân hoàn toàn tận hiến cho Chúa Kitô để ơn cứu độ của Người đến được với các linh hồn.

Lòng say mê các linh hồn không bao giờ vơi cạn nơi thánh Phanxicô, với ý Chúa nhiệm mầu, thánh nhân đã phải nhìn về đại lục Trung Hoa mênh mông với tình yêu lai láng và ước nguyện lớn lao, nhưng chưa thành hiện thực. Rạng sáng ngày 03/12/1552, thánh nhân qua đời tại đảo Shanchuan (Trường Xuyên) nơi cửa ngõ của đất Trung Hoa. Tháng 03/1553, xác ngài được đưa về Malacca (Malaysia) trong tình trạng vẫn tươi nguyên. Và mùa Chay năm 1554, xác ngài được đưa về Goa (Ấn Độ), một lần nữa, quan tài được mở ra và xác ngài vẫn tươi nguyên như đang ngủ.

Ngày 25/10/1619 Phanxicô Xaviê được Đức Phaolô V phong chân phước, và đến ngày 12/03/1622, Đức Grêgôriô XV nâng ngài lên bậc hiển thánh. Năm 1748, thánh nhân được tôn phong làm Bổn Mạng của Phương Đông; và đến năm 1904, ngài được tôn phong làm Bổn Mạng công cuộc truyền bá Đức Tin. Năm 1927, Đức Piô XI tôn phong ngài làm Bổn Mạng các xứ truyền giáo.

Chỉ với 46 năm tuổi đời, 15 năm linh mục, thánh Phanxicô Xaviê dù không sống lâu, nhưng ngài đã sống nhiều, sống hết và sống hoàn toàn cho Chúa và vì các linh hồn. Cũng chỉ có hơn 10 năm ra đi truyền giáo, nhưng thánh nhân đã đi tới hơn 100 ngàn cây số, rửa tội cho khoảng 30 ngàn người tại Á Châu.

13. Chọn điều tốt nhất

Thánh Phaxico đang mơ mộng chức giáo sư Đại học, khi đạt địa vị và có tiền của, ông muốn cưới cô nào làm vợ rất dễ. Nhưng khi ông được nghe một Linh mục nói với ông câu Lời Chúa: “Nào có ích gì cho người ta khi được lời lãi tất cả thế gian, mà lại thiệt mất sự sống mình” (Mt 16,26).

Lời ấy làm đảo lộn đời ông: ông từ bỏ những ước mơ vẫn hằng ấp ủ, ông xin đi tu được làm Linh mục và lên đường truyền giáo. Trong mười năm ông can đảm loan báo Tin Mừng cho người Ấn Độ, Nhật Bản, giúp cho nhiều người hoán cải mà đón nhận Đức Tin. Và ông đã qua đời năm 1552, vào tuổi 46, ở đảo Xan-xi-an, cửa ngõ vào Trung Quốc.

Và như thế thánh Phanxico đã thực hiện Lời Đức Giêsu: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin Mừng” (Mc 16,15: Đáp ca).

14. Hội Thánh là để truyền giáo

Báo Hiệp Thông số 39 tường thuật sự kiện bác sĩ Phanxicô Trần Hữu Ngạn, nguyên giám đốc Bệnh viện Phong Qui Hoà (1985-2001), gia nhập Kitô giáo năm 2004. Ông đã nhận xét đời sống của các nữ tu dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ tận tâm phục vụ các bệnh nhân phong đã tác động sâu xa đến hành trình theo Chúa của mình: “Nhiều năm sống và làm việc bên cạnh các nữ tu… mới biết họ có một lẽ sống đặc biệt. Họ chấp nhận cuộc sống khổ hạnh, tự nguyện làm những việc thiện một cách âm thầm để phục vụ những người bất hạnh.” Với các chị, “tứ phương thiên hạ” không ở đâu xa, mà là bệnh viện với các bệnh nhân, nhân viên, bác sĩ mà các chị gặp gỡ hằng ngày. Tin Mừng đã và đang được loan báo qua những cử chỉ nhân ái và bằng đời sống siêu thoát của các chị.

“Hội Thánh tồn tại nhờ việc truyền giáo tựa như ngọn lửa có nhờ việc lửa cháy” (Emil Brunner). Nếu không loan báo Tin Mừng cho người anh em thì Hội Thánh hay bất cứ đoàn thể, giáo xứ, hội dòng nào… chẳng có lý do gì để tồn tại. Chính việc hăng hái truyền giáo cho thấy sức sống và sự trưởng thành của Hội Thánh hoặc đoàn thể...

15. Chứng nhân cho thiên đàng

· Cũng như một lần kia, 3 tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê cũng được thoáng thấy một chút vinh quang thiên đàng khi Đức Giêsu biến hình trên núi. Ba ông đó cũng say sưa ngây ngất đến nỗi xin Chúa cho mình cất lều ở lại mãi trên ngọn núi đó.

· Còn Thánh Phaolô sau khi được Chúa cho ngất trí chiêm ngưỡng cảnh thiên đàng trong một khoảng khắc ngắn ngủi, đã mô tả lại kinh nghiệm ấy trong bức thư II gửi tín hữu Côrintô như sau "Mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe..."

· Ở Lộ Đức năm 1858, một người từ trời xuống là Đức Mẹ Maria đã hiện ra cho thánh nữ Bernadette. Sau đó thánh nữ đi tu. Một lần kia có một em bé đơn sơ hỏi thánh nữ "Thưa Ma sơ, Ma sơ đã được thấy Đức Mẹ, chắc là Đức Mẹ đẹp lắm nhỉ?" Thánh nữ trả lời với em bé bằng một lời diễn tả cũng rất đơn sơ "Đẹp lắm con ạ, đẹp đến nỗi ai đã thấy được một lần thì chỉ mong chết để lại được thấy nữa.”

· Còn ở Fatima năm 1917, Đức Mẹ hiện ra cho 3 em Luxia, Phanxicô và Giaxinta. 3 em đó cũng đơn sơ hỏi Đức mẹ "Thưa Bà, Bà ở đâu đến vậy?" Đức Mẹ đưa tay lên cao và nói "Từ trời xuống.” 3 em liền xin "Vậy xin Bà cho chúng con cũng được lên trời đi.” Đức Mẹ mỉm cười đáp "Phanxicô và Giaxinta thì Ta sẽ cho về trời trong một ngày gần đây; còn Luxia thì hãy chịu khó ở lại trần thế này một khoảng thời gian nữa.” Kể từ ngày đó 2 em kia lúc nào cũng mơ ước tới ngày được lên trời. Dù sắp chết 2 em cũng chẳng chút lo sợ, lại còn mừng vì mình sắp được lên trời.

16. Con đường về Trời

Thủ lãnh của một bộ tộc kia nằm hấp hối trên giường. Ông cho gọi ba người có thể thay thế ông và nói:

- Ta phải chọn một người kế tục. Các ngươi hãy leo lên đỉnh núi linh thiêng của chúng ta, và mang về cho bộ tộc một món quà quí giá nhất.

Người thứ nhất trở về đem theo một thỏi vàng lớn. Người thứ hai mang về viên ngọc vô giá. Còn người thứ ba trở về với hai bàn tay trắng. Hết sức ngạc nhiên, vị tù trưởng mới hỏi:

- Món quà quí giá của ngươi đâu?

Người này điềm tĩnh trả lời:

- Khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở phía bên kia một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể hưởng một cuộc sống sung túc tốt đẹp.

Người tù trưởng nói:

- Ngươi sẽ nối nghiệp ta. Ngươi đã mang về món quà quí giá nhất: Một viễn tượng tương lai tốt đẹp.

17. Những cách giảng đạo

Ngày xưa, một đạo sĩ gọi 6 người đệ tử của mình lại và bảo họ hãy đi khắp nơi chiêu mộ môn đệ. Một thời gian sau, tất cả đều trở về.

- Người thứ nhất trở về với 500 môn đệ. Khi được hỏi bằng cách nào anh chiêu mộ được số môn đệ đông như thế, anh trả lời: "Con rảo khắp mọi nơi nghèo nàn và hứa sẽ chu cấp mọi nhu cầu cần thiết cho ai theo đạo của chúng ta"

- Người thứ hai đem về 400 môn đệ. Anh nói: "Con hứa ai theo đạo thì sẽ được phúc thiên đàng.”

- Người thứ ba đem về 300 môn đệ. Anh nói: "Con đe dọa rằng nếu ai không theo đạo thì sẽ bị phạt trong hỏa ngục. Thế nhưng người ta không tin lắm. Cho đến một hôm con đã nguyền rủa một con chó điên khiến nó chết liền tại chỗ. Thấy thế những người này đã theo con.”

- Người thứ tư đem về 200 môn đệ. Anh nói: "Con tìm đến những người đơn sơ ít học và dùng nhiều lý luận khiến họ say mê và đi theo.”

- Người thứ năm đem về 100 môn đệ. Anh nói: "Đây là những người trẻ. Họ đang chờ một người lãnh đạo họ. Con đã thuyết phục họ đi theo con và họ đã theo. Con nghĩ rằng nếu mình không chiêu mộ họ thì cũng có những messia giả đến chiêu dụ họ mà thôi.”

- Người thứ sáu chỉ đem về 12 môn đệ. Anh giải thích: "Con không thể gieo những hạt giống ngay mà phải chờ, vì đang là mùa đông, phải đợi đến lúc tuyết tan thì đất mới mềm và gieo mới được. Thế là con chờ. Đang lúc chờ như thế, con kết bạn với một số người. Con cố gắng sống cho họ thấy cách sống của đạo chúng ta. Và con cũng chia sẻ cuộc sống của họ. Đang khi chia sẻ cuộc sống như thế, con khám phá rằng họ rất coi trọng tự do đến nỗi nếu tước mất tự do của họ thì cũng là tước đi phẩm giá của họ. Con cũng học được nơi họ những điều tốt, chẳng hạn họ rất quảng đại và không sợ hy sinh. Con thành thật nói cho họ biết cái giá phải trả nếu muốn theo đạo chúng ta, nhưng con nhấn mạnh rằng nếu họ theo đạo chúng ta thì họ có thể làm được nhiều điếu tốt cho tha nhân và cho Thiên Chúa. Xem ra những điều con nói đã làm họ cảm động. Tuy nhiên khi đến lúc phải quyết định thì chỉ có 12 người này chịu theo con.”

Vị đạo sĩ khen người thứ sáu này.

Năm người trước đã giảng đạo bằng cách khai thác sự yếu đuối và sợ hãi của người ta. Những cách đó thật quá dễ, nhưng lại xâm phạm đến tự do nên người ta có theo đạo cũng vì miễn cưỡng. Còn người thứ sáu thì biết kêu gọi thiện chí bằng cách kết bạn với người ta và thuyết phục họ bằng chính gương sống của mình. Cách này tuy chậm và khó nhưng kết quả sẽ vững chắc và lâu bền. (Viết theo Flor McCarthy)

18. Chúng ta là dụng cụ Chúa dùng

"Hãy đi rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc", đó là mệnh lệnh của Chúa khi Ngài từ biệt chúng ta.

Bây giờ Ngài không còn có ai trên thế gian ngoài chúng ta.

Ngài không còn tay để nâng người sa ngã ngoài tay của chúng ta.

Ngài không còn chân để đi tìm kẻ hư mất ngoài chân của chúng ta.

Ngài không còn mắt để nhìn những giọt lệ khổ đau âm thầm ngoài mắt của chúng ta.

Ngài không còn lưỡi để an ủi kẻ buồn sầu ngoài lưỡi của chúng ta.

Ngài không còn trái tim để yêu thương những người không được yêu thương ngoài trái tim của chúng ta.

Lạy Chúa xin thương xót chúng con là những môn đệ nhút nhát và sợ sệt của Chúa. Xin ban cho chúng con lòng can đảm để làm chứng cho Chúa giữa thế gian, hầu Tin Mừng được rao giảng và người ta tìm được đường vào Nước của Chúa. (Flor McCarthy)

19. Muốn có sự sống đời đời

Thánh Tôma More tử đạo, giữ chức chưởng ấn nước Anh, vì muốn trung thành với Giáo Hội, nên đã bị tống giam.

Vợ của ông đến thăm và năn nỉ: “Tại sao mình không lo cứu lấy mạng sống?”

Thánh Tôma More đáp: “Theo em nghĩ, thì anh sống ở trần gian này được bao lâu nữa?”

Bà vợ trả lời: “Sức khỏe của anh cũng hứa hẹn ít nhất 20 năm nữa.”

Thánh nhân trả lời: “Em đề nghị cho anh một hành động hết sức điên dại! Để sống 20 năm, mà phải hy sinh cuộc sống đời đời.”

20. Ai xin thì được

Vua Napoléon III, trong cuộc du lịch qua Elgérie, có vào thăm một nữ tu viện, vua có hỏi một nữ tu: “Sơ có muốn tôi giúp gì không? Sơ có bà con này cần tôi nâng đỡ không?”

Nữ tu đó trả lời: “Thưa hoàng đế, tôi chỉ có một nguyện vọng. Xin nhà vua giúp cho.”

Vua Napoléon băn khoăn hỏi: “Nguyện vọng gì?”

Nữ tu đó đáp: “Tôi tin đức vua đảm bao cho tôi được vào thiên đàng.”

Nhà vua trả lời với cả sự trịnh trọng: “Ôi điều đó ngoài uy quyền của một ông vua dưới đất. Chính Sơ lại có thể dùng lời cầu nguyện để giúp tôi việc đó, hơn là chính tôi có thể làm được cho Sơ.”

Nghĩ tới nước trời, nghĩ tới phần rỗi đời đời, chúng ta hãy cầu nguyện, vì chính Chúa đã phán: xin thì sẽ được (Mt 6,8; Lc 11,10). Vậy dù chúng ta tội lỗi đến mức nào, thí hằng ngày ta vẫn phải vững tâm cầu xin Chúa.

21. Hãnh diện về đức tin

Một vị tuyên uý quân đội người Mỹ vừa giảng một bài cho các binh sĩ Mỹ trong một thánh lễ tại một giáo đường ở Châu Âu. Chủ đề của bài giảng là: “Hãy tự hào về đức tin công giáo của bạn; Đừng xấu hổ khi phải công khai tuyên xưng nó.”

Sau thánh lễ, một lính thủy do rất xúc động vì bài giảng đã chận vị tuyên uý ngay trước cửa giáo đường và hỏi; “Thưa cha, cha có bằng lòng nghe con xưng tội không?” Vị tuyên uý trả lời: “Tôi rất sung sướng được nghe anh xưng tội.” Thế là chàng lính thủy quì ngay xuống lối đi bên cạnh ngay trước giáo đường. Vị tuyên uý vội nói; “Đừng quì gối kẻo thiên hạ nhìn kìa!” Chàng lính thủy đáp lại: “Kệ họ, thưa cha, cứ để họ nhìn, con hãnh diện về đức tin của con.”

22. Truyền giáo trực tiếp và gián tiếp

Một vị tuyên uý quân đội người Mỹ vừa giảng một bài cho các binh sĩ Mỹ trong một thánh lễ tại một giáo đường ở Châu Âu. Chủ đề của bài giảng là: “Hãy tự hào về đức tin công giáo của bạn; Đừng xấu hổ khi phải công khai tuyên xưng nó.”

Sau thánh lễ, một lính thủy do rất xúc động vì bài giảng đã chận vị tuyên uý ngay trước cửa giáo đường và hỏi; “Thưa cha, cha có bằng lòng nghe con xưng tội không?” Vị tuyên uý trả lời: “Tôi rất sung sướng được nghe anh xưng tội.” Thế là chàng lính thủy quì ngay xuống lối đi bên cạnh ngay trước giáo đường. Vị tuyên uý vội nói; “Đừng quì gối kẻo thiên hạ nhìn kìa!” Chàng lính thủy đáp lại: “Kệ họ, thưa cha, cứ để họ nhìn, con hãnh diện về đức tin của con.”

23. Truyền giáo đòi một tấm lòng

Giáo Hội Hàn Quốc đã thực hiện chương trình Loan Báo Tin Mừng Hai Mươi Hai Mươi, nghĩa là mọi người Công Giáo phải nỗ lực truyền giáo để đến năm 2020, số tín hữu Công Giáo chiếm tỉ lệ 20% tổng số dân Nam Hàn, đạt 10 triệu người Công Giáo, gấp đôi số tín hữu hiện nay.

Đang khi ấy ở Việt Nam, các số liệu cho thấy năm 1960, tỉ lệ người Công Giáo chiếm 7,17% dân số và cuối năm 2010 tỉ lệ này là 7,18%! Thật đáng tiếc và cũng đáng trách, việc loan báo Tin Mừng của chúng ta không được quan tâm đúng mức, nên chưa làm tăng được 1% tỉ lệ dân số trong 50 năm qua! Vì thế, hôm nay mệnh lệnh loan báo Tin Mừng của Đức Gisu cần phải được mọi người Công Giáo Việt Nam khẩn cấp thực hành.

“Truyền giáo chính là kể câu chuyện về Đức Giêsu như các Tông Đồ xưa” (Sứ điệp Đại Hội Truyền Giáo Á Châu năm 2006).

Đó là một Giêsu chính bạn đã cảm nghiệm trong cuộc sống bản thân, một Giêsu Phục Sinh đang đồng hành với con người. Bạn kể về Ngài bằng ngôn ngữ của tình yêu, một tình yêu được diễn đạt bằng mọi lãnh vực của cuộc sống: tinh thần lẫn vật chất.

Cuối cùng, câu chuyện về Đức Giêsu ấy được kể trong Nhiệm Thể Ngài là Giáo Hội, khi bạn cộng tác, phối hợp và liên kết với các hội đoàn, nhóm... trong giáo xứ, giáo phận của mình.

24. Chúa ở đâu trong lòng bạn?

Gabby Douglas, vận động viên thể dục thẩm mỹ 16 tuổi của Mỹ, đoạt hai huy chương vàng trong Olympic London 2012, đã tuyên xưng niềm tin của mình khi trả lời với báo giới: “Đức tin của tôi dứt khoát là mạnh mẽ. Mỗi ngày tôi đều suy gẫm Kinh Thánh và trích dẫn một số câu khi ở London để củng cố đức tin mạnh mẽ hơn mỗi ngày. Vì thế tôi đã khoác lên mình áo giáp của Thiên Chúa.”

Tuyên xưng niềm tin và loan báo Tin Mừng là sứ mạng và căn tính của Kitô hữu. Và đồng thời loan báo không chỉ dừng lại ở người này hoặc người kia, nơi này hoặc nơi kia, lúc này hay lúc khác, nhưng là toàn bộ cuộc sống của tất cả những ai đã chịu phép rửa.

“Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào có ích gì.” (Mt 16,26). Lời đó đã đánh động thánh Phanxicô Xaviê khiến ngài dám hy sinh cả cuộc đời cho sứ mạng truyền giáo. Còn bạn thì sao? Bạn có thao thức vì sứ mạng loan báo Tin Mừng chưa? Bạn có nỗ lực tìm cách để giới thiệu Thiên Chúa tình yêu cho anh chị em mình hay không?

25. Cùng chịu đau khổ, cùng hưởng phúc vinh

Trong Thủ Bản Tự Thuật, thánh Têrêxa kể lại rằng: “Suốt đời, Chúa nhân lành đã cưng chìu con: những kỳ niệm đầu tiên của đời con ghi đầy những nụ cười, những mơn trớn êm đềm nhất!… Nhưng nếu Chúa đặt bên con nhiều tình thương thì Ngài cũng cho con một trái tim để yêu và cảm xúc dạt dào, cho nên con yêu Ba Má biết bao và con tìm đủ mọi cách để tỏ lòng yêu Ba Má, vì hễ trong lòng con có gì thì con phải bộc lộ ra ngoài. Có điều là cách con tỏ tâm tình đôi khi kỳ cục lắm, như lời Má chứng minh trong đoạn thư sau đây: “Con bé này tinh nghịch có một, nó đến vuốt ve Má và chúc Má chóng chết: Má à! Con muốn Má chết lắm!…

“Mắng nó thì nó bảo: “Má chết để về thiên đàng. Thế Má chả bảo con là phải chết mới được vào thiên đàng là gì.

“Lúc nào nó yêu Ba quá, nó cũng chúc Ba chết như thế!…”

Đối với Têrêxa, chẳng còn cái chết, mà chỉ còn một cánh cửa mở ra cho hạnh phúc hoàn hảo, trọn vẹn. Ước chi đức tin trong tôi cũng lớn lên để tôi luôn vui mừng đi tìm sự sống thật trong mọi tình huống, kể cả trong những đau khổ của ngày hôm nay, “vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người.” (Rm 8,17)

26. Tin vui được loan báo một cách tự nhiên

Đã mang niềm vui trong lòng, ai cũng muốn đem ra chia sẻ. Tại các đại hội Sea Games, các vận động viên khi đạt huy chương thì việc đầu tiên họ làm là gọi điện thoại về cho những người thân yêu nhất để chia sẻ niềm vui. Một tin vui làm thay đổi số phận một cá nhân, làm nức lòng biết bao người mong đợi, làm vẻ vang cho gia đình, cho đất nước như thế ai lại không muốn loan đi thật mau, thật rộng để mọi người cùng vui?

Thế thì chẳng lẽ đối với Tin Mừng cứu độ, chúng ta lại bưng bít? Niềm vui mà các môn đệ hăm hở chia sẻ chính là sự phục sinh của Thầy Giêsu. Niềm vui ấy như nước vỡ bờ. Bởi cái chết của Thầy đã làm các ông đau đớn tột độ, thì việc Ngài phục sinh càng đem lại cho các ông niềm vui vô song. Niềm vui đó không được phép đóng khung trong một nhóm khép kín mà phải được loan đi đến tận cùng thế giới.

Thánh Phanxicô Xaviê cảm nghiệm được giá trị của Tin Mừng, và đã không quản ngại khó khăn để ra đi loan báo cho người khác. Với ngài, dù được lời lãi cả thế gian cũng không vui bằng được biết Đức Kitô.

Còn đối với bạn, đâu là niềm vui đích thực của bạn: Trúng số? Thành công?.. Hay Đức Kitô? Bạn có cảm nghiệm được niềm vui vì được Đức Kitô, vì được cứu độ chưa?

LỄ KÍNH ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI - XIN VÂNG

Lời Chúa: Lc 1, 26-38

Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nagiarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria.

Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào trinh nữ đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ, trinh nữ có phúc hơn các người nữ."

Nghe lời đó, trinh nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.

Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một Con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp và triều đại Người sẽ vô tận!"

Nhưng Maria liền thưa với Thiên Thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?"

Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được."

Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền." Và Thiên Thần cáo biệt trinh nữ. Đó là lời Chúa.

TRUYỆN KỂ

1. Này tôi là nữ tì Chúa

Ngày 08 tháng 12 năm 1854 Đức Thánh Cha Piô IX đã long trọng công bố tín điều Đức Maria Vô nhiễm nguyên tội qua thông điệp ‘Ineffabilis Deus’. Bốn năm sau, khi hiện ra với Thánh nữ Bernadette tại hang đá Lộ đức, chính Đức Mẹ đã khẳng định: “ Ta là Đấng Vô nhiễm nguyên tội."

Cũng vào ngày này năm 2015, Giáo hội khai mở năm thánh tôn vinh Lòng Thương Xót Chúa. Không phải tình cờ mà Giáo hội cử hành phụng vụ tôn kính Mẹ Vô nhiễm thai trong mùa vọng, và cũng không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên mà Đức Thánh Cha Phanxicô chọn ngày lễ hôm nay để mở cửa năm thánh tôn vinh Lòng Thương Xót Chúa.

Mẹ Maria Vô nhiễm chính là Evà mới đã chiến thắng con rắn xưa, mở ra cho chúng ta kỷ nguyên cứu độ, để cùng với Giáo hội chúng ta sống tâm tình mùa vọng mong chờ Đấng Cứu thế, Đấng sẽ đến trong ngày cánh chung để hoàn tất ơn cứu độ theo hoạch định của Chúa Cha. Đồng thời Mẹ cũng được gìn giữ khỏi vết nhơ nguyên tội để cưu mang Đức Giêsu, Đấng đã đến trần gian nhằm diễn bày lòng thương xót cho nhân loại tội lỗi. Mẹ Đấng Cứu thế cũng chính là Mẹ của Lòng Thương Xót (Mater Misericordiae).

2. Một kỷ nguyên mới

Vào năm 1989, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2 tiếp ông Gorbachop và bà Raissa, phu nhân của ông ta tại điện Vatican. Lúc bấy giờ Gorbachop là Tổng bí thư Đảng cộng sản Liên xô, lãnh tụ của một cường quốc.

Sau buổi tiếp kiến, Đức Thánh Cha trao tặng ông Tổng bí thư một cuốn Kinh thánh với hàng chữ bên ngoài: ‘Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống’. Chúng ta biết dụng ý của Đức Thánh Cha muốn ám thị điều gì. Quay sang bà Raissa, vị Thánh Giáo hoàng tặng bà một cỗ tràng hạt với hàng chữ đi kèm: ‘Nữ Vương ban sự bình an’.

Đức Thánh Cha muốn nói cho cả thế giới biết rằng, hòa bình thật sự nhân loại có thể kiến tạo được, không phải do tiền bạc, do vũ khí hay sức mạnh quân sự. Nhưng chúng ta phải học hỏi nơi Đức Maria và sống khiêm tốn như Ngài, để có được hòa bình trên thế giới cũng như sự bình an nơi tâm hồn mỗi người. Thánh Phaolô rất có lý khi diễn tả:“Hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an” (Rm 8,6).

Mẹ đã hoàn toàn để Thần Khí hướng dẫn, vượt qua mọi sợ hãi, luôn sống ‘đẹp lòng Thiên Chúa’ và ngập tràn bình an trong tâm hồn. Đó là khuôn mẫu nội tâm cho tất cả mọi người chúng ta noi theo.

3. Đầy ơn phúc, Mẹ có trước để mở đường cho con

Bernadette, một trẻ nữ thôn quê chất phác, một tâm hồn trong trắng như thiên thần, một tính tình thơ ngây mỹ lệ, khi được Mẹ Thiên Chúa hiện ra, và theo lệnh của cha xứ, em đã hỏi Người: Bà là ai? Và đến ngày đã định Mẹ đã trả lời em:

" Ta là Đấng đầu thai vô nhiễm nguyên tội." Ôi cái đặc ân cao quí nhất của Mẹ Maria. Một đặc ân, mặc dầu Mẹ chưa tỏ ra, thì bao đời con cái Mẹ cũng đã tôn vinh rồi.

Thế thì Mẹ tỏ ra làm gì? - Có phải là để xác minh cái tín điều mà Giáo hội vừa tuyên bố không? - Hẳn là không, vì Giáo hội đã có ơn Chúa Thánh Thần soi sáng, không thể sai lầm khi rao giảng chân lý đức tin. Mẹ muốn tỏ ra để làm cho niềm vui của con cái khi đón nhận tín điều "Mẹ Maria đầu thai vô nhiễm nguyên tội" được thêm phần rạng rỡ hân hoan.

4. Đức Maria Vô Nhiễm nguyên tội--Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Ngày 25-3-1858 tại Lộ Đức, Đức Mẹ lại hiện ra cho Bernadette, một cô bé mười bốn tuổi, nhà nghèo, quê mùa. Vào lần hiện ra thứ mười sáu, khi cô gặng hỏi tên của Bà đẹp, Bà đã trả lời: Que soy era Immaculada Conception, Ta là sự Thụ thai vô nhiễm. Một câu trả lời khó hiểu và khó nhớ đối với một cô bé ít học. Dĩ nhiên cô không hề biết rằng bốn năm trước đó, Đức Piô IX đã công bố tín điều Đức Maria Vô Nhiễm nguyên tội.

Mừng lễ Đức Maria Vô nhiễm là mừng lễ một con người, một phụ nữ. Thiên Chúa muốn Con Một của mình làm người trăm phần trăm, nên cần tuyển chọn một phụ nữ để sinh ra người Con ấy. Maria chính là người được chọn, hoàn toàn như một ân huệ. Khi chọn Maria, Thiên Chúa đã ban cho Mẹ mọi sự tốt đẹp nhất có thể, vì ơn gọi quá vĩ đại là làm Mẹ Con Thiên Chúa.

Maria được Thiên Chúa bao bọc và bảo vệ bằng ân sủng tuyệt vời. Ngài cho Mẹ được hưởng trước công nghiệp của Người Con, nên gìn giữ Mẹ khỏi vết nhơ của nguyên tội.

Mừng lễ Vô nhiễm là mừng lễ một con người, một phụ nữ, ngay từ giây phút đầu tiên được thụ thai, đã trọn vẹn và tuyệt đối nằm trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa.

5. Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm--Lm Giuse Đinh Lập Liễm

Thánh Kinh không minh nhiên nói về việc Đức Maria ngay từ thưở ban đầu đã được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ, nhưng lòng sùng kính cá nhân hay trong cộng đoàn địa phương đã có từ lâu. Giáo dân với lòng thành thật đã tin rằng Đức Maria đã được ơn vô nhiễm nguyên tội và lòng sùng kính mỗi ngày một tăng thêm.

Về phụng vụ, chúng ta thấy đã có những thánh lễ kính Đức Mẹ vô nhiễm từ thế kỷ thứ 9, bắt đầu từ Constantinople tràn sang miền nam nước Ý. Nhưng rõ nét nhất là thánh Anselmô thành Canterburry đã du nhập Thánh lễ này vào giáo phận của Ngài.

Vào năm 1476 Đức Giáo hoàng Sixtô IV xuất thân từ dòng Anh Em Hèn Mọn, đã đem lễ này vào Giáo hội La mã.

Tuy Thánh lễ kính Đức Mẹ Vô nhiễm đã được mừng trọng thể trong toàn Giáo hội, nhưng lòng tin vào đặc sủng này còn bỏ ngỏ để các nhà thần học tự do nghiên cứu và thảo luận.

Riêng Giáo phận Bùi chu, năm 1845 là thời kỳ cấm đạo gay gắt nhất, Đức cha Valentinô Vinh coi sóc Giáo phận đã thay mặt cho giáo phận khấn với Đức Mẹ Vô Nhiễm: “Nếu cơn bách hại tan đi thì Giáo phận sẽ xây dâng kính Đức Mẹ một ngôi thánh đường xứng đáng.."

Nhờ ơn Đức Mẹ, cơn bắt đạo qua đi, và thánh đường khấn hứa đã bắt đầu được xây cất vào năm 1917 tại làng Phú nhai (Bùi chu) và hoàn thành vào năm 1923. Nhưng mùa hè năm 1929 một cơn bão lớn đánh sập và năm 1938 việc tái thiết được hoàn thành.

Đây là ngôi thánh đường nguy nga đồ sộ, theo kiểu gothique, với chiều dài 83 mét, rộng 28 mét và tháp chuông cao 30 mét. Mới đây thánh đường Phú nhai mới được nâng lên thành “tiểu vương cung thánh đường” dâng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm.

6. Hãy lấy Mẹ làm gương, sống trong sạch.

Họa sĩ Fra Angelico, một lần vẽ mặt Đức Mẹ thì suy gẫm và cầu nguyện trước, mặc dầu không bao giờ hài lòng và phải đề thêm vào bức họa: Virgo Maria, non est similis tui (Trinh nữ Maria, không ai giống được như Mẹ). Ta cố gắng theo gương Mẹ. Mặc dầu sẽ không bao giờ giống Mẹ hoàn toàn, nhưng cũng như Mẹ đã mỉm cười với Fra Angelico, thì cũng sẽ in vào lòng ta một hai nét của các nhân đức Người, nhất là đức trong sạch.

7. Thắp lên một ngọn đèn

Mẹ Têrêsa thành Calcutta đã thuật lại một câu chuyện sau nhân dịp một đài truyền hình phỏng vấn Mẹ. Mẹ nói: Một lần khi khi còn ở Úc tôi có đến thăm một người thuộc thổ dân Aborigine. Ông cụ sống trong cảnh cô độc thật thảm thương. Ông sống trong một túp lều xiêu vẹo với tuổi đã già nua của mình. Khởi đầu câu chuyện cho lần gặp đầu tiên, tôi đã đề nghị:

- Để tôi dọn dẹp nhà và sửa soạn giường ngủ cho ông. Ông ta trả lời hững hờ:- Tôi đã quen sống như vậy rồi. - Nhưng ông sẽ cảm thấy dễ chịu hơn với căn nhà sạch sẽ và ngăn nắp. Sau cùng ông ta bằng lòng để tôi dọn dẹp lại nhà cửa cho ông. Trong khi quét dọn tôi thấy một cái đèn cũ đẹp nhưng phủ đầy bụi bặm và bồ hóng. Tôi hỏi ông:- Có bao giờ ông thắp đèn này chưa?Ông la trả lời cộc lốc:- Nhưng thắp đèn để cho ai? Có ai bước chân vào nhà này bao giờ đâu? Tôi sống ở đây đã từ lâu không hề trông thấy mặt người nào cả. Tôi hỏi ông:- Nếu như có người tình nguyện đến thăm ông thường xuyên, ông có vui lòng thắp đèn lên không? - Dĩ nhiên. Từ ngày đó, các nữ tu quyết định mỗi chiều sẽ ghé qua nhà ông. Ông ta bắt đầu thắp đèn và dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ hơn. Ông còn sống thêm hai năm nữa. Trước khi qua đời ông nhờ các nữ tu ghé thăm nhắn tin giúp ông:- Xin nhắn với mẹ Têrêsa, bạn tôi, rằng ngọn đèn mà mẹ thắp lên trong đời tôi vẫn còn chiếu sáng. Đó chỉ là một việc nhó mọn, nhưng trong bóng tối cô đơn của đời tôi, một tia sáng đã thắp lên và vẫn còn tiếp tục chiếu sáng mãi. Vâng! Đúng là một cuộc viếng thăm thật tuyệt vời.

Ngọn đèn cũ không được thắp sẽ trở nên vô dụng và quên lãng nơi một xó xỉnh nào đấy, nhưng khi được châm vào một chút dầu tình yêu và sự bao dung thì nó đem đến sự sáng và sưởi ấm lòng người. Giờ đây, con người dù phải sống cô độc nhưng không còn cô đơn nữa vì bóng tối đã bị đẩy lui và nhường bước cho tình yêu và lòng bao dung của những đốm sáng nhỏ nơi con người, nơi nhân loại.

8. Bernadette, chứng nhân duy nhất cho Đức Mẹ Vô Nhiễm

Khi nhắc đến đặc ân Vô Nhiễm nguyên tội của Đức Mẹ, chúng ta không thể nào không nhắc đến thánh Bê-na-đê-ta, nhân chứng độc nhất của Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội.

Vào năm 1854, Đức Giáo Hoàng Pi-ô thứ IX đã tuyên tín, Đức Maria là Đấng Vô Nhiễm nguyên tội. Rất nhiều trong Giáo Hội đã phản đối với nhiều lý do, và lý do chính họ nêu ra là, không có bằng chứng trong Kinh Thánh.

Vào năm 1858, tại hang đá Lộ-Đức, Đức Mẹ đã hiện ra với một cô thanh nữ quê mùa, nghèo nàn và ốm yếu tên là Bê-na-đê-ta và xác định rằng: “Ta là Đấng Vô Nhiễm nguyên tội."

Chính Đức Mẹ đã đích thân xác nhận tín điều trên và từ đó đến nay, Lộ Đức đã trở thành thành phố của Đức Mẹ, là trung tâm hành hương Thánh Mẫu cho toàn thể thế giới. Nơi đó Mẹ đã ban bố không biết bao nhiêu ơn lành cho những bệnh nhân hồn xác. Biết bao nhiêu người, nhờ Mẹ đã trở về với Chúa khi đến với Mẹ tại thành phố của Mẹ.

Nhiều người ngạc nhiên không biết tại sao Đức Mẹ lại chọn một đứa con gái quê mùa dốt nát như thế để làm nhân chứng cho Mẹ.

Chúng ta không thể đoán được ý Mẹ, nhưng chúng ta cũng có thể suy đoán phần nào, một cách khách quan, thanh thản, Mẹ rất tinh tế khi chọn Bê-na-đê-ta.

Vì em dốt nát không thể bịa đặt một việc lớn lao như thế, và nếu bị hoang tưởng hay dối trá, em sẽ không thể đương đầu với những người chống đối, với cả nhóm cảnh sát với những người trí thức đến tra hỏi em.

Khi Bê-na-đê-ta nghe Đức Mẹ nói rõ: “Ta là Đấng Vô Nhiễm nguyên tội”, em không hiểu câu đó là gì. Em phải lặp đi lặp lại suốt từ hang đá cho đến nhà cha xứ. Nghe em nói thầm trong miệng điều gì đó, người ta hỏi em: “Con nói gì thế?” Bê-na-đê-ta trả lời một cách tự nhiên: “Con sợ quên."

Khi đến nhà cha xứ, ngài mở cửa cho em vào và tự nhiên em chấp tay và nói rõ: “Ta là Đấng Vô Nhiễm nguyên tội."

Cha xứ giựt mình: “Con nói gì thế?”

Bê-na-đê-ta lặp lại: “Ta là Đấng Vô Nhiễm nguyên tội."

Cha xứ bình tĩnh hơn vặn lại: “Con nói gì thế? Con có hiểu đó là gì không?”

- “Thưa cha, không, vì thế con đã lặp lại để khỏi quên."

Cha xứ để Bê-na-đê-ta đứng đó ngơ ngác. Ngài vào phòng riêng, đóng cửa lại, đến quì trước một bức tượng Đức Mẹ, nơi Ngài thường quì cầu nguyện, ngài rơi lệ vì quá sung sướng. Mẹ đã cho mọi người thấy, Đức Giáo Hoàng đã nói đúng. Khi tuyên tín “Đức Maria là Đấng Vô Nhiễm nguyên tội." Chính Đức Mẹ đã đích thân xác nhận tín điều nầy.

9. Cuộc đời có Mẹ

Ca dao tục ngữ có câu: canh suông khéo nấu thì ngon, mẹ già khéo nói thì con đắt chồng. Lại cũng có câu: con hư tại mẹ, cháu hư tại bà. Đúng là vị trí của người mẹ trong cuộc sống thật quan trọng, mẹ là nải chuối buồng cau, mẹ là ngọn gió đưa êm, mẹ là dòng suối mơ huyền bao la. Cuộc đời đầy người tốt, nhưng tốt hơn cả vẫn là “mẹ”, gian khổ cuộc đời ai cũng có, mà khổ nhất là “mất mẹ”, chẳng thế mà dân gian có câu: mồ côi mẹ liếm lá gặm xương!

Sinh ra làm người, ai cũng có mẹ; sinh ra làm con Chúa, chúng ta còn biết đến người Mẹ thiêng liêng nữa: Mẹ Maria. Mừng lễ Mẹ Vô Nhiễm, chúng ta lại được nhắc nhớ đến ví trí quan trọng của người mẹ trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Người phụ nữ duyên dáng xinh đẹp, thời nào cũng có; nhưng phụ nữ hoàn hảo, đức độ, Thiên Chúa đã gặp nơi Trinh Nữ Maria. Xem ra tiêu chí đẹp toàn diện chưa đủ, Sứ thần của Chúa còn cần thiếu nữ Maria thể hiện được niềm tin, phải tự do nói và sống lời thưa vâng trong suốt cuộc đời trần thế.

Trinh Nữ Maria chính thức làm Mẹ Đấng Cứu Thế, sau lời khiêm tốn thưa vâng. Đức Maria chính thức là Mẹ Hội Thánh, là Mẹ của chúng ta trước khi Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng trên cây thập giá. Người đời ví von rằng: có cha có mẹ thì hơn, không cha không mẹ như đờn đứt dây. Đức Giêsu thật là hạnh phúc, vì cả cuộc đời của Ngài là có Mẹ có cha, dù các ngài rất âm thầm nơi mái nhà Nagiarét, hoặc đầy lo lắng trong khi thất lạc và tìm thấy trẻ Giêsu ở Giêrusalem.

Để diễn tả tình mẹ con, người xưa nói rằng: dù con lớn vẫn là con của mẹ, đi hết cuộc đời lòng mẹ vẫn theo con. Khi hay Đức Giêsu có dấu hiệu bất thường, mất trí, Mẹ Maria vội vã tìm gặp Con, rồi trên đường thập giá, đứng dưới chân thập giá, người Mẹ dù tan nát cõi lòng, nhưng không bỏ cuộc. Ở đời vẫn quan niệm: càng cao danh vọng, càng nhiều gian nan; tương lai càng sáng, cạm bẫy càng nhiều. Với Đức Maria, Sứ thần truyền tin đã chào chúc, đã trấn an: “Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa cùng Chúa." Như vậy, phải chăng càng dồi dào ơn Chúa, càng bớt gian khổ? Hay càng ngập tràn tình Chúa, càng bớt ưu tư sợ hãi? Mỗi người hãy suy tư và cầu nguyện đi? Câu trả lời sẽ thuộc về mỗi chúng ta.

10. Lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội

Trong quyển “Tiểu Sử Ðời Sống Của Thánh Don Boscô” có thuật lại một sự việc sau đây:

Hôm ấy là ngày 8 tháng 12 năm 1841, ngày lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Cha Don Boscô vị tân Linh Mục đang mặc áo sửa soạn dâng Thánh Lễ, bỗng từ trong phòng áo Cha nghe tiếng ồn ào từ phía ngoài cửa. Cha bước ra và gặp thấy Ông Từ coi phòng áo nhà thờ đang cầm chổi lông gà đánh đuổi một cậu bé nghèo ăn mặc rách rưới, chỉ vì cậu dám bén mảng đến phòng áo và lại không biết giúp lễ. Cha Don Boscô tỏ vẻ không bằng lòng và bảo Ông Từ phải đi tìm cậu bé đem trở lại phòng áo cho Cha. Cha lại còn quả quyết rằng đó là bạn thân của Cha.

Vâng! Tất cả các thanh thiếu niên nghèo bị bỏ rơi đều là bạn thân của Cha hết.

Một lúc sau, Ông Từ trở lại phòng áo, dẫn theo cậu bé bị đánh đuổi. Cha bảo cậu ngồi đợi một chút, sau lễ ngài sẽ nói với cậu về một điều mà cậu rất vui thích. Có lẽ đó chỉ là cách Cha muốn bù đắp lại sự tàn nhẫn của Ông Từ hoặc xóa bỏ đi những mặc cảm và ấn tượng xấu đã gây nên trong tâm hồn cậu.

Nhưng đường lối của Chúa còn đi xa hơn nữa, vì chính trong ngày lễ Kính Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội đó, Thiên Chúa muốn ngài khởi công một sứ mệnh Tông Ðồ cao cả mà vẫn còn hiện hữu cho tới ngày nay tại mọi dân tộc, mọi nền văn hóa. Ðiều gì đã xảy ra trong cuộc gặp gỡ đó? Như lời đã hứa, sau lễ Cha bắt đầu cuộc đối thoại thân mật với cậu bé, đó là cậu Bartolômêo Galendy. Don Boscô bắt đầu bằng những câu hỏi thân mật từ gia đình cậu, cha mẹ cậu.

Cậu đáp lại là cả hai đều đã qua đời.

Cha hỏi tiếp về tuổi của cậu, về công ăn việc làm và nơi ăn chốn ở của cậu.

Tuy nhiên câu hỏi đó, cậu chỉ đáp lại bằng tiếng “không” hơi cọc cằn.

Tuy nhiên, Cha vẫn không nản lòng. Sau cùng Cha hỏi: Con có biết huýt sáo không? Mắt cậu sáng lên và cậu bắt đầu mỉm cười gật đầu. Ðó là điều duy nhất Cha mong ước. Cậu đã bị chinh phục và đã trở nên bẹn thân của Cha. Từ đó, cha bắt đầu đối thoại bằng những câu hỏi về đời sống người công giáo của cậu. Ðáng thương thay, tuy cậu đã lên 16 tuổi nhưng chỉ được xưng tội lần đầu mà thôi. Còn về giáo lý thật không biết gì hết, vì không được ai chỉ bảo cho. Ngay cả đến việc làm dấu Thánh Giá và đọc một kinh Kính Mừng cậu cũng không biết. Và cha Don Boscô quì gối đọc kinh Kính Mừng phó thác cho Mẹ Maria và nhân danh Mẹ bắt đầu sứ mệnh Tông Ðồ của Cha, cầu xin Mẹ giúp Cha cứu rỗi linh hồn cậu bé này.

Trước khi cho cậu ra về, Cha tặng cậu một mẩu ảnh Ðức Mẹ và cậu hứa sẽ trở lại tuần tới đem theo chúng bạn của cậu để cùng được học giáo lý nữa.

Nhân dịp toàn thể Dòng Con Cái Don Boscô mừng kỷ niệm một trăm năm mươi năm cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Don Boscô và cậu bé Bartolômêo Galendy, ngày khởi đầu sinh hoạt Khánh Lễ Viện mà Don Boscô là Vị Sáng Lập và cậu bé Bartolômêo là viên đá đầu tiên. Nơi cậu Bartolômêo, Don Boscô đã nhìn thấy trước hàng ngàn thanh thiếu niên bị bỏ rơi cần được nhận biết tình thương của Chúa và ngài đã hiến trọn đời mình để giáo dục niềm tin trong tâm hồn các em. Hơn nữa, ngài còn đào luyện các em trở thành tông đồ giữa chúng bạn, dẫn đưa chúng bạn về với Chúa qua đời sống bí tích và việc học hỏi giáo lý. Một trăm năm mươi năm đã qua và sứ mệnh tông đồ của Don Boscô đã được các con thiêng liêng của ngài tiếp tục tới ngày nay trên khắp Năm Châu. Hàng ngàn hàng triệu thanh thiếu niên qua nhiều năm đã nhận biết, yêu mến Chúa và dấn thân để Chúa cũng được nhận biết, yêu mến và tôn thờ.

11. Tín điều Vô nhiễm nguyên tội

Phải mất một thời gian khá lâu mới hình thành tín điều này.

Năm 1377 cuộc Đức Mẹ mạc khải với Thánh Brigitta được Đức Grêgôriô XI thẩm tra và xác nhận là chân thật. Đức Mẹ nói với Thánh Brigitta: "Đúng sự thật là Mẹ đầu thai vô nhiễm. Hỡi ái nữ của Mẹ. Con hãy tin và thấy rằng những ai tin và tuyên xưng Mẹ đã được gìn giữ khỏi vết nhơ tội tổ là họ nghĩ đúng. Ai nghĩ ngược lại là sai, nhất là họ nghĩ càn giỡ." Năm 1431, Công đồng Basel (Thụy sĩ), công bố một sắc lệnh như sau: "Chúng tôi xác định và tuyên ngôn rằng Đức Trinh Nữ Maria, do đặc ân Thiên Chúa giữ gìn, không bao giờ nhiễm lây vết nhơ nguyên tội, nhưng luôn luôn thánh thiện và vô nhiễm."

Đức Sixtô IV là vị Giáo hoàng đầu tiên minh nhiên xác định vấn đề Vô nhiễm bằng cách ban hành mười sáu Hiến chế về Mẹ Maria Vô nhiễm. Trong số đó, mười hai Hiến chế ban ân xá, bốn Hiến chế thiết lập và củng cố lễ Mẹ Vô nhiễm trong khắp Giáo hội.

Năm 1545, Công đồng Trentô do Đức Phaolô III triệu tập, công bố sắc lệnh có ba khoản nói về Mẹ Vô nhiễm:

1. Đức Maria được miễn trừ khỏi luật chung của Nguyên tội.

2. Đức Maria được gọi là Vô nhiễm. Ý nghĩa danh từ này phải được xác định là khỏi mọi vết nhơ, mà vết nhơ là Nguyên tội. Do đó, gọi Mẹ là Vô nhiễm vì Mẹ đầu thai vô nhiễm nguyên tội.

3. Các Hiến chế của Đức Sixtô IV phải được tôn trọng.

Năm 1567 Đức Thánh Cha Piô V ban hành ba văn kiện về Mẹ Vô nhiễm. Văn kiện thứ nhất luận phi những lầm lạc của Baius cho rằng tin Đức Mẹ vô nhiễm thai là rối đạo.

Đức Clêmentê VIII ca ngợi, khích lệ và cho phát hành cuốn giáo lý do Thánh Bellarminô soạn, trong đó có câu:

H. Đầy ơn phúc nghĩa là gì?

T. Đức Mẹ đầy ơn phúc, vì Người không hề mang vết nhơ tội lỗi, dù là Nguyên tội hay hiện tội, tội trọng hay tội hèn.

Đức Grêgôriô XV ban hành sắc lệnh có một điều đáng chú ý: Những ai phủ nhận Đức Mẹ Vô nhiễm phải tuyệt đối im lặng, vì sinh gương mù và chia rẽ giữa Giáo hội. Mẹ Maria đầu thai mà mắc tội là điều xúc phạm đến niềm tin của tín hữu. Tuy nhiên, được giữ tư kiến cho mình, vì vấn đề chưa được chính thức xác định.

Đức Alexanđrô VII là vị Giáo hoàng quan trọng thứ nhì sau Đức Piô IX trong việc định tín Mẹ Vô nhiễm. Trọng sắc "Sollicitudo Omnium Ecclesianum" của ngài có ba điều quan trọng:

1. Niềm tin Mẹ Maria Vô nhiễm là quan điểm đạo đức (Pia sententia).

2. Sự đầu thai nói về Mẹ Maria có nghĩa là Vô nhiễm.

3. Ngài giải thích các sắc lệnh của các vị tiền nhiệm xác nhận Mẹ Vô nhiễm.

Năm 1830, Đức Mẹ hiện ra ban cho Thánh Catarina Labouré tại Paris lời nguyện vắn tắt: "Lạy Mẹ Maria Vô nhiễm nguyên tội, xin cầu cho chúng con là kẻ tội lỗi chạy đến cùng Mẹ."

Đức Grêgôriô XVI, vị tiền nhiệm của Đức Piô IX, đã dọn đường rất gần để tiến tới việc định tín. Ngài ban phép cho 133 giáo phận và hội dòng thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: "Nữ Vương chẳng hề mắc tội tổ tông, cầu cho chúng con." Sau này Đức Piô IX mới ấn định câu này trong kinh cầu Đức Bà cho khắp Giáo hội. Lòng sùng kính Mẹ Vô nhiễm đặc biệt của ngài ảnh hưởng sâu rộng trong Giáo hội. Từ năm 1840 đến 1844 có 86 đơn thỉnh nguyện xin định tín của các Hồng y, Giám mục nước Pháp, Tây Ban Nha, Ý, Đức, và Trung Hoa, và năm 1849 thêm các đơn thỉnh nguyện của Công đồng Baltimore, Hoa kỳ.

Đức Piô IX đã được Thiên Chúa tuyển chọn để định tín Mẹ Vô nhiễm thai, nên lịch sử gọi ngài là Giáo hoàng của Mẹ Vô nhiễm. Từ năm 1846 đến 1849 có thêm 130 đơn thỉnh nguyện, nên ngài quyết tâm tiến hành:

Ngày 1-6-1848 ngài triệu tập Hội đồng Tư vấn gồm các nhà thần học nổi danh, với sứ mệnh thẩm xét vấn đề. Hội đồng Tư vấn biểu quyết tâu xin định tín.

Ngày 22-12-1848 một Hội đồng Tiền chuẩn bị gồm tám Hồng y và năm cố vấn họp tại Naples dưới quyền chủ toạ của Đức Hồng y Lambruschini. Hội đồng tâu xin Đức Thánh Cha gửi một thông điệp cho các Giám mục xin cầu nguyện và hỏi ý kiến.

Ngày 2-2-1849 Đức Thánh Cha liền ban hành Thông điệp "Ubi Primum." Ngài nhận được 603 thư hồi âm tâu xin định tín hoặc xin tùy sự quyết định của Đức Thánh Cha. Với đủ yếu tố trong tay, Đức Piô IX họp Cơ mật viện gồm các Hồng y để quyết định lần cuối cùng và ngài viết Thông điệp "Ineffabilis Deus" (L.m. Phêrô, CMC).

12. Mẫu Ảnh Ðức Mẹ Hay Làm Phép Lạ

Trong 46 năm liền, chị đã được diễm phúc thấy Ðức Mẹ đi lại phục vụ các bệnh nhân nghèo trong Chẩn Y Viện nhỏ bé của Nhà Dòng mà không ai biết chút gì.

Từ tháng 6 đến tháng 11/1830, liên tiếp trong nhiều lần, Ðức Mẹ đã hiện ra cho một nữ tập sinh Dòng Nữ Tử Bác Ái Vinh-sơn, tên là Catherine Labouret tại Nguyện Ðường của Nhà Dòng, phố Du Bac, thủ đô Paris nước Pháp. Nơi đây, chị đã được thấy, được nói chuyện, và còn được phép sờ vào người Ðức Mẹ.

Chuyện này xảy ra một cách âm thầm, đến độ trong 46 năm liền, chị đã được diễm phúc thấy Ðức Mẹ đi lại phục vụ các bệnh nhân nghèo trong Chẩn Y Viện nhỏ bé của Nhà Dòng mà không ai biết chút gì. Các nữ tu sống bên cạnh chị vẫn cho rằng chị là một người khù khờ dốt nát, chuyên lo những công việc tầm thường và nặng nhọc trong nhà. Ngoài một số rất ít các vị Bề Trên tại chỗ, không ai ngờ chị đã được Ðức Mẹ hiện ra. Sau khi chị qua đời, nghe chuyện, họ đã dứt khoát không tin. Cho đến khi mộ của chị được mở ra, người ta kinh ngạc nhận ra đôi tay và đôi mắt của chị vẫn hồng hào nguyên vẹn.

Chị Catherine Labouret đã được Giáo Hội tôn phong Chân Phúc vào năm 1935, nghĩa là 2 năm sau khi chị Bernadette được phong Thánh. Ðến năm 1947 thì chị Catherine cũng được phong Thánh. Người ta ước tính mỗi năm có gần 2 triệu người hành hương từ khắp nơi trên thế giới đến kính viếng và cầu nguyện tại ngôi Nhà Thờ bé nhỏ trên phố Du Bac ở Paris.

Trong các lần hiện ra, Ðức Mẹ đã trao cho chị sứ mạng phải quảng bá việc tôn kính Mẹ qua bức ảnh nói trên, thường được gọi là "Ảnh Ðức Mẹ-Hay-Làm-Phép-Lạ." Mẹ hứa: "Tất cả những ai mang ảnh này với hết lòng tín thác, sẽ lãnh được nhiều ơn trọng đại."

Sau 2 năm do dự và giấu kín, cuối cùng thì cha giải tội của chị cùng với vị nữ tu Bề Trên đã quyết định nhờ một nghệ sĩ đúc lại bức ảnh theo mô tả chi tiết của chị. Không mấy chốc, "Ảnh Ðức Mẹ-Hay-Làm-Phép-Lạ" được quảng bá rộng khắp. Ngày 11 tháng 2 năm 1858, khi được Ðức Mẹ hiện ra tại Lộ-đức (Lourdes), Thánh Nữ Bernadette cũng có đeo trên ngực mẫu ảnh này.

Chúng ta hãy cùng nhau chiêm ngắm mẫu ảnh đặc biệt này:

Có một lần vào ngày 27 tháng 11 năm 1830, chị đã thấy Ðức Mẹ hiện ra với những luồng ánh sáng chói lòa phát xuất từ đôi tay và với quả địa cầu dưới chân có một con rắn bị Mẹ đạp lên, còn trên đầu Mẹ thì có một vầng hào quang được kết bằng 12 ngôi sao. Chi tiết này gợi lại thị kiến của Thánh Gio-an: "Một người phụ nữ mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên 12 ngôi sao" (Kh 12,1). Các tia sáng được hiểu là dấu chỉ tình bằng hữu với Thiên Chúa và với mọi người. Ðức Giê-su ban cho chúng ta niềm vui và lòng can đảm của Người để chúng ta có thể yêu thương nhiều hơn nữa.

Con rắn là biểu tượng của sự xấu, của các khó khăn, của những hành động thiếu yêu thương, đã cản trở chúng ta sống bình an với chính mình và với tha nhân. Quả cầu là biểu hiện các nơi chốn khác nhau trên thế giới, nơi chúng ta được mời gọi sống tình yêu thương một cách chan hòa. Những ngôi sao biểu hiện niềm vui được làm Ki-tô hữu, dấu chứng tình bạn thân thiết với Ðức Giê-su Ki-tô. Chúng ta không được giữ riêng bảo vật này một cách ích kỷ, nhưng phải đem chia sẻ, tỏa sáng, để mọi người cũng có thể nhờ chúng ta mà khám phá ra mối tình tuyệt vời ấy.

Tất cả như được đóng khung trong một vòng hình trái xoan với giòng chữ: "Lạy Mẹ Ma-ri-a vô nhiễm nguyên tội, xin cầu cho chúng con là kẻ chạy đến cùng Mẹ."

Bên dưới mẫu ảnh còn có hình hai quả tim, một của Ðức Giê-su bị đâm thủng bởi một vòng gai, một của Ðức Mẹ bị một lưỡi gươm xuyên thâu. Tất cả nói lên Tình Yêu cao sâu mà Thiên Chúa Cha đã dành cho chúng ta: Ðức Giê-su Ki-tô đã hiến mạng sống mình vì yêu thương. Còn Ðức Mẹ thì đã đau khổ vì yêu thương khi chứng kiến Con của Mẹ chết trên thập giá.

Trên mẫu ảnh còn có ghi một chữ M lớn, đan chéo trong một cây Thánh Giá. Ðây sẽ là chữ M mà Ðức Karol Wojtyla đã chọn làm huy hiệu khi được sắc phong làm Giám Mục, và cả sau này khi được bầu làm Giáo Hoàng. Không phải ngẫu nhiên mà trong chuyến viếng thăm nước Pháp năm 1980, Ðức Gio-an Phao-lô đệ nhị đã bày tỏ ước muốn được kính viếng mộ Thánh Nữ Catherine Labouret nhân dịp kỷ niệm 150 năm ngày Ðức Mẹ hiện ra với chị.

Một chi tiết khác nữa là màu xanh da trời trên áo choàng của Mẹ. Ðúng ngày 08 tháng 12 năm 1955, cũng chính là ngày kính trọng thể Lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Hội Ðồng Các Nước Âu-Châu vừa được khai sinh với mục đích tiến tới một Liên Bang Âu Châu đã quyết định chọn mẫu lá cờ có 12 ngôi sao trắng trên nền xanh da trời do một họa sĩ trẻ đưa ra.

Ðây không phải là chuyện ngẫu nhiên. Vốn có lòng sùng kính Ðức Mẹ đặc biệt, vợ chồng người họa sĩ này lần chuỗi Mai Khôi mỗi ngày, mỗi người đều đeo một mẫu "Ảnh Ðức Mẹ-Hay-Làm-Phép-Lạ." Và người họa sĩ đã tham gia cuộc thi vẽ mẫu lá cờ đang lúc đọc tiểu sử của chị Catherine Labouret. Anh kể lại: "Một cách vô thức, hình ảnh 12 ngôi sao trên nền xanh da trời đã đến với tôi một cách tự nhiên..."

13. Khỏi nếm mùi hỏa ngục...

Em đã đau khổ suốt trong thời gian này. Nhưng từ khi trở về với Thiên Chúa, với Đức Mẹ Maria, em cảm thấy vô cùng hạnh phúc!

... Hội Dòng chúng tôi (Nữ Tu Thừa Sai Đức Mẹ Vô Nhiễm) có nhiều cứ điểm truyền giáo bên nước Argentina thuộc Châu Mỹ La Tinh. Vào năm 1973 tôi được gửi đến làm việc tại Olavarria nằm trong thủ đô Buenos Aires. Địa bàn hoạt động tông đồ của tôi là khu ổ chuột nghèo thật nghèo.

Ngay những ngày đầu viếng thăm, các gia đình nói với tôi về hoàn cảnh của bà Daniella, một phụ nữ trẻ ở lứa tuổi 35. Đã nhiều tháng qua bà nằm nhà thương vì bị ung thư ruột già. Và những ngày sống còn của bà thật ít ỏi. Thế nhưng điều đáng nói là bà Daniella không ngừng chửi rủa và xua đuổi mọi người khiến không ai dám đến gần. Các gia đình Công Giáo nài nỉ tôi đến thăm bà. Tôi hứa sẽ cố gắng.

Trên đường dẫn đến nhà thương tôi không ngừng lần hạt Mân Côi kêu xin Đức Mẹ Maria ra tay trợ giúp. Cô y tá vui mừng khi thấy tôi ngỏ ý đến thăm bà Daniella. Cô dẫn tôi đến ngay phòng bệnh. Đó là một phụ nữ gầy guộc với khuôn mặt tái xanh và đôi mắt dò xét, giận dữ. Thu hết can đảm, tôi lên tiếng chào và hỏi thăm tình trạng sức khoẻ của bà. Bà nhìn tôi hồi lâu rồi trả lời:

- Tôi yếu mệt lắm nhưng lại bị bỏ rơi như một con chó!

Chụp lấy cơ hội tốt tôi liền nói:

- Nếu bà bằng lòng, ngày mai tôi lại đến thăm bà!

Bà trả lời ngay:

- Trời ơi tốt lắm! Xin Dì đến thăm em vì em không còn ai là thân nhân cả.

Tôi nói thêm:

- Được rồi, ngày mai tôi sẽ trở lại thăm bà. Nhưng trước khi từ biệt bà, tôi muốn để lại cho bà một món quà. Hãy nhận lấy ảnh này. Đây là ảnh Đức Mẹ Ban Ơn (ảnh vảy phép lạ). Đức Mẹ MARIA hứa ban nhiều ơn lành hồn xác cho bất cứ ai mang ảnh với lòng tin tưởng và yêu mến!

Vừa nói tôi vừa trao cho bà ảnh vảy phép lạ. Bà Daniella nhìn đăm đăm ảnh vảy một hồi lâu, trên khuôn mặt lộ nét sợ hãi. Nhưng rồi bà giơ tay đón nhận ảnh vảy Đức Mẹ ban ơn và đưa lên môi kính cẩn hôn.

Ngày hôm ấy khi rời nhà thương tôi cảm thấy lòng hân hoan vô tả. Tôi có cảm tưởng mình đã giơ tay chạm đến Trời Cao!

Từ đó, tôi thường xuyên thăm viếng bà Daniella và tạo mối quan hệ tốt đẹp với bà. Tôi được biết bà sống trong hoàn cảnh của người phụ nữ xứ Samaria. Nghĩa là bà đã trải qua nhiều đời chồng và người đàn ông đang sống với bà không phải chồng bà (xem Ga 4,18).

Vào một buổi chiều, tôi nhận điện thoại từ nhà thương báo cho biết bà Daniella đang hấp hối và xin tôi đến gấp. Tôi đến ngay với một nữ tu cùng dòng. Tôi cũng mời một Linh Mục dòng Phanxicô và báo cho người đàn ông nhân-tình của bà biết. Nửa giờ sau, cả bốn người chúng tôi có mặt tại nhà thương.

Tôi một mình bước vào phòng bệnh nhân và sau mấy câu thăm dò tôi hỏi bà có muốn gặp Linh Mục không. Bà bỗng giận dữ hét lớn nhưng rồi lại dịu giọng và nói:

- Xin Dì mời Cha đến ngay vì em sắp chết rồi!

Vị Linh Mục một mình bước vào phòng. Tôi không rõ những gì xảy ra trong vòng nửa tiếng đồng hồ ấy nhưng điều chúng tôi được biết: khi vị Linh Mục trở ra, ngài mời cả ba chúng tôi vào. Trước mặt hai nữ tu chúng tôi làm chứng, vị Linh Mục làm phép cưới cho hai người.

Xét vì tình trạng trầm trọng của con bệnh, mọi người lui gót, chỉ mình tôi ở lại với bà Daniella, vì theo lời bác sĩ, bà không qua khỏi đêm đó.

Khi chỉ còn lại hai chúng tôi, bà bật lên khóc nức nở và nói:

- Đây là ngày đầu tiên trong đời em cảm thấy thật hạnh phúc... Xin Dì đọc cho em nghe kinh Kính Mừng bằng tiếng Ý.

Tôi cảm động đọc chậm rãi:

- Kính Mừng Maria đầy ơn phước. Đức Chúa Trời ở cùng Bà. Bà có phước lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu Con lòng Bà gồm phước lạ. Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời. Cầu cho chúng con là kẻ có tội. Khi nay và trong giờ lâm tử. Amen.

Cứ thế, tôi đọc đi đọc lại nhiều lần Kinh Kính Mừng bằng tiếng Ý.

Bà Daniella ngủ thiếp đi lúc nào không biết.. Phần tôi, tôi không chợp mắt vì sợ bà có thể trút hơi thở cuối cùng bất cứ lúc nào! Đến 6 giờ sáng, bà bừng dậy và nói:

- Chúa ơi, em cảm thấy thật khoẻ khoắn! Chưa bao giờ em ngủ ngon như đêm nay!

Nơi nhà thương, không ai biết chuyện gì đã xảy ra vào đêm đó. Nhưng mọi người ghi nhận là bà Daniella biến đổi hẳn. Bà không còn kêu gào chửi rủa nữa. Và sức khỏe của bà cũng mỗi ngày một khả quan hơn. Sau cùng, bà khỏi hẳn bệnh và xuất viện.

Phần tôi, tôi không dám quả quyết là phép lạ đã xảy ra. Nhưng tôi có thể xác nhận:

- Chính Đức Mẹ Maria đã can thiệp. Trước tiên trên bình diện thiêng liêng. Tiếp đến trên bình diện thể xác.

Bà Daniella luôn bày tỏ lòng biết ơn và nói với tôi:

- Xin Dì giải thích cho mọi người hiểu rằng: tội lỗi làm cho chúng ta đau khổ và nếm mùi hỏa ngục ngay nơi trần gian này. Hồi còn nhỏ, em đã yêu mến Đức Mẹ Maria và bày tỏ lòng mến yêu trong các tháng Năm và Tháng Mười. Nhưng rồi lớn lên, em chạy theo thế gian, và thế gian làm em xa lìa Chúa. Em đã đau khổ suốt trong thời gian này. Nhưng từ khi trở về với Thiên Chúa, với Đức Mẹ Maria, em cảm thấy vô cùng hạnh phúc!

... Lạy Đức Maria Chí Thánh.

Lạy Đức Maria Chí Thánh con xin dâng lên Mẹ lời cầu, với trọn lòng tín cẩn. Mẹ chẳng từ bỏ ai, nhưng hằng tha thiết đến phần rỗi của mọi người. Thiên Chúa không hề từ chối điều gì với Mẹ khi Mẹ cầu xin cùng Ngài. Xin Mẹ hãy ôm con vào vòng tay che chở vạn năng của Mẹ. Nếu Mẹ dủ lòng thương xót nhậm lời con khiêm tốn cầu xin, thì toàn thể hỏa ngục cũng không thể nào làm hại được con. Một cách nào đó, Mẹ là Bà Chủ của vận mệnh con. Vận mệnh con nằm trong đôi bàn tay Mẹ! Nếu Mẹ bỏ rơi con, thì con sẽ bị hư mất, không nguồn cứu giúp! Thế nhưng, Mẹ là Người Mẹ quá tốt lành, không thể bỏ rơi những ai đặt trọn niềm hy vọng nơi Mẹ!

Xin Mẹ cầu bầu cùng Thiên Chúa Ba Ngôi cho con và con tin chắc là mình sẽ được cứu rỗi! Ôi ước gì con có quyền làm cho mọi con dân trên mặt đất này nhận biết Mẹ! Ước gì con có thể loan báo khắp nơi sự cao cả, lòng nhân hậu và quyền năng của Mẹ! Điều mà con không thể làm được, con nguyện mong cho các thần trí thiên quốc làm thay. Và ước chi chính các tên quỷ bị bó buộc phải xưng tụng rằng: ”Mẹ là kỳ công của Bàn Tay Thiên Chúa, Mẹ có quyền lực Thiên Chúa trong tay, Mẹ thật khủng khiếp đối với ma quỷ và mọi sự đều phục tùng Mẹ! Mẹ là loài thọ tạo vô song! Mẹ là phụ nữ duy nhất, vừa là Trinh Nữ vừa là Mẹ. Mẹ đã sinh ra Đấng Cứu Thế. Cùng với Thánh Cả Giuse, Mẹ có chỗ đứng riêng."

Như thế, Mẹ cao trọng hơn mọi Thiên Thần và các thánh: Mẹ thật là Chí Thánh, là thần thiêng! Con hy vọng nơi Mẹ và con tin chắc chắn vững vàng rằng, kể cả mọi quyền lực hỏa ngục, cũng không thể nào chiến thắng được con! Ước gì được như vậy. Tất cả các Thiên Thần và các thánh đồng thanh chúc tụng Mẹ đến muôn đời! Amen! Ước gì được như vậy!

(Luigi Faccenda, ”Ho trovato Maria”, Edizioni dell'Imma-colata, 1992, trang 25-28)

14. Xin vâng để hợp tác với ơn Chúa

Một thanh niên kia có thói quen ngủ rất say, luôn cần có mẹ gọi mới thức dậïy được. Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm ở một chỗ xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng hồ báo thức. Ngày đầu tiên anh quên vặn đồng hồ trước khi ngủ nên đến sở làm trễ. Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng sớm khi nó reo thì anh đưa tay tắt bỏ, nên lại đi làm trễ. Và anh bị đuổi việc. Khi anh trở về gia đình, mẹ anh hỏi về chiếc đồng hồ. Anh đáp:

- Chiếc đồng hồ đó hoàn toàn vô dụng đối với con.

- Nó vô dụng là vì con không chịu dùng nó. Mẹ anh đáp.

Bao nhiêu ơn Chúa ban cho ta cũng đều vô dụng nếu ta không sử dụng đến.

Mặc dù “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”, nhưng thường Thiên Chúa không làm một mình, Ngài thích có sự hợp tác của con người. Để cho Đấng Cứu Thế nhập thể, Thiên Chúa đã nhờ Đức Maria hợp tác. Và Đức Maria đã hợp tác bằng cách ngoan ngoãn để cho ơn Chúa hành động trong mình và qua mình: “Xin cứ làm cho tôi....”

Lời Chúa Tuần 1 Mùa Vọng
Thường niên V - GS C - PS Ngoại lịch

 EDIT