LỜI CHÚA TUẦN 1 MÙA VỌNG
CÂU TRUYỆN MINH HỌA
CNMV 1C - HÃY TỈNH THỨC VÀ CẦU NGUYỆN LUÔN
THỨ BA - MẶC KHẢI CHO KẺ BÉ MỌN
THỨ TƯ - HÓA BÁNH RA NHIỀU LẦN 2
THỨ NĂM - NGƯỜI KHÔN NGOAN THỰC SỰ
THỨ SÁU – CHỮA LÀNH HAI NGƯỜI MÙ
THỨ BẢY - LÚA CHÍN ĐẦY ĐỒNG, THỢ GẶT THÌ
ÍT
LỄ KÍNH ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI - XIN
VÂNG
CNMV 1A -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
CNMV 1B – HÃY TỈNH THỨC
Lời
Chúa: Mc 13, 33-37
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy coi chừng, hãy tỉnh
thức và cầu nguyện, vì các con không biết lúc đó là lúc nào. Ví như người đi
phương xa, để nhà cửa lại, trao quyền hành cho các đầy tớ, mỗi người một việc,
và căn dặn người giữ cửa lo tỉnh thức.
Vậy
các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ nhà trở về, hoặc là
chiều tối, hoặc là nửa đêm, hoặc là lúc gà gáy, hay ban sáng, kẻo khi ông trở về
thình lình, bắt gặp các con đang ngủ. Ðiều Ta bảo cho các con, thì Ta bảo cho tất
cả mọi người là: Hãy tỉnh thức!"
TRUYỆN
KỂ
1.
Maranatha
Trong
niềm hy vọng sẽ nắm bắt được trọn vẹn ơn cứu độ, nên các tín hữu thời Giáo Hội
sơ khai khi cử hành Phụng Vụ họ luôn cất tiếng cầu nguyện: “Maranatha” (1Cr
16,22; Kh 22,20). Lời này theo tiếng Aram hiểu theo thời hiện tại, hay tương
lai, tùy theo cách đọc:
- Maran
– atha: Con thờ lạy Chúa đang ở với chúng con.
- Marana
– tha: Lạy Chúa, xin hãy đến với chúng con.
Đúng
với khát vọng dân Chúa cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin tỏ cho chúng con thấy tình
thương của Chúa, và ban ơn cứu độ cho chúng con” (Tv 85/84,8: Tung Hô Tin Mừng).
Nếu
ta không có Chúa trong thời hiện tại, thì chắc chắn ta cũng không có Ngài trong
tương lai. Nói cách khác, ơn cứu độ Chúa ban là bề dầy ơn Ngài ban cho ta trong
từng giây phút hiện tại. Ơn ấy luôn hướng lòng ta kết hợp với Chúa Giêsu Phục
Sinh qua Phụng Vụ, nhất là Thánh Lễ, để “từ nguồn sung mãn của Người tất cả
chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga.1,16 ) làm cho ta được mạnh sức
trên đường đang tiến về Quê Trời, trỗi vượt hơn đất chảy sữa và mật Chúa đã hứa
ban cho dân Do Thái (Xh.3,8)
2.
Hy vọng Chúa đến
Khi
bị vây khốn ở đất Khuông, Khổng Tử nói: “Trời chưa muốn Đạo ta mất, thì người đất
Khuông làm gì được ta?” (LN. XIV,36 “Đạo tôi thi hành được là do mệnh Trời …”).
Nguyễn Trãi đã tin vào lời cha là Nguyễn phi Khanh khuyên: “Nếu Trời muốn cho
nước ta tiêu diệt thì lưới thù sẽ úp xuống đầu xanh. Không bao giờ! Trãi con
ơi! tương lai đầy ánh sáng, cha đứng đây trông suốt được ngàn thu …." Cha
bị quân Tầu bắt, Nguyễn Trãi đã không theo cha. Ông nghe lời cha, đã hy sinh trở
về lập chí cứu quốc và đã chiến thắng quân Tầu.
Một
đàng, Khổng Tử tin Trời vững chắc, ông hy vọng đạo thánh hiền sẽ tỏa sáng trong
tương lai. Ông không sợ kẻ thù có thể hại ông. Ông đã quyết tâm truyền bá đạo
lý và đã trở thành vạn thế sư biểu.
Một
đàng, Nguyễn Trãi hy vọng vào tương lai đầy ánh sáng, ông quyết tâm tìm đường cứu
quốc, và ông đã trở thành Đệ nhất khai quốc công thần.
3.
Mong đợi Chúa đến
Vào
một ngày đẹp trời, ông già ngồi trên ghế xích đu, lòng mong đợi Chúa đến. Tình
cờ, một bé gái đang chơi banh để lọt vào sân nhà ông, cô gái chạy lại nhặt trái
banh và mở lời làm quen:
-
Thưa ông, ngày nào ông cũng ngồi trên chiếc xích đu này, ông đang chờ ai vậy?
-
Cháu còn nhỏ quá làm sao hiểu được điều ông mong đợi.
-
Có lẽ cháu nhỏ thật, nhưng mẹ cháu nói: có điều gì trong lòng thì hãy nói ra,
có nói ra mới hiểu rõ hơn.
Nghe
cô bé nói có lý, ông liền thổ lộ:
-
Ông đang chờ đợi Chúa đến.
Cô
bé tròn xoe đôi mắt kinh ngạc. Ông già mới giải thích:
-
Trước khi nhắm mắt, ông muốn tin chắc rằng có một Thiên Chúa, ông cần một dấu
hiệu cháu à!
Bấy
giờ cô bé mới lên tiếng:
-
Ông chờ một dấu hiệu ư? Thưa ông, Chúa đã cho ông một dấu hiệu: mỗi khi ông hít
thở không khí, mỗi khi ông nghe tiếng chim hót, mỗi khi ông nhìn hạt mưa rơi.
Chúa đã cho ông một dấu hiệu trong nụ cười trẻ thơ, trong nước mắt người đau khổ.
Ông ơi, Chúa ở trong ông, Chúa ở trong cháu, không cần phải tìm kiếm, vì Người
luôn ở đó.
4.
Tỉnh thức và sẵn sàng
Waiting
for Godot (Chờ Godot) là vở kịch của nhà văn Samuel Beckett. Ông được trao giải
Nobel Văn học 1969. Tác phẩm này được coi là Vở kịch tiếng Anh đáng lưu ý nhất
thế kỷ 20.
Hai
nhân vật Estragon và Vladimir thất nghiệp tìm mọi cách giết thì giờ trong khi
chờ đợi một người được gọi là Godot, nhưng cuối cùng đợi không được; Godot có
thể tồn tại, cũng có thể không tồn tại, kịch kết thúc, Godot cũng không đến.
Toàn bộ tác phẩm ngoài việc đợi chờ, không có một điều gì khác phát sinh, tại
sao lại đợi Godot, Godot là ai, tại sao Godot không đến, tất cả những điều này
đều không quan trọng.
Tác
phẩm dùng cốt truyện không kịch như vậy là để nói lên một điều, nhân loại ngoài
việc đợi chờ vô vọng hoặc ngồi đó chờ chết thì không còn con đường nào khác;
con người đã không thể biết được về vận mệnh của mình, không thể suy tư về tất
cả những thứ quanh mình, cho nên, ngoài việc đợi chờ đầy tiêu cực, ngoài những
việc vô nghĩa như vậy, còn biết làm gì đây? Tác phẩm không có nội dung cụ thể,
đợi chờ mù quáng và vô vọng chính là nội dung, ý nghĩa của nó là sự vô nghĩa của
đợi chờ.
Waiting
for Godot là một tác phẩm tiêu biểu cho loại kịch phi lý. Nó không có cốt truyện,
cũng không có cao trào. Cũng có thể gọi nó là bi kịch mang tính chất trào lộng.
Tuy nhiên, thông điệp đó lại được thể hiện hết sức thú vị qua những tình tiết
hài hóa bi kịch. Beckett đã đưa triết học hiện sinh chủ nghĩa lên sân khấu và
gây sự kích động mạnh mẽ trong công chúng và cả giới phê bình.
Trong
bối cảnh hoang tàn sau thế chiến II, thuyết Hiện Sinh nở rộ tại Âu Châu, nghi
hoặc những gì cao siêu, thiếu cụ thể, chỉ bằng lòng những gì đang hiện hữu cảm
nhận được. Nên bản ngã lên ngôi, tha hồ hưởng lạc, coi tha nhân là hỏa ngục.
Hoàn
toàn trái ngược với Kitô giáo, tín hữu biết mình là ai, sống làm chi và biết
mình chờ ai. Sinh ký tử quy, tín hữu Kitô biết mình sẽ trở về trình diện Đấng
Thẩm Phán chung cuộc.
5.
Mong đợi Chúa đến
Vào
một ngày đẹp trời, ông già ngồi trên ghế xích đu, lòng mong đợi Chúa đến. Tình
cờ, một em bé gái đang chơi banh để lọt vào sân nhà ông, cô gái chạy lại nhặt
trái banh và mở lời làm quen:
-
Thưa ông, ngày nào ông cũng ngồi trên chiếc xích đu này, ông đang chờ ai vậy?
-
Cháu còn nhỏ quá làm sao hiểu được điều ông mong đợi.
-
Có lẽ cháu nhỏ thật, nhưng mẹ cháu nói: có điều gì trong lòng thì hãy nói ra,
có nói ra mới hiểu rõ hơn.
Nghe
cô bé nói có lý, ông liền thố lộ:
-
Ông đang chờ đợi Chúa đến.
Cô
bé tròn xoe đôi mắt kinh ngạc. Ông già mới giải thích:
-
Trước khi nhắm mắt, ông muốn tin chắc rằng có một Thiên Chúa, ông cần một dấu
hiệu cháu à!
Bấy
giờ cô bé mới lên tiếng:
-
Ông chờ một dấu hiệu ư? Thưa ông, Chúa đã cho ông một dấu hiệu: mỗi khi ông hít
thở không khí, mỗi khi ông nghe tiếng chim hót, mỗi khi ông nhìn hạt mưa rơi.
Chúa đã cho ông một dấu hiệu trong nụ cười trẻ thơ, trong nước mắt người đau khổ.
Ông ơi, Chúa ở trong ông. Chúa ở trong cháu, không cần phải tìm kiếm, vì Người
luôn ở đó.
6.
Ngủ mê trong thói quen
Tất
cả chúng ta, chỉ trừ những đứa trẻ, đều không nhiều thì ít sống theo thói quen.
Người ta nói rằng chúng ta sống một nửa cuộc đời phần sau dựa vào những thói
quen đã có từ nửa cuộc đời phần trước. Như thế thật có lợi cho những ai đã tập
được những thói quen tốt, tuy nhiên cũng thật tai hại cho những ai đã nhiễm phải
những thói quen xấu.
Một
việc được lập đi lập lại nhiều lần sẽ thành thói quen, khi đó người ta sẽ làm
việc đó một cách rất dễ dàng và còn khéo léo nữa. Có thể nói thói quen là bản
năng thứ hai của con người.
Tuy
nhiên cứ làm theo thói quen riết rồi người ta sẽ trở thành một chiếc máy vô hồn,
không ý thức mình đang làm gì nữa, không suy nghĩ, không tâm tình.
Nếu
bạn để một con nhái vào một bình nước nóng, nó sẽ lập tức phóng ra ngay. Nhưng
nếu bạn để nó trong một bình nước lạnh, rồi đun nóng lên từ từ. Con nhái không
cảm thấy gì lạ cả nên cứ ở yên trong đó. Vì nó đã quen dần nên không thấy nguy
hiểm gì cả. Muốn nó nhảy ra thì cần phải lấy một cái gì đó chọc vào nó.
Với
thời gian, cuộc sống đạo của chúng ta dần dần trở thành thói quen. Nhiều việc
đã không còn ý thức, huống chi nhiều thói xấu đã bám rễ dần dần. Ước gì Mùa vọng
là một cú chọc mạnh khiến chúng ta giật mình ý thức lại và sửa đổi cho tốt hơn.
7.
Biết tỉnh thức và cầu nguyện
Cụ
Chu, người xướng kinh trong nhà thờ ở Gx tôi đã yếu liệt bỏ ăn bỏ thuốc cả tuần
nay. Anh em đến thăm cụ và đọc kinh xin ơn chết lành. Sau giờ kinh, chuyện trò
với cụ. Cụ vui vẻ nói “Xin Chúa đến rồi, mà mấy hôm nay Chúa bận quá. Để từ từ
Chúa sắp xếp. Chờ thôi. Chắc thứ sáu." Thiết nghĩ, cụ đã làm gương cho
chúng tôi về việc tỉnh thức, cầu nguyện và sẵn sàng đón Chúa đến.
Lạy
Chúa, xin cho chúng con tỉnh thức trước những nguy cơ xa cách Chúa và luôn biết
khát khao kết hiệp với Chúa từng phút giây trong cuộc đời, để Chúa làm chủ mọi
ý tưởng, lời nói, việc làm của chúng con.
8.
Tiếp tục chơi
Người
ta kể chuyện rằng ngày kia Thánh Lu-y Gonzaga còn chơi với bạn bè, thình lình
cha bề trên đến tập họp tất cả lại và hỏi thử: "Giả sử như chúng con đang
chơi mà Chúa đến báo cho chúng con biết chúng con chỉ còn sống 5-10 phút nữa
thôi, thì chúng con sẽ làm gì?" Bấy giờ mọi người bổng trở nên căng thẳng.
Người thứ nhất trả lời: " Con sẽ đi gặp cha linh hướng" Người thứ hai
nói:"Con sẽ vào nhà thờ cầu nguyện trước Nhà Tạm." Riêng Lu-y vẫn
bình thản trả lời:" Thưa cha, con sẽ tiếp tục chơi."
Đó
là câu trả lời của một đấng thánh và đáng lý mỗi người kitô hữu đều phải có thể
trả lời như thế. Chơi đùa, giải trí cũng làm đẹp lòng Chúa nếu đó là việc phải
làm theo nhu cầu đúng đắn hoặc theo bổn phận. Vậy không phải chỉ bằng đọc kinh,
cầu nguyện, mà bằng cả yêu thương, đau khổ, lao động, nghỉ ngơi, giải trí,
nghĩa là bằng cả cuộc đời mà chúng ta đón chờ Chúa và chuẩn bị cho hạnh phúc đời
đời của chúng ta.
9.
Gặp Chúa thì vui
Có
một cậu bé muốn được gặp Chúa. Cậu biết rằng phải đi cả một quãng đường rất dài
mới có thể đến được nơi ở của Người, nên gói ghém mang theo bên mình những chiếc
bánh Twinkie và cả sáu hộp nước trái cây, rồi bắt đầu cuộc hành trình.
Khi
qua được khoảng ba dãy phố, cậu gặp một bà lão. Bà đang ngồi trong công viên, lặng
nhìn đàn chim bồ câu đang ríu rít trước mặt. Cậu bé ngồi xuống cạnh bà và mở
túi xách của mình ra. Cậu định uống một hộp nước trái cây, nhưng chợt để ý đến
bà lão có vẻ đói, nên không ngần ngại mời bà một chiếc bánh. Bà cầm lấy và mỉm
cười với cậu. Nụ cười của bà tươi tắn đến nỗi cậu bé muốn trông thấy một lần nữa,
thế nên cậu mời bà một hộp nước trái cây. Bà lại cười với cậu. Cậu bé cảm thấy
rất vui sướng!
Cả
buổi chiều, hai bà cháu cứ ngồi bên nhau, vừa ăn, vừa mỉm cười, nhưng không nói
với nhau lời nào.
Khi
trời bắt đầu sẩm tối, cậu bé cảm thấy mệt nên đứng dậy ra về. Đi được một lúc,
cậu quay trở lại, chạy đến bên bà và ôm bà. Bà cười với cậu – một nụ cười đẹp
nhất mà cậu từng được thấy.
Cậu
bé bước vào nhà, mẹ cậu rất đỗi ngạc nhiên vì nét mặt tươi tắn hân hoan của cậu.
Bà hỏi: “Hôm nay có chuyện gì mà trông con vui thế?"
Cậu
trả lời: - “Con đã ăn trưa với Chúa mẹ à! Mẹ biết không, Người có nụ cười tuyệt
nhất mà con từng thấy!”
Trong
khi đó, bà lão cũng về tới nhà, khuôn mặt rạng rỡ niềm vui.
Con
trai bà lấy làm ngạc nhiên trước niềm hạnh phúc rạng ngời trên gương mặt bà: -
“Mẹ ơi, hôm nay có chuyện gì khiến mẹ vui đến thế?
Bà
hân hoan: - “Mẹ ăn bánh Twinkie trong công viên với Chúa. Con biết không, Người
còn bé hơn là mẹ nghĩ nữa cơ đấy!"
10.
Tỉnh thức để gặp Chúa
Tỉnh
thức để tránh cạm bẫy kẻ thù và được vui mừng đón tiếp Chúa viếng thăm ta. Nếu
tỉnh thức chỉ để tránh được cạm bẫy kẻ thù mà không được đón tiếp Chúa, thì tỉnh
thức đó chẳng có ý nghĩa gì. Đó là một sự “an toàn” vô nghĩa!
Trong
một cuộc tập dượt tác chiến, viên sĩ quan chỉ huy dặn dò:
-
“Trong khi lâm trận, các anh em phải biết ngụy trang. Ngụy trang càng tốt, mức
an toàn càng cao! Ngụy trang sao cho “địch không thể thấy ta mà ta thấy địch."
Và
các tân binh bắt đầu ngụy trang để tập trận.
Sau
cuộc tập trận, khi điểm danh, thiếu một anh chiến sĩ. Đồng đội chia nhau đi
tìm.
Cuối
cùng, họ cũng tìm ra anh lính “mất tích” đó. Nguyên nhân là anh tân bình này ngụy
trang quá sức kỹ, kỹ tới mức “Địch không thấy anh, mà anh cũng không thấy địch!"
Anh nằm “an toàn” trong cái ổ ngụy trang kín mít của anh, không thấy gì bên
ngoài, nên không hay biết cuộc tập trận đã kết thúc rồi!
Tỉnh
thức để tránh cạm bẫy kẻ thù và được vui mừng đón tiếp Chúa viếng thăm ta. Nếu
tỉnh thức chỉ để tránh được cạm bẫy kẻ thù mà không được đón tiếp Chúa, thì tỉnh
thức đó chẳng có ý nghĩa gì. Đó là một sự “an toàn” vô nghĩa!
11.
Sau đó thì sao?
Ngày
kia, một sinh viên Rôma tới gặp thánh Philipphê Nêri. Anh say sưa nói về kế hoạch
xây dựng tương lai đời mình. Anh sẽ học luật, anh có đủ khả năng và kế hoạch đạt
tiến sĩ luật.
Thánh
nhân hỏi anh: - Sau đó thì sao?
Chàng
trai hăng hái trả lời: - Con sẽ tham gia bào chữa những vụ kiện lớn và con sẽ
thành công.
-
Sau đó thì sao? Thánh nhân hỏi tiếp.
- Rồi
con nổi tiếng, con sống thoải mái hạnh phúc, giàu sang.
- Rồi
sao nữa? Nghe hỏi tiếp, người thanh niên hơi bối rối.
-
Dĩ nhiên rồi con cũng chết như mọi người.
Thánh
nhân vẫn tiếp tục câu hỏi cũ:
-
Sau đó thì sao? Con sẽ là gì khi xuất hiện trước phiên tòa cuối cùng? Con sẽ là
bị cáo và Thiên Chúa sẽ là thẩm phán tối cao?
Chàng
trai im lặng cúi đầu. Từ đó anh suy nghĩ nhiều về ý nghĩa cuộc đời.
12.
Tai điếc, mắt mù
Vào
thời Xuân Thu, khoảng 500 năm trước Chúa Giáng Sinh, vua nước Việt (một trong
nhiều nước tại Trung Quốc thời đó) tên là Câu Tiễn muốn đánh bại vua Ngô để phục
thù mối nhục lớn, nhưng Ngô là nước mạnh, còn Việt là nước yếu, vua nước Việt
biết mình không thể thắng Ngô bằng sức mạnh quân sự nên phải dùng những mưu kế
sau đây, cốt làm cho vua Ngô trở nên mê muội, mất tỉnh táo mà phải bại vong.
Thứ
nhất là tìm cách làm cho vua Ngô mê muội, chẳng còn tỉnh táo trước nguy cơ mất
nước.
Để
thực hiện được việc nầy, Câu Tiễn dâng cho vua Ngô nhiều gái đẹp, đặc biệt là
Tây Thi, được xem là phụ nữ đẹp nhất trong lịch sử Trung Quốc thời Xuân Thu, để
làm cho vua Ngô ngày đêm say đắm sắc đẹp và lạc thú mà quên lo việc nước.
Đồng
thời, dâng cho vua Ngô nhiều thợ giỏi và gỗ quý để vua Ngô xây dựng lâu đài thật
nguy nga tráng lệ, khiến cho ngân quỹ triều đình cạn kiệt, đồng thời lâu đài nầy
là nơi cuốn hút vua Ngô hưởng lạc mà bỏ bê công việc triều đình.
Thứ
hai là tìm cách làm cho vua bỏ ngoài tai những lời cảnh báo khôn ngoan của Ngũ
Viên là vị quan đại thần có lòng giúp vua giữ nước.
Để
thực hiện âm mưu nầy, Câu Tiễn mua chuộc một vị đại thần có tính xu nịnh trong
triều đình vua Ngô tên là Bá Hi, để ông nầy xui khiến vua Ngô đừng nghe lời can
gián sáng suốt và xây dựng của Ngũ Viên là vị quan trung thành cương trực, rồi
dần hồi, bức tử Ngũ Viên.
Lâm
vào diệu kế của Câu Tiễn, vua Ngô đâm ra mê đắm sắc đẹp của Tây Thi, ngày đêm
vui chơi hưởng lạc quên việc triều đình, lại nghe lời nịnh hót của Bá-hy mà giết
hại trung thần Ngũ Viên. Thế là từ đó, nhà vua không còn tỉnh táo để nhận ra
nguy cơ mất nước vào tay quân thù. Kết cục là vua Ngô bị Câu Tiễn đem quân đánh
bại và cuối cùng phải tự đâm vào cổ tự sát.
13.
Ba cách ngủ quên
Có
ba quan niệm dễ dàng tạo nên một thái độ tiêu cực trong cuộc đời:
Một
là cho rằng chết là hết, không còn gì nữa. Nếu quả thực mọi sự sẽ chấm dứt với
cái chết, nếu số phận người tốt kẻ xấu rồi sẽ như nhau cả, thì người ta có lý để
lập luận rằng: Hãy ăn uống, vui chơi, hưởng thụ giây phút hiện tại.
Hai
là tin vào thuyết định mệnh, nghĩa là cho rằng mọi sự đã được an bài sẵn và số
phận của mỗi người đã được định đoạt do các vị thần thánh.Nếu thế thì con người
chẳng cần làm gì nữa, chẳng cần cố gắng hy sinh hoặc sáng tạo.
Ba
là tin vào thuyết luân hồi, hết kiếp này qua kiếp khác. Nếu kiếp này chưa đạt hạnh
phúc thì ta còn có thể chờ kiếp sau đầu thai lại và tiếp tục xây dựng hạnh phúc.
Quan
niệm Kitô giáo về cuộc đời, về thời gian và về lịch sử rất khác với những quan
niệm trên. Đó là một quan niệm có tính biện chứng. Người Kitô hữu sống cuộc đời
hiện tại hết sức nghiêm chỉnh như thế là sẽ mãi mãi ở đây vì đó là thánh ý Chúa
và vì số phận của mình được định đoạt ngay trên cõi đời này, đồng thời họ lại
thanh thoát, tự do, sẵn sàng rời bỏ mọi sự bất cứ lúc nào Chúa gọi họ ra đi.
Quan niệm Kitô giáo là một quan niệm cho những con người trưởng thành. Bởi vì,
hãy tỉnh thức có nghĩa là hãy sống có trách nhiệm.
14.
Sắp sẵn.
Powell,
ông tổ của ngành hướng đạo, hồi còn là đại tá chỉ huy những cuộc chiến đấu tại
Âu Châu, lần kia đoàn quân của ông có một ngàn mà phải đương đầu với địch quân
những chín ngàn. Suốt trong 217 ngày đợi chờ được cứu viện, ông đã dùng chiến
thuật nghi binh.
Ở mặt
trận, ban ngày thỉnh thoảng ông cho nổ chỗ này chỗ khác mấy trái lựu đạn. Còn
ban đêm trong một vùng rộng lớn, ông cho thắp đèn sáng tại nhiều nơi, mục đích
là để đánh lừa đối phương, khiến chúng tin rằng ông có nhiều lính và hiện diện ở
khắp nơi, chớ có liều lĩnh mà tấn công. Khi viện binh tới, ông mới tấn công đối
phương và đã dành được thắng lợi.
Giữa
lúc chính phủ nước Anh định nâng ông lên cấp bậc thống tướng thì ông lại rút
lui, để rồi lập nên phong trào hướng đạo, huấn luyện các em thiếu nhi trở thành
những người hữu ích cho bản thân, gia đình và xã hội.
Mục
đích của hướng đạo là lúc nào cũng phải tỉnh thức và sẵn sàng để đương đầu với
mọi hoàn cảnh.
15.
Làm cho chủ và cho mình
Ngày
kia có một khách du lịch dừng chân trước một biệt thự rất sang trọng cạnh một hồ
nước trong xanh ở Thụy Sỹ, nhưng không phải trên con đường mà khách vãng cảnh
thường qua lại. Khách du lịch gõ vào hàng rào sắt, tức thì một cụ già coi vườn
ra mở cái cổng nặng nề vẫn đóng chặt. Sung sướng vì được thấy một người khách,
cụ dẫn ông tham quan cả một khu vườn rộng lớn. Người khách hỏi:
- Cụ ở đây bao lâu rồi?
-
Thưa ông, tôi ở đây đã được hai mươi bốn năm.
-
Chủ của cụ ít khi ngủ lại biệt thự này, có phải không? Cụ đã trông thấy ông ta
mấy lần rồi?
-
Tôi đã trông thấy ông ấy bốn lần. Lần cuối cùng cách đây đã mười hai năm.
-
Ông có viết thư cho cụ chăng?
-
Chẳng bao giờ.
-
Thế ai trả công cho cụ?
-
Người quản gia của ông.
-
Thế người quản gia này có năng đến đây không?
-
Tôi chưa hề thấy mặt ông. Ông ấy luôn liên lạc với tôi qua thư từ.
-
Thế thì ai hưởng sự đẹp đẽ này?
-
Trừ vợ tôi và tôi thì không ai hưởng hết.
- Cụ
à, tôi có cảm giác như là cụ coi sóc vườn này, sân hoa này, bãi cỏ này cách chu
đáo, như là ngày mai ông chủ cụ sẽ đến vậy!
- Ồ!
Thưa ông, tôi phải làm như chủ tôi phải đến ngày hôm nay, vâng thưa ông, ngày
hôm nay.
Vâng
chúng ta hãy sống như là chủ – Chúa của chúng ta đến với chúng ta ngay trong
ngày hôm nay. Nếu chúng ta tỉnh thức như thế thì chắc chắn chúng ta sẽ không phải
ngỡ ngàng và phần thưởng cho một người sẽ nằm trong tay chúng ta.
16.
Samson làm nô lệ
Samson
là vị thủ lãnh của dân Do thái. Anh có sức mạnh phi thường, quân Philitinh khiếp
sợ.
Ngày
kia, một con sư tử gấm bất thần tấn công, Samson xé xác nó với hai bàn tay dũng
mãnh. Có lần bị quân Philitinh vây chặt tư bề, Samson chộp lấy một chiếc xương
hàm của con lừa gần đó và quật chết rất nhiều đối thủ. Sức mạnh vô song của
Samson làm cho quân Philitinh phải khiếp đảm.
Không
thắng được Samson bằng sức mạnh, người Philitinh tìm cách tiêu diệt anh bằng mỹ
nhân kế. Nàng Đaliđa, một thiếu nữ Philitinh có nhan sắc tuyệt đẹp. Nàng đến với
Samson và đã chiếm lấy trái tim vị anh hùng. Đaliđa gạn hỏi: do đâu anh có được
sức mạnh phi thường? Samson tiết lộ bí mật, sức mạnh liên hệ đến mái tóc, khi
nào tóc bị cắt, sức lực sẽ không còn. Samson ngủ, Đaliđa lén cắt tóc rồi báo
tin. Quân Philitinh xông đến tóm lấy anh, xiềng lại bằng những sợi xích đồng.
Chúng tàn nhẫn khoét đôi mắt và bắt anh ngày ngày kéo cối xay như một con trâu
ngoan.
Một
Samson vạm vỡ với sức mạnh kinh hồn bạt vía, tay không quật ngã và xé xác con
sư tử gấm to lớn, một thủ lãnh bách chiến bách thắng từng làm cho quân
Philitinh phải kinh khiếp. Giờ đây, anh chỉ là một tù nhân mù loà, tay chân
mang xiềng xích, một tên nô lệ, ngày ngày cúi đầu làm thân trâu ngựa nhẫn nhục
thay trâu bò kéo cối xay! Than ôi! Một thời oanh liệt nay còn đâu!
Chỉ
vì không tỉnh táo trước kế mỹ nhân. Samson đã sa cạm bẫy và chịu hậu quả đau
thương.
Nhưng
rồi từ cái đầu bị cạo trọc, tóc ông lại mọc ra. Các vương hầu Phi-li-tinh họp lại
để long trọng tế thần Đa-gôn của chúng và ăn mừng. Chúng nói: "Thần của ta
đã trao vào tay ta tên Samson, kẻ thù của ta."
Khi
nhìn thấy ông, dân chúng reo hò tung hô thần của chúng và nói: "Thần của
ta đã trao vào tay ta tên Samson, kẻ thù của ta, kẻ tàn phá xứ sở ta, kẻ tăng
thêm số tử vong của ta."
Trong
khi lòng hả hê, chúng nói: "Hãy gọi Samson ra làm trò tiêu khiển cho chúng
ta! " Vậy chúng kêu ông Samson từ nhà tù đến; và ông làm trò tiêu khiển
trước mặt chúng. Rồi chúng đặt ông đứng giữa các cột. Bấy giờ ông Samson nói với
cậu thiếu niên đang dắt tay ông: "Cậu dẫn tôi đi và cho tôi sờ vào các cột
cái chống đỡ toà nhà, để tôi dựa lưng."
Toà
nhà lúc đó đầy chật đàn ông đàn bà. Tất cả các vương hầu Phi-li-tinh đều ở đó,
và trên sân thượng có khoảng ba ngàn đàn ông đàn bà đang coi ông Samson làm trò
tiêu khiển. Ông Samson kêu cầu Chúa và thưa: "Lạy Chúa là Chúa Thượng của
con, xin nhớ đến con và ban sức cho con lần này nữa thôi, ôi lạy Thiên Chúa, để
chỉ đánh một trận là con trả thù được quân Phi-li-tinh đã móc mắt con."
Bấy
giờ ông Samson rờ vào hai chiếc cột ở giữa, là những cột cái chống đỡ toà nhà,
và ông tì vào các cột ấy, tay mặt bên này, tay trái bên kia. Rồi ông Samson
nói: "Đành chết với bọn Phi-li-tinh vậy! " Đoạn ông dùng sức đẩy mạnh,
và toà nhà sụp đổ đè các vương hầu và tất cả dân chúng có mặt ở đó.
Thành
ra số người ông giết được khi ông chết lại đông hơn số người ông đã giết được
khi còn sống. Anh em ông và cả nhà cha ông xuống đưa ông về chôn cất giữa
Xo-rơ-a và Ét-ta-ôn trong phần mộ ông Ma-nô-ác, cha ông. Ông làm thủ lãnh
Ít-ra-en được hai mươi năm.
Mẹ Têrêxa Calcutta kể chuyện một cậu bé nhận đóng
vai ông chủ trọ trong hoạt cảnh Giáng sinh tại một khu nhà ổ chuột. Vai này phải
nói câu: “Xin lỗi, trong quán không còn phòng nào trống”, nhưng cậu bé thành thật
nói: “Con không thể nói như vậy với thánh Giuse đâu.” Một sơ phải cắt nghĩa rằng
đó chỉ là đóng kịch giả bộ thôi thì cậu bé mới đồng ý.
Đến lúc nhập vai, cậu bé lại nói rằng: “Trong quán
trọ không còn phòng nào trống, nhưng nếu ông muốn uống một chút, xin mời vào”
Một câu nói đơn sơ mà toát lên cả một lòng mến tinh
tuyền. Cuộc đời là một cuộc chọn lựa liên tục, mà mỗi ngày qua đi là một chọn lựa
không còn thay đổi được nữa; và dung mạo Đức Kitô ngày chung thẩm sẽ tuỳ thuộc
vào từng chọn lựa của tôi ở đây, và bây giờ.
Chọn lựa của Chúa là yêu tôi, và muốn tôi luôn sống
trong tình yêu Chúa: “Anh em hãy canh thức để được sẵn sàng.” Còn tôi?
18. Tỉnh thức và cầu nguyện
Cuộc đời của thánh Phanxicô Borgia, vị tổng quyền thứ
ba của dòng Tên là một trong muôn vàn gương sáng về thái độ tỉnh thức và cầu
nguyện.
Thánh nhân sinh năm 1510 tại Valenxia, Tây Ban Nha,
được chú là tổng giám mục thành Saragossa trực tiếp giáo dục. Từ nhỏ ngài muốn
sống ơn gọi tu trì, nhưng ý hướng tốt đẹp ấy sớm bị những thú vui và sự xa hoa
nơi cung đình vùi lấp. 19 tuổi Phanxicô kết hôn với Êlêanor Castrô, họ sống rất
hạnh phúc và sinh được tám người con. Ngài từng là cố vấn cho nhà vua, làm phó
vương Catalônia, là công tước xứ Ganđia và trưởng tộc dòng họ Borgia.
Năm 1539, trong lễ an táng hoàng hậu Isabella, khi
thấy hoàng hậu lúc còn sống rất xinh đẹp và đầy quyền lực, giờ đây là thân xác
bất động và đang thối rữa, Phanxicô đã suy nghĩ nhiều về cuộc sống, sự chết và
đời sống vĩnh cửu.
Đặc biệt khi người vợ yêu quý qua đời năm 1546,
Phanxicô Borgia buồn khổ cùng cực nên tìm an ủi trong lời cầu nguyện và các bí
tích. Năm sau ngài quyết định chia gia tài cho các con rồi gia nhập dòng Tên,
và được thụ phong linh mục năm 1550. Đời sống thánh thiện và lời giảng dạy tràn
đầy lửa yêu mến của Cha Phanxicô đã giúp ích cho rất nhiều người. Năm 1565,
ngài được chọn làm bề trên tổng quyền dòng Tên. Bảy năm trong sứ vụ nặng nề ấy,
ngài đã đem hết tài năng và nhiệt tâm để chu toàn, ngày 30/ 09/ 1572 ngài qua đời,
và được Đức Giáo Hoàng Clemente X tuyên phong hiển thánh năm 1671.
19. Nhận ra mình là ai
Cha Anthony de Mello là một linh mục dòng Tên, người
Ấn Độ. Cha rất nổi tiếng với những câu truyện có tính cách ẩn dụ về đời sống tu
đức. Năm 1992, cha xuất bản cuốn sách mang tựa đề “Thức Tỉnh.” Trong đó, cha đã
kể câu truyện ngụ ngôn như sau:
Ngày kia, một con sư tử đến gần một đàn cừu và nó rất
đỗi ngạc nhiên khi nhận ra ở giữa đàn cừu có một con sư tử. Con sư tử này vốn
được đàn cừu nuôi dưỡng từ khi còn bé. Nó cũng kêu be be và chạy quanh quẩn như
một chú cừu. Con sư tử “khách” tiến thẳng tới chỗ nó. Khi đối diện với sư tử thật,
chú sư tử “cừu” run lẩy bẩy, hết sức sợ hãi. Sư tử thật bảo nó: “Chú mày làm gì
ở giữa đàn cừu này?” Sư tử “cừu” trả lời ngay: “Tôi là một con cừu.” Sư tử thật
bảo nó: “Ồ, không phải thế đâu, chú mày hãy theo tao.” Thế là, nó đưa chú sư tử
“cừu” đến một ao nước và bảo: “Chú mày hãy nhìn đi nào!” Vừa trông thấy hình ảnh
mình phản chiếu trên mặt nước, sư tử “cừu” gầm lên một tiếng vang dội. Ngay lúc
đó, nó thức tỉnh và nhận ra nó chính là con sư tử dũng mãnh, chứ không phải là
chỉ là một con cừu nhát đảm.
20. Chết khát bên dòng sông
Cha Anthony de Mello có kể một câu chuyện lý thú về
những người nằm chết khát trên chiếc bè nằm lênh đênh ngoài khơi bờ biển
Bra-xin. Họ không hề hay biết nước biển ngay chỗ bè họ trôi là nước ngọt. Thật
vậy, dòng chảy của con sông mạnh đến nỗi nó tống ra biển xa đến hai dặm và nước
ngay chỗ họ vẫn là nước sông. Nhưng họ không hề hay biết. Cũng tương tự như vậy,
quanh chúng ta biết bao niềm vui hạnh phúc, yêu thương... phần lớn người ta chẳng
hay biết gì.”
Sống gần kề dòng sông ân sủng của Thiên Chúa nhưng rất
có thể chúng ta không nhận ra được điều đó, để rồi, trong đời sống thiêng
liêng, ta sống lây lất, dở sống dở chết. Mùa Vọng gióng lên hồi chuông để ta tỉnh
thức trong giờ Chúa đến bất chợt; trước mắt nó thúc giục ta tỉnh thức hầu nhận
ra vô vàn ơn huệ Thiên Chúa ban cho ta trong đời sống.
Những gì làm tôi nhận ra và không nhận ra ơn Chúa
ban trong đời sống?
21. Ngựa gỗ thành Troa
Truyện cổ Hy Lạp có kể chuyện người Hy Lạp, để chiếm
thành Troa, dùng kế dâng cho vua thành ấy một con ngựa gỗ khổng lồ. Nào ngờ
trong bụng con ngựa gỗ ấy chứa đầy quân lính. Nửa đêm toán lính chui ra, mở cửa
thành cho đại quân tiến vào chiếm thành. Ngày nay người ta dùng điển tích ấy -
gọi là “trojan” (trô-dân) - để đặt tên một thứ phần mềm máy tính nguỵ trang có
vẻ vô hại, nhưng một khi đột nhập vào hệ thống máy tính rồi, nó sẽ phá hoại dữ
liệu, đánh cắp thông tin máy chủ, tác hại khôn lường. Chúa Giê-su dùng hình ảnh
“người giữ cửa phải canh thức” có ý nhắc ta phải sẵn sàng đón Chúa đến bất cứ
lúc nào, và cũng để đề phòng kẻ trộm nhằm lúc bất ngờ nhất đào ngạch khoét
vách, lẻn vào căn nhà tâm hồn tác hại từ bên trong.
Thực trạng xã hội cho thấy người ta đã mở “cổng sau”
cho những “trojan” đột nhập và ngấm ngầm tác hại lên nếp sống của cá nhân, cộng
đoàn. Các công ty dám xả nước thải ra sông ra biển mà không áy náy vì đã từ
lâu, người ta vẫn “vô tư” quét rác rưởi ra đường phố hay xuống cống rãnh. Báo
đài dám đưa thông tin dối trá, nhà trường dám gian lận bài thi, giả bằng cấp,
vì đã từ lâu người ta cầu an hưởng thụ, không dám chấp nhận thách đố để sống
chân thật, công bằng.
Lương tâm là người giữ cửa tâm hồn bạn phải canh thức,
để không lẫn lộn coi điều xấu thành điều tốt. Để người giữ cửa tâm hồn của bạn
tỉnh thức cần có một nếp sống tiết độ và chuyên cần cầu nguyện.
Biển
Thước là thầy thuốc hay có tiếng thời Xuân Thu. Ông đến yết kiến Hoàn Hầu, tâu
rằng: ”Vua có bệnh trong bì phu, không chữa sợ đau nặng." Hoàn Hầu bảo:
”Ta vô bệnh." Biển Thước đi ra.
Mười
hôm sau, Biển Thước nói: ”Vua có bệnh ở gan ruột, không chữa mau, sau khó lòng."
Vua tỏ vẻ không bằng lòng.
Cách
mười hôm, ông lại vào, vừa thấy nhà vua liền chạy ra ngay. Hoàn Hầu gọi lại hỏi
thì ông tâu: ”Bệnh ở bì phu còn châm trích được, bệnh ở gan ruột còn thuốc
thang được, chứ bệnh đã vào xương tủy, thì không tài nào chữa được nữa. Bây giờ
bệnh nhà vua đã vào tới xương tủy, cho nên tôi không dám nói, mà phải ra ngay."
Sau đó Hoàn Hầu phát bệnh, không thầy nào chữa được nên qua đời.
Kẻ
thù nguy hiểm nhất cho sự sống đời đời nằm ở nơi những điều nguy hại có thể biết
mà không muốn biết hay sống như không biết. Vì thế mà Chúa đã cảnh báo trong
bài giảng cuối cùng: “nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã
thức, không để nó khoét vách nhà mình."
24.
Tỉnh thức là nhìn với cái nhìn của đức tin
Mẹ
của Bác Sĩ Ben Carson lớn lên trong hoàn cảnh nghèo nàn tồi tệ ở Detroit. Chồng
bà từ bỏ bà khi Ben tám tuổi. Bà thấy hai mẹ con bị kẹt trong một sự suy sụp về
luân lý và tinh thần của thế giới chung quanh. Nhưng thay vì tuyệt vọng, bà bám
víu lấy tia sáng đức tin nơi Thiên Chúa, sâu thẳm trong linh hồn của bà.
Tia
sáng đức tin đó đã đem cho bà sức mạnh để làm ba công việc ít lương cùng một
lúc để sống còn. Trong hoàn cảnh đó, bà tìm chút thời giờ để khích lệ Ben, bà
nói, “Con có thể trở nên bất cứ gì con muốn, nếu con tin rằng Chúa sẽ giúp con,
nếu con tự giúp chính mình.”
Được
khích lệ bởi lời của mẹ, Ben đã thi hành đúng như vậy. Ngày nay, Bác Sĩ Ben
Carson là một trong những bác sĩ não khoa hàng đầu quốc gia và cũng là tiếng
nói hy vọng hàng đầu của ngành y khoa này.
Nói
với các học sinh trung học ở trường cũ của ông, bác sĩ Ben nói: “Hãy nghĩ đến
điều vĩ đại! Hãy đặt tầm nhìn thật cao như ngọn Everest. Không ai được sinh ra
để thất bại.” (Câu chuyện Carson, trích từ Christopher News Notes, February
1993)
CNMV 1C – TÌNH THỨC VÀ CẦU NGUYỆN
LUÔN
Lời
Chúa: Lc 21, 25-28. 34-36
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời,
mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm
sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì
các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người
hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những điều đó bắt đầu xảy đến,
các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến.
Các
con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng
việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi
người sống trên mặt đất.
Vậy
các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy
đến và đứng vững trước mặt Con Người!"
TRUYỆN
KỂ
1.
Sa mạc trong tâm hồn
Lạy
Chúa, Con thường thấy mình không có giờ cầu nguyện, không có giờ đi vào sa mạc
để ở bên Chúa và trò chuyện với Ngài. Nhưng thật ra sa mạc ở sát bên con. Chỉ cần
một chút cố gắng của tình yêu là con có thể tạo ra sa mạc.
Mỗi
ngày có biết bao giây phút có thể gặp Chúa mà con đã bỏ mất: khi chờ một người
bạn, chờ đèn xanh ở ngã tư, chờ món hàng đang được gói; Khi lên cầu thang, khi
đến nơi làm việc, khi kẹt xe, khi cúp điện bất ngờ.
Thay
vì bực bội hay nóng ruột con lại thấy mình sống an bình trong sự hiện diện của
Chúa.
Lạy
Chúa, Những sa mạc ngắn ngủi hằng ngày giúp con tỉnh thức để nhạy cảm với ý
Chúa. Xin cho con yêu mến Chúa hơn để tìm ra những sa mạc mới và vui vẻ bước
vào.
2.
Tai họa và hy vọng
Bài
Tin Mừng nói đến ngày Chúa quang lâm, vừa xảy ra những tai họa, vừa đem lại nguồn
hy vọng bất diệt.
Thực
vậy cuộc sống của con người trên trái đất giống như đoàn người trên con tàu vĩ
đại Titanic dài 271 mét, rộng 28 mét, cao 22 mét, có 8 tầng lầu với đủ các tiện
nghi, có phố chợ, hồ tắm, sân chơi, rạp hát, vườn bông, khách sạn, con tàu chỉ
chở những nhân vật tai to mặt lớn: những ông hoàng, bà chúa, những đại phú gia.
Nó đi từ Southampton, hải cảng Anh quốc, vượt Đại Tây Dương để đến NewYork là
thành phố lớn nhất, giàu nhất thế giới thời đó. Họ tưởng đi trên con tàu đó sẽ
an toàn vững chắc như trên mặt đất, nhưng nó vừa khởi hành được mấy ngày thì đụng
vào băng sơn gãy đôi, chôn sống hơn 1.500 người vào ngày 14-04-1912.
Trái
đất này đối với vũ trụ bao la, nó còn nhỏ hơn con tàu Titanic đối với đại
dương, nó trôi nổi bồng bềnh trong không gian như con tàu trên sóng nước, có
ngày sẽ đụng vào tinh tú, băng thạch sẽ vỡ tan, chính trái đất cũng mang trong
mình những bệnh tật như: núi lửa, động đất, bão tố, lụt lội rồi chết rữa giống
như thân xác con người và muôn vật.
Lời
Chúa hôm nay báo động cho chúng ta biết sẽ có những tai họa kinh khủng khắp nơi
trong trời đất, cũng có những niềm hy vọng muôn thuở tuyệt vời cho những người
đang mong chờ Chúa đến.
3.
"Hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên"
Thời
Ðức quốc xã thế chiến II. Một thanh niên 17 tuổi bị giam, vượt ngục, bị bắt lại
và bị lên án tử, anh viết thư cho cha mình:
"Thưa
ba, con cảm thấy rất khó khi viết bức thư này, nhưng con phải báo cho ba hay là
tòa án quân sự đã tuyên cho con một bản án rất nặng. Xin Ba đọc thư này một
mình rồi sau đó tìm cách khéo léo kể lại cho má biết... Chỉ vài ngày nữa thôi,
lúc 5 giờ sáng thì sự việc sẽ xảy đến... và con sẽ về với Chúa...
Phải
chăng đó là một chuyến đi khủng khiếp? Tuy nhiên giờ đây con thấy mình rất gần
Chúa và con đang chuẩn bị chết... Con nghĩ điều đó thật là xấu đối với ba hơn
là đối với con. Vì con biết, con đã xưng hết mọi tội của con rồi. Bây giờ con rất
bình an..."
4.
Tỉnh thức và cầu nguyện
Trong
cuộc chiến khốc liệt giữa Pháp và Ðức năm 1870, tại một bệnh viện Pháp, có một
thương binh vốn là sĩ quan người Ðức đang bị bắt làm tù binh. Một hôm, bác sĩ
cho biết anh sẽ không qua khỏi vì vết thương ngày càng trầm trọng. Viên sĩ quan
tỏ ra bất cần một cách ngạo nghễ và can đảm chờ đợi cái chết.
Chị
y tá nữ tu Dòng Nữ Tử Bác ái Vinh Sơn vốn chăm sóc anh từ lâu, ân cần ngỏ ý
khuyên anh nên xin gặp một vị linh mục để dọn mình trước khi chết. Anh nhận
mình là người Công giáo nhưng đã bỏ đạo từ lâu, nên một mực từ chối lời đề nghị
chân thành này.
Chị
nữ tu vẫn dịu dàng nói:
- Nếu
vậy, tôi sẽ cầu nguyện xin Chúa cho ông mau hồi tâm trở về với Chúa.
Viên
sĩ quan mỉa mai:
-
Chỉ cực nhọc vô ích mà thôi
Chị
nữ tu vẫn kiên nhẫn thuyết phục:
-
Thú thật với ông, đã "16 năm" nay, các chị em trong Dòng vẫn luôn cầu
nguyện cho một người trở về cùng Chúa.
Viên
sĩ quan ngạc nhiên:
-
16 năm rồi cơ à? Thế người được các chị cầu nguyện chắc "phải là ân nhân của
nhà Dòng?
Chị
nữ tu trả lời:
-
Cách đây rất lâu, mẹ tôi là người hầu cho một nữ Nam tước người Ðức. Trong một
lần tôi tới thăm mẹ, bà Nam tước biết tôi là nữ tu nên đã xin cầu nguyện cho
con trai bà. Anh đã mất đức tin, sống phóng túng, đam mê danh vọng và quyền lực.
Ðã 16 năm qua, tôi và cả Nhà Dòng vẫn luôn cầu nguyện cho anh.
Người
sĩ quan gặng hỏi:
-
Thế mẹ của chị có phải là bà Béate không?
Chị
nữ tu vô càng ngạc nhiên:
-
Nhưng tại sao ông lại biết tên mẹ tôi?
Ðến
đây thì viên sĩ quan nghẹn ngào thú nhận:
-
Thưa chị, tôi chính là Nam tước Charles, con trai của nữ Nam tước mà mẹ chị đã
tận tuỵ hầu hạ bấy lâu. Chính tôi là người mà chị và Nhà Dòng đã cầu nguyện cho
suốt 16 năm qua.
5.
Những cây trường xuân
Trong
quyển "The legend of the Bells", John Shea kể rằng sau khi tạo dựng
các giống cây, Thiên Chúa muốn ban một món quà cho mỗi giống. Nhưng trước đó
Ngài muốn làm một cuộc thử nghiệm để xem cây nào xứng đáng nhận món quà nào.
Ngài bảo "Ta muốn các ngươi luôn tỉnh thức suốt 7 đêm.”
Những
cây trẻ rất nôn nao nhận quà nên thức suốt đêm chẳng có gì khó khăn. Tuy nhiên
sang đêm thứ hai thì điều ấy không còn dễ nữa. Hoàng hôn vừa buông xuống là một
số cây đã ngủ thiếp đi. Ðêm thứ ba, số cây ngủ tăng thêm. Và cứ thế. Qua khỏi
đêm thứ bảy thì chỉ còn một số cây còn thức, đó là cây tuyết tùng, cây thông,
cây vân sam, cây linh sam, cây nhựa ruồi và cây nguyệt quế.
Thiên
Chúa rất vui lòng với những cây này. Ngài phán: "Các ngươi đã kiên trì một
cách rất đáng khen. Ta ban cho các ngươi món quà đặc biệt là được xanh tươi mãi
mãi. Các ngươi sẽ là những cây bảo vệ cho cả khu rừng. Ngay cả khi giá lạnh mùa
đông làm cho những cây khác phải chết thì các ngươi và con cháu các ngươi vẫn sống
và mãi mãi xanh tươi.”
Từ
đó trở đi, người ta gọi những cây ấy là những cây trường xuân.
Kitô
hữu phải là những cây trường xuân giữa khu rừng nhân loại. Thế giới chung quanh
có thể ngủ vùi hoặc dần dà khô héo, nhưng kitô hữu vẫn tỉnh táo, vẫn thức, vẫn
mọc lên những chồi xanh tốt bằng cuộc sống chứng nhân của mình. Nói cách khác,
kitô hữu vẫn yêu thương giữa một thế giới hận thù, vẫn sống hòa thuận giữa một
thế giới đấu tranh, vẫn giữ vững tâm hồn chính trực giữa một thế giới dối gian,
vẫn hy vọng giữa một thế giới tuyệt vọng, vẫn tỏa ánh sáng rạng ngời giữa một
thế giới tối tăm.
Nói
một cách khác nữa, họ là những người thợ, những giáo viên, những y sĩ, những
cha mẹ, những con cái v.v. lúc nào cũng tận tuỵ chu toàn trách nhiệm của mình.
Họ chính là những cây trường xuân.
6.
Kinh nghiệm về sự chết.
Một
vị đan tu tên là Mésique. Bất trung với ơn gọi, ông đã sống một cuộc đời không
mấy tốt đẹp trong nhiều năm. Đột nhiên ông bị bệnh nặng. Thiên Chúa cho ông rơi
vào tình trạng hôn mê trong một tiếng đồng hồ. Khi tỉnh dậy ông không nói gì về
những điều đã cảm thấy trong thời gian một tiếng đồng hồ ấy. Ông xin người ta
cho ông ở một mình trong một căn phòng xây kín, và ông đã ở đó suốt 12 năm trời.
Hằng
ngày, qua một cửa sổ nhỏ người ta đem đến cho ông một chút bánh mì và nước uống.
Một hôm người ta tưởng ông đã chết nên đập phòng đi vào thì thấy ông đang hấp hối.
Trước mặt các tu sĩ đang vây quanh, ông nói với họ những lời cuối cùng trước
khi ra đi:
-
Anh em thân mến của tôi, người nào luôn khắc ghi vào tâm khảm ý tưởng về sự chết,
người đó sẽ không bao giờ phạm tội.
Nói
thế rồi, ông tắt thở, để cho mọi người một ấn tượng sâu đậm.
7.
Tận thế ở Đại hàn.
Hồi
cuối tháng 10 năm 1992, hàng chục ngàn người Hàn quốc thuộc một giáo phái đã tụ
tập tại hơn 150 nhà thờ ở nhiều nơi trong nước để chuẩn bị đón Chúa Kitô tái
lâm và phán xét thế gian.
Theo
giới lãnh đạo của giáo phái này: ngày tận thế sẽ xẩy ra vào đúng nửa đêm
28.10.1992. Các tín đồ của giáo phái này trưng nhiều biểu ngữ với câu: ”Chúng
ta sẽ gặp lại nhau trên trời.” Trong khi đó, hàng ngàn cảnh sát Hàn quốc được đặt
trong tình trạng báo động trên toàn quốc để phòng ngừa một cuộc tự sát tập thể,
nếu tận thế không xẩy ra. Một cuộc tự sát như thế có thể xẩy đến, bởi vì nhiều
người đã bỏ tài sản, gia đình để chuẩn bị cho biến cố này.
Thế
nhưng, cuối cùng tận thế đã không xẩy ra, nên giáo phái này đã tự động giải
tán.
8.
Chiếc tầu Titanic.
Con
tầu vĩ đại Titanic dài 271 mét, rộng 28 mét, cao 22 mét, có 8 tầng lầu với đủ
các tiện nghi, có phố chợ, hồ tắm, sân chơi, rạp hát, vườn bông, khách sạn. Con
tầu chỉ chở những nhân vật tai to mặt lớn: những ông hoàng, bà chúa, những đại
phú gia. Nó đi từ Southampton, hải cảng Anh quốc, vượt Đại tây dương để đến New
York là thành phố lớn nhất, giầu nhất thế giới hồi đó. Họ tưởng đi trên con tầu
đó sẽ an toàn vững chắc như trên mặt đất, nhưng nó vừa khởi hành được mấy ngày
thì đụng vào băng sơn gẫy đôi chôn sống hơn 1500 người vào ngày 14.04.1912 (Vũ
khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, C, tr 6).
Cái
chết thường đến đột ngột bất ngờ. Trong bài Tin mừng này, Đức Giêsu đã nói rõ
điều ấy: ”Các con hãy tỉnh thức vì các con con không biết ngày nào giờ nào.”
Đành rằng có nhiều người bệnh một thời gian khá lâu rồi mới chết, nhưng chẳng
ai ngờ mình sẽ chết vào giờ này, ngày này.
Tuy
bất ngờ nhưng không phải hoàn toàn bất ngờ, vì Chúa thương chúng ta, Chúa luôn
ban cho chúng ta nhiều tín hiệu báo trước trước cái chết để chúng ta kịp chuẩn
bị. Ví dụ: mỗi khi chúng ta thấy một người khác chết, đó là một tín hiệu; mỗi
khi chải đầu thấy mái tóc mình bạc hơn… Đó là những tín hiệu mà Chúa gửi trước
cho chúng ta vì Chúa thương chúng ta. Vì thế chúng ta đừng giả mù, giả điếc trước
những tín hiệu tình thương ấy. Tốt nhất là đón nhận chúng, nhận ra ý nghĩa của
chúng và chuẩn bị.
9.
Những câu hỏi phải trả lời
Sống
ở trên đời, mỗi người phải đặt ra những thắc mắc, những ưu tư và phải tìm ra
câu giải đáp. Ưu tư của chúng ta là khi rời bỏ thế gian này rồi sẽ ra sao?
Chính vì vậy cổ nhân đã đưa ra cho chúng ta 3 câu hỏi và phải tìm ra câu giải
đáp:
+
Nhân sinh hà tại: con người bởi đâu mà đến?
+ Tại
thế hà như: đến để làm gì?
+ Hậu
thế như hà: sau này sẽ ra sao?
-
Con người bởi đâu mà đến? Thánh kinh viết: ”Ta hãy dựng nên loài người giống
hình ảnh Ta”(St 1,26). Do đó chúng ta biết con người do Thiên Chúa mà đến.
- Đến
để làm gì? Thánh kinh đáp: ”Con phải kính mến Thiên Chúa hết lòng và thương yêu
đồng loại như mình.” Do đó, chúng ta lại biết con nguời đến để phụng thờ Thiên
Chúa và giúp đỡ lẫn nhau.
-
Sau này sẽ đi đâu? Thánh kinh lại minh chứng: ”Ai nấy sẽ về nhà đời đời của
mình”(Kn 12,5) và ở đó sẽ được thưởng theo công trạng mình đã lập được”(x. Mt
10,19; Lc 10,7).
10.
Hãy học với thần chết
Có
câu chuyện về một người tên Cataneda tìm thầy học đạo, chàng đến với đạo sư Don
Juan. Đạo sư chỉ cho anh một bí quyết: học với thần chết.
Dĩ
nhiên, chàng đệ tử không muốn nghĩ đến sự chết, anh chỉ muốn học hỏi những kiến
thức kỳ lạ, những pháp thuật, nên đạo sư tỏ ra khó chịu, bèn bảo anh: ”Con chớ
nên bắt chước mọi người cứ nghĩ rằng mình chẳng bao giờ chết mà đòi làm những
việc vĩ đại, kinh thiên động địa, vá trời lấp biển mà nên ý thức rằng Thần Chết
là vị khôn ngoan nhất mà con sẽ gặp.
11.
Hãy đứng thẳng
Mới
đây các nhà khảo cổ đã tìm ra một thành phố cổ xưa đã bị chôn vùi trong lòng đất
hàng ngàn năm, do núi phun lửa làm cho nham thạch bất ngờ ập xuống thành phố. Rất
nhiều người đã bị chôn vùi trong lớp nham thạch nóng bỏng và chết lập tức.
Nhiều
xác chết đã được đào thấy bị chết khi đang ở trong những tư thế khác nhau: có
người chết khi đang ngủ trên giường, người khác chết đang khi ngồi bàn ăn uống.
Đặc biệt người ta đào được xác của một người lính bị chết trong tư thế đang đứng
gác và đang cầm một cây giáo dài trong tay.
12.
Ham mê ăn uống.
Câu
chuyện ngụ ngôn kể về một con chim ưng. Đang khi đói, nó bay qua một nông trại,
nhìn xuống thấy biết bao nhiêu giun dế. Nó thèm lắm, nhưng lại sợ chết nên nó
phải hạ cánh bay xuống sát mặt đất của nông trại để thương lượng với ông nông
dân.
Con
chim ưng sẵn sàng đổi cho ông cứ mỗi cái lông lấy một con giun. Vì háu ăn, con
chim đã ăn quá nhiều giun, và như thế nó cũng mất đi rất nhiều lông cánh tới độ
nó không còn có thể bay lên cao được nữa. Dù nó nhận biết rằng thân phận của nó
là phải bay trên bầu trời cao, nhưng những con giun đã làm cho nó mê muội rồi
quên đi khung trời cao xanh ở trên, mà chỉ biết tới những con giun dưới đất.
13.
Hãy tỉnh thức và ngẩng cao đầu
Trong
cuốn "Giai thoại về những cái chuông" (The legend of the Bells) John
Shea có kể một câu chuyện như sau:
Khi
Thiên Chúa dựng nên cây cối, Người ban cho mỗi loài cây một ân huệ. Nhưng ban đầu,
khi Người đưa ra một cuộc tranh luận, để xác định xem ân huệ nào có lợi ích nhất.
Người nói với chúng: “Ta muốn các ngươi phải thức tỉnh và tiếp tục coi sóc cả mặt
đất trong vòng bảy đêm.”
Những
thân cây còn non rất phấn khởi, vì được Người tin tưởng giao phó cho một công
việc quan trọng như vậy, đến nỗi trong đêm đầu tiên, chúng nhận thấy việc canh
thức không có gì là khó khăn cả. Tuy nhiên, trong đêm thứ hai, thì việc đó
không còn dễ dàng nữa, và trước khi đến lúc rạng đông, một số cây đã lăn ra ngủ.
Trong đêm thứ ba, các thân cây thì thầm nhắc nhở nhau cố gắng giữ mình, để khỏi
bị cám dỗ của cơn ngủ. Mặc dù vậy, điều này chứng tỏ là quá sức đối với một số
cây. Trong đêm thứ tư, lại có thêm vài cây ngã gục.
Đến
đêm thứ bảy, những thân cây duy nhất còn tỉnh thức là cây tuyết tùng, cây
thông, cây vân sam, cây linh sam, cây nhựa ruồi và cây nguyệt quế.
Thiên
Chúa nói với chúng: “sức chịu đựng của các ngươi thật tuyệt vời! Các ngươi sẽ
được ban cho một ân huệ là giữ được mầu xanh tươi mãi mãi. Các ngươi sẽ trở
thành những kẻ canh gác khu rừng. Ngay cả trong mùa đông dường như mang lại cảnh
chết chóc, thì các ngươi vẫn bảo vệ được sự sống trên những cành cây của các
ngươi.” Kể từ đó, tất cả các cây cối và thực vật đều bị rụng lá và ngủ trong suốt
mùa đông, trong khi đó các cây kể trên vẫn thường xanh tươi ngay cả trong mùa
đông.
14.
Bài học trong 36 tiếng
Cách
đây mấy năm, tại Hollywood, có một tài tử điện ảnh đột nhiên ngã bệnh. Sau khi
khám cho anh, bác sĩ riêng đã thẳng thắn nói cho chàng tài tử biết: “Tình trạng
sức khoẻ của anh bi đát lắm! Chúng tôi cần phải thực hiện một cuộc giải phẫu
kéo dài 36 tiếng đồng hồ mới may ra cứu sống anh được.”
Về
sau, chàng tài tử ấy thực sự thú nhận: “Trong 36 tiếng đồng hồ ấy, tôi đã học
được nhiều điều hơn 36 năm trước đó của tôi, và tôi đã cảm nghiệm được niềm vui
mà trước đó tôi chưa bao giờ cảm nghiệm được. Tôi khám phá ra rằng tôi chẳng hề
sợ chết vì trước đó tôi có thói quen mỗi ngày cầu nguyện với Chúa Giêsu và bây
giờ khi phút giây cam go xảy đến, tôi cảm nhận được kết quả của lời cầu nguyện ấy.
Chính lúc đó tôi mới khám phá ra rằng nhờ những lần tâm sự, nói chuyện hằng
ngày với Chúa Giêsu truớc đó, mà giữa Ngài và tôi chẳng xa lạ gì nhau, chúng
tôi đã trở nên đôi bạn chí thân.”
15.
Ngày Cánh Chung
Trong
khi một số nhà tiên tri loan báo ngày tận thế là ngày 21/12/2012, Đức Giáo
hoàng Benedictô thứ 16 trong thánh lễ hôm 18/11/2012 tại Vatican, đã kêu gọi
các tín đồ công giáo không nên dừng lại ở “sự tò mò về thời điểm và các lời dự
báo về ngày tận thế.”
Từ
cửa số bao lơn nhìn ra quảng trường Thánh Phêrô, Đức Giáo hoàng Benedictô 16 đã
rao giảng bài Phúc âm trong ngày, trong đó Chúa Giêsu nói với các thánh tông đồ
về ngày Ngài lại xuống thế gian vào lúc tận thế, khi “bầu trời trở nên âm u” và
“các vì sao rơi rụng xuống từ trời.” Theo Đức Giáo hoàng, thì Chúa Giêsu không
hành động như một “nhà tiên tri” mô tả “ngày tận thế”, mà ngược lại muốn giải
thoát vĩnh viễn các môn đệ và dân chúng thoát khỏi các lời tiên đoán về thời điểm
thế giới sẽ bị tận diệt
Đức
Giáo hoàng Benedictô 16 giải thích, Chúa Giêsu “muốn mang lại cho các tín đồ
chiếc chìa khóa cho sự suy ngẫm sâu sắc hơn, đúng bản chất hơn, và nhất là chỉ
ra con đường phải đi hôm nay và ngày mai để bước vào cuộc sống vĩnh hằng.” Ngài
nói tiếp: “Tất cả rồi sẽ trôi qua, nhưng lời của Chúa không hề thay đổi.”
16.
Gieo gì gặt nấy
Có
một bác thợ xây đến tuổi nghỉ hưu, nói với người chủ những dự định của mình về
cuộc sống nhàn nhã khi nghỉ hưu. Người chủ rất buồn khi người thợ giỏi của mình
xin nghỉ, nhưng ông cũng đề nghị bác thợ xây giúp ông xây một căn nhà cuối cùng
trước khi về nghỉ.B ác thợ xây đồng ý cách miễn cưỡng và nghĩ rằng “mình đã xin
về hưu mà ông chủ còn muốn vét cạn sức lực của mình.” Bác làm việc cẩu thả, chọn
những chất liệu kém chất lượng và chỉ muốn mau chóng làm cho xong việc để còn về
hưu.
Căn
nhà được xây lên cách vội vàng, bác thợ xây đến gặp ông chủ để bàn giao. Bác thợ
xây gởi lại chìa khóa nhà cho ông chủ: "Thưa ông, đây là chìa khóa căn nhà
ông yêu cầu tôi xây dựng.” Nhưng ông chủ mỉm cười đôn hậu nói: "Đây là
ngôi nhà của bác, tôi tặng bác để tỏ lòng biết ơn vì sự trung thành và tận tâm
của bác cho công ty của tôi.” Người thợ xây hết sức bất ngờ và cảm thấy hổ thẹn.
Nếu như bác biết rằng mình đang xây ngôi nhà cho chính mình thì bác đã làm hoàn
toàn khác. Còn bây giờ, bác phải sống trong ngôi nhà xấu xí mà bác vừa xây.
17.
Thiếu tỉnh thức
Theo
kinh thánh, Sam-son là vị thủ lãnh có sức mạnh phi thường, trở thành nỗi kinh
hoàng cho quân Phi-li-tinh.
Ngày
nọ, với hai bàn tay không, Sam-son anh dũng chống cự với một con sư tử gấm và
xé xác nó ra khi nó bất thần lao vào tấn công ông.
Có
lần bị quân Phi-li-tinh vây chặt, trong tay không một tấc sắt, Sam-son chộp
ngay một chiếc xương hàm của con lừa và dùng vật nầy như khí giới chống lại
quân thù và quật chết rất nhiều đối thủ dám khiêu khích ông.
Sức
mạnh của Sam-son làm cho quân Phi-li-tinh vô cùng khiếp sợ. Khi không thắng được
Sam-son bằng sức mạnh, người Phi-li-tinh tìm cách diệt ông bằng mưu kế.
Một
chiếc bẫy được giương ra: đó là nàng Đa-li-đa, một thiếu nữ người Phi-li-tinh
xinh đẹp và lôi cuốn. Cô nàng đến với Sam-son và chiếm lấy trái tim anh. Đaliđa
gạn hỏi Sam-son do đâu mà anh có sức mạnh kinh hồn. Được Sam-son tiết lộ cho biết
sức mạnh của anh có liên hệ đến mái tóc, khi nào tóc bị cắt đi thì sức lực anh
không còn.
Biết
thế, Đa-li-đa lén cắt tóc Sam-son trong khi anh ngủ rồi báo tin cho các thủ
lĩnh Phi-li-tinh. Quân Phi-li-tinh xông đến, quật ngã anh, xiềng anh lại bằng
những sợi xích đồng, tàn nhẫn khoét luôn cả hai mắt anh và bắt anh ngày ngày
kéo cối xay quay như một con trâu ngoan ngoãn.
18.
Không ai biết được ngày mai
Người
Việt Nam có câu "nước tới chân mới nhảy" thì quá trễ. Người Miền
Trung và cao nguyên trung phần Việt Nam đã quá thấm thía câu nói này qua cơn lũ
lịch sử vào ngày 11 tháng 10 vừa qua. Bất ngờ đột ngột giông bão và cơn lũ đổ về
đã khiến cho hàng trăm người thiệt mạng, hàng ngàn ngôi nhà bị xóa sổ, thậm chí
cả một xóm Trường ở Phú Yên bị xóa sổ hoàn toàn. Cuộc đời có qúa nhiều cái đột
ngột bất ngờ đã lấy đi biết bao tính mạng của con người. Bất ngờ xảy ra đối với
con người trong mọi hoàn cảnh như: tai nạn giao thông, tai nạn nghề nghiệp, tai
nạn bởi thiên tai. Với biết bao cái chết đột ngột, bất ngờ khiến chúng ta cảm
thấy cuộc đời thật mong manh, kiếp người sao quá mỏng dòn. Cuộc đời đến rồi đi
dường như không theo tính toán của con người. Con người dường như bất lực trước
định mệnh sống còn của cá nhân mình.
Người
ta kể rằng: Có một tai nạn máy bay đã xảy ra và trong đám hành khách bị thiệt mạng,
người ta tìm thấy một anh chàng văn sĩ. Anh chàng văn sĩ này, trước đó mấy tiếng
đồng hồ, đã ba hoa hăng say nói với một người bạn tại phi trường Rôma về những
tiến bộ của khoa học và kỹ thuật. Anh chàng văn sĩ ấy nói: "Này bạn, bạn
thấy trí óc con người tuyệt diệu đấy chứ... Sáng nay, tôi đã uống cà phê tại Bá
Linh. Bây giờ là buổi trưa, tôi với bạn dùng cơm tại Rôma. Và tối nay, tôi sẽ
đi nghe nhạc tại Paris.” Nhưng sự thật đã xảy ra khác hẳn. Tối nay chàng văn sĩ
ấy đã xuất hiện trước tòa án tối cao của Thiên Chúa, thay vì đi nghe nhạc tại một
nhà hàng nổi tiếng của Paris.
19.
Giúp cho người là giúp cho mình
Ngày
xưa có một ông cụ già tên là Lót, ông cố cứu kinh thành Sô-đô-ma khỏi bị Chúa
tiêu diệt bằng cách mỗi ngày đi gặp người dân trong thành để cảnh cáo và kêu gọi
mọi người tin Chúa, thờ Chúa cho khỏi bị tiêu diệt. Không ai chịu nghe lời ông
cụ mà còn chế diễu là mê tín dị đoan nữa. Ông cụ vẫn bền chí đi hết nhà này
sang nhà nọ để kêu gọi họ thống hối ăn năn. Thấy chuyện vô tích sự của cụ, nên
có người hỏi:
- Tại
sao cụ nói cho họ biết làm gì cho mệt. Họ có nghe cụ và thay đổi gì đâu? Nói với
họ cũng như nước đổ đầu vịt!
Ông
cụ bình tĩnh đáp:
-
Có lẽ tôi không thuyết phục nổi ai, cũng không thay đổi được ai đâu. Nhưng làm
như thế cũng là giúp tôi, đừng lao vào cuộc sống sa đoạ như họ.
20.
Những nụ cười đáng buồn
Có
ba xác chết đều có bộ mặt đang mỉm cười được đặt tại Trung tâm điều tra hình sự.
Ông quản lý đang trả lời nhà báo về nguyên nhân của những cái chết.
-
Đây là ông John. Ông ta chết ngay sau khi biết tin mình trúng xổ số 10 tờ độc đắc.
Ông
ta bước đến xác thứ hai:
-
Đây là Geogre. Ông ta chết khi nghe tin toà án cho ly dị vợ mà không phải chia
gia sản được hưởng toàn bộ.
Đến
cái xác thứ ba:
-
Đây là Tom. Ông ta chết vì bị sét đánh.
-
Hai người trước thì có thể hiểu được nụ cười, còn ông này cười cái gì?
- Ồ,
ông này say rượu, khi thấy tia sáng của sét đánh xuống mà ông ta cứ ngỡ mình
đang được chụp hình nên vẫn cứ cười!
21.
Đừng để đến ngày mai
Cách
đây hơn 20 năm, có một trận động đất dữ dội xảy ra tại California Hoa kỳ. Một
cô gái trẻ bị vùi lấp trong đống đổ nát, và người ta lập tức chuyển ngay cô vào
bệnh viện. Trước đây cô ta sống trong một gia đình khá đạo đức, nhưng từ khi lấy
chồng, sự giầu có đã làm cô gái lạc mất định hướng cuộc đời mình. Cô ta sống
phóng túng như một kẻ vô thần. Nằm trên giường cấp cứu, cô gái cố gắng thu gom
hết tàn lực cuối cùng để hỏi bác sĩ: “Liệu tôi có qua khỏi hay tôi còn sống được
bao nhiêu năm nữa?” Bác sĩ thành thật nói với cô ta rằng ông cố gắng lắm chỉ
giúp cô sống thêm được vài tiếng đồng hồ nữa thôi. Nghe nói thế, cô gái ôm mặt
khóc nức nở và đau đớn thốt lên: “ Ôi muộn quá rồi.” Có lẽ rất nhiều người
trong chúng ta cũng sẽ phải thốt lên câu này khi đối diện trước cái chết.
Chúng
ta nhớ lại giai thoại về tướng quân Archais của Hy Lạp năm xưa. Ông là một vị
tướng giỏi, đánh trận nào thắng trận đó. Sau một trận thắng lớn, ông khao quân
lính một bữa tiệc thịnh soạn. Giữa cuộc vui, một sứ giả đem đến cho ông bức thư
khẩn và báo tin là ông đang bị mưu sát để biết cách đề phòng. Thay vì mở thư ra
đọc và cảnh giác, ông nhét thư vào túi, vẫn tiếp tục nhậu nhẹt và tự nhủ: “
Thôi để mai hãy tính.” Ngay đêm đó, ông bị giết chết. Câu chuyện gợi nhắc lời
Chúa nói trong bài Tin mừng hôm nay: “Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra
nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất
thần chụp xuống đầu anh em” (Lc 21, 34).
Thánh
Gioan Bosco vẫn tổ chức tĩnh tâm hàng tháng cho các học sinh và Ngài gọi đó là
‘ngày dọn mình chết lành’. Đây không phải là một động thái mang tính tâm lý,
nhưng là một việc thực hành trong đức tin. Chúa Giêsu đã nói “ Anh em không biết
ngày nào giờ nào con Người sẽ đến.” (Mt 24, 24)
22.
Mười Điều Tâm Niệm cho Hôm Nay của Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII
1.
Hôm nay, tôi sẽ gắng sống suốt ngày một cách tươi vui tích cực mà không ước ao
phải giải quyết mọi vấn nạn của đời tôi một lúc.
2.
Hôm nay, tôi sẽ hết sức để ý đến dung diện của mình: tôi sẽ ăn mặc đoan trang;
tôi sẽ không lớn tiếng; tôi sẽ giữ thái độ lịch duyệt; tôi sẽ không phê phán
ai; tôi sẽ không đòi cải thiện hay kỷ luật bất cứ ai trừ bản thân tôi.
3.
Hôm nay, tôi sẽ sống hạnh phúc trong sự xác tín rằng tôi được dựng nên để hạnh
phúc không phải chỉ trong đời sau nhưng ngay cả trong đời này.
4.
Hôm nay, tôi sẽ thích ứng với các hoàn cảnh mà không đòi mọi hoàn cảnh phải
thích hợp với các ước muốn của tôi.
5.
Hôm nay, tôi sẽ dành ra 10 phút để đọc sách tốt, luôn nhớ rằng như đồ ăn cần
cho sự sống thể xác, việc đọc sách tốt cũng cần cho đời sống linh hồn như vậy.
6.
Hôm nay, tôi sẽ làm một việc tốt và sẽ không nói với bất cứ ai về việc ấy.
7.
Hôm nay, tôi sẽ làm ít nhất một việc mà tôi không thích; và nếu tôi cảm thấy bị
đau đớn điều gì, tôi sẽ cố không để ai nhận thấy.
8.
Hôm nay, tôi sẽ xếp chương trình cho chính tôi. Có thể tôi sẽ không theo sát từng
chữ, nhưng tôi vẫn phải có chương trình. Và tôi sẽ đề phòng hai điều tai hại: hấp
tấp và không quyết định.
9.
Hôm nay, tôi sẽ tin chắc rằng dù cuộc sống có thế nào, sự quan phòng tốt lành của
Chúa vẫn săn sóc tôi như không có ai khác trên thế giới này.
10.
Hôm nay, tôi sẽ không sợ chi. Đặc biệt, tôi sẽ không sợ thưởng thức những gì
xinh đẹp và tin vào sự thiện.
23.
Chờ Chúa đến
Vào
Mùa vọng năm 2008, cha Gioan Nguyễn Tươi có dịp đi vào những vùng sâu, và viếng
thăm những người nghèo. Cha kể:
Tôi
đến thăm một bé trai 9 tuổi bị bệnh ung thư máu, em đã nằm trên giường bệnh nhiều
năm, thân hình tàn tạ chỉ còn da bọc xương, em đang chờ đợi cái chết sẽ xẩy đến
trong một thời gian ngắn nữa thôi. Lúc ấy, tôi thầm nghĩ trong lòng, tôi sẽ
giúp đỡ và đưa em đi bệnh viện để em có thể sống được lâu hơn, vì nhà em quá
nghèo, đến nỗi gia đình không có tiền để mua một hộp sữa cho em uống.
Tôi
hỏi người mẹ có cho em ăn gì chưa? Chị ta trả lời: "Hôm nay, nhà em không
còn gì để cho cháu ăn" Nghe lời chị ta nói, lòng tôi bị thắt lại. Ngôi nhà
thì rách nát, tả tơi, ngay cả chỗ em nằm cũng không được bảo đảm chen nắng che
mưa. Khi nhìn thấy hoàn cảnh đứa bé, tôi xúc động trước nỗi bất hạnh của em.
Tôi
đến cầm lấy tay và đỡ em ngồi dậy. Tôi nhìn đôi mắt của em, hai dòng nước mắt
chảy xuống trên đôi má gầy gò da bọc xương, và lúc đó tôi cũng không thể cầm được
nước mắt của mình. Và tôi cũng không thể nói được điều gì với em, nhưng tôi tin
chắc rằng, em sẽ hiểu được tình cảm của tôi qua ánh mắt yêu thương dành cho em.
Trước khi từ giã em ra về, tôi có hứa với em rằng, tôi sẽ trở lại để đưa em đi
bệnh viện.
Đó
là điều mong ước nhỏ nhoi của tôi. Thế nhưng, điều ước mơ đó, tôi chưa thực hiện
được, thì em đã vĩnh viễn ra đi, lòng tôi đau khắc khi lời hứa tôi chưa thực hiện
được trong đời mục vụ. Mỗi lần Mùa Vọng đến lại gợi lại trong tôi một kỷ niệm
buồn, nhưng tôi tin rằng em đã về với Chúa trên thiêng đàng và mong rằng em sẽ
hiểu và cầu nguyện cho tôi.
Mùa
vọng là cơ hội tốt để cho chúng ta nhìn lại thời gian qua, sống với giá trị hiện
tại, và hướng tới tương lai vĩnh cửu.
24.
Thế nào là tỉnh thức?
Có
một anh thanh niên, một hôm, gặp thần chết đến với mình. Anh sợ hãi, nài nỉ thần
chết đừng hại nhưng hãy cho anh ta sống thêm một thời gian. Thần chết đồng ý.
Nhưng không hiểu sao hôm ấy thần chết lại dễ tính quá. Sau khi để cho anh được
sống, thần chết còn hứa, nếu sau này, khi nào thần chết đến gọi anh ra khỏi cuộc
đời, thần chết sẽ báo trước để anh chuẩn bị. Anh mừng rỡ và cám ơn thần chết rối
rít.
Thế
là từ đó, biết rằng cái chết của mình sẽ được báo trước, anh thanh niên bắt đầu
một cuộc sống rất thoải mái. Anh dung túng cho bản thân mình đến mức đêm ngày
ngụp lặn trong tội lỗi, bất kể Thiên Chúa, bỏ mặc vợ con, mải miết đắm chìm
trong những thú vui đồi bại. Không những thế, khi vợ con lên tiếng phản đối,
anh còn tặng lại cho họ những trận đòn chí tử…
Rồi
một ngày, anh bị một cơn bạo bệnh bất ngờ ập đến. Mọi người đều lo lắng cho
anh. Ai cũng sợ anh phải chết. Riêng anh thanh niên vẫn thản nhiên vì mãi cho đến
lúc này, lúc mà anh trở nên yếu sức vô cùng, anh vẫn chưa thấy thần chết nói
gì. Và đúng như thế. Sau cơn bạo bệnh, anh nhanh chóng lấy lại sức khỏe như
chưa hề có bệnh tật gì. Anh càng chắc mẫm rằng, ngày tận số của mình vẫn còn
dài. Từ đó anh càng lao thân như điên như dại vào vũng bùng thối tha nhưng đối
với anh, nó thật êm ái.
Lần
khác, anh cùng vợ mình đang ngồi trên một toa xe lửa. Vì quá tủi buồn cho bản
thân và cô đơn trong đời sống vợ chồng, vợ anh đã nhảy khỏi xe lửa trước mặt
anh. Các bánh xe của đoàn tàu thản nhiên lăn trên thân thể của chị thật kinh
hoàng. Bất giác làm anh rùng mình khiếp sợ. Nhưng giây phút chứng kiến cảnh tượng
đó mau chóng biến tan. Không những anh vẫn thản nhiên sống, mà còn xem đó là cơ
hội để thoát khỏi sự ràng buộc của vợ. Vợ anh chết, chứ thần chết có nói gì với
anh đâu!
Một
lần khác, anh lại bị một tai nạn khi đang đi đường. Anh ngất xỉu, máu me đầy
người, nằm mê man, không hề biết gì. Đưa anh vào bệnh viện mà mọi người chẳng
còn chút hy vọng nào cho sự sống của anh. Nhưng thần chết vẫn chưa đến, vẫn
chưa báo trước điều gì. Và anh đã tỉnh lại. Lại thêm một lần, anh thầm cám ơn
thần chết, vì ông đã không phản bội lời hứa của chính mình. Cuộc sống của anh lại
bắt đầu và tiếp diễn.
Nhưng
thật lạ lùng. Một hôm, khi anh vẫn đang là người khỏe mạnh, vẫn đang sống cuộc
sống trác táng của mình, chính lúc ấy, anh lại gặp thần chết. Một lần nữa, thần
chết viếng thăm anh. Anh lo sợ quá sức, bủn rủn tay chân. Dường như đất dưới
chân anh đang quay cuồng. Tâm trí anh hoàn toàn sụp đổ. Thần chết mỗi lúc một đến
gần hơn. Ông cho biết, hôm nay ông sẽ cất mạng sống của anh. Anh van lạy thần
chết một cách tuyệt vọng và đớn đau. Anh trách móc thần chết đã quên lời hứa,
đã không báo trước giờ chết của anh.
Nhưng
thần chết rất bình tỉnh, từ tốn nói với anh: “Ta đã báo cho ngươi biết trước giờ
chết của ngươi, không phải một nhưng đã nhiều lần. Ngươi đâu có nghe ta, vì thế
hôm nay người đừng van xin gì hết. Đã đến lúc ngươi phải theo ta.” Anh thanh
niên vẫn tìm cách kéo dài sự sống: “Nhưng thưa thần chết, tôi đâu có bao giờ
nghe thấy ông nói gì với tôi?” “Ngươi đừng cố viện lý do. Qua những lần ngươi
đau nặng, và qua chính cái chết tang thương của vợ ngươi, ta đã báo cho ngươi
biết. Chính cuộc sống, sự đau khổ, bệnh tật, cái chết của bản thân và của mọi
người xung quanh là bài học kinh nghiệm quý giá cho ngươi học lấy, đó chính là
sự nhắc nhở của ta dành cho ngưoi. Nhưng ngươi vẫn không nghe, vẫn cứng đầu, vẫn
cố tình ở lỳ trong tội của ngươi. Vì thế hôm nay ngươi phải đền tội.” Và thần
chết tiến tới lôi anh đi trong khi lòng anh run sợ…
25.
Sẵn sàng
Ngày
kia Thánh Luy Gonzaga còn chơi với bạn bè, thình lình cha bề trên đến tập họp tất
cả lại và hỏi thử: “Giả sử như chúng con đang chơi mà Chúa đến báo cho chúng
con biết chúng con chỉ còn sống 5-10 phút nữa thôi, thì chúng con sẽ làm gì?”
Bấy
giờ mọi người bỗng trở nên căng thẳng. Người thứ nhất trả lời: “Con sẽ đi gặp
cha linh hướng” Người thứ hai nói:”Con sẽ vào nhà thờ cầu nguyện trước Nhà Tạm.”
Riêng
Luy vẫn bình thản trả lời: “Thưa cha, con sẽ tiếp tục chơi.”
26.
Người quản gia trung thành.
Tại
Thụy sĩ, có một vườn hoa tuyệt đẹp, đủ loại hoa, đủ màu sắc. Nằm giữa vườn là một
tòa nhà tráng lệ. Nhìn vườn hoa với cảnh phối trí, cắt tỉa, uốn nắn… ai cũng phải
công nhận đã có một sự chăm sóc kỹ lưỡng, kèm theo một óc thẩm mỹ hiếm có của
người chủ vườn. Một du khách đi qua đây, thoáng nhìn ông đã thấy như say mê. Giữa
lúc đó, người làm vườn bước ra. Chủ khách chào hỏi lẫn nhau. Rồi từ chuyện hoa
cỏ, cách chăm bón, trồng tỉa, sự phối hợp màu sắc… câu chuyện đi đến chỗ thân
tình.
Du
khách hỏi: “Xin lỗi cụ, cụ ở đây được bao lâu rồi?”- “Khoảng 40 năm rồi” – “Tôi
đoán, có lẽ ông chủ của cụ rất sành về nghề cảnh, chắc giờ này ông có nhà?” –
“Ông ta không ở đây, thỉnh thoảng mới ghé qua đây thôi” – “Ông có thư từ gì với
cụ không?” – “Không, ông ta bận lắm” – “Ông không về cũng không thư từ, thì ai
trả lương cho cụ?” – “Hàng tháng tôi chỉ nhận được ngân phiếu từ ông ta để chi
phí mọi sự cho khu vườn này” – “Thế tội gì cụ phải chăm sóc kỹ lưỡng thế này,
ông chủ có mấy khi đến thưởng ngoạn đâu?” – “Tôi thì lại không nghĩ thế, mình
là một gia nhân được chủ tín nhiệm trao phó việc bảo quản khu vườn này, mình phải
tận tụy chứ lúc nào ông về cũng được, ông sẽ hài lòng với công việc của tôi.
Hơn nữa, khi làm đẹp khu vườn cho chủ, chính tôi cũng được thưởng ngoạn cảnh đẹp
do chính tay mình làm nên.”
Người
gia nhân trên đây thật đáng ca tụng. Ông làm việc không vì sợ nhưng vì yêu, làm
việc với một tinh thần trách nhiệm. Ông coi việc của chủ như việc của mình nên
làm việc hết tấm lòng. Ông thực là một gia nhân tốt, một quản lý trung thành.
27.
Tinh thần cầu nguyện
Cha
Anthony de Mello, giảng viên nổi tiếng người Ấn Độ kể:
Một
hôm con trai của Giáo chủ đạo Bà hai bên Ấn Độ được mời vào một gia đình khá giả.
Bà chủ nhà vốn có lòng hiếu khách, trổ tài nấu ăn cho vui lòng khách quý.
Tiếc
thay khi dọn cơm lên, bà khiêm tốn xin lỗi khách, vì cái mùi khen khét của các
món ăn. Bà phân trần:
-
Vì muốn bữa cơm thật ngon nên trong khi nấu nướng, tôi lo cầu nguyện nên quên
chú tâm vào việc nấu ăn.
Vị
khách mỉm cười đáp:
-
Việc cầu nguyện là điều rất cần và rất tốt. Nhưng lần sau khi làm bếp, bà hãy cầu
nguyện với quyển sách dạy nấu ăn hơn là cuốn Kinh Thánh.
28.
Đùa cợt với chuyện đời đời
Nước
Mỹ này có nhiều tờ báo nối tiếng nhưng bên cạnh cũng chẳng thiếu những tờ lá cải
đăng tin giật gân để thỏa tính tò mò của độc giả. thí dụ một tờ báo Mỹ đã đăng
cái tin sau đây: "Ngày 20 tháng 6 năm 1997 quân đội Mỹ khám phá ra 1 đĩa
bay bị đâm nhào xuống vùng sa mạc New Mexico. Họ lôi ra 1 người hành tinh từ
trong đĩa bay và bí mật đưa về Washington DC để thẩm vấn.
“Người
hành tinh này rất thông minh, gấp 500 lần trí thông minh của con người. Hắn ta
học tiếng Mỹ trong vòng 24 giờ là có thể nói lưu loát. Hắn ta sống trong một
hành tinh rất xa trái đất. Dân tộc của hắn cũng là những thụ tạo Chúa dựng nên
nhưng họ cũng ham thích giầu có, quyền lực và phạm tội xác thịt nên dù bị Chúa
cảnh cáo nhưng dân tộc hắn vẫn cứ xúc phạm tới Chúa.
“Người
hành tinh này nói Thiên Chúa nổi giận với các thụ tạo khắp mọi nơi chứ không
riêng gì trái đất. Và Chúa đã hủy diệt 4,000 hành tinh rồi, trái đất này sẽ là
kế tiếp. Tin cuối cùng người hành tnh này cho biết là ngày 11 tháng 1 năm 2000
trái đất này sẽ bùng cháy và bị phá hủy hoàn toàn.”
Và
có nhiều người đã tin.
29.
Hãy tỉnh thức
Một
ngày trong tháng 12, cậu Gary Schneider 16 tuổi và hai người bạn lên đường để
leo núi Mt.Hood dự tính trong vòng 4 ngày.
Lên
được 9.000 bộ (tức gần 3 km), ba cậu bé bị một cơn bão tuyết có lẫn đá thổi tới
và vùi lấp. Chẳng bao lâu tuyết đã ngập khỏi đầu các cậu. Các cậu bèn đào hầm
chui vào đống tuyết để thoát khỏi những luồng gió lạnh buốt thổi tới và để chờ
đợi cho qua trận bão tuyết.
Mười
một ngày sau, trận bão tuyết vẫn còn tiếp tục thổi dữ tợn. Các túi dùng để chui
vào ngủ của các cậu đã bị ướt và đông cứng lại. Thức ăn dự trù chỉ còn đủ cho mỗi
người mỗi ngày được hai muỗng bột làm bánh. Nguồn an ủi duy nhất của các cậu
bây giờ là cuốn Thánh kinh gọn nhỏ mà một cậu đã mang theo trong túi hành
trang.
Các
cậu mở sách Thánh Kinh và đọc mỗi ngày tám tiếng. Đúng là một cảnh tượng ngộ
nghĩnh: trong một cái hầm đào trong tuyết rộng 5 bộ vuông (chưa đầy 1m2), có ba
cậu bé mới mười mấy tuổi đầu đang ngồi chồm hổm trên những cái túi ngủ đọc
sách. Chỉ có một chút ánh sáng mờ ảo phản chiếu từ cái lỗ hầm nho nhỏ ở phía
trên.
Tại
đó, ba cậu tụm lại với nhau hết giờ này tới giờ khác, ngày này qua ngày khác,
cùng nhau lắng nghe Lời Chúa bất chấp tiếng gió hú bên trên.
Cuốn
Thánh Vịnh dường như là cuốn nói hay nhất về tình trạng hiện tại của các cậu.
Đavid có viết một vài bài khi ông bị lâm vào những tình trạng không khác gì các
cậu; đói, cô đơn, không biết chuyện gì sắp xẩy đến, chỉ còn biết tin tưởng ở
Chúa.
Nếu
có ai cứu giúp, thì người đó chỉ có thể là Thiên Chúa. Chờ đợi như thế không phải
chuyện dễ. Các cậu chỉ còn biết cầu nguyện, hy vọng cơn bão tuyết sẽ chấm dứt
và sẽ có người tới cứu giúp.
Cuối
cùng, vào ngày thứ 16, bầu trời trong sáng trở lại, các cậu bò ra khỏi hầm bằng
tuyết của mình. Qua cơn ngặt nghèo ấy các cậu trở thành yếu đuối, và ra khỏi hầm
các cậu chỉ có thể bước đi được một vài bước. Ngày hôm sau có một nhóm người cứu
trợ bắt gặp các cậu trong tình trạng như thế. Cuối cùng cơn thử thách khiến các
cậu phải chờ đợi lâu dài đó đã chấm dứt.
30.
Hãy nhìn đường
Ít
năm trước đây, một tài xế xe buýt thuộc bang Oklahoma đạt kỷ lục xuất sắc.
Trong 23 năm, anh lái xe buýt trên 1.500.000 km không gây một tai nạn nào. Khi
được hỏi làm sao anh đạt được kỷ lục ấy, anh trả lời đơn giản: "Hãy nhìn
đường"
Bài
Tin mừng hôm nay cho một lời khuyên tương tự "Hãy tỉnh thức luôn.”
31.
Tưởng mình tỉnh thức mà coi thường dịp tội
Ngày
xưa có một thanh niên tính tình hiền lành, luôn ăn ở hiếu thảo với cha mẹ, và rất
yêu thương vợ mình. Một hôm, một con quỷ đã hiện ra và cám dỗ anh ta phạm tội.
Quỷ
cho anh được quyền chọn làm một trong ba điều xấu: Một là chửi mắng cha mẹ. Hai
là giết chết cô vợ thân yêu. Ba là uống rượu. Bấy giờ chàng thanh niên liền suy
nghĩ như sau: “Chửi mắng cha mẹ là bất hiếu, nên ta quyết không làm. Giết chết
người vợ thân ỵêu là bất nghĩa, ta cũng không thể làm được. Chỉ có uống rượu là
ta có thể làm được thôi, vì uống rượu đâu phải là điều quá xấu xa!”
Thế
là anh ta chọn uống rượu. Quỷ liền sai người cung cấp cho anh ta đủ các thứ rượu
ngon trên đời. Lúc đầu chàng thanh niên còn uống hạn chế mỗi bữa một ly nhỏ,
nên không có điều gì xảy ra. Nhưng dần dần việc uống rượu trở thành thói quen,
mỗi bữa anh ta phải tăng "đô" lên và uống gấp nhiều lần mới thấy
"phê.” Cuối cùng, anh đã trở thành một tên bợm nhậu: lúc nào cũng say xỉn!
Một
hôm, anh ta say đến nỗi không biết trời trăng gì nữa. Trong cơn say, anh ta đập
bể tất cả chén bát và vứt mọi thứ đồ đạc trong nhà ra đường. Bị cha mẹ ngăn cản
rầy la, anh ta liền to tiếng cãi lại và buông ra những lời thô tục xúc phạm đến
cha mẹ. Cô vợ thấy chồng vô lễ và bất hiếu như vậy liền chạy tới khuyên can liền
bị anh đâm một nhát dao khiến cô ngã lăn ra chết. Thế là từ việc uống rượu tưởng
chừng vô hại lúc đầu, về sau đã trở nên nguyên nhân dẫn đến hai tội ác lớn lao
là bất hiếu xúc phạm cha mẹ, và bất nghĩa giết người vợ thân yêu của mình.
32.
Giấc ngủ của người vô thần.
Một
chế độ chính trị ổn định, một nền kinh tế phát triển, một hệ thống giáo dục vững
mạnh, một gia đình hạnh phúc... là thành công. Đó là quan niệm chung của con
người thế kỷ 21 này, hay nói rõ hơn là quan niệm của những người không tin vào
thượng Đế.
Thế
nhưng, đó là sự thành công trong một giấc ngủ say. Một lý tưởng sống rất tầm
thường, một thái độ đang chối bỏ sự thật. Người vô thần cho rằng tất cả những
gì họ làm là cho con người. Họ cố gắng rất nhiều, nỗ lực rất nhiều. Lẽ ra họ phải
được coi là những người tỉnh táo và sáng suốt hơn bất kỳ ai. Tại sao cho rằng họ
đang ngủ say?
Rõ
ràng một người duy trì một chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, gia đình ổn định,
là những người có năng lực. Tôi dám khẳng định họ có khả năng lên kế hoạch, dự
phóng rất tốt về tương lai trong 5 năm hay 10 năm. Tôi biết rõ họ chuẩn bị cho
những kế hoạch đó rất kỹ lưỡng, chu đáo. Tôi tin rằng họ sẽ thành công. Thế
nhưng, một biến cố bất ngờ về sự ra đi ngày mai của họ. Một sự thật mà họ không
tin, không muốn nghĩ đến. Và giả có nghĩ đến thì cũng không dự đoán được. Vậy
đương nhiên là không có chuẩn bị gì cho ngày thế mạt đó.
Đó
phải chăng là một giấc ngủ say của cuộc đời?
33.
Tỉnh thức và đề phòng
Chúa
Giêsu mời gọi chúng ta tỉnh thức và cầu nguyện, tức là Ngài muốn chúng ta phải
sẵn sàng luôn trong mọi hoàn cảnh và tình huống, bởi vì:
-
Có những người tỉnh thức nhưng không đề phòng, đó là những người ăn thua đủ bên
canh bạc thâu đêm.
-
Có người tỉnh thức nhưng không đề phòng, đó là những người đang say đắm trong
đam mê xác thịt, thân xác thì thức để chờ đợi cơn khát vọng của nhục dục, nhưng
tâm hồn thì đã ngủ mê trong tội lỗi.
-
Có người tỉnh thức nhưng không đề phòng cảnh giác, đó là những người kiêu ngạo,
họ tỉnh thức trong kiến thức hạn hẹp của mình khi ai đó phê bình góp ý cho việc
làm của mình, nhưng tâm hồn thì đã thoả mãn trong sự đắc thắng của mình...
Người
Kitô hữu không thức tỉnh để ăn thua với canh bạc, vì đó là chuyện của con cái tối
tăm; người Kitô hữu cũng không tỉnh thức để chờ đợi cuộc nhậu thâu đêm. Nhưng
người Kitô hữu tỉnh thức để chờ đợi ngày sum họp với Chúa Giêsu, Đấng đã và
đang đến trong cuộc sống của họ...
34.
Tỉnh thức
Có
một bà già nóng tính, đi trên một chuyến tàu lửa. Khi xe đang xuống dốc, bà liền
hỏi bác tài công:
-
Chúng ta có thể dừng lại được không?
Bác
tài công trả lời ngay:
-
Được chứ, chúng tôi có chiếc thắng điện mà.
Bà
già chưa lấy làm thỏa mãn, nên hỏi tiếp:
-
Nhưng nếu chiếc thắng điện không ăn, thì bác có thể dừng lại được không?
Bác
tài công vui vẻ trả lời:
-
Được chứ, chúng tôi còn chiếc thắng tay nữa.
Bà
già liền nói:
- Lỡ
chiếc thắng tay cũng không ăn thì sao?
Bác
tài công vẫn không mất kiên nhẫn:
-
Chúng tôi còn một chiếc thắng đặc biệt dành cho những trường hợp khẩn cấp.
Bà
già vẫn không an tâm, nên hỏi:
- Nếu
cả chiếc thắng đặc biệt này cũng không ăn, thì số phận chúng ta sẽ ra sao?
Bác
tài công tỏ vẻ bực bội:
- Nếu
chiếc thắng đặc biệt này mà không ăn, thì một số người trong chúng ta sẽ lên
thiên đàng, còn một số người khác sẽ xuống hỏa ngục.
Thực
vậy, qua đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ với mỗi người rằng: Mỗi
ngày qua đi là một bước chúng ta tiến dần đến cái chết, để rồi tới một lúc nào
đó, chúng ta sẽ phải ra trước tòa án tối cao mà tính sổ cuộc đời với Chúa. Liệu
mỗi người chúng ta có sẵn sàng cho phiên tòa định mệnh này hay chưa?
35.
Hãy nên một với Chúa
Một
linh hồn kia tới trước của thiên đàng, vừa ngơ ngác, lại vừa sợ hãi, nhưng cũng
đưa tay ra và gõ. Khi được hỏi là ai, linh hồn ấy đã trả lời:
- Lạy
Chúa, con đấy ạ.
Bỗng
một tiếp đáp lại: - Nếu ngươi là con, thì ngươi chưa sẵn sàng để vào thiên
đàng.
Trở
lại trần gian, linh hồn ấy lo ăn chay cầu nguyện, hãm mình phạt xác. Cũng trong
thời gian này, linh hồn ấy học hỏi và biết được rằng trong ngày phán xét, Chúa
sẽ hỏi: - Ngươi có mang hình ảnh Ta trong tâm hồn ngươi hay không?
Ngày
kia, linh hồn ấy cũng lên tới của thiên đàng và khi nghe tiếng hỏi: - Ai đó?
Linh
hồn ấy đã thưa lên: - Chúa đấy.
Lập
tức có tiếng vọng lại: - Hỡi đầy tớ trung thành và khôn ngoan, hãy vào lãnh lấy
phần thưởng của ngươi.
36.
Chuẩn bị cho sự sống đời đời
Chúng
ta lấy câu chuyện của Tom Anderson ở Bernardsville, NJ làm ví dụ. Tom mướn một
căn phòng tại một bãi biển khi anh đi nghỉ hè. Khi anh lái chiếc xe ra biển với
người vợ, anh đã tự làm một lời hứa trịnh trọng rằng trong hai tuần này, anh sẽ
cố gắng để làm một người chồng tốt.
Trong
hai tuần đó, anh đã không gọi điện thoại về hãng, hãm lại cái lưỡi của anh khi
anh muốn nói những lời bực tức. Trong hai tuần đó, Tom là người suy nghĩ chín
chắn, dễ thương, và biết quan tâm đến người khác.
Vợ
của Tom nhận ra điều khác thường đó nên tối cuối của hai tuần nghỉ, chị nhìn thẳng
vào anh một cách âu yếm và gương mặt đượm một nỗi lo âu. Thấy thế, anh hỏi chị:
"Em ơi, chuyện gì vậy?"
Nước
mắt từ từ trào ra trên má, chị đáp: "Có phải anh biết điều gì đó mà em
không biết?"
"Em
nói như vậy có nghĩa gì?" anh hỏi lại.
"Thì,"
chị trả lời, "tuần trước khi em đi gặp bác sĩ để khám tổng quát. Xin anh
hãy nói sự thật cho em biết đi. Có phải ông bác sĩ đã nói với anh là em có chuyện
gì phải không? Có phải ông đã nói là em sắp chết? Có phải vì lý do đó mà anh đã
đối xử rất tử tế với em?"
Tom
đã lăn ra cười. Đặt vòng tay vào lưng vợ, Tom trả lời: "Em ơi, em không chết
đâu! Chỉ là vì bây giờ anh mới bắt đầu sống."
37.
Thế giới mong Chúa đến
Ngày
03/2/1994, trong bài diễn văn tại Bữa Điểm tâm Cầu nguyện tại Washington, DC.,
Mẹ Têrêxa nói: “Tôi ngạc nhiên khi thấy tại phương Tây có rất nhiều bạn trẻ
nghiện ngập ma túy. Và tôi thử tìm hiểu nguyên do tại sao như vậy trong khi các
bạn trẻ phương Tây có đầy đủ vật chất hơn các bạn trẻ phương Đông. Câu trả lời
là bởi vì chẳng có ai trong gia đình tiếp nhận họ (…) cha mẹ thường quá bận bịu,
không dành thời giờ cho con cái, thậm chí có khi cha mẹ vẫn chưa chịu kết hôn
hay đã hủy bỏ hôn ước của mình. Vì thế, những đứa trẻ đó lang thang trên đường
phố và sa vào ma túy hay những thứ khác.”
Vâng,
Thế giới bất ổn vì thiếu vắng tình yêu. Thiên Chúa là tình yêu, và tình yêu bền
vững của Chúa là chỗ dựa vững chắc cho mọi người, cách riêng là các kitô hữu.
Yêu như Chúa yêu cũng là quy luật sống mang lại hạnh phúc không bao giờ chấm dứt
cho nhân loại hôm nay. Hôm nay và hơn lúc nào hết, thế giới cần đến sự hiện diện
của Thiên Chúa tình yêu.
Vâng,
phương thuốc cứu chữa nhân loại trong mọi thời đại là sự công chính của Chúa:
“Xin dẫn con đi theo đường chân lý của Ngài và bảo ban dạy dỗ, vì chính Ngài là
Thiên Chúa cứu độ con.” (Tv 25,5), là tình yêu vị tha đến quên mình của Chúa
dành cho mọi người, và mọi người phải dành cho nhau: “Xin Chúa cho tình thương
của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết”(1Tx
3,12)
Thiên
Chúa tình yêu đang ở đâu trong đời sống tôi? Đó là câu hỏi cần được trả lời nếu
tôi thấy cuộc đời là chán ngắt và có nhiều chuyện phải bồn chồn, lo lắng.
38.
Dọn dẹp đồ đạc trên tàu chìm?
Đêm
15.04.1912, tàu Titanic đang chạy trên vùng Bắc Đại Tây Dương thì đụng vào một
tảng băng, con tàu lâm nguy và bị đắm, hơn 1.500 người thiệt mạng. Đó là một trong
những tai nạn đường biển khủng khiếp nhất trong lịch sử từ trước tới nay.
Cách
đây vài năm, có một tạp chí đã nhắc lại thảm hoạ này và nêu ra cho độc giả một
câu hỏi nghe lạ tai mang đầy tính châm biếm: "Lúc tàu Titanic đang chìm, nếu
chúng ta có mặt ở đó, liệu chúng ta có còn tiếp tục dọn dẹp bàn ghế trên tàu
không?"
Thoạt
tiên ai cũng tự nhủ: "Câu hỏi này mới khôi hài làm sao!, vì ngay lúc còi hụ
báo tàu đang chìm thì người có tâm trí bình thường; ai mà lo đi thu xếp bàn ghế?
Người có chút tỉnh táo thì ai lại có thể phớt lờ tiếng kêu la của đám người sắp
chết đuối, để mải mê lo dọn dẹp bàn ghế!"
Tuy
nhiên, cứ tiếp tục đọc bài báo đó, chúng ta sẽ hiểu được tại sao tác giả lại
nêu lên câu hỏi kỳ quặc trên, để rồi đột nhiên chúng ta sẽ tự hỏi chính mình
"Khi chiếc tàu đang chìm xuống như thế, biết đâu chừng mình lại tiếp tục dọn
dẹp bàn ghế? Chẳng hạn như mình vẫn cứ mải mê lo những chuyện vật chất đời này
đến nỗi bỏ bê cả những việc thiêng liêng đạo đức của mình? Hay mình cứ miệt mài
kiếm sống đến nỗi chả còn đầu óc để chú ý đến cùng đích cuộc sống là gì nữa?
Hay mình đã quá đắm mình trong cuộc sống đến nỗi quên mất lý do tại sao Chúa đã
trao ban cuộc sống ấy cho mình?
"Khi
chiếc tàu đang chìm, liệu chúng ta có mải mê lo thu xếp đồ đạc trên tàu mà quên
mất mình sắp chết đến nơi chăng?"
Câu
hỏi đó trùng hợp một cách lạ lùng với câu hỏi mà Giáo Hội muốn nêu ra cho chúng
ta trong Mùa Vọng này. Cả ba bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay đều kêu gọi chúng
ta tự vấn "Liệu chúng ta có tiếp tục mải mê thu xếp đồ đạc mà quên mất
nguy hiểm là chiếc tàu đang chìm không? Chúng ta có quá bận rộn với cuộc sống
này đến nỗi quên rằng mục đích cuộc sống này là để chuẩn bị cho cuộc sống mai
sau không?"
39.
hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn
Nông
dân hằng ước sao lắm nước mưa nhiều ngay sau khi cây giống hạ thổ. Rồi
khi cây mọc lên và đâm chồi nảy lộc, họ lại mong cho mưa nắng thuận
hòa. Lý do là muốn cho rễ cây cắm sâu vào lòng đất để tìm nguồn
nước, chứ không bò lan trên mặt đất. Rễ cái của cây nếu không tìm
được mặt nước ngầm thì chỉ khô héo khi nắng mùa hè tràn tới, vì
lúc đó chẳng còn cách nào để hút nước.
Đời
sống cầu nguyện của chúng ta cũng vậy. Thiên Chúa thường cho chúng ta
một buổi đầu tốt đẹp. Thế rồi, Ngài mặc cho khô hạn kéo tới nhằm
tôi luyện rễ cây tinh thần của chúng ta cho đạt tới mức tối hậu của
đức tin, chứ không để cho rễ cây tinh thần nằm ở mức cảnh giác.
Tại
sao những người cầu nguyện phải lấy việc trau dồi đức tin hơn là cảm
giác, làm nhiệm vụ quan trọng chủ yếu?
Chính
khi người cầu nguyện cảm thấy rối bời và trái tim trở nên chai đá,
thì cũng là lúc tình yêu thuần khiết và lời cầu nguyện được thể
hiện. (Thomas Merton)
THỨ HAI - NIỀM
TIN ĐÍCH THỰC
Lời
Chúa: Mt 8, 5-11
Khi
ấy, Chúa Giêsu vào thành Capharnaum, thì có một viên đại đội trưởng đến thưa
Chúa rằng: "Lạy Thầy, thằng nhỏ nhà tôi đau nằm ở nhà, nó bị tê liệt và
đau đớn lắm!" Chúa Giêsu phán bảo ông rằng: "Tôi sẽ đến chữa nó."
Nhưng viên đại đội trưởng thưa Người rằng: "Lạy Thầy, tôi không đáng được
Thầy vào dưới mái nhà tôi, nhưng xin Thầy chỉ phán một lời, thì thằng nhỏ của
tôi sẽ lành mạnh. Vì chưng, cũng như tôi chỉ là người ở dưới quyền, nhưng tôi
cũng có những người lính thuộc hạ, tôi bảo người này đi thì anh đi; tôi bảo người
kia đến thì anh đến; tôi bảo gia nhân làm cái này thì nó làm!"
Nghe
vậy, Chúa Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người: "Quả thật, Ta bảo
các ngươi, Ta không thấy một lòng tin mạnh mẽ như vậy trong Israel. Ta cũng nói
cho các ngươi biết rằng: nhiều người từ phương đông và phương tây sẽ đến dự tiệc
cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong nước trời. Còn con cái trong nước sẽ bị vứt
vào nơi tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng."
TRUYỆN
KỂ
1. Lòng
tin mạnh mẽ
Trong
quân đội Roma, danh từ "bách quan" hay "đại đội trưởng"
dùng để chỉ những người có một trăm tên lính trong tay. Nếu ở chốn đế đô, họ chẳng
là gì thì tại các vùng thuộc địa họ là những viên chức đầy uy quyền góp phần
cai trị hà khắc của đế quốc. Có thể gọi họ là chất xúc tác và là thước đo lòng
căm thù đế quốc của người Do Thái. Ðối với đế quốc cai trị, họ là những người
trực tiếp áp đặt chính sách lên dân chúng.
Luật
Do Thái đã khắt khe trong việc giao tế với dân ngoại thì lại càng khắt khe hơn
đối với những người đang giày xéo lên mảnh đất Thánh của Giavê Thiên Chúa. Người
Do Thái sẽ không bước vào nhà dân ngoại vì đó là những nơi không thanh sạch.
Sách Midna đã viết: "Mọi nơi cư ngụ của dân ngoại đều là chỗ không thanh sạch",
thế mà Chúa Giêsu lại không ngần ngại đi đến nhà viên bách quan để chữa bệnh
cho gia nhân của ông. Chúa Giêsu có ý gì khi hành động như vậy? Nếu luật lệ Do
Thái khắt khe với dân ngoại mà Chúa Giêsu và các tông đồ lại nghiêng về phía họ
thì hẳn việc làm của Chúa Giêsu và các tông đồ phải mang một ý nghĩa thiết thực
trong cuộc sống.
Viên
bách quan hội tụ hai yếu tố căn bản mà mỗi người trong chúng ta cần phải có để
khiêm nhượng trước mặt Chúa và bác ái với anh em. Một gia nhân hay đúng hơn một
tên nô lệ chẳng là gì trước mặt viên bách quan, ông có thể sử dụng như một món
đồ vật, không dùng thì quăng đi cần gì phải bận tâm. Thế mà ở đây ông lại quan
tâm đến tên gia nhân cách đặc biệt. Ngoài ra theo đoạn Tin Mừng song song của
Luca, ông còn là người giúp đỡ cho Hội Ðường Do Thái.
2.
Chúa ơi, xin về với con đi
Trong
lớp Giáo lý Dự tòng, có một bà năm nay đã gần 80 tuổi xin theo học. Bà góa chồng
đã 7 năm. Từ ngày chồng bà chết, nhiều lần bà muốn theo đạo, nhưng vì nhiều lý
do khách quan, bà không thực hiện được tâm nguyện của mình.
Đến
nay, thuận lợi, bà xin học đạo để được gia nhập Giáo Hội. Trước khi ban Bí tích
Rửa Tội cho bà, cha xứ có hỏi: ”Bà có ý định theo đạo lâu chưa?”; Bà trả lời:
”Khoảng 7 năm”; Cha xứ hỏi tiếp: ”Thế bà muốn theo Chúa, nhưng bà có cầu nguyện
với Chúa bao giờ không?” Bà nói: ”Thưa có”; “Bà cầu nguyện thế nào”; “Thưa Cha,
con cầu nguyện rằng: ‘Chúa ơi, xin Chúa về với con đi!’." Cha xứ tỏ vẻ
thán phục niềm tin chân thành và đơn sơ của bà, và ngài đã sẵn lòng Rửa Tội cho
bà để bà được gia nhập Giáo Hội.
Câu
chuyện của bà cụ rất trùng hợp với một nhân vật cũng khá đặc biệt trong bài Tin
Mừng hôm nay, đó là viên sĩ quan, người dân ngoại. Ông là một người ngoại đạo,
tức không thuộc về Dothái giáo, nhưng tâm hồn lại có đạo hơn ai hết bởi sự chân
thành, đơn sơ nhưng mãnh liệt nơi ông. Vì thế, ông đã được thúc đẩy từ bên
trong, nên ông nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, trong khi những người Dothái
lại không nhận ra!
3.
Tin thì không điều kiện
Một
người vô thần rơi từ một vách đá dốc. Giữa chừng, anh bị vướng vào một bụi cây
mọc ngay sườn núi. Anh gần như tuyệt vọng khi nhìn lên là đỉnh núi, nhìn xuống
là vực thẳm. Trong lúc tuyệt vọng, anh ngửa mặt lên trời và la lớn: “Nếu có
Chúa, hãy cứu tôi."
Một
giọng ầm ầm trả lời: “Nếu ngươi thật sự tin vào Chúa, hãy buông tay ra đi."
Anh nhìn lên rồi nhìn xuống và hoảng sợ. Anh thét lên: “Có ai ở trên đó không?"
4.
Tin hay không?
Một
doanh nhân giàu có ở một Tiểu bang nam Hoa Kỳ có sáng kiến ngộ nghĩnh để thử
lòng người: ông cho in rất nhiều bích chương và dán khắp nơi trong thành phố
nơi ông đang ở. Đại khái nội dung những tấm bích chương loan báo: bất cứ ai mắc
nợ, nếu đến văn phòng của ông ngày đó, tháng đó từ 9g-12g đều được ông giúp đỡ
để trả nợ. Dĩ nhiên mọi người đều bàn tán về lời mời gọi này, nhưng đa số đã
xem đây là một trò đùa. Đúng ngày hẹn, doanh nhân đến ngồi trong văn phòng của
mình. Hai giờ đồng hồ trôi qua mà không thấy người nào đến. Mãi tới 11g mới có
một người đàn ông rụt rè đến ... Doanh nhân ký cho ông một ngân phiếu để trả hết
nợ. Gần 12g một vài người nữa cũng đến ... và dĩ nhiên họ cũng được giúp đỡ tận
tình. Còn tất cả những người khác khi hiểu được lời mời gọi của doanh nhân thì
đã quá muộn. Khi người ta không tin ở lòng tốt của con người, thì làm sao có thể
tin tưởng ở lòng tốt của Thiên Chúa?
5.
Có lòng tốt mới tin
Một
hôm hoàng đế Napoléon của Pháp cải trang đi vi hành. Vì không muốn cho ai nhận
ra mình nên hoàng đế và viên sĩ quan tùy viên ăn mặc như thường dân. Ông vào một
nhà hàng nọ.
Sau
khi hai người ăn uống xong, chủ quán đến tính tiền. Tổng cộng là 14 quan. Sĩ
quan tùy viên lấy tiền trả. Nhưng bỗng mặt ông tái mét đi vì ông quên không đem
tiền theo.
Thấy
thế hoàng đế Napoléon hiểu ngay, ông nói nhỏ:
-
Không sao, đừng lo để tôi trả cho.
Hoàng
đế lục xét hết túi trên rồi túi dưới nhưng cũng không có đồng nào.
-
Làm sao bây giờ đây?
Viên
sĩ quan tùy viên nói với bà chủ nhà hàng:
-
Thật là xui cho chúng tôi. Hôm nay, chúng tôi quên đem theo tiền. Xin bà vui
lòng cho chúng tôi khất một giờ đồng hồ thôi tôi sẽ trở lại để thanh toán số tiền
này cho bà.
Bà
chủ nhà hàng nhất định không chịu và còn dọa là nếu hai người không trả tiền tức
khắc thì bà sẽ cho gọi cảnh sát.
Rất
may cho hai người là trong tiệm đó có một người bồi bàn rất tốt. Được chứng kiến
và theo dõi câu chuyện từ đầu, anh cảm thương hai người khách nên nói với bà chủ:
-
Quên đem theo tiền trong túi là một điều có thể xảy ra cho bất cứ ai. Điều đó
quá thường mà bà. Xin bà đừng gọi cảnh sát làm gì. Tôi xin trả 14 quan thay cho
hai ông khách này đây. Xem ra hai ông đây là người thật thà chứ không phải muốn
lường gạt gì đâu.
Thế
là nhờ anh giúp bàn trong nhà hàng có lòng tốt mà hoàng đế Napoléon và viên sĩ
quan tùy tùng mới có thể rời quán bình an.
Và...
chỉ một lát sau, viên sĩ quan tùy viên trở lại nhà hàng. Ông hỏi bà chủ nhà
hàng:
-
Bà đã tốn bao nhiêu tiền để mở nhà hàng này?
Bà
chủ trả lời:
-
30.000 quan.
Viên
sĩ quan lấy từ trong túi ra số tiền 30.000 quan và đặt trên bàn rồi nói:
-
Vâng lệnh của chủ tôi là hoàng đế Napoléon, tôi xin bà sang lại quán này cho
người giúp việc của bà, người đã giúp chúng tôi trong lúc chúng tôi kẹt không
đem tiền theo.
Người
bồi bàn trong quán nhà hàng hôm nay quả là một người vừa tốt vừa có lòng
thương người. Việc nhà vua Napoléon và viên sỹ quan tuỳ tùng rất may mà gặp được
người tốt như thế này. Nếu không thì không biết sự việc sẽ ra sao.
6.
Cánh diều là vũ khí
Người
Nhật tổ chức một ngày lễ có tên gọi là “Đại tiệc diều”: Trong ngày đó trẻ con
và người lớn thả diều rợp trời. Nhìn những cách diều dập dờn trên đầu, người ta
thật khó tượng tượng được những cánh diều đầu tiên đã được sử dụng như một thứ
vũ khí chiến tranh.
Edward
Hays viết: “Vào năm 1200 trước công ngyên, người Trung Hoa đã dùng diều dể đưa
những bức mật mã giữa các trại lính với nhau. Họ làm những cách diều nhẹ tênh
như máy bay không người lái, và cuộc không tặc đầu tiên là cuộc xâm chiếm một
quần đảo bằng lực lượng diều.”
Điều
gì tôi có thể làm cho thế giới được hòa bình hơn?
Khi
ờ trên biển hồ Galilê, Chúa Kitô thí thầm hai tiếng “hòa bình” (John Greenleap
Whittier).
7. Lòng
tin sinh trái tốt
Một
cậu bé Italia đã ngày đêm làm việc để kiếm đủ tiền nhằm tiếp tục học ca hát. Một
ngày nọ, giáo sư thanh nhạc nói rằng cậu đang lãng phí thời giờ và tiền bạc. Mẹ
của cậu, một nông dân nghèo, không ngừng khuyến khích cậu theo đuổi giấc mơ
thay vì bỏ cuộc. Thậm chí bà không mang cả dép để có tiền cho cậu đi học. Niềm
tin và sự kiên trì của bà đã được hồi đáp. Con bà, Enrico Caruso lớn lên và trở
thành một trong những ca sĩ giọng nam cao vĩ đại nhất thế giới.
Tôi
sẵn sàng ra sao để hy sinh hoặc phục vụ những người cần đến tôi, những người
như Enrico hoặc tên đầy tớ của tên sĩ quan?
Thước
đo sự vĩ đại không phải là số người đầy tớ bạn có, mà chính là số người mà bạn
phục vụ.
8. Hiểu
thì không cần tin, tin thì không cần hiểu
Năm
1842, Quốc hội Mỹ cười đùa khi Samuel Morse giải thích ý tưởng truyền tin bằng
giây kim loại. Năm 1878, Nghị viện Anh cười đùa khi Thomas Edison giải thích ý
tưởng tạo ra ánh sáng trong một cái lọ thủy tinh. Năm 1908, viên chức J.P
Morgan cười đùa khi Bill Durant đưa ra ý tưởng một ngày nào đó nửa triệu xe hơi
mỗi năm sẽ di chuyển trên các nẻo đường quốc gia.
Khi
tôi nghe một ai đó, đặc biệt một người trẻ tuổi, trình bày một ý tưởng mà tôi
không hoàn toàn lĩnh hội được hoặc không đồng ý, tôi thường phản ứng ra sao?
Tôi nên phản ứng thế nào? Vì sao?
Một
ý tưởng mới là rất mong manh. Nó có thể bị giết chết chỉ vì một cái cười khẩy
hay một cái ngáp; bị đâm chết bời một lời châm biếm và nhai nghiến đến chết bởi
cái cau mày của một người đáng kính. (Charles Brower)
9.
Tin và cầu nguyện
Một
giáo viên ở vùng quê luôn nhắc nhở học trò rằng Chúa Giêsu sẵn lòng giúp đỡ
chúng những khi cần thiết. Một ngày mùa đông nọ, một trận bão tuyết ập đến. Cô
giáo cho lớp học nghỉ sớm và dẫn học trò đi xuyên qua tuyết và gió. Nói một
cách văn chương, cô ta đang lôi kéo chúng qua vũng tuyết dày đặc. Đột nhiên, một
cậu bé nói với cô giáo: “Em nghĩ đã đến lúc phải kêu cầu Chúa Giêsu.”
Tôi
có nhớ đã bao giờ, sau khi cố gắng làm những gì có thể, tôi hướng về Chúa Giêsu
để xin Ngài trợ giúp không? Tôi đã đạt kết quả gì?
Cầu
nguyện là cách diễn tả chúng ta là ai… Cuộc sống chúng ta chưa được hoàn thành.
(Thomas Merton)
10.
Thật khó hiểu Thiên Chúa
Trong
ca khúc “Dấu chấm hỏi,” nhạc sĩ Thế Hiển than thở: “Đứa bé mồ côi, đang nằm co
ro như dấu chấm hỏi đặt giữa cuộc đời. Tại sao sinh em trong cuộc đời? Mà sao
không cho em tình người? Em nào có tội gì đâu?” Trong “mùa Vọng” hiện nay của
nhân loại, biết bao mảnh đời bất hạnh đang kêu gào vì thiếu đói tình người. Bạn
nhớ rằng mỗi con người, dù bé nhỏ, xấu xí, bệnh tật cũng mang trong mình hình ảnh
của Thiên Chúa. Chúa Giêsu xuống thế làm người để đem tình Chúa gieo vào thế giới
để tình người được nảy nở và hình ảnh của Thiên Chúa được lớn lên trong tâm hồn
mỗi người.
Bạn
nghĩ gì khi nói mến Chúa yêu người là chu toàn luật Chúa?
THỨ BA - MẶC KHẢI CHO KẺ BÉ MỌN
Lời
Chúa: Lc 10, 21-24
Khi
ấy, Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần, Người nói: "Lạy Cha là
Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì đã giấu không cho những người thông thái
khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ. Vâng lạy Cha,
đó là ý Cha đã muốn thế. Cha Ta đã trao phó cho Ta mọi sự. Không ai biết Chúa
Con là ai, ngoài Chúa Cha; cũng không ai biết Chúa Cha là Ðấng nào, ngoài Chúa
Con, và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết!"
Rồi
Chúa Giêsu quay lại phía các môn đệ và phán: "Hạnh phúc cho những con mắt
được xem những điều chúng con xem thấy; vì chưng Ta bảo các con: có nhiều tiên
tri và vua chúa đã muốn xem những điều chúng con thấy, mà chẳng được xem, muốn
nghe những điều chúng con nghe, mà đã chẳng được nghe.
TRUYỆN
KỂ
1. Hiểu
biết Thiên Chúa
Thế
giới không ngừng bị xâu xé vì thảm cảnh chiến tranh, vì xung đột quyền lợi. Ai
cũng mơ ước một thế giới hòa bình nơi mọi người, mọi quốc gia dân tộc, mọi chủng
tộc, mọi ngôn ngữ có thể sống chung hài hòa bên nhau.
Tiên
báo đó ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Người tràn đầy Thánh Thần đã khai mạc Vương
Quốc bình an. Vương quốc đó được mặc khải cho những người bé nhỏ, khiêm tốn,
nghèo hèn. Những người giầu sang, kiêu căng, hung ác bị gạt ra, không được hiểu
biết Nước Thiên Chúa cho đến khi họ ăn năn sám hối.
Khi
hiểu biết Thiên Chúa, họ sẽ tỉnh ngộ và sẽ tự biến đổi. Như con sói hết nhe
nanh đe dọa để có thể ở với chiên con. Như con beo cụp hết móng vuốt để có thể
nằm bên dê nhỏ. Như sư tử thôi ăn thịt, bắt đầu ăn rơm để có thể sống chung với
bò tơ. Như con rắn hết thâm trầm hiểm độc để được ở với em bé. Người ta sẽ
không còn sống theo xác thịt với những toan tính thấp hèn, theo thói thế gian.
Nhưng sẽ sống theo Thần Khí. Siêu thoát trần tục. Trở nên như trẻ thơ. Hiền
hoà. Trong trắng.
Vì
thế sống tâm tình Mùa Vong ta phải trở nên bé nhỏ, khiêm nhường để được Chúa
cho biết mầu nhiệm Nước Trời.
2. Kém
trí thì huênh hoang
Một
chú ếch nọ suốt đời ngồi dưới đáy giếng. Một hôm, nó ngạc nhiên vô cùng khi thấy
một con ếch khác xuất hiện trên bờ giếng. Nó lên tiếng hỏi: “Chú mày từ đâu đến?”
Từ trên miệng giếng, khách lạ tra lời: “Tôi đến từ một vùng biển."
Lần
đầu tiên nghe nói đến biển, con ếch dưới đáy giếng thắc mắc: “Thế biển là gì?
Biển giống như cái gì?” Khách lạ lắc đầu đáp: “Biển mênh mông, biển không cùng,
không thể dùng bất cứ hình ảnh nào để nói cho một kẻ suốt đời ngồi dưới đáy giếng
hiểu được thế nào là biển."
Nghe
thế, con ếch ngồi dưới đáy giếng mới nghĩ thầm: “Từ trước đến nay, ta gặp không
biết bao nhiêu kẻ lường gạt, nhưng tên này hẳn phải là kẻ trí trá vô liêm sỉ nhất."
3. Cái
biết của người bé mọn
Tháng
6/2000, Francis Collins công bố khám phá quan trọng của ông về hệ “gen”, giải
mã bí mật liên quan đến sự hình thành của con người. Điều đáng nói là ngay
trong những lời phát biểu đầu tiên của mình, Collins, khoa học gia hàng đầu thế
giới và là người vô thần, khẳng định mình đã bị Thiên Chúa chinh phục vì vẻ đẹp
kỳ diệu của hệ gen mà ông gọi là ”ngôn ngữ riêng của Thiên Chúa."
Trong
Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu ngợi khen Chúa Cha về ngôn ngữ độc đáo của Người, vốn
được giấu kín trước những “bậc khôn ngoan thông thái”, mà chỉ mạc khải cho ”những
người bé mọn." Hay nói cách khác, chỉ những ai có cặp mắt trẻ thơ mới có
thể đọc hiểu được ngôn ngữ ấy, ngôn ngữ của tình yêu quan phòng. Đó là cặp mắt
biết ngạc nhiên trước kỳ công của Chúa, và đặt mình trong bàn tay của Chúa.
Không chỉ có thế, Đức Giêsu còn khẳng định họ sẽ “được thấy” những điều cao cả
lớn lao bao người hằng mong ước.
4.
Có được cái biết của Chúa
Chị
thánh Têrêsa Hài Đồng cảm nghiệm được Nước trời vì mang tinh thần đơn sơ bé nhỏ:
làm những việc bé nhỏ, như chị đã thổ lộ và cầu nguyện: “Con là một linh hồn rất
bé mọn chỉ có thể dâng những điều bé mọn cho Chúa."
Nhờ
tinh thần phó thác vào Chúa, chị cảm nhận ra tình yêu Chúa ngay cả những giây
phút đen tối của tâm hồn, chị vẫn cảm nghiệm được Nước trời: “Ngay cả những khi
gặp thử thách ốm đau, con không sợ, vì Chúa luôn ở bên con, vì Ngài đã nâng đỡ
con từ khi con còn tấm bé, và sẽ nâng đỡ con mãi mãi cho đến hơi thở cuối cùng."
Chính
tinh thần nhỏ bé tín thác khiến chị sờ tới Nước trời, trong Thiên Chúa chị được
sự bình an tâm hồn khi đặt mỗi gánh nặng bệnh tật vào Thiên Chúa.
Nhỏ
bé, nép mình vào lòng Chúa, phó thác tất cả để được Thiên Chúa đỡ nâng.
5.
Biết rằng mình biết có giới hạn
George
Washington Carver, nhà khoa học nổi tiếng, có lần đã nói về cách ông hỏi Chúa:
“Lạy Chúa, vũ trụ được làm bằng gì?”
Chúa
trả lời: “George, vũ trụ quá lớn, con không thể hiểu được. Con cứ để ta chăm
sóc vũ trụ."
Ông
lại hỏi cách khiêm tốn: “Lạy Chúa, nếu vũ trụ quá lớn đối với con, còn hạt đậu
thế nào?” Chúa nói: “George, con đã hỏi điều hợp với con. Con có thể hiểu một hạt
đậu, nên Ta sẽ giúp con."
Vì
thế, George đã để vũ trụ cho Chúa chăm sóc và ông khám sức mạnh to lớn của hạt
đậu nhỏ bé. Và từ hạt đậu, ông đã phát triển được 200 sản phẩm hữu dụng.
Chẳng
bao giờ ông phàn nàn rằng Chúa không cho ông biết những điều huyền bí sâu xa
hơn.
6.
Chìa khóa thiên đàng
Có
một ông vua rất giàu sang và quyền thế, sau khi đã chinh phục các quốc gia láng
giềng và những gì vua ưa thích, vua còn muốn tìm kiếm một kho tàng quý hơn nữa
là chìa khóa mở cửa Thiên đàng, nhưng không một ai có thể làm thỏa mãn lòng vua
được, vua sai các quan tướng đi kiếm khắp nơi trong nước, từ trên núi cao xuống
tận đáy biển, trong rừng sâu tới chốn bùn lầy nhưng cũng chỉ tốn của uổng công.
Sau cùng chính vua quyết định đích thân đi tìm chìa khóa cổng Thiên đàng.
Một
hôm, nhà vua cỡi ngựa đến trước một bức tường cao có tháp canh, cổng sắt rất
kiên cố, trước cổng cao có thiên thần canh gác rất kỹ, nhà vua tiến lại gần
thân thưa:
-
Tôi sẽ không được bình an trong tâm hồn cho đến khi tìm được chìa khoá mở cửa
Thiên đàng.
Thiên
thần cười đáp:
-
Thật ra trên trần gian này có hàng trăm hàng ngàn thứ chìa khóa mở cửa Thiên
đàng được, các chìa khóa ở ngay dưới chân vua, người ta dẫm lên chúng, nhà vua
có thể tìm được chìa khóa mở cửa Thiên đàng nếu nhà vua bền tâm chịu khó tìm kiếm.
Từ
ngày đó, nhà vua xuống ngựa bách bộ lang thang đó đây. Năm tháng trôi qua, mặc
dầu nhà vua đã mệt mỏi tìm kiếm khắp nơi trên trái đất nhưng vẫn không tìm thấy.
Một
ngày kia, đang lúc đi dạo trong rừng, nhà vua vấp ngã vào một gốc cây nhỏ bé gần
như sắp tàn héo bên vệ đường, vì mắt đã già, sức yếu nên nhà vua cũng cảm thấy
tự nhiên thích quan tâm đến những vật nhỏ bé, nhà vua nhổ cây nhỏ sắp chết đem
về hoàng cung rồi tự tay chăm bón phân đất cho cây, tưới nước hằng ngày, các
quan cận thần trong hoàng cung thấy vậy liền nói với nhà vua:
-
Tâu Chúa thượng, sao Chúa thượng lại phải bận tâm đến một cây bé nhỏ héo tàn
như vậy? Chắc gì nó sống lại được, và nếu nó có sống được thì với tuổi tác trên
vai, làm sao hoàng thượng còn hy vọng nghỉ dưới bóng cây của nó hoặc hưởng dùng
hoa trái của nó được, nhà vua thản nhiên trả lời:
- Một
ngày nào đó, tuy ta không còn sống nữa, nhưng sẽ có người khác đến ngồi dưới
bóng cây và họ sẽ sung sướng được thưởng thức hoa trái của nó; điều đó đủ để ta
cảm thấy vui sướng ngay từ lúc này rồi. Vừa nói xong, nhà vua đưa chân bước đi
thì kìa một chìa khóa từ dưới đất mọc lên như một cái nấm. Chìa khóa làm bằng một
thứ kim loại rất lạ đủ màu, xanh đỏ thêm sắc vàng.
Đức
Tin, Cậy, Mến là chìa khóa mở cửa Thiên đàng đã được ban tặng cho các tín hữu
trong ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội. nhà vua trong câu chuyện ngụ ngôn trên
đây tưởng có thể tìm được chìa khóa mở cửa Thiên đàng bằng tiền bạc hay quyền
thế nhưng đã hoàn toàn thất bại. Tuy nhiên nhờ nhà vua biết tự hạ mình, biết
khiêm tốn thực thi lòng tin, cậy, mến. Nhờ đó nhà vua đã tìm được chìa khóa mở
cửa Thiên đàng. Việc làm của nhà vua tuy bé nhỏ nhưng là biểu hiện lòng tin, cậy,
mến của người tín hữu Kitô trong đời sống thực tế.
7.
Tách phải rỗng
Vào
thời Minh Trị (1786-1912), có một giáo sư đại học muốn tìm hiểu về thiền với một
thiền sư nổi tiếng người Nhật tên là Nam-in.
Thiền
sư Nam-in chào hỏi, tiếp đón rất lịch sự nhưng sau đó khi rót nước trà mời
khách thì thiền sư cố ý rót đầy tách trà của khách. Tách đã đầy nhưng thầy vẫn
cứ tiếp tục rót thêm!
Vị
giáo sư ngồi nhìn nước trong tách tràn ra cho đến khi không kềm mình được nữa,
ông lên tiếng:
- Đầy
quá rồi, xin đừng rót nữa.
-
Giống như cái tách này. Nam-in nói. Ông cũng đầy ắp những quan niệm, những tư
tưởng của ông, làm sao tôi có thể bày tỏ Thiền cho ông được, trừ phi ông cạn
cái tách của ông trước!
8. Cần
biết mình yếu đuối
Một
kịch tính xảy ra: Nơi tòa án, khi Đức Giêsu trả lời câu hỏi giáo lý của thượng
tế Caipha: “Cứ hỏi người nghe tôi nói”, thì trong sân tòa, người ta liền hỏi
ông Phêrô, thủ lãnh Nhóm Mười Hai đã từng được nghe Đức Giêsu giảng dạy:
-
Chắc bác thuộc về ông Giêsu?
Ông
Phêrô giật bắn người lên, chối ngay:
-
Tôi không hề biết ông ấy.
Ở
sân ông Phêrô chối Thầy, thì trước tòa án, Đức Giêsu lại giục người ta: “Cứ hỏi
người đã nghe tôi nói.” Thế là người khác lại đến hỏi ông Phêrô:
-
Tôi biết bác ở vườn Cây Dầu với ông Giêsu mà?
Ông
Phêrô lại kéo gân cổ lên thề:
-
Tôi thật không biết gì về ông Giêsu đó cả!
Đức
Giêsu thấy Phêrô còn chối, Ngài lại bảo người ta:
- Cứ
hỏi người nghe tôi nói.
Thế
là một đứa tớ gái cất tiếng hỏi ông Phêrô:
-
Nghe giọng bác nói, tố cáo bác là người Galilê, đồng hương với ông Giêsu?
(Không biết người khác nghe giọng ta nói, họ có nhận ra ta là người Công giáo,
thuộc về Đức Giêsu hay không?!)
Ông
Phêrô vẫn quyết liệt chối:
-
Tôi thề là tôi thật không biết chị nói gì?
Tức
thì gà liền gáy, ông Phêrô sực nhớ lại lời Thầy đã nói cho ông biết: “Trước khi
gà gáy, con đã chối Ta ba lần!” Ông òa lên khóc, tỏ dấu sám hối!
9.
Người khiêm tốn mới biết Nước Trời
Louis
Pasteur là nhà khoa học nổi tiếng không riêng chi ở Pháp, nhưng là khắp thế giới.
Ông thường lần hạt khi ngồi trên xe lửa. Nhà khoa học danh giá A. Ampère đã cầu
nguyện khi người vợ yêu quý qua đời: “Lạy Thiên Chúa Nhân Hậu, xin kết hiệp con
với những người Chúa cho con yêu mến trên trần thế nay đang ở trên trời.”
Vào
cuối đời, ông đọc Kinh Thánh và các giáo phụ mỗi ngày. Là giới trí thức, nhưng
hai ông -cũng như nhiều nhà khoa học khác- là những người có lòng khiêm tốn và
đơn sơ. Không phải người trí thức thông thái chối từ Tin Mừng Nước Trời, nhưng
là kẻ kiêu căng. Cũng vậy, chẳng phải sự ngu dốt đón nhận đức tin vào Đức
Giêsu, nhưng là lòng khiêm tốn, tâm hồn đơn sơ.
Trong
Nước Trời của Đức Giêsu, chỉ có ai có lòng đơn sơ khiêm tốn mới có thể lãnh hội
được chân lý hoặc sự khôn ngoan đích thực của Nước Trời. Bạn biết Chúa không phải
chỉ bằng trí óc, nhưng bằng cả con tim. Bạn không chỉ biết về Chúa, nhưng là biết
chính Chúa. Hồng ân từ trời này chỉ dành cho những ai khiêm tốn mở lòng đón nhận
trong tâm tình tri ân.
10.
Phúc cho người bé mọn
“Thất
bại lớn nhất của đời người là tự đại” (14 điều Phật dạy). Người tự đại luôn cho
mình là người biết mọi sự, không chấp nhận mình giới hạn. Trong truyền thống
Hassidim của người Do Thái, ta đọc thấy: “Tôi yêu mến ác nhân là người biết
mình tội lỗi, hơn là yêu mến người công chính là người biết mình công chính, dù
đứng trước cửa hỏa ngục cũng sẽ không cải thiện lối sống của mình, vì họ nghĩ rằng
họ đang được dẫn tới hỏa ngục để giải thoát những linh hồn đang bị giam cầm
trong đó.”
Hôm
nay Chúa Giêsu cho ta thấy cái phúc của những người bé mọn: họ được gần Thiên
Chúa và được hiểu lẽ khôn đích thực!
Buớc
vào Mùa Vọng với tâm hồn khiêm tốn để sẵn sàng hoán cải đời sống. Sống khiêm tốn
là nhìn nhận những giới hạn và yếu đuối của mình và tín thác vào tình Chúa bao
la.
11.
Biết nhìn để có hạnh phúc
Ngạn
ngữ Trung Quốc nói: “Tôi buồn vì không có tiền mua giày, cho đến ngày tôi gặp
người cụt chân.” Trong khóa tĩnh tâm, một người khiếm thị nọ chia sẻ: “Tôi buồn
vì không thấy những gì tôi ăn, đang khi ấy có bao người chết đói vì không có gì
để ăn,” và anh cho biết suy nghĩ đó đã biến đổi hẳn đời anh.
Đức
Giêsu trong Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta đang được sống trong hạnh phúc
mà không biết, hạnh phúc vì được thấy nhiều điều kỳ diệu: cảm thấy được Thiên
Chúa đang hiện diện và ban muôn hồng ân cho mình trong cuộc đời, nhận thấy Đức
Giêsu nơi người anh chị em chung quanh, nhìn thấy cuộc đời mình có ý nghĩa thế
nào, và kết cuộc, đi về đâu. Khám phá hạnh phúc ấy phải làm thay đổi hẳn cuộc đời
chúng ta.
Nhìn
lại những gì xảy đến cho mình với ý hướng tích cực để nhận ra hạnh phúc, niềm
vui mình đang được hưởng để rồi luôn biết sống tâm tình tạ ơn Thiên Chúa trong
suốt cuộc đời.
12.
Muốn sống cần biết Chúa
Harold
Hughes, cựu thống đốc của bang Iowa thú nhận rằng hồi trẻ, ông là một người say
rượu, dối trá, lừa đảo. Một đêm nọ, ông phạm lỗi và quyết định tự tử.
Nhưng
trước khi kết liễu cuộc đời, ông muốn giải thích với Thiên Chúa tại sao lại làm
điều khủng khiếp này. Khi ông thổn thức nói với Chúa, thì một cái gì đó đáng
chú ý xảy đến. Ông nói trong cuốn tự thuật: “Như một đứa trẻ bị lạc trong bão tố,
tôi tình cờ rơi vào vòng tay ấm áp của cha… Tôi phó thác hoàn toàn cho Ngài và
nói: “Con sẽ làm bất cứ gì Ngài muốn.”
Tôi
mong mỏi học biết thánh ý Thiên Chúa và làm những gì Ngài muốn không?
Không
ai bước đi đơn lẻ trên đường. Chúng ta gieo hạt nào, sẽ hái được quả nấy.
(Edwin Markham)
13.
Mở lòng để biết
Mục
giáo sư phái Luthero tên là Dietrich Bonhoeffer bị Đức Quốc Xã tống ngục. Ngay
trước lễ Giáng Sinh năm 1943, ông viết: “Cuộc sống tù đầy gợi cho ông nhớ tới hồng
ân Mùa Vọng, nhưng cuối cùng, điều chúng ta làm chỉ đóng vai trò nhỏ bé. Cánh cửa
đóng kín và chỉ có thể mở được từ bên ngoài.”
Điều
này mô tả nhân loại trước khi Chúa Giêsu đến. Chúng ta bị giam cầm trong tội lỗi
Cửa Nước Trời đóng kín và chỉ có thể mở được từ bên ngoài. Đó chính là điều
Chúa Giêsu đã làm: Ngài đến và mở cửa.
Tôi
đang làm gì với sự tự do mới mà Chúa Giêsu đã giành được cho nhân loại và cho
tôi?
Người
ta chẳng bao giờ để tâm đến những gì đã được thực hiên, mà chỉ để ý tới những
gì đang còn được thực hiện (Marie Curie).
14.
Biết điều cần tìm
Họa
sỹ người Hà Lan là Vincent Van Gogh đã vẽ được hơn 1.700 bức họa trong suốt cuộc
đời ông. Ông chỉ bán được một bức trong số đó với giá 85 đô la. Van Gogh chết
đang khi nghĩ rằng mình là người thất bại. Tuy nhiên, một nửa thế kỷ sau, bức vẽ
“Bác sĩ Gachet” của ông bán được 82,5 triệu đô la.
Trong
suốt cuộc đời mình, Van Gogh đã không bao giờ được thấy điều ông mong ước và
cũng chẳng bao giờ ông được nghe những điều ông muốn nghe. Nhưng cũng như các
ngôn sứ và các vua chúa xưa, Van Gogh đã đi cho đến cùng con đường của mình. Tấm
gương của Van Gogh thúc đẩy tôi tự hỏi: đâu là động lực chính trong con đường
mà tôi đang theo đuổi?
Người
hạnh phúc nhất trong anh em là người đã tìm thấy con đường sống phục vụ.
(Albert Shweitzer).
THỨ TƯ - HÓA BÁNH RA NHIỀU LẦN 2
Lời
Chúa: Mt 15, 29-37
Khi
ấy, Chúa Giêsu đến gần biển Galilêa, và Người lên ngồi trên núi; dân chúng lũ
lượt đến cùng Người, đem theo kẻ câm, mù, què, liệt và nhiều người khác, và đặt
họ dưới chân Người. Người đã chữa lành họ. Dân chúng kinh ngạc nhìn thấy kẻ câm
nói được, người què bước đi, người đui lại thấy, và họ tôn vinh Thiên Chúa
Israel.
Còn
Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ mà phán: "Ta thương xót đoàn lũ này, vì đã
ba ngày, họ ở lại với Ta, nhưng không có gì ăn. Ta không muốn cho họ về bụng
đói, sợ họ té xỉu dọc đàng." Các môn đệ thưa Người: "Chúng con lấy
đâu đủ bánh trong hoang địa này mà cho ngần ấy dân chúng ăn no?" Chúa
Giêsu nói với họ: "Các con có bao nhiêu chiếc bánh?" Họ thưa:
"Có bảy chiếc, và ít con cá nhỏ."
Người
truyền dân chúng ngồi xuống đất. Người cầm lấy bảy chiếc bánh và mấy con cá, tạ
ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các môn đệ đem cho dân chúng. Tất cả đều ăn
no, và mảnh vụn còn lại người ta thu lượm được bảy thúng đầy.
Số
người đã ăn lên tới bốn ngàn, không kẻ đàn bà con nít.
Sau
khi giải tán dân chúng, Người bước lên thuyền và đến địa phận Magađan.
TRUYỆN
KỂ
1. Cần
có một tấm lòng
Ngày
nay, nhiều người giáo dục con cái về tình thương, nhân ái, liên đới với mọi người
bằng cách: khi ra đường, thấy những người ăn xin ... , họ thường đưa tiền cho
con cái của họ và dặn các cháu lễ phép, kính trọng biếu những người đó. Hay khi
bỏ tiền vào rỏ ở nhà thờ hay đền thánh ... , họ cũng thường đưa cho các bé bỏ
vào. Qua đó, họ muốn con họ sau này sống có tình thương, chia sẻ, liên đới.
Hôm
nay, Đức Giêsu đã thực hiện một phép lạ cả thể là chữa lành bệnh tật và làm
phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng. Ngài không muốn làm một mình,
nhưng Ngài muốn các môn đệ chung chia nỗi thao thức với Ngài, vì thế, Ngài đã gọi
các ông lại và nói: "Ta thương xót đoàn lũ này, vì đã ba ngày, họ ở lại với
Ta, nhưng không có gì ăn. Ta không muốn cho họ về bụng đói, sợ họ té xỉu dọc
đàng." Đức Giêsu đã khéo khơi gợi lòng bác ái nơi các môn đệ, và như thế,
Ngài đã dạy cho các ông bài học quý báu là phải biết lo lắng cho những người
đang cần sự giúp đỡ của họ.
2.
Chỉ cần biết chia sẻ
Một
hôm có một người đàn ông vào nhà một bà dân làng để xin ăn. Bà này từ chối với
lời nói chân thật: “Xin lỗi, hiện giờ trong nhà tôi không còn gì có thể ăn được."
Người
khách lạ nói: “Không sao, chỉ nhờ bà cho tôi mượn một nồi nấu súp thật lớn. Tôi
có một viên sỏi có thể nấu thành một nồi súp đặc biệt ngon, từ trước tới giờ
chưa từng có món ăn nào ngon bằng món tôi nấu."
Bà
chủ nhà bằng lòng. Người khách lạ đổ nước vào nồi, bỏ viên sỏi vào nồi rồi bắt
đầu nấu. Trong khi đó, bà chủ nhà sang nhà bà hàng xóm tiết lộ bí mật của nồi
súp tuyệt vời ấy. Người hàng xóm này lại tiết lộ cho người hàng xóm khác. Chẳng
bao lâu sau căn nhà đầy ắp người.
Khi
nước bắt đầu sôi, người khách lạ múc lên một muỗng nếm thử: “Chà, rất ngon. Nhưng
phải chi có thêm chút khoai tây nữa thì sẽ ngon tuyệt." Một người vội vàng
chạy về nhà lấy khoai tây bỏ vào. Lát sau người khách lại nếm và lại nói: “Ngon
hơn trước rồi. Phải chi có thêm một chút thịt nữa thì hết chỗ chê." Một
người khác vội chạy về lấy thịt. Cứ như thế, cứ như thế ...
Cuối
cùng nồi súp chín. Người khách mời mọi người ngồi vào bàn. Mỗi người một tô. Ai
nấy đều khen món súp ngon tuyệt vời. Còn người khách lạ thì vớt từ đáy nồi lên
viên sỏi của mình, bỏ vào túi, rồi vui vẻ chào mọi người và ra đi.
3.
Mua một nụ cười
Tại
văn phòng của một Cố vấn Tâm lý, một thiếu phụ vừa trẻ vừa giàu giải bày tâm sự:
“Bất cứ thứ gì tôi muốn thì chồng tôi đều cho cả. Tôi có đủ mọi “sự” nhưng
trong lòng trống vắng vô cùng. Xin bà hãy cho tôi một lời khuyên." Nhà Cố
vấn tâm lý không trả lời, nhưng bảo cô thư ký của bà kể chuyện đời cô. Cô này kể:
chồng tôi đã chết, cách nay 3 tháng con tôi cũng chết vì xe đụng. Tôi cảm thấy
mất tất cả, tôi không ngủ được, tôi không muốn ăn uống, tôi không bao giờ cười.
Một hôm tôi đi làm về hơi khuya. Có một chú mèo con cứ đi theo sau tôi. Trời lạnh.
Tôi cũng tội nghiệp nó, nên tôi mở cửa cho nó vào nhà. Tôi pha cho nó một ly sữa.
Nó kêu meo meo và cọ mình vào chân tôi. Lần đầu tiên tôi cười. Rồi tôi nghĩ: nếu
việc giúp cho một chú mèo con có thể làm tôi cười, thì việc giúp cho người nào
đó chắc có thể làm tôi hạnh phúc. Thế là hôm sau tôi nướng vài ổ bánh đem cho
bà cụ hàng xóm đang bệnh. Mỗi ngày tôi cố làm vài việc gì đó cho những người
tôi gặp được vui vẻ. Và quả thực tôi đã thấy hạnh phúc. Tôi nghiệm ra được điều
này là ta sẽ không hạnh phúc khi ta chỉ chờ người khác đem lại hạnh phúc cho
mình; ngược lại ta sẽ hạnh phúc thật khi ta làm cho người khác hạnh phúc."
Nghe đến đó, người thiếu phụ trẻ bật khóc. Cô đã có bất cứ thứ gì đồng tiền có
thể mua được nhưng cô đã đánh mất những thứ mà đồng tiền không mua nổi. Và cô
quyết định noi gương cô thư ký nọ. (Charlene Johnson).
4.
Điều kiện của hạnh phúc là phải được chia sẻ
Trong
bài giảng số 178, thánh Augustinô có kể lại câu chuyện xảy ra lúc ngài sống tại
Milanô Bắc Italia như sau:
Ngày
kia có một người nghèo nhặt được một cái ví, trong đó có hai trăm đồng vừa vàng
vừa bạc. Nhớ lại Lời Chúa, người đó muốn trả lại cái ví cho người chủ. Nhưng
không biết tìm đâu ra người chủ. Người nghèo liền viết một tấm bảng kêu gọi người
mất ví tìm đến nhà mình, để nhận lại.
Đọc
được tấm bảng, người mất ví tìm đến nhà người nghèo để xin nhận lại cái ví. Sau
khi tra hỏi kỹ càng, người nghèo liền trao cái ví cho người chủ. Người này cảm
ơn rối rít và tặng cho người nghèo hai mươi đồng, tức là mười phần trăm số tiền
có trong ví, theo như qui định thời bấy giờ. Nhưng người nghèo nhất quyết không
nhận món quà. Người chủ liền trao cho ông mười đồng, nhưng ông cũng từ chối. Cuối
cùng, người chủ nài nỉ ông nhận cho năm đồng, người nghèo cũng một mực không nhận.
Khổ
tâm vì không thể nói lên được lòng biết ơn của mình, người chủ đành ném cái ví
xuống đất rồi nói như sau: “Bởi vì ông không chịu nhận một đồng nào, nên tôi
tuyên bố là tôi cũng không hề mất một đồng nào."
Nghe
thế, người nghèo đành phải nhận món quà của người giàu. Nhưng tức khắc ông đem
chia sẻ tất cả cho những người nghèo khổ hơn ông và ông cảm thấy lòng mình thảnh
thơi.
Byron
nói: “Phương thế tốt nhất để bảo toàn hạnh phúc là biết chia sẻ hạnh phúc."
Vua
Baudouin thì cầu nguyện: ”Lạy Chúa, xin cho chúng con biết đau cái đau của người
khác, biết khắc khoải nỗi khắc khoải của người khác. Lạy Chúa, xin cho chúng
con biết chia sẻ với người khác mọi hạnh phúc chúng con đang có."
5.
Mục tử như lòng Chúa mong ước
Ngày
11/10/2009 Giáo Hội đã tuyên phong hiển thánh cho cha Đamiano, “cha của những
người phong cùi” tại đảo Molokai. Hằng ngày cha băng bó vết thương, chôn cất
người qua đời, xây dựng nhà ở, nhà thờ, bệnh viện, lo cho những người cùi từng
chén cơm manh áo. Cha còn băng bó cho họ cả những vết thương tinh thần. Cha đã
biến “địa ngục Molokai” thành một cộng đoàn bác ái yêu thương. Cuối cùng cha đã
qua đời vì bệnh phong cùi sau 16 năm xả thân phục vụï. Cha đã làm dịu đi “cơn
đói” cả về thể xác lẫn tinh thần cho đoàn chiên cha chăm sóc, cha quả là một “mục
tử như lòng Chúa mong ước."
Cầu
nguyện, nâng đỡ và cộng tác với các linh mục trong sứ vụ mục tử; góp phần vun
trồng ơn gọi trong gia đình và trong giáo xứ. Ý thức ơn gọi và sứ mạng tông đồ
của mọi kitô hữu, mời bạn sẵn sàng tham gia vào sứ vụ mục tử của Chúa Giêsu
trong đời sống gia đình, cộng đoàn cũng như xã hội.
6. Đừng
hỏi tại sao tôi cô đơn
Nhà
bình luận Ann Lauders đặc trách công tác khuyến dụ hơn 30 năm. Một ngày nọ, một
phóng viên hỏi bà: “Đâu là câu hỏi bà hay được hỏi nhất?” Bà Ann trả lời rằng
đó là một câu rất đơn giàn: “Tôi đang có gì rắc rối? Tại sao tôi lại quá cô đơn
lẻ loi?” Trả lời cho câu hỏi này, bà nói: “Hãy quên nó đi. Hãy làm điều gì đó
cho người khác, và những người cần được bạn giúp đỡ, mà bất cứ ở đâu, nếu để ý
tới, bạn sẽ trông thấy họ.”
Lời
khuyên của Ann Landers và tấm gương của Chúa Giêsu mời gọi tôi tự hỏi: Ai là
người mà tôi có thể giúp đỡ?
Hy
sinh chính mình không bao giờ hoàn toàn là sự rộng lượng, bởi người cho đi
không bao giờ không nhận được lại (Delores McGuire).
7.
Cho hết và dư đầy
Nhà
bình luận Ann Lauders đặc trách công tác khuyến dụ hơn 30 năm. Một ngày nọ, một
phóng viên hỏi bà: “Đâu là câu hỏi bà hay được hỏi nhất?” Bà Ann trả lời rằng
đó là một câu rất đơn giàn: “Tôi đang có gì rắc rối? Tại sao tôi lại quá cô đơn
lẻ loi?” Trả lời cho câu hỏi này, bà nói: “Hãy quên nó đi. Hãy làm điều gì đó
cho người khác, và những người cần được bạn giúp đỡ, mà bất cứ ở đâu, nếu để ý
tới, bạn sẽ trông thấy họ.”
Lời
khuyên của Ann Landers và tấm gương của Chúa Giêsu mời gọi tôi tự hỏi: Ai là
người mà tôi có thể giúp đỡ?
Hy
sinh chính mình không bao giờ hoàn toàn là sự rộng lượng, bởi người cho đi
không bao giờ không nhận được lại (Delores McGuire).
8. Nhà
cô có nến không?” .”
Một ngày nọ, khu phố bị mất điện đột ngột. Cô gái trẻ
đang lục lọi trong ngăn kéo bàn để lấy nến ra thắp sáng căn phòng.
Đúng lúc đó thì có tiếng gõ cửa. Hoá ra là đứa bé
nghèo con nhà hàng xóm.
Nó hồi hộp hỏi: "Cô ơi cô, nhà cô có nến không ạ?"
Cô gái trẻ nghĩ: " Nhà nó nghèo đến nỗi nến
cũng không có mà dùng ư? Cho nhà nó một lần, lần sau nó lại sang xin nữa cho mà
xem!"
Thế là cô gái xẵng giọng lạnh lùng nói: "Không
có!"
Cô đang định đóng cửa lại thì đứa trẻ nghèo nhà hàng
xóm mỉm cười nói: "Cháu biết ngay là nhà cô không có nến mà!"
Nói xong, nó chìa ra hai cây nến: "Mẹ cháu với
cháu sợ cô chỉ sống có một mình, cúp điện không có nến nên bảo cháu mang nến
sang cho cô dùng tạm nè"
Cô gái đứng sững sờ không nói được một lời ....
Trong cuộc sống của chúng ta cũng sẽ có những lúc
như thế. Dù con người sống trong hoàn cảnh khó khăn hay giàu có, họ đều cần đến
sự quan tâm, an ủi từ ai đó.
Đừng ích kỷ, hãy lắng nghe âm thanh của cuộc sống.
Cuộc sống của ta sẽ không tệ, mà thậm chí nó còn đẹp hơn khi chúng ta biết cho
đi.
Bởi... CHO đi chính là NHẬN lại!
THỨ NĂM - NGƯỜI KHÔN NGOAN THỰC
SỰ
Lời
Chúa: Mt 7, 21. 24-27
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không phải tất cả những ai nói
với Ta, 'Lạy Chúa, lạy Chúa!', là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực
hiện ý Cha Ta ở trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời.
"Vậy
ai nghe những lời Ta nói đây và đem ra thực hành, thì giống như người khôn
ngoan, đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có
thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên nền đá.
Và
hễ ai nghe những lời Ta nói đây mà không đem ra thực hành, thì giống như người
ngu đần, xây nhà mình trên cát, khi mưa sa nước lũ, gió thổi và lùa vào nhà đó,
nhà sẽ sập và sẽ trở nên đống hoang tàn."
TRUYỆN
KỂ
1. Xây
trên nền đá
Sau
khi một cơn bão đi qua thành phố, người ta ngạc nhiên khi thấy những căn nhà sụp
đổ lại là những công trình mới xây chưa được bao lâu. Còn những công trình xưa
lại hiên ngang đứng vững.
Cũng
có khi sau một cơn dông, một cây còn xanh bỗng nhiên ngã đổ. Người ta lại gần
và thấy ruột của cây đã bị mục từ lâu.
Dông
bão làm lộ ra sự thật, vén mở chân tướng, vì khi biển lặng, ai cũng có thể là
hoa tiêu.
2. Ý
Chúa nhiệm mầu
Vào
năm 33 tuổi, Thánh Ambrôsiô đã có tất cả mọi sự -- một sự nghiệp đầy hứa hẹn là
luật sư, một vị thế quan trọng trong chính trường là tổng trấn Milan, ngoài ra
ngài còn là người bạn và đồng chí với hoàng đế, cùng với một gia tài kếch sù.
Và
rồi vị giám mục của Milan từ trần. Vào lúc ấy, khoảng năm 374, nhiều tà giáo muốn
tiêu diệt Giáo Hội. Vị cố giám mục Milan từng hậu thuẫn cho lạc giáo Arian chống
lại giáo huấn về thiên tính của Ðức Kitô. Vậy ai sẽ là người kế vị -- người
Công Giáo hay người của phe Arian? Cả hai phe đụng độ nhau ở vương cung thánh
đường và một cuộc bạo động xảy ra.
Duy
trì trật tự công cộng là trách nhiệm của quan tổng trấn Ambrôsiô, nên ngài vội
vã chạy đến nhà thờ và hùng hồn lên tiếng, không ủng hộ phe phái nào cả, nhưng ủng
hộ sự hoà bình. Ngài xin dân chúng hãy bình tĩnh, kềm chế sự nóng nẩy và chọn lựa
giám mục mà không cần phải xô xát.
Trong
khi ngài đang nói, bỗng dưng có người hô to, "Bầu Ambrôsiô làm giám mục!"
Thế là tất cả mọi người đều đồng thanh, "Ambrôsiô là giám mục!"
Ambrôsiô
bị ép buộc phải chấp nhận chức giám mục, nên sẽ không ai ngạc nhiên nếu ngài vẫn
tiếp tục lối sống cũ, như trước khi được tấn phong. Tuy nhiên, ngay sau đó Ambrôsiô
đã phân phát tài sản cho người nghèo và tự đặt mình dưới sự chỉ dẫn của Thánh
Simplician để học thần học và Kinh Thánh.
3.
Thực thi chân lý
R.
Khrisna, nhà thần bí Ấn độ có kể câu chuyện như sau: một ông vua nọ có thói
quen mỗi ngày nghe một đoạn trong kinh Bagavad Gita. Người phụ trách việc đọc
kinh này là một nhà sư đạo đức, thông thái. Cứ mỗi lần đọc xong một đoạn kinh,
ông lại dùng đến kiến thức uyên bác của mình để giải thích cho vua nghe. Và
ngày nào ông cũng đặt câu hỏi:
- Bệ
hạ có hiểu những gì thần vừa dẫn giải không?
Nhưng
lần nào nhà vua cũng chỉ trả lời:
-
Khanh nên hỏi điều đó với khanh trước đã.
Ngày
nọ, giữa lúc đọc kinh, ông bỗng được giác ngộ và nhận ra tất cả mọi sự đều là
hão huyền. Thế là nhà sư quyết từ bỏ mọi sự và lên đường bắt đầu cuộc sống của
một người hành khất. Trước khi ra đi, ông nói với nhà vua:
-
Tâu bệ hạ, thế là cuối cùng, hạ thần đã hiểu được ... .
Sự
giác ngộ của nhà sư trên đây có thể gợi lên cho chúng ta lời nhắn nhủ của thánh
Gioan Tông đồ. Trong thư thứ nhất, ngài lặp đi lặp lại nhiều lần: “Chúng ta phải
thực thi chân lý, chúng ta phải sống chân lý. Ai thực thi chân lý sẽ đến với
ánh sáng." Giác ngộ đích thực, hiểu biết chân lý chính là thực thi chân
lý.
4.
Thiện chí không hành động là một cái bẫy
Phương
có câu châm ngôn: "Hoả ngục được lát toàn bằng những thiện chí"
Cha
Jean Weslay là một nhà giảng thuyết nổi tiếng. Một hôm có một bác nông phu người
Anh đến nghe cha giảng. Hôm đó, cha giảng về đề tài dùng của cải. Ông nhà quê
này chăm chú nghe.
Bài
giảng chia làm 4 phần:
Phần
1: Hãy tìm cho được của cải. Đầu đề này làm ông kia hài lòng quá, thúc tay vào
người ngồi cạnh ông nói nhỏ: hay quá, thật tuyệt.
Phần
2: Hãy tiết kiệm: người kia sung sướng ngồi thẳng lên, chăm chú nhìn cha và nuốt
lấy từng lời cha nói. Ông nghĩ cha nói đúng quá. Chính mình cũng vẫn chủ trương
như vậy.
Phần
3: Đừng xài phí: Người nhà quê gật gù hài lòng. Ông nghĩ mình phải thầm cám ơn
Chúa vì mình vẫn nghĩ và hành động đúng như vậy.
Phần
4: Hãy rộng rãi làm phúc.
Nghe
đến đây, ông nhăn mặt khó chịu, thở dài đứng lên bỏ về.
5. Hiền
lành và khiêm nhượng - Bài học đòi thực hành
Có
một đứa bé lẻn vào nhà ăn trộm tiền của Cha Jean Marie Vianney, cha sở họ Ars.
Hai thầy giúp việc cho Cha sở coi đây là việc hệ trọng nên báo cáo cho xã trưởng
biết. Ông này bèn cho gọi em nhỏ ấy đến làm bộ tra vấn răn đe cốt để em nhỏ sợ
sau không dám tái phạm nữa. Bà mẹ em nhỏ nghi ngờ chính là cha sở đã tố cáo con
bà, bà hùng hổ chạy thẳng ra nhà thờ, đến chỗ cha đang ngồi giải tội. Nhìn thấy
điệu bộ bà hằm hằm cơn lôi đình, hai thầy bảo nhau:
-
Nguy đến nơi rồi.
Rồi
cả hai cùng chạy ra nhà thờ xem sự thể ra sao.
Đang
lúc quá giận, bà tiến thẳng đến tòa giải tội, gọi cha ra ngay. Vừa giải tội
xong một người, cha bước ra. Bà này liền nói một thôi một hồi:
-
Con tôi còn nhỏ tuổi, có tinh nghịch chăng nữa thì đã đến nỗi nào mà cha nộp nó
cho xã trưởng?
Bà
nhiếc móc một hồi cho hả giận. Cha Vianney đứng khoanh tay nghe phán xét, rồi
bình tĩnh trả lời vắn tắt:
-
Bà nói phải đấy, xin bà cầu cho cha sửa mình lại!
Nói
thế rồi, Ngài lại vào tòa tiếp tục giải tội như trước.
6.
Nghe và làm
Ngày
27/06/07, ba tháng trước khi cầu Cần Thơ sập, kỹ sư Hiroshi Kudo đã cảnh báo về
độ thiếu an toàn hệ thống khuôn đúc đường dẫn cầu và biện pháp thi công của nhà
thầu. Nhưng lời cảnh báo ấy bị bỏ ngoài tai, nên mới xảy ra thảm hoạ xây dựng lớn
nhất trong lịch sử Việt Nam khiến cho 64 người chết và hơn 80 người bị thương.
Hôm nay Chúa Giêsu cũng đang cảnh báo chúng ta rằng: Lời Chúa chính là nền tảng
vững chắc để xây dựng đời sống Kitô hữu, đã nghe thì phải thực hành, nếu không
“ngôi nhà đức tin” của mình sẽ “sụp đổ, sụp đổ tan tành." Lúc đó thảm họa
còn khốc liệt hơn biết chừng nào.
Trong
trường giáo dục đức tin thì học nhất thiết phải đi đôi với hành: Lời Chúa phải
được thực hành bằng chính sự hoán cải tấm lòng, chứ không chỉ để chia sẻ hay
rao giảng cho người khác. Để sống được Lời Chúa, bạn hãy bắt đầu bằng sự thay đổi
chính mình, bạn sẽ khám phá ra điều Chúa muốn bạn sống, trước khi bạn nói người
khác sống.
7. Đánh
trống bỏ dùi
Có
một cách hiểu thành ngữ “đánh trống bỏ dùi”, theo đó “dùi” là những tiếng trống
lẻ theo sau hồi trống dài. Gọi là “lẻ” nhưng những “dùi” này rất quan trọng vì
nó giúp phân biệt các mệnh lệnh khác nhau. Như “ba hồi chín dùi” là họp toàn
dân, trong khi “ba hồi ba dùi” nghĩa là có cha về dâng thánh lễ.
Vậy
“đánh trống bỏ dùi” là chỉ đánh những trống hồi, còn bỏ không đánh những tiếng
trống lẻ theo sau. Nó ám chỉ cung cách làm việc thiếu chu đáo, thiếu tinh thần
trách nhiệm, không làm đến nơi đến chốn, nửa làm nửa không. Theo cách hiểu này,
cũng là “đánh trống bỏ dùi” nếu chỉ nói tin Chúa mà lại không sống đức tin ấy.
Chúa Giêsu cho biết đức tin ấy không thể đem lại ơn cứu rỗi: “Không phải bất cứ
ai ....”
Tin
trong lời mà không tin trong đời, người ta mắc phải căn bệnh “đánh trống bo
dùi” với các triệu chứng: nói mà không làm, nói nhiều làm ít, nói hay làm dở,
làm nửa vời bỏ dở dang.
Khi
chia sẻ Lời Chúa, ta mắc bệnh này khi chỉ đề ra những lý giải thật hay mà không
hoán cải đời sống, không thực thi Lời Chúa. Nó biến việc chia sẻ Lời Chúa thành
giờ lý thuyết suông, bày biện những “ngôn từ” vô bổ.
8.
Giá trị không như người ta nghĩ
Ngôi
sao nhạc kinh Lily Pons đã từng dùng bữa tối với các tổng thống và vua chúa.
Sau khi bà chết, người ta tổ chức một cuộc đấu giá những bất động sản của bà.
Mô tả điều đó, nhà bình luận Maryln Shwartz viết: “Một bức ảnh bữa tiệc của bà
với diễn viên Humphrey Bogart giá 50 xu. Những bức thư từ công chúa Garce và
hoàng tử Rainier, lời ghi chú của công chúa Elizabeth cám ơn vì đã hiện diện tại
tiệc cưới Pons trị giá 5 đô la.”
Câu
chuyện về Lily Pons mời gọi tôi tự hỏi: có một vài điều gì hiện giờ tôi cho là
quý giá, nhưng sẽ chẳng còn được đánh giá cao khi tôi chết?
“Anh
em đừng tích trữ cho mình những kho tang dưới đất… Nhưng hãy tích trữ cho mình
những kho tàng trên trời” (Mt 6,19-20).
9.
Cái giá của lòng chân thật
Barbara
Arustein kể rằng bà nhận được một cú điện thoại của anh taxi. Anh báo rằng bà
đã để quên chiếc ví trên xe của anh. Khi nhận lại chiếc ví mà không mất một thứ
gì, bà xúc động đến độ muốn tặng cho anh tài xế một món quà. Anh từ chối, mà rằng:
“Chỉ cần bà cho tôi biết bà có bao nhiêu tiền trong chiếc ví ấy.” Một chút ngạc
nhiên, bà nói với anh ta biết. Anh ta rút ra cuốn sổ tay nhỏ ghi vào số tiền,
và nói: “Tôi đang kiểm chứng xem lòng chân thật của tôi đáng giá bao nhiêu.”
Anh
tài xế taxi đã làm điều Chúa Giêsu dạy phải làm. Chúng ta phải làm hơn là chỉ
nói bằng môi miệng. chúng ta phải làm những gì Chúa muốn. Lòng chân thật của
tôi đáng giá bao nhiêu đối với tôi?
Là
Kitô hữu chẳng những là tin bằng khối óc, mà còn là thi hành lời dạy.
10.
Chúa muốn điều gì?
G.Gordon
Liddy, người phụ tá ở Nhà Trắng đã bị buộc tội trong vụ Watergete khiến tổng thống
Nixon phải từ chức. Sau khi ra tù, Liddy đã trải qua một cuộc hoán cải trong đời
sống tôn giáo. Ông nói: “Điều khó nhất đối với tôi lúc này là cầu xin: Chúa
Giêsu muốn gì chứ không phải Gordon muốn gì?”
Lời
cầu nguyện của Liddy cũng mời tôi tự hỏi Chúa giêsu muốn gì, chứng không phải
tôi muốn gì. Điều đó khiến tôi tự hỏi: Chúa Giêsu mạc khải cho những người như
tôi biết phải làm gì?
(Một
ngôi sao bóng đá viết: “Tôi thường tự hỏi cuộc đời tôi đang đi đâu? Mục đích của
đời tôi là gì ngoài những trò chơi xuẩn ngốc mà tôi tham gia mỗi Chúa nhật? Tôi
cảm thấy cuộc sống phải có cái gì hơn thế nữa” (Jerry Kramer).
11.
Năm căn bệnh trầm kha của người công giáo Việt Nam
Linh
mục Nguyễn Trọng Viễn, dòng Đa minh đã chỉ ra năm căn bệnh trầm kha của Giáo hội
Việt Nam.
1.
“Đạo” sinh hoạt: Người Ki-tô hữu thường sống đạo theo kiểu gắn đời mình vào
trong những sinh hoạt giáo xứ, ít quan tâm tương quan cá vị với Thiên Chúa...
2.
“Đạo” kính sợ: Dễ thấy trách nhiệm với Chúa nhưng lại khó nhận ra tình thương của
Chúa...
3.
“Đạo” thiêng liêng: Đức tin được biểu lộ trong sinh hoạt tôn giáo, trong nhà thờ
nhưng lại tách rời cuộc sống, thiếu bác ái trong đời sống hằng ngày...
4.
“Đạo” luân lý: Ít bận tâm đến nỗ lực tu sửa và tập luyện nhân đức nhưng thường
xuề xòa với các tính xấu của mình...
5.
“Đạo” thực dụng: quan tâm đến những lợi ích trong mọi sự, tính toán được hay mất
(danh dự, vật chất). Ngoài ra, chúng ta còn có thể kể đến những căn bệnh “nhẹ”
khác như: bệnh sáo ngữ, bệnh hình thức, bệnh đoàn lũ và bệnh chủ quan nơi tầng
lớp giáo sĩ. Theo đạo không dừng lại ở việc “lạy Chúa." Theo đạo là sống bạn
hữu với Đức Giê-su, Đấng Đang Sống.
Người
khôn ngoan xây nhà trên đá. Chớ gì bạn và tôi nhận ra sự khôn ngoan là neo tựa
nơi đá tảng Giê-su, Đấng Đang Sống và sống tri âm tri kỷ với Ngài. Đó là tâm
tình “Lạy Chúa” đích thực.
THỨ SÁU – CHỮA LÀNH HAI NGƯỜI MÙ
Lời
Chúa: Mt 9, 27-31
Khi
ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua, có hai người mù chạy theo Chúa và kêu lớn tiếng rằng:
"Hỡi Con vua Đavít, xin thương chúng tôi.”
Khi
Chúa tới nhà, những người mù tiến lại gần Chúa. Chúa Giêsu phán bảo họ:
"Các ngươi có tin rằng Ta có thể làm việc ấy không?" Họ thưa: "Lạy
Thầy, có.” Bấy giờ Chúa sờ vào mắt họ và phán: "Các ngươi tin thế nào, thì
hãy được như vậy.” Mắt họ liền mở ra, nhưng Chúa Giêsu truyền cho họ rằng:
"Coi chừng, đừng cho ai biết.” Nhưng vừa ra đi, họ liền đồn tiếng Người
trong khắp miền ấy.
TRUYỆN
KỂ
1. Người
mù ở Việt Nam
Ở
Việt Nam hiện nay có khoảng 500 ngàn người bị mù hai mắt, và 900 ngàn người mù
một mắt. Tỉ lệ người mù như thế là cao so với nhiều nước khác.
Bao
cố gắng được đưa ra để giảm số người bị mù, trong đó có việc mổ cho 350 ngàn
người mắc bệnh đục thủy tinh thể. Người ta hy vọng nhờ đóng góp của các ân
nhân, sẽ có 100 ngàn người nghèo được mổ trong năm 2010.
2. Lòng
Tin Khiến Họ Ðược Chữa Lành
Roberto
Newman là một người mù từ lúc mới sinh, và mãi đến năm 50 tuổi, một cuộc giải
phẫu mới cho phép ông được thấy ánh sáng đầu tiên trong cuộc đời. Với ánh sáng,
toàn thể thế giới như thay đổi hẳn viễn tượng trong tâm trí ông với những điều
bấy lâu ông hằng tưởng tượng.
Khi
được phỏng vấn, ông đã trả lời tờ báo Chicago như sau: "Ðược nhìn thấy mọi vật quả là một
diễm phúc trên đời. Tôi không ngờ rằng một giáo thuyết đã dạy tôi sẽ nhìn thấy
mọi vật quanh tôi và đêm về tôi có thể nhìn ngắm các vì sao, những vật thể li
ti của dãy ngân hà trên thiên không diệu vời. Bạn sẽ chẳng bao giờ thấy chúng
tuyệt vời đến thế nào đối với tôi.”
Nhận
xét của Roberto thật xác đáng. Những ai đã một lần mất đi ánh sáng trong cuộc đời
để rồi đánh giá trị của khả năng nhìn ngắm. Hôm nay thánh sử Matthêu cũng thuật
lại cho chúng ta câu chuyện hai người đang cần ánh sáng và cuộc tìm kiếm của họ.
3.
Mù tâm linh
Tính
tự phụ và kiêu căng thường dẫn đến sự mù quáng, không nhìn ra sự thật. Do đó,
Lon Jacob đã sáng tác ra câu truyện ngụ ngôn: Con sư tử đến hỏi con tê giác:
“Ai là chúa tể khu rừng này”? Con tê giác đáp: “Là sư tử chứ ai.” Sung sướng
quá, sư tử đến hỏi con hà mã: “Ai là chúa tể khu rừng này”? Và hà mã cũng trả lời:
“Là sư tử chứ ai.” Sư tử lại đến hỏi con voi: “Ai là chúa tể khu rừng này”?
Voi
chẳng nói chẳng rằng, dùng vòi túm lấy sư tử, quăng nó lên trời. Khi rơi xuống
đất, con sư tử choáng váng mặt mày, mình mẩy ê ẩm, nhưng cũng ráng nói vớt vát:
“Vì ngu quá chẳng biết trả lời nổi câu hỏi của ta nên ta không thèm ăn thua với
mi.”
4. Thầy
bói sờ voi
Trong
kho tàng truyện cổ Ấn Độ có một câu chuyện ngụ ngôn như sau: Ngày xưa có mấy
anh mù rủ nhau đi xem voi. Họ được dẫn đến một con voi rất to để họ dùng tay mà
sờ vào nó.
Anh
thứ nhất sờ được vào cái vòi của con voi. Sờ xong anh ta đắc chí hô to:
-
Tôi biết con voi giống cái gì rồi, nó giống như cái vòi lớn.
Anh
thứ hai sờ vào chân voi rồi nói:
-
Đâu phải, tôi thấy con voi giống như cột nhà.
Anh
thứ ba sờ vào sườn voi, phản đối:
-
Các anh điên hả? Tôi thấy con voi giống như một bức tường chứ!
Anh
thứ tư sờ vào tai voi, bật cười:
-
Các anh nói gì vậy? Tôi thấy con voi giống
như một tầu là chuối.
5. Mù
vì không muốn thấy
Dân
thành Athena mù quáng kính thần Vô Danh, họ thờ vị thần mà họ không biết lý lịch,
khi họ nghe ông Phaolô giảng về Đức Kitô cho kẻ chết sống lại, thì họ chế nhạo
và đuổi khéo ông đi nơi khác, như lời họ nói: “Thôi ông để khi khác chúng tôi
nghe” (x Cv 17,32). Như thế họ mang danh là giới trí thức, mà lại mù không biết
đón nhận Đấng họ tôn thờ là Chúa Giêsu Phục Sinh, chỉ có Ngài mới đáp ứng mọi
nhu cầu sự sống của loài người (x Cv 4,12).
Loại
mù này là những kẻ ngu đần xây nhà không theo kỹ thuật phải đặt móng trên nền
đá, nhưng lại xây trên cát, khi giống tố xảy đến kéo sập nhà, chôn sống mọi người
đang ở trong đó(x Mt 7,24). Khốn nạn hơn nữa trở thành kẻ sát nhân, không trừ
người vô tội. Đan cử ông Saulô, khi chưa được học Giáo Lý nơi môn đệ Đức Giêsu,
dù mắt vẫn mở nhưng ông chẳng nhìn thấy gì, đang lúc ông xông đến Đamas đòi
tiêu diệt hết những người Công Giáo vô tội (x Cv 9,8). Vậy mà ông cứ tưởng làm như
thế là tôn vinh Thiên Chúa (x Ga 16,2).
6. Trái
tim mới thấy
Năm
1974, ông Jacques Lebreton được 78 tuổi, mới được Đức Giám mục địa phận
Beauvais nước Pháp truyền chức Phó tế cho.
Người
ta thắc mắc :
- Trước
đây ông là một đảng viên Cộng sản vô thần, vì một tai nạn xe hơi, ông đã bị cụt
hai tay, và mù cả hai mắt! Chức Phó tế cần phải đọc sách mới có khả năng giảng.
Mắt đâu để đọc sách? Tay đâu,để đổ nước ban Bí tích Thánh Tẩy cho người ta. Thế
thì truyền chức Phó tế cho ông để làm gì?!
Đức
Giám mục trả lời:
- Jacques
Lebreton còn trái tim.
Quả
thực, sau khi lãnh Phó tế, thầy Jacques Lebreton đã giảng mỗi năm khoảng 200
bài Thánh Kinh trong các trường Đại học, được rất nhiều sinh viên ca tụng.
Tâm
tình của thầy Jacques Lebreton rất giống tâm tình của thánh Phaolô: “Khốn cho
tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng, tự ý làm việc ấy thì tôi có công, còn nếu
ngoài ý tôi, thì đó là trách nhiệm Chúa đã ký thác cho tôi!” (1 Cr 9,16-17).
7. Đức
tin trông thấy
Có
một xứ đạo kia ở trong vùng nắng hạn đã lâu ngày không một hạt mưa. Giáo dân tập
trung đến nhà thờ cầu nguyện xin cho trời mưa. Trong số đó, có một cô bé đang cầu
nguyện và bên cạnh có một cái dù rất dễ thương. Buổi cầu nguyện sắp kết thúc
thì trời đổ cơn mưa rất nặng hạt.
Dường
như Chúa đang nói với họ đồng thời cũng nói với em bé kia: “Các con tin thế nào
thì được như vậy.” Tin Mừng hôm nay thuật lại Chúa Giêsu làm phép lạ cho hai
người mù được sáng mắt; nhưng dường như lòng thương xót và quyền năng vô biên của
Ngài chỉ có thể tỏ ra nhờ vào đức tin mạnh mẽ của họ.
Phép
lạ của Chúa là dấu chỉ của ơn cứu độ cho con người. Ngài cho thấy chính Ngài là
Ánh Sáng thật cho họ nhìn ra “Con Người cứu độ.”
Đức
tin chỉ ở trong lòng thôi thì chưa đủ mà còn phải biểu lộ ra bên ngoài nữa.
Cách bạn dự lễ nghiêm trang, cầu nguyện sốt sắng, sống công bình bác ái là dấu
hiệu thể hiện đức tin của bạn. Mời bạn hãy sống niềm tin ấy thật mạnh mẽ.
8. Mù
không phải là không thấy
Tháng
9/2012, cô Christine Hà, người Mỹ gốc Việt, đoạt chức vô địch giải đầu bếp danh
giá toàn nước Mỹ mặc dù cô là người khiếm thị. Mất thị lực từ năm 16 tuổi do một
chứng bệnh quái ác, cô đã dùng các giác quan khác để “thấy” và thể hiện niềm
đam mê nấu ăn của mình khiến vị giám khảo khó tính Gordon Ramsay phải thốt lên:
“Cô có đánh lừa chúng tôi rằng cô mù không đấy?” Bằng đam mê và nghị lực, cô
Christine Hà đã “thấy” được.
Thế
nhưng để có thể thấy thực sự bằng đôi mắt đã mù của mình, và nhất là “thấy” được
Thiên Chúa bằng đôi mắt tự nhiên của mình thì phải có đức tin. Chúa hỏi hai người
mù có tin vào Ngài không, và ngay khi họ bày tỏ lòng tin, Chúa đã chữa lành cho
họ: “Các anh tin thế nào thì được như vậy.”
Trong
cuộc sống xô bồ nhiều lo toan này, lắm khi cái bóng của tiền bạc, thú vui, danh
vọng quyền lực làm cho cặp mắt ta hoá mù không thấy được Chúa hiện diện nơi tha
nhân nữa. Tôi có thao thức, khao khát được chữa lành bệnh mù này không? Năm Đức
Tin này nhắc nhở chúng ta rằng chính Đức Tin là phương thế để ơn Chúa có thể chữa
lành tật bệnh linh hồn cho tôi.
9. Đức
tin đổi mới cuộc đời
Bob
Evans bị mù từ bẩm sinh. Một ca phẩu thuật đã phục hồi đôi mắt và đem lại cho
anh một cuộc sống mới. Bob mô tả cuộc sống ấy như sau: “Đó là điều ngạc nhiên
nhất… Mỗi sang tôi đã không thể chờ đợi thức dậy để được nhìn thấy… Bạn không
bao giờ biết được mọi thứ đều tuyệt vời làm sao.”
Câu
truyện trên giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc lời tiên tri Isaia nói về cuộc sống
sẽ thay đổi thế nào khi Đấng Cứu Thế đến, hoặc cuộc sống mới thay thế cuộc sống
cũ.
Tôi
mong đợi gì ở cuộc sống mai sau?
Điều
mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại điều
Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Ngài. (1Cr 2,9)
10.
Tin là thấy
Niềm
tin vào Chúa Giêsu về căn bản là phó thác vào việc đón nhận Chúa Giêsu như Con
Thiên Chúa. W.H.Murray nói: “Dù người ta tin tưởng phó thác, thì vẫn còn có sự
do dự. giây phút mà ta hoàn toàn phó thác chính mình, Thiên Chúa cũng tỏ mình
ra đến nỗi mọi sự xảy ra đến không ai ngờ tới.”
Tôi
vững vàng phó thác bản thân vào Chúa Kitô như thế nào? Tôi đã bao giờ cảm nghiệm
được điều không ai ngờ tới đã xảy ra nhờ phó thác vào Chúa chưa?
Chính
tình yêu làm nên đức tin, chứ không phải đức tin tạo ra tình yêu (John Henry
Newman).
11.
Ơn đức tin
Bộ
phim hoạt hình “Peanuts” có cảnh Charlie Brown đứng trước của nhà. Anh ta đã
lên với những khách qua đường: “Hãy tin tôi.” Nhưng chẳng ai chú ý đến anh cả.
Cuối cùng, Charlie thở dài và buồn bã nói: “Tôi không thể làm cho người ta tin
được.”
Chúa
Giêsu đã gặp cùng một tình huồng như vậy. Nhiều người đã từ chối tin vào Ngài.
Tuy nhiên, những ai tin vào Ngài đều cảm nghiệm những điều kỳ diệu trong cuộc đời
họ. Điều gì đã khiến lòng tin của tôi nơi Chúa Giêsu không được lớn mạnh?
(Chúa
Giêsu nói:) “Nếu anh có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì anh có thể bảo cây dâu
này: “Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc” nó cũng sẽ vâng lời anh em”
(Lc 17,6).
THỨ BẢY - LÚA CHÍN ĐẦY ĐỒNG, THỢ
GẶT THÌ ÍT
Lời
Chúa: Mt 9,35 - 10,1. 6-8
Khi
ấy, Chúa Giêsu đi rảo khắp các thành phố làng mạc, dạy dỗ trong các hội đường,
rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Thấy đoàn
lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con
chiên không có người chăn, Người liền bảo môn đệ rằng: "Lúa chín đầy đồng,
mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa."
Và
Người triệu tập mười hai môn đệ, ban cho họ quyền năng trên các thần ô uế, để họ
xua đuổi chúng, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Người bảo: "Các con
hãy đi đến cùng chiên lạc của nhà Israel trước đã, và rao giảng rằng: Nước Trời
đã đến gần. Hãy chữa lành người liệt, phục sinh kẻ chết, chữa lành người phung,
và xua trừ ma quỷ. Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không."
TRUYỆN
KỂ
1. Nhà
truyền giáo đích thực
Vào
thời Trung cổ, một số tín hữu giàu có muốn sống theo tinh thần của thánh Benado
đã từ bỏ mọi tiện nghi và ngay cả ngôi thánh đường ấm cúng của họ để đến cư ngụ
trên một đỉnh núi cao. Mục đích của họ là để cảm thông với những khách bộ hành
lạc lối giữa núi rừng, nhất là vào mùa đông tuyết rơi. Những tín hữu này quyết
định ngày đêm túc trực ở đó để kịp thời cứu vớt những ai kêu cứu. Để làm việc
đó, họ đã huấn luyện một đàn chó đi tìm người lạc lối, đưa về nhà Dòng để được
tận tình săn sóc.
Sự
cảm thông không chỉ là một cảm xúc trong tâm hồn, mà còn là đến gần để lắng
nghe, chia sẻ, trao ban. Thiên Chúa là Đấng cảm thông đích thực: Ngài không thể
hiện sự cảm thông duy chỉ bằng cái nhìn từ trời cao, nhưng Ngài đã hoá thân làm
người, chia sẻ hoàn toàn kiếp sống khốn cùng của con người. Tin mừng hôm nay
nói lên sự cảm thông của Thiên Chúa bằng câu: “Ngài động lòng xót thương họ."
Chúa Giêsu quả thực chính là Trái tim của Thiên Chúa, một Trái tim không những
rung động trước nỗi khốn khổ của con người, mà còn đến ở bên con người.
2.
Mục tử đích thực
Hôm
nay, Tin Mừng cho thấy Đức Giêsu một lần nữa thi hành sứ vụ Mục Tử của mình khi
”chạnh lòng thương” để chữa lành bệnh tật, xua đuổi ma quỷ và giải thoát họ khỏi
những sự kiềm chế của tội lỗi.
Kế
đó, Đức Giêsu đã mời gọi các môn đệ ra đi thi hành cùng một sứ vụ như Ngài và đồng
thời trao ban cho các ông những quyền năng cần thiết để hỗ trợ việc rao giảng
như khả năng chữa bệnh, trừ quỷ, khuất phục thiên nhiên. ... Tuy nhiên, vì Ngài
biết rõ sự nguy hại của kẻ kiêu ngạo, nên không quên nhắc các ông: ”Các con đã
lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không."
3.
Biết cảm thông
Đây
là bức thư của một bạn trẻ bị bệnh sida: “Trước đây tôi không phải là một Kitô
hữu. Tôi sống trong tuyệt vọng vì số phận đã bị kết án bởi sida. Thế rồi, nhờ một
người bạn, tôi đã gặp Chúa. Bắt đầu từ ánh mắt nhìn tôi, và tôi đã tin vào
Chúa. Tôi đã tìm ra ý nghĩa của cuộc sống, và nhận thức được giá trị đời mình
ngay trong quãng đời vắn vỏi còn lại."
Hãy
xin Chúa cho chúng ta một con tim rộng mở, luôn biết cảm thông và trân trọng
anh em đồng loại, để thế giới tràn đầy niềm hy vọng.
Ra
đi loan báo Tin Mừng còn có nghĩa là ra đi khỏi con người của mình. Ra khỏi con
người thiển cận, ích kỷ của mình để mặc lấy cái nhìn nhậy cảm hơn trước sự hiện
diện của tha nhân đang cần đến sự giúp đỡ của chúng ta.
Một cô gái Phi châu nói: “Khi muốn truyền đạo cho một
làng chúng tôi, chúng tôi không cho họ sách. Chúng tôi gửi một gia đình Kitô
giáo đến sống trong làng. Và họ sẽ làm cho mọi người thành Kitô hữu."
4.
Đức tin sống động.
Felix
Frankfurter là một quan tòa nổi tiếng của tòa án tối cao của Hoa Kỳ. Một lần
kia ông được đưa vào bệnh viện, ở đó ông quen biết một y tá có tên là Lucy. Họ
có những lúc ngồi nói chuyện thân mật và ông biết nhiều điều về Lucy.
Trước
đó, chưa bao giờ ông gặp được người nào có lòng quảng đại và nhân hậu như chị.
Và ông đã bắt đầu tự hỏi và suy nghĩ, cố gắng khám phá suối nguồn của thái độ của
chị. Điều ông khám phá như sau: Suối nguồn ấy không có gì là bí ẩn. Nó đơn giản,
chỉ là sự áp dụng thực hành đức tin của chị.
Lucy
không bao giờ biết đức tin sống động của chị có ảnh hưởng như thế nào, nhưng chị
đã làm cho Đức Giêsu hiện diện cụ thể trong bệnh viện này. Chị đem đến đôi bàn
tay mà Đức Giêsu cần đến. Đức Giêsu cần những nhân chứng cho người ta như chị
Lucy đến nỗi Người có thể thành Đấng an ủi như Người muốn làm.
5.
Món quà cao quý
Hồi
đó, Hoàng Đế Sabat cai trị vương quốc Ba Tư và rất được toàn dân mến phục. Nhà
vua thường cải trang như một thường dân để tiếp xúc với dân chúng. Một hôm, nhà
vua cải trang như một nhân công nghèo khổ lần mò các bậc thang để xuống tận dưới
hầm tối của lâu đài là nơi cư ngụ của một cụ già chuyên lo việc củi lửa sưởi ấm
cho cả lâu đài. Giường ngủ của cụ là đống tro tàn và lương thực hàng ngày là mẩu
bánh mì đen với ly nước lã. Nhà vua đến ngồi bên cạnh cụ già và bắt đầu gợi
chuyện. Đến bữa ăn, cụ già mời nhà vua chia sẻ mẩu bánh mì khô cứng thấm mềm
trong ly nước lã. Cả hai cùng ăn và tiếp tục chuyện trò thân mật.
Nhà
vua động lòng thương cụ già và từ ngày đó, nhà vua nhiều lần cải trang để đến
thăm cụ. Riêng cụ già, tuy không biết lý lịch của người đến thăm mình là ai,
nhưng vẫn tiếp tục đáp trả cử chỉ nhân đạo của nhà vua. Sau cùng, nhà vua tự nhủ:
ta sẽ tỏ lộ cho cụ già này biết ta là ai, để xem ông ta sẽ xin ta điều gì. Ít
hôm sau, nhà vua xuống hầm tối thăm cụ già trong y phục sang trọng và nói:
- Bấy
lâu nay có lẽ ông tưởng ta chỉ là một công nhân ngèo khổ như ông, nhưng nay ta
nói thật ta là vua, ta rất qúi mến tình bạn của ông, vậy ông muốn gì, cứ nói,
ta sẽ ban.
Nhà
vua tưởng cụ già sẽ xin tiền bạc hoặc ân huệ, nhưng ông chỉ ngồi yên lặng. Tưởng
cụ già không hiểu mình nói gì, nhà vua cắt nghĩa thêm.
-
Có lẽ ông chưa hiểu rằng ta là vua, ta có thể làm cho ông lên giàu sang, danh vọng.
Cụ
già cúi đầu đáp:
-
Tâu Hoàng Thượng, con đã hiểu tấm lòng của Hoàng Thượng trong những lần đến hầm
tối này để thăm con và không ngần ngại chia sẻ với con mẩu bánh mì đen và ly nước
lạnh. Đó là món quà cao qúi nhất rồi, con không muốn gì hơn nữa, con chỉ xin một
điều là Hoàng Thượng đừng bao giờ lấy lại món quà quí giá ấy bao lâu con còn sống
trong cảnh cô đơn nghèo khổ này.
6.
Món quà cảm thông
Ở
góc phố, một người hành khất đang chìa tay xin khách bộ hành bố thí. Sau khi đã
lục tìm khắp hết các túi trong ngoài của mình, Lev Tolstoi, nhà văn Nga, nói với
người hành khất với giọng của một người có lỗi: “Này anh bạn, xin lỗi nhé! Tôi
không còn gì để có thể cho anh. Hẹn anh lần sau. Chúc anh một ngày tốt lành!”
Người hành khất hớn hở trả lời nhà văn: “Không, ông đã cho tôi rất nhiều! Lâu
nay, ai cũng coi thường tôi. Còn ông, ông gọi tôi là ‘anh bạn’. Vậy là ông đã
cho tôi nhiều nhất rồi đó. Cám ơn ông!” Tin Mừng hôm nay khắc họa một “Đức
Giê-su thấy đám đông thì chạnh lòng thương.” Ngài thấy họ “như bầy chiên không
người chăn dắt.” Vì thế, Ngài đã gọi mười hai môn đệ lại và sai các ông đi, với
lệnh truyền: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.” Người
môn đệ Chúa Giê-su, vì thế, luôn luôn vẫn có cái gì đó để cho đi một cách vô điều
kiện.
Nhiều
khi chúng ta nghĩ rằng chẳng có gì để cho người khác. Thế nhưng, sự cảm thông
và tình thương vẫn luôn là món quà quý báu mà chúng ta có thể trao đi bất cứ
khi nào.
7.
Chạnh lòng thương
Thay
vì lập sân gôn trên những “bờ xôi ruộng mật” tại Hoà Liên, Hòa Sơn (Đà Nẵng),
ông Chung, doanh nhân Hàn Quốc đã chọn những ngọn đồi trọc ở Hòa Phú. Ông giải
thích: 100 hộ dân với mồ mả phải di dời, 120 lao động không có việc làm và cả
trăm trẻ em phải chuyển trường… “Tôi không thể dùng tiền để tước đoạt của họ những
thứ đó.” Ông đã tỏ ra nhạy cảm trước nỗi khốn khổ của người dân nghèo. “Chạnh
lòng thương” là tâm tình thường gặp nơi Đức Giêsu mỗi khi gặp nỗi khổ của con
người. Nó diễn tả lòng trắc ẩn của Ngài rung cảm sâu đến tận đáy lòng. Trái tim
nhói đau ấy sẽ tìm ra những giải pháp thích hợp nhất để xoa dịu, giảm đi nỗi
đau của từng khuôn mặt cụ thể: cho con trai bà goá Naim sống lại, chữa người
phong lành bệnh…
Con
người hôm nay nhìn người lân cận như dụng cụ, nghĩa là theo hiệu năng, nhất là
giá trị kinh tế. Vì thế, người khác chỉ được tôn trọng khi còn hay có hiệu năng
cao. Chúa dạy ta đối xử với người khác với trọn tấm lòng, nhìn họ như người
anh-em, chị-em, như hình ảnh của Thiên Chúa.
8. Niềm
tin vào Thiên Chúa
Trước
trận chiến Gettysburg, tổng thống Lincoln đã kêu cầu Thiên Chúa cứu trợ giúp.
Ông mô tả điều đó với tướng Sickles như sau: “Tôi biết sự thất bại trong trận
chiến quan trọng này ở đất Bắc liên quan đến sự sống còn của Washington. Tôi đi
vào phòng, quì gối và cầu nguyện. Chua bao giờ tôi cầu nguyện nghiêm túc đến thế.
Tôi thấy rằng mình phải đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa tối cao… Tôi không còn
e sợ gì về kết quả.”
Lời
ngôn sứ Isaia và câu truyện của Lincoln mời gọi tôi kiểm điểm lại niềm tin của
tôi là Thiên Chúa lắng nghe tiếng kêu cầu của tôi để trợ giúp.
Đừng
xin được sống dễ dãi, nhưng xin được mạnh mẽ hơn. Đừng xin sứ mệnh vừa tầm sức
bạn, nhưng hãy xin sức mạnh để đảm nhận công việc khó khăn (Philip Brooks).
9.
Đưa Chúa vào đời
“Kết
quả của việc chia thế giới thành những vùng thánh thiêng và những vùng trần tục
đã trở nên tai họa.” Thomas Carruthers đã lưu ý như thế. “Chúng ta chỉ đến với
những vùng nhỏ, tốt đẹp và dán nhân tôn giáo ở đó, nhưng như thế chưa đủ. Chúng
ta phải đưa Chúa vào nhà máy, trường học, văn phòng, kinh doanh, gia đình, và mọi
nơi.”
Ý của
Carruthers rất quan trọng. Chúa Giêsu không muốn chỉ một số môn đệ nào đó,
nhưng là tất cả phải tham gia vào “mùa gặt.”
Tôi
có thường chia thế giới thành những vùng thánh thiêng và trần tục không? Tôi có
thể làm gì hiệu quả để đem Chúa vào môi trường sống của tôi?
Hãy
làm những gì có thể bằng những gì bạn sẳn có nơi bạn đang sống (Theodore Roosevelt).
10.
Bắt đầu từ lòng thương xót
Thánh
Catherine Drexdel xuất thân từ một gia đình giàu có ở Philadelphia. Một ngày nọ,
trong khi thăm viếng khu ổ chuột của thành phố, ngày cảm thấy tràn ngập lòng
thương xót khi nhìn thấy những trẻ em sống ở đó. Nhận thấy rằng: "Lúa
chính đầy đồng mà thợ gặt lại ít”, ngài quyết định lập một dòng nữa để giúp những
trẻ em này.
Điều
gì trong thế giới ngày nay đã làm tôi chạnh lòng thương xót? Tôi có thể làm gì
để giúp giải quyết vấn đề ấy một cách cụ thể?
Thế
nào là chân dung của tình yêu? Tình yêu có đôi chân để đến với người nghèo.
Tình yêu có đôi mắt để nhìn thấy nỗi bất hạnh và thiếu thốn. Tình yêu có đôi
tai để nghe được tiếng thở than và buồn phiền của người khác.” (Th. Augustino)
LỄ
KÍNH ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI - XIN VÂNG
Lời Chúa: Lc 1,
26-38
Khi
ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nagiarét,
đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ
Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria.
Thiên
thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào trinh nữ đầy ơn phúc, Thiên
Chúa ở cùng trinh nữ, trinh nữ có phúc hơn các người nữ."
Nghe
lời đó, trinh nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.
Thiên
thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này trinh nữ
sẽ thụ thai, hạ sinh một Con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng
và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ
phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp và triều đại Người sẽ vô tận!"
Nhưng
Maria liền thưa với Thiên Thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi
không biết đến người nam?"
Thiên
thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ
bao trùm trinh nữ. Vì thế Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là
Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong
lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ;
vì không có việc gì mà Chúa không làm được."
Maria
liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền."
Và Thiên Thần cáo biệt trinh nữ. Đó là lời Chúa.
TRUYỆN
KỂ
1. Này
tôi là nữ tì Chúa
Ngày
08 tháng 12 năm 1854 Đức Thánh Cha Piô IX đã long trọng công bố tín điều Đức
Maria Vô nhiễm nguyên tội qua thông điệp ‘Ineffabilis Deus’. Bốn năm sau, khi
hiện ra với Thánh nữ Bernadette tại hang đá Lộ đức, chính Đức Mẹ đã khẳng định:
“ Ta là Đấng Vô nhiễm nguyên tội."
Cũng
vào ngày này năm 2015, Giáo hội khai mở năm thánh tôn vinh Lòng Thương Xót
Chúa. Không phải tình cờ mà Giáo hội cử hành phụng vụ tôn kính Mẹ Vô nhiễm thai
trong mùa vọng, và cũng không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên mà Đức Thánh Cha
Phanxicô chọn ngày lễ hôm nay để mở cửa năm thánh tôn vinh Lòng Thương Xót
Chúa.
Mẹ
Maria Vô nhiễm chính là Evà mới đã chiến thắng con rắn xưa, mở ra cho chúng ta
kỷ nguyên cứu độ, để cùng với Giáo hội chúng ta sống tâm tình mùa vọng mong chờ
Đấng Cứu thế, Đấng sẽ đến trong ngày cánh chung để hoàn tất ơn cứu độ theo hoạch
định của Chúa Cha. Đồng thời Mẹ cũng được gìn giữ khỏi vết nhơ nguyên tội để
cưu mang Đức Giêsu, Đấng đã đến trần gian nhằm diễn bày lòng thương xót cho
nhân loại tội lỗi. Mẹ Đấng Cứu thế cũng chính là Mẹ của Lòng Thương Xót (Mater
Misericordiae).
2.
Một kỷ nguyên mới
Vào
năm 1989, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2 tiếp ông Gorbachop và bà Raissa, phu
nhân của ông ta tại điện Vatican. Lúc bấy giờ Gorbachop là Tổng bí thư Đảng cộng
sản Liên xô, lãnh tụ của một cường quốc.
Sau
buổi tiếp kiến, Đức Thánh Cha trao tặng ông Tổng bí thư một cuốn Kinh thánh với
hàng chữ bên ngoài: ‘Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống’. Chúng ta biết dụng
ý của Đức Thánh Cha muốn ám thị điều gì. Quay sang bà Raissa, vị Thánh Giáo
hoàng tặng bà một cỗ tràng hạt với hàng chữ đi kèm: ‘Nữ Vương ban sự bình an’.
Đức
Thánh Cha muốn nói cho cả thế giới biết rằng, hòa bình thật sự nhân loại có thể
kiến tạo được, không phải do tiền bạc, do vũ khí hay sức mạnh quân sự. Nhưng
chúng ta phải học hỏi nơi Đức Maria và sống khiêm tốn như Ngài, để có được hòa bình
trên thế giới cũng như sự bình an nơi tâm hồn mỗi người. Thánh Phaolô rất có lý
khi diễn tả:“Hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an” (Rm 8,6).
Mẹ
đã hoàn toàn để Thần Khí hướng dẫn, vượt qua mọi sợ hãi, luôn sống ‘đẹp lòng
Thiên Chúa’ và ngập tràn bình an trong tâm hồn. Đó là khuôn mẫu nội tâm cho tất
cả mọi người chúng ta noi theo.
3.
Đầy ơn phúc, Mẹ có trước để mở đường cho con
Bernadette,
một trẻ nữ thôn quê chất phác, một tâm hồn trong trắng như thiên thần, một tính
tình thơ ngây mỹ lệ, khi được Mẹ Thiên Chúa hiện ra, và theo lệnh của cha xứ,
em đã hỏi Người : Bà là ai? Và đến ngày đã định Mẹ đã trả lời em :
"
Ta là Đấng đầu thai vô nhiễm nguyên tội." Ôi cái đặc ân cao quí nhất của Mẹ
Maria. Một đặc ân, mặc dầu Mẹ chưa tỏ ra, thì bao đời con cái Mẹ cũng đã tôn
vinh rồi.
Thế
thì Mẹ tỏ ra làm gì? - Có phải là để xác minh cái tín điều mà Giáo hội vừa
tuyên bố không? - Hẳn là không, vì Giáo hội đã có ơn Chúa Thánh Thần soi sáng,
không thể sai lầm khi rao giảng chân lý đức tin. Mẹ muốn tỏ ra để làm cho niềm
vui của con cái khi đón nhận tín điều "Mẹ Maria đầu thai vô nhiễm nguyên tội"
được thêm phần rạng rỡ hân hoan.
4. Đức
Maria Vô Nhiễm nguyên tội--Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Ngày
25-3-1858 tại Lộ Đức, Đức Mẹ lại hiện ra cho Bernadette, một cô bé mười bốn tuổi,
nhà nghèo, quê mùa. Vào lần hiện ra thứ mười sáu, khi cô gặng hỏi tên của Bà đẹp,
Bà đã trả lời: Que soy era Immaculada Conception, Ta là sự Thụ thai vô nhiễm. Một
câu trả lời khó hiểu và khó nhớ đối với một cô bé ít học. Dĩ nhiên cô không hề
biết rằng bốn năm trước đó, Đức Piô IX đã công bố tín điều Đức Maria Vô Nhiễm
nguyên tội.
Mừng
lễ Đức Maria Vô nhiễm là mừng lễ một con người, một phụ nữ. Thiên Chúa muốn Con
Một của mình làm người trăm phần trăm, nên cần tuyển chọn một phụ nữ để sinh ra
người Con ấy. Maria chính là người được chọn, hoàn toàn như một ân huệ. Khi chọn
Maria, Thiên Chúa đã ban cho Mẹ mọi sự tốt đẹp nhất có thể, vì ơn gọi quá vĩ đại
là làm Mẹ Con Thiên Chúa.
Maria
được Thiên Chúa bao bọc và bảo vệ bằng ân sủng tuyệt vời. Ngài cho Mẹ được hưởng
trước công nghiệp của Người Con, nên gìn giữ Mẹ khỏi vết nhơ của nguyên tội.
Mừng
lễ Vô nhiễm là mừng lễ một con người, một phụ nữ, ngay từ giây phút đầu tiên được
thụ thai, đã trọn vẹn và tuyệt đối nằm trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa.
5. Lễ
Đức Mẹ Vô Nhiễm--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
Thánh
Kinh không minh nhiên nói về việc Đức Maria ngay từ thưở ban đầu đã được gìn giữ
khỏi tội nguyên tổ, nhưng lòng sùng kính cá nhân hay trong cộng đoàn địa phương
đã có từ lâu. Giáo dân với lòng thành thật đã tin rằng Đức Maria đã được ơn vô
nhiễm nguyên tội và lòng sùng kính mỗi ngày một tăng thêm.
Về
phụng vụ, chúng ta thấy đã có những thánh lễ kính Đức Mẹ vô nhiễm từ thế kỷ thứ
9, bắt đầu từ Constantinople tràn sang miền nam nước Ý. Nhưng rõ nét nhất là
thánh Anselmô thành Canterburry đã du nhập Thánh lễ này vào giáo phận của Ngài.
Vào
năm 1476 Đức Giáo hoàng Sixtô IV xuất thân từ dòng Anh Em Hèn Mọn, đã đem lễ
này vào Giáo hội La mã.
Tuy
Thánh lễ kính Đức Mẹ Vô nhiễm đã được mừng trọng thể trong toàn Giáo hội, nhưng
lòng tin vào đặc sủng này còn bỏ ngỏ để các nhà thần học tự do nghiên cứu và thảo
luận.
Riêng
Giáo phận Bùi chu, năm 1845 là thời kỳ cấm đạo gay gắt nhất, Đức cha Valentinô
Vinh coi sóc Giáo phận đã thay mặt cho giáo phận khấn với Đức Mẹ Vô Nhiễm: “Nếu
cơn bách hại tan đi thì Giáo phận sẽ xây dâng kính Đức Mẹ một ngôi thánh đường
xứng đáng. ."
Nhờ
ơn Đức Mẹ, cơn bắt đạo qua đi, và thánh đường khấn hứa đã bắt đầu được xây cất
vào năm 1917 tại làng Phú nhai (Bùi chu) và hoàn thành vào năm 1923. Nhưng mùa
hè năm 1929 một cơn bão lớn đánh sập và năm 1938 việc tái thiết được hoàn
thành.
Đây
là ngôi thánh đường nguy nga đồ sộ, theo kiểu gothique, với chiều dài 83 mét, rộng
28 mét và tháp chuông cao 30 mét. Mới đây thánh đường Phú nhai mới được nâng
lên thành “tiểu vương cung thánh đường” dâng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm.
6. Hãy
lấy Mẹ làm gương, sống trong sạch.
Họa
sĩ Fra Angelico, một lần vẽ mặt Đức Mẹ thì suy gẫm và cầu nguyện trước, mặc dầu
không bao giờ hài lòng và phải đề thêm vào bức họa: Virgo Maria, non est
similis tui ( Trinh nữ Maria, không ai giống được như Mẹ). Ta cố gắng theo
gương Mẹ. Mặc dầu sẽ không bao giờ giống Mẹ hoàn toàn, nhưng cũng như Mẹ đã mỉm
cười với Fra Angelico, thì cũng sẽ in vào lòng ta một hai nét của các nhân đức Người,
nhất là đức trong sạch.
7. Thắp
lên một ngọn đèn
Mẹ
Têrêsa thành Calcutta đã thuật lại một câu chuyện sau nhân dịp một đài truyền
hình phỏng vấn Mẹ. Mẹ nói: Một lần khi khi còn ở Úc tôi có đến thăm một người
thuộc thổ dân Aborigine. Ông cụ sống trong cảnh cô độc thật thảm thương. Ông sống
trong một túp lều xiêu vẹo với tuổi đã già nua của mình. Khởi đầu câu chuyện
cho lần gặp đầu tiên, tôi đã đề nghị:
- Để
tôi dọn dẹp nhà và sửa soạn giường ngủ cho ông. Ông ta trả lời hững hờ:- Tôi đã
quen sống như vậy rồi. - Nhưng ông sẽ cảm thấy dễ chịu hơn với căn nhà sạch sẽ
và ngăn nắp. Sau cùng ông ta bằng lòng để tôi dọn dẹp lại nhà cửa cho ông.
Trong khi quét dọn tôi thấy một cái đèn cũ đẹp nhưng phủ đầy bụi bặm và bồ
hóng. Tôi hỏi ông:- Có bao giờ ông thắp đèn này chưa?Ông la trả lời cộc lốc:-
Nhưng thắp đèn để cho ai? Có ai bước chân vào nhà này bao giờ đâu? Tôi sống ở
đây đã từ lâu không hề trông thấy mặt người nào cả. Tôi hỏi ông:- Nếu như có
người tình nguyện đến thăm ông thường xuyên, ông có vui lòng thắp đèn lên
không? - Dĩ nhiên. Từ ngày đó, các nữ tu quyết định mỗi chiều sẽ ghé qua nhà
ông. Ông ta bắt đầu thắp đèn và dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ hơn. Ông còn sống thêm
hai năm nữa. Trước khi qua đời ông nhờ các nữ tu ghé thăm nhắn tin giúp ông:-
Xin nhắn với mẹ Têrêsa, bạn tôi, rằng ngọn đèn mà mẹ thắp lên trong đời tôi vẫn
còn chiếu sáng. Đó chỉ là một việc nhó mọn, nhưng trong bóng tối cô đơn của đời
tôi, một tia sáng đã thắp lên và vẫn còn tiếp tục chiếu sáng mãi. Vâng! Đúng là
một cuộc viếng thăm thật tuyệt vời.
Ngọn
đèn cũ không được thắp sẽ trở nên vô dụng và quên lãng nơi một xó xỉnh nào đấy,
nhưng khi được châm vào một chút dầu tình yêu và sự bao dung thì nó đem đến sự
sáng và sưởi ấm lòng người. Giờ đây, con người dù phải sống cô độc nhưng không
còn cô đơn nữa vì bóng tối đã bị đẩy lui và nhường bước cho tình yêu và lòng
bao dung của những đốm sáng nhỏ nơi con người, nơi nhân loại.
8.
Bernadette, chứng nhân duy nhất cho Đức Mẹ Vô Nhiễm
Khi
nhắc đến đặc ân Vô Nhiễm nguyên tội của Đức Mẹ, chúng ta không thể nào không nhắc
đến thánh Bê-na-đê-ta, nhân chứng độc nhất của Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội.
Vào
năm 1854, Đức Giáo Hoàng Pi-ô thứ IX đã tuyên tín, Đức Maria là Đấng Vô Nhiễm
nguyên tội. Rất nhiều trong Giáo Hội đã phản đối với nhiều lý do, và lý do
chính họ nêu ra là, không có bằng chứng trong Kinh Thánh.
Vào
năm 1858, tại hang đá Lộ-Đức, Đức Mẹ đã hiện ra với một cô thanh nữ quê mùa,
nghèo nàn và ốm yếu tên là Bê-na-đê-ta và xác định rằng: “Ta là Đấng Vô Nhiễm
nguyên tội."
Chính
Đức Mẹ đã đích thân xác nhận tín điều trên và từ đó đến nay, Lộ Đức đã trở
thành thành phố của Đức Mẹ, là trung tâm hành hương Thánh Mẫu cho toàn thể thế
giới. Nơi đó Mẹ đã ban bố không biết bao nhiêu ơn lành cho những bệnh nhân hồn
xác. Biết bao nhiêu người, nhờ Mẹ đã trở về với Chúa khi đến với Mẹ tại thành
phố của Mẹ.
Nhiều
người ngạc nhiên không biết tại sao Đức Mẹ lại chọn một đứa con gái quê mùa dốt
nát như thế để làm nhân chứng cho Mẹ.
Chúng
ta không thể đoán được ý Mẹ, nhưng chúng ta cũng có thể suy đoán phần nào, một
cách khách quan, thanh thản, Mẹ rất tinh tế khi chọn Bê-na-đê-ta.
Vì
em dốt nát không thể bịa đặt một việc lớn lao như thế, và nếu bị hoang tưởng
hay dối trá, em sẽ không thể đương đầu với những người chống đối, với cả nhóm cảnh
sát với những người trí thức đến tra hỏi em.
Khi
Bê-na-đê-ta nghe Đức Mẹ nói rõ : “Ta là Đấng Vô Nhiễm nguyên tội”, em không hiểu
câu đó là gì. Em phải lặp đi lặp lại suốt từ hang đá cho đến nhà cha xứ. Nghe
em nói thầm trong miệng điều gì đó, người ta hỏi em: “Con nói gì thế?” Bê-na-đê-ta
trả lời một cách tự nhiên: “Con sợ quên."
Khi
đến nhà cha xứ, ngài mở cửa cho em vào và tự nhiên em chấp tay và nói rõ: “Ta
là Đấng Vô Nhiễm nguyên tội."
Cha
xứ giựt mình: “Con nói gì thế?”
Bê-na-đê-ta
lặp lại: “Ta là Đấng Vô Nhiễm nguyên tội."
Cha
xứ bình tĩnh hơn vặn lại: “Con nói gì thế? Con có hiểu đó là gì không?”
-
“Thưa cha, không, vì thế con đã lặp lại để khỏi quên."
Cha
xứ để Bê-na-đê-ta đứng đó ngơ ngác. Ngài vào phòng riêng, đóng cửa lại, đến quì
trước một bức tượng Đức Mẹ, nơi Ngài thường quì cầu nguyện, ngài rơi lệ vì quá
sung sướng. Mẹ đã cho mọi người thấy, Đức Giáo Hoàng đã nói đúng. Khi tuyên tín
“Đức Maria là Đấng Vô Nhiễm nguyên tội." Chính Đức Mẹ đã đích thân xác nhận
tín điều nầy.
9.
Cuộc đời có Mẹ
Ca
dao tục ngữ có câu: canh suông khéo nấu thì ngon, mẹ già khéo nói thì con đắt
chồng. Lại cũng có câu: con hư tại mẹ, cháu hư tại bà. Đúng là vị trí của người
mẹ trong cuộc sống thật quan trọng, mẹ là nải chuối buồng cau, mẹ là ngọn gió
đưa êm, mẹ là dòng suối mơ huyền bao la. Cuộc đời đầy người tốt, nhưng tốt hơn
cả vẫn là “mẹ”, gian khổ cuộc đời ai cũng có, mà khổ nhất là “mất mẹ”, chẳng thế
mà dân gian có câu: mồ côi mẹ liếm lá gặm xương!
Sinh
ra làm người, ai cũng có mẹ; sinh ra làm con Chúa, chúng ta còn biết đến người
Mẹ thiêng liêng nữa: Mẹ Maria. Mừng lễ Mẹ Vô Nhiễm, chúng ta lại được nhắc nhớ
đến ví trí quan trọng của người mẹ trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Người phụ nữ duyên dáng xinh đẹp, thời nào cũng có; nhưng phụ nữ hoàn hảo, đức
độ, Thiên Chúa đã gặp nơi Trinh Nữ Maria. Xem ra tiêu chí đẹp toàn diện chưa đủ,
Sứ thần của Chúa còn cần thiếu nữ Maria thể hiện được niềm tin, phải tự do nói
và sống lời thưa vâng trong suốt cuộc đời trần thế.
Trinh
Nữ Maria chính thức làm Mẹ Đấng Cứu Thế, sau lời khiêm tốn thưa vâng. Đức Maria
chính thức là Mẹ Hội Thánh, là Mẹ của chúng ta trước khi Chúa Giêsu hoàn tất sứ
mạng trên cây thập giá. Người đời ví von rằng: có cha có mẹ thì hơn, không cha
không mẹ như đờn đứt dây. Đức Giêsu thật là hạnh phúc, vì cả cuộc đời của Ngài
là có Mẹ có cha, dù các ngài rất âm thầm nơi mái nhà Nagiarét, hoặc đầy lo lắng
trong khi thất lạc và tìm thấy trẻ Giêsu ở Giêrusalem.
Để
diễn tả tình mẹ con, người xưa nói rằng: dù con lớn vẫn là con của mẹ, đi hết
cuộc đời lòng mẹ vẫn theo con. Khi hay Đức Giêsu có dấu hiệu bất thường, mất
trí, Mẹ Maria vội vã tìm gặp Con, rồi trên đường thập giá, đứng dưới chân thập
giá, người Mẹ dù tan nát cõi lòng, nhưng không bỏ cuộc. Ở đời vẫn quan niệm:
càng cao danh vọng, càng nhiều gian nan; tương lai càng sáng, cạm bẫy càng nhiều.
Với Đức Maria, Sứ thần truyền tin đã chào chúc, đã trấn an: “Maria đừng sợ, vì
đã được ơn nghĩa cùng Chúa." Như vậy, phải chăng càng dồi dào ơn Chúa,
càng bớt gian khổ? Hay càng ngập tràn tình Chúa, càng bớt ưu tư sợ hãi? Mỗi người
hãy suy tư và cầu nguyện đi? Câu trả lời sẽ thuộc về mỗi chúng ta.
10.
Lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội
Trong
quyển “Tiểu Sử Ðời Sống Của Thánh Don Boscô” có thuật lại một sự việc sau đây:
Hôm
ấy là ngày 8 tháng 12 năm 1841, ngày lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Cha Don Boscô vị
tân Linh Mục đang mặc áo sửa soạn dâng Thánh Lễ, bỗng từ trong phòng áo Cha
nghe tiếng ồn ào từ phía ngoài cửa. Cha bước ra và gặp thấy Ông Từ coi phòng áo
nhà thờ đang cầm chổi lông gà đánh đuổi một cậu bé nghèo ăn mặc rách rưới, chỉ
vì cậu dám bén mảng đến phòng áo và lại không biết giúp lễ. Cha Don Boscô tỏ vẻ
không bằng lòng và bảo Ông Từ phải đi tìm cậu bé đem trở lại phòng áo cho Cha.
Cha lại còn quả quyết rằng đó là bạn thân của Cha.
Vâng!
Tất cả các thanh thiếu niên nghèo bị bỏ rơi đều là bạn thân của Cha hết.
Một
lúc sau, Ông Từ trở lại phòng áo, dẫn theo cậu bé bị đánh đuổi. Cha bảo cậu ngồi
đợi một chút, sau lễ ngài sẽ nói với cậu về một điều mà cậu rất vui thích. Có lẽ
đó chỉ là cách Cha muốn bù đắp lại sự tàn nhẫn của Ông Từ hoặc xóa bỏ đi những
mặc cảm và ấn tượng xấu đã gây nên trong tâm hồn cậu.
Nhưng
đường lối của Chúa còn đi xa hơn nữa, vì chính trong ngày lễ Kính Mẹ Vô Nhiễm
Nguyên Tội đó, Thiên Chúa muốn ngài khởi công một sứ mệnh Tông Ðồ cao cả mà vẫn
còn hiện hữu cho tới ngày nay tại mọi dân tộc, mọi nền văn hóa. Ðiều gì đã xảy
ra trong cuộc gặp gỡ đó? Như lời đã hứa, sau lễ Cha bắt đầu cuộc đối thoại thân
mật với cậu bé, đó là cậu Bartolômêo Galendy. Don Boscô bắt đầu bằng những câu
hỏi thân mật từ gia đình cậu, cha mẹ cậu.
Cậu
đáp lại là cả hai đều đã qua đời.
Cha
hỏi tiếp về tuổi của cậu, về công ăn việc làm và nơi ăn chốn ở của cậu.
Tuy
nhiên câu hỏi đó, cậu chỉ đáp lại bằng tiếng “không” hơi cọc cằn.
Tuy
nhiên, Cha vẫn không nản lòng. Sau cùng Cha hỏi: Con có biết huýt sáo không? Mắt
cậu sáng lên và cậu bắt đầu mỉm cười gật đầu. Ðó là điều duy nhất Cha mong ước.
Cậu đã bị chinh phục và đã trở nên bẹn thân của Cha. Từ đó, cha bắt đầu đối thoại
bằng những câu hỏi về đời sống người công giáo của cậu. Ðáng thương thay, tuy cậu
đã lên 16 tuổi nhưng chỉ được xưng tội lần đầu mà thôi. Còn về giáo lý thật
không biết gì hết, vì không được ai chỉ bảo cho. Ngay cả đến việc làm dấu Thánh
Giá và đọc một kinh Kính Mừng cậu cũng không biết. Và cha Don Boscô quì gối đọc
kinh Kính Mừng phó thác cho Mẹ Maria và nhân danh Mẹ bắt đầu sứ mệnh Tông Ðồ của
Cha, cầu xin Mẹ giúp Cha cứu rỗi linh hồn cậu bé này.
Trước
khi cho cậu ra về, Cha tặng cậu một mẩu ảnh Ðức Mẹ và cậu hứa sẽ trở lại tuần tới
đem theo chúng bạn của cậu để cùng được học giáo lý nữa.
Nhân
dịp toàn thể Dòng Con Cái Don Boscô mừng kỷ niệm một trăm năm mươi năm cuộc gặp
gỡ đầu tiên giữa Don Boscô và cậu bé Bartolômêo Galendy, ngày khởi đầu sinh hoạt
Khánh Lễ Viện mà Don Boscô là Vị Sáng Lập và cậu bé Bartolômêo là viên đá đầu
tiên. Nơi cậu Bartolômêo, Don Boscô đã nhìn thấy trước hàng ngàn thanh thiếu
niên bị bỏ rơi cần được nhận biết tình thương của Chúa và ngài đã hiến trọn đời
mình để giáo dục niềm tin trong tâm hồn các em. Hơn nữa, ngài còn đào luyện các
em trở thành tông đồ giữa chúng bạn, dẫn đưa chúng bạn về với Chúa qua đời sống
bí tích và việc học hỏi giáo lý. Một trăm năm mươi năm đã qua và sứ mệnh tông đồ
của Don Boscô đã được các con thiêng liêng của ngài tiếp tục tới ngày nay trên
khắp Năm Châu. Hàng ngàn hàng triệu thanh thiếu niên qua nhiều năm đã nhận biết,
yêu mến Chúa và dấn thân để Chúa cũng được nhận biết, yêu mến và tôn thờ.
11.
Tín điều Vô nhiễm nguyên tội
Phải
mất một thời gian khá lâu mới hình thành tín điều này.
Năm
1377 cuộc Đức Mẹ mạc khải với Thánh Brigitta được Đức Grêgôriô XI thẩm tra và
xác nhận là chân thật. Đức Mẹ nói với Thánh Brigitta: "Đúng sự thật là Mẹ
đầu thai vô nhiễm. Hỡi ái nữ của Mẹ. Con hãy tin và thấy rằng những ai tin và
tuyên xưng Mẹ đã được gìn giữ khỏi vết nhơ tội tổ là họ nghĩ đúng. Ai nghĩ ngược
lại là sai, nhất là họ nghĩ càn giỡ." Năm 1431, Công đồng Basel (Thụy sĩ),
công bố một sắc lệnh như sau: "Chúng tôi xác định và tuyên ngôn rằng Đức
Trinh Nữ Maria, do đặc ân Thiên Chúa giữ gìn, không bao giờ nhiễm lây vết nhơ
nguyên tội, nhưng luôn luôn thánh thiện và vô nhiễm."
Đức
Sixtô IV là vị Giáo hoàng đầu tiên minh nhiên xác định vấn đề Vô nhiễm bằng
cách ban hành mười sáu Hiến chế về Mẹ Maria Vô nhiễm. Trong số đó, mười hai Hiến
chế ban ân xá, bốn Hiến chế thiết lập và củng cố lễ Mẹ Vô nhiễm trong khắp Giáo
hội.
Năm
1545, Công đồng Trentô do Đức Phaolô III triệu tập, công bố sắc lệnh có ba khoản
nói về Mẹ Vô nhiễm:
1.
Đức Maria được miễn trừ khỏi luật chung của Nguyên tội.
2.
Đức Maria được gọi là Vô nhiễm. Ý nghĩa danh từ này phải được xác định là khỏi
mọi vết nhơ, mà vết nhơ là Nguyên tội. Do đó, gọi Mẹ là Vô nhiễm vì Mẹ đầu thai
vô nhiễm nguyên tội.
3.
Các Hiến chế của Đức Sixtô IV phải được tôn trọng.
Năm
1567 Đức Thánh Cha Piô V ban hành ba văn kiện về Mẹ Vô nhiễm. Văn kiện thứ nhất
luận phi những lầm lạc của Baius cho rằng tin Đức Mẹ vô nhiễm thai là rối đạo.
Đức
Clêmentê VIII ca ngợi, khích lệ và cho phát hành cuốn giáo lý do Thánh
Bellarminô soạn, trong đó có câu:
H.
Đầy ơn phúc nghĩa là gì?
T.
Đức Mẹ đầy ơn phúc, vì Người không hề mang vết nhơ tội lỗi, dù là Nguyên tội
hay hiện tội, tội trọng hay tội hèn.
Đức
Grêgôriô XV ban hành sắc lệnh có một điều đáng chú ý: Những ai phủ nhận Đức Mẹ
Vô nhiễm phải tuyệt đối im lặng, vì sinh gương mù và chia rẽ giữa Giáo hội. Mẹ
Maria đầu thai mà mắc tội là điều xúc phạm đến niềm tin của tín hữu. Tuy nhiên,
được giữ tư kiến cho mình, vì vấn đề chưa được chính thức xác định.
Đức
Alexanđrô VII là vị Giáo hoàng quan trọng thứ nhì sau Đức Piô IX trong việc định
tín Mẹ Vô nhiễm. Trọng sắc "Sollicitudo Omnium Ecclesianum" của ngài
có ba điều quan trọng:
1.
Niềm tin Mẹ Maria Vô nhiễm là quan điểm đạo đức (Pia sententia).
2.
Sự đầu thai nói về Mẹ Maria có nghĩa là Vô nhiễm.
3.
Ngài giải thích các sắc lệnh của các vị tiền nhiệm xác nhận Mẹ Vô nhiễm.
Năm
1830, Đức Mẹ hiện ra ban cho Thánh Catarina Labouré tại Paris lời nguyện vắn tắt:
"Lạy Mẹ Maria Vô nhiễm nguyên tội, xin cầu cho chúng con là kẻ tội lỗi chạy
đến cùng Mẹ."
Đức
Grêgôriô XVI, vị tiền nhiệm của Đức Piô IX, đã dọn đường rất gần để tiến tới việc
định tín. Ngài ban phép cho 133 giáo phận và hội dòng thêm vào kinh cầu Đức Bà
câu: "Nữ Vương chẳng hề mắc tội tổ tông, cầu cho chúng con." Sau này
Đức Piô IX mới ấn định câu này trong kinh cầu Đức Bà cho khắp Giáo hội. Lòng
sùng kính Mẹ Vô nhiễm đặc biệt của ngài ảnh hưởng sâu rộng trong Giáo hội. Từ
năm 1840 đến 1844 có 86 đơn thỉnh nguyện xin định tín của các Hồng y, Giám mục
nước Pháp, Tây Ban Nha, Ý, Đức, và Trung Hoa, và năm 1849 thêm các đơn thỉnh
nguyện của Công đồng Baltimore, Hoa kỳ.
Đức
Piô IX đã được Thiên Chúa tuyển chọn để định tín Mẹ Vô nhiễm thai, nên lịch sử
gọi ngài là Giáo hoàng của Mẹ Vô nhiễm. Từ năm 1846 đến 1849 có thêm 130 đơn thỉnh
nguyện, nên ngài quyết tâm tiến hành:
Ngày
1-6-1848 ngài triệu tập Hội đồng Tư vấn gồm các nhà thần học nổi danh, với sứ mệnh
thẩm xét vấn đề. Hội đồng Tư vấn biểu quyết tâu xin định tín.
Ngày
22-12-1848 một Hội đồng Tiền chuẩn bị gồm tám Hồng y và năm cố vấn họp tại
Naples dưới quyền chủ toạ của Đức Hồng y Lambruschini. Hội đồng tâu xin Đức
Thánh Cha gửi một thông điệp cho các Giám mục xin cầu nguyện và hỏi ý kiến.
Ngày
2-2-1849 Đức Thánh Cha liền ban hành Thông điệp "Ubi Primum." Ngài nhận
được 603 thư hồi âm tâu xin định tín hoặc xin tùy sự quyết định của Đức Thánh
Cha. Với đủ yếu tố trong tay, Đức Piô IX họp Cơ mật viện gồm các Hồng y để quyết
định lần cuối cùng và ngài viết Thông điệp "Ineffabilis Deus" (L.m.
Phêrô, CMC).
12.
Mẫu Ảnh Ðức Mẹ Hay Làm Phép Lạ
Trong
46 năm liền, chị đã được diễm phúc thấy Ðức Mẹ đi lại phục vụ các bệnh nhân
nghèo trong Chẩn Y Viện nhỏ bé của Nhà Dòng mà không ai biết chút gì.
Từ
tháng 6 đến tháng 11/1830, liên tiếp trong nhiều lần, Ðức Mẹ đã hiện ra cho một
nữ tập sinh Dòng Nữ Tử Bác Ái Vinh-sơn, tên là Catherine Labouret tại Nguyện Ðường
của Nhà Dòng, phố Du Bac, thủ đô Paris nước Pháp. Nơi đây, chị đã được thấy, được
nói chuyện, và còn được phép sờ vào người Ðức Mẹ.
Chuyện
này xảy ra một cách âm thầm, đến độ trong 46 năm liền, chị đã được diễm phúc thấy
Ðức Mẹ đi lại phục vụ các bệnh nhân nghèo trong Chẩn Y Viện nhỏ bé của Nhà Dòng
mà không ai biết chút gì. Các nữ tu sống bên cạnh chị vẫn cho rằng chị là một
người khù khờ dốt nát, chuyên lo những công việc tầm thường và nặng nhọc trong
nhà. Ngoài một số rất ít các vị Bề Trên tại chỗ, không ai ngờ chị đã được Ðức Mẹ
hiện ra. Sau khi chị qua đời, nghe chuyện, họ đã dứt khoát không tin. Cho đến
khi mộ của chị được mở ra, người ta kinh ngạc nhận ra đôi tay và đôi mắt của chị
vẫn hồng hào nguyên vẹn.
Chị
Catherine Labouret đã được Giáo Hội tôn phong Chân Phúc vào năm 1935, nghĩa là
2 năm sau khi chị Bernadette được phong Thánh. Ðến năm 1947 thì chị Catherine
cũng được phong Thánh. Người ta ước tính mỗi năm có gần 2 triệu người hành
hương từ khắp nơi trên thế giới đến kính viếng và cầu nguyện tại ngôi Nhà Thờ
bé nhỏ trên phố Du Bac ở Paris.
Trong
các lần hiện ra, Ðức Mẹ đã trao cho chị sứ mạng phải quảng bá việc tôn kính Mẹ
qua bức ảnh nói trên, thường được gọi là "Ảnh Ðức Mẹ-Hay-Làm-Phép-Lạ."
Mẹ hứa: "Tất cả những ai mang ảnh này với hết lòng tín thác, sẽ lãnh được
nhiều ơn trọng đại."
Sau
2 năm do dự và giấu kín, cuối cùng thì cha giải tội của chị cùng với vị nữ tu Bề
Trên đã quyết định nhờ một nghệ sĩ đúc lại bức ảnh theo mô tả chi tiết của chị.
Không mấy chốc, "Ảnh Ðức Mẹ-Hay-Làm-Phép-Lạ" được quảng bá rộng khắp.
Ngày 11 tháng 2 năm 1858, khi được Ðức Mẹ hiện ra tại Lộ-đức (Lourdes), Thánh Nữ
Bernadette cũng có đeo trên ngực mẫu ảnh này.
Chúng
ta hãy cùng nhau chiêm ngắm mẫu ảnh đặc biệt này:
Có
một lần vào ngày 27 tháng 11 năm 1830, chị đã thấy Ðức Mẹ hiện ra với những luồng
ánh sáng chói lòa phát xuất từ đôi tay và với quả địa cầu dưới chân có một con
rắn bị Mẹ đạp lên, còn trên đầu Mẹ thì có một vầng hào quang được kết bằng 12
ngôi sao. Chi tiết này gợi lại thị kiến của Thánh Gio-an: "Một người phụ nữ
mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên 12 ngôi sao"
(Kh 12,1). Các tia sáng được hiểu là dấu chỉ tình bằng hữu với Thiên Chúa và với
mọi người. Ðức Giê-su ban cho chúng ta niềm vui và lòng can đảm của Người để
chúng ta có thể yêu thương nhiều hơn nữa.
Con
rắn là biểu tượng của sự xấu, của các khó khăn, của những hành động thiếu yêu
thương, đã cản trở chúng ta sống bình an với chính mình và với tha nhân. Quả cầu
là biểu hiện các nơi chốn khác nhau trên thế giới, nơi chúng ta được mời gọi sống
tình yêu thương một cách chan hòa. Những ngôi sao biểu hiện niềm vui được làm
Ki-tô hữu, dấu chứng tình bạn thân thiết với Ðức Giê-su Ki-tô. Chúng ta không
được giữ riêng bảo vật này một cách ích kỷ, nhưng phải đem chia sẻ, tỏa sáng, để
mọi người cũng có thể nhờ chúng ta mà khám phá ra mối tình tuyệt vời ấy.
Tất
cả như được đóng khung trong một vòng hình trái xoan với giòng chữ: "Lạy Mẹ
Ma-ri-a vô nhiễm nguyên tội, xin cầu cho chúng con là kẻ chạy đến cùng Mẹ."
Bên
dưới mẫu ảnh còn có hình hai quả tim, một của Ðức Giê-su bị đâm thủng bởi một
vòng gai, một của Ðức Mẹ bị một lưỡi gươm xuyên thâu. Tất cả nói lên Tình Yêu
cao sâu mà Thiên Chúa Cha đã dành cho chúng ta: Ðức Giê-su Ki-tô đã hiến mạng sống
mình vì yêu thương. Còn Ðức Mẹ thì đã đau khổ vì yêu thương khi chứng kiến Con
của Mẹ chết trên thập giá.
Trên
mẫu ảnh còn có ghi một chữ M lớn, đan chéo trong một cây Thánh Giá. Ðây sẽ là
chữ M mà Ðức Karol Wojtyla đã chọn làm huy hiệu khi được sắc phong làm Giám Mục,
và cả sau này khi được bầu làm Giáo Hoàng. Không phải ngẫu nhiên mà trong chuyến
viếng thăm nước Pháp năm 1980, Ðức Gio-an Phao-lô đệ nhị đã bày tỏ ước muốn được
kính viếng mộ Thánh Nữ Catherine Labouret nhân dịp kỷ niệm 150 năm ngày Ðức Mẹ
hiện ra với chị.
Một
chi tiết khác nữa là màu xanh da trời trên áo choàng của Mẹ. Ðúng ngày 08 tháng
12 năm 1955, cũng chính là ngày kính trọng thể Lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Hội
Ðồng Các Nước Âu-Châu vừa được khai sinh với mục đích tiến tới một Liên Bang Âu
Châu đã quyết định chọn mẫu lá cờ có 12 ngôi sao trắng trên nền xanh da trời do
một họa sĩ trẻ đưa ra.
Ðây
không phải là chuyện ngẫu nhiên. Vốn có lòng sùng kính Ðức Mẹ đặc biệt, vợ chồng
người họa sĩ này lần chuỗi Mai Khôi mỗi ngày, mỗi người đều đeo một mẫu "Ảnh
Ðức Mẹ-Hay-Làm-Phép-Lạ." Và người họa sĩ đã tham gia cuộc thi vẽ mẫu lá cờ
đang lúc đọc tiểu sử của chị Catherine Labouret. Anh kể lại: "Một cách vô
thức, hình ảnh 12 ngôi sao trên nền xanh da trời đã đến với tôi một cách tự
nhiên..."
13.
Khỏi nếm mùi hỏa ngục...
Em
đã đau khổ suốt trong thời gian này. Nhưng từ khi trở về với Thiên Chúa, với Đức
Mẹ Maria, em cảm thấy vô cùng hạnh phúc!
...
Hội Dòng chúng tôi (Nữ Tu Thừa Sai Đức Mẹ Vô Nhiễm) có nhiều cứ điểm truyền
giáo bên nước Argentina thuộc Châu Mỹ La Tinh. Vào năm 1973 tôi được gửi đến
làm việc tại Olavarria nằm trong thủ đô Buenos Aires. Địa bàn hoạt động tông đồ
của tôi là khu ổ chuột nghèo thật nghèo.
Ngay
những ngày đầu viếng thăm, các gia đình nói với tôi về hoàn cảnh của bà
Daniella, một phụ nữ trẻ ở lứa tuổi 35. Đã nhiều tháng qua bà nằm nhà thương vì
bị ung thư ruột già. Và những ngày sống còn của bà thật ít ỏi. Thế nhưng điều
đáng nói là bà Daniella không ngừng chửi rủa và xua đuổi mọi người khiến không
ai dám đến gần. Các gia đình Công Giáo nài nỉ tôi đến thăm bà. Tôi hứa sẽ cố gắng.
Trên
đường dẫn đến nhà thương tôi không ngừng lần hạt Mân Côi kêu xin Đức Mẹ Maria
ra tay trợ giúp. Cô y tá vui mừng khi thấy tôi ngỏ ý đến thăm bà Daniella. Cô dẫn
tôi đến ngay phòng bệnh. Đó là một phụ nữ gầy guộc với khuôn mặt tái xanh và
đôi mắt dò xét, giận dữ. Thu hết can đảm, tôi lên tiếng chào và hỏi thăm tình
trạng sức khoẻ của bà. Bà nhìn tôi hồi lâu rồi trả lời:
-
Tôi yếu mệt lắm nhưng lại bị bỏ rơi như một con chó!
Chụp
lấy cơ hội tốt tôi liền nói:
- Nếu
bà bằng lòng, ngày mai tôi lại đến thăm bà!
Bà
trả lời ngay:
-
Trời ơi tốt lắm! Xin Dì đến thăm em vì em không còn ai là thân nhân cả.
Tôi
nói thêm:
-
Được rồi, ngày mai tôi sẽ trở lại thăm bà. Nhưng trước khi từ biệt bà, tôi muốn
để lại cho bà một món quà. Hãy nhận lấy ảnh này. Đây là ảnh Đức Mẹ Ban Ơn (ảnh
vảy phép lạ). Đức Mẹ MARIA hứa ban nhiều ơn lành hồn xác cho bất cứ ai mang ảnh
với lòng tin tưởng và yêu mến!
Vừa
nói tôi vừa trao cho bà ảnh vảy phép lạ. Bà Daniella nhìn đăm đăm ảnh vảy một hồi
lâu, trên khuôn mặt lộ nét sợ hãi. Nhưng rồi bà giơ tay đón nhận ảnh vảy Đức Mẹ
ban ơn và đưa lên môi kính cẩn hôn.
Ngày
hôm ấy khi rời nhà thương tôi cảm thấy lòng hân hoan vô tả. Tôi có cảm tưởng
mình đã giơ tay chạm đến Trời Cao!
Từ
đó, tôi thường xuyên thăm viếng bà Daniella và tạo mối quan hệ tốt đẹp với bà.
Tôi được biết bà sống trong hoàn cảnh của người phụ nữ xứ Samaria. Nghĩa là bà
đã trải qua nhiều đời chồng và người đàn ông đang sống với bà không phải chồng
bà (xem Ga 4,18).
Vào
một buổi chiều, tôi nhận điện thoại từ nhà thương báo cho biết bà Daniella đang
hấp hối và xin tôi đến gấp. Tôi đến ngay với một nữ tu cùng dòng. Tôi cũng mời
một Linh Mục dòng Phanxicô và báo cho người đàn ông nhân-tình của bà biết. Nửa
giờ sau, cả bốn người chúng tôi có mặt tại nhà thương.
Tôi
một mình bước vào phòng bệnh nhân và sau mấy câu thăm dò tôi hỏi bà có muốn gặp
Linh Mục không. Bà bỗng giận dữ hét lớn nhưng rồi lại dịu giọng và nói:
-
Xin Dì mời Cha đến ngay vì em sắp chết rồi!
Vị
Linh Mục một mình bước vào phòng. Tôi không rõ những gì xảy ra trong vòng nửa
tiếng đồng hồ ấy nhưng điều chúng tôi được biết: khi vị Linh Mục trở ra, ngài mời
cả ba chúng tôi vào. Trước mặt hai nữ tu chúng tôi làm chứng, vị Linh Mục làm
phép cưới cho hai người.
Xét
vì tình trạng trầm trọng của con bệnh, mọi người lui gót, chỉ mình tôi ở lại với
bà Daniella, vì theo lời bác sĩ, bà không qua khỏi đêm đó.
Khi
chỉ còn lại hai chúng tôi, bà bật lên khóc nức nở và nói:
-
Đây là ngày đầu tiên trong đời em cảm thấy thật hạnh phúc... Xin Dì đọc cho em
nghe kinh Kính Mừng bằng tiếng Ý.
Tôi
cảm động đọc chậm rãi:
-
Kính Mừng Maria đầy ơn phước. Đức Chúa Trời ở cùng Bà. Bà có phước lạ hơn mọi
người nữ, và Giêsu Con lòng Bà gồm phước lạ. Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời. Cầu
cho chúng con là kẻ có tội. Khi nay và trong giờ lâm tử. Amen.
Cứ
thế, tôi đọc đi đọc lại nhiều lần Kinh Kính Mừng bằng tiếng Ý.
Bà
Daniella ngủ thiếp đi lúc nào không biết .. Phần tôi, tôi không chợp mắt vì sợ
bà có thể trút hơi thở cuối cùng bất cứ lúc nào! Đến 6 giờ sáng, bà bừng dậy và
nói:
-
Chúa ơi, em cảm thấy thật khoẻ khoắn! Chưa bao giờ em ngủ ngon như đêm nay!
Nơi
nhà thương, không ai biết chuyện gì đã xảy ra vào đêm đó. Nhưng mọi người ghi
nhận là bà Daniella biến đổi hẳn. Bà không còn kêu gào chửi rủa nữa. Và sức khỏe
của bà cũng mỗi ngày một khả quan hơn. Sau cùng, bà khỏi hẳn bệnh và xuất viện.
Phần
tôi, tôi không dám quả quyết là phép lạ đã xảy ra. Nhưng tôi có thể xác nhận:
-
Chính Đức Mẹ Maria đã can thiệp. Trước tiên trên bình diện thiêng liêng. Tiếp đến
trên bình diện thể xác.
Bà
Daniella luôn bày tỏ lòng biết ơn và nói với tôi:
-
Xin Dì giải thích cho mọi người hiểu rằng: tội lỗi làm cho chúng ta đau khổ và
nếm mùi hỏa ngục ngay nơi trần gian này. Hồi còn nhỏ, em đã yêu mến Đức Mẹ
Maria và bày tỏ lòng mến yêu trong các tháng Năm và Tháng Mười. Nhưng rồi lớn
lên, em chạy theo thế gian, và thế gian làm em xa lìa Chúa. Em đã đau khổ suốt
trong thời gian này. Nhưng từ khi trở về với Thiên Chúa, với Đức Mẹ Maria, em cảm
thấy vô cùng hạnh phúc!
...
Lạy Đức Maria Chí Thánh.
Lạy
Đức Maria Chí Thánh con xin dâng lên Mẹ lời cầu, với trọn lòng tín cẩn. Mẹ chẳng
từ bỏ ai, nhưng hằng tha thiết đến phần rỗi của mọi người. Thiên Chúa không hề
từ chối điều gì với Mẹ khi Mẹ cầu xin cùng Ngài. Xin Mẹ hãy ôm con vào vòng tay
che chở vạn năng của Mẹ. Nếu Mẹ dủ lòng thương xót nhậm lời con khiêm tốn cầu
xin, thì toàn thể hỏa ngục cũng không thể nào làm hại được con. Một cách nào
đó, Mẹ là Bà Chủ của vận mệnh con. Vận mệnh con nằm trong đôi bàn tay Mẹ! Nếu Mẹ
bỏ rơi con, thì con sẽ bị hư mất, không nguồn cứu giúp! Thế nhưng, Mẹ là Người
Mẹ quá tốt lành, không thể bỏ rơi những ai đặt trọn niềm hy vọng nơi Mẹ!
Xin
Mẹ cầu bầu cùng Thiên Chúa Ba Ngôi cho con và con tin chắc là mình sẽ được cứu
rỗi! Ôi ước gì con có quyền làm cho mọi con dân trên mặt đất này nhận biết Mẹ!
Ước gì con có thể loan báo khắp nơi sự cao cả, lòng nhân hậu và quyền năng của
Mẹ! Điều mà con không thể làm được, con nguyện mong cho các thần trí thiên quốc
làm thay. Và ước chi chính các tên quỷ bị bó buộc phải xưng tụng rằng: ”Mẹ là kỳ
công của Bàn Tay Thiên Chúa, Mẹ có quyền lực Thiên Chúa trong tay, Mẹ thật khủng
khiếp đối với ma quỷ và mọi sự đều phục tùng Mẹ! Mẹ là loài thọ tạo vô song! Mẹ
là phụ nữ duy nhất, vừa là Trinh Nữ vừa là Mẹ. Mẹ đã sinh ra Đấng Cứu Thế. Cùng
với Thánh Cả Giuse, Mẹ có chỗ đứng riêng."
Như
thế, Mẹ cao trọng hơn mọi Thiên Thần và các thánh: Mẹ thật là Chí Thánh, là thần
thiêng! Con hy vọng nơi Mẹ và con tin chắc chắn vững vàng rằng, kể cả mọi quyền
lực hỏa ngục, cũng không thể nào chiến thắng được con! Ước gì được như vậy. Tất
cả các Thiên Thần và các thánh đồng thanh chúc tụng Mẹ đến muôn đời! Amen! Ước
gì được như vậy!
(Luigi Faccenda, ”Ho trovato Maria”, Edizioni
dell'Imma-colata, 1992, trang 25-28)
14.
Xin vâng để hợp tác với ơn Chúa
Một
thanh niên kia có thói quen ngủ rất say, luôn cần có mẹ gọi mới thức dậïy được.
Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm ở một chỗ xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng
hồ báo thức. Ngày đầu tiên anh quên vặn đồng hồ trước khi ngủ nên đến sở làm trễ.
Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng sớm khi nó reo thì anh đưa tay tắt
bỏ, nên lại đi làm trễ. Và anh bị đuổi việc. Khi anh trở về gia đình, mẹ anh hỏi
về chiếc đồng hồ. Anh đáp :
- Chiếc
đồng hồ đó hoàn toàn vô dụng đối với con.
- Nó
vô dụng là vì con không chịu dùng nó. Mẹ anh đáp.
Bao
nhiêu ơn Chúa ban cho ta cũng đều vô dụng nếu ta không sử dụng đến.
Mặc
dù “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”, nhưng thường Thiên
Chúa không làm một mình, Ngài thích có sự hợp tác của con người. Để cho Đấng Cứu
Thế nhập thể, Thiên Chúa đã nhờ Đức Maria hợp tác. Và Đức Maria đã hợp tác bằng
cách ngoan ngoãn để cho ơn Chúa hành động trong mình và qua mình : “Xin cứ làm
cho tôi...”.
Lời Chúa Tuần 1 Mùa Vọng
Thường niên V - GS C - PS Ngoại lịch